Chương 13

Ma-rơ-lo - Tu viện Bi-sen - Mon-mo-ran-xi mưu sát con mèo - Đối thủ khó chơi - Con chó Phốc hiền lành - Đoàn diễu hành trang trọng - Kẻ phá hoại cảnh quan – Không sài được nước sông Thêm – Hari biến mất cùng chiếc bánh put-đinh.

Sáng sớm hôm thứ hai, ở Ma-rơ-lo chúng tôi dậy sớm đi tắm sông cho đến giờ ăn sáng. Trên đường về con Mon-mo-ran-xi đã có một vụ nhấm cái bè- bé cái nhầm rất mất uy tín. Có một chỗ khác biệt căn bản giữa tôi và con cún này, là ở chỗ thái độ đối xử với loài mèo của tôi và nó hoàn toàn không giống nhau. Tôi cưng lũ mèo còn Mon-mo-ran-xi thì ghét bọn mãn như đào đất đổ đi.

Hễ thấy một con mèo là tôi ngồi xổm xuống vuốt đầu vuốt cổ cu cậu, dỗ dành “chú miu tội nghiệp”. Cậu miu cũng rất cảm thán, cong lưng lên như bướu lạc đà, đuôi dựng như cần câu (lúc đó đuôi loài mèo bỗng dưng cứng như sắt nguội!) cọ cái mũi ướt vào quần tôi, cảnh tượng thật hòa bình, thân hữu. Còn Mon-mo-ran-xi mà thoáng thấy một con ngoeo ngoeo thì cả làng cả phố biết ngay.

Tôi không lên án bọn chó trong chuyện này (chính xác hơn thi thoảng cũng can thiệp bằng một cú đạp hoặc tương cho mấy hòn đá), vì tôi cho đó là bản tính tự nhiên của đám gâu gâu. Loài chó phốc mới thực là lũ cẩu trệ, chả biết bao nhiêu trăm năm nữa các ông chủ bà chủ mới có thể thuần hóa đuợc ít nhiều cho nòi chó này.

Một lần tôi đã chứng kiến hành vi của chúng ở tiền sảnh của một cửa hàng bách hóa tổng hợp. Nơi đây có bao nhiêu là chó lớn chó con đứng chờ chủ nhân của chúng đang mua hàng. Đủ mọi nòi giống: lài, ngao, pun-đen, bun-đo, bông, khoang trắng, đen, vằn, vện… Chúng đứng ngồi một cách kiên nhẫn, trầm ngâm, trông ra vẻ có giáo dục ra phết. Khu tiền sảnh rất thanh bình và yên tĩnh, thậm chí hơi buồn tẻ.

Một thiếu phụ rất xinh đẹp bước vào, tay cầm xích dắt theo một con chó phốc. Chị ta để nó lại giữa hai con pun-đen và bun-đo. Chú cún nhỏ ngồi xuống nhìn quanh quẩn vài phút, rồi ngửa cổ nhìn trần sảnh, cặp mắt rất là xa vắng như đang nhớ tí mẹ. Sau đó ngáp một cái, quay đầu nhìn một lượt các bác chó khổng lồ - những ông cả bà lớn đang đứng xung quanh.

Nó nhìn con bun-đo đang lơ mơ ngủ ở bên phải, nhìn con pun-đen ngồi im như phỗng ở bên trái rồi chẳng hề có một động thái báo truớc tợp luôn vào chân con pun-đen gây nên một tiếng rít vang động cả khu tiền sảnh.

Thấy trò đầu tiên gây được hiệu quả đáng kể, nó nhảy qua con pun-đen tợp một phát vào bác lài rồi lủi ngay về vị trí cũ, quay sang đớp tai con bun-đo. Thế là cả bọn chó nổi cơn điên, bất cần biết thiện, ác, nhân, quả ra sao cứ con nào gần mình là tợp, đớp, nhay, dứt gây nên một truờng ác chiến náo loạn cả cửa hàng Bách hóa tổng hợp. Người ta tốn bao nhiêu gậy gộc, dây thừng để dẹp bạo loạn, thậm chí có người còn chạy vội đi tìm lính cứu hỏa để cầu viện xe vòi rồng…

Trong cảnh lông lá máu me bê bết khắp tiền sảnh, bà chủ trẻ chạy vội chạy vàng ra ôm con chó tí tẹo, quí hóa ghì vào ngực để xem nó có bị vết thương nào không, con cún con ngoan ngoãn nép vào bà chủ như muốn nói:” Ôi, nếu bà không ra thì chúng xé con thành món nộm rồi.”

Đấy là tư cách bẩm sinh của loài chó phốc nên tôi không luận tội con Mon-mo-ran-xi về việc nó gây sự với lũ mèo, hơn nữa buổi sáng nay cu cậu cũng được một bài học nhớ đời.

Như tôi đã kể ở trên, chúng tôi đi tắm về, được nửa đường thì thì một con mèo từ cổng nhà nào đó nhảy ra và định vượt qua đường phố. Mon-mo-ran-xi sủa một tiếng đắc thắng - đó là tiếng sủa của loài sói khi thấy con mồi, là tiếng hô “sát” của người chỉ huy quân kị đang mai phục chợt thấy bộ binh địch lọt vào trận địa - rồi hùng hổ đuổi theo.

Vật hiến tế cho Mon-mo-ran-xi là một con mèo đực đen như thổ phỉ. Tôi chưa trông thấy con mèo nào to như ông miu này, hơn nữa trông rất ra vẻ đạo tặc. Lão miu này thiếu một bên tai, một mẩu đuôi, mũi vẹo, trông rất nhơn nhơn lâng láo.

Mon-mo-ran-xi đuổi theo con mồi với tốc độ bốn mươi cây số giờ nhưng con mèo vẫn chạy thong thả, không hề biết rằng tính mạng đang bị đe dọa. Cuộc đua theo hai tốc độ như vậy diễn ra cho đến khi khoảng cách giữa Mon-mo-ran-xi và nó chỉ còn khoảng vài ba mét. Con mèo chợt quay lại, ngồi một cách từ tốn xuống giữa đường, liếc Mon-mo-ran-xi như muốn hỏi: “Thế nào, có công chuyện chi dậy?

Mon-mo-ran-xi không phải là một con gâu nhát gan, nhưng trong cái nhìn của ông mèo thánh vật này, có cái gì làm rủn gối ngay đến cụ bẹc-giê nòi Đức bự nhất. Vậy nên thành viên thứ tư trong nhóm chúng tôi đứng chết cứng tại chỗ, chỉ nhìn chăm chăm vào đối thủ.

Hai con đều im lặng nhưng rõ ràng chúng đang có cuộc hội thoại sau:

Mèo: Anh bạn thân, tôi có thể hầu hạ anh việc gì?

Mon-mo-ran-xi: Không, không có gì đâu, rất cám ơn anh!

Mèo: Nếu có việc gì, xin đừng ngại, cứ trỡnh bày đi.

Mon-mo-ran-xi (lùi lại): À, không, anh nói sao cơ. Không có gì đâu ạ. Xin đừng bận tâm… Tôi… tôi nhầm… nghĩ là người quen. Xin lỗi, đã làm phiền anh.

Mèo: Thế ư. Tôi rất phấn khởi. Quả thực không có việc gì chứ?

Mon-mo-ran-xi (tiếp tục lùi): Không, không, cám ơn, không có gì đâu ạ, anh thật quí hóa. Tạm biệt!

Mèo: Bái bai nhá!

Sau đấy mèo đứng lên tiếp tục đi đường của mình còn Mon-mo-ran-xi thảm hại cúp cái gọi là đuôi, lùi về chỗ bọn tôi thui thủi đi đoạn hậu.

Từ lần ấy về sau mỗi khi tôi suỵt “Miu kìa!” là cậu chàng lại cụp mặt ra vẻ hối lỗi như muốn nói “kệ bọn chúng!”

Sau khi ăn sáng chúng tôi ra chợ mua binh lương dự trữ cho ba ngày hành trình. Jord nói cần sực nhiều rau, thiếu rau sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Hắn nói thêm rằng rau rất dễ xào xáo và hắn sẽ phụ trách khâu này, vậy nên chúng tôi mua năm cân khoai tây, hai chục lít đậu và mấy cây cải bắp. Ba tên mua ở quầy tổng hợp bỏnh put-đinh nhân thịt, hai chiếc bánh ngọt phúc bồn tử, đùi cừu, hoa quả, bánh mì, mứt, bánh qui, trứng và đủ thứ cần dùng ở khắp các phố chợ.

Cuộc mã hồi về thuyền của chúng tôi trang trọng như của một đoàn quân chiến thắng. Rất ấn tượng, khá vênh vang có điều không lộng lẫy cờ hoa mà thôi. Tại mỗi quầy hàng bọn tôi yêu cầu cử người mang hàng đi theo chúng tôi ngay tắp lự. Không chơi cái kiểu “Vâng, thưa ngài, chúng sẽ mang tới chỗ ngài trong vài phút nữa, thằng bé sẽ mang hàng về chỗ các ngài truớc khi ngài về đến nơi…” để rồi đứng mỏi mắt đợi chúng, có khi phải vài lần quay lại cửa hàng để cãi vã với mụ hàng thịt!

Không, bọn này tự hào là đã có đủ kinh nghiệm chợ búa rồi, cứ mang đi theo ngay cho gọn chuyện.

Chúng tôi qua khá nhiều quầy, mua đủ thứ theo nguyên tắc đã nêu trên nên đoàn diễu hành càng lúc càng dài thêm, quân vận tải binh lương đi giữa đường phố chính kéo nhau ra bờ sông, tạo thành một sự kiện đáng ghi nhớ đến mấy năm sau cho cư dân thị trấn Ma-rơ-lo.

Trật tự của đoàn diễu hành như sau:

Mon-mo-ran-xi ngậm cây gậy ngang mõm

Hai con cẩu tạp chủng, rất có dáng trộm cắp, bạn mới quen của Mon-mo-ran-xi

Jord, tẩu trong mồm, vác toàn bộ áo bành-tô và khăn choàng của cả hội

Hari, một tay xách chiếc va li căng đầy, tay kia là chai nước chanh ép, tuy thế vẫn cố giữ vẻ bệ vệ và tao nhã.

Thằng cu con nhà hàng thịt và thằng nhỏ nhà hàng rau, xách lẵng.

Người mang hàng của khách sạn, vác một bó to khó phân loại.

Đứa bé cửa hàng bánh kẹo, xách làn.

Người của cửa hàng thực phẩm, một bị tổ bố

Một con chó xù.

Ông lỏi nhâng nháo nhà hàng sữa, túi xách.

Một phu khuân vác, xắc da của người khổng lồ.

Chiến hữu của phu khuân vác, tay đút túi quần, mồm ngậm tẩu.

Thằng nhỏ nhà hàng hoa quả, mang ruơng.

Chính là tôi, một anh chàng vô tư, tự do, ra vẻ tay phải mang ba chiếc mũ và hai đôi giày là chuyện vặt.

Sáu thằng nhóc bụi đời và bốn con chó hoang.,.

Khi chúng tôi đến bến, một người hỏi :

- Xin vui lòng cho biết các ngài định thuê ca nô hay xà lan?

Khi nghe chúng tôi nói đã có một chiếc thuyền gỗ bốn mái chèo, người này há hốc mồm kinh ngạc.

Vô thiên lủng những con quái vật chạy bằng máy hơi nước đã làm chúng tôi khốn khổ vào sáng hôm đó. Chúng kéo bày kéo lũ trên sông đi về hướng Hen-li , nơi sẽ có cuộc đua thuyền vào ngày mai. Một số lục bục độc hành, số khác kéo lẵng nhẵng xà lan. Những người yêu môn chèo thuyền truyền thống trên sông như bọn tôi ghét cay ghét đắng lũ ca nô của thời cách tân này, hễ nhìn thấy một chiếc loại đó, là tôi nẩy sinh ý muốn dụ vào một nơi vắng vẻ yên tĩnh nào đó để làm cho nó chìm xuống đáy sông mãi mãi.

Thói kênh kiệu của bọn chủ tàu, xuồng máy này kích động rất mạnh vào những bản năng không lấy gì làm hay ho của bọn tôi. Chúng đứng ở đằng mũi con tàu, tay đút túi quần, mồm phì phèo ngậm tẩu, trông thấy thuyền của ai là tuyên chiến :”Tránh ra! Tránh chỗ khác mau!”. Chúng xả dầu ra sông, phụt khói vào những hàng liễu ven bờ, làm hỏng tất cả những gì yêu quí của dòng sông Thêm.

Vậy nên bọn người-sắt ấy đã phải rú rít đến vỡ còi tàu và rách cổ họng của bọn chủ tầu khi gặp thuyền của bọn tôi. Các ngài cứ cho là tôi nói khoác đi cũng chẳng sao, nhưng buổi sáng hôm nay riêng chiếc thuyền của bốn mạng này đủ làm cho bọn chúng phải trả giá cho sự bạo ngược mà bọn chúng đã đối xử với những con thuyền truyền thống của khách du trên sông trong cả tuần qua.

- Ca nô đấy - Ai đó trong bọn phát hiện khi một chiếc mới lấp ló từ rất xa, tất cả lập tức chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tôi buộc dây vào cần lái để điều khiển từ xa, cả nhóm túm tụm lại ở giữa thuyền, xoay lưng lại phía chúng, mặc cho con thuyền trôi theo dòng chính.

Chiếc ca nô lách hướng nào là chúng tôi nhẹ nhàng chặn theo hướng đó, khi còn cách khoảng ba bốn chục mét nó rú còi như điên, khách trên tầu túa ra hai bên mạn la ó nhưng tất nhiên là bọn tôi không nghe thấy. Hari đang kể một câu chuyện rất mùi mẫn và cả thuyền đang dỏng tai lên nghe!

Cuối cùng thì con tầu ré lên một tiềng còi tưỏng muốn vỡ nồi hơi rồi chuyển sang chạy lùi, hơi nước tỏa ra cuồn cuộn, nó cố xoay xở nhưng vẫn chúi một đầu lên bãi cạn. Dân trên tầu đổ xô ra đằng mũi, họ chửi chúng tôi bằng mọi thứ từ ngữ hiếm khi dùng của mọi thứ tiếng, dân trên cạn cũng nhốn nháo kéo ra bờ sông, khen chê đủ kiểu trong khi đó các thuyền tầu khác đều dừng lại làm nghẽn cả khúc sông.

Mãi đến lúc đó Hari mới dừng câu chuyện ở đoạn gay cấn nhất, hắn ngẩng đầu lên ngơ ngác hỏi: ”Có ca nô đấy à? Trời đất ơi!”. Jord cũng hốt hoảng: ”Đúng vậy, thẩn nào tớ hình như có nghe thấy tiếng còi!”

Cả ba tên bắt đầu cuống quít xoay xở, tên này chèo phải, tên kia gạt trái làm con thuyền quay như chong chóng. Hành khách trên ca nô đua nhau đưa ra chỉ dẫn:

- Chèo mạnh bên phải vào!. Tao bảo mày cơ mà, thằng ngốc!.. Gạt trái đi! Không phải mày, thằng kia cơ mà!...Để nguyên tay lái đấy, không nghe thấy à, thằng điếc kia!...Cả hai cùng chèo đồng loạt vào!.. Không phải thế, ngu ạ! Sao mà bọn chúng bay không...

Sau đấy tay chủ tầu cho thả xuồng nhỏ đến giúp chúng tôi, sau mười lăm phút nữa bọn chúng mới dẹp được con thuyền của hội này sang một bên. Tôi và hai tên đồng bọn không hề tiếc lời cám ơn, còn đề nghị chúng cho buộc nhờ dây vào ca nô để chạy cọp đến Hen-li nhưng đời nào bọn chúng đồng ý!

Đến gần âu thuyền Hem-bơ-đơn chúng tôi thấy đã cạn nước ngọt liền xách bình lên xin nước của người gác âu thuyền. Jord cười rất tươi khi hỏi ông ta:

- Ông có thể rộng lòng cho chúng tôi xin ít nước được không ạ?

- Xin cứ tự nhiên - ông già đáp - Ngài cứ lấy bao nhiêu tùy thích. Ở đây có đủ nước cho tất cả mọi người và thuyền bè qua lại.

- Rất cám ơn ông - Jord vừa nói vừa nhìn quanh - Nhưng ông để… để nước ở đâu ạ?

- Luôn luôn chỉ có một chỗ thôi mà - ông già đáp tỉnh bơ - sau lưng ngài ấy.

- Tôi không thấy đâu cả - Jord quay đầu như con sâu đông-tây-nam-bắc.

- Trời ơi, mắt ngài để đâu - Ông già phát bực, xoay người Jord rồi chỉ xuống sông - có ít ỏi gì đâu mà ngài không thấy nhỉ ?!

- Ồ - đến lúc này Jord ta mới hiểu ra vấn đề - Nhưng chúng tôi không xài được nước sông!

- Quí ngài ạ, uống dăm ngụm cũng chẳng sao đâu - ông già góp ý - tôi vẫn uống nước đó hơn mười lăm năm nay rồi.

Jord phản biện rằng bụng hắn không chịu được nước sông và hắn ưng nước giếng hơn.

Chúng tôi lấy được một ít nước ở một dã thự xa hơn chỗ đó một chút. Tôi cho rằng nếu hỏi cho cặn kẽ có thể nước đó cũng múc ở sông về mà thôi, tuy nhiên chúng tôi không hỏi và mọi sự ổn cả. Mắt không hay dạ dày cóc sợ!

Cũng trong mùa hè năm đó nhưng mãi về sau chúng tôi cũng có một lần phải thử dùng nước sông nhưng không được khoái khẩu cho lắm. Chúng tôi vừa chèo một thôi một hồi tới thị trấn Vindorơ, đang khoái uống trà thì phát hiện thấy vại nuớc đã cạn khô.

Chỉ có hai cách để lựa chọn: nhịn trà hoặc là sơi tạm nước sông. Hari bàn cứ uống liều đi, chỉ cần đun sôi là được, theo hắn khi đã đun sôi thì bọn vi trùng từ to như con lôi long còi, đến bé như kiến gió cũng sẽ nghoẻo hết, vậy nên chúng tôi múc nước sông và đun cho thật sôi để pha trà.

Ba đại nhân ngồi chĩnh chện, ấm chén đàng hoàng, nhưng khi Jord đưa chén trà lên chạm môi thì dừng lại đột ngột, thốt ra:

- Cái gì thế nhỉ?

- Cái gì làm sao? - Cả tôi và Hari cùng hỏi lại.

- Kia kìa! - Jord phát hiện ra nguyên nhân, hắn chí về hướng tây.

Trên mặt nước lờ đờ của khu vũng sông có một đồng loại của Mon-mo-ran-xi đang bơi. Về mặt khối tích thì bốn con Mon-mo-ran-xi chập lại cũng chưa nước non gì với chàng cẩu này, có điều cậu chàng đã giã từ thế gian này mấy ngày rồi thì phải, cho nên chân chỏng lên trời, vẫn đang từ từ tiếp cận con thuyền của chúng tôi.

Jord đổ mọi thứ trong ấm chè xuống sông, Hari cũng hắt vội cốc trà định uống, còn tôi thì đã tợp đuợc vài ngụm vào bụng và rất băn khoăn về chuyện đó. Tôi hỏi Jord liệu có bị mắc bệnh thương hàn hay không, hắn an ủi rằng không sao đâu, cứ yên chí lớn đi, nếu sau hai tuần mà không phải vào bệnh viện thì còn sống dai dẳng đến thế kỉ sau mới nghoẻo được!

Chúng tôi theo kênh đào để qua âu thuyền, được nửa đường thì cập bờ ăn nhẹ. Tất cả lên một bãi cỏ, cách sông khoảng ba chục mét để chuẩn bị ăn sáng. Hari đặt chiếc bánh put-đinh nhân thịt lên đầu gối để chuẩn bị chia, còn tôi và Jord nhăm nhăm thìa đĩa để nhận phần.

- Lấy gì để san nước sốt đây? - Hari nói - Cái muỗng đâu nhỉ?

Chiếc rương ở sau lưng chúng tôi, tôi và Jord quay ngoắt lại để lục tìm, chỉ mất khoảng vài ba giây nhưng khi quay lại thì Hari dã mất tăm mất tích.

Ba tên đang ngồi trên đồng trống, cách vài chục mét xung quanh không có cây cối bụi rậm gì, Hari cũng không thể xuống sông vì muốn thế hắn ắt phải nhẩy qua chúng tôi. Tôi và Jord ngồi đờ người, há hốc mồm vì kinh ngạc.

- Chẳng lẽ vị thánh nào đã đưa sống hắn lên trời rồi ư?! - Tôi đặt giả thiết.

- Nhưng sao lại đem luôn cả chiếc bánh put-đinh đi cùng?! - Jord không tin.

Vậy thì không đúng rồi, tay Jord nói có lý, tôi cũng nghĩ như vậy.

- Hay là vừa có động đất? - Jord đảo ngược hướng chuyển động có thể có của Hari. Sau đó hắn nói thêm, giọng tiếc rẻ :

- Lại đúng vào lúc hắn đang chia bánh!

Hai tên quay ra tìm dấu vết chứng minh cho giả thiết của mình tại chỗ Hari vừa ngồi bỗng chúng tôi giật nẩy người, máu đông lại trong huyết quản, tóc tai dựng đứng: bỗng nhiên chúng tôi thấy cái đầu Hari - chỉ mỗi cái đầu - ngọ ngoạy dưới đám cỏ.

Jord tỉnh hồn đầu tiên:

- Trả lời chúng tao xem nào - Jord gào to - mày còn sống hay đã chết, thân của mày đâu rồi?

- Đừng sủa bậy thêm nữa - cái đầu Hari đáp lời - tao biết bọn bay rồi, tất cả là do bọn bay bố trí.

- Bố trí cái gì? - Cả tôi và Jord cùng kinh ngạc.

- Chúng mày đẩy tao xuống cái hố này, thế đấy - Kết quả trò xuẩn của bọn bay đây. Giữ lấy cái bánh.

Từ dưới đất - chính xác hơn là từ dưới đám cỏ rậm ló ra chiếc bánh put-đinh méo mó bẩn thỉu, sau đó là bản thân tên phệ Hari lập cập leo lên - bẩn như ma lem, ướt như chuột lột, đầu bù tóc rối.

Té ra chúng tôi ngồi ngay sát mép một con mương nhỏ bị cỏ mọc dày che khuất, nên khi tên Hari bị con kiến càng xỏ lá cắn vào chỗ nhạy cảm, hắn chỉ hơi lui lại một chút là thụt luôn xuống mương cùng chiếc bánh đang chia.

Tên phệ nói là sự việc xảy ra đột ngột đến nỗi hắn không hiểu đã xảy ra chuyện gì, mình bị rơi đi đâu. Đầu tiên hắn nghĩ là ngày tận thế mà kinh thánh đã nói bắt đầu xảy ra.

Nhưng hắn vẫn nghĩ rằng chúng tôi đã biết việc có con mương và cố ý để hắn ngồi về phía đó. Than ôi, đến tượng đá còn bị nghi oan ăn vụng bánh đúc nữa là hai thằng tôi người trần mắt thịt!

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện