Chương 10
TÔI VẪN LUÔN BỊ CÁC BÍ MẬT HẤP DẪN. TÔI LỚN LÊN trong một cuộc đời dối trá, vì thế tất nhiên tôi nhìn thấy sự lừa bịp ở mọi nơi. Đứa bé nọ trong lớp luôn mặc áo dài tay, thậm chí cả vào những ngày nóng - chắc chắn đang bị bố dượng nó đánh. Người phụ nữ lớn tuổi làm việc ở chỗ máy sấy với khuôn mặt héo hon và đôi vai gầy trơ xương kia - chắc chắn đang bị đứa con trai to lớn ăn không ngồi rồi của bà ta ngược đãi.
Con người nói dối. Đó là một bản năng giống y như hít thở vậy. Chúng ta nói dối bởi vì chúng ta không thể ngăn nổi mình.
Chồng tôi nói dối. Anh nhìn vào mắt tôi khi làm việc đó. Trong số những kẻ dối trá, chồng tôi là một tay cự phách.
Tôi nghĩ tôi quen anh được sáu tuần mới phát hiện ra bên dưới vẻ ngoài kềm chế của anh ẩn giấu cả một biển xấu xa. Đầu tiên tôi chú ý từ những việc nhỏ nhặt. Cách mà đôi khi giọng anh kéo dài ra, đặc biệt là vào ban đêm khi anh mệt mỏi và không chú ý lắm. Hay những lần anh bảo anh sẽ ra xem tivi - chỉ có điều khi tôi bật tivi vào sáng hôm sau, nó hiện lên ngay kênh Home & Garden (Nhà và vườn), là kênh mà tôi mới xem và Jason chẳng bao giờ dùng tới kênh ấy làm gì.
Đôi khi, tôi cố trêu cho anh nói thật: “Này, anh vừa mới nói “cô-ca.” Em tưởng chỉ có một người miền Nam chân chính mới yêu cầu cô-ca thay vì một lon sô-đa.”
“Chắc tại ở bên em nhiều quá !" anh sẽ nói thế, nhưng tôi nhìn thấy một tia cảnh giác lóe lên trong mắt anh.
Hay đôi khi tôi cố đi thẳng vào vấn đề. “Hãy cho em biết chuyện gì đã xảy ra với gia đình anh. Bố mẹ anh ở đâu, anh em anh đâu ?”
Anh cố nói nước đôi. “Sao phải quan tâm ? Giờ anh đã có em rồi, và có Clarissa. Đây là gia đình duy nhất có ý nghĩa.”
Một đêm, khi Ree được năm tháng tuổi và đang ngủ say, tôi cảm thấy nôn nao và thao thức, cảm giác của một cô gái mười chín tuổi khi cô ấy ngồi đối diện với một người đàn ông đẹp trai, đen tối và cô ấy nhìn vào hai bàn tay anh, nghĩ rằng làm sao chúng có thể âu yếm một đứa trẻ sơ sinh dịu dàng đến thế. Quan trọng hơn là cô ấy nghĩ chúng sẽ có cảm giác ra sao trên bầu ngực trần của cô ấy, tôi thấy mình tiếp cận với vấn đề ấy còn nhanh hơn nhiều.
“Thú thật hay thách thức” tôi nói.
Cuối cùng anh cũng nhìn lên từ cuốn sách bìa mềm đang đọc dở. “Sao cơ ?”
“Thú thật hay thách thức. Anh biết đó, như một trò chơi ấy mà. Chắc chắn là lúc còn thanh niên anh đã chơi trò Thú thật hay thách thức rồi chứ.”
Jason nhìn chằm chằm vào tôi, đôi mắt sẫm màu vô đáy như muôn thuở. “Anh không phải là thanh niên.”
"Em thì có.”
Câu đó dường như cuối cùng cũng làm anh chú ý. Anh đóng sách lại, đặt nó xuống. “Em muốn gì, Sandra ?”
“Thú thật hay thách thức. Hãy chọn đi. Không khó đến thế đâu. Thú thật hay thách thức.” Tôi rụt rè lại gần anh. Tôi đã tắm sau khi cho bé Ree đi ngủ. Rồi tôi đã bôi nước thơm mùi cam lên khắp người mình. Đó là một mùi hương thoang thoảng, nhẹ nhàng, sạch sẽ, nhưng tôi biết là anh ngửi thấy, bởi vì lỗ mũi anh nở ra, chỉ một chút xíu, rồi anh nhích ra xa.
“Sandra … ”
“Chơi với em đi, Jason. Em là vợ anh. Thế không phải đòi hỏi quá nhiều”
Anh sẽ chiều theo. Tôi có thể nói từ cái cách anh gồng lưng lên, vươn vai ra. Anh đã tránh né tôi nhiều tháng trời. Chắc chắn anh nhận ra rằng đến một thời điểm nào đó anh sẽ phải thừa nhận tôi theo cách nào đó. Không thể lúc nào cũng là về Ree được.
“Thách thức ” cuối cùng anh cũng nói.
“Hôn em,” tôi ra lệnh. “Trong vòng một phút.”
Anh do dự. Tôi nghĩ là anh sẽ phản đối, và tôi gồng mình chuẩn bị bị từ chối. Nhưng rồi anh thở dài, hết sức nhẹ. Anh cúi tới trước, cau có và chạm môi anh vào môi tôi.
Anh sẽ hôn một cách trong sáng. Tới lúc ấy tôi đã biết anh đủ rõ để đoán được. Và tôi biết rằng nếu tôi cố mạnh dạn hay đòi hỏi, anh sẽ ngừng ngay. Jason không bao giờ la lối. Jason không bao giờ giơ tay trong lúc giận dữ. Anh chỉ đơn giản là biến mất, tới một nơi nào đó sâu bên trong anh nơi không điều gì tôi nói hay làm có thể chạm tới anh được, cho đến khi tôi đứng ngay đó bên cạnh anh mà vẫn như đang ở một mình.
Chồng tôi tôn trọng tôi. Anh đối xử tử tế với tôi. Anh tỏ lòng thương cảm với tôi. Anh làm hết sức để dự đoán mọi nhu cầu của tôi.
Chỉ trừ những việc liên quan đến sex. Tới giờ chúng tôi đã ở bên nhau gần một năm mà anh vẫn còn chưa chạm tay vào tôi. Việc đó khiến tôi phát điên.
Tôi không mở miệng. Tôi không tóm vai anh, vùi ngón tay vào mái tóc dày của anh. Tôi không làm bất kì việc gì mà tôi khao khát làm. Thay vào đó, tôi nắm chặt hai tay ở hai bên người, và vô cùng chậm rãi hôn trả lại anh.
Anh dành cho tôi sự dịu dàng, vì thế tôi đáp trả sự ngọt ngào của anh, hơi thở của tôi khe khẽ phả vào khuôn miệng mím chặt của anh. Anh dành cho tôi lòng thương cảm, vì thế tôi thể hiện nó ở nơi khóe miệng anh, toàn bộ bờ môi dưới của anh. Anh dành cho tôi sự tôn trọng, vì thế tôi không một lần thúc ép những giới hạn mà anh đã đặt ra. Nhưng tôi dám nói là tôi đã cho anh nụ hôn tuyệt nhất mà hai người mím miệng có thể dành cho nhau.
Khi một phút đã hết, anh lùi lại. Nhưng giờ anh đang thở khó nhọc hơn và tôi có thể thấy điều gì đó lẩn lút trong đôi mắt anh. Điều gì đó đen tối, căng thẳng. Nó khiến tôi muốn nhảy lên đùi anh, đè nghiến anh xuống ghế sô pha và làm anh mệt đứt hơi.
Thay vào đó, tôi thì thầm. “Thú thực hay thách thức. Đến lượt anh. Hỏi em đi. Thú thực hay thách thức.”
Tôi có thể thấy anh đấu tranh. Anh muốn nói thách thức. Anh muốn tôi lại chạm vào anh. Hay có lẽ là muốn cởi chiếc áo lụa xinh đẹp của tôi ra. Hay là đưa tay tôi lên bờ ngực rắn chắc của anh.
“Thú thực," anh khàn giọng nói.
"Hỏi đi.”
“Tại sao em lại làm thế này ?”
“Bởi vì em không ngăn mình nổi.”
“Sandy !’ Anh nhắm mắt lại và trong một thoáng, tôi có thể cảm nhận nỗi đau của anh.
“Thú thực hay thách thức ” tôi hỏi.
“Thú thực,” anh gần như rên lên.
“Điều tồi tệ nhất anh đã từng làm là gì ?”
“Ý em là sao ?”
“Điều tồi tệ nhất anh đã từng làm ấy ? Thôi nào. Anh đã bao giờ nói dối ? Ăn cắp ? Quyến rũ cô trông trẻ của bạn thân nhất ? Giết ai đó ? Kể em nghe đi, Jason. Em muốn biết anh là ai. Chúng ta đã cưới nhau, vì Chúa. Chắc chắn là anh ng em chừng đó.”
Anh nhìn vào tôi kiểu kì cục. “Sandra … ”
“Không. Không rên rỉ, không thương lượng, chỉ cần trả lời câu hỏi. Anh đã bao giờ giết người chưa ?"
“Rồi."
“Cái gì ?” Tôi hỏi, thực sự ngạc nhiên.
"Rồi, anh đã giết người,” Jason nói. “Nhưng đó không phải là điều tồi tệ nhất anh từng làm.”
Rồi chồng tôi rời khỏi ghế sô pha, cầm quyển sách của anh và bỏ lại tôi một mình trong phòng.
*
* *
Jason không nghĩ anh ngủ gật, nhưng chắc là thế, vì sau 1 giờ sáng một chút, một âm thanh đánh thức anh trên ghế sô pha. Anh giật mình ngồi dậy, ghi nhận tiếng đập mạnh ở xa xa. Tiếng ồn dường như tới từ bên ngoài ngôi nhà. Anh đứng dậy, bước tới cửa sổ trước, nơi anh hé rèm ra vài phân và nhìn lén ra ngoài.
Hai cảnh sát mặc sắc phục đang cạy nắp mấy thùng rác của anh. Giờ họ đang chuyển những chiếc túi màu trắng dùng trong bếp từ thùng đựng rác vào trong cốp xe tuần tra của họ.
Cứt thật, anh nghĩ, và suýt thì mở cửa trước ra quát họ dừng lại. Anh ngăn được mình.
Sai lầm sơ đẳng. Anh đã mang rác ra ngoài theo thói quen lâu ngày, và bằng cách đó, anh đã nộp chúng cho cảnh sát một cách hiệu quả. Anh kiểm tra trong đầu mình, cố phán đoán xem sai lầm ấy sẽ phải trả giá thế nào. Anh không thể nghĩ ra cái gì nên cuối cùng cũng thả lỏng, chùng vai xuống, thở ra hơi thở bị nén lại nãy giờ trong một cái thở dài thườn thượt.
Thôi được. Cảnh sát đã có túi rác của anh. Giờ thì sao nào ?
Trung úy D.D. Warren và phụ tá của cô ta, Thanh tra Miller đã quay lại nhà anh sau tám giờ ba mươi một chút để tiến hành lục soát xe tải. Anh gặp họ ở ngoài cửa, lướt qua lệnh khám xét theo đúng quyền của mình, rồi nghiêm chỉnh đưa ra chùm chìa khóa.
Rồi anh mỉa mai đóng và khóa cửa trước, dành thời gian còn lại ngồi tuốt bên trong với Ree. Cứ mặc họ với cái xe, anh nghĩ. Anh chẳng thèm quan tâm mảy may tới cái xe tải. Anh chỉ cần cái gì đó để giữ họ bận rộn để họ không tập trung chú ý vào máy tính của anh.
Nhắc tới nó … Anh liếc nhìn đồng hồ. Bây giờ là 1 giờ 52 phút sáng. Bây giờ hoặc là không bao giờ cả, anh quyết định và lặng lẽ đi lên lầu.
Anh thấy đau lòng vì phải đánh thức Ree. Con bé nhìn vào anh với đôi mắt uể oải, vẫn còn mơ màng và mất phương hướng vì buồn ngủ, chưa kể đến sức ép tầm lí của việc nhớ mẹ và con mèo của nó. Anh kéo con bé ngồi dậy trên giường, xỏ cánh tay nó vào trong áo khoác mùa đông, đi ủng vào đôi chân trần của nó. Con bé không phản đối, chỉ dựa đầu vào vai anh khi anh mang nó xuống lầu, chăn và Thỏ Bé ôm chặt trong hai tay.
Anh dừng ở cửa ra vào để vơ lấy chiếc túi đeo màu xanh, quàng nó qua vai. Anh chỉnh vị trí cho Ree và cái chăn của nó che chiếc túi khỏi những cặp mắt soi mói. Rồi anh mở cửa và mang cả chiếc túi và con gái anh ra xe Volvo của Sandy.
Anh có thể cảm nhận cặp mắt của viên cảnh sát tuần tra trên lưng mình. Chắc chắn anh chàng giờ đang cầm cuốn sổ tay lên và ghi vội mấy dòng: 1 giờ 56 phút sáng, đối tượng xuất hiện ở sân trước và mang theo đứa bé đang ngủ. 1 giờ 57 phút sáng, đối tượng tiếp cận xe của người vợ …
Jason gài Ree vào trong ghế đỡ của con bé, bí mật trượt chiếc túi vải xuống dưới sàn bên cạnh chân nó. Rồi anh đóng cửa hành khách phía sau và đi thẳng tới chỗ chiếc xe cảnh sát không biển hiệu.
Anh gõ vào cửa xe bên người lái. Viên cảnh sát hạ kính xuống một chút. “Tôi phải đi làm,” Jason tuyên bố mạnh mẽ. “Hoàn thành vài việc trước khi tôi nghỉ phép. Anh muốn biết địa chỉ hay là anh sẽ ở lại đây ?”
Anh trông thấy viên cảnh sát đang cân nhắc các lựa chọn. Theo dõi đối tượng hay là theo dõi căn nhà ? Mệnh lệnh cho anh ta là gì ?
“Khá muộn để ra ngoài với trẻ con đấy,” viên cảnh sát nhận xét, rõ ràng là để câu giờ.
“Anh có con không ? Đây không phải là lần đầu tiên tôi phải kéo con gái tới văn phòng. Tin tốt là nó có thể ngủ bất chấp mọi chuyện.”
Ngay giây phút nói ra những lời này, Jason ước gì anh có thể rút chúng lại. Tất nhiên, đã quá muộn khi anh quan sát thấy nụ cười mỉa đáp lại của viên cảnh sát. “Mừng vì được biết,” viên cảnh sát nói, và tiếp tục viết một đoạn dài trong sổ tay của anh ta.
Jason đành thôi, trở về chỗ chiếc xe thùng và khởi động nó. Khi lái xuống phố, anh không thấy viên cảnh sát đưa xe ra đằng sau anh. Nhưng rồi khoảng sáu dãy phố sau, một chiếc xe tuần tra đột nhiên thò mũi ra khỏi một đường nhánh. Anh cho đó là người tiếp theo quản lí anh, và âm thầm dành một lời chào cho viên cảnh sát của thành phố Boston.
Khu văn phòng của tờ Nhật báo Boston cũng giống như bất kì một tờ báo nào tin tức nào khác, có nghĩa là một nhà giam điên cuồng, náo nhiệt các hoạt động vào ban ngày, và vẫn còn chứa chấp vài linh hồn chăm chỉ kể cả vào giờ giấc như thế này. Các câu chuyện được viết ra, sao chép và biên tập, và các trang báo được trình bày kể cả vào những giờ sớm sủa như thế này, thậm chí có lẽ còn nhiều hơn, bởi vì chỉ đến sau nửa đêm chỗ này mới đủ yên tình cho bất kì ai suy nghĩ.
Jason đi vào tòa nhà cùng với đứa con gái đang ngủ ôm chặt một bên ngực, chiếc túi vải lủng lẳng qua vai và giờ đang được cái chăn bông nhẹ hình gấu to đùng của Ree che chắn hiệu quả. Trông anh như một người đang mang vác nặng, nhưng rồi, chỉ cần liếc nhìn vào đứa bé bốn tuổi khá lớn đang ngủ như chết trên cánh tay anh, chằng ai còn nghĩ đến chuyện thắc mắc nữa. Anh trượt thẻ phóng viên qua nhiều khóa từ, và tiến vào tận bên trong phòng làm việc.
Hầu hết các phóng viên đều làm việc cả từ nhà và ở văn phòng, vì thế những người như Jason chia sẻ chỗ ngồi với vài người, trong một hệ thống gọi là "ở trọ.” Về cơ bản, bàn vi máy tính có ở khắp mọi nơi. Bạn tìm được một chỗ trống và dùng nó. Đêm nay cũng không phải là ngoại lệ.
Jason tìm nơi ẩn náu trong một khoang ở gác, để chiếc túi vải xanh thẫm vào gầm bàn, trong khi thả Reo xuống dưới bàn và tạo một cái ổ cho con bé bằng chăn và thỏ của no. Giờ con bé đã tỉnh và đang ủ rũ nhìn anh.
“Không sao,” anh thì thầm với con bé. "Ba chỉ làm chút việc thôi rồi chúng ta sẽ về nhà.”
“Mẹ đâu ạ ?” Ree hỏi. “Con muốn Mẹ.”
“Đi ngủ đi cưng, chúng ta sẽ về nhà ngay thôi.” Ree ngoan ngoãn nhắm mắt lại, chìm vào giấc ngủ.
Jason nhìn con bé thêm một lúc nữa. Đường viền mi sẫm màu nổi bật trên làn da sáng. Vết quầng thâm mệt mỏi phủ trên hai mí mắt nhắm chặt. Với anh trông nó thật nhỏ bé. Mong manh. Một gánh nặng khôn tả đồng thời cũng là mục đích sống quan trọng nhất của đời anh.
Anh không ngạc nhiên vì nó đã giữ vững tinh thần giỏi đến thế. Trẻ con không thể hiện những nỗi sợ sâu sắc nhất của chúng ra ngoài. Một đứa trẻ có thể gào thét suốt mười phút vì vết bầm nhỏ bị trên sân chơi. Cũng đứa trẻ đó sẽ im thin thít khi đối mặt với một kẻ lạ có vũ khí. Trẻ con hiểu một cách bản năng rằng chúng bé nhỏ và dễ bị tổn thương. Do đó, trong lúc khủng hoảng, phần lớn trẻ em chỉ đơn giản là ngừng hoạt động, tập trung vào việc trở nên bé nhỏ hơn nữa, bởi vì có thể nếu chúng biến mất hoàn toàn, kẻ xấu sẽ để chúng yên.
Hoặc có thể, nếu một cô bé bốn tuổi ngủ đủ nhiều, khi cô bé tỉnh dậy, mẹ nó và con mèo của nó sẽ quay về và cuộc sống sẽ trở lại bình thường một cách kì diệu.
Jason chuyển sự chú ý sang cái bàn. Phòng tin tức vào giờ này im ắng, các khoang bên cạnh không có ai. Anh quyết định lúc này là lúc tốt nhất có thể và chậm rãi mở khóa chiếc túi vài xanh thẫm để lôi ra chiếc case máy tính để bàn mang tới từ bàn bếp nhà anh.
Chính xác ra, Jason sở hữu ba chiếc máy tính: máy tính xách tay mà anh dùng để làm việc; máy bàn gia đình, chính là chiếc máy đặt trong bếp và cả hai người cùng dùng; và cuối cùng là chiếc máy bàn cũ hơn, đã từng là máy gia đình nhưng được chuyển tới tầng hầm năm ngoái khi anh nâng cấp lên một chiếc Dell mới hơn. Jason không lo lắng về chiếc máy xách tay. Anh chỉ dùng nó để viết báo vì hiểu được những hiểm họa vốn có trong một chiếc máy tính di động có thể bị mất hay bị đánh cắp bất kì lúc nào. Anh chỉ hơi lo về chiếc máy tính cũ dưới tầng hầm. Đúng là anh đã dùng một chương trình chính thức của Bộ quốc phòng để ghi đè lên ổ cứng bằng một chuỗi những số 1 và số 0 vô nghĩa, nhưng ngay cả Bộ quốc phòng cũng không còn tin cậy vào chức năng này của nó nữa. Với những hồ sơ thực sự cơ mật, họ đốt ổ cứng thành tro, biến những hoạt động bên trong thành tro bụi. Anh không có sẵn lò thiêu trong tay nên anh phải làm các bước cơ bản. Chín mươi lăm phần trăm trường hợp, cách đó cũng hiệu quả.
Không may, chiếc máy gia đình, một chiếc máy bàn Dell ổ cứng 500 GB còn khá mới được anh dùng trong những lúc đêm hôm về sáng trong khi Sandra ngủ lại làm anh sợ chết khiếp. Anh không thể để cho cảnh sát tóm được chiếc máy này; do đó anh phải chuyển hướng họ sang chiếc xe tải. Giờ, liếc nhìn vào đồng hồ, anh đoán là anh còn khoảng ba giờ nữa để phá hủy nó.
Anh bắt đầu bằng việc cắm một chiếc thẻ nhớ vào ổ E. Rồi anh bắt đầu chuyển hết file này đến file khác. Các file chương trình, file Internet, file tài liệu, file ảnh jpeg, file pdf. Có rất nhiều, nhiều hơn mức có thể chuyển được trong ba giờ, nên anh phải lập chiến lược trọng tâm của mình.
Trong lúc các file này bắt đầu sao chép, anh vào mạng Internet và làm vài khảo cứu cơ bản. Anh bắt đầu với tội phạm xâm hại tình dục Aidan Brewster. Lúc nào cũng nên hiểu biết hàng xóm của mình, phải không nào ? Anh tìm thấy vài thông tin đơn giản và rất nhiều biệt ngữ, chẳng hạn như “file bị phong tỏa.” Nhưng anh là một phóng viên, không phải loại người lảng tránh mỗi khi gặp một cánh cửa đóng kín. Anh ghi nhanh vài số điện thoại, tìm kiếm thêm một chút nữa và đã có vài kết quả đáng mừng.
Nhiệm vụ đầu tiên hoàn thành, tiếp theo anh mở AOL và đăng nhập vào tài khoản của vợ anh. Anh đã tìm ra mật khẩu của cô từ nhiều năm trước; cô dùng LilBunl, tên thú nhồi bông yêu thích của Ree. Nhưng nếu anh đã không phá được mã khóa nhờ đoán mò thì anh cũng sẽ dùng một chương trình phân tích máy tính chẳng hạn như AccessDatas Forensic Toolkit hay Technology Pathways’s ProDiscover để làm việc tương tự. Đó chính là loại việc mà anh làm. Anh chính là loại người chồng như thế.
Sandy đã khám phá ra chưa ? Đó có phải là lí do cô rời bỏ anh không ?
Anh không biết, vì thế anh bắt đầu lần dở e-mail của cô, tìm kiếm manh mối liên quan đến những giờ cuối cùng của cô.
Tài khoản của cô chỉ ghi lại sáu mươi tư e-mail, phần lớn là các đề nghị cấy ghép dương vật hay những yêu cầu chuyển tiền khẩn cấp từ các nước ở thế giới thứ ba. Theo thư mục e-mail của Sandra, hoặc là cô bị ám ảnh bởi bộ phận sinh dục của nam giới hoặc là sắp trở nên giàu có bằng cách hỗ trợ một vị tướng ở phương xa bằng cách chuyển tiền.
Anh bỏ qua những thư rác, rồi lướt qua thư lừa đảo, cuối cùng tìm tới sáu e-mail có vẻ như thực sự được gửi cho vợ anh. Một là từ trường mẫu giáo của Ree nhắc các phụ huynh dành thời gian cho buổi gây quỹ sắp tới. Một thư khác từ vị hiệu trưởng trường cấp hai, nhắc giáo viên về hội thảo sắp tới. Bốn thư cuối cùng là những lời hồi đáp từ một e-mail gửi cho tất cả của một giáo viên hỏi các giáo viên khác liệu họ có quan tâm tới việc thành lập một nhóm cùng đi bộ sau giờ học hay không.
Jason chau mày trước việc này. Lần cuối cùng anh kiểm tra, vài tháng trước đây, cô có ít nhất hai mươi lăm e-mail cá nhân, phạm vi từ lời nhắn của học sinh cho đến thông tin trong loạt thư của các bà mẹ với nhau.
Anh kiểm tra thư mục e-mail cũ của vợ. Tất cả những gì anh tìm được là các thư rác anh vừa mới xóa. Anh kiểm tra thư mục e-mail đã gửi. Cũng trống không. Và rồi, với sự sợ hãi ngày càng tăng lên, anh bắt đầu thực sự tìm kiếm, sổ địa chỉ của cô: trống trơn. Các địa chỉ yêu thích: trống trơn. Bạn trên AOL: trống trơn. Lịch sử các trang hay tìm kiếm nhất trên Internet gần đây: trống không.
Trời đất ơi, anh nghĩ, và trong một thoáng anh không thể thở được. Anh giống như một con nai bị đèn pha rọi sáng, cảm thấy nỗi hoảng loạn tăng dần tăng dần cho đến khi có nguy cơ vượt tầm kiểm soát.
Ngày và giờ, anh điên cuồng nghĩ. Tìm theo ngày và giờ. Tất cả đều đúc kết lại ở ngày và giờ.
Anh click lùi lại thư mục e-mail cũ của cô, kéo con chuột xuống bức thư rác cũ nhất bằng bàn tay đã lại bắt đầu run rẩy. Sáu mươi tư cú click và nó đã hiện ra: E-mail đã gửi cũ nhất được truyền đi vào thứ ba lúc 4 giờ 42 phút chiều, hơn 24 giờ trước khi Sandra biến mất.
Jason ngồi lại, hai bàn tay bấu chặt lấy chỗ bụng đang nhộn nhạo của anh trong khi anh tìm hiểu ý nghĩa của việc này.
Ai đó đã xóa sạch tài khoản AOL của Sandra một cách có hệ thống. Nếu việc đó xảy ra vào tối thứ tư, cùng đêm khi cô biến mất thì kết luận hợp lí có thể đưa ra là kẻ bắt Sandra cũng là kẻ đã xóa tài khoản, có thể là một cách để xóa dấu vết của hắn.
Nhưng việc xóa tài khoản đã diễn ra trước, tới gần 24 giờ. Điều đó có nghĩa là gì ?
Luật giản hóa của Occam, đúng không ? Giải thích đơn giản nhất thường khi là giải thích đúng đắn nhất. Có nghĩa là chính Sandra đã xóa tài khoản của mình. Gần như chắc chắn là vì cô đã làm việc gì đó trên mạng mà giờ đây cô cảm thấy cần phải giấu đi. Một cuộc lăng nhăng trên Internet ? Một mối quan hệ thể xác thực sự ? Điều gì đó cô không muốn anh hay bất kì ai khám phá ra.
Giải thích ấy còn bớt ghê gớm hơn hình ảnh một người đàn ông giấu mặt, đầu tiên là tấn công Sandra, rồi tự mãn ngồi bên bàn bếp và xóa dấu vết của hắn trên máy tính trong khi Ree vẫn còn đang nằm ngủ trên đầu hắn.
Thế nhưng giải thích ấy khiến anh tổn thương nhiều hơn. Nó ngầm ý có sự dự tính trước. Nó ngầm ý rằng Sandra biết cô sẽ bỏ đi, và đã muốn đảm bảo là anh không thể nào tìm thấy cô.
Jason giơ một bàn tay mệt mỏi lên. Anh che hai mắt, và trong một thoáng, cơn lũ cảm xúc đang chẹn ngang cổ họng làm anh ngạc nhiên.
Anh đã không cưới Sandra vì tình yêu. Anh không phải là loại người có thứ kì vọng ấy trong đời. Vậy nhưng, trong một khoảng thời gian … Trong một khoảng thời gian, anh đã cảm thấy thật tuyệt khi lại là một phần của một gia đình. Thật tuyệt khi lại cảm thấy mình là người bình thường.
Anh đã làm hỏng hết trong kì nghỉ tháng hai. Chuyện phòng khách sạn, bữa tối, chai sâm-panh … Đáng lẽ anh không bao giờ nên làm những việc đã làm trong tháng hai.
Jason hắng giọng, dụi mắt. Anh gạt sự kiệt sức của mình đi và nhìn xuống đứa con gái đang say ngủ, buộc mình phải tập trung vào những vấn đề trước mắt.
Sandra không giỏi về kĩ thuật như anh. Anh đồ rằng nếu cô là người đã xóa tài khoản, cô đã làm việc đó bằng cách xóa các file tạm thời, có nghĩa là tất cả thông tin vẫn còn nằm trong ổ cứng, chỉ có danh bạ xác định vị trí của từng điểm dữ liệu là bị dời đi mà thôi. Và, bằng cách dùng bất kì một nhóm các chương trình khám phá đơn giản nào, anh cũng có thể khôi phục lại hầu hết thông tin đã bị xóa.
Thời gian mới là vấn đề. Chạy một chương trình như thế sẽ mất ít nhất là một giờ, và rồi nhiều giờ sau để lùng sục trong dữ liệu đã được tái tạo để tìm thứ anh đang tìm. Anh không có nhiều thời gian. Jason liếc nhìn đồng hồ. Anh chỉ có ba mươi phút. Chết tiệt.
Anh xoa mặt lần nữa bằng hai bàn tay mệt mỏi và hít một hơi dài.
Thôi được rồi, đã đến lúc dùng kế hoạch B.
Thẻ nhớ của anh đã hết. Anh tháo nó ra, trở lại menu hệ thống và xem kĩ menu nội dung. Anh vừa chuyển quá nhiều lại vừa chuyển quá ít. Anh chọn xóa thêm nửa tá file nữa, lại liếc nhìn đồng hồ và cảm thấy sự gấp rút.
Lúc đầu, anh đã hi vọng giữ lại được những gì có thể rồi chạy một chương trình xóa chính thức. Tuy nhiên, bây giờ anh không thể khiến mình xóa sạch ổ cứng đi, không khi mà nó có thể chứa những dấu vết liên quan đến khoảng thời gian cuối của Sandra. Mà việc đó lại dẫn tới một thế tiến thoái lưỡng nan thú vị. Chiếc máy tính vừa ẩn chứa sức mạnh để tìm vợ anh cũng như để đẩy anh vào tù suốt đời.
Anh nghĩ về việc đó. Rồi anh biết mình phải làm gì.
Anh sẽ mang chiếc máy tính gia đình cũ ở dưới tầng hầm lên trên bàn bếp, cập nhật cho nó tất cả những chương trình phần mềm hiện nay từ chiếc máy tính mới. Anh có thể chuyển một vài file cơ bản từ trong thẻ nhớ của mình vào đó, đủ những thứ vô nghĩa để cho chiếc máy tính cũ có vẻ ngoài như là chiếc máy đang được dùng.
Một kĩ thuật viên giỏi dần dần sẽ phát hiện ra. Rằng có những khoảng trống thời gian trong bộ nhớ của chiếc máy tính. Có lẽ cả Trung úy D.D. và Thanh tra Miller đều sẽ phát hiện ra sự hoán đổi. Tuy nhiên anh không nghĩ như vậy. Hầu hết mọi người chỉ chú ý tới màn hình cá nhân, và có thể là bàn phím cá nhân, nhưng họ lại không chú ý tới chính chiếc máy tính, cái case thường được nhét xuống dưới gầm bàn hay bàn bếp. Nếu có thì họ cũng chỉ để ý rằng anh sở hữu một chiếc Dell, trong trường hợp này sự trung thành với một nhãn hiệu của anh sẽ được tưởng thưởng.
Vậy là chiếc máy tính cũ sẽ trở thành máy tính hiện nay của anh, kiếm cho anh chút thời gian quý báu.
Việc đó khiến anh còn lại vấn đề phải làm gì với chiếc máy tính hiện nay. Không thể mang nó về lại nhà được, ngôi nhà có lẽ sẽ bị lục soát thêm vài lần nữa. Sẽ là một sự mạo hiểm tương tự nếu anh nhét nó vào trong ô tô, vì cùng lí do trên. Thế là anh chỉ còn lại một lựa chọn. Để lại chiếc máy tính ở ngay đây, đã được cài cắm như bây giờ, một chiếc máy tính để bàn, trong một căn phòng đầy máy tính để bàn. Thậm chí anh sẽ kết nối nó vào hệ thống, biến nó thành một chiếc máy tính của tờ Nhật báo Boston hoạt động đầy đủ, hoàn toàn không thể phân biệt được. Cũng tức là giấu ở nơi dễ thấy nhất.
Thậm chí nếu cảnh sát có nghĩ tới việc lục soát khu văn phòng của tờ Nhật báo Boston, anh thực sự nghi ngờ việc họ có thể lấy được một lệnh tòa án để tịch thu tất cả máy tính tại một tòa báo tin tức chính. Tại sao ư, chỉ nguyên việc vi phạm tính bảo mật … Hơn nữa, trong thời đại “ở trọ,” Jason không có một chỗ làm việc chính thức. Có nghĩa là cảnh sát chẳng thể xác định được một chiếc máy tính hay khoang làm việc nào là của anh. Về mặt kĩ thuật mà nói, tất cả máy tính đều được anh dùng qua, và không thẩm phán nào trong thời đại ngày nay lại để cho cảnh sát mang tất tật máy tính của tờ Nhật báo Boston đi được. Việc đó không thể nào xảy ra.
Hay ít nhất anh hi vọng là thế.
Jason đẩy ghế khỏi bàn. Anh gập chiếc túi vải lại và nhét nó vào sau tủ đựng hồ sơ bằng kim loại. Rồi anh bế cô con gái đang ngủ lên và hết sức nhẹ nhàng mang con bé ra ô tô.
5 giờ 45 phút sáng. Mặt trời sẽ sớm mọc thôi, anh nghĩ. Anh tự hỏi liệu Sandra có thể nhìn thấy không.