Q4 - Chương 15: Cơn giận của ông K'tul
Cục trưởng Cục an ninh Ama Moto lại đến trường Đămri, lần này yêu cầu hiệu trưởng N’Trang Long cho ông ta gặp K’Brăk và K’Brêt.
– Tôi cần sự giúp đỡ của các chiến binh giữ đền. Hôm qua vừa xảy ra cuộc đua chổi bay của đám thanh niên. Một cuộc đua phải nói là rùng rợn chưa từng thấy. Đã có hai người chết, ông N’Trang Long. – Ama Moto mở đầu câu chuyện bằng vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng.
– Tôi biết. – Thầy N’Trang Long lim dim mắt – Cả tờ Lang Biang hằng ngày lẫn tờ Tin nhanh N, S & D trưa nay đều có đưa tin này.
Ama Moto hừ mũi, cố kềm sự bất mãn trước vẻ tỉnh queo của vị hiệu trưởng:
– Đám này hình như con nhà giàu. Toàn cỡi Wind XP. Tàng lắm cũng là loại Wind 2000.
Và khi ông nói tiếp, những thớ thịt trên gò má bắt đầu giần giật:
– Hừm, tụi nó phóng như điên. Ông biết không, cả bọn đều dùng vải đen bịt mắt. Hơn một nửa trong số đó chít khăn tang trên đầu. Thiệt là một lũ rồ. May mà chỉ mất mạng có hai đứa – những thằng nhãi xấu số này bị lạc tay lái, đâm đầu ngay chóc vào Hòn Đá Tảng chỗ hẻm Gieo Sự Chết. Mẹ kiếp! – Cục trưởng an ninh bất thần văng tục – Thằng nào đặt cái tên hẻm xui thấy bà cố luôn!
– Hôm qua cũng có ba đứa đâm thẳng vào ngọn tháp tôi và ông đang ngồi. – Thầy N’Trang Long thở dài và mở mắt ra – Nếu trường Đămri không ếm bùa Bất khả xâm phạm, số tử vong đã là năm chớ không phải là hai, ông Cục trưởng.
– Ông thừa biết tại sao bỗng xảy ra vụ đua chổi man rợ này rồi chớ? – Ama Moto xoáy mắt vào mặt thầy N’Trang Long, trông bộ tịch thì không phải chờ câu trả lời mà để chờ bắt quả tang thầy nói dối là không biết.
– Dĩ nhiên là tôi đã đoán ra. – Thầy N’Trang Long thản nhiên.
Ama Moto buột miệng:
– Balikem?
– Thì cô ta chớ ai. – Thầy N’Trang Long chép miệng và khẽ cựa quậy người khiến thầy ngó giống như ngọn tháp bị lún – Chỉ có nhan sắc chim sa cá lặn và bông hoa đỏ trên đầu cô ta mới khiến đám thanh niên phát cuồng lên như thế thôi.
Ama Moto khoa tay, phác một cử chỉ không rõ rệt, trông có phần lúng túng (có lẽ ông là loại người không quen hạ mình nhờ vả ai):
– Đó chính là lý do tôi đến gặp ông bữa nay. Tụi đua chổi đã bị bên tôi tóm hết rồi. Nhưng đứa nào đứa nấy nom như miếng giẻ rách. Ông cho tôi mượn pháp sư Lăk và pháp sư K’Buđăng mấy bữa…
– Tốt thôi, ông Cục trưởng. – Thầy N’Trang Long dễ dãi, thậm chí thầy đồng ý ngay khi ông Ama Moto chưa nói hết câu – Tôi nghĩ đó là chút đóng góp nhỏ mọn của trường Đămri.
– Chuyện thứ hai… – Ama Moto có vẻ lưỡng lự khi nói tiếp, tay ông bấu chặt vạt áo chùng màu lam như thể ông giấu bùa Can đảm ở trỏng – Chuyện thứ hai chính là đề nghị mà tôi đã nói với ông khi mới đặt chân vào đây. Tôi muốn có K’Brăk và K’Brêt…
Lần này cũng không đợi Ama Moto nói hết, thầy N’Trang Long cắt ngang:
– Ông Cục trưởng, hổng lẽ ông không biết chiến binh giữ đền không phải là những nhân vật mà Cục an ninh có thể điều động?
– Tôi biết. – Ama Moto nhăn nhó – Nhưng ở đây không phải là điều động. Tôi chỉ muốn được giúp đỡ. Dù sao, đối phó với Balikem cũng là công việc chung.
Như thể sợ thầy N’Trang Long tiếp tục phản đối, Ama Moto hấp tấp tuôn một tràng, giọng hờn trách:
– Ông thử nghĩ xem, những Đại phù thủy lừng lẫy như Mackeno, Păng Sur, Pi Năng Súp và Akô Nô đều không thể ra tay. Các giáo viên của ông lại không được phép can thiệp vào những sự kiện xảy ra bên ngoài khuôn viên nhà trường. Bọn người của Ama Êban thì khỏi nói chuyện nhờ vả đi, mà bọn họ cũng ở tận đẩu tận đâu…
– Sao nghe nói bên ông vừa bắt được một con mụ nào đó? – Thầy N’Trang Long bỗng hỏi – Tôi tưởng Balikem bị sa lưới rồi chớ.
Ama Moto bất giác thu mình lại như bị ong chích và khi trả lời, mặt ông ửng lên như vừa chui ra khỏi lò than:
– À, đó là mụ Bêlikem.
– Bêlikem à? – Đôi mắt to cồ cộ của thầy N’Trang Long mở to thiệt to, như thể thầy cố thử làm cho nó to hơn nữa.
– Cục an ninh đến khổ vì con mụ này. – Ama Moto giật mạnh cổ áo, cái động tác mà nếu không làm có thể ông sẽ ngạt thở vì tức – Mười bốn, mười lăm năm trước, đám nhân viên của tôi bắt nhầm mụ không biết bao nhiêu là lần. Đầu đuôi cũng tại cái tên thổ tả của mụ. Tên gì không đặt, lại đặt là Bêlikem. Mụ đi đăng ký báo dài hạn, bị bắt về. Mụ đặt chỗ đi du lịch, cũng bị bắt. Đôi khi không làm gì, mụ cũng bị bắt. Chẳng qua hễ thấy bóng dáng của nhân viên Cục an ninh là mụ co giò chạy, chắc mụ hãi cái chuyện bị điệu về trại tạm giam, nhưng mụ cứ thậm thà thậm thụt như thế, ai mà chẳng nghi ngờ kia chớ.
Rõ ràng thầy N’Trang Long đang làm hết sức để nhấn chìm một tiếng cười đằng sau hàng ria sâu róm. Thầy dùng ngón tay trỏ gãi chỗ cằm, cố nặn ra một vẻ mặt trang nghiêm:
– Thế lần này…
– Lần này cũng thế. – Hoàn toàn không ý thức, Ama Moto cũng gãi gãi chỗ cằm, không biết mình đang bắt chước thầy N’Trang Long – Bọn tôi đang rối tinh rối mù, thế mà mụ lại cứ đi lơn tơn ngoài phố, rồi chạy quýnh lên khi thấy mấy cái huy hiệu Cục an ninh…
– Ông cục trưởng. – Thầy N’Trang Long tặc lưỡi, có vẻ thấy đề tài Bêlikem không còn gì hấp dẫn – Nhưng dù thế nào đi nữa, K’Brăk và K’Brêt cũng không giúp gì cho ông được đâu. Chiến binh giữ đền đời thứ ba có sứ mạng rất quan trọng, tôi nghĩ là quan trọng hơn nhiều so với việc đối phó với hữu hộ pháp Hắc Ám.
– Ông N’Trang Long… – Cục trưởng an ninh kêu lên bằng giọng của người vừa bị ai đó bóp cổ.
– Hơn nữa, ở chỗ ông đầy rẫy siêu phù thủy.
– Nhưng Balikem là một con cáo thành tinh. – Ama Moto khò khè nói.
Thầy N’Trang Long di chuyển ngón tay xuống chỗ râu cằm như thể ý tưởng của thầy nằm hết chỗ chòm râu.
– Ông cứ giao đám thuộc hạ của ông cho thám tử Eakar. Eakar không phải là một phù thủy mạnh, nhưng ông ta rất giàu kinh nghiệm đối phó với phe Hắc Ám. Sau vụ vừa rồi, tôi nghĩ Eakar càng khôn ngoan hơn…
– Ông không hiểu, ông N’Trang Long. – Ama Moto thở hắt ra – Cho đến hôm nay Eakar vẫn còn mơ màng về người con gái cài hoa đỏ.
– Ngay cả khi biết cô ta là hữu hộ pháp của trùm Bastu?
– Ngay cả khi biết cô ta là hữu hộ pháp của trùm Bastu. – Ama Moto lặp lại một cách máy móc.
Thầy N’Trang Long lắc đầu và ngã người vào lưng ghế, từ chòm râu rậm của thầy bay ra một tiếng thở phì:
– Balikem quả là một phụ nữ đầy ma lực.
– Chính vì vậy mà tôi muốn nhờ đến các chiến binh giữ đền. – Ama Moto chóp ngay lấy lời cảm thán của vị hiệu trưởng – K’Brăk và K’Brêt dù sao cũng là những chú nhóc…
– Tôi biết ông muốn nói gì, ông Cục trưởng. – Thầy N’Trang Long chép miệng và khi nói tiếp, một lần nữa thầy nhắm mắt lại để không nhìn thấy vẻ mặt thất vọng của ông Cục trưởng – Nhưng tôi xin báo với ông một tin buồn là các chiến binh giữ đền non choẹt của chúng ta đã biết yêu rồi đấy…
oOo
Nguyên và Kăply ngồi khép nép trước chiếc bàn giấy to đùng trong văn phòng hiệu trưởng, nghe thầy N’Trang Long thuật lại cuộc trò chuyện với Cục trưởng Cục an ninh, tới chỗ thầy khoe cả hai đã biết yêu thì mặt mày hai đứa ngó giống như có ráng chiều chiếu vào.
– Con… con… – Kăply ấp úng nói, cảm thấy mặt, cổ và tai như có thoa dầu nóng.
– Ta chỉ nói vậy thôi. – Thầy N’Trang Long làm một động tác giống như là nhún vai, Nguyên có cảm tưởng thầy đang kín đáo mỉm cười dưới hàng ria rậm – Có hay không thì tụi con tự biết chớ ta thì nói thiệt là ta hổng muốn biết ba chuyện lăng nhăng này lắm.
Giọng thầy đột ngột đổi sang nghiêm nghị:
– Cái mà ta muốn biết…
– Tụi con đã tìm ra manh mối rồi, thưa thầy. – Nguyên nói ngay, trước khi thầy N’Trang Long nhắc đến hai chữ “báu vật”.
Đôi mắt to cồ cộ của thầy rọi thẳng vào mặt nó:
– Nghĩa là có nhúc nhích chút xíu rồi hả con?
– Dạ.
– Tốt lắm. – Thầy chép miệng, hài lòng – Tụi con cứ tiếp tục đi. Phải khẩn trương lên.
Nguyên thấp thỏm:
– Còn vụ Balikem…
– Con đừng lo, Balikem đâu phải là Bastu. Ama Moto chỉ vờ vịt thế thôi chớ lão sẽ chặn được tay mụ. Lão muốn dựa vào tụi con chẳng qua do lão không muốn dốc toàn lực ra thôi.
– Con không hiểu, thưa thầy. – Nguyên ngơ ngác nhìn vầng trán thông thái của thầy N’Trang Long.
– Ama Moto biết sớm muộn gì trùm Bastu cũng sẽ quay lại. Lão cũng sợ Ôkô Na bất thần trỗi dậy. Nên lão không muốn hao binh tổn tướng trong lúc này, con hiểu không?
– Con hiểu. – Nguyên đáp, vẫn chưa thật thông suốt. Nó nghĩ nếu nó và Kăply đi tìm Balikem thì điều đó chỉ tốt cho an ninh chung, không hiểu sao thầy hiệu trưởng lại không tán thành.
– Nghe nè, K’Brăk. – Như đọc được ý nghĩ của Nguyên qua vẻ ngập ngừng trong mắt nó, thầy N’Trang Long tặc lưỡi, cố nói thật chậm như để từng lời có thể thấm vào cái đầu u mê của đứa học trò – Bữa nay thú thiệt là ta phải ráng hết sức để ép ta nhắc lại một lần nữa cho con nhớ. Con và K’Brêt dỏng tai lên mà nghe đây: Mầm họa tiềm tàng của xứ Lang Biang nằm ở trùm Hắc Ám chớ không phải ở mấy tên lặt vặt như Balikem hay Buriăk. Một khi con và K’Brêt hoàn thành sứ mạng của mình thì mầm họa đó sẽ tự động bị tiêu diệt. Ngược lại, nếu tụi con không sớm tìm ra báu vật ở lâu đài K’Rahlan, và chẳng may ba mẹ con không thể cầm chân được Bastu và đành để cho hắn quay lại thì lúc đó cái xứ Lang Biang này banh ta lông là điều không cần phải giàu tưởng tượng mới hình dung ra được. Ta nói đến khô nước miếng như vậy, con đã hiểu chưa?
– Con hiểu.
Nguyên gật đầu, lần này thì nó hiểu thiệt, mà làm sao không hiểu cho được khi nó cũng công nhận là chưa lần nào thầy N’Trang Long nói một hơi dài ngoằng như vậy và trông cái cách nhấn nhá từng từ của thầy có cảm giác như thầy đang cố gắng giảng giải cho một cục đất hiểu thế nào là một phép chia phân số.
oOo
Kăply không nghĩ là nó có thể lọt vào tận đây và đứng trước cánh cửa bí thất của ông K’Tul một cách dễ dàng như vậy. Hôm nay là thứ sáu và mặc dù biết chắc ông K’Tul đang ở tiệm Những Dấu Hỏi, hồi nãy Kăply vẫn thấy ơn ớn khi Suku giúi chiếc áo màu cánh gián vào tay nó kèm theo câu nói gọn lỏn:
– Anh mặc vô đi.
Kăply cố tình xỏ tay áo thiệt là lề mề, hy vọng Nguyên nổi nóng mà bắt nó ở lại nhưng thằng bạn đại ca của nó sáng nay không biết ăn trúng thứ gì mà tự nhiên tỏ ra dễ dãi quá sức.
Ba đứa tàng hình leo lên tầng trên và chui vô kho chứa đồ dễ ợt. Đến lúc đó Kăply mới sung sướng nhận ra cuộc mạo hiểm rốt cuộc cũng chẳng có gì đáng sợ lắm, dù lúc hồi hộp đặt chân vô nhà kho nó cũng hơi rờn rợn khi nhớ đến chuyến thăm dò lần trước.
Lúc này, Kăply đứng một bên, tò mò nhìn hình bàn tay trên cánh cửa đen kịt trước mặt, đoán là Suku đang áp bàn tay lên đó. Hình bàn tay được khắc lõm vào cánh cửa bí thất, ở vị trí cao ngang tầm mắt, nếu không để ý rất khó phát hiện. Hình bàn tay này, lần trước Nguyên và Suku không nhìn thấy vì đứng hơi xa, lại bị thân hình của ông K’Tul che khuất.
– Mấu chốt là ở đây, anh K’Brăk. – Vừa nhìn thấy dấu hiệu này, Suku đã mấp máy môi và nhanh nhẹn áp bàn tay phải vào hình bàn tay trên cánh cửa, những ngón tay gần như trùng khít với các vết lõm, dĩ nhiên là không thực vừa vặn vì bàn tay của nó là bàn tay nhỏ nhắn của thằng oắt mười hai tuổi.
Suku ịn tay lên cửa, rì rầm niệm chú:
– Tới luôn!
Cả ba dán mắt vào cánh cửa bí thất, phập phồng chờ đợi nhưng một hồi lâu chẳng có gì xảy ra hết. Cánh cửa không trượt qua một bên như tụi nó nghĩ, cũng hổng thèm nhúc nhích.
– Lạ quá. – Suku nói khẽ.
– Em để anh thử xem.
Nguyên nói và bước tới một bước. Nó cẩn thận mân mê lớp sơn và rờ rẫm các vết khắc như thể nó cho rằng bằng xúc giác nó có thể khám phá bí mật của cánh cửa và dĩ nhiên là nó chẳng khám phá được cái quái gì hết.
Suku ịn tay lên cửa, rì rầm niệm chú.
Cuối cùng, Nguyên áp tay vào hình bàn tay và cũng như Suku, nó bắt đầu đọc thần chú trong tâm trạng vô cùng căng thẳng.
Cánh cửa vẫn trơ ra trước vẻ thất vọng của bọn trẻ.
Hy vọng cuối cùng được dồn vào Kăply, mặc dù không đứa nào – kể cả Kăply – tin rằng nó có thể buộc được cánh cửa chuyển động. Kăply định quay sang Nguyên và Suku để bằng vẻ mặt thiểu não báo trước cho hai đứa này là đừng có kỳ vọng vào nó nhiều quá nhưng sực nhớ ra nó không thể trông thấy tụi bạn và tụi bạn cũng không thể nhìn thấy ánh mắt lo lắng của nó. Kăply đành ngập ngừng đưa tay ra phía trước.
Cánh cửa lạnh ngắt khiến nó vừa chạm tay vào đã muốn rụt phắt lại nhưng rốt cuộc nó vẫn bắt được mình áp tay vào vết lõm và bắt đầu hồi hộp niệm chú.
Kăply nhận ra sự bất lực của mình từng giây một. Nó biết năng lượng pháp thuật của nó hiện nay không kém gì các siêu phù thủy mạnh nhất nhưng để mở được cánh cửa này thì nó hoàn toàn vô vọng.
Không nhìn thấy Kăply nhưng Nguyên vẫn đoán được vẻ mặt rầu rĩ của bạn. Nó quay sang phía mà nó nghĩ là Suku đang đứng, băn khoăn hỏi:
– Hay tụi mình niệm thần chú không đúng?
– Thần chú Tới luôn là thần chú có tác dụng với tất cả mọi cánh cửa bị ếm bùa, anh K’Brăk.
Suku đáp, từ khoảng không. Thoạt đầu Nguyên không giấu vẻ ngờ vực (mặc dù giọng điệu của Suku tự tin một cách trắng trợn) nhưng khi nhớ lại mình đã dùng chính câu thần chú này để xê dịch chiếc tủ đựng giấy tờ trong văn phòng hiệu trưởng thì Nguyên thở hắt ra, nếu không trùm kín người trong chiếc áo tàng hình chắc nó đã đưa tay dứt ít nhất là ba sợi tóc:
– Quay ra thôi.
Cho đến khi về tới phòng riêng, chui ra khỏi những chiếc áo tàng hình, bộ mặt của ba đứa vẫn còn in đậm vẻ chán chường.
Kăply gieo phịch người xuống giường:
– Bó tay rồi!
– Bó tay à? – Nguyên nhìn bạn, vu vơ hỏi, đầu óc rõ ràng là đang lãng đi.
– Không thể như thế được… không thể như thế được…
Ở bên cạnh, Suku không ngừng lẩm bẩm, tia nhìn đang lang thang đâu đó trên trần nhà.
– Cái gì không được hở Suku? – Kăply thò chân khỏi giường, đạp vô mông thằng oắt.
– Tại sao cậu K’Tul mở được cửa mà tụi mình mở không được?
Suku đáp trả câu hỏi của Kăply bằng một câu hỏi khác, ánh mắt nó rời khỏi trần nhà và đậu lại trên mặt Kăply nhưng trông bộ dạng ngẩn ngơ của nó thì hình như thằng oắt không nhìn thấy Kăply mà đang nhìn xuyên qua người thằng này để tìm kiếm một bí mật nào đó giấu ở phía sau.
– Đơn giản thôi, Suku. – Nguyên nhún vai – Bởi vì đó là bí thất của cậu K’Tul.
Kăply thở dài:
– Theo như lời Êmê thì hình như trên đời này chỉ có một mình cậu K’Tul mở được cánh cửa đó mà thôi.
– Đương nhiên rồi. – Suku bất thần reo lên, điệu bộ phấn khích đến mức có cảm tưởng nó sắp sửa biểu diễn một cú santô bốn vòng – Vì cánh cửa đó chỉ có thể mở được bằng chính bàn tay của cậu.
Trong một giây, Nguyên cảm thấy có một lằn chớp nháng qua đầu. Nó nghiến chặt răng, rít lên sung sướng:
– Thiệt là độc đáo. Thiệt là quỷ quái. Thiệt là thông minh.
– Thiệt là khó hiểu.
Kăply hầm hè rít lên theo, chưa bao giờ nó muốn đá cho Nguyên và Suku mỗi đứa một đá như lúc này.
– Nghe nè, K’Brêt! – Nguyên đấm vào vai Kăply, một động tác mà một đứa điềm tĩnh như nó rất ít khi làm – Vấn đề không phải ở bàn tay mà ở những dấu vân tay.
– Đúng là vậy đó, anh K’Brêt. – Suku hào hứng tiếp – Cánh cửa bí thất của cậu K’Tul đã được ếm bùa Nhận dạng.
Kăply hổng hiểu gì hết trọi. Nó đang cố vắt óc, vất vả như người ta vắt một tấm chăn ướt, nhưng vẫn chẳng thấy rỉ ra một giọt thông minh nào.
– Là sao há? – Cuối cùng, nó đành phun ra thắc mắc, chấp nhận bị kêu là ngu.
– Anh K’Brêt. – Suku hất lọn tóc sắp chọc vào mắt – Trên đời không có hai dấu vân tay giống nhau.
– Ê, anh đâu có ngốc đến mức không biết điều đó chớ. – Kăply ré lên đầy tự ái – Nhưng thú thiệt là anh hổng hiểu…
Đang nói, Kăply bỗng hét lên một tràng “aaaaaa… aaaa… aa… a…”.
Suku nhìn Kăply, toét miệng cười:
– Anh hiểu rồi chớ?
– Có gì đâu mà không hiểu! – Kăply gật đầu và đáp bằng giọng hào hứng như thể nó là người đầu tiên phát hiện ra bí mật này và đang giảng giải cho Suku nghe – Thần chú Tới luôn chỉ phát huy tác dụng nếu cánh cửa nhận ra đúng dấu vân tay của cậu K’Tul…
Nguyên khụt khịt mũi, cắt ngang:
– Vấn đề là làm sao lấy được dấu vân tay của cậu K’Tul.
Câu nói của Nguyên làm Kăply đâm cụt hứng. Nó nói mà mặt sụp xuống.
– Ờ, lấy dấu vân tay của cậu K’Tul chắc còn khó hơn lấy sao trên trời.
Có vẻ như sự chán chường sắp quay lại trên mặt Kăply và Suku đang cố làm cho điều đó đừng xảy ra. Nó đập hai tay vào nhau, đôi mắt sáng long lanh lăn qua lăn lại như hai giọt nước:
– Em có cách rồi.
oOo
Bữa ăn tối đó tại lâu đài K’Rahlan bắt đầu bằng một sự cố dở khóc dở cười.
Như thường lệ, ông K’Tul là người đầu tiên vào bàn ăn và bữa nay khi vừa đặt đít xuống ghế, ông ngạc nhiên thấy có cái gì đó cồm cộm dưới mông. Ông nhổm người lên và đưa tay mò mẫm, cảm thấy là lạ khi chạm vào một thứ quỉ quái mềm mềm, dẻo dẻo.
Ông nhặt cái vật đó đưa ra trước mặt để xem, ngay lập tức nhích ra xa, hừ giọng một cái và nhăn mặt liệng qua hàng rào.
Nấp trên hành lang lầu một, Nguyên và Kăply cố nín cười khi thấy ông K’Tul phun nước bọt liên tục. Và khi ông đứng lên thì hai đứa co giò chạy biến, biết ông sắp quay trở về phòng để tắm rửa và thay quần áo.
Đến khi ông K’Tul trở xuống vườn khi mọi người đã đông đủ quanh bàn ăn. Nguyên và Kăply lúc này đã ngồi cạnh Êmê và K’Tub, đang vờ giương mắt săm soi các khoanh thịt trên chiếc đĩa trước mặt.
– Đam Pao! Chơleng! Hai đứa ra đây biểu!
Vừa ngồi xuống ghế, ông K’Tul đã cất tiếng gọi, giọng quạu đeo.
Hai đứa nhỏ từ trong nhà bếp lật đật chạy ra trong khi bà Êmô, Êmê và K’Tub trợn mắt nhìn, cảm thấy sự kiện bất thường này thiệt đáng chú ý.
– Thưa cậu… – Đam Pao ấp úng nhìn ông K’Tul, vẻ dò hỏi.
– Tụi bay làm ăn cái kiểu gì vậy hả?
Đam Pao sợ hãi đưa mắt nhìn bà Êmô, nhìn bọn trẻ, rồi quay lại nhìn ông K’Tul, vẫn không biết mình bị mắng về tội gì.
– Thưa cậu…
Đam Pao lại lí nhí trong khi con Chơleng đứng rúm người bên cạnh.
Trừ Nguyên và Kăply, những người ngồi quanh bàn ăn đang tò mò dồn mắt vào ông K’Tul, cố đoán xem cái gì đang đốt nóng ông như vậy.
– Khi nãy tụ bay có lau bàn lau ghế không đó? – Ông K’Tul cố ép mình lấy giọng bình tĩnh, mắt xoáy vào mặt Đam Pao, trông đe dọa như họng súng sẵn sàng nhả đạn nếu thằng này dám nói dối.
– Dạ có, thưa cậu. – Đam Pao ngơ ngác đáp – Bao giờ tụi con cũng lau bàn ghế trước mỗi bữa ăn mà.
– Có cái con khỉ! – Ông K’Tul thình lình nổi cáu, mọi người thấy rõ ông hoàn toàn thất bại trong việc làm chủ bản thân
– Có mà vừa rồi… vừa rồi…
Ông K’Tul liếc những món ăn bày trước mặt, biết mình không thể nói huỵch toẹt ra chuyện khi nãy. Ông ngắc ngứ một hồi rồi thở phì phì:
– Thiệt tức chết đi mất.
Rồi thấy thằng Đam Pao và con Chơleng cứ tròn mắt ra nhìn mình, ông điên tiết gầm lên:
– Tụi bay có xéo đi không? Còn giương mắt ếch ra nhìn nữa hả!
Chưa kịp hiểu ra tại sao mình bị đuổi đi. Mặc dù trước giờ chưa gặp điều gì kỳ cục như thế, thằng Đam Pao và con Chơleng không dám hỏi tới hỏi lui. Ông K’Tul vừa quát một tiếng, hai đứa lập tức co giò chạy thẳng.
Ông K’Tul dường như chưa hết bực. Ông tóm lấy chiếc khăn rằn, cáu kỉnh vò mạnh đến mức suýt chút nữa chiếc khăn đã bị lôi tuột khỏi vai.
– Chuyện gì thế, anh K’Tul? – Bà Êmô thận trọng hỏi, cố lấy giọng thiệt mềm mại.
– Không có gì! – Ông K’Tul gừ gừ đằng sau bộ ria con kiến.
– Bàn ghế thỉnh thoảng quên lau cũng đâu có sao. – Thằng K’Tub vọt miệng – Có gì mà ba quạu dữ vậy!
– Ta không quen ở dơ như mày, thằng kia! – Ông K’Tul có vẻ sắp dịu đi trước thái độ nhẹ nhàng của bà Êmô, bị thằng con nói xóc hông, lại gầm lên.
Thằng K’Tub cầm lên chiếc nĩa, tỉnh bơ:
– Con đói bụng rồi, ba.
– Mày ăn đi. Ta không ăn.
Ông K’Tul xô ghế đứng dậy, đùng đùng bỏ đi lại chỗ cầu thang, đôi guốc bực dọc nghiến rào rạo trên lớp sỏi.
Bà Êmô không ngăn ông K’Tul, nhưng đưa mắt nhìn K’Tub có ý trách móc.
– Con có nói gì quá đáng đâu, dì. – Cúi đầu vô đĩa sinh vật nguyên thủy để tránh cái nhìn sắc như dao của bà Êmô, K’Tub làu bàu nói, tay chọc nĩa thịt khoanh tổ chảng vô miệng.
Bà Êmô thở ra và lắc lắc mái tóc vàng, một động tác cho thấy bà không buồn nói thêm gì nữa, không phải vì thằng K’Tub quá cứng đầu mà vì thiệt tình bà cũng không hiểu tại sao ông K’Tul lại nổi điên lên trước câu nói nhẹ hều của thằng K’Tub.
– Cậu K’Tul bữa nay làm sao ấy.
Êmê bênh K’Tub, và lần này thì bà Êmô không thể không mở miệng.
– Ăn đi, tụi con. – Bà nói, và bọn trẻ hiểu là câu chuyện về ông K’Tul đến đây coi như kết thúc.
Trong bàn, chỉ có Nguyên và Kăply biết điều gì đã thổi phồng cơn giận của ông K’Tul và lý do thực sự đẩy ông ra khỏi bàn ăn: Thằng Suku tinh quái đã biến cục đá nhỏ thành một cục cứt mèo và trước khi bữa ăn bắt đầu khoảng dăm phút, chính Kăply đã lén lút đặt sản phẩm độc đáo của Suku lên ghế ngồi của ông K’Tul khiến ông vô tình bốc nó lên tay rồi giật mình ghê tởm liệng đi.
Tuy không tận mắt chứng kiến nhưng Nguyên và Kăply biết chắc rằng khi cục cứt mèo rơi xuống, lăn lông lốc trên mặt cỏ bên ngoài hàng rào, cánh tay đã được đeo găng của Baltalon lập tức trồi lên từ dưới đất, nhanh nhẹn chộp lấy rồi vội vả trườn đi như một tên trộm siêu hạng.