Chương 4: Liên xô chế tạo - Hồi một: Rừng rậm than đá
Mọi người tìm thấy một phiến đá nhô khỏi mặt nước, liền lấy dầu hỏa táng thi thể giáo sư, theo như lời ông trăng trối trước lúc từ giã cõi đời. Cục diêm tiêu lập tức cháy phừng phừng trên mặt nước, ngọn lửa bốc mạnh đến nỗi mọi người không thể đứng cạnh, đành nhảy lên thuyền rời đi. Bốn người ngoái đầu nhìn ngọn lửa bùng cháy ngùn ngụt khuất dần vào bóng tối phía sau lưng, đều không cầm lòng được. Trái tim họ tựa hồ bị ai cắt cứa, cảm giác bần thần trống trải như vừa đánh mất vật gì vô cùng thiêng liêng. Anh đội trưởng Lưu Giang Hà và cô nhân viên trắc Thắng Hương Lân lặng lẽ rơi lệ, Hải ngọng miệng lầm bầm than ngắn thở dài: “Xong thật rồi! Ông bác già không còn nữa rồi!” Tư Mã Khôi nhiều năm chiến đấu ở vùng sơn cước Miếng Điện, anh rất quen thuộc với cảnh sinh ly tử biệt, nhưng giờ đây hoàn cảnh của anh cũng tương tự như ba người còn lại, quanh mình không có người thân, đối với bọn họ mà nói, giáo sư Nông vừa là thủ trưởng lãnh đao vừa giống như người cha trong gia đình. Hôm nay, anh vừa hay tin dữ: Tuyệt và Ngọc Phi Yến tử nạn ở nước ngoài, bây giờ lại chỉ biết trừng mắt nhìn giáo sư chết ngay trước mặt. Trong một ngày liên tiếp nhận hai ba cú sốc nặng, khiến anh cảm thấy khó lòng chịu đựng. Những ý niệm hỗn loạn thi nhau ùa về, khiến cơ thể và tinh thần anh rệu rã, kiệt quệ đến đỉnh điểm. Tư Mã Khôi nằm ủ rũ trên sàn quan tài, chìm sâu vào giấc mộng mị. Trong lúc thần trí mơ màng, anh phảng phất như đang được trở về cánh rừng rậm ẩm ướt tối đen ở Miến Điện. Hội anh Thiết Đông và Karaweik vẫn còn sống, không hiểu vì sao cả giáo sư Nông, Ngọc Phi Yến và đại đội trưởng Mục cũng nằm trong hàng ngũ. Trong khoảnh khắc tiếng súng tạm lắng giữa trận đấu, mọi người ngồi quây quần nghỉ ngơi, không ai mở miệng nói với ai câu gì, bốn phía xung quanh im ắng như tờ. Tư Mã Khôi cảm thấy lòng vô cùng thấp thỏm bất an, vừa thầm mong thời khắc này kéo dài càng lâu càng tốt, lại vừa nơm nớp lo sợ tiếng súng đùng đoàng nổi lên, báo hiệu bộ đội phải lập tức ra trận địa. Sau trận chiến ác liệt này, chẳng biêt ai con ai mất, bao nhiêu người trong số những gương mặt thân quen này sẽ sống sót trở về. Lúc này, hội anh Thiết Đông đột nhiên đứng dậy, cả đội vội vàng xuất phát. Tư Mã Khôi biết rõ chắc có nhiệm vụ cấp bách gì đây, anh đang định hành động theo đội ngũ, nhưng người nọ đứng kề sát người kia, nối thành hàng dài, không còn chỗ trống dành cho anh. Tư Mã Khôi sốt ruột, lôi tuột Karaweik ra khỏi hàng bảo: “Thằng ranh con nhà cậu, lông còn chưa mọc hết, theo đi quậy phá làm gì. Mau tránh ra nhường chỗ cho ông Khôi”. Nhưng anh Thiết Đông giữ tay Tư Mã Khôi lại bảo: “Lần này, cậu không đi được.” Năm đó, anh Thiết Đông từ Bắc Kinh trở về Hồ Nam, đã tuyên truyền tình thế trước mắt cho bọn đàn em trong quân khu, triệu tập mọi người tham gia phong trào Hồng vệ binh dành cho học sinh sinh viên. Tư Mã Khôi và Hải ngọng còn trèo lên tường ngồi nghe anh nói. Cả hai đều rất thán phục tài thao lược của anh, cam tâm theo gót anh đến cùng, sau này lại tình nguyện cùng anh tham gia chiến trận ở Bắc Miến, không ngờ bây giờ lại bị anh ngăn lại. Tư Mã Khôi không nhịn được tức giận, bèn lớn giọng: “Mấy năm nay vào sinh ra tử, có khi nào em chịu lùi sau lưng kẻ khác đâu? Sao anh không cho em đi?” Anh Thiết Đông lẳng lặng đáp: “Vì lần này, bọn anh phải đến một nơi rất xa. Nếu em đi sẽ không thể quay trở về được nữa.” Tư Mã Khôi nghe chưa rõ, đang định bám theo gạn hỏi thì đội ngũ đã bắt đầu lên đường. Anh muốn đưa tay kéo anh Thiết Đông lại, nhưng không hiểu sao người cứ mềm nhũn ra không còn chút sức lực, chỉ cảm thấy bầu không khí xung quanh càng lúc càng bí bách oi nồng, dường như ngột ngạt đến mức không thở nổi. Tư Mã Khôi nhìn từng gương mặt quen thuộc càng lúc càng đi xa dần, cảm giác lạc lõng thất vọng trong lòng cứ dâng trào không cưỡng lại được. Dòng nước mắt nóng hổi thi nhau lăn dài từ khóe mắt. Lúc này, ở cuối hàng có một cô gái bỗng đứng lại, quay người về phía Tư Mã Khôi, nắm chặt tay anh rồi ngẩng đầu lên nhìn, dường như đó là Ngọc Phi Yến. Anh cảm thấy có chút khó hiểu: “Ơ, thủ lĩnh! Tôi cứ tưởng Sơn lâm đội thiếu lão đoàn của cô đều là dân trộm mộ cơ mà? Sao lại nhập hội với quân Cộng sản Miến Điện? Mọi người rốt cục định đi đâu vậy?”, Ngọc Phi Yến đột nhiên tuôn chảy hai hàng nước mắt, cô nhỏ giọng thì thầm: “Hoàn cảnh của anh bây giờ rất nguy hiểm, Nấm mồ xanh… đang trốn ngay bên cạnh anh đấy!” Tư Mã Khôi vừa nghe thấy bốn chữ Nấm mồ xanh thì vụt tỉnh táo hẳn ra. Anh đột ngột ngồi bật dậy, nhìn thấy con thuyền vẫn trôi dập dềnh theo sông ngầm, độ dòng nhiệt lưu quyển manti tăng cao đã hình thành màn sương dày đặc tựa như chưng hơi, lúc đó Tư Mã Khôi mới biết mình vừa gặp ác mộng; còn người con gái đang nắm chặt tay anh không phải Ngọc Phi Yến, mà là Thắng Hương Lân. Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi ngủ mê mệt, miệng lại lẩm bẩm toàn những lời mê sảng, rồi khóc nấc lên như một đứa trẻ. Cô cảm thấy rất lo lắng, bèn lại gần nắm chặt tay Tư Mã Khôi, lay anh tỉnh dậy: “Anh mơ thấy gì thế? Sao lại khóc ra nông nỗi này?” Tư Mã Khôi như bị ai lấy mất hồn, anh ngồi thừ một lúc lâu không nói năng câu nào. Sau đó, anh tóm tắt kể lại giấc mơ cho mọi người nghe: “Không hiểu đó là giấc mơ gì mà sao nó lại có cảm giác chân thực đến thế? Hay là những người bạn đã chết muốn báo mộng cho chúng ta: Nấm mồ xanh đang ẩn nấp trong quan tài?” Thắng Hương Lân an ủi: “Phần lớn giấc mơ được sinh ra đều do sự cảm ứng của tâm niệm, có lẽ anh đau lòng quá, tinh thần bắt đầu rơi vào trạng thái căng thẳng cao độ, nên mới gặp ác mộng. Huống hồ, bây giờ chúng ta đang trôi trong dòng sông ngầm dưới lòng đất, không gian quan tài bé tí xíu thế này, làm gì đủ chỗ cho ai trốn được chứ?” Tư Mã Khôi lại không cho là vậy, anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu giải thích nguồn gốc của các con ác mộng: khi ngủ, con người thường rơi vào hai loại trạng thái, trạng thái thứ nhất là giấc ngủ đảo ngược, trạng thai thứ hai là giấc ngủ sóng chậm. Trạng thái thứ nhất tao thành do áp lực hoặc mệt mỏi quá độ. Giấc ngủ đảo ngược còn gọi là giấc ngủ nhanh hay giấc ngủ có động mắt, nó chiếm khoảng 25% thời gian ngủ, khi ấy tần số sóng điện não nhanh gần giống lúc thức, kèm theo đó là các cử động nhanh và thành từng đợt của nhãn cầu, trong tình trạng mắt nhắm chặt, nhãn cầu vẫn có thể vận động khoảng 60 -70 lần/giây. Ngoài ra trong giấc ngủ đảo ngược còn có hiện tượng mất trương lực cơ, giật cơ nhẹ ở ngón chân, ngón tay, nhịp thở và nhịp tim không đều, những giấc mơ chủ yếu xảy ra trong trạng thái ngủ này. Lúc đó các tín hiệu rối loạn trong não sẽ đan cài vào nhau, thông qua tiềm thức nảy sinh tự kỷ ám thị; ví dụ như có một số nhà nghệ thuật đột nhiên tìm được cảm hứng qua giấc mơ, cũng có một số nhà trinh thám phát hiện ra manh mối quan trọng của vụ án trong giấc ngủ. Đây đều là sự phản ánh được nảy sinh ngẫu nhiên từ tầng sâu của tư duy, chỉ có điều phần lớn giấc mơ đều không trực quan, khiến người ta khó lòng giải thích ý nghĩa thực sự của nó, bởi vậy thời cổ những thuyết giải mộng hay điềm dự báo đều hình thành dựa trên nguyên lý cơ bản này, có lẽ những thuyết luận này chưa hẳn là hoàn toàn hư cấu. Tư Mã Khôi cũng không đi sâu nghiên cứu bộ môn khoa học ấy, anh chỉ dự cảm cơn ác mộng chính là lời cảnh báo: Nấm mồ xanh hiện đang nằm mai phục trong quan tài. Hải ngọng cũng biết Nấm mồ xanh thâm độc xảo quyệt anh không dám lơ là, vội cầm súng trường rà soát từng góc chết trong quan tài, rồi bảo Thắng Hương Lân và Lưu Giang Hà: “Các cậu biết rồi đấy, tên cầm đầu Nấm mồ xanh giống như u hồn. Trước đây, không gian trong khoang máy bay tiêm kích vận tải Anh còn khép kín hơn cả cỗ quan tài rách này, thế mà hắn vẫn trốn được ngay trước mắt bọn tôi, không ai tóm cổ nổi hắn.” Đội trưởng Lưu Giang Hà nhắc nhở Hải ngọng: “Liệu tên gián điệp có trốn dưới nước không anh?”, Hải ngọng gật đầu tán thành: “Có lý đấy! Gián điệp mà lại, làm gì hắn lại không biết mấy chiêu chó bới hố đó?”. Hai người bèn soi đèn quặng xuống mặt nước, nhưng chỉ thấy dòng nước ngầm cuồn cuộn hung dữ, vô số cá chết phơi bụng trắng hếu nằm ngửa trên mặt nước, thì bất giác giật oảy mình: “Địa nhiệt cao quá, bầy cá bơi đến đoạn này không chịu nổi nhiệt dẫn dến tình trạng chết hàng loạt, xem ra không có chuyện người trốn dưới nước được”. Mọi người lại lo lắng nếu tiếp tục lái thuyền xuống sâu hơn, dòng địa nhiệt sẽ càng lúc càng cao, nên tuy quan tài bằng chất gỗ rắn chắc, nhưng người ngồi trên thuyền có khác gì ngồi trong nồi hơi, không khéo bị hấp chín cả cũng nên. Thắng Hương Lân thấy vậy bảo Tư Mã Khôi: “Nếu Nấm mồ xanh trốn trong quan tài, hắn chỉ cần đục thủng ván là cả bọn chúng ta chết chìm dưới sông ngay, nhưng suốt dọc đường không hề xuất hiện động tĩnh gì, có lẽ anh quá đa nghi đấy thôi. Bây giờ biên độ gia tăng của dòng nhiệt lưu trong quyển manti tiến triển quá nhanh, chúng ta cần ứng phó với tình hình này trước đã”. Tư Mã Khôi nói: “Tôi dự đoán bây giờ kẻ mai phục bên cạnh chúng ta có lẽ không phải tên cầm đầu, mà là gã đặc vụ Điền Khắc Cường. Khi ấy, tôi vẫn chưa kịp kiểm tra kĩ cái xác bị lột da; đã không thể xác định thân phận của gã, thì cũng không thể chủ quan loại trừ bất kỳ nhân tố bất ngờ nào. Bây giờ gã đặc vụ đó liên tục thất thủ, giờ đây hắn như chim sợ cành cong, tuyệt đối không dám mạo hiểm hành động thêm lần nữa đâu. Vì chất gỗ chiếc quan tài này rất dày dặn chắc chắn, nếu không thể đục một phát thủng tận đáy quan tài thì chẳng những không thể diệt trừ được chúng ta, mà ngược lại tiếng động phát ra sẽ khiến vị trí ẩn nấp của hắn bị bại lộ, nhất định hắn đang chờ đợi cơ hội hành động thích hợp hơn.” Thắng Hương Lân nói: “Anh phân tích rất chính xác, nhưng tất cả chỉ hoàn toàn dựa vào trực giác, chưa hẳn đã hợp logic, trừ khi gã đặc vụ đó thực sư là một u hồn, còn không, sao chúng ta lại không nhìn thấy hắn?” Tư Mã Khôi nói tiếp: “Thủ lĩnh Nấm mồ xanh có khả năng là u hồn, nhưng gã Điền Khắc Cường thì chắc chắn là một người đang sống sờ sờ. Gã cũng không biết sử dụng yêu thuật tàng hình, nếu quả thực hắn có bản lĩnh đó thì e rằng chúng ta đã không thể sống sót đến tận bây giờ. Tôi thấy chỉ là đối phương đã trốn vào trong quan tài bằng cách mà không ai có thể nghĩ đến mà thôi.” Hải ngọng cũng bắt đầu cho rằng Tư Mã Khôi nghi bóng nghi gió, rõ ràng mọi thứ đều bình thường, sao cứ phải tự đặt ra giải thiết kẻ địch đang ở ngay bên cạnh, đúng là tư duy chiến tranh lạnh điển hình, chẳng lẽ vẫn còn chê trạng thái tinh thần của cả đội chưa đủ căng thẳng hay sao? Anh bảo Tư Mã Khôi: “Đã là cách không ai có thể nghĩ đến, thì chúng ta phải mở rộng tư duy sang một thế giới khác mới lý giải được, mà chúng ta đâu có khả năng làm việc đó.” Tư Mã Khôi ấn đèn quặng chúi xuống dưới, anh quan sát kỹ xung quanh: “Tôi thấy chúng ta nên tin tưởng đôi mắt chính mình hơn là tin vào trực giác. Mọi người có phát hiện ở đây thừa ra vật gì không?” Cuối cùng Tư Mã Khôi soi đèn vào một góc tối không hề bắt mắt. Hội Thắng Hương Lân vừa nhìn theo chùm sáng ánh đèn hướng mắt xuống đáy quan tài thì cảm thấy không khí nóng bức ngột ngạt xung quanh phút chốc trở nên lạnh ngắt: “Đây là ba lô của đội khoan thăm dò Karamay, ai đã mang nó lên thuyền vậy?” Ba lô mà hội Tư Mã Khôi mang theo đều là loại ba lô địa chất sa mạc, được làm bằng vải buồm màu vàng đất; cho đến bây giờ, trên người bốn thành viên chỉ còn lại ba chiếc ba lô và một cái máy điện đàm. Trong khi đó, ba lô đội khoan thăm dò sử dụng lại là loại ba lô tác nghiệp thăm dò, tuy đều dùng chất liệu vải buồm, nhưng kiểu dáng và màu sắc thì hoàn toàn khác nhau. Mọi người đều nhớ rõ, chiếc ba lô nằm trong góc khuất kia từng thấy trên người gã kỹ sư Điền Khắc Cường. Lúc bơi qua sông ngầm, nó thoát khỏi tầm nhìn của mọi người vì được thân mình giáo sư Nông đang bị trọng thương che chắn, vả lại, trong cỗ quan tài rặt một màu đen, không ai để ý chiếc ba lô xuất hiện ở đó. Lúc này, Tư Mã Khôi lấy đèn quặng lục soát kỹ từng ngóc ngách, mới phát hiện ra sự có mặt nó. Tư Mã Khôi quan sát chiếc ba lô tác nghiệp thăm dò, thấy dung tích của nó rất hạn hẹp, tuyệt đối không đủ chỗ để chứa một người, huống hồ gã Điền Khăc Cường đã bị hủy hoại thân thể. Bây giờ chiếc ba lô nằm im bất động ở đó, không biết rốt cục bên trong đựng thứ gì? Hải ngọng chửi đổng: “Bà nội nó! Đúng là gặp ma thât rồi!”. Anh giương súng trường định bắn thủng một lỗ, nhưng Tư Mã Khôi giữ tay anh bảo: “Không được bắn! Lỡ bắn thủng ván quan tài thì đừng ai nói đến chuyện sống sót rời khỏi đây”. Hai người cất súng định dùng dao rạch ba lô ra, bỗng nhiên toàn thân chợt lắc lư rung chuyển. Chiếc quan tài trôi trên sông ngầm bị dòng nhiệt lưu mạnh đẩy bổng lên giữa không trung. Cả hội cuống quýt bám chặt tay vào hai bên mạn thuyền, mới không bị văng xuống nước. Trước mắt là dòng nhiệt lưu sủi ùng ục, nên không ai mở nổi mắt. Nơi sâu của con sông ngầm dưới địa máng là khu vực dòng nhiệt đối lưu quyển Manti và hiện tượng nước trồi hoạt động mạnh, khiến một phạm vi địa tầng rộng lớn ở hai bên bờ sông nâng cao hẳn lên, dòng dung nham đỏ rực như dòng thép nung chảy phun trào dữ dội dưới lòng chảo sông, thủy hỏa tương giao sinh ra dòng địa nhiệt sôi sục, cả con sông ngầm đều bị bốc hơi ngay giữa đường. Chiếc quan tài từ dải địa chất đứt sãy, đoạn tầng phân bố dày đặc những lớp nham thạch gấp nếp, bị một dòng nước trồi chảy xiết cuốn trôi tuột xuống phía dưới. Bốn người lộn tùng phèo trong quan tài rồi văng ra ngoài, trên mặt đất toàn là dung nham, nhiệt độ cao đến mức người ta không thể đặt chân xuống nền đất. Hội Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy trên dốc nham thạch phía sau lưng có một vài khe nứt màu đỏ sẫm, lòng thầm biết phía dưới quyển manti đều là dung nham, nếu không phải chiếc quan tài được làm bằng chất liệu gỗ nặng âm khí, thì khi nãy tất cả đã mất mạng. Trong cái nóng bỏng rát và bóng tối vô biên moi người không biết chiếc ba lô tác nghiệp khoan thăm dò đã rơi mất chỗ nào, bốn người đành gắng sức tiến về phía trước. Đi khoảng một dặm, thì họ cảm thấy mặt đất dưới chân bắt đầu trở nên bộp xốp, thì ra là than đá, đèn quặng không thể soi rõ toàn cảnh, chỉ thấy đâu đâu cũng một màu đen ngòm, trải dài vô cùng vô tận. Đá trầm tích hữu cơ đan cài giao thoa tầng tầng lớp lóp, giống như cây tùng già rủ tán xòe ô, thậm chí có những cây cổ thụ cao đến mấy chục mét, tất cả giống như những con mãng xà đen sì thả mình từ cành xuống. Tuy đã hoàn toàn biến thành than đá, nhưng hình hài vỏ cây, gân thớ cũng như phiến lá hãy còn rất rõ ràng, chỉ có điều chúng không còn màu xanh đậm mỡ màng đầy sức sống nữa, mà thay vào đó là màu đen kịt tượng trưng cho sự chết chóc. Ngay cả nằm mơ Hải ngọng cũng chưa thấy cảnh tượng này bao giờ, nên anh bất giác kêu lên vẻ kinh ngạc: “Ối trời phật ơi! Đây là một khu rừng rậm than đá! – Tài nguyên khoáng sản ở Lopnor tuy rất phong phú, nhưng chưa bao giờ người ta phát hiện thấy sự tồn tại của Đá, vì than đá chính là loại đá trầm tích hữu cơ được hình thành bởi xác các loài thực vật dưới lòng đất từ thời viễn cổ. Sau khi cả cánh rừng rậm bị than hóa, nó vẫn giữ nguyên diện mạo như lúc ban đầu, đúng là một kỳ tích hiếm có khó tìm, nó lật đổ mọi khái niệm địa lý từ trước đến nay. Thắng Hương Lân cũng kinh ngạc cao độ, cô xác định phương hướng rồi nói với Tư Mã Khôi: “Nếu tài liệu mà giáo sư nắm bắt không có gì sai sót, thì động đạo kính viễn vọng Lopnor nằm ngay trong cánh rừng than đá này.” Tư Mã Khôi nói: “Thì ra điểm tận cùng của con sông ngầm dưới địa máng lại là lớp vỏ than đá, không biết thể tích của nó lớn bao nhiêu? Nếu kính viễn vọng Lopnor mà người Liên Xô khoan đào nằm trong địa phận khu này, thì chỉ e chúng ta có tìm một trăm năm cũng chưa chắc đã tìm thấy nó.” Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà nói: “Thủ trưởng chẳng phải đã chỉ thị cho chúng ta: trước tiên phải tìm một cái máy điện thoại nào đó sao?” Tư Mã Khôi gãi đầu đáp: “Là máy… điện thoại từ thạch Aφ53, trong các cậu có ai từng sử dụng nó chưa?” Mọi người đều lắc đầu, điện thoại từ thạch Aφ53 có lẽ là loại điện thoại dã chiến do Liên Xô sản xuất, trong nước hiếm có người nào nhìn thấy loại điện thoại này. Nhưng hội Tư Mã Khôi lại khá thông thuộc các loại điện thoại dã chiến thông thường, cái được gọi là điện thoại từ thạch quân dụng cầm tay, chính là chiếc hộp dài bẹp, to bằng hai hộp cơm, mở chiếc hộp ra bên trong sẽ là điện thoại, bên cạnh có một ống quay, chỉ cần quay vài vòng là có thể phát điện nhờ manheto, chuyên dùng để liên lạc trực tiếp giữa điểm này với điểm kia, nhưng nó bắt buộc phải có giá đỡ và đường dây, và phạm vi chỉ thu nhỏ trong khoảng hai chục ki lô mét. Trước đây, trong một số bộ phim thời chiến, các vị lãnh đạo chỉ huy quân đội, sau khi xem bản đồ xong, sẽ ra lệnh cho nhân viên tham mưu quay điện thoại, thủ trưởng sẽ phân công nhiệm vụ cho các viên chỉ huy ở tiền tuyến bằng con đường đó. Điện thoại từ thạch chính là loại phương tiện liên lạc thuộc dạng này. Tư Mã Khôi không hiểu vì sao cuối cùng giáo sư lại dặn dò mọi người như vậy. Trong cánh rừng rậm than đá với quy mô rộng lớn và kết cấu phức tạp thế này, muốn tìm một chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 thì quả đúng là mông lung như chuyện ngàn lẻ một đêm. Kính viễn vọng Lopnor được khoan đào bằng thiết bị khoan hạng nặng, đường kính động đạo chí ít phải lên đến cả trăm mét; trực tiếp tìm kiếm động đạo dưới lòng đất sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với việc đi tìm một chiếc máy điện thoại, mà cho dù thực sự có chiếc điện thoại đó đi nữa, nhưng nó đã vùi dưới đất bao nhiêu năm, thì ai biết còn sử dụng được nữa hay không, vả lại sau khi nối máy được thì sẽ nói chuyện với ai? Thắng Hương Lân vẫn kiên quyết muốn thực hiện theo kế hoạch của giáo sư, cô muốn nghĩ cách tìm chiếc điện thoại. Giờ đây lương khô đội thám hiểm mang theo chỉ đủ ăn trong một ngày, hơn nữa vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi sự theo dõi của Nấm mồ xanh, chỉ cần đi sai một nước cờ thì khó mà cứu vãn được cục diện. Tư Mã Khôi trầm ngâm suy nghĩ, tuy giáo sư Tống Tuyển Nông và giáo sư Thắng Thiên Viễn chưa đích thân xâm nhập kính viễn vọng Lopnor, nhưng Trung Quốc cũng có bộ đội công trình và các chuyên gia tham dự cả quá trình hoạt động, bởi vậy rất có khả năng họ đã nắm bắt một số tư liệu bí mật lưu hành nội bộ. Nếu trước lúc lâm chung, đầu óc giáo sư Nông địa cầu hãy còn tỉnh táo, không nói năng lộn xộn, thì chiếc máy điện thoại thạch từ Aφ53 chắc chắn phải đóng vai trò rất then chốt, nhưng vì sao người Liên Xô lại lắp đặt điện thoại thạch từ ở khu vực sâu cách mặt đất hàng vạn mét? Làm sao chúng ta có thể tìm thấy nó ở giữa biển than đá rộng vô bờ bến như thế này? Có lẽ bây giờ chúng ta thực sự cần sự xuất hiện của một kỳ tích.