Chương 1 - Chớm thu

1.

10h49' tối, ngày mùng 5 tháng Chín

Yokohama

Phía bắc mảnh đất nằm kế bên khu vườn cổ Sankeien, một vài toà nhà chung cư mười bốn tầng mọc lên sát cạnh nhau, tuy vừa xây xong nhưng hầu hết các căn hộ đều đã có chủ. Có tới gần trăm căn hộ trong mỗi toà nhà nhưng đa phần cư dân ở đây không hề biết mặt hàng xóm, chỉ có ánh đèn đang hắt ra từ phía những căn phòng nói lên sự tồn tại của họ.

Phía nam, mặt biển sóng sánh phản chiếu ánh sáng từ những ngọn đèn canh đêm của nhà máy. Bên ngoài bức tường bao, vô số những đường ống ngoằn ngoèo tựa như các mạch máu bò đi khắp cơ thể và đám đèn trang trí trông giống hệt lũ dạ quang trùng, mà với mỗi người cảnh tượng kỳ quái ấy ắt hẳn cũng có vẻ đẹp riêng của nó. Khu nhà xưởng im lìm in hình trên mặt nước.

Trên khu đất chia lô cách đó chỉ vài trăm mét, một ngôi nhà hai tầng mới xây đứng trơ trọi một mình. Cổng của ngôi nhà quay thẳng ra con đường một chiều chạy dọc từ bắc xuống nam, cạnh đó là bãi đậu chỉ vừa đủ chỗ cho một chiếc xe. Trông nó bình thường như mọi ngôi nhà khác mà người ta vẫn thường thấy ở những khu đô thị mới. Có lẽ bởi giao thông không thật thuận tiện nên chẳng mấy ai đến đây hỏi mua, những tấm biển Bán đất mọc lên khắp dọc con đường. So với mấy toà nhà chung cư đã không còn chỗ trống ngay khi vừa hoàn thiện, cảnh tượng của khu đất chia lô thật buồn tẻ.

Ánh đèn huỳnh quang lọt ra từ ô cửa sổ tầng hai đang mở toang của căn nhà nọ chiếu sáng cả một khoảng đường tối mịt. Trong ngôi nhà ấy, chỉ có căn phòng trên tầng hai của Tomoko sáng đèn. Oishi Tomoko là học sinh lớp 12 ở một trường trung học nữ tư thục. Cô đang ngồi trước quyển vở bài tập mở rộng. Mặc một chiếc áo phông trắng cùng với quần soóc, cô duỗi dài hai chân đón lấy luồng gió từ chiếc quạt điện đặt dưới nền nhà, vừa lấy tay phe phẩy vạt áo để gió thổi trực tiếp vào da mình vừa luôn miệng kêu nóng. Còn cả núi bài tập chưa làm xong. Tomoko lúc nào cũng đổ lỗi cho thời tiết nóng bức, nhưng thực ra mùa hè năm nay trời đâu có nóng lắm, chỉ vì kỳ nghỉ hè vừa rồi cô quá mải chơi. Trong năm, những ngày trời nắng rất ít, số lượng khách đi tắm biển kém hơn nhiều so với mọi năm. Tuy nhiên mùa hè vừa mới qua đi thì lập tức năm ngày liền sau đó trời oi bức như đang giữa hạ. Tomoko tỏ ra bực bội với cái thứ thời tiết như trêu ngươi ấy và thấy ghét ông trời.

... Nóng nực thế này thì học làm sao được...

Tomoko vén tóc rồi đưa tay mở to âm lượng chiếc máy thu thanh. Một con ngài đậu trên tấm cửa lưới ngay cạnh cô vừa chao cánh bay đi vì không thắng nổi sức gió của chiếc quạt. Tấm cửa lưới vẫn khẽ rung lên hồi lâu sau khi con ngài biến mất vào bóng tối.

Chẳng nhét được thêm tẹo chữ nghĩa nào vào đầu trong mấy phút vừa qua. Mai là ngày thi, nhưng cứ thế này thì có thức trắng cả đêm cũng không sao học được hết.

Cô đưa mắt nhìn đồng hồ. Sắp mười một giờ. Cô định bụng bật máy thu hình lên xem tin tức về giải bóng chày chuyên nghiệp. Biết đâu lại chả thấy bố mẹ cô ở trên khán đài. Nhưng kỳ thi ngày mai vẫn không dứt khỏi tâm trí cô. Dù thế nào Tomoko vẫn rất muốn vào đại học. Trường nào cũng được, miễn là có cái mác đại học. Kỳ nghỉ hè năm nay chưa làm cô thấy mãn nguyện. Cuộc chơi chưa đã vì thời tiết và cả cái thứ không khí oi bức nhớp nháp đáng kinh tởm này khiến cô cảm thấy chẳng muốn học bài tí nào.

... Ôi, giá mà mình có thể chơi một trận hoành tráng hơn nữa để chia tay kỳ nghỉ hè cấp ba cuối cùng. Thế là hết.

Trong cơn bực bội, mục tiêu cằn nhằn của Tomoko bỗng quay ngoắt sang đối tượng khác.

... Hừ, trong khi cô con gái đang nhễ nhại mồ hôi học bài thì hai người lại có thời gian rảnh rỗi để đi xem đấu bóng chày đêm cơ đấy. Xin các vị nghĩ cho con cái một chút chứ.

Bố mẹ cô đang đi xem trận đấu của đội Giants ở sân Tokyo Dome bằng tấm vé tình cờ có được từ mối quan hệ công việc. Nếu không tạt ngang vào đâu đó sau trận đấu thì lẽ ra giờ này bố mẹ cô đã phải về đến nhà rồi. Lúc này, chỉ có một mình Tomoko trong căn phòng rộng lớn.

Mấy hôm nay trời không có mưa, vậy mà không khí lại oi nồng đến lạ. Ngoài thứ mồ hôi nhớp nháp rỉ ra từ cơ thể mình, Tomoko còn cảm thấy rất rõ những giọt nước nhỏ li ti đang lơ lửng khắp căn phòng. Đột nhiên, cô vô thức vỗ tét vào đùi mình. Nhưng khi bỏ tay ra thì lại không thấy xác con muỗi nào cả. Có lẽ là tại cảm giác, vì rõ ràng cô vừa cảm thấy cái ngứa tập trung vào một điểm trên đầu gối. Tiếng đập cánh vo ve đâu đó. Tomoko lấy hai tay phẩy mạnh phía sau đầu mình. Một con ruồi. Con ruồi tạm thời biến mất khỏi tầm mắt Tomoko rồi thay đổi độ cao để tránh luồng gió từ chiếc quạt khi ra tới trước cửa. Nó lọt vào đây bằng đằng nào nhỉ? Cửa vẫn đóng. Tomoko kiểm tra lại tấm cửa lưới, nhưng không hề tìm thấy khe hở nào đủ để một con ruồi có thể chui qua. Tomoko tự dưng cảm thấy buồn tiểu và khát nước.

Chưa đến mức khó thở, nhưng cô cảm thấy một thứ áp lực nào đó, một thứ sức mạnh đang ép lấy ngực mình. Cô nàng Tomoko khi rồi vẫn còn lớn tiếng càu nhàu giờ đây bỗng im lặng như biến thành người khác. Tim cô đập mạnh một cách vô cớ lúc đi xuống cầu thang. Ánh đèn pha của chiếc ôtô chạy qua con đường trước nhà liếm xoẹt lên bức tường phía dưới cầu thang rồi biến mất. Khi tiếng động cơ nhỏ dần và xa khuất thì dường như bóng tối trở lại còn đen đặc hơn trước, khiến Tomoko phải cố gõ bước thật to lên các bậc cấp và với tay bật công tắc điện hành lang.

Tiểu tiện xong rồi Tomoko còn bần thần ngồi lại một lát trên bệ xí. Nhịp tim vẫn không chịu lắng xuống. Đây là lần đầu tiên cô bị thế này. Sao vậy nhỉ? Sau một vài cái hít thở thật sâu, cô đứng dậy, kéo cả chiếc quần lót lẫn quần soóc lên cùng một lúc.

... Papa, mama à! Mau về đi chứ.

Thế rồi giọng nói của cô bỗng nhiên mất hẳn sự ngang tàng.

... Sao mình lại sợ thế này, mình đang cầu xin ai đây?

Lời cầu xin đó không phải dành cho bố mẹ cô. Mà cho một cái gì đó hoàn toàn khác.

... Làm ơn đừng có doạ tôi.

Không biết tự lúc nào, giọng cô bỗng trở nên thật lễ phép.

Cô rửa tay trên bồn bếp, mở tủ lạnh lấy mấy viên đá bằng bàn tay ướt và thả vào trong cốc. Cô rót Coca-cola vào đầy cốc. Uống một hơi cạn sạch, cô đặt chiếc cốc lên quầy pha rượu. Mấy viên đá quay tròn trong lòng cốc rồi dừng lại. Tomoko chợt rùng mình. Cô thấy lạnh sống lưng. Vẫn chưa thoả cơn khát, cô lôi chai Coca-cola 1,5 lít từ trong tủ lạnh ra và rót vào cốc. Tay cô run bắn. Có cái gì đó ở sau lưng. Chắc chắn không thể là người. Cái gì đó như mùi thịt rữa, khăm khẳm đang tan ra bao bọc lấy bầu không khí... cái gì đó không phải là vật thể rắn.

- Làm ơn thôi đi mà!

Cô cất tiếng van lơn. Cái bóng đèn năm mươi oát chỗ bồn rửa bát bỗng lập loè như đom đóm. Bóng vẫn còn mới cơ mà, sao lại chập chờn thế nhỉ? Sao mình lại không bật hết đèn trong nhà lên kia chứ, Tomoko hối hận. Nhưng cô không thể đi đến chỗ cái công tắc. Thậm chí quay đầu lại cũng không thể. Cô biết đằng sau mình có cái gì. Có căn phòng kiểu Nhật, có bàn thờ của ông nội ở trên sàn. Và xuyên qua ô kính cửa sổ với tấm rèm để ngỏ là bãi đất có cỏ mọc đầy và ánh đèn như những ô kẻ ca-rô bé xíu của khu chung cư, chắc chắn là chỉ có thế.

Cốc Coca-cola thứ hai mới uống hết có một nửa, nhưng Tomoko không thể nào cử động được nữa. Linh tính báo cho cô biết về một thứ gì đó đang ở rất gần. Dường như nó vừa nhớp nháp vươn mình ra và chuẩn bị chạm vào gáy cô.

... Nếu là nó thì làm sao đây?

Cô không muốn nghĩ thêm nữa. Vì nếu cứ như thế này, cái sự việc xảy ra trước đó một tuần mà cô đã quên mất sẽ thức dậy trong trí nhớ và cô sẽ không thể chịu nổi nỗi sợ hãi đang lớn dần lên. Chỉ tại Shuichi đã nói ra điều đó... Nhưng khi trở về thành phố, chính cô cũng không còn tin vào cái hình ảnh đầy kích động ấy nữa - nó chỉ giống như một trò đùa. Tomoko muốn nghĩ tới một điều gì đó khác vui vẻ hơn. Nhưng, nếu là nó... Nếu đúng thật là nó thì sao? Chuông điện thoại đã reo đúng vào lúc đó mà.

... Ôi, bố mẹ đang làm gì thế?

- Mau về đi chứ!

Tomoko nói thật to. Song dù vậy, cái bóng đen ghê người ấy chẳng hề có ý định thoái lui. Nó vẫn im lìm nghe ngóng phía sau. Và chờ thời cơ đến.

Mười bảy tuổi, Tomoko chưa hiểu nhiều lắm về hình thù của nỗi sợ. Nhưng cô biết có một nỗi sợ đang tự nó lớn dần lên trong tưởng tượng của mình.

... Giá như không phải nó. Không, chắc chắn không phải là nó. Đằng sau mình chẳng có gì cả. Chắc chắn là không có gì cả.

Nỗi thèm muốn được quay đầu lại phía sau thôi thúc Tomoko. Cô muốn chắc chắn rằng chẳng có gì hết và nhanh chóng thoát ra khỏi trạng thái này. Nhưng có thật là chỉ đơn giản như vậy thôi không? Lưng cô sởn da gà. Cảm giác gai người bắt đầu từ bả vai trườn dọc sống lưng xuống dưới khiến tấm áo phông ướt đầm vì mồ hôi lạnh. Nếu chỉ là sự tưởng tượng đơn thuần thì cơ thể chẳng bao giờ phản ứng dữ dội đến thế.

... Ai đó đã nói: cơ thể bao giờ cũng thành thật hơn lý trí.

Cùng lúc, cô lại nghĩ: "Quay đầu lại đi, có gì đâu nào? Mau uống nốt chỗ côca rồi trở về bàn học kẻo không biết bài thi ngày mai sẽ ra sao đâu."

Cục đá trong cốc kêu đánh tách rồi vỡ vụn. Âm thanh đó bất đồ làm Tomoko giật bắn mình quay đầu ngược lại.

Đèn tín hiệu chuyển sang màu vàng. Kimura có đủ thời gian để vượt qua bên kia trước khi đèn đỏ nhưng hắn lại cố cho chiếc taxi đỗ dịch về phía bên trái. Chẳng gì tiện bằng nếu bắt được khách đi ngã tư Roppongi. Đã không ít lần hắn kiếm được khách hàng trong lúc chờ đèn đỏ như thế này, vì phần lớn khách chờ taxi ở đây thường đi về phía mạn Akasaka, Roppongi.

Chiếc môtô lướt qua sườn trái chiếc taxi rồi dừng lại ngay phía trước vạch đường dành cho người đi bộ. Ngồi trên đó là một cậu thanh niên mặc quần jeans. Cái cách luồn lách của cậu ta khiến Kimura vô cùng khó chịu. Hắn mới bực dọc làm sao, đúng vào lúc đang chờ đèn đỏ thế mà chiếc môtô kia lại ngang nhiên lao lên phía trước và đỗ xịch ngay hông cửa xe hắn. Cũng tại cả ngày hôm qua vắng khách nên trong lòng hắn không vui, hắn nhìn cậu thanh niên với ánh mắt chẳng thích thú gì. Giấu nét mặt trong chiếc mũ bảo hiểm kín mít, cậu thanh niên chống chân trái xuống gờ đường, dạng đùi ra và lắc lư với một điệu bộ buông thả.

Chợt phát hiện ra một cặp chân phụ nữ tuyệt đẹp đang rảo bước trên vỉa hè, cậu ta ngoái đầu nhìn với theo. Nhưng cậu thanh niên đã không kịp nhìn theo cô gái đó cho tới phút cuối cùng. Ánh mắt cậu ta bỗng bị cố định vào khung kính trưng bày của một cửa hàng ở bên trái khi vừa xoay đầu được chừng chín mươi độ. Cô gái dần vượt ra khỏi tầm mắt. Cậu thanh niên bị bỏ lại cùng với tia nhìn như dính chặt vào một thứ gì đó. Đèn tín hiệu dành cho người đi bộ bắt đầu nhấp nháy rồi chuyển thành màu đỏ. Dòng người hối hả băng qua mũi xe trên làn đường dành cho người đi bộ. Không có ai giơ tay lên vẫy. Kimura bật máy và chờ cột đèn tín hiệu phía trước mặt đổi sang màu xanh.

Đúng lúc đó, cậu thanh niên giãy mạnh người, giơ hai tay lên trời rồi đổ ập về phía chiếc taxi của Kimura. Sau khi đập vào cửa xe gây ra một tiếng sầm lớn, cậu ta biến mất khỏi tầm mắt hắn.

... Thằng khốn!

Rõ là hắn bị mất thăng bằng rồi ngã đây mà, Kimura vừa nghĩ bụng vừa bật đèn đỗ và xuống xe. Nếu có vết xước trên cửa xe, hắn sẽ bắt đền tay thanh niên kia một số tiền sửa chữa tương đương. Đèn chuyển sang màu xanh, những chiếc ôtô xếp hàng phía sau vượt lên trước rồi hoà vào giữa ngã tư. Cậu thanh niên đang bật ngửa người, chân giãy giụa, hai bàn tay hốt hoảng gỡ chiếc mũ bảo hiểm ra. Trước khi ngó ngàng tới cậu ta, Kimura phải đi xem xét cái công cụ kiếm cơm của mình đã. Đúng như dự đoán, có một vết xước chạy xéo trên thành cửa.

- Chậc!

Kimura vừa chặc lưỡi vừa tiến lại gần cậu thanh niên. Cậu ta đang cố sống cố chết gỡ mũ bảo hiểm, mặc cho quai mũ vẫn thít chặt vào cằm với sức mạnh như muốn giật luôn cả cái cổ của cậu ta ra vậy.

... Hắn khó thở đến thế kia à?

Kimura nhận thấy vẻ bất thường ở cậu thanh niên nên ngồi xuống bên cạnh và hỏi: "Có sao không?". Hắn không biết được nét mặt cậu ta vì miếng kính chắn sẫm màu. Cậu thanh niên nắm lấy tay Kimura và bắt đầu nói điều gì đó. Nhưng rất yếu ớt. Và không thành tiếng. Cậu ta cũng chẳng buồn kéo miếng kính chắn lên. Kimura cuống quít.

- Chờ đấy để tôi đi gọi xe cấp cứu.

Vừa chạy về phía bốt điện thoại công cộng hắn vừa thắc mắc: sao một cú ngã vớ vẩn lại làm hắn đau đớn thế nhỉ? Hay là đập phải chỗ hiểm trên đầu?

... Nhảm nhí, hắn chẳng đội mũ bảo hiểm đấy là gì. Chân tay thì hình như không gãy. Cầu trời đừng có chuyện gì rắc rối ở đây... Để hắn va vào xe mình rồi bị thương là rách việc chứ chả bỡn.

Kimura bỗng bị một thứ linh cảm đáng sợ xâm chiếm.

... Nếu hắn bị thương thật thì có lẽ phải giải quyết bằng bảo hiểm. Mà khi đó sẽ phải làm tờ trình xác nhận tai nạn, rồi lại phải động đến cảnh sát...

Gọi điện xong hắn quay lại chỗ cũ nhưng cậu thanh niên chỉ còn nằm bất động với hai bàn tay đặt trên cổ. Một vài người qua đường dừng lại xem xét vẻ lo lắng. Kimura rẽ đám đông chạy đến và ra vẻ rằng chính mình là người đã gọi xe cấp cứu.

- Này... này... tỉnh dậy đi. Xe cấp cứu đến ngay bây giờ đấy.

Kimura tháo quai mũ bảo hiểm. Thật không thể tin nổi, trầy trật lắm hắn mới cởi được chiếc mũ ra. Hắn giật thót mình: khuôn mặt cậu thanh niên gần như biến dạng. Nếu phải dùng một từ để mô tả, thì đó chính là sự thất kinh. Đôi mắt trợn ngược, cái lưỡi đỏ tụt hẳn vào cuống họng và bọt mép sùi ra cả hai bên. Thế này thì khỏi cần chờ xe cứu thương. Vì khi chạm tay vào dưới hàm cậu ta trong lúc tháo mũ, Kimura đã không còn cảm thấy nhịp đập của mạch máu nữa. Kimura ớn lạnh. Hiện thực vụt biến mất khỏi khung cảnh xung quanh hắn.

Bánh xe của chiếc môtô bị đổ vẫn quay chầm chậm, vũng dầu máy đen sẫm từ động cơ loang ra trên mặt đường rồi rỏ giọt xuống cống. Không có gió, đèn tín hiệu lại chuyển sang màu đỏ dưới bầu trời đêm trong suốt ngay trên đầu hắn. Kimura lảo đảo đứng dậy và bám vào thành rào chắn ven đường. Hắn liếc nhìn cậu thanh niên đang nằm trên mặt đường thêm một lần nữa. Đầu cậu ta gập lên gần như vuông góc bên trên chiếc mũ bảo hiểm, trông thật gượng gạo.

"Không lẽ mình đã đặt đầu hắn ở tư thế ấy? Cái mũ trông như chiếc gối thế kia. Để làm gì nhỉ?"

Kimura không thể nhớ lại sự việc trước đó chỉ vài giây. Đôi mắt mở thao láo ấy đang nhìn hắn. Cái lạnh chạy dọc sống lưng. Hắn vừa cảm thấy một thứ không khí tanh nồng thổi sượt chỏm vai. Mặc cho đêm oi bức, cơ thể hắn cứ liên hồi run lên.

2.

Màu sắc của buổi sớm thu phản chiếu lên mặt nước xanh lục của con hào chạy quanh Hoàng cung. Tháng chín oi ả sắp sửa qua đi. Asakawa Kazuyuki đang thả bộ xuống sân ga tàu điện ngầm thì bất ngờ đổi ý, gã muốn cảm nhận ở khoảng cách gần hơn nữa cái màu nước mà gã vừa nhìn thấy từ tầng chín nên quyết định bước ngược lên cầu thang để ra ngoài. Gã cảm thấy bầu không khí ô hợp của toà soạn đã len lỏi xuống tận tầng hầm giống như một thứ cặn lắng dưới đáy chai khiến gã đột nhiên thèm được hít thở không khí bên ngoài. Khi màu xanh của Hoàng cung hiện ra ngay tầm mắt, gã không còn để ý tới mùi khí thải từ đoạn hợp lưu của đường cao tốc số 5 với đường vành đai nữa, khung trời của một ngày mới đang hửng dần lên sống động trong cái hơi lạnh của buổi sớm.

Mặc dù cơ thể bải hoải vì phải thức trắng đêm nhưng gã không thấy buồn ngủ lắm. Sự hưng phấn khi viết xong bản thảo như một thứ thuốc kích thích vừa độ làm cho các tế bào não tỉnh táo. Đã hai tuần nay Asakawa chưa hề được nghỉ. Gã muốn dành hôm nay và ngày mai để xả hơi ở nhà. Lần này gã có thể nghỉ ngơi thật đàng hoàng vì đây là mệnh lệnh của tổng biên tập.

Một cách rất bản năng, gã giơ tay lên khi thấy chiếc taxi không có khách chạy lại từ phía Kudansita. Vé tàu điện ngầm tuyến Takehashi-Shinbaba đã hết hạn từ hai hôm trước nhưng gã vẫn chưa mua vé mới. Từ đây đi tàu điện ngầm tới khu chung cư Kita-shinagawa mất bốn trăm yên, còn bắt taxi sẽ mất ngót nghét hai nghìn yên. Chẳng ai muốn mất không hơn một nghìn rưỡi yên, nhưng nghĩ đến việc phải chuyển tàu ba lần, cộng với tâm trạng phấn chấn vì vừa lĩnh lương xong nên gã quyết định tiêu hoang một chút cho riêng ngày hôm nay.

Điều gì đã khiến Asakawa quyết định bắt taxi ở chính nơi đây và vào ngày hôm nay? Nó đơn giản chỉ là một ý nghĩ chợt nảy ra sau một loạt những xung động nho nhỏ. Gã vốn đâu có định đi ra ngoài để bắt taxi. Mà bởi đúng lúc gã chợt thấy nhớ bầu không khí bên ngoài thì một chiếc taxi còn trống chạy ngang qua, trong thoáng chốc đó, gã thấy thật cách rách khi phải mua vé và lại phải đổi tàu những ba lần. Nếu gã vẫn đi về bằng tàu điện ngầm thì hai sự kiện kia có lẽ đã chẳng chắp nối được với nhau. Nhưng suy cho cùng, mọi câu chuyện đều bắt đầu từ sự ngẫu nhiên.

Chiếc taxi dừng lại trước toà nhà Palaceside với vẻ ngập ngừng. Tài xế là một người đàn ông nhỏ thó, tuổi xấp xỉ bốn mươi, chắc hẳn vì đã thức trắng đêm nên đôi mắt hắn đỏ ngầu. Trên táp-lô có một bức ảnh chân dung màu và bên cạnh đó là dòng chữ Kimura Mikio, tên của tay tài xế.

- Đi Kita-shinagawa...

Nghe thấy thế Kimura muốn nhảy lên vì sung sướng. Kita-shinagawa nằm quá bãi xe của công ty hắn ở Higashi-gotanda một chút, như thế là thuận đường về. Cái thú của một tay tài xế taxi là những lúc như thế này đây, khi mọi việc đều tuân đúng theo ý muốn của hắn ta. Kimura bất chợt muốn trò chuyện.

- Anh đi lấy tin bây giờ đấy à?

Gì cơ? Asakawa hỏi lại trong lúc đang hướng đôi mắt đỏ ngầu vì mệt mỏi ra ngoài cửa sổ và mông lung suy nghĩ. Gã tự hỏi không hiểu làm sao tay đó biết được nghề nghiệp của mình.

- Anh là phóng viên phải không?

- Tôi làm ở một tạp chí ra hàng tuần, mà anh biết rõ nhỉ.

Gần hai mươi năm lái taxi đã cho Kimura cái khả năng có thể đoán biết được phần nào nghề nghiệp của khách đi xe dựa vào địa điểm lên xe, trang phục và cách ăn nói của người đó. Và thông thường, với những vị khách có một nghề nghiệp hấp dẫn và tỏ ra hãnh diện về điều đó, thì những câu chuyện liên quan tới công việc sẽ ngay lập tức trở nên rôm rả.

- Chà, anh vất vả quá nhỉ. Mới sớm thế này.

- À không, mà là tôi về nhà.

- Ra vậy, thế thì giống tôi rồi.

Asakawa thường ngày chẳng mấy tự hào về công việc của mình. Nhưng sáng nay, khi mà lần đầu tiên bài báo của gã được lên khuôn, gã bỗng lấy lại được cái cảm giác thoả mãn ấy. Cuối cùng thì gã cũng đã kết thúc loạt bài phóng sự của mình và nhận được kha khá những lời khen ngợi.

- Công việc có thú vị không anh?

- Cũng còn tùy - Asakawa trả lời qua loa.

Cũng có lúc này lúc kia, nhưng bây giờ thì gã chẳng muốn trả lời thêm. Gã không hề quên thất bại cách đây hai năm. Gã vẫn còn nhớ như in tít bài khi đó: Những vị thần mới thời hiện đại.

Cái hình ảnh đáng hổ thẹn khi gã vừa run rẩy vừa nói với tổng biên tập rằng gã không thể làm cái công việc đi lấy tin được nữa lại hiện lên trước mắt.

Sự im lặng diễn ra khá lâu. Xe chạy rất nhanh qua khúc cua ngay bên trái tháp Tokyo.

- À, mà anh thích chạy dọc đường bờ sông hay đường Keihin số 1?

Lộ trình sẽ khác nhau tùy theo người ta muốn đến chỗ nào của Kita-shinagawa.

- Đường Keihin số 1... Mà cho tôi xuống phía trước đường Shinbaba ấy.

Đối với tài xế taxi, yên tâm nhất là khi biết được chính xác điểm đến của khách. Kimura đánh tay lái sang phải ở ngã tư Fuda-no-Tsuji.

Hắn lại đang đến gần cái địa điểm ấy, trên cái ngã tư mà suốt một tháng nay hắn không làm sao quên được. Khác với mối bận tâm của Asakawa về thất bại cách đây hai năm, Kimura tỏ ra khá bàng quan với tai nạn ấy. Nghĩa là, hắn chẳng hề cảm thấy trách nhiệm cũng như sự ân hận nào. Nó hoàn toàn là một vụ tai nạn do nạn nhân tự gây ra, và dù hắn muốn tránh cũng không tránh được. Hắn đang dần quên đi nỗi sợ hãi khi ấy. Một tháng trời, có phải là một quãng thời gian dài? Còn Asakawa, ngay cả lúc này đây vẫn bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi của hai năm về trước.

Có một điều không thể giải thích nổi. Đó là cứ mỗi lần đi qua nơi này, chẳng hiểu sao hắn lại muốn kể cho người khác nghe sự việc xảy ra hôm ấy. Hắn sẽ lén đưa mắt nhìn qua miếng gương buồng lái, nếu thấy khách ngủ rồi thì thôi, còn không, hắn sẽ bị thôi thúc phải kể lại ngọn ngành vụ tai nạn cho tất cả các khách đi xe, chẳng chừa ai. Cứ rẽ vào ngã tư này, bao giờ Kimura cũng bị cảm giác hối thúc ấy xâm chiếm.

- Thế mà đã gần một tháng rồi cơ đấy...

Dàn đèn tín hiệu chuyển từ màu vàng sang màu đỏ ngay trước mắt Kimura như chỉ chực chờ hắn bắt đầu câu chuyện.

- Trên đời này có quá nhiều chuyện khó hiểu.

Kimura muốn thu hút sự chú ý của người nghe bằng cái cách bắt đầu lấp lửng như vậy. Đang lơ mơ ngủ bỗng Asakawa choàng tỉnh vì giọng nói của Kimura, gã nhìn ngó xung quanh như để xác nhận xem mình đang ở đâu.

- Dạo này có lắm kẻ bị đột tử thế anh nhỉ... Đến cả đám thanh niên cũng chả chừa.

- Anh bảo sao?

Đột tử... hai tiếng ấy vang lên trong tai Asakawa.

Kimura nói tiếp:

- Đâu chừng gần một tháng trước, lúc ấy tôi đang chờ đèn đỏ ở đằng kia thì tự nhiên có một chiếc môtô đổ sập vào xe mình. Mà có phải nó ngã lúc đang chạy đâu, đang đứng im thế mà làm đến sầm một cái. Rồi anh biết chuyện gì xảy ra không? Ờ, mà tay lái xe là một cậu trai mười chín tuổi, học sinh trường dự bị... Thế mà tạch, chết ngoẻo. Hãi thật. Hết xe cứu thương rồi đến xe cảnh sát, cứ nháo cả lên. Khổ nỗi là nó lại va vào xe mình mới chết chứ.

Asakawa im lặng lắng nghe, song với sự nhạy cảm của một người làm báo đã mười năm, gã lập tức ghi lại tên của tài xế và hãng taxi. Cũng có thể gọi sự nhanh nhạy ấy là bản năng.

- Cái cách chết đến là lạ anh ạ. Tay thì cứ cố gỡ mãi cái mũ bảo hiểm..., người thì nằm ngửa ra đấy giãy giụa..., tôi đi gọi xe cấp cứu về đến nơi thì đã thấy thăng rồi.

- Hiện trường ở đâu?

Asakawa đã tỉnh hẳn.

- Đấy, ở đằng kia kìa.

Kimura chỉ về phía bên kia vạch đường dành cho người đi bộ trước cửa ga. Ga Shinagawa nằm ở khu Takanawa thuộc Quận Minato. Asakawa ghi khắc thật sâu địa điểm đó vào đầu. Nếu tai nạn xảy ra ở đấy thì Sở cảnh sát Takanawa sẽ phụ trách vụ này. Thế rồi rất nhanh, gã rà soát trong đầu mình xem đường dây nào có thể đưa gã xâm nhập vào nội bộ Sở cảnh sát Takanawa. Thế mạnh của một hãng đưa tin lớn chính là ở chỗ này. Họ có mạng lưới tay trong ở khắp mọi lĩnh vực, và đôi khi khả năng thu thập thông tin của họ còn qua mặt cả cảnh sát.

- Thế nguyên nhân của cái chết là đột tử à?

Chẳng cần biết có căn bệnh nào tên là đột tử hay không, Asakawa vội vã hỏi. Gã cũng chưa kịp nhận ra tại sao vụ tai nạn ấy lại khiến gã bận tâm.

- Rõ là khỉ gió. Xe tôi đang yên lành đậu ở đấy không dưng đâu hắn đổ nhào vào. Lỗi là tại hắn cả, thế mà tôi lại phải viết tờ khai, rồi suýt chút nữa thì mất đứt suất bảo hiểm của mình cho hắn. Đúng là tai bay vạ gió.

- Anh còn nhớ ngày giờ xảy ra tai nạn không?

- Xem kìa, nhà báo đã đánh hơi thấy một vụ án rồi hả? Ờ, có lẽ là ngày mùng bốn hay mùng năm tháng chín gì đó. Đâu như vào khoảng mười một giờ đêm.

Vừa dứt lời, quanh cảnh khi đó lại hiện lên trong óc Kimura. Mùi không khí tanh nồng..., vũng dầu đen đặc rỉ dần về phía miệng cống thoát nước. Nó phản chiếu ánh đèn pha ôtô rồi biến thành những giọt chất lỏng sền sệt rơi xuống cống và biến mất không một tiếng động. Cơ quan cảm giác của hắn, trong giây lát, bỗng tê liệt. Và khuôn mặt của cậu thanh niên gối đầu lên chiếc mũ kia đang lộ đầy vẻ hãi hùng. Cậu ta sợ gì nhỉ?

Đèn xanh, Kimura đạp ga. Hắn nghe thấy tiếng bút sột soạt ở ghế sau. Asakawa đang ghi lại câu chuyện. Kimura thấy buồn nôn. Tại sao hắn lại nhớ rõ thế nhỉ? Kimura nuốt miếng nước bọt chua loét vào trong và cố ghìm cơn ghê cổ.

- Thế nguyên nhân là gì? - Asakawa hỏi.

- "Đứng tim."

Đứng tim? Có thật đó là kết luận của pháp y? Gần đây người ta đâu còn dùng từ này nữa.

- Cần phải kiểm tra lại điểm này, và cả ngày giờ chính xác nữa. - Asakawa vừa lẩm bẩm vừa ghi chép. - Nghĩa là không có bất kỳ dấu hiệu nào của ngoại thương đúng không?

- Đúng vậy. Thật kinh hoàng... Đến tôi cũng còn muốn kinh hoàng nữa là.

- Ý anh là sao?

- Ý tôi là, lạy Phật, vì hắn chết với một bộ mặt hết sức kinh hoàng.

Bỗng có cái gì đó loé lên trong óc gã. Nhưng không, gã không muốn thừa nhận mối liên hệ ấy.

... Một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đơn giản chỉ là ngẫu nhiên mà thôi.

Ga tàu tốc hành Shinbaba tuyến Keihin đã ở ngay trước mặt.

- Tới cái đèn đỏ kia anh rẽ trái rồi dừng lại cho tôi.

Xe dừng lại, cửa mở. Asakawa chìa ra hai tờ một nghìn yên cùng với danh thiếp:

- Tôi là Asakawa, làm việc ở báo M. Nếu được, tôi muốn nghe kỹ hơn chút nữa câu chuyện vừa rồi.

- Vâng, tất nhiên là được.

Kimura phấn khởi đáp. Không hiểu sao hắn nghĩ rằng hắn có nghĩa vụ phải làm thế.

- Mấy hôm nữa tôi sẽ gọi điện.

- Còn số điện thoại...

- À, khỏi lo. Tôi có tên công ty anh rồi. Cũng gần chỗ tôi thôi.

Asakawa bước xuống xe, định đóng cửa nhưng lại chần chừ. Gã cảm thấy một nỗi sợ khó tả khi phải xác nhận điều này. Chẳng nên dính dáng tới những chuyện quái quỷ làm gì. Gã không muốn làm trò cười lần thứ hai. Nhưng gã đã đến nước này rồi thì gã không thể ngoảnh mặt làm ngơ. Gã biết rõ điều đó. Asakawa hỏi lại Kimura một lần nữa.

- Này, đúng là cậu thanh niên đó đã cố vật lộn để tháo chiếc mũ ấy ra phải không?

3.

Oguri, ngài tổng biên tập, nhíu mày nghe Asakawa báo cáo. Ông ta đang nhớ lại hình ảnh của Asakawa hai năm về trước. Giống như một kẻ bị ma làm, gã ngồi lỳ trước máy đánh chữ từ sáng đến tối để viết về tiểu sử của Tổ sư Kageyama Shoko từ những tư liệu thu thập được. Cái vẻ bất bình thường ấy của gã khiến Oguri thực sự muốn đưa gã đến một vị bác sĩ chuyên khoa tâm thần.

Cái không may là sự trùng hợp về thời điểm. Hai năm trước, sự bùng nổ về những câu chuyện siêu nhiên huyền bí xưa nay chưa từng có đã nuốt chửng cả giới xuất bản, những bức ảnh ma chất dày như núi trong phòng biên tập. Hàng đống của rởm dán mác chuyện ma và ảnh ma được gửi đến tất cả các hãng xuất bản, tới mức khiến người ta phải nghĩ rằng chẳng biết thế gian này rồi sẽ ra sao. Ngay cả Oguri, vốn vẫn tự hào về khả năng giải mã những bí ẩn của thế giới, cũng không thể nào tìm thấy câu trả lời khả dĩ cho hiện tượng đó. Số lượng người gửi bài tăng chóng mặt, theo cái cách chưa từng được ghi nhận từ trước tới nay. Chẳng phải khoa ngôn nếu nói rằng lượng bưu phẩm gửi đến trong một ngày đủ để lấp kín cả phòng biên tập, hơn nữa lại toàn những chuyện ma quái. Không chỉ toà soạn của báo M. là nạn nhân, các hãng xuất bản trên khắp nước Nhật cũng cùng lúc bị cuốn theo cơn lốc đó, họ tối tăm mặt mũi với cái hiện tượng vượt ra ngoài tầm hiểu biết kia. Chấp nhận mất trắng thời gian, họ tiến hành điều tra và nhận ra rằng không ai trong số những người gửi bài gửi nhiều hơn một bức thư, và đương nhiên, hầu hết là thư nặc danh. Chỉ cần làm một phép tính nhanh cũng có thể thấy rằng đã có khoảng mười triệu người cùng gửi bài tới tất cả các hãng xuất bản trong thời gian đó. Mười triệu! Một con số khiến giới xuất bản rùng mình. Nội dung những bài viết không đáng sợ đến vậy, mà chính con số kia mới làm người ta phải vã mồ hôi.

Nghĩa là, cứ mười người thì có một người gửi bài, nhưng tìm đâu cũng không ra một người như thế trong giới làm xuất bản, cũng như người thân hay bạn bè của họ. Vậy thì chuyện là thế nào? Núi thư từ kia từ đâu tới? Các biên tập viên đều bóp trán. Và mọi sự qua đi trong khi vẫn chưa tìm ra lời giải. Cứ như một giấc mơ, phòng biên tập trở lại yên ổn sau gần nửa năm sống trong bầu không khí bất thường. Rồi thì chẳng còn bức thư nào như thế được gửi tới nữa.

Là người đứng đầu tờ tuần san của toà soạn báo, Oguri buộc phải có một thái độ rõ ràng về cách xử trí với hiện tượng này. Kết luận mà ông đưa ra là bỏ qua tất cả. Rất có thể kẻ châm ngòi cho hiện tượng này là một tờ tạp chí, mà Oguri vẫn thường chê là lá cải. Và việc xảy ra sự thể bất thường ấy chẳng qua là hậu quả của lối chèo kéo độc giả gửi bài bằng cách cho đăng những bức ảnh và những câu chuyện nghe được ở đâu đó. Tất nhiên, Oguri biết rằng cách giải thích như thế chả thuyết phục được ai. Nhưng Oguri vẫn phải đưa ra một lập luận thật hợp lý để giải quyết vụ này.

Kể từ ấy, biên tập viên dưới quyền Oguri bị buộc phải mang các bưu phẩm được gửi đến, vẫn gói kín, đi hủy ở lò đốt. Đối với bên ngoài, ông ta tỏ thái độ như chưa từng có gì xảy ra, và tất nhiên, quyết định đóng cửa và làm ngơ với mọi thứ có liên quan tới chuyện thần bí. Có thể nhờ vậy mà cơn sốt gửi bài vô tiền khoáng hậu cũng dần dịu bớt. Thế mà đúng lúc ấy, Asakawa ngu xuẩn lại theo đuổi một hành vi chẳng khác nào đổ dầu vào ngọn lửa đang sắp tắt. Oguri chòng chọc nhìn vào mặt Asakawa.

... Không lẽ hắn muốn nếm lại vị đắng hai năm trước?

- Này ông.

Mỗi khi không biết phải nói gì, bao giờ Oguri cũng gọi người đối diện là "này ông".

- Tôi thừa biết tổng biên tập đang nghĩ gì rồi.

- Sao nào? Hay thì hay đấy, nhưng rồi ai biết sẽ lòi ra chuyện quái quỷ gì. Mà này, cậu chưa quên cái vụ lần trước chứ, lại là nó nữa thì tôi đi đời.

Lần trước... Oguri vẫn tin rằng cơn sốt chuyện thần bí hai năm trước là do một kẻ nào đó cố ý gây nên. Những chuyện thần bí đã khiến Oguri vô cùng khốn đốn, vì vậy ông ta căm ghét chúng và định kiến về chúng.

- Không, tôi không định đề cập đến tính thần bí. Tôi chỉ muốn nói rằng trên đời này không thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế mà thôi.

- Ngẫu nhiên...

Oguri chống tay lên má và một lần nữa sắp xếp lại câu chuyện.

... Oishi Tomoko, cháu gái gọi vợ Asakawa bằng dì, chết tại nhà riêng ở Honmonku lúc mười một giờ đêm ngày mùng 5 tháng Chín. Nguyên nhân được xác định là do suy tim cấp tính. Trong khi cô bé mới mười bảy tuổi và là học sinh năm thứ ba trung học. Cùng giờ đó, ngày đó, ở trước cửa ga JR Shinagawa, một cậu học sinh trường dự bị, mười chín tuổi, cũng chết do nhồi máu cơ tim trong lúc đang ngồi trên môtô chờ đèn đỏ.

- Tôi thì chỉ thấy đây đơn giản là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chẳng qua vì cậu vô tình nhớ lại cái chết của cô cháu vợ lúc nghe câu chuyện của tay tài xế taxi kia thôi.

- Thưa tổng biên tập. - Asakawa gây sự chú ý của Oguri. - Tôi chỉ muốn lưu ý rằng cậu thanh niên đi trên chiếc môtô trước lúc chết đã cố vật lộn để gỡ cái mũ đó ra.

- Thế thì sao?

- Lúc phát hiện ra xác Tomoko, người ta thấy trên các ngón tay của nó quấn đầy tóc, hẳn là nó đã tự vò bứt đầu mình.

Asakawa có gặp Tomoko một vài lần. Cô bé thật đúng là nữ sinh trung học, lúc nào cũng chăm chút cho mái tóc và chưa bao giờ quên gội đầu vào buổi sáng. Một cô gái như thế có lẽ nào lại tự dứt ngần ấy những lọn tóc quý giá của mình đi? Gã không biết chân tướng của cái đã khiến cô bé phải làm như vậy. Mỗi lần nghĩ tới cảnh tượng Tomoko đang gắng hết sức để rứt đứt những sợi tóc của mình, Asakawa lại hình dung ra cái bóng của một thứ không thể nhìn thấy.

- Chả biết ra sao nữa. Mà này ông tướng, có thể ông suy diễn quá rồi đấy. Nếu cố lục tìm thì vụ án nào chả có những tình tiết giống nhau. Hai nạn nhân đều chết vì bệnh tim kịch phát phải không nào? Vậy thì đương nhiên là đau đớn rồi. Nên hành động vò đầu hay cố gắng cởi mũ bảo hiểm ra, tưởng là lạ, nhưng lại rất hợp lẽ thường.

Mặc cho trong bụng thừa nhận là có khả năng đó, Asakawa vẫn lắc đầu. Gã không thể để bị thuyết phục dễ dàng như vậy.

- Nhưng thưa tổng biên tập, nếu là tim thì sẽ đau ở ngực, tại sao lại vò đầu?

- Thế cậu đã bị trụy tim cấp bao giờ chưa?

- Dạ chưa...

- Thế đã hỏi bác sĩ chưa?

- Hỏi gì cơ ạ?

- Hỏi xem những người bị trụy tim cấp có vò đầu không.

Asakawa đành im lặng. Thực ra gã đã hỏi. Và gã được trả lời rằng: "Cũng có thể có những hiện tượng như vậy. Còn trường hợp ngược lại thì nhiều, nghĩa là khi người ta bị đau đầu do xuất huyết dưới màng nhện hoặc xuất huyết não, người ta đồng thời cũng thấy khó chịu ở vùng bụng." Một câu trả lời nước đôi.

- Tóm lại là mỗi người sẽ phản ứng khác nhau trước cùng một sự việc. Khi không giải được một bài toán, có người sẽ vò đầu, còn người khác sẽ hút thuốc. Chưa biết chừng có kẻ còn ôm bụng.

Oguri vừa nói vừa xoay tròn chiếc ghế đang ngồi.

- Thôi, tóm lại là chưa thể kết luận gì vào lúc này. Không có chỗ cho bài của cậu đâu đấy. Rõ chưa nào? Cậu chưa quên bài học hai năm trước chứ. Dính dáng vào những chuyện kiểu ấy không thể bất cẩn được. Cậu muốn viết thì cứ việc mà viết thôi.

Rất có thể là như vậy. Rất có thể đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên đúng như lời của tổng biên tập. Nhưng lý giải sao cái nghiêng đầu nghĩ ngợi của vị bác sĩ vào lúc cuối? Đáp lại câu hỏi của gã rằng, người ta có rứt tóc mình một tiếng không rõ ràng. Nét mặt ấy nói lên rằng, ít nhất thì trong các bệnh nhân mà ông ta đã từng khám chưa có ca nào như thế.

- Tôi hiểu.

Lúc này, gã chỉ còn cách ngoan ngoãn thu binh. Khó mà có thể thuyết phục nổi tổng biên tập nếu không tìm thấy mối liên hệ khách quan giữa hai vụ tai nạn. Nếu không tìm ra, chừng ấy ta sẽ im lặng rút lui, Asakawa quyết định như thế.

4.

Gác ống nghe lên và giữ nguyên tay ở tư thế ấy, Asakawa không buồn nhúc nhích. Cái cảm giác không thể chịu nổi khi gã nhớ lại giọng nói sặc mùi xu nịnh của mình hòng làm vừa lòng kẻ ở đầu dây bên kia. Thoạt đầu, kẻ đó nhận ống nghe từ tay thư ký với thái độ cực kỳ hống hách, nhưng sau khi nghe kỹ kế hoạch của gã, hắn dần dịu giọng. Có lẽ lúc đầu hắn nhầm tưởng đấy là một lời mời quảng cáo. Nhưng rồi bộ óc hắn bắt đầu hoạt động rất nhanh, hắn tính ngay được cái lợi rằng bài báo sẽ viết về hắn.

Loạt bài phỏng vấn với tựa đề Top Interview bắt đầu được đăng tải từ tháng Chín, nhắm tới những vị giám đốc công ty đã tự mình dựng lên cơ nghiệp để viết về những gian truân và nỗ lực của họ. Đáng lẽ Asakawa phải lấy làm thoả mãn khi đặt ống nghe xuống vì đã xin được cuộc hẹn, thế mà tâm trạng gã lại rất nặng nề. Gã biết trước rằng thứ nghe được từ cái tay mạt hạng ấy sẽ lại là những câu chuyện cũ rích kiểu như tôi đây đã phải khốn khó thế nào, đã vận dụng tài trí và nắm bắt cơ hội ra sao để có được thành công như ngày hôm nay vân vân và vân vân, và nó sẽ tiếp tục cho đến bất tận nếu gã không đứng dậy xin phép ra về. Gã ngán ngẩm. Gã thù kẻ nào đã đưa ra cái ý tưởng chết tiệt này. Mặc dù gã rất hiểu quảng cáo là cần thiết cho sự sinh tồn của một tờ tạp chí, và những bài báo kia sẽ có ích cho việc đó, nhưng gã chẳng mấy quan tâm được làm một công việc có nghĩa lý, chỉ vậy thôi. Thường thì những công việc không cần tới trí tưởng tượng có thể nhẹ nhàng về thể xác, nhưng sẽ nặng nhọc về tinh thần.

Asakawa hướng tới phòng lưu trữ nằm trên tầng bốn. Tất nhiên gã cần một số tư liệu cho cuộc phỏng vấn ngày mai, nhưng còn có thứ khiến gã bận tâm hơn nhiều. Đó là mối liên hệ giữa hai vụ tai nạn. Một câu hỏi chợt nảy ra trong óc gã. Gã chưa biết phải bắt đầu từ đâu, nhưng nó đến đúng vào cái tích tắc mà gã vừa gạt giọng nói của tay giám đốc mạt hạng ra khỏi đầu mình.

... Có chắc là chỉ có hai cái chết bất ngờ không rõ nguyên nhân xảy ra vào lúc mười một giờ đêm ngày mùng 5 tháng Chín?

Nếu không phải vậy, nghĩa là nếu có vụ tai nạn nào đó tương tự như thế xảy ra, thì xác suất của sự ngẫu nhiên gần như bị triệt tiêu. Asakawa quyết định kiểm tra lại các số báo ra vào đầu tháng Chín. Khi xem báo, thường thì gã đọc rất kỹ các mục kinh doanh, còn trang xã hội, gã chỉ lướt qua dòng tít rồi lật ngay sang trang khác, nên khả năng bỏ sót một điều gì đó là rất lớn. Linh cảm mách bảo gã thế. Nó luẩn quẩn trong đầu gã. Gã nhớ mang máng rằng cách đây chừng một tháng gã có bắt gặp một dòng tít khá lạ được đăng ở một góc rất nhỏ của trang xã hội. Bài báo ấy nằm ở góc dưới cùng bên tay trái... Gã chỉ còn nhớ vị trí của nó. Lúc ấy, gã có chú ý tới dòng tít khi lướt qua nó, nhưng tiếng gọi cắt ngang của tay phụ trách đã giật gã ra khỏi bài báo, và rồi, gã đã quên bẵng mất nó trong sự bộn bề của công việc.

Asakawa bắt đầu từ tờ buổi sáng ra ngày mùng 6 tháng Chín. Gã hồi hộp như một đứa trẻ đi tìm kho báu vì tin chắc rằng mình sẽ lần ra manh mối. Không hiểu sao cái công việc ngồi lục lại đống sách báo cách đây gần một tháng trong căn phòng lưu trữ tối tăm lại khiến gã hào hứng đến thế, thứ cảm giác mà cuộc phỏng vấn tay giám đốc vớ vẩn kia không thể đem đến. So với việc lao ra ngoài, tất bật gặp gỡ người này người nọ, thì công việc này hợp với gã hơn.

Tờ buổi chiều phát hành ngày mùng 7 tháng Chín... bài báo cần tìm nằm ở đúng vị trí mà Asakawa đã nhớ. Bị đẩy xuống dưới đoạn tin về một vụ tai nạn trên biển làm ba mươi tư người chết, diện tích của nó trên trang báo nhỏ hơn gã tưởng tượng khá nhiều. Thế này thì bị bỏ qua cũng là dễ hiểu. Asakawa với lấy đôi kính gọng bạc rồi cúi sát mặt vào tờ báo và đọc kỹ từng câu, không để sót chữ nào.

HAI CÁI CHẾT KHÔNG BÌNH THƯỜNG CỦA MỘT ĐÔI TRAI GÁI TRẺ TRÊN XE Ô TÔ

Khoảng 6 giờ 15 phút sáng ngày mùng 7, một người lái xe tải hạng nhẹ đã tìm thấy xác chết của một đôi nam nữ trẻ trên băng ghế trước của chiếc xe bốn chỗ khi chiếc xe này đang đỗ tại khu đất trống ven đoạn tỉnh lộ đi qua Ashina, thị trấn Yokosuka. Người này đã báo tin cho cảnh sát Yokosuka.

Qua kiểm tra biển số, cảnh sát xác nhận đôi trai gái thiệt mạng là một nam học sinh trường dự bị (19 tuổi) ở quận Shibuya, thành phố Tokyo và một nữ học sinh trường trung học nữ tư thục (17 tuổi) ở quận Isogo, Yokohama. Chiếc xe do nạn nhân nam thuê tại quận Shibuya vào buổi chiều hai ngày trước.

Lúc được tìm thấy, chiếc xe đang bị khoá và chìa khoá vẫn cắm ở chế độ ignition[1]. Thời điểm tử vong theo suy đoán là vào khoảng nửa đêm ngày mùng 5 cho tới rạng sáng ngày hôm sau. Với tình tiết cửa kính xe đóng kín cảnh sát cho rằng các nạn nhân có thể đã chết ngạt do ngủ quên, và cũng không loại trừ khả năng đây là một vụ tự tử tập thể bằng thuốc, tuy nhiên nguyên nhân cái chết chưa được làm rõ. Cảnh sát không coi đây là một vụ giết người.

Bài báo chỉ có vậy nhưng quả nhiên đã làm Asakawa phấn chấn. Trước hết, nạn nhân nữ trong vụ án rất giống với cô cháu gái Tomoko, cùng là học sinh tại một trường trung học nữ tư thục ở Yokohama và cùng mười bảy tuổi. Còn nạn nhân nam thuê xe ôtô thì giống hệt với cậu thanh niên tử nạn trước cửa ga Shinagawa, cùng là học sinh trường dự bị và cùng độ tuổi mười chín. Thời điểm tử vong cũng gần như đồng nhất. Thêm nữa, nguyên nhân của các cái chết đều không rõ ràng.

Bốn cái chết này nhất định phải có một điểm chung mang tính quyết định. Để tìm ra nó chắc sẽ không mất nhiều thời gian đến vậy. Dù gì, gã cũng đang làm việc trong một hãng thông tấn lớn, thông tin thì gã không thiếu. Sao xong bài báo, gã định ghé qua toà soạn một lát. Với tâm trạng thoả mãn của một kẻ vừa đào trúng mỏ vàng vĩ đại, bước chân Asakawa mỗi lúc một nhanh hơn, gã thậm chí còn cảm thấy sốt ruột ngay cả khi chờ thang máy.

Câu lạc bộ báo chí toà thị chính Yokosuka. Yoshino đang ngồi bên chiếc bàn chuyên dụng và lia bút trên những trang bản thảo. Nếu đường cao tốc không đến nỗi đông thì đi từ trụ sở ở Tokyo tới đây chỉ mất chừng một giờ đồng hồ. Asakawa đến sau lưng Yoshino rồi cất tiếng.

- Anh Yoshino.

Gã không gặp mặt Yoshino đã một năm rưỡi nay.

- Ái chà, Asakawa. Sao? Tiếng gọi nào đã đưa cậu tới cái xó Yokosuka này thế. Mà ngồi đi đã.

Yoshino kéo chiếc ghế trống về phía Asakawa. Bộ mặt tua tủa những râu khiến người khác dễ có ấn tượng về một kẻ bất lịch sự, song ngược lại, Yoshino khá chu đáo.

- Bận chứ hả?

- Vâng, cũng vẫn vậy.

Asakawa biết Yoshino dạo vẫn còn làm ở ban xã hội, Yoshino vào ban đó trước Asakawa ba năm, năm nay ba mươi lăm tuổi.

- Em hỏi ban tin tức của Yokosuka thì được biết anh đang làm ở đây, thế nên...

- Sao? Định nhờ vả gì thằng này?

Asakawa chìa ra bài báo vừa copy lúc trước. Yoshino nhìn như dán mắt vào đó suốt một lúc lâu, lâu đến khác thường. Tự tay mình viết ra đáng lẽ chẳng cần đọc kỹ đến vậy cũng phải nắm được hết nội dung, đằng này Yoshino lại tập trung toàn bộ thần kinh vào đó, tới mức quên cả món lạc rang khoái khẩu đang định đưa lên miệng. Anh ta thong thả nhâm nhi từng câu từng chữ, cứ như thể muốn tiêu hoá tất cả bọn chúng trong dạ dày.

- Rồi, cậu muốn gì?

Nét mặt Yoshino trở nên nghiêm túc.

- À, em muốn hỏi kỹ thêm một chút.

Yoshino đứng dậy.

- Thế thì qua bên kia vừa uống trà vừa nói chuyện.

- Anh có bận gì không?

- Không sao, chuyện này thú vị hơn.

Ngay cạnh toà thị chính có một cái quán nhỏ, cà phê ở đây hai trăm yên một cốc. Yoshino vừa ngồi vào chỗ liền ngoái ra quầy phục vụ gọi lớn: cho hai ly cà phê. Sau đó, anh ta quay lại và rướn sát người về phía Asakawa.

- Cậu nghe này, tớ làm ở ban xã hội ngót nghét mười hai năm trời, trong mười hai năm ấy tớ đã từng gặp không biết bao nhiêu vụ án. Nhưng mà, thú thực, tớ chưa bao giờ gặp phải một vụ quái thế này đâu.

Nói đến đây Yoshino nhấp một ngụm nước rồi tiếp tục.

- Này, Asakawa, hay là mình trao đổi nhá. Cậu đang làm ở toà soạn, sao lại biết vụ này mà điều tra?

Chưa thể nhả ra vào lúc này được. Asakawa muốn đây là nguồn tin độc của gã. Nếu để lộ cho một tay cáo già như Yoshino biết thì sớm muộn gã cũng sẽ bị hất cẳng và thành quả của gã sẽ đi đời. Asakawa tặc lưỡi nói dối.

- Có gì ghê gớm đâu ông anh. Con nhóc chết trong vụ này là bạn của đứa cháu gái em, nó hỏi han nhiều quá nên nhân tiện xuống đây em định hỏi hộ nó một chút...

Một câu nói dối non nghề. Sau thoáng lộ ra ánh mắt loé lên đầy nghi hoặc, Yoshino giận dỗi từ từ thu người lại.

- Thật không đấy?

- Anh thấy đấy, nó là nữ sinh cấp ba, bạn chết đã là cái gì ghê gớm lắm rồi, đằng này lại chết một cách bí ẩn như thế, đâm ra nó cứ hỏi này nọ... Anh giúp em đi. Cho em biết chi tiết một chút.

- Rồi, cậu muốn biết những gì?

- Sau đó có xác định được nguyên nhân cái chết không?

Yoshino lắc đầu.

- Chưa, họ nói rằng do tim ngừng đập đột ngột, nhưng tại sao nó xảy ra thì không ai biết.

- Có dấu hiệu giết người không? Như là bị bóp cổ chẳng hạn?

- Không hề. Không có vết bầm trên cổ.

- Thế còn thuốc ngủ...

- Có mổ tử thi nhưng không phát hiện được gì.

- Thế nghĩa là vụ án này vẫn chưa được giải quyết...

- Thôi nào, giải quyết cái con khỉ. Có phải vụ án giết người đâu. Kết luận là tử bệnh, hoặc tử nạn, thế thôi. Đương nhiên cũng chả có tổ điều tra nào hết.

Yoshino trả lời một cách cắm cảu và đang tựa mình vào lưng ghế.

- Tại sao lại phải giấu tên nạn nhân?

- Vị thành niên... Hơn nữa cũng có nghi vấn về một vụ tự tử tập thể.

Nói đến đó, như chợt nhớ ra điều gì Yoshino bật cười rồi vươn người về trước.

- Thằng con trai ấy, quần bò và quần sịp của nó lúc đó đang tụt xuống quá đầu gối. Quần lót của đứa con gái cũng thế.

- Nghĩa là chúng đang làm chuyện ấy?

- Chưa đâu, đang chuẩn bị. Sắp đến màn kịch chính thì...

Bốp! Yoshino vỗ hai tay vào nhau.

- Có một cái gì đó đã xảy ra.

Yoshino dùng thứ ngữ điệu đưa người nghe lên đến cao trào.

- Này Asakawa, nói thật đi. Cậu nắm được manh mối của vụ này rồi phải không...

- ...

- Tớ sẽ giữ bí mật. Đừng nghĩ tớ nẫng tay trên của cậu. Chỉ vì tớ thấy quan tâm, thế thôi.

Asakawa im lặng.

- Tớ đang muốn nghe đến phát rồ cả người lên đây này.

Gã thử nghĩ rồi, nhưng không được. Chưa nên tiết lộ vào lúc này. Tuy nhiên nói dối sẽ không qua được mắt Yoshino.

- Anh Yoshino, cho em xin lỗi. Anh chờ thêm ít nữa được không. Em chưa thể nói được điều gì cả. Trong hai, ba hôm nữa em sẽ gọi cho anh, em hứa đấy.

Vẻ thất vọng hiện lên trên nét mặt Yoshino.

- Chậc, cậu đã nói vậy thì thôi...

Asakawa hướng ánh mắt đầy khẩn khoản về phía Yoshino hòng giục anh ta tiếp tục câu chuyện.

- Chỉ có thể phỏng đoán là đã có điều gì đó xảy ra. Làm sao mà một đôi trai gái lại chết ngạt đúng vào lúc định làm chuyện ấy? Cóc phải chuyện cười đâu nhé. Cũng có lập luận cho rằng đúng lúc ấy thì chất độc trong thuốc mà bọn chúng uống trước đó bắt đầu phát tác, nhưng lại không phát hiện thấy gì cả... Tất nhiên cũng có những loại độc dược không phản ứng với các xét nghiệm, nhưng một đứa học sinh trường dự bị với một đứa học sinh trung học dễ đâu mà mua được những thứ như vậy.

Yoshino nhớ lại địa điểm phát hiện ra chiếc xe. Vì anh ta đã đến đó nên ấn tượng đọng lại còn khá rõ ràng. Ven đoạn tỉnh lộ chưa trải nhựa chạy từ Ashina lên đỉnh Okusu có một bãi đất trống cây cối um tùm nằm lọt trong một khe núi nhỏ. Những người đi ngược lên núi có thể thoáng thấy đuôi xe của nạn nhân đậu thò ra ngoài. Thật không khó tưởng tượng tại sao cậu học sinh trường dự bị lại đậu xe ở một nơi như thế. Đoạn đường hầu như không có xe cộ qua lại vào ban đêm, cộng với tán cây trên núi xờ ra che kín chẳng khác nào một mật thất lý tưởng cho những cặp tình nhân ít tiền.

- Rồi sao cậu biết không? Hai cái xác chết ấy, thằng con trai thì trong tư thế như cố ấn đầu mình vào giữa vô lăng và cửa kính, còn đứa con gái thì cố vùi đầu mình vào giữa ghế trước và cánh cửa xe. Chính mắt tớ chứng kiến cảnh hai cái xác được đưa ra khỏi xe. Lúc cánh cửa xe vừa bật mở thì mỗi cái xác liền đổ về mỗi phía. Cứ như ngay trước lúc chết chúng đã bị ép bởi một lực rất mạnh từ bên trong, rồi cứ như sức ép ấy vẫn còn nguyên ngay cả sau khi đã chết mười ba tiếng đồng hồ, chúng bật mạnh ra như có một lực đàn hồi lúc tay nhân viên điều tra mở cánh cửa. Mà cậu nghe này, kiểu xe ấy là kiểu hai cửa, nó được chế tạo để không thể khoá được cửa từ bên ngoài nếu để chìa khoá ở bên trong. Và chìa khoá thì vẫn cắm nguyên ở chế độ ignition (chế độ đánh lửa)..., cửa xe bị khoá... cậu có hiểu như thế là thế nào không? Nghĩa là chiếc xe giống như một mật thất hoàn hảo. Khó có thể nghĩ tới một lực tác động từ bên ngoài. Còn nữa, cậu có biết khuôn mặt của bọn chúng trông thế nào không? Cả hai, đều sợ hãi cực độ. Hai bộ mặt biến dạng vì sợ.

Yoshino ngừng một lát. Có tiếng nuốt nước bọt. Là của Asakawa hay Yoshino?

- Cậu thử nghĩ coi. Nếu ta đặt giả thiết rằng có một con thú đáng sợ từ trong rừng lao ra, thế thì chúng phải nép vào nhau mới phải chứ. Cho dù thằng con trai không làm thế đi nữa thì đứa con gái nhất định sẽ sáp lại gần thằng con trai. Gì thì gì bọn chúng là người yêu cơ mà. Đằng này, cả hai đều cố dán lưng về phía cửa, cứ như muốn tránh thật xa nhau ra vậy.

Yoshino giơ hai cánh tay lên trời.

- Chịu chết, chẳng biết chuyện quái gì đang xảy ra nữa.

Đáng lẽ bài báo này đã có một diện tích lớn hơn nếu không có vụ tai nạn ngoài khơi Yokosuka. Và như thế, chắc chắn nó đã biến thành một ô chữ suy luận dành cho những độc giả mê trò trinh thám. Nhưng... có một thứ không khí đang bao trùm lên những người có mặt ở hiện trường lúc ấy, kể cả đội điều tra. Bầu không khí ấy khiến chẳng một ai trong số họ dám nói ra, mặc cho nó đã bật lên đến cuống họng, cái điều mà tất cả bọn họ đều đang cùng nghĩ tới. Chẳng ai tin một đôi trai gái lại có thể chết vào cùng một thời điểm vì bệnh tim kịch phát, song tất cả bọn họ đều tự thuyết phục mình bằng những căn cứ khoa học gượng gạo. Không nói ra không phải họ sợ bị kẻ khác nhạo báng là nhảm nhí, phi khoa học; mà họ sợ một thứ gì đó khủng khiếp hơn, vượt qua cả sức tưởng tượng, sẽ tìm đến họ khi công nhận điều đó. Chi bằng, cứ vin vào một cách giải thích khoa học, dù chẳng thuyết phục gì, lại hơn.

Asakawa và Yoshino đồng thời thấy cái lạnh chạy dọc sống lưng. Cả hai đều đang nghĩ tới một điều. Sự im lặng hồi lâu giữa họ là để cùng xác nhận một dự cảm nào đó vừa loé lên trong trực giác. Sự việc chưa hề kết thúc, nó mới chỉ bắt đầu. Loài người, về căn bản, cho dù được trang bị một lượng kiến thức khoa học lớn đến đâu cũng vẫn sẽ tin rằng, có một dạng tồn tại nào đó không thể giải thích được bằng các phương pháp khoa học.

- Lúc phát hiện ra xác chết, tay nạn nhân để ở đâu? - Asakawa đường đột hỏi.

- Trên đầu..., à không, đúng hơn là hai bàn tay nạn nhân giống như đang ôm lấy mặt.

- Có tự rứt tóc mình không, như thế này này?

Asakawa lấy tay bứt mớ tóc làm mẫu.

- Nghĩa là sao?

- Nghĩa là nạn nhân có vò đầu rồi rứt tóc mình không?

- Không, tớ nghĩ là không.

- Vậy à. Anh Yoshino này, cho em xin tên và địa chỉ của hai nạn nhân được không?

- Được chứ sao. Nhưng mà này ông mãnh, chớ quên lời hứa đấy.

Nhìn Asakawa vừa cười vừa gật đầu, Yoshino đứng dậy, mạnh tới nỗi làm chiếc bàn rung lên và cà phê tràn cả ra đĩa. Suốt buổi nói chuyện, Yoshino chưa hề chạm môi tới chiếc cốc.

5.

Asakawa định bụng sẽ tranh thủ những lúc rảnh rỗi để điều tra về bốn cái chết ấy, nhưng công việc ngập đầu khiến cho ý định của gã không được như mong đợi. Cứ như thế, một tuần trôi qua rồi một tháng mới bắt đầu, mùa thu mỗi lúc một thêm rõ nét, cả cái oi ả của tháng Tám mưa triền miên cùng cái nóng dậm dật của tháng Chín như muốn giữ chân mùa hạ lại đều dần trở thành những ký ức xa xôi. Chẳng có gì xảy ra trong khoảng thời gian này. Suốt từ dạo ấy, gã để mắt tới mọi ngóc ngách của trang xã hội nhưng không bắt gặp thêm một vụ án nào tương tự. Hay là có điều gì đó rất đáng sợ đang tiến triển mà Asakawa không nhìn thấy? Tuy nhiên, càng lúc gã càng muốn tin rằng bốn cái chết có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên chứ chẳng có mối liên hệ nào cả. Gã cũng không gặp lại Yoshino. Có thể, Yoshino cũng không còn nhớ gì nữa. Bởi nếu nhớ, hẳn anh ta đã liên lạc với Asakawa.

Mỗi lần thấy lòng nhiệt tình trong mình giảm sút, Asakawa thường lấy từ trong túi ra bốn lá bài để nhắc nhở mình rằng đó không thể là sự ngẫu nhiên. Trên từng lá bài, gã viết lên đó những chi tiết cần thiết như tên và địa chỉ của mỗi nạn nhân, còn khoảng trống bên dưới, gã dành để ghi chép những hoạt động từ tháng Tám đến tháng Chín hoặc tiểu sử của bốn nạn nhân và những thông tin khác thu thập được:

LÁ BÀI THỨ NHẤT:

OISHI TOMOKO

Sinh ngày 21 tháng 10 năm 1972

Học sinh lớp 12 trường Nữ sinh Tư thục Keisei, 17 tuổi

Địa chỉ: 1-7 Motomachi, Honmoku, Quận Naka, TP. Yokohama

Chết vào khoảng 11 giờ đêm ngày mùng 5 tháng Chín trong bếp tầng một tại nhà riêng trong lúc bố mẹ đi vắng.

Nguyên nhân - suy tim cấp.

LÁ BÀI THỨ HAI:

IWATA SHUICHI

Sinh ngày 26 tháng 05 năm 1971

Học sinh năm thứ nhất trường Dự bị Eishin, 19 tuổi

Địa chỉ: 1-5-23 Nishi-nakanobu, Quận Shinagawa

Chết do ngã xe vào lúc 10 giờ 54 phút tối ngày mùng 5 tháng Chín tại ngã tư trước cửa ga Shinagawa.

Nguyên nhân - nhồi máu cơ tim.

LÁ BÀI THỨ BA:

TSUJI HARUKO

Sinh ngày 12 tháng 01 năm 1973

Học sinh lớp 12 trường Nữ sinh Tư thục Keisei, 17 tuổi

Địa chỉ: 5-19 Mori, Quận Isogo, TP. Yokohama

Chết vào khoảng từ nửa đêm ngày mùng 5 tháng Chín cho tới rạng sáng hôm sau trong xe ô tô, đoạn ven tỉnh lộ dưới chân núi Okusu.

Nguyên nhân - suy tim cấp.

LÁ BÀI THỨ TƯ:

NOMI TAKEHIKO

Sinh ngày 04 tháng 12 năm 1970

Học sinh năm thứ hai trường Dự bị Eishin, 19 tuổi

Địa chỉ: 1-10-4 Uehara, Quận Shibuya

Chết vào khoảng từ nửa đêm ngày mùng 5 tháng Chín cho tới rạng sáng hôm sau trong xe ô tô, đoạn ven tỉnh lộ dưới chân núi Okusu.

Nguyên nhân - suy tim cấp.

Oishi Tomoko và Tsuji Haruko là bạn cùng trường trung học, Iwata Shuichi và Nomi Takehiko là bạn cùng trường dự bị, điều này đã rõ ràng khỏi phải xác minh. Thêm nữa, việc Tsuji Haruko và Nomi Takehiko đi chơi bằng xe hơi tới núi Okusu, Yokosuka đêm ngày mùng 5 tháng Chín là bằng chứng nói lên rằng, hai đứa trẻ này nếu không yêu nhau thì ít ra cũng là một cặp chơi bời. Qua dò hỏi, gã cũng nghe trong đám bạn bè của Tsuji Haruko đồn rằng cô nàng có giao du với một cậu học sinh trường dự bị. Chỉ có điều, gã chưa biết chúng quen nhau từ bao giờ và như thế nào. Theo cách đó, đương nhiên sẽ có một câu hỏi được đặt ra: phải chăng Oishi Tomoko và Iwata Shuichi cũng yêu nhau? Tuy nhiên gã tìm kiếm mãi mà chưa thấy bằng chứng nào xác nhận điều này. Hoặc giả cũng có thể Oishi Tomoko và Iwata Shuichi chưa gặp nhau bao giờ. Vậy thì sợi dây liên hệ giữa chúng rốt cuộc nằm ở đâu? Không thể phủ nhận mối quan hệ quá mức gần gũi giữa bốn đứa trẻ này cho dù có đặt giả thiết rằng kẻ sát nhân giấu mặt chọn các nạn nhân một cách ngẫu nhiên. Hay là bốn nạn nhân bị giết vì một bí mật mà không ai ngoài bọn chúng biết?... Không, Asakawa thử tư duy khoa học hơn một chút. Có thể bốn nạn nhân đã nhiễm phải một loại virus tấn công vào tim ở cùng một nơi và vào cùng một thời điểm.

... Vớ vẩn.

Asakawa lắc đầu trong lúc vẫn bước đi.

... Có hay không một loại virus gây suy tim cấp?

Virus, virus! Asakawa vừa bước lên cầu thang vừa lẩm bẩm từ đó hai lần. Thế rồi gã đổi ý, gã thấy trước hết cần phải dùng phương pháp khoa học để giải thích. Gã quyết định đặt giả thiết rằng có sự tồn tại của một loại virus gây ra bệnh tim kịch phát. Nó có vẻ thực tế hơn giả thiết về một sức mạnh siêu nhiên, vả lại đỡ lo bị chê cười nếu đem kể với người khác. Cho dù loại virus này hiện nay chưa được tìm thấy trên trái đất thì cũng không thể loại bỏ khả năng nó trú ngụ trong một tảng thiên thạch vừa mới rơi xuống từ vũ trụ. Hoặc rất có thể nó đã rò rỉ ra từ một chương trình phát triển vũ khí sinh học. Phải rồi, trước hết gã sẽ thử coi đó là một chủng virus. Tất nhiên, như thế cũng không giúp gã trả lời được tất cả những điểm nghi vấn. Tại sao cả bốn nạn nhân đều chết với vẻ mặt hãi hùng đến thế? Tại sao Tsuji Haruko và Nomi Takehiko lại chết trong tư thế như cố muốn tránh xa nhau trong một chiếc xe chật hẹp như thế? Tại sao khi khám nghiệm tử thi lại không phát hiện ra điều gì? Nếu đặt giả thiết rằng có việc rò rỉ vũ khí sinh học thì nghi vấn thứ ba sẽ được giải quyết rất đơn giản. Đó là do lệnh cấm tiết lộ thông tin đã được ban ra.

Nếu suy luận theo giả thiết này thì rõ ràng đây là loại virus không lây truyền qua không khí vì không thấy xuất hiện thêm nạn nhân nào nữa. Nó là chủng virus lây qua đường máu giống AIDS hay là một chủng rất khó lây? Và chi tiết quan trọng nhất là bốn nạn nhân đã nhiễm nó ở đâu? Gã cần phải một lần nữa rà soát lại hoạt động của bọn trẻ suốt từ tháng Tám đến tháng Chín để tìm ra thời gian và địa điểm cùng lúc có mặt cả bốn đứa. Nhưng không hề đơn giản khi mà tất cả các đương sự đều đã bị bịt miệng. Nếu đó là bí mật chỉ của bốn đứa trẻ và không một ai kể cả cha mẹ và bạn thân của chúng biết được thì chẳng còn cơ hội nào dành cho gã. Nhưng, chắc chắn, vào một thời gian nào đó, ở một địa điểm nào đó, bốn đứa đã từng chung nhau một thứ gì đó.

Ngồi xuống trước máy đánh chữ, Asakawa tạm thời gạt lũ virus không rõ chân tướng ấy ra khỏi đầu mình. Gã rút cuốn sổ ghi chép và nhanh chóng tổng hợp lại nội dung đoạn băng cassette phỏng vấn ban nãy. Gã phải hoàn tất bài báo trong ngày hôm nay. Vì ngày mai, Chủ nhật, gã sẽ cùng với Shizu, vợ gã, tới chơi nhà bà chị vợ Oishi Yoshimi. Gã muốn tận mắt nhìn thấy hiện trường nơi Tomoko thiệt mạng và tự mình cảm nhận lấy bầu không khí ấy nếu nó vẫn còn ở đó. Chuyến đi Honmoku lần này còn là dịp để an ủi người chị gái vừa mất đi đứa con duy nhất nên Shizu đồng ý ngay, nhưng tất nhiên cô không hề biết dụng ý thật của chồng.

Asakawa bắt đầu gõ lên bàn phím trong khi đề cương của bài báo chưa kịp định hình hẳn trong đầu.

6.

Đã một tháng rồi Shizu, vợ Asakawa, mới gặp lại cha mẹ. Kể từ sau ngày đứa cháu ngoại Tomoko chết đi, cứ đến ngày nghỉ hai ông bà lại từ Ashikaga lên Tokyo động viên con gái. Mãi hôm nay Shizu mới biết việc đó. Lòng cô đau nhói khi nhìn thấy cha mẹ già với nỗi buồn khắc sâu trên gương mặt tiều tụy. Trước chuyện này, hai ông bà có ba đứa cháu: Tomoko, con gái của người chị cả Yoshimi; Keinichi, con trai của người chị thứ Kazuko; và Yoko, con gái của vợ chồng Asakawa. Ba cô con gái, mỗi người sinh cho ông bà một đứa cháu thật ra không phải là nhiều. Vì là đứa cháu đầu tiên nên mỗi lần gặp Tomoko, hai ông bà lại vui cười đến nhăn nheo cả mặt và chiều cháu hết mức. Nhìn sự buồn rầu khôn tả ấy, cô không biết nỗi đau của vợ chồng anh chị với của cha mẹ, nỗi đau nào lớn hơn.

... Một đứa cháu lại có ý nghĩa lớn đến vậy ư?

Năm nay vừa bước sang tuổi ba mươi, Shizu cố gắng thấu hiểu nỗi đau của người chị bằng cách thử đặt mình vào hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, Yoko mới có một tuổi rưỡi, không thể đem so sánh với Tomoko đã gần mười bảy tuổi. Shizu không thể hình dung được, tình yêu sẽ lớn lên như thế nào theo năm tháng.

Đã quá ba giờ chiều, cha mẹ Shizu chuẩn bị trở về Ashikaga.

Shizu rất lấy làm lạ. Một ông chồng cứ mở miệng ra là than bận sao bỗng nhiên lại rủ vợ đến thăm nhà chị gái? Hôm tổ chức lễ tang, chồng cô còn chẳng thể tham dự vì phải viết bài cho kịp hạn nộp. Hơn nữa, đã sắp đến giờ chuẩn bị bữa tối rồi mà chẳng buồn ra về. Chồng cô mới gặp Tomoko một đôi lần, chắc chắn chưa bao giờ nói chuyện thân mật với nhau, vậy thì không thể nào lại bịn rịn thương tiếc đến nỗi khó rời xa như vậy.

- Anh này, mình chuẩn bị về thôi...

Shizu vỗ nhẹ đầu gối và nói nhỏ vào tai Asakawa.

- Yoko có vẻ buồn ngủ rồi đấy. Hay là nhờ anh chị để nó ngủ ở đây một lúc.

Vợ chồng Asakawa mang con gái đi theo. Bình thường thì giờ này là khoảng thời gian ngủ trưa của cô bé. Quả thực là mí mắt của Yoko đã sắp nhíu lại rồi. Thế nhưng nếu để con bé ngủ ở đây, vợ chồng cô sẽ phải lưu lại căn nhà này thêm hai tiếng nữa. Cô không biết phải nói gì trong hai tiếng ấy với vợ chồng người chị vừa mất đi đứa con gái độc nhất.

- Để nó ngủ trong tàu điện cũng được chứ sao? - Shizu hạ thấp giọng.

- Lên tàu nó quấy lắm, lần trước phải khổ với nó rồi, anh chịu thôi.

Mỗi lần buồn ngủ ở chỗ đông người là Yoko lại quấy khóc không sao dỗ dành được. Cô bé vùng vẫy chân tay, la hét ầm ĩ khiến vợ chồng gã rất khó xử. Cách tốt nhất là nựng khéo cho cô bé ngủ, chứ mà nạt nộ thì chẳng khác nào đổ dầu vào lửa. Những lúc ấy, ánh mắt của mọi người xung quanh luôn khiến Asakawa mất bình tĩnh, gã nín lặng với bộ mặt giận dữ như thể kẻ bị quấy rầy nhiều nhất chính là bố mẹ con bé vậy. Bởi Asakawa thấy nghẹt thở vì những tia nhìn đầy trách móc của các hành khách khác. Còn Shizu, vốn rất yếu đuối, cũng chẳng dám nhìn khuôn mặt chồng đang run lên.

- Anh đã nói thế thì thôi...

- Vậy thì nhờ anh chị ấy cho nó ngủ trưa trên tầng hai một lát.

Yoko đang ngủ lơ mơ trong lòng mẹ.

- Để anh lên đặt nó.

Asakawa vừa vuốt má con gái bằng mu bàn tay vừa nói. Là một kẻ hiếm khi chăm sóc trẻ nhỏ, lời nói ấy phát ra từ miệng Asakawa có âm hưởng gì đó rất lạ. Hay gã đã thay đổi tâm tính sau khi nhìn thấy nỗi đau của một người mẹ mất con?

- Hôm nay anh sao thế... Chả bình thường chút nào.

- Không sao, nó sẽ ngủ ngay thôi, đưa đây cho anh.

Shizu truyền con gái cho chồng.

- Giá mà hôm nào cũng được thế này thì tốt.

Lúc đưa từ lòng mẹ sang tay bố, Yoko hơi nhíu mày, nhưng chưa kịp khóc thì cô bé đã chìm ngay vào giấc ngủ. Asakawa ẵm con lên tầng hai. Tầng hai gồm có hai căn phòng kiểu Nhật và một căn phòng kiểu Âu mà Tomoko đã ở lúc trước. Gã khẽ đặt Yoko lên tấm nệm trong căn phòng kiểu Nhật quay ra hướng Nam. Chẳng cần phải nằm cạnh con bé, nó đã chìm sâu vào giấc ngủ với tiếng thở nhẹ nhàng.

Asakawa khẽ rời khỏi căn phòng kiểu Nhật, gã vừa nghe ngóng động tĩnh bên dưới vừa bước vào phòng Tomoko. Gã thấy hơi có lỗi về hành vi xâm phạm cõi riêng tư của người quá cố. Bình thường gã đâu có vậy. Nhưng vì một mục đích lớn lao, và để vạch mặt cái ác, gã không còn cách nào khác. Gã thấy hổ thẹn về gã, kẻ đang định hợp thức hoá hành động của mình bằng những lý do này nọ. Gã đang biện hộ: chú không có ý định viết báo, chú chỉ đang đi tìm những thứ chỉ cho chú biết địa điểm và thời gian mà bốn đứa cháu đã cùng có mặt, tha lỗi cho chú nhé.

Asakawa mở ngăn kéo bàn. Những thứ văn phòng phẩm mà một nữ sinh trung học thường dùng đang nằm đó ngăn nắp. Có ba bức ảnh, một chiếc hộp nhỏ, một phong thư, một quyển sổ ghi chép, và bộ kim chỉ. Liệu bố mẹ con bé có động vào chúng sau khi con bé chết? Không, không có vẻ gì là như thế. Con bé chắc là một người thích sạch sẽ. Giá kể mà tìm được một thứ gì đó giống như nhật ký là nhanh nhất. Ngày x, tháng x, ở xxx, mình đã cùng với Tsuji Haruko, Nomi Takehiko, Iwata Shuichi... Giá mà tìm thấy một vài dòng ghi chép như thế. Asakawa nhanh chóng lật giở những cuốn vở viết lấy từ giá sách. Ở tít trong hốc ngăn kéo gã tìm thấy một quyển nhật ký trông rất nữ tính, nhưng chỉ có mấy trang được viết gọi là, hơn nữa ngày tháng ghi trên đó cách nay đã khá lâu.

Trong chiếc kệ đặt cạnh bàn không có sách, thay vào đấy là một cái tủ trang điểm be bé với hoạ tiết hình hoa màu đỏ. Gã rút ngăn kéo. Rất nhiều đồ trang sức rẻ tiền. Dễ thấy con bé hay làm mất đồ vì chẳng còn mấy đôi hoa tai đủ bộ. Trên chiếc lược bỏ túi còn vương vài sợi tóc.

Lúc gã mở chiếc tủ đựng quần áo được bắt chặt vào tường, một mùi nữ sinh trung học xông lên mũi. Những tấm áo liền váy và váy ngắn có hoa văn nhiều màu ken dày trên mắc. Bố mẹ người đã mất chưa biết phải xử lý ra sao với những bộ quần áo còn vương mùi cô con gái độc nhất. Asakawa lắng tai nghe động tĩnh bên dưới. Rủi mà bị bắt gặp ở đây thì không biết vợ chồng người chị sẽ nghĩ gì về gã. Không có tiếng động. Dường như vợ gã và vợ chồng người chị đang mải chuyện. Asakawa lục tìm từng chiếc túi. Khăn tay, cuống vé xem phim, giấy gói kẹo cao su. Gã sờ thấy băng vệ sinh và ví đựng vé tháng trong cái sắc. Gã nhòm vào trong ví. Một vé tháng đi tuyến Yamate-Tsurumi, một thẻ học sinh, và một thẻ hội viên. Có tên người trên tấm thẻ. Nonoyama XX. Hừm, hai chữ sau đọc là gì nhỉ? Yuki hay Yuuki? Gã không thể đoán được đó là tên đàn ông hay đàn bà. Tại sao lại có một tấm thẻ mang tên người khác ở chỗ này? Có tiếng bước chân đi lên cầu thang. Asakawa cất tấm thẻ vào túi, đút trả chiếc vé vào ví rồi đóng tủ lại. Gã vừa ra đến hàng lang thì cũng là lúc Yoshimi lên đến nơi.

- Tầng hai có nhà vệ sinh không chị?

Asakawa làm ra vẻ như đang ngó nghiêng tìm kiếm, tuy hơi thái quá.

- Ở cuối hàng lang ấy chú ạ.

Người chị không hề tỏ ý nghi ngờ.

- Yoko ngủ ngoan không?

- Dạ, cháu ngủ rồi. Làm phiền anh chị quá.

- Chú nói gì thế.

Người chị vợ khẽ cúi đầu, áp tay lên đai tóc rồi bước vào căn phòng kiểu Nhật.

Vào tới toilet, Asakawa lấy tấm thẻ ra xem. Thẻ Hội viên Câu lạc bộ Pacific Resort. Đấy là tên của tấm thẻ. Phía dưới là họ tên, số hiệu hội viên của Nonoyama XX, và ngày hết hạn. Gã lật mặt sau. Có năm mục cần lưu ý, tên và địa chỉ công ty. Công ty cổ phần Pacific Resort, 3-5 Kojimachi, quận Chiyoda, Tokyo, Tel (03) 261-4922. Nếu tấm thẻ này không phải là đồ nhặt được hay đánh cắp của ai thì có lẽ Tomoko đã mượn nó từ một nhân vật có cái tên Nonoyama. Để làm gì? Tất nhiên là để được sử dụng Khu nghỉ dưỡng Pacific Resort rồi. Nhưng khu nghỉ dưỡng đó ở đâu và Tomoko đã sử dụng nó vào thời gian nào?

Không thể dùng điện thoại của nhà chị vợ, Asakawa viện cớ đi mua thuốc rồi chạy ra bốt điện thoại công cộng trước nhà. Gã quay số.

- Vâng, Pacific Resort xin nghe. - Giọng một cô gái trẻ.

- Xin lỗi, cô có thể làm ơn cho tôi biết những khu nghỉ dưỡng chấp nhận thẻ hội viên của công ty được không?

Vẫn chưa thấy câu trả lời của cô gái. Có lẽ số lượng những khu nghỉ dưỡng như thế nhiều quá nên không thể giải đáp hết bằng miệng.

- À, như thế này đi, cho tôi hỏi những khu có thể nghỉ lại một đêm nếu đi từ Tokyo...

Asakawa nói thêm. Vì nếu cả bốn đứa trẻ đều cùng vắng nhà hai hoặc ba đêm liền thì chắc chắn người lớn sẽ để mắt tới. Gã không phát hiện thấy gì trong suốt cuộc điều tra vừa rồi hẳn là vì chúng đã đến một nơi mà chỉ cần ngủ lại một đêm. Bởi nếu chỉ một đêm, chúng có thể nói dối bố mẹ là tới ngủ ở nhà bạn mà không bị lộ.

- Thưa quý khách, nếu vậy quý khách có thể tới tổ hợp nghỉ dưỡng Pacific Land của chúng tôi ở Nam Hakone.

Cô gái trả lời ngắn gọn.

- Cụ thể là công ty có những dịch vụ giải trí gì?

- Vâng, chúng tôi có sân tennis, sân goft, khu thể thao ngoài trời và cả bể bơi nữa ạ.

- Thế còn chỗ nghỉ?

- Vâng, chúng tôi có khách sạn và khu biệt thự gỗ cho thuê Villa Log Cabin. Chúng tôi sẽ gửi thông tin chi tiết tới quý khách nếu quý khách quan tâm.

- Được như thế thì tốt quá.

Asakawa đóng vai một vị khách, bằng cách ấy gã có thể moi thông tin một cách dễ dàng.

- Thế người bình thường có thể thuê khách sạn hoặc biệt thự ở đấy được không?

- Dạ, được ạ. Tuy nhiên chúng tôi sẽ tính tiền phòng theo mức giá không ưu đãi.

- Vậy à. Thôi được, vậy cô cho tôi xin số điện thoại ở đó đi, tôi sẽ thử tới đó xem sao.

- Quý khách có thể đăng ký đặt phòng tại chỗ chúng tôi.

- À không, cô cho tôi xin số đi, vì có thể trong lúc lái xe qua đó tôi sẽ bất ngờ ghé vào...

- Xin quý khách chờ một lát.

Trong lúc chờ đợi, gã chuẩn bị sẵn cây bút bi và cuốn sổ ghi chép.

- Quý khách đã có giấy bút chưa ạ?

Cô gái trở lại ống nghe và đọc số điện thoại hai lần. Có cả thảy mười một con số vì mã vùng khá dài. Gã nhanh nhẹn ghi lại.

- Cô cho tôi hỏi thêm là ngoài khu đó ra còn có khu nào khác không?

- Chúng tôi còn có hai khu giải trí tổng hợp tương tự như thế ở hồ Hamana và Hamajima thuộc tỉnh Mie.

Xa quá! Đám học sinh trung học và trường dự bị làm sao có đủ tiền đi đến chỗ đó.

- Tôi hiểu, các khu nghỉ dưỡng của công ty đều nhìn ra Thái Bình Dương đúng như tên gọi cô nhỉ.

Sau đó cô gái bắt đầu hồ hởi giải thích rằng nếu trở thành hội viên của Câu lạc bộ Pacific Resort thì sẽ được hưởng những ưu đãi tuyệt hảo như thế nào. Asakawa nghe lấy lệ một lát trước khi cắt ngang:

- Cảm ơn cô, tôi sẽ xem trong tờ giới thiệu của công ty sau. Cô gửi cho tôi theo địa chỉ này nhé.

Asakawa đọc địa chỉ rồi gác máy. Kể mà dư giả tiền bạc thì có khi mình cũng đăng ký hội viên, trong lúc nghe cô gái nọ giới thiệu Asakawa bắt đầu nghĩ thế thật.

Yoko đã ngủ được hơn một giờ, ông bà ngoại cũng đã về Ashikaga. Shizu đang đứng trong bếp rửa bát hộ chị, Yoshimi lại sắp bị những ý nghĩ đau khổ giày vò. Asakawa cũng hăng hái phụ giúp việc dọn dẹp bát đĩa ngoài phòng khách.

- Anh này hôm nay lạ thật đấy. - Shizu nói trong khi vẫn không ngừng tay. - Cho con ngủ, phụ giúp việc bếp núc. Hay là thay đổi tâm tính rồi đấy? Giá mà lúc nào cũng được như thế thì tốt.

Asakawa đang mải nghĩ ngợi, gã không muốn bị quấy rầy. Gã muốn vợ gã im miệng đi đúng như cái tên của cô[2]. Cách tốt nhất để đàn bà khỏi mở miệng là không trả lời.

- À này, trước lúc đặt nó, anh đã đóng bỉm chưa đấy? Để nó tè dầm ra nhà người khác là phiền lắm.

Asakawa chẳng thèm để ý, gã nhìn khắp một lượt trong bếp. Tomoko chết ở đây. Nghe nói mảnh thuỷ tinh của chiếc cốc vỡ và nước Coca văng đầy trên sàn. Rất có thể đúng lúc Tomoko lấy chai Coca từ tủ lạnh ra và định uống thì đám virus nọ tấn công. Asakawa mở tủ lạnh và thử bắt chước đúng như những gì Tomoko đã làm. Gã tưởng tượng ra cái cốc và giả vờ uống.

- Anh này... làm cái gì đấy?

Shizu há hốc mồm nhìn chồng. Asakawa vẫn tiếp tục. Gã vừa giả bộ uống vừa quay lại đằng sau. Quay lại, trước mặt gã là cánh cửa kính ngăn cách bếp với phòng khách. Trên đó, bóng đèn huỳnh quang chỗ bồn rửa bát đang hắt ánh. Có lẽ tại trời vẫn sớm, phòng khách còn nhiều ánh sáng nên trên khung cửa kính chỉ có bóng của chiếc đèn huỳnh quang chứ không thấy rõ nét mặt những người trong bếp. Giả sử phòng khách tối đen còn bên này có ánh sáng, phải rồi, giống Tomoko đã đứng đây tối hôm đó... thì chắc chắn, cánh cửa kính sẽ thành một tấm gương soi rõ mọi vật trong bếp. Nó sẽ phản chiếu khuôn mặt biến dạng vì sợ hãi của Tomoko. Asakawa chợt cảm thấy tấm kính tựa như kẻ ghi lại tất cả những gì đã xảy ra. Sự giằng co giữa ánh sáng và bóng tối sẽ biến tấm kính trở nên trong suốt hoặc thành một tấm gương. Đúng lúc Shizu định chạm vào vai Asakawa, đang gí mặt mình vào ô cửa kính như bị thôi miên, thì có tiếng trẻ con khóc vọng xuống từ tầng hai. Yoko vừa tỉnh giấc.

- Ôi, Yoko dậy rồi đấy.

Shizu lau bàn tay ướt vào khăn. Nhưng tiếng khóc nghe sao rợn người, chẳng giống tiếng khóc của một đứa trẻ mới thức giấc. Shizu tất tả chạy lên.

Yoshimi vào bếp thay Shizu rửa nốt chỗ bát đĩa. Asakawa lấy ra tấm thẻ hội viên.

- Chị này, em nhặt được nó dưới chân đàn piano.

Asakawa thản nhiên nói như vậy và chờ phản ứng của Yoshimi. Cô nhận lấy tấm thẻ rồi lật mặt sau lên xem.

- Lạ thật đấy, sao lại có cái này nhỉ.

Yoshimi cau mày khó hiểu.

- Hay là cháu Tomoko mượn của bạn?

- Nhưng chị chưa từng nghe thấy cái tên Nonoyama này bao giờ. Chả lẽ trong đám bạn nó lại có ai tên như vậy?

Yoshimi gật đầu không nói. Rồi cô đi ra vì chợt có tiếng gọi của người chồng từ phòng khách. Người bố mất con ngồi quỳ trước bàn thờ còn mới, miệng đang lẩm bẩm điều gì đó với tấm di ảnh. Giọng nói nghe vui vẻ đến giật mình khiến Asakawa trở nên u uẩn. Con người đó đang muốn phủ nhận hiện thực. Asakawa chỉ còn biết cầu nguyện để hai người họ có thể vượt qua.

Có một điều này mà Asakawa biết chắc. Là nếu quả thật nhân vật có cái tên Nonoyama cho Tomoko mượn thẻ hội viên thì chắc chắn nhân vật này phải liên lạc với Tomoko để đòi lại tấm thẻ ngay sau khi biết tin cô chết. Nhưng mẹ Tomoko không hề biết gì. Đương nhiên là không có chuyện Nonoyama quên tấm thẻ. Cho dù là thẻ hội viên gia đình mượn của bố mẹ thì cũng không thể làm mất rồi lờ đi được, vì họ đã phải trả cả một đống tiền hội phí cho nó. Lý giải sao đây? Asakawa bèn suy luận thế này. Nonoyama đã cho một trong ba người còn lại, nghĩa là Iwata, Tsuji, Nomi mượn tấm thẻ. Tuy nhiên vì một lẽ nào đó mà tấm thẻ đã rơi vào tay Tomoko và không ai biết. Nonoyama liên lạc với bố mẹ người đứng ra mượn thẻ. Bố mẹ người này đi tìm trong đống đồ đạc của con nhưng không thấy. Tất nhiên rồi, vì tấm thẻ đang ở đây. Theo hướng đó, biết đâu gã lại chẳng có được địa chỉ của Nonoyama nếu liên lạc với ba gia đình kia? Cần phải gọi điện ngay trong tối nay. Bằng cách ấy mà không tìm được manh mối gì thì gần như có thể loại trừ khả năng tấm thẻ đã cung cấp một địa điểm chung cho cả bốn đứa. Nhưng dù sao gã cũng muốn gặp và hỏi chuyện Nonoyama. Còn một cách cuối cùng là gã sẽ lần ra địa chỉ từ số hiệu hội viên của Câu lạc bộ Pacific Resort. Gã biết không dễ gì lấy được thông tin đó từ phía công ty, nhưng vỏ quít dày có móng tay nhọn, gã sẽ sử dụng những mối quen biết trong làng báo.

Anh ơi... anh ơi... Ai đó đang gọi gã, tiếng gọi từ khá xa. Ấy là tiếng vợ gã đang ríu lại cùng với tiếng con khóc.

- Anh ơi, lên đây đi.

Asakawa choàng tỉnh. Bất chợt, gã chẳng còn biết vừa rồi mình đã nghĩ những gì. Không hiểu sao tiếng khóc của con bé nghe lạ quá. Càng lên đến gần gã càng cảm thấy vậy.

- Chuyện gì thế?

Asakawa nói như trách vợ.

- Lạ quá, cứ như nó bị làm sao ấy. Nó khóc chẳng giống bình thường gì cả. Hay là bị ốm?

Asakawa áp tay lên trán con. Không sốt. Nhưng bàn tay nhỏ bé của nó đang run. Cơn run truyền ra khắp người, thỉnh thoảng tấm lưng lại giật mạnh. Mặt cô bé tím tái, đôi mắt nhắm nghiền.

- Nó bị thế này từ bao giờ?

- Chắc là lúc tỉnh dậy nó không thấy ai ở bên cạnh.

Lúc tỉnh dậy, con bé thường hay khóc khi không thấy mẹ. Nhưng hễ được mẹ bế lên là nó nín ngay. Trẻ con khóc khi muốn nói điều gì đó. Yoko định nói gì... Đó không phải là cách nó làm nũng. Nó đang nắm chặt hai bàn tay nhỏ xíu vào nhau, giơ lên trước mặt... Nó sợ. Phải rồi, nó luôn gào khóc khi quá sợ. Yoko đang ngoảnh mặt đi, nó hơi xoè nắm đấm đang bấu chặt và cố chỉ lên phía trên. Asakawa nhìn theo hướng ấy. Ánh mắt gã bắt gặp chiếc cột. Gã đưa mắt lên cao hơn. Trên đó, cách trần nhà ba mươi phân là chiếc mặt nạ hình quỷ Hannya cỡ lớn. Con bé sợ mặt nạ quỷ?

- Hoá ra tại cái đó.

Asakawa hất hàm chỉ. Cả hai người cùng nhìn chiếc mặt nạ, rồi từ từ quay sang nhau.

- Quái lạ, chẳng lẽ nó biết sợ quỷ?

Asakawa đứng dậy tháo chiếc mặt nạ trên cột xuống và úp lên nóc tủ. Làm thế này Yoko sẽ không nhìn thấy nó nữa. Đúng lúc ấy, tiếng khóc im bặt.

- Lạ thật, Yoko biết sợ quỷ cơ đấy.

Thở phào vì hiểu ra nguyên cớ, Shizu vui vẻ cọ má vào mặt con. Có cái gì đó mà Asakawa vẫn chưa hiểu. Nhưng gã không muốn ở lại căn phòng này thêm nữa.

- Thôi, mình về sớm đi. - Asakawa giục vợ.

Xế chiều, vừa từ nhà Oishi về, Asakawa liền lần lượt gọi điện cho gia đình Tsuji, Nomi, Iwata để hỏi xem có ai trong số người quen của con cái họ hỏi tới tấm thẻ kia không. Cuối cùng khi gọi tới nhà Iwata, bà mẹ đã nói một mạch với gã rằng: "Có một cậu tự xưng là bạn học khoá trên của nó ở trường trung học gì đó gọi điện đến, bảo hôm trước có cho nó mượn cái thẻ hội viên, hôm nay gọi điện để xin lại... Nhưng tôi tìm khắp phòng nó rồi mà không thấy, đang chẳng biết phải ăn nói làm sao với người ta". Nhờ vậy mà gã lập tức lấy được số điện thoại và có thể gọi ngay cho Nonoyama.

Nonoyama nói rằng cậu ta gặp Iwata ở Shibuya vào Chủ nhật tuần cuối cùng của tháng Tám và đã cho Iwata mượn thẻ hội viên, đúng như những gì gã nghĩ. Cậu ta còn kể Iwata có bảo rằng nó sẽ đi nghỉ cùng với một con bé học sinh trung học nó đang tán tỉnh.

"Sắp hết kỳ nghỉ hè đến nơi rồi, không chơi tơi bời một phát cuối thì em chịu không học cho ra hồn được đâu ông anh ạ."

Nonoyama bật cười khi nghe Iwata nói vậy.

"Thằng khỉ, học sinh trường dự bị mà cũng đòi có nghỉ hè."

Chủ nhật tuần cuối cùng của tháng Tám là ngày 26, nên nếu chúng đi chơi và nghỉ lại đâu đó thì sẽ là vào một trong các ngày 27, 28, 29, 30. Vì sang tháng Chín cả trường dự bị và trường trung học đều đã bước vào học kỳ mới.

Chắc là mệt mỏi vì đi xa cả ngày nên Yoko và Shizu đều lập tức ngủ rất say. Gã nghe thấy tiếng thở khe khẽ của hai mẹ con lúc áp tai vào cửa buồng ngủ. Chín giờ tối... đây là khoảng thời gian thư thái đối với Asakawa. Nếu vợ con không đi ngủ thì gã chẳng kiếm đâu được một khoảnh yên tĩnh để làm việc trong căn hộ chung cư bé tẹo này.

Asakawa lấy bia từ tủ lạnh và rót vào cốc. Mùi vị của bia hôm nay rất đặc biệt. Rõ ràng là gã đã tiến được một bước dài nhờ tìm thấy tấm thẻ hội viên. Khả năng bốn đứa trẻ, gồm cả Iwata, sử dụng khách sạn hoặc biệt thự cho thuê ở khu nghỉ dưỡng Pacific Resort vào một trong các ngày 27, 28, 29, 30 của tháng Tám là cực kỳ cao. Nhưng trong số các khu nghỉ dưỡng, biệt thự gỗ cho thuê Villa Log Cabin tại Pacific Land ở Nam Hakone là đáng chú ý nhất. Xét về khoảnh cách, không đâu lý tưởng bằng Hakone, hơn nữa, không thể có chuyện một nhóm học sinh trung học ít tiền mà lại dám nghỉ ở một khách sạn hạng sang. Cho nên, theo lẽ thường hẳn là bọn chúng sẽ dùng thẻ hội viên để nghỉ ở một biệt thự cho thuê rẻ tiền. Giá thuê một căn biệt thự cho hội viên ở đó là năm nghìn yên, tính ra mỗi đứa chỉ cần góp vào hơn một nghìn yên là đủ.

Gã đã có số điện thoại của khu Villa Log Cabin trong tay. Asakawa đang đặt cuốn sổ ghi chép trên bàn. Cách nhanh nhất là gọi điện đến lễ tân để kiểm tra xem có nhóm bốn người nào với cái tên Nonoyama đã từng nghỉ ở đấy không. Tuy nhiên, có gọi điện thì cũng đời nào họ chịu trả lời. Người quản lý ở những khu biệt thự trong các câu lạc bộ resort vốn được huấn luyện rất kỹ càng nên đương nhiên họ sẽ coi việc giữ kín bí mật của khách hàng là nghĩa vụ. Và dù có chứng minh mình là phóng viên của một tờ báo lớn và nói rõ mục đích của cuộc điều tra thì cũng không bao giờ họ tiết lộ cho gã biết. Hay là mình sẽ liên lạc với phân xã ở đó để nhờ một tay luật sư cánh hữu yêu cầu họ cho xem số đăng ký thuê phòng, Asakawa nghĩ. Trong những trường hợp như thế này, chỉ có cảnh sát và luật sư là có quyền yêu cầu người quản lý cho xem sổ. Gã có thể đóng giả, nhưng nếu bị lộ thì sẽ rất phiền tới công ty. Thôi, cứ chính danh là an toàn và chắc chắn nhất.

Chỉ có điều, nếu nhờ luật sư thì sẽ phải mất ít nhất ba đến bốn ngày. Mà Asakawa thì không đợi được lâu thế. Gã muốn biết ngay bây giờ. Sự háo hức muốn làm sáng tỏ vụ án sôi sục đến mức gã không thể chịu đựng nổi khoảng thời gian ba ngày. Rốt cuộc, cái gì đang chờ gã ở phía trước? Nếu đúng là bốn đứa trẻ đã nghỉ lại một đêm tại khu Villa Log Cabin ở Pacific Land Nam Hakone vào cuối tháng Tám và đó chính là nguyên nhân cho những cái chết bí ẩn ấy, thì rốt cuộc điều gì đã xảy ra? Virus, virus. Gã thừa hiểu virus chỉ là cách nói cứng gã dùng để thoát khỏi áp lực về một thứ gì thần bí. Ở một mức độ nào đấy, sẽ là hợp lý khi lấy sức mạnh khoa học để đối chọi lại với sức mạnh siêu nhiên. Người ta không thể bàn về một thứ không biết bằng thứ ngôn từ mà người ta không biết. Người ta phải diễn đạt cái thứ không biết ấy bằng một ngôn từ mà người ta biết.

Asakawa nhớ lại tiếng khóc của Yoko. Chiều hôm nay, tại sao khi nhìn thấy mặt nạ hình quỷ con bé lại sợ hãi đến vậy? Trên xe điện về nhà, Asakawa hỏi vợ.

- Này, có phải em dạy cho Yoko biết về quỷ không?

- Ý anh là sao?

- Nghĩa là em đã bao giờ chỉ cho nó xem con quỷ trên tranh và dạy rằng nó rất đáng sợ chưa?

- Không, làm gì có...

Cuộc trò chuyện chỉ diễn ra có vậy. Shizu chẳng nghi ngờ gì cả. Nhưng Asakawa thì nghĩ ngợi. Nỗi sợ ấy là nỗi sợ khi bản năng bị chạm đến. Nó khác với nỗi sợ có được qua dạy bảo và kinh nghiệm. Ngay từ thời vượn người nguyên thuỷ, con người đã luôn sống với những nỗi sợ. Sấm sét, giông bão, thú rừng và bóng tối... Vì vậy, một đứa trẻ sẽ sợ hãi ngay lần đầu tiên khi nó tiếp xúc với sấm sét, ấy là nỗi sợ của bản năng. Chỉ có điều sấm sét thì thực sự tồn tại, còn ma quỷ... Gã tra từ điển quốc ngữ, ở đó định nghĩa rằng "Quỷ là quái vật hoặc linh hồn người chết chỉ có trong tưởng tượng". Nếu Yoko sợ quỷ vì bộ mặt dữ tợn thì chắc chắn nó cũng phải sợ khi nhìn thấy mô hình con Gozilla chứ. Thực ra Yoko đã từng nhìn thấy Gozilla trong khung kính vào một lần đi mua sắm. Đó là một mô hình được làm rất tinh xảo. Chỉ có điều thay vì sợ, mắt con bé ánh lên thích thú và nhìn mãi không thôi. Phải giải thích việc này như thế nào? Gozilla, nói gì thì nói, rõ ràng là một kiểu quái vật trong tưởng tượng. Vậy thì tại sao nó lại sợ quỷ... Phải chăng quỷ là thứ chỉ có riêng ở Nhật Bản. Không, phương Tây cũng có một loại tương tự như thế: ác quỷ... Gã bỗng thấy bia không còn ngon như cốc đầu tiên. Liệu Yoko còn sợ thứ gì khác? Phải rồi, bóng tối. Con bé sợ nhất bóng tối. Nó không bao giờ dám vào trong phòng một mình nếu không có điện. Bóng tối là một thứ có thật đối lập với ánh sáng. Giờ này, trong căn buồng tối, Yoko đang ngon giấc giữa vòng tay mẹ.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện