Chương 8
ĐIỀU GÌ LÀM NÊN MỘT GIA ĐÌNH ?
Đó là câu hỏi tôi đã day dứt hầu hết cuộc đời. Tôi lớn lên trong một gia đình miền Nam tiêu biểu. Tôi có một bà mẹ nội trợ, nổi tiếng vì vẻ ngoài chải chuốt tỉ mỉ và vườn hồng đoạt giải của bà. Tôi có một ông bố được vì nể, người đã thành lập công ty luật của riêng ông và làm việc vất vả để nuôi hai “người phụ nữ đáng yêu” của ông. Tôi có hai tá anh em họ, một đống cô dì chú bác. Đủ họ hàng để biến cuộc hội họp gia đình hằng năm của chúng tôi, được tổ chức trong ngôi nhà thênh thang với bãi cỏ xanh rộng hàng mẫu Anh và mái hiên vòng quanh nhà của bố mẹ tôi, thành một thứ giống rạp xiếc ba vòng diễn nhiều hơn là tiệc thịt nướng mùa hè.
Tôi dành mười lăm năm đầu đời mỉm cười ngoan ngoãn khi các bà dì béo ú véo má và bảo trông tôi giống mẹ thế nào. Tôi nộp bài tập về nhà đúng hạn để cho các giáo viên có thể xoa đầu tôi và bảo tôi khiến bố tôi tự hào ra sao. Tôi tới nhà thờ, tôi trông bọn trẻ con hàng xóm, tôi làm việc sau giờ học ở một cửa hàng địa phương, và tôi mỉm cười và mỉm cười và mỉm cười cho tới khi má phát đau.
Rồi tôi về nhà, thu dọn những chai rượu gin rỗng trên sàn nhà ốp gỗ và giả vờ là tôi không nghe tiếng chửi bới say xỉn của mẹ tôi vọng tới từ dưới hành lang, “Tao biết điều mày không biết. Tao biết điều mày không biết … ”
Lúc tôi hai tuổi, mẹ tôi bắt tôi ăn cái bóng đèn để bà có thể mang tôi tới bác sĩ và kể với ông ta tôi nghịch ngợm ra sao. Khi tôi bốn tuổi, bà bắt tôi đặt ngón cái vào cánh cửa và giữ ở đó trong khi bà đóng sầm cửa vào, để bà có thể chỉ cho bác sĩ tôi bất cẩn ra sao. Khi tôi sáu tuổi, bà cho tôi uống thuốc tẩy để cho các bác sĩ có thể hiểu việc làm mẹ của đứa trẻ như tôi khủng khiếp đến thế nào.
Mẹ tôi làm hại tôi, hết lần này đến lần khác, và không ai ngăn cản bà ta. Điều đó có khiến chúng tôi thành một gia đình không ?
Bố tôi có nghi ngờ, nhưng không bao giờ hỏi, thậm chí cả khi bà vợ say xỉn của ông cầm dao đuổi ông chạy vòng quanh nhà. Điều đó có khiến chúng tôi thành một gia đình không ?
Tôi biết mẹ tôi cố tình làm đau tôi và hi vọng làm tổn thương bố tôi, nhưng tôi không bao giờ nói ra. Điều đó có khiến chúng tôi thành một gia đình không ?
Bố tôi yêu bà. Kể cả khi còn bé, tôi vẫn hiểu điều đó. Bất kể mẹ làm gì, bố vẫn đứng về phe mẹ. Đó là hôn nhân, bố bảo tôi. Và không phải lúc nào mẹ cũng như thế này, ông sẽ nói thêm.
Như thể một khi mẹ tôi đã là người tỉnh táo, như đã từng tỉnh táo, thì có lẽ bà sẽ tỉnh táo trở lại.
Thế nên chúng tôi sẽ sống theo thông lệ, bắt đầu mỗi buổi tối với việc mẹ tôi bày ra một bữa tối được chuẩn bị đúng cách, và kết thúc mỗi bữa ăn bằng việc bà phi con gà rán, hay Chúa cứu giúp chúng tôi, một cái cốc pha lê chạm khắc vào đầu một hoặc là cả hai bố con. Cuối cùng, bố tôi sẽ dẫn bà về lại phòng ngủ, đặt bà xuống giường với một cốc trà ngọt pha rượu gin khác.
“Con biết mẹ thế nào rồi đấy,” ông lặng lẽ bảo tôi, nửa biện minh, nửa xin lỗi. Chúng tôi sẽ dành phần còn lại của buổi tối đọc cùng với nhau trong phòng khách ở mặt trước nhà, cả hai giả vờ như không nghe thấy tiếng lẩm bẩm say xỉn của mẹ ở cuối hành lang: “Tao biết điều mày không biết. Tao biết điều mày không biết … ”
Khi mẹ tôi chết, tôi ngừng việc đặt ra quá nhiều câu hỏi. Tôi tưởng cuộc chiến cuối cùng đã kết thúc. Bố tôi và tôi được tự do. Giờ sẽ là hạnh phúc mãi mãi.
Một tuần sau đám tang, tôi bật gốc đám bụi hoa hồng đoạt giải của mẹ tôi. Tôi đưa chúng qua máy bào gỗ, và bố tôi khóc nức nở trên đám hoa còn hơn cả ông từng khóc vì tôi.
Lúc ấy tôi bắt đầu hiểu được vài điều, về bản chất thật sự của gia đình.
*
* *
Giờ nhìn lại, tôi nghĩ việc tôi dính bầu, kết hôn với một người lạ mặt và sống ở một bang nơi tất cả mọi người đều bỏ qua âm R là không thể tránh khỏi. Tôi chưa từng cô đơn lấy một ngày trong đời. Vì thế tất nhiên, ngay giây phút tôi còn lại một mình, tôi lập tức tái tạo thứ duy nhất mà tôi biết - một gia đình.
Sinh con làm tôi sợ kinh khủng. Chín tháng sau mà tôi vẫn còn chưa sẵn sàng. Mực hầu như còn chưa kịp khô trên đăng kí kết hôn của tôi. Chúng tôi vẫn đang dọn vào nhà mới, một căn nhà gỗ nhỏ tí chắc chỉ đặt vừa vào phòng khách phía trước của nhà bố mẹ tôi. Tôi vẫn chưa thể là một bà mẹ được. Tôi còn chưa lắp xong cái cũi. Tôi thậm chí còn chưa đọc xong sách làm cha mẹ.
Tôi không biết mình đang làm gì. Tôi không đủ tư cách làm việc này.
Tôi nhớ trong lúc vật vã tới chỗ ô tô tôi đã nghĩ rằng mình có thể ngửi thấy mùi hoa hồng đoạt giải của mẹ. Tôi nôn mửa trên cỏ. Jason vỗ vào lưng tôi, và giọng nói bình tĩnh, kiểm soát của anh bảo tôi rằng tôi đang làm rất tốt.
Anh cầm lấy túi đồ vào viện của tôi rồi giúp tôi ngồi vào ghế hành khách.
“Thở đi,” anh nói đi nói lại. "Thở đi, Sandy. Chỉ cần hít thở.”
Ở bệnh viện, người chồng mới lịch thiệp của tôi đã cầm cái xô trong khi tôi nôn. Anh đỡ người tôi khi tôi rên rỉ và hổn hển trong lúc tắm trước khi sinh. Anh cho tôi mượn cánh tay anh, để móng tay tôi cào tóe máu khi tôi cố sức rặn quả bóng bowling to nhất thế giới ra khỏi dạ con của mình.
Các y tá nhìn anh ngưỡng mộ một cách công khai và tôi nhớ đã nghĩ một cách sống động rằng mẹ tôi nói đúng - thế giới đầy rẫy những con chó cái và tôi sẽ giết sạch bọn chúng, chỉ cần tôi có thể đứng dậy, chỉ cần tôi có thể làm cho cơn đau ngừng lại.
Và rất thành công.
Con gái tôi, Clarissa Jane Jones, trượt vào thế giới này, tuyên bố sự ra mắt của nó bằng một tiếng khóc phản đối khàn khàn. Tôi nhớ cảm giác ấm nóng, dính dấp khi cơ thể nhăn nheo bé tí của nó được đặt xuống ngực tôi. Tôi nhớ cảm giác cái miệng bé như chiếc khuy của nó mút, mút, mút mãi cho đến khi cuối cùng nó cũng bập vào ngực tôi, tôi nhớ cảm giác không thể tin nổi khi cơ thể tôi cảm nhận cơ thể con bé, trong lúc nước mắt chảy tràn trề trên mặt tôi.
Tôi bắt gặp Jason đang nhìn chúng tôi. Anh đứng cách xa, bàn tay thọc trong túi quần, khuôn mặt khôn dò như mọi khi. Và lúc ấy tôi mới nhận ra:
Tôi đã kết hôn với chồng tôi để thoát khỏi bố tôi. Điều đó có khiến chúng tôi thành một gia đình không ?
Chồng tôi đã cưới tôi bởi vì anh muốn đứa bé. Điều đó có khiến chúng tôi thành một gia đình không ?
Clarissa trở thành con gái của chúng tôi bởi vì nó đã được sinh ra trong cái đống hỗn độn này. Điều đó có khiến chúng tôi trở thành một gia đình không ?
Có lẽ bạn chỉ đơn giản là phải bắt đầu từ đâu đó.
Tôi giơ tay ra. Jason đi tới bên tôi. Và thật chậm, rất chậm, anh vươn một ngón tay ra và cọ vào má Clarissa.
“Ba sẽ giữ con an toàn,” anh lẩm bẩm. “Ba hứa sẽ không có điều gì xấu xảy ra cho con. Ba hứa, ba hứa, ba hứa !’
Rồi anh nắm lấy tay tôi và tôi có thể cảm nhận sức mạnh thật sự từ tình cảm của anh ẩn bên dưới vẻ bề ngoài, dòng thủy triều u ám của tất cả những điều anh sẽ không bao giờ kể cho tôi nghe, nhưng tôi hiểu, như một kẻ sống sót hiểu một kẻ sống sót khác.
Anh hôn tôi. Anh hôn tôi cùng với Clarissa nằm gọn giữa chúng tôi, một nụ hôn khó nhọc, một nụ hôn mạnh mẽ.
"Anh sẽ luôn giữ em an toàn,” anh lại thì thầm lần nữa, má anh tựa lên má tôi, nước mắt của anh hòa cùng nước mắt tôi. "Anh hứa với em, Sandy. Anh sẽ không bao giờ làm đau em”
Và tôi đã tin anh.
**
***
Lúc 5 giờ 59 phút, khi Aidan Brewster đang tham dự cuộc họp nhóm tương trợ hằng tuần của cậu ta, Jason Jones cho con gái anh xem một bộ phim, và bắt đầu hoảng loạn.
Anh đã gọi điện đến báo nghỉ ốm. Không biết phải làm gì khác. Đêm đang xuống, vẫn không có lời nào từ Sandy, vẫn không có dấu hiệu nào của cảnh sát. Ree thức dậy sau giấc ngủ trưa cũng trong tâm trạng lặng lẽ như lúc trước. Họ đã chơi trò Vùng đất bánh kẹo và Dù và thang và Câu cá.
Rồi họ ngồi ở cái bàn vẽ nhỏ xíu của con bé, anh thì tì cằm lên đầu gối, và tô màu bức tranh Lọ Lem quá khổ từ trong cuốn sách tập tô yêu thích của Ree. Ông Smith không tái xuất hiện một cách thần kì trên hai chân và Ree ngừng hỏi về cả con mèo lẫn mẹ của nó. Thay vào đó, nó nhìn Jason với đôi mắt nâu nghiêm nghị đã bắt đầu ám ảnh anh.
Sau bữa tối - thịt viên, mì tóc tiên và dưa chuột thái lát - anh bật một bộ phim. Ree nhấp nhổm háo hức trước sự đãi ngộ đặc biệt này, và giờ đang ngồi trên chiếc ghế sô pha đôi màu xanh, ôm Thỏ Bé. Jason bảo là anh phải giặt đồ và vội vã rút lui xuống tầng hầm.
Ở đó, anh bắt đầu đi đi lại lại, và một khi đã bắt đầu, anh không thể dừng được.
Khi anh mới về nhà và nhận ra Sandra không có trong đó, anh đã rất bối rối, có lẽ còn lo lắng nữa. Anh đã làm những việc thông thường: kiểm tra tấng hầm, kiểm tra gác mái, kiểm tra nhà chứa đồ cũ ở đằng sau. Rồi anh gọi đến điện thoại di động của cô, chỉ nghe thấy chuông reo trong túi xách. Việc đó khiến anh lục túi một cách nửa vời, nhìn qua cuốn sổ gáy xoắn nhỏ của cô để xem cô có ghi lại cuộc gặp lúc nửa đêm một cách thần kì hay không. Vào lúc hai giờ rưỡi sáng khi anh đã xác nhận là vợ mình không lên kế hoạch mất tích, anh đi vòng vòng trong khu phố, khẽ gọi tên cô, giống hệt như người ta gọi một con mèo.
Cô không có trong xe ô tô của cô. Không có trong xe ô tô của anh. Và cô vẫn chưa về nhà.
Anh đã ngồi xuống ghế sô pha và cần nhắc vấn đề.
Căn nhà đã khóa khi anh về tới, bao gồm cả chốt cửa và hai cái khóa chết. Điều đó cho thấy Sandy đã làm xong công việc thường lệ trước khi đi ngủ. Anh kiểm tra bàn bếp và phát hiện ra tập bài học sinh, có nghĩa là Sandy đã xong công việc thường lệ sau khi Ree ngủ.
Vậy thì buổi tối nay không ổn ở chỗ nào ?
Vợ anh không hoàn hảo. Jason biết rõ điều đó như bất kì ai. Sandy còn trẻ, cô đã sống một cuộc đời cuồng dại và bất cần khi còn thiếu nữ. Giờ, ở tuổi hai mươi ba tương đối trẻ cô đang cố gắng nuôi dạy một đứa bé mới chập chững trong khi điều chỉnh với công việc mới và sống ở một bang xa. Cô đã xa cách hơn kể từ khi năm học mới bắt đầu, đầu tiên là quá im lặng, rồi kể từ tháng mười hai, gần như là quá thân thiện, theo một cách ép buộc. Anh đã bắt đầu nghĩ về chuyến đi xa trong kì nghỉ tháng hai, chính xác là vì tâm trạng cô đã trở nên quá rối rắm, quá … khác.
Anh đã chắc chắn là cô nhớ nhà, đặc biệt là trong mùa đông, dù cô không bao giờ nói ra. Anh đã chắc chắn là có những lúc cô ước mình có thể chơi bời, ít nhất để cảm thấy trẻ trung một chút, dù cô không bao giờ nói ra.
Chính anh đã tự hỏi cô sẽ còn ở với anh được bao lâu, mặc dù một lần nữa, cô không bao giờ nói ra.
Giờ anh đang nhớ cô. Ý nghĩ đó làm anh đau nhói. Anh đã trở nên quen thuộc với việc về nhà và thấy cô đang nằm cuộn tròn trên giường của họ, tư thế ngủ của cô giống hệt tư thế của con gái họ. Anh thích giọng miền Nam kéo dài của cô, và việc cô nghiện Dr Pepper, và cái cách cô cười với một lúm đồng tiền xuất hiện bên má trái.
Khi cô lặng lẽ, có một sự mềm mại nơi cô khiến anh thấy được xoa dịu. Khi cô cười khúc khích với Ree, có một tia lửa tỏa ra từ cô khiến anh như bị điện giật.
Anh thích ngắm cô đọc truyện cho con gái họ nghe. Anh thích nghe cô ngâm nga khi tất bật trong bếp. Anh thích cách tóc cô rơi xuống mặt thành một tấm rèm vàng xoăn xoăn, và anh thích, cái cách cô đỏ mặt khi bắt gặp anh đang nhìn cô.
Anh không biết liệu cô có yêu anh hay không. Anh chưa bao giờ tìm hiểu được chuyện đó. Nhưng trong một thời gian cô đã cần anh, và với anh, thế là đã đủ.
Cô ấy đã bỏ mình; đó là ý nghĩ đầu tiên của anh vào lúc ba giờ sáng khi anh ngồi trong bóng tối trống rỗng của phòng khách. Anh đã cố hàn gắn trong tháng hai, và việc đó đã biến thành thảm họa. Vì thế cuối cùng Sandy đã bỏ anh.
Nhưng rồi, nửa giây sau, anh bỏ qua kết luận ấy: Trong khi Sandy có thể có tình cảm lẫn lộn về hôn nhân, cô không hề lẫn lộn về Ree. Có nghĩa là nếu Sandy đã tự ý bỏ nhà ra đi, cô sẽ mang theo Ree, và ít nhất cũng cầm theo túi xách của mình. Việc thiếu những việc làm ấy đã dẫn tới một kết luận khác: Sandy đã không tự ý bỏ đi. Điều gì đó tồi tệ đã xảy ra, ở đây, ngay trong nhà của Jason, trong khi con gái anh đang ngủ trên lầu. Và anh không hể biết đó là chuyện gì.
Jason là một người kín đáo. Anh biết điều đó. Anh thích lô gíc hơn là tình cảm, thực tế hơn là giả thuyết. Đó là một trong những lí do anh trở thành phóng viên giỏi. Anh rất giỏi trong việc lược qua cả một bể dữ liệu và tiến tới mẩu thông tin then chốt gắn mọi thứ với nhau. Anh không bị mắc kẹt với sự giận dữ hay sốc hay đau thương. Anh không có bất kì khái niệm thành kiến nào với cư dân Boston cũng như nhân loại nói chung.
Lúc nào Jason cũng tin rằng việc xấu nhất có thể xảy ra. Đó là một thực tế của cuộc sống. Bởi vậy, anh trang bị cho mình rất nhiều thực tế khác, có lẽ trong niềm tin hơi ngốc nghếch rằng nếu anh biết đủ nhiều, lần này anh sẽ được an toàn. Gia đình anh sẽ không phải khổ sở nữa. Con gái anh sẽ lớn lên an toàn và lành lặn.
Chỉ có điều giờ anh đang ở đây, đối mặt với vài bí ẩn to lớn, và anh có thể cảm thấy sự kiểm soát của mình đang bắt đầu trượt đi.
Cảnh sát đã đi được gần sáu giờ rồi, chỉ còn một người ngồi trong xe ở bên ngoài nhà, đã đổi ca một lần lúc khoảng năm giờ. Jason đã tưởng thời gian có cảnh sát trong nhà anh suốt cả buổi sáng là dài lê thê và đau khổ. Giờ anh nhận ra sự vắng mặt của họ còn tệ hơn nữa. Các thám tử đang làm gì ? Trung úy D.D. Warren đang nghĩ gì ? Cô ta có quan tâm đến tay hàng xóm xâm hại tình dục của anh không, hay anh vẫn bị coi là giải thưởng lớn ?
Họ đã có lệnh tịch thu máy tính chưa ? Liệu họ có thể đá anh ra khỏi nhà, buộc anh phải tới đồn không ? Chính xác thì họ cần loại bằng chứng gì ?
Tệ hơn nữa, nếu họ bắt anh, chuyện gì sẽ xảy ra cho Ree ?
Jason đi quanh bàn cà phê hết vòng này đến vòng khác, những vòng tròn sát sạt khiến anh chóng mặt nhưng vẫn không thể ngừng được. Anh không có gia đình ở đây, không có bạn thân. Liệu cảnh sát có liên lạc với bố Sandy rồi chuyển Ree tới Georgia hay là mời Max tới đây không ?
Và nếu Max tới đây, chính xác Max có thể nói hay làm bao nhiêu việc ?
Jason cần một chiến lược, một kế hoạch đề phòng bất trắc nào đó.
Bởi vì thời gian Sandy mất tích càng lâu, việc này sẽ càng tồi tệ hơn. Cảnh sát sẽ tiếp tục đào bới, hỏi những câu hỏi khó trả lời hơn. Và không tránh được chuyện lọt ra ngoài, báo chí sẽ bu tới. Những đồng nghiệp của chính Jason sẽ quay sang anh như lũ ăn thịt người, bắn hình ảnh của anh đi khắp thế giới rộng lớn. Jason Jones, chồng của người phụ nữ mất tích và là đối tượng nghi ngờ trong cuộc điều tra đang tiếp diễn.
Chẳng sớm thì muộn, ai đó sẽ nhận ra hình ảnh ấy. Ai đó sẽ bắt đầu kết nối các sự việc.
Đặc biệt là nếu cảnh sát sờ được vào máy tính của anh.
Jason phóng qua chiếc bàn quá nhanh, đập đầu gối vào góc máy giặt. Cơn đau lan lên đùi anh và cuối cùng buộc anh phải ngừng bước. Trong một giây, thế giới quay cuồng, vì thế anh phải bám vào nóc máy giặt, tức thở vì đau.
Khi rốt cuộc anh tập trung lại được, điều đầu tiên anh chú ý tới là con nhện, một con nhện vườn màu nâu tí hon đang treo lơ lửng ngay trước mặt anh trên một sợi tơ.
Jason nhảy lùi lại, đập ống quyển vào mép chiếc bàn xước xát và suýt thì kêu lên đau đớn. Nhưng việc đó cũng không sao. Anh có thể chịu đau. Anh không ngại đau, chừng nào anh không phải nhìn thấy con nhện ấy nữa.
Và trong giây phút ấy, mọi thứ trở nên quá tải. Trong giây phút ấy, một con nhện hầm nhỏ xíu cũng khiến anh phải quay lại cái nơi luôn luôn tối đen trừ những cặp mắt sáng quắc của các con vật trong hàng chục cái lồng xếp quanh rìa phòng. Nơi mà những tiếng thét bắt đầu ở tầng hầm và vươn lên dọc theo những bức tường. Nơi mà mùi chết chóc và thối rữa bốc lên hằng ngày và không lượng thuốc tẩy a-mô-ni-ắc nào có thể khiến nó khác đi được.
Nơi mà những đứa bé trai và những cô gái lớn tới để chết.
Jason nhét nắm tay vào miệng. Anh cắn xuống khớp ngón tay của mình cho đến khi nếm được vị máu và dùng cơn đau ấy để lấy lại bình tĩnh lần nữa.
“Mình sẽ không mất kiểm soát,” anh lẩm bẩm. “Mình sẽ không mất kiểm soát, mình sẽ không mất kiểm soát, mình sẽ không mất kiểm soát.”
Điện thoại reo trên lầu. Anh rời khỏi căn hầm một cách biết ơn và lên trả lời điện thoại.
*
* *
Người gọi tới là Phil Steward, hiệu trưởng trường học của Sandy, và nghe ông ta có vẻ bối rối khác thường.
“Sandra có đó không ?” Phil bắt đầu.
“Cô ấy không nghe điện thoại được,” Jason nói không cần nghĩ. “Tôi nhận lời nhắn được không ?”
Có một khoảng lặng dài. “Jason ?”
"Vâng !"
“Cô ấy có nhà không ? Ý tôi là, cảnh sát đã tìm được cô ấy chưa ?”
Vậy là cảnh sát đã phỏng vấn những người ở chỗ Sandra làm. Tất nhiên phải thế rồi. Đó là bước hợp lí tiếp theo. Sau khi kiểm tra ở đây, họ sẽ phải kiểm tra ở đó. Tất nhiên, Jason cần phải nói điều gì đó thông minh. Một tuyên bố sự thật, một mẩu chuyện tổng kết tình trạng hiện giờ mà không lấn sang địa hạt riêng tư.
Anh chẳng thể nghĩ nổi lấy một từ.
"Jason ?" .
Jason hắng giọng, liếc nhìn đồng hồ. Bây giờ là 7 giờ 5 phút tối, tức là Sandy đã mất tích được, mười tám, hai mươi giờ rồi ? Ngày thứ nhất đã gần qua, ngày thứ hai đã sắp bắt đầu. "ừm … cô ấy … cô ấy … cô ấy không ở nhà, Phil ạ.”
“Cô ấy vẫn mất tích,” vị hiệu trưởng khẳng định.
"Vâng.”
“Cậu có biết tí gì không ? Cảnh sát có đầu mối nào chưa ? Chuyện gì đang xảy ra thế, Jason ?”
“Đêm qua tôi đi làm,” Jason nói đơn giản. “Khi tôi về nhà, cô ấy đã đi mất rồi.
“Ôi Chúa tôi,” Phil thở dài thườn thượt. “Cậu có biết chuyện gì đã xảy ra không ?”
“Không.”
“Cậu có nghĩ là cô ấy sẽ về nhà không ? Ý tôi là, có thể cô ấy chỉ cần nghỉ ngơi một lát hay gì đó.” Thế này là đã lấn sang địa hạt riêng tư, và Jason có thể thực sự nhìn thấy Phil đỏ mặt bên kia đường dây điện thoại.
“Có thể,” Jason lặng lẽ nóỉ.
"À” Dường như Phil đã bình tĩnh lại. “Nghe có vẻ như mai tôi nên sắp xếp một người dạy thay.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Liệu sáng ngày mai cuộc tìm kiếm có bắt đầu không ? Tôi cho là hầu hết các giáo viên đều muốn trợ giúp. Có thể là vài phụ huynh học sinh nữa. Tất nhiên cậu sẽ cần người giúp phát tờ rơi, tìm kiếm trong khu vực lân cận, những việc đại loại như thế. Ai sẽ dẫn đầu đội tìm kiếm ?”
Jason lại ngập ngừng, cảm thấy cơn hoảng loạn đang cận kề. Lần này anh kiểm soát được nó, đứng thẳng lưng và buộc mình nói nghe có vẻ cứng rắn. “Tôi sẽ báo lại cho ông.”
“Chúng ta sẽ cần nghĩ xem phải kể gì với học sinh,” Phil nói, “tốt nhất là trước khi chúng nghe được tin trên tivi. Có lẽ là một thông báo công khai cho cả phụ huynh nữa. Trước đây chưa từng có chuyện gì như thế này xảy ra ở quanh đây. Chúng ta cần phải bắt đầu chuẩn bị cho bọn trẻ.”
“Tôi sẽ báo lại cho ông,” Jason nhắc lại.
“Clarissa thế nào rồi ?” Phil đột ngột hỏi.
“Không thể ổn hơn.”
“Nếu cậu cần bất kì sự giúp đỡ nào trong chuyện đó, cứ nói cho chúng tôi biết. Tôi chắc chắn vài giáo viên sẽ sẵn lòng trợ giúp. Tất nhiên những việc như thế đều có thể sắp xếp được. Tất cả chỉ cần có một kế hoạch.”
“Tất nhiên,” Jason đảm bảo với ông ta. “Tất cả chỉ cần có một kế hoạch.”