1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Cô Phương Bất Tự Thưởng - Tác giả: Phong Lộng - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Hamin137, 28/5/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 40
    Vương cung Đông Lâm.

    “Tin vui! Tin vui, Đại vương!” Lão Thừa tướng Sở Tại Nhiên tay cầm quân báo, vội vã chạy vào tẩm cung của Đông Lâm vương, chưa vào đến cửa, tiếng hô xúc động của ông đã vang vào tận trong cung.

    Đông Lâm vương bệnh đã nhiều ngày, liên tục hôn mê, Vương hậu phải đích thân hầu hạ bên long sàng, nghe vậy liền quay lại, đúng lúc thấy Sở Tại Nhiên vào tới, bèn hỏi: “Có chuyện gì?”.

    “Nương nương, Trấn Bắc vương rút quân rồi, kết thúc đại chiến rồi.”

    Vương hậu sững sờ, hồi lâu vẫn không dám tin: “Trấn Bắc vương không giao chiến với đại quân Vân Thường nữa ư?”.

    Bàn tay cầm quân báo của Sở Tại Nhiên vẫn run rẩy: “Chỉ một chút nữa thôi. Thần nghe nói hai bên đã dàn trận sẵn sàng nghênh chiến, Công chúa Vân Thường bỗng nhiên xuất hiện, thuyết phục Trấn Bắc vương lui binh. Nương nương, vậy cũng coi như giữ được hàng vạn tính mạng của tướng sĩ Đông Lâm”.

    “Nói lại lần nữa”, giọng yếu ớt vang lên trên long sàng.

    “Đại vương! Đại vương tỉnh rồi?”, Vương hậu ngạc nhiên, vội vã đỡ Đông Lâm vương đang cố ngồi dậy: “Đại vương cẩn thận, ngự y nói, người cần tĩnh dưỡng”.

    Đông Lâm vương yếu ớt xua tay, ánh mắt nhìn về phía Sở Tại Nhiên: “Thừa tướng nói lại xem, Trấn Bắc vương làm sao?”.

    “Bẩm Đại vương, Trấn Bắc vương rút binh rồi. Đại quân Đông Lâm và Vân Thường không giao chiến”. Tuy mái tóc đã hoa râm, nhưng Sở Tại Nhiên vẫn khỏe mạnh, lòng đầy nhiệt huyết.

    “Ồ?” Đông Lâm vương như đang nghiền ngẫm từng lời Sở Tại Nhiên nói, có lẽ nhất thời chưa tiếp nhận được tin bất ngờ này. Đôi mắt mờ dần vì bệnh tật bỗng có thêm vài phần sinh khí, sáng hẳn lên, bàn tay Đông Lâm vương đặt lên vai Vương hậu, cúi người về phía trước, giọng khẩn thiết: “Quân báo đâu? Mau đưa quả nhân xem”.

    Sở Tại Nhiên lập tức hai tay dâng lên quân báo.

    Sợ Đông Lâm vương dốc hết sức lực, Vương hậu nhận lấy quân báo, rồi mở ra, để Đông Lâm vương tựa vào gối đọc.

    Đông Lâm vương xem đi xem lại quân báo mấy lần mới thở ra khoan khoái, cảm thấy toàn thân dễ chịu, mọi mệt mỏi và buồn bực những ngày qua bỗng chốc tiêu tan. Đông Lâm vương bảo Vương hậu gấp quân báo lại, cười nói: “Quả nhân biết mà, vương đệ… Trong lòng vương đệ còn có đại cục… Khụ khụ khụ…”. Đông Lâm vương ho liên tục không dứt.

    Vương hậu vội vã xoa lưng giúp Đại vương lưu thông khí huyết, giọng dịu dàng: “Đại vương phải chú ý giữ gìn sức khỏe. Trấn Bắc vương kịp ghìm cương trước vực thẳm, chiến sự đã dừng, chỉ cần Đại vương hồi phục, đó chính là phúc của bách tính Đông Lâm”.

    Đông Lâm vương ho đến khổ sở, thở dốc, lại hỏi: “Đại quân đang ở đâu?”.

    “Đang trên đường trở về. Trấn Bắc vương hạ lệnh, quân trấn giữ ở các cửa khẩu sau khi về đến biên cảnh Đông Lâm, lập tức trở về vị trí cũ.”

    Đông Lâm vương trầm tư một hồi, ra lệnh: “Thừa tướng hãy thảo cho quả nhân một bức thư, sai người đưa tới cho Trấn Bắc vương, nói rằng, những lá thư trước quả nhân gửi đều là lời lẽ lúc nóng nảy. Đông Lâm vương tộc là của hai huynh đệ chúng ta, quả nhân vẫn đặt hết kỳ vọng vào vương đệ. Mong vương đệ sớm trở về, đừng rời khỏi thành đô nữa”.

    Sở Tại Nhiên bỗng sững lại, do dự giây lát rồi hạ giọng bẩm báo: “Bẩm Đại vương, Trấn Bắc vương đã không còn trong quân, Đại quân hiện giờ do Thần Mâu chỉ huy”.

    Đông Lâm vương và Vương hậu đều sững sờ.

    “Không ở trong quân?” Hàng mày vừa giãn ra của Đông Lâm vương lại cau, miễn cưỡng ngồi thẳng dậy, hỏi: “Chuyện này là thế nào?”.

    “Người truyền tin nói, Trấn Bắc vương hạ lệnh rút quân, giao toàn quyền chỉ huy cho Thần Mâu, rồi một mình cưỡi ngựa rời đi, đến nay vẫn không rõ tung tích.”

    Trời vừa quang đã lại bị mây đen che phủ. Đông Lâm vương thở dài, ngả người ra sau, bất lực dựa đầu vào thành giường.

    “Có tin của Bạch Sính Đình không?”, Vương hậu xen vào một câu.

    “Cũng không rõ tung tích của Bạch Sính Đình. Còn một việc…”, Sở Tại Nhiên ngẩng lên nhìn sắc mặt Đông Lâm vương, lời muốn nói tắc nơi cổ họng.

    “Có việc gì Thừa tướng cứ nói thẳng ra.”

    “Chuyện này… chỉ là lời đồn, chưa được chứng thực.” Sở Tại Nhiên khom người, cẩn trọng bẩm báo: “Nghe nói khi bị Hà Hiệp đưa đi, Bạch Sính Đình đã…”.

    Thầm cảm thấy không hay, Vương hậu trở nên cảnh giác, vội hỏi: “Đã làm sao?”.

    “Đã mang trong mình cốt nhục của Trấn Bắc vương.”

    Lời vừa dứt, không những Vương hậu mà đến cả Đông Lâm vương cũng hết sức ngạc nhiên: “Có chuyện này sao?”.

    “Đại vương, chuyện chỉ là đồn đại…”

    “Huyết mạch của vương tộc Đông Lâm chúng ta lại rơi vào tay Hà Hiệp?”, Đông Lâm vương giận đến trừng mắt, không thể nói thêm, lại tiếp tục ho.

    Trong lòng Vương hậu như chất đầy băng tuyết, tay chân luống cuống xoa lưng giúp Đông Lâm vương, nước mắt lã chã rơi. Đợi mãi Đông Lâm vương mới ngăn được cơn ho, Vương hậu quỳ sụp xuống, khóc nói: “Đại vương, thần thiếp tội đáng muôn chết! Đây đều là tội của thần thiếp!”.

    Sững sờ hồi lâu, Đông Lâm vương thở dài: “Việc này không liên quan đến Vương hậu, quả nhân sai rồi. Trời trêu đùa, vương tộc Đông Lâm mãi mới có hy vọng… Thừa tướng…”.

    “Có thần.”

    “Lập tức ban vương lệnh, sai người tìm Bạch Sính Đình. Nhất định phải bảo vệ mẫu tử Bạch Sính Đình”, Đông Lâm vương chậm rãi nói, “Nếu tìm thấy Bạch Sính Đình, hãy nói rằng, chỉ cần sinh hạ cho vương đệ một nhi tử, quả nhân sẽ lập tức phong cho Bạch Sính Đình là Trấn Bắc vương phi”.

    Sức khỏe của Đại vương không được như trước, sau khi Đông Lâm mất đi hai vương tử, thì người đủ tư cách kế thừa vương vị chỉ có Trấn Bắc vương và hậu duệ của Trấn Bắc vương mà thôi.

    Sơn mạch Tùng Sâm kéo dài đến hàng trăm dặm. Mùa đông, vạn vật khô héo, chỉ có cây tùng không sợ lạnh vẫn đứng sừng sững giữa trời cao. Mấy ngày nay Túy Cúc vừa đi đường, vừa lấy lá tùng làm kim châm cứu cho Sính Đình, Sính Đình mới có sức tiếp tục lên đường.

    Hai nàng biết rằng lúc này có kêu trời, trời không thấu, kêu đất, đất chẳng hay, chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của bản thân để tìm lấy con đường sống. Tuy rằng vất vả, nhưng cả hai đành cắn răng chống chọi, không kêu than dù chỉ một tiếng.

    Mạch tượng của Sính Đình lúc tốt lúc xấu. Rừng núi trắng xóa một màu không thấy điểm kết thúc, đường đi như càng lúc càng dài. Hai người còn bị lạc đường mấy lần, lòng vòng mãi mới tìm được phương hướng.

    Chân Sính Đình dần vô lực, giờ đây sức nàng bỏ ra để tiến một bước bằng mười bước trước kia. Cũng biết chẳng gắng gượng được bao lâu, lại sợ ảnh hưởng đến Túy Cúc, Sính Đình chẳng hề nói một tiếng muốn nghỉ ngơi.

    Hôm đó sau giờ Ngọ, khó khăn lắm họ mới đến được một núi đá. Ở đây có loại quả chín mọng kết trái vào mùa đông, tuy không ngon miệng, nhưng với họ lúc này chẳng khác nào loại thức ăn thượng hạng.

    “Cô nương ngồi đây một lúc, Túy Cúc đi tìm thứ gì ăn.” Túy Cúc đỡ Sính Đình ngồi xuống rồi quay đi. Chẳng mấy chốc, Túy Cúc đã đem theo một vạt áo đầy những quả chín mọng quay về. Thân cây quả này chi chít gai, đầu và tay Túy Cúc đầy những vệt xước.

    Cả chặng đường chịu bao vất vả, giờ Túy Cúc chẳng hề để ý đến việc này. Túy Cúc đặt những quả chín trước mặt Sính Đình, hai người tranh thủ lúc trời nắng đẹp mà ăn cho no bụng.

    “Chúng ta sắp qua sơn mạch Tùng Sâm rồi?”

    “Ừ.”

    “Trời ơi, thế là cũng sắp qua rồi. Sau này hài nhi ra đời, nhất định phải kể cho hài nhi nghe những ngày này, để hài nhi biết, mẫu thân mình đã phải trải qua bao vất vả mới…”, Túy Cúc vừa nói vừa quay lại, cúi xuống nhìn Sính Đình.

    Sính Đình ngồi xếp bằng, tựa lưng vào mỏm đá, vẻ mặt lạnh nhạt, Túy Cúc bỗng cảm thấy bất an.

    “Cô nương?”, Túy Cúc khẽ gọi, rồi quỳ xuống hỏi, “Bạch cô nương?”.

    “Ừ”, Sính Đình khẽ động, đôi mắt mở ra, làn môi run run, “Túy Cúc…”.

    Túy Cúc lo lắng, tiến lại gần: “Bạch cô nương, cô sao thế?”. Túy Cúc vội vàng bắt mạch cho Sính Đình.

    Sính Đình vội đẩy Túy Cúc, chầm chậm lắc đầu.

    Nàng vẫy Túy Cúc lại gần thêm chút nữa, rồi ghé sát vào tai người bên cạnh, thì thào: “Sơn mạch Tùng Sâm nối giữa hai vùng Vân Thường và Bắc Mạc, từ đây đi thẳng xuống sẽ vào thẳng đất Bắc Mạc. Dương Phượng và Tắc Doãn ẩn cư ngay cạnh núi Tùng Sâm này. Ngươi đi…”.

    “Không!”, Túy Cúc hét lên, hai mắt trợn tròn, “Cô nương, cô nương đang nói gì thế? Chúng ta phải cùng đi. Chúng ta sắp đến rồi, sắp đến rồi. Cô nương nhìn xem, Túy Cúc còn tìm được cả ít thảo dược, để Túy Cúc sắc cho cô nương uống, còn nữa… chúng ta phải châm cứu, Túy Cúc đã hái ít lá tùng tươi, cọng nào cũng cứng”.

    “Túy Cúc…”

    “Không! Không được!”

    Sính Đình thường ngày vẫn ung dung giờ bỗng yếu ớt đến bất lực.

    “Túy Cúc, ta thực sự không đi được nữa. Nếu không có ngươi, ta đã chẳng bước nổi từ lâu rồi”, Sính Đình cố nở nụ cười.

    Túy Cúc nhìn Sính Đình, chợt thấy sau lưng lạnh buốt, liền hoảng hốt quay lại, nhìn xung quanh.

    Một màu tuyết phủ, sao giờ lại đáng sợ đến thế!

    “Cô nương…”, làn môi run run, một dự cảm chẳng lành bất chợt ào đến, như đang muốn nhấn chìm Túy Cúc.

    “Giờ ta chỉ biết nhờ vào ngươi. Ở đây có bản đồ, ngươi hãy đi tìm Dương Phượng.” Sính Đình cắn môi, cố lấy trong người ra tấm bản đồ, “Tắc Doãn là thượng tướng quân, chắc chắn bên cạnh có dũng sĩ quen việc trèo núi. Gặp được Tắc Doãn, Tắc Doãn sẽ sai người đến đón ta ngay”.

    Túy Cúc liên tục lắc đầu: “Cô nương không đi được. Túy Cúc có thể cõng cô nương. Cô nương vẫn còn sức…”.

    “Làm thế chỉ khiến cả hai ta cùng chết ở nơi này. Không có lương thực, trước mặt e là cũng chẳng còn núi đá cho chúng ta trú chân. Giờ ngươi vẫn còn sức, đi một mình chắc chỉ hai ngày là xuống núi. Thuộc hạ của Tắc Doãn quen với vùng núi này, họ có thể tìm thấy ta chỉ trong một ngày.”

    “Không được, không được thật mà.”

    Sính Đình mở trừng mắt, cố nói to hơn một chút: “Ngươi cõng ta, mười ngày cũng không ra khỏi khu rừng này”. Không còn đủ sức, ngực Sính Đình bắt đầu đau. Nàng ngẩng đầu thở dốc, nhét tấm bản đồ vào tay Túy Cúc, “Cầm lấy!”.

    Túy Cúc cầm bản đồ, trong lòng hoảng hốt.

    Túy Cúc biết Sính Đình đã sức cùng lực kiệt, vì nếu còn có cách, nàng sẽ chẳng chịu dừng bước.

    Chỉ là, Túy Cúc chưa từng nghĩ đến việc rời xa Sính Đình vào lúc này.

    “Đi tìm Dương Phượng, bảo tỷ ấy cử những thuộc hạ tài giỏi nhất đến tìm ta, cả đi và về chỉ hết ba ngày”, Sính Đình đưa mắt nhìn quanh, “Núi đá này có chỗ tránh mưa tránh gió, cả quả chín mọng có thể hái ăn. Ta sẽ đợi mọi người ở đây”.

    Túy Cúc bất giác vò nát tấm bản đồ.

    Dường như toàn sức lực của Túy Cúc dồn cả vào đôi tay, tấm bản đồ nhăn nhúm bị vò đến sắp rách.

    “Túy Cúc biết rồi.” Gần như cách cả thế kỷ, Túy Cúc mới tìm thấy giọng nói đứt đoạn của mình. Nàng nhìn chằm chằm Sính Đình, “Túy Cúc sẽ tìm đến chỗ Dương Phượng, bảo nàng ấy cử cao thủ leo núi đến đây, mang theo cả nhân sâm lâu năm nữa. Túy Cúc sẽ ở chỗ Dương Phượng chuẩn bị mọi thứ, sắc sẵn thảo dược đợi cô nương về”.

    Sính Đình dịu dàng nhìn Túy Cúc, đôi môi nhợt nhạt hơi nhếch lên, cố nở nụ cười: “Đúng rồi. Chính là như thế”. Nàng khó khăn giơ tay lấy chiếc trâm trên đầu, cánh tay run rẩy hồi lâu vẫn không thể lấy ra.

    Càng nhìn càng xót xa, Túy Cúc vội lấy giúp chiếc trâm xuống, đưa cho Sính Đình.

    Sính Đình không nhận lấy, chỉ nói: “Ngươi cầm lấy cây trâm này. Đây là thứ Dương Phượng tặng ta, ngươi có thể mang ra làm tín vật”.

    Túy Cúc đáp một tiếng, nhưng lúc lâu vẫn không thấy nhúc nhích, ánh mắt dán chặt vào Sính Đình.

    Biết Túy Cúc không đành lòng, Sính Đình lại gọi: “Túy Cúc…”.

    “Vâng?”

    “Mau đi.”

    Túy Cúc chỉ đáp một tiếng, giọng đã nghẹn ngào, rồi chầm chậm đứng dậy, một tay cầm tấm bản đồ, một tay cầm chiếc trâm dạ minh châu: “Cô nương, Túy Cúc đi đây”. Do dự mãi, cuối cùng Túy Cúc cũng quay người rời đi.

    Sính Đình mở to mắt nhìn theo bóng dáng Túy Cúc dần khuất sau tảng đá, thở phào.

    Nàng gắng gượng ngồi dậy, định đi xem địa hình nơi đây, nhưng sức lực đã cạn kiệt.

    Cứ nghỉ ngơi một lát, đằng nào nàng cũng không đi tiếp. Sính Đình nhắm mắt, đầu dựa vào tảng đá. Chẳng mấy chốc, nàng nghe thấy tiếng bước chân giẫm trên lá khô, bèn kinh ngạc mở mắt.

    “Cô nương…” Túy Cúc quay lại mang theo bao quả chín, “Cái này để lại cho cô nương”. Túy Cúc cẩn thận đặt lại đống quả xuống trước mặt Sính Đình, nhìn nàng hồi lâu, khẽ bảo, “Lần này Túy Cúc sẽ đi thật”.

    “Túy Cúc.” Nhìn theo bóng Túy Cúc, Sính Đình gọi.

    Túy Cúc vội vã quay đầu: “Cô nương sao thế?”.

    Sính Đình nhìn chăm chăm về phía Túy Cúc hồi lâu, rồi mỉm cười đáp: “Không có gì, ngươi cũng phải cẩn thận. Sớm xuống núi an toàn.”

    “Vâng, Túy Cúc biết rồi”, Túy Cúc gật đầu.

    Lần này Túy Cúc đi thật.

    Trận huyết chiến đang hồi căng thẳng đã nhanh chóng được hóa giải bởi một cuộc trò chuyện không ai biết nội dung giữa Công chúa Vân Thường và Đông Lâm Trấn Bắc vương.

    Cứ ngỡ máu sắp chảy thành sông, nhưng binh đao bỗng chốc hóa thành ngọc ngà tơ lụa. Cảm thấy thất vọng nhất chính là quân chủ hai nước còn lại trong tứ quốc.

    Nghĩ lại ngày đó, vương phủ Kính An công lao hiển hách mấy đời, nắm giữ binh quyền Quy Lạc, khiến Đại vương cũng phải đề phòng. Quy Lạc tân vương Hà Túc lên ngôi chưa đến một năm đã nhân lúc Hà Hiệp khải hoàn, lừa hắn mang binh khí vào cung yết kiến, rồi vu cáo Hà Hiệp tạo phản.

    Âm mưu độc địa của Quy Lạc vương đã hủy hoại cả vương phủ Kính An công lao hiển hách hàng trăm năm chỉ trong nháy mắt.

    Mối thâm thù ấy, Hà Hiệp sao có thể quên?

    Vừa nghe Sở Bắc Tiệp triệu tập đoàn quân Đông Lâm, quyết chiến một trận với Phò mã Vân Thường, niềm sảng khoái và chờ đợi trong lòng Quy Lạc vương thật khó diễn tả thành lời.

    Thậm chí đội quân Quy Lạc đã chuẩn bị sẵn sàng, chờ lệnh xuất phát. Một khi Hà Hiệp bại trận, quân tướng Quy Lạc sẽ gia nhập cuộc chiến, công phá Vân Thường, tiêu diệt Hà Hiệp - mối đại họa của Quy Lạc vương.

    Nào ngờ Công chúa Vân Thường vừa lộ diện đã hóa giải hoàn toàn tình thế này.

    “Không phải Công chúa Diệu Thiên.” Quy Lạc vương đứng lên khỏi vương tọa, giãn gân giãn cốt. Ngồi nghe quân báo cả nửa ngày, cuối cùng Hà Túc lạnh lùng buông một câu.

    “Đại vương?”, Quốc trượng Nhạc Địch kinh ngạc hỏi: “Ý của Đại vương là quân báo nhầm lẫn?”.

    “Không, ý ta là người khiến Sở Bắc Tiệp lui binh không phải Diệu Thiên công chúa.” Quy Lạc vương ngửa mặt lên trời thở dài, thần thái có chút trống rỗng, không cam lòng, “Là Bạch Sính Đình”.

    Sắc mặt Nhạc Địch bỗng đổi: “Bạch Sính Đình? Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An?”.

    Tại sao phải luôn nghe thấy cái tên này? Nàng ta chỉ là một thị nữ trong vương phủ, chẳng qua cũng chỉ biết gảy đàn, nay lại có thể khuynh đảo đại cục? Ngay cả lần trước nói chuyện riêng với Vương hậu, Vương hậu cũng nhắc đến cái tên này.

    “Quốc trượng cũng thấy không thể tin nổi đúng không? Bậc anh hùng như Sở Bắc Tiệp lại vì một nữ nhân mà phát động chiến tranh, rồi lại vì một nữ nhân mà dừng cuộc chiến. Giờ nghĩ kỹ, vận mệnh của Vân Thường và Đông Lâm dường như nằm cả trong tay nữ nhân ấy.”

    Nhạc Địch không cho là vậy: “Đại vương nghĩ nhiều rồi. Nữ nhân phải ở trong khuê phòng, lo chuyện hầu hạ phụ thân và phu quân. Sở Bắc Tiệp vì một nữ nhân mà làm chuyện ngu xuẩn, lầm đường lạc lối. Hắn từng dẫn quân xâm phạm lãnh thổ Quy Lạc ta, giờ lại tự diệt vong, đó quả là may mắn lớn của Quy Lạc”.

    Quy Lạc vương xua tay cho kẻ truyền tin đã bẩm báo xong lui ra, không biết nghĩ đến việc gì, khóe môi bỗng nhếch lên, cười mà như không: “Ta nói cho Quốc trượng một việc, khi Bạch Sính Đình bị Hà Hiệp đưa từ Đông Lâm sang Vân Thường, quả nhân đã cử quân vào Đông Lâm phục kích Hà Hiệp, hy vọng có thể đưa Bạch Sính Đình về Quy Lạc”.

    “Hả?”, Nhạc Địch sững người.

    “Quả nhân không bàn với Quốc trượng, vì quả nhân biết Quốc trượng sẽ không đời nào đồng ý.” Dưới ánh nến, những đường nét trên khuôn mặt Quy Lạc vương toát lên vẻ cương nghị của bậc vương giả, “Chẳng giấu Quốc trượng, việc đã đến nước này, quả nhân vẫn nghĩ mãi một vấn đề. Năm đó, Bạch Sính Đình chẳng qua chỉ là một thị nữ trong vương phủ Kính An, bao năm ở ngay trước mắt quả nhân, nay bị Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp tranh qua giành lại, giá trị bỗng gấp đến trăm lần. Sớm biết thế này, trước đây quả nhân nên nạp Bạch Sính Đình vào hậu cung?”.

    Câu chuyện đột nhiên chuyển sang vấn đề hậu cung.

    Sắc mặt Nhạc Địch thay đổi, mớ suy nghĩ trong đầu quay cuồng như bánh xe. Nữ nhi của ông ta là đương kim vương hậu Quy Lạc, chính nhờ có được nữ nhi bảo bối trở thành quốc mẫu, thanh thế của Nhạc gia mới lên như diều gặp gió. Sau khi vương phủ Kính An gặp nạn, Nhạc gia đường hoàng tiếp quản binh quyền Quy Lạc.

    Suy nghĩ hồi lâu, Nhạc Địch mỉm cười đáp: “Đại vương nói đùa rồi. Bạch Sính Đình xuất thân hèn kém, chỉ mang thân phận thị tì, nghe nói cũng chẳng hề xinh đẹp. Hà Hiệp vì lưu luyến tình chủ tớ năm xưa, Sở Bắc Tiệp bởi tầm nhìn thiển cận, hám lợi mất khôn mà thôi”.

    “Ta nói đùa sao?”, Quy Lạc vương cười nhạt, quay lại, ngồi xuống, tựa nửa người vào tay vịn ngai vàng, dịu giọng, “Quốc trượng sai rồi”.

    “Hả?”

    “Cái đẹp của Bạch Sính Đình không nằm ở dung mạo mà ở khí phách và tấm lòng. Luận về điểm này, không vị quốc mẫu nào trong tứ quốc so được với Bạch Sính Đình. Nếu không, một bậc kiêu hùng như Sở Bắc Tiệp sao có thể vì một bức thư của nữ tử ấy mà lui hết đại quân của cả nước?”, Quy Lạc vương thở dài, “Ta và Quốc trượng nhìn người thật không bằng Sở Bắc Tiệp”. Nói rồi, Hà Túc cười chua chát.

    Nhạc Địch đang không biết tiếp lời thế nào, ngoài điện bỗng vang lên lời bẩm báo: “Vương hậu nương nương giá đáo”.

    Tiếng trang sức va vào nhau vui tai, cửa điện lặng lẽ mở, Vương hậu tươi tắn xuất hiện.

    “Nương nương đến rồi.” Nhạc Địch mừng thầm trong lòng, có thể nhân cớ này mà chấm dứt chủ đề đau đầu kia, bèn vội vã đứng dậy.

    “Đại vương.” Vương hậu thướt tha hành lễ với Quy Lạc vương, rồi quay sang Nhạc Địch, giọng dịu dàng, “Phụ thân cũng đến ạ? Người mau ngồi đi”. Vương hậu vừa ngồi xuống cạnh Quy Lạc vương, vừa nói chuyện thường ngày, “Mấy hôm nay thời tiết thay đổi, sợ chứng đau chân của phụ thân tái phát, bản cung đang định sai người mang thuốc đến, lại gặp đúng lúc phụ thân vào cung, Quốc sự quan trọng, nhưng vẫn phải giữ gìn sức khỏe”.

    Nói tới đây, Vương hậu quay sang nhìn Quy Lạc vương nở nụ cười xinh đẹp: “Đêm nay Đại vương lại thức khuya rồi? Không lẽ đã xảy ra đại sự gì?”.

    Quy Lạc vương mỉm cười ôn hòa, lắc đầu: “Vân Thường và Đông Lâm ngừng chiến thì còn có thể xảy ra đại sự gì? Quả nhân chỉ đang nói đến Bạch Sính Đình với Quốc trượng thôi”.

    Nghe thấy ba tiếng “Bạch Sính Đình”, trong lòng Vương hậu chợt thấy chán nản, nụ cười trên môi có vài phần không được tự nhiên: “Nghe nói Bạch Sính Đình đã theo Hà Hiệp tới Vân Thường, không biết hiện giờ ra sao?”.

    “Sở Bắc Tiệp vì một bức thư của Bạch Sính Đình mà lui binh, Vương hậu có biết chăng?”

    “Có chuyện này sao?”, Vương hậu nén tiếng thở dài, chậm rãi hỏi.

    Không khí trong điện bỗng dưng chùng xuống.

    Luận đàm quốc sự với Quy Lạc vương, gần sáng Nhạc Địch mới cáo lui. Vừa ra khỏi vương cung, bước lên xe ngựa, ông ta đã trầm giọng ra lệnh: “Mau đến phủ tướng quân!”.

    Phu xe xuống gọi cổng lớn phủ tướng quân. Nhạc Chấn tướng quân đêm qua chè chén hát ca cùng tiểu thiếp, lúc này còn chưa đi nghỉ, nghe nói phụ thân đến bèn vội vã bò khỏi giường.

    “Phụ thân đến có việc gì? Có việc, phụ thân sai người đến gọi hài nhi là được rồi.” Nhạc Chấn đứng đón ở cửa, thấy sắc mặt phụ thân sa sầm.

    Nhạc Địch không nói gì, bước thẳng về phía thư phòng. Vào đến nơi, ông ta cho lui hết đám người xung quanh, rồi đóng cửa lại, hạ giọng: “Đại vương sinh nghi rồi”.

    “Hả?”, Nhạc Chấn vội hỏi, “Đại vương nói gì?”.

    “Đại vương liên tục nhắc đến Bạch Sính Đình, thậm chí còn nói đã hối hận vì trước kia không nạp nàng ta vào cung”, Nhạc Địch nhìn nhi tử, hừ một tiếng, “Đại vương cảnh cáo chúng ta, ngôi vị của nương nương không gì là chắc chắn”.

    Nhạc Chấn tỏ vẻ khinh thường: “Một thị nữ sao có thể so sánh với nương nương? Nhạc gia chúng ta đời đời là trọng thần của Quy Lạc, nương nương là Thái tử phi do đích thân Tiên vương sắc phong”.

    “Mấy đời trọng thần? Vương phủ Kính An là tấm gương còn rành rành ra đó. Huống hồ, giờ Bạch Sính Đình đã chẳng đơn thuần chỉ là một thị nữ. Liên quan đến nàng ta, không chỉ có Phò mã Vân Thường, mà còn cả Đông Lâm Trấn Bắc vương nữa. Ngay cả các đại tướng Bắc Mạc cũng có mối quan hệ khó xác định với nàng ta.”

    “Phụ thân…”

    “Ngươi đã xử lý kẻ được cử đi báo tin với Hà Hiệp chưa?”

    Nhạc Chấn đáp: “Phụ thân yên tâm, hài nhi đã sắp xếp cho hắn rời khỏi thành đô, chắc chắn sẽ không bị Đại vương phát giác”.

    “Không!”, ánh mắt Nhạc Địch sa sầm, “Phải trừ cỏ tận gốc, không được để lại hậu họa”.

    Nhạc Chấn có vẻ chần chừ: “Phi Chiếu Hành là tướng tài hiếm có trong đám thuộc hạ của hài nhi, từ nhỏ đã theo hài nhi, trung thành hết mực…”.

    “Đừng nhiều lời, hãy làm theo ý ta”, Nhạc Địch lạnh lùng, “Đại vương sai người phục kích Hà Hiệp, chúng ta lại âm thầm báo tin ấy cho hắn. Nếu chuyện này tiết lộ ra ngoài, chúng ta sẽ mang tội phản quốc, sẽ bị diệt tộc. Nay thanh thế Nhạc gia ngày càng lớn, Đại vương đã có phần lo lắng, nhỡ chăng để Đại vương tìm được sơ hở, chắc chắn chúng ta sẽ đi theo vết xe đổ của vương phủ Kính An”.

    Ngừng lời, ánh mắt thoáng tia lạnh lẽo, Nhạc Địch nghiến răng nói: “Phi Chiếu Hành nhất định phải chết! Hắn chết sẽ chẳng còn nhân chứng, dù có sinh lòng nghi ngờ, Đại vương cũng không thể vô cớ trách tội nương nương, hỏi tội một quốc trượng ta và một đại tướng quân ngươi”.

    Vẫn còn do dự, Nhạc Chấn suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng nhẫn tâm gật đầu: “Hài nhi hiểu rồi”.

    Sính Đình ăn hết hơn nửa quả chín.

    Gió lạnh gào thét suốt đêm, may có động đá này náu thân, Sính Đình mới tránh được nguy cơ đông cứng. Nàng ngó đầu ra khỏi động, thấy bầu trời quang đãng, hy vọng hôm nay cũng là một ngày nắng, Túy Cúc đi trên đường sẽ không gặp gió tuyết, bình an đến được chỗ Dương Phượng.

    Ba ngày, nói dài không dài, nói ngắn cũng chẳng ngắn.

    Tuy rằng hết lòng tin tưởng Túy Cúc, nhưng lúc này đây Sính Đình thấy trống rỗng vô cùng, không có chút chắc chắn về điều gì. Hài nhi vẫn ngủ yên trong bụng mẹ. Bụng nàng đêm qua không còn đau như mấy hôm trước. Nhưng chính cái cảm giác quá đỗi yên tĩnh này lại khiến Sính Đình lo lắng.

    Bảo bối của ta, con sẽ không sao.

    Nàng nhẹ nhàng xoa bụng, hy vọng có thể nghe thấy tiếng hài nhi cựa mình. Đứa bé đang dần lớn lên, những lúc đi đường, nàng đã cảm nhận được bàn chân bé xíu của hài tử đạp trong bụng mình.

    Túy Cúc nói thai nhi còn nhỏ, giờ chưa biết đạp, nhưng Sính Đình chắc rằng con đang đạp nàng. Động tác của sinh mệnh nhỏ bé ấy tràn đầy phấn chấn, dù là rất khẽ cũng khiến nàng cảm động đến rơi nước mắt.

    “Hài tử của ta, mong cho dì Túy Cúc bình an, mong mẫu tử ta qua được kiếp nạn này.” Sính Đình khẽ khàng xoa bụng, dịu giọng thầm thì.

    Nàng biết những lời thầm thì tựa như nói mê này sẽ chẳng có tác dụng gì, nhưng, trong giấc mộng, con nàng cũng mang khí phách đầu đội trời chân đạp đất giống hệt phụ thân, cũng đủ sức mạnh để bảo vệ bất kỳ ai.

    Bảo vệ?

    Sính Đình nhếch môi cười chua chát. Chỗ quả chín mọng Túy Cúc hái về vẫn còn một ít, ở ngay cạnh tay nàng. Nhưng sau một đêm, những quả ấy đã kém tươi hơn. Nhìn đống quả đã chẳng còn đẹp mắt như hôm qua, Sính Đình như ngây đi, tâm tư bay đến thâm cốc dưới cầu treo Vân Nha.

    Nơi thâm cốc không người lui tới bị rừng cây bao phủ ấy cũng rụng đầy quả chín.

    Nàng và Sở Bắc Tiệp đã ở đó nghi ngờ lẫn nhau.

    Dáng hình Sở Bắc Tiệp rõ ràng dưới ánh trăng, kiên nghị, tràn ngập khí khái anh hùng, hiếm ai bì kịp.

    Nàng đã thẳng thắn: “Là thiếp sai người chặt đứt cầu treo để ngăn chàng đột kích quân doanh”.

    Đôi mắt hổ lạnh lùng nhìn nàng hồi lâu, Sở Bắc Tiệp ngửa mặt lên trời cười thành tiếng: “Sở Bắc Tiệp ơi là Sở Bắc Tiệp, ngươi đúng là đồ ngốc!”.

    Tiếng cười của chàng thê thảm đến thấu xương.

    Sính Đình bỗng giật mình choàng tỉnh. Nàng cúi xuống, quả chín trong tay đã nát nhừ, nước đỏ dính đầy bàn tay.

    Đúng rồi, quả chín.

    Lúc đó, nàng cũng hái những quả chín mọng này. Chàng còn đang giận. Đường đường là một đại tướng, nhưng đến lúc giận dỗi cũng chẳng khác gì một đứa trẻ. Chàng mặc kệ vết thương trên cánh tay, cậy mình sức khỏe, không chịu để nàng băng bó vết thương, cũng chẳng thèm ăn quả nàng hái về.

    Những quả ấy cũng rất đắng, rất chát, giống hệt đống quả bây giờ.

    Nhưng, sau đó sao hai người lại dựa vào nhau?

    Chàng còn cười với nàng, hôn lên môi nàng.

    Hơi thở nóng rẫy len lỏi vào tận tâm can nàng, ngang ngược như muốn bố cáo với toàn thiên hạ rằng: Bạch Sính Đình thuộc về Sở Bắc Tiệp.

    Chàng từng nói: “Ta ở Đông Lâm đợi nàng”.

    Khi nhìn nhau cười, họ cứ ngỡ tương lai cũng giản đơn mà hạnh phúc như vậy.

    Sau đó thì sao?

    Và cả sau này nữa?

    Dường như sóng gió vẫn không ngừng, có phải ông Trời chẳng chịu buông tha họ? Giọt nước mắt ấm nóng nhỏ xuống vạt áo, Sính Đình mới phát hiện ra má mình đẫm lệ.

    Không, không được tiếp tục nghĩ đến chàng, sẽ chẳng có kết cục gì tốt đẹp cả.

    Dù thật lòng hơn nữa, dù dốc cạn tâm huyết, cũng chỉ như đỗ quyên kêu đến trào máu, không thoát khỏi kết cục bi thương.

    Đừng nghĩ nữa, đừng làm thương tổn trái tim mình nữa.

    Sính Đình cố gắng xua đi cảm giác ấm áp trong tim. Sau một đêm nghỉ ngơi, lấy lại chút sức lực, nàng run rẩy vịn tay vào tảng đá đứng lên, định đi hái thêm ít quả tươi.

    Đi được hai bước, cơn đau dữ dội bất chợt từ bụng lan khắp toàn thân, tựa như lưỡi dao nung đỏ đang đâm thẳng vào bụng nàng.

    “A!” Sính Đình kêu lên thảm thiết, ôm chặt lấy bụng rồi ngã xuống đất.

    Mồ hôi lạnh túa ra toàn thân.

    Hài nhi, bảo bối của ta, con làm sao thế?

    Con chê quả rừng đắng?

    Hay chê thời tiết lạnh?

    Phụ thân không có ở đây, mẫu thân sẽ che chở cho con.

    “A! A!” Từng cơn đau cuộn lên khiến Sính Đình lăn lộn trên đất, những giọt mồ hôi to như hạt đỗ từ trán lăn xuống, mười ngón tay nàng túm lấy nền đất rồi thả ra, để lại những vết hằn trên đó.

    “Bắc Tiệp, Bắc Tiệp…” Nàng mở choàng mắt, nhìn bầu trời xám xịt càng lúc càng sà xuống gần mình, “Sở Bắc Tiệp, chàng đang ở đâu?”.

    Sao chàng không ở cạnh thiếp?

    Nếu lúc này chàng xuất hiện trước mặt thiếp, thiếp xin thề với trời, sẽ mãi mãi ở bên chàng, đánh đàn múa hát bên chàng.

    Chỉ cần chàng nắm tay thiếp, nói một câu, “Sính Đình, ta đến tìm nàng”, thiếp sẽ quên đi tất thảy, quên hết chuyện trước đây, quên cả chiến tranh khói lửa, quên vầng trăng tàn nhẫn đêm mồng Sáu.

    Thiếp sẽ nhặt từng mảnh tim vỡ, chỉ cần chàng xuất hiện.

    Thiếp muốn gặp chàng, muốn nhìn thấy chàng.

    Chàng đã nói yêu thiếp.

    Chàng đã nói sẽ trở về. Thiếp đã dốc toàn sức lực đợi vầng trăng mồng Sáu lên đến đỉnh, nhưng chẳng thấy bóng chàng.

    Thiếp muốn nhìn thấy chàng, dù chỉ là cái bóng.

    Chàng có biết, thế gian này, không từ nào có thể lột tả hết nỗi tuyệt vọng trong thiếp?

    Chàng từng nói chúng ta thề với ánh trăng, cả đời này không phụ bạc.

    Có thể không phụ bạc chăng?

    Có thật là không phụ bạc?

    “Hận chàng…”

    Bầu trời xám xịt dần trở nên tối đen, trong cơn đau đớn như đứt lìa thân xác, Sính Đình nghe thấy tiếng khóc kiệt sức đến khản đặc của bản thân: “Thiếp hận chàng! Thiếp hận chàng!”.

    “Hận chàng! Hận chàng…”

    Toàn bộ sức lực phát tiết, cho đến khi chìm vào màn đêm đen tối, nàng mới cảm nhận được rằng, hận một người dễ hơn nhiều so với quên đi một người.
     
  2. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 41
    Ngoài Quy Lạc, một đội quân nữa vẫn đang nhìn chằm chằm về phía đại quân Vân Thường và Đông Lâm.

    Sau khi Tắc Doãn từ quan ẩn cư, Nhược Hàn lên nắm giữ vị trí thượng tướng quân. Nhược Hàn theo Tắc Doãn đã nhiều năm, nam chinh bắc chiến, công trạng hiển hách, lại có tài ứng biến, lần này thăng quan nằm trong dự đoán của tất cả mọi người.

    Nhược Hàn dẫn theo đại quân đóng ở một nơi cách biên cương Bắc Mạc không xa. Lần trước, suýt chút nữa đội quân Bắc Mạc đã tan tành trong tay Sở Bắc Tiệp, các tướng sĩ Bắc Mạc coi Sở Bắc Tiệp như họa hổ lang. Có thể nhân lúc đại chiến Vân Thường - Đông Lâm nổ ra mà giậu đổ bìm leo, giết được Sở Bắc Tiệp thì quả là có lợi lớn đối với Bắc Mạc.

    Nhưng…

    “Đại chiến kết thúc rồi.”

    “Không phải kết thúc, mà là chưa hề xảy ra.”

    “Việc này là thế nào?”

    Trong trướng soái, Nhược Hàn đặt quân báo xuống bàn, chắp hai tay sau lưng, ngẩng lên nhìn đỉnh lều tròn tròn.

    “Thượng tướng quân?”

    “Bạch Sính Đình…” Nhược Hàn có vẻ đang hồi tưởng, suy nghĩ của hắn dường như quay về thành Kham Bố ngày đó, “Bạch cô nương, rốt cuộc bức thư của cô nương viết những gì mà có thể hóa giải được cả một trận đại chiến? Nhược Hàn thật không biết nên thất vọng, hay khâm phục cô nương.” Khóe môi Nhược Hàn nhếch lên nụ cười chua xót.

    Cho đến bây giờ, hắn vẫn nhớ rõ tiếng đàn ngày hôm ấy. Tường thành Kham Bố tan hoang, lung lay sắp đổ, mấy vạn tinh binh của Sở Bắc Tiệp xuất hiện bên ngoài, đúng lúc đó, họ nghe thấy tiếng đàn du dương nhất thế gian.

    Bạch Sính Đình ở trên thành, ống tay áo phần phật đón gió tựa như muốn bay lên.

    Nàng đã cứu Kham Bố, cứu Bắc Mạc, thậm chí có thể nói, chức vị thượng tướng quân ngày hôm nay của Nhược Hàn cũng nhờ vào cái tài hoạch định trong trướng soái của nàng ngày ấy.

    Nhưng, nữ tử đã khiến tất cả tướng lĩnh Bắc Mạc cam tâm quỳ xuống giờ đang ở đâu?

    “Thượng tướng quân, Đông Lâm đã rút quân, chúng ta làm thế nào?”

    “Đại chiến chưa xảy ra, sinh lực của đại quân Đông Lâm không hề bị tổn thương, lúc này chúng ta không thể ngu ngốc đến mức chủ động xuất kích. Nếu đã chẳng có được cơ hội này, chi bằng chúng ta rút quân.” Nhược Hàn cương quyết hạ lệnh, “Truyền lệnh, đêm nay nghỉ ngơi, sáng sớm ngày mai nhổ trại quay về”.

    Các tướng lĩnh nhận lệnh rời đi, Tả kỳ tướng quân Sâm Vinh đi sau cùng, đến cửa trướng bỗng dừng lại, nghĩ ngợi giây lát, rồi quay đầu: “Thượng tướng quân có tin gì của Bạch cô nương không?”.

    “Nghe nói Bạch cô nương đã rời khỏi Vân Thường, hiện không rõ tung tích”, Nhược Hàn thở dài.

    Sâm Vinh cau mày: “Bạch cô nương có thù giết hại vương tử với Đông Lâm vương, Vân Thường lại có Hà Hiệp giăng lưới chờ sẵn, Quy Lạc chẳng thể quay về. Thượng tướng quân nói xem, liệu có phải…”.

    “Ta cũng nghĩ vậy”, Nhược Hàn gật đầu, “Ngày mai ngươi chọn lấy ba mươi thuộc hạ tài giỏi ở lại, tìm kiếm quanh biên giới. Nếu có thể gặp Bạch cô nương, ít nhất chúng ta có thể giúp được phần nào”.

    Sâm Vinh vội vã gật đầu: “Đúng thế, thuộc hạ cũng nghĩ vậy. Haizzz, thật khó diễn tả cảm xúc trong lòng, chúng ta cũng chỉ biết làm thế thôi”. Sâm Vinh nhìn Nhược Hàn, muốn nói gì, nhưng lời nói chưa ra khỏi miệng đã lại nuốt xuống.

    Trong trướng soái giờ chỉ còn lại hai người là huynh đệ vào sinh ra tử nơi chiến trường, thấy điệu bộ của Sâm Vinh, Nhược Hàn sao không hiểu tâm tư của vị tướng quân này, bèn hạ giọng: “Không cần nói nữa, trong lòng chúng ta đều hiểu. Từ khi Tắc Doãn thượng tướng từ quan, suy nghĩ của Đại vương ngày càng khó đoán. Điều không ngờ nhất là Đại vương lại đồng ý liên minh với Hà Hiệp, huy động ba mươi vạn quân uy hiếp biên giới Đông Lâm, ép Đông Lâm vương giao Bạch Sính Đình. Lấy oán báo ân, người người khinh ghét, nhưng vương lệnh không thể không theo. Sâm Vinh, ta cầm quân nhiều năm, song chưa lần nào cảm thấy cầm binh lại bất an đến thế”.

    Tâm tư của hai người thật giống nhau. Sâm Vinh giẫm mạnh chân, bực bội: “Đừng nói nữa, càng nói càng giận. Nếu còn ở đây, nhất định Thượng tướng quân Tắc Doãn sẽ khuyên nhủ Đại vương không nên liên minh với tặc tử Hà Hiệp đó. Nếu như… Haizzz…”. Sâm Vinh lớn tiếng thở dài, vén tấm màn trướng, bước ra ngoài.

    Nhược Hàn ở lại một mình trong trướng soái, như đang có tâm sự.

    Tuy rằng đại chiến Vân Thường - Đông Lâm vẫn chưa xảy ra, nhưng tình hình tứ quốc đã trở nên bí hiểm. Tứ quốc đều âm thầm tích lũy lực lượng, chờ khoảnh khắc sấm sét đánh tan sự yên tĩnh này. Xem ra chưa đến ba năm nữa, cuộc đại chiến thực sự giữa tứ quốc sẽ bắt đầu. Đến lúc đó, liệu binh lực của Bắc Mạc có đủ để chống đỡ kiếp nạn sẽ giáng xuống bất cứ lúc nào?

    Nhược Hàn chậm rãi đi lại trong trướng soái, suy nghĩ rành rọt về những điều cần chỉnh sửa trong quân đội, rồi quay người ngồi xuống, mở giấy, nhấc bút viết quân báo gửi Bắc Mạc vương.

    Viết xong mấy trăm chữ quân báo, Nhược Hàn nhẹ nhàng thổi khô vết mực, đang định gọi người cấp tốc gửi về thành đô, ngẩng đầu lên, toàn thân bỗng cứng đờ.

    Trước mắt là dáng người cao lớn, không biết đã đứng đó tự bao giờ.

    “Ta đánh cuộc rằng, trước khi Thượng tướng quân kịp hét lên, đã bị ta rạch rách cổ họng rồi.” Kẻ đến mình vận áo đen, mặt che khăn đen, chỉ để hở đôi mắt sáng có thần, tay phải đặt lên cán kiếm.

    Lưỡi kiếm chưa ra khỏi bao, sát khí đã bao trùm khắp trướng.

    Trải qua cả trăm trận chiến, qua bao thời khắc sinh tử, nhưng giờ nhìn ánh mắt lạnh lùng mà ung dung của người này, Nhược Hàn như thấy hơi lạnh đang ùa vào.

    Khí thế bậc này, gan dạ bậc này, mưu trí bậc này, liệu có thể là ai?

    “Giết được ta thì sao? Ngươi cũng chẳng giữ được cái mạng mà rời khỏi nơi này”, Nhược Hàn nhìn chằm chằm vào đôi mắt ấy, hạ giọng.

    Kẻ áo đen cười nói: “Ta lại đánh cuộc với Thượng tướng quân, giết người xong, không những ta có thể thoải mái ra khỏi đây, mà thậm chí còn đủ thời gian để tiện tay chém thêm vài đại tướng khác của Bắc Mạc. Đại chiến giữa Vân Thường và Đông Lâm đã được hóa giải, nỗi căng thẳng của binh sĩ Bắc Mạc cũng được hóa giải. Ngươi hạ lệnh sớm mai quay về, giờ đã là nửa đêm, tất nhiên họ sẽ tranh thủ nghỉ ngơi, mười người thì có đến tám, chín người đã chìm vào giấc ngủ”.

    Dù không phải lúc chiến tranh, phòng thủ có phần lỏng lẻo, nhưng có thể dễ dàng lọt vào trướng soái, trung tâm của doanh trại Bắc Mạc, cũng đủ thấy bản lĩnh người ấy thế nào.

    Nhược Hàn nhìn chăm chăm kẻ lạ mặt.

    Bàn tay người ấy màu lúa mạch do phơi nắng lâu ngày, để lộ làn da khỏe khoắn, tựa như gang đã qua tôi luyện, như bức tượng được đục đẽo kỳ công, không thể công phá.

    Đôi tay ấy vô cùng chắc chắn, đặt nhẹ trên chuôi kiếm, dù chỉ đứng yên ở đó, nhưng nam nhân này giống như đang thống trị toàn thiên hạ.

    Nhìn người bên cạnh hồi lâu, Nhược Hàn khẽ nén tiếng thở dài: “Sở Bắc Tiệp?”.

    “Người kế vị Tắc Doãn cũng gọi là có chút hiểu biết.” Sở Bắc Tiệp khẽ cười, bỏ khăn che mặt ra, để lộ khuôn mặt góc cạnh.

    Đây là lần đầu tiên Nhược Hàn được nhìn rõ kẻ địch lớn nhất của Bắc Mạc ở khoảng cách gần như vậy.

    Chẳng trách, khí thế bậc này, hùng dũng bậc này. Vào tận trung tâm doanh trại Bắc Mạc dễ như một trò chơi, đây chính là Đông Lâm Trấn Bắc vương, Sở Bắc Tiệp danh tiếng lẫy lừng thiên hạ.

    Nam nhân mà Bạch Sính Đình yêu tha thiết.

    “Trấn Bắc vương đêm hôm đột nhập quân doanh vì muốn ám sát ta?”

    “Tính mạng của ngươi, tạm thời bản vương chưa muốn lấy.” Sở Bắc Tiệp đáp, “Bản vương đến đây vì muốn ngươi chuyển một câu đến Bắc Mạc vương”.

    “Câu gì?”

    “Bắc Mạc vương dám cử binh sĩ nhòm ngó đại quân Đông Lâm ta, hoang tưởng có thể giậu đổ bìm leo, thì phải gánh lấy hậu quả.” Sở Bắc Tiệp cúi xuống, lạnh nhạt nhìn thanh bảo kiếm trong tay, “Đại chiến với Vân Thường không xảy ra, bản vương đang ngứa tay lắm. Từ nay trở đi, bản vương sẽ dùng mọi cách, giết từng đại tướng của Bắc Mạc, để Bắc Mạc vương không còn tướng dùng, chỉ biết ngồi nhìn đội quân của mình từ từ tan rã. Đây chẳng phải một việc hay sao?”.

    Nhược Hàn sững người, cười nhạt: “Nói đi nói lại, vẫn là đến để giết người”. Dù phải chết, Nhược Hàn cũng chẳng sợ. Hắn đứng bật dậy, rút bảo kiếm, ngẩng đầu hét lớn, “Doanh trại Bắc Mạc đâu phải chỗ ngươi có thể tùy tiện ra vào. Hôm nay dù phải chết ở đây, ta cũng quyết giết ngươi thay Đại vương. Người đâu!”. Hắn cao giọng gọi một tiếng, đợi lúc lâu cũng không thấy ai xuất hiện.

    Nhược Hàn sững người.

    Sở Bắc Tiệp khinh miệt: “Muốn hét thì hét to lên một chút. Những cận vệ ngoài trướng của ngươi giờ đã đầu lìa khỏi thân rồi, trướng gần nhất cũng phải cách đây ngoài năm trượng. Đều tại quy định trong quân của các ngươi không hợp tình hợp lý, trướng soái lại giữ khoảng cách với trướng của binh sĩ”.

    Nhược Hàn cảm thấy lạnh lòng, những cận vệ tâm phúc ngoài trướng soái đều là các tử sĩ dũng mãnh, nhưng đã bị Sở Bắc Tiệp lặng lẽ giải quyết hết. Hết sức giận dữ, Nhược Hàn hét lớn: “Người đâu! Có thích khách!”, rồi mũi kiếm đâm thẳng.

    Sở Bắc Tiệp lạnh lùng nhìn kẻ địch giơ kiếm trước mặt, đôi đồng tử co lại, nhanh chóng rút bảo kiếm.

    Ánh kiếm sắc lạnh giao nhau choang một tiếng. Nhược Hàn bỗng thấy như có luồng sức mạnh cản lại, cánh tay tê dại, chưa kịp định thần, bóng dáng lay động dưới ánh nến của Sở Bắc Tiệp đã biến mất. Cảm thấy không ổn, Nhược Hàn bèn khua kiếm sang hai bên trái phải, lùi lại phía sau hai bước, sống lưng toát mồ hôi lạnh, kêu lên thảm thiết, vùng bụng đã trúng một đòn.

    Nhược Hàn cố chịu đau, tiếp tục đâm kiếm, thành ra tự đưa tay mình đến trước mặt Sở Bắc Tiệp. Sở Bắc Tiệp thuận thế kéo một cái, nắm vào vùng hổ khẩu[1] trên bàn tay Nhược Hàn. Nhược Hàn đau điếng, bảo kiếm rơi xuống bàn, làm đổ giá nến. Giá nến lăn hai vòng trên đất, rồi tắt phụt, trướng soái chìm trong bóng tối.

    [1] Hổ khẩu: Vùng giao giữa ngón cái và ngón trỏ.

    Trước mắt tối đen, Nhược Hàn chỉ cảm thấy cái lạnh xông thẳng đến cổ, biết là bảo kiếm của Sở Bắc Tiệp đã kề bên.

    Khi ở thành Kham Bố, trước mặt hai quân, chỉ trong ba chiêu, nam nhân này đã lấy mạng Mông Sơ, thuộc hạ hung hãn nhất dưới trướng Tắc Doãn. Anh hùng cái thế, quả nhiên danh bất hư truyền.

    Tự biết mình đã hết đường, nhưng Nhược Hàn cũng chẳng xin tha, nghe tiếng bước chân hoảng loạn ngoài kia, bèn nghiến răng nói: “Ngươi muốn giết thì giết, nhưng ngươi không thoát được khỏi đây đâu”.

    Sở Bắc Tiệp vô cùng ngạo mạn, cười nhạt: “Muốn giết ta cũng phải giết tướng lĩnh to nhất, mạng của ngươi cứ tạm thời giữ lại. Gặp Bắc Mạc vương, nhớ nhắc nhở ông ta đừng dại gì mà chọc giận Đông Lâm”.

    Đang định lên tiếng, Nhược Hàn đã thấy sau gáy đau điếng, ngất lịm.

    Sơn mạch Tùng Sâm chìm trong băng tuyết, ánh mặt trời chiếu trên nền trắng, sáng lấp lánh. Một bóng dáng nhỏ bé đang vội vã bước thấp bước cao đi trên đường.

    Tuyết cao gần đến đầu gối, sau mỗi bước chân, bàn chân lún xuống, phải tốn không biết bao nhiêu sức, Túy Cúc mới nhấc nổi lên.

    Túy Cúc thở dốc. Nắng chiếu trên tuyết sáng đến chói mắt, khiến nàng không còn nhìn rõ con đường phía trước. Có những lúc, Túy Cúc phải vịn tay vào gốc cây mà nuốt khan một hơi, nhưng nếu dừng bước, trái tim lại khó chịu như bị mèo cào.

    Sính Đình đã sức cùng lực kiệt, đang đợi nàng ở núi đá.

    Sính Đình và hài nhi trong bụng đang đợi nàng.

    Sính Đình đang gắng sức, trong lòng Túy Cúc hiểu hơn ai hết. Nàng là đại phu, sao lại không hiểu tình trạng của Sính Đình? Nhưng hai người cùng đi sẽ càng không có hy vọng. Sính Đình nói đúng, để một người tới tìm Dương Phượng, rồi hỏa tốc quay lại cứu viện, là con đường sống duy nhất.

    Con đường sống trong con đường chết.

    Ông Trời ơi, sao lại thế này?

    Hoa mai nơi biệt viện ẩn cư vẫn nở, hương thơm thanh khiết phiêu du trong gió. Cảnh vẫn đây mà người mãi đâu, trong chớp mắt đã đến tận cùng, đến con đường tuyệt vọng?

    Sao một nữ nhân thông minh tuyệt đỉnh yêu một nam nhân anh hùng cái thế lại có kết cục như vậy?

    Chiếc trâm dạ minh châu Dương Phượng tặng Sính Đình nặng tựa ngàn vàng đè lên đầu Túy Cúc. Đây chính là sinh mạng của mẫu tử Sính Đình.

    Túy Cúc lấy bản đồ ra, nhìn thật kỹ.

    “Lại lạc đường sao?”, Túy Cúc lo lắng cau mày. Cả sơn mạch Tùng Sâm chìm trong màu trắng bàng bạc khiến người ta không nhận được phương hướng. Biết đã sắp đến nơi, Dương Phượng chỉ ở quanh đây, nên Túy Cúc cố sức bước đi, không dám ngơi nghỉ.

    Ngọn núi thuộc sơn mạch Tùng Sâm, kề sát Bắc Mạc chính là đích đến.

    Gần ngay đây, chắc chắn là ở gần ngay đây.

    “Ai ya!” Đường trơn, Túy Cúc trượt chân ngã trên nền tuyết.

    Không có gì nghiêm trọng, nàng đã chẳng nhớ nổi mình đã ngã thế này mấy trăm lần rồi. Sư phụ, sư phụ ơi, chắc sư phụ không thể ngờ rằng, có một ngày Túy Cúc con lại dũng cảm đến thế.

    Tiết trời giá buốt, nhưng trong lòng Túy Cúc lại như đang có ngọn lửa thiêu cháy tâm can.

    Nàng cắn răng, cố đứng dậy, vừa ngẩng đầu lên, dáng hình một nam nhân bỗng lọt vào tầm mắt. Túy Cúc giật mình, bôn ba ở sơn trạch Tùng Sâm lâu như thế, đây là lần đầu tiên nàng gặp một người không phải Sính Đình.

    Một nam nhân.

    Nam nhân mặc y phục gọn nhẹ thích hợp với việc leo núi, tay xách bó cung tên đang chắn ngay trước mặt nàng.

    Bắt gặp ánh mắt lạnh lùng của nam nhân kia, Túy Cúc có phần cảnh giác.

    Nàng chậm rãi đứng thẳng lên.

    Phiên Lộc lặng lẽ đánh giá nàng, cuối cùng nhếch môi, buông ra ba chữ: “Bạch Sính Đình?”.

    “Ngươi là ai?”

    “Hóa ra ngươi là Bạch Sính Đình.” Hắn nhìn chằm chằm vào mái tóc Túy Cúc, khen một câu, “Chiếc trâm thật tinh xảo”.

    Túy Cúc run rẩy, một dự cảm chẳng lành như cây chùy từng chút đập thẳng vào tim nàng.

    Nàng trừng mắt nhìn Phiên Lộc, từng bước lùi ra sau.

    Cây nỏ trong tay Phiên Lộc từ từ đưa lên, mũi tên âm u lạnh lẽo đang nhằm thẳng vào ngực Túy Cúc.

    Túy Cúc bỗng thấy khoảnh khắc này nàng như đã chết rồi, cả người lạnh toát, sởn gai ốc. Chiếc trâm dạ minh châu trên đầu nặng trịch, nặng đến nỗi nàng thấy mình sắp ngã xuống.

    Không được, nàng không được chết.

    Túy Cúc chợt nghĩ đến Sính Đình.

    Sính Đình đang nằm nghiêng trên giường đọc sách, đang gảy đàn trong tuyết, đang hái những nụ mai, đang suy sụp mà đổ vật xuống sàn, khóc đến đứt gan đứt ruột khi trăng chếch sang bên.

    Mình không được chết, Túy Cúc giận dữ nhìn Phiên Lộc. Không thể phản kháng với cây nỏ trong tay Phiên Lộc, nhưng nàng có thể giận dữ nhìn hắn.

    Phiên Lộc gần như đã bị mê hoặc bởi ánh nhìn của nàng. Hắn chưa từng biết có nữ nhân không hề sợ chết thế này. Trong khoảnh khắc nam nhân trước mặt còn do dự, Túy Cúc nhanh chóng quay người chạy mất.

    Không, nàng không thể chết.

    Như được trời cao tiếp thêm sức, nàng chạy như bay vào rừng.

    Vút!

    Tiếng xé gió rất nhẹ bên tai, một mũi tên sượt qua mặt nàng, cắm phập vào thân cây bên cạnh. Túy Cúc kinh hãi, bước chân càng loạn.

    Vút! Vút!

    Tiếng xé gió lại vang lên, hết mũi tên này đến mũi tên khác ghìm chặt vào cây và cắm xuống đất. Túy Cúc kinh hoàng, luống cuống trốn chạy, tránh hết lần này đến lần khác.

    Ông Trời, ông đang giúp con sao?

    Xin ông hãy giúp con đến tận cùng, hãy cho con sống để gặp Dương Phượng, để nói với Dương Phượng rằng, Bạch cô nương đang chờ nàng ấy tới cứu.

    Cả hài nhi trong bụng Sính Đình nữa, cốt nhục của Vương gia, huyết mạch của vương thất Đông Lâm.

    Hốt hoảng trốn chạy, đến khi kinh hãi phát hiện trước mắt trống rỗng, chân Túy Cúc bất chợt rơi vào khoảng không.

    “A…”, Túy Cúc kinh hoàng kêu lên, cả người ngã xuống.

    Lớp tuyết dày đỡ lấy nàng, nhưng chẳng may chân phải va vào khối đá trồi lên.

    Bụp!

    Cơn đau đáng sợ từ chân dâng lên, khiến cả người Túy Cúc gần như mất đi cảm giác.

    “A…” Nàng kêu lên, cố chống người ngồi dậy, hy vọng có thể tự xem chân mình.

    Chắc chắn là gãy xương rồi, nàng đau đến toàn thân run rẩy.

    Làm sao bây giờ? Nàng còn phải đi tiếp, phải báo tin, tuyệt đối không thể dừng bước.

    Thảo dược, chỉ cần có chút thảo dược, hãy cố gắng chịu thêm chút nữa.

    Chỗ nào có thảo dược?

    Nàng quay đầu, đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Không gian chỉ một màu trắng xóa, cây khô xen lẫn những khối đá trong tuyết… còn gì nữa không?

    Nhìn sang phía đông, Túy Cúc sững sờ như không dám tin vào mắt mình, liền vội vã đưa tay dụi mắt.

    “A, ở đó!” Túy Cúc ngạc nhiên, reo lên vui mừng, khóe mắt ươn ướt.

    Thấy rồi, nhìn thấy rồi! Ngọn núi Dương Phượng ẩn cư đang ở ngay trước mắt. Hóa ra nàng đã xuống đến chân núi, hóa ra nó ở ngay đây.

    Túy Cúc mừng đến rơi lệ, cuối cùng nàng cũng đã tìm thấy. Bạch cô nương, chúng ta được cứu rồi.

    “Bạch cô nương, hãy đợi Túy Cúc, Túy Cúc nhìn thấy rồi.”

    Chân đau từng cơn, nhưng Túy Cúc vẫn gắng đứng dậy. Lên được một nửa, thì không thể gắng gượng thêm, nàng lại ngã xuống.

    “Không sao, không sao đâu”, nàng tự nói với mình, “Mình có thể bò qua, mình có thể bò lên núi”. Đôi đồng tử của nàng lấp lánh như hạt trân châu dưới đáy biển, được thai nghén bằng tinh hoa của trời đất, đến hôm nay bỗng phát sáng.

    Túy Cúc cố gắng trườn trên tuyết. Đoạn đường sao lại dài thế kia? Nàng cắn chặt môi, ra sức lết về phía trước. Cứ ngỡ nàng đã vượt qua chân trời để đến nơi góc biển, thế nhưng quay đầu lại, vẫn một sắc tuyết in.

    Đường máu ngoằn ngoèo trên nền trắng, thật chẳng khác nào một bức tranh diễm lệ.

    Tiếng bước chân từ xa tiến lại, nàng ngẩng đầu nhìn. Nỗi tuyệt vọng dâng trào tựa những ngón tay ma quỷ, khẽ khàng, lạnh lùng bóp nghẹt trái tim nàng.

    Phiên Lộc đứng ở chỗ cao, lạnh lùng nhìn xuống.

    Ánh chiều tà đỏ như màu máu, quầng sáng ấy bao quanh Phiên Lộc, khiến hắn hệt như một tử thần.

    Không, không… Túy Cúc ngẩng đầu nhìn hắn với cơn thịnh nộ.

    Ngươi không thể cướp đi đường sống của ta như vậy, ta đã đến được đây.

    Chỉ cách một bước, chỉ còn cách một bước.

    Phiên Lộc không buồn động thủ, tay phải cầm nỏ, tay trái cầm bó tên. Những mũi tên vừa bắn ra, hắn đã nhặt hết cả lại, hai mươi bảy tên, không thiếu một mũi.

    Túy Cúc chằm chằm nhìn hắn cũng với những mũi tên kia.

    Không thể, nàng không thể chết.

    Sính Đình đang đợi nàng trong gió tuyết, thời hạn cho mẫu tử Sính Đình chỉ là ba ngày.

    Sở Bắc Tiệp đã lỡ cái hẹn mồng Sáu, chôn vùi đi hạnh phúc của Sính Đình. Giờ nàng không thể tiếp tục lỡ hẹn một lần nữa mà chôn vùi sinh mạng của mẫu tử họ.

    Nền tuyết và núi xanh lạnh lẽo vô tình, cảm giác cái chết quanh quẩn đâu đây, thấm vào tim phổi, mà không sao che được cơn tuyệt vọng khiến tim nàng tan nát.

    Túy Cúc ngẩng đầu, bi phẫn gào lớn: “Dương Phượng! Dương Phượng! Cô nương ở đâu? Cầu xin cô nương hãy ra đây!”.

    “Dương Phượng! Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng, cô nương có nghe thấy không?”

    “Ai cũng được, Sở Bắc Tiệp, Hà Hiệp, hãy cứu Bạch Sính Đình! Các người quên mất Bạch Sính Đình rồi sao?”

    “Sở Bắc Tiệp, người là kẻ hèn nhát, người quên Bạch Sính Đình rồi sao?”

    Đó là thê tử của người, cốt nhục của người, sao lại phải lưu lạc nơi chân trời góc bể, bỏ xác trên sơn mạch Tùng Sâm?

    “Sao người không xuất hiện? Tại sao lại thế…”, Túy Cúc bất lực gào khóc, “Người còn nhớ tới Bạch Sính Đình không? Người còn nhớ những lời mình đã nói không? Sao có thể quên…”.

    Từng tiếng nói vọng lại từng hồi, nhưng kỳ tích vẫn chẳng xảy ra.

    Không công bằng, thật không công bằng.

    Ngẩng đầu nhìn, qua làn nước mắt, nàng thấy Phiên Lộc đang nhếch môi cười.

    Ánh tịch dương dần khuất ở đầu bên kia ngọn núi, bóng tối từ từ chiếm chỗ.

    “Ngươi có ngửi thấy hương thơm của tuyết không?” Lần đầu tiên gặp mặt, Sính Đình đã hỏi nàng như vậy.

    Nàng đã theo sư phụ đi khắp vương cung phủ đệ, gặp gỡ bao người và việc, nhưng chưa từng thấy mối tình nào lại thâm trầm đến vậy.

    Bạch Sính Đình và Trấn Bắc Vương.

    Tình yêu của bậc vương giả sao mà bi ai, thê thảm, khiến lòng người tan nát nhường ấy.

    Ông Trời sao mà nhẫn tâm?

    Sao ông không thương xót cho tình yêu sâu sắc ấy.

    Chỉ một Túy Cúc bé nhỏ, dù cam tâm tình nguyện từ bỏ tính mạng, cũng chẳng thể thay đổi kết cục không hạnh phúc này.

    “Dương Phượng! Dương Phượng! Cô nương mau ra đây! Cầu xin cô nương mau ra đây!”

    Rừng núi vọng lại tiếng khóc sầu thảm của Túy Cúc. Phiên Lộc lặng lẽ ngồi trên cao, nhìn nàng vùng vẫy chẳng cam lòng.

    Hắn không cần thiết phải giương nỏ nữa.

    Giọng Túy Cúc khản đặc, họng như lửa đốt. Dường như đã khóc cạn sức lực, nàng ngừng lại để thở, hương thơm của tuyết phảng phất đâu đây. Lẫn trong đó là mùi tanh của máu, máu từ chân nàng chảy ra.

    Bỗng sực tỉnh, Túy Cúc chống người ngồi dậy, lo lắng nhìn xung quanh.

    Bóng đêm đã bao phủ, trong rừng thấp thoáng những đốm sáng màu xanh đang lặng lẽ lại gần nàng.

    Bầy sói!

    Cuối cùng, nàng hiểu ra hàm ý nụ cười lúc nãy của nam nhân kia.
     
  3. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 42
    “Thượng tướng quân? Thượng tướng quân! Mau tỉnh lại”

    Cảm thấy đầu đau dữ dội, Nhược Hàn mở mắt ra, trướng soái sáng trưng, xung quanh là gương mặt lo lắng của các tướng lĩnh.

    Sở Bắc Tiệp đâu?

    Nhược Hàn ôm đầu, cố gắng ngồi dậy khỏi giường: “Người đâu? Có bắt được người không?”.

    Quân tướng nhìn nhau. Sâm Vinh bị mọi người đùn đẩy, tiến lên phía trước, giọng buồn bã: “Bọn thuộc hạ nghe thấy tiếng kêu của Thượng tướng quân, bèn xông vào trong trướng, nhưng chỉ thấy tối om. Lúc đó không biết Thượng tướng quân sống chết thế nào, mọi thứ lộn xộn, tới khi châm được ngọn đuốc, tìm kiếm khắp nơi đã chẳng thấy tung tích thích khách đâu”.

    Nhược Hàn thở dài một tiếng, vỗ đùi: “Đáng tiếc, đáng tiếc!”. Nhưng nghĩ lại, Sở Bắc Tiệp đâu phải người dễ dàng để người ta bắt như vậy. Có lẽ khi đột nhập vào doanh trại, Sở Bắc Tiệp đã sớm tính đến đường lui.

    Long nghiêu tướng quân Hoa Tham mới nhậm chức hạ giọng bẩm báo: “Có mười lăm binh sĩ ngoài trướng soái bị giết. Tất thảy đều bị một kiếm đâm thẳng vào họng mà mất mạng, xem ra bị đột kích. Kiếm pháp của thích khách thật đáng sợ”.

    Các tướng lĩnh đã đích thân kiểm tra những thi thể kia, ai cũng thấy võ nghệ của thích khách thật cao cường quá sức tưởng tượng, vẻ mặt mọi người đều vô cùng sợ sệt.

    Sâm Vinh lắc đầu: “Đúng là trong tứ quốc, chưa ai nghe nói đến một thích khách đáng sợ đến thế. Chúng ta cũng nên sửa đổi quy định trong quân doanh, nhỡ chăng Thượng tướng quân xảy ra chuyện, đại quân mất đi thống soái thì làm thế nào?”.

    “Đúng thế, rốt cuộc thích khách là ai?”

    Trầm mặc giây lát, Nhược Hàn đáp: “Là Sở Bắc Tiệp”.

    Trướng soái rộng lớn bỗng chìm trong im lặng. Quần tướng nhìn nhau, không biết nên nói gì. Sâm Vinh thở hắt ra, cuối cùng cũng sực tỉnh, miệng mở to, hỏi: “Có thật là Trấn Bắc vương?”.

    Đối với họ, cái tên Sở Bắc Tiệp quả là ác mộng.

    Trong trận chiến Kham Bố, Sở Bắc Tiệp gần như sắp tiêu diệt cả đất nước họ. Vị đại tướng này có tài hoạch định, mưu trí khiến người khác kinh sợ, võ công xuất chúng khiến người ta run rẩy.

    Lần này, Sở Bắc Tiệp lại thể hiện bản lĩnh một mình xông vào trướng soái quân địch và sở trường ẩn giấu tung tích cao siêu.

    Có kẻ địch như thế, ai lại không đau đầu?

    “Rốt cuộc hắn muốn làm gì?”

    “Ta cũng không rõ.” Sắc mặt Nhược Hàn vô cùng khó coi, “Hắn muốn ta chuyển một câu đến Đại vương”. Nhược Hàn rành rọt thuật lại những điều đã xảy ra. Chuyện đại sự trong quân không cho phép xảy ra sai sót, nên việc bị đánh đến ngất đi tuy mất mặt, nhưng Nhược Hàn vẫn hai năm rõ mười kể đủ đầu đuôi.

    Biết kẻ đến là Sở Bắc Tiệp, biết Nhược Hàn vừa thoát khỏi miệng hổ, mọi người đâu dám nghĩ điều gì khác. Thấy Sở Bắc Tiệp cuồng ngôn, nói sẽ lần lượt giết hết đại tướng Bắc Mạc như thế, ai nấy tức đến đỏ mặt, mắng mỏ một hồi.

    Nhược Hàn đáp: “Những lời Sở Bắc Tiệp nói cũng không phải là không có căn cứ. Nếu phòng thủ trong quân doanh của chúng ta tiếp tục lỏng lẻo như hiện nay, sẽ chẳng thể chống chọi với những cao thủ như hắn”.

    Lời này nói ra, quần tướng có chút hổ thẹn.

    Trong lòng họ hiểu rằng, quân doanh Bắc Mạc không nghiêm ngặt bằng đại quân được huấn luyện kỹ càng của Đông Lâm. Binh lính do một tay Sở Bắc Tiệp đào tạo ra, e là cũng chỉ có Hà Hiệp mới có thể đối kháng.

    Nhược Hàn nhìn ra ngoài màn trướng, trời vẫn chưa tỏ, chỉ có chút ánh sáng màu cam lẫn trong mây xám.

    “Hành trình không đổi, ngày mai xuất phát. Quần tướng hãy lui ra, ta cần suy nghĩ một lát.”

    Sau khi cho những người kia lui ra, Nhược Hàn gọi Sâm Vinh lại, “Ngươi ở đây”.

    Sâm Vinh gật đầu, ngồi xuống suy nghĩ, rồi cau mày: “Thượng tướng quân, có việc này thuộc hạ nghĩ mãi không thông. Sở Bắc Tiệp dọa giết hết đại tướng Bắc Mạc, nhưng sao đã đột nhập thành công, hắn lại chỉ muốn Thượng tướng quân chuyển lời, mà không ra tay sát hại?”.

    Nhược Hàn đáp: “Ta cũng đang cảm thấy việc này kỳ quái. Nhìn thần sắc của hắn, ỷ thế võ công cao cường, nên vô cùng kiêu ngạo. Hắn tuyên bố sẽ bắt đầu từ tướng lĩnh lớn nhất Bắc Mạc ta, từng người, từng người một, giết sạch cho đến khi Bắc Mạc không còn tướng cầm quân”.

    “Nhưng, Thượng tướng quân đã là tướng lĩnh cao nhất trong quân Bắc Mạc. Nếu thực sự muốn làm vậy, Sở Bắc Tiệp sẽ phải bắt đầu từ Thượng tướng quân.”

    Thần sắc Nhược Hàn chợt đổi: “Thôi chết rồi! Ta hiểu rồi!”.

    Sâm Vinh kinh ngạc: “Thượng tướng quân đã nghĩ ra việc gì?”.

    Vẻ mặt vô cùng nặng nề, Nhược Hàn chậm rãi: “Thượng tướng quân, Tắc Doãn thượng tướng quân”.

    Lần này đến lượt sắc mặt Sâm Vinh thay đổi: “Đúng thế, người đầu tiên hắn muốn giết chính là Tắc Doãn thượng tướng quân!”.

    Tắc Doãn là trụ cột trong quân Bắc Mạc, dù đã quy ẩn, nhưng danh tiếng của Tắc Doãn vẫn không suy giảm, có địa vị tương đương với Sở Bắc Tiệp trong quân Đông Lâm.

    Giả như tin Tắc Doãn bị Sở Bắc Tiệp ám sát lan ra ngoài, lòng quân Bắc Mạc đang rệu rã sẽ không chịu nổi một đòn tấn công.

    Sâm Vinh cũng là lão tướng theo Tắc Doãn nhiều năm, nên vô cùng lo lắng cho Tắc Doãn, giọng nói trở nên luống cuống: “Làm thế nào bây giờ? Việc có liên quan đến sự sống chết của Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta không thể ngồi nhìn”.

    “Thượng tướng quân là danh gia kiếm thuật của Bắc Mạc ta, bên cạnh còn có những hộ vệ tâm phúc, chỉ sợ Sở Bắc Tiệp đột kích lúc Thượng tướng quân không đề phòng.”

    “Phải lập tức thông báo để Tắc Doãn thượng tướng quân đề phòng Sở Bắc Tiệp.” Sâm Vinh như bỗng nghĩ ra điều gì, ảo não, “Sau khi từ quan, không biết Thượng tướng quân đã ẩn cư nơi nào, chúng ta phải lập tức cử binh mã tìm kiếm, đưa tin đến đó. Sở Bắc Tiệp nắm quân quyền của Đông Lâm, tai mắt khắp nơi, tuyệt đối không thể để hắn tìm được Thượng tướng quân trước chúng ta”.

    Nhược Hàn suy tính kỹ, cười nói: “Việc này ngươi không phải lo. Ta biết, giờ ta sẽ viết thư. Thượng tướng quân là bậc anh hùng, chỉ cần Thượng tướng quân có phòng bị, tuyệt đối sẽ không để Sở Bắc Tiệp được đắc ý”.

    Nắng sớm vừa xuất hiện, tuấn mã đã lao ra khỏi quân doanh Bắc Mạc, phi như bay về phía sơn mạch Tùng Sâm.

    Vẫn chờ sẵn ở dốc cao khác, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, nhìn theo bóng dáng kẻ đưa thư đang mỗi lúc một nhỏ dần, khẽ vuốt ve con ngựa yêu bên cạnh: “Phải lên đường rồi, chúng ta mau đi tìm nữ chủ nhân của ngươi”.

    Chàng nhảy lên ngựa, ung dung quất roi.

    Tuấn mã hí vang, tung bốn vó cuốn bay bụi đường, đuổi theo người đưa thư.

    Nhìn theo hướng người đưa thư đi, đúng như Sở Bắc Tiệp dự đoán, nơi ẩn cư của Tắc Doãn và Dương Phượng ở ngay giữa sơn mạch Tùng Sâm mờ mịt.

    Sính Đình, nàng vẫn hay nhắc với ta về người hảo hữu Dương Phượng.

    Nếu Dương Phượng ẩn cư ngay gần biên giới Vân Thường, chắc chắn nàng sẽ đến đó, đúng không?

    Nàng đã gặp được Dương Phượng chưa? Hay vẫn đang trên đường tới đó?

    Sở Bắc Tiệp ta là kẻ bất tài, ta đã xông vào các cửa khẩu của Vân Thường mà vẫn không tìm thấy tung tích nàng đâu. Bảo kiếm trong tay tuy sắc bén, nhưng ở nơi biển tuyết mênh mông, ta cũng chẳng thể ép hỏi trời xanh hướng đi của nàng.

    Ta chỉ làm được một việc là xông vào doanh trại Bắc Mạc, dụ Nhược Hàn liên lạc với Tắc Doãn. Vốn là người kế vị, Nhược Hàn chắc chắn sẽ biết nơi ẩn cư của Tắc Doãn.

    Sính Đình, xin nàng hãy dừng bước, đừng tiếp tục phiêu dạt một mình nữa. Ta xin nàng đừng quên hảo hữu Dương Phượng của mình, hãy đến gặp nàng ấy.

    Ta sẽ ở đó đợi nàng, ngăn nàng lại, ôm lấy nàng, hôn nàng, và cầu xin nàng tha thứ.

    Vì nỗi tương tư thanh khiết như nước giữa hai ta, vì mùi hương còn vấn vương quyến luyến, vì những đợi chờ, và vì tình yêu kiên định như núi của hai ta.

    Ta đã hiểu, thế nào là biển cạn đá mòn, là bãi bể nương dâu, và thế nào là cả đời không phụ bạc.

    Thành đô Vân Thường, tiếng ca hát thâu đêm suốt sáng. Pháo hoa đủ màu sắc mặc sức bung tỏa trên bầu trời đêm, bụp một tiếng, soi rọi những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt chúng dân trong thành.

    Công chúa cùng Phò mã trở về.

    Trên chiếc xe ngựa hoa lệ, tấm rèm từ từ được vén lên. Diệu Thiên cười rạng rỡ, hạnh phúc dựa vào Hà Hiệp. Cảnh tượng khiến người ta cảm động mà hân hoan này như khắc sâu vào lòng dân chúng Vân Thường.

    Làm nền cho đôi trai tài gái sắc là hàng vạn binh lính Vân Thường bình yên trở về đoàn tụ cùng với gia đình. Họ mang theo tinh thần quyết tử khi ra trận, nhưng may mắn được ông Trời đoái thương nên không phải trải qua khói lửa chiến tranh.

    Tưng bừng chào đón họ là tiếng reo vui hòa lẫn pháo hoa khắp trời.

    Và có cả rượu ngon.

    Các ca vũ cơ diễm lệ thướt tha qua lại nơi đại điện. Trăm quan sảng khoái thưởng rượu. Hà Hiệp tươi cười nhận rượu các quan kính lên, rồi xua tay tạm thời ngăn dòng người mời rượu, tự mình bưng một chén, ngồi xuống trước mặt Quý Thường Thanh vẫn đang mỉm cười bên cạnh.

    “Chén rượu này, ta muốn mời Thừa tướng.”

    Quý Thường Thanh có chút ngạc nhiên, vội vàng nâng chén: “Thần không dám, rượu này phải mời Phò mã. Phò mã dẫn binh viễn chinh, vất vả rồi”.

    Hà Hiệp đã uống không ít, khuôn mặt tuấn tú ửng đỏ, ánh mắt thoáng chút say: “Thừa tướng khiêm tốn quá. Dẫn binh đánh trận là việc dùng sức. Thừa tướng trấn giữ thành đô mới thực hao tâm tổn trí”.

    Quý Thường Thanh vốn trước nay không uống rượu, nhưng vào lúc đại chiến được hóa giải, người không uống rượu cũng hào hứng uống lấy mấy chén chúc mừng. Lòng hăng hái, Quý Thường Thanh giơ chén, nói: “Được, thần và Phò mã cạn chén này, chúc cho Công chúa điện hạ phúc thọ vô biên, sớm sinh quý tử”.

    Hà Hiệp cười ha hả: “Ước nguyện này rất thực tế, đa tạ Thừa tướng!”. Dứt lời, Hà Hiệp ngẩng đầu uống cạn.

    “Phò mã…”

    “Lục Y?” Quay lại, thấy cung nữ tâm phúc bên cạnh Diệu Thiên, Hà Hiệp nhìn một vòng các quan đang huyên náo chúc tụng, rồi gọi Lục Y sang một bên, hạ giọng, “Công chúa muốn triệu kiến?”.

    Lục Y lắc đầu, dí dỏm cắn môi dưới, cười bảo: “Không phải. Công chúa sai nô tỳ đến nói với Phò mã, Công chúa đi cả chặng đường dài mệt mỏi, tắm gội xong muốn đi nghỉ, mời Phò mã đến mai hãy gặp. Công chúa còn nói, Phò mã giữ gìn sức khỏe, đừng uống quá nhiều rượu. Phò mã đi đường vất vả, uống nhiều rượu sẽ rất có hại”.

    Hà Hiệp cười vang: “Ta còn đang lo không dễ ứng phó với trăm quan đang háo hức kính rượu ở đây, có vương lệnh này của Công chúa, vừa hay ta có thể cáo từ họ, về nghỉ ngơi”.

    Ngay lập tức, Hà Hiệp lấy lời công chúa để ngăn những quan viên vẫn muốn kính rượu, rồi rời khỏi vương cung, trở về phủ phò mã.

    Trước cổng phủ phò mã, bao nhiêu thị vệ đã đứng chờ sẵn. Đông Chước dẫn đầu bọn họ, nghển cổ trông ngóng về phía dòng người qua lại. Tiếng vó ngựa lộp cộp bất chợt vang lên, đội binh mã đang lại gần.

    “Cung nghênh Phò mã!”

    Ngựa dừng, Đông Chước vội vàng tiến đến, đón dây cương, ngẩng đầu nói: “Thiếu gia đã về”.

    “Ừ”, Hà Hiệp đáp một tiếng, nhảy xuống ngựa, bước nhanh về phía đại môn. Thấy bao nhiêu thị vệ, thị nữ cung kính nghênh đón mình, hắn khẽ cau mày: “Nhiều người đứng ở cổng thế này làm gì? Giải tán”.

    Đông Chước ném dây cương cho thị vệ bên cạnh, xua tay ra hiệu tất cả lui về, một mình bước theo Hà Hiệp.

    Hà Hiệp bước nhanh, không hề dừng lại, Đông Chước phải vội vã đuổi theo.

    Chỉ đến khi vào hậu viện, vòng hai, ba ngã rẽ, trước mặt là phòng của Sính Đình, Hà Hiệp mới dừng bước, ngẩn người đứng bên ngoài.

    Đông Chước nhìn Hà Hiệp không rời mắt khỏi phòng Sính Đình, ngây người như bức tượng gỗ. Tình cảnh này thật khiến người ta cảm thấy thê lương.

    Ban đầu cứ ngỡ Hà Hiệp vô tình, nên lúc Diệu Thiên làm khó, Đông Chước cũng mắt nhắm mắt mở mà thả Sính Đình đi. Nay nhìn Hà Hiệp như vậy, hắn lại thấy thiếu gia mình thật đáng thương.

    Lo lắng xen lẫn buồn bã, Đông Chước không ngăn được bước đến bên cạnh, khẽ gọi: “Thiếu gia…”.

    Hà Hiệp sực tỉnh, lơ đãng quay lại nhìn Đông Chước, rồi chậm rãi bước lên trước, đẩy cửa.

    Kẹt…

    Cánh cửa chuyển động, phát ra tiếng kêu thật khẽ. Bài trí trong căn phòng dần lọt vào tầm mắt hai người.

    Chậu cảnh trên bệ cửa sổ đã héo khô, trên giường thu dọn rất gọn gàng, dây tua hai bên rũ xuống. Dưới gầm giường đặt đôi giày thêu hoa.

    Nơi bàn trang điểm vẫn chiếc gương đồng, bên cạnh là hộp trang sức mạ vàng mà Hà Hiệp đã đặt làm cho Sính Đình.

    Đàn vẫn yên lặng nằm đó, phủ lớp bụi mờ mờ.

    Hà Hiệp tiến vào phòng, bước chân rất khẽ, như sợ làm kinh động đến điều gì, rồi ngồi xuống chiếc ghế lạnh lẽo, đặt bảo kiếm lên bàn.

    Hà Hiệp đã từng múa thanh bảo kiếm này.

    Ngay tại phủ phò mã này.

    Kiếm dịu dàng ra khỏi vỏ, như giao long gặp nước, mặc sức vẫy vùng, lại như thân mây cuốn quanh cành cây, biến ảo khôn lường.

    Sính Đình cũng ở đó, ngồi dựa người vào trụ đình. Họ lặng lẽ nhìn nhau.

    Ánh mắt Sính Đình như khói, như nước, ngón tay linh hoạt dệt nên khúc Cửu thiên. Khoảnh khắc tiếng đàn vang lên, suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, tất cả vẫn chưa hề đổi thay.

    Suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, những năm tháng kiêu ngạo, phong hoa tuyết nguyệt chưa từng mất đi.

    Hà Hiệp đã sai.

    Lúc này, trong sâu thẳm ánh mắt Hà Hiệp như đang ngưng tụ những tia lạnh lẽo. Hà Hiệp đã sai, năm tháng kiêu ngạo xưa giờ đã chẳng còn nữa, phong hoa tuyết nguyệt cũng không còn tồn tại.

    Mưu lược và võ công đấu không lại quyền thế hiển hách.

    Chỉ cần một vương lệnh của Diệu Thiên cũng đủ phá nát mộng cảnh đẹp đến hư ảo mà Hà Hiệp đã bao năm hao tâm tổn sức, cố gắng lưu giữ lại.

    Diệu Thiên, thê tử của Hà Hiệp, chủ nhân của Vân Thường.

    Đối diện với căn phòng vắng bóng Sính Đình, với phủ phò mã không còn hơi ấm, Hà Hiệp sực tỉnh trước sự thực phũ phàng.

    Một ngày còn sự tồn tại của Diệu Thiên, Hà Hiệp sẽ chỉ có thể là phò mã.

    Một phò mã không thể bảo vệ được cả thị nữ của mình.

    “Thiếu gia, cây đàn cổ này… có cất đi không?”

    “Cứ để đấy.” Hà Hiệp nhìn chăm chăm về phía cây đàn cổ, môi khẽ nhếch, “Cứ để đấy, chờ Sính Đình quay về”.

    Sính Đình sẽ quay về, về bên cạnh ta.

    Ta sẽ không cho phép bất cứ kẻ nào tiếp tục lấy đi những thứ của riêng ta.

    Ta sẽ không cho phép bất cứ một ai làm ô nhục bốn chữ “Vương phủ Kính An”.

    Ta sẽ không để vương tộc Vân Thường cùng lão già dối trá Quý Thường Thanh kia trói buộc tay chân mình.

    Ta sẽ không để hùng tâm tráng chí phải khuất phục trước vẻ dịu dàng và vương uy của Diệu Thiên.

    Sẽ không còn kẻ nào dám đối xử với ta như thế.

    Cả chặng đường dài bám theo dấu vết lính đưa thư, Sở Bắc Tiệp dừng ngựa trước sơn mạch Tùng Sâm, ngẩng đầu nhìn lên.

    Dãy núi hùng vĩ chìm trong tuyết trắng đẹp một cách thần bí.

    Dương Phượng ẩn cư trong núi này.

    Sính Đình, chắc nàng cũng đang ở đây.

    Có thể nàng đang gảy đàn, đang đọc sách, cũng có thể đang hát khúc anh hùng giai nhân, dùng binh không ngại dối lừa.

    Ngẩng đầu nhìn dãy núi hùng vĩ trước mắt, Sở Bắc Tiệp không sao ngăn nổi nhịp đập thình thịch của con tim.

    Chàng khát khao được nhìn thấy Sính Đình.

    Bao nhớ nhung không ngừng gào thét trong đêm đen, giày vò chàng cả trong những giấc mộng… nhưng tất thảy vẫn không đủ để ngăn nỗi sốt ruột này.

    Theo lời dặn dò của Nhược Hàn, lính đưa thư cẩn trọng lên đường, liên tục kiểm tra xem có ai bám theo không. Nhưng, dù hắn có khôn ngoan tài giỏi đến mức nào cũng không thể là đối thủ của Sở Bắc Tiệp.

    Lặng lẽ theo sau hắn, khi đến được ngọn núi Tắc Doãn ẩn cư, chàng mới thúc ngựa đi lên con đường núi, cuối cùng cũng nhìn mấy mười mấy gian nhà gỗ ẩn mình trong núi rừng. Sở Bắc Tiệp hiên ngang tiến tới, chưa đến cổng, bên đường bỗng xuất hiện mấy đại hán ngáng đường, hét lên: “Đứng lại! Có biết đây là nơi nào không, mà dám tự ý xông vào?”. Ánh kiếm loang loáng trong tay mấy người vung lên, có thể thấy thân thủ của họ cũng không tồi.

    Mấy thứ dọa dẫm này đối với Sở Bắc Tiệp thật chẳng khác nào trò đùa. Chàng chẳng buồn tránh né, vẫn ung dung ngồi trên ngựa, nhìn quanh một vòng, rồi hạ giọng: “Nói với Tắc Doãn, Sở Bắc Tiệp đến rồi”.

    “Sở Bắc Tiệp?”

    “Đông Lâm Sở Bắc Tiệp?”

    “Trấn Bắc Vương?”

    “Chính ta.” Khóe môi nhếch lên một nụ cười, Sở Bắc Tiệp nói, “Ta đến đón vương phi của ta, Bạch Sính Đình”.

    Thống lĩnh đại quân Đông Lâm chinh chiến bốn phương, vị ma vương thần chết khiến mọi người kinh sợ lại xuất hiện ngay trước mắt họ.

    Một người cánh tay run rẩy, suýt chút nữa đánh rơi thanh kiếm.

    “Còn ngẩn ra đó làm gì? Mau đi thông báo.” Con ngựa của Sở Bắc Tiệp phì một tiếng, tiến về phía trước.

    Đám đông vội vã lùi ra sau, vẻ mặt vô cùng cảnh giác. Trong trận chiến Kham Bố, vị danh tướng đương thời này đã làm cho Thượng tướng quân Tắc Doãn của bọn họ hoàn toàn bó tay, suýt chút nữa hủy cả Bắc Mạc.

    Kẻ nhanh nhạy nhất gào lên một tiếng rồi quay người chạy đi báo tin. Mấy tên còn lại cố nén nỗi sợ hãi, giương đao bao vây Sở Bắc Tiệp, mọi ánh mắt dồn cả vào bảo kiếm của chàng.

    Tương truyền, mỗi khi bảo kiếm này rút ra khỏi bao, máu lại chảy thành sông.

    Sở Bắc Tiệp ngồi trên lưng ngựa, tựa như thần tướng từ trên trời xuống chốn trần gian. Đứng trước vòng vây hung dữ, thần thái chàng vẫn vô cùng an nhàn tự tại, mang theo niềm hân hoan chờ đợi.

    Sính Đình, ta đến rồi.

    Nàng đang làm gì?

    Có phải nàng đang đánh cờ với Dương Phượng?

    Nàng từng nói, Dương Phượng tinh thông thuật đánh cờ. Có thể cho phép Sở Bắc Tiệp ta đứng cạnh quan sát không? Cho ta ngồi cạnh nàng, ngắm ngón tay thon nhỏ của nàng nhặt từng quân đen trắng đặt lên bàn cờ. Cảnh tượng ấy chắc chắn sẽ khiến người ta vui lòng, nhìn cả đời không thấy chán.

    Người đi báo tin nhanh chóng quay lại, vẻ mặt vô cùng lạ lùng, không dám đứng quá gần Sở Bắc Tiệp, chắp tay nói: “Trấn Bắc vương, Thượng tướng quân có lời mời”.

    Sở Bắc Tiệp vui vẻ gật đầu, đi theo tên thị vệ dẫn đường đến trước đại môn. Trước cổng yên tĩnh, chẳng một bóng người, không thấy Dương Phượng hay Sính Đình, cũng chẳng thấy Tắc Doãn đâu. Vốn võ nghệ cao cường, gan dạ hơn người, một thân một mình quyết chiến với đội ngũ thị vệ trong vương cung Đông Lâm, Sở Bắc Tiệp còn không sợ, huống hồ là mấy gian nhà gỗ bé này.

    Xuống ngựa, tay đặt vào bảo kiếm, chàng ngẩng đầu, đi thẳng vào trong.

    Bước vào trong phòng, Sở Bắc Tiệp bỗng sững lại. Đập vào mắt chàng là một màu tang thương, rèm rủ, màn che màu trắng, cả khách sảnh rộng lớn không một chỗ ngồi, chỉ có chiếc quan tài gỗ cô độc nằm ngay chính giữa.

    Sở Bắc Tiệp đang bước vào một linh đường.

    Trong phòng chỉ có một nam nhân vẻ mặt trầm buồn, hai hàng mày đậm, ánh mắt lấp lánh: “Trấn Bắc Vương?”.

    Sở Bắc Tiệp ung dung đón ánh nhìn sắc bén của người kia: “Bắc Mạc thượng tướng quân?”.

    Bỗng tiếng nữ nhân thất thanh vang lên: “Sở Bắc Tiệp! Sở Bắc Tiệp ở đâu?”.

    Trong lòng đang nghĩ về Sính Đình, nghe thấy giọng nữ, Sở Bắc Tiệp đoán là Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng, bèn cất tiếng, sang sảng đáp: “Bản vương Sở Bắc Tiệp ở đây”.

    Lời còn chưa dứt, bất chợt có ai kéo mạnh tấm rèm che phòng bên, một bóng dáng nhỏ nhắn chạy ra ngoài. Sắc mặt Dương Phượng trắng bệch, đâm thẳng vào ngực Sở Bắc Tiệp như một kẻ điên.

    Dương Phượng xuất hiện bất ngờ, nhưng sao có thể làm Sở Bắc Tiệp bị thương. Kiếm chưa kịp đâm vào ngực, Sở Bắc Tiệp đã giơ tay, nắm ngay lấy cổ tay Dương Phượng.

    Tắc Doãn không ngờ Dương Phượng lại xách kiếm lao tới từ bên trong, lúc phát hiện ra thì đã muộn, khuôn mặt biến sắc: “Ngươi dám làm bị thương thê tử ta?”, rồi tung người nhào tới.

    Sở Bắc Tiệp chỉ một chiêu đã giữ được tay Dương Phượng, nhưng nghĩ đây là hảo hữu của Sính Đình nên chẳng dám làm gì, ngón tay chỉ ấn mạnh lên cổ tay trắng nõn của Dương Phượng, rồi theo đà đẩy một cái, Dương Phượng lảo đảo ngã về phía sau.

    Tắc Doãn kịp thời lao đến, đỡ lấy Dương Phượng. Biết Sở Bắc Tiệp lợi hại thế nào nên Tắc Doãn chỉ lo Dương Phượng bị thương, vội hỏi: “Nàng có bị thương không?”.

    Dương Phượng lắc đầu. Tóc nàng rối tung, hai mắt đỏ ngầu, không còn chút điệu bộ an nhàn trấn tĩnh thường ngày. Nàng quay sang trừng mắt nhìn Sở Bắc Tiệp, rồi lại khóc rống lên, nắm tay áo Tắc Doãn khẩn cầu: “Chàng hãy giết hắn giúp thiếp! Chàng hãy giết hắn đi!”.

    Sở Bắc Tiệp đã nghe Sính Đình kể Dương Phượng là người dịu dàng lễ độ, không ngờ lần đầu tiên gặp, nàng ấy lại điên loạn thế này. Trong lòng sinh nghi, đôi mắt quét qua cỗ quan tài đặt giữa sảnh, Sở Bắc Tiệp bỗng cảm thấy không hay, trái tim thắt lại, hạ giọng: “Sính Đình đâu?”.

    Dương Phượng như không nghe thấy câu hỏi của Sở Bắc Tiệp, cứ liên tục đánh mạnh vào ngực Tắc Doãn, khóc lóc khẩn cầu: “Phu quân, hãy giúp thiếp giết hắn! Hắn hại chết Sính Đình, chính hắn đã hại chết Sính Đình!”.

    Như bị sét đánh trúng, Sở Bắc Tiệp bật lên trước mấy bước, hét lên: “Ngươi nói gì? Người vừa nói gì?”.

    Tiếng hét như hổ gầm, khiến Dương Phượng sực tỉnh. Nàng không còn đánh Tắc Doãn đang an ủi mình nữa, sững sờ quay lại nhìn Sở Bắc Tiệp, đôi mắt đỏ ngầu như đang nhỏ máu, gằn từng tiếng: “Ngươi hại chết Sính Đình, ngươi hận Sính Đình, đẩy muội ấy vào tay Hà Hiệp, khiến muội ấy phải cô độc chết nơi đất tuyết”. Từng từ rít qua kẽ răng, giọng nói âm u, như vọng lên từ nơi sâu thẳm của quỷ vực.

    Sở Bắc Tiệp lùi lại một bước, quay sang nhìn cỗ quan tài giữa sảnh, cố cười thành tiếng: “Không thể nào, việc này không thể nào. Các người đang lừa ta, vì Sính Đình không cam lòng nên các người nghĩ kế lừa ta”. Tuy miệng nói như vậy, nhưng cả người Sở Bắc Tiệp vẫn lạnh như rơi xuống động băng.

    Dương Phượng là hảo hữu của Sính Đình, cùng lớn lên với Sính Đình. Sở Bắc Tiệp đi nhiều hiểu rộng, tất nhiên biết rõ nỗi đau lúc này đây của Dương Phượng không thể là giả.

    Cả cuộc đời, chàng chưa từng trải qua cảm giác lạnh toát thế này, cái lạnh cắt nát thịt da, tàn phá gân cốt.

    “Các người lừa ta, Sính Đình đang ở đây, đang trốn ở đây.” Sở Bắc Tiệp cười lớn, khuôn mặt nhăn nhúm, ánh mắt lướt tới Tắc Doãn đang ôm Dương Phượng trong lòng.

    Cánh tay vẫn đặt trên kiếm, như thể chỉ cần Tắc Doãn nói sai một từ, Sở Bắc Tiệp sẽ lập tức rút kiếm, băm vằm hắn ra thành trăm mảnh.

    Tắc Doãn không nói gì, vẫn lặng lẽ an ủi ái thê đang nức nở, thẳng thắn đón nhận ánh nhìn của Sở Bắc Tiệp.

    Trong ánh mắt Sở Bắc Tiệp, ngoài sự kiên nghị, cương trực, cố chấp, ngang ngược, còn ẩn chứa cả tia sợ hãi xen lẫn chờ đợi khẩn cầu.

    Nơi sâu thẳm đôi mắt ấy đang trào dâng cơn sóng dữ, dần nhấn chìm nỗi tuyệt vọng không dám tin.

    Sở Bắc Tiệp bỗng thấy trên khuôn mặt Tắc Doãn - kẻ địch trước đây của mình - thấp thoáng sự cảm thông.

    “Không thể nào, không thể nào…” Như bị đao sắc đâm thẳng vào tim, Sở Bắc Tiệp gầm lên, loạng choạng lùi về sau mấy bước, gọi lớn. “Sính Đình, Sính Đình! Nàng mau ra đây! Ta đến rồi, Sở Bắc Tiệp đến rồi!”.

    “Ta đến để đền tội với nàng! Tùy nàng trách phạt! Sính Đình, nàng ra đây!”

    Sở Bắc Tiệp gầm lên như con mãnh thú bị thương, chấn động cả núi rừng, khiến những bông tuyết đang đậu trên cành cây cũng kinh hãi rơi xuống. Cả sơn mạch Tùng Sâm trầm mặc trong tiếng gào thét bi thương của Sở Bắc Tiệp.

    Sao có thể? Điều này sao có thể xảy ra?

    Những ngón tay khéo léo ấy, nụ cười tuyệt thế ấy, hương thơm ngây ngất lòng người và cả dáng hình mềm mại ấy, sao có thể mất đi?

    Chàng nghe rất rõ, nàng đang đánh đàn, hát khúc anh hùng giai nhân, hỗn loạn làm sao, thành làm vua bại làm giặc, dùng binh không ngại dối lừa, hát khúc đa tình tương tư, vừa gặp đã vui.

    Rõ ràng nàng đang ở đây, ngay trong gió, trong sương, trong mây, trong tuyết, với nụ cười nhàn nhã, đôi mắt đen lặng lẽ nhìn chàng như muốn dốc bầu tâm sự.

    Ở đâu? Sính Đình đang ở đâu?

    Sở Bắc Tiệp đờ đẫn quay người, nhìn về phía cỗ quan tài cô độc đằng kia.

    “Nàng ấy đã đến được chân núi, nhưng gặp bầy sói dữ, chỉ còn cách một đoạn”, Tắc Doãn trầm giọng, “Chỉ còn cách một đoạn đường…”.

    Dương Phượng dần bình tĩnh, nhìn Sở Bắc Tiệp bằng đôi mắt vằn những tia máu, giọng thê thảm: “Muội ấy đến tìm ta, ta biết muội ấy sẽ đến tìm ta. Muội ấy vẫn cài cây trâm dạ minh châu ta tặng, vượt qua sơn mạch Tùng Sâm, vượt qua ngàn dặm xa xôi để đến đây tìm ta. Sao ta lại không sớm sai người xuống núi? Tại sao? Tại sao…”. Gục đầu vào Tắc Doãn, hai vai Dương Phượng run lên bần bật.

    Sở Bắc Tiệp vẫn nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài, không còn hồn phách.

    Chàng tiến đến bên cỗ quan tài, từng bước chân như giẫm lên mây, hư ảo, không chút thực tại.

    Tất cả tựa một giấc mộng, có lúc cỗ quan tài ở ngay trước mắt, có lúc lại như ở rất xa. Chỉ cách mấy bước chân mà chàng phải dốc hết sức lực mới có thể đi đến.

    Cuối cùng, Sở Bắc Tiệp cũng chạm được vào cỗ quan tài, khí lạnh từ đầu ngón tay lan tới tận tim, khiến một Sở Bắc Tiệp uy danh lẫy lừng khắp thiên hạ cũng phải rùng mình.

    “Sính Đình, nàng ở đây…”, Sở Bắc Tiệp dịu dàng thì thầm với cỗ quan tài.

    Chàng muốn mở nắp quan tài, ôm lấy ái thê, vương phi của chàng, Bạch Sính Đình của chàng.

    Nhưng, khi mười ngón tay chạm vào nắp quan tài, Trấn Bắc vương hùng dũng ngày nào giờ lại chẳng còn chút sức lực. Bàn tay chai sần run rẩy, cố gắng thế nào cũng không thể ngừng run.

    “Nàng ấy gặp phải bầy sói, chỉ còn lại cây trâm dạ minh châu, bộ y phục rách nát, và cả…”, nắm tay thật chặt, Tắc Doãn hạ giọng, “Và cả mấy khúc xương”.

    Từng tiếng nặng tựa ngàn cân, đập thẳng vào tim, hai đầu gối không còn sức lực, Sở Bắc Tiệp khuỵu xuống.

    Chàng vẫn khẽ khàng mân mê cỗ quan tài vừa lạnh vừa cứng.

    Sính Đình đâu có thế này. Nàng nhỏ nhắn, hoạt bát. Những ngày đông, má nàng phớt hồng như áng mây. Nàng thích ngắm sao trong đêm tuyết, lúc ấy nàng hệt như con mèo tìm đến lồng ngực ấm áp và vững chãi của chàng, thoải mái tựa đầu vào đó.

    “Sính Đình…” Sở Bắc Tiệp mở rộng vòng tay, dốc hết sức ôm nàng vào lòng.

    Chàng đến muộn rồi, muộn đến thảm hại.

    Đáng lẽ chàng phải về vào đêm mồng Sáu, mở rộng vòng tay ôm lấy Sính Đình đang tựa cửa ngóng trông. Chàng phải ôm lấy nàng, không cho bất cứ việc gì có thể làm tổn thương nàng, để tất cả nguy hiểm rời xa, để nàng mỉm cười, để nàng uể oải đọc sách trong những ngày đông ấm áp, để nàng tự do tự tại, vô lo vô nghĩ mà thai nén hài nhi của họ.

    “Gả cho ta nhé?”

    “Tại sao?”

    “Nàng giỏi đàn, giỏi ca hát, có cốt cách, lại khéo léo”, nụ cười tuấn tú khôi ngô của chàng tựa như thuốc độc ăn mòn trái tim nàng, “So với những nữ nhân kia, ta bằng lòng lấy nàng”.

    “Thiếp…”

    “Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”

    Không phụ bạc? Không bao giờ phụ bạc ở đâu?

    “Chàng sống, thiếp cũng sống. Chàng chết, thiếp nguyện chết cùng chàng.”

    Nụ cười của nàng, cái nhíu mày của nàng như vẫn đang trong không trung, trong hương hoa.

    Ở bất cứ nơi đâu.

    “Vương gia đi đánh trận sao?”

    “Vương gia không cần giải thích với Sính Đình. Ngoài Vương gia, hiện giờ Sính Đình không muốn có bất cứ vướng bận nào.”

    “Sính Đình một thân đón sinh thần của mình, sinh thần của Vương gia, chúng ta có thể ở bên nhau không?”

    Chàng không làm được, chàng đã phụ nàng.

    Để nàng giẫm lên từng mảnh tim vỡ, dưới ánh đao sắc bén, bước lên xe ngựa tiến về nơi xa.

    Để nàng mang trong mình cốt nhục của chàng lưu lạc đến Vân Thường, vượt qua núi tuyết, nếm đủ nỗi thống khổ chốn nhân gian.

    Để nàng bị bầy sói dữ bao vây, giằng xé thịt da, cắn hết gân cốt.

    “Không!” Sở Bắc Tiệp điên cuồng thét dài một tiếng, rồi dứt khoát rút bảo kiếm.

    Bảo kiếm uy chấn thiên hạ bị Trấn Bắc vương vứt xuống đất, lưỡi kiếm chạm tới nền đá, “keng” một tiếng, tóe lửa.

    Sở Bắc Tiệp chậm rãi quay lại nhìn Dương Phượng: “Ta đã phụ Sính Đình, ngươi ra tay đi”. Không nhiều lời, chàng ngẩng đầu, nhắm mắt.

    Im lặng hồi lâu, Dương Phượng bỗng vùng khỏi vòng tay Tắc Doãn, tiến tới nhặt bảo kiếm trên đất. Thanh kiếm rất nặng, dù Dương Phượng đã bê bằng hai tay, nhưng vẫn vô cùng run rẩy.

    Mũi kiếm chĩa thẳng vào cổ họng Sở Bắc Tiệp. Chỉ cần chạm nhẹ, danh tướng đương thời, Trấn Bắc vương mà quân vương các nước đều muốn diệt trừ cho hết hậu họa sẽ mãi mãi biến mất khỏi cõi đời này.

    Tách, tách…

    Linh đường vô cùng yên ắng, chỉ còn lại tiếng giọt nước mắt của Dương Phượng đang nhỏ từng giọt, từng giọt xuống đất.

    Vừa rồi còn hận nam nhân này đến thế, hận đến nỗi sẵn sàng cùng hắn tìm đến cái chết, nhưng lúc này đây, khi đang cầm kiếm chĩa thẳng vào cổ họng hắn, nàng lại run rẩy.

    Sính Đình, Sở Bắc Tiệp khiến muội đau lòng rơi lệ, khiến muội tuyệt vọng đến tan nát cõi lòng đang ở dưới kiếm của ta.

    Liệu hắn có từng làm nàng mỉm cười hạnh phúc?

    “Thiên hạ mênh mông, muội có thể đi đâu?”

    “Muội phải về nhà.”

    “Về nhà?”

    “Có người đang đợi muội.” Sính Đình cười nhẹ, trong mắt ánh lên vẻ dịu dàng và khao khát, khẽ đưa tay vuốt lại những sợi tóc bị gió thổi bay.

    Dương Phượng nhớ rất rõ, Sính Đình đứng bên cửa sổ, ánh mắt tha thiết hướng về phía Đông Lâm xa xôi, nơi có Sở Bắc Tiệp.

    Cánh tay cầm kiếm của nàng run rẩy, những ngón tay vẫn nắm chặt dần buông ra, bảo kiếm rơi xuống chân Dương Phượng.

    Sở Bắc Tiệp ngạc nhiên, mở mắt.

    Dương Phượng lạnh lùng: “Ta không cho phép ngươi xuống suối vàng làm phiền Sính Đình. Muội ấy không muốn gặp lại ngươi”. Dương Phượng đờ đẫn vỗ về cỗ quan tài, nhẹ giọng, “Sính Đình, ta biết muội mệt rồi. Muội hãy nghỉ đi, từ nay về sau muội sẽ không còn phải đau lòng vì ai nữa”.

    Ở ngay kia, đang nằm đó là nữ nhân thân yêu trong lòng Sở Bắc Tiệp, vương phi của chàng, mẫu thân của con chàng. Sở Bắc Tiệp còn sống hay đã chết đều không còn mặt mũi nào gặp lại Sính Đình.

    Đúng thế, đúng là chàng đã hại chết nàng.

    Sính Đình sẽ không bao giờ tha thứ cho chàng, dù cho chốn nhân gian hay xuống tận suối vàng.

    Chết, chàng chẳng còn mặt mũi nào mà xin nàng tha thứ. Sống, chàng không còn mặt mũi nào tìm kiếm thi thể của nàng.

    Tuyệt thế giai nhân mà chàng dốc lòng theo đuổi đã bị chính chàng đẩy vào chỗ chết.

    “Ngươi nói đúng…” Ánh mắt trống rỗng, Sở Bắc Tiệp như bức tượng bùn, chầm chậm đứng dậy, “Ngươi nói đúng…”. Chàng lưu luyến nhìn cỗ quan tài, nhưng không đủ dũng khí để chạm tay thêm lần nữa.

    Chàng có tư cách gì mà chạm vào đó?

    Sở Bắc Tiệp quay đi, trong mắt chàng không còn bất cứ ai, không có Dương Phượng, không có Tắc Doãn, cũng chẳng thấy cả con đường.

    Chàng quên bảo kiếm, quên tất cả, bước ra đại môn, đờ đẫn nhìn đằng trước, đi về phía rừng sâu. Tuấn mã đang gặm cỏ khô ngoài cổng hí vang một tiếng, chạy theo sau Sở Bắc Tiệp.

    Nó không thể hiểu, tại sao chủ nhân đi vào căn nhà gỗ, sau khi bước ra lại không còn hồn phách.

    Thuộc hạ của Tắc Doãn nhìn thấy một người một ngựa rời đi, hạ giọng hỏi: “Thượng tướng quân, người này là kẻ địch lớn nhất của Bắc Mạc, chúng ta có nên nhân cơ hội…”.

    Tắc Doãn chăm chú dõi theo bóng hình Sở Bắc Tiệp, lắc đầu thở dài: “Người ấy không còn là cường địch của bất cứ ai”.

    Trấn Bắc vương uy danh hiển hách đã không còn nữa.

    Trái tim chàng cũng đã chết
     
  4. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 43
    Đại quân Bắc Mạc đang trên đường trở về.

    Nhược Hàn nhận được thư của Tắc Doãn do lính đưa thư mang về.

    Trái tim đã trải qua bao trận chiến chùng xuống theo từng câu chữ.

    Bức thư mỏng bỗng trở nên nặng trĩu, hai tay Nhược Hàn nắm chặt bức thư, nhìn về phía Sâm Vinh thở dài: “Bạch cô nương mất rồi”. Khuôn mặt của vị tướng lĩnh đứng đầu Bắc Mạc như phủ đầy một lớp sương băng giá.

    Đi rồi, nữ thống soái phong thái trác tuyệt ấy đã đi rồi.

    Nàng chết ở sơn mạch Tùng Sâm băng lạnh, xương cốt bị bầy lang sói tha đi khắp nơi, chỉ còn lại cây trâm dạ minh châu tinh xảo sáng trên nền tuyết.

    Trận chiến Kham Bố, nàng ung dung cười nói trước đại quân Đông Lâm… Ai ngờ, bậc kỳ nữ ấy lại có kết cục thế này?

    Sâm Vinh sững sờ hồi lâu, giọng rất khẽ: “Có thật không?”.

    Thật không thể tin, thật khiến người ta không thể nào tin.

    Bạch Sính Đình, một khúc đàn của nàng đã đuổi lui mười mấy vạn quân dưới thành Kham Bố.

    Chỉ cần một khúc.

    “Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng cũng đổ bệnh rồi.” Ngừng một chút, Nhược Hàn cười chua chát, “Chúng ta đều đã lầm”.

    Sâm Vinh không hiểu.

    Nhược Hàn đáp: “Sở Bắc Tiệp vì không biết nơi ẩn cư của Thượng tướng quân Tắc Doãn, nên nửa đêm mới xông vào doanh trại quân ta, lớn tiếng dọa dẫm. Hắn đã đi theo lính truyền tin của chúng ta đến chỗ Thượng tướng quân Tắc Doãn”.

    Sâm Vinh biến sắc: “Đó chẳng phải vì…”.

    “Sở Bắc Tiệp không đến để giết người, mà đến để tìm người, tìm vương phi của mình, Bạch Sính Đình.”

    “Sở Bắc Tiệp chẳng màng sống chết, nửa đêm xâm nhập quân doanh của chúng ta không vì quốc gia đại sự mà chỉ bởi vì nhi nữ tình trường.” Sững sờ hồi lâu, Sâm Vinh thở dài, “Hóa ra Sở Bắc Tiệp tấn công Vân Thường vì Bạch cô nương. Đây không phải cái cớ, mà thực sự là như vậy”.

    Nhược Hàn gật đầu, đáp: “Đúng vậy, nay Bạch cô nương đã bỏ mạng ở sơn mạch Tùng Sâm, hùng tâm tráng chí của Sở Bắc Tiệp cũng hết. Tuy hắn và Bắc Mạc ta có mối thâm thù, nhưng hắn thực sự là bậc anh hùng khó kiếm thời nay”.

    Đáng tiếc và đáng buồn thay.

    Một kẻ là anh hùng, một người là giai nhân.

    Ông Trời thật biết trêu đùa con người.

    Hai vị chiến tướng từng đi theo Sính Đình trong trận đánh Kham Bố nên lòng không khỏi buồn thương. Trầm ngân giây lát, Sâm Vinh khẽ bảo: “Dù người khác nghĩ thế nào, tối nay Sâm Vinh cũng phải tìm một nơi thắp nén nhang cho Bạch cô nương. Thuộc hạ sẽ lấy bên quản lương quân vụ ít rượu thịt ngon, còn nữa, trong doanh trại còn mấy vò rượu, thuộc hạ cũng lấy hết. Thượng tướng quân, trong quân không cho phép tướng lĩnh uống rượu, nhưng Sâm Vinh mong Thượng tướng quân nể tình, cho phép tối nay thuộc hạ được uống cho thỏa, được không?”.

    “Sao lại không được?”, Nhược Hàn cảm khái, “Đêm nay, tất cả tướng lĩnh Bắc Mạc từng tham gia trận chiến Kham Bố sẽ vì Bạch cô nương mà uống say một trận dưới trăng”.

    Say sẽ quên nỗi đau, sao có thể không say?

    Thế gian này, liệu có mấy Bạch Sính Đình?

    Sắc trời sao cứ mãi u ám, u ám đến nỗi như mang điềm chẳng lành.

    Và cả đôi mắt nàng cũng như có ai đang bịt chặt, không thể mở ra được?

    Trong trí nhớ, nàng đã ở giữa mênh mông tuyết trắng, hương thơm của tuyết xộc vào mũi, thấm vào gan, vào ruột.

    Nàng cũng từng mặc xiêm áo lộng lẫy, chân trần đứng trên ca đài tinh tế của vương phủ, khẽ cất giọng hát. Bất chợt nhìn xuống, nàng thấy những khuôn mặt thân thuộc đi ngang qua bị giọng hát của nàng níu lại, mọi người đều say mê lắng nghe.

    Nhưng rồi tất cả đều tan biến.

    Khi nào? Tại sao? Nỗi bi ai bỗng đè nặng khiến người ta không hiểu rõ nguyên nhân, dường như không có lý do, bi ai vì số trời đã định, hay để bù lại sự thông minh mà ông Trời ban tặng?

    “Cô nương? Cô nương?”, giọng nói từ xa vọng lại.

    Sính Đình mở mắt, đôi đồng tử dần thu lại ở một điểm. Bóng người trong mắt có chút quen thuộc, nhưng nàng nhất thời không nhớ ra là đã gặp ở đâu.

    Đây là đâu? Nàng quay lại, muốn nhìn xung quanh, nhưng cả người ê ẩm như bị ai đánh, khẽ động một sợi tóc cũng thấy đau.

    “A…” Nàng từ từ thở ra một hơi, chờ cơn đau đi qua.

    Hài tử đâu?

    Đúng rồi, hài tử của nàng! Nàng bỗng choàng tỉnh, mở mắt, hai tay ôm lấy bụng, khao khát nghe được dù chỉ một động tĩnh nhỏ nơi ấy.

    “Đừng sợ, chúng ta đã cho cô nương uống thuốc rồi. Cô nương và cả đứa bé trong bụng đều không sao”, khuôn mặt trước mắt nàng cười vui vẻ.

    Nỗi lo lắng được dẹp yên, nàng nhìn lên trần nhà. May quá, hình như đã rất lâu rồi nàng không thấy trần nhà, mà quanh nàng chỉ có đá và tuyết, như thể sẽ không bao giờ lại được thấy trần nhà nữa.

    May quá, cuối cùng nàng cũng được cứu.

    “Túy Cúc đâu? Dương Phượng đâu?”, Sính Đình nhìn quanh.

    “Túy Cúc là ai? Dương Phượng…” Khuôn mặt vuông vức có chút không hiểu, nhưng chỉ lúc sau lại bật cười vui vẻ, “Ta biết rồi, cô nương đang nói tới Thượng tướng quân phu nhân? Ai ya, cô nương vẫn chưa tìm thấy Thượng tướng quân phu nhân sao? Bao lâu rồi, ngựa đã sinh ra ngựa con rồi mà cô nương vẫn chưa tìm thấy người”.

    Nhất định nàng đã quên mất việc gì. Lo lắng nhìn khuôn mặt đang tươi cười kia, Sính Đình sực nhớ, vội hỏi: “Huynh chính là đại hán cao lớn ta gặp trên đường tới sơn trại Đóa Đóa Nhĩ, tên A Hán?”.

    “Ha ha, cô nương nhớ ra rồi đấy! Chính là ta, A Hán! Cô nương còn tặng ngựa cho ta, bảo ta giữ lại tiền tìm một thê tử tốt”, A Hán cười sang sảng, “Nói cho cô nương biết, ta đã có thê tử, sắp có tiểu A Hán rồi”.

    Nóc nhà như cũng đang rung theo tiếng cười của A Hán.

    Sính Đình cười theo, ngạc nhiên hỏi: “Huynh không biết Túy Cúc ư? Thế sao huynh lại biết ta ở trên núi?”.

    “Ta gặp cô nương mà. Ta lên núi tìm thỏ rừng về bồi bổ cho thê tử. Có con thỏ xám bị trúng tên, nhưng vẫn chạy rất nhanh, nó chui vào đống đá nên không thấy đâu. Ta vào tìm, ai ya, thỏ đâu chẳng thấy, chỉ thấy một cô nương bị lạnh cóng trong đó”, A Hán hưng phấn kể lại, giọng vui vẻ.

    “Huynh đã cứu ta?”

    “Tất nhiên, tất nhiên rồi!”, A Hán làm động tác, “Cõng cô nương từ trên núi tuyết về đây, còn mang cả cung tiễn và thỏ rừng, may mà ta vẫn đủ sức. Cô nương sắp bị đông cứng, uống bao nhiêu canh thỏ rừng mới đỡ đấy. Canh thỏ rừng bồi bổ cơ thể mà. Còn cả thuốc an thai là nhờ người lấy cho thê tử nữa, đều mang ra chăm sóc cô nương”.

    Nghe A Hán nói vậy, trong lòng Sính Đình vừa cảm kích vừa ái ngại.

    “Xin lỗi đã làm phiền huynh.”

    “Không sao, thê tử ta da dày xương khỏe, mang thai tiểu A Hán vẫn làm việc được, không sợ đâu.”

    Đúng lúc A Hán đang đắc ý, bên kia nhà một nữ nhân mặc chiếc áo bông to đùng tiến lại, bụng đã nhô cao, cười hỏi: “A Hán, chàng lại đang nói chuyện một mình đấy ư?”.

    “Thê tử, lại đây, cô nương ấy tỉnh rồi!”, A Hán vẫy nữ nhân đó tới, vui vẻ giới thiệu với Sính Đình, “Đây là thê tử của ta”, rồi chỉ xuống bụng thê tử, giọng rất vui, “Còn đây là tiểu A Hán”.

    A Hán tẩu cười véo A Hán một cái: “Hết củi rồi, đi chặt củi đi”, rồi nói với Sính Đình, “Cô nương tỉnh rồi. Ngày đông giá buốt, sao cô nương lại một mình lên núi tuyết thế? Sơn thần Tùng Sâm không dễ đùa đâu, mùa này đến nam nhân còn không dám lên đó, A Hán là đồ ngốc mới giấu ta lên đó săn thỏ rừng”.

    A Hán tẩu cũng nhiệt tình giống hệt A Hán, bô lô ba la một hồi không ngớt. Có lẽ bởi người được cứu đã tỉnh, A Hán tẩu cảm thấy rất vui, thích thú ngắm nghía Sính Đình: “Ăn thêm con gà béo nữa là sắc mặt cô nương sẽ tốt lên ngay”.

    Nhưng lúc này trong lòng Sính Đình lại nghĩ đến chuyện khác.

    Đã hết kỳ hạn ba ngày chưa?

    Giả như cứu binh tới tìm mà không thấy nàng, Dương Phượng và Túy Cúc sẽ lo lắng biết chừng nào?

    Nhưng, ông Trời vẫn từ bi cho mẫu tử nàng qua được kiếp nạn này.

    Hài tử của ta thật phúc lớn, mệnh lớn.

    Sính Đình dịu dàng xoa bụng, bên trong hơi cồm cộm, vừa như mềm mềm, lại như cứng cáp, một cảm giác ấm áp không nói nên lời. Đó là cảm giác của sự sống.

    “A Hán tẩu, ta muốn…”

    “Đói rồi à? Để ta đi lấy đồ ăn cho.” Vị A Hán tẩu này nói là làm, thật là một đôi trời sinh với A Hán.

    “Không, không…”, Sính Đình lắc đầu, “Ta muốn lên đường”.

    A Hán tẩu trợn mắt: “Lên đường? Bộ dạng cô nương lúc này, muốn đi đâu? Không được, không được, ta vẫn chuẩn bị ngày mai làm một con gà béo”.

    “Ta nhất định phải đi”, Sính Đình cố nhổm dậy, “Ta phải đi tìm Dương Phượng, tìm Thượng tướng quân Tắc Doãn”.

    A Hán ở bên ngoài chặt củi, nhưng vẫn dỏng tai nghe ngóng động tĩnh bên trong, lúc này bèn ngó đầu vào, hét lớn: “Thượng tướng quân quy ẩn rồi, cô nương không tìm được đâu. Nghe nói Đại vương cũng không tìm thấy ông ấy”.

    “Không, ta biết Tắc Doãn ở đâu. Ta phải đi ngay, không tìm thấy ta, họ sẽ rất lo lắng.”

    Dương Phượng và Túy Cúc nhất định sẽ rất lo lắng.

    Cơn rét đậm sắp qua, ánh mặt trời chiếu rọi, nước tuyết men theo những chỗ đất trũng, chậm rãi chảy khắp nơi.

    Tuyết trên sơn mạch Tùng Sâm cũng sẽ tan ra như thế sao?

    Cầm hổ phù của Vân Thường, dẫn binh xuất chinh, hôm nay lên triều đường, trước mặt bá quan văn võ, Hà Hiệp hai tay kính cẩn hoàn trả hổ phù.

    Trận chiến đã kết thúc, quyền lực điều động đại quân phải trả về cho Công chúa Diệu Thiên.

    Thấy hổ phù trong tay Hà Hiệp quay trở về tay Công chúa trước bao ánh mắt nhìn vào, trong lòng Quý Thường Thanh thầm thở phào.

    Diệu Thiên đối với Hà Hiệp tình nghĩa sâu nặng, nếu không có lão Thừa tướng này liên tục nhắc nhở, nàng sẽ không đời nào chịu ban bố vương lệnh thu hồi hổ phù.

    “Phò mã giận sao?” Kết thúc buổi chầu sớm, Diệu Thiên nhìn chằm chằm hổ phù vừa được trả về, trong lòng thấp thỏm không yên, bèn vội vã sai Lục Y triệu Phò mã đến. Thấy Phò mã thần thái hưng phấn, nhận lệnh đến ngay, trong lòng nàng mới bớt lo.

    Hà Hiệp ngạc nhiên: “Sao Hà Hiệp phải tức giận?”.

    “Diệu Thiên thu lại hổ phù.”

    Hà Hiệp hiểu ra, cười ha ha, nhìn Diệu Thiên vừa như thương xót, vừa như không biết làm thế nào cho phải, rồi lắc đầu nói: “Sao Công chúa lại nghĩ thế? Chẳng lẽ ta và nàng không phải phu thê? Ta dù đố kỵ ai thì cũng không thể đố kỵ với thê tử của mình”. Hà Hiệp ngồi xuống cạnh Diệu Thiên, nắm tay nàng, vẻ mặt bỗng trở nên thần bí, hạ giọng: “Thừa tướng chúc Công chúa sớm sinh quý tử, làm thế nào mới xin được Công chúa vương lệnh cho bản phò mã giúp một tay đây?”.

    Diệu Thiên thấy Hà Hiệp ngồi xích lại, hạ giọng thì thầm, cứ ngỡ có việc gì đại sự, nên lắng tai nghe, mới biết người này đang đùa mình. Hai má đỏ bừng, nàng cau mày quay sang một bên, giận dỗi: “Vừa kết thúc buổi chầu sớm, Phò mã đã không đứng đắn rồi, để Thừa tướng biết được, chẳng biết sẽ bị giáo huấn bao nhiêu lâu”.

    “Công chúa nói lời này không đúng rồi”, Hà Hiệp cực kỳ nghiêm túc, ngồi thẳng lưng, e hèm mấy tiếng, “Sinh con đẻ cái là việc lớn trong đời, ngay cả lão thần cẩn trọng như Thừa tướng cũng đã nhắc đi nhắc lại chuyện đó, sao có thể gọi là không đứng đắn? Dù Công chúa có hạ vương lệnh hay không, bản phò mã cũng phải giúp nàng việc này”.

    Trong lòng cảm thấy ngọt như ngậm đường phèn, Diệu Thiên đỏ mặt: “Không tìm Phò mã giúp thì tìm ai?”, giọng nói nhỏ như tiếng muỗi kêu, khiến người ta gần như không nghe thấy.

    “Thế thì tối nay ta ở phủ phò mã cung nghênh Công chúa đại giá.” Hà Hiệp khấp khởi, mặc kệ lễ nghi vương thất, khẽ thơm một cái vào má Diệu Thiên, rồi đứng dậy, “Ta đi xử lý quân vụ, Công chúa nhớ kỹ cái hẹn tối nay”.

    Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp cất bước, dáng như hổ, như rồng, khóe môi không giấu nổi nụ cười tự hào. Đúng lúc Lục Y mang chè hạt sen đường phèn đến, nhìn vẻ mặt Diệu Thiên, bèn cười nói: “Nô tỳ đã nói sáng sớm thế này cần gì phải mang nước đường lên, Công chúa vừa gặp Phò mã đã thấy ngọt đến phát ngấy rồi, sao có thể nếm vị ngọt khác được”.

    “Lục Y, giờ ngươi giỏi lắm rồi, còn dám trêu cả ta?”, Diệu Thiên quay về vẻ đoan trang thường thấy, nạt một câu: “Chắc chắn là học theo Phò mã rồi”. Nhưng không nhịn được, nàng cũng bật cười.

    Đêm đó khi đến phủ phò mã, xuống xe ngựa, nàng vẫn không thấy Hà Hiệp đâu. Đông Chước chạy đến thỉnh an: “Công chúa điện hạ, Phò mã sai người đến chuyển lời, hôm nay Phò mã phải xử lý việc quân, nên về muộn một chút. Cơm tối đã chuẩn bị xong, Phò mã dặn chuẩn bị toàn những món Công chúa thích ăn, Công chúa dùng cơm ở phòng bên của hậu viện được không?”.

    Diệu Thiên nghe thấy Hà Hiệp chưa về, không khỏi cảm thấy thất vọng, đành gật đầu: “Tùy ngươi”.

    “Vậy bảo bọn họ bày đồ ăn ở phòng bên của hậu viện.”

    Cơm canh quả nhiên vừa miệng, Diệu Thiên vẫn thường đến phủ phò mã, các đầu bếp trong phủ đã quen với khẩu vị của nàng nên dốc hết tâm huyết vào từng món, thậm chí còn làm tinh tế hơn các đầu bếp trong vương cung.

    Nhưng Hà Hiệp không có ở đây, Diệu Thiên cảm thấy thực vô vị. Nàn uể oải nhấc đũa, mấy lần ngẩng lên nhìn sắc trời, rồi bảo Lục Y sai người đi nghe ngóng tình hình.

    Lục Y đáp: “Không cần Công chúa dặn dò, nô tỳ đã sai người đi hỏi từ trước rồi. Tuy đại chiến đã kết thúc, nhưng phải trợ cấp khao thưởng quân sĩ, cũng rất bận rộn”.

    Diệu Thiên thở dài buồn bã.

    Đợi đến hơn nửa canh giờ, Lục Y nãy giờ vẫn chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ bỗng kêu lên: “Phò mã về rồi!”.

    Diệu Thiên mừng thầm, nhanh chóng đứng dậy nhìn ra ngoài cửa sổ, quả nhiên, hình bóng oai phong quen thuộc ấy đang tiến về phía này. Hà Hiệp vừa vào đến cửa đã lau mồ hôi, cười hỏi: “Công chúa đã dùng cơm chưa?”.

    “Ăn rồi, Phò mã ăn chưa?”

    “Đâu có thời gian mà ăn!” Hà Hiệp vứt chiếc khăn trắng lau mồ hôi cho người theo hầu, ngồi xuống bên bàn. Diệu Thiên vội sai thị nữ mang cơm canh nóng lên, rồi tự mình lấy cho Phò mã đôi đũa. Hà Hiệp nhận lấy, cười với nàng, vừa gắp thức ăn vừa giải thích: “Ta cũng muốn về sớm, nhưng việc hôm nay không làm cho hết, ngày mai càng không có thời gian. Bắt Công chúa phải đợi, thực là lỗi của ta”.

    “Việc quân bận như thế, thiếp thấy hay là điều hai vị quan võ qua, giúp Phò mã gánh vác một phần công việc.”

    Hà Hiệp vội vã và cơm, lắc đầu nói: “Giờ không lo người ít, chỉ lo người đông, điều hai người nữa tới lại càng thêm bận”.

    Thấy Diệu Thiên không hiểu. Hà Hiệp nhẫn nại giải thích: “Những việc trợ cấp khao thưởng, bình xét cấp bậc đều không khó. Cái khó nằm ở chỗ điều động tiền lương[1]. Trong phạm vi cai quản của ta không có kho tiền lương riêng chỉ dùng cho việc quân, món tiền nào cũng phải xin lĩnh bên quốc khố. Xin lĩnh một món không biết phải có bao nhiêu cái gật đầu của các quan, phải viết bao nhiêu tờ khai. Ta có thể đợi, nhưng các binh sĩ trong quân thì đợi thế nào? Hôm nay ta mất bao nhiêu thời gian ở bên quốc khố, họ mới chịu phê duyệt tiền thưởng cho năm ngàn người đầu tiên, ngày mai lại tiếp tục phải sang bên đó”.

    [1] Thời trước, khi thu thuế ruộng, có thể thu lương thực, có thể thu tiền, nên gọi chung là tiền lương.

    Diệu Thiên nghe rất chăm chú, tay cũng cầm đôi đũa, vừa gắp thức ăn cho Hà Hiệp, vừa chậm rãi đáp: “Đây không phải chuyện nhỏ, khao thưởng trợ cấp chậm trễ thế này, các binh sĩ sẽ không vui, như thế chẳng phải sẽ khiến lòng quân dao động sao?”.

    Rõ ràng Hà Hiệp đã rất mệt, bát cơm đầu tiên nhanh chóng chui vào bụng, lại bảo thị nữ xới thêm bát nữa. Hà Hiệp tán đồng: “Công chúa nói rất đúng. Nhưng hiện giờ ta không lo lắng điều này, cùng lắm thì ta mệt thêm một chút, kiểu gì cũng xong. Nhưng điều động tiền lương cho quân chậm chạp như vậy, nhỡ khi chiến tranh xảy ra, tình thế nguy cấp, lấy đâu thời gian mà xin xỏ hết cấp này đến cấp khác? Quân Đông Lâm đã đến đây một lần, quen thuộc đường sá địa hình, lần sau đến, chưa chắc họ đã cho chúng ta thời gian chuẩn bị như lần này”.

    Hà Hiệp trước nay nổi danh tướng tài, Diệu Thiên cũng đã chấp chính nhiều ngày, biết hắn nói không sai, nên chẳng hề do dự mà bảo ngay: “Đúng là quân binh cần có kho tiền lương riêng của mình. Buổi chầu sớm mai thiếp sẽ hạ vương lệnh, lập ra một kho mới giao cho Phò mã quản lý. Có tiền, có lương thực mới dễ cầm quân”.

    Hà Hiệp khẽ cười khuyên giải: “Công chúa đừng vội hạ lệnh, hãy cứ bàn bạc với Thừa tướng trước thì hơn. Đến lúc làm rồi mà Thừa tướng không biết, ông ấy sẽ lại giáo huấn chúng ta”.

    “Phò mã yên tâm, những việc có lợi cho Vân Thường, Thừa tướng vẫn luôn đồng ý.”

    Nói xong chuyện chính, Hà Hiệp cũng dùng cơm xong, bèn thoải mái vươn vai. Hà Hiệp nhìn sang Diệu Thiên, mỉm cười tà ý: “Đã nói xong việc quốc gia đại sự, giờ đến chuyện giữa phu thê chúng ta. Công chúa muốn nghe lời ngon tiếng ngọt gì, xin hãy hạ vương lệnh”.

    Diệu Thiên giận dỗi: “Phò mã đàng hoàng lúc nãy chạy đi đâu mất rồi? Thiếp sẽ chẳng bao giờ ra vương lệnh này, Phò mã toàn nói những lời ngon tiếng ngọt, khiến người ta không nghe nổi”.

    Hà Hiệp sảng khoái tiếp lời: “Được, vậy từ nay ta sẽ không nói nữa, Công chúa đừng có đau lòng. Để ta nghĩ xem, nếu đã không thể nói những lời ngọt ngào, thì phải làm gì để vui lòng ái thê của ta”.

    Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp nghĩ ngợi sâu xa, dưới ánh nến, hai hàng mày nhướng lên khiến khuôn mặt càng thêm tuấn tú, có thêm chút tà ý khiến người ta yêu thích. Xung quanh toàn tâm phúc, không có người ngoài, Diệu Thiên cũng không còn vẻ gò bó của chủ nhân một nước nữa, mà tươi cười chọc ngón tay vào vai Hà Hiệp, nũng nịu: “Phò mã không được giả vờ, nhìn bộ dạng chàng thế này, chắc chắn còn đang giấu thiếp điều gì. Phò mã mau mang ra tiến cống, nếu không đừng trách thiếp dùng gia pháp hầu hạ”.

    Thấy ái thê nũng nịu, Hà Hiệp liền nắm lấy cổ tay Diệu Thiên, hơi dùng lực. Diệu Thiên kêu lên một tiếng, người co lại. Hà Hiệp ôm lấy eo nàng, rồi thuận đà bế nàng ngồi lên đùi mình, vuốt ve khuôn mặt nàng, hỏi: “Ca vũ có thích không?”.

    “Ca vũ gì?”.

    Đôi mắt lấp lánh như kim cương đen nhìn chăm chăm Diệu Thiên, Hà Hiệp bất ngờ cúi xuống, cắn nhẹ vào gáy nàng. Diệu Thiên kêu lên một tiếng, còn chưa kịp trách cứ, Hà Hiệp đã trêu: “Công chúa lại gạt ta rồi. Hôm trước phủ phò mã có mời một đoàn ca vũ Bắc Mạc, người nào cũng xinh đẹp đến động lòng. Chuyện lớn như thế mà không ai bẩm báo với Công chúa sao? Nàng không biết thật à? E là đã ghen bóng ghen gió từ hôm đó tới nay rồi… A, đau quá…”.

    Diệu Thiên giận dữ véo Hà Hiệp một cái, rồi thu tay về, quay mặt đi, nói: “Phò mã nhìn nhầm người rồi, thiếp không phải nữ nhân ghen bậy”.

    Hà Hiệp xoa cánh tay bị véo: “Nếu không ghen sao lại mạnh tay như thế?”, rồi áp sát lại gần, hạ giọng nói khẽ vào tai Diệu Thiên, “Bẩm Công chúa, hai ngày nay ta bận việc, còn chưa kịp nhìn qua một lần. Chi bằng đêm nay gọi họ ra ca múa, chúng ta uống rượu lấy hứng, cũng là tránh cho Công chúa một mình ở trong cung ghen bóng ghen gió”.

    Diệu Thiên nghe Hà Hiệp nói chưa từng gặp những nữ nhân đó, trong lòng vô cùng vui vẻ, quay sang, hỏi: “Thú vị thế sao? Vậy thiếp phải xem xem ca múa Bắc Mạc có gì đặc sắc”. Nàng xoa tay cho Hà Hiệp, thẹn thùng: “Đau thật à?”.

    Không hỏi thì thôi, hỏi đến, Hà Hiệp liền nhăn nhó ngay lập tức: “Đau lắm, đau hơn bị trúng một kiếm”.

    Diệu Thiên lại đấm cho Hà Hiệp một cái, khẽ mắng: “Cái gì mà danh tướng thiên hạ, uy danh lẫy lừng, sao cứ gặp thiếp là lại thiếu đứng đắn thế này?”.

    “Nàng đâu phải binh lính của ta, ta đứng đắn làm gì?” Hà Hiệp không còn gây chuyện, cười vang sảng khoái, hào khí ngút trời.

    Lính truyền lệnh đã cho đám ca nữ Bắc Mạc đến, múa hát ngay trên bậc thềm đá trước tiểu đình trong hậu viện. Phu thê hai người ngồi trong đình vui vẻ thưởng rượu.

    Đêm đó, ông Trời cũng như tác thành cho họ, vầng trăng tròn vành vạnh trên cao soi tỏ một vườn tuyết vẫn chưa tan hết.

    Đám ca vũ mặc y phục Bắc Mạc, màu sắc vô cùng sặc sỡ, thắt lưng đeo trống, thân hình linh hoạt, hai tay gõ trống. Diệu Thiên chưa bao giờ được xem nên cảm thấy vô cùng mới mẻ, hứng thú.

    Rõ ràng đã mệt nhọc cả ngày, nhưng Hà Hiệp còn hứng thú hơn cả Diệu Thiên. Hết một điệu, hắn vỗ tay tán thưởng: “Múa rất đẹp, vì điệu này, chúng ta cùng cạn ba chén”.

    Diệu Thiên uống cùng Hà Hiệp một chén, rồi che miệng, lắc đầu nói: “Phò mã, tửu lượng của thiếp không so được với chàng, không cần uống ba chén, một chén là đủ rồi”.

    Hà Hiệp đang vui, cũng không cố ép, bèn gật đầu: “Công chúa cứ tùy ý, nhưng điệu múa uyển chuyển này thật khiến người ta mê đắm. Nhất định ta phải uống ba chén góp vui”.

    Uống liền hai chén, hắn giơ kiếm hát vang.

    “Phi thiên vũ[2], trường không mộng, tình ý chưa từng trọng…”

    [2] Đây là điệu múa mà các cô gái múa cùng dải tơ lụa trong tiếng tiêu và tiếng đàn tỳ bà.

    Giọng hát trong, làn hơi dày, vô cùng êm ái. Đã nghe quen những lời ngon ngọt của Hà Hiệp, nhưng chưa từng biết phu quân mình còn hát hay đến thế, ánh mắt Diệu Thiên vô cùng ngạc nhiên.

    Hà Hiệp chỉ hát một câu rồi thôi, cánh tay cầm kiếm cũng ngừng lại, quay đầu cười nói: “Điệu múa trống lúc nãy rất đẹp, còn điệu trống nào nữa không? Múa tiếp một điệu nữa đi”.

    Cứ thế, trăng đã lên cao, tám, chín phần rượu đã chui vào bụng Hà Hiệp. Dù tửu lượng tốt đến mức nào, thân thể hắn cũng phải loạng choạng.

    Diệu Thiên sợ Hà Hiệp uống nhiều hại đến sức khỏe, dịu giọng khuyên: “Ca vũ tuy hay, nhưng chúng ta cũng đã thỏa hứng. Vào phòng nghỉ ngơi được không?”.

    Hà Hiệp không tham uống, trước nay lại hết sức chiều chuộng Diệu Thiên nên đặt ngay chén xuống: “Đúng thế, cũng nên nghỉ ngơi, Công chúa mệt rồi”.

    Hắn đứng dậy, muốn đuổi lui đám thị nữ thị vệ, một mình bế Diệu Thiên, bước vào phòng.

    Hai người vui vẻ đến quá nửa đêm, đám người hầu hạ cũng đã buồn ngủ, thấy chủ nhân cuối cùng cũng biết là phải nghỉ ngơi, trong lòng họ thầm hô vạn tuế, đám ca vũ Bắc Mạc thì càng như được đại xá.

    Chỉ đợi Hà Hiệp và Diệu Thiên vào phòng, ở hậu viện người tắt đèn thì tắt đèn, người thu dọn thì thu dọn, chẳng mấy chốc hậu viện huyên náo ồn ào ban nãy giờ đã chìm trong yên tĩnh.

    Chỉ có vầng trăng vẫn sáng vằng vặc trên trời cao.

    Khí lạnh từ từ chuyển động.

    Đông Chước cũng mệt cả một ngày, vừa lên giường nhắm mắt đã ngủ ngay. Không biết tại sao đang ngủ hắn bỗng choàng tỉnh, mở mắt nhìn ra ngoài. Trăng vẫn sáng vằng vặc, xem ra hắn chưa ngủ được bao lâu.

    Bất giác Đông Chước nhớ đến Sính Đình.

    Sính Đình không những thích ngắm trăng, mà còn rất thích ngắm sao. Chẳng biết hiện giờ Sính Đình thế nào.

    Nghĩ đến đây, Đông Chước tỉnh hoàn toàn, dứt khoát đứng dậy, bước ra khỏi phòng. Gió lạnh ùa tới khiến hắn giật mình.

    Gió như mơ hồ mang đến cả điều gì.

    Bỗng cảm thấy lạ, Đông Chước dừng bước, lắng tai nghe. Đúng thế, quả là có tiếng gì đó. Hắn cứ bước, vòng qua hậu viện, tiếng kiếm xé gió càng lúc càng mạnh.

    Ngẩng lên nhìn, Đông Chước bất giác ngẩn người.

    Ánh trăng vằng vặc, đường kiếm âm u lạnh lẽo.

    Nơi hậu viện lạnh giá, một bóng người thoăn thoắt trên nền tuyết trắng.

    “Thiếu gia…”, Đông Chước khẽ gọi.

    Dường như Hà Hiệp hoàn toàn không biết bên cạnh có người, hai mắt ngời sáng, bảo kiếm đến đâu, ánh trăng đến đấy.

    Thấy Hà Hiệp thế kiếm đang hăng, tiếng gió vun vút khắp nơi như muốn trút sạch mọi nỗi oán hận chốn trần gian, Đông Chước chỉ biết đứng yên một bên.

    Không ai có thể làm phiền Hà Hiệp lúc này.

    Danh tướng thiên hạ, tiểu Kính An vương, đương kim phò mã Vân Thường, lúc này trong tay đang nắm chắc bảo kiếm.

    Dưới ánh trăng, Hà Hiệp say múa cùng bảo kiếm.

    Múa hết bộ Kính An kiếm pháp, trán đầy mồ hôi, chiếc áo mỏng dính chặt vào cơ thể, Hà Hiệp mới thu kiếm về, khuôn mặt chẳng chút cảm xúc, lúc ngang qua Đông Chước, lạnh nhạt buông một câu: “Bắc Mạc có câu, Sính Đình đi rồi”.

    Xách kiếm quay về tẩm phòng có Diệu Thiên đang ngủ, Hà Hiệp khẽ đẩy cửa, bước vào phòng.

    Cửa phòng yên ắng khép lại.

    Đông Chước đứng im trong gió.

    Không gian tĩnh mịch, mọi người chìm sâu trong giấc mộng ngọt ngào.

    Tiếng trống canh từ xa vọng lại, khiến nơi đây càng thêm vắng lặng.

    Sính Đình, khóe miệng duyên những lúc mỉm cười.

    Sính Đình, tỷ tỷ thích ngắm trăng.

    Đã đi rồi.
     
  5. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 44
    “Chết hay lắm, đáng chết từ lâu rồi.”

    Hương thơm vấn vít khắp phòng, trong làn hương bay, Quy Lạc vương hậu cười gằn, giọng uể oải: “Con thị nữ này cũng gọi là có bản lĩnh, đầu độc chết hai vương tử Đông Lâm, dụ dỗ Sở Bắc Tiệp. Tiểu Kính An vương coi như có chút tình chủ tớ thì cũng thôi, ai ngờ, sau khi ả chết còn được cả tướng lĩnh Bắc Mạc tế bái. Hừ, người trong thiên hạ điên hết cả rồi hay sao?”.

    “Nương nương nói rất đúng.” Nhạc Địch lúng túng vuốt bộ râu được cắt tỉa kỹ càng, “Chính xác Bạch Sính Đình chẳng đáng là gì cả. Có điều, nghe nói ả vừa chết, Sở Bắc Tiệp cũng coi như bị một đòn trí mạng, không thể gượng dậy. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tình thế hiện nay của tứ quốc”.

    “Không thể gượng dậy”, Vương hậu ngạc nhiên, ánh mắt bỗng trở nên ai oán, thở dài, “Đúng là trên đời này vẫn có những nam nhân thật lòng, nhưng sao chỉ một mình nữ tử họ Bạch kia có được? Nếu Đại vương của chúng ta được một nửa Trấn Bắc vương cũng là cái phúc của bản cung”.

    “Nương nương đừng vội cảm khái vì Sở Bắc Tiệp, trước mắt chúng ta còn việc quan trọng cần lo liệu.”

    “Việc gì?”

    Nhạc Địch mở cửa nhìn quanh, rồi khép lại, bước đến trước mặt Vương hậu, hạ giọng: “Nương nương còn nhớ Phi Chiếu Hành không?”.

    Suy nghĩ giây lát, Vương hậu như đã nghĩ ra: “Chính là thuộc hạ của ca ca. Lần đó Đại vương sai người xâm nhập Đông Lâm, tập kích đoàn xe của Hà Hiệp và Bạch Sính Đình, chúng ta đã cử hắn…”.

    “Đúng thế.”

    “Sao thế, chẳng phải nên xử lý kẻ này từ lâu rồi sao?”

    “Nếu đã xử lý thì còn gì phải lo? Nói đến việc này, tất cả đều tại ca ca bất tài của nương nương.”

    Nhạc Địch thở dài, nói tiếp, “Nhạc Chấn trong lòng không đủ cứng rắn, nghĩ hắn theo mình từ nhỏ, cũng là chỗ tâm phúc, nên sau khi hắn trở về đã không sai người giết hắn mà chỉ cho hắn tiền, bảo hắn trốn đi thật xa”.

    Vương hậu biến sắc: “Sao ca ca lại hồ đồ như thế? Đây đâu phải chuyện có thể mềm lòng? Haizzz, nhưng dù ca ca có suy nghĩ không chu đáo thì phụ thân cũng phải giáo huấn ca ca mới phải”.

    Chuyện này không to không nhỏ, nhưng nếu lộ ra ngoài, đó sẽ là tội làm lộ việc quân, giết sạch cả họ.

    Nhạc Địch cau mày: “Sao lại không giáo huấn? Nhạc Chấn đã nghe lời ta, lập tức sai người đi tìm Phi Chiếu Hành. Ai ngờ hắn quá tinh khôn, biến mất không một tung tích”.

    Trong lòng Vương hậu thầm hận phụ thân làm việc không chu đáo, nhưng chẳng biết làm thế nào, chỉ lạnh lùng: “Tên Phi Chiếu Hành từ nhỏ đã tinh khôn như một con quỷ. Thả hổ về rừng, nếu hắn đã cảnh giác, chúng ta càng không dễ gì giết hắn”.

    “Một ngày hắn còn sống là một ngày chúng ta còn thấy bất an. Nếu để Đại vương tìm thấy hắn trước…”

    “Bản cung biết rồi”, Vương hậu suy nghĩ một lát, dặn dò, “Việc của Phi Chiếu Hành, bản cung sẽ sai người xử lý. Phụ thân gặp ca ca, hãy dặn ca ca đừng để ý đến chuyện khác mà phải dẫn binh cho tốt, phải biết lôi kéo tướng lĩnh. Chỉ cần nắm chắc binh quyền, ngay cả Đại vương cũng không dám tùy tiện làm gì Nhạc gia chúng ta. Hừ, vết xe đổ của vương phủ Kính An còn ngay trước mắt, chúng ta không thể làm một trung thần ngu xuẩn như Kính An vương, vất vả cả đời để nhận lấy họa diệt môn”.

    Nhạc Địch gật đầu: “Nương nương nói chí phải”. Như bỗng nhớ ra việc gì, ông ta hỏi tiếp: “Đại vương đã biết tin Bạch Sính Đình chết chưa?”.

    “Các tướng quân Bắc Mạc làm lễ cúng tế cho tiện nhân ấy, thiên hạ này còn ai không biết?” Nghĩ đến chuyện này, Vương hậu lại cảm thấy tức giận, đằng nào trước mặt cũng có mỗi phụ thân của mình, nên chẳng cần che đậy, nghiến răng nói: “Không biết một nữ nhân xuất thân thị nữ thì có được bản lĩnh gì, hơn nữa cũng chẳng phải là mỹ nhân. Biết tin ả chết, Đại vương cả ngày chẳng nói năng gì. Bản cung còn nghe nói Đại vương định ban bố vương lệnh, rằng tài đàn của Bạch Sính Đình là quốc bảo, ngự phong ả là Quy Lạc cầm tiên, còn định lập bia cho ả nữa. Đây chẳng phải là trò cười hay sao?”.

    Nhạc Địch ưu tư: “Nương nương, Đại vương làm vậy hình như để cảnh cáo nương nương”.

    Sắc mặt vương hậu tối sầm, bất đắc dĩ thở dài: “Sao bản cung lại không biết? Vương phủ Kính An không còn nữa, quyền thế của Nhạc gia ngày một lớn, phụ thân xem những tướng lĩnh dẫn binh trong triều, có người nào không phải do phụ thân và ca ca tiến cử? Trước kia vì việc của Dương Phượng, Đại vương đã cố nhẫn nhịn, nay lại vì Bạch Sính Đình, Đại vương càng cảm thấy bản cung không thuận mắt”.

    “Nói ra, Vương hậu cũng thật lợi hại.” Nhìn sắc mặt Vương hậu, Nhạc Địch cẩn trọng lên tiếng, “Đại vương là vua một nước, bên cạnh có thêm vài mỹ nhân cũng là chuyện bình thường. Giống người có tên Lệ Nhi kia, nếu năm đó nương nương rộng lòng một chút, cho nàng ta làm thứ phi cũng có sao? Đằng này nương nương lại ép Đại vương phải tặng nàng ta cho Đông Lâm vương”.

    Vương hậu khẽ hừ một tiếng: “Chẳng phải bản cung đã giúp nàng ta sao? Nàng ta đi theo Đông Lâm vương, được phong là Lệ phi, còn sinh hạ được một công chúa. Phụ thân đừng nói nữa, bản cung đang phiền lòng, việc gì cũng không như ý, phụ thân đừng chọc giận thêm”.

    Biết nữ nhi hay ghen, Nhạc Địch thầm thở dài một tiếng, định khuyên nhủ tiếp, bỗng cảnh giác nghe thấy tiếng bước chân đang tới gần, liền vội vã dừng lại.

    Ông ta trở về chỗ ngồi, nâng ly trà lên, còn chưa kịp uống, đã nghe thấy thị nữ tâm phúc của Vương hậu là Ngưỡng Dung đứng ngoài cửa, bẩm báo: “Nương nương, Đại vương sai người đến chuyển lời”.

    “Vào đi.” Vương hậu cho gọi kẻ chuyển lời vào, vừa uống trà, vừa hỏi, “Đại vương chuyển lời gì?”.

    “Bẩm nương nương, Đại vương đã ban bố vương lệnh, phong Bạch Sính Đình làm Quy Lạc cầm tiên, ngày kia sẽ tiến hành nghi lễ tế bái tại cổng chính vương cung. Đại vương nói, hôm đó mời nương nương tới cùng tế bái, làm gương cho nữ tử Quy Lạc.”

    Nghe được một nửa, Vương hậu như muốn bóp nát ly trà trong tay, giận đến nỗi bàn tay run rẩy. Nhạc Địch ngồi bên cạnh vội nhìn sang, muốn nữ nhi nhẫn nại một chút.

    Vương hậu nén cơn giận, khẽ cười: “Ta biết rồi. Ngày kia, cổng chính vương cung, đúng không? Đi nói với Đại vương, ta sẽ chuẩn bị”.

    Thị vệ nhận lệnh, vội vã đi chuyển lời.

    Nhạc Địch đóng cửa, quay lại, nhìn nữ nhi mặt đã biến sắc.

    “Quả nhiên, quả nhiên! Lại là Bạch Sính Đình, âm hồn không tan!”, Vương hậu nghiến chặt hàm răng nhỏ đều, “Ả đã làm những gì mà phải khoa trương như thế? Đường đường một đại vương, lại ra lệnh ngự phong cho một thị nữ, phải ăn nói thế nào với bách tính Quy Lạc đây?”.

    Khuôn mặt Nhạc Địch cũng sa sầm, nhưng suy nghĩ sâu xa hơn nhiều: “Đại vương muốn dùng vương phủ Kính An để áp chế Nhạc gia chúng ta. Tuy vương phủ Kính An không còn nữa, nhưng bách tính Quy Lạc vẫn chưa quên họ. Chính Đại vương đã phán tội vương phủ Kính An, nên không thể trực tiếp dùng họ để trấn áp Nhạc gia, mà phải mượn một đứa a hoàn trong phủ, thị nữ của Hà Hiệp để tạo thanh thế”.

    “Phụ thân nghĩ rất đúng.” Vương hậu đã bình tĩnh hơn, ngữ điệu chậm rãi, dừng một chút, cười chua chát: “Có điều, bản cung không tin Đại vương chỉ vì muốn tạo uy thế, mà không có chút tình ý nào với Bạch Sính Đình”.

    “Bạch Sính Đình đã chết rồi mà?”

    “Chết rồi mới càng đáng hận.” Những móng tay dài của Vương hậu làm hằn lên các vệt trắng trên tay vịn của chiếc ghế gỗ, “Tâm tư của nam nhân, không nắm bắt được là tốt nhất”.

    Không có gì bất hợp lý hơn việc này, cũng chẳng có gì hợp lý hơn việc này.

    Tin Bạch Sính Đình chết đã lan khắp tứ quốc.

    Cái chết của một thị nữ trong vương phủ Kính An lại chấn động toàn thiên hạ.

    Nàng là Quy Lạc cầm tiên, là thị nữ của Hà Hiệp, từng là tướng lĩnh quân sự cao nhất của Bắc Mạc, đồng thời cũng là thê tử của Trấn Bắc vương.

    Tuy chưa có hôn lễ long trọng, nhưng những người từng gặp nàng và Trấn Bắc vương đều hiểu rằng, chỉ mình Bạch Sính Đình mới là thê tử suốt đời suốt kiếp của bậc anh hùng đầu đội trời chân đạp đất ấy.

    Bạch Sính Đình đã không còn.

    Sở Bắc Tiệp thì sao?

    Dũng tướng vô địch thiên hạ ngày trước giờ đang ở đâu?

    Đông Lâm vương hậu nhìn chăm chăm người trước mặt, cố nén tiếng thở dài, giọng cương quyết: “Hoắc thần y, ở đây không có người ngoài, không có gì phải giấu giếm, ông cứ nói thẳng ra đi”.

    “Khởi bẩm Vương hậu, bệnh của Đại vương… e là không kéo dài được bao lâu.” Chỉ một thời gian ngắn mà Thần y Đông Lâm Hoắc Vũ Nam như già thêm cả chục tuổi, chòm râu đen đã lẫn những sợi bạc.

    “Nói thực với ta, còn được bao lâu?”

    “E là… e là không quá bảy ngày.”

    Vương hậu đờ đẫn, hồi lâu mới sực tỉnh, sống lưng như sắp nhũn ra vì không thể chịu nổi tin tức này, đành dựa hẳn vào lưng ghế. Ôm ấp tia hy vọng cuối cùng, Vương hậu nhìn về phía danh y Đông Lâm, người có thể quyết định sống chết của kẻ khác: “Cho dù không thể qua được, nhưng có thể cố kéo dài vài tháng chứ?”.

    “Vương hậu nương nương…” Hoắc Vũ Nam dù không muốn cũng phải nói rõ, đành cố sức dằn từng tiếng, “Thần đã hết cách rồi, Vương hậu nên chuẩn bị hậu sự cho Đại vương…”.

    “Nương nương, nương nương!” Thị nữ từ ngoài tấm rèm tức tốc chạy vào, cắt ngang lời Hoắc Vũ Nam, hành lễ với Vương hậu, giọng vội vã: “Nương nương, Đại vương tỉnh rồi, người đang tìm Vương hậu”.

    Vương hậu đứng bật dậy, trước mắt bỗng tối sầm, cả người lảo đảo như sắp ngã.

    “Nương nương!”

    “Vương hậu nương nương!”

    Cả thị nữ và Hoắc Vũ Nam đều kêu lên kinh hãi, nhanh chóng đỡ lấy Vương hậu.

    Vương hậu day day huyệt thái dương, cảm thấy đã đỡ hơn: “Ta không sao”.

    Sắc mặt và làn môi Vương hậu vô cùng nhợt nhạt.

    Từ khi tin tức về cái chết của Bạch Sính Đình truyền đến, sắc mặt Vương hậu chẳng còn màu huyết.

    Tất cả đều đã hết.

    Trong bụng Bạch Sính Đình là huyết mạch của vương tộc Đông Lâm.

    Cho đến nay, cả Đại vương và Trấn Bắc vương đều không có người nối dõi.

    Sao lại thế này? Tại sao lại thành ra thế này?

    Khi ba mươi vạn đại quân Bắc Mạc - Vân Thường đe dọa biên cương, sao họ không lường đến kết cục ngày hôm nay?

    Nỗi hối hận thiêu đốt cả đầu óc và cơ thể Vương hậu, bao nhiêu vấn đề khó khăn đang bày ra trước mắt. Rốt cuộc kiếp trước vương tộc Đông Lâm và Bạch Sính Đình đã có nghiệt duyên gì, mà dai dẳng đến cả kiếp này, không thể ngừng lại?

    Vương hậu vội vã bước vào tẩm cung, nơi nam nhân mà mình đã sát cánh suốt cuộc đời đang nằm trên giường.

    Đông Lâm vương cũng từng là bậc anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, cũng như Trấn Bắc vương, từng nắm chắc bảo kiếm, uống rượu trên lưng ngựa, tiếng cười hào sảng vang vọng.

    “Đại vương, thần thiếp đã đến.” Vương hậu ngồi bên giường, khẽ nắm bàn tay Đông Lâm vương.

    Bàn tay ấy gầy quá, gầy đến trơ xương, khiến người ta đau lòng.

    Sống mũi cay cay, Vương hậu cố nén dòng nước mắt: “Đại vương gọi thần thiếp đến có gì sai bảo?”.

    Đôi mắt Đông Lâm vương đã mờ đục, không chút ánh sáng.

    “Vương đệ đâu? Vương đệ về chưa?”, Đông Lâm vương giọng đã khản đặc.

    “Đã sai người đi tìm, Trấn Bắc vương sẽ nhanh trở về thôi.”

    Đông Lâm vương khó khăn ngẩng đầu, nhìn thê tử: “Vương hậu muốn khóc thì cứ khóc đi”, giọng nói khản đặc yếu ớt, nhưng vô cùng dịu dàng, “Trong lòng quả nhân hiểu rõ, Bắc Tiệp sẽ không trở về”.

    “Đại vương!”

    “Bạch Sính Đình… Ba mươi vạn quân Vân Thường - Bắc Mạc đe dọa biên cương, vương lệnh điều động chủ soái doanh trại Long Hổ Đông Lâm…”, Đông Lâm vương thở dốc, “Chúng ta… binh lực ba nước hợp lại dồn thê tử của vương đệ vào chỗ chết”.

    “Đây là sai lầm của thần thiếp…”

    “Đừng tự trách mình.” Đông Lâm vương nắm chặt bàn tay Vương hậu, như muốn truyền tất cả sức lực cuối cùng của mình sang ái thê, “Không thể trách Vương hậu, ông Trời đã sắp đặt hết chuyện này. Những điều chúng ta lo lắng cuối cùng đều đã xảy ra. Tính tình vương đệ từ nhỏ đã thế, quả nhân cứ ngỡ lần này có thể mài giũa vương đệ trở nên vô tình một chút. Có sai, thì là quả nhân đã sai”.

    Đại vương nhìn quanh, hạ lệnh: “Các ngươi lui ra đi. Lão Thừa tướng, canh cửa giúp quả nhân”.

    “Vâng.” Sở Tại Nhiên vẫn luôn túc trực bên Đông Lâm vương. Vốn gặp nhiều hiểu rộng, biết Đông Lâm vương sắp đi xa, ông ta không cầm được những giọt nước mắt lã chã rơi. Sở Tại Nhiên quỳ xuống đập đầu, run rẩy và chậm chạp lùi ra, nhẹ nhàng khép cửa lại.

    Trong tẩm cung chỉ còn lại Đông Lâm vương cùng Vương hậu.

    “Vương hậu, nàng mở chiếc hộp ngọc ở đầu giường ra, trong đó có một vương lệnh, mang lại đây.”

    Vương hậu cầm vương lệnh, nhẹ giọng khuyên giải: “Đại vương sức khỏe không tốt, tạm thời đừng lo đến chính sự. Những việc này cứ giao cả cho lão Thừa tướng xử lý, được không?”.

    Đông Lâm vương chậm rãi lắc đầu: “Nàng mở ra đi”.

    Thấy Đại vương cương quyết, Vương hậu cũng thuận theo, mở vương lệnh ra, cúi xuống nhìn, dòng đầu tiên đã là mấy chữ rất to. Di lệnh Vương hậu nhiếp chính. Vương hậu vô cùng ngạc nhiên: “Đại vương, tuyệt đối không được…”.

    “Đây là di lệnh của quả nhân.”

    “Đại vương, nhất định Trấn Bắc vương sẽ trở về. Trấn Bắc vương là đệ đệ của Đại vương, người trong vương tộc Đông Lâm sao có thể vì một nữ nhân mà từ bỏ giang sơn của mình?”

    “Vương hậu…”, giọng Đông Lâm vương bỗng trở nên dịu dàng, cố hết sức nhìn về phía Vương hậu: “Khoan nói đến những chuyện đó. Nàng ngồi xuống đây, ngồi cạnh quả nhân”.

    Vương hậu nghe lời dịu dàng đó, lòng càng tan nát, bèn ngồi xuống. Thấy Đông Lâm vương giơ tay ra, Vương hậu vội vã đưa hai tay đón lấy.

    “Vương hậu, quả nhân muốn hỏi nàng một chuyện.”

    “Đại vương cứ hỏi. Bất cứ chuyện gì, thần thiếp cũng xin trả lời Đại vương.”

    Giọng Đông Lâm vương càng khẽ hơn, hơi thở yếu ớt: “Không phải chuyện quốc gia đại sự gì, câu hỏi này quả nhân muốn hỏi Vương hậu lâu lắm rồi, nhưng lại cảm thấy thật ngớ ngẩn. Đến hôm nay, nếu vẫn không hỏi, quả nhân sẽ chẳng bao giờ nghe được câu trả lời nữa”.

    Vương hậu quay đầu, lặng lẽ lau nước mắt, giọng dịu dàng: “Đại vương hỏi đi”.

    “Vương hậu, hôn sự của chúng ta do tiên vương chỉ định, duyên phận phu thê… như nước chảy thành dòng, không hề sóng gió.” Đông Lâm vương ngẩng đầu, nhìn vào mắt Vương hậu, hỏi: “Giả dụ chúng ta cũng giống như Trấn Bắc vương và Bạch Sính Đình, sinh ra ở hai nước thù địch, dốc sức cho hai người thù địch, liệu Vương hậu có… muốn ở cạnh quả nhân suốt đời suốt kiếp?”.

    Suy nghĩ hồi lâu, Vương hậu khẽ đáp: “Có”.

    Suốt đời suốt kiếp.

    Có, chỉ là làm được sẽ rất khó mà thôi.

    Thệ hải minh sơn? Nếu sinh ra đã là thù địch, rồi nảy sinh tình yêu, vậy thì đến cuối cùng, ai sẽ phụ bạc ai? Cuối cùng sẽ là không sao quên được quốc ân hay không thể từ bỏ niềm vui trong chốc lát mà lao vào vòng tay người yêu dấu?

    May mắn thay, họ không phải Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình.

    Nhưng nếu phải thì sao?

    Nếu nỗi bất hạnh ấy lại lựa chọn họ thì sao?

    Vương hậu nhắm mắt, nắm chặt bàn tay gầy trơ xương của phu quân.

    Có, tuy rằng rất khó, khó như muốn bắc thang lên trời.

    Nhưng, có.

    “Chúng ta sinh ra ở hai nước thù địch”, Đông Lâm vương nói.

    “Vâng.”

    “Chúng ta sinh ra ở hai trận địa đối nghịch.”

    “Vâng.”

    “Chúng ta vẫn sẽ suốt đời suốt kiếp?”

    Vương hậu im lặng một lúc lâu.

    Cuối cùng vẫn là một tiếng: “Vâng”.

    Đông Lâm vương hít sâu một hơi. Mùa đông sắp qua, hương vị của mùa xuân đang thấp thoáng trong không khí, lành lạnh, căng tràn lồng ngực mãn nguyện của Đông Lâm vương.

    Chắc chắn, chắc chắn thế.

    Đông Lâm vương nhắm mắt.

    Khóe môi khẽ nở nụ cười hạnh phúc.

    Mấy ngày sau, thư của Nhược Hàn lại được chuyển đến sơn mạch Tùng Sâm.

    Tuyết trên đất bằng đã tan hết, cỏ non đâm chồi mạnh mẽ. Mùa xuân vẫn chưa thực sự gõ cửa, nhưng trong lòng mọi người đã tràn ngập niềm vui và hy vọng.

    Lính truyền tin không chỉ mang tới những loại thảo dược thượng đẳng Nhược Hàn đã tìm kiếm khắp nơi, mà còn mang theo cả lời thăm hỏi của Bắc Mạc vương.

    “Cây nhân sâm ngàn năm này là của Đại vương ban tặng.”

    Tắc Doãn cảm kích nhận lấy, rồi hướng về phía vương cung xa xôi hành lễ.

    Vốn năm xưa cũng là lính dưới trướng Tắc Doãn, sau khi chuyển tin, giao hết lễ vật, người truyền tin quan tâm hỏi: “Thượng tướng quân, bệnh của phu nhân… có đỡ chút nào không?”.

    Tắc Doãn lắc đầu, vẻ mặt u sầu: “Nếu có chút chuyển biến thì trong lòng ta cũng dễ chịu phần nào. Đây là tâm bệnh, tâm bệnh khó chữa”.

    Sau khi chôn cất Sính Đình, Dương Phượng cứ cầm cây trâm dạ minh châu đứng bên mộ cả đêm, rồi ngã bệnh không dậy nổi.

    Cây trâm sáng lấp lánh trong đêm, người cài trâm đã nằm sâu dưới lớp đất vàng.

    “Cái chết của Sính Đình là tại thiếp.”

    Sính Đình là người thông minh, rõ ràng đã vùng vẫy, nên mới thoát khỏi Hà Hiệp, thoát khỏi Sở Bắc Tiệp, một mình từ Quy Lạc đến Bắc Mạc.

    Sính Đình đi tìm Dương Phượng, muốn quên nỗi bất hạnh trước kia, vậy mà nàng lại quỳ xuống, nói đôi ba câu đã đẩy Sính Đình vào giữa quân Bắc Mạc và Sở Bắc Tiệp.

    Hai quân đối đầu, áo thắm ngựa hăng, sát khí ngút trời, bắt đầu từ đây.

    Nàng phải phiêu bạt đến chốn rừng sâu Bách Lý, rồi vương cung Đông Lâm, tới biệt viện ẩn cư, sau đó là phủ phò mã Vân Thường, để rồi cuối cùng kết thúc ở sơn mạch Tùng Sâm ngập màu tuyết trắng.

    Một người chẳng màng danh lợi, điềm đạm như Sính Đình, sao phải chịu kết cục không toàn thây như thế?

    Dương Phượng không thể tha thứ cho mình.

    Bao nhiêu bất hạnh, Dương Phượng là nhân, Sính Đình là quả.

    “Dương Phượng, ái thê, nàng còn nhớ hài tử của chúng ta không?”, Tắc Doãn cẩn thận đỡ Dương Phượng dậy, “Nàng không thể bỏ mặc ta và Khánh nhi, nàng đã hứa sẽ ở bên ta suốt đời suốt kiếp. Nàng hãy cố gắng uống lấy chút thuốc này”.

    “Khánh nhi…” Ánh mắt Dương Phượng khẽ chuyển.

    “Khánh nhi cứ khóc đòi mẫu thân. Dương Phượng, đừng tự trách mình nữa. Sính Đình đã không còn, nàng cứ giày vò bản thân thế này. Sính Đình cũng chẳng thể sống lại. Sính Đình ở trên trời chắc cũng không muốn thấy nàng như vậy. Nàng uống thuốc đi cho mau khỏe.”

    Tắc Doãn nếm thử bát thuốc nóng trên tay, rồi mới đưa lên miệng Dương Phượng: “Uống đi, coi như là vì Khánh nhi”.

    Trong lòng Dương Phượng trống rỗng, thi thể Sính Đình và phần mộ cô độc trong tuyết cứ hiện lên trước mắt nàng, không hề dừng lại. Tắc Doãn dịu dàng an ủi, hai từ “Khánh nhi” như đánh thức tình mẫu tử nơi nàng, khiến nàng tìm lại được chút thần trí.

    Dương Phượng chậm rãi ngước mắt nhìn phu quân.

    Chàng đã từng là Thượng tướng quân của Bắc Mạc, nhưng gương mặt tiều tụy lúc này thật khiến người ta thương xót.

    Tất cả là vì nàng.

    Nàng buồn bã thở dài, khẽ mở miệng.

    Tắc Doãn thấy nàng nghe lời uống hết bát thuốc, giọng vui mừng: “Đây là phương thuốc do Nhược Hàn sai người mang tới, sắc kỹ lắm rồi, nàng uống từ từ thôi, kẻo sặc”.

    Một tay đỡ Dương Phượng, một tay bê bát thuốc, thấy ái thê đã uống hết, trái tim lo lắng của Tắc Doãn cũng dịu bớt phần nào, nhẹ giọng: “Nhược Hàn nói, bệnh của nàng cứ uống theo phương thuốc này, liên tục mấy ngày…”.

    Chưa dứt lời, Tắc Doãn đã thấy Dương Phượng run rẩy trên cánh tay mình, cả người thẳng dậy, cúi xuống bên giường “ọe” một tiếng, nôn sạch cả bát thuốc vừa uống ra ngoài.

    Dương Phượng gần như nôn ra cả mật xanh mật vàng, sắc mặt trắng bệch, mãi mới ngẩng đầu lên được, rồi đổ vật xuống giường.

    “Dương Phượng!” Tắc Doãn ôm lấy nàng, thấy nàng nằm trong lòng mình, hai mắt nhắm nghiền, gương mặt hồng hào mọi khi giờ không còn sinh khí, trong lòng đau đớn mà chẳng biết nên làm thế nào, buồn đến rơi nước mắt: “Thê tử của ta, nàng hà tất phải thế? Lẽ nào ngoài Bạch Sính Đình, trong lòng nàng không hề có ta và Khánh nhi?”.

    Dương Phượng thở khó nhọc, nghe những lời của Tắc Doãn, nàng từ từ mở mắt, cười chua chát: “Thiếp nào có muốn bỏ mặc phụ tử chàng, chỉ là tâm bệnh quá nặng, không thể cứu chữa. Thiếp và Sính Đình cùng lớn lên bên nhau, tình như tỷ muội, đều do thiếp… do thiếp hại chết Sính Đình”.

    “Nàng đừng khóc, đừng khóc nữa. Bệnh thành thế này, kỵ nhất là đau lòng…” Bàn tay thô ráp của Tắc Doãn khẽ lau nước mắt cho Dương Phượng, nhưng càng lau dòng lệ càng tuôn chảy.

    Tắc Doãn vừa lo lắng vừa đau lòng, đôi mắt hổ đỏ hoe.

    Nức nở một hồi, thở dốc một hồi, Dương Phượng ngẩng lên, hơi thở yếu ớt nói với Tắc Doãn: “Không phải thiếp muốn bỏ mặc phụ tử chàng, mà tình trạng thiếp thế này, chắc vì Sính Đình muốn thiếp đi theo bầu bạn. Vương cung và sa trường hiểm ác, thiếp không muốn sau này Khánh nhi phải đi theo con đường của Bạch Sính Đình và Sở Bắc Tiệp. Chàng đã đồng ý với thiếp quy ẩn sơn lâm thì hãy giữ lời hứa, đừng bao giờ ra khỏi đây, cũng đừng để Khánh nhi dính dáng đến những chuyện đó. Chàng… chàng hứa với thiếp”.

    Những từ này của Dương Phượng thật chẳng khác gì lời giao phó hậu sự, rõ là điềm gở. Cả người lạnh toát, Tắc Doãn chỉ biết ôm chặt Dương Phượng, giọng lo lắng: “Nàng đang nói lung tung gì thế? Ta không đồng ý, không đồng ý một điều gì hết!”.

    “Phu quân, thiếp không đợi được đến mùa xuân đâu.”

    “Nói bậy.”

    “Không thể cùng chàng thưởng hoa, không thể may áo cho Khánh nhi…”

    “Nói bậy!”

    “Thiếp phải đi gặp Sính Đình, tạ tội với nàng ấy…”

    “Nói bậy! Nói bậy! Đừng nói nữa!”

    Tắc Doãn ôm chặt Dương Phượng, luôn miệng bảo nàng dừng lại. Đột nhiên bên ngoài có tiếng bước chân vội vã, kẻ nào lại dám vô ý chạy ầm ĩ ở hành lang? Vẻ mặt lo lắng của Tắc Doãn dần hóa thành cơn thịnh nộ, gầm lên: “Kẻ nào đang ở ngoài kia? Ta đã nói phải giữ yên cho phu nhân tĩnh dưỡng, các ngươi điếc cả rồi sao?”.

    Rèm cửa bị kéo ra, một thị vệ chạy vào, hốt hoảng như gặp ma. Hắn vừa lau mồ hôi vừa báo với Tắc Doãn vẻ mặt đang sa sầm: “Thượng tướng quân, có người cầu kiến”.

    “Không gặp ai cả, đuổi hết đi cho ta!”

    “Người đó… Người đó…”

    “Phu nhân đang tĩnh dưỡng, dù là ai cũng đuổi hết đi cho ta!”

    “Người đó…” Thị vệ cau mày, như thấy lời mình sắp nói ra vô cùng khác thường, “Người đó nói, mình là Bạch… Bạch Sính Đình!”.

    Sính Đình?

    Tắc Doãn và Dương Phượng cùng mở trừng mắt, ngây người.

    Việc này sao có thể?

    Ngay cả Tắc Doãn đã nhiều năm chinh chiến trên sa trường, quen phong ba bão táp cũng đờ người ra hồi lâu mới biết phải làm thế nào, quát lên: “Mau, mau mời vào!”.

    “Phu quân…” Dương Phượng lo lắng dựa vào lồng ngực Tắc Doãn.

    Nghe tin này, bệnh tật trong người Dương Phượng như đã rút lui ba mươi dặm, ánh mắt vừa có hồn, vừa hy vọng vừa lo lắng nhìn chằm chằm về phía tấm rèm.

    Đôi mắt như chuông đồng của Tắc Doãn cũng mở to, nhưng không tránh khỏi có chút lo âu, thầm tính: Nếu là giả mạo, càng khiến Dương Phượng thêm đau lòng… Dù là kẻ nào dám mạo phạm, ta cũng sẽ băm vằm thành ngàn mảnh!

    Nhưng, kẻ nào lại to gan như vậy, dám đến tận chỗ Dương Phượng mạo nhận là Bạch Sính Đình?

    Chưa nói đến chuyện làm thế nào kẻ đó lại biết được chỗ ẩn cư của họ.

    Trong lúc đang lo lắng không yên, ngoài hành lang đã vọng đến tiếng chân nhẹ bước.

    Năm ngón tay Dương Phượng túm thật chặt vạt áo Tắc Doãn, cố ngồi thẳng người ngóng ra cửa. Tấm rèm từ từ được vén lên, ánh sáng bên ngoài chiếu vào khiến người ta chói mắt. Dương Phượng chỉ cảm thấy mọi thứ trước mắt như vụt qua, một bóng người lọt vào tầm nhìn.

    “Dương Phượng, sao tỷ lại bệnh thành ra thế này?” Giọng nói dịu dàng mà quen thuộc, vừa nghe đã khiến người ta rơi lệ.

    Dương Phượng nín thở, nhìn thật kỹ khuôn mặt trước mắt, khẽ kêu lên một tiếng, “Trời ơi…”. Nàng thở ra một hơi, chút sức lực cuối cùng cũng cạn kiệt, cả người mềm nhũn, đổ vật vào vòng tay Tắc Doãn.

    Sính Đình ngạc nhiên: “Dương Phượng! Tỷ sao thế?”.

    “Ái thê, ái thê!”

    Hai người thi nhau gọi, đám người hầu vội vã mang khăn bông nóng vào.

    Dương Phượng được đắp khăn bông nóng lên trán, dần tỉnh lại, ánh mắt dán chặt vào Sính Đình, sợ rằng chỉ cần chớp mắt, người hảo hữu này sẽ biến mất, sau đó thở dài: “Sính Đình, muội còn sống à? Ông Trời cũng coi như từ bi một lần”.

    “Mọi người đều tưởng muội chết rồi sao? Chẳng trách đám thị vệ lúc nãy thấy muội mà sắc mặt như gặp ma.” Sính Đình vô cùng áy náy, “Là muội không tốt, không giữ đúng lời hẹn ba ngày ở đó đợi mọi người. Không tìm thấy muội, chắc tỷ và Túy Cúc lo lắm. Túy Cúc đâu? Mau bảo Túy Cúc ra đây, để nàng ấy yên tâm”.

    “Ai là Túy Cúc?”

    Sính Đình sững người: “Túy Cúc không đến tìm mọi người sao?”.

    Cả Tắc Doãn và Dương Phượng đều ngơ ngác, lắc đầu không hiểu.

    Trong lòng cảm thấy không ổn, Sính Đình vội hỏi: “Nếu không gặp Túy Cúc, không lên núi tìm kiếm, không phát hiện ra muội mất tích, làm sao mọi người lại đoán muội đã chết?”.

    “Chúng ta tìm thấy dưới chân núi một bộ y phục và xương cốt của nữ nhân bị sói ăn thịt, trong đó có cây trâm dạ minh châu Dương Phượng tặng tiểu thư, Dương Phượng cứ ngỡ tiểu thư đã…”

    “Ông Trời ơi…” Cả người cứng đờ, Sính Đình bịt miệng, hai mắt mở trừng trừng, mãi một lúc sau mới đứt ruột đứt gan kêu lên một tiếng, “Túy Cúc!”.

    Cảnh cuồng phong bão tuyết ở sơn mạch Tùng Sâm như lại hiện ra trước mắt nàng.

    Trong nỗi hốt hoảng, Túy Cúc quay đầu, vê cây kim bạc. Cây kim bạc phản chiếu ánh tuyết, càng lúc càng sáng, như thể chỉ cần cây kim ấy cũng đủ soi sáng cả đất trời.

    Nhưng, sau khoảnh khắc cực sáng, trời đất lại tối sầm. Toàn thân Sính Đình mệt mỏi rã rời, cảm thấy trước mắt trời đất bỗng chao đảo, hai đầu gối khuỵu xuống, ngã ra đất.

    Dương Phượng thất kinh: “Sính Đình! Sính Đình! Muội làm sao thế?”. Dương Phượng cố bước xuống giường. Tắc Doãn sợ Dương Phượng ngã, nhanh chóng đỡ lấy nàng, nói: “Dương Phượng, cẩn thận…”.

    “Mặc kệ thiếp, chàng mau đi xem Sính Đình đi, đi đi!”

    Tắc Doãn vội bế Sính Đình đã ngất xỉu, quát lên: “Đại phu, mau gọi đại phu”.

    “Mau đi hầm ngay loại nhân sâm tốt nhất.”

    “Phu nhân, nhân sâm là để chữa bệnh cho phu nhân…”

    Gặp được Sính Đình, tâm bệnh không còn, cả người khỏe lên được một nửa, Dương Phượng nhướng mày, nói: “Sính Đình vẫn sống, thiếp còn có bệnh gì? Mau đi”.

    Quát tháo một hồi, thấy đám người hầu đã nghe lệnh chạy đi hầm nhân sâm, Dương Phượng mới dừng lại. Vừa trải qua một trận ốm, Dương Phượng cũng cảm thấy tim đập thình thịch, tay chân không còn sức, bèn gọi một thị nữ đến, thều thào: “Đi, sắc thuốc luôn cho ta rồi mang lên đây”.

    Còn sống.

    Đều vẫn còn sống.
     
  6. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 45
    Thật ấm áp.

    Ai đã từng trải qua gió tuyết ở sơn mạch Tùng Sâm, qua đêm nơi đá băng đất lạnh mới có thể thực sự cảm thán trước sự ấm áp trong chiếc chăn bông dày sụ.

    Xương gãy đau nhức đến co giật, người hôn mê đến mấy cũng phải tỉnh dậy.

    Mở choàng mắt, Túy Cúc không kìm nổi mà đưa tay chạm vào vết thương. Có người đã quấn qua loa chỗ gãy giúp nàng, dưới lớp vải băng bó thoảng mùi thảo dược.

    Nhưng vẫn có cái gì là lạ, nàng cau mày nghĩ một lúc, lại thò tay vào trong chăn, chạm phải làn da trơn mềm của chính mình.

    “A…” Túy Cúc thất kinh, xấu hổ rụt tay.

    “Ha ha.” Từ góc tối của căn phòng bỗng vang lên giọng cười giễu cợt của một nam nhân.

    Túy Cúc trừng mắt: “Y phục của ta đâu?”.

    “Ở trong đất tuyết.”

    Đúng rồi, đất tuyết, Dương Phượng, cứu viện…

    Sính Đình…

    Chết rồi, Sính Đình!

    Nàng vội vã sờ lên tóc, bên trên không có thứ gì.

    “Trâm dạ minh châu của ta?”, Túy Cúc lo lắng hỏi.

    “Ở trong đất tuyết. Khó khăn lắm ta mới tìm thấy thi thể của một nữ nhân, rồi cài cây trâm vào đó. Có điều, chắc đến một nửa người đã vào bụng sói.”

    “Bao lâu rồi?”

    “Cái gì bao lâu rồi?”

    Trong lòng lo lắng cho Sính Đình, Túy Cúc hỏi dồn dập: “Từ lúc ngươi đuổi ta vào đàn sói cách bây giờ bao lâu rồi? Nửa ngày? Hay một ngày? Ta phải làm thế nào mới tìm lại được y phục và cây trâm của ta ngươi bỏ trong tuyết? Nhất định ta phải tìm cho bằng được!”.

    “Nửa tháng.”

    “Cái gì?”, Túy Cúc nhìn về phía góc phòng vẻ không thể tin.

    Phiên Lộc bước ra khỏi bóng tối, tay vẫn nghịch cây cung tinh xảo, nhếch môi: “Tuyết trên đường đã tan cả rồi. Ngươi đã ngủ được nửa tháng”.

    Như bị ai đâm thẳng vào ngực, suýt chút nữa ngạt thở, Túy Cúc lắc đầu, nói: “Không thể nào, không thể nào!”.

    Ba ngày, Sính Đình nói sẽ đợi ba ngày.

    Sính Đình đang ở trên núi đá trong sơn mạch Tùng Sâm với mạch tượng đã loạn.

    “Bản lĩnh la lối của ngươi, ta đã lĩnh giáo đủ rồi. Nếu không làm ngươi hôn mê, sao mang ngươi đi được?”

    “Ngươi…”

    Hắn ngắt lời, hỏi: “Ta cứu mạng ngươi, sao còn không đa tạ?”.

    Túy Cúc giận dữ nhìn người trước mặt, im lặng một lúc lâu, bỗng nghiến răng nghiến lợi hét lên: “Ngươi là đồ khốn! Tên trời đánh! Kẻ đáng chết! Sao ngươi hại ta? Rồi lại cứu ta? Ta phải giết ngươi! Giết ngươi!”.

    Mắng mỏ hết hơn nửa canh giờ, sức cùng lực kiệt, nàng thở hổn hển, vết thương trên đùi lại đau dữ dội, nên đành phải dừng lại, ôm chăn nằm trên giường thở dốc.

    Nhưng da mặt tên Phiên Lộc không biết được làm bằng gì, dù Túy Cúc có nói khó nghe đến đâu, hắn vẫn thờ ơ đứng đó, mặc cho lời mắng mỏ chui lọt vào tai. Chỉ đến khi Túy Cúc dừng lại, hắn mới hỏi: “Ngươi mắng đủ chưa?”.

    “Chưa đủ!” Nỗi bi phẫn trong lòng Túy Cúc sao có thể mắng mà hết được? Nàng ngẩng phắt đầu, lại nghiến răng nghiến lợi lôi hết những câu chửi khắp tứ quốc ra mà mắng thành bài bản.

    Phiên Lộc nghe mãi, nghe mãi, khẽ mỉm cười, khoanh tay đứng bên tường nhìn. Túy Cúc càng hận, hít một hơi thật sâu, càng mắng càng hăng.

    Vừa cười vừa nghe một hồi, bỗng Phiên Lộc không cười nữa, sắc mặt sa sầm, nói: “Đủ rồi, ngươi còn nói thêm một câu nào nữa, ta sẽ kéo chăn của ngươi ra”.

    “Ngươi…”, Túy Cúc khựng lại, im bặt.

    Vốn không sợ chết, nhưng lúc này đang chẳng mảnh vải che thân dưới chăn, nếu bị hắn kéo chăn ra nhìn cho hết, đến lúc chết nàng còn mặt mũi nào mà gặp ma? Nữ nhân khắp thiên hạ, có mấy người không sợ sự uy hiếp này?

    Thấy nàng như vậy, Phiên Lộc nở nụ cười vô cùng tà ý.

    Im lặng một lúc, Túy Cúc như dịu đi, lạnh lùng: “Ta không cần ngươi cứu mạng, hãy giết ta đi”. Qua cơn tức giận, nỗi ai oán dâng lên, nàng co người trong chăn, quay đi chỗ khác.

    Nghĩ đến Sính Đình ở trên núi tuyết nửa tháng nay, có khi đã chẳng còn trên thế gian, nước mắt Túy Cúc lại trào ra.

    Nhưng trong lòng nàng lại có chút hy vọng, nghĩ tên xấu xa này tưởng nàng là Bạch Sính Đình, vậy cũng bớt được một bọn người tìm cách hãm hại Sính Đình trên sơn mạch Tùng Sâm. Biết đâu ông Trời đoái thương, cho Sính Đình một con đường sống.

    Nghĩ như vậy, nàng những mong được chắp thêm đôi cánh bay đến sơn mạch Tùng Sâm để xem xem. Nhưng, bộ dạng nàng lúc này có thể đi được đâu?

    Tuyệt đối không thể để tên ác nhân trước mặt biết được bí mật ấy.

    Nước mắt như chuỗi hạt trân châu bị đứt, lăn dài trên má.

    Phiên Lộc thấy nàng co rúm một góc, nhỏ bé trên giường, bờ vai run run, chắc là đang khóc thì cũng chẳng thèm để ý. Hắn quay đi, một lúc sau, bê bát cơm trở lại.

    “Ăn chút gì đã.”

    Túy Cúc đâu nghĩ đến chuyện ăn, đang hận hắn như thế nên cắn răng chẳng thèm lên tiếng.

    Thấy nàng vẫn nằm im, thừa biết nàng đang nghĩ gì, Phiên Lộc lạnh lùng: “Không phải ta đang cầu xin ngươi, mà là đang ra mệnh lệnh cho ngươi. Ngoan ngoãn mà ăn, để ta ra tay, đừng trách ta không thương hoa tiếc ngọc”.

    Cảm giác thấy cái chăn bông đang đắp trên người đang bị kéo ra, Túy Cúc sợ hãi, vội vàng ngồi dậy, túm chặt cái chăn, vừa hoảng hốt vừa giận dữ: “Ngươi… ngươi định thế nào?”.

    Khóe môi Phiên Lộc lại nhếch lên một nụ cười, ánh mắt vô cùng hung hãn: “Vất vả lắm ta mới cứu được ngươi về đây, trên đường ngày nào cũng phải bón nước cháo cho ngươi ăn, không biết đã tốn bao nhiêu công sức. Nếu ngươi định tìm đến cái chết, hãy để ta đòi lại chút công sức đã”.

    Hắn giơ tay ra, Túy Cúc vội vàng co rúm lại trên giường, ánh mắt khiếp sợ.

    Cố ý dọa nàng, tay Phiên Lộc giơ ra đến nửa chừng thì dừng lại, khoanh trước ngực, uể oải dựa lưng vào tường, hất hàm về phía cơm canh đặt bên giường: “Ăn sạch cho ta”.

    Đôi mắt sáng hằn những tia máu, Túy Cúc giận dữ trừng trừng nhìn người bên cạnh. Thấy hắn lại có vẻ sắp ra tay đến nơi, nàng đành miễn cưỡng bưng bát cơm lên, và vài hạt.

    Túy Cúc đã chịu đủ đói khát trên núi tuyết, sau khi hôn mê chỉ uống toàn nước cháo, trong lòng tuy buồn rầu oán hận, nhưng ăn một hai miếng, bụng đã sôi lên sùng sục, càng ăn càng thấy ngon.

    Cuối cùng, không những nàng ăn hết một bát cơm, mà còn ăn sạch cả hai đĩa thức ăn.

    Buông bát đũa, ngẩng đầu lên, mới phát hiện tên ác nhân đó vẫn đứng quan sát mình ăn, Túy Cúc bất giác trừng mắt nhìn hắn.

    Sợ Phiên Lộc kéo chăn ra, nàng chỉ biết trừng mắt nhìn, mà không dám nói thêm một tiếng.

    “Ngươi vẫn thường trừng mắt nhìn Trấn Bắc vương thế này sao?”, Phiên Lộc bỗng hỏi.

    Túy Cúc sững người, chợt nhớ đến việc hắn vẫn tưởng mình là Bạch Sính Đình, tất nhiên nàng sẽ chẳng trả lời câu hỏi này của Phiên Lộc, chỉ mím môi đáp: “Không liên quan đến ngươi”.

    Phiên Lộc không lên tiếng, lặng lẽ nhìn Túy Cúc.

    Ánh mắt hắn vừa to gan vừa vô lễ, Túy Cúc đã cuộn mình trong chăn, nhưng vẫn có cảm giác cả người không mảnh vải che thân đang bị người ta nhìn trộm. Nàng cố gắng chịu đựng, đến lúc không thể chịu thêm bèn nhìn thẳng vào mắt Phiên Lộc, gằn giọng hỏi: “Ngươi nhìn gì?”.

    Phiên Lộc không trả lời, vẫn tiếp tục nhìn nàng, một lúc sau mới nói: “Người ta đồn rằng ngươi không đẹp, nhưng ta thấy đâu phải vậy”.

    Trong lòng vô cùng sợ hãi, Túy Cúc cảnh giác nhìn hắn, mười đầu ngón tay túm chăn càng chặt.

    Hai người không ai lên tiếng, bầu không khí bỗng chốc cô đặc khiến người ta khó thở.

    Phiên Lộc cũng chẳng rời bước, cứ lặng lẽ nhìn Túy Cúc.

    Túy Cúc thấy ánh mắt hắn còn đáng sợ hơn bầy sói, khắp người nổi gai ốc, cảm giác sống lưng như đang chạm phải vật gì rất cứng, hóa ra nàng đã lùi tít tới góc giường, áp lưng vào tường.

    “Đây là đâu?”, Túy Cúc hỏi.

    Phiên Lộc nhếch môi, không đáp.

    Túy Cúc phẫn nộ: “Ngươi cười cái gì?”.

    Phiên Lộc nói: “Ta đang đánh cuộc với mình, trong vòng một tuần hương, ngươi sẽ nói chuyện với ta, quả nhiên là vậy”. Hắn nở nụ cười gian tà để hở hàm răng trắng bóng.

    “Ngươi sợ ta?”

    “Hừ, nghĩ hay lắm.”

    Lời chưa nói hết, Phiên Lộc đã lao tới như con mãnh thú.

    “A!” Túy Cúc kêu lên thất thanh, bị một lực rất mạnh ép vào tường không thể cử động.

    Hàng mi khẽ mở, ngay trước mắt nàng, khuôn mặt Phiên Lộc gần trong gang tấc.

    “Ngươi… ngươi muốn làm gì?”

    “Nhìn bộ dạng ngươi, rõ ràng là chưa biết sự đời.” Phiên Lộc không hề nể nang, túm chặt cằm nàng. “Theo Sở Bắc Tiệp bao lâu như thế, chẳng lẽ hắn lại chưa từng chạm vào người ngươi?”

    Túy Cúc từ nhỏ đã theo sư phụ, được sư phụ yêu chiều, ra vào đâu đâu cũng được danh tiếng “đệ tử Thần y” che chở, ngay cả người trong vương tộc Đông Lâm còn đối xử với nàng vô cùng quy củ, đâu có chuyện bị tên nam nhân uy hiếp ở cự ly gần thế này.

    Hơi thở nóng rẫy của Phiên Lộc phả vào mặt còn đáng sợ hơn cả khi nàng bị ném vào giữa bầy sói. Túy Cúc vừa sợ hãi vừa xấu hổ, vội nói: “Tránh ra! Ngươi mau tránh ra!”.

    “Rốt cuộc ngươi là ai?”

    “Bạch Sính Đình, ta là Bạch Sính Đình!”

    “Bạch Sính Đình?”, Phiên Lộc hừ một tiếng, thả nàng ra, bước xuống giường.

    Túy Cúc như được cải tử hoàn sinh, thở phào nhẹ nhõm, người càng áp sát vào tường.

    Xuất thân mật thám, là người nhạy bén, Phiên Lộc rất biết quan sát sắc mặt người khác, đánh giá tình hình quân địch. Đã đến lúc này, liệu còn điều gì chưa rõ?

    Nữ nhân này không phải Bạch Sính Đình.

    Dù vì bất cứ lý do gì mà cài lên đầu cây trâm dạ minh châu, nữ nhân này cũng không phải là Bạch Sính Đình.

    Biết Bạch Sính Đình đã chết, trong lúc vui mừng, Thừa tướng đã lập tức thăng quan cho hắn, phong hắn làm thủ thành của thành Thả Nhu.

    Hắn bất chấp tội chết, giở trò lừa gạt, khai man về cái chết của Bạch Sính Đình, còn tưởng đã kiếm được hàng hiếm giá cao.

    Kết quả lại là một trò cười.

    Trong đầu Phiên Lộc quay cuồng bao ý nghĩ, đuôi mắt quét qua nữ nhân đang cảnh giác nhìn mình.

    Nữ nhân này không phải Bạch Sính Đình, cũng có nghĩa là chẳng còn chút giá trị nào.

    Hơn nữa, nếu để Thừa tướng biết được sự việc này, hắn chỉ có một con đường chết.

    Giết người diệt khẩu?

    Tay Phiên Lộc chậm rãi tiến về phía cây nỏ đặt trên bàn. Khi chạm phải tay cầm quấn gân bò quen thuộc, hắn bỗng dừng lại.

    Giết nàng ta thì có tác dụng gì? Nếu Bạch Sính Đình một lần nữa xuất hiện trước mắt người đời, thì dù có giết nữ nhân này, sự thật vẫn bị phơi bày.

    Phiên Lộc quay lại, ánh mắt dán vào nữ nhân trên giường đang nhìn mình thù địch.

    Đôi mắt to đen, mái tóc dày mượt, làn môi quật cường.

    Hôm đó thần xui quỷ khiến thế nào mà mình lại cứu nàng ta?

    Ngoài việc tưởng nữ nhân kia là hàng hiếm giá cao, nàng ta còn điều gì đáng để mình bất chấp nguy hiểm, liều mạng cướp ra khỏi miệng sói?

    Hắn nhìn nàng, một lúc lâu mới nói: “Nơi này là Thả Nhu, một thành nhỏ của Vân Thường”.

    Hắn nhìn Túy Cúc, khóe miệng lại nhếch lên nụ cười tà ý chỉ mình hắn có: “Ta vừa tiếp quản chức quan thủ thành của thành này, là chức quan to nhất ở đây. Nếu ngươi muốn chạy, ta sẽ bắt lại ngươi như bắt một con thỏ”.

    Dừng lại giây lát, hắn bồi thêm một câu: “Sau đó, lột trần ngươi như lột da thỏ, treo trên tường thành”.

    Dương Phượng ngồi trên giường uống thuốc, đầu hơi tựa vào thành giường. Tâm bệnh đã hết, nàng cảm thấy cả người dễ chịu. Trong lòng vẫn lo cho Sính Đình, Dương Phượng bèn gọi thị nữ lại.

    Thị nữ e dè: “Phu nhân, Thượng tướng quân đã nói, Bạch cô nương đang nghỉ trong khách phòng[1] ở cuối hành lang, khi nào đại phu bắt mạch và viết xong đơn thuốc, Thượng tướng quân sẽ qua với phu nhân. Bạch cô nương đã có người chăm sóc, phu nhân hãy lo dưỡng bệnh”.

    [1] Khách phòng là phòng được chuẩn bị cho khách nghỉ ngơi.

    Dương Phượng ngồi dậy, thò chân xuống tìm giày: “Ngươi đừng sợ Thượng tướng quân, có ta ở đây. Ngươi yên tâm, ta không cậy khỏe, chỉ qua đó nhìn một lát rồi quay về nằm. Lúc nãy mới chạm mặt, ta chưa được nhìn kỹ Sính Đình. Còn đứng đó làm gì? Mau lại đây đỡ ta”.

    Thị nữ sợ Tắc Doãn giận, thấy bộ dạng của Dương Phượng như thế thì cũng sợ chọc giận nàng, khó cả đôi đường. Cuối cùng, a hoàn đấy đành đỡ Dương Phượng, rồi gọi thêm một người nữa, hai người dìu phu nhân đi.

    Thị nữ cầu xin: “Có thật là phu nhân chỉ sang nhìn thôi không? Nếu Thượng tướng quân trách tội, tốt xấu gì phu nhân cũng phải nói đỡ một lời cho nô tỳ”.

    “Ta biết rồi”, Dương Phượng bật cười, “Các ngươi thông minh thật. Sợ Thượng tướng quân mà không sợ ta?”. Hai tay đặt trên vai hai thị nữ, nàng từng bước rời phòng.

    Ba người vừa bước tới hành lang, đúng lúc Tắc Doãn và đại phu ra khỏi khách phòng. Ngẩng lên thấy Dương Phượng, Tắc Doãn vẻ mặt sa sầm, bước nhanh qua, hai tay bế lấy nàng, giọng trách móc: “Bảo nàng nằm im một chỗ, sao đã xuống giường rồi? Sính Đình ở đây, muốn gặp lúc nào chẳng được?”.

    Hai thị nữ thấy ánh mắt lạnh lùng của Tắc Doãn quét tới, sợ hãi quá lùi về sau.

    Vừa dễ chịu vừa thoải mái trong vòng tay Tắc Doãn, Dương Phượng ngẩng lên cười ngọt ngào với nam nhân thân yêu của mình: “Chàng đừng trách họ, họ làm sao dám trái lệnh của đường đường một thượng tướng quân phu nhân? Phu quân, Sính Đình thế nào rồi? Bệnh có nặng không?”.

    “Sính Đình thể trạng yếu, cả chặng đường vất vả, cũng không dễ dàng gì.” Tắc Doãn vừa bế Dương Phượng về phòng, vừa hạ giọng: “Sính Đình hoài thai rồi”.

    Dương Phượng vô cùng ngạc nhiên.

    “Đó nhất định là cốt nhục của Sở Bắc Tiệp”, Dương Phượng khẽ nói.

    “Chắc chắn rồi”, Tắc Doãn thở dài, “Trong bức thư hôm qua, Nhược Hàn có nói, Đông Lâm vương bệnh nặng, hai vương tử của Đông Lâm vương đều đã chết trong tay Đại vương chúng ta và Hà Hiệp…”. Tắc Doãn cúi xuống đặt Dương Phượng vào giường, nhẹ nhàng đắp chăn cho nàng.

    “Trong bụng Sính Đình là huyết mạch của vương tộc Đông Lâm.” Dương Phượng buồn bã thở ra một tiếng, lại hỏi, “Thế Sở Bắc Tiệp đâu? Hắn đang ở đâu?”.

    “Mọi người đều đang tìm kiếm tung tích của Sở Bắc Tiệp. Sau khi biết Sính Đình đã chết, Sở Bắc Tiệp cũng biến mất luôn. Đại vương của chúng ta đang vui mừng, vì việc này mà mở tiệc rượu ba ngày ở vương cung. Nếu Đại vương biết Bạch Sính Đình chưa chết, còn mang trong mình cốt nhục của Sở Bắc Tiệp, chắc chắn sẽ lập tức đến đây.” Tắc Doãn ngừng lời, nhìn Dương Phượng.

    Dương Phượng chần chừ, suy nghĩ hồi lâu, rồi thở dài: “Sở Bắc Tiệp tuy đáng thương, nhưng cũng đáng hận. Đừng nhìn hiện tại hắn vì Sính Đình mà đau lòng muốn chết, chưa biết chừng ngày sau gặp lúc quốc gia nguy nan, vào thời khắc sống chết hắn lại tặng Sính Đình cho người khác. Theo thiếp, khắp thiên hạ đều cho rằng Bạch Sính Đình đã chết, chi bằng đã nhầm thì cho nhầm luôn, để Sính Đình được sống yên tĩnh”.

    “Việc này…”

    “Việc này đương nhiên phải xem ý Sính Đình. Để thiếp nói với muội ấy, rồi muội ấy cũng sẽ hiểu ra”, Dương Phượng cân nhắc một lúc, “Thời thế loạn lạc, thiếp sẽ không để Sính Đình rời khỏi tầm mắt mình. Phú quý cũng được, bần hàn cũng thế, tỷ muội bên cạnh nhau, chăm sóc lẫn nhau”.

    Tắc Doãn biết trong lòng Dương Phượng vẫn áy náy vì trận chiến Kham Bố, có bù đắp cho Sính Đình đến hết cuộc đời cũng không đủ. Chỉ cần Dương Phượng cảm thấy yên ổn thì có gì là không được? Vốn làm việc không bao giờ do dự, Tắc Doãn cương quyết gật đầu: “Được, nếu Sính Đình muốn ẩn cư cùng chúng ta, vậy thì chúng ta sẽ lập tức thu dọn hành lý, rời khỏi chỗ này tìm một chỗ khác. Nơi này đã không còn an toàn, Nhược Hàn biết, Đại vương biết, Sở Bắc Tiệp cũng đã tìm tới, chưa biết sau này sẽ còn ai ghé thăm chúng ta”.

    “Lần ẩn cư này, chúng ta sẽ không còn bất cứ liên quan nào với Bắc Mạc. Cho dù là Nhược Hàn hay Đại vương, chúng ta cùng đều cắt đứt mọi qua lại.”

    Tắc Doãn chăm chú nhìn ái thê, trầm giọng đáp: “Được”.

    “Phu quân…”, Dương Phượng rất cảm động.

    Băng tuyết dần tan gió xuân đang đến.

    Sính Đình, còn nhớ lúc chúng ta hát hò vui vẻ ở phủ vương tử của Hà Túc, ngắt cành dương liễu, cười vang mặt hồ…

    Còn nhớ khi chúng ta so tài cao thấp ở vương phủ Kính An, mừng sinh thần của muội…

    Nay Hà Túc đã là quân vương một nước, vương phủ Kính An hóa thành tro tàn.

    Hà Hiệp rời đi ngàn dặm, đến Vân Thường xa xôi, trở thành phò mã.

    Cuộc đời như bãi bể nương dâu, nếu chưa từng trải qua thì có lẽ không thể tưởng tượng được.

    Nhưng may mắn thay, cả ta và muội đều vẫn ở đây.

    Để Dương Phượng sớm hồi phục, Tắc Doãn hạ nghiêm lệnh, không cho ái thê xuống khỏi giường, ngoài ra còn sai người chăm sóc Sính Đình, tất nhiên cũng vô cùng chu đáo, thoải mái cho dùng các loại thuốc bổ quý hiếm.

    Dương Phượng hết cách, đành nhẫn nại bảy, tám ngày. Nàng tuân thủ tất cả các lời dặn của đại phu, ngày ngày uống thuốc đúng giờ nên hồi phục rất nhanh. Thỉnh thoảng Tắc Doãn lại đưa hài tử sang thăm mẫu thân, nàng mừng rỡ ôm lấy hài tử, thơm hôn rồi ghé vào tai hài tử thì thào: “Khánh nhi, lát nữa mẫu thân dẫn sang thăm dì Sính Đình. Trong bụng dì Sính Đình có một tiểu đệ đệ, sau này sẽ chơi cùng con đấy”.

    Khánh nhi mới gần một tuổi, làm sao hiểu những lời này, chỉ thấy đôi mắt đen láy nhìn quanh, thi thoảng lại toét miệng cười với mẫu thân.

    Tắc Doãn ở bên cạnh nhìn mẫu tử hai người, cũng cảm thấy buồn cười: “Sao nàng biết trong bụng Sính Đình là một tiểu đệ đệ?”.

    “Thiếp đoán thôi mà. Sính Đình đã đỡ hơn chút nào chưa?”

    Vẻ mặt có chút u ám, Tắc Doãn lắc đầu: “Sính Đình không chịu nói chuyện, có vẻ rất đau lòng. Túy Cúc là thị nữ của Sính Đình à?”.

    Dương Phượng cũng lắc đầu: “Vương phủ Kính An không có người này, nếu là thị nữ thì cũng là người của Sở Bắc Tiệp”. Dương Phượng chưa từng gặp Túy Cúc, tuy biết nàng ấy chết thảm, nhưng cũng không đến nỗi đau lòng như Sính Đình.

    Dương Phượng đổi chủ đề, hỏi Tắc Doãn: “Nhìn ý Sính Đình, chàng bảo rốt cuộc trong lòng Sính Đình còn nghĩ đến Sở Bắc Tiệp không? Sở Bắc Tiệp hành sự hiểm ác, nhưng trong bụng Sính Đình mang thai cốt nhục của hắn, thiếp chỉ sợ Sính Đình lại mềm lòng”.

    Tắc Doãn hơi sững người, khi dẫn binh đánh trận, mọi việc thật mạch lạc rõ ràng, nhưng chuyện này đúng là hắn mù tịt, nên lắc đầu nói: “Làm sao mà đoán được tâm tư của nữ nhân, ta không biết”.

    Dương Phượng yêu kiều lườm phu quân một cái, cười bảo: “Thiếp có thể nhìn ra được đấy. Thượng tướng quân, bệnh của người ta đã khỏi từ lâu rồi, chàng hãy mở lòng từ bi giải nghiêm lệnh, cho thiếp xuống giường đi. Thượng tướng quân không biết là nước chảy mới không dậy mùi, trục cửa quay mới không mọt sao? Người bệnh cũng phải hoạt động thích hợp thì mới khỏi được chứ”.

    Tắc Doãn thấy Dương Phượng cười tươi như hoa, lòng say ngây ngất. Nghĩ lại, đúng là nàng đã bị trói chân trên giường đến mấy ngày rồi, hắn cũng thấy mềm lòng. Tắc Doãn khẽ vuốt những lọn tóc mềm mại của thê tử, nói: “Nàng đừng cậy khỏe, vừa đỡ chút xíu đã đòi đi chỗ này chỗ nọ. Giờ đang lúc tuyết tan, trời vẫn rất lạnh. Nàng muốn gặp Sính Đình, ta sẽ bế nàng qua”. Nói rồi, hắn cúi xuống bế Dương Phượng vào lòng.

    Tiểu Tắc Khánh bị bỏ lại trên giường, khóc ầm lên, bất mãn.

    Tắc Doãn nhìn nhi tử, cười: “Con ngoan, con còn nhỏ lắm, sau này lớn lên, con sẽ bế nữ nhân của mình”.

    Thấy phu quân dỗ con như vậy, Dương Phượng lắc đầu, vừa giận vừa buồn cười.

    Hai người âu yếm vào đến khách phòng, tâm trạng phơi phới bỗng chùng xuống vì không khí yên lặng bên trong.

    “Sính Đình?”

    Sính Đình đã tỉnh. Nàng cũng phải chịu nghiêm lệnh “Không được xuống giường” của Tắc Doãn. Lúc này, Sính Đình đang ngồi trên giường, dựa lưng vào gối, người đắp một chiếc chăn. Nghe thấy tiếng Dương Phượng, Sính Đình có chút ngạc nhiên, vội quay đầu lại, mái tóc đen xõa dài trên vai: “Dương Phượng?”.

    Vẻ thông minh sắc sảo khi trước vẫn còn đây, chỉ là khuôn mặt Sính Đình giờ gầy hơn nhiều, thật khiến người ta đau lòng.

    “Sính Đình, Sính Đình…” Hai mắt Dương Phượng đỏ hoe, như sắp khóc đến nơi.

    Tắc Doãn đặt Dương Phượng xuống, để nàng ngồi cạnh Sính Đình trên giường.

    “Khóc gì chứ?” Sính Đình nắm tay Dương Phượng, cười nói, “Nghe nói tỷ đã đỡ nhiều, hôm nay được ra ngoài rồi ư?”. Vừa nói, Sính Đình vừa ngẩng lên nhìn sang bên.

    Tắc Doãn vẫn đứng yên bên cạnh như tượng sắt, vẻ mặt đúng là “phải bảo vệ thê tử như thế”.

    “Đỡ nhiều rồi”, Dương Phượng hỏi, “Còn muội?”.

    Sính Đình cảm kích đáp: “Muội cũng đỡ nhiều rồi, may mà có Thượng tướng quân”.

    “Muội nhớ uống thuốc an thai đúng giờ đấy.”

    “Ừm.” Sính Đình cúi xuống, dịu dàng xoa phần bụng đã hơi nhô ra của mình, “Hài nhi ngoan, mấy hôm nay không đạp nhiều nữa”.

    Dương Phượng thở dài: “Muội cũng biết đứa bé quan trọng, nên đừng đau lòng quá. Sính Đình, đừng tự trách mình nữa. Túy Cúc đã chết, dù muội có giày vò bản thân đến thế nào, nàng ấy cũng không thể quay về. Túy Cúc thân thiết với muội như vậy, ở trên trời cũng chẳng muốn thấy muội thế này”.

    Tắc Doãn cau mày, cảm thấy như đã từng nghe những lời này ở đâu.

    Nghe thấy hai từ “Túy Cúc”, nụ cười trên môi Sính Đình cũng hoàn toàn biến mất. Nàng thở dài, ngẩng lên nhìn Dương Phượng: “Muội biết điều này, nhưng muội vẫn buồn, cứ nghĩ đến Túy Cúc, trong lòng muội lại đau như bị kim châm. Vốn dĩ muội bảo nàng ấy xuống núi, vì muốn cứu mạng nàng ấy, một người sống còn hơn hai người cùng chết đói, chết rét. Không ngờ lại thành hại nàng ấy…”.

    Dương Phượng thấy Sính Đình đau lòng, vội chuyển chủ đề: “Hôm nay ta sang đây muốn bàn với muội một việc. Ta nói trước là ta đã suy nghĩ kỹ rồi, sau này ta sẽ không để muội rời khỏi ta mà phiêu dạt khắp chốn, khiến ta lo lắng không yên. Chúng ta sẽ chuyển đến nơi khác, cùng nhau ẩn cư, được không? Việc đã thế này, dù muội không lo cho bản thân thì cũng phải lo cho hài nhi trong bụng. Muội đừng quá đau lòng, phải chuẩn bị cho tương lai”.

    Sính Đình biết Dương Phượng nói có lý, cũng không muốn để Dương Phượng lo lắng cho mình, nên cố lấy tinh thần, suy nghĩ một lúc rồi gật đầu, đáp: “Ẩn cư cũng được. Nhưng Thượng tướng quân nhà tỷ danh tiếng quá lớn, bên cạnh có bao nhiêu cận vệ thị nữ, bao gia tài, ẩn cư thế nào? Dù đổi sang nơi khác, e là chưa đến ba ngày, sẽ lại có tướng lĩnh Bắc Mạc tìm đến. Muội không muốn để người khác biết mình vẫn còn sống. Tốt nhất là mẫu tử muội sẽ tìm một nơi yên tĩnh khác”.

    Thấy Sính Đình không nhắc đến tên nam nhân đáng ghét Sở Bắc Tiệp, ngôn từ cử chỉ đã lấy lại vài phần thần thái đắn đo suy tính trước kia, Dương Phượng vô cùng vui mừng. Nhưng nghe đến đoạn sau mới biết Sính Đình có dự định khác, nàng vội nói: “Chuyện đó có gì? Cận vệ thị nữ, ai về nhà nấy, nếu đã định ẩn cư, không lẽ còn lưu luyến xa xỉ của phủ thượng tướng quân?”.

    Sính Đình nhìn Dương Phượng, lắc đầu: “Tỷ và muội không giống nhau, muội đã từng chịu bao vất vả, bị bọn quan lại cướp mất tay nải, phải leo lên núi tuyết, chịu đói, chịu rét, đã nếm trải đủ thế nào là gian khổ. Tỷ từ nhỏ đã ở trong phủ vương tử quen với áo gấm bát ngọc, đến Bắc Mạc thì trở thành thượng tướng quân phu nhân, đâu hiểu được thói đời ấm lạnh ra sao?”.

    Dương Phượng ngồi thẳng người lên, giọng nghiêm túc: “Sính Đình, ta không đùa đâu. Lần trước để muội rời khỏi phủ thượng tướng quân đến Đông Lâm gặp Sở Bắc Tiệp, ta đã hối hận đến đứt gan đứt ruột rồi. Chuyện mẫu tử muội ẩn cư, sau này ta không cho phép nhắc lại nữa. Trước kia ở vương phủ Kính An, muội cũng quen với áo gấm bát ngọc, địa vị chẳng khác gì một thiên kim tiểu thư, giờ muội chịu được khổ, có gì ta lại không?”. Như bỗng nhớ ra điều gì, Dương Phượng đuổi hết đám người hầu ra ngoài. Sống những ngày bần hàn không chỉ là việc của một mình Dương Phượng, mà cũng phải hỏi qua Tắc Doãn một tiếng. Nghĩ tới đây, nàng bỗng ngừng lời, quay lại nhìn Tắc Doãn.

    Tắc Doãn trầm giọng: “Không quan trọng. Ta sẽ xử lý”.

    Năm xưa khi Dương Phượng nhận lời mình, Tắc Doãn đã hứa sẽ quy ẩn sơn lâm, toàn tâm toàn ý cùng nàng vui sống. Thị nữ, cận vệ, gia sản, đâu có đáng gì?

    Dương Phượng hiểu được tâm ý phu quân, vừa cảm động lại vừa cảm kích.

    Ở bên cạnh nhìn, Sính Đình bỗng nhớ tới Sở Bắc Tiệp, trong lòng đau như bị kim châm, không sao tự chủ nổi. Sợ Dương Phượng nhận ra, nàng khẽ quay sang bên, lặng lẽ lau những giọt lệ nơi khóe mắt.

    Vốn nói được làm được, ngay tối hôm đó Tắc Doãn cho gọi đám gia nhân đến đại sảnh, nói: “Ta đã hứa với phu nhân, lần này quy ẩn sẽ không xuất núi. Núi rừng hoang vắng, phu thê ta cũng không cần nhiều người hầu hạ thế này. Các ngươi vẫn còn trẻ, nam nhi nếu có lòng muốn dốc sức cho quốc gia, thì hãy trở về thành đô, ta sẽ viết thư giới thiệu, nhờ Nhược Hàn thượng tướng quân sắp xếp cho các ngươi một chỗ ổn thỏa. Còn các thị nữ, có nhà thì về, không có nhà thì tự tìm đường cho mình. Đồ dùng và những vật bài trí trong nhà đa phần đều là phần thưởng cho công lao giết chóc của ta trên sa trường, đều là bảo vật cung đình, các ngươi hãy mang ra mà chia nhau, rồi đem bán lấy tiền, hoặc để làm của hồi môn, hay dưỡng lão”.

    Lời vừa dứt, mọi người bắt đầu xôn xao.

    Thần sắc không hề thay đổi, Tắc Doãn trầm giọng: “Tính cách của ta, các ngươi đều hiểu, một lệnh ban ra, cả ba quân còn phải tuân theo, huống hồ là các ngươi? Đừng lôi thôi dài dòng, khắp thiên hạ, không có bữa tiệc nào là không tàn, phóng khoáng tụ họp, vui vẻ giải tán mới là bản sắc của người Bắc Mạc ta. Còn một việc nữa, ở đây có thêm một người, ít nhiều các ngươi cũng đoán ra đó là ai. Thiên hạ đều cho rằng người này đã chết, nên không ai được tiết lộ nửa lời về việc người ấy còn sống. Các ngươi theo ta đã nhiều năm, ta tin các ngươi. Nhưng, ta vẫn muốn các ngươi thề độc một lần, quyết không nói việc này cho bất cứ ai”.

    Nói đến đây, ai cũng hiểu rằng Tắc Doãn đã quyết.

    Các cận vệ theo Tắc Doãn vào nam ra bắc, đều là những nam tử hán mang bầu nhiệt huyết, đa phần họ đều trông chờ đến một ngày Tắc Doãn sẽ quay lại thành đô, dốc sức cho quốc gia giống như xưa. Nay nghe lời này của Tắc Doãn, họ đều khẳng khái thề quyết không tiết lộ một câu, một từ về việc Bạch Sính Đình còn sống.

    Phần đông các thị nữ từ nhỏ lớn lên trong phủ thượng tướng quân, hết lòng trung thành với Tắc Doãn, tuy không hiểu chuyện quốc gia đại sự, nhưng biết Bạch Sính Đình là hảo hữu của phu nhân, nên cũng cất lời thề.

    Tắc Doãn làm việc dứt khoát ngay lập tức sai người mang ra bút nghiên, giải quyết nhanh gọn mọi chuyện, viết hết thư tiến cử cho cận vệ. Sau đó, hắn lại đem những bảo vật quý giá còn thừa lại chia cho các thị nữ, đảm bảo cho họ ngày sau không lo đói rét. Bận rộn tới tận đêm khuya mới coi như mọi việc được sắp xếp ổn thỏa, nhưng họ bỗng gặp phải một vấn đề khác.

    Cận vệ Ngụy Đình là người duy nhất không chịu rời đi. Ngụy Đình mắt đỏ hoe, nói: “Thuộc hạ, theo Thượng tướng quân bao năm như thế, lấy đâu ra chỗ nào để đi? Thượng tướng quân cũng biết cái tính khí thối tha của thuộc hạ, các tướng khác sai bảo, thuộc hạ đều không chịu nghe. Cho dù Thượng tướng quân quy ẩn thì cũng cần người gánh nước, đuổi dê. Nếu Thượng tướng quân không cho thuộc hạ ở lại, hôm nay thuộc hạ sẽ chết ngay tại đây”. Nói xong, hắn tuốt kiếm kề ngay lên cổ.

    Vốn là người thẳng thắn, chẳng rành đoán ý người khác, Ngụy Đình không biết đã xung đột với bao tướng quân trong cung, ngay cả Nhược Hàn cũng chẳng ngoại lệ. Khi đánh trận, hắn gan dạ dũng mãnh, không sợ hiểm nguy, trung dũng có thừa. Vì điểm này, Tắc Doãn rất coi trọng Ngụy Đình, và giữ hắn lại bên mình.

    Tắc Doãn biết tính tình của Ngụy Đình, nếu lắc đầu, chưa biết chừng hắn sẽ cứa cổ ngay tại đây. Lại nghĩ đến thời còn dẫn quân, Ngụy Đình đã đắc tội với không biết bao nhiêu đại tướng Bắc Mạc, nay giới thiệu về không biết hắn sẽ chịu bao ấm ức, Tắc Doãn đành gật đầu, nói: “Cũng được, ngươi ở lại đi”.

    Ngoài Ngụy Đình, còn có Hứa bá và vú nuôi đã trông coi Tắc Doãn từ bé. Hai người này tuổi đã cao, tất nhiên Tắc Doãn phải đưa đi cùng để phụng dưỡng và lo liệu cho họ.

    “Mọi sự đã chu toàn, chỉ cần tìm một nơi ẩn cư thích hợp nữa là xong.”

    Suy nghĩ giây lát, Sính Đình đáp: “Muội nghĩ ra một nơi, là một thôn trang nhỏ yên tĩnh ở chân núi phía bên kia của sơn mạch Tùng Sâm. Ở đó có đất để trồng trọt, có cỏ để chăn thả gia súc. Tuy bần hàn một chút, nhưng con người chốn ấy rất tốt”.

    “Một nơi mà ngay cả muội cũng phải khen, chắc chắn sẽ rất tuyệt.” Trước nay luôn tín nhiệm những đề nghị của Sính Đình, Dương Phượng hỏi Tắc Doãn, “Chúng ta ở đó nhé, được không?”.

    Tắc Doãn nhìn Dương Phượng yêu chiều: “Nếu nàng thích thì chọn chỗ đó.”

    “Còn một việc nữa”, Sính Đình nói, “Muội muốn chuyển cả mộ phần của Túy Cúc đến đó, không thể để Túy Cúc một mình cô đơn ở đây”.

    Dương Phượng nói: “Chuyện này dễ thôi, chúng ta thỉnh di cốt ra, rồi đưa đi theo”.

    “Sư phụ của Túy Cúc là Đông Lâm thần y Hoắc Vũ Nam. Nghe nói ông ấy chỉ có mỗi mình Túy Cúc là đệ tử, luôn coi Túy Cúc như viên minh châu trong lòng bàn tay.” Sính Đình lấy trong ống tay áo ra một bức thư, “Sính Đình đã viết một bức thư, nhờ Thượng tướng quân sai người đưa đến cho ông ấy. Nếu có hỏi ai viết, thì cứ nói một bằng hữu của Túy Cúc”.

    Tắc Doãn nhận lấy: “Tiểu thư yên tâm, ta nhất định sẽ đưa đến nơi”.

    Hôm đó trở về phòng, Tắc Doãn chợt hỏi Dương Phượng: “Bức thư này có gửi đi không?”.

    Dương Phượng ngạc nhiên: “Sao lại không gửi?”.

    “Hoắc Vũ Nam là danh y của Đông Lâm, thường xuyên ra vào vương cung, có giao tình thân thiết với vương cung Đông Lâm. Bức thư này đưa tới, rất có thể sẽ khiến Hoắc Vũ Nam nghi ngờ. Nếu Túy Cúc đã chết, vậy Sính Đình đang ở đâu? E là họ sẽ đoán ra điều mấu chốt ở đây.”

    Dương Phượng lúc này mới hiểu ra, mặt bỗng biến sắc: “Hiện giờ Sính Đình đang mang trong mình cốt nhục của Sở Bắc Tiệp, Sở Bắc Tiệp lại không rõ tung tích. Những cuộc tranh giành đấu đá trong vương tộc vô cùng đáng sợ, nếu chẳng may lại bị cuốn vào cuộc chiến tranh giành vương vị… Liệu họ có sai người đến giết Sính Đình?”.

    Tắc Doãn gật đầu: “Ta đang lo chính là điều này.”.

    “Nói như thế, bức thư này tuyệt đối không thể gửi đi.” Trước tiên phải lo bảo vệ cho sự an toàn của Sính Đình, đâu còn để ý gì đến Thần y Đông Lâm, Dương Phượng suy nghĩ giây lát, rồi đưa tay ra, “Đưa cho thiếp”. Nàng nhận thư, châm vào lửa.

    Nhìn làn khói xanh chầm chậm bốc lên, Dương Phượng hạ giọng lẩm bẩm: “Sính Đình, ta biết muội là người tốt, không nhẫn tâm để sư phụ của Túy Cúc khổ sở tìm kiếm đệ tử. Nhưng, sự an nguy của muội cũng vô cùng quan trọng. Việc này cứ để ta quyết định”.

    Những người trong sơn trang ẩn cư đều tuân thủ tác phong làm việc như sấm rền gió cuốn của Tắc Doãn, tuy vô cùng lưu luyến nhưng họ không hề buồn thương, hay do dự.

    Trong vòng mấy ngày, mọi người đều đã đi gần hết. Đồ cổ, đồ mỹ nghệ quý giá, đồ trang trí trong nhà cũng được chuyển đi.

    Còn lại ba người nhà Tắc Doãn cùng Sính Đình, Hứa bá, vú nuôi và cả Ngụy Đình, cả thảy bảy người mang theo chỗ vàng bạc Tắc Doãn để lại, lên đường xuất phát, chính thức cáo biệt vương thất Bắc Mạc với bao vương vấn trong lòng.
     
  7. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 46
    Nhận được tin Bạch Sính Đình đã chết, Quý Thường Thanh cảm thấy như trút được tảng đá trong lòng, mừng rỡ ban thưởng cho công thần Phiên Lộc chức vị thủ thành, dặn dò hắn phải giữ kín bí mật này.

    Không biết có phải là qua cơn Bĩ cực đến hồi Thái lai? Cứ ngỡ bóng ma chiến tranh đã đổ xuống, Vân Thường sẽ phải rơi vào cảnh sinh linh lầm than, nhưng rất nhiều chuyện bất ngờ xảy ra. Không những trận chiến không xảy ra mà Sở Bắc Tiệp còn không thể gượng dậy sau cái chết của Bạch Sính Đình, hiện không rõ tung tích. Vương thất Đông Lâm rối ren, không thể dòm ngó Vân Thường.

    Vì không còn chiến sự nên hổ phù trong tay Phò mã đã quay về tay Công chúa điện hạ.

    “Ha ha…”, Quý Thường Thanh cười cảm khái, “Xem ra nước cờ Bạch Sính Đình thực là chuẩn xác”.

    Quý Thường Thanh không hy vọng người khác biết rằng cái chết của Bạch Sính Đình có liên quan đến Vân Thường nên đã giấu kín bao nhiêu ngày, đợi đến khi tin tức về cái chết của Bạch Sính Đình truyền khắp thiên hạ bởi các tướng sĩ Bắc Mạc công khai bái tế Bạch cô nương, ông ta mới vào cung gặp Diệu Thiên công chúa.

    “Chết rồi?”, Diệu Thiên thất kinh, hạ giọng hỏi, “chẳng phải ta đã dặn Thừa tướng, đại chiến qua rồi, hãy để Bạch Sính Đình tự sinh tự diệt ư? Sao Thừa tướng còn không chịu buông tha cho nàng ta?”

    “Công chúa hiểu lầm rồi. Công chúa đã dặn dò, thần sao dám không nghe? Bạch Sính Đình muốn vòng qua cửa khẩu biên giới Vân Thường, từ sơn mạch tiến vào Bắc Mạc, kết quả là tự cho mình thông minh nhưng lại sai lầm bởi chính thông minh ấy. Lúc ở trên núi, nàng ta đã gặp phải bầy sói dữ.”

    Diệu Thiên bán tín bán nghi, im lặng hồi lâu, cau mày nói: “Phò mã có biết không?”.

    “Tin tức đã truyền khắp thiên hạ, chắc Phò mã đã biết rồi.”

    Diệu Thiên thở dài một tiếng.

    Quý Thường Thanh ngạc nhiên: “Công chúa sao thế? Bạch Sính Đình chết vì gặp nạn, đối với Công chúa chẳng phải là việc tốt hay sao?”.

    Diệu Thiên cười khổ: “Phò mã biết Bạch Sính Đình chết, trong lòng sẽ rất buồn. Phò mã buồn, ta vui được sao?”.

    Quý Thường Thanh thấy Diệu Thiên nặng tình với Hà Hiệp như vậy, trong lòng thầm bất an, vội chuyển câu chuyện: “Lần trước Công chúa ra lệnh, muốn lập riêng một kho tiền lương trong quân. Vương lệnh này, thần tạm thời giữ lại”.

    Diệu Thiên ngạc nhiên nhìn Quý Thường Thanh: “Việc quân khẩn cấp, giải quyết nhanh còn không kịp, sao Thừa tướng còn giữ lại?”.

    “Thần cảm thấy làm thế có chút không ổn.”

    “Hà Hiệp đường đường là Phò mã, quản một kho tiền lương có gì không ổn?”

    “Công chúa, xin hãy nghe thần một lời.” Quý Thường Thanh đứng dậy, tiến lên hai bước, dịu giọng, “Hiện trong tay Phò mã có binh, có tướng, thứ duy nhất khống chế được Phò mã chính là tiền lương. Nếu Phò mã quản lý cả tiền lương thì trong tay Công chúa còn thứ gì để ràng buộc Phò mã?”

    Diệu Thiên khẽ thở dài: “Ta cũng biết Thừa tướng lo nghĩ cho ta. Nhưng ta và Phò mã là phu thê, chàng dốc sức vì Vân Thường, chúng ta lại nghi ngờ, tìm mọi cách ngáng trở chàng. Thừa tướng, làm vậy có nên không? Thừa tướng đừng quên ta và Phò mã là một, tương lai hài tử của ta sẽ là người đứng đầu Vân Thường.”

    Tự cổ, khó cắt bỏ nhất chính là tình nam nữ. Bao nhiêu người vướng chân vào, rồi không thể rút ra được.

    Nếu Diệu Thiên chỉ là một nữ tử bình thường, nghĩ như thế hoàn toàn hợp lý, nhưng đằng này, nàng lại đại diện cho vương quyền của Vân Thường.

    Biết là khó khuyên, nhưng không thể không khuyên, Quý Thường Thanh e hèm một tiếng, tiếp tục nhẹ nhàng: “Công chúa còn nhớ ngày xuất giá, Công chúa đã từng nói với thần câu gì không?”

    “Ngày xuất giá?”, Diệu Thiên nhớ lại, mỉm cười, “Ta sao có thể quên? Hôm đó Diệu Thiên lo lắng không yên, nên đã mời riêng Thừa tướng vào phòng nói chuyện”.

    “Công chúa bảo, phải làm thế nào để giữ được cả con người và trái tim Hà Hiệp, muốn thần sau này suy tính giúp Công chúa”, Quý Thường Thanh cúi người nói, “Lúc đó thần đã hứa với Công chúa là sẽ dốc sức vì việc này”.

    Diệu Thiên nghe xong, ánh mắt nhìn về phía Thừa tướng, giọng buồn rầu: “Nhưng hiện giờ, sao ta thấy mọi hành động của Thừa tướng lại đang đẩy cả con người và trái tim Phò mã ngày càng rời xa ta?”

    “Công chúa…”

    “Thừa tướng không cần nói nữa”, Diệu Thiên lên tiếng cắt ngang lời Thừa tướng. Dừng một lát, thần sắc của nàng ánh lên vẻ uy nghiêm không thể thay đổi, “Ta đã hứa với Phò mã, lập một kho tiền lương riêng cho quân. Việc này ích nước lợi dân. Thừa tướng không cần nhiều lời, hãy mau chóng đi làm”.

    Quý Thường Thanh định nói lại thôi, nhìn vẻ mặt Diệu Thiên, biết không thể cứu vãn, chỉ còn cách cúi đầu đáp: “Thần… tuân lệnh”, rồi thở dài một tiếng.

    Quý Thường Thanh làm quan nhiều năm, hành sự cẩn trọng. Diệu Thiên từ nhỏ đã coi người này là trưởng bối, chưa từng trực tiếp phản bác ý kiến của ông ta nên trong lòng cũng cảm thấy buồn. Ngồi yên một lúc, nàng lại dịu giọng: “Thừa tướng còn việc gì khác cần nói với ta không?”

    Đúng là Quý Thường Thanh đang có chuyện càn nói.

    “Đúng là …”, Quý Thường Thanh đáp, “ Vẫn còn một việc”.

    “…?”

    “Thần muốn xin Công chúa tặng một người cho Phò mã.”

    Diệu Thiên sững sờ, nhìn Quý Thường Thanh: “ Người nào?”

    “Là dưỡng tử thần mới nhận, tên Phong m, tuy không thật đẹp nhưng tính tình hiền dịu, giỏi đàn, biết múa hát, lại vô cùng trung thành với vương thất Vân Thường.”

    Diệu Thiên hiểu ra ngay, trong lòng cảm thấy không tự tại, giọng lạnh lùng: “Thừa tướng muốn ta tặng một nàng thiếp cho Phò mã?”

    “Pháp lệnh Vân Thường đã ghi rõ, Phò mã và Công chúa không ở chung, trong phủ Phò mã ít nhất cũng phải có một người thiếp. Phò mã lần trước gần như đã lập Bạch Sính Đình làm thiếp. Nay nàng ta đã chết, lần này Công chúa hãy rộng lượng một chút, tặng cho Phò mã một người.”

    Sắc mặt Diệu Thiên vô cùng khó coi: “Ai nói trong phủ Phò mã nhất định phải có thiếp? Ta là Công chúa, pháp lệnh có thể lập, cũng có thể bỏ”.

    Quý Thường Thanh cười đáp: “Công chúa sai rồi. Pháp lệnh có thể đổi nhưng lòng người thì sao? Thay vì để Phò mã tự mình chọn lấy một người tranh sủng với mình, chi bằng Công chúa hãy đưa một người đến nhằm trông coi Phò mã. Có Phong m, Phò mã sẽ không dễ dàng lập một thiếp khác, hơn nữa, vạn nhất tâm tư của Phò mã bị ai lôi kéo, ít nhất Công chúa cũng có được một người báo tin”.

    Lồng ngực phập phồng, Diệu Thiên dứt khoát lắc đầu: “Không được. Những việc khác đều có thể thương lượng, chỉ riêng chuyện này thì không thể.”

    Biết lúc này không thể tiến bừa, Quý Thường Thanh đành lùi một bước, nói: “Nếu đã như vậy, thần xin cáo lui. Công chúa hãy suy nghĩ kỹ, rồi đưa ra quyết định, lúc đó vẫn chưa muộn”. Nói rồi ông ta khom người rời đi.

    Diệu Thiên nhìn về phía tấm rèm lay động, trong phòng chỉ còn một mình nàng.

    Tâm trạng đang tốt bỗng bị đề nghị của Quý Thường Thanh phá hỏng, Diệu Thiên không khỏi thầm hận ông ta.

    Ngăn còn không được nay lại muốn đưa thêm người tới?

    Nghĩ lại, pháp quy của Vân Thường cũng thật đáng ghét, nữ nhân xuất giá, đáng lẽ phải được sống cùng phu quân mới phải. Đằng này, Công chúa thực đáng thương, phải ở lại vương cung, phu thê như những ngôi sao ở hai bên dải ngân hà, một người chốn vương cung, một người nơi phủ phò mã, chỉ nhìn nhau mà khó chịu.

    Chỉ là…

    Hà Hiệp anh tuấn nhường ấy, uy danh chấn động thiên hạ, một anh hùng như thế, lại từng trải sự đời, nay đã trở thành Phò mã, trong tay đủ danh lợi quyền thế, không biết bao nhiêu tiểu thư khuê các nhìn thấy má đã ửng hồng, sao có thể đảm bảo Hà Hiệp không có lúc này lúc nọ?

    Ngộ nhỡ Phò mã phải lòng ai đó, muốn lập người ấy làm thiếp, mà nàng lại là một Công chúa, chẳng lẽ lại bãi bỏ pháp lệnh, để người trong thiên hạ chê cười về lòng đố kỵ của nàng?

    Diệu Thiên bất mãn nhìn vào trong gương, ánh mắt đố kị trong đó cũng khiến nàng giật mình, vội vã lấy khăn phủ lên trên.

    Lúc này, Lục Y từ ngoài rèm nói vọng vào: “Công chúa, hoa khô mới tiến cống đã đưa tới.”

    Đang tức giận, Diệu Thiên không muốn bị người khác làm phiền, bèn cao giọng: “Mang đi. Không có việc đại sự, không được bẩm báo”.

    Nghe được nỗi tức giận trong giọng nói của Công chúa, Lục Y giật mình, hạ giọng: “Vâng”, rồi le lưỡi rụt cổ, không biết Thừa tướng và Công chúa đã nói với nhau những gì mà Công chúa lại thành ra như thế.

    Lục Y đang định xách giỏ hoa khô đi ra, lại nghe thấy mệnh lệnh của Diệu Thiên: “Lục Y, ngươi đợi ngoài đó”.

    Lục Y vội vã dừng chân, đáp: “Vâng”, rồi đứng bên ngoài chờ đợi.

    Sao thân là công chúa thì phải sống trong vương cung? Thật chẳng hợp với lẽ thường…

    Diệu Thiên nghĩ đến đề nghị của Quý Thường Thanh, cân nhắc thật kỹ, cũng không phải là không có lý.

    Phong Âmđó “không thật đẹp”, cho dù Phò mã có ham của lạ, thì mươi bữa nửa tháng, hứng thú cũng phải cạn.

    “Tính tình dịu dàng, giỏi đàn, biết múa hát”, những thứ đó cũng chỉ giúp Phò mã giải sầu.

    Phong Âmlà người của Thừa tướng nên có thể hoàn toàn yên tâm về lòng trung thành. Một là rót nước dâng trà, cận kề bên gối, thông tỏ nhất cử nhất động của Phò mã; hai là ngộ nhỡ Phò mã bị nữ nhân khác dụ dỗ thật thì Phong Âmcũng có thể ra tay ứng phó, đóng lấy vai xấu mà nhận mọi sự lôi thôi ầm ĩ.

    “Xem ra, cũng chẳng phải hoàn toàn vô lý”, Diệu Thiên lẩm bẩm, khẽ gật đầu. Nhưng, nghĩ đến chuyện bên cạnh Hà Hiệp có thêm tiểu thiếp, hai hàng mày của nàng vẫn cau, toàn thân khó chịu, bực bội không nói thành lời.

    Lục Y đứng ngoài, nghe tiếng bước chân Diệu Thiên đi lòng vòng bên trong, nàng còn giận dữ túm cả tấm rèm đá quý bên cửa sổ, phát ra những tiếng leng keng, một lúc sau lại hoàn toàn im ắng.

    Hồi lâu, Lục Y mới nghe thấy bên trong vọng ra tiếng gọi: “Lục Y”.

    “Bẩm Công chúa, có Lục Y.”

    “Ngươi sai người đi nói với Thừa tướng rằng…”, giọng Diệu Thiên ngập ngừng.

    Lục Y dỏng tai nghe, đợi hồi lâu, bèn lo lắng ngẩng lên nhìn trộm vào.

    Diệu Thiên đứng giữa phòng, lưng thẳng, cả người như một bức tượng.

    “Công chúa?”, Lục Y thăm dò gọi một câu.

    Diệu Thiên bất đắc dĩ thở dài một tiếng, sắc mặt xám xịt: “Ngươi nói là, Công chúa nghĩ thông rồi, Thừa tướng cứ làm đi. Vương lệnh sẽ được đưa đến phủ phò mã.”

    Hà Hiệp bận rộn cả một ngày, vừa trở về phủ phò mã, còn chưa kịp uống ngụm nước, sứ giả vương cung đã mang vương lệnh tới.

    Hắn nhận vương lệnh trong phòng, rồi sai người tiễn sứ giả ra ngoài. Thấy xung quanh không có ai, Đông Chước khẽ ai oán: “Dưới kia đã có bao tai mắt rồi, còn chưa thỏa mãn mà nhét thêm một người nằm bên cạnh. Theo thuộc hạ, đến tám phần lại là trò của Thừa tướng”.

    Hà Hiệp cầm vương lệnh, sắc mặt tái xanh, không hề lên tiếng.

    Chẳng bao lâu, thị vệ lại vào bẩm báo: “Bẩm Phò mã, ngoài phủ có đội ngựa xe đến, nói là Phong Âmcô nương do Công chúa tặng cho Phò mã.”

    Ánh mắt Hà Hiệp đầy nộ khí, giọng lạnh nhạt: “Ta biết rồi, giờ ta sẽ đi đón”. Cả đoạn đường bước đi thật chậm, đến khi ra khỏi bục cổng, sắc mặt tái xanh của hắn đã nở nụ cười.

    “Phong Âmcô nương, vất vả rồi”, Hà Hiệp đích thân tiến tới, tao nhã đỡ lấy nữ nhân đang ngồi trên xe ngựa xuống.

    Phong Âmbước xuống, nhún gối hành lễ với Hà Hiệp: “Phò mã”, giọng nói yêu kiều rụt rè, lúc ngẩng lên nhìn Hà Hiệp, ánh mắt vô cùng khiếp sợ.

    Họ cùng vào phủ, Hà Hiệp dẫn Phong Âmđến hậu viện, vừa đi vừa nói: “Vương lệnh vừa tới, nên vẫn chưa kịp bố trí chỗ ở cho cô nương. Chi bằng cô nương hãy vào sảnh uống trà, ăn tối, đợi thị nữ đi sắp xếp đã”.

    Phong Âmcúi đầu, đáp: “Phong Âmphụng vương lệnh đến làm nô tỳ hầu hạ Phò mã, đâu cần phải sắp xếp phòng. Phò mã hãy ban cho Phong Âmmột gian phòng của thị nữ trước đây là được rồi”. Bước chân họ dừng lại, đúng ngay trước căn phòng Sính Đình đã từng ở.

    Đông Chước mặt bỗng biến sắc, bước chân tiến lên phía trước, nhưng bị Hà Hiệp quét mắt cảnh cáo, đành nghiến răng lui ra.

    Hà Hiệp dịu dàng: “Đã như thế, căn phòng này cũng đang trống, cô nương chịu khó vậy”.

    “Đa tạ Phò mã”, Phong Âmcười dịu dàng, lại khẽ nhún gối với Hà Hiệp, “Phong Âmxin vào phòng sắp xếp đồ đạc, rồi sẽ ra hầu hạ Phò mã dùng bữa”.

    “Đi đi”.

    Nhìn Phong Âmđẩy cửa, bước vào bên trong, Hà Hiệp không nói tiếng nào, quay người rời đi. Đông Chước sắc mặt sa sầm, vòng qua hòn giả sơn, bỗng nghe thấy sau lưng vang lên tiếng đàn, rõ ràng Phong Âmđang thử cây đàn cổ trong phòng.

    Đông Chước dừng bước, nghiến răng: “Quý Thường Thanh, lão già mãi không chịu chết này, ép người quá đáng! Thiếu gia, sao thiếu gia…” Đông Chước ngẩng lên, phát hiện thấy Hà Hiệp đã đi khỏi.

    Tuyết trắng tan hết, mùa xuân đã đến.

    Lại đến lúc hái hoa cài lên mái tóc.

    So với năm ngoài, tình hình tứ quốc giờ đã chuyển sang cục diện khác hẳn.

    Vương cung Quy Lạc, quan hệ giữa Đại vương và gia tộc của Vương hậu như dòng chảy ngầm dưới lớp băng mỏng manh, càng chảy càng mạnh.

    Ở Bắc Mạc, Thượng tướng quân Tắc Doãn dẫn theo phu nhân và hài nhi rời khỏi nơi ở cũ, chính thức quy ẩn.

    Đông Lâm Vương tạ thế trong nỗi thất vọng và bi phẫn. Trước bao nhiêu đại thần quỳ lạy, Đông Lâm vương hậu trang nghiêm bước lên ngai vàng cao nhất giữa đại điện.

    Sau tin về cái chết của Bạch Sính Đình là tin Đông Lâm Trấn Bắc Vương Sở Bắc Tiệp mất tích.

    Hai danh tướng đương thời, một không rõ tung tích, người còn lại là tiểu Kính An vương Hà Hiệp thì chưa hề có động tĩnh gì.

    Muốn xưng hùng thiên hạ phải biết nằm gai nếm mật.

    Nắm bảo kiếm trong tay, Phò mã Vân Thường vẫn hoàn toàn thản nhiên.

    Ngoại thành Vân Thường.

    Đêm khuya trăng sáng, tiếng côn trùng rả rích kêu.

    Trong căn phòng nhỏ giữa rừng, một lão nhân tóc trắng đang ngồi xếp bằng trên chiếu, người học trò trẻ tuổi cung kính hỏi: “Đệ tử có một việc không hiểu, muốn thỉnh giáo sư phụ. Người đã dạy học ở Bắc Mạc nhiều năm, được mọi người kính mến. Sao sư phụ lại rời khỏi Bắc Mạc, tìm đến Vân Thường?”.

    Lão nhân cười nói: “Người già thường hay sợ chết. Tứ quốc sắp đại loạn, không đến Vân Thường, nơi an toàn nhất, thì biết trốn đi đâu?”

    Đệ tử ngạc nhiên: “Sao sư phụ biết Vân Thường là nơi an toàn nhất?”

    “Ha ha, danh tướng trong thiên hạ, một là Sở Bắc Tiệp, một là Hà Hiệp. Bây giờ còn lại ai?”

    “Sở Bắc Tiệp không rõ tung tích, Hà Hiệp hiện là Phò mã ở thành đô Vân Thường”

    “Tiểu Kính An Vương đâu phải là người có thể cam tâm làm Phò mã?”, lão nhân thở dài, “Quy Lạc tự rước họa vào thân, hủy hoại lá chắn hộ quốc là vương phủ Kính An, Bắc Mạc không còn Tắc Doãn, Đông Lâm mất đi Sở Bắc Tiệp. Một khi Hà Hiệp dẫn theo đại quân Vân Thường xông tới, ba nước còn lại không còn đại tướng có khả năng đối kháng với Hà Hiệp. Muốn tránh họa chiến tranh, ngoài Vân Thường ra, còn có thể đi đâu?”.

    “Sư phụ kết luận có sớm quá không?”

    “Một tướng tài như Hà Hiệp, liệu còn ai có thể sánh vai?”

    “Có”, đệ tử đáp, “Sở Bắc Tiệp”.

    Lão nhân mỉm cười nhìn đệ tử, như nhìn một đứa trẻ chưa hiểu chuyện: “Sở Bắc Tiệp giờ đang ở đâu?”.

    Cũng là người bướng bỉnh, đệ tử đáp: “Chỉ cần còn sống thì Sở Bắc Tiệp vẫn là danh tướng, vẫn là đối thủ của Hà Hiệp”.

    “Người sống thì có tác dụng gì? Nếu chỉ là cái xác không hồn, dù có chạm mặt Hà Hiệp, Sở Bắc Tiệp chẳng qua chỉ là tặng không tính mạng cho người khác.”

    “Có một người nhất định sẽ giúp Sở Bắc Tiệp phấn chấn trở lại”.

    “Ai?”

    “Bạch Sính Đình.”

    Lão nhân cười hỏi: “Bạch Sính Đình giờ ở đâu?”.

    Đệ tử sững người, cúi đầu đáp: “Đã chết rồi”.

    “Đúng thế, đã chết rồi.” Lão nhân vuốt chòm râu bạc, khẽ thở dài.

    Đệ tử vẫn không chịu từ bỏ, nói: “Sở Bắc Tiệp có thể hăng hái vì Bạch Sính Đình, biết đâu cũng sẽ hăng hái vì người khác?”.

    Lão nhân dịu dàng nhìn học trò, đôi mắt già nua mờ đục, nhưng vẫn lấp lánh ánh sáng của trí tuệ.

    “Trò đã bao giờ nghe thấy tiếng đàn của Bạch Sính Đình?”

    “Đệ tử chưa từng.”

    “Trò đã bao giờ gặp Bạch Sính Đình?”

    “Đệ tử chưa từng.”

    “Trò đã bao giờ được đọc lá thư của Bạch Sính Đình mà Công chúa Vân Thường gửi Sở Bắc Tiệp trên chiến trường?”

    “Đệ tử chưa được đọc”, đệ tử cúi đầu trả lời, “Đệ tử chỉ nghe tên của Bạch Sính Đình, nghe kể những câu chuyện về Bạch Sính Đình”.

    Bạch Sính Đình, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An.

    Tên của nàng truyền khắp thiên hạ.

    Câu chuyện của nàng vẫn chưa kết thúc.
     
  8. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 47
    Sơn mạch Tùng Sâm là lá chắn thiên nhiên ngăn cách hai nước Bắc Mạc và Vân Thường.

    Thôn trang nhỏ xíu ấy nằm dưới chân sơn mạch Tùng Sâm, luận về địa giới vẫn thuộc lãnh thổ Bắc Mạc, nhưng nơi hoang vắng này không có lợi ích quân sự, cách cửa khẩu cũng xa, người trong thôn chỉ lên núi hái thuốc, săn bắn, núi non hoang vắng, đâu quan tâm gì đến Vân Thường hay Bắc Mạc.

    “Sơn mạch Tùng Sâm là của chúng ta”, A Hán vẫn thường cười ha ha mà rêu rao như vậy.

    Xa xa, những dãy núi quanh năm tuyết phủ sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tựa như một tấm gương chói chang. Đã trồng xong vụ xuân, trên thảo nguyên bao la phía đông, cỏ non vươn mầm mạnh mẽ.

    Mùa xuân đã đến, nơi nơi vang lên khúc hát mùa xuân.

    “Đàn dê kêu vui quá.” Mới sáng sớm, A Hán đã vui vẻ xách sang con gà, lớn tiếng từ ngoài cổng, “Cô nương, gà nhà chúng ta béo rồi, ta mang một con sang cho hài nhi ăn”.

    Dương Phượng từ trong phòng chạy ra, giơ ngón tay lên miệng, lắc đầu, nói: “A Hán, lần nào cũng quên. Hài nhi đang ngủ ngon, cẩn thận không lại bị đánh thức bây giờ”.

    A Hán bỗng nhớ ra, ngượng ngùng gãi đầu: “Ha ha, sao ta hay quên thế chứ? Tiểu A Hán cũng thường bị ta làm cho giật mình”.

    Dương Phượng nhận lấy con gà từ tay A Hán, cười nói: “Cô nương ra ngoài rồi, vào trong ngồi đã”.

    “A ca đâu?”

    “A ca và Ngụy Đình lên núi rồi, nói là đi săn thú rừng về đổi gạo và dầu.”

    Tắc Doãn và mọi người sống ở đây, chỉ lo việc chăn thả săn bắn, rất ít qua lại với người khác. Có A Hán vì quen biết với Sính Đình nên thường xuyên qua lại.

    Vốn tính tình phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết, cũng may A Hán không nhiều chuyện hỏi han lai lịch của họ bao giờ. Thấy Tắc Doãn lớn tuổi hơn, A Hán liền gọi là a ca, và Dương Phượng tất nhiên trở thành a tẩu.

    “Ta không ngồi đâu, ta còn phải đi xem đàn ngựa.”

    “Từ từ hãy đi.” Dương Phượng gọi A Hán lại, quay vào trong, chẳng mấy chốc cầm ra một túi giấy, “A Hán tẩu bị lở ở tay đúng không? Đây là thảo dược, mang về sắc cho tẩu ấy uống”.

    Nói đến vết lở trên tay thê tử, A Hán lại đau lòng cau mày: “Thảo dược cũng vô dụng thôi, uống bao nhiêu loại rồi, vẫn u lên một cục, buổi tối đau nhức vô cùng”.

    “Thảo dược này khác, nói cho ngươi biết, đây là thảo dược do cô nương hái đấy.”

    A Hán trợn tròn mắt: “Cô nương biết thăm bệnh à?”.

    “Muội ấy còn biết nhiều hơn thế. Nói tới khám bệnh, tuy không phải là thần y, nhưng cũng còn hơn Lâu đại phu của các ngươi nhiều.” Dương Phượng đặt túi thuốc vào tay A Hán, nhắc nhở, “A Hán tẩu khỏi bệnh, tự mình biết là được rồi, đừng có đi khắp nơi rêu rao”.

    “Ta biết rồi. Cô nương không biết đã nói bao nhiêu lần rồi, không được nói với người khác! A tẩu, ta xin nhận chỗ thảo dược này, nếu hữu hiệu, ta sẽ mang thêm một con gà sang.” A Hán xách thảo dược đi, bỗng dưng quay lại, vỗ đầu kêu lên, “A tẩu xem ta cũng thật hồ đồ. Ta quên mất việc nữ nhân của ta dặn rồi”.

    A Hán lấy trong người ra một túi đồ: “Ở đây có hai cái áo, đều do nữ nhân của ta khâu, tuy thô một chút, nhưng chất liệu rất bền, một chiếc cho Khánh nhi của a ca, một chiếc cho hài nhi của cô nương”.

    Dương Phượng nhận lấy hai cái áo, cầm chiếc nhỏ ra xem trước, bật cười: “Cái này nhỏ rồi, vai của Trường Tiếu rộng lắm”.

    “Bé xíu như thế, vai có thể rộng đến chừng nào chứ?”, A Hán có chút thất vọng, “Thử xem đã, biết đâu vẫn vừa”.

    Dương Phượng dẫn A Hán vào trong phòng, đến bên nôi nhỏ, rồi ướm thử chiếc áo lên người hài nhi. Đúng là hơi chật một chút, Dương Phượng nói: “Ngươi xem, vai bị chật này. Nhưng không sao, lát nữa ta sẽ tháo ra, nối thêm một mảnh vải là được”.

    Hài nhi đang nằm trong nôi, khuôn mặt non nớt, sống mũi thẳng. Thông thường các hài nhi nằm ngủ vẫn cựa quậy lung tung, nhưng Trường Tiếu nằm rất ngay ngắn, có quy tắc.

    A Hán nhìn Trường Tiếu trong nôi, xuýt xoa: “Hài nhi này có khuôn mặt đẹp quá, lớn lên không biết có bao nhiêu nữ nhân chạy theo. Trường Tiếu ngày nào cũng cười, lúc nào cũng cười… Ha ha, cô nương đặt tên hay thật đấy.”

    Thấy Trường Tiếu ngủ ngon, A Hán đưa ngón tay cọ cọ trêu nó. Trường Tiếu đang trong giấc ngủ, cảm thấy có người chạm vào, khó chịu ngúc ngoắc cổ, nhưng mắt vẫn nhắm tịt, cánh tay mũm mỉm quơ qua quơ lại, túm chặt lấy ngón tay A Hán.

    “Ha ha, cũng có sức thật đấy”, A Hán vui vẻ cười vang, “Sau này chắc chắn sẽ là một nam tử đầu đội trời chân đạp đất”.

    “Tất nhiên rồi” Dương Phượng mỉm cười, dịu dàng cúi nhìn hài nhi trong nôi.

    Trường Tiếu, Sở Trường Tiếu.

    Phụ thân của đứa trẻ này chính là Trấn Bắc Vương nổi danh thiên hạ.

    Phong Âmvào ở trong phủ Phò mã, chiếm phòng của Sính Đình, đánh đàn của Sính Đình. Những người trong phủ Phò mã đều biết Phong Âmlà người của Công chúa và Thừa tướng nên đâu dám đối đãi với nàng ta như một nô tỳ.

    Ngay cả Hà Hiệp bình thường cũng dịu dàng nhã nhặn, chưa từng sai khiến nàng ta điều gì.

    Nếu Diệu Thiên không giá lâm phủ Phò mã, Phong Âmchính là nữ chủ nhân nơi đây.

    “Còn gì nữa không?”

    “Còn có…”, Phong Âmcau mày suy nghĩ, “Hình như Phò mã thu nhận một người cùng đường, đến từ Quy Lạc”

    “Đến từ Quy Lạc? Ai? Tên gì? Lai lịch thế nào?”

    Phong Âmlắc đầu, nói: “Con loáng thoáng nghe họ nói qua một lần, chỉ biết người từ Quy Lạc đến, những thứ khác đều không rõ”.

    Quý Thường Thanh nhìn Phong Âmvẻ thất vọng, thở dài: “Quyền thế Hà Hiệp càng lớn, ta càng cảm thấy bất an. Đáng tiếc, Công chúa không nghe theo lời khuyên của ta. Phong m, con phải dốc sức giúp nghĩa phụ đấy”.

    Phong Âmgật đầu: “Nghĩa phụ yên tâm”.

    “Hà Hiệp đối đãi với con như thế nào?”

    “Hà Hiệp đối xử với con rất có lễ nghĩa, còn dặn người dưới hầu hạ con thật chu đáo.”

    “Hắn có thích nghe con đàn không?”

    “Phò mã chưa từng sai con đàn.”

    “Sau khi trở về, ngày nào con cũng đàn cho ta. Tài đàn của con rất tốt, đừng nên uổng phí.”

    Phong Âmmuốn nói gì lại thôi, bèn ngẩng lên nhìn trộm khuôn mặt sâu xa khó đoán của Quý Thường Thanh, cuối cùng vẫn hỏi một câu: “Tại sao phải như vậy? Mỗi lần con đàn trong phòng, hình như phò mã càng trở nên ít nói”.

    Quý Thường Thanh hỏi: “Con có biết mình đang dùng đàn của ai không?”.

    “Con biết, đàn này là của Bạch Sính Đình.”

    Bạch Sính Đình, vẫn là Bạch Sính Đình.

    Người đã đi rồi, sao cái tên vẫn ở lại?

    Quý Thường Thanh lạnh nhạt trả lời: “Đó là một cây kim trong tim Hà Hiệp . Con phải thường xuyên chạm vào nó, để hắn mãi mãi ghi nhớ, đây là Vân Thường, chủ nhân của Vân Thường là Công chúa. Công chúa muốn ai sống, người ấy được sống; muốn ai chết, kẻ đó phải biến mất. Đây chính là vương quyền.”

    Dưới sự đồng ý của Diệu Thiên, kho tiền lương dành riêng cho việc quân của Vân Thường đã chính thức thành lập, thế lực của Hà Hiệp dần dần được mở rộng.

    Đông Lâm vương ốm nặng mà băng hà, Vương hậu tuân theo di lệnh nhiếp chính. Quân Đông Lâm mất đi Trấn Bắc Vương như người mất xương sống, không còn khí phách như trước.

    Ẩn mình bao lâu nay, Hà Hiệp tất sẽ không bỏ qua một cơ hội tốt thế này. Đúng mùa cỏ non ngựa béo, lại nhân lúc quân quyền, tiền lương sẵn trong tay, cuối cùng Hà Hiệp cũng thỉnh cầu Diệu Thiên cho xuất binh.

    “Như thế… có ổn không?”, Diệu Thiên cau mày, bàn tay đang cầm trái cây lại đặt xuống, nhìn sang Hà Hiệp.

    Khuôn mặt tuấn tú tươi cười, Hà Hiệp nhìn Diệu Thiên: “Công chúa cảm thấy chỗ nào không ổn?”

    Chưa đợi Diệu Thiên trả lời, Quý Thường Thanh ở bên cạnh đã cười đáp: “Vân Thường ta vẫn luôn coi trọng quốc sách an cư một phương, tự cung tự cấp, không tranh giành với nước khác. Chăm lo được cho bách tính, quốc gia mới có thể hưng thịnh”

    Nghe thế, Diệu Thiên lộ vẻ tán đồng.

    Hà Hiệp trầm ngâm một lát, bỗng thoải mái cất lời: “Việc lớn như thế này cũng không thể vội vã ra quyết định ngay. Chi bằng trong buổi chầu ngày mai, triệu tập quần thần bàn bạc rồi hãy định đoạt, Công chúa thấy sao?”

    Diệu Thiên đang lo lắng Quý Thường Thanh và Hà Hiệp sẽ xung đột trực diện nên vội vã gật đầu, rồi nhìn sang Quý Thường Thanh: “Thừa tướng cảm thấy thế nào?”

    Ở trong triều, ông ta có rất nhiều quan văn ủng hộ, Vân Thường trước nay vẫn luôn trọng văn khinh võ, dựa vào đám võ tướng trong tay Hà Hiệp, nói thế nào cũng không đấu lại được với thế lực của Quý Thường Thanh. “Phò mã nói rất đúng, việc lớn thế này, cũng nên đưa ra trước buổi chầu để quần thần bàn bạc, đến lúc đó Công chúa hãy định đoạt.”

    Việc chinh chiến tạm thời gác qua một bên, Hà Hiệp và Quý Thường Thanh cùng bàn chuyện quốc sự với Diệu Thiên thêm một lúc, rồi lần lượt cáo từ vì còn có quốc sự cần xử lý.

    Diệu Thiên nhìn theo bóng hai người rời đi, lòng thầm thở phào. Trong triều, phe phái của Thừa tường và Phò mã ngấm ngầm đối chọi nhau, như mũi tên đã đặt sẵn trên dây cung, chỉ cần chạm khẽ sẽ bật ra ngay. Cùng là người một nhà, thật khiến người ta khó xử.

    Yên lặng một lát, bỗng có tiếng bước chân, nghe rất quen thuộc.

    Diệu Thiên ngẩng đầu, ngạc nhiên: “Sao Phò mã quay lại?”.

    Hà Hiệp mỉm cười, đến bên Công chúa, ánh mắt nhìn về phía xa xa ngoài cửa sổ, nói: “Ta vốn định quay về phủ Phò mã, nhưng đi được nửa đường chợt nhớ ra một câu, nên quay lại gặp Công chúa”

    Diệu Thiên ngạc nhiên hỏi lại: “Phò mã nhớ ra câu gì quan trọng?”

    “Trong lòng ta, đó thực sự là một câu rất quan trọng” Khóe môi Hà Hiệp thoáng nét cười, ánh mắt như chìm vào ký ức xa xăm, nói bằng giọng vô cùng cảm thán, “Chỉ tiếc là có thể Công chúa đã quên mất rồi”.

    Diệu Thiên bất giác lại gần, dịu dàng hỏi: “Phò mã không nói, Diệu Thiên sao biết được là câu gì?”.

    Hà Hiệp im lặng hồi lâu, từ tốn đáp: “Trong đêm tân hôn, ta đã hứa với Công chúa, rồi sẽ có ngày, ta tự tay đội mũ phượng Hoàng hậu tứ quốc lên đầu nàng”.

    Trong lòng run rẩy, Diệu Thiên thất thanh: “Phò mã…”.

    “Lời nói như vẫn bên tai, sao giờ lại thành ra như thế?”, Hà Hiệp cười chua xót nhìn về phía Diệu Thiên, “Nhưng nếu Công chúa chỉ cần một phò mã canh giữ một phương, ta nhất định cũng sẽ không làm nàng thất vọng”.

    “Phò mã…”

    Ánh mắt sáng như sao, Hà Hiệp ung dung đáp: “Ta quay lại chỉ để nói câu này, Công chúa là chủ nhân của một nước, những việc lớn của Vân Thường vẫn phải để Công chúa định đoạt”. Nói xong, hắn cung kính hành lễ với Công chúa rồi ung dung bước đi.

    Đêm đó, Quý Thường Thanh đã viết liền hai mươi bảy bức thư, giao đến phủ đệ của các quan trong triều khắp thành đô, chuẩn bị đòn liên hoàn phản đối việc Hà Hiệp tùy tiện xuất quân.

    Ai ngờ trong buổi chầu sáng hôm sau, Diệu Thiên vừa giá đáo, ngồi vào vương vị, từ nơi cao nhất ấy tuyên bố vương lệnh: “Đông Lâm là kẻ địch lớn của nước ta, nay kẻ địch đã suy yếu, chúng ta phải thừa cơ tấn công, không cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi. Phò mã…”.

    “Có”, Hà Hiệp cất giọng sang sảng, tiến lên một bước.

    “Vì sự bình an sau này của Vân Thường, bản Công chúa lệnh cho Phò mã chinh phạt Đông Lâm. Bắt đầu từ hôm nay, giao hổ phù cho Phò mã thống soái bảy cánh quân của Vân Thường, trao cho Phò mã toàn quyền định đoạt”.

    Vốn đã chuẩn bị sẵn một bụng lý do để phản đối chiến sự, không ngờ Diệu Thiên Công chúa vừa xuất hiện đã ban bố vương lệnh, các quan viên bỗng trở nên đờ đẫn, ngơ ngẩn nhìn Quý Thường Thanh.

    Sắc mặt tái xanh, Quý Thường Thanh đang định đứng ra bẩm báo, lại nghe Công chúa lạnh lùng tiếp: “Ngày Đông Lâm Trấn Bắc vương dẫn quân xâm phạm Vân Thường ta cách đây chưa lâu, cầu an một phương chưa chắc có thể giữ được bình yên cho bách tính. Quần khanh chớ quên bài học của quá khứ”.

    Lời nói chém đinh chặt sắt, tất cả những người có mặt đều hiểu sự quyết tâm của Diệu Thiên. Quý Thường Thanh bỗng thấy lạnh lòng, không thể tiến thêm một bước, đành nghiến răng nhìn Hà Hiệp lĩnh hổ phù, biết rằng việc đã được định đoạt, không thể cứu vãn.

    Vừa tan buổi chầu, Hà Hiệp cùng đám võ tướng khao khát lập công liền hưng phấn rời khỏi đại điện. Đám quan văn quần tam tụ ngũ vây lấy Quý Thường Thanh, mặt mũi âu sầu.

    “ Thừa tướng, việc này…”

    “ Thừa tướng, xuất binh là việc lớn, phải cẩn trọng.”

    “Thừa tướng có nên lập tức vào cung, gặp Công chúa điện hạ?”

    Quý Thường Thanh lắc đầu, không nói lời nào, mặc kệ cả đám quan văn vây quanh, một mình lên xe ngựa. Trở về phủ thừa tướng, tiểu nhi tử Quý Viêm vội vã chạy ra cổng lớn, rồi theo phụ thân vào phòng, đóng cửa lại, hỏi: “Phụ thân, có thật là Công chúa điện hạ đã ban vương lệnh cho Phò mã dẫn quân chinh phạt Đông Lâm?”

    Sắc mặt sa sầm, Quý Thường Thanh gật đầu, nhìn tiểu nhi tử: “ Hà Hiệp đã nhận hổ phù, có thể điều động tất thảy các đội quân của Vân Thường, bao gồm cả cánh quân Vĩnh Tiêu trong tay con và cánh quân Úy Bắc trong tay nhị thúc của con.”

    Hai người im lặng, ngoài cửa vang lên tiếng bước chân rầm rập, rõ ràng là một người nóng vội.

    Quý Thường Thanh nói: “Chắc chắn là nhị thúc của con đó.”

    Chưa nói xong, cửa phòng đã bật mở, một dáng người cao lớn chắn ngay trước cửa. Quý Thường Ninh mặc trụ giáp, lên giọng hỏi: “Đại ca, nghe nói Công chúa điện hạ đã hạ lệnh cho Hà Hiệp dẫn quân chinh phạt Đông Lâm?”.

    Quý Thường Thanh gật đầu, sắc mặt nặng nề.

    Quý Thường Ninh lại phấn chấn, cười ha hả: “Thế là cũng được đánh Đông Lâm, thực sảng khoái. Đáng tiếc, đệ ra ngoài luyện binh vừa về đến thành đô, bỏ lỡ lúc Công chúa hạ vương lệnh.”

    Nhà họ Quý đời đời là trọng thần của Vân Thường. Tính đến nay, Quý Thường Thanh là người chức cao vọng trọng nhất, theo sau là bao quan văn, nhưng quan võ chỉ có nhị đệ Quý Thường Ninh và tiểu nhi tử Quý Viêm. Biết tính cách của nhị đệ, Quý Thường Thanh quay sang lừ mắt, thở dài: “Đánh trận có gì hay? Hà Hiệp vốn đã oán hận nhà họ Quý chúng ta, ở trong triều còn có chút kiêng dè ta, nên không dám làm gì. Ta chỉ sợ có được hổ phù, đến lúc xuất chinh, hắn sẽ điều hai cánh quân của đệ và Quý Viêm ra tiền tuyến…”

    “ Đệ chỉ sợ hắn không điều động đệ thôi. Bản tướng quân cũng đã xông pha nơi chiến trường giết giặc, sợ hắn chắc?”

    Tuy là võ tướng, nhưng suy nghĩ có phần tường tận hơn nhị thúc, Quý Viêm trầm ngâm một lúc, nói: “Phụ thân sợ Hà Hiệp nắm đại quyền trong tay, nhị thúc ra tiền tuyến sẽ gặp rủi ro. Thế này đi, nếu Hà Hiệp có điều động quân Úy Bắc của nhị thúc ra tiền tuyến, hài nhi cũng sẽ xin điều động cánh quân Vĩnh Tiêu đi theo. Thúc điệt ta cùng là tướng lĩnh, lại nắm trong tay hai cánh quân, Hà Hiệp sẽ chẳng làm gì được chúng ta. Một cánh tay không đỡ nổi bốn nắm đấm, chẳng lẽ hắn dám điều động cánh quân khác bao vây chúng ta?”.

    “Không được, thế quá nguy hiểm, ngộ nhỡ…”

    Quý Thường Ninh ngáp một cái, xua tay: “Đại ca không phải lo. Đệ thấy nguy hiểm nhất là Hà Hiệp không chịu điều hai cánh quân của chúng ta. Hắn dẫn binh tiêu diệt Đông Lâm, khi trở về công lao một mình hắn hưởng, nhà họ Quý chúng ta phải đứng sang một bên.”

    Vốn là người tùy tiện nhưng lời này của Quý Thường Ninh không phải là không có lý.

    Quý Thường Thanh nhìn nhi tử, Quý Viêm khẽ gật đầu, rõ ràng cùng một nhận định với nhị thúc. Suy nghĩ hồi lâu, Quý Thường Thanh thở dài nói:”Nếu đã như vậy, chỉ có thể đi bước nào tính bước ấy. Nói thực là, Hà Hiệp dẫn quân xuất chinh, chúng ta không có đại tướng trong quân để thông báo tin tức cũng không được, có điều, nhị đệ…”, Quý Thường Thanh quay lại, nhìn Quý Thường Ninh, giọng nghiêm túc, “Đại ca nói trước một câu, lần xuất chinh này không giống trước kia, khi hành quân, đệ tuyệt đối không được…”

    “Không được uống rượu.” Quý Thường Ninh cau hai hàng mày rậm, nghiến răng đáp, “Lần này xuất chinh, đệ sẽ không động đến một giọt rượu nào. Nếu không, đệ sẽ không còn là con cháu nhà họ Quý nữa!”

    “Đệ phải nhớ rõ thật kĩ, đừng vì hứng chí nhất thời mà phạm phải tật cũ.”

    Quý Thường Ninh vỗ ngực nói: “Đại ca yên tâm, việc nhỏ đệ có thể hồ đồ, nhưng việc lớn thì rất cẩn trọng.”

    Quý Thường Thanh dặn dò nhị đệ xong, ánh mắt quay sang tiểu nhi tử. Quý Viêm đứng dậy, chắp tay vái cha một cái, chậm rãi thưa, “Phụ thân yên tâm, hài nhi sẽ cố không ra trận cùng nhị thúc, tránh Hà Hiệp tóm gọn một mẻ.”

    Quý Thường Thanh luôn thương đứa con thông minh hoạt bát này của mình, nhưng hắn không chịu làm quan văn mà một mực muốn được dẫn binh. Ông ta dịu dàng nhìn con, thở dài: “Ra đến tiền tuyến, đừng cậy mạnh hiếu thắng, hơi một tí là xin ra trận.”

    Văn quan và võ tướng không giống nhau. Các tướng lĩnh đều là những người từng qua binh đao khói lửa chiến trường, họ chỉ kính phục người có bản lĩnh mà không quan tâm tới gia thế tài lực. Đáng hận là võ công Hà Hiệp đều cao hơn người khác, nên chỉ trong thời gian ngắn hắn đã có được sự trung thành của đại bộ phận quân lính. Nếu không, với thế lực thâm căn cố đế của Quý gia ở Vân Thường, đâu cần phải lo lắng đến mức này?

    Quý Thường Thanh buồn bã, đứng dậy mở cửa, gió thổi thốc vào mặt. Quý Thường Thanh gọi tên lính đang đứng cuối hàng lang đến, hỏi: “Công chúa có sai người đến triệu kiến ta không?”

    Tên lính nhìn trộm chủ nhân một cái, cẩn trọng đáp: “Không có.”

    Sắc mặt sa sầm, Quý Thường Thanh đứng đó một lúc, dặn dò: “Ngươi đi đi, nếu có tin từ vương cung, hãy báo ngay với ta.”

    Chiến mã đã béo, trống trận sẵn sàng.

    Hà Hiệp đã có binh quyền và hổ phù trong tay, cả tiền lương cũng được thoải mái chi dùng mà không chịu sự hạn chế của triều đình.

    Công chúa, chẳng lẽ người định mang tương lai của Vân Thường ra để đánh cuộc một lần?

    Có được hổ phù, ngày hôm sau Hà Hiệp lập tức điều động đại quân. Quân Đông Lâm tuy không còn Sở Bắc Tiệp, nhưng đại quân Đông Lâm do một tay Sở Bắc Tiệp dìu dắt vẫn thực sự đáng sợ. Hà Hiệp đã tỏ rõ khí phách muốn nhòm ngó thiên hạ, điều động toàn bộ cánh quân của Vân Thường. Cánh quân Úy Bắc của Quý Thường Ninh và Vĩnh Tiêu của Quý Viêm cũng nằm trong số đó.

    Chọn được giờ tốt ngày lành, Diệu Thiên công chúa đích thân ra tận cổng thành tiễn biệt phò mã.

    Dân chúng Vân Thường ào tới cổng thành nhìn Phò mã mặc giáp trụ màu bạc đứng trên thành lầu, chẳng khác nào một thiên tướng hạ phàm, khiến mọi người trầm trồ ngưỡng mộ.

    “Phò mã của chúng ta thật uy phong!”

    “Lần này Đông Lâm mới biết Vân Thường không dễ đùa. Họ không còn Trấn Bắc Vương, lại gặp phải phò mã của chúng ta, đảm bảo Đông Lâm sẽ bị xoay như chong chóng.”

    “Đánh cho bọn chúng tan tác một trận, để khắp thiên hạ biết rằng Vân Thường ta đâu dễ bị bắt nạt!”

    Dường như nỗi oán hận một năm trước bị đại quân Đông Lâm giận giữ xông đến chèn ép, không ngẩng đầu lên nổi, đến tận hôm nay mới được dịp bùng phát.

    Ngay cả Diệu Thiên khăng khăng hạ lệnh xuất quân cũng không thể tưởng tượng được rằng dân chúng Vân Thường luôn sống trong yên bình lại ủng hộ việc này như vậy.

    Diệu Thiên lấy rượu ngon mời Hà Hiệp, ánh mắt lướt qua đám người đông kín dưới thành lầu, nhẹ giọng: “Dân chúng đều biết Phò mã sẽ khải hoàn.”

    Hà Hiệp cười hỏi: “ Thế còn Công chúa?”

    Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp: “Dù chiến sự thế nào, Phò mã cũng phải bình an trở về.”

    Hà Hiệp nhìn Diệu Thiên, ánh mắt lấp lánh như sao sáng trong đêm đen, khiến người ta không dám nhìn vào. Hà Hiệp không trả lời, chỉ nhìn ái thê nở nụ cười tự tin, rồi quay người rút kiếm.

    Xoẹt!

    Bảo kiếm đã mài giũa bao lần được rút ra khỏi bao, sắc bén dưới vầng mặt trời. Ánh đao lóe sáng khiến đám người đang chăm chú ngẩng đầu nhìn bên dưới chói mắt. Trong mờ ảo, họ chỉ thấy hình bóng Hà Hiệp đứng giữa quầng sáng, ý chí bùng phát, không ai sánh kịp.

    “Phò mã vạn tuế!” Sau hồi yên lặng, tiếng hét vang lên không biết từ nơi nào, trong chốc lát đã lan sang tất cả mọi người.

    “Phò mã vạn tuế!Phò mã vạn tuế!”

    “Phò mã vạn tuế!Phò mã vạn tuế!”

    “Phò mã vạn tuế!”



    Từ đội quân ngay hàng thẳng lối đến bách tính muôn hình muôn vẻ dưới thành lầu, ai cũng sục sôi nhiệt huyết thét gào.

    Hà Hiệp cất tiếng cười vang, những đường nét tuấn tú càng thêm phần ngang ngạnh. Hắn tra kiếm vào vỏ, bước xuống thành lầu, nhảy lên lưng chiến mã, thúc ngựa chạy vài vòng trước ba quân, để tất cả đều được ngắm hình dáng hùng dũng của mình. Hắn bất chợt vung tay, mọi người im lặng.

    Hà Hiệp đã không chỉ là một phò mã.

    Hà Hiệp đã trở thành hy vọng lớn của Vân Thường, đại diện cho sức mạnh của vương quyền.

    Ánh mắt Hà Hiệp chậm rãi quét qua đại quân sẽ theo mình chinh phạt thiên hạ, nở nụ cười vừa ý, thét lên: “ Xuất phát!”.

    Một lời vừa dứt, mười vạn đại quân rầm rập lên đường.

    Tiếng vó ngựa rền vang trên con đường bụi vàng mù mịt.

    Diệu Thiên không rời mắt khỏi bóng dáng hiên ngang của Hà Hiệp đang dần xa, bỗng thấy lòng trống rỗng. Hai tay ôm ngực, nàng lặng người nhìn theo, cho đến khi bóng dáng ấy hoàn toàn biến mất.

    Bỏ lại thành đô sau lưng, con đường đất vàng trải dài trước mặt, Hà Hiệp dẫn đầu toàn quân, phía sau là tiếng chân ngựa rầm rập. Đông Chước đuổi theo đến nơi, đi sát bên cạnh, hạ giọng bẩm báo: “Đã sắp xếp mọi thứ theo sự dặn dò của thiếu gia”.

    Hà Hiệp không hề dừng ngựa, ánh mắt vẫn nhìn ra xa, khẽ gật đầu.

    “Đông Chước, hãy cầm chắc thanh kiếm.” Hà Hiệp quay lại, nhìn đoàn quân khổng lồ phía sau, ánh mắt thoáng nét cười lạnh lẽo, “Lần này phải đổ máu thật rồi.”

    Đông Chước cũng ngoái đầu lại theo, nhìn về hai lá cờ lớn với những chữ “Úy Bắc”, “Vĩnh Tiêu” phía sau, bàn tay cầm kiếm càng chặt hơn.

    Đông Chước đã quen với thủ đoạn của thiếu gia, không ra tay thì thôi, đã ra tay tất sẽ là một đòn sấm sét, không chừa đường sống.

    Đây mới là bản sắc của tiểu Kính An vương.
     
  9. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 48
    Khi đàn ngựa béo, đàn dê cũng mập. Năm nay lượng mưa tốt, cỏ trên thảo nguyên lớn nhanh như thổi, ngựa dê bò thả sức mà ăn. Người chăn thả tha hồ lựa chọn một chỗ cho mình.

    Xuất thân võ tướng, là người sức lực, lại không sợ vất vả, Tắc Doãn và Ngụy Đình vừa trồng trọt vừa chăn dê thả ngựa. Dương Phượng và Sính Đình dệt vải lúc rảnh rỗi, cuộc sống tự cung tự cấp, rất đỗi thoải mái.

    “Trường Tiếu biết đi rồi”.

    “Biết đi? Muội thấy chân nó vừa chạm đất đã muốn chạy rồi, cả ngày chạy đi chạy lại, tỷ không biết bắt được phải vất vả thế nào đâu.”

    Sính Đình đặt tên cho con thật đúng, quả nhiên Trường Tiếu rất thích cười.

    Vừa nhìn Trường Tiếu, Dương Phượng đã thấy vui: “Cả ngày lúc nào cũng vui vẻ, chẳng biết đang cười cái gì?”.

    Sính Đình bế Trường Tiếu đang chập chững lên, chỉ vào mũi nhi tử, trách mắng: “Con ấy, đi còn chưa vững đã muốn chạy rồi? Phải ngã bao nhiêu lần nữa mới biết đau đây?”.

    Tắc Khánh níu vạt áo Sính Đình, ngẩng lên nói: “Bế”

    Dương Phượng vội vàng kéo Khánh nhi sang một bên, cố nhịn cười, lắc đầu bảo: “Con còn nhỏ, không bế Trường Tiếu được, nhỡ ngã thì sao?”, rồi nói với Sính Đình: “Ta thấy, muội để Trường Tiếu nhận Khánh nhi làm huynh đệ đi, Khánh nhi lúc nào cũng dính lấy Trường Tiếu”.

    “Việc gì phải nhận? Hai đứa lúc nào cũng dính lấy nhau, người khác nhìn vào đều cho là huynh đệ ruột”.

    “Sao giống huynh đệ ruột được? Khánh nhi trông ngốc nghếch thế kia, Trường Tiếu thì bẩm sinh đã có tướng, cứ nhìn đôi mắt và cái mũi nó xem, rõ ràng là một tiểu…”

    Ba tiếng “Trấn Bắc vương” nghẹn lại trong cổ họng, Dương Phượng nói đến một nửa bỗng im bặt. Biết mình nói năng không cẩn thận, trong lòng bất an, Dương Phượng ngẩng lên nhìn Sính Đình.

    Sính Đình đang đùa với nhi tử, vẻ mặt có chút gượng gạo, một lúc sau mới mỉm cười như mếu: “Đâu chỉ đôi mắt, cái mũi, mà cả ánh nhìn cũng y hệt”. Nàng khẽ chọc cái mũi của con, nói nhỏ, “Giống mẫu thân không tốt ư? Sao cứ phải giống người ấy?”.

    Nhi tử, con có biết Trấn Bắc vương là ai không?

    Tên của Trấn Bắc vương là Sở Bắc Tiệp.

    Trấn Bắc vương có thể múa thanh kiếm rất nặng, có thể chặt đầu tướng địch giữa thiên quân vạn mã. Trấn Bắc vương uy thế thống trị thiên hạ, những kẻ khác đứng trước Trấn Bắc vương lòng đều thấy run rẩy.

    Trấn Bắc vương thông minh, quyết đoán, dũng cảm, kiên cường, là danh tướng vô địch trên sa trường.

    Chàng có đang ở vương cung Đông Lâm không? Thu qua, đông tới sẽ là tiệc tùng long trọng mừng sinh thần của chàng.

    Mồng Sáu, thiếp vẫn nhớ.

    Sinh thần của chàng là mồng Sáu.

    Đại quân Vân Thường khí thế hừng hực tiến đến biên giới Đông Lâm. Vương tộc Đông Lâm bao nhiêu năm an hưởng thái bình bỗng choàng tỉnh giấc mộng, giờ mới biết mất đi Sở Bắc Tiệp, Đông Lâm phải đứng trước bao mối nguy hiểm như vậy. Đông Lâm vương hậu lập tức trao hổ phù, lệnh Thần Mâu thống soái đại quân Đông Lâm chống lại Hà Hiệp.

    Nhưng kẻ cầm quân xâm phạm Đông Lâm là Hà Hiệp, thì dù Đông Lâm vương hậu hay bản thân Thần Mâu đều biết đây là trận chiến vô cùng mệt mỏi.

    Đến biên giới Đông Lâm, Hà Hiệp lập tức triệu tập tất cả các đại tướng, giao phó nhiệm vụ đầu tiên.

    “Mật thám hồi báo, tướng địch Thần Mâu đã lên đường, quân cứu viện của Đông Lâm sẽ nhanh chóng đến đây. Quân ta muốn ổn định đội hình, trước tiên phải chiếm được thành Nhạn Lâm. Các vị tướng quân, ai sẵn sàng dẫn binh lập công đầu?” Nói xong, Hà Hiệp tươi cười đưa mắt nhìn quần tướng quen thuộc của mình.

    Võ tướng trước nay đều dựa vào thành tích chinh chiến để luận công nhận thưởng, ai cũng muốn lập công đầu, mấy vị tướng trẻ tuổi rất nóng lòng được thử sức. Quý Viêm vội đứng lên trước, cất tiếng: “Quý Viêm nguyện dốc sức lấy thành Nhạn Lâm về cho Phò mã”.

    Như đoán trước rằng Quý Viêm sẽ lên tiếng, nghe xong Hà Hiệp gật đầu, ôn hòa hỏi: “Quý thiếu tướng quân có biết thành Nhạn Lâm hiện do ai trấn thủ không?”

    “Bẩm có, là thuộc hạ của Sở Bắc Tiệp ngày trước, La Thượng”.

    “Ừ” Hà Hiệp lại gật đầu, vẻ mặt sâu xa khó dò, “La Thượng là dũng tướng do Sở Bắc Tiệp một tay huấn luyện, vô cùng hùng dũng, trong tay lại có nhiều binh lính, chỉ sợ cánh quân Vĩnh Tiêu của Quý thiếu tướng quân không đủ sức tấn công, chi bằng cử thêm cánh quân Úy Bắc cùng đi, cũng để…”

    “Không cần”, Quý Viêm cự tuyệt ngay, giọng cao ngạo, “Mạt tướng đã sai người do thám tình hình địch, cánh quân Vĩnh Tiêu đông hơn quân giữ thành Nhạn Lâm, ta thừa sức công thành. Mỗi một tên La Thượng, đâu phải Sở Bắc Tiệp, hà tất cần đến nhị thúc ra trận?”

    Quý Thường Ninh cố ý “hừ” mấy tiếng, rồi thô lỗ xen vào: “Giết gà cần gì dao mổ trâu? Một cái thành bé xíu như thế mà phải cần đến hai cánh quân lớn của Vân Thường ra tay? Như vậy chẳng phải để quân Đông Lâm chê cười Phò mã hay sao?”.

    Hà Hiệp nhìn thúc điệt nhà họ kẻ xướng người phụ họa mà không hề tức giận, thậm chí còn chấp thuận: “Được, bản phò mã đợi để mừng công Quý thiếu Tướng quân”.

    Quý Viêm giành được cơ hội lập công, bỗng nhớ đến lời dặn của phụ thân, bất giác nảy thêm ý định, chắp tay nói: “Phò mã, mạt tướng dẫn quân công thành, muốn được đáp ứng một yêu cầu nhỏ”.

    Hà Hiệp hỏi: “Yêu cầu gì?”

    “Ngộ nhỡ có điều gì bất trắc, đại quân phải cử người cứu viện, xin Phò mã cho nhị thúc của mạt tướng được dẫn binh tiếp ứng”

    Vốn tuổi trẻ hăng hái, Quý Viêm nói quá thẳng. Như thế rõ ràng hắn đang lo lắng, một chủ soái như Hà Hiệp sẽ hãm hại mình từ phía sau, và cũng không tin tưởng những đại tướng khác.

    Quần tướng đã sớm khuất phục trước khí phách bậc danh tướng của Hà Hiệp, nên không hề có cảm tình với Quý gia vẫn tìm mọi cách chèn ép Phò mã. Nghe câu này, người người liếc mắt về phía Quý Viêm vốn chỉ dựa vào gia thế mà một bước lên đến chức thiếu tướng quân.

    Sự khoan dung của Hà Hiệp thực sự nằm ngoài sức tưởng tượng của mọi người, họ chỉ nghe Phò mã nói một câu: “Đây là chuyện nhỏ, ta hứa với Quý thiếu tướng quân”.

    Dễ dàng có được lời hứa của Hà Hiệp, Quý Viêm cũng cảm thấy lạ. Thảo luận xong về tình hình chiến sự, quần tướng ai về trướng người nấy. Quý Viêm và Quý Thường Ninh cũng trở về trướng của mình. Quý Thường Ninh vừa đi vừa xuýt xoa hiếu kỳ: “Thật không ngờ Hà Hiệp lại dễ nói như vậy. Có điều, cánh quân Vĩnh Tiêu dư sức đối phó với một thành bé như Nhạn Lâm, cần gì đến chi viện? Hắn chẳng qua cũng chỉ cho chúng ta một câu nói nể mặt. Viêm nhi, lần này phải thể hiện cho mọi người thấy, để Quý gia chúng ta nở mày nở mặt”.

    “Tất nhiên rồi”. Quý Viêm cười, bỗng trầm tư một lúc, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc, “Chỉ lo chẳng may xảy ra chuyện gì, nhị thúc, tiểu điệt dẫn quân công thành, nhị thúc ở hậu phương phải cẩn thận, tuyệt đối không được…”

    “Không được uống rượu”, Quý Thường Ninh bất mãn lừ mắt nhìn điệt nhi, “Ta là người không biết chừng mực đến vậy sao? Nhị thúc đã nói với đại ca rồi, không uống rượu, không làm hỏng việc lớn. Điệt nhi cứ yên tâm!”

    Hôm sau, trời còn chưa sáng, Quý Viêm đã dẫn theo một cánh quân Vĩnh Tiêu tiến về thành Nhạn Lâm.

    Dù sao cũng là cốt nhục một nhà, Quý Thường Ninh không yên tâm, bèn đích thân tiễn điệt nhi ra khỏi quân doanh, hạ giọng dặn dò: “La Thượng được Sở Bắc Tiệp huấn luyện, nếu gặp điều gì bất thường, nhớ đừng cậy khỏe, hãy lập tức cử người về quân doanh báo tin cho nhị thúc”.

    Quý Viêm gật đầu, khuôn mặt trẻ tuổi thoáng nét cười tự tin: “Nếu chiến thắng, tiểu điệt cũng sẽ lập tức sai người về báo với nhị thúc”.

    Quý Thường Ninh cười ha ha: “Đi sớm về sớm, nhị thúc đợi tin tốt của điệt nhi.”

    Trước lúc bình minh, sắc trời còn tối hơn đêm đen. Quý Thường Ninh nhìn theo bóng dáng Quý Viêm rời đi, rồi quay lại đại bản doanh.

    Trong doanh trại, tướng lĩnh của mấy cánh quân còn lại vẫn đang nghỉ ngơi, đội lính gác tuần tiễu bên ngoài.

    Quý Thường Ninh nghĩ bụng, hôm nay cũng chẳng có việc gì lớn, chỉ đợi tin thành Nhạn Lâm nên hắn dứt khoát quyết định quay về ngủ bù. Trên đường quay về, đi qua đám binh lính thân cận của mình, bước vào trướng soái, thuận tay vứt bộ giáp trụ nặng trịch lên giường, ngáp dài một cái.

    Bất chợt, một cánh tay từ sau vung ra, bịt chặt miệng Quý Thường Ninh.

    “Ưm ưm…”

    Quý Thường Ninh trợn tròn hai mắt. Là bậc lão tướng trên sa trường, hắn cũng kịp đưa hai tay xuống hông, nhưng chưa kịp sờ vào thanh kiếm, đã nghe “bốp” một tiếng sau gáy, bị kẻ bịt mặt đánh mạnh một cái. Người đánh trộm sức to lực khỏe, Quý Thường Ninh giãy giụa một hồi, rồi đổ vật xuống đất, bất tỉnh.

    Kẻ đứng sau lưng mình vận áo đen, khăn che mặt đen, chỉ để hở một đôi mắt sáng lấp lánh trong trướng tối om. Kẻ đánh trộm nhìn Quý Thường Ninh ngã dưới đất, ánh mắt cao ngạo khinh thường, cúi xuống kiểm tra hơi thở của Quý Thường Ninh, rồi lôi dưới gầm giường ra mấy bình rượu lâu năm, cho thêm gói thuốc mê vào đó, lắc bình, để thuốc mê tan đều.

    “Bình rượu này kính đại ca của ngươi, Thừa tướng đại nhân của Vân Thường”. Kẻ đánh trộm nói một câu, âm sắc sang sảng đúng chủ soái Hà Hiệp, thân phận cao nhất trong đại bản doanh này.

    Hà Hiệp đỡ Quý Thường Ninh ngã dưới đất dậy, đưa bình rượu lại gần, rồi cạy miệng hắn đổ vào. Vốn đã hận nhà họ Quý đến tận xương tủy, Hà Hiệp chẳng hề nương tay, đổ liền một lúc gần chục bình rượu, rồi đặt hắn trên giường, lặng lẽ rời đi.

    “Cứu viện!”

    Giữa trưa, ngoài doanh trại, một binh sĩ phi ngựa lao đến, mình mặc quân phục Vân Thường, người bê bết máu, vừa tới trước cổng đại bản doanh liền gân cổ gào lớn: “Cứu viện! Quý Viêm thiếu tướng quân cần cứu viện! Mau… mau báo…”.

    Những người canh giữ trại quân đều nhận ra đây là thị vệ tâm phúc của Quý Viêm nên vô cùng ngạc nhiên, vội vã mở cổng doanh trại cho vào.

    Quần tướng biết tin, nhanh chóng đến trướng soái.

    “Cứu viện! Cứu viện!” Thị vệ lảo đảo chạy bổ vào báo tin, đến cửa đã quỳ sụp xuống, vừa thở vừa nói, “Phò mã, quân ta bị đại quân Đông Lâm trong thành Nhạn Lâm phục kích, tình thế nguy kịch, xin Phò mã lập tức cử đại quân cứu viện!”

    Hà Hiệp đã sớm đoán được sự việc nhưng vẫn tỏ ra vô cùng kinh ngạc, vội tiến lên trước hai bước, đứng trước thị vệ kia thét hỏi: “Sao lại như thế?”.

    “Mai phục! Quý Viêm thiếu tướng dẫn quân áp sát thành Nhạn Lâm, hai cánh quân Đông Lâm bất chợt xông tới, quân ta bị tấn công từ hai phía.”

    “Mai phục? Quân của người nào?”

    “Tướng dẫn quân mai phục là Sở Mạc Nhiên.”

    “Hiện giờ tình hình chiến sự như thế nào?”

    “Quân Đông Lâm có được địa lợi, lại đông hơn ta. Quân ta không kịp đề phòng, thương vong trầm trọng, Quý thiếu tướng dẫn theo các huynh đệ còn lại mở đường máu lùi vào sơn cốc Hoành Luyện, tử thủ ở cửa cốc. Thiếu tướng quân lệnh cho thuộc hạ vượt vòng vây về đây báo tin cho Phò mã, quân địch đang tấn công, các huynh đệ sẽ chẳng chống chọi được bao lâu nữa, xin Phò mã lập tức cử quân cứu viện!”

    Trận tấn công Đông Lâm đầu tiên đã trúng mai phục, sắc mặt các tướng lĩnh Vân Thường vô cùng u ám.

    “Lập tức cử cứu viện!”, Hà Hiệp hết sức quyết đoán, nhìn quanh một vòng, “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”

    Ngay từ đầu, không ít tướng lĩnh chú ý đến sự vắng mặt của Quý Thường Ninh, thấy Hà Hiệp hỏi vậy, bèn gọi tên tiểu tốt bên ngoài vào, hỏi: “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”.

    Tiểu tốt đó vừa từ chỗ Quý Thường Ninh trở về, vội đáp: “Quý tướng quân say rồi, gọi thế nào cũng không tỉnh”.

    Quý Thường Ninh hám rượu nổi tiếng trong quân. Nghe tiểu tốt kia nói vậy, quần tướng đều cau mày.

    “Chúng ta đi xem.”

    Hà Hiệp dẫn theo các tướng lĩnh đến quân trướng của Quý Thường Ninh. Vừa vén rèm cửa, hơi rượu nồng nặc đã xông thẳng vào mũi quần tướng.

    Trong trướng, bình rượu la liệt, tất cả đều còn mỗi vỏ.

    Cả người Quý Thường Ninh nồng nặc mùi rượu, tứ chi thẳng đơ, nằm trên giường ngáy như sấm.

    Cận vệ của hắn đang toát mồ hôi hột, lấy nước lau mặt, liên tục gọi: “Tướng quân, mau tỉnh dậy! Quý Viêm thiếu tướng quân xin cầu viện!”

    Hà Hiệp hạ giọng: “Ta đã hứa với Quý Viêm thiếu tướng quân, nếu thiếu tướng quân xin cầu viện, chỉ cử Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu. Giờ phải làm thế nào?” Đoạn Hà Hiệp quay sang cận vệ của Quý Thường Ninh ra lệnh, “Nhanh, lấy nước lạnh đổ vào mặt, mau nghĩ cách gọi Quý tướng quân dậy!”

    Tên cận vệ cũng biết chiến sự khẩn cấp, nên vội vã bưng nước đến, hất ướt hết mặt Quý Thường Ninh. Nhưng, Quý Thường Ninh đã uống bao nhiêu rượu trộn thuốc mê, làm sao tỉnh được? Tiếng ngáy của hắn vẫn y như cũ.

    Lính liều mạng quay về báo tin vốn là quân tâm phúc bên cạnh Quý Viêm, nghĩ đến Thiếu tướng quân nhà mình đang cận kề ranh giới sống chết, càng hận Quý Thường Ninh chẳng ra sao, rồi quỳ sụp xuống chân Hà Hiệp, khẩn cầu như sắp khóc: “Phò mã, không thể đợi thêm được nữa, xin Phò mã hãy cử một vị tướng quân khác đi”.

    Khuôn mặt tuấn tú của Hà Hiệp cũng có chút lo lắng, nhưng vẫn lắc đầu: “Một lời bậc quân tử đáng giá ngàn vàng, huống hồ ta là chủ soái. Quý Viêm thiếu tướng quân tuổi trẻ tài cao, trước khi ra quân đã thỉnh cầu nếu có biến cố, chỉ muốn Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu viện, chắc chắn vì có lý do. Ta đã đồng ý thì không thể làm khác được.”

    Tên lính cuống đến nỗi sắp rơi nước mắt, đến bên giường, quên mất cả thân phận thấp kém của mình mà cho Quý Thường Ninh mấy cái bạt tai, hét lớn: “Tỉnh! Tỉnh! Ông Trời ơi, thế này chẳng phải cố tình lấy mạng thiếu tướng quân ư?”

    Quý Thường Ninh bị mấy cái bạt tai, vẫn ngủ, nhưng tiếng ngáy đã ngừng.

    Quần tướng vốn đã chẳng có cảm tình gì với kẻ lỗ mãng, chỉ dựa vào gia thế mà leo lên chức vị đại tướng quân như Quý Thường Ninh, giờ thấy bộ dạng hắn thế này thì càng thêm coi thường.

    Thấy đã hết cách vơi Quý Thường Ninh, tên lính kia vô cùng tuyệt vọng, lại quỳ xuống chân Hà Hiệp, dập đầu bôm bốp: “Phò mã, Phò mã, tính mạng của Thiếu tướng quân đang ở trong tay Phò mã, xin Phò mã hãy cử quân đi cứu viện!”, sau đó tiếp tục quay sang các tướng khác: “Tướng quân, các vị tướng quân, cầu xin các vị! Nơi miệng cốc, quân Đông Lâm bắn tên như mưa, những người trong đó đều là con dân Vân Thường, cầu xin các vị hãy mở lòng từ bi, xin Phò mã nể tình…”

    Về đến đây, toàn thân người này bê bết máu và bụi đất, giờ do dập đầu quá mạnh, máu tươi lại chảy ròng ròng, nhìn vào cũng thấy lạnh người.

    Quần tướng đều là những đại hán trên sa trường, tuy coi thường Quý Thường Ninh, nhưng bất giác lại cảm thấy quý trọng tên lính trước mặt.

    Thấy các tướng lĩnh nhìn về phía mình, biết ngày sau còn phải dựa vào họ mới có được thiên hạ, Hà Hiệp không thể quá tuyệt tình, đi ngược lại đám đông. Chẳng đợi có người lên tiếng, Hà Hiệp đã hạ giọng: “Vị tướng quân nào muốn đi cứu viện?”

    Mọi người nhìn nhau, một lúc sau, Đại tướng quân Kỳ Điền của cánh quân Vĩnh Thái đứng ra: “Mạt tướng xin đi”.

    “Được, Kỳ tướng quân hãy lập tức dẫn binh xuất phát, chi viện cho Quý Viêm thiếu tướng quân”.

    Cứu người như cứu hỏa, vì Quý Thường Ninh say rượu không tỉnh nên đã tốn không ít thời gian, Kỳ Điền nhận lệnh, lập tức lên đường.

    Khi đại quân Vĩnh Thái đi khỏi tầm mắt mọi người khoảng nửa canh giờ, một binh lính đến trước mặt trướng soái, bẩm báo: “Bẩm Phò mã, Quý Thường Ninh tướng quân đã tỉnh.”

    Đang bàn việc quân cùng mấy vị đại tướng Vân Thường, nghe vậy Hà Hiệp lạnh lùng hừ một tiếng: “Trói hắn lên đây cho ta!”

    Mấy cận vệ lập tức đến trướng quân của Quý Thường Ninh, tóm ngay lấy người vừa tỉnh dậy chưa kịp nhìn rõ mọi thứ kia, hung hăng trói hắn lại. Trước đó, họ đã được Hà Hiệp dặn dò, để tránh Quý Thường Ninh la lối cãi tội mà dao động lòng quân, nên phải bịt miệng hắn lại.

    Đám thuộc hạ của Quý Thường Ninh đều biết đã xảy ra việc gì, biết Phò mã đã nổi cơn thịnh nộ nên không dám ngăn, cũng chẳng có mặt mũi nào mà can ngăn, chỉ còn cách mở mắt trừng trừng nhìn tướng quân mình bị trói lôi đi.

    Buổi chiều, cánh quân đi cứu viện Kỳ Điền đã trở về.

    Kỳ Điền mang theo thi thể đầy thương tích của Quý Viêm, báo với Hà Hiệp: “Mạt tướng đến chậm một nước, tới nơi, quân Đông Lâm đã rút hết, toàn bộ cánh quân bị tiêu diệt, Quý thiếu tướng quân chết ngay tại trận”.

    Trên thi thể của Quý Viêm có cắm mười mấy mũi tên, khiến người ta chẳng dám nhìn vào. Dù không tận mắt chứng kiến trận chiến này, nhưng những người ở đó cũng có thể tưởng tượng chiến sự ác liệt chừng nào.

    “Nếu nghe lời ta, hai cánh quân Vĩnh Tiêu và Úy Bắc cùng công thành, chắc kết cục không đến nỗi thế này…” Hà Hiệp đau lòng im lặng một lúc, rồi nổi cơn thịnh nộ, “Trận giao chiến thứ nhất, một trong bảy cánh quân của ta đã bị tiêu diệt, bảo ta phải ăn nói thế nào với Công chúa? Người đâu, đưa Quý Thường Ninh vào đây!”

    Quý Thường Ninh bị trói giật cánh khuỷu quàng ra phía sau, vừa tỉnh dậy đã bị trói tay bịt miệng, hắn hoàn toàn không hiểu đã xảy ra chuyện gì nên mang theo một bụng tức giận, dự định gặp Hà Hiệp sẽ đòi lại công bằng. Ai ngờ vừa vào trướng soái, bỗng thấy như mây đen dày đặc, sắc mặt mọi người đều khó coi hơn bất cứ lúc nào. Trong không khí thoảng mùi tanh của máu, thi thể nằm trên đất mặc tướng phục Vân Thường đã nhuộm trong màu máu.

    Nhìn thật kỹ, Quý Thường Ninh bỗng thấy trong đầu “ầm” một tiếng, hỏng rồi.

    “Quý Thường Ninh, ngươi thân là đại tướng Vân Thường, nắm trong tay cả cánh quân Úy Bắc, lại dám coi thường quân lệnh, uống rượu say trong trướng, làm lỡ thời cơ cứu viện, khiến toàn bộ cánh quân Vĩnh Tiêu tử trận, ngươi còn lời nào để nói!”

    Hà Hiệp ra hiệu, đám binh lính vội rút mảnh giẻ nhét trong miệng Quý Thường Ninh ra. Quý Thường Ninh nhìn điệt nhi cách đây không lâu còn hoạt bát vui vẻ mà giờ đã nhuộm màu máu, bỗng thấy trời đất như quay cuồng, sấm sét chằng chịt đánh xuống đầu, cứ giương mắt, lắp bắp: “Sao… sao lại…”.

    Hà Hiệp thét hỏi: “Quý Thường Ninh, ngươi có nhận tội không?”.

    Cả người run lẩy bẩy, Quý Thường Ninh ngẩng phắt đầu: “Không, ta không uống rượu, ta không uống rượu! Ta bị oan!”.

    Các tướng lĩnh đã tận mắt chứng kiến Quý Thường Ninh sặc mùi rượu nằm thẳng trên giường ngáy o o, nay lại thấy hắn chối ngay tại chỗ thì cảm thấy xấu hổ thay, ánh mắt vô cùng khinh bỉ.

    “Ngươi còn dám chối? Tội lớn như thế này, không giết ngươi, ta chẳng còn mặt mũi nào mà gặp Công chúa. Người đâu! Chém hắn cho ta!”

    Thấy tình thế này, biết là không hay, Quý Thường Ninh càng hét: “Ta bị oan, ta không uống rượu! Họ Quý ta cả đời là trọng thần của Vân Thường, lập bao công lao hiển hách cho Vân Thường! Hà Hiệp, ngươi không thể giết ta! Ngươi phải cùng ta đến trước mặt Công chúa để đối chất!”

    “Ta có hổ phù trong tay, thống lĩnh bảy quân, lại không thể giết ngươi?” Hà Hiệp cười gằn, hét lên: “Người đâu, lôi ra ngoài!”.

    Binh lính đã có sự chuẩn bị từ trước, nhanh chóng bước tới lôi Quý Thường Ninh ra ngoài, chẳng mấy chốc, lại mang cái đầu với đôi mắt trợn trừng vào.

    Có tướng lĩnh hỏi, “Trận chiến Nhạn Lâm đã thua ngay từ đầu, bảy cánh quân Vân Thường giờ đã mất một, xin hỏi tiếp sau đây, Phò mã định đối phó với quân Đông Lâm thế nào?”

    “Chúng ta không đối phó với quân Đông Lâm nữa.”

    “Ý Phò mã là…”

    “Chúng ta về thành đô”.

    Quần tướng đều vô cùng ngạc nhiên, chỉ có Đông Chước đã biết trước kế hoạch của Hà Hiệp, vẫn buông tay đứng bên cạnh, vẻ mặt hoàn toàn bình thường.

    “Bảy cánh quân mất một không phải vì quân Đông Lâm mạnh, mà bởi vì đảng phái trong triều Vân Thường đấu đá lẫn nhau. Không diệt trừ được nội loạn, sao có thể đem quân đi đánh nước khác?”, Hà Hiệp nói, “Một nước Đông Lâm chẳng đáng trong mắt Hà Hiệp ta, các vị tướng quân đây đều là người có chí lớn, liệu các vị có nguyện cùng ta chỉnh đốn nội chính trước, rồi dẫn binh xuất chinh, tung hoành thiên hạ?”.

    Quần tướng đều là người thông minh, bỗng chốc hiểu ra dự định của Hà Hiệp . thời gian làm Phò mã của Hà Hiệp không ngắn, bị nhà họ Quý tìm mọi cách gây khó dễ, tất cả họ đều nhìn rất rõ. Nay Hà Hiệp đã mạnh, muốn dẹp Quý gia là chuyện đương nhiên.

    Trướng soái hoàn toàn yên lặng.

    Hà Hiệp cười bảo: “Không sao, các vị muốn nói gì thì cứ nói ra”

    Một kế của Hà Hiệp đủ để loại trừ thế lực nhà họ Quý trong quân, thanh thế gia tăng, thần sắc lạnh lùng kiêu ngạo, ánh mắt quét tới đâu, người người lo sợ tới đó.

    “Chảy máu, chảy mồ hôi không quan trọng, tướng lĩnh chúng ta chỉ lo buồn đến mốc người thôi. Miễn sao không bị nhốt trong thành ăn không ngồi rồi, tất cả những việc khác đều do Phò mã quyết định”, Kỳ Điền cân nhắc một lúc, rồi cắn răng lên tiếng trước.

    Tâm tư của Kỳ Điền không hẹn mà giống những tướng lĩnh khác.

    Hà Hiệp muốn thanh trừ nhà họ Quý thì có liên quan gì tới họ? Các tướng quân sợ nhất là không được đánh trận, không được ngửi mùi tanh của máu, không có cơ hội thi triển năng lực, bị quan văn chèn ép mọi bề. Chính sách an phận của lão thần Quý Thường Thanh không hợp lòng quân, nếu đổi sang Phò mã danh tướng lẫy lừng chủ quản mọi việc, đối với họ, thực là một việc tốt.

    Quần tướng trao nhau một ánh nhìn, ra quyết định, rồi quay về phía Hà Hiệp, chắp tay đồng thanh: “Chúng tướng nghe theo Phò mã!”

    “Được”, Hà Hiệp thận trọng gật đầu, “Vậy mời các vị tướng quân nhổ trại, theo ta về thành đô”.

    Thành Thả Nhu, Vân Thường.

    Mùa liễu rủ.

    Nhưng dường như không gian bên ngoài chẳng có chút tác động đến phòng giam này, từ đông sang hạ, nó vẫn chỉ bốn bức tường và một cánh cửa sổ.

    Âm thanh mở khóa vang lên, tiếng người bước vào, Phiên Lộc xuất hiện.

    “Sao không ăn?”

    “Không muốn ăn”. Những món ăn trên bàn chưa hề được động đến, Túy Cúc ngồi bên giường, cúi đầu xếp y phục trên gối.

    Dừng lại một lúc, Phiên Lộc khẽ bảo: “Không ăn thì thôi”.

    Thấy hắn dễ dàng bỏ qua cho mình, Túy Cúc càng kinh ngạc. Nam nhân này coi nàng như một con lợn, ngày ngày nhốt trong chuồng, liên tục cho ăn, nếu nàng không ăn, hắn sẽ gây ra bao việc bắt nàng phải ăn cho hết. Sao hôm nay hắn lại đổi tính thế?

    “Này…”

    Phiên Lộc sững lại: “Sao thế?”

    Túy Cúc bước tới, thăm dò nam nhân kia: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

    “Không liên quan đến ngươi.” Đây là câu Túy Cúc vẫn hay dùng để chọc giận Phiên Lộc, hôm nay lại bị hắn mang ra phản kích.

    Túy Cúc ngẩn người, rồi hừ một tiếng: “Không hỏi thì không hỏi, có gì to tát sao?” Nàng quay về giường, vừa xếp y phục vừa nói, “Này, dù ngươi không chịu thả ta ra, thì cũng phải cho ta viết một bức thư cho sư phụ chứ. Coi như ta cầu xin ngươi, đừng quên ta từng cứu mạng ngươi”.

    Bỗng nghe thấy tiếng khóa, Túy Cúc ngẩng đầu, Phiên Lộc không còn ở đó, cửa đã bị khóa. Nàng tức giận nghiến răng: “Tên xấu xa, rồi sẽ có ngày ngươi bị sói ăn thịt”.

    Xếp xong y phục, Túy Cúc cất vào tủ.

    Cũng chẳng thể nói là phong giam này không đổi. Màn rèm chăn gối thường xuyên được thay mới, đều do Phiên Lộc chọn màu, nhưng nhãn quang của hắn quả không tồi. Mấy tháng trước, Phiên Lộc chuyển đến một tủ y phục, tiếp theo là bàn trang điểm, hộp trang sức, phấn son,… dần dần mọi thứ đã đầy đủ, rèm cửa màu xanh, chăn tơ gối lụa, cộng thêm rèm rủ, chuông gió, gương đồng. Nếu không vì cửa sổ song sắt, cửa có khóa ngoài, rõ ràng đây chẳng khác nào khuê phòng của một tiểu thư.

    Nam nhân này đến rồi đi, lần nào cũng để lại một thứ, nhưng chưa bao giờ đưa tận tay cho Túy Cúc, mà chỉ trêu chọc nàng vài câu, khiến nàng tức điên lên, đến khi bóng dáng hắn khuất sau cánh cửa, Túy Cúc mới phát hiện trên bàn có thêm cây trâm bạc hay một bức tượng nhỏ xinh.

    Nàng bị nhốt bao lâu như thế, chán muốn chết, ngày nào cũng chỉ mong được gặp người, dù chỉ là tên Phiên Lộc xấu xa đó. Nhưng hai hôm nay, Phiên Lộc ra vào vội vã, đặt cơm canh xuống rồi đi ngay, không biết xảy ra achuyeenj gì, Túy Cúc không tránh khỏi cảm giác bất an.

    Tiếng mở khóa lại vang lên.

    Cửa đã mở.

    Túy Cúc ngẩng lên.

    Phiên Lộc bước vào, ngồi xuống ghế, không nói gì mà chỉ nhìn Túy Cúc.

    Túy Cúc ngạc nhiên, hỏi: “Sao ngươi quay lại?”.

    Như đang có tâm sự, Phiên Lộc ủ ê một lúc, mới lên tiếng: “Phò mã dẫn quân chinh phục Đông Lâm, nửa đường lại quay về thành đô. Nghe nói quân đội đã có chứng cứ xác thực về việc nhà họ Quý mưu đồ làm phản. Đại quân đã bao vây thành đô, lục tìm nghịch đảng khắp nơi. Thân tín của Quý gia, không một ai chạy thoát”.

    Túy Cúc sững người. Nói thực là, nghe đến việc này, nàng không hề cảm thấy vui mừng, mãi một lúc sau mới đáp khẽ: “Việc này do các đảng phái ở thành đô đấu đá lẫn nhau, quan viên tiểu thành nơi quân ải có liên quan gì? Con người ngươi chỉ biết bắt nạt một nữ tử như ta, đến khi gặp việc lớn, sao lại thành lo bò trắng răng như vậy?”

    “Thủ đoạn của Phò mã thực khiến người ta lạnh lòng”. Phiên Lộc không còn vẻ dọa dẫm thường ngày, im lặng giây lát, hạ giọng, “Hà Hiệp nói tuy Thừa tướng mưu phản, nhưng dù gì cũng là lão thần của Vân Thường nên không muốn dùng đến binh đao, chỉ hạ lệnh nhốt Thừa tướng trong phòng, cho nước, không cho ăn. Chịu đựng bốn ngày bốn đêm, sau khi điểm chỉ nhận tội mưu phản, Thừa tướng đã uống thuốc độc mà chết”

    “A!”, Túy Cúc kêu lên kinh hãi, hỏi, “Thế Công chúa đâu? Sao Công chúa lại để Hà Hiệp làm vậy?”

    “Trong tay Hà Hiệp có đại quân, các tướng lĩnh chỉ nghe lời hắn. Công chúa đã không còn cách nào khống chế cục diện. huống hồ, sao Công chúa lại không ủng hộ phu quân mình? Không lẽ Công chúa muốn Thừa tướng giết Hà Hiệp ?”

    Thành đô Vân Thường chắc giờ đang chìm trong lo âu.

    Vốn đã quen với bộ dạng đáng ghét của Phiên Lộc, hôm nay bỗng thấy hắn ngồi thẫn thờ trước mặt, Túy Cúc lại thấy không quen, bèn nói mấy câu không đầu không đuôi: “Ngươi lo gì chứ? Ngươi là mật thám lợi hại nhất, giỏi giang nhất Vân Thường. Nếu Hà Hiệp hạ lệnh bắt ngươi, ngươi trốn vào sơn mạch Tùng Sâm là xong, ở đó, cả khỉ cũng chẳng tóm được ngươi”.

    Không ngờ Phiên Lộc lại hỏi: “Vậy ngươi làm thế nào?”

    “Ta?”, Túy Cúc kinh ngạc, cúi xuống, nói, “May quá, ngươi thả ta ra, ta về Đông Lâm tìm sư phụ”.

    “Không thả”, Phiên Lộc lập tức cự tuyệt.

    Túy Cúc lo lắng, ngẩng lên, giận dữ hỏi: “Tại sao?”.

    “Đường xa, một nữ nhân như ngươi, ta không yên tâm.”

    “Ngươi… ngươi…”

    “Ngươi làm sao?” Phiên Lộc đứng dậy bước ra cửa, ném lại một câu sau lưng, “Hôm nay tha cho ngươi, lần sau còn không ăn cơm, ta lột y phục ngươi, đánh ba trăm trượng. Một lời của thủ thành này nói ra, tứ mã nan truy. Ngươi nhớ kỹ cho ta”.

    Lách cách mấy tiếng, cửa đã khóa lại, chỉ còn một mình Túy Cúc đang nghiến răng nghiến lợi: “Tên xấu xa, tên xấu xa! Ngươi bị Hà Hiệp giết đi cho rồi! Phiên Lộc, ngươi là đồ lưu manh!”.
     
  10. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 49
    Trận chiến chống lại thế lực già nua trong triều đình nhanh chóng giành được thắng lợi. Mấy chục vạn quân bao vây thành đô, trong lúc luống cuống và hốt hoảng, Diệu Thiên còn bị phát hiện ra đã có mang, điều này giúp Hà Hiệp một việc lớn. Ngay lập tức, Công chúa điện hạ được “mời” vào thâm cung tĩnh dưỡng, không được hỏi tới những chuyện quốc sự phiền hà.

    Chỉ trong mấy ngày, bản cung khai nhận tội mưu phản có điểm chỉ của Quý Thường Thanh đã được đưa đến trước mặt Diệu Thiên, đồng thời được dán ở cổng thành, cùng với bao cái đầu phản nghịch nhà họ Quý bị phơi ra cho toàn dân biết rõ.

    “Thật không ngờ Thừa tướng… lại…”

    “Quý gia là trọng thần bao đời của Vân Thường, sao lại thành nghịch tặc?”

    “Lòng người khó đoán, khó đoán lắm…”

    Chứng cứ liên tục xuất hiện, ngày nào cũng có người vạch trần tội ác của nhà họ Quý. Ngay bản thân Quý Thường Thanh cũng thừa nhận tội mưu phản, thì đám dân đen không có cơ hội tìm hiểu nội tình sao phân biệt nổi ai đúng ai sai?

    Huống hồ lần chinh phạt Đông Lâm này ra quân bất lợi chính là hai vị tướng bất tài nhà họ Quý, một người cậy khỏe, một kẻ ham rượu, khiến cả một đội quân, tính mạng của hàng ngàn vạn con dân Vân Thường phải mất trong tay chúng.

    Dường như nhà nào cũng có nam đinh trong quân, nên ai chẳng căm hận những tướng quân coi nhẹ sự sống cái chết của binh lính.

    Điều khiến người ta vui mừng là, trong lúc quốc nạn, Phò mã đã thể hiện tài năng chính trị quân sự siêu việt của mình, nhanh chóng nhổ cỏ tận rễ bọn loạn đảng, chỉ trong thời gian ngắn đã kịp bổ nhiệm các viên quan mới. Chưa đến một tháng, thành đô đã tái diễn cảnh tượng từng khiến dân chúng Vân Thường sôi sục.

    Cờ gấm rợp trời, chục vạn quân xuất phát.

    Phò mã oai phong lẫm liệt dẫn đại quân xuất chinh.

    “Thiên hạ rộng lớn này, không có chỗ nào ngăn nổi bước chân của quân sĩ Vân Thường ta!” Trên thành lâu, Hà Hiệp vung kiếm.

    Lúc này, bên cạnh Hà Hiệp đã không còn bóng dáng đoan trang của Công chúa nữa. Nàng đang ở nơi thâm cung thai nghén đại vương tương lai của Vân Thường.

    Binh lính hò reo vang dội, nhảy nhót không ngừng.

    Họ hò reo vì Hà Hiệp, sục sôi vì Hà Hiệp .

    Họ có một anh hùng.

    Quy Lạc từng có Hà Hiệp, Đông Lâm từng có Sở Bắc Tiệp, Bắc Mạc ít nhất còn có Tắc Doãn. Nhưng giờ Sở Bắc Tiệp đã không rõ tung tích, Tắc Doãn đã quy ẩn.

    Hà Hiệp lại thuộc về Vân Thường.

    Có Hà Hiệp, đại quân Vân Thường sẽ tới được bất cứ nơi nào.

    Càng khiến người ta không thể tưởng tượng là, đại quân rời khỏi thành đô Vân Thường khoảng năm mươi dặm, Hà Hiệp hạ lệnh cho toàn quân dựng trại, rồi triệu tập các tướng lĩnh đến trướng soái.

    Quân tướng vừa có mặt, Hà Hiệp đã nói: “Toàn quân chuyển hướng, tập hợp ở biên giới Bắc Mạc”.

    Các tướng lĩnh đã quen với lối suy nghĩ độc đáo của Hà Hiệp nên không hoàn toàn ngạc nhiên, chỉ hỏi: “ Không đi Đông Lâm thì chúng ta đi đâu?”.

    “Từ giờ, tòan quân chia nhỏ, ngày nghỉ đêm đi, tập hợp tại biên cương Bắc Mạc.”

    Các tướng lĩnh đã có vẻ hiểu, họ sắp ra tay với Bắc Mạc.

    Chiếm Bắc Mạc trước cũng phải, tuy Đông Lâm không còn Sở Bắc Tiệp, nhưng quân tướng đều do một tay Sở Bắc Tiệp tôi rèn cũng chẳng dễ đối phó. Quân Bắc Mạc thực lực trước nay không mạnh, lại không có Tắc Doãn. Đánh trận cũng như ăn quả hồng, phải chọn quả mềm để ăn trước.

    Kỳ Điền có kinh nghiệm chinh chiến phong phú, đắn đo một lát, liền nghĩ ngay đến vấn đề không thể bỏ qua, nên cung kính hỏi Hà Hiệp: “Phò mã muốn đánh Bắc Mạc, điều này đương nhiên đúng. Nhưng, Đông Lâm là kẻ địch lớn của chúng ta, Quy Lạc cũng luôn nhòm ngó ta. Nếu chúng ta đánh Bắc Mạc, há chẳng phải ba mặt đều là quân địch?”.

    “Chẳng ai muốn bị tấn công từ ba phía, vì thế Bắc Mạc sẽ không bao giờ nghĩ đến việc chúng ta đường đột tấn công họ”, Hà Hiệp lạnh nhạt tiếp, “ Các vị tướng quân yên tâm, dám khai đao với Bắc Mạc, ta tất phải có cách thần tốc phá tan đại quân Bắc Mạc. Đông Lâm giờ là do vương hậu nắm quyền, nữ nhân luôn do dự với việc đánh trận, nên đến khi bà ta quyết định cử đại quân tiến đánh chúng ta, quân Bắc Mạc đã tan tác rồi.

    Nhưng các tướng lĩnh đâu có được lá gan như Hà Hiệp: “Sau khi đánh tan Bắc Mạc, lại phải đối phó với Đông Lâm, quân ta còn đâu sức lực mà tiếp tục đối phó với Quy Lạc?”.

    “Đây chính là điểm hứng thú nhất.” Hà Hiệp bỗng thêm phần khí phách, cao giọng gọi: “Chiếu Hành vào đây!”.

    Ngay tức khắc rèm cửa được vén lên, một võ tướng gầy còm bước vào, chắp tay với các tướng lĩnh, rồi điềm tĩnh đứng bên Hà Hiệp .

    Hà Hiệp giới thiệu: “ Phi Chiếu Hành từng là đệ nhất tâm phúc dưới trướng đại tướng quân Nhạc Chấn của Quy Lạc. Đây chính là nhân vật mấu chốt ngăn cản Quy Lạc vương xuất quân làm hỏng chuyện lớn của chúng ta”. Cánh tay vừa giơ lên, Phi Chiếu Hành đã gật đầu.

    Phi Chiếu Hành hạ giọng, nói: “ Quy Lạc vương hậu từng lệnh cho tại hạ đưa mật báo tới Phò mã, rằng Quy Lạc vương đang phục kích đội xe của Phò mã. Chỉ cần tại hạ viết một bức thư, sai người gửi đến Quy Lạc vương tố cáo Quy Lạc vương hậu và Nhạc gia, ngay lập tức nội bộ Quy Lạc sẽ xảy ra đại loạn, không còn hơi sức chú ý đến chiến sự giữa Vân Thường và Bắc Mạc nữa”.

    Trầm Cảnh của cánh quân Úy Mặc lên tiếng: “ Thế lực Nhạc gia của vương hậu ở Quy Lạc đang lên như diều gặp gió, sao phải mật báo cho Phò mã? Vương hậu sao lại phản bội Quy Lạc vương?”.

    Phi Chiếu Hành đơn giản đáp: “Để ngăn Bạch Sính Đình bước vào hậu cung của Quy Lạc vương Hà Túc”.

    Quần tướng đã hiểu ra.

    Nghe đến tên Sính Đình, ánh mắt Hà Hiệp bất chợt tối sầm. Hà Hiệp im lặng, hồi lâu mới lấy lại tinh thần: “Mật tín của Phi Chiếu Hành đang trên đường đến Quy Lạc. Hiện giờ Bắc Mạc vương không hề nghi ngờ gì chúng ta, quân Đông Lâm thì vừa bị ta uy hiếp, nên sẽ không dám liều lĩnh xuất quân. Các vị, đây chính là thời cơ tốt nhất để giành lấy Bắc Mạc”.

    Sự tính toán cặn kẽ của Hà Hiệp khiến các tướng sĩ ban đầu chưa tin tưởng bỗng trở nên hưng phấn, ai nấy hồ hởi, giọng sang sảng: “Mạt tướng xin chờ lệnh Phò mã!”.

    Cứ như thế, đại quân Vân Thường đang trên đường chinh phạt Đông Lâm bỗng mai danh ẩn tích, không rõ phương hướng.

    “Hu hu… hu hu…”

    Sính Đình vội vã chạy vào phòng, thấy Dương Phượng đang đặt Tắc Khánh lên gối mình, hai tay phát bôm bốp vào cái mông trần của hài tử.

    “Dương Phượng, tỷ đang làm gì thế?”

    Rõ ràng Dương Phượng vẫn chưa hết giận, chỉ tay xuống đất nói: “Muội nhìn xem, nó lôi cái gì dưới gầm giường ra, còn rủ cả Trường Tiếu nghịch cùng, chẳng may Trường Tiếu bị thương thì làm thế nào?”.

    Sính Đình nhìn xuống, thấy dưới đất có thanh bảo kiếm, cũng vô cùng ngạc nhiên: “Hai đứa trẻ này thật nghịch ngợm, Trường Tiếu, ta cũng phải đánh con mới được”. Sính Đình lôi luôn Trường Tiếu đang đứng cười bên cạnh ra mắng mỏ.

    Trường Tiếu vẫn chưa biết nói, thân hình mũm mĩm, hai mắt trong veo rạng rỡ, thấy mẫu thân quay sang liền toét miệng cười.

    “Dương Phượng, tỷ đừng đánh Tắc Khánh nữa, theo muội thì chắc chắn là trò của Trường Tiếu rồi. Tỷ đừng nghĩ nó nhỏ, giờ nó đã biết đi, biết chạy rồi, tỷ không biết nó nghịch đến thế nào nữa đâu”.

    Cũng giống như Trường Tiếu, Tắc Khánh không hay khóc, cái mông nhỏ bị mẫu thân phát một trận bỗng chốc không thấy đau, cứ đòi xuống đất. Đánh hài nhi vài cái, trong lòng cũng thấy xót nên Dương Phượng lại thả nó xuống.

    “Ha ha…Tiếu Tiếu… Tiếu Tiếu…” Tắc Khánh chân vừa chạm đất đã vụt khỏi lòng mẫu thân, chạy tới bên Trường Tiếu đang cười vui vẻ, tóm lấy tiểu đệ lôi ra ngoài: “ Trúc… trúc…”. Tắc Khánh chạy nhanh hơn Trường Tiếu rất nhiều, khiến Trường Tiếu cứ phải chập chững theo sau.

    “Tắc Khánh, không được lắc cây trúc phơi y phục.” Dương Phượng chạy theo ra cổng, giáo huấn, “ Mau thả tay ra, cẩn thận Trường Tiếu ngã đấy”.

    “Dương Phượng, mặc kệ chúng.” Sính Đình đi theo, đặt tay lên vai Dương Phượng, cười nói, “Nhìn tỷ lo lắng kìa. Tỷ không cần lo cho Trường Tiếu, cứ để chúng ngã, hài tử có ngã mới lớn được”. Nói rồi, Sính Đình quay lại, nhặt thanh kiếm trên đất.

    Đúng là một thanh kiếm tốt, lưỡi kiếm mỏng như lớp băng, chỉ cần khẽ chạm vào, cảm giác lưỡi kiếm lạnh lẽo dưới ánh mặt trời như chạm đến tận xương cốt. Sính Đình lật thanh bảo kiếm, thấy bên trên khắc hai chữ “Thần uy” thì vô cùng ngạc nhiên.

    Một lát sau, nàng mới buồn rầu hỏi: “Bảo kiếm Thần uy nổi danh thiên hạ sao lại ở nơi này? Thật đáng tiếc…”.

    Dương Phượng quay lại, thấy Sính Đình thẫn thờ cầm thanh kiếm, bỗng giật mình. Hôm đó, Sở Bắc Tiệp lên núi tìm thê tử, biết tin Sính Đình không còn nữa thì thất thần bỏ đi. Dương Phượng chưa từng nói với Sính Đình việc này, cũng giấu cây bảo kiếm Thần uy của Sở Bắc Tiệp bỏ lại tận dưới gầm giường, ai ngờ thần xui quỷ khiến thế nào lại bị hai tiểu quỷ kia lôi ra.

    Suy nghĩ giây lát, Dương Phượng hạ giọng: “Đây là cây kiếm Sở Bắc Tiệp bỏ lại. Sở Bắc Tiệp từng đến chỗ ẩn cư cũ của ta để tìm muội”.

    Thấy Sính Đình im lặng chẳng nói gì, Dương Phượng không kìm được lại hỏi: “Sính Đình, muội vẫn nhớ nam nhân đó ư?”

    Sính Đình không đáp, đứng trong phòng hồi lâu, rồi chậm rãi tra kiếm vào vỏ, treo lên, sau đó quay ra gọi: “Trường Tiếu, lại đây, ta hát cho con nghe một khúc rất hay”. Nụ cười thương yêu nở trên khuôn mặt nàng.

    “Mẫu thân… mẫu thân…”, Trường Tiếu cười, nhào vào lòng Sính Đình.

    “Khánh nhi cũng nghe!” Tắc Khánh chạy sau Trường Tiếu, kịp thời vượt lên trước chiếm chỗ ngồi cạnh Sính Đình.

    Ánh mặt trời soi rọi, trước gian nhà nhỏ, mặt ao lăn tăn gợn sóng.

    Nàng khẽ cất tiếng hát.

    “Có loạn thế mới có anh hùng, có anh hùng mới có giai nhân. Hỗn loạn làm sao, hỗn loạn làm sao…”

    Trường Tiếu, trong lòng mẫu thân có một câu chuyện.

    Một câu chuyện có anh hùng và cả giai nhân.

    Họ đã từng thề với ánh trăng, cả đời không phụ bạc.

    Không bao giờ, không bao giờ phụ bạc…

    Giọng ca ai oán bỗng trở nên dịu dàng, sưởi ấm lòng người. Hai đứa trẻ yên lặng ngồi trên bục cửa cạnh Sính Đình, tuy không hiểu ý tứ sâu xa trong đó nhưng cũng ngây ngất lắng nghe.

    Sính Đình hát chưa hết một khúc, Tắc Doãn đã xuất hiện trước rào giậu. Hắn vội vã bước vào, sắc mặt nghiêm trọng.

    Nhìn bộ dạng Tắc Doãn, Sính Đình dừng ngay khúc hát, đứng dậy hỏi: “Sao thế?”

    Nét mặt sa sầm, Tắc Doãn khẽ lắc đầu. Ngụy Đình theo sát phía sau, sắc mặt vô cùng khó coi. Hai người không nói một lời nào, lặng lẽ bước vào phòng.

    Tắc Doãn bảo vú nuôi đưa hai đưa trẻ đi chỗ khác, rồi khép cửa lại, hạ giọng: “ Đại vương băng hà rồi”.

    Dương Phượng kinh ngạc: “ Đại vương trước nay khỏe mạnh, sao bỗng thành ra như thế?”.

    “Là Hà Hiệp”, Tắc Doãn đau đớn đáp lời, “Hà Hiệp gửi thư đến mời Đại vương ra biên giới gặp mặt, cùng thưởng rượu. Vân Thường và Bắc Mạc đã từng là đồng minh nên Đại Vương không hề hoài nghi mà nhận lời ngay…”.

    “Tên ác tặc Hà Hiệp đã hạ độc vào rượu, rồi cử sẵn mai phục bên ngoài nên cả Đại vương và các thần thân cận tùy tùng người đều bỏ mạng tại chỗ. Hiện tin tức đã lan rộng khắp Bắc Mạc, khiến dân chúng bàng hoàng. “Nghĩ đến tình nghĩa với Bắc Mạc vương, hai mắt của hổ tướng Tắc Doãn đỏ hoe.

    Vẻ mặt không thể nào tin, Dương Phượng hỏi: “Hà Hiệp điên rồi sao? Đại vương bị hại, đại quân bảo vệ Bắc Mạc quanh đó nhất định sẽ hợp lực tấn công”.

    “Chắc chắn đại quân Bắc Mạc sẽ không dám ra tay.” Phía sau vang lên giọng nói trong trẻo quyết đoán.

    Ba người lập tức quay đầu, thấy Sính Đình đứng bên bàn, vẻ mặt nặng trĩu suy tư: “Hà Hiệp dám hạ độc giết Bắc Mạc vương, chắc chắn hắn đã có đủ binh lực ở biên cương để đối phó với sự tấn công của đại quân Bắc Mạc”.

    Tắc Doãn nghiêm nghị: “Nếu Vân Thường dám điều động toàn quân tấn công Bắc Mạc, chắc chắn Đông Lâm và Quy Lạc sẽ không chịu ngồi nhìn. Hà Hiệp dám cả gan đứng trước nguy cơ bị tấn công từ ba phía?”.

    “Thượng tướng quân đã bao giờ đấu với Hà Hiệp chưa?”. Sính Đình mím môi, không biết đang oán hận hay ca thán, nói rất khẽ, “Trên chiến trường, Hà hiệp chưa bao giờ làm việc gì không chắc chắn”.

    “Có nên lập tức cử người thông báo cho Nhược Hàn phải cẩn thận?”

    “…”

    “Không kịp rồi…”

    Một bức thư tố cáo của Phi Chiếu Hành đã khiến mâu thuẫn giữa Quy Lạc vương và Nhạc gia càng thêm gay gắt.

    Vương hậu không thể nói rõ việc của Bạch Sính Đình, nên Quy Lạc vương đã tìm lý do đuổi ái thê vào lãnh cung.

    Nhưng, thế lực của Nhạc gia ở Quy Lạc đã ăn sâu bén rễ, không dễ diệt trừ. Quốc trượng Nhạc Địch đã sớm có sự chuẩn bị, nên trước khi Đại vương ra tay, đã kịp bước một nước cờ thông minh nhất trong đời, chính là thăng cho nhi tử Nhạc Chấn thành đại tướng quân. Trước lúc Đại vương hỏi đến, ông ta đã điều Nhạc Chấn rời khỏi thành đô đi luyện binh bên ngoài.

    Cứ như thế, Quy Lạc vương ở trong, Đại tướng quân Nhạc Chấn nắm giữ đội quân hùng hậu bên ngoài, hai phe đối đầu, thiếu chút nữa là đầu rơi máu chảy.

    Khi tin tức Bắc Mạc vương bị hại truyền đến nơi, Quy Lạc đang chìm trong bóng đêm của nội loạn, chẳng ai còn thời gian quan tâm đến việc bành trướng của Hà Hiệp.

    Đối với hành động của Hà Hiệp, quốc gia phải lo lắng nhất trong tứ quốc chính là Đông Lâm.

    “Quần khanh nói gì đi.”

    Trong vương cung Đông Lâm, Đông Lâm vương hậu ngồi trên ngai vàng lo lắng nhìn khắp lượt những đại thần đang im lặng: “Các khanh đã xem qua quân báo, chẳng lẽ đều không có lời nào? Thần đại tướng quân, khanh nói xem”.

    Thần Mâu thở dài, miễn cưỡng đứng ra: “Nương nương, thần vẫn chỉ một câu, nếu Hà Hiệp đối phó với đại quân Bắc Mạc, thì ngay sau đó sẽ đến lượt chúng ta. Nhiệm vụ trước mắt là lập tức cử đại quân hợp sức với quân Bắc Mạc tấn công Vân Thường”.

    “Tuyệt đối không được.” Giọng nói già nua của Sở Tại Nhiên vang lên.

    Hai vương tử của Vương hậu đã chết dưới tay Bắc Mạc vương, trong lòng Vương hậu cũng không có ý định giúp Bắc Mạc qua cơn hoạn nạn. Nghe Sở Tại Nhiên cất giọng phản đối, Vương hậu vội tiếp lời: “Thừa tướng có đề nghị gì, mau nói ra”.

    Sở Tại Nhiên run rẩy đứng ra, ngẩng lên bẩm báo: “Nương nương, Đông Lâm ta giờ không giống trước kia. Nếu có Trấn Bắc vương thì việc gì phải sợ Hà Hiệp? Nhưng nay, Trấn Bắc Vương đã bặt vô âm tín… Thần cho rằng, có thể không động đến Hà Hiệp thì đừng động đến.”

    Thần Mâu vội nói: “Hà Hiệp dã tâm hừng hực, chúng ta không động đến hắn, hắn cũng sẽ tìm đến chúng ta. Vương gia không còn, chúng ta ở vào thế yếu nên càng phải chủ động xuất kích, phối hợp với Bắc Mạc nghênh chiến Hà Hiệp. Như thế mới có thể bảo vệ chính mình”.

    “Chiến tranh đáng sợ, lúc này chỉ có thể tự bảo vệ mình.”

    “Bây giờ xuất kích mới là tự bảo vệ mình.”

    “Có gì từ từ nói. Thừa tướng…”

    “Sau đại chiến với quân Bắc Mạc, Vân Thường cũng cần có thời gian nghỉ ngơi lấy sức. Chúng ta có thể nhân thời gian ấy để luyện binh…”

    “Thần đại tướng quân đừng kích động, chúng ta phải bàn bạc kỹ lưỡng…”

    “Còn bàn bạc gì nữa? Đến khi Hà Hiệp chiến thắng Bắc Mạc, Đông Lâm sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo của hắn. E rằng trong lúc chúng ta còn đang luyện binh, quân địch đã đánh đến cửa rồi!”

    “Đừng tranh luận nữa!” Thấy hai bên bàn cãi không dứt, ánh mắt Vương hậu chuyển từ đông sang tây, rồi lại từ tây sang đông, cuối cùng đành đập tay vào chỗ vịn, hét lên. Tiếng tranh luận giữa các đại thần bỗng chốc im bặt.

    “Chiến tranh là việc đại sự, không thể vội vàng quyết định”, Đông Lâm vương hậu day day huyệt thái dương, thở dài, “Quần khanh hãy suy nghĩ cho kỹ việc này, ngày mai chúng ta tiếp tục bàn bạc”.

    Thần Mâu cau hai hàng mày rậm, tiến lên một bước: “Vương hậu nương nương, không thể tiếp tục do dự. Thượng tướng quân Bắc Mạc Nhược Hàn đã tập hợp đại quân nghênh chiến, binh pháp của Hà Hiệp vô cùng lợi hại, chỉ e chưa đến mấy ngày, hắn sẽ đánh tan đại quân Bắc Mạc”.

    Đông Lâm vương hậu giận dữ: “Đã nói cần bàn bạc cho kỹ, Thần đại tướng quân đừng nên nhiều lời”. Dứt câu, Vương hậu đứng dậy, vội vã vào sau rèm.

    Phản ứng của Đông Lâm vương hậu hoàn toàn nằm trong dự liệu của Hà Hiệp. Không có sự uy hiếp của Quy Lạc và Đông Lâm, Hà Hiệp mới có thể dốc hết binh lực đối phó với Bắc Mạc.

    Những chuyện xảy ra tiếp theo chấn động tứ quốc.

    Dưới chân sơn mạch Tùng Sâm, ở một địa danh có tên Chu Tình, những tốp lính riêng lẻ của Vân Thường bỗng như từ dưới đất trồi lên, tập hợp thành đội quân hùng mạnh, đón đầu đội quân Bắc Mạc đang đau buồn vì cái chết của Đại vương mà hung hăng tiến đến. Dưới sự chỉ huy và trù tính kỹ càng của Hà Hiệp, trận quyết chiến quy mô lớn nhất từ trước tới nay này đã trở thành một trận tàn sát.

    Đại quân Vân Thường hoàn toàn đánh bại đội ngũ của Nhược Hàn, quân Bắc Mạc tử thương vô khối, chỉ khoảng một phần mười số quân sống sót tháo chạy khắp nơi. Đó cũng chính là lực lượng quân sự quan trọng, lớn mạnh nhất Bắc Mạc.

    Trận chiến Chu Tình một lần nữa chứng minh tài quân sự kiệt xuất của Hà Hiệp.

    Sau đó, thế lực của Hà Hiệp lớn mạnh với tốc độ vượt qua sức tưởng tượng của mọi người. Đánh tan được đội quân của Nhược Hàn, Hà Hiệp tiếp tục tiêu diệt mấy đạo quân chi viện còn lại của Bắc Mạc với tốc độ nhanh như chớp, rồi quay sang mục tiêu Đông Lâm đã bỏ mất thời cơ.

    Tướng sĩ Vân Thường chưa bao giờ nghĩ đánh chiếm một quốc gia lại dễ dàng đến thế, men say chiến thắng như loại rượu ngon mê hoặc tâm trí họ, ý chí chiến đấu càng sục sôi.

    Mấy chục vạn thanh đao sắc đã chém đứt các cửa khẩu của Đông Lâm. Trong biển máu lênh láng, lá cờ của Hà Hiệp vẫn luôn bay phần phật nơi tiền phương.

    Trong mắt những tướng sĩ đang theo sau, Hà Hiệp là một chiến thần.

    Mùi máu tanh nồng lan khắp đất trời, bóng đen chiến tranh lấy Vân Thường làm trung tâm, tràn sang bốn phương tám hướng, đại quân Vân Thường từng bước, từng bước mở rộng lãnh thổ.

    Quân Bắc Mạc đại bại, vương tộc Bắc Mạc chết không còn ai.

    Quân Đông Lâm đại bại, Đại tướng quân Thần Mâu chết ngay tại chiến trường. Sở Mạc Nhiên dẫn theo tàn binh hộ vệ Đông Lâm vương hậu rời khỏi vương cung. Lão Thừa tướng Sở Tại Nhiên tóc bạc da mồi không muốn chịu nỗi nhục bị bắt sống, trước khi quân Vân Thường phá cửa xông vào, đã uống thuốc độc tự vẫn.

    Chẳng ai ngờ rằng, chỉ trong thời gian ngắn, Hà Hiệp đã làm được tất cả những việc này.

    “Quân Vân Thường đến rồi! Quân Vân Thường đến rồi!”

    “Chạy thôi! Mau chạy…”

    “Phụ thân ơi, người ở đâu?”

    Hai bên con đường đất vàng, xương trắng chất đầy tàn binh thất bại, bách tính mất nhà mất quê trải dài thành dòng người bất tận, ai cũng muốn giành phần đi trước, dìu già đỡ trẻ mà chạy trốn.

    Nhưng, liệu ai có thể nhanh hơn chiến mã của Hà Hiệp ?
     
  11. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 50
    Khói lửa chiến tranh len lỏi vào cả những thôn làng xa xôi hẻo lánh của Bắc Mạc.

    Nỗi đau mất nước còn chưa vơi, đám mây đen thống trị của Hà Hiệp đã lại bao trùm lên đầu bách tính vô tội.

    “Tuyên đọc, Vân Thường Phò mã hạ lệnh, con dân trong thôn tính theo đầu người, mỗi khẩu giao nộp ba đảm[1] lương thực, ngày kia phải nộp đủ, không được chậm trễ.”

    [1] Đảm là đơn vị đo lường Trung Quốc, 1 đảm tương đương với 50 ký.

    Đám dân trong thôn bị tập trung lại bỗng lao xao.

    “Mỗi khẩu ba đảm lương thực, chúng ta sao có thể qua được mùa đông?”

    “Thật không cho người ta sống nữa!”

    “Lão lý trưởng…” Có người túm lấy lý trưởng vừa đọc xong mệnh lệnh, giọng khẩn cầu, “Ông cũng biết cảnh nhà tôi, thê tử ốm đau, lương thực đã bán lấy tiền thuốc rồi. Đừng nói là ba đảm, đến một đảm nhà tôi cũng chẳng còn”.

    Lý trưởng mặt mũi khổ sở, nói khẽ: “Ta có cách nào đâu, mấy đứa trẻ trong nhà cũng bị tính theo đầu người, ta đang rầu lòng vì chuyện lương thực đây. Lão La, không nộp là không được đâu, trưng thu lương thực để làm lương bổng và phụ cấp trong quân, chậm một chút là mất mạng ngay. Đám lính Vân Thường đó giết người không chớp mắt”.

    Lão La mở mắt trân trân, khẽ gạt hàng lệ, giọng buồn bã: “Lúc Đại vương chúng ta còn, chưa một lần người bắt chúng ta giao nộp đến ba đảm lương thực. Hừ, Hà Hiệp, dựa vào cái gì mà hắn chiếm Bắc Mạc của chúng ta?”.

    “Lão còn dám nhắc đến Đại vương sao, không muốn sống nữa ư?” Lý trưởng lo lắng nhìn quanh, rồi giật mạnh vạt áo rách của lão La, giọng cảnh cáo, “Lão cẩn thận đấy, ngay cả Nhược Hàn đại tướng quân còn không biết đã trốn tận nơi nào, lão hung hăng gì chứ?”

    Đang nói, bên ngoài bỗng vang lên tiếng vó ngựa, khiến ai nấy mặt tái xanh. Họ ngẩng lên nhìn ra ngoài thôn thì thấy một đội binh mã Vân Thường xông tới.

    “Sao thế nhỉ?”

    “Có chuyện gì thế?”

    Đám lính Vân Thường đến cổng thôn thì dừng lại. Dân chúng ngẩng đầu lên nhìn, những thanh đao sáng loáng dưới ánh mặt trời càng thêm chói mắt.

    “Trong các ngươi, ai là quản sự?” Kẻ dẫn đầu trông có vẻ là đội trưởng, ngồi trên lưng ngựa, ngạo mạn hỏi.

    Lý trưởng bị mọi người đẩy đến trước, run rẩy đáp: “Đại soái, tiểu nhân là Lý trưởng ở đây, không biết đại soái có gì dặn dò?”.

    “Ngươi là lý trưởng?” Tên đội trưởng nhìn một lượt khắp người lý trưởng, “Ngươi đã biết lệnh trưng thu lương thực của Phò mã chưa?”.

    “Vâng, vâng, tiểu nhân đã đọc rồi.”

    “Có kẻ nào gây chuyện không?”

    “Không có, không có, ở đây toàn là lương dân.”

    “Hừ”, tên đội trưởng dài giọng “Lũ người Bắc Mạc các ngươi vốn đã bị đưa đi làm nô bộc cho quân Vân Thường, may nhờ Phò mã nhân từ, giữ các ngươi lại để cung ứng quân lương. Hãy ngoan ngoãn mà trồng cấy chăn thả cho lão tử, còn nữa, Phò mã đã ban bố lệnh phân giới, từ hôm nay trở đi, thôn nào phát hiện ra người ngoài phải báo ngay lập tức, nếu phát hiện thôn nào giấu giếm, không chịu báo, toàn thôn sẽ bị xử theo tội mưu phản. Các ngươi nghe rõ chưa?”.

    Lý trưởng sợ hãi run lẩy bẩy, liên tục gật đầu, cố cười mà đáp: “Vâng, vâng, nghe rõ cả rồi. Ở đây toàn là lương dân”.

    Tên đội trưởng thấy lý trưởng sợ đến run rẩy thì cười khinh bỉ, “Lương dân? Thôn Giao Khẩu phía trước năm mươi dặm cũng nói toàn lương dân, mà lại dám giúp cho mấy tên tàn binh Bắc Mạc, toàn thôn một trăm mười bảy khẩu đã bị chúng ta giết sạch. Hừ, theo ta thì phải treo lên mấy cái đầu còn đang chảy máu ròng ròng, các ngươi mới biết thế nào là lương dân thực sự. Các huynh đệ, chúng ta đi!”.

    Tiếng hét vừa dứt, tiếng vó ngựa lại vang lên. Đám binh mã giương oai giễu võ khắp thôn, bụi tung mù mịt.

    Đợi chúng đi khuất, dân trong thôn mới dám ngẩng đầu, nhìn sang bên cạnh, hạ giọng: “Một trăm mười bẩy khẩu… Mấy thanh đao đó hình như vẫn còn dính máu”.

    Lão La bỗng quỳ sụp xuống, bịt miệng khóc.

    “Lão La, lão khóc cái gì?”

    “Đừng hỏi nữa”, người bên cạnh thở dài, “Muội muội của lão La được gả đến thôn Giao Khẩu”.

    Mọi người lòng đều trĩu nặng.

    Nước mất rồi.

    Bách tính bị ức hiếp trăm bề, sinh tử không còn do mình quyết định.

    A Hán tức giận bước nhanh qua bờ giậu, ngồi phịch xuống ghế đá trong vườn, nói với Tắc Doãn: “A ca, không được rồi, ta không chịu nổi nữa. Ta phải đi lính, đi đánh tên tặc tử Hà Hiệp! Thời nào không biết nữa? Lương thực? Lấy đâu ra nhiều lương thực thế? Nuôi quân, vậy còn nữ nhân và hài nhi của ta thì sao?”.

    “A Hán, đừng rước họa vào thân”. Dương Phượng từ trong phòng bước ra, nhìn A Hán vẻ trách móc, khẽ nói, “Hà Hiệp đã hạ lệnh, tố cáo một kẻ phản nghịch được thưởng năm lượng vàng. Ngươi la lối như vậy, cẩn thận kẻo bị người ta tố cáo”.

    “Lương thực thì bị cướp, nhà bị chúng lục soát, cả con gà vừa lớn cũng không còn, ta sợ cái gì chứ?”, A Hán tiếp tục, “Ta cũng chẳng sợ chết”.

    “Còn thê tử, hài nhi của ngươi?”

    “Ta…” Cổ họng bỗng nghẹn lại, cả người A Hán như không còn sức lực. “Muốn sống thì có tác dụng gì? Chúng căn bản đâu để người ta sống…”, giọng nói có phần yếu đi.

    Trong vườn yên ắng khiến người ta nghẹt thở. Tắc Doãn không nói lời nào, lặng lẽ lau cán cuốc, tựa như đó là thanh bảo kiếm trên người Thượng tướng quân.

    Ngụy Đình bước đến, hạ giọng: “Tiếp tục thế này, chúng ta cũng bị chèn ép đến chết, chi bằng…”

    “Chi bằng thế nào? Quân Bắc Mạc đã bị đánh bại, ai có thể đánh lại đại quân của Hà Hiệp?”

    “Không lẽ chúng ta phải làm nô lệ mất nước, để hậu bối của chúng ta phải chịu ức hiếp như thế này?” âm thanh gằn từng tiếng phát ra từ cổ họng Ngụy Đình, “Với danh tiếng của Thượng tướng quân, lúc này xuống núi, chắc chắn sẽ hiệu triệu được vô số người”.

    Câu nói của Ngụy Đình như gọi lại hào tâm tráng chí khi xưa, hai mắt Tắc Doãn sáng lên, cả người run rẩy, khuôn mặt căng cứng, nhưng thần thái ấy chỉ thoáng qua như ánh sao băng, rồi dần dần u ám.

    Giả dụ xuống núi, đúng là sẽ có bao con dân Bắc Mạc nhiệt huyết đi theo Tắc Doãn. Song, lực lượng tập hợp ấy dù có tăng gấp bội cũng không phải là đối thủ của Hà Hiệp .

    Người mà Tắc Doãn phải đối mặt không phải ai khác mà chính là Hà Hiệp.

    Tắc Doãn đã biết đến sự lợi hại của Sở Bắc Tiệp, còn với Hà Hiệp danh tiếng tương đương Sở Bắc Tiệp, Tắc Doãn cũng không nắm được bao nhiêu phần thắng.

    Huống hồ binh lực hai bên cách nhau quá xa.

    Tàn sát, điều mà Hà Hiệp mang đến cho con dân Bắc Mạc không cam chịu áp bức chỉ có tàn sát. Đó là trận tàn sát còn thê thảm hơn cả đại chiến Chu Tình.

    “Thượng tướng quân…”

    “Đừng nói nữa”, Tắc Doãn buông cây cuốc, “Mang theo nước và phần cơm Dương Phượng đã chuẩn bị, chúng ta xuống ruộng thôi”.

    Tin tức từ phương xa như đám mây đen kéo đến, bao trùm lên làng quê hẻo lánh, lưu truyền trong những tiếng thì thầm vụng trộm và muôn vàn ánh mắt hốt hoảng sợ hãi.

    Huynh đệ duy nhất của đại vương, Trung Đàm vương gia của Bắc Mạc hiệu triệu tàn binh, phản kháng Hà Hiệp. Chưa đầy mười ngày, Trung Đàm đã tập hợp được hơn ba vạn người. Nhưng nghĩa quân đã bị đại tướng dưới trướng Hà Hiệp đánh tan ở ngoại thành cách thành đô Bắc Mạc mười dặm, Trung Đàm vương gia bị bắt sống, xử cực hình lăng trì.

    Còn quân Đông Lâm liên tục thất bại đã tập hợp tất cả binh lực, thêm một lần quyết chiến với đại quân Vân Thường, định nhân lúc ý chí còn hăng hái mà phản kháng Hà Hiệp . Nhưng Hà Hiệp chỉ cần dùng tiểu kế, sai binh mai phục ở sơn cốc, khiến quân Đông Lâm tổn thất nặng nề, thây chết đầy đống, máu nhuộm đỏ sông Phục Sạp.

    Quy Lạc cũng vô cùng nguy cấp. Cuối cùng đại quân Vân Thường cũng tiến đến thành đô Quy Lạc. Quy Lạc vương muốn đưa thư hàng. Đại tướng quân Nhạc Chấn vẫn đang đối đầu với Quy Lạc vương thấy tình thế không ổn, lập tức dẫn quân tránh mũi nhọn tấn công của đại quân Vân Thường, trốn về phía biên giới Quy Lạc.

    Hết tin tức này đến tin tức khác đều diễn tả sự thắng lợi của Hà Hiệp cũng như sự huy hoàng của đoàn quân Vân Thường. Dưới bao vầng hào quang là chúng dân mất nước bị vắt kiệt đến chỉ còn thoi thóp để tiếp tế cho đội quân.

    Đầu tiên là lương thực, sau đó mỗi hộ phải nộp lên ba cân sắt để cung cấp nguyên liệu đúc rèn binh khí cho binh lính.

    Chợ phiên tiêu điều, thiết điếm đóng chặt cửa.

    Dân chúng buồn rầu lo âu.

    “Ba cân sắt, chẳng lẽ phải nộp cả nồi nấu cơm trong nhà? Tôi không nộp!”

    “Không nộp, ngươi lại muốn như lão La à?”

    Lão La là hộ khốn cùng nhất trong thôn, nên không nộp đủ lương thực. Giờ cái đầu khô gầy của lão đang treo lủng lẳng ngoài cổng thôn. Ngày hôm sau, thê tử bệnh tật của lão cũng treo cổ tự vẫn trên xà nhà.

    Tất cả im lặng, đều cảm thấy ngạt thở.

    “Nộp nồi, lấy gì mà nấu cơm?”

    “Thế ngươi muốn giữ cái mạng hay cái nồi?”

    “Nộp nồi cũng không đủ mà”.

    Đôi mắt vàng đục của lão lý trưởng nhìn những kẻ đã chung sống cùng mình bao năm nay, đôi môi khô nẻ khẽ động đậy: “Thế thì nộp luôn cả cuốc vậy…”

    “Hà Hiệp … thật vô lý.”

    “Trong tay hắn có đại quân.”

    “Thế đại quân Bắc Mạc của chúng ta đâu?”

    “Bại trận rồi. Không có ai đánh thắng được Hà Hiệp.”

    “Thiên hạ rộng lớn này, chẳng lẽ không có người thắng nổi hắn sao? Thời thế gì không biết!”

    “Tôi nghe nói có một người…” Trong đám người vọng ra một câu nói e dè.

    Những đôi mắt tuyệt vọng lập tức mở to, tập trung về phía người vừa nói.

    “Ai?”

    Thôn dân kia chỉ nghe qua đôi, ba câu đồn thổi, bèn trầm tư suy nghĩ: “Hình như gọi là cái gì Bắc vương, cái gì mà Sở Sở ấy…”.

    “Thế người đó ở đâu?”

    “Điều này… thì tôi không biết…”

    Họ lại thất vọng, những đôi mắt vừa lóe lên chút ánh sáng giờ ảm đạm trở lại. Họ ngồi hoặc đứng dựa vào góc tường, khuôn mặt đờ đẫn.

    Hôm nay phải nộp ba cân sắt, ngày sau sẽ là gì?

    Đập nồi, cộng thêm cán cuốc hay dùng, Tắc Doãn cũng đủ sắt nộp cho quan binh. Ánh nắng tươi đẹp kia hình như không phát hiện nỗi âu sầu u uất bên dưới, vẫn rạng rỡ soi tỏ chốn nhân gian.

    Tắc Doãn mồ hôi đầm đìa múa cuốc dưới ruộng. Đây là cái cuốc cuối cùng còn lại trong nhà.

    Đại vương mất, nước cũng mất rồi.

    Quan binh đến rồi đi, mặc sức phi ngựa qua những cánh đồng mà họ đã vất vả cấy trồng. Tắc Doãn như bị một tảng đá đè nặng, khiến trái tim nát vụ, nhỏ máu.

    Tắc Doãn từng là thượng tướng quân, từng nắm giữ quân quyền cao nhất Bắc Mạc, từng dẫn đầu đội quân ý chí hăm hở, tự hào chứng tỏ quân uy Bắc Mạc, từng thề sẽ bảo vệ đại vương và dân chúng Bắc Mạc.

    Nhưng nay, đại vương đã chết, con dân Bắc Mạc đang bị giày xéo bởi vó ngựa của kẻ thù.

    Nếu đối thủ không là Hà Hiệp, nếu lòng không vướng bận thê nhi, liệu Tắc Doãn có còn đứng đây lặng lẽ vung cán cuốc, để đám quan binh tàn bạo kia cướp đi thành quả lao động phải đánh đổi bằng bao vất vả của mình?

    Tối nào Dương Phượng cũng lo lắng nhìn phu quân. Nàng biết, chỉ khi ngắm hai đứa trẻ vô âu vô lo Khánh nhi và Trường Tiếu, Tắc Doãn mới cảm thấy tảng đá trong lồng ngực nhẹ bớt phần nào.

    Nhưng chỉ cần quay đi, tảng đá ấy lại đè xuống khiến người ta nghẹt thở.

    “A ca! A ca!”

    Nghe thấy tiếng gọi, Tắc Doãn ngẩng lên, những giọng mồ hôi to bằng hạt đậu lấm tấm trên khuôn mặt.

    A Hán chạy tới, thở hổn hển: “A ca, không hay rồi! Ngụy lão đệ có chuyện với quan binh rồi!”

    Tắc Doãn giật mình, vứt cuốc chạy ra khỏi ruộng: “Ở đâu?”

    “Trên dốc núi bên ngoài thôn, cạnh bãi cỏ”.

    Không đợi A Hán nói xong, Tắc Doãn đã chạy vội ra phía cổng thôn.

    Ngụy Đình, Tắc Doãn rất hiểu Ngụy Đình.

    Hán tử đó tính tình nóng nảy, trước kia ở trong quân cũng không buồn để ý đến thái độ của các tướng lĩnh trên mình, chỉ biết xung phong ra trận địa, hết lòng đánh trận, bản tính chết cũng không chịu thay đổi.

    Tắc Doãn cố tình bảo Ngụy Đình sang bên bãi cỏ để tránh phải ở lại trong thôn mà liên tiếp nghe thấy những lệnh quân ép chết người của Hà Hiệp . Sao đã ra đến đây rồi, hắn còn đụng phải quân lính Vân Thường?

    Tắc Doãn chạy như bay đến dốc núi, ánh mắt dừng lại nơi bãi cỏ nát bươm, không biết đã bao nhiêu người ngựa giày xéo. Vệt máu đỏ tươi kéo dài đến tận bên kia dốc núi.

    “Ngụy Đình!”, Tắc Doãn kêu lên, vội chạy sang bên kia chân núi.

    Ngụy Đình nằm dưới chân núi, như đã lăn xuống tận đây nên những vết máu còn nguyên trên cỏ. Tắc Doãn xông tới, quỳ xuống, khẽ khàng đỡ Ngụy Đình dậy: “Ngụy Đình, sao lại thế này?”

    “Chúng… bọn chúng…” Cả đầu lẫn mặt Ngụy Đình sưng vù, những vết thương trên người vẫn đang chảy máu, không rõ là do đao hay do giẫm đạp, “Cướp hết ngựa… cả dê nữa… thuộc hạ…”,

    “Đừng nói nữa, nằm im đi”, Tắc Doãn trầm giọng, “Ta biết rồi”,

    Thấy Tắc Doãn bế Ngụy Đình về, Dương Phượng và Sính Đình thất kinh, vú nuôi vội vã đưa hai đứa trẻ sang phòng khác chơi, để họ băng bó vết thương cho Ngụy Đình.

    “Ngựa và dê… đều…”.

    “Đừng nói nữa.” Dương Phượng dịu dàng nói với Ngụy Đình đang gắng sức cất lời, rồi thở dài một tiếng, “Cướp của đã đành, sao còn đánh người ta ra nông nỗi này?”.

    Tắc Doãn nói: “Ngụy Đình còn sống cũng là may lắm rồi”.

    Ngụy Đình sống cùng với họ, tình cảm như người trong nhà, giờ lại thành ra thế này. Băng bó vết thương xong, họ để Ngụy Đình nằm trên giường nghỉ ngơi, rồi rời khỏi phòng, mỗi người mang một tâm tư. Lương thực sau khi giao nộp chẳng còn bao nhiêu, Dương Phượng nấu bát cháo cho Ngụy Đình, những người còn lại đều ăn khoai.

    Bận rộn cả ngày, cuối cùng cũng đến lúc nghỉ ngơi. Nhưng nằm trên giường, Dương Phượng không sao ngủ nổi. Nàng nhìn sang Tắc Doãn đang ngủ say, rồi ngồi dậy, bước xuống giường.

    Đầu thu, gió đêm dễ chịu, đi đến trước phòng, Dương Phượng bỗng gặp một bóng người đứng im lặng đón gió trong đêm.

    “Sính Đình?”

    Sính Đình chậm rãi quay lại.

    Dưới ánh trăng, Dương Phượng nhận ra Sính Đình đang ve vuốt một thứ, đó chính là thanh bảo kiếm Thần uy vẫn treo trên tường, giờ nó im lìm trong lòng nàng.

    Dương Phượng đến bên Sính Đình.

    “Muội cũng không ngủ được sao?”

    “Người đó có thật là đã bặt vô âm tín?”

    Thời khắc như đang ngưng tụ thành một điểm, điểm sáng lại lung linh thành những vầng hào quang, ở giữa vẫn là một khuôn mặt.

    Khí phách, cường tráng, ngang ngược, ngạo nghễ…

    Tấn công Quy Lạc, chỉ một chiêu lùi mà tiến cũng đủ hủy hoại vương phủ Kính An đời đời hiển hách. Tấn công Bắc Mạc, dưới thành Kham Bố, chỉ ba chiêu đã lấy đầu tướng địch khiến tướng sĩ Bắc Mạc kinh hồn bạt vía, kể từ đó, mỗi lần nghe tên Trấn Bắc vương chẳng khác gì gặp cơn ác mộng. Tấn công Vân Thường, khiến cả nước Vân Thường chấn động, trên là Công chúa, dưới là bách tính, ai cũng hoảng hốt không yên.

    Đó chính là Đông Lâm Trấn Bắc vương, Sở Bắc Tiệp.

    Người thừa kế vương vị Đông Lâm, danh tướng sa trường mà thiên hạ đều kính sợ, nam nhân mà quân chủ cả nước đều e dè kính nể lại bặt vô âm tín vào đúng lúc quân Vân Thường tàn sát thiên hạ.

    “Sính Đình, những việc này, muội hiểu hơn ta. Ta chỉ muốn biết, lẽ nào trong thiên hạ không còn ai ngăn nổi Hà Hiệp?”

    “Thiếu gia… Hà Hiệp…”, Sính Đình thở dài, cười khổ, “Có thể ngăn được Hà Hiệp, trong thiên hạ này e là chỉ có một người, trong lòng tỷ cũng biết rõ là ai. Dương Phượng, liệu muội có nên…”

    “Không!” Dương Phượng vội ngắt lời Sính Đình, vẻ mặt vô cùng kinh hoàng, liên tục lắc đầu, như đang rơi vào cơn ác mộng đã từng xảy ra. Một lúc sau mới trấn tĩnh lại, Dương Phượng cúi đầu, giọng buồn bã, “Muội đừng hỏi ta. Việc bây giờ và chuyện thành Kham Bố khi trước có gì khác nhau? Ta đã sai một lần, quyết không thể sai thêm lần nữa. Sính Đình, ta đã thề, dù xảy ra chuyện gì, ta cũng không cầu xin muội xuống núi. Huống hồ, người ấy đã mất tích bao lâu rồi, dù muội có đi, cũng biết tìm ở đâu?”.

    Nghe thế, Sính Đình im lặng hồi lâu. Nàng cầm thanh Thần uy bảo kiếm đi vào phòng. Trường Tiếu đang say ngủ trong nôi, ánh trăng dịu dàng soi tỏ khuôn mặt nhỏ bé, từng đường nét đẹp đẽ sáng rạng, như được đúc theo khuôn mặt phụ thân.

    Sính Đình mỉm cười nhìn nhi tử, nựng: “Trường Tiếu, con biết tại sao ta đặt tên con là Trường Tiếu không? Ta hy vọng khuôn mặt nhỏ bé này của con luôn mỉm cười, mỗi ngày đều có chuyện khiến con vui”

    “Con ta, mong rằng sau này con không gặp một nữ nhân thông minh”.

    “Nữ nhân quá thông minh lại luôn có chỗ ngốc nghếch, chính là không thể tự hóa giải khúc mắc của bản thân.”

    “Nếu nữ nhân ấy không thích con, con sẽ buồn, nhưng nếu nàng ta thích con, cả hai con đều buồn.”

    Thành Thả Nhu, Vân Thường.

    “Ngươi lừa ta!”

    “Ta lừa ngươi cái gì?”

    “Ngươi nói sẽ giúp ta gửi thư cho sư phụ. Phiên Lộc, ngươi là tên lừa đảo!”

    Phiên Lộc dễ dàng tóm lấy bàn tay ngọc ngà đang đập liên tiếp vào ngực mình, cau mày đáp: “Nói bao nhiêu lần rồi, ngươi còn không hiểu? Đông Lâm giờ loạn rồi, khắp nơi đều là tàn binh và dân chúng chạy loạn, ngay cả Đông Lâm vương hậu giờ cũng không biết đã trốn đến tận nơi nào. Kẻ đưa thư không tìm thấy sư phụ ngươi… Ngươi còn dám đánh à? Này, ta đánh trả đấy!”

    Gần đây, Phiên Lộc gặp bao chuyện không vừa ý, sau khi Thừa tướng chết, đám quan lại bên phe Hà Hiệp luôn tìm mọi cách bới móc những quan lại bên ngoài do Thừa tướng đề bạt. Lúc thì vấn đề lương bổng, khi lại tấu báo không đầy đủ, rõ ràng muốn cho cái chức quan thủ thành hắn biết tay.

    Bên này, Túy Cúc biết Đông Lâm chiến loạn thì càng thêm u uất, cả ngày gây chuyện không thôi.

    “Đồ lừa đảo!”. Bị Phiên Lộc giữ chặt hai tay, Túy Cúc đành trợn trừng đôi mắt nhìn trả.

    “Ta đã bao giờ lừa ngươi chưa?”, Phiên Lộc chán nản hỏi.

    “Ngươi đã bao giờ nói thật với ta chưa?”

    Phiên Lộc bất mãn, sắc mặt sa sầm: “Đương nhiên là ta đã từng nói thật với ngươi”.

    Túy Cúc bị giữ chặt hai tay rất khó chịu, muốn giãy cũng không thoát, hai má đỏ bừng, ngẩng lên chất vấn: “Nói thật? Hừ, khi nào?”.

    Phiên Lộc suy nghĩ, thật thà trả lời: “Ban đầu khi ta nói câu đó với ngươi, người ta đồn là ngươi không đẹp, nhưng ta thấy ngươi cũng không đến nỗi nào. Câu này tuyệt đối là thật”.

    Túy Cúc sững người, khuôn mặt đỏ bừng vì tức giận càng ửng đỏ đến mang tai, nóng xuống tận cổ. Nàng im lặng, bỗng phát hiện mình gần như dựa hẳn vào lòng Phiên Lộc, liền cắn môi, xấu hổ: “Này, thả ta ra”.

    “Ai là này?”

    Túy Cúc giận dữ nhìn Phiên Lộc, thấy hắn hơi nhếch môi, biết hắn lại nghĩ ra trò gì hay nên có chút sợ hãi, đành nói một cách không cam tâm: “Thủ thành đại nhân, xin hãy buông tay ta ra”.

    Phiên Lộc cười đắc ý, lúc này mới chịu buông tay. Túy Cúc vội vàng rụt tay lại, nhìn hai cổ tay với những vết hằn đỏ, tên nam nhân đó thực có sức lực. Nàng ai oán nhìn hắn, rồi ngồi xuống giường, nghĩ lúc này sư phụ đang lẫn trong đám người chạy loạn kia, Túy Cúc vừa lo lắng vừa đau lòng, hai mắt đỏ hoe.

    Thấy nàng cúi đầu yên lặng, không còn vẻ đanh đá hoạt bát thường ngày, Phiên Lộc bỗng thấy mất hứng, ngồi xuống bên cạnh, nói: “Ta sẽ sai người tiếp tục đưa thư, hy vọng họ có thể tìm thấy sư phụ ngươi.”

    Túy Cúc dịch người sang một bên: “Đừng ngồi gần ta như thế”, giọng khẽ như muỗi kêu.

    “Ngươi nói gì?”, Phiên Lộc vừa lớn tiếng hỏi, vừa ngồi xích lại gần Túy Cúc, lần này còn ngồi sát hơn.

    Túy Cúc đứng bật dậy, giậm chân, nói: “Con người ngươi… nam nữ thụ thụ bất thân, ngươi không biết à?”

    “Ngươi thật là!” Phiên Lộc cũng đứng lên, cao hơn nàng hẳn một cái đầu, từ trên nhìn xuống, “Nữ nhân nói không là có, ngươi không biết à?”.

    “Ai nói không là có?”

    “Ngươi! Ta ngồi xích tới, trong lòng ngươi vui còn không hết, sao ngoài miệng lại nói không thích?”

    “Ta… ta…” Túy Cúc giận đến phát khóc, liên tục giẫm chân, “Ta vui khi nào? Người ta đang lo sư phụ, ngươi còn bắt nạt ta… Sớm biết thế này, ta đã bỏ mặc ngươi chết ở sơn mạch Tùng Sâm, cho sói cắn bụng ngươi, ăn ruột gan ngươi…”

    Nói được một nửa, đã thấy dáng hình to lớn đổ xuống trước mặt, Túy Cúc kinh hãi im bặt, lảo đảo lùi ra sau, không ngờ eo nàng bị người ta ôm gọn.

    Đầu lưỡi Phiên Lộc nhẹ nhàng lướt qua môi, cảm giác nóng rẫy như bị thiêu đốt.

    “A…” Khuôn mặt thất sắc, hai mắt trợn tròn hơn bất cứ lúc nào, Túy Cúc cứ nhìn trừng trừng vào gương mặt đáng ghét của Phiên Lộc.

    Phiên Lộc buông tay, cười gian tà: “Đêm nay đừng nhớ sư phụ của ngươi nữa, nhớ ta đây này”. Bàn tay hắn khẽ huơ huơ trước đôi mắt vẫn mở trừng trừng của Túy Cúc, rồi quay đi xử lý công vụ.

    Dương Phượng bước vào phòng, thấy giường trống không, Tắc Doãn đã đi đâu mất. Như chợt nghĩ đến điều gì, nàng khẽ khàng đi sang phòng bên cạnh, ngó đầu nhìn vào, thấy Tắc Doãn đang cúi xuống tìm kiếm thứ gì trong đống đồ đạc chất cao.

    “Chàng tìm gì thế?”, nàng khẽ hỏi.

    Tắc Doãn sững lại, một lúc sau mới chậm rãi đứng lên, quay người. Dưới ánh trăng, Dương Phượng nhìn rõ đôi mắt phu quân.

    Đó là đôi mắt có thần, tràn đầy nhiệt huyết.

    Đôi mắt ấy đang nói rõ rằng chủ nhân của nó chắc chắn đã ra một quyết định vô cùng quan trọng.

    Một quyết định không thể thay đổi được.

    Dương Phượng còn nhớ năm đó, khi Tắc Doãn là sứ giả của Bắc Mạc đến thăm Quy Lạc, ở trong phủ vương tử Hà Túc, nàng ngồi trong tấm rèm đàn một khúc, thời khắc ngón tay ngọc khẽ vén rèm che lên, nàng đã nhìn thấy đôi mắt có thần này.

    Trái tim Dương Phượng như bị ai đó đập mạnh. Sau này, Tắc Doãn nói với nàng rằng, lúc đó, hắn đã quyết định, dù phải đắc tội với tất cả vương tộc Quy Lạc, cũng quyết phải có được nàng.

    Tắc Doãn không tuấn tú, so với tiểu Kính An vương còn thiếu đến vài phần khôi ngô kiệt xuất, nhưng, đôi mắt đen sáng kia thì dường như chứa đựng mọi thứ, cả thiên hạ này không việc gì có thể khiến hắn do dự.

    “Phu quân, chàng tìm gì thế?” Dương Phượng khẽ khàng hỏi thêm lần nữa, chút giả thiết xen lẫn nghi ngờ bỗng nảy sinh trong lòng, nàng cẩn trọng tiến lại gần, nhìn kỹ sắc mặt Tắc Doãn.

    “Không tìm gì cả.” Ánh mắt kiên định của Tắc Doãn khi đứng trước cái nhìn trực diện của Dương Phượng lại có chút lẩn tránh.

    Dưới ánh nhìn của Dương Phượng, bàn tay thô ráp của Tắc Doãn lặng lẽ cuộn thành nắm đấm.

    Dương Phượng như nhìn thấu ruột gan, hiểu rõ mọi bí mật ẩn giấu trong lòng phu quân.

    Họ đã là phu thê bao năm nay, từ lúc chạy trốn khỏi Quy Lạc vương đến Bắc Mạc, rồi quy ẩn, xuống núi, trận chiến Kham Bố, sau đó lại quy ẩn…

    Cả chặng đường dài, giờ họ đã có Khánh nhi. Cứ ngỡ hai người có thể giữ được lời hứa, trọn đời quy ẩn bên nhau.

    Một người là danh cầm Quy Lạc, một người là thượng tướng quân Bắc Mạc, vinh hoa khi trước đều bị cuốn vào những gian nan thời loạn.

    Chỉ khi họ nhìn nhau dưới ánh trăng đêm nay, dường như bao nhiêu ngày qua đều ngưng đọng trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, đủ để hiểu hết về nhau.

    “Chiếc hòm bên trái”, Dương Phượng buồn rầu nói.

    “Hử?”

    “Kiếm của chàng trong chiếc hòm bên trái.”

    Đôi mắt dịu dàng nhìn thê tử của Tắc Doãn bỗng chốc cay cay.

    “Dương Phượng…”

    Năm ngón tay ngọc khẽ bịt miệng phu quân, Dương Phượng ngắm nghía Tắc Doãn thật kỹ, dường như nhìn cả đời này cũng không đủ, như thể trước nay nàng chưa bao giờ ngắm kỹ dáng hình quen thuộc ấy.

    “Thật may là Khánh nhi giống chàng. Phụ thân nó… là một anh hùng.” Dương Phượng dựa vào lồng ngực ấm áp, ra sức cảm nhận hơi thở của phu quân, cuối cùng cũng dằn lòng quay đi, “Thiếp sẽ đợi chàng ở đây”.

    Dương Phượng cắn răng bước ra khỏi căn phòng nhỏ, đi về phòng ngồi xuống giường, hai chân không còn cảm giác. Nàng chẳng buồn ngủ nên cứ ngồi ngây ra như thế trong đêm đen, tựa hóa đá.

    Nàng mơ hồ nghe thấy tiếng chân bên ngoài, âm thanh càng lúc càng xa, mỗi bước đi như giẫm lên trái tim lo lắng của nàng, cho đến khi xung quanh hoàn toàn yên ắng. Bao cảnh tượng ngày trước đua nhau kéo về, hiện rõ trong đầu, ánh nắng vàng cam soi tỏ khuôn mặt đẫm lệ của nàng.

    “Dương Phượng, dậy đi thôi.” Sính Đình vén rèm cửa, thấy bóng lưng Dương Phượng bỗng sững lại, quay sang nhìn cái giường không, “Tắc Doãn đâu?”, giọng Sính Đình trầm hẳn xuống.

    “Chàng đi rồi.”

    “Đi rồi?”, Sính Đình lại gần, vẻ mặt Dương Phượng càng chứng tỏ cho suy đoán của Sính Đình.

    “Trời ơi… Sao tỷ không ngăn lại? Chẳng phải chính tỷ đã bắt Tắc Doãn thề sẽ cùng mình ẩn cư sao? Chẳng phải tỷ muốn Tắc Doãn không lo đến những việc đó nữa sao?”.

    Như người mất hồn, Dương Phượng quay đầu nhìn Sính Đình, một lúc lâu sau, hình như mới tỉnh ra, khẽ nở nụ cười: “Trước đây ta không muốn chàng đánh trận giết người, vì đó đều là tâm tư của người khác, đều vì quyền thế, để bảo vệ vương vị, Bắc Mạc vương coi chàng như công cụ giết người, như hình nhân biết cầm kiếm. Nhưng giờ đây, chàng cầm kiếm bởi chính bản thân chàng”.

    Gió sớm mai lướt qua khuôn mặt Dương Phượng, vờn những sợi tóc mai dịu dàng tung bay trước trán.

    “Đây là việc chàng muốn làm, không ai ép, không ai cầu xin, chàng cam tâm tình nguyện”.

    Dương Phượng nói mơ hồ, nhưng Sính Đình lại hiểu rất rõ, bèn thở dài hỏi: “Vậy còn tỷ và Khánh nhi thì làm thế nào?”

    “Ta và Khánh nhi sẽ sống thật tốt, giống như phụ thân nó, sống theo ý thích của bản thân mình.” Dương Phượng mỉm cười với Sính Đình, khoảnh khắc ấy đẹp đến rạng ngời.

    Ngoài kia vọng đến tiếng cười đùa, hai đứa trẻ đã dậy, vú nuôi chạy tới, mỗi tay bế một đứa, cho chúng đi ăn cháo.

    Sính Đình ở cạnh Dương Phượng nửa ngày rồi đứng dậy, lặng lẽ ra khỏi cửa. Dưới ánh mặt trời, Trường Tiếu và Tắc Khánh đang nô đùa bên đống rơm, tiếng cười vang vọng không dứt.

    “Phụ thân… phụ thân…” Đến tối, Tắc Khánh chạy khắp nơi tìm hình bóng thân quen.

    Dương Phượng ôm lấy nhi tử, dỗ dành: “Khánh nhi, phụ thân phải đi làm một việc mà phụ thân rất muốn làm. Con sẽ không được gặp phụ thân trong một thời gian.”

    Tắc Khánh gật đầu như người lớn, nhưng thực ra nó đâu có hiểu gì, chẳng mấy chốc lại bắt đầu lùng sục khắp nơi, muốn tìm cho được phụ thân mình. Trường Tiếu không biết từ đâu xuất hiện, cũng dốc sức tìm kiếm.

    Những quân lệnh hà khắc liên tục được ban ra. Chum gạo trong nhà đã dần thấy đáy, e là khoảng mươi hôm nữa, bọn trẻ sẽ chẳng có cháo mà ăn.

    Ngụy Đình nằm trên giường không thể cử động, biết tin Tắc Doãn đi thì gật đầu, không nói gì thêm.

    Cứ như thế được mấy ngày, hành động của đại quân Vân Thường bỗng trở nên khác thường, quan trên liên tục ban lệnh, nói là truy bắt tàn binh Bắc Mạc, người có công tố giác sẽ được trọng thưởng, cả gan che giấu sẽ bị liên lụy.

    Quan binh vội vã đến, rồi lại vội vã đi, mỗi lần xuất hiện, gà bay chó chạy, lòng người hoảng hốt lo âu.

    Bất giác, cả Dương Phượng và Sính Đình đều lo cho Tắc Doãn.
     
  12. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 51
    Sau khi chiếm lĩnh được thành đô Đông Lâm, một mặt Hà Hiệp cử quân truy bắt những người còn lại trong vương tộc và các tướng lĩnh Đông Lâm, một mặt hạ lệnh thiêu hủy vương cung Đông Lâm.

    Những ngọn đuốc của quân lính Vân Thường đã khiến cả thành đô Đông Lâm chìm trong khói lửa, lửa cháy nơi vương cung thiêu đỏ cả một vùng trời.

    “Vương cung… vương cung!” Bách tính Đông Lâm còn ở lại thành đô rớt nước mắt nhìn ánh lửa cháy rừng rực và bóng đao sáng lóa.

    Mệnh lệnh tàn bạo này của Hà Hiệp đâu chỉ để trút giận. Cả đội quân khổng lồ đã phải hao tâm tổn sức, muốn khống chế bất cứ quốc gia nào, muốn chiếm lĩnh lãnh thổ rộng lớn của họ, thì nhất định phải tốc chiến tốc thắng.

    Tiêu hủy một vương quốc, đầu tiên phải phá vỡ lòng tin và hy vọng của dân chúng.

    Khi vương cung Đông Lâm huy hoàng sừng sững hàng trăm năm nay bị một mồi lửa của quân Vân Thường đốt thành bãi đất bằng, chút hy vọng ít ỏi còn sót lại của dân chúng Đông Lâm cũng hoàn toàn cháy rụi.

    Biểu tượng hàng trăm năm nay của vương tộc Đông Lâm dần biến mất trong biển lửa, tiếp tục giáng một đòn nặng nề xuống trái tim đã trĩu nặng của con dân Đông Lâm.

    Trấn Bắc vương từng bảo vệ họ giờ không rõ tung tích. Hy vọng của họ biết gửi gắm cho ai?

    Tin tức đau thương này như được chắp thêm đôi cánh bay tới mọi ngõ ngách của Đông Lâm, khiến những người dân khốn cùng càng thêm tuyệt vọng.

    “Đại vương, thần thiếp phải làm sao đây?” Nghe xong tin tức từ phương xa, Đông Lâm vương hậu đuổi lui lính truyền tin, buồn rầu ngồi xuống.

    Đất đai Đông Lâm đã mất hơn nửa, dân chúng lang thang chẳng chốn nương thân, vương cung hóa thành tro tàn.

    Đông Lâm hiển hách một thời, sao lại rơi vào cảnh ngộ này?

    Đại tướng quân Thần Mâu chết trên sa trường, Sở Mạc Nhiên và La Thượng liều mạng hộ vệ vương hậu rời khỏi thành đô. Sau lưng tiếng đuổi giết ngút trời, máu của các binh sĩ bắn tung tóe lên trang phục lộng lẫy trên người Vương hậu.

    Đến lúc này, Vương hậu mới thực sự hiểu rằng, tại sao một danh tướng như Trấn Bắc vương lại được người trong thiên hạ coi là báu vật ngàn năm khó đổi, tại sao khi tướng sĩ Đông Lâm nhắc đến Trấn Bắc vương, khuôn mặt lại không giấu nổi niềm tự hào.

    Không còn là quý phụ an cư chốn thâm cung, nay, Vương hậu phải mặc y phục thô ráp, gột sạch mọi xa hoa, được một số ít tướng sĩ Đông Lâm còn lại hộ vệ, giấu thân nơi đồng hoang hẻo lánh hay trong rừng sâu, chạy trốn sự truy bắt của quân Vân Thường.

    Trong bóng đen nặng nề cùng sự lo lắng cho tương lai, Vương hậu thường hồi tưởng lại chuyện trước đây.

    Đông Lâm lúc đó sao mà lớn mạnh, có đội quân thiện chiến nhất tứ quốc, có Đại vương, có Trấn Bắc vương.

    Tất cả mọi bất hạnh rốt cuộc bắt nguồn từ đâu?

    “Bạch Sính Đình…” Vương hậu chậm rãi buông ra cái tên mà bất cứ ai cũng thấy nặng nề.

    Khi ấy, Bạch Sính Đình xen vào đại chiến giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, để Hà Hiệp có thể lợi dụng thời cơ.

    Tiểu Kính An vương nổi danh thiên hạ, sau này là Phò mã Vân Thường, khi bắt tay với Bắc Mạc vương mưu hại vương tử Đông Lâm, cũng chính là bước chuẩn bị để reo rắc bất hạnh cho Đông Lâm ngày hôm nay.

    Cái chết của hai vương tử Đông Lâm khiến Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình nghi ngờ lẫn nhau, cũng khiến cho tình yêu giữa họ càng thêm sâu đậm.

    Khi tình yêu của họ hết mức sau đậm, đại quân Vân Thường đã đến.

    Vương hậu lạnh lòng, liên hoàn độc kế này đều do Phò mã Vân Thường, kẻ đang phá hoại Đông Lâm nghĩ ra…

    Từng bước từng bước để Sở Bắc Tiệp mất đi Bạch Sính Đình, để Đông Lâm mất đi Sở Bắc Tiệp, cuối cùng, hắn xóa đi mọi dấu tích của Đông Lâm trên bản đồ…

    “Nương nương! Nương nương!” Tiếng kêu kinh hãi theo bước chân gấp gáp vang lên, tấm rèm cửa đơn giản được kéo ra, xuất hiện khuôn mặt lo lắng của La Thượng, “Phía trước phát hiện thấy dấu tích của đại quân Vân Thường, hình như chúng đang đến đây. Nương nương, chúng ta phải lập tức đi thôi. Nhanh lên! Nhanh lên!”, La Thượng vừa thở vừa nói.

    Lại đến rồi!

    Cảm giác sức cùng lực kiệt bủa vây, nhưng vương hậu không thể bị bắt. Vương hậu là tượng trưng cho vương thất Đông Lâm ngày hôm nay.

    Vương hậu cắn răng, từ từ đứng dậy.

    “Ngựa đã chuẩn bị xong, mời nương nương lập tức lên ngựa, Mạc Nhiên đưa người đi ngăn bọn chúng, sau đó sẽ hợp nhất với chúng ta”

    Vương hậu lên ngựa.

    Đằng xa, khói lửa ngút trời, đoàn kỵ binh Vân Thường hung hăng đuổi tới.

    La Thượng dẫn binh lính bảo vệ Vương hậu, cả đoàn người thúc ngựa quất roi, chạy trốn trong đêm.

    Bạch Sính Đình, nếu ngươi ở trên trời có linh thì mở to mắt ra nhìn loạn thế.

    Ta nguyện đem cả mười kiếp luân hồi của mình để hứng chịu tất cả những bất hạnh mà ngươi đã phải chịu.

    Chỉ mong ngươi mở lòng từ bi, vì dân chúng vô tội mà trả Trấn Bắc Vương lại cho chúng ta.

    Trấn Bắc Vương chính là hy vọng duy nhất trong thiên hạ lúc này.

    Ngày hôm nay, thôn trang hẻo lánh vùng biên giới Bắc Mạc bỗng trở nên bí hiểm một cách lạ thường.

    “Nghe chuyện không?”

    “Nghe chuyện?”

    “Trên con đường nhỏ… dưới dốc núi… ngoài thôn, có một thuyết thư tiên sinh mới đến.”

    Mọi người khẽ thì thầm, rồi lại cẩn thận nhìn quanh, như sợ đám lính cầm kiếm Vân Thường bất ngờ từ dưới đất chui lên.

    Thần sắc của mọi người đều vô cùng bí mật, họ cảm nhận được đây không phải là người kể chuyện mua vui bình thường, ai ai cũng vô cùng mong đợi, mạo hiểm đi nghe.

    Loạn thế, người ta rất đỗi mong chờ, dù chỉ là một tia hy vọng.

    Chập tối, dưới dốc núi đã xuất hiện bóng người, mới đầu còn đơn độc, từng người, từng người một cẩn thận thăm dò, dần dần có thêm hai, ba người đến.

    Trên khuôn mặt của họ đều thoáng vẻ sợ sệt, sợ bị người khác phát hiện, nhưng khi bất chợt nhìn thấy người quen cùng đường, ánh mắt sáng lên kinh ngạc xen lẫn vui mừng, hai bên nhìn nhau khích lệ.

    Họ tụ tập trên bãi cỏ tối om không có cả ánh trăng, ngoài những nam nhân trẻ tuổi, còn xuất hiện cả nữ nhân.

    “Đừng chen nữa.”

    “A Hán cũng đến à?” Giọng nói thật khẽ của một người cùng thôn.

    Tiếng cười thuần hậu của A Hán vang lên trong đêm đen: “Đương nhiên rồi, cả nữ nhân của ta cũng đến.”

    Có người xùy một tiếng: “Đừng ồn nữa, nghe chuyện đi…”

    Xung quanh bất chợt yên ắng.

    Đây là cảnh kể chuyện vô cùng đặc biệt. Thuyết thư tiên sinh ngồi trên bãi cỏ, tia sáng mờ ảo chỉ cho người ta thấy loáng thoáng những đường nét của người này trong bóng tối. Thuyết thư tiên sinh hồi hộp chờ đợi, nhưng vẫn chưa nói lời nào.

    Người đó e hèm lấy giọng, tiếng nói chỉ đủ nghe, lên bổng xuống trầm, tuy không êm tai, nhưng mang một sức mạnh có thể cổ vũ lòng người.

    “Các vị hương thân, hôm nay ta muốn kể với các vị một câu chuyện. Ta nói trước, câu chuyện này xảy ra không lâu trước đây, là câu chuyện có thật. Đám người Vân Thường hung hãn đó không muốn cho người trong thiên hạ biết chuyện này, nhưng những người kể chuyện Bắc Mạc lưu lạc khắp nơi vẫn nghe được và sắp xếp lại thành một câu chuyện, rồi đi kể cho mọi người. Ta biết những ngày này, lúc nào cũng có những thuyết thư tiên sinh bị giết, nhưng giết sao hết những người kể chuyện, một người kể cho mười người nghe, mười người lại kể cho trăm người nghe. Ta không sợ chết, cũng giống như những thuyết thư tiên sinh đã bị chặt đầu, chỉ muốn cho tất cả những người Bắc Mạc được biết câu chuyện này…”

    Trong bóng tối, thuyết thư tiên sinh bỗng dừng lại, như để chỉnh lại dòng suy nghĩ.

    Không biết tại sao, tất cả những người có mặt lúc này bất giác đều nín thở, như hiểu rằng tiếp theo đây sẽ được nghe một câu chuyện khiến người ta kinh hồn bạt vía.

    “Những ngày khổ sở của chúng ta đều do một tên đại ma đầu gây ra. Tên đại ma đầu đó chính là Hà Hiệp, trước đây là tiểu Kính An vương của Quy Lạc, sau là Phò mã của Vân Thường. Hắn đã bày tiệc rượu hạ độc đại vương của chúng ta, ép chúng ta giao nộp lương thực, cướp ngựa bò dê của chúng ta, giết hại người thân của chúng ta. Nhược Hàn thượng tướng quân của chúng ta đã dẫn theo đại quân Bắc Mạc chặn đường hắn nhưng bại trận. Hà Hiệp đánh tan đại quân Bắc Mạc, cũng chính là bẻ gãy xương sống của người Bắc Mạc…”

    Nói đến tình trạng bi thảm hiện nay, lòng người lại trĩu nặng buồn thương, vừa bi phẫn vừa căm hận, họ buồn bã cúi đầu.

    Giọng nói đau thương, thuyết thư tiên sinh hơi dừng lại, rồi bỗng đổi sang giọng điệu vô cùng phấn chấn: “Nhưng mọi người có còn nhớ Tắc Doãn thượng tướng quân của chúng ta không? Khi Tắc Doãn thượng tướng quân ẩn cư lần đầu tiên, Đông Lâm Sở Bắc Tiệp tìm đến, Thượng tướng quân đã xuống núi, đánh đuổi Sở Bắc Tiệp. lần này, Tắc Doãn thượng tướng quân sao có thể khoanh tay ngồi nhìn Hà Hiệp xâm phạm Bắc Mạc ta? Các vị hương thân phụ lão, Thượng tướng quân Tắc Doãn lại xuống núi!”

    Đám đông khẽ xôn xao, như thể từng người họ lại được nhìn thấy một tia hy vọng, bóng tối âm u trước mắt như sáng hơn đôi chút.

    “Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta vẫn còn Thượng tướng quân…”

    “Thượng tướng quân đang ở đâu?”

    “Đừng ồn, nghe ta nói hết đã” Thuyết thư tiên sinh vừa lên tiếng, xung quanh lại yên ắng, mọi người tập trung lắng nghe. “Tắc Doãn thượng tướng quân là vị tướng rất giỏi cầm quân, ông ấy biết với quân lực hiện nay của Bắc Mạc, chúng ta sẽ không đánh nổi Vân Thường, một trận chiến hai quân đối đầu nhau sẽ chỉ hại chết số chiến sĩ ít ỏi còn lại của chúng ta. Thượng tướng quân không thể làm vậy.”

    “Thế là, Thượng tướng quân từ biệt gia quyến, rời khỏi nơi ẩn cư. Ông ấy biết, Hà Hiệp là chủ soái của Vân Thường, không có Hà Hiệp, quân Vân Thường sẽ tan rã. Thượng tướng quân đã suy nghĩ rất lâu, cuối cùng quyết định đơn thương độc mã gửi thư giao chiến với Hà Hiệp.”

    Trong đoàn người bỗng vang lên tiếng “a” khe khẽ, hình như của một nữ nhân.

    Mọi người hồi hộp lắng nghe, A Hán lo lắng, nói luôn: “Trong tay Hà Hiệp bao nhiêu binh lính như thế, nếu chúng xông lên, Thượng tướng quân của chúng ta sẽ gặp nguy hiểm.”

    Thuyết thư tiên sinh đáp: “Không đâu. Hà Hiệp tuy là một tên ma đầu, nhưng cũng là bậc kiêu hùng hiếm có trong thiên hạ, là cao thủ kiếm thuật nổi danh. Khi Thượng tướng quân gửi thư giao chiến tới, ông ấy đã cố ý để lộ tin tức với các tướng lĩnh Vân Thường, nếu Hà Hiệp không dám nghênh chiến, hoặc giở thủ đoạn, hắn sẽ bị các tướng lĩnh coi thường. Thượng tướng quân đã ngắm trúng vào tính cách cao ngạo của Hà Hiệp.”

    “Thượng tướng quân của chúng ta… có đánh được Hà Hiệp không?” Trong bóng tối, có người lo lắng hỏi.

    Thuyết thư tiên sinh bỗng thở dài một tiếng, khiến trái tim của tất cả mọi người bỗng thắt lại.

    “Không hề dễ dàng. Thượng tướng quân kiếm thuật cao siêu, nhưng kiếm pháp Hà Hiệp còn có phần hơn, nếu luận thắng bại, khả năng Hà Hiệp có phần cao hơn một chút.”

    “Nếu… nếu đã không thể giành chiến thắng, sao Thượng tướng quân vẫn muốn khiêu chiến? Như thế khác nào tìm đến cái chết?”

    “Đúng thế… đúng là tìm đến cái chết.” Thuyết thư tiên sinh lại thở dài một tiếng, trầm giọng, “Cũng có người từng hỏi tướng quân như thế. Lúc đó Thượng tướng quân trả lời: May mắn giết được Hà Hiệp, đó là cái phúc của Bắc Mạc, nhưng nếu không giết được Hà Hiệp mà phải mất mạng, thì đó cũng là cái chết có ý nghĩa. Haizzz, anh hùng, Bắc Mạc chúng ta có anh hùng…”.

    Thuyết thư tiên sinh lắc đầu cảm thán một hồi, mọi người quan tâm đến sự sống chết của Tắc Doãn, trong lòng như lửa đốt “Tiên sinh kể nốt đi, trận chiến đó thế nào?”.

    “Thua rồi.” Tiên sinh ấy buông ra hai tiếng, khiến mọi người như rơi xuống vực sâu.

    Thuyết thư tiên sinh thở than: “Hôm đó, Thượng tướng quân một người một ngựa cầm kiếm xông tới. Hà Hiệp nghênh chiến xung quanh là tướng lĩnh và quân sĩ Vân Thường kêu gào trợ uy cho Hà Hiệp . Thượng tướng quân hiểu rằng, dù có giết được Hà Hiệp hôm nay cũng không thể sống mà đi khỏi đây. Hai người đều là cao thủ đương thời, bảo kiếm giao nhau tóe lửa, chiêu thức không hề khoan nhượng, giao đấu hơn trăm chiêu, cuối cùng kiếm thuật của Hà Hiệp cao hơn, nhân lúc Thượng tướng quân sơ hở, đã đâm thẳng một kiếm vào bụng Thượng tướng quân…”.

    “A!”

    “Trời ơi!”

    Người người kinh hãi, ai cũng thấy nhát kiếm của Hà Hiệp như đâm thẳng vào bụng mình.

    Mặc kệ đám đông đang sục sôi, thuyết thư tiên sinh tiếp tục chìm vào khúc ca bi tráng lưu truyền đến muôn đời sau: “Thượng tướng quân vốn dĩ có thể ngăn được nhát kiếm đó, nhưng khi kiếm của Hà Hiệp đưa tới, Thượng tướng quân đã không thể đưa kiếm chống trả mà liều chết vung lên, chém thẳng vào cổ họng Hà Hiệp. Hà Hiệp cũng lợi hại, vẫn kịp thời cúi tránh. Nhưng, nhát kiếm liều chết của Thượng tướng quân đâu dễ tránh đến thế, nó không thể lấy mạng Hà Hiệp, song đã chém cho vai phải của hắn bị thương.”

    Thuyết thư tiên sinh lại ngừng một lúc, như đang hồi tưởng về cảnh tượng kinh hồn bạt vía ấy, rồi chầm chậm tiếp tục hạ giọng: “Thượng tướng quân trúng một kiếm vào bụng, ngã xuống ngựa. Hà Hiệp ngồi trên lưng ngựa, máu ở vai tuôn xối xả. Người Bắc Mạc chúng ta đáng lẽ đều phải được tận mắt nhìn thấy sắc mặt lúc đó của Hà Hiệp, đáng lẽ phải được nhìn thấy. Tướng lĩnh Vân Thường thấy chủ soái bị thương thì kinh hoàng thất sắc vội vã chạy tới định băng bó vết thương, nhưng Hà Hiệp xua tay ngăn lại, cúi xuống hỏi Thượng tướng quân: ‘Làm thế có đáng không?’ Mọi người có biết Thượng tướng quân trả lời thế nào không?.”.Thuyết thư tiên sinh dừng lại.

    Đám đông im lặng, cảm giác như hơi thở không còn là của chính mình, họ như đang đứng tại nơi quyết đấu, chứng kiến cảnh Hà Hiệp cưỡi trên lưng ngựa, từ cao nhìn xuống, còn Thượng tướng quân Tắc Doãn của họ bị thương nặng nằm dưới đất, nhưng vẫn dũng mãnh kiên cường.

    Một lúc sau cũng có người hỏi khẽ: “Tiên sinh, Thượng tướng quân trả lời Hà Hiệp ra sao?”.

    Trong bóng tối, khuôn mặt của thuyết thư tiên sinh khẽ động, hình như đang mỉm cười, vừa như đang cảm thán lại như kính phục: “Thượng tướng quân ngẩng đầu, cười nói với Hà Hiệp: “Đáng chứ. Bởi vì từ bây giờ, tất cả người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không hề đáng sợ, Hà Hiệp cũng có thể chảy máu, Hà Hiệp cũng có thể bị thương. Sẽ có một ngày, Hà Hiệp cũng có thể bị thất bại”.

    Thuyết thư tiên sinh gằn từng tiếng rõ ràng, từng từ, từng từ ấm áp và chắc chắn thấm sâu vào tai, ăn sâu vào khối óc, hòa cùng nhiệt huyết với những người đang có mặt tại đây.

    “Câu chuyện của ta rất ngắn, chỉ đến đây là kết thúc. Để ta uống ngụm nước, ta còn phải lên đường, đến thôn khác” Thuyết thư tiên sinh tìm bình nước dưới chân, đưa lên miệng uống một ngụm, rồi nói tiếp, “Câu chuyện này, ta nghe người khác kể lại, người khác cũng nghe người khác kể lại. Không biết làm thế nào mà câu chuyện được truyền ra ngoài, nhưng tất cả chúng ta đều biết, việc này hoàn toàn là sự thật. Chỉ cần những ai nghe được câu chuyện này hãy cố gắng khắc ghi trong lòng. Được như thế, là Thượng tướng quân đã đổ máu xứng đáng. Đừng quên, chúng ta còn có Nhược Hàn thượng tướng quân. Tuy bây giờ không biết thượng tướng quân đang ở đâu, song sớm muộn gì, Nhược Hàn thượng tướng quân cũng giống như Tắc Doãn thượng tướng quân, xuất hiện để đối kháng với Hà Hiệp ”. Thuyết thư tiên sinh khó khăn chống gậy đứng dậy.

    “Tiên sinh…”, có người bỗng lên tiếng gọi, “Thế sau đó Tắc Doãn thượng tướng quân thế nào?” .

    Thuyết thư tiên sinh lắc đầu: “Ai mà biết được, câu chuyện này người nọ truyền người kia, ta nghe được bao nhiêu, kể bấy nhiêu”, rồi tiếp tục bước về phía trước.

    Trong bóng tối, những thôn dân nhìn theo dáng hình lảo đảo của lão nhân vừa kể chuyện, ánh mắt lấp lánh ngọn lửa nhỏ.

    Từ bây giờ, người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không đáng sợ.

    Hà Hiệp cũng có thể bị đổ máu.

    Hà Hiệp cũng có thể bị thương.

    Sẽ có một ngày, Hà Hiệp có thể bại trận.

    “Liệu Nhược Hàn thượng tướng quân có tiếp tục cầm quân?”.

    “Chúng ta sao có thể đánh lại được Hà Hiệp ? Hắn là danh tướng lừng danh khắp thiên hạ”

    “Không đánh được thì thế nào.”

    Trong lòng mỗi người đều cất giữ một ngọn lửa, họ lặng lẽ tản đi, chỉ còn lại hai bóng hình mảnh mai, bất động đứng nguyên chỗ cũ.

    “Dương Phượng…”

    “Chàng còn sống.” Dương Phượng yên lặng đứng đó hồi lâu, rồi gằn từng tiếng, “Nhất định chàng vẫn còn sống, sống để nhìn Hà Hiệp đổ máu thêm lần nữa, sống để nhìn Hà Hiệp thất bại”. Mỗi lời nàng nói ra, nước mắt lại tuôn rơi.

    Sính Đình nắm lấy bàn tay lạnh toát run rẩy của Dương Phượng, không nói gì.

    Nàng chẳng còn sức để an ủi, và không có cách nào an ủi. Điều này cũng bởi, Dương Phượng còn kiên cường hơn nàng, hiểu Tắc Doãn hơn nàng, và biết cách yêu hơn nàng.

    Thiên hạ có hai danh tướng, một thuộc về Vân Thường, một thuộc về Đông Lâm.

    Nhưng, Bắc Mạc cũng có anh hùng, có hảo hán, có những nam nhi tràn đầy nhiệt huyết, không bao giờ khuất phục.

    Không chỉ mình Tắc Doãn, mà còn có rất nhiều, rất nhiều người Bắc Mạc khác.

    Ngày thứ hai, tin tức truyền về, trước thôn mười lăm dặm phát hiện thấy thuyết thư tiên sinh bị kiếm chém. Nát người, cái đầu với mái tóc bạc phơ bị quân Vân Thường treo lên cây, cảnh cáo tất cả những người Bắc Mạc dám truyền đi câu chuyện có thật này.

    A Hán cùng mấy nam nhân trẻ tuổi trong thôn nhân lúc đêm khuya lấy trộm đầu lão nhân đó về, lặng lẽ an táng nơi dốc núi ngoài thôn.

    Không có bia mộ, chỉ là một nấm đất vàng, nhưng không ít người đến đó thắp hương cho một thuyết thư tiên sinh vô danh.

    Cả Sính Đình và Dương Phượng cũng đưa theo hai hài nhi đến đó.

    Đây là một vụ bội thu, quả cây trĩu nặng, dê khỏe ngựa béo.

    Nhưng, dân chúng trong thiên hạ vẫn bàng hoàng bất an, kẻ không may thì gặp cảnh chết chóc, bạo ngược, áp bức, người may mắn thì gặp được nhiệt huyết anh hùng.

    Sau khi thắp hương trở về, Sính Đình không hề do dự bước vào phòng, lấy Thần uy bảo kiếm trên tường xuống.

    “Ta không cần muội xuống núi vì ta.” Dương Phượng ngăn Sính Đình, hai mắt đỏ hoe nhưng vô cùng kiên định, “Sính Đình, đừng vì người khác mà ép bản thân làm những điều mình không muốn”.

    “Muội không vì tỷ, mà vì chính bản thân muội.” Sính Đình ôm kiếm vào lòng, chậm rãi quay lại, ánh mắt sáng lấp lánh, nói rõ từng tiếng, “Muội phải vứt bỏ những oán hận ngu ngốc, để đi tìm nam nhân thân yêu của mình, phụ thân của Trường Tiếu. Muội muốn chàng yêu thương, bảo vệ muội, để mẫu tử muội không bao giờ chịu chèn ép và sỉ nhục như thế này, không bao giờ phải chứng kiến những thảm cảnh thế này”.

    Làn môi xinh khẽ nhướng lên, nở nụ cười tự tin đẹp đến lạ thường.

    “Dương Phượng, cũng giống như Tắc Doãn, việc này muội làm hoàn toàn là cam tâm tình nguyện, là tâm nguyện của muội.”

    Nàng nói với A Hán đã gọi đến từ trước: “A Hán, chỗ huynh vẫn còn một con ngựa, đúng không? Cho ta mượn được không?”.

    “Cô nương cần ngựa làm gì?”

    Sính Đình ôm bảo kiếm, cười dịu dàng: “Ta phải đi tìm một người, nam nhân có thể đánh bại Hà Hiệp. Chặng đường này có thể rất dài, vì thế ta phải mượn ngựa của huynh. Còn nữa, nhờ huynh đỡ đần Dương Phượng, chăm sóc Trường Tiếu”.

    Dương Phượng nhìn theo dáng hình tha thướt của hảo hữu, cố nén nỗi đau trong lòng mà gạt nước mắt, ra vẻ ung dung tự tại: “Thời thế loạn lạc, Trấn Bắc vương đã mất tích lâu như vậy, muội một thân một mình biết đi đâu tìm người?”.

    “Tỷ đừng lo”. Ánh mắt Sính Đình sáng như sao, giọng nói vô cùng êm ái, lại có phần kiên định, “Chỉ cần chàng còn sống, nhất định muội sẽ tìm thấy chàng”.

    Dân chúng thành đô Vân Thường chào đón Phò mã của họ vinh quang trở về với nghi thức long trọng nhất.

    Hà Hiệp cưỡi trên lưng con chiến mã to lớn, đi giữa sự chào đón ca ngợi của mọi người. Phi Chiếu Hành cầm dây cương, thúc ngựa theo sau, không dám đi ngang hàng với Hà Hiệp, mà lùi xuống nửa thân ngựa, hạ giọng hỏi: “Phò mã, sau khi vào vương thành, chúng ta có đến vương cung trước không?”

    Hà Hiệp lắc đầu, giọng lạnh lùng: “Sao phải đến vương cung trước? Đông Chước đang đợi chúng ta ở phủ phò mã.”

    Về đến phủ Phò mã, đúng là Đông Chước đang đợi họ bên trong. Thế lực Hà Hiệp lên như diều gặp gió, khiến vị thế của Đông Chước cũng không ngừng tăng lên, hắn gần như quản lý toàn bộ sự vụ lớn nhỏ ở thành đô.

    Ba người Hà Hiệp, Đông Chước, Phi Chiếu Hành vào thư phòng. Lần hội đàm này không có mặt bất cứ vị quan Vân Thường nào, nên họ nói năng cũng không phải kiêng dè.

    Hà Hiệp hỏi: “Đám quan Vân Thường đó nói thế nào?”.

    “Tạm thời không có vấn đề gì, nhưng họ vẫn rất thương xót vương tộc Vân Thường.” Đông Chước luôn ở lại thành đô giám sát mọi chuyện, nên hắn nắm rõ tình hình các quan Vân Thường như lòng bàn tay.

    Phi Chiếu Hành nói: “Nếu để tiểu Kính An vương lên ngôi đại vương là làm trái với pháp luật Vân Thường. Bởi dù tiểu Kính An vương có lập được bao nhiêu công trạng cũng vẫn không phải huyết thống của vương tộc Vân Thường.”

    Đông Chước lên tiếng: “Ta đã thăm dò vài vị đại thần đức cao vọng trọng trong thành đô, xem thái độ, họ đều không mấy tán thành việc lập tân quốc, suy tôn tân vương”.

    Vẻ mặt không vui, Hà Hiệp cười gằn: “Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Mấy chục vạn đại quân đang ở trong tay ta, họ dám gây khó dễ cho ta, không lẽ lại muốn đi theo vết xe đổ của Quý Thường Thanh?”.

    “Các tướng lĩnh trong quân cũng từng nhận được trọng ân của vương thất Vân Thường, e là cũng sẽ không ủng hộ cách làm của tiểu Kính An vương”, Phi Chiếu Hành an ủi, “Việc này thực ra không khó, chỉ là một vài kẻ trung thành ngu xuẩn gây rối. Đến một ngày vương thất Vân Thường biến mất, họ chẳng còn chỗ dựa, chắc chắn sẽ chạy ngay đến bên tiểu Kính An vương. Tới lúc đó, sẽ chẳng còn ai phản đối tân vương lên ngôi, quốc danh, quốc hiệu có thể đặt lại”.

    Nghe ý tứ của Phi Chiếu Hành, rõ ràng là muốn ra tay với Công chúa, Đông Chước cũng không có tình cảm gì với vương thất Vân Thường, nhưng Công chúa đối với Hà Hiệp trước nay không bạc, giết Công chúa thì thật bất nghĩa, sắc mặt hắn trầm hẳn xuống, hạ giọng: “Công chúa đã bị giam lỏng trong cung, sẽ không thể uy hiếp chúng ta, hà tất phải đuổi giết đến cùng? Hơn nữa, trong bụng Công chúa đang mang cốt nhục của thiếu gia.”

    Đã phải chứng kiến cảnh đấu đá tranh giành lẫn nhau trong vương triều Quy Lạc, nên hiểu rõ nội tình, hơn nữa bản thân lại là nam nhân thực tế, Phi Chiếu Hành thẳng thắn nói: “Chỉ cần có nữ nhân thì lo gì không có người nối dõi? Bây giờ tiểu Kính An vương nhìn thì vẻ vang là thế nhưng thực chất nền tảng vẫn chưa vững chắc. Xác lập danh hiệu, chính thức lên ngôi sớm ngày nào…”

    “Chiếu Hành…”, Hà Hiệp vẫn đứng chắp tay sau lưng bên cửa sổ bỗng lên tiếng, “Đừng tranh luận nữa. Ngươi vừa về, nghỉ ngơi trước đi đã”

    Phi Chiếu Hành hơi sững lại, rồi nhìn sang Đông Chước mặt khó đăm đăm, giọng rất biết điều: “Chiếu Hành xin cáo lui.”

    Đợi Phi Chiếu Hành ra khỏi thư phòng, Hà Hiệp mệt mỏi thở dài, nói: “Đông Chước, ngươi theo ta từ nhỏ, muốn nói gì cứ nói.”

    Đại quân của Hà Hiệp chinh phạt nam bắc, Đông Chước tuy ở lại thành đô nhưng đều nghe và biết mọi hành tung của đội quân Vân Thường. vốn có bao chuyện muốn đợi Hà Hiệp về để nói cho bằng hết, song lúc này Hà Hiệp hỏi đến, Đông Chước chợt thấy lòng mình khựng lại.

    Đông Chước từ nhỏ lớn lên trong vương phủ Kính An, chứng kiến thiếu gia từ một nhi tử được phụ mẫu hết lòng cưng chiều thành tội thần bị truy tìm khắp nơi, tận mắt nhìn thiếu gia giày công hoạch định để trở thành Phò mã Vân Thường, rồi bị thế lực ngoan cố trong triều đình Vân Thường chèn ép đến không thể ngẩng đầu, chịu mọi ai oán, lại chứng kiến thiếu gia xoay chuyển tình thế, quét sạch thù nhà.

    Bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vất vả, danh tướng được muôn dân ngưỡng mộ và sợ sệt đang đứng ở đây đã phải trải qua bao lận đận, Đông Chước là người rõ hơn ai hết.

    Chắc đã phải chịu quá nhiều vất vả, mọi nỗi uất ức, nên sau khi nắm quyền, tính tình Hà Hiệp ngày càng bạo ngược, thủ đoạn ngày càng tàn độc, ngay cả Đông Chước cũng thấy lạnh lòng.

    Đông Chước ngẩng lên nhìn Hà Hiệp .

    Thiếu gia vẫn anh tuấn kiệt xuất, vẫn khoáng đạt như thuở ban đầu, nhưng sao càng nhìn càng thấy xa cách, mơ hồ, giống như giữa hai người bị chắn bởi một lớp sương mù, ngăn thêm khoảng cách.

    “Thiếu gia…” Giong Đông Chước mang vẻ cầu khẩn, “Nếu tha được thì tha. Quý gia tội đáng phải chịu, nhưng Công chúa không giống thế. Lẽ nào trong lòng thiếu gia lại thật sự không có chút tình cảm nào dành cho Công chúa?”.

    Hà Hiệp đứng đó, lặng lẽ nghe những lời của Đông Chước. Vẻ bạo ngược lúc bước vào dần biến mất, ánh mắt Hà Hiệp có thêm vài phần hiền hòa rất đỗi quen thuộc.

    Khoảnh khắc đó, dường như Hà Hiệp lại quay về là vị thiếu gia phong lưu đa tình trong phủ Kính An.

    “Liên quan đến chính sự và quyền lực, liệu còn chỗ nào cho tình nghĩa dung thân?” Bên cạnh chỉ có mỗi mình Đông Chước, danh tướng Hà Hiệp bất bại, Phò mã đắc chí bỗng nở nụ cười chua chát thoáng chút bất lực, “Đông Chước, ngươi theo ta mười mấy năm, trước đây ta có là một người vô tình vô nghĩa thế này không?”

    Dưới một người và trên vạn người chỉ là một ảo ảnh xúc động lòng người.

    Vương phủ Kính An nắm giữ quân quyền, gia thế hiển hách, nhưng chỉ một vương lệnh của Quy Lạc vương, trong phút chốc cả vương phủ đã hoàn toàn sụp đổ, người chết nhà tan.

    Phò mã thì sao? Diệu Thiên là nữ tử yếu mềm không hiểu việc binh, có thể chẳng để ý đến những nỗ lực mà Hà Hiệp đã phải lao tâm khổ tứ, mà dễ dàng ngăn chặn đại chiến giữa Đông Lâm và Vân Thường tửng chừng như sẽ xảy ra trong thoáng chốc.

    Còn Hà Hiệp đã mãi mãi mất đi nụ cười và tiếng đàn của Sính Đình. Khi trở về, hắn chỉ còn lại phòng không lầu trống, lá rụng đầy sân,

    Bài học kinh nghiệm đã quá nhiều…

    Hà Hiệp nhắm chặt hai mắt, giấu đi sự mệt mỏi và bất lực.
     
  13. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 52
    Tiếng vó ngựa xé tan bầu trời tứ quốc, kẻ thắng giương oai giễu võ, mặc sức giết chóc, người bại thương tích đầy mình, chết không toàn thây.

    Bạc vàng ban thưởng, rượu say thỏa thích, ca hát tưng bừng. Sau các trò hưởng lạc hoang phí cực độ là dân hoảng hốt không chỗ bấu víu trong thời thế loạn lạc và nghĩa quân các nước chạy trốn tìm nơi ẩn náu.

    Tạm thời chưa bị khói lửa chiến tranh lan đến chỉ có nơi rừng rậm ken dày, hiểm trở đến nỗi chính quân Vân Thường cũng thấy chiếm được cũng chẳng làm gì. Rừng rậm Bách Lý nằm ở biên giới Bắc Mạc, kéo dài hàng trăm dặm, cây cối ken dày đến nỗi ánh mặt trời không thể chiếu đến tận cùng, bên trong ẩn giấu bao loài ác thú trùng độc.

    Ngay cả những tiều phu, thợ săn quanh năm sinh sống ở đó cũng chỉ dám mưu sinh nơi bìa rừng, ít người dám vào sâu bên trong khu rừng thần bí này.

    Có ai còn nhớ, trong cảnh rừng rậm ken dày ấy có một ngọn núi.

    Đỉnh Điển Thanh.

    Trên đỉnh núi sừng sững kiêu ngạo đó từng có một nữ tử thống soái ngàn quân, ngồi ở đầu nguồn dòng nước bên lưng chừng núi, khẽ vốc một vốc nước.

    Nước suối trong như đôi mắt nàng, nước suối ngọt tựa tiếng ca của nàng.

    Nàng có tài đàn lay động lòng người, những ngón tay thanh mảnh ấy đã bị ép phải nắm giữ quân quyền Bắc Mạn.

    Lúc đó, dẫn đại quân đóng tại chân núi, sóng đôi với đội quân của nàng đó là danh tướng nức tiếng khắp thiên hạ, Trấn Bắc vương.

    Hôm ấy, giết chóc, âm mưu, quỷ kế đã lần lượt diễn ra nơi đây, cuối cùng cũng chỉ để tác thành cho nàng…

    ...Và chàng.

    Cảnh đời dâu bể còn chưa kết thúc, chuyện cũ lại không thể quay trở lại.

    Liệu có ai hiểu được nỗi thê lương trong hình bóng yếu mềm sắp gieo mình xuống vực sâu muôn trượng, sự kiên nghị khi một lần nữa họ thề dưới ánh trăng, và cả cảm giác ngọt ngào khi họ áp tai kề má cùng cưỡi trên lưng ngựa? Còn nữa, lúc cầu treo Vân Nha bị đứt, hai người lơ lửng trên không trung, mặc kệ tất cả mà ôm chặt lấy nhau?

    Không.

    Không ai hiểu được.

    “Tại sao Vương gia lại đến?”

    “Vì nàng.”

    Người khác không hiểu cũng chẳng có sao? Gió hiểu, mây hiểu, cành liễu rủ, quả chín rụng đầy đã nghe và đã thấy.

    Cả vầng trăng trên trời làm chứng.

    “Chúng ta thề với ánh trăng, cả đời không phụ bạc.”

    Sao có thể?

    Lại một mùa quả dại nơi sơn cốc, vẫn gốc cây Sính Đình ngồi dựa hôm nào.

    Trấn Bắc vương vang danh một thuở, giờ mai danh ẩn tích ở chính nơi đây.

    Chàng đã quên tất cả.

    Quên Đông Lâm, Quy Lạc, Bắc Mạn hay Vân Thường, quên quân quyền, vương vị, quên cả tiếng reo hò ngưỡng mộ của muôn dân khi khải hoàn.

    Chàng chỉ nhớ, chàng đã đánh mất điều gì đó.

    “Ngươi hại chết Sính Đình, ngươi hận Sính Đình, đẩy muội ấy vào tay Hà Hiệp, khiến muội ấy phải cô độc chết nơi đất tuyết.”

    Hoa phai lá nhạt, tiêu điều thê lương.

    Hào tâm tráng chí như nước sông lặng lẽ chảy về đông.

    Sở Bắc Tiệp không còn để ý đến việc bị người đời cười chê rằng nhụt chí, cũng chẳng còn để ý tới uy danh danh tướng thiên hạ của mình.

    Bởi chàng đã mất đi Sính Đình.

    Sính Đình, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An. Tên nàng đã được truyền khắp tứ quốc, câu chuyện của nàng đã trở thành niềm yêu thích của tất cả mọi người.

    Nhưng chỉ có chàng mới thực sự hiểu được nàng là nữ nhân như thế nào mà lại khiến người ta hồn siêu phách lạc.

    “Có mê binh quyền, mới được thành danh…”

    “Đã thành danh, không ngại dối lừa…”

    Chàng đã nghe được tiếng đàn giọng ca đẹp nhất thế gian.

    “Dùng binh không sợ dối lừa…”

    “Dùng binh không sợ dối lừa…”

    Tiếng đàn êm tai như tiếng thác đổ, như suối chảy nơi khe núi, như chim bay giữa tầng không.

    Thời gian lặng lẽ trôi qua, nhưng nỗi nhớ nhung thì chưa từng dừng lại.

    Cho dù chàng đang hít thở làn gió núi từng lướt qua mái tóc Sính Đình.

    Cho dù chàng đang ẩn mình tại sơn cốc chứa bao hồi ức.

    Chàng vẫn đau khổ như ngày đầu tiên biết tin Sính Đình đã mãi mãi ra đi.

    Sở Bắc Tiệp đờ đẫn ngồi dưới gốc cây, không biết mình đã qua bao nhiêu lần như vậy, cũng chẳng hiểu sẽ tiếp tục thế này bao lâu nữa. Quả dại trong sơn cốc bốn mùa kết trái, chàng không lo đói, thỉnh thoảng hái một quả cho vào miệng nhai, có những quả ngọt ngào, cũng có một, hai quả đắng nghét, tựa nỗi đau trong lòng, nhưng cũng mặc kệ mà nuốt trôi.

    Gió núi thổi tới, mang thêm cái lạnh giá đến khu rừng.

    Ánh tịch dương chìm xuống phía tây, chỉ còn lại vài áng mây đỏ ối trốn sau chân núi bên kia.

    Sở Bắc Tiệp tuy hồn siêu phách lạc, nhưng xương cốt rắn chắc từ nhỏ, không sợ gió lạnh, cũng chẳng lo dã thú kiếm ăn đêm. Chàng ngồi dưới gốc cây đến tận lúc trăng lên, ngẩn ngơ nhớ Sính Đình, trái tim đau như lửa đốt.

    Chàng đứng lên khỏi gốc cây, chậm rãi đi về phía căn nhà gỗ nhỏ bé thô kệch của mình.

    Từng ngày cứ đơn giản trôi qua như thế, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng chưa từng nghĩ, mình lại có thể vì một nữ nhân mà mài mòn chí khí, cam chịu bó gối nơi rừng sâu.

    Sở Bắc Tiệp ngẩng lên, căn nhà gỗ đắp sơ sài đã ở ngay trước mắt, lẻ loi trong sơn cốc, không chút sinh khí như chính chủ nhân của nó.

    Lúc này nghĩ lại, chàng mới biết những ngày ở bên Sính Đình, những ngày được nghe tiếng đàn, được ngắm trăng, thưởng tuyết cùng nàng quý giá biết chừng nào.

    Kẹt…

    Cánh cửa gỗ không khóa từ từ mở ra, những bài trí đơn giản trong gian nhà vẫn y nguyên như mọi ngày dần xuất hiện.

    Một vạt màu sắc ngoài ngoài sức tưởng tượng bất chợt lọt vào tầm nhìn của Sở Bắc Tiệp.

    Sở Bắc Tiệp đứng trước cửa, chậm rãi ngước mắt lên. Vạt màu đẹp đẽ đó từ từ ngưng tụ lại, như bông hoa lửa, thắp sáng sự sắc nhọn ẩn sâu trong đôi mắt Trấn Bắc Vương, phá tan lớp bụi mờ che phủ bên ngoài.

    Trong gian nhà gỗ có thêm bóng hình.

    Mảnh mai, dịu dàng, thướt tha, giống như nguồn sáng vô tận đang rọi soi khắp không gian, khiến cho bộ bàn ghế đơn giản, cánh cửa to thô cũng lấp lánh trong luồng ánh sáng huyền ảo đó.

    Khắp thiên hạ chỉ có một người, một hình bóng mới có thể tinh tế tấu lên giai điệu của đất trời.

    Sở Bắc Tiệp đứng ngẩn ngơ ngoài cửa, ánh mắt lấp lánh tinh anh, chàng đang nhìn thấy kỳ tích.

    Kỳ tích mà đời này kiếp này, chàng không dám mơ tới.

    Sở Bắc Tiệp thề rằng đây chính là cảnh tượng đẹp nhất trong đời mình.

    Sính Đình, nhất định là Sính Đình…

    Ngoài Sính Đình, ai còn biết được chốn thâm cốc dưới cầu treo Vân Nha này, nơi họ đã từng trải qua đủ cả bi thương hoan hỷ?

    Còn ai biết được mảnh rừng hoang này cất giấu bao chuyện đã qua?

    Chỉ có Sính Đình, Sính Đình của chàng.

    Sính Đình đã rơi cùng chàng xuống cầu treo Vân Nha, từng khóc, từng cười, từng ôm ấp chàng nơi thâm cốc đầy quả dại này.

    Ông trời đoái thương linh hồn nàng vẫn còn ở đây.

    Sính Đình, cuối cùng nàng cũng chịu đến gặp ta.

    Sở Bắc Tiệp bỗng tiến về phía trước, rồi lại nín thở, đứng sững người.

    Không, không được làm nàng sợ, chưa biết chừng cảnh đẹp trước mắt sẽ ngay lập tức tan thành khói, biến thành sương, cuốn theo chiều gió.

    Khoảnh khắc ấy, Trấn Bắc vương tiếng tăm lẫy lừng ngày nào lại luống cuống đứng yên tại chỗ, tham lam đứng nhìn nữ tử mà mình yêu thương nhất, chỉ sợ một hơi thở mạnh cũng làm hỏng cảnh tượng này.

    Sính Đình cuối cùng nàng cũng chịu gặp ta.

    Ta phải nhận lỗi với nàng, vì những tổn thương mà mình đã gây ra cho nàng.

    Ta phải đem tất cả sinh tử, vinh nhục của mình để bù đắp cho nàng.

    Quên sống liều chết có hề gì, chỉ mong không mất nàng thêm lần nữa.

    Đó là sự trừng phạt tàn nhẫn nhất trong thiên hạ.

    Sở Bắc Tiệp không dám chớp mắt, những chuyện đã qua ồ ạt kéo đến như dời non lấp biển.

    Đau khổ, hối hận, và cả tình yêu ngút trời đang trào dâng trong lòng, dần lan rộng, như muốn vỡ tung, thoát ra khỏi lồng ngực chàng. Vị tướng lĩnh dũng cảm nhất trên sa trường đã không còn khống chế nổi bản thân, bất giác thốt ra cái tên vẫn luôn giày vò chàng: “Sính Đình”.

    Có phải là nàng?

    Có phải nàng không?

    Vầng trăng vẫn sáng vằng vặc trên bầu trời cao, có phải vì nàng vẫn nhớ lời thề của chúng ta, nên hồn đã bay ngàn dặm đến đây thăm ta?

    Dáng hình trong gian nhà gỗ khẽ động, tư thế đẹp tựa thần tiên, như làn gió nhẹ mơn man thổi qua những mầm non đầu xuân, ung dung là thế, dịu dàng là thế.

    Một giấc mộng mới chân thật làm sao!

    Khuôn mặt mà chàng vẫn thường vấn vương thương nhớ từng nét, từng đường hiện ra trước mắt chàng: “Vương gia về rồi”.

    Sính Đình, đúng là Sính Đình!

    Nước mắt làm nhòe tầm nhìn, nhưng chàng vẫn thấy rõ nụ cười tươi như hoa.

    Khuôn mặt tiều tụy mỉm cười, phong thái trác tuyệt vẫn là đây.

    Nàng đã trở về.

    Sau bao ngày khổ sở vì nỗi thương nhớ cào xé tâm can, cuối cùng nàng đã trở về.

    Ý chí và sức mạnh bị mài mòn dường như đang từ dưới lòng đất thấm qua bàn chân lên đến cơ thể, lan sang các mạch máu, Sở Bắc Tiệp cơ hồ muốn quỳ xuống, cảm tạ rừng già Bách Lý.

    Cánh rừng này đã cho chàng một kỳ tích, kỳ tích thuộc về đời này kiếp này.

    Chàng đứng ngây người, chăm chú nhìn nữ tử thân yêu nhất trong lòng mình đang yêu kiều bước tới.

    “Vương gia, Sính Đình đến thỉnh tội.”

    Thanh âm tròn trong, mượt mà lay động lòng người, từng tiếng tựa hồ như từng hạt trân châu rơi xuống đĩa bạc, chàng tưởng rằng không bao giờ còn được nghe thêm lần nữa.

    Muôn sông ngàn núi, thời gian như khói, biết tìm lau sậy phương nao?

    Sính Đình đang ở ngay trước mắt sao mà chân thực, chẳng ai muốn tỉnh dậy khỏi giấc mộng đẹp này.

    Trấn Bắc vương khiến quân địch kinh hồn bạt vía trên sa trường, giờ không đủ dũng khí khẽ chạm vào nàng, chỉ sợ rằng vừa chạm nhẹ, tất cả sẽ trở thành hư ảo.

    Chàng chỉ dám nhìn nàng đăm đăm, xúc động không nói thành lời.

    Tại sao phải thỉnh tội, người cầu xin tha thứ, chẳng lẽ không phải là ta?

    “Sính Đình phạm một sai lầm mà tất cả nữ tử đều phạm phải”, Sính Đình nhìn chàng chăm chú, giọng dịu dàng, “Sính Đình đã khiến nam nhân yêu thương mình phải đau khổ”.

    Nàng nhướng môi, cười khổ: “Nhưng, Sính Đình cũng rất đau khổ vì vương gia”.

    Giai nhân gần ngay trước mắt.

    Sính Đình mím môi, nụ cười làm mê hoặc lòng người.

    Nụ cười của nàng thật đẹp, đến nỗi Sở Bắc Tiệp phải liều mình, giơ bàn tay ra, nắm lấy tay nàng.

    Lòng bàn tay chàng cảm nhận được sự mềm ấm.

    Sở Bắc Tiệp không thể nào tin, nhìn chằm chằm một Sính Đình không phải hồn phách đang ở ngay trước mắt. Chàng buông bàn tay ấy xuống, rồi nâng niu nắm lấy bàn tay ngọc của nàng.

    Ấm.

    Làn da mềm dịu, ấm áp, ấm đến nỗi những giọt nước mắt cố nén lại của Sở Bắc Tiệp phải lăn từng hạt.

    Nàng vẫn sống.

    Không phải hồn phách, mà là một Sính Đình bằng xương bằng thịt!

    Niềm vui tìm lại được báu vật đã đến với Sở Bắc Tiệp.

    “Sính Đình… Sính Đình, nàng còn sống?” Chàng dang rộng vòng tay, mặc kệ tất cả mà ôm chầm lấy nàng.

    Sính Đình dịu dàng tựa vào lòng chàng, khẽ nói: “Sính Đình không mất mạng nơi miệng sói. Sính Đình đã khiến Vương gia lo lắng, Vương gia có giận không?”.

    “Không, không.” Sở Bắc Tiệp xúc động lắc đầu.

    Niềm vui lan rộng toàn thân.

    Giận gì chứ? Sính Đình vẫn còn sống, nàng vẫn còn sống, vẫn còn sống!

    Đó là niềm hạnh phúc nhất thế gian, sao phải giận?

    Hạnh phúc đang ca hát nhảy múa quanh chàng.

    Cảm tạ trời đất, cảm tạ sông núi, rừng già, các vị thần linh, Sính Đình vẫn còn sống!

    Sở Bắc Tiệp lầm rầm thành kính cảm tạ ông Trời đã ban cho mình một kỳ tích.

    Làn hương quen thuộc, làn hương chỉ thuộc về Sính Đình đang ùa vào mũi, chàng ôm lấy thân hình mảnh mai của nàng. Như đã đánh mất khả năng nói chuyện, chàng không biết dùng từ nào để biểu đạt niềm vui và nỗi xúc động trong lòng.

    Sở Bắc Tiệp ra sức cảm nhận vòng tay có Sính Đình, cảm nhận thân thể dịu dàng ấm áp của nàng, từng nhịp đập của trái tim, và những cử động dù là nhỏ nhất.

    Chàng run rẩy sợ hãi, cẩn trọng nâng niu, cố kìm lại đôi tay run rẩy để ôm chặt nữ nhân trong lòng mình.

    Đời này kiếp này, chàng sẽ không bao giờ buông tay.

    Thành đô Vân Thường, mặt trời vừa lên.

    Sau một đêm dài dằng dặc, cuối cùng Phò mã cũng vào cung.

    Vương cung có thêm bao bảo vật được cống tiến, càng thêm rực rỡ đẹp mắt. Trần, cột chạm khắc tinh xảo vẫn chưa từng thay đổi, nhưng thị vệ canh giữ trong ngoài vương cung đã đã hoàn toàn mới. Giờ đây, thị vệ đều là các dũng sĩ trăm người chọn một, chỉ tuân theo mệnh lệnh của Phò mã, thận trọng bảo vệ Diệu Thiên công chúa - chủ nhân trên danh nghĩa của Vân Thường.

    “ Phò mã.”

    “Tham kiến Phò mã…”

    Bước qua mấy vòng thị vệ, cuối cùng Hà Hiệp cũng đến khoảng sân tinh tế nhất vương cung. Hà Hiệp ngẩng cao khuôn mặt tuấn tú khí phách của mình, nhìn lên.

    Hà Hiệp đã thấy Diệu Thiên.

    Trên lầu cao, thê tử hoài thai sáu tháng của Hà Hiệp đang ngồi bên cửa sổ. Diệu Thiên đã vứt bỏ phục sức công chúa rườm rà hoa lệ, thay bằng chiếc áo lụa một màu thanh thoát, mái tóc như thác đổ, dịu dàng xõa xuống vai.

    Thấy Diệu Thiên, một cảm giác phức tạp khó gọi tên trào dâng trong lòng Hà Hiệp.

    Nàng là ngọn nguồn quyền lực của Hà Hiệp, trong lúc hắn gặp hoạn nạn khốn khổ nhất, nàng đã đem đến cho hắn một tia hy vọng mới.

    Nhưng, nàng cũng là chướng ngại ngăn cản Hà Hiệp nắm được quyền lực.

    Một ngày vương tộc Vân Thường còn tồn tại, Hà Hiệp sẽ không thể có đội quân tận trung với mình để lập nên tân quốc.

    Hà Hiệp sẽ không thể bước lên vương vị.

    Dù có mở rộng thêm bao nhiêu lãnh thổ, hắn cũng là một vị Phò mã của Vân Thường, hoặc phụ thân của quân vương Vân Thường trong tương lai.

    Hắn vẫn phải quỳ gối trước thê tử của mình, sau này vẫn phải hành lễ với nhi tử của mình.

    Hà Hiệp tâm trạng nặng nề, chầm chậm bước lên bậc thềm.

    “Công chúa.”

    Diệu Thiên ngồi bên cửa sổ, nghe thấy giọng phu quân, hồi lâu mới từ từ quay lại, khuôn mặt đẹp nhợt nhạt, khẽ nói: “Cuối cùng Phò mã cũng chịu đến gặp thiếp”.

    Hà Hiệp trịnh trọng hành lễ với nàng, rồi tiến lên mấy bước, ngồi đối diện Diệu Thiên: “Công chúa có khỏe không?”.

    “Thiếp rất khỏe.” Diệu Thiên từ tốn đáp một câu, ánh mắt nhìn xuống vai Hà Hiệp, thần sắc thay đổi, rồi ngay lập tức lấy lại vẻ bình thản, hỏi, “Phò mã có khỏe không?”.

    Hà Hiệp cúi đầu, nhìn xuống vai mình, lạnh nhạt: “Tắc Doãn gửi thư giao chiến, không hổ là thống lĩnh cao nhất của quân Bắc Mạc, cuối cùng cũng có thể đả thương ta. Công chúa có lo cho ta không?”.

    Hà Hiệp nhìn thẳng vào mắt Diệu Thiên, thấy trong đó chứa đựng nỗi thất vọng, đau lòng không thể che giấu và cả sự hận thù như trong dự liệu của mình.

    “Công chúa hận ta sao?”, Hà Hiệp thở dài.

    “Nếu nói phải, Phò mã có giết thiếp không? Giống như đã giết Thừa Tướng và những người khác”.

    Khuôn mặt anh tuấn thoáng nỗi thương tiếc, Hà Hiệp đứng dậy, đỡ Diệu Thiên đứng theo: “Công chúa hãy theo ta”.

    Hà Hiệp dẫn theo Diệu Thiên đến hiên ngoài trên lầu cao, nhìn ra bốn phía.

    “Công chúa xem, chiến mã của chúng ta đã đi khắp thiên hạ không còn cửa ải nào có thể ngăn nổi đại quân Vân Thường. Đất đai của tứ quốc đã thuộc về Vân Thường, lời hứa của Hà Hiệp với Công chúa sắp được thực hiện. Chúng ta là phu thê, chẳng lẽ Công chúa lại không vui mừng cho ta?”

    Diệu Thiên nhìn xuống, hồi lâu môi hồng mới động: “ Phò mã, thiếp nên vui mừng vì Phò mã sắp có được thiên hạ, hay nên buồn thương cho vương tộc Vân Thường sắp đi hết đoạn đường?”.

    “Công chúa?”

    Diệu Thiên bỗng ngẩng đầu, nắm lấy bàn tay Hà Hiệp, dịu giọng khẩn cầu: “Nếu Phò mã vẫn còn chút tình cảm với Diệu Thiên, xin chàng hãy lập lời thề, quyết không lập tân quốc. Hãy hứa với Diệu Thiên, vương tộc Vân Thường sẽ không biến mất trong cuộc chinh chiến liên tiếp thắng lợi này”.

    Nàng nhìn vào đôi mắt sáng như sao của Hà Hiệp. Diệu Thiên tuy bị giam lỏng, nhưng vẫn là người cao nhất của vương tộc Vân Thường, nắm giữ vương quyền được cả quốc gia công nhận. Hà Hiệp nhất thời không dám nhìn vào mắt Diệu Thiên, giằng ra khỏi tay nàng, quay lưng lại, thở dài: “Sao công chúa lại nghĩ thế? Chúng ta là phu thê, dù ta có là đại vương, Công chúa cũng sẽ trở thành vương hậu, thân phận vẫn tôn quý. Hơn nữa, công chúa đang mang trong mình cốt nhục của ta…”.

    Nàng gằn từng tiếng: “Hài nhi trong bụng thiếp mới là đại vương tương lai”.

    Nghe thấy giọng nói của Diệu Thiên đã trở nên lạnh lùng, Hà Hiệp quay lại, dịu dàng: “Công Chúa…”.

    “Phò mã đừng nói nữa, hãy về đi”, Diệu Thiên kiên quyết ngắt lời Hà Hiệp.

    Hà Hiệp sững lại.

    Khuôn mặt bình tĩnh, Diệu Thiên đứng đó với vẻ tôn quý ung dung thiên bẩm và sự kiêu ngạo từ trong cốt cách. Khoảnh khắc ấy, Hà Hiệp cảm nhận sâu sắc, thê tử xinh đẹp dịu dàng, luôn xiêu lòng trước lời lẽ đường mật của phu quân thực ra từ đầu đến cuối, chỉ đại diện cho một vương tộc già nua.
     
  14. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 53
    Rừng rậm Bách Lý.

    Gian nhà gỗ giờ tràn đầy hân hoan và sức sống.

    Tuy rất yên tĩnh, nhưng niềm vui trong đó thật khiến người ta không thể ngó lơ.

    Hai con người hạnh phúc đang kề bên nhau trên chiếc giường gỗ, không sao đi vào giấc ngủ.

    “Sao đêm nay sáng quá”. Sở Bắc Tiệp ôm lấy Sính Đình cứ ngỡ đã mất đi nay bỗng trở về.

    Sính Đình bật cười.

    “Có gì buồn cười thế?”

    “Cuối cùng Vương gia cũng chịu lên tiếng.” Nàng cười dịu dàng, thấy Sở Bắc Tiệp nhìn mình chăm chăm thì xấu hổ hỏi: “ Vương gia nhìn gì?”.

    Nhìn hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới cảm thán: “Sính Đình, nàng thật đẹp”.

    Trong lòng vô cùng cảm động, Sính Đình khẽ nói: “Vương gia gầy đi nhiều. Đều tại Sính Đình không tốt”.

    “Việc này không liên quan đến nàng, là ta cam tâm tình nguyện. Ta có tình cảm với Sính Đình, nên ta nguyện làm bất cứ việc gì cho Sính Đình, để mỗi ngày trôi qua đều là vì Sính Đình.”

    Im lặng hồi lâu, Sính Đình chậm rãi nói; “Chẳng phải chàng là đại trượng phu có chí lớn ôm toàn thiên hạ sao?”.

    “Có thể một lòng một dạ, không chùn bước trước khó khăn mới là chí lớn.” Sở Bắc Tiệp nhẹ nhàng vuốt mái tóc Sính Đình, khảng khái đáp, “Chí lớn của ta chính là khiến nàng trở thành nữ tử hạnh phúc nhất thế gian”.

    Sính Đình ngẩng đầu, sóng mắt mênh mang, khẽ nói: “Vương gia nghĩ thế thật sao?”.

    Sở Bắc Tiệp giơ hai ngón tay, vẻ mặt hoàn toàn nghiêm túc: “Sở Bắc Tiệp ta xin thề với trời, đời này kiếp này sẽ không bao giờ thay đổi những lời ta vừa nói”.

    Sính Đình cảm động nhìn chàng, nước mắt rơi, nàng khẽ khép đôi mi: “Vậy… Vương gia có bằng lòng làm cho Sính Đình một việc?”.

    Sở Bắc Tiệp dịu dàng, đáp: “Đừng nói là một việc, cả vạn việc cũng được. Chỉ cần là tâm nguyện của nàng, sẽ không có ai ngăn nổi Sở Bắc Tiệp làm điều đó vì nàng”.

    Sính Đình ngẩng lên, nhìn chăm chăm nam nhân thân yêu trước mặt. Hàng mày khí phách vẫn đậm, sống mũi thẳng tắp, đôi môi mỏng, tất cả đều như trong giấc mơ, trong nỗi nhớ của nàng.

    Hóa ra, nàng chưa từng quên, dù là điều nhỏ nhất của chàng.

    Đây là nam nhân thân yêu nhất của nàng.

    Trong ba kiếp, e là chỉ một kiếp mới có được tình yêu sâu đậm đến vậy.

    Yêu sâu đậm, đau cũng sâu đậm, chịu bao vất vả mà vẫn như con thiêu thân lao đầu vào lửa.

    Nàng với tay, lấy trong tay nải đặt đầu giường ra một vật.

    “Vương gia đã từng để thanh kiếm này ở biệt viện ẩn cư, bảo đảm cho sự an nguy của Sính Đình.” Nay, liệu Vương gia có bằng lòng cầm lại thanh kiếm này dẹp yên thiên hạ, thống nhất tứ quốc, để Sính Đình được sống yên vui trong cảnh thái bình?”.

    Hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, Sở Bắc Tiệp chưa từng nghe tới tin tức loạn lạc, bất giác sững người. Với tâm tính của Sính Đình, chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, chắc chắn nàng sẽ không đưa ra lời thỉnh cầu như thế.

    “Vương gia không muốn sao?”, Sính Đình hạ giọng hỏi.

    Vốn cả đời binh nghiệp, thứ Sở Bắc Tiệp không sợ nhất chính là sa trường, là chém giết. Huống hồ người đưa ra thỉnh cầu lại là Sính Đình. Sau giây phút sững lại, chàng cất giọng cười sang sảng: “Để thê tử của mình được sống yên vui trong thiên hạ thái bình là việc mà tất cả nam nhi nên làm”.

    Sở Bắc Tiệp ngay lập tức nhận lấy bao kiếm, cảm giác quen thuộc ùa về trong lòng bàn tay. Thần uy bảo kiếm bị bỏ lại trên linh đường hôm đó nay đã về tay chủ nhân.

    Thanh bảo kiếm nặng trịch, lạnh băng… Chàng vẫn nhớ rõ từng hoa văn khắc trên cán kiếm.

    Thanh bảo kiếm đã từng chỉ huy cả thiên quân vạn mã, giết sạch kẻ địch.

    Kiếm rút ra khỏi vỏ, thiên hạ chấn động.

    Đây là kiếm của Trấn Bắc vương.

    Đôi mắt Sở Bắc Tiệp lại lấp lánh ánh sáng ngạo mạn nhìn thiên hạ.

    Nữ nhân thương yêu của chàng đã trở về, kiếm của chàng đã nắm trên tay.

    Hào tâm tráng khí của chàng đã thức tỉnh.

    Rừng rậm Bạch Lý ban tặng cho chàng một kỳ tích, chàng phải trả lại thế gian này một kỳ tích khác.

    Chàng sẽ dùng thanh bảo kiếm trong tay để chinh phục thiên hạ, vì nữ nhân tuyệt vời nhất thế gian.

    Tuy vương cung Đông Lâm đã bị huỷ diệt, nhưng một ngày còn vương tộc Đông Lâm, thì quốc gia đó vẫn chưa bị diệt vong hoàn toàn.

    Từ khi xảy ra chiến loạn đến nay, tuấn mã của Hà Hiệp tung vó khắp nơi, chỉ huy các chiến dịch. Hà Hiệp trước nay đối phó với kẻ địch thủ đoạn nhanh gọn, chưa từng do dự, nhưng cứ nghĩ đến việc xử lý Diệu Thiên như thế nào, lại cảm thấy chần chừ.

    Những ngày trở về thành đô Vân Thường, đã mấy lần Phi Chiếu Hành nhắc đến chuyện này, Hà Hiệp đều đẩy lui: “Trước mắt không vội, đợi đến khi chúng ta đối phó xong với vương tộc Đông Lâm và Quy Lạc, rồi tính tiếp”.

    Phi Chiếu Hành liên tục khuyên nhủ: “ Phò mã, việc này không lớn cũng chẳng nhỏ. Không xử lý sớm, e là sau này sẽ thành tai hoạ”.

    Hà Hiệp quá hiểu điều này.

    Đại quân chinh chiến dưới trướng của Hà Hiệp, ngoài số ít hàng binh mới thu phục được và tàn binh mới thu nhận, quân chủ lực đều đến từ đội quân Vân Thường. Giả dụ tin Diệu Thiên bị giam lỏng trong cung truyền ra ngoài, hoặc Diệu Thiên dẫn đầu phủ nhận quyền thống soái của Hà Hiệp, thì chắc chắn sẽ làm dao động cục diện thắng lợi hiện nay.

    Chẳng lẽ phải ra tay với thê tử của mình? Hà Hiệp vô cùng buồn phiền. Thân không ở trên sa trường, không ngửi thấy mùi máu tanh và mùi khói lửa quen thuộc, suốt ngày chỉ rượu ngon đàn hay càng khiến ruột gan Hà Hiệp nóng như lửa đốt. Thấy sắc mặt đáng sợ của hắn, các đại thần trong triều đều giật mình, chẳng biết mình có vô tình đắc tội với phò mã không, họ sợ rằng nỗi bi thảm của Quý gia sẽ xảy đến với bản thân mình.

    May mà chưa được mấy hôm lại có quân báo.

    “Đã phát hiện thấy nơi lẩn trốn của vương tộc Đông Lâm và đã bao vây lại.”

    “Được!”, Hà Hiệp cười đáp, “Vương tộc Đông Lâm thoi thóp bao nhiêu ngày nay, lần này quyết không để bọn chúng tiếp tục chạy trốn. Truyền lệnh, bao vây chặt bọn chúng, nhưng chưa vội ra tay. Bản phò mã sẽ đích thân xử lý chúng”.

    Đuổi lui lính truyền tin, Hà Hiệp lập tức điểm binh xuất phát. Vốn tính tình cẩn trọng, biết rõ ở thành đô Vân Thường vẫn có những đại thần chỉ vì sợ chết, chứ không thật lòng khuất phục, cần phải lưu ý, nên Hà Hiệp đã lệnh cho Phi Chiếu Hành cùng Đông Chước ở lại trông coi thành đô.

    Không ngờ, chưa được ba ngày, đoàn quân vừa ra khỏi thành đô được hơn hai trăm dặm, Phi Chiếu Hành đã phi ngựa tới, ngăn đoàn quân của Hà Hiệp.

    “Phò mã ở đâu?”

    Hà Hiệp dừng ngựa, quay lại nhìn, thấy Phi Chiếu Hành mặt đầy bụi đường, bên cạnh chỉ dẫn theo vài cận vệ, biết là thành đô có chuyện chẳng hay, cất giọng gọi: “ Chiếu Hành, lại đây!”.

    Đuổi hết những người xung quanh, dẫn Phi Chiếu Hành ra chỗ vắng vẻ, Hà Hiệp xuống ngựa, hỏi: “Thành đô đã xảy ra chuyện gì?”.

    Sự việc khẩn cấp, Phi Chiếu Hành còn không kịp lau bụi trên mặt, vội vàng lấy trong người ra một bức thư đưa cho Hà Hiệp, vẻ mặt vô cùng nặng nề.

    Hà Hiệp nhận lấy bức thư, mở ra, lướt qua hai dòng, sắc mặt đã trở nên khó coi cực độ, càng đọc, hai hàng mày càng cau lại, khuôn mặt như được phủ một lớp băng, trầm trọng: “Đây là vương lệnh. Là… nét chữ của Công chúa sao?”. Ánh mắt hắn tối sầm khiến người ta khiếp sợ.

    “Vâng. Nét chữ đã tìm người đối chiếu, không phải ngụy tạo, chính xác là của Công chúa.”

    “Ở đâu ra?”

    Phi Chiếu Hành bẩm báo: “Phát hiện thấy trên người một cung nữ lén lút ra khỏi cung”.

    Hà Hiệp gầm lên: “Chẳng phải đã nghiêm cấm những cung nữ bên cạnh rời khỏi Công chúa nửa bước sao? Bao nhiêu thị vệ canh giữ, sao lại để một cung nữ lọt được ra ngoài? Còn mang theo bức thư thế này?”.

    “Phò mã bớt giận”, Phi Chiếu Hành bình tĩnh đáp, “Việc này đã điều tra rõ ràng, do thị vệ đó đã nhận hối lộ. Hiện thị vệ đó đang bị nhốt, vì lo rằng còn có ẩn tình bên trong, cần tiếp tục tra hỏi”.

    “Phải điều tra kỹ.” Đáy mắt Hà Hiệp như kết thành một lớp băng, sắc mặt đã khôi phục vài phần ung dung: “Đã tra khảo cung nữ đó chưa? Khai báo những gì?”.

    Phi Chiếu Hành đáp: “Cung nữ nhát gan, chưa cần dùng đại hình sợ quá mà khai hết. Bức thư này do Công chúa viết rồi giao cho cung nữ Lục Y, Lục Y giao cho cung nữ đó để đưa đến Chưởng ấn[1] đại nhân, Chưởng ấn đại nhân sẽ giao cho một số quan viên khác”.

    [1] Chưởng ấn là người giữ con dấu, người nắm quyền chủ sự.

    “Một số quan viên?”, Hà Hiệp cười gằn, “Rốt cuộc là những kẻ nào mà lại chán sống như thế! Danh sách đâu?”.

    Phi Chiếu Hành khom người, đáp: “Chắc chắn trong tay Chưởng ấn đại nhân có danh sách. Trước khi rời khỏi thành đô, thuộc hạ đã cử người bí mật bắt giữ Chưởng ấn đại nhân, hiện đang dùng cực hình tra khảo. Việc nay vô cùng quan trọng, thuộc hạ đã ra nghiêm lệnh không được để lọt tin tức ra ngoài. Đông Chước ở lại trông coi thành đô, thuộc hạ đuổi theo bẩm báo với Phò mã”.

    Phi Chiếu Hành làm việc gọn ghẽ, xử lý xác đáng, rất có tài ứng biến khiến Hà Hiệp phải nhìn bằng ánh mắt tán thưởng.

    Bẩm báo xong, Phi Chiếu Hành ngừng một lát, rồi hạ giọng nói tiếp: “Phò mã, xin Phò mã hãy lập tức quay về thành đô. Việc quan trọng bây giờ không phải vương thất Đông Lâm, mà là thành đô Vân Thường. Công chúa đã ra tay, ngộ nhỡ trong ngoài đều biết tin, e là sự việc sẽ khó giải quyết. Đám quan văn gan nhỏ, không đáng sợ, nhưng trên danh nghĩa Công chúa vẫn là chủ nhân của Vân Thường, ngoài Phò mã, sẽ chẳng ai dám đối phó với Công chúa”.

    “Công chúa lại dám tự tay viết vương lệnh, muốn các đại thần bí mật trù tính, liên kết với nhau, truất quyền dẫn binh của ta…” Hà Hiệp nhìn vương lệnh trong tay, nộ khí trào lên, năm ngón tay co lại, vò nát vương lệnh trong đó. Nghiến chặt răng, không hề lên tiếng, hồi lâu Hà Hiệp mới lấy lại bình tĩnh, hỏi, “Công chúa đã biết việc cung nữ kia bị chặn chưa?”.

    “Chắc là không biết. Cung nữ đó bị bắt ngay trên đường đi đến phủ đệ của Chưởng ấn đại nhân. Công chúa ở tận trong cung có các thị vệ trông coi cẩn mật, không ai được nói chuyện với Công chúa và các thị nữ bên cạnh.”

    Hà Hiệp gật đầu: “Ta và ngươi hãy lập tức quay về thành đô. Việc này không thể kéo dài, phải giải quyết một lần cho xong”.

    Phi Chiếu Hành gật đầu, đáp: “Đúng thế”.

    Việc không thể chậm trễ, ra quyết định xong, Hà Hiệp lập tức lệnh một nửa quân theo về thành đô, một nửa còn lại, thì chọn ra vị tướng quân thống lĩnh tiếp tục lên đường. Hà Hiệp hạ lệnh: “Đến Đông Lâm, truyền soái lệnh của bản Phò mã, lập tức đối phó với vương thất Đông Lâm đang bị bao vây. Bắt sống vương hậu đang nắm giữ đại quyền Đông Lâm cho ta, đó là chiến lợi phẩm của bản Phò mã. Những kẻ khác không cần giữ lại.”

    Sau khi bố trí thỏa đáng, Hà Hiệp cùng Phi Chiếu Hành dẫn theo binh mã quay về thành đô.

    Họ đi cả chặng đường ngày đêm không nghỉ, bí mật trở về thành đô. Đến cổng thành, Phi Hành Chiếu hạ giọng, hỏi: “Phò mã, có nên tới vương cung trước không?”

    Hà Hiệp lắc đầu: “Về phủ Phò mã”.

    Trong phủ Phò mã, Chưởng ấn đại nhân không chịu nổi đòn tra khảo nên đã giao nộp toàn bộ danh sách các quan bí mật liên hệ được cho Hà Hiệp . Hắn quét qua một lượt bản danh sách rồi gọi một phó tướng tin cẩn vào, hạ lệnh: “Lập tức truyền quân lệnh của ta, nói rằng phát hiện trong thành đô có thích khách Quy Lạc, toàn thành giới nghiêm, bất cứ ai cũng không được tùy tiện ra phố.”

    Sau khi ra thiết quân luật, Hà Hiệp nói với Đông Chước: “Phần lớn các quan văn trong danh sách đều đang ở thành đô, hãy lấy lý do giới nghiêm, cử tướng sĩ đến trông coi các phủ đệ, cẩn thận không được để lộ tin tức ra ngoài”.

    Đông Chước đáp một tiếng, rồi đích thân đi dặn dò, bố trí.

    “Có một việc cần Chiếu Hành lập tức đi làm”, Hà Hiệp quay sang nhìn Phi Chiếu Hành, “Các tướng lĩnh trong cung đều nhận ân huệ của ta, tin phục ta. Nếu Vân Thường có biến lớn, sẽ rất nhiều người chọn ủng hộ ta, nhưng Đại tướng quân Thương Lộc lại không nằm trong số đó. Thương Lộc đời đời nhận trọng ân của vương thất Vân Thường, ngu muội hết mức, làm người cứng nhắc, không biết ứng biến. Nếu ta chính thức lên ngôi, chắc chắn hắn sẽ là người đầu tiên trong quân phản đối”.

    Nói tới đây, Phi Chiếu Hành hiểu ngay: “Phò mã cứ giao phó”.

    “Nay Thương Lộc đang đóng quân tại Bắc Mạc. Ta sẽ viết một đạo quân lệnh bảo hắn trong ngày hôm nay phải lập tức xuất phát đến Quy Lạc, tìm cơ hội quyết chiến với Đại tướng Quy Lạc Nhạc Chấn. Ngươi nhận lấy quân lệnh, tự mình đi một chuyến đến Bắc Mạc tuyên lệnh. Còn nữa, ta muốn ngươi dẫn theo cánh quân Úy Bắc cùng Thương Lộc tiêu diệt đại quân của Nhạc Chấn. Trận chiến này, Thương Lộc là phó tướng, ngươi là chủ tướng. Ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?”

    Phi Chiếu Hành là người nhanh nhạy, nghe vậy liền gật đầu: “Tướng quân trăm trận chết, tráng sĩ mười năm về. Hai quân giao chiến, khó tránh được tử thương, Thương Lộc thân là đại tướng Vân Thường, hy sinh trên sa trường cũng là hợp tình hợp lý. Phò mã cứ yên tâm”.

    Hà Hiệp lấy bút viết hai vương lệnh, một cho Thương Lộc, một giao cho Phi Chiếu Hành nắm giữ đại quyền chủ tướng trận chiến với Quy Lạc này. Viết xong, Hà Hiệp đặt bút xuống, cười nhạt: “Thương Lộc phải xử lý, Nhạc Chấn cũng không thể cho qua. Lần này huy động đến hai cánh quân là thừa binh lực. ta chỉ lo tình chủ tớ giữa ngươi và Nhạc Chấn ngày trước, sợ đến lúc lâm trận ngươi lại mềm lòng”

    Phi Chiếu Hành cung kính nhận lấy quân lệnh, đáp: “Chiếu Hành vì Nhạc gia vào sinh ra tử, để đổi lấy kết cục “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn[2]”, còn đâu tình chủ tớ. Nhạc Chấn tài năng tầm thường, chỉ dựa vào công lao của tổ tông mà thành đại tướng quân, thuộc hạ nhất định phải đánh cho hắn tan tác”. Nói xong, Phi Chiếu Hành cẩn thận cất hai vương lệnh vào người, rồi hạ giọng, “Phò mã, vương cung…”

    [2] “Thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn” nghĩa là “thỏ chết thì chó săn bị đem nấu, chim chết thì cây cung bị cất đi”, ý chỉ kết cục nhận được là sự vong ân bội nghĩa.

    Hà Hiệp cắt ngang: “Ta sẽ xử lý. Ngươi cứ đi đi”.

    Hà Hiệp đuổi lui Phi Chiếu Hành, thư phòng hoa lệ bỗng trở nên yên tĩnh.

    Hà Hiệp đứng đó hồi lâu, rồi lấy trong người ra bức thư do chính tay Công chúa viết. Hà Hiệp đặt bức thư đã vò nát mấy ngày trước trong lúc giận dữ lên bàn, chậm rãi vuốt thẳng ra, xem lại một lượt. Khuôn mặt tuấn tú bình tĩnh, đôi mắt sắc sảo sáng quắc, không biết ẩn chứa bao nhiêu suy nghĩ phức tạp.

    Dặn dò xong, Đông Chước liền quay lại, vừa bước vào thư phòng, thấy bóng Hà Hiệp bỗng sững người, một bàn chân vẫn còn ở nguyên ngoài bậu cửa.

    Hà Hiệp như đang chất chứa bao nỗi âu sầu, vóc dáng cao lớn nặng hơn núi, dù có dùng sức lực toàn thân e là Đông Chước cũng không thể dịch chuyển.

    “Đông Chước à? Vào đi.”

    Đông Chước đang đứng sững ngoài cửa, nghe Hà Hiệp gọi liền bước vào, chậm rãi tiến đến bên bàn, đứng cạnh thiếu gia, cúi xuống, nhìn vương lệnh do chính Công chúa Diệu Thiên viết đang đặt trên bàn. Đương nhiên là Đông Chước biết rõ trong đó viết những gì, bèn thở dài một tiếng, hạ giọng hỏi Hà Hiệp: “Thiếu gia định xử trí Công chúa thế nào?”

    “Các ngươi đều hỏi ta cùng một câu hỏi khó.” Hà Hiệp cười chua chát rồi mím làn môi mỏng, khuôn mặt lạnh lẽo hơn thường ngày: “Nếu bức thư này đến được tay các quan, còn ta vẫn đang ở ngoài thành đô, một khi bọn họ khởi sự thành công, cứu được Công chúa, lòng quân Vân Thường sẽ dao động.”

    “Thiếu gia…”

    Hà Hiệp mặc kệ Đông Chước, tiếp tục trầm giọng: “Công chúa nắm giữ đại cục lại xuất hiện trước mặt thần dân, dù ta có bao nhiêu chiến công, đánh thắng bao nhiêu trận, đạt được bao nhiêu thắng lợi hiển hách, binh sĩ của đại quân Vân Thường cũng vẫn dần quay lưng lại với ta. Bởi đối thủ của ta là chủ nhân Vân Thường. Quân lính và chúng dân không biết lựa chọn một người có tài, mà chỉ biết đến sự trung thành ngu xuẩn, chỉ biết tận trung với vương thất”.

    Từng tiếng Hà Hiệp nói ra đều như tạc bằng băng. Đông Chước nghe thấy mà rùng mình, khẽ mấp máy môi, định nói gì, nhưng bỗng thấy lưỡi như tê cứng, không nói được lời nào.

    Sự thật là, giả dụ Diệu Thiên có cơ hội phế bỏ quyền lực của Hà Hiệp, Hà Hiệp sẽ thất bại thảm hại. Vương lệnh viết rõ ràng rằng: Phò mã mưu đồ thành lập tân quốc là tội danh mưu phản, sẽ bị xử cực hình.

    Không khí trong thư phòng như đông kết, làn gió mát lành cũng không thể xua tan lớp băng âm u của tranh quyền đoạt thế.

    “Ngươi nói xem, Công chúa có thật lòng với ta không?”, Hà Hiệp đột nhiên quay lại hỏi Đông Chước.

    Đông Chước vẫn ủ ê hồi lâu, cũng miễn cưỡng khuyên nhủ: “Thiếu gia, Công chúa viết như thế cũng chỉ vì sự tồn vong của vương thất Vân Thường, vì tình thế bức bách. Trong lòng Công chúa…”

    Hà Hiệp nhìn Đông Chước, bỗng nở nụ cười ôn hòa: “Trong lòng Công chúa thực ra không muốn giết ta, đúng không?”

    Nhìn nụ cười của Hà Hiệp, Đông Chước bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát, vốn định gật đầu nói đúng, nhưng giằng co hồi lâu, cuối cùng phải thở dài một tiếng, buồn bã nói sự thật: “Thiếu gia nghĩ rất đúng, nếu Công chúa nắm được đại quyền, thì dù Công chúa không nỡ, cũng sẽ bị các đại thần gây áp lực xử thiếu gia tội chết”.

    Đang rầu rĩ việc này, câu nói thật thà của Đông Chước như cái kim chọc vỡ u nhọt trong lòng Hà Hiệp. Đông Chước bất chấp hậu quả nói ra sự thật, cũng chẳng biết Hà Hiệp sẽ phản ứng thế nào, đành cụp mắt xuống, không dám nhìn thiếu gia.

    Hồi lâu, Đông Chước mới nghe thấy tiếng thở dài.

    Hà Hiệp nói: “Ta phải chuẩn bị một phần lễ vật, vào cung gặp Công chúa”

    Bắc Mạc.

    Cách thành Kham Bố về phía đông tám dặm là cổ thành Giang Linh.

    Thành trì hoang phế, tường thành đã sụp đổ quá nửa.

    Cát vàng phủ mặt đất.

    “Thượng tướng quân, uống chút nước đi”.

    Gáo nước binh sĩ dâng lên vàng và đục ngầu. Hoàn cảnh ở thành Giang Linh vô cùng khắc nghiệt. Nguồn nước, nguồn lương thực đều thiếu trầm trọng, nhưng nơi đây có địa hình hiểm trở, mật đạo trong thành lại thông đi khắp nơi, dù có bị đại quân Vân Thường chú ý tới, cũng có thể may mắn thoát chết.

    Nhược Hàn nhận lấy gáo nước, uống một ngụm, rồi đưa cho các tướng sĩ bên cạnh: “Các ngươi cũng uống chút nước đi.”

    Trận chiến Chu Tình, đội quân Bắc Mạc bị Hà Hiệp đánh cho tan tác. Nhược Hàn thoát chết, sau đó có mấy lần tổ chức tàn binh đứng lên phản kháng nhưng kẻ thù là danh tướng Hà Hiệp, nên lần nào cũng phải chạy trốn vào rừng.

    Thực lực chênh nhau, binh lực, tướng tài của Bắc Mạc không thể so với đối phương, tính đến nay, Nhược Hàn có thể giữ được mạng sống và những tướng sĩ bên cạnh đã không phải là chuyện dễ dàng.

    Tuy vậy, các tướng sĩ Bắc Mạc vẫn chưa từng có ý nghĩ đầu hàng Hà Hiệp .

    Một binh lính bên cạnh ngẩng đầu nhìn mặt trời thiêu đốt, bỗng hỏi: “Thượng tướng quân đoán xem hôm nay Sâm Vinh tướng quân sẽ mang theo bao nhiêu binh mã trở về?”

    “Sẽ không ít đâu”, Nhược Hàn trả lời, bất giác cũng thấy lòng mình nóng bừng.

    Nhược Hàn nhớ đến vị tướng quân mà mình đi theo trước đây, thượng tướng quân thiện chiến, kiêu dũng nhất Bắc Mạc, Tắc Doãn.

    Từ khi câu chuyện về Tắc Doãn thượng tướng quân công khai khiêu chiến với Hà Hiệp được truyền ra ngoài, dân chúng bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng đông.

    Mọi người đều biết câu chuyện này là thật.

    Hà Hiệp đã đổ máu, sẽ có một ngày, Hà Hiệp thất bại. Tắc Doãn thượng tướng quân đã nói như vậy.

    Còn ý chí chiến đấu là còn hy vọng. Dù bị tiêu diệt cũng sẽ có những lớp người ngoan cường tiếp bước.

    Thời xa xưa, vương quốc Bắc Mạc cũng được hun đúc từ những bầu nhiệt huyết.

    Lần này, chắn chắc Sâm Vinh sẽ dẫn những nam nhi nhiệt huyết của Bắc Mạc về nhiều hơn.

    “Thượng tướng quân, Sâm vinh tướng quân về rồi!” Lính gác thành huơ tay bẩm báo.

    Nhược Hàn đứng bật dậy, nhìn ra ngoài thành, trong đám bụi cuốn xa xa quả nhiên xuất hiện mấy bóng người ngựa đang phi như bay về phía thành.

    “Nhìn rõ chưa?”

    “Bẩm rõ rồi, chắc chắn là tướng quân Sâm Vinh”. Lính gác tinh mắt trả lời chắc nịch, nhưng tiếp theo lại nghi ngờ, “Lạ thật, sao lần này lại ít thế?”.

    Trong lòng Nhược Hàn cũng đang có câu hỏi tương tự.

    Nhận được sự cổ vũ của Thượng tướng quân Tắc Doãn, số người bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng tăng, tại sao lần này Sâm Vinh chỉ dẫn về có mấy người? Không lẽ đã xảy ra điều gì bất trắc?

    Sâm Vinh phi ngựa nhanh nhất, chẳng mấy chốc đã đến chân thành, vẫy tay với lính gác cổng thành. Lính giữ thành vội vàng để họ vào trong. Nhược Hàn bước nhanh tới hỏi luôn Sâm Vinh vừa xuống ngựa: “Thế này là thế nào? Sao chỉ có vài tân binh?”.

    Sâm Vinh nhận lấy gáo nước thuộc hạ vừa đưa lên, mặc kệ màu nước đục, cúi xuống uống một ngụm to: “Rất đông tân binh, nhưng thuộc hạ tạm thời chưa đưa về”.

    “Sao thế?”

    “Ba quân dễ kiếm, một tướng khó cầu. Khà khà…” Trong lòng chắc chắn có chuyện vui, Sâm Vinh nét mặt vô cùng hứng khởi, miệng cười toe toét.

    “Ngươi ra ngoài một chuyến, lẽ nào lại tìm được tướng tài trở về?”

    “Không chỉ là tướng tài bình thường mà là thần tướng! Một danh tướng chắc chắn có thể đánh bại Hà Hiệp.”

    Nhược Hàn cứ ngỡ Sâm Vinh đang một tấc đến trời, hai hàng mày càng chau.

    Hà Hiệp được tôn xưng là danh tướng đương thời, thiên hạ này giờ lại có ai dám chắc chắn sẽ đánh bại được hắn?

    Hiện giờ binh mệt lương thiếu, rừng núi hiểm trở, kỵ nhất chính là những việc khiến lòng quân dao động. Sâm Vinh trước nay tính tình vốn qua loa đại khái, sao hiểu được một lời của kẻ làm tướng nói ra mà không thể thực hiện sẽ chẳng khác gì giáng một đòn trí mạng vào lòng quân sĩ. Bất giác, Nhược Hàn hạ giọng: “Sâm Vinh, chớ có hồ đồ. Ngươi từng giao chiến với Hà Hiệp, chẳng lẽ không hiểu được bản lĩnh của hắn? Cái gì mà một danh tướng chắc chắn đánh bại được Hà Hiệp ? Điều này sao có thể xảy ra? Trừ phi…”. Ngay lập tức, Nhược Hàn thở dài một tiếng.

    Nhược Hàn bỗng nhớ đến Sính Đình.

    Nhược Hàn vẫn ghi nhớ trận chiến Kham Bố ngày trước, rõ ràng như đao khắc.

    Chỉ có vẻ ung dung của Bạch cô nương khi tấu lên khúc nhạc đuổi lui vạn quân của Sở Bắc Tiệp mới có thể sánh được với thủ đoạn ma quỷ khó lường của Hà Hiệp trong đại chiến Chu Tình.

    Đáng tiếc, giai nhân đã chẳng còn.

    Nhược Hàn đã bao lần giả tưởng rằng, nếu Sính Đình trở thành chủ soái trong trận chiến Chu Tình, kết quả sẽ ra sao?

    “Thượng tướng quân hà tất phải thở dài? Thượng tướng quân lại đây, thuộc hạ cho Thượng tướng quân xem một thứ.” Sâm Vinh cười, tiến lên phía trước một bước, tháo cái bọc trên lưng xuống rồi kéo Nhược Hàn sang một bên, vừa mở bọc vừa nhắc Nhược Hàn, “Thượng tướng quân cẩn thận, bảo vật này rất chói mắt, đừng để bị hoa mắt đấy”.

    Nhược Hàn thấy Sâm Vinh hứng chí thế, trong lòng cũng thấy ngạc nhiên, bèn kiên nhẫn chờ Sâm Vinh mở bọc ấy ra, trong đó là những mảnh vải đỏ đen xanh dính đầy bụi đất, thỉnh thoảng còn có cả vết máu. Nhược Hàn nhìn kỹ, hai hàng mày bỗng cau lại, cả người như bị niệm chú, đứng ngây ra dán mắt vào bọc đồ.

    Sâm Vinh đã sớm đoán được phản ứng của Nhược Hàn, vẻ mặt vô cùng hứng thú, hỏi: “Thế nào?”.

    Nhược Hàn mở trừng mắt, nhìn chằm chằm bọc vải. Người khác có thể không nhận ra, nhưng Nhược Hàn vẫn nhớ như in, những mảnh vải cũ rách này chính là áo bào mà các tướng lĩnh Bắc Mạc đã dâng lên Sính Đình trong đại chiến Kham Bố năm đó, để thể hiện sự cảm tạ và trung thành của họ đối với nàng.

    Những chiếc áo nhuốm máu rất có ý nghĩa với người tướng lĩnh, chỉ khi sùng kính đến mức không thể diễn tả thành lời, họ mới dâng lên áo khoác của mình. Trong đó có áo bào của Tắc Doãn thượng tướng quân, của Sâm Vinh và của cả Nhược Hàn…

    Một lúc sau, Nhược Hàn mới sực tỉnh, cả người xúc động đến run rẩy.

    “Đây…đây…Sâm Vinh…” Nhược Hàn túm chặt lấy Sâm Vinh, câu hỏi cũng trở nên lộn xộn, “Bạch cô nương… ý ngươi là… không lẽ Bạch cô nương chưa chết?”.

    Sâm Vinh có được tin vui, định đùa Nhược Hàn, nhưng thấy Thượng tướng quân xúc động như thế nên không nhẫn tâm, liền gật đầu trả lời: “Đúng thế, Bạch cô nương chưa chết, Bạch cô nương vẫn còn sống”.

    “Còn sống?!” Ánh mắt Nhược Hàn sáng lên, “Thế Bạch cô nương đâu?”. Được tấn phong là Thượng tướng quân, nên suy nghĩ có phần tỉ mỉ hơn người, Nhược Hàn nhìn ngay ra phía sau, ánh mắt hướng tới mấy người cùng về với Sâm Vinh.

    Thấy Nhược Hàn nhìn về phía ấy, một dáng hình nhỏ nhắn không hề tránh đi, những ngón tay ngọc tháo vành mũ che trên đầu xuống: “Nhược Hàn tướng quân, đã lâu không gặp”.

    Khỏe miệng mỉm cười, khí độ vẫn ngời ngợi.

    Vẻ ung dung nhàn nhã không ai sánh kịp, ngoài Bạch Sính Đình thì còn có thể là ai?

    Nhược Hàn đứng nguyên tại chỗ, chăm chú nhìn Bạch Sính Đình đến hết một tuần hương, mới chậm rãi cất bước tiến về phía ấy, vái chào, rồi đứng thẳng lên, tiếp tục nhìn chằm chằm Sính Đình như không thể tin nổi những điều đang xảy ra trước mắt, cuối cùng khẽ thở phào, cảm khái: “Đến hôm nay, Nhược Hàn mới hiểu được, thế nào là được ông Trời ban ơn”.

    Sính Đình cười nói: “Thượng tướng quân đừng vội cảm tạ ông Trời. Lần này đến đây vì việc đối phó với đại quân Vân Thường của Hà Hiệp, nhưng Sính Đình muốn mượn những chiếc áo bào năm xưa để đòi nợ Thượng tướng quân”.

    Nhược Hàn thấy nụ cười đã lâu không gặp của Sính Đình thì như được gặp gió xuân, niềm tin trong lòng cũng tăng lên, cười sảng khoái: “Nhược Hàn cam tâm tình nguyện dâng lên cả tính mạng của mình để trả ơn cứu mạng của tiểu thư trong trận chiến thành Kham Bố. ha ha, dù không có những áo bào này, không có mối ơn Kham Bố, chỉ cần tiểu thư đến vì việc đối phó với Hà Hiệp, chúng ta cũng có thể toàn tâm toàn ý vì tiểu thư”.

    “Thế thì được…” Ánh mắt lấp lánh tinh anh, Sính Đình chậm rãi: “Sính Đình bạo gan, muốn Thượng tướng quân đồng ý một yêu cầu của mình”.

    “Tiểu thư cứ nói.”

    “Sính Đình dẫn theo một người, hy vọng Thượng tướng quân có thể mang toàn bộ binh mã, trung thành và nghe theo hiệu lệnh của người này. Cho dù người ấy là ai, Thượng tướng quân cũng sẽ thừa nhận là chủ soái. Thượng tướng quân có đồng ý không?”

    Nhược Hàn ngạc nhiên: “Trong thiên hạ lại có ai tài năng đến thế, khiến tiểu thư cam tâm tình nguyện nhường quyền chủ soái?”.

    Sính Đình mím môi, như đang suy nghĩ, một lúc sau lại nở nụ cười, khẽ than thở: “Tình thế cấp bách, muốn đạt được mục đích phải không từ bỏ thủ đoạn nào. Sính Đình vốn định dụ Thượng tướng quân đồng ý rồi mới nói… Nhưng thôi vậy, cứ để Thượng tướng quân gặp người ấy, rồi suy nghĩ xem có nên đáp ứng yêu cầu của Sính Đình không”. Ánh mắt nàng nhìn sang bên cạnh, dịu dàng gọi một tiếng: “Vương gia…”

    Nghe thấy hai tiếng đó, Nhược Hàn như bị sét đánh giữa trời quang.

    Không thể nào, người đó không thể nào…

    Ánh mắt Thượng tướng quân từ từ nhìn qua.

    Nam nhân cao lớn bên cạnh Sính Đình tháo chiếc mũ rộng vành xuống, để lộ khuôn mặt góc cạnh, mắt hổ sáng quắc. ánh nhìn vừa chạm phải Nhược Hàn, chàng liền cười nói: “Lần trước Sở Bắc Tiệp nửa đêm xông vào doanh trại Bắc Mạc, thực là vì nóng lòng muốn tìm thê tử. Đã mạo phạm, mong Thượng tướng quân lượng thứ!”.

    Thân hình rắn chắc, sừng sững như núi, chính là Trấn Bắc vương đã không rõ tung tích bấy lâu nay.

    Như thể sóng dữ ập tới, lớp sau mạnh hơn lớp trước, Nhược Hàn đã gặp bao bão táp, nhưng lúc này cũng phải sững sờ hồi lâu, nhìn Sở Bắc Tiệp như người gặp ma.

    Hai danh tướng đương thời, ngoài Hà Hiệp, hóa ra người kia vẫn còn tồn tại.

    Uy vũ vẫn đây, ánh mắt tự tin ngạo mạn nhìn thiên hạ vẫn như xưa.

    “Thượng tướng quân có bằng lòng vứt bỏ thù hận cũ giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, đi theo vương gia, chống lại Hà Hiệp ?” Giọng Sính Đình như từ một nơi xa xăm truyền đến bên tai Nhược Hàn, để lại từng hồi vang vọng.

    Ánh mắt trĩu nặng suy tư của Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp. Người này từng dẫn quân xâm phạm, suýt chút nữa đã hủy hoại cả Bắc Mạc, sau đó lại mạo hiểm xông vào doanh trại Bắc Mạc, xoay cho Nhược Hàn trở tay không kịp để lừa lấy tung tích của Thượng tướng quân Tắc Doãn.

    Nhưng, người ấy đích xác là vị tướng tài duy nhất trên thế gian này có thể đối chọi với Hà Hiệp .

    “Thượng tướng quân?”. Không biết từ lúc nào, Sâm Vinh đã đến từ lúc nào, khẽ đẩy một cái.

    Nhược Hàn sực tỉnh. thấy ánh mắt của Sính Đình và mọi người đều dồn vào mình, Nhược Hàn ngẩng đầu nhìn, các tướng sĩ trên thành lầu đang lặng lẽ nhìn xuống, quan sát Sở Bắc Tiệp danh tướng lừng lẫy.

    Tất cả như đang nín thở chờ đợi câu trả lời của Nhược Hàn.

    Nhược Hàn ngẩng lên, hỏi: “Các tướng sĩ đều đã thấy cả rồi. Người này là Đông Lâm Trấn Bắc vương, là Sở Bắc Tiệp suýt chút nữa đã tiêu diệt cả Bắc Mạc ta. Nay người đó đến đây, muốn chúng ta đi theo để chống lại đội quân Hà Hiệp . các ngươi nói xem, chúng ta có nên cự tuyệt không?”.

    Xung quanh nhất tề yên lặng, không có cả một tiếng ho.

    Nhược Hàn hỏi thêm lần nữa, bốn bề vẫn lặng ngắt.

    “Được…”, Nhược Hàn nhìn quanh, “Ta hiểu rồi”.

    Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, trầm giọng: “Vương tộc Bắc Mạc đã bị Hà Hiệp tiêu diệt hoàn toàn, đất đai Bắc Mạc cũng bị đại quân Vân Thường thỏa sức giày xéo. Lúc này, việc ngu xuẩn nhất là không bước qua được mối thù năm xưa giữa Bắc Mạc và Đông Lâm… Ai có thể đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này, Nhược Hàn sẽ phong người đó làm chủ soái, nguyện đi theo chinh chiến trên sa trường”.

    Sở Bắc Tiệp nở nụ cười, khuỷu tay khẽ động, một âm thanh khỏe khoắn và dứt khoát vang lên.

    Dưới ánh mặt trời, hàn quang của Thần uy bảo kiếm nổi danh thiên hạ soi rọi bốn bề, Trấn Bắc vương đã rút kiếm ra khỏi bao.

    “Ta sẽ đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này. Các tướng sĩ có bằng lòng theo ta không?”

    Mọi người đều nghe thấy âm thanh thấp trầm mà ẩn chứa sức mạnh của Sở Bắc Tiệp.

    Bốn bề yên ắng hơn cả khi nãy.

    Sự yên ắng đến ngột thở.

    “Có ai bằng lòng đi theo Sở Bắc Tiệp?”, Sở Bắc Tiệp cao giọng hỏi.

    Sính Đình chậm rãi ngẩng đầu, ánh mắt lướt qua từng khuôn mặt nhuốm vàng vì bụi đất.

    “Ta!”, có người cất tiếng.

    “Ta!”, một giọng khác vang lên.

    “Ta!”, có người hét thật to.

    “Ta bằng lòng!”

    “Ta!”

    “Ta, và cả ta nữa!”

    “Ta!”

    “Ta!”



    Lời đáp to như sấm, cả cổ thành bừng lên những tiếng gầm vang nối tiếp nhau.

    Đi theo Trấn Bắc vương.

    Đi theo kẻ thù năm xưa của Bắc Mạc, đi theo nam nhân có thể đuổi nỗi tuyệt vọng ra khỏi mảnh đất này, đi theo danh tướng có thể đánh bại được Hà Hiệp .

    Đại vương đã chết, vương cung cũng không còn, quê hương bị giày xéo, phụ mẫu thê nhi bị binh mã Vân Thường lăng nhục đủ bề.

    Nhưng, họ có khao khát muốn sống tiếp, có dũng khí không chịu khuất phục, có ý chí chiến đấu không bao giờ tan rã, có bầu nhiệt huyết sẵn sàng đổ máu để bảo vệ mảnh đất quê hương, và có cả… Trấn Bắc vương.

    “Trấn Bắc vương!”

    “Trấn Bắc vương! Đánh bại Hà Hiệp!”

    “Đánh bại Hà Hiệp! Đánh bại Hà Hiệp! Đuổi sạch quân Vân Thường…”

    Cổ thành Giang Linh sục sôi.

    Trên từng khuôn mặt trẻ tuổi, ngoài bụi đất, cáu bẩn, vết thương, dấu máu, còn cả nụ cười xúc động và những giọt nước mắt lăn tròn.

    Đôi mắt to rộng cũng trào ra hai dòng lệ xúc động, Nhược Hàn rút kiếm, bước lên trước, hét vang: “Nhược Hàn xin thề với kiếm, từ giờ trở đi, ta không còn là thượng tướng quân Bắc Mạc nữa, ta chỉ là tướng lĩnh Nhược Hàn của Trấn Bắc vương! Mong Trấn Bắc vương cũng ghi nhớ lời thề của mình!”.

    “Ta sẽ đánh bại tất cả những kẻ khiến sinh linh lầm than, bao gồm cả Hà Hiệp .” Sở Bắc Tiệp trầm giọng trả lời, ánh mắt vô cùng dịu dàng nhìn về phía Sính Đình, “Bởi ta đã hứa với nữ nhân thân yêu nhất lòng mình là sẽ mang đến cho nàng một thiên hạ thái bình”.

    Sính Đình không ngờ, ngay lúc này, Sở Bắc Tiệp lại bày tỏ tình yêu trước tất cả mọi người. Tuy rằng tiếng reo hò nổi lên khắp nơi, chỉ có Nhược Hàn, Sâm Vinh và mấy người quen thuộc đứng bên nghe thấy câu nói ấy nhưng hai gò má nàng đã đỏ bừng, không biết ứng phó thế nào. Nàng cúi xuống, một lúc sau mới miễn cưỡng khôi phục lại vẻ ung dung khi trước, khẽ khàng đưa ra chủ ý: “Nay sĩ khí đang mạnh, chính là lúc cần danh chính rồi ngôn mới thuận. đây là cánh quân đầu tiên của vương gia sau khi tái xuất, liệu có nên lấy một danh hiệu chính thức? Ví như… Trấn Bắc quân”.

    Lời nói của nàng còn chứa đựng cả một ý khác. Sở Bắc Tiệp lần này tập hợp tàn binh các nước để đối phó với quân Vân Thường, như vậy trong quân của Sở Bắc Tiệp ngoài binh sĩ Đông Lâm còn có cả binh sĩ những nước còn lại, nên tuyệt đối không thể dùng hai chữ “Đông Lâm”, để tránh cho tướng sĩ các nước tham chiến khác buồn phiền.

    Sở Bắc Tiệp dẫn binh nhiều năm, sao không nghe ra ý của Sính Đình, nên cười gật đầu nói: “Đúng, ta nên đặt một cái tên”. Sở Bắc Tiệp khua kiếm chém ngang bầu trời, hét lên, “Các tướng sĩ hãy im lặng, nghe ta nói câu này!”.

    Sở Bắc Tiệp vừa lên tiếng, xung quanh lập tức yên ắng, chờ đợi vị chủ soái vô địch này cất lời.

    “Từ nay trở đi, chúng ta sẽ thành đội quân đối kháng Hà Hiệp ”, Sở Bắc Tiệp chậm rãi nói, “Đại quân này không gọi là Trấn Bắc quân, cũng không gọi là Bắc Tiệp quân, càng không phải Đông Lâm quân. Tên của đội quân này sẽ là Đình quân!”

    Sính Đình khẽ kêu lên một tiếng, vẻ không thể nào tin, nhìn về phía Sở Bắc Tiệp.

    “Sẽ có người hỏi, tại sao lại là Đình quân?” Sở Bắc Tiệp giơ cánh tay to khỏe ôm lấy Sính Đình nhỏ bé, kéo vào lòng mình, cất cao giọng, “Bởi vì nữ nhân thân yêu nhất của ta tên là Bạch Sính Đình . ta đã hứa với nàng, sẽ vì nàng mà dẹp yên loạn lạc, đem lại cho nàng một thiên hạ yên vui, ta khiêu chiến với Hà Hiệp vì muốn bảo vệ Sính Đình, bảo vệ điều quý giá nhất trong cuộc đời Sở Bắc Tiệp”.

    “Các tướng sĩ, các vị đi theo ta không vì quyền lực, tiền tài, đất đai, không để đáp ứng dã tâm của những quý nhân muốn tranh quyền đoạt thế, cũng chẳng phải bị vương lệnh thúc ép, càng không phải vì Sở Bắc Tiệp ta”

    “Rốt cuộc vì điều gì mà phải mạo hiểm theo ta?”

    “Chẳng lẽ các ngươi lại không giống Sở Bắc Tiệp ta?”

    “Chúng ta đổ máu để bảo vệ người thân yêu nhất, chúng ta sẵn sàng bị thương vì những người chúng ta quý trọng, chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mạng vì tâm nguyện của mình!”.

    “Hãy nói cho ta biết, các ngươi cũng giống ta!”

    “Hãy nói cho ta biết, hỡi các tướng sĩ Đình quân, các ngươi sẽ không bao giờ quên người thân yêu nhất của mình, sẽ không bao giờ quên tất cả những gì các ngươi quý trọng! Sẽ không bao giờ quên tại sao mình lại chiến đấu!”

    “Hãy nói cho ta biết, đội quân này tên là gì?”

    Giọng nói của Sở Bắc Tiệp xuyên qua tường thành cũ kỹ, vang vọng đến tận trời cao muôn trượng.

    Sau khoảng khắc tĩnh lặng, những thanh âm sôi sùng sục tràn khắp không gian.

    “Đình quân!”

    “Đình quân! Đình quân!”

    “Đình quân!”



    Cả thành trì Giang Linh đang gào thét, đang chấn động.

    Sính Đình dựa vào lồng ngực ấm áp của Sở Bắc Tiệp, nước mắt nóng hổi trào ra.

    Sâm Vinh bước tới, giọng khâm phục: “Nhất định Trấn Bắc vương là người tình lợi hại nhất thiên hạ”

    “Ta không biết có phải là người tình lợi hại nhất thiên hạ hay không?”, Nhược Hàn thở dài, “Nhưng ta có thể khẳng định, Sở Bắc Tiệp tuyệt đối là vị thống soái hiểu cách động viên lòng quân nhất trong thiên hạ”.
     
  15. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 54
    Vương cung Vân Thường, đình đài vẫn nguyên.

    Ánh tịch dương đã tắt.

    Vương tọa Diệu Thiên công chúa từng ngồi vẫn lặng lẽ đặt trong đại điện, tấm rèm che vẫn cô đơn đung đưa theo gió, phấn son dùng dở quạnh quẽ trước gương.

    Hà Hiệp bước qua bao lớp thị vệ, từ con đường lớn của vương cung đi tới. Dọc theo hành lang, đường đi ngày càng nhỏ hẹp. Hà Hiệp dừng ở một góc khuất nhất, ổ khóa to đùng khóa chặt cánh cửa gỗ của gian phòng trước mặt.

    Diệu Thiên công chúa cùng thị nữ thân thiết Lục Y đã bị chuyển đến giam lỏng ở đây. Chỉ những thị vệ Hà Hiệp tin tưởng mới được cử đến canh giữ gian phòng nhỏ này.

    “Phò mã.” Tên trưởng thị vệ bước tới, thỉnh an Hà Hiệp, rồi thận trọng hỏi, “Phò mã có cần mở cửa vào trong không?”.

    Đôi mắt đen của Hà Hiệp lặng lẽ nhìn cánh cửa gỗ đang khóa chặt.

    Diệu Thiên ở trong đó.

    Thê tử của Hà Hiệp, mẫu thân của hài nhi hắn, công chúa dịu dàng thân thiết có nụ cười lay động lòng người, chủ nhân Vân Thường đích thân viết vương lệnh, muốn hỏi tội danh mưu phản của Hà Hiệp, muốn xử Hà Hiệp tội chết, muốn đưa Hà Hiệp vào con đường cùng, đang ở trong gian phòng này.

    Hà Hiệp vẫn dán mắt vào ổ khóa trên cánh cửa, dường như nó không chỉ khóa chặt cánh cửa, mà còn khóa cả trái tim Hà Hiệp. Hắn đứng đó, yên lặng hồi lâu, rồi mới chậm rãi lắc đầu: “Ta không vào, đừng nói ta đã tới đây. Người mang cái này vào trong, nói với Công chúa rằng ta đã đọc được vương lệnh, Chưởng ấn đại nhân đã bị bí mật xử tử. Đây là quà đáp lễ của ta, có sự giúp sức của Phong Âmcô nương mà Công chúa đã ban tặng cho ta”.

    Trưởng thị vệ dạ một tiếng, thận trọng đỡ lấy hộp gấm từ tay Hà Hiệp, rồi bước đến trước cửa, lấy chìa khóa mở cửa, đi vào.

    Khoảnh khắc cánh cửa mở ra, Hà Hiệp ngẩng đầu nhìn vào, bên trong tối om.

    Chẳng mấy chốc, cánh cửa gỗ lại được mở ra từ bên trong, trưởng thị vệ bước ra ngoài, cẩn thận khóa cửa lại, rồi đến phụng mệnh với Hà Hiệp: “Bẩm, đã dâng lễ vật lên Công chúa và chuyển lời của Phò mã, không thừa một từ”.

    “A!” Trong gian phòng bỗng vang lên tiếng kêu thảm thiết.

    Tiếng kêu thảm thiết đáng sợ, hoàn toàn lạc điệu, nhưng những người biết giọng nói của Công chúa đều nhận ra đó chính là tiếng kêu của Diệu Thiên.

    Những thị vệ được chọn canh giữ ở đây đều không phải bình thường, nhưng khi nghe thấy tiếng kêu ấy, gần như tất cả đám thị vệ, bao gồm cả trưởng thị vệ này đều phải rùng mình.

    Sau tiếng kêu thảm thiết là tiếng “rầm”, hình như có vật gì đó đang đập mạnh xuống nền gạch.

    Mọi người đoán chắc Diệu Thiên công chúa mở hộp gấm, nhìn thấy thứ bên trong. Nhưng, rốt cuộc Phò mã đã tặng gì mà khiến Công chúa sợ hãi và tuyệt vọng đến thế?

    Khi đám người thị vệ trao nhau ánh nhìn sợ hãi, sắc mặt Hà Hiệp vẫn bình tĩnh đến rợn người.

    Chỉ có Hà Hiệp mới biết bên trong hộp gấm đó chứa thứ gì.

    Hộp gấm đựng một bảo bối, ít nhất là trước đó, Công chúa và Quý Thường Thanh đều coi đây như một bảo bối.

    Họ cứ tưởng, nó có thể tấu lên những tiếng đàn sánh với Sính Đình. Họ ngỡ rằng, nó có tư cách động đến những gì Hà Hiệp đã dày công sắp xếp cho Sính Đình, cầm chiếc lược Sính Đình đã từng cầm, đắp chiếc chăn Sính Đình đã từng đắp, chạm vào cây đàn Sính Đình đã từng chạm.

    Nhưng, trong mắt Hà Hiệp, đó hoàn toàn không phải một bảo bối, mà là một binh khí họ đưa đến để giày vò trái tim Hà Hiệp.

    Đôi bàn tay biết đánh đàn của Phong Âmở trên người chủ nó chi bằng chặt nó đi, kệ máu chảy ròng ròng mà để vào hộp gấm, mang tới làm lễ vật.

    Bao nhiêu giày vò sỉ nhục ngày trước, tiểu Kính An vương này sẽ hai tay dâng lên trả cho chủ cũ.

    “Công chúa! Công chúa! Công chúa sao thế? Công chúa!” Giọng của Lục Y như vỡ thành từng mảnh, run rẩy lọt qua khe cửa gỗ, vọng ra bên ngoài.

    Tất cả những người bên ngoài đều lắng tai nghe, suy đoán động tĩnh bên trong. Lục Y kêu lên vài tiếng, không biết tại sao cũng đột ngột ngừng bặt, bên trong và bên ngoài bất chợt yên tĩnh một cách chết chóc. Một lúc sau, Lục Y lại kêu lên: “Người đâu! Người đâu!”.

    “Người đâu! Công chúa ngất rồi, gọi ngự y! Mau gọi ngự y!”

    “Thị vệ đại ca, thị vệ đại ca ơi, cầu xin các người, hãy bẩm báo với Phò mã đi!”

    “Công chúa... Công chúa... Trời ơi, máu!” Cánh cửa gỗ ầm một tiếng, không biết có thứ gì thúc mạnh vào, khiến đám thị vệ đứng bên ngoài thót tim. Bên trong là tiếng móng tay đang cào vào cánh cửa.

    “Máu, máu! Người đâu! Người đâu! Người đâu...”, Lục Y gào khóc.

    Tiếng gào khóc hoảng loạn của Lục Y càng khiến đám thị vệ sởn da gà, ai nấy đều liếc trộm Hà Hiệp.

    Nghe tiếng kêu khóc của Lục Y, Hà Hiệp bèn bảo: “Các ngươi lui hết ra, không có sự cho phép của ta, bất cứ ai cũng không được lại gần”.

    Đám thị vệ nghe tiếng kêu như trong ác mộng, chỉ mong có thể nhanh chóng rời khỏi đây, nên lập tức rút sạch.

    “Cầu xin các đại ca hãy gọi ngự y đến, ai cũng được, gọi ai cũng được...”, Lục Y vẫn đang khóc lóc trong phòng, rồi liên tiếp mấy tiếng rầm rầm, hình như Lục Y quay lại bên Diệu Thiên, trong lúc hoảng loạn mà va phải bàn ghế.

    Choang!

    Chiếc chậu rửa mặt cũng rơi xuống đất.

    “Công chúa, công chúa tỉnh rồi à?”, giọng Lục Y nhỏ hơn một chút, “Công chúa không sao chứ! Công chúa làm nô tỳ sợ quá...”.

    “Lục Y, ta đau quá...”, là tiếng của Diệu Thiên.

    Một lúc sau.

    “Máu, sao lại nhiều máu thế này...” Tiếng nói yếu ớt mà kinh hoàng của Diệu Thiên.

    “Công chúa! Công chúa cứ nằm yên... Người đâu! Cứu mạng! Công chúa sinh non rồi, người đâu!” Lục Y lại bắt đầu gào khóc, tiếng kêu xé ruột, xé gan hơn lúc nãy, “Phò mã, Phò mã mau đến đây đi! Công chúa sinh non, Công chúa... Công chúa không ổn rồi!”.

    Hà Hiệp đứng bên ngoài, ánh mắt u ám như ngọn lửa sắp tắt chỉ còn chút ánh sáng cuối cùng.

    “Công chúa, Công chúa! Cứu với, cứu Công chúa đi, cầu xin các người hãy mở cửa. Chúng ta cần ngự y, nếu không, cho một ít thuốc cũng được!” Cánh cửa lại phát ra những tiếng động dữ dội, Lục Y đang điên cuồng đập vào đó, giọng khản đặc.

    “Cầu xin các người, cầu xin các người! Công chúa sinh non rồi! Ngự y, ngự y!”

    “Phò mã, Phò mã thật nhẫn tâm...”

    Phò mã.

    Phò mã Vân Thường, dưới một người, trên cả vạn người.

    Thuở ban đầu, ai khẽ liếc đôi mắt trong veo, làn môi thoáng nét cười dịu dàng, như tiên nữ vén mây xuống đoan trang ngồi trên vương tọa?

    Khẽ dựa kề bên, áo tơ khăn lụa.

    Đình hoa sắc thắm, mơ tưởng uyên ương.

    Nhớ đêm động phòng hoa chúc, khi Hà Hiệp nâng mũ phượng trên đầu thê tử lên, Diệu Thiên từng thở dài: “Đêm động phòng hoa chúc, nam nhân đứng trước mặt thiếp, nam nhân sẽ chung sống với thiếp cả đời là một trang văn võ song toàn, một bậc anh hùng cái thế. Cảnh này, người này đẹp tựa trong mộng, chỉ lo đây là giấc mộng đẹp mà thôi”.

    Nụ cười tươi tắn trong ánh nến, đôi má ửng hồng như men rượu say.

    Công chúa, thê tử của ta, đây không phải giấc mộng đẹp, mà là một cơn ác mộng.

    Ta và nàng tất phải mất một, đây là cơn ác mộng không ai có thể tránh khỏi.

    “Cứu với! Có ai cứu Công chúa... Cầu xin các đại ca, cầu xin các người...” Giọng nói khiến tim người ta tan vỡ của Lục Y cứ vang vọng bên tai.

    Khuôn mặt đẹp của Hà Hiệp khẽ co, cảm thấy lòng bàn tay lạnh toát. Hà Hiệp vội cúi đầu xuống, mới phát hiện không biết từ lúc nào mình đã đến bên cửa gỗ, tay nắm chặt ổ khóa. Hắn sững người, buông tay ra, lùi một bước, rồi đứng sững lại.

    “Người đâu, cứu mạng! Cầu xin các người hãy cứu lấy Công chúa...”

    “Phò mã, Phò mã không thể nhẫn tâm như thế! Cầu xin các người hãy nói với Phò mã một tiếng, Công chúa sắp chết rồi...”, Lục Y gào khóc, hét lên từng tiếng, “Dù có muốn giết Công chúa, Phò mã cũng không thể bỏ mặc cốt nhục của mình. Cầu xin các đại ca ngoài kia, hãy thông báo cho Phò mã, hãy báo tin cho Phò mã!”.

    Giết Công chúa?

    Hà Hiệp lắc đầu, không, hắn chưa từng có ý định giết Công chúa. Hà Hiệp đã nghĩ cách đoạt vương quyền, phế bỏ vương vị của Công chúa, nhưng chưa từng nghĩ đến việc giết nàng.

    Sao phải giết nàng chứ? Đời này kiếp này Công chúa đã là thê tử của Hà Hiệp, là vương hậu tương lai của Hà Hiệp. Hà Hiệp đã nói, sẽ khiến Công chúa trở thành nữ nhân tôn quý nhất trong thiên hạ. Hà Hiệp không muốn ra tay, không hề muốn ra tay.

    Nhưng, thê tử của Hà Hiệp lại viết vương lệnh, liên kết với đám quan lại, định cho Hà Hiệp tội mưu phản. Vương lệnh chắc như đinh đóng cột, viết rõ sẽ xử Hà Hiệp tội chết.

    Chỉ một chút, chỉ một chút nữa thôi, chưa biết chừng người bị nhốt trong kia sẽ là Hà Hiệp, người đang quằn quại trong vũng máu kia sẽ là Hà Hiệp, người bị băm vằm thành trăm mảnh cũng chính là Hà Hiệp!

    Ác mộng, đây là cơn ác mộng.

    Xen lẫn tiếng gào khóc của Lục Y là từng tiếng kêu thảm thiết của Diệu Thiên.

    “A... a a! Lục Y, ta không chịu nổi nữa rồi...”

    “Công chúa, ngự y... sẽ đến ngay, sẽ đến ngay...”

    “Không, không, ta không cần ngự y, ta cần gặp Phò mã... Phò mã....”

    “Công chúa...”

    “Mau, mau đi tìm người gọi Phò mã đến...”

    Lục Y khóc nấc lên: “Công chúa, Phò mã...”.

    “Lục Y, ta muốn gặp Phò mã... Ta không chịu được nữa rồi, ta muốn gặp Phò mã. Mau đi đi, Phò mã sẽ gặp ta mà...” Giọng nói yếu ớt của Diệu Thiên ngắt quãng, nhưng vẫn vô cùng cố chấp.

    Công chúa!

    Hà Hiệp vẫn đứng im như tượng bên ngoài bỗng đấu tranh trong lòng, loạng choạng đến bên cửa gỗ, năm ngón tay nắm chặt ổ khóa nặng và giá lạnh.

    Lạnh băng. Nặng trịch.

    Đây là ổ khóa trong trái tim Hà Hiệp, ổ khóa của cuộc đời Hà Hiệp.

    Nếu công chúa vẫn còn, sự việc vương lệnh kia sẽ lại tái diễn. Không gì có thể thay đổi được kết cục này.

    Hà Hiệp nắm lấy ổ khóa, lòng bàn tay mồ hôi ướt đẫm, lạnh buốt.

    Diệu Thiên vẫn không ngừng kêu rên: “Phò mã... Tìm Phò mã cho ta, chàng sẽ gặp ta... Tìm Phò mã cho ta... A! Ta đau quá...”.

    Diệu Thiên dừng một lúc, bỗng cất giọng, gào lên: “Phò mã, chàng đã đến đúng không? Là thiếp đã viết vương lệnh, nhưng dù chàng có hận thiếp, muốn giết thiếp, thì tình nghĩa phu thê giữa chúng ta, chẳng lẽ chàng lại không muốn gặp thiếp lần cuối? Phò mã... Phò mã...”.

    Bàn nay nắm chặt ổ khóa của Hà Hiệp bỗng run rẩy.

    Công chúa, Công chúa, ta không thể gặp nàng.

    Nàng là thê tử của Hà Hiệp, là thê tử duy nhất của Hà Hiệp trong cuộc đời này.

    Ta không hận nàng để Quý Thường Thanh chèn ép ta, ta không hận nàng làm ta mất Sính Đình, ta không hận nàng.

    Ta chỉ hận ông Trời, hận cơn ác mộng này, hận những điều khiến nàng phải viết trong vương lệnh xử ta tội chết, hận tất cả những việc khiến ta không thể giữ trọn nàng.

    Nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt nhăn nhúm vì đau khổ, Hà Hiệp nắm chặt ổ khóa, nghe tiếng Diệu Thiên gào khóc, bất lực quỳ bên ngoài.

    Sáng sớm, tiếng chuông tang nặng nề, thành kính làm kinh động dân chúng Vân Thường đang sắp bắt đầu một ngày mới bận rộn.

    Nhìn từ xa, cả vương cung Vân Thường chìm trong sắc trắng, vô cùng thê lương.

    Dân chúng Vân Thường đau đớn nghe tin, chủ nhân Vân Thường hoài thai sáu tháng, công chúa của họ, vì sức khỏe yếu nên sinh non, hương tan ngọc vỡ trong lòng Phò mã.

    Điều họ không biết là, cũng trong đêm đó, rất nhiều quan viên của triều đình bị binh lính bí mật đưa đi xử tử với những tội danh khác nhau.

    Đông Lâm.

    Màn đêm trĩu nặng, trăng sao im tiếng.

    Mạc Nhiên nấp trong rừng, cảnh giác nhìn chăm chăm về phía những ánh lửa xa xa.

    Lửa cháy ngút trời, hình thành một đường cánh cung, bao vây toàn bộ vùng rừng núi họ đang náu thân.

    Mũi tên nằm sẵn trên dây cung, căng mà chưa bắn.

    Tình thế nguy cấp đã kéo dài mấy ngày nay. Chút lực lượng cuối cùng của vương tộc Đông Lâm đang bị trói chân tại đây, không thể rời đi. Cả hai đội quân đều hiểu rõ, sự tĩnh lặng hiện tại chỉ là vẻ bề ngoài, ẩn chứa sát khí bên trong.

    Bỗng có tiếng sột soạt từ bụi cỏ bên cạnh.

    “Không biết lúc nào Hà Hiệp sẽ đến?”, La Thượng thận trọng tiến tới sát Mạc Nhiên, cùng nhìn về phía quân địch đang bao vây mình mấy ngày nay từ đằng xa.

    Mạc Nhiên hạ giọng: “Dù Hà Hiệp xuất phát từ thành đô Vân Thường, chắc giờ cũng đã đến đây. Theo ta thì trước tối mai, chúng sẽ dốc toàn lực tấn công”.

    Tảng đá đè nặng trong lòng họ lại nặng thêm vài phần.

    Địch đông ta ít, trận thế phía trước của đại quân Vân Thường khiến người ta nhìn mà khiếp sợ, Mạc Nhiên cùng ít binh mã còn ở đây chẳng dám nghĩ đến việc bảo vệ được Vương Hậu, thậm chí họ còn chẳng dám hi vọng có một người sống sót mà ra khỏi chỗ này.

    Không lẽ Đông Lâm binh khỏe mã cường từng xưng bá tứ quốc, lại lâm vào bước đường cùng?

    Hai người nấp trong rừng, nhìn về phía những bóng người đang chuyển động nơi doanh trại Vân Thường trong màn đêm. Không khí như bị đè nén đến cực độ, La Thượng hạ giọng: “Bệnh tình của Vương hậu nương nương ngày càng nặng...”. Một hán tử vẫn luôn lạc quan, giọng nói giờ cũng trĩu nặng buồn đau.

    “Chớ lên tiếng!”, Mạc Nhiên gằn từng tiếng, “Nhìn xem!”.

    La Thượng nhìn theo ánh mắc Mạc Nhiên, binh tướng quân địch đang được điều động, trận địa từ từ di chuyển, rõ ràng là sự chuẩn bị trước lúc tấn công.

    “Xem ra Hà Hiệp đến rồi”, La Thượng hạ giọng.

    Mạc Nhiên lạnh lùng gật đầu, ánh mắt sắc nhọn giám sát mọi động tĩnh của quân địch đằng xa. Đại quân Vân Thường ngay hàng thẳng lối sắp sẵn trận thế trên dốc núi. Số binh sĩ bao vây cánh rừng này vốn đã rất đông, không biết lần này Hà Hiệp còn mang thêm bao nhiêu binh mã? Dòng binh mã cuồn cuộn xuất hiện trong tầm nhìn của họ, mỗi đội lính đều có người cầm đuốc riêng, đại quân kéo dài dằng dặc, như con rồng lửa uốn lượn trong khe núi.

    Mạc Nhiên và La Thượng đi theo Sở Bắc Tiệp chinh phạt nam bắc, trải qua hàng trăm trận đánh, nhưng chưa từng gặp trận chiến nào chênh lệch đến mức này, họ bỗng thấy thực lạnh lòng.

    Mạc Nhiên nhìn La Thượng, cắn răng nói: “Trận chiến sinh tử sắp bắt đầu, ngươi qua bảo vệ Vương hậu nương nương. Ta sẽ cùng mọi người chống chọi ở đây”.

    La Thượng nhìn về phía bóng mâu ánh kiếm tua tủa như rừng phía xa, lại nhìn đám binh sĩ ít ỏi đến tội nghiệp sau lưng, hiểu rõ không một người Đông Lâm nào có thể thoát chết trong trận chiến này. La Thượng đi theo Sở Bắc Tiệp nhiều năm, sống chết đã thành chuyện thường, đến thời khắc quyết định cũng không lôi thôi dài dòng, chỉ trầm giọng: “Huynh đệ tốt, cố giết thêm vài tên địch, xuống suối vàng chúng ta so xem ai giết được nhiều hơn”. Nói xong, La Thượng vỗ vào vai Mạc Nhiên một cái, rồi lùi vào trong rừng, báo cáo với Vương hậu tin xấu này.

    Tu...

    Tiếng hiệu lệnh chậm rãi vang lên phía dốc núi đối diện, vọng đến trời cao.

    Tùng, tùng...

    Sau hiệu lệnh là tiếng trống trận trầm hùng, rất có tiết tấu, ban đầu là hai, ba tiếng tách rời nhau, như bầu trời âm u nhiều ngày cuối cùng cũng lác đác vài hạt mưa, dần dần, mưa như trút nước, tiếng trống càng lúc càng dày, tiết tấu mỗi lúc một nhanh, giống như cả mặt đất bao la đang run sợ trước thế trận này, khiến cho mỗi binh sĩ Đông Lâm cũng thấy tim mình đập nhanh theo tiếng trống dồn.

    Khi tiếng trống ầm ầm vang dội tới tận mây xanh, đoàn quân Vân Thường đã sắp sẵn thế trận cũng bắt đầu chuyển động.

    Lửa cháy ngút trời, những bóng đao khí thế tiến về phía rừng rậm đã bị bao vây nhiều ngày nay.

    “Đứng dậy, thế địch lớn mạnh, ẩn nấp vô ích.” Mạc Nhiên đứng lên khỏi chỗ ẩn nấp đã nhiều giờ, quay lại nhìn các binh sĩ cùng ẩn nấp phía sau, “Trận chiến sinh tử đã bắt đầu, hỡi những nam nhi Đông Lâm, hãy ngẩng cao đầu!”.

    Một chiến tướng dẫn đầu quân địch đang khua kiếm chỉ huy đại quân lại gần.

    Móng sắt xé tan sự yên ắng, càng tô thêm vẻ tĩnh lặng chốn rừng già.

    Đại diện cho vương tộc Đông Lâm – Vương hậu và cả chút binh lực cuối cùng của Đông Lâm – đang trốn trong rừng rậm yên tĩnh này.

    Mạc Nhiên bất chấp sống chết, nhìn về phía đoàn quân. Vân Thường lớn mạnh đang ầm ầm kéo đến như mây đen, thể hiện sự dũng mãnh đã được tôi luyện khi theo Sở Bắc Tiệp nhiều năm, rút kiếm khỏi bao, bình tĩnh chờ đợi khoảnh khắc sinh tử.

    Ánh lửa rừng rực từ từ tiến lại gần, soi rõ cả khu rừng.

    Mạc Nhiên dẫn theo những tướng sĩ cùng vào sinh ra tử với mình, tuốt kiếm đứng giữa gió đêm rét buốt.

    Ai cũng nín thở.

    Đông Lâm, mảnh đất sinh ra ta, nuôi dưỡng ta, sẽ thấm máu của ta, chôn cất thi thể ta.

    Không ai sợ hãi, họ đã từng theo Trấn Bắc vương vô địch thiên hạ, từng chứng kiến sự huy hoàng đến trong khoảnh khắc sinh tử.

    Sự giác ngộ về cái chết khiến ánh mắt họ càng thêm giận dữ.

    Đại quân Vân Thường càng lúc càng tới gần, tiếng vó ngựa trở nên gấp gáp hơn.

    “Giết! Giết! Giết!” Tiếng gầm trong cổ họng của những binh sĩ Vân Thường kết thành âm thanh đáng sợ, vang vọng vào tận núi rừng.

    Vị tướng quân Vân Thường rút kiếm, chiến mã tung vó, đại quân Vân Thường như con mãnh thú khổng lồ vừa được tháo xiềng, xông về phía đám người Mạc Nhiên với tốc độ nhanh nhất.

    Đến đây!

    Mạc Nhiên cầm chắc thanh bảo kiếm, biết mình ở vào thế tất bị dòng nước lũ cuốn đi, cũng giống như Đông Lâm ở vào thế phải trở thành lịch sử trong đám lửa này.

    “Giết! Giết!”

    Ánh lửa bừng bừng soi rõ từng khuôn mặt binh lính.

    Binh mã, lưỡi mác, ánh kiếm che khuất tầm nhìn. Thiên quân vạn mã đến cùng tiếng gió. Bầu không khí nặng nề không thể tiếp tục ngăn cách hai quân với thế lực hoàn toàn chênh lệch.

    Mạc Nhiên nhìn chằm chằm tướng lĩnh đang chỉ huy đại quân Vân Thường ngay trước mặt. Đó nhất định là chủ soái của Vân Thường trong lần quyết chiến này.

    “Giết!”

    Tuấn mã lao tới, tướng địch từ trên cao nhìn xuống, vung kiếm tới đầu Mạc Nhiên.

    Khoảnh khắc Mạc Nhiên giơ kiếm lên đỡ, bỗng nghe có tiếng xé gió.

    Vút!

    Trống trận ầm ầm, tiếng chết chóc ngút trời, Mạc Nhiên lại nghe thấy tiếng xé gió, dường như tất cả những âm thanh giết chóc kia đều không thể địch lại âm thanh sắc nhọn này.

    “A!” Tướng địch đang trên lưng ngựa bỗng kêu lên thảm thiết. Cánh tay cầm kiếm đưa về phía đầu Mạc Nhiên bỗng dừng giữa không trung, cả người lảo đảo, ngã xuống ngựa.

    Một mũi tên vàng chói lọi từ phía sau đâm thẳng đến trước trán tên tướng lĩnh.

    Cung thật mạnh, tên thật nhanh, ngắm thật chuẩn xác.

    Mọi người đều sững sờ trước màn kinh hoàng này.

    Cái chết bất ngờ của chủ tướng Vân Thường đúng vào lúc hai bên bắt đầu giao chiến đã gây chấn động cho những binh sĩ Vân Thường tận mắt chứng kiến hơn bất cứ việc gì.

    Nháy mắt, chỉ trong nháy mắt.

    Chủ soái lại chết ngay khoảnh khắc đầu tiên khi trận chiến diễn ra.

    Trầm Cảnh đại tướng quân đã tử trận.

    Một trong bảy cánh quân của Vân Thường, Đại tướng quân Trầm Cảnh của đạo quân Úy Mặc đã trúng tên, chết ngay khi lâm trận.

    Người nào lại có được bản lĩnh này?

    Mũi tên vàng bắn từ phía sau, người bắn tên ở phía đó. Binh sĩ Vân Thường vô cùng hoảng hốt, quay lại nhìn về phía sau đoàn quân.

    Họ đã nhìn thấy.

    Trên dốc núi phía sau, một kỵ binh xuất hiện dưới ánh trăng.

    Nhìn rõ hình bóng ấy, cả người Mạc Nhiên chấn động, xúc động đến nỗi không thể cầm chắc thanh kiếm.

    Điều này có thật không?

    Người đó một tay cầm dây cương, một tay giương cung, dừng ngựa ngay trên đỉnh dốc. Ánh trăng tuy sáng, nhưng những người ở đây không nhìn rõ khuôn mặt ấy. Trong mờ ảo, họ chỉ cảm thấy một vầng sáng xuất hiện phía sau. Một dáng hình ngạo nghễ liếc nhìn thiên quân vạn mã Vân Thường, giống hệt như thiên tướng hạ phàm.

    Cự ly xa như thế...

    Người đó chính là chủ nhân của mũi tên vàng?

    Đích thân trả lời câu hỏi này, kỵ binh ấy lại rút tên, giương cung, động tác thuần thục như mây trôi nước chảy. Tiếng xé gió lại vang lên, khí thế khiến người ta khiếp sợ, chỉ trong nháy mắt, kim quan xuất hiện.

    “A!” Một tiếng kêu thảm khốc nữa vang lên, xóa tan không gian yên tĩnh vì cái chết của Trầm Cảnh.

    Trước bao nhiêu con mắt, vị phó tướng Vân Thường cũng ngã khỏi ngựa, đổ xuống bên cạnh thi thể của Trầm Cảnh.

    Thật đáng sợ!

    Đại quân Vân Thường sợ hãi, lòng dao động. Người này là ai? Ai lại có bản lĩnh đến mức ấy?

    Đại quân Vân Thường bỗng sực tỉnh, nhận ra họ đang ở trên sa trường hiểm ác.

    Nhưng có người còn phản ứng nhanh hơn họ.

    Ánh kiếm lóe lên, tiến về phía những binh sĩ Vân Thường đứng ngay hàng đầu.

    “Vương gia! Vương gia về rồi!” Mạc Nhiên chém đổ mấy tên lính Vân Thường đã mất hết ý chí, khuôn mặt hết sức ngạc nhiên xen lẫn vui mừng của người gặp được kỳ tích, gào lên, “Các huynh đệ, hãy hét lên cùng ta, Trấn Bắc vương đã về!”.

    “Trấn Bắc vương đã về!”

    “Trấn Bắc vương đã về!”

    “Trấn Bắc vương đã về!”

    Tiếng hô vang dội khắp đất trời.

    Trong bóng đao ánh kiếm, ba tiếng “Trấn Bắc vương” như một thứ vũ khí lợi hại nhất, tước đi toàn bộ ý chí còn sót lại của đoàn quân Vân Thường.

    Trấn Bắc vương, Trấn Bắc vương từng dẫn theo đại quân Đông Lâm chinh chiến khắp thiên hạ.

    Ngay cả Phò mã Vân Thường, chiến thần của Vân Thường cũng không dám coi nhẹ Trấn Bắc vương.

    Nam nhân mà đứng giữa thiên quân vạn mã, chỉ cần một mũi tên đã lấy được mạng của Đại tướng quân Trầm Cảnh.

    Sở Bắc Tiệp dừng ngựa trên dốc. Dưới ánh trăng, đoàn quân Vân Thường lại nhìn thấy một màn đáng sợ hơn, bên cạnh Sở Bắc Tiệp đột ngột xuất hiện bao nhiêu binh mã.

    Ở bên kia dốc núi, phía sau đại quân Vân Thường và Đông Lâm, cũng đã sắp sẵn quân mai phục, quân mai phục do Trấn Bắc vương đưa tới.

    Trúng kế rồi.

    Họ đã bị Trấn Bắc vương dẫn quân tấn công từ hai phía. Sự bừng tỉnh bất ngờ này đã làm tiêu tan nốt sức chiến đấu của đại quân Vân Thường vừa mất đi trụ cột, không biết kẻ nào kêu lên tiếng đầu tiên, vứt bỏ trường thương trong tay, chạy thục mạng sang chỗ khác.

    “Trấn Bắc vương! Là Trấn Bắc vương!”

    “Chạy thôi... chạy thôi!”

    Mất đi chủ tướng và phó tướng, đại quân Vân Thường chẳng khác gì một đám cát bay.

    Mạc Nhiên dẫn theo binh mã, từ hai bên xông vào. Thấy danh tướng Sở Bắc Tiệp trong truyền thuyết bỗng nhiên xuất hiện, những binh sĩ Vân Thường vội vã vứt bỏ vũ khí, hoàn toàn mất sạch ý chí chiến đấu.

    “Giết!”

    “A!”

    Những tiếng kêu thảm thiết vang lên bên tai. Đại quân Vân Thường tháo chạy như dòng nước đục gặp tảng đá chắn ngang, bắn tung tóe.

    Trấn Bắc vương, Trấn Bắc vương trụ cột của Đông Lâm đã trở về.

    Mùi máu tanh nồng khắp rừng, trên dốc, dưới trăng.

    Không có thời gian truy kích đoàn quân Vân Thường bại trận, Mạc Nhiên bước vội qua những thi thể quân sĩ Vân Thường, lao về phía bóng hình nơi đầu dốc.

    Mạc Nhiên chạy đi với tốc độ nhanh nhất từ trước tới giờ, cho đến khi có thể nhìn thấy rõ khuôn mặt quen thuộc, vẻ ung dung mà mình cứ ngỡ cả đời này không còn được gặp lại, hắn mới dừng bước.

    “Vương gia!” Mạc Nhiên mình đầy thương tích, quỳ sụp xuống chân Sở Bắc Tiệp, “Vương gia... Vương gia đã trở về...”. Trước nay vốn kín đáo trầm tĩnh, lúc này Mạc Nhiên cũng xúc động đến không thể kiềm chế nổi bản thân, bao nhiêu lời muốn nói đều tắc nghẹn trong lòng, chỉ còn nước mắt trào ra như suối.

    Những binh sĩ Đông Lâm chạy sau Mạc Nhiên cũng vô cùng xúc động, tất cả quỳ xuống, không ngăn nổi dòng nước mắt.

    Sở Bắc Tiệp kéo Mạc Nhiên dậy, quát: “Trên sa trường, nam nhi chỉ đổ máu, không rơi lệ, khóc cái gì?”. Sau khi nhìn kỹ khuôn mặt lấm lem máu bụi của Mạc Nhiên, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Rất tốt, Mạc Nhiên, làm tốt lắm”. Biết tin những binh sĩ cuối cùng của Đông Lâm đang bị bao vây, Sở Bắc Tiệp vội vã đến đây, cuối cùng đã cứu được Mạc Nhiên và mọi người, trong lòng cũng rất xúc động, nhưng chàng không quen để lộ tình cảm trước mặt người khác, liền hỏi: “Vương tẩu thế nào!”.

    “Vương hậu nương nương đang ở trong rừng. May mà Vương gia đến kịp.” Nói đến việc chính, Mạc Nhiên đã bớt vẻ xúc động, sắc mặt cũng u ám hơn, giọng rất khẽ, “Vương gia, nương nương bệnh nặng rồi”.

    Sở Bắc Tiệp im lặng một lát rồi nói: “Ta đi thăm vương tẩu”. Sở Bắc Tiệp quay lại phía sau, giọng dịu dàng hơn nhiều, “Sính Đình, nàng đi cùng ta được không?”.

    Lúc này mới chú ý đến hình dáng yêu kiều sau lưng Sở Bắc Tiệp, Mạc Nhiên vô cùng kinh ngạc: “Bạch cô nương?”.

    Sính Đình gỡ mạng che mặt, mỉm cười: “Mạc Nhiên, lâu lắm không gặp”, rồi quay lại nói với Sở Bắc Tiệp, “Sính Đình đi theo Vương gia”. Dứt lời, nàng cứ để Sở Bắc Tiệp bế mình lên ngựa, nhẹ nhàng đặt tay mình vào lòng bàn tay vững chãi của chàng. Hai người cùng cưỡi ngựa, từ từ đi xuống dốc núi, tiến vào trong rừng.

    Mọi người đều theo xuống núi, cùng trở về doanh trại trong rừng.

    Đến gần doanh trại, gặp đúng La Thượng đang lao đi như tên bắn, gần va vào Sở Bắc Tiệp đang xuống ngựa. La Thượng ngẩng lên, nhìn khuôn mặt Sở Bắc Tiệp, liền kinh ngạc kêu lên: “Đúng là Vương gia thật rồi! Không lừa ta đấy chứ?”.

    Kỳ tích bỗng xuất hiện, La Thượng xúc động đến mức quên hết cả tôn ti, cứ nắm lấy bàn tay Sở Bắc Tiệp.

    Sở Bắc Tiệp vỗ vai La Thượng, nhìn hắn với ánh mắt trìu mến: “Tiểu tử, ngươi cũng tiến bộ nhiều. Ta phải vào gặp vương tẩu, lúc khác hàn huyên”. Chàng dắt tay Sính Đình vào trong trướng, để lại La Thượng vẫn đang đứng ngẩn người chỗ cũ.

    La Thượng vội túm lấy Mạc Nhiên đang bước tới, vẻ mặt hoàn toàn nghiêm túc: “Chắc không phải chúng ta đang ở dưới suối vàng nên mới gặp Vương gia đấy chứ?”.
     
  16. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 55
    Trong trướng, ánh nến vàng vọt.

    Sở Bắc Tiệp dắt theo Sính Đình bước vào cửa trướng, thấy Vương hậu đang nằm trên giường, mái tóc đen đã bạc mất nửa.

    Vị vương hậu một nước ung dung đoan chính trước đây, sắc mặt giờ xám xịt, u sầu chất chứa thành những nếp nhăn chằng chịt trên khuôn mặt xinh đẹp trang điểm kỹ càng ngày nào.

    Vương hậu đã ở bên Đông Lâm vương những ngày tháng cuối cùng, chịu đủ giày vò trong ngày tháng Đông Lâm xảy ra biến.

    “Vương tẩu”, Sở Bắc Tiệp lặng lẽ đến bên giường, hạ giọng gọi.

    Hai hàng mi dày của Vương hậu khẽ run, chậm rãi mở đôi mắt đã mờ đục, một lúc lâu mới nhìn rõ khuôn mặt trước mắt.

    “Vương đệ về rồi.” Vương hậu thở hắt ra, cố gắng nói từng tiếng, “Nghe nói vương đệ đã đuổi hết quân Vân Thường đang bao vây ngoài kia”.

    “Vương tẩu vất vả rồi.”

    Vương hậu lắc đầu, nở nụ cười đau khổ, ánh mắt nhìn về phía sau lưng Sở Bắc Tiệp, bỗng ngừng lại.

    Sở Bắc Tiệp phát hiện ra, bèn lui về sau một bước, nắm chặt bàn tay mềm như không xương của Sính Đình, để nàng yên tâm.

    Không khí trong trướng bỗng trở nên khác thường.

    Ánh mắt Vương hậu dừng lại rất lâu trên người Sính Đình.

    “Bạch Sính Đình?” Giọng nói của Vương hậu rất khẽ, ba tiếng từ từ lọt ra khỏi môi, ẩn giấu bao chuyện trong quá khứ khiến người ta phải nghiền ngẫm.

    Sính Đình cúi người, hành lễ: “Vương hậu nương nương”.

    “Bạch Sính Đình, Bạch cô nương...”, Vương hậu nói, “Ngươi qua đây để ta nhìn cho kỹ”.

    Sính Đình “vâng” một tiếng, khẽ khàng cất bước, dừng lại bên giường Vương hậu.

    Dưới ánh nến vàng vọt, hai đôi mắt trĩu nặng gặp nhau.

    Lần đầu tiên họ nhìn rõ khuôn mặt đối phương.

    Chuyện cũ theo gió cuốn đi, nhưng ký ức vẫn chẳng thể phai nhòa.

    Nỗi đau mất con, nỗi đau bị đưa đi khỏi biệt viện ẩn cư. Giữa bao nhiêu ân oán, Vương hậu đã mất đi hai nhi tử, Sở Bắc Tiệp mất đi Bạch Sính Đình, Đông Lâm mất đi Trấn Bắc vương.

    Cuối cùng, khi binh mã Vân Thường xâm phạm bờ cõi, Đông Lâm mất đi sự tôn nghiêm của một quốc gia.

    Họ bị số mệnh buộc lại với nhau, gây tổn thương cho người khác và làm thương chính mình. Ngày hôm nay, họ mới nhìn thấy mặt nhau.

    Vương hậu lặng lẽ nhìn Sính Đình, hỏi: “Ngươi có hận ta không?”.

    Sính Đình hỏi lại: “Vương hậu có hận Sính Đình không”.

    Chuyện cũ như ánh lửa, lóe lên trong sâu thẳm ký ức, nhưng rồi nhanh chóng phụt tắt, chỉ để lại làn khói mỏng manh, cảm thán vô cùng.

    Vương hậu rời mắt khỏi Sính Đình, nhìn sang Sở Bắc Tiệp, lặng lẽ thở dài.

    “Trước khi ra đi, Đại vương đã hỏi ta một câu.” Ánh mắt Vương hậu chứa bao ký ức, “Đại vương hỏi, nếu phu thê chúng ta sinh ra ở hai nước đối địch, liệu đời này chúng ta có thể ở bên nhau?”.

    Vương hậu không nói tiếp, như đang mải mê đuổi theo dòng ký ức.

    “Vương tẩu đã trả lời thế nào?” Hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới lên tiếng hỏi.

    Vương hậu nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, khóe miệng mỉm cười, không trả lời câu hỏi ấy, hạ giọng: “Đại vương luôn mong chờ Trấn Bắc vương trở về nắm vương quyền Đông Lâm. Giờ, ta có thể yên tâm mà đi rồi”.

    “Vương tẩu sẽ khỏe lại thôi.” Sở Bắc Tiệp quỳ một chân xuống bên giường, dịu dàng nắm tay Vương hậu, nhìn thật kỹ nữ nhân tôn quý chốn thâm cung đã vất vả chống đỡ cho Đông Lâm đến tận ngày hôm nay. Họ là người một nhà, bao lâu trước, huynh hiền đệ kính, thúc tẩu hòa hợp, cùng dự yến tiệc, cùng lên tầng lầu, cùng nghe ca hát, cùng vui cười nhìn đám trẻ chơi đùa.

    “Có thể khỏe lại không, không quan trọng”, Vương hậu lạnh nhạt đáp, “Trấn Bắc vương, chúng ta đều đã phạm không ít sai lầm”.

    Nghĩ đến vương huynh trước nay vẫn tín nhiệm mình, Sở Bắc Tiệp đau khổ nhắm mắt, trầm giọng: “Bắc Tiệp đã sai, nên khiến vương huynh thất vọng, vương tẩu vất vả”.

    Vương hậu buồn rầu nhìn hai người trước mặt, mệt mỏi khép hàng mi, cảnh tượng phu quân trước khi ra đi bỗng thoáng qua trong đầu, theo đó là khói lửa ngập trời thiêu đốt Đông Lâm.

    Vương hậu thở dài: “Trong thiên hạ này, lấy đâu ra người không phạm sai lầm?”, rồi nhìn về phía Sính Đình đang cúi đầu im lặng, “Chẳng lẽ ta và Đại vương lại không mắc sai lầm? Hôm đó khi ký hiệp ước với Phò mã Vân Thường Hà Hiệp, đem Bạch cô nương mà Trấn Bắc vương yêu quý như tính mạng của mình đổi lấy việc liên quân Vân Thường – Bắc Mạc rút lui. Biết rõ là không đúng, nhưng vẫn phải ra một quyết định sai lầm. Nếu so sánh, chỉ có lỗi của Bạch cô nương mới là không cố ý”.

    Sính Đình lắc đầu, ngước hai hàng mi dày, đôi mắt sáng rõ nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, thở dài: “Vương hậu sai rồi. Sính Đình biết thiên hạ sắp đại loạn, nhưng vẫn vì những oán hận trong lòng mà giả chết ẩn cư, không muốn giải thích hiểu lầm với Vương gia, Sính Đình hành xử chậm trễ, dẫn đến sinh linh lầm than. Đây mới là hành động ngu muội nhất, biết rõ là sai mà vẫn không chịu quay đầu”. Ánh mắt nàng chạm phải ánh mắt Sở Bắc Tiệp đang quay lại.

    Mạc Nhiên và La Thượng nín thở chờ bên ngoài trướng, niềm vui sướng trong lòng vẫn còn nguyên. Trong rừng âm u, lại vẫn chưa đến sáng, bốn bề tối om nhưng ánh mặt họ sáng lấp lánh, như đã nhìn thấy ánh mặt trời sắp lên của ngày mai.

    “Là thật, là thật...” Thỉnh thoảng, La Thượng lại cúi đầu lẩm bẩm một câu, sắc mặt vô cùng hân hoan.

    Mạc Nhiên vỗ mạnh vào vai La Thượng, quay đầu nhìn những huynh đệ còn lại sau bao trận chiến gian khổ, vừa mới đây họ còn thề quyết trận huyết chiến này, không ngờ có thể cải tử hoàn sinh, trong lòng trào dâng niềm hân hoan và cảm khái.

    Đợi rất lâu, họ mới thấy màn trướng khẽ động.

    La Thượng đứng bật dậy: “Ra rồi”.

    Tất cả nhất tề đứng dậy, tinh thần hăng hái, nhiệt thành nhìn chằm chằm về phía cửa trướng.

    Sở Bắc Tiệp và Sính Đình bước ra.

    “Vương hậu đã trao vương quyền Đông Lâm cho ta, từ hôm nay trở đi, tất cả binh mã của Đông Lâm đều nghe theo sự điều khiển của bản vương”, giọng nói chắc chắn ung dung của Sở Bắc Tiệp vang lên bên tai mọi người.

    Trong lòng dân chúng Đông Lâm, Sở Bắc Tiệp chính là người kế thừa của vương vị sau Đại vương Đông Lâm, nên ai cũng mong chờ quá trình chuyển giao vương quyền đơn giản này.

    “Tình thế khẩn cấp, không có thời gian hàn huyên chuyện cũ”, Sở Bắc Tiệp ngẩng lên nhìn sắc trời, “Đại quân Vân Thường tan rã chỉ vì lòng quân rối loạn, còn thực lực không hề giảm bớt bao nhiêu. Chúng sẽ nhanh chóng tập hợp lại. Chúng ta phải tức tốc rút khỏi chỗ này trước khi kẻ địch giương cờ đánh trống quay lại tấn công”.

    “Mạc Nhiên!”

    “Có!”

    “Lập tức chỉnh đốn đội ngũ, chuẩn bị nhổ trại.”

    “Lĩnh lệnh!”

    “La Thượng!”

    “Có!”

    “Ngươi phụ trách bảo vệ sự an nguy của Vương hậu, chọn ra chiến mã khỏe nhất, trên xe sắp sẵn cỏ mềm”, Sở Bắc Tiệp hạ giọng dặn dò, “Cẩn thận, đừng để Vương hậu nương nương bị xóc nảy”.

    “Mạt tướng xin làm ngay.”

    Chỉ huy xong, Sở Bắc Tiệp liên tiếp ra mấy vương lệnh. Những người này đã theo Sở Bắc Tiệp vào sinh ra tử, quen nghe theo hiệu lệnh, nay nhìn Trấn Bắc vương uy vũ tái xuất, họ như tìm lại được trụ cột của mình, hành động vô cùng nhanh gọn. Chỉ nghe những tiếng “Lĩnh lệnh!”, “Lĩnh lệnh!”, cả đám người hưng phấn đi thực hiện nhiệm vụ của mình.

    Toàn doanh trại hành động thần tốc, chưa đầy nửa canh giờ, mọi việc đã được sắp xếp thỏa đáng, họ quay lại phụng mệnh. Sau đó, toàn quân nhổ trại lên đường, đi sâu vào hẻm núi phía nam, cẩn thận che giấu tung tích.

    Sở Bắc Tiệp cử binh mã tạo ra dấu vết giả trên đường, để đánh lừa quân địch, khiến đại quân Vân Thường không thể xác định được hướng đi của họ.

    Tối hôm đó, khi nghỉ ngơi giữa đường hành quân, Sở Bắc Tiệp cho triệu tập tất cả các tướng lĩnh nghị sự giữa rừng già rộng lớn.

    Sở Bắc Tiệp ẩn cư hai năm, vừa xuất hiện đã phải lo cho vương tộc Đông Lâm đang bị bao vây, chưa có thời gian tìm hiểu tình hình tứ quốc hiện nay.

    Mạc Nhiên bẩm báo hết sức tường tận: “Sau khi nắm được quyền quản lý kho tiền lương, Hà Hiệp đã tăng cường chi dùng cho quân đội, chỉ trong một thời gian ngắn hắn đã thu nạp được rất nhiều binh sĩ dũng mãnh. Họ được Hà Hiệp đích thân thao luyện, lại được tôi rèn qua bao nhiêu trận chiến... Đại quân Vân Thường hiện nay không còn là đội quân ngủ đông chỉ biết tự bảo vệ mình”.

    “Đại quân Đông Lâm và Bắc Mạc đều đã bị đại quân Vân Thường của Hà Hiệp đánh cho tan rã.” Nghĩ đến tình thế tồi tệ hiện giờ của tứ quốc, La Thượng tiếp tục trầm giọng, “Hy vọng duy nhất hiện nay có thể chống lại đại quân Vân Thường chỉ còn đại quân của Quy Lạc”.

    “Giờ Quy Lạc đang nội loạn, Quy Lạc vương Hà Túc và Đại tướng quân Nhạc Chấn đối đầu với nhau. Quy Lạc còn không tự lo được cho mình, lấy đâu ra sức lực lo đến đại quân Vân Thường?”, Nhược Hàn đáp, “Ta đã bí mật lập ra mấy điểm trưng mộ binh sĩ ở Quy Lạc, từ sau khi Thượng tướng quân Tắc Doãn khiêu chiến với Hà Hiệp, ngày càng có nhiều nam nhân trẻ tuổi gia nhập lực lượng, trước mắt tính ra tổng cộng đã có hơn một vạn người. Chỉ là, chúng ta không có binh khí, cũng chẳng có chiến mã”.

    “Thất bại trên sông Phục Sạp đã gây tổn thất nặng nề cho quân Đông Lâm, rất nhiều binh sĩ đã bỏ chạy vì không còn hy vọng, số còn lại đều đang ở đây”, Mạc Nhiên quay đầu, nhìn phía sau yên tĩnh, “Tính cả người bị thương cũng không quá năm ngàn”.

    Một thoáng yên lặng.

    So với ba mươi vạn đại quân của Vân Thường, tính toàn bộ tướng sĩ, đội quân của họ cũng chỉ có một vạn năm ngàn người.

    Sau một ngày đường, nỗi xúc động khi gặp lại Trấn Bắc vương dần qua đi. Hiện thực tàn khốc ở ngay trước mắt, họ có Trấn Bắc vương có tài thao lược, nhưng binh mã biết lấy ở đâu?

    Trầm ngâm giây lát, Sở Bắc Tiệp xua tay nói: “Mọi người hãy nghỉ ngơi đi, ngày mai còn phải hành quân, không được để đại quân Vân Thường đuổi kịp chúng ta”.

    Tất cả tướng lĩnh đều biết chủ soái cần thời gian suy nghĩ lần lượt rời đi, chỉ có Mạc Nhiên vẫn ở bên Sở Bắc Tiệp, giống như trước kia ở cùng Sở Bắc Tiệp, họ vẫn đi tuần một vòng quanh doanh trại trước khi đi ngủ.

    Hai người đứng trong gió đêm yên tĩnh, nhìn về phía đống lửa sắp tắt, chậm rãi cất bước.

    “Lúc nãy ngươi không nhắc gì đến tin tức của Thần Mâu.”

    “Thần Mâu đại tướng quân... Khi quân Vân Thường tấn công thành đô, Đại tướng quân đã tử trận”, Mạc Nhiên nặng nề trả lời, “Sở thừa tướng tuổi già sức yếu, không thể rút theo bọn thuộc hạ, nghe nói không muốn chịu nỗi nhục bị bắt sống nên đã uống thuốc độc tự vẫn”.

    Tâm trạng cả hai người đều nặng nề, Sở Bắc Tiệp thở dài, chắp tay sau lưng, tiếp tục đi tuần một vòng.

    Từ khi Sở Bắc Tiệp trở về, đây là lần đầu tiên Mạc Nhiên có cơ hội nói chuyện riêng với Vương gia, bao câu hỏi chất chứa trong lòng, Mạc Nhiên đánh bạo lên tiếng: “Vương gia, Bạch cô nương...”.

    “Nàng vẫn sống, đã tha thứ cho ta và trở về bên ta.”

    “Hôm đó... chẳng phải họ nói trong bụng Bạch cô nương đang mang cốt nhục của Vương gia...”

    Sở Bắc Tiệp bỗng dừng bước, khuôn mặt cương nghị đau đớn. Mạc Nhiên đã theo Sở Bắc Tiệp nhiều năm, rất ít khi nhìn thấy vị vương gia uy nghiêm cao ngạo này không khống chế được tình cảm của bản thân, thầm thấy hối hận vì đã nói những điều không nên nói.

    Mạc Nhiên bỗng nghe thấy giọng nói khản đặc của Sở Bắc Tiệp: “Sính Đình đã trải qua bao nhiêu nguy nan như thế, có thể sống đến hôm nay đã chẳng phải chuyện dễ dàng, đâu còn giữ được hài nhi trong bụng... Bản vương...” Nắm tay chàng chặt rồi lại lỏng, “Bản vương không nhẫn tâm hỏi nàng...”.

    Hài nhi mệnh khổ, chắc không còn nữa.

    Sau khi gặp Sính Đình, Sở Bắc Tiệp đã phải bôn ba khắp nơi vì tứ quốc loạn lạc, từ rừng rậm Bách Lý đến cổ thành Giang Linh, từ Bắc Mạc đến Đông Lâm, nên không còn thời gian nói chuyện cũ với Sính Đình.

    Chút thời gian ít ỏi của họ không đủ để nói những lời ngọt ngào và cả lời cảm tạ ông Trời. Hơn nữa, Sở Bắc Tiệp đường đường là Trấn Bắc vương, đứng trước thiên quân vạn mã của quân địch mặt vẫn không biến sắc, nhưng mỗi lần nghĩ đến hài nhi, lại không có đủ dũng khí.

    Chàng không thể tưởng tượng Sính Đình bị binh sĩ Vân Thường truy đuổi, gặp bao hoạn nạn, đã phải tuyệt vọng khi mất đi cốt nhục trong hoàn cảnh thế nào.

    Việc đau đớn này, chắc đã trở thành vết thương luôn nhỏ máu trong tim Sính Đình, nên từ ngày gặp lại đến giờ, Sính Đình vẫn chẳng hề nhắc đến hài nhi.

    Sở Bắc Tiệp đứng yên ngoài rèm trướng, những suy nghĩ trĩu nặng trong lòng khiến bước chân chàng cũng trở nên nặng trĩu.

    Câu hỏi của Mạc Nhiên chính là một cái kim trong lòng Sở Bắc Tiệp. Chàng muốn nhổ nó ra, nhưng nếu chàng hỏi đến vấn đề này, liệu có làm tổn thương đến Sính Đình?

    Khó khăn lắm nàng mới trở về bên cạnh, Sở Bắc Tiệp nguyện từ bỏ cả tính mạng của mình, cũng không muốn Sính Đình phải đau khổ, dù chỉ là một chút.

    Hài nhi... không được nhắc đến...

    “Vương gia định đứng ngoài này đến bao giờ?” Màn trướng khẽ động, Sính Đình bước ra ngoài, dịu dàng hỏi.

    Nàng nắm lấy bàn tay Sở Bắc Tiệp, cùng chàng bước vào trướng rồi mỉm cười, nói: “Sính Đình biết bản lĩnh cầm quân của Vương gia, tình thế dù nguy nan đến đâu cũng không thể khiến Vương gia phiền não thế này. Rốt cuộc Mạc Nhiên đã nói gì, mà khiến Vương gia do dự, buồn bã tới mức ấy?”.

    Sở Bắc Tiệp nắm lấy bàn tay mềm ấm của Sính Đình, ngọc ấm hương nồng gần trong gang tấc, chốn cực lạc chẳng qua cũng chỉ thế này. Thời khắc giờ lành cảnh đẹp bỗng bị câu hỏi trong lòng phá hỏng, Sở Bắc Tiệp cắn môi, cuối cùng cũng hạ được quyết tâm: “Sính Đình, hôm đó tại biệt viện ẩn cư...”.

    “Vương gia, mật thám cử đi đã về.” Giọng nói của binh sĩ bẩm báo vang lên ngoài trướng đúng vào thời điểm không thích hợp nhất.

    Không biết tại sao, Sở Bắc Tiệp bỗng thấy lòng thở phào, vội vàng vén rèm, bước ra: “Báo ngay!”.

    Thành đô Vân Thường chìm trong tang thương.

    “Cái gì?”, Hà Hiệp mặc áo tang đập bàn cái rầm, đứng dậy kinh ngạc, “Sở Bắc Tiệp đột nhiên xuất hiện?”.

    “Đúng thế!” Lính truyền tin quỳ một gối, không dám ngẩng đầu. “Rất nhiều binh sĩ đều nói tận mắt nhìn thấy Sở Bắc Tiệp đứng trên dốc núi giương cung, bắn chết Đại tướng quân Trầm Cảnh.”

    “Hắn có bao nhiêu binh mã?”

    “Các thuộc hạ của Đại tướng quân Trầm Cảnh đều nói không nhìn rõ.”

    Hà Hiệp nổi giận: “Hai quân giao chiến, Sở Bắc Tiệp từ phía sau bắn tên, sao lại không nhìn rõ có bao nhiêu người xông tới?”.

    “Khởi bẩm Phò mã, lúc đó... vừa nhìn thấy Trấn Bắc vương, bọn họ đã sợ hết hồn, chưa kịp giao chiến, đại quân đã tự tan tác...”

    “Hèn mạt!”, Hà Hiệp cắt ngang.

    Lính truyền tin im bặt, không dám lên tiếng.

    “Chỉ nhìn thấy trên dốc có một bóng người, còn chưa giao chiến mà hơn vạn binh mã đều sợ chạy hết.” Hà Hiệp đi đi lại lại trong phòng, giọng giận dữ, “Đám người Trầm Cảnh mang theo lần này là binh sĩ kiểu gì? Dù hắn còn sống trở về, bản Phò mã cũng sẽ trị hắn tội luyện binh không nghiêm”.

    Sau cái chết của Diệu Thiên, Phò mã nắm trọn đại quyền Vân Thường ngày càng hung ác nham hiểm, ánh mắt lúc nào cũng ẩn chứa hận thù, khiến người ta không lạnh mà run.

    Lính truyền tin quỳ trên đất, nghe tiếng chân Hà Hiệp đi qua đi lại, tim đập thình thịch như có người đánh trống trong lồng ngực. Hắn bỗng nghe bên ngoài có tiếng bẩm báo: “Phò mã, lính truyền tin từ vương cung Đông Lâm đã về”.

    “Gọi hắn vào đây.”

    Cửa phòng bị đẩy ra, một tên lính truyền tin khác người đầy bụi bặm bước vào, quỳ xuống, vừa thở vừa nói: “Bẩm Phò mã, Trấn Bắc vương đột nhiên xuất hiện ở thành đô Đông Lâm, giết chết mấy binh sĩ Vân Thường ta”.

    “Cái gì?”, Hà Hiệp dừng bước, “Nói rõ hơn đi”.

    “Sáu hôm trước, Trấn Bắc vương xuất hiện ở thành đô Đông Lâm giương cung bắn mấy thị vệ của quân ta.”

    “Sao không cử người đuổi theo?”

    “Đại tướng quân lập tức sai binh mã ra khỏi thành truy đuổi, nhưng ra tay xong, Trấn Bắc vương lập tức dẫn theo mấy kỵ sĩ đi ngay, đến khi chúng ta đuổi theo ra ngoài thành, bọn họ đã đi xa, trời đêm lại tối đen nên rất khó đuổi được.”

    “Trời đêm?”, Hà Hiệp nheo mắt, “Hắn xuất hiện ở thành đô Đông Lâm vào đêm của sáu hôm trước?”.

    “Vâng.”

    Hà Hiệp nhìn về phía lính truyền tin đến trước: “Ngươi vừa nói, buổi tối của sáu hôm trước, Sở Bắc Tiệp xuất hiện trên dốc núi nơi ẩn nấp của vương tộc Đông Lâm?”.

    “Vâng, thưa Phò mã.”

    “Hai nơi này cách xa nhau như thế, Sở Bắc Tiệp sao có thể xuất hiện đồng thời ở hai điểm?”

    “Việc này... việc này...”

    “Có nhìn rõ mặt Sở Bắc Tiệp không?” Hà Hiệp hỏi lính truyền tin vừa từ thành đô Đông Lâm trở về.

    “Tuy không nhìn rõ, nhưng theo lời đám binh sĩ ở đó nói, những người bên cạnh hắn đều hét lên Trấn Bắc vương...”

    “Ngu dốt! Mới nghe đối phương hét lên vài tiếng đã tưởng rằng hắn chính là Trấn Bắc vương? Lơ là đến thế, há chẳng phải nhầm lẫn chủ tướng?”, Hà Hiệp hét lên, “Người đâu! Lôi hắn ra ngoài cho ta!”.

    “Phò mã tha mạng! Phò mã tha mạng! Thuộc hạ không dám nói bừa, không dám lơ là! Giờ khắp Đông Lâm đều nói Trấn Bắc vương đã về, chắc chắn là có việc này, thuộc hạ sẽ điều tra rõ ràng...”, lính truyền tin liên tiếp dập đầu.

    Đông Chước cầm theo thư tín vội vã bước vào cửa, thấy Hà Hiệp sắc mặt xám xanh, lại thấy lính truyền tin đang xin tha mạng, bèn nói: “Thiếu gia?”.

    Hà Hiệp thấy Đông Chước đang cầm quân báo, biết là có chuyện quan trọng nên lạnh lùng hạ lệnh: “Bản phò mã tạm thời tha mạng cho ngươi, còn tái phạm quyết không tha! Ra ngoài”.

    Hai lính truyền tin may mắn thoát nạn, vội vã rời khỏi.

    “Thiếu gia, Sở Bắc Tiệp xuất hiện ở thành đô Bắc Mạc.”

    “Việc xảy ra khi nào?”

    “Sáu ngày trước đây.”

    Hà Hiệp cười gằn: “Sáu ngày trước, Sở Bắc Tiệp xuất hiện ở ba nơi khác nhau, thành đô Đông Lâm, trong rừng rậm, thành đô Bắc Mạc. Kẻ ngốc cũng biết đã xảy ra chuyện gì”.

    Đông Chước lập tức tỉnh ngộ: “Có người lợi dụng danh tiếng của Sở Bắc Tiệp, mạo nhận Sở Bắc Tiệp để làm dao động lòng quân ta! Nghĩ cũng phải, Sở Bắc Tiệp mất tích đã lâu, vương cung Đông Lâm thành đống tro tàn, nếu hắn định tái xuất thì phải xuất hiện từ lâu rồi, sao đến tận lúc này mới đột nhiên xuất hiện?”.

    Hà Hiệp nhắm mắt một lát, nghe những lời của Đông Chước thì mở mắt ra, trong đó như có tia sáng đang nhảy múa: “Không, nếu giả mạo Sở Bắc Tiệp có thể dao động lòng quân, thì ngay từ khi quân Vân Thường tấn công Đông Lâm đã phải xuất hiện việc này. Điều ấy càng rõ một điều rằng, Sở Bắc Tiệp đã xuống núi thật. Cùng xuất hiện một lúc ba nơi chỉ là kế dụ địch, chính là muốn lừa chúng ta, muốn chúng ta tưởng rằng có người giả mạo. Đáng tiếc, lừa được kẻ khác nhưng sao lừa được Hà Hiệp ta?”.

    Đông Chước hoàn toàn tỉnh ngộ, ngẩn người hồi lâu: “Nếu đúng là Sở Bắc Tiệp, liệu thiếu gia có nên dốc hết đại quân, lập tức tiến đến Đông Lâm đối phó với hắn?”.

    “Sở Bắc Tiệp rất giỏi ẩn giấu tung tích, ngươi có biết muốn truy kích hắn trên khắp thảo nguyên hoang vu rộng lớn của Đông Lâm phải cần đến bao nhiêu binh mã, bao nhiêu thời gian không?” Khuôn mặt đẹp của Hà Hiệp ẩn giấu sự sắc bén, khóe môi hơi nhếch lên, “Truyền lệnh, chuẩn bị hành trang. Ta phải đến Quy Lạc”.

    Vẻ mặt ngơ ngác, Đông Chước hỏi: “Hai cánh quân của Phi Chiếu Hành và Thương Lộc đã đến Quy Lạc, đủ để đối phó với một Quy Lạc đang nội loạn, thiếu gia hà tất phải đến đó?”.

    “Đánh rắn phải đánh bảy tấc[1]. Đông Chước, ngươi có biết điểm yếu của Sở Bắc Tiệp nằm ở đâu không?” Đôi mắt sáng của Hà Hiệp chuyển động, vẻ mặt vô cùng khó đoán nhìn Đông Chước.

    [1] Cách ví von của người Trung Quốc, ý chỉ nói năng, làm việc gì cũng cần phải nắm rõ cái quan trọng, điểm mấu chốt nhất.

    “Điểm yếu của Sở Bắc Tiệp?”. Bị hỏi, Đông Chước chau mày nghĩ ngợi.

    Thấy Đông Chước không hiểu, Hà Hiệp mỉm cười: “Điểm yếu của Sở Bắc Tiệp nằm ở hai chữ ‘Binh mã’”.

    Một mũi tên trúng ngay vào đích.

    Đông Chước thật sự tỉnh ngộ.

    Binh lực của hai nước Đông Lâm, Mắc Mạc đã hoàn toàn tan vỡ, Sở Bắc Tiệp muốn có tinh binh chỉ còn cách tìm đến Quy Lạc thực hiện ý định của mình. Hà Hiệp lập tức đến Quy Lạc, đánh tan đại quân Quy Lạc cũng đồng nghĩa với việc phá tan cơ hội tìm kiếm binh sĩ cuối cùng của Sở Bắc Tiệp.

    Không bột chẳng gột nên hồ. Không có binh mã quân lương, Sở Bắc Tiệp còn có thể làm gì?

    Dù có là thần tướng, Sở Bắc Tiệp cũng không thể chỉ dựa vào sức mạnh của một người để đánh thắng đội quân lớn mạnh của Vân Thường.

    Bàn xong kế sách, hai người một trước một sau rời khỏi thư phòng.

    “Đến tận bây giờ, thuộc hạ vẫn không thể tin Sở Bắc Tiệp lại đột nhiên xuất hiện”, Đông Chước vừa đi vừa lẩm bẩm, “Sao Sở Bắc Tiệp lại vô duyên vô cớ xuất hiện vào lúc này?”.

    “Sự xuất hiện của Sở Bắc Tiệp không thể là vô duyên vô cớ.”

    “Thiếu gia?”

    “Chắc chắn có nguyên do.” Hà Hiệp trầm giọng, ánh mắt lấp lánh tinh anh thoáng nhìn qua hậu viện. Nơi đó, Sính Đình đã từng ở.

    Cửa phòng ấy vẫn đang đóng chặt.

    Thiên hạ rộng lớn này, còn ai có thể khiến Sở Bắc Tiệp vì tuyệt vọng ẩn cư phải xuống núi?
     
  17. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 56
    Sở Bắc Tiệp dẫn theo tướng sĩ ngày đêm lên đường, ẩn giấu tung tích, một mặt liên tục cử đi những mật thám nhanh nhạy nhất để nắm bắt tin tức các nơi.

    Cuối cùng đội quân cũng tìm được một nơi ẩn nấp, mọi người tập trung trong trướng soái rách nát, tiếp tục bàn bạc.

    “Kế sách của Bạch cô nương quả nhiên rất có tác dụng”, Nhược Hàn vui vẻ bẩm báo, “Ngày Trấn Bắc vương xuất hiện nơi rừng rậm, Nhược Hàn đã làm theo kế sách của Bạch cô nương, sắp xếp mấy người có hình dáng tương tự Trấn Bắc vương xuất hiện ở các nơi tấn công quân Vân Thường, dặn dò họ tự xưng là Trấn Bắc vương. Hiện giờ lòng quân khắp Vân Thường đều hoảng hốt”.

    La Thượng hưng phấn gật đầu: “Kế này đúng là một mũi tên trúng hai đích. Binh lính Vân Thường sợ hãi, đồn đại khắp nơi. Nhưng một người không thể cùng xuất hiện ở mấy nơi một lúc, nên đám tướng lĩnh Vân Thường đều cho rằng đây chỉ là kế lừa địch, dù Hà Hiệp có nhận được thông báo, cũng sẽ cho rằng đó chỉ là lời đồn đại. Chỉ cần họ không lập tức cử đại quân bao vây, chúng ta sẽ có cơ hội nghỉ ngơi lấy sức”.

    “Tên tặc tử Hà Hiệp đó chắc chắn trúng kế rồi!”, Sâm Vinh cười sảng khoái, “Mật thám về báo, sau khi nhận được cấp báo từ khắp nơi truyền về, Hà Hiệp không hề tập trung đại quân kéo đến Đông Lâm mà dẫn quân xuất phát tới Quy Lạc. Có thể thấy, hắn không tin Trấn Bắc vương đang ở Đông Lâm. Ha ha, nói cho cùng thì đúng là mưu kế của Bạch cô nương đã phát huy tác dụng, thực là kế sách cao minh”.

    Ngồi bên cạch Sở Bắc Tiệp, nghe mọi người khen ngợi, vẻ mặt Sính Đình không chút vui mừng mà khẽ thở dài, cười như mếu: “Sính Đình thực xấu hổ, Hà Hiệp đích thân đi Quy Lạc, càng chứng tỏ Phò mã Vân Thường đã nhìn thấu kế dụ địch của Sính Đình”.

    “Sao?” Nụ cười của tất cả mọi người đều ngưng lại.

    Dưới bàn, Sở Bắc Tiệp khẽ nắm bàn tay Sính Đình, rồi quay qua nhìn nàng, ung dung cười nói: “Ngày Hà Hiệp đến Quy Lạc cũng là ngày đội quân Quy Lạc bị diệt vong. Ý định bổ sung binh lực từ Quy Lạc của chúng ta cũng sẽ trở thành hoang tưởng”.

    Quân lực Vân Thường ngày càng mở rộng, đại quân Bắc Mạc và Đông Lâm đã tan rã, nếu đại quân Quy Lạc cũng bị đánh tan, thì lấy đâu đủ binh lực để đối kháng với Hà Hiệp?

    Càng không thể lấy một vạn năm ngàn binh mã để đối chọi với mấy chục vạn đại quân Vân Thường.

    Các tướng quân vừa vui mừng vì tưởng đã lừa được Hà Hiệp giờ mới hiểu rõ sự tình, sắc mặt bỗng chốc trở nên u ám.

    Sau khi thu phục được đại quân Quy lạc, Hà hiệp sẽ không phải lo đến hậu họa. Với thực lực Vân Thường hiện nay, Hà Hiệp hoàn toàn có thể thong thả điều quân đến bao vây họ, từ từ chơi trò mèo vờn chuột.

    Thấy các tướng lĩnh không còn lòng tin, Sở Bắc Tiệp liền mỉm cười trêu Sính Đình: “Bạch cô nương kế sách cao minh, liệu có phải đã có cách đối phó với cục diện nguy nan này?”.

    Sính Đình đáp lại Sở Bắc Tiệp bằng ánh mắt dịu dàng, thong thả nói: “Vương gia chắc chắn thế kia, nhất định đã có kế hay, hà tất phải hỏi Sính Đình?”.

    Sở Bắc Tiệp cười sảng khoái: “Nàng đang lục vấn bản vương?”. Bàn tay nắm chặt bàn tay Sính Đình dưới bàn càng thêm chặt.

    Bệnh tình của Đông Lâm vương hậu đã đỡ, nên cũng ngồi tham dự. Lúc này Vương hậu mới lên tiếng: “Đã chứng kiến Trấn Bắc vương lớn lên từ nhỏ, ai gia hoàn toàn tin tưởng vào năng lực cầm quân của Trấn Bắc vương, dù cục diện có tồi tệ đến mức nào, Trấn Bắc vương cũng có thể ung dung ứng phó. Ai gia muốn thưởng thức bản lĩnh của Bạch cô nương”.

    Vốn là vương tẩu của Sở Bắc Tiệp, nên một lời nói ra của Vương hậu rất có sức nặng. Biết Vương hậu có ý thử mình, ánh mắt lanh lợi chuyển động, Sính Đình chậm rãi nhìn quanh một vòng trướng soái, khẽ cất lời: “Địch đông ta ít, đây là thế mạnh lớn nhất của Hà Hiệp. Hiện giờ, chúng ta phải biến thế mạnh ấy trở thành điểm yếu”.

    Mạc Nhiên cau mày: “Biến thế mạnh thành điểm yếu, điều đó đương nhiên là tốt nhất, nhưng làm thế nào mới thực hiện được?”.

    Sâm Vinh lúc nào cũng thẳng thắn: “Rõ ràng là không thể”.

    “Sao lại không thể?”, Sính Đình thong thả hỏi lại, giọng điệu nhẹ nhàng nhưng tràn đầy tự tin, từng từ từng câu như hạt trân châu rơi trên đĩa bạc. Nàng phân tích rõ ràng, “Quân Vân Thường bề ngoài thì đang lớn mạnh từng ngày, vì thu nạp được một lượng lớn hàng binh và tù binh. Tướng quân Sâm Vinh, xin hỏi đội quân Vân Thường khổng lồ này có bao nhiêu binh sĩ do một tay Hà Hiệp thao luyện nên?”.

    La Thượng tranh phần đáp: “Quân chủ lực của Vân Thường hiện nay do hai bộ phận cấu thành, một bộ phận là quân chính quy của Vân Thường, bộ phận kia là hàng binh của các quốc gia còn lại. Hàng binh gia nhập nửa chừng, độ trung thành không cao, còn quân chính quy của Vân Thường cũng không phải binh mã do Hà Hiệp gây dựng thành. Nếu trong quân Vân Thường xảy ra biến động, Hà Hiệp rất khó khống chế cục diện”.

    “Đây cũng là nguyên nhân Hà Hiệp phải áp dụng những chính sách bạo ngược, chấp nhận để dân chúng oán thán mà vẫn không từ thủ đoạn để chinh phục tứ quốc trong thời gian ngắn nhất. Hà Hiệp buộc phải hoàn thành đại nghiệp trong thời gian mình có thể khống chế cục diện, bởi hắn sẽ không chống đỡ nổi một lần bạo động với quy mô lớn trong quân”, Sở Bắc Tiệp hạ giọng nói tiếp.

    Mang danh phò mã thống lĩnh đại quân, trên có vương tộc Vân Thường tuy đã diệt vong nhưng vẫn còn trên danh nghĩa, dưới có đại thần văn võ khẩu phục nhưng tâm bất phục, bên ngoài có những tướng sĩ Đông Lâm và Bắc Mạc luôn ôm hận quy hàng.

    Đại quân Vân Thường hiện có vẻ uy phong là thế, nhưng kỳ thực lại không có một nền móng vững chắc.

    Hà Hiệp hiểu rõ điều này.

    “Hà Hiệp vốn chẳng phải là người xấu, chỉ là...” Khuôn mặt thoáng nỗi đau mơ hồ, nhưng Sính Đình nhanh chóng tiếp tục, “Việc chúng ta cần làm hiện giờ là gây ra rối loạn lớn trong nội bộ đại quân Vân Thường”.

    Xác định được đối sách, các tướng lĩnh vừa cảm thấy con đường phía trước mênh mông giờ đã kịp lấy lại tinh thần.

    “Diệu kế!”, Sâm Vinh cười vang, giơ nắm đấm nói: “So với việc vất vả mở rộng đội quân của chúng ta, chi bằng nghĩ cách phá hoại đội quân địch”.

    Mạc Nhiên vẫn chưa chắc chắn, bình tĩnh phân tích: “Biết thì dễ làm mới khó. Hà Hiệp cũng là tướng tài, tất phải có phương pháp luyện binh, đại quân Vân Thường không thể nói loạn là loạn”.

    “Mạc Nhiên nói rất có lý, muốn đại quân Vân Thường nội loạn, tất phải nhúng tay vào nhiều phương diện. Thực ra đã có người giúp chúng ta làm việc đầu tiên”, Sở Bắc Tiệp nhìn Mạc Nhiên cổ vũ, “Chắc Mạc Nhiên đã đoán ra bản vương đang nói đến ai”.

    Suy nghĩ giây lát, hai mắt Mạc Nhiên sáng lên, ngẩng đầu đáp: “Đúng rồi, là Bắc Mạc thượng tướng quân Tắc Doãn. Tắc Doãn đơn thương độc mã khiêu chiến với Hà Hiệp trước hàng ngàn vạn tướng sĩ Vân Thường, tuy thất bại, nhưng đã đả thương được Hà Hiệp. Chuyện này đã lặng lẽ truyền đi khắp thiên hạ. Hà Hiệp cũng có thể bị thương, nó đã tạo ra một bóng đen trong lòng binh sĩ Vân Thường vốn vô cùng kính phục, ngưỡng mộ, và tôn kính coi Hà Hiệp như thần tướng”.

    Rõ ràng Mạc Nhiên đã trả lời đúng, Sở Bắc Tiệp nở nụ cười khen ngợi thuộc hạ bên mình nhiều năm, gật đầu tán thưởng: “Tuy Tắc Doãn là đối thủ của bản vương, nhưng lòng nhiệt huyết, sự cương nghị này thực khiến bản vương khâm phục”.

    “Thật là một trang nam tử”, La Thượng trầm giọng.

    Nhược Hàn và Sâm Vinh là tướng lĩnh đi theo Tắc Doãn nhiều năm, nay nghe Sở Bắc Tiệp nhắc đến vị thượng tướng quân Bắc Mạc này, họ bỗng thấy sống mũi cay cay.

    “Ai gia nghĩ việc thứ hai cũng có người làm rồi”. Vương hậu tham gia thảo luận, “Đó là cho người đi khắp nơi rao tin Trấn Bắc vương đã xuống núi. Trấn Bắc vương và tiểu Kính An vương là hai danh tướng đương thời, sau khi Trấn Bắc vương mất tích, người trong thiên hạ điều coi tiểu Kính An vương là vị tướng bất khả chiến bại. Vì thế, sự xuất hiện của Trấn Bắc vương đã làm dao động hình tượng bất bại mà Hà Hiệp đã phải khó khăn lắm mới gây dựng được trong quân Vân Thường”.

    Sở Bắc Tiệp nở nụ cười chua chát, quay sang nói với Sính Đình: “Bản vương thật có chút hối hận. Khi trước giao chiến với Hà Hiệp ở biên giới Quy Lạc, nếu bản vương không giả thua rút lui, mà trực tiếp đánh một trận, trên sử sách sẽ ghi lại một đoạn lịch sử về việc Trấn Bắc vương đánh bại tiểu Kính An vương, như vậy sự xuất hiện của bản vương sẽ càng khiến tướng lĩnh đi theo Hà Hiệp thêm lo lắng”.

    Sính Đình tươi cười, hạ giọng: “Hình như Vương gia quên rằng lúc đó Sính Đình đang là quân sư của đại quân Quy Lạc. Nếu thật sự giao chiến, Sính Đình và thiếu gia liên thủ, Vương gia chưa chắc đã giành phần hơn”.

    Thấy đôi mắt sắc sảo của Sính Đình liếc qua, toàn thân Sở Bắc Tiệp như đang sảng khoái hát ca, bèn bật cười: “Là bản vương tự cao tự đại, mong quân sư Sính Đình thứ lỗi”.

    Ánh mắt chạm nhau, họ đều cảm thấy tim loạn nhịp, mặt đỏ bừng, dường như những lời ngọt ngào đã trào lên tận cổ họng, hận là không thể nói hết ra ngoài. Bao nhiêu người ở trước mặt, lại đang vào thời điểm sinh tử quan trọng nhất, họ sao có thể không biết nặng nhẹ? Sính Đình lặng lẽ thu lại ánh nhìn, định rút tay ra, nhưng vừa có ý định, bàn tay Sở Bắc Tiệp lại càng nắm chặt.

    “Việc thứ ba, theo ta chính là nhằm thẳng vào nội bộ Vân Thường. Hà Hiệp chỉ là phò mã, danh phận này không cao không thấp nhưng vô cùng khó xử. Vì thế Hà Hiệp đang tăng cường kế hoạch thành lập tân quốc, muốn chính thức lên ngôi vương, lập danh hiệu mới.”

    “Nếu Hà Hiệp thống nhất tứ quốc, thành lập tân quốc, không những Đông Lâm, Bắc Mạc, Quy Lạc không còn tồn tại, mà cả Vân Thường cũng sẽ bị xóa quốc hiệu, vương tộc Vân Thường chính thức biến mất.”

    Nhược Hàn lạnh lùng: “Muốn xóa sổ một quốc gia đã tồn tại mấy trăm năm không phải việc dễ dàng. Các đại thần và tướng lĩnh Vân Thường chắc chắn sẽ có người bất mãn. Cũng giống như đối phó với Thừa tướng Vân Thường, Hà Hiệp phải nghĩ cách hãm hại những người Vân Thường không chịu công nhận hắn”.

    “Nghe nói cái chết của Công chúa Diệu Thiên cũng rất kỳ lạ. Theo ta thấy, Hà Hiệp không những đối phó với các tướng lĩnh đại thần không công nhận mình, mà còn không tha cho thê tử.”

    Sính Đình nghe chuyện, mặt càng u ám.

    Sâm Vinh lại vô cùng hứng thú: “Bọn chúng tranh giành quyền lực, chúng ta càng có thể ngư ông đắc lợi. Chúng ta hãy nhân cơ hội này tung tin Hà Hiệp mưu hại Diệu Thiên công chúa, khiến lòng quân vốn luôn trung thành với vương tộc Vân Thường phải hoang mang”.

    “Liệu có nên nghĩ cách bí mật liên hệ với những tướng lĩnh Vân Thường bị Hà Hiệp ám hại? Chưa biết chừng họ sẽ phản bội Hà Hiệp, đứng về phía chúng ta”, Mạc Nhiên nói.

    “Kế này không thể tùy tiện. Nếu bị Hà Hiệp phát hiện, tương kế tựu kế, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm”, Sính Đình đáp, “Nay hai bên không thể đọ sức một cách công bằng, Hà Hiệp sai một bước còn có thể dựa vào thế lực hùng mạnh của mình để cứu vãn tình thế. Nhưng, chỉ cần sai một ly, chúng ta sẽ thua hoàn toàn”.

    Sở Bắc Tiệp tán đồng với ý kiến của Sính Đình: “Ý bản vương là, chúng ta sẽ cử mật thám bí mật điều tra nội tình của Vân Thường, làm rõ những người nào có thể đứng về phía chúng ta, người nào bất mãn với Hà Hiệp, nhưng không phản bội lại đại quân Vân Thường. Chúng ta sẽ bí mật liên hệ với họ, xúi giục họ khởi nghĩa”.

    Đông Lâm Vương hậu hiểu ra, nói tiếp: “Sau đó bí mật ám sát những kẻ sau, rồi đổ tội cho Hà Hiệp, kích động mâu thuẫn giữa Hà Hiệp với người Vân Thường”.

    Sở Bắc Tiệp cười nói: “Vương hậu kiến giải cao minh”.

    “Trấn Bắc vương nói rõ ràng đến thế, người không hiểu cũng phải hiểu.”

    Sở Bắc Tiệp lại nói: “Tất cả những điều vừa nói chỉ là tạo thế, cũng giống như đổ đầy dầu lên một cánh rừng khô, nhưng muốn cháy vẫn cần một mồi lửa”.

    Đây mới là vấn đề mấu chốt, lời này nói ra, tất cả mọi người đều nín thở chờ đợi.

    Ai ngờ Sở Bắc Tiệp quay ra, cười nói với Sính Đình: “Chi bằng bản vương đánh cuộc với Bạch đại quân sư? Nếu Bạch đại quân sư nghĩ ra cách tạo mồi lửa, bản vương sẽ hôn lên bàn tay của Bạch đại quân sư mười lần, để biểu thị lòng cảm tạ”, Sở Bắc Tiệp ngứa ngáy trong lòng, buột miệng nói những lời tình tứ.

    Hội nghị quân sự căng thẳng bỗng chốc được phủ đầy mật ngọt.

    Tướng lĩnh nhìn nhau.

    Mạc Nhiên, người tự cho rằng mình hiểu rõ tính tình Trấn Bắc vương, cũng phải toát mồ hôi.

    Sính Đình tròn mắt kinh ngạc. Nàng xưa nay vốn trầm tĩnh lạnh nhạt, nay bỗng nhiên bị Sở Bắc Tiệp chiếu một quân trước mặt mọi người, khuôn mặt đỏ bừng, trong lúc liếc mắt qua đã nghĩ ra đối sách, liền mỉm cười: “Cách thì không phải là không có, có điều, phải thay đổi một chút điều kiện của Vương gia, nếu Sính Đình trả lời được, Vương gia phải hứa mười ngày không động vào tay Sính Đình”.

    Không đợi Sở Bắc Tiệp từ chối, Sính Đình đã chậm rãi nói tiếp: “Muốn phá hoại đội quân địch, xưa nay vẫn có hai cách thực thi nhất. Một là giao chiến trực diện, đánh cho đối phương tan tác, để quân địch nghe đến tên Vương gia đã không đánh mà tan”.

    “Chúng ta phải cố gắng thu hẹp khoảng cách chênh lệch binh lực với Hà Hiệp, mới có thể giao chiến trực diện. Cách này tạm thời không thể dùng”, Sở Bắc Tiệp xua tay, ý nhị: “Xin thỉnh giáo cách thứ hai”.

    “Cách thứ hai là cắt đứt lương thảo của quân địch. Binh sĩ đói bụng, chắc chắn sẽ đại loạn.”

    Mạc Nhiên đáp: “Đây là việc nói dễ làm khó. Hà Hiệp am hiểu binh pháp, biết rõ tầm quan trọng của lương thực. Muốn cắt đứt kho lương của mấy chục vạn quân, đâu phải chuyện dễ dàng”.

    Đôi mắt Sính Đình khẽ chuyển động, nhìn về phía Sở Bắc Tiệp vẻ trêu chọc, dịu dàng hỏi: “Nếu Sính Đình nói không đúng, không biết Vương gia sẽ phạt gì?”.

    Sở Bắc Tiệp cau mày lẩm bẩm: “Bạch đại quân sư tùy tiện thay đổi điều kiện khiến người ta đau lòng, bản vương không cuộc nữa, cứ để bản vương tự nghĩ cách”.

    “Muộn rồi, điều kiện đã định”, Sính Đình mỉm cười, nhìn về phía các tướng lĩnh, “Muốn cắt đứt lương thảo của Hà Hiệp, chỉ có cách mạo hiểm cướp lấy vùng lương thực trọng điểm của Vân Thường”.

    Nhược Hàn thất kinh: “Trọng điểm tồn trữ lương thảo phải ở trong đất Vân Thường. Quân ta vào được đến đó, nhỡ bị phát hiện...”.

    “Không vào hang, sao bắt được hổ.” Sính Đình ung dung đáp, khóe miệng nở nụ cười tao nhã, “Chúng ta không những phải vào đất Vân Thường, mà còn phải bất ngờ, thần không biết quỷ chẳng hay chiếm lĩnh thành trì của đối phương. Nếu chỉ một tin tức nhỏ bị lộ ra ngoài, nếu đại quân Vân Thường bao vây, chúng ta nhất định sẽ chết không có đất chôn”.

    “Việc này...” Sâm Vinh bỗng thấy lạnh sống lưng, “Việc này sao có thể?”. Tuy không sợ chết, nhưng Sâm Vinh cũng chẳng tán thành việc mạo hiểm tìm đến cái chết.

    Đông Lâm vương hậu chậm rãi lên tiếng: “Ngay cả kỳ tích mà tất cả mọi người đều không thể tưởng tượng như Trấn Bắc vương bặt vô âm tín bao ngày bỗng từ trên trời rơi xuống còn có thể xảy ra, thì có việc gì là không thể? Bạch cô nương hãy nói tiếp đi, chắc Bạch cô nương đã xác định được thành trì Vân Thường mà chúng ta sẽ tấn công?”.

    Mạc Nhiên nói: “Thành trì trọng yếu canh giữ lương thảo của đại quân Vân Thường là Tổ Tây. Nhưng đó là thành trì quan trọng nhất của Vân Thường, không biết có bao nhiêu quân sĩ canh giữ. Dù chúng ta liều chết chiếm lĩnh được, chắc chắn Hà Hiệp cũng sẽ phát hiện ra”.

    “Ai nói sẽ chiếm lĩnh Tổ Tây?” Sính Đình lắc đầu, đôi mắt lấp lánh ánh sáng thông tuệ, “Thành trì tích trữ lương thực tất nhiên quan trọng, nhưng những thành trì nằm trên tuyến đường vận chuyển lương thực đưa tới Tổ Tây lẽ nào lại không quan trọng?”.

    Lời này vừa nói ra, ánh mắt ai cũng sáng lên.

    Sâm Vinh vỗ đùi đánh đét: “Đúng! Ha ha, rất có lý. Chúng ta tạm thời không chiếm được thành Tổ Tây có đội quân hùng mạnh canh giữ, nhưng có thể đối phó với phần lương thảo đang trên đường vận chuyển tới”.

    Rõ ràng La Thượng cũng vô cùng hưng phấn, bèn đứng lên vái Sính Đình một vái, vội vã thỉnh giáo: “Bạch cô nương đừng thử thách mọi người nữa, hãy vui vẻ đưa ra đáp án luôn đi. Rốt cuộc chúng ta phải chiếm lĩnh tòa thành nào của Vân Thường? Cánh tay cầm kiếm của ta bắt đầu ngứa ngáy lắm rồi”.

    Nhận một vái của La Thượng, Sính Đình bỗng thấy xấu hổ nên nói luôn: “Thả Nhu”.

    “Thả Nhu?”

    Sính Đình chậm rãi gật đầu, rồi nhìn vào ánh mắt tươi cười của Sở Bắc Tiệp, khẽ hỏi: “Sính Đình đã thẳng thắn trả lời, Vương gia hãy phân thắng bại”.

    Sở Bắc Tiệp cố làm ra vẻ không sao, nén cơn đau mà thở dài một tiếng: “Nàng thắng rồi”.

    Các tướng lĩnh lắng đang lắng tai chờ đợi câu trả lời của Sở Bắc Tiệp, nghe thấy lời này thì cười ầm lên. Không khí nặng nề và căng thẳng trong trướng soái đã hoàn toàn biến mất, ngay cả Đông Lâm vương hậu cũng phải giơ tay áo che miệng cười.

    “Được rồi, chúng ta quay lại chuyện chính. Đầu tiên, làm thế nào để thâm nhập vào Vân Thường, tiếp cận thành Thả Nhu mà không để Hà Hiệp phát hiện ra?” Sau tràng cười vui vẻ vừa rồi, Sở Bắc Tiệp đã ngồi thẳng dậy, ánh mắt khôi phục vẻ sắc bén, lấy trong người ra một mảnh vải lụa, trải trên bàn, “Mọi người qua đây xem”.

    Mọi người lần lượt đứng lên, vây quanh bàn, ngắm nghía tấm bản đồ được vẽ rất tỉ mỉ, rõ ràng.

    “Đây là tấm bản đồ bản vương vừa vẽ tối qua dựa trên tin tức báo về của các mật thám. Nơi này chính là mục tiêu tấn công của chúng ta, thành Thả Nhu.”

    Vân Thường.

    Trong thành Thả Nhu, ánh nắng rạng rỡ. Nhưng, tâm trạng của Thủ thành đại nhân lại vô cùng tồi tệ.

    “Quay lại rồi sao?”, Phiên Lộc cầm cây nỏ, uể oải hỏi.

    “Vâng.”

    “Chẳng phải hôm qua mới ra khỏi thành ư?”

    “Bẩm Thủ thành đại nhân, bỉ chức làm theo lời dặn dò của đại nhân, hôm qua đã cung kính mời hai vị đại nhân Bồ Quang và Bồ Thịnh ra khỏi thành, trước khi đi còn chiêu đãi một bữa rượu thịt ê hề. Chỉ là không biết tại sao, ngày hôm nay, hai vị đại nhân đó đã đổi sang y phục dân thường, lại vào thành, đang vui chơi trong tửu lầu kỹ viện, còn nói họ phải thị sát dân tình, vi hành điều tra thành tích của Thủ thành đại nhân, chưa điều tra rõ ràng, sẽ không rời khỏi đây.”

    “Dân ý cái con khỉ!” Phiên Lộc đã nhẫn nhịn bao ngày nay, cuối cùng không thể kiềm chế cơn nóng giận, vứt cây nỏ xuống bàn, khiến mấy ly trà va vào nhau, nước sánh ra ngoài, “Hai tên tiểu nhân đó, chỉ chuyên hãm hại các đại thần Vân Thường bất mãn với Hà Hiệp mà được sủng ái. Giờ chúng đã tìm đến bắt chẹt cả bản thủ thành rồi”.

    “Đại nhân, Thủ thành đại nhân...” Sư gia Đỗ Kinh đứng đằng sau vội vuốt chòm râu dê mà kề sát tai Phiên Lộc nhắc nhở, “Đại nhân cẩn thận ngôn từ, Vân Thường ta giờ người người đều phải tự lo cho bản thân, Phò mã đang sai người đi khắp nơi điều tra về những người không thuận theo. Lời vừa rồi của đại nhân, nếu để hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh nghe thấy rồi tiết lộ với Phò mã hoặc người thân cận với Phò mã...”.

    Phiên Lộc lạnh lùng hừ một tiếng.

    Hà Hiệp ra tay tàn độc với những phần tử không theo mình, nhanh như sấm rung chớp giật. Phiên Lộc sao không hiểu điều này?

    Hắn là quan thủ thành do Quý Thường Thanh đề bạt, cũng coi như người của Quý Thường Thanh, Hà Hiệp hận Quý gia đến thấu xương, tất nhiên cũng chẳng thể có cảm tình với Phiên Lộc.

    Giờ Hà Hiệp đang bận đối phó với Quy Lạc ở ngoài, bên trong thì bận đối phó với những tướng lĩnh đại thần nắm quyền ở Vân Thường, tạm thời không còn sức tính toán với một quan thủ thành của cái thành Thả Nhu bé xíu này.

    Nhưng tương lai sẽ thế nào?

    Đến khi Hà Hiệp gây dựng tân quốc, chính thức đăng cơ, việc lớn đã xử lý xong, chẳng phải sẽ dư thời gian để xử lý những tiểu binh tiểu tướng thế này?

    Nỗi lo cho tương lai khoan hãy tính đến, song hiện tại, bọn tiểu nhân dựa hơi Hà Hiệp đã tìm đến tận cửa rồi.

    “Họ quay lại thành Thả Nhu ngoài việc ăn chơi hưởng lạc, còn làm gì nữa không?” Phiên Lộc cố kiềm chế cơn tức giận, nhếch mép cười vẻ lơ là.

    Thuộc hạ thấy quan trên đã bớt giận, mới dám tiếp tục bẩm báo: “Hai vị đại nhân ăn chơi hưởng lạc đều không trả tiền, nói với ông chủ tửu lầu đến phủ thủ thành thanh toán”.

    “Trả cho bọn họ.”

    “Cả... lão Bảo của Xuân Diễm lầu cũng tìm đến...”

    “Cũng trả luôn cho ông ta.”

    “Và cả...”

    “Không cần nói nữa, đều trả cho họ. Hầu hạ hai vị đại nhân ấy cho chu đáo, mặc họ muốn làm gì thì làm.”

    Dặn dò thuộc hạ ứng phó với Bồ Quang, Bồ Thịnh xong, Phiên Lộc phải xử lý những sự việc lớn nhỏ của thành Thả Nhu. Trong lòng bất bình, nên sau khi vung bút phê duyệt mấy công văn, hắn không thể bình tĩnh hơn, lại cho triệu Sư gia Đỗ Kinh đến, nói: “Những thứ này quá lộn xộn, ngươi chọn ra việc quan trọng, viết ý chính, lát ta xem lại”. Dứt lời, hắn đứng dậy ra khỏi thư phòng.

    Ra đến sân, Phiên Lộc rẽ phải theo thói quen, tiến thêm mấy bước đến trước cửa căn phòng quen thuộc. Đúng lúc Túy Cúc ôm xấp y phục đi ra, suýt chút nữa va vào người Phiên Lộc. Túy Cúc giật mình, trợn mắt, nói: “Ngươi là thần giữ cửa à? Cứ như cục đá chắn đường ấy”.

    Từ khi Vân Thường xâm lược Đông Lâm, Túy Cúc không có tin tức gì của sư phụ và những người nàng quen biết, Phiên Lộc biết nàng có trốn cũng chẳng thể đi đâu, nên không khóa cửa, để nàng tự do đi lại trong phủ.

    “Ngươi lại mang y phục của ta đi vá đấy à?” Ánh mắt Phiên Lộc nhìn về xấp y phục trên tay Túy Cúc.

    Nghe Phiên Lộc hỏi thế, Túy Cúc đỏ bừng mặt, đặt y phục vào lòng Phiên Lộc, cắn môi đáp: “Ai thừa thời gian đi vá y phục cho nhà ngươi, ta đâu phải nô tỳ ngươi mua về”.

    “Thế ngươi cầm y phục của ta làm gì?”

    “Ta...” Túy Cúc nghe Phiên Lộc lạnh lùng truy hỏi liền nổi cơn giận dữ, nghiến răng kèn kẹt, “Ta thấy ngươi thật đáng ghét, y phục bẩn thỉu. Biết rõ đại nương trong phủ giặt không sạch mà chẳng chịu thay người. Đường đường là thủ thành đại nhân mà cũng không có chút hiểu biết cỏn con đó. Hôm nay ta nói rõ với ngươi, ta sẽ không thèm giặt lại y phục cho ngươi nữa”.

    “À... ta hiểu rồi.” Phiên Lộc thích nhất những lúc Túy Cúc đỏ mặt tía tai, bèn nghiêng đầu, kề sát bên tai nàng, cười nói, “Ngươi chê ta những lúc ôm ngươi, mùi không dễ chịu đúng không? Thực ra đó chỉ là mùi y phục khó chịu thôi, chứ hương vị trên người bản thủ thành này vô cùng sạch sẽ dễ chịu đấy”.

    Những lời cợt nhả của Phiên Lộc càng khiến tim Túy Cúc đập thình thịch. Nàng ôm ngực lùi ra sau, giậm chân nói: “Con người ngươi thực đáng ghét. Ta giúp ngươi giặt y phục thì sao hả? Sao còn nói năng bắt nạt ta như thế”.

    Phiên Lộc cố mở thật to đôi mắt nhỏ của mình: “Ngươi mới là nữ nhân đáng ghét, càng ngày càng làm nũng. Ngươi biết rõ bản thủ thành chẳng sợ gì, chỉ sợ ngươi nũng nịu. Đường đường là một thủ thành, sao có thể để ngươi bắt nạt như thế?”.

    “Ngươi... ngươi, ngươi...” Bị những lời già mồm át lẽ phải của Phiên Lộc làm cho tức chết, Túy Cúc cắn môi, dụi mắt rồi quay vào phòng.

    Phiên Lộc cao giọng nói: “Đừng khóc, đừng khóc. Được rồi, bản thủ thành thu lại lời vừa nói, ngươi không đáng ghét chút nào, ngươi muốn bắt nạt ta thế nào thì cứ bắt nạt, cùng lắm là ta không phản kháng nữa”. Vừa nói, hắn vừa ôm xấp y phục đuổi theo.

    Tính tình Phiên Lộc vô cùng cổ quái, cố ý chọc giận Túy Cúc, rồi lại mất bao tâm tư dỗ dành.

    Túy Cúc đâu dễ dàng để hắn dỗ dành như thế, vội quay lưng đi, giọng tức giận: “Ta không muốn gặp ngươi nữa, ta sẽ thu xếp tay nải, đi tìm sư phụ”.

    “Ta đi cùng ngươi.”

    “Ai cần ngươi đi cùng?”

    Phiên Lộc nhếch môi: “Được rồi, ngươi không cho ta đi cùng, ta sẽ đi cùng nữ nhân khác”.

    Túy Cúc quay phắt lại: “Con người ngươi thật đáng ghét! Muốn đi thì đi ngay đi, đừng ở đây làm phiền ta”.

    Hai người đang giận dỗi, thuộc hạ của Phiên Lộc bất chợt chạy vội đến bẩm báo: “Thủ thành đại nhân, hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh lại đến”.

    Phiên Lộc biết hai tên đó đã ăn uống no nê, lại đến sinh sự, hai hàng mày hơi cau, trầm giọng bảo: “Biết rồi. Các ngươi chuẩn bị phòng tốt, tiếp đãi cho chu đáo, tìm mấy cô nương xinh đẹp về uống rượu cùng, đừng để họ làm phiền ta là được”.

    Tên thuộc hạ phụng mệnh quay đi.

    Túy Cúc ngạc nhiên hỏi: “Hai hàng mày cau thế kia, kẻ nào lại khiến Thủ thành đại nhân không vui như vậy?”.

    “Hai con sâu mọt đáng ghét.” Phiên Lộc không muốn dài dòng lại đưa đẩy, “Mặc kệ hai con sâu mọt đó, việc của chúng ta còn chưa nói xong mà”.

    “Cái gì mà chúng ta, ngươi là ngươi, ta là ta.”

    “Được rồi, ta đầu hàng.” Phiên Lộc xích lại gần thêm một chút, hạ giọng, “Bản thủ thành nói cho ngươi một bí mật, coi như chuộc tội, được không?”.

    “Bí mật gì?”

    “Đại nương giặt y phục không sạch đó là do ta cố ý sắp xếp. Ta biết có kẻ ngốc sẽ mắc lừa, mang y phục của ta đi giặt lại một lần... Này, đừng có đánh nữa! Ta bảo ngươi đừng có đánh nữa, ngươi còn đánh mạnh thế, ta đánh lại đấy...”

    Cứ như thế, hắn lại mất bao công dỗ dành Túy Cúc nói chuyện với mình. Nỗi bực bội trong lòng vơi đi rất nhiều, Phiên Lộc nhìn sắc trời, đã quá nửa ngày trôi qua, liền đứng dậy vươn vai: “Không chơi với ngươi nữa, ta phải đi xử lý công vụ đây. Những ngày yên vui của bách tính thành Thả Nhu dựa cả vào vị thủ thành đại nhân này đấy”.

    Túy Cúc lừ mắt: “Thật là nói khoác không biết ngượng. Mau đi đi”.

    “Tối nay ta lại đến dùng cơm cùng ngươi.”

    “Không cho ngươi đến.”

    Thấy Túy Cúc không phòng bị, Phiên Lộc khẽ véo một cái lên má nàng: “Thế thì ngươi qua ăn cơm với ta”.

    Túy Cúc đang định nổi khùng, Phiên Lộc đã nhanh chân bước đi.
     
  18. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 57
    Sự kết hợp hoàn hảo giữa Trấn Bắc vương và Bạch Sính Đình khiến chí khí quân sĩ ngày càng tăng, sau hội nghị quân sự, trong lòng các tướng sĩ đã có mục tiêu rõ ràng, bước chân ra khỏi trướng soái cũng nhẹ hơn vài phần.

    Nhưng, họ cũng hiểu rằng, chiến lược của Trấn Bắc vương và Bạch cô nương mạnh dạn song vô cùng nguy hiểm, là nước cờ không được phép sai lầm.

    Sau khi hội nghị kết thúc, Sở Bắc Tiệp kéo ngay Sính Đình đang đi theo các tướng lĩnh ra khỏi trướng: “Bạch đại quân sư lúc nãy thần uy là thế, sao không ở lại bên cạnh chủ soái mà đi đâu?”.

    Sính Đình quay đầu, cười đáp: “Vương gia đừng quên đã đánh cuộc với Sính Đình. Sính Đình thắng rồi, trong mười ngày Vương gia không được chạm vào tay Sính Đình”.

    Ánh mắt bỗng lóe sáng, Sở Bắc Tiệp không hề do dự mà rút thanh Thần uy bảo kiếm ra, đưa đến trước mặt Sính Đình: “Nàng chém bản vương mười kiếm, thay cho hẹn ước mười ngày”.

    Nhìn thấy thanh kiếm sáng loáng, Sính Đình vội tra kiếm vào vỏ, cau mày đáp: “Chiêu khổ nhục kế của Vương gia không được lòng người. Là Vương gia chọc giận Sính Đình trước, hơn nữa Vương gia đã chuẩn bị cả bản đồ thành Thả Nhu, còn rắp tâm cố ý thử người ta. Nếu lúc nãy không nghĩ ra kế sách, chẳng phải Vương gia làm Sính Đình hổ thẹn sao?”.

    Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Không phải là khổ nhục kế. Nàng ở ngay trước mắt ta, mà mười ngày không được chạm vào tay nàng, như thế còn khó chịu hơn nhận mười kiếm. Không gì sánh bằng nỗi khổ nhớ nhung. Bản vương bỏ cái khó chọn cái dễ cũng là lẽ thường”. Khuôn mặt anh tuấn hoàn toàn nghiêm túc.

    Sính Đình nghe mà không nói được câu nào, bèn cúi xuống, hồi lâu giọng nói mới như gió thoảng qua tai: “Dù có bỏ qua cái hẹn mười ngày đó, Vương gia cũng không thể lúc nào cũng nắm tay Sính Đình như thế”. Nghĩ lại, vẻ mặt Sính Đình vô cùng ấm ức: “Vương gia ép người quá đáng, bắt Sính Đình bỏ điều khoản đã định, không được, thù này Sính Đình nhất định phải báo”. Sóng mắt nàng mênh mang, vừa ngọt ngào, vừa ai oán.

    Nhìn dáng vẻ hoạt bát, dịu dàng của nàng, Sở Bắc Tiệp cười nói: “Nói cho bản vương biết nàng định đi đâu?”.

    Nghe hỏi đến, sắc mặt Sính Đình trở nên u ám, khẽ đáp: “Sính Đình phải tự đi gặp Hoắc thần y. Túy Cúc...”. Sính Đình buồn bã thở dài, tròng mắt đỏ hoe.

    Sở Bắc Tiệp cũng cảm thấy lòng mình thắt lại.

    Sau khi hai người gặp lại nhau, Sính Đình tránh không nhắc đến những gì nàng đã trải qua, dù thỉnh thoảng có nhắc đến, cũng chỉ là thoáng qua.

    Sở Bắc Tiệp hiểu rõ rằng, những trắc trở Sính Đình đã trải qua đã tạo thành vết thương đến giờ vẫn chưa kín miệng trong lòng nàng. Cái chết của Túy Cúc càng khiến Sính Đình đau khổ thêm.

    Sơn mạch Tùng Sâm quanh năm tuyết phủ đó rốt cuộc đã che giấu câu chuyện bi thảm đến mức nào?

    Hài tử của họ cũng bị chôn vùi nơi mênh mang tuyết trắng ấy sao?

    Đến tận lúc này, Sở Bắc Tiệp vẫn không dám hỏi Sính Đình việc hài tử đáng thương của họ đã mất như thế nào. Đối với Sính Đình, đó nhất định là nỗi đau khó có thể chịu đựng nổi.

    “Ta đi cùng nàng”, Sở Bắc Tiệp nắm chặt bàn tay Sính Đình.

    Sính Đình chậm rãi lắc đầu: “Vương gia thứ lỗi, Sính Đình muốn tự mình đối diện với sư phụ của Túy Cúc”.

    “Sính Đình...”

    “Nếu sau này Sính Đình cần đến...”, Sính Đình ngẩng đầu, hai hàng mi dày run rẩy nhìn Sở Bắc Tiệp, “Liệu Vương gia có chắc sẽ ở cạnh Sính Đình?”.

    Trái tim chìm đắm trong ánh mắt đáng thương của Sính Đình, Sở Bắc Tiệp hứa ngay lập tức: “Chắc chắn”.

    Nghe thấy thế, Sính Đình cười tươi tắn, khẽ rút bàn tay ra khỏi lòng bàn tay Sở Bắc Tiệp, quay người bước đi.

    Sở Bắc Tiệp đứng nhìn theo Sính Đình ra khỏi cửa trướng, bỗng thấy buồn như vừa đánh mất điều gì. Một lúc sau, cảm giác có người đang nhìn mình, Sở Bắc Tiệp mới khôi phục sự nhạy bén, quay đầu cười sảng khoái, dang tay, lên tiếng: “Vương tẩu muốn cười thì cứ cười đi. Người ta nói rằng, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, Sở Bắc Tiệp gặp được Bạch Sính Đình cũng coi như hoàn toàn không có cách nào”.

    Các tướng lĩnh đã đi cả, Đông Lâm vương hậu ngồi dựa trên ghế, mỉm cười: “Trấn Bắc vương khiêm tốn quá rồi, chiêu khổ nhục kế lúc nãy thật vô cùng rành mạch, sao có thể gọi là không có cách nào? Anh hùng khó qua ải mỹ nhân. Tất cả nam nhân khi gặp được nữ nhân trong lòng mình, đều giống như Trấn Bắc vương”. Vứt bỏ mọi đau buồn ra ngoài cửa trướng, những suy nghĩ của Vương hậu cuốn bay theo gió vượt xa vạn dặm, trở về nơi vương cung Đông Lâm hào hoa quyền quý.

    Nghĩ lại trước kia, cung vàng điện ngọc trùng trùng, rượu ngon đàn hay, uyên ương quấn quýt.

    Ở bên Đại vương bao nhiêu năm, đến lúc biệt ly, Vương hậu mới thực sự hiểu ra.

    Vương hậu không còn là vương hậu của Đông Lâm, mà là thê tử của nam nhân ấy.

    Quá khứ bị che phủ trong vinh quang của vương tộc Đông Lâm, giờ mất đi mới biết những điều thực sự đáng hồi tưởng, đáng cảm thán nhất chính là tấm chân tình giữa họ.

    Không liên quan đến Đông Lâm, không liên quan đến vương tộc, không liên quan đến đại vương và vương hậu.

    Chỉ có phu và thê, chàng và thiếp.

    Vì những lễ nghi rườm rà, đã bao lần muốn nắm tay, muốn tựa vào lòng phu quân, nhưng nghĩ đến thân phận mẫu nghi một nước của mình, Vương hậu lại cố nén chút tình ý trong lòng.

    “Vương tẩu?”

    “Hả?”, Vương hậu bỗng sực tỉnh, gọi, “Trấn Bắc vương, hãy đến cạnh ai gia”.

    Sở Bắc Tiệp bước lên phía trước, ngồi đối diện với Vương hậu.

    “Có phải Trấn Bắc vương cũng dự định thu nạp binh mã Đông Lâm vào Đình quân?”, Vương hậu hỏi.

    Sở Bắc Tiệp vốn cũng định nói rõ việc này với Vương hậu, nên gật đầu, thẳng thắn đáp: “Đúng vậy”.

    “Đình quân...” Vương hậu nghiền ngẫm hai từ ấy, cười cay đắng, “Hôm đó Đại vương nói, Trấn Bắc vương bản tính chân thành thẳng thắn, không thích hợp sinh ra trong vương tộc vô tình, đó cũng là điều Đại vương lo nhất cho vương đệ của mình. Nhưng hiện giờ, ai gia không biết nên lo lắng hay cảm thấy may mắn vì điều này. Nếu không vì Trấn Bắc vương yêu sâu sắc Bạch Sính Đình thì sao có được một Đình quân dũng mãnh đối kháng với Hà Hiệp?”. Vương hậu lại hỏi, “Ai gia muốn biết chính xác, Đình quân thu nạp binh mã Đông Lâm rồi, sau này Đình quân đại thắng, Trấn Bắc vương nắm giữ đại quyền, vậy vận mệnh của Đông Lâm sẽ thế nào? Vương tộc Đông Lâm sẽ ra sao?”.

    Im lặng hồi lâu, Sở Bắc Tiệp cương nghị đáp: “Chẳng giấu vương tẩu, bản vương sẽ xây dựng tân quốc, lập ra quốc hiệu”.

    “Thế còn Đông Lâm?”

    “Đông Lâm đã là quá khứ, bản vương xuất chinh không phải vì mở rộng lãnh thổ Đông Lâm, mà bởi muốn đem lại cho Sính Đình một thiên hạ yên vui thái bình. Nếu bình định được đại loạn mà vẫn lấy tên Đông Lâm, thì đâu khác gì Đông Lâm chinh phạt ba nước còn lại, cũng đâu khác gì Hà Hiệp? Tướng sĩ của ba nước còn lại, dân chúng của ba nước còn lại sẽ canh cánh trong lòng, lúc nào cũng muốn phản kháng, thiên hạ sao có thể thực sự yên bình?”, ánh mắt vô cùng kiên nghị, Sở Bắc Tiệp trầm giọng nói, “Đây là lời hứa của bản vương với Sính Đình, không thể thay đổi”.

    Ánh mắt Đông Lâm vương hậu bỗng trở nên sắc sảo, nhìn thẳng về phía Sở Bắc Tiệp.

    Sở Bắc Tiệp không tránh mà nhìn thẳng lại: “Nếu Vương hậu tức giận, xin hãy trách phạt Bắc Tiệp, nhưng Bắc Tiệp đã quyết việc này”.

    Đông Lâm vương hậu nhìn chăm chăm về phía Sở Bắc Tiệp hồi lâu, ánh mắt mất đi vẻ sắc sảo, bất lực thở dài: “Gốc của quốc gia chính là con người, đúng không?”.

    “Vương tẩu?”, Sở Bắc Tiệp kinh ngạc.

    “Chẳng bức tường nào ngăn nổi gió, đoạn đối thoại giữa Công chúa Diệu Thiên và Trấn Bắc vương trước trận đại chiến Đông Lâm – Vân Thường đã truyền đến tai rất nhiều người.” Đông Lâm vương hậu cười chua xót, vẻ mặt đượm hồi ức, “Sau khi vương cung bị thiêu cháy, ai gia thường nghĩ, cảnh tượng lúc Đông Lâm lập quốc sẽ như thế nào? Chắc cũng là hàng vạn tướng sĩ, lê dân trăm họ trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí, không tiếc đổ máu để bản thân và thê nhi, già trẻ nam nữ được sống những ngày hạnh phúc, yên bình?”.

    Tại sao mấy trăm năm sau, quốc gia in hằn trong tim lại quên mất con người?

    Hàng ngàn hàng vạn dân, hàng ngàn hàng vạn cuộc sinh ly tử biệt, yêu hận giằng co.

    Ánh mắt buồn bã của Đông Lâm vương hậu nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, thở dài, hạ quyết tâm: “Quốc gia quan trọng, lẽ nào lê dân trăm họ lại không đáng quý? Không có dân chúng an cư lạc nghiệp, Đông Lâm cũng chỉ tồn lại trên danh nghĩa. Trấn Bắc vương cứ yên tâm mà làm những điều mình muốn”.

    Không ngờ Vương hậu lại quyết đoán như vậy, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, quỳ một gối, nói từng tiếng: “Ơn này của vương tẩu, Sở Bắc Tiệp xin ghi lòng tạc dạ”.

    Chàng thật chẳng dám tin lại có thể dễ dàng vượt qua cửa ải khó khăn này như thế.

    “Đi đi. Bình định thiên hạ, kết thúc thời thế sinh linh lầm than, trả cho muôn dân những ngày yên ổn.” Vương hậu khẽ nhướng môi, nở nụ cười mơ màng, “Vương tộc cũng được, thường dân cũng chẳng sao, hãy để tất cả mọi người ghi nhớ rằng, đã có may mắn làm người thì phải biết sinh mệnh của mình đáng quý biết chừng nào, phải biết bản thân không phải là con kiến để người ta chà đạp”.

    Trấn Bắc vương sẽ xây dựng một đế quốc hùng mạnh.

    Đế quốc ấy không phải vì binh cường đất rộng, mà bởi mỗi con người trong quốc gia ấy đã dần biết tôn trọng, không khinh bạc bản thân mình.

    Không coi mình là con rối, là công cụ.

    Họ sẽ không bị bắt đi chiến trường.

    Khi đại chiến ập đến, họ sẽ được lựa chọn, có nên chiến đấu bảo vệ tương lai của mình không, cũng giống như hôm nay họ tham gia vào Đình quân.

    Giả dụ, máu của họ đã nhuộm đỏ sa trường, mảnh đất chìm trong nhiệt huyết ấy sẽ bừng lên sức sống mới, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

    “Bạch Sính Đình...” Đông Lâm vương hậu ngửa mặt lên trời thở dài, “Khá khen cho một Bạch Sính Đình”.

    Quy Lạc, trời chiều hoang vắng.

    Nơi thâm cung lạnh lẽo không còn mùi hương yêu thích.

    Ổ khóa im lìm bấy lâu bỗng có tiếng động khẽ, Quy Lạc vương hậu đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy đờ đẫn ngẩng đầu, nhìn hình bóng uy nghiêm quen thuộc ngoài cánh cửa.

    Quy Lạc vương Hà Túc bước qua cửa phòng, nói: “Sau trận chiến với Phi Chiếu Hành, đại ca Nhạc Chấn của nàng sợ đại quân Vân Thường tiếp tục tấn công, nên đã dẫn theo tàn binh trốn khỏi thành đô”.

    Hà Túc giọng điệu bình tĩnh, không hề nóng giận.

    Bị giam lỏng bao ngày, đây là lần đầu tiên nghe thấy tin tức của huynh trưởng, sau một hồi im lặng, Quy Lạc vương hậu lạnh lùng cất tiếng: “Đại vương đến để ban cho thần thiếp cái chết sao?”.

    Hà Túc không lên tiếng, chậm rãi bước đến bên thê tử, giống như thuở còn mặn nồng, lấy ngón tay nâng cằm Vương hậu lên.

    “Chẳng lẽ Vương hậu không muốn gặp mặt Thiệu nhi?”, Hà Túc chợt hỏi.

    Vương hậu sững người, vẻ không dám tin, nhìn về phía Hà Túc: “Đại vương... chịu cho thần thiếp gặp Thiệu nhi?”. Dù sao nhi tử cũng là cốt nhục của mẫu thân, giọng Vương hậu có phần run rẩy.

    “Tại sao lại không?”, Hà Túc thở dài, hỏi lại.

    Quy Lạc vương hậu biết tội tất phải chết, cùng lắm là chọn một dải lụa trắng, hoặc ly rượu độc, nên đã sớm có sự chuẩn bị. Không ngờ Hà Túc lại đích thân đến đây, ngôn từ cử chỉ khác hẳn tưởng tượng của Vương hậu. Vốn tình nghĩa phu thê bao năm, lại nghe Hà Túc nhắc đến nhi tử, Vương hậu cũng mềm lòng đi vài phần, thần thái không còn lạnh lùng kiêu ngạo, mà cúi đầu, buồn bã đáp: “Thần thiếp cố tình tiết lộ việc quân mai phục; phụ thân lộng quyền; đại ca chống lại vương lệnh, tự điều quân chống lại Đại vương. Cả Nhạc gia đều phạm phải... tội chết”.

    “Vương hậu cũng biết tội của mình?” Hà Túc nghĩ đến hiện trạng loạn lạc của Quy Lạc thì lạnh lùng hừ một tiếng, thấy Vương hậu cúi đầu không đáp, lại chậm rãi thở dài, nói, “Vương hậu đứng dậy đi. Quả nhân miễn tội cho nàng, lệnh cho nàng quay lại chính cung, làm chủ nhân của hậu cung”.

    “Sao?”, Vương hậu kinh ngạc ngẩng đầu.

    Nhạc Chấn dẫn binh đối đầu với quân thành đô, tội ngang tạo phản, đây là điều cấm kỵ nhất trong vương tộc, không thể được xá tội.

    Nhưng, vẻ mặt Đại vương không giống đang đùa.

    Lãnh cung u ám trong màn đêm, Hà Túc đứng ngay ở cửa, gần trong gang tấc, nhưng Vương hậu không thể nhìn rõ đáy mắt phu quân, thấy như thật xa cách, chỉ còn cái bóng mơ hồ nơi đó.

    Vương hậu ngắm thật kỹ Hà Túc vốn đã ân đoạn nghĩa tuyệt với mình, rồi lại cúi đầu: “Đại vương cứ giết thần thiếp đi. Mười lăm tuổi, thần thiếp đã được gả vào phủ vương tử, rồi Đại vương đăng cơ, phong thần thiếp làm vương hậu, nghĩ lại lúc đó phu thê ân ái, ai ngờ lại có ngày hôm nay. Giờ ván đã đóng thuyền, mọi việc không thể cứu vãn, dù Đại vương có xá tội, thần thiếp cũng chẳng còn mặt mũi nào trở thành vương hậu. Thần thiếp chỉ hối hận, sao có thể vì nhất thời ghen tuông mà sai người bí mật báo tin cho Hà Hiệp... Chẳng qua chỉ là một Bạch Sính Đình, dù Bạch Sính Đình có vào hậu cung, chỉ cần Đại vương vui thì có chuyện gì là to tát? Vì một nữ nhân mà khiến Quy Lạc đại loạn, thần thiếp... thần thiếp thật ngu muội vô cùng...”. Nói xong, hai bờ vai Vương hậu run lên bần bật, rũ xuống đất mà khóc.

    Thân phận tôn quý, lớn lên nơi thâm viện, sau này cũng chỉ ở vương cung, trong lòng Vương hậu chỉ biết đến một nam nhân duy nhất là Hà Túc. Lúc trước quen ăn ngon mặc đẹp, xung quanh kẻ hầu người hạ, lại có phụ mẫu sớm hôm kề bên, nên sau khi được sắc phong làm mẫu nghi một nước, Vương hậu mới thành ra tâm kế, mưu mô suy tính thiệt hơn.

    Lúc này đây, khi đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy, tóc buộc ngang lưng, thân ở nơi lãnh cung nhìn mây trôi lãng đãng, lòng Vương hậu lại nhớ tới những việc cỏn con ngày trước.

    Nhớ thời run rẩy bước chân vào phủ vương tử, đêm động phòng hoa chúc, Vương hậu khẽ vén một góc khăn hồng, lặng lẽ liếc nhìn Hà Túc. Nhớ cảm giác hân hoan khi Hà Túc thì thầm vào tai, rằng nàng đã mang cốt nhục của ta. Nhớ cảm giác khi chuẩn bị trang điểm nơi hậu cung, rồi ung dung nhận ngọc tỷ vương hậu trước mặt mọi người.

    Một đôi phu thê như thế, sao lại từng bước, từng bước bị cuốn vào quốc hận, thù nhà, đến nay ngoài những buồn thương vướng mắc, liệu còn lại điều gì?

    Đang khóc đến đứt gan đứt ruột, bỗng thấy có người chạm vào vai, Vượng hậu ngẩng khuôn mặt đẫm lệ lên, nhìn Hà Túc đang đỡ mình dậy.

    “Vương hậu đừng khóc nữa. Ta nói thực với Vương hậu, Nhạc Chấn dẫn quân bỏ chạy, thành đô không còn binh sĩ, nay Hà Hiệp dẫn theo đại quân Vân Thường bao vây chúng ta rồi.”

    “Hả!” Vương hậu thất kinh. Bị giam lỏng nhiều ngày nay, Vương hậu không biết đến tin tức bên ngoài nên chẳng thể ngờ rằng tình hình lại tồi tệ đến mức này.

    “Mạnh yếu chênh lệch, biết rõ là thua, chi bằng ta không đánh trận này. Giờ này ngày mai, quả nhân sẽ mở cổng thành, tự tay đưa thư hàng cho Hà Hiệp”, Hà Túc cười cay đắng, “Nước đã mất, tội phản quốc của Vương hậu và Quốc trượng, Quốc cữu có gì mà không thể đại xá?”.

    Nghe những lời chất chứa sự bất lực và chán nản của Hà Túc, hoàn toàn khác với vẻ lạnh lùng, kiêu ngạo trước đây, trong lòng Vương hậu càng thêm đau đớn hối hận, giọng nói cũng run rẩy: “Nếu không vì lỗi của thần thiếp, Quy Lạc không xảy ra nội loạn, Đại vương có đại quân trong tay, Hà Hiệp đâu thể muốn đến là đến? Thần thiếp...”.

    “Đừng nói nữa.” Hà Túc cắt ngang lời Vương hậu, trầm giọng, “Thị nữ đã mang sẵn y phục, trang sức đợi bên ngoài. Vương hậu hãy trang điểm như mọi ngày đi. Lâu lắm rồi Vương hậu không uống rượu cùng quả nhân, đêm nay phu thê ta sẽ cùng nhau thưởng rượu, đừng để người ngoài làm phiền”.

    Vương hậu lặng lẽ nhìn Hà Túc, cuối cùng chậm rãi hành lễ: “Thần thiếp tuân lệnh”.

    Hà Túc quay người rời đi, những thị nữ bên ngoài thấy Đại vương đi ra thì nhất tề bước vào, trên tay bê những khay vuông, đều là y phục và đồ trang sức Vương hậu quen dùng, còn đủ cả son phấn cũng như các loại hương.

    “Vương hậu nương nương.” Gặp được Vương hậu, đám thị nữ nhất loạt hành lễ, nhưng khuôn mặt ai cũng u ám, xem ra, tin Đại vương ngày mai sẽ nộp thư hàng cho Hà Hiệp đã truyền khắp vương cung.

    Sau khi tắm gội thay áo, Vương hậu trang điểm đẹp như thần tiên, rồi uyển chuyển di giá đến tẩm cung của Đại vương.

    Quả nhiên Hà Túc đã sai người chuẩn bị rượu ngon ở đó. Qua tấm rèm châu, họ cùng nhau thưởng rượu dưới trăng.

    Giờ lành cảnh đẹp, sơn hào hải vị, rượu ngon sóng sánh, nghĩ lại những ngày bị giam lỏng nơi lãnh cung không thấy mặt trời thật giống một giấc mơ, Vương hậu bất giác cảm thán đời người sao mà khó đoán.

    Cả hai đều trĩu nặng tâm tư, lặng lẽ ngồi đó, uống cạn vài chén. Hà Túc chợt hỏi: “Sao Vương hậu không nói gì?”.

    “Thần thiếp...” Khuôn mặt trang điểm kỹ càng của Vương hậu thoáng chút hoang mang, “Thần thiếp không biết phải nói gì”.

    Hà Túc nhìn thật kỹ thê tử đang ở trước mặt, bỗng bật cười nói: “Quả nhân bỗng thấy, từ khi trở thành chủ nhân hậu cung đến nay, lúc này nàng đẹp nhất”.

    Được Đại vương khen, trái tim nặng nề bỗng nhẹ bẫng, cảm giác xung quanh như bồng bềnh mây trắng, Vương hậu khẽ cúi người, đáp: “Lòng không phiền muộn mới long lanh trong vắt. Cũng có thể vì hôm nay trong lòng thần thiếp đã không còn điều gì giấu giếm Đại vương nữa”.

    “Nói hay lắm”, Hà Túc nâng chén, “Vương hậu đêm nay khiến quả nhân nhớ lại ngày đầu tiên nàng bước chân vào phủ vương tử. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, hóa ra chúng ta đã là phu thê bao nhiêu năm rồi”. Giọng Hà Túc bỗng dịu dàng như bao năm trước.

    Khuôn mặt Vương hậu vừa kinh ngạc vừa cảm động: “Đại vương... có còn nhớ thiếp lúc mới bước vào phủ vương tử không?”.

    “Sao lại không?”

    “Thật không...” Vương hậu đưa tay vuốt tóc, khẽ nói, “Chẳng giấu gì Đại vương, thần thiếp cũng nhớ”.

    Phủ vương tử, phủ vương tử của Hà Túc lúc đó.

    Vang giọng ca vui, tiếng đàn véo von.

    Một đám danh gia vọng tộc bằng hữu của Hà Túc khi ấy thường tụ tập tán chuyện trên trời dưới đất, có luyện kiếm, có đánh đàn, hoặc luận đàm thi họa, hoặc nói chuyện chí lớn. Ai uống rượu thì uống rượu, ai nói chuyện thì nói chuyện. Dương Phượng đã là người trong phủ vương tử, cộng thêm Hà Hiệp luôn dẫn theo Sính Đình đến.

    Chỉ có nhà họ Nhạc gia quy nghiêm ngặt, lại là vương tử phi tôn quý, không như những người khác, nên Vương hậu không thể vui đùa cùng bọn họ, đành ngồi trong bốn bức tường, nghe tiếng nói cười từ xa vọng lại.

    Hóa ra... Đại vương vẫn nhớ tất cả những thứ đó.

    Nhưng, liệu Phò mã Vân Thường Hà Hiệp đang cầm quân bao vây thành đô Quy Lạc có còn nhớ đến điều này?
     
  19. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 58
    Mặt trời đỏ như màu máu đang từ từ nhô lên phía trời đông của thành đô Quy Lạc, thay chỗ cho ánh trăng hiền hòa. Với tư thế đường hoàng giá lâm thiên hạ, vầng dương đem ánh sáng chiếu thẳng vào từng trái tim nặng nề của con dân Quy Lạc.

    Nắng ban mai soi tỏ lá cờ Vân Thường đang bay phần phật ngoài thành đô Quy Lạc.

    Đoàn quân đến chân thành.

    Sau hôm nay, những giọng ca điệu múa say đắm lòng người, những món điểm tâm cầu kỳ nổi danh thiên hạ của Quy Lạc sẽ không còn tồn tại.

    Dưới bóng đao kiếm của đại quân Vân Thường, cửa thành nặng nề mở ra.

    Đại vương Quy Lạc Hà Túc dẫn theo Vương hậu cùng quần thần Quy Lạc, đầu trần chân đất bước ra cổng thành. Bách tính Quy lạc khiếp sợ quỳ rạp bên đường, giữa hai hàng mâu sáng loáng của binh sĩ Vân Thường. Tất cả đều cố nuốt dòng nước mắt, cố nén tiếng nức nở.

    Nước mất rồi.

    Tất cả đã hết rồi.

    Đêm đó, vương phủ Kính An chìm trong khói lửa, gió nổi mây bay, chỉ qua một đêm, tiểu Kính An vương được dân chúng Quy Lạc kính yêu bỗng trở thành phản thần, bị truy đuổi khắp nơi. Nay, tiểu Kính An vương đã trở về, nhưng Quy Lạc đã không còn nữa.

    Trên bình nguyên ngoài thành đô Quy Lạc, Hà Túc đứng trước đại quân Quy Lạc, từ bỏ thân phận tôn quý, quỳ xuống dưới chân kẻ địch.

    “Tội nhân Hà Túc không thể trị vì Quy Lạc, dẫn đến dân chúng lầm than. Từ cổ, ngai báu vốn thuộc về tay kẻ tài, Hà Túc nguyện dâng ngọc tỷ của Quy Lạc quốc lên Phò mã Vân Thường, để bày tỏ lòng quy thuận.” Từng tiếng, từng tiếng nghẹn ngào lọt ra khỏi cổ họng Quy Lạc vương.

    Hai tay nâng ngọc tỷ, Hà Túc chậm rãi dâng lên.

    Ngọc tỷ truyền đời, bảo vật vô giá của cả vương tộc.

    Hà Túc quỳ ở đó, tay giơ cao ngọc tỷ quá đầu, hai vai không ngừng run rẩy.

    Hà Túc chưa từng nghĩ, Quy Lạc rộng lớn này lại bị hủy hoại trong tay mình.

    Trước lúc lâm chung, phụ vương đã dặn riêng Hà Túc: “Mọi việc của vương phủ Kính An, phải cực kỳ thận trọng”.

    Đúng là Hà Túc đã thận trọng, sau khi đăng cơ đã bí mật hoạch định, cẩn trọng bố trí, đợi đến lúc thời cơ chín muồi thì ra tay tàn độc, thiêu trụi cả vương phủ Kính An, rồi giăng thiên la địa võng, cuối cùng giết được Kính An vương và Kính an vương phi, chỉ còn lại mình Hà Hiệp.

    Đáng cười là tới tận hôm nay, Hà Túc mới hiểu ra bốn từ “cực kỳ thận trọng” kia trầm trọng đến mức nào.

    Vương hậu và cả đám đại thần mặt mày trắng bệch như những người mất hồn, quỳ sau lưng Hà Túc.

    Đại quân Vân Thường ngay ngắn chỉnh tề, im lặng như tờ, đao gươm sáng lóa.

    Hà Hiệp thần trí tỉnh táo, ý chí hăng hái, một tay cầm cương, ánh mắt lơ đãng nhìn về phía ngọc tỷ, nhếch môi nói một câu: “Nhận lấy”.

    Tên cận vệ tâm phúc bên cạnh đáp “vâng” một tiếng rồi xuống ngựa đi tới.

    Hà Túc bỗng thấy tay nhẹ bẫng, ngọc tỷ đã chuyển sang tay kẻ khác. Cảm nhận sâu sắc rằng Quy Lạc đã thực sự thuộc về người khác, tay chân Hà Túc bất chợt mềm nhũn, gần như sắp đổ ra đất.

    Đất đai không còn, quốc gia không còn, Hà Túc còn mặt mũi nào để gặp lại tổ tiên?

    Nhưng thời khắc này, dù trong lòng có đau đớn đến mức nào, Hà Túc cũng không thể bỏ mặc đại cục. Nghĩ đến sinh tử của quần thần sau lưng đang phụ thuộc vào một suy nghĩ lúc này của Hà Hiệp, Hà Túc nén cơn đau, cúi đầu nói: “Kính mời Phò mã Vân Thường dẫn quân vào thành, các điện trong vương cung đã được dọn dẹp, mời Phò mã Vân Thường sử dụng”.

    Cảm giác lạ lùng chạy dọc sống lưng, biết Hà Hiệp đang ngồi trên tuấn mã cúi xuống nhìn mình, nhưng hồi lâu, Hà Túc mới nghe trên đỉnh đầu vẳng lên giọng nói quen thuộc: “Năm xưa chúng ta cùng nhau đọc sách, từng nghe tiên sinh dạy rằng, quân vương mất nước nếu muốn thể hiện thành ý, thường cam chịu làm nô dịch cho kẻ thắng, chịu mọi sai khiến. Không biết Đại vương có thật là có thành ý với Hà Hiệp?”.

    Quần thần Quy Lạc bất an, sắc mặt Hà Túc cũng đổi.

    Nghĩ đến mối thù hận xưa, xem ra hôm nay Hà Hiệp không chỉ muốn lấy tính mạng của Hà Túc, mà còn muốn lăng nhục một quân vương đủ bề trước mặt quần thần.

    Nghĩ mình như cá nằm trên thớt. Bản thân chết thì không đáng tiếc, nhưng...

    Hà Túc nắm chặt hai bàn tay, giấu trong áo, cúi đầu cắn răng nói: “Xin cho Hà Túc dắt ngựa đưa Phò mã vào thành để tỏ rõ thành ý”.

    “Đại vương...”, Vương hậu khẽ gọi phía sau, giọng nấc nghẹn.

    Tất cả các lão thần cũng lặng lẽ trào nước mắt.

    “Đừng nhiều lời.” Hà Túc cương quyết ngắt lời Vương hậu, cam chịu sự sỉ nhục của Hà Hiệp, đứng lên, khó khăn cất bước như đang giẫm trên gai nhọn, từ từ đến dưới chân ngựa của Hà Hiệp, đưa tay định cầm dây cương ngựa.

    Hà Túc chưa kịp chạm vào dây cương, bàn tay đã bị thứ gì đó ngăn lại, thì ra là roi ngựa.

    Hà Túc ngẩng đầu không hiểu, cứ ngỡ Hà Hiệp lại làm khó mình.

    Hà Hiệp lạnh lùng: “Tuy ta hận ngươi, nhưng cũng không đến mức này”. Hà Hiệp vung roi, cao giọng: “Vào thành! Không đến vương cung, ta muốn tới vương phủ Kính An”.

    “Vào thành!”

    “Vào thành!”

    “Vào thành...”

    Hai tiếng “Vào thành” nối tiếp nhau, lên bổng xuống trầm, vang vọng không dứt.

    Đại quân Vân Thường giống như con mãnh thú khổng lồ vừa choàng tỉnh, chầm chậm tiến vào thành đô Quy Lạc.

    Hà Hiệp cưỡi trên lưng ngựa, vương kỳ bay phấp phới, đi giữa đám hộ vệ. Hà Túc dẫn theo quần thần đứt gan đứt ruột bước phía sau.

    Vào tới cổng thành, cảm giác quen thuộc mà lạ lẫm bỗng trào dâng trong lòng, thành đô cổ xưa này là nơi Hà Hiệp đã sinh ra và lớn lên, đã từng vui đùa khắp các con ngõ, cưỡi ngựa thong dong trên mọi nẻo phố.

    Quy Lạc, vương phủ Kính An của Quy Lạc, tiểu Kính An vương của Quy Lạc.

    Lưỡng cầm Quy Lạc, Quy Lạc có Dương Phượng, và có Bạch Sính Đình.

    Tất cả những điều này rốt cuộc đã xảy ra như thế nào?

    Không ai có thể hiểu nổi tâm trạng của Hà Hiệp lúc này.

    Từ sau khi vương phủ Kính An bị thiêu trụi, đây là lần đầu tiên Hà Hiệp quang minh chính đại trở về thành đô Quy Lạc.

    Lời thề báo thù đã thành hiện thực, nhưng Hà Hiệp phát hiện ra, nỗi đau luôn canh cánh bên lòng bấy lâu nay vẫn không hề vơi bớt.

    Hà Hiệp đã có thành đô Quy Lạc, nhưng nơi đây giờ đã chẳng còn vương phủ Kính An, không còn nụ cười của phụ mẫu, không còn Sính Đình, chỉ còn lại một mình Hà Túc đã trở thành kẻ thù suốt đời suốt kiếp với mình.

    Giờ đã báo được thù, có được cả một giang sơn, nhưng Hà Hiệp không biết phải báo tin vui này cho ai. Cả Diệu Thiên cũng không còn nữa.

    Tiếng vó ngựa đang đưa Hà Hiệp trở về quê hương. Đến lúc dừng lại, hoa tuôn dòng lệ, chim đau cõi lòng, vương phủ Kính An chỉ còn lại tường vách sụt lở.

    “Sau khi bị thiêu trụi, vương phủ Kính An hoang phế đến tận bây giờ.”

    Hà Hiệp xuống ngựa, nhìn chăm chăm về phía cổng vương phủ quấn đầy rêu xanh, cuối cùng cũng bước lên từng bậc quen thuộc, đi vào trong.

    Cảnh tượng khách nhân đầy sân, ngựa xe nườm nượp như đang tái hiện ngay trước mắt hắn.

    Phụ thân đang bàn chính sự cùng các đại thần, đám thị nữ vây quanh mẫu thân đòi nghe những chuyện hứng thú trong vương cung. Thỉnh thoảng mới thấy Hà Hiệp từ ngoài sân đi vào, mẫu thân thường hay đứng dậy, dặn dò: “Hiệp nhi, bên ngoài người đông, lộn xộn lắm. Hiệp nhi ra ngoài nhớ mang theo thị vệ, đừng dẫn Sính Đình chạy lung tung khắp nơi”.

    “Hài nhi biết rồi. Hài nhi không đi đâu cả, Vương tử Hà Túc gọi hài nhi, nói bên phủ vương tử đang có một vị tiên sinh nổi danh tới giảng binh pháp, Hà Túc bảo hài nhi sang nghe.”

    “Thế con đi đi. Đừng cưỡi ngựa, ngã thì không hay đâu, tốt nhất là ngồi xe ngựa...”

    “Hài nhi biết rồi.”

    “Con nhớ, nếu muộn mà ở lại phủ vương tử dùng cơm, nhớ... Haizzz, đứa trẻ này...”

    Mẫu thân chưa dặn dò xong, Hà Hiệp đã chạy ra đến cổng, tìm thấy Sính Đình, cũng không cần biết Sính Đình đang bận gì, đã cầm tay nàng mà chạy, vừa ra khỏi cổng vương phủ, liền lên ngựa quất roi, đi thẳng.

    Những cảnh tượng đã qua cứ hiện về lúc gần lúc xa, lẫn trong từng đám cỏ, trong tường ngói rêu đen, mỗi nơi đều lưu giữ bao nhiêu ký ức.

    Muốn quên đi quá khứ lại khó khăn thế này!

    Hà Hiệp đứng một lúc lâu trong sân, gương mặt tuấn tú lạnh như băng, hạ lệnh: “Sắp xếp lại chỗ này, bày tiệc, bản phò mã phải uống một trận với quân vương cũ của Quy Lạc ngay tại vương phủ Kính An này”.

    Hà Hiệp quyền thế ngút trời, chỉ một hiệu lệnh, không ai dám chậm trễ.

    Nhổ hết cỏ dại, quét sạch lá rụng, nền gạch nhẵn bóng theo thời gian dần lộ ra sau lớp bụi mờ.

    Lụa đỏ gấm xanh và những dải rèm tơ đủ màu sắc quấn quanh trụ đá còn loang lổ vết cháy, rực rỡ tung bay trong gió.

    Thu dọn phế tích, thay vào đó là những bộ bàn trà mới tinh, bên trên sắp đầy hoa thơm trái ngọt.

    Trước mỗi cánh cửa, thảm dài tít tắp.

    Mặt trời chiều đã ngả về tây, vất vả cả một ngày, vương phủ Kính An bề thế đã được sắp xếp thỏa đáng.

    Trong ráng chiều đỏ ối, những bức tường loang lổ vết cháy càng làm nổi bật bộ đồ cổ hiếm quý được chuyển từ vương cung đến, không hề ăn nhập với khung cảnh nơi đây càng khiến lòng người thương cảm.

    Rượu ngon cùng thức nhắm nhanh chóng được mang ra, Hà Hiệp ngồi ngay ngắn ở chính giữa, lệnh cho thị vệ lùi sau trăm bước, hộ giá từ xa.

    Quy Lạc vương hậu cầm bình rượu, buồn bã ngồi lặng một bên.

    Cùng thưởng rượu với Hà Hiệp chỉ có Hà Túc.

    “Cạn.” Hà Hiệp nâng chén, làm động tác chạm nhẹ trong không trung.

    Hà Túc lòng đầy tâm sự, nhưng việc đã đến nước này, chết còn không sợ, sợ gì ly rượu? Hà Túc nâng chén nói: “Cạn”, rồi ngửa đầu uống cạn, hơi rượu cay nồng xộc thẳng vào cổ họng.

    Uống một ly rượu, sầu càng sầu thêm.

    Nhìn quanh bốn bề, sự sắp xếp hoa lệ không thể che đi một vương phủ Kính An chỉ còn là phế tích. Tất cả những điều này đều cho một tay Quy Lạc vương làm nên, Hà Túc không nén được tiếng thở dài: “Không ngờ chúng ta vẫn còn lúc uống rượu cùng nhau thế này”.

    Quy Lạc vương hậu hơi cúi về phía trước, lặng lẽ rót rượu cho hai người.

    “Thế sự khó lường, đúng không?”, Hà Hiệp cười buồn, nói Hà Túc, “Có biết tại sao ta mời ngươi uống rượu không?”.

    “Ta không biết.”

    Họ vốn quen biết nhau nhiều năm, thuở niên thiếu cũng coi là hảo hữu, ai ngờ lại có ngày hôm nay. Hai đôi mắt sắc bén gặp nhau, không nhân nhượng mà nhìn thẳng đối phương, hồi lâu mới chuyển qua chỗ khác.

    Hà Hiệp nâng chén, trầm giọng: “Ta phải cảm tạ ngươi”.

    “Cảm tạ ta?”

    Khuôn mặt tuấn tú của Hà Hiệp như bao phủ một lớp khói mờ, khiến người ta không thể nhìn thấy điều cay đắng ẩn sâu nơi đáy mắt: “Có được sự uy phong ngày hôm nay, không cảm tạ ngươi, ta phải cảm tạ ai?”.

    Trước khi vương phủ Kính An gặp biến cố, Hà Hiệp chưa từng nghĩ sẽ có ngày này.

    Hà Hiệp vốn dĩ chỉ là một tiểu Kính An vương phong lưu phóng khoáng, tiếu ngạo tứ quốc.

    Có quốc gia cần bảo vệ, có nhà để về, có song thân và Sính Đình, có Đông Chước bên cạnh, được hàng vạn tướng sĩ yêu kính, Hà Hiệp sẵn sàng xả dòng máu nóng để giữ vững Quy Lạc.

    Nhưng, tất cả những điều đó đột nhiên thay đổi, nhanh không kịp thở. Hà Hiệp chẳng thể quên nổi cái khoảnh khắc quay đầu nhìn vương phủ Kính An chìm trong biển lửa.

    Quy Lạc vương hậu ngồi yên bên cạnh, nhận thấy bao nỗi hận thù đang ẩn dưới vẻ bình tĩnh của Hà Hiệp, bất giác rùng mình.

    Hà Túc lại cười, hạ giọng nói: “Ngươi đang hận ta ngày đó ra tay với vương phủ Kính An? Đúng thế, ta và ngươi cùng lớn lên, tình như huynh đệ, Kính An vương cũng là bậc trưởng bối đáng kính, nhưng vì vương quyền, ngày đó ta đã quá độc ác”.

    Hà Hiệp đáp: “Không cần nói, ta hiểu hết”.

    “Ngươi hiểu?”

    “Đúng, ta hiểu.” Hà Hiệp ngẩng đầu, uống thêm một chén.

    Rượu đắng, hết chén này đến chén khác đều là rượu đắng.

    Hà Túc đã hủy hoại cả vương phủ Kính An.

    Còn Hà Hiệp, tiểu Kính An vương từng quang minh lỗi lạc, khi ở Bắc Mạc đã dùng độc kế giết hai vương tử Đông Lâm để hãm hại Sính Đình thân yêu; lúc ở vương cung Vân Thường, chứng kiến Diệu Thiên công chúa, thê tử đang hoài thai cốt nhục của mình chết dần sau cánh cửa khóa chặt.

    Sao Hà Hiệp lại không hiểu?

    Tịch dương ảm đạm, sân vắng xác xơ.

    Hà Hiệp nâng từng ly rượu đắng với kẻ thù của vương phủ Kính An.

    Bốn bề tường đổ vách xiêu khiến Hà Hiệp đau lòng đến phát điên, tất cả đều do kẻ trước mặt này đưa đến. Nhưng giờ đây, ngay tại mảnh đất cũ bao yêu dấu, Hà Hiệp lại bày tiệc thưởng rượu cùng kẻ thù.

    Bởi Hà Hiệp không còn tìm được ai có thể cùng uống ly rượu đắng, cùng chia sẻ sự hoang vu của vương phủ Kính An.

    Còn có ai?

    Phụ mẫu đâu? Sính Đình đâu?

    Diệu Thiên công chúa, ái thê từng giao cả binh quyền của Vân Thường cho Hà Hiệp cũng đang ở đâu?

    Thời gian cứ chạy đi không dừng bước, các thị vệ lặng lẽ châm nến bốn bên.

    Hai nam nhân lặng lẽ uống, Vương hậu lần lượt châm rượu.

    Hà Túc không hề nhìn sang Vương hậu, mặt không biểu cảm nâng lên uống cạn hết chén này đến chén khác, rồi ngẩng đầu nhìn sắc trời, vầng trăng đã sáng trên bầu trời.

    Hà Túc dằn lòng, đặt chén không xuống bàn, khảng khái nói: “Thời khắc đã đến, dù là rượu độc hay đao thương, hãy cứ đưa lên. Nhưng nhớ là ngươi đã hứa với ta, chỉ cần ta bằng lòng tự vẫn, sẽ đảm bảo thê nhi bình an”.

    “Keng” một tiếng, chiếc bình bạc rơi xuống nền gạch, rượu đổ lênh láng.

    Quy Lạc vương hậu sững người, hồi lâu mới khóc nói: “Đại vương, Đại vương...”, rồi nhào đến chân Hà Túc, cắn chặt môi, không nói thêm tiếng nào.

    Cứ ngỡ đầu hàng quy thuận, hai tay dâng lên ngọc tỷ là có thể bảo toàn tính mạng, ai ngờ phu quân phải dùng cả tính mạng để trao đổi với Hà Hiệp sự bình yên của mình và Thiệu nhi.

    Trước đêm qua, Vương hậu còn cảm thấy phu thê đã tựa hai người xa lạ, nhưng lúc này đây, trái tim Vương hậu đau như bị đánh bằng roi sắt, không còn thiết sống.

    Hà Hiệp thấy Quy Lạc vương hậu quỳ bên chân Hà Túc khóc lóc thảm thiết, khuôn mặt thoáng tia cảm thương mơ hồ, giây lát sau lại vô cùng lạnh lùng: “Nữ nhân này và phụ thân, huynh trưởng của nàng ta đã đoạt quyền gây loạn triều chính, giáng họa cho Quy Lạc, khiến ngươi mất tất cả. Thế mà ngươi vẫn bảo vệ nàng ta, lòng nhân từ kiểu nữ tử này thực không giống với những gì ngươi từng làm”.

    Hà Túc nghe vậy, cúi xuống nhìn thê tử đang đau lòng khóc lóc, khuôn mặt thoáng vẻ ấm áp: “Lúc đầu vì việc Nhạc Chấn tạo phản ta đã rất hận nàng, sau khi giam nàng vào lãnh cung, rất nhiều lần ta đã quyết định xử nàng tội chết, trước lúc bức thư chiêu hàng của Phò mã Vân Thường đến, thậm chí ta còn nghĩ, có nên giết nàng trước khi ta chết…”.

    Hà Túc thở dài một hơi, như đang trả lời Hà Hiệp, lại như đang tự nói với mình: “Trong thư chiêu hàng ghi rõ, chỉ cần ta tự nguyện dâng lên ngọc tỷ rồi tự vẫn, ngươi sẽ bảo toàn tính mạng của hai người trong vương tộc. Trong thiên hạ không gì sánh bằng tấm lòng phụ mẫu, vì Thiệu nhi, ta tự vẫn thì có gì không đáng? Còn người thứ hai cần bảo vệ, suy đi nghĩ lại, cuối cùng, người mà ta muốn bảo về bằng cả tính mạng mình lại chính là nàng…”.

    “Đại vương!”, Vương hậu ngẩng lên, thê thảm gọi một tiếng, giọng nấc nghẹn, “Thần thiếp đáng chết, thần thiếp tội đáng muôn chết!”.

    “Nàng không đáng chết, Thiệu nhi đã mất đi phụ thân, sao có thể mất thêm cả mẫu thân?” Hà Túc nở nụ cười buồn bã. Sau khi đăng cơ, xung quanh có biết bao mỹ nhân, Hà Túc lại say mê vương quyền nên ngày càng lạnh nhạt với Vương hậu, giờ đến lúc từ biệt, Hà Túc mới biết nữ nhân ấy đã ở bên mình bao nhiêu lâu nay, chính là người mình thực sự không muốn mất nhất, nên dịu giọng: “Ngày thành thân, ta đã hứa sẽ yêu thương, bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp. Nhưng bao năm qua ta đã quên mất lời thề này, chỉ đến hôm nay, không biết tại sao mới chợt nhớ tới. Vương hậu đừng khóc, ta chỉ đang thực hiện lời hứa của mình thôi”.

    Hà Hiệp đứng một bên, ánh mắt lạnh lùng.

    Hà Hiệp ôm hận đến đây, chinh phạt Quy Lạc, cả chặng đường đại quân Vân Thường đã đạp bằng mọi gian khó, bất khả chiến bại. Cho đến hôm nay, đại quân ấy đang bao vây dưới thành, không tốn chút hơi sức đã ép được Hà Túc dâng lên ngọc tỷ, tự tìm đến cái chết. Cứ tưởng Hà Hiệp phải thở phào khoan khoái, phải vui sướng đến chừng nào… Nhưng, chiến thắng không phải tiên dược vạn linh, giành được Quy Lạc không những không trị được tâm bệnh của Hà Hiệp, mà khi vào đến thành đô, vương phủ Kính An hoang vu lạnh lẽo này càng khiến Hà Hiệp cảm thấy thêm phần mất mát.

    Thấy Hà Túc dịu dàng từ biệt thê tử, Quy Lạc vương hậu đau đớn buồn thương, Hà Hiệp lặng lẽ đứng một bên, nhìn xung quanh, không có một ai, chỉ còn vương phủ Kính An hoang tàn điểm xuyết những tấm lụa đỏ gấm xanh, nỗi cô quạnh ngập tràn trong tim.

    Nỗi hận bị người đời phản bội, bỏ rơi như núi lửa bùng phát, nhấn chìm Hà Hiệp.

    “Ngươi cũng không bắt buộc phải chết. Nể mối giao tình thuở nhỏ của chúng ta, bản phò mã cho ngươi một cơ hội”, Hà Hiệp cười gằn, “Ba người của vương tộc Quy Lạc, chỉ cần một người bằng lòng tự vẫn, thì có thể bảo toàn tính mạng cho hai người còn lại, thế nào?”.

    Vương hậu không ngờ tình thế bỗng nhiên thay đổi, liền nín thinh nhìn sang Hà Hiệp, thật thà hỏi: “Tiểu Kính An vương nói có thật không?”. Nếu được như thế, chỉ cần Vương hậu bằng lòng nhận lấy cái chết là có thể bảo toàn mạng sống của phu quân và hài nhi.

    Hà Hiệp chưa kịp trả lời, Hà Túc đã trầm giọng: “Vương hậu đừng nên nhiều lời. Việc này đã quyết, không cần phải thay đổi”.

    Hà Hiệp không ngờ Hà Túc lại kiên quyết đến thế, mặt bỗng biến sắc, một tay đặt lên chuôi kiếm, cười lạnh lùng. Nhớ đến Diệu Thiên, từng lời, từng cử chỉ, ánh mắt của hai người trước mặt đều như những lưỡi dao cứa vào tim Hà Hiệp, khiến sát khí trào dâng.

    “Đại vương…”, Vương hậu mắt đỏ hoe, khẩn cầu: “Thần thiếp chết không đáng tiếc, chỉ cần Đại vương có thể…”.

    “Có thể làm sao!” Hà Túc trừng mắt, ánh nhìn xót thương vô hạn, thấy Vương hậu đẫm lệ bèn cúi xuống, nhẹ nhàng lau đi những giọt nước mắt. Biết đây là cơ hội cuối cùng được trò chuyện cùng thê tử, giọng Hà Túc càng dịu dàng, thở dài: “Ta là phu quân của nàng nên phải bảo vệ nàng. Khắp thiên hạ này có phu quân nào lại nhẫn tâm nhìn thê tử chết ngay trước mắt mình?”.

    Hà Túc không biết rằng khi rút gan rút ruột nói với thê tử những lời này, cũng là lúc đâm thẳng một đao vào tim Hà Hiệp.

    Khắp thiên hạ này, có phu quân nào lại nhẫn tâm nhìn thê tử chết ngay trước mắt mình?

    Nghe những lời này, trong đầu Hà Hiệp bỗng nổ ầm một tiếng, vỡ tung, trước mắt trống rỗng, toàn thân chao đảo, cố gắng lắm mới đứng vững được, lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh. Hà Hiệp không cần suy nghĩ, rút kiếm ra, nghiến chặt răng: “Ngươi thật đáng chết!”.

    Hà Túc ngẩng đầu, ánh kiếm đã tới trước mắt. Sinh ra đã là vương tử, tuy không bản lĩnh bằng Hà Hiệp, nhưng Hà Túc cũng là người kiêu ngạo, lại có sẵn chủ ý hy sinh tính mạng để bảo vệ thê nhi, nên không hề kinh sợ mà nhắm mắt đứng nguyên chỗ cũ, đợi cơn đau đến.

    Bảo kiếm vung lên, thấy Hà Túc thần thái tự tại, nhắm mắt chờ chết, lửa hận trong lòng Hà Hiệp lại càng bừng cháy, cảm thấy nhát kiếm này quá nhân nhượng với Hà Túc. Ánh mắt nhìn sang Vương hậu đang phi thân nhào tới chắn ngang đường kiếm, Hà Hiệp kiếm pháp cao siêu, lưỡi kiếm ngay lập tức đổi hướng, hơi chuyển xuống dưới.

    “A!” Một tiếng kêu thảm thiết vang lên.

    Hà Túc mở trừng mắt, cúi xuống nhìn, thấy thê tử đã nằm trong vũng máu.

    “Vương hậu! Vương hậu!” Hà Túc quỳ xuống, ôm Vương hậu vào lòng, giọng đã khản đặc.

    Vương hậu trúng một kiếm vào giữa họng, máu trào ra như suối, toàn thân mềm nhũn, chỉ có thể lặng lẽ nhìn phu quân, ánh mắt vô cùng thanh thản, rồi từ từ nhắm mắt.

    Thấy hai tay Vương hậu thõng xuống không còn động tĩnh, Hà Túc toàn thân băng lạnh, từ từ ngẩng lên nhìn Hà Hiệp, hai mắt đỏ ngầu, gằn từng tiếng: “Tại sao ngươi làm vậy?”.

    Khóe mắt khẽ co, khuôn mặt đờ đẫn như người mất hồn, Hà Hiệp lạnh lùng: “Bản phò mã chỉ muốn nói với ngươi rằng, chính xác trong thiên hạ vẫn có phu quân phải tận mắt chứng kiến thê tử chết ngay trước mặt mình”.

    “Hà Hiệp!”, Hà Túc gầm lên, đứng bật dậy, “Ngươi sẽ chết không toàn thây!”.

    Cứ ngỡ ngày càng xa cách với Vương hậu, không ngờ đến khi thê tử chết ngay trước mắt, tim Hà Túc lại tan vỡ đến nhường này. Trong lòng vô cùng đau đớn, Hà Túc giơ hai tay, lao như bay về phía Hà Hiệp, định bất chấp tất cả mà vồ lấy cổ họng hắn.

    Một kiếm giết chết Vương hậu, tuy đang lạnh lẽo cười gằn, lời lẽ chua ngoa sắc sảo, nhưng kỳ thực trong lòng Hà Hiệp lúc này đang vô cùng mơ hồ, hình như đã say đến nỗi biết mình đã làm gì, nhưng lại không tin là do mình làm.

    Hà Túc xông đến, thị vệ lại ở tận xa, không thể ập vào. Nhưng võ nghệ của Hà Hiệp vốn dĩ cao hơn Hà Túc một bậc, trong tay có sẵn kiếm, đâu còn chỗ cho Hà Túc dung thân? Vừa thấy bóng Hà Túc nhào tới, Hà Hiệp vội lùi ra sau một bước, đâm kiếm ra phía trước.

    Dòng máu nóng trào ra, bắn khắp đầu, khắp mặt khiến Hà Hiệp choàng tỉnh. Cuối cùng, Hà Hiệp đã thấy rõ Hà Túc chết không nhắm mắt, vẫn trừng trừng nhìn mình.

    Hà Túc bị Hà Hiệp đâm một kiếm xuyên qua ngực, chết ngay tại chỗ.

    Hà Hiệp buông tay, thi thể của Hà Túc và cây bảo kiếm cùng đổ xuống bên cạnh Vương hậu.

    “Phò mã!”

    “Phò mã…” Các cận vệ xông đến.

    Hà Hiệp xua tay, lệnh cho họ lui ra.

    Trong trung đình hoang vắng của vương phủ Kính An, chỉ còn mình Hà Hiệp cô độc đứng đó.

    Đôi phu thê kia đang yên tĩnh nằm trong vũng máu, như đang hung hăng sừng sộ mang cái chết của họ ra chê cười một Hà Hiệp thống lĩnh thiên hạ.

    Một Hà Hiệp chinh phục tứ quốc, binh mã đã đi khắp sông dài rừng sâu, hiệu lệnh vang toàn thiên hạ lại bị thi thể của đôi đế hậu mất nước cười chê!

    Đáng cười!

    “Ha ha ha…”, Hà Hiệp bật cười thành tiếng.

    Đêm khuya tĩnh mịch, nơi vương phủ Kính An tiêu điều vang lên những tiếng cười trống rỗng.

    Phu thê?

    Chẳng phải đôi phu thê này đã từng hận nhau sao? Nếu không, đâu đến nỗi giang sơn loạn lạc, chôn vùi cả Quy Lạc.

    “Nếu vương phủ Kính An không gặp biến cố, không biết Diệu Thiên còn có phúc phận được làm thê tử của phu quân?”

    Hà Hiệp quay phắt lại.

    Sau lưng, không một bóng người.

    Giọng nói dịu dàng quen thuộc ấy thuộc về nụ cười tươi tắn như hoa trong miền ký ức.

    Ngày đó, mười ngón tay ngọc khẽ vén rèm châu, để lộ đôi mắt linh hoạt, chăm chú nhìn Hà Hiệp.

    Khi nàng lặng lẽ rơi nước mắt trên xe ngựa, khi nàng ngồi đoan trang gò bó trong tẩm cung, khi nàng thưởng rượu xem ca vũ cùng Hà Hiệp ở phủ phò mã…

    Thật muốn quên hết những điều này.

    Quên đi tất cả.

    Quên sạch mọi thứ!

    Sững sờ nhìn thi thể của Hà Túc và Vương hậu, không khí nặng nề đè nén khiến Hà Hiệp không sao đứng thẳng, đành quỳ sụp xuống.

    Hà Hiệp đau khổ buông thõng hai vai, lấy tay bịt mắt.

    Không thể nào quên.

    Vương phủ Kính An giờ chỉ còn là phế tích, sau đại thắng, không một ai ở bên cạnh Hà Hiệp, không ai vui cùng Hà Hiệp, lo cho Hà Hiệp.

    Giờ này, khắc này, cuối cùng Hà Hiệp đã nhận ra mình nhớ Diệu Thiên đến chừng nào.

    Cứ tưởng rằng thê tử chỉ là công cụ giúp bản thân có được quyền lực, nhưng hóa ra, Hà Hiệp vẫn luôn nhớ về Diệu Thiên đã mang theo cốt nhục của mình, khóc lóc mà chết đi.

    Khi đã có được vương quyền Vân Thường, nỗi đau trong lòng càng thêm bỏng rát, khiến cả người Hà Hiệp hoàn toàn tê dại.

    Khóa!

    Cửa đang khóa, Diệu Thiên đang khóc.

    “Không, không, ta không cần ngự y, ta cần gặp Phò mã… Phò mã…”

    “Mau đi, mau đi tìm người gọi Phò mã đến…”

    “Lục Y, ta muốn gặp Phò mã… Ta không chịu được nữa rồi, ta muốn gặp Phò mã. Mau đi đi, Phò mã sẽ gặp ta mà…”

    Cả người Hà Hiệp run rẩy.

    Khóa, khóa.

    Cửa đang khóa.

    Ổ khóa trĩu nặng, khóa chặt gian phòng nhỏ, khóa chặt Hà Hiệp vào quyền thế hận thù.

    Mở nó ra, mở nó ra. Đó chẳng qua chỉ là một ổ khóa, một cánh cửa gỗ, nhưng trong đó là thê tử đã kết tóc xe duyên với Hà Hiệp và cả cốt nhục của họ nữa.

    “Mở nó ra! Mở khóa ra, nhanh lên, đập nát nó ra, đập nát nó ra!” Hà Hiệp ôm đầu gầm lên, khuôn mặt anh tuấn co quắp vì đau khổ.

    Đã có trong tay tứ quốc, chỉ cần vẫy một cái là có ngay đèn đuốc huy hoàng, ngựa xe lộng lẫy, nhưng Hà Hiệp không thể thay đổi sự yên tĩnh đến chết chóc khiến lòng người trống rỗng này.

    Tất cả mọi người đều vô tình đi qua.

    Nhà ở đâu?

    Gia quyến đang ở đâu?

    Từng tiếng gọi của Diệu Thiên trước lúc ra đi như vọng khắp xung quanh, đập vào tai Hà Hiệp.

    “Mở khóa… Mở khóa! Người đâu, mở khóa!”

    “Phò mã? Phò mã?”

    Bên tai bất chợt vang lên tiếng gọi rõ ràng, Hà Hiệp ngẩng đầu, ánh mắt sắc bén.

    Người đứng trước mặt thận trọng dò xét thần sắc của Hà Hiệp: “Phò mã sai thuộc hạ mở khóa nào? Thuộc hạ sẽ đi mở ngay”.

    Là một cận vệ tâm phúc của hắn.

    Hà Hiệp đờ đẫn nhìn người trước mặt, một lúc mới dần tỉnh lại, thở dài, đứng thẳng lên, ánh mắt lại nhìn xuống, thấy thi thể của phu thê Hà Túc đã lạnh, dòng máu đông lại. Hà Hiệp nhìn chằm chằm vũng máu, ánh mắt dữ dằn, hạ giọng: “Giết hắn đi”.

    Nhìn thần sắc Hà Hiệp, tên lính cũng vô cùng khiếp sợ, vội cúi xuống nhìn thi thể đã lạnh của Hà Túc, khẽ nói: “Bẩm Phò mã, Quy Lạc vương đã chết rồi”.

    “Không…” Sắc mặt trắng bệch, Hà Hiệp trợn trừng hai mắt, lạnh lùng: “Đi giết chết Vương tử của Hà Túc. Giết sạch vương tộc Quy Lạc”.

    Ánh mắt Hà Hiệp khiến người khác run rẩy. Tên thị vệ nghe xong mệnh lệnh cũng sững sờ. Hà Hiệp gửi thư cho Hà Túc, đồng ý chỉ cần Hà Túc giao nộp thư hàng, tự vẫn, hắn sẽ giữ lại hai tính mạng còn lại của vương tộc Quy Lạc. Nay Hà Túc và Vương hậu đều đã chết, sao phải giết nốt Vương tử nhỏ tuổi kia?

    “Phò mã, chẳng phải Phò mã đã từng nói, Quy Lạc vương tử…”

    “Ta đã nói gì?”, Hà Hiệp sừng sộ, “Ngươi cũng to gan thật, dám chống lại quân lệnh của ta? Người đâu, lôi ra ngoài đánh hai mươi trượng cho ta!”. Tên thị vệ đó bị lôi ra ngoài, Hà Hiệp lại gọi người khác tới, hạ lệnh: “Đi giết Quy Lạc vương tử cho ta, ngay lập tức! Ta không cho phép nhi tử của Hà Túc còn sống trên cõi đời này”.

    Tuy có được thiên hạ, nhưng Hà Hiệp đã mất đi cốt nhục của mình, vậy sao có thể để hài tử của kẻ thù được sống?

    Hài tử của Hà Túc đang bị giam giữ, muốn giết đâu có khó gì.

    Rất nhanh, binh sĩ được cử đi đã quay về phụng mệnh: “Phò mã, đã giết xong Hà Thiệu”.

    Hà Hiệp nghe xong, mặt vẫn không vui, chỉ nói: “Thế sao?”, rồi đứng lặng trong gió hồi lâu, sau đó quay lại nhìn những thị vệ đứng xung quanh, tất cả đều đang lặng lẽ đứng nhìn Hà Hiệp, ánh mắt lộ vẻ kinh hãi.

    Cảm giác khó chịu trào dâng trong lòng, Hà Hiệp khẽ nói: “Hà Túc đã đồng ý tự vẫn nhưng lại hối hận, định cùng Vương hậu phản kháng, mưu đồ giết ta, nên ta mới giết sạch vương tộc Quy Lạc”. Nghĩ đến thị vệ lúc nãy lại gần mình, Hà Hiệp hỏi: “Đồng Trừng đâu?”.

    “Bẩm Phò mã, theo quân lệnh của Phò mã, Đồng Trừng đã bị lôi ra ngoài đánh hai mươi trượng, hiện đang quỳ ở ngoài chờ Phò mã xử lý.”

    Hà Hiệp đáp: “Bôi thuốc cho hắn, cho hắn nghỉ ngơi hai ngày dưỡng thương”.

    Nhìn xung quanh, vương phủ Kính An sao mà xa lạ, Hà Hiệp bất giác thở dài một tiếng.

    Mục tiêu chiếm thành Thả Nhu của Vân Thường đã định, Sở Bắc Tiệp dẫn theo tướng sĩ nghỉ ngơi tại doanh trại mười ngày, cũng là để chờ các cánh quân khác đến hợp nhất.

    Hôm đó, các tướng lĩnh đang bàn bạc trong trướng, La Thượng bỗng hồ hởi vén tấm màn cửa, bước vào: “Tướng quân Hoa Tham của Bắc Mạc đã tới”.

    Mọi người vui mừng nói: “Mau mời vào”.

    Lời còn chưa dứt, mọi người đã thấy Hoa Tham bước vào. Hoa Tham là vị tướng trẻ được Nhược Hàn đề bạt sau khi Tắc Doãn quy ẩn, tuy trải qua thất bại Chu Tình, nhưng nhuệ khí của vị tướng quân này vẫn hừng hực. Bao nhiêu ngày trên lưng ngựa, cả người bụi đường bám đầy nhưng ánh mắt vẫn sáng ngời, Hoa Tham nhìn khắp trướng, rồi dừng lại nơi Nhược Hàn: “Thượng tướng quân”. Hắn chắp tay với Nhược Hàn, giọng nói rõ ràng mạch lạc: “Nhận được mật tín của Thượng tướng quân, mạt tướng lập tức lên đường. Sĩ khí Bắc Mạc đang hăng, ngày ngày đều có rất nhiều người tìm đến những điểm chiêu binh bí mật của ta…”.

    “Không vội bẩm báo, vào đây làm quen trước đã.” Nhược Hàn gặp lại thuộc hạ, trong lòng vui mừng, vội dẫn Hoa Tham đến gặp các tướng sĩ, cuối cùng dẫn đến trước mặt Sở Bắc Tiệp, “Vị này là Trấn Bắc vương”.

    Hoa Tham nhìn Sở Bắc Tiệp, ánh mắt vừa cảnh giác vừa kính phục.

    Biết rằng thu phục tướng lĩnh bên phe đối thủ ngày trước không phải việc dễ dàng, nên Sở Bắc Tiệp chẳng hề để ý đến ánh mắt của Hoa Tham, chỉ đánh giá người này một lát, rồi hỏi: “Hoa tướng quân dẫn theo bao nhiêu binh mã đến đây?”.

    Cảm giác khi phải bẩm báo tình hình quân ta với Sở Bắc Tiệp có chút cổ quái, Hoa Tham đưa mắt thăm dò ý kiến Nhược Hàn, rồi mới đáp: “Doanh trại của chúng ta ở Bắc Mạc đã thu nạp được khá đông người, nhưng để tránh tai mắt của quân Vân Thường, nên chỉ đưa khoảng một ngàn người tới đây. Tuy phần đông đều là tân binh chưa từng ra chiến trường, nhưng đảm bảo tất cả đều là hảo hán”.

    Từ lúc nghe tin Hoa Tham đến, tim Sính Đình đã đập thình thịch. Lúc này, nàng đứng cạnh Sở Bắc Tiệp, cố nén nỗi xúc động trong lòng, lên tiếng: “Hoa tướng quân, có tin gì của Dương Phượng không?”.

    Ánh mắt nhìn sang nữ tử thanh tú đang đứng bên Sở Bắc Tiệp, tuy không phải bậc tuyệt sắc giai nhân thường xuất hiện cùng đám quan lại quý nhân, nhưng khí chất trang nhã, phong thái tự nhiên thoải mái, Hoa Tham biết ngay người này là ai, bèn cung kính đáp: “Có, mạt tướng đã sai người đến nơi Bạch cô nương viết trong thư, tìm được Thượng tướng quân phu nhân”. Sính Đình từng trợ giúp Mắc Mạc đối kháng Đông Lâm, nên tất cả các tướng lĩnh Bắc Mạc đều thấy nàng thật gần gũi, thái độ của Hoa Tham với nàng cũng tự nhiên hơn nhiều so với Sở Bắc Tiệp.

    Sính Đình vội hỏi: “Họ khỏe cả chứ? Dương Phượng đọc thư ta gửi xong, có nói gì không?”.

    Hoa Tham cười đáp: “Thượng tướng quân phu nhân nói, mỗi người đều có chí hướng riêng, trước mắt, Thượng tướng quân phu nhân không có dự định đưa hài nhi về vùng núi an toàn nên phải từ chối ý tốt của Bạch cô nương”.

    Sính Đình có chút kinh ngạc, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tươi cười của Hoa Tham, một lúc sau ánh mắt bỗng sáng lên, nàng khẽ reo: “Trời ơi, tỷ ấy đưa cả hài nhi đến đây”.

    Dường như cùng một lúc, trái tim Sính Đình có mấy chục con chim bồ câu trắng mang theo niềm vui hân hoan tung cánh bay vút về bốn phương tám hướng.

    Dương Phượng đã đến. Một Dương Phượng vẫn căm ghét chiến tranh, trước nay luôn muốn tránh khỏi mọi rắc rối đã đến tận đây.

    Các hài nhi đâu?

    Trường Tiếu, Trường Tiếu của ta.

    Bỗng chốc, Sính Đình không thể ngăn nổi niềm vui, bước vội ra khỏi trướng, nhưng đến cửa bỗng dừng lại. Nàng đổi ý, vội vàng quay người cầm tay Sở Bắc Tiệp kéo đi.

    Sính Đình trước nay vẫn ung dung, lúc này lại vô cùng xúc động, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng không hiểu đầu đuôi ra sao. Nhưng được Sính Đình ngoan ngoãn đưa hai bàn tay tới, đương nhiên Sở Bắc Tiệp không đời nào từ chối, cứ mặc nàng kéo ra khỏi trướng, dịu dàng hỏi: “Đi đón Dương Phượng à?”.

    Thoáng cái, bóng dáng hai người đã mất hút sau màn trướng.

    Thấy hai người dắt tay nhau đi khỏi, quần tướng đều rất ngạc nhiên, nhưng cũng vô cùng hâm mộ.

    Hoa Tham vẫn đứng nguyên chỗ cũ, hồi lâu mới quay lại nói với Nhược Hàn: “Bạch cô nương thật lợi hại, mạt tướng vốn định vòng vo, ai ngờ chỉ một câu đã bị đoán ra”.

    Đang rất vui vẻ, Nhược Hàn vỗ vai Hoa Tham, cười nói: “Đáng tiếc, ngươi không được tận mắt chứng kiến trận chiến Kham Bố”.

    Những người cùng đến với Hoa Tham đang túm năm tụm ba nghỉ ngơi ăn uống trên bãi cỏ.

    Sính Đình dẫn Sở Bắc Tiệp bước ra khỏi quân trướng, liếc mắc nhìn quanh đã thấy ngay một dáng người khác hẳn đám đông, sắc mặt Dương Phượng có phần mệt mỏi, nhưng vẫn nguyên một vẻ xinh đẹp, dịu dàng.

    Dương Phượng cũng nhìn thấy Sính Đình từ xa, liền mỉm cười vẫy gọi: “Sính Đình!”.

    “Dương Phượng!” Sính Đình vui mừng gọi một tiếng, thả tay Sở Bắc Tiệp ra, rồi nắm thật chặt hai bàn tay của Dương Phượng, nhìn một lượt khắp người hảo hữu, ánh mắt mênh mang không che giấu nổi nỗi xúc động. Hai người tay nắm chặt tay, đứng nhìn nhau hồi lâu, Sính Đình mới phá vỡ sự im lặng, giọng có chút trách móc thở than: “Tỷ cũng thật là, binh đao hiểm ác, đáng phải tránh xa. Sao tỷ không nghe lời khuyên của muội? Ở đây nguy hiểm lắm”.

    “Muội không chịu yên phận, sao thuyết phục được người khác tránh đi cầu an? Ta cũng có việc muốn làm, đó là muốn đến tận doanh trại, tận mắt chứng kiến việc bình định đại loạn.” Gương mặt dịu dàng thêm phần kiên nghị, Dương Phượng mỉm cười nói tiếp, “Ta nói rồi, ta muốn tận mắt chứng kiến lời của Tắc Doãn phu quân trở thành hiện thực”.

    Ánh mắt kiên định ấy chưa từng xuất hiện trên khuôn mặt Dương Phượng trước khi mất đi Tắc Doãn.

    Bất giác, Sính Đình cũng thấy ngạc nhiên bèn hạ giọng: “Vậy bọn trẻ làm thế nào?”.

    Dương Phượng còn chưa kịp trả lời, cái đầu nhỏ xíu đã thò ra sau lưng mẫu thân, rồi để lộ khuôn mặt tươi tắn: “Dì!”.

    “Tắc Khánh lớn nhanh quá.” Sính Đình yêu thương xoa đầu Tắc Khánh, ánh mắt tìm kiếm xung quanh.

    Dương Phượng biết Sính Đình đang tìm ai, bèn mím môi cười: “Không phải tìm, ở bên kia kìa”, ngón tay ngọc chỉ về phía sau Sính Đình.

    Hài nhi lớn thật nhanh, chưa được bao lâu mà Trường Tiếu đã cao lên không ít. Trường Tiếu còn nghịch hơn cả Tắc Khánh, vừa được đến vùng đất lạ này, nó thấy hiếu kỳ với mọi thứ, ngay cả khi mẫu thân đến trước mặt rồi vẫn không để ý mà chạy đi nơi khác, vì nó vừa nhìn thấy một vật vô cùng quen thuộc.

    “Đao, đao…”

    Trí nhớ của Trường Tiếu rất tốt, trước đây nó từng được chơi với vật sáng đến chói mắt kia, còn làm liên lụy khiến Tắc Khánh bị Dương Phượng đánh cho mấy cái vào mông. Giờ gặp lại, vừa nhìn đã nhận ra ngay, nó tới gần ôm lấy đùi Sở Bắc Tiệp, kiễng chân sờ vào Thần uy bảo kiếm đeo trên hông chàng.

    Sở Bắc Tiệp cúi xuống, thấy một đứa bé nhỏ xíu đang ôm lấy đùi, ngẩng lên nhìn mình. Đôi đồng tử to đen lanh lợi ở giữa hai mắt trong veo, bàn tay nhỏ xinh giơ lên, cố chạm vào bảo kiếm, không hề sợ một Trấn Bắc vương uy danh thiên hạ.

    Đứa trẻ này thật to gan.

    Trước kia, ngay cả hai tiểu vương tử của sư huynh cũng chẳng dám trèo lên người Sở Bắc Tiệp như thế.

    Sở Bắc Tiệp chăm chú nhìn đứa bé cứ ôm lấy đùi mình, sống mũi thẳng tắp, ánh mắt quật cường, càng ngắm càng yêu. Nghĩ đến cốt nhục của mình và Sính Đình đã lặng lẽ mất đi trong vận rủi, Sở Bắc Tiệp bỗng thấy nhói lòng.

    Không ngờ, hai hài tử của Tắc Doãn đều đã biết đi.

    Cảm giác hâm mộ trào dâng trong lòng chàng.

    Sở Bắc Tiệp trước nay không gần gũi với lũ trẻ, lần này cũng thấy mềm lòng, bất giác cúi xuống bế Trường Tiếu, cười khổ véo nhẹ hai má phúng phính của nó: “Tên tiểu tử nghịch ngợm này, sao không ngoan ngoãn đi theo mẫu thân?”.

    Đang vui vẻ chơi đùa bỗng được nhắc nhở, Trường Tiếu vội vàng nhìn quanh, cuối cùng đã tìm thấy dáng hình quen thuộc, vội vã kêu lên: “Mẫu thân!”.

    Tiếng gọi non nớt vô cùng đáng yêu. Trường Tiếu vừa gọi vừa giơ hai tay về phía Dương Phượng và Sính Đình, đúng lúc Sính Đình nhìn về phía ấy.

    Quả nhiên là tình mẫu tử, nghe thấy tiếng gọi của Trường Tiếu, Sính Đình cảm giác trong lòng như nghẹn lại, nỗi xúc động cố nén xuống bất chợt bùng lên. Khi ánh mắt nàng chạm phải Trường Tiếu, hai dòng lệ cứ thế trào ra, lăn dài trên má.

    Sính Đình bước đến trước mặt Sở Bắc Tiệp, đón lấy đứa con đang chạy nhảy khắp nơi, ôm chặt vào lòng, dịu dàng nói: “Trường Tiếu, Trường Tiếu, ta nhớ con quá”. Hai má nàng long lanh nước, ánh mắt vô cùng dịu dàng.

    Trường Tiếu nào hiểu được cảm giác biệt ly, gặp được mẫu thân, vui quá cứ dụi đầu vào lòng mẫu thân, cười khúc khích.

    Sở Bắc Tiệp đứng một bên, chết lặng như tượng.

    Từ lúc Trường Tiếu nhào vào lòng Sính Đình, gọi Sính Đình hai tiếng “mẫu thân”, Sở Bắc Tiệp đã hóa đá.

    Dường như trước mắt chàng đang xuất hiện một dải cầu vồng, lơ lửng giữa không trung, bảy màu lấp lánh.

    Rồi tiếp tục dải thứ hai, thứ ba…

    Vô số dải màu sắc ấy đang chuyển động quanh hai bóng người một lớn một nhỏ, ngọt ngào ấm áp, đẹp đến mức chàng không dám tin là thật.

    Những dải lấp lánh kia căng tràn trong lồng ngực, bất ngờ ầm một tiếng, niềm vui vỡ òa, nỗi xúc động lan ra toàn thân.

    Sính Đình ôm Trường Tiếu, quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Sở Bắc Tiệp thì xấu hổ cúi đầu, vẻ mặt hối lỗi, khẽ bảo: “Vương gia, đây là Trường Tiếu”.

    Chỉ một câu dịu dàng ấy cũng đủ sức lay động lòng người hơn tiếng nhạc trên chốn thiên cung. Sở Bắc Tiệp biết, cả đời này kiếp này mình sẽ không quên được câu nói ấy. Đường đường một Trấn Bắc vương, lại đang trào dâng nỗi xúc động muốn khóc òa thành tiếng ngay trước mặt mọi người.

    Trường Tiếu, đây là Trường Tiếu.

    Nhi tử của Sính Đình.

    Cũng chính là nhi tử của Sở Bắc Tiệp.

    Cả người chàng lâng lâng như đang bay trên mây.

    Sở Bắc Tiệp nhìn chăm chăm về phía mẫu tử tươi cười hạnh phúc trước mắt, không dám để lộ chút ít thần sắc, vì dù chỉ là một cử động nhỏ thoáng qua trên mặt cũng sẽ khiến dòng nước mắt vui mừng đang chực trào ra vỡ òa thành suối.

    Đứa trẻ này là kết tinh của chàng và Sính Đình…

    Sở Bắc Tiệp cố gắng hồi lâu, hai, ba lần lấy hơi, nhưng vẫn xúc động không cất nổi một tiếng.

    Thấy Sở Bắc Tiệp như thế, Sính Đình bất giác lo lắng.

    Trường Tiếu quay lại thấy Sở Bắc Tiệp, lại nhìn chăm chăm về phía Thần uy bảo kiếm, vui mừng reo lên: “Đao!”. Nó giơ tay ra muốn thoát khỏi Sính Đình, chạy về phía Sở Bắc Tiệp.

    Dương Phượng dắt theo Tắc Khánh, đứng bên cạnh lặng lẽ mỉm cười.

    Giống như có bao nhiêu âm thanh ngân vang gào thét bên tai, nếu Sở Bắc Tiệp không thể nhảy lên, hét vài tiếng với đất trời thì không thể hạ bớt ngọn lửa đang thiêu đốt trong lòng. Nhưng toàn thân chàng không chịu nghe lời, cứ đứng nguyên trên đất cũ.

    Cổ họng khô rát, khó khăn lắm chàng mới nói ra được ba tiếng khản đặc: “Chờ một chút”.

    Sính Đình và mọi người đều ngạc nhiên, nhìn Sở Bắc Tiệp quay phắt đi, phi như bay về phía trướng gần nhất. Sở Bắc Tiệp vừa vào trong, toàn bộ binh sĩ trong đó cũng ùa ra, vẻ mặt vô cùng khó hiểu, rõ ràng là bị đuổi hết ra ngoài.

    Đám đông nín thở vây quanh trướng, bên trong bỗng vang lên những tiếng xé gió.

    Vù! Vù vù…

    Dù đứng cách trướng một đoạn, vẫn nghe rõ tiếng đao xé gió bên trong.

    Hình như Trấn Bắc vương đang điên cuồng khua kiếm trong trướng.

    Màn trướng dày nặng đang run lẩy bẩy, nó có thể rách tan bất cứ lúc nào.

    Một lúc sau, tiếng kiếm xé gió bỗng im bặt, cả trướng quân cũng im lìm theo.

    Màn trướng bất chợt bị kéo mạnh, đám đông đang chờ đợi cũng phải giật mình trước uy thế ấy.

    Sở Bắc Tiệp đầm đìa mồ hôi, từ trong bước ra, một tay đặt trên Thần uy bảo kiếm, ánh mắt sáng ngời có thần, hoàn toàn khôi phục lại vẻ thản nhiên, trấn tĩnh thường ngày của Trấn Bắc vương, nhưng đôi mắt đỏ hoe đã nói rõ tất cả.

    Chàng bước đến trước mặt Sính Đình, nhìn Trường Tiếu chằm chằm, rồi bế lấy nó, nói một câu: “Hài nhi ngoan, gọi phụ thân”.

    Trường Tiếu tính khí quật cường, bình thường vẫn không chịu nghe lời, nhưng cũng có thể vì máu mủ ruột rà, lần này lại ngoan ngoãn một cách bất ngờ, ngọng nghịu kêu lên một tiếng: “Phụ thân”, rồi cúi xuống kéo áo bào của Sở Bắc Tiệp.

    Sở Bắc Tiệp nghe thấy tiếng “phụ thân” của Trường Tiếu, lòng vô cùng khoan khoái, nhưng cổ họng nghẹn lại, hai tay ôm Trường Tiếu càng chặt. Trường Tiếu nhỏ bé nhẹ bẫng trong cánh tay phụ thân, bàn tay ấy vốn quen cầm kiếm, chỉ cần hơi dùng sức cũng sợ sẽ làm đau sinh linh bé nhỏ này.

    Nhỏ đến nỗi khiến người ta xót xa.

    Nhưng, chính sinh mệnh nhỏ bé ấy, chính tiếng “phụ thân” ngọng nghịu ấy đã khiến Sở Bắc Tiệp cảm thấy tràn đầy lòng tin hơn bất cứ thứ vũ khí sắc bén nào, hay bất cứ đội binh mã dũng mãnh nào. Sống mũi cay cay, cảm giác ôm nhi tử trong lòng khiến niềm vui của người làm cha bao trùm khắp đất trời, bỗng chốc ý chí bùng phát, Sở Bắc Tiệp cất tiếng cười sảng khoái.

    Thiên hạ còn có ai may mắn hơn chàng?

    Giang sơn vạn dặm cũng không bằng tiếng gọi non nớt này, không bằng nụ cười của Sính Đình.

    Sở Bắc Tiệp cười vang một hồi, vui mừng đến rơi nước mắt, nhưng cuối cùng vẫn nén lại, hạ giọng than với Sính Đình: “Đòn báo thù này của Vương phi thật quá dữ dằn”, giọng nói hoàn toàn bất lực.

    Bao nhiêu uất ức khi trước đến lúc này đã hoàn toàn tan biến, nhìn Sở Bắc Tiệp xúc động như vậy, Sính Đình cũng thấy hổ thẹn trong lòng, bèn cúi đầu, giọng nhỏ hơn tiếng muỗi: “Vương gia không hỏi, bảo Sính Đình làm sao mở lời? Việc này đúng là Sính Đình đã quá tùy tiện, Vương gia đừng giận, chàng hãy tùy ý trách phạt Sính Đình, được không?”.

    Ánh mắt sáng ngời xuất thần của Sở Bắc Tiệp nhìn nàng chằm chằm như muốn ôm trọn ái thê, mãi mãi lưu giữ hình dáng này nơi đáy mắt.

    Tức giận ư?

    Cảm giác này đã từng xuất hiện.

    Cơn gió thổi qua doanh trại đưa Sở Bắc Tiệp quay lại con đường ruột dê. Ngày hôm đó, bao nhiêu thiện xạ mai phục trên vách đá, mũi tên đặt sẵn trên dây cung, Hà Hiệp xuất hiện trên đầu, anh tuấn khí chất hơn người, ép Sở Bắc Tiệp đưa ra hiệp ước năm năm không xâm phạm Quy Lạc.

    Hôm ấy, chàng ngồi trên lưng ngựa, Sính Đình ở trong lòng chàng.

    Hôm ấy, nỗi tức giận xen lẫn phẫn nộ.

    Chính là ngày hôm đó, lần đầu tiên trong cuộc đời chàng cảm nhận được nỗi đau thương đến tận cùng, lần đầu tiên chàng hiểu rằng mình đã thực sự yêu thương một nữ nhân, lần đầu tiên chàng quyết tâm dấn bước lên con đường tình trắc trở.

    Chỉ đến khi yêu và hận, hạnh phúc và khổ đau xen lẫn vào nhau, không thể phân rõ ràng, chàng mới biết tình này không bao giờ thay đổi.

    Không, chàng không còn tức giận.

    Tại sao phải tức giận? Chàng đã có quá nhiều.

    Sở Bắc Tiệp một tay bế Trường Tiếu, cọ mạnh mặt mình vào mặt hài nhi, một tay nắm chặt tay Sính Dình, chỉ mong thời gian mãi mãi lưu giữ khoảnh khắc này.

    Bàn tay nằm gọn trong lòng bàn tay to chắc của Sở Bắc Tiệp, Sính Đình ngẩng lên nhìn chàng thân thiết bế nhi tử hoạt bát đáng yêu trong lòng. Cảnh tượng này vốn chỉ xuất hiện trong mơ, đến giờ đã thành hiện thực, nước mắt nàng lại trào dâng.

    Sính Đình cắn môi, chăm chú nhìn cảnh đẹp hồi lâu, rồi hạ giọng hỏi Sở Bắc Tiệp: “Vương gia đã bớt giận chưa?”.

    “Vương phi bớt giận chưa?”, Sở Bắc Tiệp cười nói, “Một lần giả chết, hôm nay lại thêm một lần, cũng coi như bản vương đã chịu đủ mọi nỗi thống khổ trên đời, mong Vương phi ra tay nể tình, đừng tiếp tục trừng phạt bản vương như thế nữa. Những gì ta đã làm sai trong quá khứ, Vương phi hãy bỏ qua hết cho bản vương”.

    Sính Đình xấu hổ chẳng dám ngẩng đầu, môi nở nụ cười ngọt ngào, bàn tay nắm chặt bàn tay Sở Bắc Tiệp: “Vương gia, xung quanh có rất nhiều người”.

    “Có người thì sao?”, Sở Bắc Tiệp nhìn quanh một vòng, cười rộ lên, “Để họ biết rằng, người không nên đắc tội nhất trong thiên hạ chính là nữ nhân mình thương yêu nhất”.

    Đúng thế!

    Nữ nhân luôn có cách trừng phạt nam nhân thân yêu của mình.

    Họ chỉ dốc hết tâm tư cho nam nhân mình yêu thương nhất, cũng giống như chỉ tan nát cõi lòng vì nam nhân ấy.
     
  20. Hamin137

    Hamin137 Super Member
    • 1158/1243

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,048
    Đã được thích:
    21,216
    Chương 59
    Thả Nhu, Vân Thường.

    Trong thành vẫn được coi là thái bình, dân chúng không hề biết tòa thành nhỏ này đã trở thành mục tiêu tiến tới của Trấn Bắc vương nổi danh thiên hạ, mà vẫn bình yên sống qua ngày.

    Chỉ có cơn tức giận của Thủ thành đại nhân là đang ngày một dâng cao.

    Thuộc hạ đều biết sự tức giận này của Thủ thành đại nhân bắt nguồn từ đâu. Hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh sinh sự khắp nơi, cố ý bới móc, khiến cả thành Thả Nhu ngột ngạt. Cơn giận khiến bù nhìn rơm cũng phải động đậy, Thủ thành đại nhân có thể nhẫn nhịn đến ngày hôm nay cũng coi là quá giỏi rồi.

    “Họ lại đến ư?”

    “Vâng.” Vẻ mặt thuộc hạ vô cùng bối rối, “Cung kính tiễn đi mấy lần, lần nào họ cũng quay lại ngay hôm sau”.

    Phiên Lộc nhếch môi, quay đầu, ánh mắt nhìn ra sau.

    Đỗ Kinh vội vàng tiến lên trước một bước, khom lưng bẩm báo bên tai quan trên: “Ngân lượng đã đưa cả theo ý đại nhân rồi”.

    Haizzz, hai vị đại nhân họ Bồ này cũng quá tham lam. Ai bảo Thủ thành đại nhân của họ đứng nhầm chỗ ngay từ đầu, trở thành người của Quý Thường Thanh? Nay Quý gia không còn, họ gặp ai cũng phải khúm núm, nếu không cũng chẳng đến nỗi bị hai tên quan từ bên ngoài vào chèn ép thê thảm thế này.

    Sư gia Đỗ Kinh cũng bị xui xẻo theo, chòm râu dê không biết đã đứt bao nhiêu sợi?

    “Đại nhân…”, thuộc hạ hiến sách, “Hai vị đại nhân đó không chịu rời đi, chẳng phải vì chưa kiếm được gì ở thành Thả Nhu chúng ta sao? Nghe nói thành Hiển Nạp họ đến trước đó, Thủ thành Hiển Nạp còn dâng lên hai viên đá đỏ to như hai cái trứng gà, họ mới vui vẻ rời đi. Thuộc hạ nghĩ…”.

    Phiên Lộc lạnh lùng hừ một tiếng: “Đá đỏ to bằng cái trứng gà? Ta biết đi đâu tìm cho họ hai viên đá như thế? Chúng ta cũng đã đưa cho họ không ít ngân lượng rồi!”.

    Đỗ Kinh đứng bên Phiên Lộc, định nói gì đó nhưng lại thôi.

    Phiên Lộc đưa mắt ra hiệu, thuộc hạ kia biết điều lùi đi.

    “Đại nhân, sự việc thực ra cũng đơn giản.” Đỗ Kinh bước lên, con mắt nhỏ đảo quanh, “Đại nhân không có châu báu, nhưng ở thành Thả Nhu có người có. Thả Nhu tuy chỉ là một thành nhỏ, nhưng cũng được vài hộ giàu sang, chắc cũng lưu giữ bảo vật của tổ tiên truyền lại có thể vừa mắt hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh”.

    Sắc mặt Phiên Lộc bỗng đổi: “Ngươi muốn ta sách nhiễu dân chúng, vơ vét đồ gia bảo nhà họ?”. Phiên Lộc xuất thân mật thám, từng trải mọi chuyện, giết người phóng hỏa dễ như trở bàn tay, nhưng thực chưa từng nghĩ đến việc sách nhiễu, cướp bóc của dân.

    Đỗ Kinh cười khổ, xoa hai tay vào nhau: “Biết là đại nhân không chịu nên tiểu nhân vốn không dám nói. Nhưng mà đại nhân, hai vị đai nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh cứ ở đây cũng không phải cách hay. Chẳng may chọc giận họ, họ về thành đô đặt điều với Phò mã, đại nhân sẽ gặp nguy hiểm đấy. Họ cũng rất có giao tình với Phi Chiếu Hành tướng quân bên cạnh Phò mã”.

    Phiên Lộc chán ngán như ăn phải miếng thịt mỡ, cau mày nói: “Bảo vật gia truyền quý giá như thế, ai chịu đưa ra dễ dàng? E là, muốn mua cũng chẳng được”.

    Đỗ Kinh mặt ủ mày chau: “Chúng ta không cố tình làm điều ác, mà thực sự chỉ muốn bảo vệ mình. Đại nhân là quan thủ thành, nắm giữ trong tay tính mạng trăm dân trong thành, muốn đánh tiếng mượn đồ, chẳng phải cũng chỉ là chuyện nhỏ sao? Tiểu nhân thực lòng cũng chỉ nghĩ cho đại nhân”.

    Phiên Lộc nghe xong những lời này, cảm thấy vô cùng buồn bã. Làm cái chức thủ thành quèn này, thực chẳng phải việc gì hay ho. Từ khi Hà Hiệp lên nắm quyền, Phiên Lộc ngày càng buồn bã, nghĩ lại còn không thoải mái bằng những ngày làm mật thám trong quân.

    Nhưng hiện giờ triều chính Vân Thường rối ren, những người có liên quan đến Quý gia vẫn giữ được tính mạng đều run lẩy bẩy, chỉ một chút lơ là họ sẽ lập tức rước họa vào thân, có ai dại đến nỗi tự tìm tới rắc rối?

    Phiên Lộc vốn cũng chẳng phải người lương thiện chất phác gì, suy tính trước sau một lượt, rồi nghiến răng gật đầu nói: “Cứ làm như thế đi. Chỉ là không biết nhà ai trong thành có bảo vật này?”.

    Đỗ Kinh thấy Phiên Lộc gật đầu, cũng nhẹ cả người, vội vã tiếp lời: “Việc này không cần đến đại nhân nhọc công, tiểu nhân đã chuẩn bị một danh sách rồi”. Nói xong, ông ta lấy trong ống tay áo một tấm thiếp, mở ra định đọc.

    Bỗng thấy một sai dịch vội vã bước vào cửa, bẩm báo: “Đại nhân, hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh lại đến”.

    “Mời họ vào, sắp xếp cho họ ở phòng thượng hạng.” Hai hàng mày cau lại, Phiên Lộc quay sang xua tay với Đỗ Kinh, “Đừng đọc nữa, ngươi cứ xem mà chọn cho thích hợp, cố đuổi họ đi cho nhanh. Hôm nay lại có đội quân lương qua đây, ta phải ra ngoài thành lo liệu mọi việc. Cũng may, khỏi phải chạm mặt với bọn họ, ta chỉ lo nhìn thấy cái mặt buồn nôn của hai kẻ ấy, ta không nhẫn nhịn được mà tặng họ một tên cho xong đời”. Nói xong, Phiên Lộc cầm chiếc nỏ bất ly thân trên bàn, nhẹ nhàng chuồn khỏi hậu đường, để lại Đỗ Kinh đang rầu rĩ cố nặn ra nụ cười, bước ra cổng thành đón tiếp hai vị đại nhân tham lam vô độ.

    Túy Cúc ở sau hậu viện, nay nàng có thể tùy ý đi lại trong phủ thủ thành, tự do hơn trước rất nhiều. Chỉ là rảnh rỗi quá lâu, khó tránh khỏi buồn rầu, nàng bèn trồng thảo dược ở mảnh đất nhỏ nơi hậu viện.

    Gieo hạt giống chưa được bao lâu, những mầm non đã bắt đầu nứt ra từ khe đất.

    Vốn bẩm sinh đã yêu mến các loài thảo dược, Túy Cúc cẩn thận vun từng mầm cây, rồi xoa lưng đứng dậy.

    Một sai dịch quen mặt đến bẩm báo: “Túy Cúc cô nương, đại nhân nói phải ra ngoài thành, chắc không kịp về dùng cơm, cô nương cứ ăn trước đi”.

    Túy Cúc “ừ” một tiếng, trong lòng rầu rĩ.

    Khi Phiên Lộc ở trước mặt, nàng chỉ mong hắn biến mất ngay lập tức. Nhưng không gặp hắn, nàng lại thấy buồn bã trong lòng.

    “Cơm tối đưa vào phòng vậy.”

    Bữa tối đưa tới, Túy Cúc một mình một bóng, gắp vài miếng, cảm thấy miệng nhạt thếch.

    Chắc là đội quân lương của Vân Thường đi qua thành Thả Nhu. Dăm ba bữa, đội quân lương lại đi qua một lần, thật khiến người ta rầu lòng.

    Nghĩ đến quân lương, lại nghĩ tới thời thế loạn lạc, nghĩ tới sư phụ giờ không biết đang ở phương nao, và cả Sính Đình linh hồn phiêu dạt, Túy Cúc nhìn lên bóng mình cô độc trên tường, càng thêm buồn bã.

    Nàng buông đũa, sống mũi cay cay.

    Có tên Phiên Lộc đáng hận đó ở đây, tuy hắn luôn khiến nàng tức giận, nhưng chí ít, nàng cũng không buồn bã như lúc này.

    Túy Cúc nâng ống tay áo lên lau nước mắt, bỗng tiếng cười đùa của cả nam lẫn nữ bên ngoài vọng vào, chẳng mấy chốc lại có tiếng nữ tử cười vui, điệu đà hát một khúc. Túy Cúc đứng dậy bước ra cửa, đúng lúc nhìn thấy một tiểu nha đầu đi ngang qua, bèn vẫy lại, cau mày hỏi: “Lại có ai đến à? Sao ồn ã thế?”.

    Tiểu nha đầu trả lời: “Thì vẫn hai vị đại nhân gì gì đấy lại đến. Đỗ sư gia đã cho gọi cô nương nổi danh tên là gì gì Xuân đó tới, đang hầu rượu hát hò với hai đại nhân ấy”.

    Túy Cúc biết tiểu nha đầu đang nói đến hai người ăn lộc của Hà Hiệp, đem bao nhiêu phiền phức đến cho Phiên Lộc, nên cũng ghét lây, liền trừng mắt nhìn về phía lầu các sáng trưng. Định bụng về phòng, nhưng nghĩ tới tiếng ồn nhức đầu kia, nàng dứt khoát bước ra cửa, đi về phía tiểu đình sau phủ.

    Đến bên tiểu đình, gió tối mát rượi, dễ chịu hơn ở lầu các vài phần. Túy Cúc cảm thấy tâm tình thoải mái, ngồi vào trong đình, đang nghĩ xem không biết lúc nào Phiên Lộc mới trở về, bỗng nghe thấy sau lưng vang lên tiếng bước chân, lòng chợt gợn sóng, buột miệng hỏi: “Nam nhân xấu xa, về rồi đó à?”, quay đầu nhìn, cả người bỗng khựng lại.

    Bồ Quang bụng phệ chềnh ềnh đã uống say bên cầu các, thấy đệ đệ Bồ Thịnh đang kéo cô nương Nghênh Xuân nổi danh đó làm chuyện hay ho ngay tại chỗ, thì cũng dứt khoát kéo cô nương Quế Hoa xuống lầu, định tìm một gian phòng, vui vẻ suốt đêm.

    Không ngờ uống quá nhiều, Bồ Quang ngất ngư dừng lại mấy lần trên đường đi xuống, đến khi quay người đã chẳng thấy Quế Hoa cô nương đâu. Sắc trời tối đen, Bồ Quang loạng choạng va hết chỗ này đến chỗ khác, rồi va ngay vào tiểu đình.

    Bỗng nghe thấy giọng nói trong veo êm ái, “Nam nhân xấu xa, về rồi đó à?”.

    Bồ Quang ngẩng đầu nhìn, thấy một nữ tử xinh đẹp tươi tắn đang ngồi dưới ánh trăng, trong lòng mừng thầm đã gặp vận may, miệng cười mê đắm: “Bảo bối, ta đã đến đây. Bảo đảm nàng sẽ sướng muốn chết…”. Sẵn có hơi rượu, hắn nhào đến, chạm vào bàn tay mềm mại của Túy Cúc, kề cái mặt khó coi sát lại gần.

    “A!” Trong lúc không kịp đề phòng, Túy Cúc bị hắn chạm vào, liền kêu lên một tiếng, đứng bật dậy khỏi ghế đá, vung tay đẩy một cái, khiến Bồ Quang bụng mỡ lảo đảo ngã sang một bên.

    Cảm giác nhầy nhụa buồn nôn ở chỗ bàn tay hắn chạm vào vẫn còn nguyên. Túy Cúc từ nhỏ đi theo sư phụ, đến đâu cũng được người khác kính trọng, ngoài tên Phiên Lộc đáng ghét kia, thì còn gã nam nhân nào dám đùa cợt nàng thế này. Thấy vẫn chưa hả giận, Túy Cúc lại gần Bồ Quang, giơ tay tát cho hắn hai cái.

    Nhưng nàng là nữ tử, bình thường không đánh ai, sức lực cũng chẳng đến đâu.

    Bồ Quang bị hai cái bạt tai, không những không lùi đi, mà còn tiến sát cả người hơi rượu vào gần Túy Cúc hơn, cười dâm đãng: “Tay thật thơm, tiểu mỹ nhân, tặng ca ca thêm cái nữa nào… Hai chúng ta có qua có lại, mỹ nhân tặng ca ca tay thơm, ca ca cho mỹ nhân đồ ăn ngon, cho mỹ nhân chiêm nghiệm điều mới lạ…”.

    Túy Cúc chưa từng nghe những lời này, không hiểu hắn đang nói gì, nên cứ đứng nhìn. Đúng lúc đó, một mũi tên xé gió lao tới, cắm phập vào ngực Bồ Quang.

    Mũi tên đến không báo trước, vừa nhanh vừa chuẩn, hai mắt Bồ Quang lồi ra như mắt ếch, không kêu lên được một tiếng, cả người đã mềm oặt đổ xuống chân Túy Cúc.

    Túy Cúc ngạc nhiên, lùi ra sau, sống lưng bất chợt chạm vào lòng một người. Nàng kinh hoàng quay đầu, nhìn rõ khuôn mặt người đằng sau, bèn thở phào một tiếng: “Là ngươi…”.

    Túy Cúc bỗng thấy yên tâm.

    Sắc mặt Phiên Lộc cực kỳ khó coi, vẫn trừng mắt đứng đó hồi lâu, rồi một tay xách chiếc nỏ, một tay cầm cổ tay Túy Cúc, kéo nàng lên phía trước.

    Túy Cúc bị kéo đến loạng choạng: “Ngươi làm gì thế?”.

    Phiên Lộc kéo nàng đến trước thi thể của Bồ Quang. Tuy đã hành nghề y nhiều năm, nhưng là nữ tử nên Túy Cúc vẫn sợ nhìn thấy người chết. Bất giác, nàng cố lùi ra sau, không ngờ bị Phiên Lộc giữ chặt, không cho nàng tránh ra.

    Một tay Phiên Lộc lắp mũi tên vào nỏ, rồi đưa cho Túy Cúc: “Cầm lấy”.

    Nhìn vẻ mặt đáng sợ của Phiên Lộc, Túy Cúc ngoan ngoãn nhận lấy chiếc nỏ.

    Phiên Lộc nhìn xuống thi thể Bồ Quang bên dưới, hất hàm: “Bắn hắn”.

    “Hắn chết rồi.”

    “Có bắn không?” Phiên Lộc hung hãn nhìn nàng, hai mắt đã đỏ ngầu.

    Túy Cúc hơi do dự, cả người Phiên Lộc đã áp sát vào người nàng, cầm tay nàng, giương nỏ, bắn. Túy Cúc nhắm mắt, mũi tên bay đi, vù một tiếng, cắm phập vào cổ họng Bồ Quang.

    Người vừa mới chết, máu từ cổ họng bắn tung tóe ra ngoài, vẫn còn nóng nguyên.

    Phiên Lộc lấy lại chiếc nỏ trên tay Túy Cúc, vỗ vào trán nàng, bắt nàng mở mắt ra, hạ giọng: “Nếu có kẻ nào dám nói những lời này với ngươi, ngươi không cần nhiều lời, cứ bắn ngay cho hắn một tên, nghe chưa?”.

    Phiên Lộc lúc này vừa hung hãn vừa thô bạo, chẳng còn vẻ lôi thôi thường ngày. Túy Cúc không dám làm trái ý hắn, bèn gật đầu, nhưng lại nghi hoặc hỏi: “Ý hắn nói với ta là thế nào?”.

    Phiên Lộc lườm nàng một cái, không biết nghĩ đến điều gì, sắc mặt bỗng trở nên cổ quái, rồi nở nụ cười vô cùng sâu xa khó hiểu: “Cũng chẳng phải lời gì xấu xa, chỉ là những lời đó chỉ ta mới được nói với ngươi thôi, kẻ khác không được nói”.

    Tuy không hiểu lắm, Túy Cúc cũng đoán ra đó là những lời chẳng hay ho gì, liền trừng mắt: “Miệng chó không thể mọc được ngà voi”. Cảm giác mặt hơi đỏ, đầu Túy Cúc cúi xuống càng thấp.

    Phiên Lộc cười ha ha, quay người định đi, Túy Cúc vội kéo hắn lại: “Ngươi đi đâu?”. Dưới chân là một thi thể khủng khiếp, nàng không muốn phải ở lại đây một mình.

    Phiên Lộc nhún vai: “Hai huynh đệ họ đến đây, tên này chết rồi, đương nhiên tên còn lại cũng phải đi theo bầu bạn với đại ca hắn chứ. Không lẽ lại giữ tên kia lại để hắn báo thù? Ngươi ở đây trông thi thể này, đừng để hắn biến mất”. Nói xong, Phiên Lộc bước đi mau lẹ, loáng một cái đã chẳng thấy đâu.

    Túy Cúc đứng nguyên chỗ cũ, cúi xuống nhìn thi thể của Bồ Quang dưới ánh trăng, bỗng thấy mặt ao đang gợn sóng bên cạnh cũng trở nên ma quái, bất giác cả người nàng lạnh toát, hai tay nắm chặt.

    Phiên Lộc đã đi được nửa canh giờ.

    Đứng trông thi thể Bồ Quang, Túy Cúc cảm thấy như có lửa đốt, mỗi lần nghe xung quanh có động tĩnh, nàng lại hoảng sợ co rúm người trốn vào sau đình, chỉ sợ người khác chú ý đến thi thể kia. Bồ Quang là quan Vân Thường, nếu người ta phát hiện hắn chết ở thành Thả Nhu, thì thật không phải chuyện nhỏ.

    Bốn bề yên tĩnh, nàng lại ngó cổ ra, mong Phiên Lộc mau chóng quay về, nhưng bóng dáng Phiên Lộc vẫn biệt tăm, trong lòng Túy Cúc lầm bầm oán hận Phiên Lộc hết lần này đến lần khác, tự nhủ đợi khi hắn quay lại, mình sẽ quyết không tha.

    Bỗng nhiên, thoáng thấy một bóng người, hai mắt Túy Cúc sáng bừng.

    Phiên Lộc quay lại cùng Bồ Thịnh mềm nhũn vác trên vai.

    “Cuối cùng ngươi cũng quay lại rồi, hại ta lo muốn chết.” Túy Cúc phi ra như bay, thấy Phiên Lộc đến, nàng không sợ nữa.

    Phiên Lộc nhìn nàng: “Sao ngươi còn ở đây?”.

    Túy Cúc ngạc nhiên: “Chẳng phải ngươi bảo ta trông cái xác này, đừng để nó biến mất còn gì?”.

    “Một cái xác thì có gì phải trông? Nó đâu có biết chạy”, Phiên Lộc nheo mắt cười, “Ta chỉ nói đùa mà ngươi tưởng thật à?”.

    Túy Cúc tức đến sắp ngất đi, nghiến răng kèn kẹt: “Ta chỉ muốn giúp ngươi, mà ngươi dám đem ta ra làm trò cười”.

    Phiên Lộc nhìn một lượt khắp người nàng: “Bộ dạng này của ngươi chỉ khiến ta bận thêm”.

    Sát khí lúc trước đã hoàn toàn biến mất, vẻ mặt lại nhăn nhở một cách đáng ghét, Phiên Lộc đá vào người Bồ Quang, rồi ước chừng sức nặng của Bồ Thịnh trên vai, hai hàng mày cau lại: “Nặng quá, một bụng toàn xương máu chúng dân, sớm biết đằng nào cũng cho chúng một tên, mấy ngày trước hà tất còn phải cho chúng ăn sơn hào hải vị?”. Phiên Lộc quay sang nói với Túy Cúc, “Ta phải chôn từng người một, ngươi cứ ngoan ngoãn ở đây chờ ta”.

    Túy Cúc gật đầu, nhìn theo dáng Phiên Lộc vác Bồ Thịnh đi xa, bỗng tỉnh ngộ, vẻ hậm hực: “Đáng ghét, ai thèm ngoan ngoãn đợi ngươi?”. Nàng giậm chân mấy cái, mặc kệ cái xác dưới đất, tức giận quay về phòng.

    Trong lòng đang tức giận nên nàng không còn kinh sợ như lúc đầu.

    Nàng về phòng ngồi một lúc lâu, cảm thấy không hề buồn ngủ, cứ nhìn chăm chăm ra ngoài cửa. Giữa đêm, quả nhiên Phiên Lộc đã trở về, loạng choạng bước vào cửa, rồi ngồi xuống, cầm bình trà trên bàn đổ thẳng vào miệng, nói như lẩm bẩm: “Phải chôn hai xác người, còn phải rửa sạch vết máu trên đất, mất cả buổi tối. Thật là, hai tên kia nặng hơn cả lợn, vất vả lắm mới tha được hai cái xác đến chỗ chôn, đi mất bao nhiêu lâu, vai đau ê ẩm đến nỗi không nhấc nổi tay lên”. Càng nói, hắn càng trưng ra vẻ mặt đáng thương.

    Túy Cúc tuy đang bực mình, nhưng biết Phiên Lộc vất vả thế cũng vì mình, trong lòng có chút áy náy không yên, bèn đứng dậy, bước đến cạnh Phiên Lộc, ngượng ngùng hỏi: “Mỏi ở chỗ nào?”.

    “Vai.”

    Túy Cúc nhẹ nhàng xoa bóp cho Phiên Lộc. Đi theo sư phụ, nàng đã học qua tất cả các kiểu xoa bóp, tay nghề lão luyện, chỉ hơi thiếu sức.

    Nhưng Phiên Lộc cũng chẳng để ý nàng có sức hay không, được nàng xoa bóp thế này đã là cái phúc hiếm có rồi, hắn liền lim dim mắt, xuýt xoa: “Thật dễ chịu, chắc chắn bờ vai này kiếp trước tích đức, nên kiếp này mới được bàn tay đẹp đẽ xoa bóp cho”.

    Túy Cúc trừng mắt: “Ta biết ngay mà, ngươi không nói nói câu nào cho tử tế. Ngươi còn dám nói thêm, ta không xoa bóp cho ngươi nữa”.

    Phiên Lộc thở dài, ngoan ngoãn ngậm miệng.

    Một lúc sau, Túy Cúc hỏi: “Chúng chết rồi, ngươi ăn nói thế nào với quan trên?”.

    Phiên Lộc không trả lời.

    Túy Cúc nói: “Ngươi nói đi, chỉ cần ngươi đừng nói những câu khó nghe, ta sẽ bóp vai cho ngươi”.

    Đến lúc này Phiên Lộc mới chịu lên tiếng: “Chúng không chết, mà là đã nhận đủ vàng bạc châu báu, thỏa mãn rời khỏi đây”.

    “Sao lại như thế?”

    “Ta có biệt tài tạo hiện trường giả mà, nếu không sao phải mất bao công sức thu dọn hai con lợn đó đến tận nửa đêm?”

    Phiên Lộc chính xác là cao thủ tạo hiện trường, lừa được cả thiên hạ rằng Bạch Sính Đình đã rơi vào miệng sói, tin ấy cũng chính là từ hắn mà ra.

    Nghĩ đến việc Phiên Lộc đi giết tên Bồ Thịnh mất đến nửa canh giờ, chắc là mất thời gian bố trí mọi chuyện, Túy Cúc không truy hỏi gì thêm.

    Hai người nói chuyện trong phòng, bất giác cũng có chút buồn ngủ.

    Túy Cúc nhìn Phiên Lộc: “Ngày mai không có công vụ ư? Sao còn chưa đi ngủ?”.

    Phiên Lộc ngáp một cái: “Ngủ cái gì? Còn có một canh giờ nữa là trời sáng rồi. Ngươi nhìn thấy người chết, nếu ở một mình trong căn phòng tối om này sẽ sợ. Ta ở đây với ngươi đến lúc trời sáng, trời sáng rồi ngươi hãy đi ngủ, chỗ nào cũng sáng trưng, sẽ không thấy sợ nữa”.

    Túy Cúc nghe Phiên Lộc nói thế, lòng như nở hoa, giọng nhẹ nhàng: “Ta không sợ, ngươi mệt cả đêm rồi, cứ thức thế này cũng không phải cách hay, mau đi ngủ đi”.

    Phiên Lộc thở dài: “Không giấu gì ngươi, mỗi khi giết người, mấy đêm tiếp theo ta đều gặp ác mộng, nên không dám ngủ”.

    Túy Cúc cau mày nói: “Ta sẽ kê cho ngươi một đơn thuốc an thần”.

    “Ta cũng có đơn thuốc an thần, nhưng thuốc khó kiếm.”

    Túy Cúc hiếu kỳ: “Vị thuốc nào lại khó kiếm đến thế? Ta sẽ đi tìm cho ngươi”.

    “Một Thần y Túy Cúc chịu cho ta ôm đi ngủ…” Lời chưa nói hết, đã bị Túy Cúc đấm mạnh vào vai, Phiên Lộc giọng bất đắc dĩ, “Ta đã nói là khó kiếm mà”.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này