Q6 - Chương 17: Một kí ức bị nhiễu
Sau Tết Dương lịch vài ngày, vào một buổi xế chiều, Harry, Ron và Ginny đứng thành hàng bên cạnh lò sưởi trong nhà bếp để trở về trường Hogwarts. Bộ đã sắp xếp tuyến vận-hành-một-lần này kết nối với mạng chuyên chở Floo để đưa học sinh về trường nhanh chóng và an toàn. Chỉ có bà Weasley tiễn đưa tụi nó, bởi vì ông Weasley, Fred, George, Bill và Fleur đều đã đi làm. Bà Weasley sụt sịt khóc ngay khi bắt đầu chia tay. Phải công nhận rằng gần đây hở ra là bà khóc; từ bữa Percy đùng đùng bỏ ra khỏi nhà vào ngày Giáng sinh với đôi kính dính tèm lem vụn củ cải nghiền (thành tích mà Fred, George và Ginny đều giành), bà Weasley cứ sụt sịt miết, khóc rồi nín, nín rồi khóc.
“Đừng khóc nữa, má,” Ginny nói, vỗ nhẹ lên lưng bà Weasley khi bà gục trên vai nó khóc nức nở. “Không sao đâu mà...”
“Ừ, má đừng lo cho tụi con,” Ron vừa nói vừa để cho bà Weasley hôn một cái đẫm lệ lên gò má nó, “cũng đừng lo buồn về anh Percy. Đần độn như thế thì cũng chẳng coi là mất mát được, đúng không má?”
Bà Weasley lại khóc lóc thảm thiết hơn nữa khi ôm choàng lấy Harry trong vòng tay mình.
“Con hứa với bác là con sẽ bảo trọng nhé... tránh đâm đầu vô rắc rối...”
“Con luôn làm như bác dặn, bác Weasley à,” Harry nói. “Bác biết con thích cuộc sống yên tịnh mà.”
Bà gật gù trong nước mắt và đứng lùi lại. “Vậy, tất cả các con ráng ngoan nhé...”
Harry bước vào ngọn lửa màu xanh ngọc và hô to, “Trường Hogwarts!” Trước khi bị hút chìm vào ngọn lửa, nó còn thoáng nhìn thấy lầm cuối cảnh nhà bếp gia đình Weasley, và gương mặt đẫm nước mắt của bà Weasley. Quay mòng mòng thiệt nhanh, nó thoáng thấy lờ mờ phòng khách các gia đình Pháp thuật, nhưng nó chưa kịp nhìn cho rõ thì cảnh trí đã vụt qua mất rồi; sau đó nó xoay chậm lại, cuối cùng thì dừng hẳn lại trong lò sưởi của văn phòng giáo sư McGonagall. Bà chẳng buồn rời mắt khỏi công việc đang làm để ngước lên nhìn Harry loay hoay trèo ra khỏi cái vỉ lò.
“Chào trò, Potter. Cố gắng đừng làm vung vãi quá nhiều tro trên thảm.”
“Dạ, thưa cô.”
Trong khi Harry chỉnh mắt kiếng cho ngay và vuốt tóc tai cho gọn lại, thì Ron hiện ra xoay tít mù. Khi Ginny đến nơi, cả ba đứa nó kéo nhau ra khỏi văn phòng giáo sư McGonagall rồi đi về phía tháp Gryffindor. Harry liếc vô những cửa sổ dọc hành lang khi tụi nó đi ngang qua; mặt trời đã chìm xuống ngang mặt đất phủ thảm tuyết dày hơn cả lớp tuyết trong vườn trang trại Hang Sóc. Phía xa xa, nó có thể nhìn thấy bác Hagrid đang cho con Buckbeak ăn phía trước căn chòi của bác.
“Lòe loẹt,” Ron nói giọng tự tin khi tụi nó đến trước bức chân dung Bà Béo, trông bà ta tái nhợt hơn mọi khi và giọng nói to của Ron khiến bà ta nhăn mặt.
“Không,” bà nói.
“Bà nói “không” nghĩa là sao?”
“Đổi mật khẩu mới rồi,” Bà Béo nói. “Và làm ơn đừng hò hét.”
“Nhưng mà tụi này đi vắng, làm sao tụi này biết...?”
“Harry! Ginny!”
Hermione đang hấp tấp đi về phía tụi nó, gương mặt hồng hào, vẫn còn mặc áo choàng, đội nón và đeo găng tay.
“Mình mới trở về trường cách đây hai tiếng đồng hồ, mình vừa mới xuống dưới chòi thăm bác Hagrid và con Buck... ý là con WitHermionewingiáo sư,” cô bé nói muốn hụt hơi. “Mấy bồ ăn Giáng sinh vui vẻ không?”
“Vui,” Ron nói ngay. “Khá nhiều sự kiện, ông Rufus Scrim...”
“Mình có cái này cho bồ nè, Harry,” Hermione nói, không thèm ngó tới Ron mà cũng chẳng tỏ dấu hiệu gì có nghe anh chàng này nói. “Ôi, chờ xíu... mật khẩu. Chay tịnh!”
“Chính xác,” Bà Béo nói giọng phều phào, rồi quăng mình về phía trước, để lộ ra cái lỗ chân dung.
“Bả bị sao vậy?” Harry hỏi.
“Rõ ràng là đã bê tha chè chén trong dịp Giáng sinh,” Hermione nói, mắt đảo tròn khi dẫn đường tụi nó đi vào phòng sinh hoạt chung đông như nêm. “Bả với bà bạn Violet uống tì tì hết tất cả rượu trong bức tranh những thầy tu xỉn dưới hành lang Bùa chú. À đây...”
Cô bé lục lọi túi áo một lát, rồi rút ra một cuộn giấy da trên đó có nét chữ viết tay của thầy Dumbledore.
“Hay quá,” Harry nói, mở cuộn giấy da ra ngay tức thì để thấy buổi học tiếp theo với thầy Dumbledore được xếp vào buổi tối ngày hôm sau. “Mình có cả đống điều muốn nói với thầy... và bồ nữa. Tụi mình ngồi xuống đây đi...”
Nhưng đúng lúc đó vang lên một tiếng ré to “Won-Won!” và Lavender Brown chẳng biết từ đâu ra và lao vào vòng tay Ron. Bao nhiêu người nhìn cảnh đó đều khúc khích cười; Hermione bật cười khan và nói, “Có chỗ ngồi quanh cây cột đằng kia... đi không, Ginny?”
“Không, cám ơn chị, em đã hứa gặp Dean,” Ginny nói, nhưng Harry không thể không nhận ra giọng nói cô bé không được nhiệt tình lắm. Bỏ lại Ron và Lavender trong tư thế sát cánh nhau như hai tên đáu vật, Harry dẫn Hermione đến một cái bàn trống.
“Giáng sinh của bồ vui không?”
“Ờ, vui,” cô bé nhún vai. “Chẳng có gì đặc biệt. Ở nhà Won-Won thế nào?”
“Chút xíu nữa mình sẽ kể bồ nghe,” Harry nói. “Nhưng, Hermione này, bồ có thể nào đừng…”
“Không, mình không thể,” cô bé nói thẳng thừng. “Cho nên đừng đòi hỏi mình.”
“Mình nghĩ có lẽ, bồ biết mà, qua lễ Giáng sinh…”
“Harry à, chính Bà Béo là kẻ đã uống hết một hũ rượu vang ủ năm trăm năm, chứ không phải mình. Sao, bồ muốn nói với mình điều gì quan trọng vậy?”
Trông Hermione quá ư hung hăng, không thể cãi nhau vào lúc này, nên Harry bỏ qua đề tài Ron và kể lại cho cô bé nghe những điều nó đã nghe lóm trong cuộc chuyện trò giữa Malfoy và Thầy Snape. Khi nó nói xong, Hermione ngồi im suy nghĩ một lát rồi nói, “Bồ có nghĩ là…?”
“…thầy giả vờ đề nghị giúp để có thể dụ khị Malfoy kể cho thầy nghe về việc nó đang làm, chứ gì?”
“Ừ,” Hermione nói.
“Ba của Ron và thầy Lupin cũng nghĩ vậy,” Harry nói vẻ miễn cưỡng. “Nhưng điều này chứng tỏ chắc chắn rằng Malfoy đang có một âm mưu gì đó, bồ không thể phủ nhậ điều này.”
“Không, mình không phủ nhận,” cô bé hcaamj rãi trả lời.
“Và nó đang hành động theo lệnh của Voldermort, đúng như mình đã nói!”
“Hừm… có ai trong hai người đó thực sự nhắc đến cái tên Voldermort không?”
Harry cau mày, cố gắng nhớ lại. “Mình không nhớ chắc… Thầy Snape chắc chắn có nói “ông chủ của trò,” và kẻ đó có thể là ai khác chứ?”
“Mình không biết,” Hermione nói, cắn cắn môi. “Có thể là ba nó không?”
Hermione nhìn đăm đăm qua căn phòng mà thậm chí chẳng để ý Lavender đang cù lét Ron, hiển nhiên là cô bé đang chìm đắm trong suy nghĩ.
“Thầy Lupin ra sao?”
“Không khỏe lắm,” Harry nói, và nó kể cho Hermione nghe hết về nhiệm vụ của thầy Lupin giữa những người sói và những khó khăn thầy phải đối phó. “Bồ có bao giờ nghe nói tới Fenrir Greyback không?”
“Có, mình có nghe!” Hermione nói, vẻ ngạc nhiên. “Và bồ cũng đã nghe rồi mà Harry!”
“Hồi nào, trong lớp Lịch sử pháp thuật hả? Bồ quá biết là mình đâu có bao giờ nghe giảng…”
“Không, không, không phải trong lớp Lịch sử pháp thuật – Malfoy đã đem cái tên đó ra đe dọa ông Borgin!” Hermione nói. “Bồ không nhớ sao, lúc ở hẻm Knockturn ấy? Nó nói với ông Borgin rằng Greyback là bạn bè lâu đời với gia đình nó và hắn sẽ kiểm tra công việc sửa chữa của ông Borgin!”
Harry há hốc mồm nhìn cô bé. “Mình quên béng đi! Nhưng điều này chứng tỏ Malfoy là một Tử thần thực tử, chứ làm sao mà nó có thể liên lạc với Greyback và sai bảo được hắn?”
“Cái đó hơi đáng ngờ,” Hermione nói khẽ. “Trừ phi…”
“Thôi mà, nói đi, Hermione,” Harry nói trong cơn điên tiết, “bồ không thể tránh né hoài điều này được!”
“Ừ thì… có thể đó chỉ là một lời đe dọa suông thôi.”
“Bồ thiệt là quái, đúng là quái,” Harry lắc đầu nói. “Chúng ta sẽ chờ coi ai đúng… rồi bồ sẽ phải thừa nhận bồ sai lầm, Hermione à, như Bộ ấy. À quên, mình cũng gây với ông Rufus Scrimgeour một trận…”
Và phần còn lại cảu buổi tối đó trôi qua trong thân tình kiểu cùng cánh hẩu khi cả hai cũng hè nhau xỉ vả Bộ Pháp thuật, bởi vì Hermione, giống y chang Ron, cho rnagwf giờ đây họ thiệt là trơ trẽn mặt dày mới đi nhờ Harry giúp đỡ, sau tất cả những gì mà Bộ đã khiến Harry phải chịu đựng trong năm học trước.
Học kỳ mới bắt đầu vào sáng hôm sau bằng một bất ngờ thú vị dành cho học sinh năm thứ sáu: một thông báo tổ chảng đã được đính trên tấm bảng thông tin trong phòng sinh hoạt chung từ hồi khuya.
LỚP ĐỘN THỔ
Học sinh mười bảy tuổi, hay sẽ đủ mười bảy tuổi
Vào đúng ngày hay trước ngày 31 tháng tám sắp tới,
Đủ điều kiện ghi danh vào lớp phụ đạo Độn thổ
Kéo dài mười hai tuần lễ, do giáo viên Độn thổ
Của Bộ pháp thuật phụ trách.
Mời ký tên dưới đây nếu muốn tham gia.
Học phí: 12 Galleon.
Harry và Ron nhập vô đám đông đang xúm xít chung quanh cái thông báo và lần lượt ghi tên mình xuống dưới. Ron vừa mới rút cây viết lông ngỗng của nó ra để ký tên sau Hermione thì Lavender lẻn đến sau lưng nó, bịt nhanh hai bàn tay cô nàng lên mắt nó rồi ngân nga nói, “Đoán xem ai nè, Won-Won?”
Harry quay lại thấy Hermione ngạo nghễ bỏ đi ngay lập tức. Nó bám theo gót cô bé ngay vì chẳng muốn ở lại với Ron và Lavender chút xíu nào, nhưng nó ngạc nhiên thấy Ron cũng bắt kịp hai đứa nó khi cách cái lỗ chân dung không xa lắm, tai Ron đỏ tía và mặt mày nó quạu quọ hết biết. Chẳng nói một lời, Hermione bước nhanh hơn để sánh cùng với Neville.
“Vậy là… Độn thổ,” Ron nói, giọng nó biểu lộ hết sức rõ ràng rằng Harry chớ có đá động đến chuyện vừa mới xảy ra. “Chắc là vui lắm, nhỉ?”
“Mình không biết,” Harry nói. “Có lẽ tự làm thì khá hơn, chứ lúc đi ké thầy Dumbledore mình chẳng thích thú chút nào.”
“Mình quên mất là bồ đã từng độn thổ rồi... Mình phải đậu ngay kỳ kiểm tra đầu tiên mới được,” Ron nói, tỏ vẻ lo lắng. “Hồi đó anh Fred và George đậu ngay kỳ thi đầu.”
“Nhưng mà anh Charlie thì rớt, đúng không?”
“Ừ, nhưng anh Charlie bự con hơn mình nhiều,” Ron dang hai tay ra như thể nó là một con khỉ đột, “thành ra anh Fred và George không cần phải cố gắng nhiều lắm... hoặc là không lộ ra mặt...”
“Chừng nào tụi mình mới thi thiệt?”
“Ngay khi tụi mình mười bảy tuổi. Mình thi vào tháng ba này!”
“Ừ há, nhưng bồ đâu có thể độn thổ ở đây, trong tòa lâu đài...”
“Cái đó không thành vấn đề. Vấn đề là mọi người sẽ biết nếu mình muốn độn thổ là độn thổ được.”
Ron không phải là người duy nhất háo hức về cái viễn cảnh học Độn thổ. Suốt ngày hôm đó đâu đâu cũng toàn là bàn tán về những buổi phụ đạo sắp tới; đánh giá rất cao về việc có thể biến mất và tái xuất hiện như ý.
“Thiệt là sướng khi mình có thể chỉ cần...” Seamus búng ngón tay diễn tả sự biến mất. “Thằng anh họ Fergus cứ làm vậy để chọc tức mình, cứ đợi đấy đến khi mình có thể chơi đẹp lại... Nó đừng hòng có được một phút yên lành nhé...”
Say sưa với mơ tưởng về triển vọng hạnh phúc này, Seamus vẫy cây đũa phép của nó hơi bị nhiệt tình một tí, nên thay vì tạo ra một tia nước trong lành theo đúng mục tiêu bài học Bùa chú hôm nay, nó lại làm phun ra cả một cái vòi rồng từ trần nhà, xịt thẳng vô mặt giáo sư Flitwick. Giáo sư Flitwick bèn vẫy cây đũa phép của ông để tự hong khô, và bắt Seamus chép phạt câu: “Tôi là một pháp sư, chứ không phải một con khỉ đầu chó khua loạn xạ một cây gậy.”
“Harry từng độn thổ rồi,” Ron nói với anh chàng Seamus hơi bị tẽn tò. “Thầy Dumbledore... ơ... ai đó dắt nó theo. Bồ biết đó, Độn-thổ-ôm ấy mà.”
“Hết sẩy!” Seamus thì thào, và cùng với Dean và Neville chụm đầu lại gần hơn một chút để nghe coi cảm giác độn thổ nó ra làm sao. Suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó, Harry bị những học sinh năm thứ sáu khác xúm lại yêu cầu miêu tả cảm giác độn thổ. Tất cả tụi kia đều tỏ ra kính sợ chứ không ngán ngại, khi Harry kể cho nghe độn thổ khó chịu như thế nào, và nó vẫn còn tiếp tục trả lời những câu hỏi chi tiết cho đến tám giờ kém mười buổi tối hôm đó. Tới giờ đó nó đành phải nói dối, rằng nó cần trả lại thư viện một cuốn sách, nhờ đó mà chuồn được đúng giờ để đến lớp học riêng với cụ Dumbledore.
Đèn trong văn phòng cụ Dumbledore sáng trưng, chân dung của các vị hiệu trưởng tiền nhiệm đang ngáy êm đềm trong các khung tranh, và cái chậu Tưởng Ký lại một lần nữa đặt sẵn trên bàn. Hai bàn tay của cụ Dumbledore đặt song song hai bên cái Tưởng Ký, bàn tay phải vẫn đen thui và cháy khô quắt như dạo gần đây. Nó dường như không lành lặn lại chút nào và có lẽ hàng trăm lần rồi, Harry tự hỏi, cái gì đã gây nên một vết thương đặc biệt như vậy, nhưng nó chưa bao giờ dám hỏi cụ Dumbledore; Cụ từng nói rằng rốt cuộc nó cũng sẽ biết, nhưng mà rồi lần nào cũng có một đề tài khác mà cụ muốn thảo luận.
Trước khi Harry có thể kể điều gì về Thầy Snape và Malfoy, cụ Dumbledore đã nói:
“Thầy nghe nói con có gặp ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật trong dịp Giáng sinh?”
“Dạ, phải,” Harry nói. “Ông ấy không được hài lòng lắm về con.”
“Ừ,” cụ Dumbledore thở dài. “Ông ấy cũng chẳng hài lòng với thầy. Chúng ta phải cố gắng đừng lún vô nỗi thống khổ của mình, Harry à, mà vùng lên đấu tranh thôi.”
Harry nhe răng cười.
“Ông ấy muốn con nói với cộng đồng Pháp thuật là Bộ đang làm một công việc tuyệt vời.”
Cụ Dumbledore mỉm cười.
“Con biết đấy, ý tưởng đó nguyên là của ông Fudge. Trong những ngày cuối cùng còn tại vị của ông ấy, ông ấy đã cố gắng bám lấy chức vị một cách tuyệt vọng, ông ấy đã tìm cách gặp mặt con, hy vọng con sẽ ủng hộ ông ấy...”
“Sau tất cả những gì ông Feudge đã làm hồi năm ngoái sao?” Harry tức giận nói. “Sau vụ mụ Umbridge ấy sao?”
“Thầy đã nói với ông Cornelius là chẳng có cơ may nào đâu, nhưng khi ông ấy rời khỏi văn phòng Bộ trưởng rồi, ý tưởng đó vẫn chẳng mất đi. Trong cuộc họp kéo dài mấy tiếng đồng hồ với thầy sau khi ông Scrimgeour được bổ nhiệm, ông này cứ đòi thầy dàn xếp cho một cuộc gặp gỡ với con…”
“Vậy ra đó là nguyên nhân khiến thầy với ông ấy đã cãi nhau!” Harry vuột miệng nói. “Chuyện đó có đăng trên tờ Nhật báo Tiên Tri.”
“Tờ Tiên Tri thỉnh thoảng cũng báo cáo sự thật,” cụ Dumbledore nói, “cho dù chỉ là ngẫu nhiên. Phải, đó là nguyên nhân thầy và ông ấy cãi nhau. Chà, xem ra ông Rufus cuối cùng cũng kiếm được cách bắt chẹt con.”
“Từ đầu đến cuối ông ấy cáo buộc con là “người của cụ Dumbledore.””
“Ông ta thô bỉ quá.”
“Con có nói với ông ấy con đúng là người của thầy.”
Cụ Dumbledore mở miệng ra định nói, nhưng rồi lại ngậm miệng lại. Sau lưng Harry, chim phượng hoàng Fawkes thốt lên tiếng kêu như hát, nhỏ nhẹ, êm dịu. Harry cực kỳ bối rối khi nó bỗng dưng nhận ra đôi mắt xanh sáng của cụ Dumbledore có vẻ ươn ướt, nó bàn quýnh quáng cúi xuống ngó chằm chằm cái đầu gối của mình. Nhưng khi cụ Dumbledore cất tiếng, giọng cụ vẫn cương nghị.
“Thầy rất cảm động, Harry à.”
“Ông Scrimgeour muốn biết thầy đi đâu khi thầy không có mặt ở trường Hogwarts,” Harry nói, vẫn ngó chằm chằm cái đầu gối của nó.
“Ừ, ông ta rất tò mò về chuyện đó,” cụ Dumbledore nói, bây giờ nghe có vẻ hóm hỉnh hơn, và Harry nghĩ chắc là ngó lên được rồi. “Ông ta đã cố gắng cho người theo dõi thầy. Tức cười thật. Ông ta phái Dawlish theo đuôi thầy. Không được tử tế cho lắm. Thầy đã buộc lòng ếm bùa Dawlish một lần; thầy lấy làm tiếc vô cùng khi phải lại làm điều đó.”
“Vậy là họ vẫn chưa biết thầy đi đâu?” Harry hỏi, hy vọng biết thêm được chút gì đó về đề tài hết sức khêu gợi trí tò mò này, nhưng cụ Dumbledore chỉ mỉm cười qua cặp kính nửa vầng trăng.
“Không, họ không biết, và cũng chưa tới lúc chín mùi để cho con biết. Thôi, thầy đề nghị chúng ta gấp rút lên, trừ phi còn điều gì khác nữa...?”
“Thưa thầy, thực ra cũng còn một việc,” Harry nói, “liên quan đến Malfoy và ông Snape.”
“Giáo sư Snape, Harry à.”
“Dạ, thưa thầy. Con nghe lóm họ trong bữa tiệc Giáng sinh ở chỗ Thầy Slughorn... Dạ, thực ra thì con theo dõi họ...”
Cụ Dumbledore lắng nghe Harry kể với một nét mặt bình thản. Khi Harry kể xong, cụ không nói gì trong một lát, rồi bảo, “Cám ơn con đã kể cho thầy nghe chuyện này, Harry à, nhưng thầy đề nghị con nên gạt chuyện đó ra khỏi đầu. Thầy không cho là chuyện đó quan trọng lắm đâu.”
“Không quan trọng lắm?” Harry lặp lại, có vẻ không thể tin được. “Thưa thầy, thầy có hiểu...?”
“Có, Harry à, may phước là thầy có một trí lực phi thường, thầy hiểu hết mọi điều con nói với thầy,” cụ Dumbledore nói, khá dứt khoát. “Thầy nghĩ con cũng nên cân nhắc tới một khả năng là thầy hiểu nhiều hơn con hiểu. Một lần nữa, thầy vui mừng là con đã tin tưởng mà giãi bày với thầy, nhưng hãy để thầy cam đoan lại với con rằng con đã không nói với thầy bất cứ điều gì khiến thầy băn khoăn.”
Harry ngồi im mà ruột gan sôi sục, tròn mắt nhìn cụ Dumbledore. Chuyện gì đang xảy ra? Phải chăng điều này có nghĩa là quả thực cụ Dumbledore yêu cầu Thầy Snape tìm hiểu xem Malfoy đang làm gì, và nếu đúng như vậy thì cụ đã được Thầy Snape báo cho biết hết mọi điều mà Harry vừa kể cho cụ nghe? Hay là cụ quả thực có lo lắng về những điều vừa nghe nhưng lại giả vờ như không?
“Vậy, thưa thầy,” Harry nói, bằng cái giọng mà nó hy vọng là bình tĩnh lễ phép, “thầy vẫn hoàn toàn tin tưởng...?”
“Thầy đã rất kiên nhẫn trả lời câu hỏi đó rồi,” cụ Dumbledore nói, nhưng giọng cụ nghe ra chẳng còn kiên nhẫn nữa. “Câu trả lời của thầy không hề thay đổi.”
“Ta không nghĩ thế,” một giọng nói cạnh khóe vang lên; Cụ Phineas Nigellus hiển nhiên là chỉ giả vờ ngủ mà thôi. Cụ Dumbledore phớt lờ cụ Nigellus.
“Và bây giờ, Harry à, thầy phải nhấn mạnh là chúng ta hãy gấp lên. Thầy còn những điều quan trọng hơn để thảo luận với con tối hôm nay.”
Harry ngồi đó cảm thấy muốn nổi loạn. Nếu nó không chịu đổi đề tài thì sẽ ra sao, nếu nó cứ khăng khăng tranh cãi vụ cáo buộc Malfoy thì sao nào? Dường như đọc thấu suy nghĩ của Harry, cụ Dumbledore lắc đầu.
“Này, Harry, chuyện đó xảy ra thường lắm, ngay cả giữa những người bạn tốt nhất! Mỗi người trong chúng ta đều tin rằng điều mình cần phải nói quan trọng hơn bất cứ điều gì mà người khác có thể góp vào!”
“Thưa thầy, con không nghĩ là những điều thầy cần phải nói là không quan trọng.” Harry nói không nhân nhượng.
“Chà, con hoàn toàn đúng, bởi vì nó không hẳn không quan trọng,“ cụ Dumbledore nói nhanh. “Thầy có thêm hai ký ức để cho con xem vào tối hôm nay, cả hai đều vô cùng khó khăn mới có được, và cái thứ hai trong hai cái đó, theo thầy nghĩ, là ký ức quan trọng nhất mà thầy từng thu thập được.”
Harry không nói gì về điều này; nó vẫn còn tức tối về sự tiếp nhận dành cho những tâm tình nó tin cậy giãi bày, nhưng nó cũng không thể thấy chung cuộc sẽ được dái gì nếu cứ tiếp tục tranh cãi.
“Vậy là,” cụ Dumbledore nói, giọng ngân nga, “chúng ta gặp nhau tối nay để tiếp tục câu chuyện của Tom Riddle, cậu bé mà chúng ta bỏ lại vào cuối buổi học trước đã đĩnh đạ bước qua ngưỡng cửa trường Hogwarts. Con còn nhớ cậu ta háo hức như thế nào khi nghe nói cậu ta là một pháp sư không, cậu ta đã từ chối sự tháp tùng của thầy trong chuyến đi đến Hẻm Xéo, và phần thầy, thầy cũng đã cảnh cáo cậu bé chớ có tiếp tục ăn cắp khi đến trường.
Xem nào, Tom Riddle đến trường khi niên học bắt đầu, một cậu bé lặng lẽ trong bộ áo chùng cũ, sắp hàng với những học sinh năm thứ nhất khác để được phân loại. Cậu được xếp vào nhà Slytherin hầu như ngay khi cái nón phân loại vừa chạm vào đầu,” cụ Dumbledore nói tiếp, vừa vẫy bàn tay nám đen của cụ về phía cái kệ phía trên đầu, nơi đặt cái nón phân loại cổ xưa và im lìm. “Riddle biết được vị sáng lập nổi tiếng cảu Nhà Slytherin có thể nói chuyện với rắn – biết lúc nào thì thầy không chắc – có thể ngay buổi tối hôm cậu đến trường. Sự hiểu biết này càng kích thích cậu bé và làm tăng ý thức tự cao của cậu.
Tuy nhiên, nếu cậu có dọa nạt hay gây ấn tượng gì với bạn đồng môn trong nhà Slytherin bằng cách phô diễn Xà ngữ trong phòng sinh hoạt chung, thì ban giám hiệu vẫn không hay biết gì cả. Cậu bé chẳng bày tỏ dấu hiệu kiêu căng lộ liễu hay hung hăng hiếu chiến gì hết. Là một đứa trẻ mồ côi rất đẹp trai và tài gioig phi thường, cậu bé tự nhiên thu hút được sự chú ý và cảm thông của thầy cô ngay từ lúc mới đặt chân đến trường. Cậu bé có vẻ lễ phép, lặng lẽ và khao khát trí thức. Gần như tất cả giáo ban đều có ấn tượng tốt về cậu.”
“Thưa thầy, thầy không nói với những thầy cô khác rằng hắn như thế nào khi thầy gặp hắn ở viện mồ côi sao?” Harry hỏi.
“Không, thầy không nói. Mặc dù cậu ta chẳng cho thấy có dấu hiệu ăn năn hối cải nào, nhưng có thể cậu cảm thấy hối tiếc về cách cư xử của mình trước đây và quyết tâm làm lại cuộc đời. Thầy quyết định dành cho cậu ta một cơ hội.”
Cụ Dumbledore ngừng nói và nhìn Harry dò hỏi, nó há miệng ra toan nói. Một lần nữa, đây là khuynh hướng cả tin con người của cụ Dumbledore bất chấp có cả đống chứng cớ rằng họ không xứng đáng với lòng tin đó! Nhưng Harry nhớ ra một chuyện...
“Nhưng thầy không thực sự tin hắn, đúng không thầy? Hắn đã nói với con... không, tên Riddle xuất hồn ra từ cuốn nhật ký ấy nói, “thầy Dumbledore dường như không thích tôi nhiều như các thầy cô khác.””
“Chúng ta cứ coi như thầy đã cho rằng cậu bé ấy không đáng tin,” cụ Dumbledore nói. “Như thầy đã nói, và thầy đã làm như vậy, thầy quyết tâm để mắt đến cậu bé. Thầy không thể giả bộ là chỉ quan sát lần đầu thôi đã lượm lặt được nhiều điều. Cậu bé rất cảnh giác đối với thầy; thầy chắc là cậu bé cảm thấy cậu đã nói hơi nhiều với thầy trong cậu chuyện ly kỳ về lai lịch thật cảu mình. Cậu bé thận trọng không để lộ thêm nhiều như vậy một lần nữa, nhưng cậu không thể thu hồi lại những gì cậu đã lỡ lời thốt ra trong cơn phấn khích, cậu bé có ý thức không bao giờ cố trù ếm thầy như cậu đã trù ếm rất nhiều đồng nghiệp của thầy.
Khi cậu bé lên lớp cao hơn ở trường, cậu qui tập được một nhóm bạn bè tận tụy; thầy gọi chúng như thế là vì muốn dùng chữ tốt hơn, mặc dù như thầy đã chỉ ra, Riddle chắc chắn không thân thiết với bất cứ đứa nào trong đám bạn đó. Nhóm này có một sức rù quến hắc ám bên trong tòa lâu đài. Chúng là một tập hợp tạp nham; một sự pha trộn giữa những kẻ yếu đuối tìm kiếm sự che chở, những kẻ đầy tham vọng tìm kiếm vinh quang chung, và những kẻ có máu côn đồ hướng về một thủ lĩnh có thể biểu diễn cho chúng xem nhiều hình thức bạo ngược tinh vi hơn. Nói cách khác, chúng là những nguyên mẫu của bọn Tử thần thực tử và thực ra là một số trong nhóm đó đã trở thành những Tử thần thực tử đầu tiên sau khi rời khỏi trường Hogwarts.
Được Riddle kiểm soát chặt chẽ, chúng chẳng bao giờ bị phát hiện là đang làm điều gì sai quấy, mặc dù bảy năm chúng học ở trường Hogwarts được ghi dấu bằng một số vụ rắc rối đáng tởm mà chúng chẳng bao giờ bị liên đới trách nhiệm một cách thỏa đáng, dĩ nhiên, vụ nghiêm trọng nhất là mở cửa phòng chứa bí mật, đưa tới hậu quả là một nữ sinh thiệt mạng. Như con đã biết, bác Hagrid đã bị kết án oan về tội ác dó.
Thầy đã không tìm được nhiều ký ức về Riddle ở trường Hogwarts,” cụ Dumbledore nói, vừa đặt bàn tay khô quắt của mình lên cái Tưởng Ký. “Ít ai biết về y thời đó chịu nói về y; họ quá khiếp đảm. Những gì mà thầy biết được thầy chỉ phát hiện ra sau khi y rời khỏi trường Hogwarts, sau nhiều nỗ lực vất vả, sau khi lần theo dấu những người ít ỏi có thể dụ dỗ nói ra, sau khi đã tìm kiếm những hồ sơ cũ và chất vấn những nhân chứng trong giới phù thủy cũng như giới Muggle.
Những người thầy có thể thuyết phục mở miệng đã kể cho thầy nghe rằng Riddle bị ám ảnh về dòng dõi của cha mẹ y. Điều này có thể hiểu được, tất nhiên; y đã lớn lên trong một viện mồ côi và đương nhiên ước ao được biết bằng cách nào mà mình bị đưa vào đó. Có vẻ như y đã tìm kiếm vô vọng dấu tích của Tom Riddle cha trong những huy hiệu ghi tên những người có thành tích và được tưởng thưởng nằm trong phòng truyền thống, trong danh sách các Huynh trưởng lưu ở hồ sơ của trường, thậm chí trong cả những cuốn sách Lịch sử Pháp thuật. Cuối cùng y buộc phải thừa nhận là cha của y chưa hề đặt chân đến trường Hogwarts. Thầy tin là chính lúc đó y từ bỏ vĩnh viễn cái tên cảu mình, tự khoác vào cái lý lịch của Chúa tể Voldermort, và bắt đầu cuộc điều tra về gia đình cảu người mẹ mà trước đó y đã miệt thị - người đàn bà mà, con sẽ nhớ ra, y đã nghĩ không thể là một phù thủy, một khi không chống lại được sự yếu đuối nhục nhã rất con người là cái chết.
Y chỉ có thể laafnt heo một cái tên duy nhất là “Marvolo”, mà những người điều hành viện mồ côi đã cho y biết đó là tên ông ngoại y. Cuối cùng, sau cuộc tìm kiếm vất vả, qua những bộ sách cổ về các gia đình Pháp thuật, y phát hiện ra sự tồn tại của một chi hệ còn sống sót của dòng họ Slytherin. Vào mùa hè năm mười sáu tuổi, y rời viện mồ côi mà đáng ra y phải quay trở về tá túc hàng năm để đi tìm họ hàng nhà Gaunt. Và bây giờ, Harry à, nếu con đứng...”
Cụ Dumbledore đứng dậy, và Harry nhìn thấy một lần nữa cụ lại cầm một cahi thủy tinh nhỏ xíu đựng đầy ký ức óng ánh và xoáy tít.
“Thầy hên lắm mới thu được ký ức này,” cụ nói, trong khi rót cái khối trắng bóng đó vô cái Tưởng Ký. “Để trải qua xong cái kinh nghiệm đi rồi con sẽ hiểu. Chúng ta bắt đầu nhé?”
Harry bước tới bên cái chậu đá và ngoan ngoãn cúi xuống cho đến khi mặt nó chìm xuống dưới bề mặt của ký ức; nó cảm nhận được cái cảm giác quen thuộc chìm xuống cõi hư không rồi đáp xuống một cái sàn nhà bằng đá đầy bụi bặm trong bóng topois gần như đen đặc.
Nhiều giây sau nó mới nhận ra nơi đó, cũng là lúc cụ Dumbledore đáp xuống bên cạnh nó. Ngôi nhà của gia đình Gaunt giờ đây dơ bẩn không sao tả xiết, dơ bẩn hơn bất cứ nơi nào mà Harry từng thấy. Trần nhà bám dày mạng nhện, sàn nhà phủ dày bụi bẩn; đồ ăn mốc meo và hư thúi nằm trên bàn giữa một đống hồi niêu cặn bã đóng váng. Ánh sáng duy nhất phát ra từ một ngọn nến tù mù đặt dưới chân một gã đàn ông râu tóc um tùm khiến Harry không thể nhìn thấy đâu là mắt đâu là miệng. Gã ngồi lún trong cái ghế bành bên lò sưởi và Harry thoáng thắc mắc là gã chết rồi chăng. Nhưng một tiếng gõ cửa vang lên và gã đàn ông giật mình thức giấc, tay phải giơ lên cây đũa phép và tay trái cầm một con dao ngắn.
Cánh cửa cọt kẹt mở ra. Đứng trên ngưỡng cửa, cầm một cây đèn kiểu xưa, là một chàng trai mà Harry nhận ra ngay tức thì: cao, xanh xao, tóc đen và đẹp trai, ấy là chàng thiếu niên Voldermort.
Đôi mắt Voldermort chậm rãi nhìn quanh căn phòng tồi tàn và rồi nhìn tới gã đàn ông ngồi trên ghế bành. Hai người nhìn nhau trong vài giây, rồi gã đàn ông lảo đảo đứng dậy, những chai rượu rỗng dưới chân gã kêu lanh canh và lăn lóc ngang qua sàn nhà.
“MÀY!” gã rống lên. “MÀY!”
Và gã nhào vô Riddle trong trạng thái say xỉn, cây đũa phép và con dao ngắn giơ cao.
“Dừng lại.”
Riddle nói bằng Xà ngữ. Gã đàn ông trượt ngã vô cái bàn, làm văng mấy cái nồi mốc meo đóng váng rớt rầm rầm xuống sàn. Gã trừng mắt nhìn Riddle. Cả hai cùng im lặng một hồi lâu trong lúc chiếu tướng lẫn nhau. Rồi gã đàn ông lên tiếng.
“Mày nói được Xà ngữ hả?”
“Phải, tôi nói được,” Riddle nói. Y tiến vô căn phòng, để cho cánh cửa tự đóng sập lại sau lưng. Harry không thể không cảm thấy một nỗi thán phục pha lẫn tức tối trước sự gan dạ tuyệt đối của Voldermort. Vẻ mặt cảu y chỉ biểu lộ sự ghê tởm và có lẽ cả sự thất vọng.
“Marvolo đâu?” Y hỏi.
“Chết.” Gã kia nói. “Lão chết nhiều năm rồi thì phải ?”
Riddle cau mày.
“Vậy ông là ai ?”
“Tao là Morfin thì phải ?”
“Con trai ông Marvolo hả ?”
“Chính tao, đương nhiên, còn mày...”
Morfin gạt mớ tóc lùm xùm ra khỏi gương mặt dơ hầy của gã để nhìn Riddle rõ hơn và Harry thấy gã đeo chiếc nhẫn mặt đá đen trên bàn tay phải.
“Tao đã tưởng mày là tay Muggle đó,” Morfin thì thào. “Mày trông rất giống tay Muggle đó.”
“Tay Muggle nào?” Riddle đột ngột hỏi.
“Tay Muggle mà em gái tao si mê, tay Muggle sống trong căn nhà lớn cuối con đường,” Morfin nói và gã thình lình khạc xuống khoảng sàn trống giữa hai người. “Trông mày giống ý chang tay đó. Riddle. Nhưng bây giờ chắc hắn già đi rồi hả? Hắn già hơn mày, bây giờ tao nghĩ ra rồi...”
Morfin có vẻ hơi sửng sốt và lảo đảo một tí, nhưng vẫn bám cô cạnh bàn mà đứng dậy. “Hiểu rồi, hắn trở về,” gã nói thêm một cách ngu độn.
Voldermort chăm chú nhìn Morfin như thể đang đánh giá những khả năng của gã này. Bây giờ y tiến đến gần gã hơn và nói, “Riddle đã trở về à?”
“Ờ, hắn bỏ rơi em gái tao, cho đáng đời con khốn đó, dám cưới đồ bẩn thỉu!” Morfin nói, lại khạc xuống sàn. “Cướp hết của chúng tao trước khi bỏ trốn, nói cho mày biết. Sợi dây chuyền đâu rồi, hả, sợi dây chuyền của dòng họ Slytherin ở đâu hả?”
Voldermort không trả lời. Morfin đang nổi cơn cuồng nộ; gã khua con dao ngắn và hò hét, “Con đó làm nhục chúng ta, cái con thúi tha dâm đãng đó! Và mày là ai mà đến đây chất vấn tao về tất cả những chuyện đó hả? Hết rôi, phải không... hết rồi...”
Gã nhìn ra chỗ khác, hơi choáng váng và Voldermort tiến tới trước. Khi y làm vậy, một bóng đen bất thường ập xuống, làm tắt ngọn đèn của Voldermort và ngọn nến của Morfin, làm tắt hết mọi thứ... Những ngón tay cảu cụ Dumbledore nắm chặt quanh cánh tay Harry và cả hai lại bay vèo về hiện tại. Ánh sáng vàng óng êm dịu trong văn phòng cụ Dumbledore dường như làm chói mắt Harry sau bóng tối đen đặc ấy.
“Thưa thầy, hết rồi sao?” Harry hỏi ngay. “Tại sao bồng nhiên tối hù, chuyện gì đã xảy ra?”
“Bởi vì Morfin không thể nào nhớ lại bất cứ điều gì từ lúc đó trở đi,” cụ Dumbledore nói, vừa ra dấu cho Harry ngồi trở xuống ghế. “Khi Morfin tỉnh dậy vào sáng hôm sau, gã đang nằm dài trên sàn, chỉ còn một mình. Chiếc nhẫn của Marvolo đã biến mất.
Trong thời gian đó, trong làng Hangleton Nhỏ, một người hầu gái chạy dọc phố Chính, gào thét là có ba xác chết trong phòng khách của ngôi nhà lớn: đó là Tom Riddle cha và cha mẹ ông ta.
Nhà cầm quyền Muggle rất bối rối. Theo như thầy biết cả gia đình Riddle chết như thế nào, bởi vì phép nguyền Avadu Kedavra thường không đrr lại dấu vết tổn thương nào cả... Trừ ngoại lệ duy nhất đang ngồi trước mặt thầy,” cụ Dumbledore nói thêm, kèm theo cái gật đầu về phía vết thẹo của Harry. “Ngược lại, Bộ Pháp thuật biết ngay đó là một vụ sát nhân do pháp sư gây ra. Họ cũng biết là có một kẻ căm ghét Muggle từng bị kết án đang sống gần nhà Riddle phía bên kia thung lũng, một kẻ căm ghét Muggle đã từng bị ngồi tù một lần vì tội tấn công một trong những người vừa bị giết.
Thế là Bộ câu lưu Morfin. Họ không cần phải chất vấn gã hay dùng phép Ép nói thật hay phép Đọc tư tưởng. Gã thú nhận tội sát nhân ngay, cung cấp những chi tiết mà chỉ có kẻ sát nhân mới có thể biết. Gã nói, gã rất tự hào là đã giết bọn Muggle, bao nhiêu năm nay gã đã chờ đợi cơ hội này. Gã nộp cây đũa phép của gã, tang vật này đã được thẩm định ngay là hung khí dùng để giết gia đình Riddle. Và gã tự để cho mình bị bắt và tống vòa ngục Azkaban mà không một chút kháng cự.
Điều duy nhất khiến gã ú ớ là sự kiện chiếc nhẫn của cha gã đã biến mất. “Lão sẽ giết tôi vì tội để mất chiếc nhẫn,” gã nói đi nói lại với những người bắt gã. “Lão sẽ giết tôi vì tội để mất chiếc nhẫn”. Và về sau dường như gã chỉ lặp lại mối điều đó. Gã sống phần đời còn lại trong nhà ngục Azkaban, than vãn mãi việc mất của gia bảo cuối cùng của Marvolo, và gã được chôn cất bên cạnh nhà tù cùng với những linh hồn khốn khổ đã tàn đời trong vòng lao lý.”
“Vậy là Voldermort đã ăn cắp cây đũa phép của Morfin và sử dụng nó?” Harry ngồi thẳng lưng lên, nói.
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Chúng ta không có ký ức nào ghi nhớ sự kiện này, nhưng thầy nghĩ chúng ta có thể biết khá chắc chắn điều gì đã xảy ra. Voldermort đã điểm huyệt người cậu ruột hắn, lấy cây đũa phép của gã và đi tiếp qua bên kia thung lũng đến “ngôi nhà lớn cuối con đường”. Ở đó hắn giết người đàn ông Muggle đã bỏ rơi bà mẹ phù thủy của hắn và để diệt nhân chứng, giết luôn ông bà nội thuộc dân Muggle của hắn và như thế diệt sạch dòng dõi Riddle không xứng đáng với hắn và trả mối thù của chính hắn đối với người cha đã không hề muốn hắn chào đời. Sau đó hắn quay về căn nhà tồi tàn của gia đình Gaunt, thực hiệm một chút pháp thuật phức tạp cấy vào đầu óc cậu hắn một trí nhớ giả tạo, đặt cây đũa phép của Morfin bên cạnh vị chủ nhân đang bất tỉnh, nhét vô túi hắn chiếc nhẫn cổ xưa mà Morfin đeo, rồi ra đi.”
“Và Morfin không bao giờ nhận ra gã đã không hề giết người à?”
“Không bao giờ,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng thầy nói đó, gã đã tự thú một cách đầy đủ và khoác lác.”
“Nhưng lúc nào trong đầu gã cũng có một ký ức thật mà!”
“Đúng vậy, phải làm rất nhiều phép Đọc tư tưởng lão luyện mới moi ra được ký ức thật của gã,” cụ Dumbledore nói, “và tại sao lại phải đào bới sâu hơn vào đầu óc Morfin một khi gã đã tự thú nhận phạm tội ác đó? Tuy nhiên, thầy đã có thể thực hiện một cuộc viếng thăm Morfin vào những tuần cuối cùng của đời gã, vào thời gian mà thầy cố gắng khám phá càng nhiều càng tốt về quá khứ Voldermort. Thầy đã thu được ký ức này một cách vô cùng khó khăn. Khi đã thấy được nội dung của nó, thầy đã cố gắng dùng nó để xin thả Morfin ra khỏi ngục Azkaban. Nhưng Morfin đã chết trước khi Bộ có được quyết định.”
“Nhưng làm sao mà Bộ lại không nhận ra được chính Voldermort đã đổ vấy tất cả chuyện đó cho Morfin?” Harry tức giận hỏi. “Lúc đó hắn chưa tới tuổi trưởng thành, đúng không ạ? Con tưởng Bộ có thể phát hiện được Pháp thuật Vị thành niên chứ!”
“Con hoàn toàn đúng – họ có thể phát hiện Pháp thuật Vị thành niên, nhưng không thể tìm ra thủ phạm: con có nhớ con đã từng bị Bộ khiển trách vì bùa Bay lượn, mà thực ra thì do...”
“...Dobby làm,” Harry làu bàu; điều bất công này vẫn còn làm nó nhức nhối. “Vậy nếu mình vị thành niên và thực hiện Pháp thuật bên trong nhà của một pháp sư hay phù thủy trưởng thành thì Bộ sẽ không biết sao?”
“Họ chắc chắn không thể phân biệt được ai thực hiện Pháp thuật đó,” cụ Dumbledore nói, hơi mỉm cười trước vẻ cực kỳ phẫn nộ trên mặt Harry. “Họ dựa vào các bậc cha mẹ pháp sư phù thủy để buộc con cái tuân thủ qui định trong phạm vi nhà mình.”
“Hừ, nhảm nhí,” Harry ngắt lời cụ Dumbledore. “Thử nhìn coi việc gì đang xảy ra ở đây, thử nhìn coi việc gì đã xảy ra cho Morfin!”
“Thầy đồng ý,” cụ Dumbledore nói. “Dù Morfin là người thế nào đi chăng nữa, gã cũng không đáng phải chết như đã chết, không đáng bị trừng phạt về tội sát nhân mà gã không hề phạm. Nhưng đã khuya rồi, mà ta muốn con xem cái ký ức kia trước khi thầy trò mình chia tay...”
Cụ Dumbledore lấy từ túi áo trong ra một chai thủy tinh tí hon khác và Harry làm thinh ngay tức thì, vì nhớ rằng cụ Dumbledore đã từng nói đó là ký ức quan trọng nhất mà cụ đã thu thập được. Harry nhận thấy cái khối bên trong chai tỏ ra khó rót vô cái Tưởng Ký, như thể nó hơi bị đặc sệt; ký ức mà cũng bị hư sao?
“Cái này sẽ không dài đâu,” cụ Dumbledore nói, khi rốt cuộc cũng trút cạn được chai ký ức. “Chúng ta sẽ quay trở lại căn phòng này trước khi con kịp nhận ra. Vậy ta hãy vào Tưởng Ký một lần nữa...”
Và Harry lại rơi xuyên qua bề mặt ánh bạc, lần này đáp xuống ngay trước mặt một người đàn ông mà nó nhận ra được ngay tức thì.
Đó là thầy Horace Slughorn với mái tóc dày bóng màu rơm khiến nó bối rối; trông có vẻ như thầy cho lợp một mái tóc trên đầu, mặc dù cũng đã xuất hiện một lõm hói to bằng đồngGalleon bóng lưỡng ngay trên đỉnh đầu. Bộ ria mép của thầy, không rậm như bộ ria thầy hiện có, màu vàng hoe. Thầy cũng chưa đến nỗi béo phục phịch như Thầy Slughorn mà Harry biết, mặc dù thầy cũng hơi bị căng. Hai bàn chân nhỏ của thầy đặt trên cái ghế nệm kê chân bọc nhung, thầy đang ngồi sâu trong cái ghế bành điều chỉnh được một cách thoải mái, một bàn tay thầy cầm một ly rượu nhỏ, tay kia mò tìm trong một hộp kẹo khóm dẻo.
Harry ngoái nhìn quanh khi cụ Dumbledore xuất hiện bên cạnh nó và thấy là hai thầy trò nó đang ở trong văn phòng Thầy Slughorn. Khoảng nửa tá nam sinh đang ngồi quanh Thầy Slughorn, trên những cái ghế nhỏ hơn và cứng hơn cái ghế thầy ngồi, và tất cả nam sinh đều khoảng mưởi lăm, mười sáu tuổi. Harry nhận ra Voldermort ngay tức thì. Hắn có gương mặt đẹp trai và thoải mái nhất trong đám nam sinh. Bàn tay phải của hắn đặt lơ đễnh trên chỗ gác tay của cái ghế hắn đang ngồi; Harry thót ruột lại khi nhận ra chiếc nhẫn đen-và-vàng-kim của Marvolo mà Voldermort đang đeo; vậy là lúc này hắn đã giết cha hắn rồi.
“Thưa thầy, có đúng là giáo sư Merrythought sắp về hưu không?” Hắn hỏi.
“Tom ơi, Tom à, nếu thầy biết thầy cũng không thể nói với con được,” Thầy Slughorn nói, vừa ngúc ngoắc một ngón tay bọc đường quở trách Riddle, mặc dù hiệu quả đó hơi bị triệt tiêu bằng một cái nháy mắt. “Thầy phải nói, thầy muốn biết con lấy thông tin đó từ đâu ra vậy, hả chàng trai, chàng hiểu biết nhiều hơn một nửa giáo ban đấy.”
Riddle mỉm cười; những nam sinh khác cười to và nhìn hắn đầy thán phục.
“Chắc là nhờ khả năng phi thường cảu con biết được những điều không nên biết và cả tài tâng bốc khéo léo những kẻ có máu mặt – nhân tiện, cám ơn con về món mứt khóm dẻo nhé, con tài lắm, đó là món thầy khoái nhất...”
Trong khi bọn nam sinh khúc khích cười, một điều gì đó rất kỳ quái bỗng xảy ra. Toàn bộ căn phòng bỗng nhiên tràn đầy sương mù trắng xóa, khiến cho Harry không thể thấy gì khác ngoài gương mặt cụ Dumbledore, người đang đứng bên cạnh nó. Sau đó giọng nói của Thầy Slughorn vang lên tè trong sương mù, to tiếng một cách khác thường, “Trò sẽ sai lầm, chàng trai, nhớ lấy lời ta đấy.”
Sương mù tan thình lình y như lúc tỏa ra vậy mà không ai nhắc nhở gì tới đó nữa, cũng không ai tỏ vẻ gì như vừa trải qua một chuyện hết sức lạ thường. Quá ngạc nhiên, Harry nhìn quanh khi một cái đồng hồ nho nhỏ bằng vàng đứng trên bàn làm việc của Thầy Slughorn điểm mười một tiếng.
“Mèn đét ơi, khuya dữ vậy rồi sao?” Thầy Slughorn nói. “Các con nên đi thôi, những chàng trai ạ, nếu không chúng ta sẽ bị rắc rối cho coi. Lestrange, thầy muốn con nộp bài luận văn ngày mai, nếu không thì cấm túc. Con cũng vậy, Avery à.”
Thầy Slughorn nhấc mình lên khỏi cái ghế bành và đem cái ly đã cạn rượu của thầy đến bàn làm việc, trong khi bọn nam sinh lần lượt ra về. Tuy nhiên Voldermort ở lại sau cũng. Harry có thể thấy hắn cà rịch cà tang có chủ ý, vì muốn là người cuối cùng còn lại trong phòng với Thầy Slughorn.
“Nhanh lên, Tom,” Thầy Slughorn nói, khi quay lại thấy Voldermort vẫn còn ở đó. “Con đâu có muốn bị phạt vì không ở trên giường trong giờ ngủ hả và con lại là một huynh trưởng...”
“Thưa thầy, con muốn hỏi thầy một điều.”
“Vậy thì hỏi ngay đi, con trai ta, hỏi ngay...”
“Thưa thầy, con thắc mắc thầy có thể biết gì về... về Trường sinh linh giá?”
Và một lần nữa chuyện đó lại xảy ra: sương mù dày đặc tỏa kín căn phòng đến nỗi Harry không thể nhìn thấy cả Thầy Slughorn lẫn Voldermort; chỉ có mỗi cụ Dumbledore bên cạnh nó đang mỉm cười bình thản. Sau đó giọng nói của Thầy Slughorn lại vang lên oang oang, y như lần trước.
“Ta không biết gì về Trường sinh linh giá, mà nếu có biết thì ta cũng chẳng nói cho trò biết đâu! Bây giờ ra khỏi nới đây ngay và đừng để ta nghe trò nhắc đến chúng một lần nữa đấy!”
“Thôi, có nhiêu đó thôi,” cụ Dumbledore điềm nhiên nói bên cạnh Harry. “Tới lúc đi rồi.”
Và hai chân Harry rời khỏi sàn phòng để rơi trở lại, trong vài giây sau, trên tấm thảm phía trước bàn làm việc của cụ Dumbledore.
“Tất cả chỉ nhiêu đó thôi sao?” Harry ngơ ngác nói.
Cụ Dumbledore đã nói rằng đây là ký ức quan trọng hơn hết thảy, nhưng nó không thể hiểu điều gì khiến ký ức đó có ý nghĩa đến thế. Đành rằng phải thừa nhận là trận sương mù và việc dường như chẳng ai để ý đến trận sương mù đó là rất ư quái đản, còn thì có vẻ như chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chi tiết Voldermort đã đặt một câu hỏi mà chẳng được trả lời.
“Như con đã để ý thấy,” cụ Dumbledore nói, ngồi trở xuống sau bàn làm việc, “rằng ký ức đó đã bị nhiễu.”
“Nhiễu?” Harry lặp lại. Nó cũng đã ngồi xuống.
“Chắc chắn,” cụ Dumbledore nói. “Giáo sư Slughorn đã gây nhiễu chính ký ức của mình.”
“Nhưng tại sao thầy ấy lại làm điều đó?”
“Bởi vì, ta nghĩ, thầy ấy xấu hổ về những gì thầy ấy nhớ lại,” cụ Dumbledore nói. “Thầy ấy đã cố gắng tái tạo lại ký ức để tự thể hiện mình trong ánh sáng tốt hơn, tẩy xóa đi những phần thầy ấy không muốn cho thầy xem. Như con để ý thấy, việc đó được làm rất sơ sài và làm như thế càng hay, bởi vì nó cho thấy phần ký ức thật vẫn còn đó, ẩn bên dưới của sự sửa đổi.
Vậy là, Harry à, lần đầu tiên thầy giao bài tập về nhà cho con làm đây. Việc của con là thuyết phục giáo sư Slughorn bộc lộ ký ức thật, cái ký ức đó chắc chắn sẽ là mẩu thông tin quan trọng nhất của chúng ta.”
Harry chăm chú nhìn cụ Dumbledore.
“Thưa thầy, nhưng chắc chắn là,” nó nói, cố gắng giữ cho giọng nói hết sức kính trọng, “thầy không cần đến con – Thầy có thể dùng phép Đọc tư tưởng... hay phép Ép nói thật...”
“Giáo sư Slughorn là một pháp sư tài giởi cực kỳ, thầy ấy dư sức đối phó với cả hai,” cụ Dumbledore nói. “Thầy ấy thực hiện phép Bế quan hoàn hảo hơn gã Morfin Gaunt khốn khổ nọ và thầy sẽ ngạc nhiên nếu thầy ấy không kè kè bên mình một liều thuốc giải cho phép Ép nói thật kể từ khi thầy buộc thầy ấy đưa cho thầy cái ký ức bôi bác này.
Không, thầy nghĩ là tìm cách nạy sự thật từ Thầy Slughorn bằng sức mạnh là một cố gắng ngu ngốc và có thể đưa tới nhiều nguy hại hơn là tốt đẹp; Thầy không muốn thầy ấy bỏ trường Hogwarts mà đi. Tuy nhiên, thầy ấy cũng có nhược điểm như tất cả chúng ta và thầy tin con chính là người duy nhất có thể thâm nhập vào tuyến phòng thủ của thầy ấy. Việc lấy được ký ức thật của Thầy Slughorn là điều quan trọng nhất, Harry à... Quan trọng như thế nào thì chúng ta sẽ chỉ biết được khi chúng ta nhìn thấy cái ký ức thật. Vậy chúc con may mắn nhé... và ngủ ngon nhé.”
Hơi sửng sốt vì bị đuổi ra đột ngột, Harry vội vã đứng lên. “Thưa thầy, chúc thầy ngủ ngon.”
Khi đóng cánh cửa văn phòng sau lưng, nó còn kịp nghe rõ ràng cụ Phineas Nigellus nói, “ta có thể hiểu tại sao thằng nhỏ đó có thể làm khá hơn ông, Dumbledore ạ.”
“Tôi cũng chẳng trông mong gì cụ làm được, cụ Phineas à,” cụ Dumbledore nói và con phượng hoàng Fawkes ngân nga một âm thanh réo rắt khe khẽ nữa.