Chương 10

Chúng tôi thúc ngựa về hướng nam, quả nhiên tới phủ đô hộ An Tây không cần tới nửa ngày đường, tầm xế chiều thành lũy đã hiện sừng sững ngay trước mắt. Khoảng hơn một trăm năm về trước, Hoàng đế Trung Nguyên đã lập phủ đô hộ An Tây rồi đóng quân, vỡ hoang, trấn giữ miền hiểm yếu này. Nơi đây vốn là tuyến xung yếu trên con đường thông thương mà mọi lái buôn từ Nam qua Bắc phải đi qua, cũng sầm uất không kém Vương thành Tây Lương.

Tôi cứ lo mình và Cố Tiểu Ngũ, hai kẻ thân cô thế cô, thế nào phủ đô hộ An Tây cũng tỏ ra phớt lờ, nào ngờ Cố Tiểu Ngũ dẫn tôi vào thành, xông thẳng đến trước cổng nha môn, gõ trống công đường.

Sau này tôi mới biết chiếc trống ấy có ý nghĩa rất lớn, tuy gọi là “trống thái bình” song thực ra nó còn được biết với cái tên “trống tinh”, hồi trống gióng lên kêu gọi chinh chiến. Đám lính canh xông ra, đưa chúng tôi vào phủ, chẳng cho chúng tôi giải thích một lời. Đô hộ đại nhân ngồi chễm chệ trên công đường. Ông ta mặc giáp, chòm râu rậm, rất có dáng vẻ uy phong, lẫm liệt của một viên mãnh tướng. Trong số những người Trung Nguyên tôi từng gặp, ông ta là người có dáng dấp của một vị tướng cầm binh xông pha trận mạc nhất.

Đô hộ đại nhân thấp giọng hỏi chúng tôi, tôi không hiểu tiếng Trung Nguyên, đành líu lưỡi nhìn Cố Tiểu Ngũ. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại ra hiệu bảo tôi tự trình bày, lần này chắc tôi đành chịu. May sao Đô hộ đại nhân biết nói tiếng Đột Quyết. Thấy tôi có vẻ không biết tiếng Trung Nguyên, ông ta liền hỏi bằng tiếng Đột Quyết:

– Kẻ dưới công đường kia vì sao mà gióng trống?

Mẹ tôi là người Đột Quyết nên tôi cũng thạo tiếng Đột Quyết. Tôi thuật lại chuyện Nguyệt Thị tràn quân sang địa phận của Đột Quyết rồi khẩn thiết xin ông ấy phái binh cứu Hách Thất.

Quan Đô hộ tỏ vẻ băn khoăn, cũng bởi từ khi Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây tới nay, trừ việc dẹp yên quân phiến loạn, họ chưa bao giờ can thiệp vào chuyện chính sự giữa các tiểu quốc ở Tây Vực. Tuy Nguyệt Thị xâm phạm lãnh thổ Đột Quyết là chuyện sai rành rành, nhưng suy cho cùng, Đột Quyết có quân đội hùng hậu, trong khi Nguyệt Thị vốn yếu, lấy yếu lấn áp mạnh, chuyện hiếm hoi này quả thật không hợp lẽ thường tình nên ông ấy lưỡng lự.

Quả nhiên, ông ta nói:

– Kỵ binh Đột Quyết nổi danh khắp quan ngoại, vì cớ gì người Đột Quyết không tự mình xuất binh mà phải cầu xin cứu viện?

Tôi nói, sở dĩ chúng tôi xin cứu viện của phủ đô hộ An Tây, cũng bởi lều chúa thường xuyên đi rời không cố định, còn Tả Cốc Lãi vương dù cũng ở gần, song từ đây đến đó e là mất không ít thời giờ, tôi chỉ mong phủ đô hộ có thể cứu kịp thời Hách Thất.

Cứ nghĩ đến việc phe Hách Thất chỉ có mấy chục mạng người mà phải chống cự với ngần ấy binh sĩ Nguyệt Thị là ruột gan tôi lại nóng như có lửa đốt. Đô hộ đại nhân vẫn do dự, bấy giờ Cố Tiểu Ngũ bất ngờ nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên.

Cố Tiểu Ngũ vừa dứt lời, gã quan Đô hộ kia có vẻ giật mình kinh hãi, đứng bật dậy. Cố Tiểu Ngũ tiến lên, khom người hành lễ, giọng hắn lí nhí khiến tôi chẳng nghe thấy gì, huống hồ tôi lại không biết tiếng Trung Nguyên. Chỉ thấy quan đô hộ gật đầu lia lịa sau vài câu nói của hắn.

Lát sau, quan Đô hộ đã phái một viên Thiên phu trưởng[1] dẫn theo hai nghìn binh sĩ, tháp tùng chúng tôi lên đường cứu người ngay trong đêm.

[1] Đây là chức võ quan chỉ huy đơn vị gồm một nghìn quân. Ngày xưa, người ta chia quân đội thành những đơn vị mười người, năm mươi người, một trăm người, một nghìn người, một vạn người và tương ứng có các chức vụ: thập phu trưởng, ngũ thập phu trưởng, bách phu trưởng, thiên phu trưởng, vạn phu trưởng.

Tôi mừng rơn. Lúc rời phủ đô hộ An Tây, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ:

– Huynh nói gì mà gã quan đó lại đồng ý phái quân đi cứu người thế?

Cố Tiểu Ngũ nở nụ cười xảo quyệt, nói:

– Chuyện này không thể tiết lộ với muội được!

Tôi dẩu môi hờn dỗi.

Quân đội Trung Nguyên có kỷ luật rất nghiêm ngặt, tuy hành quân trong đêm, song đội ngũ vẫn chỉnh tề, ngoài tiếng vó ngựa chen lẫn tiếng mai giáp thỉnh thoảng cọ vào nhau sàn sạt, tiếng bó đuốc cháy phần phật, tuyệt không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào khác. Tôi để ý thấy người Trung Nguyên dùng đuốc cán gỗ quấn sợi thô, tẩm dầu hoả. Dầu hoả chính là thứ có rất nhiều dưới núi Thiên Hằng, màu đen, rất dễ bắt lửa, thỉnh thoảng dân du mục vẫn dùng để đun nước. Có điều người trong Vương thành chê nó nhiều khói, nặng mùi nên ít khi dùng. Không ngờ quân sĩ Trung Nguyên lại tẩm lên đuốc. Tôi thấy người Trung Nguyên quả là thông minh, bọn họ nghĩ ra những cách mà chúng tôi không tài nào nghĩ ra được.

Chúng tôi hành quân suốt đêm, lúc tảng sáng mới đuổi kịp đám quân lính của Nguyệt Thị. Bấy giờ chúng đã vào đến lãnh thổ Nguyệt Thị.

Đạo quân Nguyệt Thị đi rất nhanh, lúc chúng tôi bắt kịp đã chẳng thấy màu cờ trắng đâu, thậm chí Hách Thất và mấy chục dũng sĩ Đột Quyết, cả người lẫn ngựa đều mất tăm. Tôi hốt hoảng, chỉ sợ chúng đã giết toàn bộ quân của Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ quay sang bàn bạc với tay Thiên phu trưởng bằng tiếng Trung Nguyên, binh sĩ Trung Nguyên truyền lệnh rồi bắt đầu dàn đội hình.

Cha tôi từng nói, người Trung Nguyên rất chú trọng trận pháp trong lúc giao chiến, lấy ít địch nhiều vô cùng lợi hại. Nhất là lúc này, binh lực Trung Nguyên hơn hẳn quân sĩ bên Nguyệt Thị một bậc, họ đang ngầm bố trí vòng vây. Gã Tướng quân phe Nguyệt Thị liền ghìm ngựa quay lại, quát tháo om sòm.

Tôi chẳng hiểu hắn đang nói gì. Cố Tiểu Ngũ buôn chè qua các nước Tây Vực, tất hiểu tiếng Nguyệt Thị. Hắn nói:

– Gã đó đang chất vấn chúng ta, sao lại dẫn binh tràn vào lãnh thổ Nguyệt Thị.

Tôi nói:

– Tối qua hắn dẫn binh xông vào địa phận của Đột Quyết thì sao? Đã thế còn dám nói ta là nô tì đi lạc của chúng nữa chứ, bây giờ lại dám giở cái lẽ cây ngay không sợ chết đứng à?

Cố Tiểu Ngũ nói dăm ba câu với Thiên phu trưởng đứng bên cạnh, Thiên phu trưởng liền sai người đi đáp lời. Cố Tiểu Ngũ cười, nói:

– Ta nói với bọn họ rằng, chúng ta đang hộ tống Công chúa Tây Lương về, tiện đường đi ngang qua, rồi bảo bọn họ không cần hoảng loạn, chúng ta tuyệt không xâm phạm lãnh địa Nguyệt Thị.

Tôi thầm nghĩ, nếu nói đến loại người trơ tráo, vô liêm sỉ, Cố Tiểu Ngũ mà tự nhận mình đệ nhị thiên hạ thì đố ai dám vỗ ngực xưng mình đệ nhất. Hắn nói dối mà hùng hồn, lý lẽ đâu ra đấy, phải chăng người dân Trung Nguyên ai cũng như hắn? Không chỉ sư phụ mà Cố Tiểu Ngũ cũng vậy.

Đôi bên vẫn đang lời qua tiếng lại, tay Thiên phu trưởng đã dẫn một nghìn kỵ binh, nhân lúc trời tờ mờ sáng đánh bọc sườn từ phía sau, đợi khi phe Nguyệt Thị kịp nhận ra thì quân tiên phong từ đằng này đã bắt đầu đột kích.

Trận chiến này có thắng cũng chẳng có gì lạ. Quân Nguyệt Thị thua to, gần như không kẻ nào thoát được, đa số đều bỏ mạng dưới tên đao sắc bén của kỵ binh Trung Nguyên, số còn lại đương nhiên địch không nổi, liền buông vũ khí quy hàng. Cố Tiểu Ngũ tuy chỉ là gã buôn chè nhưng cũng thật gan góc. Đứng trước cảnh máu chảy đầu rơi, thương vong vô số này, hắn lại không hề chau mày, cứ như cảnh tàn sát vừa rồi chỉ là một trò vui. Tay Thiên phu trưởng người Trung Nguyên hiển nhiên đã quen nơi chiến trường, gã giải quyết những kẻ đầu hàng đâu ra đấy. Hai nghìn kỵ bịnh áp giải khoảng trăm tên tàn binh của Nguyệt Thị đi về phía đông.

Nhân lúc nhốn nháo, tôi lao vào giữa đám quân Nguyệt Thị tìm Hách Thất, song chẳng thấy tăm hơi huynh ấy đâu. Tay Tướng quân Nguyệt Thị bị bất làm tù binh, bị người ta trói chặt, dẫn đến trước mặt Thiên phu trưởng, gã Thiên phu trưởng lại cung kính giao người cho Cố Tiểu Ngũ. Tôi để Cố Tiểu Ngũ thẩm vấn gã Tướng quân Nguyệt Thị kia, song gã ngang bướng, kiên quyết không chịu khai. Cố Tiểu Ngũ lạnh lùng phán:

– Đã không khai thì giữ lại có ích gì?

Tay Thiên phu trưởng nghe vậy, lập tức sai người lôi hắn đi chặt đầu. Quân lệnh như sơn, đầu của gã Tướng quân Nguyệt Thị lập tức bị người ta chém bay. Bọn họ còn nắm tóc, giơ cái đầu dâng lên trước mặt chúng tôi. Máu tươi từ cổ chảy xuống bãi cỏ xanh biếc.

Tôi không kìm nổi lòng mình, thêm vào đó, cả ngày trời chưa có thứ gì lót dạ, đầu tôi váng vất từng cơn, người bên cạnh trông sắc mặt tôi kém tươi, có lòng đưa tôi túi nước, nhưng tôi uống không vào, chỉ nghe tiếng Cố Tiểu Ngũ sai người dẫn tới một tay lính Nguyệt Thị khác. Trước tiên cho gã thấy thủ cấp của tướng quân mình, sau hỏi tăm tích của Hách Thất. Người Nguyệt Thị tuy dũng mãnh, thiện chiến, song kẻ bị bắt làm tù binh ắt sa sút ý chí, lại tận mắt chứng kiến tướng lĩnh bị chém, sợ đến nỗi khai hết từ đầu đến cuối.

Thì ra đám Hách Thất vừa đánh vừa lui về chân núi Thiên Hằng. Bọn họ chiếm núi đá cố thủ, cho đến lúc dùng cạn tên. Song bọn lính Nguyệt Thị cũng không giết mà chúng cướp ngựa, đuổi bọn họ vào tận sâu trong núi hoang. Lũ Nguyệt Thị ấy thật tàn ác, trong núi có bầy sói dữ, mà Hách Thất lại không tên không ngựa, giả như gặp bầy sói, vậy chỉ có chết chứ sống sao được!

Trong lòng tôi nóng như lửa đốt, vội vã dẫn người đi tìm Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ nói:

– Người Đột Quyết đâu có dễ chết thế?

Thoạt nghe, tôi có cảm giác hắn đang an ủi mình, nhưng sau đó lại thấy bực bội, khó chịu.

Chúng tôi tìm quanh núi Thiên Hằng, mãi đến khi mặt trời gác núi, tôi gần như tuyệt vọng. Núi Thiên Hằng rộng lớn thế này, rốt cuộc đến lúc nào mới tìm ra Hách Thất? Tôi cầu nguyện Hách Thất sẽ không bị lũ sói ăn thịt, huynh ấy mà bị sói ăn thịt, ông ngoại chắc chắn sẽ đau lòng lắm. Nhưng tôi lại tự nhủ Hách Thất là dũng sĩ có tiếng trên thảo nguyên, đâu dễ bị lũ sói ăn thịt, tuy bên người không ngựa, trên tay không tên nhưng Hách Thất là Hách Thất cơ mà, thế nào huynh ấy cũng sống sót trở về.

Mặt trời sắp xuống núi, gió thổi mang theo nhiều hơi lạnh của đêm, mấy tên lính đi trước bỗng la lên, tôi vội ghì cương ngựa, hỏi:

– Sao rồi?

Đám người ấy liến thoắng la hét bằng tiếng Trung Nguyên, rồi tôi thấy Hách Thất lồm cồm bò lên từ vách đá, tay trái siết chặt một hòn đá nhọn, cánh tay phải đẫm máu, theo sau có vài người cũng bò dậy, đứng trên vách đá. Dáng vẻ họ nhếch nhác, mặt mũi đầy bụi đất, song ánh mắt vẫn anh dũng, quả cảm nhìn toán quân sĩ Trung Nguyên.

Tôi gào toáng lên, lật mình nhảy phắt xuống ngựa, tất tưởi nhào tới ôm chầm lấy Hách Thất. Chắc tôi chạm phải vết thương trên người Hách Thất khiến huynh ấy nhăn nhó mặt mày, song huynh ấy vẫn nhoẻn miệng cười:

– Tiểu Công chúa!

Cả đội vui mừng hò reo, trông đám lính Trung Nguyên phấn khởi hơn hẳn chiến thắng lúc sáng.

Buổi tối, chúng tôi dựng trại dưới chân núi Thiên Hằng. Lều trại người Trung Nguyên mang theo không nhiều, toàn bộ đều dành cho những người bị thương. Hách Thất bị gãy tay phải, Thiên phu trưởng sai người đắp thuốc trị thương cho huynh ấy. Hách Thất không hề kêu rên. Tìm được Hách Thất, tôi thấy lòng nhẹ nhõm hơn hẳn, ăn một lát đã hết cả chiếc bánh nướng to tướng. Cố Tiểu Ngũ ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn tôi ăn bánh. Tôi đang ăn ngon lành, bỗng dưng bị hắn nhìn chằm chằm nên miếng cuối cùng mắc ở cổ họng, nuốt không trôi, mà nhả cũng không ra. Thấy tôi bị nghẹn, Cố Tiểu Ngũ cười ngặt nghẽo, đến nước uống cũng chẳng đưa cho tôi.

Trầy trật rất lâu tôi mới tìm được túi nước của mình, uống cả túi nước, miếng bánh nướng mới chịu trôi xuống bụng. Đang tính hỏi chuyện hắn nên tôi chẳng thèm so đo với hắn làm gì. Tôi hỏi:

– Tối hôm qua, lúc ở phủ đô hộ An Tây, huynh nói gì mà quan Đô hộ lại đồng ý phát binh đi cứu viện thế?

Cố Tiểu Ngũ cười tươi, khoe hàm răng trắng bóng:

– Ta nói với ông ta rằng, ông ta cứ thấy chết mà không cứu đi, rồi từ nay về sau không có chè ngon mà uống nữa đâu.

Tôi tin mới lạ đấy!

Bầu trời lấp lánh ánh sao, tôi ngẩng đầu trông, ngàn sao trên trời chẳng khác nào những cụm đèn lồng treo tít trên cao, nhỏ xíu, ánh sao sáng tỏ. Giữa ngàn sao có dải sáng trắng mờ mờ, nghe người ta nói, những nàng tiên thường tắm gội ở một dòng sông sao. Lúc những nàng tiên tắm gội, hẳn sẽ vốc những ngôi sao lên tay như chúng ta hay dùng tay vốc cát, thế rồi hàng ngàn, hàng vạn giọt sao trượt qua kẽ tay, hoà mình vào dòng sông sao, thỉnh thoảng có giọt bắn toé lên, liền biến thành sao băng. Đúng lúc ấy, một vệt sao băng nhỏ xinh lao vút về đằng chân trời như một mũi tên, loáng cái đã biến mất. Tôi chỉ kịp thốt lên: “Á!” Người ta nói, thấy sao băng là phải nhanh tay thắt đai áo, vừa thắt vừa ước điều gì đó thì điều ước ắt sẽ linh nghiệm. Nhưng tay chân tôi lóng ngóng, lần nào gặp sao băng cũng vậy, mải cầu nguyện thì quên thắt đai áo, mải thắt đai áo thì quên mất phải cầu nguyện. Tôi chán nản nằm phịch xuống thảm cỏ, sao băng mất hút rồi còn đâu. Cố Tiểu Ngũ hỏi tôi:

– Muội vừa “á” gì đấy?

– Có sao băng!

– Sao băng có gì hay mà phải “á” lên?

– Thấy sao băng trước tiên phải thắt đai áo, vừa thắt vừa ước thì điều ước đó ắt sẽ thành hiện thực. – Tôi thật sự chẳng muốn giải thích cho hắn hiểu – Người Trung Nguyên các huynh không hiểu đâu.

Hình như hắn vừa phì cười:

– Muội định ước gì thế?

Tôi bặm môi không thèm trả lời. Tôi không dễ bị dụ đâu. Hắn cũng im lặng một hồi, lát sau, hắn bỗng cao giọng, nói:

– À, ta biết rồi nhé, muội ước mình sẽ lấy được Thái tử Trung Nguyên chứ gì?

Tôi bật phắt dậy:

– Thái tử Trung Nguyên là cái gì chứ, còn lâu ta mới lấy hắn!

Hắn cười tít mắt, nói:

– Ta biết muội không thèm lấy hắn, muội ước lấy được ta chứ gì?

Bấy giờ tôi mới nhận ra mình mắc bẫy của hắn, bèn “xì” một tiếng rồi lờ hắn luôn.

Tôi lại thả người xuống bãi cỏ, ngắm nhìn bầu trời đêm đầy sao, gần và thấp thế kia, chỉ cần với tay là chạm tới. Nơi thiên thần trú ngụ quây quần nhiều vì sao thế kia, hẳn phải đông vui lắm.

Có chú dế mèn nhảy lên đầu rồi bị vướng vào tóc tôi, lại còn kêu rả rích nữa chứ. Tôi chụp tay bắt nó, từ từ gỡ nó ra khỏi tóc, nó cựa quậy trong lòng bàn tay tôi, tôi thổi phù đưa nó xuống bãi cỏ rồi nó biến mất hút. Chắc nó vẫn quanh quẩn gần đây thôi, vì tôi vẫn nghe thấy tiếng dế rỉ rả trong đêm.

Cố Tiểu Ngũ cũng ngả mình nằm gối lên yên ngựa của hắn. Cứ tưởng hắn ngủ rồi, nhưng hắn đang nhắm mắt, uể oải nói:

– Này! Muội hát một bài đi!

Cơn gió hiền hoà, dịu êm như bàn tay mẹ vỗ về khuôn mặt tôi. Tuy tâm trạng đã khá hơn, song tôi vẫn quen thói tranh cãi với Cố Tiểu Ngũ:

– Sao huynh cứ bảo ta hát thế? Sao huynh không hát cho ta nghe?

– Ta không biết hát.

– Gì chứ? Ai mà chẳng biết hát. Hát đi! Hát bài hồi nhỏ mẹ huynh hay hát cho huynh nghe ấy.

Cố Tiểu Ngũ im lặng một lúc lâu, mãi sau tôi mới thấy hắn nhẹ nhàng lên tiếng:

– Ta không có mẹ.

Tôi có anh trai, có mẹ, còn mẹ hắn ngã bệnh rồi qua đời đã lâu, tôi bỗng thấy áy náy. Nhớ lại những lần thấy mẹ tiếp hắn niềm nở hơn hẳn tiếp tôi, trong lòng tôi tự hiểu, có lẽ vì hắn mồ côi mẹ từ nhỏ, cho nên mẹ tôi mới quan tâm tới hắn nhiều hơn. Tôi bật dậy, trộm nhìn sắc mặt Cố Tiểu Ngũ, chỉ sợ hắn cảm thấy tủi thân. Nhưng dưới ánh sao mờ, sắc mặt hắn ra sao, tôi cũng không rõ.

“Có con cáo nhỏ cô đơn,

Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,

Cơ mà đâu phải ngắm trăng,

Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.

Có con cáo nhỏ bơ vơ,

Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

Nào đâu cáo muốn sưởi mình,

Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”

Cuối cùng Cố Tiểu Ngũ cũng lên tiếng. Hắn nhăn nhó nói:

– Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!

– Ta chỉ biết bài này…

Bỗng nghe đâu đó có tiếng kèn vang lên, tôi mừng vui khôn tả, vội vã đứng dậy nhìn quanh, hoá ra là Hách Thất ngồi dưới sườn dốc thoải, đang thổi kèn tất lật. Trước đây, tôi chỉ nghe danh thần cung của Hách Thất, không ngờ huynh ấy thổi kèn lại hay thế. Hách Thất chỉ dùng một tay nên nhiều nốt không ấn được, nhưng tiếng kèn vẫn dìu dặt, lúc trầm lúc bổng, quyện trong làn gió đêm mát rượi, nghe êm tai quá. Tôi ngẩng đầu nghe, tiếng kèn của Hách Thất nghe thật não nề, dần dần chỉ còn tiếng hát của mười mấy người Đột Quyết nọ, giọng những người đàn ông trầm ấm mà âm vang, càng nghe càng thấy bi thương, hùng tráng. Giọng hát ấy tựa gió sa mạc, lại giống cánh chim ưng chao liệng giữa thảo nguyên, quanh quẩn nơi sâu thẳm rồi không ngừng ngân vang. Trời đất lặng lẽ như tờ, côn trùng núp trong lùm cỏ không còn cất tiếng ngân nga, con ngựa nhỏ cũng thôi hí rền, những người Trung Nguyên cũng bật tiếng… Làn điệu đồng ca lắng đọng trong lòng.

Tôi nghe đến ngây người, tận khi những người Đột Quyết thôi hát, lại rộ tiếng cười đùa. Cố Tiểu Ngũ hỏi một câu bâng quơ:

– Họ hát bài gì thế?

– Bài ca xuất chinh của người Đột Quyết. – Tôi nghĩ một lúc rồi nói. – Trước khi ra trận, họ thường hát bài này. Tang Cách trong bài hát vốn là một mỹ nhân nức tiếng người Đột Quyết, người yêu của nàng phải đi chinh chiến bốn phương, sau này không thấy trở về, chỉ có con ngựa quay lại. Bấy giờ nàng vuốt ve yên ngựa, nhìn ống tên trống rỗng của người yêu rồi hát khúc ca này.

Hình như hắn mỉm cười:

– Sao lại phải đi chinh chiến bốn phương?

– Bọn họ là dũng sĩ của Đột Quyết, chiến đấu vì Đột Quyết, chinh chiến bốn phương là điều bất đắc dĩ thôi. – Tôi bực mình lườm hắn. – Có nói huynh cũng không hiểu.

Hắn nói:

– Có gì mà không hiểu chứ? Người Trung Nguyên có câu: “Cốt khô Vô Định, xót thương. Trong mơ, khuê nữ còn vương vấn tình”[2], thực ra cũng như nhau cả thôi.

[2] Trích Lũng Tây hành của Trần Đào, bản dịch của Phụng Hà.

Vừa nghe có chuyện hay, tôi liền háo hức, nằng nặc đòi Cố Tiểu Ngũ kể cho nghe bằng được. Thấy tôi chèo kéo, hắn ngẫm một lúc rồi nói:

– Được rồi, kể cũng được, nhưng muội không được hỏi gì đâu đấy, chỉ cần một câu: “Tại sao lại thế?”, ta sẽ không kể tiếp nữa.

Tuy điều kiện có vẻ hà khắc song cố kìm không hỏi “Tại sao lại thế?” thì cũng dễ, tôi lập tức gật đầu đồng ý. Cố Tiểu Ngũ nghĩ một lúc rồi kể:

– Rất lâu, rất lâu về trước, có một vương quốc ảo, ở vương quốc ảo đó, có một cô nương tuổi đang độ xuân thì…

– Cô nương ấy đẹp không? Dễ thương không? – Tôi nóng lòng hỏi. – Biết cưỡi ngựa không?

Hắn bật cười:

– Cô nương ấy rất đẹp, rất đáng yêu, cũng biết cưỡi ngựa. Mỗi lần cưỡi ngựa dạo chơi ở vương quốc ảo, cô ấy thường đeo mạng che mặt, chính là loại mũ có rèm sa ấy. Một hôm, cô nương ấy đang thong dong cưỡi ngựa, gió bỗng thổi bay chiếc mũ… Một vị công tử nhặt được chiếc mũ ấy, liền trả lại cho cô nương kia. Hai người họ tuy lần đầu gặp mặt, song đã một lòng hẹn ước phải thành thân, tức là cưới gả ấy…

Tôi rất thích thú với đoạn mở đầu câu chuyện, liền hỏi:

– Vị công tử kia trông đẹp trai chứ? Có xứng với cô nương xinh xắn đó không?

Hắn nói:

– Đẹp hay không thì chưa rõ, song vị công tử này là con trai của Đại tướng quân, vô cùng dũng mãnh, thiện chiến. Ước hẹn chưa được bao lâu, vị công tử kia được lệnh xuất chinh, liền dẫn binh xông pha trận mạc. Cô nương nọ ở nhà đợi chàng, đợi mãi, nhiều năm ròng không thấy chàng trở về. Người nhà của cô gái giục cô đi lấy chồng, tuổi thanh xuân không phải là mãi mãi, chỉ e không ai chịu lấy. Cô nương ấy khăng khăng không chịu, một mực đợi chờ, nào ngờ tin từ biên ải gửi về, thì ra chàng công tử kia đã hy sinh nơi trận mạc.

Hắn kể đến đó thì dừng lại, tôi rối rít hỏi:

– Vậy cô nương ấy thế nào? Biết tin chàng công tử kia chết rồi, cô ấy sẽ ra sao?

– Nàng rất buồn, song một mực không tin, võ nghệ của chàng công tử kia rất cao cường, lại tinh thông binh pháp, hơn nữa, hằng năm đều xuất chinh, trải qua bao nhiêu lần chiến sự, sao có thể rơi vào trận địa mai phục của địch, rồi bị quân địch giết dễ dàng thế được? Nàng nhốt mình trong phòng suy nghĩ suốt mười ngày đêm, cuối cùng hạ quyết tâm, phải tìm cho ra chân tướng sự việc. Nhưng nàng chỉ là phận gái chân yếu tay mềm, không có quyền thế gì, dẫu người nhà làm quan thì cũng không đủ bản lĩnh để giải quyết những việc này. Lúc ấy, vừa hay Quốc vương của vương quốc ảo hạ chiếu thư tuyển phi tần. Với vẻ đẹp trời ban, nàng tự nguyện nhập cung, trở thành phi tử của hoàng đế. Tính nàng dịu dàng hoà nhã, lại thông minh, nhạy bén, Quốc vương rất mực sủng ái, dần dần nàng đã có địa vị trong hậu cung. Rồi nàng kết giao với đám quần thần, lợi dụng tay chân của bọn họ, điều tra manh mối về trận chiến mấy năm trước, cốt tìm ra nguyên nhân khiến chàng công tử kia bỏ mạng nơi sa trường. Sau đó, nàng dần thu thập được manh mối, mới biết nguyên nhân cái chết của chàng không phải do địch mai phục, mà bị chính phe mình hãm hại. Nàng liền lần theo manh mối để điều tra, kết quả thật sự nằm ngoài sức tưởng tượng, hoá ra Hoàng hậu cũng dính líu đến việc này.

– Hoàng hậu đố kỵ nàng đã lâu, bởi Quốc vương hết mực sủng ái nàng, giờ đây nàng lại hạ quyết tâm tìm ra chân tướng cái chết của chàng công tử kia. Chuyện này mà đến tai Quốc vương, Hoàng hậu có thể sẽ bị truất ngôi. Đúng lúc này, nàng hạ sinh cho Quốc vương một vị hoàng tử, Hoàng hậu liền sai người bỏ độc vào thuốc tẩm bổ. Nàng uống bát thuốc có thuốc độc, ngày một hao gầy, ốm yếu, về sau ngã bệnh mà qua đời. Trước lúc chết, nàng hy vọng có thể công khai nguyên nhân cái chết của chàng công tử nọ cho dân chúng được biết, nhưng không kịp. Hoàng hậu nói nàng bị bệnh lao rồi sai người giam lỏng, cấm người khác đến thăm, và còn ẵm mất Tiểu Hoàng tử mới chào đời…

Tôi thấy hồi hộp, bèn hỏi:

– Hoàng hậu còn muốn giết cả Tiểu Hoàng tử ư?

Sắc mặt Cố Tiểu Ngũ vẫn vậy, hắn lắc đầu:

– Hoàng hậu không giết Tiểu Hoàng tử, bà ta không có con nên đã nuôi Hoàng tử trưởng thành, dạy dỗ Hoàng tử, vậy nên Tiểu Hoàng tử coi Hoàng hậu như mẹ ruột của mình, thế nhưng Tiểu Hoàng tử không hề hay biết, mẹ ruột của mình đã chết dưới tay Hoàng hậu. Sau này Tiểu Hoàng tử mới biết rõ chân tướng sự việc, nhưng chàng lực bất tòng tâm. Tuổi chàng còn nhỏ, Hoàng hậu lại có thế lực trong tay. Tiểu Hoàng tử không thắng được bà ta. Lúc này, Quốc vương cũng đang phân vân, bởi lẽ ông ấy không chỉ có Tiểu Hoàng tử là con trai, mà còn có rất nhiều hoàng tử khác nữa. Quốc vương do dự, không biết nên truyền ngôi cho ai. Trong khi những đứa con khác của ông vẫn đang ngầm ganh đua quyết liệt, bọn họ thừa biết Tiểu Hoàng tử không phải do Hoàng hậu thân sinh, mà Hoàng hậu luôn canh cánh nỗi lo với Tiểu Hoàng tử… Nhưng cuối cùng, Quốc vương vẫn lập Tiểu Hoàng tử làm thái tử. Ở vương quốc ảo, chẳng có mấy vị Thái tử thọ quá tuổi ba mươi, bọn họ không bị ám sát thì cũng bị vua cha phế truất, rồi bị giam cầm cho đến chết. Có Thái tử nuôi dã tâm soán ngôi, thẳng tay mưu sát vua cha… Có người thành công, song cũng có kẻ thất bại. Người thắng lên làm vua, sau cũng chết, kẻ bại trận không giành được ngôi báu, tất phải chết… Đông cung thực chất là một nơi đẫm máu…

Kể đến đó, Cố Tiểu Ngũ bỗng trở nên bần thần, tôi cũng chưng hửng nhìn hắn, câu chuyện này chẳng thú vị gì cả, không hay như đoạn đầu. Song không hiểu vì sao, tôi không hề ngắt lời Cố Tiểu Ngũ. Hắn dừng một lúc rồi tiếp tục câu chuyện, giọng điệu như không có gì:

– Mặc dù được làm thái tử, song cuộc sống của Tiểu Hoàng tử cũng chẳng tốt hơn là bao. Hoàng hậu đề phòng chàng, còn Quốc vương lại giao cho chàng câu đố rất khó giải. Quốc vương nói, con đã là thái tử, con nên làm tấm gương cho muôn dân trong thiên hạ noi theo, rồi Quốc vương phái Tiểu Hoàng tử đến một nơi, giao cho chàng làm một chuyện tưởng như không cách nào giải quyết được…

– Tiểu Hoàng tử thật đáng thương! – Tôi nói. – Rốt cuộc Quốc vương muốn chàng ấy làm gì?

– Câu chuyện tới đây là hết. – Cố Tiểu Ngũ vỗ vào yên ngựa rồi lại buông mình nằm xuống, vẻ mặt khoan khoái. – Ngủ thôi!

Tôi bực mình nghĩ, kể chuyện chẳng đầu chẳng cuối gì cả, bảo người ta ngủ kiểu gì? Tôi nói:

– Ta có hỏi tại sao đâu, sao huynh không kể nữa?

Cố Tiểu Ngũ nói:

– Thì hết chuyện rồi chứ sao, hết rồi thì ta biết kể cái gì?

Hắn xoay người, quay lưng lại phía tôi. Tôi thấy vai hắn co ro trong lớp da dê giữa trời đêm se lạnh, như thể đã ngủ thật rồi.

Tôi kéo tấm chăn da lên, che tới tận cằm, rúc người trong hơi ấm, thầm nghĩ, gã Cố Tiểu Ngũ trông thế mà vô tình, kể xong chuyện càng khiến người ta thấy ghét. Nhưng nhìn bộ dạng hắn ngủ, tôi lại cảm thấy có vẻ gì đó đáng thương. Tiểu Hoàng tử trong câu chuyện hắn kể không có mẹ, hắn cũng mồ côi mẹ từ tấm bé, những người không có mẹ đều rất tội nghiệp. Cứ nghĩ tới việc, nếu chẳng may mẹ mình cũng qua đời sớm, tôi lại không cầm được nước mắt.

Chắc tại tôi nghe câu chuyện kia trước lúc đi ngủ nên vừa thiu thiu ngủ, Tiểu Hoàng tử nọ đã theo cả vào trong giấc mơ. Cậu ta nhỏ xíu, trông dáng vẻ chắc chỉ tầm ba, bốn tuổi, ngồi thu lu, khóc lóc như một con thú nhỏ bị thương. Nhớ có lần tuyết vừa rơi, trong bẫy săn có con cáo nhỏ bị thương, con cáo ấy cũng co quắp thế này, nó ngước đôi mắt hoen ướt, đen láy nhìn tôi đầy cảnh giác, song cũng phảng phất nét sợ. Vai nó co ro, bất thình lình, nó giấu chiếc mõm nhọn hoắt xuống chân. Tuyết vẫn rơi, tôi thấy mủi lòng, cánh tay bất giác vươn ra toan kéo nó. Ngờ đâu khi vừa ngẩng lên, nó đã biến thành Cố Tiểu Ngũ. Tôi giật thót mình, lòng cứ thấy kỳ lạ, rồi choàng tỉnh. Lúc ấy trời gần sáng, bóng trăng đã xế, ánh sao lưa thưa, lửa trại lụi dần, sắc đêm thêm sậm… Hai nghìn kỵ binh trên thảo nguyên vẫn đang say giấc nồng, chỉ có lính tuần tra vẫn đi đi lại lại. Đám cỏ bên cạnh đẫm sương mai, có giọt nhỏ xuống mặt, tôi liền lè lưỡi liếm, có vị ngòn ngọt, rồi tôi trở mình, tiếp tục giấc ngủ còn dang dở.

Sáng hôm sau, chúng tôi lại nhổ trại lên đường, thẳng tiến về hướng đông năm, sáu ngày liền, mãi mới gặp được quân tuần tra của Đột Quyết. Nghe nói lều của Đại Thiền vu đang ở gần đó, Hách Thất mừng rơn. Tôi cũng thấy vui mừng, sắp được gặp ông ngoại rồi. Hai nghìn quân Trung Nguyên hộ tống chúng tôi về lại không thể dừng chân trên lãnh thổ Đột Quyết, họ lập tức cáo từ trở về.

Hách Thất rất kính nể đám người Trung Nguyên ấy, thậm chí còn khen họ có quân kỷ nghiêm minh, tác phong nhanh nhẹn, lúc lâm trận vô cùng dũng mãnh, đều là những hảo hán. Hách Thất tiễn bọn họ một đoạn khá xa, tôi cũng theo chân tiễn đoàn quân Trung Nguyên về phía tây. Ráng chiều chói chang, Cố Tiểu Ngũ cúi đầu, nhắm mắt như đang ngủ gật, trông hắn có vẻ uể oải, tôi nói:

– Này, huynh về rồi chuyển lời tới cha ta, bảo ta đã đến Đột Quyết bình an rồi nhé!

Cố Tiểu Ngũ nói:

– Nhưng cũng phải xem ta có về Vương thành buôn chè không chứ!

Tôi nói:

– Huynh không về bán chè đi, còn định lang thang đâu nữa?

Hắn cười, song không trả lời tôi. Bấy giờ, đoàn quân Trung Nguyên đã đi được một quãng xa, hắn vẫy tay với tôi rồi rong ngựa đuổi theo.

Tôi giơ tay che trán, thảo nguyên bạt ngàn trải dài đến tận chân trời, mãi lâu sau vẫn trông thấy hắn đã bắt kịp đoàn người, vẫy vẫy tay với chúng tôi. Cuối cùng đoàn quân đã đi xa tít tắp, trông theo chỉ còn một đám bụi đất cuộn lên. Tôi dõi theo bóng lưng hắn, chợt nhớ lại câu chuyện hắn kể hôm qua, thấy buồn rười rượi, như vừa mất mát thứ gì.

Sau lưng bỗng có tiếng cười khì, tôi liền ngoảnh lại, thì ra là Hách Thất, huynh ấy ghìm cương ngựa đứng ngay đằng sau. Tôi thẹn quá hoá giận, liền hỏi:

– Huynh cười gì thế?

Hách Thất gật đầu rồi lại lắc lắc, cười, nói:

– Tiểu Công chúa, chúng ta mau về thôi!

Gặp ông ngoại tôi vui lắm, bao nhiêu phiền não đều quên sạch. Cả năm chưa gặp, ông ngoại càng cưng chiều, mặc tôi càn quấy, nhõng nhẽo. Cánh tay của Hách Thất bị thương, ông ngoại lo tôi gặp chuyện, liền sai tiểu muội của Hách Thất theo sát tôi mỗi ngày. Tiểu muội của Hách Thất trạc tuổi tôi, từ nhỏ đã học võ nghệ, đao thuật vô cùng cao siêu. Tôi thích nhất mỗi lần gọi tên muội ấy.

– A Độ! A Độ ơi!

Nghe như tôi đang gọi một chú chim non, bất kể tôi đang ở nơi nào, chỉ cần hô một tiếng, muội ấy sẽ lập tức xuất hiện trước mặt tôi.

Điều khiến tôi bất ngờ nhất là, vua Nguyệt Thị lại sai sứ thần đến, ngỏ lời nhờ ông ngoại tôi quyết định chuyện cưới xin. Ông ngoại không mời sứ thần vào lều, chỉ phái người chuyển lời tới sứ thần của vua Nguyệt Thị:

– Tuy Tiểu Công chúa không phải công chúa của Đột Quyết chúng tôi, song mẫu thân của Công chúa là con gái Đại Thiền vu. Tiểu Công cháu chính là cháu gái của người, Đại Thiền vu chỉ hy vọng Công chúa lấy được bậc anh hùng. Nếu Đức vua Nguyệt Thị có lòng muốn lấy Tiểu Công chúa, vậy mời Đức vua thân chinh tới trước cửa lều, so tài cùng dũng sĩ Đột Quyết chúng tôi. Chỉ cần ngài bắt được vua sói mắt trắng, Đại Thiền vu tức thì gả Tiểu Công chúa cho ngài. Đây là chỉ dụ của Đại Thiền vu, mà cha của Tiểu Công chúa, tức Quốc vương Tây Lương cũng bằng lòng với sự sắp đặt của Đại Thiền vu.

Sứ thần Nguyệt Thị gặp phải vố này, liền hậm hực bỏ về.

Chỉ dụ của Đại Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt chẳng mấy chốc đã truyền khắp chốn thảo nguyên, không ai không biết, nếu muốn lấy Tiểu Công chúa Tây Lương, tất phải giết được vua sói mắt trắng. Nghe đồn bầy sói trên núi Thiên Hằng có hàng nghìn, hàng vạn con, song chúng chỉ tôn một con sói mắt trắng duy nhất làm sói đầu đàn. Bầy sói ấy cũng như con người, chúng chỉ khuất phục vua chúa mạnh nhất. Con sói chúa ấy toàn thân đen sì, riêng mắt trái có một quầng lông trắng xoá như màu sữa ngựa. Người ta nói nó rất hung tợn, gần như đã thành tinh. Bầy sói trên thảo nguyên vốn đã đáng gờm, song vua sói mắt trắng mới thực sự đáng sợ. Những tốp kỵ binh nhỏ lẻ hoặc dân du mục mà gặp phải vua sói ắt mất mạng. Nó thường dẫn theo một bầy phải đến hàng trăm con tấn công loài người, sau đó ăn thịt cả người lẫn ngựa. Chính bà ngoại kể cho tôi nghe câu chuyện này. Một dạo, tôi cứ ngỡ vua sói mắt trắng chỉ là truyền thuyết, xưa nay chưa một ai tận mắt thấy nó, thế mà ai ai cũng thề thốt rằng trên núi Thiên Hằng quả thực có vua sói, nó thống lĩnh một đàn mấy vạn con sói.

Vua Nguyệt Thị bị Đại Thiền vu nói khích, nghe đâu đích thân dẫn người lên núi Thiên Hằng tìm giết vua sói mắt trắng. Nếu lão giết được nó thì sao nhỉ? Tôi không muốn lấy lão già ấy đâu. Nhưng làm gì có ai giết được vua sói mắt trắng. Không chỉ người Đột Quyết nghĩ vậy mà toàn bộ dân chúng trên thảo nguyên đều tự nhủ như thế. Đành rằng Vua Nguyệt Thị hùng hổ dẫn người lên núi cũng không tìm ra vua sói thì cũng bởi đã có ai thật sự nhìn thấy con sói ấy đâu, nó chỉ tồn tại trong truyền thuyết mà thôi. Tôi cứ nghĩ vậy để tự an ủi, Vua Nguyệt Thị tuổi già sức yếu, núi Thiên Hằng rộng mấy trăm dặm, có nhiều thú dữ, chưa biết chừng lão sẽ ngã ngựa cũng nên, lão mà ngã ngựa thì chỉ có nằm một chỗ, tôi cũng không phải lấy lão.

Những ngày ở Đột Quyết, tôi ung dung, tự tại và vui vẻ hơn hẳn khi ở Tây Lương. Ngày ngày có A Độ ở bên, chúng tôi không đi săn thì cũng đi bẫy chim. Con gái Đột Quyết thường lấy chồng sớm, A Độ lại đang tuổi cập kê, thỉnh thoảng có người đứng ngoài lều của muội ấy, hát suốt đêm khiến tôi khó ngủ. Thế mà chẳng ai đến hát ở lều của tôi, tôi tự nhủ, đám người ấy hẳn đã biết, muốn lấy tôi đồng nghĩa với việc phải giết được vua sói, đối với dũng sĩ trên thảo nguyên âu đó cũng là việc rất khó, chứ không phải vì tôi xấu xí nên chẳng ai đến hát tỏ tình!

Hôm ấy, tôi đang thiu thiu ngủ trong lều, đột nhiên thấy bên ngoài nhốn nháo, ồn ào. Tôi trở mình bật dậy, gọi A Độ toáng lên. Muội ấy hớt hải vén cửa lều bước vào, tôi hỏi:

– Sao thế? Có chuyện gì à?

Trông mặt A Độ ngơ ngác, tôi nghĩ chắc muội ấy cũng như mình thôi, có biết gì đâu. Lúc ấy, người do ông ngoại sai đến khom lưng vái chào chúng tôi:

– Đại Thiền vu cho truyền Tiểu Công chúa đến trước lều.

Tôi sốt ruột hỏi:

– Sắp đánh nhau à?

Lần trước, sứ giả Nguyệt Thị mang bộ mặt sầm sì trở về, mà với tính cách của Vua Nguyệt Thị, đừng hòng lão chịu để yên. Vua Nguyệt Thị bị khích đi tìm vua sói mắt trắng, song có ai tìm được vua sói đâu. Hiển nhiên, đó chỉ là cái tròng của Đại Thiền vu, người ông thương tôi nhất, dành cho Vua Nguyệt Thị. Nếu Vua Nguyệt Thị giận quá hoá thẹn, chưa biết chừng còn đánh nhau với Đột Quyết cũng nên. Lần này, Nguyệt Thị động binh với Đột Quyết, đối với toàn Tây Vực mà nói, thật sự chẳng phải chuyện đùa. Tuy Đột Quyết là cường quốc mạnh nhất Tây Vực, là nước có thế lực chiếm giữ phía bắc sa mạc, cực đông của lãnh thổ trải dài đến tận ven biển, song Nguyệt Thị cũng là nước lớn nhất, nhì Tây Vực, dẫu không cường thịnh bằng Đột Quyết nhưng thực lực cũng không phải vừa. Huống hồ trong mười mấy năm thanh bình vừa qua, Tây Vực đã thông suốt con đường thương mại khiến thành thị ngày một sầm uất. Cũng như Tây Lương chúng tôi, nếu không có con đường thông thương buôn bán, ắt chẳng được phồn vinh như ngày nay. Nếu xảy ra chiến tranh, có lẽ khó mà xây dựng lại được tất cả.

Tôi kéo A Độ, vội vã chạy sang lều của ông ngoại. Trướng lớn của Đại Thiền vu hay còn gọi là lều chúa, được dựng từ nhiều tấm da bò, thêu chi chít hoa văn gam màu tươi tắn, bức hoành trắng muốt treo trước cửa đề chữ cầu may. Dưới nắng thu, nét chữ dát vàng chói mắt, đến nỗi chẳng ai dám ngước nhìn. Đôi câu chữ óng ánh đổ bóng xuống nền đất như thỉnh cầu sự phù hộ của các chư thần trên thiên đình. Dưới ánh nắng chói chang, tôi nheo mắt nhìn bóng dáng ai vừa quen thuộc, gần gũi vừa xa lạ, bỡ ngỡ đang đứng trước lều. Tuy hắn vận trên người trang phục của dân Tây Lương, song chẳng giống người Tây Lương chút nào. Hắn ngoảnh đầu cười với tôi, quả nhiên là người Trung Nguyên chứ không phải người Tây Lương.

Hắn chính là gã lái buôn Cố Tiểu Ngũ.

Tôi buột miệng hỏi:

– Huynh đến đây làm gì thế?

– Cưới muội.

Tôi nghệt mặt nhìn hắn, một lúc lâu sau mới cười, nói:

– Này, huynh đến đây buôn chè đấy à?

Thay vì trả lời, Cố Tiểu Ngũ chậm rãi giơ mũi chân hẩy hẩy thứ gì đó dưới đất.

Tôi kinh hãi khi trông thấy thứ ấy, suýt thì rớt cả cằm.

Một con sói đen trũi, kích thước xem chừng phải gấp đôi những con sói hoang bình thường, dù xác đã cứng đờ, song con ngươi vẫn trợn trừng như muốn nhảy bổ tới, xé xác ai đó. Duy nhất có một chòm lông quanh mắt trái là trắng muốt như màu sữa ngựa. Tôi dụi mắt, sững sờ một lúc, rồi khuỵu xuống, nhổ một sợi lông trên mắt trái của con sói. Sợi lông trắng muốt, chắc chắn không phải nhuộm, mà đích thực là màu lông vốn có của nó.

Tầng lớp quý tộc Đột Quyết đã tụ tập đông đủ trước lều chúa, lặng lẽ nhìn xác con sói to lớn này. Có đứa nhỏ mạnh dạn tiến lên, bắt chước tôi nhổ một sợi lông trên mắt trái con sói, nó soi dưới ánh mặt trời rồi gào tướng lên:

– Màu trắng! Màu trắng này!

Giọng bọn trẻ líu lo khiến tôi thêm bồn chồn. Tiếng ông ngoại xuyên qua đám người:

– Bất kể có phải người Đột Quyết hay không, tất là dũng sĩ.

Mọi người nhao nhao nhường đường cho Đại Thiền vu. Ông ngoại thong dong bước lại gần, đảo mắt trông xác con sói rồi gật gù, quay sang Cố Tiểu Ngũ và nói:

– Giỏi lắm!

Được Đại Thiền vu khen một câu có khi còn khó hơn tuyết trên đỉnh Thiên Hằng tan chảy. Có điều, Cố Tiểu Ngũ đã giết được vua sói mắt trắng, trong khi chính Đại Thiền vu tuyên bố, ai giết được vua sói, sẽ gả tôi cho người ấy.

Chưa bao giờ tôi nghĩ người đó lại là Cố Tiểu Ngũ. Tôi lẵng nhẵng theo sau hắn, gặng hỏi hắn giết vua sói mắt trắng bằng cách nào.

Hắn chỉ nói bâng quơ:

– Dọc đường dẫn đội đi buôn chè, tình cờ gặp bầy sói, rồi ta đánh chết con sói đó.

Tôi khẽ nhếch mép, làm sao mà tin được lời hắn chứ? Nghe nói Vua Nguyệt Thị dẫn ba vạn kỵ binh lên núi Thiên Hằng cũng có tìm thấy cọng lông nào của vua sói đâu, mà Cố Tiểu Ngũ chỉ tình cờ đi buôn chè lại giết được vua sói à?

Có đánh chết tôi cũng không tin!

Nhưng vì Đại Thiền vu đã hứa ắt phải giữ lời, tức thì đã có vài người Đột Quyết xôn xao bàn tán, xem ra gã buôn chè người Trung Nguyên kia thật sự sắp lấy Công chúa Tây Lương rồi. Cố Tiểu Ngũ được xem như anh hùng cái thế, song tôi vẫn có cảm giác hắn đang giở trò bịp bợm. Rồi hôm đó, Hách Thất ngà ngà say và lời qua tiếng lại với hắn, hai người bọn họ đòi so tài một phen.

Bọn họ thi thố cũng thật chán, chẳng hiểu thế nào lại kéo nhau ra thảo nguyên bắn dơi, ai bắn được nhiều hơn thì người ấy thắng.

Chỉ có những kẻ đã từng bắn dơi mới hiểu, bắn dơi khó thế nào.

Dân chúng Đột Quyết đều đinh ninh phần thắng chắc chắn sẽ thuộc về Hách Thất, song họ vẫn đánh cược một lần xem sao. Bản thân tôi cũng nghĩ Hách Thất sẽ thắng, tuy tay phải của huynh ấy chưa lành hẳn những dù là dùng tay trái thì cũng chẳng ai ở Đột Quyết này bì được tài bắn cung như thần của huynh ấy.

Tin tức về cuộc so tài chỉ trong nửa ngày trời đã truyền khắp nơi. Người ta bảo Hách Thất muốn lấy tôi, dẫu sao huynh ấy cũng là võ sĩ lợi hại nhất dưới trướng Đại Thiền vu, chưa biết chừng sau này còn là tướng quân dũng mãnh nhất của Đại Thiền vu. Còn tôi, tuy là công chúa Tây Lương nhưng ai chẳng biết Đại Thiền vu thương tôi nhất, Hách Thất lấy tôi, Đại Thiền vu ắt sẽ càng tín nhiệm huynh ấy.

Song tôi vẫn tự nhủ, Hách Thất không suy nghĩ kỳ quái thế đâu, tôi đoán có thể do A Độ đã kể với huynh ấy rằng tôi không muốn lấy Cố Tiểu Ngũ.

Tôi lờ mờ nhận ra rằng, Cố Tiểu Ngũ không phải loại thương nhân tầm thường, nhưng tôi vẫn mong mình không phải lấy chồng sớm.

Chủ tế của Đột Quyết xướng bài hát ca ngợi rồi nhỏ máu dê vào bát rượu, sau đó đưa bát rượu cho hai vị anh hùng sắp tranh tài, bọn họ dốc một hơi cạn bát rượu. Tối nay, hai người bọn họ quyết phân tài cao thấp. Hách Thất vốn là người anh hùng nổi danh khắp Đột Quyết, còn Cố Tiểu Ngũ nhờ chiến công giết được vua sói mắt trắng nên nhiều người Đột Quyết cũng coi hắn như anh hùng. Hai người họ thi thố phen này khiến dân chúng xôn xao, mà chính tôi cũng thấy khó xử vì không rõ mình mong kết quả thắng nghiên về bên nào…

Nếu Cố Tiểu Ngũ thắng, chẳng lẽ tôi phải lấy hắn thật sao?

Còn nếu Hách Thất thắng thì sao? Lẽ nào tôi phải lấy Hách Thất?

Tôi giật thót mình khi nghĩ vậy. Hách Thất chỉ thay tôi răn đe Cố Tiểu Ngũ, cho hắn chừa cái lối vênh váo mà thôi, giống mấy tên con trai hay đứng hát nghêu ngao ngoài lều của A Độ, nếu bọn chúng ầm ĩ quá, Hách Thất sẽ có cách bắt chúng phải im lặng ngay tức khắc. Tôi nghĩ chuyện này cũng tương tự như vậy, việc Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói khiến ai nấy đều cảm thấy khó tin. Hắn còn tỏ vẻ chẳng hề bận tâm, ngang nhiên nói với ông ngoại rằng hắn muốn cưới tôi, vậy nên Hách Thất mới nghĩ cách để trị hắn.

Cuộc so tài đến tai Đại Thiền vu, ông phấn chấn muốn tận mắt đến xem họ thi đấu. Tôi bồn chồn, đứng ngồi không yên, bèn theo sau ông ngoại, cùng đám người lúc nào cũng tò mò đi ra bờ sông. Võ sĩ dưới trướng Đại Thiền vu mang tên đến, chia đều thành hai ống đặt dưới chân hai người. Hách Thất cầm cung tên của mình, thấy trên tay Cố Tiểu Ngũ trống không, bèn nói:

– Đệ lấy cung tên của ta mà dùng!

Cố Tiểu Ngũ gật đầu. Đại Thiền vu cười, nói:

– Nơi Đột Quyết ta đóng quân, chẳng lẽ lại không có nổi một cây cung?

Đại Thiền vu ban cây cung sắt của mình cho Cố Tiểu Ngũ, tôi thấy lúng túng thay hắn. Cây cung sắt kia nặng hơn hẳn loại cung bình thường, trông hắn thư sinh, yếu ớt thế kia, chỉ e khó mà giương được cung. Mà hình như Hách Thất cũng nghĩ vậy, huynh ấy không muốn xử ép Cố Tiểu Ngũ, liền bẩm với Đại Thiền vu:

– Xin Đại Thiền vu ban cây cung này cho thần, còn để Cố Tiểu Ngũ dùng cây cung của thần.

Đại Thiền vu lắc đầu, phán rằng:

– Không giương nổi cây cung này thì nói gì đến chuyện lấy cháu gái ta.

Đám người túm tụm quanh đó cười ồ lên, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, bọn họ vẫn tỏ vẻ khinh thường ra mặt. Cố Tiểu Ngũ nhấc dây cung, dùng ngón tay gảy dây cung như thể gảy dây đàn. Dây cung phát ra tiếng “boong boong”, dân chúng quanh đó phá lên cười. Trông Cố Tiểu Ngũ trắng trẻo, thư sinh, chẳng khác nào đám nhạc công người Trung Nguyên mà những quý tộc Đột Quyết thường mua về, giờ lại gảy dây cung khiến người Đột Quyết càng khinh thường.

Sắc trời dần tối, khoảng không ven sông chi chít dơi bay lượn. Đại Thiền vu gật đầu, tuyên bố:

– Bắt đầu đi!

Bên cạnh Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ đã sắp sẵn một trăm mũi tên, ai bắn được một trăm con dơi trước, người ấy sẽ thắng. Hách Thất giương cung đầu tên, tuy dùng tay trái song trăm phát trúng cả trăm, trong chốc lắt đã thấy dơi đang bây trên trời bỗng rơi lả tả. Về phần Cố Tiểu Ngũ, hắn vẫn thong thả, rút năm mũi tên, từ từ căng dây cung.

Tôi thốt lên:

– Cố Tiểu Ngũ!

Tuy không biết hắn có rành bắn cung hay không, nhưng hắn cũng phải hiểu dây cung chỉ được căng từng mũi một thôi chứ! Cố Tiểu Ngũ ngoảnh lại, mỉm cười với tôi rồi kéo dây cung.

Nói thật, tôi vô cùng ngạc nhiên, hắn căng dây cung một cách nhẹ nhàng, không những vậy, còn bắn một lúc năm phát tên lao vút như sao băng, mũi sau nối đuôi mũi trước, khiến đám người xung quanh không khỏi trầm trồ kinh ngạc.

– Tên liên hoàn! Tên liên hoàn kìa!

Mấy tay quý tộc Đột Quyết sửng sốt thốt lên, thậm chí Đại Thiền vu cũng phải gật gù. Ở Trung Nguyên có một vị đại tướng sử dụng ngón sở trường là tên liên hoàn, trong trận giao tranh với Đột Quyết trước đây, ngón tên liên hoàn ấy đã hạ gục được Tả Đồ Kỳ vương. Nhưng cũng chỉ là truyền miệng thế thôi, chứ mười mấy năm nay, quý tộc Đột Quyết chưa thấy tên liên hoàn bao giờ. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại thành thục bắn liên tục mấy phát tên liên hoàn, đám dơi đang bay nháo nhác cũng không tránh khỏi loạt tên của hắn, rơi lộp bộp như mưa rào. Tuy Hách Thất bắn tên rất nhanh, song vẫn không bì được với hắn, chỉ trong chốc lát mà Cố Tiểu Ngũ đã giải quyết hết một trăm mũi tên. Đám nô lệ thu gom số dơi, chất thành một đống bên bờ sông, một trăm con dơi trông chẳng khác nào một trăm bông hoa đen đúa, quái dị.

Hách Thất cũng bắn được một trăm con, nhưng so với Cố Tiểu Ngũ thì chậm hơn. Sắc mặt Hách Thất vẫn bình tĩnh, huynh ấy nói:

– Ta thua rồi!

Cố Tiểu Ngũ nói:

– Nhờ cây cung tốt nên tôi mới bắn được chuỗi liên hoàn vừa rồi, nếu dùng cây cung của huynh, chắc chắn sẽ chậm hơn. Vả lại, tay phải của huynh vẫn chưa lành hẳn, phải dùng đến tay trái, nếu bảo trận này tôi thắng huynh thì cũng chẳng vinh quang gì. Hai chúng ta không ai thua ai cả. Huynh là dũng sĩ chân chính, nếu cánh tay không bị thương, tôi sao có thể đọ nổi!

Kỹ thuật bắn cung của Cố Tiểu Ngũ đã làm tất cả mọi người dao động, thấy hắn khiêm tốn, điềm đạm, đám người kia càng không khỏi trầm trồ khen ngợi. Người Đột Quyết vốn cởi mở, ngay thẳng, sòng phẳng. Người như Cố Tiểu Ngũ xem ra rất hợp với tính khí của người Đột Quyết. Đại Thiền vu cười sang sảng:

– Khá lắm, dũng sĩ Đột Quyết của chúng ta không hề thua.

Ông nhìn Cố Tiểu Ngũ rồi nói:

– Này người Trung Nguyên kia, nói xem, ngươi muốn được ban thưởng thứ gì?

– Bẩm Đại Thiền vu, ngài đã ban cho tiểu nhân thứ quý giá nhất rồi ạ! – Cố Tiểu Ngũ tủm tỉm cười. – Trên đời này, còn gì quý báu hơn Tiểu Công chúa của ngài?

Đại Thiền vu phá lên cười, những quý tộc Đột Quyết khác cũng phấn khởi ra mặt, xem ra vụ cưới xin này chắc như đinh đóng cột rồi.

Thầy cúng chọn ngày lành, nhân lúc tiết thu mát dịu để cử hành hôn lễ của chúng tôi. Tôi vẫn còn đắn đo, lén hỏi A Độ:

– Theo muội, ta có nên lấy hắn không?

A Độ nhìn tôi bằng đôi mắt đen láy luôn đong đầy vẻ điềm đạm, trầm tĩnh. Chính tôi cũng không rõ nữa, cuối cùng, tôi mạnh dạn hẹn Cố Tiểu Ngũ ra bờ sông.

Tôi không biết phải nói sao, song tôi luôn cảm thấy bất an nếu phải lấy hắn trong tình trạng lơ mơ thế này.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện