Chương 3: Ngọn đèn đường nơi núi thẳm
Ở nơi thâm cùng cốc hẻm, nơi núi rừng hoang sơ này, ngay cả đường mòn còn không có, vậy mà lại có một cột đèn đường.
Cột đèn bằng sắt đã han gỉ loang lổ, cắm nghiêng nghiêng trong lùm cỏ, cột đèn này giống như bất kì cột đèn đường nào mà ta vẫn hay gặp trong khu dân cư hoặc ngõ xóm, nhưng ở đây đâu có khu dân cư hay ngõ xóm nào? Ở đây chỉ có gió lạnh căm căm, lá khô rơi xào xạc và phân của chim muông, thú hoang. Ngọn đèn đường đứng sừng sững giữa hoang vu khiến ai cũng cảm thấy không thể tin vào mắt mình.
Một cột đèn đường xuất hiện giữa rừng nguyên sinh, hơn nữa nó lại đang sáng, điều này thật ngoài sức tưởng tượng.
Ánh sáng phát ra từ ngọn đèn dầu tùng đơn sơ được lòng trong chụp thuỷ tinh, treo lên giá cột đèn bằng một sợi dây thép, kiểu đèn dầu này giờ đã tuyệt tích, nó là sản vật của thời đại cũ. Dầu tùng tiêu hao rất nhanh, ngọn lửa lay động phập phùng mấy cái rồi tắt ngúm.
Đèn cầy hỏi: “Sao ở đây lại có ngọn đèn kì lạ thế nhỉ?”
Đèn cầy phụ hoạ: ”Ừ! Nó không thuộc về rừng rậm!"
Tô My suy đoán: “Rõ ràng ai đó đã treo ngọn đèn dầu tùng lên cột đèn, nhưng sao cột đèn lại xuất hiện ở đây nhỉ?”
Phân cục trường quay sang ba thành viên tổ chuyên án, nói: “Tổ chuyên án hãy giải thích cho mọi người xem nào! "
Hoạ Long đùn đẩy: “Chú Triển! Chuyện này với chú chắc dễ như húp cháo nhỉ!”
Bao Triển bảo: “Đưa cho tôi cái xẻng!”
Đèn cầy đưa cho Bảo Triển chiếc xẻng công binh, Bao Triển đào hố xung quanh cột đèn, giá đèn có dấu hiệu nghiêng ngả chực rơi, xem chừng cột đèn này đã khá cũ rồi! Nước sơn trên cột đèn cũng bong tróc gần hết, Bao Triển đào khá lâu, liên tục hất đất sang một bên, cuối cùng Bao Triển cắm xẻng công binh lên đống đất, nhảy xuống cái hố mà anh vừa đào quan sát chân cột đèn trong hố.
Bao Triển xem xét tỉ mỉ, đoạn bảo: “Cột đèn này không có đế, cũng không có linh kiện gia cố."
Phân cục trường chưa hiểu: “Điều đó có ý nghĩa gì?”
Bao Triển ngẩng đầu lên trời.
Phân cục trưởng sốt ruột hỏi: “Nhìn gì mà nhìn? Lẽ nào nó từ trên trời rơi xuống?”
Bao Triển đáp chắc nịch: “Đúng vậy! Cột đèn này rơi từ trên trời xuống. Lúc rơi xuống, nó vừa vặn cắm phập xuống chỗ này.”
Phía trên cột đèn là vách vực cao vút, mây trắng vờn quanh, mọi người đều biết khả năng trên đó có thứ gì đặc biệt. Nếu cột đèn từ miệng vực rơi xuống thì phải là sức mạnh thần kì và quái dị đến mức nào mới có thể vận chuyển cột đèn đến miệng vực? Đồng thời, họ còn thắc mắc tại sao người ta lại ném cột đèn xuống đáy vực?
Không có đường lên miệng vực, nơi đó cao chọc mây xanh, vách đá dựng đứng, vững chải, trên thành vực mọc đầy dây leo và hoa dại.
Mọi người tìm kiếm khu vực xung quanh hồi lâu nhưng không phát hiện tháp phòng cháy của lâm trường, cũng không thấy điểm tác nghiệp của nhân viên gác rừng, xung quanh không hề có dấu tích cư trú và sinh sống của con người.
Vậy ngọn đèn dầu tùng treo trên cột đèn kia từ đâu đến?
Đại Xuân Tư hốt hoảng nói: “Của quái vật lông trắng, à... ý tôi muốn nói là bà lão mặt mèo! Chắc chắn bà ta chỉ ở quanh quẩn gần đây thôi!”
Phân cục trưởng chửi đổng: “Mẹ nó! Gặp ma chắc?”
Địa điểm anh nhân viên gác rừng gặp nạn không Xa đây lắm, mọi người vội kéo đến hiện trường, nhưng họ phát hiện xác anh ta không còn ở đó nữa. Đại Xuân Tử run lập cập, mặt tái xanh, anh ta liên tục lẩm bẩm trong miệng rằng mình tận mắt nhìn thấy bà lão tóc trắng kéo tử thì đi. Bao Triển phát hiện có vết kéo lê bên dưới gốc cây, lần theo vết kéo, họ đi khoảng mười mấy phút thì thấy một nấm mồ hiện ra trước mắt, gió thổi lá tùng nghe vi vút, nước chảy róc rách, không ngờ trên bãi đất khá bằng phẳng gần núi lại có một nấm mồ.
Xung quanh nấm mồ vẽ hình bát quái.
Trên nền cát trước mồ viết “Mão - Dậu - Tứ chính”, ngoài ra còn một hàng chữ viết khá mờ, giờ không thể phân biệt chữ nào vào chữ nào nữa.
Hoạ Long nói: “Trông hình bát quái và mấy chữ kia rất cổ quái.”
Bao Triển đoán: “Có vẻ liên quan đến phong thủy". Tô My lẩm bẩm: “Giá có bác Lương ở đây thì hay, chắc chắn bác sẽ biết nó có ý nghĩa gì.”
Cột đèn đường ở giữa rừng nguyên sinh, cỗ thi thể không cánh mà bay, ngôi mộ đột nhiên xuất hiện trước mắt, chuỗi sự việc quái dị này khiến người ta khó lòng lí giải được. Mọi người xôn xao bàn luận, Đèn cù nói khả năng người nhà của nạn nhân đã đến đây trước cảnh sát và chôn nạn nhân rồi, nhưng suy đoán này bị mọi người hoài nghi.
Bao Triển dứt khoát: “Chúng ta phải đào mộ lên, xem bên trong có thi thể không đã, nếu có thì chúng ta phải chuyển thi thể về khám nghiệm mới được!"
Thế là cả nhóm bắt đầu ngay vào công việc, quả nhiên thi thể của anh nhân viên gác rừng được vùi dưới lớp đất, trên cổ anh ta có dấu răng, phần bụng có vết thương lớn do bị vật sắc nhọn đâm thùng và rạch một đường khá dài.
Mọi người không thể không tin vào sự thực bày ra trước mắt: Quái vật lông trắng đã giết chết anh ta, sau đó lại còn chọn một nơi phong thuỷ rất đẹp để đắp mộ phần, cuối cùng chôn thi thể xuống đó!
Đại Xuân Tử tỏ ra sợ hãi, thậm chí anh ta còn không dám nhìn thì thể, chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi đây.
Phân cục trưởng báo mọi người chặt cành cây làm chiếc cáng đơn giản khênh nạn nhân trở về theo lối cũ. Khi đi ngang qua cột đèn đường, mọi người không hẹn mà cũng dừng bước.
Rốt cuộc ngọn đèn dầu tùng treo lúng lẳng trên cột đèn ở giữa rừng núi hoang vu mang hàm ý chỉ dẫn gì không?
Bao Triển nói: “Hay là chúng ta cứ mang cột đèn này về làm chứng nhỉ?”
Đèn cầy nói: “Mang nó về để chứng minh điều gì?”
Phân cục trưởng ngẩng đầu nhìn miệng vực, miệng lẩm bẩm: “Chẳng biết có đường lên đó không nhỉ?”
Đèn cù khẳng định: “Chắc chắn trên đó phải có thứ gì đó!”
Bao Triển giật ngọn đèn dầu tùng xuống, chẳng ngờ cột đèn cũng từ từ đổ theo, mọi người nhanh chân tránh sang một bên. Khi cột đèn đổ, nó đè bẹp một vạt dây leo khá lớn, mọi người phát hiện một miệng hang bị dây leo giăng trên thành vực và cây bụi che lấp.
Cửa hang rất nhỏ và rất kín đáo, chỉ đủ cho một người chui vào. Phân cục trưởng Tào bảo Đèn cầy đi trước, Đèn cầy lấy hết can đảm mới dám chui vào, cậu ta phát hiện hang núi có địa hình theo hướng đi dần lên trên cao, có lẽ nước xói mòn vách núi lâu ngày tạo thành cái hang này, điều đó chứng tỏ rất có khả năng hang núi thông đến đỉnh vực. Mọi người quyết định phải tìm hiểu rõ ngọn ngành, thi thể của nạn nhân tạm thời để dưới chân vực, họ xếp thành một hàng, từng người chui vào hang núi. Con đường dưới chân khúc khuỷu, gập ghềnh, mọi người lần từng bước tiến lên trên, trèo mãi một lúc lâu, họ thấy phía trước có ánh sáng le lói, cuối cùng cũng đã tới lối ra của hang động, đó cũng chính là đỉnh vực.
Chẳng ngờ khu vực quanh miệng vực rất bằng phẳng, hơn nữa diện tích lại khá rộng, khắp nơi đều ngào ngạt hoa thơm cỏ lạ, mây trắng quấn quanh, trông bồng bềnh, mờ áo như cõi tiên. Bên mép dài của thành vực có một cây cổ thu, chí ít cũng phải mấy trăm năm tuổi, thân cây xù xì, mấy người ôm không xuể, tán cây như chiếc ô khổng lồ. Không ngờ dưới tán lá sum sê lại có ngôi nhà cỏ, trước nhà kê chiếc bàn đá, một con quái vật lông tóc trắng xoá ngồi trước bàn đá, quay lưng về phía mọi người.
Phân cục trưởng Tào giương súng, đanh giọng hỏi: “Ngươi là ai?”
Anh ta căng thẳng đến nỗi giọng nghe hơi run run.
Chẳng ngờ quái vật lông trắng đáp lại lời anh ta, nói chính xác hơn thì đó là lời đáp của một bà lão tóc bạc phơ. Tuy giọng bà yếu ớt, phều phào nhưng vô cùng bình tĩnh. Bà nói: “Đừng sợ! Lại đây uống tách trà đã nào!”
Họa Long ấn khẩu súng trong tay phân cục trưởng Tào xuống, mọi người chầm chậm tiến đến chỗ bà lão, bà lão tóc trắng lại cất giọng: “Nhìn thấy ta thì chớ sợ hãi!”
Cả nhóm đi vòng từ sau lưng ra trước mặt bà. Cuối cùng mọi người cũng nhìn rõ chân dung của “quái vật lông trắng”.
Quần áo bà lão rách rưới, tóc rất dài, bạc trắng như cước, có lẽ mấy chục năm rồi bà lão không hề cắt tóc. Bà lão ngồi đó, tóc dài quét đất che lấp cả tấm lưng. Ngay cả người cứng vía thoáng nhìn cũng phải lạnh gáy. Gương mặt bà lão càng khiến người ta khiếp sợ hơn, quanh miệng bà là râu, chòm râu cũng bạc phơ và dài lê thê y như mái tóc, lông tơ màu trắng xám mọc dày khắp mặt khiến gương mặt bà nom chẳng khác gì mặt mèo.
Mái tóc trắng, hàm râu tằng, lông mi, lông mày trắng dài lê thê, chúng quét đất theo mỗi bước bà di chuyển.
Thì ra mấy chục năm nay, quái vật lông trắng mà mọi người liên tục nhìn thấy chính là bà lão mặt mèo ở trên mép vực này.
Tô My thận trọng hỏi: “Có phải bà mắc chứng rậm lông không?"
Bà lão mặt mèo thở dài không đáp, trên mặt bàn bày bảy ống nứa dùng để uống trà, nước trà trong ống vẫn đang bốc hơi nghi ngút.
Bao Triển chỉ vào chén trà và hỏi: “Trên bàn có bảy chén trà, chúng tôi vừa khéo cũng có bảy người, sao bà biết hôm nay chúng tôi sẽ đến?”
Bà lão mặt mèo đáp: “Ta luôn ở đây đợi các cậu, đợi đã lâu lắm rồi!”
Họa Long hỏi: “Bà tên là gì? Từ trước đến giờ bà luôn sống ở đây sao?"
Bà lão mặt mèo lấy đầu ngón tay chấm vào chén nước, rồi viết một chữ lên mặt bàn, chẳng ngờ không một ai trong số tất cả thành viên có mặt tại hiện trường biết chữ này. Bà lão viết chữ 聻
聻 nghĩa là tích, Liêu Trai Chí Dị từng viết: người chết thành ma, ma chết thành tích, ma sợ tích cũng như người sợ ma vậy. Nếu viết chữ này dán lên cửa thì tất cả ma quỷ đều phải tránh xa ngàn dặm. Nếu viết chữ “tích” lên các lá bùa thì là bùa đó sẽ có hiệu quả tránh quỷ trừ tà.
Bà lão mặt mèo giải thích xong, phân cục trưởng liền buột miệng hỏi: “Bà nói vậy là có ý gì? Bà có phải ma không?”
Bà lão đột nhiên quay đầu về phía Đại Xuân Tử và bảo: “Cậu đừng sợ tôi!”
Đại Xuân Tử lắp bắp nói: “Tôi…”
Bà lão mặt mèo phẩy tay: “Tôi không nói cậu, tôi nói người đứng ở đằng sau cậu kìa! Trên mình cậu ta đầm đỉa máu.”
Đại Xuân Tử quay phất người lại, phía sau trống trơn, chẳng hề có ai, sắc mặt anh ta vụt trở nên trắng bệch, hai đầu gối va vào nhau lập cập. Ánh mắt bà lão xuyên qua Xuân Tử, nhìn chằm chằm phía sau anh ta, chậm rãi nói như thể đang trò truyện với không khí: “Tôi đã tìm hộ cậu mảnh đất phong thủy khá tốt, đảm bảo con cháu tám đời của cậu sau này sẽ ăn nên làm ra.”
Phân cục trưởng hỏi: “Bà đang nói chuyện với ai vậy? Lạ thật!”
Bà lão mặt mèo nói: “Ta đang nói với người mà các cậu đang để dưới chân núi đấy! Cậu ta đã biến thành ma.”
Mọi người nghe mà rợn tóc gáy, họ để thi thể của nhân viên gác rừng ở dưới chân vực. Theo cách bà lão nói, thì người chết đã biến thành ma và luôn đi theo mọi người, nói chính xác hơn là luôn bám theo sau Đại Xuân Tử.
Đại Xuân Tử khuỵu gối quỳ sụp xuống đất, anh ta đột nhiên như phát điên, hai tay cào cấu vào da đầu và hét lớn: “Tôi không thể chịu nổi nữa rồi!”
Đại Xuân Tử quay đầu lại, liên tục đập đầu cầu xin: ”Xin anh tha cho tôi! Lẽ ra tôi không nên giết anh! Đúng thực không nên giết anh chút nào!… Tha cho tôi!”
Vậy là nguyên nhân cái chết của nhân viên gác rừng đã hai năm rõ mười, tên Đại Xuân Từ thành thật khai báo với phân cục trưởng Tào về hành vi giết người của mình.
Đại Xuân Tử và nhân viên gác rừng xấu số nọ tình cờ nhìn thấy một củ nhân sâm thiên nhiên mọc cheo veo trên vách đá. Nhân sâm là vua của bách thảo, nó còn được gọi là địa tinh. Khi đó, họ đi tuần từng, một loài thực vật nở đầy hoa màu xanh tím nhỏ xíu mọc trên bờ vực đã thu hút ánh mắt của hai người. Họ liền đến gần quan sát, thì ra đó là một cây nhân sâm thiên nhiên vô cũng hiếm gặp, gốc cây rất to, thân cây cao hơn một mét. Anh nhân viên gác rừng liền hét lớn: “Đập búa!". Nghe nói nhân sâm có linh tính, nó sẽ chạy nếu biết có người muốn nhố nó lên, chỉ khi gọi to “Đập búa!” thì nó mới đứng im, lúc đó người ta sẽ buộc sợi chỉ đỏ vào gân lá, và đào sâm. Người gác từng nghe người già kể rằng nhân sâm cũng phân thành giống đực và giống cái, chúng luôn có cặp có đôi, quả nhiên dưới gốc cây cách đó không xa, họ lại phát hiện một cây nhân sâm nữa. Sau khi đào lên, dùng tay ước lượng, họ đoán hai củ nhân sâm phải nặng tầm năm kí lô. Củ nhân sâm trông rất mập mạp, lại có đủ đầu và tứ chi giống như diện mạo con người.
Người gác rừng đếm, mỗi củ nhân sâm có hơn hai mươi tua, theo cách tính dân gian, mỗi tua là một trăm năm, như vậy hai củ nhân sâm này ước chừng phải hai ngàn năm tuổi.
Người gác rừng reo lên: “Chúng ta phát tài rồi! Đây là hai củ nhân sâm vương hậu đấy!”
Đại Xuân Tử cũng mừng húm: “Đúng vậy! Hơn nữa lại là nhân sâm hoang dã nữa chứ! Đúng là chúng ta giàu to rồi!”
Người gác rừng bảo: “Hai chúng ta mỗi người một củ."
Đại Xuân Tử gật đầu đồng ý: “Được!”
Nào ngờ Đại Xuân Tử lại nổi lòng tham, con quỷ tham lam quẫy đạp dữ dội trong trái tim y. Y muốn một mình đoạt cả hai củ sâm quý. Đợi người gác rừng ngủ say, y lấy đế đeo chân chọc rách bụng của người gác rừng. Đế đeo chân là dụng cụ làm bằng sắt, người dân vùng Đông Bắc thường dùng lúc đi hái quả thông, họ đeo vào chân để dễ dàng trèo lên cây hơn. Vì muốn tránh tội, nên y giả vờ dùng răng cắn vào cổ người gác rừng tạo hiện trường giả vụ án quái vật lông trắng giết người hút máu. Mặc dù cách giải thích này có vẻ hơi hoang đường, nhưng ở nơi mà không ít người đã tận mắt nhìn thấy quái vật lông trắng thì người ta sẽ tin sải cổ vào lời bịa đặt quái vật giết người của y.
Quái vật lông trắng thực ra chính là bà lão mặt mèo, bà tình cờ nhìn thấy tử thi trên đường, xuất phát từ tấm lòng từ bi, bà đã giúp người chết đào mồ chôn thây.
Tô My hỏi: “Bà cho cháu hỏi, bà có mắt âm dương không? Có thể nói chuyện với ma không ạ?”
Bà lão gật đầu.
Họa Long quay đi chỗ khác lẩm bẩm: “Linh tỉnh!”
Phân cục trưởng nói: “Chi bằng bà coi cho tôi một quẻ là biết ngay thật giả chứ gì!”
Bà lão mặt mèo nói: “Cậu là kẻ đòi mạng, Cậu đến tôi ắt phải đi, ngày chết của tôi chắc sắp cận kề!”
Bao Triển nói: “Cháu thấy bà nói năng rất uyên thâm, lại còn biết viết chữ yểm bùa, vậy sao lại ẩn cư ở nơi thâm sơn cùng cốc này? Bà là người kì lạ nhất mà cháu từng gặp, khi chúng cháu vẫn chưa đến, bà đã bày sẵn bảy tách trà, nếu... quả thực bà có năng lực thần kì tiên đoán trước mọi điều, có thể nói chuyện với người đã chết, thì cháu muốn nhờ bà. . .”
Bà lão mặt mèo nói: “Được! Ta sẽ thoả mãn một nguyện vọng của cậu.”
Cha mẹ của Bao Triển qua đời từ khi anh còn ấu thơ, anh là đứa trẻ mồ côi, anh rất muốn thông qua bà lão mặt mèo nói vài câu với song thân đã sớm từ giã cõi đời của mình.
Bà lão mặt mèo nhắm mắt ngồi thiền, một lát sau, bà bừng mở mắt, bảo: “Ta đã tìm thấy cha mẹ cậu, họ muốn nhờ tôi nói với cậu rằng. . ."
Bao Triển thận trọng hỏi: “Họ nói gì ạ?”
Bà lão mặt mèo ghé tai Bao Triển, thì thầm một câu.
Bao Triển nghe xong câu này, anh ngẩn người hồi lâu, vẻ mặt thất thần, lát sau một dòng lệ chầm chậm bò ra từ khóe mắt, rồi lăn dài trên má.