1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Kiếm hiệp Lịch sử/Quân sự Bộ Bộ Sinh Liên - Tác giả: Nguyệt Quan - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Hoa Thiên, 11/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 621: Quan ải khó phá
    Cách đó không xa, nhóm bại binh kéo thân mình mỏi mệt đâm xuống doanh trại quân đội, tuy rằng vẫn là mỏi mệt không chịu nổi, song thần sắc của mọi người so với vài ngày trước thoải mái hơn rất nhiều. Trong đại trướng bỗng có âm thanh gào thét thê lương vang lên, một vài tên lính gần đó nghe thấy giật mình, thăm dò nhìn về hướng đó vài lần, sau đó lười biếng tiếp tục nằm, có người ở mai lò nấu cơm tiếp tục châm củi, xa xa đang có người đào lấy chiến hào, xây chướng ngại vật...

    Đầu tóc bay rối, thương binh tay áo quân phục bước đi thong thả đến tlều lớn gần đó, đặt mông ngồi dưới đất. Sau vài ngày của ở chung, vài nội thị thân quân đứng ở đàng kia đã nhận ra hắn, hắn họ Tất, là định quốc tiết độ sứ Tống Ác đại nhân từ Lân Phủ mang binh tới, quê hương Quảng Nguyên, nghe giọng nói của hắn, đích thị là người bên kia.

    Người này tuổi không lớn lắm, mày ngài thanh tú , nếu nhìn kỹ tuy rằng râu ria xồm xàm, đầu tóc rối bù, nhưng trời sinh cho một đôi mắt hoa đào, còn quyến rũ hơn so với nữ nhân, nếu rửa mặt chải đầu ăn mặc vào, sẽ là một người tuấn tú cực kỳ, không biết sẽ làm mê mẩn bao nhiêu đại cô nương tiểu tức phụ, đáng tiếc...

    Xem cánh tay trái của hắn, vai bị gãy, đầu vai quấn bởi băng vải thật dày đã nhuốm máu, một trận chiến khiến hắn không bao giờ có thể ở trong cấm quân đợi nữa, song về sau chỉ có thể là kẻ lúi húi trong xe, không bao giờ ... có thể có ngày nổi danh nữa.

    "Tiểu Tất à, lấy lại tinh thần đi, tuy mất một cánh tay, song ngẫm lại so sánh với những người chết thảm ở trên chiến trường, các huynh đệ ấy ngay cả thi thể cũng chưa được tìm thấy, chúng ta coi như có phúc chán. Đợi trở về xong, ngươi không cần ra chiến trường nữa, yên bề gia thất, lấy vợ, sinh con nuôi cái, sống yên ổn, đó chẳng phải phúc lớn sao?"

    Một lão binh vỗ vỗ bờ vai của hắn, an ủi.

    "Tạ ơn đại thúc." Tên binh bị thương đó nhẹ nhàng cười cười, ngại ngùng, giống đại cô nương: "Ta thế này, nào còn có người muốn gả cho, song đại thúc nói rất đúng, so với những người đã chết, chúng ta xem như vẫn có phúc chán."

    Hắn nhẹ nhàng bỏ chiếc bánh mỳ xuống, ngẩng đầu nhìn đám mây trên bầu trời. Rất lâu sau đó, mới chậm rãi quay đầu lại, ánh mắt đảo theo chỗ Triệu Quang Nghĩa, cười ngô nghê: "Tàn rồi tàn rồi, cảnh chết chóc, ta đều đã vượt qua được, ông trời để còn sống, luôn luôn có lý do của nó, còn sống, sẽ có hi vọng!"

    Đại Tán Quan núi non trùng điệp, sơn thế hiểm trở, ở Quan Trung phần đông hùng quan được liệt là một trong tứ đại chìa khoá vàng, quả nhiên là một kẻ làm quan vạn người không thể tranh giành, xét về tấn công, nhất là tấn công thành ải, cũng không phải sở trường của Đồng Vũ, lần trước dùng trí chiếm Lũng Quan, Đồng Vũ đã lộ mặt, cứ như không đánh mà thắng đoạt tòa hùng quan này, lần này liền giao hoàn toàn quyền lực cho Kha Trấn Ác vận viên lão tướng.

    Kha Trấn Ác có được cơ hội này, không khỏi vui mừng, khắc phục tác chiến khó khăn như thế nào, sớm chuẩn bị lực lượng, cho binh lính Lũng Quan đóng giữ Đại Tán Quan, với địa hình sơn thế của Đại Tán Quan, trang bị binh lực, quân giới cung nỏ, tướng lĩnh thống quân, các phương diện, đều phải chuẩn bị chu đáo, mặc dù như thế, Kha Trấn Ác vẫn biết, trận chiến này không thể so với trận đánh Lũng Quan, có thể xảy ra bất kỳ chuyện gì.

    Đại Tán Quan trên Đại Tán lĩnh, còn có rất nhiều bảo trại ở bên ngoài Đại Tán Quan khiến cho tòa hùng quan này rất khó vượt qua, ở bên ngoài có bảo trại xung quanh, quan trọng nhất là một ngọn Thiên Kiều lĩnh, Thiên Kiều lĩnh ở bên sườn Đại Tán Quan, hai núi nằm cạnh nhau, ở giữa có một triền núi vô cùng hẹp, trên hai tòa sơn lĩnh đều có bảo trại, Kha Trấn Ác theo những hiểu biết của mình, đưa đột phá khẩu đặt ở nơi này.

    Nguyên nhân rất đơn giản, ngưỡng công Đại Tán Quan, đồng thời mưa tiễn bắn xung quanh quan ải, cho dù có thể đánh hạ mấy ngàn người của tòa quan ải này, thương vong trả giá ít nhất cũng phải tính bằng đơn vị hàng nghìn, mà bảo trại là quan ải duy nhất, nếu cướp được nó, là có thể phát huy nhất phẩm cung của quân Tây Hạ uy lực hơn Tống tiễn. Một khi có thể áp chế thủ quân Đại Tán Quan, cửa ải hiểm yếu chẳng là gì.

    Bởi vậy Kha Trấn Ác cẩn thận bố trí, trước hết gạt bỏ những bảo trại nhỏ ở xung quanh Đại Tán Quan, từng bước đẩy mạnh Đại Tán Quan, sau đó đem tất cả của trọng hình khí giới công thành sắp xếp lại ở dưới Đại Tán Quan, ngày đêm tấn công Đại Tán Quan, hủy tường thành, đào đất, thang xe tấn công đầu tường, đủ loại thủ đoạn. Đồng thời điều chỉnh bộ phận binh mã phân bố bên ngoài, phòng bị Bửu Kê và các châu huyện xung quanh có thể có viện quân đến.

    Viện binh của Đại Tán Quan không tới, Dương Hạo dẫn binh mã đi hướng tây tấn công Dạ Lạc Hất, ba đường binh mã hướng tây nam, chính nam, đông nam cùng tiến, hắn tự mình dẫn quân chủ lực đi theo phía sau Đồng Vũ và Kha Trấn Ác. Bộ tộc quân nghiệp của Đảng Hạng Bát Thị đã tập kết xong, do Tiểu Dã Khả Nhi thống lĩnh, qua Tiêu Quan, xuất phát hướng Hoàn Châu, Khánh Châu, Vị Châu, dựa thế hiểm mà thủ, không cần phải tiến công, chỉ phòng bị quân Tống đi hướng Lân phủ, chặn đường lui của Dương Hạo.

    Dương Hạo dẫn quân đi theo phía sau Kha Trấn Ác và Đồng Vũ, tiện đường lo liệu Bửu Kê, Bửu Kê mặc dù chưa thất thủ, nhưng thủ quân chỉ có thể co đầu rụt cổ không ra, không tạo thành bất cứ uy hiếp gì rồi đối với quân của hai người Đồng Kha.

    Đánh liên tiếp ba ngày, Kha Trấn Ác vô cùng hung ác tấn công, dùng mọi thủ đoạn, hấp dẫn hoàn toàn thủ tướng Đại Tán Quan trên chiến trường, hơn nữa Tây Hạ quân thế công mãnh liệt được ăn cả ngã về không nhằm vào Đại Tán Quan, cũng làm cho thủ quân sinh ra một loại ảo giác, ảo giác này chính là chôn vùi hoàn toàn Đại Tán Quan.

    Ngày thứ tư, Kha Trấn Ác trước sau như một phát động tấn công mạnh Đại Tán Quan, mà lúc này, một ngàn người Hoành Sơn Khương binh quen vùng núi tác chiến đã xuyên qua những ngọn núi trùng điệp rừng rậm nguyên thủy hiếm có người tới, lặng yên ẩn núp sau lưng Thiên Kiều lĩnh. Hướng này, dựa vào núi non trùng điệp, Trên thực tế đã ở phía sau của Đại Tán Quan, nếu không đột phá Đại Tán Quan, về lý thuyết cái phương hướng này tuyệt đối sẽ không có quân địch xuất hiện.

    Thạch đạn dưới Đại Tán Quan bay toán loạn, tên như mưa, tiếng người kêu giết chấn thiên địa, thỉnh thoảng có cây lăn, đá tảng, quả cầu lửa cùng với mũi tên, Tây Hạ binh hung hãn không sợ chết thẳng tiến, ý đồ trèo lên kia đầu tường cao cao của Đại Tán Quan, thủ quân dựa vào hiểm yếu chắc chắn của công sự, thu gặt tính mạng quân sĩ Tây Hạ.

    Quân dụng rồi thi thể quân Tây Hạ trải khắp đường đầu tường Đại Tán Quan, nhưng cho đến khi bầu trời tối đen, bọn họ vẫn không thể phá quan, dưới quan thành máu me be bét, đá đâm nát da thịt, cây cối nhuộm máu tươi, trên tường thành, tên cắm chi chít, cuộc chiến đấu của một ngày đã xong.

    Mặt trời dần dần lặn xuống dưới chân núi, rồi lặn hẳn dưới ngọn núi , trời đất mịt mù tối tăm.

    Đêm buông xuống, từ trên quan thành nhìn lại, xa xa trong quân doanh Tây Hạ dấy lên lửa trại, mơ hồ còn có thể thấy binh lính tuần tra, chiến sĩ ngồi vây quanh lửa trại.

    Đột nhiên, Thiên Kiều lĩnh bên Đại Tán Quan có tiếng giết chóc, ánh lửa bập bùng, thủ quân Đại Tán Quan đều bị kinh hãi, đều tụ lại ở đầu tường, nhìn ra xa phía Thiên Kiều lĩnh. Tuy rằng Thiên Kiều lĩnh gần trong gang tấc, nhưng trước tiên phải chuẩn bị phòng ngự cho chu đáo. Trong bóng đêm mờ mịt, tối như mực, nếu Thiên Kiều lĩnh bị tập kích, ai biết dưới Quan có phục binh hay không, nhử rắn ra khỏi hang, điệu hổ ly sơn, đây là thủ đoạn mà hai quân thường xuyên dùng, trước quân Tống binh vây Tấn Dương thành, Dương Kế Nghiệp đánh lén ban đêm, dụ binh mã vây thành tự loạn trận cước, Trình Thế Hùng án binh bất động, thủ tướng Đại Tán Quan cũng nhanh chóng đưa ra quyết định: án binh bất động.

    Hắn vẫn đặt niềm tin cho Thiên Kiều lĩnh, Thiên Kiều lĩnh tuy chỉ có năm trăm thủ quân, chia ra làm hai doanh, dựng liền nhau trên đường lên núi sơn lĩnh, có thể hỗ trợ lẫn nhau, vừa có thể phong tỏa dồn đối phương vào góc chết, hơn nữa thủ quân đều quen tác chiến vùng núi nhiều cây cối, bởi vì chiêu mộ người miền núi bản địa, đơn giản là trong đó rất nhiều tướng sĩ xuất thân từ gia đình.

    Bọn họ tự chu cấp cho cuộc sống, quen thuộc từng cọng cây ngọn cỏ nơi này, đánh đêm như vậy, họ rành như trong lòng bàn tay, và còn chiếm được địa lợi, người Tây Hạ n lập tức tác chiến, rong ruổi, liệu có tập kích thành công?

    Nhưng kết quả vượt ngoài dự liệu của hắn, chỉ nửa canh giờ, bảo trại bên phải Thiên Kiều lĩnh bị thất thủ rồi. Nguyên nhân rất đơn giản, hai bảo trại ban ngày có cờ hiệu, ban đêm có đuốc chiếu sáng, bên đó thường dùng đuốc để báo cáo quân tình, rồi sau nửa canh giờ đã bị tập kích, bảo trại bên phải Thiên Kiều lĩnh bị thiêu trụi hoàn toàn.

    Hai trại nối với nhau, ở giữa là sườn núi, một bên thất thủ, thì bên kia cũng không trụ nổi, còn chưa kịp cứu viện, bảo trại bên trái cũng báo thất thủ.

    Thiên Kiều lĩnh của thất thủ, chiếm ưu thế Đại Tán, Tây Hạ quân lại lần nữa công thành, tên lao như mưa phóng lên Thiên Kiều lĩnh rồi trút xuống đầu tường Đại Tán Quan, áp chế của quân Tống căn bản nâng không ngẩng đầu lên, biên dận mặc dù cầm kiếm ép buộc, cũng bất quá là làm cho binh lính xông lên đầu tường chịu chết thôi. Đại Tán Quan là quan ải với thế núi hiểm trở, binh lực cũng chỉ có hơn hai ngàn, ba ngày nay khổ chiến đã làm hao tổn một phần năm binh lực, viện quân chưa tới, Thiên Kiều lĩnh thực khó chống đỡ.

    Chống Tây Hạ quân? Chỉ kéo dài được nửa ngày, Tây Hạ quân tấn công, trèo lên đầu tường Đại Tán Quan.

    Trên thành dưới thành, nơi nơi đều là tử thi, ở đầu tường thi thể cắm dày đặc tên trên người, trông như những con nhím, còn dưới quan, tử thi của Tây Hạ quân cũng nhiều vô kể, có tên bị cây lăn đá đâm không còn hình dạng đâu nữa, có tên bị thiêu cháy đen thui, còn có tên chết rồi mà vẫn mở trừng trừng mắt, ai đó nhìn phải sợ phải biết.

    Biên Dận tóc tai bù xù bị trói ở cột cờ Đại Tán Quan, binh Tây Hạ hận hắn vì dưới sự chỉ huy của hắn có nhiều đồng chí chết thảm như vậy, mặc dù không có mệnh lệnh của chủ soái nên chưa dám lấy mạng của hắn, song hắn đã chịu không ít trận đòn khiến mặt mũi bầm dập hết thảy.

    Một người đi đến, quần áo gọn gàng, trông bộ dáng không giống kẻ tham chiến. Biên Dận vừa thấy người này đi đến, hắn trừng trừng hai mắt, lạnh lùng quát: "Vương Khoa kia, đồ chó má nhà ngươi, để ngươi thủ ở Thiên Kiều lĩnh chỉ có nửa canh giờ ngươi đã làm mất Thiên Kiều lĩnh của lão ử, ngươi, ngươi…quần áo nuột nà quá nhỉ, sợ lâm trận hả, nên trở thành tên đào binh hả?"

    Người nọ bị hắn gào lên, đầu khẽ lắc, sau đó nhếch miệng nói: "Biên chỉ huy, ty chức…ty chức cũng là một hán tử có danh thế, sao lại phải đào binh chứ?"

    Biên Dận giận dữ, dài cổ ra, gân mặt gân cổ nổi hết lên, hắn cố gào cái giọng khàn khàn: "Ngươi không phải là tên đào binh thì sao bộ dạng lại như vậy? Ngươi sợ tham chiến vì thế mới đánh mất Thiên Kiều lĩnh trong nửa canh giờ phải không? Thiên Kiều lĩnh dễ thủ mà khó công, hiểm yếu hơn cả Đại Tán quan, tại sao ngươi lại đánh mất Thiên Kiều quan của lão tử hả, ngươi nói, ngươi nói đi"

    Mặt Vương Khoa vẻ cầu xin nói: "Biên chỉ huy, ty chức…ty chức đêm qua không ở Thiên Kiều lĩnh, sáng nay mới vội vã quay trở về, thì được tin Thiên Kiều lĩnh đã được đổi chủ, ôi…thực không hiểu tại sao lại bị người ta cướp mất".

    Biên Dận ngẩn người, không dám tin nói: "Ngươi đêm qua không ở Thiên Kiều lĩnh ư? Không ở Thiên Kiều lĩnh???" Hắn điên tiết quát to: "Ngươi không ở Thiên Kiều lĩnh thì cái loại chó như ngươi đi đâu hả?"

    Vương Khoa cũng gào lên, không kìm nén được nói: "Ai biết được là mấy ngày chẳng xảy ra chuyện gì, rồi đêm qua bỗng dưng Thiên Kiều lĩnh gặp chuyện? Ta chỉ là muốn rời đi lúc nửa đêm, tóm gọn cái con mụ gian phu dâm phụ, khuất mắt nuôi Hán. Thử hỏi biết được tin đó ngươi có rời đi để tìm rõ sự tình không, ôi chao, con mẹ nó chứ. Thiên Kiều lĩnh thì ai chả biết tầm quan trọng của nó, cái đầu ta có lấy ra cũng không thể đổi lại Thiên Kiều lĩnh được. Ta chỉ là muốn trở về làm thịt đôi gian phu dâm phụ kia…"

    Giọng Biên Dận còn lớn hơn giọng hắn: "Sớm hơn không đi, muộn hơn không đi, lại đi đúng cái giờ ấy, đối đầu với kẻ địch mạnh như thế mà ngươi bỏ đi giao cho bọn quân lính trông coi, chốc lát bị mất trắng đây này. Này nói cho mà biết lão tử ta, dù vợ ở ngoài gian dâm có thân mật với bảy tám chục tên đi chăng nữa, vào lúc í ta cũng không đi".

    "Các người cãi vã gì vậy?"

    Một âm thanh chế nhạo vang lên bên cạnh, Biên Dận hoắc mắt quay đầu lại, thấy hai tên tướng lĩnh mặc giáp trụ đội nón đứng dạt sang hai bên. Một tên chừng bốn mươi, lông mày thô ráp, cơ thể gầy gò, mặt rỗ tứ tung, đôi mắt sáng ngời có thần, người đứng giữa bọn họ là một tên dáng người dong dỏng cao, trường bào màu xanh nhạt, đôi mắt không hiền không giận mà vẫn uy, bên sườn đeo bảo kiếm. Một tên khác thấp hơn hắn một cái đầu, cũng mặc trường bào, đầu đội khăn, xem ra tuổi chưa tới hai mươi, mày ngài thanh tú, môi đỏ hồng.

    Mới vừa nói nói của đúng là vóc dáng cao chút, dưới xương sườn bội kiếm của nam tử, lúc này trên mặt còn mang theo tựa tiếu phi tiếu của vẻ mặt, ở hổ lang như nhau của Tây Hạ trong quân lại có như vậy hai người vật, biên dận không khỏi nhìn xem ngây người, nhịn không được hỏi: "Các ngươi là ai?"

    Tên vóc dáng cao hơn vừa cất tiếng nói, bội kiếm đeo bên hông, mặt nửa nghiêm túc nửa cười, trong Tây Hạ quân lại có hai nhân vật như vậy ư, Biên Dận không khỏi ngây người, quát: "Các người là ai?"

    Viên tướng gầy gò mặt rỗ tiến lên một bước, lớn tiếng nói: "Mở to mắt cho nhà ngươi lên mà nhìn cho kỹ đi, vị này chính là quốc chúa Tây Hạ ta, còn vị này, chính là Kỳ Vương điện hạ Tống quốc nhà ngươi".

    Biên Dận mồm há to, cảm tưởng như có thể nhét gọn quả trứng vịt vào mồm hắn, mắt trợn ngược, không nói nên lời.

    Đêm buông xuống, doanh trại quân Tống im ắng.

    Bên ngoài đám binh lính đi tuần, các trạm canh gác xa hơn mười dặm, lo sợ quân Liêu đuổi đến trở tay không kịp. Nhưng trong quân doanh, một số nhóm binh lính lại đang say giấc nồng.

    Dù bên ngoài trướng của Triệu Quang Nghĩa là cấm quân vệ, ban này tinh thần lên cao, đứng thẳng, báng súng chĩa lên trời thẳng tắp, còn ban đêm rét lạnh thì lại chẳng còn tâm trí gì, có người chống báng súng ngủ gật, có người thì rúc đầu vào tránh gió ngủ.

    Lúc này có một cái bóng thoắt ẩn thoắt hiện, trông như sâu đo tiến về phía ngự trướng.

    Cái bóng đó thoắt ẩn thoắt hiện tựa như đồng màu với mặt đất khô vàng cằn cỗi, nếu như đứng ở đằng kia thì không thể phát hiện ra nó, dù nó di chuyển, phải tập trung tinh thần cao chăm chú thì mới phát hiện ra nó. Dù biết phía cỏ có chút khác thường nhưng ngay tại đất của mình với đội ngũ bảo vệ nghiêm mật như thế, thì chẳng ai hơi đâu nhìn chăm chú vào cỏ làm gì.

    Cái bóng đó có vẻ rất kiên nhẫn, nó ở đó thật lâu, rồi mới từ từ vượt qua tuyến an toàn mà cấm quân bảo vệ nghiêm mật, dừng lại ở bên trướng.

    Đêm đã khuya nhưng Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa ngủ. Hắn gối nằm ở giường, lăn qua lăn lại không yên.

    Thất bại thê thảm này, có lẽ hàng ngàn năm sau sẽ trở thành trò cười của kẻ khác. Đức Phương không ngờ vẫn chưa chết, hắn đương nhiên có huyết thư của hoàng tẩu. Hắn phải trở về nước, một khi về rồi, hắn phải đối mặt thế nào với thần dân đây? Hắn sẽ phải giải thích thế nào về lần bại trận Cao Lương hà? Hắn sẽ bị khiển trách?

    Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ lòng lại càng lạnh, lẩm bẩm: "Tai họa vạ dân, trẫm nên làm thế nào đây? Tây Hạ xuất binh, đoạt Lũng Hữu, thất thủ Quan Trung, Trẫm nên làm thế nào đây? Lòng người khó lường, trẫm…trẫm phải làm sao đây?"

    "Ngươi có trăm phương ngàn kế xử lý mọi chuyện, làm hoàng đế mà không vui sao?"

    Bên tai bỗng vang lên âm thanh chua xót, nghe như u hồn. Nghe âm thanh này Triệu Quang Nghĩa sợ hãi, dựng tóc gáy.

    Triệu Quang Nghĩa hoảng sợ quay đầu, một câu "Ai?" còn chưa nói ra, người cầm một lưỡi đao sắc bén đâm "Phốc" vào cổ họng của hắn, ngập chuôi.

    "Chốn ngục tù, mười vạn oan hồn Giang Châu, đang đợi ngươi!"

    Tqn không biết có người bên cạnh mình từ bao giờ, dù người đó rất gần hắn nhưng vẫn không thể thấy rõ dung mạo, chỉ có đôi mắt, một đôi mắt hoa đào quyến rũ trời sinh và mang theo sát khí luôn lạnh lùng theo dõi hắn.

    toàn thân Triệu Quang Nghĩa cứng đờ, cổ họng tê tê, không thể nói ra lời. Hắn muốn nói cái gì, không có ai biết; hắn đang suy nghĩ gì, cũng không có ai biết, hai mắt cứ trừng như vậy, cho đến khi mắt hắn dần dần mất đi thần thái, biến hoàn toàn thành màu xám ảm đạm.

    Trời đã sáng, trong đại trướng phát ra một tiếng thét kinh hãi, một cái mặt không còn chút máu, cấm quân thị vệ nghiêng ngả lảo đảochạy đến, sau một lát, các lộ tướng lĩnh phóng đến giống lửa cháy đến nơi.

    Ban đêm, xung quanh ngự trướng ngoài Ngự lâm quân, tuyệt mật không cho phép những người khác tới gần, nhóm binh lính sáng sớm tuy rằng thấy các tướng lĩnh sắc mặt nặng nề, vội vàng bước vào ngự trướng. Cũng như mọi hôm đi yết kiến Thiên Tử, tuy hôm nay sắc mặt nặng nề chút, bước đi vội vã chút, song ai ngờ hoàng đế ở giữa thiên quân vạn mã bị lấy đi thủ cấp?

    "Sao lại thế này? Sao lại thế này" Mặt mũi chúng tướng cắt không còn giọt máu, lo lắng nhìn nhau lo sợ. Tình hình này, không ai nghĩ ra nên làm thế nào. Ngay cả Lý Kế Long cũng sốt sắng cả lên.

    "Không được để lộ ra, lúc này, tuyệt không được để lộ ra tin này!"

    La Khắc Địch trầm giọng nói, mặc dù hắn chẳng có gì trung thành với tên Triệu Quang Nghĩa , hắn muốn nhận được tín nhiệm thay Triệu Quang Nghĩa, không ngừng nghĩ cách leo địa vị, nắm giữ quân quyền, mục đích ban đầu muốn làm một Chu Bột của Đại Tống, nhưng Triệu Quang Nghĩa là Triệu Quang Nghĩa, Đại Tống là Đại Tống, giờ Bắc phạt thất bại, truy binh như bầy sói luôn truy đuổi phía sau, có thể thấy, người Liêu chẳng mấy chốc mà phản công trả thù, một khi tin tức hoàng đế chết bất đắc kỳ tử lộ ra, Tống quốc không cần tấn công thì cũng tự vỡ tan.

    "Đúng, không được để lộ ra." Được La Khắc Địch nhắc nhở, quốc cữu Lý Kế Long cũng lấy lại tinh thần: "Giữ bí mật không phát tang, lui binh như mọi lần. Lấy danh nghĩa Thánh Thượng, tiếp tục sắp xếp phòng ngự cẩn thận."

    Một vị tướng quân oai nghiêm nói: "Lý tướng quân, hung thủ hành thích vua, chúng ta... Chúng ta không muốn tìm ra sao?"

    "Xằng bậy!" Lý Kế Long mặt xanh lét nói: "Tra tìm kiểu gì? Giờ mà điều tra hung thủ, việc này ầm ĩ lên có ai là không biết chứ, chẳng lẽ nói Thánh Thượng gặp chuyện? Thánh Thượng lại không hề lộ diện, ngươi coi hơn mười vạn tướng sĩ đều là lũ ngu ngốc cả?"
     
  2. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 622: Trường An
    Phẩm cấp vị tướng quân kia không thấp hơn Lý Kế Long, lại bị Lý Kế Long trách móc vậy, mặt đỏ ửng lên, La Khắc Địch vội nói: "Cừu Tướng quân, cũng không phải là không muốn điều tra ra hung thủ, nhưng lúc này chuyện nhỏ bắt hung thủ, mà việc trọng đại giang sơn xã tắc phải cho lên hàng đầu, huống hồ, thích khách kia nếu như thần không biết quỷ không hay lẩn vào trong đại trại của mình giết chết Thánh Thượng, lấy đi thủ cấp, giờ này tất nhiên là hắn đã bỏ trốn mất dạng rồi, cho dù còn tên thích khách kia đang ở đây, hơn mười vạn tướng sĩ tập trung truy tìm một thích khách, giống như tìm kim đáy bể, sao tìm nổi? Còn nữa, thích khách nếu như là người Liêu, quân Liêu biết được Thánh Thượng đã chết, tất sẽ lập tức đuổi theo, đến lúc đó đừng nói đi tìm hung thủ, tất cả chúng ta đều sẽ phải chết ở đây."

    La Khắc Địch vừa nói như vậy, mặt vị Cừu Tướng quân kia tái mét, thầm sợ hãi. La Khắc Địch lại quay sang Lý Kế Long nói: "Lý tướng quân, việc cấp bách, có hai đại sự phải làm. Thứ nhất, bí mật không phát tang, ổn định lòng quân, mang toàn bộ nhân mã an toàn về nước, chiểu theo sách lược trước khi Thánh Thượng băng hà, bố trí phòng ngự cẩn thận, phòng ngừa người Liêu ập đến đánh úp. Chuyện thứ hai là, bảo vệ thi thể Thánh Thượng, lặng lẽ quay về Đông Kinh, ngay lập tức đề nghị lập tân đế, mục đích ổn định triều chính. Hai việc này phải đồng bộ tiến hành, không được sai sót, nếu không Tống quốc ta sẽ rơi vào tình thế không thể cứu vãn."

    Lý Kế Long nghe vậy, gật đầu lia lịa: "La Tướng quân nói rất đúng, mạt tướng lòng nóng như lửa đốt, nếu như lo liệu không chu toàn, sẽ làm hỏng đại sự."

    La Khắc Địch không hề khách khí với hắn, trầm giọng lại nói: "Hai việc này, việc thứ nhất, phải cử một viên đại tướng đến lo liệu. La Khắc Địch chủ trì Khu Mật Viện, còn việc kia thì để cho Lý tướng quân gánh vác ."

    Lý Kế Long vừa nghe định từ chối, La Khắc Địch nhấn mạnh, nói: "Điện tiền đô ngu hầu Thôi tướng quân giờ này còn chưa về, trong quân thì có ta và ngươi phẩm cấp cao nhất, huống hồ lần này binh bại Cao Lương hà, đại quân trở về, trên đường Lý tướng quân chỉ huy , không được để cho người Liêu nhân cơ hội, giảm tổn thất xuống thấp nhất. Hai việc này xin Lý tướng quân chọn một mà thôi."

    "Này..."

    Với năng lực của hai người thì chúng tướng đều vui lòng tuân theo, bọn họ cũng hiểu, lần này bại binh ở Cao Lương hà, nếu như không phải La Khắc Địch, Lý Kế Long hai người đó áp ở đầu trận tuyến, giờ quân đội nam phản không có đến một nửa, vì vậy khi La Khắc Địch đề nghị đều không có gì dị nghị, thúc giục: "Lý tướng quân, chớ có do dự, chuyện gấp quá, mau mau quyết định đi".

    Lý Kế Long cau mày, trầm ngâm, nặng nề dậm chân: "Được, Lý mỗ không thể chối từ, Kế Long nguyện dẫn tam quân nam phản, còn Phù Cữu quay về kinh, việc lập tân quân làm phiền La tướng quân đây".

    La Khắc Địch gật đầu nói: "Đúng, việc này không nên chậm trễ, chúng ta lập tức hành động."

    La Khắc Địch vốn tưởng rằng Lý Kế Long sẽ quay về kinh, song như vậy cũng vẫn chưa thoát khỏi nguy hiểm, hơn nữa cho dù là về tới lãnh thổ Tống quốc thì cũng không thể thoát được khỏi trọng trách, lập tức gặp Liêu quân hùng hổ xông tới, trách nhiệm vô cùng to lớn. Còn nếu như quay về kinh lập tân quân thì lại phải huấn luyện mất thời gian.

    Lý Kế Long làm như vậy là muốn nam phản, các chư tướng chỉ có mỗi La Khắc Định dụng binh khiển tướng tốt nhất, đưa cho hắn nhiệm vụ này là muốn làm rạng rỡ tiền đồ của hắn. Đương nhiên La Khắc Địch với chức quan cao hơn hắn, hơn nữa còn là quốc cữu, nếu giờ quay về kinh, khó tránh được để cho ngoại thích tìm ra nhược điểm. Dù sao cũng là huynh đệ đương kim hoàng hậu thì sớm muộn trở thành thái hậu. Thanh danh sớm muộn cũng sẽ nổi như cồn.

    Hắn cầm trong tay những cấm quân tinh nhuệ nhất. Hơn nữa, hắn vừa được Triệu Quang Nghĩa đề bạt, chuyện này rất có ích để tạo uy vọng cho hắn, hắn dẫn đại quân ở bên ngoài, nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

    Suy nghĩ cẩn thận trong giây lát, Lý Kế Long đã có hướng đi của mình.

    Lập tức quân lệnh được truyền xuống, tất cả các tướng lĩnh đều nắm được tin phải bảo vệ

    Trường An phó đô chỉ huy sứ Lâm Nhạc Hoán thúc ngựa trở về phủ đệ của mình.

    Dưới thành Trường An bây giờ không có bóng dáng Tây Hạ binh, nhưng là Tây Hạ quân phá Tiêu quan, giết Thượng Ba Thiên, có lẽ sáng mai, Tây Hạ binh liền sẽ xuất hiện dưới thành Trường An , hắn là Trường An phó đô chỉ huy sứ, hắn quen với nơi này, những tin tức về phòng ngự không thể không đến tai hắn.

    Lũng Quan, Đại Tán Quan lần lượt thất thủ, sợ là Bửu Kê cũng không giữ được nữa.

    Kỳ Vương điện hạ nổi tiếng thiên hạ, không chỉ nói đám sĩ tử, đến những người buôn bán nhỏ cũng bàn luận này nọ, mọi chuyện từ nhỏ đến lớn đều là những chuyện kinh thiên động địa, tổn hại nghiêm trọng tới uy tín của Thánh Thượng. Quân đội phần lớn cũng là những binh lính được chiêu mộ, có quan hệ khá gần gũi với dân chúng địa phương. Tuy họ ở trong quân doanh, nhưng dù sao thì họ cũng đã biết được chuyện này.

    Một cái hành thích vua soán vị, ngôi vị hoàng đế đắc chi bất chính thiên tử, lại làm hạ giết tẩu hại chất như thế táng tận thiên lương cử chỉ, sĩ khí nhất thời đê mê tới cực điểm, cho dù Tây Hạ binh không có như vậy dũng mãnh, này ỷ vào cũng không hảo đánh nha...

    Một tên hành thích vua soán vị, ngôi vị Thiên Tử bất chính, với những cử chỉ hành động táng tận lương tâm. Dù binh Tây Hạ không dũng mãnh như vậy, song cũng không phải dễ đánh.

    Lâm Nhạc Hoán cau có, lo lắng bước vào phủ, phu nhân hắn thấy vậy vui sướng chạy ra đón: "Lão gia đã muộn như thế này rồi mới về ư, trong nhà có khách đấy, đã đợi phu quân lâu rồi".

    Lâm Nhạc Hoán ngẩn người: "Khách ư? Khách nào?"

    Lâm phu nhân mặt mày hớn hở nói: "Nghe nói hắn họ Hồ trước kia là thương nhân, lão gia, vị thương nhân họ Hồ kia có lẽ là một năm rồi không đến nhỉ? Giờ hắn mang tới nhiều lễ vật lắm, có cả da cừu lông vũ, sách nữa, không biết có chuyện gì cần lão gia giúp đây".

    " "Thương nhân họ Hồ ư?"

    Lâm Nhạc Hoán mặt tái mét, lo sợ.

    Đây là bí mật tận sâu trong đáy lòng không một ai biết hết. Thương nhân họ Hồ kia không phải ai khác chính là Hồ Hỉ Nhi, còn Lâm Nhạc Hoán cũng là tướng lĩnh cao cấp Quan Trung bị hắn tranh giành về, Triệu Quang Mỹ đền tội, Triệu Quang Nghĩa tự do tẩy trừ, có nhiều quan viên vô tội đều bị vạ lây, nhưng hắn lại tránh được.

    Bởi vì Hồ Hỉ Nhi làm phiền bọn họ thực ra là vì Hoàng tử Triệu Dức Phương chuẩn bị, không muốn Triệu Quang Nghĩa ra tay trước, thuận thế lợi dụng câu chuyện thích khách bức tử Triệu Quang Mỹ, Triệu Đức Phương cũng chết ở trên đường, việc này không giải quyết được gì. Mọi chuyện chưa bùng nổ mà hắn làm việc lại thận trọng không hề để cho bất cứ ai cảnh giác, nhưng không ngờ việc qua một năm, nó đã sớm bị Hồ Hỉ Nhi biết phải người tới cửa hỏi, hắn cần gì đây?

    Lâm phu nhân cũng nói tiếp: "Tuy nói phu quân làm đại quan, nhưng người nhà ta đông, gia quyến cũng phải được hưởng chút vàng bạc châu báu chứ, nô gia đến một bộ quần áo tử tế còn không có này, chứ nói gì đến áo choàng. Có vẻ cũng đã lành lạnh rồi, ha ha, mùa đông năm nay, nô gia có thể vui vẻ mà ra khỏi cửa rồi, ôi, tuyết sao vẫn chưa rơi…"

    "Nàng không thể bớt nói đi chút ah?" Lâm Nhạc Hoán khó nghĩ, bỗng dưng quát lên.

    "Sao lại thế được chứ, vô duyên vô cớ đi nổi giận với người ta". Lâm phu nhân sửng sốt lẩm bẩm.

    "Thôi đi đi, đóng cho chặt cửa lại, rồi trở vào phòng đi, đừng có làm phiền ta nữa".

    Lâm Nhạc Hoán gào lên, sau đó quay đầu bước đi, tới bên ngoài thư phòng nhỏ có khách đợi, Lâm Nhạc Hoán bỗng nhiên dừng bước, mặt trầm ngâm suy tư rồi mới vén rèm đi vào.

    Trong thư phòng, Tịnh Sơ Vân đang ngồi vắt chéo hai chân, mắt khép hờ nhâm nhi nước trà.

    Trước kia Tống quốc tấn công hán quốc, Triệu Khuông Dận tiếp nhận ý kiến của Dương Hạo, dùng chiêu rút củi dưới đáy nồi, di bách tính muôn dân Hán quốc rời khỏi đất cũ, bốn vị nổi danh Hán quốc như Lâm Bằng Vũ, Tần Giang, Lô Vũ Hiên, Tịnh Sơ Vân bị đại binh đuổi ra, về sau Dương Hạo rời tới Lô Châu tuyển chọn nhân tài, bốn vị này sớm trở thành những người thân tín nhất của hắn.

    Hiện giờ trong bốn người đó chỉ có Lâm Bằng Vũ nhàn nhã nhất, ba người kia đều đảm đương chức vụ quan trọng, so với hắn thì cũng không có gì kém cỏi, năng lực tài nghệ của họ cũng không phải là nổi bật đặc biệt, tuy nóng mắt song chẳng có cách gì. Lần này cần một người đi Trường An làm khách, Tịnh Sở Vân cảm thấy cơ hội của mình cuối cùng cũng đã đến, thế là chủ động nhận đi Trường An.

    Triệu Quang Nghĩa đã chết, Triệu Quang Nghĩa bỗng dưng chết, tin tức truyền ra, Dương Hạo đang trấn binh dưới thành Trường An cũng ngẩn người ngạc nhiên.

    Hắn biết Triệu Quang Nghĩa bắc phạt tất nhiên thất bại. Hắn hiểu được thực lực quân sự của Liêu quốc, ý nghĩ của Tiêu Xước, hiểu còn hơn cả những thám tử, còn về Tống quốc, nhuệ khí của những tướng lĩnh mới mạnh hơn những lão soái, nhưng kinh nghiệm lâm trận thì còn kém xa, còn điều quan trọng nhất chính là con người Triệu Quang Nghĩa không đổi, vẫn lòng lang dạ sói như thế, vẫn muốn đích thân cầm binh dẫn quân.

    Nhưng thực sự là hắn không ngờ Triệu Quang Nghĩa đã chết, ba mươi vạn đại quân bảo vệ nghiêm mật, cấm quân đã từng làm cho Triệu Khuông Dận mười năm và là quân mạnh nhất, coi như binh bại nam phản thì hắn đường đường là Hoàng đế cũng không thể bị giết thảm hại vậy, song không hiểu tại sao mà chết được?

    Mật báo truyền đến rất tường tận.

    Tình báo nói, Triệu Quang Nghĩa bị thích khách giết ở trong đại doanh, người cầm đầu bị sát hại, đến trời sáng thì thân binh mới phát hiện ra. Quân nghĩ rằng người Liêu ngầm phái thích khách đi sát hại, vì vậy mới bí mật không phát tang, vội vàng tăng tốc nam phản, nhưng người Liêu vẫn theo kế hoạch mà làm, cuối cùng không toàn lực bổ nhào phản lại, thích khách bị nghi là người Liêu, mà người Liêu thì cũng không biết là Triệu Quang Nghĩa đã bị giết.

    Hung thủ là ai thì đến giờ triều Tống vẫn chưa điều tra ra, còn Dương Hạo cũng chẳng có hứng thú gì với chuyện này, điều hắn đang suy nghĩ đắn đo là: Giờ phải làm thế nào?

    Đại quân Tây Hạ hừng hực khí thế nam hạ, từ Tiêu Quan đến Trường An giết Thượng Ba Thiên, rồi Dạ Lạc Hất, mấy lộ binh mã cùng tiến, khí thế hừng hực.

    Vĩnh Khánh công chúa ngồi đối diện Dương Hạo, cũng ngẩn người ngạc nhiên.

    Nàng hận Nhị thúc, hận Nhị thúc cực điểm, và giúp đỡ cho lực lượng Dương Hạo, chỉ mong có thể giết chết tên chó má hại chết phụ mẫu và huynh đệ, nhưng giờ hắn đã chết ở Bắc quốc, lòng Vĩnh Khánh buồn rười rượi, rỗng tuếch, nỗi hận của nàng trào dâng, nàng không tìm ra tên nào khả nghi giết Triệu Quang Nghĩa. Nàng buồn và hơi tiếc.

    "Đại vương…"

    Vĩnh Khánh chần chừ ngẩng đầu lên, Dương hạo chặn lại lời nói của nàng: "Tiễn đã ra khỏi cung, không thể thu về nữa".

    Vĩnh Khánh hiểu, coi như Dương Hạo vốn vô ý ở Trung Nguyên, lần này cũng không thể quay đầu lại nữa. Quân quốc đại sự, há có thể coi như trò chơi, mọi chuyện đã đến nước này, vì Triệu Quang Nghĩa đã chết rồi, Tây Hạ xuất quân hào hứng về Hà Tây, đó là chuyện tuyệt đối không thể, trừ phi Dương Hạo lúc này cũng chết.

    "Điện hạ, ngài không còn sự lựa chọn nào nữa, ta cũng không có sự lựa chọn nào nữa. Vẫn theo kế hoạch đi, mưu Đồng Quan, đoạt Trường An, chiếm lấy Quan Trung, nhìn hướng Trung Nguyên".

    Dương Hạo nắm chặt kiếm, từ từ nói: "Nàng không muốn đất nước bị tàn phá, dân chúng bị khổ đau, giờ chuyện duy nhất có thể làm chính là dựa theo kế hoạch trước cố gắng vạch con đường phạm tội của Triệu Quang Nghĩa để cho toàn thiên hạ biết hắn lập ngôi bất chính, tận dụng lòng dân, lòng quân lòng các sĩ tử, chỉ có như vậy mới có thể vạch trần sự thật".

    "Ta hiểu rồi". Vĩnh Khánh công chúa đứng dậy, với khuôn mặt trông không có vẻ già dặn gì, nàng vẫn mặc bộ quần áo đàn ông, lúc này mới trầm giọng nói với Dương Hạo: "Tất cả theo ý đại vương đi, Vĩnh Khánh…giờ không nghĩ được gì".

    Dương Hạo mỉm cười gật đầu, lúc này Mục Vũ vội vàng chạy vào, Mục Vũ giờ đã là một viên đại tướng dưới quyền Dương Hạo, tuổi tác của hắn không lớn, cơ thể gầy gò, song có kinh nghiệm từ nhỏ, đi theo Dương Hạo bôn ba đây đó kiến thức vô cùng quảng đại, giờ làm một tướng lĩnh cung vệ quân, một chức mà ai cũng muốn. Hắn và Mẫu Y Kha đã thành hôn, hai phu thê giúp đỡ nhau trong quân chiến, tình cảm cũng bền chặt. Dương Hạo đang ngóng xem về sau sinh con gái, đặt tên cho nó là Quế Anh.

    "Chuyện gì vậy?"

    Dương Hạo quay đầu lại hỏi, làm việc với hắn đã lâu, Mục Vũ đã có ánh mắt tinh tường, hắn và Vĩnh Khánh công chúa bàn bạc nghị sự trong trướng, ngoài đại sự ra Mục Vũ sẽ không đến làm phiền. Mục Vũ vội tiến lên trước, nói thầm vài câu vào tai hắn, mắt Dương Hạo trợn tròn lên.

    Vĩnh Khánh công chúa đang nhìn chằm chằm về phía Dương Hạo, vì mvu nói câu dầu tiên, mắt Dương Hạo bỗng sáng lên rồi sau đó nhanh chóng nhìn về phía nàng. Nữ nhân rất nhạy cảm, nàng cảm nhận được Dương Hạo đang được tin gì đó có liên quan đến nàng, hoặc là…có liên quan đến thân phận nàng đang diễn, nàng đang đợi Dương Hạo nói ra xem điều gì.

    Dương Hạo nghe mvu báo xong khẽ xua tay, mvu nhanh chóng lùi ra ngoài, Dương Hạo thở dài một hơi nói: "Có ngừoi đến rồi, người này đầu bôn nàng, người này đến mong rằng không lâu sau sẽ có ngày một nhiều người về phe nàng. Nhưng người này đến, chưa chắc đã giúp được gì cho chúng ta, cần thuyết phục hắn, duy chỉ có công chúa. Công chúa, hung thủ đã chết, nhưng chuyện này, không chỉ là chuyện gia sự, cho nên…"

    "Ta hiểu". Vĩnh Khánh công chúa ngắt lời hắn, khẽ mỉm cười, khẳng định: "Ta đã nghĩ thông rồi, mọi chuyện tới bước này thì không cần phải chần chừ nữa. Nếu như lần này ta thay đổi ý định, con người ta sống chết là chuyện nhỏ, nhưng giữa Tống và Tây Hạ sẽ xảy ra đại chiến, không biết thương vong sẽ còn bao nhiêu, đại vương theo ý ta phát binh, lúc ấy ta không những hại ngươi, mà còn hại cả các lão thần nhiều năm trung thành với cha ta, dù Triệu Quang Nghĩa sống hay chết, ta chỉ có thể đi tiếp, sẽ không chần chừ do dự nữa".

    Dương Hạo nhìn ra được thành ý trong lời nói của nàng khẽ gật đầu.

    Vĩnh Khánh công chúa nói: "Thế giờ đại vương có thể nói với ta, ai đến vậy?"

    Dương Hạo nói: "Triệu Tắc Bình".

    Vĩnh Khánh công chúa nhướn mày: "Triệu thừa tướng?"

    ****

    khi Triệu Phổ đến quân doanh của Dương Hạo, như dội gáo nước lạnh, Kỳ Vương điện hạ là Vĩnh Khánh công chúa, Kỳ Vương thực thì đã chết rồi.

    Triệu Phổ tay chân lạnh cóng, hắn không ngờ, Kỳ Vương này là Vĩnh Khánh công chúa, một nữ tử, nào có thể thừa kế đại thống, coi như nàng có thể một tay che trời, có thể hoàn thành đại sự, nhưng tiên đến đã không còn nữa, giang sơn này ai nắm đây?

    "Lão thừa tướng, cha coi người như huynh đệ một nhà, công lao của lão thừa tướng, Vĩnh Khánh cảm động vô cùng. Tên giết phụ hại mẫu, làm tan tác huynh đệ, giờ nhà ta, chỉ còn lại mỗi một mình con gái này, hận thù sâu đậm, có thể báo được không đây? Lão thừa tướng nổi danh thiên hạ, môn sinh trải khắp tứ hải, nếu như có thừa tướng giúp đỡ, Vĩnh Khánh với mối thù huyết nhục sẽ có hy vọng đây…"

    Mặt Triệu Phổ méo mó, lắc đầu nói: "Điện hạ muốn trời mở, làm sao nghĩ ra cách gì tốt đẹp đây? Nếu biết công chúa ở đây, lão phu sẽ không…haiz, công chúa ơi, người coi như báo được thù lớn, đến khi đó nên làm thế nào, giang sơn xã tắc đại tống này, phụ hoàng người tạo nên, lẽ nào…lẽ nào lại để rơi vào tay người khác sao?"

    Vĩnh Khánh nói: "lão thừa tướng cho rằng, Triệu Quang Nghĩa hắn giết huynh đệ phụ mẫu ta chiếm địa vị, giang sơn họ Triệu này ta phải làm thế nào đây, người ta đoạt ngôi quyền của phụ hoàng ta, hại cả nhà nhà ta, ta còn phải thay hắn quy thuộc giang sơn xã tắc, bảo vệ hoàng quyền của hắn, thế có nực cười không chứ?"

    "Cái này…"Triệu Phổ không biết trả lời sao, chỉ biết vuốt râu lắc đầu, tuy nhiên cách nói của Vĩnh Khánh không phải không có ý đúng.

    Vĩnh Khánh lại nói: "Huống hồ, Vĩnh Khánh vì mượn binh mà vứt bỏ giang sơn, những điều mà Triệu Quang Nghĩa làm, sớm đã làm nhà ta tan nát. Vĩnh Khánh bỏ nhà mà không bỏ nước".

    "Nghĩa là…"

    "Triệu thừa tướng cho rằng, kế tự và kế thống, cái nào quan trọng hơn?"

    Triệu Phổ nghiến chặt răng, không nói câu nào.

    Vĩnh Khánh lại hỏi: "Triệu thừa tướng nói cho ta biết đi".

    Triệu Phổ chần chừ, nói: "Đối với một nhà mà nói, kế tự quan trọng. Song nếu xét về việc nước, kế thống quan trọng".

    Vĩnh Khánh lại nói: "nếu nước nhà hợp một thể, mà phải chọn ra một cái, thì chọn cái nào đây?"

    "Đương nhiên là kế thừa thể thống quan trọng hơn".

    Vĩnh Khánh mỉm cười gật đầu: "Lão thừa tướng nói phải lắm, Vĩnh Khánh cũng nghĩ vậy và sẽ làm vậy".

    Triệu Phổ nói: "Ý điện hạ là?"

    Vĩnh Khánh nói ra câu đó, Triệu Phổ không khỏi ngẩn người, đơ người một lúc lâu mới nói: "nếu như đại sự có thể thành, còn có ai có thể ngăn cản được?

    Vĩnh Khánh nhắm nghiền mắt, nói: "Ta phải chọn lựa, chỉ có thể tin tưởng hắn. Thừa tướng, giờ còn có lựa chọn nào sao?"

    Còn có sự lựa chọn nào sao? Con cái, cháu chắt, những người thân thuộc, chọn ai đây? Còn sự lựa chọn nào không đây?
     
  3. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 623: Chọn ai đây
    Triệu Quang Nghĩa đã chết, Triệu Quang Nghĩa bỗng dưng chết, tin tức truyền ra, Dương Hạo đang trấn binh dưới thành Trường An cũng ngẩn người ngạc nhiên.

    Hắn biết Triệu Quang Nghĩa bắc phạt tất nhiên thất bại. Hắn hiểu được thực lực quân sự của Liêu quốc, ý nghĩ của Tiêu Xước, hiểu còn hơn cả những thám tử, còn về Tống quốc, nhuệ khí của những tướng lĩnh mới mạnh hơn những lão soái, nhưng kinh nghiệm lâm trận thì còn kém xa, còn điều quan trọng nhất chính là con người Triệu Quang Nghĩa không đổi, vẫn lòng lang dạ sói như thế, vẫn muốn đích thân cầm binh dẫn quân.

    Nhưng thực sự là hắn không ngờ Triệu Quang Nghĩa đã chết, ba mươi vạn đại quân bảo vệ nghiêm mật, cấm quân đã từng làm cho Triệu Khuông Dận mười năm và là quân mạnh nhất, coi như binh bại nam phản thì hắn đường đường là Hoàng đế cũng không thể bị giết thảm hại vậy, song không hiểu tại sao mà chết được?

    Mật báo truyền đến rất tường tận.

    Tình báo nói, Triệu Quang Nghĩa bị thích khách giết ở trong đại doanh, người cầm đầu bị sát hại, đến trời sáng thì thân binh mới phát hiện ra. Quân nghĩ rằng người Liêu ngầm phái thích khách đi sát hại, vì vậy mới bí mật không phát tang, vội vàng tăng tốc nam phản, nhưng người Liêu vẫn theo kế hoạch mà làm, cuối cùng không toàn lực bổ nhào phản lại, thích khách bị nghi là người Liêu, mà người Liêu thì cũng không biết là Triệu Quang Nghĩa đã bị giết.

    Hung thủ là ai thì đến giờ triều Tống vẫn chưa điều tra ra, còn Dương Hạo cũng chẳng có hứng thú gì với chuyện này, điều hắn đang suy nghĩ đắn đo là: Giờ phải làm thế nào?

    Đại quân Tây Hạ hừng hực khí thế nam hạ, từ Tiêu Quan đến Trường An giết Thượng Ba Thiên, rồi Dạ Lạc Hất, mấy lộ binh mã cùng tiến, khí thế hừng hực.

    Vĩnh Khánh công chúa ngồi đối diện Dương Hạo, cũng ngẩn người ngạc nhiên.

    Nàng hận Nhị thúc, hận Nhị thúc cực điểm, và giúp đỡ cho lực lượng Dương Hạo, chỉ mong có thể giết chết tên chó má hại chết phụ mẫu và huynh đệ, nhưng giờ hắn đã chết ở Bắc quốc, lòng Vĩnh Khánh buồn rười rượi, rỗng tuếch, nỗi hận của nàng trào dâng, nàng không tìm ra tên nào khả nghi giết Triệu Quang Nghĩa. Nàng buồn và hơi tiếc.

    "Đại vương…"

    Vĩnh Khánh chần chừ ngẩng đầu lên, Dương hạo chặn lại lời nói của nàng: "Tiễn đã ra khỏi cung, không thể thu về nữa".

    Vĩnh Khánh hiểu, coi như Dương Hạo vốn vô ý ở Trung Nguyên, lần này cũng không thể quay đầu lại nữa. Quân quốc đại sự, há có thể coi như trò chơi, mọi chuyện đã đến nước này, vì Triệu Quang Nghĩa đã chết rồi, Tây Hạ xuất quân hào hứng về Hà Tây, đó là chuyện tuyệt đối không thể, trừ phi Dương Hạo lúc này cũng chết.

    "Điện hạ, ngài không còn sự lựa chọn nào nữa, ta cũng không có sự lựa chọn nào nữa. Vẫn theo kế hoạch đi, mưu Đồng Quan, đoạt Trường An, chiếm lấy Quan Trung, nhìn hướng Trung Nguyên".

    Dương Hạo nắm chặt kiếm, từ từ nói: "Nàng không muốn đất nước bị tàn phá, dân chúng bị khổ đau, giờ chuyện duy nhất có thể làm chính là dựa theo kế hoạch trước cố gắng vạch con đường phạm tội của Triệu Quang Nghĩa để cho toàn thiên hạ biết hắn lập ngôi bất chính, tận dụng lòng dân, lòng quân lòng các sĩ tử, chỉ có như vậy mới có thể vạch trần sự thật".

    "Ta hiểu rồi". Vĩnh Khánh công chúa đứng dậy, với khuôn mặt trông không có vẻ già dặn gì, nàng vẫn mặc bộ quần áo đàn ông, lúc này mới trầm giọng nói với Dương Hạo: "Tất cả theo ý đại vương đi, Vĩnh Khánh…giờ không nghĩ được gì".

    Dương Hạo mỉm cười gật đầu, lúc này Mục Vũ vội vàng chạy vào, Mục Vũ giờ đã là một viên đại tướng dưới quyền Dương Hạo, tuổi tác của hắn không lớn, cơ thể gầy gò, song có kinh nghiệm từ nhỏ, đi theo Dương Hạo bôn ba đây đó kiến thức vô cùng quảng đại, giờ làm một tướng lĩnh cung vệ quân, một chức mà ai cũng muốn. Hắn và Mẫu Y Kha đã thành hôn, hai phu thê giúp đỡ nhau trong quân chiến, tình cảm cũng bền chặt. Dương Hạo đang ngóng xem về sau sinh con gái, đặt tên cho nó là Quế Anh.

    "Chuyện gì vậy?"

    Dương Hạo quay đầu lại hỏi, làm việc với hắn đã lâu, Mục Vũ đã có ánh mắt tinh tường, hắn và Vĩnh Khánh công chúa bàn bạc nghị sự trong trướng, ngoài đại sự ra Mục Vũ sẽ không đến làm phiền. Mục Vũ vội tiến lên trước, nói thầm vài câu vào tai hắn, mắt Dương Hạo trợn tròn lên.

    Vĩnh Khánh công chúa đang nhìn chằm chằm về phía Dương Hạo, vì mvu nói câu dầu tiên, mắt Dương Hạo bỗng sáng lên rồi sau đó nhanh chóng nhìn về phía nàng. Nữ nhân rất nhạy cảm, nàng cảm nhận được Dương Hạo đang được tin gì đó có liên quan đến nàng, hoặc là…có liên quan đến thân phận nàng đang diễn, nàng đang đợi Dương Hạo nói ra xem điều gì.

    Dương Hạo nghe mvu báo xong khẽ xua tay, mvu nhanh chóng lùi ra ngoài, Dương Hạo thở dài một hơi nói: "Có ngừoi đến rồi, người này đầu bôn nàng, người này đến mong rằng không lâu sau sẽ có ngày một nhiều người về phe nàng. Nhưng người này đến, chưa chắc đã giúp được gì cho chúng ta, cần thuyết phục hắn, duy chỉ có công chúa. Công chúa, hung thủ đã chết, nhưng chuyện này, không chỉ là chuyện gia sự, cho nên…"

    "Ta hiểu". Vĩnh Khánh công chúa ngắt lời hắn, khẽ mỉm cười, khẳng định: "Ta đã nghĩ thông rồi, mọi chuyện tới bước này thì không cần phải chần chừ nữa. Nếu như lần này ta thay đổi ý định, con người ta sống chết là chuyện nhỏ, nhưng giữa Tống và Tây Hạ sẽ xảy ra đại chiến, không biết thương vong sẽ còn bao nhiêu, đại vương theo ý ta phát binh, lúc ấy ta không những hại ngươi, mà còn hại cả các lão thần nhiều năm trung thành với cha ta, dù Triệu Quang Nghĩa sống hay chết, ta chỉ có thể đi tiếp, sẽ không chần chừ do dự nữa".

    Dương Hạo nhìn ra được thành ý trong lời nói của nàng khẽ gật đầu.

    Vĩnh Khánh công chúa nói: "Thế giờ đại vương có thể nói với ta, ai đến vậy?"

    Dương Hạo nói: "Triệu Tắc Bình".

    Vĩnh Khánh công chúa nhướn mày: "Triệu thừa tướng?"

    ****

    khi Triệu Phổ đến quân doanh của Dương Hạo, như dội gáo nước lạnh, Kỳ Vương điện hạ là Vĩnh Khánh công chúa, Kỳ Vương thực thì đã chết rồi.

    Triệu Phổ tay chân lạnh cóng, hắn không ngờ, Kỳ Vương này là Vĩnh Khánh công chúa, một nữ tử, nào có thể thừa kế đại thống, coi như nàng có thể một tay che trời, có thể hoàn thành đại sự, nhưng tiên đến đã không còn nữa, giang sơn này ai nắm đây?

    "Lão thừa tướng, cha coi người như huynh đệ một nhà, công lao của lão thừa tướng, Vĩnh Khánh cảm động vô cùng. Tên giết phụ hại mẫu, làm tan tác huynh đệ, giờ nhà ta, chỉ còn lại mỗi một mình con gái này, hận thù sâu đậm, có thể báo được không đây? Lão thừa tướng nổi danh thiên hạ, môn sinh trải khắp tứ hải, nếu như có thừa tướng giúp đỡ, Vĩnh Khánh với mối thù huyết nhục sẽ có hy vọng đây…"

    Mặt Triệu Phổ méo mó, lắc đầu nói: "Điện hạ muốn trời mở, làm sao nghĩ ra cách gì tốt đẹp đây? Nếu biết công chúa ở đây, lão phu sẽ không…haiz, công chúa ơi, người coi như báo được thù lớn, đến khi đó nên làm thế nào, giang sơn xã tắc đại tống này, phụ hoàng người tạo nên, lẽ nào…lẽ nào lại để rơi vào tay người khác sao?"

    Vĩnh Khánh nói: "lão thừa tướng cho rằng, Triệu Quang Nghĩa hắn giết huynh đệ phụ mẫu ta chiếm địa vị, giang sơn họ Triệu này ta phải làm thế nào đây, người ta đoạt ngôi quyền của phụ hoàng ta, hại cả nhà nhà ta, ta còn phải thay hắn quy thuộc giang sơn xã tắc, bảo vệ hoàng quyền của hắn, thế có nực cười không chứ?"

    "Cái này…"Triệu Phổ không biết trả lời sao, chỉ biết vuốt râu lắc đầu, tuy nhiên cách nói của Vĩnh Khánh không phải không có ý đúng.

    Vĩnh Khánh lại nói: "Huống hồ, Vĩnh Khánh vì mượn binh mà vứt bỏ giang sơn, những điều mà Triệu Quang Nghĩa làm, sớm đã làm nhà ta tan nát. Vĩnh Khánh bỏ nhà mà không bỏ nước".

    "Nghĩa là…"

    "Triệu thừa tướng cho rằng, kế tự và kế thống, cái nào quan trọng hơn?"

    Triệu Phổ nghiến chặt răng, không nói câu nào.

    Vĩnh Khánh lại hỏi: "Triệu thừa tướng nói cho ta biết đi".

    Triệu Phổ chần chừ, nói: "Đối với một nhà mà nói, kế tự quan trọng. Song nếu xét về việc nước, kế thống quan trọng".

    Vĩnh Khánh lại nói: "nếu nước nhà hợp một thể, mà phải chọn ra một cái, thì chọn cái nào đây?"

    "Đương nhiên là kế thừa thể thống quan trọng hơn".

    Vĩnh Khánh mỉm cười gật đầu: "Lão thừa tướng nói phải lắm, Vĩnh Khánh cũng nghĩ vậy và sẽ làm vậy".

    Triệu Phổ nói: "Ý điện hạ là?"

    Vĩnh Khánh nói ra câu đó, Triệu Phổ không khỏi ngẩn người, đơ người một lúc lâu mới nói: "nếu như đại sự có thể thành, còn có ai có thể ngăn cản được?

    Vĩnh Khánh nhắm nghiền mắt, nói: "Ta phải chọn lựa, chỉ có thể tin tưởng hắn. Thừa tướng, giờ còn có lựa chọn nào sao?"

    Còn có sự lựa chọn nào sao? Con cái, cháu chắt, những người thân thuộc, chọn ai đây? Còn sự lựa chọn nào không đây?
     
  4. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 624: Cửa ải cuối cùng
    Lòng người trong thiên hạ dao động, khắp nơi đều nổi lên tin đồn, sợ rằng triều đình Đại Tống sắp đến ngày điệt vong.

    Bách tính nghĩ như vậy cũng là lẽ thường tình, bởi từ cuối triều Đường đến nay, chư hầu nổi lên như nấm mọc sau mưa, quốc hiệu đổi như thay áo. Những quốc gia đã bị diệt vong như Thục, Đường, Hán có nước nào mà không truyền qua đời Nhị Thể Tam Thể bốn năm mười năm, nước Tống tuy đã thống nhất được Trung Nguyên, nhưng tính ra cũng mới duy trì được mười mấy năm, để đạt được thiên hạ quy tâm thì vẫn còn xa.

    Kết quả, đầu tiên là U Châu đại bại, ba mươi vạn đại quan bị đánh cho tan tành, phải cấp tốc gùi "Thảo Triệu Cảnh Lệnh" cho Tây Hạ. Kỳ Vương Triệu Đức Phương chính là khổ chủ, những hành vi của Triệu Quang Nghĩa một khi bại lộ trước thiên hạ, chắc chắn sẽ làm mất lòng người. Triệu Quang Nghĩa còn chưa nghĩ ra phải ứng phó ra sao với nguy cơ này thì đã bị người ta lấy đầu ngay trong doanh trại của mười vạn đại quân, Thái tử nhanh chóng kế vị.

    Triệu Nguyên Tá sáng ban lệnh chiều đã đổi, tính tình do dự thiếu quyết đoán, có vẻ tin tức phụ hoàng lên cơn bạo bệnh bất thường đã truyền khắp Biện Lương thành. Đừng thấy thâm cung tường cao hào sâu, kỳ thực chẳng có bức tường nào có thể hoàn toàn kín gió. Hơn nữa hoàng thất Đại Tống từ trước tới nay khá gần gũi với dân. Cung cấm cũng không canh phòng nghiêm ngặt bằng những triều khác, những chuyện trong hoàng cung đại nội này sớm đã không thể giấu được bách tính kinh thành.

    Hổ báo Đại Liêu thì nhăm nhăm chực chờ tiến công xuống phía nam, Lũng Hữu Quan rơi vào tay người Tây Hạ, Ba Thục nghĩa quân nổi dậy. Đừng nói là người dân bình thường, cho dù là quan lại trong triều cũng vô cùng lo sợ.

    Trong khi Tiêu Xước lui binh tại đất Tống, thì cũng đồng thời nhanh chóng lập kế hoạch phản kích, dựa vào sĩ khí đang mạnh liền hợp quân với các lộ binh mã tới cứu viện Nam Kinh, chuyển thủ sang công. Đại Tống trong cơn biển loạn đang phải đối mặt với cục diện quốc nội không yên. Lòng người rối loạn, hai mặt dùng binh đều là cường địch.

    Đối với chuyện quân quốc đại sự, Triệu Quang Nghĩa cũng có thể coi là một nhà lý luận quân sự, tuy còn kém xa những huynh đệ khác, nhưng nếu đàm luận chuyện quân sự, ông ta cũng có thể nói năng đâu ra đấy. Thái tử Nguyên Tá ngược lại không hiểu biết chút gì về quân sự, những thứ như Tam Cương Ngũ Thường, Hiếu Thê Nhân Nghĩa lại không thể mang ra mà đánh trận. May mắn là tuy y năng lực chưa tới, nhưng trong triều văn có Trương Bạc, võ có La Khắc Địch. Triệu Nguyên Tá là một người không có chủ kiến, tất cả đều thuận theo hai người kia. Vậy nên tạm thời cũng có thể sắp xếp ổn thỏa.

    Trương Bạc và La Khắc Địch, một tên không tu đường tư đức, vô ơn bạc nghĩa, một tên lòng dạ bất chính, sớm đã có ý định phản bội. Tuy nhiên luận tài cán, hai tên này quả thực rất giỏi không có gì để nói, cục diện trước mắt, cho dù trong lòng chúng nghĩ thế nào thì cũng đều phải tập trung tinh thần mà đối phó với giặc ngoại xâm trước, nếu như thật sự để người Khiết Đan tiến vào Trung Nguyên thì không còn là chuyện đùa được nữa.

    Sự việc đã đến nước này, hai người Trương - La đành thực tâm mà hợp tác với nhau, qua một hồi thảo luận quyết định đâng tấu lên Hoàng Thượng để Lý Kế Long, Lưu Triều Nhượng, Điền Trọng Tiến lần lượt đảm nhận chức vụ Bộ Thứ của Thương Châu, Doanh Châu, Định Châu, phòng thủ bảo vệ ba quan ải này.

    Vốn dĩ trước đó, đứng trước nguy cơ Lý Kế Long thọ mệnh một mình thống lãnh quân biên thùy. Nhưng lần này không phải là xuất chinh mà là phòng thủ, cho nên mỗi một quan ải trọng yếu cần có một chủ tướng mới có thể căn cứ vào tình hình địch ta mà kịp thời ra quyết định bất cứ lúc nào, nếu để một mình Lý Kế Long một mình nắm tất cả binh quyền là sợ rằng sẽ nhỡ mất việc lớn, chứ hoàn toàn không phải cố ý phân tán binh quyền của ông ta.

    Khi bắt đầu giao chiến, hai bên đều có những điểm mạnh yếu khác nhau, quân Tống tuy sĩ khí không cao, nhưng có lợi thế địa hình cho nên quân Liêu cũng không chiếm được bao nhiêu phần thắng thế. Tin tức quân tình truyền đến Đông Kinh, bách tính dần dần cũng an lòng, cảm thấy quân Tống tuy đã từng bại trận nhưng người Liêu có vẻ cũng không đáng sợ như trong tưởng tượng.

    Tổng chỉ huy của quân Liêu Da Luật Hưu Ca là một thống soái thực sự, nhưng trước mắt vẫn chưa có ai có thể nhận ra sự bất phàm của y. Nước Tống khi tự kiểm điểm lại nguyên nhân Bắc phạt thất bại lần này, tuy ngoài mặt không ai nói, nhưng trong thâm tâm ai cũng cho rằng do tiên đế dùng binh sai lầm dẫn đến đại bại, Da Luật Hưu Ca lần này giành thắng lợi đa phần chẳng qua là gặp may mắn mà thôi.

    Thực ra cục diện giằng co trước mắt căn bản đã vượt ra ngoài sự dự tính của Da Luật Hưu Ca. Y vốn dĩ không coi trọng những sự thắng bại nhỏ bé này, mục tiêu của y là quân chủ lực của Tống quốc, điều y muốn là hạ thành tiến thẳng vào Trung Nguyên. Nhưng đây là việc không thể vội vã được, y đang đợi cơ hội, đồng thời cũng đang tự tạo ra cơ hội. Cơ hội đó, cuối cùng cũng đã tới.

    Sau khi hai bên giằng co được mấy ngày, Điền Trọng Tiến tạm thời ổn định được tình hình liền bắt đầu thử quay sang triển khai phản kích. Điền Trọng Tiến lui binh ra khỏi Kỳ Câu Quan, liên tiếp đánh bại mấy lộ quan Liêu, thậm chí thu hồi lại được Trác Châu. Thực ra Điền Trọng Tiến không hề mạo hiểm tấn công tùy tiện, chủ động xuất kích là ý của triều đình, bên ngoài thì nói là phải chặn địch ngay từ bên ngoài biên giới, nhưng nguyên nhân thực sự là do trước mắt lòng quân cùng như lòng dân đều đang dao động, quân Tống rất cần một trận thắng để vãn hồi tất cả.

    Chiến thắng của Điền Trọng Tiến truyền về thành Khai Phong, cả thành vui mừng rộn rã như đón năm mới, lòng dân rối loạn lâu nay tạm thời được ổn định lại. Triệu Nguyên Tá vui mừng khôn xiết, lập tức hạ chỉ, lệnh cho Lưu Đình Nhượng, Lý Kế Long, ba quân cùng tiến công, lấy lại những vùng đất đã mất. Trương Bạc, La Khắc Địch nghe tin vội vàng khuyên ngăn cho rằng không nên hấp tấp, cần hành động cẩn trọng tích nhiều trận thắng nhỏ thành trận thắng lớn. Triệu Nguyên Tá ngược lại không thể kiên nhẫn được nữa, y làm việc tuy do dự thiếu quyết đoán, nhưng một khi đã cho rằng là đúng thì lại cố chấp vô cùng, không ai có thể lay chuyển được.

    Thánh chỉ ban xuống, Lý Kế Long và Lưu Đình Nhượng vốn trước giờ vẫn án binh bất động lập tức phát binh, quyết đòi lại những lãnh thổ bị mất do Bắc phạt thất bại lần trước. Lưu Đình Nhượng và Lý Kế Long sau khi tiếp thánh chỉ, chỉ có thể y theo mà hành sự, tuy nhiên hai người đều là tướng lãnh mang trọng trách nặng nề cho nên sau một hồi bàn bạc quyết định sẽ hành sự cẩn trọng, để Lưu Đình Nhượng làm tiên phong, Lý Kế Long làm hậu quân, trước sau phối hợp, tiến hành phản kích.

    Kỳ thực theo ý của Lý Kế Long, trước mắt hành sự cẩn trọng từng bước là thỏa đáng nhất.

    Nhưng hiện nay những khó khăn của nước Tống không chỉ đến từ phía bắc quốc, áp lực phải chịu cũng không chỉ là về mặt quân sự. Một trận đại thắng, đòi lại những vùng đất mất vào tay bắc quốc trong lần bắc phạt thất bại trước đây. Đối với nước Tống mà nói thực sự vô cùng quan trọng, ý nghĩa của nó tuyệt đối không chỉ gói gọn trong chiến thắng của một trận chiến. Hơn nữa thánh chỉ có ý thôi thúc như thế, trong lòng hoàng thượng chắc cũng có phần muốn lấy lại thể diện cho tiên đế, hắn là một tướng lãnh, ăn bổng lộc của triều đình, lại là cậu của đương kim thánh thượng, luận về công về tư đều không nên phản đối, cho nên chỉ đành toàn lực phối hợp.

    *

    * *

    Da Luật Hưu Ca trước giờ vẫn giấu kín quân chủ lực, không để có bất kỳ tiếp xúc nào với quân Tống, bọn họ đều là kỵ binh, di chuyển thần tốc, vô cùng cơ động, thám báo của Tống quân rất khó phát hiện ra họ từ đó mà tìm hiểu được thông tin quân tình hữu dụng. Hơn nữa cờ hiệu của quân Liêu lại khá lộn xộn, quan sát từ xa rất khó nắm được tình hình cụ thể tỉ mỉ. Cho nên quân Tống từ đầu tới cuối không biết quân Liêu vẫn còn đang ém giấu một đạo quân chủ lực.

    Lưu Đình Nhượng tiến quân về phía Bắc trước, y tuy là tướng môn thế gia nhưng cũng không có mấy kinh nghiệm đánh trận, chưa từng giao chiến với người Liêu, trâu mới sinh thì không sợ hổ. Lưu Đình Nhượng dùng cái khí khái đó mà lãnh binh tiến công đến sông Hà Bắc. Vừa đúng lúc gặp phải bản bộ binh mã của Da Luật Hưu Ca giao chiến một hồi, quân Liêu không đánh mà lui. Ngay sau đó, Da Luật Hưu Ca cử sứ giả đến nói, sợ uy lực mạnh mẽ của quân Tống, có ý đầu hàng.

    Da Luật Hưu Ca tùy tiện phái một người đi, chẳng qua là có ý trêu chọc mà thôi, y cũng biết quân Tống không thể nào bị lừa, chẳng qua là có thể kéo dài thân chút thời gian, mục đích thực sự của y là đụ quân chủ lực của Lưu Đình Nhượng vào vòng bao vây. Đám quân địch hiện nay đối với y mà nói quá thực chưa đáng để ra tay, mấy con cừu non đó chưa đủ cho y lót dạ.

    Nhưng lại xảy ra một chuyện không thể ngờ nổi, Hạ Lệnh Đồ lại tin đó là thật, hắn không những tin mà còn vui sương ra mặt, chỉ đem theo vài thân binh đến đại doanh của Da Luật Hưu Ca để tiếp nhận sự đầu hàng của địch quân.

    Một trận Cao Lương Hà, Da Luật Hưu Ca đã đánh lui ba mươi vạn đại quân Tống, đuổi cho Triệu Quang Nghị chạy bán sống bán chết, vậy mà y chỉ thuận miệng nói một câu như vậy, hắn lại liền tưởng thật, cho rằng người ta đã khiếp sợ cái uy của hắn.

    Da Luật Hưu Ca đang ở trong doanh trại bàn luận kế sách với những tướng quân khác, nghe thân binh truyền báo tin đó thì giật mình, y không ngờ, một tướng quân nước Tống, lại có thể... Sao có thể ngu ngốc đến thế?

    Da Luật Hưu Ca đến lúc đó vẫn chưa tin lời của thân binh vào báo. Y đích thân chạy ra ngoài cửa trại, nhìn thấy Hạ Lệnh Đồ đương dương tự đắc ngồi trên ngựa, lại nghe hắn chính miệng nói ra thân phận, Da Luật Hưu Ca mới biết tên thân binh kia thực không phải là ăn no dửng mỡ dám cả gan đùa cợt với y. Da Luật Hưu Ca rơi vào tình thế dở khóc dở cười, lập tức kêu người trói tên thiếu niên ngây thơ kia lại. Nhìn bộ dạng đó của hắn Da Luật Hưu Ca vừa tức vừa buồn cười, nhưng cũng không sai người đánh cho hắn một trận.

    Tuy nhiên vị tướng tiên phong này đã tự đẫn xác tới, Da Luật Hưu Ca cũng không khách sáo với hắn nữa, trực tiếp sai quân bao vây đội quân tiên phong của Hạ Lệnh Đồ, một trận tiêu diệt sạch sẽ. Da Luật Hưu Ca vốn dĩ định dùng đám quân Tống này làm mồi câu. Lần này ra tay, chủ tướng Hạ Lệnh Đồ không có mặt, quân sĩ trên dưới không có người chỉ huy, chẳng một tên nào chạy thoát, kết quả cả đội quân tiên phong chẳng phát huy được tác dụng gì. Đại quân của Lưu Đình Nhượng đi đằng sau hoàn toàn không biết gì về việc này.

    Kết quả, Lưu Đinh Nhượng tự chui đầu vào vòng vây Da Luật Hưu Ca đã giăng sẵn, hơn mười vạn đại quân bao vây ba vạn người ngựa của Lưu Đình Nhượng không một khe hở. Lưu Đình Nhượng bố trận liều chết chống cự. Bộ binh quân Tống thiên hạ vô địch, giao chiến chính diện uy phong khắp nơi, quân Liêu từ đầu tới cuối chưa từng đột phá được phòng tuyến phòng ngự của Lưu Đình Nhượng.

    Lưu Đình Nhượng cử người phá vòng vây đi báo tin cho Lý Kế Long. Lý Kế Long hành quân đằng sau nghe được tin thì vô cùng thất kinh, phó tướng Tang Kính đến báo tin toàn thân đầy máu. Giọng nói khản đặc tâu: "Đại nhân, Lưu tướng quân đang cầm quân khổ chiến, nếu chậm trễ e rằng toàn quân sẽ bị tiêu diệt, xin người nhanh chóng phái binh cứu viện!".

    Các tướng dưới trướng Lý Kế Long đều tức giận đỏ mắt, lần lượt xin được ra ứng chiến. Lý Kế Long đi đi lại lại, một lúc lâu sau mới quay đầu lại hỏi: "Quân Liêu có bao nhiêu người?".

    Tang Kính thưa: "Theo như mạc tướng thấy, ít nhất không dưới mười vạn người. Lưu tướng quân đã cố cầm cự một ngày đêm, không thể trì hoãn thêm được nữa".

    Lý Kế Long nheo nheo hai mắt, chậm rãi lắc đầu nói: "Nếu như ngươi đã thấy có mười vạn quân thì có nghĩa là trong tay hắn không chỉ có mười vạn, tại một vùng đất bằng phẳng, địch tấn công ba vạn bộ binh không có lấy một nơi hiểm yếu để phòng thủ. Vậy mà ta có thể cầm cự được một ngày một đêm chưa bại? Cái này...".

    Tạp Chiến nóng nảy, hai mắt đỏ ngầu, giận dữ hét lớn: "Lý Kế Long, ngươi nói vậy là có ý gì, chẳng lẽ là khiếp sợ không dám ứng chiến".

    Thân binh dưới trướng Lý Kế Long ấn đao tiến lại gần, quát: "To gan, ngươi nói gì?".

    Lý Kế Long khoát tay, ngăn sự manh động của thuộc hạ, ngửa đầu thở dài nói: "Chúng ta trúng kế rồi, chạy đi cứu viện chẳng qua chỉ như thiêu thân lao đầu vào lửa, đi bao nhiêu chết bấy nhiêu, chúng ta vốn dĩ nên trấn quan tử thủ, vốn dĩ không nên chủ động xuất binh, vốn dĩ không nên chủ động xuất binh...".

    Hắn bỗng nhiên quay người, lớn tiếng ra lệnh: "Truyền lệnh ba quân, hậu trận trở thành tiền trận, lập tức quay đầu rút quân!".

    "Không được! Lý tướng quân, không thể được!". Tang Chiến quỳ xuống khóc lóc: "Lưu đại nhân đang bị trùng vây, khổ sở chống đỡ. Ba vạn huynh đệ đang ngửa đầu trông ngóng chúng ta tới cứu viện, Lý tướng quân, không thể lui binh được!".

    Lý Kế Long sắc mặt xanh mét, má run run giật mạnh vài cái, mắt nhìn hữu quân bị vây mà phải quay đầu tháo chạy, lòng y cũng như có đao cắt. Nhưng y biết, bây giờ tuyệt đối không phải là lúc dùng tình cảm để hành sự, y liền lớn tiếng quát: "Không nghe thấy mệnh lệnh của bản soái hay sao? Lập tức lui binh!".

    Y bước đi vài bước, trầm giọng nói: "Giờ này lui binh e rằng đã muộn, không thể quay lại theo đường cũ được, rút lui theo hướng Lạc Thọ, có lẽ có thể dựa vào vị trí hiểm yếu của thành trì, mà bảo toàn được quân ta".

    Y đau đớn than: "Chúng ta... Chúng ta không thể chịu nổi thêm một thất bại nào nữa".

    *

    * *

    "Lý Kế Long đã lui binh?".

    Da Luật Hưu Ca đang nóng lòng đợi Lý Kế Long tự chui đầu vào lưới nghe được tin này thì sững sờ một hồi lâu mới phản ứng: "Tiêu Thát Liệt, Da Luật Thiện, lập tức dẫn phục binh của các ngươi truy kích Lý Kế Long, nhất định phải giữ chân được hắn, đợi ta giải quyết xong Lưu Đình Nhượng sẽ lập tức dẫn quân đuổi theo".

    Y vội vàng đi đến bên bản đồ. hỏi: "Lý Kế Long lui theo hướng nào?".

    Thám mã bẩm báo: "Nhìn hướng đó, có lẽ là lui theo hướng Lạc Thọ mà quân Tống đang nắm giữ".

    Da Luật Hưu Ca ngẩn người, khuôn mặt đang kích động dần dần bình tĩnh lại, ngón tay y mài qua lại trên bản đồ, cơ hồ như muốn đâm thủng một lỗ trên vị trí đánh đấu thành Lạc Thọ.

    Tiêu Thát Liệt sốt ruột hỏi: "Đại Vu Việt, chúng ta có phải nên lập tức lên đường?".

    Da Luật Hưu Ca cười khổ một tiếng, lắc lắc đầu: "Không cần đuổi nữa, đuổi không kịp nữa rồi. Lý Kế Long, giỏi cho một Lý Kế Long!".

    Ánh mắt y chuyển đến vị trí nơi Lưu Đình Nhượng đang cố tử thủ, ánh mắt lại đần trở nên lạnh lùng: "Mồi câu này, đã không còn tác dụng gì nữa, tiêu diệt nó đi!".

    Trận Quân Tử Quan, Lưu Đình Nhượng dưới sự liều chết bảo vệ của bộ tướng thoát khỏi vòng vây, chỉ dẫn theo khoảng chục kỵ binh chạy về đất Tống, mấy vạn quân đều bị tiêu diệt, tin tức truyền về Đông Kinh Biện Lương. Triệu Nguyên Tá nghe như sét đánh bên tai, ngơ ngác ngồi trên ngự tọa, mặc cho quần thần nói gì, chỉ một mực im lặng không nói. Sau cùng đột nhiên đứng dậy, hạ chiếu cho dù bằng bất cứ giá nào, toàn quân phát kích phản công. Trương Bạc và La Khắc Địch vội vã khuyên ngăn.

    Sau đó, Da Luật Hưu Ca thừa thắng xông lên, một lần nữa bao vây Trác Châu, khổ chiến mấy ngày mấy đêm. Thành Trác Châu bị hạ, quân Tống trong thành bị ép đầu hàng, được Da Luật Hưu Ca tập hợp lại thành bảy doanh binh mã, phân tán vào đội ngũ của quân Liêu, cùng nhau hướng xuống phía Nam, trên đường công phá Kỳ Châu, Tân An, Tiêu Lang sơn trại, lại chiếm được Dịch Châu. Tin tức truyền tới Biện Lương, Triệu Nguyên Tá hoảng hốt, lại ra lệnh cho các quan ải đóng cửa thành cố thủ, không cho phép xuất chiến.

    La Khắc Định cho rằng, thế địch đang mạnh, đối đầu chính diện là điều không nên. Nhưng tình hình cụ thể còn phải xem thế địch mạnh yếu ở từng quan ải, triều đình ra lệnh đồng loạt tất cả các ải không được xuất chiến thì không được thỏa đáng, khiến cho Triệu Nguyên Tá giận dữ đùng đùng, cũng may Trình Vũ, Cô Diễm, Tống Kỳ cùng với các sủng thần thân tín của Triệu Quang Nghị lần lượt tấu thưa rằng lời của La Khắc Địch nói có lý, Triệu Nguyên Tá mới không trị tội của y. Tuy nhiên vẫn làm theo lời của y, hạ chiếu thư cho tướng lĩnh các biên ải.

    Ra khỏi ngọ môn, đã có ngựa chờ sẵn, La Khắc Địch xoay người nhảy lên ngựa, ngửa đầu lên trời mà thở dài, nước Tống đến cục diện như ngày hôm nay, y cảm thấy cũng chưa đến mức không thể vãn hồi. Nhưng vị hoàng đế này... Sáng nắng chiều mưa, hỉ nộ vô thường, tâm trạng thay đổi nhanh như trẻ con. Nói khóc là khóc nói cười là cười, rõ ràng là không hiểu việc quân sự nhưng cứ nhất định thích nhúng tay vào, hơn nữa một khi lên cơn cố chấp thì tuyệt nhiên không nghe ý kiến của bất cứ một ai, hoàng đế là đầu não của quốc gia, hành sự sao có thể khinh suất ngang ngạnh như thế?

    Hai đạo chiếu thư trước sau chỉ cách nhau có mấy ngày, mệnh lệnh lại hoàn toàn trái ngược, chỉ dựa vào điểm này đã đủ để làm tiêu tan dũng khí của quân sĩ biên ải. La Khắc Địch y làm gì có đủ khả năng thay trời đổi ngày. Triệu Quang Nghị đoạt được ngôi vị một cách không quang minh chính đại, con trai của hắn lên ngôi tính hợp pháp đương nhiên cũng có vấn đề. Nhưng trước mắt giang sơn Đại Tống đang nằm trong tay vị thiên tử trẻ tuổi thần trí không tỉnh táo này. Y có thể không quan tâm đến Triệu Quang Nghĩa phụ tử hai đời quân vương, nhưng giang san của người Hán sao có thể để lọt vào tay bọn người man di Khiết Đan, thân làm người chỉ huy quân đội nước Tống, y thực không biết nên làm sao cho phải?

    "La đại nhân...".

    Phía sau có tiếng chân ngựa chạy đến, nhìn mũ mão của người trên ngựa có thể thấy đây là một võ tướng, vừa nhìn thấy La Khắc Địch người nọ liền ghim ngựa hành lễ.

    La Khắc Địch quay đầu nhận ra đó là ai, liền nhanh chóng đáp lễ: "Địch đại nhân".

    Vị Địch Mộc Ti này tuổi khoáng bốn mươi, vốn là một vị tướng lĩnh trung cấp trong cấm quân, trước đây quân hệ với Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa không gần không xa, nhưng so với rất nhiều tướng lĩnh cao cấp hồi đó không qua lại với thân vương thì có thể nói là thân thiết hơn rất nhiều. Triệu Quang Nghĩa thanh trừ không còn lấy một lão tướng nào, hắn cũng là từ đó được nâng đỡ, được thăng lên hàng tướng lĩnh. Người này bình thường trầm tĩnh, cẩn thận đường hoàng, La Khắc Địch cũng có vài phần kính trọng.

    "Đại nhân có phải đang rầu rĩ vì chuyện chiến sự ở biên ải?".

    La Khắc Địch cười khổ sở: "Ngoài quan ải hiện giờ Trần Binh Hoàng Quan không lùi không tiến, không biết là có ý đồ gì. Giang Nam biến động không yên, lòng người kinh thành bất an! Tình hình như thế La mỗ thật là lực bất tòng tâm".

    Địch Mộc Ti mỉm cười nói: "Đại nhân vũ dũng, hạ quan hiểu rất rõ. Nhưng việc quân lần này là nguy cơ nghiêm trọng nhất của triều ta từ khi lập quốc đến giờ. Cũng thật là làm khó cho đại nhân, thực ra... Đại nhân một mình rầu rĩ ở đây thì có được tác dụng gì. Sao không đi thỉnh giáo một phen?".

    La Khắc Địch nói: "Thỉnh giáo, bản quan có thể thỉnh giáo với ai?".
     
  5. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 625: Qui tâm
    Địch Mộc Ti miệng ho một tiếng, nói: "Nay đại nhân là người nắm giữ binh quyền quốc gia, nhưng luận quan chức vẫn chỉ là Xu Mật Viện Sứ, bên trên vẫn còn hai vị Xu Mật Sứ, Xu Mật Phó Sứ. Hai vị đại nhân vì đang bệnh phải ở nhà nghỉ ngơi tịnh dưỡng, theo lý thì không nên đến làm phiền, nhưng giờ là lúc quốc gia lâm nguy, những người thân làm thần tử như chúng ta làm sao có thể chỉ lo cho an nguy bản thân. Tào, Phan hai vị đại nhân thân kinh qua bách trận, dày dạn kinh nghiêm, có lẽ... Có thể cho đại nhân vài lời khuyên?".

    "Sao cơ?", ánh mắt La Khắc Địch dần sáng lên lộ ra vẻ trầm tư. Địch Mộc Ti mỉm cười, chắp tay nói: "Hạ quan cáo từ...".

    "Cầu cứu Tào Bân, Phan Mỹ? Chỉ sợ đây là ý của Tào Bân, nhờ hắn chuyển lời... Hai vị lão tướng này sớm đã cáo lão về quê an hưởng tuổi già. Muốn ta tới đó, rốt cuộc là có ý gì?".

    La Khắc Địch trầm tư một hồi, vốn muốn về nhà thỉnh giáo cha mình một chuyến, lúc này suy nghĩ lại thấy có chút dao động, cha y khán nhân vọng chính đều rất chuẩn xác. Nhưng về việc quân sự, ông cuối cùng vẫn chỉ là một văn nhân, có lẽ Tào Bân, Phan Mỹ hai vị khai quốc danh tướng này quả thật có diệu kế gì chăng?

    La Khắc Địch thúc ngựa tiến về phía trước mấy bước, đột nhiên lại ghim dây cương, giật mạnh đầu ngựa, hướng về phía quân hộ vệ nói: "Đi, tới Xu Mật Phủ!".

    "Lão gia ở bên trong, La đại nhân, mời vào". Lão gia nhân dẫn La Khắc Địch tới trước màn che rồi dừng bước nói.

    Phía trước là một phòng sưởi ấm, tường làm bằng đất vàng, nóc lợp cò tranh rất dày, có thêm mấy cửa sổ. Vừa có thể thông gió, vừa để ánh ánh sáng mặt trời chiếu vào. Đây thực tế là một vườn hoa. Là nơi gia chủ trồng hoa, phương bắc mùa thu và mùa đông rất lạnh, những gia đình giàu có đều xây nhưng phòng sưởi ấm như thế này.

    Tiếp khách ở nơi như thế này, vốn dĩ là không thích hợp, nhưng Tào Bân trên danh nghĩa vẫn là cấp trên của Là Khắc Địch, hơn nữa thân thế, uy danh cũng vượt bậc hơn. Cho nên tiếp vãn bối hoặc thuộc hạ ở nơi thế này cũng không có gì không thỏa đáng.

    Trong căn phòng có mùi đất bùn và mùi dạ cỏ lên men, có lẽ phía sau vẫn còn mấy gian phòng như thế này nữa đang trồng hoa tươi. La Khắc Địch nhẹ bước tiến vào phòng thì nhìn thấy một lão nhân mặc một chiếc áo khoác ngoài đang cắm cúi bên bồn hoa. Hoa cỏ trong phòng nhiều nhất là hoa cúc, cũng đúng lúc đang vào mùa, chủng loại hoa cúc rất nhiều, đóa này thì trắng muốt như tuyết, đóa thì vàng rực như mặt trời, đóa thì hợp bởi nhiều bông hoa nhỏ chen chúc như sao trên trời, đóa thì cánh mỏng như tơ nhưng lại tỏa ra một mùi thơm nồng nàn.

    La Khắc Địch dừng bước, nhìn vị Tào đại tướng quân đang chăm sóc hoa cỏ, nhìn ông ta chẳng khác gì một người bình thường, người không quen biết có lẽ sẽ tưởng nhầm ông ta là người chăm sóc vườn của Tào phủ, còn đâu khí khái của vị đại tướng quân một tay chỉ huy cả nghìn vạn quân từng tung hoành khắp bốn phương.

    Nhưng quốc gia đang nguy nan, xã tắc giang sơn nguy trong sớm tối, Tào Bân tuy đã không còn quan tâm đến việc triều chính, nhưng La Khắc Địch không tin ông ta không biết chút gì về tình thế thiên hạ hiện nay, ông ta thực sự có thể điềm tĩnh đến vậy sao?

    "Ti chức La Khắc Địch, tham kiến Xu Mật đại nhân". La Khắc Địch hít sâu một hơi, tiến lên phía trước chắp tay thi lễ.

    Ông già mặc áo vải, thần thái ung dung quay đầu nhìn y, tay vẫn không rời khỏi bụi hoa trước mắt, cười ha ha nói: "Hóa ra là La viện sự, lão phu hưởng nhàn rỗi ở nhà đã lâu ngày, bạn bè đồng liêu cũng rất ít khi đi lại, hôm nay La đại nhân sao lại nhàn rỗi hạ cố đến thăm?".

    Khuôn mặt tuấn tú của La Khắc Địch đã hơi nóng lên, tâm ý của vị lão thần vô cùng rõ ràng, Tào Bân thất thế, văn võ bá quan trọng triều tự nhiên đều cố ý tránh mặt. La Khắc Địch và ông từ trước đến nay chưa từng có giao tình gì, lúc này đương nhiên cũng chẳng có lý do gì để mạo hiểm thân cận. Nói ra, phủ môn của vị cấp trên này, y cũng là lần đầu tiên đặt chân đến.

    Nhưng trước mắt La Khắc Địch cũng chẳng thể để ý nhiều đến thế, liền nói thẳng vào vấn đề: "Xu Mật đại nhân, quốc gia đang nguy nan, nguy hiểm đã cận kề, đại nhân là trọng thần của quốc gia, làm sao có thể bàng quan đứng ngoài, nếu như quốc gia có nạn, tất cả mọi người đều không được yên ổn, huống hồ đâu chỉ có lê dân bá tính chịu khổ, chỉ e đến đại nhân cũng... Lần này ti chức đến đây là để thỉnh giáo đại nhân, nay tình thế như vậy nên làm sao cho ổn thỏa, xin đại nhân chỉ điểm cho".

    Tào Bân ngừng tay, khẽ thở đài, đầu không ngẩng lên nhắm mắt mà nói: "La viện sự, ngày nay trong triều mỗi người đều có tính toán riêng, sĩ tử thứ dân thì hoang mang không có ngày được an bình, lại có mấy đại thương gia đấu đá nhau, làm cho nguyên khí quốc gia bị tổn thương nghiêm trọng, thế còn chưa hết, ngày nay Tây Hạ tập trung quân ở Hoàng Quan, Bắc Liêu thèm muốn Tam Quan, tình thế như vậy, ngài còn rõ hơn lão phu. Đừng nói lão phu chỉ là một tên võ phu, cho dù là Châu Công Y Doãn, Quản Trung Tiêu Hà, thậm chí Gia Cát Lượng sống lại cũng khó có thể xoay chuyển tình thế, cục diện tồi tệ hiện nay làm sao có thể vãn hồi?".

    La Khắc Địch nói: "Lẽ nào bây giờ chỉ có thể ngồi chờ chết hay sao?".

    Tào Bân chậm rãi nói: "Trừ phi... Nhanh chóng bình định, nội loạn, chấn chỉnh lại lòng dân, mới có thể chống lại giặc bên ngoài, bình định được thiên hạ".

    La Khắc Địch cười khổ sở: "Xu Mật đại nhân, bình định nội loạn nói thì dễ, cái loạn trước mắt, không chỉ là do Quan Trung khởi binh, mà cho dù là chỉ do Quan Trung khởi binh thì cũng chẳng thể dẹp được chỉ trong sớm tối, huống hồ Bắc triều dấy binh tam quan, ép người quá đáng, đâu có thong dong chờ chúng ta ổn định sơn hà?".

    Tào Bân cười nhẹ một tiếng nói: "Võ phu đúng vẫn là võ phu, chẳng nhẽ chỉ có thể dùng cách đánh hay sao?".

    La Khắc Địch giật mình, vội vàng hỏi: "Vậy đại nhân có cao kiến gì chăng?".

    Tào Bân im lặng không nói, La Khắc Địch vội vàng nói: "Lời đại nhân nói ra, chỉ lọt vào tai của ti chức, chuyện đại nhân và ti chức bàn bạc là chuyện riêng, sau khi rời khỏi căn phòng này, tất cả đều không được tính toán, đại nhân có lời gì xin cứ nói ra đừng ngại".

    Tào Bân chậm rãi nói: "Kế sách cho cục diện hôm nay, chỉ có... Nghênh Kỳ Vương, phế đương kim hoàng thượng mới có thể ổn định lòng người, an định giang sơn".

    Mặt La Khắc Địch lập tức biển sắc: "Nay đương kim hoàng thượng không mắc phải tội nghịch thiên, người làm thần tử sao có khinh suất mà nhắc đến phế truất, điều này có khác gì là phản nghịch?".

    Tào Bân lạnh lùng nhìn y mà rằng: "Trong bảy đại tội mà Kỳ Vương nhắc đến, tội thứ nhất chính là giết vua, có huyết thư của tiên hoàng hậu làm chứng, ngài có tin hay không?".

    La Khắc Địch im lặng không nói, hiển nhiên là đã tin, Tào Bân lại nói: "Đã như vậy, đương kim hoàng thượng đoạt ngôi bất chính, chúng ta làm vậy có gì không hợp tình hợp lý?".

    La Khắc Địch trầm giọng nói: "Trong triều có những người như Trương Bạc, Tống Kỳ, Trình Vũ, Cổ Giao thao túng triều chính, tất cả đều là tâm phúc của tiên đế, việc phế lập quân vương đâu phải chuyện chơi, chỉ cần không cẩn thận một chút thì cả giang sơn sẽ chao đảo đại loạn, Bắc triều nhân cơ hội đó mà tấn công xuống phía nam thì cả Trung Nguyên sẽ lọt vào tay bọn chúng".

    Tào Bân chậm rãi ngẩng đầu lên, khinh miệt mà cười: "Nhưng quân quyền, không nằm trong tay họ".

    "Đại tướng quân biên ải Lý Kế Long tay nắm trọng binh trấn thủ biên ải lại là đương kim quốc cữu".

    "Nhưng đương kim thánh thượng lại không phải là cháu ruột của hắn, hơn nữa đại nghĩa trước mắt, đi đâu về đâu, hắn nếu không ngốc thì cũng sẽ có lựa chọn. Việc phế lập quân vương lão phu cũng biết trọng đại đến mức nào, nhưng tình thế trước mắt đã không còn là việc mà đương kim hoàng thượng có thể xử lý được, không phế truất hoàng thượng nội loạn sẽ không dứt, không trả lại vương vị cho tử tôn của tiên đế lòng dân sĩ khí khó mà hồi phục, cục diện như vậy căn bản là không có lối thoát. Lý Kế Long nếu như hiểu đại nghĩa tất sẽ đứng về phía chúng ta, nếu không...".

    Tào Bân nhẹ nhàng giơ tay lên, nhổ đi một cây cỏ bên trong bồn hoa, lạnh lùng nói: "Hắn tuy trong tay nắm trọng binh, trấn giữ tam quan, nhưng nếu muốn giết thì cũng chẳng qua chỉ như nhổ một ngọn cỏ mà thôi!".

    La Khắc Địch sắc mặt dần dần thay đổi, Lý Kế Long vừa được đề bạt lên không lâu, trong quân vẫn chưa có tâm phúc của chính mình, từ trong lời của Tào Bân có thể thấy, lão hổ này tuy nhàn cư ở nhà, nhưng thời gian chưa lâu, móng vuốt vẫn hết sức sắc nhọn, tướng lãnh dưới trướng của Lý Kế Long chắc chắn có tâm phúc của ông ta, lúc cần thiết, ông ta có thể điều động những người này diệt trừ Lý Kế Long. Mặc cho ngươi có bản lĩnh lớn đến mức nào, có thể tránh được đường thương đâm thẳng trước mặt chứ cũng chẳng thể tránh nổi mũi tên đâm sau lưng, từ điểm này có thể thấy, đế vương tể tướng hay thương buôn tiểu tốt đều giống nhau, sinh mạng đều vô cùng yếu ớt.

    Hơn nữa lời của Tào Bân hiển nhiên còn có một tầng ý nữa, ông ta đã không còn là chỉ đưa ra kế sách cho La Khắc Địch, mà là có ý tham gia vào. Nói một cách chính xác hơn là vị đại tướng quân này đâu có chịu yên phận nhàn cư ở nhà trồng hoa nhổ cỏ, cục diện thiên hạ trước mắt sớm đã nằm gọn trong mắt ông ta, chỉ sợ rằng bốn vị đại tướng quân này thực ra sớm đã bắt đầu lập kế hoạch phế quân vương lập vua mới mất rồi.

    Nói như vậy, Địch Mộc Ti cũng là đồng mưu của ông ta, hôm nay hắn ta gợi ý cho y tìm đến Tào Bân xin thỉnh giáo, căn bản là kéo y vào đống lửa, hôm nay nếu không đồng ý chưa chắc đã có thể bước ra khỏi cánh cửa kia?

    Nghĩ đến đấy, La Khắc Địch không khỏi giật mình.

    Quả nhiên, Tào Bân nhìn chăm chú vào y, nghiêm giọng nói: "Chuyện nhà cũng như chuyện nước, chuyện nhà đã không yên thì lấy gì để trị quốc. Đương kim hoàng thượng đoạt vị bất chính đã làm mất lòng dân, tính tình lại thiếu quyết đoán, hay thay đổi bất thường khiến cho uy tín không còn. Bắc triều xâm lược, quốc gia nguy tại sớm tối. Kỳ Vương khởi binh ở Quan Trung, thiên hạ đã có điểm báo thay đổi, La tướng quân không nhân lúc này để lập công danh lẽ nào ngài muốn làm tội nhân của nước nhà hay sao?".

    La Khắc Địch giật mình, do dự nói: "Lời của Xu Mật nói cũng có lý, nhưng sự việc trọng đại, ti chức cần phải...".

    Tào Bân ngắt lời y, lạnh lùng nói: "Nếu đã như vậy, xin tướng quân hãy nhanh chóng quyết định, để lâu ắt sinh biến, Đại Tống ta đã không thể chờ được nữa rồi".

    La Khắc Địch vốn dĩ cũng chẳng có lòng trung thành đối với phụ tử Triệu Quang Nghĩa, chỉ có điều y tuy không trung với vua nhưng lại trung với nước, cho dù hành động như thế nào cũng đều phải tính đến lợi hại cho quốc gia Đại Tống, hơn nữa tuy đương kim hoàng thượng đoạt vị bất chính nhưng dù sao cũng đã đăng cơ, ngồi lên long sàng, nếu như thực sự làm phản trong lòng y vẫn có chút cảm thấy không thỏa đáng. Lúc này bị Tào Bân hối thúc cuối cùng y cũng hạ quyết tâm, chắp tay cúi xuống nói: "La Khắc Địch nguyện theo Xu Mật đại nhân cùng hoàn thành việc lớn!".

    La Khắc Địch và Tào Bân nói chuyện hồi lâu, sau khi trù tính kế hoạch chi tiết La Khắc Địch mới cáo từ ra về, Tào Bân ngược lại không tiễn, chỉ dõi mắt nhìn theo La Khắc Địch rời khỏi phòng, vỗ tay nhè nhè lên chậu đất mỉm cười.

    Lúc này từ căn phòng bên cạnh mới bước ra hai người, một người trên dưới năm mươi tuổi, mặt chữ điền, mày rậm miệng lớn, vẻ mặt uy nghi, rõ ràng là nhân vật chức cao vọng trọng, người này chính là đại soái Phan Mỹ. Sau khi khai quốc đã xuất chinh nam bắc, chiến công vô số, uy danh còn lớn hơn Tào Bân.

    Đi phía sau là một người lớn tuổi hơn một chút, quàng khăn vải, mặt mày thanh thoát, râu đã điểm hoa râm, khuôn mặt đoan chính, hai mắt sáng có thần khí, khiến người ta nhìn mà sinh kính nể. Chỉ có những người biết hắn mới hiểu không thể nhìn mặt mà bắt hình đong, coi lão già này là chính nhân quân từ, đến lúc bị lão bán đứng rồi còn chưa biết, có khi còn vui vẻ giúp hắn đếm ngân lượng, hắn chính là tên cáo già trong quan trường La Công Minh La lão gia.

    "La lão, đứa con trai này của ông, ông dẫn dắt nó há chẳng phải tốt hơn sao, cần gì phải tìm người gợi ý để nó đến tìm ta, thật khiến Tào mỗ toát mồ hôi lạnh, nhỡ mà con trai ông kiên quyết từ chối, thuyết phục không được, cũng chỉ đành trói nó lại đánh một trận, như thế không phải là hỏng hết hoa cỏ trong vườn của ta hay sao".

    Đại kế đã thành công, Tào Bân trong lòng vô cùng thoải mái, vừa nhìn thấy hai người bước ra thì liền lên tiếng nói đùa. Hai người một văn một võ, Tào Bân vốn dĩ không có nhiều giao tình với lão hồ ly này, nhưng trước mắt cùng mưu đồ việc đại sự, còn là La Công Minh cầm đầu. Tình cảm giữa hai người nhanh chóng tăng lên trở thành một đôi bạn tri giao.

    La Công Minh vuốt râu mỉm cười nói: "Đứa con trai này của ta, tính tình ngang ngạnh thích tự làm khó mình, người làm cha như ta có nói hết lời cũng không bằng mấy câu của Tào đại tướng quân". Ba người đồng loạt cười lớn.

    Cục diện thiên hạ hiện nay quả thật là không thể cứu vẫn được nữa, mà La Khắc Địch vốn có giao tình thâm sâu với Dương Hạo, đường muội của hắn lại là vương phi của Dương Hạo. Tương lai một khi thành nghiệp lớn, vị trí chính cung hoàng hậu chẳng thể rơi vào tay ai khác. Hơn nữa hắn yêu Đinh Ngọc Lạc, một khi đến cậy nhờ bên đó, giữa hai người lại càng không còn có gì trở ngại.

    Tình hình như thế, nhưng khi La Khắc Địch suy nghĩ nên quyết định như thế nào, tiêu chuẩn duy nhất của hắn lại chỉ có xem xét việc này có lợi cho giang sơn Đại Tống, có lợi cho bách tính muôn dân hay không, căn bản là không hề nghĩ đến với những điều kiện mà hắn có. Một khi liên kết với Tào Bân thì tiền đồ của hắn sẽ rạng rỡ đến mức nào.

    Một đứa con chính trực như thế, nếu như La Công Minh lấy thân phận của một người cha bắt hắn suy nghĩ quyết định từ góc độ gia đình và tiền đồ cá nhân hắn, không biết chừng sẽ hỏng việc? Chỉ có để Tào Bân là người ngoài, lấy quốc gia, thiên hạ ra làm lý do mà thuyết phục hắn thì hắn mới ngoan ngoãn mà nghe theo, người làm cha này cũng thật là nhọc lòng nhọc sức.

    Tuy nhiên tấm lòng cha mẹ trong thiên hạ đều như nhau, giống như Triệu Quang Nghĩa âm mưu thâm hiểm, tuy cảm thấy con trai mình quá thẳng thắn xuẩn ngốc nhưng trong lòng thì vẫn rất mực yêu quý. Lão La cả đời giảo hoạt xảo trá, con trai tuy tính cách không giống lão, nhưng lão cũng vẫn mừng cho con.

    Bản thân có thể không phải là chính nhân quân tử, nhưng kẻ làm cha có ai không mong cho con mình là một người chính trực phẩm hạnh cao khiết kia chứ?

    Trong tình cảnh thiên hạ đại loạn, Quan Trung lại ban một đạo văn thông cáo thiên hạ, lần này là lấy danh nghĩa của Kỳ Vương.

    Vì Bắc triều xâm lược, Kỳ Vương điện hạ lo cho bá tính phải chịu khổ, tình nguyện gác lại chuyện nhà để tập trung cho việc chống địch trước. Công khai tuyên bố một ngày Bắc triều chưa rút quân Kỳ Vương sẽ không ra khỏi Hoàng Quan, như vậy hơn mười vạn cấm quân đang đóng ngoài thành Hoàng Quan có thể điều động đi tham gia đánh giặc ngoại xâm. Đây nhất định không phải là lời nói chơi, đã thông cáo khắp thiên hạ thì ai dám nuốt lời? Bây giờ cho dù Đại Tống rút toàn bộ quân đang đóng bên ngoài thành về không chừa một ai thì cũng không cần lo quân trong thành sẽ tấn công ra ngoài.

    Chỉ dựa vào hành động này, uy danh của Kỳ Vương đã lên cao như mặt trời giữa trưa, không còn ai có thể sánh kịp. Vốn dĩ vì bài văn chỉ ra thất tội trạng, rất nhiều bá quan thân sĩ và bách tính đã hướng về Kỳ Vương, lại thêm những thất bại liên tiếp sau đó của quân Tống hai vị tể tướng Triệu Phổ, Lô Đa Tốn công khai quy phục, khiến rất nhiều nơi quan viên đã bắt đầu ngầm hướng mắt đến Quan Trung. Đạo thông cáo kia vừa được ban bố, những người sáng mắt đều nhận ra, thay đổi triều đại đã là điều không thể tránh khỏi.

    *

    * *

    Tây thành Đông kinh Biện Lương, cảng An Châu, Đường phủ.

    Ba anh em nhà họ Đường đang ngồi với nhau, trên bàn bày đủ các loại sơn hào hải vị nhưng cả ba người đều không buồn động đũa, chỉ cúi đầu uống rượu.

    "Lần này. Chúng ta đầu quân sai...". Đường Anh ngửa cổ. uống cạn chung rượu.

    Đường Dũng hừ một tiếng, im lặng không nói gì.

    "Cũng không đến nỗi quá tệ". Đường Uy đột nhiên mỉm cười: "Ngày nay thế lực mạnh nhất chính là hai nhà Thôi Trịnh, Lô gia đã suy vong, những nhà khác cũng dần sa sút, ngày nay thì sao? Trịnh gia căn bản là sắp bị Thôi gia lật đổ".

    Đường Dũng trầm giọng nói: "Nói thì nói như vậy, nhưng Trịnh gia bây giờ đã vin nhờ vào Bắc triều, sau lưng còn có một vương gia Khiết Đan, ngày nay thế lực người Khiết Đan đang lớn mạnh, chuyện Trịnh gia có thể chấn hưng lại như xưa là hoàn toàn có thể. Còn Thôi gia, quê nhà Thanh Châu đã bị người khác chiếm, nhưng người ta đã tạo căn cơ vững chắc bên Tây Hạ, giang sơn này chỉ cần lọt vào tay người Tây Hạ một nửa thì Trịnh Gia lại có thể làm lại từ đầu. Còn vị hoàng thượng mà chúng ta đang bảo vệ. Haha...! Trước đây nhìn cũng cảm thấy là một nhân vật không tầm thường, nhưng giờ sao càng nhìn càng thấy không ổn".

    Đường Tam Nhi cười dài nói: "Một người tốt, chưa chắc đã có thể làm một hoàng đế tốt, lúc đầu chúng ta đi theo Triệu Quang Nghĩa, ai mà biết mạng ông ta lại ngắn ngủi như thế. Nhưng anh em ta cũng không cần quá thất vọng, tuy chúng ta nhìn nhầm người, nhưng muội muội của chúng ta thì đúng là có con mắt tinh đời".

    Đường Tam Nhi vỗ vào đùi một cái, tóc dài tung bay, mặt cười dương dương tự đắc: "May mà chúng ta trước khi hành sự đã để lại một con đường có thể thối lui. Ai mà ngờ được chỉ một tri phủ Lô Châu bé nhỏ mà lại có phúc khí lớn như thế. May mà muội muội của chúng ta tháo hôn bỏ nhà ra đi, nếu thật gả cho Triệu Quang Nghĩa thì chúng ta đúng là đi đời. Bây giờ, muội muội là Vương Phi Tây Hạ, có được chỗ dựa lớn như thế, Đường gia chúng ta cho dù thế nào cũng sẽ không đến nỗi bị dồn tới bước đường cùng không lối thoát".

    Đường Anh vẫn rầu rĩ nói: "Nói thì nói như vậy, nhưng tiểu muội nhiều lắm cũng chỉ có thể bảo đảm an toàn cho nhà chúng ta, còn có thể cho chúng ta được gì chứ? Cho dù có thể cho được, thì đệ có mặt mũi nào mà nhận? Mấy năm nay Đường gia chúng ta đã tốn quá nửa gia sản cho triều đình Đại Tống, tạo không biết bao nhiên chiến thuyền, tiền vốn còn chưa thu về được, sa sút là điều không thể tránh khỏi".

    "Cũng chưa chắc". Đường Tam Nhi mỉm cười nói: "Bây giờ đầu quân cho em rể, vẫn còn kịp".

    Đường Anh lấy làm lạ hỏi: "Đầu quân? Đệ lấy cái gì để đi đầu quân? Lúc đầu người ta còn chưa thành sự nghiệp, Thôi gia đã chịu bỏ ra tiền của, bây giờ đương nhiên được báo đáp. Trước mắt Dương Hạo sắp đoạt được thiên hạ, một thương gia như đệ có thể giúp đỡ được gì cho người ta? Thêu hoa trên gấm, ai sẽ nhớ đến đệ? Không muốn bị người xem thường, chẳng lẽ đệ lại tặng thêm một muội muội nữa làm vương phi cho hắn? Nhưng muốn tặng thì cũng phải có mới tặng được chứ".
     
  6. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 626: Cung biến
    Đường Tam Nhi trùng mắt, hừ một tiếng: "Thăng tiến nhờ vào phụ nữ thì có thể qua được mấy ngày? Cho dù chúng ta vẫn còn muội muội thì cũng không thể dùng cách ngu ngốc như thế. Trước mắt, nếu chúng ta muốn đầu quân cho em rể thì thế nào cũng phải có một cái lễ gặp mặt tương xứng, mà cái lễ gặp mặt ấy chúng ta không phải là không có".

    Đường Anh, Đường Dũng vội vàng tiến tới gần hỏi: "Lão tam, huynh biết đệ có nhiều sáng kiến, mau nói xem".

    Đường Tam Nhi tự tin nói: "Binh mã của Tây Hạ chủ yếu là kỵ binh. Nếu ra khỏi Hoàng Quan chỉ huy quân tiến về phía đông thì chỉ một ngày là tới nơi. Cho nên Quan Trung gần trăm năm nay bách nghiệp điêu linh không phát triển được, khả năng vận chuyển kém xa thời Tùy Đường, nếu như có người có thể cung cấp một số lượng thuyền bè lớn thì sao?".

    Đường Anh Đường Dũng mắt lập tức ngời sáng, Đường Tam Nhi lại nói: "Cho dù là ai nắm được thiên hạ thì Giang Nam giàu có vẫn là nơi quan trọng nhất, nói như thế không thể không có thủy quân, mà quân của Tây Hạ chỉ thiếu có thủy quân mà thôi, nếu hắn thật sự trở thành bá chủ thiên hạ, muốn nắm được Giang Nam buộc phải xây dựng thủy quân, vậy thì làm sao có thể thiếu được những người chuyên chế tạo chiến thuyền, thông thuộc thủy vực Giang Nam như chúng ta?".

    Đường Anh và Đường Dũng cùng thở ra, sắc mặt kích động, Đường Tam nói tiếp: "Triệu Quang Nghĩa bắc phạt, ba mươi vạn bộ binh hành quân, đoàn chở lương thực theo ngay đằng sau, chuyện lương thảo đương nhiên không phải lo. Nhưng em rể chúng ta lại nắm trong tay một lượng lớn kỵ binh, một khi chiếm được thiên hạ chắc chắn sẽ phải đối đầu với Bắc triều, đến lúc đó thiết kỵ tiến về phía Bắc, một ngày đi được ngàn ngàn dặm, đoàn quân sĩ vận chuyển lương thảo có mệt chết cũng chẳng theo kịp. Mỗi binh sĩ mang theo được chút ít lương thực như thế thì đánh trận thế nào? Hoặc là kỵ binh phải xuống ngựa, hành quân cùng bộ binh, hoặc là lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, hoàn toàn phải dựa vào lương thực cướp được của địch quân.

    Ba nghìn, năm nghìn, tám vạn, mười vạn người miễn cưỡng còn có thể làm thế được, đằng này mấy chục vạn binh mã, làm gì có tòa thành nào của Liêu Quốc có nhiều lương thực như thế mà cung cấp cho họ? Hơn nữa tinh binh của Đại Tống lúc đó há nào lại không dùng tới, lúc đó em rể chắc chắn là một tay điều khiển bộ binh, một tay điều khiển kỵ binh, như thế số lượng binh mã đúng là không thể đếm xuể. Tuyệt đối không thể chỉ dựa vào lương thực đoạt được của quân địch mà nuôi quân được, nếu như lúc đó có một số lượng lớn thuyền bè chở lương thực vũ khi khí giới công thành thì thế nào?".

    Đường Anh Đường Dũng nhìn nhau, sự rầu rĩ nãy giờ đã biến đâu mất hết.

    Đường Tam mỉm cười: "Đại ca, cho dù thiên hạ có loạn thế nào chúng ta cũng không cần bối rối, cứ tiếp tục đóng thuyền, chiến thuyền đã đủ rồi, bắt đầu từ bây giờ dốc toàn lực đóng thuyền vận chuyển, tiền công cho thợ nhất định phải phát đủ để họ chuyên tâm mà làm việc".

    Hắn trầm ngâm một lát, lại nói: "Thuyền vận chuyển đừng đóng quá lớn, đường thủy từ Quan Trung đến Biện Lương có nhiều chỗ nông, nước cạn bãi nhiều, nếu như muốn Bắc phạt, sông phương Bắc cũng hẹp mà nông cho nên cần đóng thuyền nhỏ, những thuyền này có thể dễ dàng đi trong dải nước nông, nhất định lúc đó sẽ rất hữu dụng".

    "Hay hay hay, ta hiểu rồi". Đường Anh gật đầu lia lịa.

    Đường Tam Nhi lại quay sang nói với Đường Dũng: "Nhị ca, huynh đích thân chủ trì, lập tức phái người tới các nơi, thông báo với tất cả các phân hiệu của chúng ta, dốc toàn lực thu mua lương thực".

    Đường Dũng ngẩn người: "Lương thực? Lúc này đã qua vụ thu hoạch mùa thu nếu giờ thu mua lương thực nhất định sẽ phải chịu giá cao, chúng ta...".

    Đường Anh ngược lại đã hiểu được ý của Đường Uy, lập tức ngắt lời hắn, cười, nói: "Lão nhị, đừng hỏi nhiều nữa, lão tam bảo thu mua lương thực tất có ý của đệ ấy. Đệ cứ làm theo, có bao nhiêu thì mua bấy nhiêu, đừng lo đến chuyện tiền bạc, cho dù khuynh gia bại sản cũng phải toàn lực thu mua. Dân dĩ thực vi thiên, lương thực chính là gốc rễ để an định thiên hạ, cũng chính là hy vọng đứng lên của Đường gia chúng ta. Hơn nữa, hoàng đế không thể dùng binh đói, cho dù em rể trở thành hoàng đế, thì cũng không thể để binh sĩ uống gió Tây Bắc mà đi đánh trận được".

    Đường Tam Nhi luôn miệng gọi "em rể", giờ đến Đường lão đại cũng thuận miệng mà gọi theo.

    Đường Dũng vẫn có vẻ chưa hiểu lắm nhưng vẫn gật đầu: "Được, đệ lập tức đi làm. Vậy... Lão tam, đệ cử đại ca và ta đi làm việc, vậy đệ làm gì?".

    "Giúp!".

    Đường Tam Nhi hất tóc ra sau, trầm giọng nói: "Đệ đương nhiên cũng phải đi Trường An một chuyến, bây giờ trên đường tới Trường An nhất định có rất nhiều người, nếu đi muộn, sợ là cho dù người ta là em rể thì chúng ta cũng chẳng có phân...".

    *

    * *

    Trước ngự án tấu sớ chất cao như núi, cái nào cũng khẩn cấp, cái nào cũng cần phê chuẩn ngay. Tam quan khẩn tấu xin binh xin lương, Giang Nam khẩn tấu lòng dân xao động, Tứ Xuyên bẩm báo địa phương bất ổn, Mân Nam dâng tấu mùa màng thất bát, Khai Phong phủ dâng tấu vật giá kinh thành tăng cao, dân chúng bàn nhảm khắp nơi, hoàng thanh ti bẩm báo có kẻ lòng dạ bất chính lợi dụng nơi quyền thần hào môn thường lui tới là Thiên Kim Nhất Tiếu lâu để ngôn luận những lời đại nghịch bất đạo, quân tuần viện bẩm báo bắt được mấy tên say rượu xàm ngôn, vọng nghị triều chính, làm nhục tiên đế, thỉnh hạ chỉ nghiêm trị... Đều dâng tấu cấp báo.

    Chuyện nào chuyện nấy đều khiển hắn tâm lực tiều tụy, từ trước đến nay hắn chưa từng nghĩ rằng ngai vàng mà mọi người thì nhau tranh đoạt này hóa ra lại nhiều phiền phức như thế, tại sao vẫn có nhiều người không từ thủ đoạn bất chấp tất cả để có được nó?

    Triệu Nguyên Tá đầu đau như búa bổ, hắn bóp trán nhè nhẹ, cảm giác buồn nôn trào lên trong dạ, lúc này Tiểu Hoàng Môn nhẹ chân bước vào, nhỏ giọng bẩm báo: "Quan gia, Hoàng Thành Ti Chân Sở Qua có việc quan trọng hồi tấu".

    Nếu đã là hồi tấu, có nghĩa là hắn đã đích thân ra chiếu dụ gì đấy, Triệu Nguyên Tá ngơ ngác ngẩng đầu, nghĩ cả nửa ngày cũng không nhớ ra đã ra mệnh lệnh gì cho Chân Sở Qua liền vẫy tay nói: "Cho hắn vào".

    Chân Sở Qua nhanh chân bước vào điện, chắp tay hành lễ với Triệu Nguyên Tá miệng nói lớn: "Thần Hoàng Thành Ti Chân Sở Qua bái kiến...".

    Triệu Nguyên Tá không còn kiên nhẫn liền ngắt lời hắn: "Được rồi, được rồi, ngươi... Đến gặp trẫm, muốn hồi tấu chuyện gì?".

    Chân Sở Qua cung kính đáp: "Thánh thượng sai thần điều tra vụ án tiên đế bị hành thích, nếu có bất cứ tiến triển gì lập tức hồi báo,hiện giờ thần đã nắm được một số manh mối".

    Triệu Nguyên Tá giật mình, lập tức đứng lên: "Nói đi, ngươi đã điều tra ra được gì rồi?".

    Chân Sở Qua nói: "Dạ, thần đã tra hỏi từng thân binh thị vệ hộ giá xung quanh ngự trướng của tiên đế lúc bấy giờ, chỉ tìm được một điểm khả nghi, có một binh sĩ bị tàn phế một tay lúc bình thường hay đi qua đi lại quanh ngự trướng của tiên đế, khá thân quen với bọn thị vệ canh gác, nhưng sau khi tiên đế bị hành thích người này không còn xuất hiện nữa, lúc đầu các thị vệ trong cơn hoảng loạn không ai chú ý tới chuyện này, nhưng sau này nghĩ lại cảm thấy có rất nhiều điểm nghi hoặc".

    Triệu Nguyên Tá nghe như sét đánh bên tai, thất kinh hỏi dồn: "Ngươi nói gì? Tên thương binh đó... Mất một tay?".

    Triệu Nguyên Tá biết lúc trước thiên lao bị cướp là do mình, Bích Túc thoát nạn, Chân Sở Qua chính là người trong cuộc, cộng thêm những lời kể của ngự tiền thân binh, thực ra trong lòng sớm đã có tính toán, lúc này nhìn thấy biểu cảm trên mặt Triệu Nguyên Tá không khỏi thầm thở dài. Nhẹ nhàng gật đầu, từ trong tay áo từ từ lấy ra một bức tranh cung kính dâng lên nói: "Thần đã dựa theo lời miêu tả của thị vệ vẽ lại hình dáng hắn, xin mời quan gia xem".

    Tiểu Hoàng Môn đi tới đón lấy bức tranh đưa lại cho Triệu Nguyên Tá. Triệu Nguyên Tá vừa mở ra xem chỉ nhìn thấy đôi mắt sắc lạnh như đao của người đó thì hình ảnh tên khâm phạm thích khách trước đây đã hiện ra ngay trước mắt, không khỏi kêu lên một tiếng, hai tay run run, bức tranh nhẹ nhàng rơi xuống đất.

    "Tra, điều tra ngay cho trẫm, đem bức hình này chiếu cáo thiên hạ, nhất định phải tìm ra hắn cho trẫm!".

    Triệu Nguyên Tá nghiến răng, mắt lộ ra tia hung hãn, khiến cho Chân Sở Qua trong lòng phát lạnh, vội vàng đáp: "Vâng, thần đã dặn dò thuộc hạ, ngày mai sẽ đem chiếu cáo truyền tới tất cả các châu phủ trấn, chỉ cần tên thích khách đó vẫn còn ở trong lãnh thổ Đại Tống thì khó mà trốn được".

    "Lãnh thổ Đại Tống... Hắn đã hành thích vua của một nước, bây giờ còn xuất hiện trong lãnh thổ Đại Tống hay sao?". Ánh mắt hung hãn của Triệu Nguyên Tá chuyển thành một mảng mờ mịt, một hồi lâu hắn mới khoát tay, Chân Sở Qua vội khom người lui ra.

    Người Triệu Nguyên Tá bắt đầu run rẩy, kẻ giết phụ hoàng là Bích Túc, nhưng trong lòng hắn hiểu rõ, Bích Túc vốn dĩ là tử phạm của thiên lao, nếu như không phải hắn xông vào thiên lao, cho dù Bích Túc có bản lãnh lớn đến đâu cũng không thể thoát nổi. Phụ thân tại sao mà chết? Suy đến cùng, cái chết của phụ hoàng, hắn cũng không thoát khỏi trách nhiệm.

    Hắn đang trong cơn hối hận thì có một người nhẹ nhàng bước vào điện, không thông qua Tiểu Hoàng Môn bẩm báo trước mà có thể trực tiếp bước vào đây trừ Nội Thị Đô Tri Cố Nhược Lý thì không có người thứ hai. Cố Nhược Lý tiến đến bên Triệu Nguyên Tá thấp giọng bẩm: "Quan gia, lưỡng cung thái hậu cho mời".

    Mẹ đẻ của Triệu Nguyên Tá là Lý Hiền phi, giờ hắn đã làm hoàng đế, mẫu thân đương nhiên trở thành thái hậu, cùng với chính cung hoàng hậu gọi là lưỡng cung thái hậu.

    Vừa nghe mẫu hậu tương triệu, thần sắc của Triệu Nguyên Tá tỉnh táo lên một chút, kinh ngạc nói: "Trẫm đang xứ lý công việc, thái hậu triệu kiến không biết có chuyện gì?".

    Cố Nhược Lý đáp: "Lưỡng cung thái hậu nghe tin ngoài biên ải liên tiếp thua mấy trận, hình như cũng đã biết chuyện Kỳ Vương khởi binh, nghe nói lòng người trong thiên hạ dao động, bốn bề không yên cảm thấy vô cùng lo lắng, muốn triệu, kiến hoàng thượng để hỏi cho rõ".

    Triệu Nguyên Tá nghe thể thì đột nhiên nổi giận: "Khốn kiếp, là ai đã đem chuyện bên ngoài kể cho hai vị thái hậu biết? Không phải ta đã dặn dò các ngươi, trước mặt thái hậu phải ngậm chặt miệng vào rồi hay sao?".

    Cố Nhược Ly lùi ra sau một bước, lúng túng thưa: "Dạ, nhưng... Trong cung thái hậu nhiều người phức tạp, nô tì thực sự không biết là kẻ nào đã nhiều lời...".

    Triệu Nguyên Tá tức giận phẩy tay một cái nói: "Tới Từ Thọ cung".

    Triệu Nguyên Tá bản tính hiếu thuận, mẫu thân đã triệu kiến không thể không tới. Lập tức xuất cung, vội vàng đi tới hành cung của thái hậu.

    Triệu Nguyên Tá vừa đi, Địch Mộc Ti đã thân mang khôi giáp xuất hiện trước điện, hôm nay là phiên trực của hắn, ăn mặc như vậy xuất hiện ở đây cũng không có gì lạ. Chỉ là tinh thần hắn hôm nay có chút khác thường, bộ hạ gặp hắn lần lượt hành lễ. Bình thường hắn sẽ vui vẻ cười ha ha đáp lại vô cũng thân thiện, hôm nay ngược lại chi vội vã vẫy tay, đôi mắt hắn, chốc chốc lại nhìn về hướng đại nội như đang chờ đợi điều gi.

    Triệu Nguyên Tá tiến vào hậu cung, đột nhiên phát hiện thị vệ không phải đang khiêng hắn về hướng Từ Thọ cung, liền vội vã vỗ vỗ vào kiệu nói lớn: "Dừng lại dừng lại, đây là hướng đi đâu?".

    Cố Nhược Ly vẫn đang đi bên cạnh đáp: "Thánh thượng, trong cung có kẻ muốn làm điều bất lợi với người, vì an toàn của hoàng thượng, xin hãy theo nô tì ra khỏi cung tạm lánh!".

    Triệu Nguyên Tá vừa sợ vừa giận nói: "Cố Nhược Ly. Tên cẩu nô tài nhà ngươi muốn tạo phản sao?".

    Cố Nhược Lý thưa: "Nô tỳ không dám, nô tỳ làm như thế này đều là vì hoàng thượng".

    Hắn vừa nói vừa vội vàng xua tay, kiệu đi nhanh như gió chỉ một lát đã đi qua Các Kinh Điện Vũ, mỗi khi qua một cửa đều có thị vệ canh giữ. Nhìn tình hình có vẻ như đều đã nhận sự dặn dò của Cố Nhược Ly từ trước, vừa nhìn thấy bọn họ thì lập tức vội vàng mở cửa, căn bản là không để ý đến tiếng kêu của Triệu Nguyên Tá.

    Đi tới Đông môn, đến gần hướng hậu điện của cung Thái tử, chỗ này vắng vẻ bình thường ít có người qua lại, mặt đất tuy vẫn sạch sẽ, hàng ngày đều có người trong cung đến quét dọn nhưng trên tường đã mọc đầy cỏ mọc ra từ những khe tường. Giờ đã sắp tới mùa đông, cỏ trở nên héo úa, lay động leo lắt trong gió.

    Trước cửa đã đỗ sẵn mấy cỗ xe ngựa, từ xa đã ngửi thấy một mùi kỳ lạ theo gió đưa tới, may mà trời đã lạnh nên ngửi mùi cũng không quá nồng.

    "Quan gia, vì sự an toàn của người, nô tì đành để người chịu thiệt thòi một chút vậy".

    Cố Nhược Lý khoát tay liền có mấy tên thị vệ thân tín cao to lực lưỡng cũng nhau bước tới, tóm chặt lấy Triệu Nguyên Tá, bịt chặt lấy miệng hắn sau đó kéo lên xe, xe trước xe sau đều xếp mấy chiếc bồn cầu, hóa ra đây là xe chuyên chờ đồ thải trong cung ra ngoài.

    Tiếp sau đó thì nghe tiếng cửa cung mở, bên ngoài lại có tiếng binh sĩ quát hỏi đòi kiểm tra thẻ bài, ngay sau đó thì liền mở cửa cho đi.

    Cố Nhược Lý ngồi bên cạnh Triệu Nguyên Tá lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, lấy tay áo lau mồ hôi trán, lại mở rèm che nhìn ra bên ngoài. Triệu Nguyên Tá nộ trừng hai mắt nhìn thấy trong tay áo của Cố Nhược Ly có vật kim loại gì đó lấp lánh, cũng không biết là hắn giấu vũ khí để ứng biến chống địch hay là để tự sát nếu sự việc thất bại. Lúc này rèm cửa lại được nâng lên, bên ngoài có hơn mười người đàn ông cao lớn cưỡi ngựa đi theo bên hông xe, nhìn dáng vẻ thì không phải là cấm quân trong cung, người nào người nấy lưng đều đeo vũ khí hóa ra là người từ ngoài cung tới tiếp ứng.

    Thấy trong xe có người nhìn ra ngoài, một người trong số đám người đó trông có vẻ là thủ lĩnh liền hướng vế phía xe gật đầu mỉm cười, Cố Nhược Lý lúc này mới yên tâm hạ rèm xuống, đích thân tháo bịt miệng ra cho Triệu Nguyên Tá, cười nói: "Quan gia, nô tì đã đắc tội rồi".

    Triệu Nguyên Tá bình thường hỉ nộ vô thường, tâm trạng dễ thay đổi, lúc này thân rơi vào tay địch, ngược lại cảm thấy rất bình tĩnh, hắn nhìn thẳng vào Cố Nhược Lý mà hỏi: "Đây là lệnh của hoàng đệ Đức Phương phải không?".

    Cố Nhược Ly cười nói: "Kỳ Vương ở tận Quan Trung, nô tì làm sao mà gặp ngài ấy được, đây là kế sách của văn võ đại thần trong triều, nước nhà lâm nguy bất đắc dĩ phải làm vậy".

    Triệu Nguyên Tá tức giận hỏi: "Có những ai?".

    Cố Nhược Lý đáp: "Tào Bân, Phan Mỹ, La Khắc Địch... Ha ha, chúng ta đang đi tới phủ của Phan tướng quân, tới đó thánh thượng tự khắc sẽ hiểu".

    Triệu Nguyên Tá thở ra một hơi, từ từ nhắm mắt lại.

    Chuyện này nếu đã có Phan Mỹ tham gia thì hắn không lo bản thân sẽ bị giết, Phan Mỹ con người này trên chiến trường chiến công hiển hách, là một võ tướng có tài, là một đại trượng phu chân chính, có những chuyện làm cũng có những chuyện không bao giờ làm. Nhớ trước kia hoàng bá phụ của hắn trong trận Trần Kiều binh biến, chỉ huy quân quay lại kinh thành bắt được hai con trai của Chu Thế Tổ Sài Vinh, chúng tướng đều khuyên nên nhổ cỏ tận gốc giết đi để phòng hậu họa, chỉ duy có Phan Mỹ im lặng, sắc mặt không vui. Triệu Quang Dận thấy vậy, cũng cảm thấy lấy giang sơn của người ta đã là quá đáng, giờ lại giết con nhỏ của người ta thì không hợp với đạo trời nên đã từ chối yêu cầu của chúng tướng. Đứa con trai thứ hai của Sài Vinh tuổi còn nhỏ lại được Phan Mỹ đem về nhà nuôi dưỡng, đối xử như con đẻ, đổi tên thành Phan Duy Chính, nay đã trở thành một võ tướng trẻ trong triều.

    Là một khai quốc công thần mà không sợ hoàng đế nghi kỵ, đích thân đem hoàng tử của triều trước về nuôi, một nhân vật như thế, từ cổ kim đến nay có được mấy người? Cho nên vừa nghe thấy Phan Mỹ cũng tham dự vào chuyện này, Triệu Nguyên Tá biết bản thân tất sẽ không bị cái họa sát thân, chỉ là... Đến Phan Mỹ cũng tham gia, lẽ nào hắn là một hoàng đế thất bại đến thế?

    "Được, được lắm, quốc triều vốn lấy được từ tay Thái Tổ, nay trả lại tay con trai của Thái Tổ, âu cũng là lẽ công bằng". Triệu Nguyên Tá cười sầu thảm, sau đó thì liền nhắm mắt không nói gì nữa.

    Cửa cung vừa đóng, tên tiểu thị vệ Cố Nhược Ly để lại trong cung lập tức chạy đi báo cho Địch Mộc Ti hay biết tình hình.

    Theo như kế hoạch của các võ tướng, thượng sách là âm thầm khống chế hoàng thượng, sau đó khống chế cả triều đình, bước tiếp theo là liên hệ với Quan Trung, nếu như có biến thì sẽ thực hiện kế hoạch thứ hai. Địch Mộc Ti lợi dụng cơ hội đang phiên trực nhanh chóng diệt trừ người của Chỉ Sử, Đô Ngu Hầu, dùng vũ lực để khống chế triều đình. Nếu như như vậy mà cũng thất bại thì sẽ dùng đến kế sách cuối cùng, dùng binh quyền của Tào Bân, Phan Mỹ, La Khắc Địch điều động cấm quân tiến hành binh biến.

    Nhưng không có chiếu lệnh của hoàng thượng thì không thể điều động cấm quân được, ba vị tướng quân chỉ có thể dựa vào sức ảnh hưởng của mình đối với một số tướng lĩnh trong cấm quân. Trong tình hình lòng quân dao động, vương quyền sa sút, đại đa số tướng sĩ sẽ nghe theo lệnh điều động. Tuy nhiên đây chỉ là hạ sách, vì như thế sẽ có một trận huyết chiến với những tướng lãnh trung thành với hoàng thượng, cả thành ắt sẽ chìm trong khói lửa, như vậy không có lợi cho việc Kỳ Vương lên ngôi, càng không có lợi trong việc trấn an chúng tướng ngoài biên ải, đặc biệt là quốc cữu Lý Kế Long.

    Hiện giờ đã thành công khống chế Triệu Nguyên Tá, những việc còn lại cũng dễ sắp xếp hơn. Trong cung đã có Địch Mộc Ti ra mặt khống chế những quân sĩ không thuộc quyền điều khiển của ông ta, La Khắc Địch thì lập tức điểm tướng, những người do Triệu Quang Nghĩa cất nhắc không phải tâm phúc của hắn đều bị khống chế trong Xu Mật Viện. Tào Bân ra mặt trấn an cấm quân kinh thành. Phan Mỹ dẫn người đi bắt Trương Bạc, Trình Vũ, Tống Kỳ... Những văn thần như La Công Minh thì lựa lời thuyết phục Triệu Nguyên Tá thoái vị.

    Cách đây mười năm, Đông Kinh Biện Lương đã từng diễn ra màn kịch truyền nhượng như thế này rồi, đại khái là năm đời trở lại đây người Hán tự chém giết lẫn nhau, máu chảy thành sông, giết người quả thật quá tàn độc. Mười năm trước Triệu Khuông Dân binh biến đương quốc, căn bản không hề xảy ra cục diện chém giết, mọi cử động đều không có gì khác lạ, bình an, thuận lợi đã mưu đoạt được đại vị. Hôm nay, mười năm sau, một màn kịch giống hệt như thế lại được diễn ra một lần nữa.

    Thành Biện Lương, lại một lần nữa yên bình, không một tiếng động đổi chủ.

    Đông Kinh có biến, tin tức truyền tới Quan Trung, lập tức tạo nên một trận sóng gió lớn, đi theo sau tin mừng là một trận tranh chấp kịch liệt.

    Lúc này, Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn cũng đã tới thành Trường An, hai người này là trọng thần trụ cột của triều đình, kiến thức rộng rãi, kinh nghiệm phong phú. Hai vị Sử Bộ Thượng Thư và Xu Mật Quân Cơ của nước Đường cùng với hai đời Tể tướng của nước Tống đã có một trận tranh cãi kịch liệt. Trong mấy người này Tiêu Nghiễm,Từ Tiền, Lô Đa Tốn học vấn đều là tiến sĩ, Triệu Phổ tuy đọc sách ít, được xưng chỉ biết nửa bộ Luận ngữ, nhưng là người tự học thành tài, khả năng luận biện không hề thua kém ba người kia, kiến thức thậm chí còn vượt trội hơn. Bốn người này tranh cãi, đương nhiên là sẽ dẫn ra kinh cư điển tích, thiên mã hành không, người bên ngoài căn bản là không thể chen vào được. Dương Hạo thấy thế, liền quyết định giả câm giả điếc, ngồi đợi bốn người tranh cãi ra kết quả.

    Từ Huyền bị bệnh, tuổi tác đã lớn lại phải lặn lội đường xa, thời tiết lạnh giá, đến được Trường An thì đổ bệnh sốt âm ỷ, ho không dứt, thế mà vẫn trừng mắt vuốt râu, tình thế cấp bách thì đập bàn hét lớn, không thua kém bất cứ ai.

    Trọng điểm tranh luận của bốn người thực ra chỉ có: một là giờ để Tây Hạ vương Dương Hạo từ hậu đài bước ra sân khấu, trực tiếp tiếp nhận vương vị từ tay Triệu Nguyên Tá, hay là để cho Vĩnh Khánh công chúa tiếp tục đóng giả làm Kỳ Vương, đợi khi quyền lực trao qua thuận lợi thì mới do công chúa Vĩnh Khánh trao lại cho Dương Hạo.

    Ban đầu, họ chỉ tận đụng hết khả năng để giành được sự ủng hộ của các lão thần tiền triều của nước Tống, sau khi đánh bại được Triệu Quang Nghĩa thì lại đến Triệu Nguyên Tá, sau khi thuận lợi trao nhượng vương quyền thì chẳng ai có thể lật lại được nữa.

    Nhưng Tào Bân, Phan Mỹ là người thế nào? Không hành động thì thôi, một khi đã quyết tâm tới đầu quân dưới trướng thì không bao giờ chịu làm một thần tử tầm thường, bọn họ đều là anh hùng đương thời, không làm thì thôi mà đã làm ắt sẽ nên chuyện.

    Như vậy kế hoạch ban đầu của Dương Hạo đã bị đảo lộn, đầu tiên đo Kỳ Vương tiếp nhận vương quyền, sau đó lại truyền lại cho Dương Hạo, trong một khoảng thời gian ngắn như thế, giang sơn hai lần đổi chủ, Triệu Phổ và Lô Đa Tốn cho rằng làm như thế chẳng khác nào trò đùa trẻ con.

    Hiện giờ bọn họ đã không còn đường thoái lui, đã toàn tâm toàn ý mà phục vụ Dương Hạo. Đương nhiên, tiền đề là lời thề của Dương Hạo trước thiên địa quỷ thần, đồng ý ba điều kiện của họ, cũng là ba điều kiện mà Dương Hạo đã đồng ý với công chúa Vĩnh Khánh.

    Triệu Phổ nói: "Nếu như truyền qua truyền lại như thế, lòng người trong thiên hạ tất loạn, khó tránh có người sinh lòng dạ khác, nếu do công chúa tiếp nhận vương vị trước thì tất phải tới thành Biện Lương, ở đây người biết công chúa không nhiều, nhưng một khi chúng ta tới Biện Lương, thân phận của công chúa rất dễ bị bại lộ, danh tiếng đại nghĩa đang ở trong tay chúng ta, đến lúc đó ngược lại sẽ bị người khác nắm lấy điểm yếu...".

    "Khụ khụ khụ... Khụ khụ khụ...". Từ Huyễn ho đến nỗi mặt đỏ bừng, thở không ra hơi mà nói: "Triệu tướng nói vậy là sai rồi, theo như tôi thấy, nếu như trực tiếp tiếp nhận vương quyền mới là thất sách. Kỳ Vương kế vị, thiên hạ quy tâm, những tướng lĩnh ngoài biên thùy cũng sẽ không phản kháng, đợi cho thiên hạ nằm gọn trong lòng bàn tay, mới thong thả mà truyền vị thì có thể an định bốn bề. Hơn nữa binh mã của chúng ta hiện nay chưa ra khỏi Quan Trung một bước, lòng dân trong thiên hạ đều hướng về Kỳ Vương, chứ không phải hướng về hoàng đế của chúng ta, nếu lúc này hoàng đế mà ra mặt mới là vô cùng bất ổn".

    Tiêu Nghiễm cũng nói: "Phải, Kỳ Vương đã ra công cáo từ trước, nói nếu một ngày Bắc triều không lui binh thì sẽ không ra khỏi Quan Trung một bước, chúng ta đúng lúc có thể lợi dụng điểm này, để Kỳ Vương nhận vương vị nhưng không tới Biện Lương đăng cơ, như vậy sẽ không lo thân phận bị bại lộ. Còn về phần Tào Bân, Phan Mỹ làm ra việc lớn như thế này thì đã không con đường lui nữa, cho dù bọn họ biết được sự thật đi nữa thì cũng chỉ đành giúp chúng ta giấu giếm mà thôi.

    Hoàng đế chúng ta vốn là thần tử của Tống Quốc, như vậy thì có thể để công chúa ban chiếu để hoàng đế chúng ta làm giám quốc, lãnh binh xuất quan, một khi nắm được hết binh quyền trong tay thì không còn gì phải lo nữa".

    Lô Đa Tốn nói: "Hàm hồ, công chúa lấy thân phận Kỳ Vương để mượn quân của Tây Hạ, như vậy còn được. Nhưng bây giờ Triệu Nguyên Tá truyền ngôi, Kỳ Vương tại vị nhưng lại trốn ở Trường An, đến bá quan văn võ cũng không gặp. Ngược lại để cho hoàng đế chúng ta làm giám quốc, thống lãnh toàn bộ binh mã của Tống và Tây Hạ, bá quan văn võ sẽ nghĩ như thế nào? Binh sĩ sẽ nghĩ như thế nào? Cách giải thích duy nhất là Kỳ Vương chẳng qua chỉ là một con rối do hoàng đế chúng ta giật dây. Bắt đầu từ khi quân Tây Hạ ra khỏi Tiêu Quan thì tất cả đều đã vượt ra ngoài kế hoạch".

    Từ Huyễn phản bác nói: "Lẽ nào trực tiếp để hoàng đế chúng ta tiếp nhận vương quyền thì không có người nghĩ như thế hay sao?".

    Triệu Phổ khẽ cười đáp: "Thế thì đã sao? Đại cục đã định, một vài tin đồn phong thanh thì có thể làm được gì, lâu ngày tự khắc sẽ biến mất. Trong khi đó nếu chậm trễ việc đăng cơ, trong quá trình truyền ngôi qua lại, những tin đồn nghi ngờ sẽ ngày càng nhiều, triều thần nước Tống sẽ không chấp nhận việc hoàng đế chúng ta nhận vương quyền, ai mà biết sau lưng họ sẽ làm ra chuyện gì?".

    Lúc này Đại Tống đang loạn, cho dù là ai đứng lên làm chủ thì việc đầu tiên cần làm cũng là kết hợp binh lực của hai nước Tống, Hạ, đẩy lùi sự xâm phạm của Bắc triều. Hoàng đế chúng ta nếu lấy thân phận Tây Hạ vương làm giám quốc, các tướng lĩnh Đại Tống có thể cúi đầu nghe lệnh sao? Trên dưới không đồng lòng, cờ hiệu vẫn phân Tống Hạ thì làm sao ngăn cản được binh mã của Bắc quốc? Thắng thì không sao, một khi thất bại, lúc đó còn mặt mũi nào mà tiếp nhận vương quyền.

    Thực ra tình hình hiện nay, cho dù là công chúa Vĩnh Khánh nhận ngôi trước, hay là Dương Hạo trực tiếp nhận vương vị đều có cái lợi cái hại. Trên danh nghĩa mà nói cho dù là dùng biện pháp mềm mỏng hay vũ lực để đoạt quốc thì cũng không thể thống nhất được cách nghĩ của tất cả mọi người trong thiên hạ. Làm được đến mức được người người ủng hộ, cũng không thể khiến tất cả mọi người thừa nhận mình là chính xác, cho dù thực sự là thánh hiền thì cũng không tránh khỏi có người nói này nói nọ.

    Từ hình tế trước mắt cho thấy, dùng thủ đoạn mềm mỏng để tránh được sự bật lại kịch liệt của nội bộ cũng sẽ để lại nhiều mầm hậu họa, khi chống lại ngoại địch sẽ gặp phải trùng trùng nguy hiểm. Nhưng nếu không trực tiếp nhận giang sơn từ trong tay Triệu Nguyên Tá, không trải qua chiến trận, thế hệ văn võ thần liêu Tống Quốc không có trải qua một quá trình sắp xếp phân rõ địch ta thì một khi huy động binh mã đến bắc triều, những kẻ có âm mưu đen tối, kẻ muốn rút lui sẽ ùn ùn kéo ra, một khi không cẩn thận phòng tránh thì tình hình sẽ cực kỳ nguy hiểm.

    Cho dù lựa chọn thế nào, cũng đều có cái lợi cái hại. Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn, Triệu Phổ, Lô Đa Tốn lập trường khác nhau, tự nhiên sẽ sinh ra tranh cãi.

    Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn vốn không có tình cảm với nước Tống, hơn nữa vì Tống diệt Đường, hại chết chủ cũ Lý Dục cho nên đối với nước Tống có hận thù rất sâu, họ chỉ hy vọng Dương Hạo có thể dùng cách thuận lợi nhất trở thành chủ của Trung Nguyên. Về chuyện làm như thế có hại gì cho nước Tống, hoặc vì chuyện đó mà chết bao nhiêu người bọn họ không quan tâm.

    Triệu Phổ và Lô Đa Tốn hy vọng Dương Hạo có thể một bước bước lên ngai vàng, lập tức tiếp nhận vương vị. Họ cho rằng đau dài không bằng đau ngắn, cho dù sẽ có một số người đứng ra phản kháng cũng có thể nhanh chóng giải quyết lực lượng chống đối, nếu không sự việc kéo dài càng lâu tổn thất sẽ càng lớn, lê dân bá tánh của Tống Quốc sẽ càng phải chịu khổ. Bọn họ dù sao cũng xuất thân là tể tướng của Tống triều, qua nhiều năm làm việc đương nhiên không muốn tâm huyết quả mình bỏ ra toàn bộ đổ sông đổ bể.

    Còn một nguyên nhân khó mở lời khác chính là: Dương Hạo một khi lập tức đăng cơ thì sẽ giống như đầu tiên là vào động phòng, sau đó bái đường, nương tử tuy đã vào tay rồi nhưng lại để đó chưa làm gì,c ũng không đến mức làm ra chuyện vừa đưa giai nhân vào động phòng liền ném bà mối qua cửa. Trước mắt vẫn phải quan tâm đến sự an nguy của công chúa Vĩnh Khánh, làm thế này sẽ có thêm nhiều hơn sự đảm bảo với việc hắn sẽ thực hiện ba lời hứa đó. Nếu không, tương lai nhỡ như Dương Hạo muốn bội tín nuốt lời thì bọn họ cũng không có cách nào thay đổi được. Vì họ đã cống hiến nhiều năm cho Triệu Khuông Dận và Tống quốc nên đương nhiên có cảm tình, giờ đây những điều mà họ có thể làm cho Đại Tống, làm vì con cháu Triệu Khuông Dận cũng chỉ có một chút chuyện này mà thôi.

    Dương Hạo từ đầu vẫn im lặng lắng nghe cả hai bên, phân tích cái lợi cái hại trong đó. Nghe đến đây, cuối cùng đã hạ quyết tâm, hắn ho nhẹ một tiếng, Triệu Phổ, Lô Đa Tốn, Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn lập tức im lặng, cũng quay sang nhìn hắn, đến công chúa Vĩnh Khánh nãy giờ ngồi thờ ơ cũng hướng mắt sang hắn.

    Dương Hạo ho nhẹ một tiếng nói: "Ta thấy... Chúng ta hãy làm theo như lời Triệu tướng quốc đi!".
     
  7. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 627: Thiện Nhượng
    Tiếng đàn thánh thót vang xa, lá vàng rụng theo gió mang đến một khung cảnh tiêu điều.

    Liễu Đóa Nhi mặc một bộ đồ trắng ngồi dưới gốc cây, đẹp mỹ lệ tự nhiên như một đóa phù dung.

    Mười ngón tay thon dài lướt trên đây đàn, tiếng đàn thanh thoát bình thản, nhưng nào có ai có thể nghe thấy tiếng sóng đang cuồn cuộn trong lòng nàng.

    Ở Nhất Tiếu Lâu, vốn dĩ là nơi có thể nghe được những tin tức mà người ở những nơi khác không thể biết được.

    Trước đó những trọng thần trong triều như Trình Vũ, Tống Kỳ, Cố Diễm, Trương Bạc đột nhiên biến mất, trong lúc tin tức bị bưng bít đến người trong cung cũng không biết thì Liễu Đóa Nhi ở Nhất Tiếu Lâu vẫn nghe ngóng được một chút phong thanh, tiếp đó thì vị hoàng đế cũng có thể coi là người cần mẫn đột nhiên ngừng lâm triều, không gặp bất cứ ngoại thần nào. Trong dân gian bắt đầu nổi lên các kiểu phỏng đoán, lúc này Liễu Đóa Nhi dựa vào những tin tức thu thập được thì đã đoán ra sự việc được chín mười phần.

    Ngay tiếp đó, quan hệ giữa Biện Lương và Trường An ngày càng mật thiết, tin tức nàng biết được ngày càng nhiều, đến nay tất cả đều đã sáng tỏ, triều đình công bố đất nước ở trong thời điểm quyết định tồn vong, hoàng đế tự thấy bất lực không có cách nào để vãn hồi cục diện, đồng thời cũng thừa nhận Thất Tông Đại Tội do Kỳ Vương đưa ra đối với tiên đế, thường có câu nợ của cha thì con trả, hoàng đế bố cáo thiên hạ "Tội Kỷ Chiếu", quyết định thoái vị nhượng quốc.

    Trường An Kỳ Vương cũng minh cáo thiên hạ, nói rõ việc mượn binh Tây Hạ để đi thảo phạt, hoàn toàn là vì thống nhất thiên hạ, trừ gian tế chứ Kỳ Vương không hề có ý tranh đoạt vương vị. Hơn nữa từ khi bắt đầu tới nay đều hoàn toàn dựa vào lực lượng của quân Tây Hạ, thêm nữa tự cảm thấy bản thân tuổi còn nhỏ, không có đủ năng lực để chèo chống giang sơn. Trước mắt đất nước đang đứng trước nguy cơ to lớn nếu như không có người đứng đầu thì khó bề dẹp yên. Cho nên vì lê dân bá tính nhất định phải nhanh chóng chọn ra một người tài đức để lên ngôi trị vì thiên hạ, hiện giờ người có năng lực đó không ai khác ngoài Tây Hạ Vương Dương Hạo, vì lẽ đó Kỳ Vương xin từ chối vương vị mà chuyển cho Tây Hạ Vương.

    Chiếu thư này ban chiếu khắp thiên hạ, nhất thời khiến cho tất thảy đều xôn xao, nhưng suy nghĩ kỹ lại thì đây cũng là kết cuộc tất nhiên. Việc mượn thế lực bên ngoài để phục quốc từ xưa đã có. Ở thời Xuân Thu chiến quốc, giữa các chư hầu bất kể có tranh đầu như thế nào thì trên đầu vẫn còn ở một Chu thiên tử. Các chư hầu vẫn phái lo lắng cho thế gia mình, trừ phi họ có năng lực làm kẻ địch với cả thiên hạ, nếu không thật sẽ không dám khinh xuất xàm ngôn, còn bây giờ đã là lúc nào rồi chứ?

    Tiếng đàn ngân vang, mười ngón tay thanh mảnh của Liễu Đóa Nhi lướt trên dây đàn, một chiếc lá vàng trên cây từ từ rơi xuống vai nàng, Đóa Nhi giơ hai ngón tay nhẹ nhàng cầm lấy chiếc lá, khẽ thở dài một tiếng.

    Ngồi dưới tán cây, tinh thần vừa lo lắng vừa rối bời, nàng cũng không hiểu rõ mình đang nghĩ gì. Trong những suy nghĩ ngổn ngang của mình, điều mà nàng nhớ tới nhiều nhất chính là lúc trước, khi nàng mới đến Biện Lương, nàng bị người ta trao đổi mua bản, đi vào con đường cùng, nhưng lại được viện trưởng hỏa tình viện phủ Khai Phong ra tay tương trợ. Thắng trong cuộc thi hoa khôi, nổi danh một vùng, sau đó lại cùng hắn xây dựng Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, rồi lại học ca hát ở hậu trái nhà hắn.

    "Đóa Nhi tỷ tỷ...".

    Theo tiếng gọi, Tuyết Nhuận Song Kiều nắm tay nhau đi tới. Tuyết Nhược San tuy đã hơn hai mươi nhưng do chăm sóc kỹ lưỡng nên dung mạo chỉ như mười bảy mười tám, khi đến trước mặt Liễu Đóa Nhi liền cúi chào. Ba tuyệt sắc giai nhân đứng cạnh nhau thật khiến hoa nhường nguyệt thẹn, tuy lúc đó là hoàng hôn mùa thu ảm đảm cũng không thể lấp đi vẻ đẹp rực rỡ đầy sức sống của họ.

    Tuyết Nhược San nói: "Không biết tỷ tỷ gọi chúng muội tới có việc gì?".

    Hiện tại Liễu Đóa Nhi là đại đương gia của Nhất Tiếu Lâu, người có thể gặp được nàng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhất Tiểu Lâu từ đầu tới cuối đều nằm trong vòng khống chế của nàng, không có bất cứ ai dám thử tranh đoạt với nàng, từ gia nhân cho tới quản sự tất cả đều là tâm phúc của nàng, có chút gió thổi cỏ lay cũng đừng hòng có thể giấu được nàng. Ai được khách ân sủng thế nào, kiếm được bao nhiêu tiền nàng không bao giờ nhúng tay. Nhưng những chuyện liên quan đến nội bộ, muốn thử thách thức quyền uy của nàng thì cho dù chỉ là chuyện bé bằng ngọn cỏ cũng sẽ lập tức bị trừng phạt nghiêm khắc. Cho dù là những đương gia xếp hàng thứ hai thứ ba như Tuyết Nhược San, Nhuận Kiều Ngọc gặp nàng cũng phải nể sợ mấy phần.

    "Không có gì, chỉ là có chút chuyện dặn dò các muội". Đóa Nhi cười nhạt: "Gần đây tỷ cảm thấy không khỏe, có lẽ là tiết trời vào thu nên bị cảm lạnh, cơ thể mệt mỏi, lúc nào tinh thần cũng ủ rũ".

    Nàng hướng mắt ra xa rồi nói tiếp: "Mấy năm nay các muội làm việc luôn thận trọng cẩn thận, cho nên ta muốn để các muội giúp ta gánh vác thêm một số chuyện".

    Nhuận Kiều Ngọc vội cười nói: "Tỷ tỷ không khỏe thì hãy chuyên tâm nghỉ ngơi, những chuyện nhỏ nhặt tỷ không cần để tâm tới, những chuyện lớn bọn muội sẽ đến báo lại với tỷ hàng ngày là được".

    Đóa Nhi thờ ơ nói: "Ta mệt rồi, muốn nghỉ ngơi...".

    Nhuận Kiều Ngọc và Tuyết Nhược San nhìn nhau rồi cùng nhẹ nhàng đáp: "Vâng".

    Đóa Nhi từng nảy sinh tình cảm với Dương Hạo, hai người bọn họ từ nhỏ đã lăn lộn trong giang hồ sao lại không nhìn ra? Sau này, Đóa Nhi lại trở thành cấm thương của Triệu Quang Nghĩa, kỳ thực vẫn không thể quên Dương Hạo, điều này hai người họ cũng biết. Một bên là thiếu niên anh tuấn phong tình, một bên là ông già đen lùn thô lỗ, thiếu nữ lại đẹp như hoa như ngọc không hỏi cũng biết là sẽ thích bên nào. Tuy nhiên nếu nói về địa vị thì Dương Hạo kém xa Triệu Quang Nghĩa. Nhưng tình hình bây giờ đã khác, Dương Hạo sắp ngồi lên ngai vàng, trở thành thiên tử. Đặc biệt là Oa Nhi và Diệu Diệu, một người là đối thủ cạnh tranh trước đây của Đóa Nhi, một người là nha hoàn hầu hạ bên cạnh nàng, bây giờ đều sắp trở thành vương phi cao quý. Trong lòng Đóa Nhi giờ cảm thấy như thế nào, hai người cũng không dám nhiều lời bình luận.

    Đóa Nhi nói: "Chuyện trướng phòng từ hôm nay giao cho Nhược San phụ trách, việc nhân sự thì do Kiều Ngọc tiếp quản, bên các quản sự ta đã dặn dò rồi, lát nữa hai muội hãy qua đó xác nhận một chút".

    "Vâng!". Nhuận Kiều Ngọc đáp lời, rồi hơi chần chừ lại nói: "Nữ Nhi quốc...".

    Đóa Nhi cười nhạt: "Bên Nữ Nhi quốc trước nay luôn tự thành một thể, lão Hắc và Trương Ngưu Nhi cũng coi như là những nhân vật biết đại thể, hai bên tự lo chuyện của mình. Chuyện của bên bọn họ chúng ta không nên nhúng tay vào".

    "Vâng!". Nghe ý của Đóa Nhi có vẻ đang thất vọng chán chường, nói không chừng sau này sẽ thật sự giao quyền bính cho mình. Nhuận Kiều Ngọc trong lòng hứng khởi nhưng không dám để lộ ra ngoài, khuôn mặt đẹp như hoa anh đào chỉ hơi ửng hồng lên.

    Đóa Nhi yêu kiều đứng dậy nói: "Không có chuyện gì khác, các muội đi làm việc đi".

    Đóa Nhi quay người, nhìn bóng nàng khuất dần Tuyết Nhược San đột nhiên thở dài một tiếng.

    Nhuận Kiều Ngọc mắt lộ ra vẻ tươi vui cười mà nói: "Vất vả bao năm cuối cùng cũng có ngày hái quả, gia nghiệp của Nhất Tiểu Lâu lớn như vậy, tỷ muội ta cuối cùng cũng có ngày được hưởng, đây là việc đại hỉ cớ sao đại tỷ lại thở dài?".

    Tuyết Nhược San không lộ ra một chút vui mừng nào, nàng ta nhẹ nhàng mở lòng bàn tay đón lấy một chiếc lá vàng rơi, buồn bã nói: "Ngọc Nhi, tỷ tỷ... thấy rất mệt mỏi, thực sự muốn tìm một người tốt để phó thác cả đời, gả cho người ta cho xong".

    "Sao cơ?". Nhuận Kiểu Ngọc ngạc nhiên nhìn Tuyết Nhược San bước đi, hoàn toàn không đoán nổi trong lòng chị mình đang nghĩ gì. Nàng ta lúc này lòng đang hết sức vui mừng, tràn đầy ước mơ phú quý, giờ còn tâm trí đâu mà nghĩ đến người tỷ muội thân thiết bấy lâu đang nghĩ gì.

    *

    * *

    "Chiếu công cáo thiên hạ: trước đây vua Nghiêu truyền vị cho Ngu Thuấn, Thuấn lại truyền cho Vũ, thiên mệnh không phải chuyện thường, phải quy về người có đức. Hoàng bá phụ ta trong lúc nguy nan thụ mệnh Sài Chu, lập nên Triệu Tống. Hoài Liên tầm thường, trị quốc vô đạo, đất nước mất đi trật tự, đại loạn thế sự, xã hội điên đảo. May nhờ có Hạ vương anh minh thần võ, dẹp bão táp tứ phương, công đức trải dài tứ hải, bảo vệ tông miếu ta.

    Đại đạo thi hành, tuyển chọn được người hiền đức và năng lực, khắp tứ hải đều vui mừng. Dương vương Tây Hạ thiên tòng thánh đức, linh võ tú thế, một bậc anh tài, văn đức và võ công đều có, yêu vạn vật như yêu mình, vì phúc của dân như mình được phúc, hóa giải ưu lo của thế nhân.

    Trẫm tự thấy không đủ năng lực cai quản đất nước nên nguyện truyền ngôi cho Dương vương, thuận theo pháp Nghiêu truyền Thuấn, tất cả quân thần đều phải thực hiện đại lễ, túc thừa thiên mệnh".

    Chiếu thư nhường ngôi dài hơn ba trăm chữ, giả lấy danh nghĩa của Triệu Nguyên Tá nhưng kỳ thực là tạo ra dưới ngòi bút của La Công Minh. Triệu Nguyên Tá là người ngu hủ, chí thành chí hiểu, ngai vàng này hắn căn bản là không muốn ngồi, muốn hắn nhường ngôi thì dễ nhưng muốn hắn thừa nhận lỗi lầm của phụ thân mình thì hắn tuyệt nhiên không chịu. Tuy nhiên La Công Minh cũng giữ thể diện cho hắn, trong chiếu thư nhường ngôi chỉ để hắn thừa nhận bản thân không có năng lực trị quốc chứ không có nửa chữ nhắc đến Thất Đại Tội. Dù sao trong công cáo gửi cho các châu phủ cũng đã có nói rõ rồi.

    La Công Minh làm như vậy vừa là giữ thể diện cho Triệu Nguyên Tá cũng là suy nghĩ cho Dương Hạo. Trước khi Dương Hạo nhận vương quyền đã đồng ý với Vĩnh Khánh công chúa ba điều kiện. Một là quốc hiệu không đổi, hai là tông miếu không đổi, thứ ba là đối xử từ tế với hoàng thất họ Triệu. Điều thứ ba không có gì khó, nhưng điều thứ nhất và thứ hai đối với đế vương mà nói quả thật khó mà nhẫn nhịn bỏ qua được.

    Quốc gia vẫn gọi là Tống, trong tông miếu hoàng gia, khai quốc hoàng đế vẫn bày linh vị của Triệu Khuông Dận, điều này đối với cổ nhân chú trọng hương khói thờ cúng mà nói là việc vô cùng trọng đại. Nhưng điều không thể chấp nhận đối với người khác với Dương Hạo lại không thành vấn đề. Hắn hoàn toàn không để tâm đến việc này, đối với hắn mà nói lợi ích thực tế quan trọng hơn nhiều so với một cái danh phận hư ảo vô hình.

    Huống hồ văn hóa của dân tộc Hoa Hạ, diễn biến qua hàng nghìn năm đạt đến trình độ cao nhất vào đời Tống, sự phát triển chính trị kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật thậm chí là quân sự của triều Tống còn có rất nhiều điểm đáng để lưu giữ và học hỏi. Thế nhân chịu ảnh hưởng của một bộ sách, coi Triệu Tống không đáng một xu, nhưng Dương Hạo ngược lại rất thích Tống triều. Sự giàu có, dân sinh kinh tế của triều Tống tiền vô cổ nhân, hậu vô lai dã, trong lịch sử trên dưới năm ngàn năm, quốc vận cũng có thể nói là rất dài.

    Với tư cách là một vương triều, đương nhiên triều Tống cũng không phải thập toàn thập mỹ, cho dù đến thời hiện đại ngày nay của Dương Hạo cũng không có quốc gia nào dám nhận là chế độ của mình không có chút khiếm khuyết nào. Dương Hạo cũng ít nhiều biết về những điểm tốt xấu còn tồn tại của triều Tống nên có tự tin có thể thay đổi nó, giữ lại cái tốt loại bỏ cái xấu tiếp tục duy trì triều đại này, hơn nữa sẽ khiến nó còn tốt đẹp hơn vốn có trong lịch sử, thậm chí trở thành quốc gia tồn tại lâu dài nhất từ thời Xuân Thu tới nay.

    Còn về việc chuyển linh vị của Triệu Khuông Dận, người mà Dương Hạo rất kính trọng ra khỏi tông miếu, hủy diệt vương triều nổi tiếng này để đổi thành một cái tên khác, Dương Hạo hoàn toàn không hứng thú.

    Cho nên hắn rất dễ dàng chấp nhận điểm này, trong khi đó đối với những người như Phan Mỹ, Triệu Phổ, Lô Đa Tốn, thậm chí với bách tính toàn thiên hạ mà nói là một điều cảm kích rất lớn, khiến hắn nhanh chóng có được lòng dân trong thiên hạ và sự ủng hộ của các tướng lĩnh quan viên, cục diện bất ổn của quốc gia nhanh chóng được ổn định.

    Dương Hạo lên ngôi, tự xưng là lấy thủy đức để thay thể hỏa đức, cho nên mũ mão long bào đến lễ kỳ đến dùng màu đen. Phương Bắc mùa đông nước màu đen, lúc đó lại đang đúng tháng mười. Dương Hạo sinh ra ở phương Bắc lại cộng thêm một số tin đồn trước đó trong dân gian cho nên không chỉ có bách tính tin tưởng vào thiên mệnh của Dương Hạo mà ngay cả các văn nhân sĩ từ, văn võ trong triều cũng tin đây là ý trời.

    ...[Thiếu Một Đoạn]...

    ... không nên đứng lên tranh công giành thưởng, lần này nếu không phải vì con trai lão và suy nghĩ cho gia tộc họ La thì lão cũng không ra tay.

    Tất cả trình tự của đại lễ cuối cùng cũng kết thúc, cho dù là Dương Hạo thì tinh thần và sức lực cũng mệt tới mức hoa mắt chóng mặt, về đến hoàng cung Dương Hạo ngồi xuống, thở dài một tiếng, nhìn xuống long bào đang mặc, nhớ lại dáng vẻ thất thần của Triệu Nguyên Tá, không kìm được mà thốt lên: "Nghiêu Thuấn thiện nhượng, nói cho cùng cũng chỉ là một trò chơi, giờ cuối cùng ta cũng đã thực sự được lĩnh giáo".

    "Quan gia giờ nên xưng là trẫm, quy tắc là quy tắc, bất cứ ai cũng không được phép ở trên pháp luật, đây cũng chính là điều mà quan gia đã cảnh cáo chúng thần".

    Đinh Thừa Tông mặt mày hồng hào rạng rỡ, đẩy xe lăn tiến vào: "Thần đã sớm nghĩ tới ngày hôm nay, nhưng không ngờ nó đã tới thật, không dám tin tưởng như chỉ là mơ, thiên mệnh đúng là khó đoán. Quan gia, không biết liệu có cần lập tức phái người đi đón hoàng hậu và hoàng tử không?".

    "Không, không cần gấp, giờ việc đầu tiên cần làm, là đuổi giặc phương Bắc".

    Đinh Thừa Tông ngẩn ra: "Điều này... Có vẻ không có mâu thuẫn gì với việc đón hoàng hậu và hoàng tử thì phải? Hơn nữa quan gia vừa mới đăng cơ, tiếp nhận lại tất cả bá quan văn võ của triều Tống, trung gian khó phân biệt, bây giờ sao không nhân lúc tình hình đang ổn định mà đón hoàng hậu và hoàng tử về".

    Dương Hạo mỉm cười: "Bắc phạt thực ra chính là một cơ hội, cơ hội để nắm toàn bộ binh quyền, cơ hội để phân biệt trung gian, thông qua việc dẹp giặc ngoài mà chấn chinh nội bộ, cũng là cơ hội để dời đô".

    Nếu như để lỡ mất thời cơ, thì việc này phải tốn mất năm mười năm mới hoàn thành được. Mà một khi kéo dài đến năm mười năm thì sợ rằng có một số chuyện muốn làm cũng làm không nổi nữa. Cho nên phải bắc phạt... Hơn nữa ta còn phải ngự giá thân chinh!".

    Hắn mỉm cười quay đầu lại nói: "Bây giờ điều ta muốn biết nhất là, ta quyết định như vậy, thì Lý Kế Long sẽ lựa chọn như thế nào?".

    Dương Hạo vừa mới lên ngôi đã muốn ngự giá thân chinh đánh trận, có vẻ như thiên tử Trung Nguyên ai cũng muốn tự mình lãnh binh, chỉ huy quân bắc phạt, Đông Kinh Biện Lương lại được một phen náo nhiệt, đâu đâu cũng rộn lên không khí chuẩn bị đánh trận.

    Của cải Triệu Khuông Dận tích trữ trong mười năm quả thật không nhỏ, lần trước Triệu Quang Nghĩa Bắc phạt dùng chiến thuật tấn công chớp nhoáng, tiến nhanh mà bại cũng nhanh, binh mã tổn thất một phần ba nhưng lương thực vũ khí thì tổn thất không lớn cho nên vẫn đủ để phát động một trận đại chiến mang tính toàn quốc nữa, trong ngoài thành Đông Kinh, binh mã đi lại thành đoàn, đi tới đâu cũng nhìn thấy quân đội mũ giáp chỉnh tề đi đi lại lại, không thì là từng đoàn dịch phu đang vận chuyên quân lương.

    Điều khác với trước đây là, trong khi bộ binh vội vã qua lại thì chốc chốc lại có một đội kỵ binh khoảng trăm nghìn người lộc cộc đi lướt qua họ như một trận gió.
     
  8. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 628: Thân chinh
    Quân Tống vốn dĩ không có nhiều kỵ binh như vậy, đây đều là kỵ binh của Tây Hạ. Bộ binh của nước Tống thiên hạ vô địch, viễn chinh đến tận chân thành U Châu đánh cho sáu lộ viện binh của quân Liêu không còn manh giáp, chỉ là động lực ý chí không đủ, không có cách nào tiêu diệt triệt để quân địch, mở rộng thành quả chiến thắng, không thể nắm được thế chủ động trên chiến trường.

    Ngày nay đột nhiên có thêm lượng lớn kỵ binh được huấn luyện kỹ càng tinh nhuệ, ưu thế của ta địch không có, ưu thế của địch ta lại có, lần này bắc phạt kết quả như thế nào thật khiến người ta trông đợi. Cho dù vừa mới bại trận nhưng ít nhất các văn nhân sĩ tử vẫn giữ cái nhìn rất lạc quan đối với trận chiến lần này. Đường lớn ngõ nhỏ, câu lan tửu quán thường có thể nghe thấy bọn họ tính toán về phần thắng của Dương Hạo trong lần ngự giá thân chinh này.

    Đương nhiên, nếu như trận này thất bại thì e rằng sự tổn thất nghiêm trọng nhất đối với Trung Nguyên không phải về mặt vật chất, mà là về mặt tinh thần, từ nay về sau tướng lĩnh Trung Nguyên đều sẽ khiếp sợ người Liêu, sợ rằng sẽ không có can đảm để dụng binh với Bắc triều lần nữa.

    Trên sông Biện Lương, thuyền bè đi lại tấp nập không nghỉ, sông Biện nhờ công sức của Triệu Quang Nghĩa mà hình thành một đội chuyên vận chuyển quân lương, giờ thêm Đường gia không tiếc của cải ủng hộ, đóng thêm một số lượng lớn thuyền bè, đủ để đảm bảo quân lương cho quân đội Bắc phạt và các nhu cầu vận chuyển khác.

    Một chiếc thuyền nhỏ nhẹ nhàng lướt trên sông Biện, đèn của Nhất Tiếu Lâu rọi xuống lòng sông tạo nên những mảnh vỡ loang loáng.

    Cửa sau của Nhất Tiếu Lâu mở, vài người đi ra, phía trước là hai người hầu cầm đèn, ở giữa là ba người thân hình thon thả có lẽ là ba thiếu nữ trẻ. Trời đột nhiên có tuyết rơi nhẹ, cô nương đứng bên liền giương ô che lên đầu cho cô nương dáng vẻ uyển chuyển vai mang áo choàng ở giữa.

    Mấy người bước lên thuyền, sào chèo thuyền vừa đưa thuyền liền khẽ lay động rồi rời bờ, nhẹ nhàng trôi tới nơi xa.

    Cô nương dưới ô lúc nãy đứng ở mũi thuyền quay đầu hướng mắt về Nhất Tiếu Lâu đang đèn hoa sáng rực như chốn tiên cảnh, ngẩn ngơ mà nhìn một lúc lâu, rồi sau đó lại quay đầu nhìn theo hướng hoàng cung.

    Nhìn được một hồi lâu, người đẹp nơi mũi thuyền khẽ thở dài, lặng lẽ cúi đầu xuống.

    Tuyết bay lất phất giữa trời, nhẹ nhàng chạm vào da mặt lành lạnh, nhưng trên mặt đất lại tuyệt đối không thấy dấu vết gì.

    Con thuyền nhỏ vẫn tiếp tục lặng lẽ chạy về phía nam.

    Quân đội bắc phạt nối đuôi nhanh hành quân không dứt, bất kể ngày đêm. Vừa rồi lại có một đội quân đi qua, khoảng hơn năm nghìn người toàn bộ đều là kỵ binh, người nào người ấy khôi giáp chỉnh tề, đao gươm sáng loáng.

    Đội quân này tuy số lượng lớn nhưng xem tình hình thì chỉ là quân tiên phong, vì bọn họ đi qua chưa được bao lâu thì lại có một đội quân hỗn hợp lớn nối nhau hành quân đi qua không dứt. Lúc này là đêm khuya, quân đội đã bắt đầu xuất phát, đợi đến khi trời sáng, lão bách tính sau một đêm ngủ dậy mở cửa ra chỉ thấy đoàn quân hành quân từ đêm qua vẫn chưa đi hết. Hướng đầu nhìn về phía trước là một nhóm bộ binh, không mặc áo giáp, tay không cầm vũ khí, trông rất kỳ lạ, theo sau họ là một đội xe bò, cũng không biết là đang chở thứ gì.

    Đi ngay theo sau là một đội kỵ binh, cũng không mặc áo giáp, trên người chỉ mặc áo vải. Cưỡi trên những con ngựa cao to lực lưỡng, là loại bảo mã cao hơn chiến mã của Trung Nguyên đến một cái đầu, đi chầm chậm rất là nhàn nhã, cứ như không phải đi đánh trận mà là đi du sơn ngoạn thủy, ngay phía sau họ cũng là một đoàn xe bò chở đầy thứ gì đó, bên trên đều được đậy kín không biết là thứ gì.

    Lão bách tính chỉ cảm thấy kỳ lạ mà không biết hai đội quân này chính là đội quân thiết kỵ và mạch đao danh trấn Tây Vực của Dương Hạo. Nước Liêu cũng nổi tiếng về kỵ binh, lần này Dương Hạo quyết tâm Bắc phạt, sao có thể không đem theo thứ vũ khí mạnh hơn họ một bậc này.

    Vừa mới đăng cơ đã ngự giá thân chinh, hơn nữa còn lên ngôi bằng phương thức thiền nhượng vậy là đã dám bỏ kinh thành lại đằng sau lưng, điều này thể hiện tự tin có thể khống chế đế quốc Đại Tống của Dương Hạo, cũng khiến cho thần dân thiên hạ thấy được khí phách của hắn.

    Triệu Phổ, Lô Đa Tốn, Đinh Thừa Tông ở lại để duy trì việc triều chính. Triệu Phổ và Lô Đa Tốn vốn là tể tướng của nước Tống đối với cơ cấu chính trị quốc gia cũng như quan lại trên dưới đều nắm rõ như lòng bàn tay. Trong hai người họ bất cứ một người nào ở lại cũng đủ để duy trì sự vận hành bình thường của đất nước huống hồ là cả hai người. Trước đây giữa hai người cũng có tranh quyền đoạt lợi, đấu đá lẫn nhau nhưng ít nhất hiện tại bọn họ tuyệt đối sẽ đồng tâm hiệp lực, cùng duy trì tốt sự vận hành của đất nước.

    Trong thời gian đầu này, không thể tránh có những chức quan còn đang để trống, hai vị lão tể tướng được phục hồi chức cũ, rất nhiều cựu thần cũ vì có liên quan tới họ mà bị bãi chức nay cũng được phục chức lại. Những người này được phục chức dưới tay Dương Hạo đương nhiên sẽ phục vụ Dương Hạo.

    Dương Hạo giao đất nước vào tay hai vị tể tướng cũ cho thấy sự tín nhiệm đối với họ. Hành động này một mặt khiến cho văn võ bá quan yên lòng, một mặt có thể nhanh chóng ổn định cục diện khôi phục lại trật tự, cũng khiến hai vị tể tướng bắt buộc phải xây dựng lại bè phái.

    Dương Hạo lên ngôi chưa lâu nhưng đã bắt đầu vô thức sử dụng đế vương tâm thuật. Cái gọi là đất nước không kết bè kết phái, quan lại trên dưới không ai quan tâm tới thượng cấp mà một lòng trung thành với hoàng đế, Dương Hạo tuyệt đối không có cách nghĩ ngây thơ đáng buồn cười đó. Làm thủ lĩnh bấy lâu hắn đã dần dần ngộ ra rằng, không chia bè kết phái là điều không thể, có bè phái không có cái lợi ngắn hạn nhưng lại có cái lợi lâu dài. Tiếp tục vận hành như vậy chẳng bao lâu hai vị lão tể tướng đồng bệnh tương lân sẽ ngày càng phụ thuộc vào hắn.

    Còn Đinh Thừa Tông ở Biện Lương nhiệm vụ chủ yếu là trấn an Ba Thục, lôi kéo nghĩa quân Vương Tiểu Ba, ngoài ra thì vai trò duy nhất của hắn là khiến Triệu Phổ và Lô Đa Tốn có phần kiêng dè mà làm việc chăm chỉ.

    Lý Kế Long đã dâng tấu thể hiện lòng trung với Dương Hạo, tuy là có muộn hơn so với các quan viên khác.

    Triều đình đã đổi chủ, hai vị tể tướng tiền triều đều quy thuận Dương Hạo, Triệu Nguyên Tá cũng bố cáo thiên hạ tuyên bố nhường ngôi, địch quân phía Bắc lại áp sát giương mắt hổ lên mà nhòm ngó, đứng ở vị trí của Lý Kế Long tuy là tay nắm trọng binh nhưng thực sự là vô cùng xấu hổ.

    Tin truyền ngôi ở Đông Kinh truyền đến chưa lâu thì hắn nhận được thánh chỉ của Dương Hạo, khen ngợi biểu hiện của hắn trong trận đánh với quân Liêu, còn ban thưởng, đề bạt hắn làm thái tử Thiếu Bảo, lệnh cho hắn tiếp tục trấn thủ biên ải, đợi đại quân của triều đình tới cùng hợp lực mà phản công quân địch.

    Tiếp theo thì thư của Tào Bân, Phan Mỹ và một số hảo bằng hữu trong quân cũng lần lượt được gửi đến chỗ hắn. Sau đó thì người nhà của Lý gia tới, biết được tỷ nô vẫn là thái hậu, uy quyền nhà họ Lý vẫn không hề bị giảm sút. Đứa cháu hoàng đế vô dụng kia tuy bị phế truất nhưng cũng được phong làm Hạo Vương, thông thường mà nói, được phong đến công tước đã là đủ rồi, phong đến chức vương quả thật là gia ân.

    Lý Kế Long cũng là người sáng suốt, nhưng đối mặt với tình huống này cũng không biết nên làm thế nào?

    Muốn làm phản? Hắn có thể đi đâu, trừ khi là đầu quân cho bắc triều. Huống hồ tuy hắn không biết Tào Bân, Phan Mỹ đồng thời với việc gửi thư cho hắn thì đã dặn dò tâm phúc nếu như hắn có ý làm phản thì lập tức giết bỏ. Nhưng cũng biết bản thân mới trở thành thống soái, chưa có căn cơ gì trong quân đội, hắn là thần tử của hoàng thượng, trong tay cầm là ấn soái tướng sĩ đương nhiên là nghe lệnh hắn, nếu như hắn làm phản sẽ có bao nhiêu người nguyện đi theo hắn, đó cũng là một vấn đề.

    Lúc này kẻ địch trước mặt của Lý Kế Long chính là quân chủ lực của Da Luật Hưu Ca, áp lực mà hắn phải chịu quả thật không nhỏ.

    Dương Hạo ngự giá thân chinh, chẳng bao lâu nữa sẽ tới, những tướng Đại Tống như Tào Bân, La Khắc Địch, cùng với ba tướng của Tây Hạ là Thác Bạt Hạo Phong, Trương Sùng Nguy, Ngải Nghĩa Hải đã tới Nhạn Môn Quan, Dương Hạo thân chinh đem theo các tướng Dương Kế Nghiệp, Đồng Vũ, Lý Hoa Đình cùng đội kỵ binh và cấm quân do Phan Mỹ thống lĩnh.

    Dương Hạo vẫn còn nhớ, trong lịch sử. Dương Kế Nghiệp tại trận Nhạn Môn Quan chủ động xuất binh dụ địch, kết quả trúng phải mai phục của quân Liêu mà mất mạng, Phan Mỹ thân làm chủ soái sau khi đến giờ đã hẹn mà không thấy Dương Kế Nghiệp trở lại đã ra lệnh rút quân, từ đó mà bị oan. Cuốn "Dương gia tướng diễn nghĩa" của người đời sau đã biến Phan Mỹ từ một danh tướng khai quốc trở thành một kẻ cơ hội thăng tiến nhờ quan hệ, chuyên hãm hại trung lương.

    Dương Hạo tuyệt đối không hy vọng dẫm phải vết xe đổ đó, luận đến phong cách dùng binh, không ai có thể bì kịp Tào Bân. Cho nên hắn phái Tào Bân đi Nhạn Môn Quan, còn mình thì đích thân cũng với hai tướng còn lại đánh tới Bôn Đông thành.

    *

    * *

    Về phía Liêu Quốc xem ra không khí vẫn rất nhộn nhịp, đầu tiên là đại thắng đánh cho ba mươi vạn đại quân Tống không còn manh giáp, sau đó thì đến hoàng đế của nước Tống ngự giá thân chinh cũng chết trên đường tháo chạy. Tin tức truyền đến, cả nước Liêu vô cùng phấn chấn, ca hát gõ trống ăn mừng.

    Người Hán ở U Vân mười sáu châu còn sáng tác một bài hát, chế giễu quân Tống lúc tới thì khí thế ầm ầm, mà lúc về trốn chui như chuột chạy.

    Những người Hán đó sống ở Bắc triều đã lâu, lão bách tính ai cho họ cuộc sống an lành thì họ sẽ bảo vệ người đó, những thứ như quan niệm dân tộc chẳng thể coi như cơm mà lấy ra ăn, cũng chẳng đem lại lợi lộc gì. Bọn họ không quan tâm hoàng đế họ Triệu hay họ Da Luật, hoặc những người đọc sách lúc ngâm thơ ngắm trăng cứ lôi cố hương minh nguyệt ra mà nói nhưng đến lúc nước sôi lửa bỏng lại chẳng thấy đâu. Hiện giờ Bắc triều đối xử với họ không tệ, chính trị rõ ràng, địa vị của người Hán cũng ngày càng nâng cao. Cũng có khoa cử, cũng có thể vào triều làm quan, luật pháp cũng nghiêm cấm chuyện kỳ thị người Hán, bọn họ còn có gì không thỏa mãn?

    Ngày tết ở Liêu Quốc, Tiêu Xước lập tức luận công ban thưởng, có tội thì phạt, thưởng phạt phân minh. Tiếp theo quân Liêu thừa thắng xông lên, Tiêu Xước đích thân dẫn theo ấu chúa tới Nam Kinh U Châu đôn đốc chuyện vận lương, trận tiền nghênh địch thì giao cho Đại Vu Việt Da Luật Hưu Ca, thể hiện ý chí nhất định phải báo thù người Tống thậm chí là đánh chiếm cả phía Nam.

    Còn về phía Thượng Kinh, trải qua mấy bận thanh trừ đẫm máu, lại đang vào dịp tết, bà ta không nghĩ ra còn có thể xảy ra chuyện gì, còn có vấn đề gì nữa chứ? Mấy năm nay giết người còn ít hay sao? Ai còn có cam đảm mà ra mặt, toàn bộ tinh lực của nàng ta đều đặt cả ở phía trước.

    Da Luật Hưu Ca ở phía trước cũng đang phấn chấn tinh thần, dốc hết tâm sức. Đại trượng phu xây dựng đại nghiệp lưu danh sử sách, ngày hôm nay nếu không nắm lấy cơ hội thì còn chờ lúc nào?

    Da Luật Hưu Ca điều binh khiển tướng, tiến công dần từng bước, cũng lúc này cận vệ quân, Hàn Lỗ Đóa quân và Thiết Lâm quân cũng tập hợp tinh nhuệ tạo thành một đội quân chủ lực hơn tám vạn người, trở thành quân tinh nhuệ nhất sẽ trực tiếp đánh bại quân Tống. Lý Kế Long lui về trấn thủ Định Châu, cho quân chặn các ngả. Quân trấn thủ Định Châu chỉ có hơn mười vạn người, hầu hết đều là bộ binh, cũng có một đội kỵ binh, quân trang phòng bị còn tốt hơn Thiết Lâm quân của quân Liêu nhưng đội quân này của Tống quá ít, đây có thể coi là đội kỵ binh chủ yếu của Tống, tính cho tròn thì cũng chỉ có một nghìn người.

    Lý Kế Long luôn tìm cơ hội phản công, sau khi nghe được tin Dương Hạo ngự giá thân chinh, hắn liền từ bỏ ý định tiến công toàn lực phòng thủ, đợi quân chủ lực của Dương Hạo. Nhưng trong chiến trận, từ bỏ mảnh đất nào, tử thủ mảnh đất nào, nhất định chiếm được mảnh đất nào cần phải suy nghĩ cẩn trọng. Tuy trông có vẻ như rất tùy tiện nhưng thật ra tất cả đều nằm trong kế hoạch chuẩn bị phản công.

    Uy danh của hắn không phải được xây dựng trên nền của thành công mà là trên nền của thất bại. Một trận đại bại, quân Tống hoàn toàn đổ vỡ, bỏ chạy khắp phía, duy chỉ có quân của hắn và La Khắc Địch là không bị rối loạn, hơn nữa còn có thể lợi dụng địa hình để mai phục, yểm hộ cho đại quân rút lui, tránh được thương vong, từ đó mà thành danh.

    Nhưng sau đó Lưu Đình Nhượng trúng kế bị mai phục, hắn lại "thấy chết không cứu", ngược lai nhất định lui binh khiến quân của Lưu Đình Nhượng bị tắm máu, cuối cùng Lưu Đình Nhượng chỉ dẫn được mười mấy kỵ binh chạy thoát. Tuy hắn dâng tấu giải thích rằng không lâu sau các binh sĩ trốn thoát lần lượt bẩm báo có chứng cứ rằng Da Luật Hưu Ca đích thực là lấy Lưu Đình Nhượng ra làm mồi nhử để dẫn đại quân vào mai phục, được Lưu lão tướng quân lượng thứ nhưng trong lòng Lý Kế Long vẫn rất khó chịu.

    Hắn hy vọng có thể thắng một trận, đánh bại Da Luật Hưu Ca để trả thù rửa hận.

    Phát binh từ Biện Lương, Dương Hạo tới Nhạn Môn Quan sớm hơn Tào Bân một bước, sau khi dựng trại thì cho gọi Lý Kế Long tới bàn đại sự. Lý Kế Long sau khi sắp xếp ổn thỏa chuyện phòng ngự ở Định Châu, chỉ dẫn theo mười mấy thân binh cưỡi ngựa đến tham kiến tân hoàng đế.

    Đến trước doanh trại nhìn thấy cờ bay phấp phới, quân doanh kéo dài đến mười dặm, đại quân hùng hậu, Lý Kế Long bất giác phấn chấn vô cùng, đặc biệt trong quân đâu đâu cũng nhìn thấy tuấn mã to lớn khiến hắn không thể dời mắt. Tự đáng thương cho chức quốc cữu của hắn, nắm quân tinh nhuệ ngoài biên cương vậy mà kỵ binh chỉ có chưa tới một nghìn, giờ nhìn khung cảnh trong doanh trại vạn mã kêu hí hoành tráng biết chừng nào. Như thế này thì không bao giờ còn phải lo về chuyện thua kém ngựa chiến so với quân Liêu nữa.

    Lần đầu tiên gặp Dương Hạo trong lòng Lý Kế Long rất thấp thỏm, hắn chậm trễ dâng tấu thể hiện lòng trung lại mang thân phận quốc cữu của cựu vương, không biết vị quan gia này sẽ có thái độ thế nào với hắn. Tuy nhiên thái độ của Dương Hạo khiến mọi nghi hoặc của hắn lập tức tiêu tan. Dương Hạo tuy không ra khỏi trại đón hắn, nhưng sau khi gặp thì thái độ hòa nhã. Vừa rồi nhìn thấy khí thế đại quân của Dương Hạo lại nhìn thấy Phan Mỹ cũng ở đó, Lý Kế Long hoàn toàn không cho rằng đây là kế hoãn binh không muốn lâm trận đổi tướng của Dương Hạo.

    Hắn ở Định Châu, quân chẳng qua chỉ có hơn vạn người, coi là tâm phúc lại chẳng có ai, với quân đội hùng mạnh của Dương Hạo căn bản không cần kiêng kỵ chuyện lâm trận đổi tướng.

    Cho dù có kiêng kỵ thì cũng phải xem đối phương là ai, nếu như muốn giải quyết hắn thì chỉ cần để Phan Mỹ ra tay. Dựa vào uy tín bao nhiêu năm qua trong quân đội của Phan Mỹ, thống lĩnh cấm quân biên ải, tuyệt đối tốt hơn hắn, hơn nữa còn không làm ba quân mất đi sĩ khí.

    Giờ nhìn thấy thái độ chân thành của Dương Hạo tất cả sự dè chừng của Lý Kế Long đều biến mất, trở nên thoải mái hơn, chúng tướng cùng nhau thảo luận việc quân, Lý Kế Long đem tình hình địch quân ra thuật lại chi tiết, không sót tiểu tiết nào.

    Sau khi thuật lại xong tình hình quân địch, Lý Kế Long nói: "Quan gia, quân Liêu trước nay ỷ vào kỵ binh hùng mạnh, di chuyển thần tốc, bắt nạt bộ binh chúng ta chậm chạp, khiến chúng ta chỉ có thể lấy trận pháp để nghênh địch. Lúc nãy thần vào doanh nhìn thấy quân ta chiến mã vô số, giờ công thủ đều dễ dàng, thần xin làm tiên phong, dẫn quân đánh bại bắc triều".

    Dương Hạo sau khi nghe tả lại tình hình quân địch, thì trầm ngâm suy nghĩ, nghe hắn xin được ra trận thì nhẹ nhàng lắc đầu nói: "Khanh gia, nghe ngươi nói về động tĩnh của quân địch, thì chúng vẫn luôn tiến quân từ từ. Cho dù mấy ngày trước triều ta cử hành nghi lễ truyền ngôi thì cũng không có hành động gì bất thường?".

    Nói đến truyền ngôi, Dương Hạo rất thản nhiên, Lý Kế Long ngược lại có chút không tự tại, hắn hơi bối rối gật đầu nói: "Đúng là như thế".

    Mặt Dương Hạo thoáng qua chút kỳ lạ, lẩm bẩm: "Lẽ nào... Trung Nguyên có biến, Bắc triều vẫn chưa biết?".

    Lời vừa nói ra, Dương Kế Nghiệp và Phan Mỹ đều giật mình, Lý Kế Long sau một hồi kinh ngạc cũng tỉnh ngộ ra, hai mắt lộ ra vẻ rạng rỡ: "Cơ hội, có vẻ đã đến rồi!".

    Đồng Vũ nhíu mày ngập ngừng hỏi: "Có thể như vậy sao? Việc lớn như thế, Bắc quốc giờ lại chưa có động tĩnh gì?".

    Dương Hạo đáp: "Phản ứng của người Liêu đến nay, trẫm chỉ có thể phỏng đoán thôi, còn chân tướng thực sự, có lẽ chưa thể biết được Bắc triều có cho rằng việc thay vua đổi chúa sẽ ảnh hưởng lớn đến chiến cục biên ải hay không, tuy nhiên... Nếu đã có khả năng đó, ta sẽ thử xem sao".

    Hắn cũng thực quá tin tưởng vào phán đoán của mình, quay lại phía Lý Kế Long hỏi: "Phía nước Liêu, tình hình ra sao rồi?".

    Lý Kế Long đáp: "Mấy ngày này, thần đã giáp đánh với người Liêu hơn mười trận, còn tình hình của chúng, thần thực không nắm rõ. Xét từ tình hình thăm dò được, quân chủ lực của người Liêu ở Định Châu khoảng hai mươi vạn, chủ soái là Da Luật Hưu Ca. Từ những lần giao chiến trước, nhìn cờ hiệu xuất ra của địch ta có thể biết, tướng lãnh thống binh còn có Hàn Khuông Tự, Tiêu Can, Da Luật Ngân Đức, Tiêu Thát Lẫm...".

    Dương Hạo "ừm..." một tiếng rồi lại hỏi tiếp: "Vậy phía Thượng Kinh nước Liêu tình hình thể nào?".

    Lý Kế Long hơi chút kinh ngạc, thầm nghĩ: "Ta là tướng trấn thủ biên ải, có thể thăm dò được tình hình cơ bản của địch trong thời gian ngắn như vậy là đã tận sức lắm rồi. Phía Thượng Kinh nước Liêu tình hình ra sao, ta sao biết được chứ?".

    Mặc dù trong lòng kinh ngạc nhưng Lý Kế Long vẫn đàng hoàng đáp: "Sau khi rút binh, thần đóng quân tại biên ải, điều binh khiển tướng cốt ngăn chặn địch xâm phạm, nên không dám lơ là chiến sự, còn về tình hình Thượng Kinh thần không thể biết được".

    Dương Hạo mỉm cười nói: "Ngươi không biết nhưng trẫm lại biết, thái hậu và hoàng đế nước Liêu đã đích thân đến U Châu trấn thủ Nam Kinh, đôn đốc Da Luật Hưu Ca chiến đấu".

    Lý Kế Long kinh ngạc: "Nói vậy, lần này Bắc triều đã cho là thật, không nghĩ là chỉ phản kích đơn thuần nữa rồi, họ muốn U Châu đại thắng, lại muốn xuất quân đánh một trận đại chiến. Thần vốn dự tính, đợi khi mưa tuyết nặng hạt, Bắc triều sẽ trì hoãn thế tấn công, Liêu đế đích thân tọa trấn Nam Kinh xem ra khó mà hữu hảo được".

    Dương Hạo gật đầu, trong lòng đã đoán định được phần nào. Lý Kế Long không hề biết Tiêu thái hậu đã tới U Châu, như vậy Da Luật Hưu Ca không biết Triệu Nguyên Tá vừa đăng cơ đã nhường ngôi hoàng đế, tiếp đó Dương Hạo hắn không ngừng mà tiến quân thẳng tới biên ải, chuyện đó cũng không phải không có khả năng.
     
  9. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 629: Lương tử bên bờ cao lương
    Nếu cẩn thận tính toán, Triệu Nguyên Tá đã nhường vị và Tiêu thái hậu trú chân tại U Châu, tiếp sau đó quân binh nước Liêu tiến quân về phía nam càng ngày càng nhiều, bại binh nước Tống và trú quân vốn có ở biên ải tập chung lại cộng thêm viện quân hậu phương không ngừng viện trợ. Như vậy vùng biên giới nối Ngõa Kiều quan đến Nhạn Môn quan bị vây kín từ đông sang tây, quân Tống sẽ như lâm đại địch, phòng ngự nghiêm ngặt, kiểm tra từng người đi lại, đến mức chim bay cũng khó lọt.

    Hơn nữa phòng tuyến này không có rùng rậm núi cao như vùng Lũng Hữu Hà Tây, mật thám đi dò xét có thể trèo đèo lội suối để tránh nơi quan ải. Ở nơi chiến tuyến này lại chỉ có thể dựa vào vài con sông nhánh rộng, nhưng quân doanh đóng trại dày đặc men theo mép sông, thuyền bè nhất loạt đều bị quản chế, đường cầu cũng bị phong tỏa, trên bờ lại đầy quân binh và dân tráng ngày đêm không ngừng tuần tra, quân Liêu có muốn cài gián điệp thông báo tin tức về cũng thực là việc không hề dễ dàng.

    Dương Hạo chỉ suy tính đến việc gián điệp hai nước Liêu Tống đưa tin báo sẽ gặp khó khăn lớn trong tình hình đó. Có thể sẽ đẫn đến tin tức bị ngắt đoạn hoặc tin báo chậm chạp chứ không nghĩ đến việc vào cái thời đại này, chưa hề có kẻ thống trị nào đặc biệt quan tâm đến công việc thám báo như hắn, không tiếc bỏ ra số của cải lớn để lập nên một cơ cấu thám báo rộng lớn trải khắp thiên hạ. Đặc biệt lại dựa theo điều kiện thám báo thời này mà sáng tạo ra cách đưa tin bằng bồ câu cốt để phục vụ cho triều chính. Đây thực là việc xưa nay chưa từng có, chỉ mãi đến thời Minh, mới xuất hiện đội quân cẩm y vệ danh tiếng lẫy lừng, năng lực thám báo của họ mới thực sánh bằng cơ cấu do thám của Dương Hạo.

    Ở thời bấy giờ, công việc tình báo của hai nước Tống Liêu cũng không mấy phát đạt. Tống Liêu chỉ lập ra một hoàng thành ti, tên gọi đó cũng chính là nhiệm vụ của chức quan, chủ yếu dò xét phạm vi ở một địa phương. Triệu Quang Nghĩa sau khi bị Dương Hạo lừa mấy lần chỉ do tin tức nhận được quá chậm chạp mới bắt đầu tiến hành tăng cường thu thập tin tình báo ở nam tuyến, về phương diện này nước Liêu lại kém hơn hẳn. Nước Liêu vốn không có binh chức chuyên làm nhiệm vụ gián điệp, những nội gián mà họ cử đi thăm dò đa phần là tướng lãnh, binh tướng dưới quyền được quan lớn phó thác, chỉ định đặc biệt đi làm một nhiệm vụ do thám nào đó.

    Họ trải qua thời gian dài làm nhiệm vụ nên có thân phận quan trọng nhất định đối với nước Liêu, sứ mệnh họ đảm nhiệm dường như chỉ có một, hoặc là do thám một tướng lĩnh, quan viên nước Tống hoặc lợi dụng thân phận yểm trợ, âm thầm vận chuyển những vật phẩm nước Liêu cần gấp thậm chí là những vật phẩm xa hoa cao quý cho bậc quyền thế sử dụng, rồi thì thông báo những tư tin tình báo lâu dài như các phương diện thiết lập quân sự, kinh tế, chính trị chứ họ không được huấn luyện hay chuẩn bị năng lực tình báo nhạy bén. Lúc này, nước Tống đã phát hiện ra sự thay đổi to lớn, còn nước Liêu lại hoàn toàn không biết.

    Trong tình thế đó, nếu đặt vào thời kỳ mà mọi sự đều dựa vào tình báo rồi mới đánh trận này, sẽ làm cho người ta khó hiểu nổi, nhưng ở thời bấy giờ là rất bình thường. Từ thời Trương Nghĩa phất cờ nổi dậy, Đôn Hoàng quy thuận nghĩa quân cùng tiến về đông, đánh chiến tới mười một châu của Hà Tây, vương quốc Thổ Phồn sụy đổ, cũng quy thuận nghĩa quân đánh đến gần Hạ Châu, lúc ấy triều đình Đại Đường tọa trấn Trường An ngay đó lại không hề hay biết. Mãi cho đến hai năm sau, Trương Nghĩa phái sứ thần đến Trường An, triều đình Đại Đường biết tin mới vô cùng thất kinh.

    Hoặc thời triều Đường thống trị Khuỳnh quốc xưng với triều Đường làm thần quốc, sau khi Đại Đường bị tiêu diệt hơn năm mươi năm sau, các nước chư hầu cùng tồn tại, triều đình không ngừng bị đổi phiên, vua trong chốc lát thành vị dân thường thì họ vẫn không hay biết gì, vẫn cho rằng Trung Nguyên là thiên hạ của Lý Đường. Bởi vậy, hai cực khác nhau, có thể thấy tin tức thời đó thực quá bị bế tắc, tình báo yếu kém quá mức. Triều đình nhiều nước xem nhẹ việc này, khác hẳn so với các quân quốc thời Xuân Thu chiến quốc.

    Nước Liêu cũng bố trí tai mắt do thám nước Tống nhưng không phải là nội gián tài giỏi gì, họ chỉ biết làm theo sứ mệnh được giao phó, không hề y thức được việc chính cục thay đổi, Biện Lương nhường vị sẽ có liên quan mật thiết tới chiến cục biên ải, hoặc họ y thức được điều đó nhưng vì biên ải canh phòng nghiêm ngặt, mọi địa đạo đều bị phong tỏa nên không có cách nào truyền tin đến Bắc quốc, thế nên họ cũng trở thành vô dụng.

    Nếu men ra biển hoặc đi vòng Nhạn Môn quan từ phía Tây, đi vào nội địa hoang vắng của Tây Hạ rồi phản hồi nước Liêu thì sao? Không có tiếp ứng, không thông địa lý, thêm vào đó quân binh tuần tra các châu lại nghiêm ngặt, mà trong thời kỳ xã hội nông nghiệp, có đợi được họ đi vòng về báo tin cũng rất khó khăn, báo được tin cho chủ nhân thì cũng đến năm thìn bão lụt rồi. Vậy nên Da Luật Hưu Ca tới giờ vẫn cho rằng Triệu Nguyên Tá đương ngự đế, không hề hay biết sự biến đổi to lớn này.

    "Trận đánh bên sông Cao Lương, chúng ta trúng kế của Da Luật Hưu Ca lãnh thất bại thảm hại. Nay nếu trẫm đoán không lầm, chúng ta có thể đoán rằng, binh thế Bắc triều đương kiêu ngạo mình lớn mạnh, có thể đánh một trận làm giảm nhuệ khí của địch! Dùng kế của kẻ địch đánh lại chính địch!". Dương Hạo khẳng định.

    Dương Kế Nghiệp ngẫm một lúc rồi nói: "Quan gia nói như vậy cũng rất có khả năng, nhưng đây chỉ là suy đoán của chúng ta, kế đó thực không khả dụng, cũng không thể hoàn toàn dựa vào kế đó được. Ta nên chuẩn bị hai kế sách, nếu chứng minh được Bắc triều sớm đã biết động tĩnh nước ta và chúng sẽ không trúng kế thì có thể lập tức thay đổi đối sách, theo khuôn tắc mà đánh thắng một trận".

    Dương Hạo nói: "Nên làm như vậy...".

    Hắn xem chừng đã hiểu ra, mỉm cười đáp: "Được thôi, vậy cứ dựa theo cách nghĩ đó, còn hành động thực tế như nào sẽ do ba người Phan tướng quân, Dương tướng quân và Lý tướng quân nghị định, trẫm chỉ yêu cầu các khanh phải nhanh chóng, chậm tức sinh biến!".

    Thật nực cười, bên cạnh có Phan Mỹ, Dương Kế Nghiệp lại thêm cả chiến thần Lý Kế Long. Tuy Lý Kế Long mới xuất đạo, kinh nghiệm chiến trận ít ỏi, nhưng lại kiệt xuất hơn bất cứ tướng lĩnh tài giỏi nào bấy giờ bao gồm cả Da Luật Hưu Ca nước Liêu. Ba tướng lãnh kiệt xuất như vậy nhưng bây giờ mới dần danh nổi chót vót, có hai tướng Phan Dương sẽ luôn nắm được toàn cục, không cần lo lắng Lý Kế Long sẽ bồng bột mà gây sơ xuất gì.

    Nếu đã như vậy thì cần gì vị hoàng đế như hắn chế định chiến thuật như làm trò cười vậy. Nếu hắn lúc nào cũng vung chân múa tay can thiệp, các triều thân có thể sẽ không nghe theo, không cẩn thận lại trở thành Triệu Quang Nghĩa thứ hai. Sách lược đương nhiên phải chuyên chú, nếu dưới tay đã có nhân tài như vậy chi bằng cứ giao cho họ là được. Nếu đánh không thắng thì có đích thân ra tay cũng vô dụng. Kẻ khác nghi ngờ người mà không dùng, mà việc dùng người là bất nghi. Dương Hạo lại sớm đã định luận được năng lực của họ, đương nhiên biết làm một quân chủ nới tay lòng vòng.

    Phan Mỹ và Lý Kế Long không biết tâm ý của hắn, thấy quan gia tín nhiệm như vậy không khỏi cảm kích vô cùng, đâu dám có ý đồ nào khác, chỉ biết có cúc cung tận tụy. Trong chốc lát, một sách lược đã được ba vị minh tướng nhanh chóng vạch ra.

    Lúc này, ngoài doanh trướng mưa tuyết rơi vài hạt...

    Tuyết rơi nhè nhè từng hạt như từng mảnh ngọc vụn nhẹ bay. Sáng sớm, Da Luật Hưu Ca đã chọn ra tám vạn kỵ binh tinh nhuệ lệnh cho họ vượt qua sông Đường, bày trận thế phía ngoài thành Định Châu, mắng nhiếc khiêu chiến.

    Công thành không phải là sở trường của quân Liêu, qua mấy năm đầu chiến trận ở Ngân Châu, trong hoàn cảnh Chiết Tử Du và Chiết Duy Chính tiến binh công thành, họ đã bước đầu học được thuật công thành hiệu quả bằng khí giới của người Hán, ít nhiều cũng học được công thuật. Tuy nhiên, họ không thể tạo ra vũ khí giống như những khí giới công thành mà Dương Hạo sử dụng. Lần này quân Triệu Quang Nghĩa thua một cách nhanh chóng, vũ khí họ tạo ra đều vứt dưới chân thành U Châu, không kịp đem tiêu hủy. Quân Liêu lại khoái mã xâm phạm phía nam, lúc bị cản trở tại biên ải, đột nhiên nghĩ đến những binh khí mà Triệu Quang Nghĩa vứt lại sẽ hữu dụng cho mình, quân Liêu lập tức sai người vận chuyển số binh khí đó từ hậu phương tới.

    Ban đầu, Triệu Quang Nghĩa vì muốn nhanh chóng đến thành U Châu, liền dùng kế dụng nguồn tại chỗ, vừa công thành đánh viện quân, vừa nỗ lực ngày đêm chế tạo ra các loại binh khí như vậy. Bây giờ việc khó khăn lại là làm sao vận chuyển những binh khí đã lắp thành vừa nặng vừa to như vậy đến. Nay số vũ khí đó vẫn đang trên đường đưa đến, nhưng phải tới hai mươi mấy vạn quân đóng hạ, hao tổn biết bao quân lương nên không thể vừa làm vừa chờ như vậy được. Da Luật Hưu Ca mỗi ngày đều đem quân khiêu chiến trước cửa ải, không hề ngừng nghỉ. Nếu mỗi lần khiêu chiến quân Tống đều treo thẻ bài miễn chiến lên thì nhuệ khí quân Tống vừa mới bại trận xong lại càng thêm phần giảm sút, khi quân Liêu vận khí giới đến, quân Tống sẽ sợ đến mức chẳng còn tinh thần mà chiến đấu. Da Luật Hưu Ca tin tưởng Lý Kế Long là người thông minh, trong cảnh quân binh đại bại, đến hoàng đế cũng sợ mà trốn mất tăm hơi, Lý Kế Long lại vẫn có thể trấn tĩnh chỉ huy thoái binh như thường, cố gắng giảm thiểu tổn hại tới mức nhỏ nhất. Da Luật Hưu Ca cứ tin tưởng rằng, đây thực là kình địch, phải đánh cho hắn thua tới mức mất hết nhuệ khí, không còn chút dũng khí chiến đấu nào.

    Nhưng Lý Kế Long cũng đoán được phần nào ý đồ của hắn, nên không chỉ tiến hành bế quan ngự phòng mà còn thường xuyên tổ chức một số hội chiến, vẫn sử dụng trận pháp sở trường của quân Tống, trận pháp ngự địch, tức chủ định chỉ thủ không công. Nhưng thế thủ này ít nhiều cũng làm tăng nhuệ khí chiến đấu của quân binh hơn việc phòng ngự ở thế bị động bó buộc trong quan ải.

    Hôm nay, gió lớn, cờ hiệu bay phất phới, gió rít lên như có sấm sét. Cổng thành Định Châu mở rộng cánh, quân Tống từ từ xuất thành, nhưng điều khiến người ta ngạc nhiên là, quân Tống vừa xuất thành không hề triển khai trận pháp thường dùng, chỉ chỉnh đốn đội ngũ qua loa rồi phát hiệu lệnh chủ động tấn công quân Liêu.

    Cơ sự này làm cho Da Luật Hưu Ca kẻ vốn lười biếng ngồi phía hậu trận phải đứng bật đậy, kinh ngạc mà nhìn về phía đối diện, chỉ thấy đội kỵ binh tinh nhuệ của quân Tống tiến bước tiên phong, tấn công mãnh liệt hướng tới quân mình, áp sát sau đó là quân chủ lực bài bố theo trùy hình. Đây không phải là giả vờ tiến quân, quân Tống thực đang liều mạng xông tới.

    "Cuối cùng cũng... Không chịu được rồi sao?". Khuôn mặt Da Luật Hưu Ca chợt hiện lên nụ cười nham hiểm.

    Phía trước, tên bắn tới như mưa, kỵ binh quân Tống cứ thế ào ạt ngã ngựa, nhưng lại không một binh nào ghì dây cương rời hàng ngũ, Điền Mẫn chỉ huy sứ Tĩnh Tắc quân liền một mình phi ngựa lên trước dẫn đầu, dùng đại thương đột phá tiễn vây, tiếp tục xông vào trận địch. Bấy giờ quân Liêu bị đánh thủng một lỗ hổng, quân Tống lập tức tấn công vào bên trong, tranh thủ phá tan trận địch, mở rộng chiến quả.

    Da Luật Hưu Ca lớn tiếng cười ha hả, quát: "Cứ để quân Tống tiến tới. Truyền lệnh, quân Bì Thất, Thiết Lâm bao vây hai cánh chặt đường lui của địch. Chúng đã dám tiến công, vậy hôm nay ta sẽ giữ xác chúng tại đây".

    Vừa nói, thị vệ liền dắt con ngựa ô sồ của hắn đến, Da Luật Hưu Ca nắm lấy dây cương nhảy lên lưng ngựa, ung dung ngồi yên vị rồi cầm lấy thanh đại thương, hung hăng chỉ tay về phía trước. Một thương này hắn giơ lên như vượt qua cả thiên binh vạn mã, dường như đang trực tiếp đâm thẳng mũi nhọn đến thân người của tướng lĩnh phía địch, hai chân hắn đạp một cái, vó ngựa vụt lên phi nước kiệu, Da Luật Hưu Ca nhảy sà tới như chớp, sát khí hằm hằm lao về tiền trận.

    Lý Kế Long cũng có mặt trong quân trận, Điền Mẫn lúc này thống lĩnh hơn ngàn quân tiến đánh lên trước, xé rách được trận tuyến của quân địch, còn Lý Kế Long bọc hậu, chỉ huy hơn vạn quân binh đánh tan lỗ hổng địch, chém giết vào tận lòng quân địch.

    Lý Kế Long giục ngựa cuồng nộ tiến đánh, kỵ binh Khiết Đan cứ thế ào ạt xông lên như nước Tương giang dâng trào, ánh mắt binh sĩ sắc bén như chim ưng bắt mồi, trước sau tiến quân dữ dội. Tiếng gào thét liên thanh, khí thế cường bạo như mãnh hổ, người ngựa ra sức chém giết, phía sau đó là đại thương chĩa mũi dày đặc, cứ thế từng mảng xuyên tới, đâm thẳng vào quân Liêu vừa ngã ngựa xuống đất đang nháo nhác như ong vỡ tổ.

    Giữa không trung tràn ngập tiếng gào thét, binh sĩ hai quân Tống Liêu tương tiếp, máu đổi bằng máu mà kịch liệt quyết chiến. Quân Tống lao vào trận địch, đối mặt với quân địch đông gấp tám lần mà không hề sợ hãi, điều này làm cho Da Luật Hưu Ca vừa mừng vừa sợ. Hắn kinh sợ vì không hiểu do đâu mà Lý Kế Long lại bị kích thích đến mức như vậy, gạt bỏ trận pháp vốn là sở trường của quân Tống để tiến hành đấu pháp liều mạng này, tức dám lấy ít địch nhiều. Hắn mừng vì binh lực hắn nhiều gấp tám lần địch, chỉ cần thôn tính đám quân chủ lực này thì chỗ tiểu quân thừa lại đang thủ thành đừng mơ mà giữ được Định Châu.

    Hắn cũng nghĩ đến việc liệu Lý Kế Long dùng hạ sách này có giở mưu trò gì sau đó, nhưng vừa nghĩ đến hắn đã gạt bỏ ngay qua nó. Tả ngạn Định Châu là Đường huyện, Đường huyện vốn đã rơi vào tay quân Liêu, muốn chạy thoát khỏi đây chỉ có duy nhất lối sơn cốc Gia Sơn. Hữu ngạn Định Châu là Kỳ Châu, Kỳ Châu tuy vẫn trong tay quân Tống nhưng cách xa đây tới khoảng trăm dặm, ở giữa lại là vùng đất bằng phẳng, quân Tống dù chỉ tháo chạy chưa tới mười mấy dặm cũng dễ dàng bị phát hiện, mà chúng có chạy kịp đến nơi cũng có thể làm gì được chứ? Tám vạn tinh binh của hắn đều là kỵ binh, quyền chủ động nằm trong tay, hắn muốn đánh là đánh, muốn đi là đi, quân Tống chỉ dựa vào đôi chân trần chạy bộ, lẽ nào định đi theo sau vó ngựa mà nhấm cát bụi?

    Vậy nên, trận đầu này, Da Luật Hưu Ca tiến đánh ác liệt không hề kiêng nể.

    "Giết!". Da Luật Hưu Ca vừa lao lên trước chém giết quân Tống, hắn phi thẳng bốn thanh trường thương sắc nhọn. Một nhát đâm thẳng vào cổ họng quân địch, Da Luật Hưu Ca nhanh chân đạp ngựa xông đến, đột ngột rút thương về, hắn lại lao mũi nhọn hai thanh trường thương về phía trước, trên mũi thương máu tươi vẫn đang nhỏ giọt. Tay trái hắn ra sức vung mạnh trường thương thứ ba, áp chặt thanh thương thứ tư bên hông, theo đó mà hét lớn một tiếng, mũi thương lại đâm thẳng vào lồng ngực một tiểu binh phía địch, tên tiểu binh đang định giơ đao khiên lên đỡ nhưng không kịp. Da Luật Hưu Ca người ngựa hợp nhất, thanh thương đâm tới vừa chuẩn lại tàn nhẫn vô cùng, thương đâm xuyên cả khiên, rồi lật ngược khiên lại, Da Luật Hưu Ca lập tức thu thương về rồi phóng tới. "Phốc" một tiếng máu bắn tung tóe, tên tiểu binh ngã lăn xuống bụi đất.

    Lý Kế Long trong tay một bên thương một bên đao, thương phóng giết đao trảm gần, đánh đâu thắng đó. Lúc này chợt thấy đại tướng quân Liêu đánh tới, Lý Kế Long lại không hay biết đó là Da Luật Hưu Ca người danh tiếng nổi trội mà hắn vốn từng nghe đến. Tuy nhiên chứng kiến uy phong lẫm liệt này của hắn, tả hữu hai bên xung quanh đầy hộ vệ, hắn cũng đoán biết người này không hề tầm thường. Lý Kế Long không chút do dự, liền giục ngựa vọt lên trước, dựng thẳng trường thương mà đánh tới, tay nắm chặt bảo đao, lăm lăm sát khí.

    Trên đường lao tới, hắn không biết đã sát hạ bao nhiêu Liêu binh, hai tay hai binh khí cứ thế giáng xuống bổ đôi cản binh, đến hộ vệ của hắn cũng bị bỏ lại ở phía sau.

    Lý Kế Long không hét lên tiếng nào mà hùng hổ nhào đến như mãnh hổ xuống núi, hắn phi một thương đâm hướng vào ấn đường của Da Luật Hưu Ca, sát khí lạnh đến rùng mình, Da Luật Hưu Ca nhanh tay gạt thương lên đỡ: "Choang!".

    "Keng!". Một tiếng, thanh thương bị đẩy ra, Da Luật Hưu Ca đã đỡ được kịp thời, lúc này Lý Kế Long mới hét lớn một tiếng vang trời: "Giết!".

    Lưỡi đao bên tay trái nhanh như chớp, chém thẳng vào cổ của Da Luật Hưu Ca, ánh đao vụt sáng làm người ta sợ đến hồn bạy phác tán, dáng người hắn nhanh nhẹn, ánh mắt trừng trừng lạnh lùng thực khiến địch kinh sợ. Da Luật Hưu Ca không kịp phóng thương đánh trả, hai chân kẹp chặt lấy ngựa, thân người dồn về một bên, lấy chuôi thương chặn lấy sống đao, thoát được hiểm đao mà Lý Kế Long vừa chém tới. Đao phong sắc bén bổ trúng vai hắn, giáp vai vỡ đôi, chém rách một mảng da thịt hắn, máu tươi cứ thế không ngừng chảy xuống.

    Yên ngựa bị lệch, Da Luật Hưu Ca nhịn đau mà ném thương đi, nhanh tay với lấy cung tên phía sau, liền rút tên giương luôn đây cung, dây vừa kéo căng, Da Luật Hưu Ca buông tay bắn thẳng tới phía lưng của Lý Kế Long. Lý Kế Long cũng chú ý động tĩnh phía sau thân mình, nên Da Luật Hưu Ca vừa hành động, hắn có thể lập tức ghì dây cương, phóng ngựa phi lên trước. Mũi tên lao đến chỉ kịp xuyên qua bán giáp, hắn đã nhanh chóng xoay ngựa chuyển mình, nghênh đón địch trả đòn.

    Da Luật Hưu Ca hét một tiếng lớn rồi nói: "Ta Da Luật Hưu Ca tướng lĩnh Liêu Quốc, tướng lĩnh Tống quốc ngươi là kẻ nào, hãy mau xưng tên!".

    "Thì ra là mỗ thái tử thiếu bảo, được thị vệ binh mã hầu cận, ta vốn là thủ thành Định Châu, Lý Kế Long tướng quân!".

    Da Luật Hưu Ca sáng mắt lên, nói tiếp: "Thì ra là ngươi, Lý tướng quân đã mạo hiểm mà tiến công, lẽ nào đã đi vào đường cùng khó thoát?".

    Lý Kế Long đáp: "Da Luật tướng quân nổi danh một trận U Châu, tuy đã nghe danh trí nhưng chưa từng được biết dũng mãnh cỡ nào, nay xin được lĩnh giáo!".

    Da Luật Hưu Ca cười lạnh lùng, hai bên viên tướng lại tiếp tục giao chiến, quân chủ lực nước Liêu nhanh chóng bao vây quân Tống, chém giết điên đảo mù mịt, cứ thế chiến đấu tới nửa canh giờ. Lúc này, cầu treo của thành Định Châu mới hạ xuống, cửa thành ầm ầm mở ra, từng đợt kỵ binh ào ra như ong vỡ tổ, Da Luật Hưu Ca đang trăm bề bộn chiến giờ không khỏi ngỡ ngàng kinh hãi.

    Quân Tống nếu có viện quân, hắn cũng không quá lo lắng, lúc này quân binh của hắn mạnh hơn hắn binh lực Lý Kế Long, hơn nữa đều là kỵ binh, quân Tống dù có viện quân thì cũng chỉ là đám cấm quân tiểu tốt tiếp viện, cùng lắm thì hắn bỏ qua kế hoạch thôn tính quân của Lý Kế Long. Nói chung hắn có thể tùy cơ ứng biến, có thể ung dung thoái lui. Nhưng bây giờ... Từ trong thành lao ra đều là kỵ binh, nhất loạt giáp áo đủ cả, đao thương sáng loáng, như cuồn cuộn không ngừng mà ào tới. Binh lực chia làm hai cánh, tiến sát đến vòng vây quân Liêu đang bọc quanh quân Lý Kế Long, phía trước đội quân có tiền cử một lá cờ hiệu tung bay, trên viết một chữ "Đồng", quân binh cứ thế ùa ra không rõ là có đến bao nhiêu.

    Quân Tống lấy đâu ra nhiều kỵ binh đến vậy? Sao có thể như vậy được?

    Da Luật Hưu Ca dường như không tin nổi mắt mình, nhưng tiếng hét "giết!" đinh tai nhức óc cứ thế bủa vây của đoàn binh... Lại đang hiện lên rõ rệt, mắt thấy tai nghe, đây rõ ràng không phải là nằm mơ, Da Luật Hưu Ca trên mặt biến sắc, vội vàng nảy ý thoái lui.

    Đúng vào lúc này, phía bên phải lại vang lên tiếng hò hét giáng trời, một đại quân ầm ầm kéo đến từ hướng đi Kỳ Châu, đây cũng là một đội kỵ binh lớn. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là, đoàn binh từ thành đô tới mặc giáo áo giống hệt với quân Liêu: Giáp yếm vạt trái, mũ da, đoàn binh này lại mặc giáo mũ đen. Trong tay đều cầm đại thương dài đến trượng tám, mũi thương nhọn sắc bóng loáng, cứ như thế đoàn binh rầm rập một nhịp tiến đến, khí thể hùng hổ thực làm quân địch khiếp đảm.

    "Ù...".

    Lúc này tiếng kèn lệnh rít lên, mã đội đao thương giơ cao chạy đến như cuồng loạn, khung cảnh bấy giờ tựa như rừng thương nhọn hoắt, không có trống quân nhưng lại ù ù trống trận bởi tiếng vó ngựa hung hãn làm rung động cả mặt đất. Quân binh Lý Kế Long bị quân Liêu bao vây giờ mới hoan hỉ hô lớn: "Viện binh tới rồi, quân Liêu các ngươi đừng hòng chạy thoát!".

    Quân Tống trong ngoài vòng vây đều hừng hực khí thế, tựa như long tinh hổ mãnh, quân Liêu lại rơi vào thế bị động, binh tướng cả thảy đều vô cùng kinh ngạc, đến nỗi thiết kỵ hỗn loạn không giữ vững được trận cước.

    Quân Liêu đã thua rồi, giống như Triệu Quang Nghĩa lơ là vốn tưởng đại thắng trong tầm tay lại hóa đại bại tại sông Cao Lương. Da Luật Hưu Ca cũng sẽ thất bại thảm hại như thế ở sông Tiểu Đường này.

    Quân Liêu bị đánh đuổi khỏi phía Bắc, phải liều chết chống cự, đánh lại thế phản công mãnh liệt của quân Tống để yểm hộ quân binh men theo cầu sông Tiểu Đường mà vượt sông thoát thân. Không ngờ binh mã vừa mới lội đến nửa sông thì xung quanh chợt nổi đầy cờ hiệu, một đội binh mã khác bất ngờ nhào đến tiến đánh, là binh bộ, tất cả đều là binh bộ, đây đích thị là đội cấm quân bộ chiến vô địch của nước Tống.

    Quân binh mặc áo choàng lụa, thắt lưng lụa trắng, đầu đội khăn trùm, tay chân quấn chặt sợi vải lam hoàng, tất cả đều đi giầy gai, đang nhanh chóng bày bố trận pháp mà quân Tống vẫn sử dụng. Mắt trận là một vị tướng lĩnh giáp áo chỉnh tề, uy phong lẫm liệt, bên lưng đeo một lá cờ lớn viết chữ "Phan", đây chính là Phan Mỹ tức Phan Trọng Tuân.

    "Tả quân tiến lên!".

    "Ầm!".

    Tướng lĩnh hô một lệnh, cả binh đoàn nhanh chóng chuyển động, một tiếng "ầm" nhất... [Thiếu Một Trang]

    ... Đức trong lúc cấp bách vội lấy khiên ra chắn thân mình nhưng chiến ngựa hắn cưỡi đã bị trúng vài mũi tên, lúc này lại bị bắn thêm vài mũi trước ngực, con ngựa không thể tránh nổi mà "hí" lên một tiếng, ngã lăn ra đất.

    Da Luật Ngân Đức cũng bị kéo ngã lăn xuống, suýt nữa bị thân ngựa đè gẫy chân, hắn hoảng loạn mà quay đầu lại nhìn. Lúc này quân Liêu bị bắn hạ vô số, chết không dưới hai ngàn người. Hắn không khỏi căm phẫn, hai mắt đỏ ngầu lên, vội nghiến răng nhổ mũi tiễn đang cắm chặt vào xương mình ra, gượng người cưỡi lên một con chiếm mã vô chủ gần đó rồi quát lớn một tiếng: "Đánh sâu vào lòng quân Tống cho ta!".

    "Oh đô...". Quân Liêu hò hét lớn, chân thúc mạnh vào bụng ngựa, chạy nước rút mà lao tới phía quân Tống. Chỉ cần phá vỡ tiền trận, họ có thể xé rách được vòng vây đại trận của quân Tống, mở ra một con đường sống cho tán vạn quân tinh nhuệ của quân Liêu mình.

    Thấy quân Liêu hùng hổ xông tới, Phan Mỹ đưa tay phẩy râu một cái, thúc ngựa tiến lên. Quân binh hai bên cũng vượt lên yểm trợ ngang hàng cho hắn. Đội cung thủ bấy giờ cũng lập tức giản tán, đi hướng về hai phía tả hữu. Quân Liêu lúc này không còn tâm trí đâu mà nhìn nhận hướng lui của địch, chỉ liều mình xông lên trước. Họ cũng dự biết rằng đánh lên phía trước ắt hẳn còn có thương trận dày đặc đang chờ đợi, e sẽ tổn thất mất mấy trăm người nhưng vẫn gồng mình lao đến. Họ biết chỉ như vậy mới có hy vọng chọc thủng hàng phòng ngự của địch, nhưng có điều họ lại không hề nghĩ đến, sau khi đội cung thủ rời đi, đội quân xuất hiện phía sau họ lại là một đội binh cực kỳ cổ quái.

    Mỗi người đó đều cao hơn người thường một tầm lớn, vóc người vốn lực lưỡng, lại khoác thêm bộ giáp mũ chắc chắn vừa dày vừa nặng, đứng sừng sững phía trước, giống như từng bức tường đá xây gộp vào nhau. Tiếp đó, trong tay họ cầm những thanh trượng dài tới năm thước, đao dài bốn thước, hơn nữa lại là đao hai lưỡi, binh đao sắc bén được họ giơ lên bóng loáng, áp chế cả tinh thần của địch.

    "Đây là cái gì?".

    Da Luật Ngân Đức thực có chút kinh ngạc, hắn vội nắm chặt trường thương trong tay khua một tiếng "keng" đâm thẳng vào giáp ngực một binh của đội quân quái lạ này. Một tiếng kêu rít tai kinh người, mũi thương đâm tới áo giáp gây ra một vết xước, sau đó mũi thương cực kỳ sắc nhọn của hắn lại bị trượt dài một vết trên thân giáp trơn bóng đó. Lúc này Da Luật Ngân Đức tận mắt chứng kiến một lưỡi đao vung ra chém đứt phăng đầu ngựa làm đôi, hắn vô cùng hoảng sợ: "Đây là thứ đao gì vậy? Lại lợi hại đến như vậy, sao có thể sắc bén đến mức ấy?".

    Hắn vừa đến những câu đó trong đầu, chưa kịp giải đáp đã bị vài lưỡi đao sắc đó ào ạt giáng xuống người, phanh thân hắn ra thành từng mảng thịt đẫm máu.

    "Xoạt, xoạt...".

    Lưỡi đao kỳ lạ cứ thế sáng loáng mà tiến tới, liên tiếp vung đòn như những cỗ máy nghiền lớn, nhét được cả người lẫn ngựa vào đó mà hỗn độn chém vụn ra, máu tươi bắn tung tóe. Lưỡi đao khiến cho quân địch từ xa đến gần đều hoảng loạn, sự uy hiếp đến rùng mình khác hẳn với những mũi trường thương thông thường, phương cách tấn công không chỉ là trảm đơn thuần, lưỡi đao vừa đâm sâu, vừa cắt xoáy lại thêm cả bổ và trảm.

    Đội quân này có phần ưu thế hơn quân đao truyền thống, được bảo vệ bởi lớp giáp dày, tuy động tác đánh ra chậm hơn chút nhưng trong cảnh quân địch bị bao vây hai cánh tả hữu, binh quân dùng thương và tiễn áp chế xung quanh, quân địch có nhanh đến mấy cũng không thể nào đánh lại họ, lúc này đây là một binh đội vô địch.

    Quân Liêu sợ hãi như hổ tuyết gặp lửa, bị quân Tống bao vây áp chế đến mức loạn cả quân trận, nháo nhác hỗn độn. Da Luật Hưu Ca uất hận ngụt trời, vì nhất thời khinh địch, vốn tướng địch lấy đâu ra được lượng lớn kỵ binh như vậy, lại có thêm cả một đao trận kỳ quái kiên cố đến vậy? Đường quay về bắc đã đứt, bất đắc dĩ, Da Luật Hưu Ca hắn đành phải lệnh tàn quân còn lại tiếp tục xông lên mở đường máu, hoảng loạn mà chạy trốn theo hướng tây.

    Đường huyện phía tây giờ vẫn đang do hắn nắm giữ, trước đây mấy tuần hương quân hắn vẫn đang áp đảo quân Tống, đánh cho quân Tống phải thủ thế cuộn mình, bây giờ lại phải chọn đường tháo chạy, mượn tường thành Đường huyện mà chống lại quân Tống, sau đó mới có thể mưu tính hậu kể.

    Tàn binh bại tướng cứ thế hoảng sợ mà nhắm thẳng phía tây tháo chạy, khó khăn lắm mới chạy tới soa khẩu Gia Sơn. Lúc này lại trông thấy phía trước cờ hiệu tung bay, kỳ thực sớm đã có một đội quân đợi ở đó. Tả ngạn sừng sững một đại kỳ, viết rõ một chữ "Lý", chỉ là đề chữ "Lý" nhưng không phải là cờ hiệu của Lý Kế Long tướng trấn thành Định Châu. Hữu ngạn cũng cắm một đại ky, bên dưới đại ky tung bay là một bị lão tướng hai mắt đỏ ngầu, hung tợn trừng mắt nhìn đám quân Liêu lao đến như bọn lang sói đáng hận. Người này chính là Lưu Đình Nhượng, lão tướng duy nhất sống sót còn cả đoàn quân của ông đều bị diệt sạch trong trận đánh Quân Tử quan.

    Da Luật Hưu Ca không rảnh để quan tâm hai cánh binh này là của ai, ánh mắt của hắn chỉ trực nhìn vào đám kỵ binh chính diện trước mặt. Người ngựa quân địch phía chính diện đều cao lớn hùng tráng, thân ngựa cùng một sắc, cao hơn quân Liêu hẳn một cái đầu. Kỵ binh đều mặc giáp kín đáo, giáp ngựa cũng như thế mà trùm kín, trông giống như một đám mãnh thú dữ tợn kinh khủng.

    Một áp lực vô hình cứ thế sừng sững dựng lên, vồ vập đè nặng xuống đầu quân Liêu.

    Nguy hiểm!

    Một lời cảnh báo bồng vang lên trong đầu Da Luật Hưu Ca.

    Thình thịch! Thình thịch!

    Tiếng trống trận như xé gió, lão tướng Lưu Đình Nhượng lệnh cho thương trận phía trước, tiếng hét lớn đội lên. Đội kỵ binh thân nặng khải giáp nhanh chóng gương cao đại thương, thúc ngựa tiến lên. Lúc đầu chỉ chậm rãi nhẹ nhàng, sau đó nhanh chóng tăng tốc rồi lấy đà thúc ngựa tốc hành. Cả một khoảng đất xung quanh đều bị rung chuyển, tiếng ầm ầm long trời cứ thế ập tới. Lúc này dù có Dương Hạo ở đây, hắn có quát lớn một lệnh "Thu binh" thì bọn họ cũng không dừng lại được.

    Ba mươi vạn đại quân thảm bại tại Sông Cao Lương, trận chiến Quân Tử quan tiêu diệt sạch cả một đội quân, giờ đây dưới sự chứng kiến của vô số cô hồn binh lính, những đồng quân đại trượng phu lực lưỡng đang hùng hổ xông lên phía trước uy vũ mà đòi mạng trả mạng, đổ máu một lần nữa.

    Dương Hạo vung tay hô to: "Qua sông! Qua sông!".
     
  10. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 630: Oan liễu minh, tình nan khước
    Da Luật Hưu Ca đại bại trong trận sơn khẩu Gia Sơn, tàn binh bại tướng hơn vạn người bị bao vây trùng điệp, họ vứt hết cờ trống chủ soái, toàn lực đột phá vòng vây phía tây mà tháo chạy về Đông Bắc, gắng sức trốn đến Bảo Châu.

    Lúc này, Dương Kế Nghiệp kẻ chưa hề lộ diện chiến trận đã thống lĩnh binh mã tập kích bất ngờ tại Đường huyện, chiếm lại Đường huyện và chờ đợi tin tức ở đó. Sau khi Lý Hoa Đình và Lưu Đinh Nhượng làm cho Da Luật Hưu Ca đại bại, hắn lập tức cho người đi báo tin. Biết tin Da Luật Hưu Ca thất bại, biết chắc địch sẽ chưa thể chặn đường rút lui của mình, Dương Kế Nghiệp vội xuất binh từ Đường huyện, đột chiến một trận thâu đêm, gần hai ngày trời liều mạng mới cướp được sơn nguyên Đại Mậu từ tay binh thục quân Tống.

    Chiếm lĩnh được thành trì này, quân Tống đã hoàn toàn cắt đứt mọi liên lạc của quân Liêu hai phía đông tây ở biên ải Tống Liêu, tiến vào Khắc Tây nhưng lại công Linh Khâu, đánh vào Linh Hổ ở giữa và tấn công cả Dịch Châu phía đông, tất cả đều làm bước tiến vững chắc cho cuộc phản kích này của quân Tống.

    Trận chiến này, quân Tống đã thu phục được Đường huyện, Đường Sơn, Vọng Đô và các thành trì quanh Bắc Binh, chém giết tới ba vạn bảy ngàn thủ cấp, chiếm được mấy ngàn đầu ngựa, bắt giữ mười hai danh tướng và hơn ba vạn bại binh quân Liêu, ngoài ra còn thu được vô số khí giáp và binh đao. Cũng giống như trận chiến trên sông Cao Lương, Da Luật Hưu Ca đơn giản chỉ tranh thủ một sai lầm nhỏ của Triệu Quang Nghĩa, thừa cơ đột phá và xé rách quân trận, xoay chuyển cả cục diện từ thế phòng ngự chuyển sang toàn lực phản công, nắm chắc thế chủ động. Dương Hạo cũng vậy, hắn sao có thể bỏ qua cơ hội hiếm có này chứ?

    Cuộc tổng phản công của quân Tống thực sự bắt đầu từ lúc tiến đánh ba vạn quân tinh nhuệ của quân Liêu trên sông Tiểu Đường, cuộc phản kích phát động từ đông sang tây, cả trận tuyến đều đồng loạt gương đao. Từ Nhạn Môn quan, Phủ Châu, Chúc Luân Xuyên, thậm chí cả chiến trường đông tuyến cũng nhập vào chiến đấu.

    Quân Tống trước giờ vốn công phòng nhất loạt, nổi tiếng về thế phòng ngự chắc chắn. Sau khi binh đoàn của Tây Hạ được thống nhất thành một thể, ngày đầu tiên tham trận đã huy động trận hình toàn quân công tiến. Ngày thứ hai, Dương Duyên Lãng cùng Đồng Vũ dẫn binh phát động tiến công Bảo Châu. Da Luật Hưu Ca từ lúc đánh thắng ở U Châu vẫn chưa bị đại bại thêm lần nào, quân tiên phong của hắn hùng mạnh nên mọi chiến sự đều bình ổn, hắn không khỏi sinh kiêu ngạo đắc thắng, kết quả là chuốc lấy thất bại thảm hại dưới thành Định Châu, rơi vào thế bại trận ảnh hưởng đến cả chiến cuộc. Lúc này, hắn đang rơi vào cảnh cùng đường nguy nan.

    Sau khi tháo chạy về Bảo Châu, hắn biết chắc quân Tống sẽ đuổi theo phía sau nêu lập tức bố trí phòng ngự, đồng thời tức tốc truyền lệnh đến quân Liêu các lộ, quyết định chuyển từ tấn công sang giữ thế phòng ngự toàn diện, dốc toàn lực bảo vệ thành trì đã chiếm được. Hắn cũng soạn một tấu thư, phái người phi ngựa nước kiệu đem về U Châu, vừa là để nhận tội vừa để tấu lại tình hình bất ngờ mà quân Tây Hạ hợp binh chiến trận cho thái hậu biết.

    Nước Tống nắm trong tay nhiều chiến mã, lại huấn luyện kỵ binh dụng xa như vậy, chỉ có thể giải thích bằng một cách duy nhất, từ một nguồn duy nhất. Da Luật Hưu Ca lúc đầu dẫn binh tới Chúc Luân Xuyên, từng giằng co đấu trận hồi lâu với quân Tây Hạ, hắn hiểu rõ về quân binh Tây Hạ. Cũng từng nghe qua nước Tây Hạ có tới hai đội binh giáp hùng mạnh, đao trận kỳ quái. Lúc này nghĩ lại, hắn cũng không tài nào hiểu nổi, hắn rốt cuộc đã gặp phải thứ quái lạ gì ở sông Tiểu Đường?

    Khi hắn biết tin Tây Hạ dụng binh ở Lũng Hữu, tin thám báo mới nhất hắn nhận được lúc đó là Dương Hạo đã xuất binh hướng đến Quan Trung. Trong tình hình này, nước Liêu đã chiếm được phía nam, ngoài việc thất bại ở U Châu hao tổn phần lớn nguyên khí, lại xảy ra hai việc lớn: Triệu Quang Nghĩa đột ngột băng hà, tiểu hoàng đế kế vị, nước Tây Hạ lại giao tranh trực tiếp với Đại Tống, tất cả việc này đều là cho Trung Nguyên rơi vào thế nguy nan, hai bên đều bị địch đánh phá.

    Tình thế bây giờ là thế nào vậy? Quân Tây Hạ sao lại hợp binh với quân Tống? Chúng kề vai sát cánh chiến đấu sao? Rốt cuộc Trung Nguyên đã xảy ra việc gì?

    Dương Duyên Lãng và Đồng Vũ đã dẫn binh tới chân thành Bảo Châu, không ngừng tiến công mãnh liệt. Sau khi quyết định dọn sạch vòng vây bên ngoài của địch, Đồng Vũ đích thân phô trương thanh thế tiếp tục công thành, còn Dương Duyên Lãng lặng lẽ chỉ huy quân binh rời khỏi Bảo Châu, chuyển sang tấn công các huyện trấn xung quanh vốn đang bị quân Liêu chiếm giữ. Đến đêm, Dương Duyên Lãng chiếm được Toại thành, lấy đây làm doanh cứ, đương nhiên doanh cứ này cũng vây chặn địch, trở thành cái gai trong mắt thành Bảo Châu.

    Da Luật Hưu Ca rất muốn nắm rõ sự việc, làm sáng tỏ mọi nghi hoặc, chỉ tiếc rằng thám báo phái đi thăm dò chiến trận không thể dò tra ra việc đại sự gì đã xảy ra phía nội bộ đối phương. Da Luật Hưu Ca đành phải truyền lệnh, phải bắt sống vài tên lính của quân địch. Đồng Vũ đang chỉ huy quân công thành, lại cố tình nới lỏng vòng vây, nên hắn dễ dàng bắt sống vài tên Tống binh. Thế nên, Da Luật Hưu Ca hắn nhanh chóng biết rõ biến sự, hiểu ra rốt cuộc thì Trung Nguyên giờ đã xảy ra chuyện gì?

    Đại sự này xảy ra ở Trung Nguyên, nhưng lại hoàn toàn bị che kín bởi vòng vây của đại quân Tây Hạ. Dương Hạo đã chặn kín nguồn tin báo, các tướng lĩnh và thủ quân biên ải nước Tống đều không hay biết gì, cho đến tận bây giờ cũng chưa chắc đã nắm rõ chân tướng sự thể. Nhưng binh quân của Đồng Vũ được điều từ Lũng Hữu đến Quan Trung, lại chuyển quân qua tam quan Biện Lương, ắt hẳn phải nắm rõ sự tình, lúc này hắn thực sự không khỏi kinh hãi.

    Nếu Đại Tống và Tây Hạ đã hợp nhất, vậy đâu chỉ binh lực tăng bội phần, khí thế chiến đấu của quân binh hung hăng ngất trời, điều đáng lo ngại là đại quân nước Tống tại Hoàng Sơn vốn đang đấu đầu với Tây Hạ sẽ trở thành quân của nước Tây Hạ, quay ngay đầu lại là công tiến quân Liêu, lúc này chỉ e mười vạn quân Liêu tại Nhạn Môn quan thực sẽ lâm nguy. Da Luật Hưu Ca hắn lập tức có một cảm giác, thế địch quá mạnh không kháng lại được, nếu chỉ dựa vào sức phòng ngự thực không đủ, muốn bảo toàn chiến cuộc, giữ chặt những châu huyện đã chiếm giữ cũng không có khả năng, bây giờ chỉ còn cách duy nhất "chủ động rút quân", rút về địa phận nước Liêu may ra mới trụ nổi thế trận.

    Da Luật Hưu Ca nghĩ vậy liền hạ lệnh toàn quân rút lui, đồng thời ra lệnh cho toàn quân trấn thủ thành tức tốc chuẩn bị, ngày đêm đột phá vòng vây địch.

    Đại quân vây thành của Đồng Vũ lại phòng ngự chủ yếu ở bắc thành. Đến đêm, Da Luật Hưu Ca mở cửa tây thành, toàn quân đột ngột xông ra công kích trận địch, tiêu diệt vòng vây trọng yếu, rồi tháo chạy hơn mười dặm chuyển hướng chạy về phía bắc. Cùng ngày đó, Phan Mỹ dẫn quân đuổi đến Bảo Châu nhưng tiếc thay, Da Luật Hưu Ca đã cao chạy xa bay. Bách tính thành Bảo Châu đa số đều được bình yên vô sự, không bị quân binh Da Luật Hưu Ca chém giết giết hại gì.

    Việc này đương nhiên là do cuộc nam tiến của quân Liêu lần này chỉ đánh nhằm chiếm lĩnh lãnh thổ nước Tống, nên không giết hại bách tính địa phương, cũng là do cách dụng binh của Da Luật Hưu Ca, không cho phép bất cứ quân binh nào làm hại hà hiếp bách tính thường dân.

    Hắn thực là một vị anh hùng quang minh lỗi lạc, nhưng vì lợi ích quốc gia đôi bên mà trở thành đối địch, thật đáng tiếc là không có duyên tương hữu.

    Dương Hạo nghe tin đó cũng lấy làm tiếc, hắn tiếc một vị anh tài dũng tướng như vậy lại về phe đối địch mình, nhưng chỉ là tiếc nuối trong giây lát, bởi hắn có cả đại sự đang chờ đợi, chiến trận là phải công đánh toàn diện. Tuy phía Chúc Luân Xuyên, Phủ Châu và Nhạn Môn quan đã giành thắng lợi nhưng cũng không được thâm nhập trận địch quá sâu. Nhiệm vụ của họ chỉ là phô trương thanh thế, kìm chế binh mã Nam Viên của nước Liêu, Dương Hạo thực chất muốn tấn công chủ yếu... là vào phía Đông Bắc.

    *

    * *

    Tại dãy Kỳ Liên Sơn, núi non trùng điệp phủ đầy tuyết trắng, nay đang là trận tuyết khai mùa đầu tiên, tuyết rơi nặng hạt vô cùng.

    Chỉ trong một đêm, tuyết trắng tích đầy mặt đất, phủ kín khắp nơi, gió bắc gào thét hất tung mù mịt bụi tuyết, cứ thế nhằm vào cổ hay những chỗ hở ra của thân người mà luồn vào, cái lạnh len lỏi cắt đa cắt thịt. Trong hoàn cảnh như vậy, mọi dấu vết trên mặt đất đều bị thổi bay hết, muốn truy đuổi một đám người chỉ có mười mấy đầu binh như vậy thực không khác nào mò kim đáy bể, nhưng A Cổ Lệ không buông tay, trong lòng nàng giờ đây đang ngụt cháy uất hận.

    Nàng mặc một chiến bào nam nhân, áo khoác màu trắng cùng với quần trắng, bên ngoài lại khoác thêm tấm choàng lông dày dặn, trên đầu đội mũ da kín mít, lưng thắt loan đao, duy chỉ lộ ra một đôi mắt to tròn vẫn đang vương đầy bụi tuyết.

    Thúc ngựa đi tới một sườn núi, nơi này tuyết rơi không nhiều, A Cổ Lệ phi ngựa lên trước đăm chiêu nhìn cánh đồng tuyết trước mặt, cánh đồng trắng mịt mờ, che phủ cả bãi cỏ lẫn sông ngòi xung quanh, tất cả đều trắng xóa, trải dài xa tít.

    Phía sau nàng là đội kỵ binh gần nghìn người, họ đều được tư trang những choàng giáp mũ áo bằng lông dày dặn. Tuy nhìn qua có vẻ rời rạc nhưng thực chất lại ẩn dấu huyền cơ, hành động cực kỳ nhanh nhẹn, họ có thể tùy biến mà hợp nhất tổ hợp ba binh thành một cùng phối hợp chiến đấu, triển khai phương cách phòng ngự.

    Phía xa, một chấm người màu đen đang lao đến, rồi lại gần, càng lại gần hơn, nhìn kỹ hơn đó là một binh một ngựa.

    Kỵ binh lập tức phi ngựa vụt lên trước, chạy vội lên sườn núi bao bọc lấy phía trước A Cổ Lệ, hung dữ mà quất dây cương, mãnh ngựa cứ thế trường hí húc móng ngựa đến mức văng mảng tuyết khắp nơi. Gió cứ thổi, vút qua làm lay động cả tấm lông mũ trên đầu A Cổ Lệ, tấm thân nàng lại giống như một bức bạch ngọc chắc chắn, đứng vững tại đó, không hề nhúc nhích.

    "Báo, thuộc hạ đã dò xét được, Dạ Lạc Hột dẫn đi hơn hai mươi kỵ binh, giờ đã chạy thoát tới bộ lạc Lộc Ngưu".

    A Cổ Lệ nhíu mày: "Bộ lạc Lộc Ngưu? Lẽ nào bộ tộc đó không biết mệnh lệnh của ta sao? Bất cứ bộ lạc nào dám thu nhận tên Dạ Lạc Hột, giết không tha!".

    "Bẩm, biết... Họ đều biết, nhưng thủ lĩnh của bộ lạc Lộc Ngưu là Thiết Ma Kha vốn kết nghĩa huynh đệ với Dạ Lạc Hột, cho nên...".

    A Cổ Lệ cười nhạt một tiếng: "Kết nghĩa huynh đệ ư? Chẳng qua chỉ là kẻ ngu ngốc bị hắn lợi dụng mà thôi!".

    Nàng thúc mạnh cương ngựa, lớn tiếng quát: "Tiến lên, đột kích tộc Lộc Ngưu cho ta!".

    Lúc này tại bộ lạc Lộc Ngưu, Dạ Lạc Hột đang yên lòng ung dung uống rượu dùng tiệc cùng với Thiết Ma Kha, vừa luận tình huynh đệ tri ân lại đàm chuyện mưu đồ Đông Sơn tái khởi, lúc ấy sẽ dựng hẳn một lâu các địa thế tốt, chỉ để bố trí chiêm trướng cho người anh em Thiết Ma Kha. Dạ Lạc Hột thực đang lấy lòng Thiết Ma Kha, bây giờ chí khí hùng tướng bất bại của hắn thực sự chẳng còn gì, mệt mỏi đến nỗi lăn ra đệm lông sói mà say giấc.

    Bên trong chiêm trướng bày biện đơn sơ, điều kiện sống của bộ lạc Lộc Ngưu cũng không mấy tốt đẹp nhưng trong trướng cũng rất ấm áp, đám lửa cháy hâm nóng cả gian trướng, đến lúc đám lửa tàn hơi cũng vẫn còn chút than hồng đỏ rực chiếu rọi cả trướng, mọi người đều đã ngủ say giấc.

    Đã bại lại bại thêm, rút lui lại phải lui thêm nữa, bây giờ còn có thể trốn chạy về đâu đây? Rốt cuộc vẫn không dựa vào La Đan được, binh mã của Dương Hạo vừa đến, La Đan hắn lập tức đầu hàng lại còn lén đâm sau lưng mình một đao. Cũng may lão tướng hắn đây trước giờ vẫn đề phòng bất trắc, không dám quá tín nhiệm kẻ nào, tuy diệt quân binh hắn đến mức thảm bại nhưng cũng chưa lấy được mạng hắn. Sau đó, hắn lại tiếp tục thất bại, binh mã trong tay càng ngày càng ít, chỉ còn nước trốn đến Tây Tạng.

    Dựa vào sự am hiểu của hắn quanh vùng hồ Thanh Hải trong hai năm qua, hắn liền mau chóng trốn thoát khỏi sự truy giết của ả A Cổ Lệ điên cuồng kia. Nhưng người phụ nữ đó lại ban lệnh khắp nơi: các tộc quanh vùng hồ Thanh Hải như tộc Hồi Hột, Thổ Phồn... Kẻ nào dám thu nhận hắn, tức đồng tội với hắn, giết không tha cả tộc. Thế là trong chốc lát, từ một đại hãn Hồi Hột cao quý, hắn trở thành thân phận đáng khinh: thân con chuột chui lủi đến đâu cũng bị người người đánh chửi.

    Hắn cũng không hoàn toàn tin tưởng Thiết Ma Kha nhưng nếu không nhờ vả Thiết Ma Kha, đám quân hai mươi mấy đầu binh không lương thiếu ấm này của hắn sẽ phải bỏ xác nơi tuyết lạnh. Lúc này, hắn đã sắp xếp hơn hai mươi thân tín người của hắn canh phòng quanh trướng. Hắn nằm trong chăm ấm nhưng vẫn thầm nghĩ kế tháo chạy: "Nơi đây cũng không hề an toàn, ngày mai phải lập tức lên đường, cứ lấy chút lương thực rượu thịt từ Thiết Ma Kha rồi lên đường hành tây, xem ả nha đầu thối kia có đám truy đuổi đến nước Cao Xương không?".

    Rốt cuộc thì lão tướng Dạ Lạc Hột hắn sau bao ngày ăn gió nằm xương, lo âu đến dứt ruột, khó khăn lắm mới tìm được nơi chợp mắt cuối cùng mới thoải mái duỗi mình, quên nỗi suy tư về bước đường phía trước mà ngủ một giấc.

    Lúc này, binh mã của A Cổ Lệ đã bí mật bao vây doanh trướng của bộ lạc Lộc Ngưu. Thực tế, với một bộ lạc sống cả đời trên thảo nguyên, chăn thả cừu dê, cuộc sống du mục ấy phải đấu tranh với cả trời, đất, thiên nhiên và con người để kiếm cái ăn, sống khổ cực, khí hậu vạn biến lại thêm lang sói thường trực tàn phá, các bộ lạc tranh đoạt lẫn nhau làm cho họ cực kỳ mẫn cảm, hình thành sự cảnh giác cao độ với mọi thay đổi hay biến chuyển xung quanh. Việc bao vây và đánh lén một bộ lạc như vậy thực không hề dễ dàng.

    Mà A Cổ Lệ cũng không muốn đánh lén, nàng muốn dùng kế đánh bất ngờ.

    Bấy giờ, chó chăn cừu của bộ lạc Lộc Ngưu điên cuồng cắn sủa, cả đám cừu dê bị làm náo động, cả tộc cũng bừng tỉnh, người người cảnh giác vơ lấy trường đao. Tiếng hô hét đồng thanh "giết" cứ thế vang lên từ tứ phía, vốn dĩ cảnh chém giết chỉ có tiếng người ngựa gào hét, giờ ở đây lại thêm tiếng khuyển cẩu cắn sủa, cừu dê náo loạn ầm ĩ, thiết ky của A Cổ Lệ đã xông hẳn vào bên trong.

    Đoàn binh đạp lên doanh trướng mà phi vào chiêm trướng, không có chút cơ hội nào cho đối phương kịp trở tay, một trận đại giết bắt đầu. Kỵ binh gào thét mà xông vào, người trong tộc vội vã mà sợ hãi chạy loạn tới tiếp đánh, chẳng để ý xem trong tay họ cầm là binh khí hay nông cụ gì. Từng toán binh mã lao tới rồi vụt qua đám người trong tộc. Lưỡi đao vút sáng, đầu người rơi như ngả rạ, máu bắn tung thành vệt, thi thể của họ đổ xuống chất đầy lên nhau, không có lấy một tiếng động nào nữa.

    Đêm khuya, trời tối đến mù mịt, thân mình còn không nhìn thấy đâu, lúc này tuyết trắng mới phát huy tác dụng của nó,c ả một vùng tuy lờ mờ nhưng vẫn có thể phân biệt được người với vật. Dưới lưỡi đao sắc bén của đại quân lại thêm đợi tiễn phóng tới, người ngựa tộc Lộc Ngưu chết trận liên tiếp, số phận của họ giống như bọn sơn dương, từng người từng người bị chém chết, sức phản kháng của họ chỉ là phần nhỏ không đáng kể.

    Dạ Lạc Hột lúc này nửa mộng nửa tỉnh, đang mơ màng ngủ chợt nghe những tiếng kêu gào thảm thiết, hắn vội bật dậy chộp lấy thanh bội đao.

    "Chuyện gì xảy ra vậy? A Cổ Lệ đuổi đến rồi sao? Hay là có bộ lạc khác đến cướp phá?".

    Dạ Lạc Hột trong lòng náo loạn, lo đến thắt tim. Mấy tên thị vệ tâm phúc của hắn quanh đó vội bước tới, trong tay cầm bó đuốc nói: "Đại hãn, có kẻ tập kích trong đêm!".

    Dạ Lạc Hột nhảy dựng lên, bỗng một mũi tên bay thẳng vào cổng trướng, chỉ kịp nhìn thấy khoái mã phi tới, tiếng gào thét chém giết, đao thương hung ác lẫn lộn. Thiết Ma Kha cùng đám võ sĩ hộ thân phản kích lại, cầm đao mà xông ra đánh chém nhưng cũng chỉ là lao vào chỗ chết. Giết khí từ ngoài cứ thế gào thét mà đến, không cho họ chút cơ hội phản kích lại.

    Trong đêm, bóng người hỗn loạn, tiếng gào liên thanh, tuy Thiết Ma Kha và võ sĩ của hắn cũng dũng mãnh chống trả nhưng cuối cùng cũng lấy mạng đổi mạng. Đối phương bất ngờ tập kích, lại thêm quân binh đông mạnh, kết quả tức sẽ bị đánh bại thê thảm, việc chống trả lại cũng chỉ là hành động tự phát liều chết.

    Lúc này đã có người bắt được vài kẻ du mục của tộc Lộc Ngưu, họ tra hỏi chỗ trú của Dạ Lạc Hột, rồi có tiếng nhiều người lục đục rời lưng ngựa bước xuống, giương thẳng lưỡi đao bóng loáng áp giết đến gần chiêm trướng của Dạ Lạc Hột.

    Dạ Lạc Hột thực cũng muốn trốn chạy, nhưng do hắn vốn được tiếp đãi như trọng khách, được tiếp đãi nồng nhiệt và được ngụ tại chủ trướng nên ngựa của hắn không ở ngay ngoài trướng, nếu mạo hiểm xông ra ngoài thì lại gặp nguy hiểm càng lớn. Hắn chờ đợi và hy vọng rằng những kẻ cướp phá bên ngoài kia chỉ là một bộ tộc đói rét cùng quẫn nào đó bức quá gây chiến. Như vậy, hắn không chừng vẫn có cơ hội sống sót, dù A Cổ Lệ có hạ lệnh tiêu diệt hắn, thì hắn rốt cuộc vẫn là dòng dõi cửu tộc vương thị Hồi Hột đã lâu đời bá chiếm vùng hồ Thanh Hải này, các bộ lạc này đương nhiên cũng phải coi trọng huyết thống của hắn. Vương tử vẫn là vương tử, dù có rơi vào thế loạn lạc cũng không đến mức mất hết khí thế, đến mức có kẻ thần dân tộc Hồi Hột nào lại dám khinh nhục hắn.

    Nhưng hắn nhanh chóng sẽ hoàn toàn tuyệt vọng, mấy dũng sĩ đều lao tới đánh trả, họ lại bị hất tung ra, ầm một tiếng, cả tấm thảm bao lấy trướng bị lật đổ tung, hắn và mấy tên hộ vệ xung quanh thận trọng chui ra ngoài, quanh đó càng thêm nhiều người vây tới, từng người từng người áp sáp nhau thành vòng tròn tứ phía quanh hắn. Phía trước mặt Dạ Lạc Hột lập lòe vài bó đuốc, lửa cháy theo gió hừng hực rọi sáng xung quanh. Tuy mỗi người đối phương đều khoác áo trùm kín nhưng vẫn hiển hiện một bóng dáng nhỏ hơn hẳn ở chính giữa, nàng chỉ để lộ ra đôi mắt, nhưng Dạ Lạc Hột vừa nhìn thấy đã tái xanh mặt mày.

    "Ngươi trách ta sao? Trách ta? Cơ nghiệp Cam Châu khó giữ, vô số nhân tộc bỏ mạng nơi sa trường, người khác có thể chết được, lẽ nào ngươi lại không chết được?".

    Tứ phía đều bị bao vây, dưới ánh đuốc từng con mắt trừng trừng nhìn hắn, những ánh mắt lạnh lùng hung giết xen lẫn vẻ khinh thường, lúc này Dạ Lạc Hột thực sự tuyệt vọng, hắn chẳng còn đường thoát nào nữa.

    A Cổ Lệ lặng dừng bước, lạnh lùng nói: "Vậy, ngươi ngầm phái A Lý về Cam Châu mưu đồ ám sát ta, xúi giục Hộc Lão Ôn và Tô Nhĩ Mạn phản bội, ngươi giải thích thể nào về việc này chứ, ngươi có thể chối được sao?".

    Dạ Lạc Hột vừa cảm thấy nhục nhã vừa tức giận nói: "Ta là Đại hãn, là đại hãn Hồi Hột, tất cả đều là của ta, từ đồng cỏ, cừu dê, đến cả tính mạng của các ngươi... Vì đại nghiệp thì có cái gì ta không thể hy sinh được chứ? Ta muốn các ngươi sống thì các ngươi được sống, muốn các ngươi chết, các ngươi bắt buộc phải chết! Vì ta là đại hãn của các ngươi, là đại hãn, kẻ nào đám giết ta chứ? Kẻ nào dám giết ta?".

    "Nhưng bây giờ không phải nữa!". A Cổ Lệ lạnh lùng nói rồi chỉ ngón tay một cái, "vù vù vù...", hàng loạt mũi tên được bắn tới tấp từ ngay phía sau nàng phi đến chỗ Dạ Lạc Hột. Chỉ trong phút chốc, mấy tên thị vệ bên người hắn đã bị bắn đầy mũi tên, nhanh chóng ngã ngục xuống đất, hắn cũng không thể tránh khỏi được trận tiễn vũ ác liệt này.

    A Cổ Lệ lặng nhìn thi thể Dạ Lạc Hột, ánh mắt lộ vẻ hết sức phức tạp. Lát sau, một phúc tướng lặng lẽ tới gần nàng: "Đại nhân, chúng ta làm gì bây giờ?".

    A Cổ Lệ cởi bỏ tấm khăn che mặt, đôi môi hồng nhỏ nhắn của nàng chợt mấp máy: "Sau khi Dạ Lạc Hột thất bại, Ngả tướng quân sẽ vội vã rút quân rời đi. Nghe nói đại vương đang dụng binh với Bắc Liêu. Lũng Hữu vừa mới được thu phục, e là vẫn chưa bình ổn, chúng ta... Tạm thời cứ trấn thủ tại Lũng Hữu, phải bảo vệ tốt phía hậu viên cho đại vương!".

    "Tuân lệnh... Vậy xác của bọn chúng thì...?".

    "Có nơi nào mà hoàng thổ lại không chôn người chứ?". A Cổ Lệ rồi cũng lấy tay vuốt mắt thi thể của Dạ Lạc Hột, kẻ đã từng là nam nhân của nàng, trong mắt nàng giờ đây đã không còn chút bối rối nào, đôi mắt nàng lóe sáng trong như giọt nước.
     
  11. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 631: Súc thế
    Mấy ngày này Triệu Phổ và Lô Đa Tốn đều bề bộn trăm việc, từ việc bình ổn triều đình và các vùng huyện trấn khác, khởi phục các chức quan lại và khôi phục quyền lực thống trị, khiển phái tiền lương rồi quân nhu, điều động dân phu và cả phụ chiến tăng quân... Chính sự nhiều vô kể khiến họ bận tối ngày. Nhưng sau khi nếm trải mùi vị bị phế khỏi tướng vị, cách quyền một thời gian dài, thì dù có bận mấy hai người họ vẫn cảm thấy tốt hơn hẳn, họ nguyện gánh chịu mọi vất vả.

    Định Thừa Tông xem ra lại nhàn hạ hơn hai người Triệu Lô, thực tế hắn cũng bận rộn như Triệu Lô nhị, chỉ là hắn đang bận những việc bí mật, không dễ để kẻ khác phát hiện ra. Trong nha phủ của hắn, mỗi này đều có binh đội mật gián xuất thần liên tục ra vào, đến một khắc đêm khuya cũng không ngừng.

    Dương Hạo thực đã chuyển toàn bộ lực lượng mật giám chủ yếu về nội cảnh nước Tống, tình hình và lòng dân khắp nơi, thái độ của quan địa phương với triều đình mới, chính luật mới hay tình hình tiền tuyến cũng như các phe phái tướng lĩnh trấn thủ các nơi, nơi nào nên dụng binh, kẻ nào đáng bị xử lý, người đáng được đề bạt, kẻ cần phải tăng cường giám sát... Tất cả đều được thu thập tấu báo tới đây, việc giám xét các quan lại đều có tốt lẫn xấu, trung thần gian nhân khó mà phân biệt. Dương Hạo bên ngoài rộng lượng bác ái, nhưng bên trong thực phải tốn biết bao công sức. Hắn buộc phải tốn công sức như vậy, nếu không giang sơn này khó mà giữ được, chỉ trong nháy mắt quyền lực sẽ hoàn toàn tan biến. Điều tra những việc mờ ám bất chính như vậy, giao cho chính đại ca thân thiết của mình thì Dương Hạo mới có thể yên tâm được.

    Mặc dù Đinh Thừa Tông bận rộn luôn tay nhưng hắn cũng vẫn hài lòng, huynh đệ của mình làm bá chủ thiên hạ mới thực là việc đại hỷ. Lúc này lại thêm một tin vui nữa truyền tới, Diễm vương phi đã hạ sinh, hơn nữa lại là một vị hoàng tử. Trước đó không lâu, Oa Oa và Diệu Diệu cũng đã cùng hạ sinh, Oa Nhi sinh được một tiểu công chúa, Diệu Diệu lại sinh một hoàng tử, Dương Hạo lại có thêm tiêu hoàng tử, đã liên tục đón mừng hỷ sự, bây giờ Diễm vương phi hạ sinh thêm hoàng tử nữa, Dương Hạo lại có tới ba tiểu hoàng tử. Quả thực là điều đáng vui mừng, ở thời đại này, dù là bậc đế vương hay dân thường, cái sự ấu nhi chết non là việc thường xuyên xảy ra, có thêm con cháu thì lại càng yên tâm.

    Hắn vốn muốn có một nhi tử nối dõi, nhưng Dương Hạo cũng không có nhiều tử tôn nối dõi cho lắm nên hắn không tiện mở miệng. Chờ đến khi huynh đệ mình có thêm nhiều con nối dõi, hắn dự định sẽ xin Dương Hạo một đứa làm người nối dõi cho mình. Thực vậy, bấy giờ đối với người ta mà nói, nối dõi tông đường cực kỳ quan trọng, dù có nhìn xa trông rộng, tài cao đến mấy nhưng vẫn lo lắng không nguôi việc có con cháu phụng dưỡng lâm chung, chăm lo cúng tế.

    Sau một lúc hoan hỉ cực độ, Đinh Thừa Tông liền đích thân viết một phong thư, báo tin cho Dương Hạo, đồng thời phái người truyền tin đến Đường gia, gọi Đường gia tới thăm Hưng Châu. Hắn vừa làm xong việc, đang đặt lưng ngồi xuống nghỉ ngơi, chưa kịp uống hết chén trà thì Mã Diệc đã cấp tốc đi vào, mang theo một mật kiện trình lên cho hắn.

    Đinh Thừa Tông vội đặt chén trà xuống, sau khi nghiệm xem phong thư vẫn còn phong dấu, hắn mới bỏ ra đọc cẩn thận.

    "Bẩm, không ngoài dự liệu của quan gia, tên Vương Tiểu Pha này cũng có mưu đồ riêng, quan gia thu phục được thiên hạ, hắn tại Thục quốc liền lay động bất định, cứ kéo dài không chịu quy phục, chỉ e là có mưu đồ tự lập riêng".

    "Ha ha, chỉ là một tên tọa trấn Quan Trung nhãi nhép mà cũng phải khiếp sợ. Bây giờ Ngải Nghĩa Hải đang chỉ huy quân binh tiến tới, tên Vương Tiểu Ba e là không dám lộng quyền. Ừm, hắn đã hạ cờ đầu hàng triều đình, sự vụ quan tước ắt có Triệu tướng và Lô tướng lo liệu, mà nhất định phải làm cho thật thỏa đáng. Các thủ hạ chúng ta phái đi giám sát hắn đã rút về, bây giờ lại thiếu người rồi!".

    "Đúng vậy".

    Tri huyện Đan Dương?

    Đinh Thừa Tông nhíu mày: "Các quan lại trong triều đều quy thuận quan gia, hắn chẳng qua chỉ là một tên quan huyện phụ mẫu lại dám ngang nhiên buông lời nhường vị hỗn xược. Hừm, mỗi ngày không hoang lạc thưởng tửu, gào khóc kêu la thì tụ họp tri kỷ rồi khiển trách mắng mỏ như kẻ điên dại...".

    Mã Diệc vội đáp: "Đại nhân, có cần phái người đến trừng trị hắn...".

    Đinh Thừa Tông nghĩ một lúc, lắc đầu nói: "Cứ mặc hắn, lúc cấp bách nhiều trọng vụ này, không cần lo việc khác. Chẳng qua chỉ là một tên điên cuồng, cứ mặc hắn náo loạn. Các ngươi có nghe nhìn thấy cũng mặc hắn không hành động gì, cứ để hắn lộ rõ bộ mặt phản tặc. Ta đã dự tính cả, với kẻ này, ta tin rằng Triệu tướng và Lô tướng sẽ giải quyết ổn thỏa".

    Đinh Thừa Tông lấy tay vuốt cằm, như đã suy tính kỹ mà nói: "Tuy nhiên, qua việc này cũng có thể nhìn ra được, giang sơn này thực vẫn chưa được bình ổn. Lũng Hữu là nơi chúng ta khoái đao trảm loạn, nhanh chóng cổ vũ tinh thần để trấn đoạt được. Tình hình tại đó phức tạp, vốn là nơi chủng tộc phồn đa, việc tăng cường cai trị, trấn an địa phương không phải là việc dễ dàng giải quyết trong chốc lát, nó cần phải trấn trị trong thời gian đài. Giang sơn rộng lớn của nước Tống là do quan gia mượn danh nghĩa "Kỳ Vương" đoạt lại, vậy sự việc càng thêm phức tạp, e rằng phải mất ít nhất mấy năm trời mới có thể ổn định được. Chúng ta cứ thu thập mật tin các nơi cho đầy đủ, đợi quan gia trở về Biện Lương, chúng ta sẽ bắt tay vào xử trị mọi việc".

    Mã Diệc lại nói: "Vâng, chỉ không biết đại thúc... Khi nào thì đại thúc mới dừng việc bắc phạt?".

    Mắt nàng sáng rực lên, đột nhiên tung tăng nhảy nhót mà nói: "Chi bằng... Ta cũng đến Tam Quan để giúp đỡ đại thúc đi".

    Đinh Thừa Tông cười đáp: "Hồ đồ, con chỉ là thân phận nữ nhi, tới đó thì giúp được việc gì? Lẽ nào bảo con điều binh khiển tướng, xông pha trận mạc? Việc mật báo này lại không thể thiếu con được, nếu con làm việc này tốt, đại thúc Dương Hạo của con càng được nhẹ nhõm, như vậy là giúp được việc lớn rồi, lớn hơn cả việc con tới Tam Quan. Còn phía bắc...".

    Đinh Thừa Tông trầm lắng: "Con yên tâm, tới lúc ngừng lại, quan gia hiển nhiên sẽ ngừng lại!".

    "Ư".

    Khuôn mặt Mã Diệc sụp xuống, vẻ mặt càng ủ rũ. Nàng đã quen với việc quanh quẩn bên cạnh Dương Hạo. Lúc Dương Hạo luận đàm chính sự, tiếp gặp quan viên, nàng đều trốn ở nơi bí mật thầm chăm chú theo dõi từng cử chỉ, lời nói của Dương Hạo. Nàng không quan tâm đến thứ khác, chỉ cần nhìn thấy hình dáng của hắn, nghe thấy tiếng hắn, trong lòng lấy làm mãn nguyện, an bình lắm rồi. Cũng giống như một con mèo con, trốn ở một nơi mà chủ nhân không nhìn thấy, chủ nhân cứ bận rộn qua lại, con mèo lại nằm cúi xuống mà nhìn. Tuy có chút lơ là như không chú ý đến, nhưng chỉ cần chủ nhân vừa rời khỏi là nó lập tức bật dậy, vội vàng chạy theo sau.

    Nàng đã không thể rời khỏi hắn được nữa, giống như cá không thể sống thiếu nước.

    Lần trước khi tiến hành mai phục Biện Lương cùng với Chiết Tử Du, Đinh Ngọc Lạc và Trúc Vận, nàng vẫn chưa có cảm giác nhớ nhung mãnh liệt đến như vậy. Thứ nhất, là do từ bé nàng đã được đại thúc Dương Hạo kể về câu chuyện bất dạ chi thành, đó chính là thành Biện Lương, nàng mong chờ được đến đó tận mắt trông thấy thành. Thứ hai nữa, có thể do nàng vẫn còn nhỏ tuổi, thích những nơi náo nhiệt, lại được đi cùng Trúc Vận tỷ tỷ, người mà nàng nói chuyện hợp ý hơn cả.

    Nhưng bây giờ chỉ có một mình nàng, Trúc Vận tỷ tỷ đã được gả cho đại thúc, còn nàng vẫn là nàng, một chú chó con nhỏ bé không chút nổi bật...

    *

    * *

    Da Luật Hưu Ca cấp báo tin đến U Châu, Tiêu Xước biết tin mà thất kinh, mặt mày tái sắc.

    Quân Tống thất bại bỏ chạy từ U Châu về phía nam, hao tốn binh lực gần tới gần mười vạn quân, trận chiến ở Quân Tử quan lại thiệt hại mất ba vạn nhuệ binh. Không tính đến đám quân thương vong, chỉ qua hai trận đại thắng, quân Tống đã tổn hao mất mười ba vạn quân, như vậy binh lực quân Liêu cũng có thể ngang ngửa với Tống, nhưng bất thành ở trận chiến sông Tiểu Đường, ba vạn quân Liêu tinh nhuệ đã bị thất bại, tháo chạy về chưa được tới một vạn người. Hoàng đế Đại Tống bấy giờ lại nhường vị giang sơn, số binh mã vốn bày bố ở Quan Trung để phòng bị quân Tây Hạ có thể được điều về phía bắc. Cùng lúc đó, binh mã Tây Hạ cũng kết hợp đi cùng tuyến với đội quân binh đó, như thế chỉ xét từ mặt binh lực cũng đã vượt xa quân Liêu, huống hồ giờ lại hợp nhất quân binh bộ và kỵ binh dũng mãnh, vừa phòng ngự tốt vừa tấn công, có kẻ nào có thể dễ dàng đánh bại được đây chứ?

    Tình thế thực quá nghiêm trọng, vẻ mặt của Tiêu thái hậu cũng biến sắc nghiêm trọng, ngay đến cả Lao nhi suốt ngày chỉ ham chơi bên cạnh nàng cũng nhận ra vẻ mặt bất an của mẫu thân mình, tiểu hoàng đế rất thông minh cứ nắm lấy tay mẫu thân.

    "Được, cứ làm như vậy đi, đồng thời hãy truyền lệnh ta cấp cho Ngũ Cáo Phi tám vạn quân bộ và kỵ binh Hán, nhanh chóng đi cứu viện Da Luật Hưu Ca".

    Tiêu Xước nhẹ giơ tay chỉ vào tấm bản đồ rồi nói: "Những vùng đã chiếm lĩnh được từ tay quân Tống có thể vứt bỏ, nhưng lãnh thổ Liêu Quốc phải giữ cho kỳ được, một tấc đất cũng không được bỏ. Tây lộ hãy lấy Nhạn Môn quan làm ranh giới, nam lộ lấy Ngõa Kiều Quan của Hùng Châu, Ích Tân quan của Phách Châu, Kỳ Câu quan của Trác Châu ba cửa ải này làm ranh giới, quyết không cho quân Tống bước đến nửa bước!".

    "Tuân chỉ!". Hạ thần bên dưới vội vàng y lệnh phụng chỉ mà đi.

    Ngũ Cáo Phi cũng là một mãnh tướng của nước Liêu, thời vua Thế Tông từng là võ trạng nguyên của Đại Liêu, dưới trướng hắn đều là binh mã nhà Hán, binh bộ có tới năm vạn, kỵ binh ba vạn quân. Nếu luận về chiến lực lại rất dũng mãnh thiện chiến, không hề thua kém cấm vệ quân trong cung hay quân tộc trướng nhà Liêu.

    Người Hán ở phía bắc đã sớm hòa nhập vào cuộc sống chung với người Liêu, sống lâu đần thành quen. Người Hán ở vùng U Vân cũng nhanh nhẹn dũng cảm như các dũng sĩ tộc Khiết Đan, đám binh mã dưới tay Ngũ Cáo Phi này trước đây vốn đóng quân ở Tham Thánh Châu, là nơi từng xảy ra đại chiến Trác Lộc giữa hai hoàng đế Viêm Hoàng, giờ là vùng Hà Đông, thị khẩu của Trương gia, thuộc địa phận thượng lưu sông Vĩnh Định. Khi quân Liêu thi hành một nước hai thiết chế, quân Khiết Đan duy trì thiết chế vi dân, chiêu binh thời chiến như lệ thường, quân Liêu ngược lại thiết lập quân thường trực, đám quân người Hán này vì thế mà được rèn thiết quân chặt chẽ. Trong lần bắc phạt trước của Triệu Quang Nghĩa, khi tiến hành chiến đoạt U Châu, vì thế tiến công quá ư lợi hại, quân binh nhà Liêu phái đến đều là đội kỵ binh nghiêm chỉnh quân kỳ, được giáo luyện đầy đủ. Nhưng lần đó, Hán quân của Ngũ Cáo Phi được cử đi cứu viện là lần thứ ba, chưa kịp đến nơi thì Da Luật Hưu Ca đã đánh thắng trận, đánh đuổi quân Tống sợ phải rút khỏi Tam quan.

    Vậy nên đám binh mã đến sau này đành phải lưu lại U Châu, một là làm quân hộ tống bảo vệ cho thái hậu và hoàng đế, hai là một khi Tam Quan bị công phá, cần có đội bộ binh của quân Hán này trấn thủ vùng địa phương, thiết lập Chính Tạp Phủ. Quân binh của họ không chỉ có đội bộ binh là cánh quân tiên phong, mà tất cả đều là người Hán, có thể dễ dàng móc nối với người Hán quanh những vùng bị chiếm lĩnh. Ví như tình hình nguy hiểm như bây giờ, cũng có thể dễ dàng điều phái đám binh mã này lên phía tiền trận.

    Trầm ngâm trong chốc lát, Tiêu Xước lại hạ chỉ, nghiêm ý trách tội Da Luật Hưu Ca dám kiêu ngạo khinh xuất, làm cho địch có cơ hội áp chế lại đại quân, dễ dàng lật thế thắng bại. Sau đó nàng lại tiếp lời an ủi vài câu, lệnh cho hắn dốc sức chuyển đổi thế trận, ít nhất cũng phải giữ cho kỳ được thế giằng co ở Tam Quan.

    Sau khi dặn dò hạ thần truyền chỉ, Tiêu Xước lại chậm rãi ngồi xuống phía cẩm đôn, tay ôm lấy tấm ống tay sưởi, hai tay nàng khoanh vào trong ống, nhưng lúc này đôi tay ấy vẫn cứ lạnh ngắt dù đã ủ trong ống.

    "Dương Hạo hắn... Giờ đã trở thành thiên tử nước Tống, ta tránh được hắn càng xa càng tốt".

    Tiêu Xước thở dài một tiếng, nét mày nhạt hiện trên mặt nàng, khuôn mặt có chút yếu ớt, mệt mỏi nhưng đôi mắt vẫn không ngừng đảo. Tâm tình nhi nữ trong chốc lát đều bị nàng khống chế hoàn toàn, lúc này chỉ hiện lên vẻ căm giận, lạnh lùng quyết đoán đến mức buốt giá. Từ góc độ nào đó có thể thấy nàng giống hệt với A Cổ Lệ, những nữ nhân sống trên vùng thảo nguyên cũng ngoan cường, cứng cỏi như lạc đà suốt đời vượt qua gió cát sa mạc.

    Ái tình tương thủy, khi ái tình tới, họ sẽ vứt bỏ tất cả để đi đến với tình yêu, không cần nghĩ đến đối phương có tiếp nhận tình cảm của mình hay không, cũng không nghĩ đến kết quả sẽ ra sao.

    Còn khi thứ tình yêu "thủy" đó rời khỏi họ, họ sẽ đóng chặt mình lại, cô độc hứng chịu mọi gió cát bão cát sa mạc, kiên cường tiếp tục sống, nếu vui sướng thì cười sảng khoái, khóc hết mình, yêu cũng hết mình giống như mặt nước mùa xuân, khi lại ngậm đắng cay quyết liệt lạnh lùng như băng tuyết mùa đông. Trong dòng máu của họ cũng giống như các nam nhi trên thảo nguyên, dũng cảm cương nghị, yêu ghét phân minh.

    Quân binh lộ tây của Đại Liêu đang tiến quân tới Nhạn Môn, lúc này họ vẫn chưa biết tin nam tuyến đã thảm bại, tín sứ thành nam đang hộc tốc thúc ngựa như điên như dại đuổi theo quân lộ tây, muốn nhanh chóng báo tin này đến cho họ: "Tống, Hạ đã hợp nhất".

    Quân lộ tây nước Liêu đã sử dụng binh mã của Điệp Lạt lục viện bộ, cùng với một bộ phận tộc quân, quân Hán, quân Kinh Châu và quân nước Thục.

    Điệp Lạt lục viện bộ là đội binh mã tinh nhuệ nhất tây tuyến của nước Liêu, thiết chế binh dịch vẫn là dân binh hợp nhất truyền thống, nam đinh của cả bộ tộc đều được nạp vào làm dự binh và binh dịch, có trang bị đầy đủ khí giáp, chiến ngựa cho đến cung tiễn, phủ việt, hỏa thạch đao, kỵ cương. Còn những lộ binh mã khác chỉ có quân Hán là được lĩnh lương thảo, cho nên số lượng quân binh cũng không nhiều. Nhiều nhất là quân binh Kinh Châu, đa số đều là đinh tráng chuyển hộ của Phiền Hán. Riêng bảy huyện có mười bảy đội quân, các phủ, châu, thành của vùng tây Kinh nước Liêu tính ra, tổng số quân binh của Kinh Châu cũng tới hơn hai mươi vạn. Đương nhiên, lượng lớn binh mã như vậy, lương thảo thực cũng không cung cấp đủ.

    Nhưng quân Liêu có thể nhanh chóng gom được ra một đội quân như thế có thể coi là cực tinh nhuệ rồi, quân Kinh Châu tạm thời chỉ có tám vạn quân xuất binh.

    Tiết độ sứ Chương Quốc Quân, phò mã trị trung Tiêu Đốt Lý cùng với Lý Trọng Hối đô chỉ huy sứ Mã Bộ quân đều giữ trọng trách quân tiên phong lộ tây cho Đại Liêu, chỉ huy mười vạn đại quân, nhanh chóng tiến công Nhạn Môn quan. Họ muốn chớp lấy thời cơ, nhanh chóng tiến đánh, vì hành động nhanh nhẹn nên tín sứ của Da Luật Hưu Ca không thể đuổi kịp. Giờ Tiêu Đốt Lý và Lý Trọng Hối đã thống lĩnh mười vạn đại quân đằng đằng sát khí tiến đến Nhạn Môn quan.

    Tuy nhiên quân Tống ở Nhạn Môn quan đã được tăng cường binh mã, lại được bổ xung lượng lớn thiết kỵ Tây Hạ, do đích thân Tào Bân tiếp quản phòng ngự. Qua thám báo biết được động tĩnh của quân Liêu, Tào Bân lập tức định kế chiến đấu: Chủ động xuất quân tiến đánh, chặn địch ngay từ phía ngoài biên ải.

    Trước đây, khi đối mặt với cường địch, quân Tống rất ít khi sử dụng chiến lược này. Người phương bắc giỏi kỵ chiến, người phương nam lại giỏi việc trấn ngự thành trì. Đây cũng là điều đương nhiên, sở trường của hai bên cũng được hình thành do chính hoàn cảnh vị trí của họ. Cũng giống như binh mã vùng Giang Nam giỏi chiến thủy, nếu bắt họ cưỡi ngựa, đánh bộ binh quả thực là khó khăn. Dù có được luyện tập, cũng không thể hữu dụng, vì khó có binh đội nào chốc lát vừa cưỡi ngựa lại chốc lát đổi sang bơi thuyền?

    Ngươi giỏi cưỡi ngựa bắn cung, vậy đó là bản lĩnh của ngươi. Ta giỏi phòng ngự thành trì là bản lĩnh của ta. Nếu đến địa bàn của ta, ngươi sẽ khó mà thể hiện tài sức được! Chắc chắn phải dựa theo quy luật của ta, người Hán tinh thông vệc phòng ngự. Đây vốn là phương cách chiến đấu rất thành công của cả xã hội nông canh xuyên suốt từ hơn trăm ngàn năm nay, chứ không coi việc vứt bỏ thế mạnh của mình mà đi bắt chước địch hay liều lĩnh chạy tới biên ải liều mạng với địch mới là dũng cảm. Phòng ngự cũng dũng cảm phi thường hơn nhiều, điều này không có gì là hổ thẹn cả.

    Quân Liêu cũng quen với cách đánh này của quân Tống, quân lộ tây đã được chuẩn bị đầy đủ hơn hẳn quân lộ nam, lại mang theo vô số binh khí công thành mới đến đây. Uy phong bát diện mà hướng đến đánh phá Nhạn Môn quan.

    Lúc này, quân trễn giữ Nhạn Môn quan lại đột ngột xuất thành, bỏ lại hiểm quan phía sau mà phục đánh quyết chiến với đối phương.

    La Khắc Địch thống lĩnh bộ binh chủ lực của quân Tống, bày trận đón chờ địch ở cửa Bắc Nhạn Môn, Trương Sùng Nguy chỉ huy đội kỵ binh tinh nhuệ vòng qua đường khác bao vây chặn đánh từ phía sau địch, sử dụng lối đánh giống như Phan Mỹ dùng ở Nam tuyến, vẫn là chiến lệ lấy binh bộ và kỵ binh hỗn hợp để khắc chế kỵ binh của đối phương.

    Tiêu Đốt Lý và Lý Trọng Hối đem quân đến Nhạn Môn quan, lập tức chạm trán ngay đại quân của quân Tống, cũng cảm thấy có chút kỳ lạ, nhưng họ vẫn đang hừng hực khí thế chiến đấu, đám quân đông đảo của quân Liêu còn đang khinh thường quân đối phương, không coi chúng ra gì trong mắt mình. Lúc này, lệnh khởi chiến được xuất ra, đại quân của La Khắc Địch mãnh liệt xông lên, hai bên dao thương xung khắc, chém giết lẫn lộn. Sau một hồi lâu, cục diện quân trận hỗn độn, kỵ binh quân Liêu hỗn chiến với bộ binh của quân Tống, bị mất đi khoảng không để lấy điểm cơ động, mất đi ưu thế, lúc này Trương Sùng Nguy mới giương cờ lộ binh, đột nhiên lao tới tấn công từ cánh bên và phía sau địch, quân Tống ở tiền trận lại càng được khích lệ, hung hăng đánh trả, toàn quân hợp lực phản kích.

    Quân Liêu bị quân Tống bao vây hai bên tả hữu mà xế nhỏ quân, cắt đoạn thành từng đám nhỏ, sau đó dùng bộ binh chủ lực tấn công diệt sạch, nuốt ngọn từng đám quân Liêu đã được chia cắt. Kết quả thắng bại đã được định đoạt ngay từ khi hai cánh quân Tống đột ngột xông tới công kích.

    Binh trận của bộ binh địch đang triển khai lượng lớn trước mặt quân Liêu, hai bên Tả Hữu lại bị vây cắt bởi đội kỵ binh tinh nhuệ, tình cảnh lúc này của quân Liêu thực giống như một mẫu mạch điền bị cắt phá. Trương Sùng Nguy phía xa thấy chỗ quân Liêu giương kỳ hiệu, biết ngay đây chắc chắn là chỗ của chủ soái. Hắn lập tức thống lĩnh quân đột phá lên trước, tiến thẳng về phía đại kỳ. Quân Liêu lại đang rơi vào thể hỗn loạn, nên không có binh tốt nào chú ý đến việc chặn đường tiến sâu của địch, kết quả bị hắn đánh thẳng vào tận trong lòng quân.

    Lúc thâm nhập vào Tống doanh vượt qua hai mươi vạn quân để truy sát Triệu Quang Nghĩa, Trương Sùng Nguy đã may mắn hơn Da Luật Hưu Ca. Lúc đó một là vào buổi đêm, đột nhiên có quân xâm nhập khiến cho quân Tống hoảng loạn, hai là Triệu Quang Nghĩa đã sớm chạy trốn cùng với đám nội thị cận vệ. Còn Da Luật Hưu Ca, khi xông đến Tống doanh, chỉ còn thấy trên hoàng kỳ che ô phủ lụa kín, bên trong trống trơn không có ai. Lúc này, chủ tướng nước Liêu là Tiêu Đốt Lý lại không thể chạy đi được, hắn mà đi thì mười vạn quân này làm thế nào?

    Trương Sùng Nguy xông vào Liêu doanh, giao chiến lại vừa đủ binh lực, chỉ một đao mà dễ dàng trảm được đầu của tiết độ sứ Chương Quốc Quân, phò mã thị trung Tiêu Đốt Lý, lúc này hắn còn chẳng biết họ là quan tướng gì. Nếu lúc sau không bắt được mấy tên binh tốt của địch để tra hỏi thì hắn vẫn chưa biết được thân thế mấy kẻ này. Thực tế là trong quan sử người Hán, họ thích lập công được tán dương, người Liêu lại quá trọng trí khí, đối với những trận chiến thất bại, chỉ đơn giản ghi chép vài điều, tuyệt đối không ghi chép lại tên tuổi những kẻ bại tướng quyền cao đã bỏ mạng hay bị làm tù binh vào sử sách.
     
  12. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 632: Hùng bá thiên hạ
    Trương Sùng Nguy một đao chém chết phò mã Tiêu Đốt Lý, thực khiến cho tam công chúa Da Luật Tú của nước Liêu trở thành quả phụ. Lý Trọng Hối tiết độ sứ Mã Bộ quân xa xa nhận thấy quân trận thất thế khó đạt dục ý, thế địch cường mạnh, thế quân lại hỗn loạn bất định, hắn cũng bất đắc dĩ, phải chịu thế bị động mà theo hướng đại quân cố gắng vừa đánh vừa chạy, không kịp mà quan tâm tới Tiêu Đốt Lý.

    Tiêu Đốt Lý vừa chết, quân Liêu lại càng náo loạn, bị quân Tống chém giết tan tác, Lý Trọng Hối đành chỉ huy tàn quân vừa đánh vừa thoái lui. Lúc này chủ soái Da Luật Tà Chẩn thống lĩnh trung quân bọc hậu mới vội vàng đem quân đến viện trợ, tiếp ứng cho đám quân tiên phong tiền trận. Điểm lại tổn thất quân Liêu đã thương vong hơn quá nửa, trên vai của Lý Trọng Hối lại trúng thêm một mũi tên, hắn cắn răng rút ra rồi khó khăn lắm mới tới được chỗ của Da Luật Tà Chẩn báo cáo tình hình.

    Da Luật Tà Chẩn dù sao cũng là danh tướng nước Liêu, kinh nghiệm chiến đấu đầy mình, vừa nghe hắn nói đến đại quân kỵ binh hùng hậu của quân Tống đột ngột xuất đánh, liền nghi hoặc vô cùng. Da Luật Tà Chẩn lập tức chọn nơi hiểm yếu đóng hạ địa bàn, phái người đi trinh sát. Bắt vài kẻ tra xét, tìm hiểu phía địch. Trước khi chưa nắm rõ được chân tướng sự việc, Da Luật Tà Chẩn không dám liều lĩnh manh động.

    Quân Liêu lộ nam chỉ còn một phương châm chiến lược duy nhất là cố gắng chặn đứng mũi tiến của quân Tống tại phía nam này, dựa theo phòng tuyến Tống Liêu trước đây mà xác định binh lực địch bày bố binh trận. Da Luật Hưu Ca đau đầu nhức óc suy nghĩ, hắn càng không dám coi thường quân địch, từ khi rút lui về Bảo Châu, hạn chế bị quân Tống quấy nhiễu, hắn chỉnh đốn lại cơ cấu quân binh, đồng thời chủ động nhường lại một số thành trì phòng ngự không mấy vững chắc cho địch, bố trí phòng ngự lại lần nữa.

    Con mắt nhìn nhận của Da Luật Hưu Ca thực rất sâu xa, hắn nhanh chóng phát hiện ra một điều, tuy bây giờ nước Tống có binh mã cường mạnh nhưng đại quân này vừa mới đặt chân tới trận tuyến, đặc biệt là quân Tây Hạ và cấm quân nước Tống, mỗi bên đều có thiết luật, thống soái riêng, việc thống nhất đầu não chỉ huy và thuộc bộ vẫn chưa thực đầy đủ và chắc chắn, đây chính là một điều kiện tốt có lợi cho quân Liêu. Hắn liền đánh vận động chiến trong thế phòng ngự, trước sau đều kết hợp kỵ binh tinh nhuệ, giao đánh với các mãnh tướng nước Tống như Long Cuồng phó chỉ huy sử kinh tự, Trương Sư thích sử Hùng Châu, Thôi Ngạn Tiến tiết độ sử Tam thành Hà Dương và cả Mễ Tín đô chỉ huy sử mã quân thị vệ. Trong trận giao chiến với Trương Sư của Hùng Châu, hắn đích thân thống lĩnh gần trăm thị vệ thân cận đột nhập vào lòng trận, chém ngã Trương Sư xuống ngựa!

    Nhưng ngay sau đó, Da Luật Hưu Ca đã cảm thấy thực sự bất an, hắn lại không hề phát hiện ra một điều nữa. Điều này lại do chính miệng một tướng lĩnh có kinh nghiệm lâu năm dâng tấu lại cho hắn, tuy có chút không chính xác cho lắm: Sự phối hợp giữa các ngả Quân Tống không chặt chẽ là thực, nhưng dựa vào thế đại thắng mà địch vừa giành được, quân Tống tuyệt đối sẽ có đủ thực lực để tiến hành tổng tiến công, có thể dễ dàng thừa cơ quân Liêu rơi vào bại thế chưa thể trụ vững mà chiếm lĩnh cả trận tuyến biên ải, đoạt lại những vùng đất quân Liêu chiếm được từ tay nhà Tống. Vậy hà cớ gì mà Dương Hạo lại chưa làm như thế, hắn đang chờ đợi điều gì chứ?

    Rất nhanh sau đó, Da Luật Hưu Ca đã hiểu rõ dụng ý của Dương Hạo, việc mà Dương Hạo định làm.

    Dương Hạo đang tập kết đại binh: từ mã quân, bộ quân, thuyền đội với số lượng lớn, gom thêm nhiều lương thảo, xe thồ cả trâu ngựa...

    Thanh thế to lớn như thế, trước đây chỉ có một lần duy nhất, đó là khi Triệu Quang Nghĩa tiến đánh trực điện, tấn công thẳng vào U Châu.

    Quân Tống rất ít khi hành động quân sự quy mô lớn khi thời tiết chuyển sang đông. Ngoài việc do vận chuyển không thuận lợi, còn có nguyên nhân chủ yếu: để khắc chế thiết kỵ quân Liêu, quân Tống đã chuẩn bị đội cung thủ lớn, dây cung được làm bằng dây da, như vậy thời tiết giá lạnh của phương bắc sẽ làm cho dây cung co lại không đủ lực mở cung. Điều này khiến quân Tống mất đi ưu thế chiến đấu lớn nhất, cho nên mùa đông vốn là những ngày thuận lợi cho kỵ binh bắc triều gây rối nam triều "kiếm chút lương thảo". Nhưng nay, quân Tống đã bổ xung lượng lớn kỵ binh, giảm bớt cung thủ, nước Tống thực sự có thể triển khai thế tấn công quy mô lớn được rồi.

    Ngày mùng chín tháng mười một, là ngày trùng hầu sát bắc, có thể cúng tế, tháo rời, động thổ, xuất khởi qua cầu, khai thị đại cát.

    Dương Hạo đã lệnh cho Phan Mỹ làm thống soái, phong cho Lý Hoa Đình, Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ làm đại tướng, thống lĩnh hơn mười vạn quân, xuất binh từ Ngõa Kiều Quan Hùng Châu tấn công Quy Nghĩa, Phạm Dương;

    Lại cho Lý Kế Long làm thống soái, phong Điền Trọng Tiến, Thôi Ngạn Tiến và Mễ Tín làm đại tướng, thống lĩnh hơn mười vạn quân, xuất binh từ Cái Tân Quan Bá Châu, tấn công Vĩnh Thanh, An Thư;

    Hùng Châu và Bá Châu binh mã đều tề xuất, Dương Kế Nghiệp đích thân chỉ huy một binh đội, xuất binh từ Đại Mậu sơn, đoạt lấy Phi Hồ, tấn công vào Úy Châu.

    Bên phía quân lộ tây, tin tức Nhạn Môn Quan đại thắng vừa truyền tới. Dù cho phía bên đó có tin thắng trận hay không, Dương Hạo cũng đều chuẩn bị hạ lệnh xuất chinh. Tuy nhiên trọng điểm tiến công của hắn vẫn đang ở lộ nam, quân lộ tây chỉ là thực giả lẫn lộn. Nếu có thể khiến quân địch đại bại, lại có thể biến đánh nghi binh thành tiến công thực, rồi sẽ hội kích U Châu. Nếu chiến cục không thuận lợi, sẽ biến đánh thực thành đánh trận giả. Chỉ cần thành công trong việc áp chế binh mã tây bộ của quân Liêu là được.

    Bởi vậy quân binh ngả tây lộ do Tào Bân thống soái, La Khắc Địch và Trương Sùng Nguy được phong là tướng, xuất binh từ Nhạn Môn quan, đoạt lấy các châu Hoàn, Sóc, Ứng và Vân Châu. Tháp Bạt Hạo Phong đã quay về Tây Hạ, hợp binh cùng với Dương Duyên Phổ đang trấn giữ Hoành Sơn, kết hợp với binh mã của Tào Bân hình thành kìm thế giáp công.

    Dương Hạo thả lòng vùng biên ải, nơi đang chiến tranh giằng co với Da Luật Hưu Ca, bỏ qua cả đám thiên quân của họ, nhân cơ hội quân Liêu vẫn chưa thích ứng với lối đánh binh bộ và kỵ binh lẫn lộn của quân Tống mà đánh thẳng vào U Châu. Hắn đã dựa vào thực lực hùng hậu để tiến quân, tất cả đều lộ ra giã tâm bá chiếm của hắn, tấn công địch cũng tức tự giúp mình, đây thực sự đã được mưu tính rõ ràng.

    Ngươi biết rõ mục đích của ta, nhưng ngươi không thể tiếp được chiêu, trong tay ta trấn giữ ngang dọc, lui hay tiến đã không còn do ngươi quyến định.

    Đối mặt với tình cảnh như vậy, dù ngươi có mưu trí đến đâu, văn thao võ lược đến mấy thì cũng chỉ còn một nước đi duy nhất là chịu đòn của ta, đừng mong có cách nào thoát được. Da Luật Hưu Ca mới vỡ lẽ, tức tốc tập kết binh mã ngăn cản mũi tiến của quân Tống đồng thời bẩm báo tình hình trấn thủ đến U Châu.

    Tiêu Xước biết tin, cũng đồng ý với ý định của Da Luật Hưu Ca, quyết định tận dụng địa hình có lợi vừa rộng vừa bằng phẳng và sở trường của kỵ binh, tập trung binh lực công phá quân lộ đông của quân Tống, sau đó di chuyển quân binh đánh bại địch, lệnh cho Ngũ Cao Phi hành quân mau chóng, đến thẳng Trác Châu cứu viện, lại lệnh cho Da Luật Mạt Chi ở Đông Kinh (Liêu Dương) đem quân đến viện trợ U Châu, đồng thời truyền lệnh phái Lâm Nha Hàn đem quân cứu viện La Khâu, còn Da Luật Tà thống lĩnh binh mã Sơn Tây, toàn quyền phụ trách chiến sự lộ tây.

    Cơn ác mộng của Da Luật Hưu Ca giờ mới thực sự bắt đầu.

    Huyết chiến máu lửa tại Trác Châu trong mười ba ngày, tử thi ngổn ngang, người chết vô kể. Đây thực sự là trận đại chiến công phòng ngang sức, không thể dùng đến bất cứ một âm mưu nào, tất cả đều dựa vào chiến lực, tinh thần chiến đấu, liều mình đánh trận bằng chính nhân mạng.

    Nhiều lần đứng trước lúc nguy cấp, Da Luật Hưu Ca đích thân đứng trên đầu thành chỉ huy. Lúc tả hữu bắn cung, lúc chính tay dùng trường thương, liều mình chiếu đấu hay lớn tiếng giận dữ gào thét, chống trả lại thế công mãnh liệt và tiếng hò hét ầm ĩ của của quân Tống. Trên dưới thành, xen lẫn màu trắng của tuyết là màu đỏ tươi của máu, màu đỏ loang lổ khắp nơi, rồi lan ra đóng thành mảng. Bên tai, những tiếng gió gào thét ác liệt không ngừng.

    Lại một trận đại chiến vừa kết thúc, Da Luật Hưu Ca đi tuần trên tường thành, giáp mũ của hắn bị đánh gẫy mất một mảng hộ tai, bên trong giáp tấm áo vẩn đục bẩn đến không chịu nổi. Sau lưng hắn vết máu loang lổ, giáp ngực của hắn đã bị đâm rách, hai bên cánh tay đều là vết tích đao chém. Thanh đại thương trong tay hắn dính đầy vệt máu khô, kết thành những mảng băng máu nhọn, đó là những vệt máu chưa kịp rỏ xuống đất đã bị gió lạnh đóng băng ngay tại chỗ.

    May mắn thay, tám vạn quân Hán của Ngũ Cao Phi đã đến kịp thời, bổ xung thêm binh lực cho hắn. Sau khi nam thành bị đột phá, Da Luật Hưu Ca liền lợi dụng nước giếng trong thành trộn thêm cỏ dại, chỉ trong nửa đêm đã tạo thành lớp tường băng vững trãi bao bọc bên ngoài, bốn phía tường thành đều dội thêm nước ngăn địch tiến vào, nước vừa dội lên lập tức đóng băng, tường băng sáng bóng như một thủy tinh thành vừa tròn lại vừa cứng, như vậy có thể chặn đỡ được quân địch đến tận lúc có viện quân.

    Chỉ trong một đêm, thành Trác Châu đã trở thành một thủy tinh thành, quân Tống lấy làm sợ hãi đặc biệt là Dương Hạo. Hắn cũng nhớ rằng thời trước nghe bình thư "Dương gia tướng", đại soái Tam quan Dương Lục Lang khi đối mặt với quân Liêu khí thế hung hãn, trong lúc nguy cấp đã nghĩ ra diệu kế: Lấy nước hắt lên tường thành, tạo ra một tòa thành băng, sau đó bày bố ngưu trận, làm cho quân Liêu đại bại. Thực không ngờ, người Liêu cũng biết phương pháp này.

    Kỳ thực, dân du mục phương bắc sớm đã biết dùng băng để xây thành, việc này bắt đầu từ bao giờ thì không rõ, nhưng trong một số sử sách văn hiến thời Hán có ghi chép phương cách này. Lúc đó dân du mục phương bắc đã di dân từ vùng trời tuyết lạnh đến một nơi. Họ liền biết dùng nước trộn với cỏ và bùn đất để xây vài kiểu tường thành đơn giản, vừa phòng lang sói, che chắn gió lạnh, đến khi xuân tới lại tiếp tục di dân đến nơi khác vì khi thời tiết ấm hơn, tường thành tự nhiên sẽ tan ra, đây là điều rất đỗi bình thường.

    Nghĩ đến vị tiểu thuyết gia kia vì muốn làm nổi bật trí dũng của Dương Lục Lang nên mới viết rằng phương cách đó là diệu kế tuyệt vời độc nhất do chính Dương Lục Lang nghĩ ra.

    Trác Châu tuy giữ được, nhưng Cố An ngay gần đó đã bị quân Tống chiếm được. Như thế Trác Châu lại trở thành một tòa thành đơn độc, trước mắt tuy các thành trì vẫn còn nhưng việc giữ được bao lâu lại thực khó nói. Da Luật Hưu Ca cho rằng, không nên tính toán hơn thiệt được mất với quân Tống đang thế cường mạnh ngoài kia, nhưng thái hậu lại không nghe theo, bà dù gì cũng là nữ nhi, không tránh khỏi tính gia tử.

    Nước Tống viễn chinh tới đây, vận chuyển sẽ trở thành vấn đề khó khăn lớn, mục tiêu của họ là U Châu, đã vậy cứ lui giữ U Châu. Như thế, chiến tuyến của quân Tống có mở rộng ra, thì cũng có thể lợi dụng kỵ binh tập kích tuyến vận chuyển của địch. Còn U Châu, chỉ cần giữ chắc, U Châu sẽ không dễ để chiếm được. Chỉ cần yếu địa này không mất thì những chư châu khác sẽ không bị đe dọa, cuối cùng không cần tấn công quân Tống cũng tự rút lui. Thậm chí tự chuốc lấy một lần thất bại thảm hại chưa biết chừng.

    Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng với các tướng, Da Luật Hưu Ca thu thập ý kiến của mọi tướng thành tấu biểu, phái người trình lên triều đình, cầu xin thái hậu tiệp nhận đồng thời khuyên thái hậu và ấu chúa nên rời về Thượng Kinh. Việc liên lạc giữa U Châu và Trác Châu chưa bị chặn đứng, vì quân Tống dùng thuật công thành tam vi nhất nghi, tức chặn tam lộ nhưng lưu lại cho một lộ sống, phía bắc vì thế không có binh mã vây thành.

    Da Luật Hưu Ca biết rõ cách làm của Dương Hạo, đây tức là Dương Hạo đang xem xét chủ tướng đối phương, ví như tương nghi, lấy hư thực đối phó địch, tương mãng, lấy dụ dỗ, lão thành để vây hãm. Nếu đại quân của hắn thực bỏ khỏi phía bắc, tức dọc đường ắt có mai phục, nhưng biết là một chuyện, có lúc biết rõ sự việc như trong lòng bàn tay, biết đây là bẫy nhưng vẫn cứ đâm đầu vào, đây chính là chỗ lợi hại của mưu kế này, ngươi có hiểu được, cũng chỉ có thể phá giải được bên ngoài, cũng không có cách nào mà giải quyết được.

    Tiêu Xước nhận được tẩu biểu của Da Luật Hưu Ca biết được tình hình tiền trận hết sức nguy hiểm, nếu không sớm quyết đoán e là Da Luật Hưu Ca và đại quân Trác Châu sẽ bị tiêu diệt sạch, phải rút đại quân đó trở về ngay lập tức, như thế ít nhất cũng giữ được một binh lực lớn bảo vệ mình. Sau khi bàn bạc với bá quan văn võ U Châu, Tiêu Xước chấp nhận ý kiến của Da Luật Hưu Ca lệnh cho hắn bỏ lại Trác Châu, dẫn quân về U Châu.

    Tuy nhiên, với y nghị thứ hai của hắn, bà không hề đồng ý. Lúc này đang là lúc nước Liêu rơi vào thế nguy hiểm loạn lạc nhất, nếu bà đưa hoàng đế về Thượng Kinh ngay lúc này cũng giống như là sơ hãi bỏ chạy, dù có biện hộ giỏi đến mấy cũng không thể phủ nhận được, việc này sẽ khiến lòng quân hoang mang, tất dẫn đến bại trận. Vậy nên, bà quyết định không thể rời khỏi U Châu.

    Xét từ lý trí mà nói, Tiêu Xước làm như vậy là đúng, nhưng trong tiềm thức, bà quyết định lựa chọn như vậy thực là có phần đáng trách. Bà dù sao cũng là một thiếu phụ nhẹ dạ, là thái hậu một nước đảm đương chính sự, bà thực vẫn chưa tu luyện đủ phẩm cách để trải qua được sóng gió cũng như vấn nạn này, bà thực đang đấu lại với Dương Hạo.

    Được lắm, khi ngươi lâm vào đường cùng, ta đã giúp ngươi, ngươi dâng thành cho Đại Tống, phản bội bắc triều, ta nhịn ngươi, bây giờ ngươi đoạt được thiên hạ Trung Nguyên, giống với tên phản tặc Triệu Nhị, ngươi không màng thể diện mà tranh đoạt lãnh thổ của ta, ta và con trai ngươi cứ ở đây. Ngươi cái tên không có lương tâm, ta tuyệt đối không nhượng bộ nửa bước, cùng lắm thì hai tử mẫu ta phơi xác tại thành U Châu này.

    Nhưng lúc này tình hình nước Liêu không mấy khả quan, khi Triệu Quang Nghĩa đại bại cũng là do nhà Liêu có chút may mắn. Rất nhiều quan lại, quý tộc thượng lưu nước Liêu sau khi nếm mùi trận chiến bắc phạt của quân Tống đều cho rằng, nếu Triệu Quang Nghĩa không bị tức chết, hắn mà bất chấp truy đuổi đến Biện Lương, thì giờ đây chưa chắc U Châu đã còn trong tay nhà Liêu. Vậy nên, lần này Dương Hạo tiến đánh, ý nghĩ bi quan cứ hiển hiện trong đầu họ, như thế nếu hai bên đánh nhau, nhiều tướng lĩnh của quân Liêu sẽ sớm trở nên nản trí.

    Dưới tình hình như vậy, Tiêu Xước cũng đành phải lo nghĩ xem liệu có nên cùng hòa đàm. Sau khi nghĩ đi nghĩ lại, rồi cùng thương nghị với đại thần văn võ, Tiêu Xước quyết định điều binh tiến hành bảo vệ U Châu. Bà vừa cẩn thận cân nhắc, viết một bức quốc thư, phái sứ đưa đến cho hoàng đế Đại Tống Dương Hạo. Trực tiếp một đế một hậu vừa đấu đá chính sự vừa bắt đầu nói chuyện đạo lý.

    "Trẫm lấy làm vui mừng khi nghe tin đại vương lấy danh quân chủ Tây Hạ để thu phục cả Trung Quốc. Dưới chân hoàng đế bệ hạ có biết bao bách tính nguyện trí cung phụng, khắp thiên hạ người người không ngớt lời ca ngợi bệ hạ là bậc thánh hiền. Liêu Quốc và Tây Hạ vốn hữu hảo dài lâu, Liêu và Đại Tống cũng vẫn giữ hòa bình. Tuy nhiên họ Triệu hung ác âm thầm đem binh gây chiến, phá hủy điều ước, ngang nhiên bắc phạt, binh mã các lộ, bất danh bất nghĩa mà đoạt lấy, chuông trống gieo hò thảo phạt, dĩ thì dĩ niên, đất nước vì thế mà phải phát binh điều thuế vừa cung vừa phục dịch, phía đông từ Hải Đại, nam đến Du Giang, dân chúng thưa thớt, đâu đâu cũng tiêu điều hoang tàn, khổ cực khôn cùng. Thiên hạ khốn đốn, tuy Trung Quốc vốn nơi phú địa, qua năm nay há cũng thẩm đẫm khổ cực?

    Đặc biệt là bách tính hai bên biên ải, từ việc hưng binh xảy ra, tu sửa hết thành lũy, dâng cống ngũ lương, điều phối bách đoạn, đến tận các châu quận. Dân binh vong mạng tới quá nửa, bách tính khốn khổ không kêu được thành lời, quốc khố triều đình rỗng không, công tư cũng không tránh nổi. Bệ hạ nếu thực trị nước lấy dân làm gốc, xin hãy dừng binh để làm yên lòng bách tính, lấy ân huệ để thu phục thiên hạ. Trẫm thực chân thành cầu hảo Trung Quốc, nguyện kết tình hữu hảo vĩnh viễn, trường tồn muôn đời".

    Sứ giả đem thư đến không phải là người ngoài, chính là Mặc đại nhân Mặc Thủy Ngân, Hồng lự tự nước Liêu. Dương Hạo nhận lấy quốc thư của Tiêu Xước, hồi âm lại nói: "Việc bắc phạt Hưng binh không phải do quần thần cầu đến. Thứ nhất là do quân Liêu đã tiến quân xâm phạm biên ải, thứ hai, chí tại U Yến hai châu địa, nếu không đạt được mục đích này, binh sư tất không oai hùng, thật không dám xem thường thoái lui".

    Mặc Thủy Ngân không ngờ Dương Hạo lại nói thẳng thừng không chút che giấu như vậy, vội vàng trở về bẩm báo cho thái hậu. Thái hậu tức giận đến cắn chặt răng lại, không làm thế nào được với kẻ nam nhân đang chiếm cường thế như vậy, đành phải cố nén tức giận mà tái gửi quốc thư, liệt kê U Vân hai châu là thuộc sở, lần này bức thư lại dài hơn vạn chữ, Tiêu Xước cũng thật là người kiên cường, trong quốc thư chỉ nhất loạt tranh luận theo đạo lý, không xen chút tình cảm nữ nhi nào.

    Yến Vân mười sáu châu nghe nói tới thật lớn, nhưng rốt cuộc là lớn tới cỡ nào, ở nơi nào đây? Kỳ thực, Yến Vân mười sáu châu chính là một bộ phận của vùng Sơn Đông và phía bắc Hà Bắc bây giờ. Nếu nói về lịch sử sâu xa, thì từ rất lâu trước đây, nhà Vũ định Cửu Châu đã bao gồm cả vùng này. Nhưng đến trước thời Viên Hoàng, nơi đây đã có trú dân, còn muốn tra rõ vùng này thuộc binh tộc nào, e là khó mà biết được.

    Nếu nói từ cuối thời Đường, cuối thời Đường xưng hùng được phân nửa, hình thành cục diện lịch sử Ngũ Đại "Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu" và mười nước "tiền Thục, hậu Thục, Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Mân, Sở, Nam Hán, Hán Bình và Bắc Hán". Yến Vân mười sáu châu vốn của chính dân bản địa, sau đó rơi vào tay người Sa Đà thời Hậu Đường Trang Tông.

    Tiết độ sứ Hậu Đường Thạch Kính Đường muốn tạo phản mưu lập cơ đồ, liền dâng nơi đây cho nước Liêu, đồng thời nguyện làm "hoàng nhi" của nước Liêu. Hoàng đế nước Liêu là Da Luật Đức Quang đã đáp ứng nguyện vọng của hắn, đem năm vạn kỵ binh viện trợ Thạch Kính Đường.

    Nếu nói bị cắt nhường, vùng này thực được nhường lại từ tay ai đây? Trước khi nhường lại, vùng này lại thuộc chủ quyền của ai? Sau đó Sĩ đại phu người Hán, các nhà sử học đều nói Thạch Kính Đường đã lấy lãnh thổ vốn thuộc về người Hán để nhường lại cho tộc Khiết Đan nước Liêu. Theo đó mà nói, kỳ thực "U Vân mười sáu châu" này cũng không thuộc về người Hán, mà là của người Sa Đà, chứ không thể nói nó thuộc về triều Đường, triều đại vốn đã bị diệt vong từ lâu?

    Nước Tống kế thừa lại là y bát của Hậu Chu, lãnh địa chỉ gồm có vùng Hà Nam, rồi dựa vào quân sự mà tiêu diệt các triều như Thục, Đường, Ngô Viêt, Sở, Nam Hán, Nam Binh, Bắc Hán. Lúc đó, cũng không tỏ ý chiếm lấy Trung Nguyên làm tự cư, giương cờ "thu phục thất địa".

    Triệu Quang Nghĩa dựng cờ hiệu thu phục lại thất địa, chỉ là vì muốn phô trương thanh thế. Điều này Dương Hạo hiểu rõ, Tiêu Xước cũng hiểu rõ. Tiêu Xước cho rằng nước Liêu chiếm lĩnh vùng đất này là điều đương nhiên, nhưng Dương Hạo cũng có cách nghĩ của riêng hắn.

    Vừa nhìn thấy bức quốc thư, bá quan văn võ của Dương Hạo hiển nhiên cũng không chịu thua bởi lý lẽ. Mỗi người đều hằm hè xắn tay đòi đấu lý với nước Liêu. Đương nhiên, cũng đồng thời tiến hành việc quân sự, Phan Mỹ ngờ rằng tài văn chương lý lẽ của quan văn khó thắng, hắn liền đưa ra ý kiến với Dương Hạo: Tốt nhất nên điều ra mấy đại học sĩ trong triều chơi trò bút giấy, người phương bắc vẫn còn kém xa lắm.

    Dương Hạo lắc đầu, trực tiếp cho gọi Mặc Thủy Ngân tiết độ sứ nước Liêu đến. Nói thẳng lời trước mặt hắn: "Yến Vân mười sáu châu trước đây sao lại thuộc về nước Liêu, sao lại không thuộc về Hán, Tấn, Đường hay Nam Bình? Bởi vì nước Liêu đã dựa vào bản lĩnh của mình để đoạt nó, người Hán chúng ta không có bán lĩnh chiếm lại, sự thực là như vậy. Còn những lời khác có nói đến đàng hoàng đĩnh đạc như thế nào đi nữa, cũng không thể che đậy thác từ được.

    Bây giờ, chúng ta đã có bản lĩnh đó rồi! Nên chúng ta sẽ đòi lại.

    Một nơi thuộc về ai? Ai đang chiếm lĩnh nó tức là thuộc về người ấy.

    Thiên hạ là của ai? Ai đoạt được nó là của người ấy.

    Như vậy Yến Vân mười sáu châu là của ai? Bắc triều nếu đánh bại được ta, vậy nó sẽ là của bắc triều.

    Trẫm vì sao hưng binh ư? Vì một vùng U Yến, nơi đây vừa dễ đánh lại vừa dễ thủ, lại là bình phong cho cả Trung Nguyên, việc được mất nó quan trọng mật thiết tới vận mệnh Trung Nguyên của trẫm. Nay trẫm binh lực đang cường thịnh không đoạt lấy nó lẽ nào để lại hậu họa về sau cho con cháu? Vậy nên trẫm phải đánh, việc này không thể thay đổi được".

    Những lời này của Dương Hạo có thể dùng câu nói của Triệu Khuông để giải thích: "Ngọa tháp chi bàng, khởi dung tha nhân hàm thụy?" (Giường ta, há để kẻ khác năm ngủ?).

    Mặc Thủy Ngân nghe đến đây mặt mày tái mét, hoảng sợ mà chạy vội về U Châu. Tiêu Xước nghe xong cảm thấy đau khổ vô cùng, nhưng lại cảm thấy thêm phần hiểu mới về sự thẳng thắn và cường thế của Dương Hạo. Không sai, hai bên tranh đi tranh lại, kỳ thực là vì cái gì chứ? Nếu nơi này khói táng hoang tàn, không chút giá trị, các vị quân chủ Trung Nguyên liệu còn có ý định chiếm đoạt vùng U Yến này nữa không? Hôm nay lời nói của Dương Hạo lại khác xa với các vị chân đế đó, có thể xem như một vị nam tử hán quang minh lỗi lạc.

    Tiêu Xước nghiêm mặt, trợn tròn mắt nhìn, cắn răng một cái rồi vò nát quốc thư vừa nhận được từ Dương Hạo: "Hòa đàm vô vọng, vậy thì ta đánh!".
     
  13. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 633: Quân Hán tới vạn binh bất khả địch
    "Nay đại quân quân Tống phất cờ kéo quân trở lại, khí thế hùng hồn như chưa từng có, lại cộng thêm binh mã Tây Hạ, binh lực lại càng mạnh. Thế tử cho rằng, thái hậu và ẩu chúa trong tay chỉ dùng một tướng dũng như Da Luật Hưu Ca sao có thể đánh lại được cường địch?".

    Người vừa nói là một người khoảng hơn ba mươi tuổi, diện mạo bình thường, không có nét gì nổi bật, duy chỉ có đôi mắt thực có thần sắc, lộ rõ vẻ khôn khéo hơn cả. Nếu là các nhân sĩ Trường An hoặc những người quen biết ắt hẳn đều nhận ra đó là Hồ Hỉ Nhi, quản sự trong phủ Tề Vương Triệu Quang Mỹ.

    Ngồi ngay hàng đầu là một đại hán cũng khoảng gần bốn mươi tuổi, thân người cao lớn, râu ria đầy mặt, đầu đội mũ quan, mặc một bộ hán phục. Tuy nhiên bộ y phục trông thật bó chặt vào thân hình to lớn của hắn, cảm giác như chỉ cần hơn chút cử động là đường chỉ sẽ rách toạc ra. Với vóc đáng này của hắn, nếu mặc một bộ Hồ phục vạt trái, đội mũ lông cừu, trông sẽ uy phong oai vệ hơn, còn bộ đồ Hán phục này, thực làm khiến cho người khác buồn cười.

    Người này tên là Da Luật Lưu Lễ Thọ, chính là Tống vương, Da Luật Hỉ Ấn thế tử.

    Tống vương Da Luật Hỉ Ấn từng bị liên quan đến âm mưu phản bội do Đức vương Da Luật Tam bày ra, sau đó bị cấm đặt chân tới U Châu. Vị thế tử Tống vương này bây giờ lại chính là người chỉ huy thực sự của cả bộ tộc này.

    Lưu Lễ Thọ khẽ vuốt râu, lắc đầu nói: "Lai giả bất thiện, kẻ đến thực có ác ý, đại trận do binh mã quân Tống bày ra đã đủ làm ta đau đầu, nay lại hợp lực với quân Tây Hạ, có thêm cả một đội kỵ binh vững mạnh. Quân Tống giờ đây giỏi công giỏi thủ, tiến thoái tùy ý thực khó đối phó. Còn Da Luật Hưu Ca, trận trước đại thắng đa phần là do dựa vào cách đánh trận lâu dài, dụ hoàng đế Đại Tống vào trận mai phục mà chiếm được lợi thế. Nếu luận về thực lực, quân binh nước Liêu ta... E là khó địch nổi người Tống".

    Hồ Hỉ Nhi cười đáp: "Kỳ thực, nếu luận sự kiêu đũng, binh mã của bắc triều ta ai nấy từ bé cũng đã được tập luyện cưỡi ngựa bắn cung, lại tác chiến ngay trên lãnh thổ của ta, thực là có phần lợi thế hơn như vậy không cần phải quá sợ người phương nam. Chúng ta liên tiếp gặp phải thất bại, thực không phải do binh mã Bắc quốc quá ít mà là do thái hậu quá dựa dẫm vào Da Luật Hưu Ca, vốn có ý muốn kết duyên với hắn. Điều này thực mất thể diện hoàng thất, sẽ dẫn đến lòng dân nổi loạn, binh sĩ bất an".

    Lưu Lễ Thọ vỗ đùi một cái, hưng phấn nói: "Đúng vậy, ngươi nói thật đúng lý, chính là như thế!".

    Hồ Hỉ Nhi lại nói: "Lần này, Da Luật Hưu Ca làm tổn thất mất ba vạn nhuệ quân, nhưng hắn chỉ bị thái hậu chỉ trích đơn thuần, không có một sự trừng phạt chính thức nào, điều này chứng tỏ rõ rằng, thái hậu thiên vị hắn. Lần trước cũng vậy, U Châu bị bao vây, có hai tướng quân mang binh đến cứu viện muộn mất ba ngày, kết quả thì sao? Bị thái hậu hạ chỉ, chịu đòn roi trước mặt bàn dân thiên hạ, giáng chức xuống hai cấp. Vậy thử so sánh hai việc này xem, thái hậu thực là vì tư tình mà thường phạt bất minh, như vậy ai có thể kính phục đây?".

    Lưu Lễ Thọ lớn tiếng nói: "Đúng vậy, đúng như thế, hừ! Ta đã biết rõ, ả ta xinh đẹp như hoa, tuổi trẻ nhưng lại ở góa, sao có thể chịu được cô đơn nơi khuê phòng! Đường đường một thái hậu tôn kính lại đi cầu hòa với một tên quan thần, khác nào bôi nhọ lên thanh danh của hoàng thất ta. Bây giờ những lời đồn đó có ở khắp nơi đầu đường trấn phủ, người nói qua kẻ nói lại, thật không thể lọt nổi tai. Ta mỗi lần nghĩ đến lại thấy thực sự xấu hổ.

    Hồ Hỉ Nhi cười thâm hiểm nói tiếp: "Tuy nhiên, thế tử cũng không cần phải quá nóng giận như vậy. Ngài không thấy là, điều này chính là cơ hội tốt cho chúng ta sao?".

    Lưu Lễ Thọ ngẩn ra, vội vàng đáp: "Cơ hội, ngài nói thế là ý gì?".

    Hồ Hỉ Nhi đáp: "Thái hậu và tên thần tử có tư tình, như vậy đã mất hết thể diện hoàng gia. Các hoàng thất, thủ lĩnh đại nhân của các bộ tộc tất nhiên sẽ oán trách trong lòng. Thái hậu không biết tự trọng, tức đã không còn tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, ấu chúa lại trẻ người non dạ chưa hiểu việc chính sự, sao có thể nắm giữ được thiên hạ nhà Liêu đây? Trong tình hình như vậy, nếu thế tử nhân cơ hội phát binh, giơ tay triệu hiệu, ắt được ba quan văn võ ủng hộ. Như vậy chỉ cần bãi bỏ ấu chúa, để Tống vương thế tử lên ngôi?

    Trước đây Lưu Lễ Thọ vốn đã tham gia âm mưu phản loạn của Đức vương Da Luật Tam cùng với phụ thân mình, mưu đồ phản trắc sớm đã nhen nhóm trong đầu hắn, lúc ấy chỉ cần bọn hắn hành sự bí mật, thì đã không bị triều đình bắt được nhiều yếu điểm khi chưa thực bộc lộ hành phản. Thế nên chỉ có Tống vương bị nhốt lại, chưa bị liên lụy quá nghiêm trọng vào sự việc. Nếu có cơ hội cứu được phụ thân, sau đó tiếp tục tái phản, Lưu Lễ Thọ đương nhiên sẽ không do dự.

    Chỉ là Lưu Lễ Thọ lại do dự trong chốc lát, thở dài mà nói: "Việc thực đã không thành, thái hậu quả cao tay hơn nhiều. Trong mấy năm này, cả vùng Thượng Kinh đều bị ả ta nắm chắc không lọt chút quyền hành gì. Ta tuy vẫn là thủ lĩnh của bộ tộc nhưng lại không có chút quyền lực, ta thực không binh không quyền. Giờ tạo phản, ngươi bảo ta lấy gì để tạo phản đây?".

    Hồ Hỉ Nhi mỉm cười đáp: "Thế tử nói như vậy là tự hạ thấp mình rồi, triều đình nước Liêu ta có biết bao trung binh nghĩa sĩ, chứng kiến thái hậu một tay thâu tóm quyền lực. Khống chế ấu chúa, quốc gia lại đang lâm nguy, kẻ nào lại không nghĩ tới việc tận trung báo nghĩa, phục đỡ chính nghĩa chứ? Nếu thế tử có lòng, tiểu nhân nguyện tiến cử một người, người này trong tay nắm giữ trọng binh, nếu có ý phò trợ thế tử, đại sự tất thành".

    Lưu Lễ Thọ hai mắt nhắm lại, nghi hoặc hỏi: "Ưm! Ngươi vốn chỉ là một gã thương nhân, sao lại mưu cầu đanh lợi việc này?".

    Hồ Hỉ Nhi cung kính đáp: "Cho dù có là địch quốc trù phú, thực cũng chỉ là một kẻ thương nhân ti tiện, tiểu nhân chỉ muốn hiến mưu xuất lực... Cống hiến chút tài khuyển mã phò trợ thế tử. Đến được ngày Tống vương ngài đăng cơ xưng đế, thế tử được được lên làm thái tử. Tiểu nhân... Như vậy tiểu nhân có thể thẳng lưng mà đường đường chính chính, có được thân phận đáng nể như Quách Tập, làm rạng danh tổ tiên, gây cơ đồ rộng mở cho con cháu sau này, như thế cũng là việc đáng làm cả đời thần".

    Quách Tập là đại thần nhà Hán, khi đó được đương kim thái hậu tin dùng, nay được phong làm xu mật sứ Nam viện, kiêm chức chính sự lệnh, tiết độ sứ Phong Võ Định quân, là kẻ dưới một người đứng trên vạn người. Lưu Lễ Thọ nghe vậy liền bật cười: "Nếu phụ thân ta lên ngôi, tất sẽ phong cho ngươi chức quyền của Quách Tập. Ha ha, mau... Ngươi nói có kẻ tướng lĩnh nắm trọng binh trong tay nguyện giúp ta hoàn thành đại sự, lời này có thực không? Hắn là ai?".

    Hồ Hỉ Nhi đứng thẳng người lên, ho nhẹ một tiếng rồi nói: "Vương huynh, thế tử cho hỏi, còn không mau ra bái kiến...".

    Lời chưa dứt, một người đã nhanh chóng bước ra từ sau tấm bình phong, thân người khoác một bộ giáp đen, đầu đội mũ lông quạ tay cầm bội kiếm, nhìn diện mạo có vẻ chưa tới bốn mươi tuổi, khuôn mặt mày ngài sắc nhọn, anh tuấn cường tráng.

    Lưu Lễ Thọ cảm thấy kinh hãi, vội nhảy dựng lên, thất thanh nói: "Vương Quan Vũ! Vương chỉ huy sử ư?".

    Vương Quan Vũ cung kính cúi người hành lễ, cao giọng nói: "Đúng là mạt tướng, mạt tướng Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, thần đã từng được yết kiến Tống vương thế tử".

    Lưu Lễ Thọ được gặp người này không khỏi vừa mừng vừa sợ, thì ra đây chính là Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, dưới trướng có tới sáu vạn quân Hán trấn thủ Thượng Kinh. Nay chiến sự U Châu khẩn cấp, đến binh mã Liêu Dương ở Đông Kinh cũng bị điều đi. Quân cấm vệ cung, quân tộc trưởng ở Thượng Kinh cũng đi theo ngự giá, số binh mã lưu lại trấn thủ Thượng Kinh giờ do chính quân Hán làm chủ lực.

    Tiêu Xước vốn nghĩ rằng, lần mưu phản trước đây đều do Khiết Đan cầm quyền, có rất ít quân Hán cùng tham gia tạo phản, nàng nghĩ rằng để quân Hán ở lại trấn thủ Thượng Kinh là thỏa đáng nhất. Không ngờ Trịnh gia lại hoàn toàn có ý phản trắc, muốn mưu đồ đoạt vị tại nước Liêu này.

    Mấy vị tướng lĩnh quân Hán này đều xuất thân từ gia thế phương bắc. Thường dân bách tính người Hán trong mấy năm này cũng dần mở mày mở mặt, được lên làm quan chức. Trước đây, ngoài tộc Khiết Đan ra các tộc khác đều bị áp chế, con cháu người Hán bình thường đều không có quyền được học văn tập võ, nên chỉ có những nhà gia thế như vậy mới được giáo dục, được triều đình nhà Liêu trọng dụng.

    Đương nhiên, cũng hoàn toàn do xuất thân của họ nên dù là võ nhân, họ cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa dân tộc mình, quan niệm truyền thống của người Hán, đối với họ, cuộc sống thường dân dù ở góa đơn độc, rồi tái giá cũng là chuyện bình thường, nhưng thái hậu lại là thân phận khác, chẳng phải là đấng tôn nghiêm cao quý sao? Thái hậu một nước lại dám có hành vi ấy, rõ ràng là loan luận bại đức, làm vấy bẩn lên phong tục dân tộc lâu đời, nhất định phải chịu sự khinh bỉ của bàn dân thiên hạ.

    Tin đồn Tiêu Xước và Da Luật Hưu Ca có tư tình, vốn chỉ là do vài tên nghiệp dư nghe ngóng từ Chiết Tử Du mà bày đặt thị phi, cố ý truyền đi khắp nơi. Vốn dĩ bách tính thiên hạ cực kỳ để ý chuyện tư tình nam nữ, chỉ cần có người truyền ra là họ sẽ ầm ĩ hết lên. Chuyện đồn đại qua tai nhiều người thường lại càng bị nói phóng đại lên, một người nói một khác, tin đồn ai ai cũng biết, đến lúc Vương Quan Vũ nghe được cũng tin là thật.

    Sau đó, Hồ Hỉ Nhi đã dùng quà các biếu xén để kết giao thâm tình, khéo léo dụ dỗ, dần thuyết thục được hắn, nói rằng Tiêu thái hậu không đoan chính, không có tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, chỉ cần ta hưng binh phế truất, tất nhiên sẽ hợp ý tất cả các quý tộc hoàng thất.

    Được họ ủng hộ, việc này chắc chắn sẽ thành công, vì vậy hắn mau chóng biến thành kẻ đồng mưu với Hồ Hỉ Nhi.

    Có hai kẻ hạ thủ cùng bàn đại sự, Lưu Lễ Thọ nhất thời cảm thấy mừng rỡ, nhưng nghĩ lại lần chính biến trước bị thất bại, may mà lọt lưới nên mới thoát tội khi quân, hắn không khỏi thấy sợ hãi, hắn lo lắng hỏi: "Vương tướng quân, quân Hán trên dưới, ngươi có thể khống chế được hết không? Ngươi có biết rằng chỉ cần sơ xảy một chút là ta và ngươi đều sẽ bị chém đầu không?".

    Vương Quan Vũ cười ha hả đáp: "Trong số các cánh quân Thượng Kinh, quân Hán ta trước giờ đều bị cấm vệ quân, quân tộc trưởng coi thường, các tướng sĩ cũng bị bọn chúng xa lánh kỳ thị, bởi vậy luôn cùng nhau đoàn kết, ky luận thống nhất, Vương mỗ hiểu rõ quân Hán của mình như lòng bàn tay, tuyệt đối tin rằng "quân Hán trên dưới như một"".

    Vương Quan Vũ tự tin mà dứt khoát, giương giọng nói: "Các ngươi mau ra đây đi, cùng yết kiến thế tử...".

    Sau tấm bình phong lớn, xuất hiện năm người đều mặc áo giáp đi ra, đó là: Lý Kiếm Bạch phó đô chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, Trinh Thiên Hạo chỉ huy sử Mã quân, Ác Duy chỉ huy sử Bộ quân, úy Trì Phong đô ngu hầu quân Hán và Chu Khí, sáu vị đại tướng nổi danh của quân Hán đều tập trung tại đây. Lưu Lễ Thọ vui mừng khôn xiết mà vỗ tay khen ngợi: "Thế này thì đại sự tất thành!".

    Hồ Hỉ Nhi cười nham hiểm đáp: "Đây vẫn chưa đủ, tiểu nhân đã liên giao với cả mấy bộ lạc như Bạch Cam, ngoài ra cũng cử người đi thuyết phục bên phía Nữ Chân, Thất Vi, chỉ đợi mọi việc hoàn tất, thế tử có thể hành động, nhất cử mà chấn động cả thiên hạ".

    Lưu Lễ Thọ nhìn lên trời cười to, không biết hắn đang mừng hay sợ nữa...

    *

    * *

    Tiêu Xước lại lần nữa phái Mặc Thủy Ngân đến đại doanh của quân Tống, lần này chỉ đem đến một hộp cẩm hạt.

    Bên trong chiếc tráp, có một mẩu giấy, bên trên vẩy mực tung tóe, chỉ ghi có sáu chữ: "Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!".

    Dương Hạo nhìn xong im lặng không nói gì, sau khi để Mặc Thủy Ngân quay về, mới trở vào thất phòng, tự mình cầm chiếc cẩm hạt mà trầm ngâm lúc lâu. Hắn lại nhẹ nhàng mở hộp ra, gỡ tờ giấy vẩy mực rồi mở tấm lụa phía dưới đáy hộp, bên dưới thực đã đặt sẵn những thứ đồ trang sức, từng chiếc từng chiếc một được lau bóng loáng xếp đặt đều đặn tỉ mỉ. Trang sức ánh sắc long lanh, có lẽ... Khi đêm khuya lúc mọi vật tĩnh lặng, Tiêu Xước thường hay lấy chúng ra ngắm nghía.

    Tại sao phải biệt ly? Trâm cài người tặng trên mái đầu...

    Tại sao lại nói điều ân cần? Hẹn thề một đôi sống chết...

    Tại sao lại ước hẹn? Chung tay đến trời biển...

    Tại sao lại kết ân tình? Mỹ ngọc nguyện một lòng...

    Tại sao lại xa cách? Để lòng này tương tư...

    Còn nhớ lần trước, Tiêu Xước đã giữ đến một nửa số trang sức, Dương Hạo hiểu rõ rằng nàng dùng nó để bày tỏ tâm ý của mình. Nàng đang hy vọng, sẽ có một ngày nào đó, chính tay Dương Hạo hắn sẽ đeo lên người nàng những thứ đồ trang sức đang thiếu mất một nửa này, nhưng...

    Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!

    Dương Hạo thở đài một tiếng, trong lòng buồn bã: "Khoảng cách giữa hai chúng ta càng ngày càng lớn, có lẽ cả đời này cũng không còn cơ hội nữa rồi".

    "Tâu... Da Luật Hưu Ca tập kết binh mã, đánh tới Trác Châu, hòng chạy về phía bắc!".

    Dương Hạo vội đứng bật dậy, nỗi buồn lúc nẫy đã mau chóng biến mất, trên mặt hắn giờ đây đằng đằng sát khí!

    Quân Liêu đã rút lại binh lực, cố thủ Nam Kinh, theo như kế hoạch của Da Luật Hưu Ca, cứ cố thủ Nam Kinh, từ đó làm tiêu hao quân chủ lực của Dương Hạo. Như vậy, quân lộ trung của Dương Kế Nghiệp đang đơn độc chiến đấu và quân lộ tây của Tào Bân hiển nhiên sẽ không làm được gì. Chúng sẽ tránh việc tiên phong giao chiến cho đến khi hợp lực toàn quân, chúng sẽ không chủ động quyết chiến với hắn.

    Cuộc chiến bảo vệ U Châu lần thứ hai này, khi mưu đồ của Da Luật Hưu Ca bắt đầu, ba trong bốn vị vương gia trong vương phủ Khiết Đan là Da Luật Cảnh đại vương Nam viện, Bồ Nô Trữ đại vương Bắc viện, Trù Trữ Hề đại vương cùng với Bồ Lĩnh tuyên huy sử Bắc viện đã hội tụ tại U Châu của Nam Kinh nước Liêu này.

    Đồng thời, Da Luật Hưu Ca đã mệnh lệnh cho binh mã các lộ vừa đến tập kết tại U Châu vừa tiến hành đánh du kích quân địch, quấy nhiễu tuyến vận chuyển lương thảo quân dụng của quân Tống, bày bố các cuộc tập kích nhỏ quân Tống, di dời dân thường của các châu huyện quanh đó, thực hiện kế vườn không nhà chống.

    Nhưng đại quân của Dương Hạo lại hùng hổ tiến thẳng tới U Châu, căn bản không phân tán đóng quân ở những vùng huyện mà họ vừa chiếm lĩnh được, theo như Dương Hạo đã định, tấn công quân địch cũng tức là tự cứu được mình, ép cho địch phải lùi lại, binh mã tiền trận nước Liêu ắt không đánh mà lui.

    Dương Hạo hành động nhanh nhẹn, thoạt nhìn cứ ngỡ cách đánh hoàn toàn giống với Triệu Quang Nghĩa, nhưng lực cơ động lại cực khác nhau. Cùng một chiến thuật nhưng hiệu quả lại không giống, lực uy hiếp đến quân Liêu cũng lớn hơn hẳn. Quân Tống chỉ có một nhược điểm quy nhất, đại khái chính là vấn đề cung ứng lượng lớn lương thảo vào trận tuyến. Dương Hạo đã dùng cả bộ thủy hai đường vận chuyên lương thảo, theo sát sau đại quân.

    Phía đường thủy, trước có thuyền phá băng, sau là thuyền chuyên chở lại thêm binh đội hộ tống chặt chẽ. Nhưng có điều được vài quãng, thuyền phá băng vừa phá tan mặt băng dày, nước lại tiếp tục đóng tảng, không thể duy trì được tốc độ đã định, các binh sĩ buộc phải dùng chính sức mình di chuyển lương thảo trên tàu đi. Ngoài lương thảo ra còn có lượng lớn cỏ, họ đành phải chuyên chờ nó theo sau đó.

    Phía đường bộ, quân Tống dùng thêm nhiều lừa ngựa thồ vận, binh mã của Dương Hạo thậm chí đã vượt qua cả binh đội của quân Liêu đang quay về bảo vệ U Châu, nhưng Da Luật Hưu Ca vẫn lệnh cho họ vừa quay về U Châu vừa đánh du kích quân Tống, lấy kỵ binh tấn công vào tuyến vận lương cả thủy và bộ của địch.

    Trong lịch sử chiến tranh trong ngoài nước, cũng có những việc tuy rất nhỏ nhặt nhưng lại ảnh hưởng lớn thay đổi cả tình hình chiến cục. Trong hoàn cảnh hai phe vừa hành quân vừa tiến đánh này, dù chỉ là một vụ nổ pháo đạn đúng lúc. Trận mưa bão đột ngột, một lần giao chiến bất ngờ nằm ngoài dự liệu hay một đám binh sĩ ngộ chiến chỉ huy địch... Cũng rất quan trọng, may rủi đều đưa đẩy đến thắng bại.

    Vào chập tối một ngày, Lưu Bảo Huân quan hộ tống áp lương của quân Tống đã mạo hiểm vượt qua bão tuyết, vận chuyển trăm xe lương thảo bằng đường bộ đến Kỳ Môn câu. Khi đi đến đoạn vòng khúc hiểm trở, từ đâu ồ ra hơn ba nghìn quân binh Liêu Quốc, chúng đã mai phục dọc theo đường này rồi xông ra đánh chém. Trong cả lộ tuyến này, tả hữu trước sau đều đông nghịt quân Tống, nhưng quân Liêu lại quen thuộc địa hình, nên đã thừa cơ quân Tống sơ xuất đến đột kích.

    Lưu Bảo Huân ứng phó không xuể, không kịp xếp đặt xe thồ để cho bộ binh bày đại trận, hắn đành lệnh cho quân binh vội vàng vận chuyển xe lương vòng tròn mà chống lại quân Liêu, nhưng quân binh rơi vào thế bị vây hãm, quân Tống hoang mang khó mà trụ nổi công kích của quân Liêu. Quân Liêu tứ phía bủa vây, một trận chiến máu lửa tản ác xảy ra, Lưu Bảo Huân, Lưu Lợi Hiệp tào binh Khai Phong và cả Trung Thừa Khổng trung điện đều chết trận tại chỗ, binh tốt thương vong vô số, xe lương đều bị đốt sạch.

    Khó khăn lắm mới hành binh tới gần Kỳ Môn câu, Lý Hoa Đình và Lưu Đình Nhượng lúc này mới nhìn thấy đám khói mù mịt cách hơn mười dặm về phía bên phải, họ vội vàng dẫn quân lao đến. Đám quân Liêu này vừa thoát khỏi Thiên Quan, cũng chính là nơi Lưu Đình Nhượng gặp trúng mai phục của quân Liêu, ba vạn đại quân của hắn bị đánh cho tơi bời. Hắn vốn đã căm thù quân Liêu ngút trời, giờ lại chứng kiến cảnh quân lương tan tác thảm bại, hắn lại thêm hận đến tận xương tủy, lập tức lệnh cho đoàn quân tốc hành đuổi theo.

    Kỳ thật, trên cả chặng đường, quân Liêu đã lợi dụng việc dụng binh nhanh nhẹn, thông thuộc địa hình, dùng nó để bày trò đánh nhiễu quân địch. Thế nên việc truy kích là bất thành, Lý Hoa Đình vốn không muốn đuổi theo, hắn nghĩ rằng quân Liêu đột ngột công kích nhỏ lẻ như vậy chứng tỏ chúng đang kìm chế việc quân Tống kéo binh đến đánh U Châu, cũng đang tốc hành trở về, ắt sẽ sợ đối mặt trực diện đánh trận quyết chiến. Nhưng hắn lại không ngăn nổi Lưu Đình Nhượng vị lão tướng nước Tống đang sôi sục máu lửa này, đành phải theo đó mà dẫn quân truy kích. Thời tiết bấy giờ cũng không khả quan cho lắm.

    Cuộc truy đuổi rồi cũng truy được tới địch. Lúc này, tuyết lớn đang rơi, trời đất khắp nơi mù mịt, bóng đêm đang dần buông xuống. Hai người dẫn quân truy kích nhưng trên mặt đất đã dần mất hết tung tích của địch, họ giờ thực đã bị lạc đường, đám quân Liêu sớm đã cao chạy xa bay, còn họ thì hồ đồ chạy loạn về phía trước. Tuy nhiên, đúng lúc này, tại một thôn trang hẻo lánh ven sông, họ bắt gặp một đám quân Liêu khác đang trú quân.

    Đám quân Liêu trú quân ở đây không khỏi kinh ngạc mà tròn mắt há hốc mồm ra nhìn, đại quân quân Tống đột ngột từ đâu như trên trời đổ xuống, ào ạt tiến đánh.

    Thì ra, đám quân Liêu này đang áp vận lượng lớn khí giới công thành thu được dưới chân thành U Châu từ lần trước, chuẩn bị chuyển đến cho binh đội chuyển vận ở biên ải Tống Liêu. Đám quân này lúc trước đang định vận chuyển khí giới đi thì nghe tin Da Luật Hưu Ca đại bại, kế hoạch thay đổi, tạm thời chưa cần tới khí giới công thành. Việc tạm thời dừng tiến, làm đám quân này phải đóng quân tại yếu địa giao thông bắc nam, họ liền trú ẩn ở thôn trang hẻo lánh này, đợi chờ thế cục thay đổi.

    Nếu họ đem hủy hết số khí giới này là thỏa đáng nhất, nhưng người Liêu lại tiếc rẻ. Đối với họ mà nói, những khí giới tinh xảo như vậy nước Liêu khó mà tạo ra được, đây thực là bảo vật hiếm có. Những loại vũ khí mới mẻ như thế có giá trị lớn đối với họ, lợi dụng chúng họ sẽ có binh lực mạnh hơn nhiều, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, sao có thể hủy chúng được.

    Hơn nữa, đám quân Liêu này lại không nắm rõ được tình hình tiền tuyến, họ chỉ biết tin Da Luật Hưu Ca trúng kế dẫn đến đại bại, giờ đang thu hợp quân binh, định ý ghìm trận giằng co với quân Tống ở Tam Quan, họ nghĩ đợi xem tình hình rồi quyết. Không ngờ quân Tống không bị vướng quân binh ở biên ải, lại sẵn sàng chuẩn bị đánh thẳng tới U Châu, lại còn hành tốc đi lên trước cả quân Liêu ở biên ải.

    Tình hình vốn như thế, nhưng đám quân lại không nằm trong tuyến quân giáp trận, tin tức nhận được vốn đã thiếu sót, nếu muốn thăm dò hỏi tin cũng phải mất nhiều thời gian, cho nên hiện giờ vốn đã mất hẳn liên lạc với đầu quân.

    Theo lý mà nói, họ trú quân tại nơi thôn trang hẻo lánh, dù quân Tống lại nóng lòng tiến đánh U Châu, thần tốc hành binh chắc không hơi đâu mà vòng qua càn quét nơi hẻo lánh không chút đáng giá này, cũng sẽ không phát hiện ra những thứ khí giới này. Ai ngờ đâu, Lưu Đình Nhượng và Lý Hoa Đình lại mạo hiểm truy đuổi, lạc đến nơi đồng không mông quanh này, để rồi bắt gặp toán quân nhàn hạ này, kết quả quân Tống đánh bậy đánh bạ vào đây, bắt được cả người lẫn vật, đoạt được một loạt vũ khí.

    Có được số chiến lợi phẩm này, Lưu Đình Nhượng lấy làm mừng rỡ, lần đại chiến ở U Châu, vì gấp gáp rút lui, quân Tống gặp mai phục ở sông Cao Lương bị đánh tơi bời còn không kịp báo tin cho quân mình ở gần đó. Quân hắn thảm bại, mất hết sức chiến đấu, chỉ còn lại binh hậu cần và binh thợ, khả năng tự bảo vệ của đoàn quân cực thấp, nên bị sát hại tổn hao vô số.

    Hơn nữa bây giờ đang là mùa đông, dù binh thợ có nhanh tay đến mấy cũng không kịp tạo đủ số khí giới như lần trước được. Nay có đượcc số khí giới này, quân Tống sẽ được lợi vô cùng, công đánh quân Liêu sẽ dễ dàng hơn. Lưu Đình Nhượng vừa giải thích, Lý Hoa Đình liền ngạc nhiên mà vui mừng, trận loạn đánh này lại hóa kiếm được đại công!

    Ngay sau đó, Lý Hoa Đình vội vàng lênh quân áp tải những tù binh cùng với khí giới lên đường, nhưng lão tướng Lưu Đình Nhượng có phần suy nghĩ cẩn trọng hơn. Hắn biết được tầm quan trọng của những khí giới này, đối với người Liêu, thứ bảo bối này còn trọng yếu hơn cả quân lương, lại nói về trận đánh vừa nãy, hai phe đều đột ngột giao chiến, phía địch đã có vài binh tốt chạy trốn được, một khi chúng thoát về bên quân Liêu và báo lại cho chủ tướng, chúng sẽ đem quân trở lại tấn công quân ta cướp lại bằng được khí giới. Nghĩ vậy, hắn liền nhắc nhở Lý Hoa Đình, phải thông báo việc này cho chủ tướng quân lộ đông, để họ mang quân tiếp ứng.

    Lý Hoa Đình mới vỡ lẽ, lại lập tức phái người đi liên lạc với chủ soái, tín sứ vừa đi được nửa ngày, họ đã gặp được một đoàn quân khác đang tốc hành ngay sau, hỏi thăm tình hình mới rõ việc khí giới, nhận biết là việc trọng đại, đội binh này liền mau chóng hộ tống quân của Lý Đình Hoa lên đường, hành động nhanh nhẹn.

    Đến đêm quả nhiên có một đạo quân Liêu tới đột kích, có khoảng đến bảy ngàn quân, dẫn đầu là Tiêu Thát Lẫm. Hắn cũng là một mãnh tướng nước Liêu, văn thao võ lược, trí dũng song toàn, chứ không phải là loại dũng tướng tầm thường. Hắn cũng có ý chí tiến thủ cao, trước đây khi Da Luật Hưu Ca được thăng chức như bay hắn cũng không phục, đối với hắn mà nói, hắn giỏi không thua kém gì Da Luật Hưu Ca, nếu có kém cũng chỉ là không gặp may thôi.

    Vừa nghe tin quân Tống đoạt được khí giới, hắn biết là việc nghiêm trọng, thứ này vốn là vũ khí sắc bén nhất để công phòng thành trì về phương diện nào đó đủ để quyết định thắng bại. Thiếu thứ này, quân Tống sẽ khó mà công thành, quân Liêu sẽ bớt được gánh nặng. Kể cả hủy nó đi, quân Tống sai người chế tạo lại cũng phải mất nhiều thời gian, thậm chí không kịp mà hoàn thành.

    "Thật là ngu xuẩn, đống khí giới đó lúc nào cũng phải chất cỏ khô lên trên, nếu thấy bất lợi lập tức đốt hủy ngay, các ngươi gặp phải quân Tống lại chỉ lo thoát thân, đúng là dâng vào miệng địch mà!".

    Dưới cơn thịnh nộ, Tiêu Thát Lẫm đã hạ lệnh chém chết mấy tên vừa tháo chạy về, tự mình dẫn quân đi truy sát quân Lý Hoa Đình, đồng thời hắn phái người đến báo tin cho binh mã các ngả phía vùng biên ải và cả đám quân đang truy đuổi quân chủ lực phía Dương Hạo của Tiêu Can và Hàn Khuông Tự.

    Binh mã của Lý Hoa Đình, Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ đánh một trận đẫm máu với quân của Tiêu Thát Lẫm, hai bên đều bị trọng thương. Quân Tống bảo vệ tới cùng chỗ khí giới, quân Tiêu Thát Lẫm lại càng không bỏ qua, hai bên không ngừng giằng co, vừa đánh vừa tiến, một mạch giao chiến tới tận chiều ngày thứ hai. Lúc này quân bộ điền trọng quân Tống đã biết tin cũng đem quân xông tới viện trợ, quân Tống giao chiến lại càng hưng phấn.

    Tiêu Thát Lẫm nhận thấy sắp không trụ được, đang định ra lệnh rút lui thì Tiêu Can và Hàn Khuông Tự đã dẫn quân đến, rốt cuộc cũng kịp lúc. Quân Liêu thấy thế lại càng hăng hái, hai bên thành ra ngang ngửa thế trận, lại tiếp tục giao chiến đến tận hoàng hôn rồi lại mải miết đánh chém đến nửa đêm. Lúc trận chiến đang hung hãn nảy lửa nhất thì Phan Mỹ đã nhận được tin báo, hắn tức tốc thống lĩnh quân binh quay lại cứu viện.

    Vì một lần bị quân Liêu cướp phá lương thực, làm cho lão tướng Lưu Đình Nhượng của quân Tống oán hận mà đuổi theo, lại bất ngờ đoạt được chỗ khí giới công thành này. Quân Liêu các ngả nghe tin lại lấy làm lo sợ, hộc tốc phản ứng lại, mong rằng kịp thời phá hủy đống khí giới này khỏi tay quân Tống trước khi đại quân của địch hợp lại. Kết quả chỗ khí giới của Triệu Nhị Thúc tạo ra lại trở thành một mồi lửa dẫn dụ cả đám thiêu thân chạy tới.

    Hai bên giao chiến đến tận khi trời sáng, giờ mới có ý định rút lại binh mã. Trên một vùng đồng bằng lớn, hai đám quân đen kịt đang giằng co, đến lúc nhìn lại thế trận, chủ tướng hai bên không khỏi kinh hãi.

    Khí giới trong tay quân Tống được bảo vệ chặt chẽ, họ đã bố trí binh tốt vây quanh bên trong, kỵ binh lập vòng vây bên ngoài, tránh cho quân Liêu nhảy vào phá hỏng. Tống binh lực bấy giờ khó mà tính được, chỉ nhìn qua đám kỵ binh, cũng phải đến hơn tám vạn. Còn đám quân Liêu, khắp nơi tụ đến cho nên đều là kỵ binh, đám quân của Tiêu Thát Lẫm, Tiêu Can và Hàn Khuông Tự cũng vậy, cứ thế đối diện mà đứng.

    Qua đó có thể nhận thấy cục diện thực đang thăng bằng, binh lực hai bên đa phần đều là kỵ binh, vị trí lại cùng trên bình nguyên trống trải.

    Vậy một khi xảy ra việc kỵ binh đối mặt kỵ binh, hai bên giằng co không phân thắng bại thì phải làm sao đây?

    Chỉ có một biện pháp duy nhất, quyết chiến! Tử chiến!

    Quân đoàn bộ binh giằng co thì có thể tự do rút lui, kỵ binh mà giao chiến như vậy, lại thêm địa hình xung quanh bằng phẳng không núi non, không thể vừa rút vừa chống đỡ được địch, kết quả chỉ có một cách duy nhất, chưa chết thì chưa dừng.

    Bởi vì, chiến mã dù có được huấn luyện tốt đến đâu thì vẫn chỉ là súc vật, không phải là người. Một khi thoái lui ắt rối loạn trận hình, nếu đối phương cũng là kỵ binh, như vậy sẽ được lợi mà toàn quân xông kích, kết quả bị giết hại cả loạt.

    Ai cũng không ngờ lại gặp phải một trận đánh như vậy, quân Liêu vốn đang né tránh quyết chiến với quân Tống để mau chóng trở về U Châu, lại biết rõ địa thế nước mình như lòng bàn tay, nên quân Tống muốn tìm quân Liêu quyết chiến cũng thực khó khăn. Nay nhờ chỗ bảo bối này lại xảy ra đại trận, binh mã không ngừng đổ bộ về đây. Ban đêm hỗn loạn đánh chém, đợi đến khi mặt trời rọi sáng mới vỡ lẽ, phát hiện ra vấn đề nghiêm trọng, việc quyết chiến đã không thể né tránh được.

    Vạn mã cùng hí vang tiếng, chiến trường chợt tĩnh lặng, Phan Mỹ đã dẫn quân đến, hùng hổ tiến đến như điên đại. Đang lúc mơ tưởng tìm được quân chủ lực của địch, tiêu diệt đến sạch sẽ trước khi xảy ra trận đại chiến ở U Châu hóa ra đã ở ngay trước mắt, có thể thực hiện nguyện vọng đó ở ngay đây.

    Cưỡi trên lưng ngựa bệ vệ, Phan Mỹ quất roi ngựa chi về phía đại quân quân Liêu, cao giọng quát: "Quân Liêu đã ngay trước mặt, tướng soái nào nguyện vì bản soái mà phá trận?".

    "Mạt tướng nguyện đi!". Lý Hoa Đình, Đồng Vũ đồng thanh nhận lệnh, hai người nhìn nhau một hồi, Đồng Vũ lại cười nói: "Lý tướng quân, quân của ngài chỉ có tới một vạn thiết kỵ, quân địch lại đông không dưới bảy vạn, trận này nên để Đồng mỗ ra tay!".

    Lý Hoa Đình vẻ mặt hung hăng, sát khí đằng đằng nói: "Muốn diệt được địch, ắt dựa vào tướng, phá trận này Lý mỗ ta chỉ cần một vạn binh mã là đủ!".
     
  14. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 634: Chỉ có thể chiến mà thôi
    "Các tướng sĩ. Liêu kị đang ở trước mặt. tùy ý chém giết, chặt đầu tướng cướp cờ hiệu, lập đại công hiển hách!"

    Lý Hoa Đình giơ cao thanh đao lên không trung, hô lên hiệu lệnh ngắn ngủi, rồi xông tới làm tiên phong hướng về phía quân Liêu.

    "Giết!"

    Hàng loạt đại thương đại thuần chĩa thẳng lên trời đi theo nó là những tiếng gào thét rầm vang, sĩ khí kị binh ngùn ngụt xông lên phía trước.

    "Giết!'

    Gần nghìn kị binh với vô số phi mã lại giơ đao sáng lóa cùng với hàng binh sĩ thứ hai lại hét lớn xông tói.

    "Giết!"

    "Giết!"

    "Giết!"

    Từng đội Tống kị dàn hàng theo hình chữ Khiết xông lên. hơn mười tầng quân Tống kị hình thành một đầu mũi tên cực đại, phi thẳng về trung quân của Tiêu Thát Lâm.

    Vừa nhìn thấy uy thế của Lý Hoa Đình. Phan Mỹ không khỏi vuốt râu khen ngợi: "Lý tướng quân thật là anh đũng!"

    "Hán nhi uy vũ, quân ta tất thắng! Hán nhi uy vũ, quân ta tất thắng!"

    Những tướng sĩ còn lại người giơ đao người giơ thuẫn, người giơ thương, hô lên những âm thanh vang dội làm chấn động lòng người, dùng tiếng hô của mình để làm tăng thêm sĩ khí chiến đấu cho chính mình.

    Mắt thấy Tống quân chỉ có hơn mấy trăm kị nhưng thế lại như hổ báo. Tiêu Thát Lâm tức giận thôi râu. nắm chặt cán trường thương hô to: "Nghênh địch."

    Khói bụi mịt mù. liên miên không đứt. Lý Hoa Đình mang theo một vạn thiết kị. thế như vũ bão, xông thẳng về bổn trận của Liêu quân, nhất thời người ngã ngựa đổ. tiếng chém giết tàn khốc vang lên.

    Sự tức giận lan tràn, tiếng hô gầm như sóng cuộn, cả một bình nguyên khắp nơi đều là chiến mã điên cuồng chạy, giữa không trung đêu là những mũi trường thương, lợi đao. cơ chiến chĩa thẳng lên. một vạn hán kị đã xông vào bổn trận Liêu quân, lại giống như một chảo dầu sôi đột nhiên bị đội một gáo nước lạnh vào, lập tức nổ tung tóe.

    Lúc này năm vạn kị binh bộ Đồng Vũ ở sau điện vẫn đứng yên không nhúc nhích, yên tĩnh như núi nhạc, tuyệt nhiên không có tiếng động, chỉ có chiến kì bay phấp phới, càng tăng thêm một áp lực vô hình, ai biết đến lúc nào thì bọn họ sẽ ùn lên như ong vỡ tổ chứ?

    Bởi vậy LÝ Hoa Đình khi lấy gần một vạn kị binh liều mạng xông vào bổn doanh quán địch đương nhiên là trong thời khắc xông vào đã phải bỏ ra sự hi sinh cực lớn. nhưng một khi đã đột nhập vào được địch quân thì lại như cá gặp nước, dũng mãnh vô địch, làm cho bôn trận Liêu quân trời long đất lở.

    "Đại vương đã lấy được thiên hạ. đại vương đã xưng thiên tử. hợp hai nước Tổng Hạ, dưới trướng danh tướng như mây. đại trượng phu không nhân lúc nàv lập được đại công, dũng cảm làm tiên phong, tranh công cầu chiến thì phải đợi đến lúc nào đâv?"

    Lý Hoa Đình thật sự đã liều mạng, phía sau có viện quân, không phải lo lắng gì cả. hắn chỉ cần tiến lên trước, tiến lên trước, phá vỡ. xé tan. Dẫn tất cả bộ binh trào lên như nước thủy triều. Cả bốn doanh Liêu quân như bị chấn động, theo quán tính, cả quân doanh Liêu quán như nước ớ trong một cái nồi lớn. lắc đi lắc lại. trận hình đại loạn.

    "Đồng tướng quân, thắng bại là ở thời khắc này, bộ quân của ngài có thể xông lên rồi!"

    Mắt thấy Lý Hoa Đình đã làm đại loạn trận hình Liêu quân, đã có cơ hội thừa dịp xông lên, lão tướng kinh nghiệm đầy mình. Phan Mỹ lập tức nắm bắt thời cơ. đứt khoát hạ lệnh.

    "Mạt tướng tuân mệnh!"

    Lời của Phan Mỹ vừa dứt thì Đồng Vũ. kẻ đã đứng chờ đợi sắp không thể kiềm chế được lập tức vui mừng đáp lời. giơ trường thương lên. hét lớn: "Huynh đệ. chớ để cho Lý tướng quân giành hết công lao. cho họ thấv thủ đoạn của huynh đệ chúng ta như thế nào đi. Giết!"

    "Giết!"

    Năm vạn kị binh lập tức chia làm hai lộ. Trình Kiểm Hình bao vây lấy chủ lực của Liêu quân, cùng lúc đó Tiêu Thát Lâm cũng hạ lệnh cho tướng lĩnh của hai bên cánh quân lập tức nghênh đón phục kích của Trình Nhạn Sí. cuộc xung kích như nước thủy triều, vũ tiễn, đao sơn, thương lâm hội tụ thành một bức tranh bi tráng.

    Liêu quân vừa lui vừa đánh, hơn nữa ba vị chủ soái Tiêu Thát Lâm. Tiêu Can. Hàn Khuông Tự quan châu, mỗi người có một bộ quân riêng, hiệu lệnh không thống nhất bằng Tống quân. Lý Hoa Đìrih và Đông Vù lại giống như con hồ đói. ào lên lập tức làm dao động cả Liêu quân.

    Chi trong chốc lát. cuộc thoái lui đã trở thành hỗn chiến, khí thế hoàn toàn thay đổi. Đại quân của hai người Lý Đông đã hình thành một áp lực đối với cả cục diện.

    Trận chiến đấu này có một ý nghĩa trọng đại trong lịch sử chiến tranh ngắn ngủi giữa Liêu và Tống, trong mấy trăm năm kéo dài về sau. Tống quốc không bao giờ còn có được một trận đấu đối kháng với ngoại địch bẳng lực lượng kị binh hoàn chỉnh như thế này. đây cũng là lần duy nhất, cũng là lần hoàn toàn thắng, vì thế nó luôn được học viện quân sự Đại Tống, tiền thân là Diễn Võ Đường Lô châu liệt vào làm ví dụ kinh điển về kị chiến, cũng theo đó mà rất nhiêu tướng lĩnh, hai bên Liêu Tống cùng với binh sĩ có biêu hiện kiệt xuất cũng được ghi chép lại vào trong sử sách.

    Mấy trăm năm sau. trong một bài giảng về tổng kết chiến dịch này. Hoa Mạn Thiên tiên sinh, người tư tâm giáo đâu của Diễn Võ Đường của Đại Tống đã giới thiệu như sau với học sinh:

    "Trong lịch sử, khi người Liêu gọi người Hán là Hán Nhi. người Hán cùng đã tự xưng như vậy. qua mấy mươi năm. Hán Nhi theo thói quen cũng truyền xưng cái tên này. nhưng sau khi phân chia nam bắc Hán nhân, người Tống từ đó đã tự xưng là người Hán. người Hán của Liêu quốc lại xưng là Hán nhi. mà lúc đó vẫn chưa phân thành như thế nàv. Vì vậy đột nhiên nghe thấv tiếng hô "Hán Nhi tất thắng", những nam nhân Hán gia ờ trong trận doanh Liêu quân cho dù về mặt tình cảm hay tâm lí từ lâu đã coi mình là người Liêu, vẫn cảm thấy một sự đả kích cực lớn trong lòng.

    Đặc biệt là tiếng hô của mấy vạn người, sự đả kích cường đại và sức chấn động đó không có cách nào đùng lời để hình dung được, những người Hán bắc quân với huyết mạch người hán bất giác mất đi đại khí. Điểm này đối với việc một vạn kị birih của Lý Hoa Đình xông vào địch trận mà nói. đã tạo ra một tác đụng không thể lường hết được. Có thể nói. đây là một ví dụ cực kì thành công về chiến lược đánh tâm lí.

    Ngoài ra. khi Liêu quán đang giữa đường lui về bảo vệ Nam Kinh, lại phát động phản kích cục bộ. với tình hình này bọn họ nên lựa chọn chiến thuật nhất kích không trúng, lập tức bò xa. vì nếu một khi hình thành thế cục quyết chiến chính điện thì đối với những tướng sĩ Liêu quốc sớm đã không còn lòng chiến đấu mà nói sẽ là một việc vô cùng nguy hiêm. về điểm này người Liêu lại một lần nữa mắc sai lầm.

    Điểm thứ ba chính là. khi đó Phan Mỹ tướng quân, người thống soái các bộ tướng lĩnh đông lộ lại kịp thời trở về cứu viện, đích thân chỉ huy trận này. quân lệnh ban xuống, trên dưới nhất thể. Còn Liêu quốc lúc đó lại có tới ba vị tướng lĩnh Tiêu Can. Tiêu Thát Lầm. Hàn Khuông Tự, lân lượt chia nhau nắm giữ các lộ quân, quân giới và quyền lực thực sự của ba vị này cũng không phân cao thấp, nó đã tạo thành tình trạng quân ai người đó chiến, không có cách nào điểu động toàn quân đây cũng là một nhân tố quan trọng quvết định chiến bại trong cuộc chiến này.

    Đương nhiên tướng sĩ quân ta trên dưới một lòng, tác phong chiến đấu ngoan cường, đã phát huy tác dụng vô cùng lớn trong cuộc chiến này. Ngoài ra, còn có một nguvên nhân quan trọng khác, không cho phép các trò bỏ qua. đó chính là ánh hưởng của nhân tố ngoài dự đoán đối với chiến tranh. Ví dụ như trong trận chiến này. có một quan viên của nước ta làm tuyên phủ sứ ờ Giao Chi. lúc đó còn là một tiêu hiệu úv, tên là Đinh Phong. Đinh Phong trước đây là diêm đinh nhỏ bé ở Thục Trung, vì tham gia vào nghĩa quân của tướng quân Đồng Vù nên đã trớ thành một phân tử của cánh quân này.

    Trong lúc chiến đấu hắn đã bị thương, ruột lòi cả ra ngoài. Khi hắn không thể ngồi vững trên ngựa nữa. liền đưa tay lấy phục đao. chém đứt chân của con ngựa đang phi tới trước mặt. làm cho địch quán trên ngựa ngã xuống, sau đó Đinh Phong liền thuận thế chém đâu địch nhân đó. nhưng hắn hoàn toàn không ngờ rẳng kẻ bị hắn chém đầu đó lại chính là Yến Vương Hàn Khuông Tự của Liêu quốc.

    Hàn Khuông Tự là người Kế Châu Ngọc Điền. Hắn giỏi y thuật; hoàng hậu đời trước thương hắn như con. Hoàng đế Liêu quốc sau này là Da Luật Hiền cơ thể nhiều bệnh, mà Hàn Khuông Tự y đạo cao mình, vì thế hai người rất nhanh đã kết giao tình thâm hậu. đông thời hoàng hậu của Da Luật Hiển...khụ khụ... người nàv... chính là Tiêu thái hậu Liêu quốc, người đã để lại rất nhiều truyền thuyết ái muội với thánh tổ hoàng đế nước ta, bà ấy đã từng có hôn ước với con trai của Hàn Khuông Tự Hàn Đức Nhượng, nhưng khi Đức Vương mưu phản. Hàn Đức Nhượng đi tháp tùng theo Da Luật Hiển, rồi đỡ cho hắn một mũi lạnh tiễn, sau đó là mất mạng, cho nên để bù đắp lại. thêm nữa lúc đó Da Luật Hiển quả thật cũng thiếu tâm phúc, cho nên Hàn Khuông Tự đã được phong làm Yến vương.

    Đến đây ta đặc biệt nói rõ một chút. Các trò này. những truyền thuyết dân gian đó đều là đo sau khi kí hiệp định đình chiến, hai nước Liêu Tống qua lại mật thiết, nước ta đã viện trợ kinh tể cho nước Liêu, và những người đứng đầu hai nước thường qua lại với nhau, vì thế đã làm cho những học giả biên tập lịch sử nhiêu chuvện phát ngôn ra những lời hoang đường. Thánh tổ hoàng đế Văn Thành Võ Đức ta tuyệt đối sẽ không làm ra những chuyện như vậy. Trong chính sử hai nước Tống liêu, đối với những truvền thuyết này hoàn toàn không tìm ra một chút marih mối kiểm chứng nào. Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu còn viết ra rất nhiều truyền xướng biểu diễn khúc tấu có liên quan đến thánh tổ và Tiêu hậu. đây đều là những kẻ mê muội. Các học trò nàv. chớ có đem văn nghệ biến thành lịch sử nhé. chớ bị ảnh hưởng bởi những truyền thuyết dã sử này.

    Khụ khụ, thôi, chúng ta lại trở về chủ đề chính. Cái chết bất ngờ của Yến vương Hàn Khuông Tự đã làm cho lòng quân Liêu quốc đại loạn, vì thế càng làm cho quán Liêu đại bại nhanh hơn. từ đó mà cho cả chiến cục nhanh chóng nghiêng về phía quân ta. làm cho quân ta chi cần bỏ ra một ít thương vong mà đã đổi lấy được đại thắng. Các học trò. trên chiến trường một khắc vạn biến, chưa đến thời khắc cuối cùng thì cũng chưa thể nói được ai thắng ai bại. một nhân vật nhỏ. một sự kiện nhỏ. một tình huống bất ngờ đều có thể triệt để thay đổi chiến cục.
     
  15. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 635: Tứ diện sở ca
    Sau đó, khi Hàn Khuông Tự chết. Tiêu quân như bị chặt đứt cánh tay. Tiêu Thát Lầm cũng bị thương, tất cà quân chủ lực hoặc bị giết hoặc bị bắt, diệt thương gần bảy phần, lúc này cũng có thể coi như là toàn thắng rồi. nhưng Tống quân vẫn không chịu buông tha. Tiêu Thát Lâm thống soái bôn bộ thoái lui khỏi trận chiến, dựa vào thời gian quý báu mà những binh sĩ trên chiến trường dốc hết sức dành được để nhanh chóng thoái lui, nhưng âm hồn Đồng Vũ không tiêu tan cứ bám mãi không buông.

    Liêu quân lui được mấy mươi dặm. đến một quả núi nhỏ. tên là Dương Giác sơn. dựa vào ưu thế cao của nó để chống lại sự công kích của Tống quân. Đồng Vũ hoàn toàn không chút sợ hãi. xông thẳng lên núi nghênh địch, một trận huyết chiến lại diễn ra. ép cho Liêu quân phải vứt bỏ Dương Giác sơn, tiếp tục thoái lui. Chỉ trong một ngàv chúng đã phải liên tiếp vứt bỏ bốn trận địa. mà Đồng Vũ lại luôn cắn chặt lấy chúng, chiến đấu mãnh liệt.

    Cuối cùng, Tiêu Thát Lâm chỉ còn hơn ba trăm quân chạy thoái từ trong sơn cốc ra. tất cả những binh sĩ yểm hộ cho chủ tướng thoát thân đểu trở thành tù binh của Tống quân. Tiêu Thát Lâm dẫn hơn ba trăm kị tàn binh bại thoát về u châu. Tiêu Xước nghe được tin thì lập tức nổi giận lôi đình, toàn bộ quân chủ lực kị binh này bị tiêu diệt sẽ làm tổn thương nghiêm trọng tới sĩ khí quán Liêu. Lần đại chiến này quân Liêu đã hoàn toàn bại. thảm bại, thiết kị mà quân Liêu luôn lấy làm kiêu ngạo giờ đã không còn là lợi khí đê khắc chế người Hán nữa. không khí bi quan từ trên xuống dưới của Liêu quân chỉ cần nghĩ cũng biết."

    Trong lúc lòng người hoang mang, trên dưới bất an thì Dương Hạo lại dẫn bộ quân chủ lực ngày đêm chạy về dưới thành u châu, đến trước rất nhiều các đội quân cứu viện của u châu, tiến hành bao vây u châu thành, hình thành một hình thế hoàn toàn giống với Triệu Quang Nghĩa trước đây: Tống quân vây thành, viện quân vây Tống.

    Nhưng lần này Tống quán còn có thể bị bại sao?

    Đại quán vây chặt lấy thành, nhanh chóng cắm doanh trại Dương Hạo đích thân tuần tam quân sắp xếp tình báo. thông tấn, tập kết. bố trí. ngăn trận, tập kích và lương thảo, quân y. hậu cần...

    Trên đầu thành u châu. Tiêu Xước cũng đích thân tuần tam quân, cổ vũ sĩ khí. ở bên trái nàng có một viên hô tướng đi cùng, đây chính là Da Luật Hưu Ca. Tuần thị đến thành đông. Tiêu Xước liền đừng bước lại. giương cung lên chĩa xuống dưới thành, ngắm vào trận doanh cách xa thành mười dặm. phóng tên, tiếng người ngựa kêu thảm.

    Đột nhiên, ánh mắt Tiêu Xước bị thứ gì đó thu hút. Lọng vàng ô che, đó là nghi trượng của hoàng đế. Dương Hạo. hắn đang ớ dưới lọng vàng ô che đó. nhất định là Dương Hạo. Hai hàm răng trắng muốt của Tiêu Xước lập tức nghiến chặt lại. khuôn mặt xinh xắn như thủy ngọc Quan Âm lập tức đằng đằng sát khí.

    Chiếc võng lọng dưới thành đột nhiên cũng đừng lại. từ xa xa có thể nhìn thấy một tướng lĩnh mặc giáp bạc từ từ đi ra, đi về phía trước mấy bước, đứng lại. nhìn lên đầu thành.

    Hai bên khoảng cách rất xa nhau, không nhìn rõ được ngũ quan điện mạo. nhưng hai người hình như đểu có thể nhìn rõ được đáng vẻ đối phương, cứ đứng nhìn một lúc lâu như vậy. dường như vô số binh sĩ của hai bên cũng đêu cảm giác được sự giao thiệp vô hìrih giữa hai vị quân chủ. cả chiến trường đột nhiên vên tĩnh lại. chi có tiếng gió thổi vù vù. làm rung bay là đại kì. còn có mấy con ngựa không biết thời thức thỉnh thoảng lên kêu lên.

    Hai ánh mắt vượt qua quân doanh, vượt qua chiến hào, vượt qua tường thành, đan xen vào nhau, dao động, nhìn nhau rất lâu. Tiêu Xước đột nhiên phất tay. ném chiếc cung trong tay xuống đây. quay người bước đi.

    "Quyết tuyệt với quân, chỉ có chiến mà thôi, không còn gì để nói!"

    Chiến tranh, vì lợi ích mà nổi lên.

    Khi chiến tranh dưới thành u châu đang căng như dây đàn thì ở thượng kinh Liêu quốc lại một trận chiến vì lợi danh nổi lên.

    "Đại sự nếu thành thì các người sẽ đều trờ thành đại thần khai quốc. Da Luật Lưu Lễ Thọ ta không phải là kẻ keo kiệt, những người ở đâv đểu sẽ được phong thưởng. Xưng vương hay là xưng hầu chi còn xem mọi người có thể lập được bao nhiêu đại công cho bổn thế tử mà thôi."

    Trong phủ Lưu Lễ Thọ. Lưu Lễ Thọ mặt mày đỏ lựng, phấn chấn triệu tập hơn một tràm gia tướng tâm phúc, khảng khái nói. rồi hạ lệnh động viên trước trận chiến cuối cùng. Ngồi bên cạnh là Vương Quan Vũ đầu đội khôi giáp, uy phong bát diện.

    Da Luật Lưu Lễ Thọ khó khăn lắm mới kết thúc được buổi diễn thuyết. quay sang nói với Vương Quan Vũ: "Vương tướng quân, mời."

    Vương Quan Vũ thận trọng gật đầu. đứng dậy. tiến lên trước một bước, trầm giọng nói: "Kế hoạch hôm nay là như thế này, mã quân chỉ huy sứ Trình Thiên Hạo sẽ phụ trách đánh vào nha môn lưu thủ thượng kinh của Trừ Trất. giết chết Trừ Trất. đoạt lấy binh phù. không chế cung vệ quân thủ thượng kinh. Bộ quân chi huy sứ cẩu Ác Duy phụ trách khống chế hai nghìn cung đình nữ vệ..."

    Cẩu Ác Duy vừa nghe đã mừng ra mặt. hai nghìn cung đình nữ vệ đều là thân tín của Tiêu thái hậu. những nữ binh này đa phần là xinh đẹp trẻ tuổi. với binh thế hổ lang của hắn thì trận chiến này không biết sẽ đoạt về được bao nhiêu mỹ nữ kiều nương. Chưa cần nói đến việc phong thưởng, chỉ dựa vào điều này đám binh tướng dưới trướng còn không nhao nhao lên đòi làm tiên phong sao? cẩu Ác Duy vừa lo lắng bàn tính: "Ta cũng không cần quá nhiều . từ trong đám đó tuyên ra ba mươi người là được. Không, năm mươi mĩ nhân là được, tham quá không tốt, những cô nương còn lại để cho đám huynh đệ hưởng vậy" vừa khom người lĩnh mệnh.

    Vương Quan Vũ lại nói: "Phó đô chi huy sứ Lý Kiếm Bạch và hán quân đô ngu hầu úy Trì Phong và Chu Nghệ đang khống chế quản quân, lúc này chưa tói được, có điều việc nên làm ta đã dặn dò xuống dưới, phó đô chi huy sứ Lý Kiếm Bạch thống quân đánh hoàng cung, nhất định phải khống chế hoàng cung . hán quân đô ngu hâu Trì Phong và Chu Nghệ phụ trách khống chế bắc thành và tâv thành, còn về nam thành và đông thành..."

    Vương Quan Vũ mỉm cười: "Nam thành và đông thành vốn đang nằm dưới sự khồng chế của bộ lạc ta, không cần phải suy nghĩ nhiều. Điều ta muốn nói rõ một chút là một số nhân mã của bộ Bạch Can cũng sẽ tham dự hành động nàv. bọn họ phụ trách việc tạo hỗn loạn ở khắp các nơi trong thành khi sự biến, tùv ý tấn công phủ nha các nơi. châm lửa gây loạn khắp nơi. khi đó một số bộ tộc của các đại thần quyền quý có liên lạc với thế từ cũng sẽ hành động ngoại tuyến nhanh chóng tập kết ở thượng kinh, còn Thất Vĩ và Nữ Chân cũng sẽ đồng thời xuất binh, dụ chư binh biên quan, không để cho chúng về cứu viện thượng kinh. Chư vị. chúng ta đánh từ trong nội bộ làm cho chúng không kịp trở tav. tam lộ phía tây có Tống quân kìm hãm. đông bắc và tây bắc có Nữ Chân và Thất Vĩ hô ứng. đại sự tất sẽ thành."

    "Đại nhân, chúng ta cần phải làm những gì?"

    Một gia tướng tâm phúc của Lưu Lê Thọ tay nắm chặt đao. khí thế hung hãn hỏi.

    Lưu Lễ Thọ đứng ra nói: "Các ngươi sẽ cùng bổn thế tử đi đánh thiên lao. cứu vương gia. sau đó nhanh chóng đuổi đến đông cung, bao vây lấy hoàng thất, tông thân, chi võ bách quan ở lưu thủ thượng cung, phụ giúp phụ vương ta đăng cơ."

    Chúng tâm phúc vui ra mặt. rầm rầm đáp tiếng. Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ quay sang nhìn nhau, phất tay. hô lớn: "Xuất phát!"

    Da Luật Hưu Lễ Thọ đẫn hơn trăm danh tướng đi cùng hơn nghìn thân binh của hán quân đô chi huy sứ Vương Quan Vũ xông tới thiên lao. trong lúc đó. các nơi trong thành cũng đã phát động, khắp nơi là những màn chém giết thảm khốc. Thủ thiên lao chỉ là một số ngục lại ngục tốt. bọn họ cũng nghe thấv những tiếng chém giết kêu khóc từ trong thành truyền đến. lại không biết rốt cuộc là xảy ra chuyện gì.

    Đang lúc hoang sợ bất an thì Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ thống binh đuổi giết tới, những ngục tốt thủ thiên lao này nào có thể đối kháng lại. thiên lao nhanh chóng bị công phá. Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ để lại một bộ phân quán binh thủ môn. nhanh chóng chém giết vào bên trong.

    Bọn họ không những muốn thả Tống vương ra mà còn muốn thả tất cả những ngựời bị nhốt trong đó ra. những người đó tất sẽ trở thành người kiên quyết bảo về tân chính quyền.

    Thông đạo sâu hút. Lưu Lễ Thọ trong lòng thương nhớ phụ thân, chân bước như bay, những phạm nhân hai bên lao phòng đã phát giác ra sự khác thường, người nào người nấy đều hưng phấn mà đập liên tục vào cửa lao. trong lúc hưng phấn cũng không biết đã gào thét những gì. Vương Quan Vũ đi sát theo hắn. trong lòng cũng đập loạn nhịp. Nếu như đã muốn ủng hộ Tống vương lên làm đế đương nhiên cần phải cứu Tống vương ra. việc này quả thực rất trọng đại. có điều hắn chủ động xin đến cứu Tống quân là vì còn có lí đo khác không muốn cho người khác biết.

    Phó chi huy sứ Lý Kiếm Bạch đánh hoàng cung tất có thể ăn được đầy túi. cướp được vô số kì chân dị bảo. cẩu Ác Duy đánh vào nữ quán tất sẽ chiếm được mĩ nữ, nhưng làm sao có công lớn bẳng cứu giá. Tuy nói công lao của hắn đã không thể chạy đi đâu được, nhưng đích thân xuất hiện trước mặt Tống vương thì chắc chắn sẽ để lại được ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng Tống vương, con đường làm quan của hắn đều sẽ trở nên bằng phẳng.

    Đang tiến vào trong thì phía sau đột nhiên vang lên tiếng kêu thét. Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ vẫn không để tâm. chỉ nghĩ là mấy tên ngục tốt tàn dư đang ngoan cố chống lại. nhưng lập tức có người vội vã chạy tới. từ xa đã hô thất thanh: "Thế tử. đại tướng quân, đại sự không hav rồi. bên ngoài... bên ngoài có rất nhiêu binh mã cung vệ. có...có..."

    Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ đại kinh dừng bước, quay đầu nhìn thì thấy gia tướng đó vừa vội vã chạy tới trước mặt thì lập tức ngã xuống đất, trên lưng cắm ba lợi tiễn, sâu khoảng nửa thước, thật không ngờ hắn còn có thể chạy xa đến vậy.

    Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ quay sang nhìn nhau, không còn bận tâm tới việc nhanh chóng đi vào nơi sâu nhất đại lao để cứu Tống vương nữa mà lập tức quay người chạy đi như bay.

    ở cửa thiên lao. cấm quán cung vệ Liêu quốc sát khí đẳng đằng, đứng chặn phản quân ngay ở cửa. một vị tướng quán nhấc chiếc đại đao đẫm máu lên. từ từ bước tới phía thông đạo. máu trên đao cứ chảy tong tong xuống dưới đất. Bên cạnh hắn là một tên béo lùn với cái đầu đặc biệt to. trong tav tên béo lùn cầm một chùm chìa khóa lớn bước đi. "leng keng" mấv tiếng, hắn cắm chiếc chìa khóa vào trong chiếc cửa sắt lớn nặng nề thứ nhất, sau đó là chiếc cửa thứ hai, chiếc cửa thứ ba. cuối cùng là cửa lớn. lục đục trên góc tường một hồi, "rầm rầm rẩm" những tiếng động lớn vang lên. một hàng rào sắt từ trên không hạ xuống, cắm chặt chặn trước cửa. hàng rào đó mỗi tharih đều to chừng cô tay. nặng cà nghìn cân.

    "Tướng quân, đã xong rồi. cho dù chúng có thật sự là một bày sư tử thì cũng đừng hòng thoát ra khỏi đây. trừ phi chúng biến thành con ruồi."

    Đại đầu coi ngục cười hi hi. nói. Vị tướng quân mặt lạnh như tiền cũng nhếch mép cười, nói: "Tốt, đợi khi thái hậu hồi kinh phong thưởng xuống tất sẽ có phần của ngươi!"

    Đại đầu cười bồi nói: "Đây đều là công lao của đại nhân, tiểu nhân không dám tham công."

    Tướng quân mặt lạnh, vui vé vỗ vào vai hẳn. rồi chậm rãi quay đầu lại nhìn thì thấy Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ đứng cách sau bốn tấm cửa. sắc mật trắng bệch, hai tay nắm chặt lấy song sắt, hét lớn: "Chuyện gì thế này? Chuyện gì thế này?"

    Tướng quàn mặt lạnh cười lạnh lùng, cao giọng nói: "Phụng mệnh lệnh của lưu thủ Trà Trất đại nhân tập kích bắt phản loạn, các ngươi... cứ ờ vên trong đó mà đợi đi."

    "Không thể nào. Trà Trất sao có thể biết tiên tri? Hắn sao còn nhiều binh mã để điều động như thế?"

    Vương Quan Vũ mặt trắng bệch, kêu lên như bị điên. Tướng quân mặt lạnh, cười khẩy một tiếng, hai tay chắp sau lưng nói: "Việc nàv à. ngươi nên cảm ơn phó đô chi huy sứ của ngươi mới đúng, ngươi cho rằng bên cạnh ngươi thái hậu lại hoàn toàn không có một tâm phúc nào mà lại có thể yên tâm như vậv sao?"

    "Lý Kiếm Bạch? Lại là tên cẩu tặc Lý Kiếm Bạch hại ta."

    Vương Quan Vũ gào lên. rút đao ra điên cuồng chém, ánh lửa tóe ra. trường đao đứt đôi nhưng cửa sắc hoàn toàn không động. Tướng quân mặt lạnh xua tay hạ lệnh: "Phóng tiễn."

    "Vù vù vù..." Hàng loạt mùi tên bắn đi. phản quân trong lao chạy loạn tìm chỗ trốn, hoàn toàn không còn chút kiêu ngạo nào nữa.

    Phản loạn ở thượng kinh đã trở thành một trò khôi hài, phó đô chỉ huy sứ Lý Kiếm Bạch là nội gián mà Tiêu Xước đã bố trí bên cạnh vị thống lĩnh Hán quân Vương Quan Vũ. toàn bộ kế hoạch mưu phản này đã bị bại lộ. Tuy nói thượng kinh lưu thủ Trừ Trất trong tay binh lực có hạn. cũng không kịp thông báo cho Tiêu Xước để lại điều binh tới. nhưng dựa vào bản lĩnh tiên tri tiên giác, lại có nội ứng của Lý Kiếm Bạch, nên vẫn có thể nhanh chóng tiêu điệt đuợc phản loạn, thành thượng kinh là là một bãi chém giết sực mùi máu tanh, trừ lúc vừa mới bắt đầu Hán quán phát động trước, đã chiếm được ít nhiều thế thượng phong, nhưng ngay sau đó lại bị rớt ngay vào trận chém giết tàn khốc.

    Đặc biệt là hai nghìn nữ binh, người nào người nấy đều là những đại cô nương yểu điệu, nhưng giết người lại không chút mềm tay. còn hăng hơn so với nam nhân, cẩu Ác Duy phấn chấn tiên phong xông vào không doanh, đầu tiên là phóng hỏa khắp nơi. sau đó là lùng sục tìm kẻ địch, nhưng ngay sau đó hai nghìn con hổ cái ùn ùn kéo ra. bao vây lấy cẩu Ác Duy và đám thân tín của hắn. rồi cắn tan nát không chừa một kẻ nào.

    Phản loạn đã thành công được một nửa, hành động trọng nội thành thượng kinh tuy nhanh chóng đã bị dập tắt. nhưng Thất Vĩ và Nữ Chân vẫn kịp thời phát binh, chỉ có điều đã có sự nhắc nhớ trước của Trừ Trất. hành động của chúng không nhận được kết quả lớn lắm. Cùng lúc đó. những chấn động ở thượng kinh tuy đã nhanh chóng dẹp. nhưng quân phản loạn cầm đâu là những kẻ quyền quý do đích thân Lưu Lễ Thọ liên lạc, kẻ thì vì cuộc chiến Tống Liêu mà bất mãn với Tiêu Xước, kẻ thì muốn đoạt được lợi từ trong nguy hiểm, lại hừng hực khí thế nổi dậy.

    Bây giờ binh lực ở bình diện thượng kinh đã trống không, trận này vốn rất dễ có thể bình loạn, nhưng lại để lỡ mất thời cơ tốt nhất tiêu diệt chúng, làm cho chúng nhân dịp trào lên. vùng đất tâm phúc của Đại Liêu vốn đã không ổn lập tức rơi vào sự rung chuyển cực độ.

    Lúc này. hơn mười chiến thuyền đã từ đông lộ Sơn Đông Tống quốc xuất hải tới quản hạt Liêu Dương Phủ Đông Kinh thuộc Liêu quốc, rồi lên đất liền, đại quân tập kết. tiến vào Liêu Dương, nơi binh lực đang bị trống nghiêm trọng...

    Mười sáu châu Yến Vân. Dương Hạo cả đường tiến công, cả Doanh châu đã lần được vào tav Tống quốc, sau khi Dương Hạo vây binh ớ thành u châu, đầu tiên là đánh mấy trận đại chiến với viện quân ngoại vi. sau khi ép được viện quân rời xa một chút liền phái birih cắm chốt ờ những yếu đạo giao thông của u châu, điểm này lại chính là điểm mà lúc trước Triệu Quang Nghĩa không làm được.

    Triệu Quang Nghĩa muốn mô phòng cách đánh vây thành đánh viện của Lý Thế Dân, nhưng lại còn tự tin hơn nhiều Lý Thế Dân. Lúc trước Lý Thế Dân đánh Vương Thế Sung ở thành Lạc Dương, thì đâu tiên đã diệt sạch các châu hu vện xung quanh Lạc Dương, chiếm lấy yếu lộ mà viện quân tất phải đi qua. lại dùng thời gian một năm mới ép được Vương Thế Sung vào đường cùng, đành phải dẫn thái tử của hắn quân thần cùng hơn hai nghìn người mở thành đầu hàng, còn Triệu Quang Nghĩa lại bỏ qua việc nắm giữ các quan ải hiểm yếu xung quanh, để mặc cho viện quân Liêu quốc ra vào. cuối cùng đến trận ớ Cao Lương Hà đã trúng kế đại bại.

    vết xe đổ. Tống quân phất cờ trở lại sao có thể mắc lại những sai lầm đó. Dương Hạo vừa đến dưới thành u châu thì không đánh vội. việc đầu tiên mà hắn làm chính là diệt sạch các châu huyện xung quanh, chiếm mấy nơi yếu địa chiến lược, chỉ dùng lượng binh lực ít. dựa vào địa thế hiểm yếu để ngăn cản bước tiến của viện quân, hoàn toàn không đê cho chúng tiến sát được tói thành u châu. Thủ quân u châu ngay cả một bóng viện quân cũng không thấy, điều này đã đả kích lớn tới mức nào đối với lòng tin kiên thủ của họ chỉ cần nghĩ cũng biết.

    Lập tức. Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ áp vận khí giới công thành đuổi tới. hơn nữa những người thợ trong quán cũng đã nhanh chóng chế tạo ra một bộ phận vũ khí. đủ để phát động cuộc chiến công thành.. Dương Hạo lúc nàv mới bắt đầu chính thức dụng binh với u châu.

    Lúc này. trời đông giá rét sắp đến. gió lạnh, gào thét, tuyết rơi lất phất, cả một màn trời u ám.

    Vì tam châu Doanh, Mạc. Trác đã vào tay Tống quân, hơn nữa dùng một lượng lớn xe trượt tuyết để vận chuvển nên việc cung cấp lương thảo không thành vấn đề. thời tiết mùa đông tuy lạnh giá nhưng chủ lực Tống quân được tồ họp thành từ binh Hà Nam. binh Hà Bắc và binh Hà Tây. cũng có thể đủ sức chịu đựng với cái giá lạnh, hơn nữa Tống quán ngàv đêm công thàrih. thủ quân trong thành chi có thể luôn túc trực kiên thủ trên đầu thành. không thoải mái bằng Tổng quân, hai bên đều rất gian khổ nhưng vẫn có thể chống đỡ được.

    Năm mới. quốc quân Tống quân Dương Hạo đón một năm mới trong đại doanh đối điện với địch. Vây thành đã hon hai tháng, qua tết Nguyên Tiêu. Dương Hạo liền bắt đâu chia binh đánh các châu, bộ tốt công thành, kị binh tập kích viện quân. Qua hơn một tháng. Thuận châu. Đàn châu liên tiếp vào tay một cách đễ đàng. Cứ như thế. sáu trong số bảy châu có giá trị chiến lược hiểm yếu nhất trong mười sáu châu Yến Vân thuộc hai cánh đông tây dãy Thái Hành Sơn đã vào tay Dương Hạo. Dương Hạo đã cắm chốt chặt được ớ sơn khẩu Thái Hành, thành u châu đã trờ thành cô thành.

    "Tây lộ quán đã đánh tới úy châu. Da Luật Tà Chần tập kết các lộ cung vệ quân. Tộc Trướng quân, Bì Thất quân, Kinh Châu quân, phản công toàn điện. Tào tướng quân nhận lệnh của quan gia. đã thu lại công thế. có điều binh mã Nam Viện Bắc triêu đã bị dẫn dụ ỡ bên ngoài Nhạn Môn. không còn có sức cứu viện u châu."

    "Mấy nơi hiểm ải quan trọng của con đường từ Thái Hành thông tới đông thành đã nằm hết trong tay chúng ta, bây giờ quân viện trợ duy nhất của Liêu quân chỉ có thể đến từ bắc lộ, chiến cục trước mắt đang có lợi với chúng ta. Có điều. Lý Thế Dân ngày trước có thể vây thành Lạc Dương trong vòng một năm. nhưng chúng ta không thể làm vậv."

    Phan Mỹ cười khổ nói: "Triệu tể tướng và Lô tể tướng trong thư có nói hi vọng quan gia có thể nhanh chóng kết thúc chiến sự ớ bắc cương thực ra đã suy nghĩ rất kĩ tới nhiêu mặt.

    Thời của Lý Thế Dân. thiên hạ vô chủ. chư hầu tự lập. Lý Thế Dân chiếm được Quan Trung, lại có Lý Uyên tọa chấn hậu phương, triều Tùy lại tích trữ lượng lớn lương thực, quốc khố dồi dào, dùng cho tới cuối năm Trịnh Quan cũng không hết.

    Còn chúng ta bây giờ lại không thể bằng được như thế, con dân Đại Tống hơn nghìn vạn, quốc sự phức tạp. nền tảng còn kém xa so với triều Tùy. Lũng Hữu mới quy phục, cần phải đốc sức gây đựng buôn bán; Ba Thục chiến tranh nhiều năm. chính kinh mục nát. cần phải khôi phục nguyên khí; quan lại các địa phương trong triều, cần phải được tiến hành điều chính trong hoàn cảnh chính cục ổn định. Có thể nói vây giờ nhìn thì như giang sơn đã ổn định, nhưng thực ra vẫn còn rất nhiêu vấn đề cần phải giải quvầ. bâv giờ vì trận đại chiến nàv mà tạm thời có thể bị áp chế. nhưng nếu những vấn đề này không nhanh chóng được giải quvết thì một khi có bất kì điêm nào xảy ra vấn đề lớn hơn thì tất cả các mầm họa ngầm khác cùng sẽ bị bộc phát."

    Dương Hạo chậm rãi gật đầu. Ý kiến của Triệu Phổ và Lô Đa Tốn không chỉ đại biểu cho ý kiến của hai người họ. đó là kết luận được hai vị tê tướng kiệt xuất phân tích, cùng với việc kết hợp nhiều ý kiến về tình hình của cả thiên hạ đưa ra. Trận bắc phạt này nếu như thắng lợi thì rất nhiều những vấn đề cần rất nhiều thòi gian, hao tốn rất nhiều tinh mới có thể giải quvá được đều có thể thuận lợi giải quyết nhờ thắng lợi to lớn trên mặt quán sự. một khi xuất hiện điều ngoài ý muốn thì tất cả sẽ rất khó giai quvết.

    Gia tăng các mâu thuẫn, đợi đến khi tất cả những mâu thuẫn này tự nhiên bộc phát thì tất cả sẽ không thể cứu vãn được.

    Lúc này. mục tiêu chiến lược của hắn sắp đạt được rồi việc tiến công với u châu trước mắt vẫn chưa có tiến triển gì. u châu là nam. kinh của Liêu quốc, lại là noi ờ của người HáĩỊ khu nông canh, lương thực của u châu vài ba năm cũng không có vấn đề gì. hơn nữa đây lại là địa bàn của Liêu quốc, lòng dân vẫn hướng về Liêu quốc, chưa cần nói người Hán Liêu quốc vốn đã không có cảm tình gì với quân Tống mà chính những dân chúng bình thường của Trung Nguyên cũng không có chút hứng thú nào với việc bắc phạt này.

    ** *

    Bây giờ vẫn còn khá tốt. chiến tranh nếu như biến thành tác chiến trường kì. thì sẽ tiêu hao lượng lớn tài lực, vật lực và quân lực, lượng lớn tướng sĩ tử thương. Khi không lập tức nhìn thấv hiệu quả lợi ích thực tế. thì gánh nặng của bách tính trong nước càng lúc càng nặng nề. người thân chết càng nhiều, đâu tiên bọn họ sẽ chán ghét chiến tranh, phản chiến, từ đó dần dần làm cho cả xã hội tầng tầng lóp lớp chống đối chiến tranh một cách tiêu cực.

    Cái gì mà vương soái bắc định Trung Nguyên, cái gì mà cuộc sống người Hán Bắc quốc đang ở trong lúc nước sôi lửa bỏng mong chờ vương sư giải cứu. Đích thân trải qua thòi đại này, chính mắt nhìn thấv. chírih tai nghe thấv tất cả đã làm cho Dương Hạo sớm đã hiểu được tiếng lòng của bách tính: Bách tính bình thường sẽ không bận tâm xem ngươi có võ công thập toàn hay không, giang sơn của ngươi có thống nhất, hay cương vực có mở rộng hay không, điều họ muốn chỉ là có thể sống một cách bình an, cuộc sống đầy đủ đây mới là hoàng đế tốt nhất trong lòng họ. chứ không phải là dùng mô hôi và máu của chính mình để nuôi ngươi.

    Dương Hạo cũng không hi vọng phải đốc hết binh lực để gây chiến, gây đến mức bách tính Liêu quốc ùn ùn kiến lập nghĩa quân, phất cờ kháng Tống, bách tính Tống quốc dùng đủ mọi cách để chống lại cuộc chiến mà triều đình phát động một cách tiêu cực, thậm chí là gây hỏa khắp nơi. đương cao nghĩa kì.

    Trong kế hoạch lúc đầu của hắn hoàn toàn chưa từng muốn tiêu diệt Liêu quốc. Giết một nghìn địch, tử tổn thương tám trảm binh mình, nếu thư đại thương nguyên khí mà có thể diệt được Liêu quốc thì cũng thôi, nhưng trên thực tế mục tiêu này không thê thực hiện được, thực lực của Liêu quốc không đễ làm cho người ta coi thường. Liêu quốc lần này địa bại một là do Tống hợp nhất, thanh thế lớn mạnh, làm cho Liêu quổc trở tay không kịp. trong giai đoạn đầu của chiến tranh hoàn toàn rơi vào thế bị động.

    Thứ hai là trên mặt chiến thuật cụ thể Tống quân vẫn đùng chiến thuật đánh nhanh để tập kích u châu, tập trung ưu thế binh lực, năm hướng thành một trảo, rồi đánh thăng vào nơi yếu hiểm, còn Liêu quân lại phản ứng chậm chạp, chiến tuyến bị kéo đài. nguồn binh bị phân tán.

    Thứ ba là công tác tình báo của Tống quân phát triển, có thể làm được việc biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Bất luận là động hướng của Liêu quân hay là địa hình tác chiến. Tống quân đều có được sự hiểu biết rõ ràng, ngược lại. quán Liêu ngay cả tình hình nội gián, thám mã đêu không có cách nào nắm bắt rõ được, không bại mói là lạ.

    Nhưng những mặt này chỉ cần Tiêu Xước có thể kiên trì cố thủ u châu thì có thể lợi dùng thời gian mà từ từ xoay chuyển tình thế. đặc biệt là sĩ khí lòng quán Liêu quốc, từ từ có thê bình tĩnh lại. Dương Hạo cũng đã có ý đàm phán từ trước, nhưng thời cơ chưa đến lúc phải đàm phán thì hoàn toàn chưa cần thiết, như vậy chỉ có lãng phí thời gian, mà lại không thê đạt được mục đích của mình. Liêu quốc sẽ. không đưa ra bất kì sự nhượng bộ nào trong thời gian đó. còn bây giờ...

    Bây giờ Thất Vĩ và Nữ Chân phải chăng đã đúng hẹn xuất binh? Hải quân của ta phải chăng đã xuất hiện sau địch? Những điều này là nhân tốt mấu chốt nhất trong việc đàm phán của ta.

    ---oo0oo---

    Dương Hạo chắp tay nhìn về phía xa xa, thở đài một hơi. sương mù mờ ảo tà tà bay. làm ẩn hiện thần sắc của hắn.

    Hải quán Tống quốc đã từ Tam Sơn Phổ lên bờ. bắt đầu tiến tới Liêu Dương Đông Kinh Liêu quốc, chủ lực Liêu Dương lúc này đã chạy về cứu viện cho u châu, ở phía đông bắc và chính bắc, lại là người Nữ Chân và người Thất Vĩ đang ngo ngoe nổi đậy. người Khiết Đan nghe tin xong vô cùng hoảng sợ.

    Đội Tống quân này là quân đội hỗn hợp cấu thành từ cấm quân Biện Lương và thủy sư nguvên Nam Đường, số người chưa tới ba vạn. vì vận birih trên biển và kị binh không nhiều nên Dương Hạo cũng chưa từng hi vọng bọn họ có thể tấn công đoạt được thành, thật sự chiếm linh đại hậu phương của người Liêu, cần phải biết rẳng người Liêu nam nữ già tré đểu thiện cưỡi ngựa bắn tên, bây giờ lực lượng to lớn đó vẫn chưa thực sự được phát động. Một khi người Liêu nhận thức được nguy cơ vong quốc đang ớ trước mặt thì lực lượng đáng sợ đó sẽ biến thàrih một con sóng che trời cực lớn. Liêu quân sẽ nharih chóng bổ sung được đội quân tràn đầy sinh lực.

    Dương Hạo xuất binh ở phía sau địch, tiến vào Liêu Dương, quán động dụng tuy là quân đội nhưng mục đích của hắn lại là muốn rải rác tin hiệu quốc gia sắp vong, tứ phương sớ ca cho Liêu quân ở u châu trong, đê cho bọn họ hoàn toàn tuyệt vọng, duy chi có như vậy mói có khả năng đàm phán. Còn có gì có thể làm cho bọn họ chấn động hơn việc quân đội của nước khác xuất hiện ờ nơi mà bọn họ nghĩ rằng tuyệt đối sẽ không thê xuất hiện được?

    Yên Vân mười sáu châu là nơi tụ cư của người Hán. rất nhiều người Khiết Đan truyền thống vẫn sống du mục ở trên thảo nguyên nhưng không coi nơi đây là vườn nhà của mình, đây cũng chính là nguyên nhân rất nhiều quý tộc Khiết Đan đã kiến nghị vứt bỏ u châu khi Triệu Quang Nghĩa bao vây u châu, trờ về tự thủ nguvên cố. chứ không phải vì Triệu Quang Nghĩa vâv thành u châu, thoắt cái đã làm hù dọa được lá gan của tất cả người Liêu.

    u châu bị vây, đối vói rất nhiều quý tộc truyền thống Khiết Đan mà nói còn không có được cảm giác đau như cắt vào thịt, mà hoàng đế và thái hậu vẫn thủ ớ u châu, chi cần một khi u châu chưa bị phá thì bọn họ tuy đối sẽ không tuyệt vọng. Nhưng bây giờ. nếu như có một đội quân Tống đột nhiên xuất hiện ỡ phía sau lưng họ. nơi mà họ cho rằng đó là thạch bàn không thê phá vỡ, bức chắn tâm lí lập tức bị phá vỡ. giai cấp thế lực nòng cốt nàv sẽ bị lung lay. đám đại quv tộc bát thị Khiết Đan sẽ rơi vào khủng hoảng, mà sự đao động và khiếp sợ của chúng sẽ trực tiếp ảnh hướng đến quvết định của Tiêu Xước.

    Dương Hạo biết thiếu phụ xinh đẹp như hoa anh đào này vô cùng quyết đoán, đã quyết định thì sẽ không thay đổi. so với vô số hán tử còn dũng mãnh hơn nhiều, nếu như không phải làm lay động đến căn cơ của nàng, làm cho nàng cùng lúc phải chịu áp lực cả trong lẫn ngoài thì nàng tuvệt đối sẽ không khuất phục hắn. Nàng là loại nữ nhân nếu như hẳn rơi vào tay nàng, nàng thà chính tay một đao kết thúc tính mạng hắn. sau đó dùng cả đời để thương nhớ và đau khổ cũng quyết sẽ không khuất phục tình cảm. về điểm này thì nàng còn kiên cường hơn cả Chiết Tử Du.

    Đông kinh Liêu quốc lưu thủ hoang mang phái người truyền tin tới thượng kinh, thành viên trong hoàng thất ở thượng kinh nhận được tin này vô cùng hoang mang thất sắc. từ trong tấu báo của đông kinh lưu thủ. bọn họ không có cách nào hiểu hết được tình hình cụ thể không biết Tống quân có tổng cộng bao nhiêu người, đã chiến được bao nhiêu nơi. bọn họ chi biết lão gia nhà mình gia viên bao đời nhà mình bây giờ cũng đã xuất hiện bóng hình của Tống quân.

    Tây kinh khói lừa liên miên, đông kinh khói cũng ngút trời, nam kinh thập điện mai phục, thượng kinh dư âm phản loạn vẫn còn khắp nơi. họa trong họa ngoài, nước không còn là nước nữa.

    Đám quyền quý. thủ lĩnh, hoàng thất, tông thất thượng kinh, đặc biệt là những thành viên gia tộc Tiêu thị từ trước luôn kiên trì ủng hộ hoàn toàn đối với tất cả những quyết định của Tiêu Xước giờ cũng đã phải hạ giọng. Cuối cùng thượng kinh lưu thủ Trừ Trất đã đích thân chọn ra đại tướng tâm phúc, phi ngựa như bay đến u châu. Mệnh lệnh duy nhất mà vị đại tướng này nhận được chính là: Bổn lưu thủ thay mặt cho bát thị Khiết Đan, chư vương thượng kinh cùng tất cả văn võ đại thần giao cho ngươi hô phù kim tiễn, ngươi có thê điều động bất kì lộ binh mã nào cắm chốt ở ngoài u châu, chi cẩn có thê đột nhập được vào u châu, quân đội của ngươi có thể chết, ngươi cũng có thể chết, nhưng quân tình đông kinh và ý kiến của chư vị hoàng thất, tông thân, thủ lĩnh, quyển quý ở thượng kinh nhất định phải đưa đến được tay thái hậu."
     
  16. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 636: Giảng hòa
    Binh mã trong thành U Châu vẫn đủ để bảo vệ cho thành này, lương thực trong thành U Châu cũng đủ để dùng trong ba năm. Nhưng trong ngoài ngăn cách, cái cảm giác bị dày vò vì không thể nhìn thấy bóng viện quân quả thật làm cho người ta có khó thể chịu được. Đặc biệt là hoàng đế và thái hậu đều ở U Châu. Nếu như một kẻ thống trị đế quốc ba năm trời không thể bắt được bất kỳ mối quan hệ nào với đám thần liêu trong đế quốc của hắn, thì thiên hạ này còn có thể khống chế trong tay hắn không?

    Tiêu Xước đang bị bao vây ở thành U Châu thực ra không hề lo lắng tới chiến sự trước mắt. Tống quân tuy kiêu dũng, nhưng U Châu thành với thân phận là nam kinh Liêu Quốc, lại có nàng và hoàng đế ở đây. Thêm nữa còn có Da Luật Hưu Ca, tuyệt đối không dễ dàng bị công phá, điều nàng lo bây giờ là ngoại tuyến, đế quốc mất đi kẻ thống trị có lẽ không cần tới ngoại địch cũng đã bị tan vỡ từ bên trong.

    Nam viện có văn thần Quách Tập, ở Vũ Tương có Da Luật Tà Chẩn, bắc viện có Thất Phưởng, đây đều là những thần tử đáng để nàng tin cậy. Nhưng sự phục tùng của thần liêu đế quốc đối với họ cũng sẽ bắt nguồn từ sự tín nhiệm của mình đối với họ, khi mình và cả đế quốc mất đi sự liên lạc, thì bọn họ rất khó có thể chấn an thần liêu, đặc biệt là... Đặc biệt là con chấu tông thất. Trong gia tộc Da Luật có rất nhiều nam nhi hổ lang, bọn họ vốn đã không phục tiểu hoàng đế. Nàng đã dùng toàn bộ công sức, máu và mồ hôi của mình mới có thể giữ vững đường chính quyền và quân quyền của đế quốc này, một khi bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài thì chưa cần tới ba năm, chỉ cần một năm đám hoàng thất tông thân nhất định sẽ nảy sinh lòng khác, ủng hộ lập tân chủ, vứt bỏ nàng và hoàng nhi.

    Vì thế Tiêu Xước vô cùng lo lắng.

    Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, Tiêu Xước buồn bã thở dài.

    Đêm vắng lặng, không gió, trên không trung lại là vô số các vì sao. Nàng không hận Dương Hạo, nàng là một kẻ thống trị ngồi ở vị trí của nàng, nàng biết lập trường của Dương Hạo, cũng biết tại sao hắn cần phải làm như vậy. Nếu như đổi nàng vào vị trí của hắn, nàng cũng sẽ đưa ra sự lựa chọn như vậy. Nhưng, cái dạ dày của Dương Hạo rốt cuộc là lớn đến đâu, cuộc chiến tranh này sẽ không đánh đến mức không thể cứu vãn được chứ?

    "Mẫu thân...".

    Lao nhi dụi đôi mắt buồn ngủ chạy đến, phía sau còn có mấy cung tỳ đi theo. Tiêu Xước vội đi tới, bế nó lên, dùng áo choàng choàng lên người nó, sẵng giọng nói: "Không chịu ngủ cho ngoan, chạy ra đây làm gì. Nhìn con này, ngủ mà ra cả mồ hôi, mùa đông lạnh thế nào phải làm sao đây?".

    Lao nhi làm nũng nói: "Mẫu thân, Lao nhi muốn ngủ với mẫu thân".

    Tiêu Xước cốc vào trán nó một cái nói: "Lao nhi, con là hoàng đế của một nước, không giống như những đứa trẻ bình thường khác, mẫu thân còn có rất nhiều chuyện phải làm, con phải ngoan một chút".

    "Vâng". Lao nhi ngoan ngoãn đáp một tiếng, chớp chớp đôi mắt long lanh nghĩ ngợi, lại hỏi: "Mẫu thân đang nghĩ phải đánh bại Dương Hạo bằng cách nào ạ?".

    Tiêu Xước mệt mỏi thở dài một hơi, Lao Nhi lại suy nghĩ tỉ mỉ một chút, tức giận nói:

    "Mẫu thân, tên đại ác nhân đó tại sao lại đánh chúng ta? Hắn thích đánh nhau sao?".

    Tiêu Xước ôm lấy nó, chậm rãi đi xuống hành lang, những ngọn nến chiếu lên khuôn mặt của nàng, lúc ẩn lúc hiện: "Lao nhi, không có ai thích đánh nhau cả, có những lúc giống như nước chảy dần thành biển, phát triển đến một thời khắc nào đó đương nhiên sẽ phải đánh. Hôm nay hắn không đánh chúng ta thì một ngày nào đó ta sẽ đánh hắn, đây không phải là điều mà cá nhân đế vương có thể quyết định được".

    "Đế vương, phúc có thiên hạ, quyền khuynh tứ hải, nắm trong tay sinh mạng của tất cả mọi người, duy ngã độc tôn, nhưng cái giá mà một hoàng đế phải trả là rất cao. Những chuyện người bình thường nghĩ không ra, nhìn không thấy con phải nghĩ ra và nhìn thấy. Con phải luôn đứng ở chỗ cao hơn những người khác, nhìn ra xa hơn, bước tới trước mặt con dân phải đại biểu cho lợi ích của họ, con mới có thể trở thành người mà mọi người đều ủng hộ. Nếu không, sẽ có một ngày, con hoặc người kế thừa của con sẽ bị bọn họ vứt bỏ.

    Giang sơn lung lay, đế quốc hưng vong, nói thẳng ra thực ra chỉ có nguyên nhân này, sau lưng lập trường bất đồng của người nắm quyền chính là ngọn núi tập đoàn lợi ích bất đồng. Nếu như con quay lưng lại với tập đoàn lợi ích của mình thì ngọn hậu sơn này sẽ lập tức biến thành lực lượng đè nát con, con sẽ rơi từ trên đỉnh núi xuống vực sâu thăm thẳm. Phải thuận ứng với lập trường của giai cấp mình, hoàng đế mới có thể muốn làm gì thì làm, những người khác cho dù có rơi vào thảm cảnh thì cùng lắm sẽ trở về cảnh áo vải, nhưng hoàng đế, chỗ đứng của hoàng đế quá cao, cho nên không có đường thoái lui".

    Đạo lý này với một đứa trẻ như Lao nhi đương nhiên sẽ không hiểu lắm, nhìn vào đôi mắt ngây thơ trong sáng của con trai, Tiêu Xước lại thở dài, đêm nay rất yên tĩnh, thủ quân tuy rất mệt mỏi, nhưng chắc rằng Tống quân bên ngoài thành sẽ càng khổ sở hơn, đêm nay có lẽ sẽ không có chiến sự, ngủ với con trai một tối cũng được.

    Tiêu Xước nghĩ ngợi, nhẹ hôn lên trán đứa con trai, đang muốn ôm nó về phòng, thì đột nhiên nghe thấy hàng loạt những tiếng kêu gào chém giết, phá tan sự yên tĩnh của đêm đông.

    Tiêu Xước dừng bước, thầm thở dài: "Lại bắt đầu công thành rồi".

    Đang muốn đưa con trai cho cung nữ, quay về đầu thành để xem xét, nàng đột nhiên phát giác ra đêm nay có gì đó khác thường, tiếng chém giết chỉ truyền đến từ phía bắc thành, ba phía thành khác vẫn yên tĩnh vô thanh, điều này hoàn toàn khác với cách tấn công cùng lúc tứ thành của Tống quân.

    Trong lòng Tiêu Xước đột nhiên nhất động: "Tình hình này có chút cổ quái, chẳng lẽ... Chẳng lẽ có viện binh tới, hơn nữa... Đã đột phá được phòng tuyến ngoại vi của Tống quân, tiến công tới thành U Châu?".

    Vừa nghĩ đến đây, Tiêu Xước liền đưa con cho thị tì, vội vã chạy ra tiền đình.

    "Mẫu thân".

    Lao nhi vẫn nuối tiếc gọi, Tiêu Xước hoàn toàn không còn tâm sức để ý, nàng ấn tay vào chuôi kiếm, một trận gió lại thổi qua tiền đình, tiếng chém giết đã làm tỉnh thị vệ trong phủ. Chiến mã sớm đã ở phía sau, Tiêu Xước quay người lên ngựa, phủ môn mở rộng, một đoàn người cùng cuồng mã phi ra, phi thẳng về phía bắc thành.

    Dưới bầu trời đầy sao, mặt đất ẩn hiện một màu xám, từ đầu thành nhìn xuống có thể nhìn thấy rõ từ phía xa đang có một đội quân đốt đuốc sáng như ngân hà đang áp sát về thành U Châu, từ những tiếng gào thét và những ngọn đuốc lay động có thể đoán ra một nửa sự kịch liệt của trận chiến. Da Luật Hưu Ca đứng ở lỗ châu mai lo lắng nhìn đội quân, thầm cầu khẩn cho bọn họ có thể đột phá được phòng tuyến Tống quân.

    Hắn không phải là không muốn mở thành tiếp ứng, những khối đã chắn cổng thành, đại gỗ phong môn sớm đã được chuyển đi, hơn ba nghìn thiết kỵ đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng đêm tối như thế này hắn không thể chắc chắn rằng ra thành có mắc bẫy của Dương Hạo hay không? Thái hậu và hoàng đế đều ở trong thành, hắn phải cẩn thận hơn nhiều.

    Thiết kỵ bên ngoài thành đang không tiếc hy sinh, để dựa sát vào thành U Châu, đao vung tứ phương, máu tuôn không ngừng, liên tục có những người ngã ngựa, có điều, lúc này mạng người chỉ như con chó, ai còn để ý đến sự sống chết của người khác. Một binh sĩ Liêu quân vừa khua đao chém tay một tên Tống quân thành hai đoạn thì lập tức một thanh trường mâu chém nhanh như chớp tới, đâm thẳng vào ngực của hắn, cho dù thần tiên cũng không thể cứu được.

    Những cảnh như thế này diễn ra ở khắp nơi, đao gươm khua điên cuồng tứ phía vô tình chém đứt tay gãy xương như cắt rau. Một người ngã xuống liền có nhiều người dẫm đạp lên, trở thành một thi thể không toàn vẹn.

    Sự hy sinh to lớn đổi lại là từng bước tiến gần hơn, tới thành U Châu, đội quân Liêu Quốc này giống như những con thiêu thân không biết sợ hãi, đạo nghĩa không thể chùn bước.

    Họ là tử sĩ, khi rời khỏi thành thượng kinh, thượng kinh lưu thủ Trừ Trất đã vinh danh họ vào trong hoa danh sách, sau đó còn tập hợp toàn bộ gia quyến của họ lại.

    Cho dù tất cả bọn họ đều chết ở đây, nhưng chỉ cần dùng phương thức bắn thư tín lên đầu thành, đem tình hình bên ngoài thông báo cho thái hậu nương nương biết tình thế cấp bách bây giờ ở đế quốc thì bọn họ người nào người đấy đều trở thành liệt sĩ. Hơn nữa còn là những liệt sĩ lập công bất thế với đại Liêu Quốc. Chỉ cần ngày nào Đại Liêu còn tồn tại thì con cháu hậu thế của họ đều có thể nhận được sự phụng dưỡng của triều đình, đây là lời thề trời đất của Trà Trất đại nhân và chư vị tông thân hoàng thất thương kinh, vương gia các lộ, thủ lĩnh các vùng. Còn nếu như bọn họ thất bại, cho dù là đã dốc hết sức lực thì toàn gia quyến đều bị xung nô, tuyệt đối không tha.

    Vì vậy, mỗi người đều dốc toàn mạng để đột tiến, công thế hung mãnh, tình hình này không hề thua kém lúc Dương Kế Nghiệp thống lĩnh tám nghìn tử sĩ xông tới đột kích Tống doanh, giết Triệu Quang Nghĩa. Những nơi Liêu quân đi qua, người ngựa chết ngổn ngang, đứt đầu lìa thân, máu tươi hòa với bùn đất, khắp mặt đất là màu máu, khó có thể nhận ra nổi địch ta, sự hy sinh to lớn cùng với dũng khí vong mạng này làm cho bọn họ càng tiến tới sát thành U Châu.

    "Chuyện gì vậy?". Tiêu Xước chạy lên đầu thành, Da Luật Hưu Ca liền nói: "Thái hậu, dưới thành...".

    Tiêu Xước lướt mắt nhìn, lại nói: "Tại sao không xuất thành tiếp ứng?". Da Luật Hưu Ca khom người nói: "Tống quân giảo hoạt, thần sợ...".

    Nói đến đâ, một Liêu quân đột phá vòng vây, chạy điên cuồng tới chân thành, mồm dùng tiếng Khiết Đan hét lớn. Vừa nghe rõ nội đung người đó hét, Da Luật Hưu Ca nhảy bật lên, quên mất cả việc kiến lễ với Tiêu Xước: "Mở cổng thành, tiếp ứng!".

    Nói rồi hắn chạy như bay xuống thành, nhảy lên lưng ngựa, nắm chắc đại thương trong tay.

    Dưới thành Liêu quân sớm đã chuẩn bị ứng chiến, cổng thành vừa mở lập tức tiếng rầm rầm vang lên, cây cầu bắc sang bờ cũng từ từ hạ xuống, Da Luật Hưu Ca làm tiên phong, thống lĩnh thiết kỵ xông ra ngoài.

    Tên Liêu quân dưới thành chỉ kịp hét mấy tiếng liền trúng ngay một tiễn của Tống quân, ngã gục xuống đất. Da Luật Hưu Ca dẫn quân phi như tên bắn ra ngoài, một vài người khiêng tên lính lúc nãy về thành, còn những người khác thì nhanh chóng đi theo Da Luật Hưu Ca, xông tới trận doanh Tống quân.

    Đại doanh trung quân Tống quân, Dương Hạo một thân áo nhung, yên lặng đứng trên vọng lâu nhìn.

    Xa xa, đoàn quân Liêu Quốc giống như lưu huynh từ từ tụ hợp với binh mã tiếp ứng, Dương Hạo thầm thở phào.

    Cuộc chiến vây thành, nếu như duy trì quá lâu, đối với hắn cũng là gánh nặng không thể gánh nổi. Hắn mới tiếp nhận giang sơn Tống Quốc, hắn cần phải có một bước tiến để cùng cố đế vị, nhưng không phải là một trận chiến trường kỳ làm cho trời oán người than có thể làm lay động căn cơ của hắn. Bước nhảy lớn này có thể làm cho người trong cả nước hãnh điện, nhưng chiến tranh cũng có cái vốn của chiến tranh. Nếu như giống như Hán Vũ Đế trước kia, đem toàn bộ tích lũy mà hai đời tổ phụ khổ tâm gây dựng tiêu tốn sạch, đem nhân số cả nước chia ra bốn, năm phần, làm cho dân chúng phải bán vợ bán con, lưu lạc khắp nơi. Cái vốn bỏ ra là ruộng đồng của dân tộc, du mục của dân tộc.

    Vội quá không được, chuyện gì cũng phải có tốc độ ổn định.

    Thời Hán Vũ, giang sơn đã phải bỏ ra cái giá đáng kể. Tuy chiến tranh của ông ta làm cho dân linh lầm than, tiếng kêu oan khắp trời nhưng trí ít không có ai có thể lật đổ được sự thống trị của ông ta, còn Dương Hạo bây giờ thì rất khó nói.

    Nên kết thúc rồi, hy vọng... Lúc này sẽ không giống như một nữ nhân bình thường, tình cảm sẽ chiến thắng lý trí, cố chấp ngọc nát đá tan.

    Không, nàng sẽ không làm vậy.

    Vì... Nàng là Tiêu Xước.

    Nữ trung hào kiệt, nàng nhất định sẽ đưa ra sự lựa chọn sáng suốt nhất.

    "Rầm!". Cánh cửa nặng nề đóng lại, Da Luật Hưu Ca máu me đầy người, giành được hơn một trăm tàn binh Liêu vội vã về thành.

    Những tiếng dao động dần dần bị dập tắt, rất nhanh trở về trạng thái yên tĩnh bình lặng, trên thành và dưới thành chỉ còn lập lòe những đốm sáng.

    Tin tức tín sứ thượng kinh chạy tới rất nhanh truyền đến khắp đường lớn ngõ nhỏ với một tốc độ truyền đạt không thể tưởng tượng nổi, quân tốt và bách tính trong thành không ai không biết. Đêm nay cũng không biết có bao nhiêu người hoàn toàn mất ngủ, yên lặng chờ.

    Mong tin tức, chờ mong tín sứ có thể mang tới tin tức tìm ra một con đường đưa họ thoát khỏi cảnh tuyệt vọng bây giờ.

    Dương Hạo đứng trên vọng lâu rất lâu rồi mới bước từ từ xuống.

    Hắn vừa xuống thì có một người chạy vội vượt qua cả mặt đám tướng lĩnh Tống quân, cung kính đỡ lấy hắn như sợ hắn sẽ ngã xuống vậy, ân cần tới mức làm cho người ta thấy lạnh cả người.

    Người này chính là đường thúc Ô Lâm Đài của thủ lĩnh An Xa cốt Châu Lý Chân của tộc Nữ Chân, chính là người đã nhờ Chiết Tử Du hiến kế. Dương Hạo mỉm cười, không phải vì sự ân cần của hắn mà cảm thấy dương dương tự đắc hay cảm thấy có gì đáng ghét vô sỉ.

    Bọn họ chính là như vậy, khi sợ ngươi, cần ngươi thì có thể cung kính trước ngươi, có thể cung phụng ngươi lên làm khả hãn, khi thực lực kém xa ngươi, bọn họ có thể thuần phục sát đất. Giống như người Nữ Chân đối với người Khiết Đan, người Mông Cổ đối với người Nữ Chân, nếu như nói về khả năng chịu đựng khuất phục thì bọn họ mới là truyền nhân chân chính của Câu Tiễn, bọn họ chỉ tôn trọng thực lực.

    "Quan gia muốn nghị hòa với người Liêu, tất nhiên sẽ phải suy nghĩ sâu xa, tiểu nhân không dám vọng nghị, có điều người Liêu không thể chịu nổi một kích trước thiên binh của quan gia. Nhưng đối với chúng thần mà nói chúng vẫn là kẻ địch không thể chiến thắng. Đến lúc đó người Liêu quay ngược nổi giận với Nữ Chân thần, vậy phải làm như thế nào mới tốt? Nữ Chân chúng thần phải thật tâm đầu hàng quan gia".

    "Ngươi yên tâm...". Dương Hạo mỉm cười: "Các ngươi phản lại Khiết Đan đương nhiên người Liêu sẽ gây áp lực để không thể sinh tồn. Nhưng trên đường trẫm bắc phạt, các ngươi đã xuất lực tương trợ, trẫm sao có thể bỏ mặc các ngươi, để cho các ngươi đối mặt với sự báo thù của người Liêu chứ? Ha ha ha, trẫm đã tính toán ổn thỏa cho các ngươi rồi, bây giờ thất châu Sơn Tiền trừ U Châu ra thì tất cả đã vào tay trẫm, sau khi nghị hòa thành công trẫm sẽ cho quân đến trấn thủ...".

    Ô Lâm Đài do đự nói: "Chỉ sợ là... Nước xa không cứu được lửa gần".

    Dương Hạo cười nói: "Trẫm vẫn chưa nói hết, các ngươi nếu đã bỏ Liêu theo Tống, nếu các ngươi bị người Liêu ức hiếp há chẳng phải là chém vào mặt trẫm hay sao? Trẫm bây giờ cho binh thẳng tiến vào Liêu Dương, sau khi nghị hòa sẽ không về nữa. Trẫm sẽ cho người trấn thủ ở khu vực biên cảnh giữa các ngươi và người Liêu, nếu như người Liêu có ý ức hiếp, trẫm sẽ tăng binh gần đó, các ngươi hoàn toàn không phải lo lắng về sự an toàn của mình".

    Dương Hạo vừa đi vừa nói: "Trẫm đã lệnh cho triều đình căn cứ vào tình hình ở chỗ các ngươi mà điều chỉnh lại lượng cống vật mỗi năm. Các ngươi sinh tồn cũng không dễ, sẽ hết sức miễn giảm cống vật, bắc châu và Hải Đông Thanh thì miễn...".

    Ô Lâm Đài vui ra mặt. Cảm kích vô cùng, tạ ơn liên hồi.

    Dương Hạo vỗ vỗ vào vai hắn, cười ha ha không nói.

    Phạm vi phân bổ của chư tộc Nữ Chân đa phần là ở Bột Hải quốc, cũng chính là vùng tỉnh Sơn Đông của hậu thế, nối liền với tộc Thất Vĩ. Nhiều năm qua, Nữ Chân tuy có dần dần quật khởi lên, nhưng dưới sự ức hiếp và có ý phân hóa của Liêu Quốc luôn không thể lớn mạnh nổi. Bọn họ đến bây giờ vẫn phải đau đầu vì việc ăn cho no mặc cho ấm, hoàn toàn không có khát vọng hay giác ngộ đối với quyền lực. Vì vậy việc Tống quốc cho đóng binh ở gần đó căn bản cũng không có ý đồ sâu xa gì.

    Nữ Chân Hoàn Nhan thị đã bị An Xa cốt thị tiêu diệt. A Cốt Đả Hoàn Nhân cũng mãi mãi không thể xuất thế, nhưng thời thế tạo anh hùng, anh hùng theo đó mà sinh ra, không có A Cốt Đả, chỉ cần hoàn cảnh này không đổi, tiến triển lịch sử không đổi, khi thời vận đã đầy đủ đương nhiên sẽ có người khôi phục lại tất cả những gì A Cốt Đả nên làm. Nhưng bây giờ chưa đến lúc đó, Dương Hạo chỉ cần ban chút ân huệ thì đã có thể kéo bọn họ lại rồi.

    Trong phủ Nam kinh lưu thủ U Châu đèn vẫn còn sáng rực, nhưng sắc mặt của tất cả các vị tướng soái đang ngồi ở đó lại còn ảm đạm hơn màn đêm bên ngoài phủ.

    Họ giống như một đoàn du khách bị lạc vào cô đảo, không thể nói rõ được ngày nào cơn sóng thần sẽ trào lên, cuốn bọn họ xuống đáy đại dương. Ngày mong, đêm mong, cuối cùng mong đợi được một chiếc thuyền đến, nhưng không ngờ chiếc thuyền đó lại còn nguy hiểm hơn cô đảo họ đang đứng. Vì... Nó đang dần dần chìm xuống.

    Thái hậu và hoàng thượng bị vây ở U Châu, cách tuyệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, đã mất đi sự khống chế với đế quốc của họ. Phái chủ hòa, phái đầu hàng ở thượng kinh đã chiếm được thế thượng phong, đây chính là điều đáng sợ nhất, so với dã tâm của đám quyền quý hoàng thất muốn nổi dậy còn đáng sợ hơn. Vì mấu chốt giải vây cho U Châu chính là nằm ở viện quân, mà viện quân cùng khinh trọng đều chịu hạn chế từ thượng kinh, thượng kinh một khi đổi hướng gió...

    Tiêu hậu mặt tái mét, trái tim như đóng băng, nàng vốn là người luôn tỉnh táo bình tĩnh, nhưng lúc này cũng không nghĩ ra được gì.

    Da Luật Hưu Ca đứng lên, tay nắm chặt bội kiếm, cánh tay gân xanh nổi lên như những con giun, nặng nề thở dốc. Lại đặt mông ngồi xuống tiếp, sắc mặt lo lắng bất định một lúc. Rồi dứt khoát đứng dậy, cắn răng một hồi. Lại ngồi xuống, cứ như thế năm lần bảy lượt. Đám tướng lĩnh trong đình đều kinh ngạc nhìn hắn, ngay cả ánh mắt của Tiêu Xước cũng quay về phía hắn.

    Lúc đầu, ánh mắt Tiêu Xước cũng có chút kinh ngạc, nhưng nhìn một hồi, mắt nàng lại như hiện lên một tia tỉnh ngộ, lại tiếp tục ảm đạm.

    Điều nàng đã đoán không sai, Da Luật Hưu Ca quả thật muốn bảo vệ nàng và Hoàng Thượng vứt bỏ U Châu, thoát ra khỏi vòng vây. Nhưng điều đó nguy hiểm như thế nào chỉ cần nghĩ cũng biết, số lượng tử sĩ chỉ cần nghĩ cũng đoán ra được.

    Chính vì vậy, Da Luật Hưu Ca suy đi tính lại, lại phủ quyết quyết định trong lòng mình. Hắn không sợ chết, nhưng hắn không thể gánh nổi trách nhiệm nếu như thái hậu và hoàng thượng có chuyện gì bất trắc. Nếu như hắn xuất hiện bên ngoài thành hắn còn có thể lợi dụng quyền lực để khống chế quân Tống rồi nghĩ cách tiếp, nhưng bây giờ hắn lại cũng đang ở trong thành. Đây chính là hổ lạc vào bình địa, rồng rơi xuống vũng bùn, nhưng cục thế ngoại tuyến đã hung hiểm đến mức này rồi, đã không thể kéo dài thêm được nữa.

    Nước, không thể một ngày không có vua, thái hậu và hoàng đế lại bị giam hãm ở đây mấy tháng rồi, hoàn toàn không có hy vọng thoát ra, so với việc nước mất đi vua có gì khác biệt?

    Rất lâu rất lâu, Da Luật Hưu Ca giọng trầm trọng nói: "Da Luật Tà Chẩn và Quách Tập đang ứng phó với Tống quân ở Phủ Châu và Nhạn Môn Quan, không thể giúp được cho phía bắc, Hán quân ở kinh sư mưu phản, đã phát hiện được tung tích của Tống quân ở đông kinh, thủ lĩnh bát thị Khiết Đan đã dần có ý rút lui thủ ở địa mạc, Thái hậu, U Châu chúng ta tuy nguy hiểm, nhưng nguy hiểm của thượng kinh quả thực giờ còn nghiêm trọng hơn U Châu. Thái hậu nếu còn không kịp thời trở về thượng kinh, nắm lại quyền thống trị thì việc Đại Liêu tan vỡ e là không thể tránh nổi". Hắn đừng một chút, lại khó khăn nói: "Thái hậu, hay là thử cùng người Tống... Nghị hòa...".

    Tiêu Thát Lẫm đứng bật dậy, phẫn nộ nói: "Đây là biện pháp tốt mà ngài nghĩ ra sao?".

    Da Luật Hưu Ca lạnh lùng nhìn hắn, nói: "Đại nhân có cao kiến gì?".

    Tiêu Thát Lẫm vung cánh tay nói: "Viện quân không thể đến thì chúng ta xông ra ngoài".

    "Xông ra ngoài? Dễ như thế sao?". Da Luật Hưu Ca cũng tức giận, đứng phắt dậy: "Bộ đội chủ lực dưới thành U Châu chủ yếu là nhắm thẳng vào trong thành, độ khó của việc đột vi từ trong ra ngoài tất nhiên cũng sẽ tăng mấy lần. Khinh kỵ đột vi và bảo vệ thái hậu cùng hoàng đế sẽ vô cùng khó khăn. Quan trọng nhất chính là một lượng lớn viện quân đều bị vây bên ngoài mấy đạo quan ải. Xông vào U Châu tuy là khó, nhưng một khi đã vào thành thì sẽ dựa vào thành kiên trì mà được an toàn, còn nếu từ trong đột phá ra ngoài, chưa cần nói đến việc có thể đột phá thành công hay không, mà cho dù thật sự có thể thành công thì có thể thoát khỏi vòng vây truy đuổi cả chặng đường của Tống quân sao? Cần phải biết bây giờ thất châu Sơn Tiền trừ U Châu thành ra thì tất cả đều đã nằm trong tay Tống quân, hơn nữa bây giờ Tống quân cũng có một lượng lớn kỵ binh, chúng ta không có khả năng nhanh chóng thoát ra khỏi quân địch".

    Tiêu Thát Lẫm mặt lúc xanh lúc đỏ, lúc tức giận, lúc muốn nói lại không nói, rất lâu, rất lâu, cuối cùng lại ngồi xuống.

    Luận về thân phận, Tiêu Thát Lẫm là tộc huynh của thái hậu, tuyệt đối tâm phúc, luận về võ dũng, hắn cũng là một trong tam đại hổ tướng của Đại Liêu, có thể ngồi ngang hàng với Da Luật Hưu Ca và nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn. Tiêu đại tướng quân không nói nữa thì những văn võ khác đương nhiên cũng không thể nói gì.

    Tiêu Xước mặt lạnh như nước mùa đông, trầm mặc rất lâu, mới hơi nheo mắt lại nói: "Tống quân binh phong chính nhuệ, bọn họ... Sẽ đồng ý nghị hòa sao?".

    Lời này vừa nói ra, chúng văn võ trong lòng lập tức hiểu rõ, thái hậu vì áp trong ngoài đã thông qua ý định, đàm phán giải quyết chiến tranh rồi, thái hậu nếu đã định ra phương hướng thì dễ làm rồi. Trong đám thần tử dù sao cũng có nhiều kẻ ở trên cao, nhưng chiến hay hòa lại không phải là vấn đề mà họ có thể quyết định được, những loạn ngôn trước khi thái hậu chưa có thái độ rõ ràng về chiến hay hòa khó tránh sẽ trở thành cái thóp cho người ta, trong tương lai một khi bị người ta phản công thì sẽ vô cùng bất lợi.

    Bây giờ thái hậu đã thể hiện rõ thái độ, chúng thần liêu lập tức hoạt bát lên, ta nói ngươi nói, năm bảy cái miệng cùng ào ào thể hiện thái độ. Chỉ đáng tiếc đa phần những ý kiến đó chỉ như phẩy quạt, thực chất không có ích lợi gì.

    Tiêu Thát Lẫm là một viên tướng thuần túy, để cho hắn đánh trận thì được, còn những chuyện như thế này hắn hoàn toàn không phải người trong nghề, hắn chỉ có thể ngồi yên căng mắt nhìn mọi người bàn tính, càng nghe càng không hiểu.

    "Dương Hạo sẽ đồng ý nghị hòa". Một âm thanh như một cái trùy đập tan những âm thanh hồn tạp đang ba vây nội đình, người nói chính là Da Luật Hưu Ca.

    Hắn bình tĩnh nói: "Thực hư của Tống Quốc chúng ta không hiểu rõ lắm. Nhưng từ hành động của Dương Hạo có thể đoán biết ra một chút. Theo vô số hành động để lại vết tích của hắn, có thể thấy người này quen với kiểu đầu cơ trục lợi, có thể dùng sự hy sinh nhỏ nhất để giải quyết vấn đề thì hắn sẽ không bỏ qua. Nói cho hay thì đây là hắn luôn vì bách tính dân sĩ, nói tồi một chút thì chẳng qua là do xuất thân và sự trải nghiệm của hắn quyết định, trừ phi đến lúc sinh tử tồn vong, nếu không tên thương cổ này tuyệt đối sẽ không bỏ ra toàn bộ vốn liếng tiền bạc của hắn".

    Ai sẽ là người hiểu rõ một người nhất? Kẻ địch của hắn, nếu như kẻ địch này đồng thời còn là tình địch của hắn thì quả thật có thể thành tri kỷ rồi.

    Da Luật Hưu Ca nói: "Tống Quốc vừa thông qua thủ đoạn truyền nhượng đến tay, hắn sao có thể rời xa trung tâm quyền lực của mình để đi du phạt ngoại quốc? Nếu như Dương Hạo không nhanh chóng kết thúc chiến tranh thì hắn sẽ không chịu nổi tổn thất, cả chiến cục sẽ bị thay đổi, chỉ là...". Da Luật Hưu Ca hé ra một nụ cười khô: "Chỉ là chúng ta không có cách xác định hắn còn có thể chống đỡ bao lâu, còn chúng ta thì đã không thể chống đỡ được nữa rồi".

    Cả đại đình đột nhiên trầm xuống, rất lâu, rất lâu, Tiêu Xước mới mở lời: "Mặc Thủy Hàn, sáng sớm ngày mai đến Tống doanh thỉnh kiến, bàn về chuyện nghị hòa".

    *

    * *

    Dương Hạo được Phật sống Đạt La nhận định là Kim Cương Cống Bảo chuyển thế. Cái danh hiệu này đối với việc hắn thống trị chư bộ Tây Bắc và đoạt lấy sự ủng hộ của thế lực tông giáo có hiệu quả vô cùng to lớn. Cho nên Dương Hạo luôn cố tình tuyên truyền cho cái danh hiệu này. Nếu như quan gia đã là hộ pháp Phật gia, thì thủ hạ có người nào lại không ngoan ngoãn nghe theo, đương nhiên sẽ không có bất cứ hành động nào phá hoại tới chùa miếu. Vì thế những ngôi đền chùa đã từng bị binh họa tây kiếp một lần coi như sẽ không bao giờ gặp nạn kiếp lần hai.

    Đặc sứ Liêu Quốc Mặc Thủy Ngân bước vào tự miếu dưới sự dẫn đường của thị vệ cấm quân, trong miếu tuy trống không nhưng lại rất sạch sẽ, mặt đất được quét sạch, khắp các cửa sổ đều chăng rèm chinh tề, đi qua chung lâu liền tới một viện lạc vuông vắn, chính diện là Đại Hùng bảo điện, hai bên là tám đại kim La Hán.

    Liêu sứ Mặc Thủy Ngân được đưa vào một gian bên trái điện, trong điện này có bản tượng La Hán bị kéo đổ từ lần Tống quân bao vây U Châu để làm nơi nghỉ đêm cho đám thị vệ. Bây giờ đã được Dương Hạo cho người dọn dẹp sạch làm nơi nghỉ ngơi cho mình. Trong điện đốt mấy chiếc lò sưởi, hơi nóng tòa ra khắp gian phòng, vô cùng ấm áp như mùa xuân.

    Mặc Thủy Ngân đi từ ngoài vào, trên người vẫn mặc chiếc áo da chồn, đầu đội mũ da đuôi cáo, chân đi đôi giày da, trang phục quý giá, bước chân vững chắc, thần thái ung dung, hoàn toàn không nhìn ra vẻ thành U Châu đã rơi vào trạng thái tiến thoái lưỡng nan. Nhưng nếu như đã chủ động đến xin hòa thì thái độ có biểu hiện ung dung đến đâu cũng sao có thể che lấp được sự quẫn bách của họ?

    Dương Hạo nhìn thấy thần thái hắn, bất giác mỉm cười.

    Dương Hạo lúc này đang mặc thường phục, trông vô cùng tư văn nho nhã, phong độ công tử, hoàn toàn không nhìn ra đây là một kẻ thống trị Trang Nguyên, một vị quân chủ nắm trong tay mấy mươi vạn đại quân. Lúc này trong tay hắn chỉ cầm một chén rượu, ngồi bên cạnh chiếc sa bàn, yên lặng nhìn, thỉnh thoảng chi chỉ điểm điểm nói một hai câu thì có người đi tới, cắm một chiếc cờ nhỏ vào chỗ hắn chỉ, hoặc rút một chiếc cỡ nào đó ra.

    Mặc Thủy Ngân bước vào, lén lướt mắt nhìn, nhận ra đó là sa bàn địa đồ U Châu, lập tức giật mình, nhưng xung quanh có vô số con mắt đang nhìn chằm chằm vào hắn nên hắn không tiện nhìn kỹ. Đột nhiên thấy Dương Hạo nhìn hắn, hắn liền vội vã tiến lên kiến lễ, nói: "Ngoại thần Mặc Thủy Hàn kiến giá hoàng đế Tống Quốc bệ hạ".

    Dương Hạo liếc nhìn hắn một cái. Cười nói: "Mọi người đều là lão bằng hữu, hà tất phải khách sáo như vậy, đến đây đến đây, ngồi xuống".

    Mặc Thủy Hàn đáp một tiếng, rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện hắn, nhân cơ hội nhìn trộm một chút sa bàn. Mắt thấy trên đó có hai loại cờ nhỏ màu đỏ và xanh, từ chỗ phân bố mà nói màu đỏ đại diện cho quân Tống, cờ xanh đại điện cho quân Liêu, nhìn thấy tứ diện U Châu tất cả các quan ải dày đặc đều cắm cờ đỏ, cũng chính là nơi viện quân Liêu Quốc đang bị vây. Cờ đỏ còn ẩn hiện ở một số nơi xuất hợp vi, Mặc Thủy Ngân bất giác toát mồ hôi hột.

    Dương Hạo mỉm cười: "Tiêu hậu phái ngươi đến, có chuyện gì muốn nói với trẫm sao?".

    Mặc Thủy Ngân cả kinh, vội thu lại cái nhìn, quay sang nói về mục đích chính khi đến đây.

    "... Tần Thủy Hoàng phái Mông Điềm bắc kích Hung Nô, người Hồ không dám nam hạ nuôi ngựa, sĩ không dám cầm cung mà oán trách, kết quả thì sao? Hán Cao Tổ không phải là cũng gặp phải vòng vây Bạch Đăng giống như thế sao? Đến thời Hán Vũ Đế, dốc toàn lực đất nước, đem tất cả tiền bạc tiêu sạch, thì có thể làm gì chứ. Tùy Văn Đế hùng tài đại lược, chỉ cần thi triển một tiểu kế đã làm cho Đột Quyết đông tây phân cách, nội hao không ngừng, đến đời Đường lại đánh lại kéo, khó khăn lắm mới vùi dập được Đột Quyết, người Khiết Đan lại quật khởi...

    Bệ hạ trước mắt tuy đã chiếm thế thượng phong, nhưng muốn diệt được Liêu Quốc lại là chuyện tuyệt đối không thể làm được. Thảo nguyên đại mạc dù sao cũng là thiên hạ của người du mục. Ngoại thần cũng là người Hán, tuy làm thần tử của Liêu nhưng tuyệt đối không có ý làm kẻ thù với Trung Quốc. Theo ngoại thần thấy Tống Liêu láng giềng hòa hảo sẽ có lợi cho sự phát triển của cả hai nước...".

    Thật là làm khó cho vị Mặc đại nhân này, hắn thao thao bất tuyệt hơn nửa canh giờ. Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa giảng một mạch đến tam hoàng ngũ đế, Từ Vũ định Cửu Châu lại giảng đến Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ. Mặc Thủy Hàn vừa khảng khái trần thuật vừa cẩn thận quan sát sắc mặt của Dương Hạo. Như thế có thể đoán biết một chút tâm ý của hắn, dựa theo đó mà thay đổi lời nói, cố gắng đả động hắn, thỉnh thoảng còn có thể tranh thủ liếc nhìn sa bàn, xem xem bố trí tường tận của Tống quân, hết sức ghi nhớ lại, nhất tâm tam dụng.

    Dương Hạo ngồi nghe, chốc chốc lại nhấp một ngụm rượu, không tỏ thái độ gì, chỉ lạnh nhạt một cách tự nhiên, rất khó có thể đoán biết được hắn đang nghĩ gì từ sắc mặt của hắn.

    Kỳ thật Dương Hạo cũng đang trông mong đàm phán hòa bình, bây giờ cố tình ra vẻ lạnh nhạt cũng chỉ là để có thể tranh được sự chủ động trong đàm phán mà thôi.
     
  17. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 637: Bảo quang chi minh
    Sự thắng bại trên chiến trường trong rất nhiều lúc thực sự có thể được quyết định bởi một nhân tố nào đó ngoài chiến trường. Dương Hạo cố tình để cho tín sứ của thượng kinh vào thành chính là vì để tăng khả năng đàm phán của mình. Bây giờ Tiêu Xước đang bị nhốt trong thành, hệ thống tình báo Liêu Quốc cũng còn xa mới bằng được Phi Vũ của hắn. Không có cách nào nắm vững được chính xác tỉ mỉ tình hình Tống quốc, điều này cũng là để Dương Hạo có thể nắm chắc khả năng ra điều kiện khi đàm phán.

    Trên thực tế, Dương Hạo cũng không có cách nào duy trì quá lâu. Sự tiêu hao của mấy vạn quân lớn tới mức không thể tưởng tượng được, chưa cần nói hắn là thụ thiền đương quốc, cho dù là tử kế phụ nghiệp, truyền thừa đại thống, thì vừa mới đăng cơ đã dốc toàn bộ tích lũy của đế quốc cũng là một chuyện vô cùng nguy hiểm, hắn không có khả năng tiếp tục mở rộng nữa, nhưng hắn vẫn muốn hết sức có thể bảo đảm được lợi ích trận chiến.

    Trận chiến này hắn đã lợi dụng lúc người Liêu chuẩn bị chưa được đầy đủ, nhanh chóng chiếm lĩnh và khống chế thất châu Sơn Tiền, sĩ khí và lòng dân đều phấn chấn, uy vọng cá nhân hắn cũng lên tới nguy phong, quyền uy tân triều càng được cùng cố, thông qua chiến tranh khống chế toàn bộ quyền lực vào trong tay. Đối với quan lại trong nước cũng thuận thế điều chỉnh một chút, ý đồ chính trị đã đạt được thì cũng đã đến lúc thu trận rồi.

    Đợi khi Mặc Thủy Hàn nói xong, Dương Hạo liền đặt chén rượu xuống, nghiêm mặt nói: "Nếu như thái hậu đã có thành ý hòa giải thì trẫm sao có thể từ chối, đàm phán hòa bình cũng được, mọi việc đều có thể nói, nhưng trẫm có một điều kiện, đây là điều kiện tiền đề để trẫm chấp nhận đàm phán, điều kiện này nếu không làm được thì tất cả miễn bàn".

    Mặc Thủy Hàn nghiêm nghị đứng dậy nói: "Bệ hạ xin mời nói".

    Từ ngày hôm nay Tống quân bắt đầu dừng sự tiến công với thành U Châu.

    Vừa đánh vừa nghị hòa là một cách, đình chiến mà nghị hòa cũng là một cách, dùng cách nào cũng có ý đô riêng của nó. Theo như Dương Hạo, sớm để cho quân dân U Châu đang rơi vào cảnh tuyệt vọng nhìn thấy một tia hy vọng càng dễ để cho họ đưa ra sự nhượng bộ.

    Sứ giả hai bên bắt đầu liên tục qua lại, chỉ có tầng lớp cao nhất của hai bên mới biết được họ đang đàm phàn những gì. Viện quân Liêu Quốc ở ngoại tuyến cũng đã biết việc quân chủ hai bên đang đàm phán, cả đế quốc Liêu từ đông đến tây, từ nam tới bắc toàn bộ đều bước vào trạng thái ngừng chiến, tất cả mọi người đều đang theo dõi về U Châu, đợi kết quả cuối cùng.

    Điều kiện đầu tiên của Dương Hạo chính là Liêu Quốc phải chính thức đóng dấu văn kiện cắt thất châu Sơn Tiền mà Tống quân đã chiếm lĩnh được, bao gồm cả U Châu đang nằm trong tay Liêu quân cho Tống Quốc, đây là đại tiền đề của cuộc đàm phán, điều này nếu như không làm được thì tất cả miễn bàn.

    Liêu Quốc lại đưa ra những điều kiện khác, Liêu Quốc có thể xưng thần với Tống, thực hiện các nghĩa vụ cống nạp với Tống, nhưng Tống Quốc phải lui ra khỏi lãnh thổ Liêu Quốc mà Tống đang chiếm giữ.

    Dương Hạo đã từng xưng thần với Tống Quốc, đối với việc thần phục hoàn toàn không có ý nghĩa này hiểu một cách sâu sắc hơn bất kỳ người nào, sao hắn có thể đồng ý? Dương Hạo không nói một lời, căn bản cũng không có gì để thương lượng, Mặc Thủy Hàn ấm ức quay về.

    Trải qua mấy lần thảo luận, Liêu Quốc lại đưa ra một phương án mới, hoàng đế Liêu Quốc có thể xưng nhi hoàng đế với hoàng đế Tống Quốc, hai nước vĩnh viễn kết phụ tử chi quốc và có thể đưa người của hoàng tộc tông thất đến Tống quốc để làm con tin, chư châu gần Liêu Quốc vĩnh viễn không đóng quân. Dương Hạo biết được điều này liền bật cười, cái gì mà phụ tử chi quốc, tiểu hoàng đế Liêu Quốc vốn là cốt nhục của hắn. Cái danh này nghe ra cũng được, nếu truyền đi khắp nơi thì có lẽ dân chúng Trung Nguyên sẽ vui vẻ phấn khởi, đủ để làm cho sĩ tử văn nhân Trung Nguyên kích động đến rơi nước mắt, đủ để tạo ra hào quang mà trước đây chưa từng có, nhưng nó nào có chút ý nghĩa thực tế nào?

    Lãnh thổ mà Thiên Khả Hãn đã từng thống ngự bây giờ ở đâu? Tử dân ở đâu? Thiền Vu, Khả Hãn những kẻ đã từng xưng Thiên Khả Hãn với hoàng đế Trung Nguyên đến khi Trung Nguyên vừa suy yếu lập tức quay lại, biến thành con lang con hổ, cắn cho Trung Nguyên một cái. Cái xưng hiệu này có lẽ đổi lại là một vị hoàng đế khác chắc sẽ cảm thấy vô cùng động lòng, nhưng đối với Dương Hạo mà nói nó so với cái mông cũng chẳng bằng.

    Da Luật Long Tự là con ruột của hắn, đây là sự thật vĩnh viễn không thể nói ra, như vậy đám hoàng đế tương lai của Liêu Quốc cùng với văn võ, tử dân sẽ mãi mai coi cái xưng hiệu "Nhi hoàng đế" này là một nỗi sỉ nhục vô cùng nặng nề, có cơ hội chúng nhất định sẽ lại khiêu chiến, rồi mỗi một kẻ lên kế vị của Liêu Quốc, từ lúc lập vị đến cuối đời, có lẽ ý nguyện lớn nhất của hắn chính là đánh bại Tống quốc, xóa bỏ đi cái xưng hiệu ô nhục này.

    Một đời kiêu hùng nào có kẻ nào không phải là người biết co biết duỗi chứ. Bọn họ có thể chịu đựng tất cả mọi nỗi ô nhục, nếm mật nằm gai để chờ đợi cơ hội phục thù. Câu Tiễn ngay cả việc vợ mình cũng phải đưa lên giường của kẻ thù, mình còn phải ăn phân của kẻ thù mà còn làm được, kết quả cuối cùng là gì? Đồng ý điều kiện không có chút ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là giúp người Liêu xác lập lên một mục tiêu vĩnh viễn coi người Tống là kẻ thù mà thôi.

    Đương nhiên, Tiêu Xước lại đưa ra điều kiện mà rất nhiều người thà vứt bỏ tính mạng cũng không chịu đồng ý này một mặt là có thể chịu được điều mà người ta không thể. Mặt khác cũng có thể là vì nghĩ rằng tình phụ tử sẽ làm động lòng hắn, hoặc cũng là muốn để cho đôi phụ tử không thể nhận nhau này có một thân phận để gặp nhau, cũng chưa chắc đã có ý định lâu dài như vậy.

    Nhưng Dương Hạo lại nhìn rất rõ, đáp ứng điều kiện này không khác gì xác định mối huyết hải thâm thù giữa hai nước.

    Đất tổ tông bị mất nếu như không thể lấy về được thì tử tôn hậu thế có thể mắt nhắm mắt mở, giả vờ câm điếc, nhưng nếu trực tiếp gắn vào mình cái danh hiệu "Nhi hoàng đế", ngươi nói xem bọn họ sao có thể trốn tránh được? Sao có thể nhẫn nại được? Chỉ có loại cực phẩm Thạch Kính Đường mới có thể vô sỉ tới mức ấy.

    Sự qua lại giữa hai bên ngày càng nhiều, Tiêu Xước lại không chịu đưa ra thêm chút nhượng bộ nào, Dương Hạo cảm thấy cần phải dùng vũ lực để thúc đẩy một chút, làm cho triều đình Liêu Quốc vẫn đang còn tồn tại hoang tưởng phải tỉnh ra. Rồi một ngày, Dương Hạo lại phát binh tiến công với U Châu, ngoại tuyến cũng đồng thời phát động tiến công, Phan Mỹ đích thân chỉ huy, tiêu diệt một lộ viện quân Liêu, U Châu đại kinh, cuối cùng cũng bắt đầu xem lại điều kiện đàm phán mà lúc đầu họ cho không thể làm được: cắt đất!

    *

    * *

    Ngày mùng ba tháng ba là ngày gì?

    Ngày mùng ba tháng ba là ngày Nhân Tổ. Nghe nói ngày này là ngày Phục Ni và Nữ Nãi thành thân, nhân loại từ đây được sinh sôi nảy nở, vì thế Phục Ni được tôn xưng làm "Nhân Tổ Gia", ngày này cũng trở thành ngày thiện nam tín nữ kỷ nhiệm Nhân Tổ.

    Ngày âm lịch mùng ba tháng ba cũng là ngày thọ đản của Chân Vũ đại đế đạo giáo, Chân Vũ đại đế sinh vào thời thượng cổ Hiên Viên, là chính thần chủ quản quân sự và chiến tranh của đạo giáo, vì thế này này cũng là ngày trọng đại của đạo gia.

    Ngày mùng ba tháng ba cũng là ngày thượng tị. Vào ngày này quan dân đều phải tắm rửa sạch sẽ, diệt trừ sâu bọ.

    Ngày mùng ba tháng ba cũng là lễ tình nhân của người Trung Nguyên, mùng ba tháng ba thời tiết trong lành, bên bờ nước Trường An có rất nhiều người ăn mặc sặc sỡ, áo xanh áo đỏ đi lại.

    Mùng ba tháng ba năm nay làm cho người ta vui mừng hơn những năm trước, vì hôm nay Liêu Tống hai nước cuối cùng cũng đạt được hiệp nghị, hai nước sẽ đến thành nam Bảo Quang Tự ký kết quốc thư.

    Trước một ngày, Tống quân bao vây thành đã lùi lại cắm doanh cách đó hai mươi dặm. Vừa sáng sớm, Tiêu Thát Lẫm và Dương Kế Nghiệp đã thống soái đội binh tinh nhuệ đến Bảo Quang Tự để phòng bị, chuẩn bị tốt tất cả cho buổi ký kết.

    Đến đúng giờ ngọ, nghi trượng của Dương Hạo và thái hậu, hoàng đế Liêu Quốc mới tiến vào Bảo Quang Tự.

    Trước cửa Bảo Quang Tự đã sắp xếp một cao đài để tiến hành tế cáo thiên địa, bước vào bên trong, đi thẳng tới trước chính diện sẽ thấy dưới đất đều được phủ thảm đỏ, ở cuối chính diện đặt một chiếc trà kỷ, tứ bảo văn phong, đầy đủ mọi thứ.

    Dưới sự bảo vệ của trọng thần thân tín, thủ lĩnh hai nước đi từ hai bên điện ra, bước vào hội trường.

    Dương Hạo liếc nhìn tiểu hoàng đế Liêu Quốc Da Luật Long Tự đang nắm tay Tiêu Xước. Tiêu hoàng đế mặc một bộ bào phục hoàng đế, còn nhỏ tuổi mà đã phải làm ra vẻ rất uy nghiêm, chỉ có điều... Dù sao nó vẫn chỉ là một đứa trẻ, thần sắc tức giận không thể che lấp được, quốc gia đại sự nó vẫn chưa thể hiểu, nó chỉ biết rằng cái kẻ trước mặt nó đã ức hiếp mẫu thân nó, làm cho mẫu thân nó lâu lắm rồi chưa nở một nụ cười.

    Dương Hạo nhìn nó, đột nhiên mỉm cười, tiểu hoàng đế lại trừng mắt lên nhìn hắn một cái, hừ một tiếng, rồi hất cằm lên.

    Dương Hạo lại mỉm cười, ánh mắt hơi hướng lên thì nhìn thấy Tiêu Xước.

    Tiêu Xước mặc một bộ y phục màu xanh lá cây, đai đeo bội kiếm, đầu đội mũ phượng, cao quý, kiều diễm. Thấy Dương Hạo đang nhìn mình, ánh mắt Tiêu Xước đột nhiên lóe lên sự hận thù, nàng hất mũi lên, dáng vẻ chẳng khác gì con trai bảo bối của nàng.

    Dương Hạo thầm cười khổ, thật sự hắn đã đắc tội với đôi mẫu tử này rồi. Đối với Tống Quốc mà nói vùng đất U Yên là tấm chắn phương bắc, có được vùng đất này rồi thì hệ thống phòng ngự hổ lang trên thảo nguyên sẽ được gia tăng, đối với quốc gia Trung Nguyên mà nói là quan trọng nhất, đối với bách tính đặc biệt là bách tính Giang Nam mà nói họ lại không lạc quan với việc triều đình thu phục U Yến. Vì nguyên nhân thủy thổ và khí hậu, phương nam luôn giàu có hơn phương bắc, cho nên thuế má của phương nam cao hơn phương bắc. Giang Nam giống như một nguồn cung ứng lương thực cần thiết dồi dào không dứt cho Biện Lương đông kinh và phương bắc. Nếu như cương vực lại mở rộng về phía bắc thì gánh nặng của họ lại nhiều hơn, tuy nói như vậy nhưng Giang Nam vẫn giàu có hơn phương bắc, có điều ai lại sợ tiền cắn vào tay chứ?

    Còn đối với Liêu Quốc mà nói, ý nghĩa của mười sáu châu Yến Vân lại không chỉ nằm ở mặt quân sự. Mười sáu châu Yến Vân là vùng nông canh chủ yếu của Liêu quốc, nó có tác dụng nông canh khá giống như tác dụng của Giang Nam với Tống Quốc, đồng thời mười sáu châu Yến Vân còn là khu vực tiếp giáp với Tống Quốc. Đây là con đường quan trọng để người Liêu hấp thụ văn hóa Trung Nguyên, dung nhập kinh tế Trung Nguyên. Nếu như mười sáu tỉnh Yến Vân tuột khỏi tay thì người Liêu sẽ lại quay trở lại cuộc sống du mục dựa vào nước, cỏ mà sống, chính thể đế quốc phong kiến cũng sẽ rất khó để duy trì. Lập quốc đã sáu mươi năm, nước Liêu vừa mới có chút hưng thịnh trên mặt kinh tế và văn hóa từ đây lại dẫm lên con đường xuống dốc.

    Mười sáu châu Yến Vân giống như huyết mạch kinh tế và nền tảng chính trị của Liêu Quốc, bây giờ Dương Hạo nhân lúc chính đàn Liêu Quốc dao động, quân sự thất bại, thái hậu và hoàng thượng bị nhốt để cứng đầu ép nàng nhượng lại thất châu Sơn Tiền, trong lòng Tiêu Xước sao có thể không hận. Thứ duy nhất nàng giành lấy được chính là về việc thần phục của Nữ Chân và Thất Vĩ, Dương Hạo đã chịu nhượng bộ. Trong kế nghị lúc đầu, Thất Vĩ và Nữ Chân đều nạp vào thần tử hạt hạ của Tống Quốc, sau đó sẽ phái binh đến đóng, người Nữ Chân không nhìn ra thâm ý trong đó, nhưng Tiêu Xước lại có thể nhìn thấy. Cuối cùng Dương Hạo cũng chịu nhượng bộ một bước, ước định Nữ Chân sẽ xưng thần với Tống, do Tống đóng quân, Thất Vĩ xưng thần với Liêu, do Liêu quản chế. Chia cắt người Nữ Chân và người Mông Cổ, theo như Dương Hạo nghĩ chỉ là để tránh bọn họ hợp lực quá lớn, còn đối với Tiêu Xước mà nói đây chính là sự bố thí duy nhất của hắn đành cho nàng.

    Nàng ngẩng đầu lên, ngăn cho những giọt nước mắt không trào ra, khi lại nhìn Dương Hạo, đồng tử của nàng đã có chút đỏ lên.

    Nhìn thấy dáng vẻ bị uất ức vô cùng nhưng vẫn tỏ ra kiên cường, Dương Hạo quả thật rất muốn bước tới, nắm lấy đôi vai gầy gò của nàng, thấp giọng an ủi mấy tiếng, nhưng... Nhưng hắn chỉ có thể cố gắng kìm chế trái tim, cười cười, chắp tay nói: "Xin mời ngồi".

    Tất cả sớm đã nghị định rồi, ngay cả nội đung quốc thư đều đã được hai bên cẩn thận xem qua từng câu từng chữ, không cần phải bàn bạc nữa, chỉ cần cầm ấn dấu của đế vương hai bên đóng dấu vào là được rồi.

    Thứ Dương Hạo muốn là thất châu Sơn Tiền. Mười sáu châu U Vân, Thất châu Sơn Tiền, Cửu Châu Sơn Hậu, mười sáu châu này hợp lại tính ra khoảng mười hai vạn dặm. Thất châu Tiền Sơn dựa vào Yến Sơn và Thái Hành Sơn bắc chỉ là một lộ trường thành, ước tính nghìn dặm, phía bắc còn giới hạn với đại sơnm, trở thành một bức chắn thiên nhiên tác địa khu Hán tộc Trung Nguyên với địa khu dân tộc du mục bắc phương, vị trí chiến lược vô cùng quan trọng.

    Lúc này năm mới đã qua, Dương Hạo tuy vẫn chưa hoàn đô, nhưng niên hiệu đã định và ban bố khắp thiên hạ, năm nay là năm Vĩnh Hòa Nguyên, buổi hòa nghị lần này cho Tống Quốc chỉ đạo, vì thế hòa ước lấy niên hiệu Tống Quốc làm chuẩn, tất cả từ ký tên, đóng dấu, giao đổi quốc thư đều dùng cách của Tống Quốc. Mắt thấy đứa con trai bé nhỏ khó nhọc nâng chiếc ngọc tỷ nặng nề, dưới sự giúp đỡ của thị tì để đóng chiếc dấu đỏ lớn lên quốc thư, Tiêu Xước cảm thấy mũi cay cay, cuối cùng cũng không nhịn được mà lén rơi giọt lệ...

    Quốc thư đã ký xong rồi, vì hoàng đế Liêu Quốc tuổi còn nhỏ nên sẽ do thái hậu nhiếp chính lên tế trời. Dương Hạo và Tiêu Xước mỗi người dâng lên hòa ước của mình, từ từ đặt lên cao đài bằng đất, ca đài này còn cao hơn cả Hùng Bảo Điện một cái đầu, dãy bậc thang bên trái đều là thị vệ Liêu Quốc, còn bên phải là thị vệ Tống Quốc. Trên cao đài đặt một hương án, thảm đỏ trải hết mặt đất, trên đó ngoài hai người ra thì không còn một người nào khác, văn võ đại thần hai bên đều đứng cung kính dưới đài.

    Tiêu Xước tay dâng hòa ước, sắc mặt tái nhợt, đưa mắt nhìn một lượt tất cả, rất nhanh thôi, nơi đây sẽ mang họ Tống rồi. Nàng phải chấm dứt chiến tranh rồi dẫn thần dân của mình rời khỏi đây, có lẽ... Sẽ không có cách nào trở lại nữa.

    Dương Hạo hắng nhẹ một tiếng, nói: "Thái hậu, không đọc lời thề sao?".

    Tiêu Xước cười lạnh, nói: "Dương Hạo, hôm nay ngài đã hoàn thành tâm nguyện, chắc là vui lắm nhỉ?".

    Hai người dâng hòa ước, đặt trước hương án, thần sắc lạnh lùng, không thèm nhìn nhau.

    Dương Hạo trầm mặc một lúc, sâu kín thở dài nói: "Nếu như Tống Liêu đổi chỗ cho nhau, thái hậu sẽ làm thế nào?".

    Tiêu Xước đúng là nhân kiệt một đời, nghĩ một lát trong lòng liền nhẹ đi nhiều, chỉ buồn bã nói: "Ngài dẫn binh thừa lúc ta khó khăn, ép ta cắt đất, người Trung Nguyên chẳng nhẽ có quyền được sống sung sướng, còn con cháu ta lại phải ăn gió nằm sương, dựa vào cỏ cây mà sống, đời đời nghèo khổ sao?".

    Ánh mắt Dương Hạo hướng về phía mái hiên rộng lớn của Đại Hồng Bảo Điện, cũng không vui nói: "Ta có thể nói gì đây? Chúng sinh bình đẳng sao? Ngay cả trong mắt Phật tổ, một vị thần linh luôn nói rằng chúng sinh bình đẳng cũng có tam đạo thiên, nhân, A Tu La, tam ác đạo súc sinh, ác quỷ, địa ngục, trong đạo thiện ác lại có ba loại thượng trung hạ, huống hồ ta chỉ là một đế vương phàm trần? Ai có thể có đại thần thông để lo cho tất cả mọi người chứ? Ngay cả Tống Quốc ta, con dân nam bắc, con dân tây đông, con dân thành trác sơn thôn, họ đều là con dân Đại Tống, nhưng đâu phải ai cũng được hưởng cuộc sống ấm no đầy đủ, vinh hoa phú quy đâu?".

    Dương Hạo thở dài một tiếng, lại nói: "Ta không muốn... Nhưng ta biết, hôm nay nếu như ta không lấy U Yến, thì đến một ngày nào đó Liêu Quốc quyết sẽ không thỏa mãn với U Yến. Nếu như không có U Yến thì Tống Quốc sẽ là vùng đất bằng phẳng, không có nơi hiểm yếu nào có thể chiếm cứ, cho dù tất cả dân nghèo có tòng binh, tiêu hao mười lần lực cũng không thể tự thủ được".

    Tiêu Xước cười lạnh: "Lý do rất hay, ngài đoạt thức ăn của ta để nuôi miệng ngài đó lại là chuyện thiên kinh địa nghĩa sao?".

    Dương Hạo cười nhạt, nói: "Ta từ trước đến giờ chưa từng nghĩ như vậy, ta cũng chưa từng có ý định lo cho bản thân mình. Nhưng tộc người Khiết Đan một khi gặp thiên tai, không còn sinh kế, liền muốn xâm nhập Trung Nguyên, đây là sự thật, đứng ở vị trí này ta phải tính trước cho mình một bước, là một đế vương ta cần phải làm vậy".

    Tiêu Xước chỉ cười lạnh.

    Dương Hạo liếc nhìn nàng, hỏi: "Nàng... Đã từng nghe câu chuyện Hòa Trạch bao giờ chưa?".

    Tiêu Xước hơi ngạc nhiên: "Hòa Trạch gì?".

    Dương Hạo chậm rãi nói: "Đây là câu chuyện mà Phật tổ Thích Ca Mâu Ni đã giảng cho đệ tử của người nghe. Truyện kể rằng rất lâu về trước có một quốc gia rất lớn, trong một thôn trang gần quốc đô vương thành có một người rất giàu có, nhân đinh vô số, con cháu đầy đàn, điền ruộng thênh thang, phòng xá vô kể. Có một hôm trạch tự bị bén lửa, nhưng con cháu trong nhà hoàn toàn không biết, vẫn ở trong đó chơi đùa.

    Có một người chạy tới nói cho họ biết nhà đang cháy, nhưng họ hoàn toàn không tin, vẫn chạy khắp nơi trong phòng chơi đùa. Người này bất kể nói như thế nào cũng không có ai tin hắn, vì vậy hắn liền nghĩ ra một cách, hắn bảo với những đứa trẻ rằng ở cổng thôn có người mang đến rất nhiều những động vật nhỏ trông cực kỳ kỳ lạ, còn có rất nhiều đồ chơi, nếu như không mau ra xem thì người đó sẽ mang đi mất.

    Những đứa trẻ đó nghe thấy vậy liền vội vã đi theo hắn. Khi bọn họ chạy ra ngoài trang viên thì cả trang viên đều cháy thành tro bụi, nhưng những đứa trẻ đó đều không bị thiêu chết, ở cổng thôn đương nhiên chẳng có con vật kỳ lạ nào, cũng chẳng có đồ chơi, người đó đã lừa những đứa trẻ, nhưng tính mạng những đứa trẻ đó được bảo toàn".

    Tiêu Xước nhìn hắn, lạnh lùng nói: "Có ý gì vậy?".

    Dương Hạo nói: "Ý của ta là, thủ đoạn không quan trọng, kết quả mới là quan trọng. Nàng đừng chỉ nhìn xem thủ đoạn của ta có tốt hay không, sẽ có một ngày nàng sẽ hiểu được nỗi khổ của ta".

    Tiêu Xước nhíu mày: "Có nỗi khổ gì sao?".

    Dương Hạo vẫn nói tiếp: "Ta chỉ là một phàm nhân, phàm nhân không thể làm được việc chúng sinh bình đẳng, đối với người sẽ luôn xảy ra những bất hòa, ta không có một cách nào hoàn mỹ để cho tất cả mọi người tuyệt đối hài lòng, nhưng ta sẽ cố gắng... Ta muốn sống, cũng muốn để người khác được sống...".

    Tính nhẫn nại của Tiêu Xước hoàn toàn đã hết sạch, ánh mắt như ngọn lửa nguy hiểm căng lên, giọng căm giận nói: "Rốt cuộc ngài đang nói cái gì?".

    Dương Hạo nhíu mắt cười, nói: "Bây giờ ta có nói nàng cũng sẽ không tin... Nhưng sẽ có một ngày nàng sẽ hiêu".

    "Sao cơ?".
     
  18. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 638: Đại kết cuộc
    Đại Tống vĩnh hòa năm năm.

    Dương Hạo đương quốc, trải qua năm năm phát triển, Kim Lăng lại khôi phục lại cảnh tượng phồn hoa thịnh vượng, hơn nữa còn giàu có hơn trước. Hai bờ Tần Hoài thuyền bè tấp nập, đêm xuống đèn chăng dọc hai bờ, thỉnh thoảng có tiếng thiếu nữ gần đó ngân nga một khúc nhạc, hòa với tiếng buôn bán nhộn nhịp.

    Trên đường cái dù các cửa hàng bán vải, bán trang sức, khăn trùm đầu, túi... Tiệm nào tiệm nấy dựng sát nhau thành hàng, đầy vẻ sung túc. Các cửa hàng cũng mọc lên như nấm theo những ngành nghề sản xuất mới hưng, Kim Lăng trăm nghiệp hưng vượng, sức sống bừng bừng.

    Lấy ngay tiệm bán vải cực lớn trước mặt này làm ví dụ, trong năm năm đã có tới ba lần mở rộng, vẫn cung không đủ cầu, tơ lụa ở đây đều là những loại cực phẩm quý giá, đa phần đều là để bán ra nước ngoài, bán cho phía bắc, Đại Lý ở phía nam, Giao Chỉ cũng cần, lượng khách lớn nhất có hai nơi, một là ở đông, một là ở tây.

    Phía tây là đại thương nhân họ Lý ở Diêm Châu Hà Tây, vị Lý công tử này xây dựng điểm buôn bán ở Kim Lăng, nhiều năm thu mua, những tơ lụa, gốm sứ qua tay hắn nghe nói đưa qua Thiên Trúc, Đại Thực, Đại Tần thậm chí là những quốc gia Tây phương, trong một năm lượng hắn thu mua rồi bán ra đạt đến một con số kinh người.

    Một đại khách hàng khác là đến từ phía đông, đi qua phía bên kia bờ biển là Nhật Bản, vị đại khách thương này họ Bích, khẩu âm Biện Lương, có điều thân phận thật sự của hắn luôn không có ai biết được, có người nói hắn là đại hải tặc cực giỏi, lý do là vì có rất nhiều lão đại ăn chặn trên biển hay mấy con sông đều phải cung kính trước mặt hắn.

    Lại có người nói hắn là con rể của một đại thủ lĩnh thuộc nước Nhật Bản, được thiên hoàng lệnh làm chư hầu, thế lực ở thượng quốc rất lớn, vì thế hắn mới có thể buôn bán được nhiều cực phẩm như vậy. Lý do là vì từng có hải thương nhìn thấy hắn dáng vẻ uy phong bát điện ở nước Nhật Bản. Còn có người nói con người này thực tế là tổng quản nội thị trong hoàng thất Đại Tống, lý do là vì hắn không có mọc râu, hơn nữa có người từng nhìn thấy hắn ra vào hoàng thành Đại Tống.

    Mọi người nói qua nói lại rất nhiều, cũng không biết rốt cuộc hắn có thân phận gì, kệ hắn. Người này tuy lai lịch bất minh nhưng vàng bạc của hắn không phải là giả. Theo sự phát triển hưng thịnh mấy năm nay của Đại Tống, thứ trên thị trường thiếu thốn không phải là vật tư mà là tiền mặt, tuy vàng bạc Tây Vực và Nam Dương không ngừng chảy vào, nhưng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu lưu thông vật tư, mà người này ở khắp các địa phương của Đại Tống đều có bạn làm ăn, khi giao hàng hóa đều dùng vàng bạc chi trả, vì thế hắn là người khách được quan phủ địa phương và thương gia hoan nghênh nhất.

    Buôn bán tơ lụa hưng vượng, theo đó mà các ngành trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, nhuộm vải, thêu thùa, may y phục... Cũng không ngừng mở rộng, huống hồ quan gia đã liệt Hàng Châu vào danh sách năm cửa khẩu thông thương mậu địch lớn nhất. Thuyền đại hải do Đường gia chế tạo mỗi ngày không ngừng ra ra vào vào. Đâu chỉ có tơ lụa, gốm sứ mà ngay cả lá trà, trang sức, đủ các loại thương phẩm bây giờ đều cung không đủ cầu. Nghề nghiệp thủ công cũng tăng nhanh, mấy phường nhuộm vải của Thôi gia ở Giang Nam mỗi nơi chiêu mộ nhân công không dưới mấy nghìn người.

    Phường Kê Lung phồn vinh nhất Kim Lăng, một hàng bốn người đang chậm rãi đi, nhìn đông nhìn tây, xem ra có vẻ hết sức nhàn nhã, nhìn dáng vẻ bọn họ có lẽ là một đôi phu phụ và một đôi nô bộc. Đi phía trước là một nam tử khí độ ung dung chừng ba mươi tuổi, mặt như quan ngọc, mặt mày anh tuấn, nhìn qua cũng có được cảm giác khí phái.

    Bên cạnh hắn là một nữ tử xinh đẹp mặc bích la sam, thân dài ngọc lệ, eo nhỏ như liễu, đang đúng vào độ phong tình dung mạo thành thục nhất. Khuôn mặt có che một chiếc mạng mỏng, nhưng ngũ quan xinh đẹp lúc ẩn lúc hiện càng làm lộ vẻ kiều mỹ của nàng.

    Đi sau hai người là đôi nam nữ mặc thanh y, nam tử khoảng trên dưới hai mươi tuổi, mặc trang phục nô bộc, trên vai đeo một cái túi, dáng đi chân tay rất hiên ngang. Người nữ tử mặc thanh y trên mặt cũng che một chiếc mạng mỏng, bước đi nhẹ nhàng, thân hình uyên chuyển, tuy quấn tóc kiểu nô bộc nhưng dáng vẻ của nàng trông còn cao quý ưu nhã hơn nhiều thiên kim khuê tú đại hộ.

    Bách tính Kim Lăng đã từng nhìn thấy nhiều quan viên, vừa nhìn thấy khí chất của bốn người này liền biết đó là người thuộc đẳng cấp tôn quý. Nhàn rỗi không có việc gì làm nên đi đạo phố phường, cho nên những người buôn bán hay lôi kéo khách cũng không dám chạy tới quấy rầy, bốn người cứ như thế mà đi, vô cùng tiêu diêu tự tại.

    Cả chặng đường chỉ thấy những cửa hàng đủ màu sắc sáng rực cả đường, mãn cả nhãn.

    Mỹ nhân mặc bích la sam đi sát bên cạnh quý nhân khoảng tam tuần, tươi cười bình phẩm những tiệm hàng bên đường: "Từ khi quan nhân cho mở các khoa khai công, lý khoa, nhân tài bách nghiệp có thể làm quan thì mấy năm nay cuộc sống của Đại Tống ta thay đổi không ngừng, mới mẻ thêm tầng tầng lớp lớp. Người qua người lại, nhà cửa mọc lên như nấm sau mưa. Quan nhân, chàng xem, chủ nhân cửa hàng này vừa mới chế ra một loại trang sức cực phẩm, hoa văn tinh xảo, tuy giá cả cực cao nhưng vẫn cung không đủ cầu".

    Quý nhân tam tuần mỉm cười gật đầu, mỹ nhân liền che tay cười: "Thật là tốt, cuộc sống sung túc đường hoàng, tuy không sánh bằng sự trang nghiêm của Trường An, nhưng sự phồn hoa lại không hề kém, đặc biệt có phong vị Giang Nam, chuyến này đi quá không uổng".

    Đôi mắt xinh đẹp của nàng chuyển chuyển con ngươi, cười khúc khích: "Đáng tiếc, Tử Du tỷ tỷ lại có mang rồi, không có phúc khí theo quan gia đi tuần thiên hạ. Hi hi, Tử Du tỷ tỷ thật là biết sinh, năm năm sinh ba đứa con trai, cứ như thế này mà sinh tiếp thì hai nhà Chiết Dương cộng lại thì người ta phải trố mắt mà nhìn rồi".

    Quý nhân đó ho nhẹ một tiếng, cười khổ nói: "Cái này... Tử Du... Ha ha ha, Tử Du cũng thật quá biết sinh một chút. Thôi, sau này nên dùng song tu pháp nhiều một chút, nếu không cả đời này nàng ngay cả cung môn nhi cũng không được đâu".

    Đôi nam nữ thanh y phía sau nghe thấy, không nhịn nổi mà trong mắt cũng lộ ra một ý cười. Bốn người tuần hành này đương nhiên chính là Dương Hạo, Trúc Vận, Mục Vũ và Mã Diệc.

    Trúc Vận cười nói: "Nhưng trong nhà phò mã lại liên tiếp sinh hai nữ nhi, làm cho La lão đầu buồn tới mức râu cũng rụng một nửa rồi. Muốn nạp thiếp cho phò mã, nhưng lại sợ chàng không vui".

    Dương Hạo cười nói: "Nhà lão La con cháu đầy đàn, Khắc Địch không sinh con trai cũng không sao chứ? Ta thấy lão La cũng không buồn bực lắm như nàng nói. Khắc Địch nhậm chức lưu thủ U Châu kiêm quản chế binh mã ở Nữ Chân mới có ba năm, lão La cả ngày đi theo ta to nhỏ, muốn điều Khắc Địch về Trường An, nói ông ta muốn có thêm tiểu tôn nữ rồi".

    Trúc Vận hừ một tiếng nói: "Lão La chi nói miệng thế thôi, đúng rồi...".

    Nàng đột nhiên dừng bước, cười như không cười nhìn Dương Hạo: "Theo như thiệp biết, vị công chúa Da Luật Nhã đến bây giờ vẫn chưa gả cho ai, phò mã vừa đến U Châu là nàng ta lại tìm đủ cớ chạy tới, quan nhân phái phò mã đến thủ U Châu, nhưng chắc là không có ý định gì khác chứ?".

    Dương Hạo xoa xoa mũi, cười khan nói: "Muội tử của ta là Đại Trường công chúa, cho dù Khắc Địch có thật sự nạp thiếp thì thân phận đối phương cũng không thể quá thấp, phải không? Việc này à, để xem duyên phận đi, tiếp theo như thế nào ta không quản được".

    Trúc Vận bĩu môi, hừ nhẹ một tiếng, mắt thấy phía trước đã là ngã tư, Trúc Vận lại dừng bước, nói: "Quan nhân tuy đã lệnh cho nghi trượng đi từ từ ở sau, có điều tính đến thời điểm này có lẽ cũng nên tới rồi, chúng ta bây giờ về cung sao?".

    Dương Hạo lắc đầu nhẹ, đứng trầm ngâm trong chốc lát nói: "Nàng về cung trước đi, nhiều năm không đặt chân đến Kim Lăng rồi, ta muốn đi một mình một chút".

    Trúc Vận vâng một tiếng rồi xoay người đi, một đám người sớm đã đứng ở một góc, ăn mặc như văn sĩ từ đi tới nghênh đón. Trúc Vận lên xe, vừa vào bên trong ngồi xuống đột nhiên lại vén rèm cửa sổ lên, thò đầu ra ngoài, cười ranh mãnh nói: "Quan nhân, A Cổ Lệ sắp đến Kim Lăng rồi, chàng định... Làm gì người ta?".

    "Cái gì mà làm gì?".

    Trúc Vận hừ nhẹ một tiếng nói: "Tâm tư của người ta đối với chàng đến cả kẻ mù cũng nhìn ra, chàng biết mà chúng thiếp không biết sao? Người ta thay chàng củng cố Lũng Hữu, ổn định Cam Châu, bây giờ công đức đã viên mãn, lại giao đại quyền lại, tùy cho chàng phái đi làm quan. Một nữ nhi gia có thể có bao nhiêu tuổi xuân cơ chứ? Đông Nhi, Tử Du, còn có cả mấy tỷ muội Diễm Diễm đều đã gật đầu rồi, còn nếu như Dương đại quan nhân chàng thật sự có lòng dạ sắt đá thì coi như thiếp chưa nói gì đi".

    Trúc Vận buông rèm xuống, một đoàn thị vệ bảo vệ xe ngựa rời đi, Dương Hạo lắc đầu cười, quay lại nhìn Mục Vũ, trầm giọng hỏi: "Việc ta giao cho khanh làm thế nào rồi?".

    Mục Vũ liền tiến lên một bước, vừa đi vừa nói: "Tuân dặn dò của quan gia thần đã đưa thái tử và thái phó tiên sinh đến U Châu trước rồi. Thái tử rất thích nơi đó, trước khi ra khỏi Quan Trung thái tử còn khóc quấy cả ngày, nói là nhớ quan gia và hoàng hậu nương nương, bây giờ đã tốt hơn rồi. Ăn được, ngủ được, phò mã đã tặng cho thái tử một con ngựa nhỏ, thái tử tuổi tuy nhỏ nhưng về khả năng săn bắn lại không hề nhò".

    Dương Hạo cười vui vẻ: "Thật là tốt, đọc trăm vạn cuốn sách cũng không bằng hành tẩu ngàn dặm được, tuyệt đối không thể để thái tử ở trong thâm cung quá lâu, nuôi dưỡng thành một kẻ đần độn như Tấn Huệ đế. Các hoàng tử khác sau này cũng sẽ làm như thế, mỗi một thái phó mỗi năm phải thay nhau đưa một hoàng tử đi, nửa năm sống trong cung, nửa năm ở bên ngoài, tạo thành một thông lệ".

    Mục Vũ nói: "Vâng, sau đó thần đã đến thượng kinh, theo như lời quan gia dặn dò, dâng lên quốc thư và tư thư cho Tiêu hậu nương nương, có điều... Có điều dặn dò của quan gia, thần mới chỉ hoàn thành một nửa".

    Dương Hạo nhíu mày, ngạc nhiên nói: "Hoàn thành một nửa, nghĩa là sao?".

    Mục Vũ cười khổ nói: "Quan gia hẹn Tiêu hậu nương nương hội ngộ, thương lượng việc hai nước tiến thêm một bước mở rộng giao thương, thay đổi luật pháp mậu dịch, Tiêu hậu nương nương đã đồng ý rồi. Có điều thứ mà quan gia sai thần đưa cho Tiêu hậu nương nương, nương nương chỉ nhận một nửa".

    "Sao cơ? Chỉ nhận một nửa?".
     
  19. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 639: Đại kết cuộc (Hết)
    Mục Vũ nói, rồi lấy ra một hộp cẩm. Dương Hạo nhận lấy, mở ra nhìn, nhìn thật kỹ rồi lại nghĩ ngợi, dần dần lộ ra một nụ cười hiểu ý, lòng như đã mở cờ nói: "Khanh giữ hộp cẩm này cẩn thận, đợi khi trẫm hội ngộ với Liêu hậu nhất định phải mang theo".

    Mấy năm nay, Tống Quốc hoàn toàn mở các thị trường giao thông buôn bán, bỏ hết chướng ngại ảnh hưởng tới việc giao thông hàng hóa, biên cảnh hai nước ngày càng hưng thịnh, chiếm một phần năm tổng lượng mậu địch của Tống Quốc, còn bên Liêu Quốc thậm chí còn đạt đến một phần hai.

    Lá trà, nồi sắt, vải... Lưu thông không chút chướng ngại, quan thuế rất thấp, hơn nữa Dương Hạo còn hết sức giúp đỡ cho bắc triều phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp. Tuy nói bắc triều trong mười năm cần phải cống nạp cho Tống triều đầy đủ số lượng ngựa, dê, nhưng ở mặt nào cũng có ưu đãi rất nhiều.

    Cửu Châu Sơn Hậu của Liêu Quốc là nơi tụ cư của người Hán, cũng là vùng nông canh lớn nhất của Liêu triều, bọn họ là những người thu hoạch lớn nhất về mặt trồng lương và kỹ thuật canh tác, đồng thời do xu thể phát triển biên cương ngày càng hưng thịnh mà bọn họ cũng là nhóm người được hưởng lợi nhiều nhất. Mấy năm nay, người Hán bắc triều với hoàn cảnh sống được cải thiện lớn cũng những bách tính chư tộc khác cũng đã có thiện cảm hơn nhiều đối với Tống Quốc, không còn lạnh lùng nhìn như kẻ địch nữa. Cho dù lúc trước hai nước là kẻ địch không độ trời chung, tình hình này có quan hệ rất mật thiết với những ngày tháng tốt đẹp ở hậu thế.

    Mục đích của Dương Hạo rất đơn giản, hắn muốn sống nhưng cũng muốn người khác được sống, nếu không mọi người dùng mong thái bình.

    Dương Hạo biết, dân tộc thảo nguyên phương bắc là những người bất khuất bất phục, giống như những người trên thảo nguyên ở Âu châu, hoàn cảnh sinh tồn khó khăn, chỉ có thể dùng cây cỏ và nhu phẩm, thịt động vật để đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Họ chỉ có thể liên tục chuyển tới các vùng thảo nguyên khác để kiếm ăn khi thời tiết thay đổi.

    Bọn họ đã chinh phục được thiên nhiên, đồng thời cũng trở thành nô lệ của hoàn cảnh thiên nhiên. Khi đến lúc thiên nhiên khắc nghiệt khó có thể bảo toàn tính mạng thì bọn họ duy chỉ có con đường thông qua chiến tranh để đoạt lấy. Vậy có thể đến cướp đoạt ở đâu? Là nơi bắc cực nghèo khó và hoang vu sao? Đương nhiên là phải huy quân nam hạ, khách quan mà nói dân tộc thảo nguyên đã có tiền lệ từ lâu. Họ không ngừng xâm chiếm về phía nam, nhân tố chủ yếu quyết định không phải là dã tâm cá nhân của kẻ thống trị mà là quyết định của ông trời.

    Cho nên bọn họ hiếu chiến hơn người Trung Nguyên, thiện chiến hơn người Trung Nguyên, cũng không tính toán nhiều đến cái giá của chiến tranh như người Trung Nguyên, còn có cái giá nào quan trọng hơn sự sinh tồn chứ?

    Dương Hạo hy vọng việc văn hóa đồng hóa, kinh tế thẩm thấu, kỹ thuật nông canh được truyền bá có thể làm cho hoàn cảnh sinh tồn của bắc triều sẽ không thảm khốc như khi chiến tranh. Nếu như đã không có cách nào diệt được lang thì chi bằng biến lang thành cừu. Đối lập và áp chế không thể giải quyết được vấn đề, hy vọng có thể dùng những thủ đoạn khác để giải quyết chúng, ít nhất cũng giảm thiểu lượng lớn bắc nhân xâm phạm phương nam. Nếu như có một ngày con cháu hậu thế thật sự hủ bại, triều đình trở thành con quỷ chỉ biết nuốt mỡ dân hút máu dân thì triều đại thay thế ít nhất cũng sẽ là nhóm người văn minh, còn hơn là để một bầy người dã man kéo cả Trung Quốc thụt lùi lại.

    Đương nhiên, chiếm lĩnh được thất châu Sơn Tiền, không chế những yếu địa chiến lược, văn hóa kinh tế cùng lúc xâm lược và đồng hóa, đó là vì sự vững chắc của quốc gia sau này, nhưng việc nội bộ ổn định vẫn quan trọng hơn tất cả. Điểm này không thể xem thường.

    Một lượng lớn vật tư sự sinh sống được chuyển vào bắc triều, đã cải thiện hoàn cảnh sống của họ. Bất kể thứ nào vừa được ra đời và phát triển ở Trung Nguyên thì rất nhanh đều được lưu hành đến cả bắc triều. Sự chấp nhận văn hóa, cải thiện kinh tế đang dần làm thay đổi tập tục, thói quen và tính cách của người bắc triều. Đồng thời, Tống Quốc đã cho cải cách lại trị, khoa cử, quân chế, mở rộng biển thông thương, giao du vạn quốc, dần dần xóa bỏ được những hủ tục tiêu cực, bảo thủ trong văn hóa.

    Đây là công trình trường kỳ, hoặc có thể phải cần có sự nỗ lực của mấy thế hệ, nhưng tác dụng của nó cực lớn. Dựa vào sự thông minh tài trí của người Trung Quốc, trong tương lai có thể tích cực mở rộng và phát triển tiếp tục. Cho dù một ngày hắn không còn nữa, cho dù một ngày con cháu hắn bất hiếu làm mất đi giang sơn. Thì người bị suy sụp chỉ có một họ một nhà hắn, còn dân tộc này vẫn sẽ ngày càng phát triển, sẽ không biến thành một hũ tương hỗn tạp.

    Liêu Quốc tuy mất đi thất châu Sơn Tiền, nhưng hoàn cảnh nội bộ quốc gia lại thay đổi rõ rệt, mỗi người đều cảm nhận được nó. Cho dù là mục dân bình thường cũng cảm thấy sự thay đổi cực đại sau khi kết hòa bình với Trung Nguyên, bọn họ cũng không còn đáng thương đến mức cái nồi sắt sứt cũng coi như gia bảo nữa.

    Vì mảnh đất Hà Tây và thất châu Sơn Tiền đã vào tay nên ngựa, bò dê Liêu Quốc không còn là thứ cầu cũng không được nữa, vì thế có thể vận chuyển vào với giá cả phải chăng, Trường An bắt đầu hưng vượng ngành nghề này, Quan Trung cũng bắt đầu phát đạt hơn.

    Đây là chuyện có lợi cho cả hai bên, Dương Hạo tin rằng với sự thông minh của Tiêu Xước có thể hiểu rõ được lợi và hại của chiến với hòa, có thể hiểu được nỗi khổ tâm của hắn, để đủ có thể giải được nối hận thù với hắn, thậm chí... Khụ khụ... Cả thứ trang sức mang trả lại một nửa này nữa, nàng ấy hy vọng... Mình sẽ chính tay đeo cho nàng ấy sao?

    Nhất thời Dương Hạo không nén nổi cảm khái mà thở dài.

    Mục Vũ khom người ho khan một tiếng, liếc nhìn thần sắc của Dương Hạo, lại nói: "Trên đường trở về thần đã đến Sùng Hiếu am, bí mật hội kiến Vĩnh Khánh điện hạ ở hậu am...".

    Dương Hạo vội hỏi: "Nàng ấy nói sao?".

    Mục Vũ nói: "Thần đã làm theo những gì quan gia đặn dò, khổ công khuyên điện hạ để tóc hoàn tục. Nhưng... Nhưng điện hạ không chịu, điện hạ nói chỉ nguyện làm thanh đăng cổ phật cho tới cuối đời để cầu phúc cho vạn dân trong thiên hạ. Điện hạ nói bây giờ người sống rất tốt, lòng rất thanh thản, Vĩnh Khánh công chúa đã báo được đại thù, giang sơn đã truyền lại, nên Vĩnh Khánh trước kia đã chết thật rồi, người bây giờ chỉ là một ni cô tiềm tâm tĩnh tu. Bảo chuyển lời tới quan gia về sau đừng phái người đến làm phiền người tĩnh tu nữa".

    Dương Hạo trầm mặc một lúc, lại thở dài.

    Rồi họ lại đi tiếp, đi tới một thư viện Giang Nam, bây giờ đang là thời gian tổ chức khoa cử mùa xuân, ngũ đô đồng thời mở khoa khảo, chẳng trách sĩ tử trong thiên hạ đều lặn lội đường xa, tập trung hết ở Trường An. Sĩ tử ở mảnh đất Kim Lăng này cũng không ngoại lệ, họ ùn ùn kéo nhau đi ứng thi, người đông như trẩy hội.

    Dương Hạo thấy tình cảnh tấp nập như vậy không khỏi mỉm cười.

    Hắn đột nhiên nhớ tới cái ngày khi mới đến Biện Lương, chính là ngày hắn gặp Thôi Đại Lang, một ngày rất khó quên.

    Bây giờ Thôi gia trải qua sự tranh đấu ngầm với Trịnh gia, lực lượng ẩn nấp đã hoàn toàn bị bại lộ, qua sự truy tìm của mật vụ Phi Vũ, cộng thêm sự nổi dậy của Đường gia, Lý gia, lực lượng ngầm của Thôi gia đã hoàn toàn không còn tác dụng, không thể gây nổi cơn sóng nào nữa. Dương Hạo căn bản không có ý chèn ép Thôi thị, chỉ là hắn giờ đang đứng ở chỗ rất cao, khi nhìn thấy rộng hơn thì sẽ tiến hành tu chỉnh và thay đổi những lực lượng kinh tế đang làm lũng đoạn thị trường. Khi quốc gia cường thịnh, những thế lực đó sẽ trợ lực cho sự phát triển của quốc gia, nhưng khi quốc gia bên bờ diệt vong, thì nếu như không có chúng, quốc gia sẽ thoát được vận mệnh diệt vong.

    Đường gia, Lý gia, Thôi gia, thậm chí trong thất tông ngũ tính của Kế Tự đường bây giờ đều đã được bày lên đài, trở thành những kẻ nổi bật trong công thương nghiệp Tống Quốc, làm ăn thậm chí còn vươn ra cả hải ngoại, thông qua sự dẫn dắt của chính sách, Dương Hạo đã thành công biến những âm mưu gia thành xí nghiệp gia, dưới cờ của bọn họ đã có rất nhiều công xưởng cực lớn. Có lẽ sẽ có một ngày bọn họ trờ thành nguồn thu thuế lớn trụ cột của Đại Tống, thậm trí là những đại công ty liên doanh, trở thành những công ty có thể chế kinh tế, chính trị như các công ty Mỹ. Dương Hạo rất hy vọng chúng có thể phát triển một cách toàn diện, có thể lột xác hoàn toàn.

    Trong đám sĩ tử, nhân gia, nô bộc, tiểu thương đang thì thầm to nhỏ, kẻ buồn người vui, có một tên ăn mày lưng còng đang chú ý quan sát tinh thần của đám sĩ tử. Kẻ nào mặt mày ù rũ, đau thương thì đương nhiên hắn sẽ không đến xin xỏ, nhưng chỉ cần thấy có kẻ mặt mày hớn hở là hắn lập tức mò tới, tươi cười chúc mừng, nịnh bợ vài câu. Người ta vui sẽ không để cho hắn đi với hai bàn tay không, ít nhiều cũng cho một chút gì đấy.

    Đột nhiên quay đầu lại, thấy Dương Hạo đang nhếch môi cười, tên ăn mày đó mắt sáng lên, vội vàng chạy tới, khi cách khoảng tám thước liền cúi đầu xuống, mở mồm cao giọng nói: "Chúc mừng lão gia, chúc mừng lão gia, kim bảng đề tên, ngư vượt long môn".

    Mục Vũ vừa bực mình vừa buồn cười, bước lên một bước, mắng: "Cái đồ mắt mù, lão gia nhà ta...".

    "Thôi, thôi". Dương Hạo đẩy Mục Vũ ra, thấy tên ăn mày quần áo rách nát, mặt mày lấm lem, sau lưng có cái gì đó nhô lên. Hình như cột sống bị dị dạng, cho dù hắn có đứng thẳng cũng như đang cúi cung kính vậy, trông dáng vẻ rất đáng thương, Dương Hạo liền lấy trong áo ra một xâu tiền, đưa tới nói: "Cầm lấy đi".

    Người đó vừa ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một xâu tiền ánh vàng rực rỡ, không khỏi mừng rỡ như phát điên, khấu đầu nói: "Đa tạ đại gia. Đa tạ đại gia. Tiểu nhân chúc đại gia ngài...".

    Hắn vừa nói vừa đưa tay ra nhận tiền, đột nhiên nhìn rõ mặt Dương Hạo, bất giác sắc mặt đại biến, như nhìn thấy quỷ, liền lùi lại, kêu mấy tiếng rồi như muốn bỏ chạy.

    Thấy ánh mắt khác thường của hắn, thị vệ ngầm trong đám đông sớm đã có sự cảnh giác, hắn vừa động một cái thì mấy đại hán mặc thường phục từ trong đám đông liền nhảy ra, vây chặt hắn ở giữa. Dương Hạo tay vẫn cầm xâu tiền, nhìn chằm chằm vào cái tên ân mày đang cúi gằm đầu xuống đất, ánh mắt như đang muốn lẩn tránh kia, ánh mắt Dương Hạo cũng dần dần ngưng trọng lại.

    Hắn đứng thẳng dậy, từ từ đi lại trước mặt tên ăn mày, trầm giọng nói: "Ngẩng đầu lên".

    Tên đó run cả người lên, cằm dí sát xuống ngực, vì có cái bướu nên cơ thể như cong lại, nhìn rất giống một cái đầu hỏi không được tiêu chuẩn cho lắm.

    Dương Hạo lớn tiếng quát: "Ngẩng đầu lên".

    Cơ thể hắn lại run lên, hai đầu gối nhũn ra, đột nhiên quỳ phục xuống đất, đầu liên tục đập xuống đất: "Đinh... Dương Hạo... Hoàng... Đại gia tha mạng, tha mạng. Nhìn tiểu nhân rơi vào bước đường này rồi, quý nhân ngài giơ cao đánh khẽ, tha cho cái mạng chó của tiểu nhân. Tiểu nhân khấu đầu với ngài, khấu đầu với ngài, xin thứ tội... Xin thứ tội, là tiểu nhân đã sai, tiểu nhân đã gặp báo ứng, đại gia tha mạng...".

    Tên đó khóc rống lên, khấu đầu đến nỗi chảy cả máu nhưng lại không dám dừng lại. Đám sĩ tử xung quanh hoảng sợ thất sắc, không biết tên ăn mày kia là ai, lại có quan hệ gì với vị công tử khí độ bất phàm kia.

    "Ngẩng đầu lên!".

    Tên ăn mày không dám trái y hắn nữa, từ từ ngẩng đầu dậy, Dương Hạo nhìn hắn một lúc lâu mới thở dài một tiếng, từ từ bước lên phía trước hai bước, cái tên ăn mày bộ dạng giống như con chó kia sợ hãi nhưng không dám lùi lại. Dương Hạo nhẹ nhàng đặt xâu tiền lên vai hắn, lạnh lùng nói: "Người mà ngươi có tội nhất thực ra không phải là ta, mà là Nhạn Cừu".

    Dương Hạo xoay người bước đi, đám sĩ tử đang há mồm trợn mắt đứng nhìn vội vàng tránh đường, đợi khi Dương Hạo và đám người thân cận rời đi, tên ăn mày đang quỳ dưới đất mới từ từ ngẩng đầu lên.

    Hắn ngẩn ra một hồi lâu, mới lắc lắc người, ánh mắt có chút mờ mịt.

    Khuôn mặt hắn bây giờ gầy guộc lấm lem, cáu bẩn và tang thương. Nếu như là người cực kỳ thân thuộc với hắn, lại biết rõ thân phận thật sự của hắn có lẽ còn có thể thấp thoáng nhìn ra dáng vẻ phong lưu năm đó của nhị công tử Đinh Thừa Nghiệp của Đinh gia Bá Châu.

    "Nhạn Cừu?".

    Đầu hắn đã cứng nhắc, khó khăn lắm mới nhúc nhích được cái đầu, rồi dần dần nhớ đến cái tên cẩu nô tài ngày xưa đã từng ở bên hắn: "Nhạn Cừu? Sao ta lại có lỗi với Nhạn Cừu chứ?".

    Gió thổi nhẹ nhẹ qua, Đinh Thừa Nghiệp vẫn đứng đó, đứng rất lâu, rất lâu, đột nhiên sống mũi cay cay, trong cơn gió, một hàng nước mắt chợt tuôn rơi...

    Dương Hạo không ngờ Đinh Thừa Nghiệp năm đó bị trúng tên sau lưng, rơi xuống hố phân lại không chết, nhưng đối mặt với tên ăn mày tàn phế này hắn thật sự không ra tay nổi, kết cục như thế này còn đau đớn hơn là giết chết hắn.

    Dương Hạo trầm mặt xuống, đi về phía trước, thấy thần sắc không vui của hắn, ngay cả Mục Vũ và Mã Diệc cũng không dám nhiều lời. Thư viện này thật lớn, khắp nơi đều là sĩ tử đang ngồi, Dương Hạo lần này đi cũng là muốn đến Tĩnh Tâm am. Tĩnh Tâm am là nơi tĩnh tu năm đó của Tĩnh Thủy Nguyệt. Từ sau khi Triệu Quang Nghĩa gặp thích khách, Bích Túc cũng lưu lạc không rõ nơi đâu. Cách đây không lâu, Dương Hạo đột nhiên nhớ tới Tĩnh Tâm am, liền phái người đến vùng lân cận dò hỏi, mới biết được am này đã đổi thành Tự Khố miếu. Tự danh vẫn là Tĩnh Tâm tự, còn Bích Túc đã xuất gia ở đây, lần này tuần Giang Nam, hắn cũng muốn thăm cố nhân một chút.

    Bước lên cây cầu gỗ Tần Hoài, người qua lại khá ít nhưng ở phía trước lại có rất nhiều sĩ tử tụ tập ở một chỗ, thỉnh thoảng lại có mấy giọng nói vang lên, xem lên tiếng léo nhéo của nữ tử.

    Dương Hạo hơi nhíu mày, từ từ đi tới, thị vệ sớm đã đi trước một bước, đẩy người ra, mở đường đi cho hắn.

    Đến phía trước đám người thì thấy có một thư viện, ngói xanh tường trắng, cánh cửa đỏ thắm, phía trên giữa cửa có một tẩm bảng viết: "Liên tử thư ngụ".

    Dưới cửa có ba bậc đá, đứng sát cửa có một tiểu cô nương mặc áo màu phi thúy, mặt mày như tranh vẽ, khuôn mặt xinh xắn ửng đỏ, hai tay chống eo, tức giận trừng trừng nhìn đám sĩ tử trước mặt.

    Một lão hủ trong đám sĩ tử đó dung mạo thanh sáng, mái đầu đã đầy tóc mạc, tinh thần rất không vui. Ông ta mặc một trường bào thêu hoa văn hình mây, dáng vẻ làm cho người ta thấy cũng phải cung kính. Lão tiên sinh này vuốt râu, khinh thường nói: "Quan gia xướng đạo nữ học là có nỗi khổ trong lòng, Lục mỗ đương nhiên không dám phi lễ. Chỉ là Phật gia có câu "nhân văn giải nghĩa, tam thế phật oan", quan gia xướng đạo nữ tử học chữ học văn, để giải ngu muội, chứ không phải thật sự muốn đám nữ nhân cô nương được lập triều đường như nam tử.

    Biết chữ cũng được, học văn cũng được... Những những nữ tử thông văn biết chữ mà có thể làm một đại nghĩa giả, hiên đức lại không nhiều, những người khác lại được khơi dậy dã tâm, thậm chí là nghĩ ra đủ mọi thứ, làm ra rất nhiều chuyện xấu, ngược lại chẳng bằng những kẻ không biết chữ. Cái này gọi là nam tử có đức là có tài, nữ tử vô tài mới có đức.

    Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại đang dạy cái gì chứ? Hừ! Chính lược quốc sách cũng kệ thôi, nhưng ngay cả mấy điệu hát dân ca, tạp kỹ cũng đều dạy, thật là hoang đường. Trong ngũ luận, nam nữ có sự khác biệt, nam là trời, nữ là đất, nam nữ ai cũng nên về chỗ của người ấy, nam có tài mới làm nên nghiệp lớn, còn nữ chỉ cần thủ phụ đạo là được, đây mới là đạo lý.

    Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại dạy toàn thứ linh tinh, đã làm mê hoặc dân chúng lại còn dám nói tương lai quan gia tất sẽ mở nữ khoa, lấy điều này để lừa gạt thế dân, lão phu quyết vì chính nghĩa, vì giới sĩ lâm Giang Nam quét sạch tà vọng".

    Lão đầu này dẫn dắt những luận chứng luận cứ, thao thao bất tuyệt, đám chúng sinh nghe đều gật gật đầu. Dương Hạo lướt nhìn lão đầu, suýt nữa bật cười, đó chính là Lục Nhân Gia, cái lão già này nhiều năm không gặp, hóa ra lại đã khởi dạy ở Giang Nam, khó trách sĩ lâm Giang Nam không biết chuyện hắn ở Biện Lương bị mắng cho phun cả máu.

    Tiểu cô nương tức khí dậm chân: "Phì phì, lão bất tu, mồm thì nói có vẻ đường hoàng, nhưng một bụng lại toàn là thứ rác rưởi, ngươi biết tiên sinh nhà ta mỹ sắc hơn người, nên dùng đủ mọi thủ đoạn rắn mềm đều có, dùng hết rồi cũng không đoạt được nên mới quay lại báo thù".

    Khuôn mặt già nua của Lục Nhân Gia liền đỏ lên, thẹn quá thành giận nói: "Nói bậy, nói bậy, lão phu là một người luôn hiển minh trong giới sĩ lâm Giang Nam. Tiểu cô nương như cô lại đám nhục mạ lão phu, sao lại có cái lý đó, mọi người xem xem, xem xem, một tiểu mữ tử rất ngoan ngoãn đã lại bị tiên sinh vô lương đó dạy hư rồi".

    Đám sĩ tử đứng cạnh đều gật đầu, cho là đúng.

    Dương Hạo thấy cảnh này không khỏi thầm than: "Không biết tiên sinh của thư viện này là ai mà lại có tuệ nhãn nhìn ra việc ta xướng mở trưởng nữ là để một ngày nào đó sẽ mở nữ khoa, để cho nữ tử cũng sẽ dốc sức vì quốc gia như nam tử. Chỉ là xem tình hình này tuy thời Đường Tống, nữ tử đã tự do hơn nhưng muốn thay đổi quan niệm của mọi người vẫn là một việc khó khăn và lâu dài".

    Hắn lại thở dài một tiếng nữa, đứng thẳng người đậy, bước ra nói: "Theo ta thấy những lời vị tiểu cô nương này nói rất có lý. Lục tiên sinh là có tiền khoa, nếu ngài thấy tiên sinh nhà người ta sắc nước hương trời thì mang đại vọng vong đại nghĩa, sẽ tìm đủ mọi cách để đoạt được, ta thấy đây đúng là bản chất làm người của ngài rồi".

    Đúng lúc này, từ trong viện phát ra một giọng nói: "Lê Hương, đóng cửa vào đi, không cần phải để ý đến đám tục nhân đó nữa".

    Đi theo giọng nói đó, một nữ tử yểu điệu đi khoan thai từ trong viện ra, nữ tử này mặc một bộ sa la y màu trắng bạc, dáng người thon thả trông như ngọc nhân bích thủy.

    Dương Hạo bước từ trong đám người ra, cười nhìn Lục Nhân Gia, nhưng vẫn chưa quay sang nhìn dáng vẻ nữ tử ấy. Nàng ấy vừa bước ra khỏi cửa đã nhìn thấy Dương Hạo, bất giác như sấm đánh ngay trước mặt, cả người cứng đơ lại, tay chân run run, rõ ràng là rất sợ hãi.

    Lục Nhân Gia nghe được có người đang chế nhạo mình, vô cùng tức giận quay đầu lại, vừa nhìn thấy Dương Hạo lập tức mặt biến sắc. Dương Hạo, kẻ ngày trước đã hại hắn thân bại danh liệt, bây giờ đã làm đương kim thiên tử. Hắn đương nhiên biết hôm nay Dương Hạo đứng ở đây chính là đang mặc thường phục vi hành, trong nhất thời vừa kinh vừa sợ. Cũng không biết nên quỳ xuống bái lễ, làm cho thân phận của hắn bị bại lộ hay là vờ như không biết. Nhưng bất kể như thế nào, giờ Dương Hạo ở đây thật sự ép hắn vào đường cùng, làm cho hắn không biết làm thế nào mới tốt.

    Những sĩ tử này vốn ồn ào quát lớn, đột nhiên nhìn thấy thần thái cổ quái của Lục tiên sinh, hình như đang sợ hãi cực độ. Liền ngậm mồm vào, kinh ngạc nhìn, Dương Hạo cười nói: "Những lời tiểu cô nương nói chắc là có chứng cớ. Với nhân phẩm của Lục tiên sinh có lẽ là có thể làm ra được ra những chuyện này, Lục tiên sinh, ngài còn gì để phản bác không?".

    Lục Nhân Gia như gặp quỷ mị, thụt lùi vài bước, đột nhiên kêu lên mấy tiếng kỳ lạ rồi bỏ chạy. Thật không hổ danh hắn, tuổi đã lớn thế rồi mà lại chạy nhanh như thế, hồn bay phách lạc không biết chạy về hướng nào. Hắn chạy xông qua đám sĩ tử, đẩy ngã một người đang cầm một rổ đựng giấy, bút và nghiên mực, làm mọi thứ rơi xuống tung tóe.

    Dương Hạo cười lớn ha ha, tiến lên cúi người xuống nhặt giấy và bút lên, giọng trầm trầm nói: "Tiểu Vũ, đến đây, làm thư án cho ta".

    Mục Vũ đáp một tiếng rồi cúi người xuống, Dương Hạo đặt tờ giấy lên lưng hắn, nhấc bút chấm mực, rồi như nghĩ ngợi gì đó.

    Tiểu cô nương Lê Hương đứng trên bậc thềm thấy vị công tử này chỉ mắng có một câu mà cái tên Lục tiên sinh kiêu căng đã phải sợ chạy bán sống bán chết, nên vô cùng kinh ngạc, nói: "Vị công tử này, ngài là ai, tại sao người họ Lục đó lại sợ ngài như vậy".

    Dương Hạo cười nói: "Vị họ Lục đó ăn uống đánh bạc, nợ của ta rất nhiều ngân lượng, đương nhiên vừa thấy ta sẽ phải bỏ chạy rồi".

    Hắn cười dài rồi nói, ánh mắt hơi di chuyển, đột nhiên nhìn thấy nữ tử bạch y đứng ở tiểu viện, thần sắc ngẩn ngơ, nữ tử đó biết hắn đã nhìn thấy mình liền nhích người một cái như muốn bỏ trốn, nhưng cuối cùng đánh miễn cưỡng đi về phía hắn.

    Tiểu cô nương ngây thơ kia vẫn chưa phát giác ra vị công tử này và tiên sinh nhà mình đang nhìn nhau, liền do dự gật đầu nói: "Hóa ra là như vậy, nếu như đã nợ người ta khoản lớn mà không trả được thì đành phải chạy thôi".

    Dương Hạo cười lớn, nâng dịch giấy vừa viết bốn chữ lớn: "Kim Lăng nữ giáo".

    Vừa rồi thấy hắn chỉ dùng một lời đã làm cho Lục lão tiên sinh, vốn được coi là một bậc đạo đức văn chương phải chạy mất dép, đám sĩ tử đó vừa kinh lại vừa nghi ngờ, không biết vị công tử khí độ bất phàm này có tài kinh thiên gì, lại làm cho dũng khí của Lục tiên sinh hoàn toàn biến mất khi đối diện với hắn. Thấy hắn muốn động bút, đám sĩ tử liền nín thở, mang tâm trạng kính nể yên lặng đợi hắn.

    Không ngờ bốn chữ Dương Hạo viết ra này lại hoàn toàn không có chút tài hoa nào, xấu đến mức người ta chẳng muốn nhìn, chúng sĩ tử suýt chút nữa ngã ngửa. Ngay cả tiểu cô nương này trên mặt cũng tỏ ra ngượng ngùng, có lòng muốn khen hắn mấy câu nhưng quả thật lương tâm không cho phép.

    Dương Hạo lại không bận tâm, hắn viết xong bốn chữ to dùng, liền nghiêng đầu thưởng thức, cười tự đắc, lại nói: "Tiểu Diệc".

    Mã Diệc đáp một tiếng, lấy trong người ra một chiếc hộp vuông vức, mở ra, cầm ngọc ấn màu xanh ngọc bích, đóng một cái lên tờ giấy đó.

    Những thư sinh đứng bên cạnh liếc mắt nhìn, rõ ràng đó là "Vĩnh Hằng ngự bút", họ không khỏi giật mình sợ hãi, lùi lại mấy bước, một lúc lâu mới kêu lên.

    "Soạt soạt soạt...". Đám sĩ tử đã lấy lại phản ứng, vội vã quỳ xuống, mồm năm miệng mười hô lên, người có công danh thì xưng làm tiểu thần, người không có công danh thì xưng là thảo dân, ào ào bái thiên tử.

    Dương Hạo lại chỉ nhìn vào bạch y nhân đang đứng trong viện, Liễu Đóa Nhi hít một hơi, cố gắng trấn áp tim mình, rồi mới từ từ đi ra. Nhìn vào bốn chữ, trong mắt ẩn hiện một nụ cười: "Chữ của người... Vẫn xấu như vậy...".

    Dương Hạo cũng mỉm cười nói: "Còn con người nàng lại hao gầy đi nhiều".

    "Đại thúc, có mấy chữ viết này thì có thể đảm bảo sẽ không có ai đến quấy rầy bọn họ nữa phải không, còn có thể hưng chấn việc nữ tử hướng học phải không?". Mã Diệc ngây thơ hỏi.

    Dương Hạo cười nói: "Việc đó là đương nhiên, nữ tử Giang Nam vốn có truyền thống học hành, huồng hồ đó còn là ngự bút do đích thân đại thúc viết. Lời của hoàng thượng chính là kim khẩu ngọc ngôn, không cho phép bất kỳ ai làm trái cho dù bản thân hoàng đế cũng không dễ dàng thu lại được thánh mệnh, nếu như có thêm bút tích thì càng được coi trọng, nhất ngôn cửu đỉnh, không có gì có thể làm trái được".

    "Ừm". Mã Diệc gật đầu, trong mắt đột nhiên lóe lên, không biết là đang nghĩ cái gì nữa.

    Đáng tiếc Dương Hạo đi ở phía trước nên chưa phát hiện ra, vẫn trầm ngâm nói: "Đúng vậy, luận về phong khí thói quen, Tây Bắc là một khối ngọc lớn, tùy cho ta điêu khắc, phổ biến dễ dàng. Còn trong những nơi khác thì Giang Nam là nơi phong khí mở cửa nhất, nên nếu muốn phát triển việc học, khoa khảo, chính vụ nghiệp của nữ tử thì nơi đây sẽ là nơi bắt đầu dễ dàng nhất. Ừm... Hãy giao việc này cho Liễu Đóa Nhi. Tiểu Diệc, ghi lại việc này, khi trở về gặp Kim Lăng lưu thủ thì gọi Liễu cô nương đến, ta muốn nàng ấy đồng ý gánh vác việc này".

    Mã Diệc cắn cắn môi, mắt lại lóe lên, không biết đang nghĩ cái gì nữa, nghe Dương Hạo dặn dò liền vội vã gật đầu đáp tiếng, sau đó lại nhỏ tiếng hỏi Mục Vũ chuyện gì đó.

    Phía trước là Tĩnh Thủy am rồi, Tĩnh Thủy am trải qua chiến hỏa tàn phá giờ đã được tu sửa lại, chỉ là trên cửa am đổi chữ am thành chữ tự.

    Dương Hạo dừng bước, nhìn vào trong ngôi tự miếu không nói gì, một thị vệ liền nhẹ nhàng đi tới, bẩm báo nói: "Trụ trì tự này đang ở bên trong, có cần đuổi hết thiện nam tín nữ lui ra hết để quan gia gặp đại sư không ạ?".

    Dương Hạo lắc lắc đầu: "Không cần kinh động, trẫm... Tự đi vào".

    Trên đại điện, rất nhiều tín đồ phật gia đang chắp tay nghe giảng kinh, trên chiếc đệm hương bồ phía dưới tượng Phật Tổ có một vị tăng nhân cụt một tay đang ngồi khoanh chân, dùng giọng nói thanh thoát trong trẻo niệm kinh.

    Dương Hạo đứng yên lặng nhìn tên trộm năm xưa bây giờ đã hoàn toàn khác. Hắn cứ đứng đó nhìn, yên lặng lắng nghe, đôi mắt dần dần nhòa đi.

    Bích Túc cao giọng tuyên pháp, trong nháy mắt đã nhìn thấy Dương Hạo đang đứng ở một bên điện, hắn không kinh ngạc cũng không sợ hãi, không vui không buồn, chỉ cúi đầu làm lễ với Dương Hạo, rồi tiếp tục giảng kinh.

    Dương Hạo cũng chắp hai tay kiến lễ lại hắn, rồi từ từ lui ra, trong tai hắn như vẫn văng vẳng tiếng kinh trong trẻo thanh cao của Bích Túc...

    "Ừm" một tiếng, nhưng mỹ nhân vẫn chưa tỉnh giấc, chỉ vì chiếc gối dễ chịu dịch đi một chút nên trong lúc ngủ mơ mới phát ra một tiếng.

    Dương Hạo lật người ngồi dậy làm cho mỹ nhân có chút không thoải mái, hai hàng mi thanh tú của Trúc Vận nhíu nhíu lên, uể oải xoay người, cuốn chăn lại vào mình, chỉ để thò đầu ra. Dương Hạo mỉm cười vỗ một cái vào mông nàng, rồi lắc lắc đầu đứng dậy.

    Đêm nay sau khi uống mấy chén rượu và hoan lạc một trận, Trúc Vận thỏa mãn ngủ tiếp, nhưng hắn vẫn muốn tiện một chút nên đã khoác áo bào vào, rồi buộc hờ chiếc đai, bước ra ngoài bức bình phong.

    Nơi đây là hành cung của hắn, được tu sửa từ hoàng thất của nguyên Đường quốc, tẩm cung rất rộng, rất tiện để làm tiền hiên thiên điện.

    Trên vách tường cung có nhưng ngọn đèn hoa mai tỏa ra ánh sáng ấm áp. Dương Hạo mới ngủ dậy nên mắt vẫn mơ màng, vừa mới bước qua bức bình phong, chưa đi được mấy bước thì trước mắt đột nhiên xuất hiện một bóng người, hắn thấp thoáng thấy được người đó có khuôn mặt trái xoan, kiều diễm ướt át như một trái chín.

    Dương Hạo giật nảy người, vội buộc chặt đai áo lại, che đi hai chiếc đùi, giật mình nói: "Tiểu Diệc, đêm hôm khuya khoắt ngươi không ngủ chạy đến đây làm gì?".

    Cẩu Nhi đã trưởng thành rồi, ít nhất là nó tự cho rằng mình đã trường thành. Một đại cô nương mười tám tuổi còn gì không hiểu chứ? Trước đây nó chỉ cần được ở bên đại thúc là được rồi, nhưng bây giờ... Thân làm thị vệ thân cận của Dương Hạo, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Từ nhỏ nó đã bắt đầu nghe lén những âm thanh đó, nhưng tiếng thở dốc đó, những tiếng kêu đau đớn nhưng đầy hoan lạc. Thậm chí... Nó còn nhìn trộm cảnh hai người quấn vào nhau, nghe nói đó là yêu tinh đánh nhau.

    Cẩu Nhi dần dần lớn lên, mỗi lần yêu tinh đánh nhau khiến cho ý loạn tình mê, nó rất hy vọng mình có thể là người nữ tử đang nằm trên giường và bị đại thúc ức hiếp đến chảy cả nước mắt nhưng lại vô cùng hoan lạc kia, nhưng... Nhưng đại thúc chưa bao giờ coi nó là một nữ nhân.

    Quan âm hợp thập, sở bái hà nhân? Cầu nhân chi bằng cầu mình.

    Cẩu Nhi quyết định chính mình sẽ động thủ, cơm no áo ấm, quyết định, đạp đổ đại thúc.

    Hành động ngay ngày hôm nay.

    Cẩu Nhi cắn răng, không để ý gì mà xông lên trước: "Hôm nay Cẩu Nhi thấy đại thúc đã rất... Phóng khoáng... Viết chữ cho Liễu cô nương, Cẩu Nhi... Cẩu Nhi cũng muốn đại thúc viết ký một cái tên...".

    Lồng ngực Cẩu Nhi như nổi trống, hơi thở dồn dập, nhưng vẫn nói được hết câu, sau khi nói xong nó liền cầm bút và một tờ giấy được che một nửa bằng một miếng gỗ lại chạy tới.

    "Không phải chứ? Đang làm gì vậy?". Dương Hạo vẫn chưa hết buồn ngủ, có điều cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng Cẩu Nhi đã nhanh chóng thúc giục.

    "Ký một chữ thôi mà, cho dù thể nào Cẩu Nhi vĩnh viễn cũng sẽ không thể hại mình đâu".

    Dương Hạo cười bất đắc dĩ, lắc đầu bất đắc dĩ, nhận lấy bút, rất chăm chú viết tên mình lên nửa tờ giấy.

    "Đại thúc!".

    Vừa nhìn thấy Dương Hạo ký tên xong, Cẩu Nhi vui mừng chảy nước mắt, đột nhiên nhảy lên, ôm chặt lấy Dương Hạo, rồi liếm vào mặt hắn như một con chó nhỏ. Đây là hành động mà Mã Diệc đã âm thầm học tập, người ta gọi đó là hôn nồng nhiệt.

    Dương Hạo ngẩn ra tại chỗ, để mặc cho cái lưỡi nhỏ của Cẩu Nhi liếm vào mặt mình, kinh ngạc nói: "Chuyện gì thế này? Xảy ra chuyện gì thế này?".

    Cẩu Nhi nước mắt lưng tròng, nhưng sau đó lại phá lên cười, nó nắm chặt lấy cánh tay Dương Hạo, tay kia bỏ tấm gỗ ra, dương đương đắc ý giơ ra trước mặt hắn. Dương Hạo vừa nhìn lập tức hết buồn ngủ, tỉnh cả rượu, há mồm trợn mắt nhìn.

    Tờ giấy trong tay Cẩu Nhi lại là một tờ "hứa hôn văn thư" được in hoa văn uyên ương.

    "Cẩu Nhi, ngươi... Ngươi lại dám lừa đại thúc... Ngươi...".

    "Nếu như đại thúc thấy không vui thì có thể đánh vào mông người ta mà".

    Cẩu Nhi đắc ý cười, khuôn mặt dưới ánh đèn lập lòe càng trở nên xinh đẹp hơn, rõ ràng là một tiểu nữ nhân quyến rũ vô cùng.

    Dương Hạo đột nhiên phát hiện Cẩu Nhi, người luôn đi sát mình như hình với bóng, thật sự đã trường thành, trở thành một đại cô nương rất đáng yêu rồi.

    HẾT
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này