Chương 04: Năm nay bao nhiêu tuổi để bái sư?
Hàn Nhạn Thanh cầm một cuốn trúc giản[1]ngồi tựa vào cửa sổ của gian nhà cắt thuốc. Ánh mặt trời ấm áp buổi xế chiều xuyên qua song cửa chiếu lên người nàng khiến nàng như một cô gái xinh đẹp huyền ảo bước ra từ bức họa cổ thời Tây Hán.
[1] Trúc giản: Người xưa thường viết chữ lên những thẻ tre rồi kết chúng lại thàng sách, gọi là “trúc giản.”
Từ lúc hôn mê hôm đó, dường như nàng đã trải qua một giấc mộng thật dài. Trong mộng, nàng theo A Kiều trải nghiệm lại một lần tất cả mọi chuyện cùng Lưu Triệt từ thuở còn niên thiếu. Có một điều rất lạ không thể hiểu nổi là nàng lại có chung mọi cảm giác vui buồn sướng khổ giống như A Kiều, hệt như trước giờ hai người chỉ là một, chỉ vì một nguyên nhân gì đó từ thuở Hồng Hoang mới bị tách ra. Nếu có ai nói chuyện như vậy trước khi nàng tới Hán triều thì nhất định nàng sẽ cười bảo hắn điên. Nhưng cho đến nửa tháng sau, nàng vẫn không thể nào phân định được, thực ra mình vừa trải qua một giấc mộng mà trong đó bản thân biến thành Trần A Kiều, hay là nguyên bản nàng vốn đã là Trần A Kiều từ trước, còn Hàn Nhạn Thanh kia mới chính là cảnh mộng, giống như giấc mộng Trang Chu hóa bướm[2] trong truyền thuyết?
[2] Trang Chu hóa bướm là một điển tích quen thuộc của văn học cổ Trung Quốc. Chuyện kể rằng có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu.
“Hàn phu nhân!”, Thân đại nương đẩy cửa bưng thuốc vào, “Đây là thuốc dưỡng thai Tiêu tiên sinh kê cho phu nhân.” Mấy ngày nay, bà không yên lòng về thầy trò Tiêu Phương nên thường xuyên ghé thăm, nhân tiện chăm sóc cho Nhạn Thanh còn yếu ớt.
Nàng lập tức chau mày, tưởng tượng ra mùi thuốc đắng ngắt, nhăn nhó, “Không uống có được không?”
“Như vậy sao được?” Thân đại nương bật cười khuyên nhủ, “Tiên sinh nói phu nhân mang thai thời kỳ đầu lại bị thương mệt nhọc, cơ thể người mẹ bị hao tổn, nếu không cẩn thận điều dưỡng thì rất có thể không giữ được thai.” Bà quay đi, lau lệ rơi bên khóe mắt, ánh mắt tràn ngập đau thương, “Phu nhân có biết rằng ta từng có con gái cũng đi lấy chồng vào trạc tuổi như phu nhân nhưng vì khó sinh mà mẹ con đều mất.”
“Đại nương”, Hàn Nhạn Thanh cũng động lòng thương tâm, dịu dàng khuyên nhủ, “Con gái đại nương ở trên trời cũng không muốn thấy đại nương đau khổ vì cô ấy như vậy. Tôi uống là được rồi chứ gì.” Nàng bưng chén thuốc lên một hơi uống hết, thấy trong mắt Thân đại nương thoáng lộ nét cười.
“Đứa bé ngốc!” Bà vuốt ve sửa lại lọn tóc đen rối bời bên mai Nhạn Thanh, “Mặc dù cô không nói ra nhưng đại nương quan sát qua lời nói khí chất cũng biết cô không là con nhà bình thường. Thật ra thì, người sống trên đời có thể giúp được người khác chút gì đó cũng là có phúc.”
Hàn Nhạn Thanh nghe giọng nói chân thành âu yếm của Thân đại nương thì đôi mắt đỏ hoe, bật khóc nức nở, “Đại nương!”, rồi sà vào trong lòng bà. Mấy ngày nay nàng lưu lạc tha hương, trong lòng mơ hồ hiểu rằng chỉ sợ cả đời này sẽ không trở về được nữa, bàng hoàng không biết nương tựa vào đâu. Không có Đan Tạp và sư huynh ở bên, tương lai mờ mịt nên càng nảy sinh cảm giác muốn dựa dẫm vào Thân đại nương như ỷ lại vào một người thân.
Thân đại nương mỉm cười, vỗ vỗ vào hai má của nàng, từ tốn bảo, “Hàn phu nhân, nếu cô không chê thì ta gọi cô là Nhạn Nhi nhé.”
Nàng ngẩn người, vội cúi đầu giấu nước mắt. Thân đại nương vội hỏi, “Sao vậy?”
“Không sao!” Nàng chậm rãi nói, giọng thương cảm, “Mẫu thân con… cũng gọi con như vậy.” Nàng nũng nịu ngả vào lòng Thân đại nương, “Đại nương, con nhận đại nương làm nghĩa mẫu nhé.”
“Được mà.” Thân đại nương vui mừng đáp, “Chỉ e là thiệt thòi cho cô.”
“Nghĩa mẫu.” Hàn Nhạn Thanh nhớ tới mẫu thân mất sớm của mình, nước mắt giàn giụa. Nàng úp mặt vào người Thân đại nương, thầm hứa với lòng, lần này nhất định phải bảo vệ mẫu thân của mình.
Tiễn nghĩa mẫu đi, nàng lặng lẽ xoay người bước vào, cảm thấy ánh mặt trời thật ấm áp. Dưới tán lá sum suê của cây nhãn cổ kính nhất trong đình viện thoáng thấy bóng của Lộng Triều mặc áo màu xanh ngọc đi ra, Hàn Nhạn Thanh cười khẽ, dần dần cũng không thấy lạ lẫm. Tiêu Phương và Lộng Triều sống nương tựa lẫn nhau như vậy cũng là một điều may mắn. Nàng chợt nhớ tới Tạp Tạp. Hiện giờ nàng sống trong một gian nhà tranh trên ngọn núi không biết tên, bên ngoài đế đô Trường An của nước Tây Hán cổ, chẳng biết đến thời gian. Còn Tạp Tạp thì sao? Tạp Tạp ở nơi đâu, có phải cũng xuyên không[3] đến một thời cổ đại khác như mình? Có ai ở bên cạnh cậu hay không? Còn có thể mỉm cười vô tư lự như trước nữa hay không? Có biết tớ rất nhớ, rất nhớ cậu không?
[3] Xuyên không: Ý chỉ quá trình nhân vật vượt thời gian, không gian tới một địa điểm, một thời đại khác. Có thể xảy ra hiện tượng xuyên không linh hồn. (Linh hồn nhập vào một nhân vật khác trong thời đại khác), xuyên không thân thể (Cả thân thể và linh hồn cùng tới một thời đại khác). Trong truyện này các nhân vật đã xuyên không từ thời hiện đại trở về quá khứ.
Mấy ngày nay, nàng dần dần học cách nhận biết chữ viết trong phương thuốc trên cuốn trúc giản của Tiêu Phương. Thời kỳ đầu Tây Hán, một trong bốn phát minh nổi tiếng của Trung Quốc là giấy mực còn chưa xuất hiện, các nhà văn vẫn quen khắc văn thơ của mình lên thẻ trúc. Một cuốn trúc giản nặng cả cân, rất cồng kềnh, hơn nữa còn sử dụng chữ Tiểu Triện rồng bay phượng múa từ đời Tần lưu truyền lại. Nàng phải cố hết sức mà xem, cuối cùng quyết định học lại từ đầu, tránh để một nữ thạc sĩ biến thành kẻ nửa mù chữ làm mất mặt nền giáo dục hiện đại. Cũng may khi còn bé, mẹ từng ép nàng học thư pháp một thời gian ngắn, mặc dù kiên trì không được bao lâu nhưng nhìn chung cũng biết thế nào là đề bút[4]. Đương nhiên, cũng có thể hình dung ra được Trần A Kiều và Tiêu Phương khó khăn thế nào khi muốn đọc chữ viết của nàng. Thậm chí một lần Lộng Triều tới nhìn một hồi, chỉ buông thõng một từ “Xấu!”, rồi chạy biến khiến nàng tức tối thề nhất định phải luyện viết chữ thật đẹp mới thôi.
[4] Đề bút: Chỉ việc viết lách.
Cũng trong thời gian này, nàng quan sát một cách khách quan, thấy Tiêu Phương làm việc đúng mực khoan dung, cao thâm khó lường, tất không phải là nhân vật đơn giản. Từ trước tới giờ nàng vẫn hứng thú đối với Trung y, nhưng môn học này vào thời hiện đại đã bị suy thoái nhiều, hôm nay gặp Tiêu Phương nên tất nhiên hy vọng có thể học được một chút mới không tiếc nuối.
Hàn Nhạn Thanh vào thư phòng của Tiêu Phương, huơ tay trước mặt hắn gọi, “Tiêu Phương!”
Tiêu Phương bất đắc dĩ ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách hỏi lại, “Đại tiểu thư có chuyện gì?” Mấy ngày qua, coi như hắn cũng biết sợ Hàn Nhạn Thanh, chưa từng gặp phải một cô gái nào “hoạt bát”, từ mà hắn thầm lựa chọn trong lòng, như vậy.
“Tiêu Phương tiên sinh, tiên sinh bảo tôi bây giờ bao nhiêu tuổi?”
Hắn cau mày, “Bản thân cô cũng không biết mình bao nhiêu tuổi ư?”
“Tôi…” Hàn Nhạn Thanh định nói lại thôi, câu đã lên đến miệng lại nuốt xuống, suy nghĩ một chút rồi gợi chuyện, “Nghe nói Trung y có thể đoán tuổi người từ xương cốt, hình thể và da dẻ với sai lệch rất ít. Có phải đúng vậy hay không?”
“Ừm.” Hắn gật đầu, cầm lấy một cuốn trúc giản khác, “Cô thật sự biết không ít.”
“Tôi cũng nghiên cứu một chút về y thuật.” Nàng cười khanh khách hỏi tiếp, “Tiên sinh bảo tôi hiện giờ bao nhiêu tuồi?”
Tiêu Phương chịu hết nổi, đành phải nhìn kỹ nàng một chút rồi đáp, “Hai mươi ba, hai mươi bốn gì đó.”
Hàn Nhạn Thanh chợt thấy lòng nguội lạnh, khe khẽ hỏi, “Tiên sinh chắc chắn chứ?”
“Tất nhiên. Nhưng sao?”
Nàng cúi đầu nhìn xuống mũi giày thêu của mình, một lúc lâu sau Tiêu Phương mới nghe thấy nàng nói một câu thật nhỏ, “Không có chuyện gì.” Hắn muốn hỏi thêm nhưng Hàn Nhạn Thanh đã xoay người bỏ đi.
Bây giờ là năm Nguyên Quang thứ năm, Hàn Nhạn Thanh nhẩm tính trong lòng, Trần A Kiều năm nay hai mươi chín tuổi. Hàn Nhạn Thanh trước khi xuyên không mới vừa tròn hai mươi, nhưng theo suy đoán của thầy thuốc Tiêu Phương thì nàng đang cùng Trần A Kiều đồng sở hữu một thân thể ước chừng hai mươi ba tuổi.
Nàng chưa bao giờ đọc được trong tiểu thuyết tình huống xuyên không phức tạp khó giải thích như thế. Đây rốt cuộc là họa hay là phúc. Hàn Nhạn Thanh chẳng thể nào hiểu nổi.
Trong núi rừng chẳng có năm tháng, thời gian một tháng chớp mắt đã len lén vụt qua ngón tay.
Một ngày kia, Hàn Nhạn Thanh đang luyện chữ trong gian nhà cắt thuốc chợt nghe thấy tiếng cười lạnh lùng chói tai từ đằng xa, rất nhanh đã đến trước cửa. Nàng dừng lại, chau mày nhìn ra ngoài thì thấy một người đàn ông mặc y phục màu hồng phấn đứng trước cửa gằn giọng, “Tiêu Dung Nam, Sở Phi Hiên lại đến tìm ngươi, ra đây đi!” Tuổi người này chưa cao, thân hình gầy gò, mắt tựa hoa đào lộ ra vẻ âm trầm tà mị, nét cười như có như không, trong giây lát liếc qua nhà thuốc thì dừng lại ở chỗ Hàn Nhạn Thanh. Hàn Nhạn Thanh giật mình rét lạnh, cảm thấy ánh mắt của người này tựa như băng tuyết.
“Lại là ngươi”, Lộng Triều từ tán nhãn nhô đầu ra, cau mày, “Phiền phức!”
Sở Phi Hiên cười lạnh không lên tiếng, vung song chưởng bổ về phía cây nhãn. Lộng Triều phất tay áo màu xanh ngọc, tức thì từ tán lá bay vọt ra, mau lẹ đá xuống đỉnh đầu Sở Phi Hiên, trong chớp mắt đã vang lên thanh âm hai bên giao thủ. Hai bóng người cuốn lấy nhau, động tác giao đấu nhanh như sấm giăng chớp giật. Bỗng nghe Lộng Triều “hự” khẽ một tiếng, loạng choạng lùi lại hai, ba bước. Người kia dừng tay, nhếch miệng cười vẻ giễu cợt, lại trầm giọng quát, “Tiêu Dung Nam, ra đi!”, nói xong giơ bàn tay lên làm bộ dọa dẫm, “Nếu không ra, ta sẽ làm thịt tiểu tử này.”
Lộng Triều ngồi dưới đất, tay trái che ngực, máu tươi chảy dọc theo kẽ ngón tay nhỏ xuống từng giọt, hiển nhiên đã bị thương nhưng trong mắt vẫn đầy ngạo khí, gắng gượng định đứng lên. Bỗng nghe thấy từ gian nhà thuốc bên trái vang lên tiếng than nhẹ, một bóng áo trắng chậm rãi đi ra, phất ống tay áo rộng một cái liền hóa giải thế chưởng rồi thở dài, “Sở Phi Hiên, cuối cùng ngươi vẫn cứ tìm ra.”
“Tiêu Phương!”, Sở Phi Hiên giọng đầy oán trách, “Ngươi vô tình vô nghĩa, khoanh tay không cứu tỷ tỷ ta, dù có trốn tới chân trời góc biển thì ta cũng không bỏ qua cho ngươi. Chịu chết đi.” Song chưởng giao thoa, bóng chưởng ngợp trời, cho thấy lúc vừa rồi động thủ với Lộng Triều, hắn đã không dùng toàn lực. Tiêu Phương từ trong bóng chưởng rợp trời đó bước ra, rất thong dong, sắc mặt ngưng trọng, rút từ bên hông ra một thanh tế kiếm[5] mỏng manh trắng như ngọc, búng tay một cái rồi dùng một chiêu cực nhanh đánh về phía Sở Phi Hiên.
[5] Tế kiếm: Loại kiếm dài, hẹp và mảnh.
Dưới thế công sắc bén của Tiêu Phương, Sở Phi Hiên liên tiếp thối lui nhưng chưởng thế không hề rối loạn, thỉnh thoảng lại liều mạng đánh ra một chiêu lưỡng bại câu thương[6], dù không mong lấy được mạng đối phương nhưng cũng có tác dụng bức lui. Hai bên giằng co suốt nửa canh giờ, Sở Phi Hiên dần dần không nhịn được, hét lên một tiếng rồi tay trái lén lút búng ra thứ gì đó. Trong bóng chưởng đột nhiên vang lên một tiếng kêu nhẹ, không biết là của ai. Thân ảnh màu trắng Tiêu Phương như nước luồn qua bóng chưởng, một kiếm đâm vào vai Sở Phi Hiên. Lộng Triều nhìn rõ ràng một kiếm này, mặt lộ vẻ vui mừng.
[6] Lưỡng bại câu thương: Ý của câu thành ngữ này là chỉ trong cuộc giành giật, cả hai bên đều bị tổn thương, chẳng bên nào được lợi cả.
Nhất thời, hai người đều đứng yên, sau đó Tiêu Phương rút kiếm ra, không nhìn Sở Phi Hiên, thản nhiên nói, “Ngươi đi đi!” Sở Phi Hiên nghi ngờ, nhìn hắn một hồi lâu rồi hậm hực, “Ngươi không giết ta nhưng sau này ta vẫn sẽ tới giết ngươi.” Hắn nói xong không đợi Tiêu Phương trả lời, quay đầu một mạch bỏ đi.
“Tiêu ca ca!” Lộng Triều mếu máo, từ trước tới giờ hắn vẫn học theo tính cách can trường của Tiêu Phương nhưng hiện giờ ngực trái bị Sở Phi Hiên đánh một chưởng, thực sự rất muốn dựa vào vị ca ca này. Vậy mà Hàn Nhạn Thanh lại ngăn cản hắn, hắn bực mình gắt lên với nàng, “Làm cái gì vậy?”
“Ngươi không thấy tiên sinh cũng bị thương sao?” Hàn Nhạn Thanh vội la lên, đỡ lấy Tiêu Phương. Tiêu Phương đang đứng vững vàng, đột nhiên cảm giác được có người đỡ thì nhũn ra, suýt nữa ngã nhào vào Hàn Nhạn Thanh, mặt mày tái nhợt. Hàn Nhạn Thanh cảm giác thân thể hắn lạnh toát thì càng khẩn trương, quát lên với Lộng Triều, “Còn không qua đây dìu!” Lộng Triều lúc này mới như tỉnh cơn mê, luống cuống đỡ lấy, lẩm bẩm, “Tiêu ca ca!”, trên mặt vẫn hiện rõ vẻ không thể tin.
“Tiêu Phương?”, Hàn Nhạn Thanh lay khẽ, “Tiên sinh nghe tôi nói không?” Nàng trông thấy Tiêu Phương khẽ gật đầu thì mới cảm thấy nhẹ nhõm một chút.
“Tiêu ca ca lạnh quá”, Lộng Triều cuống quýt, định đặt Tiêu Phương xuống, “Để ta đi tìm chậu than cho Tiêu ca ca.”
“Quay lại!”, Hàn Nhạn Thanh gọi giật giọng. Nàng trông thấy cặp mắt đen nhánh của Lộng Triều thoáng hiện vẻ sợ hãi thì lại mềm lòng, “Tiêu ca ca của ngươi không phải lạnh bình thường. Tiêu Phương, rốt cuộc tiên sinh đã xảy ra chuyện gì?”
Tiêu Phương thở ra một hơi, cười yếu ớt, “Vô dụng, nếu đã trúng ‘Băng tằm cổ’[7], trong vòng một canh giờ mà không dẫn xuất được con tằm độc đã nhập vào cơ thể ra ngoài thì khó có thể cứu chữa.”
[7] Băng tằm cổ: Độc tằm băng.
Cổ độc? Hàn Nhạn Thanh khẽ cau mày, bất giác ghê tởm vì nhớ lại nguyên nhân người phụ nữ mà linh hồn của mình xuyên không vào bị trục xuất, đột nhiên nhớ ra rằng bây giờ không phải là lúc để so đo liền vội hỏi, “Làm thế nào để dẫn xuất con tằm độc đáng ghét kia?”
“Phải có người luyện cùng môn nội công với người bị trúng độc giúp ép tằm độc đến huyệt Quan Nguyên ở cổ tay, sau đó cần có người dùng dao cắt mạch máu, bắt lấy tằm độc đúng vào khoảnh khắc nó thoát ra ngoài cơ thể.” Tiêu Phương bình thản, hàn khí càng lúc càng phát mạnh, phủ lên trên mặt hắn một tầng sương tuyết mỏng. Lộng Triều ôm lấy hắn, vành mắt đã đỏ hoe. Hắn cười một tiếng trấn an rồi nhăn mặt, “Lộng Triều miễn cưỡng cũng chỉ có thể giúp ta ép độc, nhưng gần đây cũng không có đại phu nào biết dùng dao, huống chi tìm mạch bắt tằm độc cần ra dao tuyệt đối bình tĩnh chính xác. Nếu người trúng cổ độc không phải là ta thì có lẽ ta có thể làm được, cũng đã hết hơn nửa canh giờ rồi, chắc không còn kịp nữa.”
“Ai nói không kịp nữa?” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, liếc nhìn Lộng Triều đang vừa kỳ vọng vừa pha chút vẻ không dám tin, “Tôi sẽ ra tay.”
“Tiên sinh không cần nhìn tôi như vậy… Tôi biết dùng dao mà.” Hàn Nhạn Thanh thấy Tiêu Phương đang nhìn mình với ánh mắt rõ ràng cho là mình hàm hồ, thẹn quá hóa giận, “Dù sao thì tiên sinh cũng sẽ chết, coi như là còn nước còn tát đi. Dao nhỏ để ở đâu?”
Hàn Nhạn Thanh đỡ Tiêu Phương vào trong gian nhà cỏ, quay đầu nhìn lại thấy trước ngực Lộng Triều in dấu chưởng màu đỏ sậm thì thương xót, “Cẩn thận một chút.”
Lộng Triều gật đầu, ngồi xuống phía sau, áp hai lòng bàn tay lên lưng Tiêu Phương. Hàn Nhạn Thanh cúi người chăm chú nhìn thì thấy quả thật là vùng da thịt gần vết thương của hắn cứ rung động tựa như có vật gì đó đang bơi trong máu, chậm rãi di chuyển theo mạch về huyệt Quan Nguyên nơi cổ tay trái. Hàn Nhạn Thanh hít sâu một hơi, từ từ cầm dao phẫu thuật lên, tập trung tinh thần chăm chú nhìn vào, đúng lúc tằm độc bơi vào huyệt Nguyên Quan thì bình tĩnh, không một chút run tay đưa dao cắt chính xác trúng vào mạch máu. Máu tươi phun vọt ra, lẫn trong đó có một con tằm độc cực nhỏ. Nó chỉ vừa kịp uốn lượn trên không, chưa kịp trở lại mạch máu đã bị Hàn Nhạn Thanh dùng tay trái chụp được.
“Xong rồi!” Hàn Nhạn Than bình thản ném con tằm độc xuống đất gí cho chết đi. Nàng rửa tay thật kỹ rồi quay đầu nhìn lại thì thấy Tiêu Phương và Lộng Triều đã bắt đầu thu công, lại nghe tiếng Tiêu Phương gắng gượng, “Chắc được rồi. Đa tạ ơn cứu mạng của phu nhân.”
“Không cần khách sáo”, Hàn Nhạn Thanh cười khả ái, “Trước kia tiên sinh cứu Nhạn Thanh nên bây giờ Nhạn Thanh mới có cơ hội cứu tiên sinh. Xét ra thì cũng là tiên sinh tự tích phúc cho mình.”
“Tích phúc?” Tiêu Phương cười tự giễu, thoáng vẻ đau đớn, “Nếu thật là tích phúc thì tại sao lại không thể cứu được người thân của mình chứ?”
Nét mặt của hắn có vẻ hơi khác lạ khiến Hàn Nhạn Thanh không nén được tò mò, “Sở Phi Hiên vừa rồi là ai vậy?”
“Tiểu đệ của một cố nhân thôi.” Tiêu Phương nói lảng đi, “Ngày sau cô có gặp thì nên tránh xa ra.” Ánh mắt hắn trầm xuống, “Sở gia vốn là thế gia Vu cổ, đừng nên tùy tiện trêu chọc.”
“Tiên sinh đã nói như thế, Nhạn Thanh sẽ nhớ kỹ.” Nàng nghiêm túc đáp lời rồi bỗng nhiên quỳ xuống, trang trọng nói, “Nhạn Thanh thấy tiên sinh y kiếm song tuyệt nên rất khâm phục, muốn bái lạy làm môn đệ tiên sinh, mong tiên sinh toại nguyện cho.”
Tiêu Phương đương nhiên không ngờ nàng lại hành động như thế, ngẩn người một lúc mới trả lời, “Mặc dù phu nhân thiên tính thông minh nhưng Tiêu Phương phiêu bạt chân trời góc bể nên không thích hợp nhận nữ đệ tử. Hơn nữa…”, hắn đắn đo, “phu nhân đang mang thai, lưu lạc bên ngoài tất sẽ khiến phu quân của mình vô cùng lo lắng, phu nhân nên sớm trở về nhà thì hơn.”
“Phu quân?”, Hàn Nhạn Thanh cười nhạt, “Tiên sinh thấy tôi lưu lạc bên ngoài hơn một tháng rồi mà đã có ai đến tìm chưa? Nhạn Thanh đã vứt bỏ nhà chồng, cũng không có mặt mũi nào trở về nhà mẹ đẻ nữa. Khẩn cầu tiên sinh toại nguyện cho Nhạn Thanh.”
“Ồ.” Tiêu Phương khẽ thở dài một tiếng. Hôm đó nhìn thấy vết thương trên người Hàn Nhạn Thanh thì hắn cũng đã thoáng suy đoán được lai lịch thân phận của nàng, hôm nay nghe chính miệng nàng chứng thực thì không nén nổi lòng thương xót, chỉ là có chút khó xử. “Nói về tuổi tác thì Tiêu Phương cũng không lớn hơn phu nhân bao nhiêu, nếu có danh phận thầy trò thì e là xấu hổ.”
“Tiên sinh nói vậy sai rồi”, Hàn Nhạn Thanh phản bác, “Nhạn Thanh dù bất tài nhưng cũng biết tri thức có trước sau, nghề nghiệp có chuyên môn. Tiên sinh tài cao hơn người, vậy có thể làm thầy Nhạn Thanh, cần gì câu nệ tuổi tác?”
Tiêu Phương không biết trả lời ra sao, đành cười xòa, “Phu nhân đã nói như vậy thì coi như ta nghĩ quá xa rồi.”
Hàn Nhạn Thanh nhanh nhảu: “Sư phụ cũng như nghĩa mẫu, cứ gọi tôi là Nhạn Nhi đi.”
“Nhưng…”, Tiêu Phương lại ngần ngừ.
“Tiên sinh tính phải chuyển nhà, đúng không?” Hàn Nhạn Thanh cười vẻ thấu hiểu, trông thấy vẻ mặt kỳ quái của Lộng Triều thì càng đắc ý, gật đầu giải thích, “Tiên sinh và Sở Phi Hiên là cừu thù, vừa rồi Sở Phu Hiên đã dùng Băng tàm cổ ám toán tiên sinh nhưng không biết có thành công hay không, bản thân lại bị trọng thương nên không thể làm gì khác hơn là bỏ đi. Sau này hắn phát hiện thiếu một con trùng cổ thì sẽ biết rằng tiên sinh đã trúng chiêu, vì thế nên khi thương thế của hắn đỡ hơn một chút nhất định sẽ tìm tiên sinh báo thù. Vậy nên tiên sinh tính sẽ chuyển nhà để tránh họa có đúng không?”
Nàng quay đầu lại, nhìn sắc mặt bình thản của Tiêu Phương thì hiểu rằng mình đã đoán đúng, liền vọt tới hỏi, “Thân thủ tiên sinh được đánh giá thế nào ở trong giang hồ?”
Tiêu Phương cười xòa, “Không tệ.”
“Cái này…” Hàn Nhạn Thanh nhíu mày, không hiểu không tệ nghĩa là tốt xấu ở mức nào, bèn nhướng mày hỏi, “Có thể so được với Du hiệp[8] Quách Giải chứ?”
[8] Du hiệp: Hiệp sĩ, hiệp khách, là những người có võ công hành tẩu trong giang hồ.
“Giải ca ca?”, Lộng Triều bên cạnh sáng mắt lên.
Nàng cười rạng rỡ, “Mọi người biết hắn à?”
Tiêu Phương gật đầu, “Hắn là sư điệt[9] của ta.”
[9] Sư điệt: Cháu.
“Tìm đúng chỗ rồi”, Hàn Nhạn Thanh nghĩ thầm. Quách Giải là du hiệp nổi danh nhất vào thời kỳ đầu triều Hán. Trong Sử ký Tư Mã Chiêu có viết “Du hiệp dùng võ vi phạm lệnh cấm.” Cho đến trước khi Hán Vũ Đế hạ lệnh áp chế du hiệp, đã từng có một thời đại văn hóa du hiệp vô cùng rạng rỡ. Lý Bạch đã viết trong bài Hiệp khách hành:
“Mười bước giết xong kẻ
Trời đất chẳng dung tình
Việc xong thời rũ áo
Cần chi tiếng với danh.”
Hàn Nhạn Thanh nhanh chóng bình tĩnh lại, hỏi tiếp, “Nếu như Quách Giải so chiêu với tiên sinh, đại khái…?” Nàng hỏi vì biết tính cách đặc biệt của vị sư thúc Tiêu Phương này là không thích hơn thua, biết đâu công phu lại kém xa người sư điệt chuyên cần phấn đấu thì mình bái sư sẽ không đáng giá lắm.
Lộng Triều ngạo nghễ nói, “Ba mươi chiêu.”
“Hả?”
Tiêu Phương mỉm cười giải thích, “Ý của Lộng Triều là A Giải so với ta thì ước chừng có thể cầm cự được khoảng ba mươi chiêu.”
“À.” Hàn Nhạn Thanh gật gù, vui vẻ, “Quyết định vậy đi, tôi nhất định muốn bái tiên sinh là sư phụ.” Cho dù không học được công phu gì thì cũng có thể nói là sư muội của Du hiệp Quách Giải ấy chứ.
“Tiên sinh sống ở đây là quy ẩn lánh đời sao?”
“Đúng mà cũng không đúng.” Tiêu Phương thản nhiên, “Ngày trước ta có một bằng hữu chết thảm, ta chôn cất nàng ở dưới chân núi, tâm trí hoàn toàn nguội lạnh nên cất nhà trên núi để ở, nhân thể cũng lánh đời luôn.”
“Vẫn nghe nói rằng ‘tiểu ẩn’ là ẩn dật ở nơi hoang dã, ‘trung ẩn’ là ẩn dật tại thôn quê, ‘đại ẩn’ là ẩn ở trong triều đình…”, Hàn Nhạn Thanh suy nghĩ một chút, mỉm cười nói tiếp, “Cảnh giới của tiên sinh ước chừng ở giữa tiểu ẩn và trung ẩn rồi.”
“Tiểu ẩn là ẩn dật nơi hoang dã, trung ẩn là ẩn dật tại thôn quê, đại ẩn là ẩn ở trong triều đình”, Tiêu Phương lặp lại một lần, cảm thấy cũng trơn tru thuận miệng liền tán đồng, “Cô nói cũng có lý.”
“Nếu như tiên sinh cũng cảm thấy có lý thì chi bằng làm như vậy đi.” Ánh mắt Hàn Nhạn Thanh sáng lên, khuyên nhủ, “Chúng ta chuyển đến thôn dưới chân núi được không?” Tiêu Phương nhất định phải chuyển nhà, nàng muốn bái sư thì dĩ nhiên phải đi theo, nhưng thật sự lại không nỡ rời xa nghĩa mẫu vừa mới nhận, vì thế dốc lòng cổ vũ Tiêu Phương dọn tới ở cùng bà.
“Tiên sinh thử nghĩ xem, Sở Phi Hiên quay lại tìm mà không gặp thì nhất định nghĩ rằng người đã trốn đến tận chân trời góc biển, nhất định không ngờ được người lại ở trong một thôn trang nhỏ ngay dưới chân núi. Hơn nữa chúng ta dọn đến ở cùng với người trong thôn, sinh hoạt hàng ngày cũng thuận tiện hơn. Gần thôn nhất định sẽ có chợ, cũng coi như là trung ẩn, ẩn dật nơi thành thị rồi. Quan trọng nhất là…” Nàng dừng lại, thấy Tiêu Phương đang mỉm cười nghe mình nói thì càng tự tin, “thôn tương đối gần, chúng ta cũng đỡ mất công dọn nhà.”
“Như vậy được không?” Nàng nhìn Tiêu Phương, đầy mong đợi.
“Nói cũng có lý.” Tiêu Phương không nhịn được cười khẽ, ra vẻ trầm ngâm một chút rồi gật đầu, “Cũng được!”
Hàn Nhạn Thanh được như ý thì cảm thấy rất hài lòng.
Khách Triệu chít khăn xanh
Ngô Câu ánh lạnh băng
Ngựa trắng mang yên bạc
Tựa tia chớp lướt nhanh
Mười bước giết xong kẻ
Trời đất chẳng dung tình
Việc xong thời rũ áo
Cần chi tiếng với danh
Nhàn đến Tín Lăng uống
Cởi kiếm đặt ngang bàn
Chèo kéo mời Chu Hợi
Nâng chén thuốc Hầu Doanh
Ba say bèn chấp thuận
Ngũ Nhạc cũng coi khinh
Bực mình và nóng mắt
Chí khí vút trời xanh
Vung trùy vàng cứu Triệu
Kinh khiếp cả Hàm Đan
Nghìn thu hai tráng sĩ
Đại Lương sợ một vành
Chết còn thơm tiếng Hiệp
Chẳng hổ đời tinh anh
Ai muốn ghi thành sách
Bạc đầu bởi chép kinh.
(Hiệp khách hành – Lý Bạch)