1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Đông Cung - Tác Giả : Phỉ Ngã Tư Tồn - Tình Trạng : Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Quân Tích Trúc, 28/3/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 20
    Lí Thừa Ngân lại trừng mắt: “Nàng dám!” Tôi ngoác mồm hô: “Mọi người mau qua lầu sau xem Hoàng…” chữ sau đã bị Lí Thừa Ngân chặn đứng ngay từ khóe miệng, chưa kịp nói trọn vẹn. Hắn không dùng bút, lập tức vốc một nắm bột yến, khoanh một vòng tròn rõ to trên cánh cửa, rồi phủ đầy bột yến lên. Tiếp đó lại dùng than chì, chấm chấm vẽ vẽ lên vết mực, hiếm khi thấy Lí Thừa Ngân vẽ tranh, chứ đừng nói tới việc dùng đâu ngón tay mà vẽ, những kẻ xung quanh tấm tắc khen ngợi, tôi cũng thấy tò mò. Chỉ trông đầu ngón tay hắn mải miết phác nét, bôi bôi tô tô, ngông nghênh không thiết dùng bút, cứ bôi trát cho đến khi vừa ý, dần dần cũng phác họa ra hình dáng tổng thể, sau cùng – hắn cẩn thận thêm thắt dần, đám người xung quanh không tránh khỏi nín lặng ngắm nhìn dáng vẻ hắn thong dong vẽ vời.

    Đến cuối cùng cũng vẽ xong, vừa nhìn đã thốt lên “ôi”! Vết mực bị hắt vào giờ biến thành cảnh núi non ngút ngàn trùng điệp thoắt ẩn thoắt hiện giữa khói trời mênh mông, chóp núi mờ xanh, dặm biếc trầm mình trong mù sương, mặt trời đỏ ối mới ló rạng, quả là một bức tranh sơn thủy hoành tráng, mỹ lệ.

    Vương đại nương vỗ tay cười bảo: “Vẽ đẹp phết nhỉ! Mẹ toan bỏ tiền mời thợ cả An của Tây phường qua tết này đến vẽ cửa, thoạt đầu định bụng làm một bức ca vũ, nhưng công nhận tranh An sư phụ vẽ thua xa bức này!” Thì lẽ đương nhiên, Thái tử đương triều mà lại, từ nhỏ theo học toàn thầy nổi tiếng, thơ từ ca phú cầm kỳ thi họa, cái gì chẳng biết, cái gì chẳng hay, đương nhiên tài vẽ phải hơn hẳn mớ tranh thủ công tầm thường chứ.

    Lí Thừa Ngân rất đỗi hả dạ, ung dung phủi tay, chốc lát lại nhấc than chì kẻ mày, bổ sung 3 chữ rõ lớn: “Cửa vẩy mực”. Mặc dù tôi không am hiểu thư pháp, song cũng đôi phần cảm nhận được cái khí thế siêu phàm thoát tục toát ra từ nét bút như rồng bay phượng múa mà Lí Thừa Ngân viết trên cánh cửa. Sự hả hê của hắn đâu đã nguôi, lại đề thêm 1 dòng lạc khoản nho nhỏ bên dưới: “Lí Ngũ Lang Thượng Kinh”, lúc ấy mới hài lòng đoạn quẳng miếng than đi, lên giọng bảo : “Múc nước! Rửa tay!”

    Vương đại nương hăm hở tự mình bưng nước cho hắn gột tay. Tôi cũng lấy làm thỏa thuê lắm, tuy năm đó cha không đặng lòng gả tôi đến Trung Nguyên, thế nhưng người chồng này ngoại trừ việc cưỡi ngựa hơi kém tý, đánh nhau hơi yếu tý ra, thì mấy tài lẻ khác cũng giỏi ra trò nhỉ.

    Rửa tay sạch sẽ xong, Vương đại nương lại bảo người nấu ít điểm tâm thết chúng tôi, thoắt cái bà ấy trở nên ngờ ngợ hẳn, mắt láo liên quan sát Lí Thừa Ngân, tôi sợ bà ấy lần mò sinh nghi gì, định lấp liếm nói hộ hắn, chợt nghe thấy từ hậu viên vọng vào một tiếng “vèo”, có pháo bông phóng vào không trung. Mà cụm pháo ấy khắc hẳn với những loại bình thường khác, không những bắn cao hơn, mà còn vọt thẳng tắp, giữa màn trời đen kịt kéo lê một vệt khói theo đường vòng cung, kèm theo là tiếng huýt chói ráy, khiến ai ai cũng phải chú ý. Pháo cứ phụt tít cao, rồi nổ “bang” một tiếng đanh gọn, đám khói ấy nở rộ thành chùm pháo hoa màu vàng, sợi khói vương vãi ngang dọc bốn bề, như thể xẻ vụn sắc đêm đen huyền tựa nhung tơ kia, những vết khói giao thoa vẽ lên bầu trời quá đỗi bắt mắt, bụi vàng li ti lất phất sau cú nổ ấy, ngưng đọng trên không mãi chưa ta, phía bên kia chân trời mập mờ phản chiếu ánh xanh.

    Sắc mặt Lí Thừa Ngân cả kinh, ngoắt đầu chạy thục mạng về đằng lầu sau, tôi không kịp hỏi han gì, chỉ vội đuổi theo cho kịp. Hắn sải những bước chân rất dài, mà tôi vẫn không bắt kịp, lên cầu mái hiên tôi mới thấy có chiều ngờ ngợ, sân vườn im lìm đáng sợ, dưới chân cầu có một bóng người mặc áo đen nằm sóng soài, dưới thân có dòng máu uốn lượn chậm rãi chảy quanh, tựa một con rắn nhỏ mang trên mình đầy nỗi kì dị. Sao nơi này lại có người chết? Tôi chẳng kịp nghĩ ngợi, cuống cuồng gọi lớn: “A Độ!” Không có tiếng A Độ đáp lại, tôi luyến thoắng gọi liền mấy câu, bình thường chỉ cần hô 1 câu là A Độ sẽ xuất hiện ngay, lẽ nào A Độ xảy ra chuyện rồi sao? Tim tôi đập nhảy điên cuồng, Lí Thừa Ngân đã đạp bung cánh cửa phòng, chúng tôi rời gian phòng đó đâu chừng mới 2 tuần trà, đáng lý ra trong phòng phải ngát hương thơm, giờ đây duy chỉ một mùi máu tanh nồng phả vào mặt, sàn nhà xác người như đống đá chất chồng, tất thảy mặc chung 1 màu đen. Lí Thừa Ngân vội vã xoay tấm mành, rèm bị lôi kéo thành tả tơi tan tác, chứng tỏ nơi đây từng xảy ra một trận giằng co ác liệt. Bàn trên sập bị hất văng xuống đất, vết kiếm vằn vệt trên cột trụ, bốn bề tung tóe máu, đằng ấy người phơi thây nhiều như ngả rạ. Có gã vận đồ đen thoi thóp thở dựa người bên cột trụ, Lí Thừa Ngân vội bổ nhào đến đỡ gã dậy, khuôn mặt gã nhuốm máu, mắt trợn trừng, bả vai lộ ra xương quai xanh trắng ởn trông mà ớn mình, thậm chí cánh tay cũng bị kẻ nào đó chặt đứt lìa khỏi vai, còn hấp hối đã là kì tích. Lí Thừa Ngân gằn giọng hỏi: “Bệ hạ đâu?” Gã nọ cụt nguyên một bả vai phải, hắn dùng bàn tay trái túm lấy ngực áo Lí Thừa Ngân, túm siết sao chặt chẽ, hổn hển thở, giọng thều thào khản đặc: “Bệ hạ…bệ hạ…”

    “Là kẻ nào làm? Bệ hạ đang ở đâu?”

    “Hắn bịt mặt…thích khách bịt mặt…võ công hắn quỷ dị…thần bất tài…” Dường như kẻ ấy gắng gượng đến sức lực cuối cùng, trỏ ra phía cửa ổ mở toang, ánh mắt dần đục mờ, “…Cứu bệ hạ…bệ hạ…” Lí Thừa Ngân toan hỏi thêm, nhưng ngón tay gã cứ buông lơi, sau cùng rơi thõng trên vũng máu, im lìm bất động.

    Lí Thừa Ngân ngước mắt trông tôi, tôi thấy trong đôi mắt ấy đỏ hằn những tia máu, thân mình đã sũng màu máu, nơi nào nơi nấy la liệt người chết, tôi đâm sợ sệt. Chúng tôi chỉ bỏ đi có một chốc ngắn ngủi, chính trong lúc ấy vậy mà thích khách đã giết từng này con người, hơn nữa những người đã ngã xuống đều là cao thủ cấm vệ quân, bệ hạ cải trang vi hành, hộ giá người ắt toàn hộ vệ võ công cao cường. Giờ đây họ bị giết sạch, gã thích khách này võ nghệ tất khó lường lắm, tôi quả thực không dám mưởng tượng. Nhưng mà Lí Thừa Ngân đã nhặt một chuôi kiếm lên, thế rồi đứng bật dậy, đuổi theo phóng thẳng qua cửa sổ.

    Tôi lớn tiếng gọi: “A Độ!” Chẳng rõ A Độ chạy biến đi đằng nào, tôi nhớ sự tình lần trước, bụng lo ngay ngáy giờ A Độ an nguy thế nào. Lại thêm nỗi hoang mang thay cho Lí Thừa Ngân, võ công gã thích khách kia khó lường lắm, muốn giết tôi và Lí Thừa Ngân việc ấy thực dễ như bỡn. Tôi cũng lượm 1 thanh kiếm giữa vũng máu, lao ra khỏi cửa sổ theo hắn, tự nhủ muốn giết cứ giết, cùng lắm thì liều cái mạng này.

    Phía sau là một khoảnh sân nho nhỏ, chính giữa có đắp núi đá, những hòn đá ấy chuyển đến từ nơi phương nam xa lắc xa lơ, chồng đống giữa vườn để đỡ mấy cây hoa, giờ tiết đang lạnh, cây cối vẫn trụi lủi. Rẽ qua núi đá, Lí Thừa Ngân chợt đứng sững lại, chắp tay kéo tôi giật lùi trở lại nấp sau người hắn. Sỏi đá dưới chân lồi lõm gồ ghề, tôi ngây ngô dán mắt trên gáy hắn, tự dưng nhớ đến lần đụng độ thích khách trước đó, hắn cũng đẩy tôi ra như thế này, có thứ cảm xúc bao gồm chua chát quyện lẫn ngọt bùi đang dấy lên trong lòng mà tôi không biết nên gọi tên nó thế nào. Tôi kiễng chân nghển cổ phóng tầm mắt nhìn quanh, qua bờ vai hắn, tôi thấy đằng nọ có đến vài gã mặc đồ đen đang giằng co vây hãm một kẻ bịt mặt kín mít, võ công người đứng đầu phe vận đồ đen có vẻ khá cao cường, thế nhưng rõ ràng hắn không phải đối thủ xứng tầm với thích khách, phe mặc đồ đen đều là những cao thủ đứng đầu cấm vệ quân, trước mắt tuy đều dính trọng thương, song vẫn chiến đấu ngoan cường. Gã thích khách kia một tay lăm lăm kiếm, tay kia khống chế thêm 1 người, người nọ chính là bệ hạ. Mặc dù thích khách chỉ một tay cặp chặt cổ tay bệ hạ, tay kia dùng kiếm, kiếm pháp tung ra vẫn nhanh như chớp không gì sánh kịp, mỗi đường kiếp xuất chiêu đều vạch lên thân thể phe đồ đen một vết thương chí mạng. Nhờ có ánh trăng, tôi mới nhận ra trên núi đá loang lổ những vệt máu tươi bắn tung tóe. Vào chính ngay lúc ấy, đằng xa tít văng vẳng vọng lại tiếng sấm rền vang đùng đoàng. Gã thích khách gác kiếm kề ngang cổ bệ hạ, tất thảy những kẻ đứng đó không một ai dám nhúc nhích, chỉ bất lực mở trừng mắt nhìn hắn.

    Lí Thừa Ngân hét: “Buông người ra!” Giọng nói ấy chen lẫn tiếng sấm, tuy chẳng vang dội là mấy, thế nhưng từng chữ từng hồi nhấn mạnh rành mạch rõ ràng.

    Liệu chăng có phải bầu trời dậy sấm, tiếng động nặng trịch đằng xa kia như thể sấm nổi đầu xuân, vừa trĩu gánh lại vừa vang dội. Chưa bao giờ sự sợ hãi vươn đến tột đỉnh như ngày hôm nay, không phải nỗi sợ khi chứng kiến căn phòng đầy rẫy xác người, cũng không hề thấy kinh hãi trước 1 gã thích khách xuất quỷ nhập thần này, mà sao cứ canh cánh lo sợ không yên một nỗi gì đó không rõ ràng thành hình.

    Tiếng sấm vọng lại mỗi lúc một vang trời dậy đất, càng lúc càng rõ rệt, rồi trải qua chốc lát, tôi mới nghe rõ tiếng ấy không phải tiếng sấm sét thật, đó là tiếng vó ngựa, từ bốn phương tám hướng tiếng võ ngựa vẳng về rầm rộ nghiêng trời ngả đất, cuốn vó lao đến phường Minh Ngọc bé nhỏ này, tựa dòng thác lũ ào ào từ khắp nơi đổ dồn về, sóng dậy nối đuôi nhau từng cơn, từng đợt sóng luân phiên ập thẳng xuống nhấn chìm tất thảy chốn này. Trước kia tôi chưa từng được nghe tiếng vó ngựa dồn dập đông đúc đến thế, cho dù trên thảo nguyên tôi từng chứng kiến cảnh cha tôi điều quân xung phong bầy binh tập trận, nhưng thanh thế ấy không sánh được bằng nhường này. Thoạt đầu tôi còn nghe loáng thoáng tiếng người hoảng sợ kêu gào vọng lại từ trong phường, rồi tiếng ồn ào từ đằng lầu trước, đến sau cùng, tôi chỉ cảm nhận được rằng thậm chí những căn phòng ở bốn bề xung quanh đang có hơi hướm lắc lư đu đưa, bụi trên vòm ngói lả tả lất phất rơi vãi, đằng lầu trước giờ đây tịnh không một tiếng người, chỉ còn nghe tiếng vó ngựa cuồn cuộn tựa cơn thủy triều đáng sợ nhất, lao phăng phăng không ngừng nghỉ, giáng xuống như cuồng phong bão tố kinh hoàng nhất chốn sa mạc, cuốn gói cát bụi khắp chân trời quần tụ tại một nơi, vạn sự vạn vật giữa đất trời khó mà thoát được, chìm nghỉm giữa âm thanh đáng sợ kia.

    Gã thích khách vẫn lẳng lặng, mà thanh kiếm kia đang thúc ép bệ hạ thụt lùi dần từng bước.
    Không một ai dám manh động, bất thình lình bệ hạ quát: “Tằng Hiến! Giết thích khách đi!” Thì ra thủ lĩnh phe áo đen tên gọi Tăng Hiến, tôi từng nghe qua cái tên này, biết ông ấy là tướng chỉ huy có tiếng trong Thẫn vũ quân, võ công cái thế, nghe đồn sức lực một trăm kẻ không địch nổi một mình ông. Trên bả vai Tằng Hiến đang tí tách nhỏ máu, lúc này đây dồn sát từng bước một, mũi kiếm của gã thích khách kia sắc lạnh ngời ánh thép, kề ngay cổ họng bệ hạ, giằng co mãi khó lòng phân thắng bại, tôi bức bách đến nỗi mồ hôi nơi sống lưng rịn ra buốt lạnh. Lí Thừa Ngân tự dưng khẽ cười, đoạn bảo thích khách: “Ngươi biết ta là ai chứ?” Gã thích khách bịt mặt kín mít, chỉ lộ ra đôi mắt, ánh mắt ráo hoảnh vô tình không nhuốm một thần sắc biểu cảm nào, ánh nhìn lạnh lẽo chiếu trên người Lí Thừa Ngân.

    “Giờ đây, ngoài kia, cánh quân tiếp viện của Thần Vũ quân hẳn đã bao vây kín chỗ này, người mà phản kháng, ắt trở thành cái đích cho ngàn vạn mũi tên. Chỉ cần lúc này người buông kiếm hàng, ta đảm bảo sẽ giữ lại mạng sống cho người.” Ánh mắt thích khách sáng quắc, phảng phất có tia do dự. Lí Thừa Ngân lại nói: “Nếu ngươi không yên tâm, ngươi cứ bắt ta làm con tin, đợi ngươi bình an rút lui, ngươi phóng thích ta sau.” Lòng bàn tay tôi túa mồ hôi, thậm chí chuôi kiếm đang cầm cứ trơn tuột. Lòng dạ cồn cào khó khăn lắm mới hạ được quyết tâm, tôi từ đằng sau vọt lên phía trước: “Muốn bắt con tin thì bắt ta đây này, dẫu sao ta cũng chỉ là phận nữ nhi yếu đuối, ngươi không phải lo ta giở trò gì đâu. Đợi ngươi rút lui an toàn rồi thả ta về là được.”

    Lí Thừa Ngân hung hổ trừng trộ với tôi, tôi chẳng màng quẳng cho hắn 1 cái lườm. Tôi thừa hiểu, mà cũng biết đây không phải trò chơi đùa nghịch, thế nhưng với tình thế trước mắt, bảo tôi trơ mắt nhìn thích khách bắt hắn làm con tin, tôi không đành lòng.

    Thích khách vẫn lặng thing, chỉ có thanh kiếm lạnh lùng là dựng đứng, Tăng Hiến đợi tiếp viện cũng không dám làm căng, đôi bên cầm cự suốt nãy giờ.

    Lí Thừa Ngân đứng chôn chân tại chỗ, mà những tiếng rầm rầm bên ngoài đột nhiên chìm cả vào tĩnh lặng, một hồi lâu trên hành lang mới vẳng về tiếng bước chân, có người đang tiến gần. Mồ hôi đầm đìa mà lạnh toát sống lưng, bụng bảo hay chăng thích khách có đồng bọn. Bước chân mỗi lúc một cập kề, mỗi lúc một áp sát, Lí Thừa Ngân chợt giơ tay nắm chặt tay tôi, lòng bàn tay hắn ran nóng, thế nhưng quái lạ làm sao tôi lại trấn tĩnh hơn. Có lẽ vì tôi biết, hắn đang ở ngay cạnh bên, dù cho nguy hiểm thì đã có sao? Cùng lắm là chết chứ gì! Hào khí ngay tức khắc dậy lên trong tôi. Thế nhưng rất nhiều người xộc vào, dẫn đầu là một kẻ vận giáp bạc, thấy tình hình rơi vào thế giằng co quyết liệt, không tránh khỏi hơi thảng thốt, thế nhưng lập tức trở nên bình tĩnh đoạn quỳ lạy. Lớp giáp mai cọ vào nhau sột soạt, thưa: “Thần Doãn Ngụy cứu giá chậm trễ, xin bệ hạ thứ tội.”

    “Đứng lên đi.” Tuy lưỡi kiếm của thích khách vẫn kề ngay cổ bệ hạ, thế nhưng giọng người vẫn hoàn toàn điềm nhiên: “Truyền lệnh giới nghiêm toàn thành, đóng 9 cửa thành.”

    “Vâng!”

    “Thần vũ quân sẽ cùng Vũ Lâm quân của Đông Cung, lục soát trong thành, truy tìm đồng đảng của thích khách!”

    “Vâng!”

    “Không được để lọt tin tức, kẻo làm rối loạn lòng dân.”

    “Tuân lệnh!”

    “Mau đi đi!”

    “Vâng!”

    Doãn Ngụy hành lễ xong cuống cuồng đứng bật dậy, rảo bước thoái lui. Tôi nghe tiếng gã ở hành lang khẽ giọng dặn dò dăm câu, rồi những tiếng bước chân gấp rút cứ thế khuất dần, thêm vài kẻ lục tục chạy ra ngoài. Qua một lúc hắn lại tiến vào, bẩm: “Kính xin điện hạ trở về Đông Cung cốt trấn an hoàng thất, chỗ này đã có thần xử trí dọn dẹp.”

    Lí Thừa Ngân lắc đầu, ánh mắt sáng quắc nhìn chằm chằm thích khách: “Ngươi thả phụ hoàng ra, ta sẽ làm con tin của ngươi.”Tayhắn vẫn nắm chặt tay tôi, tôi hét lên: “Không! Để thiếp làm con tin!”

    Lí Thừa Ngân quay ngoắt sang, hằn học trừng mắt với tôi: “Im miệng!”
     
  2. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 21
    Trước kia chúng tôi thường hay cãi vã, thế nhưng hắn nào từng tỏ thái độ gắt gỏng cộc cằn nhường này. Tuy tôi đang sợ, có điều vẫn lấy dũng khí lên giọng với thích khách: “Nhắc đến tôn quý ấy à, ta so với hai người này còn cao quý hơn nhiều, đừng tưởng bọn họ một người là thiên tử, kẻ kia là thái tử, song cân nhắc đến sự quan trọng, không đọ nổi ta đâu. Ngươi là thích khách, tất biết ta không chỉ là thái tử phi đương triều, mà còn là công chúa của Tây lương, vì mong muốn mối bang giao giữa hai nước đời đời vững bền và tốt đẹp, ta mới lấy Lí Thừa Ngân. Tuy rằng ngươi đang khống chế Bệ hạ, ngặt nỗi Bệ hạ vốn cương nghị, quyết không ngã lòng trước sự uy hiếp của ngươi đâu, người ắt sẽ cưỡng chế sai Thái tử điện hạ cùng mớ Thần vũ quân này lập tức dồn ngươi thịt nát xương tan chết không toàn thây, dẫu rằng ngươi nổi thói đại nghịch bất đạo vũng vẫy cố giết bệ hạ, đáng ngại cho ngươi, sau này Thái tử điện hạ đăng cơ, ngoại trừ con đường chết ra, ngươi không lối thoát nào là cái chắc. Nếu như ngươi bắt điện hạ làm con tin, bệ hạ còn có đến mười mấy hoàng tử khác, điện hạ tuyệt nhiên không cam chịu sự uy hiếp nào, chắc chắn lúc đó bệ hạ sẽ ra lệnh cho Thần vũ quân hạ thủ ngươi ngay lập tức, cùng lắm thì bệ hạ sẽ lập thái tử khác, thế nên, chọn cách nào thì ngươi cũng chỉ có nước chết không toàn thây. Thế nhưng ta thì khác, ta không chỉ là Thái tử phi, bản thân ta còn là công chúa của Tây Lương, giả dụ ta chết rồi, Tây Lương tất sẽ dấy quân, dẫn đến hai nước giao tranh, trăm họ lầm than, lẽ đó nên bệ hạ và điện hạ tuyệt đối không để ta chết được, nếu như ngươi bắt ta làm con tin, đảm bảo ngươi sẽ bình an thoát thân.”

    “Nói xằng!” Lí Thừa Ngân nổi giận đùng đùng, “Đại địch trước mắt, nàng nhúng vào làm gì? Ngươi đâu! Đưa Thái tử phi về Đông Cung!”

    Tôi chỉ còn nước ngọt nhạt, đăm đăm nhìn gã thích khách: “Những gì ta nói, ngươi cứ nghĩ kỹ đi nhé, xem có đúng không?”

    Không biết câu nào của tôi cuối cùng đã lay động được gã, qua một lúc lâu, gã thoáng băn khoăn rồi gật gù.

    Tôi cả mừng, thật ngoài mong đợi, vội nói: “Thả bệ hạ đi, ta theo ngươi!”

    Gã lạnh lùng nhìn tôi, cuối cùng mở miệng bảo: “Ngươi qua đây đã.” Khẩu âm của gã nghe rõ lạ, gần giống với giọng tôi hồi mới học tiếng phổ thông Trung Nguyên, bằng trắc lên xuống nghe cứ đều đều, chướng tai kiểu khó nói thành lời. Nhưng giữa lúc nước sôi lửa bỏng, bây giờ tôi tâm trí nào mà đi nghĩ ngợi lắm thế được, lúc đó tôi cò kè mặc cả với gã: “Ngươi thả bệ hạ trước đi.”

    Gã không nói hai lời, thanh kiếm trên tay dí sít sao vào cổ bệ hạ, hiển nhiên như thể sắp xẻ toác lớp da mỏng mảnh ngay yết hầu người, tôi buộc lòng phải hét lên: “Đừng động thủ, ta qua là được chứ gì.”

    Lí Thừa Ngân dợm tiến lên cốt ngăn tôi, song tôi quét lưỡi kiếm vung về phía hắn, bất đắc dĩ hắn phải lách người tránh đường kiếm, tôi bước vội mấy bước lao về đằng thích khách. Gã giơ 1 tay chụp gọn tôi, tay kia tự nhiên cũng hơi nới lỏng, chính lúc ấy chẳng rõ tiếng tên từ đâu bay vèo vèo không ngớt, hầu như đều từ những nơi cao chĩa thẳng xuống chỗ thích khách. Gã giơ tay chặn luồng tên, thân hình nghiêng ngả vặn thắt những góc độ tuyệt thế, kiếm vung loang loáng chặt đứt làn mưa tên rào rào ấy, bệ hạ chớp thời cơ chuồi người khỏi sự khống chế của gã, tôi xách kiếm đâm về phía thích khách, thế nhưng gã ra tay xuất quỷ nhập thần, hạ gục thanh kiếm trên tay tôi, chỉ một phút trì hoãn này thôi, tôi đã sải rộng cánh tay bổ nhào đến, trong chớp mắt, húc vào người bệ hạ, hẩy mạnh người sang một bên.

    Bệ hạ bị tôi đẩy giật lùi mấy bước, Tằng Hiến kịp thời chụp lấy cánh tay người, kéo người thoát khỏi mũi kiếm của thích khách. Giờ đây những ngón tay lạnh như nước đá của gã đang bóp chặt cuống họng tôi, nhưng sự lạnh lẽo ấy chưa bằng được lưỡi kiếm đang cập kề ngay cần cổ.

    “Tiểu Phong!”

    Nghe tiếng Lí Thừa Ngân gọi tên mình, tôi ngoảnh lại, chỉ kịp trông khuôn mặt hắn lúc đó, sâu thẳm trong đôi mắt kia là cái nhìn đầy đau đớn.

    Tôi thầm nhủ mình sẽ nhớ mãi nét mặt này, nếu như mai này tôi vĩnh viễn ra đi. Tôi biết bệ hạ và hắn tuyệt đối sẽ không buông tha thích khách đâu, tôi nào quan trọng là mấy, Tây Lương cũng có gì là trọng yếu đâu. Những câu nói suông mới rồi, trong lòng chúng tôi hiểu rõ hơn ai hết, tất thảy đều là dối trá.

    Thần vũ quân vây quanh bảo hộ bệ hạ và Lí Thừa Ngân, tôi cười với Lí Thừa Ngân, tuy tôi cũng biết mình cười chắc khó coi lắm đây, thế nhưng tôi vẫn gượng mình ngoác rộng miệng, nếu như đây là lần chót, tôi càng không nên khóc, tôi muốn hắn sẽ khắc ghi nụ cười này của tôi.

    Tôi he hé miệng, mấp máy môi nói không thoát tiếng: “Bắn tên đi.”

    Tôi biết Thần vũ quân hẳn đã bố trí cung thủ mai phục bốn phía trên cao, lúc này đây chỉ cần một hiệu lệnh bắn tên được phát ra, sợ gì không hô biến nổi gã thành con nhím. Gã này võ công cao cường, hạ sát vô số người, một hồi còn uy hiếp Đức hoàng đế, nếu như không trừ khử ngay, ắt hẳn sẽ lưu lại hậu họa khôn lường.

    Vậy mà Lí Thừa Ngân dường như chẳng hề để ý môi tôi mấp máy, Bệ hạ trầm giọng đoạn nói: “Chớ làm bừa!”

    Tôi ngờ đâu Bệ hạ sẽ hạ lệnh này, lưỡi kiếm lạnh toát vẫn gác ngay yết hầu, Lí Thừa Ngân giật phắt tên trên tay Tằng Hiến, giọng đanh thép mà rằng: “Nếu như ngươi dám làm tổn thương thê tử của ta, dù chỉ 1 mảy may thôi, cả đời ta-Lí Thừa Ngân này thế nào cũng phải nghiền bằng được ngươi ra thành từng mảnh, khiến ngươi chết không toàn thây mới thôi! Ngươi lập tức thả nàng ấy ra, ta hứa với ngươi từ giờ phút này trở đi có thể yên tâm mà thoát thân, ta nói được tất làm được, giống như mũi tên này!” Lời vừa dứt, Lí Thừa Ngân đã bẻ gẫy tên thành 2 đoạn “rắc” 1 tiếng, ném khúc tên gẫy xuống chân thích khách, liền quát: “Thả người mau!”

    Gã thích khách dường như cười khảy 1 tiếng, ngay sau đó gã quay ngoắt chuôi kiếm, gõ một cái rõ đau vào gáy tôi, tôi chỉ thấy trước mắt tối sầm, thế rồi lả người đi dần

    Lúc tỉnh dậy, vừa lạnh, lại thêm cơn đói, hơn nữa tay chân bị trói chặt, không tài nào động đậy được. Tôi ngẫm nghĩ cả buổi mới nhớ ra, gã thích bắt tôi làm con tin, Lí Thừa Ngân bẻ tên thề đòi hắn thả người. Thế đấy, còn tôi giờ đang ở đâu đây?

    Lúc này đã là ban ngày, trước mắt tôi, cành thông cành tùng vươn dài che lấp một mảng trời xanh, chẳng biết tôi đã hôn mê được bao lâu, cũng không hay thích khách đi đằng nào rồi, mà cái không hiểu nhất vẫn là nơi đây rốt cuộc là nơi nao.

    Có tiếng nước róc rách chảy bên tai, gió thổi thêm lạnh khiến tôi cứ run lên cầm cập, tuy không thể cựa quậy, song mắt vẫn láo liên nhìn, trông bên trái mặt có khóm cỏ khô, đằng bên phải là chồng đất đá. Chỗ xa hơn nhìn không rõ lắm, bụng tôi đói mèm, sao mà tránh được hoa mắt chóng mặt, bụng bảo dạ Thượng Kinh lớn thế này, Thần vũ quân kể cả có giới nghiêm rà soát khắp thành, đợi bọn họ sới tung từng tấc đất lên, thêm mấy ngày nữa chỉ sợ khó cầm cự nổi. Nếu như không đợi nổi Thần vũ quân đên, tôi có chết đói ra đây, chết như thế chẳng thật quá thảm thương à.

    Lúc tôi còn đang mường tượng vu vơ, bỗng một góc áo choàng ló ra phía bên tay trái, tôi đảo mắt soi xét một hồi, nhận ra đó là chiếc áo mà gã thích khách bịt mặt tối qua đã vận, chẳng ngờ hắn không quẳng lại tôi rồi cao chạy xa bay. Mà có lẽ vì chín cổng thành đã giới nghiêm, Thần vũ quân và Vũ lâm quân đang lúc truy tìm ráo riết, thế nên hắn lôi tôi ra làm bùa hộ mệnh. Gã này võ công cao siêu, giết ngươi như ngóe, mà hắn còn cả gan uy hiếp bậc Thiên tử, rõ như ban ngày gã là một tên gian tặc phản nghịch. Giờ tôi rơi vào tay gã, không rõ gã sẽ làm tình làm tội gì tôi đây, mới nghĩ đến đó thôi mà tôi đã kinh hãi không nói nổi thành lời rồi. Thế nhưng sợ thì cứ sợ, trong lòng thừa hiểu có sợ cũng chẳng tác dụng gì, đành lấy vải thưa che mắt thánh nhắm mắt vào đã, bụng bả dạ muốn giết muốn róc xương lóc thịt gì mặc bay.

    Qua một hồi lâu không thấy động tĩnh gì, bỗng đâu lại ngửi thấy có mùi thơm phức đầy hấp dẫn, tôi định bụng cứ tiếp tục nhắm nghiền mắt, thế nhưng, quả thật khó mà cưỡng lại được sức hút của mùi hương dấy lên thơm nồng ấy, cuối cùng tôi chào thua đành len lén hé mắt. Thì ra cạnh tôi đặt một bọc thịt dê nướng hoàng kì, loại thịt này, đừng nói ở Đông Cung, ngay cả trên phố cũng chỉ xếp vào loại thức ăn thường dân mà thôi, có điều tối qua tôi ngủ lay lắt cả một ngày, rồi thậm chí cơm tối cũng chưa kịp bỏ bụng, hôm nay chẳng rõ đã hôn mê bao lâu, bụng dạ từ lâu đã đói sôi sùng sục. Bọc thịt dê này đặt ngay bên cạnh, dậy mùi thơm đến điếc cả mũi, thật sự khiến tôi khó cầm lòng.

    Nhất là khi bụng dạ cứ đấu tranh không chịu thôi, nó kêu gào òng ọc nãy giờ.

    Cơ mà tay chân đang bị ràng rịt, ví như bảo tôi van vỉ gã thích khách ấy à….Hừm! Con gái Tây Lương chúng tôi, xưa nay không bao giờ hạ mình trước mặt quân địch như thế đâu.

    Chẳng ngờ gã không đợi tôi phải đi năn nỉ cầu xin, bất chợt gã nới dây trói, tôi vùng vẫy bật dậy, lúc này mới tường tận quan sát gã cho kỹ. Gã thích khách vẫn bịt mặt kín mít, dạng chân ngồi vắt vẻo trên cành cây, ôm kiếm lạnh lùng nhìn tôi.

    Nơi đây hình như là ven sông, tôi nghe thấy có tiếng nước chảy. Bốn bề san sát những lau già sậy úa, vẳng nghe khắc khoải mơ hồ đâu đó có tiếng vịt giời, gió thốc tháo thổi từng cơn rùng mình, lạnh buốt da thịt. Tôi trông bọc thịt dê ấy, bấm bụng nuốt nước bọt ừng ực, từ từ duỗi cổ tay, trong lòng cân nhắc xem nên bỏ trốn thế nào đây. Gã thích khách này đưa tôi thức ăn, chắc chỉ một chốc lát nữa thôi gã sẽ giết tôi không biết chừng, gã ắt hẳn đang có sự kiêng dè, thế nhưng làm sao mới thoát khỏi tay gã đây, võ công gã cao siêu là thế, chỉ e ngay cả A Độ cũng không xứng làm đối thủ.
    Tay thích khách như thể biết tôi đang nghĩ gì, đoạn bảo: “Trốn? Chặt đứt gân chân.” Gã thảy một câu gọn lọn, vẫn giọng điệu đều đều không lên xuống ấy, nghe sao cổ quái lắm, thế nhưng may ra tôi vẫn hiểu được. Gã vừa nói, tôi cứ thử chạy mà xem, gã chặt đứt gân chân tôi ngay. Tôi cóc sợ nhé, tôi liếc xéo gã, còn lè lưỡi trêu ngươi. Có một câu vô cùng phù hợp với hoàn cảnh này, ấy là sống chết có số, giàu sang phú quý do trời định, bụng bảo dạ thôi thì đã lâm vào bước đường này rồi, chi bằng cứ chén thịt dê cái đã, kẻo trước khi có người đến cứu thì mình đã sớm tạ thế vì đói.

    Nghĩ thế xong tôi liền bốc thịt dê, bắt đầu ngoạm một miếng thật to nhai ngấu nghiến. Cũng không rõ vì tôi đói lả người nên mới cảm thấy mùi vị bữa thịt dê này lại có phần giống với đầu bếp nội cung hằng làm hay chăng, ăn rõ ngon, thật sự rất ngon, ngon quá đi mất! Con người ta một khi đang đói ấy à, nuốt cái gì mà chả ngon, huống chi còn là món thịt dê hoàng kì. Tôi ăn thỏa thuê một cách ngon lành, gã thích khách cuối cùng không kiêng nể gì, buông một tiếng cười khẩy.

    Đằng này tôi vẫn vừa nhai nhồm nhoàm, miệng vừa bảo: “Ta biết ngươi đang cười gì rồi…Chẳng qua cười ta đường đường là Thái tử phi, mà tướng ăn khó coi thế này chứ gì? Ôi dào, bộ dạng ta lúc ăn có ưa nhìn hay không thì liên can quái gì đến loại thảo khấu như ngươi? Vả lại nữ tử Tây Lương chúng ta xưa nay không thèm chú ý mấy chuyện vặt vãnh này đâu. Ngươi bắt cóc ta đến đây, đừng tưởng bở ngươi cho ta ăn thịt dê là ta sẽ tha cho ngươi nhé, nói cho ngươi hay, lần này ngươi gây họa lớn rồi. Cha ta là ai ngươi biết không hả, nam nhi Tây Lương mà biết ngươi dám trói ta, thể nào cũng cho ngựa giày xéo ngươi thành thịt băm thì thôi. Ví như ngươi còn muốn giữ cái mạng nhỏ ấy, thì đời này cứ ngoan ngoãn mà lui vào trong Ngọc Môn Quan đi, kẻo một khi đã lạc bước đến địa giới Tây Lương ắt không tránh khỏi bị ngựa quần chết đâu. Song ngươi có ở lì trong Ngọc Môn Quan e cũng khó bảo toàn mạng sống đấy, thì bởi phụ hoàng ta, ngươi cũng biết Người là đấng thiên tử, thiên tử mà nổi giận ấy à, thể nào chẳng có máu chảy đầu rơi, ngươi chọc ai không được à mà cứ phải chọc đúng Hoàng đế cơ. Mà còn phu quân của ta, còn Lí Thừa Ngân nữa chứ, chính là đương kim Thái tử ấy, Thái tử ngươi hiểu không hả? Là Hoàng đế tương lai đấy. Ngươi mà làm hắn bực lên ấy à, tuy không bì nổi với sự giận dữ của bậc đế vương, song bảo nghiền ngươi thành nước sốt thịt tất dễ như trở bàn tay…”

    Tôi hí ha hí hửng ăn thịt dê, nửa huênh hoang dọa dẫm nửa ba hoa khoác lác, thao thao bất truyệt nói một chặp, gã thích khách cũng không đáp lại, tôi chén xong món thịt dê, hắn vẫn chẳng ho he lấy 1 tiếng, thật mất hứng. Tôi trông loại vải phổ thông hắn mặc trên người, rồi cả thanh bảo kiếm ôm khư khư trong lòng cũng chẳng có bất kì dấu mốc nào, xem ra lai lịch lẫn thân phận gã khó mà đoán được. Cũng chẳng hay vì lí gì hắn lại đi uy hiếp Bệ hạ. Mới ngẫm đến đó, tôi chợt nhớ ra một chuyện.

    Khởi đầu thì Tôn Nhị gây sự, tiếp sau đã có thích khách khống chế bệ hạ, nếu như bảo hai vụ việc này không có bất kì sự liên quan gì đến nhau, đánh chết tôi cũng không tin. Thế nhưng cái ngữ vô lại cỡ Tôn Nhị làm sao mà quen biết được gã thích khách võ công cái thế này nhỉ… Mắt tôi đảo qua đảo lại, cật lực suy nghĩ tìm tòi xem có thể lần ra manh mối nào giữa 2 sự việc này. Gã thích khách nhìn tôi bằng con mắt rõ lạnh lùng, có nhìn tôi cũng cóc sợ, nhân tài chỗ bệ hạ thì thiếu chắc? Kể cả Lí Thừa Ngân cũng phải loại ngu đâu, hắn tất sẽ ngẫm tới việc Tôn Nhị gây sự vẩy mực, rồi từ vụ Tôn Nhị bắt đầu lần mò tra xét ra thích khách.

    Gã này võ công cao cường, hành tung lại bí ẩn, truy vấn ắt khó đây. Nhưng Tôn Nhị là loại côn đồ khét tiếng, đầu đường xó chợ đều nhẵn mặt, thằng lưu manh ấy gốc vùng ngoại ô, họ hàng thân thích mấy đời đều ở Thượng Kinh, có chạy đằng giời cũng không thoát, chỉ cần nắm chắc trong tay thằng cha Tôn Nhị kia, lo gì không lần ra đầu mối. Một khi có manh mối rồi, sớm muộn thế nào chẳng cứu tôi thoát khỏi bàn tay quỷ dữ này.

    Một thân một mình thích khách mà chấp toàn những cao thủ thượng thặng của Thần vũ quân, thiết nghĩ đằng sau tài hô phong hoán vũ gần như bất khả chiến bại của gã, lai lịch ắt không phải loại vừa. Trước khi xuống tay, hòng tránh tai mắt người trong phường, thằng ch này sai Tôn Nhị đến gây sự nhằm đánh lạc hướng, nhưng cũng không cần làm căng, cốt để kéo tôi và Lí Thừa Ngân ra lầu trước, nếu như lúc đó chúng tôi không bị dẫn dụ, chưa biết chừng còn bị thích khách giết rồi cơ… nghĩ lại vẫn rùng mình, bỗng nhiên thấy mình sống bình an bao nhiêu năm cho đến tận ngày hôm nay thực chẳng dễ dàng gì. Nếu như không sự bảo vệ của A Độ… Mà A Độ…Tôi nhảy dựng lên, trợn mắt với gã thích khách: “Ngươi giết A Độ rồi à?”

    Gã không đáp, chỉ lừ lừ nhìn tôi.

    Ngẫm ra, trước mặt gã tôi chỉ là một kẻ trói gà còn không chặt, nhưng nếu mà hắn giết A Độ thật, thế nào tôi cũng phải liều mạng với hắn. Tôi gườm gườm nhìn hắn, bụng bảo dạ võ nghệ A Độ cũng cao siêu lắm, thằng cha thích khách này tuy có phần nhỉnh hơn, song nếu hắn xuống tay với A Độ, thể nào chẳng tự chuốc lấy đôi chỗ xây xát, A Độ được cái giống tôi, cho dù có chết cũng quyết sống mái một phen với đối phương, phải để lại trên người hắn mấy vết thương mới bõ. Thế mà hắn có thể rút lui an toàn, nhất định A Độ vẫn còn sống. Tôi cứ nghĩ mãi, cảm thấy cớ ấy võ đoán quá, bèn quay sang đánh giá tính cách thích khách, gã chuyên môn nhả mấy câu gọn lỏn, tôi đoán chẳng ra. Thế nên trong lòng cứ thấp thỏm không yên, chỉ lo cho A Độ.

    Chính lúc ấy gã tuốt kiếm ra, chỉ vào tôi, thản nhiên bảo: “Ăn no rồi thì lên đường.”

    Thì ra bữa thịt dê ấy đã là bữa cuối cùng, giống như tử tù trước khi bị bêu đầu bao giờ cũng được thết đãi một bữa no nê. Trong lòng tôi chẳng mấy sợ hãi, sở dĩ biết rõ rành rành bây giờ có van xin cũng vô ích. Tôi ưỡn ngực đoạn bảo: “Muốn giết thì giết đi, thế nào cha ta cũng tìm ngươi báo thù. Còn phụ hoàng, còn cả Lí Thừa Ngân….còn cả A Độ nữa, A Độ mà còn sống, nhất định sẽ chặt đứt đầu ngươi, lấy xương sọ ngươi cho phụ vương ta nấu rượu.”

    Gã lạnh lùng nhìn tôi, đột nhiên tôi lại nhớ dôi ra 1 người nữa, tôi vênh vang tự đắc nói với gã: “Còn nữa nhé! Ta còn có một ngươi bạn cũ là cao thủ võ lâm, ngươi mà giết ta ấy à, đảm bảo kiếp này hắn sẽ không tha cho ngươi đâu. Kiếm pháp của ngươi kém xa hắn nhiều lắm, hắn ra tay nhanh hơn hẳn ngươi, đường kiếm như chớp nháy, bất cứ lúc nào cũng có thể lấy đầu ngươi, ngươi cứ đợi đấy!”

    Thì gã thích khách cũng chẳng hề bị dao động bởi lời tôi, thanh trường kiếm trên tay khẽ nhích 2 phân. Tôi buông neo như tiếng thở dài, ăn no rồi chết, đành coi như chết cũng không tiếc vậy, chỉ thương thay trước đó tôi vẫn chưa hay biết A Độ an nguy thế nào thôi.

    Gã thích khách thở dài, lạnh nhạt bảo: “Nàng còn gì trăn trối không?”

    “Trăn trối thì không có.” cố nén tiếng thở dài, “Giết sao cho dứt khoát gọn ghẽ là được.”

    Trong đôi mắt lạnh buốt của gã dường như không một mảy may ưu tư, đoạn bảo: “Nàng tình nguyện chết vì chồng mình à, hóa ra cũng là 1 nữ tử có tình có nghĩa đấy, nàng yên tâm, một nhát kiếm của ta nhất định sẽ rất gọn.”

    Tôi buột mồm kêu lên: “Ai bảo ta vì chồng mà chết! Đằng sau có sự khác biệt to lắm đấy nhé! Người ngươi uy hiếp là bệ hạ cơ mà, bệ hạ có phải chồng ta đâu! Còn như chồng ta ấy à….ta nợ chàng một kiếm thì giờ trả là đúng rồi còn gì.”

    Cổ tay gã vừa rung, gã vung kiếm, bất thình lình tôi lại gào to: “Gượm đã!”

    Gã vẫn lạnh lùng nhìn tôi, tôi nói: “Đằng nào thì cũng sắp chết, ngươi tháo khăn bịt mặt xuống để ta nhìn ngươi mặt mũi ngang dọc ra sao đã. Kẻo chết rồi, ta lại biến thành oan hồn dớ dẩn, đến kẻ giết mình là ai mà chả biết, muốn hóa thành ma ám người cũng không có cớ.”

    Câu này nói rõ vớ vẩn, đương nhiên thằng cha này không chịu nhân nhượng, thanh kiếm cứ tuốt dần ra thêm mấy phân. Tôi lại thét: “Khoan khoan! Trước khi chết, để ta thổi một bài khèn tất lật cái đã. Người Tây Lương chúng ta trước khi chết nếu mà không được thổi một bài khèn, sau này không được luân hồi đâu.”

    Tôi vốn cũng chả hy vọng gã sẽ tin mấy lời nói hươu nói vượn này, ai ngờ gã lại gật đầu.

    Tôi bắt đầu lo sốt vó, nhưng nghĩ không ra cách hòng tháo chạy, cứ lần khần một lúc lâu thật lâu. Tôi đang mò mẫm trong tay áo, vờ như đang tìm khèn, nhưng lại ngấm ngầm mò ra một thứ giống thế, phắt cái đã rút ra, giương tay vẩy về phía gã.

    Thứ tôi mò được là bột yến, loại phấn hồng ấy vừa nhẹ lại mảnh, bị gió thốc tung, ám vào mặt gã. Loại này thơm thì không gì bằng, đương nhiên gã tưởng thuốc mê hay phấn độc gì, nhưng mà kẻ này cũng gớm ghê lắm, phất tay 1 phát, đống bột đã bị gió từ tay áo quạt sạch, dạt xa tít đến hơn một trượng, đừng có nói là thuốc độc, mà có là thuốc độc chỉ e khó lòng dính được lên người gã. Chẳng qua cái tôi cần chính là lúc gã phất tay, chớp lấy thời cơ ấy tôi vội bắn ra một thứ khác, chiếc tên kêu vọt thẳng lên trời, phát ra những tiếng đinh tai nhức óc.

    Tôi có lừa gã đâu. Tôi có 1 người bạn cũ rất tốt thật mà, tuy tôi không nhớ tình hình bạn bè giữa chúng tôi thế nào, song tay bạn cũ ấy hiện nay quả thật là cao thủ võ lâm, hắn đưa tôi tên kêu, tôi chỉ dùng có 1 lần cứu A Độ. Giờ tôi đang cập kề nguy hiểm, đương nhiên phải bắn ra, để hắn mau chóng đến cứu chứ.

    Lâu lắm rồi chưa được gặp Cố Kiếm, chẳng rõ hắn có đến kịp thời hay không, tôi nôn nóng đến nỗi mồ hôi lạnh chảy ròng ròng theo sống lưng, thế mà gã thích khách hoàn toàn thờ ơ với viên đạn kêu mà tôi vừa mới bắn, hắn thò tay cặp thắt lưng tôi, nhấc bổng cả người tôi lên. Mặc dù tôi không béo, song cũng là 1 người trưởng thành, gã nhấc tôi như nhấc 1 đứa bé sơ sinh.Tay trái gã vận lực quăng 1 phát, hiển nhiên quẳng tôi bay rõ xa.

    Tôi như con diều giấy đứt dây, vẽ một đường cung giữa không trung, không điều khiển được thân thể, cả người rơi xuống, tay chân rờ mó giữa hư không toan nắm chụp thứ gì đó, thế mà chỉ có toàn là gió. Chưa cho tôi thời gian để định thần, chỉ kịp nghe “tõm” 1 tiếng, nước lạnh buốt từ bốn bề đã ùa vào, thì ra gã vừa ném tôi, mà lại ném thẳng tôi xuống sông.
     
  3. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 22
    Tôi không hề biết bơi, gã thích khách lại dồn sức vào cú ném, tôi chìm xuống tận đáy nước sâu hoắm, nước sông lạnh thấu xương bủa vây tứ phía, trên đỉnh đầu phủ một màu nước xanh lam buốt giá, tôi chỉ nhìn thấy nơi đỉnh đầu ấy có le lói tia ánh sáng…Nước ùa vào miệng òng ọc, nhớ lại cái lần nhảy xuống sông cứu người, lúc đó còn có A Độ vớt tôi lên, rồi kiện cáo tố tụng ở huyện Vạn Niên, Bùi Chiếu ngày hôm ấy mặc bộ thường phục gọn nhẹ, nom vậy mà gần gũi đáng yêu.

    Lúc ấy nhớ Bùi Chiếu khiến tôi rất đỗi kinh ngạc, nhưng ngay lập tức tôi đã nghĩ tới Lí Thừa Ngân, chẳng ngờ cho đến tận cùng lúc này đây, giữa tôi và Lí Thừa Ngân vẫn không tồn tại duyên số, đương lúc tôi thích hắn mà hắn cũng thích tôi…..nếu tình cảm hắn dành cho tôi chẳng là gì sâu đậm, hẳn sẽ không bẻ tên thề trước mặt đông đảo mọi người đâu nhỉ? Suy cho cùng, chỉ là duyên phận của chúng tôi không thuộc về nhau, may sao vẫn còn Triệu lương đệ, trước kia tôi chưa từng thấy vui mừng là thế, vẫn còn có Triệu lương đệ cơ mà. Nếu như tôi có từ giã cõi đời này, Lí Thừa Ngân sẽ không mất nhiều thời gian cho buồn đau đâu, dần dà sẽ quên được tôi thôi, thế rồi hãy cứ yên vui mà sống tiếp.

    Nước không ngừng xông vào mũi, xộc vào mồm miệng, tôi sặc xiết bao là nước, cảm giác nghẹt thở tăng dần trong lồng ngực…Đốm sáng trên đỉnh đầu mỗi lúc một xa vời, cơ thể cứ lắng xuống tận đáy nước sâu. Trước mắt nhạt nhòa tối sầm, thoảng bên tai tựa có làn gió dịu êm, người đó ôm tôi, chúng tôi rơi giữa lưng chừng con vực…Chàng cứu tôi, trong gió đêm xoáy xiết, tôi nép mình trong vòng tay chàng…theo gió vần xoay… xoay rồi cứ xoay… sao như giọt mưa rơi nghiêng kín trời… trên thế gian này, trong đôi mắt chàng tôi là tất cả..

    Đôi mắt này chỉ đọng có riêng mình tôi…

    Và rồi say, tôi sắp say đến lịm người, vùi sâu trong lồng ngực chàng, chính là chàng đây mà… tôi biết chàng yêu tôi đắm say, mà tình yêu tôi trao chàng cũng tha thiết, miễn là có chàng ở bên để lòng lại nguôi ngoai.

    Cảnh tượng ấy nhiều lần trở về tìm tôi trong những cơn mơ, nào có từng nghĩ, lúc mình chết đuối…

    Mà chẳng hề có ai đến cứu.

    Người anh hùng trong cõi mơ ấy chẳng thể đến cứu tôi ngay lúc này.

    Mà Lí Thừa Ngân, hắn cũng không thể tới cứu tôi.

    Thân thể lúc lắc đong đưa tựa quả cân, cứ chìm nghỉm…chìm nghỉm…

    Đành rằng chẳng rõ là bao lâu, cứ như thể đã trải dài đến vài năm, nhưng có khi chỉ là sực tỉnh sau một cơn mộng mị, sức ép nơi lồng ngực buộc tôi phải mấp mé mở miệng, nôn ọe một vũng nước.

    Rốt cuộc mình đã nốc bao nhiêu nước rồi nhỉ…ho khạc mãi đến khi đứt hơi kiệt sức. Nước trong bụng hầu như đã vợi bớt, lúc ấy mới mê man nằm phịch xuống, nắng chói lòa tôi không sao mở được mắt, tôi ráng chếch đầu, thấy kề bên má là một đụn cỏ khô, lại gồng mình nghiêng về phía bên kia, sát bên gò má có một chồng đất đá.

    Vạt áo gã thích khách lấp ló cách đó không xa, à, hóa ra chết đuối hụt một phen, vậy rằng vẫn chưa chết, có lẽ chính gã, chính gã muốn tôi chẳng thà bị chết còn hơn là sống lất lây.

    Tôi bơ phờ không còn chút sức lực, toan mở lời thì trong miệng đã ồ ồ mửa toàn nước lã, tôi phờ phạc bảo: “Muốn giết muốn chém…”

    Thích khách không đáp lời, gã lấy bao kiếm gẩy đầu tôi, cái đầu xiêu vẹo tiếp tục ói ra nước…triền miên không ngừng…đống nước ói ra đúng một dòng suối nhỏ…

    Mắt nhắm nghiền, mê mệt thiếp đi.

    Trong mơ dường như thấy mình ở Đông Cung, tôi và Lí Thừa Ngân lại đang hằm hè. Hắn bao che Triệu lương đệ của hắn, tôi hầm hầm sỉ vả hắn một trận. Hắn bảo: “Chớ vội tưởng bở ta mong nàng cứu phụ hoàng nhé? Đừng tưởng làm thế ta sẽ mắc nợ ân huệ của nàng!” Hắn khiến tôi tức sôi máu, tôi chửi tôi thèm vài cái nợ nần cái ân tình gì gì đấy của hắn, ừ thì một kiếm đền cho nhau, lần trước hắn cứu tôi thoát khỏi thích khách, lần này tôi đáp lại hắn thế là xong. Ngoài miệng tôi cứ chửi vậy, song trong lòng ấm ức lắm, có thế đã rớt cả nước mắt. Tôi khóc nhưng không muốn hắn thấy, thế nên tôi gục mặt bên lồng hương, cái lồng hương nóng thật, tôi chỉ nhoài người 1 lát mà đã thấy bỏng rát cả xương cốt lẫn da thịt, rát đến khó chịu.

    Tôi nhấc mi mắt, có lẽ mắt đang sưng, thế nhưng mặt nóng rát như bị bỏng, trong khi thân mình lại lạnh toát, lạnh đến nỗi hai hàm răng đập vào nhau, người cũng run nẩy từng cơn. Phải chăng tuyết đang rơi? Tôi hỏi A Độ, A Độ dắt con ngựa con nhỏ màu đỏ của tôi lại, cha không có ở đây, được dịp chúng tôi lén đánh quả chuồn cưỡi ngựa ra ngoài chơi. Vó ngựa đạp trên nền tuyết mới thú vị làm sao, rét mướt khiến chiếc mũi đỏ ửng, tuyết không ngừng buông mình phủ trắng cồn cát, nom mấy cọng cỏ lác hệt như chòm râu xoăn tít điểm màu hoa râm của cha…Cha mà biết tôi cứng đầu lại chạy lên đồi tuyết chơi, thế nào cũng mắng cho xem…

    Lí Thừa Ngân chưa được gặp con ngựa nhỏ của tôi, không được biết nó chạy khỏe thế nào… Chả hiểu sao cái tên Lí Thừa Ngân thường xuyên lởn vởn trong tâm trí mãi không thôi, mà hắn nào đã đối với tôi ra gì…tim bỗng đau như bị xoắn vặn, không, đó không hẳn là tệ bạc, là tự tôi mơ mộng toan chiếm hữu ánh nhìn ấy về làm của riêng…song bên hắn mãi luôn hiện hữu một Triệu lương đệ…Lí Thừa Ngân bẻ đôi mũi tên kia, tôi nhớ lần cuối cùng hắn thốt lên cái tên mình, hắn gọi: “Tiểu Phong…” Nếu mà tôi tận đường sống sót khó bề trở về, liệu chăng hắn sẽ đôi chút buồn đau… có điều không rõ nỗi buồn sẽ giữ chân được mấy chốc…

    Tôi dồn sức hé mở đôi mắt, thấy mình không còn ở lùm cỏ ven sông nữa, mà đã nằm trong một căn phòng nhỏ, dải trăng mong manh ngoài kia lọt vào phòng, rớt xuống thứ ánh sáng lấp lóa, hẳn bữa nay đã là tết Nguyên Tiêu…Hoa đăng mười dặm, lầu cao chín tầng, pháo hoa tám phương, thất tinh bảo tháp, sáu phường rộn rã, năm chùa rền chuông, bốn cổng mở toang, ba non mừng rỡ, hai người cùng nhau, một đời yên ổn… Ắt cái tết Nguyên tiêu này phải tưng bừng phồn thịnh lắm lắm… vậy mà giờ đây sự náo nhiệt ấy chẳng còn liên quan gì đến tôi… Tôi ngóng lễ hoa đăng dịp Nguyên Tiêu đã cả năm ròng, kết quả vui vẻ chẳng thấy đâu… toàn thân buốt lạnh không ngớt rùng mình, bấy giờ mới nhận ra người đang quấn một tấm áo lông, tuy chỉ là lông cừu bình thường, nhưng sợi mềm mượt dày dặn, có điều lúc bấy đã rõ mình lên cơn sốt, bên ngoài áo lông còn phủ một lớp chăn bông, nhưng người vẫn run lên không thôi.

    Anh mắt quen dần với bóng tối, trong căn phòng chất đầy hòm xiểng, có khi đây là một gian nhà kho. Gã thích khách ngồi chỗ cách đó không xa, thấy tôi lừ đừ tỉnh giấc, hắn lẳng lặng đặt cạnh tay tôi một chiếc bát. Da tay quệt vào thành bát nóng ran.

    “Canh gừng.”

    Vẫn chất giọng méo mó của gã, tôi kiệt quệ sức lực, thậm chí giọng lí nhí như muỗi kêu: “Ta…”

    Tôi bưng không đặng chiếc bát.

    Tôi từng ốm một trận, lần ốm ấy hành tôi một phen thập tử nhất sinh, ấy vậy mà giờ lại ngã bệnh thêm đợt nữa, bình thường khỏe mạnh thì không sao, cứ hễ bệnh cái là ra nông nỗi này.. Tôi gượng mình mấy lần, tay bủn rủn không sao nhấc nổi bát canh.

    Tôi không mong ngóng gì, cũng lười nghĩ vì sao gã lại làm cho tôi bát canh gừng, mà nơi này là nơi nao. Thực sự ấm áp hơn ven sông, trong phòng tuy chất đống đồ đạc, song ở trong phòng kín so với chốn ven sông gió lạnh nước siết, được cái ấm hơn gấp bội lần.

    Thích khách nâng bát canh lên, rồi khẽ dựng tôi dậy, cổ họng đau buốt kinh khủng, mà hơi đâu lo lắm thế, tôi ôm bát canh, nuốt ừng ực mấy ngụm to tướng. Nước gừng cay xè, hiển nhiên khó nuốt vô cùng, thế nhưng xuống bụng rồi máu huyết cả người dường như thông suốt như cũ, bỗng dưng vướng cơn sặc dữ dội, rồi ho khan liên tục đến nỗi đỏ lựng cả tai, đáng lẽ tay đang bê bát, giờ run lẩy bẩy cầm không đặng. Gã thích khách trông thế, liền giơ tay đỡ hộ chiếc bát, tay kia vỗ về lưng tôi, nhịp thở dần đều đặn trở lại, thế rồi đột nhiên với tốc độ nhanh như cắt, tôi giựt phắt khăn bịt mặt của gã.

    Đáng lẽ ra, với thân thủ của gã, muốn tránh ắt tránh được ngay, thế nhưng khi hắn né người, tất phải buông tay, mà hắn vừa buông tay, gáy tôi thể nào cũng đập vào rương hòm. Tôi cứ tưởng hắn sẽ né tránh, thế rồi tôi sẵn dịp đập bể bát sứ, nói không chừng thừa cơ giấu đi một mảnh, cốt phòng ngừa bất trắc. Ngờ đâu hắn lại không hề lách mình buông tay, điều tôi chưa bao giờ ngờ tới, chính là khuôn mặt lẩn khuất sau tấm khăn kia.

    Tôi thảng thốt nhìn hắn, ánh trăng trong vắt tuy chỉ hắt hiu qua song cửa sổ, có điều tôi vẫn cứ nhận ra.

    Cố Kiếm!

    Sao lại là hắn?

    Cứ như thể máu toàn thân đang dội ngược lên đỉnh đầu, tôi hỏi: “Sao lại thế?”

    Hắn không cho tôi câu trả lời, mà từ từ đặt bát xuống.

    Tôi hỏi lại lần nữa: “Sao lại thế?”

    Sao lại là hắn? Sao hắn phải uy hiếp bệ hạ? Sao hắn giết người không gớm tay? Sao hắn phải bắt cóc tôi? Vì sao? Tất cả là sao đây?

    Tôi ngu đần quá đỗi, thiên hạ này được mấy người võ công cao siêu là thế? Sao tôi không nhớ tới thân thủ kỳ dị như gã thích khách này, thiên hạ có chăng mấy người?

    Tôi lại còn khờ khạo đi bắn tên, ngóng chờ Cố Kiếm đến cứu mình nữa cơ đấy.

    A Độ sống chết thế nào, Cố Kiếm là tia hy vọng cuối cùng nơi tôi, tôi còn mong hắn sẽ đến cứu mình.

    Tại sao?
    Hắn hững hờ bảo: ‘Chẳng sao cả.”

    “Ngươi giết nhiều ngươi thế kia mà!” Tôi không nén được cơn giận, “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì? Sao phải tấn công bệ hạ?”

    Cố Kiếm đứng dậy, ánh trăng len qua cửa sổ vương vãi trên bờ vai hắn, chất giọng vẫn đều đều vang lên: “Ta thích thì giết, nếu như nàng cảm thấy bất bình, ta chẳng còn gì để nói cả.”

    “Ngươi làm gì A Độ rồi?” Tôi siết chặt tay áo hắn, “Nhược bằng ngươi dám làm hại A Độ, ta nhất định sẽ giết ngươi báo thù cho nàng ấy.”

    Cố Kiếm bảo: “Ta không giết A Độ, tin hay không tùy nàng.”

    Tôi tạm thời thở phào, dịu giọng bảo: “Vậy ngươi thả ta về đi, ta đảm bảo sẽ không kể với ai đâu, chỉ vờ như ta tự mình trốn thoát.

    Hắn bỗng dưng bật cười: “Tiểu Phong, sao lại thế?”

    Tôi lấy làm lạ hỏi: “Sao thế cái gì?”

    “Sao nàng tốt với Lí Thừa Ngân đến thế? Rốt cuộc hắn có chỗ nào tốt đẹp? Hắn…trước nay hắn chỉ lợi dụng nàng. Thêm vào đó, giờ đây hắn cưới hết ả đàn bà này đến ả đàn bà nọ, nàng thường xuyên bị bọn người đàn bà ấy bắt nạt, đến hắn cũng hà hiếp nàng, tương lai hắn lên làm Hoàng đế, ắt nạp thêm nhiều thê thiếp, sẽ chỉ càng có thêm nhiều kẻ chung tay bắt nạt nàng. Sao nàng vẫn đối tốt với hắn là thế? Lẽ nào vì Tây lương mà nàng đặng lòng vắt cạn hạnh phúc của bản thân rồi cả đời quẩn quanh trốn thâm cung cô quạnh sao?”

    Tôi ngớ ra, đoạn bảo: “Tây Lương là việc của Tây Lương, dẫu sau ta đã lấy hắn rồi, vả lại hắn đối với ta cũng không tệ bạc …”

    “Hắn đối xử không tệ bạc ra sao? Xưa nay hắn chỉ hòng lợi dụng nàng. Nàng biết hắn đang tính toán gì không? Nàng biết trong đầu hắn đang nghĩ gì không? Tiểu Phong à, nàng đấu không đặng, nàng không thẳng nối lũ đàn bà kia đâu, chứ đừng nói đến việc so trí cùng Lí Thừa Ngân. Giờ đây bọn họ chừng như còn kiêng dè Tây Lương, nhưng tương lai sau này một khi Tây Lương đối với Trung Nguyên không còn giá trị lợi dụng, nàng tuyệt nhiên không thắng được đâu.”

    Tôi thở dài bảo: “Ta chẳng nghĩ nhiều vậy, thế nhưng Lí Thừa Ngân là chồng ta, ta không thể ruồng bỏ chồng mình được.”

    Cố Kiếm cười khảy: “Vậy như Lí Thừa Ngân phản bội nàng thì sao đây?”

    Tôi rùng mình nói: “Không thể nào.”

    Cái lần đầu tiên đụng độ thích khách, hắn đẩy tôi; đến bận thứ 2 ở phường Minh Ngọc, hắn chặn đầu tôi. Lần nào cũng vậy, lần nào hắn cũng dành hết nguy hiểm về phần mình, Lí Thừa Ngân sẽ không ra điều lừa tôi đâu.

    Cố Kiếm cười gằn đoạn bảo: “Đứng trước thiên hạ, nàng tưởng người ta coi nàng là ai—một kẻ sắp lên ngôi hoàng đế, lòng dạ tất sẽ hóa thành sắt đá, lạnh lùng và tàn nhẫn. Chẳng nói đâu xa, ta bắt nàng đến đây, nàng mong ngóng Lí Thừa Ngân sẽ đến cứu nàng ư? Nàng tưởng hắn sẽ cuống đít lên đi tìm nàng ư? Hôm nay là tết Nguyên Tiêu, toàn thành cấm ngựa, cho nhân dân trăm họ thưởng đèn. Chính vì cảnh thái bình giả tạo ấy, 9 cổng thành Thượng Kinh vẫn rộng mở, không cấm người ra vào. Nàng tính gì đây—Nàng không đáng để cha con Lí gia phải làm ngơ với cái tết này…Bọn họ vẫn lên cổng Thừa Thiên chia vui cùng dân, nào có bận tâm xem nàng sống chết thế nào. Nếu như ta là thích khách thật, ta đã giết quách nàng, thế rồi nhân lúc trời tối ra khỏi thành, cao chạy xa bay…Mười ngày sau, Thần vũ quân mò đến đây, thấy xác nàng, Lí Thừa Ngân cùng lắm thì ra điều vờ vĩnh khóc thương dăm câu, sau thì lập Triệu lương đệ lên làm Thái tử phi, ai sẽ nhớ đến nàng đây, nàng còn mong hắn sẽ nhớ nàng ư?”

    Tôi rũ đầu, không lên tiếng.

    Cố Kiếm nhấc tay tôi: “Đi thôi, Tiểu Phong, đi với ta nhé. Chúng ta cùng rời bỏ nơi này, tránh xa chốn đầy rẫy mưu mô đấu đá này, chúng ta đến quan ngoại, cùng nhau thả ngựa, nuôi dê…”

    Tôi rảy tay hắn ra, nói: “Mặc xác Lí Thừa Ngân đối với ta ra sao, đây là con đường tự ta chọn lựa, cũng là con đường mà cha chọn cho Tây Lương, ta không thể bỏ chạy giữa chừng, Tây Lương cũng không thể…” Tôi nhìn hắn, “Ngươi để ta đi thôi.”

    Cố Kiếm lặng thinh nhìn tôi, qua một hồi lâu mới quả quyết bảo: “Không được.”

    Tôi thấy chán nản lắm rồi, cũng mệt mỏi lắm lắm rồi, vốn dĩ đang phát sốt, trong họng rát cháy như thể có đốm lửa. Nãy giờ nói qua nói lại, càng khiến tôi thấy khó chịu, cả người bải hoải mất sức, hít thở có chút khí mà còn kèm theo cơn bỏng rát.Taytôi xoa yết hầu, rồi lùi dần về phía hòm, buông mình tựa vào đó.

    Hắn chực nói gì đó rồi lại thôi, thấy cơ sự tôi thế này, dường như có chiều không nỡ, câu chữ cũng gắng nén xuống, chỉ hỏi: “Nàng muốn ăn gì không?”

    Tôi lắc đầu.

    Hắn chẳng màng, lại bảo: “Vịt nướng ở Vấn Nguyệt lâu nhé, ta mua cho nàng ăn, được không?”

    Tôi toan lắc đầu, song chợt gật lấy gật để.

    Hắn tém mép chăn kín người tôi, rồi bảo: “Vậy nàng ngủ một chốc trước đi.”

    Mi mắt tôi nặng chĩu nhắm nghiền và rồi chìm vào giấc ngủ.

    Chừng đâu một tuần hương sau, tôi mới mở mắt.

    Trong phòng vẫn tăm tối tĩnh mịch, chỉ ánh trăng vằng vặc hắt qua chấn song cửa sổ, màu nhạt phai phủ lên mặt đất. Tôi bò dậy ngắm trăng, trăng sáng trong như ánh bạc, hôm nay là ngày rằm tháng giêng, là tết Nguyên tiêu, trăng đẹp lắm thay, trên phố thể nào cũng nhộn nhịp.

    Tôi cuộn chặt áo lông, thử ra đẩy cửa, cửa khóa trái từ bên ngoài, đẩy mãi không xong. Tôi ngó quanh quất 4 phía, hiển nhiên đây là một gian nhà kho, chỉ chỗ tường cao mới có cửa sổ, ô cửa sổ ấy đục để thông khí, thế nên ở tít cao, tôi giơ tay cũng không với tới.

    Thế nhưng thiếu gì cách, tôi lôi một hòm rương qua, rồi chồng thêm một hòm nữa, xếp thêm mấy tầng, dồn chúng thành bậc thềm thật to. Chẳng hiểu trong đống hòm xiểng ấy có gì, may mà không nặng lắm. Thế nhưng toàn thân nhũn nhùn, tay oặt ra không chút sức lực, xích được mấy hòm sát chỗ vào tường, thành thử mệt lả, cả người sũng mồ hôi.

    Tôi bò lên đống rương, chấn song cửa làm bằng gỗ chạm trổ, cạy bẻ một lúc phải tội mãi không nhúc nhích, tôi buộc lòng trèo xuống, ráo riết tìm thứ gì đó vừa tay, tôi mở từng hòm một, thì ra trong đựng đoạn đủ hàng tơ lụa. Chẳng hiểu nhà nào lắm tiền, vất đống lụa là đẹp đẽ khóa trái trong gian nhà kho này, biết đâu đây là kho trong thôn tơ lụa. Chẳng hơi đâu đi nghĩ nhiều thế làm gì, tôi ngán ngẩm đóng nắp hòm lại, sau cùng để ý thấy bát sứ vừa mới đựng canh gừng.

    Tôi đập bể chiếc bát, chọn lấy mảnh vỡ sắc cạnh nhất, trèo lần nữa lên đống hòm toan cưa song cửa sổ.

    Song gỗ thì rõ là mảnh, thế mà cưa mãi không xong, tôi cứ cưa liên tùng tục…thậm chí cưa đến rách đầu ngón tay…toét cả máu.

    Bỗng đâu thấy tuyệt vọng, có lẽ vì Cố Kiếm sắp về, mà tôi vẫn chưa thoát được. Tuy hắn chưa chắc sẽ giết tôi, song biết đâu hắn sẽ nhốt tôi cả đời thì sao, hoặc khiến tôi vĩnh viễn đừng hòng mơ gặp lại A Độ, gặp lại Lí Thừa Ngân.

    Tôi chỉ tuyệt vọng trong chốc lát, rồi vực tinh thần, tiếp tục công việc cưa thanh chấn cửa kia.

    Một lúc trôi qua chẳng rõ là bao lâu, cuối cùng cũng nghe thấy 1 tiếng “rắc” vang lên, thanh chấn cửa sổ rốt cuộc đã bị tôi cưa đứt luôn. Tôi cả mừng, tiếp tục cưa thanh khác, giải quyết xong xuôi 2 thanh cửa, tôi gồng mình bẻ, chấn song cửa sổ rụng gẫy.

    Mừng quá đỗi, thế mà chỗ này hơi cao, nhảy xuống chỉ sợ ngã gãy chân. Tôi rút một xấp lụa, 1 đầu đè chặt nó dưới đáy hòm, đầu kia ném vắt qua cửa sổ. Bám vào dải lụa, trèo ra ngoài, chậm rãi bò xuống.

    Tay tôi yếu ớt, trong khi dải lụa trơn tuột, cổ tay đành phải vấn chặt lấy nó, trọng lượng cơ thể treo cả trên cổ tay, dải lụa thít rõ đau, thế nhưng tôi chẳng màng. Tôi chỉ lo bây giờ mình mà thả tay ra thể nào cũng ngã, thế nên rất cẩn thận nhả từng đoạn từng đoạn một, trườn xuống từ từ. Sau cùng khi mũi chân đã chạm đất, tôi chỉ cảm giác chân nhũn oặt, cả người ngã lăn ra.
     
  4. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 23
    May sao ngã không đau lắm, tôi bò dậy, vừa mới đứng thẳng người, đột nhiên trông thấy từ đằng xa có người đang đứng.

    Cố Kiếm!

    Hộp thức ăn còn cầm trên tay, hắn lẳng lặng nhìn tôi.

    Tôi đành nhếch miệng cười với hắn.

    Thế rồi quay đầu chạy biến.

    Tôi chạy chưa quá 3 bước đã bị hắn tóm gọn, một tay hắn kẹp chặt cổ tay tôi, tay kia vẫn cầm hộp thức ăn.

    Tôi bảo: “Ngươi thả ta ra ngay, ngươi nhốt ta ở đâu có ích gì? Dù thế nào đi chăng nữa, ta sẽ không theo ngươi đâu.”

    Cố Kiếm chợt bật tiếng cười gằn, đoạn bảo: “Thả nàng cũng được thôi, có điều, trước tiên phải theo ta đến 1 nơi đã, chỉ cần đến đó mà nàng vẫn khăng khăng theo ý mình, ta lập tức sẽ buông tha nàng.”

    Tôi thoạt nghe cứ cảm giác ngờ ngợ, bèn đề cao cảnh giác hỏi: “Nơi nào?”

    “Nàng đi khắc biết.”

    Tôi lưỡng lự đoạn nhìn hắn, hắn nói: “Nếu như sợ thì thôi, đằng nào ta cũng không muốn thả nàng, không đi thì thôi vậy.”

    Sao phải sợ, tôi hắng giọng bảo: “Ngươi nói phải giữ lời đấy nhé?”

    Cố Kiếm bật cười: “Chỉ cần nàng làm được thì đương nhiên ta cũng thế.”

    “Vậy còn đợi gì nữa, mau đi thôi.” Tôi nói.

    Cố Kiếm ngưng một lúc đoạn bảo: “Nàng không hối hận chứ?”

    “Sao phải hối hận chứ.” Tôi lại cho rằng, “Không chừng ngươi mới hối hận ấy.”

    Cố Kiếm cười, nói: “Ta không hối hận đâu.”

    Hắn đặt hộp thức ăn xuống, lúc mở ra, bên trong quả nhiên là một đĩa vịt nướng. Hắn bảo: “Nàng ăn no trước đã rồi chúng ta đi.”

    Vốn dĩ chẳng có bụng dạ nào mà ăn uống cả, thế nhưng trông dáng vẻ hắn, tôi mà bướng không chịu ăn, chắc chắn hắn sẽ chẳng dẫn tôi đi đâu hết, thế nên đành nhấc đũa ăn cho xong món vịt nướng kia vậy. Nói thực, cổ họng tôi lúc ấy khô khốc đau rát mà mồm miệng thì đắng ngắt, thậm chí đầu lưỡi cũng cứng đờ, trệu trạo nhai miếng vịt mà thật sự chẳng cảm nhận được mùi vị gì trong miệng. Tuy thế, tôi vẫn mau chóng ăn cho bằng hết, đặt đũa xuống đã bảo: “Đi thôi.”

    Cố Kiếm lại nhìn tôi, hỏi: “Ngon không?”

    Tôi gật lấy lệ, hắn không nói gì thêm, chỉ ngước mắt trông trăng sáng trên trời, rồi giúp tôi kéo áo lông lên, che kín nửa già khuôn mặt, mới bảo: “Đi nhé.”

    Cố Kiếm vận khinh công rõ nhanh, tôi chỉ cảm giác được cành lá cây cối trước mắt rào rạt trôi tuột về đằng sau, thế rồi qua vài cái nhảy vọt trên mấy nóc nhà đã đến chân một bờ tường cao vút.

    Trông bức tường kia, đột nhiên cảm thấy rất quen mắt.

    Cố Kiếm kéo tôi, cả người nhẹ bẫng thế rồi nháy mắt đã đứng ngay cạnh hắn trên mái tường. Đứng trên tường, tôi không kiềm được ngó quanh quất trông trước trông sau, nom đờ cả người.

    Đằng sau bức tường, mái ngói lưu ly chạy dài thành dải lớn, gốc mái hiên cong vút hùng vĩ, có đến mấy tòa đại điện chính giữa, đường viên của chúng khiến tôi thấy quen thuộc hơn bao giờ hết. Lần nào trèo tường, hình ảnh ấy chẳng đập vào mắt tôi đầu tiên. Tôi líu lưỡi, Đông Cung ư! Đây là Đông Cung mà! Nơi chúng tôi vừa rời khỏi chính là nội điện của Đông Cung ư.

    Cố Kiếm trông tôi chết đơ như gà gỗ, liền hờ hững bảo: “Đúng đấy, nơi chúng ta tạm trú mấy ngày nay chính là nhà kho của Đông Cung.”

    Tôi nghiến chặt lưỡi cốt không thốt lên lời, thế có hận chết không cơ chứ, đáng lẽ ra, lúc trèo khỏi cửa sổ ấy, tôi phải hô hoán lên, phải kéo hết thảy Vũ lâm quân trong Đông Cung đến, thế là được an toàn. Cố Kiếm có bản lĩnh cỡ mấy cũng không thể cướp tôi chạy khỏi vòng vây của hàng ngàng hàng vạn thị vệ Vũ lâm quân….tôi thật sự hận chết mất.

    Hiềm nỗi có hối hận thêm nữa cũng ích gì. Cố Kiếm kéo tôi nhảy xuống bức tường cao, rồi chạy trên nóc nhà dân, rẽ trái rẽ phải mấy khúc, phi từ mái ngói xuống sân vườn một hộ nào đó, đi xuyên qua sân, mở một cảnh cổng nhỏ, thế là, quanh cảnh phồn hoa náo nhiệt rợp đất trời đã hiển hiện ngay trước mắt tôi.
    Hằng năm vào độ này, ánh đèn rực rỡ nơi nơi, người chen vai dưới xuống phố, tiếng nói cười rộn rã muôn nẻo đường. Chừng như thế gian này có bao nhiêu người, từng ấy đều đổ cả xuống đường, chừng như thế gian này có bao nhiêu đèn, chừng ấy đều treo cả trên phố phường Thượng Kinh. Trăng sáng vằng vặc lửng lơ treo giữa khoảng trời sậm tựa màu 1 nghiên mực khổng lồ, vầng trăng sáng trong như tấm gương, trăng rằm lững lờ trôi; mà ông trăng kia cũng giống với cái bánh nếp trắng ngần dập dềnh trong bát canh lắm đây, cắn một miếng bánh, vị ngọt ngào của mạch nha như ứa ra khắp vòm miệng. Những mái ngói san sát lấp lánh như được ánh trăng dát lên lớp sương mỏng manh, càng soi tỏ càng sáng ngần sắc trời, nom là vậy nhưng chẳng hề có hơi lạnh, mùi thuốc pháo nồng nồng luồn theo cơn gió, cũng thoảng trong gió có mùi phấn son con gái thơm thơm, thêm 1 làn gió nhẹ phảng phất gửi kèm hương ngọt lịm của đủ các thể loại đồ ăn…Mọi thứ cứ hòa quyện vào làm một, lẫn với nhau thở ra hơi thở đặc trưng của đêm tết Nguyên tiêu. Đèn hoa muôn màu, muôn sắc, muôn vẻ được treo cao trước hiên nhà 2 ven phố phường, đèn được móc cả lên cây, trên phố người ta dựng lều trúc, dưới mái lều cũng trưng chật kín đèn. Đâu đó còn có người múa đèn rồng, múa kỳ lân, múa thuyền đèn…

    Tôi và Cố Kiếm hòa mình giữa biển đèn sóng người, chỉ thấy bốn bề là người với người, là đèn với đèn. Lách qua dòng người nhốn nháo như triều dâng ấy, rồi từng ngọn đèn trước mắt cứ trượt dài bỏ lại phía sau lưng, đèn ở 2 bên, đèn chạm ngang mày…mỗi một quầng sáng, nào vàng, nào hồng, nào lam, nào lục, nào tím, nào đỏ…nhìn mãi cũng bị đống đèn ấy làm cho chóng mặt. Nhất là đèn đua ngựa, cứ quay mòng mòng, trên đầu là tranh thêu nhân vật điển tích; cả đèn lưu ly của Ba Tư, sáng chói mắt lắm thay; lại còn đèn giá, giá đèn dài tạo hoa văn hình chữ to khủng khiếp, dài cứ phải ví như là tràng giang đại hải; bên cạnh có đèn đố chứ, đoán ra ắt có thưởng; nhưng vĩ đại nhất tất phải kể đến đèn 9 khúc, hoa đăng xếp cụm tạo thành con sông Hoàng Hà chảy nghiêng 9 khúc, có ai bước vào mê trận hoa đằng ấy, chẳng mấy mà lạc đường, rẽ trái không ra, mà rẽ phải càng không phải…Nghe nói dàn trận theo binh pháp thời thượng cổ, thế nhưng trái có đèn mà phải cũng là đèn, lạc vào ma trận đèn song chẳng ai lấy làm sốt ruột, họ cười cười quanh quẩn mò mẫm trong thế trận hoa đăng…

    Cảnh phồn hoa đô hội này, nếu như là trước đây, quả thực tôi không biết mình sẽ mừng vui đến nỗi nào, song rằng ngày hôm nay tôi đành cúi gằm mặt, phó mặc tay mình trong tay Cố Kiếm, chúng tôi lặng lẽ lướt dưới dàn đèn treo lơ lửng đỉnh đầu. Phố phường huyên náo từ đầu đường đến cuối ngõ, xiết bao người đang đứng xem múa đèn rồng, người ta đứng chen nhau không chừa lấy 1 kẽ hở, Cố Kiếm buộc lòng phải dừng lại. Chốc chốc lại có một luồng lửa dài màu ánh bạc phụt ra từ miệng rồng, người xem tấm tắc khen hay. Bất ngờ, nó thò đầu quay ngoắt sang phía tôi, phì một chuỗi lớn khói lửa, người đứng xung quanh ai nấy đều thót mình giật lùi, ngọn lửa cháy ngay trước mắt, tôi hoảng quá không kịp nhắm mắt, bị dòng người xô lấn suýt té ngửa, may sao Cố Kiếm đứng sau lưng kịp giơ tay đỡ lấy, lúc tôi hé mắt nhìn thì thấy mình đang nằm gọn trong lòng hắn, ống tay áo bưng bít cả khuôn mặt tôi.

    Tôi làm thinh, chỉ chuồi người ra khỏi vòng tay đang quàng lấy thân mình, may sao hắn không hề gò ép tôi, chỉ kéo cánh tay tôi, tiếp tục lao về phía trước.

    Vừa đi ngang con phố Nam Thị, bỗng đâu văng vẳng 1 câu huýt sáo, có tiếng nổ “bịch” giữa khoảng không, thảy những ai đứng đó đều ngước mắt trông lên, thấy bên kia bầu trời rợp ánh vàng ánh bạc, lồng vào nhau đơm thành bông hoa to lắm, sáng lắm, đến độ trăng rằm kia đành nép mình nhường bước cho pháo bông nở rộ. Thì ra trên tháp Thất Tinh đã bắt đầu nổ pháo hoa.

    Nhìn về phía Thất Tinh tháp, nơi ấy như đang vẩy vàng rắc bạc vào không trung, những tràng pháo hoa liên tiếp bùng nổ trên bầu trời, mở đầu chỉ có từng tia nhỏ như giăng sấm, sau thì nào là mẫu đơn chúm chím độ xuân sang, nào là cảnh thái bình yên vui, nào là trăm năm hòa hợp… pháo hoa rộ nở muôn hình muôn vẻ, trong khi ai nấy đều ngước trông với vẻ hồ hởi si mê. Cố Kiếm cũng ngẩng đầu xem, trong cái se se lạnh của tiết xuân, gió đêm nâng tấm khăn vải đội đầu phất phơ, con chợ chìm giữa biển đèn chỉ ngay sau lưng, mỗi lần pháo bông vụt sáng, khuôn mặt hắn cũng bừng lên rạng rỡ, mỗi lần khói lửa lụi tắt, khuôn mặt kia phảng phất như bị bóng đêm ủ vào lòng. Mỗi nhịp ánh sáng vụt đến vụt đi đan xen chồng chéo, tôi đều ngó hắn.

    Mà thực ra, tôi đang nghĩ, nếu như lúc này bỏ chạy, Cố Kiếm chưa chắc đã đuổi kịp đâu nhỉ, đường thì đông là thế, tôi chỉ cần hòa mình vào dòng người, khẳng định hắn có tìm đằng giời cũng chẳng ra.

    Có điều hắn túm tay tôi chặt quá, cứ cầm riết, tôi nhủ mình có vùng ra cũng khó.

    Hàng quán ven đường trải dài hun hút, họ rao bán cờ ngải tằm hoa tuyết liễu cài đầu mừng xuân, nom óng a óng ánh rung ra rung rinh, liếc qua thôi đã thấy lóa cả mắt, khiến người ta sinh lòng hứng thú. Tôi cúp mi mắt, vốn không màng nhìn đống ấy. Nhưng tự nhiên có gã tiểu thương không biết điều nhô ra chặn chúng tôi lại, gã đon đả chèo kéo với Cố Kiếm: “Công tử ơi, mua cho nương tử nhà ngài đôi hoa cài đâu đi nào! Phu nhân nhà ngài có vẻ ngoài duyên dáng thế mà cài hoa hàng chúng lên, đẹp rõ như thêu gấm trên hoa, đã đẹp nay càng thêm xinh! Mười đồng 1 đôi, vừa đẹp lại rẻ! Công tử ơi, lựa một đôi hoa cài đầu đi nào!”

    Cố Kiếm phẩy tay, tôi đoán hắn phẩy tay xua gã bán hàng rong đi, ai mà biết hắn lại chọn những 2 chiếc trâm cài đầu hẳn hoi, rồi trả cho gã nọ 10 đồng.

    Hắn nói: “Cúi đầu xuống nào.”

    Tôi bảo: “Ta không thích những thứ này.” Hắn để ngoài tai lời tôi nói, giơ tay cài hoa lên mái tóc. Cài xong 1 cành, lại cài tiếp nhành kia.

    Bởi vì đứng rất gần nhau, hơi thở hắn phả trên mặt tôi ấm nóng mà khẽ khàng, cũng hơi ngưa ngứa nữa. Thấy người hắn phủ một làn hương dìu dịu, không phải hương trầm hương long diên hằng ngày vẫn quen hít hà, có chăng là một mùi vị nào đó rất khó gọi tên, thơm giống mùi dưa gang trồng trên đất Tây Lương, ngọt thanh mà thoảng cái cảm giác mát dịu. Cài xong, Cố Kiếm kéo tay tôi, hắn ngắm trái ngắm phải tử tế hẳn hoi, như thể sợ cài lệch dù chỉ một tí tẹo. Trước đó tôi nào đã bị hắn quan sát kỹ càng đến thế, thành thử hai bên tai cứ nóng bừng, đâm mất tự nhiên, đành thúc giục hắn: “Đi thôi.”

    Thực ra tôi vẫn chưa biết hắn sẽ dẫn mình đi đâu, mà dường như hắn cũng vậy, giữa phố xá phồn hoa tấp nập này, chúng tôi nửa đi nửa dừng, có lẽ vì người quả thực quá đông. Dòng người như cơn thủy triều rập rình dồn sóng về phía trước, đi nhanh thì khó, mà muốn lách cũng đành chịu.

    Suốt cho đến khi rẽ sang con đường cuối cùng, con đường Chu Tước trải dài thẳng tắp ngay trước mắt. Kéo dài tầm mắt một chút, con đường Thiên Nhai ngoài cổng Thừa Thiên hằng ngày vốn cấm người, nay cũng đứng chật ních, minh lầu ngự trên cao giữa ánh đèn lộng lẫy.

    Tôi mới vỡ lẽ ra nơi hắn toan dắt tôi đến, nỗi sợ hãi đột nhiên dâng lên trong lòng

    “Sao? Không dám đi à?” Cố Kiếm thản nhiên cười bảo, hắn ngoái đầu nhìn tôi, tôi luôn cảm giác nụ cười ấy có phần mỉa mai, lần đầu tiên gặp hắn, hắn vốn đâu có kiểu cười này. Lúc ấy hắn hắn mặc áo choàng màu trắng ngà ngà, đứng dưới mái hiên ven đường, dõi theo tôi và A Độ chạy như bay dưới phố.

    Sao bây giờ lại thành ra thế này?

    Tôi lừa mị chính mình một hồi đoạn bảo: “Rốt cuộc ngươi muốn thế nào?”

    “Đau thương đến tan nát cõi lòng.” Giọng hắn đều đều, như thể đang kể một câu chuyện ngắn ngủi, “Lòng ta đã chết, thế nên ta muốn nàng cũng phải thế thử xem.”

    Tôi nào có nghe rõ hắn nói gì, tư tưởng chỉ hướng về nơi cổng lầu chót vót trên cao mà xa lắc xa lơ kia kìa. Nơi ấy chính là Thừa Thiên Môn, đằng cổng thành ấy treo vô sô đèn lồng màu đỏ rực, điểm xuyết bằng những cụm đèn nhỏ đa màu sắc, hoa đăng tô điểm lên toà lầu thứ ánh sáng lung linh trùng điệp, hàng ngàn sa số bó đèn sáng rực vây lấy chân thành, ánh đèn hô hoán nơi cửa ô Thừa Thiên Môn bỗng chốc biến thành chốn lầu son gác tía lưng chừng trời. Bước lại gần hơn mới nhìn ra trên lầu còn buông phủ lớp màn che đỏ thắm, gió đưa mành lụa phất phơ, thấp thoáng sau màn có đội nghi trượngcùng bóng người. Búi tóc cao ngất của đám cung nữ lẫn trong dáng thướt tha yêu kiều đang dạo gót trên lầu, ánh đèn dán những chiếc bóng xinh đẹp của họ lên tấm màn, gợi tôi chợt nhớ đến màn kịch chiếu đèn dạo trước từng xem trên phố. Cổng Thừa Thiên sừng sững cao ngút trời, tôi trông lên thảy những cảnh trên tòa lầu ấy giống như kịch đèn được dán bìa giấy trắng, nhất cử nhất động đều khiến tôi cảm giác xa vời khó với.

    Có âm thanh văng vẳng từ trên lầu sà xuống, thậm chí, ngay cả tiếng nhạc ấy cũng bị đẩy dạt vào xa xăm, người dưới chân thành bỗng nhiên ồn ào náo động hẳn, thì ra tấm màn trên lầu cao chợt khẽ lộ, đám cung nữ tung đồ xuống, dân đứng dưới nhốn nháo tranh nhau đoạt, họ ném xuống tiền vàng Thái Bình, do nội cục đúc riêng, ngự ban cho trăm dân đến ngắm hoa đăng. Những đồng tiền vàng vừa được rải, leng keng đáp xuống nền đá xanh nơi con phố Thiên Nhai, cứ như thể một cơn mưa rào lộng lẫy ánh vàng. Thiên triều giàu sang, thịnh thế thái bình, dồn cả vào trận mưa rào leng keng lanh canh…

    *hôm qua bị bạn nó siết cổ dọa bảo không làm cho nhanh Đông Cung nó cắt tờ rym T^T sợ quá, hôm nay bật máy cái là phải post luôn, từ nay xin chừa không dám lề mề :(((((((((((((((

    Cuối cùng cũng đã nhìn thấy Lí Thừa Ngân, tuy xa xôi cách trở, thế nhưng chỉ vừa liếc mắt tôi đã nhận ra ngay. Chàng khẽ tựa mình nơi thành lầu, lọng xanh hoa lệ khoe ngọn gió sau lưng, ngù Cửu Khúc buông mình dập dềnh, gió gieo cả vào tay áo bào. Tôi trông thấy cả bệ hạ, lúc ấy dân chúng vây quanh đồng loạt quì xuống, nhao nhao tung hô: “Vạn tuế!”

    Nhà đế vương phú quý, cảnh thiên hạ thái bình(*), chưa hề 1 lần tôi cảm thấy thảy những thứ ấy lại xa vời với mình đến thế, lại lạc lõng với tôi là vậy.

    Tôi nhìn thấy Triệu lương đệ, nàng ta mặc trang phục hoàng tộc, từ đằng sau dạo gót tiến gần thành lầu, đành rằng không lộ diện, dẫu vậy tôi vẫn nhận ra bóng dáng đổ trên tấm rèm kia. Thế rồi lại trông cánh tay thò từ sau màn, choàng lên vai Lí Thừa Ngân một tấm áo lông đen tuyền. Trời trở gió, tấm áo bập bùng chao nghiêng, lớp gấm đỏ tươi trên áo choàng còn thêu hoa văn nổi bằng chỉ kim tuyến – thu cả vào mắt tôi, dưới ánh đèn nơi cổng thành, nó ánh lên lóng lánh. Lí Thừa Ngân ngoảnh mặt đi, khoảng cách xa xôi, tôi không tài nào nhìn rõ sắc diện trên khuôn mặt chàng, liệu chăng trên bờ môi ấy đang nở 1 nụ cười với người đẹp khuất sau rèm.

    Xưa kia, tôi nào có được lên Thừa Thiên Môn, 3 năm rồi chưa từng cùng Lí Thừa Ngân ăn lấy một cái Tết, bao năm nay tôi nào có hay, thì ra mỗi độ Nguyên Tiêu, chàng và Triệu lương đệ lại sánh đôi nơi cao chót vót, kề vai ngóng xuống 10 vạn đèn hoa bao phủ Thượng Kinh.
     
  5. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 24
    Đôi lứa cùng nhau, đêm nay đây, đêm này chính là ngày lành tháng tốt để mà kết lứa xe đôi.

    Tôi vẫn ngỡ tưởng, chúng tôi đã đổi thay, tôi còn tưởng rằng, chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, đáng lẽ phải có sự khác biệt chứ. Tối qua lúc tôi bị thích khách bắt đi, chàng từng nhìn tôi, chàng từng gọi tên tôi, chàng bẻ tên thề. Tất thảy, thảy những thứ ấy đều khiến tôi ngộ nhận, đôi ta đã đổi thay, thế nhưng sao vỏn vẹn có 1 ngày, chàng đã đứng kia, đã sánh vai bên người con gái khác đứng kia, ra điều ta đây chẳng từng xảy ra chuyện gì, ra điều thờ ơ thưởng thức cảnh Nguyên tiêu đô hội, đón nhận câu chúc phúc của muôn dân.

    Trong khi, tôi sống chết ra sao còn chưa hay, trong khi, tôi đáng lẽ mất tăm mất tích, trong khi, tôi mới là vợ chàng kia mà.

    Thoáng nghe có ai đó gọi tên mình: “Tiểu Phong.”

    Tôi quay sang, bần thần nhìn Cố Kiếm.

    Mắt hắn dán ở nơi tôi, môi tôi lừng khừng nặn một nụ cười, định bụng nói dăm câu.

    Thế mà gió ùa trong khuôn miệng vừa hé mở, gió buốt lạnh kéo theo cơn ho không buồn nguôi ngoai, cổ họng trước đó đã đau ghê người, giờ đây từng cơn ho như chực xé toạc cả yết hầu. Ho cơn nào đầu nhói theo cơn đó, chẳng khác nào có cục đá bị nhét trong ấy, cạnh sắc nhọn của nó cứa vào huyết mạch, muốn thở cũng phải chật vật. Tôi còng lưng ho không dứt cơn, chực sắp ho ra nào tim nào phổi, cơn ho hòng như cố sức lôi nội tạng trong người ra ngoài kì được mới thôi. Đau là lẽ đã đành, thế mà chỉ duy có lồng ngực, chỗ ấy khó chịu lắm thay, trách chăng cái lạnh, trách chăng người vốn đang sốt cao… có bệnh tất phải khó chịu thế thôi.

    Cố Kiếm đỡ tôi, tôi lảo đảo một chặp, thấy như thể có gì đó thế là đã nứt đôi, khi âm thanh khàn đặc thoát ra khỏi cuống họng, dường như lồng ngực cũng được vỗ về phần nào.

    Hắn nâng mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng mình: “Cũng chẳng có gì ghê gớm…” vậy rồi, trong đôi mắt ấy đã hằn lên tia khổ sở méo xẹo, hắn chợt đưa tay quệt khóe miệng tôi.

    Dưới ánh đèn, tôi thấy ngón tay hắn đọng vệt máu, máu bám cả trên ống tay áo, những ngấn loang lổ, từng đốm từng đốm, thảy toàn là máu tươi. Cơ thể nhũn nhùn, người tôi xây xẩm, đoán chắc mình đứng không vững, như thể mới rồi tôi bán mạng nôn ra cục máu ấy. Hắn ôm tôi, thầm thì bên tai tôi nói: “Tiểu Phong, nàng khóc đi, nàng cứ khóc một trận cho thỏa đi.”

    Tôi đẩy hắn bằng thứ hơi sức cuối cùng: “Sao phải khóc? Ngươi cố ý dẫn ta đến xem cảnh này cơ mà, sao ta phải khóc? Ngươi không cần vờ vĩnh như thế, sao ta phải khóc chứ? Ngươi bảo xem xong thì ngươi thả người, giờ ta phải về rồi!”

    “Tiểu Phong!” Hắn đuổi theo toan đỡ tôi. Bước chân loạng choạng, song vẫn cố đứng vững, tôi ngoái đầu, tuốt trâm hoa cài tóc quẳng xuống chân hắn, lạnh nhạt nhìn đoạn bảo: “Cấm ngươi đụng vào ta, cũng đừng có theo ta nữa, bằng không ta chết trước mắt cho ngươi xem, đành rằng ngươi có võ công tuyệt thế, ngăn thế nào được một khi ta đã khăng khăng muốn chết, ngươi cản được 1 lần, cản sao được cả đời. Ngươi cứ thử theo ta mà xem, ta thể nào cũng tự sát kì được đấy.”

    Có lẽ giọng tôi lúc đó cương quyết lắm, nên hắn cũng chững lại một chỗ, không dám tiến gần.

    Tôi đá bước thất tha thất thểu, chẳng biết đã đi được bao xa, bốn bề bao bọc là người, bốn bề bao bọc là đèn chói lòa. Tôi túm chặt cổ áo khoác, cảm nhận thân mình lẩy bẩy từng cơn run, lạnh đến nỗi răng lợi va vào nhau lập cập, tôi biết mình đương cơn sốt, chân bước ngỡ đạp lên cát, mềm oặt ẹo chẳng mấy sức lực. Bải hoải đứng dưới dàn đèn, khắp nơi là tiếng cười hoan ca vô bờ bến, người qua người lại rộn ràng nhộp nhịp tựa thoi đưa, tháp Thất Tinh bắn từng chùm pháo hoa lộng lẫy nở rộ trênbầu trời cao ngất, Nguyên tiêu rực rỡ màu sắc, Nguyên tiêu phồn hoa đô hội, tôi đi đâu về đâu?

    Gầm trời bao la này, hỏi có chốn nào cho mình dung thân.

    A Độ ơi, A Độ ơi, ngươi ở nơi nao? Chúng ta về Tây Lương đi thôi, ta nhớ Tây Lương rồi.

    Trước mắt tôi là một lồng đèn kéo quân, chao đèn dán giấy thếp vàng hình một người con gái, hơi nóng giẫy từ ngọn nến uốn lượn tỏa ra, chao đèn không ngừng quay tròn, người con gái đó thoắt đứng thoắt ngồi thoắt yêu kiều thoắt giận dữ, lại thoắt hoan hỷ… Trước mắt cứ sụp tối dần, người con gái dán trên đèn sao có nét hao hao Triệu lương đệ, nàng ta bưng miệng cười, ngạo mạn cười bảo tôi: Tỷ nghĩ có chi khác ấy à? Tỷ tưởng rằng mình chiếm được chỗ đứng trong lòng chàng rồi ư? Tỷ tưởng mình làm con tin thay bệ hạ, chàng sẽ rủ lòng tiếc thương vài phần ư…

    Ngặt nỗi vố này rõ công toi.

    Tôi dựa vào thân cây mới đứng vững, lớp vỏ sần sùi thô ráp cào vào áo lông buốt đau, nhưng thà rằng thế tôi mới thấy dễ chịu… Chỉ cần cơn đau nhức ấy làm vơi đi cái sự âm ỉ trong lồng ngực. A Độ thì chẳng thấy đâu, ở thành Thượng Kinh này, tôi thành ra bơ vơ trơ trọi. Tôi có nơi nao để đi? Một thân một mình về Tây Lương, dẫu phải đi 1 tháng, 1 tháng không đến thì 3 tháng, 3 tháng chưa tới thì nửa năm, nửa năm vẫn không đặng, đi hẳn 1 năm, thế nào chẳng về được Tây Lương.

    Lúc ấy ngước mắt trông trăng, một ánh trăng rằm tròn đầy, sáng trong, dịu dàng soi tỏ từng mặt người. Thượng Kinh phồn hoa yên bình hiển hiện cả dưới ánh trăng, dạo trước đây, tôi và A Độ từng vô số lần dạo khắp phố lớn ngõ nhỏ ở Thượng Kinh, hiềm nỗi nơi này mãi mãi không phải nhà tôi, tôi phải về nhà mình thôi.

    Tôi chậm rãi đi về phía tây thành, muốn tìm về Tây Lương, ắt phải qua Quang Hoa Môn, rồi cứ thẳng tiến phía tây, cứ thẳng về phía tây, qua được Ngọc Môn Quan đã là Tây Lương.

    Tôi phải về nhà thôi.

    Tôi còn chưa chạm mặt Quang Hoa Môn, bỗng nhiên nghe dân xung quanh thất thanh la hét, nhiều người trở nên xôn xao, có người gào lên: “Thừa Thiên Môn có cháy!”

    Tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, mọi ánh nhìn đổ dồn về Thừa Thiên Môn nơi phía Nam, đằng ấy thoáng có bóng lửa chập chờn, cột khói đen dày đặc bốc lên cuồn cuộn từ mái vòm, ai nấy đều bụm miếng kinh hãi, giương mắt nhìn ngọn lửa bốc lên dữ dội bao chùm toàn bộ thành lầu. Thảy những chuỗi đèn như châu như ngọc, thảy những mành rèm thắm đỏ, thảy những mái hiên sững sững đồ sộ….chỉ vừa mới rồi thôi, giờ đây đã bị khói và lửa nuốt trọn, đám cháy mỗi lúc một to, lửa bùng thêm mãnh liệt, gió được đà bốc ngọn lửa lên cao, Thừa Thiên Môn bừng bừng phát cháy.

    Cả con phố bỗng trở nên hỗn loạn, lúc này cả đường nhốn nháo, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, thì còn biết làm gì vào lúc này. Chênh chếch bên kia đường đã xuất hiện vài đội Thần vũ quân, tôi nghe họ quát tháo ầm ĩ, hò dân chúng tự giác nhường đường, vó ngựa quét qua chẳng khác nào cơn lốc, thế rồi đám người cứu hỏa cũng rầm rập xuất hiện, họ vác theo ống gỗ, người ta kéo những thùng xe lớn chở đầy nước lao như bay về đằng hỏa họan, tiếng lộc cộc lê dài con chợ. Tết Nguyên tiêu hằng năm, năm nào chẳng đốt pháo bông, lại còn chăng ối đèn lồng, hễ cháy nổ ra đấy thế nào cũng gây họa lớn, vì lẽ đó mà quan Kinh triệu doãn hằng năm đều chuẩn bị sẵn ống cứu hỏa và xe nước, giả như dân có gặp cháy cũng có đường dùng, chỉ là không ngờ năm nay lại gặp dịp dùng vào việc lớn.

    Tôi đánh mắt trông phía Thừa Thiên Môn lúc này đang bị Thần vũ quân vây kín, thoáng chốc đã thấy môt toán cung nhân bưng nghi truợng, lay lắt nối đuôi Thần vũ quân đi về đằng Hoàng cung trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo, tôi tự nhủ ắt cũng chẳng xảy ra chuyện to tát.

    Mà đáng lẽ, tôi chớ có nên lo lắng làm gì, người trên Thừa Thiên Môn ai chết ai sống, nói cho cùng, giờ đâu còn dây mơ rễ má gì với mình mà vác chuyện vào thân cho rách việc.

    Giờ chỉ lo về Tây Lương, chỉ muốn bảo với cha con đã về, rồi lôi con ngựa nhỏ của mình ra, lao băng băng trên thảo nguyên, tựa như những ngày tháng vô tự lự dạo còn bé.
    Tôi dồn sức tiếp tục cuộc hành trình về phía tây thành, ngựa của Thần vũ quân vút qua bên mình, chỉ kịp nghe roi quất vun vút lẫn trong tiếng gào thét ran trời: “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” tiếng họ ngân vang kéo dài, phóng qua một đoạn rõ xa vẫn còn vẳng lại, “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!”…

    Tết Nguyên Tiêu đã trải qua hàng trăm năm thịnh vượng, xưa nay chưa từng xảy ra chuyện này, song dân chúng cũng không lấy làm lạ, sở dĩ họ vẫn chưa hết bàng hoàng kể từ lúc vụ cháy xảy ra quá đỗi đột ngột, đến tận lúc này họ còn đang bàn tán xôn xao về vụ việc trên. Trước vô số vòi nước xối xả vào Thừa Thiên Môn như 1 con rồng trắng xóa đang quẫy đuôi tung hoành ngang dọc, cuối cùng ngọn lửa đã được khống chế, khói dịu bớt, thay vào đó, hơi nước bốc lên nghi ngút, mùi than cốc nồng nặc chùm lên bầu không khí.

    “Cổng thành đóng rồi, chúng ta về làm sao đây?”

    “Ôi giời, lửa to thế, sợ lớn chuyện thì đóng cổng thành thế thôi, đợi lúc nữa, Thừa Thiên Môn tắt lửa rồi, thế nào cổng thành chả mở…”

    Người trên phố xôn xao mỗi người góp dăm câu, thôi thì đủ các thể loại tạp âm khiến tôi sốt cả ruột. Chưa nhúc nhích được bước nào, đến thở cũng thấy bỏng rẫy như thể họng đang ngậm hòn than, ráo và rát cháy, tôi thở hồng hộc rồi ngồi phịch ngay lề đường, đầu ngả vào cây.

    Tôi tự nhủ mình chỉ nghỉ một lúc thôi, chẳng ngờ tựa ở đó thế rồi mê man lịm dần.

    Hình như dạo còn bé xíu, tôi theo cha đi săn, ngủ gục trên lưng ngựa, cha cõng tôi, cõng đến tận lúc về. Tôi nhoài mình trên tấm lưng rộng của cha, yên tâm đánh một giấc, lúc ngủ còn nhỏ dãi, bám vào phần lưng áo cha có chút ẩm ẩm. Tôi uể oải nhấc mí mắt, chỉ thấy phố xá ngập trong ánh đèn lung linh huyền ảo nối đuôi nhau, tựa như sao băng thỉnh thoảng xẹt qua trời đêm mùa hạ trên thảo nguyên. Nghe nói nếu có dịp gặp sao băng thì phải thắt nơ đai áo, đồng thời ước điều gì đó là chẳng mấy sẽ thành sự thực, thế mà tay chân tôi vụng về lóng ngóng, mỗi lần thấy sao băng, tuy không quên cầu nguyện, có điều lại quên béng mất phải thắt nút…

    Đêm nay sao có nhiều sao băng thế, nếu mà tôi muốn ước, giờ còn điều gì để ước nữa nhỉ?

    Tôi cố sức giơ tay ra, toan thắt đai áo, thế nhưng ngón tay mềm oặt, không mấy sức lực, tay tôi thõng xuống, thôi vậy.

    Đành thế, đành thôi vậy.

    Tôi nhắm mắt, chìm hẳn vào giấc ngủ.

    Giấc ngủ kéo dài bao lâu không rõ, nó đằng đẵng như thể đã trải qua trọn vẹn 1 đời người, song có thể cũng chỉ là thoáng chốc ngắn ngủn tủn mủn, nó sâu lắng, nom có vẻ sâu mà hóa ra nông choẹt, tôi lúc nào cũng thường trực cảm giác trước mắt mình có chiếc đèn kéo quân không ngừng quay tít, quay cứ quay, giấy thếp vàng phát thứ ánh sáng chói đau cả mắt, bên tai chầu chực tiếng người rì rầm, không chịu nhường lời cho sự yên tĩnh dù chỉ một khắc. Tôi thấy cáu, sao không cho tôi một giấc ngủ yên? Tôi biết mình ốm rồi, cơ thể thoắt lạnh thoắt nóng, chợt thế này chợt thế kia, lúc lạnh, răng nghiến vào nhau kèn kẹt, lúc nóng, răng nọ lập cập đập răng kia, mỗi hơi thở ra lúc này đều bỏng rát.

    Trong cơn mê tôi cũng lẩm bẩm nói mấy câu, nào thì tôi muốn về Tây Lương, tôi muốn gặp cha, tôi muốn A Độ, tôi muốn con ngựa nhỏ của mình…

    Tôi cần quãng ngày xưa kia, chỉ có mình tôi biết, thứ tôi cần, thực ra có muốn cũng không với tới.

    Mới trước đó, lúc ho ra máu, tự tôi đã hiểu ra tất thảy.

    Lồng ngực đau đớn quặn thắt, ý thức phai mờ rồi lịm dần vào giấc ngủ.

    Trong giấc mơ, tôi thúc ngựa lao vun vút giữa sa mạc hoang vu không một lằn ranh giới, ráo riết kiếm tìm khắp bốn phương, quẩn quanh lạc lõng giữa mọi bề, lúc ấy, có lẽ nước mắt rơi, và tôi nghe thấy tiếng mình nghẹn khóc.

    Khóc cái nỗi gì? Con gái Tây Lương chúng mình, trước đây đừng hòng sụt sùi vì mấy chuyện vặt này.

    Mãi đến khi bừng tỉnh,cảm giác ê ẩm khắp thân mình, mí mắt rít rịt, nặng đến độ có cố mở cũng khó. Tôi gượng hé mắt, thoạt nhìn vậy mà thấy ngay A Độ, mắt nàng ấy hoen đỏ cứ chằm chằm vào tôi mãi. Xung quanh tối om, đỉnh đầu lại có mấy cái lỗ thủng hứng sao, thứ ánh sáng lưa thưa len lỏi xuống. Cuối cùng tôi nhận ra, chỗ này là 1 gian miếu hoang, cớ sao đã ở đây? A Độ đỡ tôi nhỏm dậy, bón cho tôi ít nước. Lồng ngực phỏng rát cũng phần nào nguôi ngoai, tôi nắm thật chặt tay nàng ấy, thì thào bảo: “A Độ, chúng ta về Tây Lương thôi.”

    Giọng tôi khản đặc nói không ra hơi, tự mình nghe cũng còn chẳng rõ, A Độ lại gật đầu, ngón tay mát rượi của nàng ấy vuốt trán tôi có thứ cảm xúc khoan khoái lạ. May mà A Độ trở về rồi, may mà A Độ tìm ra tôi rồi, tôi chẳng còn hơi sức đi hỏi nàng ta xem 2 ngày nay chạy biến đi đằng nào, tôi bị thích khách bắt cóc, hẳn nàng ấy nóng lòng lắm đây. Có cô bé này ở bên, tim tôi nhẹ nhõm hẳn, A Độ về rồi, tôi cố sức mở mắt nhìn nàng ấy thêm 1 lần, nàng ấy đứng ngay bên mình, hình như đang giỏng tai chăm chú nghe tiếng gì đó, tôi cũng thấy thế, như thể tiếng sấm rầm rập rền vang, có đội ngựa đang tiến dần về đằng này.

    A Độ khom người dìu tôi dậy, thân thể tôi nhũn nhùn hầu như chẳng mấy sức lực.

    Nếu như kẻ sắp đến là Thần vũ quân hay Vũ lâm lang, tôi cũng chẳng thiết gặp, bởi lẽ tôi không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân, chỉ sợ A Độ không cách nào đưa tôi trốn được bọn người ấy.

    Có kẻ đạp tung cửa miếu, chính giữa thế ngàn cân treo sợi tóc ấy, trên xà nhà đột nhiên có bóng trắng lao xuống tưởng đâu như một loài chim to không gì sánh bằng. Lưỡi kiếm sáng quắc đâm thẳng hướng cửa, rồi nhiều tiếng rú thảm thiết, tôi nhận ra người vừa phi thân từ xà nhà xuống chính là Cố Kiếm, mà những kẻ sụp mình đổ xuống ở bên ngoài, quả nhiên vận trên người trang phục của Thần vũ quân. Lúc ấy chỉ cảm giác máu nóng trong người đang sôi lên đằng đầu, không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân đã đành, đằng này Cố Kiếm lại đang xuống tay giết người.

    Trong tay A Độ nắm chắc thanh kim thác đao, cảnh giác quan sát cảnh tàn sát giữa Cố Kiếm và phía Thần vũ quân, tôi giành lấy thanh đao ngọc trên tay A Độ, A Độ nhìn tôi đầy ngờ vực.

    Tôi từ từ bước gần đám ẩu đả ấy, mớ Thần vũ quân tưởng tôi với Cố Kiếm một giuộc, chúng hướng đầu vũ khí lao tới tấp về phía tôi. Võ công của Cố Kiếm rất cao cường, tuy bị vây hãm, song mỗi lần có kẻ toan tấn công tôi, hắn vẫn có thể tranh thủ chống đỡ, ngăn giết ngay tại chỗ. Hắn xuống tay gọn gàng, không để phí một đường kiếm nào, mỗi một nhát kiếm vung ra, lại có ngay 1 kẻ gục xuống trước mắt tôi.

    Dòng máu ấm nóng loang lên mặt mũi, những kẻ đổ rầm cách mặt tôi chừng 1 thước trở lại mỗi lúc một nhiều, như thể đám Thần vũ quân kia không biết sợ chết là gì, người trước ngã xuống kẻ sau tiến lên, song vẫn không tránh khỏi lưỡi kiếm trắng ởn kia, thế rồi bọn họ trút hơi thở cuối cùng chỉ cách mặt tôi bằng một khoảng cách thật gần đến trong gang tấc. Tôi kinh hãi trước cảnh thảm sát vô tội vạ này, tôi chỉ muốn gào lên “Dừng tay đi”, thế mà giọng khản đặc, không cách nào thốt lên lời, dường như Cố Kiếm ngoảnh mặt làm ngơ với điều này.

    Tôi nghiến răng, vung đao lao về phía hắn, hắn thoắt cái đã đánh tuột thanh đao trên tay tôi, cánh tay buông thõng, đao rơi xuống đất. Chính vào lúc ấy, thứ tiếng nặng nề nào đã xé gió lao đến, dường như có hòn đá to lắm nhằm đúng đầu tôi mà nện, tôi ngước trông lên theo bản năng, A Độ lao về phía tôi, khói bụi cuộn mình bùng lên, âm thanh chát chúanhư thể khiến mặt đất phải rùng rình, thứ tiếng ấy tựa muốn đè nát cả ngôi miếu nhỏ này.
     
  6. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 25
    Có luồng khí vô hình đánh chiếm thân tôi, tay A Độ mới chỉ rờ tới gấu váy, tôi cũng trông thấy cả Cố Kiếm dường như dợm muốn giữ tôi lại, nhưng đám người hung hãn như triều cường lách kiếm cuốn hắn vào cuộc ẩu đả. Mái ngói trên xà nhà xiêu vẹo chỉ chực đổ sụp, trách chăng là đầu vừa đụng vào thứ gì, sọ đau buốt khiến tôi trong nháy mắt mất đi cảm giác, thế rồi sa vào màn đêm vô tận.

    “Tách!”

    Thân thể nặng trĩu lẳng mình trong nước, nước xanh biếc vây hãm bốn bề, đau tựa ngàn nhát dao sắc lạnh xẻ dọc da thịt. Đành rằng vậy, tôi thả lòng buông xuôi mọi vật lộn, phó mặc thân mình lắng xuống đáy nước sâu, như đứa con trở về với mẹ, như bông hoa nhỏ xinh đáp xuống mặt đất, là một cõi đi về rất đỗi bình yên trong tôi, bấy lâu nay tôi vẫn luôn hiểu.

    “Nước sông Quên, đặng quên tình…”



    “Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô….thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về…..Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng…..Ô…. thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…..”

    “Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!”

    “Nhưng thiếp chỉ biết mỗi bài này…”



    “Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau thiếp sẽ quên được chàng!”



    Lọt lòng trong ký ức có đốm sáng lập lòe lúc tỏ lúc mờ, dường như bức màn bụi mù sương dày đặc dần nhạt phai, lộ ra cảnh sắc bọt nước hư ảo. Và rồi bỗng nhiên, tôi thấy chính mình.

    Tôi thấy mình ngồi trên cồn cát, ngắm ông mặt trời khuất lẩn dần, thấy trái tim mình, từ từ rồi cũng rũ héo, mãi đến khi khi ánh tà dương vuột khỏi tầm mắt, nắng tắt ở phía đồi cát đằng xa. Màn đêm chụp phủ lên trời đất trăm mối ngổn ngang, tia sáng cuối cùng lụi tàn, không còn thấy đâu nữa.

    Tôi tuyệt vọng quẳng miếng ngọc bội xuống bãi cát, không ngoảnh đầu, lao lên ngựa bỏ đi.

    Gã thầy thối tha! Đồ thầy tồi! Loại thầy đáng ghét tột đỉnh này! Còn bảo sẽ làm mối hộ tôi, chọn cho tôi người đàn ông đẹp trai nhất trần đời nữa chứ! Lão lừa tôi ra chỗ này, hại tôi toi công đợi thông ba ngày ba đêm!

    Mấy ngày trước Hoàng đế Trung Nguyên phái sứ thần tới đặt vấn đề cầu hôn với Phụ vương, tỏ ý Thái tử Trung Nguyên nay đã trạc 17, mong được lấy một cô công chúa Tây Lương về làm chính thất, cốt để thắt chặt mối bang giao tốt đẹp nhiều đời giữa hai nước. Trung Nguyên từng có một nàng công chúa được gả tới Tây Lương chúng tôi, thế nên chúng tôi cũng nên gả công chúa nào đó sang Trung Nguyên.

    Nhị tỷ và tam tỷ muốn đi lắm, nghe bảo cuộc sống ở Trung Nguyên rất tốt, được ăn ngon mặc đẹp, chẳng thiếu gì nước, khỏi phải sống dọc theo nơi có đồng cỏ và nguồn nước, tránh được nỗi khổ nơi gió cát sa mạc. Mà theo lời sứ thần Trung Nguyên, bởi lẽ Thái tử phi tương lai sẽ tấn phong Hoàng hậu Trung Nguyên, xuất thân cấm kị nhất là con của thứ thiếp, vậy nên họ hy vọng vị công chúa này tất phải do Đại Yên Thị(*) của Phụ vương thân sinh. Tôi chẳng hiểu thể loại coi trọng này là thế nào, nhưng duy có mẫu thân tôi là Đại Yên Thị, mà mẫu thân chỉ hạ sinh có mình tôi là nữ, còn lại toàn là nam, xem ra phen này tôi phải gả đến Trung Nguyên là cái chắc rồi. Nhị tỷ lẫn tam tỷ thì ao ước lắm, song tôi chẳng tẹo thích thú nào. Trung Nguyên thì có gì hay ho chứ? Đàn ông Trung Nguyên tôi nhìn chán rồi, mấy gã thương nhân buôn tơ lụa đến từ Trung Nguyên, gã nào gã nấy rặt cái giống sức trói không chặt một con gà, đừng nói là cầm cung, mà cưỡi ngựa cũng dốt hết biết. Người ta nói Thái tử của Trung Nguyên từ nhỏ đã ở lì trong thâm cung, ngoại trừ vẽ tranh ngâm thơ ra, gì cũng không biết.

    (*Yên thị: người Hung Nô thời Hán gọi hoàng hậu của Vua)

    Lấy một gã chồng đến cái cung cũng không giương nổi, vậy chẳng hóa ra rước ấm ức tủi nhục vào thân. Tôi kèo nhèo mất mấy ngày, Phụ vương dỗ bảo: “Con đã không đồng ý lấy Thái tử Trung Nguyên, vậy ta đành đi giải thích với bên Trung Nguyên vậy. Nếu như con có ý trung nhân rồi, trước tiên Phụ vương sẽ tổ chức đính hôn cho các con, sau đó nói lại với bên Trung Nguyên, bảo họ chọn công chúa khác, làm vậy họ có muốn cũng không kiếm chuyện trách chúng ta được.”

    Tôi năm đó vẫn chưa tròn 15 tuổi, bọn con trai trong tộc chỉ coi tôi như em gái nhỏ, đi săn không thèm dắt đi, hát hò cũng không màng tới tôi. Tôi biết đi đâu tìm ý trung nhân đây hả trời?

    Rầu chết mất thôi.

    Sư phụ biết chuyện xong, vỗ ngực quả quyết bảo sẽ tìm cho tôi một gã đẹp giai nhất nhất nhất trên trần đời này, thầy bảo Trung Nguyên gọi thế này là “dạm mặt”, thì đôi bên nam nữ gặp riêng nhau 1 lần, nếu như hợp ý, thì cha mẹ đứng ra làm chủ rồi gọi người mai mối. Hẹn nhau có 1 lần thì biết được người thế nào, song giờ tình hình cấp bách lắm rồi, cốt sao không phải lấy Thái tử Trung Nguyên, tôi liền đồng ý đi dạm mặt.

    Sư phụ dặn địa điểm dạm mặt ở trên đồi cát cao nhất cách thành 3 dặm, thầy đưa tôi 1 mảnh ngọc bội, đoạn bảo mảnh còn lại do người kia cầm, chính là cái người thầy muốn vun vào cho tôi, bảo tôi nhớ để ý cẩn thận, phải nhìn kĩ xem có vừa ý không.

    Điên thế cơ chứ!

    Tôi biết ngay thầy lại đùa tôi mà, cả ngày chỉ lôi tôi ra trêu đùa thôi. Lần trước lừa tôi, bảo ngay sau núi Yên Chi có sông Quên, hại tôi chất lương khô, rong ngựa đi suốt 10 ngày 10 đêm, lật tung cả núi Yên Chi lên, rốt cuộc sau lưng núi chỉ thấy một đồng cỏ rộng, đừng có nói sông Quên, ngay đến một con đầm nhỏ cũng chẳng đào đâu ra.

    Cả đi lẫn về phải mất đến hơn 20 ngày trời, quẩn quanh một vòng mãi dưới chân núi, suýt nữa thì lạc đường, cuối cùng may có người chăn dê, rồi thì sau hồi vật lộn cũng mò được vào thành. Mẹ còn tưởng tôi bị lạc, không trở về nữa, mẹ đổ bệnh nặng, ôm tôi khóc một hồi rấm rức, phụ vương nổi giận lôi đình, nhốt tôi trong vương thành suốt nhiều ngày, cấm chỉ thò chân ra khỏi cửa. Sau đó tôi chất vấn sư phụ hòng xả cơn tức, lão lại bảo: “Ta chỉ nói thế thôi mà đã tin rồi à? Nàng phải biết trên đời này rồi sẽ có kẻ muốn lừa nàng, nàng không thể tin những gì họ nói được, ta đang dạy nàng, chớ nhẹ dạ cả tin vào những lời ngon ngọt của người ngoài, bằng không sau này thể nào cũng thiệt vào thân.”

    Tôi trông đôi mắt sáng long lanh của lão, tức chỉ thiếu điều sặc máu.

    Sao tôi chẳng rút ra được bài học nào thế này? Tôi mắc lỡm ngần ấy lần, lần nào cũng ngây ngây ngô ngô tin lão sái cổ?

    Mà có lẽ cả đời tôi chẳng thể nào học nổi mưu trí của sư phụ.

    Tôi tức mình lắm, rong ngựa về, ngựa nhởn nhơ gặm cỏ dọc đường đi, suốt chặng về tôi ngẫm, hay cứ bảo quách với Phụ vương rằng tôi thích sư phụ, rồi xin phép người cho tôi với sư phụ đính hôn nhỉ. Đằng nào lão cũng hại tôi nhiều lần lắm rồi, tôi cho lão biết tay lần này, có gì quá quắt đâu.

    Bụng bảo dạ ý kiến này tuyệt vời thật, thế nên chốc lát tinh thần tôi đã hưng phấn hẳn, thúc ngựa chạy về đằng Vương thành, miệng khẽ ngân nga hát:

    “Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô….thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về…..Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng…..Ô…. thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…..”
    Tôi đang cao hứng buông giọng hát, bỗng phía sau có người gọi: “Cô nương ơi, đồ của nàng rơi này.”

    Tôi ngoái đầu trông có một gã cưỡi ngựa trắng.

    Sư phụ nói ấy à, những kẻ cưỡi ngựa trắng chưa chắc đã phải hoàng tử, mà có khi là Đường Tăng từ Đông thổ đại Đường đến Tây vực thỉnh kinh cũng nên. Song gã trai này lại không choàng áo cà sa, hắn mặc một bộ áo khoác màu trắng, xưa nay tôi chưa từng gặp gã trai nào mặc bào trắng đẹp đến mức này, mớ thương nhân người Ba Tư thỉnh thoảng đến đây cũng toàn mặc màu trắng, nhưng đám Ba Tư kia mặc màu trắng như màu dưa mật, màu trắng gã này mặc có vẻ sáng trong như ánh trăng trên trời.

    Hắn nom cũng đẹp trai, mắt mày cong cong tựa nét cười, mặt mũi trắng ngần như ngọc Hòa Điền loại thượng đẳng, tóc tết kiểu Tây Lương, mà tiếng Tây Lương của hắn cũng khá lưu loát, có điều tôi liếc mắt đã nhận ra đây là 1 gã Trung Nguyên, đàn ông ở Tây Lương nào có được trắng thế. Hắn ngồi trên yên ngựa, thân người toát ra một khí thế rất kì lạ, kiểu khí thế ấy tôi chỉ thấy xuất hiện ở cha mình, lúc người xét duyệt toàn quân. Cha thúc ngựa vác đao, khi toàn quân tung hô, ánh mắt cha kiêu hãnh trông xuống quân đội trong tay mình, lãnh thổ của người, những đứa con của người.

    Gã trai này cũng nhìn tôi với ánh mắt y hệt, như thể hắn là vị quân vương duy nhất trên thế gian này.

    Con tim tôi nhảy nhót loạn xạ, ánh mắt hắn giống với cơn lốc xoáy giữa hoang mạc, nó đến và cuốn phăng mọi thứ, tôi tự bảo mình quả nhiên hắn có sức lôi cuối kì lạ, khi hắn nhìn tôi, lúc ấy đầu tôi gần như trống rỗng. Miếng ngọc bội trắng nằm giữa những ngón tay thon dài của hắn, chính là miếng tôi vừa mới quẳng đi. Hắn nói: “Chẳng nhẽ không phải cô nương đánh rơi sao?”

    Tôi vừa nhìn thấy nó, lại đâm bực, đanh mặt lớn tiếng bảo: “Không phải đồ của ta.”

    Hắn nói: “Nơi mênh mông không người này, chẳng phải đồ của nàng, vậy là của ai đây?”

    Tôi dang cánh tay múa may một hồi, già mồm nói: “Ai bảo ở đây không có người? Chỗ này có gió, có cát, có trăng, có sao…”

    Hắn bỗng cười, đoạn lẹ làng nói: “Nơi đây còn có nàng.”

    Hình như tôi trúng tà rồi, thậm chí mặt đã bắt đầu nóng bừng lên. Tuy tuổi tôi còn nhỏ, song cũng hiểu câu ấy của hắn có mấy phần cợt nhả. Tôi thấy hơi hối hận khi chuồn ra ngoài có mỗi một mình, chỗ này tịch không bóng người, nếu mà hắn có động thủ gì, chưa chắc tôi đã đọ nổi hắn.

    Tôi lớn tiếng bảo: “Ngươi biết ta là ai không? Ta là cửu công chúa của Tây Lương, cha ta là quốc vương Tây Lương, mẹ ta là đại Yên thị, cũng chính là Nữ vương của Đột Quyết(*), ông ngoại ta là đại Thiền Vu(**) Thiết Nhĩ Cách Đạt quyền uy nhất Tây Vực, kền kền trong sa mạc nghe thấy tên ông ngoại ta cũng sợ không dám rớt xuống đấy. Ngươi mà dám tỏ thái độ xấc xược với ta, phụ vương ta thế nào cũng trói ngươi sau ngựa cho ngựa kéo chết tươi luôn.”

    (*Đột Quyết: dân tộc thiểu số thời cổ ở Trung Quốc, sau bị nhà Đường tiêu diệt)

    (**Thiền Vu: tên hiệu của vua Hung Nô)

    Hắn thong thả nở nụ cười, bảo: “Cô bé dễ thương này, sao động một tí là dọa nạt người khác thế? Nàng biết ta là ai không? Ta là Cố Ngũ Lang của Trung Nguyên, phụ thân ta là chủ hiệu chè, mẫu thân ta bà chủ gia đình bình thường, ông ngoại ta là nông dân trồng chè, đành rằng gia đình ta không có khí thế gì đâu, nhưng nếu nàng trói ta sau ngựa cho ngựa kéo chết tươi thật, Tây lương các nàng sẽ không có nổi lá chè ngon để mà uống đâu.”

    Tôi phùng mang trợn mắt với hắn, mấy năm gần đây, lá chè mới du nhập vào Tây Lương, trong mắt người dân Tây Lương, nó quả thật là thứ tốt nhất trần đời. Phụ vương thích uống nhất là chè Trung Nguyên, mà toàn thể Tây lương cũng thích dùng chè, không ai nỡ rời xa món ấy dù chỉ 1 ngày, nếu như lời thằng cha này nói là thật, vậy thì phiền lắm đây.

    Ấy mà hắn còn trơ cái kiểu cười mím chi ra nhìn tôi.

    Đúng cái lúc tôi đang bực mình ấy, đột nhiên nghe thấy ngay gần sau lưng có kẻ phì cười.

    Tôi ngoái đầu xem, hóa ra là sư phụ. Không rõ lão bỗng dưng chui từ đâu ra, lại còn nhìn tôi rồi cười.

    Tôi vừa tức và cáu, bảo lão: “Thầy còn dám đến gặp ta à! Hại ta phí toi 3 ngày 3 đêm đợi trên cồn cát! Cái gã đẹp trai nhất nhất nhất trần đời thầy bảo tìm giúp ta đâu hả?”

    Sư phụ chỉ chỉ vào gã cưỡi ngựa trắng, đoạn bảo: “Chính hắn đấy thôi!”

    Gã kia vẫn trơ cái kiểu cười tinh quái, hắn xòe tay, tôi mới rõ trong lòng bàn tay hắn đang cầm hóa ra không chỉ một miếng ngọc, mà rành rành là cả đôi. Hắn cầm đôi ngọc bội trong tay, thế rồi tỏ cái vẻ đang chứng kiến 1 vở kịch hay.

    Tôi hoàn toàn đờ đẫn cả người, qua một lúc lâu mới dậy lại tinh thần, tôi cóc muốn lấy gã Trung Nguyên này đâu! Đành rằng được cái mã đẹp trai, nhưng mồm miệng cứ gọi là sắc lem lẻm, chẳng chịu nhường ai đến nửa câu, mà còn dám trêu chọc tôi nữa chứ, tôi ghét nhất kẻ nào dám đi chọc tôi!

    Bụng dạ tức anh ách, chẳng thiết nhìn hắn, tôi thúc ngựa quay về. Sư phụ và cái gã Cố Ngũ Lang ấy cưỡi ngựa đi đằng sau, thoạt đầu nói dăm ba câu, sau bắt đầu chuyển sang tán gẫu.

    Sư phụ bảo: “Ta tưởng đệ không đến cơ đấy.”

    Gã Cố Ngũ Lang bảo: “Nhận được bồ câu truyền thư, đệ không đến đâu có được?”

    Nom bọn họ trò chuyện có vẻ thân mật, tôi mới hiểu, thì ra thầy và hắn quen biết từ trước, hai người dường như nói mãi không hết chuyện, dọc đường, thầy giảng giải cho tay Cố Ngũ Lang ấy nghe phong tục tập quán và lễ tiết của Tây Lương. Gã nghe rất chăm chú, thoảng có vài câu truyền đến tai tôi. Tôi không muốn nghe cũng khó, bọn họ dần dà chuyển từ phong thổ sang thông thương buôn bán, trước kia tôi chưa từng nghe sư phụ nói nhiều đến thế, nghe đến nỗi tôi thấy rõ chán, không nén được cái ngáp dài. Lớp tường bao màu xám bọc quan Vương thành đã thấp thoáng đằng xa, dải tường thành và cổng lầu khổng lồ được chất từ tầng tầng lớp lớp đá dăm. Thành quách sừng sững tựa những rặng núi nối đuôi nhau trải dài, tường thành cao chót vót bưng bít mất quá nửa bầu trời, càng đến gần càng cảm nhận được sự cao lớn của thành lũy, trên đất Tây vực hoang liêu, phạm vi mười dặm đổ lại không nơi đâu có được tòa thành lớn nhường này. Các bộ tộc thuộc Tây Lương vốn sống men theo đồng cỏ và nguồn nước, mãi đến tận trăm năm trước, các bộ lạc Tây Vực đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền một vị Thiền Vu, sau đó dựng lên Vương thành hùng vĩ này, thoạt đầu gọi Tây Lương Quốc. Thế rồi trải qua nhiều thế hệ liên hôn giữa các tộc Đột Quyết, Khâu Từ, Nguyệt Thị(*), bên cạnh sự ban thưởng từ Trung Nguyên, Vương Thành lại nằm trên con đường thông thương quan trọng nối giữa Trung Nguyên và Đại Thực(**), thương nhân buôn bán ắt phải đi qua, thế nên Vương thành ngày dần trở nên phồn thịnh, cộng thêm các vị vua tiền triều luôn tập trung vào lực lượng quân sự, binh sĩ của chúng tôi dũng mãnh thiện chiến, Tây Lương cuối cùng vươn lên trở thành cường quốc của Tây Vực. Lãnh thổ tuy không lớn lắm, song kể cả Trung Nguyên ngày nay cũng không dám xem thường Tây Lương. Thành lũy hùng vĩ điểm hình rõ nét dưới nền trời tím sậm, càng .hằn lên sự lớn lao tráng lệ. Tôi trông đèn lồngtreo tít trên đỉnh lầu, nhấp nhấp nháy nháy hồ như một vì sao cực lớn, mà cao hơn xa hơn, chính là bầu trời ngàn sao bao la. Sao nhỏ li ti tựa hạt đường rải dọc chân trời, mà Vương thành tựa chiếc bánh nang(***) dưới lớp áo đường ấy, cứ nhìn thấy nó, tôi lại có cảm giác ấm cúng thỏa mãn—cứ như thể vừa mới chén xong một bữa no nê.

    Tôi vỗ con ngựa nhỏ của mình, nó khẽ tung vó mau hơn, chuông loan thắt dưới cổ phát ra âm thanh giòn tan, hòa với tiếng lục lạc nơi xa, sột soạt đượm êm tai. Hẳn đang có đoàn thương nhân nào đó gấp rút lên đường nhân lúc trời đêm mát mẻ, thế nên cổng thành cả đêm mới không đóng. Tôi rong ngựa phóng vào trước tiên, người bán nước giếng ngoài cổng thành đã quá quen mặt tôi, gọi “Cửu công chúa”, rồi từ xa tung cho tôi 1 chùm nho. Mỗi lần có thương nhân đi qua tặng bọn họ bánh trái, bọn họ đều phần chùm ngọt nhất cho tôi.

    (*Khẩu Tử, Nguyệt Thị: Khẩu Tử: tên nước cổ ở Tây Vực, nay là huyện Khố Xa, Tân Cương, TQ; Nguyệt Thị: tên nước ở Tây vực từ thời Hán)

    (**Đại Thực: Iran ngày nay)

    (***bánh nang: món ăn chính của người DuyNgôNhĩ và người Ka-Dắc, TQ)
     
  7. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 26
    Tôi vui vẻ đón chùm nho, ngắt 1 quả bỏ vào miệng ngấu nghiếm nhai lớp vỏ mỏng, nước nho thanh thanh ngọt lịm lan ra trên đầu lưỡi rõ ngọt. Tôi ngoái đầu hỏi sư phụ: “Này! Mấy người ăn không?” Trước nay tôi không có thói quen mở miệng là gọi sư phụ, dạo đó bái lão làm thầy, chỉ đơn thuần là bị lão lừa. Hồi ấy chúng tôi vừa quen nhau, thoạt đầu tôi không biết kiếm thuật của lão xuất chúng hơn người, bị mấy lời của lão kích động, chúng tôi quyết đấu kiếm một trận, ai thua phải chấp nhận bái người kia làm thầy, có thể suy ra tôi đã thua thảm hại cỡ nào, đành xuống nước nhận lão làm sư phụ. Tuy lão đã làm thầy, song thường xuyên giở nhiều trò mất nết không xứng làm thầy, thế nên tôi chưa bao giờ thèm gọi một tiếng thầy, được cái lão cũng không để bụng, mặc kệ tôi cả ngày gọi trống không này này suốt.
    Lúc đó bụng dạ lão thầy đang để đâu đâu, lão lắc đầu, lão còn bận nói chuyện cùng gã mặc áo trắng. Thỉnh thoảng thầy cũng dạy tôi mấy câu trong sách vở Trung Nguyên, cái gì mà “Khi em đã gặp được chàng. Rằng sao mà chẳng rộn ràng vui tươi?”(*), hay “Người quân tử khiêm tốn, mềm mại lấp lánh như ngọc”. Nói đi thì cũng phải nói lại, tôi cứ tưởng quân tử đều mặc áo trắng, thầy cũng thích mặc màu trắng, song lão thì quân tử cái nỗi gì, chẳng khác nào tuồng lưu manh.​

    (*Hai câu trong bài Phong vũ, thuộc phần Quốc phong – Kinh thi. Tạ Quang Phát dịch)​

    Thời gian Cố Tiểu Ngũ lán lại thành Tây lương, hắn ở tạm chỗ thầy. Nơi thầy ở bày biện như bao nhà của người Trung Nguyên khác, mát mẻ mà sạch sẽ, hơn nữa không dành chỗ nuôi lạc đà.​

    Tôi vẫn qua đằng nhà thầy chơi như thường lệ, dần dà trở nên thân thiết với Cố Tiểu Ngũ. Nghe nói hắn là thiếu gia tiệm chè, đám người hay qua lại với hắn, phần lớn là thương nhân buôn chè của Trung Nguyên. Trong buồng hắn ở, lúc nào cũng sẵn chè ngon để uống, còn có biết bao thứ ngon nghẻ khác, nào là bánh ngọt kiểu Trung Nguyên, rồi cả những món đồ chơi kì quái hay ho khác nữa, chúng khiến tôi quyến luyến mãi không rời. Mà đáng ghét nhất là, lần nào gặp Cố Tiểu Ngũ, hắn cũng hỏi: “Cửu công chúa ơi, bao giờ ta mới lấy được nàng?”​

    Tôi giận quá hóa thẹn, tất cả tại lão thầy mất nết mà sự tình mới thành ra nông nỗi này. Tôi thường lớn tiếng đáp: “Ta thà lấy Thái tử Trung Nguyên chớ quyết không lấy ngữ vô lại như chàng.” Hắn chỉ bật cười giòn tan.​

    Thực ra trong lòng tôi tự nhủ, tôi chẳng muốn lấy ai hết, ở Tây Lương vui thế này, cớ gì phải gả đến Trung Nguyên xa xôi kia?​

    Nói thế thôi, chứ sứ thần Trung Nguyên lại bắt đầu thúc giục phụ vương, thêm vào đó, Nguyệt Thị ở phía bắc núi Yên Chi, nghe tin Trung Nguyên phái sứ đến cầu thân với Phụ Vương, họ cũng sai sứ giả mang theo rất nhiều lễ vật đến Tây Lương.​

    Nguyệt Thị vốn là nước lớn nhất nhì trong toàn Tây Vực, binh sĩ nắm trong tay lên đến 10 vạn, họ dũng mãnh thiện chiến, phụ vương không muốn thất lễ, đành tiếp kiến sứ thần Nguyệt Thị trong vương cung. Tôi sai hầu gái đi nghe trộm họ bàn chuyện, hầu gái hổn hển chạy về len lén kể tôi nghe, vị sứ thần này bữa nay thay mặt Đại Thiền Vu bên Nguyệt Thị đến có ý dạm hỏi. Đại Thiền Vu Nguyệt Thị năm nay đã luống 50, Đại Yên Thị vợ lão là Nữ vương của Đột Quyết, vốn là chị ruột mẹ tôi, song vị Đại Yên thị này năm ngoái không may bệnh qua đời, mà bên cạnh Thiền Vu Nguyệt Thị cũng có khá nhiều Yên Thị, xuất thân từ những bộ lạc khác nhau, họ tranh chấp không ngơi nghỉ, chức Đại Yên Thị buộc lòng vẫn bỏ ngỏ.​

    Giờ Nguyệt Thị đánh hơi thấy Trung Nguyên phái sứ sang cầu hôn, họ cũng phái sứ bộ đến dặm hỏi Phụ vương, xin được cưới tôi về làm Đại yên thị nước họ.​

    Mẹ tôi nghe chuyện mà giận lắm, tôi cũng bực không kém. Lão Đại Thiền Vu kia rành rành đã là dượng tôi, lão đã ở cái tuổi râu bạc phơ rồi, mà lão còn muốn lấy tôi về làm Đại Yên Thị của lão, tôi mà thèm vào lấy một lão già. Phụ Vương không nỡ đắc tội Trung Nguyên, cũng không đành lòng thất lễ với Nguyệt Thị, người buộc phải ậm ờ lần lựa chưa vội quyết. Thế mà hai bên sứ thần đều lán lại trong Vương thành, về lâu về dài khó lòng trì hoãn được, tôi hạ quyết tâm, định bụng lén bỏ qua bên ông ngoại.​

    Hằng năm mỗi độ thu về, tầng lớp quý tộc Đột Quyết đều tập trung săn bắt trên đồng cỏ núi Thiên Hằng, Trung Nguyên gọi là “hội săn mùa thu”. Ông ngoại luôn nhắm đúng dịp đi săn rồi sai người đón tôi sang chơi, nhất là dạo 2 năm gần đây, sức khỏe ông không được tốt, hằng năm tôi sang, ông đều bảo: “Nom 2 mẹ con cháu giống nhau y tạc, khiến ông mừng lắm thay.” Theo tập tục người Đột Quyết, con gái đã xuất giá không được phép về nhà ngoại thăm cha mẹ, trừ phi bị đằng nhà chồng đuổi. Vậy nên lần nào tiễn tôi đi thăm ông, mẹ cũng phấn chấn lắm dặn tôi thay mặt mẹ đến vấn an họ hàng đằng ngoại bên Đột Quyết. Tôi lén tiết lộ cho mẹ nghe kế hoạch lần này, dẫu sao, mẹ cũng không bằng lòng gả tôi đến Trung Nguyên, song càng không muốn tôi lấy chồng Nguyệt Thị, mẹ giấu cha giúp tôi chuẩn bị nước và lương khô, rồi nhân lúc cha không có trong Vương thành, liền len lén đưa tôi chuồn ra ngoài.​

    Tôi cưỡi con ngựa nhỏ màu đỏ của mình, lao thẳng hướng núi Thiên Hằng.​

    Vương thành 3 mặt giáp núi, núi Yên Chi nhấp nhô trùng điệp vắt từ tây sang bắc, rặng núi cao ngút ngàn nối đuôi nhau tựa thân rồng uốn lượn, đôi khi giống với người khổng lồ vươn những cánh tay dài ôm trọn Vương Thành, ngăn gió chặn cát, ngăn không khí lạnh, biến Vương thành dưới chân núi trở thành một ốc đảo có khí hậu ấm nhuần. Hướng đông là núi Thiên Hằng có đỉnh cao chót vót, sừng sững giữa trời như muốn chọc thủng mấy tầng mây, chẳng khác nào tấm bình phong mà tiểu thương Trung Nguyên hằng buôn, chóp núi quanh năm đội nón tuyết trắng tinh tươm, nghe nói chưa một ai leo được lên đó. Vượt qua rặng núi, nơi có đồng cỏ xanh mơn mởn trải dài như bất tận chân trời – chính là quê ngoại.​

    Lúc ra khỏi thành, tôi để lại cho sư phụ một mảnh giấy, dạo này thầy rất bận, từ sau khi gã Cố Tiểu Ngũ đến đây, tôi cũng ít khi thấy thầy. Tôi nghĩ bụng mình đi Đột Quyết đợt này, ở đó qua mùa đông mới trở về được, thế nên tôi viết mảnh giấy, bảo thầy chớ quên chăm hộ tôi A Mã, A Hạ sau vườn nhà thầy. A Mã và A Hạ là hai chú chuột nhảy con con, tôi tình cờ tóm được. Phụ hoàng không cho tôi nuôi chuột trong phòng ngủ, tôi đành gởi lại chỗ thầy.​

    Nhân lúc trời đang mát mẻ, giữa đêm, tôi nối đuôi đội buôn ra khỏi Vương thành, đội lái buôn rẽ hướng Tây, tôi vòng hướng Đông.​

    Sa mạc về đêm tĩnh lặng quá, vòm trời đen mượt tựa nhung tơ như sà xuống trong tầm tay, từng đốm sao, đốm nào cũng to cũng sáng, lại gần, khiến người ta mường tượng tới giọt sương đọng trên lá nho cũng mang một cảm giác mát rượi như thế.​

    Tôi đi xuyên qua cồn cát rộng lớn, trông cỏ lác đìu hiu để chứng thực mình không hề nhầm đường. Con đường này hầu như năm nào chẳng 1 lần đi qua, có điều lúc ấy luôn đi cùng kỵ binh ông ngoại phái tới, hôm nay có mình tôi mà thôi. Ngựa nhỏ chạy băng băng, nó lao về hướng sao Bắc đẩu chỉ đường. Tôi bắt đầu nhẩm tính trong bụng, lần này gặp được ông, nhất định phải vòi ông sai đầy tớ bắt cho tôi 1 con chim biết hót.​

    Trời hửng sáng cũng là lúc tôi buồn ngủ díp mắt, ông mặt trời đỏ rực chẳng mấy mà sắp nhô cao, ánh hào quang màu tím nhạt ửng khắp vùng trời đằng đông, sao trên cao sớm đã khuất khỏi tầm mắt, một màu trắng phớt lộ trên nền trời xanh xám, như lớp da dê được bọn hầu mới lột, làn hơi nước toát ra từ vết cắt, bốc lên lưng chừng trời cao, cuộn mình thành lớp sương sớm mỏng manh. Bụng bảo dạ phải tìm chỗ nào đó nghỉ ngơi, gần về trưa, mặt trời thừa sức thiêu chết người, lúc ấy không phải thời gian thích hợp để lên đường.​

    Lội qua một dòng sông nhỏ trong veo mà có phần nông nông, tôi tìm gò đất râm mát, tụt xuống ngựa, để ngựa nhỏ tự đi gặm cỏ, còn mình gối đầu lên bọc lương khô, đánh một giấc mỹ mãn. Mãi đến khi nắng xiên đằng Tây, rọi vào mặt khó chịu vô cùng, lúc đó tôi đành thức giấc.​
    Tôi lôi lương khô trong bọc ra ăn, uống hết phân nửa túi nước, đong lại đầy đủ xong xuôi mới huýt sáo gọi.​

    Thoáng chốc từ mờ xa vẳng tiếng vó ngựa quen thuộc, ngựa nhỏ vùng chạy về phía tôi, mũi nó thở phì phì ra điều khoan khoái. Chẳng mấy mà kìm vó dừng trước mặt, nó tỏ vẻ thân quen liếm láp đánh hơi tay tôi. Tôi cũng vuốt chiếc bờm dài, đoạn bảo nó: “Ăn no rồi chứ?” Tiếc thay nó không biết nói, song nó biết dùng ánh mắt để nói lên cảm xúc, đôi mắt to hiền hòa phản chiếu bóng hình tôi. Tôi vỗ vỗ bụng nó, bỗng nhiên ngựa nhỏ không ngoan như mọi lần. Tôi lấy làm lạ, nó bỗng hí ầm ĩ rồi nện móng loạn xạ xuống bãi cỏ, hí vang rền tỏ vẻ vô cùng bất an, lẽ nào gần đây có sói?​

    Trên thảo nguyên loài đáng sợ nhất phải kể đến sói, chúng tụ thành bầy đàn, chúng dám đối chọi với bầy khỉ, dân du mục đơn độc chẳng may gặp phải chúng tất bỏ mạng. Có điều giờ đương mùa thu, là lúc cỏ tươi tốt mà nước cũng dồi dào, linh dương và thỏ hoang nhan nhản khắp nơi, thức ăn cho bầy sói khá dư dật, chúng ẩn mình trên núi Thiên Hằng chẳng dễ gì kéo bầy xuống đây, chúng không thể xuất hiện ở thảo nguyên này được.​

    Thế mà ngựa nhỏ tỏ vẻ cáu kỉnh mãi không yên ắt có cái lý của nó. Tôi lên ngựa, tiếp tục hành trình thẳng tiến chân núi Thiên Hằng, chân núi chính là lằn giáp ranh giữa Đột Quyết và Tây Lương, mẹ sớm đã sai người gửi thư báo ông ngoại, thể nào cũng có người đứng đó chờ tôi. Mò đến nơi có dân sống vẫn an toàn hơn cả.​

    Thúc ngựa chạy chưa bao xa, bỗng nhiên nghe có tiếng vó ngựa, tôi đứng trên yên ngựa ngó quanh quất, thấy thấp thoáng đằng xa có một đường đen bạc tốc lên, đoán chừng có không ít người. Lẽ nào phụ vương sai người đuổi theo tôi? Cách xa quá, quả thực nhìn không rõ cờ hiệu của đội kỵ binh đằng kia. Trong lòng thấp thỏm không yên, đành hối ngựa chạy thục mạng về đằng núi Thiên Hằng. Một khi đã chạm vạch ranh giới Đột Quyết, gặp được người của ông ngoại, cha cũng không thể miễn cưỡng bắt tôi về được.​

    Quân đuổi theo càng lúc càng gần kề, ngựa tôi điên cuồng lao về phía trước như một mũi tên đã bắn khỏi cung, nó lồng chạy trên thảo nguyên bao la. Nhưng giữa trời đất không gì ngăn cản, dẫu sức ngựa chạy nhanh đến mấy, sớm muộn gì chẳng bị bắt kịp.​

    Tôi không ngừng ngoái đầu nhìn đám binh sỹ truy đuổi mình, bọn chúng theo đuôi sít sát lắm rồi, ít nhất phải tầm nghìn tên. Giữa thảo nguyên, đám kỵ binh ấy quả thật gây thanh thế kinh người, cho dù là cha tôi, chỉ e người không tùy tiện điều động nhiều người đến thế đâu, nếu quả thực đến để bắt tôi, vậy chẳng phải chuyện bé xé ra to à. Tôi nửa thúc ngựa phóng như điên, nửa khó hiểu trong lòng, thế rút cuộc là binh sỹ ở đâu ra?​

    Chẳng mấy chốc, vó ngựa đã cập kề chân núi Thiên Hằng, từ đằng xa, tôi loáng thoáng thấy vài đốm đen, tai văng vẳng một tiếng ngân dài, đích thị bài ca chăn cừu của người Đột Quyết đây rồi, nó vọng vào tai quen thuộc mà thân thiết vô cùng, tự nhủ hẳn đây là người ông ngoại cử đến đón tôi. Tôi liền cật lực kẹp chặt bụng ngựa, thúc nó phải chạy nhanh nữa nhanh nữa vào. Đội quân Đột Quyết cũng nhận ra tôi, họ đứng trên yên ngựa, gắng sức vẫy tay ra hiệu.​

    Tôi cũng khua tay ra điều chào lại, đội kỵ binh sau đuôi tôi ắt họ nhìn thấy cả rồi. Ngựa phi mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một cập kề, tôi trông rõ cờ trắng của Đột Quyết. Đuôi cờ buông mình dài thượt, xõa tung trước gió chiều, chẳng khác nào một con cá dập dềnh giữa không trung. Người cầm cờ kia tôi có quen, chính là thần cung Hách Thất, Hách Thất là cung thủ dưới trướng được ông tôi trọng dụng nhất. Huynh ấy thấy đám kỵ binh đuổi theo tôi đông nghìn nghịt, liền hùng hồ cắm phịch cán cờ vào giữa khe đá, rút vội cây cung sau lưng ra.​

    Tôi đang rạp mình trên yên ngựa phóng băng băng song cũng thấy rõ, tôi cuống cuồng thét: “Ta không biết là người của ai đâu!” Tuy chúng đuổi theo tôi sát rạt thật, nhưng tôi vẫn muốn biết rõ rút cuộc là lính phe ai phái đi.​

    Khi khoảnh cách giữa tôi và Hách Thất rút ngắn trong tầm 10 trượng, tôi dần nới lỏng cương ngựa, sau lưng Hách Thất có chừng mười mấy cung thủ, dưới nắng lấp lánh chao nghiêng một buổi chiều hôm, tay họ lăm lăm mũi tên màu xanh sáng lóa, một mặt nheo mắt ngắm mục tiêu đằng trước là đám kỵ binh đuổi sát nút sau tôi, một mặt thúc ngựa quây tôi vào giữa phe mình, Hách Thất nở nụ cười tươi rói chào tôi: “Kính chào tiểu công chúa.” Đành rằng tôi không phải Nữ vương của Đột Quyết, sở dĩ họ nể mặt mẹ tôi, nên ngay từ thưở nhỏ, đám tay sai dưới trướng Đại Thiền Vu Đột Quyết đều xưng tụng tôi như thế. Tôi gặp được Hách Thất rồi thì lòng yên tâm hẳn, thậm chí cái mớ hơn ngàn quân truy đuổi đằng sau tôi cũng quên biến ngay tức khắc, tôi phấn khởi bảo: “Hách Thất, chào huynh!”​

    Đám quân tinh nhuệ ấy chỉ còn cách chúng tôi chừng hai tầm tên bắn(*), chúng đến kéo theo trời rung đất chuyển, tiếng vó ngựa rầm rầp sát rạt bên tai. “Chà!” dường như Hách Thất vừa thở phì một tiếng, dáng dấp tươi cười càng lộ vẻ khoái chí, “Quân đông thế này, định đánh nhau với chúng ta đây chăng?” Hách Thất nói đoạn giương cung, tên đã đặt trên dây nỏ, bên cạnh huynh ấy – cờ trắng của Đột Quyết đón gió tung bay phần phật. Khắp thảo nguyên, bất kì bộ tộc nào, hễ trông thấy lá cờ này giương lên ở đâu, tự khắc hiểu dũng sĩ dưới quyền Thiết Nhĩ Cách Đạt Đại Thiền Vu đang có mặt ở đó, kẻ nào dám đụng vào dũng sĩ của Đột Quyết, kỵ binh của Đột Quyết tất san phằng lều bọn chúng, diệt tận gốc thành viên thị tộc bọn chúng, bắt sạch dê bò nhà bọn chúng. Ở Ngọc Môn Quan này, có kẻ nào dám tỏ vẻ bất kính với lá cờ trắng này đâu cơ chứ!​

    (*hai tầm tên bắn: người xưa dùng khoảng cách xa khi bắn làm thước đo, mỗi tầm tên bắn khoảng 130 bước)​

    Thế mà trông bọn kỵ binh kia mỗi lúc một sát rạt, bọn chúng hung hăng hùng hổ, như thể tấm cờ này từ xưa đến nay chưa hề lọt vào mắt. Ánh tịch dương như dát vàng lên lớp giáp sắt đằng xa, dội lại một mảng ánh kim màu trong trẻo, tôi bất giác hít một hơi thật sâu.​

    Giáp mỏng, yên ngựa, mũ sắt… đích xác là kỵ binh của Nguyệt Thị. Tuy không giương cờ hiệu, song tôi vẫn phân biệt được, đây đích thị là quân của Nguyệt Thị. Mặc dù chưa một lần từng đến Nguyệt thị, nhưng tôi từng mon men ở phủ đô hộ bên An Tây, chứng kiến cảnh lính Nguyệt Thị thao luyện. Ngựa bộ lạc ấy toàn ngựa tốt, giáp trụ rõ nét, cung tên sắc bén, kỵ sĩ lại dũng mãnh thiện chiến vô cùng. Hách Thất cũng nhận ra, huynh ấy ngoái đầu nhìn tôi, đoạn bảo: “Công chúa, người chạy ngựa về hướng đông trước, lách qua sông Tân Lí, lều của Đại Thiền Vu ở đằng đông con sông.” Tôi gào lên nói: “Muốn đánh thì cứ đánh đi, ta há lại tháo chạy một mình sao.” Hách Thất gật đầu như tán dương, huynh nhường chuôi đao của mình cho tôi, tôi đón lấy thanh đao, lòng bàn tay rịn lớp mồ hôi. Bọn Nguyệt Thị lợi hại thế nào tôi thừa hiểu, huống hồ địch ở trước mắt quá nhiều, bọn chúng đông nghìn ngịt lao đến như vũ bão, dẫu Hách Thất là thần cung, song phe tôi cũng chỉ tầm mười mấy người, chỉ e có thế nào đi chăng nữa cũng khó lòng địch nổi.​

    Mắt đảo thấy đám kỵ binh kia càng lúc càng ép sát, thanh đao như sắp vuột khỏi tay, đã đành ngay từ tấm bé tôi tự nhận thấy mình không thua gì các anh trai, song nói thật ra thì, xuất trận đánh địch, có lẽ đây là lần đầu.​

    Cờ hiệu trắng phần phật tung bay ngay sau lưng tôi, vầng dương thụt dần xuống đằng chân trời nơi thảo nguyên, gió thổi cỏ chè vè nhấp nhô dậy sóng, chẳng khác nào sóng cát cuồn cuộn giữa một chốn sa mạc.​

    Trời đất thoắt cái đã nhuốm lạnh, tôi chớp chớp mắt, trách chăng lúc ấy có giọt mồ hôi lăn tròn rơi xuống khóe mắt cay xè, khó kiềm chế nổi khó chịu.​

    Bọn binh sĩ kia mắt trông cờ trắng, cuối cùng đành ghìm cương ngựa, chúng dàn ngang thế trận, áp sát dần. Hách Thất lớn tiếng quát: “Có Hách Thất của Đột Quyết ở đây, ngựa các ngươi đạp lên thảo nguyên Đột Quyết, lẽ nào toan không tuyên chiến mà đánh hay sao?” Tài bắn cung như thần của Hách Thất nổi danh khắp gần xa, Hách Thất trong tiếng Đột Quyết vốn có nghĩa là mũi tên. Nghe truyền một khi huynh ấy nhắm bắn trúng ngươi trái của con chim nhạn đang chao lượn trên trời, tuyệt nhiên sẽ không lệch sang ngươi phải. Lẽ đó mà Đại Thiền Vu vô cùng tin tưởng Hách Thất. Quả nhiên bọn kia vừa nghe đến cái tên Hách Thất, cũng khó tránh khỏi kinh động, 1 tên rong ngựa tiến lên, liến thoắng nói 1 tràng dài. Tôi mù tịt thứ tiếng Nguyệt Thị này, thảy là do Hách Thất dịch cho mà nghe, thì ra đám ấy vừa lạc 1 đứa nô lệ, thế nên mới đuổi tới đất này, còn như đây có phải địa giới của Đột Quyết hay không, thực ra biên giới giữa Nguyệt Thị, Đột Quyết và Tây Lương ở chân núi Thiên Hằng này, xưa nay vốn là việc chẳng ai quản lí, cứ gân cổ bảo đây là lãnh thổ của Đột Quyết, e có phần gượng gạo.​

    “Lạc mất nô lệ á?” Tôi lấy làm lạ, lập lại lời huynh ấy, gã thủ lĩnh phe Nguyệt Thị giơ roi ngựa trỏ vào tôi, rồi ngón tay múa máy nói gì đó. Hách Thất tỏ vẻ phẫn nộ lắm, to tiếng bảo: ‘Công chúa, hắn dám nói người chính là tên nô lệ bị lạc của chúng.” Tôi đâm bực mình, tuốt đao đoạn bảo: “Nói láo!” Hách Thất gật đầu: “Chúng chỉ kiếm cớ thôi.” Gã tướng quân Nguyệt Thị tiếp tục huyên thuyên, tôi hỏi: “Nó nói gì thế?” “Hắn nói nếu bên ta không giao người cho chúng, chúng buộc phải dẫn binh đến đánh cướp. Đột Quyết bao che cho nô lệ của Nguyệt Thị, đẩy hai nước vào thế giao tranh, thảy là do người Đột Quyết không biết điều.” Tôi điên lắm, phá lên cười: “Giờ hắn mới là kẻ không biết điều, còn dám đổ vạ cho phe ta à.” Hách Thất trầm giọng bảo: “Tiểu công chúa nói chí phải, có điều địch ỷ thế đông, lại nhằm vào tiểu công chúa…” Huynh ấy bảo: ‘Bẩm công chúa, người cứ đi về đằng đông tìm lều của đức vua, rồi phái viện binh đến. Bọn người Nguyệt Thị xấc xược vô lễ này, nếu không địch nổi, hẳn phải báo cho Đại Thiền Vu hay, chớ để mình rơi vào cái bẫy chúng giăng.” Nói đi nói lại, ý Hách Thất vẫn muốn để tôi rút lui trước đã. Dẫu trong lòng có phần sợ hãi, song tôi vẫn ưỡn ngựa, xẵng giọng bảo: “Huynh cử người khác về báo tin đi, ta không đi!” Hách Thất ngập ngừng đoạn bảo: “Tiểu công chúa ở đây, Hách Thất không đủ người để bảo vệ công chúa.” Tôi ngẫm một hồi, hiển nhiên lời huynh ấy nói rất chí lý, nếu mà tôi còn ở đây, chỉ e liên lụy đến bọn họ. Đành rằng tôi bắn tên cũng không tồi, song tôi chưa một lần ra trận đánh giặc, trong khi bọn họ đều là những dũng sĩ Đột Quyết được tôi luyện trên chiến trận.​

     
  8. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 27
    “Được rồi.” Tôi rịt chặt chuôi đao, đoạn bảo: “Ta đi báo tin!”

    Hách Thất gật đầu, dỡ túi nước bên hông ngựa xuống, bảo tôi: “Đi thẳng về hướng đông chừng 30 dặm, nếu không tìm được lều của Đại Thiền Vu, thì rẽ hướng Bắc, quân của Tả Cốc Lãi Vương cách đó tầm không xa, chừng trăm dặm đổ lại.”

    “Ta biết rồi.”

    Hách Thất cầm cán đao vụt mạnh vào mông ngựa, lớn tiếng quát: “Đi!”

    Ngựa nhỏ lao vút, bọn kỵ binh Nguyệt Thị la lối om sòm, song thế ngựa phi chớp nhoáng, nháy mắt đã bỏ lại sau lưng tất thảy. Tôi không ngừng ngoái đầu trộm nhìn, chỉ thấy đám Nguyệt Thị đen kịt như đàn kiến chuyển tổ ngày mưa, Hách Thất cùng mười mấy binh sĩ Đột Quyết bị chúng bâu quanh chẳng khác nào bầy kiến đông nghìn nghịt châu đầu vào 1 hạt lê. Có đám lính Nguyệt Thị tách đoàn dợm đuổi theo tôi, nhưng ngựa phi chưa quá một dặm, tên của Hách Thất đã lao đến bủa vây tới tấp, lính Nguyệt Thị không một kẻ nào né được loạt tên chí mạng ấy, người ngựa đổ rầm sóng sượt trên đất, trong lúc gấp gáp đã chẳng còn ai đuổi kịp. Ngựa tôi càng phóng càng nhanh, lúc ngoảnh lại chỉ còn thấy sắc cờ trắng, thảy những thứ khác đều phai nhòa dưới ráng chiều, sắc trời ảm đạm, đêm tối phủ mờ mọi vật.

    Tôi thúc ngựa chạy bán mạng trên thảo nguyên, trời không trăng không sao, oi ả như sắp có cơn giông. Thời tiết kiểu này xưa nay tôi chưa từng thấy, chỉ e sắp mưa to thật. Giữa thảo nguyên mà gặp mưa to đâu phải chuyện đùa, tôi ngước trông lên, trời nhọ như cái đít chảo, tịch không bóng trăng sao, khó mà đoán được phương hướng, bụng dạ thật chỉ lo mình lạc đường.

    Trên thảo nguyên thì lấy đâu ra đường, có chăng cứ đâm bừa mà đi thôi. Tôi lò mò giục ngựa lao vun vút một hồi lâu, may sao bọn Nguyệt Thị kia không đuổi theo. Có điều phe Hách Thất cũng chưa phá được vòng vây, bụng dạ tôi nửa ngay ngáy lo Hách Thất chẳng biết an nguy thế nào, nửa sợ mình xông bừa đâm giờ lạc đường, đã cuống lại vội, thiếu điều bật khóc thành tiếng mất thôi. Chính trong lúc ấy, có tiếng “roẹt” dội ngang tai, một tia sét ánh tím dài ngoằng rạch nát màn đêm âm u, tia chớpchói lòa đâm xuống mặt đất, sấm nối đuôi nhau nổ từng cơn ầm ầm.

    Sắp mưa thật rồi, phải nghĩ cách trú tạm đi thôi. Chớp loáng như những con rắn cứng còng, chúng lách khỏi đám mây đen trên màn trời trườn tỏa đi bốn phía, nhờ những ánh chớp liên tiếp ấy, tôi mới trông được dốc đá đằng xa. Thì ra tôi chạy băng băng suốt nửa đêm, loanh quanh lẩn quẩn dậm chân mãi dưới chân núi Thiên Hằng.

    Tìm phiến đá trú mưa cái đã, dù sao thà thế còn hơn chết vì dầm mưa. Tôi thúc ngựa tiến về đằng trước, ngựa nhỏ linh hoạt từng bước giẫm qua đá núi, tôi lo đá dăm cắm vào móng ngựa, bèn trườn xuống, dắt nó men theo đường núi. Mưa xối xả trút xuống từ lâu, mưa sầm sập như những ngọn roi gân bò ráp nhám quất xối xả vào người, đau buốt từng cơn. Mưa nhuốm ướt áo quần, mưa xuôi theo tóc mái sa vào trong mắt, thậm chí mắt không tài nào mở nổi, vuốt khuôn mặt sũng nước, cuối cùng trông thấy một phiến đá to cao vút nhô ra, chỗ dưới phiến đá ấy trú mưa tốt đây.

    Tôi dắt ngựa bò xuống mỏm đá to, cả người cả ngựa co dúm ở đấy, tiếng mưa tuôn không ngừng nghỉ, trút xuống hối hả mà mãnh liệt, tôi nhớ tới Hách Thất, bụng dạ dồn ứ nỗi lo âu không thốt thành lời. Con ngựa nhỏ quỳ trên đá, dường như nó cũng hiểu thứ nôn nóng trong lòng tôi, thỉnh thoảng nó thè lưỡi liếm lòng bàn tay tôi. Tôi ôm cổ nó, thì thầm bảo: “Chẳng rõ đám Hách Thất thế nào rồi…” Ngoài trời vẫn đương cơn mưa to, nước trút từ núi đổ xuống mặt phiến đá tụ thành mành nước trắng xóa, sương móc mịt mù xộc vào khe đá, hất văng tưởng đâu chỉ là một cơn mưa nhỏ mà thôi.

    Không rõ đợt mưa này bao lâu thì tạnh, sau cùng mưa cũng ngớt hạt. Núi đá bên ngoài còn no nước, ào ào chảy như một con suối nhỏ. Rồi gió thổi vén rèm mây đen, hé lộ ra mảnh trăng cong trong ngần.

    Tôi không cầm nổi cái hắt xì, áo ướt nhoẹt bám sát thân mình, có cơn gió sượt qua mà cóng cả người. Ngòi lấy lửa đem theo đã ngấm nước mưa, chỗ này lại không có củi khô, muốn nhóm lửa cũng đành chịu chết.

    Bên ngoài, tiếng nước chảy nhạt dần, ngựa nhỏ tỏ vẻ thân mật sáp lại gần, đầu lưỡi ấm nóng của nó liếm mặt tôi, tôi định bụng nếu trời đã tạnh hẳn rồi thì cũng nên tranh thủ thời gian xuống núi tìm đường tiếp thôi.

    Xuống núi lúc trăng tà, vừa hay trăng chỉ tôi hướng đường sắp đi. Ngựa cuồng chân dưới vách đá hồi lâu, lúc này hăng hái lắm, nó lao vun vút về đường chân trời đã ửng phía đằng đông. Mặt trời chẳng mấy mà sắp nhô cao, bằng không sao người tôi lại nóng thế này?

    Tôi lơ mơ ngẫm nghĩ, tay cương cũng nới lỏng dần, lưng ngựa tròng trành chao nghiêng như 1 chiếc nôi, đu dưa làm người ta thấy sao mà thoải mái thế, cả đêm tôi đã không chợp mắt, giờ rõ ràng là đang díp mắt muốn ngủ.

    Không rõ mình đã thiếp đi bao lâu, hình như mới một lúc, mà có khi cũng phải lâu lắm rồi, sau cùng ngựa lội qua một con sông, móng ngựa tóe bọt nước lạnh ướt người, lúc ấy thót mình mới chịu tỉnh giấc. Đồng không mông quạnh trải khắp bốn bề, núi Thiên Hằng bị quẳng lại sau lưng từ lâu, giờ đây, ngoái đầu trông rặng núi hùng vĩ đã cách tít xa, thấy nó chẳng khác nào một người khổng lồ đầu đội trời chân đạp đất. Đỉnh đầu người khổng lồ ấy đội 1 chiếc mũ trắng tinh tươm, tích tụ băng tuyết quanh năm không thiết tan chảy, con sông dưới chân cũng bắt nguồn từ băng tuyết trên đỉnh Thiên Hằng gom dòng đổ xuống, hèn gì nước sông lạnh buốt xương.

    Toàn thân tôi run lẩy bẩy, ngẫm ra mình đã bỏ bụng gì đâu, chẳng trách người không còn tý sức lực. Có điều lương khô thì đang cột sau yên ngựa đây rồi, song mồm miệng khô khốc nhạt nhẽo, chẳng buồn ăn. Bụng bảo dạ hay xuống ngựa uống miếng nước nhỉ, thì chợt thấy gần đó có bóng đen khẽ lay động chực lao thẳng về phía mình, tôi nghĩ ngay đến bọn lính Nguyệt Thị, cố căng mắt nhìn, cũng chỉ trông thấy cái bóng lờ mờ, song di chuyển rất nhanh, may sao đằng đó chỉ có 1 người 1 ngựa.

    Nếu là trinh sát của Tả Cốc Lãi Vương thì còn gì hay bằng…Tôi gắng sức tuốt đao sau lưng ra, ngộ nhỡ gặp địch, tất dốc sức chiến đấu đến cùng.

    Đấy hẳn là ý nghĩ cuối cùng của tôi, thế rồi trước mắt sụp tối, tôi ngã nhào khỏi ngựa.

    Người Tây Lương từ nhỏ đã thạo cưỡi ngựa bắn tên, bất kể là trai hay gái lúc biết đi cũng là lúc biết cưỡi ngựa, mà tôi lại lớn lên trên lưng ngựa, đường đường là Cửu công chúa của Tây Lương, lúc này lại ngã từ trên mình ngựa xuống, chuyện mà truyền đến Vương thành Tây Lương, chỉ e khiến tất cả người dân trong thành được một phen cười sặc sụa.

    Lúc tỉnh lại, tay vẫn lăm lăm thanh đao, tôi chớp mắt, bầu trời trong xanh, mây trắng tinh tươm sà xuống như chỉ ngang tầm tay. Thì ra mình đang nằm trên một vùng đồi thoai thoải, cây cối trên sườn dốc che khuất ánh nắng nóng rang, gió thu hây hẩy gợi cái mát mẻ, tiếng ngựa quen thuộc vẳng lại từ một nơi rất gần, bảo lòng cố thả lỏng.

    “Tỉnh rồi à?”

    Giọng này nghe cũng quen tai lắm, tôi choáng váng bò dậy, chớp chớp mắt, vẫn thấy khó mà tin được.

    Kia lại là gã buôn chè Trung Nguyên – Cố Tiểu Ngũ chứ, nom vẻ uể oải ngồi trên dốc cỏ, gặm một miếng thịt bò sấy khô.

    Tôi sửng sốt quá đỗi: “Sao chàng lại ở đây?”

    Hắn ta bảo: “Tình cờ đi qua.”

    Tôi cóc tin nhé!

    Bụng dạ đói mốc meo cứ réo ùng ục, tôi nhớ sau yên ngựa có lương khô, liền huýt sáo gọi ngựa về. Nó chạy lại, tôi căng mắt nhìn, lưng ngựa trụi lủi, đến bộ yên cũng mất hút. Tôi nhìn kỹ lần nữa, gã Cố Tiểu Ngũ đang chễm trệ trên yên ngựa của tôi, mà bò sấy hắn gặm, chẳng phải lương khô tôi mang đấy ư?

    “Này!” Tôi điên lắm, quát hỏi: “Lương khô của ta đâu?”

    Miệng nhồm nhoàm thịt, hắn lóng ngóng giơ nửa miếng thịt bò trên tay: “Vẫn còn miếng cuối cùng….”

    Miếng cuối cùng cái nỗi gì, rõ ràng là mẩu cuối cùng mà.

    Tôi trừng trộ với hắn, nhét mẩu bò khô cuối cùng bé tẹo teo ấy vào miệng, tức mình gào: “Chàng ăn sạch rồi? Ta ăn cái gì đây?”

    “Đói à.” Hắn nhấc túi nước làm một hớp, đoạn hời hợt bảo: “Nàng mới ốm dậy, giờ không nên ăn những thứ này đâu.”

    Ốm cái gì chứ, tôi nhảy dựng lên: “Chàng ở đâu chạy đến đây thế hả? À còn nữa, chàng ăn sạch lương khô của ta rồi! Đền đi! Mau đền cho ta!”

    Hắn cười cười: “Cũng ăn cả rồi đấy thôi, còn đền gì nữa.”

    Tôi nổi cơn tam bành, liếc quanh quất tìm con đao Hách Thất đưa.

    Hắn nom bộ dạng tôi chẳng khác nào kiến bò chảo nóng, cuối cùng giọng uể oải bảo: “Hay nàng theo ta về Vương thành nhé, ta đền nàng hẳn 1 con?”
    Tôi ném cho hắn cái lườm: “Sao ta phải về Vương thành với chàng?”

    “Thì Phụ vương nàng dán cáo thị treo thưởng rồi đấy, bảo ai mà tìm được nàng, dẫn về Vương thành, người sẽ thưởng ngay 100 nén vàng.” Hắn tỏ vẻ hết sức nghiêm túc nhìn tôi, “Một trăm nén vàng đấy nhé! Thế chẳng biết mua được bao nhiêu con bò đây!”

    Tôi rõ là tức lắm, mà còn tức cái gì nữa, tức 100 nén vàng kia kìa: “Phụ vương dán yết thị thế thật à?”

    “Giả được chắc?” Hắn bảo, “Chắc như đinh đóng cột luôn!”

    “Giá ta đáng 100 nén vàng thôi á?” Tôi thất vọng ra mặt, “Ta tưởng tối thiểu cũng cỡ vạn thỏi vàng chứ! Rồi đáng lẽ còn phải phong hầu, phải thưởng cả dê bò nô lệ vô số nữa….”

    Ấy thế Phụ vưởng hằng bảo tôi là tiểu công chúa người yêu quý nhất, vậy mà chỉ treo thưởng có mỗi 100 nén vàng thôi à. Keo kiệt! Quá keo kiệt!

    Cố Tiểu Ngũ phì cười, chẳng rõ hắn cười cái gì. Tôi ghét cay ghét đắng cái mặt hắn lúc cười, nhất là cái kiểu cười mím chi rồi nhìn tôi, chẳng khác nào đang nhìn vào 100 nén vàng.

    Tôi quát: “Chàng đừng có nằm mơ, ta không bao giờ về với chàng đâu!”

    Cố Tiểu Ngũ bảo: “Vậy nàng tính đi đâu? Từ lúc nàng bỏ đi xong, sứ giả Nguyệt Thị giận lắm, nói Phụ vương nàng cố ý để nàng đi, Nguyệt Thị còn sai quân đi tìm nàng về, nàng cứ lang thang trên thảo nguyên thế này, lỡ gặp phải quân Nguyệt Thị là chết thảm rồi còn gì.”

    Tôi cũng thấy rõ thảm, thì tôi đã gặp bọn Nguyệt Thị ấy rồi còn gì. Nhớ đến đó, tôi bất giác than “trời ơi”, tôi suýt nữa thì quên béng mất Hách Thất, tôi phải tranh thủ đi báo tin cho ông ngoại thôi!

    Cố Tiểu Ngũ xem chừng thấy sắc mặt tôi khang khác, liền hỏi: “Sao thế?”

    Tôi định bụng không nói với hắn, song trên thảo nguyên mênh mông này, giờ chỉ có hắn bên mình, vả lại kiếm thuật của sư phụ thuộc hàng cao cường, bản lĩnh vốn hơn người, nói không chừng kiếm pháp gã Cố Tiểu Ngũ này cũng không phải loại tệ đâu.

    Quả nhiên Cố Tiểu Ngũ nghe tôi kể đầu đuôi ngọn ngành chuyện lính Nguyệt Thị truy đuổi xong, đoạn hắn nói: “Theo như lời nàng thì lều chúa của đại Thiền Vu cách chỗ này ít nhất là 300 dặm hả?”

    Tôi gật gật.

    “Còn Tả Cốc Lãi Vương cách đây cũng tầm trăm dặm?”

    Tôi lại gật.

    “Có điều dân du mục Đột Quyết nay đây mai đó, nàng định tìm thế nào?”

    “Cái đấy khỏi nghĩ nhiều, đằng nào ta cũng phải cứu kì được Hách Thất.”

    Cố Tiểu Ngũ chau mày, đoạn bảo: “Nước xa không cứu nổi lửa gần, phủ đô hộ An Tây gần ngay trước mắt, sao không nhờ quân họ đánh trả Nguyệt Thị?”

    Tôi ngẩn tò te, nói thực ra, thực lực quân đội Trung Nguyên dẫu mạnh, phủ đô hộ An Tây còn đảm đương trọng trách trấn thủ Tây Vực, bất kể nước nào cũng phải nể sợ, có điều kể cả khi giữa các nước động binh với nhau, cũng chẳng ai đi nhờ cậy binh lực của Trung Nguyên cả. Sở dĩ trong mắt người Tây Vực chúng tôi, giao chiến là chuyện người Tây Vực với nhau, Trung Nguyên là thiên triều thượng quốc, phái hùng binh đến đóng ở nơi này đã đành một lẽ, song đối với việc tranh chấp giữa các nước Tây Vực với nhau, lại chẳng phải việc của họ. Cũng như là anh em trong nhà gây hấn, bất luận thế nào đi chăng nữa, làm gì có chuyện gọi người ngoài vào giúp đỡ.

    Tôi bảo: “Tuy phủ hộ An Tây gần thật đấy, nhưng chuyện này không thể để họ biết được.”

    Cố Tiểu Ngũ nhướng mày: ‘Sao thế?”

    Lí thì tôi nói không nổi, đằng nào thì các nước khác cũng coi chuyện này như điều cấm kị cả thôi, tôi bảo: “Chúng ta động binh đã đành một lẽ, song hoàng đế Trung Nguyên chẳng liên quan gì ở đây cả.”

    “Khắp dưới gầm trời, đều là đất vua; khắp nơi bến nước, đều là bề tôi của vua.” Cố Tiểu Ngũ bảo, “Chỉ cần là chuyện thiên hạ, tất có liên quan đến Hoàng đế Trung Nguyên, huống hồ Trung Nguyên lập lên phủ đô hộ An Tây cốt để ổn định trật tự trị an ở Tây Vực. Nguyệt Thị tỏ thái độ xấc xược, cũng đến lúc dạy cho chúng một bài học đi thôi.”

    Mấy lời trưởng giả hắn nói, tôi chẳng thủng tai câu nào. Hắn dắt hai con ngựa, đoạn tiếp lời: “Rẽ trái ở đoạn này, đi nửa ngày đường là đến phủ đô hộ An Tây, ta đưa nàng đi cầu quân cứu viện.”

    Tôi chần chừ chưa vội quyết: “Việc này…không hay lắm thì phải?”

    “Nàng không muốn cứu Hách Thất à?”

    “Đương nhiên muốn chứ!”

    Hắn đỡ tôi lên ngựa, miệng bảo: “Vậy còn lèo nhèo gì nữa!”

    Ngựa phi được một đoạn rõ xa, tôi mới chợt nhớ ra một chuyện: “Nói tóm lại, sao chàng tìm được ta thế?”

    Trời trưa đổ nắng gắt, phủ lên khuôn mặt trắng ngần hệt 1 viên ngọc Hòa Điền hoàn mỹ của hắn. Hắn nhếch mép cười, lộ ra hàng răng trắng: “Gặp may thôi!”

    Đường tới phủ đô hộ Tây An quả nhiên đi không quá nửa ngày, chúng tôi thúc ngựa về hướng nam, lúc xế chiều thì thành lũy sừng sững đã ở ngay trước mắt. Hoàng đế Trung Nguyên độ hơn trăm năm về trước đã lập lên phủ đô hộ Tây An, rồi đóng quân vỡ hoang, trấn giữ hiểm yếu ở đất này. Nơi đây còn là con đường thông thương xung yếu mà mọi đội buôn từNamqua Bắc tất phải qua, thế nên so với Tây Lương đâu chỉ sầm uất.

    Tôi cứ lo mình và Cố Tiểu Ngũ 2 kẻ thân cô thế cô, thế nào phủ đô hộ Tây An cũng tỏ thái độ phớt lạnh, nào ngờ Cố Tiểu Ngũ dẫn tôi vào thành xong, hắn xộc thẳng đến trước cổng nha môn, gõ trống công đường.

    Sau này tôi mới biết chiếc trống ấy rất có ý nghĩa, tuy gọi Trống Thái Bình, song thực ra nó còn được gọi với cái tên Trống Tỉnh, hồi trống gióng mang hàm ý chinh chiến. Đám lính canh xộc ra đưa chúng tôi vào phủ, chẳng cho giải thích lấy 1 lời, phủ hộ đại nhân đã chễm chệ ngồi trên công đường, ông ta mặc giáp, để 1 chòm râu rậm, tỏ rõ dáng vẻ uy phong lẫm liệt của 1 viên mãnh tướng, tôi từng gặp mấy người Trung Nguyên, xem ra vị tướng quân này có dáng dấp của người cầm binh xông pha trận mạc nhất đây.

    Ông ta trầm giọng hỏi chúng tôi, tôi không hiểu tiếng Trung Nguyên, líu lưỡi nhìn Cố Tiểu Ngũ. Cố Tiểu Ngũ lại ra hiệu bảo tôi tự mình nói đi, phen này thì tôi chịu rồi. May sao phủ hộ đại nhận biết nói cả tiếng Đột Quyết, ông ta nom tôi có vẻ không biết tiếng Trung Nguyên, nên chuyển sang hỏi bằng tiếng Đột Quyết: “Kẻ dưới công đường kia cớ gì mà gióng trống?” Thì mẹ tôi là người Đột Quyết, nên tiếng quê ngoại của tôi cũng khá lưu loát. Tôi thuật lại chuyện Nguyệt Thị tràn quân sang địa giới Đột Quyết, rồi khẩn thiết xin ông ấy dấy binh cứu Hách Thất.

    Quan độ hộ có chiều lưỡng lự, cũng bởi từ khi Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây tới nay, trừ việc dẹp yên quân phiến loạn, thực ra chẳng mấy khi can thiệp vào chuyện chính sự giữa các tiểu quốc Tây Vực. Tuy Nguyệt Thị xâm phạm lãnh thổ Đột Quyết quả là chuyện sai rành rành thật, song suy cho cùng, Nguyệt Thị so với Đột Quyết hiển nhiên không bằng, Đột Quyết quân lực hùng hậu, trong khi Nguyệt Thị vốn yếu, lấy yếu lấn áp mạnh, chuyện hiếm hoi này quả thật không hợp lẽ thường tình, thế nên tôi đoán chừng ông ấy mới tỏ vẻ phân vân là thế.

    Quả nhiên, ông ta bảo rằng: “Kỵ binh Đột Quyết nổi danh khắp Quan ngoại, cớ gì người Đột Quyết không tự mình xuất binh mà phải xin ta viện trợ?”
     
  9. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 28
    Tôi nói cũng bởi lều Chúa thường xuyên nay đây mai đó, mà Tả Cốc Lãi Vương đành rằng ở gần thật, song tìm được tới nơi e đễ lỡ không ít thời giờ. Thế nên chúng tôi mới tới phủ đô hộ An Tây xin cứu viện, mong phủ đô hộ có thể cứu Hách Thất kịp thời.

    Tôi cứ nghĩ đến việc phe Hách Thất chỉ có chục mạng, mà phải chống cự với ngần ấy binh sĩ Nguyệt Thị, là trong lòng lại nóng như lửa đốt. Đô hộ đại nhân vẫn do dự, lúc này Cố Tiểu Ngũ đột lến tiếng nói giọng Trung Nguyên.

    Gã quan đô hộ kia vừa nghe lọt tai câu ấy, dường như có vẻ giật mình chấn động lắm, cả người bật dậy sau án sơn. Cố Tiểu Ngũ tiến lên phía trước, khom người hành lễ, giọng hắn rất nhỏ, tôi vốn chẳng nghe thấy gì, huống hồ tôi hiểu thế nào được tiếng Trung Nguyên, chỉ nom hắn nói vài câu xong, quan đô hộ đã gật đầu liên tục.

    Chẳng mấy chốc, quan đô hộ đã phái 1 viên Thiên phu trưởng(*) dẫn theo hai ngàn binh sĩ, tháp tùng chúng tôi lên đường cứu người ngay trong đêm.

    (*Thiên phu trưởng: Đây là chức võ quan chỉ huy đơn vị gồm một ngàn quân. Ngày xưa người ta chia quân đội thành những đơn vị 10 người, 50 người, 100 người, 1 nghìn người, 1 vạn người và tương ứng có các chức vụ Thập phu trưởng, Ngũ thập phu trưởng, Bách phu trưởng, Thiên phu trưởng, Vạn phu trưởng.)

    Tôi mừng quá đỗi, lúc từ phủ đô hộ An Tây đi ra, tôi liền hỏi Cố Tiểu Ngũ: “Chàng nói gì mà lại khiến gã quan đó sai quân đi cứu người chúng ta thế?”

    Cố Tiểu Ngũ nở nụ cười xảo quyệt, bảo: “Chuyện này không nói với nàng được!”

    Tôi dẩu môi giận dỗi.

    Kỷ luật quân đội của Trung Nguyên rất nghiêm ngặt, tuy hành quân trong đêm, song đội ngũ vẫn chỉnh tề, ngoại trừ tiếng vó ngựa hòa lẫn tiếng mai giáp thỉnh thoảng sàn sạt cọ vào nhau vang lên, thêm tiếng bó đuốc phần phật bùng cháy, tuyệt không nghe thấy một âm thanh nào khác. Tôi để ý ra người Trung Nguyên dùng đuốc cán gỗ quấn sợi thô, tẩm dầu hỏa. Dầu hỏa chính là sản phẩm đặc biệt dưới núi Thiên Hằng, màu đen thui, rất dễ bắt lửa, thỉnh thoảng dân du mục dùng để nổi lửa nấu nước, có điều người trong Vương thành chê nó nhiều khói nặng mùi, nên ít khi dùng. Chẳng ngờ quân sĩ Trung Nguyên lại tẩm làm đuốc. Tôi thấy người Trung Nguyên quả thông minh, bọn họ nghĩ ra những cách mà chúng không tài nào nghĩ ra được.

    Chúng tôi hành quân suốt 1 đêm, lúc tảng sáng mới đuổi kịp bên Nguyệt Thị. Lúc ấy bọn chúng đã sắp rút lui về đến ranh giới lãnh thổ Nguyệt Thị.

    Đạo quân Nguyệt Thị đi rất nhanh, lúc chúng tôi bắt kịp, sắc cờ trắng đã khuất tầm mắt, thậm chí Hách Thất và chục dũng sĩ Đột Quyết, cả người lẫn ngựa đều mất tăm mất tích. Bụng dạ tôi hốt hoảng, chỉ sợ phe Hách Thất đã bị quân Nguyệt Thị vây giết, mà Cố Tiểu Ngũ đang bàn bạc với tay Thiên phu trưởng bằng tiếng Trung Nguyên, binh sĩ Trung Nguyên lớn tiếng truyền lệnh rồi bắt đầu dãn đội hình.

    Phụ vương tôi từng nói, người Trung Nguyên lúc giao chiến rất chú trọng trận pháp, lấy ít địch nhiều vô cùng lợi hại, nhất là giờ đây, binh lực Trung Nguyên hơn hẳn quân sĩ bên Nguyệt Thị một bậc, họ đang ngấm ngầm bố trí thế vòng vây. Gã tướng quân phe Nguyệt Thị liền ghìm ngựa quay lại, lớn tiếng quát tháo.

    Tôi chẳng hiểu nổi hắn đang nói gì, Cố Tiểu Ngũ buôn trà xuyên các nước Tây Vực, tất hiểu tiếng Nguyệt Thị. Hắn bảo tôi: “Gã đó đang chất vấn chúng ta, sao lại dẫn binh tràn vào lãnh thổ Nguyệt Thị.”

    Tôi nói: “Tối qua hắn dẫn binh xông vào địa phận Đột Quyết thì sao, còn già mồm vu cho ta là nô tì đi lạc của nhà chúng chứ, giờ lại dám giở cái lẽ cây ngay không sợ chết đứng ra đây à.”

    Cố Tiểu Ngũ nói dăm 3 câu với người Thiên phu trưởng đứng bên cạnh, Thiên phu trưởng liền sai người đi đáp lời. Cố Tiểu Ngũ cười bảo: “Ta nói với bọn họ rằng, chúng ta đang hộ tống công chúa Tây Lương về, tiện đường đi ngang qua. Rồi bảo bọn họ không cần hoảng loạn, chúng ta tuyệt không xâm phạm lãnh địa Nguyệt Thị.”

    Bụng tôi bảo nếu nói đến cái ngữ trơ tráo vô liêm sỉ, giả sử Cố Tiểu Ngũ tự nhận mình thứ hai thiên hạ, xem chừng đố ai dám nhận hạng nhất. Hắn bốc phét mà nói năng hùng hồn lý lẽ đâu ra đấy, liệu dân Trung Nguyên toàn lừa người thế này chăng? Sư phụ đã thế, mà Cố Tiểu Ngũ cũng vậy.

    Đôi bên vẫn đang giằng co từng câu kêu gọi đầu hàng, tay Thiên phu trường lại dẫn 1 ngàn kinh kỵ, nhân lúc tờ mờ sương sớm, ngầm ngầm đánh bọc sườn từ phía sau, đợi phe Nguyệt Thị kịp thức tỉnh thì quân tiên phong từ đằng này đã bắt đầu đột kích.

    Trận chiến này có thắng cũng chẳng lấy làm lạ, quân Nguyệt Thị thua to, gần như không một kẻ nào thoát nổi, đa phần đều bỏ mạng dưới tên đao sắc bén của kỵ binh Trung Nguyên, số còn lại hiển nhiên địch không nổi, liền buông vũ khí quy hàng. Tuy rằng Cố Tiểu Ngũ chỉ là gã buôn chè, thế mà hắn đích thực dằn lòng đến nỗi, đứng trước cảnh thảm chiến, đầu rơi máu chảy, thương vong vô số này, Cố Tiểu ngũ lại không hề chau mày dẫu chỉ 1 cái, cứ như thể cảnh tàn sát vừa mới rồi chỉ là một trò vui mà thôi. Tay Thiên phu trưởng người Trung Nguyên kia quả đã quen với chiến trường, hiển nhiên giải quyết các loại tiếp nhận đầu hàng thỏa đáng đâu ra đấy. Hai ngàn kỵ binh áp tải tầm trăm tên tàn binh còn sót lại của Nguyệt Thị lùi dần về đằng đông.

    Tôi nhân lúc loạn lạc lao vào giữa đám quân Nguyệt Thị tìm Hách Thất, thế mà chẳng tài nào tìm ra. Tay tướng quân cầm đầu bên Nguyệt Thị bị bắt làm tù binh, bị người ta trói chặt xô đến trước mặt Thiên phu trưởng, gã Thiên phu trưởng lại cung kính giao người cho Cố Tiểu Ngũ. Tôi để Cố Tiểu Ngũ thẩm vấn gã tướng quân Nguyệt Thị kia, song gã ngang bướng, không chịu nhả ra lấy 1 lời. Cố Tiểu Ngũ lạnh lùng bảo: “Đã không khai thì giữ lại ích gì?”

    Tay Thiên phu trường nghe vậy, tức khắc sai người lôi đi chặt đầu. Quân lệnh như sơn, đầu của gã tướng quân Nguyệt Thị lập tức bị người ta chém bay, còn nắm tóc giơ cái đầu dâng lên trước mặt chúng tôi, máu tươi từ cổ hẵng rơi tí tách, đáp xuống bãi cỏ xanh biếc, hệt những bông hoa đỏ tươi kiều diễm.

    Quả thật tôi không nén nổi lòng, thêm vào đó, cả một ngày trời chưa bỏ bụng thứ gì, đầu choáng váng dội từng cơn, người bên cạnh nom sắc mặt tôi kém tươi, có lòng đưa tôi túi nước, tôi uống không vào. Chỉ nghe Cố Tiểu Ngũ kia lại sai người dẫn tới một tay Nguyệt Thị khác, trước tiên cho gã thấy thủ cấp của tướng quân phe mình, sau hỏi tăm tích của Hách Thất. Người Nguyệt Thị tuy dũng mãnh thiện chiến, kẻ bị bắt làm tù binh ý chí ắt sa sút, lại chính mắt chứng kiến tướng lĩnh bị chém, sợ đến nỗi khai bằng sạch đầu đuôi ngọn ngành.

    Thì ra mấy người Hách Thất vừa đánh vừa lui về chân núi Thiên Hằng. Bọn họ chiếm núi đá quyết sống chết có nhau, tận lúc tên đã dùng cạn. Song bọn Nguyệt Thị cũng không giết ngay, mà chúng cướp ngựa, quẳng bọn họ vào tận sâu trong núi hoang vu. Lũ Nguyệt Thị ấy quả thật hung ác, trong núi có bầy sói dữ tợn lắm, trong tay Hách Thất lại không tên không ngựa, giả như gặp phải bầy sói, vậy chẳng phải nguy hiểm lắm ư.

    Trong lòng tôi nóng như lửa đốt, vội vã dẫn người đi tìm Hách Thất, Cố Tiểu Ngũ bảo: “Người Đột Quyết đâu dễ chết thế.” Thoạt nghe tôi cảm giác lời hắn nói có thể tạm cho như đang an ủi, song nghe mà khiến người ta phải giận.

    Chúng tôi tìm quanh núi Thiên Hằng, mãi đến khi mặt trời gần gác núi, tôi sắp rơi vào sự tuyệt vọng, núi Thiên Hằng to thế này, rốt cuộc lúc nào mới tìm ra Hách Thất đây? Tôi một mặt ngẫm Hách Thất đừng để bị sói ăn thịt nhé, huynh ấy mà bị sói làm thịt rồi, ông ngoại ắt đau lòng chết mất; song mặt khác tôi lại tự nhủ, Hách Thất là dũng sĩ tiếng tăm nổi khắp thảo nguyên, bị sói ăn thịt nào có dễ thế, cứ cho như bên hông không ngựa, trong tay không tên, thế nhưng Hách Thất là Hách Thất cơ mà, thể nào huynh ấy cũng sống sót thôi.

    Nom mặt trời sắp xuống núi, gió thổi về mang hơi mát lạnh của đêm, lính trinh sát đi trước đột nhiên lớn tiếng kêu la, tôi vội ghì cương ngựa, hỏi: “Sao rồi?”

    Đám người ấy luyến thoắng gào lên thứ tiếng Trung Nguyên, thế rồi tôi thấy Hách Thất bò lên từ giữa núi đá, tay trái siết chặt 1 hòn đá nhọn, cánh tay phải còn đẫm vết máu, theo sau có đến vài người cũng bò dậy từ núi đá. Dáng vẻ họ nhếch nhách, mặt mũi bám đầy đất bụi, song vẫn mang ánh mắt của người dũng sĩ không nét sợ hãi nhìn quân Trung Nguyên.

    Tôi gào lớn 1 tiếng, lật mình lăn xuống ngựa, lăn lê thẳng một mạch, nhào tới ôm chầm Hách Thất. Có lẽ chạm phải vết thương của huynh ấy, hai đầu chân mày nhăm nhúm nhó. Thế nhưng huynh ấy đã lập tức nhoẻn miệng cười: “Tiểu công chúa”. Cả đội trở nên vui vẻ reo mừng, đám người Trung Nguyên nom phấn khởi còn hơn cả trận chiến thắng mới hồi sáng.

    Buổi tối, chúng tôi đóng quân ngay dưới chân núi Thiên Hằng. Lều trại người Trung Nguyên mang theo không nhiều, thảy đều dành cho thương binh nằm. Xương tay trái của Hách Thất bị gãy, Thiên phu trưởng sai người đắp thuốc trị thương cho huynh ấy, Hách Thất không hé miệng rên rỉ dù chỉ một tiếng. Tìm được Hách Thất, lòng tôi nhẹ nhõm hẳn, ăn một lèo hết veo chiếc bánh nang to tướng, Cố Tiểu Ngũ ngồi đối diện trông tôi ăn bánh nang, đáng lẽ tôi đang ăn ngon lành, thì bị hắn nhìn, miếng cuối cùng tắc ngay cổ họng, nuốt không trôi, mà nhè không ra. Cố Tiểu Ngũ nom tôi bị nghẹn đứt rồi, hắn đang ngồi liền bật cười giòn tan, nước cũng chẳng màng đưa.

    Khó khăn lắm tôi mới tìm được túi nước của mình, làm một hớp thật to xong, miếng bánh nang mới chịu tuột xuống họng. Nhưng mà tôi có chuyện toan hỏi hắn, nên cũng chả so đo với hắn làm gì, chỉ hỏi: “Tối hôm qua, lúc ở phủ đô hộ An Tây, chàng rốt cuộc đã nói gì với quan đô hộ mà ông ta lại đồng ý phát binh đi cứu viện thế hả?”

    Cố Tiểu Ngũ cười, lộ ra hàm trăng trắng bóng: “Ta nói với ông ta rằng, ông ta cứ thấy chết mà không cứu đi, rồi từ nay về sau không có trà ngon mà uống nữa đâu.”

    Tôi tin mới lạ đấy!

    Sao trời sáng thật, tôi ngước trông, sao lấp lánh giăng đầy trời chẳng khác nào vô số những cụm đèn lồng treo cao tít, nom nhỏ xíu xiu. Giữa trời thấp thoáng có dải trắng sáng, nghe truyền chỗ tắm gội của thiên thần là 1 dòng sông sao, lúc thiên thần trên trời tắm gội, hẳn cũng sẽ tiện tay vọc sao như chúng ta hằng dùng tay vọc cát, rồi hằng ngàn hàng vạn giọt sao trượt qua kẽ tay thiên thần, tuột mình về lại sông sao, thỉnh thoảng có giọt bắn tóe lên, liền biến thành sao băng. Đúng lúc ấy, có một vệt sao băng nhỏ xinh như một mũi tên lao vút về đằng chân trời, chớp mắt đã vuột khỏi tầm nhìn. Tôi chỉ kịp thốt lên 1 tiếng “á”, nghe bảo thấy sao băng là phải ngay buộc vạt áo, rồi ước điều chi đó, ước xong là thành hiện thực, thế mà chân tay tôi lóng ngóng, hễ cứ gặp sao băng không quên béng ước nguyện thì cũng quên luôn cả thắt nút… tôi chán lắm, nằm phịch trên thảm cỏ, sao băng thì mất hút đằng nào từ lâu. Cố Tiểu Ngũ hỏi tôi: “Nàng vừa á gì đấy?”

    “Có sao băng kìa!”

    “Sao băng có gì hay ho mà phải á lên?”

    “Thấy sao băng trước tiên phải thắt vạt áo, đồng thời ước một điều, điều ước ấy ắt thành hiện thực.” Tôi thật sự chẳng thiết giải thích với hắn, “Người Trung Nguyên các chàng không hiểu đâu.”
    Hình như hắn vừa phì cười: “Nàng muốn ước gì thế?”

    Tôi mím môi không thèm nói với hắn. Tôi nào có dễ bị kích động. Thế mà chẳng ngờ hắn cũng ngừng một lúc, sau cái giọng lại còn kéo dài : “À, ta biết rồi nhé, nàng ước mình sẽ lấy được Thái tử Trung Nguyên.”

    Quả này thì tôi phải bật dậy thật: “Thái tử Trung Nguyên có gì hay ho chứ, ta còn lâu mới lấy hắn!”

    Hắn cười híp mắt đoạn bảo: “Ta biết ngay nàng không muốn lấy hắn mà, hiển nhiên nàng ước lấy được ta chứ gì.”

    Giờ tôi mới nhận ra mình trúng kế của hắn, đành “xì” một câu, rồi mặc xác hắn.

    Tôi lại thả mình xuống bãi cỏ, nằm ngắm màn đêm mắc đầy sao. Gần lắm, thấp lắm, rõ ràng chỉ cần với tay là chạm tới. Chốn của thiên thần tích tụ nhiều sao thế kia, hẳn phải đông vui lắm đây.

    Có chú dế mèn con con nhảy bổ vào đầu tôi, rồi bị vướng luôn ở trên đó, nó không ngừng gáy ra rả. Tôi chụp tay bắt nó, từ từ gỡ nó khỏi tóc mình, nó cựa quậy trong lòng bàn tay, xốp xốp mà lại ngưa ngứa, tôi thổi một cái, nó giật mình nhảy tót xuống bụi cỏ, thế là biến mất hút luôn. Nhưng xem chừng nó vẫn còn đâu đó quanh đây, tiếng ra rả của loài dế vẳng trong đêm tối mãi không ngừng

    Cố Tiểu Ngũ cũng ngả mình, gối lên yên ngựa của hắn, tôi tưởng hắn ngủ rồi, hắn chỉ đang nhắm mắt, uể oải bảo: “Này! Hát một bài nghe đi.”

    Gió hiền hòa dịu êm như bàn tay của mẹ vỗ về khuôn mặt tôi. Tuy tâm trạng đã vui tươi hơn, song vẫn quen thói cự cãi với Cố Tiểu Ngũ: “Sao cứ bảo ta hát thế? Hay chàng hát cho ta nghe đi.”

    “Ta không biết hát”

    “Nói dối, ai mà chẳng biết hát. Hát đi! Hát bài nào hồi nhỏ mẹ chàng hay hát cho chàng nghe ấy, nhé?”

    Cố Tiểu Ngũ có lẽ phải im lặng đến một lúc lâu, sau đó, tôi mới nghe thấy giọng hắn lạnh nhạt bảo: “Ta không có mẹ.”

    Tôi thấy hơi áy náy, tôi có anh trai lẫn có mẹ, mà mẹ hắn bị bệnh qua đời từ lâu. Mỗi lần mẹ tiếp hắn tốt hơn hẳn so với tiếp tôi. Trong lòng tôi hiểu, có lẽ là vì từ nhỏ hắn đã không có mẹ, thế nên mẹ tôi dành nhiều sự săn sóc cho hắn. Tôi bật dậy, trộm nhìn sắc mặt Cố Tiểu Ngũ, tôi lo hắn mất vui. Thế mà dưới sắc sao lù mù, sắc mặt hắn nom ra sao, nói thực tôi cũng chẳng rõ.

    “Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng.

    Ô thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về…

    Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng.

    Ô thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…”

    Cuối cùng Cố Tiểu Ngũ lên tiếng, hắn chau mày: “Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!”

    “Ta chỉ biết có mỗi bài này…”

    Có tiếng khèn nổi lên cách đó không xa, trong lòng tôi mừng khôn xiết, vội vã dứng dậy nhìn quanh quất, thì ra là Hách Thất. Huynh ấy ngồi dưới dốc thoải thổi khèn tất lật. Trước đó tôi chỉ nghe danh Hách Thất là tay thần cung, chẳng ngờ huynh thổi khèn lại hay đến thế. Huynh ấy chỉ dùng 1 tay nên nhiều nốt không cách nào ấn được, dẫu vậy, tiếng khèn vẫn dìu dặt lúc trầm lúc bổng, quyện mình trong gió đêm mát rượi, sao mà bùi tai khác thường. Tôi ngóc đầu nghe, tiếng khèn của Hách Thất bi thương quá, dần dà chỉ còn tiếng hát cất lên từ phía mười mấy người Đột Quyết kia, giọng những người đàn ông trầm ấm mà đầy hùng hồn, càng đẩy sự bi thương trong điệu hát lên tầm cao. Giọng hát ấy tựa gió sa mạc, lại có nét giống chim ưng chao liệng giữa thảo nguyên, lắng đọng ngay chỗ sâu lắng nhất, rồi không ngừng ngân vang. Trời đất lặng lẽ như tờ, côn trùng núp trong lùm cỏ không còn cất giọng ngâm nga, đến con ngựa nhỏ cũng thôi hí rền, đến những người Trung Nguyên cũng bặt tiếng, làn điệu đồng ca lắng trong lòng.

    Tôi nghe đến ngây người, tận khi những người Đột Quyết thôi hát, mọi người lại bắt đầu rộ tiếng cười đùa. Cố Tiểu Ngũ dửng dưng hỏi: “Đây là bài gì thế?”

    “Bài ca xuất chinh của người Đột Quyết.” Tôi ngẫm một lúc, “Là trước lúc ra trận mạc ấy mà, họ thường hát bài này. Tang Cách trong bài hát vốn là một mỹ nhân nức tiếng người Đột Quyết, người yêu nàng ấy chia tay, đi chinh chiến bốn phương, sau này không thấy trở về, chỉ có con ngựa quay lại. Thế nên nàng ấy vuốt ve yên ngựa, mắt nhìn hũ tên đã rỗng của người yêu, rồi hát khúc ca này.”

    Dường như hắn mỉm cười: “Sao lại phải đi chinh chiến bốn phương nhỉ?”

    “Bọn họ là dũng sĩ của Đột Quyết, chiến đấu vì Đột Quyết, chinh chiến bốn phương là điều bất đắc dĩ thôi.” Tôi bực mình lườm hắn, “Đằng nào có nói thì chàng cũng không hiểu.”

    Hắn bảo: “Cái này có gì mà không hiểu chứ? Người Trung Nguyên có câu, ‘Cốt khô Vô Định, xót thương, Trong mơ, khuê nữ còn vương vấn tình(*)’, thực ra cốt truyện cũng như nhau cả thôi.”

    (*Bài “Lũng Tây hành”- Nguyên tác: Trần Đào, dịch: Phụng Hà)

    Tôi nghe thấy có chuyện hay liền nổi hứng quấn lấy Cố Tiểu Ngũ bắt hắn kể cho nghe. Hắn thấy tôi kèo nhèo, ngẫm 1 lúc, cuối cùng bảo: “Được rồi, kể cũng được, nhưng nàng không được hỏi gì đâu đấy, chỉ cần nàng hỏi tại sao thôi, ta sẽ không kể tiếp nữa đâu.”

    Tuy điều kiện nghe có vẻ hà khắc, thế nhưng cố nhịn không hỏi 3 chữ “sao lại thế”, kể ra cũng chẳng khó, tôi lập tức gật đầu đồng ý. Dường như hắn còn chần chừ, nghĩ một lúc mới kể: “Rất lâu rất lâu về trước có một vương quốc ảo, ở vương quốc ảo, có một cô nương tuổi đương trẻ…”

    “Cô gái ấy đẹp không? Dễ thương không?” Tôi nóng lòng hỏi, “Biết cưỡi ngựa không?”

    Hắn bật cười: “Cô nương ấy rất đẹp, rất đáng yêu, biết cưỡi ngựa. Lúc cưỡi ngựa ở vương quốc ảo, nàng ấy đội 1 lớp màn che, chính là loại mũ trên đầu có rèm sa ấy, một ngày cô nương ấy rong ngựa trên đường, gió thổi bay màn che… có một vị công tử nhặt được chiếc mũ ấy, liền trả lại cho cô nương kia. Hai người họ tuy lần đầu gặp mặt, song đã một lòng hẹn ước phải thành thân, tức là cưới gả ấy.”

    Tôi thấy thích đoạn mở đầu của câu truyện, tôi hỏi: “Vị công tử kia trông đẹp trai chứ? Có xứng với cô nương xinh xắn nọ không?”

    Hắn nói: “Đẹp hay không thì chưa rõ, song vị công tử này là con trai của Đại tướng quân, vô cùng dũng mãnh thiện chiến. Bọn họ ước hẹn không bao lâu sau, vị công tử này nhận được lệnh phải ra trận, liền dẫn binh xông pha đánh giặc. Cô nương nọ ở nhà đợi chàng, đợi rồi cứ đợi, đợi suốt nhiều năm, chàng không hề trở về. Người nhà của cô khuyên phải mau mau lấy người khác đi thôi, tuổi xuân người con gái không thể níu kéo được, chỉ e không dễ gì lấy được chồng. Cô nương ấy khăng khăng không chịu, vẫn tiếp tục đợi, nào ai ngờ biên ải cuối cùng gửi tin về, thì ra công tử kia đã hy sinh nơi trận mạc.”

    Hắn kể đến đó thì dừng lại, tôi gấp gáp hỏi: “Vậy nàng ấy thì sao? Nàng ấy biết tin chàng công tử kia chết rồi, thì phải làm sao đây?”

    “Nàng ấy rất buồn, song trong lòng lại không tin, võ nghệ chàng công tử kia cao cường, lại rành binh pháp, hơn nữa hằng năm xuất chinh tại ngoại, trải qua vô số chiến sự lớn nhỏ, sao có thể trúng mai phục của địch, rồi bị quân địch giết dễ dàng thế được? Cô nương ấy nhốt mình trong phòng ngẫm nghĩ suốt 10 ngày 10 đêm, cuối cùng hạ quyết tâm, phải tìm ra bằng được chân tướng sự việc. Thế nhưng nàng ấy chỉ là một thiếu nữ, chẳng hề có quyền thế gì trong tay, dẫu người nhà có làm quan, song cũng không đủ bản lĩnh, để đi giải quyết loại sự việc này. Lúc ấy, vừa hay quốc vương của vương quốc ảo hạ một chiếu thư, muốn tuyển phi tử. Nàng ấy vốn dĩ xinh đẹp, liền tự nguyện nhập cung, trở thành phi tử của quốc vương. Tính tình nàng ấy dịu dàng ôn hòa, lại nhanh trí nhạy bén, quốc vương rất mực sủng ái, nàng ấy trong hậu cung cũng dần có địa vị. Thế là nàng ấy kết giao với đám quần thân, lợi dụng lực lượng của bọn họ, điều tra manh mối về trận chiến mấy năm trước, chỉ để biết được rốt cuộc nguyên nhân gì đã khiến chàng công tử chết nơi trận mạc. Sau đó, dần dà thu thập được manh mối, mới biết kì thực, chàng không phải bị quân địch phục kích, mà bị chính người của mình ám hại giết chết. Nàng ấy lần theo manh mối tiếp tục điều tra sâu hơn, lại phát hiện ra sự việc này có liên quan đến hoàng hậu. Hoàng hậu đố kị nàng ấy đã lâu, chỉ bởi quốc vương hết mực sủng ái nàng, giờ đây nàng lại muốn tìm ra nguyên nhân thật sự về cái chết của chàng công tử kia, nếu như chuyện này đến tai quốc vương, có thể hoàng hậu sẽ bị truất ngôi.”
     
  10. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 29


    “Đúng lúc này, cô nương kia hạ sinh cho quốc vương 1 vị hoàng tử, hoàng hậu sai người hạ độc mãn tính vào thuốc tẩm bổ. Nàng ấy uống bát thuốc trộn lẫn thuốc độc, người ngày một yếu, sau ngã bệnh qua đời, trước lúc chết, nàng hy vọng có thể công khai nguyên nhân cái chết của vị công tử nọ cho toàn thiên hạ biết, thế nhưng không còn kịp nữa rồi. Hoàng hậu bảo nàng ấy bị bệnh lao rồi sai người giam lỏng nàng ấy, cấm kị người khác đến thăm, và còn ẵm mất tiểu hoàng tử mới chào đời…”

    Tôi hồi hộp lắm, hỏi: “Hoàng hậu còn muốn giết cả hoàng tử bé ư?”

    Sắc mặt Cố Tiểu Ngũ vẫn vậy, hắn lắc đầu: “Hoàng hậu không giết hoàng tử bé, bản thân hoàng hậu không có con, bà ta nuôi hoàng tử trưởng thành, dạy dỗ hoàng tử, vậy là hoảng tử bé xem Hoàng hậu như mẹ ruột mình, thế nhưng hoàng tử bé không hề hay biết, mẹ ruột mình thì ra đã bị Hoàng hậu hại chết. Sau này… hoàng tử bé cuối cùng đã rõ chân tướng sự việc, thế nhưng chàng ta không có cách, tuổi chàng ta còn nhỏ, Hoàng hậu lại có thế lực trong tay, hoàng tử bé không đấu được bà ta. Lúc này, Quốc vương cũng phân vân, bởi lẽ ông ấy không chỉ có hoàng tử bé là con trai duy nhất, mà còn rất nhiều những hoàng tử khác nữa. Quốc vương do dự trước những đứa con trai của mình, không rõ nên truyền ngôi cho ai là thích hợp nhất. Thực ra những đứa con trai của ông đang nóng lòng muốn giở trò sau lưng, bọn họ thừa biết hoàng tử bé không phải do Hoàng hậu thân sinh, mà Hoàng hậu đối với hoàng tử bé lúc nào cũng tiềm tàng một nỗi lo lắng… Thế nhưng sau cùng, Quốc vương vẫn lập hoàng tử bé lên làm Thái tử. Ở vương quốc ảo, chẳng mấy vị Thái tử thọ quá tuổi 30, bọn họ không bị ám sát, thì cũng bị vua cha phế truất, rồi bị giam cầm cho đến chết. Có Thái tử nuôi dã tâm toan soán ngôi, thẳng tay mưu sát giết hại vua cha… có người thành công, song cũng có kẻ thất bại, người thắng lợi lên làm vua, sau cũng chết, kẻ bại trận không giành được ngôi báu, tất phải chết… Đông Cung ư, chốn cung đình ấy thực chất là 1 nơi đẫm máu.

    Cố Tiểu Ngũ nói đến đó, đột nhiên ngơ ngác ngẩn cả người, tôi cũng chưng hửng nhìn hắn, câu chuyện này chẳng hay ho gì cả, chẳng được như đoạn đầu đã kể. Thế mà chẳng hiểu vì sao, tôi không ngắt lời Cố Tiểu Ngũ, qua chốc láy, hắn lại kể tiếp câu chuyện bằng chất giọng bình thường như không có gì: “Mặc dù được làm Thái tử, song cuộc sống của Hoàng tử bé cũng chẳng tốt hơn là bao, Hoàng hậu đề phòng chàng; còn Quốc vương, ông ta giao cho Hoàng tử bé một vấn đề vô cùng nan giải. Quốc vương nói, con đã là Thái tử, con nên làm tấm gương sáng cho thần dân trong thiên hạ noi theo. Quốc vương phái Hoàng tử bé đến 1 nơi, bảo chàng đi làm một chuyện chừng như không cách nào giải quyết được…”

    “Hoàng tử bé thật đáng thương.” Tôi hỏi hắn, ‘Quốc vương rút cuộc muốn chàng ấy làm chuyện gì?”

    “Chuyện hết rồi.” Cố Tiểu Ngũ vỗ vỗ yên ngựa, lại buông mình nằm xuống, mặt mày dãn nở khoan khoái, “Ngủ thôi.”

    Tôi nổi giận, kể chuyện chẳng đầu chẳng đuôi gì, bảo tôi ngủ thế nào được? Tôi nói: “Ta có hỏi tại sao đâu, sao chàng không kể nữa?”

    Cố Tiểu Ngũ bảo: “Thì hết chuyện rồi chứ sao nữa, hết rồi thì còn gì để kể?”

    Hắn xoay người quay lưng lại với tôi. Tôi chỉ còn nhìn thấy xương bả vai hắn, tuy phủ một lớp da dê, song tiết đêm gió lạnh, vai hắn co ro, dường như đã ngủ thật rồi.

    Tôi kéo chăn da phủ đến cằm, nằm trong ấm áp, bụng nghĩ: gã Cố Tiểu Ngũ nom thế mà vô tâm, kể xong chuyện càng làm người ta thêm phát ghét. Nhưng cứ trông cái bộ dạng hắn ngủ, thật ra lại có nét đáng thương—hoàng tử bé trong câu chuyện hắn kể không có mẹ, mà hắn mồ côi mẹ từ dạo bé, những người không có mẹ đương nhiên rất tội nghiệp. Mới chớm nghĩ đến việc nếu như mẹ mình cũng qua đời, quả thực tôi chỉ chực rơi nước mắt.

    Chắc tại nghe câu chuyện kia lúc sắp ngủ, nên vừa miên man đưa giấc, hoàng tử bé nọ theo tôi cả vào trong mơ. Cậu ta còn rất nhỏ, nhỏ lắm, nom dáng vẻ chắc chỉ trạc tầm 3-4, cậu bé rụt vai như một con thú nhỏ bị thương, chơ vơ ngồi khóc hu hu. Nhớ có lần tuyết vừa rơi, tôi trông trong hố săn có con cáo nhỏ bị thương. Con cáo ấy nom cũng co quắp thế này, nó chỉ hếch đôi mắt đen láy hoen nước nhìn tôi, đôi mắt ấy đầy cảnh giác, thế mà ánh nhìn lại thấp thoáng nét rụt rè. Bờ vai nó co ro, thoắt cái mà chiếc mõm nhòn nhòn đã vùi dưới chân, tuyết rả rích tuôn, chứng kiến cảnh ấy, trong tôi lại dâng trào niềm thương cảm, không cấm được cánh tay giơ ra, toan kéo cậu bé. Ngờ đâu nó vừa ngước đầu, tôi lại trông thành ra Cố Tiểu Ngũ, tôi giật thót mình, trong lòng cứ thấy quái đản, thế rồi tức khắc choàng tỉnh. Lúc ấy trởi gần về sáng, trăng chếch đằng chân trời, cảnh sao leo lét, lửa trại lụi dần, dường như sắc đêm thêm thẫm màu. Hai ngàn kỵ binh trên thảo nguyên vẫn đương say giấc nồng, chỉ có lính tuần tra là còn đi đi lại lại. Cỏ bên mình, sương mai đọng dày mát rượi, giọt sương nhỏ xuống mặt, thế là tôi lè lưỡi liếm luôn, có vị ngòn ngọt đây. Tôi trở mình, ngủ thêm chút nữa.

    Sáng ngày hôm sau, chúng tôi đã nhổ trại khởi hành lên đường tiến thẳng về hướng đông suốt 5 6 ngày liền, cho đến khi gặp đội kỵ binh của Đột Quyết được phái đi, Hách Thất nghe nói lều chúa của Đại Thiền Vu đang ở gần đó, tức thì mừng lắm. Trong lòng tôi cũng vui nữa là, thì chẳng mấy nữa sẽ được gặp ông ngoại rồi. Có điều hai ngàn quân Trung Nguyên hộ tống chúng tôi về, lại không thể dừng chân trên lãnh thổ Đột Quyết, họ lập tức cáo từ trở về.

    Hách Thất rất kính nể đạo quân ấy của Trung Nguyên, khen họ có quân kỷ nghiêm minh, hành động lại nhanh nhẹn, lúc lâm trận cũng rất dũng mãnh, thảy là những hảo hán hiếm thấy. Hách Thất tiễn bọn họ một đoạn xa, tôi đi theo Hách Thất, tiễn họ về đằng tây. Ráng chiều chói lọi, Cố Tiểu Ngũ cúp mi, cúi đầu, nom uể oải như đang ngủ gật, tôi bảo: “Này, chàng về rồi truyền lời cho Phụ vương ta hay, cứ bảo ta đã bình an đến Đột Quyết rồi nhé.”

    Cố Tiểu Ngũ nói: “Thì cũng phải xem ta có về đằng Vương thành buôn chè không đã chứ.”

    Tôi bảo: “Chàng không về bán chè đi, còn định đi đâu nữa?”
    Hắn cười, song không hề đáp lời tôi. Lúc ấy đội quân Trung Nguyên đã đi được 1quãng xa, hắn vẫy tay với tôi rồi rong ngựa đuổi theo.

    Tôi lấy tay che trán, thảo nguyên bát ngát trải dài đến tận đường chân trời, một lúc lâu còn trông rõ hắn đã bắt kịp đoàn người, mà vẫn vẫy tay với chúng tôi. Dần dà đã xa tít tắp thật rồi, lúc ấy trông chỉ như làn cỏ rác nhỏ bé cuồn cuộn giữa đất trời, chẳng còn nhận ra nữa. Tôi dõi theo bóng lưng hắn, chợt nhớ lại câu chuyện mới kể ngày hôm qua, thấy buồn rười rượi như thể mất đi thứ gì.

    Sau lưng bỗng có người khì cười, tôi ngoảnh đầu, thì ra Hách Thất. Huynh ấy ghì ngựa đứng ngay sau, tôi thẹn quá hóa giận liền hỏi: “Huynh cười gì thế?”

    Hách Thất gật đầu, rồi lại lắc lắc, song vẫn cười bảo tôi: “Tiểu công chúa ơi, chúng ta mau về thôi.”

    Lúc gặp ông ngoại tôi vui lắm, bao nhiêu phiền não đều quên sạch sành sanh. Cả năm ròng chưa gặp, ông ngoại càng thêm phần cưng chiều, kệ tôi buông thả càn quấy. Cánh tay của Hách Thất bị thương, ông ngoại lo tôi gặp chuyện, liền sai em gái Hách Thất ngày ngày theo sau tôi. Em gái Hách Thất trạc tuổi tôi, từ nhỏ đã học võ nghệ, tài cầm đao vô cùng cao siêu. Tôi thích gọi tên nàng ấy nhất: “A Độ ơi! A Độ!” nghe giống như một chú chim non, cô ấy thật y hệt một chú chim non, bất kể tôi đang ở nơi nao, chỉ cần hô 1 tiếng, cô bé lập tức xuất hiện ngay trước mặt tôi, chẳng khác nào chim nhỏ xòe đôi cánh lẹ làng lanh lẹ.

    Điều khiến tôi khó ngờ nhất là, vua Nguyệt Thị lại sai sứ giả sang, ngỏ lời muốn ông ngoại tôi định đoạt chuyện hôn nhân. Ông ngoại vốn không vời sứ giả vào lều, chỉ phái người chuyển lời với sứ thần vua Nguyệt Thị rằng: “Tuy tiểu công chúa không phải công chúa của Đột Quyết chúng tôi, song mẫu thân người là con gái Đại Thiền Vu. Tiểu công chúa chính là cháu gái người, Đại Thiền Vu chỉ hy vọng gả được công chúa cho bậc anh hùng đương thời. Vua đằng Nguyệt Thị nếu như có lòng muốn lấy tiểu công chúa, vậy mời đức vua thân chinh tới trước cửa lều, cạnh tranh cùng dũng sĩ Đột Quyết chúng tôi, chỉ cần ngài bắt được vua sói mắt trắng, Đại Thiền Vu tức thì gả tiểu công chúa cho đức ngài. Đây là chỉ dụ của Đại Thiền Vu, mà phụ thân tiểu công chúa tức quốc vương Tây Lương cũng bằng lòng với sự sắp xếp của Đại Thiền Vu.”

    Sứ thần Nguyệt Thị vấp phải vố này, liền hậm hực bỏ về.

    Chỉ dụ của Thiết Nhĩ Cách Đạt Đại Thiền Vu chẳng mấy mà truyền khắp chốn thảo nguyên, ai ai cũng hay nếu muốn lấy tiểu công chúa Tây Lương, tất phải giết bằng được vua sói mắt trắng. Nghe truyền bầy sói trên núi Thiên Hằng có hàng ngàn hàng vạn, mà chúng chỉ tôn độc nhất 1 con sói mắt trắng làm sói đầu đàn. Bầy sói ấy cũng như con người, chúng chỉ khuất phục dưới chân bậc vua chúa mạnh nhất. Con sói chúa ấy toàn thân lông đen xì, riêng mắt trái có một quầng lông trắng xóa như nhúng sữa ngựa vẽ lên. Lại nghe nói loại sói ấy rất dữ tợn, gần như đã thành tinh. Bầy sói trên thảo nguyên đương nhiên rất đáng sợ, song vua sói mắt trắng còn đáng sợ hơn. Những tốp nhỏ kị binh hoặc dân du mục mà gặp phải vua sói tất mất mạng, nó thường dẫn đầu một bầy phải đến hàng vạn con sói tấn công loài người, vậy là cả người lẫn ngựa đều bị ăn sạch sành sanh. Có một dạo tôi cứ ngỡ vua sói mắt trắng chỉ là truyền thuyết thôi, chính mẹ kể cho tôi nghe mà, chứ xưa nay chưa một ai tận mắt thấy nó, thế mà ai ai cũng thề thốt nói vua sói quả thực có trên núi Thiên Hằng, nó thống lĩnh bầy đàn phải đến mấy vạn con sói.

    Vua Nguyệt Thị bị Đại Thiền Vu nói khích thế, nghe đâu đã đích thân dẫn người lên núi Thiên Hằng, tìm giết vua sói mắt trắng. Nếu mà lão giết được nó thật thì sao? Tôi không muốn lấy lão già ấy đâu. Nhưng làm gì có ai giết được vua sói mắt trắng, thế nên người Đột Quyết đều nghĩ vậy, mà thảy những ai trên thảo nguyên đều bụng bảo dạ thế. Đành rằng Vua Nguyệt Thị hùng hổ dẫn người lên núi, song cũng chẳng gặp được vua sói, thì cũng bởi làm gì có ai thật sự thấy con sói ấy đâu, nó chỉ tồn tại trong truyền thuyết thôi. Tôi cứ ngẫm vậy rồi tự thấy an ủi, Vua Nguyệt Thị tuổi già sức yếu, núi Thiên Hằng rộng mấy trăm dặm, lại lắm loại thú dữ, nói không chừng lão lại ngã ngựa cũng nên, ngã quả ấy thì hết nhúc nhích, tôi đỡ phải lấy lão.

    Chuỗi ngày ở Đột Quyết tôi ung dung tự tại mà vui vẻ hơn hẳn ở Tây Lương, ngày ngày có A Độ ở bên, chúng tôi không đi săn thì cũng đi bẫy chim. Con gái Đột Quyết thường lấy chồng sớm, A Độ lại đương tuổi cập kê. Thỉnh thoảng có người đứng ngoài lều nàng ấy hát trọn 1 đêm, ồm ào làm tôi khó ngủ. Thế mà chẳng một ai đến hát chỗ tôi, tôi tự nhủ đám người ấy hẳn biết muốn lấy được tôi đồng nghĩa với việc phải giết được vua sói. Đối với dũng sĩ trên thảo nguyên mà nói, âu cũng là 1 vấn đề rất nan giải.

    Chứ không phải vì tôi không đẹp, nên chẳng ma nào đến hát tỏ tình đâu nhé.

    Hôm ấy tôi đang ngủ trong lều, đột nhiên thấy bên ngoài ồn ào hẳn, dường như có tiếng xôn xao. Tôi trở mình bật dậy, lớn tiếng gọi “A Độ”, nàng ấy vội vàng vén cửa lều bước vào, tôi hỏi: “Sao thế? Xảy ra gì rồi?”

    Mặt A Độ cũng tỏ vẻ mù tịt, tôi nhớ nàng ấy cũng như tôi cả, có biết chuyện gì đâu. Lúc ấy người ông ngoại sai đến khom lưng vái chào chúng tôi: “Đại Thiền Vu truyền tiểu công chúa đến lều trước.”

    “Sắp đánh nhau à?” Tôi có phần thấp thỏm không yên, đoạn hỏi, lần trước sứ giả Nguyệt Thị mặt xám ngắt trở về, mà với cái tính lão vua Nguyệt Thị kia, khó mà lão chịu để yên. Vua Nguyệt Thị bị khích đi tìm vua sói mắt trắng, song có ai tìm được vua sói đâu? Đây rõ là ý của Đại Thiền Vu – ông ngoại vốn thương tôi nhất nên mới bẫy vua Nguyệt Thị mà. Nếu như vua Nguyệt Thị giận quá hóa thẹn, chợt ngộ ra, nói không chừng còn đánh nhau với Đột Quyết, quả này Nguyệt Thị động binh với Đột Quyết, đối với toàn thể Tây Vực mà nói, thật sự chẳng phải chuyện đùa. Tuy Đột Quyết là cường quốc mạnh nhất Tây Vực, là nước có thế lực chiếm giữ phía bắc sa mạc, lãnh thổ trải dài đến tận ven biển cực đông, song Nguyệt Thị cũng là nước lớn nhất nhì Tây Vực, dẫu cường thịnh không bằng Đột Quyết, nhưng thực lực quả thực không phải loại yếu. Huống hồ Tây Vực mười mấy năm ngắn ngủi nay sống trong bình lặng, con đường thương mại thông suốt, thành thị ngày một sầm uất, cũng như Tây Lương chúng tôi, nếu như không có con đường thông thương, ắt chẳng được phồn vinh như ngày nay. Nếu xảy ra đánh nhau, không chừng tất thảy khó mà tái tạo lại được. .
     
  11. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 30
    Ba chân bốn cẳng tôi kéo A Độ chạy sang lều chúa, trướng lớn của Đại Thiền Vu hay còn gọi là lều chúa, lều phủ bởi vô vàn lớp da bò, bề mặt thêu chi chít hoa văn gam màu tươi tắn, bức hoành trắng muốt trưng trước cửa đề mấy chữ cầu may dát bằng bụi vàng, dưới nắng đầu thu, nét chữ lấp lánh ánh vàng khiến hầu như chẳng mấy ai dám ngước nhìn. Đôi câu chữ đổ thẳng bóng xuống nền đất chói chang, như thỉnh cầu chư thần trên trời phù hộ. Giữa khoảng ánh kim sáng lóa ấy, tôi nheo mắt trông trước lều có bóng dáng ai, vừa như quen thuộc gần gũi vừa như xa lạ bỡ ngỡ, tuy hắn vận trên người một bộ áo phổ biến của dân Tây Lương, song kẻ ấy chẳng giống người Tây Lương chúng tôi chút nào. Hắn ngoảnh đầu cười với tôi, quả nhiên không phải người Tây Lương, mà lại là dân Trung Nguyên.

    Chính cái gã thương nhân buôn chè, Cố Tiểu Ngũ nọ.

    Tôi không nhịn được cất tiếng hỏi: “Chàng đến làm gì thế?”

    “Cưới nàng.”

    Tôi ngẩn người nhìn hắn, qua một lúc lâu lắm mới cười bảo: “Này, chàng lại đến đây buôn chè đấy à?”

    Cố Tiểu Ngũ không trả lời, mà hắn chậm rãi giơ mũi chân hẩy cái thứ dưới đất.

    Tôi trông nó mà hoảng đến độ suýt rơi cả cằm.

    Một con sói toàn thân lông đen xì, kích thước xem chừng gấp đôi bọn sói hoang bình thường, trông nó to phải cỡ 1 con ngựa non, dù xác đã cứng đờ, song con ngươi vẫn trợn trừng, như thể muốn nhảy bổ vào ai đó mà cắn mà nuốt. Duy nhất có một chòm lông bao quanh mắt trái, trắng muốt như vẽ bởi sữa ngựa. Tôi dụi mắt, sững sờ phải mất 1 lúc, thế rồi lại khụy xuống, nhổ một sợi lông chỗ mắt trái con sói, sợi lông ấy từ đầu đến ngọn đều trắng bóc, khẳng định không phải lấy màu bôi lên, mà đích thực lông vốn màu trắng.

    Tầng lớp quý tộc Đột Quyết đã tụ tập đông đủ trước lều chúa, bọn họ lặng lẽ nhìn xác con sói to đến khác thường này, có đứa nhỏ mạnh dạn tiến lên, nó bắt chước tôi cũng nhổ một sợi lông trên mắt con sói, nó soi dưới ánh mặt trời, đoạn gào lên: “Màu trắng! Màu trắng này!”

    Giọng thằng bé the thé làm bụng dạ tôi bồn chồn bất an, tiếng ông ngoại xuyên qua đám người vọng thẳng đến: “Bất kể có là người Đột Quyết chúng ta không, tất đều là dũng sĩ.” Mọi người nhao nhao nhường đường cho Đại Thiền Vu, ông ngoại thong thả bước tới, ông đảo mắt trông xác con sói, đoạn gật đầu, xong mới quay sang Cố Tiểu Ngũ gật đầu và bảo: “Tốt lắm!”

    Được Đại Thiền Vu khen một câu, dễ chừng còn khó hơn bảo tuyết trên đỉnh Thiên Hằng kia tan chảy. Có điều Cố Tiểu Ngũ đã giết được vua sói mắt trắng rồi, trong khi Đại Thiền Vu chính miệng tuyên bố, ai giết được vua sói, sẽ ban gả tôi cho người ấy.

    Tôi nào có nghĩ kẻ ấy sẽ là Cố Tiểu Ngũ đâu. Tôi theo sau hắn, không ngừng hỏi, chung quy làm sao mà hắn giết được vua sói mắt trắng kia.

    Hắn chỉ nói qua loa rằng: “Ta dẫn đội buôi chè đi dọc đường, tình cờ gặp bầy sói, thế rồi đánh chết được nó thôi.”

    Tôi khẽ nhếch mép, tin thế quái nào được. Nghe bảo vua Nguyệt Thị dẫn 3 vạn kỵ binh lên núi Thiên Hằng, song có tìm thấy cọng lông nào của vua sói đâu, thế mà Cố Tiểu Ngũ chỉ tiện đường đi buôn, đã có thể giết được vua sói rồi à?

    Đánh chết tôi cũng không tin nhé!

    Có điều Đại Thiền Vu đã hứa ắt phải giữ lời, tức thì đã có vài người Đột Quyết đang bàn tán xôn xao, xem ra cái gã buôn chè người Trung Nguyên kia, thật sự sắp lấy Công Chúa Tây Lương rồi. Cố Tiểu Ngũ được xem như vị anh hùng cái thế, còn tôi vẫn cảm giác hắn rõ ràng đang lừa bịp người ta, thế mà hôm đó, Hách Thất uống say, lớn tiếng cãi nhau với hắn, hai người bọn họ so tài một phen.

    Bọn họ thi thố cũng rõ chán, lúc dở giăng dở đèn lại kéo nhau ra thảo nguyên bắn dơi, ai bắn được nhiều hơn, kẻ ấy thắng.

    Chỉ có những kẻ đã từng bắn dơi mới hiểu cái giống ấy khó bắn thế nào.

    Dân chúng Đột Quyết đều cho rằng Hách Thất thắng là cái chắc rồi, song họ vẫn đánh cược thử xem. Bản thân tôi cũng nghĩ Hách Thất tất sẽ thắng, tuy xương cốt tay phải chưa lành hẳn, nhưng kể cả khi Hách Thất dùng tay trái thì cũng chẳng một ai ở Đột Quyết này bì được với tài bắn cung như thần của huynh ấy.

    Tin tức về cuộc so tài chỉ vọn vẹn có nửa ngày trời mà đã truyền khắp nơi nơi cho người người hay biết. Người ta bảo rằng Hách Thất muốn lấy tôi, dẫu sao huynh ấy cũng là võ sĩ lợi hại nhất dưới trướng Đại Thiền Vu, sau này nói không chừng còn là tướng quân dũng mãnh nhất của Đại Thiền Vu. Mà tôi, tuy là Công Chúa Tây Lương, song ai chẳng biết Đại Thiền Vu thương tôi nhất, nếu như lấy tôi rồi, Đại Thiền Vu ắt sẽ càng tín nhiệm huynh ấy hơn.

    Có điều tôi trông Hách Thất chẳng có lối nghĩ kì quái thế đâu, tôi thấy dễ chừng là A Độ kể với huynh ấy rằng tôi không chịu lấy Cố Tiểu Ngũ.

    Tôi lờ mờ nhận ra rằng, Cố Tiểu Ngũ không phải loại thương buôn tầm thường. Song tôi vẫn mong, mong sao mình đừng lấy chồng sớm thế này.

    Chủ tế của Đột Quyết tụng bài ca ngợi, rồi nhỏ máu dê vào bát rượu, đoạn đưa bát rượu cho hai vị anh hùng sắp tranh tài, bọn họ nốc một hơi cạn bát rượu. Tối nay hai người bọn họ quyết phân cao thấp. Hách Thất là người có tên tuổi lẫy lừng khắp Đột Quyết này, mà Cố Tiểu Ngũ, nhờ chiến công giết được vua sói mắt trắng nên nhiều người Đột Quyết xem hắn như anh hùng, hai người họ thi thố phen này khiến người người rục rịch chộn rộn. Mà chính bụng dạ tôi cũng bối rối lắm, chẳng rõ mình mong kết quả nghiêng về phe nào nữa.

    Nếu Cố Tiểu Ngũ thắng, chẳng nhẽ mình thật sự phải lấy hắn ư?

    Còn ví như Hách Thất thắng thì sao? Lẽ nào gả tôi cho Hách Thất chăng?

    Tôi bị cái suy nghĩ ấy dọa cho hết hồn, Hách Thất chỉ thay mặt tôi răn đe Cố Tiểu Ngũ, bảo hắn bỏ ngay cái lối kiêu căng ngạo mạn ấy đi mà thôi, cũng giống như có dạo Hách Thất dạy dỗ mấy thằng cha hay hát ngoài lều A Độ, nếu bọn chúng ầm ĩ quá, Hách Thất sẽ có cách làm lũ ấy phải nín ngay. Tôi nghĩ lần này cũng thế cả, Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói, dù cho là ai đi chăng nữa cũng cảm thấy khó mà tin được. Hắn còn tỏ vẻ chẳng hề bận tâm, ngang nhiên bảo với ông ngoại rằng, hắn muốn cưới tôi.

    Thế nên Hách Thất mới nghĩ cách hòng trị thằng cha này.

    Cuộc so tài ấy truyền đến tai cả Đại Thiền Vu, ông phấn chấn lắm, đích thân đi xem nữa cơ mà. Tôi vác bụng dạ thấp thỏm không yên, theo sau ông ngoại, cùng đám người chỉ thích sôi nổi ồn ào kéo nhau đổ thẳng ra bờ sông. Võ sĩ dưới trướng Đại Thiền Vu ôm tên tới, đống tên ấy chia đều xếp chồng dưới chân 2 người. Hách Thất cầm cung của mình, trông trên tay Cố Tiểu Ngũ trống không, liền bảo: “Đệ lấy cung ta mà dùng.”

    Cố Tiểu Ngũ gật đầu, Đại Thiền Vu cười mà rằng: “Nơi dân Đột Quyết ta đóng quân, chẳng nhẽ không tìm nổi một cây cung nào hay sao?”
    Đại Thiền Vu ban cây cung sắt của mình cho Cố Tiểu Ngũ, tôi thấy lúng túng hộ hắn, cây cung sắt kia nặng hơn loại cung thường rất nhiều, nom hắn nho nhã yếu ớt thế, chỉ e khó mà giương được cung. Mà dễ Hách Thất cũng nghĩ vậy, huynh ấy không muốn bất công với Cố Tiểu Ngũ, liền bẩm với Đại Thiền Vu: “Hay là để đệ ấy dùng cung của thần, xin Đại Thiền Vu ban cây cung này cho thần dùng.”

    Đại Thiền Vu lắc đầu, đoạn phán: “Không giương nổi cây cung sắt này, lẽ nào còn ôm mộng lấy cháu gái ta sao?”

    Đám người vây quanh ồ cười, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, thế nên bọn họ vẫn có nét khinh thường ra mặt. Cố Tiểu Ngũ nhấc cây cung, dùng ngón tay gẩy dây cung như thể đang đánh đàn. Dây cung phát tiếng boong boong, người dân đứng quanh đấy phá lên tràng cười còn to hơn ban nãy, nom hắn vốn dĩ đã trắng trẻo thư sinh, trông chẳng khác nào bọn nhạc công người Trung Nguyên mà quý tộc Đột Quyết thường mua về, giờ lại gảy giây cung, chỉ tổ khiến người Đột Quyết càng thêm phần khinh thường.

    Sắc trời dần ngả tối, khoảng không ven sông chật kín dơi bay lượn. Đại Thiền Vu gật đầu, đoạn phán: “Bắt đầu đi.”

    Bên người Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ đã chất chồng 100 mũi tên, ai bắn được 100 con rơi trước, người ấy thắng. Hách Thất giương cung đầu tiên, tuy dùng tay trái, song trăm phát trúng cả trăm, chớp nhoáng đã thấy dơi đang bay trên trời bỗng dưng rụng lả tả. Mà phía Cố Tiểu Ngũ, hắn vẫn thong thả, rút 5 mũi tên, từ từ căng dây cung.

    Tôi thốt lên “Cố Tiểu Ngũ”, tuy tôi chưa rõ hắn có biết bắn cung không, song hắn cũng phải hiểu dây cung chỉ căng từng mũi một thôi chứ. Cố Tiểu Ngũ ngoảnh lại, mỉm cười với tôi, thế rồi hắn kéo cung.

    Nói thực thì, tôi hoàn toàn chẳng ngờ, hắn căng cây cung một cách nhẹ nhõm. Không chỉ giương được cung, mà còn bắn 1 chập những 5 phát tên lao vút như sao băng, hồ như mũi sau nối đuôi mũi trước, mớ người quanh đấy không khỏi kinh ngạc.

    “Tên liên hoàn! Tên liên hoàn kìa!” Mấy tay quý tộc Đột Quyết thốt lên trong ngạc nhiên, thậm chí, Đại Thiền Vu cũng kìm lòng không đặng mà gật đầu. Trung Nguyên có vị đại tướng sử dụng ngón sở trường là tên liên hoàn, trong trận giao tranh với Đột Quyết trước đây, ngón tên liên hoàn ấy đã hạ gục được Hữu Đồ Kỳ Vương. Có điều nói cho cùng cũng chỉ là truyền thuyết, mười mấy năm nay, quý tộc Đột Quyết chưa từng chứng kiến kiểu bắn tên liên hoàn. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại thành thục bắn liên tục mấy phát tên liên hoàn, đám dơi tuy bay nháo nhác, song không tránh khỏi loạt tên của hắn, từng con dơi đen thui lủi ngã xuống bên chân hắn, chẳng khác nào một cơn mưa rào hỗn loạn. Đành rằng tên Hách Thất bắn ra rất nhanh, song vẫn không bì được với hắn, nhoáng cái mà Cố Tiểu Ngũ đã giải quyết sạch 100 mũi tên. Đám nô lệ thu gom số dơi lại, tích thành một đống đen ngòm bên bờ sông, một trăm con dơi trông chả khác nào 100 bông hoa kỳ dị đen xì, chất lên nhau tạo thành một gò lớn màu đen.

    Hách Thất cũng bắn được 100 con, nhưng so với Cố Tiểu Ngũ có phần chậm hơn. Sắc mặt Hách Thất vẫn bình lặng, đoạn bảo: “Ta thua rồi.”

    Cố Tiểu Ngũ nói: “Đệ dựa vào thế cung mạnh nên mới bắn được chuỗi liên hoàn vừa rồi, ví như đổi sang cung của huynh, hẳn sẽ chậm. Vả lại, tay phải của huynh vẫn chưa lành lặn, thảy đều dựa vào sức tay trái, nếu bảo trận này đệ thắng huynh, thắng thế cũng chẳng vinh quang gì. Đôi bên chúng ta không ai thua cả, huynh là dũng sĩ chân chính, nếu như tay không bị thương, đệ sao có thể đọ nổi.”

    Kỹ thuật bắn cung của Cố Tiểu Ngũ đã làm dao động tất cả mọi người, nom hắn nói vẻ thản nhiên, đám người không thể không rầm rầm thốt lên câu khen ngợi. Tính người Đột Quyết quen cời mở, mọi việc đêu giải quyết ngay thẳng, người như Cố Tiểu Ngũ, xem ra rất hợp với tính khí người Đột Quyết. Đại Thiền Vu cười sảng khoái: “Khá lắm, dũng sĩ Đột Quyết chúng ta cũng chẳng thua.” Ông nhìn Cố Tiểu Ngũ rồi bảo: “Này người Trung Nguyên kia, nói xem, ngươi muốn được ban thưởng thứ gì?”

    “Bẩm Đại Thiền Vu, ngài đã ban cho tiểu nhân thứ quý giá nhất rồi ạ.” Dường như gã Cố Tiểu Ngũ này đang mỉm cười, “Trần đời này, còn gì quý báu hơn tiểu Công Chúa của ngài?”

    Đại Thiền Vu phá lên cười, mà những vị quý tộc Đột Quyết kia cũng hết sức phấn khởi, xem ra vụ cưới xin này quả thực được định xong rồi.

    Thầy tế chọn ngày lành tháng tốt, nhân lúc tiết thu dịu mát để cử hành hôn lễ sắp tới của đôi tôi. Bụng dạ tôi vẫn phân vân lắm, tôi len lén hỏi A Độ: “Ngươi cảm thấy, ta nên cưới gã này, hay không cưới gã thì hơn?”

    Đôi mắt đen láy của A Độ nhìn tôi, mắt nàng ấy mãi mãi chỉ một vẻ trấn tĩnh bình thản. Tự tôi cũng không có chủ kiến riêng, sau cùng tôi bạo gan hẹn Cố Tiểu Ngũ ra bờ sông gặp.

    Tôi cũng chẳng biết phải nói gì, thế nhưng nếu thật sự phải lấy hắn trong trạng thái mơ mơ hồ hồ thế này, dường như lại cứ có phần bất an.

    Tối một ngày thu, gió lướt thoảng hơi mát lành, tôi quấn chặt áo choàng da, quanh quẩn phía bờ sông, nghe dòng nước đổ tiếng róc rách, vẳng xa có tiếng chim nhạn gọi bầy, tôi ngóc đầu nhìn quanh. Đằng tây đã nhô cao một chòm sao sáng lấp lánh, sắc trời sẫm tím, hệt một tảng thạch nho.

    Gió lùa cỏ lác xào xạc, Cố Tiểu Ngũ đạp lên bụi cỏ, tiến về phía tôi.

    Tôi thấy lòng mình dậy cơn hốt hoảng. Hắn mặc áo bào của Đột Quyết, nom như dân Đột Quyết, thắt lưng còn dắt một chuôi đao. Độ mấy ngày trở lại đây, hắn chiếm được cảm tình của Đại Thiền Vu, hắn không những thạo bắn tên, mà còn rành rọt tiếng Đột Quyết, mặc dù là người Trung Nguyên, nhưng Đại Thiền Vu càng lúc càng tín nhiệm hắn, còn ban cung tên bằng sắt của người cho hắn. Trong khi đó, kể từ buổi so tài nọ, dường như Hách Thất và hắn đã kết tình huynh đệ. Cố Tiểu Ngũ dạy Hách Thất tài bắn tên liên hoàn, mà Hách Thất cũng chỉ bảo cho hắn vài chuyện trên thảo nguyên. Mỗi bận gặp hai người bọn họ, Đại Thiền Vu không kìm được cái gật đầu hài lòng. Thậm chí Hách Thất còn đổi đao của mình với hắn — Người Đột Quyết đổi đao cho nhau nhằm tỏ ý kết nghĩa, lúc xông pha trận mạc, anh em kết nghĩa còn thân thiết hơn cả anh em ruột thịt, thậm chí sẵn sàng chết vì nhau. Thế nên thắt lưng Cố Tiểu Ngũ dắt thực ra chính là thanh đao của Hách Thất, tôi vừa nhìn đã nhớ ngay đến Hách Thất từng dúi nó vào tay tôi rồi giục tôi chạy trước.

    Cố Tiểu Ngũ cũng trông thấy tôi, từ đằng xa đã nhoẻn miệng, tôi cũng cười đáp lại. Nom hắn cười, bỗng nhiên tôi bình tĩnh hẳn, tuy tôi không nói gì, mà hắn cũng không lên tiếng, song ắt hắn hiểu, vì sao tôi hẹn hắn ra đây. Quả nhiên, hắn bảo: “Ta mang cho nàng cái này.”

    Tim tôi nảy thình thịch, không phải thắt lưng đấy chứ? Ví như bây giờ hắn tặng thắt lưng của mình cho tôi, tôi phải trả lời thế nào đây? Theo phong tục của Đột Quyết và Tây Lương, người con trai hát xong mới trao thắt lưng… Hắn còn chưa hát cơ mà. Trong lòng tôi thấy thẹn thùng lắm, tim cũng đập gấp gáp, thế mà tai lại nghe hắn bảo rằng: “Buổi tối nàng ăn chưa no phải không? Ta đem cho nàng một miếng sườn dê nướng thật to đây!”

    Bỗng dưng tôi tức đến nỗi không thốt nổi câu nào, phùng cả má, bẵng đi bao lâu mới nhả được 1 câu: “Có mà chàng chưa ăn no ấy!”

    Cố Tiểu Ngũ tỏ vẻ mặt khó hiểu: “Đương nhiên ta ăn đủ rồi… ta thấy nàng tối nay chưa ăn gì, nên mới mang sườn dê cho nàng đấy chứ.”

    Tôi giận lắm đâm im lìm luôn, chỉ nghe vẳng từ đằng xa có tiếng hót một loài chim không rõ tên. Dòng nước vẫn róc rách tuôn chảy, cá dưới sông nảy tưng tưng, bắn tóe cả làn bọt nước. Miếng sườn dê thơm phức của Cố Tiểu Ngũ đặt ngay trước mặt tôi, quả thực cả tối chưa ăn gì, sở dĩ bụng dạ chỉ lo chuyện chốc nữa hẹn hắn, nên tầm tối đến, không thiết ăn. Giờ trông miếng sườn dê thơm nức mũi này, bụng tôi réo sôi ùng ục. Hắn bật cười, đoạn đưa con dao cho tôi bảo: “Ăn nào!”

    Sườn dê ngon thật đấy! Tôi ăn đến nỗi mồm miệng nhoe nhoét mỡ, tôi hớn hở hỏi hắn: “Sao chàng biết ta thích ăn sườn dê?”

    Cố Tiểu Ngũ buông một câu Trung Nguyên, tôi nghe chẳng hiểu, hắn nói lại với tôi bằng tiếng Đột Quyết, thì ra là: “Không có việc gì khó, chỉ sợ người không có lòng.”

    Lần đầu tiên tôi nghe có câu ấy, chẳng hiểu sao bụng dạ lại khẽ giật thót 1 cái, người thế nào thì được gọi là có lòng nhỉ? Tuy tôi và Cố Tiểu Ngũ quen nhau chưa lâu, thế mà tôi luôn cảm giác, mình đã biết hắn từ lâu lắm rồi kìa. Có lẽ là bởi rất nhiều chuyện từng xảy ra giữa chúng tôi, lần nào hắn cũng ra tay giúp đỡ, che chở tôi. Đành rằng hắn toàn nói mấy lời khiến tôi bực bội, song câu nói này, lại không hề làm tôi giận. Chúng tôi lẳng lặng ngồi ven sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát người Đột Quyết, ấy là một bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có người dũng sĩ Đột Quyết đứng hát ngoài lều người con mình yêu, bày tỏ nỗi lòng thầm kín của lòng mình thông qua lời ca cho người ấy nghe.

    Trước kia tôi không hề nhận ra giọng hát này nghe lại bùi tai thế, nó thoắt ẩn thoắt hiện như tiên khúc. Vạt cỏ ven sông đã chập chờn bầy đom đóm, từng đốm từng đốm chợt sáng chợt tắt, chẳng khác nào sao băng, hoặc tựa như có nắm bụi vàng ai đó thuận tay vẩy xuống. Thậm chí tôi còn nghĩ, những con đom đóm phát sáng rạng rỡ ấy đích thị là sứ giả của thần tiên trên trời, họ cầm những chiếc đèn lồng nhỏ xíu, nhóm lên từng đốm sáng lấp lánh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó đã rải rác li ti những ánh lửa, tiếng hoan hỉ cười vui trôi dạt về phía bên kia chân trời. Tôi chợt nghĩ, nếu mà thần tiên ngó xuống nhân gian từ chín tầng mây cao kia, liệu chăng cũng cùng cảm giác thế này? Cũng phiêu diêu, cũng hư ảo, mờ nhạt mà xa xôi.

    Cuối cùng, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ: “Nói cho cùng thì chàng muốn lấy ta à?”
     
  12. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 31
    Cố Tiểu Ngũ dường như có phần bất ngờ, chàng nhìn tôi một cái rồi mới bảo: “Đương nhiên muốn chứ.”

    “Nhưng mà tính ta không tốt đẹp gì, vả lại chàng là người Trung Nguyên, ta là người Tây Lương, ta thích ăn cơm kê, thích ăn thịt dê. Chàng nói tiếng Trung Nguyên ta nghe không hiểu, chuyện Trung Nguyên nhà chàng, ta cũng không rõ. Nếu bảo chàng ở lại Tây Lương, nơi đây cách Trung Nguyên đến ngàn dặm, thể nào rồi chàng cũng nhớ nhà. Còn như chàng không ở Tây Lương nữa, mà về Trung Nguyên, Trung Nguyên cách Tây Lương đến ngàn dặm, ta sẽ nhớ nhà lắm. Đành rằng chàng giết được vua sói mắt trắng, song chưa chắc đã là vì ta, chàng cũng nói đấy thôi, chẳng qua trên đường đi buôn thì tạt qua…Tuổi ta còn nhỏ thật, nhưng cũng hiểu những chuyện này đâu thể ép uổng…”

    Tôi nói một hơi không ngưng nghỉ, đủ các thể loại phiền phức của cả 2 kể từ lần gặp gỡ đầu tiên cho đến nay, tôi đều nói cả thảy rồi, nói đến rạc cả cổ họng. Cố Tiểu Ngũ vẫn không hề ngắt lời tôi, mãi khi thấy tôi đặt sườn dê xuống, làm ngụm nước, chàng mới hỏi: “Nói nhiều thế này, thực chất toàn những chuyện chẳng liên quan gì. Ta chỉ hỏi nàng, rốt cuộc nàng có bằng lòng lấy ta không?”

    Nước trong miệng tí nữa thì phun ra bằng sạch, tôi trừng trộ chàng ta hồi lâu, bỗng mặt nóng bừng: “Bằng lòng hay không…ơ…”

    “Nói đi!” Chàng giục, “Tóm lại nàng bằng lòng không?”

    Bụng dạ tôi rối bời, mấy ngày dạo gần đây, mọi thứ như thể hư ảo, như thể mộng mị. Nhiều việc xảy ra mà cứ lao nhanh vun vút, trước kia thật sự nào có nghĩ mình sẽ sớm lấy chồng thế này đâu, ấy thế mà lại là Cố Tiểu Ngũ, thoạt đầu tôi thấy gã này đáng ghét lắm, còn giờ lại không tài nào ghét được. Tôi chẳng biết nên trả lời thế nào nữa, nhìn đom đóm đưa thoi giữa khoảng không, tôi chợt hạ quyết tâm, bảo: “Vậy chàng gom đủ 100 con đom đóm cho ta, ta mới bằng lòng lấy chàng.”

    Vừa dứt lời, chàng ta đã đứng phắt dậy. Tôi ngơ ngác nhìn chàng chẳng khác nào một đứa nhóc con nghịch ngợm, giương tay lộn mèo một phát. Tôi thấy cả người chàng đã vọt lên, cứ như một ngôi sao—không, không, giống thế nào được với sao băng, nom chàng ta chực lao thẳng xuống bãi sông luôn ấy. Bất thình lình, chàng khua tay, tôi thấy bàn tay chàng đã nắm chặt một túm phải đến vài con đom đóm, đám ranh mãnh ấy tỏa đốm sáng li ti lập lòe giữa những kẽ tay, tôi đùm vạt áo dài, cuống quýt bảo: “Mau lên! Mau lên!” Chàng thả túm đom đóm vào trong cái bọc mà tôi đùm bằng vạt áo, tôi trông chàng lại vọt lên phát nữa, võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, giống như một bài thơ, chấm phá truyền thần thoải mái không hề gò bó. Nhất cử nhất động của chàng như thể đang nhảy múa, thật trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái hào hùng đến thế. Chàng ta tung mình giữa chừng không, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đóm đóm chớp nháy không ngừng kia. Ống tay áo khẽ gợn làn gió, tôi chỉ hướng cho chàng: “Bên trái! Bên phải có nhiều lắm kìa!” “Ối!” “Nó chạy mất tiêu rồi! Bên kia!! Trời ơi đằng đó một đống!”



    Tiếng cười của đôi tôi dạt đến tít bở sông xa, đống đom đóm gộp trong vạt áo mỗi lúc một nhiều, nhiều lắm, chúng chụm nhau lại cùng tỏa thứ ánh sáng lóng lánh, như thể trong lòng tôi đang đùm một vầng trăng rằm. Bầy đom đóm ven sông dạt đi mất hút, chúng bị Cố Tiểu Ngũ tóm sạch đặt cả trong lòng tôi.

    “Đủ 100 con chưa?” Chàng tiến lại gần, đầu kề sát đầu tôi, những ngón tay thon dài vạch một mép vạt áo, “Có cần đếm không nhỉ?”

    Chúng tôi vừa đếm được chừng mười mấy con, trên người Cố Tiểu Ngũ thoảng làn hương mát lành dịu nhẹ, thứ mùi thơm ấy không thấy có ở người Đột Quyết lẫn người Tây Lương, nó cứ chờn vờn khiến tôi mất cả tự nhiên, khuôn mặt hình như còn nóng bừng, chàng đứng bên tôi gần quá. Bỗng đâu có trận gió bùng lên, có sợi tóc của chàng phẩy hờ trên mặt tôi, nhẹ, mềm, mà rộn rạo, tay nâng vạt áo cầm lòng không đặng thế rồi chỉ vừa bung lỏng mà bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, đốm sáng vương vãi hóa thành vô số những vệt sao sao băng li ti, nhoáng cái những vệt sao băng đã vây quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, ánh sáng rạng rỡ tưới lên khuôn mặt chúng tôi, tôi nhìn thấy đôi mắt đen lay láy của chàng, mà đôi mắt ấy cũng đang nhìn tôi. Tôi nhớ mấy gã hay đứng hát ngoài lều A Độ, bọn họ cũng trông A Độ bằng ánh nhìn nóng rẫy như lửa kiểu này đây, nom khiến người ta quả thật phải mủi lòng. Thế mà ánh mắt của Cố Tiểu Ngũ ôn tồn hơn hẳn, ánh mắt đong đầy bóng hình tôi, bỗng dưng một nơi nào đó trong lòng đã khẽ xốn xang, cảm giác nửa dễ chịu nửa không. Ánh mắt đôi bên giao nhau, bỗng nhiên chàng trở nên thẹn thùng, ngoảnh mặt nhìn đom đóm trên trời, bảo: “Bay cả rồi!”

    Tôi bất giác nói: “Giống sao băng nhỉ!”

    Chàng cũng cười ha hả: “Sao băng à!”

    Đom đóm giăng màn trời, chẳng khác nào vô vàn đốm sao băng vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi, cái lúc thần tiên trên trời rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng. Tình này cảnh này tựa là mơ. Tôi bảo mình vĩnh viễn cũng chẳng thể quên được buổi tối hôm ấy bên bờ sông, chúng tôi quây quần với hàng ngàn hàng vạn đom đóm, chúng khẽ khàng lướt qua, đom đóm lần lượt tỏa đi bốn phương tám hướng, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa con sông, cảnh ấy rực rỡ hoa lệ nhường này chăng.

    Đại Thiền Vu sai sứ giả về bẩm báo với Phụ vương tôi rằng, ông đã chọn được cho tôi một gã con rể, chính là Cố Tiểu Ngũ đây. Phụ vương đương tiến thoái lưỡng nam giữa đằng Nguyệt Thị và Trung Nguyên, người nghe vậy tức thì viết một bức thư hồi âm, kính mong ông ngoại quyết định hộ tôi, rồi chủ trì việc cưới gả. Đoạn thư trả lời của cha đến nơi, thì hôn lễ đã bắt đầu được phân nửa.

    Tục cưới hỏi của Đột Quyết long trọng song cũng đơn giản, doanh trại quây quần giết mổ biết mấy là thịt cừu, gió đưa rượu nồng thoảng hương nơi nơi. Độ mấy ngày này, Cố Tiểu Ngũ đã kết thân với đằng quý tộc Đột Quyết, người Đột Quyết tôn sùng nhất chính là những bậc anh hùng, trước kia Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, sau này lại thắng được Hách Thất, giờ đây trong suy nghĩ của người Đột Quyết, chàng nghiễm nhiên là vị anh hùng tuổi trẻ đầy triển vọng. Thầy tế xướng điệu ca tụng đầy hân hoan, chúng tôi đạp lên nỉ đỏ, từ từ tiến lên đài cao thờ thánh thần phía thầy tế. Chính lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập vọng lại, lính trinh sát lăn long lóc chạy lại đằng Đại Thiền Vu đang ngồi.

    Lướt qua đám đông huyên náo, tôi thấy đôi mày Đại Thiền Vu châu đầu lại với nhau, bất chấp vị thầy tế đang căng giọng ca tụng, tôi chạy đến chỗ Đại Thiền Vu: “Ông ơi!”

    Đại Thiền Vu xoa đầu tôi, đoạn mỉm cười bảo: “Không sao cả, vua Nguyệt Thị sai đám người đến mắng vốn thôi, tiện đây ông cũng sai lính đi tống cổ chúng.”

    Không biết từ lúc nào, Cố Tiểu Ngũ tiến đến đứng sau lưng tôi, chàng khom mình chấm vai thi lễ theo kiểu Đột Quyết: “Bẩm Đại Thiền Vu, xin ngài cho phép cháu được ra đó.”

    “Cháu?” Đại Thiền Vu ngước nhìn chàng, “Vua Nguyệt Thị có 5 vạn quân,” Vả lại vua Nguyệt Thị là lão tướng từng trải chốn sa trường, tài bắn tên tinh thông của Cố Tiểu Ngũ là lẽ đã đành, song đối mặt với hàng ngàn hàng vạn quân địch, chỉ e tài bắn tên có tinh thông mấy cũng chẳng ích gì.

    “Vậy Đại Thiền Vu nên dụng kế ‘lấy nhàn rỗi đối phó mỏi mệt’, bằng cách sai 3 vạn kỵ binh ra nghênh địch.” Cố Tiểu Ngũ nói, “Nếu như Đại Thiền Vu không yên tâm, xin ngài cử 1 viên tướng quân, cháu sẽ áp sát thế trận, nếu có thể ngấm ngấm bắn lén từ đằng sau, khiến trận tuyến của Nguyệt Thị hỗn loạn, cũng xem như đã góp được chút công mọn.”

    Đại Thiền Vu vẫn đương do dự, Hách Thất lại bẩm: “Binh pháp của Trung Nguyên rất chuẩn xác, trên đường đi, chính bọn họ dẫn người đánh bại quân Nguyệt Thị.”

    Cuối cùng, Đại Thiền Vu gật đầu, đoạn bảo Cố Tiểu Ngũ: ‘Đi đi rồi đem thủ cấp tướng lĩnh Nguyệt Thị về làm tế phẩm hôn lễ của các cháu dâng lên Thánh thần.”
    Cố Tiểu Ngũ chiếu theo lễ tiết của Trung Nguyên, quỳ lạy đoạn thưa: “Mong trời đất phù hộ Đại Thiền Vu!” Lúc chàng đứng dậy, nhìn tôi rồi bảo: “Ta đi rồi trở về.”

    Trong lòng tôi bộn bề lo lắng, đánh mắt nhìn chàng quay người trở gót, tôi vội vàng đuổi theo mấy bước, toan lấy dây lưng của mình cài lên eo chàng.

    Theo nghi thức hôn lễ, tân lang tân nương trao nhau dây đeo lưng để kết thúc buổi lễ. Hai người chính thức trở thành vợ chồng dưới sự chứng kiến của thần linh. Tôi toan bảo chàng gỡ dây lưng của chàng xuống trao cho tôi, thế mà đám nô tài đã dẫn ngựa của chàng lại. Tôi không kịp nói với chàng dăm câu, chàng đạp lên yên ngựa, đoạn bảo tôi: “Ta đi rồi sẽ về.”

    Tôi kéo tay áo chàng, lòng bịn rịn không nỡ buông lơi. Tôi chợt nhớ rất nhiều chuyện, nhớ 3 ngày 3 đêm tôi ngồi đợi trên cồn cát, lúc ấy chỉ bởi đợi người con trai này; tôi nhớ lúc tôi ngã ngựa, chàng cứu tôi; tôi nhớ đêm nọ, chàng kể chuyện cho tôi nghe; nhớ chàng đã giết vua sói mắt trắng, còn thắng cả Hách Thất; tôi nhớ bầy đom đóm ven sông, từ dạo ấy, tôi đã hạ quyết tâm mình và chàng mãi bên nhau trọn đời không rời xa… nhưng giờ đây chàng sắp ra trận, tôi cầm lòng không đặng nỗi niềm vấn vương.

    Hình như chàng thấy ánh nhìn nơi tôi, môi nở nụ cười, cúi người vuốt ve bầu má tôi. Những ngón tay âm ấm, không phải tay cha, cũng chẳng giống ông ngoại, hóa ra lại có nét như bàn tay mẹ. Tôi chợt nghĩ tài bắn cung của chàng tinh thông là thế, sao trên tay lại chẳng hằn lấy 1 vết chai?

    Lúc tôi đương ngờ ngợ, ngẫm lại vài chuyện vụn vặt. Chàng đã rụt tay về, cả đội 3 vạn quân chuẩn bị xong xuôi, vị tướng quân Đại Thiền Vu phái đi dẫn binh là anh cả đằng họ ngoại của tôi, cũng chính là cháu trai Y Mạc Diên của Đại Thiền Vu. Y Mạc Diên cười bảo tôi: “Muội yên tâm đi, huynh sẽ chăm sóc đệ ấy tử tế.” Người Đột Quyết bấy lâu nay quen chinh chiến, chuyện xông pha chiến trường với họ đơn thuần chẳng khác nào cơm bữa. Tôi quý người anh họ Y Mạc Diên này lắm, cũng bởi lúc nhỏ anh họ thường dẫn tôi đi săn, anh họ hết mực thương yêu, xem tôi như em gái ruột thịt. Tôi lớn tiếng bảo: “Ai cần huynh chăm sóc chàng ấy chứ? Huynh cứ lo thân mình đi đã, muội đợi huynh về uống rượu đấy!” Mọi người đều rộ cười, họ tíu tít bảo: “Tiểu Công Chúa cứ yên tâm, đến lúc thịt dê nướng xong, chúng tôi sẽ mang thủ cấp của tay Nguyệt Thị về.”

    Cố Tiểu Ngũ theo sau đuôi cờ của Y Mạc Diên, chàng cũng vận chiến bào da bò của tộc Đột Quyết, khuôn mặt khuất dưới mũ sắt, thấy tôi tìm chàng trong đám đông, chàng cười đoạn giơ tay vẫy. Tôi trông eo chàng thắt chiếc dây lưng, đai lưng của tôi quấn đè lên đai lưng chàng, mới rồi tôi vội vội vàng vàng thắt cho chàng cái nút, tôi không đè được lo nghĩ chốc lát nữa liệu chiếc dây có tuột mất chăng, dây lưng mà bung thì xui xẻo lắm… Thế mà không đợi tôi nghĩ ngợi nhiều, thiên binh vạn mã đã tung vó lao băng băng về đằng chân trời, thoạt đầu còn thấy bóng đổ ngút ngát trải kín tầm mắt, sau cả đạo quân rẽ qua một con dốc, thế là biến mất luôn.

    A Độ nom tôi tiu nghỉu đứng mãi chỗ ấy, đành dùng tay ra hiệu với tôi. Tôi hiểu, tôi biết cô bé đang an ủi mình, rằng chỉ chốc nữa thôi là chàng sẽ trở về. Tôi gật đầu, tuy Nguyệt Thị có đến 5 vạn quân, song đống lính tráng ấy lội đường xa đến đây hẳn đã rã rời mệt nhọc, đạo quân tinh nhuệ của Đột Quyết một chọi mười, 3 vạn là đủ để đón đầu. Huống hồ lều chúa còn đây, 10 vạn quân bất cứ lúc nào cũng có thể tức thì tiếp viện.

    Dê nướng xèo xèo trên lửa, chúng nô tì dâng sữa ngựa và rượu ngon, nơi nơi rợp tiếng nói cười. Hẳn người ta đều cho rằng, bẵng đi một lúc, thế nào cũng có tin thắng trận báo về và lúc ấy, những binh sĩ của Đột Quyết đang trên đường trở lại. Lòng tôi cứ canh cánh mãi lúc biệt ly, mặt mày không đừng được cái nóng rẫy. Y Mạc Diên về mà thấy, không hiểu sẽ trêu tôi thế nào nữa! Hẳn huynh ấy sẽ bảo tôi không nỡ rời xa Cố Tiểu Ngũ, đợi đến lúc huynh ấy trở về, thế nào cũng đầu têu cho mọi người chế nhạo tôi. Đám thanh niên quý tộc của Đột Quyết thầm coi Mạc Y Diên như người đứng đầu, hội thi hát tối nay, lũ ấy thế nào chẳng ngâm nga trêu đùa. Bụng dạ tôi nao nao buồn phiền, tự nhủ Cố Tiểu Ngũ không biết hát, chàng về, tôi tất phải bảo chàng ngay, kẻo khi đó lại tẽn tò.

    Thế mà tôi không hề hay biết, chuyến đi này, họ đi và vĩnh viễn không bao giờ trở lại.

    .

    Bẵng đi nhiều năm sau, tôi xem sách sử Trung Nguyên ghi chép lại chuyện ngày nọ. Sơ sài có dăm ba câu vô vị: “Tháng bảy, Thái Tử Thừa Ngân đích thân tiến vào Tây Vực, liên minh cùng chư hầu Nguyệt Thị, bốn mươi vạn đại quân tập kích Đột Quyết, Thiết Nhĩ Cách Đạt Thiền Vu của Đột Quyết hung hãn không chịu hàng, bỏ mạng lúc quân binh loạn lạc. Toàn tộc Đột Quyết bị giết thảy hơn hai mươi vạn người, toàn tộc bị diệt vong.”

    Ngày đó, tôi cũng quên gần hết, chỉ nhớ Hách Thất trước lúc tắt thở vẫn siết chặt cây cung, trước bụng trước ngực vết đao kiếm chằng chịt, máu tươi xối xả không ngừng, lúc đó xem ra khó qua khỏi. Huynh ấy dốc sức đưa tôi và A Độ lên 1 con ngựa, trăn trối câu cuối cùng: “A Độ, nhớ chăm sóc Công Chúa!”

    Tôi trông tên kéo đến đen kìn kịt như làn mưa châu chấu, lại chẳng khác nào hằng hà sa số đốm sao băng, giả sử thần thánh trên cao có buông tay, hẳn khi số sao trong lòng bàn tay ập xuống hết ráo, chúng cũng thế này chăng… A Độ gồng sức quất ngựa đưa tôi cứ chạy, chạy mãi. Bốn bề biển lửa, bốn bề biển máu, bốn bề âm thanh giết chóc. Mấy chục vạn quân Trung Nguyên và Nguyệt Thị như thể vừa chui lên từ lòng đất, dân tộc Đột Quyết dẫu quật cường phản kháng, song cũng không thể địch lại sức tiến công của chúng… Xiết bao người đổ xuống sau lưng chúng tôi, xiết bao máu bắn tóe lên thân thể chúng tôi, ví như không có Hách Thất, chúng tôi hoàn toàn không thể thoát được vòng vây của mấy chục vạn quân kia, có lẽ sau đó Hách Thất cũng bỏ mạng ở lại, tôi và A Độ rong ruổi trên thảo nguyên tròn chặn 6 ngày 6 đêm mới bị toán lính bắt kịp.

    Đùi tôi bị thương, mà người A Độ cũng nhiều vết sứt sát, thế nhưng nàng ấy vẫn tuốt đao, che cho tôi ở phía sau. Lòng căm thù như ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, nung nấu thân tôi đến độ khô rát, đầu không ngừng bảo: chính lũ chúng nó, chính lũ chúng nó đã giết ông ngoại; bọn chúng, chính bọn chúng giết Cố Tiểu Ngũ; lũ này, lũ này dồn nhân dân Đột Quyết vào đường diệt vong. Tuy không phải người Đột Quyết, nhưng một nửa dòng máu Đột Quyết đang chảy trong huyết quản tôi. Giờ đây chỉ còn sót lại mình tôi với A Độ, dẫu phải vắt cạn đến giọt máu cuối cùng, tôi cũng không thể khiến ông ngoại bẽ mặt, không thể để nhân dân Đột Quyết mất thể diện.

    Lúc đó có gã Trung Nguyên rong ngựa đến, A Độ khua đao xông lên, gã nọ chỉ khẽ khàng nhô tay ra, thanh đao trên tay A Độ đã “phịch” một tiếng đáp trên mặt đất. Tôi lặng người nhìn gã, kẻ này hẳn biết yêu thuật chăng? Không sử dụng tà phép thì sao có thể cướp được đao từ A Độ, mà còn khiến nàng ấy chết trân một chỗ?

    A Độ trừng mắt nhìn gã, hiếm khi mới thấy A Độ nổi cơn giận, tôi biết nàng ấy đang tức thật lắm. Tôi nhặt thanh đao lên, vung về phía gã. Tôi đã cáu đến độ bất kể có là ai, mặc xác là ai, tôi cũng phải giết bằng được gã!

    Kẻ nọ cũng chỉ giơ tay, điểm nhẹ lên người tôi một cái, thế rồi mắt tối sầm, lúc ấy chẳng còn hay biết gì.

    Khi choàng tỉnh, đã thấy đầu mình cắm xuống, cả người vắt ngang yên ngựa như một bao kê, móng ngựa xối bùn lên mặt mũi, ngặt không sao nhúc nhích nổi. Bốn phương tám hướng trông toàn vó ngựa, vô vàn chân ngựa nhấp nhô như cơ man lau cỏ dậy sóng trước gió, tôi chếnh choáng một chặp, mắt mũi nhắm tịt. Chẳng rõ bao lâu sau mới thấy ngựa dừng bước, tôi bị xách khỏi lưng ngựa, khốn nỗi đùi bị điểm huyệt bấy lâu, đứng chẳng còn vững, lúc ấy lăn nhào ra đất.

    Nền phủ lớp nỉ dày, hẳn nơi đây là lều trại của tướng lĩnh Trung Nguyên, là của gã quan đô hộ nào đó chăng? Tôi ngước trông lên, ấy thế mà đập vào mắt lại là Cố Tiểu Ngũ, xiết bao dũng sĩ Đột Quyết đã tử trận, nhất là 3 vạn quân Đột Quyết tiên phong đi nghênh địch kia, nào có ai sống sót trở về, thế mà Cố Tiểu Ngũ vẫn còn sờ sờ đấy ư.

    Chàng vẫn tồn tại trên đời này, không những vậy, chàng còn khoác trên mình áo quần Trung Nguyên, chẳng đội giáp mà vẫn toát lên vẻ nho nhã của người thư sinh Trung Nguyên, nhưng tôi biết, lều này tuyệt nhiên không phải chỗ cho thư sinh ở. Quanh chàng vây đầy vệ binh, gã tướng lĩnh bắt tôi về – vừa tiến vào đã quỳ lạy Cố Tiểu Ngũ, mũ giáp trên người chà sát những tiếng lanh lảnh, gã dập đầu theo lối lễ tiết tối cao của Trung Nguyên, nghe nói chỉ khi người Trung Nguyên bái kiến bậc quý tôn đứng dầu mới làm lễ này. Thoắt cái tôi chợt hiểu, chính Cố Tiểu Ngũ, thì ra Cố Tiểu Ngũ là nội ứng của Trung Nguyên! Chính chàng, chính chàng dẫn địch tập kích. Chẳng hiểu thu góp sức lực đâu ra, mà tôi gồng được mình phỉ nhổ về phía đó: “Đồ gian tế!”

    Lũ vệ binh xung quanh đấy lớn tiếng quát tháo, có kẻ đá vào đùi tôi, đùi tôi nhũn oặt lăn kềnh xuống đất. Tôi thấy gã quan đô hộ đang khom mình vái Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng nói tiếng Trung Nguyên, tôi nghe không hiểu lấy một câu. Song Cố Tiểu Ngũ vẫn chẳng hề liếc phía tôi, gã quan đô hộ nói rất nhiều lời, tôi nom sắc mặt Cố Tiểu Ngũ sa sầm, sau cùng lũ người đó lui khỏi lều, Cố Tiểu Ngũ cầm dao, tiến về phía tôi.
     
  13. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 32
    Tôi cứ tưởng hắn sẽ giết mình, thế mà hắn lại cắt đứt dây da trói tay tôi, đoạn bảo: “Oan cho nàng rồi.”

    Tôi nghiêng đầu nhìn hắn, giọng gắng vẻ bình tĩnh: “Cố Tiểu Ngũ, rồi sẽ có 1 ngày ta giết ngươi, báo thù cho ông ngoại.”

    “Thằng phản bội, tuồng gian tế.”

    Tôi không thốt nổi lời lăng mạ nào thậm tệ hơn, mấy câu sỉ vả cứ nhai đi nhai lại, vậy mà hắn chẳng hề nổi cáu, trái lại còn cười: “Nếu thấy giận, nàng cứ chửi vài câu cho bõ.” Tôi nhìn hắn như nhìn 1 người dưng. Cái kẻ đã dắt theo 3 vạn binh sĩ Đột Quyết khởi hành khỏi hôn lễ của chúng tôi đi nghênh chiến. Ngờ đâu kẻ đó thông đồng với Nguyệt Thị, không chỉ 3 vạn quân tinh nhuệ của Đột Quyết bị tiêu diệt sạch sành sanh, bè lũ Trung Nguyên – Nguyệt Thị còn kéo vào nơi lều chúa ở. Ông ngoại trở tay không kịp, bị chúng giết chết, Đột Quyết quả thật đã diệt vong rồi! Hai mươi vạn dân… một cuộc tàn sát, tôi và A Độ gần như tháo chạy khỏi chốn địa ngục trần gian ấy, máu của 20 vạn dân tưới ngập thảo nguyên, mà kẻ đầu trò cảnh thảm sát kia còn đương nhởn nhơ đứng đây.

    Tôi mắng chửi đến kiệt sức, co quắp một chỗ, song vẫn tự hỏi rốt cuộc lòng dạ hắn được đúc từ thứ sắt đá gì. Tôi mệt bã nhìn hắn, đoạn hỏi: “Bấy lâu nay chàng vẫn lừa ta, sao bây giờ không giết quách ta đi?” Hắn đưa mắt liếc tôi, bao lâu sau mà không hề lên tiếng, rồi lại một lúc nữa, bỗng dưng quay ngoắt đi, mặt trông ra khoảng nắng luồn ô cửa, xiên qua bức mành rèm. Bụi ám tấm rèm ngả xám, chẳng còn vẹn nguyên màu trắng tinh tươm như thưở đầu, nắng chớm thu in vết trên nền nhà sáng ngờ, đổ xuống cái bóng của đôi tôi. Hắn vươn tay chụp lấy cổ tay tôi, tay tôi yếu ớt buông rơi con dao nhỏ vừa mới rút ra xong. Con dao ấy của hắn, chính là con dao kết nghĩa với Hách Thất, là con dao Hách Thất dúi vào tay tôi lúc về sau. Tôi và A Độ khốn cùng bi đát suốt dọc đường, tôi vẫn giấu con dao này trong mình, định bụng đến thời khắc bức bách nhất sẽ lôi ra tự sát, tránh bị giặc làm nhục. Bước đến giữa trướng, hắn nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, đoạn bảo: “Nàng đừng làm những chuyện ngốc nghếch thế.” Chuyện ngốc nghếch ư? Tôi gần như chỉ muốn phá ra cười, đời này còn ai ngốc hơn tôi nữa? Kẻ nhẹ dạ cả tin tôi đây suýt nữa đã lấy cái gã gian tế mà Trung Nguyên phái tới, tôi còn đinh ninh hắn bỏ mạng trong cuộc chiến với Nguyệt Thị, tôi còn nuôi hận báo thù hộ hắn.

    Chính giữa lúc ấy, bất thình lình có người bước vào bẩm với Cố Tiểu Ngũ mấy câu tiếng Trung Nguyên. Nom mặt hắn biến dạng, hắn nhấc con dao bé xíu lên, quẳng lại tôi rồi mau chóng rảo bước ra ngoài. Tôi rệu rã phủ phục dưới sàn. Cũng chẳng rõ bao lâu sau, có người lẹ làng kéo áo gọi tên tôi: “Tiểu Phong!” Ngoảnh lại thì trông thấy sư phụ, không kiềm được mừng vui khôn xiết, tôi túm chặt tay sư phụ, hỏi: “Sao thầy ở đây?” Sư phụ bảo: “Nơi này không nói nhiều được, ta mang nàng trốn trước đã.” Thầy vung kiếm rạch một đường lên vải bạt, chúng tôi ra từ lối sau lều. Đằng kia đã cột vài con ngựa, hai người lên ngựa, lúc sắp thoát khỏi doanh trại, bỗng tôi nhớ ra: “A Độ!” Còn A Độ nữa!”

    “A Độ nào?”

    Tôi bảo: “A Độ là em gái Hách Thất, cô bé đó luôn bảo vệ ta, ta không thể bỏ mặc nàng ấy được.” Sư phụ chịu thua, đành dẫn tôi lộn về tìm A Độ. Chúng tôi kiếm A Độ trong trại nhốt tù binh. Có điều lại đánh động tới lính canh. Tuy kiếm pháp của sư phụ rất giỏi, song đã sa chân vào chốn doanh trại này rồi thì chém giết không ngơi nổi tay, khó mà thoát được cái thân. Đồn trú đã rấy tiếng xôn xao, người từ bốn bề đổ đến càng lúc càng đông, thấy thế bất lợi, sư phụ đành vừa đánh vừa lui, rút về phía chuồng ngựa, thầy quệt 1 mồi lửa quẳng vào đống rơm.

    Tàu ngựa của đại doanh chất cơ man là rơm khô làm thức ăn nuôi ngựa, đống này mà bùng lên thì chỉ nháy mắt thôi lửa sẽ lan hừng hực khó bề dập ngay được. Cả doanh trại lập tức nhốn nháo cả lên, quân binh hấp tấp đi dập lửa, chớp thời cơ ấy, cuối cùng sư phụ mang tôi và cả A Độ tháo chạy. Kỷ luật nhà binh của Trung Nguyên rất nghiêm, chỉ thoáng chốc ngắn ngủi, tiếng huyên náo trong doanh trại đã dần lắng xuống, vẫn có kẻ cấp tốc cứu hỏa, có một đám khác lại phi ngựa đuổi theo chúng tôi.

    Cứ vừa đánh vừa lui cho đến tận chân núi Thiên Hằng, đám quân truy đuổi kéo tới mỗi lúc một đông. Tôi trông bọn lính ấy kéo cờ hiệu màu mơ, trên có viết chữ Trung Nguyên mà tôi không hiểu, liền hỏi sư phụ: “Đám này là người của phủ đô hộ An Tây à?” Quân đóng ở phủ đô hộ An Tây có lực lượng hùng hậu, song không ngờ bọn chúng giao chiến cũng lợi hại vậy.

    Gò má sư phụ có vết máu bắn, tính thầy ưa sạch sẽ, vội giơ tay quệt ngang vệt máu, đoạn cười nhạt không ngớt: “Phủ đô hộ An Tây làm gì có nhiều kị binh đến thế… Lũ này là quân Vũ lâm của Đông Cung, mà Trung Nguyên vẫn gọi Vũ lâm lang, thảy là bọn con nhà quan, đợt này ra biên thùy là muốn kiếm công danh bổng lộc đây mà. Nàng xem, đứa nào đứa nấy hùng hổ lao đầu lên, toàn định bụng lập công lớn cả đấy.”

    Tôi hỏi: “Công gì lớn?”

    Thầy nói: “Bắt sống nàng đã là một chiến công rồi.”

    Xưa nay tôi đâu từng nghĩ mình lại quan trọng đến thế. Lũ Vũ lâm quân kia truy đuổi tôi đến cùng, chúng không ngừng buông lời xỉ vả, có đứa nói tiếng Tây Lương theo kiểu quái đản, chửi chúng tôi chỉ biết cúp đuôi bỏ chạy. Phải như lúc bình thường, thế nào tôi cũng bị kích đến độ sấn sổ quay ngoắt lại, có điều, sau một chuỗi những vấp váp, cuối cùng tôi đã hiểu ra, một kẻ đứng giữa vạn quân chỉ như hạt muối bỏ bể, hoặc thoảng là cây cỏ trước cơn bão, không một ai có thể ngăn được thế tấn công của thiên binh vạn mã. Ông ngoại không thể, Hách Thất không thể, và sư phụ cũng thế cả thôi.

    Trời ập tối lúc chúng tôi đã rút lên núi Thiên Hằng, đạo quân kia không tiện lên núi, chỉ dừng lại dưới chân. Từ sau núi đá nhìn xuống, chân núi đã đốt lốm đốm lửa trại, gần đó, đạo quân tiếp viện từ doanh trại kéo đến liên tục, chúng đốt đuốc nối đuối nhau tạo thành thân rồng lửa đổ ngoằn ngoèo. Cuối cùng tôi vẫn hỏi sư phụ: “Cố Tiểu Ngũ là ai?”

    “Hắn vốn không mang họ Cố.” giọng thầy đượm sự yên ả như thường lệ, “Hắn là Lí Thừa Ngân, là người con thứ năm của hoàng đế Trung Nguyên, mà hiện nay cũng là Đông Cung Thái Tử đương triều.” Tôi chỉ ngờ ngợ việc Cố Tiểu Ngũ hẳn không chỉ là tiểu thương buôn chè, sự việc xảy ra xong, tôi vẫn lờ mờ đoán có lẽ hắn là tướng quân triều đình Trung Nguyên, nhưng có điều hắn còn trẻ quá. Tướng quân nức tiếng Trung Nguyên không nhiều lắm, mà chẳng nghe nói có vị tướng quân nào mang họ Cố. Thì ra vốn dĩ hắn không phải họ Cố, chẳng những thế, mà thân phận còn lừng lẫy thế này đây.

    Tôi chẳng rõ mình đang muốn khóc hay muốn cười nữa.

    Tôi nhớ lại chuyện Trung Nguyên phái sứ thần tới, lúc đó sứ thần thay mặt Thái Tử Trung Nguyên đến cầu thân. Vì đâu đến nông nỗi này? Trước kia tuy tôi không mấy thiện cảm với Trung Nguyên thật, song cũng chẳng bằng được như bây giờ, bây giờ, tôi căm thù Trung Nguyên đến tận xương tủy.

    “Sao hắn lại nói mình họ Cố?” Thầy trù trừ một lúc, tôi còn chẳng ngờ nổi thầy cũng biết trù trừ cơ đấy, thế mà sau đó, thầy nói cho tôi nghe sự thực: “Bởi vì mẹ hắn mang họ Cố.” Tôi nhìn sư phụ, thực ra, trong bóng tối đen kịt, chẳng thấy được gì, giọng thầy trầm mà đều: “Đúng vậy, từ lâu nàng đã biết ta cũng họ Cố, mẫu thân hắn là Thục Phi, còn là cô ruột của ta. Thế nên thực chất, ta cũng chẳng phải người tốt, bệ hạ phái hắn đến biên cương Tây Vực, hắn lại sai ta âm thầm trà trộn vào Tây Lương giúp hắn làm nội ứng…”

    Đầu óc rối tinh rối mù, ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng cố nhớ ra được cái tên của thầy, tôi bình tĩnh gọi hẳn ra thành tiếng: “Cố Kiếm!” đoạn mới hỏi, “Vậy, thầy định bao giờ thì giết ta, hoặc bao giờ mới giao ta lại cho Thái Tử điện hạ đây?”

    Cố Kiếm không đáp lời, lẩn khuất giữa đêm đen mà tôi vẫn thoáng thấy khóe môi thầy nhích cười đượm buồn. Thời gian trôi đi bao lâu, thầy mới bảo: “Nàng thừa biết ta sẽ không làm vậy.”

    Sự thù hận trong lòng phừng phực bùng cháy chẳng khác nào ngọn lửa, ngọn lửa ấy nuốt chửng trái tim tôi, tôi siết chặt nắm đá dăm, những cạnh sắc nhọn của đám vụn vỡ không ngần ngại cắm sâu vào lòng bàn tay. Tôi nghe giọng mình ai oán: “Lũ TrungNguyên các người, còn gì mà không dám làm? Các người lừa lọc ta bấy lâu nay! Cố Tiểu Ngũ lừa ta, chính ngươi cũng lừa ta hết lần này đến lần khác! Hẳn các người tính kế này ngay từ đầu lúc quen biết rồi phải không? Lũ các người còn gì không làm nổi nữa đâu! Ngươi lừa ta từ đầu chí cuối, uổng công Phụ vương ta tin tưởng ngươi! Uổng công ta tôn ngươi làm thầy…”

    Tôi chẳng còn biết mình đang nói gì, tôi chửi bới ra rả, tôi chửi toàn Trung Nguyên rặt 1 lũ bịp bợm. Thế mà thực ra, trong lòng tôi hiểu rằng, tôi chỉ hận có mình Cố Tiểu Ngũ, sao hắn lại đối xử với tôi thế này. Chưa bao giờ tôi thấy mình căm ghét mãnh liệt đến vậy, chẳng thà Cố Tiểu Ngũ cứ giết quách tôi đi, chẳng đành thầy đừng cứu tôi, biết đâu tôi đã sớm chết… Tôi chửi chán, chửi đến mệt lử. Tôi nhìn Cố Kiểm, mỉa mai bảo: “Lần này thầy cứu ta, thầy định lạt gì buộc gì chăng… rồi mai sau vừa hay đến gặp Hoàng đế Trung Nguyên lĩnh thưởng?”

    Thầy nhìn tôi, bẵng đi một lúc rất lâu, thầy mới lên tiếng: “Tiểu Phong, đúng là khi quen biết nàng ta rắp tâm, trước kia ta luôn lừa nàng, thế nhưng… thế nhưng lần nào lừa nàng cũng khiến ta thấy buồn khôn cùng. Nàng vẫn chỉ là một đứa trẻ, bất kể ta nói thế nào, nàng cũng tin, ta càng lừa nàng, trong lòng ta càng thêm áy náy. Khi gửi bồ câu đưa thư cho Lí Thừa Ngân, thực chất lúc ấy, ta mong mỏi hắn mãi mãi đừng đến… Nàng ngồi đợi trên cồn cát, thực ra ta đứng cách nàng không xa, ta đứng đó đợi cùng nàng, đợi mãi đợi đứt ba ngày ba đêm…trăng ngày ấy đổ tràn xuống khuôn mặt nàng, ta trông sắc mặt nàng lúc đó hệt như lúc nàng hát bài con cáo nhỏ…” Giọng hắn thấp dần, “Ta biết bản thân mình mê muội…rõ ràng nàng chỉ là một đứa trẻ… thế nhưng khi đấy, thật tình ta chỉ mong Lí Thừa Ngân vĩnh viễn đừng xuất hiện, cứ thế, nói không chừng ta đã mang nàng bỏ trốn…Dẫn nàng đến một nơi nào đó, rời xa Tây Lương… Thế mà sau đó hắn lại đến, tất cả đều hành động theo kế hoạch đã vạch trước, ta buộc lòng phải tạm né tránh nàng… ta không biết nữa… vốn dĩ ta vẫn ôm một phần nhỏ hy vọng, chỉ cầu rằng nàng chưa chắc sẽ thích hắn… thế nhưng… lúc Lí Thừa Ngân sắp đi giết vua sói, ta đã hiểu, sự tình không còn đường lui nữa rồi. Chính ta đã giúp hắn giết con sói dữ kia, sói cắn đùi hắn bị thương, ta đã nói: điện hạ, hà cớ gì phải vậy? Thực chất trong lòng ta khinh bỉ chính mình hơn bao giờ hết, ta làm tất cả chuyện này, hà cớ gì…Ta biết hắn giết vua sói hòng đi gặp nàng. Ta giúp hắn, chính ta đã đẩy nàng vào lòng hắn…”

    Tôi không còn hiểu nổi những gì thầy nói, sắc mặt thầy lộ rõ vẻ thê thảm, sau cùng chỉ bảo: “Tiểu Phong, ta có lỗi với nàng.”

    Tôi nín lặng, trên đời này không một ai có lỗi với tôi cả, mà chỉ riêng mình tôi có lỗi với tất cả.

    Tôi có lỗi với ông ngoại, tôi cõng rắn cắn gà nhà, vì tôi mà ông tin tưởng Cố Tiểu Ngũ, dẫn tới toàn quân bại trận.

    Tôi có lỗi với Hách Thất, nếu như không vì tôi, huynh ấy đã chẳng bỏ mạng.

    Tôi có lỗi với A Độ, nếu như không vì tôi, nàng ấy đã chẳng bị tổn thương.

    Tôi có lỗi với toàn thể nhân dân Đột Quyết, tất cả đều là người thân của tôi, chính tôi đã đẩy họ vào đường cùng diệt vong.

    Trên đời này, chẳng một ai có lỗi với tôi cả, trừ Cố Tiểu Ngũ… Nhưng không sao, rồi mình sẽ giết hắn, thế nào mình cũng lựa thời cơ giết bằng được hắn… Tôi ngước nhìn sao trời, xin được thề với thánh thần rằng, rồi sẽ có ngày tôi giết hắn.

    Trời tảng sáng tôi đã chợp mắt được một chập, tiếng trống hạt dưới chân núi khiến tôi bừng tỉnh, tôi mở mắt thấy A Độ bật dậy. Mà sắc mặt Cố Kiếm nặng trĩu, đoạn bảo A Độ: “Dẫn Công Chúa đi.”

    “Ta không đi.” Tôi ngang ngược nói, “Chết thì cả 3 cùng chết.”

    “Ta phải đánh lạc hướng địch, A Độ sẽ đưa nàng đi.” Cố Kiếm tuốt kiếm, giọng bình tĩnh bảo, “Bản tính Lí Thừa Ngân rất cứng rắn, lẽ nào nàng vẫn mong đợi hắn thực lòng với nàng ư? Nếu nàng rơi vào tay hắn, chẳng qua càng tạo vốn liếng cho công cuộc bình định Tây Lương của hắn.”

    Tây Lương!

    Tôi chỉ thiếu điều nhảy dựng lên, Cố Kiếm nhìn tôi trong khi tôi hoàn toàn líu lưỡi: “Hắn còn định tấn côngTây Lương sao?” Cố Kiếm bật cười: “Đối với bậc đế vương mà nói, thiên hạ này biết thưở nào mới có tận cùng?” Tôi không thốt nổi lời nào, tiếng trống hạt thình thình thình gióng quá 3 hồi, quân Trung Nguyên dưới núi đã bắt đầu xung phong.

    Cố Kiểm bảo: “Đi mau!”

    Tuy A Độ bị trầy trụa, song thân thủ vẫn khá linh hoạt, nàng ấy kéo tôi leo lên núi đá, tôi vội vàng ngoái lại, chỉ kịp thấy Cố Kiếm đứng trên mỏm đá, nắng sớm mai phủ chụp thân mình, bộ bào trắng đương vận đã vấy máu đào, trải qua cả 1 đêm, máu se màu nâu đen. Gió thốc tay áo, thầy đứng trong nắng sớm như một pho tượng tay lăm lăm trường kiếm. Tôi nghĩ đến những gì thầy nói đêm qua, tưởng chừng hệt một cơn mộng mị. Rồi tôi chợt nhớ dạo đầu khi chúng tôi vừa quen biết nhau, lúc ấy thầy cứu một đứa bé trước vó ngựa lồng, áo trắng của thầy ngã lăn trên đất, bụi vàng nhuộm màu áo, thế mà lúc ấy thầy vẫn oai phong lẫm liệt như thể đủ tài chống đỡ thảy những sự trời long đất lở trên đời này. Chuyện lúc đó cũng hệt một giấc mơ. Mọi việc đã xảy ra trong những ngày gần đây, đối với tôi mà nói, tất cả như một cơn ác mộng.

    Tôi và A Độ trốn trong núi, ban ngày thì ẩn náu, ban đêm tiếp tục chạy. Quân Trung Nguyên sục sạo khắp nơi, nhưng chúng tôi lanh lẹ lẩn tránh, tạm thời chúng không thể bắt được. Tôi và A Độ náu trên núi nhiều ngày, khát thì vét tuyết làm nước uống, đói thì đào hốc chuột, trong đó lúc nào cũng dự trữ đủ hạt và quả khô, ăn đỡ xót ruột. Chẳng hay Cố Kiếm còn sống hay đã chết, mà cũng không biết mình lẩn trên núi được bao ngày rồi.

    Trời đã vào tháng 8, tuyết bắt đầu rơi. Dường như chỉ trong 1 đêm mà tuyết bao bọc cả núi Thiên Hằng, băng tuyết xuất hiện khắp nơi, bôi màu cỏ vàng xanh héo úa thành trắng xóa. Tuyết rơi, ngọn núi này không còn là chỗ thích hợp để trú ẩn, thậm chí loài linh dương đã không còn ra ngoài kiếm ăn nữa. Gió đêm trên núi thổi đến độ khiến con người ta hoàn toàn có thể chết cóng. Trước đợt tuyết rơi, đoán chừng toán quân Trung Nguyên sẽ rút hẳn, sở dĩ quân đồn trú dưới tuyết lâu, sa vào tình cảnh cạn kiệt lương thực đường nhiên là chuyện vô cùng đáng sợ, kẻ tướng quân đứng đầu không thể không cân nhắc. Tôi và A Độ náu trên núi thêm 2 ngày, không thấy có dấu vết lùng sục nữa, mới quyết định liều xuống núi xem.

    Mà số chúng tôi cũng may, xuống núi xong đi cả 1 ngày đường về phíaNam, lại gặp được dân du mục. Ông ta đun chảy nước tuyết cho chúng tôi rửa mặt mũi chân tay, còn luộc thịt dê mời chúng tôi ăn. Nom tôi và A Độ nhếch nhác như 2 kẻ người rừng, ẩn mình trên núi lâu ngày, mãi chưa được 1 bữa no nê, tuyết trên núi càng khó đun. Ngồi trong lều ấm cúng uống sữa dê, tôi và A Độ nom y hệt người vừa trở về từ địa ngục. Tuy người đàn ông du mục này là dân Nguyệt Thị, song đồng cảm lắm với tình cảnh của Đột Quyết, ông ta tưởng chúng tôi là nữ tù nhân vừa trốn khỏi Đột Quyết, thế nên đối đãi với chúng tôi rất tốt. Ông ta bảo đại quân Trung Nguyên đã rút về phíaNamrồi, có mấy ngàn người Đột Quyết cũng tháo chạy cả về đằng Tây.

    Tôi không còn nghĩ được gì nhiều nhặn, sữa nóng đun chảy mọi ý định trả thù, tôi biết, nếu chỉ dựa vào có tôi và A Độ e chẳng cách nào chống cự nổi bọn người Trung Nguyên, chứ đừng nói đến chuyện báo thù cho ông ngoại. Tôi quyết định dẫn A Độ về Tây Lương, tôi nhớ phụ vương lắm, tôi càng nhớ mẹ hơn. Tôi vội nghĩ phải về được Vương Thành, rồi kể cho Phụ vương nghe toàn bộ chuyện ở Đột Quyết, bảo người dù sao cũng phải cẩn thận đề phòng bè lũ Trung Nguyên. Ông ngoại mất rồi, mẹ hẳn sẽ đau lòng lắm, tôi chỉ muốn được gặp mẹ ngay bây giờ, rồi an ủi mẹ. Đành rằng ông ngoại không còn trên đời này nữa, song mẹ vẫn còn có tôi bên mình mà.
     
  14. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 33
    Dọc đường đi, trong lòng tôi nóng như nung như đốt, chỉ sợ mình về chậm một bước, chỉ sợ Tây Lương cũng bị Lí Thừa Ngân thảm sát giống như lũ chúng từng làm với Đột Quyết. Tôi và A Độ gấp rút lên đường ngay trong gió tuyết, cả chặng đường trải qua bao nhiêu cơ cực, cuối cùng đã chạm mặt Vương thành Tây Lương.

    Thấy thành quách vẫn trong cảnh bình yên vô sự, tôi bất giác thở phào nhẹ nhõm. Cổng thành vẫn mở toang như thường lệ, tiết trời sắp vào đông, đội buôn thưa dần, lính gác co mình dưới tấm áo da dê, núp trong cổng tò vò đánh giấc gà gật. Tôi và A Độ âm thầm tiến vào Vương thành.

    Trong tiết se lạnh của đêm cuối thu, cung điện hiển hiện trong nét thân thương mà trang nghiêm, tôi không đánh động lính gác, mà tiến thẳng vào vương cung qua lối cổng nhỏ. Vương cung của Tây Lương thực ra chỉ có vài ngàn quân canh giữ, phòng thủ lại rất lỏng lẻo, suy cho cùng, Tây Lương chẳng gây thù địch với bất kì ai, khách vãng lai toàn là dân buôn bán. Nói đến Vương cung, thực chất canh phòng còn chẳng nghiêm ngặt bằng phủ đô hộ An Tây. Trước đây, tôi thường lén ra khỏi vương cung bằng đằng cửa nhỏ, ở ngoài chơi chán rồi lại về lối ấy, chưa một lần bị bại lộ.

    Cả tòa cung điện dường như chìm trong giấc ngủ say, tôi dẫn A Độ về phòng mình, bên trong lặng như tờ, tịch không bóng người. Tiết trời buốt lạnh, A Độ cóng đến độ mặt mày trắng bệch, tôi lấy một tấm áo da choàng cho A Độ, ủng đi nhiều cũng mòn, thủng lỗ hở cả ngón chân. Tôi lại tìm 2 đôi ủng mới để đi, giờ thì ấm rồi nhé.

    Tôi chạy men theo hành lang về phía tẩm điện của mẹ, chỉ mong sớm được gặp mẹ.

    Đằng tẩm điện không châm đèn, nhưng trong cung có đốt lò, nỉ trải sàn cũng đặt đến vài chậu sưởi to, tôi trông cha đang ngồi trước lò sưởi, dường như người đang cúi đầu.

    Tôi khe khẽ gọi: “Cha ơi.”

    Bóng lưng cha giật thót, cha từ từ quay lại, nhìn tôi, mắt cha đỏ quạch: “Con gái, con đã bỏ đi nơi nao?”

    Trước kia, tôi chưa từng chứng kiến cha mình dưới dáng vẻ này, vành mắt tôi thế mà đã cay cay, dễ chừng bao nhiêu tủi thân trong lòng bấy lâu nay đều vỡ òa chực theo khóe mắt mà tuôn. Tôi kéo tay áo cha hỏi: “Cha ơi, mẹ đâu ạ?”

    Mắt cha chỉ càng hoen đỏ, tiếng người nghèn nghẹn phát ra từ mũi, cha bảo: “Con gái ơi, mau chạy đi, con mau trốn đi.”

    Tôi ngớ người nhìn cha, A Độ đã bật dậy tuốt đao. Bốn bề bỗng nhiên dậy đèn, vô số lính cầm đèn lồng bó đuốc xộc vào, kẻ dẫn đầu nom rất quen mặt, gã chính là sứ thần mà Trung Nguyên phái đến Tây Lương cầu thân, giờ đây gã vênh váo ra vẻ ta đây, như 1 con gà trống hiếu thắng thủng thẳng từng bước tiến vào. Gã nhìn cha tôi, cũng chẳng buồn quỳ xuống vái chào, mà hống hách bảo rằng: “Tây Lương vương, Công Chúa đã về đây rồi, đương nhiên đã đến lúc phải thực thị hôn ước giữa hai nước, giờ thì ngài không thể kiếm cớ đùn đẩy được nữa rồi.”

    Lũ này thật đáng ghét, tôi kéo tay áo cha, gặng hỏi: “Mẹ đâu vậy cha?”

    Chợt nước mắt trên gương mặt cha nhỏ dài, đấy là lần đầu tiên tôi thấy cha mình khóc, bỗng nhiên tôi rùng mình, thoắt cái cha tuốt đao bên thắt lưng, chỉ thẳng vào lũ người Trung Nguyên, giọng khàn khàn âm u, cha bảo: “Lũ Trung Nguyên này, con ơi, con nhìn bọn Trung Nguyên này đi, chính chúng nó đã dồn mẹ con vào chỗ chết. Chính chúng nó ép Tây Lương chúng ta, bắt ta phải giao mẹ con cho chúng, mẹ con không cam tâm chịu nhục, bà ấy đã dùng đao tự vẫn ngay chính trong vương cung này. Lũ chúng nó… lũ chúng nó còn dám xộc vào vương cung, mục sở thị bằng được xác mẹ con chúng nó mới thỏa lòng….Lũ hung thủ bọn nó! Chính tay chúng nó đã sát hại mẹ con…”

    Giọng cha dường như một lời nguyền rủa rì rầm, vo vo vang vọng giữa chốn vương cung, còn tôi thì như bị giáng cho một cú nặng nề, thụt lùi về phía sau. Cha rạch má chính mình, máu tươi đầm đìa khuôn mặt, người vung đao về về phía sứ tiết Trung Nguyên đang đứng. Thế người dũng mãnh như sư tử, lũ Trung Nguyên ấy vội vàng tản ra bốn phía, một tiếng động nghẹn thở vang lên, đầu gã sứ thần đã bị người chém rụng. Cha gạt đao, thở dốc nặng trĩu, binh lính Trung nguyên đã thắt vòng vây hãm, có kẻ gào: “Tây Lương vương, ngài giết sứ thần Trung Nguyên, chẳng lẽ định tạo phản sao?”

    Mẹ! Mẹ tôi! Tôi bươn bả suốt muôn ngàn đắng cay trở về đây, thế mà không thể gặp đượcmẹ nữa rồi..

    Toàn thân run rẩy, tôi chỉ lũ chúng, rít giọng quát: “Lí Thừa Ngân đâu? Hắn đâu? Hắn trốn đâu rồi?”

    Không một kẻ nào cho tôi câu trả lời, có kẻ bước ra từ đám người, nom ăn vận có vẻ như tướng quân Trung Nguyên. Gã nhìn tôi, nói: “Bẩm Công Chúa, Tây Lương vương trong lúc thần trí không ổn định đã ngộ sát sứ tiết Trung Nguyên, đợi đến lúc yết kiến điện hạ, thần sẽ bẩm báo lên người nhằm làm sáng tỏ sự việc. Mong Công Chúa giữ thái độ bình tĩnh, tránh làm ảnh hưởng đến thể diện hai nước.”

    Tôi nhận ra gã tướng quân này, lúc đuổi theo tôi và A Độ trên thảo nguyên, chính gã đã tước đao khỏi tay A Độ, hơn nữa còn bắt tôi về doanh trại của đại quân Trung Nguyên. Võ công của gã hẳn rất cao siêu, chắc chắn tôi và gã không phải đối thủ. Lần trước tôi trốn được khỏi đại doanh Trung Nguyên cũng bởi có sư phụ, giờ vắng mặt sư phụ, ai có thể cứu tôi đây?

    Tôi nói: “Ta muốn gặp Lí Thừa Ngân.”

    Gã tướng quân Trung Nguyên đáp rằng: “Tây Lương vương đã hứa gả Công Chúa cho Thái Tử điện hạ, nhằm kết mối thâm giao giữa hai nước. Mà Thái Tử điện hại cũng có thành ý, đích thân người hạ giá đến Tây Vực rước Công Chúa về. Rồi sẽ đến lúc Công Chúa được yết kiến Điện hạ thôi, hà tất phải nhất thời nôn nóng?”

    Tôi trơ mắt căm tức nhìn toán binh lính đang siết chặt vòng vây, cha vung đao ngang dọc, song cuối cùng vẫn bị chúng chế ngự. Vương cung xảy ra chuyện lớn là thế, mà không một vệ binh nào đến xem xét, chứng tỏ cả tòa vương thành này từ trong ra ngoài, từ lâu đã bị người Trung Nguyên kiểm soát. Cha bị bọn chúng đè sấp xuống đất, người vẫn lớn tiếng chửi như tát nước. Lồng ngực tôi nóng sùng sục như chảo dầu sôi, sự giày vò đè át lục phủ ngũ tạng, dợm xông lên, thì lũ chúng đã kề đao ngay cổ cha, chỉ cần tôi ho he làm xằng làm bậy gì đó, không biết chừng chúng sẽ giết người ngay tức khắc. Người Trung Nguyên vẫn bảo chúng tôi là lũ man rợ, thế mà chúng giết người còn hung ác hơn cả chúng tôi, tàn bạo hơn hẳn chúng tôi. Khi nước mắt tôi đã mặc sức rơi, gã tướng quân nọ cất lời: ‘Công Chúa, xin người khuyên Vương Thượng vài câu, chớ để ngài tự làm thương chính mình.” Vậy mà mọi âm thanh đều tắc nghẽn ngay cuống họng, có người nắm cánh tay tôi, là A Độ, những ngón tay nàng ấy mát lạnh chìa ra làm chỗ dựa cuối cùng cho tôi, tôi nhìn nàng ấy, đôi mắt đen láy đổ bóng hình mình, trong ánh mắt đong đầy nôn nóng sốt ruột. Tôi hiểu, chỉ cần tôi nói 1 câu thôi, nàng ấy sẽ chẳng do dự, liều mạng xông pha vì tôi. Song, hà cớ gì? Hà có gì lại còn liên lụy đến cả A Độ? Đột Quyết diệt vong, Tây Lương thì rơi vào tay Trung Nguyên, tôi bảo: “Cấm các ngươi đụng vào cha ta, ta theo các người là được chứ gì.”

    Cha quả thực đã trở nên lẩm cẩm, nghe nói từ khi mẹ qua đời cha đã thế, có lúc tỉnh táo, có lúc như trong trạng thái mơ hồ. Khi nào minh mẫn, cha lại đòi đánh giết bọn Trung Nguyên, còn lúc lú lẫn, tựa làm những chuyện chưa từng thấy bao giờ. Tôi nghĩ thà rằng cha cứ mãi hồ đồ, mẹ qua đời, trái tim cha cũng chết theo. Các anh trai đã bị giam lỏng, đàn bà con gái trong cung thì hoang mang, lo sợ không yên, còn tôi, tôi vẫn dằn lòng mình.

    Thù còn đó, sao mình có thể dễ dàng chết được?

    Tôi tiếp nhận chiếu thư của Trung Nguyên, quyết định lấy Lí Thừa Ngân. Trung Nguyên vừa mới bình định Đột Quyết, bọn chúng gấp rút nâng đỡ thế lực mới ngay tại Tây Vực, hòng tránh Nguyệt Thị dàn trải lớn mạnh. Đột Quyết vừa diệt vong, các bộ tộc Tây Vực càng thêm phần hỗn loạn, Hoàng Đế Trung Nguyên hạ chiếu sắc phong Phụ Vương tôi làm Định Tây Khả Hãn, tước hiệu ấy tôn quý không gì sánh được. Lẽ đó mà Nguyệt Thị hết sức không vui, bọn chúng liên quân với Trung Nguyên đánh bại Đột Quyết, thoạt đầu mơ nuốt gọn cả vùng lãnh thổ rộng lớn của Đột Quyết, thế mà Tây Lương lại sắp làm thông gia với Trung Nguyên, các nước chư hầu Tây Vực trước kia ngầm tôn vinh Đột Quyết như 1 nước đứng đầu, nay quay sang tuyệt đối phục tùng có mình Tây Lương.

    Khoác lên mình tấm áo cưới đỏ rực mà Trung Nguyên đưa đến, tôi theo đoàn quân hộ tống của Trung Nguyên chầm chầm tiến dần về đằng Đông.

    Mãi đến khi chạm chân núi Thiên Hằng, tôi mới được gặp Lí Thừa Ngân. Đáng lẽ, theo phép tắc của Trung Nguyên, vợ chồng chưa cưới không được phép gặp mặt trước lễ thành thân, thế nhưng thực chất chúng tôi đã quen biết từ lâu, vả lại giờ đang trên đường hành quân, mọi việc đều có thể liệu cơm gắp mắm, thế nên sau nhiều bận tôi đòi gặp, cuối cùng Lí Thừa Ngân cũng đến trướng tôi. Tôi tớ lui ra ngoài từ lâu, trong trướng chỉ còn lại có 2 người.

    Tôi ngồi trên thảm nỉ, hồi lâu vẫn không cất lời. Cho đến khi hắn trở gót quay lưng, tôi mới nói: “Chàng đồng ý với ta 1 chuyện, ta sẽ cam tâm tình nguyện lấy chàng.”

    Lưng vẫn xoay về phía tôi, hắn chỉ hỏi: “Chuyện gì?”

    “Chàng gom cho ta 100 con đom đóm.”

    Bóng hắn cứng đờ, sau cùng mới chậm rãi xoay người nhìn tôi. Thậm chí lúc đó tôi đã cười: “Cố Tiểu Ngũ, chàng bằng lòng vậy không?”

    Đôi mắt ấy vẹn nguyên ánh nhìn như một buổi tối nọ bên bờ sông, thế nhưng chẳng còn nữa sự ôn tồn, mọi thứ xưa kia rặt phỉnh lừa huyễn hoặc, lòng tôi đã biết từ lâu. Còn hắn thì sao? Bấy lâu nay diễn kịch, dễ chừng cũng thấy mệt mỏi rồi chăng.

    “Trời đã vào đông rồi, không có đom đóm nữa.” Cuối cùng, hắn mở lời, giọng bỉnh thản như chưa từng có sóng gió, “Trung Nguyên rất vui, có đóm đóm, có chim nhỏ xinh xẻo, có rất nhiều loài hoa đẹp, phòng cũng khéo bày, rồi nàng sẽ thích Trung Nguyên.”

    Tôi chăm chăm nhìn hắn, mà hắn lại né tránh cái nhìn của tôi.

    Tôi hỏi: “Chàng đã bao giờ thật lòng thích ta chưa? Dù chỉ chút cỏn con thật lòng?”

    Hắn không đáp lời, thẳng tay vén mành rồi cứ thế rảo bước khỏi lều.

    Tuyết theo gió thốc vào, gió gợn hơi lửa ảm đạm nơi chậu sưởi đặt sẵn trong lều, lửa bập bùng, thoáng đó lại tắt. Trời vào đông dậy cơn buốt cóng thế đấy.

    Tôi và A Độ bỏ trốn lúc nửa đêm, Lí Thừa Ngân đích thân dẫn ba ngàn kỵ binh truy đuổi, chúng tôi bỏ chạy vào núi, thế mà chúng vẫn theo sát nút ngay sau lưng.

    Tầm tảng sáng, tôi và A Độ leo lên một vách núi cao và dốc.

    Ẩn náu lâu ngày trên núi, chúng tôi thường xuyên gặp phải lũ sói. Từ ngày vua sói bị bắn chết, lũ sói mất đầu đàn, lâm vào cảnh giao tranh kịch liệt. Mỗi bận đụng độ đàn sói, chúng chỉ lo cắn xé lẫn nhau, hoàn toàn không còn gây hấn với loài người, tôi nghĩ có thể Trung Nguyên đã dùng cách này đối phó với Tây Vực. Bọn chúng tiêu diệt Đột Quyết, cũng như giết đi con sói đầu đàn, thế rồi những bộ tộc còn lại sẽ lao vào giành giật lẫn nhau, chém giết cùng nội chiến liên miên…Sẽ chẳng còn bộ tộc nào nhăm nhe Trung Nguyên nữa, tất cả có khác gì bầy sói kia, họ chỉ lo tàn sát đồng loại, tranh đoạt ngôi vị vua sói, đâu còn là mối nguy hại với con người nữa.

    Tiếng áo quần no gió chà vào nhau nghe phần phật, tôi đứng bên vách đá, gió sương quất đến độ khó mở nổi mắt. Nếu như reo mình xuống từ đây, rồi chăng thảy những buồn đau sẽ như vết khói mờ loãng dần trong hư vô.
    Lí Thừa Ngân đã bắt kịp tới nơi, tôi giật lùi phía sau một bước, tướng quân dẫn binh phe Trung Nguyên lo tôi nhảy thật, tôi nghe tiếng hắn nói: “Bẩm Điện hạ, xin người cho phép thần lên khuyên Công Chúa.”

    Suốt chặng đường hành quân, tôi cũng hiểu sơ sơ vài câu Trung Nguyên, tôi còn biết vị tướng quân người Trung Nguyên này họ Bùi, và còn là đại tướng mà Lí Thừa Ngân tin tưởng nhất. Thế nhưng giờ đây, ngay cả Bùi tướng quân cũng không khuyên nổi Lí Thừa Ngân, tôi nom Lí Thừa Ngân phất cương xuống ngựa, leo thẳng lên vách đá.

    Tôi cũng không cản hắn, chỉ lặng lẽ dõi theo hắn trèo lên vách đá. Gió reo như tiếng nức nở, mây mù lượn ngang khe núi, chẳng biết rốt cuộc vực sâu chừng là bao. Hắn đứng bên bờ vực, hơi thở dồn sau cả chặng đường vội vã. Tôi chỉ xuống vực sâu, hỏi: “Chàng biết dưới đấy là gì không?”

    Chừng như gió tuyết giật đùng đùng làm lộ vẻ nhợt nhạt trên khuôn mặt hắn, gió thốc hạt tuyết quất vào mặt ran rát. Tôi vuốt nước bám trên mặt, rất có thể hắn không biết nên nói gì với tôi, thế nên chỉ lẳng lặng làm thinh. Tôi nói với hắn: “Dưới đó có sông Quên.”

    “Nước sông Quên, đặng quên tình… Ở Tây Vực có 1 truyền thuyết, có lẽ xưa nay chàng chưa từng nghe, truyền thuyết kể chỉ cần nhảy xuống sông Quên, là con người ta sẽ quên đi tất cả phiền muộn chốn nhân gian, thay da đổi thịt, làm lại cuộc đời. Thần kì lắm, vậy nhưng thánh thần lại có sức mạnh như thế đấy, nước thần sẽ rũ sạch đau khổ trên thân chúng ta, nước thần cũng cho phép chúng ta quên đi muộn phiền, song trước nay chưa một ai có thể sống sót trở về từ sông Quên, sự quan tâm của thần thánh, nhiều khi rất đỗi tàn nhẫn… Chàng lấy anh em của ta ra uy hiếp ta, ta buộc phải đồng ý lấy chàng.” Thậm chí tôi đã cười với hắn, “Ngặt nỗi, muốn sống muốn chết, chính ta mới là người quyết định.”

    Hắn nhìn tôi chăm chăm, đoạn bảo: “Nếu như nàng dám manh động, ta sẽ mai táng cả Tây Lương theo nàng.”

    “Điện hạ sẽ không làm vậy đâu.” Tôi bình thản nói, đấy là lần đầu tiên tôi gọi hắn là điện hạ, mà có lẽ cũng là lần sau cùng, “Điện hạ có chí lớn muốn bình định Tây Vực, thống nhất thiên hạ, chẳng sự nào bì được với sự nghiệp muôn đời hưng thịnh của Điện hạ. Đột Quyết vừa ổn định xong, Nguyệt Thị đương hùng mạnh, Điện hạ vẫn cần Tây Lương để giữ chân Nguyệt Thị, mà cũng cần Tây Lương để tỏ rõ tấm lòng của Điện hạ cho các nước khác xem. Điện hạ dùng thủ đoạn nham hiểm dẹp yên Đột Quyết, nhưng lại mở tấm lòng từ bi hòng vỗ về Tây Lương. Thái Tử thiên triều cao quý mà lại hạ mình cưới một cô công chúa Tây Lương man di về làm chính phi ư, các nước chư hầu Tây Vực hẳn sẽ bị Điện hạ làm lay động mất thôi.” Tôi giễu hắn bằng cái nhìn mỉa mai, “Nếu như Điện hạ tàn sát cả Tây Lương, những thứ mất đi không chỉ có mình Tây Lương bé cỏn con đâu, mà còn có tất thảy những gì chàng vất vả tốn sức bấy lâu nay.”

    Lí Thừa Ngân nghe tôi nói thế, sắc mặt hơi đổi khác, cuối cùng hắn không cưỡng được mình tiến lên một bước, tôi lại lùi phía sau một bước. Bàn chân đã chạm vào trống rỗng hư không, gió vách núi lay tôi chực đứng không yên, đong đưa như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào, gió vẫn giật áo quần bay phần phật, gấu tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng quẹt trên cánh tay. Hắn không còn dám dồn ép nữa, tôi bảo hắn rằng: “Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ đây mới sinh ra nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi này.” Tôi nhấn từng chữ nói: “Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!”

    Lí Thừa Ngân kinh hãi, vươn người toan túm lấy tôi, thế nhưng chỉ giữ được ống tay áo. Tôi giơ tay trái, lưỡi dao sắc lẹm trên tay cắt xẹt cánh tay áo, nửa người tôi đã lơ lửng giữa không trung, Lí Thừa Ngân ứng biến rất nhanh, dải dây lưng rút ra, vươn dài như chiếc roi xoắn lấy thân tôi, treo tôi lưng chừng vực sâu. Dải dây ấy ngày hôm đó chính tôi thắt cho chàng, dải dây lưng của tân nương ngày cưới vốn nạm chi chít san hô và ngọc trai…

    Tôi từng khao khát thứ hạnh phúc bền lâu đến đầu bạc răng long, tôi từng tưởng thế là vĩnh hằng, tôi từng ngỡ, chính thánh thần se duyên cho tôi yêu con người này… Trước lúc chàng rời đám cưới lên đường ra trận, tôi từng tự tay thắt chiếc dây lưng ấy lên người chàng, lòng nhủ thầm vô vàn những yêu thương cùng lòng cảm mến, mong sao chàng sẽ bình yên trở về, rồi cũng chính tay chàng thắt cho tôi dây lưng của mình… đến lúc ấy, chúng tôi sẽ là một đôi vợ chồng dưới sự chứng giám của thánh thần…

    Tôi vung con dao nhỏ trên tay, cắt lìa sợi dây, gió núi qua khe gập ghềnh, ngọc trai rỡ ràng lắc rắc tuôn rơi như là giọt mưa… tôi thấy rõ vẻ mặt chàng lúc ấy khổ sở đớn đau muôn vàn…

    Tôi khẽ ngả mình ra sau, thế là cả người đã buông rơi. Nhiều kẻ đang hoảng sợ kêu gào, bao gồm gã Bùi tướng quân người Trung Nguyên kia, giọng hắn nghe kinh hãi hơn cả: “Điện hạ…”

    Thảy những thứ trên vách đá thoáng chốc đã khuất khỏi tầm mắt, chỉ còn trông sắc trời trong veo…cứ ngỡ như gió nâng mây, thân mình trơn tuột qua những tầng sương mù, cơ thể quay cuồng, mặt lật úp chẳng còn thấy trời đâu, gió liên miên đâm chọc khiến mắt không tài nào hé được. A Độ kể cho tôi nghe dưới này chính là sông Quên, thế nhưng sông Quên sẽ thế nào? Là một cái đầm nước xanh biếc ư? Hay là cả 1 con sông sâu dư sức nuốt gọn con người vĩnh viễn… tuyệt vọng trống rỗng bủa vậy ngay thoáng chốc, tôi nhớ mẹ, ngẫm mình đi gặp mẹ thế này, hóa ra cũng hay thật. Tôi đã nản lỏng lắm rồi, trần đời này duy có mẹ là người yêu thương tôi nhất.

    Bỗng có người nắm lấy tay tôi, gió ào ào lướt qua vành tai, người đó ôm tôi vào lòng, gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc một mau…. Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy….nhiều lần toan chụp mỏm đá vách núi, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả chung rơi cùng tôi và chàng, chẳng khác nào một chùm sao rơi rụng như mưa sa…. chẳng khác nào buổi tối hôm ấy ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, dường như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt chàng và tôi… giữa đất trời này riêng có chàng đắm đuối nhìn tôi…

    Đôi mắt ấy chỉ đong đầy bóng hình tôi..

    Tôi có nằm mơ cũng nào từng nghĩ, chàng sẽ nhảy xuống chụp lấy tôi, tôi cứ ngỡ, xưa nay chàng chẳng hề có lấy mảy may thật lòng.

    Chàng gọi: “Tiểu Phong!” gió lướt qua vành môi thổi bạt giọng chàng, nhẹ đến nỗi chẳng lọt vào tai. Tôi nghĩ, hẳn mình nghe nhầm rồi chăng, hoặc thoảng, tất cả vốn là ảo giác. Chàng tuyệt đối sẽ không nhảy xuống đâu, vì chàng là Lí Thừa Ngân, chứ nào phải Cố Tiểu Ngũ của tôi, Cố Tiểu Ngũ của tôi đã chết từ lâu lắm rồi, chàng đã bỏ mạng chính trong cái đêm quyết chiến với Nguyệt Thị và Trung Nguyên.

    Chàng nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên, tôi chẳng thể hiểu nổi.

    Câu nói cuối cùng còn đọng lại trong hồi ức, mà có lẽ chàng đuổi theo tôi xuống tận đây chỉ để nói với tôi câu đó, rốt cuộc chàng đã nói gì, tôi cũng chẳng còn muốn biết nữa đâu… Tôi chỉ cảm thấy thanh thản mà bình tĩnh, tôi biết khoảnh khắc sau cùng, tôi không hề lẻ loi một mình…Thân thể nặng trĩu lẳng mình trong nước, nước xanh biếc vây hãm bốn bề, đau tựa ngàn nhát dao sắc lạnh xẻ dọc da thịt. Đành rằng vậy, tôi thả lòng buông xuôi mọi vật lộn, phó mặc thân mình lắng xuống đáy nước sâu, như đứa con trở về với mẹ, như bông hoa nhỏ xinh đáp xuống mặt đất, là một cõi đi về rất đỗi bình yên trong tôi, bấy lâu nay tôi vẫn luôn hiểu. .

    “Nước sông Quên, đặng quên tình…”



    “Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô….thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về…..Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng…..Ô…. thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…..”

    “Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!”

    “Nhưng ta chỉ biết mỗi bài này…”



    “Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!”



    Trong ký ức có đốm sáng lập lòe lúc tỏ lúc mờ, dường như tấm màn bụi mù dày đặc dần nhạt phai, lộ ra cảnh bọt nước hư ảo. Và bỗng nhiên, tôi hấp hé mở mắt, sự vật rồi cũng rõ từng đường nét. Tôi thấy A Độ, nàng ấy ngay gần bên tôi, tôi thấy cả Vĩnh Nương, vành mắt bà ấy đỏ quạch, hơi hơi sưng.

    Tôi thấy trên màn thêu hoa văn tinh xảo, tôi từ từ nhận ra, nơi đây là Đông Cung, là tẩm điện của mình.

    Tôi tử từ thở ra hơi, cảm thấy mình như vừa nằm mơ một cơn ác mộng, trong cơn mộng gặp những điều đáng sợ: tôi bị thích khách bắt cóc, rồi gã thích khách nọ lại là Cố Kiếm, tôi đứng ở Thừa Thiên Môn, mắt đăm đăm nhìn lên thành lầu nơi Lí Thừa Ngân dang đứng…Và điều kinh khủng cuối cùng, tôi mơ thấy mình quen biết Lí Thừa Ngân từ lâu, chàng hóa thành Cố Tiểu Ngũ, chàng tàn sát Đột Quyết, giết ông ngoại, còn dồn mẹ tôi vào đường chết…Phụ Vương trở nên lẩn thẩn, mà tôi nhảy xuống sông Quên…cơn ác mộng ấy thật đáng sợ.. đáng sợ đến độ tôi không hề muốn nghĩ đến nữa…

    May thay tất cả chỉ là ác mộng, tôi từ từ nắm chặt tay Vịnh Nương, cười với bà ấy, dợm bảo: “Ta đói lắm…”

    Thế mà chẳng thốt nổi câu nào, cổ họng nhói đau, luồng khí trong cổ thoát ra ngoài, mà không bật thành tiếng. Tôi cuống cuồng dùng tay bóp cổ mình, Vĩnh Nương ứa nước mắt giữ tay tôi: “Thái Tử Phi chớ lo, Thái Y nói người bị ngạt khói, nên tạm thời cổ họng bị bỏng. Từ từ chữa sẽ khỏi thôi…”

    Tôi nom A Độ, rồi lại nom Vĩnh Nương, cung nữ dâng một chén nước mát, Vĩnh Nương tự tay đút cho tôi, nước có vị ngọt và mùi man mát làm tôi thấy dễ chịu hơn, cơn đau họng chẳng mấy đã dịu xuống. Tôi nuốt hẳn ngụm lớn, Vĩnh Nương bảo: “Chậm thôi, chậm thôi… kẻo sặc…trời…mấy ngày rồi chẳng có giọt nước vào người…quả thực khiến nô tì lo xém chết…”

    Mấy ngày?

    Tôi đã ngủ mấy ngày rồi?

    Tôi ra hiệu bảo lấy giấy bút, Vĩnh Nương sai người lấy hộ tôi, cung nữ dâng nghiên mực, tôi chấm mực, nhưng lúc hạ bút, bỗng dưng do dự.

    Viết gì đây?

    Tôi định hỏi gì đây? Hỏi Đột Quyết phải chăng đã diệt vong thật, hỏi Phụ Vương tôi, phải chăng bấy lâu nay đã thành người lẩn thẩn? Từ ngày đến Trung Nguyên, cha chưa từng phái người đến thăm tôi, trong khi ngày đêm tôi chỉ mong về Tây Lương, thế mà chẳng ai đến thăm hỏi. Trước kia thì tôi chẳng lấy làm lạ, trước kia tôi chỉ trách cha vô tình, giờ tôi mới biết, thì ra, Tây Lương của tôi từ lâu đã chỉ còn là giấc mộng hão huyền. Tôi tuyệt nhiên không dám hỏi A Độ, sao tôi dám đây, sao tôi dám hỏi Vĩnh Nương?

    Mãi lâu tôi không hạ được bút.

    Mực trên ngòi bút ngưng tụ bao lâu, cuối cùng nhỏ xuống “tóc” một tiếng đáp mình trên trang giấy, tóe lên một đốm mực.
     
  15. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 34
    Bỗng trong đầu hình dung thấy “Cửa vẩy mực”, nhớ cái cảnh Lí Thừa Ngân từng lấy bột yến, than kẻ mày vẽ bức non sông tráng lệ, tôi nhớ phường Minh Ngọc, nhớ lại điệu múa tối nọ, nhớ cảnh chết chóc tàn khốc tối đó… Tôi nhớ chàng bẻ đôi tên nhọn, cao giọng thề… Tôi nghĩ về cuộc chiến đẫm máu mà đầy chân thực trong mơ, tôi thấy mình ngồi hát trên cồn cát, tôi nghĩ đến Cố Tiểu Ngũ từng gom cho tôi 100 con đom đóm, cơn gió buốt xương trên bờ sông Quên hẵng còn đây… Và sắc mặt chàng đau đớn ngay lúc tôi vung dao cắt lìa dải dây lưng…

    Tôi gác bút, rồi vội vã chui tuột vào chăn, tôi sợ mọi thứ hiện về tìm tôi trong trí nhớ.

    Vĩnh Nương tưởng tôi vẫn thấy khó chịu trong người, liền xoa nhẹ lưng tôi như vỗ về ru ngủ một đứa nhỏ.

    A Độ đã ra ngoài, tiếng đưa chân se sẽ mà tôi vẫn để ý thấy.

    Bỗng dưng thấy khó chịu lắm, thậm chí tôi không dám dặm hỏi A Độ, hỏi về Đột Quyết, hỏi về những chuyện trước đây, những chuyện đã nhớ ra trong mơ kia liệu chăng là thật? A Độ hẳn sẽ buồn hơn tôi, hiển nhiên vì nàng ấy là người Đột Quyết, ấy thế mà lại theo tôi đến Trung Nguyên, cùng tôi chung sống với kẻ thù bấy lâu nay… Tôi trở thành 1 kẻ hèn nhát xưa nay chưa từng có, tôi chẳng hay biết một cái gì.

    Tôi chập chờn ngủ một giấc kéo dài đến tầm tối thì Vĩnh Nương lay tôi dậy, bón cho tôi bát thuốc đắng kinh người.

    Rồi Vĩnh Nương hỏi tôi có thèm món gì chăng.

    Tôi lắc đầu, tôi chẳng buồn ăn.

    Còn thiết ăn gì bây giờ nữa?

    Vĩnh Nương vẫn sai người làm món bánh canh, bà ấy nói: “Bánh canh mềm lại có nước, người ốm ăn cái món này vào là hợp lắm đây.”

    Tôi không muốn ăn bánh canh, gắp một đũa rồi buông ngay.

    Bánh canh gợi lên hình ảnh của Lí Thừa Ngân.

    Mà thực chất mọi thứ ở Đông Cung này đều gợi nhắc cho tôi nhớ Lí Thừa Ngân.

    Tôi chỉ mong sao mình đừng nghĩ ngợi về chàng nữa. Chẳng kể những chuyện trước kia thật giả thế nào, tôi hoàn toàn không muốn gặp lại chàng.

    Thế mà muốn tránh cũng không được, lúc Lí Thừa Ngân đến thăm, Vĩnh Nương vừa mới bưng bát bánh canh xuống, chàng hồ hởi bước vào, nét mặt rạng cười như thể là trước kia, riêng mình tôi biết, tất cả đã khác xưa rồi. Giữa chúng tôi đã tồn tại một quá khứ đớn đau, dòng sông Quên thần kì cho tôi quên đi tất cả, mà cũng lấy đi trí nhớ của chàng, chúng tôi ngây ngô dại dột, chẳng hiểu sự nào run rủi cho chúng tôi lấy nhau thế này. Và tôi ngây ngô dại dột thế nào mà đã ở bên chàng suốt 3 năm…

    Lúc tôi còn nghĩ ngợi thì Lí Thừa Ngân đã rảo bước đến bên giường, tay dợm xoa trán tôi.

    Tôi nghiêng mặt tránh né.

    Tay chàng chưng hửng giữa chừng, song cũng chẳng lấy làm giận, mà bảo: “Cuối cùng nàng cũng tỉnh rồi, thật làm ta lo quá.”

    Tôi đưa mắt nhìn chàng, nét dửng dưng như những người xa lạ với nhau. Cuối cùng chàng nhận ra điều khác thường, hỏi tôi: “Nàng sao rồi?”

    Chàng nom tôi không để ý đến chàng, liền nói: “Hôm nàng bị thích khách bắt cóc, lại trùng với tết Nguyên Tiêu, nên chín cổng thành đều phải mở…”

    Tôi chỉ cảm thấy có cơn bực mình không nói nổi. Bữa đó dáng chàng đứng trên cổng lầu ra sao tôi cũng quên từ lâu rồi, thế mà bóng hình chàng ngày đứng bên vực sông Quên, chỉ sợ nó sẽ khắc sâu trong tim tôi đến trọn đời. Giờ đây nói những chuyện ấy ích gì? Chàng còn định dỗ ngon dỗ ngọt lừa tôi nữa sao? Chàng đã rũ sạch những chuyện trước kia rồi, thế nhưng tôi lại nhớ ra, tôi đã nhớ lại cả rồi đây!

    Chàng bảo: “… mấy ngày lục soát khắp nơi trong thành mà không tìm ra nàng, ta cứ tưởng…” nói đến đó, giọng chàng trầm thấp dần, đoạn bảo, “Ta cứ tưởng sẽ không còn gặp lại nàng nữa…”

    Chàng giơ tay định kiếm tìm bờ vai tôi, tôi nhớ đôi mắt sũng lệ chập chờn của cha, tôi nhớ mẹ tôi ngã trên vũng máu, tôi nhớ tiếng gào thét cuối cùng của ông, tôi nhớ đôi bàn tay dính máu của Hách Thất đã đẩy tôi lên lưng ngựa… Thế rồi thoắt cái tôi đã rút cây trâm búi tóc, nhắm đâm ngực chàng thật mạnh.

    Tôi dồn tất cả sức lực vào nhát đâm ấy, trước đó, chàng hoàn toàn chẳng đoán biết tôi sẽ đâm bất thình lình, chàng ngây ra, tận lúc sau cùng mới giơ tay chặn trước ngực theo bản năng. Đầu trâm nhọn hoắt chọc xuyên lòng bàn tay, máu ri rỉ ứa, chàng sững sờ nhìn tôi, ánh mắt ấy phức tạp tôi không cắt nghĩa được, tựa như chàng không tin tôi lại có hành động này.

    Thực ra, chính tôi cũng không tin, tôi ấn ngực mình, cảm giác cơ thể đang run rẩy.

    Thời gian trôi bao lâu, chàng mới nắm chặt đầu trâm, rút thật mạnh. Chóng vánh, mà không hề rên lấy một tiếng, chỉ có đôi chân mày khẽ chụm đầu lại, như thể đây vốn chẳng phải cơ thể của mình. Máu ứa ra tức thì, tôi nhìn máu đầm đìa chảy dọc theo cổ tay dính vào ống tay áo, dòng máu đỏ thắm uốn khúc như một thân rắn con nanh ác trườn mình trên vải vóc. Chàng cầm chiếc trâm còn vương máu, đoạn nhìn tôi, lòng tôi gợn cơn hốt hoảng như thể hụt hơi.

    Chàng quẳng cây trâm xuống đất đánh “keng” một tiếng, chuỗi thạch anh rủ mình văng bốn hướng, lanh canh đập nẩy trên sàn. Tiếng chàng hỏi se sẽ, như sợ làm kinh động thứ gì: “Sao lại thế?”

    Chàng bảo tôi phải nói thế nào, kể ra những chuyện kinh khủng đã qua ư? Tôi và chàng, giữa đôi ta là ân oán, là đôi bờ cách trở bởi biển máu hận thù. Thì ra lãng quên không hẳn là bất hạnh, có khi may mắn đích thực lại là nó. Ước gì tôi có thể quên như chàng thì tốt biết mấy.

    Tôi ngoảnh mặt né, chàng lại cất lời: “Ta hiểu rồi.”

    Tôi chẳng rõ chàng hiểu gì, nhưng thoáng nghe trong giọng chàng có nét lạnh lùng: “Bởi nàng bệnh đến nông nỗi này nên ta vốn cũng chẳng muốn hỏi tới. Nhưng một khi đã vậy, ta buộc phải hỏi câu này, sao nàng thoát được tay thích khách? Lúc A Độ ẵm nàng về, có hỏi thế nào ả cũng không chịu tiết lộ hành tung của thích khách, càng không chịu khai ra đã cứu nàng ở đâu. Ta không tiện dùng hình truy cứu dân Tây Lương các nàng. Nhưng thế nào thì nàng cũng phải nói cho ta hay, rốt cuộc kẻ nào đã giật dây sau lưng thích khách…”

    Tôi nhìn gã đàn ông này, người đã ôm tôi nhảy xuống sông Quên, chàng đã quên thật rồi, thế nhưng tôi vĩnh viễn không thể quên được, tôi không quên được chính chàng đã giết ông ngoại, tôi không quên được chính chàng khiến tôi chịu cảnh nước mất nhà tan, tôi không quên mình giờ đây chẳng còn Tây Lương để về. Tôi nhếch miệng song chẳng hề lên tiếng, gần như chỉ ném ra cái nhìn mỉa mai. Chàng lại hỏi tôi thích khách là ai cơ đấy? Lẽ nào thích khách là ai chàng không biết ư? Hay từ lúc nhảy xuống sông Quên xong, chàng cũng không nhớ nổi Cố Kiếm là ai nữa rồi?

    Tôi nhìn chàng, ánh mắt chúng tôi chạm nhau, bẵng đi bao lâu, rất lâu, chàng bỗng ném ngay trước mặt tôi 1 đôi ngọc bội. Tôi giương mắt nhìn đôi ngọc có màu mỡ cừu, tôi biết chúng, tôi từng cầm chúng ngồi chẵn tròn 3 ngày 3 đêm trên đồi cát. Lúc ấy chàng còn xưng mình là Cố Tiểu Ngũ; lúc ấy tôi rạo rực ngồi đợi miết người tôi nghĩ sắp là chồng mình; lúc ấy lòng bàn tay chàng cầm đôi ngọc bội, mỉm cười ghẹo tôi; lúc ấy sắc đêm trong trẻo phủ trùm hoang mạc Tây Lương, và chúng tôi cùng nhau giục ngựa trở về Vương thành.

    Dạo đó, mặt mũi đôi ta nào có thù nghịch như bây giờ. Lúc ấy tôi vẫn là cửu công chúa vô tư lự của Tây Lương, mà chàng, chàng là Cố Tiểu Ngũ buôn chè đến từ Trung Nguyên.

    Tay Lí Thừa Ngân còn đương ứa máu, chàng siết chặt cánh tay tôi, chặt đến nỗi xương cốt nhói đau nhức nhối. Ép tôi phải ngước lên, nhìn xoáy vào mắt tôi, hỏi: “Tại sao?”

    Chàng lập đi lập lại, tại sao?

    Tôi cũng muốn biết, tại sao, tại sao số kiếp lại bỡn cợt, hết lần này đến lần khác dồn chúng tôi vào mối quan hệ đoạn tuyệt này. Tôi nhìn trong mắt chàng có sự khổ sở khó nói nên lời mà thoáng vương tia khát khao cuối cùng, dường như còn mong mỏi tôi sẽ nói ra câu gì.

    Tôi hé môi, song vẫn nín lặng.

    Máu bàn tay chàng thấm trên mặt tôi âm ấm, chứ không hề nóng hôi hổi, chàng bảo: “Cớ sao nàng bình yên vô sự trốn khỏi tay thích khách, sao A Độ lại không chịu nói cho ta biết hành tung gã thích khách kia, sao trong tay nàng lại có đôi ngọc bội uyên ương này…uyên ương uyên ương cơ à… ta chia cắt đôi uyên ương các người rồi phải không?”

    Chàng siết mạnh vai khiến tôi đau nhói, bỗng đâu thấy nguội lạnh trong lòng, lúc ở sông Quên, rốt cuộc chàng nghĩ gì mà lại nhảy xuống với tôi? Phải chăng chỉ để nói với tôi 1 câu đó? Nhưng dạo ấy tôi có biết tiếng Trung Nguyên đâu. Tôi quên mất câu ấy là gì từ lâu rồi. Tôi chỉ nhớ tiếng hét cuối cùng của Bùi Chiếu, chắc hắn phải kinh hãi lắm. Chung quy Lí Thừa Ngân không phải là Cố Tiểu Ngũ, có lẽ, Cố Tiểu Ngũ của tôi đã bỏ mạng trong cuộc chiến ngày đó từ lâu rồi. Cuối cùng, tôi ngước mắt trông lên đôi con ngươi đen láy đổ ngược bóng hình mình. Rút cuộc chàng là ai? Là Cố Tiểu Ngũ từng bắt 100 con đom đóm cho tôi ư? Hay là người chồng đã lên đường ra trận vào đúng ngày cưới của chúng tôi? Có lẽ, lúc ở sông Quên, vẻ hối hận trên khuôn mặt chàng khi thấy tôi cắt lìa dải thắt lưng, liệu chăng chẳng có thật?

    Hết lần này đến lần khác tôi bị gã đàn ông này lừa, cho đến tận lúc này đây, có trời mới biết rốt cuộc chàng có lừa tôi không? Chàng bẻ tên thề với thích khách, nói những lời hùng hồn đầy lý lẽ đấy, thế mà thoắt một cái, chàng đã đứng trên Thừa Thiên Môn với Triệu Lương Đệ…Cố Tiểu Ngũ của tôi thực sự đã chết từ lâu rồi, chớm nghĩ thôi mà tôi đã thấy lòng quặn thắt. Tiếng tôi vụn vỡ, đáng sợ như thể đây thật sự không phải tiếng mình. Tôi nói: “Chính chàng chia lìa đôi ta, chính chàng chia lìa ta—và Cố Tiểu Ngũ.”
    Chàng thảng thốt trong bao lâu, rồi lại phá ra tiếng cười khinh miệt: “Cố Tiểu Ngũ à?”

    Tôi nhìn chàng, máu từ tay chảy ròng xuống áo bào. Lúc đứng bên vực sông Quên, tôi thấy lòng mình đã hóa tro tàn, thế mà giờ khắc này đây, tôi chẳng còn sức lực để vùng vẫy. Tôi thấy bải hoải, tôi thấy rã rời, tôi mệt mỏi lắm rồi, tôi chỉ nhả từng chữ: “Chàng giết Cố Tiểu Ngũ mất rồi.”

    Cố Tiểu Ngũ của tôi, chàng giết người duy nhất tôi từng yêu mất rồi. Chàng giết Cố Tiểu Ngũ ngay chính trên mảnh đất Đốt Quyết, Cố Tiểu Ngũ bỏ mạng ngay khi hôn lễ của chúng tôi còn dang dở, chàng ấy đã chết ngay tại Tây Lương.

    Tôi ngu ngơ mới quên tất cả những chuyện trước kia, để rồi đến nơi này, để rồi lấy Lí Thừa Ngân. Mà đôi ta đều quên sạch quá khứ, thậm chí tôi còn không biết Cố Tiểu Ngũ đã mất rồi.

    Cơn giận của chàng ta hóa thành tràng cười: “Được! Được! Được lắm!”

    Thế rồi chẳng đảo mắt nhìn lấy 1 cái, đã quay người bỏ đi.

    Lúc Vĩnh Nương quay lại thì kinh ngạc lắm, bảo: “Sao Điện hạ đã đi rồi nhỉ?” tức thì bà ấy thất thanh kêu lên: “Úi trời, sao dưới sàn nhiều máu thế này…”

    Bà ấy gọi cung nữ vào lau dọn, sau đó lải nhải hỏi dồn tôi rút cuộc đã xảy ra chuyện gì, tôi không muốn cho bà ấy biết, nên tôi thừ người mặc bà ấy giày vò lên giày vò xuống. Tôi phải làm sao đây? Tôi còn về được Tây Lương không? Cứ cho như tôi về được Tây Lương, nhưng Cố Tiểu Ngũ chết thì cũng đã chết rồi.

    Vĩnh Nương nghĩ chắc tôi mệt muốn ngủ, liền thôi không truy hỏi nữa. Bà ấy gọi A Độ vào ngủ với tôi, A Độ vẫn theo lệ cũ nằm dưới thảm trải trước giường tôi.

    Song tôi không tài nằm chợp mắt được, tôi bật dậy, A Độ cũng dậy theo, lại tưởng tôi khát nước nên đi rót cho tôi một tách trà,

    Tôi không cầm tách trà đó, mà kéo tay nàng ấy viết mấy chữ vào lòng bàn tay.

    Tôi hỏi, chúng ta về Tây Lương nhé?

    A Độ gật đầu.

    Thế là tôi thấy an tâm vô cùng, tôi đi đâu thì cô bé này theo đó. Tôi không biết trước kia nàng ấy từng chịu nhiều gian khổ đến thế, thậm chí tôi cũng không rõ vì sao nàng ấy lại cam tâm tình nguyện theo tôi đến đây. Tôi níu tay nàng ấy, ngơ ngẩn rồi bỗng rỏ giọt nước mắt. A Độ nom tôi khóc thì bối rối lắm, liền dùng gấu tay áo lau nước mắt tôi, tôi lại viết vào lòng bàn tay nàng ấy, đừng lo. Chừng như A Độ xót ruột lắm, nàng ấy ôm tôi vào lòng, nhẹ xoa đầu tôi với cái kiểu dỗ dành một đứa trẻ. Cứ an ủi như thế rồi tôi cũng dần chợp được mắt.

    Thực ra, trong thâm tâm tôi biết rằng, thế là tôi xong đời rồi. Trước kia tôi thích Cố Tiểu Ngũ, sau khi mất trí nhớ, tôi lại thích Lí Thừa Ngân. Dù chàng ta lừa tôi từ đấu chí cuối, thế mà tôi vẫn cứ yêu chàng.

    Nước sông Quên, đặng quên tình. Hễ ai dầm mình trong dòng nước thánh thần, kể từ đó về sau đều quên sạch tất cả những chuyện đau khổ từng trải. Tôi quên chàng, chàng cũng quên tôi, đôi ta không còn vướng bận tiền duyên. Thế nhưng, tại sao sau khi đã quên được rồi, mà trái tim tôi lại vẫn yêu chàng? Trước kia chàng đối xử với tôi tệ bạc, song tôi không ngăn được mình thích chàng. 3 năm chúng tôi không chỉ một lần đẩy nhau ra thật xa, cớ gì lại đến bước đường ngày hôm nay? Thánh thần đã từng nghe lời khẩn cầu của tôi, để tôi được quên đi những khổ đau những sầu muộn chàng chất chồng trên thân mình. Thế mà ngày hôm nay Thánh thần lại đang trừng phạt tôi chăng? Người khiến tôi nhớ lại tất cả, con tạo trớ trêu xoay vần đưa đẩy tôi lại lần nữa yêu chàng.

    Kể từ đó Lí Thừa Ngân không lại chỗ tôi nữa.

    Tôi ốm dai dẳng một thời gian, mãi đến khi mở miệng nói được, thì ngọc lan ngoài hiên đã héo rũ, mà anh đào trong đình đuơng rộ phớt hồng như mây.

    Cũng bởi anh đào trổ bông sớm hơn cây đào cây mận, nên hoa vừa đơm đó thôi mà đã khiến đất trời tràn ngập khí xuân. Sân vườn có mấy gốc anh đào đương độ sum suê, hoa nở chen cụm chen cành, bung màu như gấm vóc trơn truột, như mây bồng bềnh, như lụa hững hờ đậu dưới mái hiên, có đôi cành nhô đầu qua ô cửa sổ.

    Lúc tôi còn đương ốm nằm một chỗ thì ngoài kia đã phát sinh một đống truyện, thảy là do Vĩnh Nương kể tôi mới hay. Thoạt đầu, Thủ Phụ(*) Diệp Thành bị vạch tội mua quan bán tước, thế rồi nghe bảo vụ việc lần này có liên quan sâu rộng, chỉ một thời gian ngắn mà trong triều ai nấy đều nơm nớp bất an, chỉ lo mình bị vu tội “kết bè kết đảng với nhà họ Diệp”. Rồi đợt này mừng đại tướng quân Bùi Huống ca khúc khải hoàn trở về kinh kỳ sau cuộc chinh phạt Cao Ly, bệ hạ đã ngự ban không ít vàng bạc. Thêm vào đó, thời gian qua, Bệ hạ còn nạp thêm 1 vị quý phi tuổi đời còn rất trẻ, mà cũng vô cùng xinh đẹp, trong cung gọi là “Nương Tử”, nghe nói bệ hạ hết mực sủng ái vị tân quý phi này, thậm chí giờ đây người tạm nắm quyền lục cung là Cao quý phi so ra cũng còn kém xa. Sở dĩ người ta nhao nhao bàn tán rằng Bệ hạ liệu chăng sẽ sắc lập vị quý phi kia lên ngôi Hoàng Hậu, là vì kiểu ân sủng này xưa nay quả hiếm thấy. Mà mặc kệ là truyện triều chính hay chuyện hậu cung, tôi nghe tai trái luồn qua tai phải, chẳng mấy mà quên sạch.

    (*người đứng đầu nội các. Tham khảo chi tiết tại đây)

    Những chuyện này nghe xong lại cảm giác ấm ức, tôi thấy tình cảm của bọn đàn ông thật khó mà tin được, nhất là đàn ông sinh trưởng trong hoàng thất, đứng trước toàn thể thiên hạ, phụ nữ có là cái gì? Cố Kiếm từng nói đấy thôi, một người muốn lên ngôi Hoàng đế, tránh sao được lòng dạ hóa thành sắt đá, máu lạnh và tàn nhẫn. Tôi thấy hắn nói đúng lắm.

    Chiều xuống, bỗng nghe tí tách có tiếng mưa rơi. Vĩnh Nương ngóng ra màn mưa ngoài đình, khẽ than bảo: “Năm nay hoa kém tươi rồi.”

    Tôi ốm dẫu đã đỡ hơn, nhưng lại vướng cái bệnh ho, Thái y kê nhiều loại thuốc thang, ngày nào cũng uống, uống triền miên, vậy mà chẳng mấy tác dụng. Tôi vừa ho, Vĩnh Nương đã vội kéo cho tôi cái chăn, chỉ lo tôi nhiễm lạnh vào người. Tôi cũng mong ho sớm khỏi, sớm khỏi đi cho tôi và A Độ còn về Tây Lương.

    Cho dù Tây Lương của tôi đã thay đổi đến nhường nào, chung quy tôi vẫn cứ phải về.

    Tôi ngồi trước cửa sổ, ngắm cánh hoa anh đào mỏng manh oằn mình ủ dột trong cơn mưa, như những miếng lụa cắt vụn no nước nặng trĩu còn bấu dính với cành. Vĩnh Nương đã sai người dựng màn gấm, thứ mà nhà vương giả ở Trung Nguyên hay dùng để giữ hoa, mưa tưới xuống không thể tàn phá được cây cối dưới tấm màn

    che. Tôi nom hoa anh đào núp mình dưới lều gấm, bốn góc lều còn mắc chuông vàng nhỏ xinh để đuổi lũ chim non, gió lay chuông đu đưa vẳng tiếng ngân.

    Dạo này tôi thường ngổi ngẩn nhiều canh giờ, Vĩnh Nương cảm thấy như thể tôi đã biến thành một kẻ khác, trước kia tôi ồn ào lắm, giờ đã lắng xuống yên tĩnh nhường này, bà ấy thường dành cho tôi ánh nhìn rất đỗi lo âu.

    A Độ cũng lo không kém, nàng ấy muốn kéo tôi ra ngoài chơi không chỉ một lần, nhưng tôi không tài nào vực nổi tinh thần. Tôi chưa kể cho A Độ nghe tôi nhớ ra những chuyện trước kia, tôi nhủ thầm có nhiều chuyện, tự mình chịu đựng thì tốt hơn cả.

    Lúc hoa tàn thì tiết trời cũng bừng ấm. Trong cung thay áo xuân, Đông Cung cũng chuyển mình để đón tiết mùa xuân và những ngày chớm hè. Vĩnh Nương sai người dựng trong sân đình một cột xích đu, trước kia tôi thích ngồi dây đu đong đưa lắm, có điêu dưới cái nhìn của Lí Thừa Ngân, nó lại bị xem như trò cợt nhả, đâm ra trong Đông Cung xưa nay đã làm gì có xích đu, giờ Vĩnh Nương mới sai người làm 1 cái mới toanh cho tôi, song, nay tôi chẳng thiết chơi trò đó nữa.

    Lúc cột đang được dựng thì tôi gặp Bùi Chiếu, bẵng đi một dạo rất lâu, lâu lắm rồi tôi chưa gặp lại hắn, phải từ lúc hắn khuyên tôi đừng nên qua lại với Nguyệt Nương nữa, phải từ dạo ấy trở đi tôi không còn thấy hắn nữa. Tôi lại nhớ ngay cái lần đầu gặp hắn, tôi vẫn nhớ y nguyên hắn từng đoạt dao trên tay A Độ, và cả tiếng kêu kinh hoàng ngày bên sông Quên. Chắc hẳn hắn không biết tôi đã nhớ lại toàn bộ.

    Mà tôi sẽ không kể với hắn chuyện tôi đã nhớ ra đâu, nói rồi thể nào hắn cũng tăng cường đề phòng. Người Trung Nguyên toàn lũ bịp bợm, giờ đầu tôi cũng tiếp thu được ít nhiều, tôi phải giấu nhẹm đi, có thế mới rình được thời cơ dắt A Độ bỏ trốn.

    Bùi Chiếu mang biếu tôi ít quà, những thứ ấy đều ngự ban từ trong cung, nghe nói là chiến lợi phẩm đại tướng quân Bùi Huống thu được ở Cao Ly, Bệ Hạ ban thưởng không ít người, chỗ tôi cũng có phần.

    Toàn là đồ cổ và châu báu, xưa nay tôi chẳng mấy hứng thú với chúng, chỉ bảo Vĩnh Nương thu gom lại rồi thôi.

    Bùi Chiếu vẫn bưng trên tay một chiếc làn, đích thân dâng lên tôi.

    Tôi không nhận, đoạn sai Vĩnh Nương mở xem, thì ra là một con mèo con, to cỡ một nắm đấm, toàn thân trắng muốt như thỏ. Rõ ràng là mèo, mà hai mắt nó một bên xanh lam một bên xanh lục, nom yêu lắm. Nó nhoài mình dưới đáy làn, se sẽ kêu.

    Tôi hỏi: “Bệ hạ ban thưởng cả cái này ư?”

    Bùi Chiếu nói: “Con mèo này phụ thân mạc tướng mang về, nghe nói là cống phẩm của Xiêm La, anh em trong nhà nghịch ngợm, chắc không nuôi được, mạc tướng liền đem đến cho Thái Tử Phi.”

    Tôi ẵm mèo con, nó nằm mọp trong lòng bàn tay kêu meo meo, cái lưỡi nhỏ xíu màu hồng nhô ra, liếm ngón tay tôi. Cảm giác ngưa ngứa chà lên da tay, tê tê khó chịu mà lại yêu vô cùng, tôi thích con mèo nhỏ này ngay từ cái nhìn đầu tiên, liền cười bảo Bùi Chiếu: “Vậy thay ta chuyển lời cảm ơn tới Bùi lão tướng quân nhé.”

    Chẳng hiểu tại sao, tôi lại có cảm giác rằng Bùi Chiếu vừa mới trút hơi thở phào. Mặt mày tôi giãn cười, nhìn hắn chẳng hề kiêng dè,. Thoạt đầu hắn theo Lí Thừa Ngân đi chinh phạt Tây Vực, hắn là người biết chuyện từ đấu chí cuối, lúc đứng bên bờ sông Quên, cũng chính mắt hắn chứng kiến tôi nhảy xuống. Thế mà trước nay hẳn im re không hé lấy nửa lời, tôi nghĩ bụng, thực ra hắn hết mực trung thành với Lí Thừa Ngân, nếu như hắn biết tôi đã nhớ lại từ lâu, liệu hắn có lập tức thay đổi vẻ mặt, đề cao cảnh giác với tôi không? Dân Trung Nguyên quỷ kế thế đấy, tôi phải học từng bước một, rồi mọi đau đớn bọn chúng chất chồng trên thân tôi, tôi sẽ ném trả chúng bằng đủ.
     
  16. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 35
    Tôi dỗ mèo con: “Meo meo ơi, em muốn ăn cá không?”

    Mèo con “meo” 1 tiếng trả lời, lại nhô đầu lưỡi nhỏ xíu liếm láp ngón tay tôi, khiến tôi ngưa ngứa, bất giác bật cười thành tiếng, ẵm nó lên cho A Độ xem: “Xem này, mắt nó đáng yêu thật.”

    A Độ gật đầu. Tôi bảo Vĩnh Nương lấy sữa bò cho nó, rồi lại bàn với A Độ xem nên đặt tên gì thì hợp.

    Tôi hỏi A Độ: “Gọi nó là Tiểu Hoa nhé?”

    A Độ lắc đầu, tôi cũng thấy buồn cười, lông con mèo thì trắng muốt chẳng có lấy một sợi lai tạp, chắc chắn không hợp với cái tên Tiểu Hoa rồi.

    “Thế gọi là Tiểu Tuyết nhé…” Tôi lảm nhảm mãi với A Độ, bảo phải làm cho nó cái ổ, rồi đặt cho cái tên.. tôi còn chẳng rõ Bùi Chiếu ra về từ bao giờ.

    Chỉ có điều từ dạo có con mèo nhỏ này, tôi ở Đông Cung cũng bớt phần nào cô quạnh. Tiểu Tuyết hoạt bát lắm, nghịch mỗi cái đuôi của mình thôi mà nó chơi bao lâu. Khi hoa đào hoa mận vào mùa tàn phai, cánh hoa mỏng manh bay bay trong gió như những bông tuyết lững thững lưng chừng trời, Tiểu Tuyết chồm mình dùng móng vờn, thế mà trên cầu mái hiên, cánh hoa vén thành chồng đống, nó lại chẳng đoái hoài, thỉnh thoảng có cánh bướm trắng dạo qua, Tiểu Tuyết càng tỏ vẻ ghê gớm hơn, nó vờn cánh bướm chạy quanh sân, bướm bay đến đâu nó nhảy tót đến đó.

    Lần nào Vĩnh Nương cũng bảo: “Mèo đâu mà mèo, nghịch còn hơn cả cáo thành tinh.”

    Thời gian cứ thế bình lặng trôi. Ngày ngày ngắm Tiểu Tuyết nghịch ngợm chạy đó chạy đây; ngắm hoa trong sân nở rồi lại tàn, anh đào buồn thỉu buồn thiu trĩu trịt trái chín đỏ rủ đầy cành; lại ngắm đào ngắm mận đã dệt những quả to cỡ hạt đậu nành trên cành lá xanh mướt. Thời gian như con kênh, nước cuốn trôi không một tiếng gọi, ngày lại ngày miết cũng qua đi. Tối tối, tôi hay ra bậc thềm ngồi, ngắm ông trăng nhú trên ngọn cây. Hàng ngàn hàng vạn năm nay, trăng vẫn nhô cao trong im hơi lặng tiếng, không trĩu buồn mà cũng chẳng cười vui, một ngày gió sương, ánh trăng đổ bóng xuống mái ngói lưu ly, như dát một lớp sương bạc mỏng tang. Sông sao vẫn lặng lẽ tỏa sáng, Tiểu Tuyết nhoài mình kêu meo meo dưới chân tôi, tôi vuốt ve cần cổ ấm nóng mà mềm mại của nó, ôm nó đặt vào lòng lòng. Và tôi cứ nín lặng chờ đợi, tôi đợi thời cơ tốt nhất để sổ khỏi chiếc lồng son này.

    Thời gian qua tôi ốm nằm một chỗ, nên lễ tiết trong Đông Cung cũng được thể giản tiện, phần lớn không nhất thiết phải hỏi qua tôi. Trước kia tuy Triệu Lương Đệ cũng góp tay quản lý, song rất nhiều việc trên cơ bản vẫn do tôi nắm quyền quyết định, tôi đổ bệnh nhiều ngày nay, thậm chí lễ điển trong cung lẫn yến tiệc cũng vắng mặt. Đến khi bệnh tình dần khấm khá hơn, thì Tự Bảo Lâm lại ngã bệnh.

    Bệnh tình nàng ta rất trầm trọng, thuốc thang đủ cả song vẫn không có biến chuyển, thế mà người trong Đông Cung chẳng một ai đến ngó ngàng, nếu Vĩnh Nương không buột miệng, dễ chừng tôi cũng không biết Tự Bảo Lâm bệnh sắp chết.

    Không hiểu cớ làm sao mà tôi lại chủ động đến thăm nàng ấy. Một phần do cảm thông, một phần chính bản thân tôi cũng muốn cho Lí Thừa Ngân thấy rằng, tất cả vẫn vậy chẳng có gì khác thường. Hoặc để Lí Thừa Ngân vẫn giữ nguyên cái cảm giác tôi còn là 1 nàng Thái Tử Phi ngớ ngẩn khờ khạo, trong lòng không hề vướng bận mưu tính.

    Tự Bảo Lâm sống trong sân viện nhỏ trước kia, hai cung nữ hầu hạ nàng ấy ngày xưa giờ đã đổi lâu rồi. Chuyện bùa ngải tuy không làm ầm ĩ, song Triệu Lương Đệ vẫn kiếm cớ đối xử tệ bạc với nàng ấy. Tôi ốm đợt này, ốc còn không mang nổi mình ốc, đương nhiên quan tâm cũng vơi đi phần nào. Trong lòng vô cùng ân hận, nếu như tôi sớm phát hiện ra, nói không chừng Tự Bảo Lâm đã chả đổ bệnh đến nông nỗi này.

    Người ngợm nàng ấy rạc đi chẳng khác nào một bô xương khô, tóc tai thì xỉn màu, đầu ngọn khô vàng như một khóm cỏ dại. Tôi thoáng nhớ lần đầu mới gặp, nàng ấy vừa sảy đứa con trong bụng, còn đương ở trong cung, dáng vẻ lúc đó nom võ vàng. Nhưng vẻ võ vàng hồi ấy như bông hoa nghiêng mình khoe dáng xinh tươi dưới cơn mưa rào. Chứ nào có giống bây giờ, giờ chỉ còn là 1 bông cúc tàn hứng gió Tây, thậm chí vẻ tươi tắn ngày nào đã trở nên héo rụi chẳng chừa lấy 1 nét.

    Tôi gọi bao lâu, nàng ấy mới hé được mắt nhìn, ánh mắt hốt hoảng mà lờ đờ.

    Chừng như nàng ấy đã không còn nhận ra tôi, chỉ một chặp rồi lại trĩu mi thiếp ngủ.

    Vĩnh Nương khéo léo thuật lại lời Thái y cho tôi nghe, tình hình Tự Bảo Lâm chỉ e không được bao lâu nữa đâu.

    Năm nay nàng ấy mới chỉ 18 mà thôi, thanh xuân một đời người con gái, chớp mắt nó đã vút trôi từ lẩu từ lâu, mà chốn Đông Cung cô quạnh này chẳng khác nào một con quái thú, ngấu nghiến ngốn gặm tất cả những điều tốt đẹp tươi tắn. Người con gái đương tuổi xuân thì như bông hoa, vỏn vẹn có nửa năm ngắn ngủn đã vội héo hon tàn úa.

    Tôi thấy rầu rầu, lúc rời khỏi chỗ nàng ấy, tôi hỏi Vĩnh Nương: “Lí Thừa Ngân đâu?”

    Vĩnh Nương cũng không rõ, liền sai người đi hỏi, mới hay Lí Thừa Ngân và Ngô Vương đi đá cầu rồi.

    Tôi đến chính điện đợi Lí Thừa Ngân, đợi đến khi mặt trời vừa gác núi, mới trông thấy 1 đội chừng 7 8 tay lính Vũ Lâm lang bao bọc bảo vệ quanh chàng, bước qua cửa Minh Đức, những kẻ khác đều xuống ngựa, nom đằng xa chỉ còn mình chàng rong ngựa băng qua khoảng sân rộng trước điện, tiến thẳng về đằng này. Bỗng dưng tôi thấy lòng mình rối bời, phải vài tháng rồi chúng tôi không nhìn mặt nhau, rất lâu trước đây, tuy tôi và chàng không phải ngày nào cũng gặp, nhưng cứ bẵng đi một thời gian là chàng lại hùng hổ đến chỗ tôi chỉ để tranh cãi những chuyện hết sức cỏn con không đâu. Nhưng mà giờ, tôi và chàng, đã không còn gặp gỡ, cũng chẳng thể hục hặc nữa.

    Thực ra tôi luôn muốn lánh mặt chàng. Mỗi khi nhớ đến chuyện cũ, rõ ràng tôi nên giết chàng, báo thù cho tất cả những ai đã khuất.

    Có lẽ, ngày hôm nay tôi đi thăm Tự Bảo Lâm chính là lý do tôi tự biện cho mình, cốt vin vào đó để đến tìm chàng. Tôi dõi theo bước chân ngựa đang tiến lại gần, lòng chợt nhớ đến thảo nguyên bao la, nhớ nụ cười rạng ngời trên gương mặt chàng lúc phi ngựa chạy về phía tôi.

    Chàng chưa hề cười như thế chăng? Dẫu sau, đó là Cố Tiểu Ngũ chứ nào có phải Thái Tử Lí Thừa Ngân.

    Nội thị bước lên hầu chàng xuống ngựa, chàng ném rói da cho thái giám, bước chân đạp lên bậc thềm, như không hề trông thấy tôi.

    Tôi đứng dậy gọi chàng lại, tôi bảo: “Chàng đến thăm Tự Bảo Lâm một chuyến đi.”

    Đến lúc đó chàng mới quay mặt nhìn tôi, tôi lại nói: “Muội ấy bệnh nặng sợ khó qua khỏi.”

    Chàng còn chẳng buồn bận tâm, cứ thế rảo bước tiến thẳng vào điện.

    Còn mình tôi bơ vơ đứng đó, gió đầu hè nhả hơi ấm nhuần xoa trên gò má, vậy ra mùa xuân đã qua rồi.

    Nếu như là trước đây, hẳn chúng tôi sẽ lớn tiếng với nhau, tôi sẽ ép chàng đi thăm Tự Bảo Lâm, dẫu có phải trói, tôi cũng sẽ lôi chàng đến đó bằng được.

    Thế mà giờ thì sao? Tôi biết rõ rằng, không yêu tức là không yêu, dẫu hôm nay Tự Bảo Lâm có trút hơi thở cuối cùng thì đã làm sao, chỉ e chàng đã sớm quên nàng ấy rồi. Quên đi người con gái xinh đẹp rạng ngời, quên đi giữa bọn họ từng có với nhau đứa con gắn kết ruột thịt, quên bao nhiêu đêm dài nàng ấy thao thức đợi chờ là bấy nhiêu thời gian héo hon quạnh quẽ. Cũng giống như chàng đã quên tôi, quên tôi từng hận từng yêu chàng, quên 100 con đóm đóm chàng từng bắt, quên tôi từng nhảy xuống sông Quên, cắt lìa những gì đã từng tồn tại giữa đôi ta.

    Tất cả những điều này, chả phải là cầu được ước thấy đó sao?

    Trời thì ngày một nóng, Tự Bảo Lâm chìm vào hôn mê, cứ yếu dần đi theo thời gian, đến lúc chẳng còn ăn uống được gì. Hằng ngày tôi đều đến thăm nàng ấy, Vĩnh Nương cũng khuyên nhủ tôi vừa mới ốm dậy, không nên lán lại chỗ người bệnh quá lâu, nhưng mà tôi hoàn toàn không để ý đến lời bà ấy. Tôi chăm sóc Tự Bảo Lâm, như thể đang chăm sóc chính cái tôi vốn đang hấp hối ngay trong thâm tâm mình.Tôi túc trực bên Tự Bảo Lâm, bọn cung nữ có bao nhiêu kiêng dè cũng không dám nói úp mở. So với thói bỏ mặc không đếm xỉa trước kia, nay đã khấm khá hơn nhiều. Thế nhưng bệnh tình Tự Bảo Lâm đã đến nông nỗi này, giờ đây những coi sóc lo liệu đối với nàng ấy mà nói, đã hầu như là thừa thãi.

    Tiết chiều oi ả, chuồn chuồn chờn vờn trước khoảng sân, tàu lá chuối đậu bờ tường lặng cả người. Sắc trời dần ngả tím, mây đùn đen nặng trĩu phía trời tây, dễ sắp mưa cũng nên.

    Bữa nay tinh thần Tự Bảo Lâm có phần khá hơn, nàng ấy hé mắt nhìn một lượt những người xung quanh, tôi nắm tay hỏi: “Có muốn uống nước không?”

    Nàng ấy nhận ra tôi rồi giãn nụ cười.

    Song cũng không uống nước, một khắc sau thì lại chìm vào mê man, thế rồi hơi thở cũng đuối dần.

    Tôi triệu Thái y đến, ông ấy bắt mạch xong, liền bảo: “Nếu Bảo Lâm có phúc hơn người, ắt sẽ bình yên vô sự.”

    Tuy tôi chẳng mấy hiểu biết, song cũng ngộ ra lời Ngự y nói, chứng tỏ thế là đã vô phương cứu chữa.

    Vĩnh Nương toan khuyên tôi nên rời khỏi đó, nhưng tôi không nỡ. Vĩnh Nương đành sai ngươi âm thầm đi chuẩn bị hậu sự, sắc trời thêm âm u, trong phòng hầm hập như cái lồng hấp, cung nữ nhón chân đi châm đèn. Ánh nến chan hòa, rọi xiên bên giường bệnh. Sắc mặt Tự Bảo Lâm trắng bệch, khóe miệng mấy máy suốt giờ, tôi áp tai bên môi nàng ấy mới nghe rõ 2 chữ được thốt ra nhẹ bẫng như chẳng hề có âm thanh, thì ra là “Điện Hạ”.

    Lòng tôi buồn rười rượi, có lẽ trước lúc lâm chung, nàng ấy chỉ mong được gặp Lí Thừa Ngân lấy 1 lần.

    Thế mà tôi lại không tài cán nào khuyên nhủ được chàng đến đây.

    Gã đàn ông này quyến rũ rồi hất bỏ, quẳng nàng ấy trơ trọi một thân một mình trong chốn thâm cung. Nhưng sao nàng ta lại không thể quên đi hắn.

    Dẫu có bạc bẽo, dẫu có phụ tình, dẫu chỉ thờ ơ.

    Nàng ấy chỉ cần có bấy nhiêu, chỉ cần một lần hồi tưởng ngẫu nhiên, thế mà cũng chẳng thấy đâu.

    Tôi cố nắm tay nàng ấy thật chặt cốt để truyền chút hơi ấm cuối cùng, thế mà bàn tay ấy cứ lạnh dần đi.

    Vĩnh Nương khẽ khuyên tôi nên đi thôi, còn để cung nữ thay quần áo cho Tự Bảo Lâm, Vĩnh Nương từng nói với tôi việc ma chay có rất nhiều thứ phải lo. Thêm vào đó vẫn có một số chuyện cần phải giải quyết quang minh chính đại, như dâng thư lên lễ bộ, biết đâu sẽ truy phong cho nàng ấy một phẩm trật cao hơn chút đỉnh, hoặc ban một chức quan nhỏ cho người nhà nàng ấy. Tôi trông cung nữ phủ một chiếc khăn gấm lên khuôn mặt đã tắt thở của Tự Nương, dù là khổ đau hay vui vẻ, tất cả đã mất hẳn rồi, tuổi đời ngắn ngủn thế là đã chững lại ở đây.

    Tiếng sấm rền vọng về từ chân trời xa xăm, Vĩnh Nương nán lại lo chuyện hậu sự, A Độ đưa tôi về tẩm điện. Lúc chạm mặt cầu mái hiên, chợt nghe văng vẳng có tiếng nhạc dạt từ đằng chính điện mà ra. Âm thanh xa vời bỗng gợi tôi nhớ về một tối xưa bên bờ sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát người Đột Quyết, ấy là một bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có người dũng sĩ Đột Quyết đứng hát ngoài lều người con mình yêu, bày tỏ tình cảm thầm kín của lòng mình cho người ấy nghe thông qua lời ca tiếng hát.

    Dạo đó tôi không hề nhận ra giọng hát này nghe lại bùi tai thế, nó thoắt ẩn thoắt hiện như tiên khúc. Vạt cỏ ven sông đã chập chờn bầy đom đóm, từng đốm từng đốm chợt sáng chợt tắt, chẳng khác nào sao băng, hoặc tựa như có nắm bụi vàng ai đó vung tay vẩy xuống. Thậm chí tôi còn nghĩ, những con đom đóm phát sáng rạng rỡ ấy đích thị là sứ giả của thần tiên trên trời, họ cầm những chiếc đèn lồng nhỏ xíu, nhóm lên từng đốm sáng lung linh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó đã rải rác li ti những ánh lửa, tiếng hoan hỉ cười vui như xa cách một tầng mây.

    Tôi thấy cả người chàng vọt lên, bàn tay chàng đã nắm chặt một túm phải đến vài con đom đóm, đám ranh mãnh ấy tỏa đốm sáng li ti lập lòe giữa những kẽ tay, võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, giống như một bài thơ, chấm phá truyền thần thoải mái không hề gò bó. Nhất cử nhất động của chàng như thể đang nhảy múa, thật trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái hào hùng đến thế. Chàng tung mình giữa chừng không, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đóm đóm chớp nháy không ngừng kia. Ống tay áo khẽ gợn làn gió….

    Bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, đốm sáng vương vãi hóa thành vô số những vệt sao sao băng li ti, nhoáng cái, những đốm sao đã vây quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, ánh sáng rạng rỡ tưới lên khuôn mặt chúng tôi, tôi nhìn thấy đôi mắt đen lay láy của chàng, ánh nhìn chúng tôi chạm nhau…Lời ca cách trở xa xôi, xa như người trên trời cách kẻ dưới đất.

    Máu trong tôi trào dâng từng tấc từng tấc một, trời cao đen màu mực đột nhiên lóe lên những lằn chớp, hồ quang màu tím như một chuôi gươm, chớp ngoằn ngoèo chẽ nhành vạch vào màn trời những kẽ nứt.

    Tôi bảo A Độ: “Ngươi về trước đi.”

    A Độ không nghe, lại nối gót theo tôi mấy bước, tôi gỡ nguyên đao lẫn vỏ đao bên mình nàng ấy, đoạn bảo: “Ngươi về thu vén những thứ cần thiết đi, khi ta về, chúng ta sẽ lập tức khới hành đi Tây Lương.”

    Ánh mắt đầy nghi hoặc lẫn khó hiểu của A Độ nhìn vào tôi, tôi vội giục giã, nàng ấy buộc phải quay về.

    Ngay trong ngày hôm nay, tôi quyết tâm phải chấm dứt mọi chuyện.

    Tôi từ từ tiến vào chính điện, mới nhận ra trong này chẳng hề có yến tiệc vui vẻ nào cả, cung nữ trực đêm chẳng rõ đã bỏ đi đâu, bên trong tịch không một bóng người, trừ Lí Thừa Ngân đang ngồi bên cửa sổ thổi tiêu. ,

    Chàng mặc một bộ bào trắng, sắc mặt chăm chú, thật không giống với lúc thường ngày. Vẻ tư lự giữa đôi chân mày như thay đổi cả con người chàng. Tôi chợt nhớ đến Cố Tiểu Ngũ, xưa kia khi chúng tôi vừa quen nhau, dường như chàng cũng mang dáng vẻ vững vàng thế này. Nhưng dạo đó nom chàng hồ hời mà hay lớn tiếng cười đùa với tôi lắm.

    Giờ tôi mới biết chàng còn khéo thổi cả tiêu.

    Không rõ chàng thổi bài gì, mà giai điệu lặng buồn như thể có nỗi mất mát khiến lòng hoang mang.

    Chàng nghe tiếng bước chân, liền buông cây sáo, ngoái đấu nhìn, thấy tôi, thần sắc lộ vẻ lạnh nhạt.

    Lòng tôi chen lẫn cái cảm giác giận, khó mà đè nén được. Tôi rút đao xông lên, hiển nhiên chàng nào có ngờ tôi vừa bước vào đã ra tay, mà khí thế còn đùng đùng hung dữ, chàng chỉ có thể lách mình.

    Tôi lặng thinh, chỉ có thanh đao trên tay là lao đi kêu vun vút, thực chất tôi không biết võ công, nhưng trong tay có đao, tuy thân thủ Lí Thừa Ngân lanh lẹ, song tạm thời cũng chỉ có thể né tránh. Tôi vung phát nào phát nấy đều bạt mạng, sự chống đỡ của Lí Thừa Ngân dần trở nên bối rối, phải đến mấy lần suýt thì bị đâm trúng, thế nhưng chẳng hiểu tại sao, chàng lại không hề hô hào gọi người.

    Thế cũng tốt. Thanh đao trên tay tôi mỗi lúc một lỏng lẻo, thoạt đầu thì là do giận dữ, đến về sau, sức đuối hẳn, khó có thể chiếm được ưu thế. Hai chúng tôi ẩu đả trong im hơi lặng tiếng, được một lúc lâu sau thì tôi thở hồng hộc, cuối cùng, Lí Thừa Ngân bẻ ngoặt cánh tay tôi, đoạt thanh đao rồi quẳng nó đi xa tít, tôi chớp thời cơ cắn nghiến gan bàn tay chàng. Vị tanh mặn xộc vào kẽ răng, chàng nén đau kéo bả vai tôi, cả hai ngã lăn ra đất, Bàn tay không chủ định níu lấy con sư tử bằng đồng đang đè trên tấm thảm, nện vào đùi chàng ta, bức tượng điêu khắc khéo léo ấy móc vào vải, kéo thành một vết rách thật dài. Chàng ta đau đến độ chau mày, tay không đừng được phải ấn chặt vết thương trên đùi, tôi thấy trên đùi chàng có một vết sẹo cũ, vết răng của loài dã thú sâu hoắm mà trông gớm ghiếc vô cùng, khoét trên đùi chàng hẳn một mảng da thịt, dù đã trải qua nhiều năm, mà vết thương ấy nom vẫn thật đáng sợ. Bất chợt, tôi nhớ câu chuyện Cố Kiếm từng nói, chàng đi giết vua sói mắt trắng để xin cưới tôi, sau bị vua sói cắn vào đùi. Thế nhưng chàng có phải vì cưới tôi thật đâu, chàng góp tay với bọn Nguyệt Thị hòng lừa ông ngoại… Sự ăn năn day dứt trong lồng ngực thêm phần mãnh liệt, thế mà chỉ một lúc thất thần, chàng đã dằn tôi xuống bức thảm, vặn nghiến cánh tay tôi lại.
     
  17. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 36
    Chân tôi đá loạn xị, chàng buộc phải đè lên, không cho tôi cựa quậy nữa. Cổ tôi xâm xấp mồ hôi, thậm chí áo quần lụa là bám dính vào da thịt, chúng tôi vật lộn đến nỗi bờ trán chàng cũng đã lấm tấm những giọt, có giọt men theo đường nét khuôn mặt đổ xuống cằm, xem chừng sắp nhỏ xuống, kiểu này nhỏ xuống chắc sẽ đáp lên mặt tôi, tôi vội vàng né tránh. Lí Thừa Ngân lại tưởng tôi vùng vẫy toan chụp bức tượng sư tử bằng đồng ở cách đó không xa, chàng vươn tay ghì chặt bờ vai tôi, chẳng ngờ lúc đang vặn người định tránh đi thì nghe một tiếng “xoẹt” vang lên, bờ vai áo bị chàng kéo rách, đầu móng tay quẹt xước da thịt, đau vô cùng. Tôi nổi cáu, gập chân đá chàng, nhưng hụt.

    Ngoài trời bất ngờ rền vang tiếng sấm, một ánh chớp tím lóa đổ lên rèm cửa sổ, mang ánh sáng vào trong điện tỏ như ban ngày. Tôi thấy khuôn mặt chàng đỏ rần như say rượu, đôi mắt cũng đỏ kè, rồi thân hình đu đưa bỗng nhiên phủ phục lên người tôi.

    (*có một điều rất thú tính, à nhầm, lý thú. Đây là bộ thứ 6 của PNTT tớ đọc thấy có màn “cưỡng ép” ‘__’ và tiện thể 3 trong tổng số 6 bộ đó đã có mặt trong nhà tớ :z1: ))) bộ thứ 4 cũng vậy :z1: )) Thế mà PNTT không nỡ tả kỹ một tẹo. Chap sau cũng không đào sâu miêu tả đâu, tớ chỉ thông báo để tránh trường hợp các cậu quá chờ mong đâm thất vọng T__T)

    Phen này thì tôi đã sớm đề phòng, tôi lăn lê bò toài toan trốn, có điều chiếc váy bị chàng kéo lại, tôi đá rảy cánh tay chàng ra, song chàng không chịu buông, ngược lại, còn vươn tay túm lấy thắt lưng tôi. Vốn dĩ cung nữ phụ trách xiêm y đã cài cho tôi 2 cái nút, mà cái nút thắt này nhìn thì có vẻ phức tạp tỉ mỉ, song trên thực tế, chỉ cần rút một phát là bung. Chàng chóng vánh đã rũ tung đống dây lưng, tôi còn tưởng chàng định trói tôi lại, nên bụng bảo dạ khẩn trương giằng lấy đầu dây.

    Tiếng sấm đổ dồn bên ngoài, chớp nháy thi nhau bổ toác nền trời, gió cất rèm cửa tung lên bất ngờ, màn trong điện đều xõa bay.

    Tôi đang gồng minh giằng lấy giằng để, bất thình lình, chàng lại nới tay, đầu kia vừa buông tôi đã ngã bổ ngửa ra sau, gáy đập trúng bức tượng sư tử bằng đồng đang lăn kềnh trên nền, cơn đau nhói sộc đến đột ngột khiến tôi tê điếng, hồi lâu vẫn chưa cựa quậy được. Khuôn mặt Lí Thừa Ngân choán đầy đáy mắt tôi, chàng trừng trộ, đâm tôi có cảm giác bất cứ lúc nào chàng cũng có thể thẳng tay cho tôi một cái tát, thế mà không. Sấm rền mỗi lúc một vang, như thể sét đánh trên chóp mái, rồi bỗng dưng, chàng cúi đầu, tôi vốn tưởng chàng sắp đánh mình, thế mà chàng lại hùng hổ cắn môi tôi

    Chàng nghiến rách cả vành môi tôi, tôi cũng nghiền lại lưỡi chàng, cho đến khi bật máu rồi mà chàng vẫn chưa chịu buông, đâm ra miệng hút vào có cả mùi máu tanh. Tiếng chàng nghe như hằn học, mà khuôn mặt thì dữ tợn, chàng hằm hè tra hỏi: “Cố Tiểu Ngũ là ai? Cố Tiểu Ngũ là ai hả? Nói! Có phải gã thích khách kia không!”

    Cố Tiểu Ngũ là ai ư? Tôi ra sức vùng vẫy, tay chân vung vẩy đấm đá túi bụi, vậy mà chàng vẫn trơ trơ, mặc kệ những cú đá cú đấm cứ ào ào nện trên người, chàng xé toạc áo quần tôi. Đến tận cùng, tôi đã bật khóc: “Cố Tiểu Ngũ là Cố Tiểu Ngũ, Cố Tiểu Ngũ tốt hơn chàng gấp một ngàn lần một vạn lần!” Những lời tôi nói đều thực tâm mà ra, chẳng ai bì được với Cố Tiểu Ngũ của tôi, chàng từng giết vua sói mắt trắng vì tôi, chàng từng gom 100 con đóm đóm vì tôi, đáng lẽ ra tôi đã lấy chàng, nhưng chàng đã chết ngay trong đám cưới của chúng tôi vào ngày đó…Tôi vỡ òa thành tiếng, Lí Thừa Ngân như thể bị chọc cho điên lên, tưởng chừng chàng sắp xé vụn tôi ra bằng thứ hành động cướp bóc đầy căm giận. Chưa bao giờ tôi trải qua những chuyện khủng khiếp thế này, tôi cứ khóc gọi Cố Tiểu Ngũ đến cứu mình, cứu thiếp với…Nhưng trong lòng tôi hiểu rõ rằng, chàng vĩnh viễn sẽ không đến.

    Cặp mắt Lí Thừa Ngân đã vằn đầy những tia máu, như một con sói đơn độc không bầy đàn tôi từng bắt gặp trên sa mạc, cũng cái vẻ đáng sợ, cũng cái vẻ dữ tợn, cuối cùng chàng lấp kín miệng tôi, nước mắt tuôn rơi mặn đắng khóe môi, nụ hôn ấy hàm chứa một thứ sức lực tàn sát vô tội vạ, chàng hôn như cắn, khiến tôi đau nhói.

    Ngoài trời đổ tiếng rào rào chắc là mưa. Chỉ chốc lát sau, mưa đã ầm ầm ập rơi, hạt mưa nện trên mái ngói, như có khí thế ngùn ngụt nào xé gió lao đến, trời đất chỉ sót lại tiếng nước đổ ầm ầm.

    Tôi khóc đến sưng mọng cả mắt, trời ngớt mưa tầm rạng sáng, lác đác có tiếng giọt ranh theo mái hiên rớt xuống lộp bộp, gió đưa chuông đồng ngân. Trong điện im lìm như một nấm mồ, tôi bã người bởi vì khóc, tiếng thút thít ngân lên từng chặp, Lí Thừa Ngân từ đằng sau ôm và giam chặt tôi trong vòng tay. Tôi không muốn thấy bản mặt chàng, nên nằm ngoảnh trong giường, chiếc gối thấm nước mắt, áp bên mặt lạnh ngắt. Chàng nhẹ nhàng vén đuôi tóc gáy ẩm ướt của tôi, rồi đặt một nụ hôn nóng rực như thép nung.

    Tôi vẫn còn run rẩy trong cơn thút thít, chỉ hận không thể giết được chàng.

    Chàng nói: “Tiểu Phong, sau này ta sẽ chăm sóc và yêu thương nàng, nàng quên gã Cố Tiểu Ngũ kia đi, được không? Ta.. thật ra ta thực lòng… thực lòng…”, chàng lập lại 2 lần câu “thực lòng”, nhưng cuối cùng cũng bỏ ngỏ những gì muốn nói phía sau.

    Cả đời này, có lẽ chàng chưa từng thẽ thọt khúm núm đến thế, tôi quay phắt lại, sở dĩ nằm rất gần nhau, nên chàng khẽ ngửa về phía sau, cứ như thể ánh mắt tôi vừa thiêu bỏng chàng.

    Tôi bảo rằng: “Ta mãi mãi không bao giờ quên Cố Tiểu Ngũ.”

    Tôi tự nhủ, tôi cũng sẽ mãi mãi không bao giờ quên sắc mặt chàng lúc ấy. Cả khuôn mặt tái ngắt, da chàng vốn dĩ trắng ngần, thế mà màu trắng ấy giờ đây chuyển xanh, khó coi như một người bệnh mang vẻ mặt tro tàn, chàng giương mắt ngây thuỗn nhìn tôi. Tôi cười khảy đầy khoái trá: “Cố Tiểu Ngũ tốt hơn chàng gấp ngàn lần vạn lần, chẳng đời nào chàng bì được với chàng ấy. Chàng tưởng cưỡng bức được ta thế này là ta sẽ cam chịu theo chàng hả? Thế này thì có gì là ghê gớm, cũng chỉ như bị chó cắn mà thôi.”

    Cái vẻ mặt chàng lúc ấy làm tôi khoái trá vô cùng, nhưng sau sự sảng khoái ấy, tôi hóa lại thấy như bị hẫng hụt, trong tim trống trải vô cùng. Trong đôi mắt chàng chỉ có ánh nhìn đờ đẫn, mà sắc mặt mãi cứ một vẻ tái mét, thoạt tiên tôi đồ chừng chúng tôi sẽ nổ ra cãi vã, hoặc sẽ xua tôi đi, sau này cạch mặt nhau. Thế nhưng chàng hoàn toàn im lặng.

    Cả Đông Cung đều hay biết chuyện tối ngày hôm qua, thì rằng tôi bị thương, cổ tay cổ chân tím bầm. Mà Lí Thừa Ngân cũng chẳng khấm khá hơn là bao, mặt mũi không bị tôi cào xước thì cũng bị tôi cắn nghiến. Bọn hầu không nén nổi xì xào nói vụng, Vĩnh Nương vì thế mà cảm giác bối rối vô cùng, vừa đánh tan vết bầm cho tôi, vừa bẩm: “Nương nương cũng nên ôn tồn với Điện hạ một chút.”

    Chưa cho chàng một nhát dao là đã ôn tồn lắm rồi đấy, nếu như chẳng phải võ công tôi yếu kém, thế nào tôi cũng phải giết được chàng, thậm chí tôi từng bảo mình đợi đến lúc chàng ngủ say, tôi sẽ giết chàng, có điều chàng không để tôi có cơ hội ấy. Lúc Vĩnh Nương đang xoa bóp chân tay cho tôi thì một cung nữ hớt hải chạy vào, thưa với tôi chuyện Tiểu Tuyết mất tích.

    Tiểu Tuyết nghịch ngợm lắm, nó toàn lỉnh ra ngoài chơi, thế nên Vĩnh Nương mới sai riêng 1 cung nữ để mắt đến nó, giờ không thấy Tiểu Tuyết đâu, cô cung nữ ấy tức tốc trình bẩm với tôi.

    Vĩnh Nương gọi nhiều người đi tìm, song không tìm ra. Tôi chẳng còn lòng dạ nào đi nhớ Tiểu Tuyết, tôi chỉ đang nghĩ cách làm sao để báo thù được cho mẹ. Giờ tôi lại cảm thấy Lí Thừa Ngân làm nhiều chuyện đáng hận thế, nếu chỉ đâm cho Lí Thừa Ngân 1 nhát dao chết ngay tức khắc thì dễ dàng cho chàng quá. Tôi đã bảo rồi, bao nhiêu đau đớn khổ sở chàng đổ xuống thân tôi, tôi sẽ trả lại bấy nhiêu cho chàng, trả dần dần từng chút một.

    Hôm sau là Tết Đoan Ngọ, trong Đông Cung đang cắt xương bồ thì bỗng nhiên có cung nữ nhìn thấy một nhúm lông trắng nổi bập bềnh giữa hồ, lúc vớt lên xem mới biết là Tiểu Tuyết.

    Rõ ràng nó bị dìm chết đuối.

    Tôi thấy rầu rầu, bất kì là ai là thứ gì một khi đã ở cái chốn này, cuộc sống đều khốn cùng bi đát cả, đến 1 con mèo mà cũng không thoát nổi cảnh bất hạnh.

    Tôi đoán Lí Thừa Ngân cũng biết chuyện, đến hôm sau thì chàng sai người đem một con mèo khác tặng tôi.

    Cũng màu lông trắng y hệt, cũng đôi mắt y hệt, nghe nói chàng có lòng phái người đến chỗ sứ thần Xiêm La để xin, nhưng tôi chỉ ủ rũ ngồi yên vị, chẳng thiết ngó ngàng gì đến con mèo đó. Tôi còn chẳng ngờ cái chết của Tiểu Tuyết lại kéo theo cả sóng to gió lớn

    Có người nhìn thấy cung nữ của Triệu Lương Đệ quẳng Tiểu Tuyết xuống hồ, Lí Thừa Ngân hay tin, bất ngờ nổi cơn lôi đình, liền phạt đánh cung nữ nọ 40 trượng, sau 40 trượng kia thì đương nhiên cũng chết dở sống dở. Vĩnh Nương tất tả chạy vào bẩm với tôi, đáng lẽ ra tôi không nên bận tâm thêm những chuyện vớ vẩn đâu đâu, nhưng mạng người quan trọng hơn cả, tôi buộc phải đến điện Lệ Chính.

    Quả nhiên một bầu không khí u ám tiêu điều đang phủ lên điện Lệ Chính, Lí Thừa Ngân đi thay xiêm y, vẫn chưa ra. Mấy cung nữ quỳ ở góc điện còn đương sụt sùi khóc lóc. Tôi vừa bước vào, chưa kịp mở miệng nói lấy 1 câu, thì thái giám đã loan báo, Triệu Lương Đệ đến.

    Hiển nhiên Triệu Lương Đệ cũng đến vội đến vàng, nom dáng vẻ xám xịt, vừa bước chân vào cửa điện đã quỳ sụp xuống, gào lên thống thiết: “Điện hạ ơi, thần thiếp bị oan…người của thần thiếp xưa nay vốn biết thân biết phận, tuyệt đối không làm những chuyện này, thần thiếp quả thực oan uổng quá…” chưa dứt lời, nước mắt đã tuôn như mưa.
    Tôi trông cái kiểu tội nghiệp của ả, không kìm được tiếng thở dài, đoạn bảo Lí Thừa Ngân: “Thôi, cũng chẳng liên quan gì đến muội ấy.”

    Tuy tôi thương Tiểu Tuyết thật, nhưng cũng chẳng đến nỗi vì 1 con mèo mà phải đánh chết đến vài người.

    Lí Thừa Ngân hằm hằm bảo: “Hôm nay hại mèo, thế nào mai sau cũng hại người!”

    Rõ ràng Triệu Lương Đệ nghe xong thì tức lắm, đầu ngẩng phắt lên, mắt ngấm lệ: “Điện hạ cớ sao lại hoài nghi thiếp như vậy?”

    Thoạt đầu, tôi định xin cho mấy cung nữ kia, vậy mà Triệu Lương Đệ lại chẳng biết điều. Ả gào lên: “Chính ngươi! Chắc chắn là ngươi, ngươi dựng sẵn cái bẫy này, ngươi thật nanh nọc! Ngươi trừ khử Tự Bảo Lâm, giờ quay sang hãm hại cả ta!”

    Không đợi tôi lên tiếng, Lí Thừa đã nạt nộ: “Nói năng linh tinh!”

    Triệu Lương Đệ quệt nước mắt, đoạn đứng thẳng người, nói: “Thần thiếp không hề nói linh tinh, Thái Tử Phi làm bùa nguyền rủa thần thiếp, nhưng lại đổ tội cho Tự Bảo Lâm. Cung nữ hầu hạ Tự Bảo Lâm do chính tay Thái Tử Phi chọn lựa, Thái Tử Phi sai bọn nó đặt bùa gỗ đào trong phòng Tự Bảo Lâm, sau khi sự việc bị phát giác, Thái Tử Phi lại lần lựa không nỡ điều tra, hòng gây chia rẽ thần thiếp và Tự Bảo Lâm. Chiếc bẫy “một mũi tên trúng hai đích” này của Thái Tử Phi quả là nanh nọc! Bẩm điện hạ, chuyện Tự Bảo Lâm qua đời rất kỳ quặc, cùng lắm thì cũng chỉ do thân thể có phần suy nhược, sao đến nỗi yểu mệnh qua đời được? Hẳn là bị kẻ khác giết người diệt khẩu!”

    Tôi tức đến độ nói năng chẳng đâu vào đâu, liền lớn tiếng mắng át ả: “Ngươi nói láo!”

    Triệu Lương Đệ ngước đầu nhìn tôi, khuôn mặt ả rõ ràng còn nguyên vệt nước mắt, vậy mà ánh nhìn lại bình thản khác thường, ả nhìn tôi: “Nhân chứng vật chứng đủ cả, xin thưa với Thái Tử Phi rằng, nếu như chẳng phải hôm nay người lại ám hại ta, ta cũng chẳng muốn giấu giếm hộ người làm gì. Thế nhưng người lại nhẫn tâm đến nỗi vừa giết Tự Bảo Lâm rời tay, đã vin ngay vào lý do con mèo hòng hại ta, người thật quá ác độc.”

    Tôi phẫn nộ bảo: “Nhân chứng vật chứng gì, ngươi có giỏi thì lôi ra đây!”

    “Lôi thì lôi.” Nói rồi Triệu Lương đệ liền sai bảo bọn thuộc hạ mấy câu, chẳng mấy chốc, lũ người kia đã áp giải 2 cung nữ đến.

    Tôi chưa bao giờ nghĩ, chuyện lại xoay chuyển đến nông nỗi này, hai cung nữ của Tự Bảo Lâm thú nhận rằng chính tôi đã sai chúng đặt bùa gỗ đào dưới giường Tự Bảo Lâm.

    “Thái Tử Phi nói, người chỉ muốn trừ khử Triệu Lương Đệ thôi, nếu như thật sự nguyền chết được Triệu Lương Đệ, thì chắc chắn người sẽ đối xử tử tế với Bảo Lâm nhà chúng thần, rồi người sẽ khuyên điện hạ lập Bảo Lâm làm Lương Đệ, cùng nhau hưởng phú quý…”

    “Thái Tử Phi cũng bảo, dù bị phát giác cũng đừng lo, đương nhiên người sẽ bênh Bảo Lâm…”

    Tôi nghe hai đứa cung nữ ấy luôn mồm luôn miệng tố cáo mình, chợt thấy trong người lạnh toát.

    Triệu Lương Đệ dàn dựng cái bẫy này bao lâu rồi? Tự khi nào, ả đã tính toán dẫn dụ tôi vào tròng? Trước kia cùng lắm thì tôi cũng chỉ cảm thấy, có lẽ ả không ưa tôi, hoặc ả rất ghét tôi, nói cho cùng thì tôi đã cướp ngôi vị Thái Tử Phi của ả, mà chung quy, lỗi là ở tôi, tôi chen ngang giữa ả và Lí Thừa Ngân. Thế nhưng tôi nào có ngờ, ả lại hận tôi đến thế.

    Triệu Lương Đệ quỳ gối thưa: “Từ lúc thần thiếp phát hiện ra Thái Tử Phi có dính líu đến chuyện bùa ngải, thần thiếp chỉ nghĩ có lẽ người nhất thời hồ đồ mới làm vậy, thế nên thần thiếp vẫn bấm bụng, không dám hé răng oán thán bẩm với điện hạ, có điện hạ làm chứng, bấy lâu nay, trước mặt điện hạ, thần thiếp chưa từng kể lể gì về Thái Tử Phi, thậm chí, thần thiếp còn khuyên điện hạ nên gần gũi Thái Tử Phi, nỗi khổ tâm của thần thiếp, thật có trời cao chứng giám. Mãi đến khi Tự Bảo Lâm qua đời, thần thiếp mới nảy sinh ngờ vực, song chưa có lệnh nên không dám tự ý điều tra, trong lòng chỉ nhắc nhở mình nên đề phòng mà thôi. Chẳng ngờ Thái Tử Phi lại vin vào lý do con mèo hòng hãm hại thần thiếp, cớ gì thần thiếp lại đi giết một con mèo chứ? Chuyện quả là nực cười, hẳn Thái Tử Phi mượn cớ này nhằm chọc giận điện hạ, khiến người hắt hủi thần thiếp, xin điện hạ phân xử giúp thần thiếp!”

    Lí Thừa Ngân đảo qua hai đứa cung nữ đang quỳ dưới sàn, qua một lúc mới nói: “Đã đến nước này, vậy điều tra chuyện Tự Bảo Lâm luôn một thể, đi lấy bã thuốc đã niêm phong ra đây.”

    Sau đó còn triệu cả Thái y đến đối chứng, kết quả là, trong bã thuốc mà Tự Bảo Lâm uống thừa, lại tìm thấy hạt hoa mai. Tuy loại hạt hoa mai này không có độc tính, nhưng trong toa thuốc hằng ngày của Tự Bảo Lâm có rễ sâm, rế sâm sắc cùng hạt hoa mai sẽ tạo độc tính nhẹ, về lâu về dài, uống vào sẽ khiến cơ thể yếu dần cho đến lúc chết. Cung nữ sắc thuốc khai rằng, mỗi bận Thái y kê đơn xong, người đến lấy thuốc đều do Thái Tử Phi tôi sai đến. Cung nữ phụ trách sắc thuốc lại không am hiểu dược liệu, sắc xong xuôi thì dâng lên cho Tự Bảo Lâm uống, ngờ đâu trong thuốc có độc.

    Có trăm cái miệng cũng không cãi nổi.

    Với cái tính hấp tấp của tôi, chiếc bẫy chặt chẽ đến từng chi tiết này, có cho tôi đến 1 vạn cái mồm tôi cũng chẳng biện bạch hết.

    Tôi giận quá đâm phá lên cười: “Cớ gì ta phải giết Tự Bảo Lâm? Lẽ nào một khúc củi khô lại có thể nguyền chết được ngươi, ta ngu mới rơi vào bẫy này?

    Triệu Lương Đệ quay ngoắt mặt, nói với Lí Thừa Ngân: “Bẩm điện hạ…”

    Lí Thừa Ngẫn bỗng bật cười: “Lòng dạ đàn bà là thứ hiểm độc nhất thiên hạ, quả nhiên vậy.”

    Tôi nhìn Lí Thừa Ngân, qua một lúc rất lâu, mới thốt ra được 1 câu: ‘Chàng cũng tin ả sao?”

    Lí Thừa Ngân lạnh lùng nói: “Sao ta lại không tin?”

    Đột nhiên, tôi thấy nhẹ nhõm hẳn: “Đằng nào thì ta cũng ngán cái địa vị Thái Tử Phi này từ lâu rồi, muốn phế thì cứ phế đi.”

    Phế đi, để tôi còn về Tây Lương.

    Lí Thừa Ngân chỉ lạnh nhạt bảo: “Nàng đừng có tưởng bở.”
     
  18. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 37
    Hóa ra tôi tưởng bở thật. Lí Thừa Ngân triệu Dịch đình lệnh đến, tội trạng của tôi dài phải hàng cột, ví dụ như bản tính cợt nhả, không tuân thủ cung quy, đằng nào thì tôi cũng không được cái nết hiền lương thục đức, kiểu tội danh này hóa lại chẳng sai. Song tội nghiêm trọng nhất có 2 điều, 1 là bỏ bùa, 2 là hại chết Tự Bảo Lâm.

    Tôi bị giam lỏng trong điện Khang Tuyết, vốn là nơi im ắng nhất trong Đông Cung, xưa nay chưa ai ở, mà nghe đồn cũng chẳng khác lãnh cung là mấy.

    Ngày xưa khi phế truất Hoàng hậu, tôi mới biết, ví như Lí Thừa Ngân muốn phế tôi, cũng phải trải qua cả một quá trình rất phức tạp. Trước tiên Hoàng thượng hạ chiếu chỉ cho Trung Thư Tỉnh(*), sau đó mới đến Môn Hạ Tỉnh(*) đồng ý tiếp ký. Đám cựu thần râu ria bạc phơ cũng chẳng dễ bàn, lần Hoàng Hậu bị phế, có kẻ náo loạn dâng lời can gián, dọa dập đầu xuống bậc thềm ở Thừa Thiên Môn. Sau đó quả nhiên có kẻ dập dầu thật, tuy không dẫn đến chết người, song Bệ hạ nổi giận một trận lôi đình, mà Hoàng Hậu thì vẫn cứ bị phế.

    (*chú: tham khảo và tìm hiểu 2 chức quan trên ở đây)

    Thực ra tôi đang nghĩ, may ra nơi này canh gác lỏng lẻo, tôi và A Độ sẽ dễ dàng thoát thân tháo chạy.

    Lúc Nguyệt Nương đến thăm, tôi đang trồng hoa trong vườn.

    Hai tay tôi dính đầy bùn đất, thoạt đầu thì Nguyệt Nương bật cười, sau lại tỏ vẻ buồn phiền: “Điện hạ cho phép tỷ tới thăm muội, sao lại đến nông nỗi này?”

    Lúc ấy tôi mới biết, thì ra vị phi tử được Bệ hạ sủng ái gần đây, hay còn gọi “Nương Tử”, hóa ra lại là Nguyệt Nương.

    Tôi đảo qua Nguyệt Nương, tỷ ấy đang vận xiêm y mới của cung thất, áo lụa mỏng dệt bắt chéo, tóc mây phấn hoa vàng, nom yêu kiều đầy mê hoặc. Tôi cười nhạt bảo: “May mà Lí Thừa Ngân không cần muội nữa, bằng không muội phải gọi tỷ là mẹ kế, vậy thì thiệt lắm.”

    Nguyệt Nương nhăn mày: “Muội còn cười được à?” Tỷ ấy cũng nhìn tôi từ trên dưới xuống, chau mày bảo: “Muội nhìn mình mà xem, giờ này vẫn còn tâm tư đi trồng hoa ư?”

    Nguyệt Nương kể tôi nghe một số chuyện đã xảy ra bên ngoài mà tôi không hề hay biết.

    Vốn là gia tộc nhà Triệu Lương đệ nắm quyền hành tương đối lớn trong triều, giờ đang dồn sức muốn thâu tóm tội danh của tôi, vin vào đó xử tôi tội chết. Bệ hạ cũng rất khó xử, người từng triệu riêng Lí Thừa Ngân vào chầu, cũng bởi bệ hạ cho đám hầu cận lui hết ra ngoài, nên không ai hay hai cha con họ đã nói gì mà sau đó Bệ hạ nổi giận lôi đình, Lí Thừa Ngân cũng hùng hổ bỏ đi. Giờ đến cả cha con thiên tử cũng hằn học, Nguyệt Nương ở bên nói khéo xin xỏ hộ, song cũng đành chịu chết.

    Nguyệt Nương bảo: “Tỷ biết những tội trạng ấy rặt là chuyện hoang đường, nhưng giờ tình thế bức bách, tỷ xin bệ hạ cho phép tỷ đến thăm muội, muội có gì muốn nói hoặc muốn gặp ai không?”

    Tôi lấy làm lạ, hỏi: “Muội chẳng muốn gặp ai cả.”

    Nguyệt Nương đoán tôi nghe mà không hiểu, đành nhẫn nại giảng giải một hồi. Thì ra ý tỷ ấy muốn tôi gặp Lí Thừa Ngân một bận, rồi nói khéo với chàng dăm câu. Chỉ cần Lí Thừa Ngân quyết tâm thì đằng Triệu Lương Đệ dẫu có náo loạn mấy, vẫn có cách biến chuyện to thành chuyển bé, biến chuyện bé thành chuyện không có, nói cho cùng thì gia cảnh Tự Bảo Lâm quá cố kia cũng không có gì đặc biệt, mà chuyện bùa ngải này, thực chất cũng chỉ là chuyện lỡ cỡ.

    Nguyệt Nương nói: “Tỷ nghe nói trước đây trong cung từng xảy ra chuyện đặt bùa, thế nhưng chuyện năm đó lại liên quan đến vị quý phi hoàng đế vốn rất mực ân sủng, Trung Tông hoàng đế chỉ hạ lệnh đánh chết cung nữ chứ không đào sâu điều tra, dù cho người đời có đôi lời xì xào nói vụng sau lưng, thì cũng làm được gì đâu?”

    Bảo tôi phải khuất phục Lí Thừa Ngân ấy à, thà giết tôi đi còn hơn.

    Tôi lạnh nhạt bảo: “Muội không làm chuyện kia đâu, bọn họ vu oan cho muội, muốn giết muốn chém gì thì tùy, nhưng bảo muội đi cầu xin Lí Thừa Ngân, muội quyết không làm.”

    Nguyệt Nương khuyên tôi hồi lâu, song tôi không đồng ý. Sau cùng, cuống quá, suýt thì bật khóc, tôi lại kéo tỷ ấy ra xem hoa tôi trồng.

    Trong lãnh cung, tôi trồng rất nhiều loài hoa hồng, người phụ trách trông coi lãnh cung tỏ vẻ rất khiêm nhường với tôi và A Độ, tôi muốn hoa giống, họ liền mua giúp tôi hoa giống, tôi cần phân bón, bọn họ lập tức đem phân bón tới. Loài hoa hồng này chỉ ở Trung Nguyên mới có, xưa kia dạo còn ở phường Minh Ngọc, Nguyệt Nương hay cài một bông lên tóc. Tôi bảo Nguyệt Nương: “Đợi lúc hoa nở, muội sẽ tặng tỷ một ít để cài đầu.”

    Nguyệt Nương chau mày, nói: “Muội không lo cho cái thân mình chút nào ư?”

    Tôi nhấc gáo nước tưới tắm cho khóm hoa hồng: “Tỷ cứ nhìn lũ hoa này mà xem, chúng mọc lên từ đất, đang yên đang lành lại bị người ta nhổ cả rễ, rồi bị bán tới đây, vậy mà vẫn sống được, rồi nở bông xinh tươi. Trước nay chúng không hề lo cho cái thân mình, con người ta sống ở đời, sao cứ phải lo quẩn lo quanh, nên thế nào thì cứ thế ấy, lo bò trắng răng chứ báu gì.”

    Vả lại lo lắng thì ích gì, dù sao Lí Thừa Ngân cũng chẳng tin tôi. Những chuyện xưa kia, tôi thật sự mong mình không bao giờ nhớ đến. May mà, chỉ mình tôi nhớ ra, còn chàng vẫn vậy. Thế nào đi chăng nữa thì tôi vẫn cứ đợi, đợi 1 cơ hội để kết thúc tất cả, sau đó rời xa nơi này, tôi không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân nữa.

    Tôi nói một tràng dài, làm Nguyệt Nương dở khóc dở cười, không biết phải làm sao, đành bỏ về cung.

    Tôi thấy cuộc sống ở lãnh cung cũng tàm tạm, ngoại trừ việc bữa ăn có phần đạm bạc ra, thì nơi này được cái rất yên tĩnh. Vậy mà trước kia rõ ràng tôi lại thích náo nhiệt đông vui.

    Một hôm, nửa đêm đang ngủ, đột nhiên A Độ lay tôi dậy, tôi dụi mắt hỏi: “Sao thế?”

    Nom A Độ vẻ hốt hoảng, nàng ấy kéo tôi ra bậu cửa sổ phía đông, chỉ trỏ vào chóp tường.

    Thấy có ánh lửa kèm khói đen nghi ngút bốc lên, tôi thót mình kinh ngạc. Sao tự nhiên lại có cháy?

    Lửa lan cực nhanh, chẳng mấy chốc đã cháy rần rần, A Độ đạp bung cửa sổ phía tây, chúng tôi nhảy qua rồi nàng ấy kéo tôi lao lên bờ tường đằng sau. Chưa kịp đứng cho vững, thì bỗng một luồng gió mạnh đã ập tới., A Độ vội đẩy tôi ngã dúi dụi xuống chân tường.Thấy A Độ vung đao chém thứ gì đó đánh “keng” một tiếng, hóa ra là một mũi tên bằng thép, A Độ khom lưng lao xuống, lúc sắp chụp được tôi, thì không biết ở đâu bắn ra liên tiếp những mũi tên thứ 2, thứ 3… A Độ chặn được vài phát, tên bay ào ạt như một cơn mưa châu chấu, mái ngói chóp tường bị xuyên cho tan tác. Tôi trừng mắt nhìn một mũi tên lao vút đến, cắm phập vào vai A Độ, máu tức thì bắn tóe bốn phía, tôi kêu vang “A Độ”, vậy mà nàng ấy bất chấp cả vết thương trên vai, chỉ lo vùng vẫy lao người xuống toan nắm lấy tay tôi. Gió xé bên tai ào ào, tôi nhớ cái lần chúng tôi trèo tường cũng gặp một trận tên, lúc đó A Độ không giữ được tay tôi, chính Bùi Chiếu đã đỡ tôi phen ấy. Có điều giờ đây cả tôi và A Độ đều biết rằng Bùi Chiếu không thể xuất hiện ở nơi này.

    Giữa làn mưa tên líu nhíu, cuối cùng A Độ túm được cánh tay tôi, thanh đao kéo lê trên bờ tường tóe ra những vệt lửa màu ánh kim, gạch xanh kiên cố vậy mà vẫn ào ào rủ bụi, chúng tôi mau chóng mò dần xuống, vai phải của A Độ bị thương, không đủ sức để chọc đao bám vào tường, mà tên ập đến mỗi lúc thêm đông, tôi luống cuống gào thét: “A Độ ơi, buông tay thôi! Buông tay đi!”
    Giả sử bây giờ mà buông tay, cả 2 chúng tôi chỉ có nước ngã chết cả nút. Bờ tường thì cao chót vót, dưới đất có nền đá, rơi xuống thế nào cũng ra thịt băm.

    Máu từ vai A Độ nhỏ xuống mặt tôi, tôi ra sức vằng khỏi tay nàng ấy, bất thình lình, A Độ gồng mình quăng mạnh tôi về phía trước, cơ thể bị ném vào không trung, vút lên như cưỡi mây cưỡi gió, bất giác quơ cào loạn xạ, thế rồi cũng bám được vào mái ngói chóp tường. Tay chân lóp ngóp bò lên bờ tường bao, trơ mắt nhìn A Độ trúng thêm đến vài phát tên, quả thực A Độ đã đuối sức, may còn có thanh đao cắm bờ tường, nên giảm được phần nào tốc độ rơi, sau cùng tay không còn đỡ nổi, vừa buông tay liền rơi phịch xuống nền gạch. Tôi bật khóc nức nở, giữa cái bóng đêm đen kìn kịt này, tên tấn công dồn dập vào mái ngói cạnh mình. Chúng xuyên toác gạch ngói, tạo thành một chuỗi liên tiếp những tiếng “phịch phịch” quấy động màn đêm, mảnh vỡ văng cả vào mặt tôi, đau vô cùng, tôi gào khóc gọi tên A Độ, bốn bề tên trút như mưa, ùn ùn chụp phủ quanh tôi. Chưa bao giờ tôi thấy mình bơ vơ và trơ trọi đến ngần này.

    Một bóng người chắn trước mặt tôi, kẻ đó chỉ phất tay một cái mà tên đang lao tới tấp bỗng rẽ lỗi tản tứ phía, văng trệch đi đến mấy trượng, đáp xiêu vẹo trên mặt đất. Qua làn nước mắt mờ đục, tôi thấy một màu áo trắng, sáng trong bắt mắt tựa như ánh trăng.

    Là Cố Kiếm.

    Thầy gạt phăng mớ tên láo nháo, kéo tôi phi thẳng lên mái ngói lưu ly trên nóc điện, tôi kêu gào cuống cả lên: “Còn A Độ nữa! Mau cứu A Độ!”

    Cố Kiếm đẩy tôi núp sau mỏ diều hâu, đoạn quay người nhào khỏi tường, trong màn đêm, tôi thấy ống tay áo thầy no gió căng phồng, gợi tôi tưởng đó là một cánh chim trắng sà mình xuống chóp tường. Bên dưới bất chợt xuất hiện vô số những mũi hỏa tiễn ập đến tới tấp như mưa, chúng xoẹt qua tựa ánh sao băng xé toang màn đêm tịch mịch, chúng dồn dập đổ về phía thầy, tôi nghe cơ man những tiếng tên cắm ngập trong tường “bụp bụp” chẳng khác nào một bầy thiêu thân cứ độ hè là lại thi nhau đâm đầu vào giấy chụp đèn, thắp lên không trung những đốm lửa rải rải, mà cũng chóng lụi tàn, Cố Kiếm ẵm được A Độ ngay trong tức thời, nhưng loạt hỏa tiễn kia ào tới mỗi lúc một khít rịt, dậy mùi khét lẹt đặc quánh bầu không khí, từ bốn phương tám hướng, những tiếng rít sắc lẹm kéo lê cái đuôi lửa nhằm thẳng vào Cố Kiếm. Tôi núp sau mỏ diều hâu liền nhô đầu ra nhìn, thấy lũ lượt lính mặc giáp trụ màu đen, đang giẫm đạp từng bước, cứ hết lớp này đến lớp khác siết vòng vây kín như bưng, tiếng giáp sắt nặng trĩu chà vào nhau đánh sàn sạt, mà không biết dưới ấy phục kích có đến mấy ngàn mấy vạn tên.

    Một tay Cố Kiếm ôm A Độ, tay kia cầm gươm đánh chặn làn tên bay, những mảnh tên gẫy còn đương hừng hực lửa đã phủ thành đống dưới chân, ánh lửa hắt sáng lên màu bào trắng lúc tỏ lúc mờ. Tên rào rào rụng rơi ngay trước mặt, nhưng mưa tên dày đặc khắp trời như bầy châu chấu bổ nhào đến, thầy cũng khó mà thoát được thế trận bao vây của tên. Bào trắng đã nhuốm máu, trời mới biết rốt cuộc đấy là máu thầy hay máu từ người A Độ. Mặc dù A Độ được thầy ẵm trên người, nhưng cánh tay kia buông thõng bất động, chẳng rõ vết thương thế nào. Cứ đà này, thầy và A Độ sẽ bị tên bắn chết mất thôi. Bụng dạ tôi nôn nao, mà nói cho cùng, chẳng rõ những kẻ mai phục kia là ai, chợt ngẫm những kẻ này mang khiên giáp, lại bắn hỏa tiễn sáng lóa cả Công Đung, gây ra chuyện lớn thế hẳn không phải thích khách. Mới chớm nghĩ thế đã không kìm được mình đứng phắt dậy, phía sau có kẻ khẽ ấn lưng tôi, bảo: “Nằm xuống.”

    Tôi quay đầu nhìn, thì ra là Bùi Chiếu, theo sau hắn còn có lít nhít một đống lính Vũ Lâm lang vận khinh giáp. Chúng nhoài người trên mái ngói trong im hơi lặng tiếng, tay lăm lăm cung nỏ đã dợm kéo căng, tằm ngắm rơi vào thế trận dưới kia, những kẻ này đang chiếm lợi thế, kể cả khi Cố Kiếm có thể bứt phá được thế vòng vây, ắt chúng sẽ đồng loạt giương cung, dồn thầy vào trận tên.

    Tôi sợ quýnh người, bảo Bùi Chiếu: “Mau bảo bọn họ dừng lại đi!”

    Bùi Chiếu khẽ đáp: “Bẩm Thái Tử Phi, Thái Tử điện hạ có lệnh phải tiêu diệt bằng được thích khách, xin thứ tội cho mạc tướng không thể tuân theo ý người.”

    Tôi ghì lấy vai hắn: “Người đó không phải là thích khách, vả lại thầy còn đang bảo vệ A Độ, A Độ cũng không phải thích khách. Mau bảo bọn chúng dừng tay đi!”

    Bùi Chiểu tỏ vẻ bối rối, thế rồi những ngón tay tôi đang víu chặt cũng từ từ được hắn gỡ khỏi người. Tôi điên lên mắng hắn: “Cứ cho như Cố Kiếm từng hành thích bệ hạ, nhưng nào đã làm rụng đến 1 cọng tóc của người. Vả lại các ngươi muốn bắt Cố Kiếm thì cứ bắt đi, nhưng A Độ vô tội, ngươi nhanh chóng bảo người của mình dừng tay đi.”

    Tiếng Bùi Chiếu trầm trầm: “Điện hạ đã có lệnh, một khi thích khách xuất hiện, bất kể thế nào cũng phải bắn chết được hắn, tuyệt đối không để cho hắn thoát. Xin Thái Tử Phi thứ lỗi, mạc tướng không thể nghe theo ý của người.”

    Tôi phẫn nộ, nói: “Vậy còn ta? Nếu như Cố Kiếm đang giữ ta trong tay, các ngươi cũng phóng tên bắn chết cả ta lẫn thầy ư?”

    Bùi Chiếu ngước nhìn tôi với đôi con ngươi u ẩn, ánh lửa của trận tên lạc nơi xa dường như châm nhóm từng chùm hoa lửa li ti trong mắt hắn, thế rồi chỉ chớp mắt đã tàn. Tôi nói: “Nhanh bảo bọn chúng thôi đi, bằng không ta nhảy xuống chết cùng họ bây giờ đấy!”

    Bùi Chiếu bất ngờ giơ tay, bảo: “Thứ lỗi cho mạc tướng thất lễ!” Tôi chỉ cảm nhận được huyệt vị mình tê rần một cái, rồi chân đã nhũn nhão ngồi oặt xuống ngay tại chỗ, tứ chi cứng còng không tài nào nhúc nhích được. Hắn dám điểm huyệt khiến tôi tê điếng cả người. Tôi chửi lấy chửi để, vậy mà hắn lờ đi, chỉ ngoảnh lại, hô: “Chuẩn bị!”

    Ba ngàn quân trên nóc điện soàn soạt nhỏm dậy, bọn chúng nửa ngồi nửa quỳ, tay kéo căng dây cung, đầu mũi tên chỉ thẳng vào 2 người bị bủa vây giữa thế trận lửa dưới kia.

    Tôi ức đến ứa nước mắt, chỉ biết gào thét: “Bùi Chiếu! Hôm nay nếu như ngươi dám bắn, ta nhất định sẽ giết ngươi!”

    Bùi Chiếu hoàn toàn bỏ ngoài tai lời tôi, hắn quay đầu thét lớn: “Bắn!”

    Tôi nghe thấy những tiếng rít hỗn độn xé toạc không gian, cơ man là tên bay vọt qua đỉnh đầu, lao thẳng vào người đứng giữa vòng lửa. Cố Kiếm bay vọt lên, toan thoát thân, song lại bị cơn mưa tên dầy đặc chặn lùi. Mắt tôi đã nhòe nước, chỉ còn nhìn thấy trận tên ngùn ngụt bao phủ đất trời, Cố Kiếm bất ngờ gạt tay, thả A Độ xuống đất. Hẳn thầy muốn tự mình thoát thân trước đã, nhưng tên bay mỗi lúc một khít rịt, mũi này nối đuôi mũi kia, không chừa lấy một khe hở, bóng dáng Cố Kiểm lẫn A Độ hoàn toàn bị che khuất dạng. Tôi điên cuồng nổi cơn mắng chửi như tát nước, vậy mà dường như Bùi Chiều lại nhắm mắt làm ngơ. Tôi bật khóc ngằn ngặt, trước kia chưa bao giờ tôi khóc thê thảm nhường này, thậm chí tôi còn van nài hắn ngừng tay, vậy mà Bùi Chiếu không màng ngó ngàng.

    Chẳng biết là lâu hay chóng, cuối cùng, Bùi Chiếu hô ngừng, lúc ấy mắt mũi tôi nhòe nhoẹt, chỉ còn thấy dưới kia tên đã chất thành 1 gò núi nhỏ, ngay cả bóng dáng người ngợm cũng chẳng thấy đâu. Hàng Vũ Lâm lang thân đeo khiên giáp nặng trĩu đứng chắn đầu đã lùi phía sau một bước, để lộ ra dãy quân bao bọc thứ 2, trên tay chúng lăm lăm giáo mác, chúng do thám gò núi chất bằng tên kia, rồi hò nhau hiệp lực xới tung đám tên ra.

    Tôi thấy màu áo trắng của Cố Kiếm đã sũng máu, gần như đã hóa thành bào đỏ.

    Tôi há hốc miệng mà không tài nào khóc bật ra được tiếng, những giọt nước mắt to đùng men theo gò má, chảy vào mồm miệng, đắng nghét mà chát xít. A Độ ơi, A Độ của tôi ơi.

    A Độ của tôi ba năm nay luôn sát cánh bên nhau, đến hận nước thù nhà còn chưa trả, mà đã theo tôi vượt vạn dặm xa xôi tới đây, A Độ của tôi luôn che chở cho tôi bằng cả tính mạng mình… Vậy mà tôi không tài nào, tôi giương mắt nhìn nàng ấy bị tên bắn chết.

    Chẳng rõ tự lúc nào, Bùi Chiếu đã thả tôi xuống trước điện, hắn vừa giải huyệt đạo trên người, tôi đã giật lấy thanh kiếm rồi chỉ thẳng vào mặt hắn. Hắn nhìn tôi, đoạn bảo: “Thái Tử Phi, người muốn giết xin cứ giết, lệnh vua khó cưỡng, mạc tướng không thể không theo.”

    Tôi lảo đảo chạy lại phía A Độ, bọn lính chúng đứng chặn ở giữa không cho tôi qua, tôi liếc nhìn Bùi Chiếu, hắn phất tay, thế rồi bọn Vũ Lâm lang mới rẽ ra một khe hở.

    Trên người ngợm trên mặt mũi A Độ vấy toàn máu tươi, tôi gào khóc, nước mắt lã chã đổ xuống khuôn mặt nàng ấy, thân thể A Độ vẫn còn ấm, tôi vươn tay sờ soạn khắp nơi, chỉ muốn tìm xem có chỗ nào bị thương, còn nước chữa trị được chăng. Trên người hoàn toàn không bị trúng tên, chỉ dưới đùi là trúng vài phát, tôi vừa khóc vừa gọi tên A Độ, thế rồi mí mắt nàng ấy khẽ lay động.

    Tôi nửa mừng nửa kinh ngạc, không ngừng nức nở gọi tên A Độ. Cuối cùng thì A Độ cũng mở mắt, tuy chưa mở nổi lời. Sau đó đành gắng gượng chỉ vào Cố Kiếm đang nằm bên, tôi không hiểu gì cả, có điều mắt nàng ấy ngóng sang Cố Kiếm, đoạn nắm chặt vạt áo tôi.

    “Ngươi muốn ta qua đó xem à?” Tôi dợm đoán thế, nàng ấy khẽ gật đầu.
     
  19. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 38
    Tôi không rõ A Độ có ý gì, nhưng giờ đây giữa cơn hấp hối, nàng ấy muốn tôi làm gì, tôi quyết sẽ làm bằng được.

    Tôi đến bên Cố Kiếm, đôi mắt thầy khép hờ, thầy vẫn còn sống.

    Tôi kinh ngạc vô cùng, mắt thầy hơi chớp chớp, hiển nhiên đã nhận ra tôi, sau lưng thầy không biết đã trúng đến mấy chục mấy trăm mũi tên, chi chít như lưng một con nhím, không chừa lấy một tấc da thịt nguyên vẹn. Lòng tôi quắn đau, bao lần thầy từng cứu tôi, lúc ở núi Thiên Hằng thầy đã cứu tôi, mới nãy thôi giữa làn tên, thầy cũng cứu tôi. Tôi khụy xuống, gọi tên thầy.

    Tôi không hề biết Lí Thừa Ngân lại giăng cái bẫy mai phục này, là tôi liên lụy đến thầy.

    (*)có một sự rất ngược đời, đó là trong series Tứ Thiếu Kinh Thành thì mình chẳng quý nam phụ nào cả, dù các anh cũng rất tuyệt vời, không có gì đáng chê trách, nhưng trong 1 loạt những truyện khác thì mình lại chỉ muốn chết vì mấy anh nam phụ thôi ;__; thương chết mất Cố Kiếm ơi, Tiểu Quang ơi, Tiêu Sơn ơi, Chí Tín ơi, Thanh Du ơi ;__;

    Khóe môi thầy mấp máy, tôi xích lại gần hơn, Bùi Chiếu tiến lên toan ngăn tôi: “Nương nương, xin người cẩn thận kẻo thích khách giở trò.” Tôi bực mình đáp: “Thầy đã ra nông nỗi này rồi, lẽ nào còn tấn công được ai ư?”

    Tôi kề tai bên môi Cố Kiếm, nghe thầy thì thào: “A Độ… sao rồi…”

    Tôi nào có ngờ thầy lại hỏi A Độ, tôi nói: “Không sao đâu, chỉ bị thương thôi.”

    Khóe môi thầy nhích lên như đang mỉm cười.

    Toàn bộ phần lưng của thầy bị chi chít tới hàng trăm vết thương, trong khi A Độ chỉ bị thương ở đùi, những chỗ khác tuyệt nhiên không hề hấn gì. Chẳng hiểu làm thế nào mà tự dưng tôi lại đoán ngay ra rằng: “Thầy che cho cô bé ấy ư?”

    Sư phụ không đáp, mà chỉ nhìn tôi với ánh mắt ngây dại.

    Bỗng chợt tôi thấy mình xao lòng, đáng nhẽ ra, thầy đã thoát được rồi, vậy mà thầy lại cứu A Độ, rõ ràng thầy đã thả A Độ xuống, chỉ cần bỏ lại A Độ, chưa biết chừng cố thì có thể thoát được cái thân, thế mà thầy vẫn không nỡ, thế mà thầy liều cả mạng sống của mình để cứu A Độ. Sao thầy lại cứu A Độ?

    Rõ ràng tôi biết câu trả lời, vậy mà vẫn cố hỏi: “Sao thầy lại cứu A Độ…”

    “Cô bé đó…nếu như cô bé đó…” tiếng thầy khẽ lắm, dường như sẽ bị gió cuốn phăng bất cứ lúc nào, tôi đành xích lại gần hơn. Chỉ đủ nghe được thầy thều thào bảo: “…nàng sẽ…sẽ rất đau lòng…”

    Lòng tôi đau quặn thắt, vậy mà thầy như còn cười: “Ta không…không thể…để nàng đau lòng được…”

    Tôi bảo: “Sao thầy ngốc thế này, ta lại chẳng thích thầy…sao thầy khờ thế…”

    Thầy đăm đăm nhìn tôi: “Là ta…có lỗi với nàng…”

    Tôi đọc thấy trong đôi mắt đó là cả bầu ân hận, mà bản thân chẳng nỡ lòng nào, rõ ràng thầy sắp không trụ được nữa rồi, cuối cùng thì tôi cũng giàn giụa nước mắt: “Thầy ơi…”

    Mắt thầy trông lên bầu trời sao, hơi thở gấp dần: “Sao…ngày hôm đó…cũng sáng…như hôm nay…nàng ngồi trên cồn cát…hát…hát bài…con cáo…”

    Thầy nói nói đứt đoạn không đủ xếp thành câu, trong nháy mắt tôi chợt hiểu, liền dịu giọng bảo: “Ta biết…ta hát…ta hát cho thầy nghe nhé…”

    Tôi khẽ nâng đầu thầy lên, mặc kệ Bùi Chiếu nghĩ sao, mà cũng mặc kệ đám Vũ Lâm Lang nghĩ gì, đau đớn xót xa ùa vào lòng, tôi nhớ bài hát ấy, bài hát duy nhất mà tôi thuộc:

    “Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về…..”

    Mấy câu ngắc ngứ bật thành lời, đáng lẽ ra, bài này tôi thuộc lắm, thế nhưng hôm nay chẳng hiểu tại sao mà hát câu nào câu nấy đều lạc giọng, tôi cứ hát, cứ hát, rồi mới nhận ra mình đang khóc như trút, nước mắt vương rơi trên khuôn mặt Cố Kiếm, thầy vẫn đang mỉm cười nhìn tôi, cho đến khi toàn bộ cơ thể nguội dần, và lạnh ngắt… tay thầy mới thõng rơi trên mặt đất. Bộ quần áo màu trắng bị tên bắn loang lổ, rách rưới đến tả tơi, tôi thấy có thứ gì lấp ló dưới lớp vạt áo, liền khẽ rút ra xem, thì ra là một đôi cờ ngải tằmnhuốm màu bởi máu, tôi chợt nhớ buổi tối hôm Nguyên Tiêu ấy, thầy mua cho tôi 1 đôi cờ ngải tằm, rồi tôi từng gỡ xuống, quẳng dưới chân thầy, vậy ra thầy vẫn luôn giữ nó bên mình. Thứ tôi vứt đi mà thầy lại cất nó như vật quý giá trong lòng mình thế này ư.

    Tôi quỳ gối bên thầy buông giọng hát thảm thiết. Dường như có trận gió sa mạc quét qua, gió xoáy xiết cuống họng, đau không thể nói hết thành lời: “Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng. Ô thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…”

    Bùi Chiếu bước lại gần, đỡ tôi: “Thải Tử Phi…”

    Tôi vung tay vả vào mặt hắn, dường như hắn đã ngẩn người, nhưng vẫn kéo tôi đứng dậy kì được: “Mạc tướng đưa Thái Tử Phi đến gặp Điện hạ.”

    “Ta không gặp ai hết!” Tôi lạnh lùng nói, đoạn gườm hắn, “Lũ các người… các người…” tôi lắp bắp 2 lần mà lại không nghĩ ra từ nào để mắng chửi chúng. Chẳng qua chúng chỉ nghe theo lệnh của Lí Thừa Ngân, Lí Thừa Ngân mới chính là kẻ đầu trò.

    Cố Kiếm đã chết, A Độ thì đang lay lắt.

    Tất cả là tại tôi, là vì tôi.

    Đáng lẽ ra, Cố Kiếm không thể lọt chân vào cái bẫy chúng giăng, nhưng chỉ vì tôi.

    Đáng lẽ ra Cố Kiếm đã không chết, tất cả chỉ tại tôi.

    Chính tôi bảo thầy cứu A Độ, nên thầy liều mình cứu A Độ

    Hết lần này đến lần khác, những người thân thiết lần lượt bỏ mạng vì tôi.

    Bọn chúng giết ông ngoại, giết mẹ, giết Hách Thất, giờ chúng lại giết cả Cố Kiếm…

    Bọn chúng giết người thân của tôi, giết những người yêu thương tôi, bọn chúng giết không trừ một ai…

    Bùi Chiếu nói: “Vết thương của A Độ cần chữa trị kịp thời, bẩm Thái Tử Phi, mạc tướng đã sai người đi mời Thái Y…”

    Tôi lạnh lùng trừng mắt với hắn, song Bùi Chiếu không hề né tránh ánh nhìn của tôi, hắn cũng chẳng biện bạch nhiều lời.

    Tôi không còn thiết nói gì thêm với hắn.

    Có điều vết thương trên người A Độ rất trầm trọng, tôi không để bọn chúng chạm vào người A Độ, tự tôi bế nàng ấy lên. Lần nào A Độ cũng ẵm tôi, cuối cùng cũng có ngày chúng tôi đổi vị trí cho nhau, cơ thể A Độ nhẹ bẫng, lần trước A Độ bị thương nặng, nhờ có Cố Kiếm cứu mới sống sót, lần này chẳng biết có vượt qua được không?

    Xương bả vai trái của A Độ bị gẫy, bên cạnh đó còn gãy cả 1 chiếc xương sườn. Thái Y rút tên, sau đó cố định lại xương, đắp thuốc xong xuôi, thì A Độ đã chìm vào mê man.

    Tôi co quắp bên giường bệnh, ai đến khuyên cũng kệ, thậm chí chẳng buồn ngước mắt nhìn lên. Hai tay ôm chặt lấy mình, lòng đã quyết, đợi A Độ khỏe hơn, tôi sẽ dẫn nàng ấy về Tây Lương.

    Bấy giờ quần áo mặc trên người đã kếp chặt máu, tóc tai bù xù xổ tung, lúc Lí Thừa Ngân đến, chàng chau mày, đoạn bảo: “Thay quần áo cho Thái Tử Phi.”

    Vĩnh Nương bối rối vô cùng, vừa dợm bước lên, tôi đã rút thanh đao ra, gườm gườm với bà ấy.

    Lí Thừa Ngân phẩy tay, thế là kẻ hầu người hạ đều lui cả ra ngoài.

    Chàng bước thẳng đến trước mặt tôi, qua lọn tóc lòa xòa, tôi thấy mũi giầy chàng cứ tiến từng bước, từng bước lại gần… Tôi tính vung đao, thì chàng lại chậm rãi khom lưng ngồi xuống, nhìn tôi.

    Tôi cũng thẳng thừng nhìn lại.

    Chàng khẽ nói: “Tiểu Phong, kẻ đó tất phải loại trừ, võ công của hắn lợi hại hơn người, hắn dám uy hiếp hoàng đế, giữa vòng vây truy sát mà hắn thoát dễ như bỡn, ta buộc phải giết hắn…”

    Thậm chỉ tôi còn không tức giận, mà chỉ lạnh nhạt nhìn chàng.

    “Để nàng làm mồi nhử là lỗi của ta, nhưng ta bất đắc dĩ mới phải vậy thôi. Triệu Lương Đệ xuất thân thế gia, cả cha và anh trai ả đều là trọng thần, ta cần một lí do chính đáng mới trừ khử được ả. Nhà họ Triệu và Cao tế tướng cấu kết với nhau, sỡ dĩ Phụ hoàng muốn loại bỏ bè phái nhà họ Cao nên mới hạ quyết tâm lật lại vụ án nhà họ Trần, án cũ của Trần Thị một khi được thẩm duyệt lại, Cao Vu Minh ắt sẽ bị trừng trị… vụ Triệu Lương Đệ hãm hại nàng… thoạt đầu ta chỉ có thể tương kế tựu kế… giờ nàng yên tâm nhé, mọi việc đã kết thúc cả rồi…”

    Câu chuyện chàng nói quá phức tạp, tôi không thể hiểu nổi.

    Chàng lại kể thêm rất nhiều chuyện, phần lớn là liên quan tới cục diện chính trị trong triều. Nhân có oan tình từ mười năm trước của gia đình Nguyệt Nương, nên mọi việc mới được truy xét, giờ thì họ Cao đã bị tịch biên cả nhà, mà họ Triệu cũng bị xử tử, vụ Triệu Lương Đệ đầu độc chết Tự Bảo Lâm, hòng hãm hại tôi, giờ đây cũng bị phơi trần triệt để, ả bị trục xuất khỏi Đông Cung, tủi hổ mà quyên sinh… Xưa kia nhà họ Cao ỷ vào thế lực của Hoàng Hậu, sau Hoàng Hậu bị phế bỏ, lũ chúng lại âm mưu đưa Cao Quý Phi ra hòng tranh thủ ngôi vị Hoàng Hậu. Bên cạnh đó, bọn họ Triệu càng mưu mô hơn, nhà họ Triệu từng trợ giúp Hoàng Hậu lập kế hãm hại mẹ ruột chàng. Hậu cung mãi mãi chồng chéo những hục hặc hằm hè, những âm mưu toan tính…Chàng đã báo được thù cho mẹ mình, toàn bộ những kẻ dính líu đến chuyện 20 năm về trước, chàng đều lôi ra truy xét, chuyện đắc ý nhất bản thân chàng từng làm trên đời, có lẽ là thế này chăng?
    Cái gì mà Cao tế tưởng, cái gì mà nhà họ Triệu, cái gì mà Cố Kiếm, thậm chí còn có cả Nguyệt Nương.

    Tôi không cắt nghĩa được.

    Nhất là khẩu khí của chàng khi nói về Triệu Lương Đệ, nó dửng dưng như thể chàng đang kể về một con kiến vừa bị nghiền chết

    Người con gái từng ‘đầu ấp tay gối’ với chàng ba năm, mà chàng từng coi như báu vật đấy sao.

    Thì ra là diễn kịch cả ư?

    Lẽ nào mảy may ân tình cũng chưa từng ư?

    Trước kia tôi rất ghét Triệu Lương Đệ, nhất là khi ả vu cáo hãm hại tôi. Vậy mà giờ khắc này đây, tôi chỉ cảm thấy ả rất đáng thương, thật sự đáng thương vô cùng.

    Trái tim của Lí Thừa Ngân hẳn được đẽo từ đá mà ra. Nói chăng đến 1 con người, cho dù có là con chó con mèo, nuôi nó ba năm cũng chẳng nhẫn tâm giết bỏ… Tôi tưởng rằng thời gian ba năm, sự đời rồi sẽ biến đổi, thế nhưng kẻ duy nhất không hề thay đổi chính là chàng. Dù chàng có từng nhảy xuống sống Quên hay không, dù chàng có từng quên đi tất cả hay không, thì chàng vĩnh viễn không đời nào quên được quyền lực của mình, mưu toan của mình, chàng chưa một lần quản ngại lợi dụng những kẻ xung quanh, chàng không hề tiếc rẻ lợi dụng tình cảm, chỉ cốt sao đạt được mục đích của bản thân.

    Đoạn chàng vươn tay, dợm xoa mặt tôi.

    Tôi thấy gớm liền bảo: “Cút đi!”

    Lí Thừa Ngân nói: “Bọn họ không làm nàng bị thương đâu, họ đều là những tay cung cự phách trong Vũ Lâm Lang do đích thân Bùi Chiếu đôn đốc, những mũi tên ấy bắn ra, chỉ đáp xuống quanh nàng, tuyệt đối không một mũi nào có thể bắn trúng nàng. Ta không nên mạo hiểm cả nàng, thực ra lòng ta thấy hối hận lắm…”

    “Vậy A Độ thì sao?” Tôi lạnh nhạt nhìn chàng, “Lỡ như A Độ chết cùng Cố Kiếm thì sao…”

    Chàng lại ngẩn người, đoạn bảo: “Tiểu Phong, A Độ chỉ là một đứa nô tì…”

    Tôi tát bốp vào mặt chàng, chàng cũng không hề né tránh, tôi giận run người: “Cô bé ấy dùng cả tính mạng để bảo vệ ta, cô bé ấy theo ta lội vạn dặm xa xôi từ Tây Lương tới đây… A Độ trong mắt chàng chỉ là 1 đứa nô tì, nhưng trong lòng ta, cô bé ấy như chị em ruột thịt.” Tôi nhớ Cố Kiếm, nhớ thầy hy sinh thân mình cốt cứu A Độ, thầy nói với tôi rằng, thầy không muốn làm tôi đau lòng thêm lần nữa. Đến cả Cố Kiếm cũng hiểu, nếu A Độ ra đi, tôi sẽ đau lòng mà chết.

    Lí Thừa Ngân với tay ôm tôi, chàng bảo: “Tiểu Phong ơi, ta thích nàng. Cái ngày ta ốm, khư khư nắm tay nàng, tận lúc tê rần mà nàng vẫn không buông, lúc ấy ta đã tự nhủ, sao trên đời lại có con bé ngốc thế, nhưng ta không ngờ, ta lại đi thích cô bé ngốc nghếch là nàng. Khi nàng bị thích khách bắt đi, quả thực ta sốt ruột đến phát điên lên được… Lúc ấy ta tự vấn bản thân, nếu như không cứu được nàng, ta phải làm sao đây… Xưa nay ta chưa từng sợ hãi… vậy mà lúc nàng trở về, nàng bảo rằng nàng thích Cố Tiểu Ngũ, ta biết Cố Tiểu Ngũ chính là Cố Kiếm, ghen tuông khiến ta suýt hóa rồ. Phải, ta không muốn tha cho hắn, bởi hắn không những là thích khách mà còn là Cố Tiểu Ngũ. Giờ Cố Tiểu Ngũ chết rồi, là lỗi của ta, ta không nên giết hắn. Nhưng Tiểu Phong ơi, ta bất đắc dĩ mà thôi, từ nay trở về sau, sẽ còn ai dám hại nàng nữa, ta đảm bảo với nàng, nàng tin ta một lần, nhé?”

    Nước mắt tôi rơi ướt mu bàn tay mình, sao tôi lại thích khóc thế này?

    Ba năm trước nhảy xuống sống Quên, lòng não nùng chỉ mong vĩnh viễn sẽ quên đi con người này. Cuối cùng tôi đã thật sự quên chàng, tôi chỉ nhớ những chuyện kể từ sau khi lấy Lí Thừa Ngân mà thôi, lúc ấy chàng khôi ngô tuấn tú, chàng ôn tồn lịch thiệp, chàng như thân ngọc trước gió. Lúc ấy tôi một lòng một dạ mong mỏi chàng thích mình, dẫu thoảng khi chàng cười với tôi thôi cũng được.

    Giờ chàng ôm tôi trong lòng, nói những lời đắm say, thế nhưng thảy những thứ ấy không phải điều tôi ao ước.

    Tôi lắc đầu, chuồi người ra khỏi vòng tay chàng: “Thầy không phải Cố Tiểu Ngũ, Cố Tiểu Ngũ đã chết lâu rồi.”

    Chàng ngơ ngác nhìn tôi, lâu lắm mới cất được lời: “Ta đã nhận lỗi cả rồi, nàng còn muốn phải làm sao?”

    Tôi thấy mình đã rệu rã, thật sự không còn gì muốn nói thêm nữa, đành ngả đầu vào cột trụ: “Thì ra chàng thích Triệu Lương Đệ như thế đấy, chỉ vì ả mà ngày ngày chàng cãi vã với thiếp. Vậy mà giờ đây chàng lại nói, chàng chỉ lừa ả thôi. Thoạt đầu chàng qua lại mật thiết với Cao tế tướng, giờ lại bảo, lão đại nghịch vô đạo, nên tịch biên cả nhà… Thoạt đầu chàng ghét nhất là thiếp, hễ mở miệng ra là lại bảo sẽ đuổi thiếp đi, giờ chàng nói chàng có tình cảm… loại người như chàng… chàng bảo thiếp phải tin thế này đây…”

    Lí Thừa Ngân ngưng bặt một lúc: “Tiểu Phong, ta là Thái Tử, nên có rất nhiều chuyện, đó là bổn phận của ta.”

    Tôi bật cười: “Phải, một kẻ muốn làm được hoàng đế, tránh sao khỏi lòng dạ sắt đá, nhẫn tâm và máu lạnh.”

    Khi đó, Cố Kiếm nói với tôi câu này, tôi hoàn toàn không bận tâm, giờ cuối cùng đã hiểu.

    Một kẻ khi đang tiến dần đến ngôi vị hoàng đế, chàng ta ruồng rẫy lên rất nhiều rất nhiều những tình cảm thân thiết. Như tình cảm giữa tôi và A Độ, chàng không thể hiểu được, bởi vì làm gì có. Chàng nào đã từng tin tưởng ai, nào đã dành cho ai.

    Tôi hỏi: “Nếu một ngày nào đó, thiếp là mối nguy họa đe dọa ngôi vua của chàng, giang sơn của chàng, xã tắc của chàng, liệu chăng chàng sẽ giết cả thiếp?”

    Vậy mà Lí Thừa Ngân khỏa lấp: “Tiểu Phong, so với Hoàng Cung, Đông Cung là nơi nguy hiểm hơn cả, làm Thái Tử còn khó hơn làm Hoàng đế… con đường ta đi đầy gian truân, nàng không biết…”

    Tôi ngắt lời chàng: “Chàng sẽ thế phải không, sẽ có một ngày chàng giết cả thiếp?”

    Chàng đau đáu nhìn mặt tôi, cuối cùng bảo: “Ta không thế.”

    Tôi cười, từ tốn nói: “Chàng sẽ thế đấy.”

    Vẫn thủng thẳng từng tiếng: “Chàng có biết, có một nơi gọi là sông Quên không?”

    Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi.

    “Nước sông Quên, đặng quên tình…” tôi chậm rãi quay người, miệng mãi ngân nga bài ca dao quen thuộc, “Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng. Ô thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…”

    Tôi biết, Cố Tiểu Ngũ trong lòng tôi đã chết thật rồi.

    Lí Thừa Ngân biết tỏng Triệu Lương Đệ sai người hạ độc, hại chết Tự Bảo Lâm, vậy mà chàng thản nhiên như không.

    Người con gái từng ‘đầu ấp tay gối’ với chàng, tính mệnh cũng chỉ như rơm như rác.

    Rõ ràng Lí Thừa Ngân chỉ lợi dụng Triệu Lương Đệ, vậy mà ngày ngày chàng vẫn có thể đằm thắm mặn nồng với ả.

    Người con gái chàng từng thề ước bên nhau đến bạc đầu, tính mệnh cũng chỉ như rơm như rác.

    Lí Thừa Ngân biết Triệu Lương Đệ hãm hại tôi rành rành ra đấy, vậy mà chàng tỉnh bơ, chàng vẫn cố dồn tôi rơi vào thế hiểm nguy, lợi dụng cái thế hiểm nguy ấy hóa lại dụ được Cố Kiếm, rồi thừa cơ giết chết thầy.

    Chàng sẽ không nhảy xuống sông Quên với tôi lần nữa đâu.

    Cố Tiểu Ngũ trong lòng tôi đã ra đi như thế thật rồi.

    Bất kể ngày đêm tôi không quản cực nhọc túc trực bên giường A Độ, lúc vết thương chuyển biến xấu, nàng ấy phát sốt, tôi lại nhớ đến Cố Kiếm, lần trước có Cố Kiếm cứu giúp, lần này chẳng còn ai.

    Lúc A Độ sốt cao nhất, tôi cũng ngã bệnh một trận.

    Hôm đó trời mưa xối xả, tự tôi bưng một chậu đá qua cầu mái hiên, có điều trượt chân, ngã một vố rất đau.

    Lúc ấy ngã cũng chỉ sứt trán thôi, vậy mà đến tối, tôi lại lăn đùng ra sốt.

    A Độ cũng sốt, Lí Thừa Ngân nói tại A Độ truyền bệnh cho tôi, nên chuyển A Độ

    đi. Chàng nói có thế bệnh tôi mới khỏi được, để A Độ ở đấy chỉ tổ lây lan.

    Là ai nào đã hại A Độ ra nông nỗi này hả?

    Tôi tức điên lên, tay lăm lăm thanh đao của A Độ, không một kẻ nào dám tiến gần.

    Lí Thừa Ngân cũng bực, liền sai người kéo tôi đi kì được.

    Không biết chúng đưa A Độ đến nơi nào nữa, tôi thì bị nhốt trong điện, chẳng còn hơi sức đâu gây gổ, tôi chỉ cần A Độ, mà A Độ giờ chưa rõ ở đâu.
     
  20. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    ĐÔNG CUNG
    Chương 39
    Tôi không ăn cơm, cũng không uống thuốc, Vĩnh Nương bưng thuốc lên, tôi gồng sức hất văng bát thuốc trên tay bà ấy đi, tôi chỉ cần A Độ thôi, tôi không thể ở lại Đông Cung này thêm một ngày nào nữa, tôi cần A Độ, tôi cần về Tây Lương.

    Tôi ngủ suốt một ngày trời, giấc ngủ nặng nề mê man, những cơn ác mộng tìm về triền miên. Tôi mơ thấy mẹ, tôi mơ thấy mình khóc nhiều biết mấy, tôi mơ thấy cha, cảm nhận bàn tay thô ráp của người xoa đầu mình, cha bảo: “Con gái ơi, khổ cho con rồi.”

    Con không khổ, con chỉ thấy kiệt quệ vì mỏi mệt, không sao vùng vẫy được nữa. Con như một con cá đang bên bờ hấp hối; lại giống một bông hoa đã đến độ héo tàn.

    Lí Thừa Ngân và Đông Cung là thứ gông cùm nặng nề nhất trên đời này, con không cõng nỗi nó nữa.

    Sau đó Vĩnh Nương nhẹ nhàng lay tôi dậy, bà ấy bảo: “A Độ về rồi.”

    Quả thực họ đã đưa A Độ về, chỉ có điều vẫn hôn mê, nằm bất tỉnh trên giường, cũng chẳng rõ vì sao Lí Thừa Ngân lại đổi ý.

    Tôi xoa tay A Độ, cảm giác nóng ran hơn cả tay mình, A Độ vẫn đương cơn sốt, thế nhưng chỉ cần A Độ ở đây, để tôi được chăm sóc nàng ấy, thế là đủ.

    Vĩnh Nương không nói gì thêm, chỉ bảo: “A Độ về rồi, Thái Tử Phi uống thuốc đi.”

    Tôi tu một hơi hết sạch bát thuốc to đùng mà đắng ngắt, đắng kinh khủng, thậm chí bã quả hạnh ngâm tôi cũng bỏ qua không ăn. Tôi ngoảnh mặt cười với Vĩnh Nương, rồi bỗng dưng chẳng hiểu vì sao mà bà ấy lại rỏ giọt nước mắt.

    Tôi lấy làm lạ, hỏi: “Vĩnh Nương này, bà sao thế?”

    Vĩnh Nương không nói, chỉ thẽ thọt: “Tóc Thái Tử Phi bị rối rồi, để nô tì hầu người chải tóc.”

    Chiếc lược sừng lướt trên tóc mang cảm giác dễ chịu lạ. Đôi bàn tay Vĩnh Nương dịu hiền mà ấm áp, như đôi bàn tay mẹ. Bà chải đầu cho tôi, giọng đều đều kể: “Nhớ hồi Thái Tử Phi mới vào Đông Cung đã đổ bệnh nặng, mấy đêm liền người nóng hầm hập. Thái Y lại không dám tùy tiện cắt thuốc, sợ nguy hiểm đến tính mạng. Nô tì túc trực bên người, lúc ấy người vẫn chưa thạo tiếng Trung Nguyên, trong mơ người cứ khóc gọi ‘thiện tử, thiện tử’, sau này nô tì mới biết, thì ra thiện tử trong tiếng Tây Lương có nghĩa là mẹ.”

    Tôi quên cả rồi, chỉ nhớ dạo chân ướt chân ráo bước vào Đông Cung, tôi đã lăn ra ốm, bấy giờ nhờ Vĩnh Nương và A Độ chăm mãi mới khỏi được.

    “Năm đó người mới có 15 tuổi.” Vĩnh Nương nhẹ nhàng giúp tôi vấn tóc lên, “Thế là loáng cái đã ba năm trôi qua.”

    Tôi ngoái đầu nhìn thì bà ấy cười: “Ngày sinh của Nương Nương, trong cung quên, mà điện hạ cũng quên, hôm nay Nương Nương tròn 18 tuổi rồi.”

    Quả là tôi quên khuấy mất, A Độ còn đương sống dở chết dở, hồn vía nào mà đi nhớ tới sinh nhật. Dịch đình lệnh đáng lẽ phải nhớ những chuyện này, có điều, nghe nói tình hình trong cung hiện nay đang rất lộn xộn, từ lúc Cao Quý Phi xảy ra chuyện, những kẻ còn lại chắc chẳng ai chú ý đến những việc cỏn con.

    Duy nhất có Vĩnh Nương là còn nhớ.

    Bà ấy lấy lược bí chăm chút chải cho tôi hai bên tóc mai: “Từ giờ về sau, Thái Tử Phi đã là người lớn thật rồi, không nên buông thả làm liều nữa.”

    Buông thả làm liều?

    Tôi thấy bốn chữ ấy xa xôi lắm…Tôi của ngày xưa buông thả làm liều dường như đã khuất mặt từ lâu rồi. Ba năm trước, tôi đã chết ngay giữa dòng sông Quên, mà tôi của ngày nay, chỉ ăn nhờ ở đậu trong cái xác của nàng ta, rồi sống quãng đời 3 năm đầy ngây ngô và dại dột. Tôi rũ quên tất thảy, tôi quên sạch thù sâu oán nặng, tôi chung sống với kẻ thù suốt 3 năm nay. Cho đến khi, tôi lại yêu chàng lần nữa.

    Có điều chàng mãi mãi sẽ chẳng nhớ ra tôi đâu.

    Cũng may, thà rằng chàng mãi mãi đừng nhớ.

    Sức khỏe của A Độ dần hồi phục cũng là lúc mùa hè sắp tàn.

    Trong thời kỳ dưỡng thương, nàng ấy dùng tay ra hiệu, kể cho tôi nghe 1 số việc, ví dụ như, Cố Kiếm đã cứu nàng ấy thế nào. Thì ra từ cái lần lâu lắm rôi, vì giúp A Độ trị thương mà Cố Kiếm hao tổn mất một nửa nội lực. Nếu không phải vậy, có lẽ thầy đã chẳng chết vùi giữa mưa tên.

    A Độ cũng ngốc y như tôi vậy.

    Rồi tôi chậm rãi ra dấu tay hỏi nàng ấy: “Ngươi thích thầy đúng không?”

    A Độ không trả lời, nhưng một màn sương mỏng như dâng đầy lên trong mắt, đoạn ngoảnh mặt trông ra hoa sen ngoài cửa sổ, một lúc mới quay vào, nhoẻn cười với tôi.

    Tôi biết rõ nàng ấy vừa mới khóc xong.

    Cô bé này hệt như tôi, đến lúc khóc mà cũng cười được.

    A Độ nói tôi mới biết khá nhiều việc, thí dụ như lần đầu tiên Lí Thừa Ngân bị đâm, lúc A Độ đuổi theo thích khách, bị gã đánh trọng thương, tôi cứ tưởng đó là người do Hoàng Hậu phái đến, hóa ra sau cùng A Độ lại phát hiện sự thật không phải thế.

    “Người của Điện hạ.” A Độ viết trên giấy rằng, “Tôn Nhị cầm đầu.”

    Cái tên ấy khiến tôi kinh ngạc quá đỗi. Tôn Nhị? Nếu Tôn Nhị là người của Lí Thừa Ngân, thế thì Hoàng Hậu bị vu oan ư? Vậy ra không phải bà ấy sai người hành thích Lí Thừa Ngân, mà chỉ là khổ nhục kế của bản thân Lí Thừa Ngân thôi sao? Lúc ở phường Ngọc Minh, cũng chính Tôn Nhị kéo đồng bọn đến bày chuyện vảy mực, hòng tách tôi và Lí Thừa Ngân xa khỏi Bệ Hạ, thì ra thảy những mưu toan ngấm ngầm này, cốt là để Lí Thừa Ngân trốn tránh được trách nhiệm ư?

    Rốt cuộc chàng đã làm gì? Rốt cuộc Lí Thừa Ngân đã làm những gì…

    A Độ viết từng nét trên giấy, thuật lại từng hồi cho tôi nghe: Bữa đó, nàng ấy đứng bên ngoài phường Ngọc Minh, chợt cảm thấy tình hình bất thường, liền theo đuôi Tôn Nhị, cốt dò xét chân tướng sự việc, không ngờ lại bị Tôn Nhị phát hiện, bọn tay chân dưới quyền Tôn Nhị toàn những kẻ võ công cao cường, một mình A Độ địch không lại, về sau lũ người đó không giết A Độ, mà chỉ nhốt nàng ấy ở 1 nơi vô cùng bí mật. May thay, vài hôm sau thì Cố Kiếm đến cứu A Độ, đồng thời cũng dẫn nàng ấy đến ngôi miếu hoang gặp tôi. A Độ chất vấn Cố Kiếm chuyện vì sao lại đưa tôi đến náu ở miếu hoang, bấy giờ mới hay thì ra cả Cố Kiếm và Tôn Nhị đều do Lí Thừa Ngân giật dây. Mà cũng chính Lí Thừa Ngân sai Cố Kiếm đến uy hiếp Bệ Hạ, hòng khiến Bệ Hạ tưởng nhầm có kẻ muốn ngăn cản người điều tra án cũ nhà họ Trần. Không ngờ tôi lại xông ra tình nguyện làm con tin, thế nên Cố Kiếm mới tương kế tựu kế toan dẫn tôi bỏ trốn.
    Tôi không còn dám nghĩ mà cũng không muốn nghĩ gì thêm nữa, cứ chớm nghĩ là cả người lại như rơi vào tiết đông rét buốt, lòng lạnh toát run rẩy từng hồi. Giờ đây, đối với tôi, Lí Thừa Ngân hoàn toàn là 1 kẻ xa lạ, một kẻ xa lạ đáng sợ, tôi chẳng bao giờ đoán ra chàng còn toan tính những gì. Ba năm trước chàng từng làm những chuyện khủng khiếp, ba năm sau chàng càng thêm phần đáng sợ. Chàng giăng bẫy Cố Kiếm, phải chăng muốn giết người diệt khẩu? Rõ ràng Cố Kiếm còn là bà con họ hàng với chàng, thầy từng giúp chàng làm bao nhiêu việc xấu xa thậm thụt sau lưng. Thậm chí ngay cả A Độ mà Lí Thừa Ngân cũng không tiếc rẻ, phải chăng chàng muốn tôi vĩnh viễn không bao giờ biết được sự thật.

    Tôi cảm giác tim mình đã hóa băng, rốt cuộc, chàng đang làm gì? Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi thấy lòng dạ con người trên thế gian này thật nham hiểm, cõi Đông Cung này thật hiểm ác, và cả Lí Thừa Ngân cũng vô cùng đáng sợ.

    Đáng sợ đến độ tôi phải run khiếp.

    Tôi và A Độ vẫn trong tình trạng bị giam lỏng cầm chừng, giờ thì tôi mặc kệ. Chốn Đông Cung cô quạnh này chỉ có tôi và A Độ là nương tựa lẫn nhau.

    Nguyệt Nương đến thăm tôi mấy lần, tôi bảo tỷ ấy: “Tỷ một thân một mình ở trong cung, nhớ phải cẩn thận.”

    Tình yêu của bậc đế vương, sao có thể bền lâu cho được. Hoàng thượng đưa tỷ ấy vào cung, cốt mượn cái danh nghĩa hòng lật lại án cũ nhà họ Trần, chứ mỹ nhân trong cùng thì la liệt, chỉ e còn nhiều hơn cả Đông Cung kìa. Cao Quý Phi ngã bệnh qua đời đột ngột, nghe người ta xì xào thì bà ấy mất chỗ dựa, đâm túng quẫn nuốt vàng tự vẫn. Chuyện hậu cung truyền đến Đông Cung lúc nào chẳng tức thì.

    Tôi biết tình cảnh của Nguyệt Nương cũng khá tế nhị, đành rằng nhìn bề ngoài thì Hoàng thượng có vẻ hết mực ưu ái tỷ ấy, nhưng nói cho cùng, Nguyệt Nương là gái xuất thân từ chốn thanh lâu, giờ những thế lực mới trong triều đang dần hình thành, Bệ Hạ lại nạp thêm phi tử. Quần thần khuyên người nên sắc lập tân Hoàng Hậu, có điều dường như Bệ Hạ còn đương do dự.

    Nếu như có Hoàng Hậu rồi, chẳng rõ liệu Nguyệt Nương có bị Hoàng Hậu mới sinh lòng đố kị hay không nữa. Vĩnh Nương từng kể tôi nghe chuyện Lan Phi đời triều trước, cũng chỉ bởi xuất thân hèn kém, mà bị Hoàng Hậu hại chết. Thực tâm tôi không muốn Nguyệt Nương rơi vào kết cục ấy.

    Nguyệt Nương nở nụ cười rạng rỡ bảo tôi: “Yên tâm đi, tỷ biết đường ứng phó mà.”

    Rồi tỷ ấy gảy cho tôi nghe khúc nhạc.

    “Thu về hái sen hồ Nam

    Sen cao quá đầu

    Cúi đầu bứt sen

    Sen lặng như nước”

    Tiếng hát Nguyệt Nương nghe tha thiết êm đềm, gợi hơi bụi nước mịn mềm, lại tựa giọt sương lăn tròn giữa lá sen, càng có nét hao hao một cơn gió vút qua tường cao vời vợi chốn thâm cung, gió đưa dây đu, gió đưa trời xanh biếc xao động, gió đưa mây trong ngần lững lờ trôi… Trời xanh có chú chim đang sải cánh bay về vùng trời phía tây, nó bay về Tây Lương, dẫu Tây Lương không có hồ sen đẹp tựa nhường này, dẫu Tây Lương không có người đẹp hái hoa sen, nhưng Tây Lương vẫn là quê hương của tôi.

    Tôi nhờ những tháng ngày ở phường Ngọc Minh, dạo ấy tôi sống vui vẻ, vô tư lự mà tràn trề niềm vui biết là mấy.

    Tôi thở dài: “Chẳng biết lúc nào tỷ mới lại cho hát muội nghe nữa nhỉ.”

    Nguyệt Nương bảo: “Lần sau tỷ lại đến thăm muội chứ sao nữa.”

    Tôi không lên tiếng, bởi tôi đã quyết tâm phải về bằng được Tây Lương.

    Thương tích của A Độ đã lành lặn, chúng tôi có thể khởi hành được rồi.

    Lí Thừa Ngân sai Bùi Chiếu chọn ra mấy người đến theo sát tôi, trên danh nghĩa thì là bảo vệ, thực ra chủ yếu để liếc chừng, đám ấy canh tôi sít sao riết róng, nếu tôi và A Độ cứ liều mình bỏ trốn, tôi nghĩ khó lòng mà được. Vậy nên chỉ còn nước tùy cơ ứng biến.

    Ngày Thất Tịch mùng 7 tháng 7, đối với hoàng cung mà nói quả là ngày vui. Sở dĩ ngày mừng thọ Bệ Hạ trùng với đêm Thất Tịch, nên từ hơn nửa tháng trước, trong cung đã đăng đèn kết hoa, sắm sửa bình mới bày biện ngự hoa viên. Bữa đó, yến được thết ở đảo Quỳnh Sơn giữa hồ Nam Uyển, lầu Đế Hoa và đình Thiên Lục trên đảo có không gian thoáng mát là nơi thích hợp để nghỉ ngơi vào dịp hè.

    Từ sáng sớm Lí Thừa Ngân đã nhập cung, muộn hơi tôi mới vào. Theo lệ, cứ vào dịp mừng thọ, Bệ Hạ lại ban thưởng cho quần thần, nên trong điện Thừa Đức cũng thết yến. Mà tiệc ở hậu cung thì do Hiền Phi người mới được Bệ Hạ sắc phong phụ trách, mọi việc bố trí hết sức ổn thỏa. Tôi lên thuyền từ phía sau điện Cam Lộ, trên thuyền còn vẳng nghe có tiếng nhạc từ đôi bờ đưa về, thì ra Hiền Phi đã bố trí đội văn công hòa tấu sáo trúc đứng dưới bóng râm bờ hồ. Nước gợn sóng nhạc, phiêu bồng tựa cõi tiên.

    Mặt trời ngả núi cũng là lúc yến tiệc chính thức khai màn, hồ Nam Uyển rộ màu sen trắng chen màu lá xanh, lớp lớp bông sen tinh khôi gối đầu lên nhau, chỉ ngặt sen không vưởng mùi hương. Hiền Phi sai người thả đèn hoa sen có kèm bánh thơm xuống hồ, bánh thơm cách ánh nến qua đĩa đồng, hơi nóng dậy hương nồng nàn, hương bay theo gió đưa xa, ngay cả cung tần mỹ nữ hậu cung cũng thơm kém phần. Trên lán ven hồ, bộ Nhạc dàn dựng khúc Lăng Ba(*), cung nữ xòe váy màu xanh biếc nom như những nàng tiên lá sen đang dập dìu điệu Lăng Ba. Ánh nến trên chiếc lán lung linh chảy tràn xuống những ngọn sóng dập dềnh, hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh tựa ngàn sao.

    (*Lăng ba khúc vốn là một vũ khúc nổi tiếng ở thời Đường)

    Bệ Hạ rất hài lòng với cách bài trí nơi đây, người khen Hiền Phi khéo léo linh hoạt. Nhất là việc đặt bánh thơm dưới đèn hoa sen, Hiền Phi mỉm cười thưa rằng: “Đây nào có phải ý của thần thiếp, có điều ngày thường thần thiếp vẫn cảm khái, hoa sen đẹp đấy, chỉ tiếc không hương. Cung nữ A Mãn theo hầu thần thiếp xưa nay vốn khéo léo, liền nghĩ cách, sai người chế loại đèn hoa sen này, được Bệ Hạ khen ngợi, âu cũng là phúc của A Mãn, thần thiếp xin được gọi A Mãn đến tạ ơn người.”

    Nàng cung nữ tên A Mãn kia chỉ chừng 16, 17 tuổi, lúc ấy lững thững bước ra, uyển chuyển thi lễ với Bệ Hạ, đoạn ngước nhìn lên, vẻ đẹp của nàng ta quả thực khiến nhiều người phải hít một hơi thật sâu, nom có phần xinh đẹp hơn cả Nguyệt Nương. Ai ai cũng chung cảm nhận rằng nàng ta có nét thanh tú tựa một đóa sen trắng, xinh xắn không gì bì được. Bấy giờ có lẽ Bệ Hạ cũng bị dung nhan mỹ miều kia làm cho ngơ ngẩn một hồi, sau đó người thưởng cho A Mãn một đôi bình ngọc, một tráp trầm hương. Tôi còn tưởng Bệ Hạ sẽ nạp nàng ta làm phi tử, ai ngờ bỗng nhiên Bệ Hạ nói với Lí Thừa Ngân rằng: “Ngân Nhi, con cảm thấy cung nữ này thế nào?”

    Lí Thừa Ngân ngồi đối diện tôi, nom chàng có vẻ mệt mỏi, từ bấy đến nay chưa lên tiếng câu nào. Giờ nghe Bệ Hạ đột nhiên hỏi mình, chàng mới đảo mắt qua A Mãn một lượt đoạn lạnh nhạt thưa: “Quả là mỹ nhân ạ.”

    Bệ Hạ nói: “Bên con thiếu người hầu hạ, chi bằng gọi A Mãn đến Đông Cung, ta sẽ sai Dịch đình lệnh chọn người khác giữ chức nữ quan bên chỗ Hiền Phi.”

    Lí Thừa Ngân thưa: “Nhi thần đội ơn thiện chí của phụ hoàng, có điều bên cạnh nhi thần không thiếu người hầu hạ.”

    Tôi bất giác cũng khẽ động đậy, Bệ Hạ hỏi: “Thái Tử Phi có gì muốn nói?”

    Tôi bẩm: “Bẩm phụ hoàng, điện hạ tính hay e thẹn, người ngượng không dám nói có. A Mãn xinh đẹp nhường này, điện hạ không cần, vậy kính xin Bệ Hạ ban A Mãn cho con.”

    Bệ Hạ cười khà khà, rồi chuẩn y.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này