Chương 3

TÔI VẪN LUÔN GIỎI PHÁT HIỆN RA CỚM. NHỮNG gã khác, họ có thể lừa bịp với một đôi hai trong bài pô cơ. Còn tôi thì không may mắn đến thế. Nhưng tôi có thể phát hiện ra cớm.

Tôi để ý thấy những cảnh sát mặc thường phục đầu tiên trong bữa sáng. Tôi chỉ vừa mới đổ đầy một bát Rice Crispies cho mình (thức ăn sáng giống ngũ cốc), và đang dựa vào cái bệ phooc-mi-ca để ăn. Tôi liếc ra ngoài cái cửa sổ bé tị trên bồn rửa bát và anh ta ở đó, đóng bộ gọn ghẽ như kiểu ren Battenberg (một kiểu ren phổ biến những năm 30, 40): nam da trắng; cao khoảng 1 mét 75,1 mét 80; tóc đen; mắt đen; đi về hướng nam ở cuối đường đi bộ. Anh ta mặc quần vải bông trơn, áo khoác thể thao trông như kiểu áo vải tuýt, và áo sơ mi cài khuy cổ xanh. Giày da bò màu nâu đậm với đế bằng cao su dày màu đen. Tay phải cầm theo một cuốn sổ ghi chép gáy xoắn nhỏ.

Cớm.

Tôi ăn một miếng ngũ cốc, nhai, nuốt, và lặp lại.

Người thứ hai xuất hiện khoảng một phút rưỡi sau người thứ nhất. To hơn - khoảng 1 mét 85,1 mét 9, với mái tóc vàng cắt ngắn và một cái cằm nung núc thịt khiến những gã gầy nhẳng như tôi nhìn chỉ muốn đấm. Anh ta cũng mặc chiếc quần màu nâu tương tự như người kia, áo khoác thể thao kiểu khác, và một chiếc áo sơ mi cổ trắng. Sĩ quan số hai làm việc ở mé bên phải của con phố, là mé bên tôi.

Ba mươi giây sau, anh ta gõ cửa trước nhà tôi.

Tôi ăn một miếng ngũ cốc, nhai, nuốt, và lặp lại.

Chuông báo thức của tôi kêu lúc 6 giờ 5 phút, mọi buổi sáng. Từ thứ hai cho đến thứ sáu. Tôi thức dậy, tắm, cạo râu, và thay sang chiếc quần bò và áo thun cũ. Tôi là loại người thích quần chíp bó. Tôi cũng thích tất thể thao màu trắng cao đến đầu gối với ba đường màu xanh hải quân ở viền trên. Đã thích và sẽ còn thích mãi.

Sáu giờ ba mươi phút sáng, tôi sẽ ăn một bát Rice Crispies, rồi tráng bát và thìa và để chúng trên chiếc khăn lau bát màu xanh đã sờn được trải ra cạnh bồn rửa bát bằng thép chống gỉ. Sáu giờ năm mươi phút sáng, tôi sẽ đi bộ đi làm ở một ga-ra địa phương, nơi tôi sẽ mặc vào một bộ áo liền quần màu xanh dính đầy dầu mỡ và nằm xuống chỗ của mình ở dưới mui xe ô tô. Tôi có đôi bàn tay khéo léo, có nghĩa là tôi sẽ luôn có một việc làm. Nhưng tôi sẽ luôn là gã nằm dưới mui xe, không bao giờ là gã đứng ra tiếp khách hàng. Tôi sẽ không bao giờ có loại công việc ấy.

Tôi làm việc cho đến sáu giờ chiều, với một giờ nghỉ ăn trưa. Đó là một ngày dài, nhưng Thợ máy là thứ công việc kiếm ra tiền tốt nhất mà tôi có được, vả lại, tôi có đôi bàn tay khéo léo, và tôi không nói nhiều, có nghĩa các ông chủ không phiền khi có tôi quanh quẩn ở gần. Sau giờ làm, tôi đi bộ về. Có lẽ sẽ hâm nóng bánh hấp để ăn tối. Xem phim truyền hình Seinfield trên tivi. Đi ngủ lúc mười giờ.

Tôi không đi chơi. Tôi không tới quán bar, tôi không bao giờ đi xem phim với bạn. Tôi ngủ, tôi ăn, tôi làm việc. Mỗi một ngày đều giống hệt như ngày hôm trước. Đó không thực sự là một cuộc sống. Nó giống tồn tại hơn.

Các bác sĩ tâm lí có một cụm từ mô tả nó: vờ như bình thường.

Đó là cách sống duy nhất tôi biết.

Tôi ăn thêm một thìa ngũ cốc nữa, nhai, nuốt, và lặp lại.

Thêm nhiều tiếng gõ ở cửa trước.

Không có đèn. Bà H., chủ nhà của tôi, đang ở Florida để thăm đám cháu, và thật không hợp lí khi lãng phí điện chỉ vì tôi.

Tôi đặt bát ngũ cốc ướt nhẹp xuống và tay cớm chọn đúng lúc ấy để quay gót và đi xuống những bậc thềm nhà. Tôi di chuyển sang phía bên kia nhà bếp, nơi tôi có thể quan sát động thái của anh ta khi anh ta sang bên nhà hàng xóm của tôi và gõ cửa.

Lùng sục. Cớm đang lùng sục cả con phố. Và họ tới từ hướng bắc. Vậy là có chuyện gì đó đã xảy ra, có thể trên phố này, ngay ở phía bắc.

Tôi chợt nhớ ra, một điều mà tôi thực sự không muốn nghĩ lại, nhưng lại là điều đã lởn vởn trong đầu tôi kể từ giây phút chuông báo thức reo và tôi đi vào trong phòng tắm và nhìn chằm chằm vào hình phản chiếu của mình phía trên chậu rửa. Âm thanh mà tôi đã nghe thấy ngay sau khi tắt tivi tối hôm qua. Thứ mà tôi có lẽ biết là mình không muốn biết, nhưng giờ không thể gạt ra khỏi đầu.

Tôi bỏ dở bữa sáng và thay vào đó, ngồi phịch xuống một chiếc ghế trong bếp.

Sáu giờ bốn mươi hai phút sáng. Ngày hôm nay sẽ không có chuyện giả vờ bình thường gì cả.

Ngày hôm nay sẽ là một sự kiện có thật.

Tôi thở một cách khó nhọc. Nhịp tim đập nhanh, tôi có thể cảm thấy lòng bàn tay mình mướt mồ hôi. Và tôi nghĩ đến quá nhiều thứ cùng một lúc, đầu tôi bắt đầu đau và tôi nghe ai đó rên rỉ và việc đó làm tôi lúng túng cho đến khi nhận ra chính là mình rên.

Nụ cười của cô ấy, nụ cười ngọt ngào của cô ấy. Cách cô ấy nhìn tôi, như thể tôi cao ba mét, như là tôi có thể nắm trọn cả thế giới trong lòng bàn tay tôi.

Và rồi, nước mắt chảy ròng ròng trên má cô ấy. “Không, không, không. Làm ơn, Aidan, dừng lại. Không … ”

Cảnh sát sẽ tới tìm tôi. Chẳng sớm thì muộn. Hai, hoặc ba người, hay cả một đội đặc nhiệm sẽ tập trung trước bậc thềm nhà tôi. Đó là lí do vì sao những gã như tôi tồn tại. Bởi vì mỗi một cộng đồng đều cần phải có một kẻ xấu xa, và dẫu có giả vờ bình thường đến thế nào đi nữa cũng không thay đổi được điều đó.

Phải suy nghĩ. Phải lên kế hoạch. Phải chuồn khỏi đây thôi.

Tới đâu ? Trong bao lâu ? Tôi không có nhiều tiền mặt như thế …

Tôi cố giữ hơi thở mình trở lại bình thường. Tìm kiếm một niềm an ủi nào đó. Tự nói với mình rằng mọi chuyện sẽ ổn cả. Tôi đang theo chương trình trị liệu. Không uống rượu, không hút thuốc, không Internet. Tôi tham dự các cuộc họp nhóm trị liệu, tránh rắc rối.

Sống bình thường, tỏ ra bình thường, đúng không ?

Chẳng ích gì. Tôi đã trượt trở lại thói quen cũ, trong một thực tại duy nhất mà tôi biết là sự thực.

Tôi là một tay nói dối cừ khôi, đặc biệt là khi có dính dáng tới cảnh sát.

*

* *

D.D. bắt đầu cuộc tuần tra của mình ở trong bếp. Nếu cô quay đầu sang trái và nhìn lén qua ngưỡng cửa, cô chỉ có thể nhìn thấy dáng một người đàn ông đang ngồi trong chiếc ghế đôi màu xanh đậm, mặt sau chiếc ghế phủ một tấm vài bảy sắc cầu vồng. Jason Jones ngồi rất im, và dụi dưới cằm anh ta là một mái đầu tóc xoăn khác, cũng không cử động: Ree, con gái anh ta, có vẻ như con bé đã ngủ.

D.D. quyết tâm không nhìn chằm chằm quá lâu. Cô không muốn bị chú ý ngay từ lúc mới đầu như thế này. Bản năng của Miller đã đúng: Họ đang đối mặt với một đối tượng tình nghi rất thông minh, anh ta dường như biết cách lái những người thi hành luật pháp. Có nghĩa là họ cần phải tính toán mọi chi tiết, thật nhanh, nếu họ muốn tiến tới bất kì một cuộc xét hỏi có ý nghĩa nào với người chồng hay nhân chứng tiềm năng bốn tuổi kia.

Vì thế, cô tập trung vào nhà bếp.

Nhà bếp, giống như phần còn lại của ngôi nhà, vẫn lưu giữ được một vẻ bề ngoài quyến rũ kiểu xưa, mặc dù đã lộ vẻ cũ kĩ. Vải lót sàn đen trắng đã sờn. Những dụng cụ nhà bếp mà vài người gọi là đồ cũ, nhưng D.D. thì xem là đồ cổ. Căn phòng rất bé. Một bàn bếp vòng cung tạo đủ không gian cho hai người ngồi trên hai chiếc ghế đầu phủ nhựa đỏ. Một chiếc bàn uống nước nhỏ đặt ở trước cửa sổ, nhưng trên đó lại là một cái máy vi tính nên không tạo thêm chỗ ngồi nào nữa.

Việc đó khiến D.D. thấy khá là thú vị. Một gia đình ba người mà lại chỉ có ghế cho hai người. Điều đó có nói lên cái gì về tình cảm của gia đình này không ?

Căn bếp gọn ghẽ, tủ bếp được lau sạch, sự lộn xộn chỉ giới hạn ở chỗ các dụng cụ nhà bếp xếp thành một hàng ngang trước tấm chắn nước kẻ ca rô, nhưng không quá gọn - đĩa bẩn vẫn đặt trong bồn rửa, còn những chiếc đĩa sạch vẫn nằm chờ trên giá xếp đĩa, chưa được đưa về chỗ của chúng ở trong chạn bát. Một chiếc đồng hồ cũ với thìa và dĩa đóng vai kim giờ kim phút vui vẻ nằm bên trên bếp lò, trong khi những tấm rèm màu vàng nhạt trang trí bằng hình trứng ốp-lết mặt lòng đỏ hướng lên tô điểm phía trên các khung cửa sổ. Cũ, nhưng ấm cúng. Rõ ràng ai đó đã rất nỗ lực.

D.D. phát hiện một chiếc khăn lau đĩa kẻ ca rô đỏ treo trên móc và cúi xuống để hít thử. Miller nhìn cô kì quặc nhưng cô chỉ nhún vai.

Hồi mới vào nghề, cô đã thụ lí một vụ bạo hành gia đình, nhà Daley. Pat, người chồng bạo ngược, đã buộc vợ của mình là Joyce phải cọ sàn nhà hằng ngày với kỉ luật thép của quân đội. D.D. vẫn còn nhớ cái mùi a-mô-ni-ắc choáng ngợp khiến cô chảy nước mắt khi đi từ phòng nọ qua phòng kia, cho đến khi cô vào tới phòng sau nhà và mùi a-mô-ni-ắc bị thay thế bằng thứ mùi ngào ngạt của máu đông. Có vẻ là Joyce già nua tội nghiệp đã không dọn giường đúng kiểu vào sáng ngày hôm đó. Vì thế Pat đã đấm vào thận của chị ta, Joyce bắt đầu đi tiểu ra máu và quyết định rằng mình sắp chết, chị ta đã lấy khẩu súng ngắn từ sau xe tải của chồng ra và đảm bảo chắc chắn hắn ta cùng tái ngộ chị ở kiếp sau.

Joyce đã sống sót với hai quả thận bị hư hại. Pat, người chồng đã mất gần hết khuôn mặt sau cú bắn bằng súng ngắn, thì không.

Cho tới lúc này, với D.D. căn bếp này là một căn bếp bình thường. Không có những sự cưỡng ép - hay những mệnh lệnh điên loạn bắt phải lau dọn và khử trùng. Chỉ là một nơi mà người mẹ dọn bữa tối, với những chiếc đĩa lấm lem món mì Ý trộn pho mát vẫn còn đang chờ được lau rửa.

D.D. chuyển sự chú ý sang chiếc túi xách bằng da màu đen đang đặt trên bàn bếp. Miller lặng lẽ đưa cho cô một cặp găng tay cao su. Cô gật đầu cảm ơn, và bắt đầu lục đồ trong túi.

Cô bắt đầu bằng điện thoại di động của Sandra. Người chồng không mong gì giữ được bí mật điện thoại của vợ mình vì thế họ thoải mái nghiên cứu kĩ càng chiếc điện thoại. Cô xem lại những tin nhắn và danh sách cuộc gọi. Chỉ có một số điện thoại nổi bật, và nó được đánh dấu là NHÀ. Một bà mẹ gọi về để kiểm tra con gái mình, không nghi ngờ gì nữa. Số điện thoại được gọi nhiều thứ hai là DI ĐỘNG CỦA JASON, một bà vợ gọi để kiểm tra chồng mình, D.D. cho là vậy.

D.D. không thể nghe các tin nhắn thoại mà không có mật khẩu, nhưng cô không lo lắng chuyện đó. Miller sẽ làm việc với công ty điện thoại và nhờ họ đóng băng các tin nhắn cũng như lấy ra nhật kí của riêng họ. Nhà cung cấp lưu lại các bản sao của cả những tin nhắn đã bị xóa trong cơ sở dữ liệu của họ, một thông tin sẵn sàng cho những đầu óc muốn tìm hiểu. Miller cũng sẽ nhờ nhà cung cấp dò theo những cuộc gọi cuối cùng của Sandra, dò tới từng cột sóng tiếp nhận để giúp tái tạo lại những hoạt động cuối cùng của cô ta.

Phần còn lại của chiếc túi chứa ba thỏi son khác nhau - ba tông màu hồng chìm - hai chiếc bút, một cái giũa móng tay, một thanh kẹo granola, một chun buộc tóc bằng vải màu đen, một cặp kính đọc sách, một chiếc ví với bốn mươi hai đô la, một bằng lái xe của bang Massachusetts còn hạn, hai thẻ tín dụng, và ba thẻ thành viên cửa hàng tạp phẩm, một thẻ thành viên cửa hàng sách. Cuối cùng, D.D. kéo ra một cuốn sổ gáy xoắn nhỏ chứa đầy các danh sách khác nhau: hàng hóa cần mua, việc nhà cần làm, các giờ hẹn. D.D. để riêng cuốn sổ ra như một vật chứng cần ưu tiên, và Miller gật đầu.

Bên cạnh chiếc túi xách là một bộ chìa khóa xe lớn. D.D. giơ chúng lên dò hỏi.

“Chìa khóa điện thuộc về chiếc xe thùng Volvo màu xám đang đậu ở lối lái xe. Hai chìa khóa khác là chìa khóa nhà. Bốn chìa kia chúng tôi không biết nhưng đoán ít nhất có một cái là chìa khóa lớp học của cô ta, tôi sẽ cử một cảnh sát kiểm tra cái đó.”

“Anh kiểm tra phía sau xe thùng chưa ?” cô đột ngột hỏi.

Miller dành cho cô một cái nhìn, rõ ràng là muốn có thêm chút lòng tin của cô. “Rồi, thưa cô. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên ở đó hết.”

D.D. không buồn xin lỗi. Cô chỉ đặt chùm chìa khóa xuống và nhặt lên một đống bài vở, đã được ghi chú cẩn thận bằng mực đỏ. Sandra Jones đã ra cho lớp của cô ta bài tập viết một đoạn văn, mỗi học sinh cần phải trả lời “Nếu em được khởi tạo một ngôi làng của riêng mình, thì quy tắc đầu tiên cho mọi người sẽ là … và tại sao.”

Vài đứa trẻ chỉ viết được một hai dòng. Một số ít viết gần kín tờ giấy. Mỗi bài đều có ít nhất một hoặc hai lời nhận xét, rồi chữ cái cho điểm được đánh vòng tròn ở trên đầu bài. Chữ viết khá nữ tính, với những hình mặt cười dành cho vài đứa trẻ. D.D. quyết định đó chính là loại chi tiết mà một kẻ giả mạo chữ viết sẽ không nghĩ đến để thêm vào. Vậy là cho đến lúc này, cô chấp nhận rằng Sandra Jones đã ngồi bên chiếc bàn này, cho điểm những bài tập này, một hoạt động mà theo chồng cô ta là sẽ không diễn ra cho đến khi Ree bé nhỏ đã đi ngủ.

Vậy là vào khoảng chín giờ tối, Sandra Jones vẫn còn sống và mạnh khỏe ngồi trong căn bếp của chính mình. Và rồi …

Ánh mắt D.D. chuyển sang chiếc máy tính, một chiéc máy Dell để bàn khá mới đặt trên bàn nước nhỏ màu đỏ. Cô thở dài.

“Bật chưa ?” cô hỏi với sự thèm muốn khó giấu.

“Không muốn dụ dỗ bản thân,” Miller trả lời.

Cái máy tính đúng-là cái bẫy. Chắc chắn là họ muốn nó, nhưng chắc chắn họ cần có sự cho phép của người chồng, vì anh ta có quyền riêng tư. Một việc cần phải thương lượng, nếu như họ tìm được lí lẽ nào đó để mà đưa ra thương thảo.

D.D. quay sang cầu thang nhỏ hẹp, đi lên từ phía sau của nhà bếp.

“Đội khám nghiệm đã lên đó rồi chứ ?” cô hỏi.

“Rồi.”

“Họ đỗ xe tải ở đâu ?”

“Cách đây năm dãy phố, cạnh một quán rượu. Tôi cảm thấy cần bí mật.

“Tôi thích việc đó. Họ đã làm cầu thang chưa ?”

“Việc đầu tiên mà tôi bảo họ làm đấy!". Miller đảm bảo với cô. Rồi nói thêm: “Nghe này Trung úy, chúng tôi đã ở đây từ sáu giờ sáng nay. Ít nhất tôi đã có mười sĩ quan cảnh sát rà soát hết căn nhà, kiểm tra tầng hầm, phòng ngủ, tủ quần áo và bụi cây. Thứ duy nhất mà chúng tôi có thể đưa ra là một bất kể việc gì cần làm, và cử những người còn lại đi ra ngoài - để hoặc là mang về cho tôi Sandra Jones hoặc là bằng chứng nào đó về bất kể chuyện gì đã xảy ra với cô ta. Chúng tôi biết những điều căn bản. Chỉ là chúng chưa đưa chúng tôi đến đâu mà thôi.”

D.D. lại thở dài, tóm lấy tay vịn và bước lên những bậc cầu thang sơn màu sô cô la.

Tầng hai cũng ấm cúng như dưới tầng một. D.D. đã phải chống lại ý muốn thụp đầu xuống khi một đôi đuôi đèn cũ quẹt vào tóc cô. Hành lang được lát ván gỗ cứng, cũng sơn màu sô cô la tối như cầu thang. Qua nhiều năm, bụi đã đóng kết lại ở những ngóc ngách của lớp ván sàn, với một vài cụm lông rối và gàu chuyển động dưới bước chân cô. Vật nuôi trong nhà, D.D. đoán, dù chưa ai nhắc tới chuyện đó.

Cô dừng một lát để liếc nhìn lại quãng đường vừa đi, một dãy những bước chân lẫn lộn và đè lên nhau trong một khoảng lờ mờ khó phân biệt với sàn nhà đóng bụi. Rất may là sàn nhà đã được khám nghiệm, cô nghĩ. Rồi cau mày, khi một ý nghĩ khác chợt hiện ra và khiến cô lập tức thấy lo lắng thực sự.

Suýt nữa thì cô đã mở miệng để nói gì đó, nhưng vào phút cuối cùng cô nghĩ tốt hơn là không nên. Tốt hơn là chờ xem đã. Phải xem xét đến mọi chi tiết. Thật nhanh.

Họ bước qua phòng tắm chật hẹp cũng được trang trí theo kiểu những năm 50 giống nhà bếp. Đối diện phòng tắm là một phòng ngủ nhỏ với chiếc giường đôi phủ chăn bông màu hồng, kê sát phần mái hiên chúc hẳn xuống của căn phòng. Trần nhà và mái hiên được sơn màu xanh sáng, lác đác những cụm mây, chim chóc và ong bướm. Chắc chắn đây là phòng cô con gái nhỏ, và sự đáng yêu của nó đủ khiến D.D. cảm thấy đau nhói thay cho Clarissa Jane Jones, cô bé đã ngủ yên trong một thánh đường xinh đẹp nhường này, chỉ để thức dậy trước một cuộc diễu hành ác mộng của những sĩ quan cảnh sát mặc sắc phục tối màu trong nhà cô bé.

D.D. không lưu lại trong phòng ngủ đó mà tiếp tục đi xuống hành lang vào trong phòng ngủ chính.

Hai kĩ thuật viên đang đứng trước cửa sổ. Họ vừa mới hạ mành xuống và giờ đang dùng ánh sáng xanh bắn khắp căn phòng. D.D. và Miller thận trọng đứng ở ngoài hành lang khi người mặc sắc phục trắng đầu tiên chiếu tia lên tường, trần nhà và sàn nhà để tìm những dấu vết của chất dịch từ cơ thể. Khi các điểm dần hiện lên, người thứ hai đánh dấu chúng bằng miếng dán để phân tích thêm. Quy trình kéo dài khoảng mười phút. Họ không kiểm tra chiếc giường. Chắc chắn là ga giường và chăn đã được cuộn lại để phân tích trong phòng thí nghiệm rồi.

Người đầu tiên kéo mành lên, bật chiếc đèn ngủ còn lại bên cạnh giường, rồi chào D.D. bằng một tiếng reo mừng, “Chào, Trung úy.”

“Cuộc chiến đến đâu rồi, Marge ?”

“Như mọi khi, ta luôn thắng.”

D.D. bước tới trước để bắt tay Marge, rồi kĩ thuật viên thứ hai, Nick Crawford. Họ đều biết nhau từ lâu vì đã cùng làm việc trong một thời gian dài ở những hiện trường như thế này.

“Các anh nghĩ sao ?” D.D. hỏi họ.

Marge nhún vai. “Có vài vết. Tất nhiên chúng tôi sẽ kiểm tra chúng, nhưng chẳng có gì sáng sủa. Ý tôi là, mọi phòng ngủ trên đất Mỹ này đều có dịch từ cơ thể người ở đâu đó.”

D.D. gật đầu. Khi khám nghiệm một căn phòng để tìm dịch từ cơ thể người, có hai điểm cần đánh dấu đỏ: thứ nhất, một dấu vết rõ ràng chẳng hạn như vết văng tung tóe trên tường hay một vũng lớn ở trên sàn; thứ hai, việc hoàn toàn thiếu hụt chất dịch ở người, ám chỉ rằng ai đó đã dùng chất hóa học để tẩy rửa triệt để. Như Marge đã nói, mọi căn phòng ngủ đều phải có thứ gì đó.

“Thế còn chiếc đèn bị vỡ ?” D.D. hỏi.

“Chúng tôi đã lấy nó từ trên mặt sàn,” Nick nói, “với tất cả các mảnh vỡ khớp với nhau. Mới nhìn, có vẻ như chiếc đèn đổ xuống sàn và bị vỡ tan tành, chứ không phải được dùng như một vũ khí. Ít nhất kiểm tra bằng mắt thường đã không cho thấy bất kì dấu vết nào của máu ở trên bàn đèn.”

D.D. gật đầu. “Giường thì sao ?”

“Một chiếc chăn trải ghép vải màu xanh dương và xanh lục đã bị mất, nhưng phần còn lại của chiếc giường có vẻ vẫn nguyên si.”

“Anh kiểm tra phòng tắm chưa ?” D.D. hỏi. “Rồi.”

“Bàn chải đánh răng ?”

“Hai cái vẫn còn ẩm khi chúng tôi tới đây. Một cái bàn chải điện Barbie màu hồng thuộc về đứa bé. Cái thứ hai là một bàn chải điện Braun Oral-B, theo lời người chồng là thuộc về vợ anh ta.”

"Quần áo ngủ ?"

“Theo lời người chồng, cô vợ mặc một chiếc áo thun dài màu tím, về hình đứa bé gái đội vương miện ở đằng trước ngực. Hiện giờ chưa tìm thấy”

“Còn những quần áo khác ? Va li ?”

“Kiểm tra sơ bộ của người chồng cho thấy không bị mất thứ gì.”

“Đồ trang sức ?”

“Những thứ lớn nhất là đồng hồ và nhẫn cưới của cô ta, cả hai đều không thấy. Cùng với đôi hoa tai vàng yêu thích, mà theo lời người chồng là cô ta thường xuyên đeo. Tất cả những gì chúng tôi tìm thấy trong hộp đồ trang sức là vài chiếc vòng cổ, một cặp vòng tay tự làm mà rõ ràng là quà tặng của bé gái. Người chồng nghĩ mọi thứ trông có vẻ ổn.”

D.D. quay sang Miller. “Tôi cho là thẻ tín dụng của cô ta không có hoạt động nào ?”

Miller lại dùng đến kiểu nhìn Tôi-không-phải- đồ- ngốc của anh ta. Cô cho như thế đã đủ là câu trả lời.

“Vậy” cô suy tư thành tiếng, “theo mọi bằng chứng, Sandra Jones đã đi từ chỗ làm về nhà chiều ngày hôm làm bữa tối cho con gái, đưa con bé lên giường, rồi tiếp tục với những công việc buổi tối của cô ta là chấm bài. Ở thời điểm nào đó, cô ta đã đánh răng, mặc áo ngủ vào, và ít nhất đã đi tới phòng ngủ, nơi … ”

“Một kiểu vật lộn nào đó đã làm vỡ cây đèn ?” Marge giúp đỡ với một cái nhún vai. “Có thể ai đó đã ở sẵn đây, phục kích cô ta. Việc đó sẽ giải thích cho chuyện thiếu vết máu.”

“Đối tượng đã khuất phục cô ta bằng tay” Miller nói thêm. “Làm nghẹt thở.”

“Hãy kiểm tra vỏ gối,” D.D. nói. “Có thể hắn đã làm nghẹt thở cô ta trong lúc ngủ.”

“Làm nghẹt thở, bóp cổ. Cái gì đó im ắng và không quá lộn xộn,” Nick đồng ý.

“Rồi quấn thi thể trong chiếc chăn và kéo nó ra khỏi căn nhà,” Miller kết luận.

D.D. lắc đầu. “Không, không có lôi kéo. Đây là chỗ mọi chuyện trở nên phức tạp.”

“Ý cô không có lôi kéo nghĩa là sao ?” Miller bối rối hỏi.

“Hãy nhìn vào hành lang đầy bụi kia. Tôi có thể thấy những bước chân của chúng ta, đó là vấn đề, bởi vì nếu ai đó đã kéo một cái xác quấn trong cái chăn to đùng thì đáng lẽ tôi phải nhìn thấy một vệt dài, sạch sẽ từ phòng ngủ cho đến đầu cầu thang. Không có vệt nào cả. Có nghĩa là cơ thể đã không bị kéo lê đi.”

Miller cau mày. “Được rồi, vậy là đối tượng đã mang cô ta ra ngoài.”

“Một người đàn ông mang thân thể ẽo uột của một phụ nữ trưởng thành đi qua cái hành lang hẹp này ư ?” D.D. nhướng mày lên nghi ngại. “Đầu tiên, đó phải là một người đàn ông khỏe mạnh. Thứ hai, không cách nào hắn qua được chỗ gấp khúc ở cầu thang kia. Chúng ta sẽ thấy bằng chứng ở mọi nơi.”

“Hai người thì sao ?” Marge dự đoán.

“Gấp đôi tiếng ồn, gấp đôi cơ hội bị tóm.”

“Vậy thì cái quái gì đã xảy ra với cái chăn ?” Miller hỏi.

“Tôi không biết,” D.D. nói. “Trừ khi … Trừ khi cô ta đã không bị giết trong căn phòng này. Có thể cô ta đã xuống được chân cầu thang. Có thể cô ta đang ngồi trên ghế sô pha xem tivi, rồi chuông cửa reo. Hoặc có thể người chồng về nhà … ” Cô nghĩ về chuyện đó, cố thử nhiều tình huống khác nhau trong đầu. “Hắn đã giết cô ta ở chỗ khác, rồi lên đây lấy cái chăn, gạt đổ cái đèn trong khi kéo chăn ra khỏi giường. Như thế sẽ ít tiếng động hơn. Ít cơ hội đánh thức đứa trẻ.”

“Có nghĩa là chúng ta vẫn chưa tìm thấy hiện trường chính của vụ án,” Miller lẩm bẩm, nhưng anh ta cau mày trong khi nói điều đó. Bởi vì theo lời anh ta, họ đã làm những bước căn bản, và bước căn bản đáng lẽ phải tìm thấy dấu hiệu của máu.

Tất cả họ đều nhìn vào nhau.

“Tôi bỏ phiếu cho tầng hầm,” D.D. nói. “Khi những chuyện xấu xảy ra, dường như nó luôn xảy ra ở tầng hầm. Ta đi chứ ?”

*

* *

Bốn người đi chầm chậm xuống cầu thang, ngang qua phòng khách, nơi một cảnh sát mặc sắc phục vẫn đứng ở ngưỡng cửa, theo dõi Jason Jones và đứa con đang ngủ của anh ta. Jones nhìn lên khi họ đi qua phòng ngoài. D.D. thoáng nhìn thấy một đôi mắt nâu bí ẩn, rồi Miller mở cửa, mở ra một nhịp cầu thang gỗ không chắc chắn dẫn xuống tầng hầm ẩm mốc chỉ được chiếu sáng mờ mờ bằng bốn bóng đèn trần trụi. Họ đi chậm rãi và cẩn trọng. Thề có chúa, cảnh sát trượt ngã trên cầu thang và bị thương ở lưng xảy ra thường xuyên hơn công chúng biết đến nhiều. Đối với ai thì việc đó cũng là đáng xấu hổ. Nếu bạn bị thương khi đang làm nhiệm vụ, ít nhất bạn cũng nên có một câu chuyện hay để mà kể lại.

Ở chân cầu thang, D.D. nhận ra một tầng hầm trông giống y hệt như mọi tầng hầm khác. Nền đá. Sàn láng xi măng nứt nẻ. Một chiếc máy giặt và máy sấy màu ngà đặt trước mặt họ, bàn uống cà phê cũ kĩ kê giỏ nhựa để quần áo và xà phòng giặt thì đặt ở phía trước hai cái máy. Rồi tới bộ sưu tập ghế hỏng, thùng các tông dọn nhà và những đồ trẻ con bị bỏ đi mà đâu đâu cũng có. Ngay bên cạnh cầu thang là một bộ giá nhựa có vẻ như để chứa những bát đĩa thừa không để được trong bếp. D.D. để ý thấy những hộp ngũ cốc, mì Ý và pho mát, bánh, mì Ý khô, hộp xúp, những rác rưởi từ nhà bếp.

Căn hầm bụi bặm, nhưng không lộn xộn. Các thứ được xếp gọn cạnh tường, sàn phòng ở giữa được giữ sạch để giặt giũ, có lẽ còn để dùng như bãi tập xe trong nhà, nếu nhìn vào chiếc xe ba bánh đang để cạnh cửa sập cầu thang.

D.D. đi tới chỗ cửa sập, quan sát bộ sưu tập mạng nhện ở góc bên tay phải, lớp bụi dày phủ lên nắm đấm cửa màu đen. Rõ ràng cánh cửa này chưa được mở ra đã lâu, và giờ khi cô đã ở dưới này, cô thay đổi ý kiến. Nếu giết ai đó ở trong tầng hầm, liệu người ta có thực sự đi suốt cả quãng đường lên trên gác ? Tại sao không đặt thi thể xuống bên dưới chồng hộp cắc tông, hay tóm lấy một tấm ga cũ và bọc nó lại đưa qua cửa sập vào lúc đêm tối ?

Cô mò mẫm qua một đống bộ phận cũi, ghế đẩy, và ghế nhún bỏ đi. Chuyển sang chồng hộp cạnh tường, những đồ kê ngoài vườn đã cũ.

Đằng sau cô, Nick và Marge đang nghiên cứu sàn nhà bằng đèn pin trong khi Miller vẫn đứng ở một bên, tay đút trong túi quần. Đã từng đi qua tầng hầm một lần, anh ta chỉ chờ cho cả nhóm đi tới cùng một kết luận mà anh ta đã rút ra từ nhiều giờ trước đó.

Sau một vài phút, D.D. đã đi tới kết luận ấy. Căn hầm nhắc cô nhớ tới nhà bếp, không quá bẩn, không quá sạch. Chỉ vừa đúng đối với một gia đình ba người.

Chỉ để cầu may, cô kiểm tra máy giặt và máy sấy. Rồi tim cô nẩy lên đến cổ họng.

“Ôi trời,” cô nói, nắp máy giặt vẫn mở, một chiếc chăn ghép vải màu xanh dương và xanh lục hiện ra lù lù trước mắt cô.

Miller vội tới đó, các kĩ thuật viên nối gót anh ta. “Đó có phải … ? Chắc cô đùa tôi. Khi nào tôi gặp được hai thằng ngốc đã kiểm tra chỗ này đầu tiên, tôi … ”

“Này, chẳng phải đó là cái chăn à ?” Nick nói, có vẻ hơi ngốc nghếch.

Marge đã chồm tới, kéo cái chăn từ chiếc máy giặt cửa trên ra trong khi cẩn thận không để nó chạm xuống sàn.

“Anh ta đã giặt nó à ?” D.D. nói suy nghĩ thành lời. “Người chồng đã giặt cái chăn, nhưng không có thời gian để sấy khô trước khi gọi cho cảnh sát ? Hay người vợ từ đầu đã cho nó vào trong máy giặt và chúng ta đã mải chạy theo chính cái đuôi mình trong vài giờ qua ?”

Marge cẩn thận trải rộng cái chăn ra, đưa cho Nick một đầu trong khi cầm đầu còn lại. Cái chăn có những nếp nhăn lớn của một vật sũng nước bị để trong máy giặt khá lâu. Nó có mùi xà phòng - sạch sẽ, tươi mới. Họ giũ một lần, và một cuộn vải màu tía rớt xuống sàn nhà.

D.D. vẫn đang mang găng tay cao su, vì thế cô được vinh dự cầm nó lên. “Tôi cho đây là áo ngủ của Sandra Jones,” cô nói, gỡ cái áo thun màu tím ướt sũng có một cô gái đội vương miện ở trước ngực ra.

Họ nghiên cứu cả hai thứ một lúc, tìm những vệt màu hồng đã nhạt màu, giống như kiểu vệt máu còn sót lại, hoặc những chỗ rách ám chỉ một cuộc vật lộn. Dấu hiệu của cái gì đó.

D.D. lại có cảm giác khó chịu đó một lần nữa. Như thể cô đang nhìn thấy cái gì rất hiển nhiên nhưng lại không hoàn toàn hiểu được.

Ai lại tốn thời gian giặt một cái chăn và áo ngủ, nhưng bỏ lại chiếc đèn vỡ khơi khơi như thế ? Loại phụ nữ nào biến mất, nhưng bỏ lại con gái, ví tiền và xe ô tô của cô ta ?

Và loại chồng nào về đến nhà phát hiện ra vợ mình biến mất nhưng lại chờ tới ba tiếng đồng hồ sau mới gọi cảnh sát ?

“Gác mái, hầm thấp thì sao ?” D.D. lớn tiếng hỏi Miller. Nick và Margie đang gập chiếc chăn để mang về phòng thí nghiệm. Nếu đối tượng đã không dùng đến chất tẩy trắng thì chiếc chăn có thể vẫn còn lưu lại bằng chứng nào đó. Họ lấy cái áo ngủ tím từ chỗ D.D., đặt nó vào chiếc túi thứ hai để mang đi khám nghiệm.

“Không có hầm thấp. Gác mái nhỏ và gần đầy chật đồ trang trí Giáng Sinh,” Miller báo cáo.

“Tủ quần áo, tủ lạnh, tủ làm đá, nhà phụ, lò nướng thịt thì sao ?”

“Không, không, không, không và không.”

“Tất nhiên, còn cả cái vịnh lớn màu xanh kia nữa.”

“Phải.”

D.D. thở dài nặng nề. Cố một giả thuyết cuối cùng. “Chiếc xe của anh chồng ?”

“Loại xe bán tải. Anh ta đã đi cùng với chúng tôi ra ngoài để nhìn vào phần sau xe. Tuy nhiên, anh ta từ chối mở cửa khoang trước.”

“Tên khốn cẩn trọng.”

“Lạnh lùng,” Miller sửa lại. “Đến giờ cô vợ đã mất tích hàng giờ rồi mà anh ta thậm chí còn chưa hề nhấc điện thoại lên để gọi cho bất kì một người thân hay bạn bè nào.”

Việc đó đã quyết định vấn đề thay cho cô. “Được rồi,” D.D' nói. “Đi gặp Ông Jones nào.”

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện