1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Trinh thám Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa - Tác Giả: Nhị Hồ - Tình Trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi YukiShiota, 13/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 20
    Một giờ đêm 1-10-1961.
    Văn phòng Tổng nha an ninh quân đội Sài Gòn nhận điện báo của Ty An ninh quân đội tỉnh Bình Dương: Đại tá Hoàng Thụy Năm trưởng đoàn Việt Nam trong ủy hội kiểm soát đình chiến quốc tế, bị bắt tại nhà riêng ở Thủ Đức. Sáu giờ sáng điện báo tiếp theo:
    Đã tìm thấy thi hài đại tá Năm trong khu vườn trái cây Lái Thiêu cạnh sông Sài Gòn.
    Bảy giờ sáng, bộ trưởng quốc phòng chính phủ Sài Gòn nhận lệnh trực tiếp của tổng thống Ngô Đình Diệm thành lập tức khắc ban điều tra vụ mưu sát viên sĩ quan cao cấp này, đồng thời có nhiệm vụ tổ chức tang lễ theo quân cách "Hy sinh cho Tổ quốc".
    Thông thường Bộ quốc phòng chuyển giao cho Tổng nha An ninh quân đội thi hành lệnh trên, nhưng vụ sát hại này được coi là nghiêm trọng, Bộ quốc phòng đặc cử thiếu tướng Mai Hữu Xuân thanh tra của Bộ phối hợp với Tổng giám đốc tổng Nha An ninh quân đội cùng chỉ huy ban điều tra cũng là ban tang lễ đặc biệt. Lệnh trên đưa xuống, đúng vào thời điểm đại tá Đỗ Mậu còn đang tham gia Đoàn cao cấp quân lực Việt Nam Cộng hòa hướng dẫn phái đoàn Bộ quốc phòng liên hợp với Tư lệnh hạm đội 7 Thái Bình Dương của Mỹ đi nghiên cứu vịnh Cam Ranh, bán đảo Sơn Trà Đà Nẫng. Đại tá Đỗ Mậu điện về văn phòng Tổng Nha An ninh, cử phụ tá Lê Nguyên Vũ thay thế cùng tướng Mai Hữu Xuân chỉ huy. Ban chuyên án gồm có Nha An ninh quân khu Thủ đô, Sớ Sưu tra Tổng Nha, do thiếu tá Trần Văn Thăng, đại úy Nguyễn Đình Hải tuyển lựa hơn mười sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, tức khắc theo lệnh tướng Xuân đã đến hiện trường trước.
    Miền đông Nam bộ còn âm u trong mùa mưa. Mưa từng cơn ngắn rồi tạnh, cây cối không kịp rũ mình chờ ráo. Con đường lên Bến Cát nước đọng từng vũng, ngập vài đoạn trũng thấp, nắng trưa phản sáng như mặt gương. Tướng Xuân mời Vũ đi chung xe của ông, đã gặp nhau ba bốn lần họp nhóm tướng tá ly khai, ông ta tin Vũ như tin tưởng Đỗ Mậu, nói thằng không e dè:
    - Bộ trưởng Thuần nói với tôi, đại tá Hoàng Thụy Năm bị Việt cộng bắt cóc, sát hại, thi hài được tìm thấy ở bờ sông Lái Thiêu. Cách nói bình thản đáng sợ, không một chút cảm xúc trước cái chết bi thảm của một sĩ quan cao cấp đầu tiên bị Việt cộng giết - Xuân cười mỉa mai - giết ngay tại Thủ Đức, Lái Thiêu, chỉ cách Sài Gòn mười lăm cây số, một vùng an ninh tối đa. Rõ ràng ông Thuần chỉ quan tâm đến tang lễ thôi, giao tôi làm chủ lễ, dặn chi tiết: Phải có xe kéo pháo đặt quan tài quân kỳ quân nhạc, các đơn vị đủ binh chủng diễu hành đưa tiễn, phải có điếu văn, báo chí, lên án Việt cộng dã man tàn bạo, toàn quân dân đau buồn, hứa hẹn quyết trả thù rửa hận. Ông ta nhấn mạnh: "Lệnh tổng thống, phải thật long trọng!"
    Tướng Xuân dừng lại, lấy gói xì gà loại nhỏ có cán sản xuất từ Cuba, thuốc La Habana rất hiếm ở Sài Gòn ít người có được. Ông mời Vũ, cả hai mồi thuốc, ông tiếp:
    - Khi tìm được xác ông Năm, được lệnh của ông Thuần, tôi điện thoại ngay cho thiếu tá Thăng dặn lên gấp Thủ Đức, rồi Lái Thiêu, nắm bắt tình hình, tranh thủ báo cho tôi tin tức sơ khởi. Trước khi chúng ta tới, Thăng đã kéo theo bác sĩ quân pháp, sĩ quan chuyên án, chỉ sau một tiếng nhận lệnh, đã có mặt tại hiện trường. Thăng về trình tôi cùng một tờ giấy ghi bản án tử hình của Việt cộng được gài trên ngực áo xác chết. Mẫu giấy Thăng đã từng phát hiện vài chục lần, nhận ra ngay đó là hành động quen thuộc của bọn Lê Quang Tung, Dương Văn Hiếu, chẳng cần mất công sức điều tra thêm.
    Vũ với vẻ kinh ngạc:
    - Thì ra thiếu tướng đã biết trước bọn sát nhân là ai rồi, còn cần gì phải đi điều tra hiện trường?
    - Ông coi chừng phạm phải điều cấm kỵ đấy. Chúng ta vẫn phải điều tra, nhưng không phải tìm bọn sát nhân, mà là tìm nguyên nhân gì đưa đại tá Hoàng Thụy Năm, bạn tôi, vào cửa tử? Đại tá Đỗ Mậu càng biết rõ ông Năm, một sĩ quan trí thức, được Pháp đào tạo, nhưng trung thành với chế độ quốc gia, không thuần phục người Pháp. Đã có lúc phòng nhì Pháp nghi ngờ đại tá Năm thân Cộng sản, tôi phải phân giải, ông Năm có lòng nhân đạo không chịu sát hại người dân vô tội nên không thi hành triệt để lệnh trên, không hề có dụng ý nới tay với Việt cộng. Đại tá Năm tỏ ra khâm phục quá đáng tổng thống Diệm ở chỗ đồng quan điểm chống Cộng sản, chống Pháp, đưa Việt Nam vào cộng đồng Thế giới tự do của Hoa Kỳ. Vậy nguyên nhân nào đã khiến anh em ông Diệm phải giết ông Năm? Đại tá Mậu và ông nữa, chắc có kinh nghiệm qua số vụ mưu sát tương tự rồi, chúng ta cần nghiên cứu để tìm rõ lý do chính xác đề phòng an nguy cho cả chúng ta, không dại gì đi tìm sự thực để thanh minh cho Việt cộng?
    Tướng Xuân dùng bàn tay đập nhẹ lên gối Vũ, cười giả lả:
    - Các ông bên An ninh biết rõ, biết kỹ hơn ai kiểu cách của bọn Tung, Hiếu... riêng trong vụ này khó hiểu đấy! Hoàng Thụy Năm không liên can vụ đảo chánh, không dính líu chính trị đảng phái, nhất mực trung thành với tổng thống Diệm, không hề có thù nghịch với ông Nhu, tại sao phải chết? Thiếu tá Thăng kể, mỗi chiều thứ bảy ông Năm thường về trại vườn cây nghỉ cuối tuần. Chỉ có một ông chú họ đã lớn tuổi, coi sóc trang trại này. Hôm qua, tài xế và một lính cận vệ đưa ông ta về xong, cả hai xin phép ra chợ Búng thăm nhà, khuya mới trở lại. Cũng tối đó, ông chú của ông Năm lại có hẹn đi ăn giỗ nhà ông bạn ở Bến Cát. Bọn sát nhân đột nhập đúng lúc ông Năm chỉ có một mình. Cách trại vài trăm thước mới có nhà dân. Người ta cho biết khoảng mười giờ đêm, có nghe tiếng ô tô ra vào phía trang trại. Cuộc bắt cóc diễn tiến có tính toán kỹ, nắm tình hình thời gian chính xác, cách thực hiện gọn gàng. Mưa đêm xóa đi nhiều dấu vết, lối xe vào ra trên quãng đường vô trại in vết lẫn lộn xe nhà, xe khách. Trong nhà không có dấu hiệu chống cự, đồ đạc nguyên trạng, cửa mở tự nhiên. Dễ hiểu thôi, những kẻ sát nhân và nạn nhân đã biết nhau, trước những họng súng ông Năm phải phục tùng đi theo chúng. Tay trung úy trưởng Ty An ninh quân đội Bình Dương nói rằng, vài nhà dân ở bờ sông cạnh hiện trường độ hai trăm thước, lúc đó có nghe tiếng xuồng máy nổ, thấy ánh đèn le lói, ngay chỗ sau này tìm thấy xác ông Năm. Thiếu tá Thăng xác nhận là đúng vì còn dấu vết xuồng máy cặp bờ, dầu mối con đường mòn từ lộ lớn xe hơi chạy vào được. Sắp xếp số tin thu thập trên, tôi dự đoán, họ định bắt đại tá Năm đưa bằng xe hơi ra bờ sông, khoảng cách hơn 2 cây số, vườn cây rất vắng, cho nạn nhân xuống xuồng máy chở đi. Rõ ràng họ cần bắt sống đưa đến một nơi nào đó. Có thể đến bờ sông đại tá Năm tưởng có cơ hội thoát thân, đã chống cự, buộc họ phải giết thôi. Chỉ để giết, chúng đã giết ngay tại nhà chẳng khó khăn gì. Hiện trường bị mưa lớn, rồi lực lượng quân địa phương dẫm, lội, xóa hết dấu vết, lộn xộn khó phân tích chính xác.
    Vũ nghĩ đến tướng Mai Hữu Xuân từng làm sở Liêm phóng cho người Pháp. Pháp trở lại lần thứ hai ông ta lại được quân đội Pháp tuyển dụng đào tạo thành sĩ quan, cả chục năm chỉ huy ngành tình báo, an ninh, giỏi nghiệp vụ. Nghe ông phân tích Vũ cũng nhận thấy khá sát đúng thực tế diễn tiến. Anh tán dương:
    - Thiếu tướng suy diễn quá nhanh, chính xác thật, xin khâm phục. Theo tôi, có đủ hiện tượng chứng tỏ bọn Lê Quang Tung, Dương Văn Hiếu ý định bắt đại tá Năm đưa đi chỗ nào đó khai thác trước, chúng cần tìm điều chúng cần biết, để sau đó sát hại dìm sông khi xuồng máy đưa đến nơi thuận lợi. Có thể chúng cũng bị bất ngờ, khi ra đến bờ sông đại tá Nạm biết là nguy hiểm đã chống cự cầu thoát, buộc chúng phải ra tay giết chết. Như vậy trong bọn họ đã có mặt hoặc Tung, hoặc Hiếu, chúng đủ thẩm quyền mới hạ thủ liền tay.
    - Có thể, như thế đấy - Tướng Xuân như tự nói với minh - Phải có vấn đề nghiêm trọng gì đó buộc họ phải giết người, lại là một đại tá, phải tính đến hậu quả chứ? Loại trừ dành quyền lực, tiền bạc, rõ ràng không phải tư thù, vậy là vì nguyên nhân gì nhỉ?
    Tướng Xuân quay sang nhìn Vũ, chợt hỏi:
    - Ông nghĩ sao về vụ này?
    Vũ lắc đầu:
    - Khó hiểu thật! Tôi đang nghĩ tới, ngoài các yếu tố thường tình buộc người ta phải giết người, đại tá Năm còn có vấn đề nhiệm vụ...
    Tướng Xuân như reo lên:
    - Ông có lý. Chúng ta phải xem xét phía ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến, nơi ông Năm được cử giữ chức vụ Trưởng phái đoàn Việt Nam. Cái ủy hội có danh không thực, cả Mỹ, cả ông Diệm đã phá bỏ hiệp định Genève nhưng vẫn công nhận nó tồn tại. Phải tìm qua hướng này may ra phát hiện được nguyên nhân đây. Phải rồi, đại úy Ngô Kim Long liên tục bốn năm thông dịch cho đại tá Năm, hắn là đệ tử cũ của tôi. Hy vọng rồi, chờ tôi nghe ông Vũ.
    Xe vừa đến hiện trường. Thiếu tá Thăng, đại úy Hải cùng các sĩ quan binh sĩ túc trực sẵn sàng đón thiếu tướng Xuân và Vũ. Toàn khu vườn măng cụt kéo dài một đoạn bờ sông được cô lập, canh gác cẩn thận. Thi hài nạn nhân đã được đặt trên băng ca phủ vải trắng. Thiếu tá Thăng báo trình đã hoàn thành mọi việc chụp hình, khám nghiệm tử thi, lập biên bản đúng thủ tục pháp y. Cả họ lẫn thiếu tướng Thanh tra quốc phòng không quan tâm gì thêm, khi chính bộ trưởng quốc phòng đã xác định trước: "Đại tá Hoàng Thụy Năm bị Việt cộng bắt cóc, ám sát". Báo, đài cũng đồng loạt đưa tin như vậy. Sau đó ban tang lễ chỉ bắt tay vào việc tẩn liệm. Người ta đã đặt bàn thờ khói nhang đèn cầy cạnh thi hài ngay từ sáng sớm, việc nhập quan mau lẹ trước sự hiện diện chỉ một thân nhân của đại tá Năm - ông chú già buồn nhưng không khóc thành tiếng. Đoàn xe, lính chở quan tài về Sài Gòn. Người ta sẽ làm lễ rất long trọng vào sáng hôm sau, ngay tại hội trường Tổng tham mưu, truy điệu rồi tiễn đưa cố đại tá về nơi cực lạc.
    *
    Linh mục Bửu Dưỡng về Sài Gòn hai ngày rồi. Hôm nay cha Luận mới gọi điện thoại cho Vũ, nói cha cần gặp. Vũ vội vàng lái xe đến Tu viện đường Nguyễn Thông. Thấy vẻ khẩn trương trên nét mặt hai vị linh mục, Vũ đoán chắc có vấn đề quan trọng. Sau vài câu thăm hỏi, cha Dưỡng vào đề ngay:
    - Ông Nhu cho mời tôi về gặp, ông ấy nhờ tôi đi cùng đại sứ Pháp Roger Lalouette qua Paris tiếp xúc với Phạm Ngọc Thuần. Thầy biết người này chứ?
    Vũ đáp ngay:
    - Thưa cha tôi chỉ nghe tiếng ông ta là thành viên của Mặt trận Giải phóng miền Nam...
    - Đúng vậy. Họ là người của Cộng sản Hà Nội. Ông Thuần làm đại diện cho chính phủ miền Bắc ở Pháp. Qua đại sứ Lalouette, giữa ông Nhu và ông Thuần đã có hai lần trao đổi với nhau, ông Thuần đồng ý tiếp đại diện của ông Nhu tại Paris. Người đại diện đó là tôi, ông Nhu cử tôi qua đó sáng mai đây.
    Vũ tỏ vẻ sửng sốt:
    - Cha sẽ thay ông Nhu "trao đổi" trực tiếp với Phạm Ngọc Thuần, có nghĩa là với Cộng sản Hà Nội?
    Linh mục Dưỡng lắc đầu:
    - Chưa phải là trao đổi trực tiếp với nhà nước Cộng sản đâu. Ông Thuần đồng ý tiếp đại diện của cố vấn chính phủ Sài Gòn, nghe rõ ý kiến của ông Nhu, sau đó mới báo về Hà Nội. Phần tôi chỉ có nhiệm vụ thông báo với Phạm Ngọc Thuần rằng, tổng thống Ngô Đình Diệm và chính phủ Sài Gòn thống nhất quan điểm lập trường với chính phủ Hà Nội chống Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam. Chính phủ Pháp đóng vai trò trung gian thực hiện hiệp định Genève, hai chính phủ Nam Bắc trực tiếp đối thoại về tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Điều kiện tiên quyết cho cả hai miễn là phía cộng sản ngừng chiến tranh, phía Sài Gòn sẽ công khai tuyên bố chống Mỹ can thiệp cùng đuổi Mỹ ra khỏi miền Nam. Phần Lalouette thông báo, chính phủ Pháp chấp thuận tôn trọng nền độc lập dân tộc của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp. Việc tôi đi Paris là bí mật, tuyệt đối bí mật, nhưng việc quan hệ đến sự sống còn của nửa nước Việt Nam này trong đó lại có chúng ta, cả giáo hội nữa, nên tôi không thể giữ bí mật với thầy và ông Trọng...
    Cha Cao Văn Luận lên tiếng:
    - Tôi và Cha Bề trên đã có trao đổi, nhất trí phải cho hai ông biết. Quan trọng là hành động của ông Nhu nguy hiểm quá. Cụ tổng thống có biết và có đồng quan điểm với ông Nhu không? Rồi còn những người Mỹ ở đây, họ biết được, phản ứng ra sao? Rõ ràng ông Nhu đã phản bội họ. Tôi nhớ tháng Năm vừa rồi tổng thống Kennedy sang thăm Pháp, De Gaulle đã phát biểu: "...Nên tranh thủ chủ động giải quyết vấn đề hòa bình cho Việt Nam độc lập, thống nhất, dựa vào những điều cơ bản hiệp định Genève", ông ta thấp giọng nói nhỏ với tổng thống Kennedy: "Nước Mỹ không nên để thất bại ở Việt Nam...", ý nói là Mỹ không thể thắng được. De Gaulle đã làm cho nhà lãnh đạo trẻ tuổi của Hoa Kỳ bất bình, chạm vào tính hiếu thắng của Kennedy. Bây giờ lại thêm Lalouette đụng tay quân phiệt McNamara, chỉ có điều, "trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết" thôi.
    Cha Dưỡng đăm chiêu gật đầu:
    - Đúng vậy, chúng tôi muốn ông Trọng và thầy phải tìm hiểu vụ này, thăm dò ý cụ Diệm, người mà chúng ta hết lòng phù trợ, ra sao? Tôi không nhận lời ông Nhu qua Pháp cũng không được ông Nhu căn dặn không được tiết lộ với ai chuyện này, kể cả khâm mạng Tòa Thánh ở đây. Tôi càng không dám hỏi ý cụ Diệm. Mới đem bàn với thầy và ông Trọng thử lo phía người Mỹ, coi họ có biết vụ này không? Phải tìm cách ngăn họ nếu họ nghe được gì liên can đến chuyện đi đêm này.
    Đúng lúc này anh Huỳnh Văn Trọng vừa đến. Vũ tóm lược nội vụ cho anh nghe. Trầm ngâm giây lát anh Trọng gật gù chậm rãi:
    - Vụ ông Nhu "ve vãn" Hà Nội có khả năng bọn CIA đã biết. Cũng chính là vấn đề này đã đưa đại tá Hoàng Thụy Năm đến cái chết.
    Thật bất ngờ, anh Trọng đã làm cho cả hai linh mục kinh ngạc, Vũ cũng phải sửng sốt. Trọng tiếp ngay:
    - Như chúng ta đã biết, Nhu rất căm bọn Mỹ nhất là nhóm CIA ở đây. Nhu có đủ chứng cớ Colby, Conein mua chuộc số tướng tá làm binh biến diệt Nhu, Cẩn. Dù đã mạnh tay trả thù những tên, gọi là phản bội, đâm sau lưng ông ta, Nhu vẫn chưa hả giận. Nhu đi xa hơn, đối đầu với Mỹ. Ông ta giải thích với đại tá Hoàng Thụy Năm: "Tôi cần để Kennedy hiểu Mỹ muốn đứng được ở Việt Nam phải có Ngô Đình Nhu, không ai khác được?" Đã ra lệnh cho đại tá Năm móc ngoặc với Maneli, trưởng phái đoàn Ba Lan trong ủy hội Quốc tế đình chiến, đề nghị Maneli chuyển lời, Nhu muốn trao đổi với "les hommes de Điện Biên Phủ" kế hoạch hợp tác chống Mỹ tiến tới hòa bình. Chân cho đại tá Năm yên tâm hoàn thành nhiệm vụ, Nhu giảng giải: "Mỹ đã thành lập Bộ tư lệnh riêng tại Sài Gòn, tăng cường lực lượng cố vấn quân sự cài nắm toàn bộ quân lực Việt Nam. Chưa hết, đưa qua mấy chục ngàn cố vấn hành chính chính trị xâm nhập hết hệ thống chính quyền các cấp. Quyết gạt tôi ra, đưa thêm tay sai trung thành vào nội các chính phủ. Biến ông cụ thành bù nhìn, đã lộ rõ bộ mặt thực dân. Nói như Cộng sản, "Thực dân kiểu mới, chẳng sai." Nhu nói thẳng ý đồ của ông ta, "ve vãn hà Nội" chỉ nhằm trả đòn Mỹ. Theo Nhu, Hà Nội đã biết và đang rất quan tâm việc Mỹ chuẩn bị can thiệp bằng quân sự vào miền Nam. Tất nhiên Hà nội phải lo một cuộc đối đầu sống còn phải đến. Đúng lúc, Nhu gợi ý sẵn sàng thương lượng để chống can thiệp Mỹ. Nhu tin rằng Hà Nội không bỏ lỡ cơ hội bằng vàng. Với Hà Nội, trước mắt cần phải ngăn chặn không để Mỹ tung quân vào miền Nam. Khi Sài Gòn lên tiếng chống Mỹ can thiệp, họ đã đạt yêu cầu, Hà Nội sẽ ngưng chiến. Thời gian của tiến trình thương lượng sẽ dành cho Nhu thế chủ động: Cầm chân Mỹ lại ở miền Nam ở mức yêu cầu, Mỹ phải chấp nhận sách lược của anh em ông Diệm tiếp tục viện trợ bảo vệ tiền đồn. Cơ hội dành cho Nhu hoàn chỉnh quốc sách ấp chiến lược, chỉnh đốn quân đội, tập hợp lực lượng tôn giáo, chính trị. Tranh thủ giải quyết bọn cơ hội, duy trì an ninh chính trị xã hội. Phát triển kinh tế nâng cuộc sống của dân. Cộng Hòa Việt Nam sẽ mạnh, đủ mạnh quật lại Cộng sản không riêng ở Nam, và cả phía Bắc... Người Mỹ phải ý thức, phải tin, sách lược Domino, chiến lược toàn cầu, quyền lợi khu vực, cần phải có một Nam Việt Nam mạnh, một tiền đòn trong vùng vững chắc, Mỹ ngồi yên, tọa hưởng. Ông Nhu tin, với miếng đòn hiểm này, Hà Nội bắt mồi ngay, còn Mỹ phải kịp thời ôm Nhu, không còn đủ thời gian cho bọn Mỹ ở đây chuẩn bị người thay thế ông Diệm. Nhu nhấn mạnh, không sợ hai đối thủ mạnh. Cộng sản Hà Nội chưa đủ sức khi bị Mỹ cầm chân, còn Mỹ không thể theo vết xe của Pháp tự mình làm tất cả để công khai xâm lược. Nhu chỉ sợ kẻ thù trước mắt nguy hiểm, cận kề, đó là bọn Đảng phái, tướng lãnh do Mỹ mua chuộc làm bạo loạn, lật đổ, cướp quyền lực của anh em ông ta. Phải kịp thời trước khi Mỹ có đủ lực lượng tay sai trong tay, sẽ đúng lúc cho Kennedy biết, Nhu sẵn sàng bắt tay với Hà Nội. Đánh trúng huyệt hiểm này, mạnh như Mỹ cũng phải rúng động. Nhưng âm mưu xảo quyệt của Nhu không thuyết phục được Hoàng Thụy Năm, dù được Pháp đào tạo, đã quy thuận ông Diệm ngay từ đầu, nhưng vẫn là người tin cậy của CIA. Đại tá Năm nhận lệnh của Nhu, đã sắp xếp cho Nhu và trưởng phái đoàn Maneli gặp nhau hai lần dưới chiếc du thuyền, danh nghĩa du ngoạn trên sông. Nhất cử nhất động của Nhu đại tá Colby đều chụp hình, ghi âm, vì Hoàng Thụy Năm đã báo cho CIA tường tận. Đại sứ Nolting trong một buổi du ngoạn với bà cố vấn Ngô Đình Nhu tỏ ra thân tình, khuyên bà Nhu nên ngăn ông chồng không nên tiến xa hơn. CIA chưa giết Nhu, nhưng Nhu đã giết Hoàng Thụy Năm tức khắc.
    Câu chuyện ly kỳ của anh Trọng làm cho mọi người lo lắng. Tất cả im lặng khá lâu. Anh Trọng tiếp:
    - Có thể Nhu còn tâm đắc ngón đòn của ông ta, nên tiếp tục tìm đường khác "ve vãn" Hà Nội. Richardson tổ trưởng CIA Sài Gòn nhờ tôi dịch bản ghi âm Maneli-Nhu trao đổi, một báo cáo của Maneli gửi cho đại sứ Ba Lan ở Hà Nội, họ dùng tiếng Pháp. Nhân dịp tôi dò hỏi thêm, Richardson cho biết, Nhu đề nghị Hà Nội ngưng chiến, tập trung quân về cứ điểm, tạo cho tình hình ổn định, ông ta sẽ có cớ đề nghị Mỹ rút lực lượng cố vấn quân sự về nước. Nhu từng bước tổ chức dân chúng đòi Mỹ thôi can thiệp, hai miền Nam Bắc tự giải quyết tình hình nội bộ của Việt Nam. Mỹ không còn lý do gì tồn tại. Nhu cho rằng, mục đích của Hà Nội chỉ cần miền Nam chống Mỹ sẽ chấp thuận kế hoạch của ông ta, kế hoạch mà Nhu tin sẽ thắng Hà Nội chắc chắn. Không thành công phương pháp Maneli vì đại tá Nam đã để lộ, Nhu chuyền qua đường dây khác, đại sứ Pháp Lalouette môi giới để cha Dưỡng đại diện Nhu qua Pan tiếp xúc với Phạm Ngọc Thuần, coi mòi thuận lợi hơn, khi chính phủ De Gaulle sẵn sàng tiếp tay. Nhưng tôi nghĩ làm cách nào che giấu nổi CIA, công việc tiết lộ Nhu có thể xử lý cha như đại tá Năm không?
    Linh mục Cao Văn Luận lo lắng thật sự:
    - Xin cha cứ lấy cớ gì đó từ chối không nhận đi Paris nữa là hơn. Cha về nằm lý ở Đại chủng viện, Nhu chẳng dám đụng đến đâu.
    Vũ cố ý hóa giải mối băn khoăn của linh mục Bứu Dường:
    - Điều cấm kỵ đối với ông Nhu, khi biết việc làm bí mật của ông ta bị lộ ra ngoài, và giao việc bí mật không làm là thách đố, đẩy ông ta đến chỗ mạnh tay hơn thôi. Tốt nhất cha cứ đi Pháp thực hiện nhiệm vụ, sự việc đã có nhiều người biết, lộ ra từ Pháp, cha không chịu trách nhiệm. Với địa vị của cha khác với Hoàng Thụy Năm, không cho phép Nhu muốn làm gì thì làm, không nên quá lo.
    Linh mục Dưỡng biểu lộ đồng tình:
    - Thầy Vũ nói đúng. Quả tình tôi đã không dám từ chối ngay từ đầu, nhận trách nhiệm rồi, phải đi thôi, chẳng còn cách nào khác. Vả lại, chính ông Nhu đã giải thích với tôi, trước sau ông ta cũng phải cho tổng thống Kennedy biết miền Nam sẵn sàng bắt tay với Hà Nội, vì chính những người Mỹ cố ý đẩy ông ta đến chân tường. Còn khi nào cho biết, chờ khi Hà Nội đã chấp thuận, ông Nhu có chủ bài trong tay, sẽ đặt giá với Mỹ.
    Tất cả lại chìm trong suy nghĩ, anh Trọng vừa đốt thuốc vừa liếc mắt nhìn Vũ, nhưng linh mục Dưỡng đã chậm rãi nói tiếp:
    - Tôi không ngại ông Nhu thủ tiêu tôi như đã thủ tiêu đại tá Hoàng Thụy Năm, có điều tôi không thể tin kế hoạch đơn giản này của ông Nhu, một kiểu "rung cây nhát khỉ." Ông Nhu cố gắng giảng giải cho tôi hiểu rằng, ông ta không thật lòng bắt tay Cộng sản, nhưng làm sao qua mặt được tình báo Mỹ, kể cả tình báo Hà Nội đây? Nếu CIA hiểu lầm ý đồ của ông Nhu thì sự nghiệp, tính mạng của tổng thống Diệm, mà chúng ta đang hết lòng ủng hộ, sẽ ra sao? Nguy hiểm là điều chắc chắn. Vì vậy tôi rất mong quí vị nghĩ cách bảo vệ an toàn cho cụ Diệm là cấp thiết.
    Linh mục Luận không suy tính, vốn gặp đâu nói đấy:
    - Cha cho rằng kế sách của ông Nhu, tổng thống Diệm không biết gì à? Theo tôi, việc trọng đại như vậy, ông Nhu phải bàn với ông Diệm. Rõ ràng không phải vấn đề đầu hàng cộng sản, ngược lại đây là mưu lược của ông Nhu nhằm chiến thắng Cộng sản. Nhưng trước mắt ông Nhu muốn dằn mặt người Mỹ, ông Nhu biết rõ Mỹ cần phải có chỗ đứng ở miền Nam Việt Nam, nếu Mỹ hết lòng trợ giúp chính phủ Sài Gòn, giữ ông Nhu, tiền đồn của Mỹ sẽ tồn tại, đứng vững. Còn như, Mỹ quá đáng đẩy ông Nhu đến bờ vực, buộc ông ta phải tìm đường sống chứ! Tổng thống Diệm phải biết rõ ý đồ của ông Nhu, vì cả hai chỉ là một. Theo tôi, mưu lược thành bại, anh em ông Diệm tự vạch ra, tự chịu lấy trách nhiệm, chúng ta chẳng làm được gì hơn.
    Vũ suy nghĩ, cả hai linh mục vốn có uy thế trong giáo hội công giáo ở miền Nam, sức mạnh tinh thần, chỗ dựa vững chắc của chế độ Ngô Đình Diệm, đã biểu lộ thái độ bất lợi cho Diệm. Còn với Ngô Đình Nhu từ lâu nay cả hai coi như thần tượng, gần đây dư luận bên ngoài lẫn nội bộ đã gậm nhấm lòng tin của cha Luận, bây giờ đến cha Bửu Dưỡng. Anh mừng thầm, uy tín của anh em ông Diệm, của chế độ thực dân mới mà Diệm và chế độ là một thể thống nhất, đã giảm xuống khá thấp, khá nhanh, tất nhiên sẽ không xuống chậm hơn đối với lực lượng tinh thần là Giáo hội công giáo.
    Huỳnh Văn Trọng cũng thực thà, nghĩ sao nói vậy, biểu lộ đồng tình với linh mục Luận:
    - Tổng thống Diệm và ông Nhu có bàn gì với các cha đâu, ông Nhu giao việc để cha Bề trên làm, như kiểu truyền việc cho nhân viên dưới quyền, hay dở anh em ông ta chịu lấy. Cha lo nghĩ gì cho mệt. Chưa nói đến, lộ ra, Nhu có tha chết cho cha không? Suy luận thì không dám, nhưng muốn giết cha, ông ta thiếu gì phương pháp, cứ Việt cộng ám sát là êm.
    Linh mục Dưỡng tỏ ra không vui, ngước mắt nhìn cả ba người:
    - Dù sao quí vị cũng quan tâm đến cụ Diệm.
    Và cha dặn dò thêm mọi người trước khi chia tay chúc cha lên đường bình an, phải đề phòng Ngô Đình Nhu nghi ngờ, yêu cầu không một ai đưa tiễn cha ra sân bay sáng mai như bình thường những lần cha xuất ngoại.
    *
    Chiều thứ Bảy, Vũ về nhà muộn hơn mọi ngày. Trong nhà đèn sáng trưng, anh nhận ra chiếc xe Simea 9 đã choán một phần nhà xe. Cô em nuôi Phù Ninh Đa đã mở cửa đón anh khi nghe tiếng động cơ xe của Vũ từ phía cổng. Ninh Đa nói với nụ cười thật tươi dành cho anh:
    - Em phải rời cư qua đây tạm trú ít nhất cũng một tuần, ti nạn mà!
    - Ti nạn? Chợ Lớn có chiến tranh?
    Ninh Đa theo chân Vũ vào nhà, cô nàng liến thoắng:
    - Xém xém vậy thôi, nhưng là chiến tranh tình cảm. Anh có lợi rồi đấy. Vừa rồi em đã đến chỗ anh chi Trần Đình, chị Bạch Hường rủ em ở lại đó em hổng chịu, có dịp này giúp anh dọn dẹp, nấu nướng, chăm sóc cho anh, em quyết định ở đây. Anh chịu chứ?
    Vũ nhận ra bàn ăn với những chén đũa, ly muỗng đã sẵn sàng cho hai người. Anh cười vui:
    - Tất nhiên rồi, có từ chối cũng không kịp nữa. Sao không báo trước cho anh biết nhỉ?
    - Sự việc đột xuất mà? Anh thay quần áo, rửa ráy nhanh đi, em lo thức ăn, vào bàn sẽ kể hết anh nghe.
    Và không lâu, cả hai cùng ăn cơm với nhau, Ninh Đa kể:
    - Trinquier từ Pháp sang đây đã vài ba ngày gì rồi. Hồi còn ở Việt Nam, hắn là trung tá trưởng phòng 2 Bộ Tư lệnh Pháp của Đông Dương, rồi đi Tunisie rồi ở Bắc Phi. Rút quân về Paris hắn được thăng đại tá, vẫn còn phục vụ tại Bộ Tổng Tham mưu Bộ quốc phòng, chỉ huy trưởng ngành quân báo. Hắn gặp trung tá Lucien Conein trước, chính Conein đưa hắn lại thăm em ở cửa hàng 90 Khổng Tử. Bảy năm rồi, Trinquier già hơn nhiều, có thể vì hắn để bộ râu quai nón rậm che phần ba khuôn mặt. Anh Vũ biết không, Trinquier sang đây bằng đường du lịch, hắn giải thích với Conein, có nhiều kỷ niệm sâu sắc ở đất nước này,thăm lại cho đỡ nhớ, đặc biệt là nhớ em?
    Ninh Đa ngừng lại, cúi đầu e ngại, Vũ ngừng nhai ngước mắt nhìn nàng: - Nhớ em? Tin được không?
    Ninh Đa vênh mặt lên, đẹp, thật dễ thương:
    - Em tin đấy? Được không?
    Vũ ngơ ngác vì bất ngờ, nhưng cô em nuôi đã cười kể tiếp:
    - Đó là điều Trinquier đã nói với Conein. Trinquier đi du lịch, thuê phòng khách sạn Caravelle, đã đến thăm một số người, hắn nói là bạn thân. Em biết trong số đó có tướng Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, nhà báo Hà Việt Phương. Rồi đến thăm em, không phải trước hết, mà sau khi đã đến với số người quen thân khác rồi. Em biết chứ, Trinquier chỉ yêu một chị Linh Phương mà thôi, phần em chỉ là bạn, đặc biệt chút chút vậy thôi.
    Ninh Đa tủm tỉm cười ngó Vũ, phải chăng nàng muốn anh yên tâm trước mối giao dịch lại với người chủ cũ, chẳng có gì ghê gớm xảy ra. Vũ gật gù:
    - Trinquier chắc đã hẹn gặp lại em?
    - Vâng. Trước sự có mặt của Conein, Trinquier tỏ vẻ thân mật với em, đúng với lời giải thích "nhớ em", rồi cả hai ra về, không hẹn. Trưa nay, một mình hắn đến mời em đi ăn trưa, cả hai đi taxi về khách sạn. Chúng em ăn cơm trong phòng trọ của Trinquier. Nhờ đó em phát hiện mấy cái danh thiếp có ghi giờ gặp, mà em vừa kể tên đấy, để cạnh bàn điện thoại. Trinquier tỏ ra tin em một cô gái Nùng ngây ngô, chỉ biết nghe lời phục tùng, không có cái đầu biết suy tính. Vì thế, hắn hỏi rất kỹ. Nhớ lời anh, em kể rất chi ly tất cả trừ những điều cấm ky như anh đã nhắc. Trinquier tỏ ra bằng lòng về em, nhân đó, em dò hỏi về hắn trong những ngày xa Việt Nam. Hắn kể, đã có lần hắn vì công việc phải sang Thái Lan, Cao Miên, về vụ ông Nhu hối lộ tên Đáp Chuồn, tỉnh trưởng Siem-rap tay chân của Sam Say, Sơn Ngọc Thành, một trăm ký vàng để yểm trợ cho kế hoạch lật đổ Sihanouk. Kế hoạch thất bại, lực lượng của Đáp Chuồn bị tàn sát gần hết, Đáp Chuồn bị Sihanouk xử tử hình. Bại lộ, Ngô Trọng Hiếu cũng bi trục xuất, bang giao giữa Sài Gòn và Phnom Penh cắt đứt. Nhóm Đáp Chuồn chính là lực lượng do Trinquier đã xây dựng trước kia, dự trữ cho thế chiến lược lâu dài của Pháp, buộc hắn phải sang cứu nguy củng cố lại. Ngày đó, hắn phải ở Thái Lan rồi qua Nam Vang, nhớ Sài Gòn kinh khủng. Chiều chiều hắn từ đất Miên hướng sang chân trời miền Nam, để nhớ em... Hắn tự nói đấy! - Thì Trinquier thú nhận tình cảm, chớ đâu phải em nói. Được rồi, anh hiểu mà, kể tiếp đi.
    Ninh Đa vui vẻ tiếp:
    - Em bảo Trinquier xạo, xa quá mà thấy gì để nhớ. Hắn tỏ vẻ lưu luyến nắm tay em kéo mạnh, hắn định ôm em, rất nhanh em quay má lại đành phải thưởng cho hắn vậy thôi. Hắn nói, hồi đó tình hình không thuận lợi, chưa cho phép sang đây. Em chợt hỏi, còn bây giờ? Hắn cười thành tiếng, đã khác rồi, anh em ông Diệm biết rõ ý đồ của Mỹ, lại còn biết Mỹ không dễ dàng thắng nổi Cộng sản Hà Nội bằng chiến tranh chính trị, nếu Mỹ phải sử dụng sức mạnh quân sự thì chế độ Diệm mất chính nghĩa. Diệm Nhu phải trông vào Pháp, nhờ chủ trì giải quyết tình hình Việt Nam bằng hiệp định Genève, bầu cử, chế độ Cộng hòa miền Nam nhiều hy vọng thắng cuộc, nhờ đông dân, giàu có hơn miền Bắc. Trinquier tỏ vẻ thực thà, tin em, hắn còn thú nhận đã nhận lệnh qua nghiên cứu tình hình thực tế, để tính chuyện với những yêu cầu của anh em ông Diệm.
    Vũ nghiêm túc:
    - Em đã kể với Trinquier: cắt quan hệ tình cảm với Conein từ dạo ấy, chuẩn bị để lập gia đình, không làm gì khác ngoài công việc kinh doanh cửa hàng, nhận làm em gái của vợ chồng Linh Phương, mọi vấn đề chính trị, bên ngoài không biết, chẳng cần biết đến. Phải vậy không?
    - Vâng, đúng vậy. Trinquier rất chừng mực, thân mật nhưng không suồng sã, hắn vẫn vậy. Nhưng có điều hắn năn nỉ em đến với hắn trong thời gian hắn ở lại Sài Gòn, một tuần thôi. Em từ chối nói rằng phải lấy chồng, sắp cưới. Và, em nghĩ khi cần, chỉ gặp hắn ban ngày, em lấy cớ công việc bận rộn ở cửa hàng hạn chế thời gian gặp hắn, còn tối phải về nhà chồng... Em quyết định đến với anh.
    Sắp nhanh một loạt sự kiện diễn biến, từ cái chết của đại tá Hoàng Thụy Năm, tin của anh Trọng nhờ dịch tài liệu Richardson, vụ linh mục Bửu Dưỡng đi Pháp, bây giờ thì chính nhân vật cao cấp của tình báo Pháp qua duyệt xét tình hình tại chỗ, Vũ suy nghĩ, tình báo Pháp không phải thiếu tai mắt thường xuyên nhìn ngó Việt Nam, đến lúc này mới là thời cơ đã tới... Nhưng có điều, Pháp chủ quan, hy vọng đến nỗi quên, thậm chí coi thường CIA. Họ đâu có dễ dàng cho phép Nhu tự ý bắt tay Hà Nội hay chỉ "rung cây nhát khỉ"... Cả Pháp lẫn Nhu đều đánh giá sai quyền lực của Mỹ. Qua những việc diễn tiến, Vũ xác định ý đồ của anh em ông Diệm tính chuyện "ve vãn Hà Nội" là tự chuốc lấy tai họa, không chóng thì chầy.
    Thấy anh nuôi im lặng suy tư, Ninh Đa nhắc Vũ ra bàn ngoài uống trà, còn nàng dọn dẹp chén đĩa. Anh không câu nệ đứng lên, cười mình cô em:
    - Em khá lắm đó Ninh Đa. Anh rất cám ơn em.
    Vừa ngồi uống nước, Vũ nghĩ đến mối quan hệ giữa Ninh Đa và Trinquier giữ được vậy là hợp lý. Vấn đề Pháp chưa có gì bức xúc, tham vọng nhanh trở lại Việt Nam chưa phải lúc này. Phần Mỹ, lúng túng chưa tìm ra lối thoát khi nhận ra anh em Diệm bất lực khiến tình hình càng lúc càng xấu đi...
    Vũ mở cặp, lấy tập tài liệu đang đọc dở dang. Đó là bản đánh giá tinh hình sau cuộc thanh tra dài ngày ở miền Nam Việt Nam của giáo sư Robert Scigliano chuyên viên nghiên cứu Việt Nam thường trực của Thượng nghị viện Hoa Kỳ. Anh chăm chú đọc phần kết. Scigliano viết: "Việt cộng đã thực hiện khủng bố ngay trong thủ đô Sài Gòn, ở những địa điểm tuyệt đối an ninh cẩn mật, cụ thể ở Phòng triển lãm của quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Tòa Đô chính, nhiều vụ đặt chất nổ làm thủ đô bất an. Chính phủ ông Diệm phải ra quyết định ngừng khai thác mỏ than Nông Sơn, công ty nước suối Vĩnh Hảo, đường xe lửa xuyên Việt. Toàn bộ hệ giao thông thủy bộ bị địch uy hiếp, phải trở lại thời tổ chức đoàn Công-voa, chiến hạm giang đoàn, bảo vệ". Cuối cùng Scigliano nhận định rằng, chỉ trong hơn hai tháng cuối năm 1961, sau biến cố đảo chính một năm thôi, tổng thống Ngô Đình Diệm đã ban hành 6 sắc lệnh chiến tranh. Đáng chú ý là các sắc lệnh số 209 ngày 10-10-1961 tuyên bố tình hình khẩn cấp toàn nước, sắc luật số 13 ngày 29/10/1961 triền khai nghị quyết của quốc hội ủy quyền cho tổng thống ra các sắc lệnh khẩn cấp, và sắc luật số 15/61 ngày 25-11-1961 cho quyền tổng thống thực hiện số biện pháp về tài chính tăng thêm ngân sách an ninh quốc gia... Để đánh giá: Tám mươi phần trăm vùng nông thôn do Việt cộng làm chủ, tình trạng nguy ngập thật sự thảm họa Việt Nam đến dần! ...
    Vũ cảm thấy phấn chán trong lòng, anh điện thoại liên lạc ngay với đồng chí Thành Minh, xin giờ gặp bất thường vào ngày mai.
     
  2. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 21

    Như đã bàn với Lê Nguyên Vũ tại Lái Thiêu, thiếu tướng Mai Hữu Xuân không chờ xong tang lễ đại tá Hoàng Thụy Năm, đã cử thiếu tá Thăng đi tìm thiếu tá Ngô Kim Long tùy viên thông dịch của đại tá Năm. Tướng Xuân tin chắc rằng, thiếu tá Long đã từng phục vụ dưới quyền ông, tình thầy trò còn đủ tin cậy, anh ta sẽ cung cấp cho ông đầu mối về hoạt động của đại tá Năm trong ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến. Tướng Xuân không quá ngạc nhiên khi nhận được tin bước đầu: Thiếu tá Long đã bị thuyên chuyển về quân đoàn 4 ở Cần Thơ, dưới quyền tướng Huỳnh Văn Cao mới được vài tuần. Càng tin tưởng hướng điều tra này là chính xác, tướng Xuân khuyên khích thiếu tá Thăng nhanh chóng bám sát mục tiêu.
    May mắn thay, Thăng đã kịp gặp thiếu tá Long, trao đổi trọn một buổi chiều, nhưng ngay đêm đó Long đã chết. Ban an ninh Quân đoàn 4 báo về Sài Gòn, thiếu tá Long đã tự tử bằng chính khẩu súng của anh ta. Đạn xuyên thái dương, nguyên nhân do xung đột vợ con trong gia đình. Vừa nhận xác chồng về, vợ thiếu tá Long bèn khiếu oan với Tòa án đệ đơn lên Quốc hội, tới cả tổng thống, rằng chồng bà bị mưu sát! Báo chí được dịp tung tin. Trả lời phỏng vấn, vợ thiếu tá Long thuyết phục được dư luận: Chồng bà là người tu xuất gia đình gốc đạo, đức tin truyền đời, biết giữ điều răn Thiên Chúa nên không tự hủy mình, chuốc tội như vậy. Bài phóng sự giật gân chỉ lọt lưới kiểm duyệt một kỳ rồi im lặng.
    Phần thiếu tá Thăng dù chỉ tiếp xúc với Long một buổi nhưng đã mang về cho thiếu tướng Xuân khá nhiều chứng cớ, đặc biệt là bức thư tay của thiếu tá Long kể lại chi tiết hai buổi gặp gỡ giữa đại tá Năm với trưởng phái đoàn Ba Lan thuộc ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến, cả hai trao đổi về việc cố vấn Ngô Đình Nhu sẵn sàng thương thảo với Hà Nội. Tướng Xuân rất bằng lòng với mình, chính ông ta đã tìm ra nguyên nhân đưa đại tá Năm đến cái chết. Tướng Xuân đã hoàn thành hồ sơ vụ án, nhưng quyết định không trình lên bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần, mà tự tay giao hồ sơ cho Tổng giám đốc An ninh quân đội. Xuân nghĩ, nếu lộ ra, Xuân có cớ nói cần giao lại cơ quan đủ chức năng thẩm tra để kết luận. Nhưng tướng Xuân đã nói thẳng với đại tá Đỗ Mậu:
    - Đại tá Hoàng Thụy Năm, sĩ quan cao cấp của quân lực Việt Nam Cộng hòa, lại là bạn từng chiến đấu chung chiến hào của tôi và cả của đại tá đã bị những người chúng ta "tôn thờ" giết chết. Hồ sơ này có đủ chứng cớ, đại tá Năm mất mạng vì đã cáo giác với CIA về âm mưu của tổng thống Diệm và cố vấn Nhu muốn bắt liên lạc với Cộng sản Hà Nội, chống Mỹ. Tôi quả không cam lòng về cái chết oan ức của một sĩ quan cao cấp, một chiến hữu thân thiết, chắc chắn đại tá cũng nghĩ vậy. Thời điểm này, chúng ta chẳng làm gì được dù đã tìm ra nguyên nhân, đã biết được thủ phạm là ai. Món nợ lương tâm, tạm gác?
    Đỗ Mậu kể tỉ mỉ buổi gặp gỡ trao đổi với tướng Mai Hữu Xuân cho Vũ nghe, rồi ngồi chết lặng để nghe Vũ kể lại việc cố vấn Ngô Đình Nhu cử linh mục Bửu Dưỡng đại diện cho ông ta qua Paris gặp đại diện của Hà Nội. Đại sứ Lalouette làm môi giới, tất nhiên vì quyền lợi của Pháp nên khá tích cực. Đỗ Mậu nhảy nhổm, thét lên:
    - Anh em Diệm đã phản bội chúng ta. Họ âm mưu bán đứng đất nước này cho Cộng sản. Thật bất nghĩa, bất nhân. Chẳng còn nghi ngờ chi nữa, chúng ta phải tự cứu thôi.
    Thái độ dứt khoát của đại tá Mậu đến tai toàn nhóm Tâm huyết ly khai rất nhanh, rồi từ đây vọng đến các nhân sĩ các chính trị gia đảng phái chống Cộng. Trong những cuộc bàn thảo nội bộ, người ta không còn tách rời cố vấn Nhu với tổng thống Diệm nữa mà gộp chung "Anh em ông Diệm". Uy tín Tổng thống Diệm lao xuống rất mau, một vài người châm biếm mỉa mai khi phải nhắc đến ông Diệm, bóp méo khẩu hiệu "Ngô tổng thống muôn năm" ra "Ngô tổng thống muốn nằm". Bác sĩ Trần Kim Tuyến chỉ huy Phủ đặc ủy tình báo, cái bóng quyền lực khủng khiếp của cố vấn Nhu, có lần cười buồn thú với Vũ:
    - Cả năm rồi, tôi biến thành thuộc viên của Dương Văn Hiếu. Cố vấn Nhu chỉ gặp tôi dăm ba lần để sai vặt. Anh biết không? Công việc chính của tôi bây giờ là nhận nhiệm vụ của CIA theo dõi ngược lại vợ chồng Ngô Đình Nhu. Tôi làm tận tình đấy, để đánh đổi sự bảo đảm của trung tá Conein cho tính mạng của vợ con và của chính tôi. Còn một ngày ở cạnh ông Nhu, tính mạng tôi còn treo bằng sợi chỉ. Tôi hy vọng ông Nhu chấp nhận cho tôi ra nước ngoài. Lạy Chúa? Xin cho con được bằng an trong vòng tay của đức Mẹ nhân từ.
    Rõ ràng Tuyến đã bị loại, bị rúng động trước những cái chết, nhất là cái chết của đại tá Hoàng Thụy Năm. Vũ nhớ lại trong đám tang Hoàng Thụy Năm, người ta làm đúng như lệnh của tổng thống, có xe kéo pháo đặt quan tài, quốc kỳ phủ linh cữu, đại diện các binh chủng, các tướng lãnh tham dự, nhưng tất cả không quan tâm đến tiếng loa phát bài điếu văn kích động căm thù Cộng sản noi gương tinh thần hy sinh vì Tổ quốc của cố đại tá mà người ta chỉ quan tâm lắng nghe tiếng thì thầm truyền miệng: "Anh em ông Diệm" muốn rửa hai bàn tay vấy máu, dù đã được bọc lớp nhung đen. Thành Minh sau khi nghe báo cáo của Vũ, về diễn biến trong nội bộ đảng Cần Lao Trung ương, trong hàng ngũ tướng lãnh quân lực Việt Nam cộng hòa, với vẻ trang trọng ông ngửa bàn tay dùng ngón tay cái bấm như kiểu Gia Cát Khổng Minh:
    - "Lưu liên" chiếu "đại an", "Xích khẩu" xâm "Tiểu cát", đạt đến "không vong"...
    Cả hai không nhin được cười, nhưng ngay sau đó Thành Minh lấy lại vẻ nghiêm nghị, nói chậm rãi:
    - Chắc chắn không bỏ lỡ cơ hội bằng vàng này, nhóm Đỗ Mậu, Võ Văn Trưng sẽ bén nhạy tận dụng khai thác vụ Nhu "ve vãn Hà Nội". Thật giả không cần biết, nhưng chứng cớ là có thật, tự nó tạo cơ hội cho nhóm Cần Lao ly khai quy tụ thêm lực lượng. Họ sẽ hè nhau giương lưỡi hái của tử thần trên đầu anh em Nhu-Diệm. Cậu nghĩ coi, nếu vài năm trước cuộc đảo chánh mà Nhu-Diệm xin hợp tác với Hà Nội để cùng chống Mỹ thì dù chưa thật sự giác ngộ quyền lợi dân tộc họ vẫn còn hy vọng tồn tại. Hồi đó, uy thế của anh em Diệm đang vững vàng, thực lực nắm được trong tay, đủ sức chế ngự bọn chống cộng của Mỹ, và thuyết phục lớp cơ hội nghe theo. Còn lúc này, Nhu-Diệm còn gì nhỉ? Mỹ nghi ngờ, đa số tướng lĩnh quay lưng, mà Nhu đưa ra kế hoạch "ve vãn Hà Nội " không khác nào tạo cớ hợp lý cho Mỹ thay ngựa, cho đối lập quyết tâm hơn. Nhu-Diệm không phải đi, mà là chạy, đang chạy cuống cuồng đến cửa huyệt đấy.
    *
    Đến cuối năm 1961 bác sĩ Trần Kim Tuyến giám đốc Sở nghiên cứu chính trị, tiền thân là cơ quan mật vụ, chỉ còn hữu danh vô quyền. Sau sáu năm nắm trong tay một tổ chức siêu quyền lực công cụ ghê gớm, bảo vệ chế độ trấn áp mọi phe phái đối lập. Hồi ấy Tuyến nắm toàn quyền điều phối ba hệ thống mật vụ hợp đồng rất chặt chẽ là Đoàn công tác đặc biệt miền Trung của Dương Văn Hiếu, lực lượng cảnh sát đặc biệt của Trần Bá Thành, và các tiểu đoàn đặc nhiệm chống đảo chính của Lê Quang Tung. Nhưng từ sau chính biến Thi-Đông, Dương Văn Hiếu được Nhu nâng lên Phó Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, nắm cả đoàn công tác đặc biệt miền Trung lẫn lực lượng cảnh sát đặc biệt. Hiếu nhận lệnh trực tiếp của cố vấn Nhu và giám đốc Tổng Nha Nguyễn Văn Y, mặc nhiên Tuyến mất quyền chi đạo. Lực lượng đặc biệt của đại tá Lê Quang Tung đã hợp thức hóa thành quân chính quy của Bộ quốc phòng, có sự viện trợ đặc cách của Bộ tư lệnh Mỹ tại Sài Gòn, cũng tự nhiên nằm ngoài ảnh hưởng của bác sĩ Tuyến. Chức năng của Lê Quang Tung đặc trách chống đảo chánh trong hệ thống tổ chức của bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần.
    Xem xét lại toàn bộ sự phân công mới, Lê Nguyên Vũ xác nhận lời phàn nàn của bác sĩ Tuyến là đúng sự thật. Anh quan tâm đến hiện tượng phân hóa mỗi ngày thêm trầm trọng, giữa hai thế lực có lực lượng vũ trang tương đương. Một bên, Tổng nha An ninh quân đội có Nha An ninh, Quân khu Thủ đô cùng bốn quân khu địa phương, các đơn vị có lực lượng an ninh gọi là phòng hai quân báo. Bên kia gồm lực lượng của Nguyễn Văn Y, Dương Văn Hiếu và Lê Quang Tung. Cả hai tuy cùng danh nghĩa bảo vệ sự sống còn của chế độ, nhưng đang ngấm ngầm đối đầu nhau, chỉ có điều anh em ông Diệm chưa lường hết mối nguy hiểm này. Mới cách đây vài ba tháng đã xảy ra năm vụ giết người. Năm nhân viên của Dương Văn Hiếu xâm nhập vùng kiểm soát của An ninh quân khu Thủ đô đã bị sát hại. Thiếu tá Trần Văn Thăng học được cách làm của Hiếu, gài lên xác mỗi nạn nhân một bản án của Việt cộng.
    Hiếu biết vậy nhưng dễ gì chứng minh, đành im lặng, vả lại Hiếu sợ Diệm-Nhu cho là bất lực về trật tự an ninh. Đại tá Đỗ Mậu cũng biết rõ vụ thanh toán là do sĩ quan thuộc quyền, nhưng không la rầy khiển trách mà chỉ im lặng, một cử chỉ ngầm khuyến khích.
    Vũ nghĩ, hai đối thủ đã xắn tay áo hè nhau nhảy lên vũ đài. Đại tá Đỗ Mậu tỏ ra tự tin vì phía sau ông ngày càng có thêm tướng tá nắm các quân binh chủng. Kể tháng chứ không tính năm, bản danh sách được điền thêm tên những người tự nguyện tham gia "cách mạng". Căn biệt thự số 11 đường Gia Long, tư gia của Tổng giám đốc Nha an ninh quân đội Đỗ Mậu, lúc này là vị trí an toàn không thua dinh Độc lập. Mọi người coi đây là căn cứ chỉ huy đầu não, bộ tham mưu của lực lượng tâm huyết, ly khai chế độ Diệm-Nhu. Phía hướng ra sông có lực lượng an ninh hải quân án ngự, mặt sau biệt thự, thiếu tá Trần Văn Thăng cho từng nhóm an ninh quân khu thủ đô chia ô đóng chốt. Các chính khách tướng tá đến họp hành bí mật, rất yên tâm không bị mật vụ Ngô Đình Nhu nhòm ngó. Mọi di chuyển của đại tá Đỗ Mậu đều được bảo vệ tối đa, nhất là trong khu vực quanh văn phòng Tổng nha an ninh, từ các ngã tư dọc Hai Bà Trưng, rồi các ngã ba phía công binh xưởng Hải quân đều có bố trí quan sát thường trực. Chính năm thủ hạ của Dương Văn Hiếu đã mất mạng ở vùng này. Vũ có phần lo ngại, khi cả Trần Kim Tuyến lẫn Đỗ Mậu đều chủ quan khinh suất. theo anh an toàn của cả hai nhân vật này là nhờ CIA, đại tá Colby và trung tá Conein đã trực tiếp bảo vệ, nên Nhu chưa dám đụng tới.
    Một buổi chiều, sau giờ tan sở, đại tá Mậu giữ Vũ ngồi lại và cho anh biết, ông ta có hẹn tiếp một chính khách ở ngoài Trung vào, muốn Vũ về ăn cơm với ông rồi cùng dự gặp. Nhân vật này, theo ông Mậu, cả Nhu lẫn Cẩn đều coi là kẻ thù nguy hiểm, có ý chờ cơ hội loại trừ từ lâu nhưng vì uy tín, vì không có chứng cớ phạm pháp, nên họ chưa làm gì được. Đỗ Mậu kể thêm:
    - Hồi tôi còn là Tư lệnh vùng duyên hải rồi bí thư tỉnh Đảng bộ Khánh Hòa của đảng Cần Lao Nhân Vị, ông ta là kẻ thù của chính phủ, của Nhu và Cần, mặc nhiên tôi đặt ông ta ở phía đối thủ của Đảng. Nay tình thế đã thay đổi rồi, ông ta thừa nhận chỉ chống gia đình họ Ngô, không chống chế độ quốc gia. Với quan điểm đó, ông ta trở thành bạn tốt của tôi, cũng là của chúng ta. Tháng vừa rồi cụ Hà Huy Liêm mời tôi cùng ra Qui Nhơn dự cuộc gặp mặt với cả chục nhân sĩ trí thức, tất cả đều là thành viên lãnh đạo của đảng Đại Việt miền Bắc, đảng Quốc Dân Quảng Đà. Hai đảng đã hợp nhất lấy đảng danh là Đại Việt Quốc Dân Đảng. Tình hình ngoài đó hoạt động rất mạnh, phát triển được vài nghìn đảng viên. Họ tin tôi, thông báo cho biết có vài trăm đảng viên là cấp sĩ quan chỉ huy trong quân lực Việt Nam Cộng hòa. Nhân vật mà chúng ta đón tối nay chính là cụ Nguyễn Văn Lực, ngang tầm cỡ với Nhất Linh Nguyễn Trường Tam thuộc Trung ương Quốc dân Đảng, và là bạn thân thiết của cụ Nguyễn Xuân Chữ, lãnh tụ đảng Đại Việt. Thời Pháp, cụ Lực hoạt động ở vùng biển Hải Phòng, Quảng Ninh, Kiến An, danh tiếng rất nổi. Đã có vài ba năm cụ hợp tác với Ngô Đình Nhu. Hồi đó Quốc Dân Đảng phát triển mạnh ở vùng công giáo Bùi Chu, Phát Diệm, qua linh mục Nguyễn Văn Dũng, hiện nay là Chánh xứ nhà thờ Ba Ngôi, cụ Lực đã từng tích cực trong kế hoạch vận động cho Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, lật đổ Bảo Đại. Nhưng khi anh em ông Diệm củng cố được quyền lực vững rồi, Ngô Đình Cẩn quay mặt tàn sát hết lực lượng Quốc dân Đảng ở Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, quét sạch chiến khu Ba Lòng của Đại Việt, cụ Lực thoát hiểm nhờ công lao quá lớn với chế độ nên cả ông Diệm lẫn ông Nhu kịp chặn tay Cẩn. Từ đó cụ Lực góp nhặt từng người tập họp lực lượng chờ thời, cụ tiên liệu những hành động bất nhân sẽ mất lòng dân, họ Ngô sớm muộn cũng nhận lấy luật gieo gió gặt bão. Có thể nói trong lực lượng chống Diệm, không ai kiên nhẫn, quyết liệt như cụ Lực. Cụ đã giới thiệu với tôi ba con trai của cụ hiện đang tại ngũ là đại úy Nguyễn Văn Tâm phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu, trung úy Nguyễn Văn Đính ở Ban tác chiến không quân, trung úy Nguyễn Văn Cử phi công chiến đấu. Rất giống cha, cả ba vừa trẻ vừa dũng cảm hơn người. Hôm nay cụ Lực gặp chúng ta chắc để bàn kế hoạch hành động, mà cụ rất tin sẽ thành công. Lát nữa cụ Lực lại, chúng ta sẽ nghe cụ trình bày, cụ đã nói trước rằng, cần phải có sự hợp đồng của chính tôi mới thực sự hoàn chỉnh kế hoạch.
    Vũ như say như mê, khi lắng nghe Đỗ Mậu kể. Anh cảm thấy như được biểu dương công trình vận dụng trí tuệ suốt một năm dài anh quên ăn mất ngủ. Nghe như có một dòng chảy của thành quả công tác thấm vào tâm hồn theo từng diễn biến trong câu chuyện của vị đại tá. Cảm xúc này, anh nghĩ, chắc chỉ có được với những chiến sĩ tình báo chiến đấu trực diện ngay trong lòng địch.
    Cả hai đang uống cà phê sau bữa ăn thì Nguyễn Văn Lực đến. Tuổi cổ lai hy, râu tóc dù đã bạc, nhưng cụ Lực còn đầy vẻ quắc thước, tráng kiện với nước da miền biển ửng nâu. Ông cụ thật đẹp lão giọng nói sang sảng mạnh hơi, thường có ở những người nóng nảy, tự tin:
    - Anh em ngoài đó cử tôi vào trình bày công việc với đại tá..
    Ông nhấn mạnh tiếng "đại tá", ngừng lại, nhìn qua Vũ vẻ ngần ngại. Đại tá Mậu mỉm cười vui vẻ:
    - Xin cụ yên tâm, ông Vũ phụ tá của Tổng nha, cũng là bạn tâm huyết của anh em chúng tôi trong này.
    Cụ Lực khẽ gật đầu, nói tiếp:
    - Cám ơn hai vị. Đây là kế hoạch được toàn thể anh em chúng tôi đánh giá cao. Nhưng muốn thành công phải giữ được bí mật đến phút chót mới tạo được cú bất ngờ. Bằng không, nếu đối thủ phát hiện, không chỉ thất bại, mà tính mạng của nhiều người chắc là khó bảo toàn được. Như lần trước ra Qui Nhơn, đại tá đã tiếp xúc với các ông Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Ngọc Các, Phan Xứng, Nguyễn Quốc Sủng, Phan Thành Giang, Trần Ngọc Ninh, Tạ Nguyên Minh, Nguyễn Mậu. Sau đó anh em đã bắt tay vào công cuộc vận động tập hợp lực lượng. Kết quả thật ngoài dự kiến của chúng tôi, đa số nhân sĩ trí thức miền Trung đều hăng hái hợp tác, vì không ai không căm hờn Ngô Đình Cẩn. Điều đáng mừng là các vị lãnh đạo Hội Phật Học Việt Nam cùng giới tăng ni phật tử, ở Huế, Nha Trang rất mạnh, đều tình nguyện hợp đồng hành động. Tại Huế, hai hòa thượng Thích Đôn Hậu chùa Diệu Đế, Thích Tịnh Khiết chùa Từ Đàm, các thượng tọa tên tuổi như Mật Nguyện chùa Linh Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh là những thượng tọa trẻ đầy nhiệt huyết. Thượng tọa Thích Trí Thủ, hội trưởng Phật học Khánh Hòa có cả ngàn học trò trong tỉnh và rải khắp số tỉnh phía nam Trung Việt. Nói đến chống gia đình họ Ngô tàn bạo, tất cả hứa tham gia. Lực lượng chính trị, quần chúng đã khá mạnh. Chúng tôi còn đi vận động số con em là sĩ quan binh sĩ, đặt làm các đầu mối trong các đơn vị quân lực. Hy vọng có số đơn vị tình nguyện tham gia hành động.
    Chúng tôi tin chắc, ít ra khi tình hình diễn biến thuận lợi, sẽ có những đơn vị cấp tiểu đoàn, cả trung đoàn án binh bất động, và khi thấy chiều hướng chúng ta thắng, họ theo ngay...
    Căn phòng im ắng, chỉ nghe tiếng quạt máy rất nhỏ khi cụ Lực ngừng nói. Đỗ Mậu nâng tách trà nóng trao cho vị chính khách mà vẻ nồng nhiệt còn rạng rỡ trên gương mặt. Chỉ hớp một hớp nhỏ, cụ Lực đặt tách xuống, nhìn Đỗ Mậu:
    - Còn tình hình trong Nam, lần trước đại tá thông báo đang mạnh dần theo thời gian, đặc biệt là lực lượng quân sự. Trước thắng lợi đó, chính tôi mạnh dạn dự tính sớm có một kế hoạch hành động quyết định. Con trai tôi, trung úy phi công Nguyễn Văn Cử, với vài người bạn phi công tâm huyết sẽ lợi dụng cơ hội đi oanh tạc vùng địch, bất ngờ chuyển hướng tấn công dinh Độc Lập, chỉ một phi đoàn đủ sức vùi hai anh em Diệm dưới làn bom. Lòng dân đã căm thù Ngô triều, và sẽ không còn ai tiếp tay bọn tôi tớ họ Ngô ngăn cản chúng ta dành quyền lãnh đạo quốc gia. Chúng ta sẽ lập một chính quyền quy tụ đủ nhân tài, chế độ sẽ đủ mạnh đập tan bọn Việt cộng ở trong Nam, tiến tới giải phóng miền Bắc, điều này chẳng khó khăn gì khi có Mỹ tận tình viện trợ.
    Nguyễn Văn Lực nói một mạch không dứt. Sự quyết liệt thể hiện trên nét mặt ửng đỏ, sợi gân máu nổi rõ trên vừng trán, trên cần cổ còn chắc nịch. Ông, dưới đôi mắt tinh tường không mang kính, nhìn đại tá Mậu, rồi Vũ. Đón lấy ly cà phê nóng do Mậu kính trọng trao tận tay, ông nhấp một ngụm rồi tiếp:
    - Thằng trung úy Cử con trai tôi đã từng học ở Mỹ, nay là phi công tổ trưởng một phi đội oanh tạc cơ vẫn thường đi thả bom vùng khu bốn Việt cộng. Có lần nó hỏi tôi, nếu có một phi vụ như thế, nó sẽ lợi dụng đổi hướng quay lại đổ hết bom xuống dinh Độc Lập thì có thanh toán được các ông Diệm, Nhu chăng? Tôi nghĩ ngay đó là giải pháp tốt nhất, nhanh nhất để cứu nguy cho chính thể cộng hòa. Đại tá, ông phụ tá nghĩ thế nào, bởi tôi không thông thạo việc quân sự, nên không dám nói chỉ một phi đội oanh tạc cơ của con tôi và bạn bè nó đủ để loại trừ anh em Diệm Nhu chưa? Bọn con tôi cũng có sẵn quyết tâm như tôi, và nếu cần hy sinh cho đại cuộc, chúng sẵn sàng. Đại tá có tin rằng chúng ta thành công được không?
    Vũ cảm thấy hơi áy náy trước cách đặt vấn đề bộc trực, thẳng thắn, cụ thể đạt tới mục đích giết chết hai anh em Nhu Diệm, không chần chừ, không khoan nhượng, của vị chính khách già Nguyễn Văn Lực. Bởi vì lâu nay dù rất bất bình, đại tá Đỗ Mậu thường nhấc chuyện "trung quân" và không giấu giếm thái độ ân tình với cá nhân ông Diệm. Nếu như cụ Lực chỉ tính chuyện diệt Nhu và Cẩn thì có thể đoán chắc phản ứng thuận của ông Mậu. Nhưng đằng này kế hoạch ông Lực đưa ra đã không tha, tính sổ luôn cả ông Diệm...
    Vũ liếc nhìn Đỗ Mậu, nét mặt khắc khổ và cương nghị của ông vẫn không để lộ chút phản ứng. Vũ thầm suy đoán, hay là Đỗ Mậu chỉ ân tình với Diệm khi quyền lực của Tổng thống còn gắn chặt với sự nghiệp chính trị của ông ta, đáng cho ông sống chết tận trung với ông Diệm. Còn nay sau bao nhiêu biến đổi, điều ấy đã trở thành xa lạ rồi.
    Đại tá Mậu tỉnh táo im lặng, lát sau ông mới trả lời câu hỏi của ông Lực bằng một giọng sắc, gọn:
    - Tôi tin, thưa cụ. Kế hoạch này có đủ điều kiện để tính đến. Một tấn bom cho mỗi phi đội, dinh Độc Lập tuổi tác gần 100 năm, xuống cấp vì già nua, phải sụp đổ thôi, có nhiều khả năng chôn vùi theo những người ở đó, thoát hiểm chỉ là việc hy hữu. Nhưng vấn đề thực hiện lại lệ thuộc vào những yếu tố khách quan không hoàn toàn chủ động được. Mà đã thiếu chủ động thì hiệu quả của kế hoạch lại dựa vào may rủi quá nhiều.
    Dường như cảm thấy đại tá Mậu không mấy tin tưởng, Nguyễn Văn Lực nóng nẩy cắt lời:
    - Xin đại tá phân giải cho nghe thế nào là may rủi quá nhiều?
    - Dạ, theo tôi thì kế hoạch này phải hội đủ các yếu tố. Ví dụ: đột xuất có lệnh không tập căn cứ đích không trùng thời điểm có mặt ông Diệm, ông Nhu ở dinh. Phi đội oanh tạc dinh lúc đó chỉ tổ mua lấy tai họa. Ngoài ra phải tính toán đến mặt thông tin kỹ thuật, chẳng hạn nếu phòng tác chiến nhận ra phi đội chuyển hướng bay, tức khắc báo động, thì hệ thống phòng không túc trực 24/24 sẽ hoạt động... Có thể là nhờ yếu tố bất ngờ chiếc phi cơ đầu hành động kịp, nhưng loạt bom thả sau có chắc chắn đạt hiệu quả không? Chỉ vài trái bom trúng được mục tiêu, dinh Độc Lập không hề hấn gì nhiều, tính mạng anh em ông Diệm vô hại. Ngoài ra chúng ta còn phải bảo vệ an toàn cho các phi công đã làm tròn nhiệm vụ, và cuối cùng là kế hoạch đảo chánh phải kịp thời điểm, cũng phải bất ngờ mới mong giành được chính quyền, ổn định nhanh tình hình, như vậy người Mỹ ở đây mới chấp nhận được.
    Nghe đại tá Mậu phân tích, Nguyễn Văn Lực đã vơi nhiều náo nức lúc đầu, ông ta im lặng hồi lâu rồi thở dài:
    - Như vậy kế hoạch không thể sử dụng được?
    Đại tá Mậu trầm ngâm giây lát, ông nhấp cà phê, và vẫn với giọng tỉnh táo:
    - Kế hoạch vẫn sử dụng được thưa cụ, nhưng phải tính toán lại thật kỹ. Tôi có thể sẽ bàn với trung tá Nguyễn Cao Kỳ, và sau đó phải gặp trung úy Cử rồi chúng ta sẽ có quyết định sau.
    Nét mặt cụ Lực lại ánh lên vẻ vui mừng, giọng nói có phần tươi vui:
    - Vậy vẫn còn hy vọng. Thì ra ông Kỳ cũng là người thân tín của đại tá, hay quá?
    - Hy vọng chứ thưa cụ. Chính vì chúng ta đã lôi kéo được trung tá Kỳ nên tôi rất tâm đắc về kế hoạch cụ gợi ý. Tinh thần vì nghĩa cử của cụ và các anh con trai anh dũng của cụ, chúng tôi rất khâm phục. Trong khi chờ đợi tiến hành kế hoạch, xin cụ cứ trở về ngoài ấy thông báo với các vị khác luôn sẵn sàng. Đích thân tôi sẽ liên lạc lại đại tá Trinquier đã trở về Paris chỉ sau năm ngày lưu lại Sài Gòn, thay vì một tuần như dự tính.
    *
    Phù Ninh Đa vui mừng nói với Vũ:
    - Em đã thoát thêm một tai nạn!
    Nhưng không vì vậy mà Ninh Đa chịu rời nhà anh nuôi trở lại Chợ Lớn.
    - Em nhất định tị nạn ở đây cho đủ một tuần.
    Nàng nhìn Vũ, cười lí lắc nhưng ánh mắt đượm buồn. Vũ không từ chối, anh nghĩ, có thể Ninh Đa chưa hết hồi hộp vụ Trinquier sang Sài Gòn tìm nàng. Cuộc đời thiếu nữ của nàng đã trải qua đắng cay lặng lẽ trong vòng tay của hai sĩ quan tình báo Trinquier, rồi Conein. Đến với Vũ, nàng có cảm giác được che chở, cảm thông, không phải run sợ trước một tương lai mơ hồ, bất định. Ninh Đa nhớ hoài lời Vũ khuyên giải nàng: "..Cả đến kẻ quyền cao chức trọng, những mệnh phụ phu nhân giàu sang thế lực, còn tự nguyện phục vụ hết mình cho Pháp, rồi nay cho Mỹ mà không thấy sỉ nhục, thì trách chi em? Một em gái nông thôn như em, suy nghĩ nông cạn, ngây thơ chưa hiểu việc đời, hoàn cảnh lại đẩy đưa bắt buộc..." Nhận Vũ làm anh nuôi, Ninh Đa học được bao điều mới lạ ở Vũ, nàng trở nên tự tin, khôn ngoan, bản lĩnh trước Conein và cả Trinquier, khiến cả hai không thể tiếp tục cư xử với nàng như một thứ trò chơi. Nhất là Trinquier, trước kia từng coi nàng như gái hầu phòng, sai vặt, khi cần để mua vui, nay hắn nhận ra Ninh Đa đã khác xưa nhiều, buộc hắn giữ chừng mực của người biết liêm sỉ.
    Ninh Đa không hề quan tâm Trinquier thành thực hay chỉ xã giao, khi hắn khuyên nàng xuất cảnh sang Pháp định cư. Hắn giải thích, bọn tai to mặt lớn giàu sang ở đây còn muốn chạy vạy lo lót tìm đường xuất ngoại, họ có đủ mà vẫn bỏ hết để đi. Phần Ninh Đa chẳng có gì vướng mắc, Trinquier hứa bảo lãnh, giúp cho ăn học thêm, kiếm cho việc làm, tương lai chắc chắn. Ninh Đa lắc đầu hắn huơ tay nói nàng cứ nghĩ đã. Nàng đành nói lời chối từ dứt khoát, cũng không quên cám ơn về sự quan tâm của hắn. Trinquier tỏ ra rất ngạc nhiên. Hắn nói với Ninh Đa, là mới hai ngày trước đây hắn đã từ chối bảo lãnh xuất ngoại cho một gia đình cộng sự viên cũ từng ân huệ với nhau sang định cư ở Pháp. Thế mà Ninh Đa... Trinquier nhìn nàng, khẽ lắc đầu với vẻ chấp nhận, tự hiểu là không thể buộc nàng thay đổi ý kiến. Chiều hôm đó, Trinquier mời Ninh Đa, cả trung tá Conein dự một bữa tiệc chia tay tại nhà hàng Continental cạnh trụ sở quốc hội.
    Ba người ngồi quanh bàn ăn trải khăn tráng muốt, dưới ánh nến lung linh, giữa một không khí đầy vẻ quí tộc kiểu Pháp. Nhạc valse cổ điển dìu dặt. Conein vẫn đầy vẻ kính nể vị chỉ huy cũ, tuy vậy tình bạn thắm thiết của hơn 20 năm chung sống cạnh nhau ở Việt Nam, cả hai trong quân đội Pháp, từ thời kỳ Đồng Minh chống phát xít Nhật tại Đông Dương, đem lại cho họ thái độ cởi mở, bình đẳng. Họ chuyện trò tự nhiên không có vẻ gì dè dặt cả với Ninh Đa. Trinquier cố ý giải thích chuyến thăm lại Việt Nam, nhấn mạnh đến tình cảm lưu luyến và không nói gì công việc mà chiều hôm qua hắn đã lỡ lời nói với Ninh Đa. Hắn nhắc những người Pháp, bạn của hắn đã từng có phân nửa cuộc đời ở Việt Nam, riêng cha con Trinquier cộng được đủ năm mươi năm phục vụ ở Việt Nam.
    Bao nhiêu là kỷ niệm gắn liền với đất nước đáng yêu này. Có lúc thở dài, vẻ buồn bã thực sự, hắn nhìn vào mắt Ninh Đa:
    - Nhưng không còn ai quan tâm, cần sự có mặt của tôi, xa lạ tất cả rồi? Kể cả những người quen thân cũ của tôi như Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân... đều là những sĩ quan do Pháp đào tạo nay Mỹ hóa hết. Các nhân vật chính trị cũng đã từng là cộng sự của Pháp như Nguyễn Ngọc Huy, Trần Văn Tuyên, Hoàng Cơ Bình... đã thay đổi nhiều không phải về tuổi tác mà về chính kiến.
    Rồi Trinquier kể, đã đến vấn an các giám mục Công giáo Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi... Giới quân sự giới chính trị, rồi tôn giáo đều nói lên một điều chế độ Việt Nam Cộng hòa đang suy yếu dần, vì chính phủ ông Diệm độc tài gia đình trị, đàn áp mọi thế lực đối lập rất tàn bạo, diệt những người đã có công chống cộng sản, thực hiện chính sách chuyên chế còn hơn Cộng sản Hà Nội. Anh em ông Diệm đã đánh mất lòng tin trong dân chúng, Việt cộng dành lại dân, hoạt động mạnh khắp nơi, miền Nam bất ổn không lẽ người Mỹ không nhận ra chính quyền Diệm đang suy yếu? Mới đây tổng thống Kennedy lại tiếp tục khen ngợi chính quyền Sài Gòn chống cộng hữu hiệu, được lòng dân, đề cao uy tín cá nhân tổng thống Diệm, tăng thêm viện trợ. Trong khi dư luận bên ngoài mong muốn có một giải pháp hòa bình cho Việt Nam, một điểm nóng, đang báo hiệu sẽ bùng nổ chiến tranh khu vực. Tổng thống De Gaulle từng gợi ý với tổng thống Mỹ, nhưng Mỹ chỉ chấp nhận giải pháp hòa bình trong thế mạnh. Không lẽ bằng thế mạnh của chính nước Mỹ? Chứ còn chính quyền miền Nam này mạnh hay yếu Trinquier, Conein đã thấy rõ rồi. Hay chờ? Đến bao giờ, đến khi chiến tranh nổ ra chăng? Conein nhắc lại việc cũ, thời kỳ còn dưới quyền Trinquier phục vụ trong đoàn quân viễn chinh của Pháp ở Đông Dương, chính Conein đã có lần hỏi Trinquier tương tự như vậy, với chính phủ Bảo Đại bất lực, không được lòng dân, được giải thích tìm được người tin cậy là khó, thay đổi sớm chiều càng khó hơn nhiều, đối phương chỉ chờ có vậy để quật ngã. Tổng thống Kennedy duy trì tình trạng trong cái thế cần giải quyết tình hình Cuba, Lào nên không muốn xáo trộn ở Việt Nam. Giai đoạn đó anh em Diệm lún sâu vào sai lầm. Conein xác nhận, Diệm đã mất sự ủng hộ của quân đội, đẩy các thế lực chính trị, đảng phái, cả tôn giáo vào thế chống đối, anh em ông Diệm quay hướng đối đầu với phe đối lập, cơ hội cho Việt Cộng dành dân mở rộng kiểm soát nông thôn. Conein xác nhận những gì Trinquier đã biết là đúng. Nhưng Conein phân tích, sức mạnh của quân đội Sài Gòn còn đó, đảng phái chính trị, tôn giáo, quyết tâm chống Cộng, tất cả tin vào thiện chí của Mỹ, bảo vệ miền Nam Việt Nam. Hà Nội chưa làm gì được. Trinquier tỏ ra không nghi ngờ, nhưng biết rằng, anh em Ngô Đình Diệm không còn thực quyền, không còn là con chủ bài của Mỹ nữa.
    Sau bữa ăn, đến lúc chia tay, Trinquier mới đề nghị Ninh Đa sáng mai tới đón đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất. Nàng phải vui vẻ nhận lời, vì quá bất chợt không tìm ra cớ gì từ chối.
    *
    Nghe Ninh Đa thuật lại đầy đủ câu chuyện trao đổi giữa Trinquier và Conein trong bữa
    ăn tối, Vũ cảm thấy vui vì Ninh Đa thoát được khỏi Trinquier và vì những tin tức mới. Tuy nhiên, Vũ khuyên nàng nên đi tiễn Trinquier. Sáng hôm sau, đúng hẹn, Ninh Đa đã lái xe đón Trinquier tại khách sạn. Trên đường ra sân bay Tân Sơn Nhất, nàng phải dừng xe cả gần 10 phút tại ngã tư đầu đường Ngô Đình Khôi - Võ Tánh nhường đoàn xe quân đội gần chục chiếc chở thương binh từ hướng Tây Ninh về. Nàng nghe trong đám đông chờ đợi có tiếng bàn tán: "Đêm qua Việt Cộng tràn ngập căn cứ một trung đoàn quốc gia ở Dầu Tiếng". Trinquier tỏ ra chú ý lắng nghe. Khi xe chạy tiếp, Trinquier bỗng nói, như nói với chính mình: "Diệm Nhu bây giờ không còn quyền tự quyết". Ninh Đa nghe rõ, nhưng không hiểu hết ý, im lặng. Mãi lúc cùng ngồi trong phòng đợi, Ninh Đa mới hỏi lại. Trinquier không dè dặt, giải thích:
    - Anh qua Việt Nam cốt để xác minh một việc có liên hệ đến chính phủ Sài Gòn. Cố vấn Ngô Đình Nhu yêu cầu Pháp đứng trung gian giúp cho Sài Gòn thương lượng với Hà Nội nhằm tiến tới giải pháp hòa bình theo tinh thần hiệp định Genève 1954. Nếu chỉ có thế Pháp không mấy quan tâm, lần này Nhu đơn phương cam kết sẵn sàng bắt tay Hà Nội chống Mỹ can thiệp, Pháp đã chú ý. Nhưng chỉ trong mấy ngày nghiên cứu tình hình, anh nhận thấy chính quyền của ông Diệm không còn đủ quyền quyết định vận mệnh của chế độ, chế độ đó đã nằm trong tay Mỹ. Qua cách nói của Conein, em hiểu chứ, người Mỹ không cho phép anh em ông Diệm lộng hành như vậy.
    Trinquier cắt ngang. Hắn nhắc lại lời khuyên Ninh Đa đi Pháp định cư và tỏ hy vọng nếu đối ý nàng sớm biên thư báo tin, hắn bảo lãnh, giúp đỡ hết lòng. Cuối cùng, trước phút chia tay, Trinquier nói với thêm Ninh Đa cần cẩn trọng vì tình hình miền Nam không lâu sẽ biến động, bất ổn, và lặp lại lời khuyên với giọng da diết:
    - Bất cứ khi nào Ninh Đa quyết định xuất cảnh, viết thư báo với tôi.
     
  3. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 22

    Kế hoạch đánh bom ám sát Nhu Diệm tại dinh Độc Lập đã bàn thảo rất kỹ, tốn nhiều thời gian vì phải tính đi tính lại. Cuối cùng Nguyễn Văn Lực và đại tá Mậu, hai nhân vật chủ chốt được lực lượng chống chính phủ Diệm giao quyền thực hiện, đã quyết định hành động. Hâu hết các thành viên được chọn lựa tham gia chiến dịch đều có quyết tâm cao. Họ nhất trí đặt tên chiến dịch "Lưỡi Sét", biểu tượng lưỡi búa Thiên Lôi, Trời sai trừng phạt kẻ gian ác. Họ bảo vệ kế hoạch tuyệt đối bí mật. Các cuộc bàn thảo vào những tháng cuối mùa mưa, giữa lúc các phi vụ đánh phá biên giới Hạ Lào cực Nam khu 4, nhằm chặn đầu con đường xâm nhập của quân Bắc Việt vô Nam, đang hạn chế tối đa. Chiến dịch Lưỡi Sét chuẩn bị xong, cũng vừa lúc ban tham mưu tác chiến của không quân nhận lệnh thực hiện các phi vụ sử dụng loại bom 250 kg để hoạt động ngay những tuần đầu mùa khô. Quả là một thời cơ thuận lợi cho chiến dịch. Dự tính một tấn bom đủ đánh sập cánh trái dinh Độc Lập. Một công trình xây dựng đã gần 100 năm, xuống cấp, chỉ cần hai máy bay với bốn trái bom chắc chắn đánh gục luôn cả hai tầng. Mấu chốt của kế hoạch là: Phi cơ cất cánh canh đúng với thời điểm anh em ông Diệm bắt đầu ngồi vào bàn ăn sáng trong phòng trên lầu cánh trái dinh, như thường lệ từ 7 giờ đến 8 giờ 30. Đội phi cơ lần lượt xuất kích, hai chiếc sẽ bất ngờ chuyển hướng đến thẳng mục tiêu cắt bom, rồi phóng qua biên giới hạ cánh ở Cao Miên, tại đây sẽ có người của lực lượng chống Diệm lo ngoại giao cho hai phi công tị nạn chính trị an toàn. Mỗi bộ phận đảm trách phần việc riêng của mình, từng cá nhân nhận nhiệm vụ cụ thể, không thành viên nào tham gia chiến dịch được phép biết xa hơn phần việc của mình. Tất cả cán bộ phận đã đứng ở xuất phát điểm, trước mắt chỉ có bộ phận truyền tin thường trực hoạt động.
    Chiến dịch Lưỡi Sét dù thành công, hoặc thất bại, Vũ và đồng chí Thành Minh đều xác định, giai đoạn quyết liệt sống còn giữa lực lượng đối lập với chính quyền thực dân mới của anh em Nhu Diệm đã được châm ngòi, không thể cản ngăn thế phát triển của nó được nữa. Trung tâm ở Hà Nội đã nhận được thông tin sớm nhất. Anh nhớ lời khuyến cáo của đồng chí chỉ đạo, nhiệm vụ cách mạng còn lâu dài, anh cố tránh né trực tiếp tham gia, họp bàn, gặp gỡ, trong gần bốn tháng chuẩn bị chiến dịch. Nhưng đại tá Mậu vẫn kể cho Vũ nghe công việc sắp xếp của ông ta. Nhờ đó, Vũ biết hết các bộ phận, các thành viên tham gia chiến dịch, và từng nhiệm vụ của mỗi người.
    Cụ Lực chủ trương hạn chế tối đa số lượng người tham gia để đảm bảo bí mật tốt. Chủ chốt là bộ phận hành động, lúc đầu chỉ sử dụng hai trung úy phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc. Trung tá Nguyễn Cao Kỳ góp ý cần có một phi công dự bị đề phòng trục trặc giờ chót một trong hai phi công chính có trở ngại, còn kịp thay thế. Phi công Phan Ngô được chọn. Cả ba cùng chung phi đội trực chiến tại sân bay quân sự Biên Hòa. Trung úy Nguyễn Văn Đính, anh ruột của Cử, nhận nhiệm vụ điều động bộ phận truyền tin ngay trong Phòng tham mưu tác chiến Tân Sơn Nhất. Qui định chỉ sử dụng điện thoại quân sự, liên lạc trao đổi những câu quy ước. Khi phi cơ cất cánh đúng thời điểm đã dự kiến, trung úy Đính sẽ liên lạc với đại úy Đỗ Thọ, hầu cận tổng thống Diệm, để Thọ xác định sự có mặt đủ hai đối tượng tại mục tiêu; trung tá Kỳ trực tiếp ra lệnh Cử, Quốc hành động. Khi hai phi cơ chuyển hướng bay, trung úy Đính với công việc theo dõi các phi vụ, sẽ chậm thông báo với đơn vị cao xạ phòng không, vốn trực 24/24, không cho họ kịp trở tay ngăn chặn.
    Bộ phận chỉ huy chiến dịch giao cho Nguyễn Văn Lực thường trực, một mình cụ ở tại phòng ngủ của con trai là đại úy Nguyễn Văn Tâm, trong Bộ Tổng Tham mưu Sài Gòn. Lực sẽ liên lạc với đại tá Đỗ Mậu cũng qua điện thoại nội bộ quân đội. Chiến dịch thành công, diệt được Nhu Diệm, bộ máy chính trị mới được khởi động, hỗ trợ nhóm Cần Lao ly khai có các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp tức khắc nắm quyền lãnh đạo chế độ, nhanh chóng ổn định, hợp ý người Mỹ.
    Đại tá Mậu nhất trí với Nguyễn Văn Lực khoanh chặt số người trong chiến dịch, không cho dính đến toàn lực hệ thống tổ chức, phòng khi kế hoạch thất bại, tránh được tổn thất nặng nề. Riêng trung tá Nguyễn Cao Kỳ, bản chất phiêu lưu, liều lĩnh, rất tâm đắc với kế hoạch bạo lực năng nổ đảm nhận ngay bộ phận hành động. Nhưng Kỳ cũng đòi điều kiện, làm cho đại tá Đỗ Mậu không tránh khỏi băn khoăn. Kỳ đòi phải tách đại tá Nguyễn Xuân Vinh, tư lệnh không quân mà Kỳ đang là phụ tá. Có nghĩa là đại tá Vinh phải vắng mặt trong thời điểm thực hiện chiến dịch, dành cho trung tá Huỳnh Hữu Hiền tư lệnh phó, thay thế chỉ huy binh chủng. Kỳ cho rằng, không thể qua mặt được Vinh nhưng sẽ dễ dàng qua mặt trung tá Hiền. Đỗ Mậu hiểu.
    Đã hội ý với Kỳ, Mậu kể, hồi còn là chỉ huy bộ tư lệnh miền duyên hải Nha Trang, ông đã phát hiện Nguyễn Xuân Vinh là phi công giỏi, trẻ tuổi, có tài, đã kết nạp Vinh vào đảng Cần Lao. Từ đó, Mậu nâng đỡ Vinh, cho đi Mỹ đào tạo, nâng cấp đặc cách, đưa lên tư lệnh phó Không quân. Và cách đây hai năm, cũng chính Mậu tận tay mang hồ sơ của Vinh vào trình Diệm, đề nghị giao cho tư lệnh binh chủng quan trọng này. Diệm chấp thuận ngay. Rồi một hôm, Mậu đang ngồi uống trà tại nhà, Vinh đến, mở cặp lấy ra cặp lon đại tá trịnh trọng đặt trước mặt Mậu, nói: "Từ ngày tôi được đại tá chiếu cố, nâng cất lên, tôi kính trọng đại tá là người chỉ lo cho đại cuốc quốc gia, luôn chiêu hiền, đãi sĩ. Hôm nay tôi nhận được nghị định thăng cấp, tôi đến trình đại tá, chỉ mong đưọrc chính tay đại tá gắn cặp lon này lên vai tôi, tôi mới được đền ơn đáp nghĩa xứng với tình tri ngộ". Gần đây Mậu muốn lôi kéo Vinh đứng hẳn về phía nhóm tâm huyết, nhưng có nhiều ý kiến can ngăn, trong đó có Kỳ. Mậu tỏ ra tiếc, lỡ một cơ hội sử dụng trong dịp này. Kỳ thảng thốt: "Thưa đại tá, không ai hiểu Nguyễn Xuân Vinh bằng tôi, vì tụi tôi đã mấy năm cùng làm việc bên nhau. Mọi người can ngăn đại tá là đúng. Vinh chỉ tin cậy đại tá là người thân tín của ông Diệm, vì đại sự mà giúp đỡ mọi người, nhưng sẽ không tha thứ cho bất cứ ai xúc phạm đến "Ngô lãnh tụ anh minh" mà Vinh tôn thờ."
    Đại tá Mậu dứt khoát không còn lần nào đề cập việc tranh thủ Nguyễn Xuân Vinh. Tuy nhiên, khi kể lại việc Kỳ yêu cầu phải tách Vinh ra khỏi tư lệnh không quân trong thời gian thực hiện chiến dịch, ông Mậu vẫn chưa nghĩ ra phương pháp gì để cho Kỳ yên tâm hành động. Vũ suy nghĩ, gợi ý:
    - Đại tá còn nhớ hai tháng trước xây ra vụ phi công của ta tu nghiệp ở Đại Hàn đã giành gái rồi đánh lộn, gây thương tích cho một sĩ quan không quân của họ chứ? Vụ này gây bất bình trong Bộ Tư lệnh không quân Đại Hàn, phía ngoại giao đã phải phối hợp với Tòa Đại Sứ Việt Nam bên đó giàn xếp mới ổn. Tuy nhiên, mới chỉ giải quyết vấn đề bang giao giữa hai nước đồng minh với nhau, tất nhiên là dễ. Còn phía quân đội của họ vẫn không tránh khỏi ấm ức. Theo tôi, nhân việc này, đại tá nên vào Dinh đề nghị với ông Diệm, phải dàn xếp dứt khoát với Bộ quốc phòng và Tư lệnh Không quân Hán Thành để tránh hậu họa. Bọn sĩ quan trẻ tuổi chẳng nghĩ đến ngoại giao, tự ái dân tộc nổi lên, có thể còn đụng độ nữa. Phía Việt Nam nên tổ chức một phái đoàn do chính Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, tất nhiên là có tư lệnh trưởng Không quân, qua Hán Thành cảm ơn họ đào tạo giúp ta hai mươi phi công đang tu nghiệp, mặt khác giáo huấn các sĩ quan phi công của ta phải tỏ ra tôn trọng kỷ luật. Tôi tin rằng, tổng thống Diệm là con người rất ưa lễ nghĩa, còn tính nhờ vả họ chi viện quân, sẽ chấp thuận ngay thôi. Được vậy, đại tá Nguyễn Xuân Vinh sẽ vắng mặt, ít ra cũng một tháng, quyền chỉ huy không quân sẽ hoàn toàn ở trong tay trung tá Huỳnh Hữu Hiền, phó tư lệnh, bạn thân của Kỳ.
    Vũ dễ dàng tìm kế giúp đại tá Mậu, cách giải quyết vấn đồ hợp tình đúng lý, ông ta tỉnh ra, niềm vui bất ngờ làm cho nét mặt rạng rỡ:
    - Tuyệt thật! Chắc chắn là thành công rồi. Tôi phải đến gặp ngay, tôi tin ông Diệm phải chấp thuận. Đây là cái khóa cuối cùng của kế hoạch, mở được, Kỳ yên tâm hành động.
    Tuy nhiên hôm sau, Vũ cũng đến nhà thăm trung tá Kỳ. Anh nghĩ, dù tổng thống Diệm chấp thuận một phái đoàn Bộ quốc phòng sang thăm xã giao Đại Hàn, nhưng khi sắp xếp thành viên tham dự, uy tín của Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần sẽ không đủ mạnh để các tướng lãnh Đại Hàn nể phục, bới vì Thuần ở cánh dân chính, không phải cánh quân đội. Thêm vào đó, mỗi khi có một phái đoàn xuất cảnh "đi chơi" nước ngoài, người ta không bỏ lỡ thời cơ, dành nhau tận lực. Đại tá Nguyễn Xuân Vinh, theo Mậu cho biết, vốn điềm đạm, cả nể, dễ bề bị số tướng cấp trên qua mặt. Trong trường hợp này, cốt lõi của vấn đề lại là: Đại tá Vinh phải ra đi. Nếu Vinh nhường nhịn, dành chỗ cho thượng cấp đi du hí, thì chẳng còn ý nghĩa gì công trình của đại tá Mậu. Trình bày hết với Kỳ kế hoạch của đại tá Mậu muốn đẩy đại tá Vinh qua thăm Đại Hàn, Vũ gợi ý thêm với anh ta:
    - Theo tôi, về phía anh, anh nên có cách nào đó để Nguyễn Xuân Vinh đừng từ chối chuyến đi Hàn Quốc. Có thể tác động qua bà vợ ông ta chẳng hạn...
    Kỳ thích thú cách xử thế tế nhị, chu đáo, anh ta hiểu ra ngay, nếu chủ quan có thể một sơ sót nhỏ đủ phá hỏng kế hoạch:
    - Tôi phục anh. Đúng vậy, thiếu thận trọng đơn giản là thất bại. Tôi sẽ nhờ người có vốn sở trường về khoa "khích nữ tướng" để thuyết phục Vinh qua bà xã, chắc ăn rồi.
    *
    Bảy giờ hơn sáng 27-2-1962, Sài Gòn đang yên tĩnh bỗng có tiếng máy bay rộ ngang trên trời, tiếp theo là mấy tiếng nổ lớn chấn động cả thủ đô rung rinh mọi nhà cửa. Dân chúng ùa ra đường, leo lên các sân thượng ngó về phía trung tâm thấy cột khói đen bốc cao. Tiếng nổ lớn làm chấn động thành phố, bất ngờ gây kinh hoàng cho mọi người. Tiếng súng cao xạ rền vang. Phía Nhà Bè, một chiếc chiến đấu cơ trúng đạn, phun khói đen, lảo đảo rồi chúi xuống đất. Tin truyền khá nhanh, dinh Độc lập bị dội bom?
    Trong khoảnh khắc đó, Vũ đang lái xe trên đường đến văn phòng làm việc. Nghe tiếng nổ anh dừng xe sát lề quan sát. Những làn đạn súng cao xạ đan đỏ trên trời. Trên dinh Độc Lập khói đen ùn lên. Chừng mười phút sau, tiếng súng ngưng nổ. Vũ tiếp tục lái xe đến sở làm. Trên phố người ta đi lại bình thường như chằng có việc gì xảy ra.
    Vào đến phòng sĩ quan trực, Vũ đã gặp đại tá Đỗ Mậu hấp tấp đi ra. Vẻ khấn trương lộ rõ trên nét mặt. Ông nắm tay Vũ vừa kéo đi theo vừa nói nhỏ đủ hai người nghe:
    - Chưa biết thành hay bại ra sao nhưng chúng ta cũng phải đến đó ngay, kịp thời tùy nghi đối phó.
    Chiếc công xa dành riêng cho đại tá Mậu đã mở sẵn cửa sau, ông khom người bước vào chừa chỗ cho Vũ. Xe phóng nhanh vượt khoảng sân trống, bánh xe rin rít theo khúc ngoặt ra đường. Đại tá Mậu nôn nóng cực độ, nhưng chỉ tóm tắt mấy tin ngắn gọn. Chỉ có Vũ là người trong cuộc mới hiểu hết ý:
    - Có mặt cả bốn người, bom rơi khá chính xác, nhiều khả năng chôn vùi tất cả.
    Dừng giây lát, Mậu thì thầm như nói với riêng mình: "Sử dụng điện thoại trên lầu cũng xuống kịp thôi, điện thoại dưới phòng thì chằng sao?" Vũ hiểu tâm trạng của Mậu, ông đang nghĩ tới cháu ruột của ông, đại úy Đỗ Thọ. Với nhiệm vụ xác định mục tiêu có mặt đủ các đối tượng, Thọ gọi điện cho nhóm hành động chiến dịch Lưỡi Sét. Nếu đơn giản có thế làm gì phải lo. Đại tá Mậu đã nghĩ đến những rủi ro, nếu ông Diệm giữ cháu ông ở bên cạnh lúc đó, Đỗ Thọ phải chấp nhận hy sinh là tất yếu. Chỉ mới hơn 7 giờ sáng kế hoạch đã thực hiện, thời điểm Diệm mới vào bàn điểm tâm và Đỗ Thọ phải có mặt, tức là cháu ông phải sử dụng điện thoại đặt ở trên lầu. Đại tá Mậu nhẹ thở dài:
    - Tất cả là may rủi, chấp nhận số mệnh thôi!
    Vũ im lặng, chẳng có lời gì an ủi ông Mậu lúc này. Với tốc độ nhanh chiếc công xa vượt những chiếc xe còn ngỡ ngàng dừng lại sát lề đường khi bom nổ, họ phải đề phòng bất trắc. Quẹo gấp qua đường Huyền Trân Công Chúa, xe dừng ở cổng sau dinh Độc Lập. Vũ nhận thấy phía trước đã có xe của bác sĩ Trần Kim Tuyến. Sát rào cản kẽm gai mới giăng ra thay cho cây cản sơn đen trắng thường ngày, tướng Nguyễn Khánh, tham mưu trưởng liên quân, phải xuống xe đang nói gì đó với viên sĩ quan cảnh vệ. Rào cản được kéo sang bên dành khoảng rộng đủ cho ba chiếc xe lần lượt chạy qua. Sau khi bom nổ, có thể đây là những xe đầu tiên, vào dinh sớm nhất. Khu vực xung quanh tống thống phủ đã được cô lập để bảo vệ. Lữ đoàn liên binh phòng vệ từ thành Cộng Hòa đã dàn quân khắp nơi, súng ống lăm lăm trong tay. Bên trong vòng rào dinh Độc Lập, tiểu đoàn cảnh vệ đã sẵn sàng bố trí trực chiến. Trên các bãi cỏ, các họng súng cao xạ hướng nòng lên trời. Cánh trái dinh vẫn còn khói bốc khét lẹt.
    Vũ đi sau đại tá Mậu dọc hành lang, Trần Kim Tuyến đi chậm lại có ý chờ. Khi Vũ tới bên cạnh, Tuyến ghé tai anh thì thào:
    - Cả bốn người vô sự, bà Nhu chỉ bị thương nhẹ, họ đã đưa ngay ra phòng mạch tư của bác sĩ Trần Đình Đệ săn sóc.
    Mậu cũng đã nghe rõ mẫu tin sớm nhất của Tuyến, ông chao đảo như kẻ bị sập hầm, nhưng chỉ giây lát lấy lại bình tĩnh, hỏi nhẹ nhàng:
    - Bốn người? Sao lại bốn, hả ông?
    - Giám mục Thục ở Huế mới vào tối hôm qua, vợ chồng Nhu và ông Diệm...
    Thiếu tướng Nguyễn Khánh với chóp râu cằm rậm, trong bộ quân phục thẳng nếp, đầu đội mũ nồi đen có huy hiệu binh chủng nhảy dù vẫn đang rảo bước đi dọc hành lang trước những mũi súng của quân phòng vệ ở mỗi ngách tường, chắc chắn đạn đã lên nòng. Không khí yên ắng đến nghe rõ tiếng giày đế da từng bước chắc nịch của tướng Khánh.
    Đại úy Lê Công Hoàn, rồi đại úy Đỗ Thọ chạy ra đón chào tướng Khánh, Đỗ Mậu, Tuyến và Vũ, rất cung kính:
    - Tổng thống mời quí vị vào.
    Hai chú cháu Mậu đưa mắt nhìn nhau, điều lo lắng nhất của ông Mậu tan biến: Đỗ Thọ được vô sự. Không chỉ tổng thống Diệm tiếp họ, ngay trong căn phòng kiên cố dưới gầm cầu thang, có cả giám mục Ngô Đình Thục, cố vấn Ngô Đình Nhu. Ông già Ân đang lúi cúi pha trà, châm trà cho khách. Vũ quan sát nét xanh xao mệt mỏi trên mặt ông Diệm còn in dấu cơn sốt khá nặng chưa kịp hoàn hồn, nhưng cặp mắt ánh lên một niềm vui khi ông ngắm nhìn những nhân vật thân tín nhất của ông đều có mặt quanh ông, mừng ông bình an thoát hiểm, chứng tỏ uy quyền tổng thống của ông vẫn còn vững. Tuy nhiên ông vẫn chuyển giọng gay gắt:
    - Mần răng các ông để cho chúng liều rứa? Ai? Các ông có biết trước không?
    Tướng Khánh lúng túng. Đại tá Mậu bình tĩnh tỉnh táo hơn, đáp lời:
    - Bẩm cụ, phần tôi không hề biết chi, vụ xảy ra quả là bất ngờ...
    Ngô Đình Nhu đứng bật lên, im lặng bước ra khỏi phòng, vẻ mặt lạnh lùng đáng sợ. Diệm biểu lộ sự giận giữ, quay mặt đi, ngoắc bàn tay mập mạp:
    - Rứa thì về đi, sưu tra coi đứa mô làm bậy rứa, trình tôi ngay.
    Tất cả không ai bảo ai, rập chung một câu:
    - Xin tuân lệnh tổng thống.
    Vũ theo sau ba người lùi ra khỏi phòng, đúng lúc đại tá Nguyễn Văn Y, Dương Văn Hiếu, rồi đại tá Lê Quang Tung hoảng hốt lao vào. Mọi người không còn thì giờ giữ lễ, kẻ vào người ra, chẳng chào hỏi nhau.
    Ra tới cổng ngoài Vũ thấy trung tá Nguyễn Hùng, phụ tá tổng Nha An ninh quân đội, thiếu tá Trần Văn Thăng, giám đốc An ninh quân Khu thủ đô cùng nhóm sĩ quan dưới quyền đã đón Mậu và Vũ. Thăng tranh thủ trước khì Mậu lên xe đã báo cáo:
    - Hai máy bay Skyraider có nhiệm vụ đi oanh kích hỗ trợ cuộc hành quân tại vùng 4, xuất phát từ sân bay quân sự Biên Hòa, phóng thẳng về Sài Gòn dội bom. Chiếc do trung úy Nguyễn Văn Cử tấn công trước, hai trái sạt lầu trên cánh trái dinh, phòng không bó tay vì quá bất ngờ. Cử chạy thoát qua hướng Cao Miên. Chiếc thứ hai do trung úy Phạm Phú Quốc lái, thả bồi hai trái nữa bom trúng giữa cánh trái tầng trên, nhưng có một trái không nổ còn kẹt giữa sàn, công binh đã đến vô hiệu hóa tháo gỡ ngòi xong. Phạm Phú Quốc bị cao xạ phòng không chặn kịp, phi cơ trúng đạn. Quốc nhảy dù rớt xuống sông Nhà Bè, Hải quân đã bắt. Tôi và trung tá Hùng đã liên lạc với đại tá Hồ Tấn Quyền tự lệnh Hải quân xin nhận Phạm Phú Quốc về Nha khai thác. Bên đó đã cho lệnh giải Quốc về Tổng nha An ninh chờ đại tá.
    Thăng đột ngột hạ thấp giọng:
    - Hai quả bom đầu xẹt lệch ra ngoài, chỉ có trái thứ ba nổ đúng giữa phòng ăn, nhưng mọi người đã kịp xuống gầm cầu thang, trái thứ tư nếu nổ thì tầng hai đã sập đổ rồi. Rất tiếc thưa đại tá? Mụ Nhu chỉ bị thương do gạch vỡ bắn vào người, không có gì nguy hiểm hết.
    Mậu chỉ gật đầu tỏ ý đã nghe tin tóm tất của Thăng, căn dặn:
    - Chú tiếp tục kiểm tra, lập biên bản kỹ để báo trình tổng thống sớm hơn.
    - Tuân lệnh đại tá.
    Mậu vội vã lên xe cùng Vũ trở về, ông không muốn tiếp xúc với một đoàn xe hơi đã dồn đến, những bộ mặt quen thuộc đủ quân, dân, cán, chính bắt đầu đến vấn an các lãnh tụ, vẻ trang nghiêm như đi dự lễ tang mà Mậu từng thấy:
    - Chúng ta lại thêm một lần thất bại. Không lẽ anh em Diệm được "ơn trên che chở" đúng như lời thường cầu nguyện đó sao?
    Thấy Đỗ Mậu có vẻ suy sụp, Vũ kịp thời đưa đẩy:
    - Tôi thực lòng khâm phục đại tá, ngay từ đầu đã đánh giá kế hoạch tùy thuộc vào quá nhiều yếu tố may rủi, quả tình đúng là may rủi đã cầu họ thoát chết, chứ chẳng phải do lời cầu nguyện xin "ơn trên phù hộ"? Không lẽ trời đất che chở cho những người có quá nhiều hành động sát nhân? Không thể, trời đất mà bất công đến vậy? Còn may rủi, cả đời người gặp một vài lần đã quá đủ. Lúc này, xin đại tá tỉnh táo, rút kinh nghiệm cái chết tức tưởi của anh Tạ Chí Diệp, phải nhanh tay cứu mạng cha con cụ Lực và Phạm Phú Quốc mới kịp.
    Mậu biểu lộ sự cương quyết:
    - Ông yên tâm! Còn Đỗ Mậu, cha con cụ Lực, kể cả Phạm Phú Quốc, phải được bảo đảm mạng sống. Tôi đã tính trước sự may rủi khó lường, nên đã trù liệu một lối thoát không cho riêng nhóm hành động, mà cả cho chúng ta.
    Ngay suốt trưa hôm xảy ra vụ đánh bom, do lệnh của đại tá Đỗ Mậu, trung tá Độ, chánh văn phòng Tổng Nha An ninh quân đội cùng với thiếu tá Thăng, giám đốc An ninh Quân khu Thủ đô đã nhận lãnh viên phi công Phạm Phú Quốc từ Bộ tư lệnh Hải quân giải về văn phòng Tổng Nha An ninh. Đại tá Nguyễn Văn Y và Dương Văn Hiếu, Nha cảnh sát đặc biệt chưa kịp nhận lệnh của tổng thống Diệm, dù muốn nắm lấy can phạm để khai thác, nhưng đã chậm hơn đại tá Mậu một bước.
    Quốc đã được bác sĩ quân y thân tín của đại tá Mậu săn sóc tận tình. Dù anh ta bị liên tiếp hai lần chấn động, khi phi cơ trúng đạn phòng không rồi khi nhảy dù ra, độ cao không đủ cản sức nặng rớt xuống mặt nước, và bị chấn thương do vài sĩ quan hải quân quá khích hành hạ khá nặng tay nhưng đến tối đã tạm bình phục. Quốc phải nằm trên giường dành riêng cho đại tá Mậu trong phòng ngủ của ông tại văn phòng làm việc ở Tổng nha. Buổi thẩm vấn, ghi âm lời cung, ký biên bản có Lê Nguyên Vũ và Trần Văn Thăng đúng theo sự sắp xếp của đại tá Mậu, mất trọn một đêm thức trắng mới hoàn thành.
    Bẩy giờ sáng hôm sau, mọi người vừa uống cà phê xong, chính tổng thống Diệm đã gọi điện thoại đòi đại tá Mậu vào dinh trình báo kết quả. Mậu tập họp số sĩ quan tin cậy dưới quyền, giao lệnh bắt khẩn cấp đại úy Nguyễn Văn Tâm ở Tổng tham mưu, trung úy Nguyễn Văn Đính ở không quân, đồng thời bí mật chuyển giao cả ba người cho thiếu tá Trần Văn Thăng bảo vệ, gửi riêng trong một phòng giam đủ tiện nghi tại căn cứ An ninh Quân khu thủ đô trong khu vòng thành trại Lê Văn Duyệt. Mậu căn dặn thiếu tá Thăng:
    - Nhiệm vụ của anh là bảo vệ cả ba. Trừ Đỗ Mậu, không một ai được tiếp xúc, khai thác, và biết rõ họ bị giam ở đâu.
    Và quay sang Phạm Phú Quốc:
    - Cháu yên tâm, chú đảm bảo, còn chú không ai có thể định đoạt tính mạng cháu được.
    Phạm Phú Quốc rịn nước mắt nhìn Mậu gật đầu. Nhưng người có mặt kể cả Vũ cảm động trước thái độ kiên quyết của đại tá Mậu. Trước khi ra đi, Mậu kéo Vũ vào phòng riêng:
    - Còn ông, tôi nhờ đích thân ông đến địa chỉ có ghi ở tờ giấy này, đón cụ Nguyễn Văn Lực đưa tới chùa Pháp Hoa, trên đường đi Thủ Đức. Ông chuyển cụ cho nhà sư trụ trì ở đó, tối nay Thượng tọa Thích Tâm Châu sẽ cho người đưa đến địa điểm an toàn.
    Phân phối công việc xong Mậu ra xe đến thẳng dinh Độc lập. Chính đại úy Đỗ Thọ ra đón đại tá Mậu đưa tới tòa nhà trắng biệt lập ở phía góc đường Nguyễn Du trong vòng dinh, nơi đây là văn phòng của cố vấn Ngô Đình Nhu và Sở Nghiên Cứu Chính Trị của Trần Kim Tuyến. Vừa sóng bước đi, Đỗ Thọ vừa thì thầm:
    - Ông cụ đã có lệnh chuyển toàn bộ Phủ tổng thống sang dinh Gia Long, nhưng ông Nhu đã ra lệnh cho sửa sang lại, bố trí xây dựng thêm một hệ thống hầm ngầm. Dù làm không kể ngày đêm nhưng nghe nói phải vài ba tháng nữa mới xong được. Ông cụ tạm lấy một phòng cạnh phòng ông Nhu để làm việc.
    Suốt ngày hôm qua ông Diệm đã cố gắng giữ thái độ bình tĩnh khi đón tiếp các đoàn khách, thuộc hạ tấp nập đến vấn an, chúc mừng tổng thống thoát hiểm. Nhưng nỗi lo lắng bị ức chế bằng tận cùng sức lực, lại qua một đêm không yên giấc, sáng nay trông vẻ mặt ông hốc hác xanh xao hơn. Diệm ngồi bất động trên chiếc ghế bành trong căn phòng vắng lặng chỉ có hai người, đưa ánh mắt lạnh lùng nhưng thất thần ngó thằng vào mắt Đỗ Mậu. Im lặng khá lâu, ông mới lên tiếng hỏi:
    - Chú biết rõ thằng Phạm Phú Quốc phải không?
    Đỗ Mậu chột dạ, dè dặt chưa kịp trả lời câu hỏi có hàm ý của Diệm. "Biết rõ" còn có nghĩa là biết trước hành động của Quốc, nhưng Mậu yên tâm khi Diệm hỏi tiếp:.
    - Hắn đã khai báo cái chi với chú?
    Ông Mậu mạnh dạn, chậm rãi từng câu:
    - Bẩm cụ! Phạm Phú Quốc gốc người Quảng Nam, dòng dõi của cụ Phạm Phú Thứ. Cụ Thứ từng làm quan Nam triều cùng thời với cụ, có thời là Tuần Vũ Bình Thuận. Anh ruột cụ Thứ cũng đã làm Tổng đốc. Cả hai tuy làm quan dưới sự đô hộ của Pháp, nhưng có tiếng là thanh liêm, cương trực không chịu khuất phục người Pháp nên giới sĩ phu miền Trung hết lòng ngưỡng mộ...
    Gương mặt ông Diệm đanh lại, cặp lông mày hơi chuyển động, hàm chứa nỗi giận dữ cao độ. Vốn là người kiêu ngạo, giàu tự ái, nghe Mậu đề cao họ Phạm quan lại cùng thời, ông không mấy bằng lòng, gằn giọng:
    - Ai? Đứa mô xúi hắn làm rứa?
    Mậu không trả lời ngay vào câu hỏi, tiếp tục dẫn giải thêm:
    - Cứ vào cách đánh bom của Quốc và Cử, có thể kiểm chứng lời thú tội của Quốc. Cả hai đều là phi công được Mỹ đào tạo, được đánh giá là loại giỏi nên mục tiêu đánh bom cánh trái tầng trên dinh là chính xác. Phạm Phú Quốc khai rằng, ông bà Nhu ở phía trái lầu trên, trong khi tổng thống ở phía cánh phải dinh. Quốc nói chủ ý của cả hai nhằm loại trừ hai vọ chồng ông cố vấn để cứu nguy cho cụ tổng thống, cho chế độ. Họ nói rằng, họ sắn sàng hy sinh, khi biết hành động của họ là vì quyền lợi tối thượng của quốc gia, vì chính thể Cộng hòa, nhất là vì để cho uy danh của tổng thống anh minh được bền vững. Hai ông bà cố vấn đang bôi bẩn thêm chế độ Cộng Hòa Việt Nam, sau khi đã tàn sát không thương tiếc cha ông của họ, những chiến sĩ yêu nước, chống Cộng sản, san bằng chiến khư Ba Lòng của Đại Việt, chiến khu Quảng Nam của Quốc Dân Đảng, không nới tay cả với các đồng chí ân nhân như vụ cha con Tạ Chương Phùng, Tạ Chí Diệp, cả Vũ Tam Anh... Thu vén công quỹ chuyển ngân ra nước ngoài hàng tỷ đô-la, ông bà cố vấn đã làm ô uế nhà chí sĩ họ Ngô tượng trưng cho "tiết thực tâm hư"... Bẩm cụ đây là bản khai cung của Phạm Phú Quốc và băng ghi âm chính lời của hắn, trình cụ nghiên cứu.
    Mậu hiểu rằng, ông Diệm đã được nghe nhiều lần những lời can gián của người Mỹ, của bạn bè tâm giao như cụ Tôn Thất Toại, cụ Nguyễn Trác, những bản tố giác hành động bất nhân tham ô của vợ chồng Nhu. Nhắc lại lời thú tội của Phạm Phú Quốc do chính ông dàn cảnh, ông Mậu nghĩ rằng Diệm phải chột dạ, phải biết được nỗi nhục, ý thức được sự hận thù của mọi người, của các tướng lĩnh quân đội, đã bừng lên cao độ. Vẻ giận dữ lúc đầu của Diệm dịu xuống, ông ta cúi đâu thở dài. Mậu phấn chấn cảm thấy sách của mình có phần đã thắng, cao giọng hơn:
    - Phạm Phú Quốc khai, chỉ có hắn cùng Nguyễn Văn Cử đã thề với nhau, cả hai sẽ nhận lấy cái chết, trong khi nhiều người không ai dám chết để bảo vệ uy danh của cụ, vốn là thần tượng của họ. Cụ đã có công giữ được phần nửa nước Tự do này. Không có cụ, miền quốc gia tự do không còn, chưa có nhân vật nào thay thế được cụ.
    Dừng lại để thăm dò, rồi Mậu tiếp ngay:
    - Quốc khai, hành động của họ nếu bại thì không chết vì phòng không cũng phải chết vì luật pháp. Không ai xúi giục họ tìm lấy cái chết, cũng chẳng ai tham gia để sắn sàng chết, nên xem ra không hề có tổ chức nào cả. Tuy vậy, tôi đã ra lệnh bắt khẩn cấp hai người anh em của Nguyễn Văn Cử, đều là sĩ quan gương mẫu, có tinh thần chống cộng, chấp hành quân kỷ tốt, chưa có tì vết gì vi phạm. Còn Phạm Phú Quốc là con trai một, có mẹ già hiền thục sống ở quê nhà an phận thủ thường. Trình cụ, để thỉnh thị ý giải quyết.
    Ông Diệm lặng thinh, chìm trong suy tư, cúi xuống hai bàn tay mũm mĩm vẫn lồng vào nhau, ngón tay máy động. Sự căm tức lúc đầu được những lời vuốt ve hữu ý của đại tá Mậu giảm nhẹ, chắc chắn đã buộc Diệm phải tính đến hơn thiệt giữa đức độ, bao dung, hay tàn bạo. Hồi lâu, Diệm mới ngửng đầu lên, ngước cặp mắt không còn tinh nhanh ngó Mậu, chợt hỏi:
    - Theo ý chú, phải mần răng? Mấy đứa làm loạn đó? Thằng Quốc? Phải chém đầu thị chúng chứ?
    - Bẩm cụ, cụ có cho phép tôi nói thật lòng mình không? Chỉ sợ cụ bắt tội, tôi không dám phát ngôn. Còn bắt chước mấy người nói để vui lòng cụ, nhưng sau lưng thì hại uy danh của cụ, tôi không dám nói.
    - Nói đi..
    Đỗ Mậu sửa lại kiểu ngồi, ngay ngắn, mạnh dạn, như cử chỉ của trung thần can gián bạo chúa:
    - Bẩm cụ, lấy đức an dân là khó, dùng quyền trị dân quá dễ. Giải quyết bằng chém đầu, bắn bỏ, chuyện cổ kim lưu truyền không ít. Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử, tôi tin lời Quốc nói, họ chấp nhận hy sinh vì uy danh của cụ là đúng sự thật. Không lẽ cụ ra lệnh chém đầu người quyết chết để bảo vệ cụ?
    Thấy ông Diệm chưa có phản ứng, đại tá Mậu tiếp:
    - Tôi đã suy tính trọn đêm qua, trình cụ nội vụ nếu cụ cho phép, tôi sẽ đề nghị: Phạm Phú Quốc không thể tha được, hắn đã phạm quân kỷ bị trọng tội, giam giữ bao lâu cũng được, để chờ khi thuận tiện đưa ra tòa án quân sự. Nhưng không được suy luận để hướng vào đó mà áp đặt "có một tổ chức", để làm cho hành động "bất mãn cá nhân" mang ý nghía có một tập thể quân đội chống đối tổng thống, phản bội chế độ Việt Nam Cộng hòa, tạo cơ hội cho Cộng sản tuyên truyền khai thác, hạ uy tín lãnh đạo của cụ. Cần phải thông báo chặn đứng ngay ý đồ xấu của kẻ thù và cả của bọn Mỹ, chỉ có vài cá nhân bất mãn làm càn, không có tổ chức quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng hòa làm bạo loạn. Chỉ có những cá nhân như Quốc, Cử, cũng như Thi, Đông trước đây vậy thôi không ai được phép bôi nhọ quân đội. Quân đội ta là một thể thống nhất, là sức mạnh của quả đấm vô địch.
    Diệm ngả người sát lưng ghế, động tác biểu hiện cách thư giãn, giọng nói dịu dàng như thường nhật:
    - Tôi tin chú được không? Chú bảo đảm chứ?
    - Bẩm cụ, tôi xin lấy cái đầu bảo đảm với cụ.
    Diệm gật đầu, ánh mắt như cười, nhưng cặp môi vẫn lạnh:
    - Được. Tôi chấp thuận đề nghị của chú. Khoanh lại vụ cá nhân hai đứa. Giam kỹ thằng Quốc, bàn với bên Bộ ngoại giao đòi Cao Miên giải giao thằng Cử về...
    *
    Cũng như anh em ông Diệm đã thoát hiểm dưới trận bom, sau một buổi làm việc với Diệm, Mậu trở về Tổng nha An ninh với niềm vui thoát hiểm. Ông tin chắc không chỉ đã tự cứu mình mà còn bảo vệ được sinh mạng của nhiều chiến hữu, đặc biệt là Phạm Phú Quốc, cái chết cái sống chỉ cách nhau một sợi tóc. Đỗ Mậu kể lại khá tỉ mỉ cho Vũ nghe. Vũ tán thưởng ông, người cầm đầu của nhóm tổ chức tâm huyết, mưu trí hơn người.
    Nhưng hành động đối phó của cố vấn Ngô Đình Nhu tỏ ra quyết liệt.
    Chánh văn phòng Phủ tổng thống là giáo sư sử học Đoàn Thêm bị cách chức. Trưởng cơ quan mật vu Trần Kim Tuyến được cử đi làm đại sứ tại Ai Cập, em ruột bà Nhu là Trần Văn Khiêm, một con người có tiếng cờ bạc, hoang dâm, văn dốt võ dát, lên thay bác sĩ Tuyến, cầm đầu cơ quan mật vụ đầy quân lực. Một số tướng lãnh bị tước quyền chỉ huy quân đội như Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh, Lê Văn Kim... sắp đặt vào các chức vụ cố vấn, thanh tra, làm việc bên cạnh tổng thống, Bộ trưởng Quốc phòng, để dễ bề giám sát. Những tướng mà Nhu tin cậy, đã được thử thách lòng trung thành với gia đình họ Ngô, được ông ta đưa lên nắm quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh vùng I chiến thuật; tướng Nguyễn Khánh lên vùng II Tây Nguyên; tướng Tôn Thất Đính về vùng III kiêm Tư lệnh quân khu Thủ. đô; và tướng Huỳnh Văn Cao Tư lệnh vùng IV bảo vệ miền Tây, đồng bằng Cửu Long. Các binh chủng, đơn vị, thay thế chỉ huy đến chóng mặt.
    Nguyễn Xuân Vinh đại tá Tư lệnh không quân đã tháp tùng bộ trưởng Quốc phòng đi Đại Hàn dân quốc, vào đúng lúc biến cố bom rơi xuống đầu nguyên thủ quốc gia và cố vấn tối cao, đã phải rút bớt thời gian để trở về, nhưng tổng thống vẫn trợn mắt chất vấn lúc Vinh vào dinh vấn an:
    - Các anh biết trước dinh Độc Lập bị đánh bom phải không? Sao rời đi đúng lúc rứa? Hai tên lái máy bay là đệ tử của anh Vinh mà?
    Cả đoàn tham quan xanh mặt, ngậm miệng không biết cách trả lời. Đại tá Vinh mất chức Tư lệnh, bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần nhờ bà cố vấn che chở thoát nạn, tuy nhiên lòng tin đã giảm trong lòng vị nguyên thủ. Bác sĩ Trần Kim Tuyến không muốn liên lụy đến bạn bè, âm thầm lên đường; đúng ra, ông ta cũng quá mừng vì chờ đợi đã lâu, bây giờ được toại nguyện: được vuột ra khỏi bàn tay sắt siết cổ của cố vấn Ngô Đình Nhu. Tuy nhiên, Tuyến không quên Vũ, đã cho người thân tín chuyển đến tận tay anh một bức thư từ biệt:
    "Sài Gòn, mùa Phục Sinh 1962
    Anh Vũ kính mến, Chúa đã quan phòng vợ chồng con cái tôi, chấp nhận lời nguyện cầu, xin được rời Việt Nam tức là thoát cái chết, biết rõ nó đang đến từ từ, chắc chắn. Ông cụ còn tỏ ra thương hại, đã nhanh chóng ra quyết định chuyển tôi quan Bộ ngoại giao, bàn giao rồi nhận lệnh của Bộ đi Đại sứ ở Ai Cập. Cả tháng trời lo giấy tờ, gia đình, mọi vấn đề phải giải quyết. Dành ba ngày riêng cho vợ con trước khi lên máy bay, đúng vào mùa Phục Sinh. Cũng trùng vào kỷ niệm ngày cưới của chúng tôi, trùng hợp ngày sinh nhật đứa con đầu lòng, tôi đã đến nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp xin lễ cầu nguyện cho linh hồn cha mẹ, cầu phúc bình an cho con và gia đình. Tôi cũng không muốn phiền lụy bạn bè, đặc biệt là anh và Ninh Đa, hai người bạn thân thiết nhất của vợ chồng tôi. Trước sự chiếu cố quá đáng, nhất cử nhất động gia đình tôi của ông cố vấn, công khai và trắng trợn, chúng tôi chỉ sống riêng cho chúng tôi, lúc này là nên vậy phải không anh Vũ? Xin nói nhỏ với anh, và nhờ anh rỉ tai đại tá Mậu, tôi sẽ không đi Ai Cập, tôi được cơ quan tình báo Anh giữ lại phục vụ cho họ tại Hương Cảng. Đến nơi, tôi sẽ gửi đơn từ chức đại sứ gởi về Bộ ngoại giao ngay. Như vậy tôi sẽ là người tự do không bị ràng buộc vào chế độ gia đình trị của anh em ông Diệm. Nhưng tôi vẫn gắn bó với mảnh đất tự do của quê hương, vẫn là thành viên của nhóm tâm huyết do đại tá Đỗ Mâu chủ trì, vẫn là đồng chí Cần Lao của các đồng chí Cần Lao chân chính, và riêng của anh Vũ. Đúng vậy không? Tôi mong đại tá Mậu và anh xác nhận cho tôi, tôi xứng đáng được vinh dự đó.
    Tuy là được cơ quan tình báo Anh sử dụng, bảo trợ, nhưng họ chấp nhận tôi có đủ quyền hoạt động phục vụ cho công cuộc xây dựng lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa, cùng đứng trong trận tuyến với họ chống chủ nghĩa Cộng sản. Vì vậy tôi sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ của nhóm giao cho như khi trước còn ở tại Sài Gòn. Trung tá Lucien Conein xác nhận ý nguyện đó của tôi, anh ta cũng hứa sẽ trình bày với đại tá Mậu và toàn thể bạn bè, tấm lòng trung thực của tôi.
    Khi anh đọc được thư này thì chúng tôi đã bắt dầu một cuộc sống mới ở quê người, tôi để sẵn địa chỉ liên lạc ở cuối thư, nhưng tôi mong anh gửi thư cho cô Linh Phương giới thiệu chúng tôi, để trong những ngày xa nhà vợ tôi có được thêm một người bạn mới thay Ninh Đa, đỡ buồn nhớ Sài Gòn, cám ơn anh biết bao.
    Tôi tin rằng với sự quyết tâm đấu tranh giải cứu miền Nam của đại tá Đỗ Mậu và bạn bè, ngày thắng lợi chẳng còn xa. Tôi đã mộng thấy cái ngày chúng tôi thênh thang trở về Sài Gòn, không lâu lắm phải không anh Vũ?Siết chặt tay anh, tình bạn chí cốt của chúng ta vững bền.
    Kính chuyển lời tạm biệt đại tá Mậu.
    Trần Kim Tuyến."
    *
    Sau cú đảo chính hụt, thời tiết chính trì ở Sài Gòn bề ngoài có vẻ trầm lặng, nhưng đã sôi động mạnh bên trong. Phủ tổng thống đã rời sang dinh Gia Long xế đó, dư luận xầm xì, về những bí ẩn trong dinh. Vũ kể tóm tắt với đồng chí Thành Minh.
    Trong một buổi gặp mặt đông đủ các cụ Võ Văn Trưng, Hà Huy Liêm. Nguyễn Trác, hội Khổng học có mời khách quý là các cụ Nguyễn Xuân Chữ, ông Tạ Quang Minh và một trong số lãnh tụ Quốc dân Đảng là ông Xuân Tùng. Trong câu chuyện bên lề, họ bàn chuyện cổ, kim, luận dịch lý tử vi, họ cho rằng "Nhà Ngô" lại đi theo vết xe "Nhà Nguyễn", dinh Độc Lập sụp đổ, chuyển qua dinh mang tên ông vua triều đại suy tàn, ấy là triệu chứng thiểu kiết đa hung. Họ còn ví tổng giám mục họ Ngô như giáo sĩ Gia tô thời thực dân Pháp mới đến khai hóa dân Nam. Cố vấn Ngô Đình Nhu chỉnh lý nhóm thuộc hạ liên tục hai ngày, yêu cầu tập trung toàn lực thực hiện quốc sách ấp chiến lược, dặn rằng hãy bỏ ngoài tai dư luận, thúc lạc đà sải bước cho nhanh, tới đích sớm thành công sớm.
    Hàng tỷ bụi tre bị chặt gọn, bổ sung hàng rào, cắm chông, bù vào chỗ thiếu của 55 triệu đô-la Mỹ cho, chỉ để trả tiền giây kẽm gai cho vài nhà thầu của bà Nhu cung cấp, vẫn chưa đủ rào để qui dần cả nước. Nông dân không chỉ đau xót bị phá nhà, dời mả, bỏ hết ruộng vườn nhập "Địa đàng tự do chống lại độc tài Cộng sản" còn đau xót hơn khi tự tay hủy diệt những lũy tre làng. Hàng ngàn năm tre đã gắn với cuộc sống của dân Nam. Tre làm nhà để ở, làm giường mà ngủ, là cái gánh trên vai, cái cày làm ruộng, đến tổng thống Diệm cũng phải lấy cây tre làm biểu tượng quốc gia. Vậy mà bắt dân phải chặt, thì ra ông Diệm chỉ lợi dụng cái ý "Tiết thực tâm hư" mà cổ nhân ví tre như người quân tử, cũng như lợi dụng nhân dân mưu đồ quyền lực. Tre với dân là thể kết dính, bỏ tre cũng có nghĩa là lìa dân.
    Ông nói đi nói lại rằng, đô-la Mỹ sẵn sàng đổ ra để lập ấp chiến lược, quyết gạt Việt Cộng ra khỏi dân, dồn kẻ thù ra vùng trắng nếu là ở đồng bằng, lùa du kích vô rừng nếu là vùng núi, mặc sức cho đại pháo oanh kích, cho máy bay thả bom rải thảm, Cộng quân không còn đất sống, tàn lụi! Đất nước rồi sẽ thanh bình, nhà Ngô làm tổng thống muôn năm. Cũng xuất phát từ chiến lược dồn dân qui trại, anh em ông Diệm tìm ra cái chân lý: người nông dân nghèo nàn khốn khổ như thế vẫn kiên cường bám chặt cột nhà giữ đất, cho nên chính phủ Diệm ban hành ngay sắc lệnh cấp đất lập trại chăn nuôi, trồng trọt cho sĩ quan cấp tá trở lên. Vùng đất dân bỏ, giao quyền sở hữu chủ cho sĩ quan, đầu người hai mươi đến hai trăm mẫu, thực hiện sách lược tư sản hóa toàn bộ số chỉ huy quân lực Cộng hòa quốc gia, nhằm hai mục đích, họ sẽ trở thành giai cấp thù địch của Cộng sản, và vì quyền lợi thiết thân, không cần động viên tâm lý chiến, sĩ quan quốc gia sẽ sống chết bảo vệ "chính nghĩa quốc gia". Anh em ông Diệm đã tâm đắc về khâu chủ chốt của Quốc sách trí tuệ này.
    Tuần báo Minh Tân của Hội Khổng học, nguyệt san Sinh Lực của Trung ương Cần Lao đã ly khai Đảng, vội vàng chuyển thành tuần báo, liên tục bình luận, mạnh mẽ chuyển ra công luận hàng ngàn lá thư gởi tới, giúp những người nông dân kêu cứu, phê phán ý nước lòng dân phân hóa, gián tiếp hạ uy tín của anh em ông Diệm một cách có chủ ý, làm đầu tàu cho hàng trăm tờ báo ở Sài Gòn hưởng ứng. Người Mỹ ở đây và cả ở chính quốc bắt đầu nghi ngờ. Tổng thống Kennedy đã xem xét lại quốc sách ấp chiến lược, vài ba phái đoàn đã từ nước Mỹ qua, rồi lại chứng kiến Việt cộng nổ súng ngay trong thủ đô Sài Gòn, nên họ không tin vào hiệu quả của quốc sách.
    Lực lượng quân đội hướng về đại tá Đỗ Mậu mạnh dần, trong khi anh em ông Diệm tin tưởng số tướng lãnh trung thành đã nắm chắc bốn vùng chiến thuật, các quân khu quân đoàn, các sư đoàn, các tư lệnh Hải, Không quân, ông Mậu từng bước lôi kéo chỉ huy các đơn vị nhỏ cấp tiểu đoàn, trung đoàn, đại đội. Với số đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, danh sách dài ra rất khích lệ. Đại tá Mậu tự hào, ông giành được "hạ tầng cơ sở" trong quân lực cộng hòa, còn anh em ông Diệm, chỉ nắm được "kiến trúc thượng tầng", ai yếu mạnh đã phân rõ. Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm còn cho biết, ông đã đào tạo ba khóa sĩ quan trù bị tại quân trường Thủ Đức, trên ngàn đệ tử của ông phân bố khắp các đơn vị lục quân. Để họ lưu luyến tôn sư, Nghiêm tổ chức hàng năm ngày kỷ niệm ra trường, tập họp họ lại, thắt chặt thêm tình huynh đệ chi binh. Đến nay, hàng trăm sĩ quan đó đã trở thành đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, lác đác có mươi người là thành viên chỉ huy trung đoàn, hứa hẹn sẵn sàng hợp tác.
    Và rồi, ngày thiếu tướng Mai Hữu Xuân đến cám ơn đại tá Mậu, đã vận động tổng thống Diệm cử ông ta làm chỉ huy trưởng quân trường huấn luyện tân binh Quang Trung, tướng Xuân từ chỗ là thanh tra không có quân, nay thường xuyên dưới tay có ba ngàn tay súng, chấp hành quân kỷ nghiêm, sẵn sàng vâng lời tướng lệnh. Tướng Xuân nhấn mạnh, toàn quân trường Quang Trung sẵn sàng phục vụ đại tá Mậu.
    Vũ được đại tá Mậu rủ đi thăm cụ Nguyễn Văn Lực tại ngôi chùa ở sâu trong khu Suối Tiên, Biên Hòa. Cụ Lực cạo trọc đầu bận áo nhà sư khiến Vũ khó nhận ra. Đại tá Mậu đã thông báo cho cụ Lực, trung úy Cử nay đã bình yên bên cạnh đại tá Nguyễn Chánh Thi tại thủ đô Nam Vang, và kể lại những công việc của nhóm Tâm huyết, cụ Lực rất phấn khởi. Trước khi chia tay, cụ Lực nắm chặt hai tay đại tá Mậu, bộc lộ lòng tín của cụ: "Chúng ta đã có nhân hòa, địa lợi, phải nắm bắt lấy thiên thời". Cụ Lực gợi ý với đại tá Mậu, phải tác động để thời cơ đến sớm.
    Thành Minh say sưa chăm chú nghe báo cáo của Vũ. Lâu rồi, Vũ chưa hề thấy đồng chí phê bình quá gay gắt, hay khen ngợi hết lời, thường là chừng mực. Lần này có khác, Thành Mình đã ôm Vũ quay vòng, bộc lộ niềm phấn khích, nhìn thẳng vào mắt Vũ, cười hể hả:
    - Cuộc chiến trí tuệ nội ớ!ch vẫn trên đà phát triển hiệu quả, đúng hướng. Dân không ủng hộ Diệm, Mỹ cũng mất lòng tin. Thỏa ước Genève về Lào, Mỹ đã đạt yêu cầu, nước Lào trung lập. Kennedy sẽ quay sang Sài Gòn. Mỹ tự tin tiền và vũ khí là sức mạnh vô địch, sẽ tận dụng sức mạnh quân sự giải quyết vấn đề Việt Nam, trước sau cũng loại bỏ bọn chính trị bất lực, phức tạp, sử dụng tập đoàn tướng lãnh là cái chắc. Chính sách Thực dân kiểu mới sẽ cáo chung. Kế sách ấp chiến lược, cái hy vọng quá mỏng manh như hơi thở của người hấp hối, sẽ không chịu đựng nổi kế hoạch "mở kềm phá mảng" của quân dân miền Nam. Âm mưu gom dân lập ấp, dư luận báo chí Mỹ đang làm cho Nhà Trắng điển đầu. Cần phải tác động mạnh nữa thì có khả năng Tổng thống Kennedy bật đèn xanh cho bọn tướng tá hành động sớm, sẽ thay ngựa giữa dòng.
     
  4. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 23

    Phù Ninh Đa bước vào nhà Vũ, đúng lúc anh Huỳnh Văn Trọng gọi điện thoại:
    - Chú và cả Ninh Đa nữa, cùng đến ăn sáng nhé, chị chú chuẩn bị rồi. Chú đến ngay có việc cần bàn đấy.
    Như thường lệ mỗi Chủ nhật hàng tháng, Ninh Đa dành trọn buổi sáng đến với Vũ, lo dọn dẹp nhà cửa, đi tới siêu thị mua đồ hộp, nước uống, bổ sung vào tủ lạnh rồi cùng ăn trưa trò chuyện với nhau. Xong mọi công việc, Ninh Đa cứ lặng lẽ ra về dành cho Vũ ngủ trưa. Bạn bè thân thiết, đặc biệt là anh chị Trọng biết rõ sinh hoạt gần như qui luật của đứa em nuôi. Từ lâu rồi, Vũ chú ý giữ lối sống bình thường như mọi người, bởi có lần anh đã hoảng lên khi anh chị Trọng, cả vợ chồng Trần Đình nhận xét "Cái khác thường" của Vũ. Anh phải sửa, phải chú ý tới lớp vỏ bọc hơn, nên ngoài bộ cánh đúng mốt, bảnh bao, đôi khi anh cũng tham gia cách ăn chơi giải trí buông thả của nhóm chính khách quốc gia chống Cộng. Và thật tình cờ, trong những lúc đó anh lại biết thêm rõ ràng cá tính, sở thích, thói tật... của những nhân vật cao cấp trong chính quyền. Trong bóng đêm họ sống rất thực với bản chất, một số đương quyền còn tranh thủ bất kể ngày đêm hưởng thụ hết mức... Có những buổi tối Vũ rủ Phù Ninh Đa đi bên cạnh tới vũ trường nhà hàng, theo cách hiểu thường tình của mọi người, Vũ cũng có bồ bịch xinh đẹp như ai. Nhiều lúc nghe những lời trầm trồ, bàn tán của thiên hạ, Vũ và Ninh Đa chỉ nhìn nhau cười ý nhị.
    Đến nhà Trọng, chị Trọng để hai anh em ngồi tại sa lông như mọi lần, kéo Ninh Đa qua
    phòng ăn, điểm tâm với chị và bọn trẻ. Trọng không để Vũ phải chờ lâu:
    - Cha Bửu Dưỡng đi Pháp đã trở về, đến cố vấn Ngô Đình Nhu báo trình kết quả chuyến đi xong đã bay ngay lên Đà Lạt. Cha không muốn gặp ai, sợ gây rắc rối, chỉ nhắn qua cha Thuần cho chúng ta biết, công việc chẳng đi đến đâu, vậy thôi. Nhưng tôi đã lên Đà Lạt tuần rồi gặp cha, vì tò mò thôi.
    - Hay quá. Cha cho anh biết những gì nào?
    - Ông Phạm Ngọc Thuần đón tiếp cha khá trân trọng, thân thiện. Khen ngợi cha đã quan tâm đến tình cảnh đồng bào ta đang đứng trước hiểm họa của đế quốc, âm mưu xâm lược đất nước, khi mà đa số các vị chức sắc trong giáo hội công giáo Việt Nam đã hợp tác với người Pháp, bây giờ là người Mỹ, chống lại nhân dân đang phải xả thân đấu tranh giải phóng đất nước. Khi nghe cha Dưỡng thông báo ý kiến của ông Nhu, ông Thuần cho là anh em ông Diệm sai lầm rồi, tại sao lại chỉ nói chuyện với Hà Nội? Miền Nam đã có Mặt Trận Giải Phóng đang lãnh đạo nhân dân chiến đấu chống can thiệp Mỹ phá hoại hiệp định đình chiến. Nếu như anh em ông Diệm đã nhận ra ý đồ xấu của đế quốc Mỹ, nếu họ thực sự cũng muốn đòi lực lượng quân sự Mỹ, cố vấn trá hình, rút khỏi miền Nam, thì họ cần phải bàn với ông Thọ, ông Phát trước hay hơn. Theo ý ông Thuần, chắc chắn cả hai ông hoan nghênh thôi. Cả Hà Nội cũng ủng hộ. Vì đó là mục tiêu đấu tranh, là nguyện vọng của nhân dân. Ông Thuần nói ông sẽ tự nguyện làm môi giới cho hai bên, kể cả Hà Nội, tiếp xúc trao đổi. Nhưng ông Diệm phải sớm biểu lộ thiện ý, tuyên bố quan điểm công khai lên án Mỹ vi phạm luật pháp quốc tế, chống Mỹ can thiệp. Điều này không phải là mới lạ gì, chính phủ Pháp đôi ba phen lẽn tiếng rồi, gần đây tổng thống De Gaulle cũng khuyên Kennedy nên giải quyết vấn đề Nam Việt Nam theo điều khoản Hiệp định Genève. Mỹ không nên để thất bại ở đấy. Cuối cùng ông Thuần cho cha Dưỡng biết, dư luận nhận định rằng, Nam Việt Nam do Mỹ nắm quyền, mọi quyết định cho vận mệnh chế độ Việt Nam Cộng Hòa là ở Washington, ông Thuần nghi ngờ anh em ông Diệm đâu có thực quyền quyết định? Ông hỏi nhỏ cha Dưỡng: "Cha là nhà tu hành chân chính, nói một là một, hai là hai, xin hỏi lại cha, anh em ông Diệm có tự biết họ không có quyền giải quyết vấn đề quốc gia không?. Cả hai có thực lòng đứng về phía dân tộc quyết tâm chống Mỹ không?"
    Trọng ngó Vũ, ngừng lại cười và lắc đầu:
    - Chú có biết, nghe cha kể lể, tôi thương hại cha đến mức nào không? Cha là một giáo sư triết, giảng giải cho sinh viên thì thao thao bất tuyệt về triết học, đó là giáo điều sách vở thôi, nhưng cha đâu phải là thuyết khách hùng biện, càng không thể ngụy biện, vì ông Thuần đã tinh khôn chặn họng từ đầu, đề cao cha là nhà chân tu chính trực, làm sao cha dám phủ nhận sở dĩ ông Diệm còn ngồi đó sau hai cú đảo chánh là nhờ có Mỹ cầm chích, càng không dám cải chính cái ý đồ "ve vãn Hà Nội" của ông Nhu?
    Vũ gật gù, có vẻ nôn nóng:
    - Nhưng cha đã trả lời thế nào?
    - Cha thú nhận là đã lúng túng khá lâu, vì không lường trước được cách đặt vấn đề của ông Thuần. Ông ta hỏi không phải để chờ sự giải thích hoặc thanh minh của người đối thoại. Với một nhân vật như ông Thuần, từng chống Pháp nay ngồi ghế đại sứ tại Pháp, được các quan chức cao cấp của Pháp nể trọng thì cha Dưỡng nghĩ, ông không có khả năng giải thích chính quyền ông Diệm là hợp pháp, có đầy đủ quyền uy, rồi anh em ông Diệm đã thực lòng chống can thiệp Mỹ, có làm nổi không? Nói khác đi, để đạt được gì?
    Cha thú nhận, cha chỉ là một linh mục, anh em ông Diệm nhờ cha qua gặp ông Thuần để chuyển lời sẵn sàng hợp tác với Hà Nội để chống can thiệp Mỹ, chấm dứt chiến tranh, chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử, để nhân dân tự chọn lựa một chính quyền thực sự của dân, theo tinh thần hiệp định đình chiến 1954. Nếu như Hà Nội chấp thuận, hai bên chính thức gặp gỡ, thương thảo. Nhiệm vụ của cha là vậy. Cha Dưỡng thú nhận không biết anh em ông Diệm có thực lòng hay không, cha không phải là nhà thuyết khách, nên không thể giải đáp. Thế rồi... chú có nghĩ ra, ông Thuần đã làm gì, nói gì không?
    Trọng cười thực vui. Thong thả châm thuốc hút, nhấp cà phê, cố ý bắt Vũ chờ, dù nhẫn nại, Vũ cũng gặng hỏi thúc:
    - Anh kể đi, ông Thuần làm sao?
    - Ông Thuần đã đứng bật lên, ôm chầm lấy cha Dưỡng. Cha nói, ông ta thật sự xúc động, áp má, vỗ lưng cha, khen cha đúng là thánh thiện. Và rồi, ngược lại, ông Thuần giảng giải: Nhân dân ta cướp chính quyền trong tay phát xít Nhật đánh đuổi xâm lược Pháp lần thứ hai. Thế giới công nhận một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, có chủ quyền. Đã yên đâu, lại bắt tay chống can thiệp Mỹ, mưu đồ xâm lược Nam Việt Nam. Thật ít có dân tộc nào hơn, tinh thần đấu tranh bảo vệ Nhân quan cao nhất, đó là quyền sống của cả một dân tộc. Vậy mà tập đoàn đế quốc Thực dân Mỹ và phương Tây đã từng âm mưu cướp đi cướp lại quyền sống độc lập của dân ta, còn dám trơ trẽn rêu rao chống Cộng sản bảo vệ nhân quyền? Ấy thế mà có kẻ tin được. Đến nay đã có đến 20.000 sĩ quan cố vấn Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam, con số này còn mỗi ngày một tăng thêm. Phương tiện chiến tranh đố vào ồ ạt. Mỹ đã quyết định chiếm Nam Việt Nam đấy. Còn nhân dân miền Nam, phải sống chết bảo vệ quyền sống của chính mình. Chiến tranh tang tóc, đói khổ không lâu sẽ diễn ra. Ông Thuần nhấn mạnh và căn dặn cha Dưỡng, cha là người tu hành thương dân, chắc không thể ngồi yên nhìn thảm họa đã rõ nét rồi, ở phía trước. Anh em ông Diệm tự cho là vì dân vì nước sẵn sàng hy sinh. Nếu đúng là thực lòng, dù ông ta không có quyền định đoạt, nhưng vẫn là danh nghĩa nguyên thủ quốc gia, hãy lên tiếng công khai đòi chấm dứt can thiệp Mỹ. Mỹ rút đi, nhân dân Việt Nam tự quyết định lấy vận mạng của Tổ quốc mình. Ông Diệm nói rằng, được dân tín yêu, tôn vinh Tổng thống muôn năm, thế tất được dân dồn phiếu cho ông ta đắc cử. Giả thử không thắng cử đi nữa, ông Diệm cũng nên hy sinh quyền lợi riêng để tránh cho nhân dân mà ông thương khỏi rơi vào thảm họa. Ông Thuần hỏi cha Dưỡng khá thân mật, rằng có chắc ông Diệm dám hy sinh không? Đó lại là bổn phận của cha Dưỡng, ông Thuần căn dặn thêm, cha hãy khuyên anh em ông Diệm. Còn phía mặt trận giải phóng miền Nam, chính phủ Hà Nội chắc chắn rồi. Sẵn sàng hợp tác với nhau chống Mỹ can thiệp là mục tiêu chung mà. Nhân dân miền Nam chỉ đánh đuổi Mỹ, nếu Mỹ rút rồi, còn đánh ai đây? Cuộc chiến chấm dứt, cần chi phải yêu cầu.
    Anh Trọng ngả người ra lưng ghế, tủm tỉm cười một mình. Vũ hỏi:
    - Hết rồi à, anh?
    - Chỉ có thế thôi, còn cha, không vui, mất cái vẻ hăng say như hồi nào. Cha nói, sẽ không tham gia vào chuyện đời nữa, lo tu hành, lo cho sinh viên trường Đại học, hướng cho dân chúng sống đạo. Cha đã bị ông Thuần cải tạo đấy...
    Nghe Trọng kể, Vũ phấn khởi vô cùng. Anh cảm nhận ở người anh nuôi không còn dấu vết gì của một nhà tu luôn cay cú với Cộng sản, của một Bộ trưởng của chính quyền Nguyễn Phan Long do thực dân Pháp nặn ra, một cố vấn của Thủ hiến Trung Việt Phan Văn Giáo, một đổng lý văn phòng của bộ trưởng Huỳnh Văn Nhiệm, đại diện Hòa Hảo. Anh Trọng đã trở lại đích thực là anh, một trí thức biết nắm bắt vấn đề, biết suy tư và định hướng. Vũ thấy rõ rằng những bài học chính trị ở trường lớp, sách vở, không hiệu quả bằng cách phân giải tình hình thời sự, thực tế diễn biến, giúp cho anh nuôi nhận thực đúng và lần hồi tự anh ấy xác định lấy quan điểm, lập trường đúng.
    Chị Trọng và Ninh Đa kéo nhau vào phòng khách. Chị hỏi:
    - Chú Vũ có về không? Nếu còn ở lại, hai chị em tôi đi chợ được chứ?
    Anh Trọng ngoắc tay như xua đuổi:
    - Chú Vũ còn ở đây lâu đấy, vấn đề đại sự chưa bàn xong. Bà cứ đi chợ đi, trưa nay bà cho chúng tôi ăn ngon đấy nhé.
    Vũ định từ chối. Anh Trọng nói nhỏ:
    - Tôi có cái này hay lắm. Tôi sẽ cho chú coi, hơi lâu đấy. Ở lại ăn cơm được chứ?
    - Vâng, anh chị cho hai đứa tôi ăn luôn.
    Ninh Đa cười nói rất vui, đã theo chị Trọng ra ngoài. Vũ hỏi:
    - Chuyện gì đấy anh?
    - Tài liệu của Richardson, tổ trưởng CIA phụ trách thủ đô Sài Gòn, trình báo về trung tâm Langley cho tướng Lansdale, tôi đã sao chụp lại cốt để chú đọc. Ngoài ra, mới vài tuần nay nhóm học trò của tôi bàn tán nhiều về phái đoàn của Mỹ đo chính bộ trưởng Quốc phòng cầm đầu, gồm bảy viên tướng trong hội đồng tham mưu liên quân cùng hàng chục sĩ quan phụ tá đến Sài Gòn. Đoàn làm việc nhiều ngày với Bộ Tư Lệnh quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam hiện nay do tướng Paul Harkins là tư lệnh trưởng. Nhiệm vụ của đoàn do tổng thống Kennedy giao là kiểm tra tại chỗ chiến dịch Bùng Nổ, (Operation Explosion), tiến hành trong một năm từ tháng 2-1962 đến tháng 3-1963, chia làm ba giai đoạn: làm kế hoạch; phân bổ các lực lượng nhận nhiệm vụ thực hiện; và hành động. Trách nhiệm của đoàn phải trả lời cho tổng thống Kennedy chính xác, có cơ sở, để đánh giá triển vọng, rằng "Mỹ đang thắng hay đang thua?" Nếu thắng thì đánh giá cho được "kết thúc thắng lợi trong một thời gian hợp lý". Bàn chung thì vậy, nhưng họ nhắc đến tay trung tướng Victor Krulak, là thành viên đặc biệt của phái đoàn, nguyên tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ, vốn là sĩ quan chỉ huy của Kennedy thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, được Huân chương quân công hải quân, Huân chương danh dự của Quốc hội, người hùng của quân đội Mỹ. Khi nhận chức Tổng thống, Kennedy đã mời y làm cố vấn chuyên trách chống du kích trong Bộ tham mưu liên quân. Tại Lầu Ngũ Giác, người ta xác nhận công việc của Krulak chính là cuộc chiến Việt Nam. Krulak cùng trong lớp trẻ được Kennedy tập họp dưới trướng. Krulak chưa tới tuổi năm mươi đã mang cấp hàm Trung tướng, đã từng là phi công nhưng xin qua binh chủng Hải quân, rồi gia nhập Thủy quân lục chiến. Đã từng trực tiếp chiên đấu ở chiến trường Triều Tiên lúc đó đã là đại úy chỉ huy cả tổng thống Kennedy mới là thiếu úy. Nhờ kinh nghiệm chiến trường, Krulak cải tiến, phát minh loại tàu chiến đổ bộ LC (Landing Craft) chở luôn cả quân lính và xe tăng, chiếm ưu thế chiến trường suốt thời kỳ chiến tranh. Đến nay tại Nam Việt Nam, Krulak cũng là cha đẻ của chiến thuật trực thăng vận. Tham gia phái đoàn qua Sài Gòn lần này, ngoài việc thanh tra chung, y còn chứng kiến thử nghiệm lần cuối với lực lượng thủy quân lục chiến Việt Nam, xem xét lại chiến thuật mạnh yếu, bồ khuyết hoàn chỉnh. Sau đó sẽ có quyết định thực hiện giai đoạn ba của chiến dịch Bùng Nổ đầu mùa khô này.
    Vũ chăm chú lắng nghe, tập trung ghi nhận những điều căn bản vào bộ nhớ bẩm sinh toàn bộ nguồn tin tự anh xác nhận là cần thiết đối với công tác lúc này. Trọng ngừng kể, đốt thuốc, nhấp trà, Vũ nhẫn nại chờ đợi. Lát sau Trọng tiếp:
    - Chú biết không, nhóm người của Richardson theo dõi rất sát các hoạt động quân sự của cả hai bộ tư lệnh Mỹ-Việt, theo dõi đến từng viên tướng chỉ huy chứ đâu phải CIA chỉ nhòm ngó riêng bên phía Việt cộng. Có thể CIA đã được chính tổng thống Kennedy giao nhiệm vụ riêng. Cụ thể vụ Richardson báo về trung tâm cho tướng Lansdale, sự thất bại thảm hại của cuộc hành quân tại Đồng Tháp tháng trước do tướng Huỳnh Văn Cao trực tiếp chỉ huy mà tướng Harkins đã ém nhẹm. Hai trung đoàn của Cao bao vây một tiểu đoàn khoảng gần 300 du kích quân Việt Cộng, đã bị tiêu hao hơn một đại đội mà vẫn để cho cộng quân chạy thoát qua biên giới Miên an toàn. Tổng thống Kennedy đòi bộ trưởng Quốc phòng McNamara làm tường trình, McNamara đòi tướng Harkins báo cáo gấp nội vụ. Bộ tư lệnh Mỹ tại Sài Gòn oán trách đại tá Colby, rồi các đoàn thanh tra của Mỹ qua mở ba lần hội nghị kiểm điểm, ở Honolulu, ở Sài Gòn, náo loạn cả tháng. Lần này, đích thân McNamara lãnh đạo đoàn, buộc phải trả lời cho Kennedy đang thắng hay thua? Còn dự tính thời gian bao lâu thắng được Việt Cộng? Nhóm CIA bàn rằng, Harkins cam kết ba năm sẽ chiến thắng Việt cộng là hoang tưởng, là liều lĩnh hết chỗ nói. Họ còn tiết lộ riêng với nhau, hàng triệu đô-la đã kê vào "mõm" các tướng tá trong Bộ tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn, rồi tiền và gái do tướng tá Sài Gòn cung cấp cho trên một vạn cố vấn Mỹ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nên họ tha hồ báo cáo láo, thua trở thành thắng. Và vụ trực thăng vận, trung tướng Krulak được hãng thầu sản xuất hứa hẹn biếu cả chục triệu đô-la, cái giá của sự phát minh chiến thuật.
    Anh Trọng mỉm cười, lắc đầu:
    - Nghe bọn chúng bàn tán, tôi mới tin lời chú nói, chúng phải tạo ra chiến tranh để kiếm lời quả là sự thật.
    Vũ vỗ vai anh nuôi, thân mật:
    - Đó là lợi tức của bọn tay chân tép riu, còn các tập đoàn tư bản Mỹ, bọn lái súng, không phải kiếm hàng triệu mà phải kể hàng tỷ đô-la lợi nhuận. Mỹ phải tạo ra chiến tranh, trao súng cho đồng minh lẫn kẻ thù, hai phía đánh nhau, Mỹ thu lợi nhuận, bằng máu của hàng triệu người dân lành, đạp trên quyền sống độc lập của cả một quốc gia dân tộc. Nhân dân ta đang phải trả giá vì quyền sống đó.
    Đun đẩy, Vũ tế nhị hướng anh Trọng:
    - Anh thấy chứ, bọn CIA và nhóm chỉ huy lực lượng cố vấn Mỹ ở đây cũng không thân thiện với nhau, chúng ganh tỵ nhau vì quyền lợi. CIA không phải không thu lợi, nhưng so với giới quân sự thua kém nhiều. Họ cũng chống phá nhau quyết liệt có điều cái thế của giới tướng lãnh lại mạnh hơn, CIA phải chịu lép vế. Tuy nhiên CIA trả đũa được bằng báo cáo thẳng lên trên. Cả McNamara lẫn Harkins cũng phải dè chừng... Anh nên quan tâm lắng nghe nhé.
    - Đúng như chú nói, bọn CIA tỏ ra khinh thường nhóm tướng tá Harkins, chỉ có điều họ sợ thế mạnh của McNamara. Họ là một cánh với nhau cả, từ Bộ quốc phòng Mỹ đến Bộ tư lệnh Mỹ ở đây Bản báo cáo của Richardson gửi cho trung tâm CIA khá đầy đủ, tôi đưa chú nghiên cứu, có những vấn đề phía chúng ta khó mà biết được.
    Ngày hôm sau, được tin báo, đồng chí Thành Minh đã đến gặp Vưừ, cả hai làm việc trọn buổi chiều. Vũ tường thuật những điều anh Trọng kể, và tóm lược nội dung báo cáo của Richardson:
    - CIA có nhiệm vụ theo dõi, điều tra, khách quan đánh giá từng bước kế hoạch ba năm để chiến thắng Việt cộng của tướng Harkins và nhóm lãnh đạo tập đoàn cố vấn quân sự Mỹ. Năm đầu là chiến dịch Bùng Nổ, năm sau chiến dịch Truy Đuổi Tận Diệt, cuối cùng hoàn thành củng cố kế hoạch bình định. Kế hoạch của Harkins được tướng Maxwell Taylor, tống tham mưu trưởng quân lực Mỹ, trình duyệt bộ trưởng Quốc phòng McNamara, Harkins cam kết tất thắng. Tướng Taylor tâm đắc, McNamara tự hào, nhưng Kennedy lại chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Uy tín của người lãnh đạo quốc gia khiến ông ta không thể tránh khỏi được lo ngại. Để phòng phe quân sự qua mặt, kinh nghiệm như họ đã lừa dối tổng thống tiền nhiệm trước đây, Kennedy mật giao cho nhóm CIA ở Sài Gòn điều tra, thường xuyên báo cáo trong chiến dịch Bùng Nổ. Quốc sách ấp chiến lược là một vế quyết định, nên Kennedy đặc phái một cố vấn trẻ tài năng là Rufus Phillips phụ trách chỉ đạo thực hiện. Giai đoạn hai của chiến dịch là hoàn thành hệ thống ấp chiến lược. Song song với chương trình quân sự, phát triển 30.000 quân địa phương, tập trung các thùng thuốc nổ tạo thành quả đấm mạnh, gom dân vào ấp còn lại là vùng trắng, những thùng thuốc nổ sẽ bung ra, tự do hủy diệt, cho Việt Cộng ra rừng đợi giai đoạn Truy Đuổi Tận Diệt. Trong cuộc họp các tướng tá, tòa Đại sứ, có mặt các nhân vật trọng yếu của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và các hãng thông tấn, báo chí, tướng Harkins khoe khoang ông ta hội đủ ba yếu tố sức mạnh để chiến thắng Việt Cộng. Đó là ba chữ M, chữ đầu của ba từ MEN - người đã đủ, MONEY - tiền có dồi dào, và MATERIAL - vật chất khá mạnh. Chính Việt cộng đã cảm thấy sức nặng của ba chữ M đang đè đầu họ xuống. Đó là cỗ xe chà thịt đang lao tới đích. Và kể từ hôm đó, Harkins ngồi trong phòng say sưa đếm những con số chiến thắng. Tháng này có 200 cuộc hành quân, 1000 phi vụ oanh tạc trợ chiến, 400 xác chết Việt cộng để lại, hàng vạn mẫu lúa bị đốt cháy, 2.800 ấp chiến lược hình thành. Harkins an tâm chờ niềm tự hào phát triển bằng những con số tương tự tăng lên. Trong khi, Richardson và nhóm CIA do nhiệm vụ trên giao cho họ đã đánh giá khách quan hơn, nếu không nói là hoàn toàn khác. Tám mươi phần trăm những cuộc hành quân là không có tác dụng. Thất bại về người không ít, 150.000 súng cấp cho nghĩa quân trên thực tế lại vào tay phía du kích, ngược lại quân đội chính qui Sài Gòn phải túc trực bảo vệ ấp chiến lược mới tồn tại. Để có được con số 2.800 ấp chiến lược thì tức khắc 2.300 ấp đã bị rệu rã hoặc bị phá hủy. Còn lại khoảng 500 ấp ở quanh vùng thị xã tỉnh ly, ở cạnh căn cứ các sư đoàn, trung đoàn, nhưng chính các đơn vị này phải lo bảo vệ ấp. Hàng chục triệu đô-la dành cho chương trình tuyển mộ, đào tạo hàng vạn cán bộ "dân ý vụ" là lực lượng mật vụ nhân dân, hàng vạn cán bộ "Bình định nông thôn" đồng phục áo đen. Hầu hết được tuyển mộ từ lớp thanh niên tôn giáo, được huấn luyện phương pháp điều tra, chỉ điểm, săn lùng Việt Cộng nằm vùng, tại các trường khá quy mô. Nhưng khi phân bổ, tung về các ấp chiến lược làm nhiệm vụ thanh lọc dân chúng, ngày đêm dòm ngó sinh hoạt của dân, bọn này đã biến thành kẻ thù của dân do thái độ cường hào, dọa nạt. Số lớn đam mê trai gái gây mâu thuẫn thù địch với thanh niên đia phương. Chính những người thanh niên trong ấp đã đưa đường cho du kích đột nhập, đánh mìn bót canh, trừng trị cán bộ ấp, phá rào ấp. Việt Cộng phá một, dân phá mười, giúp cho du kích rảnh tay giết số dân quân tự vệ. Bước đầu lập ấp là tiền của Mỹ cho, từ trên xuống dưới lợi dụng chia nhau kiếm chác, thì quả họ đã tích cực xây dựng thật. Nhưng sau khi Việt Cộng, chỉ cần ba đến chín người đột nhập thôi, dân dựa vào đó đã phá tan được hệ thống hàng rào ấp chiến lược, và kinh phí trên đã cạn, thì chính quyền địa phương buộc dân đóng góp tiền của, công sức lao động sửa chữa phục hồi, cán bộ không còn bòn rút được như xưa, uể oải làm lấy lệ. Dân càng uể oải hơn, không làm ấp chiến lược mà Diệm, Nhu khoe khoang thành công trong sách lược chống Cộng, và Harkins coi như sức mạnh vô địch của ba chữ M, chỉ hoàn toàn tồn tại trong cuộc họp, trên giấy mà thôi. Phiên họp báo của phái đoàn quân sự cấp cao của Mỹ trước khi trở về, chính bộ trưởng McNamara đã xác nhận rằng, ông ta không thấy gì khác hơn là sự tiến bộ, dấu hiệu hy vọng trong tương lai. Vài nhà báo đã nghi ngờ, chất vấn McNamara "Dựa vào đâu ông lạc quan sớm thế?" Trong chuyến qua Việt Nam lần này, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phải trả lời cho được câu hỏi của tổng thống Kennedy: "Ta đang thắng hay đang thua?" Richardson tin McNamara sẽ đáp dễ dàng, vì ông ta tin Harkins đang cho chiếc xe giết người chuyển bánh, băm nát Việt Cộng. Tuy nhiên McNamara cũng có suy nghĩ riêng, lo xa hơn, nên buộc Harkins phải lập cái gọi là "Country Tham" - Hội đồng hành động, gồm ba người: Chủ tịch Harkins nắm, có hai ủy viên là đại sứ Nolting, đại diện CIA là phó đại sứ Porter. Chính quyền Sài Gòn và Bộ tư lệnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận sự lãnh đạo của Hội đồng này và của lực lượng cố vấn Mỹ trên chiến trường. Điều này cả Richardson, Colby nhận định trong báo cáo rằng, McNamara và Harkins đang đưa sự nghiệp của Mỹ một cách vô ý thức vào Nam Việt Nam, đẩy đến thảm họa.
    Vũ kết luận:
    - Richardson nêu lên khá nhiều chứng cứ để phản bác tướng Harkins cố che giấu phái đoàn McNamara. Anh đọc nghiên cứu kỹ sẽ rõ hơn...
    Thành Minh gật gù nghĩ ngợi rồi nhận định:
    - Ở đây chúng ta càng thấy rõ mâu thuẫn giữa bọn tướng tá Mỹ và CIA đã đậm rồi. Còn tập đoàn anh em ông Diệm với bọn Mỹ ở đây cũng đã phân hóa không phép gì cứu gỡ nổi. Cậu cần phân tích cho đại tá Mậu ngay phần tin mới này, nhằm củng cố quyết tâm cho ông ta nhanh chóng đón thời cơ hành động...
    *
    Lực lượng quân sự, chính trị của nhóm tâm huyết phát triển rất thuận lợi trong suốt thời gian cuối năm 1962 trong lúc cố vấn Ngô Đình Nhu vùi đầu say sưa thực hiện quốc sách ấp chiến lược. Ông ta tin tưởng, ấp chiến lược là bùa trấn áp hữu hiệu ma quỉ cộng sản và đối lập để không còn chỗ trốn tránh trong nhân dân.
    Tại Huế cả chục vạn thanh niên Phật tử đã được tập họp dưới danh nghĩa Hội Phật Học Việt Nam, dù giáo Hội Phật giáo không được chính phủ Sài Gòn chấp nhận, hình thành các "gia đình phật tử, lồng vào hệ thống Hướng đạo đồng phục mầu nâu, được tổ chức Hướng Đạo Thế Giới công nhận, hỗ trợ cả người và tiền bạc, đang bùng nổ như nước sôi đến độ, mục tiêu kín đáo, lại có bình phong công khai hoạt động.
    Giữa lúc tình hình Phật giáo Huế đang làm nức lòng mọi người, thì cụ Võ Văn Trưng ngã bệnh phải đưa vào bệnh viện Đồn Đất. Tại đây vấn còn số bác sĩ Pháp phục vụ, họ hội chẩn và kết luận cụ bị ung thư đã phát triển từ cục bướu nhỏ hiện ra mấy năm trên mặt. Khối u ác tính đã di căn không thể phẫu thuật. Cụ Trưng chấp nhận số phận, tự an ủi mình đã tới tuổi "cổ lai hi", nhưng vẫn còn tiếc nuối không được tận mắt thấy sự nghiệp nhóm Tâm Huyết thành công, cụ vẫn luôn tin là tất yếu. Thái độ của cụ cũng là nguồn khích lệ đối với đại tá Mậu và bạn bè. Trong một lần đại tá Mậu và Vũ vào thăm, cụ tâm sự với hai người bạn thân thiết nhất, gần gũi nhất:
    - Lực lượng của nhóm phát triển rộng lớn lên, tôi cảm thấy đã có nhiều hiện tượng thiếu nhất trí với nhau. Hai ông phải quan tâm luôn để hóa giải bất đồng nội bộ. Nhường nhịn nhau để bảo vệ sức mạnh đoàn kết. Cần rút bài học kinh nghiệm, chúng ta đã hết lòng ủng hộ ông Diệm về chấp chính thế mà khi ông ta đã nắm quyền lực rồi thì quay lưng lại với chúng ta. Không chỉ vậy, còn dã tâm sát hại cả những anh em từng sống chết với mình. Đó là mối lo nghĩ của tôi lúc này.
    Sau đó cụ Trưng đòi đại tá Mậu tìm mọi cách đưa cụ Nguyễn Văn Lực về cho hai người gặp nhau lần cuối. Theo cụ, người có thể thay thế tập họp anh em chính trị chính là cụ Lực, vừa có quyết tâm cao, dám hy sinh mạng sống của chính mình, của hai con mình, xứng đáng để nhóm tin cậy. Đại tá Đỗ Mậu hứa thực hiện. Ông lệnh cho thiếu tá Trần Văn Thăng đi ngay Biên Hòa, đón cụ Lực lánh mặt ở một ngôi chùa kín đáo, rồi ngay tối đó cụ được cải trang khăn đóng áo dài, được bảo vệ đưa về thăm cụ Trưng ngay trong bệnh viện an toàn.
    Cụ Võ Văn Trưng mất, coi như nhóm Tâm Huyết Cần Lao ly khai mất một đầu não có bản lĩnh và đức độ, một sáng lập viên của lực lượng đối lập với tập đoàn Nhu Diệm.
    Giáng sinh năm 1962, linh mục Bửu Dưỡng không về Sài Gòn, nhắn mời anh Trọng và Vũ lên dự lễ tại xứ sở sương mù. Để nhớ mùa đông Hà Nội, cả vợ chồng con cái anh Trọng rủ Vũ cùng Ninh Đa lên Đà Lạt ít ngày tâm sự với cha Dưỡng.
    Cha rất mừng, đã cho sắp xếp mọi người ở chung tại nhà dành riêng cho cha ngay trong khuôn viên trường Đại học Đà Lạt. Ba ngày nghỉ thật là hạnh phúc. Ngoài những điều suy nghĩ của cha trong chuyến đi Pháp đã kể hết với anh Trọng, cha còn cho Vũ biết tin về Tổng giám mục Ngô Đình Thục đã gửi đơn lên Bộ Truyền giáo Tòa Thánh Vatican thông báo ngày lễ Ngân Khánh của ông, 25 năm giám mục, tổ chức vào năm tới cùng với lời đề nghị ông xứng đáng được Đức Thánh Cha phong Hồng Y. Tổng giám mục Thục đang làm một cuộc vận động mạnh ở Pháp, ở giáo hội Mỹ, ủng hộ ước vọng của ông. Cha Dưỡng thông tin với lời lẽ biểu lộ không vui. Phần anh Trọng cũng báo với linh mục Dưỡng, cha Cao Văn Luận, viện trưởng viện đại học Huế được ông Thục gọi tới giao làm trưởng ban tổ chức lễ Ngân Khánh, không phải chỉ ở phạm vi giáo tỉnh Huế, mà ở khắp các giáo phận phía Nam. Cha Luận được lệnh cho in trước cả chục vạn thiệp mời, gửi nội các chính phủ, các viên chức cầm đầu các tỉnh. Nha giám đốc Tuyên úy quân đội chuyển giấy báo cho hầu hết tướng tá chỉ huy, tư lệnh quân lực Việt Nam cộng hòa, và phong trào cách mạng quốc gia thông báo cho mọi tổ chức quần chúng. Tổng giám mục Thục hy vọng cũng vào dịp lễ Ngân Khánh sẽ là ngày được Tòa Thánh ban quyết định phong Hồng Y giáo chủ cho ông. Vinh quang cho giáo hội công giáo Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, chứ chẳng phải chỉ riêng cho dòng họ Ngô Đình. Viên thư ký riêng của tổng giám mục Thục gợi ý với cha Luận, thông báo cho các quan chức công sở nhà nước đã dược dự học các khóa chính trị cần lao tại Vĩnh Long. Ngoài quà riêng theo hảo ý cá nhân mỗi người nên đóng góp 5.000 đồng, để ủng hộ Ban tổ chức lễ. Theo thư ký Tòa tổng giám mục Hoàng Ngọc Trợ, chỉ số tiền đó thôi cũng đủ cung cấp cho quan khách về Huế dự lễ cả tuần rồi.
    Vũ kết thúc câu chuyện lễ Ngân Khánh:
    - Hoàng Ngọc Trợ, thư ký tòa tổng giám mục, nhắc nhở cha Luận như vậy, cha Luận cho rằng chính ông Thục mượn Trợ phát ngôn thôi, nên không dám phản bác. Nhưng ông cố tránh mặt, đã nhờ linh mục phụ tá cùng với Trợ lo cho ngày lễ. Linh mục Bửu Dưỡng không bằng lòng tham vọng quá đáng của ông Thục, đã thuật lại những lời phê phán của số chức sắc giáo hội Pháp, hồi ông qua đó. Người ta cho rằng ông Thục dựa thế giáo hội công giáo Mỹ đã chèn ép các giám mục vốn có quan hệ lâu năm với giáo hội Pháp, cụ thể như vụ giám mục Lê Hữu Từ.
    Sau ba ngày nghỉ lễ Giáng Sinh tại Đà Lạt trở về, Vũ được đại tá Mậu cho biết ông vừa đi dự Hội nghị Bộ Tổng tham mưu. Chỉ tháng qua, phòng 2 quân báo phát hiện ra địa điểm Việt cộng đặt đài phát thanh của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam Việt Nam chỉ cách Sài Gòn trên dưới 50 cây số đường chim bay. Nguồn tin này được phía Mỹ xác nhận. Bộ tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn tự quyết đinh mở cuộc hành quân thử nghiệm chiến thuật trực thăng vận. Tướng Harkins trực tiếp chi huy chiến dịch, đề nghị được sử dụng lực lượng sư đoàn
    và thiếu tướng Huỳnh Vãn Cao, tư lệnh vùng IV hỗ trợ.
    Đại tá Mậu còn cho Vũ biết thêm, đây là chiến dịch đầu tiên mà Tổng hành dinh Bộ tư lệnh Mỹ nhận trực tiếp thực hiện, có trung tướng Krulak tham dự để nghiên cứu kế hoạch của chính ông ta. Một số phi công Mỹ mới đưa từ Sài Gòn qua Hồng Kông nghỉ lễ Noel tại khách sạn Trăng Tháng Tám đã được gọi gấp về Tân Sơn Nhất. Đây cũng là cuộc hành quân đầu tiên của tân sư trưởng sư đoàn 7, đại tá Bùi Đình Đạm, giám đốc nha động viên vừa mới về thay tướng Huỳnh Văn Cao lên tư lệnh vùng IV. Ông Mậu nhấn mạnh với vẻ mỉa mai: "Đây là hai sĩ quan cao cấp, công giáo gộc, được tổng thống Diệm tin cậy nhất về lòng trung thành, tinh thần chống cộng, chứ không phải về tài năng", vốn là sĩ quan văn phòng mới ra trực tiếp chiến đấu. Số tướng tá Mỹ không mấy trông cậy cả Cao lẫn Đạm nhưng buộc phải chấp nhận. Theo tin tình báo, tại Tân Thới chỉ có một Đại đội Việt Cộng chính qui của Tiểu đoàn 261, và một số du kích không đáng kể, bảo vệ căn cứ đặt đài phát thanh của mặt trận. Vì thế cả Cao lẫn Đạm tỏ vẻ khinh thường, tin chắc là với lực lượng áp đảo địch, lại có trực thăng yểm trợ đổ quân uy hiếp ngay, trong cách đánh nhanh, phủ đầu thế nào cũng xóa sổ đài phát thanh này. Kế hoạch hành quân đã được Harkins chấp thuận. Bộ tư lệnh Mỹ cử viên đại úy Ziegler phụ tá cho Bùi Đình Đạm; trung tá John Paul Vann cố vấn cho tướng Huỳnh Văn Cao. Harkins và các sĩ quan phụ tá của ông ta cho đây là một trận đánh biểu diễn, thử nghiệm, chỉ có thắng thôi. Lấy mười diệt một.
    Lực lượng hành quân tham gia gồm có một tiểu đoàn của sư đoàn 7, một chi đoàn xe bọc thép M-113 có bộ binh đi kèm. Pháo của sư 7 yểm trợ, 15 trực thăng U-la chuyển quân luân phiên, hai tiểu đoàn bảo an có địa phương quân hợp đồng, phi đội không quân oanh kích mở đường, khi cần sử dụng cả giang hạm trực chiến tại sông Tiền Giang. Cuộc hành quân này sẽ làm bài học diễn tập cho tổng hành dinh Bộ tư lệnh Mỹ, cho tư lệnh vùng IV và cho chỉ huy trưởng Bùi Đình Đạm. Mục tiêu: làm bình địa vùng giải phóng quan trọng ở phía bắc đồng bằng sông Cửu Long, tiêu diệt căn cứ liên hoàn hai ấp: ấp Bắc và Tân Thới, đài phát thanh của Mặt trận Giải phóng, và bình định dọc bờ phía tây Đồng Tháp Mười.
    Tin quân báo về địch tình tổng hợp được xác nhận lực lượng Việt Cộng gồm có một tiểu đoàn chủ lực 261, quân số trên 300 người, cộng thêm một đại đội dân quân du kích, tổng số 400 quân. Vũ khí nhẹ gồm có 4 đại liên 30, 2 bích kích pháo 60mm, mỗi trung đội có 2 trung liên Bar, binh sĩ có Thompson và Carbine tự động; lựu đạn, đạn dược đầy đủ.
    Việt cộng bố trí quân dọc theo địa hình hai ấp giữa Tân Thới và ấp Bắc có con rạch hai bờ cây cối rậm rạp tạo thành hào chiến đấu, bên ngoài khó quan sát. Toàn thể địa bàn dựa vào bờ phía Tây Đồng Tháp Mười, là vùng ảnh hưởng Việt Minh. Nơi đây những người nông dân đã từng sống và chiến đấu suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, dân chúng vốn không ưa chế độ Diệm, có kinh nghiệm kháng chiến bảo vệ quê hương đất sống của họ rất cao. Họ đã tính đến lúc phải chấp nhận thử thách, đối đầu với hiểm nguy, sần sàng chờ đợi. Quả là chỗ dựa vững chắc của Tiểu đoàn chủ lực. Ban chỉ huy Tiểu đoàn đều có số tuổi 40 trở lên, điều này nói lên họ đã có đủ kinh nghiệm chiến thắng quân đội Pháp thiện chiến cả chục năm trước. Trinh sát sư đoàn còn phát hiện thêm, tiểu đoàn Việt cộng bố trí trận địa theo con rạch dọc hướng Bắc Nam, phía ngoài có con đập lớn, bờ cây rậm rạp, đập đắp hình chữ chi rất thuận lợi kiểm soát cánh đồng trước mặt. Viên tiểu đoàn trưởng đã đặt ở góc chữ chi trên đập số trung liên Bar để bắn cài răng lược, bắn chéo khá nguy hiểm. Cuối cùng, trước ít ngày mở cuộc tấn công, lại phát hiện thêm tiểu đoàn 514 địa phương từ Mỹ Tho đến tăng cường cho ấp Bắc.
    Ngày 2-1-1963, quyết định mở màn, cuộc hành quân của tướng Harkins vẫn không thay đổi. - Đại tá Mậu kết luận - Vì vẫn là lấy mười diệt một, với hỏa lực hiện đại, người Mỹ tin rằng đủ dập đầu Việt cộng xuống, thắng trận đã ở tầm tay.
    Vũ cười hỏi lại Mậu:
    - Đại tá cũng cho là thế? Diệt Việt cộng dễ dàng sao?
    Mậu lắc đầu:
    - Ông quên rồi à? Tôi đã từng là tiểu đoàn trưởng quân đội Việt Minh hồi khởi nghĩa, đã chạm trán với quân đội Pháp một vài lần rồi. Việt cộng có cách của họ, do đó họ đã thắng Pháp. Chủ quan như Harkins là tai họa đấy.
    Và đúng như dự đoán của đại tá Mậu, cuộc hành quần ấp Bắc, Tân Thới hoàn toàn thảm bại. Cả chục trực thăng bị bắn rớt, một số phi công Mỹ chết, chiến thuật trực thăng vận, niềm tự hào của trung tướng Krulak bị Việt cộng nhấn xuống bùn lầy Đồng Tháp. Cố vấn Mỹ chết! Báo chí Mỹ được dịp làm rùm beng lên, dù báo chí Việt Nam tại Sài Gòn đã lấy cái kết quả cuối cùng: "Lực lượng Việt cộng đã rút hết khỏi trận địa ấp Bắc, Tân Thới". Đồng Tháp Mười mênh mông trở lại an toàn sau khi đã cho tướng Harkins, trung tá tài năng John Paul Vann cố vấn vùng IV chiến thuật, và toàn bộ Tổng hành dinh Mỹ tại Sài Gòn một đòn choáng váng đến mất tinh thần, không còn hung hăng khoe sục mạnh của vũ khí là vô địch.
    Bộ trưởng Quốc phòng McNamara điện gấp qua Sài Gòn, đòi mở ngay hội thảo, kiểm điểm điều tra kỹ cuộc hành quân thất bại, tổng kết phúc trình về Hoa Thịnh Đốn. Tổng thống Ngô Đình Diệm ngỡ ngàng, đòi đại tá Đỗ Mậu nghiên cứu thực địa, lực lượng, cách đánh của Việt cộng, đồng thời xem xét lại những bản tin tình báo, trinh sát trước khi mở cuộc hành quân, đúng sai thế nào? Nguyên nhân thất bại? Tất cả, phải báo cáo, kết luận, nhận xét, trình cho ông ta sớm nhất.
    Đại tá Mậu cử trung tá Hùng phó giám đốc Tổng nha, thiếu tá Trần Văn Thăng, chỉ huy cả chục sĩ quan phụ tá cấp tốc lên đường xuống ấp Bắc. Chỉ trong một tuần đoàn đã làm xong bản trường trình đưa lên đại tá Mậu. Đọc xong ông chuyển cho Vũ đòi sửa chữa gọn lại và góp ý nhận xét. Vũ nhận tập báo báo do trung tá Hùng chỉ đạo soạn thảo, đem về phòng đóng cửa, tập trung nghiên cứu.
    Phần tổng quát về trận địa, về nhân số hai bên không sai lệch bao nhiêu, quân số phía Việt cộng nắm không sát vì họ quên hoặc không quan tâm đến số lượng dân quân các xã lân cận làm chỗ dựa của hai tiểu đoàn 261, 514. Họ vũ trang súng cũ của Pháp để lại, lựu đạn khá mạnh. Và nếu ước tính số "tịnh vị dân động vị binh" tức là dân chúng tham gia chiến đấu thì số lượng vũ trang gấp hai lần. Do đó, dù lực lượng Việt cộng yếu hơn địch về hỏa lực, bị tấn công ba mặt, đặc biệt là sức khống chế bên trên do bom dội, pháo bầy nhưng chỗ dựa phía sau hậu phương rất vững, tinh thần chiến đấu rất cao, vận động chiến linh hoạt, thoải mái trong khu vực quen thuộc từng gốc cây, hố sắn, u đất. Vũ quan tâm đến phương pháp hành quân của Mỹ thông qua những đoạn ghi rất rõ ràng chi tiết Trung tá Hùng đã khai thác được ở bọn cố vấn Mỹ, nhất là nhóm báo chí, phóng viên chiến trường đã có bề dày kinh nghiệm:
    Vì có sương mù dày đặc, phi đội trực thăng H.21 do phi công Mỹ lái, đã chở tiểu đoàn của sư 7 tới thẳng mặt trận bị chậm, thay vì lệnh xuất phát 7 giờ sáng, trung tá Vang và đại tá Đạm phải đề nghị tướng Harkins hoãn lại, mãi 10 giờ 20 mới cất cánh. Trong khi đó hai tiểu đoàn địa phương quân, chi đoàn M-113 đã lên đường trước. Chính sơ hở này đã giúp cho Việt cộng phát hiện sớm hơn cuộc hành quân, nếu như họ chưa hề biết trước. Thế tiến công bất ngờ không còn.
    Theo lời trung sĩ Arnold Bowers, phi công lái trực thăng đưa quân vào địa điểm hành quân, thì khi trực thăng của anh ta còn ở độ cao 50 feet, đã bị trúng đạn đại liên của Việt cộng. Cánh quạt gãy, anh ta phóng ra rơi xuống ruộng nước được một thiếu úy bộ binh cho lính đưa về phía sau. Nhưng ngay sau đó hỏa lực Việt cộng đã bao trùm lên nhóm lính của viên thiếu úy. Bowers bảo viên thiếu úy phải mở đường ra phía trống trước mặt, viên thiếu úy nói rằng không hiểu Bowers nói gì, anh ta không biết tiếng Anh, và quá sợ hãi dúi đầu xuống sát mặt bùn. Trong khi đó một tiểu đội lính từ phía trực thăng lao về hướng bờ đập. Bowers nhận xét, lớp hạ sĩ quan lớn tuổi tỏ ra gan dạ, có kinh nghiệm chiến đấu hơn loại sĩ quan trẻ tuổi...
    Viên phi đoàn trưởng trực thăng H.21 William Deal đã đoán sai chỗ hàng cây phía Tây Tân Thới không có địch, nên cho một phi đội hạ cánh thả quân xuống ruộng lúa. Tại đây lại là trận địa của tiểu đoàn 514 địa phương bố trí chờ sẵn. Họ không tấn công vào lính Việt Nam, mà tập trung hỏa lực bắn trực thăng vừa hạ xuống. Cách 200 thước, nhưng họ đã bắn trúng máy bay nhờ du kích chụm súng thành nhóm cùng khai hỏa một lúc, quả là họ gan dạ và lanh trí. Chiếc trực thăng hộ tống Huey tức khắc nhào xuống phản công lại, và hỏa lực từ các trực thăng chở quân cũng tấn công, nhắm phía hàng cây nơi quân Việt cộng ẩn mình dưới các gốc, trong hố cá nhân. Tuy nhiên tất cả các trực thăng đáp xuống đều bị ăn đạn, không nặng thì nhẹ. Một chiếc bị hỏng động cơ phi hành đoàn hai người Mỹ phải ở lại cùng quân Cộng Hòa chiến đấu. Một trực thăng khác đã quay lại để cứu hai phi công Mỹ, nhưng bi trúng đạn phải tháo chạy.
    Bốn máy bay trực thăng Huey đã đến phóng hỏa tiễn xuống bờ đập, nhằm đè bẹp hỏa lực địch, rồi một chiếc Huey tách ra tiến lại phía chiếc H.21 hỏng máy nằm đó. Bị súng Việt cộng bắn tới tấp, gãy chong chóng đâm sầm xuống ruộng lúa cách chiếc trực thăng H.21 chừng năm thước. Tiếp đó, chỉ trong khoảnh khắc bốn chiếc H.21 lại bị bắn rơi cách xa tử địa chừng vài dặm. Tổng số 15 chiếc H.21 bị bắn, 4 chiếc Huey chỉ huy chỉ có một chiếc vô sự không bị viên đạn nào.
    Trong thời điểm đó tướng Huỳnh Văn Cao ngồi trên máy bay Li-9 quan sát trận địa cùng với cố vấn Mỹ Paul Vann. Vann như phát điên trong cơn tức giận. Một cố vấn và ba phi đội trực thăng bảy người Mỹ đang chịu hỏa lực phản công của Việt cộng, sống chết trong gang tấc. Cựa quậy trong khoang chật hẹp của chiếc Li-9, Vann gọi điện liên tục cho đại úy James Scanlon, rồi cho đại úy Robert May, hai sĩ quan dưới quyền tại Bộ tham mưu hành quân ở sân bay Tân Hiệp, Biên Hòa, lệnh cho cả hai tìm mọi cách giải vây cho số cố vấn Mỹ bi kẹt trên chiến trường. Tướng Cao cũng chỉ thị cho chi đoàn M-113 tiến thẳng tới ấp Bắc. Đại úy Lý Tòng Bá, chi đoàn trưởng thiết vận xa M-113, xin lệnh của sư đoàn 21, vì chi đoàn này không có mặt trong lực lượng hành quân từ khi trù bị. Chính vì vậy mà cuộc hành quân cứu viện diễn ra chậm hơn ý muốn của tướng Cao. Chi đoàn M-113 của Bá tiến thằng tới ấp Bắc, khi gặp con kênh hai bờ dốc đứng thì phải dừng lại. Thiết vận xa M-l13 không trở ngại khi lội nước, nhưng khi gặp bùn nhão xích không còn chỗ bám để kéo khối sắt 10 tấn lên được. Bộ binh trong xe phải xuống chặt cây chất đầy con kênh, cố gắng cho một chiếc vượt qua, từ đó sử dụng dây xích kéo qua từng chiếc. Chi đoàn M-113 bò tới trận địa, cứu nguy như cứu lửa, mà bò đi như cuộc diễn tập nhàn hạ, thời gian chẳng có nghĩa gì với Bá.
    Bá tuy khá tiếng Anh lại trả lời bằng tiếng Việt với Vann, với đại úy cố vấn Scanlon, ai nói người ấy hiểu, hai bên cùng lớn tiếng, không còn giữ lễ, văng tục liên hồi. Lý Tòng Bá cùng lứa tuổi với Scanlon, sĩ quan thuộc quyền của trung tá Vann, là cố vấn của lực lượng M-113. Bá rất tự hào là con một địa chủ lớn ở miền Tây, hai cha con từng phục vụ quân đội Pháp trước kia, đã qua Pháp huấn luyện binh nghiệp. Gần đây Bá lại được qua Mỹ học về Thiết Vận Xa tại trường thiết giáp Fort Knox ở Kentucky, về nước nắm quyền chỉ huy chi đoàn 15 chiếc M-113, một con chủ bài Mỹ mới đưa vào chiến trường miền Nam, có trang bị súng phun lửa thay cho đại liên 50 như 14 chiếc cũ, mỗi chiếc chở 12 bộ binh trang bi trung liên AR và M-l. Là một lực lượng thiết vận xa mạnh, phù hợp với địa hình đồng bằng sông Cửu Long, hoạt động cả trên bộ, dưới nước. Nhưng lúc này Bá chỉ cho qua kênh ba chiếc M-113 thì dừng lại, vì phát hiện phía trước còn có thêm một con kênh tương tự.
    Nếu lọt vào giữa hai con kênh tiến thoái khó khăn là nguy biếm. Lần này Vann ra lệnh thúc giục tiến vào ấp Bắc cứu nguy, Bá từ chối thẳng thừng, trả lời không có đường vào, phái bảo vệ sự sống còn của đơn vi. Vann không còn nhẫn nhục được thêm, cất tiếng chửi Bá:
    - Thằng con hoang, đồ chết rét! Việt cộng chi có vài khẩu đại liên 30 làm gì được M-113, sao mày sợ không dám vào?
    Bá chửi lại bằng tiếng mẹ đẻ. Hắn cho bọn Mỹ chỉ huy không ra trò gì cả, hắn không dại gì nghe Mỹ đưa đầu vào chỗ chết. Mãi đến hai giờ chiều Bá mới cho ba thiết vận xa đã qua kênh tiến vào tiếp. Còn 12 chiếc án ngữ tại bờ kênh. Ba chiếc tiến đến chỗ trực thăng H.21 rớt còn nằm đó. Ba phi công Mỹ bị thương nằm bên cạnh được mang vào xe. Hai tên lái ở chiếc Huey, một chuẩn úy phi công của chiếc H.21. Cả ba không biết số phi công Mỹ rớt còn sống hiện ở đâu. Mãi sau mới thấy phi công Bowers bị rớt đầu tiên, ở dưới ruộng lúa bò tới. Vann được báo, Bá cứu được bốn phi công Mỹ rồi, y mới bớt cơn thinh nộ.
    Tính ra từ 10 giờ 30 sáng đến 5 giờ chiều, cả mười đợt tấn công sau khi phi cơ oanh kích, pháo dập hai bờ đập cắt hết hai rặng cây mở xa tầm nhìn, ba tiểu đoàn ba mặt cố tiến vào đểu bị chặn đứng, có nơi phải rút ra, thương vong tăng dần, hỏa lực của Việt cộng không mạnh nhưng rất chính xác, cắt đội hình các tiểu đoàn của sư không thể tập trung áp đảo. Tướng Cao nhất trí với trung tá Vann lệnh cho trung tâm hành quân Tân Hiệp đưa quân dù đến trợ chiến. Đến 6 giờ tối bảy chiếc máy bay vận tải hai động cơ C-23 mới tới thả quân dù vào trận. Quân dù đã nhảy xuống phía cuối vùng đập phía tây nam ấp Tân Thới và tức khắc mở đợt tấn công khá hiệu quả, nhưng trả giá cũng khá đắt, 19 chết, 32 bị thương, có một đại úy và một trung sĩ cố vấn Mỹ.
    Bóng đêm trùm xuống, cùng lúc với quân dù. Phía Việt cộng đã chuẩn bị sẵn sàng, rút rất nhanh ra khỏi trận địa nhờ bóng đêm, vượt kênh vào khu Đồng Tháp Mười an toàn. Quân đội Cộng Hòa coi như hoàn toàn làm chủ trận địa, gồm 2 ấp Tân Thới, ấp Bắc, nhà cháy sáng rực một góc trời. Chiếc C47 chỉ thả năm ba trái sáng rối thôi, không cần thả thêm như dự trù trên 100 trái sáng mở đường chặn địch.
    Trung tá Hùng, thiếu tá Thăng đã tổng hợp những tin thu thập trong dân, những người dân đã chứng kiến trận đánh kể như sau. Lực lượng Việt Cộng, tính gộp tiểu đoàn 261 và tiểu đoàn dân quân 514 và quân du kích xã chỉ có 400 người, họ đã giữ vững trận địa, chặn nhiều cuộc tấn công của bom, pháo, thiết vận xa. Vũ khí hạng nặng chỉ có súng cối 60 ly, đại liên 30 ly. Việt cộng chết 18 người, 39 bị thương, một chiến sĩ của họ tên là Dũng mất tích, dù đã đi tìm hai lần không ra xác. Viên tiểu đoàn trưởng 261, chỉ huy cao nhất trận địa, ra lệnh nơi tập kết vào đúng 10 giờ đêm để rút quân. Trong khi rút, mỗi đại đội chỉ để lại một trung đội chặn hậu, họ rút từng phần khá linh hoạt. Du kích địa phương đã tập trung xuồng ở bờ kênh chở người chết và bị thương qua kênh trước rồi dẫn đường cho hai tiểu đoàn rút qua kênh, dân quân du kích phân tán vào khu rừng dừa nước. Những người nông dân chứng kiến trận đánh ở ẩn các hẩm trú an toàn lại trở về các xóm nhà cháy. Mọi phương tiện của đài phát thanh Mặt Trận được chuyển đi trước khi trận chiến xảy ra. Tính thua được qua thương vong, Việt cộng đã thắng, một keo thắng kỳ lạ.
    Bản báo cáo trận đánh ấp Bấc và Tân Thới của Tổng nha An ninh quân đội do đích thân đại tá Mậu trình lên tổng thống Ngô Đình Diệm. Cũng đồng thời đồng chí Thành Minh nhận được bản sao chụp của Vũ. Đại tướng Maxwell Taylor tử Thái Lan bay đến Sài Gòn, cuộc họp khẩn cấp được triệu tập. Các cố vấn Mỹ, hàng tướng tá đều có mặt, Huỳnh Văn Trọng nghe qua bọn học trò của anh bàn tán, thuật lại với Vũ:
    - Họ nhận là thua trận, nguyên nhân chính là tướng Cao, đại tá Bùi Đình Đạm bất tài, quân đội Sài Gòn bất tài đã đành lại sợ chết, thiếu tinh thần chiến đấu. Mỹ cho rằng thắng Việt Cộng phải có quân đội thiện chiến của Mỹ làm đầu tàu, làm gương cho quân đội Việt Nam, còn nếu chỉ với cố vấn không thôi, không hiệu quả.
    Dư luận báo chí Mỹ đưa tin cố vấn quân sự Mỹ đã chết trong trận chiến mở màn, dưới sự chỉ huy của tướng, tá Mỹ. Trong khi báo chí tại Sài Gòn được sự kiểm soát chặt chẽ, sự hướng dẫn tận tình của Bộ thông tin, Nha thông tin Nam Việt góp ý, trận thua trở thành chiến thắng ấp Bắc, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã làm chủ Tân Thới, ấp Bắc, diệt gọn lực lượng du kích giải phóng vùng đất tự do, nhưng không dám nhắc đến cái Đài phát thanh của Việt cộng, ngay đêm đó, rồi sáng hôm sau vẫn truyền tin thắng lợi trận ấp Bắc đi khắp nơi, không ngừng phát buổi nào.
     
  5. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 24

    Những ngày giáp Tết, Sài Gòn bỗng rực rỡ lên với trăm màu hoa thật, hoa giả, bày bán khắp phố chợ. Trong khi ấy, những đợt sóng ngầm từ hậu trường chính trị vẫn đang cuồn cuộn dưới lớp vỏ đã không còn hào nhoáng của chế độ Ngô Đình Diệm.
    Cậu út Ngô Đình Cẩn ở Huế được giao trọng trách nuôi mẹ già thay năm anh chị em lo nắm quyền lực quốc gia, coi sóc giỗ Tết phụng thờ ông cha, thế mà năm nay cậu tuyên bố dứt khoát không tổ chức Tết long trọng như mọi năm. Cậu giận vợ chồng cố vấn Ngô Đình Nhu đã "vạch áo em ruột mình cho thiên hạ coi lưng", bêu xấu cậu. Cậu phân trần với anh, tổng thống Ngô Đình Diệm:
    - Bảy năm qua tui chẳng gởi được đồng tiền mô ra nước ngoài. Lần ni, nghe lời bọn bên dưới khuyên tôi phòng xa, mới chuyển được ít chục triệu đô-la dành dụm được qua ngân hàng Ý, trong khi mụ Lệ Xuân mỗi năm mỗi gởi, bảy năm liền có hàng mấy trăm triệu, chẳng ai dám nói. Đã rứa, Tết năm nay để cho mụ ta lo liệu cúng kiếng, nếm mùi vất vả mà tui đã chịu lâu nay.
    Tưởng cậu Út dọa thôi, không ngờ cậu làm thật. Cận Tết, ông Diệm mới được tin báo từ Huế, nhà thờ họ Ngô vẫn đóng cửa im lìm, không một cành hoa trang trí. Bà Nhu khinh khỉnh cười mỉa mai, khi ông Diệm hoảng hốt gọi bà tới giao cho bà phải lo làm. Chẳng có gì khó khăn, vất vả như cậu Út dọa, bà cố vấn lệnh cho bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần chuẩn bị ba máy bay vận tải quân sự, chỉ thị cho số phu nhân trong Hội phụ nữ liên đới, thu gom các loại đặc sản quí hiếm còn tươi, rượu bánh, trà tàu không thiếu loại danh tiếng sản xuất ở châu Âu, Đài Loan, Hương Cảng... Riêng một máy bay đưa hai chục đầu bếp tên tuổi ở Chợ Lớn Sài Gòn ra Huế. Chỉ trong ba ngày chuẩn bị, bà cố vấn đã đại diện gia đình tổng thống sẵn sàng đãi tiệc mừng Tết cổ truyền. Trên 2000 khách, ngoại giao đoàn, các nhân vật quân dân chính quốc nội lũ lượt trảy về cố đô chúc thọ tổng thống, hai vị cố vấn, và tế sống cố bà Ngô Đình Khả. Nhóm người có khuynh hướng chống đối ông Diệm, Nhu năm nay thêm nhiều người vắng mặt trong buổi lễ.
    Về vụ Ngô Đình Cẩn chuyển đô-la qua Ý bị lộ. Báo chí Âu, Mỹ khai thác lan sang vụ tổng giám mục Ngô Đình Thục chuyển ngân qua nhờ chương mục của một giáo sĩ người Ý bị lừa gần 100 ngàn đô-la, người ta phát hiện thêm những triệu đô-la trước đó đức cha Thục gởi ra nước ngoài, không kém hơn ai. Bác sĩ Trần Kim Tuyến từ Hồng Kông đã gởi đơn từ chức Đại Sứ, không đi Ai Cập, mà đi sang Anh trình diện cơ quan tình báo Anh, rối tham quan Ý, Pháp.... Ông ta đã gửi cho đại tá Mậu những tài liệu liên quan đến chính quyền Ngô Đình Diệm, không còn uy tín, không được sự ủng hộ của bên ngoài. Trong số tài liệu, còn một bản kê khai bí mật của cơ quan tình báo Anh về con số cả tỷ đô-la mà anh em ông Diệm đã thu vén được trong tám năm cầm quân, so với tổng số tiền gửi ở nước ngoài của những nhà tư sản Việt Nam thì lớn gấp bội. Bản tin của bác sĩ Tuyến được truyền nhanh trong nhóm Tâm Huyết, khích động mạnh tâm tư của mỗi thành viên trong lực lượng quân sự của đại tá Mậu, lực lượng Cần Lao ly khai của cụ Hà Huy Liêm, và lực lượng chính trị của cụ Nguyễn Văn Lực. Tất cả hạ quyết tâm, không chỉ diệt Nhu, Cấn, mà còn mạnh hơn, hạ bệ tổng thống Ngô Đình Diệm, cứu nguy chế độ.
    Tết này, Linh Phương người bạn gái thân thiết nhất của Vũ, biết nhau ngay từ những buổi đầu anh có mặt ở Sài Gòn, không chỉ gởi thơ, quà như mọi năm, mà còn đích thân thay chồng về Huế báo cáo công việc làm ăn với cố vấn Ngô Đình Cẩn. Trở về Sài Gòn, nàng đã dành cho Vũ và cô em gái Phù Ninh Đa ba ngày vui Tết với nhau, thật hạnh phúc. Qua những câu chuyện của Linh Phương, Vũ mới biết cái công ty xuất nhập khẩu của cố vấn Ngô Đình Cẩn tại Hồng Kông chỉ với số vốn hơn một tỷ đô-la nhưng hoạt động kinh doanh hàng chục tỷ không thua gì các công ty danh tiếng địa phương. Cẩn đã thu lợi tức hàng năm nhiều trăm triệu, nhờ làm ăn công khai, nhưng lại hoàn toàn lậu thuế xuất nhập vào trong nước.
    Linh Phương vẫn còn mặc cảm với Chợ Lớn, Sài Gòn, nơi đã gây ra những vết thương tinh thần mà nàng thú nhận không làm sao lành được. Nàng rủ Ninh Đa cùng lên Đà Lạt sống riêng với nhau hai ngày. Không có Vũ, vì anh đã cùng đại tá Mậu đi công tác ở miền Tây. Chỉ còn lại một ngày, Vũ đưa hai chị em đi Vũng Tàu tắm biển. Tối hôm đó, Linh Phương đưa cho Vũ những bức hình của Sài Kinh Đông, bốn tuổi, con trai nàng, đang ở với bà nội ở Hương Cảng, mỉm cười hỏi Vũ:
    - Anh xem kỹ đi, đố anh biết có gì đặc biệt ở thằng bé con em không?
    Với một bức hình đứa bé 4 tuổi, dù đã được phóng lớn, rõ nét, Vũ chỉ thấy bé đẹp trai, tươi vui bụ bẫm, chẳng biết có gì đặc biệt. Anh tế nhị im lặng ngắm nghía không dám vội trả lời nàng. Linh Phương nhìn Vũ với ánh mắt đằm thắm, tâm sự giọng nàng như làn hơi thở nhẹ:
    - Cho đến ngày gặp anh, em đã qua những năm tháng sống buông trôi theo dòng người thấp hèn ti tiện, thủ đoạn, tàn bạo... Quả tình em không nghi, không hiểu, không biết chút gì về tình yêu nam nữ. Thật bất ngờ gặp anh! ...
    Linh Phương ngừng nói, ghé đầu lên vai Vũ, nàng tiếp:
    - Không hiểu sao lúc ấy cảm nhận ở ánh mắt của anh có cái gì lạ lùng khiến em thấy em được yêu và biết yêu...
    Vũ không trả lời, siết chặt bàn tay Linh Phương, và gật đầu. Giọng Linh Phương dạt dào:
    - Từ cuộc sống thể xác không cảm xúc, em như bước sang lãnh vực tình yêu tinh thần. Cứ nhìn vào mắt anh, em cảm nhận được ngay sự an lạc trong lành, tin cậy, trân trọng, tình người, mà từ bao năm qua em không hề có được. Rồi từ đó hễ được anh nhìn thẳng vào mắt, được anh cầm tay, em đã cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện, như mình được yêu, tình yêu của thần linh thật huyền diệu, bí ấn. Nếu như...
    Linh Phương ngồi thẳng lên, mỉm cười thật dễ thương với Vũ, ngập ngừng:
    - Nếu như... vâng, nếu anh cũng sáp lại em như những người khác, những người đàn ông bình thường, em nghĩ chắc cảm xúc tình yêu thiêng liêng đó sẽ tắt trong em.
    Ngừng lại giây lát, giọng nàng sôi nổi hẳn:
    - Về sau này em được đọc cuốn Phân Tâm Học của Freud, em tìm ra lý giải. Con người anh được nhìn qua lăng kính thần linh bất diệt trong em, vì đó là tình yêu của em. Em mới càng hiểu cụ Nguyễn Du đã diễn đạt tâm trạng của nàng Kiều nói với chàng Kim "Chứ trinh còn lại chút này mà thôi!" và em nhận chân rằng, khi yêu ai, người ấy trở thành một vị thần linh trong tim mình chớ không phải một xác thịt bên cạnh mình. Em đã nghĩ, một cách hoàn toàn không ý thức, anh đã để lại trong em một cảm nhận làm người, nhân chi vạn vật chi linh. Anh đã đỡ em dậy để làm người, từ đó giúp em ổn định hai mặt cuộc sống, sống như mọi người làm vợ, làm mẹ, đồng thời sống trong tình yêu thầm lặng mà thiêng liêng trong tim em. Chính sự sống tinh thần này lại là điểm tựa vững chắc cho hạnh phúc của gia đình em. Ánh mắt của anh đã ám ảnh em suốt một thời gian dài trong giấc ngủ, trong nhớ nhung, tạo nên bản sao cho đôi mất của con trai em là thế.
    Linh Phương cầm bức hình con trai nàng hướng ra ánh sáng để Vũ nhìn kỹ hơn, nàng tiếp, giọng như hơi gió thoảng:
    - Thăm thẳm, nhân ái, tự tin là cặp mắt của anh đấy, không phải là của ba nó, anh nhận ra chưa?
    Vũ giật mình, nhìn kỹ đôi mắt của bé trai. Anh hết sức cảm động về mối chân tình của Linh Phương. Giọng anh cũng run run:
    - Anh cảm ơn em về những gì em đã dành cho anh. Cầu chúc cho con trai em sẽ là nguồn hạnh phúc bền bỉ suốt đời em.
    Linh Phương nắm chặt bàn tay Vũ. Anh cảm thấy hơi ấm kỳ lạ, thanh thoát. Hai bàn tay cứ để nguyên như thế, cả hai nhìn nhau, lặng lẽ, trong tiếng sóng biển dặt dìu xa xăm...
    Thế rồi ngày chia tay đã đến, Ninh Đa và Vũ đưa Linh Phương ra sân bay Tân Sơn Nhất, hai chị em ghì chặt lấy nhau khóc, như không muốn rời nhau. Vũ không khỏi xúc động. Vũ yêu quý cả hai chị em. Chuyện về họ, quả không ít điều đáng nhớ, không chỉ liên quan tình cảm cá nhân, mà nó đã gắn liền đến sự nghiệp cách mạng Đảng giao cho anh trong những năm dài phục vụ. Vũ nghĩ chắc sẽ có lúc mọi người sẽ biết chuyện về Linh Phương, Ninh Đa, hai nàng Kiều - nạn nhân của thời cuộc, của chiến tranh, biết vùng dậy bảo vệ lòng trung trinh bằng nghị lực phấn đấu của chính mình. Cũng như người anh kết nghĩa của Vũ, anh Huỳnh Văn Trọng, chính anh tự giải thoát mình ra khỏi quá khứ. Anh từng xác nhận, khi tìm ra nhân sinh quan mới, anh thấy mình trẻ hơn, và lớn lên. Vũ không đủ lý luận để phân giải, anh chỉ cảm nhận được rằng, tư tưởng cách mạng đã phát huy từ chân lý cuộc sống.
    Bác sĩ Trần Kim Tuyến lúc này đã trở thành một nguồn tin tức của Vũ qua những thư riêng ông ta gửi cho Vũ. Đồng chí Thành Minh đánh giá cao những thông tin Tuyến gửi cho Vũ sau chuyến đi du lịch ba nước châu Âu về. Tuyến còn gửi thư về cho đại tá Đỗ Mậu, cho nhóm Cần Lao ly khai, những thư này Vũ cũng được biết nội dung. Vũ hiểu tâm trạng của bác sĩ Tuyến, ông ta không còn con đường nào khác, phải bám chặt nhóm đại tá Mậu, hy vọng khi lật đổ được anh em ông Diệm, gia đình Tuyến mới còn đường trở lại quê hương. Đơn từ chức làm đại sứ Việt Nam ở Ai Cập của Tuyến đã gửi về Bộ ngoại giao, coi như một quyết định đoạn tình với chế độ - với người thày một thuở, cũng là một thách đố sinh tử với Ngô Đình Nhu rồi.
    Đại tá Đỗ Mậu rất phấn khởi khi nhận được tin của Tuyến, nhanh chóng phổ biến trong nội bộ, phương pháp động viên khá hiệu quả. Đó là những tin Tuyến thu thập được từ cơ quan tình báo Anh ở Luân Đôn, ở chi nhánh tình báo Anh tại Hương Cảng, mà Tuyến đã là thành viên của khối điệp báo địa bàn Việt Nam. Một nhân viên như Tuyến quả là quí hiếm với bất cứ tổ chức tình báo nước ngoài nào vớ đưọc.
    Bức thư gần nhất gửi cho đại tá Đỗ Mậu, Tuyến thông báo: Tổng thống Kennedy và tập thể cố vấn đoàn Nhà Trắng đang lo lắng về diễn biến tình hình ở Nam Việt Nam. Cơ quan tình báo Anh nhận định, Kennedy đã chủ quan kéo dài, vì tin cậy quá đáng tập đoàn quân sự Harkins ở Sài Gòn cho là họ đã nắm chắc quyền hành ở Nam Việt Nam, cho nên ông bị bất ngờ khi phát hiện hai thế lực thân Pháp và thân Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam đã liên kết tạo thành lực đẩy anh em Diệm đang lao vào quĩ đạo của De Gaulle, trung lập hóa Nam Việt Nam, đòi phải chấm dứt can thiệp từ bên ngoài. Nếu anh em ông Diệm tuyên bố chống lại can thiệp Mỹ, thì thế lực của Diệm đang yếu sẽ thành mạnh, Nam Việt Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội, trong đó có quyền lợi của Pháp theo tinh thần hiệp định Genève, Mỹ sẽ rất khó khăn duy trì sự có mặt của mình ở vùng này để khỏi bị hất ra ngoài.
    Cơ quan tình báo Anh cũng xác nhận bản phân tích của nhóm CIA ở Sài Gòn rằng, lực lượng của chính quyền Diệm đã phân hóa, uy tín suy giảm trầm trọng. Ông Diệm dựa vào khối công giáo lúc đầu. Ông ta quên rằng các đảng phái chính trị chống cộng ở Sài Gòn đều trông vào các tôn giáo để có thực lực, để tồn tại. Cả lực lượng quân sự cũng không ngoài qui luật đó. Nay một phần cộng đồng công giáo chống cộng ở Bắc di cư vào Nam vẫn hướng về phía Pháp, lớp mới ủng hộ Mỹ thì chưa đủ mạnh hơn; lực lượng đảng phái, cả quân lực Việt Nam cộng hòa, cũng từ đó mà phân hóa làm hai phe: ủng hộ Mỹ hoặc thân Pháp. Các tôn giáo khác, đặc biệt là Phật giáo, anh em Diệm đã đẩy về phía Mặt trận hoặc các nhóm đối lập tự do khai thác, anh em ông Diệm rõ ràng đã bỏ mất thời cơ, nay cứu gỡ không còn kịp. Cơ quan CIA đánh giá, các tôn giáo gốc đạo Phật ở miền Nam Việt Nam vốn có quyết tâm chống cộng hơn lúc nào hết, Mỹ phải hỗ trợ cho họ, để phá vỡ ý đò trung lập hóa miền Nam Việt Nam mà Pháp, Hà Nội và cả anh em ông Diệm đang tính toán.
    Kennedy đã phải tổ chức những cuộc họp với các cố vấn để có quyết định của Bộ ngoại giao. Ngoại trưởng George Ball ký bức điện gửi cho đại sứ Nolting ở Sài Gòn: "Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng thêm nữa vai trò đầy quyền lực của vợ chồng Ngô Đình Nhu. Chúng ta mong dành cho ông Diệm cơ hội cuối cùng, hợp lý, để ông ta phái loại ông Nhu. Nhưng nếu ông Diệm vẫn ngoan cố, chúng ta sẵn sàng nói thằng cho ông ta hiểu, Hoa Kỳ không ủng hộ ông ta thêm nữa. Ông đại sứ có thể thông báo các Tư lệnh quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn biết, không yểm trợ nữa nếu ông Diệm ngoan cố. Và cũng phải nói thẳng với các tướng lĩnh Việt Nam mà chúng ta tin cậy, tất nhiên không để anh em ông Diệm biết rằng đòi hỏi của chúng ta trước hết là không có vợ chồng ông Nhu bên cạnh ông Diệm. Như vậy, chúng ta sẵn sàng chấp nhận ông Diệm để giữ tình hình ổn định." Tuyến thông báo thêm, tổng thống Mỹ đã cho phép cơ quan tình báo CIA tại Sài Gòn tạo một áp lực buộc ông Diệm không thể ù lì, như phát động đấu tranh trong giới hạn chỉ nhằm đạt đúng mục đích yêu cầu, không đi xa hơn đề phòng cả hai mặt gây bất lợi.. Đại tá Mậu giải thích "hai mặt" Mỹ e ngại, tức là hai thế lực chủ trương trung lập miền Nam mà ông Nhu đã toan tính nhảy vào đó.
    Một đoạn điện văn, Tuyến ghi lại, của tướng Harkins điện về Tòa Bạch ốc khi ông ta nhận được lệnh của Kennedy hỗ trợ hành động cảnh cáo ông Diệm: "Tôi đề nghị lúc này, chúng ta cố gắng đừng thay ngựa quá sớm, e làm cho chủ trương trung lập sẽ phát triển mạnh lên." Vũ thấy được vấn đề đã xác định ý đồ quyết liệt của Mỹ phải nắm vững Nam Việt Nam sớm hơn, không thể nhân nhượng thêm nữa, khi cần tính sổ cả với Diệm. Đại tá Đỗ Mậu tỏ ra tâm đắc về mẫu điện văn của tướng Harkins cũng giống như ý ông chỉ cần giết vợ chồng Nhu, Diệm chẳng còn gì để gây nguy hiểm cả. Tình cảm đối với ông Diệm vẫn còn chiếm một chỗ đứng trong lòng đại tá Mậu.
    Trong lúc đó, công ty phát hành phim ảnh tung ra cuốn phim "Cuộc đời Đức Phật Sakya" về cuộc đời của Siddharta Gautama, luân phiên chiếu khắp các rạp ở Sài Gòn, Nha Trang rồi Huế trước kỳ lễ Phật Đản. Những cây viết phê bình hầu như chờ sẵn, rất nhanh tung ra những luận điệu kích động cộng đồng Phật tử. Tuần tự, Thượng tọa Thích Tâm Châu tức khắc cho ra mắt ủy ban Liên Phái Phật Giáo, chỉ nhằm mở một đợt chiến dịch chống cuốn phim dám bôi bác xuyên tạc Đức Phật, cho rằng chiếu cuốn phim đó là kỳ thị tôn giáo. Bộ thông tin tức khắc ra lệnh cắt đoạn Đức Phật hồi còn là Hoàng tử và sinh hoạt của cung tần phi nữ trong cung đình. Thượng Tọa Tâm Châu chỉ cần có vậy, tập họp, thực tập rồi chuyển vào chiều sâu, chờ đợi ủy ban Liên Phái Phật Giáo ra đời và tồn tại.
    Tình hình bề ngoài có vẻ ổn định nhưng trong dân chúng xuất hiện một câu ca dao truyền miệng khắp chợ búa, khắp chốn đông người, nhanh không kém chi truyền thông điện tử:
    "Nhà Ngô có bốn gian hùng. Diệm ngu, Nhu ác Cẩn khùng, Thục điên". Giọt nước đã làm tràn ly ấm ức của người dân bị đòn nén lâu rồi, nay có chủ trương từ một phía quyền lực, báo hiệu sức bùng lên sẽ nhanh và sẽ rất mạnh!
    Chiều thứ bảy, đại tá Mậu giữ Vũ ở lại cùng ăn cơm, có cả thiếu tá Thăng, trung tá Độ. Ông mời mọi người cùng đi thăm cụ Nguyễn Văn Lực ở chùa Suối Tiên. Trời sụp tối, hai chiếc xe nối đuôi nhau phóng lên Biên Hòa. Không chỉ cụ Lực có mặt, mà có cả thượng tọa Thích Tâm Châu và một đại đức trẻ cao lớn, được giới thiệu là Thích Thiên Ân. Mọi người vui vẻ đón tiếp đại tá Mậu, Vũ, và hai sĩ quan tùy tùng. Thượng tọa Thích Tâm Châu tỏ vẻ hài lòng thông báo cho các vị khách biết về hoạt động của ủy ban Liên Phái Phật Giáo phản đối chiếu phim "Siddharta Gautama" mà ông cho rằng đã đánh cho Nhu Diệm một đòn bất ngờ rất thành công.
    Trong khi Nhu chưa kịp phản ứng, thì thượng tọa Thích Tâm Châu thấy rằng mục đích đã đạt, đã tức khắc thu hồi lực lượng, để không dành cho Nhu cơ hội phản công, đồng thời làm tăng thêm sự chủ quan của ông Diệm về uy lực của chế độ. Thế nhưng nhân sự kiện này, báo chí Mỹ lại tung ra chiến dịch tấn công tổng giám mục Ngô Đình Thục về việc ông tổ chức lễ Ngân Khánh 25 năm giám mục, không ở phạm vi giáo phận Huế và Vĩnh Long mà tổ chức trong toàn quốc. Báo chí Mỹ đặt câu hỏi: "Phải chăng ông muốn gây ảnh hưởng tới Tòa thánh Vatican sẽ chấp thuận phong Hồng Y trong dịp này cho ông ta chăng?" Đúng là nhờ sự trùng hợp giữa lễ Ngân Khánh và việc chiếu cuốn phim "Siddharta Gautama" khiến ông Nhu cũng không muốn, và không thể mạnh tay với cái ủy ban Liên Phái Phật Giáo vừa ra mắt đã rút ẩn vào các chùa, thực chất vẫn còn đó với danh xưng ra đủ.
    Qua câu chuyện, Vũ được biết đại đức Thích Thiên Ân, tu học tại Nhật Bản từ nhỏ, có bằng cao học Phật học, mới về nước được vài tuần nay cùng với vài chục đại đức cùng trang lứa, họ tu học ở Đài Loan, ở Nam Hàn và Nhật. Các đại đức này đã được các vị thượng tọa thu nhận về, một số đông đã được đưa ra Huế, Nha Trang. Theo thượng tọa Tâm Châu, đây là lực lượng có khả năng làm đòn xeo cho giáo hội Phật giáo sau này.
    Vũ nghĩ đến một thế lực có tầm cỡ chiến lược, có trong tay một kế hoạch qui mô, nhưng anh không có cơ hội tìm hiểu vào lúc này. Những ngày sau đó, tình hình Phật giáo đã có sự chuyển biến, đôi nơi sôi động không khí âm ỉ chống chế độ lan ra tới Huế, Nha Trang, không chỉ ở Sài Gòn... Cố vấn Ngô Đình Nhu vẫn không mấy quan tâm về phong trào quần chúng, mà chú trọng đến bạo lực, sức mạnh của vũ trang. Đề phòng phe quân sự làm liều, ông Nhu lo vạch kế hoạch chống đảo chính, rồi kế hoạch giả đảo chính, để diệt bọn âm mưu đảo chính, duyệt lại các lực lượng bố phòng. Chỉ riêng xung quanh khu vực dinh Gia Long, có 8 tiểu đoàn, phân nửa là cảnh sát dã chiến, phân nửa là lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung, chiếm hết các cao ốc, các vị trí thuận lợi có khả năng kiểm soát mọi sự xâm phạm vào khu vực cấm quanh dinh, khu vực cần có an ninh tuyệt đối, bảo đảm sự sống còn của lãnh tụ của cấp lãnh đạo chế độ.
    Sau vụ ủy ban Liên Phái Phật Giáo ra mắt, ông Nhu đưa ngay hai lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Dù về thủ đô tăng cường phòng vệ. Đây là hai binh chủng thiện chiến, tin cậy của chính quyền ông Diệm. Sài Gòn lúc này như một trại lính. Vũ nhận thấy đại tá Mậu, người chủ trương tập hợp lực lượng của nhóm Tâm Huyết, không tỏ vẻ lo âu. Một buổi chiều, đại tá Mậu rủ Vũ cùng đi thăm lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến, do trung tá Lê Nguyên Khang chỉ huy. Bộ chỉ huy lữ đoàn đóng tại văn phòng của Viện Đại học Sài Gòn góc đường Duy Tân - Trần Quí Cáp. Không có mặt trung tá Khang. Trung tá phó tư lệnh Nguyễn Bá Liên đại diện lữ đoàn đón tiếp đại tá Mậu, và Vũ, không phải trong phòng, mà ở một góc vườn mát mẻ, có sẵn bàn nước dành cho ba người.
    Trung tá Nguyễn Bá Liên theo đạo Tin Lành, là một sĩ quan được đào tạo ở Mỹ, có căn bản, tinh thần chiến đấu cao, có khả năng chỉ huy, binh lính phục tùng. Anh ta kể lại những năm tháng hành quân chiến đấu khắp các chiến trường rồi lan man qua những chứng cứ, chứng minh sự suy thoái của chế độ, nông thôn mất an ninh, nạn cường hào ác bá hoành hành, dân chúng đã mất lòng tin ở chế độ và cả ông Diệm. Liên tỏ vẻ lo âu nghi ngờ sự lãnh đạo quốc gia của anh em ông Diệm. Bất chợt, đại tá Mậu hỏi Nguyễn Bá Liên:
    - Anh có nghĩ rằng tình hình suy thoái như thế kéo dài, quân đội có thể đứng lên làm binh biến lật đổ ông Diệm không?
    Vũ giật mình, lo ngại đại tá Mậu nóng vội có thể làm cho Liên nghi ngờ. Nhưng ngay sau đó Vũ lại không khỏi ngạc nhiên khi thấy trung tá Liên vẫn bình tĩnh, khẽ nhún vai, đáp:
    - Tôi cho là có thể, thưa đại tá. Trong lữ đoàn chúng tôi, trừ đại úy Bằng gốc Công Giáo Bắc di cư, các sĩ quan khác đều tỏ ra bất bình hành động của ông bà Ngô Đình Nhu. Cụ thể như đại úy Nguyễn Phúc Quế, tay này đã đậu y khoa bác sĩ tại Pháp, vẫn tình nguyện vào quân đội chiến đấu cho đến bây giờ. Rồi các đại úy Trần Văn Nhật, Lê Hoàng Minh em ruột Lê Minh Đảo, đều là những tiểu đoàn trưởng dây tài năng, chiến đấu rất can trường, dám sống chết vì tự do, vì chế độ, quyết diệt Cộng sản, sắn sàng bảo vệ mảnh đất miền Nam này. Tất cả đều tỏ ra thất vọng về cụ Diệm.
    Mậu trầm ngâm đốt thuốc, suy nghĩ giây lát, rồi ông ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt viên tư lệnh phó lữ đoàn:
    - Anh biết đấy, tôi đá có 20 năm phò ông Diệm, nếu nay lại đứng lên phế bỏ ông ta thì có bị người đời chê trách thiếu thủy chung không?
    Nguyễn Bá Liên tỏ vẻ khẳng khái:
    - Thưa đại tá, ba tôi cũng là chiến hữu một thời của ông Diệm, đến đời tôi vẫn tiếp tục chiến đấu vì ông Diệm, như vậy ông Diệm còn mắc nợ đại tá nợ cha con tôi, chúng ta có mang ân nghĩa gì ở ông ta? Huống chi đối với quốc gia dân tộc, nếu đại tá hành động vì cái nghĩa chung thì ai có thể trách nhỉ?
    Ông Mậu nói nhỏ nhẹ nhưng đầy vẻ nghiêm túc trang trọng:
    - Rất cảm ơn anh, các anh đã hiểu tôi.
    Vũ nhận thấy đại tá Mậu đã chinh phục, qui nạp trung tá Nguyễn Bá Liên tức là kéo thêm về lực lượng của ông cả một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến vốn là đơn vị được tiếng trung thành của ông Diệm, quả là một thuận lợi không nhỏ. Anh nghĩ đến quyền lợi xuất phát từ động cơ cá nhân người ta dễ cảm thông, chấp nhận. Đúng như lời phân giải của Liên: "Chính ông Diệm mắc nợ đại tá 20 năm phục vụ, mắc nợ cha con tôi hai đời xả thân, chúng ta chẳng ân nghĩa gì với ông Diệm?" Với cái đà tương tự đó, lực lượng của nhóm Tâm Huyết do đại tá Mậu đứng ra tập họp mỗi ngày một lớn lên, và không lâu, tin báo động đã đến tai anh em ông Diệm.
    Cố vấn Ngô Đình Nhu đã trả lời câu hỏi của bộ trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa: "Lấy bằng chứng đâu để trị Đỗ Mậu? Đừng lo, tôi đã có kế hoạch bổ lưới tóm gọn bọn chúng một mẻ." Còn tổng thống Diệm rầy la ông già Ân, khi người đầy tớ trung thành tỏ ra lo lắng: "Thằng Mậu theo tui từ hồi còn là lính hầu khố xanh. Nay mai tui cho hắn lên tướng, tài trí của hắn đến rứa là mãn nguyện quá rồi. Hắn phản tui, theo ai để được hơn nào? Hắn đâu có ngu, đừng nghe lời đồn bậy bạ? "
    Dù anh em ông Diệm chủ quan, coi thường đại tá Mậu, ông Mậu vẫn nghe lời khuyên của mọi người, bằng lòng để thiếu tá Trần Văn Thăng tuyển một nhóm lính công binh đến cải tạo căn nhà số 11 Gia Long của đại tá Mậu thành một cứ điểm bảo vệ an toàn, chắc không kém căn hầm bí ẩn của hai anh em ông Diệm tại dinh. Người ta mở khoảng tường phía sau thông sang nhà của trung tá Bùi Quí Cảo, tức là thông qua đường Lê Thánh Tôn. Trung tá Cảo hiện phục vụ ở đơn vi hành chính kế toán Bộ Quốc phòng, cũng là chiến hữu tâm huyết của đại tá Đỗ Mậu. Rồi từ nhà trung tá Cảo, có con đường bí mật chuyển đến căn nhà năm tầng lầu gần đó, là nhà của Thái Văn Châu phó chủ tịch Phòng Thương Mại Sài Gòn, đã nhường cho Nhóm Cần Lao ly khai sử dụng. Phòng làm việc của đại tá Đỗ Mậu được đặt ở lầu 5, phía trên là mái bằng, trực thăng có thể đậu được Bất kể lúc nào, sẵn sàng có trực thăng riêng của trung tá Nguyễn Cao Kỳ đến phục vụ. Lực lượng an ninh quân khu thủ đô là đơn vị cận vệ của đại tá Mậu, đã được lệnh nổ súng trong khu vực cấm mọi sự xâm nhập, hoặc bất kể hiện tượng nào nghi ngờ ám hại đại tá Đỗ Mậu phải nhanh chóng loại trừ. Không có tuyên chiến công khai, nhưng rõ ràng phía đại tá Mậu đã mặc nhiên nhảy lên lưng cọp sắn sàng đối đầu, không phải với ai khác, mà chính là anh em ông Diệm.
    *
    Mới sáng sớm, anh Huỳnh Văn Trọng đã đến đón Vũ đi ăn điểm tâm, sau đó cả hai cùng đi lại Trung tâm Nha Tuyên úy công giáo thăm linh mục Cao Văn Luận mới ở Huế vào.
    Linh mục Thuẫn bận công việc không có mặt. Cha Luận lại không được vui vẻ như mọi lần. Trông thần thái Vũ đoán cha đang băn khoăn gì đó. Không giấu diếm, cha tâm sự:
    - Đúng vậy, có vài vấn đê xảy ra làm tôi lo lắng. Đó là vụ tổ chức lễ mừng Ngân Khánh 25 năm giám mục của đức cha Ngô Đình Thục. Mãi đến 29-6 (1963) tới mới là ngày lễ, nhưng cuối tháng ba cha đã thúc giục ông Trương Vĩnh Lễ chủ tịch Quốc hội, ông Huyền chủ tịch Thượng viện thành lập ủy ban tổ chức mừng lễ. Cả hai đã gửi thư mời các vị Viện trưởng Đại học Sài Gòn, Cần Thơ, Đà Lạt và tôi cùng với ông Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Quang Trình về đây họp bàn chương trình tổ chức lễ. Theo ý đức cha Thục, phải coi như Quốc lễ, không chỉ tổ chức ở trong phạm vi giáo phận Huế, mà ở tất cả các địa phận, các tỉnh đều phải tổ chức đồng loạt. Địa phận Sài Gòn coi như Trung tâm chủ trì, là địa điểm chính. Đức cha Thục hy vọng ngày đó phái đoàn Tòa thánh Vatican đã nhận lời đến mừng, hy vọng sẽ mang theo quyết định vinh phong Hồng Y cho đức cha. Cha Bửu Dưỡng đã tin cho tôi biết, cha lấy cớ yếu đau không tham gia ủy ban tổ chức. Cha đã gặp đức khâm mạng Tòa thánh, ngài nói nhỏ với cha Dưỡng rằng vì có nhiều người chống đối, nên Bộ quốc vụ khanh toà thánh chưa phong Hồng Y cho bất cứ ai của giáo hội Việt Nam trong thời gian này được. Nhưng bạn bè ở Vatican chưa thông báo cho đức cha Thục biết. Một số các tỉnh trưởng không có đạo, biểu lộ bất bình, như các ông biết đấy, tỉnh trưởng bây giờ đều là quân nhân, họ kiêm chỉ huy trưởng Tiểu khu quân sự, các địa phương không còn ổn định như trước, họ phải lo việc an ninh, nên phản đối không chịu đứng ra tổ chức lễ tôn giáo. Lẫn lộn việc tôn giáo với việc quốc gia là sai rồi, trách cứ họ sao được. Ông Cẩn ở ngoài đó, ông Nhu ở đây đã biết vụ này. Cũng không muốn vấn đề này sẽ gây dư luận không lợi, nhưng vì các ông ấy coi trọng quyền huynh thế phụ không dám làm phật ý ông anh giám mục, ngay cả tổng thống Diệm cũng chỉ "ậm ừ", dù không bằng lòng, cũng không dứt khoát.
    - Còn việc thứ hai là tình hình sinh hoạt Phật giáo của lực lượng sinh viên Đại học Huế, sinh viên, học sinh Huế gốc đạo Phật chiếm đến tám, chín mươi phần trăm. Chúng và gia đình chúng rất mộ đạo Phật. Vài năm nay, có ba giáo sư sinh ngữ người Úc giảng dạy ở đại học Huế, lại đỡ đâu cho tập thể sinh viên, cho tổ chức nhiều buổi hội thảo giáo lý Phật giáo, rồi sinh hoạt hướng đạo gắn liền với gia đình Phật tử đã thành nếp. Gần đây lại có tổ chức Juspao, thông tấn xã Hoa Kỳ, liên hệ giúp đỡ lập các nhóm sỉnh viên săn bắn dưới biển, sinh viên thể thao khỏe, tạo điều kiện cho phong trào sinh viên Phật tử, tập trung lực lượng khá thuận lợi. Sinh viên Đại học, liên kết với học sinh Trung học, rồi gắn với chùa chiền, từng bước mạnh lên. Phần tôi, các ông hiểu chứ, lo cho sinh viên học đạo đức học văn hóa, rõ ràng bọn chúng sống trí thức và trong sáng, đúng như tinh thần cộng đồng, đối thoại, liên kết tôn giáo, nền tảng của giáo dục, nguyện vọng chung của bậc làm thầy. Vậy mà đức cha Thục đã kêu tôi vào rầy la đã dễ dãi để cho lực lượng Phật tử làm chủ đại học Huế, trong khi chính tôi, một linh mục làm viện trưởng, đức cha bảơ tôi xin từ chức khi đã nhận ra sự bất lực của chính mình. Không rõ tại sao tin tôi bị đức cha rầy la dọa cắt chức Viện trưởng lại đến tai sinh viên, bọn chúng định làm lớn chuyện, quyết bảo vệ tôi, tôi phải khuyên răn mãi bọn chúng mới tạm yên cho. Vào đây, tôi đã trình với tổng thống, cụ khuyên tôi bình tĩnh lo vụ lễ mừng Ngân Khánh cho chu toàn, để đức cha quên đi việc đó nhưng tôi đã khước từ.
    Cha Luận buồn phiền thật sự, anh Trọng và Vũ chẳng biết dùng lời lẽ gì để chia sẻ an ủi cha, nên im lặng. Lát sau cha Luận tiếp:
    - Tôi đến với Trường đại học Huế chỉ với thiên chức phát huy văn hóa thân túy và đạo đức làm người cho lớp trẻ. Chính trị không thể tự do hoành hành trong lãnh vực đại học do tôi điều khiển. Tôi đã hứa với ông Cẩn, tôi không để giáo sư lẫn sinh viên lợi dụng trường Đại học làm điểm tập trung sách động chính trị. Nhưng đạo giáo theo tôi lại là nhu cầu để đào tạo con người, không thể kỳ thị. Tôi đứng về phía sinh viên của tôi.
    Cuối cùng cha Luận cho anh Trọng và Vũ hay, cha sẽ rời Huế ít tháng, không phải để vào đây mà sang Mỹ. Cha đã chuẩn bị xong giấy tờ, nhờ đại học Michigan điện mời cha qua nhận số phương tiện hiện đại xây dựng cho Viện Đại học Huế một phòng thí nghiệm y học như chương trình của cha xin chi viện đã được chấp thuận. Với cái cớ hợp lý này cha đã trực tiếp xin phép Tổng thống, ông chấp nhận rồi. Rời Huế lúc này, cha tự giải thoát được khỏi sự khống chế của đức cha Thục, không tham gia ủy ban lễ mừng Ngân Khánh đang gây dư luận mỉa mai, tránh được phong trào sinh viên Phật tử đòi cha phải đứng về phía họ mà cha không thể nào từ chối, để phải đối đầu với đức cha Thục.
    Anh Trọng và Vũ nhận nhiệm vụ với cha, thông báo với linh mục Bửu Dưỡng tìm phương cách báo động với tổng thống Diệm nên ngăn hành vi quá đáng tạo nên sự kỳ thị với Phật giáo, với các tôn giáo khác đã có quá trình nuôi oán hận chưa tan. Về tình hình Phật giáo ở Huế, cha Luận đã thấy có hiện tượng không bình thường, nếu ông Diệm không thay đổi chính sách đối xử, sẽ là mối nguy hiểm đối đầu của chế độ.
    Từ giã linh mục Luận, hai anh em ra về. Trên đường đi Trọng và Vũ tiếp tục trao đổi về nhưng điều linh mục Luận đã nói. Anh Trọng bổ sung thêm một số thông tin để xác định mối lo của cha Luận là có cơ sở:
    - Không chỉ ở Huế, mà chính CIA ở đây cũng đã qua lại với các nhà sư ở chùa Xá Lợi, Ấn Quang liên lạc với lực lượng sinh viên, các huynh trưởng gia đình Phật tử tại trường Đại học Sài Gòn gần như công khai, trước đây quả chưa hề thấy. Tôi nghĩ, có khả năng bọn Mỹ đang nhúng tay vào lực lượng Phật giáo, chẳng phải vì mục đích tôn giáo, mà nhằm mục đích chính trị. Từ trước tới nay hễ nói đến hoạt động Phật giáo, anh em ông Diệm thường gắn ngay với hoạt động Việt cộng, có thể vì bộ phận Phật giáo đã từng sát cánh với Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp mà ông Diệm thành kiến chăng? Mới đây, có dư luận trong cuộc họp nội bộ, ông Nhu đã úp mở lên án CIA đang muốn sử dụng Phật giáo gây sức ép buộc tổng thống Diệm gạt ông ta ra khỏi chính phủ, có thể là sự thật. Chú nghĩ sao?
    Với ý muốn người anh nuôi nắm được vấn đề để củng cố quan điểm chính trị của anh, Vũ phân tích:
    - Phía Mặt trận có mục tiêu đấu tranh rõ ràng là Độc lập, thống nhất Tổ quốc, có chính sách đoàn kết, đại đoàn kết, rộng rãi. Mặt trận cho đó là sắp xếp hay tập họp lực lượng cách mạng, phần đối ngoại coi là đồng minh. Khi mọi người, mọi quốc gia xác nhận Mỹ là kẻ thù của mình, thì Mặt trận coi như bạn - kẻ thù của kẻ thù mình là bạn mình. Vì có sự phân biệt bạn thù minh bạch mà Mặt trận đã thu hút được đa số trí thức nhân sĩ yêu nước, vì mục tiêu độc lập dân tộc, nếu chưa tham gia thì cũng được ủng hộ. Các nước chống Mỹ cũng được coi là đồng minh của Mặt trận. Trong khi đó anh em ông Diệm đã phá bỏ bình phong dân chủ tự do mà người Mỹ đã tốn công sức tiền của khá bộn tạo dựng lên. Bằng chính sách gia đình trị, độc tôn, họ đã gây oán thù trong nội bộ, trong các tôn giáo. Mỹ đã cố gắng nhiều để cảnh tỉnh ông Diệm, làm binh biến để đuổi Nhu, Cẩn, đặc biệt là bà Nhu, cốt xóa cái "gia đình trị" độc quyền này. Nhưng không những không chịu rút kinh nghiệm mà anh em Diệm còn ngoan cố gây mất lòng người đậm hơn. Tình thế này làm sao thắng nổi Mặt trận? Chắc chắn Mỹ phải tính chuyện "thay ngựa" thôi, theo cách nói của họ. Nhưng phải che giấu cái quyền quyết định là ở tòa Bạch ốc, tránh tiếng trước sự quan sát của thế giới, Mỹ sẽ phù phép tạo thành cuộc thanh lý nội bộ nhưng không vượt ra ngoài quy đạo Mỹ. Họ sẽ làm cách nào đó để một mặt đức cha Thục, tổng thống Diệm nếu cần thiết phải giữ lại, thì họ phải tỏ ra biết điều, mặt khác tranh thủ được sự tin cậy, nhằm có được một lực lượng Tôn giáo mà Mỹ thì rất tin Tôn giáo là phải chống Cộng sản vô thần, sách của Mỹ làm sao sai? Đẩy Phật giáo, cảnh tỉnh ông Thục, răn đe ông Diệm, Mỹ có khả năng việc gì cũng có thể làm được, mà chắc làm sớm đấy.
    Trọng gật gù đòng tình, nhưng không khỏi băn khoăn:
    - Nhưng, nếu Việt cộng dựa vào vụ này làm tới thì Mỹ tính sao? Có chặn kịp không?
    - Đã có một nhân vật Mỹ tầm cỡ hỏi đại tá Mậu điều này, anh biết không? Ông Mậu đã lục một tờ báo Paris Match đưa cho người Mỹ xem tấm hình ngoài bìa, một anh bộ đội cụ Hồ khi vào một khu công giáo để tiếp thu vùng quân Pháp vừa rút vào Nam, bị giáo dân giết chết, trong tay còn nầm chặt khẩu súng. Bên dưới ghi hàng chữ: "Khẩu súng có đạn đã lên nòng, nhưng anh bộ đội cụ Hồ chấp nhận cái chết, không chịu nổ súng vào người dân!" Đại tá Mậu giải thích với người Mỹ rằng, "Cộng sản mạnh nhờ chính sách đoàn kết, họ bảo vệ sự đoàn kết như giờ gìn con ngươi trong mắt mình. Với chính sách đó, họ sẽ không dựa vào mâu thuẫn nhất thời giữa hai tôn giáo để giành lợi thế." Và ông Mậu đã khuyên người Mỹ cứ yên tâm thực hiện kế hoạch của họ.
    Trọng khẽ thốt lên:
    - Đại tá Mậu đáng nể thật!
    *
    Và rồi lễ Phật Đản của giáo hội Phật giáo đã đến. Khác với thời xưa, cái thời "trẻ chơi nhà, già chơi chùa" ngày Phật Đản chỉ tổ chức ba ngày 14, 15, 16 âm lịch, bây giờ mùa Phật Đản kéo dài đến 10 ngày từ giữa tuần trăng tháng tư âm lịch. Tại cố đô Huế vốn là trung tâm của giáo hội, hầu hết các gia đình đêu tổ chức bàn thờ Phật tại gia. Các gia đình Phật tử trở thành Hội đoàn xã hội, có tổ chức qui mô, sinh hoạt tập thể, tham gia lễ Phật. Các nhà đều treo cờ Phật giáo trước nhà, cờ lớn 5 màu phấp phới khắp chùa chiền. Khắp nơi khách thập phương lũ lượt đến chùa lễ Phật, khói hương bốc cao quyện mờ cây cỏ cố đô.
    Năm nay người ta nhận thấy khác hơn năm trước. Cờ Phật giáo mới tinh, khổ lớn hơn, bay rợp trời Huế. Trùng hợp với dịp này là cuộc hành hương về đất thánh La Vang của giáo hội Công giáo, nơi Đức Mẹ hiện lên từ thời xa xưa nào đó được ghi dấu bằng ngôi giáo đường La Vang bên này sông Bến Hải thuộc Việt Nam Cộng Hòa. Tổng giám mục Ngô Đình Thục mới hôm trước đến nhà thờ La Vang làm lễ, ngày hôm sau trở về, Ngài ngỡ ngàng khi xe chạy giữa rừng cờ Phật giáo. Ngài nghĩ, chỉ ít ngày nữa, phái đoàn Tòa thánh Vatican, các đoàn khách Giáo hội phương Tây, qua đây mừng lễ Ngân Khánh của Ngài, chứng kiến cảnh cờ Phật giáo giăng mắc khắp phố phường, họ sẽ rất thắc mắc những điều đức cha đã thông báo nhân chuyến công du Pháp, ý của Ngài mới đây, rằng Giáo hội Công giáo Việt Nam đã lớn lên như người khổng lồ, đất nước mến yêu của ngài xung đáng được ân sủng, có một Hồng Y chăn dắt đàn chiên đông đảo, trung thành, hiếu để, luôn vâng phục đức Thánh Cha.
    Đức cha Thục lệnh cho bác tài xế già tăng tốc chiếc xe riêng lộng lẫy về ngay dinh tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng thành phố Huế, ông Nguyễn Văn Đẳng. Viên tỉnh trưởng bị ngài khiển trách nặng nề, không còn đường đối đáp. Nhận lệnh miệng của đức cha, ông Đẳng mời các cán bộ đầu ngành họp khẩn cấp, phân công chia nhận từng khu vực kéo quân đi hạ cờ Phật giáo đài phát thanh và xe loa khắp nơi nhắc lại luật pháp của chính phủ, cờ Tôn giáo chỉ được phép treo ở nơi thờ phượng đình, chùa, nhà thờ, không được phép treo ở tư gia.
    Nhưng cố đô Huế năm 1963 có gì đó đã đổi khác rồi. Những năm trước mỗi khi cụ "Cố vấn Trung nguyên, Trung phần và hải ngoại" ban lệnh như vậy thì người dân không những vâng phục, mà còn run rẩy sợ hãi. Lần này những lá cờ Phật vẫn ương bướng tung bay, buộc cảnh sát, linh bảo an phải tự lo liệu lấy. Một vài nơi dân chúng phản ứng mạnh, có khi xô xát, cãi vã diễn ra. Các vị sư lãnh đạo Giáo hội, có danh tiếng như các hòa thượng Thích Tinh Khiết, Thích Thuyền Tôn, Thích Đôn Hậu, các thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Mật Nguyện, Thích Thiện Siêu... cũng mở hội nghị khẩn cấp tại chùa Từ Đàm, cử đại biểu lên gặp viên tỉnh trưởng Thừa Thiên. Ông tỉnh trưởng thêm một lần hoảng hốt, bèn đổ cho lệnh của chính phủ Sài Gòn, Huế chỉ biết thi hành, không cách nào khác được.
    Sáng ngày 15 âm lịch, ngày chính lễ Phật Đản, tức ngày 8-5-1963 dương lịch, đồng bào Phật tử cả thành phố Huế, một phần dân của tỉnh Thừa Thiên kéo về chùa Từ Đàm, Chùa Diệu Đế, chùa Linh Quang... đông đảo khác thường. Trên tay mỗi Phật tử là một lá cờ nhỏ, mỗi đoàn người một cây cờ lớn dẫn đầu, Huế rợp bóng cờ bốn màu, các chùa đông nghẹt Phật tử đến nghe thuyết pháp và nghe thông báo "Cờ Phật bị hạ, đạo Phật bị kỳ thị, không chấp nhận chính sách độc tôn?" Trước cảnh rừng người và rừng cờ, tự nhiên bị kích thích tự hào về sức mạnh, có những tiếng hô vang, loan xa, sau đó cả rừng người đòng thanh phản đối lệnh của Chính phủ, thời cơ để phát tiết mối hậm hực bị đè nén quá lâu. Suốt cả ngày Huế sục sôi. Chính quyền Thừa Thiên sợ hãi, không chịu dành chương trình truyền giáo trên đài phát thanh cho đại biểu Phật giáo như thường lệ lại cắt bỏ, tức là đã tự đổ dầu vào lửa. Phật tử lũ lượt kéo về đài phát thanh Huế, và súng nổ, người chết, xe thiết giáp của quân lực Việt Nam Cộng hòa lao vào đám đông, chà lên thân người, những chiếc xe hai bên hông có sơn chữ tên "Ngô Đình Khôi", anh ruột của năm người em đang lãnh đạo chế độ, là chiến sĩ chống cộng, đã chết cho sự nghiệp "Cách mạng quốc gia" từ cái thời ông Khôi là Tổng đốc của nhà nước bảo hộ của Pháp, đã hợp tác với phát xít Nhật, bị nhân dân xử tử hình.
    Áp suất phẫn nộ của đồng bào Phật giáo cố đô chuyển từ cơn lốc lùa vào Nam lập tức biến thành cơn bão, thổi qua Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, tụ thành tâm bão ngay tại Sài Gòn, nơi đầu não của chế độ. Chiều ngày 11 tháng 6, từng đoàn sư sãi, ni cô phật tử, tạo thành những dải màu vàng, nâu, xám, chuyển động từ nhiều ngả, sát cánh nhau khắp lòng đường, táp trung về ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt tạo thành vòng xoáy tròn, bao vây quanh vị sư già ngồi thiền trên mặt đường ngay giữa ngã tư. Ánh nắng nửa chiều còn gay gắt, mặt đường nhựa nóng bỏng bốc hơi hừng hực. Hai nhà sư trẻ nhanh chóng xách đến một can xăng, kính cẩn tưới đẫm áo vị sư. Xăng chảy tràn khắp chỗ ngồi, hơi bốc bay ra sặc sụa. Vị sư già vẫn bình thản kỳ lạ, bàn tay giữ quyết giơ cao ngang tầm mắt, bàn tay trái với chuỗi tràng hạt đặt đứng trên ngực. Ngọn lửa phừng lên, vị sư lặng lẽ bất động trong vòng lửa đỏ. Tiếng cầu kinh đồng lúc vang lên, xen lẫn tiếng khóc râm ran trong đám người dày đặc. Hàng vạn con người quì xuống tại chỗ.
    Cả đoàn nhà báo, quay phim hầu như được nhường đường ùa vào vây quanh ngọn lửa đang bốc cao, họ xoay chuyển bấm máy liên tục cố khai thác những góc cạnh ưng ý nhất. Ba bốn người Mỹ chen lấn nhóm phóng viên nhà báo cố tiến lại gần hơn, những người này quần áo chỉnh tề như nhân vật ngoại giao. Nhìn thấy vị sư già điềm nhiên ngồi trong ngọn lửa, họ trố mắt kinh ngạc, làm dấu thánh giá, ngó trân bóng nhà sư trong lửa thốt lên bằng tiếng Anh: "Ôi? Chúa tôi! Lạy Chúa?", nhưng không mấy ai quan tâm đến họ. Hàng rào Phật tử hướng đạo đồng phục màu lam và nâu xếp thành hàng với những cây gậy cầm ngang tạo thành hàng rào, nhiều lần khá quyết liệt ngăn chặn các nhóm cảnh sát dã chiến đang hò hét cố gắng lao vào nhưng không thành công. Thân xác vị sư già đã từ từ ngả ra sau. Bốn nhà sư trẻ đã bung rộng lá cờ Phật lớn. Một vị sư với chiến loa cầm tay, thét lên:
    - Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để bảo vệ lá cờ thiêng liêng của giáo hội Phật giáo, và để đòi hỏi nhà cầm quyền chấp thuận năm yêu sách của Giáo hội Phật giáo!
    Nhà sư nhắc đi nhắc lại nhiều lần bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Sự kiện này diễn ra ba ngày sau khi giáo hội Phật giáo đã thông báo trước cho tổng thống Diệm và quốc hội, nếu không giải quyết yêu sách của Giáo hội Phật giáo, chấm dứt đàn áp sư sãi, sẽ có vụ tự thiêu, và nhiều vụ tự thiêu tương tự sẽ tiếp theo. Nhưng ông Diệm đã công bố, chính phủ không nhượng bộ trước những yêu sách vô lý, áp đặt quá đáng đối với ông. Phải chăng, đó là thách thức?
    Ngay sau ngày hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, tổng thống Diệm đã cấp tốc lập một ủy ban liên bộ, và mời đại diện Giáo hội Phật giáo gặp gỡ thương nghị với tinh thần hòa giải. Có nghĩa là chính phủ và tổng thống chịu nhượng bộ. Hai bên hội họp. Một thông cáo chung được công bố. Chính phủ nhận giải quyết năm yêu sách và đích thân ông Diệm ký, nhưng cạnh chữ ký của mình ông Diệm ghi thêm: "Những điều nêu ra trong thông cáo này đã được tôi tán thành ngay từ đầu theo nguyên tắc". Ngụ ý, dù nhà sư Thích Quảng Đức không tự thiêu như thế, ông ta cũng đã chấp thuận cả năm yêu cầu của Giáo hội Phật giáo rồi. Nhưng còn ông cố vấn Ngô Đình Nhu? Ông ta đã có trên bàn riêng khá đủ bằng cớ chứng tỏ CIA đã không đứng bên ngoại vụ "Phật giáo đấu tranh" - một kế hoạch quen thuộc của họ ở số quốc gia thuộc quyền, để giấu kín bàn tay phù thủy. Nhu linh cảm rõ ràng Mỹ đã chuẩn bị "thay ngựa giữa dòng", xóa bỏ sách lược chính trị cũ, và thay vào đó một chế độ quân phiệt tay sai dễ bảo. Ông ta bắt đầu chơi trả đũa CIA, bằng những bài viết gửi cho báo chí trong nước cả bên ngoài. Đặc biệt người ta không còn thấy Nhu đề cập đến hai từ "Việt cộng" trong các bài đó. Mỹ càng cay cú hơn.
    Nhu không ngạc nhiên như ông Diệm đã ngạc nhiên, khi viên đại diện tổng thống Mỹ Trueheart qua gặp Diệm chuyển lời của tổng thống Mỹ: "Tôi không thể chấp nhận tình hình Sài Gòn rối ren thêm?" Nhu đã gằn giọng nói với Trueheart:
    - Đây là vấn đề nội bộ của Việt Nam, xin ông nói với tổng thống rằng, không phải là vấn đề của nước Mỹ.
    Đồng lúc, ông Nhu trả lời phỏng vấn của báo Times Mỹ:
    - Các vị thấy đó, lối tuyên truyền của Phật giáo rất thích hợp với dân chúng ở những nước kém phát triển, nhiều người dân còn mê tín dị đoan. Họ đã kể công lao cống hiến, xây dựng đất nước ở cố đô Huế suốt thời kỳ còn Bảo Đại lệ thuộc Pháp xâm lược lần thứ 2, để hứa hẹn sẽ kiến tạo cho miền Nam hòa bình thinh vượng, dân chủ và tự do... - Nhu cười thành tiếng, sắc lạnh - Còn tôi lại tin ở cái thành tích "nướng một nhà sư già" của họ, không phải để chống Cộng sản như kiểu của hai giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, mà mở đường cho "thành tích kỳ diệu" vượt ranh giới tôn giáo qua ranh giới chính trị, và chính báo chí ở Mỹ đang giúp Phật giáo làm vậy. Phải chăng báo chí Mỹ gây sức ép với chúng tôi, buộc chúng tôi phải vâng lời chính phủ của quí vị?
    Và dù thông cáo chung đã được phổ biến, chính quyền đã nhượng bộ, Giáo hội Phật giáo đã thắng lợi, nhưng anh Trọng gọi điện thoại báo cho Vũ biết: "Tôi vừa được nghe phía Phật giáo đã gặp số người Mỹ có quyền cao nhất ở đây, tình hình không phải dừng lại ở năm yêu sách được giải quyết xong, mà Mỹ tỏ ra cởi mở hơn, ủng hộ Phật giáo tiến xa hơn đấy. Không tiện báo kỹ với chú ở đây tôi đến gặp chú tối nay nhé..." Vũ nhận lời đón người anh nuôi tại nhà, buổi tối đó.
     
  6. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 25
    Phan Phụng Tiên giờ đây là thiếu tá từ khi từ Nam Vang trở về. Mỗi lần lại thăm đại tá Đỗ Mậu, anh ta vẫn ghé chào Lê Nguyên Vũ để tỏ lòng nhớ ơn. Vũ đã giúp vợ anh ta thoát khỏi bàn tay của hung thần Dương Văn Hiếu. Ngoài Nguyễn Cao Kỳ, Phan Phụng Tiên ra, hiện giờ đại tá Mậu đã thu phục thêm được trung tá Huỳnh Hữu Hiền, tư lệnh lực lượng không quân khiến uy tín và lực lượng của ông càng tăng mạnh. Người ta đánh giá đại tá Mậu như hổ được chắp cánh. So sánh, cán cân lực lượng nghiêng về phía lực lượng thống Diệm.
    Thiếu tá Tiên cùng trạc tuổi với Vũ, anh lúc nào cũng tỏ ra trân trọng hết mực không chỉ vì Vũ là phụ tá Tổng giám đốc An ninh quân đội mà còn là ân nhân. Ngược lại Vũ luôn tỏ ra thân mật, nhã nhặn:
    - Thiếu tá rảnh rỗi qua thăm, hay có chuyện chi cần gặp đại tá?
    - Hôm qua tôi được giao nhiệm vụ đưa một phái đoàn khoa học của Mỹ sang Nam Vang. Tôi được gặp đại tá Nguyễn Chánh Thi, ông ta nhờ chuyển về đại tá Tổng giám đốc một thư riêng, tôi phải đưa qua ngay, và ghé chào ông phụ tá.
    - Ông Thi sắp này làm gì? Ông ấy khỏe chứ thiếu tá?
    - Dạ, đại tá Thi và trung úy Phạm Phú Quốc được cơ quan RAND Corporation của Mỹ bảo lãnh, nhận cho làm việc tại chi nhánh của công ty tại Nam Vang đã nửa năm rồi. Cả hai bây giờ khá lắm, tự do, lãnh lương như nhân viên Mỹ, vài tháng qua chơi Bangkok một lần. Còn mỗi cuối tuần đi hải cảng Sihanoukville tắm biển, rất khỏe. Ông Thi hy vọng tình hình này rồi tất cả sẽ trở về Sài Gòn sớm thôi. Đúng vậy không ông phụ tá?
    Vũ không kịp trả lời, Tiên đã nói tiếp:
    - Đại tá Thi nói với tôi, tổng thống Mỹ đã cử viên cố vấn Trueheart qua Sài Gòn xử lý thường vụ tòa đại sứ thay đại sứ Nolting mới được gọi về nhận chỉ thị. Nghe tin đồn vụ ông Nolting quan hệ thân mật với bà Nhu, bị bà ta tác động vào công việc, Tổng thống Kennedy dự tính đưa một nhân vật tầm cỡ hơn qua thay. Trueheart sang trước chuẩn bị đấy. Trueheart có nhiệm vụ nghiên cứu xem phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ có thể thay thế ông Diệm được không? Đại tá Thi nhận định, Mỹ đã có quyết định bỏ ông Diệm rồi.
    - Có chắc vậy không?
    - Thưa, chính đại tá Mậu cũng xác nhận tin này. Vừa rồi đại tá nói là trung tá Conein cũng mới nói cho đại tá biết Mỹ dự tính đưa ông Thơ lên thay. Họ còn thăm dò ý kiến một số người coi tính sao đã. Nhưng với anh em lưu vong bên đó, họ rất mong đại tá Mậu tiến hành sớm, ai làm tổng thống cũng được, miễn là diệt xong anh em ông Diệm. Cả số Hòa Hảo, Cao Đài lưu vong ở Nam Vang cũng còn căm thù ông Diệm, luôn cái đảng Cần Lao Công giáo ghê gớm của ông ta.
    Chuyện vãn đến đây thiếu tá Tiên có vẻ vội vã bắt tay Vũ ra về.. Tình hình lúc này từ các tỉnh miền Trung đến Sài Gòn rất khẩn trương. Hơi người, hơi cay lựu đạn như quẩn quanh trong không gian liên tục mấy tháng không tan. Từ sau vụ nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu, tổng thống Diệm phải công bố chấp thuận giải quyết năm yêu sách của phía Phật giáo. Một ủy ban liên bộ do phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ chỉ đạo thực hiện năm yêu sách trước mặt đó, nhưng chỉ trong phòng họp, trên giấy tờ. Còn trên thực tế các cơ quan chức năng không chấp hành lệnh của ông Thơ, mà theo lệnh của cố vấn Ngô Đình Nhu quyết liệt đối phó. Thiết quân luật được ban hành, lệnh giới nghiêm tăng về đêm, tất cả các chùa đều bị bao vây bằng hai vòng đai nghiêm ngặt, mật vụ kiểm soát vòng trong, cảnh sát dã chiến vũ trang vòng ngoài, ngăn chặn Phật tử đi chùa, cô lập họ với sư sãi trong chùa. Phong trào đấu tranh phải chuyển qua trường học. Ở các đại học Huế, Sài Gòn, một số trường trung học, sinh viên học sinh bãi khóa tập hợp tại trường tạo thành sức mạnh hỗ trợ, tràn xuống đường tiến tới mở toang vòng đai, xô xát với an ninh, nối lại chùa và trường học, khai thông cho lực lượng Phật tử như nước tràn bờ. Ông Nhu được sự đồng tình của ông Diệm, ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải trấn áp không còn dè dặt, chính quyền báo động Việt cộng đang tràn vào Thủ đô.
    Cách đây cũng vài tháng đại tướng Lê Văn Tỵ bị bệnh nặng phải đưa qua Pháp chữa trị, tạm thời trung tướng Trần Văn Đôn được cử lên quyền Tổng tham mưu trưởng, thay ông Tỵ. Lúc đó có dư luận chính bà cố vấn Ngô Đình Nhu đã vận động ông chồng bà chấp thuận tướng Đôn. Thực tế thì có sự gợi ý của tướng Harkins nên ông Diệm phải đồng ý. Tướng Đôn đã ký hai quyết định, được coi là có sự sắp đặt trước, quyết định chuyển tướng Lê Văn Nghiêm ra nắm tư lệnh quân đoàn I ở Huế dưới quyền tướng vùng I Đỗ Cao Trí, và quyết định cử đại tá Đỗ Mậu lên làm cố vấn an ninh cho tướng Tôn Thất Đính, tư lệnh quân đoàn III kiêm tư lệnh biệt khu thủ đô. Người ta đều biết tướng Trí, tướng Đính đang là trụ cột của chế độ nhà Ngô, cả hai được anh em ông Diệm tin cậy cao. Tướng Trần Văn Đôn đã tạo cái thế phân quyền của hai vùng chiến lược quan trọng.
    Vì vậy khi có lệnh của cố vấn Ngô Đình Nhu kêu gọi lực lượng quân sự can thiệp, cả tướng Nghiêm và đại tá Mậu đã tuyên bố, quân đội chỉ làm nhiệm vụ chống cộng sản xâm lược miền Nam, giữ gìn lãnh thổ, phải bảo vệ tình quân dân, không trấn áp nhân dân. Các đơn vị biệt động quân, thủy quân lục chiến đã hành quân trong thành phố, nhưng nhận lệnh của tướng Đôn không can thiệp các cuộc biểu tình của quần chúng sinh viên học sinh. Ngược lại tại vài địa điểm quân lính đã can thiệp không cho cảnh sát dã chiến đánh đập Phật tử lấy cớ đó chính là cha mẹ, con cái của binh sĩ đơn vị hành quân.
    Tình hình vừa sôi sục lại vừa phức tạp. Và chỉ trong nửa tháng đã có thêm ba nhà sư, một ni cô tự thiêu: Đại đức Thích Nguyên Hương ở Phan Thiết, Thích Thanh Tuệ tại Huế, ni cô Diệu Quang tại Ninh Hòa Nha Trang, và Thượng tọa Thích Tiêu Diêu ở chùa Từ Đàm. Hàng ngàn Phật tử sinh viên, học sinh bi bắt giữ. Cảnh sát công an phải trưng dụng một số cơ quan hành chính làm nơi giam giữ vì số người bị bắt ngày càng nhiều. Gây xúc động nhất là tại chùa Xá Lợi, một nữ sinh tự chặt ngón tay cúng dường tam bảo, dùng máu viết thư gửi Tổng thống Mỹ và ông Diệm, đòi chấm dứt kỳ thị tôn giáo. Lòng căm phẫn của quần chúng Việt Nam, không chỉ riêng Phật tử, đã dâng cao. Qua báo chí Mỹ, phương Tây, dư luận các giời đồng loạt lên án hành động đàn áp dã man của anh em ông Diệm.
    Một buổi chiều, Vũ nhận được thư của bác sĩ Trần Kim Tuyến từ Hương Cảng gửi về. Trong thư, Tuyến tóm lược một số nét chính về cuộc họp của Ban an ninh quốc gia, bộ phận tham mưu đầu não của tòa Bạch Ốc, dưới sự chủ trì của chính tổng thống Kennedy. Tuyến kể một số tên của các cố vấn như Averell Harriman, Rogers Hilsman, Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, George Bundy, Michael Forrestal v.v... cho thấy giá trị của nội dung cuộc họp. Tổng thống Kennedy sau khi nghe báo cáo tổng hợp từ Sài Gòn gửi về, nhận định rằng chính quyền ông Diệm cố ý không nghe lời khuyên của các cố vấn Mỹ, dù đã có áp lực rất mạnh từ phía Mỹ, Diệm vẫn quyết liệt đối phó không chỉ với phong trào đấu tranh Phật giáo, mà cả với Mỹ. Tình hình xấu đi nhiều, phe không Cộng sản chống Diệm có ý định sẽ làm đảo chính trong vòng ba tháng tới. Tuy nhiên phe này sẽ thành công hay không thì chưa có lời cam kết chính thức. Riêng đại sứ Nolting vẫn bảo thủ, nêu ra hai tình huống sẽ xây ra nếu bỏ Diệm lúc này: Thứ nhất Việt Cộng sẽ lợi dụng thời cơ tấn công mạnh hơn, thứ hai nội chiến vì tranh giành quyền lực sẽ không tránh khỏi. Nhiều ý kiến chống Nolting. Và chính trong cuộc họp tại tòa Bạch ốc cũng có đa số ý kiến bác bỏ nhận định của Nolting. Vì vậy Tổng thống Kennedy đã gọi Nolting về nước, tạm giao cho Trueheart xử lý thường vụ và sẽ ra quyết định bổ nhiệm Henry Cabot Lodge qua thay Nolting vào tháng tới. Lodge là một trong số lãnh tụ đảng Cộng hòa, nổi tiếng "vua đảo chính", năm 1960 đã từng đứng cùng liên danh Nixon ứng cử tổng thống. Lodge qua Sài Gòn thì việc loại bỏ Diệm coi như đã được khẳng định. Cho đến nay, tổng thống Kennedy tỏ ra yên tâm vì cuộc đấu tranh của Phật giáo tuy đã diễn ra ba tháng, nhưng chưa có hiện tượng Việt cộng dựa vào lợi dụng khai thác. Có điều, sau khi Kennedy chấp thuận cho làm đảo chính bỏ Diệm, Kennedy tỏ ra lo ngại chính quyền thay thế buổi đầu sẽ gặp nhiều khó khăn, nên đã đòi phải có kế hoạch đối phó với mọi tình huống có khả năng diễn ra. Nhiều ý kiến nhất trí, phải can thiệp tích cực hơn, chi viện mạnh lên, lãnh đạo hợp lý, quyết giành cho được hiệu quả hơn khi còn Diệm.
    Đại tá Mậu đọc đi đọc lại bức thư của bác sĩ Tuyến, tỏ vẻ phấn chấn. Ông ta thông báo cho Vũ những nét cơ bản cuộc họp tại Bộ Tổng tham mưu hôm qua:
    - Danh nghĩa là Tổng tham mưu Trưởng mời họp bất thường, với số thành phần chỉ định tham dự, hạn chế có tính toán. Vì đó là cuộc họp đặc biệt đầu tiên của lực lượng cách mạng mà tướng Đôn triệu tập.
    Không để Vũ ngạc nhiên thêm, đại tá Mậu tiếp:
    - Hai trung tướng Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh cùng 19 tướng tá đại diện toàn thể lực lượng cách mạng để quyết định thành lập "Hội đồng quân nhân Cách mạng", phế bỏ chính quyền Ngô Đình Diệm, tạm thời nắm quyền lãnh đạo quốc gia, chặn đứng ý đồ của Diệm Nhu liên kết với Cộng sản Hà Nội. Chính cái cớ trung lập miền Nam Việt Nam mà Nhu chủ trương là động cơ thu hút tập hợp được nhanh chóng các đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tất cả nhất trí tiến hành đảo chính lật đổ tổng thống Diệm. Cuộc họp đã cử tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch "Hội đồng quân nhân cách mạng", Trần Văn Đôn - Phó chủ tịch kiêm tổng tư lệnh, tôi - Phó chủ tịch phụ trách tham mưu. Tôi đã cố gắng từ chối, nhưng không được, và các tướng đã đồng ý tôn phong tôi lên thiếu tướng, sẽ có quyết định chính thức, ngay trong ngày đầu chính quyền thuộc về Hội đồng quân nhân Cách mạng.
    Vũ biểu lộ vui mừng đứng lên bắt tay chúc mừng. Đại tá Mậu không che giấu niềm hân hoan:
    - Cám ơn ông Vũ - ông Mậu tiếp - Không khí trong cuộc họp mỗi lúc một sôi nổi, tướng Xuân, tướng Lê Văn Kim - đương là Tổng tham mưu phó, và một số sĩ quan cấp tá tư lệnh thủy quân lục chiến, biệt động quân, đề nghị tiến hành đảo chính ngay. Tất cả tin rằng Sài Gòn đã ở trong tầm tay rồi. Một vài ý kiến quá nôn nóng như đề nghị hội đồng ra lệnh, họ sẽ vào giết Diệm Nhu ngay tại dính Gia Long, không có gì khó khăn. Tướng Đôn phải tỉnh táo lắm mới giữ được mọi người bình ổn trở lại. Ông Đôn giải thích những nhân vật Mỹ tại Sài Gòn và đặc phái viên của McNamara đã trao đổi với Đôn rằng tổng thống Kennedy không ngăn cản một vụ đảo chính do chính tướng lĩnh quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện, "vì quyền lợi bảo vệ Tổ quốc của họ" nhưng phải tránh gây tổn thất cho lực lượng quân đội không làm mất ổn định tình hình tạo thời cơ cho phía Cộng sản khai thác, và một vài thế lực trung lập lợi dụng. Với những điều kiện hợp tình hợp lý đó, ông Đôn nhấn mạnh, chúng ta phải chuẩn bị thật sự chu đáo, khởi động là phải thành công, không thể có thất bại. Hiện nay, thực lực của anh em ông Diệm còn mạnh, trước mắt là cả bốn tư lệnh của bốn vùng chiến thuật rất mực trung thành với Diệm: Tướng Huỳnh Văn Cao vùng IV, tướng Tôn Thất Đính vùng III kiêm biệt khu thủ đô, tướng Nguyễn Khánh vùng II, tướng Đỗ Cao Trí vùng I. Tuy những đơn vị nhỏ thuộc quyền của cả bốn vùng đã có số quay về với chúng ta, đặc biệt là các lực lượng cơ động và không quân của Bộ tổng tham mưu, nhưng với Tôn Thất Đính nắm biệt khu thủ đô, liên kết với lực lượng cảnh sát dã chiến, lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung, lữ đoàn phòng vệ Tổng thống phủ, chúng quyết sống chết bảo vệ gia đình họ Ngô. Do vậy chúng ta phải quan tâm tính toán làm sao giành thắng lợi mà ít đổ máu. Người Mỹ khuyên chúng ta tranh thủ, bằng chân tình, bằng phải trái, khi cần Mỹ sẽ hỗ trợ tiền bạc thay cho chết chóc. Vì vậy Hội đồng quân nhân quyết định hủy bỏ kế hoạch hành động vào cuối tháng tám này, do một số các tướng đề nghị. Nhất trí là hành động, nhưng cần chuẩn bị thật chín muồi, chậm lại vài ba tháng không phải bằng vũ lực... Cuối cùng tướng Minh và Đôn đặt hy vọng nhiều ở việc tôi lãnh nhiệm vụ tranh thủ, lôi kéo thuyết phục Trí và Đính.
    - Chính đại tá thực hiện việc này sao?
    Đại tá Mậu gật đầu, vẻ cương quyết:
    - Đúng vậy. Với Đỗ Cao Trí chúng ta đã có tướng Lê Văn Nghiêm lo việc thuyết phục Trí. Còn với Tôn Thất Đính thì ông ta còn nợ tôi một cái ơn chưa trả nổi. Hồi Pháp thuộc, Đính làm công cho một công ty người Pháp ở Đà Lạt. Khi Pháp rút về nước, Đính thất nghiệp về Huế đi lang thang tìm tôi. Tôi đã cho Đính hết số tiền trong túi để tạm trang trải, sau đó tôi xin cho y vào lực lượng bảo an với cấp hạ sĩ làm ở văn phòng Nha bảo an Trung phần, và cũng chính tôi vận động cho Đính đi học khóa sĩ quan, rồi đưa qua Mỹ. Chức tư lệnh quân đoàn 3, tư lệnh vùng III, kiêm biệt khu thủ đô hiện nay, lại cũng do tôi đề nghị với ông Diệm. Tôi nghĩ rằng với những gì tôi đã làm cho Đính không lẽ tôi không thể nói chuyện với Đính lúc này.. Gần đây, tướng Đôn, Kim có gợi ý với Đính, Đính cự tuyệt, còn đe "Các anh làm gì thì làm, đụng đến anh em ông Diệm tôi sẽ không để các anh yên đâu." Đôn sợ. Còn tôi tôi lại hy vọng, và nếu tranh thủ được Đính ở Sài Gòn, Trí ở Huế thì cách mạng dễ dàng thành công thôi.
    Ngừng lại mời Vũ cùng hút thuốc, đại tá Mậu kết luận:
    - Tôi vừa có tin, vợ chồng ông Nhu vẫn cay cú ép ông Diệm phải dẹp phong trào Phật giáo bằng sức mạnh cho nhanh, không thể để cho họ "vòi vĩnh, được voi đòi tiên". Nếu thật vậy, thì lực lượng quân đội trấn giữ cả hai vùng Huế, Sài Gòn sẽ rời bỏ anh em ông Diệm là cái chắc. Dù cho Đỗ Cao Trí, Tôn Thất Đính có muốn bảo vệ ông Diệm, quân linh dưới quyền cũng sẽ không nghe. Ông Vũ biết sao không? Lý do là quân đội địa phương họ đều có bà con, cha mẹ, anh em, con cái trong lực lượng quần chúng Phật giáo đấu tranh, họ sẽ không ngồi yên để cho vợ chồng Nhu muốn đánh thì đánh, muốn bắt thì bắt đâu? Ta phải mở một chiến dịch phát động ngay trong quân đội. Vấn đề này tôi phải nhờ ông đây, ông Vũ ạ.
    Đại tá Mậu đứng dậy, lại bàn giấy ôm đến một tập hồ sơ khá dày trao cho Vũ:
    - Đây, có đến vài trăm tờ đơn của sĩ quan, binh sĩ của các đơn vị gởi cho các sở an ninh quân đội, và cả cho cá nhân tôi, tại tổng nha nữa. Họ khiếu nại việc cha mẹ, anh em, con cái của họ đã bị cảnh sát công an bắt oan, giam giữ tại đâu không biết, trong khi họ đang ở trong đơn vị trực tiếp chiến đấu chống cộng sản, bảo vệ chế độ. Họ đòi chứ không phải cầu xin, Bộ quốc phòng phải can thiệp giải quyết trả tự do ngay cho họ. Với tập hồ sơ này ông đến trực tiếp báo cáo cho bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần, không phải để can thiệp thả người, mà yêu cầu Bộ quốc phòng ra một bản quyết định rằng các sĩ quan, quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa phải giữ kỷ cương phép nước, có bổn phận giáo dục thân nhân của mình không nghe theo lời xúi giục của Việt cộng mà tham gia các cuộc biểu tình gây rối an ninh trật tự. Nếu người nào không chấp hành, để cho người thân làm điều phạm pháp buộc Bộ sẽ phải thi hành quân luật nặng hơn. Tôi tin Thuần sẽ làm ngay thôi, có lý quá chứ? Khi có văn bản đó, chúng ta sẽ mở chiến dịch, và chính cái chiến dịch đó sẽ kéo Trí, Đính về hợp tác với ta, phải không?
    Vũ nhận lời thực hiện, trong lòng rất phục đại tá Mậu, con người được bạn bè coi là có mưu lược. Trọn ngày chủ nhật, Thành Minh hẹn làm việc với Lê Nguyên Vũ tại một địa điểm bí mật ở xứ đạo Hố Nai, Biên Hòa. Cả hai bàn chương trình hành động, mà Thành Minh cho đây là giai đoạn quan trọng có tính quyết định nhiệm vụ của Vũ.
    - Cần phải bén nhạy kịp thời, tranh thủ tác động, như cầu thủ đá bóng có banh phải sút mạnh, sút đúng hướng, lọt lưới đối phương. Thời cơ hoặc không có hoặc ít có đến hai lần nên không dành cho cầu thủ thiếu tự tin, chần chừ không quyết.
    Vũ hiểu. Thành Minh nhận định. Phong trào Phật giáo đấu tranh nếu không có người Mỹ đạo diễn, can dự không thể phát triển được dưới chế độ độc tài của anh em ông Diệm. Mạnh như Phật giáo Hòa Hảo, như Cao Đài, lúc đó Diệm còn yếu đấy, vậy mà cũng bị đập tan, huống chi lúc này Diệm đầy đủ sức mạnh. Thế nhưng dựa vào chính sách độc tôn của Diệm lại là cái người Mỹ muốn sử dụng để gậy ông đập lưng ông che giấu bàn tay "thay ngựa giữa dòng", song họ không quan tâm đến sự chuyển hướng của tình hình, từ lãnh vực tôn giáo vượt qua lãnh vực chính trị chỉ trong gang tấc, để vuột ra tầm tay họ. Tàn dư của các đảng phái chính trị quốc gia, bọn cơ hội đối lập, bị anh em Diệm kềm chế chỉ chờ cơ hội này để vùng dậy phục thù. Anh em Diệm đã phóng lao rồi phải theo lao, đã dùng bạo lực rồi thì phải tiếp tục phát huy bạo lực, đó là vấn đề sống còn của họ mà.
    Nghiên cứu bản tin của Trần Kim Tuyến, đồng chí Thành Minh còn phát hiện số điểm thiếu nhất trí của giới chóp bu Mỹ ở tòa Bạch ốc, của số người Mỹ ở Sài Gòn. Một phía lo ngại cuộc đảo chính không thành công, vì thực sự họ chưa tin vào lực lượng tướng tá Việt Nam liệu có đủ lòng trung thành với Mỹ không? Nếu anh em Diệm lật ngược đưựe thế cờ thì đấy lại là thời cơ dành cho hai thế lực chủ trương trung lập miền Nam Việt Nam can thiệp vào. Một phía khác có ý giữ Ngô Đình Diệm lại để tránh cảnh nội chiến có nhiều khả năng diễn ra, nên chỉ cần diệt vợ chồng Nhu và Cẩn mà thôi. Chính Kennedy cũng ngại đưa một nhân vật mới chưa đủ sức tập hợp thay Diệm, cũng có khả năng tạo cơ hội cho Việt cộng uy hiếp Sài Gòn, dù cho tới lúc này không có dấu hiệu cho thấy họ khai thác tình trạng mâu thuẫn tôn giáo. Thành Minh còn lưu ý Vũ, rằng một số tướng lĩnh dù muốn tham gia làm đảo chính nhưng vẫn còn "ân huệ" với Diệm, như Trần Thiện Khiêm và cả đại tá Đỗ Mậu, sự lưỡng lự của người Mỹ và của tướng lĩnh Việt Nam sẽ là chỗ yếu mà chắc chắn anh em Nhu Diệm sẽ tận dụng. Phải nhắc cho Đỗ Mậu thấy cả bốn Tư lệnh bốn vùng chiến thuật còn trong tay Nhu.
    Được Thành Minh phân tích Vũ thấy sáng ra trong khi anh nằm giữa vũng xoáy của nhưng vấn đề dồn dập diễn ra từng ngày đến chóng mặt. Trong lòng phấn khích về hiệu quả nhiệm vụ trung tâm giao cho đang tiến dần tới đích, anh chia tay với đồng chí chỉ đạo trở về cạnh đại tá Mậu.
    Cố vấn Ngô Đình Nhu đọc bản điện tín của đại sứ Nolting thông báo ông ta sẽ trở lại Sài Gòn sáng 21-8-1963 cùng với Cabot Lodge. Đã có quyết định của Tổng thống Kennedy, Nolting sẽ bàn giao chức vụ đại sứ cho Lodge. Đúng như báo chí Mỹ đã ví von thật mỉa mai từ vài năm trước, tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn chẳng khác gì "Tòa Bạch ốc Phương Đông". Phía Mỹ chỉ thông báo cho tổng thống Diệm rằng họ thay đại sứ, không có vấn đề qui luật ngoại giao quốc tế. Bề ngoài vẫn có lễ trình ủy nhiệm thư, với cái tên không có lý lịch báo trước, chính phủ ông Diệm phải tiếp nhận, dù có đồng ý hay không đồng ý tân đại sứ vẫn đến. Anh em ông Diệm đã được tay chân ở Tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ báo riêng, Lodge nổi tiếng "trùm đảo chính" từng gây tiếng vang ở Philippine khi Macsaysay chết, ở Đại Hàn thì Tổng thống Lý Thừa Vãn khôn hơn, đã tự ý từ bỏ chức vụ Tổng thống, hạ cánh an toàn.
    Tổng thống Diệm, hai vợ chồng cố vấn Ngô Đình Nhu, cố vấn Ngô Đình Cẩn ở Huế và cả tổng giám mục Ngô Đình Thục, chưa lần nào họ có được sự nhất trí cao như lần này, với kế hoạch "tiên hạ thủ vi cường", dẹp cái cớ, là nguyên nhân Mỹ tạo ra để thu hoạch kết quả, không dành cho đại sứ Lodge dễ dàng thi thố sở trường làm đảo chính. Cố vấn Nhu cười gằn, kết luận:
    - Phải đẩy. Lodge đến chỗ tự lật cái mặt nạ "Thực dân kiểu mới" của Mỹ, theo kiểu nói của Cộng sản, nếu như hắn muốn làm đảo chính.
    Ngay hôm sau, tổng thống Diệm và Nhu bí mật mở cuộc họp khẩn cấp, triệu tập quyền Tổng tham mưa trưởng Trần Văn Đôn, bạn thân thiết tin cậy của bà cố vấn, hai viên tướng mà tổng thống Diệm coi như con đỡ đầu: Trần Thiện Khiêm mới lên thay tướng Khánh, tham mưu liên quân, Tôn Thất Đính Tư lệnh vùng III chiến thuật kiêm biệt khu thủ đô, cùng số bộ hạ thân tín như Nguyễn Văn Y, Dương Văn Hiếu, Lê Quang Tung, Cao Xuân Vĩ, tư lệnh nữ quân nhân Nguyễn Thị Minh, phổ biến kế hoạch hành quân quét sạch lực lượng đấu tranh Phật giáo trong một thời gian kỷ lục chỉ một đêm thôi, ngày 20 rạng 21-8-1963.
    Nhu nhấn mạnh, tổng thống đã ban lệnh toàn quyền hành động cho cố vấn Ngô Đình Cẩn tại Huế, tiến hành kế hoạch ở cả liên tỉnh miền Trung. Nhu nhấn mạnh khi kết thúc cuộc họp: "Mười giờ sáng mai, 21-8-1963, toàn miền Nam sẽ ổn định, đây là món quà tặng viên tân đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge đến nhận chức tại Sài Gòn."
    Thủ đô Sài Gòn có lệnh giới nghiêm từ 12 giờ đêm, nhưng từ 9 giờ tối một số đơn vị quân đội đã lặng lẽ hành quân rải khắp các khu được phân công. Và chỉ trong khoảng ba tiếng đồng hồ, tất cả các sư sãi ni cô ở mọi chùa chiền đều bị công an chìm nổi, cảnh sát dã chiến, lực lượng đặc biệt vây bắt hết, đánh đập nếu chống cự, còng tay, đẩy lên hàng chục xe bịt bùng đưa đi. Các sư sãi ni cô bị tập trung giam giữ theo phân loại, số quan trọng nhốt ở Tổng nha cảnh sát, trại mật vụ Lê Văn Duyệt. Số khác ở khu an dưỡng đường Phú Lâm, ở trại gia binh Rạch Cát Bình Đông. Danh sách đã được kê khai từ trước, gồm tổng số 1400 người khắp nội ngoại đô, Sài Gòn không sót một ai, chỉ trừ có ba vị sư lọt lưới.
    Anh em ông Diệm đã chủ quan, vì ngay sau cuộc họp bí mật đó trở về, tướng Trần Văn Đôn đã thông báo với trung tá Lucien Conein, nhân vật CIA quan trọng đã ở cạnh tướng Đôn từ lâu, và cả đại tá Đỗ Mậu cũng được thông tin sớm nhất. Ông Mậu đã giải thích với Vũ:
    - Ông Diệm đã hành động đúng như ý của những người Mỹ ở đây, họ đã có lý do chính đáng để thuyết phục tổng thống Kennedy nhanh chóng phế bỏ chính phủ Ngô Đình Diệm.
    Rõ ràng Vũ cũng nhận thấy CIA không can thiệp để ngăn chặn đợt đàn áp của chính quyền, mà chỉ bí mật, trước vài giờ xảy ra vụ tấn công các chùa, đưa Thượng tọa Thích Trí Quang, đại đức Nhật Thiện, đại đức Bửu Phương đến cơ sở của cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ, và sau đó chuyển vào tòa đại sứ Mỹ, rồi loan tin các vị sư này xin tị nạn chính trị. Đại tá Đỗ Mậu cho biết Thượng tọa Trí Quang phải cạo râu hóa trang thành nhà sư Phái Nam Tông khoác áo vàng. Hai nhà sư trẻ Nhật Thiện, Bửu Phương, đã từng được đào tạo ở nước ngoài cũng theo hệ phái Nam Tông, có nhiệm vụ hộ tống thượng tọa Thích Trí Quang ra khỏi chùa Xá Lợi an toàn.
    Dư luận cho rằng Mỹ cố ý không chặn bàn tay tưới dầu vào lửa của anh em ông Diệm. Báo chí ở Mỹ hầu như tất cả đều đưa tin trang nhất vụ ông Diệm bắt bớ tăng ni, tấn công và chiếm giữ chùa chiền. Chỉ vài ngày tạm ổn, sau đó phong trào đấu tranh không chỉ dừng ở chống kỳ thị tôn giáo, chuyển qua khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, thay đổi chiến hào lan rộng từ chùa chiền sang trường học. Sinh viên đại học, học sinh trung học tập họp khá nhanh, vùng lên còn mạnh mẽ hơn nhiều.
    Cố vấn Ngô Đình Nhu ra lệnh Tòa án quân sự đặc biệt vùng III đưa số nhân vật chính trị quốc gia chống đối ra xét xử, kết án tù, đày ra Côn Đảo tiếp tục răn đe. Nhưng lại vấp thêm vụ nhà văn Nhất Linh, tục danh Nguyễn Tường Tam, một trong các lãnh tụ Quốc dân đảng, không chịu ra tòa, uống độc dược tự tử. Nhất Linh để lại chúc thư, tuyên cáo lấy cái chết chống chế độ độc tài, độc tôn, tàn ác của Diệm. Sài Gòn lại sục sôi hơn, không chỉ trong lực lượng Phật tử, mà cả lực lượng sinh viên học sinh, văn nghệ sĩ rầm rộ biểu tình phản đối. Tình thế buộc Nhu phải tiếp tục đàn áp quyết liệt. Trong một cuộc biểu tình nữ sinh Quách Thị Trang bị cảnh sát bắn chết - điểm báo hiệu ngày tàn của chế độ đã cận kề. Sài Gòn sôi động và căng thẳng cao độ.
    Ngày 5 tháng 10 nhà sư trẻ Thích Quảng Hương tự thiêu trước cửa chợ Bến Thành, tiếp theo là đại đức Thích Thiện Mỹ cũng tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà, cảnh sát dã chiến đã cố gắng ngăn lại được ba vụ tự thiêu khác. Biến cố diễn biến ngày một xấu hơn đã hỗ trợ cho đại tá Mậu vận động được tướng Tôn Thất Đính ngả theo phe đảo chính. Mậu đã khéo léo nhắc nhở đến ân tình cũ, ngày mà Đính thất nghiệp lang thang ở Huế được ông ta cấp tiền trang trải, đưa vào lính bảo an kiếm sống, giới thiệu cho đi học khóa sĩ quan lấy đà ra nước ngoài du học... Đính không quên sự nghiệp của Đính ngày nay có phần công lao của Mậu. Tướng Đính đã xúc động nhận lời, nhưng băn khoăn về thái độ của Mỹ. Tướng Đôn đã trưng bằng cớ cho Đính thấy, Lucien Conein đã nhờ chuyển cho Đính tờ ngân phiếu 300 ngàn đô-la để tỏ rõ quyết định của chính phủ Mỹ phế bỏ Diệm. Đại tá Mậu xoa hai bàn tay vào nhau theo thói quen mỗi khi niềm hân hoan có được cao nhất, xuýt xoa với Vũ:
    - Vị thần hộ mạng của Nhu đã quay mặt đi rồi. Chướng ngại cuối cùng đã được dọn sạch.
    Suốt mấy tháng đại tá Mậu lo nghĩ khi nhận trách nhiệm tranh thủ tướng Đính. Ai cũng có thể nhận ra, nếu Đính quyết sống chết bảo vệ cho anh em ông Diệm, cuộc đảo chính chỉ kéo dài thời gian cần thiết cho tướng Huỳnh Văn Cao và Nguyễn Khánh đưa quân về kịp, thì thắng bại quả khó lường. Chính điều này đã làm cho Kennedy chần chừ là vậy. Từ bên Hoa Thịnh Đốn hai bức điện mật được gởi riêng cho đại sứ Lodge và tướng Harkins lần cuối cùng, buộc mỗi người phải thẩm định mức độ thành công của cuộc đảo chính. Vừa lúc có tin tướng Đính đã nhận lời đại tá Mậu, cả hai nhân vật chủ chốt của Mỹ ở Sài Gòn không còn ngần ngại cam kết với tổng thống Kennedy: Thắng lợi đã trong tầm tay.
    Mỹ công khai tuyên bố cắt mọi nguồn viện trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm, cũng là công khai bật đèn xanh cho kế hoạch "thay ngựa". Tướng Trần Văn Đôn đã kín đáo khuyên bà cố vấn Trần Lệ Xuân nên đi Mỹ và châu Âu trấn an dư luận đang tạo khó khăn cho Diệm. Bản thân bà ta cũng nhận thấy hiểm họa đã cận kề, bố trí gởi con cái lại nhờ Đôn giúp đỡ, bay sang Pháp. Tòa thánh Vatican cũng đánh điện khẩn cấp gọi tổng giám mục Ngô Đình Thục đi tức khắc sang Roma.
    Một buổi tối tổng thống Diệm đích thân đến tìm Cabot Lodge tại Tòa đại sứ, chỉ báo trước có một giờ. Ông Diệm cảm thấy rõ rệt ở viên tân đại sứ không còn chính sách mềm dẻo của Nolting trước đây. Lodge đón tổng thống Diệm ở ngoài hành lang, cả hai bách bộ chuyện trò. Viện đại sứ Mỹ cao quá khổ, ông Diệm ngược lại quá lùn, Lodge cúi nhìn xuống đỉnh đầu vị nguyên thủ quốc gia:
    - Xin ngài hiểu cho, không còn cách nào khác, tổng thống của tôi đã ra lệnh cắt mọi khoản viện trợ cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa của ngài rồi.
    Ngập ngừng giây lát giọng Lodge bớt lạnh lùng:
    - Trước mắt, cá nhân tôi có thể giúp ngài thuyết phục được Hoa Thịnh Đốn, nếu ngay lúc này, ngài đuổi tức khắc ông Nhu, ông Cẩn xuất ngoại.
    Nụ cười ngoại giao lúc đầu buồn buồn của ông Diệm vụt tắt, khi ý thức địa vị tổng thống một nước đã chịu đích thân đến cầu cứu viên đại sứ Mỹ, lại được nghe lệnh hắn truyền cất đứt tình máu mủ anh em. Mặt ông tái xanh vì giận và vì nhục... Ông lặng lẽ quay lưng đi nhanh trở lại, bóng tối hành lang dài hun hút. Lodge bất ngờ, hắn thương hại, nói với theo:
    - Tôi sẵn sàng giúp đỡ ngài với khả năng của cá nhân tôi, khi ngài cần gọi điện tới.
    Ông Diệm chắc nghe rõ, nhưng im lặng rảo bước lao vào xe đóng sầm cửa.
    *
    Bộ Tư lệnh hành quân đảo chính ra quyết định 13 giờ ngày 1-11-1963 khởi sự. Tổng thống Kennedy đã điện cho đại sứ Lodge, giao toàn quyền cho Lodge chỉ đạo cuộc đảo chính phế bỏ chính phủ do Diệm cầm đầu. Viên tân đại sứ đưa cho ba tướng cầm đầu Bộ Tư lệnh đảo chính đọc bức điện tối mật, đó là tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Đỗ Mậu. Lodge muốn họ đặt quyết tâm hành động. Chỉ có thành công, không có phần trăm nào thất bại. Lodge còn cử trung tá CIA Lucien Conein công khai có mặt cạnh Trần Văn Đôn, sau khi duyệt và đã chấp thuận bản kế hoạch hành quân của các tướng trình báo. Phần lớn chi tiết quan trọng trong kế hoạch đã có ý kiến chỉ dẫn của Lodge. Viên đại sứ đã nắm việc phân bố thời gian chương trình đón tiếp đô đốc Felt dẫn đầu phái đoàn Tư lệnh hải lục không quân Thái Bình Dương qua thăm Sài Gòn. Sắp đặt thời gian giữ cả hai anh em Diệm buộc phải có mặt trong dinh Gia Long chờ tiếp phái đoàn Felt, từ 10 giờ đến 12 giờ trưa, đó là khoảng an toàn dành cho tướng Đỗ Mậu, cố vấn an minh của tướng Đính tư lệnh vùng III chiến thuật tung các đơn vị đã được phân công triển khai bao vây các điểm trọng yếu toàn đô thành với danh nghĩa bảo vệ an ninh cho phái đoàn đô đốc Felt. Hai tiếng đòng hồ Nhu Diệm bị đoàn khách giữ chân vừa xong. Đoàn khách ra sân bay, tướng Đôn, tổng tham mưu trưởng mời tất cả các tướng, tá có mặt ở dinh Độc Lập chào mừng phái đoàn Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ trở về Bộ Tổng tham mưu ăn cơm trưa, thực chất là để là để bắt đầu cuộc họp quyết định.
    Trung tưởng Dương Văn Minh lúc này mới xuất hiện, tự giới thiệu là chủ tịch Hội đồng quân cách mạng, đọc bản tuyên bố chung:
    Xét vì Tổ quốc Việt Nam đang trải qua một giai đoạn lích sử cực kỳ nghiêm trọng quyết định sự tồn vong của đất nước. Xét vì nhiệm vụ của chính phủ là lãnh đạo toàn dân trong công cuộc cứu nước bảo vệ tự do an ninh cho nhân dân đem lại hạnh phúc cho giống nòi. Chính quyền của tổng thống Diệm đã bất lực trong nhiệm vụ, đã phản bội quyền lợi thiêng liêng của toàn dân. Các cơ cấu quyền lực do ông Diệm thiết lập đều mục nát, phản dân chủ, cần phải thay đổi từ cội rễ.
    Hội đồng quân nhân cách mạng họp tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa ngày 1-11 1963 quyết định: Truất phế ông Ngô Đình Diệm và bãi bỏ chế độ tổng thống, giải tán chính phủ do ông Diệm lãnh đạo, quyền hành pháp từ trước do chính phủ nắm nay tạm thời do Hội đồng quân nhân cách mạng đảm đương. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
    Ngừng lại giây lát, trung tướng Minh nhìn quét một lượt kháp hội trường đang im phăng phắc chỉ nghe tiếng thở, ông nhấn giọng rõ từng tiếng một:
    - Yêu cầu các vị hiện diện, ai tán thành quyết định của hội đồng? Xin tự đứng lên xưng danh, cấp bậc để ghi âm, chúng ta công nhận như lời tuyên thệ.
    Những viên tướng bận lễ phục lần lượt bật đứng dậy, và hầu hết đều xưng danh, tự biểu quyết chấp thuận. Không khí hội trường căng thẳng khẩn trương tột độ, đã uy hiếp tinh thần những ai có ý nghĩ từ chối không thuần phục. Nhưng trung tướng Trần Văn Đôn vẫn ra lệnh, bằng giọng lạnh lùng chưa từng có:
    - Những vị có tên sau đây ra khỏi hàng, lên trình diện Hội đồng quân nhân cách mạng. Các đại tá Lê Quang Tung, Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Y. Các trung tá Khôi - lữ đoàn phòng vệ, Trần Văn Tư - giám đốc cảnh sát đô thành, và thiếu tá Lê Nguyên Khang - tư lệnh thủy quân lục chiến.
    Sáu sĩ quan đã xếp hàng ngang trước bàn chủ tọa. Tướng Đôn cho lệnh còng tay đưa ra khỏi hội trường. Cũng vừa lúc viên trung tá trực thông báo với trung tướng Minh: bản án tử hình đại tá Hồ Tấn Quyền đã được thi hành xong, tư lệnh hải quân đã có người thay thế, và quân cách mạng đã hoàn toàn làm chủ đài phát thanh Sài Gòn. Dương Văn Minh cho lệnh tấn công dinh Gia Long. Lúc đó đã 13 giờ 30, thời hạn dành cho anh em ông Diệm ra đầu hàng đã hết, đồng lúc tin báo về sư đoàn 5 của đại tá Nguyễn Văn Thiệu, lữ đoàn Thủy quân lục chiến của trung tá Nguyễn Bá Liên vừa thay Lê Nguyên Khang, với sự hỗ trợ của 12 thiết giáp đã chiếm lĩnh xong các điểm trọng yếu.
    Hai anh em ông Diệm rút xuống hầm ngầm, Diệm lo lắng nhưng cố vấn Nhu vẫn còn tin ở kế hoạch đảo chính giả được gọi là "Bravo I", đặt hết lòng tin vào tướng Đính, tướng Khiêm trung thành nhất mực. Nhưng khi đạn cối nã rào rào hướng vào trong dinh, rung chuyển cả mặt đất, Nhu điện liên lạc nhiều lần nhưng cả Đính lẫn Khiêm đều vắng mặt, Nhu tỉnh ra và hiểu rằng, tất cả đều thất bại không còn gì cứu vãn nổi. Nghe lời Cao Xuân Vỹ khuyên, hai anh em ông Diệm rời khỏi dinh Gia Long trước khi quân đảo chính tiến vào được khu giới hạn an toàn. Vỹ đã sử dụng chiếc xe chở hàng nhỏ, có mui che bít bùng, lợi dụng lúc còn lộn xộn đưa hai anh em ông Diệm và ba cận vệ rời khỏi dinh không bị chú ý. Ông Diệm bàn nên đến ẩn tại một khu công giáo, chắc chắn sẽ được che chở. Ông Nhu gạt ngay, lệnh cho Vỹ lái xe chạy thẳng vào Chợ Lớn. Nhu cho rằng nhóm đảo chính dư sức đoán ra hướng trốn đi, đã chăng lưới sẵn chờ rồi. Phải tính điều bất ngờ, Nhu hướng Vỹ đưa thẳng đến nhà Mã Tuyên, một thương gia cơ sở kinh tài trung thành của ông.
    Chiếc xe tải chở đồ nhỏ, xấu xí, đã qua mặt quân đảo chính an toàn, và cả nhóm đến được địa điểm đã định hoàn toàn vô sự. Sau một giờ ổn định chỗ tạm ẩn trong nhà Mã Tuyên, Nhu mới hỏi ý ông Diệm:
    - Nghe họ tuyên xưng tên họ trên đài, chỉ còn lại không quá mươi người, hoặc còn trung thành với chúng ta, hoặc đã bị họ sát hại. Em thấy không còn hy vọng vào thực lực của chúng ta nữa, tình trạng của chúng ta đã bị đe dọa thực sự rồi. Em tính, chúng ta phải đi thôi.
    Ông Diệm thất thần đến ngơ ngác, hỏi lại:
    - Chú tính đi mô đây?
    - Đi Hương Cảng bằng tàu buôn của người Hoa. Em cho Mã Tuyên đi lo ngay, đó là con đường duy nhất có khả năng thoát hiểm.
    Lặng đi khá lâu, ông Diêm mới mở lời:
    - Bằng cách như chú nói, mười lăm năm trước con đường vượt biển này đã đưa tôi đến Dòng Thừa sai Hoa Kỳ Maryknoll, đức cha (Thục) đã đi theo đưa chân tôi tới Hương Cảng mới trở về. Những dằn vặt, lo âu, cả tủi nhục gắn với tôi suốt nhiều năm lưu lạc. Được nuôi ở dòng tu, rồi được đưa đi khắp nơi vận động, không khác gì món hàng chào rao ngã giá. Tôi đã phải hứa và đã quyết phải thành công. Và tôi đã thành công... Tôi quá mệt mỏi rồi, không còn sức, cũng không dám nhìn lại vết xe ngựa nguyên dấu....
    Ông Nhu xúc động cúi đầu, lại rít hên tục những hơi thuốc dài, trong khi ông Diệm ngước mắt nhìn khoảng không, đôi mắt nhiều lòng trắng hơn đen, không còn sắc lạnh, dịu đi nhiều như mỗi lần nguyện cầu trước tượng Chúa. Khá lâu, ông lại tiếp lời:
    - Tôi hứa với những người Mỹ, cũng để hứa với lòng mình phải thành công thôi, để gia đình không lụn bại, dòng họ còn chi mô? Bây giờ lại mất tất cả, tôi quá tin ở Người Mỹ để "cạn tàu ráo máng" với người Pháp, chẳng còn nơi để dựa. Đi mô đây khi chính người Mỹ đã bỏ ta rồi? Có điều tôi tin họ không thể xuống tay, Mỹ và Vatican sẽ dành cho anh em ta đường sống.
    Ông Nhu vẫn im lặng. Ông Diệm đứng lên đi lại phía bàn có đặt máy điện thoại, quay số chầm chậm. Đồng hồ trên tường chỉ 5 giờ 20 chiều. Ông Diệm nói tiếng Anh rành rọt từng tiếng:
    - Tòa đại sứ Mỹ?... Cho tôi được nói chuyện với ngài đại sứ Cabot Lodge. Vâng, tổng thống Ngô Đình Diệm.... Chào ngài đại sứ, tôi xin báo để ngài biết, có vài đơn vị quân đội làm loạn, tôi muốn được ngài cho biết thái độ của chính phủ ngài.... Tôi hiểu, nhưng cũng nên cho tôi nghe ý kiến riêng của ngài chứ?... Được, tôi chờ... Tôi đã tạm lánh ở nhà riêng của một bang trưởng Triều Châu khu Hoa kiều Chợ Lớn... Hiện tôi vẫn bình an...
    Điện thoại số 37.301. Trong khi chờ đợi, yêu cầu ngài đại sứ không cho bất cứ ai biết tôi đang ở đây. Cám ơn ngài.
    Ông Diệm đặt ống nghe xuống, quay lại với ông Nhu:
    - Lodge mới biết có bạo động thôi, còn chờ báo cáo của CIA nên chưa hiểu rõ nội vụ. Hắn sẽ báo về Hoa Thịnh Đốn, nhưng rất ít hy vọng được Kennedy giải quyết sớm vì lúc này ở Mỹ là nửa đêm. Đến sáng mới có thể triệu tập hội nghị. Bàn rồi mới có chỉ thị chính thức, vậy là phải từ 6 đến 10 tiếng đòng hồ sau Lodge sẽ thông báo lại cho tôi. Phần cá nhân hắn không dám có ý kiến, vấn đề nội bộ của Việt Nam hắn nói tôi tự giải quyết lấy. Tôi đã cho hắn biết chỗ ẩn của chúng ta và số điện thoại.
    Nhu thở dài:
    - Anh đem tính mạng ra đánh cá với Lodge?
    - Tôi tin hắn có liêm sỉ, biết tự trọng.
    Đúng lúc ấy Cao Xuân Vỹ vào thông báo: "Dinh Gia Long đã đầu hàng, quân đảo chính đã biết chúng ta đã rời khỏi dinh từ trước nhiều giờ. Họ ra lệnh bao vây thành phố, chặn các đường ra, và truy lùng khẩn cấp". Ngừng lại giây lát, không thấy anh em ông Diệm phản ứng gì, Vỹ với giọng nói run run:
    - Họ đã làm chủ hoàn toàn thủ đô.
    Căn biệt thự của Mã Tuyên ở đường Phùng Hưng im ắng chìm trong bóng tối, anh em ông Diệm và mười người tùy tùng ở hai phòng sát nhau phía trong vẫn còn an toàn, quân đảo chính chưa kịp phát hiện. Gia đình bang trưởng Mã Tuyên phục vụ rất chu đáo, bàn ăn đã dọn lên từ chiều, nhưng tất cả không ăn, chỉ uống trà, hút thuốc. Trong căn phòng ngủ dành cho anh em ông Diệm đèn rực sáng, ông Nhu vẫn nằm trên ghế dựa, ông Diệm ngồi xếp bằng hơi ngả lưng dựa thành giường. Cả hai yên lặng khá lâu, mắt nhìn vào khoảng không, vẻ suy tư hằn sâu trên vầng trán. Ông Nhu đã ra lệnh tắt đài thu thanh từ chiều, không ai còn muốn nghe lại tin thắng lợi của quân đảo chính. Bất ngờ ông Nhu lên tiếng:
    - Đức cha (Thục) đã có mặt ở Roma, còn nhà em đã đến Mỹ rồi. Cả Vatican và Hoa Thịnh Đốn phải quan tâm đến anh em mình. Anh không nên lo nghĩ nhiều. Dù đã mất hết, nhưng chúng ta vẫn còn mạng sống.
    Ông Diệm hơi quay đầu đưa mắt nhìn ông em, hai má rung nhè nhẹ:
    - Hy vọng là rứa!
    Thời gian trôi chậm chạp, nặng nề, ông Diệm và ông Nhu không hề chợp mắt. Ở phòng ngoài số tùy viên cận vệ dưới sự chỉ huy cua Cao Xuân Vỹ không thể ngả lưng, tất cả ngồi trên ghế, ngồi trên nền, dựa lưng vào tường, im lặng. Thỉnh thoảng vài tiếng xì xào nổi lên, rồi lắng xuống.
    Chuông đồng hồ điểm bốn tiếng, anh em ông Diệm mở cửa phòng đi ra, cả hai đã thay đồ lớn màu xanh lợt trang trọng như mỗi lần tiếp khách. Ông Nhu sai Vỹ và Đỗ Thọ đưa anh em ông đến nhà thờ Cha Tam dự lễ misa. Vỹ bảo Đỗ Thọ lấy chiếc xe Land Rover của anh ta, anh em ông Diệm ngồi ghế sau, Thọ lái, Vỹ ngồi ghế trước cạnh Thọ. Xe lăn bánh ra đường, chuông nhà thờ đã gióng lên một thôi dài. Xe chạy bình yên đến nhà thờ vẫn không ai hay biết. Vỹ đưa anh em ông Diệm vào cả hai quì ở hàng ghế đầu sát cung thánh. Giáo dân ở đây hầu hết là Hoa kiều. Lễ misa sáng sớm vào giờ này thường dành cho nhưng người già lớn tuổi, họ không mảy may quan tâm và cũng chẳng ai nhận được mặt anh em ông Diệm có thể đi dự lễ sáng ở ngôi nhà thờ xa, nhỏ bé này. Buổi lễ diễn ra khoảng 30 phút do linh mục chánh xứ người Pháp, tên thường gọi là cha Jean làm chủ lễ. Lễ xong, giáo dân ra về, anh em ông Diệm đi vào phía trong, nơi ở của linh mục, lúc này cha Jean mới nhận ra, đón cả hai vào phòng riêng tiếp đãi.
    Ông Diệm sai Đỗ Thọ gọi điện thoại cho tướng Trần Thiện Khiêm, báo cho Khiêm tới gặp tại nhà thờ. Thọ làm theo lệnh. Nhưng không lâu sau không phải Khiêm, mà là hai chiếc thiết giáp M-113 đã rền rĩ nghiến đường lao thẳng đến sát cửa nhà thờ. Đại tá Dương Văn Lắm và hai viên đại úy đi kèm, đại úy Dương Văn Nghĩa, em ruột Lắm, đại úy Nguyễn Văn Nhung sĩ quan cận vệ của trung tướng Dương Văn Minh, nhảy xuống xe, lao vào phòng cha Jean. Lắm đọc to lệnh bắt hai em ống Diệm của Hội đồng quân nhân Cách mạng. Chẳng hề nhẹ nhàng, họ thẳng tay kéo, đẩy hai anh em ông Diệm vào một chiếc thiết giáp, còn chiếc kia chở cả một tiểu đội lính vũ trang đi áp tải.
    Xong xuôi, Lắm bước đến báo cáo với tướng Mai Hữu Xuân ngồi sẵn trên xe Jeep đậu ở phía ngoài. Xuân ra lệnh cho hai xe thiết giáp quay về Bộ Tổng tham mưu tức khắc.
    Nhưng khi đoàn xe về đến nơi, anh em ông Diệm chỉ còn là hai cái xác đẫm máu, người ta đã hạ sát ở dọc đường bằng súng và cả bằng dao đâm nhiều nhát.
    Một số tướng có ý muốn dành mạng sống cho ông Diệm, trong đó có tướng Đỗ Mậu, Trần Thiện Khiêm, đã ngỡ ngàng, hỏi lý do, hỏi lệnh của ai? Không một ai trả lời. Tướng Dương Văn Minh hỏi lại:
    - Anh nào thắc mắc về cái chết của hai tên đao phủ? Đi tìm ngay những oan hồn đã bị anh em họ chặt đầu mà chất vấn.
    Mọi người im lặng.
    *
    Tướng Đỗ Mậu, trong bộ quân phục quân hàm cấp tướng rủ Vũ đi ra xe cùng ngồi xe của ông ở băng sau, băng trước là tài xế và sĩ quan cận vệ. Thiếu tá Thăng với ba sĩ quan cấp úy đi xe Jeep tùy tùng. Hai chiếc xe nối đuôi nhau chạy thẳng đến cổng bộ tổng tham mưu. Nhận ra xe của tướng Mậu - nhân vật thứ ba trong Hội đồng quân nhân cách mạng, viên hạ sĩ đứng nghiêm chào, ra lệnh cho lính mở rào cản. Cả hai xe đi vào chạy qua nhiều con đường rẽ trái, rồi phải, sau cùng dừng lại ở một bãi cỏ sát hàng rào, bên kia xa hơn là cư xá gia binh Chí Hòa. Ánh hoàng hôn xuyên qua rặng cây cao phía trái tràn xuống, điểm những vũng sáng vàng long lanh trên đám cỏ có gió lay nhè nhẹ. Vũ theo tướng Mậu rời xe, đến trước một đống đất xám trắng vun cao còn mới. Vừa lúc một đại úy đơn vị hộ vệ lái xe tới, bước xuống, đứng nghiêm chào tướng Mậu, và báo cáo:
    - Thưa thiếu tướng, nơi đây chôn thi hài ông Diệm và ông Nhu hồi sáng nay.
    - Phía nào đặt thi hài ông Diệm?
    - Thưa, chính tôi có nhiệm vụ đưa hai quan tài đến chôn ở đây, lúc đó thi hài đã nhập quan, không làm dấu ghi tên, chúng tôi không biết quan tài nào là của ông Diệm, hoặc của ông Nhu. Người ta đã đào sẵn một huyệt lớn, chúng tôi đặt hai quan tài sát bên nhau và lấp lại.
    Thiếu tá Thăng đã đốt xong một bó nhang, đưa tận tay cho tướng Mậu. Một sĩ quan cận vệ đưa từ xe xuống một khay trái cây, một tập giấy vàng mã, đặt sẵn trên mồ. Thiếu tướng Mậu cúi nhìn bó nhang cháy đỏ bốc khói nghi ngút. Vũ cho rằng, ông Mậu chi muốn bái vọng tổng thống Diệm, người đã tình nghĩa gắn bó với ông suốt 40 năm, còn với ông Nhu trong lòng ông Mậu chưa nguôi giận đã đối xử xấu với cá nhân ông, chưa hết thù vì ông Nhu đã phá hoại sự nghiệp của người anh trong đó có công lao phục vụ của tướng Mậu. Ông Mậu im lặng hồi lâu rồi bước lên vài bước cắm bó nhang giữa phía đầu mô đất, ông khấn lớn tiếng:
    - Thưa cụ, tôi Đỗ Mậu đau buồn thương tiếc, đứng trước vong hồn cụ để kính bài. Suốt chặng đường theo phò cụ vì nghĩa vụ quốc gia, vì hạnh phúc của muôn dân, tôi đã giữ lòng trung với cụ. Chỉ một khoảng cuối đời cụ đã vấp sai lầm nghiêm trọng không chịu nghe chính ngôn can gián, để sự nghiệp suy đồi, cho nên vì tổ quốc tôi phải chống lại cụ. Cho đến lúc này tôi không hề oán hận cụ, chỉ thương cụ, tôi thề có Trời Phật chứng giám, tôi không tham gia giết cụ. Tôi đã cố sức bảo vệ mạng sống cụ đến cùng, nhưng lực bất tòng tâm. Mong cụ hiểu cho lòng tôi. Tôi xin được lập theo lời cụ sinh tiền thường xuyên cầu nguyện "Xin Chúa cứu rỗi linh hồn cụ". Còn riêng tôi cầu Trời Phật phù hộ vong hồn cụ tiêu diêu cực lạc.
    Vĩnh biệt cụ.
    Tướng Mậu rất thành kính, chậm rãi vái năm lần thật sâu. Thiếu tá Thăng đốt số vàng mã rải cạnh mộ. Mọi người im lặng đứng nhìn buổi tiễn đưa. Ánh lửa từ nhóm giấy vàng sáng rực hơn, khi hoàng hôn vừa xuống.
    Vũ theo tướng Mậu lên xe, anh quay lại nhìn một lần nữa, một nấm mồ, một cụm hương le lói, anh nhớ lại lời Thành Minh hôm nào: "Chúng ta sẽ chứng kiến chính bọn Mỹ ở đây tự đào mồ chôn cái "chế độ thực dân mới" của đế quốc xâm lược ngay tại miền Nam Việt Nam này. Không còn lừa bịp được ai nữa!"
    Hết
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này