Chương 2 - Cao Nguyên
1.
Thứ Năm, ngày 11 tháng Mười
Asakawa phải tăng tốc độ cần gạt nước vì mưa mỗi lúc một mau. Thời tiết ở Hakone rất thất thường. Dưới Odawara trời vẫn nắng, song càng lên cao không khí càng ẩm ướt và đến đỉnh đèo thì một cơn mưa dữ dội ập đến. Gã đã gặp chuyện này một vài lần. Nếu là ban ngày thì gã còn có thể phần nào dự đoán được thời tiết trên núi dựa vào những đám mây bao lấy đỉnh Hakone. Nhưng ban đêm, gã chẳng thấy gì ngoài bóng tối phía sau ánh đèn pha. Mãi đến khi dừng xe lại và ngẩng nhìn lên gã mới nhận ra bầu trời đầy sao đã biến mất. Lúc gã lên tàu ở Tokyo, phố xá bắt đầu chìm trong mờ tỏ. Tới ga Atami, lúc thuê xe gã vẫn còn thấy bóng trăng ẩn hiện qua những kẽ mây. Thế mà bây giờ, những giọt nước nhỏ li ti phất phơ trước ánh đèn pha đã biến thành cơn mưa thật sự, quất thẳng vào kính trước.
Bảng đồng hồ điện tử phía trên công-tơ-mét hiển thị con số 19:32. Asakawa nhẩm tính quãng đường thời gian cho tới lúc này. Gã lên tàu ở Tokyo lúc 17:16 và tới ga Atami lúc 18:07. Ra khỏi cửa soát vé và làm xong thủ tục thuê xe lúc 18:30. Mua hai hộp mỳ cốc, một chai Whisky loại nhỏ ở chợ và thoát ra khỏi khu nội thị toàn đường một chiều vào lúc 19:00.
Đường hầm dài xuyên qua rặng núi đá Tanna bắt đầu hiện ra trước mắt gã trong ánh đèn vàng nhấp nháy. Đi hết đường hầm ra tới tỉnh lộ Atami-Kannami là sẽ thấy biển chỉ dẫn lối vào Pacific Land Nam Hakone. Vào tới bên trong tiếng gió rít bên thành xe nghe khác hẳn. Cùng lúc, màu da gã, chiếc ghế bên cạnh, tất cả mọi thứ trong xe đều bị nhuộm vàng bởi ánh đèn màu cam, gã bỗng thấy bồn chồn. Gã sởn gai ốc. Không có bóng xe nào chạy ngược lại, tiếng cần gạt nước ken két miết vào mặt kính trước. Gã ngắt công tắc cần gạt nước. Gã sẽ tới đó trước tám giờ. Đường vắng tanh vậy mà gã không hề có ý định tăng ga. Tự nhiên, trong vô thức, gã thấy sợ phải đi đến đó.
Tấm bảng chỉ dẫn lối vào Pacific Land Nam Hakone được dựng trên một sườn núi. Không đèn nê-ông quảng cáo, chỉ có tấm bảng chắn với những vệt sơn đen. Vì thế, nếu bỏ lỡ cái tích tắc đèn pha chiếu vào tấm biển, bất kỳ ai cũng có thể chạy tuột qua. Asakawa cho xe rẽ sang trái và leo lên con đường núi chạy giữa những mảnh ruộng bậc thang. Quá nhỏ so với một lối vào khu nghỉ dưỡng. Gã thấy hơi lo lắng; không khéo lại là đường cụt. Gã cài số thấp và leo một cách chậm rãi vì nhiều đoạn cua gấp mà đèn đường thì không có. Cũng chẳng còn khoảng trống nào để tránh nếu có xe ngược chiều chạy lại.
Mưa đã tạnh tự lúc nào. Bây giờ Asakawa mới nhận ra điều đó. Thời tiết giữa sườn Đông và sườn Tây của dải núi đá Tanna thật trái ngược nhau.
Song đó không phải là đường cụt, nó chạy dài mãi lên trên. Hai bên đường bắt đầu lác đác xuất hiện những ngôi biệt thự đang rao bán. Rồi đột nhiên, cảnh vật hoàn toàn thay đổi, đường mở thành làn đôi, mặt đường tốt hơn và hai bên được trang hoàng bằng những hàng đèn. Sự biến đổi ấy khiến Asakawa kinh ngạc. Gã đã vào đến Pacific Land, khắp nơi là những đồ trang trí xa xỉ. Con đường nhỏ chạy xuyên qua ruộng vừa rồi là sao? Con đường vốn hẹp lại càng hẹp hơn bởi lá ngô và đám lau sậy cao ngút đầu xoè ra từ hai phía làm gã thấy bồn chồn với ý nghĩ: rất có thể nó đang chờ mình ở khúc cua kế tiếp.
Đối diện với bãi đậu xe rất rộng là toà nhà ba tầng, ở đó có trung tâm thông tin và nhà hàng. Asakawa dừng xe ngay trước sảnh lớn và bước vào trong. Gã nhìn đồng hồ: vừa tám giờ, đúng như dự tính. Có tiếng đập bóng từ đâu đó vọng lại. Phía dưới trung tâm là sân quần vợt, có mấy đôi nam nữ đang hào hứng chơi tennis trong ánh đèn vàng vọt. Thật lạ, cả bốn sân đều đang được sử dụng. Tám giờ, thứ Năm, một ngày thượng tuần tháng Mười, Asakawa không thể hiểu nổi thần kinh của những kẻ đã tới tận đây để chơi tennis vào giờ này. Dưới sân tennis, ở mãi đằng xa, có thể nhìn thấy ánh đèn đêm từ Manj Mishima và Numazu hắt tới. Và khoảng tối phía xa hơn nữa, đậm đặc như hắc ín, là vịnh Tago-no-Ura.
Bước vào trung tâm, ngay trước mặt gã là nhà hàng. Gã có thể nhìn thấy mọi thứ bên trong nhà hàng vì nó được làm bằng kính. Asakawa lại một lần nữa phải kinh ngạc. Nhà hàng đóng cửa lúc tám giờ, vậy mà các thực khách, đa phần là các gia đình và những nhóm toàn phụ nữ, vẫn còn quá nửa. Chuyện quái gì thế nhỉ, gã chau mày khó hiểu. Đám người này từ đâu đến? Gã không sao lý giải nổi. Khó mà tin được rằng bọn họ đã tới đây bằng con đường mà gã vừa đi qua. Biết đâu đấy, con đường mà gã đi qua chỉ là đường tắt, chứ thực ra còn có con đường khác sáng sủa và rộng rãi hơn? Nhưng khi chỉ đường đến Pacific Land, cô lễ tân đã chẳng nói thế qua điện thoại là gì.
"Quý khách cứ đi theo tỉnh lộ Atami-Kannami, được nửa đường thì rẽ trái và leo hết con đường núi là tới."
Asakawa đã đi đúng như vậy. Không thể có con đường nào khác.
Asakawa bước vào nhà hàng dù biết đã hết giờ đón khách. Dưới ô cửa kính cực lớn là thảm cỏ được cắt tỉa khéo léo tạo thành một sườn dốc mềm mại đổ về phía thành phố trong đêm. Gã đoán rằng người ta cố tình giảm lượng ánh sáng trong phòng để các vị khách có thể ngắm cảnh đêm được đẹp hơn. Gã níu lấy một người bồi bàn đi lại gần phía gã để hỏi đường tới Villa Log Cabin. Anh ta chỉ ra sảnh chính, chỗ ban nãy gã vừa bước vào.
- Anh rẽ phải theo con đường đó, đi thêm hai trăm mét nữa thì tới phòng quản lý.
- Có bãi đậu xe không?
- Bãi đậu xe ở ngay trước phòng quản lý.
Đơn giản chỉ có vậy. Chỉ cần đi thẳng và không rẽ vào đây là tự nhiên sẽ tới. Nhưng tại sao gã lại bị thu hút bởi toà nhà đầy vẻ hiện đại này, và tại sao gã lại sốt sắng đi vào nhà hàng? Gã phần nào có thể phân tích được tâm lý ấy của mình: vì bằng cách đó gã cảm thấy yên lòng. Suốt dọc đường, bóng dáng những căn nhà gỗ nhỏ tăm tối tách biệt với thế giới hiện đại, tưởng như có thể là bối cảnh hoàn hảo cho bộ phim Thứ Sáu ngày 13, luôn choán lấy tâm trí gã, nhưng ở đây, gã không thấy khung cảnh nào như thế. Và đứng trước bằng chứng nói lên rằng sức mạnh của khoa học hiện đại cũng đang có mặt nơi đây khiến gã thấy vững tâm. Duy có một điều làm gã băn khoăn, ấy là sự kinh khủng của con đường từ chân núi lên đây, và mặc vậy, vẫn có rất nhiều kẻ đang vui thú với quần vợt và say sưa ăn uống trên đỉnh núi này. Gã không hiểu tại sao gã lại băn khoăn về điều ấy. Song, gần như chắc chắn, gã không hề cảm thấy những người ở đây đang sống.
Sân tennis và nhà hàng đông đúc như thế, hẳn là Asakawa sẽ nghe thấy những tiếng chuyện trò vui vẻ sau bữa tối vọng ra từ vài căn biệt thự. Gã đã hy vọng thế. Nhưng, khi đứng trên bãi xe và nhìn xuống tận đáy dốc, gã cũng chỉ đếm nổi sáu trong số mười ngôi biệt thự gỗ được xây dựng giữa rừng trên một sườn dốc thoai thoải. Xa hơn nữa, chỉ có bóng đêm dày đặc của cánh rừng vì ánh đèn đường không đủ sức chiếu tới, vả lại cũng chẳng có lấy một ngọn sáng nào thoát ra từ các căn phòng. B-4, nơi gã sẽ nghỉ lại đêm nay nằm đúng trên cái ranh giới sáng tối ấy và tất cả những gì mà gã có thể thấy được là phần trên của cánh cửa chính.
Asakawa vòng ra đằng trước, mở cửa và bước vào phòng quản lý. Có tiếng ti vi nhưng không có người. Người quản lý đang ngồi trong căn phòng kiểu Nhật nằm sâu bên tay trái nên không để ý thấy Asakawa vừa vào. Gã không biết bên trong đó ra sao vì vướng chiếc quầy. Có vẻ như người quản lý đang xem một bộ phim nước ngoài chứ không phải một chương trình truyền hình, lời thoại bằng tiếng Anh cùng với khuôn hình đang rung rinh phản chiếu lên cánh cửa tủ trước mặt gã. Có rất nhiều những cuốn băng video nằm trong vỏ được xếp kín trên chiếc tủ bắt chặt vào tường. Asakawa tì tay lên quầy và cất tiếng gọi. Ngay lập tức một người đàn ông xấp xỉ lục tuần thò cổ ra và cúi chào: "Ồ, xin mời vào!" Đây chắc hẳn là người đàn ông đã xuất trình sổ đăng ký thuê phòng theo yêu cầu điều tra của luật sư và ban tin tức Atami... Nghĩ vậy, Asakawa nở một nụ cười thân mật.
- Cháu là Asakawa, có đặt phòng ở đây.
Người đàn ông mở sổ kiểm tra.
- Đúng rồi, B-4. Nhờ anh viết tên và địa chỉ vào đây cho.
Asakawa điền tên thật của mình vào. Gã không còn cầm tấm thẻ hội viên nữa vì vừa gửi trả cho Nonoyama ngày hôm qua.
- Có một mình thôi à?
Người quản lý ngước nhìn Asakawa một cách lạ lùng. Trước nay chưa có ai nghỉ một mình ở đây bao giờ. Nếu chỉ có một mình và không phải hội viên thì nghỉ ở khách sạn sẽ kinh tế hơn. Người quản lý đưa cho gã hai tấm chăn rồi quay lại phía chiếc tủ.
- Nếu anh thích thì có thể mượn một cuốn. Có đủ các chủ đề ăn khách đấy.
- Ồ, bác cho thuê cả băng video cơ à?
Asakawa đưa mắt điểm qua các tựa phim trong đống băng xếp kín cả một mặt tường. Cuộc truy tìm rương thánh tích (Raiders of the Lost Ark), Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars), Trở lại tương lai (Back to the Future), Thứ Sáu ngày 13 (Friday the 13th)..., toàn các bộ phim ăn khách nước ngoài, chủ yếu là thể loại khoa học giả tưởng, phim mới cũng nhiều. Tới Villa Log Cabin này hẳn là toàn bọn trẻ. Chẳng có bộ phim nào làm gã thấy quan tâm. Hơn nữa, gã đến đây vì công việc.
- Tiếc thật, cháu nhiều việc quá.
Asakawa nhắc chiếc máy chữ xách tay đang để trên bàn lên cho người quản lý xem. Có vẻ như vì thế mà ông ta đã hiểu ra tại sao gã lại đến đây có một mình.
- Trong phòng có đầy đủ đồ làm bếp chứ ạ? - Asakawa hỏi.
- Vâng, anh có thể dùng bất cứ thứ gì.
Hỏi vậy thôi, chứ Asakawa chỉ cần một chiếc siêu đun nước nóng để pha mỳ cốc là đủ. Người quản lý hướng dẫn Asakawa đường đi đến ngôi biệt thự B-4 trong lúc gã cầm lấy chăn cùng với chìa khoá và đang định bước ra ngoài. Rồi ông ta nói với gã bằng một vẻ lịch sự kỳ lạ: "Mong quý khách thấy thoải mái như ở nhà."
Trước khi chạm tay vào nắm cửa, Asakawa lấy đôi găng tay cao su đã chuẩn bị trước ra và xỏ vào. Chúng như tấm bùa hộ mạng bảo vệ gã khỏi lũ virus giấu mặt và làm yên lòng gã.
Asakawa mở cửa, bật công tắc cạnh lối vào, bóng đèn 100 oát chiếu sáng cả căn phòng khách rộng thênh thang. Từ giấy dán tường, thảm trải sàn, ghế sofa cho bốn người, ti vi, cho đến bộ bàn ăn, mọi thứ trong phòng đều còn mới và được bài trí một cách hợp lý. Asakawa bỏ giày và bước vào trong. Phòng khách quay mặt ra ban công, tầng một và tầng hai mỗi tầng có một phòng kiểu Nhật rộng vừa phải. Quả thật sự rộng rãi ấy là quá xa xỉ nếu chỉ dành cho một người. Gã kéo chiếc rèm đăng ten đồng thời mở cánh cửa kính để không khí lùa vào. Căn phòng quá sạch sẽ, trái hẳn với những gì gã mong đợi. Biết đâu gã sẽ phải ra về mà chẳng kiếm được manh mối nào. Ý nghĩ ấy bất chợt đến trong đầu gã.
Asakawa bước vào căn phòng kiểu Nhật kế bên phòng khách và mở tủ hốc. Chẳng có gì. Gã cởi sơ mi và quần dài rồi mặc một chiếc áo giéc-xi và quần thể thao. Gã treo bộ đồ thay ra vào tủ hốc. Gã đi lên tầng hai, bật đèn trong căn phòng kiểu Nhật. Mình chẳng khác gì một đứa trẻ con, gã tự cười. Gã nhận thấy gã đã bật tất cả mọi nguồn sáng có thể được ở trong phòng.
Sau khi phòng đã đủ sáng, gã rón rén mở cửa toilet. Gã vẫn để cánh cửa hơi he hé trong lúc kiểm tra bên trong. Gã nhớ lại tính nhát ma hồi nhỏ của mình. Vào đêm mùa hè, gã không bao giờ dám đi vệ sinh một mình, gã luôn để cửa toilet mở hé và nhờ bố ngồi trông ở ngoài. Bên kia tấm kính mờ là buồng tắm. Buồng tắm ngăn nắp, không có hơi nước, cả bồn tắm và bồn rửa mặt đều khô ráo. Chắc chắn là lâu rồi không có khách đến đây. Gã định tháo găng tay cao su nhưng mồ hôi làm nó dính chặt vào tay không sao cởi ra được. Cơn gió mang theo hơi lạnh của cao nguyên thổi vào phòng làm tấm rèm lay động.
Asakawa lấy đá trong tủ lạnh cho vào đầy cốc. Gã mở chai whisky mua trước lúc tới đây và rót chừng phân nửa. Sau đó, gã định pha thêm với một chút nước máy, nhưng sau một thoáng chần chừ, gã khoá miệng vòi lại và tự thuyết phục mình rằng, gã thích uống đặc hơn. Gã không dám đưa bất cứ thứ gì trong ngôi nhà này vào miệng. Chỉ có đá là gã không đề phòng vì tin rằng: vi sinh vật không thể chịu được nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp.
Asakawa ấn mình thật sâu xuống ghế sofa và bật ti vi. Có tiếng hát của một ca sỹ mới nổi. Giờ này, Tokyo cũng đang phát chương trình đó. Asakawa chuyển kênh. Gã điều chỉnh âm lượng vừa đủ mặc dù không hề có ý định xem, rồi lấy chiếc máy quay phim ra và đặt lên bàn. Gã muốn ghi lại tất cả nếu có chuyện bất thường xảy ra.
Asakawa tợp một ngụm hết cốc whisky. Gã cảm thấy bình tâm đôi chút. Sau đó, một lần nữa, Asakawa sắp xếp lại mọi diễn biến cho đến lúc này trong đầu. Nếu đêm nay gã không thu hoạch được gì thì nghĩa là bài báo gã định viết sẽ bế tắc. Nhưng biết đâu như thế lại chẳng tốt hơn. Không thu lượm được manh mối nào nghĩa là gã sẽ không bị nhiễm loại virus đó. Gã có vợ có con, gã không muốn chết theo một cách khác thường. Asakawa gác chân lên bàn.
... Này, mi đang đợi gì thế? Không sợ ư? Không sợ thật đấy chứ? Thôi nào, cẩn thận kẻo thần chết tới bây giờ.
Asakawa căng thẳng nhìn quanh, gã không sao có thể cố định ánh mắt vào một điểm trên tường. Vì gã sợ nếu nhìn lâu, mọi tưởng tượng trong đầu gã sẽ hiện ra trước mặt.
Từ bên ngoài, gió lạnh thổi vào. Gã khép cửa và nhìn rất nhanh ra ngoài trời tối lúc kéo rèm. Đằng trước là bờ mái của ngôi biệt thự B-5, cái bóng của nó tạo thành một quầng tối đen đặc. Cả sân tennis và nhà hàng đều đông người. Nhưng tại sao lại chỉ có mình Asakawa ở đây? Kéo rèm xong gã ngó đồng hồ. Tám giờ năm mươi sáu phút. Gã mới ở trong căn phòng này chưa đầy ba mươi phút. Vậy mà gã có cảm giác như đã một tiếng trôi qua. Chỉ ngủ lại đây thôi hẳn là chẳng có gì nguy hiểm. Gã cố gắng nghĩ như vậy để trấn an mình. Vì tính ra khu Villa Log Cabin hoạt động cũng đã được nửa năm, trong nửa năm ấy tất phải có rất nhiều người đến nghỉ tại ngôi biệt thự B-4 này. Nhưng đâu phải tất cả những người đến nghỉ tại đây đều thiệt mạng. Cho tới lúc này, theo gã biết, mới chỉ có bốn đứa trẻ đó. Không loại trừ khả năng còn có những nạn nhân khác nếu điều tra kỹ hơn, nhưng hiện tại thì không. Tóm lại, vấn đề không ở chỗ chúng đã nghỉ lại đây, mà ở chỗ chúng đã làm một điều gì đó.
... Vậy thì chúng đã làm những gì?
Rồi Asakawa thay đổi một chút cách đặt vấn đề.
... Không, mà là điều mà chúng có thể làm được trong căn nhà này là gì?
Cả toilet, buồng tắm, tủ hốc và tủ lạnh đều không có dấu vết. Giả sử rằng chúng có để lại dấu vết đi chăng nữa thì chắc người quản lý gã gặp ban nãy đã dọn đi mất rồi. Nếu vậy, thay vì ngồi đây thong thả uống whisky, gã nên đi gặp người quản lý thì sẽ được việc hơn.
Cốc thứ nhất đã cạn. Cốc thứ hai gã chỉ rót một ít. Gã không muốn bị say mèm. Gã pha thật nhiều nước, lần này là nước máy. Có vẻ như giác quan cảnh báo nguy hiểm của gã đã phần nào tê liệt. Tự trách mình ngu xuẩn vì đã đến đây, Asakawa gỡ kính, vớt nước rửa mặt và nhìn mình trong gương. Gã nhìn thấy một khuôn mặt bệnh hoạn. Hay là gã nhiễm virus rồi? Gã nốc cạn cốc rượu vừa pha rồi rót thêm cốc nữa.
Trở vào từ phòng ăn, Asakawa phát hiện ra một quyển sổ trên chiếc kệ dưới máy điện thoại. Kỷ niệm những chuyến đi, đó là dòng chữ trên bìa. Gã lật giở.
Chủ nhật, mùng 7 tháng Tư
Nonko sẽ chẳng bao giờ quên ngày hôm nay.
Tại sao à? B-í-m-ậ-t. Yuichi thật tuyệt vời, hihi
NONKO
Loại sổ kiểu này thường hay thấy xuất hiện trong các nhà nghỉ rẻ tiền để khách có thể ghi lại những kỷ niệm hay cảm tưởng của mình về chuyến đi. Trang tiếp theo là một bức vẽ chân dung bố mẹ, nét vẽ hơi nguệch ngoạc, có lẽ là của một cậu bé đi nghỉ cùng gia đình. Bức tranh đề ngày 14 tháng Tư, nghĩa là vào thứ Bảy.
bố béo phì này
mẹ béo phì này
vì thế con cũng béo phì
ngày mười bốn tháng bốn
Asakawa giở tiếp. Có một trang nào đó ở phía dưới cứ chực kênh lên, nhưng gã vẫn tuần tự lật giở từng tờ. Gã sợ nếu không xem hết gã sẽ bỏ sót điều gì đó.
Có thể thấy khách thường đến đây nghỉ vào các thứ Bảy trước dịp nghỉ hè, tuy nhiên gã không dám chắc vì tất nhiên, có nhiều khách hàng chẳng viết gì. Vào hè, khoảng cách giữa các ngày ghi trong sổ cũng thu hẹp dần, càng về cuối tháng Tám càng có nhiều lời than thở vì mùa hè sắp đi qua.
Chủ nhật, ngày 20 tháng Tám
Ôi, thế là hết hè. Chả có gì thú vị. Có ai giúp tôi không? Có ai cứu vớt kẻ đau buồn khốn khổ này không? Tôi sở hữu một xe máy 400cc. Đẹp trai bất ngờ. Hàng tốt giá rẻ đây.
A.Y
Chẳng khác nào một đoạn quảng cáo tìm bạn tầm thư. Đại loại, các ý tưởng đều có điểm nào đó rất chung. Kẻ đi cùng bạn tình thì muốn chia sẻ kỷ niệm đó với người khác, còn kẻ đơn độc một mình thì bày tỏ ước muốn có người làm bạn.
Nhưng gã đọc mãi mà không thấy chán. Kim giờ của chiếc đồng hồ cuối cùng cũng chỉ đến con số chín.
Trang tiếp theo.
Thứ Năm, ngày 30 tháng Tám
Hù! Ta báo trước. Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy. Khà khà khà..
S.I
Chỉ có vậy. Ba mươi tháng Tám là buổi sáng đêm bốn đứa trẻ ngủ lại đây. Còn S.I hẳn là tên viết tắt của Iwata Shuichi. Trong số những lời lẽ ghi ở đây, chỉ có trang này là khác. Như thế nghĩa là sao? "Chớ nên xem lại cái này?" Vậy cái này rốt cuộc là gì? Asakawa gấp sổ lại rồi nhìn sang bên mép. Có một nếp gấp kênh lên thành khe hở nhỏ. Asakawa thò ngón tay vào và mở ra... "Hù! Ta báo trước. Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy. Khà khà khà. S.I.", dòng chữ ấy đập vào mắt gã. Tại sao luôn có một lực khiến cho nó tự mở ra? Rất có thể bọn trẻ đã chặn một vật gì đó lên trên, Asakawa suy luận. Và do đã thành nếp, nên lúc nào nó cũng chực mở ra. Và vật mà bọn chúng dùng để đặt lên trên ấy không phải cái gì khác mà chính là cái này.
Asakawa tìm kiếm xung quanh, rồi lục lọi mọi ngóc ngách của chiếc kệ để điện thoại. Không có gì. Đến cả một cây bút chì cũng không thấy.
Asakawa quay lại ghế sofa và giở tiếp. Ngày sau đó là Chủ nhật, mùng 1 tháng Chín. Không có nội dung gì đặc biệt nên khó đoán được nhóm sinh viên nghỉ lại ngày hôm đấy có xem cái này hay không. Những trang tiếp theo cũng không thấy có bút lục nào liên quan tới cái này, mặc cho gã đã tìm rất kỹ.
Asakawa gấp cuốn sổ lại và châm thuốc. Nội dung của cái này nhất định phải rất đáng sợ nếu căn cứ vào dòng chữ "Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này". Gã mở một trang bất kỳ trong cuốn sổ rồi đè nhẹ tay lên. Cần phải có một vật-gì-đó đủ nặng để thắng được lực gấp của giấy. Nếu chỉ là một hoặc hai bức ảnh ma thì không thể có được sức nặng ấy. Hay là một cuốn tạp chí, hoặc một cuốn sách? Dù gì thì cũng là một thứ cần phải xem. Có lẽ mình nên đi hỏi người quản lý xem ông ta có tìm thấy thứ gì mà khách để lại trong phòng vào ngày 30 tháng Tám không, Asakawa nghĩ. Liệu ông ta còn nhớ hay không? Nếu là một thứ gì đó khác thường và gây ấn tượng mạnh thì ắt hẳn ông ta phải nhớ. Bất chợt, một chiếc đầu quay băng đập vào mắt gã lúc gã định đứng lên. Ti vi vẫn đang bật, trên màn hình là cảnh một nữ diễn viên nổi tiếng đang ôm máy hút bụi và chạy theo chồng. Có vẻ như một đoạn quảng cáo đồ điện gia dụng.
... Đúng vậy, nếu là một cuộn băng thì vừa đủ nặng.
Vẫn ngồi yên, Asakawa dập thuốc. Bộ sưu tập băng video mà gã thấy trong phòng quản lý khi nãy vụt hiện lên trong đầu. Rất có thể bọn chúng tình cờ xem được một bộ phim kinh dị đáng sợ nào đó và muốn giới thiệu cho những người khác cùng xem. Nếu chỉ có vậy... khoan đã, nếu chỉ có vậy tại sao Iwata Shuichi không viết rõ tên của bộ phim? Không ai lại dùng một danh từ chung kiểu như cái này để nói về một bộ phim cụ thể nào đó, như Thứ Sáu ngày 13 chẳng hạn. Và hơn nữa, đâu cần phải đặt cái này lên trên quyển sổ. "Cái này" hẳn là thứ-gì-đó không có tên riêng mà bắt buộc phải gọi bằng cái này.
... Hướng này liệu có đáng để lần theo không?
Không một mảy may manh mối, vậy thì có mất gì đâu nếu cứ thử triển khai giả thiết ấy, còn hơn là ngồi nghĩ ngợi ở đây. Asakawa bước ra ngoài, xuống khỏi những bậc thềm bằng đá và đẩy cửa phòng người quản lý.
Cũng giống như lúc trước, không có bóng dáng của người quản lý ở sau quầy, chỉ có tiếng ti vi vọng ra từ bên trong. Có lẽ, người đàn ông này sau khi nghỉ việc ở một công ty ngoài thành phố, muốn sống nốt phần đời còn lại giữa chốn thiên nhiên nên đã chọn công việc làm người quản lý ở một khu nghỉ dưỡng, nhưng công việc thực sự quá buồn tẻ khiến ông ấy chỉ còn biết tìm vui trong những cuốn băng video... Đấy là cách giải thích của Asakawa về cảnh ngộ của người quản lý. Người quản lý lồm cồm bò dậy ló mặt ra trước khi gã kịp cất tiếng gọi. Asakawa nói như thanh minh.
- Buồn quá nên định xuống mượn bác một cuốn băng về xem.
Người quản lý mừng rỡ nhe răng cười.
- Anh cứ chọn tuỳ thích... Mỗi cuốn ba trăm yên.
Asakawa lựa tìm những tên phim kinh dị. Ngôi nhà địa ngục, Nỗi sợ màu đen, Thầy phù thuỷ[3], Điềm xấu[4]... toàn những phim gã đã xem hồi còn đi học. Chắc chắn còn có bộ phim đáng sợ mà gã chưa hề biết kia. Gã đưa mắt một lượt từ đầu đến cuối nhưng không tìm thấy thứ nào giống như vậy. Một lần nữa, gã rà soát lại toàn bộ tựa đề của hơn hai trăm cuộn băng. Thế rồi, ở góc dưới cùng, gã phát hiện thấy một cuộn băng không nhãn nằm đổ rạp sang bên. Nó không được dán bất cứ mẩu nhãn nào trong khi các cuốn băng khác có đầy tranh ảnh và những dòng tên phim.
[3] The Exorcist: tên một bộ phim kinh dị Mỹ được dựng theo tiểu thuyết cùng tên của William Peter Blatty do William Friedkin làm đạo diễn
[4] The Omen: loạt phim kinh dị Mỹ được dựng theo tiểu thuyết cùng tên của David Seltzer do Richard Donner làm đạo diễn
- Cái đó là phim gì thế bác?
Gã bỗng nhận ra mình vừa gọi cuốn băng ấy là cái đó. Đâu còn cách gọi nào khác vì nó không hề có tên. Người quản lý nhíu mày bối rối rồi bật lên một tiếng hả không rõ ràng. Sau đó, ông ta cầm lấy cuốn băng.
- Chả có gì đâu.
... Sao cơ, không lẽ người đàn ông này biết nội dung của cuốn băng?
- Bác xem cái đó rồi à? - Asakawa hỏi.
- Cái này...
Người quản lý cau trán ra chiều khó hiểu. Vẻ mặt tựa như muốn nói, tại sao lại có thứ này ở đây.
- Nếu không phiền bác cho cháu mượn cuốn đó đi.
Thay cho câu trả lời, người quản lý vỗ đét vào đùi mình.
- À, tôi nhớ ra rồi. Cái này, tôi thấy nó rơi ở trong phòng. Tôi cứ đinh ninh nó ở trong đống băng của tôi nên mới mang về.
- Bác tìm thấy cái này ở B-4 phải không?
Asakawa chậm rãi hỏi như thể muốn xác nhận với đối phương. Người quản lý lắc đầu cười.
- Tôi làm sao nhớ được, đã hai tháng rồi còn gì.
Asakawa hỏi lại.
- Bác đã xem cuốn băng này chưa?
Người quản lý vẫn lắc đầu. Nụ cười biến mất khỏi gương mặt.
- Chưa.
- Bác cho cháu mượn cái đó.
- Anh định ghi hình sao?
- Vâng, cũng đại loại như thế...
Người quản lý liếc qua cuốn băng.
- Mất lẫy rồi, anh xem, cái lẫy chống ghi bị bẻ đi mất rồi.
Cũng một phần do rượu, Asakawa đột nhiên cảm thấy mất tự chủ. Đã bảo cho mượn thì mau đưa cho người ta mượn, lão già khốn kiếp này! Cơn nóng bốc lên khiến cho những lời lỗ mãng ấy bật ra trong đầu gã. Nhưng dù say đến đâu, gã cũng chẳng bao giờ dám tỏ thái độ hung hăng với người khác.
- Bác làm ơn đi, cháu sẽ trả lại ngay mà.
Asakawa cúi đầu. Người quản lý có vẻ không hiểu nổi tại sao vị khách kia lại quan tâm tới cái đó đến vậy. Phải chăng trong đó ẩn chứa những hình ảnh vô cùng thú vị? Chẳng hạn như một cuốn băng chưa kịp xoá... Người quản lý tiếc rẻ vì đã không xem nó lúc tìm thấy. Dù rất muốn xem ngay bây giờ, nhưng khách đã nài nỉ ông ta sao dám từ chối. Người quản lý đưa cuốn băng cho Asakawa. Gã định rút ví nhưng người quản lý xua tay.
- Thôi, thôi, khỏi tiền nong. Ai lại nhận của anh cơ chứ.
- Cảm ơn bác, cháu sẽ trả ngay.
Asakawa khẽ nhấc bàn tay cầm cuộn băng lên tỏ ý cảm ơn.
- Nếu hay nhớ đưa lại cho tôi sớm nhé.
Trí tò mò của người quản lý bị kích thích tột độ. Ông ta đã xem qua tất cả những cuốn có ở đây, vì thế chúng không còn là mối quan tâm đối với ông ta nữa.
... Lạ thật, tại sao ông ta lại bỏ qua cuốn đó? Một thứ rất tốt để tiêu sầu. Nhưng, cũng có thể chỉ là cuốn băng ghi lại một chương trình truyền hình vô vị.
Người quản lý vẫn tin rằng cuộn băng đó sẽ được trả lại.
2.
Cuộn băng đã được tua sẵn về đầu. Đó là loại băng 120 phút thông thường, có thể mua ở bất cứ đâu, và đúng như lời người quản lý, lẫy chống ghi đã bị bẻ. Asakawa bật nguồn, đẩy cuộn băng vào trong. Gã ngồi khoanh chân ngay trước màn hình và ấn nút play. Có tiếng băng chạy. Nó đem đến cho gã niềm hy vọng rằng, chiếc chìa khoá mở cánh cửa của bốn cái chết đầy bí ẩn đang được cất giấu trong đó. Và gã bật nút play với mong muốn sẽ tìm ra manh mối, dù chỉ là chút ít. Gã không tin rằng có sự nguy hiểm. Chỉ xem thôi thì có gì mà nguy hiểm. Thoạt tiên, hình rung mạnh kèm theo tiếng réo, nhưng sau khi gã chuyển hệ mọi thứ lại đâu vào đó, bóng hình đen đặc. Đấy là cảnh đầu tiên của cuốn băng. Gã đưa mặt lại gần, ngỡ là bị hỏng vì không thấy tiếng phát ra. "Ta báo trước. Chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy." Lời của Iwata Shuichi chợt hiện lên trong óc gã. Làm sao phải hối hận. Gã quen rồi. Trước đây gã từng là phóng viên của ban xã hội. Gã không bao giờ hối hận cho dù phải xem những thước phim man rợ nhất. Gã có đủ tự tin.
Trên màn hình đen đặc, một chấm sáng nhỏ bằng đầu kim xuất hiện và nhấp nháy, nó lớn dần lên, nhảy sang phải rồi sang trái trước khi bị cố định vào góc trái. Sau đó, nó tách ra và tạo nên một bó ánh sáng có nhiều đầu, nó bò xung quanh như một con giun và cuối cùng biến thành những ký tự. Nó không phải là một dạng phụ đề. Đó là một dòng chữ rất xấu được viết bằng bút lông trắng trên nền giấy đen. Tuy vậy gã vẫn đọc được. "Phải xem hết" - một mệnh lệnh. Nó biến mất và dòng chữ tiếp theo hiện lên. "Ngươi sẽ bị người chết ăn thịt." Gã không hiểu lắm ý tứ của cụm từ người chết, nhưng bị ăn thịt thì không phải chuyện đùa. Có vẻ như liên từ nếu không nối giữa hai câu đã bị lược bớt. Nếu quả vậy thì đây là một lời đe doạ: Không được tắt máy khi đang xem, nếu không, ngươi sẽ gặp tai hoạ.
Dòng chữ Ngươi sẽ bị người chết ăn thịt lớn dần lên, đẩy những mảng màu đen ra khỏi khung hình. Màu đen chuyển sang màu sữa đục, một sự biến màu đơn điệu. Rất khó khẳng định màu sữa đục với những vệt loang lổ ấy là một tông màu tự nhiên, trông nó giống như rất nhiều ý niệm được vẽ chồng lên nhau trên một tấm canvas. Giống như sự vô thức đang uốn lượn, sầu não, rồi tìm thấy lối ra và sắp sửa trương lên; hay giống như sự sống đang kích động. Tư duy hàm chứa năng lượng, như loài thú, nó nuốt đầy bụng bóng tối. Thật lạ là gã không hề có ý định ấn vào nút stop. Không phải gã sợ người chết, mà bởi dòng chảy mãnh liệt của năng lượng khiến gã thấy dễ chịu...
Màu đỏ bắn toé ra giữa cái màn hình gần như chỉ có trắng và đen. Cùng lúc, tiếng đất rền từ đâu đó vọng tới. Âm thanh ấy gây cho gã cái cảm giác rằng nó không có hướng, không phải nó phát ra từ chiếc loa nhỏ kia, đến mức gã cảm thấy một thứ ảo giác như thể toàn bộ ngôi nhà đang rung chuyển. Dòng dung dịch đỏ lòm nhầy nhụa bùng nổ và bắn tung toé, có những lúc như muốn che kín cả màn hình. Từ màu đen, chuyển sang màu trắng, rồi màu đỏ..., chỉ toàn sự biến đổi đầy kích thích của màu sắc chứ chưa hề thấy một quang cảnh tự nhiên nào xuất hiện. Những ý niệm trừu tượng hoá cùng sự biến đổi sống động của màu sắc tác động mạnh vào các tế bào não khiến gã thấy mệt. Thế rồi, như thể đọc được ý nghĩ của người xem, màu đỏ biến mất khỏi màn hình, mở ra khung cảnh một trái núi, mà chỉ cần nhìn qua cũng biết là núi lửa, với đỉnh núi thoai thoải. Từ miệng núi lửa, một cột khói trắng cuồn cuộn phun lên nền trời nắng chói. Máy quay được đặt dưới chân núi, và chân máy bị bao quanh bởi dòng nham thạch màu vàng xám đang ùng ục cháy.
Lại chìm vào bóng tối. Bầu trời trong xanh phút chốc bị nhuộm đen, sau đó vài giây, dòng dung dịch đỏ lòm bắn toé ra từ chính giữa màn hình rồi chảy xuống. Vụ nổ thứ hai..., những tia dung dịch bị văng ra bốc cháy đỏ rực, và nhờ thế, gã có thể phân biệt được những đường nét mờ tỏ của ngọn núi. Nó đã cụ thể hơn so với hình ảnh trừu tượng lúc trước. Rõ ràng đây là cảnh về một vụ nổ núi lửa, một hiện tượng thiên nhiên và có thể giải thích được. Dòng dung nham từ miệng núi lửa tràn xuống khe núi và tiến dần về phía gã. Máy quay đang đặt ở đâu? Nếu quay từ trên không thì là chuyện khác, chứ vẫn giữ nguyên vị trí vừa rồi sẽ không tránh khỏi bị dung nham nuốt chửng. Tiếng đất rung chuyển lớn dần và ngay trước khi dòng dung nham lấp kín màn hình, cảnh quay đột ngột thay đổi. Các phân cảnh không hề có tính liên tục và luôn thay đổi rất đột ngột.
Chấm đen giữa nền trắng đậm dần và hiện lên thành các ký tự. Nét viết hơi nhoè nhưng vẫn có thể nhận ra chữ Yama. Những chấm đen lớn nhỏ bắn đầy xung quanh các con chữ, tựa như ngòi bút đẫm mực đã bị lia rất mạnh. Các ký tự đứng im và màn hình cũng bất động.
Lại một sự thay đổi đột ngột nữa. Hai con xúc xắc bên trong cái bát đáy tròn đúc bằng chì đang chạy vòng quanh. Màn hình màu trắng, lòng cái bát chì màu đen, chỉ có một chấm của các con xúc xắc là màu đỏ. Đây là ba màu xuất hiện nhiều nhất. Hai con xúc xắc chạy chầm chậm không một tiếng động rồi dừng lại: một chấm và năm chấm. Một chấm đỏ, và năm chấm đen trên mặt trắng của các con xúc xắc... Nó có nghĩa gì?
Cảnh tiếp theo. Lần đầu tiên có con người xuất hiện. Một bà lão mặt mày nhăn nhúm ngồi khòng lưng trên hai manh chiếu, hai tay chống lên đầu gối, vai trái hơi nhô ra, mặt nhìn thẳng và đang chậm rãi nói. Vì mắt này to hơn hẳn mắt kia nên mỗi lần bà lão chớp mắt trông không khác gì đang nháy mắt.
"Kể từ... thế nào? Cháu mà... nước... quỷ ác... Phải cẩn thận... nghe chưa. Sang năm,... sinh con. Cháu gái... nghe lời bà nói. Không có gì..."
Bà lão chỉ nói có vậy với bộ mặt vô hồn, rồi đột nhiên biến mất. Có nhiều tiếng không rõ nghĩa. Nhưng không hiểu sao gã cảm thấy như thể bà lão đang thuyết giáo. Bà ta bảo cẩn thận điều gì nhỉ? Rốt cuộc bà lão này đang nói với ai và đang nhìn vào ai?
Khuôn mặt của một đứa trẻ sơ sinh choán hết màn hình. Có tiếng khóc chào đời từ đâu đó phát ra. Không phải từ đôi loa của ti vi. Mà từ rất gần, ngay bên dưới gã. Gã đang ở cực gần tiếng khóc. Trên màn hình xuất hiện cánh tay đang bế đứa trẻ. Bàn tay trái đỡ dưới đầu, bàn tay phải vòng qua lưng, xem ra vô cùng cẩn thận. Đôi bàn tay rất đẹp. Asakawa nhìn như bị thôi miên, và không biết tự lúc nào cánh tay gã đã đưa thành tư thế giống như của nhân vật trong kia. Gã giật mình rụt tay lại. Vì gã cảm nhận thấy. Sự nhớp nháp của nước ối hay của máu, và sức nặng của một cục thịt bé nhỏ. Asakawa vung hai tay ra như thể để ném nó đi và đưa lòng bàn tay lên mặt. Mùi vẫn còn đọng lại. Mùi máu nhạt, không biết là của bào thai, hay là của... Có cả cảm giác ươn ướt trên da. Thế nhưng, bàn tay gã không hề ướt. Asakawa quay lại màn hình. Vẫn là khuôn mặt của đứa trẻ. Mặc dù đang khóc nhưng nét mặt đứa trẻ vẫn tràn đầy vẻ ôn hoà, cơn run vì khóc truyền xuống háng khiến cả cái vật nhỏ bé kia cũng rung lên.
Cảnh sau đó là một trăm bộ mặt người. Bộ mặt nào cũng chứa đầy sự căm tức và hằn học, ngoài ra chẳng còn có đặc điểm đáng chú ý nào khác. Những bộ mặt như được sơn lên một tấm ván phẳng lùi dần về phía sau màn hình. Thế rồi, khi từng bộ mặt thu nhỏ lại thì cùng lúc có vô số những bộ mặt khác được nhân lên tạo thành một đại quần thể. Lạ một điều là cái đại quần thể ấy chỉ có từ cổ trở lên, nhưng những âm thanh mà chúng phát ra buộc người ta phải công nhận đó là một đại quần thể. Các bộ mặt với cơ man những cái miệng đang gào thét điều gì đó, đồng thời mỗi lúc một nhiều hơn và nhỏ dần đi. Asakawa không nghe được những điều chúng nói. Sự ầm ĩ của một đám đông, nghe như những tiếng la ó hay chửi rủa. Chứ rõ ràng không phải những lời hoan nghênh, tán thưởng. Rồi mãi gã cũng nghe được một tiếng rành rọt: "Đồ dối trá!". Sau đó là một tiếng nữa: "Quân lừa đảo!". Số lượng những bộ mặt có lẽ đã vượt quá một nghìn. Vậy mà chúng vẫn tiếp tục sinh sôi, và tỷ lệ thuận với điều đó, những tiếng nói cũng to lên. Khi con số vượt qua một vạn, chúng biến thành những hạt nhỏ màu đen lấp kính cả màn hình, bóng hình biến thành thứ màu tựa như trạng thái bị tắt nguồn, mặc dù vậy những tiếng nói kia vẫn không dứt. Thế rồi cuối cùng những tiếng nói cũng biến mất và chỉ còn một chút dư âm trong tai gã. Cứ như vậy một lúc lâu như thể màn hình đang đứng im. Asakawa tự dưng cảm thấy bất nhẫn. Gã tưởng tượng như đó là những lời thoá mạ dành cho chính gã...
Màn hình chuyển sang cảnh khác, một chiếc ti vi trên một chiếc giá gỗ. Đấy là kiểu ti vi 19 inch đời cũ với núm chỉnh kênh hình tròn và một bộ ăng-ten râu đặt trên nóc tủ gỗ. Không phải kịch trong kịch mà là ti vi trong ti vi. Chiếc ti vi ở bên trong vẫn chưa có hình gì. Dường như nó đang bật vì đèn báo bên cạnh núm chỉnh kênh sáng đỏ. Màn hình của chiếc ti vi trên màn hình rung rung. Sau đó nó trở về trạng thái cũ rồi lại rung rung. Khoảng cách giữa các lần ngắn dần, rồi một con chữ hiện ra, khá mờ. Hình như là chữ Sada. Thỉnh thoảng, con chữ giật giật, méo mó rồi mờ thành chữ ada và biến mất. Nó giống như cái cách một con chữ bằng phấn trắng được viết lên bảng đen bị xoá đi bởi một chiếc giẻ lau thấm nước.
Giữa lúc ấy, Asakawa bị một cảm giác khó thở kỳ lạ xâm chiếm. Gã nghe thấy nhịp tim, cảm thấy áp lực của máu trong thành động mạch. Sau đó là mùi, cảm giác, vị chua ngọt kích thích đầu lưỡi. Gã không hiểu nổi bằng cách nào mà một dạng vật chất trung gian ngoài hình ảnh và âm thanh có thể kích thích vào các giác quan của gã.
Bất thình lình, khuôn mặt một người đàn ông xuất hiện. Không giống với những hình ảnh trước, người đàn ông này rõ ràng đang sống, sức sống gõ nhịp trong con người anh ta. Bỗng nhiên gã có ác cảm. Gã không hiểu tại sao mình lại thấy ác cảm. Anh ta không đến nỗi quá xấu xí. Mái trước hơi hói, nhưng dù sao, cũng thuộc loại đàn ông tạm được. Song có điều gì đó rất đáng sợ trong đôi mắt anh ta: đôi mắt của loài thú đang rình mồi. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt anh ta. Anh ta thở hổn hển, mắt nhìn lên và cử động thân mình theo một nhịp điệu. Sau lưng anh ta là những lùm cây thưa thớt, ánh trời chiều chiếu xuyên qua những kẽ cây. Người đàn ông đưa mắt xuống, nhìn về phía trước mặt thì gặp đúng ánh mắt của Asakawa. Gã và người đàn ông nhìn vào mắt nhau một hồi lâu. Cảm giác khó thở gia tăng khiến gã muốn quay đi chỗ khác. Người đàn ông sùi bọt mép, mắt đỏ ngầu, cổ từ từ bạnh ra rồi thoắt biến mất khỏi phía trái màn hình, sau đó, chỉ còn lại bóng đen của những thân cây. Có tiếng hét dội lên từ đáy bụng. Cùng với tiếng hét, khuôn mặt người đàn ông hiện trở lại, bắt đầu từ vai rồi lên đến mang tai. Vai anh ta để trần. Mỏm vai phải bị khoét mất vài phân thịt. Những giọt máu nhỏ ra từ đó bị hút về phía máy quay, lớn dần lên, va vào ống kính và làm nó bị nhoè đi. Như thể chiếc máy quay biết chớp mắt, màn hình vụt tối một lần, rồi hai lần, sau đó ánh sáng trở lại với một hình ảnh đầy màu đỏ. Đôi mắt người đàn ông đằng đằng sát khí. Cả khuôn mặt và mỏm vai cùng tiến đến sát màn hình, phần xương trắng hếu dưới lớp thịt vừa bị khoét mất lộ ra. Lại là khung cảnh của những lùm cây. Bầu trời xoay đảo. Dưới màu sắc của bầu trời đang lẫn dần vào bóng tà, đám lá cỏ khô kêu lạo xạo. Gã nhìn thấy đất, thấy cỏ, rồi lại thấy bầu trời. Có tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh ở đâu đó. Liệu có phải là của con trai người đàn ông ban nãy...? Chẳng mấy chốc, bóng tối viền quanh lấy màn hình và từ từ thu hẹp vòng vây ấy lại. Ranh giới giữa sáng và tối khá rõ ràng. Chính giữa màn hình, trong bóng tối, một mặt trăng tròn hiện lên trống hoác. Có khuôn mặt của người đàn ông trong đó. Từ mặt trăng, có một tảng gì đó cực lớn rơi xuống gây ra một tiếng động trầm đục. Một tảng nữa, rồi lại một tảng nữa. Kèm theo mỗi tiếng động, hình ảnh lại giật mạnh, chao đảo. Có tiếng thịt bị dập, đằng sau đó là bóng tối thực sự. Tuy vậy, vẫn có tiếng tim co bóp. Máu đang chảy trong huyết quản ùng ục. Cảnh phim đó kéo dài khá lâu. Bóng tối ấy làm người ta tưởng như nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Chữ lại hiện lên giống như lúc đầu. So với những dòng chữ nguệch ngoạc như của một đứa trẻ mới tập viết ở cảnh đầu, những dòng chữ ở cảnh cuối khả dĩ hơn rất nhiều. Những ký tự màu trắng mờ tỏ lần lượt hiện lên rồi biến mất.
"Những kẻ xem hình ảnh này sẽ chết vào đúng giờ này một tuần sau đó. Nếu không muốn chết, hãy làm theo những lời dưới đây. Nghĩa là..." Asakawa nuốt nước bọt, mở to mắt và nhìn dán vào ti vi. Nhưng màn hình vụt thay đổi. Sự thay đổi quá đỗi hoàn hảo. Bởi một cảnh quảng cáo truyền hình, mà có lẽ ai cũng đã từng xem qua, đột ngột chen ngang. Quang cảnh thị trấn nhỏ đêm hè, cô nữ diễn viên trong bộ yukata ngồi bên hiên, pháo hoa khoe sắc trên nền trời..., một đoạn quảng cáo hương muỗi. Đoạn quảng cáo ước chừng ba mươi giây vừa kết thúc, màn hình chuẩn bị chuyển sang một cảnh khác thì đột nhiên đen ngóm. Chỉ có bóng tối lúc trước và dư ảnh của dòng chữ cuối cùng đã biến mất. Sau đó là những tạp âm kêu lào xào, nghĩa là băng đã chạy hết. Mắt không hề chớp, Asakawa tua băng và cho quay lại cảnh cuối. Vẫn như lần trước... cái đoạn quảng cáo chết tiệt đã chèn lên phần quan trọng nhất. Asakawa dừng băng rồi tắt ti vi. Mặc vậy, mắt gã vẫn không rời khỏi màn hình. Họng gã khô khốc.
... Cái gì... thế nhỉ?
Gã còn biết nói gì ngoài câu ấy. Sự tiếp nối của những cảnh phim không tường nghĩa. Nhưng có duy nhất một điều mà gã hiểu được, ấy là những ai xem cái này sẽ chết đúng một tuần sau đó, và, phần hướng dẫn phương cách tránh khỏi cái chết ấy lại bị xoá mất bởi một đoạn quảng cáo truyền hình.
... Ai đã xoá? Hay là bốn đứa trẻ?
Hai hàm răng gã đánh vào nhau cầm cập. Nếu gã không biết về việc cả bốn đứa trẻ đều chết cùng một lúc, thì gã đã có thể cười mà rằng, thật là một trò ngớ ngẩn. Nhưng vì gã biết. Bốn đứa trẻ đó đã chết đầy bí ẩn, hệt như những lời cảnh báo trong băng.
Đúng lúc đó, chuông điện thoại reo. Tim gã gần như nhảy bắn lên vì âm thanh ấy. Gã nhấc ống nghe và áp vào tai. Gã linh cảm thấy có một thứ-gì-đó đang giấu mình trong bóng tối và theo dõi gã.
- ... Alô.
Mãi một lúc Asakawa mới nói được như vậy với một giọng run rẩy. Không có tiếng trả lời. Ở một nơi nhỏ hẹp, tối tăm, có cái gì đó đang xoáy tít. Có một âm thanh trầm tựa như tiếng đất rền và mùi đất ải. Gã cảm thấy tóc gáy gã đang dựng lên vì khí lạnh truyền đến mang tai. Càng lúc gã càng thấy tức thở hơn, lũ côn trùng từ sâu trong đất lổm ngổm bám vào cổ chân và sống lưng khiến gã nhột nhạt. Những ý nghĩ không thể nói thành lời và sự căm ghét đã đạt đến cùng cực theo thời gian truyền tới gã qua điện thoại. Asakawa dập mạnh ống nghe, lấy tay bịt miệng rồi chạy vào toilet. Gã thấy ớn lạnh và bất giác buồn nôn. Ở bên kia đầu dây, cái đó đã không nói gì, nhưng gã biết ý đồ của nó. Đấy là một cú điện thoại xác nhận.
... Thế nào, hiểu rồi chứ. Nhớ làm theo lời ta nói..., nếu không...
Asakawa nôn thốc trên bệ xí. Chẳng có gì ngoài chỗ whisky gã vừa uống và thứ dịch vị chua loét từ mồm gã chảy ra. Mắt gã nhoè nước. Dịch vị xộc lên mũi làm gã ngạt thở. Mặc dầu vậy, lúc này, ở đây, gã vẫn tin rằng nếu có thể nôn ra toàn bộ, thì gã cũng sẽ trút đi được cái hình ảnh mà gã vừa xem.
- ... nếu không... nếu không cái chết tiệt. Ta làm sao biết được. Phải làm gì bây giờ? Hả? Ta phải làm gì bây giờ?
Ngồi bệt xuống sàn toilet, Asakawa gào to lên để át đi nỗi sợ.
- Ngươi có hiểu không, bọn chúng xoá đi mất rồi... cái chỗ quan trọng ấy. T... ta làm sao biết được. Ta xin ngươi đấy.
Lúc này, gã đâu còn cách nào khác là thanh minh. Chẳng kịp ngó đến bộ dạng thảm hại của mình, Asakawa lao ra khỏi toilet, gã nhìn khắp căn phòng, dập đầu lia lịa trước cái-thứ rất có thể đang ở đâu đây và van xin nó. Bản thân gã cũng không nhận ra tự khi nào gã đang làm một bộ mặt như thể cầu xin sự chấp nhận của kẻ khác. Asakawa đứng dậy, súc miệng bên bồn rửa bát và uống nước. Gió thổi. Gã nhìn ra cửa sổ phòng khách. Cánh rèm đang lay động.
... Sao thế, rõ ràng mình đã đóng cửa rồi mà.
Quả có vậy, Asakawa đã đóng chặt khung cửa kính trước khi kéo rèm. Gã không hề nhớ nhầm. Gã run liên hồi. Rồi một cách vô cớ, trong óc gã hiện lên quanh cảnh về đêm của những toà cao ốc nơi thành phố. Những ánh đèn thoát ra từ các ô cửa sổ hình bàn cờ trên bức tường của toà nhà lúc ẩn lúc hiện như muốn biến thành những ký tự nào đó. Nếu ví toà nhà với một tấm bia mộ khổng lồ hình chữ nhật, thì những con chữ được tạo nên bởi ánh đèn từ các ô cửa sổ trông tựa như những dòng tên trên mộ chí. Thế rồi, ngay cả khi hình ảnh ấy biến mất thì tấm rèm đăng ten màu trắng vẫn phật phờ trước mắt gã.
Asakawa lấy chiếc túi từ trong tủ hốc và thu dọn đồ đạc trong trạng thái gần như cuồng loạn. Gã không thể ở lại đây thêm một giây nào nữa.
... Mặc xác tất cả. Nếu mình ở lại đây, cái mạng này sẽ đi tong trong đêm nay chứ đừng nói đến một tuần.
Vẫn bận nguyên áo giéc-xi và quần thể thao, gã đi xuống thềm cửa. Nhưng trước khi ra đến bên ngoài, lý trí của gã hồi tỉnh. Gã cần phải nghĩ ra phương cách để cứu mình, chứ không chỉ đơn giản là chạy trốn khỏi sự sợ hãi. Trong một tích tắc khi bản năng sinh tồn chợt trỗi dậy, Asakawa quay lại phòng và lấy băng ra khỏi máy. Gã cuộn tròn cuốn băng vào khăn rồi nhét vào túi. Cuốn băng là toàn bộ manh mối nên gã không thể bỏ nó lại đây. Nếu giải mã được những cảnh phim liên tục đó, biết đâu gã sẽ tìm ra cách cứu mình. Nhưng dù thế nào, thời hạn chỉ có một tuần. Gã xem đồng hồ. Mười giờ tám phút. Hình như gã xem xong lúc mười giờ bốn phút. Thời gian càng lúc càng quan trọng với gã. Asakawa để chìa khoá lên bàn và ra khỏi phòng trong ánh đèn vàng vọt. Gã chạy về phía chiếc xe mà không ghé qua phòng quản lý, cắm chìa khóa rồi khởi động.
- Không thể hành động một mình, cần phải nhờ sự giúp đỡ của hắn.
Vừa lẩm bẩm một mình Asakawa vừa cho xe lao về phía trước, song vẫn không ngừng để mắt đến gương chiếu hậu. Gã cảm thấy xe chạy rất chậm mặc dù đã ra sức đạp ga. Hệt như một bộ phim đuổi bắt trong mơ. Gã liên tục nhìn gương chiếu hậu. Nhưng chẳng có bóng đen nào bám theo.