Chương 7
Tại Salinas, bà Faye thoạt đầu thắc mắc về thiếu nữ mới đến xưng tên là Kate. Nàng còn quá trẻ và đẹp, trông như một phu nhân quý phái, có học thức. Vì thế Faye đã gửi thư đến văn phòng cảnh sát trưởng để hỏi cho rõ. Bà không muốn rước vạ vào thân.
Bà đã nói ngay với nàng:
- Tôi hi vọng cô đừng giận vì những câu hỏi của tôi. Nhưng cô tới đây đột ngột quá. Cô đẹp thế này đáng lẽ cô phải có một tấm chồng, một chiếc xe bốn ngựa và một ngôi nhà ở thị trấn, sống một đời êm ấm.
Bà Faye xoay tròn chiếc nhẫn cưới trên ngón tay nhỏ và mập của bà.
Kate mỉm cười e thẹn:
- Thật khó nói quá. Nhưng đối với tôi, hạnh phúc là một thứ vô cùng rắc rối. Xin đừng hỏi tôi về chuyện đó.
Bà Faye gật đầu thông cảm.
- Tôi hiểu lắm. Tôi cũng có một đứa con gái đang chịu đựng đau khổ vì con, mà không ai hiểu.
- Cô đã có con chưa?
Kate nhìn xuống để giấu những giọt lệ long lanh, nàng thều thào:
- Xin lỗi, tôi không thể trả lời được.
- Thôi được rồi, cô cứ tự nhiên.
Ngay từ đầu, Kate đã khôn khéo làm vừa lòng các thiếu nữ khác. Nàng chịu khó nghe họ thở than tâm sự, cho họ mượn tiền khi nào nàng có sẵn. Nàng đã trở thành người bạn tốt nhất của mọi người trong nhà.
Nàng để ý đến việc chợ búa và chỉ bảo nấu các món ăn ngon cho bà Faye, nàng bỏ ra nhiều giờ để chuyện vãn với bà Faye. Chẳng bao lâu, những cô gái trong nhà nhận ra rằng họ có đến hai bà chủ chứ không phải một, dù vậy họ cũng bằng lòng, vì Kate rất tử tế.
Bà Faye là một thiếu phụ rất tốt bụng và tỏ ra rất mến Kate.
Dần dần cảm tình đó ở bà Faye đã biến thành một thứ tình mẫu tử một cách tự nhiên, bà đã xem Cathy như con gái thật của mình. Kate tỏ ra rất ân cần với bà. Nàng sơn phết các thứ đồ vật bằng gỗ trong phòng bà và treo các bức màu có viền đăng ten. Nàng tặng cho bà Faye một cái đồng hồ bằng vàng có khắc hàng chữ “Tặng C, với trọn trái tim của A.”
Kate thỏ thẻ:
- Đó là kỉ vật của mẹ tôi. Tôi muốn mẹ mới của tôi giữ nó.
Sau đó một năm, không ai lấy làm ngạc nhiên chút nào, khi thấy bà Faye thảo chúc thư để lại tất cả tài sản của bà cho Kate.
Các thiếu nữ trong nhà khi biết rõ tin về chúc thư, đều nghĩ rằng Kate có thể sẽ thay đổi thái độ, có lẽ nàng sẽ trở thành độc tài. Nhưng nàng lại càng mềm mỏng tử tế hơn trước và càng tận tụy ngoan ngoãn với bà Faye một cách đáng phục. Khi bà Faye bắt đầu bị những cơn đau kì lạ ở bộ tiêu hóa hành hạ, chính Kate đã săn sóc việc ăn uống cho bà và đưa bà đến bác sĩ Wilde chạy chữa, Kate không tỏ vẻ vội vàng lắm. Nàng chờ lúc ông không bận việc ở phòng mạch mới nhờ ông vài thứ thuốc. Bác sĩ Wilde là một vị bác sĩ có lương tâm và tốt bụng, nhưng ông làm việc quá sức, nhiều khi quên cả đóng cửa phòng thuốc. Kate đổ đầy thuốc vào chai nhỏ dán nhãn theo lời chỉ dẫn trong những quyển sách thuốc trước khi bác sĩ Wilde trở về.
Kate chờ đợi lâu hơn. Mùa hạ đó, nàng bảo đầu bếp đóng hộp một số đậu. Vào tháng mười, trong một bữa ăn tối, nàng làm món xà lách trộn với đậu cho bà Faye và nàng, nàng trộn thêm thật nhiều thịt. Trước khi mang đĩa thức ăn đến phòng bà Faye, nàng tạt vào phòng riêng của mình uống một chai nhỏ Cascara Sagrada.
- Con làm một đĩa xà lách trộn đặc biệt cho má đây. - Nàng nói với bà Faye. - Má nhìn thử xem có ngon không?
- Ồ, ngon quá. Món gì con cũng biết làm, con giỏi quá.
Vừa ăn xong, Kate đã nhăn nhó la đau.
Bà Faye chạy ra ngoài cửa phòng kêu cứu. Khi các cô gái khác vội vã chạy vào thì đến lượt bà Faye ôm bụng kêu đau. Bà rên rỉ và co giật lia lịa.
- Bị trúng độc vì thức ăn. - Bác sĩ Wilde xác định khi đến xem bệnh và ra lệnh cho đầu bếp hủy bỏ các hũ đậu. Sau đó ông nói với Kate:
- Tôi không biết hai người có qua khỏi vụ trúng độc này không. Riêng cô thì còn trẻ chứ bà ấy thì hơi khó.
Dù Kate săn sóc bà suốt ngày đêm, bà Faye vẫn không thấy bình phục. Tim bà càng yếu hơn và bác sĩ Wilde đã phải lắng tai thật lâu qua ống thăm mạch mới nghe rõ. Ông đã phải kéo Kate ra ngoài hành lang tối, đặt túi đựng đồ nghề màu đen lên ghế nói:
- Tôi cần nói thật với cô về tình trạng của bà Faye. Tim bà rất yếu. Vụ trúng độc thật tai hại. Nguy hiểm hơn bị nọc rắn nữa.
Ông nhìn thẳng vào mặt Kate, hốc hác vì nuôi bệnh cho bà Faye bấy lâu nay, vỗ vai nàng nói:
- Không ai tận tụy được như cô.
Khi bà Faye chết, người ta phải trói Kate lại một chỗ để nàng khỏi tự hủy hoại mình. Mất một thời gian lâu, nàng mới nguôi ngoai và bình phục. Các cô gái trong nhà đã phải nhắc nàng về chúc thư của bà Faye.
*
Trong khi đó, ở nông trại mới của mình, Adam Trask buông xuôi tất cả. Ngôi nhà cũ của Sanchez đang sửa sang đã bỏ dở mặc cho mưa gió phũ phàng. Mấy vườn rau tàn lụi, cỏ dại mọc đầy.
Adam nhìn đời bằng cặp mắt bi quan, tất cả như được nhìn qua một mặt nước xám đục. Nhiều khi chàng cố gạt ưu phiền để sống, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau buồn vẫn xâm chiếm cả tâm hồn chàng. Chàng vẫn ý thức sự có mặt của hai đứa bé song sinh vì chàng vẫn nghe thấy tiếng khóc của chúng, nhưng chàng không thấy yêu thích gì mấy. Những người láng giềng quen biết có ghé lại thung lũng nhỏ bé của chàng để thăm.
Ai cũng thông cảm nỗi đau của chàng và cố lựa lời an ủi chàng, nhưng chàng tỏ vẻ hờ hững chán chường, nên họ cũng hết muốn tới lui làm gì nữa.
Có khi Lee cũng cố an ủi thúc đẩy Adam, nhưng chú quá bận. Chú nấu nướng, giặt giũ, tắm rửa cho hai đứa bé và lo cho chúng ăn ngủ. Tuy làm việc vất vả và liên miên, chú vẫn thấy yêu thích hai đứa bé. Chú nói chuyện với chúng bằng tiếng Quảng Đông. Những tiếng bập bẹ đầu tiên của chúng là những tiếng Trung Hoa do Lee dạy.
Ông Samuel Hamilton có ghé lại thăm Adam hai lần.
Bà Liza can ngăn:
- Tôi không muốn mình tới lui đó làm gì nữa. Mình không thay đổi được anh ấy đâu. Anh ấy cũng đâu có ưa gì mình. Tôi thấy rõ ánh mắt khó chịu của anh ta khi nhìn vào mặt mình.
- Liza, em có nghĩ đến hai đứa bé đó không? - Ông hỏi.
- Tôi chỉ nghĩ đến gia đình của chính ông. - Bà giận dỗi đáp. - Ông cứ lo chuyện đâu đâu, ông nghĩ đến con người ta rồi có ai nghĩ đến con ông không?
- Má nó nói đúng. - Ông nói cho vợ vui lòng chứ ông vẫn buồn, vì bản tính ông không thể yên tâm nghĩ đến việc mình, khi có người đang đau khổ.
Dần dần Samuel cũng thấy giận Adam Trask. Theo ông ấy thì hình như Adam có vẻ bằng lòng với cuộc sống buồn thảm đó chứ không muốn vươn lên chút nào. Nhưng năm đó, gia đình ông Samuel có được vài an ủi nhỏ là Joe đã rời khỏi trường cao đẳng.
Nhờ trường này mà Lelend Stanford đã tạo được nông trại của mình gần Palo Alto. Will và George làm ăn tiến triển và Tom lo lắng công việc nhà rất chăm. Nhưng bà Liza có vẻ già yếu hẳn đi. Samuel thấy rõ điều đó trên nét mặt bà. Ông không thấy mình già dù râu đã bắt đầu bạc.
Ở nông trại, chỉ còn lại ba người: ông Samuel, bà Liza và Tom. Các cô Olive, Una và Molie đều đã lấy chồng, còn cô Dessie đã ra Salinas làm nghề may.
Một hôm, ông Samuel vác trên lưng một bành cỏ làm ông cảm thấy đau. Thật ra ông cảm thấy đau về tinh thần hơn là về thể chất, vì ông không thể tưởng tượng tại sao ông lại không thể vác một bành cỏ được.
Tại King City, bác sĩ Tilson khám qua cho ông. Vị bác sĩ có vẻ khó tính, vì làm việc quá sức trong nhiều năm.
- Ông làm trẹo lưng rồi.
- Vâng, đúng như vậy. - Samuel trả lời.
- Ông cưỡi ngựa chạy cả một khoảng đường dài để nghe tôi xác nhận mình bị trẹo lưng và nhận hai Mỹ kim tiền công sao?
- Đây tôi xin trả hai Mỹ kim tiền công khám bệnh.
- Anh biết mình phải làm gì để khỏi trẹo lưng chứ?
- Dĩ nhiên là tôi biết.
- Đừng có vác nặng nữa nhé. Bây giờ ông anh lấy tiền của mình lại đi.
- Nhưng lưng tôi đau thật mà. Sao bác sĩ dám tin chắc nếu tôi không vác nặng, sẽ hết đau lưng?
Ông Samuel cười vui vẻ:
- Bác sĩ tốt với tôi quá. Lòng tốt của anh đáng giá hơn hai Mỹ kim nhiều. Anh cứ giữ tiền công đi.
Samuel ghé lại xem cửa hiệu mới xinh đẹp của Will. Ông nhìn mãi mới nhận ra cậu con, vì anh ta mập và giàu có. Anh bận áo vét và áo choàng sang trọng, đeo một chiếc nhẫn vàng trên ngón tay út. Trong khi ông đang có mặt ở cửa hiệu, thì Lee bước vào. Mắt chú sáng lên:
- Chào ông, ông mạnh “phẻ” chứ? - Chú hỏi.
- A, chào chú Lee. Mấy chú bé mạnh khỏe không?
- Chúng vẫn mạnh.
Ông Samuel mời:
- Tôi định qua phòng bên uống một ly bia. Mời chú uống với tôi một ly cho vui.
Lee và Samuel ngồi ở một chiếc bàn tròn nhỏ trong phòng uống rượu, chấm nước bia trong ly vẽ lên mặt gỗ.
- Tôi muốn ghé tới thăm chú và anh Adam, nhưng thấy chẳng giúp được gì nên đành thôi.
- Vâng, ông không nên mất công vô ích, chẳng thay đổi được gì. Mọi việc đã an bài từ một năm nay rồi.
- À, anh ấy đặt tên hai đứa bé là gì?
- Chúng chẳng được đặt tên gì cả.
- Chú Lee, chú nói đùa đấy chứ?
- Tôi không dám nói đùa chút nào.
- Vậy thì anh ấy gọi chúng bằng gì?
- Ông ta vẫn gọi bằng “chúng nó”.
- Tôi muốn hỏi khi anh ấy nói chuyện với chúng, anh ấy gọi chúng bằng gì.
- Những lúc đó ông ấy chỉ gọi chúng bằng “tụi bây”.
- Vô lý. - Samuel tức giận nói. - Vậy thì anh ấy điên quá rồi, tôi chưa hề thấy ai như vậy?
- Ông ấy như một người chết, trừ khi ông có thể làm cho ông ấy thức tỉnh. - Samuel nói:
- Tôi sẽ đến. Tôi sẽ mang đến một chiếc roi ngựa. Sao chúng nó không có tên được! Chú nói rất có lý. Tôi sẽ đến.
- Hôm nào đến?
- Ngay ngày mai.
- Tôi sẽ làm thịt một con gà để đãi ông. - Lee nói.
*
Ông Samuel e dè nói với vợ rằng ông muốn đi thăm Trask. Ông biết rằng bà sẽ hết sức ngăn cản, nên ông cảm thấy nôn nao trong dạ vì đã làm vợ phật ý. Ông giải thích mục đích của mình với vợ như người đang thú tội. Liza chống hai tay lên hông trong khi nghe chồng nói, làm Samuel thất vọng khi ông nói xong, bà vẫn đứng im lạnh lùng nhìn chồng.
Sau cùng bà nói:
- Samuel, ông tưởng ông có thể xeo nổi một tảng đá sao?
- Ồ, anh cũng không biết nữa. Ông thành thật thú nhận. Anh không biết có làm được gì không?
- Ông nghĩ rằng việc hai đứa bé cần được đặt tên ngay bây giờ là một điều quan trọng phải không?
- Anh nghĩ như vậy.
- Samuel, sao ông vẫn thích xía vào chuyện của người khác? Đúng là một căn bệnh bất trị, chuyện nhà của ông sao không thấy ông lo có phải hay hơn không?
- Liza, anh biết những nhược điểm của anh. Anh hi vọng tình trạng sẽ khá hơn.
- Đáng lẽ khá hơn rồi kia chứ. - Liza nói. - Anh chàng đó không thiết gì đến chuyện sống chết của các con mình, nên mới bỏ phế chúng khơi khơi kiểu đó, ông làm được gì hơn.
- Anh cũng nghĩ như vậy.
- Bây giờ ông định đến khuyên nhủ, nếu anh ấy bảo đừng xía vào chuyện riêng của anh ta, thì ông nghĩ sao?
- Anh cũng không biết nghĩ sao.
Bà nghiến răng rít lên:
- Nếu ông không đặt được tên cho hai đứa bé đó thì ông đừng hòng bước về căn nhà này. Ông đừng có trở về đây nói với tôi rằng anh ấy không chịu nghe lời. Nếu ông làm không xong, tôi sẽ đi cho ông xem.
- Nếu anh ta không chịu nghe, anh sẽ tát tai ngay. - Ông Samuel nói.
- Ông mà đời nào làm chuyện đó. Tôi biết ông quá mà. Ông chỉ dùng những lời thật êm dịu khuyên nhủ, nếu không được, ông đành thui thủi ra về, để rồi sẽ tìm đủ cách làm cho tôi quên chuyện ông đã đi một cách vô ích.
Ông Samuel hét lớn:
- Tôi sẽ bắt buộc anh ấy phải nghe tôi.
Ông bỏ vào phòng ngủ đóng mạnh cửa lại. Liza nhìn về phía cửa phòng mỉm cười.
Chẳng mấy chốc, ông bước ra trong bộ đồ màu đen áo sơ mi trắng cổ cứng. Ông cúi người xuống để vợ ông cài dùm cái nơ đen trước cổ áo.
- Ông nên đánh sơ lại đôi giày cho bóng một chút. - Bà nói.
Trong khi đang đánh xi-ra đen lên đôi giày rách, ông ngước lên nhìn vợ và hỏi:
- Anh mang theo quyển Thánh kinh theo dược chứ? Không chỗ nào có thể tìm được những tên hay bằng trong Thánh kinh.
- Tôi không muốn quyển Thánh kinh bị đem ra chút nào. - Bà có vẻ không bằng lòng trả lời. Thấy ông chồng xịu mặt, bà đi vào phòng ngủ lấy ra một quyển Thánh kinh loại nhỏ, sờn rách, bìa trầy trụa, bảo ông:
- Mình cầm tạm quyển này.
- Quyển này của má em mà.
Liza xẵng giọng:
- Của mẹ tôi hay của tôi cũng vậy thôi, ông thắc mắc mà làm gì. Ông chẳng bao giờ chịu để quyển kinh Tân-Ước yên. Ông cứ hay lật qua lật lại hỏi nọ hỏi kia, làm tôi tức muốn điên cái đầu.
- Tôi chỉ muốn tìm hiểu mà má nó.
- Có gì đâu mà phải thắc mắc. Chỉ cần đọc là đủ. Nếu Thượng đế muốn ông hiểu, ngài sẽ soi sáng cho ông hiểu một cách dễ dàng, trái lại ông có thắc mắc cũng vô ích.
Bà gói quyển sách lại bằng giấy nhật trình.
- Nhưng má nó này...
- Samuel, ông là người ưa rắc rối nhất đời, tôi chưa hề thấy ai như ông.
- Nhưng mình à...
- Không bao giờ ông chịu đồng ý với tôi chuyện gì cả. Điều đó chứng tỏ ông chẳng thương gì tôi. Ông nghĩ coi có phải không?
Bà nhìn theo bộ mặt buồn xo của chồng khi ông ngồi lên xe phóng đi.
Bà nói thành tiếng:
- Ông ấy là một người chồng tốt, nhưng hay rắc rối.
Ông Samuel thì nghĩ thầm, đúng vào lúc mình hiểu bà ấy nhất, thì bà ấy lại xử trí như vậy.