Chương 35: Tiệc vui biết có khi nào

Tiểu Chúc Dung xuất thân cao quý, dòng dõi Hoàng tộc Thần Nông, cha ngài là đại anh hùng Chúc Dung lừng danh thiên hạ. Sau khi nước Thần Nông bị tiêu diệt, Tiểu Chúc Dung quy hàng Hoàng đế rồi kết hôn với người con gái duy nhất của Tộc trưởng Xích Thủy – nàng Xích Thủy Tiểu Diệp. Càng ngày Tiểu Chúc Dung càng được Hoàng đế trọng dụng, trở thành bậc đại thần hàng đầu của triều đình Hiên Viên, giữ trọng cách cai quản vùng Trung nguyên (vốn là vùng đất rộng lớn thuộc nước Thần Nông).

Thời gian đầu, dù kiêng dè huyết thống và thân thế của Tiểu Chúc Dung, người ta vẫn không ngừng xì xào, bàn tán. Cha mẹ ngài đã chiến đấu và hi sinh vì Thần Nông, còn ngài thì quy hàng Hiên Viên và trở thành trọng thần của Hoàng đế. Điều này khiến người đời khinh bỉ ngài.

Nhưng hơn một trăm năm qua, nhờ có ngài, vùng Trung nguyên vốn là nơi đạo tặc hoành hành, dân chúng lầm than, thì nay, tuy chưa thể nói là thay da đổi thịt, phồn vinh thịnh vượng, nhưng luật lệ nghiêm ngặt, quan lại liêm khiết, dân lưu lạc được trở về quê cũ, trăm họ an cư lạc nghiệp, đời sống ngày một tốt đẹp.

Nghe nói Tiểu Chúc Dung chưa bao giờ chối bỏ xuất thân là cư dân của nước Thần Nông bại trận, không những thế, ngài còn ra sức tranh đấu cho quyền lợi của muôn dân Trung nguyên. Trước mặt Hoàng đế, ngài không hề giấu giếm mong muốn của mình, đó là cai quản và xây dựng Trung nguyên trở nên phồn thịnh, giàu có, để người dân Trung nguyên được hưởng đời sống thái bình, an lạc sau những mất mát, cơ cực của chiến tranh tàn khốc. Chính vì điều này, Tiểu Chúc Dung đã phải hứng chịu rất nhiều lời gièm pha và áp lực. Người dân Trung nguyên dần tắt lòng hoài nghi Tiểu Chúc Dung và càng ngày họ càng kính trọng ngài. Chúc Dung “cha” chết với khí tiết cao ngạo của Hoàng tộc Thần Nông, gắn với lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết. Tiểu Chúc Dung cũng đâu kém phần, ngài sống bằng phong thái đường hoàng của Hoàng tộc Thần Nông và vẫn gắn chặt với tình yêu nước tha thiết.

Hội thi mùa thu ở Xích Thủy vốn là cuộc thi tài do Tiểu Chúc Dung tổ chức sau ngày nắm quyền cai quản Trung nguyên. Ban đầu, hoạt động này chỉ là một cuộc tỷ thí trong phạm vi nhỏ nhằm khuyến khích tài năng của các thị tộc ở Trung nguyên, để con em Trung nguyên có cơ hội giao lưu học hỏi, mở mang tầm nhìn, loại bỏ thói kiêu căng, ngạo mạn, nuôi chí cần cù, không ngừng phấn đấu, vươn lên. Nhưng sức ảnh hưởng và mức độ thu hút của cuộc thi đã vượt ra khỏi lãnh thổ Trung nguyên, dòng họ nào cũng muốn con em mình có được cơ hội cọ xát, rèn luyện quý báu này. Vì vậy số lượng các dòng họ tham dự cuộc thi ngày càng đông đảo. Sau này, các gia tộc lớn trong Đại hoang cũng nô nức tham gia, khiến cho cuộc thi tài mùa thu ở Xích Thủy trở thành ngày hội lớn của Đại hoang.

Điểm đặc biệt của cuộc thi này là không có phân biệt giữa các quốc gia, các dòng họ thoải mái tham gia đọ sức, giao lưu. Hàng năm, Hoàng đế và Tuấn đế đều cử đại thần của mình mang theo những phần thưởng hậu hĩnh đến với cuộc thi, góp phần thu hút ngày càng đông đảo sự tham dự của anh tài hào kiệt bốn phương.

Năm nay, đoàn tham dự hội thi của Cao Tân do Nhục Thu dẫn đầu. Chuyên Húc, Tiểu Lục và A Niệm đồng hành cùng đoàn người.

Tiểu Lục rất ngạc nhiên khi Chuyên Húc bảo rằng đây là lần đầu hắn tham dự cuộc thi này. Nhưng suy nghĩ một lát thì nàng chợt hiểu. Tất cả các gia tộc, không kể lớn bé trong Đại hoang đều tề tựu về Xích Thủy trong ngày hội này. Những người tham dự cuộc thi chắc chắn đều là những con em xuất sắc nhất của các gia tộc. Đối với đa số, việc so tài rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn cả là cả họ có thể tới đây để kết bạn, gây dựng các mối quan hệ, chuẩn bị cho việc nắm giữ quyền hành trong tương lai. Vì vậy trước đây, dù rất muốn tham dự, Chuyên Húc cũng đành bỏ lỡ vì không muốn gây ra sự chú ý đối với các thế lực ở Hiên Viên, không muốn bọn họ sinh lòng hồ nghi, cảnh giác, thậm chí là dã tâm tiêu diệt đối thủ. Còn bây giờ, hắn không hề sợ hãi, vì hắn đã sẵn sàng trở về.

Cao Tân vốn là nơi sông ngòi ao hồ dày đặc, vì vậy Nhục Thu quyết định đi thuyền như mọi năm.

Chuyên Húc cứ lo Tiểu Lục và A Niệm đi chung sẽ xảy ra cãi vã, ẩu đả, nào ngờ, cả hai tỏ ra rất hòa thuận, đôi lúc còn chụm đầu nhỏ to chuyện gì riêng tư lắm. Chuyên Húc thấy lạ, hỏi Tiểu Lục:

– Muội đã “hàng phục” A Niệm bằng cách nào?

Tiểu Lục cười tinh quái:

– Bí mật!

Trên đường đi, họ gặp nhiều đoàn thí sinh tham dự hội thi của các gia tộc, thuyền to thuyền nhỏ đủ cả. Các gia tộc lớn như “Cao Tân tứ bộ” thường có đến mấy chục người trên một thuyền lớn, các gia tộc nhỏ thì khoảng ba đến năm người trên một thuyền nhỏ, cũng có thuyền chỉ chở duy nhất một người đại diện cho một gia tộc nào đó.

Sau khi bàn bạc với Nhục Thu, Chuyên Húc dẫn theo Tiểu Lục, A Niệm và Hải Đường xuống thuyền nhỏ, đi riêng. Nhiều người tưởng họ là con cháu của một dòng họ nhỏ được cử đi tham dự cuộc thi. Mỗi lúc thuyền cập bến nghỉ ngơi, mọi người liền đến chào hỏi, bắt chuyện, Chuyên Húc nhiệt tình tiếp đón. Trên đường đi, hắn kết bạn với rất nhiều người.

Càng gần đến Xích Thủy, thuyền bè càng đông nhưng không xảy ra hiện tượng hỗn loạn vì Tiểu Chúc Dung đã bố trí người hướng dẫn các luồng thuyền đâu ra đấy.

Vào đến địa phận Xích Thủy, lòng sông trở nên rộng rãi hơn, ruộng đồng bát ngát đôi bờ. Đang vào mùa thu hoạch, biển lúa vàng ruộm, óng ánh, trải rộng mênh mông. Bà con cần mẫn gặt hái, thu lượm, trâu bò tấp nập nối đuôi nhau kéo lúa về làng. Khung cảnh ngày mùa rộn ràng, náo nức.

Gió từ mặt sông đưa lại, mang theo hương lúa thơm nồng, Tiểu Lục hít hà và cảm thấy vô cùng sảng khoái. A Niệm cũng đứng ra mũi thuyền, ngó nghiêng bốn phía, tươi cười rạng rỡ:

– Những người trên bờ kia hình như đang rất vui.

Chuyên Húc quan sát cảnh sắc hai bên bờ sông bằng ánh mắt đượm buồn nhưng khóe môi vẫn hé nở nụ cười.

Tiểu Lục lấy làm khó hiểu:

– Vì sao tâm trạng của huynh lại phức tạp như vậy?

Chuyên Húc khẽ đáp:

– Chúc Dung hãm hại cha ta, mối thù ấy ta thề không đội trời chung. Muội biết không, khi Tiểu Chúc Dung quy thuận ông nội, hồi đó ta vẫn còn ở Hiên Viên, ông nội cho ta quyền quyết định sự sống chết của ông ta và ta đã tha cho Tiểu Chúc Dung. Hôm nay, chứng kiến cảnh tượng này, ta thấy được an ủi rất nhiều vì biết rằng quyết định của mình là đúng đắn. Nhưng ta lại thấy có tội với cha mẹ…

Chuyên Húc khẽ thở dài.

Tiểu Lục lựa lời an ủi:

– Con đường huynh lựa chọn vốn dĩ là con đường “vì đại nghĩa diệt thân”. Huynh đã quyết tâm chọn đi thì chớ nên băn khoăn, dằn vặt nhiều. Muội nghĩ, cha mẹ huynh chắc sẽ ủng hộ huynh.

Chuyên Húc cười buồn:

– Ta hiểu.

Thuyền xuôi dòng, cảnh sắc dần biến đổi. Bên bờ Nam vẫn là ngút ngàn cây xanh lá biếc, trong khi bên bờ Bắc không có lấy một nhành cây ngọn cỏ, đất đai cằn cỗi, tiêu điều như hoang mạc, một vùng đất chết loang rộng khắp mạn Bắc.

A Niệm băn khoăn hỏi:

– Xích Thủy vốn là miền sông ngòi chằng chịt, nghe nói hai mùa xuân nơi đây mưa nhiều, nước đủ, mùa đông tuyết rơi dày, nhưng vì sao ở đây lại xuất hiện hoang mạc rộng lớn thế này?

Chuyên Húc mới lần đầu đến Xích Thủy, còn Tiểu Lục tuy lang bạt khắp Đại hoang nhiều năm nhưng nàng chưa khi nào đặt chân đến đây vì vùng này gần Ký Châu, mà nàng thì luôn chủ động né tránh nơi đó. Vậy nên, cả hai đều không biết nguyên nhân do đâu.

Người chèo thuyền vốn thường xuyên qua lại Xích Thủy, tươi cười trả lời họ:

– Nghe ông bà tôi kể lại, ngày xưa nơi đây vốn không phải hoang mạc, nhưng không biết bắt đầu từ khi nào, mảnh đất này trở nên khô cằn, hoang vu. Nghe nói, ở khoảng giữa mảnh đất này có một rừng đào rộng lớn, trong rừng đào có một con yêu quái xấu xí, đáng sợ. Con yêu quái ấy như một lò lửa, không ngừng thiêu đốt mảnh đất vốn màu mỡ này, biến nó thành hoang mạc tiêu điều, chết chóc. Người ta gọi con yêu quái gây ra hạn hán ấy là Hạn Bạt.

Chuyên Húc hỏi:

– Vì sao Thần tộc không đem quân đến tiêu diệt con yêu quái ấy?

Người chèo thuyền đáp:

– Nghe nói một số trai tráng Thần tộc từng hăng hái xung phong đi giết quái vật. Nhưng vùng hoang mạc này rất kỳ lạ, càng vào sâu bên trong càng khô hạn, nóng bức như thiêu như đốt. Nhiều người trong số họ đã gần bị thiêu cháy khi còn chưa tìm ra khu rừng đào nên phải vội vàng bỏ chạy. Có điều lạ là, con yêu quái đó bao năm chiếm giữ vùng đất này nhưng chưa từng hại ai. Người ta thậm chí còn hoài nghi về sự tồn tại của nó, rồi người ta dần lãng quên chuyện này và không để tâm đến nó nữa.

A Niệm xen vào:

– Đáng ghét quá, ngàn dặm cây xanh lá đã bị hủy hoại bởi nó. Tiếc là mạn Bắc thuộc lãnh thổ Hiên Viên, bằng không, muội sẽ xin cha cử người đến tiêu diệt con yêu quái ấy.

Tiểu Lục dõi nhìn vùng đất hoang cằn cỗi, nhận xét:

– Con yêu quái này không có ác tâm.

A Niệm trừng mắt lườm Tiểu Lục. Chuyên Húc giải thích:

– Khi nãy muội có nói, nơi đây gần Xích Thủy, nguồn nước dồi dào, xuân hạ đều là mùa mưa, mùa đông tuyết rơi dày, vậy mà vẫn xuất hiện sa mạc dài cả ngàn dặm. Theo muội, nếu con yêu quái ấy chọn một vùng đất khác thì mức độ tàn phá khủng khiếp sẽ còn đến mức nào? Điều này chứng tỏ, con yêu quái ấy không hề muốn hại người.

Tuy những lời Chuyên Húc nói rất có lý nhưng A Niệm vẫn cho rằng nên trừ khử con yêu quái này. Có điều từ nhỏ đến lớn, nàng đã quen răm rắp nghe lời cha và Chuyên Húc nên lúc này chỉ biết ngoan ngoãn nín lặng.

Thuyền tiếp tục xuôi dòng, lúc sau, bờ Bắc bắt đầu lác đác xuất hiện một vài thảm thực vật. Dần dần, sắc xanh trở nên dày đặc hơn, vườn quả sum suê tươi tốt trải dài ngút mắt. Trái chín trĩu đầu cành, nào vàng, nào đỏ, quả là một bữa tiệc thích mắt. Ai nấy đều nhanh chóng quên đi con yêu quái kỳ lạ nọ.

Chiều xuống, thuyền trôi chậm dần, bến đậu thấp thoáng phía xa xa, chung quanh đã có không ít thuyền bè neo lại.

Chuyên Húc và mọi người trở về thuyền lớn. Thợ thuyền hò vang khẩu hiệu, kéo thuyền cập bờ và dừng đỗ tại vị trí đã được chỉ định.

Có viên quan nọ bước tới nghênh đón Nhục Thu. Tuy trên thuyền có cả Vương cơ Cao Tân và Vương tử Hiên Viên, nhưng vì cả Chuyên Húc và A Niệm đều không muốn tiết lộ thân phận nên không ai để ý đến họ.

Đoàn người về nơi nghỉ ngơi dành cho khách khứa. Nhục Thu còn bận xử lý nhiều công việc, không thể ở lại.

Nhục Thu vốn là cháu họ Tuấn đế, cũng là học trò của ngài, được ngài đào tạo, bồi dưỡng từ nhỏ nên có thể coi là “tâm phúc” của Tuấn đế. Biết rõ quan hệ thân thiết giữa A Niệm và Chuyên Húc nên anh ta không gạn hỏi dự định của A Niệm mà quay sang hỏi trực tiếp Chuyên Húc. Chuyên Húc đáp:

– Nghỉ ngơi một đêm, ngày mai chúng tôi sẽ ra ngoài thăm thú đây đó. Ngày kia sẽ tới xem thi đấu. Huynh không cần bận tâm về chúng tôi đâu.

– Người tới tham dự cuộc thi đều là bậc anh tài của các gia tộc, khó tránh khỏi kiêu căng, ngạo mạn. Nếu vô tình đụng độ, xin Vương tử đừng chấp nhặt mà gây ra ẩu đả. Dù sao chúng ta cũng chỉ là khán giả, không phải thí sinh, không nên gây lộn với người ta. Nếu bọn họ quá hung hăng, ngỗ ngược, xin cứ để ta xử lý.

Chuyên Húc hiểu Nhục Thu nói những lời này cốt để A Niệm nghe được nên mỉm cười đáp:

– Được!

Từ nhỏ A Niệm đã quen biết Nhục Thu, xét quan hệ huyết thống, họ còn là anh em họ nên cả hai rất thân thiết. A Niệm dẩu môi, phụng phịu:

– Chỉ mình huynh giỏi giang, tài cán, còn chúng tôi là lũ ngốc chắc!

Nhục Thu nhìn Chuyên Húc, cười như mếu, sau đó cùng đám tùy tùng đến tham dự tiệc nghênh đón khách khứa của Tiểu Chúc Dung.

Hôm sau, cả Tiểu Lục và A Niệm đều ngủ nướng mãi cho đến khi mặt trời đã lên cao bằng cây sào mới chịu thức giấc, Chuyên Húc không biết đã ra ngoài tự lúc nào.

Hai nàng, mỗi người một góc, thong thả xơi cơm. Ăn xong, A Niệm bảo:

– Này, ngươi biết phải làm thế nào rồi chứ?

Tiểu Lục vồn vã đáp:

– Biết chứ, ta đã thề thì chắc chắn giữ lời, ta không để phụ vương cô gả cô cho ta đâu.

A Niệm hài lòng:

– Thế thì tốt!

Hai người tiếp tục thong thả thưởng trà. Một lúc sau Chuyên Húc mới lò dò về, A Niệm dẩu môi, làm nũng:

– Huynh đi đâu thế?

Chuyên Húc cười tươi, đáp:

– Ta đi thám thính một vòng xem, lát nữa nên đưa muội đi chơi đâu thì vui.

A Niệm cười tít mắt, Tiểu Lục ngấm ngầm lườm Chuyên Húc. Cái miệng của hắn thật lợi hại, lời ngon tiếng ngọt tuôn ra khiến người nghe ngẩn ngơ, say đắm, có khi bị hắn bán đứng mà chẳng hay biết, vẫn cứ tưởng hắn là người tuyệt vời nhất quả đất.

Chuyên Húc biết Tiểu Lục đang âm thầm phỉ báng hắn, liền vỗ một cái vào đầu nàng, giục:

– Đi thôi!

Chuyên Húc đưa Tiểu Lục, A Niệm và Hải Đường ra phố. Đại diện của hầu hết các dòng họ trong Đại hoang đều có mặt tại đây, thị trấn Xích Thủy nhỏ bé trở nên chật chội, đâu đâu cũng thấy người.

Các nhánh sông đan xen, len lỏi khắp nội trấn Xích Thủy. Những người đến đây bằng đường bộ thì thích thú ngồi thuyền ngắm cảnh, còn đoàn của Chuyên Húc vì đã ngồi thuyền quá lâu, sắp mọc rêu đến nơi, nên quyết định tản bộ, tham quan thành phố này.

Hơn hai trăm năm qua, Chuyên Húc gần như thông thuộc mọi ngóc ngách của Cao Tân nhưng hoàn toàn lạ lẫm với các thành trì ở Hiên Viên nên hắn quan sát rất kỹ lưỡng. Tuy chuyến này không phải chuyến đi đầu tiên đến Trung nguyên nhưng là lần đầu tiên A Niệm được tự do thăm thú mọi thứ nên nàng cũng rất hưng phấn. Mọi thứ đồ dùng lạ mắt của các cô gái thôn quê đều thu hút ánh mắt tò mò, hiếu kỳ của nàng. Chuyên Húc chiều lòng A Niệm, chọn cho nàng đôi chiếc vòng bạc, A Niệm chia cho Hải Đường một vài cái, cả hai cùng hớn hở đeo vào tay.

Hơn hai trăm năm phiêu bạt khắp đó đây, có nơi nào, có thứ gì mà Tiểu Lục chưa từng thấy đâu! Thế nên nàng cảm thấy rất đỗi chán nản, may còn có mấy thứ đồ ăn vặt hay ho kéo lại. Tiểu Lục mua ít đồ ăn, lúc thì sà xuống sạp hàng, lúc thì đứng bên sông, vừa chén vừa đợi, nàng đứng xa xa trông theo Chuyên Húc. Tuy hai người không ai nói với ai tiếng nào, nhưng cả hai đều chộn rộn một niềm hân hoan thầm lặng.

Nếm được món gì ngon, Tiểu Lục đều mua thêm, chia cho Chuyên Húc và A Niệm, nàng A Niệm đỏng đảnh chê bẩn không ăn, dĩ nhiên Hải Đường cũng không dám. Chuyên Húc thì khác, hắn gặm ngon lành. A Niệm nhìn bọn họ ăn uống hăng say thì thèm thuồng lắm, nhưng khi nãy trót chê bai, nên giờ đành “ngậm đắng nuốt cay”, cố gắng chịu đựng, nhưng chốc chốc nàng lại đưa mắt liếc trộm Chuyên Húc và Tiểu Lục.

Có lẽ vì Tuấn đế và Chuyên Húc, Tiểu Lục không còn ác cảm với A Niệm như trước đây nữa. Nàng tỏ tường mọi tâm tư nhõng nhẽo cùa cô gái mới lớn A Niệm. Tiểu Lục bảo Hải Đường đưa cho mình một mảnh khăn sạch, chậm rãi bóc hết phần vỏ ngoài của đồ ăn rồi đưa cho A Niệm, hạ giọng nịnh nọt:

– Thử một miếng đi, bóc sạch rồi, không bẩn đâu.

A Niệm làm nũng chưa chịu ăn ngay, Tiểu Lục phải bồi thêm vài câu mát tai, A Niệm mới ra vẻ miễn cưỡng, như thể bị Tiểu Lục ép uổng, như thể vì nể nang sự lạy lục của Tiểu Lục nên mới chịu cắn một miếng. Món ngon nơi đầu đường góc phố mang hương vị đặc sắc riêng của nó mà không phải cung đình nào cũng có thể tạo ra. Huống hồ, tham ăn lại là bản tính của đám con gái. A Niệm nhanh chóng thích mê mấy món ăn vặt hè phố này. Hải Đường cũng được hưởng “lây”, thỏa sức tận hưởng món ngon mà Tiểu Lục giới thiệu.

Bốn người cứ thế mê mải rong chơi, vui cười, phấn khích.

Buổi chiều, họ cưỡi xe bò đến thăm xưởng đóng thuyền lớn nhất Trung nguyên ở ngoại thành Xích Thủy. Xưởng đóng thuyền này thuộc về dòng học Xích Thủy. Theo một thỏa thuận bí mật giữa gia tộc này với Hoàng đế thì tộc Xích Thủy được phép bán cho các dòng họ khác trong Đại hoang những loại thuyền bè chất lượng bình thường, còn những loại tốt nhất, chỉ được bán cho Hoàng đế. Ngay cả Tuấn đế cử người tới đặt đóng thuyền cũng bị từ chối.

Kỹ thuật đóng thuyền vốn là bí mật vô cùng quan trọng của người trong nghề nên không khách lạ nào được phép vào trong xưởng. Nhưng người ta vẫn đổ xô đến Xích Thủy chỉ để khi trở về quê hương có thể vỗ ngực tự hào mà nói với bà con họ hàng rằng: Tôi đã tận mắt nhìn thấy những chiếc thuyền mới “ra lò” của họ Xích Thủy.

Nghe nói, theo đề nghị của Tiểu Chúc Dung, họ Xích Thủy thường tổ chức những buỗi lễ hạ thủy cho những chiếc thuyền mới hoàn thiện để mọi người được dịp chiêm ngưỡng. Làm vậy vừa để quảng cáo vừa giúp thỏa mãn sự hiếu kỳ đông đảo du khách bốn phương.

Tiểu Lục và mọi người tới nơi lúc chiều muộn, trên con đường ven sông chỉ còn lại thấp thoáng vài người, họ thong dong ngắm cảnh hoàng hôn trên sông. Đang lơ ngơ dạo chơi, bỗng Tiểu Lục nghe thấy một tràng dài tiếng ốc u nổi lên, không ngờ lúc này mà người ta vẫn làm lễ hạ thủy thuyền mới. Tiểu Lục và mọi người lập tức đổ xô ra bờ sông ngóng đợi. Cánh cổng bật mở, một chiếc thuyền cỡ vừa từ từ được chèo ra, hòa vào dòng nước. Tiểu Lục ko biết đánh giá ưu nhược điểm của thuyền, chỉ thấy con thuyền này rất đặc biệt, mũi thuyền hẹp, đuôi thuyền rộng, giống một nụ hoa e ấp, còn chưa chịu hé mở. Có lẽ chủ nhân của nó là một cô gái.

A Niệm từng được chiêm ngưỡng nhiều loại thuyền bè độc đáo hơn thế, nàng ta lên giọng chê bai:

– Thì ra tài đóng thuyền của họ Xích Thủy cũng chỉ đến thế!

Bỗng đâu một cô gái vận trang phục màu tím quay đầu lại, bước đến, trừng mắt nhìn A Niệm:

– Cô thấy chiếc thuyền này có điểm nào không ổn?

Cô gái có làn da trắng mịn, mắt phượng mày ngài, long lanh như làn thu thủy, khóe môi khẽ uốn cong, nàng không cười những vẫn xinh tươi, quyến rũ.

A Niệm quan sát cô gái một lượt rồi trỏ chiếc thuyền dưới sông, rành rọt đáp:

– Chiếc thuyền này được làm ra để mua vui cho một cô gái, nhưng tiếc là không có phong cách rõ ràng, không biết rốt cuộc đó là nụ hoa gì? Nếu không thể đạt được sự toàn vẹn về cả tốc độ và hình dáng, chi bằng tập trung vào chỉ một tiêu chí. Đằng này, chiếc thuyền kia chẳng được cái “nết” gì vì họ Xích Thủy quá cầu toàn, muốn đạt được cả hai tiêu chuẩn.

Cô gái áo tím lạnh lùng bật lại:

– Cô muốn cũng chẳng có đâu!

A Niệm tức tối định phản bác, nhưng cô gái lạ đã không cho nàng cơ hội, cô ta bay xuống, đứng trên mũi thuyền, khinh khỉnh nguýt A Niệm một cái.

Lúc này A Niệm đã biết cô ta chính là chủ nhân của chiếc thuyền, nàng bắt đầu lên giọng phỉ báng:

– Chiếc thuyền xấu xí như thế, đắc ý cái nỗi gì!

Không còn sớm nữa, Chuyên Húc, A Niệm và Tiểu Lục bàn bạc nên ăn tối ở đâu. Cả ba đều không muốn quay về nhà nghỉ, Tiểu Lục đề nghị ngồi thuyền dạo quanh hồ, nàng hào hứng gợi ý:

– Dân thuyền chài sống trên sông nước rất giỏi chế biến thủy sản, khỏi cần nhọc công tìm kiếm hàng quán làm gì, chúng ta cứ thuê một chiếc thuyền sạch sẽ, hỏi mượn nhà thuyền mảnh lưới, quăng bắt ít đồ sông rồi nhờ chủ thuyền làm sạch, chúng ta sẽ tự nướng, nướng mấy thứ này dễ lắm. Ví như loài trai hến chẳng hạn, chỉ cần khẽ tách vỏ, đặt lên than hồng, tưới ít rượu, rắc ít bột cài cay, thịt trai vừa tươi vừa có vị hơi cay, ăn một miếng sẽ muốn ăn thêm miếng nữa. Nếu là tôm, chúng ta phải ngâm trước trong rượu, tôm ngấm rượu, say nhưng không chết. Sau đó, nung nóng phiến đá nướng, xếp tôm lên đá, tôm tươi gặp đá nóng bật tanh tách, hương rượu nồng và mùi tôm tươi ngào ngạt, sực nức. Chờ khi vỏ ngoài chín vàng, vặt đầu tôm bỏ đi, chậm rãi cắn một miếng, thịt tôm tươi ngon, thơm mềm vấn vít nơi đầu lưỡi…

Tiểu Lục chỉ miêu tả thôi mà nước miếng đã chực tuôn ra, còn A Niệm thì gan ruột cồn cào.

Cảm xúc của Chuyên Húc rất phức tạp. Nghe Tiểu Lục kể thì rất thú vị nhưng trong niềm vui nhỏ bé ấy chứa đựng bao nhiêu đắng cay, cực nhục của cuộc đời phiêu bạt, nay đây mai đó của nàng. Một phần vui góp nhặt từ mười phần thống khổ. Nhưng Chuyên Húc vẫn cố tỏ ra như không, hắn cốc Tiểu Lục một cái, chế giễu nàng:

– Đồ vô tích sự, lúc nào cũng chỉ biết ăn.

A Niệm bĩu môi, tỏ vẻ khinh bỉ Tiểu Lục nhưng ánh mắt thì không ngừng quan sát và lọc lựa trong số những chiếc thuyền đang ghé sát bờ.

Tiểu Lục, với cặp mắt tinh đời và giàu kinh nghiệm, chỉ lướt qua cách bố trí là đoán biết được tính cách của chủ thuyền. Nàng chọn một chiếc thuyền tươm tất, sạch sẽ, thương lượng giá cả với vợ chồng chủ thuyền rồi nhờ họ mua giùm hai vò rượu và một ít rau dưa, hoa quả.

Bốn người cùng lên thuyền, Chuyên Húc và A Niệm ngồi bên cạnh xem Tiểu Lục trổ tài.

Hải Đường muốn giúp một tay nhưng Tiểu Lục bảo cô ấy cứ ngồi cạnh A Niệm. Tiểu Lục mượn nhà thuyền mảnh lưới, ra đuôi thuyền, quan sát. Nhằm đúng thời điểm, nàng quăng lưới xuống sông. Lúc kéo lên, thành quả thu được là vài con cá, một thùng tôm nhỏ và vài con cua càng.

Tiểu Lục đổ rượu ngập thùng tôm, để sang bên, chọn lấy ba chú cá vền, nhờ chủ thuyền làm sạch, số còn lại cho hết nhà thuyền. Tiểu Lục lại lôi ra một ít lá thuốc để ướp cá.

A Niệm nhắc nhở Tiểu Lục:

– Con trai hến đâu?

Tiểu Lục cởi áo ngoài, đáp:

– Chúng ta có được thưởng thức món trai hay không đều nhờ cô đấy.

– Ta ư?

Tiểu Lục trỏ tay ra hồ nước:

– Cô giúp tôi rẽ nước chỗ kia được không? Dùng sức vừa phải thôi.

– Có gì khó đâu!

A Niệm tuy là kẻ kiêu ngạo nhưng phép thuật của nàng không hề thấp kém. Nàng đặt tay xuống nước, dòng nước bắt đầu rẽ đôi, để lộ đám cát đá dưới đáy hồ. Tiểu Lục nhảy ùm xuống nước với chiếc giỏ tre giắt bên hông, bơi về phía dòng nước rẽ đôi. Nàng đi lại dưới đáy hồ, cúi nhặt trai hến, một chốc đã được đầy giỏ.

Lần đầu tiên trong đời được mò cua bắt ốc, A Niệm rất đỗi phấn khích, cô nàng hí hửng thò dài cổ ngó nghiêng, chỉ trỏ:

– Chỗ kia kìa, ta thấy một con to lắm.

Theo tay A Niệm, Tiểu Lục mò được một chú trai rất bự nấp cạnh phiến đá lớn, một tay nắm chặt thành quả, tay kia quạt nước, nàng bơi về thuyền.

Tiểu Lục đặt chú trai to bằng cái cối nhỏ xuống trước mặt A Niệm:

– Con này thuộc về cô, lát nữa sẽ nướng cho cô ăn.

A Niệm toét miệng cười, sốt ruột hỏi:

– Bao giờ mới được ăn?

Chị chủ thuyền đã nhóm xong lửa, Chuyên Húc kéo Tiểu Lục ngồi xuống cạnh bếp lò, mượn nhà thuyền chiếc khăn sạch, lau khô tóc cho hắn.

– Lạnh không? Uống ngụm rượu đi.

Hải Đường nhanh nhẹn bưng rượu mời Tiểu Lục, nàng uống vài ngụm, cơ thể nhanh chóng ấm lại, nàng khoát tay:

– Bắt đầu vào việc đi, vừa nướng vừa ăn mới nóng hổi!

Cả bốn người quây quần bên bếp than cùng nướng trai. A Niệm lúc đầu còn e dè, sau thấy thú vị, liền học theo Tiểu Lục rắc gia vị. Không rõ vì trai vừa được vớt dưới hồ nên tươi ngon hay vì được tự tay chế biến, chỉ biết rằng, A Niệm chưa từng ăn món trai nào ngon thế này.

Một lúc sau thì quần áo của Tiểu Lục đã khô ráo, nàng lấy lá sen bọc ba chú cá vền lại và đặt lên bếp.

Bốn người vừa ăn uống vừa trò chuyện, mới đó mà trăng đêm đã treo lơ lửng trên đỉnh đầu.

Thi thoảng cũng gặp một vài chiếc thuyền dạo chơi trên mặt hồ nhưng không du khách nào tiêu dao, hứng khởi, vui vầy nhắm rượu, thưởng trăng bên bếp hồng như họ.

Mùi cá nướng theo gió lan xa, có người thèm thuồng, gạn hỏi:

– Xin hỏi, các vị có bán đồ ăn không? Chúng tôi bằng lòng trả giá cao.

A Niệm từ chối thẳng thừng:

– Chỉ đủ phần cho chúng tôi thôi.

Chuyên Húc quay sang Tiểu Lục:

– Người ta chết thèm vì món này cũng phải. Không biết huynh dùng thứ gia vị gì mà khiến những người ăn cá đến phát ngán như ta với A Niệm cũng phải rớt nước miếng.

Tiểu Lục hớn hở:

– Bí quyết gia truyền, không thể tiết lộ.

Tiểu Lục chẳng hề ba hoa, khoác lác. Trong đầu nàng là cả một kho tri thức về thảo dược và đơn thuốc quý giá mà nhiều người thèm khát. Nhưng nàng không đam mê y thuật, không đi sâu nghiên cứu, chỉ ghi nhớ hết thảy các vị thuốc và thường xuyên sử dụng chúng như những gia vị khi nấu ăn. Lâu dần, nàng mày mò tìm ra rất nhiều loại gia vị tuyệt hảo từ thảo dược. Những món ăn của nàng tuy độ lửa chưa đạt chuẩn, nhưng hương vị thì rõ là có một không hai.

Bỗng sương mù nổi lên cuồn cuộn, phủ kín mặt hồ, thuyền bè vất vả xuyên qua biển sương dày đặc. Chị chủ thuyền thắp thêm vài ngọn đèn, đặt lên mạn thuyền, nhằm tránh bị thuyền khác va chạm. Có lẽ các thuyền khác cũng có cùng suy nghĩ nên chốc chốc lại bắt gặp những đốm sáng le lói, thoắt ẩn thoát hiện trong sương đêm mờ mịt, chẳng khác nào những ngôi sao lấp lánh giữa lòng đại dương.

Gió nhẹ bỗng đâu đưa tới một khúc đàn du dương, thảng hoặc. Giữa mênh mang sương đêm bàng bạc, tiếng đàn như có như không; lúc trong veo, ngân nga, bay bổng tựa mười dặm hoa đào tung bay trong gió cuộn; khi mơ hồ, phảng phất, dìu dặt như hoa lê đầu cành lả lướt rơi.

Thưởng đàn dưới trăng vốn đã rất thi vị, thưởng đàn dưới trăng giữa lênh đênh sông nước và mênh mang sương giăng lại càng thi vị hơn. Tiếc thay, chiếc thuyền chở người chơi đàn đang xa dần, tiếng đàn ngày một mơ hồ, khiến cả Tiểu Lục và A Niệm đều vương chút tiếc nuối. Tiểu Lục thở dài:

– Tiếng tơ thảng hoặc, tiếng tơ xa.

Chuyên Húc an ủi:

– Huynh muốn nghe cô ấy chơi đàn có gì khó đâu!

Tiểu Lục băn khoăn:

– Không lẽ huynh định gào gọi người ta quay lại? Kẻ thô lỗ như ta cũng thấy làm thế không ổn.

A Niệm khẽ hích Hải Đường một cái, Hải Đường vội vã mở túi vải giắt theo bên mình, lôi ống sáo mới mua hồi sáng ra, lau sạch, đưa cho Chuyên Húc. A Niệm nói với Tiểu Lục:

– Cha ta tinh thông âm luật, nhất là đàn dây. Người đã truyền giảng âm luật cho Chuyên Húc nên dù không thể so sánh với công tử Thanh Khâu nhà Đồ Sơn, huynh ấy cũng là một tay đàn cừ khôi.

Chuyên Húc bắt đầu trổ tài, vẫn khúc nhạc khi nãy nhưng hắn biến tấu đi không ít. Bản đàn khi nãy lúc rõ nét mơ hồ, những đoạn rõ nét, Chuyên Húc thổi theo nguyên tác, hắn chỉ sáng tác và hoàn thiện thêm những đoạn nhạc mơ hồ. Vậy mà khúc nhạc không hề mất đi tính thống nhất, trái lại, hòa quyện với nhau rất mực tài tình, thậm chí, so với bản nhạc khi nãy còn phóng khoáng, hứng khởi hơn vài phần.

Kẻ không hiểu nhiều về nhạc như Tiểu Lục còn hết lời tán thưởng, nói chi người chơi đàn khi nãy. Cô gái đó chừng như vừa kinh ngạc vừa phấn khích đã cho thuyền quay lại. Tiếng đàn vang lên, quyện hòa dìu dặt với tiếng sáo. Bản nhạc của hai người tưởng đồng nhất, nhưng lại hoàn toàn khác biệt. Cả hai cùng thách thức, so tài, mê mải đuổi theo nhau. Khung cảnh sông nước bàng bạc sương giăng trở thành sân khấu của riêng nhịp đàn điệu sáo ấy, lúc vút cao bay lượn giữa lưng chừng trời, lúc trầm lắng, thong thả rong chơi giữa mênh mông biên biếc. Cứ thế, tiếng đàn dường như đã bị tiếng sáo khuất phục, nương theo tiếng sáo mà du dương, hòa điệu.

A Niệm càng lúc càng thấy khó chịu, nàng giật lấy ống sáo, tiếng sáo đột ngột tắt lịm. Chuyên Húc không hề tức giận, chỉ dịu dàng nhìn A Niệm:

– Sao thế?

Tiếng sáo đột ngột biến mất, tiếng đàn trở nên buồn bã, cô lẻ, khắc khoải tìm kiếm.

A Niệm bực bội, gắt gỏng:

– Muội không thích nghe nữa!

Tiểu Lục cố nhịn cười, cắm cúi thưởng thức món cua nướng. Tiếng đàn vẫn văng vẳng, vương vấn mãi không thôi, nhưng chừng như chờ mãi không thấy tiếng sáo đáp lại, người chơi đàn giận dỗi, bỗng nàng vuốt một đường đàn thật dài, quyết liệt, chói buốt, dây đàn đứt phừn phựt, tiếng đàn tắt lịm.

Chuyên Húc chọn một con cua, khéo léo gạt phần gạch cua thơm ngon vào mai, nhỏ vài giọt giấm gừng rồi đặt xuống trước mặt A Niệm, A Niệm lập tức vui tươi trở lại, hân hoan thưởng thức. Chuyên Húc chọn một con cua khác, khều gạch cua đưa cho Tiểu Lục, nàng đang bận gặm càng cua, nên đáp qua quýt:

– Ăn cua phải tự mình bóc tách mới ngon.

Chuyên Húc không thích món cua, đành đặt phần gạch cua đã gạt sẵn vào mai xuống trước mặt A Niệm. Mặc dù khá phật ý vì phải “ăn đỡ” Tiểu Lục nhưng A Niệm không hề phàn nàn tiếng nào.

Tiểu Lục gắp cho Chuyên Húc một con cá vện:

– Huynh nếm thử đi.

Chuyên Húc bóc lớp lá sen bọc bên ngoài ra, mùi hương thơm phúc, tỏa lan ngào ngạt. A Niệm và Hải Đường lập tức chuyển sang món cá, mùi thơm hấp dẫn này có thể lan xa đến cả mười dặm cũng nên. Bốn người mà chỉ có ba con cá nên Hải Đường khá bối rối. Tiểu Lục lên tiếng:

– Các vị đừng khách sáo, ta còn rất nhiều “tôm say rượu” cực ngon ở đây.

Vừa dứt lời, Tiểu Lục múc một muỗng tôm tẩm rượu, đổ lên phiến đá nóng rẫy, giữa tiếng xèo xèo bọt nước, làn hơi trắng bốc lên nghi ngút, tôm tươi bật tanh tách, hương rượu nồng nàn xen lẫn mùi tôm thơm ngon lan bay bốn phía.

Có tiếng gọi từ xa vọng lại:

– Này, nhà thuyền, đem ít đồ nướng của các ngươi đến đây, nếu hợp khẩu vị của tiểu thư nhà ta sẽ được trọng thưởng!

Đây không phải lần đầu có người hứng thú với những món nướng của họ, nhưng những người khác đều rất lịch sự, nhã nhặn, đằng này, khẩu khí phách lối của ả người hầu như muốn ra lệnh cho họ vậy.

A Niệm tức tối đáp:

– Giàu có thì đáng nể lắm sao! Không cho!

Hải Đường cũng không vừa, nàng cao giọng:

– Tiểu thư nhà tôi bảo rằng, giàu có thì đáng nể lắm sao! Không cho!

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện