1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Bá Tước Dracula - Tác giả: Bram Stoker - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Gackt2, 23/3/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 19
    Nhật ký của Jonathan Harker



    Ngày 1 tháng 10, 5 giờ sáng
    Tôi cùng mọi người đến nhà Carfax trong một tâm trạng thật thoải mái, bởi chưa bao giờ tôi thấy Mina khỏe khoắn và tự tin đến thế. Nếu như để cô ấy trực tiếp tham gia vào công việc của chúng tôi thì thế nào cô cũng khó tránh được những cơn ác mộng, nhưng may quá bây giờ cô ấy đã chịu để chúng tôi hành động một mình, nên tôi cũng phần nào yên tâm. Vả lại, tôi còn hy vọng cô ấy đang nghĩ mình đã làm cái điều cần phải làm rồi: tất cả các chi tiết nhỏ nhặt nhất đã được tập hợp lại, nếu như có ích cho chúng tôi thì chẳng phải là nhờ công sức và sự thông minh của cô đó là gì?
    Tôi tin rằng tất cả chúng tôi đều bị ám ảnh sau cuộc viếng thăm Renfield. Từ lúc ra khỏi phòng hắn, chúng tôi chẳng ai nói với ai một lời. Chỉ tới khi trở về phòng làm việc của Seward, tôi mới thấy Moriss lên tiếng :
    - John này, nếu như Renfield không phải là kẻ lừa bịp, thì đây quả là một thằng điên có lý trí nhất mà tôi từng thấy từ trước tới nay! Tôi không dám phán lung tung, nhưng hình như trong đầu hắn đang nung nấu một điều gì đó thật sự nghiêm túc thì phải, bởi vậy, ông nên để mắt tới hắn!
    Tôi và huân tước Godalming không thấy có gì đáng chú ý, nhưng bác sĩ Van Helsing lại khác, ông nói :
    - Anh bạn John ạ, tôi thật vui mừng khi thấy anh là người đã hiểu mọi giai đoạn phát bệnh của các bệnh nhân tâm thần hơn tôi, bởi nếu là người phải ra quyết định, có lẽ tôi đã cho thả Renfield ngay trước khi hắn rơi vào tình trạng quá khích như vậy. Nhưng cho tới lúc này, càng ngày chúng ta càng hiểu rõ những gì liên quan đến mình, vì vậy, như anh bạn Quincey đã nói, chúng ta không thể làm bừa một điều gì khi công việc chúng ta đang đảm đương là một nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm. Mọi sự đều diễn ra tuần tự theo chiều hướng vốn phải có của chúng.
    Dường như bác sĩ Seward định trả lời cả hai người cùng lúc thì phải :
    - Đúng là như vậy. Nếu hắn giống như nhiều bệnh nhân khác, tôi sẽ chẳng ngại gì mà không cho hắn thấy rằng tôi rất tin tưởng ở hắn. Nhưng đằng này, cách xử sự của hắn lại có vẻ tùy thuộc rất nhiều vào chuyện đi lại của lão bá tước. Nếu để hắn đi mà không chú ý tới tính khí thất thường của hắn, tôi sẽ phạm phải một sai lầm không thể tha thứ được. Có lần, đứng trước mặt tôi, hắn đã luôn mồm lải nhải gọi lão bá tước là “Đức ông” và “ông chủ” của hắn. Tôi nghi có thể hắn đang chuẩn bị giúp Dracula thực hiện một sứ mệnh ma quỷ nào đó Con quỷ này có khả năng sai khiến chó sói và lũ chuột bẩn thỉu, đó là chưa nói đến các thực thể giống y như lão: vậy thì làm sao hắn không nghĩ tới việc bắt một thằng điên phải phục tùng mình kia chứ? Đúng, có vẻ như Renfield đã nói năng rất nghiêm túc, tôi nhận ra điều đó mặc dù cũng biết rất rõ về căn bệnh của hắn. Tôi hy vọng chúng ta làm đứng những gì cần phải làm. Nhưng đlều này lại xảy ra đúng. Vào lúc chúng ta đang tiến hành các cuộc tìm kiếm tang tóc, nên tôi sợ sẽ làm nhụt ý trí của một người.
    Giáo sư mỉm cười bước tới vỗ vai Seward và trấn an :
    - Anh bạn thân mến ạ, đừng lo ngại gì cả! Đúng là chúng ta đang nỗ lực đảm đương một sứ mệnh thực sự khủng khiếp, và chúng ta chỉ có thể hành động bằng một lý trí mà chúng ta thấy là đúng đắn nhất, nhưng thiết tưởng cũng nên hy vọng ở lòng nhân từ của Chúa chứ!
    Không hiểu ít phút trước, Huân tước Godalming bước ra ngoài làm gì, chỉ thấy khi quay trở lại, anh đang tung hứng một chiếc còi bạc trên tay.
    - Có thể ngôi nhà ấy sẽ đầy nhung nhúc chuột. – Anh giơ chiếc còi ra trước mặt chúng tôi và giải thích. - Tôi có cái này để đuổi lũ vật bẩn thỉu ấy ra chỗ khác.
    Chúng tôi lặng lẽ đi về phía ngôi nhà bị bỏ hoang, nép dưới các tán lá cây để tránh nguy cơ bị lộ vì ánh trăng có thể bất ngờ ló rạng sau các đám mây bất cứ lúc nào. Tới trước cửa ngôi nhà, Van Helsing mở túi xách lấy ra hàng tá những đồ vật nhỏ và đặt xuống ngưỡng cửa thành bốn đụn nhỏ - rõ ràng là mỗi đụn ấy được sẽ được chia cho một người trong chúng tôi.
    - Các bạn ạ, - Ông giải thích - chúng ta đang phải đương đầu với một thách thức cực kỳ nguy hiểm, bởi vậy, cần phải có đủ loại vũ khí. Mối đe dọa từ kẻ thù không chỉ là khả năng ra lệnh cho các linh hồn. Nên nhớ rằng chỉ một mình lão cũng thừa sức để địch lại cả hai chục người gộp lại. Với quyền năng đầy mình của lão, việc chúng ta đánh lão bị thương còn khó chứ chưa nói gì đến chuyện... Vả lại, nếu bị thương, lão còn nổi điên, khiến chúng ta khốn nạn hơn gấp vạn lần ấy chứ. Bởi vậy, cẩn thận một chút vẫn hơn. Anh đeo cái này lên ngực đi - ông đưa cho tôi một cây thánh giá nhỏ, bởi tôi là người đứng gần ông nhất - và cả tràng hoa này nữa – ông đưa tiếp cho tôi một tràng hoa tỏi khô để quàng lên cổ. Cầm luôn lấy khẩu súng ngắn và con dao, chúng ta vẫn chưa biết còn có kẻ thù nào khác nữa. Mỗi người cầm lấy một cái đèn cất vào áo vét, và hãy nhớ lấy điều này: tất cả chúng ta, không ai được phép lọ mọ đi lung tung trong nhà đấy, nhớ chưa?
    Ông cầm một chiếc bánh thánh bỏ vào một bì giấy nhỏ rồi đưa cho tôi.
    Những người còn lại cũng nhận được số “vũ khí” tương tự như của tôi :
    - Mà này, John, mấy cái móc khóa đầu rồi nhỉ? – Giáo sư hỏi bác sĩ Seward.
    - Nếu mở được cửa lớn, chúng ta sẽ không phải trèo qua cửa sổ như lũ trộm. Hôm ở nhà Lucy, chúng ta cũng đã làm như vậy mà.
    Loay hoay một lúc Seward mới chọn được một chiếc móc vừa với ổ khóa ngôi nhà. Đối với anh, chỉ cần thế là đủ để mở khóa cửa. Cánh cửa nặng nề nghiến ken két khi bị đẩy vào. Tiếng kêu ấy làm tôi nhớ ngay đến hình ảnh bác sĩ Seward cùng mấy người vào nhà mồ của gia đình Westenra mà anh đã kể lại trong nhật ký. Hình như những người còn lại cũng đang có liên tưởng như tôi, bởi họ bỗng cùng lúc đứng sững cả lại Giáo sư Van Helsing là người quyết định bước vào trước.
    - In manus tuas, Domine! - Ông lẩm bẩm niệm điều gì đó khi bước qua ngưỡng cửa.
    Chúng tôi thận trọng khép cửa lại. Lúc này, mỗi người chỉ còn chú ý đến ánh đèn rọi từ tay mình. Giáo sư cẩn thận kiểm tra lại chất cửa đề phòng trường hợp chúng tôi phải khẩn cấp chạy tháo lui. Cuộc điều tra ngôi nhà bỏ hoang bắt đầu.
    Trong vệt sáng vàng ệch từ cây đèn pin nhỏ, tôi thấy đồ vật nào ở đây cũng mang một hình thù quái dị. Đã thế, ánh đèn của người này thỉnh thoảng lại dọi loáng qua người khác, khiến cho cái bóng của chính chúng tôi cũng trở nên rất đáng sợ. Tôi không thể xua đuổi được cái cảm giác chúng tôi không phải là những người duy nhất có mặt trong ngôi nhà tối tăm này. Có lẽ hồi ức kinh hoàng ở Transylvanie đã bất thần trở lại với tôi giữa đêm đen lạnh lẽo nơi đây. Tuy nhiên, tôi tin rằng không riêng gì tôi, mà tất cả những người bạn kia cũng có chung một cảm giác lo ngại như tôi, bởi cứ mỗi lần nghe thấy một tiếng động nhỏ, hoặc bất giác ngờ ngợ thấy một cái bóng đổ dài lên tường, là ai nấy đều giật mình ngoảnh lại nhìn.
    Trong nhà, chỗ nào cũng đầy bụi là bụi. Tôi có cảm giác trên nền nhà, trừ những chỗ mới có dấu chân người, bụi dày dễ đến cả đốt ngón tay. Các bức tường cũng vậy, bụi bám lô nhô như một lớp lông bẩn thỉu; ở các góc tường, bụi bám thành mảng trên các lớp mạng nhện treo lơ lửng khiến cho tôi tưởng trên đầu mình đang lơ lửng những mảnh vải bố bị xé rách nham nhở. Trên một mặt bàn kê ngoài hành lang, có một xâu chìa khóa to bự, ở mỗi chìa đều có gắn một mảnh nhựa ghi số phòng đã bị ố vàng bởi thời gian. Có vẻ như những chiếc chìa khóa này đã được sử dụng không ít lần, bởi tôi thấy những vệt nhỏ kéo dài trên lớp bụi ở mặt bàn rất giống.ong với những đường rãnh khi giáo sư vừa nhấc xâu chìa khóa lên.
    Giáo sư cầm xâu chìa khóa và quay sang bảo tôi :
    - Jonathan này, anh là người biết rõ ngôi nhà này hơn ai hết, anh lại có trong tay các bản bình đồ của ngôi nhà - hoặc ít nhất là các bản sao - mà chắc chắn là anh đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu, vậy thì anh vẫn còn nhớ điện thờ của ngôi nhà này nằm ở chỗ nào chứ?
    Tất nhiên là tôi biết rất rõ vị trí nhà thờ nằm ở đâu, cho dù trong lần đầu tiên tới thăm ngôi nhà này, tôi vẫn chưa có dịp được vào trong đó. Tôi dẫn mọi người đi lòng vòng qua mấy khúc hành lang, đến trước một ô cửa bằng gỗ sồi có khung vòm bên trên.
    - Đúng là đây rồi! - Giáo sư vừa nói vừa rọi đèn kiểm tra bản sao bức hoành đồ mà tôi từng sử dụng khi mua ngôi nhà.
    Phải thử một lô chìa ông mới tìm được một chiếc vừa ổ khóa. Chúng tôi chờ đợi một điều gì đó rất khó chịu sắp sửa xảy ra. Quả thực là lúc cánh cửa chỉ vừa hé mở, mùi hôi thối nồng nặc đã lập tức xộc ra, khiến chúng tôi lập tức mường tượng tới cảnh phải hít thở cái không khí tởm lợm khi phải bước vào bên trong.
    Ngoại trừ tôi, chưa có ai trong nhóm được nhìn thấy lão bá tước. Về phần mình, lúc tôi nhìn thấy lão là lúc lão hoặc đang rúc ở đâu đó trong các căn phòng bụi bặm của mình, hoặc đang đầy mọng máu trong một ngơi nhà đổ gần như ở ngoài trời. Nhưng nơi chúng tôi đang đứng đây lại hoàn toàn chật chội và kín như bưng với một bầu không khí tù hãm không biết từ đời thừa nào. Tôi cảm thấy có mùi của đất, và càng lúc càng cảm thấy rặt một mùi chướng khí tràn ngập. Tôi thật không biết phải mô tả như thế nào về bản chất thực có của cái mùi xú uế ấy. Không chỉ tất cả những tà ác gây nên chết chóc trên đời được nhập vào đấy, mà dường như chính bản thân sự thối rữa cũng đang biến chất để làm nên cái địa ngục này. Chỉ nghĩ thế thôi cũng đủ làm tôi sinh bệnh rối! Mỗi hơi thở của quỷ dữ dường như đều gắn với từng hòn đá trên bốn bức tường của điện thờ!
    Có lẽ trong những tình huống khác, chỉ cần ngủ thế thôi là chúng tôi cũng phải bỏ cuộc rồi. Nhưng trước mắt chúng tôi là một cái đích quan trọng và hệ trọng, đến mức chúng tôi buộc phải vượt qua những trở ngại kinh tởm nhất. Sau khi đứng sững lại và nhảy giật lùi theo phản xạ tự nhiên, chúng tôi lại sực nhớ tới công việc nên cứ phải coi nơi đây như một vườn hồng.
    - Trước hết, - Giáo sư nói - cần phải xem còn lại bao nhiêu thùng gỗ nữa. Phải kiểm tra mọi góc ngách, hang hốc và mọi dấu vết có thể giúp chúng ta phát hiện ra một cái gì đó!
    Chúng tôi không gặp trở ngại gì khi đếm các thùng gỗ, bởi thực ra đó toàn là những hòm gỗ có kích cỡ khá lớn. Không thể có chuyện nhầm được! Tổng số theo giấy tờ là năm mươi thùng, nhưng ở đây chỉ còn lại hai mươi chín! Trong khi đếm, đã có lúc tôi giật mình sợ run khi thấy huân tước Godalming bất ngờ quay ra kiểm tra cánh cửa đang khép hờ nhìn ra ngoài một hành lang tối đen. Tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Tôi có cảm giác ánh mắt sáng quắc của lão bá tước đang nhìn xuyên qua cái màn đêm tưởng như có thể sờ được kia, rồi tôi hình dung ra dưới con mắt ấy là cái mũi khoằm, đôi môi mọng đỏ nổi bật trên bộ mặt lúc nào cũng trắng bệch... Khoảng một phút sau, huân tước Godalming quay trở lại, miệng lẩm bẩm: “Cứ tưởng một thằng chết giẫm nào, hóa ra chỉ là mấy cái bóng vớ vẩn.” Tôi cẩn thận lia đèn ra cửa và ngoài hành lang, nhưng rõ ràng là không có ai cả. Ở đây không có góc ngách, không có cửa giả, cũng chẳng có một khe hẻm nào, tất cả chỉ là những bức tường phủ dày bụi. Tôi phải kiểm tra để chắc chắn rằng trong này không có chỗ để một kẻ nào đó có thể ẩn náu - kể cả lão. Sự sợ hãi đã biến tôi thành nạn nhân cho sự tưởng tượng của chính mình. Tuy nhiên, ai dại gì hé răng nói ra chuyện này.
    Vài phút sau, đang ngó nghiêng kiểm tra một góc nhà thờ, Moriss bỗng hốt hoảng nhảy ngược trở ra. Chúng tôi giật mình đổ dồn mắt về phía anh. Người tôi lạnh toát mồ hôi khi thoáng nhận ra những đốm sáng lập lòe như những ánh lân tinh ẩn hiện lao vụt qua trước mặt. Chúng tôi lập tức lùi lại theo bản năng. Chỉ trong nháy mắt, không biết cơ man nào là chuột chạy náo loạn trong nhà thờ hoang.
    Cảnh tượng trước mặt làm chúng tôi thực sự khiếp sợ. Chỉ có huân tước Godalming vẫn tỏ ra bình thản như không, có vẻ như anh đã lường trước được sự việc. Anh lao nhanh tới ô cửa gỗ sồi, rút then, mở toang cánh cửa, rồi lấy chiếc còi bạc thổi liền một hơi. Nghe thấy tiếng còi rên rỉ như tiếng mèo hen, lũ chó sau nhà thương điên đồng loạt sủa inh ỏi cả một vùng. Khoảng hơn một phút sau, có ba con chó săn thú hang lập tức chạy vòng vào góc ngôi nhà hoang. Chúng tôi vẫn lùi lại một cách vô thức. Lùi đến gần cửa, tôi để ý thấy lớp bụi ở đây cũng đã bị giày xéo bởi nhiều vết giầy: hẳn là các thùng gỗ bị thiếu kia đã được chuyển qua lối này. Nhưng đó cũng chính lúc thêm một đàn chuột khác thình lình ào tới hợp bọn với lũ chuột trước tạo nên một cảnh tượng náo loạn, hãi hùng trước mắt chúng tôi. Chúng chạy tràn ra khắp nhà thờ cùng những tiếng kêu chí chóe lạnh gáy, con nào con nấy mắt sáng quắc như đom đóm lập lòe dưới nền đất. Mấy con chó hung hăng định nhảy xổ vào, nhưng không hiểu sao vừa đến ngưỡng cửa, chúng bỗng khựng cả lại, gầm gừ, tru tréo hệt như loài sói. Đàn chuột, dễ có đến cả nghìn con, tiếp tục hoành hành điên loạn trong nhà thờ. Chúng tôi hất hoảng nhảy bổ ra ngoài cửa.
    Huân tước Godalming ôm xốc một con chó quẳng vào trong nhà thờ. Chân vừa chạm đất, con chó chuyên săn thú hang lập tức lấy lại sự can đảm vốn có và lao vào tàn sát không thương tiếc các đối thủ không đội trời chung của nó. Loáng một cái nó đã giết chết tươi hơn hai chục con chuột, nhưng cũng chỉ trong chừng ấy thời gian, lũ chuột đã tháo chạy tan tác, chúng trốn nhanh đến nỗi không để lại một cơ hội sát thủ nào cho hai con chó còn lại vừa lao vào trong nhà.
    Lũ chuột đột ngột biến mất khiến chúng tôi cảm thấy quỷ dữ cũng vừa tháo lui. Lũ chó vẫn lăng xăng lùng sục khắp nhà, đuôi ve vẩy như rất vui mừng với chiến công vừa lập được. Chúng có vẻ rất khoái nhìn xác chết của những con chuột thiếu may mắn trên nền nhà. Chúng tôi thấy mình như vừa được tiếp thêm lòng can đảm. Không hiểu là do sự xuất hiện của mấy con chó săn, do bầu không khí tù hãm trong phòng đã được giải phóng khi các cánh cửa nhà thờ được mở toang, hay do tiếng thở phào của chính mình khi cảm thấy mình không còn bị nhất kín nữa, nhưng dù thế nào thì mối đe dọa đè nặng lên chúng tôi cũng phần nào được trút bỏ giống như người ta vừa trút bỏ được một mảnh áo bẩn thỉu khó chịu. Lũ chuột đi rồi, chúng tôi lại khóa cửa nhà thờ, cài chất, chằng dây xích và bắt đầu đi lục soát toàn bộ ngôi nhà. Vẫn không có gì đặc biệt nếu không phải là bụi, bụi phủ dày khắp các phòng còn lại, và điều đáng lưu ý là không có chỗ nào có dấu chân người, ngoại trừ những dấu chân do chính tôi để lại trong lần đến thăm nhà trước để làm thủ tục môi giới. Không thấy lũ chó có biểu hiện gì đặc biệt, kể cả lúc chúng tôi quay trở lại nhà thờ cũng vậy. Chúng chỉ chạy lăng xăng như thể đang được đi săn thỏ rừng trong một ngày đẹp trời vậy.
    Khi chúng tôi ra ngoài cổng ngôi nhà cũng là khi một ngày mới sắp sửa bắt đầu. Van Helsing cẩn thận khóa cửa và bỏ chiếc chìa khóa vào túi. Tôi không rõ ông tháo chiếc chìa này từ xâu chìa khóa trong nhà từ lúc nào.
    - Tốt rồi! - Ông nói. - Vậy là cuộc điều tra của chúng ta đêm nay đã diễn ra êm xuôi? Chúng ta đã biết có bao nhiêu thùng gỗ được chuyển đi. Hơn nữa lại không phải đối mặt với bất cứ sự nguy hiểm nào như tôi vẫn lo. Nhưng điều làm tôi vui nhất là chúng ta đã hoàn thành bước đầu của công việc mà không có sự tham gia của Mina, vì thế cô ấy sẽ không sợ bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng trong nhà thờ vừa rồi. Hơn nữa, cuộc điều tra này cũng cho chúng ta thấy một điều khá thú vị, nếu như không phải là một kết luận chắc chắn về một vấn đề khác hẳn: những con ôn vật ghê tởm chịu sự sai khiến của lão bá tước không phải lúc nào cũng tuân theo quyền năng tâm linh thuần túy của lão. Hãy cứ nhìn đàn chuột mà xem, các bạn sẽ thấy chúng xuất hiện ào ào khi có lệnh của lão - giống như trường hợp lão gọi bầy sói đến khi anh đòi ra khỏi lâu đài Dracula ấy, Jonathan ạ - nhưng rồi cũng biến mất ngay lập tức khi nhìn thấy những chú chó nhỏ kia! Đúng là chúng ta chỉ đang bắt đầu ở vào một thử thách. Đây không phải là lần duy nhất hay lần cuối cùng con quỷ này... sai khiến thế giới thú vật bằng quyền năng của mình. Lão chỉ tạm thời biến mất trước khi tặng chúng ta một dịp được reo vui là “lão đã thất bại?” Cuộc chơi sẽ còn dài đấy. Bây giờ, chúng ta về nhà đi. Trời cũng sắp sáng rồi. Vậy là hôm nay, chúng ta đã có thể bằng lòng với đêm làm việc đầu tiên của mình.
    Lúc trở về, tôi không thấy có gì đặc biệt trong nhà thương điên còn đang chìm trong giấc ngủ của bác sĩ Seward, ngoại trừ những tiếng kêu oai oái của một kẻ bất hạnh nào đó ở một phòng cuối hành lang, hoặc những tiếng rên rỉ trong phòng Renfield. Chắc là đầu óc hắn đang bị giày vò ghê gớm lắm - bởi đây là điều vẫn thường thấy ở những người bị rối loạn tâm thần.
    Tôi rón rén đi về phòng. Mina vẫn đang chìm trong giấc ngủ, hơi thở của cô chậm và nhẹ đến nỗi tôi phải ghé sát người xuống môi nghe được. Chỉ tới lúc này tôi mới giật mình để ý thấy cô có vẻ xanh xao hơn bình thường. Mong sao cuộc họp hôm qua không làm cô nghĩ ngợi nhiều? Thật may cô không tham già các cuộc điều tra, tìm kiếm hoặc các quyết định của chúng tôi nữa. Rất có thể cô sẽ lo sợ khi nghe chúng tôi bàn về một vài điều gì đó. Tuy nhiên, biết đâu việc chúng tôi giấu cô có khỉ còn làm cô khủng hoảng hơn nếu một lúc nào đó, cô bỗng nghi ngờ chúng tôi muốn cô lặng thinh về chuyện này hay chuyện khác.
    Có thể trong thời gian tới, chúng tôi sẽ cố gắng để cô tuyệt đối không nghi ngờ gì về các quyết định và công việc của mình - ít nhất là cho đến lúc chúng tôi có thể thông báo cho cô biết rằng cơn quỷ khát máu kia đã vĩnh viễn bị loại bỏ khỏi trái đất này. Đối vôi tôi, giữ im lặng hoàn toàn không phải là một việc dễ dàng, nhất là khi hai chúng tôi có thói quen cái gì cũng tâm sự cho nhau nghe. Nhưng tôi đã quyết rồi, khi cô ấy thức dậy, nhất định tôi sẽ không kể gì về chuyện vừa xảy ra trong đêm. Nếu cô ấy có gặng hỏi, tôi cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Trời sắp sáng hẳn, tôi rón rén tới nằm nghỉ trên ghế trường kỷ để khỏi làm phiền giấc ngủ của cô.
    * * * * *
    Ngày 1 tháng 10, một lúc sau
    Chắc là không có chuyện gì bất bình thường khi chúng tôi ngủ một mạch tới tận trưa, vì cả ngày lẫn đêm hôm trước, chúng tôi chưa hề được ngả lưng một lúc nào. Mina chắc cũng rất mệt, bởi tôi - người thức dậy đầu tiên - đã phải hai, ba lần lay gọi cô mới chịu tỉnh. Cô ngủ say đến nỗi không nhận ngay ra trước mặt mình đang có người. Cô ngơ ngác và sợ hãi nhìn tôi cứ như người vừa trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp vậy. Thấy cô kêu mệt, tôi bảo cô cứ nán lại trên giường thêm ít phút nữa rồi dậy cũng được... Bây giờ, chúng tôi đã biết có hai mươi mất thùng gỗ đã biến mất trong ngôi nhà bỏ hoang. Bởi vậy, tôi phải điều tra cho rõ số thùng thiếu đó đã được chuyển đi đằng nào. Hôm nay, tôi sẽ tới nhà Thomas Snelling.

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 1 tháng 10
    Tôi thức dậy khi trời đã gần trưa. Van Helsing có mặt trong phòng tôi từ lúc nào tôi cũng không rõ. Trông ông có vẻ hồ hởi ra mặt, đây là điều rất ít thấy ở ông. Có lẽ những gì chúng tôi vừa phát hiện được đã làm cho tinh thần ông thoải mái hơn. Ông bắt đầu câu chuyện bằng việc nhắc lại một chút về cuộc điều tra đêm hôm qua, rồi chuyển sang nói về vấn đề bệnh nhân Renfield :
    - Tay bệnh nhân của anh làm tôi chú ý đấy. Hôm nay, tôi có thể gặp hắn một lần nữa được không? Nếu bận, anh cứ để tôi đến với hắn một mình cũng được. Tôi thấy trường hợp của hắn cũng hay hay. Một thằng điên lại biết nói chính xác về lý luận và triết học mới chết chứ!
    Quả thật hôm nay tôi rất bận, bởi vậy tôi phải bảo ông đến phòng Renfield một mình vì không muốn ông phải đợi cho mất thời gian. Tôi gọi một tay giám thị tới dặn mấy điều cần thiết và bảo anh ta dẫn ông đi. Nhưng trước khi ông bước ra khỏi phòng, tôi vẫn nhắc ông phải dè chừng.
    - Tôi chỉ định nói chuyện về chính hắn - Ông đáp lại – và nỗi đam mê đã thúc đẩy hắn nuốt sống các côn trùng thôi mà. Hôm qua, tôi có đọc nhật ký của anh và biết rằng hắn đã nói chuyện với Mina. Nhưng anh cười cái gì vậy, John?
    - Xin lỗi, nhưng lời đáp cho câu hỏi của ngài lại nằm ở đây - Tôi nói và đặt tay lên xấp giấy đánh máy - Khi tay bệnh nhân điên có lý trí và có giáo dục của chúng ta bàn về thói quen ăn các thực thể sống với tôi, quả thực mồm miệng hắn vẫn còn đính nhoe nhoét chân nhện và chân ruồi mà hắn vừa mới ăn ngay trước khi bà Harker bước vào phòng.
    Van Helsing phì cười.
    - Anh có một trí nhớ tuyệt đấy, anh bạn ạ! Lẽ ra tôi cũng nên nhớ chi tiết này mới phải, Tuy nhiên, cũng chính những khiếm khuyết tương tự trong suy nghĩ và trí nhớ lại là một sức hút lôi cuốn người ta nghiên cứu về các bệnh nhân tâm thần. Biết đâu khi tìm hiểu về căn bệnh điên qua biểu hiện lạ lùng của Renfield, tôi lại chẳng biết thêm về sự thông thái của con người? Ai mà biết được?
    Nói đến đây, tôi phải đến văn phòng để bắt đầu công việc. Thời gian sao trôi nhanh quá, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy giáo sư quay lại.
    - Tôi không làm phiền anh đấy chứ?
    - Không, ngài cứ việc vào! - Tôi trả lời. - Tôi cũng vừa giải quyết xong mấy việc cần làm, bây giờ tôi có thể dẫn ngài đi nếu ngài còn muốn.
    - Khỏi cần đi! Tôi đã gặp hắn rồi!
    - Thế hả?
    - Chỉ sợ hắn nghĩ về tôi chẳng ra gì. Cuộc nói chuyện thật chóng vánh. Khi tôi vào, hắn đang ngồi chồm hỗm trên chiếc ghế đẩu đặt giữa phòng, hai tay chống cằm, mặt lì lợm, khó chịu. Tôi cố gắng hỏi chuyện hắn bằng một thái độ vui vẻ và rất tôn trọng hắn, nhưng hắn vẫn không thèm trả lời. “Anh không biết tôi à?” - Tôi hỏi. Câu trả lời của hắn rõ ràng là không ổn: “Có chứ! Là ông già Van Helsing ngớ ngẩn chứ ai. Tôi muốn ông tìm chỗ khác mà chơi. Hãy đi mà nghiên cứu cái bộ não ngu ngốc của ông? Quỷ tha ma bắt ông đi, đúng là cái bọn Hà Lan đần độn!” Tôi không thể nói gì được nữa, còn hắn vẫn giữ cái bộ mặt cau có lì lợm của mình và quên hẳn sự có mặt của tôi. Vậy là cơ hội tìm hiểu thêm một điều gì đó từ tên bệnh nhân thông minh này đã qua. Để tự an ủi mình, có lẽ tối phải tìm đến nói chuyện với cô Mina hiền dịu thôi. John ạ, biết diễn tả với anh như thế nào về niềm vui trong tôi khi chúng ta giấu được cô ấy những gian khổ và hiểm nguy còn đang chờ đợi phía trước bây giờ nhỉ? Đành rằng cô ấy vẫn còn có thể giúp chúng ta được một số việc, nhưng chúng ta cũng phải làm sao cho phải đạo mới được.
    - Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài. Tất hơn hết là đừng để Mina phải lo lắng thêm điều gì. Tình hình bây giờ đang rất nguy hiểm cho chúng ta, những người đàn ông từng trải qua nhiều thời điểm gian khó trong mưu cầu sinh tồn của cuộc sống. Nếu cứ tiếp tục tham gia với chúng ta, thế nào người phụ nữ trẻ này cũng sẽ héo mòn mất.
    Vậy là Van Helsing đã quyết định tìm đến trò chuyện với vợ chồng Harker. Lúc này, Quincey và Arthur đang tiếp tục đi tìm các thùng đất - hoặc ít nhất là lần theo dấu vết của chúng. Tối nay, chúng tôi sẽ lại có một buổi hội ý với nhau.

    Nhật ký của Mina Harker

    Ngày 1 tháng 10
    Tôi cảm thấy rất ấm ức khi bị gạc ra ngoài cuộc như ngày hôm nay. Trong bấy nhiêu năm, Jonathan luôn tỏ ra rất tin tưởng ở tôi, nhưng hôm nay, tôi phải gặp anh mà không được biết gì về cuộc nói chuyện của bọn họ. Sáng nay, tôi dậy rất muộn, vì tôi đã rất mệt mỏi suốt cả ngày hôm qua. Jonathan cũng chỉ dậy trước buổi trưa không lâu... nhưng anh vẫn là người tỉnh giấc đầu tiên! Trước khi đi, anh nói với tôi bằng một giọng dịu dàng và âu yếm hơn bao giờ hết, nhưng tuyệt nhiên không thấy anh đả động một lời nào về cuộc điều tra ngôi nhà lão bá tước đêm hôm qua. Tuy nhiên, chắc hẳn anh vẫn hiểu tôi đang rất lo lắng về chuyện này. Tội nghiệp anh! Việc giữ im lặng sẽ càng làm cho anh bận lòng hơn vì tôi. Tất cả bọn họ đều nhất trí đặt tôi ngoài cuộc, và tôi chỉ còn biết chấp nhận. Nhưng cứ nghĩ người chồng đang ấp ủ nhiều điều bí mật đối với mình là tôi lại thấy ấm ức? Song tôi lại bật khóc như một đứa con nít khi nghĩ chỉ vì tình yêu dành cho tôi mà anh ấy phải giữ im lặng. Và số còn lại cũng vậy, họ là những người bạn hào hiệp và tất bụng, chỉ muốn đảm bảo sức khỏe và sự an toàn cho tôi mà thôi!
    Tuy nhiên, những giọt nước mắt nóng bỏng lăn dài trên gò má đã làm tôi nhẹ lòng đi đôi chút. Tôi tự nhủ rồi cũng có ngày Jonathan sẽ kể cho tôi nghe tất cả. Còn bây giờ, tôi sẽ tiếp tục viết nhật ký như bình thường. Nếu có lúc nào anh nghi ngờ niềm tin của tôi, tôi sẽ cho anh biết cảm xúc, nghĩ suy của mình trong những dòng nhật ký ấy. Nghĩ vậy thôi, chứ hôm nay tôi vẫn buồn và uể oải lắm. Có lẽ đây cũng là hậu quả của những cảm xúc thái quá của tôi.
    Tối hôm qua, tôi lên giường nằm ngay sau khi Jonathan và những người bạn ra khỏi nhà, đơn giản là vì họ khuyên tôi nên làm như vậy. Tôi không buồn ngủ, mà chỉ thấy lo, lo kinh khủng. Tôi chợt nghĩ về những gì đã xảy ra tử cái hôm Jonathan đến thăm tôi lần đầu tiên ở Luân Đôn, tất cả cứ như một màn kịch khủng khiếp mà các số phận đang nghiệt ngã tiến dần đến điểm cuối cùng của nó. Dường như hành động nào của chúng tôi, cho dù là có thiện ý nhất, cũng đều dính phải những kết quả tệ hại thì phải. Nếu tôi không đến Whitby, chắc gì Lucy đã phải chết. Trước khi tôi đến, có bao giờ cô ấy ra nghĩa địa đâu? Nếu như không cùng tôi đi dạo ở đó, cô ấy sẽ không thể mộng tới tới đó, và như vậy sẽ không có chuyện cô bị con quỷ kia làm hại. Trời ơi! Tại sao tự nhiên tôi lại vác mặt tới Whitby kia chứ? Vâng... thế là tôi lại khóc... Tôi tự hỏi không hiểu hôm nay mình bị làm sao. Jonathan hẳn không biết rằng tôi - người chưa bao giờ khóc vì tủi thân, và cũng chưa bao giờ rơi nước mắt trước mặt chồng mình - đã hai lần khóc vào ngày hôm nay. Nếu nhận ra điều này, chắc chắn anh sẽ bối rối vô cùng. Bởi bình thường ra, nếu có buồn về một chuyện gì đó, tôi cũng chẳng bao giờ để lộ ra mặt...
    Hôm qua, tôi không biết mình ngủ thiếp đi từ lúc nào. Tôi chỉ nhớ mình chợt nghe thấy những tiếng sủa inh ỏi của lũ chó nhà và vô số những tiếng kêu lí nhí kỳ lạ vang lên từ phòng tên bệnh nhân Renfield, tức là căn phòng ở ngay dưới phòng tôi. Tiếp đó là một sự im lặng sâu thẳm khiến tôi không thể không cảm thấy lo lắng. Cảm giác mơ hồ khó chịu khiến. tôi phải vùng dậy nhìn ra ngoài cửa sổ. Sự im lặng và bóng tối, thỉnh thoảng được điểm thêm bằng một chút ánh trăng mờ ảo, làm cho đêm khuya càng trở nên huyền bí hơn. Không có gì động đậy ngoài ấy, tất cả bao trùm một vẻ sầu thảm và im lìm như trong một thế giới chết, ngoại trừ mệt làn sương mù bàng bạc bay rất chậm - chậm gần như tôi không cảm nhận được sự chuyển động là là mặt cỏ về phía ngôi nhà của nó, xem ra chỉ có làn sương ấy là hiện thân duy nhất của sự sống lúc này. Làn sương cứ bồng bềnh mãi trong tâm trí tôi, khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn, bởi lúc trở lại giường nằm, tôi thấy mình bắt đầu lâng lâng như đang thiu thiu đi vào giấc ngủ. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể ngủ được, làn sương vẫn đang bồng bềnh trong ý nghĩ của tôi, khiến tôi phải vùng dậy nhòm qua cửa sổ một lần nữa. Làn sương lúc này đã trải đài ra và lơ lửng tiến sát đến ngôi nhà: tôi trông rõ làn sương đầy đặc bám sát vào tường như đang muốn leo qua các ô cửa sổ. Renfield lúc này bỗng gào lên như chó dại, không hiểu hắn nói những gì mà thảm thương đến thế. Rồi tôi chợt có cảm giác như vừa nghe thấy tiếng ai đó đang đánh nhau, có lẽ viên giám thị vừa vào phòng và bị hắn cự nự quyết liệt nên mới sinh chuyện đánh vật với nhau. Tôi sợ hãi về giường nằm, kéo chăn trùm kín đầu, bịt thật chặt hai tai. Lúc này, tôi không còn cảm thấy buồn ngủ nữa. Song cuối cùng thì tôi cũng dần dần thiếp đi, bởi sau một cơn mê, tôi chẳng còn nhớ những gì đã xảy ra cho đến tận. trưa hôm nay, khi Jonathan gọi tôi dậy. Phải định thần một lúc, tới mới nhận ra mình đang ở đâu và ai đang đứng trước mặt. Trong giấc ngủ li bì, tôi đã trải qua một giấc mơ thật quái gở, điều đó cho thấy tôi đã nghĩ ngợi và lo lắng như thế nào. Đúng là tôi vừa trải qua một giấc ngủ mê mệt!
    ... Tôi ngủ mê mình đang đợi Jonathan quay trở về. Lo cho anh khủng khiếp, nhưng tôi vẫn không tài nào cựa quậy để đứng dậy và làm theo ý muốn của bản thân: chân tay tôi, và cả đầu nữa, bỗng tê dại bởi một trọng lực rất nặng dè lên người. Trong cơn mê, tôi cảm thấy rất khó chịu và không thể điều khiển được ý nghĩ của mình. Lúc đó, tôi có cảm giác bầu không khí xung quanh có một mùi gì đó nằng nặng, ẩm ớt và lạnh toát. Tôi hất tung chăn ra và kinh ngạc nhận thấy căn phòng đang chìm ngập trong bóng tối. Ngọn đèn tôi vặn nhỏ đợi Jonathan khi nãy bây giờ chỉ còn là một đốm nhỏ đỏ quạch, phát ra một thứ ánh sáng chỉ vừa đủ nhìn trong một lớp sương mù đang mỗi lúc một dày đặc hơn trong phòng. Dù nhớ rất rõ là mình đã đóng cửa sổ trước khi đi ngủ, nhưng tôi vẫn muốn ra kiểm tra lại, chỉ có điều là chân tay tôi cứ như đang được làm bằng gỗ, không thể cử động gì được. Biết làm gì bây giờ? Tôi đã nhắm mắt, nhưng dường như vẫn hé nhìn được qua mi mắt (hình như các giấc mơ thường có những điều kỳ quặc như vậy). Màn sương mù vẫn mỗi lúc một dày đặc thêm, và bây giờ tôi đã nhận ra màn sương quỷ quái ấy vào phòng theo đường nào rồi: nó không vào theo cửa sổ như khói hoặc như hơi nước, mà theo các khe hở ở cửa ra vào. Một lát sau, lớp sương mù biến dần thành một cột mây - vâng, nếu tôi có thể gọi là như vậy - vươn cao vút lên trần nhà, và trên đỉnh đám mây hình như có ánh sáng của một đốm lửa trông như một con mắt nhỏ đỏ ngầu. Tất cả bỗng điên đảo trong đầu tôi. Dường như cột mây càng tích tụ dày đặc trong phòng bao nhiêu thì qua lớp sương mù, tôi càng đọc rõ dòng chữ Cột mây ngày, ngọn lửa đêm được ghi trong Kinh thánh bấy nhiêu. Chẳng lẽ đây lại là một cách cảnh báo mà tôi nhận được trong giấc ngủ? Cột mây được tạo thành bởi hai yếu tố ngày và đêm, bởi ở đó có ánh lửa trong con mắt màu đỏ Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy mình bị quyến rũ bởi cái hình ảnh đó. Một lúc sau, đốm lửa đỏ bỗng tách đôi tựa như hai con mắt. Hình ảnh ấy khiến tôi sực nhớ đến lời nói của Lucy về những tia nắng mặt trời buổi hoàng hôn hắt vào những ô cửa kính của nhà thờ Thánh Mary, khi tôi và cô ngồi trên vách đá ở Whitby. Tôi cũng bàng hoàng nhớ lại chuyện Jonathan từng được chứng kiến ba tạo vật quỷ quái bất ngờ hóa thành những hạt bụi dưới ánh trăng và hiện hình dần thành ba ả đàn bà dâm đãng. Sau đó tôi lịm đi trong cơn mê tối tăm mù mịt.
    Trong một nỗ lực cuối cùng của trí tưởng tượng, tôi nhận ra một bộ mặt xanh tái chui ra từ lớp mây mù và cúi xuống gần tôi.
    Có lẽ phải dè chừng những cơn mê kiểu như vậy, bởi vì nếu chúng thường xuyên tái diễn, chắc chắn đầu óc tôi sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tôi định sẽ hỏi bác sĩ Van Helsing hoặc bác sĩ Seward xem tại sao tôi lại ngủ li bì như vậy, nhưng chỉ ngại họ lại lo vớ vẩn. Nếu tôi kể cho họ nghe cơn mê của mình, chắc chắn họ sẽ càng lo lắng vì tôi hơn. Tối nay, tôi sẽ cố gắng ngủ sao cho thật thoải mái. Nếu vẫn không ngủ được, có lẽ tối mai tôi sẽ xin họ một viên thuốc an thần. Tôi nghĩ chỉ dùng một lần thôi thì cũng chẳng có hại gì, và tôi sẽ có một đêm thật yên giấc. Cơn mê như vừa rồi chỉ có thể làm tôi mệt nếu tôi tiếp tục bị mất ngủ.
    * * * * *
    Ngày 2 tháng 10, 10 giờ tối
    Đêm hôm qua, tôi ngủ thật sâu và không thấy mê man gì. Tuy nhiên, giấc ngủ say vẫn không làm tôi sảng khoái, cho đến hôm nay tôi vẫn còn cảm thấy khá mệt và bải hoải. Cả ngày hôm qua, tôi đã cố gắng đọc nhưng không được vì chứng ngủ gật. Buổi chiều, Renfield kêu muốn gặp tôi. Gã đàn ông khốn khổ tỏ ra rất tử tế khi nói chuyện với tôi, thậm chí lúc chào tạm biệt tôi, hắn còn hôn lên tay tôi và cầu Chúa ban phước lành cho tôi nữa. Tự nhiên tôi cảm thấy thương hại hắn đến phát khóc. Lại một lần nữa tôi tự nhủ mình phải giấu đi điểm yếu này, bởi nếu Jonathan biết tôi khóc, anh ấy sẽ buồn không biết để đâu cho hết.
    Jonathan và những người bạn chỉ trở về khi gần đến bữa ăn tối với một vẻ mặt rất mệt. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để cho họ đỡ mệt, và coi đó là một niềm an ủi giúp mình dần dần quên đi sự mỏi mệt của chính mình. Sau bữa tối, họ lại khuyên tôi lên giường nghỉ, còn họ sẽ ra ngoài hút thuốc thư giãn, nhưng tôi thừa biết là họ muốn ra ngoài thông báo cho nhau nghe về công việc mà từng người đã làm được trong ngày. Nhìn Jonathan, tôi đoán là anh vừa khám phá ra một điều gì hệ trọng lắm. Nằm trên giường, tôi cảm thấy mình không thể ngủi được, vì vậy tôi đã đề nghị bác sĩ Seward cho tôi một viên thuốc an thần liều nhẹ. Tôi giải thích với anh rằng đêm hôm qua tôi ngủ không được ngon giấc cho lắm. Anh cho tôi một viên thuốc mà anh bảo là rất nhẹ và không gây tác dụng phụ... Tôi uống và nằm chờ giấc ngủ... Sau đó không lâu, tôi cảm thấy mình có vẻ như sắp chìm vào giấc ngủ... Nhưng đó cũng chính là lúc tôi lại vướng vào một nỗi lo sợ: chắc là tôi không nhầm khi dùng liều thuốc ấy đấy chứ? Có lẽ sẽ tất hơn nếu như tôi tỉnh ngủ suất đêm! Nhưng đã quá muộn rồi... Tôi đang chìm vào giấc ngủ bất khả kháng... Chào tạm biệt!
     
  2. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 20
    Nhật ký của Jonathan Harker



    Ngày 1 tháng 10, buổi tối
    Tôi gặp Thomas Snelling tại nhà, nhưng thật không may, ông ta lại là một kẻ rất chóng quên. Mặc dù tôi đã báo trước, nhưng ông ta vẫn bỏ đi uống bia đến say mèm và chẳng cần biết tôi có đến hay không.
    Nhưng bù lại, ông ta lại có một bà vợ rất tử tế. Sau khi nghe tôi trình bày, bà đã khuyên tôi đến nhà Joseph Smollet tìm hiểu. Vậy là tôi lại phải ngược lên phố Walwort. Tôi đến khi Smollet đang ngồi uống trà. Đó là một anh chàng công nhân tất tính và thông minh, đủ để người khác tin cậy và tâm sự về công việc riêng. Anh chàng nhớ rất rõ vụ ẩu đả hôm đến nhận hàng ở Carfax. Sau khi tra lại cuốn sổ tay nhỏ xíu quăn góc, anh nói ngay cho tôi biết địa chỉ nhận các thùng đất. Anh đã chở cả thảy sáu thùng từ Carfax đến số 179 phố Chicksand ở New Town, và sáu thùng khác đến hẻm Jamaica ở Bermondsey. Vậy là nếu như định phân tán mỗi chỗ ở Luân Đôn một vài thùng đất bẩn thỉu làm nơi ẩn náu, thì phố Chickland và hẻm Jamaica chính là những trạm trung chuyển đầu tiên mà lão bá tước gửi gắm để sau này tiếp tục rải đi các nơi khác. Từ đó, có thể suy ra lão không chỉ tìm nơi chui rúc ở hai khu phố thành Luân Đôn. Bởi vậy, tôi phải dò hỏi tiếp Smollet về những thùng đất đã được chở đi khỏi Carfax.
    - Vâng, thưa ông chủ, - Anh ta trả lời - ngài đã tỏ ra khá hào phóng đối với tôi (vì tôi có dúi vào tay anh ta nửa đồng tiền vàng) nên tôi sẽ nói cho ngài nghe bằng hết những gì tôi biết! Cách đây bốn hôm, khi ngồi nhậu ở quán Thỏ và Chó ở thung lũng Pincher, tôi có nghe một tay tên là Bloxam nào đó kể hắn và một tay tài xế nữa đã chui vào một ngôi nhà cổ ở Purfleet làm việc để rồi phải nuốt đến hàng kilô bụi vào người? Ngài thấy đấy, có phải việc làm bẩn thỉu này hôm nào cũng xảy ra đâu. Tôi nghĩ Sam Bloxam cũng có thể cung cấp thêm cho ngài ít nhiều thông tin về cái điều ngài muốn biết đấy?
    - Nếu Smollet nói cho tôi biết địa chỉ của cái tay tên là Sam Bloxam, - như tôi hứa với anh ta - tôi sẽ cho anh ta nốt nửa đồng tiền vàng còn lại.
    Nghe tôi hứa, anh ta uống vội số nước chè còn lại trong cốc và đứng bật dậy tuyên bố anh ta sẽ đi khắp nơi để tìm cho bằng được cái tay tài xế đó. Tíễn tôi ra cửa, anh ta bảo tôi :
    - Ngài thấy đấy, tôi chẳng có lý do gì để giữ ngài ở đây cả. Tôi có thể tìm được tay Sam này ngay lập tức, nhưng cũng có thể là không. Nói gì thì nói, tối nay thì không được rồi. Thật khó mà moi được điều gì ở thằng cha này một khi hắn đã nốc rượu đầy ruột. Nếu ngài để lại cho tôi một chiếc phong bì dán sẵn tem và ghi rõ địa chỉ, thì khi nào biết được hắn đang ở đâu, tôi sẽ báo ngay cho ngài biết. Bây giờ, tôi chỉ có thể nói trước được điều này: tất nhất là ngài nên đến gặp hắn vào buổi sáng sớm, nếu không thì hơi khó đấy, vì hắn thường dậy rất sớm và chỉ về đến nhà vào nửa đêm, khi đã say khướt mà thôi.
    Nghe anh chàng này nói cũng có vẻ có lý, vì vậy tôi đã nhờ đứa con gái nhà anh ta chạy ù đi mua hộ một chiếc phong bì và một con tem. Chỉ một loáng đã thấy cô bé quay về với những gì tôi cần trên tay. Tôi cẩn thận ghi rõ địa chỉ, dán tem và đưa chiếc phong bì cho người chủ nhà tốt bụng. Trước khi ra về, tôi phải dặn đi dặn lại anh ta là khi nào có tin, phải báo cho tôi ngay lập tức.
    Vậy là cuối cùng, điều bí ẩn cũng bắt đầu được làm sáng tỏ? Dần dần từng bước, từng bước một... Tối nay, tôi bỗng cảm thấy mệt mỏi quá, chỉ muốn đi ngủ ngay lập tức. Mina đang chìm sâu trong giấc ngủ, trông cô có vẻ xanh xao hơn cả hôm trước, còn đôi mắt cứ mọng lên như người vừa mới khóc. Tội nghiệp cô bé, kể từ khi chúng tôi không cho cô biết kế hoạch và dự định của mình, cô lại càng có vẻ lo lắng, bồn chồn hơn trước. Tuy nhiên, chúng tôi đã đúng khi đưa ra một quyết định như vậy! Thà cô ấy cứ thất vọng và lo âu một vài ngày còn hơn là phải trải qua những lúc căng thẳng tột độ khi tham gia công việc với chúng tôi. Hai ông bác sĩ đã thật có lý khi khuyên tôi để cô ngoài cuộc chơi đầy nguy hiểm. Điều quan trọng với tôi trong lúc này là phải làm sao giữ kín được mọi chuyện, bất kể vì lý do nào tôi cũng không được buột miệng nói ra điều gì. Tôi rất hiểu gánh nặng im lặng đang đặt lên vai mình. Nhưng nói cho cùng, tôi cũng không tin đó là một việc gì ghê gớm khó thực hiện, bởi lúc này, dường như chính Mina cũng không thích nhắc đến công việc của chúng tôi nữa thì phảbi. Của thực là từ khi chúng tôi quyết định để cô nghỉ ngơi, tôi không thấy cô đả động, bóng gió gì đến chuyện Dracula và các thủ đoạn của lão nữa.
    * * * * *
    Ngày 2 tháng 10
    Một ngày mệt rã rời, căng thẳng tưởng như chẳng bao giờ kết thúc. Sáng nay, tôi nhận được thư đề địa chỉ do chính tay mình viết.
    Trong phong bì chỉ có một mẩu giấy xé cẩu thả nguệch ngoạc ghi một dòng địa chỉ bằng bút chì, chữ to như quả trứng gà:
    Sam Bloxam, Korkrans, 4, Poters, Cort, phố Bartel, Walworth. Hỏi giám đốc.
    Đọc xong lá thư khi còn nằm trên giường, tôi lặng lẽ ngồi dậy không để Mina bị thức giấc. Trong giấc ngủ, trông cô còn nhợt nhạt và mệt mỏi hơn cả lúc đang thức. Đánh thức cô lúc này là có lỗi, nhưng trong đầu lại nảy ra một ý nghĩ khác: sau cuộc điều tra hôm nay, tôi sẽ cố gắng thuyết phục cô quay trở về Exerter. Tôi nghĩ ở nhà mình, dù phải bận bịu với các công việc nội trợ, cô ấy vẫn cảm thấy vui hơn là ở đây, được sống cùng chúng tôi mà lại không có quyền biết điều gì đang xảy ra. Trướe khi ra khỏi nhà, tôi chỉ gặp bác sĩ Seward và báo cho anh biết hôm nay tôi đi đâu, làm gì và khi xong việc, tôi sẽ cố gắng về thật sớm để thuật lại kết quả cho cả nhóm biết.
    Tới Walworth, tối bỗng đâm ra lúng túng khi phải tìm Pháp viện Potter. Cách viết cẩu thả, sai chính tả be bét của Smollet làm tôi tìm nhầm lung tung địa chỉ. Tuy nhiên, khi đã tìm được Pháp viện Potter, tôi chỉ việc đi thẳng tới ngôi nhà Corcoran. Chủ nhà cho tôi biết hôm qua, Bloxam có đến đây nốc rượu say mèm rồi ngủ lại, nhưng năm giờ sáng nay, anh ta đã đi thẳng tới nơi làm việc ở Polar. Corcoran không nhớ được chính xác vị trí kho tạm giữ hàng mà tôi muốn hỏi để tìm gặp Bloxam, ông ta chỉ láng máng rằng đó là một ngôi nhà “mới và được xây dựng hiện đại”. Đây là thông tin duy nhất tôi có thể có trước khi tới Polar. Mãi gần tới trưa tôi mới tìm được ngôi nhà cần tìm nhờ sự mách bảo của một người thợ ngồi nghỉ trong một quán cà phê, đó là một “nhà kho mới rộng mênh mông”. Tôi lân la hỏi chuyện người gác cổng và một viễn đốc công. Họ quả là những người rất khó tính và lỗ mãng. Tuy nhiên, khi tôi dúi cho mỗi người một đồng tiền xu, họ đã thay đổi thái độ ngay lập tức. Và khi tôi hứa sẵn sàng trả cho viên đốc công một ngày lương, nếu ông ta cho phép tôi gặp Bloxam để hỏi hắn một vài vấn đề liên quan tới công việc riêng, ông ta đã cho người đi gọi bằng được Bloxam về. Bloxam là một gã thanh niên thô kệch và trực tính. Tôi chủ động hứa trả anh ta tiền cho tất cả những thông tin mà anh ta cung cấp. Chỉ đợi có vậy, anh ta cho biết luôn rằng trên đoạn đường từ Carfax đến một ngôi nhà ở Piccadilly, anh ta đã phải làm hai chuyến để chở hết chín thùng hàng mới tinh - toàn là những thùng lớn và rất nặng - bằng một chiếc xe ngựa đi thuê. Nhưng khi được hỏi về số nhà ở Piccadilly, anh ta lại không trả lời được.
    - Chán thật đấy, ông chủ ạ, không hiểu sao tôi lại quên khuấy mất số nhà, nhưng tôi có thể nói với ngài rằng ngôi nhà mà tôi phải chở các thùng hàng tới chỉ cách một nhà thờ quét vôi trắng - hoặc một cái gì đó giống như nhà thờ vậy - khoảng hai, ba ngôi nhà khác thôi. Đó là một ngôi nhà tồi tàn đầy bụi là bụi, nhưng thực ra bụi ở đây vẫn chẳng thấm gì so với ngôi nhà mà tôi phải tới để lấy hàng.
    - Thế làm thế nào anh vào được hai ngôi nhà này nếu như ở đó không có người ở?
    - Lão chủ hàng đứng đợi tôi trong ngôi nhà ở Purneet và giúp tôi nhấc các thùng hàng lên xe. Ôi, cha mẹ ơi! Sao lão khỏe thế không biết? Phải nói đó là người khỏe nhất mà tôi từng gặp trong đời, cho dù râu lão đã bạc trắng như cước, còn người thì gầy hom hem, lão gầy đến nỗi khiến người khác phải tưởng rằng lão không thể đủ sức dãy ngã một cái bóng!
    Tôi bỗng cảm thấy rùng mình.
    - Vâng! Lão nhấc các thùng gỗ cứ như là cầm mấy gói chè vậy, trong khi đó, tôi phải thở hồng hộc như lợn và gồng mình hết sức mới nâng được một đầu... Mà tôi đâu phải là một thằng khọm kia chứ!
    - Thế anh vào ngôi nhà ở Piccadilly bằng đường nào? - Tôi hỏi.
    - Tôi đến thì lão đã có ở đó rồi. Chắc là lão phải phi rất nhanh trên đường để có thể đến đó trước tôi, bởi vì khi tôi bấm chuông, chính lão là người đã ra mở cửa và lão cũng là người giúp tôi mang các thùng hàng vào hành lang.
    - Tất cả là chín thùng à?
    - Chín thùng. Chuyến đầu năm thùng; chuyến sau bốn thùng. Đúng là một việc khổ sai! Mà không hiểu sao công việc lại làm tôi thấy khát thế không biết! Bây giờ, tôi vẫn tự hỏi là làm sao mình lại bò được về tới nhà mới lạ chứ.
    - Anh đã mang các thùng gỗ vào hành lang?
    - Vâng. Đó là một hành lang trống trơn, không cỏ một thứ đồ đạc gì.
    - Anh cũng không có chia khóa chứ?
    - Không có chìa khóa? cũng chẳng có cái gì cả. Lão già ấy chính là người tự tay mở cửa và rồi tự tay khóa cửa khi tôi về. Thú thực, đây là lần mới nhất tôi không nhớ hết mọi chuyện, bởi vì bia...
    - Thế anh không nhớ số nhà thật à?
    - Không, thưa ngài, nhưng mà tìm cũng dễ thôi! Ngôi nhà cao, mặt tiền xây bằng đá, cửa sổ thấp, có bậc thềm bên ngoài. Sở dĩ tôi còn nhớ cái bậc thềm này là vì phải đưa các thùng hàng lên cùng với ba thằng nhà quê nữa, bọn chúng xin giúp tôi để mong kiếm được vài xu. Lão già đã cho chúng mấy đồng xi-linh. Thấy bở, chúng định đòi thêm mấy đồng, nhưng đời nào lão chịu. Suýt nữa thì mấy thằng đã bị lão đá văng xuống chân cầu thang nếu như chúng không kịp bỏ chạy cùng vài câu chửi thề tục tĩu.
    Nghĩ như thế cũng là đủ để tìm ra ngôi nhà, tôi bèn trả tiền cho Bloxam và tìm đường tới Piccadilly. Điều tôi vừa được biết khiến tôi không khỏi bối rối: lão bá tước có thể tự tay nâng các thùng gỗ chứa đầy đất! Mỗi phút trôi qua lúc này đối với tôi đều rất đáng quý. Bới rất có thể bây giờ lão đã tẩu tán mỗi nơi một thùng vào cái giờ lão đã chọn trước đế không ai có thể chú ý. Tới Piccadilly Circus, tôi xuống xe ngựa và đi thẳng về phía tây khu phố. Vừa qua Pháp viện Vị thành niên, tôi nhận ngay ra ngôi nhà cần tìm. Tôi không hề nghi ngờ đó là một trong những sào huyệt của bá tước Dracula ở Anh quốc. Ngôi nhà có vẻ như bị bỏ hoang từ lâu lắm rồi. Các ô cửa tò vò đều mở rộng, nhưng ô cửa sổ nào cũng phủ bụi mờ. Bụi thời gian đã làm cho các lớp gỗ ốp biến thành màu đen và những. đồ trang trí bằng sắt thành những vật được làm hằng... đất. Nhìn vào tường ban công, tôi đoán hẳn phải có một tấm biển ghi địa chỉ và tên nhà vừa bị giật tung đi đâu mất, bởi các dấu vết vẫn còn rất mới. Tôi sẽ có thêm một số thông tin nếu tấm biển này còn nguyên vẹn: nó sẽ cho tôi biết tên chủ sỡ hữu ngôi nhà. Tôi còn nhớ mình đã thu thập thông tin như thế nào để có thể đạt được hợp đồng môi giới ngôi nhà Carfax cho Dracula trước đây, và giờ tôi cũng tin rằng nếu biết được chủ nhân cũ của ngôi nhà, tôi sẽ vào được bên trong.
    Vậy là chẳng còn lý do gì mà ở lại đây nữa, tôi có thể biết và làm được gì hơn bây giờ? Nhưng tôi vẫn làm một vòng quanh ngôi nhà, bởi biết đâu tôi lại chẳng tìm được một điều gì đó thú vị? Các tàu ngựa phía bên kia ngôi nhà quả là náo nhiệt. Tôi gặp một người chăn ngựa và hỏi thăm ông về ngôi nhà. Thông tin tôi nhận được là ngôi nhà đã được mua, nhưng ai mua thì ông chịu. Ông còn cho biết cách đây khoảng hai ba ngày, ở ban công có đặt một tấm biển rao bán nhà, nếu tới hỏi công ty môi giới Mitchell, Sons & Candy, có thể tôi sẽ được biết các thông tin cần thiết, bởi ông nhớ rất rõ mình đã đọc trên tấm biển đó tên nhà môi giới bất động sản này. Không muốn gây sự chú ý, tôi đành phải cảm ơn ông già tốt bụng rồi bỏ đi mà không dám hỏi gì thêm. Trời sắp tối nên lại càng không thể lãng phí thời gian. Hơn nữa, không phải là tôi không biết địa chỉ của Mnitchell, Sons & Candy, đó là một công ty môi giới có văn phòng ở phố Sackville. Tôi cần phải tới đó ngay bây giờ.
    Tiếp tôi là một nhân viên nhã nhặn nhưng cũng thật ít nói. Anh ta chỉ cho biết ngôi nhà ở Piccadilly đã được bán và không nói gì thêm nữa. Khi tôi hỏi ai là người đã mua ngôi nhà, anh ta trố mắt ngạc nhiên rồi gằn giọng nhắc lại :
    - Nó đã được bán rồi, thưa ngài.
    - Xin lỗi, - Tôi cố gắng giữ vẻ lịch sự - tôi muốn hỏi ngôi nhà ấy được bán cho ai, bởi tôi có chút chuyện riêng nên mới hỏi như vậy, xin cứ tin ở tôi.
    Anh ta càng trợn mắt lên với tôi.
    - Đã bảo là ngôi nhà đã bị người ta mua rồi, thưa ngài.
    - Tất nhiên, nhưng anh có thể cho tôi biết một vài chi tiết về vụ mua bán này được không ạ?
    - Không, không được đâu, thưa ngài. Với Mitchell, Sons & Candy, mọi mối quan hệ với khách hàng đều phải được tuyệt đối giữ bí mật, xin ngài thông cảm cho.
    - Khách hàng của quý công ty hẳn đã gặp may mắn khi tìm được các doanh nhân xứng đáng với lòng tin của họ. Thú thực, tôi cũng là người trong nghề (tôi chìa cho anh ta xem đanh thiếp của mình) và tôi đến đày không phải là vì sự tò mò, anh có thể tin ở tôi mà. Tôi đến là vì đề nghị của huân tước Godalming. Ông ấy có nhờ tôi tìm hiểu một vài thông tin về người chủ sở hữu, tức là người cách đây không lâu đã gạ bán ngôi nhà này cho ông ấy.
    Câu nói của tôi khiến tay nhân viên máy móc này thay đổi thái độ ngay lập tức.
    - Có đúng là như vậy không? Trước đây, đã có lần ông ấy nhờ chúng tôi tìm hộ một căn nhà độc thân để thuê ở, khi ông ấy còn là Arthur Holmwood đáng kinh kia. Nếu ngài để lại cho tôi địa chỉ của huân tước Godalming, tôi sẽ nói giùm với ngài giám đốc của tôi một câu. Sau đó, tôi sẽ cố gắng gửi thư cho huân tước ngay tối nay. Chắc sẽ chẳng có gì vi phạm nguyên tắc khi phải cung cấp cho huân tước của ngài vài thông tin vặt.
    Tôi chỉ còn biết cám ơn tay nhân viên và để lại cho anh ta dòng địa chỉ của bác sĩ Seward trước khi nói lời chào tạm biệt. Bên ngoài, trời đã tối đen. Cảm thấy vừa mệt, vừa đói, tôi dùng tạm một ly trà đường trước khi lên tàu trở về Purneets.
    Về đến nhà, tôi thấy mọi người đang ngồi cả ở phòng khách. Mina trông vẫn xanh rớt và thậm chí còn có vẻ mệt mỏi hơn cả lúc buổi sáng, dù cô vẫn cố gắng tỏ ra vui vẻ với mọi người. Tôi cảm thấy nhói đau trong lòng khi nghĩ mình phải cắn răng giấu kín cô ấy bao nhiêu chuyện, trong khi chính điều đó lại càng làm .cho cô ấy lo lắng nhiều hơn. Ơn Chúa! Đây sẽ là đêm cuối cùng cô ấy ngồi quây quần bên chúng tôi với cảm giác mình không còn được ai tin tưởng nữa.
    Về phần mình, tôi phải rất cố gắng mới đưa ra được quyết định hợp tình, đạt lý của mình đối với cô. Mina có vẻ hoàn toàn chấp nhận lời khuyên nhủ của tôi.
    Hay là cuộc phiêu lưu của chúng tôi bây giờ đang thực sự làm cô khiếp sợ?
    Cũng may chúng tôi đã đưa ra một quyết định kịp thời, nếu không, những khám phá mới của chúng tôi sẽ chẳng khác nào những đòn tra tấn nhằm vào cô cả ngày lẫn đêm.
    Phải đợi đến khi những người đàn ông chúng tôi ngồi riêng với nhau, tôi mới có thể báo cáo trước cả nhóm về những điều mình vừa mới điều tra được hôm nay. Bởi vậy, ăn tối xong - và sau khi ngồi nghe nhạc thư giãn một lúc – tôi mới cùng Mina đi lên trên gác. Chưa bao giờ tôi thấy Mina âu yếm với mình đến vậy, cô quàng tay ôm chặt lấy tôi như không muốn để tôi bỏ xuống dưới một lần nữa, nhưng tôi còn rất nhiều điều phải kể lại với những người bạn đang ngồi đợi ở dưới kia, vì thế tôi buộc phải trở xuống và để người vợ trẻ thân yêu ở lại một mình. Cầu Chúa hãy ban phước lành cho chúng tôi! Mặc dù có những lúc buộc phải im lặng với nhau về chuyên này chuyện khác, nhưng tình cảm giữa hai chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thay đổi.
    Lúc tơi xuống dưới nhà, bác sĩ Seward và những người bạn đang ngồi quanh bếp lửa trong phòng. Tôi đọc lại cho họ nghe đoạn nhật ký mà tôi vừa tranh thủ viết khi còn ngồi trên tàu. Nghe tôi đọc xong, Van Helsing phán ngay :
    - Một khám phá rất quan trọng, anh bạn Jonathan ạ! Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta sắp tìm ra các thùng gỗ ấy rồi. Nếu chúng được giấu cả trong ngôi nhà Piccadilly thì công việc của chúng ta cũng sắp sửa được hoàn thành đến nơi. Nhưng hễ còn thiếu thùng nào, chúng ta sẽ còn phải vất vả vì thùng đó! Nếu cớ đủ mọi thông tin cần thiết, chúng ta chỉ còn việc đưa ra một đòn quyết định để tống tiễn con quỷ đó về với cái chết thực sự của nó.
    Chúng tôi trầm ngâm suy nghĩ cho đến lúc Moriss đột nhiên lên tiếng :
    - Anh thử nói xem chúng ta phải vào ngôi nhà đó bằng cách nào?
    - Thì cũng như ngơi nhà hoang bên kia thôi? – Huân tước Godalming đáp lại ngay tức thì. Anh nói rõ hay chửa! Làm gì có chuyện dễ như thế! Để vào Carfax, chúng ta có thể dùng móc để mở khóa. Hơn nữa, chúng ta lại được đêm tối và một khu vườn um tùm có tường bao quanh bảo vệ. Nhưng với ngôi nhà Piccadilly lại là một chuyện hoàn toàn khác, cho dù là ngày hay đêm thì cũng vậy thôi. Thú thực tôi vẫn chưa hiểu ta phải vào đó bằng cách nào, nếu như không có một ai đó cho mượn chìa khóa. Có lẽ sáng mai, khi anh nhận được thư của tay nhân viên kia, chúng ta phải xét đến chuyện này.
    Huân tước Godalming đứng dậy đi lại khắp phòng, mặt mày cau lại vì nghĩ ngợi. Rồi anh dừng lại nhìn chúng tôi khắp lượt :
    - Quincey nói cũng có lý đấy. Làm việc này chẳng khác nào đi ăn trộm. Chúng ta đã một lần chót lọt, nhưng lần này thì quả là một công việc khó khăn thực sự rồi... trừ phi bằng cách nào đó, chúng ta lấy được chìa khóa của lão bá tước. Vậy là chúng tôi chẳng thể đưa ra bất cứ một quyết định gì trước khi huân tước Godalming nhận được thư của công ty Mitchell vào sáng ngày mai. Tôi chỉ còn biết tranh thủ ghi thêm mấy dòng về những việc cuối ngày vào cuốn nhật ký của mình, rồi lặng lẽ đi ngủ, khi đã cảm thấy trong người mệt mỏi rã rời.
    Tuy nhiên, vẫn còn đôi dòng nữa tôi không thể không ghi lại. Mina đang ngủ rất say với những hơi thở đều đều. Tôi bỗng cảm thấy thật xót xa khi nhận ra những nếp nhăn trên vầng trán thanh tao của cô. Dường như ngay cả trong giấc ngủ, nỗi ưu tư, phiền muộn vẫn không chịu buông tha cô. Ngày mai, tôi hy vọng tất cả sẽ lại bình thường khi cô được trở về chính ngôi nhà của hai vợ chồng tôi ở Exerter. Ôi! Sao mà buồn ngủ thế không biết!

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 1 tháng 10
    Một lần nữa tôi không thể không nói về chuyện của bệnh nhân Renfield. Thứ nhất, tính khí của hắn bỗng có sự thay đổi đúng vào khi tôi kịp nắm bắt được lý do tại sao hắn lại xử sự lúc thế này, khi thế kia. Mặt khác, khi sự thay đổi tính khí của hắn không chỉ phụ thuộc duy nhất vào sự thoải mái trong nội tâm hắn, thì việc nghiên cứu sự thất thường trong con người hắn dường như lại mang tới cho tôi một lợi ích nghề nghiệp đáng kể. Sáng nay, lúc tôi tới tìm hắn, sau khi hắn có cuộc nói chuyện không mấy dễ chịu với Van Helsing, cách xử sự của hắn đúng là cách xử sự của một kẻ hoàn toàn làm chủ được vận mệnh của mình theo thiên hướng chủ quan. Quả thực hắn chẳng thèm bận tâm gì đến những chuyện của trần thế. Hắn đang sống trên chín tầng mây, và chính từ cái nơi vời vợi ấy, hắn đã nhìn chúng tôi chẳng ra sao cả. Tôi nghĩ chuyện hỏi hắn để may ra có thể hiểu thêm được một điều gì đó :
    - Thế hôm nay anh nghĩ sao về những con ruồi?
    Hắn cười khẩy nhìn tôi bằng ánh mắt kẻ cả :
    - Ruồi hả? Ông muốn nói về ruồi chứ gì? Thưa với ông rằng giống này lúc nào cũng có một tính cách thật ấn tượng đôi cánh mỏng manh của chúng luôn thể hiện rất lý tưởng sức mạnh không gian của các bộ môn tâm linh. Các bậc tiền nhân xưa rất có lý khi thể hiện linh hồn dưới dạng một cánh bướm?
    Tôi rất muốn hắn tiếp tục cái kiểu lý luận như vậy sao cho thật lôgích với suy nghĩ của hắn, bởi vậy, tôi không ngần ngại đáp lời :
    - Ồ! Vậy đó có phải là cái linh hồn mà ông đang tìm kiếm không?
    Hắn không biết lý luận ra sao nữa, nhưng hắn vẫn lắc đầu quầy quậy và quả quyết trả lời :
    - Không, không, không phải như vậy! Vấn đề không phải là linh hồn! Tôi chỉ muốn cuộc sống và chỉ thế mà thôi! Vả lại, tôi thấy cuộc sống thật công bằng với mình. Cuộc sống đối với tôi lúc này là một sự hoàn hảo, tôi đã có tất cả những gì mình muốn. Bác sĩ ạ, nếu như ông muốn nghiên cứu sâu hơn về bệnh tâm thần thì có lẽ ông nên tìm cho mình một bệnh nhân khác đi!
    - Vậy là anh đã sắp đặt được cuộc sống, anh đã lên tới bậc thánh rồi còn gì?
    Hắn lại nhếch mép cười bằng thái độ kẻ cả, nhưng lần này có vẻ đỡ trịnh thượng hơn.
    - Ồ, không! Tôi nghĩ còn lâu mình mới có những thuộc tính của Chúa Trời. Thậm chí tôi cũng chẳng có liên quan gì đến những lời, thuyết giảng của Ngài. Nếu như tôi phải định nghĩa trạng thái trí tuệ của mình so với những gì thuộc về phàm tục, thì hẳn nó sẽ phải ngang bằng với thứ hạng của Enoch.
    Những lời hắn nói đối với tôi thật mơ hồ, quả thực là tôi không thể nhớ nổi nhân vật có tên là Enoch của hắn có một vị trí như thế nào.
    - Ngang hàng với Enoch kia à? Tại sao vậy?
    Bởi ông ta được sánh với Chúa.
    Dù không hiểu được một mối liên hệ nào trong những lời hắn nói, nhưng tôi vẫn không định nói ra thắc mắc của mình. Tôi muốn hắn quay trở lại với những gì hắn nói lúc đầu.
    - Vậy là anh chẳng có gì bận tâm đến linh hồn, và cuộc sống này cũng chỉ làm anh động lòng có đôi chút. Anh có thể nói tại sao không?
    Tôi xẵng giọng hỏi cất để hắn lúng túng, xem hắn trả lời thế nào. Có lẽ tôi đã thành công, bởi sau một lúc nghĩ ngợi bế tắc hắn đã thực sự hạ mình xuống đúng như điệu bộ tầm thường mọi ngày của hắn.
    - Tất nhiên là không, tôi không cần bận tâm đến linh hồn làm gì, đơn giản là tôi không thích, và đó hoàn toàn là sự thật. Tôi chỉ làm những gì mình có; linh hồn đối với tôi chẳng dùng để làm gì cả. Tôi không thể lấy linh hồn để mà ăn, cũng chẳng thể...
    Hắn chợt im lặng giữa chừng, nét mặt thoáng lộ rõ vẻ gian xảo như một làn gió thổi gợn mặt nước hồ.
    - Còn với cuộc đời ? Xét cho cùng, nó là cái thá gì chứ, thưa bác sĩ? Một khi đã được vui vẻ với những gì mình muốn và thấy mình chẳng bao giờ bị thiếu thốn, thì tôi xin được hỏi là ông có thấy cần phải chờ đợi một cái gì khác nữa không? Bác sĩ ạ, tôi cũng có những người bạn tất như ông, và tôi cũng biết tôi sẽ chẳng bao giờ thiếu cái mình cần để có chỗ đứng trong cuộc sống này.
    Tôi nghĩ mặc dù đầu óc hắn đang nghĩ ngợi rất mông lung, nhưng hắn vẫn hiểu tôi không hề tán tưởng mớ lý luận của hắn, bởi sau những lời giải thích có vẻ như rất thật ấy, hắn bỗng im bặt. Biết là có tiếp tục cuộc nói chuyện cũng chẳng giải quyết được điều gì, tôi đành bỏ mặc hắn một mình trong phòng và ra về.
    Nhưng chỉ được một lúc, lại có người đến phòng gọi tôi và bảo rằng Renfield đang rất muốn được gặp tôi một lần nữa. Bình thường, tôi chỉ tới gặp hắn khi có một lý do cụ thể nào đó, nhưng lần này, tự nhiên tôi lại cảm thấy hắn thú vị đến nỗi không thể từ chối lời thỉnh cầu của hắn. Hơn nữa, nếu từ chối hắn trong lúc này thì tôi cũng chẳng còn biết mình phải làm gì nữa. Jonathan phải tiếp tục cuộc điều tra mới, huân tước Gođalming và Quincey cũng không có ở nhà. Còn Van Helsing thì đang mê mải xem lại những tài liệu mà vợ chồng nhà Harker đã chuẩn bị trong phòng làm việc của tôi. Ông không muốn ai tới quấy rầy nếu không có lý do chính đáng. Thực ra, tôi rất muốn ông đi cùng tôi tới phòng Renfield, nhưng nghĩ tới cuộc nói chuyện vừa rồi giữa hai người, tôi lại thôi.
    Hơn nữa, tôi sợ Renfield không nói chuyện cởi mở nếu xuất hiện thêm một người thứ ba.
    Như thường lệ, cứ nhìn thấy hắn ngồi chồm hỗm trên cái ghế đẩu đặt giữa phòng là tôi biết ngay đầu óc hắn đang “tư duy”. Nhác trông thấy tôi ló mặt vào, hắn liền quay ra hỏi luôn, cứ như từ nãy đến giờ, câu hỏi lúc nào cũng thường trực ở cửa miệng hắn :
    - Ông nghĩ sao về linh hồn?
    Tôi đã không nhầm: ở các bệnh nhân tâm thần, cũng như ở người bình thường vậy, thỉnh thoảng đầu óc vẫn làm việc trong trạng thái không có ý thức.
    Nhưng tôi phải kiểm tra xem sao.
    - Thế còn anh, anh quan niệm về nó như thế nào? – Tôi hỏi lại.
    Hắn ngồi im không trả lời, mắt hết nhìn lên trần nhà lại nhìn xung quanh bốn bức tường như thể đang muốn tìm nguồn gợi ý từ một sự vật nào đó cho câu trả lời của mình.
    - Tôi không muốn một linh hồn nào cả! - Hắn trả lời lí nhí như lẩn tránh sự thật.
    Tôi có cảm giác trong đầu hắn không phải là không có một ý nghĩ cụ thể nào, bởi vậy, tôi quyết định “làm tới” sự thật đó.
    - Anh vẫn rất yêu cuộc sống và rất muốn được sống, đúng không nào?
    - Ồ! Đúng thế, đúng thế! Cuộc sống là cái mà chúng ta, ai cũng muốn?
    - Nhưng làm sao để có được cuộc sống mà lại không phải phủ nhận sự tồn tại của linh hồn kia chứ?
    Thấy hắn có vẻ lúng túng vì câu hỏi khó này, tôi tiếp tục tấn công :
    - Tôi rất muốn anh có những phút êm đềm khi bay khỏi đây với linh hồn của hàng ngàn con ruồi, nhện, chim, mèo cùng với âm thanh líu lơ, vo ve và những tiếng kêu meo meo ngập tràn xung quanh! Anh đã lấy đi cuộc sống của những sinh vật ấy, bởi vậy anh cũng nên chấp nhận một chút linh hồn của chúng chứ!
    Có vẻ như tôi đã đánh trúng trí tưởng tượng của hắn, bởi tôi thấy hắn bỗng bịt tai lại, hai mắt nhắm nghiền như một đứa trẻ bị xát xà phòng vào mặt. Tôi cảm thấy xúc động đến khó tả, trước mặt tôi dường như là một đứa trẻ, mặc dù nét mặt mang đầy dấu ấn của một kẻ đã già. Trong đầu hắn hẳn lại đang trải qua một xáo trộn nữa. Biết rõ kiểu lý giải và cách xử sự của hắn trong những lần tranh cãi trước, tôi nghĩ mình phải hết sức thận trọng khi tìm hiểu dự kiến đang hình thành trong đầu hắn. Trước hết phải làm cho hắn tin. Tôi hỏi hắn, giọng cố nói thật to cốt để hắn nghe cho rõ, bởi hắn vẫn đang bịt chặt tai :
    - Anh có muốn lấy ít mật để gọi ruồi đến không?
    Hắn gật đầu, vừa cười vừa trả lời như hiểu ngay ra vấn đề :
    - Ồ! như ông biết đấy, xét cho cùng thì ruồi cũng chỉ là những con vật nhỏ bé đáng thương... - Hắn chợt im bặt rồi lại nói tiếp - Nhưng dù sao tôi cũng không muốn mình bị linh hồn của chúng suất ngày vo ve xung quanh.
    - Thế còn lũ nhện thì sao?
    - Tôi cũng chẳng coi lũ nhện ra sao cả? Chúng có ích gì chứ? Chẳng có gì trong cái vỏ thân xác của lũ nhện có thể ăn hay....
    Hắn lại chợt im bặt như vừa sực nhớ ra một điều gì đó không thể nói ra.
    “Tốt rồi, tốt rồi! - Tôi nghĩ bụng. Đây là lần thứ hai hắn im bặt khi định nói từ uống. Tại sao chứ?”
    Chắc đã nhận ra sai lầm trong câu nói nửa chừng, nên hắn mới quay sang chuyện khác như muốn đánh đánh trống lảng :
    - Tôi chẳng hề quan tâm đến những gì đại loại như chuột chù, chuột nhắt và tất cả những con vật nhỏ bé làm thức ăn cho gà nếu nói như Xếch-xpia! Tôi thấy ta nên chấm dứt câu chuyện về những con vật ngu ngốc này đi! Bắt tôi quan tâm đến những con vật mạt hạng này sẽ chẳng khác nào bảo một người Âu dùng đũa Tàu để gắp những miếng ăn nhỏ xíu! Tôi luôn hiểu những gì đang chờ đợi mình?
    - Tôi biết rồi! Cái anh muốn, đó chính là những con vật mà anh có thể ngoạm từng miếng ngập răng kia. Anh có cần người ta mang tới cho anh một con voi để điểm tâm không?
    - Điên rồ! Ông nói cứ như một thằng điên ấy!
    - Renfield này, tôi đang tự hỏi không hiểu con voi có một linh hồn như thế nào đấy? - Tôi nói, mặt ra vẻ rất đăm chiêu.
    Tôi đã đạt được hiệu quả mong muốn đối với tên bệnh nhân của mình, bởi ngay sau đó, hắn đã mất hẳn cái vẻ trịnh thượng, thay vào đó là cách xử sự như một đứa con nít :
    - Tôi không thèm linh hồn của của con voi, cũng chẳng cần bất cứ một linh hồn nào cả.
    Rồi hắn ngồi ngây người như phỗng và không thấy nói thêm câu nào nữa.
    Được một lát, hắn bỗng đứng bật dậy, đạp mạnh chiếc ghế đẩu sang một bên, mắt long sòng sọc như vừa chợt nghĩ ra một điều gì đó.
    - Quỷ tha ma bắt ông và những linh hồn của ông đi? - Hắn gắt lên. - Tại sao ông cứ quay tôi bằng những linh hồn quỷ quái như vậy chứ? Chẳng phải là linh hồn, mà ở đời này vẫn còn bao nhiêu điều khiến khác tôi phải đau đầu, chóng mặt đến phát điên lên, ông có hiểu không?
    Cơn điên bất chợt của hắn khiến tôi hoảng hất, vì sợ mình sắp sửa bị hắn cho một trận đòn nhừ tử. Bởi vậy, tôi phải móc ngay lấy cái còi trong túi và thổi váng lên để gọi mấy tay giám thị. Hắn lập tức dịu giọng xin lỗi tôi :
    - Xin lỗi bác sĩ, tôi quên mất. Ông không cần phải gọi người làm gì cả. Có quá nhiều điều bận tâm khiến tôi phải nổi khùng lên một cách vô lý. Giá như hiểu được vẫn đề mà tôi cần phải giải quyết, chắc là ông sẽ chẳng chấp tôi đâu. Xin ông đừng bắt tôi phải mặc áo trói nữa! Tôi cần phải suy nghĩ, và tôi không thể suy nghĩ trong tình trạng cơ thể mình bị bó buộc như một tên tù. Mong ông hiểu và thông cảm cho!
    Tất nhiên là hắn đã hoàn toàn làm chủ được bản thân khi dịu giọng nói với tôi. Khi những người giám thị hộc tốc chạy tới, tôi bảo họ có thể rút lui. Renfield đứng im nhìn họ ra về. Đợi cửa đã khép lại sau lưng họ, hắn mới bảo tôi, giọng vẫn nhẹ nhàng nhưng có phần nghiêm túc hơn :
    - Thưa bác sĩ Seward, quả thực là ông đã rất tận tụy với tôi trong những ngày qua, tôi thực sự ghi nhận tấm lòng cao cả của ông.
    Tôi chỉ gật đầu rồi ra về, bỏ mặc hắn với cái ý nghĩ mà hắn không thể dứt ra được trong đầu. Trường hợp của hắn thật xứng đáng để tôi phải hết sức chú ý kiểm tra, theo dõi.
    Bây giờ, tôi đã có thể rút ra một số điểm mà bấy lâu tối chưa để ý về hắn :
    Hắn chưa bao giờ nhắc đến từ “uống”.
    Hắn sợ cái ý nghĩ bị “linh hồn” của bất cứ một sinh vật nào quấy rầy.
    Hắn không sợ thiếu những gì hắn cần “để sống”. Hắn khinh bỉ mọi hình thức sống bậc thấp, tức là “những con vật nhỏ”, mặc dù hắn nghi mình bị ám bởi cái linh hồn của chúng.
    Xét về lôgích, tất cả điều này nói lên rằng hắn có một niềm tin rất vững chắc ở một cuộc sống bậc cao. Nhưng hắn lại rất sợ phải mang một gánh nặng linh hồn? Quan niệm về đời người của hắn là thế đấy?
    Nhưng còn niềm tin của hắn? Không hiểu niềm tin ấy đã xuất phát từ đâu?...
    Lạy Chúa cứu khổ cứu nạn? Chính bá tước Dracula là kẻ đã đến với hắn và gieo rắc vào đầu hắn niềm tin của cuồng vọng. Liệu có còn sự khủng khiếp nào đang chờ đợi chúng tôi nữa không?
    Một lúc sau - Tôi kể cho Van Helsing nghe những hoài nghi trong lòng về Renfield. Dường như câu chuyện tôi kể đã làm ông nghĩ ngợi rất nhiều. Sau khi nghe tôi kể một lúc, ông đề nghị tôi dẫn đến gặp hắn. Đến gần cửa phòng hắn, hai chúng tôi hơi ngạc nhiên khi nghe thấy có tiếng hát, một giọng hát rất vui vẻ. Bước vào phòng, chúng tôi còn ngạc nhiên hơn khi thấy những hạt đường được rải đầy gờ cửa sổ. Đàn ruồi, vốn không nhiều vào mùa thu, bắt đầu tới tấp thi nhau bay vào khắp phòng. Chúng tôi định kéo hắn về câu chuyện mà tôi vừa có dịp hàn huyên với hắn nhưng không được, hắn vẫn cứ hát nghêu ngao như chưa bao giờ có chúng tôi ở trước mặt. Hắn đang gấp một mẩu giấy gì đó rồi nhét vào cuốn sổ tay.
    Chúng tôi đành lặng lẽ ra về như khi vừa xuất hiện. Tối nay, tôi phải theo dõi xem hắn cố định giở trò gì không.

    Thư của Công ty Mitchell, Sons & Candy gửi huân tước Godalming

    Ngày 1 tháng 10
    “Thưa ngài huân tước,
    Chúng tôi thật hân hạnh khi lại có dịp được phục vụ ngài và được phép cung cấp cho ngài - theo đề nghị của ông Jonathan Harker - những thông tin liên quan đến việc mua bán khách sạn số 347 ở Piccadilly. Theo mong muốn của những người thực hiện chúc thư cho ngài Archibald Winter- Suffield để lại, địa ốc này đã được bọn chó bá tước Ville, một người nước ngoài và là người đã trực tiếp giao dịch, trả tiền mua ngôi nhà. Ngoài điều này ra, chúng tôi không biết thêm bất cứ một chi tiết nào về người ngoại quốc này.
    Mong tiếp tục có dịp được phục vụ ngài.
    Mitchell, Sons & Candy”

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 2 tháng 10
    Tối hôm qua, tôi đã lệnh cho một tay giám thị đứng ngoài hành lang trước cửa phòng Renfield để theo dõi hắn: ông ta không được phép rời khỏi vị trí một phút nào, và nếu thấy có chuyện gì bất bình thường thì phải báo cho tôi biết ngay lập tức.
    Sau bữa tối, chúng tôi quây quần ngồi hút thuốc xung quanh bếp lửa ở phòng tôi (tất nhiên là Mina đã lên giường nằm nghỉ). Ai cũng đăm chiêu theo đuổi ý nghĩ của riêng mình. Quả thực chỉ có Jonathan mới cho phép công việc của chúng tôi đi tới thành công, tất cả chúng tôi đều thửa nhận vai trò quan trọng của anh.
    Trước khi đi nghỉ, tôi quay lại chỗ tay giám thị trực đêm xem có vấn đề gì không. Tới phòng Renfield, tôi ngó nhìn hắn qua cửa kính: hắn đang ngủ say với những hơi thở đều đều.
    Nhưng sáng nay, tay giám thị lại đến báo cáo với tôi rằng khoảng sau nửa đêm một chút, Renfield bất ngờ tỉnh dậy và không ngớt gào thét, lảm nhảm cầu nguyện. Khi tôi hỏi còn chuyện gì nữa không, tay giám thị trả lời tất cả chỉ có vậy. Tôi đâm nghi ngờ: có lẽ ông ta đã ngủ quên. Khi tôi nói ra điều này, ông ta chối đây đẩy rằng ông ta không ngủ quên, mà chỉ “thiếp đi một lúc”.
    Hôm nay, Jonathan vẫn tiếp tục lên đường với mong muốn tìm ra dấu vết mà hôm qua đã phát hiện được, trong khi huân tước Godalming và Quincey đi tìm mua ngựa. Huân tước cho rằng lúc này, mỗi thông tin mà chúng tôi đang chờ đợi đều không thể bị bỏ phí bởi chậm trễ của chúng tôi. Trong thời gian từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, chúng tôi phải tìm cách vô hiệu hóa lòng đất chứa trong các thùng gỗ, chỉ có vậy chúng tôi mới có thể đối mặt với lão bá tước khi lão gần như mất hết quyền năng và nơi ẩn náu. Về phần mình, Van Helsing đã tới Bảo tàng Anh để tra cứu các cuốn sách thần y cổ xưa. Các thầy thuốc xưa thường có những khái niệm mà ngày nay chúng ta không còn chấp nhận nữa. Giáo sư muốn tìm những phương thuốc chống ma thuật và quỷ dữ mà ông cho là có ích cho chúng tôi sau này.
    Một lúc sau - Chúng tôi lại ngồi họp một lần nữa. Nếu như các dấu vết của lão bá tước được phát hiện rõ ràng, thì có lẽ ngày mai sẽ là sự bắt đầu cho hồi kết của câu chuyện khủng khiếp. Tôi tự hỏi liệu sự nguôi dịu của Renfield lúc này có liên quan gì đến tình hình hiện tại hay không. Giá như chúng tôi biết được suy nghĩ trong đầu hắn trong khoảng thời gian từ lúc tôi nói chuyện với hắn đến lúc hắn bắt ruồi thì chuyện đã dễ phán đoán hơn...
    Tay giám thị bỗng hộc tốc chạy vào báo cho tôi biết Renfield đang có chuyện, hình như hắn vừa bị tai nạn. Nghe tiếng hắn kêu thảm thiết, ông ta vội chạy vào thì thấy hắn đang nằm sóng soài dưới nền nhà, mặt úp xuống đất, máu me đầm đìa. Tôi tức tốc chạy đến phòng hắn...
     
  3. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 21
    Nhật ký của bác sĩ Seward



    Ngày 3 tháng 10
    Tôi xin phép được kể lại chính xác tất cả những gì đã xảy ra - trong chừng mực có thể nhớ - kể từ khi cuốn nhật ký này tạm được gấp lại. Tôi sẽ cố gắng không bỏ sót một chi tiết nào còn vương lại trong ký ức của mình.
    Khi tôi có mặt tại phòng Renfield, hắn vẫn đang nằm sóng soài giữa một vũng máu lênh láng trên nền nhà, người hơi nghiêng về bên trái. Lúc cúi xuống định nâng hắn dậy, tội mới nhận ra hắn bị thương rất nặng, nhất là ở mặt: mặt hắn chính là nơi máu chảy ra thành vũng trên nền nhà, dường như hắn đã bị đập mặt nhiều lần xuống đất. Cúi xuống cùng tôi lật ngửa hắn dậy, tay giám thị lắp bắp :
    - Chắc là hắn đã bị gãy cột sống. Ngài thử nhìn mà xem, tay phải, chân phải và toàn bộ một bên mặt hắn đều bị liệt hết cả rồi. Không hiểu sao hắn lại bị tai nạn nghiêm trọng đến thế.
    Đây là câu hỏi khiến cho tay giám thị hết sức bất ngờ và lúng túng.
    - Tôi chẳng hiểu tại sao cả. - Anh ta nhíu mày thú nhận. - Tất nhiên là hắn bị thương vì bị đập mặt nhiều lần xuống nền nhà. Hồi trước, khi còn làm ở nhà thương Eversfield, tôi đã có lần thấy một phụ nữ cũng bị rơi vào tình trạng tương tự trước khi có người kịp lao vào ngăn chặn... Nếu hắn bị gãy cổ thì có thể bảo rằng hắn ngã vì bước hụt từ trên giường xuống, nhưng đằng này hắn lại bị thương ở mặt và gãy cả cột sống, thật không hiểu thế nào... Nếu lưng bị gãy thế này thì làm sao hắn có thể đập mặt xuống đất, và nếu hắn đã bị thương be bét ở mặt trước khi rơi khỏi giường thì ở trên chăn gối phải có vết máu chứ?
    - Chạy đi gọi bác sĩ Van Helsing đến ngay đây - Tôi ra lệnh - Tôi cần ông ấy đến đây ngay bây giờ?
    Tay giám thị tức tốc chạy đi gọi, và vài phút sau đã thấy anh ta hớt hải quay lại cùng với Van Helsing. Nhìn thấy Renfield nằm dài dưới đất, giáo sư kinh ngạc quan sát rồi quay sang bảo tôi :
    - Một tai nạn thật đáng tiếc? Cần phải theo dõi hắn liên tục, đừng nên để hắn một mình nữa... Có lẽ tôi sẽ ở lại với hắn. Nhưng bây giờ, tôi phải về thay quần áo cái đã, ai lại mặc đồ ngủ thế này. Nếu anh vẫn ở đây thì vài phút nữa ta sẽ gặp lại nhau.
    Renfield bỗng thở rống lên, rõ ràng là hắn đang phải trải qua một cơn đau ghê gớm nhất trong đời. Vài phút sau, Van Helsing quay lại với túi dụng cụ phẫu thuật trên tay. Trong lúc quay về phòng thay quần áo, trong đầu ông đã có cách giải quyết đối với tên bệnh nhân của tôi. Trước khi khám cho hắn, ông nói nhỏ vào tai tôi :
    - Anh bảo tay giám thị kia đi ra ngoài đi. Sau khi được phẫu thuật, Renfield sẽ hồi tỉnh, và tôi muốn khi đó chỉ có chúng ta ở lại đây với hắn.
    - Cám ơn Simmons, - Tôi nói với tay giám thị - chúng ta đã làm tất cả những gì có thể... Bây giờ, cần phải chờ đợi xem đã Bác sĩ Van Helsing cần phải mổ cho hắn. Anh hãy đi thăm các bệnh nhân khác đi. Nếu có chuyện gì khác thường thì phải chạy về báo cho tôi biết ngay đấy nhé.
    Đợi anh ta ra khỏi cửa, chúng tôi mới bắt đầu khầm lại thật kỹ lưỡng cho tên bệnh nhân. Mặt hắn chỉ bị bị thương ở bên ngoài. Điều nghiêm trọng hơn là vết rạn khá dài ở sọ não. Van Helsing suy ngẫm một lát rồi bảo tôi :
    - Trước hết, chúng ta phải làm hạ huyết áp động mạch xuống mức bình thường nếu có thể, mạch hắn đập nhanh khủng khiếp, sọ não hắn chắc chắn đã bị chấn thương, cần phải tiến hành khoan hút máu tụ ngay, nếu không sẽ muộn mất.
    Ông chưa nói dứt lời thì bên ngoài chợt có tiếng gọi cửa. Tôi chạy vội ra xem ai, hóa ra là Arthur và Quincey, hai người vẫn đang mặc bộ đồ ngủ.
    - Tôi nghe tiếng anh giám thị gọi bác sĩ Van Helsing và nói về vụ tai nạn. - Godalming phân trần với tôi. - Bởi vậy, tôi mới gọi Quincey chạy đến đây. Các sự kiện xảy ra nối tiếp nhau thật khó hiểu khiến cho hai chúng tôi không thể ngủ được. Thú thực là nằm vắt tay lên trán, tôi bỗng ngờ ngợ rằng ngày mai, chiều hướng của mọi sự việc xung quanh chúng ta có thể sẽ thay đổi. Chúng ta phải nhìn nhận lại những gì đã ở lại phía sau - thậm chí là phải nhìn nhận xa hơn một chút đối với những gì chúng ta đã làm được tới nay.
    - Chúng tôi có thể vào được không?
    Tôi mở cửa mời họ vào và lại đóng kín cửa lại. Nhìn thấy Renfield nằm đài trên một vũng máu, Quincey hỏi, mặt tái đi :
    - Lạy Chúa, có chuyện gì với anh chàng tội nghiệp này thế?
    Tôi vắn tắt lại sự việc đã xảy ra và cũng nói luôn hy vọng của mình cùng Van Helsing: Renfield sẽ hồi tỉnh, dù chỉ là chốc lát, sau khi được phẫu thuật.
    Nghe tôi nói, Quincey lẳng lặng ngồi xuống mép giường, Arthur đến đứng bên cạnh anh. Tất cả chúng tôi cùng chăm chú theo dõi Renfield.
    - Cần phải đợi một lát mới được, - Van Helsing nói với chúng tôi - tôi phải kiểm tra chính xác đâu là điểm cần phải mổ để lấy ra cục máu đông. Rõ ràng hiện tượng xuất huyết của bệnh nhân đang mỗi lúc một trầm trọng hơn.
    Từng phút trôi qua chậm chạp đến đáng sợ. Chúng tôi đổ dồn mắt nhìn bác sĩ Van Helsing, tất cả lúc này đều tùy thuộc vào chẩn đoán của ông. Về phần mình, thú thực là tôi không tin Renfield có thể nói với chúng tôi một điều gì đó. Tôi thậm chí còn không dám nghĩ đến điều đó. Nhịp thở của kẻ bất hạnh đang mỗi lúc một đứt đoạn rõ hơn, mặc dù có những giây lát hắn gây cho tôi cảm tưởng hắn đang định mở mắt để nói một đôi lời. Tiếng rống của hắn cũng trở nên khó nhọc hơn, hắn đang chìm vào tình trạng hôn mê hoàn toàn. Tôi cảm thấy mình không còn chịu nổi với bao nhiêu cảm xúc đang trào dâng vì hắn.
    Nhìn những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán những người bạn, tôi hiểu họ cũng đang chung một cảm xúc với tôi.
    Rõ ràng là cái chết có thể đến với Renfield vào bất cứ lúc nào. Tôi ngoảnh lại nhìn thẳng vào mắt vị giáo sư già một hồi lâu.
    - Đừng để mất thêm một phút nào nữa! - Ông nói. - Điều hắn có thể tiết lộ cho chúng ta biết đâu sẽ cứu được rất nhiều mạng sống. Thậm chí nó còn mở ra một sự siêu thoát cho tâm hồn của hắn nữa. Chúng ta sẽ gắp cục máu đông ngay phía trên tai anh ta.
    Đoạn ông bắt tay ngay vào công việc phẫu thuật của mình. Tên bệnh nhân thỉnh thoảng vẫn thở rống lên đau đớn, rồi chợt rú lên một tiếng thảm thiết xé lồng ngực. Ngay sau tiếng kêu đau đớn ấy, hắn mở tròn mắt ngơ ngác, nét mặt vừa ngạc nhiên vừa vui sướng; tôi còn nghe rõ tiếng thở phào của hắn. Hắn vừa nói, vừa mỉm cười, khóe mép giật giật :
    - Tôi sẽ bình thường lại thôi, thưa bác sĩ. Ngài hãy bảo họ cởi giùm tôi cái áo trói này ra với. Tôi vừa trải qua một giấc mơ khủng khiếp quá, nó khiến tôi kiệt sức và không thể cử động được nữa. Mặt tôi sao rồi? Tôi thấy nó rát như phải bỏng ấy.
    Hắn thử quay đầu sang một bên nhưng không nổi, có lẽ hắn đã thực sự cảm nhận được sự bất lực của mình, bởi ánh mắt vừa ánh lên niềm vui của hắn bỗng đang chuyển sang đờ đẫn như một kẻ chết rồi.
    Van Helsing quan sát và chậm rãi bảo hắn :
    - Renfield này, hãy kể cho chúng tôi nghe cơn mê của anh đi.
    Nhận ra giọng nói của giáo sư, mặt hắn như rạng rỡ hẳn lên bất chấp những vết thương còn đang rỉ máu.
    - Thì ra là bác sĩ Van Helsing! Ngài thật tử tế khi vẫn còn nhớ tới tôi! Cho tôi xin ngụm nước, cổ họng tôi đang khô cháy lên đây. Rồi tôi sẽ kể cho các ông nghe... Tôi đã nằm mơ...
    Hắn bỗng im bặt như sắp sửa lại ngất đi một lần nữa.
    - Nhanh lên, - Tôi bảo Quincey - anh hãy chạy về lấy hộ tôi chai rượu mạnh vào đây? Trong phòng tôi ấy! Moriss gần như trở lại ngay lập tức, tay cầm theo một cái ly, một chai rượu mạnh nhỏ và một bình nước. Được nhấp môi một chút, Renfield tỉnh ngay, đôi mắt hắn ánh lên một nỗi buồn vô tận khiến suất đời tôi cũng không thể quên được.
    - Hẳn là tôi không bị ảo giác đánh lừa, rõ ràng đây không phải giấc mơ... đây là một thực tại đáng sợ! Hắn đờ đẫn đưa mắt nhìn khắp phòng và dừng lại ở hai người đang ngồi trên giường.
    - Nếu tôi còn nghi hoặc, thì sự có mặt của họ sẽ giúp tôi khẳng định là tôi đang sống với thực tại.
    Hắn nhắm mắt lại một lát, không phải là do đau đớn hay mệt nhọc, mà là do hắn muốn tập trung sự chú ý của mình. Khi mở mắt ra, hắn vội vàng đi ngay vào câu chuyện bằng một nghị lực lớn nhất mà tôi chưa từng thấy ở hắn :
    - Nhanh lên, bác sĩ! Phải nhanh lên? Tôi sắp chết rồi. Tôi cảm thấy mình chỉ còn sống được vài phút nữa thôi! Rồi tôi sẽ tìm về cái chết - hoặc một cái gì đó còn tồi tệ hơn thế nhiều? Cho tôi nhấp thêm một chút rượu nữa đi. Tôi có một vài điều muốn nói với các ông trước khi chết, hoặc trước khi đầu óc bị tê liệt hoàn toàn. Cảm ơn... Chuyện xảy ra vào cái đêm tôi xin các ông về nhà nhưng các ông không đồng ý và bỏ đi, để lại tôi trong phòng một mình. Khi đó, tôi rất muốn nói ra sự thật, nhưng sức ép không cho phép tôi làm như vậy, mặc dù tôi đã hoàn toàn tỉnh táo về lý trí, tỉnh táo như lúc này vậy. Hôm đó, sau khi các ông đi rồi, bỗng nhiên tôi cảm thấy mình bị chìm sâu vào một nỗi thất vọng vô tận không thể chịu nổi trong nhiều giờ. Thế rồi sự tỉnh lặng trở lại với tôi lúc nào cũng chẳng rõ, tinh thần tôi trở lại thăng bằng, và lại nhận thức được mình đang ở đâu. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy những tiếng chó sủa dữ dội sau nhà thương, đúng gần chỗ lão đứng!
    Từ nãy đến giờ, Van Helsing vẫn chăm chú nhìn Renfield nói và tránh những cử chỉ có thể gây mất tập trung cho đầu óc hắn. Thỉnh thoảng ông lại nắm chặt vào tay tôi.
    - Anh cứ nói tiếp đi? - Ông khẽ nói với tên bệnh nhân.
    - Và ngay sau đó, tôi thấy lão bất ngờ xuất hiện ngoài cửa sổ phòng mình với một lớp sương mù bao bọc xung quanh người như tôi vẫn thường thấy ở lão những lần trước, nhưng lần này lão chẳng có vẻ gì của một bóng ma cả, thay vào đó là đôi mắt long sòng sọc như đôi mắt của một kẻ đang nổi cơn thịnh nộ. Lão nhe răng cười trên đôi môi đỏ chót, và khi lão ngoái lại nhìn về những lùm cây, nơi có những con chó đang sủa ầm ĩ, tôi thấy hàm răng trắng và nhọn hoắt của lão chợt lóe lên dưới ánh trăng. Lúc đầu, tôi không định bảo lão vào phòng, mặc dù đó là điều lúc nào lão cũng rất muốn ở tôi. Nhưng sau đó, lão bắt đầu có những lời hứa đối với tôi, và đó không chỉ là những lời hứa suông, mà còn có cả những hành động tức thì.
    - Lão hứa thế nào? - Giáo sư gặng hỏi.
    - Điều lão hứa được thực hiện ngay lập tức, ví dụ như khi mặt trời chiếu sáng, lão xua đàn ruồi bay đầy vào phòng tôi. Tất cả đều là những con nhặng to bự có đôi cánh xanh óng ánh. Còn buổi tối, lão lại gửi đến tôi những con bướm sâu đo có cái đầu tử thần và những hình vằn vện trên lưng.
    Van Helsing gật đầu động viên hắn nói tiếp, nhưng hắn lại lảm nhảm một câu vô nghĩa trong trạng thái gần như không còn ý thức :
    - Acherontia Aitetropos du Sphinges...
    Nhưng hắn cũng sực tỉnh ngay lập tức :
    - Lão bắt đầu lẩm bẩm: “Đàn chuột đâu, đàn chuột đâu, đàn chuột đâu! Hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu con nhé rất nhiều mạng sống nhé. Cả đàn chó, đàn mèo đâu rồi, đến nhai sống lũ vật hèn hạ này đi! Tất cả đều phải chảy máu, bao nhiêu máu chảy, bấy nhiêu năm được sống, không chỉ còn là ruồi nữa nhé?” Tôi cười thật khoái trí, bởi tôi muốn biết lão có những khả năng gì. Vừa lúc đó, có tiếng chó sủa ầm ĩ dưới kia, phía sau những lùm cây bên nhà lão. Lão ra hiệu cho tôi tiến gần lại cửa sổ. Tôi ngồi dậy và tiến về phía lão. Lão giơ hai tay lên trời như muốn gọi một cái gì đó mà chẳng cần nói đến nửa lời. Và rồi một bóng đen sẫm không hiểu từ đâu bất ngờ ập đến trên thảm cỏ và lao vút về phía chúng tôi với rất nhiều đốm đỏ trông chẳng khác nào một chùm pháo hoa. Lão đẩy lớp sương mù bao bọc sang hai bên. Ngay sau đó, tôi nhận ra hàng ngàn con chuột có những con mắt đỏ ngầu ánh lửa giống như đôi mắt lão, khác chăng là nhỏ hơn một chút. Một lần nữa, lão dang rộng hai cánh tay lên: tất cả bỗng dừng lại. Tôi có cảm giác lão đang bảo tôi: “Tất cả những mạng sống này và sẽ còn nhiều mạng khác nữa, ta đành tặng cho ngươi, và điều quan trọng hơn, chúng sẽ thuộc về ngươi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác nếu như người chịu quỳ gối trước ta và tôn thờ ta?” Và thế là có một đám mây đỏ đỏ như máu - lập tức kéo đến trước mắt tôi, khi tôi còn chưa kịp ý thức được điều mình cần phải làm. Tôi mở cửa sổ gọi lão: “Vào đi thưa Đức” Ông, thưa chủ nhân của tôi?” Đàn chuột biến mất, còn lão thì chui ngay qua cửa sổ, mặc dù cánh cửa chỉ hơi hé mở. Tôi có cảm giác lão lẻn vào như một ánh trăng mảnh mai lọt qua khe cửa cực hẹp để xuất hiện trước mặt tôi với đầy quyền uy.
    Giọng kể của Renfield bỗng yếu đi rõ rệt, tôi cho hắn nhấp thêm một chút rượu mạnh, và hắn lại tiếp tục câu chuyện ác mộng của mình, nhưng trí nhớ của hắn bắt đầu có vấn đề, các sự kiện trong hồi ức của hắn có nguy cơ khống được ráp nối lại thành mạch. Tôi định gợi lại đoạn hắn vừa nói, nhưng Van Helsing đã ngăn lại và nói nhỏ vào tai tôi :
    - Cứ để hắn kể... Đừng ngắt mạch trí nhớ của hắn. Nhắc lại với hắn bây giờ là không thể được, thậm chí hắn còn không thể kể thêm được một điều gì nữa một khi mạch suy nghĩ của hắn bị đứt hoàn toàn.
    - Tôi ngồi đợi lão suốt cả ngày với hy vọng lão sẽ gửi cho tôi một cái gì đó. Nhưng không, chẳng có gì hết... ngay cả một con ruồi cũng không. Khi ánh trăng ló rạng, tôi bắt đầu giận phát điên vì lão. Khi thấy lão lừ lừ trườn vào phòng qua khe cửa sổ còn đóng kín, tôi nổi khùng lên thực sự. Nhìn tôi lên cơn điên, lão khoái trá cười sằng sặc hai mắt sáng quắc như lửa cháy trong lớp vỏ bọc sương mù. Lão cứ làm như phòng tôi là nhà của chính lão, còn tôi thì không hề tồn tại trên đời.
    - Khi đi ngang qua người tôi, toàn thân lão bốc ra một mùi gì đó thật khác thường. Tôi không thể giữ được lão. Tôi nghĩ rằng vào lúc đó, bà Harker đã về phòng mình rồi.
    Arthur và Quincey sốt ruột đứng dậy, rón rén bước về phía sau Renfield nhưng không để hắn trông thấy. Lúc này, dù rất lo lắng và sốt ruột, nhưng Van Helsing vẫn phải im lặng và kiên nhẫn đợi hắn kể tiếp.
    - Khi tới gặp tôi vào buổi chiều, bà Harker đã không còn là chính mình nữa. Tôi chỉ nghi ngờ về sự có mặt của bà ấy khi bà ấy bắt đầu lên tiếng. Không, bà ấy không còn là bà ấy nữa. Tôi không còn cảm thấy bị hấp dẫn bởi những người có nước da xanh xao, nhợt nhạt nữa, tôi chỉ thấy thích những người da dẻ hồng hào, mà bà ấy thì lại như không còn chút máu nào trong người nữa. Điều đó không đập vào mắt tôi ngay khi bà ấy bước vào, nhưng khi bà ấy ra về, tôi bắt đầu nghi ngờ, tôi nghĩ bà ấy đã bị lão bòn rút cuộc sống, và thế là tôi lại phát điên. Tối nay, tôi cũng đợi lão đến! Quả thực là lớp vỏ sương mù lại tiến đến gần phòng tôi và chui vào trong. Tôi đã chuẩn bị tinh thần để túm lấy cái màn sương ma quỷ ấy? Hình như những người điên thường có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, và vì biết mình cũng là một thằng điên, ít nhất thì cũng có đôi lúc như vậy, nên tôi đã quyết định phải sử dụng sức mạnh đó. Hình như lão cũng cảm nhận được ý nghĩ của tôi thì phải, bởi lão đã bước ra khỏi lớp vỏ sương mù để đánh nhau với tôi. Đơn giản là tôi không muốn lão tiếp tục tấn công một người đàn bà, thế thôi. Tôi trụ vững vàng lắm, thậm chí có lúc tôi còn cảm thấy mình có thể chơi lão ngon lành, nhưng khi tình cờ bắt gặp ánh mắt lão, người tôi bỗng nhũn như con chi chi. Dường như ánh mắt cuồng vọng của lão đã thiêu trụi một cái gì trong con người tôi, sức mạnh của tôi tan dần, tan dần như một dòng nước yếu ớt. Chỉ đợi có vậy, lão bất ngờ túm lấy tôi và dang tay quẳng mạnh xuống đất, cho dù tôi đã cố túm chặt lấy người lão một lần nữa. Lại có một đám mây nữa ùn ùn kéo đến trước mắt tôi cùng với những tiếng rền ầm ì như tiếng sấm. Đám sương mù co cuộn lại, và loáng một cái, nó đã biến mất dạng dưới khe cửa ra vào.
    Giọng hắn mỗi lúc một yếu dần, hơi thở của hắn cũng trở nên khó khăn hơn.
    - Bây giờ, chúng ta đã biết một điều cơ bản nhất nhưng cũng là điều khủng khiếp nhất... - Van Helsing thốt lên.
    - Vậy là lão đang ở đây chứ không phải ở đâu xa, và chúng ta cũng rõ là lão đang tìm ai rồi. Có lẽ cũng chưa đến nỗi quá muộn. Tìm vũ khí đi thôi, giống như đêm hôm nọ ấy, nhưng phải nhanh lên, đừng chậm chễ thêm một phút nào nữa!
    Khỏi phải tìm lời tả lại nỗi bàng hoàng và lo sợ của chúng tôi lúc này. Chúng tôi chạy nháo nhào về phòng mình, tìm lại những đồ vật đã được sử dụng hôm vào nhà lão bá tước Giáo sư đã cầm sẵn các thứ trong người, khi ra tới hành lang, ông chìa cả nắm cho chúng tôi xem và bảo :
    - Lúc nào tôi cũng mang theo những thứ này bên mình, chúng sẽ là những vật bất ly thân của tôi, chừng nào nhiệm vụ của chúng ta còn chưa được hoàn thành. Cả các bạn nữa, làm gì cũng phải thận trọng mới được! Bởi lão bá tước không phải là một kẻ tầm thường, xin mọi người nhớ cho điều đó. Lạy Chúa! Lạy Chúa! Nào ngờ Mina lại phải hứng chịu bất hạnh như vậy?
    Giọng ông nghẹn ngào rồi im bặt. Về phần mình, tôi không thể nhanh nhẹn được nữa, không hiểu sự phẫn nộ hay nỗi khiếp sợ đã níu chặt bàn chân tôi.
    Đến trước cửa phòng hai vợ chồng Harker, chúng tôi bỗng dừng cả lại.
    - Chúng ta có nên đánh thức anh ta dậy không? - Quincey hỏi.
    - Có chứ, cần phải gọi anh ta dậy, - Van Helsing đáp lại và nếu cửa vẫn cứ khóa, ta phải phá ra mà xông vào thôi.
    - Nhưng làm thế sẽ khiến họ sợ phát khiếp! Ai lại vào phòng phụ nữ như thế bao giờ? - Quincey nói, giọng rất hệ trọng.
    Bình thường thì anh có lý, nhưng vấn đề lúc này là sống hay là chết. Một bác sĩ có thể vào tất cả các phòng bất cứ khi nào và cách nào anh ta muốn và nếu điều đó vẫn chưa thể chấp nhận được theo thường lệ thì tối hôm nay, nó phải được chấp đối với tôi. Anh bạn John ạ, tôi sẽ xoay chất cửa, nếu cánh cửa vẫn không chịu mở thì anh phải hích vai thật mạnh vào đấy nhé! Cả hai anh bạn này cũng vậy. Nào, bắt đầu nhé?
    Ông xoay mạnh tay nắm cửa, nhưng cánh cửa vẫn không hề nhúc nhích. Cả nhóm chúng tôi hè nhau hích mạnh vai khiến cánh cửa bật mở đánh rầm, Van Helsing mất đà ngã bổ chửng, khiến chúng tôi loạng choạng suýt ngã theo. Trong khi giáo sư còn chưa kịp đứng dậy, tôi bỗng bủn rủn hết cả người, tóc dựng ngược như lông nhím vì cảnh tượng hãi hùng trong phòng.
    Ánh trăng vằng vặc tỏa ánh vàng xuống vạn vật ngoài kia, dù bị bức mành da cam treo trên cửa sổ chặn lại, vẫn đủ sáng để soi tỏ căn phòng. Chúng tôi hoàn toàn nhìn rõ những gì đang diễn ra bên trong. John Harker đang nằm kia, trên chiếc giường đặt gần cửa sổ, nhưng mặt anh thì đỏ như gấc, hơi thở nặng nhọc trong tình trạng mê man bất tỉnh. Đang quỳ gối trên một chiếc giường khác, ở phía mép giường gần chúng tôi, là bóng một người đàn bà mặc đồ trắng, và đứng sát ngay người đàn bà ấy là một bóng đàn ông cao lớn mặc bộ đồ đen, người gầy đét. Mặc dù không đối diện nhau, nhưng chúng tôi vẫn nhận ngay ra đó là lão bá tước. Tay trái lão túm chặt hai cánh tay đang duỗi thẳng về một bên của người phụ nữ, trong khi tay phải tóm thô bạo vào gáy cô. Thấy chúng tôi xông vào, lão quay phắt lại: trước mắt chúng tôi là một bộ mặt xanh tái đầy những nét ma quỷ, giống hệt như những gì Jonathan đã mô tả trong nhật ký của anh. Vâng, tôi nhận ra trên bộ mặt ấy hai con mắt ngùn ngụt lửa tức giận, cái mũi khoằm như mỏ diều hâu đang thở phì phò, hai hàm răng trắng ởn và nhọn hoắt sau đôi môi đỏ chót... Cơn giận điên cuồng khiến lão đẩy người phụ nữ ngã đập ngửa xuống giường và nhảy xổ về phía chúng tôi. Nhưng Van Helsing đã kịp giơ chiếc bánh thánh ra trước mặt, buộc lão phải đứng im và lùi lại, giống hệt như trường hợp của Lucy ngoài nhà mồ đêm nọ. Chúng tôi càng tiến tới, lão càng lùi lại và nhỏ dần đi. Bên ngoài, một đám mây đen khổng lồ bất ngờ bay ngang qua mặt trăng khiến cho cảnh vật tối đen lại.
    Khi Quincey kịp bật đèn lên thì trước mắt chúng tôi chỉ còn là một làn hơi sương mờ mờ luồn qua khe cửa. Van Helsing, tôi và Arthur vội vàng ào đến bên giường Mina. Tiếng thét tuyệt vọng của cô như vang vọng mãi trong đầu tôi, khiến tôi có cảm giác đến cuối đời mình cũng chẳng thể quên được. Người cô lả đi như một tàu lá úa, nét mặt tái mét, giật giật liên hồi lộ rõ sự khiếp sợ, còn ánh mắt thì đờ đẫn, vô hồn như một kẻ điên đại, từ cổ cô vẫn đang rỉ ra một dòng máu nhỏ. Nhận ra chúng tôi, cô bưng mặt như muốn che đi nỗi tủi nhục, tan nát trong lòng. Tôi hiểu tiếng thét của cô chỉ là xúc cảm tạm thời của một cảm xúc đau đớn và tuyệt vọng đến vô tận.
    Quincey thất thần đứng nhìn Mina rồi lặng lẽ bỏ ra ngoài không hiểu để làm gì, trong khi Van Helsing kéo tấm chăn đắp nhẹ lên người cô và nói nhỏ vào tai tôi :
    - Theo như kinh nghiệm của tôi, Jonathán cũng đang rơi vào trạng thái khiếp nhược tột độ mà chỉ có ma cà rồng mới tạo ra nổi. Chúng ta chưa thể làm gì cho người phụ nữ tội nghiệp này trước khi cô hồi tỉnh, nhưng còn Jonatban, chúng ta phải làm cho anh ta tỉnh dậy.
    Giáo sư nhúng một tấm khăn vào nước lạnh và khẽ vỗ lên hai má Jonathan, trong khi Mina vẫn ôm mặt thổn thức miên man. Tôi kéo rèm nhìn ra cửa sổ.
    Đám mây bay đi rồi, ánh trăng vằng vặc sáng trở lại. Tôi bỗng nhận ra Quincey đang vừa đi vừa chạy qua thảm cỏ dưới vườn và biến mất dạng dưới một lùm cây thông. Có chuyện gì thế nhỉ? Tôi thật không hiểu. Cùng lúc đó, tiếng kêu ú ở nửa tỉnh nửa mê của Jonathan làm tôi giật mình quay lại. Tôi đọc được sự ngạc nhiên trên nét mặt ngơ ngác của anh. Dễ phải đến một phút sau, anh mới trở lại với thực tại trước khi ngồi dậy. Có lẽ tiếng kêu bất ngờ và hành động giật cục của anh đã làm Mina bừng tỉnh. Cô quay ngoắt về phía anh, hai tay dang rộng như muốn ôm chầm lấy người chồng thân yêu, nhưng rồi lại vội co về ôm mặt, toàn thân run lên bần bật.
    - Chúa ơi? - Jonathan quỳ xuống giường than thở. – Có chuyện gì thế này? Bác sĩ Van Helsing, bác sĩ Seward, có chuyện gì thế này? Đã xảy ra chuyện gì thế này? Mina ơi, em bị làm sao vậy? Sao người em lại dính máu thế kia? Thượng đế ơi! Chúa ơi! Hãy cứu giúp chúng tôi với, hãy giúp cô ấy với!
    Rời anh nhảy bổ xuống nền nhà như chuẩn bị ra tay hành động trước đòi hỏi cấp thiết của tình thế.
    - Đã xảy ra chuyện gì thế này? Kể cho tôi nghe đi! – Anh gặng hỏi như không tin ở sự thật, nét mặt còn chưa hết bàng hoàng. - Thưa bác sĩ Van Helsing, tôi biết ngài đã dành trọn tình bạn cao cả cho Mina. Ngài hãy làm ơn cứu cô ấy đi? Ngài có thể làm được mà, chưa đến nỗi quá muộn đâu, phải không bác sĩ? Ngài hãy chăm sóc cô ấy, để tôi đuổi theo lão!
    Mặc dù đầu óc còn đang rối loạn, nhưng Mina đã phần nào hiểu ra sự nguy hiểm sắp đến gần với cô. Quên hết mọi sự đau khổ ê chề, cô nắm chặt tay anh kéo lại :
    - Đừng đi, Jonathan? Đừng đi làm gì cả, anh ơi? Chúa đã biết tình cảnh đêm nay của em rồi? Anh có đi cũng chỉ làm mồi cho lão mà thôi, làm sao em chịu nổi cảnh vắng anh trong lúc này. Đừng bỏ mặc em mà đi. Hãy ở lại đây với em và những người bạn của mình đi!
    Càng nói, cô càng xúc động mạnh hơn. Lời nói nghẹn ngào của cô khiến Jonathan không thể đành lòng bỏ đi. Cô kéo anh ngồi xuống giường và ôm ghì lấy anh.
    Van Helsing và tôi phải cố gắng lựa lời an ủi hai vợ chồng bất hạnh. Giáo sư chìa cây thánh giá vàng ra trước mặt vỗ về họ :
    - Đừng sợ gì cả, các bạn ạ, đã có chúng tôi ở đây, chừng nào cây thánh giá còn ở bên các bạn thì chừng đó các bạn sẽ chẳng thể bất hạnh được. Đêm nay, các bạn đã được che chở. Đừng lo nghĩ nhiều làm gì, chúng ta còn phải bình tĩnh để suy nghĩ về những việc cần làm chứ.
    Mina ngả đầu vào lòng người chồng yêu dấu và không than vãn gì thêm, nhưng người cô run rẩy như phải sốt. Khi cô đứng dậy, tôi chợt nhận ra mảnh áo sơ mi trên ngực Jonathan có dính vết máu từ môi cô và những vết máu khác chảy xuống từ cổ cô. như sực hiểu ra mình vừa nạn nhân của lão bá tước, cô giật mình lùi lại trong tiếng nấc nghẹn ngào :
    - Dơ bẩn, tôi đã trở thành một kẻ dơ bẩn?... Vậy là tôi chẳng còn bao giờ được ôm hôn anh ấy nữa rồi! Trời ơi! Tôi bây giờ đã trở thành kẻ thù khốn nạn nhất của anh ấy và mọi người, tôi là kẻ đáng khinh bỉ nhất!
    - Đừng nói thế, Mina! - Jonathan an ủi bằng một giọng quả quyết - Tại sao em lại nói thế Anh không cho phép em nói như vậy vì bất cứ lý do gì. Cho dù anh có phải hứng chịu những đau khổ thế nào thì cũng không có chuyện anh bỏ mặc em.
    Anh ôm chầm lấy người vợ bé nhỏ và ghì chặt vào lòng.
    Cô cắn chặt môi, cố nén những tiếng nức nở tưởng chừng không bao giờ dứt.
    Cuối cùng, khi những tiếng thổn thức của người vợ hiền đã dịu đi, Jonathan cố lấy bình tĩnh hỏi lại tôi, mặc dù giọng không giấu được vẻ căng thẳng :
    - Thưa bác sĩ Seward, bây giờ anh hãy kể cho tôi nghe chuyện đã xảy ra thế nào... Tôi chỉ thấy kết quả là cô ấy có vẻ quá.
    Dù không muốn, nhưng tôi vẫn cố gắng kể lại toàn bộ chi tiết chuyện đã xảy ra. Anh lặng người nghe tôi kể, hai mắt bừng bừng ánh lửa căm giận và khát khao trả thù kẻ khốn kiếp kia. Mặc dù vậy, anh vẫn không quên vuốt ve mái tóc rối bời của người vợ trẻ.
    Khi tôi vừa kết thúc câu chuyện cũng là khi Quincey và huân tước Godalming gõ cửa bước vào. Van Helsing đưa mắt nhìn tôi như muốn nhắc phải tranh thủ sự xuất hiện trở lại của họ để nói lảng sang chuyện khác, sao cho hai vợ chồng trẻ bất hạnh không còn quá bận tâm đến nhau nữa. Tôi khẽ gật đầu đồng ý để ông hỏi chuyện hai người bạn vừa về.
    - Tôi chạy ra ngoài xem Dracula biến đi đằng nào, nhưng tìm dọc hành lang và mò mẫm ở tất cả các phòng mà vẫn không thấy bóng dáng lão đâu. - Huân tước Godalming đáp lời - Tôi còn vào cả phòng làm việc của bác sĩ Seward, nhưng lão đã...
    Arthur chợt im bặt khi nhìn thấyMina nằm dài trên giường.
    - Anh định nói gì phải không, Arthur? - Van Helsing gặng hỏi. - Nói tiếp đi chứ, Arthur... Tôi hy vọng những lời anh sắp nói ra sẽ là lối thoát cho chúng ta. Nói đi, anh bạn!
    - Chắc chắn lão đã đã vào phòng làm việc, - Arthur nói tiếp - bởi trong đó, mọi thứ đều bị vứt ngổn ngang, lộn xộn như một đống rác. Sổ sách, giấy tờ đều bị thiêu trụi. Khi chúng tôi chạy vào, lửa vẫn còn đang cháy. Các ống băng từ ghi nhật ký của bác sĩ Seward cũng bị quẳng cả vào lửa rồi.
    Tôi giật mình ngắt lời anh ta :
    - Nhưng tôi vẫn còn một bản khác cất trong hòm kia mà?
    Arthur thở phào và mỉm cười nhìn tôi, nhưng rồi lại im ngay lập tức.
    - Tôi đã chạy xuống cầu thang, nhưng không thấy... Tôi phi hộc tốc sang phòng Renfield, cũng chẳng có, nếu không phải là...
    - Là thế nào? Nói tiếp đi chứ! - Jonathan sốt ruột thúc giục.
    - Nếu không phải là tên bệnh nhân này đã chết.
    Arthur vừa hạ giọng vừa nuốt nước miếng, cố nói cho hết câu. Về phần mình, tôi không thể xua đuổi được ý nghĩ huân tước Godalming đang giấu chúng tôi một điều gì đó, nhưng vì cảnh ngộ của hai vợ chồng anh lúc này thật éo le, nên tôi không đám hỏi anh, dù chỉ là một câu.
    Van Helsing quay sang hỏi Moriss :
    - Thế còn anh, anh có chuyện gì để kể cho chúng tôi không, Moriss?
    - Chẳng có gì nhiều. Có lẽ để chốc nữa tôi sẽ nói cụ thể hơn... có thể là... Theo tôi, trước khi rời khỏi đây, chúng ta cần phải biết lão bá tước biến đi đằng nào đã. Quả thực chẳng biết lão đã rúc vào chỗ nào. Tôi chỉ thấy một con dơi từ cửa sổ phòng Renfield bay về phía đông. Tôi đã rình xem nó biến hóa thế nào khi về ngôi nhà Carfax, nhưng rõ ràng là nó lại bay đi một hướng khác. Vậy là đêm nay lão sẽ không về, bởi trời cũng sắp sáng rồi. Mà ngày mai chúng ta lại không thể không hành động.
    Moriss nói như rít qua kẽ răng. Những lời anh nói làm chúng tôi lặng người đi ít phút. Bầu không khí im lặng khiến tôi cảm thấy mình có thể nghe được nhịp đập trong lồng ngực của từng người. Van Helsing quay sang vỗ về Mina và hỏi cô :
    - Mina à, bây giờ bà có thể kể lại cho chúng tôi nghe những chuyện đã xảy ra được không? Chúa muốn rằng bà sẽ chia sẻ với chúng tôi nỗi đau này, nhưng điều cần thiết bây giờ là chúng tôi phải được biết thật tường tận mọi chi tiết liên quan đến bà vừa rồi. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải hành động cho thật nhanh. Chúng ta có thể đi tới đích, nhưng cơ hội sẽ đến nhanh hơn nếu như chúng ta biết nhiều hơn về sự việc để giành chiến thắng cuối cùng.
    Mina rùng mình ngả người vào anh chồng tội nghiệp, tôi rất hiểu tâm trạng căng thẳng của cô lúc này. Nhưng rồi cô cũng ngẩng mặt lên và siết chặt bàn tay Jonathan, vẻ rất quả quyết trước những lời động viên của vị giáo sư già.
    - Tôi đã uống viên thuốc an thần mà bác sĩ đã đưa cho, nhưng đợi mãi vẫn chẳng có tác dụng gì. Trái lại, càng lúc tôi lại càng thấy khó ngủ hơn. Đầu óc tôi bắt đầu bị đảo lộn, rối bời, bởi không biết bao nhiêu ý nghĩ khủng khiếp nhất, và tất cả các ý nghĩ quái gở đó đều dẫn tôi tới chỗ nhìn thấy cái chết bởi tay con ma cà rồng, bởi máu me, sự đau đớn và nỗi đắng cay buồn phiền.
    Jonathan bàng hoàng nghe người vợ kể lại nỗi buồn tủi của mình, rõ ràng anh cũng đang rất căng thẳng, nhưng cô đã quay sang nhẹ nhàng an ủi anh :
    - “Đừng nghĩ ngợi nhiều, anh yêu. Anh phải dũng cảm và mạnh mẽ lên thì mới có thể giúp em vượt qua được khó khăn này. Nếu hiểu em đã phải rất cố gắng để nói ra được câu chuyện khủng khiếp đêm nay thì anh mới thấy em cần sự giúp đỡ của anh và mọi người như thế nào”. - Nói đến đây, cô lại quay sang nhìn chúng tôi. - “Vâng, tôi nói là tôi muốn ngủ, và tôi làm mọi cách để có thể ngủ được. Chắc hẳn là lúc đầu, giấc ngủ phải đến với tôi nhanh lắm, vì tội chẳng còn nhớ được gì nữa. Jonathan về lúc nào tôi cũng chẳng biết. Tôi chỉ chợt tỉnh giấc và nhận ra anh đang nằm ngủ một lúc sau đó. Và rời màn sương trắng lại một lần nữa lập lờ bay vào trong phòng... Quên mất, không hiểu là mọi người đã biết điều tôi đang định nói hay chưa... Khi nào đọc những gì tôi vừa viết, chắc mọi người sẽ được biết về màn sương trắng ấy. Quả thực tôi đã linh cảm thấy sự xuất hiện của một kẻ lạ mặt nào đó ở trong phòng, trong người tôi bắt đầu trào dâng một cảm giác lo sợ rất mơ hồ. Tôi quay sang đánh thức Jonathan nhưng không được. Anh ngủ say đến nỗi tôi có cảm giác chính anh là người đã uống thuốc ngủ chứ không phải tôi. Tôi muốn rụng rời chân tay khi len lén liếc nhìn xung quanh căn phòng, trong lòng tự hỏi không hiểu đang có chuyện gì xảy ra. Tôi khiếp đảm khi thình lình nhận ra rằng ở ngay cạnh giường mình, hình như có một bóng người đàn ông, cao lớn, nhưng gầy nhẳng, vừa bước ra khỏi màn sương mù - hay nói đúng hơn là màn sương mù chợt như tan đi, để trơ ra một bóng người mặc toàn đồ đen. Theo như mô tả đã được đọc trong nhật ký của Jonathan, tôi nhận ngay ra đó chính là Dracula. Tôi định gào lên nhưng không thể được, nỗi khiếp sợ đã làm toàn thân tôi tê dại. Lão chỉ tay về phía Jonathan và ra lệnh cho tôi bằng một giọng rì rầm, vẳng vẳng như từ cõi âm vọng về.
    - “Cầm mồm? Nếu không nó sẽ phải trả giá đấy! Ta sẽ đập nát nó ngay trước mắt ngươi cho mà xem!”
    Thú thực tôi không đủ sức để cãi lại, hoặc có một cử động dù là nhỏ nhất nào đó.
    Lão nhếch mép cười khinh bỉ, rồi một tay đặt lên vai tôi, tay còn lại túm gáy tôi và kéo ghì đầu tôi vào ngực lão.
    - “Bây giờ thì mọi nỗ lực của ta đều đã được đền bù xứng đáng!” - Lão gằn giọng. - “Nào, im nào? Đây không phải là lần đầu tiên, cũng chẳng phải là lần thứ hai dòng máu từ trong ngươi làm cho ta dịu cơn khát đâu nhé!”
    Tôi hồn siêu phách lạc, nhưng lạ một nỗi là tôi không hề thấy mình muốn cự tuyệt cơn thèm khát của lão. Tôi cho đó là kết quả của một trong những lời nguyền đáng sợ nhất đè nặng lên các nạn nhân của lão. Ôi! Chúa ơi, hãy rủ lòng thương con? Thế rồi đôi môi bẩn thỉu của lão cứ dán chặt vào cổ tôi.
    Jonathan nghiến chặt hai hàm răng như muốn kìm nén nỗi đau trong lòng, người anh run lên vì tức giận. Mina chẳng biết làm gì hơn là siết chặt bàn tay anh để chia sẻ nồi niềm cùng người chồng.
    Sức bình sinh trong người tôi cạn kiệt dần, tôi thấy mình như muốn lả đi đến ngất xỉu. Tôi không biết mình phải chịu đựng như vậy bao nhiêu lâu, chỉ biết rằng cảm giác đó cứ kéo dài mãi cho tới khi lão rời xa cái mồm bẩn thỉu vấy máu khỏi cổ tôi.
    Nếu không có Jonathan bên cạnh, có lẽ cô đã ngã vật xuống giường, vì không chịu nổi sự nhục nhã khi nhớ lại hình ảnh ghê tởm ấy. Nhưng ngay sau đó, cô đã cố gắng bình tĩnh trở lại và kể tiếp :
    - Rồi lão lại nhếch mép cười, vẻ rất khinh bỉ: “Vậy là cả ngươi nữa, người cũng góp phần phá kế hoạch của ta, ngươi chính là kẻ tòng phạm của mấy thằng đàn ông đang tìm cách chống lại ta! Nhưng bây giờ, cũng như sắp tới đây thôi, cả ngươi và chúng đều sẽ hiểu thế nào là hậu quả của việc thích ngáng đường người khác. Lẽ ra, chúng nên dùng sức còm của chúng vào những việc khác nhỏ mọn hơn mới phải. Ta đã từng đập tan kế hoạch của không biết bao nhiêu kẻ trong những thế kỷ qua rồi, đối với bọn này cũng thế thôi. Còn ngươi, một đồng minh rất thân thiết và quý hóa của chúng, bây giờ đã thuộc về ta, ngươi sẽ là máu thịt của ta, thỏa mãn mọi ham muốn của ta và mãi mãi về sau này, ngươi sẽ là bạn đồng hành và kẻ làm việc thiện của ta! Rồi ngươi sẽ có thời gian để sửa chữa lỗi lầm của mình, bởi lũ đàn ông kia không thể từ chối ngươi bất cứ một điều gì ngươi đòi hỏi ở chúng. Nhưng bây giờ, ngươi cần phải bị trừng phạt trước vì tội tòng phạm. Ngươi đã hùa với chúng làm hại ta. Thế đấy? Từ nay trở đi, ngươi sẽ phải đáp lại tiếng gọi của ta. Khi nào trong suy tưởng, ta gọi ngươi: “Hãy lại đây”, thì ngay lập tức, ngươi sẽ phải băng rừng, qua núi, vượt bể để đến gặp ta...”
    Ngoài kia, một ngày mới lại bắt đầu. Jonathan vẫn lặng im nghe câu chuyện xót xa, tủi nhục của người vợ hiền, mặt anh tối sầm lại với những giọt mồ hôi lấm tấm. Tôi giật mình khi nhận ra những sợi tóc bạc dính bết trên trán anh.
    Cả ngày hôm nay, nhóm chúng tôi phải thay nhau để mắt tới hai vợ chồng người bạn bất hạnh, đề phòng trường hợp có chuyện không hay xảy ra còn có cách ứng cứu. Quả thực là hôm nay, tôi chỉ dám chắc có một điều: ánh mặt trời rạng rỡ không đủ để soi sáng ngôi nhà đang tràn ngập nỗi buồn của chúng tôi.
    Chúng tôi sẽ lại ngồi họp bàn cùng nhau với hy vọng nhanh chóng tìm ra phong án hành động chắc chắn nhất.
     
  4. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 22
    Nhật ký của Jonathan Harker





    Ngày 3 tháng 10
    Tôi cảm thấy nếu không làm gì thì sẽ phát rồi lên mất, vì vậy, tôi lại phải viết nhật ký. Bây giờ là sáu giờ rưỡi, nửa tiếng đồng hồ nữa, chúng tôi sẽ lại ngồi điểm tâm với nhau ở phòng bác sĩ Seward. Anh và Van Helsing bảo tôi dù thế nào cũng phải cố gắng ăn một chút, để còn lấy sức tiếp tục làm việc. Hôm nay, biết đâu chẳng có việc đòi hỏi chúng tôi phải nỗ lực hơn nhiều. Tôi cầm bút viết đại vài dòng vào đây, bởi nếu dừng lại, tôi sợ mình sẽ lại nghĩ ngợi lung tung. Đúng là tất cả những gì chúng tôi biết cho đến nay vẫn chưa được dùng vào việc gì hết. Nhưng dù sao, tôi và Mina vẫn phải tin tưởng và hy vọng vào kết quả tốt đẹp cuối cùng. Nhà tôi vừa tâm sự rằng chính trong những lúc khốn khó như thế này chúng tôi mới chứng tỏ được sự chung thủy với nhau, vì vậy đừng để mình bị gục ngã trước hoàn cảnh, thế nào Chúa cũng sẽ bảo vệ chúng tôi đến cùng. Đến cùng? Ôi? Chúa ơi! Đến cùng cái gì mới được chứ?...
    Khi bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward từ phòng Renfield trở về, chúng tôi lại ngồi bàn bạc với nhau về những việc cần phải làm. Trước tiên, Seward kể lại cho chúng tôi nghe chuyện của tên bệnh nhân: khi xuống tới phòng hắn, anh và Van Helsing thấy hắn đang nằm dài trên nền nhà, mặt be bét những vết thương, xương sống bị gãy nát.
    Thực ra, trước đó bác sĩ Seward đã bảo một giám thị nhà thương trông nom và đứng gác ở hành lang ngoài cửa phòng hắn. Tay giám thị đã không làm tròn nhiệm vụ, bởi anh ta thú nhận rằng trong lúc trực, anh ta đã ngủ gà ngủ gật.
    Chính cái lúc gà gật đó, anh ta giật mình khi nghe thấy những tiếng kêu thất thanh của Renfield trong phòng: “Chúa ơi? Chúa ơi!... Chúa ơi!...” Tiếp đó là một tiếng rơi huých nặng nề xuống nền nhà. Khi chạy vào, anh ta trông thấy Renfield đang nằm sóng soài dưới đất, đúng như hiện trạng mà Seward đã được chứng kiến. Van Helsing hỏi tay giám thị lúc đó có giọng nói của một hay nhiều người, nhưng anh ta đã không trả lời được. Lúc đầu, anh ta cảm giác trong phòng không thể chỉ có một mình Renfield, nhưng khi hộc tốc chạy vào ngay sau khi có tiếng va đập dưới nền nhà, anh ta chẳng trông thấy ai khác. Và anh ta thề rằng chỉ có Renfield kêu “Chúa ơi?” mà thôi.
    Bác sĩ Seward nói với chúng tôi rằng anh không muốn đẩy sự việc đi quá xa, bởi thế nào nhà chức trách cũng sẽ tiến hành một cuộc điều tra, mà chúng tôi có tìm hiểu thêm vấn đề cũng chẳng có ích lợi gì cho việc nói ra sự thật, vì sẽ chẳng có ai tin vào sự thật mà chúng tôi nêu ra. Anh nói tốt nhất cứ bảo tay giám thị làm giấy chứng từ cho Renfield, với kết luận hắn bị tai nạn sau khi bị ngã lộn cổ từ trên giường xuống. Nếu có tiến hành điều tra, nhà chức trách cũng chỉ có thể cùng đi đến một kết luận như vậy mà thôi.
    Nhưng sau đó, chúng tôi sẽ phải làm gì đây? Giờ quyết định đã điểm rồi. Tất cả những người đàn ông chúng tôi đều đồng ý với một quyết định: nếu không thể về Exerter, Mina lại một lần nữa trực tiếp tham gia nhóm chúng tôi, cô sẽ lại được biết mọi hành động của chúng tôi. Như vậy cô lại có dịp được chia sẻ niềm vui, nỗi buồn và cả tâm trạng lo lắng cùng chúng tôi trong mỗi lần ngồi bàn bạc, đồng thời cũng cũng là dịp để cô cố gắng chứng tỏ lòng can đảm của mình.
    - Đừng, xin mọi người hãy đừng giấu tôi điều gì nữa có đựợc không? Tôi đã phải câm lặng và mù tịt trước rất nhiều chuyện rồi. Hơn nữa, qua những gì tôi vừa được biết, xin mọi người đừng tin là tôi không thể chịu đựng thêm được một điều gì ngoài những bất hạnh mà tôi đã phải trải qua tử trước đến nay? Ngược lại, tôi có lý đo để chính đáng để hy vọng và chứng tỏ sự dũng cảm của mình trước bất cứ một điều gì khác có thể xảy ra!
    Van Helsing vẫn chăm chú ngồi quan sát cô từ nãy đến giờ, hình như ông đang nhận ra một điều gì đó khác thường ở cô thì phải, bởi ông bỗng dưng hỏi cô :
    - Nhưng Mina, chẳng lẽ bà cảm thấy không sợ sau những gì vừa xảy ra ha sao?... Không phải là sợ cho bà, ý tôi muốn là sợ cho những người thân xung quanh bà kia?
    Nét mặt cô chợt đanh lại, còn ánh mắt thì long lanh thể hiện sự chấp nhận hy sinh của một kẻ tử vì đạo. Cô trả lời :
    - Không? Không! Bởi vì tôi đã quyết định rồi.
    - Quyết định?... - Giáo sư tròn mắt hỏi lại.
    Chúng tôi im lặng nhìn nhau, bởi gần như ai cũng đoán ra điều cô muốn nói.
    Cô trả lời thản nhiên như sự việc hiển nhiên phải là thế vậy :
    - Đúng thế... Nếu bao giờ nhận thấy mình không còn muốn người mình yêu nữa, tôi sẽ chết!
    - Bà không nói là bà sẽ tự tử đấy chứ? - Giáo sư ngạc nhiên hỏi lại, giọng khàn khàn.
    - Có chứa... Trừ phi tôi có một người bạn thật sự muốn chia sẻ với mình nỗ lực hoàn thành một nhiệm vụ khủng khiếp đến như vậy!
    Cô đưa mắt nhìn vị giáo sư bằng ánh mắt đầy ý nhị. Nghe cô nói, ông từ từ đứng dậy xoa nhẹ lên mái tóc rối bời của cô và trịnh trọng nói :
    - Mina ạ, bà đang có một người bạn đây. Ông ta sẽ hành động nếu nhừ bà rơi vào nguy hiểm. Chúa sẽ chứng giám cho tôi điều đó, tôi sẽ không bao giờ lùi bước trước hiểm nguy vì bạn bè mình, nếu cần, tôi có thể hành động ngay bây giờ. Nhưng, thưa bà...
    Cảm xúc trào dâng trong lòng khiến ông nghẹn ngào không nói hết câu, phải một.lát sau, khi đã bình tĩnh trở lại, ông mới có thể nói tiếp :
    - Có một người đã quên mình đứng giữa bà và thần chết. Bà không nên chết như vậy. Không có bất cứ bàn tay nào có thể đẩy bà đến với cái chất, trừ phi là bàn tay của chính bà. Cho đến ngày kẻ đã làm vấy bẩn cuộc sống của bà bị chết thực sự, bà sẽ không thể chết được! Bởi chừng nào còn một kẻ không chết còn sống để gây tội ác như lão, thì cái chết của bà sẽ làm cho bà trở thành một kẻ giống như lão. Bà phải sống? Bà phải chiến đấu, chiến đấu vì cuộc sống, kể cả khi bà tưởng rằng cái chết sẽ là một điều thiện nên làm. Bà phải chiến đấu chống lại chính thần chết, cho dù nó đến với bà trong lúc bà đau khổ hay vui sướng, ngày hay đêm, bình yên hay lúc gặp nguy hiểm? Để giải thoát cho tâm hồn của bà, tôi đề nghị bà hãy đừng chết... hoặc đừng bao giờ nghĩ tới cái chết, cho tới khi con quỷ kia bị hủy diệt!
    Toàn thân Mina run bần bật như phải sốt, mặt tái nhợt như một xác chết thực sự. Chúng tôi vẫn ngồi im, bởi chẳng ai biết phải nói gì vào lúc này. Phải một lúc sau, khi đã trấn tĩnh lại, cô mới ngẩng mặt lên nói với giáo sư, giọng buồn buồn :
    - Tôi xin hứa với ngài, người bạn thân thiết của chúng tôi, rằng nếu Chúa muốn tôi phải sống, tôi sẽ cố gắng hết mình cho tới khi những điều khủng khiếp kia kết thúc.
    Sự dũng cảm và lòng quyết tâm của Mina chẳng khác nào một luồng sinh khí tiếp thêm sức mạnh và lòng can đảm cho chúng tôi trong cuộc chiến không cân sức chống lại kẻ thù độc ácđang chờ đợi mình ở phía trước. Vâng, tấm lòng cô đã khiến chúng tôi biết chấp nhận thêm những gian truant! không thể tránh khỏi để cứu sống cô.
    Tôi hứa với cô rằng chúng tôi sẽ giao cho cô toàn bộ các tài liệu cất trong hòm cũng như các loại giấy tờ, nhật ký, hay cuốn băng từ mà chúng tôi nghĩ là cần thiết trong thời gian tới. Trong thời gian sắp xếp lại các tài liệu, cô vẫn cứ tiếp tục ghi nhật ký của mình. Viễn cảnh được bận bịu với công việc dường như đã làm cô cảm thấy dễ chịu hơn.
    Như thường lệ, Van Helsing bắt đầu đi lại trước mặt chúng tôi và suy ngẫm lại toàn bộ tình hình từ trước tới giờ, sau đó ông sẽ nói chính xác những việc chúng tôi cần phải làm.
    - Sau khi vào ngôi nhà hoang Carfax, - Ông bắt đầu đi vào vấn đề - tôi thấy chúng ta có lý khi chưa vội động chạm gì tới các thùng đất trong đó. Nếu không, lão bá tước sẽ dễ dàng đoán ra ý đồ của chúng ta và chắc chắn lão sẽ nghĩ cách cản trở chứng ta tìm ra các thùng còn lại. Cho đến bây giờ, lão vẫn không nghi ngờ gì về mục đích mà chúng ta đang hướng tới, thậm chí lão còn không biết chúng ta có thừa khả năng vô hiệu hóa tất cả các thùng đất của lão, khiến cho lão không còn một chỗ trú ẩn an toàn nào. Bây giờ chúng ta đã có đủ thông tin để sau khi đột nhập vào ngôi nhà ở Piccadiny, chúng ta cũng sẽ dễ dàng tìm ra các thùng gỗ còn lại. Như vậy, ngày hôm nay sẽ rất quan trọng với chúng ta, chưa biết chừng đây sẽ là ngày quyết định thắng lợi cuối cùng của chúng ta. Mặt trời lên sẽ soi tỏ nỗi bất hạnh của chúng ta và sẽ bảo vệ chúng ta cho tới khi những tia nắng cuối cùng trong ngày vụt tắt? Quả thực cho tới lúc đó, con quỷ kia sẽ không thể thay hình đổi dạng được. Lão sẽ chỉ có thể chui rúc vào trong lớp đất bao bọc để trú ẩn, lão không thể hòa mình Vào không khí hoặc chui người qua các khe cửa hẹp. Nếu muốn qua cửa, lão sẽ phải mở cửa như bất cứ một người nào khác. Vì vậy, chúng ta sẽ có cả một ngày để tìm ra và phá hỏng các sào huyệt của lão. Tối nay, kể cả khi chưa tóm được lão để tiêu diệt, chúng ta vẫn dồn được lão vào một nơi mà lão không thể thoát khỏi chúng ta được nữa.
    Nghe đến đây, tôi không thể im lặng được nữa: ý nghĩ chúng tôi đang để phí từng phút, từng giây rất quý báu để giành lại niềm vui và mạng sống cho Mina đã khiến tôi không chịu nổi. Lúc nói chuyện cũng là lúc chúng ta không hành động! Như hiểu được sự sốt ruột của tôi, Van Helsing đã xua tay gạt đi :
    - Đợi một lát, một lát nữa thôi, anh bạn Jonathan thân mến ạ! - Ông nói. - Đối với một việc quan trọng như thế này, chúng ta không nên vội vàng nếu muốn đi!đến thắng lợi cuối cùng. Lúc nào đáng hành động, chúng ta sẽ hành động? Các bạn cứ nghĩ mà xem, xét theo mọi khả năng thì ngôi nhà ở Piccadiny chính là nơi sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ nhiều vấn đề. Có thể Dracula đã mua nhiều ngôi nhà. Nếu vậy thì lão phải có nhiều giấy biên nhận mua nhà, sổ ký séc và cả các chìa khóa của từng ngôi nhà được mua nữa... Tất cả những thứ đó phải được cất ở đâu đó. Tại sao không phải là ở trong ngôi nhà yên ắng giữa thành Luân Đôn, nơi lão có thể ra vào bằng cổng chính hoặc cửa phụ vào bất cứ giờ nào thích hợp mà không bị ai chú ý? Chúng ta sẽ phải khám phá ngôi nhà Piccadiny và khi nào phát hiện ra những gì được chứa chấp bên trong, chúng ta hoàn toàn có thể săn đuổi con cáo già đến tận hang của nó... Các bạn thấy thế nào?
    - Vậy thì đi ngay thôi! - Tôi thúc giục. - Đừng có chần chừ phí thời gian nữa?
    - Nhưng làm thế nào để vào được ngôi nhà Piceadihy đó mới được chứ? - Van Helsing ôn tồn hỏi lại tôi.
    - Thế nào cũng không quan trọng! - Tôi sốt ruột trả lời.
    - Nếu cần thì cứ đùng sức mà vào, có vấn đề gì đâu nào!
    - Thế còn cảnh sát thì sao? Chẳng lẽ khu phố đó lại không có cảnh sát? Và nếu có thì họ sẽ im miệng hết chắc?
    Rõ ràng ông nói thật có lý, nếu ông chưa muốn chúng tôi lên đường ngay lập tức. Tuy nhiên, tôi vẫn cố làm ra vẻ điềm nhiên đáp lại :
    - Ngài cứ hay lo quá xa, có lẽ là không có cảnh sát đâu.
    - Đừng nghĩ tới chuyện gàn nữa có được không? Tôi thấy khổ lắm rồi?
    - Anh bạn ạ, tôi rất hiểu tâm trạng anh! Và tôi đâu có muốn làm cho anh nặng đầu thêm kia chứ Nhưng anh cứ thử nghĩ mà xem: chúng ta có thể làm gì được trong lúc ngoài phố có đầy những ánh mắt tình cờ? Đành rằng đã tới lúc chúng ta phải hành động, nhưng tôi cũng nghĩ nhiều rồi, cứ tin ở tôi, anh bạn ạ, cách đơn giản nhất bao giờ cũng là cách tốt nhất. Chúng ta muốn vào ngôi nhà đó trong khi chẳng có trong tay chiếc chìa khóa nào! Đó cũng là một vấn đề, đúng không nào?
    Tôi gật đầu trả lời.
    - Thế đấy. Bây giờ hãy giả thiết anh là người chủ của ngôi nhà, nhưng lại không có chìa khóa vì một lý do gì đó, thì anh sẽ phải làm gì nào?
    - Tôi sẽ cho gọi một anh thợ khóa tử tế đến và bảo hắn mở bằng móc.
    - Thế cảnh sát sẽ không tới can thiệp chứ?
    - Không, nếu như họ nhận thấy rằng tay thợ khóa làm việc đó theo lời đề nghị của chủ nhà.
    - Như vậy, - Ông nói và nhìn thẳng vào mắt tôi - điều duy nhất mà người ta có thể nghi ngờ là người vào nhà có đúng là chủ nhà thật sự hay không. Ngoài ra, sự thành công của phi vụ còn phụ thuộc vào sự cả tin của các nhân viên cảnh sát khu vực. Nhưng anh bạn Jonathan thân mến ạ, đôi khi anh vẫn có thể dùng móc mở khóa hàng trăm ngôi nhà ở Luân Đôn hoặc ở bất kỳ đâu trên thế giới này mà không sao, miễn là anh tạo ra một hoàn cảnh thích hợp và làm đúng lúc. Tôi có thể kể cho mọi người nghe một câu chuyện mà tôi đã từng đọc. Chuyện là thế này: có một quý ngài sở hữu một biệt thự tuyệt đẹp ở Luân Đôn. Mùa hè năm đó, do có việc phải đi Thụy Sĩ trong một thời gian khá lâu, khoảng dăm bảy tháng gì đó, ông đã chủ quan khóa cửa nhà trước khi lên đường và chẳng cần nhờ ai trông nom hết. Kết quả là sau khi ông đi được một thời gian ngắn, có kẻ trộm đã đập vỡ kính một ô cửa sổ nhìn ra vườn rồi đột nhập vào trong. Vào nhà rồi, hắn bèn mở tất cả các ô cửa sổ ở mặt tiền của ngôi nhà và đàng hoàng mở cửa chính đi ra ngoài ngay trước mắt đám cảnh sát. Sau đó, hắn công khai rao bán sạch mọi đồ đạc trong nhà bằng một tấm biển quảng cáo to tướng dán trên tường ngoài cổng, hắn đã nhờ một đại diện bán đấu giá tới bán tất cả đồ đạc của quý ngài đang ở Thụy Sĩ kia. Thế rồi chính ngôi nhà cũng bị hắn bán tống cho một chủ thầu xây dựng vì hắn đã tìm được giấy tờ sở hữu cất trong nhà. Tay chủ này đã bàn với hắn phá bỏ ngôi nhà vào một ngày cụ thể để cất lên một tòa nhà mới. Cảnh sát và chính quyền thành phố cứ tưởng hắn là chủ nhân thật sự của ngôi biệt thự nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho hợp đồng xây dựng trao tay này. Chỉ buồn cho người chủ thật sự của ngôi nhà: từ Thụy Sĩ về, trước mắt ông chỉ còn là một cái hố vĩ đại thế chỗ cho ngôi nhà thân quen của ông. Nhưng biết làm sao được, mọi việc đều diễn ra hợp lệ, đúng nguyên tắc mua bán và xây dựng mà thành phố đã quy định. Có lẽ công việc của chúng ta cũng nên tuân theo các nguyên tắc tương tự. Không nên đến Piccadiny quá ốm để tránh sự soi mói của cảnh sát, chỉ có như vậy họ mới không tình cờ để ý thấy sự xuất hiện của chúng ta là không bình thường. Sớm lắm thì cũng chỉ được phép bắt đầu từ mười giờ trở đi, vì khi đó, thế nào người qua lại cũng nghĩ chúng ta chính là chủ nhân thực sự của ngôi nhà.
    Tôi để ý nét mặt Mina như rạng ngời hẳn lên, vì rõ ràng Van Helsing nói rất có lý. Không chỉ có cô, mà cả chúng tôi cũng thừa nhận và hy vọng ở cách lý giải khôn ngoan của ông.
    - Một khi đã vào nhà rồi, - Ông tiếp tục phân tích – có thể chúng ta sẽ dễ dàng tìm ra nhiều dấu vết khác. Dù thế nào thì chúng ta cũng nên chỉ để lại một hai người ở đó, số còn lại phải đi ngay Bersmondsey và Mile End để tìm các thùng gỗ còn thiếu.
    - Nếu thế, tôi cũng có ích cho mọi người đấy. – Huân tước Godalming hồ hởi đứng bật dậy nói. - Tôi sẽ đánh điện để người nhà chuẩn bị cho mọi người vài cỗ xe ngựa.
    - Một ý kiến không chê vào đâu được? - Quincey reo to - Nhưng anh không sợ việc đi lại cồng kềnh như vậy qua các nẻo đường ở Walworth hay ở Mile End rất có thể sẽ gây chú ý cho thiên hạ sao? Tôi cho rằng chúng ta nên bắt xe dọc đường thì hay hơn, bởi như vậy ta có thể lên xuống xe lúc nào, chỗ nào cũng tiện.
    - Anh chàng Quincey này thế mà thông minh gớm! - Van Helsing đùa vui. - Đúng là trong công việc nguy hiểm của chúng ta, càng ít bị để ý bao nhiêu càng tất bấy nhiêu.
    Có vẻ như Mina càng lúc càng tỏ ra háo hức hơn, và tôi cũng rất vui khi nhận ra rằng cô đã tạm quên được cái đêm khủng khiếp của mình. Tuy nhiên, trông cô vẫn rất xanh xao và hốc hác, còn đôi môi thì khô co hẳn lại để lộ ra cả hai hàm răng. Dù không nói ra, nhưng thú thực là tôi đã lạnh cả sống lưng khi hên tưởng Mina với Lucy sau những lần cô bị Dracula hút hết máu, có điều là tôi chưa cảm thấy hai hàm răng của Mina nhọn hơn bình thường. Nhưng nói gì thì nói, từ khi tôi nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng trong đêm qua, mới chỉ vài tiếng đồng hồ trôi qua, biết đâu điều tồi tệ nhất đối với cô và chúng tôi lại chẳng xảy ra tương tự như trường hợp của Lucy...
    Trước khi đến Piccadiny, chúng tôi quyết định phải phá hủy bằng được sào huyệt gần nhất của Dracula. Bởi nếu có bị lão phát hiện ngay, chúng tôi vẫn còn lợi thế để tiếp tục công việc của mình. Sự hiện nguyên hình của lão dưới dạng một người bình thường suất nhiều giờ còn ánh mặt trời khiến lão không thể giở trò ma thuật ra với chúng tôi có thể sẽ mang lại cho chúng tôi những dấu hiệu mới.
    Van Helsing muốn rằng sau khi hành động ở Carfax xong, tất cả nhóm chúng tôi sẽ đến ngay Piccadiny. Hai bác sĩ chúng tôi sẽ ở lại đó, trong khi Quincey và huân tước Godalming sẽ lên đường tới Walworth và Mile End để phá nốt chỗ trú ẩn còn lại của Dracula. Van Helsing cho rằng có khả năng vào ban ngày, lão đang ở Piceadihy, nếu đúng là như vậy, chúng tôi sẽ túm được lão. Nhưng dù thế nào thì chúng tôi cũng phải hợp sức bám đuổi lão cho bằng được. Về phần mình, tôi không hoàn toàn tán thành kế hoạch của ông: tôi muốn tôi ở nhà để chăm sóc và bảo vệ Mina, nhưng Mina đã nhất quyết không chịu nghe. Cô nói có khi cả nhóm sẽ rất cần đến tôi để giải quyết những vấn đề liên quan đến pháp luật. Cô lý luận rằng trong số giấy tờ của lão bá tước chắc chắn sẽ có những điểm mà chỉ có mình tôi - người không lạ gì Dracula - có thể hiểu được và trong một!trường hợp, để có thể đương đầu vôi sức mạnh phi thường của lão, chúng tôi phải càng đông càng tốt. Nghe cô nói có vẻ có lý nên tôi không thể cố chấp được.
    - Tất cả mọi người cùng đi với nhau thì em mới có cái để mà hy vọng. - Cô bảo tôi. - Về phần mình, em chẳng có gì mà phải sợ cả. Điều hãi hùng nhất đã qua rồi, tất cả những gì có thể đến với em bây giờ là một chút hy vọng và an ủi. Anh phải đi cùng mọi người, anh yêu ạ? Nếu Chúa rủ lòng thương, thì cho dù em có ở lại một mình, Ngài cũng sẽ che chở cho em được an toàn như mọi người đang bảo vệ em vậy?
    - Vậy thì nhân danh Chúa, - Tôi nói - chúng ta hãy lập tức lên đường đi? Lão bá tước có thể đến Piccadiny sớm hơn là chúng ta nghĩ đấy!
    - Không đâu, không đâu! - Van Helsing xua tay như muốn làm dịu đi sự sốt ruột của tôi.
    - Làm sao ngài biết được?
    - Anh quên là đêm qua, lão vừa có một bữa tiệc no nê để rồi sáng nay sẽ phải dậy rất muộn hay sao? - Giáo sư vừa nói vừa tủm tỉm cười.
    Quên! Tôi mà lại quên? Liệu có bao giờ tôi quên được không? Chẳng lẽ trong chúng tôi lại có người có thể quên được một điều khủng khiếp đến như vậy. Mina cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng dường như nỗi đau trong lòng cô vừa bị đánh thức, sự kiềm nén của cô quả là có giới hạn, bởi tôi lại thấy cô ôm mặt thổn thức, người cô lại run bần bật từ đầu tới chân.
    Câu nói đùa vô tình của Van Helsing rõ ràng là một nhát dao chọc vào vết thương của cô. Lúc này ông mới thấy giật mình vì lời nói thiếu suy nghĩ của mình.
    - Ôi! Mina, tôi xin lỗi? - Ông bối rối đến bên cô gái để an ủi - Tôi không có ý định làm cho bà bị tổn thương. Thực ra, tôi cũng đau lắm chứ! Nhưng rồi bà sẽ quên được cơn ác mộng đó, đúng không nào?
    - Không, tôi sẽ không quên đâu, - Cô nức nở đáp lời vị giáo sư già - trái lại, tôi cần phải nhớ, và những kỷ niệm đẹp đẽ về ngài cũng sẽ chẳng bao giờ phai nhạt trong lòng vợ chồng tôi. Bây giờ, có lẽ mọi người cũng sắp phải đi rồi. Bữa điểm tâm đã được chuẩn bị xong, chúng ta cùng xuống đi, bây giờ ai cũng cần phải có sức mới được.
    Bữa điểm tâm hôm nay đối với chúng tôi là một bữa khá khác thường. Chúng tôi, ai cũng muốn động viên nhau cho vui lên một chút, ngay cả Mina cũng cố gắng tỏ ra thật phấn chấn. Cuối cùng, Van Helsing đứng dậy tuyên bố.
    - Thưa tất cả các bạn, giờ quyết định đã đến gần! Các bạn đã chuẩn bị đủ các vũ khí như lần trước chưa ạ! Tôi xin nhắc lại, đó chính là những lá bùa chống lại một cuộc tấn công cả về thể xác và tinh thần, các bạn có hiểu ý tôi không ạ?
    Chúng tôi gật đầu trả lời.
    - Rất tuyệt! Mina à, dù thế nào thì bà cũng không phải lo đối phó với bất cứ một sự nguy hiểm nào cho tới khi mặt trời lặn. Từ giờ tới lúc đó, chúng tôi sẽ trở về... nếu... Có chứ, chúng tôi sẽ trở về! Dù thế nào thì bà cũng không phải quá lo lắng, kể cả khi kẻ thù muốn mò tới làm hại bà một lần nữa, bà cũng không sợ gì cả. Lúc bà từ trên phòng xuống đây, tôi đã tới đặt vào đó một số thứ cần thiết - những thứ gì thì chắc bà cũng đã rõ - để ngăn không cho lão vào. Và bây giờ, tôi sẽ đặt lên trán bà một mẩu bánh thánh, nhân danh Cha, Con và...
    Tất cả chúng tôi bỗng cùng thất lên một tiếng đầy kinh ngạc. Mẩu bánh thánh bỗng cháy một vùng trán Mina giống như một miếng kim loại bị nung đến sáng trắng. Cô gái tội nghiệp chợt hiểu ngay ra hiện tượng đớ có ý nghĩa gì.
    Tiếng kêu của cô vừa thể hiện một sự đau đớn thể xác, nhưng cũng vừa thể hiện một cảm xúc thất vọng vô tận đang trào đang trong lòng. Tiếng kêu ai oán ấy sẽ còn vọng mãi trong đầu chúng tôi. Cô ngã khuỵu xuống với vẻ mặt đau khổ và tuyệt vọng không tả xiết :
    - Ô nhục quá? Tôi là đứa ô nhục! Vậy là Chúa đã trừng phạt tôi? Từ nay cho đến chết, tôi sẽ phải mang mãi vết nhơ này trên trán?
    Tất cả sững sờ đứng nhìn cô. Tôi bàng hoàng lao tới ôm chặt lấy người vợ trẻ tội nghiệp trong tâm trạng lo sợ và thất vọng tràn trề. Sự tuyệt vọng khiến hai chúng tôi chỉ còn biết ôm chặt lấy nhau và chẳng biết phải làm gì nữa. Như hiểu rõ nỗi lòng tan nát của hai vợ chồng tôi, những người bạn kia chỉ còn biết ngoảnh mặt đi mà khóc thầm. Cuối cùng, như muốn chứng tỏ mình thật sự là một vị cha già và là chỗ dựa tinh thần của cả nhóm, Van Helsing bĩnh tĩnh bước lại gần chúng tôi để vỗ về Mina, giọng ông nhẹ như hơi thở :
    - Mina à, dấu hiệu hằn trên trán bà chứng tỏ Chúa đã thấu hiểu những nỗi đau của bà. Có thể bà sẽ phải mang dấu ấn đó cho tới khi Chúa thấy rằng đã đến lúc cần xá tội cho tất cả những con chiên ngoan đạo của Ngài trên trái đất này vào ngày Phán quyết cuối cùng. Thưa bà, tới ngày đó, thế nào chúng tôi cũng có mặt để được chứng kiến vết nhơ trên trán bà biến mất, trả lại sự trong trắng như vốn có trong trái tim bà! Chắc chắn nó sẽ được xóa bỏ khi Chúa rủ lòng thương trút bỏ cái gánh nặng đang đè lên chúng ta. Từ nay tới khi đó, lúc nào chúng ta cũng nên mang theo mình cây thánh giá, giống như đức Chúa con từng mang trên người theo ý chỉ của đức Chúa vậy... Mọi cơ cực rồi cũng sẽ qua đi...
    Lời động viên chân tình của giáo sư đã giúp chúng tôi hiểu rằng cần phải biết cam chịu trong những lúc phải cam chịu, và dường như đằng sau sự cam chịu ấy vẫn còn một chút gì đó để chúng tôi hy vọng. Tôi và Mina cùng cảm nhận được điều ấy, chúng tôi thật sự cảm động, mỗi người cúi xuống cầm một tay ông và đặt lên đó một nụ hôn như một cử chỉ biết ơn tấm lòng của một vị cha già. Và trước Chúa linh thiêng, cả nhóm chúng tôi, không ai bảo ai, cùng quỳ xuống thề sống chết có nhau, đồng sức đồng lòng với nhau, cùng nhau cầu Chúa phù hộ cho chúng tôi qua khỏi cơn hoạn nạn để hoàn thành sứ mệnh của mình.
    Đã đến giờ chúng tôi phải đi. Tôi quay sang tạm biệt người vợ hiền yêu dấu. Chắc hẳn đây sẽ là giây phút trọng đại mà suất đời chúng tôi sẽ chẳng thể nào quên!...
    Chúng tôi không gặp trở ngại gì khi vào ngôi nhà Carfax. Mọi thứ trong nhà vẫn nguyên như lần trước. Không có bất cứ một thứ giấy tờ hay một cái gì đó có thể là dấu hiệu chứng tỏ có người vào. Trong nhà thờ cũng vậy, không có vẻ gì chứng tỏ các thùng gỗ đã bị dịch chuyển, dù chỉ là một phân.
    - Các bạn ạ, - Van Helsing bảo chúng tôi - ở đây, chúng ta có nhiệm vụ đầu tiên cần phải hoàn thành. Chúng ta sẽ phải làm mất tác dụng của lớp đất đựng trong các thùng gỗ. Đó là thứ đất đã bị thánh hóa bởi những ký ức sùng đạo và được con quỷ Dracula cho chuyển tới đây làm nơi trú ẩn. Sở dĩ lão chọn thứ đất này là bởi nó đã được thánh hóa. Việc lão có thất bại hay không một phần cũng tùy thuộc vào tác dụng của các thùng đất. Bây giờ, chúng ta sẽ trả lại thứ đất này cho Chúa!
    Đoạn ông rút trong túi xách ra một chiếc tuốcnơvít và một chiếc cờ lê vạn năng để mở các thùng đất. Một nắp thùng được mở tung. Đất trong thùng lập tức bốc ra một mùi khăn khẳn lẫn mùi mốc bay xộc vào mũi. Tuy nhiên, điều khiến chúng tôi chú ý hơn cả vẫn là việc giáo sư đang làm: ông lấy một mẩu bánh thánh đặt nhẹ nhàng lên lớp đất trong thùng và đậy nắp thùng lại như cũ với sự giúp đỡ của chúng tôi.
    Chúng tôi cũng lần lượt làm như vậy với tất cả các thùng khác có trong nhà thờ và cẩn thận bắt vít lại y như lúc ban đầu để tránh gây ra bất cứ sự chú ý nào. Công việc diễn ra êm xuôi.
    Lúc khóa cửa ra về, Van Helsing nói như reo :
    - Thế là xong được một việc! Đối với các thùng khác, nếu chúng ta cũng thành công như vậy thì chiều nay, trước lúc đi ngủ, ông mặt trời có thể sẽ rọi những tia nắng cuối cùng lên vầng trán thanh cao và trinh trắng của Mina!
    Khi xuống một lối nhỏ trên đường ra ga đón tàu để tiếp tục công việc, chúng tôi có tạt qua trước nhà thương điên. Tôi bất giác nhìn lên cửa sổ phòng mình và bắt gặp ánh mắt Mina. Tôi vui mừng vẫy tay ra hiệu cho cô hiểu rằng phần việc vừa rồi trong ngôi nhà Carfax của chúng tôi đã được thực hiện êm xuôi. Cô cũng vẫy tay ra hiệu đáp lại và tạm biệt chúng tôi cho tới khi bóng tôi khuất dần sau một lùm cây phía cuối một nẻo đường. Chúng tôi háo hức đến nhà ga khi đoàn tàu chuẩn bị chuyển bánh.
    Tôi chỉ viết được những dòng này khi đang ngồi trên tàu.
    * * * * *
    Piccadiny, mời hai giờ rưỡi trưa
    Chúng tôi sắp đến phố Fenchurch thì huân tước Godalming quay lại bảo tôi :
    - Tôi và Quincey sẽ đi tìm một tay thợ khóa. Tốt hơn hết là mấy người còn lại đừng đi theo. Tôi nghĩ chúng ta cần phải đề phòng trường hợp bất ngờ có khó khăn xảy ra. Tôi muốn nói tới những tình huống không hay có thể xảy ra khi bất đắc dĩ chúng ta phải phá cửa vào. Là một công chứng viên, có lẽ anh không nên dính líu vào thì hay hơn!
    Tôi định cãi lại, nhưng anh gạt đi :
    - Vả lại càng ít người, chúng ta càng đỡ gây chú ý hơn. Danh nghĩa của tôi có thể tạo niềm tin cho tay thợ khóa, và danh nghĩa đàng hoàng của anh ta cũng sẽ tạo niềm tin cho đám cảnh sát, nếu như anh ta... Anh cứ đi cùng John và giáo sư ra đợi hai chúng tôi ở Công viên Xanh, nơi đối diện với ngôi nhà. Nhớ phải chọn chỗ nào có thể nhìn được ngôi nhà đấy nhé, khi nào cửa nhà mở và tay thợ khóa đi rồi, ba người sẽ đi vào nhà gặp lại chúng tôi. Chúng tôi sẽ chờ và gọi cả ba người cùng vào.
    - Nghe hay đấy!- Van Helsing tán thưởng.
    Và chúng tôi tạm tách nhau ra sau đó một đoạn đường, Godalming và Moriss nhảy lên một chiếc xe ngựa chở khách, còn ba chúng tôi gọi một chiếc xe khác.
    Tới góc phố Arhngton, ba chúng tôi xuống xe và dạo bộ vào trong.Công viên Xanh. Tôi cảm thấy tim mình như sắp nhảy khỏi lồng ngực, khi thoáng nhận ra ngôi nhà mà chúng tôi đang đặt rất nhiều hy vọng cho sự thành công của mình. Đó là một ngôi nhà nằm im lìm giữa những ngôi nhà rộn rã âm thanh cuộc sống khác. Chúng tôi chọn một chiếc ghế băng có thể ngồi quan sát ngôi nhà và lặng lẽ châm xì gà, chờ đợi sự xuất hiện của hai người bạn cùng một tay thợ khóa nào đó. Mỗi phút trôi qua đối với chúng tôi lúc này chẳng khác nào một thế kỷ.
    Cuối cùng, chúng tôi cũng nhận ra một chiếc xe ngựa dừng lại trước ngôi nhà. Huân tước Godalming đường hoàng xuống xe cùng Moriss, tiếp theo đó là một anh thợ khóa tay xách hòm đồ. Họ chậm chạp bước về phía bậc thềm. Tới trước cửa, Godalming chỉ tay vào ổ khóa cần mở. Anh thợ khóa cởi áo ngoài vắt lên lan can và ngoái lại phân trần với một tay cảnh sát đang đi ngang qua phố. Tay cảnh sát gật gù nói vài lời rồi bỏ đi, để mặc cho anh thợ bắt đầu công việc. Anh ta cúi xuống thổi phì phì vào lỗ khóa và lấy một chùm chìa khóa to bự tra thử, phải năm lần bảy lượt mới có một chiếc vừa với ổ khóa. Chẳng hiểu anh ta chọc ngoáy thế nào mà chỉ hích nhẹ một cái, cánh cửa đã mở tung. Ba người bước ngay vào một hành lang. Chúng tôi ngồi im chờ đợi. Tôi rít thuốc hên tục, trong khi điếu xì gà trên môi Van Helsing lại tắt ngấm từ lúc nào. Quả là không gì sốt ruột bằng chờ đợi. Cuối cùng thì tay thợ khóa cũng khệnh khạng bước ra ngoài cùng với hòm đồ của mình. Anh ta kê gối giữ cánh cửa hé mở, tra vào đó một chiếc chìa khóa và rút ra đưa cho huân tước Godalming. Nhận tiền công xong, anh ta nghiêng người cúi chào gia chủ rồi bỏ đi xa dần. Rõ ràng là chẳng có ai để ý đến những gì vừa diễn ra trước cửa ngôi nhà.
    Khi anh thợ khóa mất hút khỏi tầm mắt, chúng tôi mới hăm hở ra khỏi công viên, đi qua phố và tới trước ngôi nhà gọi cửa. Quincey Moriss lập tức mở cửa, Godalming đang đứng hút thuốc bên cạnh.
    - Ngôi nhà này tởm lợm ghê!- Huân tước bảo chúng tôi lúc cả nhóm cùng vào sâu bên trong.
    Quả thực là không khí trong nhà bốc lên một mùi chẳng khác nào cái mùi chúng tôi đã được thưởng thức lần đầu tiên trong ngôi nhà Carfax. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đang dấn thân vào một trong những nơi trú ẩn của lão bá tước. Chúng tôi lần lượt kiểm tra từng phòng một và cẩn thận đi bám sát nhau, bởi rất có thể lão bá tước đang rúc ở đâu đó trong nhà. Tới phòng ăn a đầu hành lang, chúng tôi chỉ tìm được cả thảy tám thùng gỗ, trong khi hy vọng là sẽ tìm được chín thùng! Chúng tôi mở hé các ô cửa tò vò nhìn ra một mảnh sân hẹp được rải đá, ngăn cách phòng chúng tôi đang đứng với một dãy nhà phụ - có lẽ là khu chuồng ngựa không có bất cứ một ô cửa sổ nào, vậy chẳng phải sợ bị ai nhìn thấy. Chỉ đợi có vậy, chúng tôi nhanh chóng lôi các dụng cụ mang theo mở từng thùng một và đặt vào đó một mẩu bánh thánh như đã làm trong ngôi nhà Carfax. Xong việc với tám thùng gỗ, chúng tôi lại tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình.
    Sau khi kiểm tra cẩn thận mọi xó xỉnh, góc ngách, chúng tôi đi đến một kết luận rằng mọi cái liên quan đến Dracula trong ngôi nhà này đều nằm ở phòng ăn. Dường như chưa thỏa mãn, chúng tôi bảo nhau phải kiểm tra lại thật tỉ mỉ từng đồ vật trong phòng. Tất cả được vứt lộn xộn trên một chiếc bàn ăn rất lớn.
    Có rất nhiều loại giấy tờ: các giấy chứng nhận mua nhà Piccadihy, cũng như các ngô!nhà còn lại ở Mile End và Bermondsey, rồi giấy viết thư, phong bì, lọ mực và bút lông. Một mảnh giấy gói bị phủ đầy bụi, một bàn chải quần áo, một lược chải đầu, một chiếc hũ và một chiếc chậu sành - bên trong còn đầy nước bẩn màu đỏ như máu. Cuối cùng là những chiếc chìa khóa đủ loại, đủ kích cỡ mà tôi đoán là chìa khóa của cả những ngôi nhà khác. Huân tước Godalming và Quincey Moriss đã cẩn thận ghi lại chính xác địa chỉ của các ngôi nhà ở Mile End, Bermondsey và cầm sạch số chìa khóa đó bỏ vào túi để chuẩn bị lên đường, tiếp tục phá nốt các thùng đất còn lại. Bây giờ, chúng tôi sẽ chờ đợi hoặc sự trở về của họ... hoặc sự xuất hiện của lão bá tước.
     
  5. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 23
    Nhật ký của bác sĩ Seward



    Ngày 3 tháng 10
    Thời gian như kéo dài vô tận khi chúng tôi đợi Godalming và Quincey Moriss trở về. Van Helsing cố tìm mọi cách lên dây cót tinh thần cho chúng tôi. Tôi đoán được thiện ý của ông, vì thỉnh thoảng lại thấy ông liếc nhìn Harker. Trông anh chàng lúc này mới thảm hại làm sao. Mới hôm nào, anh còn là một người hoạt bát, nhanh nhẹn, vui vẻ và tràn đầy nhựa sống là thế, vậy mà bây giờ trông anh chẳng khác nào một ông già lụ khụ nhăn nheo, tóc gần như bạc hết nửa mái đầu, hai mắt hõm sâu chìm nghỉm trong ưu tối ưu phiền. Tuy nhiên, tôi tin trong anh vẫn tràn đầy nghị lực và sẽ bùng lên mỗi khi thực tế cuộc sống đòi hỏi. Tội nghiệp anh chàng! Biết phải an ủi anh thế nào bây giờ? Giáo sư Van Helsing cũng rất hiểu tâm trạng trong anh nên đã làm đủ cách để anh tạm quên đi nỗi lo thường trực trong lòng. Điều ông nói với anh dường như vẫn là điều mang lợi ích cao nhất của tất cả chúng tôi.
    Tôi đã nghiên cứu cả trăm lần từ khi có tập tài liệu về con quỷ trong tay. Càng ngày tôi càng cảm thấy cần phải tiêu diệt nó bằng mọi cách. Đâu đâu cũng thấy bằng chứng về sự phát triển của lão, lão phát triển không chỉ trong quyền năng, mà còn trong chính nhận thức của lão về quyền năng của mình. Theo những gì tôi nhận thức dược nhờ ông bạn Arminius ở Budapest thì thuở còn sống, lão là một gã đàn ông, một chiến binh và một tướng lĩnh, một thợ luyện đan phi thường. Việc luyện đan thời bấy giờ luôn là một biểu hiện ở trình độ cao của khoa học. Lão hẳn phải là một kẻ có đầu óc thông minh siêu việt, một trình độ văn hóa vô song và một trái tim sắt đá không hề biết sợ hay biết ăn năn hối lỗi. Trong con người lão, sức mạnh của trí tuệ đã không hề bị sứt mẻ ngay cả khi thể xác lão lìa đời, cho dù bộ nhớ của lão không còn nguyên vẹn. Nói đúng hơn đầu óc lão chỉ đáng sánh với một đứa trẻ mà thôi. Vậy mà lão cứ phát triển dần, một số thuộc tính của lão từ con số không bỗng chốc chín muồi và trở thành hoàn thiện. Lão đã trải nghiệm thành công bằng chính cuộc đời tội lỗi của mình. Nếu không bị chặn đường, chắc chắn sau này lão sẽ trở thành ông tổ hoặc kẻ hướng đạo cho một dòng giống người chỉ biết đến sự tồn tại chìm ngập trong con đường đường chết, chứ chẳng thể biết đến ý nghĩa của cuộc sống đích thực là gì.
    Nghe vậy, Harker rên rỉ nói :
    - Và rồi không biết sẽ có bao nhiêu lực lượng được huy động để chống lại người vợ trẻ của tôi nữa chứ! Nhưng những trải nghiệm ấy là thế nào? Phải hiểu lão, chúng ta mới thắng được lão.
    - Từ khi đến Anh quốc tới nay, lão không lúc nào ngừng thử nghiệm quyền năng của mình theo kiểu chậm nhưng chắc; trí thông minh cùng sức mạnh vô biên và tâm tính hoàn đồng của lão luôn được lão sử dụng hết cỡ. Cũng may, hiện lão vẫn đang trong giai đoạn còn trẻ con, bởi nếu như lão dám tấn công bừa bãi vào mọi mục tiêu ngay từ lúc khởi hành từ lâu đài Dracula, thì có lẽ lão đã nằm xa tầm với của chúng ta từ lâu rồi. Tuy nhiên, lão lại là kẻ nhất quyết đi đến thành công, và một người từng để lại phía sau nhiều thế kỷ như lão thì lúc nào cũng có thể chờ đợi và dần tiến về phía trước mà không việc gì phải vội cả. Dần tiến, nhanh nhưng không hấp tấp luôn là một tâm niệm trong đầu lão.
    - Tôi vẫn rất mơ hồ về những gì ngài vừa nói. – Harker càu nhàu. - Ngài hãy giải thích rõ hơn xem nào. Đầu óc tôi trì trệ quá rồi.
    Van Helsing mỉm cười, vỗ nhẹ vào vai anh chàng :
    - Được thôi, tôi sẽ nói rõ hơn để anh nghe, anh bạn ạ?
    Anh có nhận thấy rằng trong suốt thời gian qua, cơn quỷ ấy đã ngày càng nâng cao tri thức của mình bằng những trải nghiệm thực tiễn không? Chắc là anh vẫn còn nhớ lão đã sử dụng tên bệnh nhân Renfield để đột nhập vào nhà thương của anh bạn John, bởi nếu lần đầu tiên muốn vào nhà một người xa lạ bất cứ lúc nào, ma cà rồng chỉ có thể nhờ một người quen dẫn đường mà thôi. Nhưng đó chưa phải là điều quan trọng nhất. Chúng ta có biết lúc đầu, các thùng gỗ nặng nề kia là do người khác - chứ không phải là lão - khuân đi không? Lão không biết rằng thực ra lão còn có thể làm hơn thế nhiều. Tuy nhiên, sự thông minh tột cùng của một đứa trẻ đã dần dần phát triển trong lão, đến nỗi đã có lúc lão phải tự hỏi mình có thể nâng được các thùng gỗ hay không. Lão bắt đầu bằng việc giúp đỡ người khác nâng các thùng gỗ, và khi nhận ra đó là một công việc quá dễ dàng, lão đã thử tự khuân vác một mình. Lão đã thành công và đang âm mưu rải mỗi nơi một thùng làm chỗ chui rúc, chỉ mình lão biết chúng được cất giấu ở đâu. Có thể lão sẽ dự định chôn sâu chúng xuống dưới đất. Vào buổi tối, hoặc những lúc lão có thể thay đổi hình dạng, các ngôi mộ này rất thích hợp để lão chui xuống và không ai có thể nhận ra sự di chuyển của lão. Nhưng đừng thất vọng, anh bạn ạ!Tri thức ấy bây giờ có được áp dụng cũng trở nên quá muộn rồi. Tất cả các thùng gỗ, trừ một thùng chúng ta chưa tìm ra, đã bị mất tác dụng. Tôi hy vọng trước khi mặt trời lặn, thùng cuối cùng cũng sẽ chung một số phận như vậy. Phải đợi đến sáng nay, tôi mới có niềm tin như vậy. Nhưng hiện giờ, thế cờ vẫn chưa biết sẽ nghiêng về bên nào. Theo đồng hồ của tôi, bây giờ đã là một giờ, nếu tất cả diễn ra suôn sẻ, hai anh bạn Althur và Quincey của chúng ta hẳn phải đang trên đường trở về, Chúng ta phải đi trước, có thể là chậm, nhưng phải chắc, và nhất là đừng để tuột mất bất cứ một cơ hội nào. Anh thử nghĩ mà xem! Khi những người bạn kia quay về, chúng ta sẽ có tất cả là năm người!
    Van Helsing nói chưa dứt lời thì có tiếng gõ cửa thô bạo bất ngờ vang lên, khiến ai nấy giật thót người. Chúng tôi phấp phỏng bước ra ngoài hành lang. Giáo sư ra hiệu cho mọi người giữ im lặng và để một mình ông ra mở cửa. Thì ra là một nhân viên bưu điện! Anh ta trao cho giáo sư một mẩu điện tín. Ông hết nhìn dòng địa chỉ ghi trên bức điện rồi vội vàng đóng sập cánh cửa lại khi tay nhân viên bưu điện vừa đi khỏi. Vừa bước gần tới chỗ chúng tôi, ông vừa mở bức điện ra đọc thành lời: Hãy dè chừng D. Lúc 12 giờ 45, lão vội vàng đi khỏi Carfax và biến rất nhanh về phía nam. Có thể lão đang tìm các bạn. Mina.
    Jonathan Harker thất lên, giọng căng thẳng :
    - Thế là ơn Chúa, chúng ta sắp được mặt đối mặt rồi?
    Van Helsing quay sang động viên anh bạn tôi :
    - Chúa sẽ hành động theo cách và thời điểm của Ngài. Cần phải can đảm lên, nhưng cũng đừng nên vui vội, bởi vì điều chúng ta mong muốn bây giờ có khi lại đưa chúng ta đến những mất mát ấy chứ.
    - Bây giờ chẳng con gì quan trọng đối với tôi – Harker lạnh lùng đáp lại - nếu không phải là việc tống khứ con quỷ thối tha kia khỏi thế giới này. Vì nó mà tôi phải bán linh hồn của mình?
    - Ồ! Suỵt, suỵt, anh bạn này. - Van Helsing nói. – Chúa không mua những tâm hồn ấy đâu, còn lũ quỷ thì đâu phải là một hàng trung tín. Chúa luôn bao dung và công bằng, Ngài biết nỗi khổ của anh và tình yêu mà anh dành cho Mina. Về phần mình, cô ấy sẽ đau đớn gấp nhiều lần nếu được nghe những lời hồ đồ vừa rồi của anh. Đừng sợ gì cả, tất cả chúng ta đều một lòng vì bổn phận của mình và không gì có thể lay chuyển được điều đó. Giờ hành động đã đến. Ban ngày, ma cà rồng cũng chỉ tầm thường như những con người bình thường, lão chỉ có thể thay hình đổi dạng khi mặt trời đã lặn. Lão cần phi có thời gian để đến được đây. Hãy xem này, bây giờ mới có một giờ hai mươi, thời gian sẽ tiếp tục trôi qua trước khi lão xuất đầu lộ diện trước chúng ta - cho dù lão có đi nhanh hơn bao giờ hết. Hy vọng là hai người bạn của chúng ta sẽ đến trước lão.
    Chừng nửa tiếng sau khí nhận được điện của Mina, chúng tôi lại một lần nữa giật mình khi nghe thấy những tiếng gõ cửa nhè nhẹ nhưng cũng không kém phần quả quyết Chúng tôi hồi hộp bước ra hành lang, tay cầm sẵn vũ khí, giáo sư khẽ kéo then cửa và lui lại cùng tôi đứng thế thủ. Niềm vui của chúng tôi trào dâng đến tột độ khi nhận ra trước mắt mình là khuôn mặt quen thuộc của huân tước Godalming và Quincey ngoài ngưỡng cửa. Họ bước nhanh vào và đóng sập cửa lại.
    - Tất cả đều ổn. - Godalming nói trên đường vào hành lang. - Chúng tôi tìm ra hai chỗ cất giấu rải rác sáu thùng đất, tất cả đều không còn tồn tại nữa.
    - Sao lại không? - Van Helsing ngạc nhiên hỏi lại.
    - Là tôi nói đối với lão bá tước?
    Từ đầu đến giờ mới thấy Quincey lên tiếng :
    - Chẳng còn gì để làm nếu không phải là ngồi đợi ở đây. Nhưng nếu đợi đến năm giờ vẫn chưa thấy lão tới, có lẽ chúng ta phải về thôi, không thể để Mina ở nhà một mình sau khi mặt trời lặn được.
    - Chắc lão cũng sắp vác mặt đến rồi đấy. - Van Helsing vừa nói vừa nhìn đồng hồ. - Theo bức điện Mina vừa gửi thì lão đã từ Carfax đi về phía nam, có nghĩa là lão đã qua sông, tức là trước một giờ ít phút. Nếu lão đi về phía nam thì chúng ta có thể kết luận rằng lão vẫn còn nghi ngờ sự chọc phá của chúng ta và từ Carfax, trước hết lão sẽ đi thẳng tới chỗ lão nghi ngờ đó. Hẳn là các bạn đã tới Bermondsey trước lão ít lâu. Bây giờ vẫn chưa thấy lão thò mặt đến đây, chứng tỏ sau đó lão lại lượn tới Mile End. Việc làm đó khiến lão mất thêm không ít thời gian, bởi lão cần phải tìm phương tiện qua sông. Như vậy thì chúng ta cũng chẳng phải đợi lâu nữa đâu. Có lẽ phải chuẩn bị kế hoạch tấn công đi là vừa, đừng làm mất thời giờ vô ích nữa. Suỵt! Đến rồi đó? Cầm vũ khí đi!
    Quả thực đã chúng tôi nghe thấy có tiếng ổ khóa xoay lích kích ngoài cửa chính.
    Mặc dù đang lúc căng thẳng, tôi vẫn thầm cảm phục sự bình tĩnh gan dạ của anh chàng Quincey. Trong mọi cuộc phiêu lưu của chúng tôi, bao giờ anh cũng là người tổ chức các kế hoạch hành động và bao giờ tôi và Arthur cũng nhất nhất nghe theo sự sắp xếp của anh. Bây giờ cũng vậy, chúng tôi lập tức trở lại với thói quen thường ngày đó. Sau khi đảo mắt nhìn khắp phòng, anh đưa tay chỉ chỗ phải đứng cho từng người trong nhóm. Tôi, Van Helsing và Harker đứng ngay sau cánh cửa sao cho khi cửa vừa mở, chúng tôi có thể ngay lập tức chặn lối rút lui của kẻ nhập phòng. Arthur và Quincey đứng nấp một chỗ, sẵn sàng nhảy tới chặn trước cửa sổ. Chúng tôi lo lắng, căng thẳng chờ đợi từng giây ác mộng trôi qua. Bắt đầu có những tiếng bước chân chậm chạp, thận trọng vang lên khá rõ ngoài hành lang. Rõ ràng là lão bá tước đang chờ đợi một cuộc tấn công - hoặc ít nhất là lão đang sợ như vậy.
    Bất thình lình, lão lao vọt vào phòng khiến chúng tôi không kịp trở tay. Cú nhảy vọt của lão có một cái gì đó thật mềm mại và rất khác người, khiến chúng tôi không khỏi sững sờ. Người đầu tiên hành động không phải ai khác ngoài Harker. Anh nhảy nhanh như chớp ra chặn trước một ô cửa nhìn ra căn phòng mặt tiền. Thấy chúng tôi, lão ngửa cổ cười khinh bỉ, để nhe ra những chiếc nanh lởm chởm nhọn hoắt, nhưng lão im bặt ngay lập tức, tiếng cười đáng sợ của lão được thay bằng một ánh mắt độc ác và nham hiểm. Sự độc ác càng hiện rõ trên bộ mặt lão khi chúng tôi lừ lừ tiến lại gần. Thú thực là lúc đó, tôi không còn biết mình phải làm gì nữa. Tôi không hiểu những vũ khí chúng tôi mang theo có tác dụng gì với lão hay không. Rõ ràng Harker đang có ý định làm thử, bởi anh vừa tức giận vung dao đâm thẳng một nhát vào người lão. Lão bá tước chỉ có thể thoát nạn nhờ một bước nhảy ma quỷ cực nhanh về phía sau. Thay vì chọc thẳng vào giữa ngực, mũi dao găm chỉ xé toạc vạt áo của lão, làm bật ra một xấp giấy bạc và một đống tiền vàng.
    Lão kêu hộc lên một tiếng tức giận, điên cuồng, khiến tôi không khỏi thấy lo cho Harker, mặc dù tôi thấy anh vừa vung con dao dài nhọn hoắt lên chuẩn bị cho một cú đòn tấn công mới. Theo bản năng, tay trái cầm cây thánh giá và mẩu bánh thánh, tôi bước nhanh tới bảo vệ cho người bạn đồng hành dũng cảm của mình. Tôi cảm thấy cánh tay mình như được điều khiển bởi một sức mạnh vô hình và điều này đã không làm tôi ngạc nhiên khi thấy con quỷ loạng choạng lui lại phía sau trong vòng vây của chúng tôi. Không thể diễn tả hết sự hận thù và hung bạo, tức giận và điên cuồng trên bộ mặt ma quỷ của lão bá tước. Nét mặt lão từ đỏ tía chuyển dần sang màu tái nhợt, hoàn toàn tương phản với ánh mắt rực lửa hận thù. Chỉ trong tích tắc, lão cúi người luồn qua tay Harker như một con mèo trước khi anh kịp phóng tới một đòn trời giáng khác. Lão cúi thấp người vơ vội một nắm tiền vàng, rồi lao cả người qua cửa sổ khiến những ô kính chớp vỡ tan tành thành vô số mảnh sáng lấp lánh. Lẫn tiếng kính vỡ là tiếng rơi lốp cốp của những đồng tiền vàng lăn trên mặt sân. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy lão bình thản đứng lên như chẳng có chuyện gì xảy ra. Lão chạy qua sân, đạp tung cánh cửa dẫn vào các tàu ngựa rồi ngoảnh lại cười gằn :
    - Chúng mày tưởng chơi được tao là dễ làm phỏng? Trông thằng nào mặt cũng tái mét, người thì run như cừu vào lò mổ thế kia thì làm ăn gì!Rồi cả lũ chúng mày sẽ phải lấy làm tiếc cho mà xem! Đừng tưởng là tao không còn chỗ ẩn náu, tao vẫn còn đấy. Việc báo thù của tao chỉ vừa mới bắt đầu thôi. Cáiviệc ấy sẽ cùng tao đi qua nhiều thế kỷ, và thời gian chính là đồng minh của tao. Những người đàn bà mà chúng mày yêu thương đều đã thuộc về tao và qua chúng nó, chúng mày và rất nhiều người khác nữa, rồi cũng sẽ thuộc về tao. Tất cả đều là những tạo hóa được tồn tại để thực hiện mệnh lệnh của tao, để phục vụ tao những khi tao khát máu. Thế đấy!
    Lão ngửa cổ cười đắc thắng và khinh bỉ, rồi đóng sầm cửa lại. Chúng tôi nghe rõ tiếng lão kéo then cài đằng sau cánh cửa. Tiếp đó là tiếng một lần mở và đóng cửa nữa.
    Chúng tôi hiểu việc đuổi theo lão vào chuồng ngựa lúc này là một điều rất khó khăn. Vậy là thất bại rồi! Người đầu tiên lên tiếng là Van Helsing, ông nói khi chúng tôi quay vội ra hành lang :
    - Chúng ta đã hiểu ra một điều gì đó, thậm chí hiểu nhiều nữa là đằng khác.
    Dù đã lên giọng dọa nạt, nhưng rõ ràng là lão vẫn sợ chúng ta. Nếu không thì việc gì lão phải chạy trốn? Nếu không phải là tôi nghe nhầm thì giọng nói của lão đã phát giác chính con người lão. Tại sao lại phải nhặt những tờ giấy bạc ấy chứ? Hãy mau mau đuổi theo lão đi? Tôi tin rằng ở đây chẳng còn gì có thể giúp lão được nữa, kể cả khi lão mò trở lại cũng vậy.
    Vừa nói, ông vừa nhặt tờ giấy bạc còn sót lại nhét vào túi, rồi vơ số giấy tờ thổ nhưỡng cùng các giấy tờ khác mà Harker vừa vứt xuống nền nhà quẳng vào bếp lò trước khi châm một mồi lửa.
    Godalming và Moriss chạy vội vào trong sân, trong khi Harker nhảy qua cửa sổ mong đuổi kịp lão bá tước. Đúng là lão đã chất chặt cánh cửa dẫn vào khu chuồng ngựa. Khi họ phá được cửa thì không trông thấy bóng dáng lão đâu. Tôi và Van Helsing vòng ra sau nhà lùng sục, nhưng tất cả các tàu ngựa đều vắng tanh. Không ai nhìn thấy lão bá tước.
    Buổi chiều qua đi nhanh chóng nhường chỗ cho ánh hoàng hôn nhạt nhòa.
    Chúng tôi hiểu mình đã thua cuộc với nỗi thất vọng trĩu nặng trong lòng.
    - Có lẽ chúng ta nên quay về với Mina đi. - Giáo sư bảo chúng tôi. - Không thể làm gì ở đây được nữa đâu. Dù sao thì cũng phải về sớm cho cô ấy yên tâm. Nhưng nhớ là đừng có làm cho cô nàng nhụt chí đấy nhé? Chúng ta chỉ còn phải tìm ra một thùng gỗ nữa thôi. Nếu thành công, vẫn có thể cứu vãn được tất cả Tôi hiểu ông đang cố gắng an ủi Harker, bởi trông anh lúc này có vẻ thất vọng hơn bao giờ hết. Thỉnh thoảng lại thấy anh rên rỉ, có lẽ anh lại đang nghĩ đến người vợ bất hạnh của mình.
    Chúng tôi về nhà trong tâm trạng não nề. Mina hớn hở khi gặp lại chúng tôi, dường như cô đã quên cả chính mình. Nhưng khi nhìn thấy bộ mặt thiểu não của đám đàn ông, mặt cô chợt tái dại đi. Cô nhắm mắt lại như thầm cầu nguyện một điều tất lành nhất.
    - Em biết mình làm gì cũng không đủ để đền ơn anh? Ôi, anh của em? - Cô vừa nói vừa hôn lên trán và lên mái tóc bù xù của chồng mình. - Đừng nghĩ ngợi điều gì nữa anh nhé, hãy để cho đầu óc được thảnh thơi một lát. Tất cả rồi sẽ ổn thôi, anh yêu!Chúa rồi sẽ che chở cho chúng ta!.
    Thỉnh thoảng tôi lại thấy Harker rên rỉ, vẻ rất ấm ức. Sự thất vọng khiến anh không biết nói gì cho thỏa lòng.
    Như thường lệ, chúng tôi ngồi nghỉ một lát trước khi ngồi vào bàn với bữa súp được gia nhân chuẩn bị sẵn. Bữa tối giúp chúng tôi tỉnh táo hơn, bởi sau bữa điểm tâm, đến giờ chúng tôi mới có một chút vào bụng. Giữ đúng lời hứa, chúng tôi ngồi kể cho Mina toàn bộ câu chuyện đã xảy ra. Rõ ràng cô cũng thất vọng không kém gì chúng tôi, vì thỉnh thoảng lại thấy cô tái mặt khi nghe chúng tôi kể. Tôi đã kể hết chuyện, và việc duy nhất tôi có thể làm lúc này là đi ngủ.

    Nhật ký của Jonathan Harker

    Ngày 3 - 4 tháng 10, sau nửa đêm
    Tưởng như ngày hôm qua sẽ chẳng bao giờ kết thúc. Có một cái gì đó đã hối thúc tôi chìm vào giấc ngủ, một niềm tin mơ hồ mách bảo tôi rằng khi thức dậy, tôi sẽ được chứng kiến một sự thay đổi và từ nay trở đi, tất cả sẽ thay đổi thuận lợi cho chúng tôi. Trước khi chúc nhau ngủ ngon, chúng tôi đã có sự trao đổi về bước đi tiếp theo nhưng không khai thông được điều gì. Tất cả những gì chúng tôi biết là. vẫn còn một thùng gỗ mà lão bá tước có thể ẩn náu được và chỉ mình lão biết chỗ cất giấu thùng gỗ đó. Nếu lựa chọn giải pháp ở ẩn thì lão sẽ buộc chúng tôi phải thất bại trong nhiều năm, nhưng điều chúng tôi cần lúc này... Viễn cảnh bày ra trước mắt chúng tôi thật là khủng khiếp, khiến tôi không dám đoán già đoán non một điều gì. Tôi không chắc một điều, ấy là nếu bao giờ có một người đàn bà hoàn hảo, nhưng hồng nhan bạc phận, thì đó chính là người vợ yêu dấu của tôi. Càng nghĩ, tôi càng thấy yêu thương cô đến quặn lòng và càng cảm thấy căm thù con quỷ kia đến ngàn lần. Chắc chắn Chúa sẽ không để thế giới này nghèo nàn đi bởi sự mất mát một tạo hóa như cô. Vậy là trong tôi lại trào dâng một niềm hy vọng tất thắng. Bây giờ chúng tôi đang mất phương hướng và chỉ còn một mỏ neo duy nhất, ấy là niềm tin. ơn Chúa, Mina đã ngủ mà không bị một cơn mê nào gây phiền toái. Tôi rất sợ những gì có trong giấc mơ xuất phát từ những hồi ức đáng sợ của cô. Từ lúc chiều tàn tới giờ, tôi chưa thấy cô có biểu hiện đau đớn, vật vã nào. Trong khoảnh khắc, tôi nhận ra sự thanh bình trên nét mặt cô, giống như tiết trời xuân sau những cơn mưa bất chợt tháng ba... Tôi không thấy buồn ngủ, dù rằng trong người cảm thấy đã tàn hơi muốn chết. Tuy nhiên, tôi cố phải ngủ bằng được, cần phải nghĩ tới ngày mai. Tôi sẽ không yên chừng nào...
    * * * * *
    Một lúc sau
    Hẳn là tôi đã chìm vào giấc ngủ, bởi tôi vừa bị đánh thức khi Mina giật mình hất hoảng choàng dậy. Tôi dễ dàng nhận ra cô ánh sáng lờ mờ trong phòng. Cô lấy tay bịt miệng tôi và nói nhỏ vào tai :
    - Anh có nghe thấy gì không? Hình như có người ở hành lang thì phải?
    Tôi ngồi dậy, rón rén bước qua phòng và khẽ mở cửa nhòm ra ngoài. Moriss vẫn đang thao thức nằm dài trên một cái đệm. Trông thấy tôi, anh ra hiệu im lặng :
    - Suỵt! Quay vào ngủ đi. Tất cả đều ổn thôi. Chúng tôi phải thay nhau thức để canh chừng cho ông bà, vì không ai muốn xảy ra thêm bất cứ một rủi ro nào nữa.
    Cử chỉ và ánh mắt của anh buộc tòi phải im lặng và tôi chỉ còn biết quay vào thì thầm thuật lại lời anh nói với Mina. Cô thở phào quàng tay ôm chặt lấy tôi, giọng âu yếm :
    - Ơn Chúa vì lòng tốt và lòng dũng cảm của những người bạn chúng ta?
    Cô thở phào và tiếp tục vùi đầu vào giấc ngủ êm đềm. Tôi tranh thủ viết thêm vài dòng, bởi biết đâu tôi cũng lại nhanh chóng chìm vào giấc ngủ như cô.
    * * * * *
    Ngày 4 tháng 10, buổi sáng
    Mina lại một lần nữa làm tôi thức dậy trong đêm. Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng có một giấc ngủ thật đấy, bởi khi thức dậy, tôi đã thấy ánh rạng đông viền thành những đường mờ mờ qua các khe khung gỗ cửa sổ và ngọn đèn chạy khí đất chỉ còn là một chấm nhỏ yếu ớt. Vừa mở mắt, Mina đã bảo tôi :
    - Đi tìm giáo sư đi anh? Em muốn được gặp ông ấy ngay bây giờ.
    - Nhưng để làm gì chứ?
    - Em có ý kiến. Một ý kiến tình cờ nảy ra trong đêm và đã chín muồi ngay từ khi em chưa tỉnh ngủ. Em muốn được thôi miên trước khi một ngày mới thực sự bắt đầu, chỉ có vậy em mới có thể nói ra được. Nhanh lên anh, thời gian gấp lắm rồi.
    Tôi hộc tốc ao khỏi phòng. Người tôi gặp đầu tiên là bác sĩ Seward. Vừa nhác thấy tôi, anh lập tức nhảy bổ tới, giọng hốt hoảng :
    - Có chuyện gì thế! Lại chuyện chẳng lành nữa...
    Không, nhưng Mina muốn gặp bác sĩ Van Helsing ngay bây giờ.
    - Để tôi gọi ông ấy cho. - Chưa dứt lời đã thấy anh chạy nhanh tới phòng giáo sư.
    Khoảng hai, ba phút sau đã thấy Van Helsing có mặt ở phòng tôi trong bộ đồ ngủ. Moriss và huân tước Godalming cũng vừa chạy tới cửa hỏi chuyện bác sĩ Seward.
    - Mina à, trông bà thay đổi nhiều quá? Nhìn xem kìa, anh bạn Jonathan, hôm nay chúng ta được thấy một Mina hoàn toàn khác, trông cứ như Mina của ngày xưa ấy?
    Sau một vài lời chào thân thiện như muốn làm dịu sự căng thẳng mà ông vừa cảm nhận được, ông khẽ hỏi vợ tôi :
    - Tôi có thể làm gì giúp bà đây? Tại sao bà lại muốn gặp tôi vào cái giờ này?
    - Tôi định nhờ ngài thôi miên. - Mina phân trần. – Xin ngài hãy làm ngay trước khi mặt trời mọc, bởi tôi cảm thấy bây giờ chính là lúc tôi có thể nói và nói rất thoải mái. Xin ngài nhanh lên cho! Chúng ta chỉ còn rất ít thời gian.
    Van Helsing không nói thêm một lời mà chỉ tay ra hiệu cho Mina ngồi lên giường. Ông nhìn thẳng vào mắt cô và bắt đầu thôi miên bằng những động tác huơ tay lên xuống liên tục Mina chăm chú nhìn vào mắt ông trong vài phút...
    Trống ngực tôi đập rộn lên như đang tình cảm được một khoảnh khắc quyết định sắp tới gần. Cô vẫn ngồi bất động, hai mắt dần dần khép lại, chỉ có lồng ngực phập phồng theo nhịp thở đều đều của cô cho thấy là cô đang sống. Giáo sư tiếp tục huơ tay thêm một vài lần rồi dừng lại, trán ông ướt đẫm mồ hôi.
    Mina bất chợt mở mắt, nhưng trông cô đúng là một người đàn bà khác hẳn.
    Giọng cô nghe thật buồn, mơ hồ và xa xăm - điều tôi chưa từng được thấy ở cô - còn ánh mắt thì như đang nhìn về một cõi hư vô nào đó. Giáo sư đưa ngón tay lên ngang miệng ra hiệu cho tôi giữ im lặng và bảo hai người đang đứng ngoài cửa bước vào phòng. Họ rón rén bước lại gần giường Mina sau khi nhẹ nhàng khép chặt cửa lại. Dường như cô không nhận ra họ. Van Helsing cắt ngang bầu không khí im lặng bằng một giọng nhẹ nhàng và đều đều để không làm gián đoạn luồng suy nghĩ của cô.
    - Bà đang ở đâu vậy?
    Cô trả lời bằng một giọng không rõ nét :
    - Tôi không biết. Giấc ngủ không có chỗ để gọi tên.
    Bầu không khí im lặng lại kéo dài trong mấy phút. Mina vẫn ngồi im như tượng. Giáo sư đứng dậy chăm chú nhìn vào mắt cô, những người còn lại như đang nín thở. Một ngày mới sắp sửa bắt đầu. Không rời mắt khỏi Mina, Van Heising chỉ tay ra hiệu cho tôi tới kéo rèm cửa sổ lên. Một vầng sáng màu hồng nhạt ùa vào căn phòng. Ông tiếp tục :
    - Bây giờ bà đang ở đâu?
    Mina trả lời chậm rãi như đang chìm sâu trong dòng suy tưởng, dường như cô đang cố giải mã một điều gì đó.
    - Tôi không biết. Tất cả đối với tôi lúc này đều rất lạ?
    - Bà nhìn thấy những gì nào?
    - Chẳng thấy gì cả, tất cả đều tối om.
    - Thế bà có nghe thấy gì không?
    Qua giọng nói kiên nhẫn của ông, tôi đoán ông đang rất căng thẳng.
    Tiếng vỗ óc ách, của nước... rất gần đây... và những ngọn sóng nhỏ bồng bềnh... tôi nghe thấy những âm thanh đó bên ngoài...
    - Vậy là bà đang ở trên một con tàu?
    Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, hy vọng sẽ nắm bắt đượm một ý nghĩ nào đó của nhau, ai cũng sợ phải nghĩ trước sự việc Mina đáp lại rất nhanh :
    - Đúng thế!
    - Bà còn nghe thấy gì khác nữa không?
    - Tiếng những bước chân cập rập ở phía trên đầu tôi. Có tiếng loảng xoảng của dây xích và tiếng lách cách ngân vang của trục kéo tới.
    - Thế bà đang làm gì?
    - Tôi đang bình yên... ôi! Rất bình yên! Bình yên như một xác chết.
    Cô bỗng im bặt, trút một hơi thở dài và nhắm nghiền hai mắt lại.
    Lúc này, ông mặt trời đã lên, một ngày mới lại bắt đầu. Bác sĩ Van Helsing đặt tay lên bờ vai Mina và khẽ đặt cô ngả xuống gối. Cô nằm im một lúc lâu như một đứa trẻ đang ngủ và sau khi trút một hơi thở dài thườn thượt, cô chợt ngồi bật dậy nhìn những người đứng xung quanh, vẻ rất ngạc nhiên.
    Nhưng cô cũng chỉ hỏi đúng một câu :
    - Tôi đã kể cho mọi người nghe giấc ngủ của mình chưa nhỉ?
    Tuy nhiên, dường như cô đã hiểu ra sự im lặng của chúng tôi, cho dù cô rất khát khao được biết những gì mình vừa nói. Giáo sư kể lại câu chuyện cho Mina, khiến cô phải thốt lên :
    - Vậy thì đứng để mất thêm giây phút nào nữa! Có lẽ cũng chưa đến nỗi quá muộn đâu!
    Quincey Moriss và huân tước lao vội ra cửa, nhưng Van Helsing đã bình tĩnh gọi lại :
    - Khoan đã, các bạn! Con tàu ấy, dù có, cũng đã nhổ neo mất rồi. Quả thực lúc này cũng có những con tàu đang nhổ neo ở cảng Luân Đôn. Nhưng các bạn biết phải tìm con tàu nào kia chứ? Ơn Chúa đã cho chúng ta biết thông tin này, cho dù chúng ta chẳng biết con tàu đang đi về đâu. Thỉnh thoảng chúng ta cũng bị mù, mù tịt như những người trần mắt thịt thật sự. Bây giờ thì chúng ta đã hiểu tại sao lão bá tước lại cố nhặt bằng được những tờ giấy bạc ngay cả khi Jonathan đã vung dao đe dọa lão. Lão muốn chạy trốn, chạy trốn khỏi Anh quốc! Lão chỉ còn một thùng gỗ có chứa thứ đất bẩn thỉu có thể che chở cho lão, có nhiều người săn lùng lão như chó săn đuổi một con cáo. Lão đã quẳng thùng đất còn lại đó lên tàu và từ bỏ đất nước này. Lão định trốn chúng ta, nhưng không, chúng ta sẽ theo đuổi lão? Lão thật quỷ quyệt, và chính vì sự quỷ quyệt này mà chúng ta phải lần theo dấu chân lão. Tôi cũng vậy, tôi cũng mưu mẹo chẳng kém, tôi rất hiểu những suy nghĩ trong đầu lão. Trong lúc chờ đợi, chúng ta có thể nghỉ ngơi cho thoải mái mà chẳng cần phải lo ngại điều gì, bởi biển cả đã tách chúng ta với lão. Nào! Mặt trời lên rồi, cả ngày hôm nay, cho tới khi ánh chiều buông, là của chúng ta. Tắm táp, nghỉ ngơi rồi xuống làm một chút điểm tâm cho người dễ chịu đi, lão bá tước hiện không còn ở trên mặt đất như chúng ta nữa rồi.
    Mina nhìn giáo sư bằng một ánh mắt khẩn khoản :
    - Nhưng tại sao lại không đuổi theo lão nữa, chẳng lẽ là do lão đã bỏ xa chúng ta?
    Giáo sư nắm tay cô như để an ủi :
    - Đừng hỏi nữa, Mina thân mến à. Sau bữa trưa, tôi sẽ trả lời mọi câu hỏi của bà.
    Ông không nói gì thêm. Chúng tôi ai về phòng nấy chuẩn bị cho bữa điểm tâm.
    Sau bữa trưa, Mina nhắc lại câu hỏi của mình. Van Helsing chăm chú nhìn cô một lúc rồi mới trả lời, giọng buồn buồn :
    - Mina à, hơn lúc nào hết, bây giờ là lúc chúng ta phải tìm lão cho bằng được, cho dù cuộc tìm kiếm này có thể dẫn chúng ta đến địa ngục.
    Mina gặng hỏi, mặt tái đi :
    - Tại sao chứ?
    - Tại vì lão có thể sống qua nhiều thế kỷ, trong khi chúng ta sớm muộn cũng chỉ là một xác chết. Thời gian là kẻ thù của chúng ta - kể từ khi lão bá tước đặt dấu ấn này lên cổ bà.
    Van Helsing chỉ kịp đưa tay ra đỡ trước khi cô ngã khuỵu xuống, bất tỉnh.
     
  6. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 24
    Lời nhắn nhủ của Van Helsing gửi Jonathan Harker,
    được ghi qua máy hát của bác sĩ Seward




    Anh nên ở lại với Mina của anh thì hơn: Chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc điều tra, nếu có thể gọi như vậy, bởi chúng ta đều đã biết: đơn giản chúng ta muốn có một lời khẳng định chắc chắc về hiện trạng của lão bá tước. Hôm nay, anh không cần làm gì hết. Đó là nhiệm vụ đáng được làm nhất đối với anh lúc này. Hôm nay không tìm thấy lão ở đây, nhưng tôi thiết nghĩ cần phải kể cho anh nghe tất cả những gì bốn chúng tôi đã biết. Dracula đã đi rồi, lão đang trở về lâu đài của lão ở Transylvanie. Lão đã có thời gian chuẩn bị mọi thứ, và thùng đất còn sót lại cũng đã sẵn sàng để chuyển lên tàu ở một nơi nào đó. Lúc trước, lão vơ vội nắm tiền rồi bỏ chạy chính vì sợ chúng ta đuổi kịp trước lúc mặt trời lặn. Đó là hy vọng cuối cùng của lão, trừ phi lão có cơ ẩn náu trong ngôi mộ mà Lucy mở sẵn cửa như lão vẫn nghĩ. Nhưng lão đâu còn thời gian. Sau khi bị thất bại, lão tính về thẳng sào huyệt cuối cùng. Lão quả là thông minh! Lão hiểu ván bài đã kết thúc ở đây và lão chỉ còn cách trở về cái nơi lão đã ra đi. Lão hiểu lão phải tìm bằng được một con tàu để có thể thoát thân. Bây giờ, chúng ta cũng phải tìm cho được con tàu của lão. Ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi sẽ quay về an ủi hai vợ chồng anh với một niềm hy vọng mới. Tất cả chưa phải là đã hết, Jonathan à. Con quái vật mà chúng ta đang truy lùng ấy phải mất hàng trăm năm mới có thể đến được Luân Đôn, vậy mà chỉ cần một ngày thôi chúng ta cũng xua đuổi được lão Lão đã thất bại, cho dù vẫn còn khá mạnh để có thể gây ra thêm bao nhiêu tội ác nữa. Nhưng chúng ta cũng dâu phải là những kẻ yếu đuối, nhát gan. Chúng ta ai cũng rất quyết tâm chống lại âm mưu của lão và chính sự đồng lòng, chung sức sẽ giúp chúng ta có lợi thế hơn lão nhiều. Hãy can đảm lên, hai bạn thân mến? Cuộc chiến đấu chỉ vừa bắt đầu, và chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta. Chúa ngự trên cao luôn để mắt dõi theo từng bước chân đứa con của người. Chịu khó đợi chúng tôi quay về nhé.
    Van Helsing

    Nhật ký của Jonathan Harker

    Ngày 4 tháng 10
    Khi được nghe những lời nhắn nhủ được ghi qua máy hát của bác sĩ Seward, Mina có vẻ yên tâm hơn nhiều. Quả là chẳng còn gì vui hơn khi biết lão bá tước ra khỏi đất nước mình, và chính niềm vui ấy đã giúp cô khỏe ra. Về phần mình, từ khi mối nguy trôi qua, tôi như lấy lại được niềm tin mà bấy lâu tưởng đã lụi tàn trong lòng. Ngay cả những trải nghiệm thực tế ở lâu đài Dracula đối với lúc này dường như cũng chỉ còn là những giấc mơ dĩ vãng, Nơi đây, giữa tiết trời thu vàng rực ánh nắng mặt trời này...
    Chà chà! Làm sao tôi có thể nghi ngờ được chứ? Trong lúc miên man suy tưởng, mắt tôi bỗng vô tình dừng lại trên vết bánh thánh hồng đỏ trên vầng trán thanh cao của người vợ yêu dấu. Đó là một sự thật không thể chối cãi. Hồi ức về dấu ấn ấy nhắc cho thấy chúng tôi đã không nằm mơ. Chỉ sợ rằng sự ăn không ngồi rồi hôm nay sẽ khiến cả tôi và Mina không ngừng nghĩ đến những dòng nhật ký của tất cả chúng tôi. Tuy nhiên, hồi ức về cái thực tế khủng khiếp càng tăng lên thì dường như nỗi đau và sự lo sợ trong chúng tôi lại càng giảm dần đi, bởi vì chúng tôi biết mối đe dọa thường trực không còn cận kề nữa. Sợi chỉ xuyên suất những dòng nhật ký dần dần hiện ra trong suy tưởng của chúng tôi như một sự an ủi câm lặng. Mina còn nói vui rằng cô sẽ dùng những dòng nhật ký ấy làm chất liệu cho một cuốn tiểu thuyết. Rõ ràng ý nghĩ ấy đã làm cô vui lên trông thấy. Tôi cũng thử nghĩ như cô ấy như để quên đi những suy nghĩ vẩn vơ trong đầu. Cho đến nay, chúng tôi chưa bao giờ cùng nhau nói về tương lai. Nhưng tốt hơn hết là đợi đến khi Van Helsing và những người bạn trở về rồi tính sau.

    Nhật ký của Mina Harker

    Ngày 5 tháng 10, 5 giờ chiều
    Thuật lại cuộc nói chuyện của chúng tôi.
    Những người có mặt: giáo sư Van Helsing, huân tước Godalming, bác sĩ Seward, Quincey Moriss, Jonathan Harker và tôi, Mina Harker.
    Van Helsing kể lại chuyện ông và những người bạn đã phát hiện ra con tàu của Dracula như thế nào và tìm được địa chỉ của nó ra sao. “Khi biết lão định trở về Transylvanie, tôi tin chắc lão sẽ đi theo đường cửa sông Danube hoặc một cảng nào đó ở Biển Đen, bởi khi đến nước Anh, lão cũng đã đi theo đường đó. Omne ignotum pro magnifico. Những gì không biết thì mênh mông quá. Chúng tôi đi tìm những con tàu đi Biển Đen trong đêm trước mà lòng nặng trĩu. Theo lời Mina mô tả lúc thôi miên thì đó là một chiếc thuyền buồm, mà những con tàu kiểu như vậy lại chẳng mấy quan trọng để có tên trong danh sách các chuyến tàu khởi hành của tờ Thời Báo. Huân tước Godalming khuyên chúng tôi tìm đến bến Hoyd để xác định những con tàu khởi hành, kể cả những con tàu nhỏ. Tới nơi, chúng tôi được biết chỉ có một con tàu đi Biển Đen lúc triều cường, đó là tàu Tsarine Catherine, thả neo ở bến Doollttle, đến Varna và các cảng khác ở thường nguồn sông Danube. “Đây rồi, - tôi thầm nghĩ - đây chính là con tàu có lão bá tước”. Vậy là phải mò đến bến Doollttle, nơi chúng tôi gặp một người đàn ông đang ngồi trong một túp lều tồi tàn nhỏ bé. Chúng tôi hỏi thông tin về các chuyến đi của Tsarine Catherine. Đó là một gã đàn ông có bộ mặt đỏ như gà chọi, giọng vang như sấm và luôn mồm chửi bới. Nhưng dù sao gã cũng tử tế chán. Quincey móe mấy đồng tiền vàng dúi vào chiếc túi vải giấu sau tà áo lão. Chỉ đợi có vậy, lão lập tức trở thành một người biết điều và rất tận tình với chúng tôi. Gã dẫn cả nhóm tới gặp những người thủy thủ thô kệch và nóng tính, nhưng đám người lực lưỡng này cũng nhanh chóng trở thành những người dịu dàng sau khi được chúng tôi mời uống giải khát. Họ nói nhiều về sấm sét và địa ngục và rất nhiều những điều tôi không hiểu khác. Tuy nhiên, họ cũng kể lại cho chúng tôi tất cả những gì chúng tôi muốn biết. Họ kể rằng chiều hôm qua, khoảng năm giờ, họ có trông thấy một gã đàn ông gầy đét, mũi dài, hai mắt sáng quắc như có lửa đất, hai hàm răng trắng lắm, bước đi rất vội vã. Gã mặc bộ đồ đen từ đầu đến chân, trừ có chiếc mũ rạ không hợp với lão, mà cũng chẳng hợp với tiết trời thu. Hắn cho mọi người tiền rồi hỏi! thăm về các chuyến tàu đến Biển Đen, nhưng là đến cảng nào chứ? Người ta dẫn gã đến phòng giao dịch rồi đến con tàu gã cần. Gã không muốn lên boong mà cứ đứng ở đầu cầu tàu đề nghị muốn nói chuyện với viên thuyền trưởng: Viên thuyền trưởng đồng ý xuống nói chuyện với gã, nhưng vẫn bực mình buông mấy câu chửi đổng. Gã đàn ông hứa sẽ trả thật hậu hĩnh nếu ông đồng ý chiều gã. Gã đàn ông lẳng lặng bò đi sau khi được biết nơi cần thuê một chiếc xe ngựa. Gã quay lại rất nhanh với một chiếc xe ngựa cà tàng chở một chiếc hòm gỗ to vật. Gã khuân chiếc hòm xuống đất một mình, trong khi phải nhiều thanh niên lực lưỡng mới chật vật đưa được nó lên tàu. Gã giải thích một thôi một hồi về vị trí và cách thức đặt chiếc hòm gỗ với viên thuyền trưởng. Viên thuyền trưởng có vẻ không thích, bởi người ta lại thấy ông chửi bới bằng đủ các ngôn từ ông có thể có. Ông nói nếu thích, gã có thể tự đi giám sát công việc một mình. Gã lắc đầu trả lời không được, bởi lúc đó lão vẫn còn quá nhiều việc phải làm. Nghe vậy, viên thuyền trưởng nhắc lão cần phải rất khẩn trương - chợt có tiếng sấm rền vang cả một góc trời - bởi con tàu sắp sửa nhổ neo - thêm một tiếng sấm gầm lên - khi thủy triều lên - lại một tiếng sấm thứ ba. Gã đàn ông mỉm cười gật đầu. Dĩ nhiên là viên thuyền trưởng sẽ quyết định nhổ neo vào bất cứ lúc nào ông thấy là thích hợp. Gã đàn ông gầy nhẳng gật đầu và hứa sẽ lên tàu ngay trước khi nhổ neo.
    Rồi gã hỏi gần cảng có chỗ nào bán các mẫu giấy tờ để mua vài tờ và lập tức cắm đầu chạy đi tìm. Viên thuyền trưởng mặt đỏ tía tai, cáu kỉnh chửi bới vài câu rồi bỏ lên tàu.
    Không ai biết lão đi đâu, bởi họ còn một chuyện khác cần phải nghĩ, có thể là sấm sét và địa ngục, vì họ nhận ra ngay rằng con tàu Tsarine Catherine không thể nhổ neo theo đúng dự kiến. Một làn hơi sương mờ không hiểu từ đâu bất ngờ nổi lên trên mặt sông, rồi kéo đến dày đặc như một màn sương mù nhảy nhót quanh con tàu. Viên thuyền trưởng lại buông ra những câu chửi bới độc địa. Thủy triều vẫn tiếp tục dâng cao, dâng cao. Viên thuyền trưởng bắt đầu thấy lo lỡ mất cơn thủy triều, ông đang bực mình thì gã hành khách già đột ngột xuất hiện trở lại ở cầu tàu. Vừa nhìn thấy ông, gã đã đòi đi xem nơi cất chiếc hõm gỗ của mình. Nghe vậy, ông bảo chỉ muốn quẳng cả gã và chiếc hòm xuống đáy song cho bỏ tức. Gã không lấy thế làm bực mình mà bình thản cùng ông bước xuống khoang kiểm tra chiếc hòm rồi lại leo lên ngay. Gã đứng trơ trên boong tàu, giữa màn sương mù còn dày đặc. Chắc chắn là gã lại biến đi đằng nào một mình và không ai nhìn thấy, nhưng nói thực tình, chẳng ai để ý đến gã, bởi màn sương mù bắt đầu tản dần, để lại một khung cảnh quang đãng như lúc đầu vốn có. Vừa ngồi giải khát không mất tiền, những người bạn mới của chúng tôi vừa cười ứa nước mắt khi kể lại những câu chửi thề của viên thuyền trưởng, rồi họ hỏi thêm mấy thủy thủ có mặt tản mạn trên mặt sông lúc con tàu Tsarine Catherine chuẩn bị khởi hành. Mấy tay này trả lời họ không thấy sương mù ở bất cứ chỗ nào khác trên dòng sông, ngoại trừ màn sương bao quanh con tàu của gã đàn ông nọ. Cuối cùng thì con tàu cũng nhổ neo vào buổi sáng, khi thủy triều đã xuống khá thấp. Lúc chúng tôi ngồi nói chuyện với đám thủy thủ, chắc chắn con tàu đã lênh đênh ngoài khơi xa sau khi đã xuôi dòng đến vùng hạ lưu của con sông.
    Mina ạ, vậy là chúng tôi được một lúc ngồi nghỉ thoải mái, nếu có thể nói như vậy, bởi dù sao thì kẻ thù của chúng ta cũng đang bồng bềnh ngoài biển trên đường về song Danube cùng với màn sương mù biết tuân lệnh của lão. Tuy nhiên, nếu đi bằng đường biển, lão sẽ mất khá nhiều thời gian, ý tôi muốn nói là nếu đi bằng đường bộ, chúng ta có thể đuổi kịp lão. Cơ hội tất nhất để chúng ta giáng một đòn quyết định chính là lúc lão nằm trong thùng đất, giữa lúc mặt trời mọc và lặn. Bởị vào lúc ấy, lão không thể tự vệ nổi, và số phận lão sẽ phụ thuộc vào chúng ta. Chúng ta vẫn còn nhiều ngày phía trước để thực hiện kế hoạch của mình. Chúng ta biết lão về đâu, bởi chúng tôi đã gặp ông chủ tàu Tsarine Catherine, người đã cung cấp cho chúng tôi các thông tin liên quan đến giấy tờ và điểm đến của lão. Chiếc thùng gỗ phải được bốc dỡ ở Varna và giao cho một nhân viên có tên là Ristics nào đó, vì đây là người được lão ủy nhiệm nhận hang trực tiếp từ viên thuyền trưởng. Viên chủ tàu tất bụng còn nói nếu gặp khó khăn, ông có thể cho đánh điện đến Varna giúp Chúng tôi trả lời không cần, vì trong chặng đường còn lại, chúng ta nhất định không được để cho cảnh sát hoặc hải quan dính tay vào, nếu không sẽ hỏng hết việc. Chúng ta phải tự tay hoàn thành nhiệm vụ của chính mình theo một cách riêng.
    Đợi Van Helsing dứt chuyện, tôi mới dám hỏi ông xem có chắc lão bá tước ở trên tàu hay không.
    - Chúng tôi có bằng chứng chắc chắn nhất để khẳng định là có. - Ông trả lời.
    - Đó chính là bằng chứng được khẳng định từ lúc bà bị tôi thôi miên.
    Tôi hỏi tiếp có nhất thiết phải truy đuổi lão không, bởi tôi thực sự sợ Jonathan lại bỏ tôi đi lúc này, tôi biết chắc là thể nào anh cũng đi nếu những người bạn kia cũng làm như vậy. Ông hồ hởi trả lời tôi bằng một giọng chan chứa một niềm tin tất thắng, dù vẫn rất điềm đạm, khiến ai cũng cảm thấy ông luôn là chỗ dựa không thể thiếu đối với nhóm chúng tôi lúc này.
    - Có chứ, hoàn toàn nhất thiết phải như vậy! Trước hết là vì bà, Mina ạ, rồi tiếp đó là cả nhân loại sống trên thế gian này. Con quỷ này đã gây ra không biết bao nhiêu đau khổ cho những người hiện hữu trong phạm vi có sự tồn tại của lão và trong một thời hạn ngắn - Ý tôi nói ngắn là so với khả năng tồn tại vĩnh cửa của lão - khi lão mới chỉ là một thây ma đang mò mẫm tự khám phá mình trong bóng tối mà vẫn chưa nhận ra hết các quyền năng của mình. Tôi đã nói tất cả với những người bạn của chúng ta. Cả bà nữa, Mina ạ, bà sẽ hiểu ra điều đó qua máy hát của bác sĩ John hoặc qua nhật ký của ông nhà bà. Tôi có nói với họ: quyết định rời bỏ xứ sở cằn cỗi, buồn thảm và vắng bóng người của lão bá tước để đến một xứ sở mới, trù mật, rực rỡ ánh nắng vàng, là một công việc phải diễn ra trong nhiều thế kỷ. Để làm được như lão bây giờ, một con quỷ khác trong đám người bất tử trên thế gian này sẽ phải trải qua rất nhiều thế kỷ nữa mới có thể tự hoàn thiện quyền năng của mình. Nhưng đối với riêng lão, tất cả sức mạnh của thiên nhiên, của sự huyền bí và ma quái đều được lão tập hđp lại thành một sức mạnh siêu nhiên theo một cách kỳ diệu. Từ nhiều thế kỷ qua, ở cái nơi lão từng sống, kẻ không chết ấy đã tích lũy được vô vàn những điều bí ẩn về địa chất và hóa học. Và trong chính bản thân lão lúc đầu cũng tồn tại sẵn một vài phẩm chất phi thường nào đó. Ở một thời chiến tranh tàn khốc, người ta nhận ra lão ở bộ thần kinh thép, một tỉnh thần chịu đựng bền bỉ, một trái tim can trường hơn bất cứ một người nào trên thế giới này, đồng thời là một dáng vóc lực lưỡng, cao lớn và mạnh mẽ như chính bộ óc của lão.
    Tất cả tồn tại độc lập với sự trợ giúp của ma quỷ mà sau này chính lão đã đạt được, nhưng linh hồn ma quỷ của lão trước sau cũng phải lùi bươc trước cái thiện. Đúng vậy, bây giờ chính là lúc lão phải đương đầu với chúng ta. Lão đã đặt dấu ấn lên bà - ôi, xin bà thứ lỗi cho, Mina thân mến ạ, nếu tôi chót nói như vậy, tôi chỉ muốn đặt lão vào lợi ích của bà, thế thôi! Lão đặt dấu ấn lên con người bà khôn khéo đến nỗi ngay cả khi chẳng cần làm gì hơn đối với bà, cũng đủ để bà trước hết vẫn sống bình thường như bao người khác, nhưng rồi cái chết, một số phận chung của con người đã được Chúa phán quyết, sẽ có ngày làm cho bà trở thành một kẻ giống như lão. Chúng ta phải tìm cách không để điều đó xảy ra. Thế giới này và bao con chiên ngoan đạo của Chúa không thể để rơi vào tay bầy quỷ dữ. Chúng tôi sẽ lên đường như những chiến binh Thập tự chinh để hoàn thành sứ mệnh mà Ngài đã giao phó. Chúng tôi cũng sẽ đi về phía Đông như họ, và nếu có ngã xuống thì âu cũng là niềm vinh hạnh vì sự tất lành cho thế giới này.
    Đợi ông dừng lại, tôi mới hỏi tiếp :
    - Nhưng chẳng lẽ lão bá tước lại không khôn ra sau lần thất bại này sao? Sau khi bị đuổi khỏi nước Anh, chẳng lẽ lão lại không lẩn tránh như một cọp trốn khỏi cái làng mà nó vừa bị người ta cho một trận đòn nhừ tử?
    - Bà nói hay đấy! - Ông đáp lại, không hiểu là khen hay chê. - Ông Ba mươi của bà, khi đã một lần được nếm máu người, sẽ chẳng còn bận tâm đến bất cứ một con mồi nào nữa, nhưng không vì thế mà nó không tiếp tục lảng vảng rình mò cho đến khi bắt gặp một cơn mồi mới theo đúng bản năng không thể thay đổ! được của một giống thú dữ. Kẻ chúng ta đang săn đuổi.cũng chẳng khác nào một con cọp không lúc nào quên săn mồi. Lão không thuộc típ người chỉ biết co vòi lại ở một nơi hẻo lánh. Khi còn sống, ý tôi muốn nói là sống một cuộc sống thật, lão từng vượt qua biên giới Thổ Nhĩ kỳ để tấn công vào đất kẻ thù. Lão có thể bị đẩy lùi nhưng chẳng bao giờ chịu dừng lại. Sau mỗi lần thất bại, lão lại tấn công, tấn công và tấn công. Hãy cứ nhìn vào bản tính trơ lì và ngoan cố của lão thì biết. Bộ óc con trẻ của lão từ lâu đã nung nấu ý nghĩ được đến sống ở một thành phố lớn nào đó. Nhưng để làm gì chứ? Lão sẽ tìm thấy ở đó nhiều hứa hẹn nhất để nhanh chóng được thử nghiệm sức vóc và quyền năng của mình. Lão học tiếng nước ngoài, tìm hiểu một cuộc sống xã hội khác để thay đổi các thói quen lạc hậu của mình, rời lão nghiên cứu cả chính trị, pháp luật, tài chính, khoa học cũng như phong tục tập quán của một xứ sở mới, một dân tộc mới sinh sau đẻ muộn so với lão. Những gì chỉ mới thoáng nhìn thấy cũng kích thích sự thèm khát của lão và dường như đều hòa nhập vào con người lão: bởi tất cả đều chứng tỏ mọi giả thiết của lão về thế giới này đều rất chính xác. Lão làm tất cả một mình, chỉ một mình thôi, từ một ngôi mộ hoang tàn ở tận cùng một xứ sở bị quên lãng. Lão có thể làm được bao nhiêu nữa khi cả thế giới đang trải rộng ra trong suy tưởng của lão? Lão có thể cười với thần chết, như chúng ta đã biết. Lão hoàn toàn đủ sức sai khiến các bệnh nhân giết hại mọi dân tộc trên thế gian. Lạy trời! Nếu một thực thể thuộc loại này được Chúa phái đến; chứ không phải ma sai quỷ khiến, thì thế giới này sẽ được nhờ bao nhiêu Nhưng cũng may cuộc đời còn có chúng ta. Nỗ lực của chúng ta phải được giữ kín, hay nói đúng hơn chúng ta hãy là những con người thầm lặng trong sứ mệnh của mình, vì trong kỷ nguyên ánh sáng này, khi con người không còn tin ở những gì họ nhìn thấy nữa, thì sự thiếu lòng tin đối với những điều tưởng chừng hoang đường lại càng lớn gấp bội phần. Lão sẽ sử dụng sự thiếu lòng tin đớ như một tấm khiên, một tấm áo giáp và đồng thời là một thứ vũ khí để hủy diệt chúng ta. Chúng ta, kẻ thù của lão, đã sẵn sàng lao vào mạo hiểm vì sự bình an của một người mà ai cũng yêu mến, vì nhân loại, vì danh dự và vinh quang của Đức Chúa.
    Sau cuộc nói chuyện chung chung, chúng tôi quyết định chiều tối nay không bận tâm đến bất cứ điều gì nữa, để đầu óc thoải mái một chút trước khi đưa ra những kết luận cần thiết. Sáng mai; chúng tôi sẽ gặp lại nhau vào bữa điểm tâm, và sau khi đưa ra những suy nghĩ của mình, tất cả sẽ cùng bàn đến kế hoạch hành động cuối cùng.
    Buổi chiều tối hôm nay cho tôi một cảm giác thực sự bình yên, bởi mối đe dọa thường trực không còn lơ lửng cận kề bên tôi nữa. Cũng có thể là...
    Nhưng chưa thể nói niềm hy vọng của tôi là trọn vẹn, vì lúc đứng soi gương, tôi lại nhận ra dấu ấn đỏ còn hằn trên trán. Tôi hiểu rằng mình yẫn là một kẻ nhơ nhuốc.

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 5 tháng 10
    Chúng tôi dậy từ rất sớm sau một giấc ngủ thật sâu và yên giấc. Đến bữa điểm tâm, cả nhóm lại quần tụ bên nhau, trông ai cũng có vẻ vui tươi hơn mọi ngày.
    Bản chất con người là thường có những khả năng đột khởi rất đặc biệt. Nếu phải loại bỏ một chướng ngại ghê gớm nào đó theo bất cứ cách nào, - thậm chí là bằng cả cái chết thế nào chúng ta cũng tìm được lý do để vui và hy vọng. Khi ngồi vào bàn ăn, đã hơn một lần tôi tròn mắt tự hỏi những sự kiện trong chuỗi ngày qua là thật hay chỉ là một giấc mơ. Tôi phải nhìn vào cái dấu ấn đỏ in trên trán Mina để trở về với thực tại. Ngay cả lúc này, khi đang phải cân nhắc một vấn đề thật nghiêm túc, tôi vẫn hầu như không thể thừa nhận nguyên nhân của mọi sự bất hạnh vẫn đang tiếp tục tồn tại. Mina Harker dường như lại chìm nghỉm trong nỗi niềm của riêng mình một lúc lâu. Chắc chắn là cô không thể quên được cái vết nhơ trên trán mình, khi thỉnh thoảng lại có chuyện tình cờ gợi nhắc hồi ức của cô. Chúng tôi ngồi bàn bạc kế hoạch hành động trong phòng làm việc của tôi khoảng nửa giờ đồng hồ. Tôi chỉ nhận ra một khó khăn trước mắt nhờ bản năng hơn là lý trí: tôi nghi ngờ có một nguyên nhân bí ẩn nào đó đang hòa vào tiếng nói của Mina. Tôi sau những gì đã xảy ra, cô có thể rút ra chiêm nghiệm của riêng mình, nhưng cô không muốn, hoặc không thể nói ra được, mặc cho tôi đoán già đoán non. Tôi nói nhỏ với Van Helsing và hẹn khi nào ngồi riêng với nhau, hai chúng tôi sẽ nói chuyện về cô. Tôi chợt tưởng tượng có một loại độc tố nào đó được đưa vào trong các huyết mạch của cô đang bắt đầu phát huy tác dụng. Lão bá tước đã đưa vào cơ thể cô một cái gì đó mà Van Helsing gọi là “nhuộm máu ma cà rồng”. Vậy đấy? Trên đời này lại có thể tồn tại một thứ độc tố được gieo rắc từ những trường hợp kỳ quái. Nhưng tôi chỉ biết có một điều: nếu cảm nhận bản năng của tôi không nhầm về nguyên nhân khiến cho Mina buộc phải nhiều lần im lặng, thì nhiệm vụ nặng nề phía đang giữ trước cho chúng tôi một khó khăn ghê gớm, một mối nguy hiểm mơ hồ không dễ gì vượt qua. Thứ quyền lực vô hình buộc cô phải im lặng cũng như buộc cô phải nói chỉ là một. Tuy nhiên, tôi không dám nghĩ trước một điều gì, bởi nếu làm thế tôi sẽ hạ thấp hình ảnh người con gái thùy mị trong lòng mình.
    Van Helsing là người xuất hiện trong phòng làm việc của tôi trước cả nhóm. Chúng tôi sẽ cố gắng bàn luận về chủ đề này.
    * * * * *
    Một lúc sau
    Giáo sư bước vào, chúng tôi đi ngay vào câu chuyện. Tôi hiểu ông đang bị ám ảnh một diều gì đó trong đầu nhưng chưa tiện nói ra với tôi. Sau một lúc bàn chuyện hươu vượn, ông chợt nói :
    Anh bạn John này, sau đây là những gì tôi muốn trao đổi với riêng anh, ít nhất là lúc bắt đầu. Sau đó, chúng ta sẽ nó với những người còn lại...
    Ông dừng lại một lát rồi mới tiếp tục :
    - Mina, cô gái Mina khốn khổ của chúng ta không còn là chính mình nữa rồi.
    Tôi bàng hoàng nghe ông lý giải, dù trong đầu đã láng máng hiểu ra một điều gì đớ từ trước :
    - Cuộc đời buồn thảm của Lucy đã nhắc nhở chúng ta rằng lần này đừng nên để sự việc đi quá xa. Quả thực nhiệm vụ của chúng ta lúc này còn khó khăn cực nhọc hơn bao giờ hết, và nỗi lo mới lại phụ thuộc quyết định vào thời gian. Tôi bắt đầu nhận ra những đặc điểm của ma cà rồng trên khuôn mặt cô. Tất cả mới chỉ thoảng qua, thoảng qua thôi, nhưng cũng đủ rõ nếu chúng ta quan sát thật khách quan. Hai hàm răng cô ấy đã dài hơn và ánh mắt thỉnh thoảng có vẻ ngây dại hơn. Chưa hết. Mina quá thường xuyên giữ thái độ im lặng: đúng là toàn những biểu hiện giống như trường hợp của Lucy ngày nào. Cô ạ! lẫn đến nỗi còn viết cả những gì muốn nói cho người khác biết. Nhưng bây giờ tôi lại sợ nhất điều này: nếu trong lúc bị thôi miên, Mina có thể nói cho chúng ta biết những gì lão bá tước trông và nghe thấy thì cũng có nghĩa là lão - kẻ đã thôi miên cô trước tiên, rồi hút máu cô và bắt cô hút máu của lão - có thể buộc cô phải tiết lộ tất cả những gì cô biết cho lão biết nếu lão muốn.
    Tôi gật đầu đồng ý. Ông tiếp tục :
    - Như vậy, để ngăn ngừa mối nguy hiểm này, chúng ta buộc phải giữ kín mọi kế hoạch và ý đồ của mình trước cô ấy.
    Đó là một quyết định bắt buộc và khó khăn, đến nỗi chỉ nghĩ trong lòng thôi tôi cũng không dám. Lúc nữa, khi chúng ta được ngồi cùng nhau, tôi phải nói với Mina rằng vì một lý do chúng ta không tiện nói ra, cô ấy không nên dự họp với chúng ta, nhưng vẫn được chúng ta bảo vệ như thường lệ.
    Ổng lấy khăn lau vầng trán đang ươt đẫm mồ hôi, dường như trong lòng ông đang bị dằn vặt ghê gớm lắm. Tôi biết ông sẽ tìm thấy trong tôi một niềm an ủi nào đó khi hiểu tôi cũng sẽ có chung một kết luận như ông và sẽ sớm dứt ra khỏi nỗi ngờ vực để chấp nhận thực tế. Tôi bộe bạch ý nghĩ của mình, và kết quả diễn ra đúng như tôi đang hy vọng.
    Đã đến giờ họp nhóm rồi. Van Helsing ra trước chuẩn bị cho cuộc họp hệ trọng và những câu mở đầu khó khăn của mình. Nhưng tôi nghĩ có lẽ ông ra trước tôi cũng vì muốn tìm một chút tĩnh lặng để thầm cầu nguyện với Chúa Trời.
    Một lúc sau
    Tôi và Van Helsing cùng thở phào nhẹ nhõm ngay sau khi cuộc họp bắt đầu, vì Mina vừa nhờ Jonathan thông báo cô sẽ không tham gia bàn luận cùng chúng tôi, cô sợ sự có mặt của mình sẽ làm cho cả nhóm lúng túng trong một số vấn đề. Van Helsing đưa mắt nhìn tôi như vừa chút được một gánh nặng. Cả nhóm tập trung thảo luận kế hoạch hành động. Giáo sư tóm tắt ngắn gọn các sự kiện :
    - Tàu Tsarine Catherine đã rời sông Thêm sáng hôm qua. Nếu chạy với tốc độ tối đa, nó cũng phải mất ít nhất ba tuần mới đến được Varna; bằng đường bộ, chúng ta chỉ cần ba ngày cũng có thể tới nơi. Để đảm bảo an toàn tuyệt đới, chúng ta cần xuất phát sau ngày 17, làm sao đến yarna sớm một ngày trước khi con tàu kia cập bến để chuẩn bị một số công việc cần thiết. Tất nhiên chúng ta cần mang theo vũ khí, tức là tất cả những gì cần để chống lại cái tà ác, dù là tinh thần hay vật chất.
    Quincey Moriss chợt lên tiếng :
    - Tôi nghĩ con sói già kia đến từ một vùng nhiều chó sói, và biết đâu lão lại chẳng về đó trước chúng ta. Tôi đề nghị chúng ta cần mang theo mỗi người một khẩu súng săn, như thế cũng không thừa. Tôi có lý do để tin ở khẩu súng săn khi xung quanh lúc nào cũng có những chuyện phiến toái như vậy.
    - Được, - Van Helsing nói, - sẽ có súng săn. Quincey quả là người cao kiến, nhất là đối với những cuộc đi săn như thế này. Bây giờ thế này, chúng ta chẳng có việc gì ở đây nữa, vả lại trong chúng ta chẳng ai biết Varna như thế nào, vậy thì tại sao không đến đó trước nhỉ? Thời gian ở đây đối với chúng ta chắc chắn cũng sẽ dài đằng đẵng như ở đó. Quãng thời gian tối nay và sáng mai là quá đủ để chúng ta chuẩn bị mọi thứ. Nếu không có chuyện gì xảy ra, cả bốn chúng ta có thể lên đường ngay lập tức.
    - Tất cả có bốn người thôi ? - Harker ngạc nhiên hỏi lại, ánh mắt hết nhìn người này đến người khác, vẻ ngờ vực.
    - Tất nhiên. - Giáo sư trả lời dứt khoát. - Cậu cần phải ở lại để chăm sóc người vợ trẻ chứ.
    Harker lặng người đi một lúc rồi mới tiếp tục, giọng run run :
    - Chúng ta sẽ bàn tới chuyện này vào sáng mai. Tôi muốn tham khảo ý kiến của Mina.
    Tôi cứ tưởng đã đến lúc Van Helsing phải đề nghị Harker đừng tiết lộ kế hoạch của chúng tôi cho Mina biết, nhưng không, ông vẫn im lặng như không có vấn đề gì đáng lo ngại. Tôi nháy mắt giả vờ ho sụ sụ đi nhắc nhở. Nhưng ông lỉ đáp lại bằng ngón tay đưa ngang miệng ra hiệu đừng nói gì cả.

    Nhật ký của Jonathan Harker

    Ngày 5 tháng 10, buổi chiều
    Sau cuộc họp nhóm sáng nay, tôi bỗng thấy đầu óc trống rỗng đến lạ lùng. Những diễn biến mới đã đặt tôi vào tình trạng không còn nghĩ ra được một điều gì tích cực nữa. Quyết định không để Mina tham gia các cuộc thảo luận nhóm làm tôi phải nghĩ ngợi nhiều. Và khi không còn được bàn luận điều gì với cô, tôi đâm ra u mê, thiếu sáng suốt. Cách xử sự vừa rồi của mọi người đối vôi tôi cũng làm tôi mất phương hướng. Mina đang ngủ, nét mặt bình an, vô tư lự, hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, nét mặt ánh lên niềm hạnh phúc. Ơn Chúa! dẫu sao thì cô vẫn còn được hưởng những lúc an lành như vậy.
    * * * * *
    Một lúc sau
    Mọi chuyện thật kỳ lạ! Tôi lặng lẽ ngồi nhìn giấc ngủ an lành của Mina mà lòng hy vọng mình cũng được như vậy. Buổi tối đang đến gần thế chỗ cho ánh chiều tà yếu ớt, bầu không khí im lặng trong phòng dường như càng sâu thẳm trong tôi. Mina bỗng choàng tỉnh nhìn nhìn tôi, ánh mắt thật âu yếm. Cô nói :
    - Jonathan ơi, em muốn anh hứa với em một điều bằng danh dự của anh. Một lời hứa sẽ đưa em về với chính em, nhưng cũng thật hợp với ý Chúa Trời, một lời hứa không gì ngăn cản nổi, cho dù không cần em phải quỳ gối cầu xin anh bằng những giọt nước mắt cay đắng, xót xa: Nhanh lên anh, em cần phải làm như vậy ngay bây giờ!
    - Mina à, - Tôi trả lời - anh không thể hứa ngay lập tức với em một điều như vậy. Có thể anh cũng không có quyền làm điều đó.
    - Nhưng anh yêu, chính em là người muốn như thế, mà muốn không phải vì bản thân em. Anh hãy đi hỏi bác sĩ Van Helsing xem em nói có lý không. Nếu ông không tán thành, thì anh cứ việc làm theo ý của mình, em xin chấp nhận. Hơn nữa, nếu anh đồng ý, chốc nữa em sẽ giải ước lời hứa cho anh.
    - Vậy thì anh xin hứa! Tôi nói, khiến nét mặt cô rạng rỡ hẳn lên, mặc dù tôi biết chẳng bao giờ cô có một niềm hạnh phúc trọn vẹn, chừng nào nó cái dấu ấn nghiệt ngã còn nằm trên trán cô.
    Cô nói ngay :
    - Hãy hứa rằng anh sẽ không tiết lộ mọi kế hoạch chống lại lão bá tước cho em biết, cho dù là một từ, một lời bóng gió hay ẩn dụ. Anh hãy đừng nhắc tới một điều gì hết, chừng nào cái sẹo này còn hằn trên trán em.
    Cô chỉ vào vết bánh thánh trên trán mình, vẻ mặt rất nghiêm trọng. Tôi chợt hiểu mức hệ trọng trong những lời nói của cô và nhắc lại, giọng cũng nghiêm trọng không kém :
    - Anh xin hứa với em như vậy?
    Nhưng nói đến đây, tôi chợt cảm thấy dường như có một cánh cửa nào đó đã đóng sập lại giữa hai vợ chồng tôi.
    * * * * *
    Nửa đêm, cùng ngày
    Buổi chiều, cái vui vẻ hoạt bát của Mina dường như đã làm cho cả nhóm chúng tôi can đảm hẳn lên. Cả tôi cũng vậy, tôi thấy dường như cái chương khủng khiếp vẫn đè nặng lên chúng tỗi bấy lâu đang vơi nhẹ đi Chúng tôi chia tay nhau từ rất sớm để về phòng nghỉ. Lúc này, Mina đang ngủ ngon lành như một đứa con thơ. Có gì ngạc nhiên khi cô biết lấy giấc ngủ để phần nào quên đi nỗi phiền muộn trong lòng? Tấm gương buổi chiều nay của cô hẳn sẽ giúp tôi rất nhiều. Chúc một đêm yên giấc!
    Ngày 5 tháng 10, buổi sáng
    Lại một ngạc nhiên nữa. Mina đánh thức tôi dậy từ rất sớm và bảo tôi chạy đi gọi bác sĩ Van Helsing. Tôi nghĩ chắc cô lại muốn thôi miên, nên không hỏi han gì mà chạy ngay tới phòng giáo sư. Rõ ràng ông đang chuẩn bị cho một cuộc viếng thăm, bởi tôi thấy ông ăn mặc rất chỉnh tề. Cửa phòng ông không khép, nên tôi nghĩ ông có thể nghe thấy tiếng cửa phòng tôi mở. Nghe tôi nói, ông sang ngay. Vừa bước vào, ông vừa hỏi Mina xem có thể gọi những người bạn còn lại cùng vào được hay không.
    - Không được, - Cô trả lời ngắn gọn - không cần thiết. Ngài có thể cho họ biết sau. Tôi phải đi theo ngài trong cuộc hành trình của ngài.
    Cũng như tôi, giáo sư giật mình hỏi lại sau một lát im lặng :
    - Nhưng vì lý do gì chứ?
    - Ngài cần phải cho tôi theo. Tôi sẽ an toàn hơn khi được đi cùng ông, và cả anh nữa.
    - Nhưng tại sao chứ, Mina? Chăm sóc, bảo vệ an toàn cho bà, như bà biết đấy, luôn là nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi. Chúng ta đang đương đầu với với một mối nguy hiểm mà bà là người bị tổn thương nhiều nhất, sau những tình huống, những sự việc đã qua...
    Ông chợt im bặt, vẻ rất lúng túng.
    Cô trả lời, tay chỉ lên trán :
    - Tôi biết. Và chính vì cái này nên tôi phải đi. Tôi có thể nói với ngài lúc mặt trời chỉ vừa lên. Lát nữa, tôi không thể nói gì được nữa. Tôi biết khi lão bá tước đòi hỏi, tôi phải tuân lệnh. Tôi cũng biết rằng nếu lão ra lệnh cho tôi bí mật ra đi, tôi sẽ mò đến với lão bằng sự gian ngoan, xảo quyệt, đủ để tạo nên một sự thay đổi, kể cả với Jonathan.
    Cô quay sang nhìn tôi, ánh mắt buồn rười rượi. Tôi chỉ còn biết nắm chặt bàn tay bé nhỏ của người vợ thân yêu mà chẳng thể nói được điều gì. Cô tiếp tục, mắt dưng dưng :
    - Đàn ông các anh luôn can đảm và mạnh mẽ. Các anh càng mạnh hơn khi đoàn kết lại với nhau, bởi các anh có thể thách thức lại những gì đơn độc đe dọa nghiền nát sự kháng cự của nhân loại. Hơn nữa, em còn có thể có ích cho các anh, bởi khi bị thôi miên, các anh có thể đọc được từ em những gì chính em cũng không biết.
    Van Helsing xúc động đáp lại, giọng nghiêm lại :
    - Thưa bà Mina, lúc nào bà cũng là người ngoan đạo. Vâng, chúng tôi sẽ mời bà cùng đi và chúng ta sẽ góp sức cùng nhau hoàn thành sứ mệnh khó khăn của mình.
    Mina không nói gì thêm mà chìm sâu vào dòng suy tưởng trước mắt tôi. Cô ngồi im một lúc rồi từ từ ngả người xuống tiếp tục giấc ngủ ngon lành. Thậm chí, khi tôi kéo cao rèm, để ánh nắng tràn ngập căn phòng nhỏ, cô vẫn không thể tỉnh dậy. Van Helsing khoát tay bảo tôi lặng lẽ về phòng ông. Vài phút sau, cả huân tước Godalming, Moriss và bác Seward cùng kéo đến. Ông thuật lại cho họ biết những gì Mina vừa nói và tiếp tục :
    - Chúng sẽ đi Varna ngay ngày hôm nay. Mina nói có lý lắm, vậy là chúng ta đã được cảnh báo kịp thời. Chúng ta không được để mất bất cứ một cơ hội nào, và tới Varna, tất cả phải sẵn sàng hành động ngay lúc con tàu cập bến.
    - Nói chính xác thì chúng ta phải làm gì chứ? – Moriss hỏi ngắn gọn.
    Sau một hồi suy nghĩ, giáo sư trả lời :
    - Trước hết, phải lên tàu. Rời ngay sau khi xác định được vị trí chiếc hòm gỗ, phải đặt cố định lên đó một cành hồng dại để lão không thể chui ra ngoài. Đó ít nhất cũng là những gì tôi được biết ở tín ngưỡng. Trước hết, chúng ta cần phải biết tin vào những điều mê tín, vì đó là cơ sở để mang lại niềm tin đầu tiên cho chúng ta trong hoàn cảnh này. Sau đó, nếu quan sát thấy không có ai lảng vảng xung quanh chúng ta chớp thời cơ cậy nắp hòm và... tất cả sẽ diễn ra êm thấm.
    - Tôi thì tôi chẳng cần đợi thời cơ gì hết. - Moriss lên tiếng. - Ngay khi nhìn thấy cái hòm đất, tôi sẽ cậy nắp lên và nện cho con quỷ một phát vào đầu cho nhanh. Mặc kệ dân tình, họ muốn nhìn gì thì nhìn, mọi chuyện giải quyết sau?
    Tôi xúc động nắm chặt bàn tay anh chàng người Mỹ: bàn tay anh lúc này cứng như thép. Tôi hy vọng anh sẽ hiểu mọi nỗi niềm trong ánh mắt tôi.
    - Hoan hô chàng trai! - Van Helsing reo lên. - Hoan hô chàng trai! Quincey quả là một người đàn ông một trăm phần trăm. Cầu chúa ban phước lành cho cậu! Nhưng cậu bé ạ, xin hãy tin ở tôi, chúng ta không ai được huấn luyện cho công việc này cả, và thời gian còn lại cũng không nhiều để chúng ta có thể run sợ. Tôi chỉ nói đại khái những gì chúng ta có thể làm và phải làm, thế thôi. Còn trên thực tế, làm sao biết chúng ta phải làm gì kia chứ? Cớ thể sẽ có rất nhiều chuyện xảy ra mà chúng ta không thể dự kiến trước được. Sẽ có những bước ngoặt đột ngột, những kết quả khôn lường. Chẳng nói trước được một điều gì đâu, chàng trai ạ. Dù thế nào thì chúng ta cũng nên trang bị cho mình đầy đủ vũ khí và khi thời điểm quyết định đến, mọi nỗ lực của chúng ta sẽ đạt hiệu quả cao nhất. Bây giờ, chúng ta hãy chuẩn bị cho thật chu đáo vào. Hãy thu xếp tất cả những gì chúng ta thấy là cần thiết nhất, vì không ai đoán trước được một kết cục sẽ xảy ra với chúng ta ra sao, bao giờ và theo cách như thế nào. Về phần mình, tôi đã chuẩn bị xong và chẳng còn việc gì khác ngoài việc tổ chức chuyến đi. Tôi sẽ lấy vé và tất cả những gì cần thiết cho chuyến viễn xứ này.
    Không còn gì để bàn thêm, chúng tôi bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị. Tôi sẽ thu xếp mọi việc liên quan đến chuyện đất đai, tài sản của mình và sẵn sàng đón nhận tất cả những gì có thể xảy ra.
    * * * * *
    Một lúc sau
    Tôi đã viết xong bức di chúc và chuẩn bị đầy đủ những gì còn lại. Nếu Mina đi cùng, cô sẽ là người thừa kế duy nhất của tôi. Nếu còn có người khác thì chúng tôi đã quá hạnh phúc.
    Hoàng hôn xuống dần. Cử chỉ của Mina đã làm tôi chú ý Tôi dám chắc rằng đúng vào lúc mặt trời lặn, lại có một chuyện gì đó chẳng lành xảy ra trong tâm tưởng của cô. Những lúc như vậy đều là một thử thách đối với chúng tôi, vì mỗi lần mặt trời thức dậy hoặc đi ngủ đều mở ra một mối nguy hiểm mới, một sự chịu đựng mới cho cả nhóm. Tôi viết những dòng này trong cuốn nhật ký của mình, bởi lúc này, người vợ thân yêu của tôi chẳng thể biết được một điều gì nữa. Nếu sau này, cô có thể tỉnh táo như một người bình thường, thì tất cả đã có trong nhật ký.
    Tôi bỗng giật mình khi nghe thấy tiếng gọi của cô ấy.
     
  7. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 25
    Nhật ký của bác sĩ Seward



    Ngày 11 tháng 10, buổi tối
    Jonathan Harker đề nghị tôi ghi lại những diễn biến xảy ra tiếp theo. Anh bảo tôi rằng chỉ mình anh ghi nhật ký thôi thì chưa đủ, và anh muốn tất cả phải được phản ánh thật chính xác.
    Tôi nghĩ chẳng ai trong chúng tôi ngạc nhiên khi được mời đến bên Mina ngay trước lúc chiều buông. Chúng tôi chỉ vừa được biết mặt trời mọc hoặc lặn đối với cô là những lúc diễn ra hiện tượng giải thoát kỳ lạ, tức là cái tôi thực sự của cô được thể hiện với một sức mạnh ngự trị vô hình nào đó hoặc là cản trở cô hành động, hoặc ngược lại, bắt buộc cô phải hành động. Trạng thái này xuất hiện trước lúc mặt trời mọc, hoặc lặn chừng nửa giờ đồng hồ và kéo dài cho đến khi mặt trời lên cao hoặc có những đám mây kéo tới che khuất những tia nắng còn vương vất cuối chân trời. Đó là hiện tượng bắt đầu của một tác động tiêu cực, giống như một sợi dây được tháo gỡ nút, rất nhanh sau đó là một trạng thái tự do tuyệt đối. Khi cái tự do ấy bị gián đoạn thì trạng thái cũng sẽ lặp lại lại đến rất nhanh với hiện tượng báo trước ngắn ngủi là sự im lặng của cô.
    Chiều này, khi chúng tôi ngồi bên nhau, trông cô có vẻ hơi miễn cưỡng với những dấu hiệu bộc lộ sự đấu tranh nội tâm khá rõ. Tôi cho nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng chính là nỗ lực ghê gớm đòi hỏi ở cô ngay trong lúc đầu tiên cô trở lại trạng thái tự do. Tuy nhiên, chỉ cần ít phút cũng đủ để cô tự kiểm soát hoàn toàn bản thân. Cô chỉ tay, ra hiệu cho Jonathan ngồi bên cạnh mình trên ghế tràng kỷ, nơi cô đang nửa ngồi nửa nằm, rồi bảo mọi người kê ghế ngồi lại gần. Cô nắm chặt tay Harker nói :
    - Có thể đây là lần cuối cùng chúng ta quây quần tự do bên nhau. Anh yêu, em biết anh sẽ luôn ở bên em đến cùng.
    Nhìn đôi bàn tay nhỏ đang nắm chặt bàn tay người chồng khốn khổ của cô, chúng tôi biết cô đang rất xúc động.
    - Ngày mai, - Cô tiếp tục - chúng ta sẽ lên đường vì sứ mệnh của mình, và chỉ có trời mới biết sứ mệnh ấy sẽ dành sẵn cho chúng ta một kết cục như thế nào. Mọi người thật tốt bụng khi cho phép tôi cùng đi. Tôi biết tất cả những gì người đàn ông can đảm có thể làm vì một người phụ nữ xấu số đã để mất tâm hồn vì quỷ dử, - không, chưa hẳn là như vậy, nhưng dù sao thì cũng gần như vậy... - thì các bạn sẽ làm. Nhưng xin nhớ là tôi không giống mọi người. Tâm hồn tôi, dòng máu chảy trong tôi, đều đã bị ô uế cả rồi. Tôi có thể chết vì điều đó, ít nhất trong trường hợp mọi người không cần đến tôi nữa. Cũng như tôi, chắc các bạn đều hiểu rằng tâm hồn tôi như đang bên bờ vực thẳm. Tôi biết, bây giờ đúng là có một con đường rộng mở trước mắt mình, nhưng đó không phải là con đường của các bạn...
    Cô nhìn chúng tôi khắp lượt, người đầu tiên và cuối cùng chính là Jonathan, ánh mắt như muốn dò hỏi từng người.
    - Con đường nào? - Van Helsing sốt ruột hỏi lại, giọng khàn khàn.
    - Chết ngay lập tức bởi chính bàn tay của chính mình hoặc bàn tay của một người khác, trước khi chết bởi bàn tay của kẻ tà ác. Tôi biết, và các bạn cũng vậy, nếu tôi chết, các bạn có thể và cũng rất muốn giải thoát cho linh hồn bất tử của tôi, giống như các bạn đã làm cho cô bé Lucy tội nghiệp hôm nào. Nếu điều duy nhất cần bận tâm là bản thân cái chết hoặc ý nghĩ sợ chết, thì tôi sẽ không chần chừ trước thần chết, giữa những người luôn coi tôi là người bạn thân thiết nhất. Nhưng chết đâu phải là tất cả. Tôi không tin việc tôi chết vào lúc này là hợp với ý Chúa, trong khi các bạn còn một sứ mệnh hệ trọng cần phải hoàn thành. Nhưng tôi vẫn đang tiến dần đến cái đen tối này, cái đen tối mà tôi cho là có thể đẩy lùi những điều đen tối trên thế giới và trái đất này.
    Chúng tôi lặng thinh ngồi nghe, vì ai cũng hiểu đây chỉ là khúc dạo đầu của những điều không hay. Ai nấy mặt tái nhợt, nghiêm trọng và căng thẳng, trong khi sắc mặt của Jonathan xám xịt như màu tro bụi. Có lẽ anh sẽ hiểu những gì sẽ diễn ra tiếp theo hơn chúng tôi. Mina tiếp tục :
    - Đó chính là phần đóng góp của tôi cho cuộc đời đầy oan nghiệt này. Mỗi người trong các bạn sẽ đóng góp được gì? Cũng chính là cuộc đời của mỗi người, tôi biết. Quả là một việc không khó làm với những người đàn ông dũng cảm. Cuộc sống của các bạn được Chúa ban cho, vì vậy các bạn có thể hoàn trả lại cho Ngài một cách xứng đáng nhất. Nhưng các bạn sẽ cho tôi được cái gì?
    Tôi vẫn nhận ra ánh mắt dò hỏi của cô, nhưng lần này ánh mắt ấy chỉ hướng vào Jonathan. Dường như Quincey đã hiểu ý người con gái xấu số, bởi tôi thấy anh vừa gật đầu vẻ rất thông cảm. Cử chỉ của anh khiến khuôn mặt Mina rạng rỡ hẳn lên. Cô nói :
    - Vâng! tôi sẽ nói điều tôi muốn với mọi người. Các bạn, từng người một, phải hứa với tôi rằng nếu tới lúc, các bạn phải ra tay kết thúc cuộc đời giúp tôi, cả anh cũng vậy, người chồng thân yêu của em ạ.
    - Lúc nào? - Quincey hỏi lạc cả giọng.
    - Vào cái giờ mà mọi người thấy sự thay đổi trong con người tôi cũng như cái chết đối với tôi trở nên cần thiết cho cuộc đời này. Khi thể xác tôi thực sự lìa đời, mọi người hãy đừng ngần ngại đóng cho tôi một cái cọc vào giữa con tim, hoặc làm một điều gì cần thiết đại loại như vậy, để tôi được đến với cái chết vĩnh hằng như bao người bình thường khác?
    Căn phòng tưởng như sẽ im lặng mãi mãi nếu Quincey không là người đứng dậy đầu tiên. Anh quỳ xuống cầm đôi bàn tay nhỏ bé của người đàn bà bất hạnh, nét mặt nghiêm trang :
    - Tôi chỉ là một kẻ thô kệch, có lẽ tôi sống không xứng với sự trọng vọng của bà, nhưng có thể lấy danh dự mà hứa với bà rằng bao giờ thời khắc ấy đến, tôi sẽ không chùn tay khi thực hiện cái điều mà bà đang mong đợi.
    - Quả là một người bạn thực sự của tôi! - Mina nói trong dòng nước mắt giàn giụa và cúi xuống hôn lên bàn tay người bạn.
    - Tôi xin cam kết với bà, Mina à? - Đến lượt Van Helsing lên tiếng.
    - Tôi cũng vậy! - Huân tước Godalming xúc động nói. Tôi cũng quỳ gối hứa với cô.
    Người cuối cùng là Jonathan. Anh quay sang nhìn người vợ yếu đấu, ánh mắt thẫn thờ, sắc mặt tái xanh càng như nhợt nhạt hơn dưới mái tóc pha sương :
    - Còn anh, anh có phải hứa như vậy không, em yêu?
    - Cả anh cũng phải vậy, Jonathan à. - Cô nói, ánh mắt và giọng nói chan chứa niềm yêu thương - Anh không được chùn bước. Anh là người gần gũi và thân thiết nhất, là cả thế giới của em. Tâm hồn hai ta đã hòa quện vào nhau trong cuộc đời này để trở thành bất tử. Anh cứ nghĩ mà xem, anh yêu, trên đời này từng có lúc những người đàn ông can đảm đã giết chết vợ và những người phụ nữ trong gia đình mình để cứu họ khỏi bàn tay kẻ thù. Bàn tay những con người dũng cảm ấy đã không hề run rẩy, bởi những người họ hằng yêu thương đã đòi họ phải làm như vậy. Đó là bổn phận của đấng nam nhi đối với những người yêu đấu của họ trong chiến tranh tàn khốc. Vậy đấy! Anh yêu, nếu em phải chết bởi bàn tay của một người, thì đó hẳn phải là bàn tay của người mà yêu nhất. Bác sĩ Van Helsing ơi, chắc là ngài vẫn chưa quên những giờ phút thảm thương của Lucy chứ? Ngài đã được chứng kiến một tình cảm thực sự dành cho người cô ấy hằng yêu thương - cô bỗng đỏ mặt ấp ủng và sửa lại câu nói của mình - ... dành cho người xứng đáng có quyền được cô ấy gửi gắm niềm tin giúp mình an nghỉ. Nếu một khoảnh khắc như vậy đến với tôi, thì xin ngài hãy động viên nhà tôi cho tôi được an nghỉ vĩnh hằng bởi bàn tay của anh ấy. Tôi muốn bàn tay thân thương của anh ấy giúp tôi tháo bỏ cái ách khủng khiếp mà tôi đang mang nặng trên người.
    - Một lần nữa tôi xin hứa với bà! - Van Helsing nói, giọng trầm hẳn xuống.
    Mina mỉm cười, vâng, một nụ cười thật sự, và ngả người ra sau thở phào một tiếng rồi nói tiếp :
    - Còn bây giờ, tôi xin được nhắc một điều mà mọi người phải cảnh giác, phải không bao giờ được quên: cái thời khắc đó, nếu xảy ra, có thể sẽ đến rất nhanh và bất ngờ. Trong trường hợp này, các bạn đừng bao giờ phí thời gian chờ đợi một cơ hội thích hợp nào khác. Bởi khi đó, có thể tôi sẽ... Vâng, nếu thời khắc ấy xảy ra, tôi phải nhập bọn với kẻ thù để chống lại các bạn. Tôi cầu xin các bạn một điều nữa, - Cô nghiêm mặt lại nói - một lời cầu xin ít sống còn và ít cấp thiết hơn, nhưng lại là một ân huệ mà tôi xin mọi người ban cho nếu có thể.
    Chúng tôi không ai nói câu nào, bởi bây giờ không cần thiết phải làm như vậy.
    - Tôi xin mọi người hãy cầu siêu cho tôi ngay bây giờ.
    Jonathan bỗng nấc nghẹn một tiếng, khiến cho vợ anh bị ngắt lời. Cô nắm tay anh đặt vào lòng và nói tiếp :
    - Sẽ có ngày anh phải đọc lời cầu siêu cho em. Cho dù cuộc phiêu lưu này có kết cục như thế nào đi nữa thì đó cũng chỉ là một tín ngưỡng mà thôi. Người chồng thân yêu của tôi ơi, em hy vọng chính anh sẽ là người đọc lời cầu siêu cho em, chính giọng nói thân thương của anh sẽ khắc sâu trong hồi ức vĩnh cửu của em - cho dù đó là một vĩnh cửu như thế nào.
    - Nhưng em yêu, - Jonathan thảng thất - cái chết còn ở xa em lắm mà.
    - Không đâu! Em bây giờ chỉ còn bị khâm liệm và chôn vùi xuống mồ bất cứ lúc nào.
    - Ôi người vợ bé nhỏ của anh, anh phải đọc thật sao?
    - Vâng, điều đó sẽ mang lại cho em thêm sức mạnh, anh yêu ạ Jonathan run rẩy nhìn người vợ chìa ra trước mặt quyển kinh thánh.
    - Làm sao tôi có thể... trong tâm trạng rối bời, ủ ê, lơ sợ và đau đớn, phải làm thế nào để tả lại cảnh đời chua xót, trớ trêu này đây? Trái tim tôi như tan nát trước những người bạn đang quỳ gối bên người con gái bất hạnh, trước một người chồng đang nén lòng khó nhọc đọc những lời cầu siêu đơn giản bằng một giọng đứt đoạn, nát vụn trong những tiếng nấc kia. Tôi không thể... từng lời, từng chữ không thể thấm vào đầu tôi...
    Bản năng một con người đã thôi thúc anh làm theo ý người vợ... Nếu như hành động của anh là không thể tin được thì chúng tôi hẳn sẽ phải là những người ngạc nhiên đầu tiên. Nhưng dường như chính cảnh xúc động trước mắt đã giúp chúng tôi lấy lại sức mạnh và quyết tâm của mình. Sự im lặng bất chợt của Mina cho thấy rằng linh hồn cô đang một lần nữa bị cưỡng chế...

    Nhật ký của Jonathan Harker

    Varna, ngày 15 tháng 10
    Chúng tôi rời Charing Cross sáng ngày 12, tới Paris cùng ngày và lên tàu nhanh Phương Đông đi tiếp. Tàu đi ngày đêm, đưa chúng tôi đi tới đây lúc khoảng năm giờ. Vừa xuống ga, huân tước Godalming vội chạy tới Tòa lãnh sự để hỏi xem có bức điện nào gửi cho chúng tôi không, trong khi những người còn lại tìm đến khách sạn Odessus để thuê phòng.
    Chuyến đi có một vài trục trặc, nhưng vì quá sốt ruột nên tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào để ý đến những chuyện vớ vẩn. Từ nay cho tới khi con tàu Tsarine Catherine cập bến, sẽ chẳng có gì trên thế gian mênh mông này làm tôi chú ý. Ơn Chúa, Mina vẫn yên ổn và dường như còn khỏe ra, gương mặt hồng hào lên đôi chút. Cô ngủ nhiều, ngủ hầu hết cuộc hành trình. Ngược lại, trước những lúc rạng Đông hoặc hoàng hôn, cô trở nên tỉnh như sáo và có vẻ hoạt bát hơn hẳn. Đó là những lúc giáo sư Van Helsing có thể làm thôi miên. Lúc đầu, ông đã gặp một số khó khăn, phải huơ tay rất nhiều lần, nhưng bây giờ, có vẻ như Mina chịu ngay. Những lúc như vậy, dường như có một quyền lực nào đó áp đặt lên cô và các ý nghĩ chỉ dẫn của ông buộc cô phải làm theo. Ông hỏi cô theo nhiều cách khác nhau về những gì cô có thể trông và nghe thấy. Và lần này, cô trả lời :
    - Không thấy gì cả. Tất cả đều tối om.
    Rồi thì :
    - Tôi nghe thấy những tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền oàm oạp rồi tan ra. Tôi thấy họ đang kéo dây, những cánh buồm, những cột buồm nghiến răng rắc và cả trụ buồm nữa. Gió thổi rất mạnh, tôi nghe có cả tiếng dây néo xé gió và mũi tàu rẽ sóng.
    Rõ ràng tàu Tsarine Catherine còn lênh đênh trên biển và đang hướng về Varna. Huân tước Godalming tìm về với chúng tôi khá nhanh, trên tay cầm bốn bức điện được gửi trong mấy ngày liền nhau kể từ khi chúng tôi lên đường. Các bức điện chỉ cung cấp cho chúng tôi cùng một thông tin. Công ty Hoyd chỉ thông báo cho chúng tôi một vài điểm mà Tsarine Catherine đi qua. Trước khi rời Luân Đôn, huân tước có chuẩn bị sẵn tiền nong, giấy tờ cho một người ủy thác để hàng ngày anh ta có thể đánh điện thông báo những nơi con tàu đã đánh tín hiệu về đất liền.
    Chúng tôi ăn tối và đi nằm thật sớm. Ngày mai, chúng tôi phải tới gặp viên phó lãnh sự rồi về chuẩn bị một số việc cần thiết để sẵn sàng hành động ngay sau khi con tàu cập bến. Cơ hội của chúng tôi, nói như Van Helsing, sẽ chỉ có thể xảy ra trong khoảng thời gian từ lúc mặt trời mọc và lặn. Cho dù có đội lốt một con dơi, lão bá tước cũng không thể vượt qua một quãng đường dài trên biển sóng cồn bằng các quyền năng của mình. Vậy là lão không thể rời khỏi con tàu. Nếu muốn núp trong dáng hình một con người mà không gây chú ý nghi ngờ - điều lão luôn muốn tránh - thì lão phải nằm yên trong chiếc hòm gỗ. Tóm lại, chúng tôi có thể leo lên tàu sau lúc mặt trời mọc, và lão sẽ nằm trong tầm tay chúng tôi, bởi chúng tôi có thể mở nắp hòm và ra tay hành động, giống như những gì chúng tôi đã làm với Lucy, trước khi lão kịp thức dậy. Lòng thương hại của chúng tôi đối với lão rõ ràng không phải là một trở ngại. Ơn Chúa, ở chỗ nào trong xứ sở này cũng tràn lan nạn tham nhũng, mà thực ra chúng tôi đâu có thiếu tiền. Chúng tôi chỉ cần bảo đảm làm sao để con tàu cập bến giữa khoảng thời gian mặt trời mọc và lặn, và có sự báo trước. Cầu Chúa hãy sắp xếp mọi việc cho ổn thỏa!
    * * * * *
    Ngày 16 tháng 10
    Mina vẫn bắt được những tín hiệu tương tự trong lúc thôi miên: tiếng nước vỗ mạn tàu oàm oạp, mũi tàu rẽ sóng, bầu trời tối đen...
    Các tin tức về Tsarine Catherine vẫn đến đều đều với chúng tôi.
    * * * * *
    Ngày 17 tháng 10
    Tôi nghĩ tất cả coi như đã được chuẩn bị chu đáo để nghênh tiếp chuyến trở về của bá tước Dracula. Kế hoạch đã được chuẩn bị: chúng tôi sẽ nói với các thủy thủ trên tàu rằng chiếc hòm gỗ chứa đồ mà một kẻ đạo trích đã ăn cắp của một người bạn chúng tôi, Godalming là người chịu trách nhiệm xin phép mở hòm kiểm tra. Từ Luân Đôn, ông chủ tàu đã trao cho anh một lá thư tay gửi viên thuyền trưởng, đề nghị ông ta tạo điều kiện để anh được toàn quyền thực hiện công việc của mình. Ông chủ cũng trao quyền tương tự cho tay nhân viên ở Varna. Chúng tôi đã gặp nhân viên này và nhờ cái vẻ quý tộc của Godalming, chúng tôi dễ dàng thuyết phục anh ta giúp đỡ trong chừng mực có thể nhất. Chúng tôi cũng nhất trí các biện pháp chuẩn bị cho việc mở nắp hòm. Nếu lão bá tước ở trong đó, Van Helsing và Seward sẽ lập tức ra tay chặt đứt đầu lão và đâm một cây cọc nhọn vào giữa tim lão. Qulncey Moriss, Godalming và tôi sẽ đứng ngoài hỗ trợ, đề phòng phải sử dụng các vũ khí cần thiết. Giáo sư bảo đảm với chúng tôi rằng nếu làm được như vậy, toàn thân lão bá tước sẽ biến thành bụi mờ ngay lập tức. Trong trường hợp đó, sẽ chẳng ai có bằng chứng kết tội chúng tôi là giết người. Thậm chí, nếu kết cục có xảy ra không đúng như ý muốn đi nữa thì chúng tôi vẫn dám đứng ra chịu mọi hậu quả và biết đâu sẽ có một ngày, cuốn sách này sẽ minh oan cho chúng tôi khỏi đoạn đầu đài. Về phần mình, tôi vẫn rất lấy làm vinh hạnh khi được ra tay hành động nếu có cơ hội. Chúng tôi quyết định sẽ khuấy đảo trời đất để đạt được thành công bằng mọi cách. Dẫu sao thì mọi việc cũng đã được bố trí chắc chắn, bây giờ chỉ còn đợi một thông điệp đặc biệt ngay sau khi con tàu Tsarine Catherine xuất hiện trong tầm mắt chúng tôi.
    Ngày 24 tháng 10
    Đã một tuần chờ đợi trôi qua. Các bức điện hàng ngày gửi cho Godalming luôn lặp lại một câu: “Vẫn chưa có tin gì mới.” Câu trả lời của Mina trong mỗi lần thôi miên cũng không có gì thay đổi: “tiếng sóng oàm oạp, tiếng gió ù ù, tiếng cột buồm nghiến ken két. ..”

    Điện của Rufus Smith, Lloyd’s, Luân Đôn, gửi Huân tước Godalming, kính nhờ ngài Phó lãnh sự H.B.M tại Varna chuyển giúp

    “Ngày 24 tháng 10.
    Sáng nay, tàu Tsarirle Catherine đánh tín hiệu ở Dardanelles.”

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 24 tháng 10
    Tôi thật lấy làm tiếc vì không mang theo chiếc máy hát. Quả là chẳng có gì khiến tôi thấy cực hơn việc phải viết nhật ký bằng ngòi bút, nhưng Van Helsing lại bảo cần phải viết. Sáng nay, chúng tôi tưởng có thể phát rồ khi huân tước Godalming nhận được một bức điện từ Hoyd. Bây giờ tôi mới hiểu các chiến binh phải chịu đựng một cảm xúc như thế nào khi chờ đợi tín hiệu tấn công. Trong số chúng tôi, duy nhất có Mina không có biểu hiện gì, bởi chúng tôi vẫn cố gắng không để cô biết gì và cố gắng không để cô nhận thấy sự sốt ruột của mọi người. Ngày trước, tôi chắc thế nào cô cũng sẽ nhận ra biểu hiện trên nét mặt từng người, nhưng kể từ ba tuần nay? mọi chuyện đều đã đổi khác. Nhiều lúc trông cô thẫn thờ như kẻ mất hồn và mặc dù cô có vẻ khỏe ra, nhưng tôi và Van Helsing vẫn không thấy hài lòng. Chúng tôi thường xuyên nói về cô nhưng không kể cho người khác biết, vì sợ mọi chuyện lại đến tai Jonathan khiến anh thêm phiền lòng. Lúc thôi miên, Van Helsing đã kiểm tra rất kỹ hai hàm răng cô và bảo lâu lâu rồi không thấy chúng dài thêm nữa, có nghĩa là hiện tại vẫn chưa có sự thay đổi nào chứng tỏ một hiểm họa cấp bách đang lơ lửng trên đầu chúng tôi Nếu nhận thấy dấu hiệu biến chuyển bất ổn, chúng tôi phải có biện pháp đề phòng ngay. Chúng tôi hiểu đó là những biện pháp nào, cho dù không ai nói ra suy nghĩ trong lòng. Sẽ không ai trong chúng tôi hèn nhát lùi bước trước nhiệm vụ, kể cả khi đó là nhiệm vụ đáng sợ nhất. Chết thanh thản là một từ tuyệt vời tiếp thêm nghị lực cho chúng tôi!
    Từ Dardanehes đến đây phải mất khoảng hai mươi tư giờ nếu tính theo chiều gió từ Luân Đôn. Như vậy, sáng mai Tsarine Catherine mới xuất hiện. Biết con tàu không thể đến sớm hơn, chúng tôi quyết định về nghỉ sớm và sẽ dậy vào lúc một giờ để chuẩn bị.
    * * * * *
    Ngày 25 tháng 10, buổi trưa
    Vẫn chưa có tin gì mới về bóng dáng con tàu. Thông tin truyền đạt từ Mina trong lúc nhập đồng cũng không có gì khác, đến nỗi chúng tôi có thể biết ngay ý nghĩa trong từng câu nói của cô. Chúng tôi như lên cơn sốt cả lượt, ngoại trừ Jonathan vẫn bình thản như không. Đôi tay lạnh như nước đá, anh lừ lừ bỏ ra ngoài và hì hục ngồi mài con đao nhọn hiệu Kukri, sau đó không thấy anh rời con dao ra nữa. Quả là một viễn cảnh tồi tệ cho lão bá tước: mũi dao kia sẽ chọc thẳng vào cổ lão một nhát ngọt lịm bởi một bàn tay dứt khoát và lạnh lùng.
    Hôm nay, tôi và Van Helsing đều thấy lo lo về Mina. Gần trưa, cô bỗng rơi vào trạng thái ngủ lịm. Chúng tôi thấy buồn nhưng không nói gì cho những người bạn còn lại biết. Buổi sáng, cô cứ luôn chân luôn tay làm đủ thứ việc không tên, có lúc còn tỏ thái quá. Chúng tôi thực sự cảm thấy hài lòng khi thấy cô về phòng nghỉ. Tuy nhiên, khi được Jonathan thông báo cô ngủ say đến nỗi gọi đủ cách vẫn không tỉnh, chúng tôi đã phải lập tức tìm đến kiểm tra xem tình hình ra sao. Cô vẫn thở tự nhiên và dường như còn đều đặn, nhẹ nhàng đến nỗi chúng tôi đều nghĩ rằng đối với cô lúc này, sẽ không có gì tất lành hơn là một giấc ngủ vùi. Tội nghiệp cô bé, giấc ngủ dài sẽ giúp quên đi tất cả? Không có gì đáng ngạc nhiên nếu như giấc ngủ là một điều tự nhiên và phù hợp với cô lúc này.
    * * * * *
    Một lúc sau
    Cảm giác của chúng tôi hoàn toàn chính xác, bởi lúc Mina tỉnh dậy sau nhiều giờ chìm đắm trong giấc ngủ, cô lại năng nổ và thậm chí còn khỏe ra sau bấy nhiêu ngày. Lúc hoàng hôn xuống, trong trạng thái bị thôi miên, cô cho chúng tôi biết trên Biển Đen, con tàu của bá tước Dracula đang lao nhanh tới đích. Lao nhanh về nơi có lời phán quyết đối với lão, vâng, tôi biết!
    * * * * *
    Ngày 26 tháng 10
    Thật là lạ khi lại thêm một ngày nữa không có tin tức gì về Tsarine Catherine. Lẽ ra lúc này nó phải về đây rồi. Chắc chắn là nó vẫn đang lênh đênh ở đâu đó, bởi trong lúc nhập đồng buổi rạng Đông, Mina vẫn nhắc lại những gì cô đã nói những hôm trước. Có thể con tàu đang tạm dừng một chỗ vì sương mù. Những thủy thủ trên mấy con tàu hơi nước vừa cập cảng cho biết hôm qua trên biển, ở cả hướng bắc lẫn hướng nam, có rất nhiều sương mù. Vậy là không còn cách nào khác, chúng tôi phải tiếp tục chờ đợi rình rập, bởi con tàu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
    Ngày 27 tháng 10, buổi trưa
    Kỳ lạ? Vẫn không có tin gì mới về con tàu.
    Chiều hôm qua và sáng nay, Mina tiếp tục nói những lời như mọi khi: “Sóng vỗ mạn tàu oàm oạp, tàu rẽ nước”, và rồi thì: sóng vỗ rất yếu”. Van Helsing có vẻ lo lắng kinh khủng, ông nói ông đang nghi lão bá tước đã thoát khỏi tầm tay chúng tôi và nhấn giọng :
    - Tôi không thích cái kiểu ngủ lịm của Mina: Có thể tinh thần và trí nhớ của cô ấy sẽ gây một số trục trặc trong lúc bị thôi miên.
    Tôi đang định hỏi thêm vài câu thì ông xua tay lia 1ịa ra hiệu im lặng, vì Jonathan vừa xuất hiện. Chiều tối nay, chúng tôi sẽ cố gắng khai thác cô nhiều hơn trong lúc thôi miên.

    Điện của Rufus Smith, Lloyd’s, Luân Đôn, gửi Huân tước Godalming, kính nhờ ngài Phó lãnh sự H.B.M tại Varna chuyển giúp

    “Ngày 28 tháng 10, tàu Tsarine Catherine đánh tín hiệu ở cửa cảng Galatz, lúc một giờ ngày hôm nay.”

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 28 tháng 10
    Khi nhận được bức điện thông báo con tàu đang ở Galatz, chúng tôi bị sốc thì ít mà nghi ngờ thì nhiều. Không hiểu sự thay đổi đột ngột này bắt đầu xảy ra từ đâu và khi nào. Chúng tôi chờ đợi một điều bất ngờ nào đó xảy ra. Sự chậm trễ muộn màng của con tàu buộc chúng tôi phải tin mọi sự việc diễn ra đều không giống như những gì chúng tôi đã dự tính. Chúng tôi chỉ còn cách tự nhủ có thể con tàu đã đổi hướng đi. Thực tế cho thấy mọi việc đã diễn ra theo đúng như cách chúng phải diễn ra, chứ không giống như những gì chúng tôi đoán chúng sẽ diễn ra. Thay đổi đột ngột khiến mỗi chúng tôi tỏ thái độ phản ứng theo một cách. Van Helsing giơ hai tay lên trời như muốn phân trần một điều gì đó nhưng lại không nói được nửa lời, một lát sau ông mới hạ tay xuống, nét mặt vẫn rất bình tĩnh. Huân tước Godalming ngồi bệt xuống đất, mặt tái xanh, hơi thở đứt đoạn. Tôi choáng váng nhìn hết người này đến người khác. Quincey Moriss thì giật cục thắt lại dây lưng; trong lúc vất vưởng nơi đất khách quê người như thế này, tôi hiểu động tác của anh có nghĩa: “cần phải ra hành động!” Còn Mina thì mặt nhợt nhạt như một kẻ chết rồi, vết sẹo trên trán cô Chợt như hồng lên, cô chắp hai tay lại như đang cầu nguyện. Trong khi Jonathan cười phá lên, vâng, một tiếng cười gằn chua xót, chảy nước mắt như không còn hy vọng ở bất cứ một điều gì nữa, nhưng tay anh vẫn quờ tìm con dao Kukri và nắm chặt lấy chuôi dao trong tâm trạng của một kẻ nuôi lòng uất hận chưa có cách nào giải tỏa.
    - Chuyến tàu gần nhất đi Galatz chạy vào mấy giờ không biết? - Van Helsing hỏi trống không.
    - 6 giờ 30 sáng mai.
    Chúng tôi giật mình, bởi người trả lời chính là Mina.
    - Chúa ơi, làm sao bà biết được? - Arthur hỏi.
    - Có lẽ anh đã quên - hoặc cũng có thể là anh không biết rằng em luôn có cái thú thích đi tàu. Khi còn ở nhà, ý em muốn nói là ở Exeter, em có thói quen tìm hiểu giờ chạy của các chuyến tàu để giúp Jonathan trong công việc. Chuyện diễn ra thường xuyên đến nỗi bây giờ em vẫn chưa bỏ được thói quen đó. Hơn nữa, em cũng hiểu nếu buộc phải tìm đến lâu đài Dracula, chúng ta phải đi qua Galatz hoặc dù thế nào cũng phải qua Bucarest, chính vì vậy em đã để ý rất kỹ các giờ tàu chạy. Nhưng cũng chẳng có gì phải mệt óc, bởi ngày mai chỉ có một chuyến duy nhất khởi hành vào cái giờ em vừa nói.
    - Bà lại làm chúng tôi ngạc nhiên đấy! - Van Helsing khẽ nói.
    - Thế chúng ta không thể thuê một chuyến tàu riêng được sao? - Huân tước Godalming hỏi.
    Van Helsing lắc đầu trả lời :
    - Tôi e là không. Đất nước này không giống với Anh quốc và cũng chẳng như ở nước tôi. Mà giả thử nếu có một chuyến như thế đi chăng nứa thì chắc chắn chúng ta cũng không thể tới đó trước chuyến tàu thường kia. Đó là chưa kể chúng ta còn khá nhiều thứ phải chuẩn bị. Phải thư thư suy nghĩ và thu xếp ổn thỏa mọi việc rồi hãy đi. Anh bạn Arthur này, có lẽ anh tới nhà ga đi, phải mua vé và bố trí đâu ra đấy thì sáng mai mới lên đường được. Jonathan, cậu phải tới đại lý vận tải biển để nói với họ gửi thư cho nhân viên của hãng ở Galatz, hãy nêu lý do kiểm tra chiếc hòm gỗ đúng như chúng ta đã dự kiến ở Varna nhé. Quincey Moriss, cậu tới gặp tay Phó lãnh sự và đề nghị ông ta nhờ một đồng nghiệp ở Galatz đi tiền trạm giúp chúng ta, để khi tới Danube không mất thêm thời gian vô ích. Còn John, anh hãy ở lại với Mina và tôi, chúng ta sẽ cân nhắc mọi chuyện. Có tôi trông coi Mina đây rồi, chẳng có gì phải lo lúc chiều xuống đâu.
    - Còn em, - Cô nói như reo, giọng hân hoan như đúng tính cách của cô ngày trước - em sẽ cố gắng giúp mọi người bằng mọi cách, em sẽ nghĩ và viết như em từng làm. Trong em đang có một thay đổi rất kỳ lạ, em không còn cảm thấy bị ép buộc như bấy lâu nay.
    Nét mặt của ba anh bạn trẻ như chợt sáng lên khi hiểu những câu nói của Mina có ý nghĩa gì. Nhưng tôi và Van Helsing thì không. Hai chúng tôi đưa mắt nhìn nhau đầy nỗi niềm. Tuy nhiên, lúc này chúng tôi thể bàn luận được điều gì.
    Khi ba anh chàng đã chia nhau đi thực hiện nhiệm vụ của mình, Van Helsing đề nghị Mina kiểm tra toàn bộ tập bản sao nhật ký và lấy cho ông những trang nói về thời gian lưu đày của Jonathan ở lâu đài Dracula. Cô gái chào chúng tôi rồi đi làm ngay. Đợi cô đi khuất, Van Helsing mới bảo tôi :
    - Anh có chung suy nghĩ như tôi. Vậy thì nói đi!
    - Có một điều gì đó không bình thường đang xảy ra, một sự kỳ vọng khiến tôi không mấy dễ chịu, bởi có thể nó sẽ dẫn tôi đến chỗ suy luận sai lầm.
    - Đúng thế. Vậy anh có biết tại sao tôi bảo cô ấy đi tìm đống bản sao nhật ký không?
    - Không, nếu không phải ông bảo cô ấy đi để có dịp nói chuyện với riêng tôi.
    - Cũng có thể là như vậy, nhưng chỉ phần nào thôi. Tôi có chuyện muốn nói với anh. John này, có vẻ như tôi hiểu ra một nguy cơ thật nghiêm trọng và khủng khiếp. Lúc Mina nói những lời vừa rồi, không hiểu sao trong đầu tôi lại nảy ra một gợi ý quái lạ như vậy. Cách đây ba ngày, trong lúc tôi đang thôi miên, lão bá tước đã nhập vào hồn cô để đọc ý nghĩ trong đầu cô, hay nói chính xác hơn, lão đã gọi hồn cô tới gặp lão trong chiếc hòm gỗ đặt trên tàu Tsarine Catherine, vào lúc lão được giải phóng bởi rạng Đông hoặc hoàng hôn. Bây giờ lão đã biết chúng ta đang ở đây. Bởi vì rõ ràng cô, người còn có điều kiện đi lại thoải mái để mắt thấy tai nghe, luôn biết nhiều điều hơn một kẻ chịu gò bó trong hòm đất tù túng như lão. Lão đang cố gắng bằng mọi cách thoát khỏi sự truy đuổi của chúng ta. Lão chưa cần đến cô ngay tức khắc vì lão tin rằng trước sau gì thì cô cũng sẽ đến theo tiếng gọi của lão. Lão cắt đứt liên lạc với cô, rút bỏ quyền năng nhằm vào cô để tạm thời cô không còn thuộc quyền sở hữu của lão nữa. Điều đó, vâng, điều đó giải thích tại sao tôi hy vọng bộ óc từ lâu đã thuộc về nhân loại của những người đàn ông chúng ta lại hơn hẳn bộ óc trẻ con của lão, một kẻ từ nhiều thế kỷ nay chỉ biết rúc trong nhà mồ và không đủ khả năng đạt đến trình độ của chúng ta bây giờ, một kẻ bị giới hạn mình trong những ham muốn ích kỷ và nhỏ mọn. Mina đang ở đây. Đừng nhắc lại những gì dính dáng đến trạng thái nhập đồng của cô ấy Chúng ta cần cô ấy hy vọng, can đảm, có một óc suy nghĩ có thể sánh với bộ óc của một người đàn ông, nhưng vẫn là mang thuộc tính của một người phụ nữ hiền dịu có tư chất, và của một sức mạnh mà lão bá tước đã truyền cho cô nhưng chưa thể thu hồi lại ngay tức khắc, cho dù lão có tưởng tượng là đã làm được như vậy. Suỵt? Cứ im lặng nghe tôi nói, rồi anh cũng hiểu ra thôi. John ạ, đúng là chúng ta đang đâm vào một ngõ cụt tối như hũ nút! Tôi đang sợ như chưa bao giờ sợ vậy Chúng ta chỉ có thể tin ở Chúa. Đừng nói gì nứa nhé, cô ấy đang tới đấy.
    Tôi cứ tưởng Van Helsing lại sắp sửa suy sụp vì căng thẳng thần kinh như lần ông chứng kiến cái chết của Lucy, nhưng ông vẫn rất cố gắng tỏ ra là người thực sự có bản lĩnh và hoàn toàn làm chủ được bản thân khi Mina hớn hở bước vào Công việc bận bịu mà giáo sư vừa giao dường như đã làm cô quên đi nỗi bất hạnh trong lòng. Cô trao ngay một xấp giấy cho Van Helsing. Vị giáo sư già chăm chú lần lượt xem lại từng tờ, gương mặt như sáng bừng lên với những nét chữ đánh máy đều đặn. Rồi ông nhón xấp giấy giữa ngón tay trỏ và ngón cái :
    - John ạ, anh là người có nhiều kinh nghiệm, và bà cũng vậy, Mina ạ. Tôi xin được nêu ra đây một bài học cho tất cả chúng ta: đừng bao giờ sợ mình phải nghĩ nhiều quá. Thỉnh thoảng lại có một ý nghĩ nửa vời như một con vật có cánh bay rào rào trong đầu tôi, nhưng ngày xưa tôi rất sợ để nó bị... gãy cánh. Giờ đây, khi đã từng trải hơn, tôi biết mình phải đi ngược đến xuất phát điểm của mọi ý nghĩ nửa vời, và tôi khám phá ra rằng đó là một điều hoàn toàn khác, một ý nghĩ thực sự, cho dù nó còn quá manh nha để có thể làm những đôi cánh nhỏ. Vâng, nó tựa như một con vịt nhỏ xấu xí của anh bạn Hans Andersen nhà tôi, nhưng đó lại không phải là ý nghĩ - con vịt hoàn toàn, mà là một ý nghĩ - thiên nga biết lướt đi uyển chuyển trên mặt nước hồ bằng đối cánh lớn của mình khi có cơ hội được thử sức. Tôi sẽ đọc cho hai người nghe một đoạn viết của Jonathan: “...đến những gì thuộc hậu duệ của lão mà sau này, một lần nữa buộc các đội quân phải vượt sông sang xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ? Kẻ hưu chiến tiếp tục tấn công trở lại nhiều lần và để lại đằng sau mình một bãi chiến trường với những xác người nằm la liệt, bởi lão biết rằng cuối cùng thì chỉ có một mình lão chiến thắng?” Qua đó chúng ta học được điều gì? Chẳng lẽ không có gì quan trọng? Không! Đầu óc trẻ con của lão bá tước không hiểu được điều gì to tát cả, chính vì vậy nên lão mới ăn nói vô tội vạ đến thế. Không! Nhưng đây lại là câu trả lời khác của một kẻ nói mà không nghĩ do không biết điều đó có nghĩa gì hoặc có thể có ý nghĩa gì. Vâng, cứ để tôi giải. thích. Nhưng các bạn đã nghiên cứu triết học tội phạm chưa nhỉ? Rồi và chưa. Anh bạn John, rồi, bởi bộ môn này là một phần không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu bệnh tâm thần. Còn Mina, chưa, bởi tội phạm chẳng liên quan gì đến bà, trừ một lần. Nhưng bộ óc của bà luôn đi theo đường thẳng và có cách suy luận riêng về thế giới. Trong con ngườ!
    những kẻ phạm tội có một đặc tính ổn định, đâu cũng thế và thời nào cũng thế, đến nỗi ngay cả những cảnh sát chẳng biết gì nhiều về triết học cũng có thể dựa vào kinh nghiệm để khẳng định điều đó. Kẻ phạm tội thường theo đuổi một tội ác duy nhất, ít nhất là đối với những tội phạm không định trước kế hoạch tội ác của mình và không theo đuổi một điều gì khác. Kẻ phạm tội không có một bộ óc hoàn toàn người lớn.
    - Hắn tỉnh táo, khôn khéo và đầy sức mạnh. Nhưng nếu nói về khối óc thì sự phát triển của hắn chưa phải là hoàn thiện. Xét dưới nhiều mối quan hệ, hắn vẫn đang ở vào một thời kỳ phát triển của trẻ con. Nói một cách khác, tên tội phạm của chúng ta phạm tội do tiền định, bộ óc của hắn vẫn còn ngây thơ bởi những gì hắn gây ra chỉ là trò trẻ con. Cánh chim non, con cá bột và những cầm thú nhỏ không được nuôi dạy theo các nguyên tắc, mà chỉ căn cứ vào kinh nghiệm. Và những gì chúng được học sẽ tạo đà giúp chúng làm tiếp những gì chúng đã làm theo một lối mòn. Archimed từng nói: hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả trái đất lên. Lần thử đầu tiên chính là điểm tựa mà nhờ đó bộ não của đứa trẻ phát triển thành người lớn và tới lúc định thử làm tiếp, nó lại bắt đầu làm lại những gì đã làm trước đó. Mina thân mến ạ, tôi thấy đôi mắt của bà đang mở to và ánh mặt trời đang soi sáng cho bà thấy khắp chốn của xứ sở?
    Quả thực là Mina đang khua tay lia lịa, ánh mắt sáng long lanh. Van Helsing nói tiếp :
    - Bây giờ, bà hãy nói đi, hãy nói cho chúng tôi biết bà thấy những gì trong ánh mắt long lanh kia đi.
    Ông khẽ đặt ngón tay cái và ngón trỏ lên cổ tay cô gái để bắt mạch, một cử chỉ như vô thức và theo bản năng của một thầy thuốc.
    - Lão bá tước là một tội phạm thuộc loại điển hình - Cô bắt đầu nói - Thuyết Nordau và Lombroso xếp lão vào dạng như vậy, và do phạm tội mà đầu óc lão mãi vẫn chưa hoàn thiện. Bởi vậy, nếu gặp khó khăn, lão sẽ tìm cách giải quyết vấn đề theo một lối mòn. Nguồn gốc cách xử sự duy nhất của lão thuộc về quá khứ của chính bản thân lão. Trang duy nhất mà chúng ta biết - và cũng do chính lão nói ra - về lão là trong một lần thiếu may mắn, lão đã trở về xứ sở của mình sau âm mưu xâm lược một xứ sở khác. Về nhà, lão không chịu từ bỏ mục đích của mình và vẫn luôn rắp tâm chuẩn bị tấn công xứ người một lần nữa. Quả thực lão đã xâm lược trở lại một lần nữa, với trang bị tất hơn, và đã giành được chiến thắng. Cũng bằng cách tương tự, lão đã tới Luân Đôn để chinh phục một xứ sở mới. Lão đã chiến thắng, nhưng khi mọi hy vọng bỗng chốc tiêu tan, sự hiện diện bị đặt vào một tình huống nguy hiểm, lão lập tức tìm đường ra biển để trở về nhà, đúng như ngày xửa ngày xưa lão đã từng làm khi vượt sông Danube sang xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ.
    - Hay lắm, hay lắm, thật không ngờ. Mina, bà thông minh tuyệt vời. - Van Helsing reo lên thán phục và cúi xuống hôn lên bàn tay cô.
    Rồi giáo sư lại trầm lặng như đang khám cho một bệnh nhân, sau giây lát im lặng, ông quay sang bảo tôi :
    - Bảy mươi hai nhịp, không hơn, và có vẻ hưng phấn lắm! Tôi rất hy vọng.
    Rồi ông quay lại giục Mina, vẻ sốt ruột :
    - Mina, tiếp tục đi chứ, tiếp tục đi chứ. Bà có thể nói thoải mái nếu muốn. Không việc gì phải sợ hết.
    - Tôi sẽ cố gắng, nhưng xin hai người đừng chấp nếu tôi chỉ nói về bản thân.
    - Không, đừng lo ngại gì hết. Bà nên nói về mình, bởi vì bà chính là người chúng tôi đang nghĩ đến.
    - Thế này nhé, xét dưới góc độ tội phạm thì lão quả là một kẻ rất ích kỷ. Khi sự thông minh còn có hạn và hành động chỉ biết dựa vào tính ích kỷ, lão đã tạm bằng lòng với một mục đích duy nhất và không hề tỏ ra ăn năn hối lỗi. Ngay cả khi tái vượt sông Danube tấn công nước Thổ Nhĩ Kỳ một lần nữa, - khiến không biết bao nhiêu người lính của mình phải bỏ mạng nơi chiến trường - cho đến thất bại vừa rồi, lão cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao trốn thoát và không hề nghĩ đến những việc còn lại. Chính sự ích kỷ đó đã ít nhiều giải phóng hồn tôi khỏi thứ quyền năng khủng khiếp mà lão đã ám vào tôi đêm nọ. ơn Chúa, lúc này, tâm hồn tôi quả thực đã được tự do hơn. Chỉ còn một nỗi lo ám ảnh tôi: không hiểu trong lúc co vòi tìm nơi ẩn náu này, lão có tìm cách lấy thông tin qua tôi trong lúc tôi bị thôi miên không?
    - Có chứ, lão đã làm như vậy. - Van Helsing đáp lại. – Chính vì thế lão mới bỏ rơi chúng ta ở đây, giữa xứ Varna này, trong khi con tàu - bị chìm trong màn sương mù do lão tạo nên - lại đưa lão về Galatz. Chắc chắn là khi tới đó, lão đã chuẩn bị mọi việc để thoát khỏi sự theo đuổi của chúng ta. Nhưng đầu óc còn trẻ con của lão lại không vượt ra ngoài phạm vi đó. Lão không thể ngờ điều lão coi là ưu thế tuyệt đối lại trở thành một nỗi bất hạnh lớn nhất. Và nói như Psalmiste vĩ đại thì người thợ săn đã có thể giăng chiếc dây thòng lọng ra chờ sẵn. Quả thực là lúc này, lão cứ tưởng đã thoát khỏi tầm truy nã của chúng ta và đi trước chúng ta nhiều giờ đồng hồ. Đầu óc trẻ con của lão mách bảo lão rằng lão đã có thể nghĩ ngơi. Hơn nữa, lão còn nghĩ vì đã cắt đứt sợi dây liên lạc giữa linh hồn lão với linh hồn bà, nên bà không biết gì về lão la. Vậy là lão lại phạm phải sai lầm. Lão đã truyền dòng máu khốn nạn vào người bà để buộc bà, mặc dù có thể đi lại tùy thích, phải luôn nghĩ về lão như bà đã phải làm khi mặt trời mọc và lặn. Nhưng thật may mắn, vào những lúc như vậy, bà lại nghe theo chỉ dẫn của tôi chứ không phải của lão. Món quà này càng trở nên quý giá hơn khi lão không hề hay biết và khi lão lầm tuởng đã cắt đứt mối liên lạc qua chúng ta thông qua bà. Ngược lại, chúng ta không phải là những kẻ ích kỷ và chúng ta tin rằng Chúa sẽ cùng đi với mọi người vượt qua khoảnh khắc đen tối này. Chúng ta sẽ truy nã bằng được con quỷ, kể cả khi đứng trước nguy cơ trở thành những kẻ như lão. Anh bạn John ạ, đây chính là một thời điểm trọng đại, cực kỳ quan trọng với chúng ta. Anh hãy làm công việc của một viên thư lại và ghi lại tất cả những gì vừa diễn ra, để khi mấy anh bạn kia xong việc trở về, anh có thể dễ dàng thuật lại cho họ biết những gì chúng ta đã biết.
    Trong lúc chờ đợi mấy người bạn trở về, tôi viết những dòng này thuật lại những việc xảy ra kể từ khi Mina cầm nhật ký của chồng mình dưa cho Van Helsing, sau đó tôi sẽ lại nhờ cô đánh máy.
     
  8. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 26
    Nhật ký của bác sĩ Seward


    Ngày 29 tháng 10
    Tôi viết những dòng này trong chuyến tàu từ Varna đến Galatz. Chiều hôm qua, trước lúc mặt trời lặn một chút, chúng tôi lại được ngồi quây quần bên nhau. Ai cũng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất. Suy ngẫm, táo bạo và thời cơ sẽ giúp chúng tôi chuẩn bị thật tất cho một chuyến đi xa, thậm chí đến tận lâu đài Dracula. Như thường lệ, Mina tiếp tục chuẩn bị cho một lần thôi miên mới. Van Helsing phải mất khá nhiều thời gian để đưa cô vào trạng thái nhập đồng. Nói chung, cô bắt đầu nói ngay từ biểu hiện nhập đồng đầu tiên, nhưng giáo sư phải hỏi tương đối nhiều và thật chính xác trước khi hiểu ra vấn đề. Cuối cùng, Mina trả lời đại loại như thế này :
    - Tôi chẳng phân biệt được gì cả. Chúng tôi đang đứng im một chỗ. Không phải những tiếng sóng vỗ dập dềnh, mà là một vùng nước xoáy liên tục và nhẹ nhàng cuốn quanh sợi dây chão. Tôi nghe có những tiếng gọi tới của đám đàn ông, lúc gần, lúc xa, rồi tiếng cột trèo nghiến ken két. Đâu đó vang lên một tiếng nổ, tiếng vọng đến từ rất xa. Tiếng những bước chân vang lên phía trên đầu tôi, có cả tiếng kéo dây cháo, dây xích. Cái gì vậy? Kia là một vệt sáng. Tôi cảm thấy có một làn gió vừa tràn qua.
    Cô nói không gì thêm, mà ngồi bật dậy khỏi chiếc tràng kỷ như vừa bị một người đẩy bất ngờ, hai tay giơ lên, lòng bàn tay để ngửa như thể đang đỡ một vật nặng lắm. Tôi và Van Helsing đưa mắt nhìn nhau, bởi chúng tôi hiểu đang xảy ra chuyện gì. Quincey nhíu mày quan sát, trong khi Jonathan Harker, như một bản năng, lại đưa tay lần mò con dao Kukri của mình. Tất cả im lặng một hồi lâu. Ai cũng hiểu có nói gì bây giờ cũng vô ích. Mina chợt đứng bật dậy, hai mắt mở to và khẽ hỏi :
    - Có ai muốn làm một tách trà không? Chắc mọi người phải mệt lắm!
    Chúng tôi chỉ còn biết gật đầu. Đợi cô bước vào buồng trong lấy trà quay ra, Van Helsing mới lên tiếng :
    - Các bạn ạ, chắc ai cũng đã hiểu cả rồi. Lão đang ở gần một bờ biển và đã chui ra khỏi hòm đất. Lão cần lên bờ. Buổi tối, lão có thể ẩn náu ở bất cứ chỗ nào. Nhưng nếu lão không được đưa lên bờ hoặc nếu con tàu không thể cập bờ, lão sẽ chưa thể lên bờ bằng cách thông thường được. Trong những tiếng huống như vậy, khi đêm xuống, lão có thể thay hình đổi dạng để nhảy hoặc bay lên bờ như lão đã từng làm ở Whitby trong cái lốt của một con chó. Nhưng nếu mặt trời thức dậy trước khi tàu ghé bờ, thì lão chỉ có thể tiếp tục trốn chúng ta nếu như còn nằm trong hòm gỗ. Nếu cứ nằm trong đó, thế nào lão cũng bị hải quan phát hiện. Nói tóm lại, nếu như không kịp nhảy lên bờ vào đêm nay, cụ thể là trước lúc rạng Đông, lão sẽ phải phí mất cả một ngày và vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể xuất hiện kịp thời. Bởi vì nếu như lão không thể trốn thoát vào ban đêm, chúng ta sẽ đến gặp lão vào ban ngày, khi lão còn bị nhốt trong hòm và số phận đang tùy thuộc vào chúng ta. Lão sẽ không dám tự bộc lộ mình dưới một cái vỏ thực chất cụ thể của mình vì sợ bị phát hiện.
    Không còn gì để nói thêm. Chúng tôi sốt ruột chờ đợi tới lúc rạng Đông, khi Mina Harker có thể nói cho chúng tôi biết thêm một vài chi tiết nào đó. Vào lúc đầu ngày, trong một tâm trạng lo lắng không yên, chúng tôi lại tụ tập để nghe cô nói khi Van Helsing thôi miên. Lần này, giáo sư phải vất vả lắm mới đưa được cô vào trạng thái nhập đồng. Cuối cùng thì Mina cũng phải tuân theo sự chỉ bảo của ông :
    - Tất cả đều tối mò. Tôi nghe thấy tiếng sóng vỗ oàm oạp rồi tiếng gỗ va gỗ lộc cộc.
    Không thấy cô nói gì thêm, hơn nữa mặt trời cũng vừa xuất hiện đỏ chói. Lại phải đợi đến chiều vậy.
    Chúng tôi đến Galatz trong một tâm trạng lo lắng và sốt ruột như vậy. Lẽ ra chúng tôi phải đến đó vào tầm hai, ba giờ sáng. Nhưng từ Bucarest, chúng tôi đã khởi hành chậm mất ba tiếng, vì vậy, chắc chắn chúng tôi sẽ đến nơi sau khi mặt trời đã mọc. Một trong hai thông điệp thôi miên của Mina, hoặc cả hai, có thể rọi một vài tia sáng vào các sự kiện đang xảy ra.
    * * * * *
    Một lúc sau
    Lại thêm một lần mặt trời lặn nữa, cũng may nó xảy ra vào lúc chúng tôi không hề bị quấy rầy bởi bất cứ một điều gì. Nếu mặt trời lặn trùng vào lúc tàu tạm dừng ở một ga, chắc chắn chúng tôi không thể yên tĩnh để làm thôi miên với Mina: lần này cô còn khó nhập đồng hơn nhiều so với lần trước. Tôi sợ khả năng giải mã cảm giác của lão bá tước trong cô sẽ biến mất đúng vào lúc chúng tôi cần đến nó nhất. Cho đến lúc này, khả năng của cô vẫn chỉ giới hạn trong các sự việc đơn giản nhất, nếu điều này cứ tiếp diễn mãi, rất có thể cô sẽ dẫn chúng tới đến chỗ sai lầm. Nếu như nghĩ quyền năng mà lão bá tước áp đặt nơi cô giảm đi trùng hợp với khả năng nhìn thấu vấn đề của cô thì tôi không có lý do gì để không vui cả. Nhưng thú thực, tôi vẫn nghi ngờ trường hợp đang diễn ra với cô. Cuối cùng, cô chỉ giải mã đơn giản thế này :
    - Có một cái gì đó vừa biến mất. Tôi cảm thấy một cơn gió lạnh thoảng qua. Có những tiếng động mơ hồ vẳng đến từ xa, hình như có mấy người nói tiếng nước ngoài, có cả tiếng một dòng chảy rất dữ và cả tiếng tru thê thảm của loài sói nữa.
    Cô đột ngột dừng lại, rùng mình giây lát rồi toàn thân chợt run bần bật như lên cơn động kinh. Không thấy cô trả lời những câu hỏi của Van Helsing. Lúc bừng tỉnh, trông cô có vẻ mệt lử, rã rời, người lạnh như nước đá, nhưng may mà còn làm chủ được bản thân. Cô nói không nhớ gì cả và muốn biết điều cô vừa phát hiện được. Khi hiểu ra vấn đề, cô ngồi im lặng và suy nghĩ rất lâu.
    * * * * *
    Ngày 30 tháng 10, 7giờ sáng
    Chúng tôi đang tiến gần tới Galatz, và lát nữa, có thể tôi sẽ không còn thời gian để viết nữa. Tất cả chúng tôi đều tỉnh táo chờ đợi buổi rạng Đông. Biết càng ngày càng khó làm thôi miên đối với Mina, nên Van Helsing bắt đầu các động tác huơ tay sớm hơn thường lệ. Chỉ đến trước lúc mặt trời mọc khoảng một phút, Mina mới chịu nhập đồng. Không để phí thời gian vào những chuyện vớ vẩn, giáo sư đi luôn vào các câu hỏi cần thiết nhất. Cô trả lời cũng rất nhanh :
    - Tất cả tối om. Tôi nghe có tiếng nước xoáy tầm ngang tai, tiếng gỗ va gỗ lộc cộc. Thấp hơn là tiếng súc vật kêu từ xa vọng tới. Còn một âm thanh khác, kỳ lạ... phải nói là...
    Cô lại chợt im bặt, mặt mày mỗi lúc một xanh mét.
    - Còn gì nữa, âm thanh gì nữa? Nói tiếp đi, tôi ra lệnh nói tiếp đi! - Van Helsing thúc giục, giọng nghe thật thống thiết và khẩn khoản, nét mặt lộ rõ vẻ thất vọng, bởi ngoài kia mặt trời đã bừng sáng soi đỏ cả nước da xanh mét của Mina.
    Cô mở tròn mắt run run khẽ nói với chúng tôi, nét mặt không giấu nổi sự lo lắng :
    - Thưa giáo sư, tại sao ngài lại hỏi tôi những điều mà ngài thừa biết là tôi không thể trả lời? Tôi không còn nhớ gì hết!
    Cô quay sang nhìn bộ mặt còn lộ rõ vẻ ngơ ngác của chúng tôi và tiếp tục :
    - Tôi đã nói những gì rồi? Tôi đã làm những gì? Tôi chẳng còn biết gì cả, nếu không phải là tôi đang nằm đây nửa tỉnh nửa mê, và nghe thấy tiếng ai nhắc: “Còn gì nữa? Nói tiếp đi, tôi ra lệnh nói tiếp đi!” Mọi người nói cứ như thể coi tôi là một đứa trẻ có lỗi không bằng!
    - Nhưng Mina à, - Giáo sư đáp lại, giọng buồn buồn – đó chính là một bằng chứng, nếu có thể nói như vậy, về tình bạn mà tôi dành cho bà. Thực ra tôi đã nói nghiêm túc hơn bao giờ hết, trong một tình thế rất khó khăn, mong bà đừng chấp.
    Một hồi còi bất ngờ rú lên thê thảm. Thế là đã tới Galatz. Chúng tôi như ngồi trên đống lửa vì lo lắng và sốt ruột.

    Nhật ký của Mina Harker

    Ngày 30 tháng 10
    Quincey Moriss dẫn tôi đến một khách sạn mà anh đã đặt trước bằng điện tín. Đây là một khách sạn rất dễ chịu, ít nhất cũng vì ở đây người ta không nói bất cứ một thứ tiếng xa lạ nào. Cũng như ở Varna, huân tước Godalming phải đến gặp viên Phó lãnh sự để được nhận chế độ bảo đảm an toàn dành cho chúng tôi, ngay cả trong tình huống khẩn cấp nhất. Jonathan cùng hai bác sĩ đến đại lý hàng hải xem có tin gì mới về con tàu Tsarine Catherine.
    * * * * *
    Một lúc sau
    Huân tước Godalming vừa quay về. Viên Tổng lãnh sự đi vắng, trong khi Phó bị ốm. Nhưng mọi việc đều được giải quyết nhanh gọn nhờ một nhân viên được ủy quyền, tính tình rất dễ chịu và tận tụy với công việc thuộc thẩm quyền của mình.

    Nhật ký của Jonathan Harker

    Ngày 30 tháng 10
    Đã 9 giờ sáng. Bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward cùng tôi đến nhà Mackenzie ở Steinkoff, đại lý của công ty hàng hải Hapgood ở Luân Đôn. Nhắc đến huân tước Godalming, họ liền cho biết họ đã nhận được đề nghị giúp đỡ của anh và dẫn ngay chúng tôi đến tàu Tsarine Catherine đang thả neo ở một cảng sông. Chúng tôi gặp vị thuyền trưởng có tên là Donelson, người đã kể cho chúng tôi nghe lại toàn bộ cuộc hành trình của con tàu. Ông nói cả đời ông chưa bao giờ gặp phải một chuyến đi kinh dị và quái đản đến như vậy.
    Chuyến đi đã làm chúng tôi sợ khiếp vía, bởi chúng tôi cứ ngỡ mình sẽ phải trả giá sau các nỗ lực đưa con tàu về hải trình đúng của nó. Lênh đênh giữa Biển Đen đâu phải là chuyện đùa. Dường như có một con quỷ nào đó đã thổi gió làm các cánh buồm đưa con tàu đi theo hướng nó đã định thì phải. Làm gì có cách nào để nhận biết thực hư ra sao. Cứ mỗi lần chúng tôi định ghé sát vào một con tàu khác, hoặc vào một cảng biển, mũi đất là y như rằng lại có một màn sương mù dày đặc không hiểu từ đâu bỗng nhiên ập xuống, rồi cứ thế bám theo con tàu suất chặng đường mới chết chứ lị. Tới gần vùng này, cái cảnh địa ngục quái gở ấy mới chịu buông tha chúng tôi. Chúng tôi qua Gilbraltar mà không làm sao đánh tín hiệu về đất liền được. Rồi thì khi tới Dardanelles, lẽ ra chúng tôi phải ghé bến trình giấy phép mới được đi tiếp, ấy thế mà con tàu vẫn cứ tiến mà chẳng thấy một nhà chức trách nào gọi hỏi cả. Lúc đầu tôi cũng định giảm áp suất không khí và cho tàu đi vát gió cho tới khi sương mù tan hẳn, nhưng sau lại thôi, vì tôi nghĩ rằng một khi trong đầu con quỷ đã muốn con tàu phải chạy hết tốc lực ra Biển Đen thì chắc chắn nó sẽ làm như vậy, cho dù chúng tôi có muốn hay không cũng thế thôi. Và con quỷ hẳn đã thỏa nguyện mà không phải bực mình vì sự chống đối của chúng tôi.
    Tính khí pha tạp giữa thật thà, hóm hỉnh nhưng cũng không kém phần tinh quái và mê tín kiểu con buôn của viên thuyền trưởng như càng kích thích Van Helsing. Ông nói :
    - Ông bạn ạ, ma quỷ nhiều khi còn táo tợn hơn cả những gì mà một số người vẫn nghĩ về nó ấy chứ, và nó hoàn toàn biết mình đang đứng trước ai?
    Câu đùa gợi ý của vị giáo sư đã không gây hứng khởi cho viên thuyền trưởng.
    - Sau khi rời Bosphore, - Viên thuyền trưởng nói tiếp - trên tàu bắt đầu có những lời càu nhàu của hành khách. Một số người Rumani đã đến tìm tôi và đòi vứt khỏi tàu một chiếc hòm gỗ khá lớn do một lão già quái gở gửi theo tàu từ lúc chúng tôi rời Luân Đôn. Lúc đó, tôi thấy họ liếc nhìn lão già và giơ vội hai ngón tay như muốn tránh xa một điều gì đó thật xúi quẩy khi trông thấy lão bước đến gần: Đúng là tín ngưỡng của người nước ngoài nhiều khi cũng kỳ lạ thật đấy!. Tôi đã phải vài lần xua họ đi chỗ khác. Nhưng ngay sau đó, một màn sương mù chẳng hiểu từ đâu lại đổ ập xuống con tàu, đến nỗi tôi phải tự hỏi không biết bọn người Rumani kia nói có đúng hay không nữa, mặc dù tôi thấy không có gì phải kỳ thị với chiếc hòm gỗ kia. Mặc kệ, chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Màn sương mù bao bọc con tàu suốt năm ngày liền. Tôi phó mặc hải trình cho những cơn gió, bởi nếu ma quỷ muốn con tàu phải đến một nơi nào đó thì chúng tôi chỉ còn cách cứ để cho nó làm, chúng tôi có làm khác đi cũng không được kia mà! Thế rồi con tàu cứ băng băng tiến, rất an toàn và không có bất cứ một va. chạm nào hết. Ngày hôm kia, khi mặt trời thức dậy xuyên thủng màn sương mù đáng ghét, tôi chợt nhận ra con tàu đã đến một dòng sông, đối diện với Galatz. Đám người Rumani lại một lần nữa nổi cơn điên đòi quẳng ngay lập tức chiếc hòm gỗ xuống sông. Tôi đã phải nói chuyện với họ bằng gậy gộc, và khi tay cuối cùng ôm đầu nhảy khỏi sàn tàu, tôi mới đến thuyết phục họ rằng dù có xúi quẩy xúi kiếc gì thì tôi cũng vẫn đặt tài sản và niềm tin của hành khách lên trên hết. Cũng nên lưu ý trước đó, mấy thằng cha Rumani này đã lôi chiếc hòm chết tiệt đó đặt lên boong tàu để chuẩn bị quẳng xuống nước rồi. Tôi định khi nào dỡ hàng xuống cảng sẽ quẳng nó xuống luôn thể. Nhưng tới sáng, khoảng một tiếng đồng hồ trước lúc mặt trời mọc, bỗng dưng có một người đàn ông xuất hiện và leo lên tàu trình giấy ủy quyền, được gửi từ Anh quốc, để nhận chiếc một chiếc hòm đề địa chỉ người nhận là bá tước Dracula. Mọi giấy tờ của anh ta đều hợp lệ nên không có lý do gì tôi không giao cho anh ta chiếc hòm, hơn nữa tôi cũng bắt đầu cảm thấy không yên với cái của nợ ấy. Nếu quỷ dữ gửi hành lý lên con tàu của tôi, thì đó hẳn phải là chiếc hòm gỗ chứ chẳng phải là một cái gì khác!
    - Thế người đến nhận hàng tên là gì nhỉ? - Van Helsing sốt ruột hỏi.
    - Tôi sẽ nói để ngài biết ngay đây...
    Viên thuyền trưởng bước xuống cabin lấy một tờ giấy biên nhận có chữ ký Emmanue! Hildesheim, số 16, Burgenstrasse.
    Biết là không thể biết thêm được thông tin nào từ viên thuyền trưởng, chúng tôi bèn cảm ơn ông rồi tiếp tục lên đường.
    Chúng tôi gặp Hildesheim ở văn phòng của ông. Đó là một người Do Thái có bộ mặt đỏ như gà chọi. Chẳng khó dễ gì trước đề nghị của chúng tôi, ông thuật lại ngay tất cả những gì ông biết. Ông nói đã nhận được một lá thư gửi từ Luân Đôn của Ngài De Vilie, trong thư đề nghị ông tiếp nhận - nếu có thể trước lúc mặt trời mọc thì càng tất, để tránh sự soi mói của hải quan - một hòm gỗ được gửi theo tàu Tsarine Catherine đến bến Galatz; sau đó, ông phải giao chiếc hòm cho tay Petrof Skinsky nào đó. Đây là một người có quan hệ với những người Slovaki chuyên buôn bán trên sông. Ông được trả công bằng một tờ giấy bạc Anh và được Nhà băng Quốc tế ĐanuÝp trả chuyển đổi bằng vàng. Ông dẫn Skinsky lên tàu và giao hàng luôn tại đó để tránh phải trả phí giao chuyển hàng. Tất cả chỉ có vậy, ông không thể nói gì hơn.
    Vậy là chúng tôi chỉ còn cách đi tìm người có tên là Skinsky, nhưng rất cục cũng chẳng tìm được. Một người hàng xóm của anh ta cho biết anh ta đã bỏ đi từ hôm kia, nhưng không biết đi đâu. Ông chủ nhà trọ cũng cho chúng tôi biết anh ta đã nhờ một bưu tá gửi lại chìa khóa phòng và tiền thuê nhà trọ cho ông. Chuyện này xảy ra trong khoảng từ mười đến mười hai giờ tối hôm qua. Vậy là chúng tôi đang đi vào một điểm chết.
    Chúng tôi đang nói chuyện với ông chủ quán trọ thì có một người bỗng hớt ha hớt hải chạy xộc vào và kêu toáng lên rằng người ta vừa tìm thấy xác Skinsky trong nghĩa địa Saint - Pierre trong tình trạng cổ bị cắn phanh ra bởi một vết răng nanh của một con thú hoang nào đó. Những người tiếp chuyện chúng tôi đều đứng bật cả dậy và lập tức chạy nháo nhác đi xem cảnh tượng hãi hùng mà họ vừa nghe kể, trong khi mấy phụ nữ hét với theo: “Gây ra chuyện đó chính là một thằng Slovaki đấy?” Chúng tôi bỗng thấy bủn rủn hết cả người vì sợ có thể bị dính dáng vào vụ việc và như vậy sẽ hỏng hết kế hoạch.
    Trở về khách sạn, chúng tôi không sao đưa ra nổi một kết luận chính xác nào. Mọi người chỉ dám nghĩ có lẽ chiếc hòm tiếp tục được chuyển đi bằng đường thủy, nhưng về đâu chứ? Đây là một câu hỏi hóc búa mà chúng tôi phải trả lời. Chúng tôi gặp lại Mina trong một tâm trạng trĩu nặng lo âu. Lúc ngồi hội ý, chúng tôi đặt vấn đề tiếp tục thôi miên cô một lần nữa. Đây có lẽ sẽ là cơ hội cuối cùng của chúng tôi. Bấp bênh quá!

    Nhật ký của Mina Harker

    Ngày 30 tháng 10, buổi chiều
    Trông họ có vẻ mệt mỏi và nhụt chí quá! Cứ kiểu này thì chẳng ai làm được gì nếu không đi nghỉ một chút. Bởi vậy, tôi phải giục họ ngả lưng khoảng nửa giờ, trong thời gian đó tôi sẽ ghi lại tất cả những gì đã xảy ra cho đến nay. Tôi thật biết ơn người nào đã phát minh ra chiếc máy chữ xách tay và Quincey Moriss, người đã mất công mang nó hộ tôi tới đây! Hẳn là tôi sẽ đứt mạch suy nghĩ nếu cứ phải mài ngòi bút hoài trên trang giấy...
    Tất cả thế là hết. Jonathan đang nằm dài trên ghế tràng kỷ, toàn thân rã rời bất động như một kẻ bại liệt, mặt mày nhăn nhúm chán chường. Hẳn là anh đang nghĩ ngợi ghê lắm. Ước gì tôi có thể giúp được anh! Tôi sẽ cố gắng làm điều mình có thể làm.
    Theo đề nghị của tôi, bác sĩ Van Helsing đã trao lại cho tôi toàn bộ các ghi chép mà tôi chưa được biết. Trong lúc ông đi nghỉ, tôi định. sẽ đọc kỹ lại tất cả và nếu có thể, sẽ rút ra một kết luận nào đó. Tôi cố gắng noi gương giáo sư và suy ngẫm một cách thật khách quan về các sự việc phơi bày trước mắt. Tôi tin mình sẽ có một khám phá thực sự sau khi suy nghĩ cân nhắc và quan sát thật cẩn thận các tấm bản đồ địa phương.
    Vâng, càng ngày tôi càng cảm thấy mình không nhầm. Tôi sẽ họp những người bạn của mình lại và nói cho họ biết suy nghĩ của mình. Họ sẽ phán xét giải pháp của tôi. Tất cả đều phải chính xác. Mỗi phút trôi qua đều rất đáng quý.

    Bản tóm tắt đánh giá trong nhật ký của Mina Harker

    Khởi điểm điều tra. Vấn đề: bá tước Dracula đang trên đường về nhà.
    a) Chắc hẳn phải có người mang lão về. Đó là điều hiển nhiên, bởi nếu cớ quyền năng đi lại tùy ý thì lão phải làm như vậy dưới cái lốt thực sự của một con người, con sói, con dơi hoặc một bất cứ một cái lốt nào khác. Rõ ràng lão đang cảm thấy nghi ngờ mình bị bại lộ hoặc bị gây phiền phức trong trạng thái dễ bị tổn thương hiện nay, khi bị gò bó trong chiếc hòm đất giữa lúc mặt trời mọc và lặn.
    b) Lão có thể được chuyển đi bằng cách nào? Hãy làm phép loại trừ sau đây :
    1. Bằng đường bộ. Điều này sẽ gây ra vô số khó khăn cho lão, nhất là khi ra khỏi các thành phố.
    a) Gặp phải nhiều người. Dân tình sẽ tò mò và tìm cách soi mói. Một dấu hiệu, một sự ngờ vực đối với những gì được cất giấu trong hòm, và thế là lão toi mạng.
    b) Có thể hoặc chắc chắn chạm trán với các nhân viên hải quan hoặc thuế quan.
    c) Các đối thủ theo đuổi lão có thể lần theo dấu vết của lão. Đó chính là nỗi lo sợ lớn nhất của lão và chính vì muốn tránh bị lộ mà lão đã tìm mọi cách để chạy xa nhất trong khả năng cỏ thể, kể cả đối với nạn nhân của lão - đó là tôi!
    2. Bằng đường sắt. Nếu sử dụng loại phương tiện này, sẽ không có ai đứng ra để trông nom chiếc hòm gỗ vốn lúc nào cũng có nguy cơ bị chậm trễ, và chính sự chậm trễ sẽ là cơ hội chí tử để kẻ thù lần theo dấu vết lão. Tất nhiên, lão có thể chạy trốn trong đêm tối, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu lão bị tống xuống một nơi xa lạ không có chỗ nào ẩn náu thích hợp. Đó không phải là ý định của lão, và cũng không phải một rủi ro mà lão có thể chấp nhận dấn thân vào.
    3. Bằng đường thủy. Một mặt chính là phương tiện chắc chắn nhất, nhưng mặt khác lại là nguy hiểm nhất. Trên mặt nước, lão không có quyền năng, ngoại trừ trong đêm. Đồng thời lão chỉ có thể sai khiến sương mù, bão tố, băng tuyết và đàn sói của mình. Và nếu bị đắm tàu, lão sẽ bị hà bá nhấn chìm mà chẳng thể làm gì được, vậy là lại thêm một khả năng thất bại nữa.
    Nếu lão nằm trên một con tàu, thì đương nhiên chúng tôi phải xác định cho được con tàu đang lênh đênh ở vùng nước nào.
    Mục tiêu đầu tiên của chúng tôi là phải xác định chính xác việc lão đã làm cho đến nay, điều này sẽ chỉ cho chúng tôi thấy những gì cần tiếp tục cần phải làm.
    Trước hết, chúng tôi sẽ cân nhắc các hành động ở Luân Đôn của lão như một phần toàn bộ kế hoạch của lão, trong khi lão phải gấp gáp từng phút và muốn rút chạy ngay lập tức.
    Sau đó, chúng tôi sẽ cố gắng suy luận những gì lão đã làm ở đó với những sự việc mà chúng tôi đã biết.
    Để bắt đầu, hiển nhiên là lão định đến Galatz. Đối với chúng tôi, trật tự liên quan đến Varna đã bị chệch hướng nếu chúng tôi hiểu lão đã rời khỏi nước Anh và chúng tôi phải ra sức xác định điểm đến thực sự của lão. Mục đích duy nhất, trước mắt của lão là tìm cách thoát khỏi sự đeo bám của chúng tôi. Bằng chứng chính là lời chỉ dẫn, ghi trong thư gửi Emmanuel Hildesheim, nhận và bốc dỡ chiếc hòm trước lúc mặt trời mọc - cũng như chỉ dẫn dành cho Petrof Skinsky. Đến đây, chúng tôi chỉ còn biết đoán mò. Chắc chắn phải có một lá thư hoặc một thông điệp liên lạc nào đó, vì đích thân anh ta đến tìm Hildesheim.
    Theo chúng tôi biết thì tính đến đây, mọi kế hoạch của lão đều đã được hoàn thành. Tàu Tsarine Catherine đã có một cuộc hành trình nhanh khủng khiếp, đến nỗi viên thuyền trưởng Donelson phải sinh nghi. Tại sao con tàu lại có thể thuận buồm xuôi gió đến Galatz giữa màn sương mù quái đản mà không xảy ra bất cứ một trục trặc hay va chạm nào? Mọi sự chuẩn bị của lão bá tước đều phát huy hiệu quả. Hildesheim đã đến nhận chiếc hòm gỗ và giao cho Skinsky. Đến lượt mình, Skinsky cũng đã xoay xở với chiếc hòm - nhưng chúng tôi chỉ biết đến thế thì mất dấu vết. Hẳn là những người mang chiếc hòm đã tìm cách tránh chạm trán với các nhân viên hải quan hoặc thuế quan trên đường đi.
    Bây giờ chúng tôi phải suy ngẫm xem lão bá tước đã làm gì sau khi đến đất Galatz.
    Chiếc hòm gỗ đã được trao cho Skinsky trước lúc rạng đông. Vào lúc mặt trời mọc, lão bá tước có thể xuất hiện dưới hình dạng thật của mình. Chúng tôi phải tìm hiểu tại sao Skinsky lại được chọn như một người phụ trợ. Theo nhật ký của chồng tôi, Skinsky có quan hệ với đám người Slovaki đang buôn bán trên thượng nguồn cảng. Và thủ phạm giết người được đồn thổi chính là một người Slovaki; chi tiết đáng chú ý này cho thấy dân tình thường xuyên nghĩ tới những người này. Lão bá tước định đánh lạc hướng sự chú ý của mọi người.
    Đó là phỏng đoán của tôi. Từ Luân Đôn, lão bá tước quyết định trở về lâu đài Dracula bằng đường thủy, một con đường chắc chắn nhất và cũng bí mật nhất. Trước đây, những người Digan đã cho mang lão đi và có thể đã nhờ người Slovaki mang các thùng đất đến Varna rồi chuyển tiếp bằng tàu thủy đến Luân Đôn. Như vậy, lão bá tước thừa biết ai là người đủ khả năng tổ chức giùm lão dịch vụ này. Bây giờ, khi chiếc hòm được đưa lên mặt đất, lão sẽ chui ra trước lúc mặt trời mọc hoặc sau khi mặt trời lặn và rồi chỉ dẫn cho Skinsky tiếp tục vận chuyển chiếc hòm theo đường sông. Chắc chắn là lão đã giết chết tay này để bịt đầu mối và xóa dấu vết của mình.
    Xem lại bản đồ, tôi nhận ra rằng con sông gần nhất thuận tiện cho người Slovaki đi ngược dòng chỉ có thể là sông Pruth hoặc sông Sereth. Tôi thấy các ghi chú của Van Hesing có nhắc đến những tiếng nước xoáy ngang tầm tai, tiếng gỗ kêu lộc cộc mà tôi cảm nhận được trong lúc bị thôi miên. Như vậy, có thể lão bá tước vẫn đang nằm trong quan tài, nhưng được đặt trong lòng một con thuyền không boong và di chuyển bằng mái chèo hoặc bằng sào.
    Tất nhiên, chưa hẳn con thuyền đã đi trên sông Pruth hoặc Sereth, nhưng chúng tôi có thể xác định được điều này. Trong hai con sông nhỏ này, việc đi lại trên sông Pruth có vẻ dễ hơn nhiều, nhưng con sông Sereth, ở đoạn Fundu, lại tiếp nhận dòng Bistriza vốn là con sông nhỏ chảy quanh đèo Borgo. Khúc quanh bên chân đèo chính là điểm dễ tiếp cận lâu đài Dracula nếu tính đi bằng đường thủy.

    Nhật ký của Mina Harker (tiếp theo)

    Nghe tôi đọc xong, Jonathan lao tới ôm chầm lấy tôi. Những người bạn còn lại cũng nắm chặt đôi bàn tay tôi, vẻ hồ hởi lắm. Còn bác sĩ Van Helsing thì thất lên :
    - Một lần nữa, Mina lại chứng tỏ mình xứng đáng là người đưa đường chỉ lối của nhóm chúng ta. Cô thực sự là người sáng suất, còn chúng ta chỉ là những kẻ có mắt như mù. Chúng ta lại tìm ra dấu vết và nếu gặp được kẻ thù giữa ban ngày ban mặt, trên mặt nước, thì nhiệm vụ của chúng ta coi như đã xong. Đúng thế, lão đi trước chúng ta, nhưng lão không thể nhanh chân được, làm sao lão dám rời khỏi chiếc quan tài kia chứ? Những người hộ tống chiếc hòm thế nào cũng sẽ sinh nghi, và chỉ cần phát hiện ra dấu hiệu khả nghi đầu tiên là họ sẵn sàng quẳng ngay cái của nợ ấy xuống sông. Lão thừa hiểu điều đó và chắc chắn sẽ chẳng dám bày trò gì dại dột. Còn bây giờ, cần phải hội ý một chú vì chúng ta không thể không bàn ngay việc cần phải làm của từng người.
    - Tôi sẽ đi tìm mua một chiếc xuồng và các phụ tùng kèm theo. - Huân tước Godalming nói.
    - Còn tôi, tôi sẽ tìm mua ngựa để đuổi theo lão dọc bờ sông nếu thuyền của lão ghé vào bờ. - Quincey Moriss tuyên bố.
    - Tốt rồi. - Giáo sư tiếp tục. - Cả hai nói đều có lý, nhưng cũng đừng nên đi một mình. Hai người cần phải có sức mạnh nếu chạm trán phải sức mạnh. Người Slovaki nói chúng đều rất khỏe và hung hăng, hơn nữa lại thường mang đầy đủ vũ khí.
    Tất cả cùng bật cười, bởi ai nấy đều sẵn sàng mang theo một hộp đạn nhỏ.
    - Tôi có mang theo vài khẩu súng. - Moriss nói. - Đó là loại vũ khí rất tiện dụng để chống lại các cuộc tấn công của đám đông, không loại trừ có cả những đàn sói nữa. Mọi người nên nhớ lão bá tước lúc nào cũng có các biện pháp đề phòng. Lão có những trò mèo mà bà Harker đây không thể nghe hoặc hiểu được hết. Chúng ta phải cảnh giác với mọi bất trắc có thể xảy ra.
    - Tôi nghĩ tôi có thể đi cùng Quincey. - Bác sĩ Seward nói xen vào. - Cả anh nữa, Arthur ạ, anh cũng không nên đi một mình như thế. Có lẽ anh sẽ phải chạm trán với những người Sovakia, và chỉ cần một sai lầm thôi cũng đủ làm cho mọi kế hoạch của chúng ta bị phá sản. Lần này đừng để xảy ra bất cứ một sơ suất nào. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ chỉ dừng tay khi lão bá tước phả! chịu cảnh đầu lìa khỏi cổ và phải đảm bảo rằng lão không thể đầu thai được nữa.
    Anh vừa nói vừa nhìn Jonathan, trong khi Jonathan lại đưa mắt nhìn tôi như khó nghĩ một điều gì đó. Tôi hiểu anh đang rất day dứt trong lòng. Tất nhiên là lúc nào anh cũng muốn được ở bên tôi, nhưng có điều chỉ những người ngồi trên xuồng mới có cơ hội hủy diệt... ma cà rồng. (Tại sao tôi cứ phải do dự khi nhắc đến từ này chứ?) Anh đứng lặng im và không thấy nói câu nào. Van Helsing phải lên tiếng để phá tan bầu không khí im lặng :
    - Anh bạn Jonathan thân mến ạ, có hai lý do để anh phải nghe theo chúng tôi. Thứ nhất, anh còn trẻ và can đảm không kém, lại có khả năng chiến đấu, trong khi sức bình sinh của tất cả chúng ta đều buộc phải tập trung cho trận đánh cuối cùng. Hơn nữa, anh chính là người xứng đáng được trực tiếp ra tay hủy diệt... cái... đã gây cho anh và những người thân của anh biết bao nhiêu đau khổ. Còn đối với Mina lúc này, anh không cần phải lo lắng gì cả, tôi sẽ hết sức chăm sóc cô ấy trong chừng mực có thể. Dẫu sao thì tôi cùng già rồi, đôi chân không còn nhanh nhẹn như xưa, tôi không quen cưỡi ngựa đường dài, cũng chẳng giỏi cầm vũ khí. Nhưng nếu cần, tôi có thể chết như một thanh niên thực sự. Biết nói thế nào với anh điều tôi đang mong muốn bây giờ nhỉ! Thế này nhé, anh sẽ cùng huân tước Godalming đi xuồng ngược dòng sông, còn anh bạn John và Quincey đi trên bờ bám theo đề phòng trường hợp Tsarine Catherine bất ngờ cặp bến. Trong khi đó, tôi sẽ dẫn Mina đến sào huyệt của kẻ thù. Trong lúc con cáo già còn nằm ườn trong chiếc quan tài trên con tàu ngược lên thượng nguồn mà chưa thể bò lên mặt đất - hoặc không dám mở nắp vì sợ những người Slovaki quẳng xuống nước trong cơn hoảng sợ - chúng tôi sẽ bám theo con đường mà Jonathan đã từng đi, từ Bistritz đến Borgo, và tìm đường đến lâu đài Dracula. Khả năng nhập đồng của Mina chắc chắn sẽ còn giúp chúng tôi tìm được đường đi nơi xứ lạ - ngay sau lần mặt trời mọc đầu tiên trên chặng đường cần phải đi. Còn quá nhiều việc phải làm trước khi hang rắn độc bị xóa sổ.
    Jonathan sốt sắng ngắt lời :
    - Sao cơ, bác sĩ Van Helsing? Ngài định dẫn Mina của tôi đi trong một tâm trạng ảo não đến sào huyệt của thần chết sao? Không thể như vậy được, như thế chẳng có ích lợi gì hết! ...
    Anh lặng thinh một lát rồi mời tiếp tục :
    - Ngài có biết đó là một nơi như thế nào không? Ngài đã bao giờ thấy một địa ngục khủng khiếp đến như vậy chưa?. Nơi thậm chí cả ánh trăng cũng hiện thành những hình thù quái đản? Rồi từng hạt bụi đảo điên cuồng loạn trong gió lúc nào cũng có thể là mầm mống hiện hình thành những con quỷ cái nữa? Đã bao giờ ngài cảm thấy làn môi bẩn thỉu của một bóng ma cà rồng ngập vào cổ chưa?
    Rồi anh quay sang nhìn trân trân vào trán tôi, hai tay giơ cao kêu trời :
    - Trời ơi! Chúng tôi làm gì ai mà giờ phải chịu nông nỗi này kia chứ?
    Không thể chịu đựng dược nỗi thất vọng trào dâng trong lòng, anh thả người ngã phịch xuống tràng kỷ. Nhưng như mọi khi, giọng trầm ấm và dịu dàng, tự tin của vị giáo sư già đã phần nào làm dịu nỗi cay đắng trong lòng anh và chúng tôi.
    - Nhưng anh bạn ạ, nếu tôi có mong đến tận hang hùm ổ rắn thì chẳng qua cũng là để cứu chính Mina thân thương của chúng ta mà thôi. Cả đám đàn ông chúng ta đều nhận ra những gì cần phải làm trước khi cái nơi ghê tởm ấy bị loại bỏ. Nên nhớ rằng chúng ta đang bị dồn vào bước đường cùng. Nếu lần này vẫn thoát khỏi bàn tay chúng ta, có thể lão bá tước - một kẻ thông minh, có sức mạnh vô biên và cũng cực kỳ xảo quyệt - sẽ quyết định nằm im hàng trăm năm. Và sẽ tới lúc cô gái đáng thương dây - Vừa nói, ông vừa cầm tay tôi - trở thành quỷ cái giống như những ả đàn bà anh đã từng nhìn thấy trong lâu đài Dracula, Jonathan ạ. Anh nghe có đáng sợ không? Tôi hiểu điều đó! Xin lỗi vì lại làm anh khó chịu, nhưng điều tôi nói là cần thiết, anh bạn ạ. Theo anh thì có nên để xảy ra một sự thật phũ phàng như vậy không? Tuy nhiên, nếu điều phũ phàng ấy xảy ra, tôi sẵn sàng lấy cả mạng sống của mình để ngăn cản nó. Nếu có ai phải đến để rồi nằm lại nơi địa ngục của Dracula, thì người đó hẳn phải là tôi.
    - Vậy thì ngài cứ làm theo ý mình đi. - Jonathan nói trong tiếng nấc nghẹn ngào. - Chúng ta đều nằm trong vòng tay của Chúa mà!
    * * * * *
    Một lúc sau
    Quả là tôi đã được an ủi rất nhiều khi được làm việc với những người đàn ông can đảm như những người bạn của vợ chồng tôi! Một người phụ nữ dịu dàng không thể không ngưỡng mộ những người đàn ông nghiêm túc, trung thực và dũng cảm như vậy! Nhưng thú thực là tôi cũng thầm cảm ơn khả năng về tiền bạc của họ. Nếu không có tiền, chúng tôi có thể làm nên trò trống gì vào lúc này chứ? Tôi rất biết ơn sự giàu có của huân tước Godalming và cả anh chàng Quincey Moriss nữa. Nếu họ nghèo, chúng tôi chẳng thể khởi hành đến đây, đến rất nhanh nứa là khác. Phần công việc của mỗi chúng tôi đều được sắp xếp ổn thỏa và ai cũng cố gắng hoàn thành tất cô nhiệm vụ của mình. Chỉ trong có ba tiếng đồng hồ, huân tước Godalming và Jonathan đã có trong tay một chiếc xuồng chạy hơi nước xinh xắn, có thể lên đường ngay từ tín hiệu đầu tiên. Bác sĩ Seward và Moriss đã tìm mua được nửa tá ngựa nòi đóng sẵn yên cương. Chúng tôi cũng mua đủ các loại bản đồ và trang thiết bị cần thiết. 11 giờ 40 tối nay, tôi cùng bác sĩ Van Helsing đi Veresti, nơi chúng tôi cớ thể mua một chiếc xe ngựa để đến đèo Borgo. Dĩ nhiên, chúng tôi phải mang theo nhiều tiền mặt để mua xe và vài con ngựa. Chúng tôi phải tự xoay xở một mình, bởi chẳng quen biết ai khác đáng tin để mà nhờ vả trong công việc mua bán. Giáo sư là người thông thạo nhiều thứ tiếng nên không cần lo gì về chuyện này. Chúng tôi ai cũng được trang bị vũ khí. Ngay cả tôi cũng có một khẩu súng ngắn cỡ lớn. Jonathan chỉ bình tĩnh khi thấy tôi cũng có vũ khí như những người khác. Bác sĩ Van Helsing bảo khẩu súng có thể giúp ích cho tôi nếu gặp chó sói. Thời tiết mỗi lúc một lạnh hơn với những trận mưa tuyết quần đi đảo lại như muốn thách thức chúng tôi.
    * * * * *
    Một lát sau
    Tôi phải hết sức can đảm để lời vĩnh biệt với người chồng yêu dấu của mình. Chưa chắc chúng tôi có cơ hội gặp lại nhau. Mina ơi, can đảm lên nhé? Vị giáo sư già đang nhìn mi như muốn nhắc đừng mềm lòng trong lúc này. Đừng nhỏ lệ nếu chưa phải là lúc khóc vì niềm vui và hạnh phúc.

    Nhật ký của Jonathan Harker

    Ngày 30 tháng 10
    Tôi viết những dòng này dưới ánh sáng hắt qua cửa nồi hơi trên xuồng, trong lúc huân tước Gođalming nhận trách nhiệm vận hành lò hơi, bởi anh hoàn toàn có kinh nghiệm sau nhiều năm gắn bó với con xuồng nhỏ của mình trên sông Thêm và trên các vùng hồ ở Norfolk. Sau khi nghiên cứu các loại bản đồ, chúng tôi quyết định làm theo giả thiết của Mina: nếu có một tuyến đường thủy đưa Dracula về lâu đài của lão, thì đó chỉ có thể là sông Sereth, rồi từ ngã ba tiếp tục đi theo dòng Bistritza. Chúng tôi cho nơi lý tưởng nhất để đi xuyên xứ sở, giữa con sông và rặng Carpates, nằm ở 47 độ vĩ bắc. Chiếc xuồng của chúng tôi cớ thể phóng hết tốc lực mà không lo gì hết: dòng nước sông chỗ nào cùng sâu và khoảng cách giữa hai bờ bãi luôn đủ rộng để chúng tôi có thể lướt thoải mái trên mặt nước, kể cả vào ban đêm. Huân tước Godalming khuyên tôi ngủ một giấc, anh bảo lúc này chỉ cần một người cũng đủ để quán xuyến mọi việc Nhưng làm sao tôi có thể ngủ được khi trong đầu lúc nào cũng trĩu nặng nỗi lo sợ về một mối nguy hiểm mơ hồ đang lơ lửng trên đầu vợ mình trên đường tới cái nơi khủng khiếp ấy? Niềm an ủi duy nhất đối với là phải biết tự nhủ mình và những người bạn đang nằm trong vòng tay che chở của Chúa. Không có niềm tin này, cách đơn giản nhất để tôi giải thoát mình khỏi bao nỗi đắng cay là tìm đến cái chết. Moriss và bác sĩ Seward đã cưỡi ngựa lên đường trước chúng tôi vì đoạn đường họ phải đi sẽ rất dài và không ít gian truân. Họ đi bám ngược theo dòng Sereth cất để giữ được một tầm nhìn nhất định với con sông và đỡ đụng phải những quãng đường gập ghềnh khúc khuỷu. Có hai kỵ sĩ mang ngựa dự phòng đi cùng họ trong những chặng đường đầu tiên để tránh gây sự chú ý. Hai kỵ sĩ này sẽ sớm quay về, và khi đó hai người bạn tôi phải tự lo liệu lấy mọi việc. Có thể sẽ tới một lúc chúng tôi phải gặp họ để cùng nhau đi nốt đoạn đường trên lưng ngựa.
    Hành trình của chúng tôi quả là một chuyến đi phiêu lưu mạo hiểm! Chúng tôi lặng lẽ đi xuyên màn đêm, dưới cái lạnh mỗi lúc một thấu xương buốt thịt, giữa vô vàn những âm thanh bi ai dọc hai bờ bãi, trên những đoạn đường xa lạ đầy hiểm họa, bất trắc lơ lửng trên đầu, về một thế giới của địa ngục với bao điều khủng khiếp đang chờ đợi từng người.
    Huân tước Godalming vừa đóng cửa nồi hơi lại.
    * * * * *
    Ngày 31 tháng 10
    Vẫn trên hành trình truy nã. Một ngày mới đang đến.
    Huân tước Godalming vừa thức dậy sau một giấc ngủ ngon lành. Tiết trời buổi sáng lạnh quá. Chúng tôi vượt qua mấy chiếc xà lan chở hàng nhưng không thấy có chiếc nào mang một chiếc hòm gỗ như chúng tôi cần tìm. Ánh đèn pin của chúng tôi đã làm các thủy thủ hoảng sợ, họ quỳ xụp xuống sàn tàu cầu nguyện và vái lạy lia lịa.
    * * * * *
    Ngày 1 tháng 11, buổi chiều
    Ngày hôm nay không có gì mới. Chúng tôi chẳng phát hiện dược điều gì cần tìm, dù đã để mắt tới hết thảy các thuyền lớn, thuyền nhỏ gặp trên sông. Bây giờ chúng tôi đang ở Bistritza. Nếu giả thiết cả nhóm đã đưa ra là sai thì coi như chúng tôi đã mất hết cơ hội. Sáng nay, chúng tôi đã được các thủy thủ trên một con tàu của chính phủ đón tiếp rất tử tế và đã xin được một chiếc cờ hiệu Rumani để cắm lên xuồng. Chính chiếc cờ đã tạo điều kiện để chúng tôi tiếp cận và hỏi thăm thuyền bè đi lại trên sông mà không gặp bất cứ một trở ngại nào. Một số người Slovaki cho chúng tôi biết có một tàu lớn, với mấy thủy thủ trông như những bóng ma trên boong, đã vượt qua họ bằng một tốc độ không bình thường chút nào. Họ nhìn thấy con tàu này ở gần ngã ba Fundu, nơi dòng Bistritza chảy vào sông Sereth, nên không biết nó định rẽ theo ngả nào. Chúng tôi tới Fundu nhưng không biết thêm tin gì, chắc là con tàu đã vượt sông vào ban đêm. Tôi buồn ngủ díp cả mắt, có lẽ cái lạnh cắt da cắt thịt đã kích thích cái bản năng đang mỗi lúc một trỗi dậy trong tôi. Godalming cứ nằng nặc đòi thức ca đầu tiên. Chúa sẽ ban phước lành cho anh, một người bạn đang hết lòng vì vợ chồng tôi.
    * * * * *
    Ngày 2 tháng 11, buổi sáng
    Mặt trời đã lên cao, nhưng anh bạn tôi vẫn không muốn đánh thức tôi dậy. Anh bảo nếu làm vậy là có lỗi, vì giấc ngủ bình yên sẽ làm tôi tạm quên nỗi ưu phiền trong lòng. Tôi có cảm giác mình hơi ích kỷ khi đã ngủ quá lâu như vậy. Nhưng dẫu sao thì Gođalming cũng có lý bởi rõ ràng là sáng nay tôi đã cảm thấy mình trở thành một người khác hẳn, hoàn toàn có thể điều khiển được chiếc xuồng và theo dõi mọi sự việc xảy ra xung quanh. Dường như tôi đã lấy lại được sức mạnh và nghị lực của mình. Không hiểu giờ này Mina và bác sĩ Van Helsing đã đến đâu rồi. Hẳn là họ đã tới Varesti vào tra thứ tư theo dự kiến. Họ sẽ phải mất ít nhiều thời gian để mua xe và vài con ngựa. Vậy thì nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, chắc chắn bây giờ họ đã phải tới đèo Borgo. Cầu Chúa hãy che chở cho họ! Người tôi bỗng run lên khi hình dung ra những gì có thể xảy ra với họ. Ước gì chúng tôi đi nhanh hơn nữa? Nhưng động cơ trên xuồng đều đã chảy ở tốc độ tối đa. Làm sao đuổi kịp bác sĩ Seward và Moriss đây?... Có rất nhiều dòng suối nhỏ đổ từ trên các vách núi xuống dòng sông chúng tôi đang đi, nhưng sẽ chẳng có trở ngại gì đáng kể với các kỵ sĩ - ít nhất là ngay hôm nay, khi không có tuyết rơi. Tôi hy vọng sẽ gặp lại họ trước khi đến Strasba. Bởi nếu chưa phát hiện ra lão bá tước trong lúc này, chúng tôi sẽ phải gặp nhau để cân nhắc lại vấn đề.

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 2 tháng 11
    Ròng rã suốt ba ngày trên đường, không có bất cứ một tin tức gì, và nếu có tôi cũng không tìm được lúc nào để mà ghi lại, bởi mỗi phút đối với chúng tôi lúc này cũng đều rất quý. Chúng tôi chỉ dám dừng lại khi buộc phải để cho mấy chú ngựa được nghỉ ngơi chốc lát, nếu không chúng tôi vẫn thừa sức để đi tiếp. Những cuộc phiêu lãng ngày xưa của chúng tôi không ngờ lại hữu ích đến thế, nếu không từng trải, chắc gì chúng tôi đã bền bỉ được nhừ bây giờ? Chúng tôi chỉ có thể vui khi gặp lại chiếc xuồng chở huân tước Godalming và anh bạn Jonathan.
    * * * * *
    Ngày 3 tháng 11
    Tới Fundu, có người nói với chúng tôi rằng chiếc xuồng đã vào sông Bistritza. Cầu mong họ đừng chết cóng vì rét! Dường như sắp có tuyết rơi thì phải. Nếu tuyết rơi dày, chúng tôi sẽ bị cản bước đáng kể. Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ phải mua một chiếc xe trượt tuyết để chạy như người Nga vẫn làm.
    * * * * *
    Ngày 4 tháng 11
    Hôm nay, sau khi hỏi thăm, chúng tôi được biết chiếc xuồng đã bị hỏng và biến dạng vì ra sức băng ghềnh vượt thác. Các tàu thuyền của người Slovaki đều vượt lên dễ dàng nhờ sự trợ giúp của một sợi dây kéo và tài chèo lái không ai bằng của từng người trên thuyền. Cũng may Godalming là một thợ cơ khí tài tử, nên anh đã sửa lại nguyên trạng chiếc xuồng của mình.
    Cuối cùng anh và Jonathan đã vượt qua các ghềnh thác và tiếp tục lên đường nhờ sự giúp đỡ của người địa phương. Tôi nghĩ thế nào vụ tai nạn cũng làm cho chiếc xuồng bị hỏng khá nặng, bởi mấy người nông đân bảo chúng tôi rằng sau khi được sửa chữa, nó đã dừng lại không ít lần trong tầm nhìn của họ. Vậy thì chúng tôi phải phóng thật nhanh lên mới được. Sự giúp đỡ của chúng tôi là điều rất cần thiết trước khi sự việc trở nên quá muộn.

    Nhật ký của Mina Harker

    Chúng tôi đến Veresti vào buổi trưa. Giáo sư bảo tôi rạng Đông hôm nay, vất vả lắm ông mới thôi miên được tôi, đã thế tôi lại không thể nói được một điều gì khác: “Tối om, yên tĩnh”. Ông đã đi mua một chiếc xe và vài con ngựa tăng viện - nếu có thể - để thay phiên kéo trên đường. Chặng đường chúng tôi đi dài dằng dặc. Xứ sở này quả là tươi đẹp và nhiều điều thú vị. Giá như chúng tôi được đi dưới bầu trời này trong một hoàn cảnh khác thì hay biết bao? Giá như tôi và Jonathan cùng được sánh bước trên đường thì lãng mạn biết nhường nào?
    Ôi những con người xa lạ, những cảnh vật thần tiên và hoang dại kia?...
    * * * * *
    Một lúc sau
    Bác sĩ Van Helsing quay về với một chiếc xe và vài chú ngựa. Ngoài ra ông còn mua thêm một lô chăn dạ và vài chiếc áo lông thú để chuẩn bị cho cái rét thấu xương. Chúng tôi phải ăn uống cho thật no rồi lên đường trong một tiếng đồng hồ nữa. Nhưng ông chủ quán trọ lại bưng ra một rổ thức ăn hỗn tạp như người ta vẫn dành cho những người lính. Giáo sư phải nói nhỏ vào tai tôi rằng trong một tuần nữa, chưa chắc chúng tôi đã tìm được một thứ đồ ăn dễ chịu nào khác, vì vậy phải cố mà ăn.
    Một lúc nữa thôi, chúng tôi sẽ lên đường. Người tôi bỗng run lên khi nghĩ đến những gì đang chờ đợi dọc đường đi. Nhưng thực tình mà nói, tôi vẫn tin ở sự che chở của Chúa. Chỉ có Ngài mới biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng dù thế nào thì tôi cũng cầu mong cho người chồng yêu dấu của mình được quay trở về bình yên. Ước gì Jonathan hiểu được tình cảm chân thành tôi luôn dành trọn cho chàng tự đáy lòng mình!
     
  9. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 27
    Nhật ký của bác sĩ Seward



    Ngày 1 tháng 11
    Chúng tôi phi nước kiệu ròng rã suốt cả ngày. Đàn ngựa dường như cũng hiểu được sự đối đãi tử tế của các chủ nhân nên đã không phụ lòng chúng tôi. Chúng được thay thường xuyên và con nào con nấy đều tỏ ra phục tùng các chủ nhân của mình, khiến chúng tôi cảm thấy mình như đang được động viên, tiếp sức. Dọc đường đi, Van Helsing có vẻ rất kiệm lời, ông chỉ nói với người địa phương rằng chúng tôi đang vội đến Bistritza và đã trả rất hậu để họ đổi ngựa giùm. Chúng tôi chỉ tạm dừng chân để giải khát hoặc ăn uống qua loa rồi lại tiếp tục lên đường ngay. Xứ sở này thật là tuyệt diệu, cảnh vật đẹp như mơ vút tầm mắt. Cả con người ở đây cũng đáng trân trọng: họ can đảm, cường tráng, giản dị và không kém phần nhiệt tình với các vị khách. Nhưng họ cũng là những người rất, rất mê tín. Tới ngôi nhà chúng tôi dừng chân đầu tiên, bà chủ nhà đã làm dấu thánh và giơ hai ngón tay về phía tôi như để tránh một sự xúi quẩy khi trông thấy tì vết trên trán tôi. Tôi nghĩ thậm chí bà ta còn cố tình bỏ tỏi vào món ăn của tôi cũng vì một mục đích như vậy, mà tôi đâu phải là người chịu được mùi tỏi? Do vậy, tôi thầm nghĩ mình phải rút kinh nghiệm cho những lần sau, không bỏ mũ hoặc khăn voan ra khỏi mặt để khỏi bị kỳ thị.
    Chúng tôi vẫn phi thật nhanh về phía trước. Trông giáo sư có vẻ không biết mệt là gì, ông nói ông chẳng cần nghỉ suất cả ngày cũng không sao, tôi cứ việc đánh một giấc li bì trên xe. Lúc mặt trời lặn, ông lại thôi miên tôi đế nắm bắt tin tức.
    Tôi trả lời như thường lệ: “Tối om, tiếng sóng nước óc ách, tiếng kêu kẽo kẹt của sàn ván”. Vậy là kẻ thù của chúng tôi vẫn đang ở dưới nước. Suy nghĩ về Jonathan bất chợt hiện lên trong đầu khiến tôi không khỏi run, cho dù lúc này tôi chẳng nghi ngờ gì về những điều tai hại đối với anh và chính mình. Tôi viết những dòng này trong lúc chờ đợi người ta chuẩn bị ngựa xe trong một trang trại. Cuối cùng thì bác sĩ Van Helsing cũng phải ngả lưng một chút, trông ông già sọm hẳn đi và có vẻ đã thấm mệt. Lúc tiếp tục lên đường, tôi sẽ thuyết phục ông để tôi được cầm cương, còn ông cứ việc nghỉ cho lại sức. Tôi nói chúng tôi còn hơn một ngày đường nữa nên ông không thể kiệt quệ vào cái lúc cần đến sức bình sinh nhất... Tất cả lại sẵn sàng. Chúng tôi tiếp tục thượng lộ.
    * * * * *
    Ngày 2 tháng 11, buổi sáng
    Tôi đã thành công khi thuyết phục ông: chúng tôi đổi ca nhau cầm cương suất đêm. Đã sang một ngày mới, trời sáng nhưng lạnh. Tiết trời nặng nề đến kỳ lạ, tôi nói nặng nề vì không thể tìm được một lời nào chính xác hơn, vì cả hai chúng tôi đều cảm thấy tức thở rất khó tả.
    Phải nói trời rất lạnh, nếu không có những chiếc áo lông thú thì không hiểu chúng tôi sẽ đi như thế nào. Lúc rạng Đông, Van Helsing tiếp tục thôi miên tôi một lần nữa. Theo ông kể thì tôi đã trả lời: “Tối om, có tiếng sóng gầm, tiếng sàn ván kêu ken két”. Vậy là dòng sông đang có sự thay đổi diện mạo khi chiếc hòm gỗ được đưa ngược dòng chảy nào đó. Hy vọng chồng tôi sẽ không gặp nguy hiểm... Nhưng dẫu sao chúng tôi vẫn đang nằm trong vòng tay che chở của Chúa.
    * * * * *
    Ngày 2 tháng 11, buổi chiều
    Liên tục đi trên đường, thậm chí không nghĩ giải lao. Phong cảnh trải rộng trước mặt, các đỉnh hoành sơn thuộc rặng Carpates ở Veresti lúc này bỗng sừng sững hiện lên xung quanh chúng tôi và dường như đang chắn ngang con đường chúng tôi phải đi. Chúng tôi cố gắng động viên nhau và cũng là để động viên chính mình, không để rơi vào tình trạng bi quan. Giáo sư Van Helsing bảo chúng tôi sẽ tới đèo Borgo vào lúc mặt trời mọc. Vùng này không có nhiều ngựa thay nên ông định sẽ giữ lại những con mới mua để đi tới cùng. Chúng tôi có hai con dự phòng và đó toàn là những chú ngựa nòi có đủ kiên nhẫn đi những đoạn đường dài. Không có trục trặc gì xảy ra với chúng tôi trên đường đi, đến nỗi tôi cũng có thể dễ dàng cầm cương điều khiển bầy ngựa kéo. Chúng tôi sẽ đến đèo Borgo vào sáng sớm ngày mai và khi đó có thể nghỉ ngơi một chút. Điều gì sẽ đến với chúng tôi ngày mai? Lâu đài ma quái mà người chồng yêu dấu của tôi từng hứng chịu bao điều khủng khiếp đang tới gần. Cầu Chúa cho chúng tôi đi đúng hướng? Cầu Chúa hãy để mắt tới chồng tôi và tất cả những người bạn mà tôi yêu mến, những người đang đối mặt với một hiểm họa đang lơ lửng trên đầu? Còn tôi, sẽ không hề gì nếu Người không che chở cho tôi. Lạy Chúa? Con là một kẻ dơ bẩn trong mắt Người và còn dơ bẩn cho tới khi Người cho phép con được đứng trước Người như những người bạn trung thực của con.

    Ghi chép của Abraham Van Helsing

    Ngày 4 tháng 11
    Tôi viết những dòng nhắn nhủ này dành cho người bạn chung thủy John Seward, bác sĩ vùng Purfleet, Luân Đôn, đề phòng trường hợp không còn được gặp lại anh nữa. Trời đã sáng rồi, tôi viết gần ngọn lửa khêu suốt đêm thâu nhờ bàn tay của Mina. Trời lạnh, lạnh lắm, lạnh đến nỗi bầu trời xám xịt lại vì những bông tuyết đầu đông. Khi rơi xuống, những bông tuyết ấy sẽ ngự trị đèo Borgo trong suốt mùa đông ảm đạm. Mĩna dường như cũng tê tái vì giá rét. Cái băng giá đã biến cô thành một con người hoàn toàn khác. Cô ngủ, ngủ và ngủ. Bình thường cô linh hoạt là thế, vậy mà cả ngày hôm qua cô chẳng làm việc gì cả. Ngay cả ăn cũng không ngon miệng. Và cũng không thấy cô động đến cuốn sổ nhỏ mà cô luôn mang theo mình để có thể ghi chép mỗi khi nghỉ dọc đường. Tôi cảm thấy bên tai luôn văng vẳng một điều gì đó không bình thường. Tuy nhiên, chiều hôm qua, cô đã phần nào lấy lại được sự lanh lợi vốn có của mình. Giấc ngủ dài trong ngày dường như đã làm cô đỡ mệt và khiến cô trở nên vui vẻ và đáng mến như mọi khi. Lúc hoàng hôn buông xuống chân đèo, tôi định thôi miên cô xem có điều gì mới mẻ, nhưng trời ạ, tôi cố mãi mà chẳng có kết quả gì. Khả năng của tôi đang giảm đi từng ngày và chiều tối nay, tôi đã thất bại hoàn toàn.
    Bây giờ tôi xin kể tiếp những sự việc tiếp theo. Mina không còn dùng phép tốc ký để viết nhật ký, vì vậy tôi phải viết đỡ cho cô, dù không thạo việc này lắm, để những ngày trôi qua không bị đi vào lãng quên.
    Chúng tôi đến đèo Borgo vào bình minh ngày hôm qua. Vừa nhìn thấy ánh rạng đông, tôi lập tức dừng xe bảo Mina chuẩn bị thôi miên. Tôi lấy những chiếc áo lông thú làm tạm một chiếc giường: Mina sẽ nằm trên đó để nhập đồng, nhưng quả thực lần này tôi cũng rất vất vả. Câu trả lời vẫn không có gì mới: “Tối om, nước xoáy”. Chỉ nói đến đây là cô bừng tỉnh, nét mặt có vẻ vui và rạng rỡ hẳn lên. Chúng tôi tiếp tục lên đường và chẳng mấy lâu đã vượt qua đèo. Sự nhiệt tình đã biến cô thành một người thật hăng hái. Rõ ràng có một sức mạnh mới soi đường chỉ lối cho cô, bởi tôi thấy cô bỗng chỉ tay về phía con đường trước mặt và bảo :
    - Đúng là con đường kia rồi.
    - Làm sao bà biết?
    - Cũng tự nhiên thôi.
    Cô im lặng một lát rồi nói tiếp :
    - Anh Jonathan của tôi đã chẳng qua đó rồi sao? Anh chẳng viết như vậy trong nhật ký là gì?
    Lúc đầu tôi thấy cũng lạ, nhưng rồi cũng kịp định thần lại vì thực ra ở đây chỉ có duy nhất một cơn đường liên xứ kiểu này. Có vẻ như đây là một con đường rất ít người qua lại, khác hẳn với đường từ Bukovine tới Bistritza vốn rộng hơn, được rải sỏi đá và không ngớt bóng người. Chúng tôi đi theo con đường Mina vừa chỉ. Khi bắt gặp những lối đi khác, chúng tôi bỗng tỏ ra nghi ngờ. Có đúng là những con đường này không? Tôi không dám chắc, bởi tất cả đều lổng chổng và ít nhiều vương vãi tuyết rơi. Đàn ngựa của chúng tôi đã dấn bước vào và chỉ có chúng cặm cụi trên đường mà thôi. Tôi thả cương mặc chúng phi nước kiệu. Chúng tôi dần nhận ra tất cả những gì Jonathan đã tả lại trong cuốn nhật ký đáng nể của anh. Đàn ngựa tiếp tục gõ móng đều đều trên những nẻo đường tưởng chừng như kéo dài đến vô tận. Lúc đầu, tôi phải bắt Mina nằm ngủ. Cô đã cố gắng và cuối cùng thì cũng chìm vào giấc nồng. Cô ngủ suốt, ngủ say đến nỗi tôi phát hoảng và phải đánh thức cô dậy. Nhưng cô vẫn ngủ như không có chuyện gì xảy ra. Tôi không dám gọi giật cục thô bạo vì biết cô đã chịu đựng quá nhiều và nói chó cùng thì giấc ngủ chán chê hẳn sẽ làm cô thấy khỏe hơn. Tự nhiên tôi thấy mình như một kẻ có lỗi với cô. Bởi vậy, tôi lại rón rén trở về thế ngồi cầm cương thúc ngựa đi nhanh hơn. Mina vẫn ngủ.
    Ánh chiều tà dần buông, để đọng trên những bông tuyết một ánh vàng như mỡ gà và những cái bóng dài nghêu của chúng tôi trên các sườn núi dựng đứng. Xe chúng tôi lên cao dần, cao dần, giữa một khung cảnh hoang vu, heo hút, lởm chởm nhấp nhô, như thể đang lên tận cùng của thế giới vậy!
    Đó cũng chính là lúc tôi đánh thức Mina đậy chẳng mấy khó khăn, nhưng chỉ có điều tôi không còn dễ dàng thôi miên được cô Cô không những không nhập đồng mà còn xử sự như không có tôi tồn tại trên đời này. Tôi cố mãi, cố mãi và cuối cùng thì cả tôi và cô cũng chìm vào bóng tối. Tôi sực nhận thấy mặt trời đã chìm nghỉm sau các dãy núi. Mina chợt bật cười khiến tôi phải quay lại nhìn. Cô vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Tôi ngạc nhiên, cảm thấy một điều gì đó không ổn. Tôi đứng dậy lấy củi dự trữ trên xe và tìm chỗ đất lên một đống lửa. Cô chuẩn bị bữa tối trong khi tôi tháo ngựa cho chúng ăn. Khi tôi quay trở lại bên đống lửa, bữa ăn đã được chuẩn bị xong. Tôi định dọn cho Mina, nhưng cô mỉm cười và bảo rằng cô đã ăn rồi, vì đói quá nên không chờ tôi được. Tôi cảm thấy không vui, trong lòng nghi cô nói dối nhưng không đả động gì vì sợ làm cô động lòng. Tôi ngồi ăn một mình cho xong chuyện, rồi quay lại xe lấy áo lông khoác lên người và ngồi bên đống lửa. Tôi bảo Mina ngủ trước, để tôi thức trông nom mọi chuyện. Nhưng thực ra tôi đã thức rất nhiều, và khi sực nhớ ra điều này, tôi quay phắt sang nhìn cô: cô đang nằm dài trong chiếc áo lông thú tôi vừa mang đến, mắt vẫn mở thao thao nhìn tôi. Ánh mắt ấy sao mà long lanh thế! Tôi cứ ngồi vậy và chỉ chợp mắt được một lúc khi trời đã tảng sáng. Tôi định quay sang thôi miên một lần nữa, nhưng kìa! dường như cô vẫn thức thì phải. Mặt trời lên cao và chỉ tới lúc này cô mới chìm vào giấc ngủ. Dù đã quá muộn, nhưng cô vẫn cứ ngủ li bì và nặng nề đến nỗi tôi không có cách gì để gọi cô dậy. Cuối cùng, tôi phải bế cô đặt lên xe sau khi đã đóng cương xong cho đàn ngựa. Mina vẫn ngủ. Trông cô có vẻ hồng hào hẳn lên. Hiện tượng ấy không mách bảo tôi một điều gì tất đẹp cả. Tôi sợ, sợ và sợ Tôi sợ tất cả, sợ cả ý nghĩ nữa. Nhưng dù sao tôi vẫn phải đi tới cùng. Ván bài chính là canh bạc giữa sự sống và cái chết, hoặc có thể còn hơn thế nữa. Chúng tôi không thể lùi bước được nữa rồi.
    * * * * *
    Ngày 5 tháng 11
    Có lẽ tôi phải kể lại chính xác từng chi tiết mới được?
    Bởi vì mặc dù tôi và anh đều cùng tận mắt trông thấy nhiều điều kỳ lạ, nhưng anh vẫn có thể đi từ suy nghĩ của tôi để mà kết luận rằng có biết bao nhiêu điều khủng khiếp và tình trạng căng thẳng thần kinh kéo dài đều đã chấm dứt bởi sự điên rồ trong đầu óc tôi.
    Chúng tôi vẫn đi ròng rã suất cả ngày đông và đang tiến gần đến những đỉnh núi chắn ngang một xứ sở càng lúc càng trở nên hoang vu và man rợ trước mắt kẻ đi đường. Tôi không thể kể xiết bao hang cùng hốc thẳm nằm câm lặng xen với những thác nước chảy ào ào như thể thiên nhiên thỉnh thoảng lại chơi trò hóa trang trước Mùa chay của riêng mình. Mina vẫn chìm sâu trong giấc nồng.
    Thấy đói cồn cào, tôi phải ngồi ăn một mình vì không sao đánh thức được cô để chia sẻ bữa ăn. Tôi bỗng đâm lo. “Nếu cô ấy cứ ngủ li bì suốt cả ngày - tôi nghĩ bụng - thì có lẽ tôi sẽ phải ngủ suất cả đêm mất thôi.” Chúng tôi đang đi trên một con đường xấu, được làm thô thiển đại khái theo kiểu cũ. Dù rất cố gắng, song tôi vẫn gục đầu ngủ gà ngủ gật. Khi tôi choàng tỉnh dậy với một cảm giác có lỗi trong lòng thì Mina vẫn ngủ? Mặt trời đã ngả hẳn sang chiều rồi. Nhưng tất cả đều đã thay đổi. Những đỉnh núi đáng ngờ dường như đã xa hơn và chúng tôi đang ở gần một ngọn đồi dốc đứng, trên đó mọc lên một lâu đài cổ kính u tịch, giống như lâu đài Jonathan đã kể trong nhật ký của anh. Niềm vui và nỗi lo gần như quấn lấy tôi cùng một lúc, bởi bây giờ, dù tất đẹp hay tồi tệ thì đoạn kết cũng đang đến gần. Tôi gọi Mina dậy để thử thôi miên một lần nữa, nhưng kết quả vẫn là sự thất bại. Bóng tối bắt đầu đổ ập xuống bao trùm mọi nẻo đường heo hút, tôi tháo dây cương dắt đàn ngựa ra một chỗ kín gió cho chúng ăn, và đất lên một đống lửa để Mina có thể ngồi sưởi ấm trong chiếc áo choàng lông.
    Trông cô tỉnh như sáo và hồng hào, xinh tươi hơn bao giờ hết. Tôi lọ mọ chuẩn bị bữa tối, nhưng cô không chịu ăn với lý do đơn giản là không cảm thấy đói.
    Tôi không nài nỉ vì biết có làm vậy cũng vô ích. Về phần mình, tôi phải ăn, bởi tôi cần có sức chuẩn bị đương đầu với mọi thử thách nguy hiểm. Để đề phòng điều bất trắc có thể xảy ra, tôi ngồi bật dậy vẽ một vòng tròn mà tâm điểm là chỗ Mina đang ngồi, rồi tôi bóp vụn những miếng bánh thánh ra thành những hạt mịn như bột và rắc đều lên vòng tròn sao cho chỗ nào cũng được bảo vệ thật chắc chắn. Trong suốt thời gian đó, Mina chỉ ngồi lặng câm như một xác chết, sắc mặt cô càng lúc càng chuyển thành một màu tái dại, nhợt nhạt như ánh tuyết về đêm. Nhưng khi tôi bước lại gần, cô bỗng bám chặt lấy tôi. Tôi có cảm giác người cô đang run lên bần bật. Cuối cùng, đợi đến khi cô bình thường trở lại, tôi mới dám hỏi :
    - Bà không muốn xích lại gần đống lửa thêm một chút ?
    Thực ra, tôi định thử xem cô có thể làm được điều đó không. Cô ngoan ngoãn đứng dậy nhưng vừa bước được một bước đã thấy cô khựng lại như đang bị xích chân.
    - Tại sao không bước nữa đi? - Tôi gặng hỏi.
    Cô lắc đầu và quay về ngồi đúng chỗ vừa ngồi, hai mắt mở to nhìn tôi hệt như ánh mắt của một người đang ngủ say thì bị gọi giật dậy.
    - Tôi không thể! - Cô trả lời ngắn củn rồi câm bặt.
    Nhưng tôi lại thấy vui, bởi tôi hiểu cái không thể đó của cô, bất cứ những gì tôi nghi ngờ đều không còn là chính bản chất của nó nữa.
    Nhưng những tiếng hí bất ngờ vang lên thành một chuỗi dài của đàn ngựa đã buộc tôi phải nghĩ khác. Tôi giật thót người trước khi kịp nghĩ phải đến gần vỗ về chúng. Cảm thấy có người đến gần, chúng lập tức liếm nhẹ lên bàn tay tôi nhưng vẫn không quên hí thêm một tràng trước khi im lặng trở lại. Nhưng chỉ được một lúc, chúng lại hí ầm lên không ngớt. Tôi phải rất nhiều lần đến vỗ về chúng trong đêm, trước cái thời khắc lạnh giá mà nhịp đập của đất trời rơi xuống độ yếu nhất. Vào thời điểm lạnh nhất ấy, đống lửa bắt đầu tàn, khiến tôi không thể không khơi thêm một lần, bởi tuyết bắt đầu rơi dày đặc giữa màn sương mù lạnh buốt sương. Dù trời tối, song tối vẫn loáng thoáng nhìn được xung quanh. Nhưng cơn lốc tuyết và sương mù dường như đang tạo nên hình hài những bóng đàn bà thấp thoáng trong tà áo trắng bồng bềnh quét đất. Tất cả toát lên một âm hưởng của chết chóc, sầu bi và im ắng đến ghê người. Đàn ngựa lại hí dài thê thảm như chờ đợi một điều tồi tệ nhất sắp xảy ra. Tôi rùng mình ớn lạnh trong tâm trạng lo sợ mơ hồ, cho tới khi sực nhớ ra vòng tròn an toàn mình vừa vẽ. Tôi bắt đầu nghĩ rằng mọi ảo ảnh đều là do bóng đêm, sự khiếp nhược, nỗi mỏi mệt dai dẳng của chính tôi mà ra. Chẳng lẽ hồi ức về tất cả những điều khủng khiếp mà Jonathan từng trải qua đã biến tôi thành một kẻ tâm thần rồi sao? Vâng, sương tuyết mù mịt, quay cuồng điên đảo cho tới khi làm tôi nhận ra bóng những ả đàn bà mặc bộ đồ trắng toát chập chờn, lởn vởn như sắp sửa lao tới vồ lấy tôi. Đàn ngựa co rúm lại và thỉnh thoảng lại rít lên lí nhí trong họng vì khiếp sợ, giống như cử chỉ của con người vậy. Tôi chợt thấy lo cho Mina, khi những bộ mặt kỳ quái bắt đầu chập chờn đến gần chúng tôi, nhưng cô vẫn ngồi thản nhiên và cười với tôi như không có chuyện gì xảy ra. Lúc tôi đứng dậy định bước ra khêu lại đống lửa, cô chợt níu tôi lại :
    - Đừng, đừng, đừng bước ra khỏi vòng tròn. Ngài chỉ có thể an toàn nếu còn ở trong này! - Cô nói, giọng nghe yếu ớt, mơ hồ như vọng về từ cõi xa xăm.
    Tôi quay lại nhìn thẳng vào mắt cô :
    - Thế còn bà? Chính bà làm tôi sợ đấy!
    Nghe vậy, cô bật cười, một nụ cười nhỏ nhẹ nhưng cũng siêu thực như giọng nói của cô.
    - Sợ vì tôi ? Tại sao chứ? Không ái trên thế gian này che chở cho những kẻ bị săn đuổi an toàn hơn tôi đâu, thưa ngài.
    Tôi định hỏi ý cô nói là thế nào thì có một trận gió lớn bất ngờ thổi mạnh tới làm bừng lên ngọn lửa đang sắp tàn. Chỉ tới lúc này tôi mới để ý tới vết sẹo đỏ hỏn trên trán cô. Chúa ơi! vậy là đã rõ ràng đối với tôi. Tôi chợt hiểu tất cả, bởi những bộ mặt quay cuồng chập chờn của sương tuyết đang tiến lại rất gần nhưng dường như đều khựng lại trước. Vòng tròn thiêng của tôi. Rồi chúng hiện hình ngay trước mắt tôi nếu như không phải là Chúa đã lấy mất lý trí của tôi – bằng xương bằng thịt; đó chính là ba ả đàn bà mà Jonathan đã từng giáp mặt trong lâu đài khi chúng sán đến vuốt ve mơn trớn và hôn vào cổ anh hôm nào.
    Tôi nhận ra những thân hình tròn lẳn, lắc lư khêu gợi, những ánh mắt lúng liếng ác nghiệt, những hàm răng trắng và làn da hồng hào căng mọng, rồi những làn môi đỏ chót đầy bám muốn khoái lạc. Chúng cười ngây ngô nhìn Mina, tiếng cười xuyên thủng cái câm lặng của đêm đen. Chúng quấn chặt lấy nhau, tay chỉ thắng vào cô và nói một tràng dài, giọng trong và nhỏ nhẹ như giọng pha lê, đúng như những gì Jonathan đã tả trong nhật ký.
    - Lại đây với chúng ta đi, người em bé nhỏ, lại đây đi nào, lại đây!
    Tôi bủn rủn quay lại nhìn Mina, nhưng trong lòng lại cảm thấy vui như được nhìn thấy ánh lửa. Bởi ánh mắt sợ sệt cảm giác ghê tởm và sự khiếp đảm của cô cho tôi biết rằng tôi vẫn có thể tràn trề hy vọng. Đơn giản là cô vẫn chưa trở thành một kẻ đồng bọn của những ả đàn bà đó. Tôi cầm mấy thanh củi gần mình và chìa ra một chiếc bánh thánh rồi lừ lừ tiến lại gần chúng. Chúng lập tức lùi lại, nhưng vẫn không quên buông những tiếng cười lanh lảnh ghê người. Tôi tiếp tục nhóm lửa song không còn sợ hãi nữa, vì tôi hiểu chúng tôi sẽ không hề hấn gì nếu không thò ra ngoài thành lũy vô hình của mình. Và với một thứ vũ khí như tôi đang có, mấy ả đàn bà kia sẽ không thể tiến lại gần tôi và cả Mina.
    Vả lại, khi còn ngồi trong Vòng tròn thiêng, cô sẽ không thể bước ra ngoài giống như chúng không thể lọt vào trong. Đàn ngựa thôi không còn hý và gõ móng điên loạn, chúng nằm phủ phục xuống đất hết lượt, mặc cho những bông tuyết rơi rơi hoài lên người, khiến chúng chẳng khác nào những mỏm núi tuyết con con. Tôi hiểu chúng đã không còn khiếp sợ những bóng hình ma quái nữa.
    Chúng tôi cứ ngồi yên một chỗ cho tới khi nhận ra những á nh hào quang hồng tươi của mặt trời xuyên thủng cái màu u buồn của tuyết trắng. Cả đêm qua, tôi đã sống trong tâm trạng trĩu nặng lo lắng, ưu phiền và khiếp sợ, Nhưng cuộc sống đã thực sự trở lại trong tôi khi những tia nắng mặt trời bừng lên phía chân trời. Ngay sau khi mặt trời ló rạng, những tà ma lẩn khuất đâu đây lập tức tan biến theo những trận lốc xoáy tuyết và sương mù. Những cái bóng chập chờn, trong suốt dần dần bi cuốn về hướng tòa lâu đài cổ và mất bút trong đó.
    Như một bản năng, tôi quay lại nhìn Mina, đinh bảo cô chuẩn bỉ thôi miên thử một lần nữa xem sao. Nhưng cô đã chìm vào giấc ngủ lìm từ khỉ nào chẳng hay. Biết là không thể đánh thức cô dậy, tôi thử liều thôi miển ngay cả trong lúc cô ngủ. Nhưng không thấy cô trả lời câu nào. Tôi lặng lẽ đi chuẩn bỉ xe ngựa để tiếp tục lên đường, nhưng lạy Chúa! cảnh tượng trước mặt khiến tôi muốn rụng rời chân tay: đàn ngựa của chúng tôi đã chết cứng từ lúc nào. Tôi hiểu một ngày mới sẽ mang đến cho tôi bao điều cực nhọc. Tôi sẽ đợi cho tới khi mặt trời lên thật cao, bởi chỉ khi đó, dẫu có tuyết rơi, sương sa mù mịt, tôi mới yên tâm đến những nơi tôi phải đặt chân đến. Bữa trưa sẽ mang lại sức bình sinh cho tôi trước khi bắt tay vào một thử thách khó khăn. Mina vẫn đang chìm trong giấc ngủ yên bình. Cầu Chúa ban phước lành cho cô?

    Nhật ký của Jonathan Harker

    Ngày 4 tháng 11, buổi tối
    Tai nạn xảy ra trên sông quả là một bất ngờ khủng khiếp đối với chúng tôi. Nếu không, chúng tôi đã có thể đuổi kịp con tàu từ lâu và khi đó, chắc chắn Mina đã được giải phóng rồi. Tôi chỉ dám nghĩ cô đang băng qua những mảnh rừng mọc ven cái nơi đáng sợ ấy. Chúng tôi đã tìm được ngựa và đang trên đường lần theo các dấu vết của quỷ dữ. Tôi tranh thủ viết những dòng này trong lúc Godalming đang cặm cụi sửa soạn. Chúng tôi có mang theo vũ khí. Néú muốn gây lộn vôi chúng tôi thì đám người Digan hãy coi chừng. Ôi! giá như Moriss và Seward có mặt ở đây với chúng tôi thì hay biết bao? Nhưng dù sao chúng tôi cũng phải biết hy vọng. Và nếu như anh không còn dịp nào để viết nữa, thì Mina ơi, anh xin được vĩnh biệt em! Chúa sẽ ban phước lành và che chở cho em!

    Nhật ký của bác sĩ Seward

    Ngày 5 tháng 11
    Ánh bình minh giúp chúng tôi nhận ra đám người Digan đang hối hạ rời xa dòng sông cùng với một chiếc xe kéo. Tuyết rơi nhẹ và không khí bỗng có sức kích động đến lạ kỳ. Có thể chỉ là cảm giác chủ quan, nhưng sự nhụt chí của chúng tôi dường như lại bắt nguồn từ một cái gì đó không bình thường. Tôi nghe rõ những tiếng hú dài thê thảm của bầy sói vọng tới từ một nơi xa xa, tuyết rơi đầy đang xua chúng chạy giạt xuống núi để đe dọa chúng tôi từ mọi phía. Bầy ngựa đã sẵn sàng cùng chúng tôi dấn thân vào một chặng đường đầy trắc trở. Và ở cuối chặng đường ấy, có thể sẽ có người trong chúng tôi phải nằm lại mãi mãi. Chúa mới biết người đó là ai, ở đâu, khi nào và như thế nào...

    Ghi chép của Van Helsing

    Ngày 5 tháng 11, buổi chiều
    Ít nhất thì tôi cũng còn lành lặn và phải cám ơn Chúa, cho dù sự thực diễn ra trước mắt thực là khủng khiếp. Để Mina ngủ yên trong Vòng tròn thiêng, tôi lò dò tiến về phía lâu đài. Lúc tới Veresti, tôi đã mua một chiếc búa rèn và quẳng vào trong xe. Tôi vừa đặt chân đến lâu đài.
    Mọi cánh cửa đều mở, nhưng tôi phải cẩn thận nhấc từng cánh ra khỏi những chiếc bản lề gỉ nhoèn vì sợ có sự cố hoặc âm mưu nào đó sẽ bất ngờ đóng sập chúng lại, chặn lối thoát ra ngoài của tỏi. Tôi học được điều đó qua cái thực tế phũ phàng của Jonathan, Những trang nhật ký cay đắng của anh giúp tôi tìm ra lối đi dẫn đến nhà thờ cổ, nơi tôi biết nhiệm vụ đang chờ đợi mình. Không khí ngột ngạt khiến tôi chống mặt, như thể vừa chui vào một luồng khói lưu huỳnh.
    Không hiểu tôi bi ù tai hay tiếng rền hú của bầy sói vọng về từ một nơi xa? Tôi bỗng giật mình lo sợ khi nghĩ tới Mina: tôi đang rơi vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tôi không dám dẫn cô cùng tới đây vì nghĩ Vòng tròn thiêng sẽ giúp cô khỏi rởi vào nanh vuốt của ma cà rồng. Nhưng còn bầy sói? Tôi quả quyết rằng nhiệm vụ của mình phải ở đây, trong tòa lâu đài u tối này; còn lũ sói, chúng tôi sẽ phải gánh chịu nếu đó là ý Chúa? Dù theo cách nào thì cũng phải chọn giữa cái chết và sự tự do, và tôi là người lựa chọn cho người bạn trẻ của mình. Còn với bản thân, tôi thấy chẳng có gì là khó khăn cả: nơi chui rúc của ma cà rồng đối với tôi còn tệ hơn là mõm chó sói. Vì vậy, tôi vẫn tiếp tục công việc của mình.
    Tôi biết mình phải phát hiện ra ít nhất là ba nấm mồ - ba nấm mồ có người nằm. Vì thế, nhiệm vụ đầu tiên là phải xục xạo, xục xạo, cho tới khi phát hiện ra một... ả đang nằm ườn trong giấc ngủ của ma cà rồng, thân xác tràn đầy nhựa sống và toát lên một vẻ đẹp nhục dục khiến tôi rùng mình như tưởng mình sắp phạm tội đến nơi. Thế đấy! Tôi dám chắc rằng nếu rơi vào tình cảnh như tôi, thế nào cũng có kẻ rạo rực trong lòng để rồi đánh mất cả lý chí của một người đàn ông. Anh ta sẽ chần chừ, chần chừ, chần chừ cho tới khi bị cái sắc đẹp quyến rũ đầy ma lực của ả đàn bà kia hút hết hồn; rồi anh ta sẽ đờ đẫn, đờ đẫn, đờ đẫn cho tới khi ông mặt trời chìm vào giấc ngủ và thế là bóng ma tỉnh đậy. Người đàn bà trẻ đẹp sẽ mở to đôi mắt chan chứa khát vọng yêu đương, đôi môi mọng đỏ nhục dục sẻ đặt vào đâu đó trên cơ thể anh ta một nụ hôn đê mê, và thế là gã đàn ông trong anh ta sẽ biến mất dần. Vậy là thêm một nạn nhân trở thành kẻ đồng lõa của quỷ dữ, thêm một kẻ trong đội quân hắc ám đáng sợ của những kẻ không chết!...
    Vâng, tôi như bị mê hoặc bởi những người đàn bà đang nằm dài trong một ngôi mộ bị ổ bẩn bởi bụi thời gian nhiều thế kỷ, bất chấp cái mùi xú uế tỏa ra từ khắp mọi nơi trong sào huyệt của lão bá tước. Vâng, tôi, Van Helsing, đang bị kích thích hưng phấn, mặc dù đã quyết định ra tay với sự căm thù đang trào lên trong lòng và bị ám ảnh bởi một ham muốn kéo dài hành động của mình, khiến cho mọi khả năng chiến đấu trong lòng hoàn toàn bị tê liệt. Tôi chìm vào một cơn buồn ngủ, mơ màng bởi sự quyến rũ mê hồn của ả đàn bà, nhưng rồi lại giật mình choàng tỉnh bởi một tiếng kêu rên xiết thê lương trong bầu không khí tĩnh lặng như một hồi kèn đưa đám. Tiếng kêu ấy chính là của Mina. Tôi gồng mình kết thúc nhiệm vụ tìm kiếm đầu tiên của mình. Trong lúc vần mấy tảng đá sang một bên, tôi phát hiện ra ả đàn bà thứ hai, cũng có mái tóc sẫm màu như ả đầu tiên. Tôi không đám chần chừ đứng ngắm vì sợ cái cảm giác nao lòng nhụt chí hồi nãy. Cuộc tìm kiếm được tiếp tục cho tới khi tôi tìm ra dưới một ngôi mộ rộng, cao, dường như được dành cho một kẻ rất được lão bá tước yêu quý - đó chính là ả đàn bà tóc vàng mà tôi, sau Jonathan, đã có lần được gặp tận mắt trong màn sương mù. Trông ả đẹp, hấp dẫn và gợi dục đến nỗi bản năng sâu thẳm của thằng đàn ông đã khơi dậy trong tôi một tình cảm muốn bảo vệ cho một người khác giới tính và một cảm xúc thật khó tả. Nhưng ơn Chúa, tiếng kêu tựa hồ như sự đau đớn của Mina còn vẳng mãi bên tai tôi và trước khi bị cái bùa ngải sắc đẹp của ả đàn bà kia làm u mê đờ đẫn, tôi đã kịp hoàn hồn để thực hiện cái công việc ghê gớm của mình. Tôi có cảm giác mình đã tìm hết các ngôi mộ trong nhà thờ cổ và có lẽ chẳng còn một chỗ nào như vậy nữa. Nhưng không, vẫn còn một ngôi mộ nữa, lớn hơn, uy nghi và có vẻ quý tộc hơn những ngôi mộ tôi đã gặp trước đó, được khắc gọn lỏn một cái tên :
    DRACULA
    Đó chính là nơi cuối cùng Vua - Ma cà rồng che giấu cái sự bất tử của lão.
    Sự trống rỗng bên trong ngôi mộ chứng giám điều tôi đã biết. Trước khi bắt tay vào việc đưa những ả đàn bà kia về với cái tôi quá cố của chúng, tôi cẩn thận đặt vào trong ngôi mộ của Dracula những mẩu Bánh Thánh để vĩnh viễn đẩy lão ra khỏi chốn an toàn này. Tôi phải bắt đầu cái nhiệm vụ khủng khiếp như vậy trước khi rút lui. Nếu chỉ có một cái xác để ra tay thôi thì chẳng có gì khó khăn lắm. Nhưng đằng này lại có tới những ba thây ma! Như vậy, tôi sẽ phải lặp lại từ đầu công việc đến hai lần nữa! Bởi đối với tôi, nếu như công việc hành hình đó thật là đáng sợ khi phải đứng trước Lucy, thì cảm giác sẽ khủng khiếp đến mức nào khi phải đứng trước ba kẻ xa lạ, đã sống qua nhiều thế kỷ, với sức mạnh ngày càng ghê gớm nhờ dòng chảy của thời gian và nhờ đó mà bảo vệ được cuộc đời phi lý của mình?
    Thế đấy, anh bạn John ạ? Liệu đó có phải công việc của một tên đồ tể không nhỉ? Nếu không cương quyết nhờ ý nghĩ về một cái chết đích thực, và một cuộc đời bị đặt trong một gọng kìm khủng khiếp như vậy, thì có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ đám đi tới cùng. Tôi vẫn còn run, nhưng cho tới khi kết thúc toàn bộ công việc, cầu Chúa hãy cho tôi trở lại với chính mình! Tôi trở lại với ả đàn bà đầu tiên và chợt có cảm giác vừa được chứng kiến sự mãn nguyện vừa thoáng hiện trên nét mặt ả ngay trước lúc được siêu thoát, như muốn thừa nhận rằng linh hồn ả đã hoàn toàn bị chinh phục: nếu không có cảm giác như vậy, chắc chắn tôi chẳng dám làm cái công việc của một tên đồ tể. Tôi không thể chịu đựng nổi cái âm thanh dựng tóc gáy khi đóng ngập mũi cọc vào thân xác người con gái. Tôi khiếp sợ đến nỗi bỏ dở cả công việc. Nhưng cuối cùng thì mọi chuyện cũng kết thúc! Bây giờ thì tôi đã có thể khóc than cho những tâm hồn khốn nạn kia, những kẻ đã có thể an lành trong giấc ngủ mãn nguyện của một cái chết thật sự, cho dù cái khoảnh khắc an lành ấy chỉ kịp thoảng qua trước mặt tôi trong tích tắc trước khi biến thành cát bụi để trở về với quá khứ, tưởng như những cái chết bị kìm hãm bao thế kỷ nay cuối cùng cũng khẳng định được cái quyền chính đáng của chúng mà nói to lên ràng: “tôi đây”.
    Trước khi rời khỏi lâu đài, tôi phải đảm bảo phong tỏa bằng hết các lối đi để lão bá tước không bao giờ vào mà bất tử được nữa.
    Một lát sau khi tôi trở về Vòng tròn thiêng, nơi Mina đang chìm trong giấc ngủ, cô chợt bừng tỉnh nhìn tôi.
    - Lại đây đi, - Cô bảo tôi, giọng đau đớn khiến tôi không thể cầm lòng - chúng ta sẽ cùng nhau rời khỏi cái nơi đáng sợ này. Cần phải tới gặp nhà tôi. Tôi biết anh ấy đang hướng về phía chúng ta mà.
    Trông cô gầy rộc, nước da xanh mét, tiều tụy hẳn đi, chỉ còn đôi mắt là vẫn trong sáng long lanh. Tôi cảm thấy vui khi nhận ra cái xanh xao và nỗi ưu phiền của cô, bởi chỉ mới đây thôi, tôi còn bị ám ảnh bởi nỗi ghê sợ giấc ngủ li bì của ma cà rồng trong cô.
    Vậy là trong tâm trạng ngập tràn niềm tin và hy vọng, nhưng cũng không kém phần lo lắng, chúng tôi cùng nhau đi về phía đông để tìm gặp những người bạn của mình và cả anh ấy, người sẽ tới gặp chúng tôi theo như Mina đã khẳng định.

    Nhật ký của Mina Harker

    Ngày 6 tháng 11
    Buổi chiều tàn dần khi tôi và Van Helsing cùng nhau đi về phía đông, nơi tôi biết Jonathan cũng đang đi ngược lại phía chúng tôi.
    Chúng tôi không thể đi nhanh, mặc dù đang bước xuống dốc đồi, bởi chúng tôi còn phải mang theo những chiếc áo lông khá cồng kềnh đề phòng cái lạnh và tuyết rơi khi phải nghỉ lại dọc đường. Chúng tôi cũng phải gùi theo một phần đồ dự trữ. Quả thực là chúng tôi đang rơi vào tình trạng đơn độc và trong chừng mực còn sức xuyên qua bức màn tuyết, có lẽ chúng tôi sẽ khó có thể tìm được một chỗ trú ẩn. Chưa đi nổi một dặm, tôi đã buộc phải ngồi phệt xuống đất nghỉ vì đôi chân mỏi rã rời. Phía sau chúng tôi, lâu đài Dracula đang vạch nên những đường nét trắng toát trên chân trời. Chúng tôi đã xuống được một quãng dài mà dường như ngọn đồi mang tòa lâu đài vẫn sừng sững che gần hết rặng Carpates hoang vu lạnh lẽo. Chỉ đến lúc này chúng tôi mới lại để ý tới những tiếng hú dài thê thảm của bầy sói vọng đến từ phía xa xa. Chúng còn ở xa lắm, nhưng những tiếng hú man rợ kia, dù đã bị những bông tuyết rơi rơi chi chít chặn bớt lại, vẫn vọng đến như muốn hăm dọa những kẻ bộ hành đơn chiếc trên đường dài. Nhìn giáo sư Van Helsing vừa đi vừa ngó nghiêng, tôi hiểu ông đang định tìm kiếm một điểm trú ẩn nào đó có thể giúp chúng tôi ít bị phơi lưng ra nhất trước một cuộc tấn công. Chúng tôi vẫn nhận ra con đường gập ghềnh chạy dài hút tầm mắt, dù dưới kia tuyết đã rơi đầy.
    Được một lúc, giáo sư ra hiệu cho tôi đứng dậy bước lại chỗ ông. Ông vừa tìm được một chỗ khá lý tưởng, một hang đá có lối vào giống như một tiền sảnh nằm giữa hai đầu mút hang. Ông đưa tay kéo tôi vào.
    - Thử nhìn xem, có thể ở đây bà sẽ được an toàn đấy. - Ông bảo. - Nếu đàn sói mò đến, tôi hoàn toàn có thể hạ từng con một cho bà xem.
    Rồi ông quay ra lấy mấy chiếc áo lông thú mang vào dọn cho tôi một cái ổ khá gọn, vừa đủ cho tôi nằm và lấy lương khô ép tôi phải ăn. Nhưng nào tôi có ăn được. Tôi thực chẳng còn thiết gì ngoài việc ngồi thở một lúc cho lại hơi, dù rất muốn làm ông hài lòng. Ông có vẻ buồn nhưng không nỡ trách tôi nửa lời.
    Tôi thấy ông lẳng lặng ra đứng trên một mỏm đá, rút ống nhòm nhìn về phía chân trời. Bỗng nhiên, ông reo lên gọi tôi :
    - Nhìn kìa, bà Mina? Ra đây mà xem này?
    Tôi đứng bật dậy, vội vàng bước lại gần ông và cầm lấy chiếc ống nhòm ông vừa đưa cho. Những bông tuyết bắt đầu rơi dày đặc và quay cuồng rối tung bởi những ngọn gió rét mướt đang ào ạt thổi tới. Tuy nhiên, thỉnh thoảng những trận cường phong lại ngừng thổi để lại cho tôi một tầm nhìn khá xa. Từ mỏm đá đang đứng, tôi thấy chân trời rộng mở trước mắt. Tôi có thể nhận ra phía xa xa, bên kia bình nguyên tuyết dày đặc, là một dòng sông chảy dài uốn lượn như một dải lụa mềm. Không xa lắm trước mặt chúng tôi - thực ra là rất gần, gần đến nỗi chúng tôi phải ngạc nhiên khi không nhận ra sớm hơn - là một đám người đang cắm đầu cưỡi ngựa leo đốc. Giữa đám người là một chiếc xe dài, thỉnh thoảng lại chúi về phía trước giống như một con chó bị người ta thúc vào đít mỗi lần đi chệch đường. Nhóm người này hiện rõ trên thảm tuyết trắng, đến nỗi tôi nhận ngay ra đó là những nông dân, hoặc những người Bôhêm, nhờ kiểu trang phục khoác trên người họ.
    Trên xe chở một chiếc hòm lớn hình khối chữ nhật. Tim tôi như trực nhảy khỏi lồng ngực, bởi cảnh trước mặt làm tôi nghĩ đến đoạn kết của một câu chuyện ma quái liên quan đến chính cuộc đời mình. Chẳng mấy chốc một ngày nữa sẽ lại qua đi, và tôi thừa hiểu rằng ngay sau lúc mặt trời lặn, cái giống đang nằm trong chiếc hòm kia sẽ được đi lại tự do trong một cái lốt phù hợp nào đó để lẩn trốn mọi cuộc săn đuổi. Lo sợ trong lòng, tôi quay lại nhìn giáo sư, nhưng không hiểu ông đã biến đi đâu từ lúc nào, khiến tôi sợ hết vía. Lát sau mới thấy ông trở lại dưới chân tôi, tay rắc những mẩu bánh thánh thành một vòng tròn an toàn xung quanh mỏm đá, giống như vòng tròn đã bảo vệ chúng tôi đêm qua.
    Xong việc, ông leo lên ngồi gần tôi và bảo :
    - Ít nhất thì ở đây bà cũng chẳng sợ gì lão.
    Ông cảm lại ống nhòm nhìn về phía chân trời trước mặt :
    - Xem kìa, hối hả quá nhỉ, chúng đang thúc ngựa chạy hết khả năng.
    Ông lặng im một hồi rồi tiếp tục bằng một giọng trầm ngâm :
    - Chúng đang đua tốc độ với mặt trời... Có lẽ chúng ta đã đến quá muộn! Mong sao ý Chúa trở thành hiện thực?
    Một trận cuồng phong nữa bất thần ập đến, xóa nhòa đi tất cả nhưng sự việc này chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn. Khi bầu trời êm dịu trở lại, cặp ống nhòm trên tay giáo sư được chĩa xuống phía bình nguyên. Ông chợt reo lên :
    - Xem kìa! Nhìn dưới kia mà xem! Có hai kỵ sĩ đang từ phía nam tức tốc đuổi theo. Chắc chắn là Quincey và John rồi. Bà cầm lấy ống nhòm mà xem, nhanh lên, nếu không trời lại nổi cuồng phong bây giờ.
    Tôi cầm ống nhòm. Quả thực, hai người đàn ông kia hẳn phải là bác sĩ Seward và anh chàng Quincey Moriss. Tôi tin là như vậy, bởi không có ai trong hai người mang bóng dáng quen thuộc của Jonathan. Nhưng tôi cũng biết Jonathan không còn xa chúng tôi là mấy. Tôi nhận thấy cách điểm hai kỵ sĩ kia đang đi một chút về phía Bắc, có hai bóng người đàn ông khác cũng đang hối hả thúc ngựa phi nước đại. Tôi nhận ngay ra Jonathan và đương nhiên người còn lại là huân tước Godalming. Họ cũng đang bám đuổi theo chiếc xe và đoàn người hộ tống. Nghe tôi thuật lại, Van Helsing reo to “hoan hô” hồn nhiên như một cậu bé học trò và sau khi chăm chú quan sát về phía trước cho đến khi bị một trận gió tuyết mới che khuất tầm mắt, ông cầm khẩu Winchester sẵn sàng chiến đấu.
    - Tất cả đang tiến về cùng một điểm. - Ông nói. - Sẽ đến lúc chúng ta bao vây bọn người Bôhêm kia.
    Tôi cũng quờ tìm khẩu súng, bởi trong lúc chúng tôi nói chuyện, tiếng hú của bầy sói đã gần hơn và rùng rợn hơn nhiều. Thêm một lần lặng gió nữa giúp chúng tôi nhìn rõ hơn. Trước mắt chúng tôi là một khung cảnh kỳ diệu và huyền bí, những bông tuyết nặng nề rơi rất đỗi gần chúng tôi trong khi ông mặt trời đang tỏa những tia sáng cuối ngày và lặn dần xuống những đỉnh núi xa xa. Cầm ống nhóm lia qua lia lại về phía chân trời, tôi nhận ra đó đây là những nhóm hai, ba chấm đen, hoặc nhiều hơn, đang chuyển động trên thảm tuyết trắng: đó chính là đàn sói đói đang lao tới tranh giành những con mồi xa lạ.
    Mỗi phút chờ đợi đối với chúng tôi chẳng khác nào một thế kỷ. Gió lạnh gầm rít thổi thành những trận cuồng phong dữ dội, giận dữ xua đuổi những bông tuyết bay ào ạt và chất chứa thành những dải băng bán nguyệt kế tiếp nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi còn không nhận ra chính cánh tay đang duỗi thẳng của mình; nhưng mỗi khi trời tạnh gió, chúng tôi lại được dịp phóng tầm mắt ra thật xa. Từ rất lâu rồi chúng tôi đã có thói quen quan sát chú ý những thời khắc mặt trời mọc và lặn. Và lần này cũng vậy, mặt trời sẽ lặn mất hút sau rặng núi chỉ trong chốc lát nữa. Không có đồng hồ, chúng tôi chẳng dám tin mình đã đứng chờ ba nhóm người kia gần một tiếng rồi. Gió bắc vẫn thổi mỗi lúc một dữ dội và cấp tập hơn. Nhưng dường như sau những cơn lốc ngắn, tuyết lại thôi rơi và nếu có thì cũng bạt ra rất xa chúng tôi. Bây giờ thì chúng tôi đã có thể nhận điện rất rõ từng thành viên của mỗi nhóm, những kẻ săn đuổi và bị săn đuổi.
    Hình như đám người Bôhêm không nhận ra có kẻ đang tức tốc bám đuổi theo mình, hoặc ít nhất là không hề quan tâm đến điều đó. Tuy nhiên, chúng vẫn hối hả phi tới phía trước khi ánh mặt trời đang chìm dần xuống các ngọn núi.
    Trong lúc đoàn người tiến lại gần, tôi và giáo sư Van Helsing lui vào náu mình sau mỏm đá, vũ khí vẫn sẵn sàng trên tay. Rõ ràng ông không muốn để họ đi qua mặt. Có vẻ như không có tên nào nghi ngờ gì về sự có mặt của chúng tôi.
    Chợt có giọng hai người cùng thét lên: “Đứng lại?” Tôi nhận ra tiếng của Jonathan, anh hét lạc cả giọng vì một cảm xúc khó tả. Giọng còn lại, cương quyết và bình tĩnh hơn, chính là của Quincey Moriss. Mặc dù không hiểu hai người nói gì, đoàn người Bôhêm vẫn không thể nhầm lẫn cảm xúc hàm chứa trong giọng nói của họ, cho dù đó là một thứ ngôn ngữ xa lạ. Chúng lập tức ghìm cương theo bản năng. Ngay lúc đó, huân tước Godalming và Jonathan phóng ngựa tới áp sát một bên, phía còn lại là bác sĩ Seward và Moriss. Thủ lĩnh đám người Digan, một thanh niên đẹp lộng lẫy cưỡi một con ngựa thuộc dòng nhân mã, lừ mắt ra hiệu cho những người bạn tôi lùi lại và tức giận ra lệnh cho đám tùy tùng tiếp tục tiến bước. Chúng chùng cương, thúc ngựa chồm về phía trước. Bốn người đàn ông lập tức đặt tay vào cò súng - một hành động mà không ai có thể hiểu khác ý định của họ - ra lệnh cho đám người Digan dừng lại.
    Cùng lúc đó, tôi và Van Helsing bước ra tử sau mỏm đá, tay lăm lăm vũ khí.
    Thấy mình bị bao vây, toán người Digan lại ghìm cương bắt ngựa dừng lại. Tay thủ lĩnh nói một câu gì đó tôi không hiểu, chỉ biết rằng đám người tùy tùng cùng lúc cầm lấy vũ khí, chỉ toàn là dao và súng lục, để chuẩn bị giao chiến. Có vẻ như kết cục sẽ chỉ diễn ra trong vòng vài phút.
    Tay thủ lĩnh giật dây cương thúc ngựa tách ra khỏi nhóm và tiến lên đầu chỉ tay về phía mặt trời - đang xuống rất gần các đỉnh núi - và tòa lâu đài rồi nói một câu gì đó. Đáp lại, từng người trong nhóm bốn đồng minh của chúng tôi lập tức nhảy xuống ngựa và lao về phía chiếc xe. Lẽ ra, nhìn thấy Jonathan lao vào vòng nguy hiểm, người tôi phải sợ run lên bần bật, nhưng cái gay cấn của một cuộc chiến đã làm cho tôi và các bạn tôi quên đi tất cả. Tôi không hề tỏ ra sợ hãi, mà chỉ có một mong muốn man dại, ấy là dược chiến đấu Trước hành động bất ngờ của chúng tôi, tay thủ lĩnh lại quát lên ra lệnh một lần nữa. Đám người Bôhêm lập tức hùa nhau bao vây quanh chiếc xe thành một vòng tròn hỗn độn.
    Trong cái cảnh lộn xộn đó, tôi thấy Jonathan một bên, Quincey ở bên kia, cùng lao thục mạng mở một đường vào chiếc xe. Họ cần phải tiếp cận bằng được chiếc xe để kết thúc nhiệm vụ của mình trước khi mặt trời lặn. Dường như chẳng có gì có thể ngăn cản được hai người trong lúc này. Tiếng gươm đao khua chát chúa với những ánh chớp loang loáng, rồi tiếng tru hú man rợ của bầy sói đang đến gần dường như chẳng làm họ quan tâm. Sự dũng mãnh và quyết tâm không gì đảo ngược được của Jonathan rõ ràng đã làm nhụt trí những kẻ đang đứng chặn đầu anh, chúng bắt đầu giạt sang hai bên bỏ ngỏ một lối vào cho anh. Chỉ cần một tích tắc thôi cũng đủ để anh nhảy lên chiếc xe và quẳng chiếc hòm đất xuống đất bằng tất cả sức mạnh và sự điên cuồng. Cùng lúc đó, Moriss cũng dũng cảm mở lối đi cho mình. Trong hơi thở thổn thức gián đoạn, tôi đưa mắt dõi theo Jonathan, nhưng tiếng thét tuyệt vọng của Moriss đã làm tôi giật mình thảng thốt: những lưỡi dao sáng loáng của đám người Digan liên tục vung lên như một màn lưới thép biết bay nhảy xung quanh anh và thanh đoản kiếm của anh. Lúc đầu tôi cứ nghĩ sẽ chẳng có vấn đề gì, nhưng khi anh lao về phía Jonathan - người vừa nhảy từ trên xe xuống - tôi mới chợt nhận ra bàn tay trái anh đang ôm chặt vào mạng sườn để vô ích che đi một dòng máu đang rỉ ra các kẽ ngón tay. Mặc dù vậy, với một sức mạnh của một kẻ đang rơi vào tuyệt vọng, anh vẫn quên mình lao vào dùng dao cậy một bên nắp hòm gỗ cùng lúc với Jonathan ở phía bên kia. Nỗ lực của hai người đàn ông đã buộc chiếc nắp hòm phải dần dần chịu nhượng bộ, những chiếc đinh bị nhổ bật kêu ken két và cuối cùng, chiếc nắp gỗ bị quẳng mạnh xuống đất.
    Nhìn những họng súng đang lăm lăm chĩa về phía mình, phó mặc tính mạng cho huân tước Godalming và bác sĩ Seward, đám người Bôhêm đều khựng cả lại, không tên nào dám động thủ chống cự. Mặt trời bắt đầu khuất núi nhường chổ cho bóng tối bao trùm dần lên thế gian phủ đầy tuyết trắng. Tôi được tận mắt chứng kiến lão bá tước đang nằm dài trên lớp đất bẩn thỉu trong chiếc hòm gỗ định mệnh, dưới những mạt mùn gỗ bị tróc lở từ lúc chiếc hòm bi quẳng từ trên xe xuống đất. Trông lão xanh nhợt như một tàu lá, đúng hơn là một xác người bằng sáp. Hai mắt lão mở trợn ngược hằn rõ một sự thù hận đáng sợ.
    Lúc tôi nhìn thấy lão cũng là lúc hai mắt lão ánh lên vẻ đắc thắng khi thoáng nhận ra ánh hoàng hôn muộn mằn. Nhưng cũng chính khoảnh khắc đó, lưỡi dao của Jonathan đã kịp vung lên như một tia chớp loang loáng. Tôi thảng thốt kêu lên một tiếng khi nhận ra nhát dao ấy vừa chặt đứt cái cổ ngẳng của lão. Cũng lúc ấy, mũi đoản kiếm của Quincey Moriss cũng kịp đâm một nhát vào giữa tim lão già khốn kiếp.
    Như một cảnh tượng kỳ diệu, vâng, ngay trước mắt chúng tôi, khi mọi người chỉ vừa kịp trút một tiếng thở phào, toàn thân lão bá tước bỗng biến thành những lớp mụi mờ và tiêu tán rất nhanh.
    Trong tôi bắt đầu trào dâng một niềm vui khôn tả vào cái khoảnh khắc kỳ diệu ấy, đúng hơn là một cảm giác thanh bình, êm ái chưa từng có lan tỏa dần dần trên khắp gương mặt tôi.
    Lúc này, lâu đài Dracula sừng sững đứng giữa một nền đỏ thẫm của chân trời hoàng hôn.
    Được tận mắt chứng kiến chúng tôi là nguyên nhân dẫn đến một kết cục kỳ lạ của kẻ nằm trong hòm, đám người Bôhêm lập tức giật cương thúc ngựa quay ngược trở lại, chẳng tên nào nói với tên nào nửa lời, cứ như thể cả cuộc đời của chúng chỉ phụ thuộc vào cái thây ma đó vậy. Những tên không kịp nhảy ngựa vội vàng nhảy lên chiếc xe và gọi với theo những tên phi trước đừng bỏ rơi mình. Bầy sói cũng lặng lẽ rút lui theo con đường cũ, để lại chúng tôi một mình giữa một thế giới tĩnh mịch đến lạ thường...
    Quincey Moriss ngã khuỵu xuống, khuỷu tay chống đất, bàn tay vẫn ôm chặt vết thương còn rỉ máu. Tôi bàng hoàng chạy tới, bởi lúc này Vòng tròn thiêng đã không còn giữ được tôi nữa. Hai bác sĩ cũng vội vàng lao tới bên anh.
    Jonathan quỳ xuống đỡ vội người bạn. Chàng trai quờ nắm lấy bàn tay tôi trong hơi thở yếu ớt. Nét mặt tôi hẳn phải lộ rõ sự lo âu tột độ vì tôi thấy anh mỉm cười và nói vôi mình :
    - Tôi cảm thấy rất vinh hạnh vì đã làm được một điều gì đó. Ôi! Chúa ơi, - Anh thốt lên và chợt dựng người dậy chỉ vào tôi - cho dù tôi có phải chết cũng không có gì phải hối tiếc! Xem kìa, mọi người nhìn xem kìa?
    Ánh hoàng hôn hắt những những sáng cuối cùng khiến gương mặt ánh lên như một chùm hào quang. Tất cả những người bạn của tôi cùng xụp xuống và thất lên amen khi nhìn theo ngón tay anh chỉ. Anh thều thào :
    - Chúa đã ban phước lành cho chúng ta: vậy là tất cả đã không vô ích! Mọi người cứ nhìn mà xem, đến những bông tuyết cũng chẳng thể tinh khiết hơn vầng trán của cô ấy. Vậy là lời nguyền đã được xóa bỏ rồi.
    Anh ra đi trong niềm thương yêu và đau đớn mênh mông của chúng tôi: trên môi anh, một chàng trai hào hoa, còn in mãi một nụ cười lặng lẽ.

    Ghi chép

    Vậy là đã bảy năm trôi qua kể từ ngày chúng tôi thoát khỏi những cơn ác mộng ấy. Chúng tôi là những người được hưởng hạnh phúc bằng cái giá. của những đau đớn trong chính cuộc đời mình. Việc con trai chúng tôi được sinh ra đúng vào ngày giỗ của Quincey Moriss càng mang lại niềm vui cho Mina và tôi.
    Tôi biết, cô đã giữ trong lòng trọn một niềm tin thầm kín mà một nét nào đó về người bạn anh hùng của đã được thổi vào đứa con của chúng tôi. Cậu bé được chúng tôi đặt cho những cái tên của tất cả các thành viên trong nhóm bạn mình, nhưng Quincey vẫn là cái tên được chúng tôi gọi nhiều nhất.
    Mùa hè năm ngoái, trên đường trở lại thăm Transylvanie, chúng tôi đã trở lại vùng đất mang đầy những kỷ niệm khủng khiếp không thể nào phai trong ký ức mỗi người. Chúng tôi không thể tin những điều mắt thấy tai nghe một thời vẫn còn sống động đến thế, dù mọi dấu vết đều đã bị xóa sạch. Tất cả chỉ còn lại tòa lâu đài đứng uy nghi, trầm mặc, lẻ loi một mình trên một đỉnh đồi gió hú.
    Chúng tôi nhắc lại chuyện xưa mà lòng không khỏi bùi ngùi xúc động, vì huân tước Godalming và bác sĩ Seward đều đã lấy vợ và có một cuộc sống thật hạnh phúc. Tôi mở lại số giấy tờ cất trong hòm sắt sau lần trở về đầu tiên, từ lâu lắm rồi. Có điều lạ là trong số toàn bộ giấy má làm nên hồ sơ câu chuyện này, sẽ rất khó nếu phải tìm ra một phần xác thực: tất cả chỉ còn những bản đánh máy, trừ những trang nhật ký cuối cùng của tôi, Mina, Seward và mấy dòng ghi chép của giáo sư Van Helsing. Nói vậy thôi, chứ làm sao chúng tôi có thể bắt người khác phải thừa nhận số tờ giấy này như một bằng chứng về một câu chuyện bi thương và huyền ảo bây giờ? Có một lần Van Helsing ôm con trai chúng tôi vào lòng và nói mấy câu thật ngắn gọn :
    - Bằng chứng? Chúng ta chẳng cần ai phải tin mình. Điều quan trọng là sẽ có ngày cậu nhóc này hiểu mẹ nó là một phụ nữ dũng cảm như thế nào. Bây giờ nó đã biết cô ấy là một người mẹ thu hiền và giàu tình thương yêu. Rồi sau này nó cũng sẽ biết rằng đã có những người đàn ông thực sự thương yêu nó, và đã dám làm tất cả cho ngày chào đời của nó.
    Jonathan.
    HẾT
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này