Chương 16

Tháng hai ở Salinas gần như ẩm ướt, lạnh lẽo và ảm đạm. Những cơn mưa thật nặng hạt thường đổ xuống. Tháng hai năm 1915 là tháng mưa nhiều nhất trong năm.

Gia đình Trask ở Salinas rất vững vàng. Chú Lee sau khi từ bỏ giấc mộng mở hiệu sách, đã tạo dựng một giang sơn mới cho riêng mình trong ngôi nhà sát bên lò bánh Reynaud’s. Lần đầu tiên trong đời chú xây cất một mái nhà cho riêng mình, sửa sang tu bổ để tính chuyện lâu dài.

Phòng ngủ lớn gần mặt lộ được Lee dựng những giá sách, trải thảm mỏng và dán những mẫu in trên tường. Chú đặt một chiếc ghế bành sâu kiểu Morris ngay dưới ngọn đèn đọc sách kiểu đẹp nhất mà chú tìm ra được.

Tự tin vào sự tín nhiệm của ông Adam, chú sắp xếp lại nhà cửa, Adam không phản đối một tiếng nào. Một bếp ga được đem về nhà, mắc dây điện, một máy điện thoại và một thùng ướp lạnh lớn.

Hiếm có một ngôi nhà nào ở thị trấn Salinas được trang bị đầy đủ như vậy chỉ trong một thời gian ngắn. Lee tự biện bạch việc làm của mình với ông Adam rằng: “Ông có thừa tiền nếu không biết hưởng những tiện nghi đó thì uổng lắm.”

Adam hỏi ý kiến Lee:

- Tôi có phàn nàn gì đâu! Tôi còn muốn sắm một vài thứ nữa kia. Theo chú thấy tôi cần mua cái gì nữa nào?

- Ông hãy đến tiệm bán nhạc cụ Logan nghe thử vài loại máy hát mới xem có thích không?

- Được rồi tôi sẽ làm theo chú.

Rồi ông sẽ mua một chiếc máy hát dĩa hiệu Victor, và thường ghé lại hiệu Logan để xem có những đĩa nhạc nào mới về không.

Những tiến bộ nhanh chóng của thế kỉ đã kéo Adam ra khỏi chiếc vỏ ốc của mình. Ông gởi mua dài hạn Nguyệt san “The Atlantic Monthly” và tạp chí “The National Geographic”. Chiếc tủ lạnh mới làm ông ta say mê. Ông mua một cuốn sách giảng giải về làm đông lạnh và bắt đầu nghiên cứu.

Thật ra thì Adam thấy cần làm việc, ông đã thức tỉnh khỏi cơn mê khá lâu của mình và bây giờ thấy cần làm một việc gì.

Một hôm Ông nói với chú Lee:

- Tôi thấy rằng tôi cần phải bắt tay vào một công việc.

- Ông có biết mình muốn làm gì không? Tôi không tin ông rành công việc lắm đâu.

- Sao lại không chứ?

- Có lẽ ông chỉ nghĩ tới cho vui vậy thôi. - Lee nói.

- Chú Lee, chú không đọc báo sao? Trong đó đăng tin người ta vừa đào được một con voi đời thượng cổ tại Tây Bá Lợi Á. Xác voi vùi sâu trong lớp băng từ nhiều ngàn năm trước nhưng thịt vẫn còn tươi ngon.

Lee mỉm cười nhìn ông nói:

- Ông giàu tưởng tượng quá. Với những cục đá nhỏ xíu trong tủ lạnh đó ông sẽ làm được gì?

- Nhiều việc lắm chứ.

- Ông nói đùa hay nói thật? Nhiều thức uống để lạnh có vị hôi kia mà.

- Đó là một vấn đề. - Adam nói, - tôi vẫn nghĩ rằng chú có thể giữ được thực phẩm lâu nếu chỉ để đủ lạnh thôi.

Chú Lee nói:

- Đừng bỏ thứ thịt voi thượng cổ đó vào tủ lạnh của chúng ta, không được đâu.

Nếu ông Adam nghĩ được hàng ngàn sáng kiến như ông Samuel Hamilton thì có lẽ tất cả sẽ trôi qua dễ dàng nhưng ông ta lại chỉ nghĩ ra được có một sáng kiến. Chuyện thịt voi thượng cổ ướp lạnh vẫn nằm nguyên trong trí ông. Những tách nước trái cây, những miếng bánh phu-đinh, những miếng thịt nhỏ, tất cả đều được nấu chín vẫn tiếp tục được đặt trong tủ lạnh. Đối với hạng người suốt đời chỉ nghĩ được một sáng kiến, việc ướp lạnh thực phẩm đã trở thành một ám ảnh không nguôi trong đầu Adam.

Salinas đã có một hãng nước đá, đủ cung cấp những thùng ướp lạnh cho một số gia đình và đủ phục vụ cho những hiệu làm kem lạnh. Adam bắt đầu đi quan sát hãng làm nước đá và chẳng bao lâu ông đã có thể đem những lon nước đá nhỏ đến những phòng đông lạnh. Ông ta ước gì ông Sam Hamilton còn sống để thảo luận với mình. Một chiều mưa ông đi bộ từ hãng nước đá về, đang nghĩ đến ông Sam Hamilton thì gặp cậu con là Will Hamilton, ông liền mời.

- Cậu ghé vào tôi dùng bữa cho vui. Tôi còn hỏi ý kiến cậu một chút.

- Tôi cũng muốn ghé vào lắm chứ nhưng tôi có chút việc cần giải quyết gấp. Nếu xong sớm tôi sẽ ghé lại ngay.

Lúc này Will Hamilton đã trở thành một người làm ăn rất phát đạt. Gần như mọi vụ làm ăn đáng chú ý nào trong vùng sớm muộn gì cũng được anh ta nhào vào. Công việc của anh ta không mấy rõ ràng. Anh ta có thói quen lúc nào cũng tỏ ra lăng xăng bận bịu.

Anh ta ăn tối tại hiệu Abbot House. Một hồi lâu sau anh ta thả bộ đến góc đường Central Avenue và bấm chuông nhà ông Adam Trask.

Hai cậu con của ông Adam đã đi ngủ. Lee đang ngồi mạng những chiếc vớ mà hai cậu bé sinh đôi thường mang đi học. Ông Adam thì đang đọc tạp chí khoa học Scientific American. Ông mời Will vào và kéo ghế mời anh ngồi. Chú Lee thì đi pha một ấm cà phê rồi trở lại chỗ cũ ngồi mạng vớ.

Will ngồi xuống ghế, lấy ra một điếu xì gà đen bự châm lửa hút. Anh chờ ông Adam khai mào câu chuyện.

Ông Adam hỏi:

- Thời tiết thay đổi cũng khá dễ chịu phải không? Má anh vẫn mạnh chứ?

- Vẫn mạnh. Hai chú bé chắc lớn nhiều phải không?

- Ồ, chúng lớn nhanh lắm. Aron là một học sinh giỏi và đàng hoàng. Cal thì lại thích việc canh nông hơn.

- Đồng ruộng cần những nhà canh nông tiến bộ biết nhìn xa.

Will hơi sốt ruột vì chờ mãi chưa thấy ông Adam vào đề. Phải chăng ông ấy đang định mượn tiền mình? Anh vội nói:

- Tôi không ngồi lâu được vì có hẹn sẽ gặp một người bạn tối nay. Ông muốn gặp tôi có chuyện gì vậy?

Adam nói:

- Giữa lúc tôi đang nghĩ đến ba anh thì gặp anh. Nên tôi có ý muốn gặp anh để nói chuyện chơi.

Will ngồi dựa người ra thành ghế nói:

- Ông cụ rất mau miệng.

- Dù sao ông ấy cũng có công giúp tôi nhiều về phương diện. - Adam nói.

Lee ngưng mạng vớ nhìn lên nói với Will:

- Anh có nghe ở đâu tận vùng Tây-Bá-Lợi Á người ta có đào được một con voi thượng cổ từ dưới lớp băng lên không? Con voi đó đã bị chôn dưới lớp băng tuyết hàng trăm ngàn năm rồi mà thịt vẫn còn tươi ngon.

- Voi thượng cổ à?

- Vâng, một loại voi đã sống trên địa cầu này từ thời thượng cổ.

- Mà thịt vẫn còn tươi ngon à?

- Tươi ngon như thịt heo mới xẻ vậy. - Chú Lee vừa nói vừa lồng chiếc khung gỗ hình quả trứng vào chỗ đầu gối của chiếc vớ dài.

- Hay quá nhỉ? - Will nói.

Ông Adam cười ra tiếng:

- Chú Lee nói hơi quá một chút, nhưng cũng sẽ đúng như vậy. À, tôi muốn nói với anh một sáng kiến mà tôi vừa nghĩ ra và nhờ anh góp ý kiến vì anh là một tay thạo việc làm ăn.

Will quên hẳn tính dè dặt cố hữu của mình nói:

- Đúng vậy.

Adam nói:

- Tôi đã nghiên cứu ngành kĩ nghệ ướp lạnh và tôi có một dự định. Đây là một dự tính lớn và có lẽ có nhiều khía cạnh cần bàn tính kĩ.

Will đặt hai bàn chân xuống sàn nhà, ngồi lại ngay ngắn, kéo quần lên cẩn thận, nói:

- Ông cứ nói hết thử xem.

- Đất nước đã thay đổi nhiều. Người dân không còn sống theo lối xưa. Anh có biết thị trường tiêu thụ cam lớn nhất ở nơi nào không?

- Không. Ở đâu vậy?

- Đô thị Nữu Ước. Tôi đã đọc trên báo điều đó. Ở những vùng lạnh lẽo của nước ta, anh có nghĩ rằng nhiều người muốn có nhiều thứ không có trong mùa đông. Chẳng hạn như đậu, rau diếp và cải bông. Suốt trong nhiều tháng họ không có những thức đó. Nhưng tại thị trấn Salinas này chúng ta có thể trồng các loại đó quanh năm.

- Ở đây đâu phải là ở đó, - Will nói. - Ý ông định thế nào?

- Này anh Will, nếu chúng ta biết cách sắp những cây nước đá thế nào để có thể ướp được rau diếp và gói rau trong những hộp giấy có tráng một lớp sáp thì có thể giữ rau tươi ngon được trong vòng ba tuần lễ.

Will dè dặt nói:

- Ông cứ nói tiếp đi.

- Anh đã biết đường xe lửa để tải những toa cam rất tiện. Anh nghĩ xem chúng ta có thể tải rau diếp tới duyên hải miền đông vào giữa mùa đông được không?

Will hỏi:

- Chương trình của ông thế nào?

- Tôi nghĩ đến chuyện mua nước đá tại hãng nước đá ở Salinas này ướp vài thứ rau cải rồi chở đi.

Will Hamilton bặm môi lại đầy vẻ tức bực nói:

- Mỗi khi một người nào đến hỏi ý kiến tôi về một vấn đề gì, tôi thường thấy họ không cần đến lời khuyên của tôi. Người đó chỉ muốn tôi đồng ý với mình. Nhưng tôi thật tình mến ông vì ông là một người bạn của gia đình tôi nên tôi sẽ nói thật ý kiến của tôi.

Lee đặt khung gỗ mạng vớ và giỏ may xuống đất, rồi thay cặp kiếng đeo mắt chăhú chờ nghe.

- Tôi xuất thân từ một gia đình có nhiều sáng kiến và từng sáng chế ra nhiều thứ, - Will nói tiếp. - Chúng tôi bàn cãi suốt trong các bữa điểm tâm và có khi say mê bàn cãi quên cả điểm tâm. Tôi là người duy nhất trong gia đình, trừ mẹ tôi, không có nhiều sáng kiến như những anh em khác và tôi là người trước đây không kiếm ra lấy một xu nào. Nếu ông muốn ném qua cửa sổ bốn năm chục ngàn Mỹ kim một cách nhanh chóng thì ông cứ việc tiếp tục thực hiện sáng kiến của ông.

- Anh thấy sáng kiến đó hỏng ở điểm nào?

- Sáng kiến đó hỏng hoàn toàn. Những người dân ở miền đông không có thói quen dùng rau trong mùa đông. Họ không hề mua rau. Ông có chở rau đến cũng vô ích. Thị trường không tiêu thụ. Chúa ơi, tôi phát khiếp khi nghe ông định thực hiện sáng kiến duy nhất đó của ông.

Mặt Will đỏ gấc lên và giọng anh ta như nghẹn lại trong cổ họng.

Adam quay sang chú Lee hỏi:

- Chúng ta còn bánh mứt chanh vừa dùng trong bữa tối không?

- Chắc không còn. Tôi nghe tiếng lũ chuột sục sạo trong nhà bếp nãy giờ. Có lẽ chỉ còn một ít trứng để dành cho hai chú bé. Nhưng rượu whisky thì ông đã uống hết nửa cái phần tư chai đó rồi.

- Vậy hả? Tại sao chúng ta không đem uống nốt chỗ còn lại đó cho rồi?

Will cười cười nói:

- Ý kiến hấp dẫn đó. Tôi cũng thích uống một chung cho vui.

Anh ta uống hai chung rồi thôi. Ngồi dựa ngửa một cách thoải mái, anh ta bắt đầu giãi bày ý kiến với Adam.

- Có nhiều cái vẫn không hề thay đổi giá trị của chúng. Nếu ông muốn bỏ tiền ra làm một việc gì, ông hãy nhìn một vòng quanh thế giới. Cuộc chiến tại Âu châu sẽ còn kéo dài một thời gian lâu. Tôi sẽ không ngạc nhiên gì cả nếu chúng ta nhảy vào vòng. Tôi không tin tưởng gì ở ông Wilson, ông ấy chuyên môn lý thuyết và ưa đại ngôn. Nếu chúng ta nhảy vào vòng chiến, chúng ta sẽ có cơ hội hái ra tiền với các vụ thầu thực phẩm không bị hư thối. Ông có thể trữ gạo, bắp, lúa mì và đậu, sẽ có khối người cần mua để sống. Tôi khuyên ông nên dành cả nông trại của ông trồng toàn đậu rồi đem trữ lại đó, bảo đảm rằng các con ông sẽ không lo gì về ngày mai nữa hết.

Anh ta từ giã chủ gia, với tâm trạng thoải mái vì đã nói ra những lời khuyên xác đáng.

Sau khi Will đã đi khỏi, Lee đem ra một phần ba cái bánh nhân mứt chanh cắt làm hai phần nói:

- Anh ấy đã quá mập rồi. À, hãng nước đá của ông tới đâu rồi?

- Tôi sẽ mua như đã dự định.

- Ông cũng nên trồng một ít đậu nữa. - Lee nói.

*

Gần cuối năm đó, Adam đã làm một cố gắng lớn thật là một năm đầy những cảm giác mạnh đối với ông. Trong khi ông xúc tiến công việc, các thương gia nói về ông như một người biết nhìn xa. Chuyến khởi hành sáu toa xe rau diếp gói trong hộp và ướp nước đá khiến dư luận phải chú ý. Phòng thương mãi đứng ra tổ chức chuyến khởi hành. Sáu toa xe được trang hoàng những bảng quảng cáo mang hàng chữ: “Rau diếp của thung lũng Salinas”.

Adam không ngờ mình có đủ nghị lực thực hiện một công việc khá quy mô như vậy. Gặt hái chọn lọc sửa soạn, vô hộp, ướp lạnh và chuyên chở. Chừng đó công việc mà không có dụng cụ máy móc nào giúp sức cả. Mọi việc đều do những bàn tay nhân công được thuê mướn và huấn luyện để hoàn thành công tác. Ông Adam đã phải tốn một khối tiền của để thực hiện sáng kiến mà ông ta đã nghĩ ra, nhưng tốn kém đến cỡ nào thì không ai biết. Chỉ chú Lee mới biết thôi.

Sáng kiến có vẻ hay lắm. Rau diếp được gửi đến thị trường Nữu Ước bán với một giá phải chăng. Rồi xe lửa quay về và mọi người nằm nhà chờ đợi kết quả.

Nếu mọi việc xong suốt như dự trù thì cũng không đến nỗi nào nhưng một kẻ thù bất ngờ đầy quyền năng làm hỏng cả chương trình. Khi chuyến xe lửa đến ngang vùng Sacraments thì một trận tuyết lở đã làm nghẽn lối tại Sierras mất hai ngày. Sáu toa chở rau phải đứng yên một chỗ, nước đá tan đi hết. Ngày thứ ba chuyến tàu chở hàng mới vượt được vùng núi vì thời tiết khắp vùng trung tây đã trở nên ấm áp. Tại Chicago không biết vì những mệnh lệnh mơ hồ nào và do lỗi của ai, sáu toa rau diếp của ông Adam đứng lại trong sân ga thêm năm ngày nữa. Chừng đó cũng đã quá đủ. Khi đến Nữu Ước sáu toa rau chỉ còn là những thứ hư thối khủng khiếp không ai ngửi nổi.

Đọc xong bức điện tín do hãng nhận hàng gửi tới. Ông Adam ngồi tựa lưng ra thành ghế với một nụ cười lạ lùng như mếu trên nét mặt. Ông ngồi sững như vậy thật lâu.

Hai chú bé nghe cái dư luận tại Salinas ngay sau đó. Ông Adam như người mất trí. Những kẻ mơ mộng nay đều vỡ mộng. Một người liều lĩnh đã tiêu ma một món tiền lớn. Có lẽ việc này sẽ dạy ông ta một bài học nhớ đời.

Khi chú Lee cảm thấy khoảng thời gian thử thách đã tạm đủ, chú mạnh dạn ngồi đối diện với ông Adam để bàn thẳng vào vấn đề.

- Ông không thu mình trở lại cuộc sống khép kín của ông nữa chứ?

- Sao chú lại hỏi tôi câu đó? - Adam hỏi.

- Nhìn nét mặt cố hữu của ông nên tôi mới hỏi như vậy.

- Tôi cũng chưa biết tính sao đây.

- Còn tính gì nữa. Ông còn được chín ngàn Mỹ kim và nông trại. Có lẽ ông nên bán nhà máy nước đá cho rồi.

Nét mặt ông Adam đanh lại và tắt cả nụ cười chua chát nói:

- Tôi vẫn tin rằng công việc có thể sẽ tiến triển thuận lợi hơn. Vừa rồi chỉ là vài tai nạn bất ngờ. Tôi vẫn duy trì nhà máy nước đá. Nước đá cần để giữ gìn nhiều thứ. Vả lại nhà máy đang mang lại lợi tức. Có thể tôi sẽ nghĩ ra được một vài phương cách.

- Ông đừng nghĩ thêm những sáng kiến tốn tiền tôi không muốn phải dẹp bỏ cái bếp hơi của tôi đâu.

Hai chú bé sinh đôi cảm thông sự thất bại của cha mình một cách sâu xa. Chúng đã được mười lăm tuổi và từ lâu chúng đã ý thức rằng mình là con của một người giàu có. Khó mà từ bỏ ý nghĩ đó được. Nếu các thương gia cười nhạo ông Adam cha chúng, thì bọn bạn trời đánh ở trường trung học còn ác độc hơn. Chẳng mấy chốc chúng đã gọi hai anh em song sinh hỗn danh: “Rau Diếp Aron và Cal” hay tắt hơn: “Thằng Rau Diếp”.

Aron đã bàn về vấn đề này với Abra rằng:

- Vụ này sẽ đưa đến một sự khác biệt lớn lao.

Abra đã trở thành một thiếu nữ nhan sắc. Chẳng những xinh đẹp cô ta còn khỏe mạnh chín chắn và duyên dáng.

Nàng nhìn vào bộ mặt lo lắng của Aron và hỏi:

- Tại sao lại có sự khác biệt?

- Vâng anh nghĩ rằng gia đình anh sau vụ thất bại này sẽ nghèo. Có thể ba má em sẽ không muốn em thành hôn với anh.

- Vậy thì em sẽ không nói cho ba má em biết về chuyện đó. - Abra nói.

- Em có tin chắc ở mình không?

- Em tin chắc ở mình lắm chứ. Hôn em đi.

- Ngay đây à? Ngay giữa đường thế này sao?

- Sao lại không?

- Mọi người thấy kì lắm.

Abra mạnh dạn nói:

- Em muốn cho mọi người thấy và biết rằng em sắp là vợ của chàng Rau Diếp.

Aron liếc nhìn nàng một cái thật nhanh và nói:

- Có lẽ anh đến phải bỏ cuộc mất. Bây giờ anh đã trở thành một thằng con trai nghèo nàn. Em tưởng anh không thấy thái độ phân biệt ở ba em sao?

- Anh chỉ nói khùng.

Abra cau mày nói thế nhưng nàng chỉ khẽ cau mày lấy lệ thôi vì nàng cũng thấy có thái độ ấy ở cha nàng thật.

Hai đứa ghé vào một tiệm bánh kẹo và giải khát, ngồi vào một chiếc bàn. Rau cần tây là thức uống thịnh hành năm đó.

Abra vừa khuấy bọt ly nước uống bằng cọng rơm vừa suy nghĩ không hiểu vì lẽ gì cha của mình đã thay đổi thái độ từ khi vụ rau diếp của ông Adam thất bại. Ông đã từng nói với nàng: “Con phải biết rằng thấy rõ được sự thất bại của người khác để rút kinh nghiệm là một thái độ khôn ngoan.” Nàng cũng thấy gần đây có những cuộc bàn tán trong các gia đình sau khi có tin ông Adam lỗ lã mất hết tất cả tiền bạc.

Nàng chồm qua cạnh bàn nói:

- Anh biết chúng ta có thể làm được gì không? Chúng ta có thể canh tác nông trại của ba anh. Ba của em nói rằng đó là một vùng đất màu mỡ.

Aron trả lời ngay:

- Không. Anh muốn học đại học. Anh muốn thoát khỏi chốn này. Mọi người đều nhạo báng anh. Anh không chịu đựng nổi đâu.

- Họ sẽ quên ngay mà. - Nàng nói.

- Không. Họ sẽ không quên đâu. Ô! Tại sao ba anh lại nhúng vào những việc mà ông chẳng hiểu chút nào.

Abra lý luận:

- Đừng nên trách cứ ba anh không nên. Nếu công việc có kết quả tốt đẹp mọi người đã nghiêng mình thán phục ông.

- Nhưng công việc đã thất bại. Ông đã làm nhục luôn tới anh. Anh bị mất mặt. Anh ghét ổng lắm.

Abra đỏ mặt lên vì tức giận:

- Anh đáng bị đánh đòn. Nếu ở chỗ vắng không có ai, em sẽ tự tay tát vào mặt anh.

Nàng nhìn thẳng vào khuôn mặt bảnh trai của Aron bây giờ đã đanh tại vì tức giậu cau có, nàng nói tiếp:

- Có lúc em chỉ muốn giết anh, nhưng Aron, đồng thời em cũng yêu anh biết chừng nào.

Có tiếng cười khúc khích ở chiếc bàn gần quày bán sô đa. Tiếng cười càng lớn hơn vang đến tai hai người. Aron thẹn chín người. Những dòng lệ uất hận trào lên trong khóe mắt. Anh bỏ chạy ra khỏi tiệm nước và phóng ra đường.

Abra lặng lẽ cầm ví tay lên. Nàng bước tới chỗ ông Bell trả tiền mấy ly nước rau cần tây. Trước khi ra khỏi tiệm nàng dừng lại trước bàn có mấy người vừa cười nhạo lạnh lùng nói:

- Các người hãy để cho anh ấy yên.

Rồi nàng xoay mặt bỏ đi. Một tên trơ tráo trong bọn nhại giọng eo éo nói với theo: “Ô, anh Aron, đồng thời em cũng yêu anh biết chừng nào.”

Ra tới đường nàng rảo chân chạy để cố bắt kịp Aron nhưng vẫn không thấy Aron đâu cả. Nàng đi qua đi lại các đường phố Salinas hi vọng bắt gặp chàng đâu chăng. Nàng đâm giận dỗi chàng, nhưng cũng cảm thấy mình trơ trọi vô cùng. Aron từ trước đến nay chưa bao giờ trốn tránh nàng thế này. Abra không còn thói quen thích sống cô đơn như trước nữa.

*

Cal đã quen sống cô độc. Mỗi lần anh thử đi theo Abra và Aron nhưng họ không muốn có sự hiện diện của anh. Anh đâm ghen tức và thử tìm cách lôi cuốn sự chú ý của cô gái nhưng thất bại.

Việc học hành đối với Cal quá dễ dàng nhưng không đáng quan tâm lắm. Anh không để ý nhiều đến các môn thể thao ở trường cũng như các hoạt động khác. Một niềm khắc khoải lớn lao thúc đẩy Cal rời khỏi nhà lang thang suốt đêm. Cal cao lớn và mảnh khảnh. Lúc nào trông anh cũng có vẻ trầm ngâm. Aron thường được mọi người yêu mến vì vẻ bảnh trai và tính đơn giản. Cal cố bắt chước anh mình. Cal cũng khao khát được tình cảm thương mến, như mọi người.

Ở Aron người ta thấy vẻ thật thà dễ mến bao nhiêu thì ở Cal với nét mặt sậm màu người ta thấy vẻ khép kín, khó chịu bấy nhiêu. Khi một người có mặc cảm bị hắt hủi, người đó nhìn ở đâu cũng tưởng tượng ra toàn những chuyện bị hắt hủi. Chính vì điểm đó mà Cal đã dựng lên một bức tường khép kín vô hình quanh mình, bức tường đủ vững chãi để tự bảo vệ mình chống lại thế giới bên ngoài. Nếu bức tường này có những chỗ yếu nào thì chỉ là những chỗ dành cho những người thân nhất như Aron, chú Lee và đặc biệt là ông Adam cha anh.

Từ khi còn là một cậu bé, Cal đã khám phá ra một bí mật. Nếu Cal rón rén đến bên chỗ cha nó đang ngồi và khẽ tựa vào đầu gối của ông, thì bàn tay ông sẽ tự động đặt lên vai Cal vuốt ve. Cử chỉ đó của ông Adam gần như vô thức. Nhưng sự vuốt ve đó đã gây cho cậu bé những cảm giác sung sướng khó tả mà nó nhớ mãi và thỉnh thoảng áp dụng khi thấy cần. Lệ thuộc vào một cảm giác như vậy kể cũng lạ thật.

*

Tuy chú Lee biết Cal thường rời khỏi nhà vào ban đêm và mãi đến sáng hôm sau mới về nhưng chú vẫn làm ngơ như không biết, vì chú biết không thể làm được gì. Thỉnh thoảng vài cảnh binh gác đêm cũng thấy Cal lang thang một mình. Họ thấy anh ta nhìn vào các quán đông chơi bài của khu phố người Trung Hoa, dù anh ta không tham dự vào. Ông tỉnh trưởng Heiserman nhấn mạnh vào điểm đó với nhân viên đi tuần và bảo đảm rằng Cal không làm gì bậy cả mà hiện nay Cal còn là một học sinh rất giỏi. Viên tỉnh trưởng dĩ nhiên là có quen biết với ông Adam, và vì thấy Cal không gây rắc rối gì nên ông mới dặn các cảnh binh cứ để cậu ta yên trừ khi cậu ta làm điều gì quấy.

Trong các chuyến đi lang thang đó, Cal thường nhớ lại cuộc đối thoại giữa chú Lee và cha mình mà cậu ta đã nghe lóm được ở nông trại. Cal muốn đào bới ra sự thật. Dần dần nó càng hiểu rõ vấn đề nhờ một cuộc bàn cãi ngoài đường và một vụ nhục mạ tại hồ tắm. Cal biết rằng mẹ nó chưa chết và qua cuộc nghe lóm đó, nó cũng biết rằng Aron không muốn khám phá ra mẹ mình đang làm gì.

Một đêm kia, Cal chạy thẳng đến gặp Rabbit Talbot, một tá điền cũ của cha mình ở tận San Ardo, ông này đang say khật khừ. Rabbit tiếp đón Cal một cách niềm nở đúng như cách thức của một người dân quê tiếp đón một người quen ở một chỗ lạ.

Rabbit đang tu một chai rượu màu hồng trên con hẻm phía sau quán Abbot House, nói hết những gì mà ông ta nghĩ trong đầu. Ông ta đã bán một miếng đất nhỏ của mình với một giá hời và đã lên Salinas để ăn mừng, có nghĩa là ông ta ghé lại đường Castroville để chứng tỏ mình là một người đàn ông thực sự.

Cal lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh ông ta lắng nghe. Uống đến nửa chai rượu thứ hai, Rabbit chẳng những quên Cal là ai mà còn quên luôn cậu ta mấy tuổi, ông ta chỉ còn nhớ lờ mờ rằng đây là một cậu bé quen biết rất lâu của mình. Ông ta nói:

- Cậu George, này cậu muốn hỏi tôi việc gì? Tôi sắp đi đến ổ nhện của bà Kate bây giờ đây. Cậu còn nhớ bà Kate là ai chứ cậu Harry? Bà ấy là vợ của ông Adam Trask, mẹ của hai cậu con trai sinh đôi khốn khổ. Đừng quên rằng đã có lần bà ấy bắn ông chồng rồi bỏ đi. Bắn vào vai ông ta một phát rồi dông tuốt. Này cậu George, hãy đỡ tôi dậy. Chúng ta cùng xuống ổ nhện đó nhé.

Cal bước theo sau cách Rabbit một quãng để ông ta không để ý gì đến mình cho đến khi tới trước một khoảng sân rộng có chiếc cổng gỗ không sơn phết gì cả. Dù Cal khá cao lớn so với tuổi của mình nhưng cậu ta cũng nhổm đầu ngón chân lên cho cao hơn nữa. Người gác cổng không nhìn kĩ vào mặt Cal. Cậu ta cũng không nán lại lâu và căn phòng mờ mờ với những ngọn đèn thắp kín đáo cùng những người đàn ông đang thấp thỏm chờ đợi đã che khuất sự hiện diện của cậu ta.

*

Sau lần ghé lại nhà bà Kate, Cal cảm thấy thất vọng ê chề và muốn có dịp thổ lộ tâm sự đó với một người nào.

Một đêm kia, trong khi Lee đang gõ lốc cốc trên chiếc máy chữ thì nghe có tiếng gõ cửa. Chú ra mở cho Cal vào. Cal ngồi ở mép giường. Lee buông thân hình gầy guộc của mình trong chiếc ghế bành hiệu Morris. Chú vòng tay trước ngực nhẫn nại chờ đợi. Cal nhìn vẩn vơ phía trên đầu chú Lee.

Bỗng Cal lên tiếng nói nhanh và thấp giọng:

- Tôi biết mẹ tôi hiện ở đâu và đang làm gì. Tôi đã thấy mặt bà.

Chú Lee bối rối nhưng cũng ôn tồn hỏi:

- Cal muốn biết để làm gì kia chứ?

Nhiều câu hỏi xoáy lên trong đầu khiến Cal lúng túng giây lát mới tìm được một câu:

- Ba tôi có biết chuyện đó không?

- Biết.

- Vậy tại sao ông ấy lại nói dối rằng bà đã chết.

- Để hai cậu khỏi xấu hổ.

Cal hỏi tiếp:

- Có lần mẹ tôi đã bắn ba tôi phải không?

- Có.

Cal ngồi im một lát lâu đến nỗi những ngón tay của chú Lee bắt đầu thấy run run phải nắm chặt vào hai cổ tay để ghìm lại. Đến khi Cal cất tiếng nói trở lại chú mới thấy nhẹ người bớt. Giọng nói của cậu ta đã đổi khác, bây giờ có vẻ năn nỉ:

- Chú Lee, chú có biết bà, vậy chú hãy cho tôi biết bà ấy thuộc hạng người thế nào?

Lee khẽ thở dài, hai bàn tay nới lỏng ra rồi nói:

- Này Cal, theo tôi thấy thì hình như bà ấy không giống như những người bình thc. Bà ấy thiếu nhiều đức tính. Tâm hồn bà đầy ắp thù hận, nhưng tôi không hiểu tại sao bà lại thù hận như vậy và với mục đích gì? Nỗi thù hận của bà thật khác thường. Không phải là nỗi phẫn nộ thường. Trái tim của bà gần như không hề rung động vì bất cứ thứ tình cảm nào. Tôi chỉ có thể nói được chừng đó vì không biết gì hơn.

Cal hỏi thêm:

- Còn ba tôi thì thế nào?

- Câu hỏi này thì tôi thừa sức trả lời. Theo tôi thấy thì ba của cậu có tất cả những đức tính mà mẹ của cậu thiếu sót. Tôi tìm thấy ở ông ấy sự tốt bụng và lòng ngay thật lớn đến nỗi những đức tính đó gần như trở thành khuyết điểm của ông và làm cho ông khổ sở điêu đứng.

- Khi bà ấy bỏ đi ba tôi có phản ứng thế nào?

- Ông như người chết rồi. Mãi đến gần đây ông mới hơi có vẻ sống lại phần nào.

Chú Lee thấy nét mặt Cal ngời lên một sắc thái khác lạ. Hai mắt cậu ta mở lớn hơn, chiếc miệng đang mím chặt bỗng dãn ra. Hai vai cậu ta từ nãy giờ đã rùn lại bây giờ cũng nở ra.

Chú Lee hỏi:

- Hỏi làm gì vậy Cal?

- Tôi thương ba tôi hết sức.

- Tôi cũng rất thương ông ấy. - Chú Lee nói.

Bỗng Cal đứng bật lên nói:

- Thôi, chú Lee ngủ ngon nhé!

- Khoan đã. Cậu đã nói chuyện đó lại với ai chưa?

- Chưa.

- Cậu đừng nói với Aron làm gì nhé. Cậu khoan đi, tôi muốn hỏi cậu một câu, cậu có ghét mẹ cậu không?

- Ghét. - Cal trả lời.

- Tôi thấy làm lạ rằng ba cậu không hề có vẻ giận ghét gì bà ấy cả. Ông chỉ biết buồn thôi.

Cal thọc hai nắm tay vào túi quần nói:

- Tôi ghét bà ấy lắm vì tôi biết tại sao bà đã bỏ đi. Tôi biết. Vì tôi mang dòng máu của bà trong tôi.

Cậu ta cúi gằm mặt xuống và giọng nói chua xót.

Chú Lee đứng bật dậy hăng hái nói:

- Cậu đừng nên nói như vậy. Cậu có chịu nghe lời tôi không? Dĩ nhiên cậu có mang dòng máu của bà ấy trong người. Người nào cũng mang dòng máu của mẹ trong huyết quản, nhưng cậu cũng mang một dòng máu khác. Cậu hãy ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào tôi coi nào!

Cal ngẩng mặt lên mệt mỏi hỏi:

- Chú còn muốn nói gì nữa?

- Hãy nghe tôi nói đây. Cậu còn mang trong người một dòng máu khác. Cậu không thể không nghĩ đến điều này. Cậu không thể nghĩ một cách nông cạn như vậy được. Cậu đừng vin vào huyết thống của một người nào trong dòng họ mình một cách quá dễ dãi như vậy. Cậu hãy nhìn thẳng vào mặt tôi để nhớ kĩ điều này. Bất cứ việc gì cậu làm đều tùy thuộc vào cá tính riêng của cậu, cậu hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành động của mình, chứ không phải tùy thuộc vào mẹ cậu. Tôi tin như vậy và bắt buộc cậu phải tin như vậy, nếu không tôi sẽ dần cậu một trận cho cậu mở mắt ra.

Sau khi Cal đã ra khỏi phòng, Lee lại ngồi xuống chiếc ghế bành của mình. Chú hối hận nghĩ thầm: “Mình đã nổi nóng trái với tinh thần trầm lặng đông phương của mình mất rồi.”

Điều khám phá của Cal về tông tích của mẹ mình chỉ là một minh chứng chứ không phải là một sự kiện mới mẻ gì. Từ lâu Cal đã biết lờ mờ về chuyện đó. Cậu ta đã nóng lòng muốn biết sự thật nhưng sự hiểu biết đó không đem lại cho nó an ủi nào.

Cơ thể của Cal đang phát triển để trở thành một người đàn ông. Cậu ta đang ở thời kì trưởng thành. Trong tâm hồn cậu bừng lên lòng yêu thương cha mình và muốn tìm cách bù đắp những gì ông mất mát, đau buồn. Có lần Cal đi xộc vào phòng tắm trong khi ông Adam đang tắm. Cậu ta nhìn vết sẹo xấu xí trên cánh tay của cha và đã hỏi ông: “Sao ba có vết sẹo đó vậy ba?”

Ông Adam đưa mấy ngón tay lên xoa vết sẹo như muốn san phẳng đi và nói:

- Đó chỉ là một vết thương cũ hồi ba đi dự những trận đánh nhau với mọi da đỏ. Có dịp ba sẽ nói cho con nghe về chuyện đó.

Cal chỉ muốn la lớn lên rằng:

- Con biết vì đâu ba bị vết thương đó và không có gì đáng giấu cả.

Nhưng dĩ nhiên anh không dám thốt ra câu đó mà chỉ nói:

- Con muốn được nghe ba kể lại chuyện đó.

Aron cũng đang trải qua thời kì trưởng thành, nhưng chàng có khuynh hướng nghiêng về tôn giáo hơn. Chàng dự định trong tương lai sẽ vào trường thần học để trở thành mục sư. Chàng tham dự tất cả những buổi lễ tân giáo ở Hội Thánh Episopal Church và nói chuyện nhiều giờ với vị mục sư trẻ, ông Rolf. Cuối cùng chàng đã được gia nhập vào hội thánh đó và tham gia vào ban đồng ca trong những buổi lễ sáng chủ nhật.

Đương nhiên rằng sự theo đạo của Aron cũng ảnh hưởng đối với Cal. Lúc đầu Aron chỉ lặng lẽ cầu nguyện cho Cal, nhưng sau đó chàng tiến xa hơn. Chàng đả kích óc vô thần của Cal và yêu cầu Cal thay đổi quan niệm.

Cal có thể nghe theo nếu Aron khôn ngoan hơn một chút. Nhưng Aron có thái độ cuồng tín đến nỗi làm cho mọi người nổi sùng. Sau một bài thuyết giáo của Aron Cal thấy không chịu đựng được nên đã nói thẳng sự khó chịu của mình.

Sau đó Aron quyết định chọn cuộc sống độc thân. Abra hi vọng tình trạng này sẽ thay đổi. Nàng vẫn muốn kết hôn với Aron và sẵn sàng sanh bao nhiêu đứa con cũng được.

Cal nhìn anh mình ăn năn những tội lỗi tưởng tượng của chàng. Cal nghĩ đến chuyện nói tất cả sự thật về mẹ của hai anh em để Aron sẽ phản ứng ra sao nhưng rồi anh vội dẹp bỏ ý nghĩ đó. Cal biết rằng Aron không thể chịu đựng nổi sự thật phũ phàng đó.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện