Quyển 3: Định Giang sơn/Chương 43: Đổi thay nơi quê nhà
Từ sáng sớm, những người dân chài đã thấy từ xa bóng dáng của một chiến thuyền. Những người dân nơi đây sớm đã quen với việc phải giáp mặt với những hải đội của triều đình và cả của nhà Nguyễn nữa. Bởi thế, họ nhanh chóng báo cho nhau tránh xa. Tuy nhiên, có vài người cảm thấy tò mò, tiến đến gần. Không có chuyện gì xảy ra với họ. Rõ ràng chiếc chiến thuyền này không hề có chút địch ý nào. Những chiếc thuyền thúng dập dìu trên sóng nước phút chốc cảm thấy dạn dĩ hơn, họ không cần phải tránh bé nữa mà lai tiếp tục với công việc thường nhật.
Người dân nước Việt vốn được thiên nhiên ưu đãi với bờ biển trải dài từ bắc chí nam. Tôm cá lại kéo đến sinh sống rất nhiều. Điều này thật xứng với câu "rừng vàng biển bạc", chẳng bù với thế kỷ hai mươi mốt, muốn đánh cá, người ta phải đi ra ngoài khơi rất xa. Mấy mươi năm nay, chiến loạn xảy ra khắp nơi, người dân sinh sống thật cơ cực. Nhờ ơn trên chiếu cố, năm năm trở lại đây, giữa hai miền thi hành lệnh đình chiến nên dân tình có ấm êm đôi chút.
Chiến thuyền "Người khai sáng" từ từ tiến về Cảng Thị Nại, cố gắng không làm kinh động những đàn cá bên dưới để ngư dân đánh bắt. Đứng trên boong thuyền, Bàn cảm khái, thầm mơ ước mỗi ngày trôi qua cũng đều thật bình yên như hôm nay. Anh vẫy vẫy tay với mấy người ngư dân. Miệng anh mỉm cười, hỏi thăm thu hoạch của họ hôm nay thế nào.
Từ trong khoang bước ra, Sophia khoác lên vai chồng một chiếc áo choàng làm từ lông thú. Cô cũng tò mò dõi mắt nhìn xung quanh. "Quê nhà của chàng đây sao? Khung cảnh yên bình quá". Cô cũng cảm thấy vô cùng ngạc nhiên khi nhìn vào mấy chiếc thuyền thúng, phương tiện đi biển này thật lạ kỳ và những con người đang điều khiển chúng mới thật tài làm sao. Cô lay lay cánh tay chồng, hỏi nhỏ:
- Jack! Kia gọi là gì vậy? Em chưa thấy loại thuyền đó bao giờ.
- À! Nó gọi là thuyền thúng. Người ta dùng nó để đi bắt cá, câu mực, câu tôm.
- Nhưng nó tròn thế kia thì di chuyển kiểu gì?
- Cũng bằng chèo thôi. Nhưng người ta còn có cách khác. Em thấy người kia không? Ông ta nhún xuống rồi lai kéo lên, thế là chiếc thuyền bơi tới phía trước.
- Hay quá nhỉ. Ngày sau chàng nhớ cho em đi thử nhé.
- Ừ! Nhưng đó là ngày sau. Ngoài này gió lạnh lắm, em vào trong buồng đi, thế mới tốt cho cả mẹ và con.
Sophia gật đầu rồi hôn lên má Bàn một cái, đoạn, cô quay gót trở vào trong buồng. Nhìn theo bóng lưng vợ, Bàn cảm thấy mình thật hạnh phúc. Vợ anh là một người phụ nữ quý tộc nhưng chưa hề tỏ ra kênh kiệu, lại còn nghe lời nữa. Giờ đây, Bàn lại có một niềm vui nữa, anh sắp làm cha, có lẽ cũng chỉ khoảng bốn tháng nữa thôi.
Khi thuyền tiến đến gần cảng Thị Nại, có hai chiến thuyền lướt sóng mà tiến đến. Họ cặp hai bên mạn thuyền. Vì trời chưa sáng tỏ nên dòng chữ "Người khai sáng" khó mà đọc cho rõ. Có người trên chiến thuyền bên tay trái lên tiếng hỏi:
- Các vị đang tiến về quân cảng quan trọng của Đại Việt, vui lòng cho biết mình là ai và cho dừng lại.
- You are coming to important Military Dock of Dai Viet...
Bàn cảm thấy vô cùng ngạc nhiên và thích thú khi nghe được câu nói tiếng Anh Cát Lợi. Rõ ràng chú em mình đã làm thay đổi hoàn toàn đất nước theo chiều hướng thật tốt đẹp. Anh nói vọng xuống.
- Hãy nói cho cấp trên của anh là "Người khai sáng" đã trở về. Ông ấy sẽ biết ta là ai.
- Trong lúc chờ xác minh, Ngài vui lòng hạ buồm cho thuyền dừng lại.
- Tốt thôi. Đây là điều phải làm.
Một chiếc xuồng nhỏ được hạ thủy và bơi nhanh về. Cũng phải nói thêm, Bàn chọn Quy Nhơn làm nơi đầu tiên anh trở về là có lý do. Thành trì này là gốc rễ của nhà Tây Sơn. Anh muốn đi vào từ đường cho vợ mình thắp nhang cúng bái tổ tiên. Mặc khác, là một quân nhân, anh muốn xem thử hải đội của quê nhà đã phát triển tới đâu.
Phải gần bốn mươi phút sau, chiếc xuồng nhỏ mới quay lại. Lần này, trên xuồng còn có sự hiện diện của một tướng quân. Người này có chiều cao khá vượt trội so với những người Việt khác, phải đến gần một mét bảy, dáng người phương phi, uy vũ, râu tóc được cắt tỉa gọn gàng, tầm ba mươi lăm tuổi. Vừa đến nơi, ông ta chắp tay nói vọng lên:
- Thủy sư Đề đốc Dương Lễ chào mừng Chinh Tây Vương trở về.
- Không cần phải đa lễ. Đề đốc quản lý quân cảng tốt lắm.
Những người trên hai chiếc chiến thuyền kia giật mình. Họ khom mình cúi chào Bàn. Có người tự trách: “Sao mình dốt thế nhỉ. Lẽ ra khi nghe đến tên của chiếc thuyền thì phải biết đây là ai mới đúng”. Dương Lễ nói tiếp:
- Mời Vương gia cho thuyền tiến vào quân cảng. Mạt tướng xin phép được thay mặt chúng binh sĩ dẫn đường.
- Đã nói rồi, Đề đốc không cần phải đa lễ, ta vốn là người không thích câu nệ kia mà. Xa nhà mới năm năm không lẽ mọi người không còn nhớ đến tính tình ta sao?
Nói rồi, Bàn bảo thuyền trưởng Allan cho thủy thủ điều khiển thuyền vào Cảng Thị Nại. Người sĩ quan Anh Cát Lợi bao năm chinh chiến dưới trướng của Phó Đô đốc Nelson cảm thấy rất bất ngờ về quân cảng nước sâu này. Từng mảng bố phòng nơi đây đều toát lên một sự uy hiếp rất lớn đối với kẻ nào có ý định tấn công. Pháo đài chạy dọc theo cảng với hàng nghìn họng đại bác cỡ lớn, có lẽ là loại súng thần công dùng loại đạn hai mươi bốn Pounds. Pháo đài lại được xây bằng loại đá granit vô cùng cứng chắc, tường thành lại cao gần mười mét. Bên trong là hải đội với hơn hai nghìn chiến thuyền mà theo ông được biết thì đây chỉ mới là con số tập trung ở quân cảng lớn nhất, ngoài ra, Đại Việt còn gần hai nghìn chiếc khác bố trí ở rải rác các nơi trọng yếu. Xét về chỉnh thể thì đây quả xứng danh là pháo đài không thể công phá.
Vào đến bên trong, Bàn dẫn theo cùng Allan, và một vài thân tín trong trung đội số mười ba đến gặp các tướng lĩnh đang đóng tại đây. Phần Sophia, anh nhờ Ngọc Sương chăm sóc dùm. Sau những phần chào hỏi xã giao thông thường, Bàn hỏi Dương Lễ:
- Đề đốc! Ông có thể cho ta biết số lượng và chủng loại thuyền chiến hiện đang trú đóng ở đây không?
- Bẩm, chúng ta tập trung ở đây hai nghìn một trăm năm mươi chiến thuyền các loại. Trong đó có mười chiếc Định Quốc đã cải tiến có thể mang được một trăm lẻ bốn khẩu đại bác, năm mươi chiếc Second Class Frigate có thể mang theo sáu mươi bốn khẩu đại bác, bảy mươi chiếc Third Class Frigate có thể mang theo bốn mươi tám khẩu đại bác. Còn lại là các loại khinh thuyền lớn nhỏ, số lượng đại bác mang theo nhiều nhất là ba mươi hai khẩu. Riêng hai dòng Frigate kia thì một phần tư là đóng mới, còn lại là loại thuyền trước đây của chúng ta được cải tạo lại.
- Tốt lắm. Không ngờ là sau năm năm xa nhà, Đại Việt đã có bước tiến lớn như vậy.
Bàn cũng rất vui lòng phiên dịch lại cho Allan những điều được báo cáo. Ông này cảm thấy vô cùng bất ngờ và khâm phục Mark Downing khi xưa thật rất sáng suốt khi khuyên người Anh Cát Lợi kết minh với Đại Việt. Ông ta nói:
- Thiếu tá, không ngờ đất nước của Ngài có hải đội hùng hậu như vậy. Tôi nghĩ, các Ngài nếu muốn làm bá chủ vùng biển miền Viễn Đông này cũng không phải là vấn đề lớn.
- Thuyền trưởng! Ngài chưa hiểu chúng tôi nhiều. Việc trang bị những vũ khí thế này không phải đến từ khát vọng xưng bá. Đại Việt chúng tôi xưa nay rất yêu hòa bình. Chúng tôi tự trang bị cho mình chủ yếu là để phòng thủ, nhất là khi chúng tôi có một gã láng giềng xấu tính.
Allan gật đầu tỏ vẻ đã hiểu. Nhưng trong lòng ông cũng xuất hiện hai dòng suy nghĩ trái chiều. Thứ nhất, nếu sở hữu những trang bị thế này mà chỉ dùng để phòng thủ thì quá đáng tiếc. Sau nữa, ông cũng hy vọng Đại Việt chỉ muốn phòng thủ là thật, bằng không, dù là minh hữu nhưng Anh Cát Lợi cũng khó lòng mà xưng bá ở nơi đây.
Ra khỏi quân cảng, Bàn dẫn theo Sophia đến từ đường của dòng họ hiện đang đặt ở nội cung thành Quy Nhơn. Đến nơi, anh để vợ bên ngoài, một mình bước vào thắp nhang bái lạy tổ tiên. Sophia thắc mắc:
- Jack! Sao chàng không cho em vào bên trong? Em là vợ chàng mà.
- Đây là lễ giáo của nước anh. Em tuy là vợ anh, nhưng chúng ta chưa ra mắt người lớn trong nhà. Khi đến Phú Xuân, em sẽ được gặp họ và sẽ có một buổi lễ đón nhận em vào làm thành viên trong tộc. Khi đó em mới được vào đây. Đừng buồn anh nhé.
- Em hiểu rồi, chàng yên tâm đi. Em muốn đi dạo khắp nơi, chàng đưa em đi nhé.
Bàn mỉm cười và nắm lấy bàn tay nhỏ xinh của Sophia mà dẫn cô đi thăm thú khắp nơi. Họ thuê một chiếc xe ngựa bình thường, không phải loại dành cho Hoàng tộc hay quan lại. Bàn nói không muốn người khác chú ý.
Phố phường đã thay đổi rất nhiều so với năm năm trước. Cả thành Quy Nhơn đã được quy hoạch lại. Đường phố thênh thang với lòng đường rộng mười mét, hai vỉa hè hai bên cùng những phiến đá Granit được lát ngay ngắn. Ngắm nhìn những căn nhà trên phố, hai vợ chồng càng ngạc nhiên hơn khi thấy toàn bộ đều được xây bằng gạch. Họ tìm mãi cũng không thể nào tìm thấy những mái nhà tranh vách đất. Ông lão đánh xe hỏi:
- Cậu chắc đến từ nơi khác và có lẽ ở một vùng quê nào đó, còn cô đây là người nước ngoài.
- Vâng, đúng thế. Nhưng tôi không phải là người ở quê. Tôi theo cha đi buôn ở trên biển, năm năm rồi mới về nhà. – Bàn cố tình giấu đi thân phận của mình.
- À, ra vậy. Thế thì không có gì lạ khi cậu tỏ ra ngạc nhiên. Cả thành Quy Nhơn bây giờ không còn được gọi là thành nữa mà thêm một chữ phố. Gọi là thành phố Quy Nhơn. Đức vua anh minh đã cho người làm cái gì gọi là quy hoạch ấy. Ngài cho xây dựng lại hết. Đường phố khang trang, rộng rãi. Nhà cửa thì được xây bằng gạch hẳn hòi. Nhà tranh vách đất khi xưa chỉ còn ở những vùng quê. Ngài nói, vì đất nước chưa đủ tiền, chứ một khi dẹp xong giặc Ánh, lại có nhiều tiền hơn thì sẽ bỏ hẳn nhà tranh cậu ạ.
- Thế à? Tôi đi lâu quá rồi nên thấy lạ lẫm. Cụ có thể vui lòng hướng dẫn vợ chồng tôi tham quan không?
- Cũng được thôi. Nói tiếp về nhà cửa nhé. Phải nói là từ khi có những căn nhà xây bằng gạch thế này, đời sống dân chúng đỡ khổ nhiều lắm, không còn phải quá sợ những cơn bão như trước. Rồi thì cũng không còn sợ mưa gió nữa.
Bàn gật gù ra chiều đã hiểu. Anh cũng không quên phiên dịch lại cho Sophia. Ông lão lại tiếp tục nói rất nhiều về thành phố. Rõ ràng, như bao người khác, ông rất tự hào khi sinh sống nơi đây. Ông cũng tỏ ra thán phục trước vị vua trẻ tuổi. Ông nói:
- Công nhận Đức vua tuy nhỏ nhưng lại anh minh và tài giỏi. Ngài không trực tiếp làm những điều này. Nhưng đâu đâu cũng thấy dấu ấn của Ngài.
- Tôi cũng thấy thế – Bàn ứng lời. – Quả là Ngài rất tài giỏi. Việc thành lập ra các ban, bộ mới và thúc đẩy bá quan tự quyết định, tự làm là hết sức đúng đắn.
- Đúng vậy đó cậu. Các quan cảm thấy mình được tôn trọng và công nhận nên làm việc hăng say lắm. Chưa hết nhá. Cậu chắc cũng biết Đức vua có hai người anh. Mọi người nói rằng họ rất giỏi, thậm chí còn giỏi hơn Đức vua nhiều. Có điều đáng khâm phục là họ chưa bao giờ cậy tài, lại hết lòng giúp đỡ em mình. Như Đức Bắc Định Vương đó, một tay khống chế Bắc Hà, quyền bính lớn nhưng luôn ở bên cạnh giúp đỡ Đức vua. Rồi Đức Chinh Tây Vương nữa, Ngài sẵn lòng rời xa quê hương để đem về cho đất nước những người tài giỏi, nghe đâu ở hải ngoại, Ngài ấy rất nổi danh.
Ông lão còn kể nhiều, nhiều chuyện khác nữa. Bàn cũng cảm thấy những hy sinh của mình khi đến Châu Âu không hề phí. Những người tài giỏi ở trời Tây càng ngày càng đổ về Đại Việt nhiều hơn, thương nhân cũng thường xuyên ghé đến hơn. Và một điều nữa, em của anh, vua Cảnh Thịnh thực sự biết lo cho dân, không còn là cậu nhóc ham chơi thuở mới đăng cơ nữa.
Bàn ở lại Quy Nhơn hai ngày mới lên đường đi Phú Xuân bằng đường bộ. Anh muốn cùng vợ ngắm cảnh đẹp trên đường cùng những đổi thay của quê nhà. Phần những binh sĩ của trung đội mười ba, anh bố trí họ ở lại, chỉ mang theo Allan cùng hai người thân tín đi theo mình.