1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Xuyên không Đức Phật Và Nàng - Tác giả: Chương Xuân Di - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Hoa Thiên, 27/5/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 40: Trở lại Khâu Từ
    Lưng tôi va phải vật gì rất góc cạnh, vòng tay ra phía sau, chưa chạm đến lưng đã đụng phải một thứ kỳ lạ. Cùng lúc đó, một mùi hôi thối nồng nặc xông lên não, kích thích tôi choàng tỉnh.

    Phía trước, một đôi mắt mở to đang nhìn tôi chằm chằm, vệt máu khô đét dính trên đỉnh đầu, khuôn mặt hung tợn, dữ dằn. Tôi kinh hoàng bật dậy, nhưng mặt đất gập ghềnh dưới chân khiến tôi chao đảo. Tôi chống tay, những tiếng răng rắc vang lên, đưa mắt nhìn xuống, tôi vừa ngồi lên và làm gẫy cẳng chân của một người nào đó, bàn tay dính đầy vệt máu đỏ sẫm, nhớp nháp. Trời đất ơi, tôi đang ở nơi nào thế này? Đưa mắt ra xung quanh, cơn buồn nôn lập tức ập đến.

    Tôi đang ở trong một cái hố chôn cực lớn, đường kính chừng hơn chục mét và chỉ mình tôi là người sống. Tầng tầng lớp lớp thi thể chất cao thành đống, mùi hôi thối không ngừng xông lên, tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng. Tay bịt mũi, tôi kinh sợ đưa mắt quan sát khung cảnh trước mắt. Nhìn y phục trên người và khuôn mặt của những tử thi mất tay mất chân, hay thậm chí mất đầu ấy, tôi đoán họ là binh lính Khâu Từ và rất nhiều tộc người du mục vùng Trung Á khác. Nếu thời gian và địa điểm cài đặt trên cỗ máy thời gian là chính xác, thì cảnh tượng trước mắt có lẽ là kết quả của cuộc đại chiến giữa Bạch Thuần và Lữ Quang.

    Không phải tôi chưa từng thấy thi thể. Những xác ướp trong viện bảo tàng ở Ai Cập, những bộ xương người trong viện bảo tàng ở Tân Cương, tôi cũng từng theo đoàn khảo cổ đi khảo sát những lăng mộ dưới lòng đất. Chưa kể đến những thi thể không đầu trong các động đá thuộc vương quốc Guge (Tây Tạng) cổ đại, vì ở trên cao nguyên, không khí loãng, trải hơn sáu trăm năm lịch sử, các thi thể vẫn chưa phân hủy hoàn toàn, đến tận bây giờ vẫn nồng nặc mùi xú uế. Vụ thảm sát ở Nam Kinh với hố chôn hàng vạn người, đài tưởng niệm được xây dựng dưới lòng đất, mỗi khi bước chân vào đó, những bộ xương trắng bao quanh bạn, cảnh tượng thảm thương đến mức khiến bạn phải nhắm mắt lại, không dám nhìn. Tôi không phải kẻ nhát gan, vì nếu thế tôi đã không theo học ngành lịch sử. Nhưng chưa bao giờ tôi khiếp sợ như thế này. Tận mắt chứng kiến sự chết chóc và hệ hô hấp không ngừng thu nạp thứ mùi hôi thối đặc trưng của thi thể vừa bắt đầu phân hủy ấy và tôi lại đang ở nơi mà một khoảng trống không xác người để đặt chân lên cũng không có. Tôi ngẩng đầu, vậy là mặt đất đang ở cách tôi một khoảng vượt quá chiều cao của tôi.

    Trong ba lô của tôi có dây móc và một vài vật dụng trèo tường chuyên dụng. Trước đó, nhóm nghiên cứu đã mời giáo viên thể dục và lính đặc công đến huấn luyện cho tôi một số thao tác cơ bản để có thể giúp tôi sống sót trong thời đại mà tính mạng con người bị coi như cỏ rác này. Tôi đã mặc quần áo rằn ri để luyện tập vượt qua tường cao, nhảy qua hố sâu, học cách vật lộn và những kỹ thuật phòng thân của con gái. Tuy thời gian tập luyện rất ngắn ngủi, trình độ chỉ ở bậc amateur, nhưng ít nhiều cũng có chút kỹ thuật. Nhưng, vấn đề ở chỗ, tay chân mình mẩy tôi lúc này đang run lên cầm cập, thậm chí không đủ sức để lấy công cụ trong ba lô ra nữa. Trừ phi tôi phải nhắm chặt mắt lại để không phải nhìn thấy những cánh tay, bắp chân đứt rời và nhầy nhụa máu, bịt chặt mũi để không ngửi thấy thứ mùi khủng khiếp nhất trên cõi đời ấy. Mà như thế, cả não bộ của tôi cũng trở nên tê liệt, tôi không kéo nổi khóa ba lô, nỗi sợ hãi bật lên thành tiếng khóc.

    Lại một thi thể bị ném xuống, thiếu chút nữa đã đè nát người tôi. Bên trên có người! Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc, không kịp suy nghĩ, tôi vội gào lên kêu cứu. Mấy cái đầu người nhô ra trên mặt đất, vẻ mặt hoảng sợ. Có lẽ họ nghĩ tôi là xác chết sống dậy. Tôi vội vàng giải thích tôi là người sống, do bất cẩn nên mới sa chân xuống hố. Gào thét một thôi một hồi mới thấy một sợi dây thừng được thả xuống.

    Lên đến mặt đất mà tôi vẫn trong trạng thái hồn bay phách lạc, sau đó thì nhận ra rằng tình trạng sau khi được cứu thoát cũng không mấy sáng sủa. Những người kéo tôi lên có vẻ như là binh lính của Lữ Quang và vì phụ trách công việc dọn dẹp chiến trường, chôn lấp xác chết nên họ đều là những lính tráng hoặc già nua yếu đuối, hoặc bệnh tật đầy mình. Bị vây bọc giữa đám lính chẳng có vẻ gì là thân thiện, tử tế này khiến tôi không khỏi than thở cho tình cảnh “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” của mình.

    Chưa hoàn hồn với nỗi kinh hoàng vừa trải qua, tôi đã phải nhanh chóng nghĩ cách đối phó với tình cảnh trước mắt. Trong chiến tranh, phụ nữ bị xem là chiến lợi phẩm. Những thương binh tàn phế này làm gì có cơ hội xung phong lên tuyến đầu để có thể được ban thưởng phụ nữ hay vàng bạc, châu báu kia chứ. Vậy nên họ chắc chắn sẽ xem tôi như một món quà từ trên trời rơi xuống. Tuy có mang theo súng gây mê, nhưng ở khoảng cách gần như vậy, lại đông người thế này, tôi không biết mình có thể bắn hạ bao nhiêu tên.

    Trước mặt tôi đều là những khuôn mặt người Hán, tôi gắng gượng cười thật tươi, chắp tay cung kính, thưa chuyện với họ bằng tiếng Hán:

    - Thưa các anh, tôi vốn là thê thiếp mới của ngài Đoàn Nghiệp, bộ hạ của tướng quân Đỗ Tấn. Hôm nay ra ngoại thành hái thuốc, chẳng mai trượt chân rơi xuống hố sâu, gây cản trở công việc của các anh, tôi xin có lời tạ lỗi.

    Trong số các bộ hạ người Hán theo Lữ Quang Tây chính, tôi chỉ biết Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp. Đỗ Tấn là tướng tá đắc lực của Lữ Quang, mà công lao to lớn nhất của Đỗ Tấn là giúp Lữ Quang bình định Hà Tây[23]. Sau đó, Đỗ Tấn đã được phong chức tướng quân hộ quốc, rồi Thái thú võ uy. Nhưng vì quyền cao chức trọng, ra vào oai vệ chẳng khác nào Lữ Quang, nên Lữ Quang sinh lòng đố kỵ đã viện cớ trừ khử Đỗ Tấn.

    Còn Đoàn Nghiệp, chính là người lập ra nhà Bắc Lương thời Thập lục quốc, nhưng lại chỉ là một thư lại nhỏ bé dưới trướng Đỗ Tấn khi Lữ Quang đem quân chinh phạt Khâu Từ, về sau, Đoàn Nghiệp được thăng chức Thái thú Kiện Khang (nay là Tửu Tuyền, Cam Túc). Năm 397, Thư Cừ Nam Thành, người Hung Nô lật đổ nhà Hậu Lương của Lữ Quang, đưa Đoàn Nghiệp lên ngôi vua Lương nhằm mua chuộc lòng người. Thế là từ một bậc “nho nhã, không chút quyền hành trong tay”, Đoàn Nghiệp bỗng nhiên trở thành quốc vương của Bắc Lương thời Thập lục quốc.

    Quân đội của Lữ Quang tập hợp đủ mọi tộc người. Lữ Quang cùng thuộc tộc người Đê với Phù Kiên. Còn tôi mang diện mạo của một người Hán, bởi vậy, phải tìm một người Hán để có thể qua mặt đám quân lính trước mắt. Tôi chọn Đoàn Nghiệp mà không chọn Đỗ Tấn vì chức vụ của ông ta quá cao, nếu tôi nói mình là thê thiếp của ông ta, chắc chắn sẽ có người sinh nghi. Còn Đoàn Nghiệp, lúc này mới hai mươi tuổi, chỉ là một văn thư quèn dưới trướng Đỗ Tấn, những người biết rõ về thê thiếp của người này chắc không nhiều. Hành quân ra trận vốn dĩ không được đưa người thân đi cùng, nhưng vì Lữ Quang muốn chiếm đóng Khâu Từ lâu dài, nên đã cho phép tướng lĩnh của mình nạp thiếp.

    Những người đó quả nhiên lộ vẻ bực tức, vì họ chẳng dám đắc tội với cấp trên. Tôi thở phào, định xoay người bước đi thì một người trong số họ cứ nằng nặc đòi đưa tôi đến gặp Đoàn Nghiệp, chắc là muốn nịnh bợ đây mà! Từ chối không được, vả lại nghĩ rằng một thân một mình cũng khó vào thành, tôi liền ưng thuận đi theo anh ta.

    Đường vào thành trải ra trước mắt tôi những vết tích tang thương mà chiến tranh gây nên. Xác người, xác ngựa la liệt trên đường, mùi xú uế nồng nặc khắp nơi. Xe ngựa, gạch đá dùng để công phá thành nằm ngổn ngang trên lối đi. Gươm đao giáo mác cong mẻ gập gẫy chất đầy đường. Những bức tường thành Khâu Thành loang lổ, vỡ nát, tan hoang.

    Không được chứng kiến tận mắt trận chiến này, nên tôi chỉ có thể nhớ lại những ghi chép trong sách sử.

    Quân của Lữ Quang có bảy mươi ngàn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, cộng thêm binh lực của Shanshan và Chrish đi tiên phong, tổng cộng khoảng một trăm ngàn quân. Còn Bạch Thuần, dốc sạch quốc khố cầu viện Khoái Hồ, Khoái Hồ phái hơn hai mươi vạn quân đến chi viện. Cộng thêm binh lực của Wensu, Weitou, tổng cộng hơn bảy trăm ngàn quân.

    Cuộc chiến với binh lực quá ư chênh lệch ấy lại mang về chiến thắng vang dội cho Lữ Quang, ông ta quả không hổ danh là tướng tá đắc lực của Phù Kiên. Sách “Tấn thư” chép rằng, khi ấy, các tướng sĩ đều cho rằng: địch đông ta ít, cần dựng trại, dàn trận, tính kế lâu dài. Nhưng Lữ Quang không nghe, nói rằng: địch đông ta ít, càng dàn trận càng phân tán lực lượng, không phải kế hay.

    Lữ Quang lệnh cho binh lính dựng trại phía nam thành Khâu Từ, cứ năm dặm một trại, đào hào sâu, đắp lũy cao, dùng kế nghi binh, đội mũ sắt, mặc áo giáp, cắm cờ lên bù nhìn bằng gỗ giả người thật, nhằm đánh lạc hướng quân Khâu Từ trong nội thành. Sau đó, dẫn đại quân đón đánh liên quân Khoái Hồ ở phía tây. Kỵ binh Khoái Hồ nhất loạt mang áo giáp sắt, giáp trụ cứng như thép, mũi tên không thể xuyên thủng. Thêm vào đó, quân yểm trợ lại là đội khinh kỵ tinh nhuệ, sử dụng roi da làm vũ khí, thúc ngựa vung roi quật ngã đối phương, trăm phát trăm trúng. Bởi vậy, giai đoạn đầu cuộc chiến, Lữ Quang rơi vào thế yếu.

    Lữ Quang nhận thấy quân Khoái Hồ chỉ có đội kỵ binh là tinh nhuệ, đội quân còn lại tuy đông đảo nhưng chỉ là đám dân du mục bị bắt đi lính nên Lữ Quang nghĩ ra cách đối phó với kẻ địch là chặt chân ngựa chiến. Đám kỵ binh khi bị ngã trở nên bất lực, vì bộ giáp sắt mặc trên người quá nặng khiến họ không thể di chuyển, càng không thể chống trả. Quân của Lữ Quang chặt đầu hơn mười ngàn lính Khoái Hồ, tin tức bay về khiến Bạch Thuần run sợ. Đức vua Khâu Từ vội vàng vơ vét của cải, bỏ thành mà chạy. Hơn ba mươi nước chư hầu trong vùng nghe nói Khâu Từ bại trận, đã ùn ùn kéo đến xin hàng.

    Bạch Thuần thua trận khi đã gần sáu mươi tuổi, ông ta trốn chạy đến đâu, sử sách không ghi chép. Lữ Quang chiếm thành, đưa người em út của Bạch Thuần là Bạch Chấn lên ngôi vua.

    Khâu Từ là quốc gia mạnh nhất ở Tây vực, điều đó khiến các nước chư hầu khác không hài lòng. Bởi vậy khi được lệnh đến Trường An cống nạp, vua nước Shanshan, vua nước Chrish và Bạch Chấn đã gặp riêng Phù Kiên, thỉnh cầu vua Hán chinh phục Tây vực và xin làm “hoa tiêu dẫn đường”. Quân của Lữ Quang có thể thuận lợi vượt qua ba trăm dặm cồn cát và những sa mạc mênh mông nối tiếp nhau ở Tây vực, phần lớn nhờ vào công lao của các “hoa tiêu” này trong đó cũng có sự đóng góp của Bạch Chấn, vì từ lâu “cậu út” đã có dã tâm đoạt ngôi.

    Vừa đi vừa nhớ lại những ghi chép trong các tài liệu lịch sử, chẳng mấy chốc đã đến cổng thành. Thành Khâu Từ phồn hoa thịnh vượng năm nào giờ đây hoàn toàn vắng lặng, đìu hiu. Lác đác vài bóng người trên phố, nhà nào nhà nấy cửa đóng then cài. Quân lính của Lữ Quang mặt đỏ gay gắt, chân nam đá chân chiêu, ngật ngưỡng trên phố vắng, thấy nhà nào cửa hẹp tường cao là xông vào, theo sau đó là những tiếng gào khóc thảm thiết vang lên.

    Sau khi vào thành và nhìn thấy cung điện nguy nga, tráng lệ của Bạch Thuần, Lữ Quang đã hạ lệnh cho Đoàn Nghiệp viết một bài phú “Cung điện Khâu Từ” với nội dung châm biếm, đả kích. Người dân Khâu Từ có cuộc sống no đủ và họ rất biết cách hưởng thụ, trong nhà mỗi gia đình đều ủ rất nhiều rượu nho. Mỗi gia đình thậm chí cất giữ hàng nghìn thùng rượu, sau mười năm, hương rượu nồng nàn thấm đẫm trong khuôn viên phủ đệ. Lữ Quang vì muốn khoản đãi tướng sĩ sau chiến thắng, đã dung túng cho đám lính của mình thỏa sức cướp bóc, số quân lính ngập chìm, thậm chí bỏ mạng trong men rượu nhiều không đếm xuể.

    - Đoàn đại nhân!

    Suy nghĩ bị cắt ngang, tên lính người Hán đi cùng tôi hướng về một người dáng vẻ thư sinh, khép tay hành lễ. Họ Đoàn, có phải là Đoàn Nghiệp?

    Nếu không tìm cách trốn thoát tất sẽ bị lộ. Nhưng ngõ phố gần nhất cũng cách tôi đến hai mươi mét. Nếu cố tình bỏ đi, e rằng chưa được mấy bước đã bị bắt lại. Vừa căng thẳng nghĩ cách thoát thân, nhưng lòng hiếu kỳ lại dâng cao mãnh liệt, tôi muốn được tận mắt nhìn thấy dung mạo của hoàng đế Bắc Lương. Theo học chuyên ngành này thật nguy hiểm, lòng hiếu kỳ có thể khiến người ta phải đền mạng như chơi.

    Đoàn Nghiệp chừng hai mươi tuổi, cao khoảng một mét bảy mươi lăm, khuôn mặt vuông vức, dáng vẻ nho nhã, trên tay cầm giấy bút, đang trò chuyện với một quân nhân, nhìn thấy tên lính người Hán, liền quay lại đáp lễ.

    - Đoàn đại nhân, ngài đây rồi, tôi đang tìm ngài. Phu nhân một mình ra ngoại thành hái thuốc rất nguy hiểm, cô dâu mới mà sao ngài không biết thương hoa tiếc ngọc?

    Đoàn Nghiệp tất nhiên rất kinh ngạc, liếc nhìn tôi, định mở miệng phủ nhận, tôi giả bộ vui mừng khi nhìn thấy người thân, vội lao đến trước mặt hắn, hạ giọng:

    - Tôi được cao nhân chỉ điểm, thông tỏ thiên cơ, nếu đại nhân chịu ra tay cứu giúp, tôi nhất định sẽ báo đáp ơn này.

    Sử sách chép rằng, Đoàn Nghiệp vốn là kẻ khù khờ, chỉ tin vào bói toán tà thuật. Cầu mong sao chiêu bài này của tôi sẽ đánh trúng tâm ý hắn.

    Hắn nhìn tôi đầy nghi hoặc, có vẻ như không tin tôi có khả năng đó cho lắm. Cũng phải thôi, tôi còn quá trẻ, khắp người bốc mùi hôi hám, chẳng có chút khí chất thần thánh nào cả. Tôi bỗng chột dạ, vội hỏi khẽ:

    - Đêm trước khi công phá thành Khâu Từ, Lữ tướng quân từng mơ thấy voi vàng bay ra vùng ngoại thành, đúng không?

    Đó là những ghi chép trong sách “Tấn thư”, giấc mơ đó đã khiến Lữ Quang càng có thêm tự tin rằng “thánh thần đã rời bỏ thành Khâu Từ, người Hồ tất sẽ diệt vong”. Sách “Tấn thư” ghi chép rất nhiều những điều kỳ quái, thần thánh mang màu sắc mê tín nên rất nhiều nhà sử học về sau này không xem đó là chính sử. Còn tôi thì đang đặt cược, tôi cược rằng, trước tình thế địch mạnh ta yếu, Lữ Quang đúng là đã bịa đặt ra giấc mơ kì lạ đó để động viên binh sĩ. Nếu tôi thua, tôi cũng chẳng còn đường thoát nào khác.

    Đoàn Nghiệp kinh ngạc ngẩng lên, trầm ngâm một lát, lại nhìn tôi, không khẳng định cũng không phủ nhận. Cảm ơn tên lính người Hán, tạm biệt người vận đồ quân nhân vừa trò chuyện với mình, anh ta đưa tôi rời khỏi đó trong tiếng cười giễu của bọn họ.

    Bước đi cùng Đoàn Nghiệp mà trong lòng không khỏi thấp thỏm lo âu. Tuy nhiên, theo tài liệu lịch sử thì Đoàn Nghiệp không phải là kẻ nóng nảy, hiểm ác như Lữ Quang. Nếu không ổn, một mình hắn tôi cũng có thể đối phó được. Đoàn Nghiệp đưa tôi đến nhà một thường dân, bên trong có rất rất nhiều người vóc dáng văn nhân, họ cất tiếng chào anh ta. Có lẽ quân Lữ Quang đã cưỡng chế trưng dụng căn nhà này làm nơi tụ họp của các quan văn.

    Khi chỉ còn hai chúng tôi ở trong phòng, tôi chắp tay trước mặt Đoàn Nghiệp:

    - Tôi vì muốn giữ mạng, đã mạo muội nhận mình là người nhà của Đoàn đại nhân, xin đại nhân thứ tội.

    - Cô nương xin đừng khách sáo, ta hiểu nỗi khó xử của cô.

    Anh ta rất nhã nhặn, lịch thiệp, khiến tôi có thêm vài phần thiện cảm.

    - Vị cao nhân mà tôi nhắc đến, chính là đại pháp sư nổi tiếng khắp vùng Tây vực, Kumarajiva. Tôi tuy kiến thức nông cạn, nhưng may mắn được gặp pháp sư, nên đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích. Lần này đến Khâu Từ cũng vì mong được diện kiến pháp sư. Nếu được ngài truyền thụ cho chút ít kiến thức, chắc chắn năng lực tiên đoán của tôi sẽ được nâng lên đáng kể.

    Không biết Rajiva hiện nay ra sao, tôi chỉ có thể dò la thông tin về cậu ấy bằng chủ đề ưa thích của Đoàn Nghiệp.

    - Danh tiếng của đại pháp sư Kumarajiva như sấm dội bên tai, được biết pháp sư có biệt tài xem tướng số, lại thông thạo âm dương ngũ hành, tôi đây vốn đã ngưỡng mộ từ lâu.

    - Đoàn đại nhân chưa gặp pháp sư bao giờ ư? Nghe nói pháp sư hiện đang ở chỗ của Lữ tướng quân, lẽ ra đại nhân phải được gặp pháp sư thường xuyên mới đúng chứ?

    Tôi nín lặng chờ đợi phản ứng của Đoàn Nghiệp.

    Vẻ mặt anh ta vương chút ảo nảo:

    - Tôi rất muốn, nhưng pháp sư đang bị giam lỏng, tôi chẳng thể gặp ngài.

    - Tôi và pháp sư vốn có duyên, nếu đại nhân có thể giúp tôi gặp được ngài, tôi nhất định sẽ xin pháp sư xem hậu vận cho đại nhân.

    - Điều này e là không thể.

    Anh ta có vẻ rất sốt sắng, nhưng lại hơi do dự.

    - Nghe nói, tướng quân giam đại sư trong cung, với chức quan quèn như hiện nay, tôi không thể gặp ngài.

    Trong lòng ngập đầy nỗi thất vọng. Tôi chỉ biết cậu ấy bị giam trong cung, nhưng không rõ đã bị Lữ Quang ép phá giới hay chưa. Đoàn Nghiệp chỉ là một thư lại nhỏ bé, lại không phải thân tín thuộc tộc người Đê của Lữ Quang, nên chắc rằng anh ta cũng không biết được thông tin gì.

    Tôi đành hỏi Đoàn Nghiệp những câu hỏi khác, được biết, thành Khâu Từ đã bị công phá năm ngày rồi, ngày thứ ba, Bạch Chấn đăng cơ làm vua Khâu Từ.

    Suy nghĩ một lát, tôi cầu xin Đoàn Nghiệp giúp đỡ:

    - Không biết Đoàn đại nhân có thể cử người đưa tôi đi tìm Pusyseda – em trai pháp sư Kumarajiva không?

    Một mình trên phố lúc này chẳng khác nào sa vào hang hùm, khẩu súng gây mê nhỏ bé của tôi chắc chắn không thể hạ gục đám lính đang điên cuồng cướp bóc ngoài kia.

    Sợ Đoàn Nghiệp từ chối, tôi vội vàng hạ thấp giọng một cách bí hiểm, nói với anh ta:

    - Theo quan sát của tôi, tướng mạo của Đoàn đại nhân cho thấy ngài không phải hạng tôm cá trong ao tù, ánh hào quang tỏa ra từ ngài chứng tỏ rằng, ngày sau, ngài sẽ làm nên nghiệp lớn.

    - Có thật không?

    Anh ta đúng là một kẻ mê tín, vẻ mặt trở nên bí hiểm, rồi hạ thấp giọng, dò hỏi:

    - Sẽ là ở đâu và khi nào? Xin cô nương cho biết.

    Tôi ra điều kiện:

    - Đại nhân chịu đưa tôi đi, tôi sẽ không ngại tiết lộ.

    Môn thần học vốn rất thịnh hành vào thời Nam Bắc triều, gắn với Nho học, Huyền học trong một thể thống nhất không thể tách rời. Thực ra đó chỉ là những dự đoán mang màu sắc kỳ lạ, bí hiểm mà thôi. Vương Mãnh muốn Phù Kiên giết tướng Sabir, nên đã cho người tung tin đồn “tháng Ất Dậu năm Giáp Thân, Ngư Dương ăn thịt người”[24]. Phù Kiên không nghe, vẫn hậu đãi Mộ Dung Thùy, nhưng chính sách đoàn kết các dân tộc hết sức tiến bộ của ngài đã không có hiệu quả. Và lời cảnh báo của Vương Mãnh lại hết sức chính xác. Năm 384, tức là năm Giáp Thân, nhà Tiền Tần bắt đầu tan rã. Tuy Phù Kiên bị Diêu Trường thuộc tộc người Khương giết chết, nhưng nguyên nhân chính của sự sụp đổ của nhà Tiền Tần là do cuộc khởi nghĩa phục quốc của người Sabir.

    Bởi vậy, việc Đoàn Nghiệp đồng ý đưa tôi đi tìm Pusyseda thể hiện sức mạnh to lớn của bói toán.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  2. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 41: Bên bờ sông Hán ai ơi, có cô con gái khó ai mơ màng
    Sau ngần ấy năm, không biết Pusyseda ra sao, có được bình an trong thời cuộc loạn lạc này không? Hồi hộp bước tới cổng phủ quốc sư, tôi chợt thấy một binh sĩ người Khâu Từ đang đứng. May mà Đoàn Nghiệp có mang theo lệnh bài của quân đội Lữ Quang, nên binh lính Khâu Từ không dám gây khó dễ, đã vội vào trong thông báo.

    Khuôn viên phủ đệ đã được quét vôi trang trí lại, tuy không tráng lệ nhưng rất tinh tế, tao nhã. Căn nhà khang trang như vậy, lại có cả lính giữ cổng, điều đó chứng tỏ sự lo lắng của tôi là thừa, chắc là Pusyseda đang sống rất thoải mái.

    Trong thời gian chờ đợi, tôi thì thầm vào tai Đoàn Nghiệp:

    Hào quang xuất hiện ở Kiện Khang, nghiệp lớn sẽ thành ở Hà Tây. Đại nhân hãy ghi nhớ, không được tiết lộ thiên cơ, nếu không sẽ mất linh nghiệm.

    Đó là kết quả chắt lọc từ quá trình suy nghĩ của tôi trên suốt đường đi, tuy không được văn hoa mượt mà cho lắm, nhưng bói toán là phải lấp lửng như vậy. Kiện Khang ám chỉ sau này Đoàn Nghiệp sẽ được phong làm Thái thú. Thái thú Kiện Khang, còn Hà Tây tức là hành lang Hà Tây, nơi sau này sẽ là vùng đất của nhà Bắc Lương mà Đoàn Nghiệp làm vua. Nhưng trong lúc này, chắc chắn anh ta sẽ nghĩ rằng Kiện Khang là địa bàn của nhà Đông Tấn, Hà Tây là một vùng đất chung chung, mơ hồ nào đó. Bài bói của tôi cũng khá đấy chứ, có thể xem như không hề tiết lộ lịch sử.

    Thực ra, sau khi lên ngôi, Đoàn Nghiệp cũng chỉ sống thêm chưa đầy năm năm. Ông ta bị giết trong trận chiến với Thư Cử Mông Tốn, để rồi sau đó, Mông Tốn tự phong mình làm vua Bắc Lương. Đoàn Nghiệp qua đời ở tuổi bốn mươi. Nhưng tất nhiên, tôi không nói những điều này cho ông ta biết. Những câu chữ mà tôi sử dụng đều đã được chọn lọc kỹ lưỡng. Bởi vậy, lúc chào từ biệt tôi và ra về, niềm hân hoan rạng rỡ vẫn còn trên gương mặt Đoàn Nghiệp.

    Người trong phủ bước ra, đó là Sukhala, vị quản gia năm nào. Ông đã trở nên già nua, lụ khụ lắm rồi! Ngước mắt nhìn tôi hồi lâu mà không sao nhớ nổi tên. Tôi mỉm cười hỏi ông Pusyseda có nhà không.

    Ông đưa tôi vào nhà, nói rằng Pusyseda vẫn ở trong cung, tối mới về. Ông nói sẽ đi mời phu nhân. Phu nhân ư? Tôi sững sờ, nhưng hiểu ra ngay vấn đề. Pusyseda năm nay ba mươi hai tuổi, chắc chắn đã lập gia đình, không biết vợ cậu ấy là người như thế nào? Tôi ngắm nhìn mọi thứ xung quanh khi ngồi chờ ở phòng khách. Phủ quốc sư đã thay đổi rất nhiều so với hồi Kumarayana còn sống. Cách bài trí rất trang nhã, không quá cầu kỳ nhưng tinh tế, tỉ mỉ, cho thấy sự hiện diện rất rõ ràng của bàn tay phụ nữ. Bầu không khí thẫm đẫm sắc màu Phật giáo trong phủ quốc sư trước kia, này chỉ còn lại bức tượng Phật đặt trên bàn thờ ở một góc khuất trong gian phòng.

    Linh cảm có ai đó ở phía sau, tôi quay người lại, một cô gái người Hán, dáng người dong dỏng, thân hình thon thả, dung mạo không quá mỹ miều, nhưng đôi mắt cô ấy to và trong sáng, ở cô ấy toát lên nét dịu dàng, đoan trang. Thấy tôi, cô gái khẽ cúi chào, đôi mắt lướt trên người tôi, có vẻ như đang phỏng đoán mục đích của chuyến viếng thăm này. Tôi nghĩ có lẽ cô ấy là vợ Pusyseda, vội vàng đáp lễ bằng tiếng Hán:

    - Mong phu nhân lượng thứ cho sự đường đột của tôi. Tôi tới đây để nhờ đại nhân giúp gặp mặt pháp sư Kuramajiva.

    Tôi nói ngay ý định của mình để xua tan mối nghi ngờ có thể nảy sinh trong lòng cô gái ấy, vì biết đâu cô ấy lại cho rằng, người tình của Pusyseda đến bắt vạ thì sao.

    Cô gái hơi ngỡ ngàng:

    - Huynh ấy hiện đang ở chỗ tướng quân Lữ Quang, cô nương gặp huynh ấy có việc gì vậy?

    - Vì một mối ân tình.

    Tôi đáp một cách mơ hồ:

    - Nhờ phu nhân nhắn giúp với đại nhân, rằng Ngải Tình đã về.

    - Ngải Tình ư?

    Cô ấy nhắc lại tên tôi và như đang tìm kiếm điều gì đó, sau đó thì có vẻ giật mình, nhìn tôi trân trân.

    - Thì ra cô nương chính là cô gái sống trong căn phòng đó?

    Tôi ngẩn ngơ, căn phòng của tôi, vẫn được lưu giữ ư?...

    - Xin phu nhân đừng hiểu lầm, căn phòng đó là do pháp sư sắp xếp cho tôi, không liên quan đến Pusyseda.

    - Tôi hiểu chứ. Mỗi lần về nhà, huynh ấy lại đến phòng cô nương ngồi thiền rất lâu.

    Cô ấy mỉm cười:

    - Thật không ngờ, cô nương lại trẻ trung như thế!

    Tôi gượng cười, thực ra tuổi của tôi, ở thời đại này đã là bà mẹ của mấy nhóc tỳ rồi ấy chứ. Chỉ là, 1650 năm về trước, thời đại mà tuổi thọ bình quân của con người chưa đến năm mươi tuổi và ngành công nghệ mỹ phẩm chưa phát triển, thì ngoại hình của tôi chẳng khác nào thiếu nữ mười bảy, mười tám tuổi.

    Cô ấy sai người hầu vào cung nhắn gọi Pusyseda. Sau đó mời tôi ngồi, lời nói, cử chỉ đều rất nhã nhặn, từ tốn. Không thể không khen ngợi Pusyseda đã chọn được một người vợ tuyệt vời.

    Một vài cái đầu bé con lấp ló ngoài cửa, những con mắt tròn to, lấp lánh, chăm chú nhìn tôi. Cô gái cất tiếng gọi, một chú nhóc mập mạp dắt theo một cô nhóc nhỏ hơn khật khưỡng chạy vào..

    Những đứa bé mới đáng yêu làm sao! Chú nhóc là anh, cô nhóc là em, một bé năm tuổi một bé ba tuổi. Cả hai nhóc đều có tên bằng tiếng Tochari, nhưng Pusyseda còn đặt tên tiếng Hán cho chúng nữa. Anh tên Cầu Tư, em tên Vịnh Tư.

    - Tướng công nhà tôi say mê “Kinh thi”, nên đã dựa vào bài “Hán Quảng” trong “Kinh thi” để đặt tên cho các con.

    Khuôn mặt cô gái ửng hồng, nụ cười ý nhị nở trên khóe môi, dường như đang nhớ lại một kỷ niệm đẹp đẽ nào đó.

    Tôi ngỡ ngàng. Bài thơ trữ tình, lay động tâm can. Chàng trai nọ theo đuổi cô gái người Hán bên dòng sông Hán, sông Hán rộng lớn, nước chảy xiết, muốn bơi sang bờ bên cạnh là điều không thể, bè gỗ cũng không thể đưa chàng trai đến bên cô gái. Theo đuổi không thành, cô gái đi lấy người khác, chàng trai vẫn ngày ngày cặm cụi cắt cỏ chăn ngựa giúp cô gái.

    “Núi nam có cây trụi cao,

    Mọi người chẳng thể tựa vào nghỉ ngơi.

    Các cô sông Hán dạo chơi,

    Đoan trang chẳng thể trao lời cầu mong.

    Kìa con sông Hán mênh mông,

    Chớ toan lặn lội mà hòng vượt qua.

    Trường giang mờ mịt chảy xa,

    Kết bè chẳng thể dùng mà lướt đi.

    Bụi cây lộn xộn đẹp xinh,

    Tôi lo cắt loại cây kinh mà dùng.

    Nếu nàng nay đã theo chồng,

    Xin nuôi giùm ngựa cho lòng đẹp vui.

    Rộng thay sông Hán cách vời!

    Chớ toan lặn lội vượt khơi mà hòng.

    Trường giang xa tít muôn trùng,

    Thả bè chẳng thể xuôi dòng mà đi.

    Bụi cây lộn xộn đẹp cao,

    Thì ta vội cắt cây lâu mà dùng.

    Nếu nàng nay đã thao chồng,

    Ngựa câu nuôi giúp thì lòng cũng cam.

    Rộng thay sông Hán xa xăm!

    Cho nên không thể lặn ngầm mà qua.

    Trường giang mờ mịt chảy xa,

    Kết bè chẳng thế dùng mà lướt đi”[25]

    Là ai đang thương ai đang nhớ ai?

    Tôi ôm những đứa trẻ bụ bẫm vào lòng, ngắm nhìn đôi mắt màu xám nhạt thừa hưởng từ người cha của chúng. Giây phút ấy, tôi như được thấy lại Pusyseda hồi nhỏ, thấy lại chú nhóc hay nhõng nhẽo bày trò, nũng nịu đòi tôi hát cho nghe ấy. Mới đấy mà đã hai mươi năm. Chú nhóc năm nào giờ đây đã có con bồng con bế. Trước khi tôi ra đi, cậu ta nói sẽ hạnh phúc và bây giờ, hạnh phúc ấy hiện rõ ở người vợ nhu mì, hiền thục và những đứa con đáng yêu này đây.

    Tiếng bước chân dồn đạp ngoài cửa, một bóng dáng cao lớn xuất hiện, tay vịn vào khung cửa, nhìn tôi ngỡ ngàng:

    - Ngải Tình, là chị thật ư...?

    Tôi đứng lên, mỉm cười, nhưng sao sống mũi cay cay.

    Cậu ta đi như lao về phía tôi, cứ cái đà ấy, với sự hiểu biết của tôi về cậu ta thì chắc là định bước tới ôm lấy tôi. Tôi bối rối vì vợ cậu ta đang đứng bên cạnh. May mà mấy đứa nhóc đã cứu nguy cho tôi. Chúng lon ton chạy đến, sà vào lòng cha, chặn vòng tay đang dang rộng về phía tôi lại.

    Vợ cậu ta cũng đứng lên, nụ cười ngọt ngào, nhìn những đứa trẻ cuộn tròn trong lòng Pusyseda. Rồi cô ấy bước đến, kéo lũ trẻ ra, nhẹ nhàng nói với chồng:

    - Để thiếp đưa các con đi tắm, chúng nô đùa cả ngày, bụi bám đầy người rồi.

    Rồi quay lại gật đầu với tôi:

    - Cô Ngải Tình ngồi chơi, tôi xin phép.

    Cảm tình với cô gái lại tăng thêm một bậc nữa. Quả là một phụ nữ hiểu biết. Chả trách, cô ấy đã khiến “lãng tử” Pusyseda quay đầu.

    Khi chỉ còn lại hai chúng tôi, tôi dành chút thời gian quan sát thật kỹ Pusyseda của mười năm sau. Cậu ta vạm vỡ hơn trước, cũng học theo các nam giới Khâu Từ khác để râu, những nếp nhăn hằn trên khóe mắt, khi cười càng lộ rõ vẻ từng trải và dấu ấn năm tháng. Sức lôi cuốn của vẻ đẹp nam tính tỏa ra triệt để.

    - Già rồi.

    Cậu ta cười, chiêu bài rướn mày, nháy mắt năm nào đang được diễn lại:

    - Ai mà trẻ mãi không già như chị chứ!

    - Không hề già. Cậu đang ở vào độ tuổi hấp dẫn nhất của người đàn ông đấy.

    Tôi cũng cười, thật vui khi được thấy cậu ta hạnh phúc.

    - Vẫn còn đeo ư, tức là chưa quên tôi, nhỉ?

    Giọng nói có chút nghẹn ngào, cậu ta cúi đầu hít một hơi, rồi lại ngẩng lên cười.

    Tôi ngơ ngác, thấy cậu ta nhìn chăm chăm vào cổ mình mới phát hiện ra là cậu ta đang nói về miếng ngọc bội. Cậu ta cũng vẫn đeo, nhưng sợi dây đã sờn bạc, biến thành màu đen từ khi nào. Tôi muốn nói một câu gì đó, nhưng sợ cất lời thì nước mắt lại trào ra. Pusyseda đưa tay ra kéo tôi vào lòng. Tôi vùng vẫy, nhưng giọng nói khẽ khàng trên đỉnh đầu đã ngăn tôi lại:

    - Yên nào, để tôi ôm một lát. Tôi biết chị quay về không phải vì tôi, tôi chỉ muốn ôm chị một lát thôi.

    Tôi không khỏi xúc động, nước mắt lăn dài, ngoan ngoãn trong vòng tay Pusyseda. Nhưng không muốn kéo dài, sợ có ai bắt gặp, tôi lặng lẽ lau nước mắt, lên tiếng:

    - Cậu chọn vợ khéo lắm!

    Cậu ấy buông tôi ra, quay mặt đi, đưa tay lên thấm nước mắt.

    - Mấy năm trước theo cậu út đi Trường An cống nạp, tôi đã cứu Hiểu Huyên. Cô ấy vốn là con nhà trâm anh thế phiệt, nhưng gặp thời loạn, phải ca hát để kiếm sống.

    Nụ cười ấm áp nở trên môi.

    - Một cô gái yếu đuối nhưng luôn mỉm cười đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, khiến tôi nhớ đến sự kiên cường của chị. Cô ấy có đôi mắt rất giống chị.

    Tôi hít một hơi, lấy lại sự bình tĩnh.

    - Hãy yêu thương cô ấy và hai đứa trẻ!

    Cậu ta gật đầu.

    - Họ là những người mà dù cho có phải đánh đổi cả tính mạng tôi cũng quyết phải bảo vệ đến cùng.

    Chợt nhớ ra chuyện mà tôi quan tâm nhất.

    - Rajiva... bây giờ sao rồi?

    - Chị về đây để cứu huynh ấy phải không?

    Cậu ta khẽ thở dài, sắc mặt trở nên rầu rĩ.

    - Có điều, không kịp nữa rồi...

    Tôi bàng hoàng, mặt đất như đang xoay chuyển, cậu ta vội đỡ lấy tôi. Tôi chao đảo, túm chặt tay áo Pusyseda:

    - Cậu ấy... cậu ấy phá giới rồi ư?

    - Sao chị biết Lữ Quang ép huynh ấy phải phá giới? Mà cũng phải thôi, chị là tiên nữ cơ mà, chuyện gì cũng biết cả.

    - Cậu ấy... cậu ấy và Aksayamati...

    - Vẫn chưa.

    Cậu ta đỡ tôi ngồi xuống.

    - Nhưng chắc là sắp rồi, vì đã ba ngày...

    Tôi lại nắm chặt tay áo Pusyseda, cậu ta vỗ nhẹ vào vai tôi, ra hiệu cho tôi không nên nóng vội.

    - Lữ Quang nghe danh anh tôi đã lâu, nhưng không tin huynh ấy một lòng hướng Phật, ông ta muốn hạ nhục huynh ấy. Lữ Quang đánh cược với bộ tướng của ông ta, nếu trong ba ngày mà huynh ấy phá giới, thì toàn bộ mấy trăm phi tử của đời vua trước sẽ thuộc về ông ta. Nếu ngược lại, sẽ được chia cho các tướng lĩnh.

    Tôi sững sờ, sử sách không hề ghi chép điều này. Thì ra Lữ Quang ép Rajiva phá giới vì một vụ cá cược tranh giành phụ nữ ư? Một người mà danh tiếng lừng lẫy suốt ba mươi năm như Rajiva lại phải chịu mối ô nhục này ư?

    - Huynh ấy đã kháng cự suốt hai ngày qua. Nhưng hôm nay là ngày cuối cùng, nghe nói Lữ Quang đã sai người cởi bỏ quần áo của cả hai người. Tôi vừa từ trong cung về, theo những gì tôi nghe ngóng được thì huynh ấy vẫn đang chống cự quyết liệt. Tôi chưa bao giờ khâm phục anh trai mình đến thế! Bị o bế như vậy mà huynh ấy vẫn kiên định. Có lẽ chỉ có huynh ấy mới làm được như vậy! Nhưng mà...

    Cậu ta ngập ngừng, rồi thở dài:

    - Nếu huynh ấy vẫn cố chấp, Lữ Quang sẽ cho người chuốc rượu. Lữ Quang đã nói là làm, nếu đêm nay huynh ấy không chịu phá giới, khiến ông ta bị thua trong cuộc cá cược này, chỉ e... sau này sẽ phải chịu sự đối xử tàn tệ hơn nữa.

    Tôi bật dậy, kéo tay cậu ta:

    - Pusyseda, hãy cứu cậu ấy...

    - Ngải Tình, tin tôi đi, ba ngày qua tôi đã nghĩ đủ mọi cách để cứu huynh ấy. Tôi đi cầu xin Lữ Quang, cầu xin đức vua, tôi đã dùng tiền, dùng phụ nữ để mua chuộc đám con trai và bộ tướng thân cận của Lữ Quang, nhưng đều vô ích. Nếu là mấy năm trước, tôi sẽ vác gươm xông vào cứu huynh ấy, rồi đưa huynh ấy trốn đến nơi khác.

    Cậu ấy buồn rầu lắc đầu, đưa mắt nhìn ngôi nhà.

    - Nhưng bây giờ, tôi không thể không nghĩ đến vợ và các con mình.

    - Vậy hãy đưa tôi đến gặp Lữ Quang.

    - Vô ích thôi, Lữ Quang là kẻ bảo thủ cố chấp, bao nhiêu người khuyên can, chỉ càng thêm kích động ông ta. Chị chỉ là một cô gái bình thường, làm sao ông ta chịu nghe lời chị.

    - Vậy thì...

    Tôi hít một hơi thật sâu.

    - Hãy tráo đổi tôi với Aksayamati.

    Cậu ta đưa tạy khẽ gạt những sợi tóc lòa xòa trên trán tôi.

    - Ngải Tình, có lẽ đây là cách duy nhất để cứu huynh ấy.

    Tôi và Pusyseda vừa bước ra khỏi phòng khách thì gặp Hiểu Huyên từ dưới bếp đi lên, thấy chúng tôi vội vội vàng vàng lao ra cửa, cô ấy gọi với:

    - Tướng công, đã đến giờ ăn tối, mọi người dùng bữa xong hẵng đi. Mà, cô Ngải Tình cũng phải thay y phục chứ.

    Tôi bỗng nhớ ra là mình vừa leo lên từ hố chôn người, quần áo dính đầy vết máu và mùi hôi hám, cứ thế này mà đi gặp Lữ Quang e không tiện. Hiểu Huyên đưa tôi vào phòng, quần áo mới đã được chuẩn bị và đặt sẵn ở đầu giường. Tôi cởi bỏ chiếc áo chống tia phóng xạ, khoác lên người trang phục cô ấy chuẩn bị cho mình, đó là một bộ Hán phục màu sắc trang nhã, rất thoải mái. Hiểu Huyên quả là người khéo léo, hoạt bát và tinh tế hơn tôi rất nhiều.

    Tôi không muốn tiêu tốn thời gian, nên chỉ ăn qua loa rồi giục Pusyseda lên đường. Cậu ta dặn dò vợ đôi câu rồi cùng tôi vào cung. Từ khi chiếm được thành Khâu Từ, Lữ Quang đã ở luôn trong cung, ông ta chia cho vị vua Bạch Chấn một nửa cung điện.

    Để gặp được Lữ Quang, chúng tôi đã tốn không ít thời gian. May mà Pusyseda là thân tín của Bạch Chấn, nên không kẻ nào dám gây khó dễ. Trong khi chờ đợi để được vào gặp Lữ Quang, Pusyseda tranh thủ dò la thông tin từ tai mắt của cậu ở trong cung và được biết rằng Rajiva đã bị chuốc rượu, nhưng vẫn kiên trì kháng cự.

    Pusyseda nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:

    - Ngải Tình, lát nữa gặp Lữ Quang, chị đừng nói gì cả. Ông ta là kẻ thô bạo nóng nảy, không biết nương tay bao giờ, chỉ có thể thuận theo ý ông ta, nếu chống lại thì dù là thân tín, ông ta cũng sẵn sàng trừ khử.

    Cậu ta thở dài thườn thượt:

    - Anh trai tôi gặp phải ông ta đúng là gặp phải kiếp nạn!

    Thư Cử Mông Tốn, kẻ đã giết Đoàn Nghiệp và tự lập mình làm vua Bắc Lương đã đánh giá Lữ Quang là kẻ “mê muội, tin lời gièm pha của kẻ xấu”. Vừa nghe cháu trai nói rằng “người Hà Tây chỉ biết đến Đỗ Tấn mà không hay Lữ Quang là ai”, ông ta đã thẳng tay giết Đỗ Tấn, một tướng lĩnh đắc lực, một công thần. Trong chuyện chọn người kế vị, Lữ Quang cũng có những quyết định hết sức hoang đường, khiến nhà Hậu Lương chỉ trong vài năm ngắn ngủi sau khi ông ta qua đời đã phải thay đến ba đời vua và sau cùng đã để mất nước. Bởi vậy, ảo tưởng có thể thuyết phục Lữ Quang từ bỏ việc hành hạ Rajiva của tôi tan vỡ sau câu nói của Pusyseda. Muốn ông ta từ bỏ ý định hạ nhục Rajiva, e là tôi sẽ phải đánh đổi cả tính mạng của mình. Đối với một kẻ chẳng hề tín Phật như Lữ Quang, từ bỏ không chỉ đơn giản là việc sẽ mất đi phần thưởng béo bở kia, mà quan trọng hơn là ông ta sẽ mất đi thể diện.

    Sau nhiều lần thông báo, khi đêm đen đã bao trùm, chúng tôi mới được xuất hiện trước mặt Lữ Quang.

    Con người đã thay đổi cuộc đời của Rajiva ấy đang ngồi xem báo cáo về tình hình quân sự trong đại điện, bên cạnh là bốn thanh niên chừng hai mươi tuổi, tướng mạo khá giống Lữ Quang. Tôi đoán họ chính là đám con cháu bất nghĩa đã chém giết lẫn nhau để tranh cướp ngôi vị sau khi Lữ Quang chết. Tuy là người tộc Đê, nhưng tướng mạo của ông ta lại rất giống những người Hán thô kệch sống ở phương bắc. Thời điểm này, ông ta bốn mươi bảy tuổi, đỉnh đầu trơ bóng, phần tóc ít ỏi còn lại được quấn buộc và búi tó sau gáy, râu ria mọc lởm chởm, hai hàng lông mày xếch ngược, dữ tợn. Nhác thấy Pusyseda, ông ta lấy giọng khách sáo mời ngồi.

    Pusyseda cúi lạy, rồi nói với ông ta bằng tiếng Hán:

    - Anh tôi tính tình bảo thủ, không hiểu ý tốt của tướng quân, đã khiến tướng quân phải khó xử.

    Lữ Quang chỉ nhếch mép cười, ánh mắt lộ vẻ nham hiểm:

    - Pháp sư kiên cường như vậy thật khiến người ta phải khâm phục. Xem ra, ta đã đánh giá thấp pháp sư rồi!

    Pusyseda ngẩng đầu, thận trọng nói:

    - Hôm nay tôi đến là để giúp tướng quân giành thắng lợi trong cuộc cá cược này.

    Lữ Quang nheo mày.

    - Không biết quốc sư có cao kiến gì?

    Tôi nheo mày, tôi có thể nhận ra cuộc sống đủ đầy của Pusyseda những năm qua, nhưng không thể ngờ cậu ấy lại kế tục chức vị của cha mình ngày trước, trở thành quốc sư của Bạch Chấn.

    - Xin tướng quân hãy tráo đổi cô gái này với em họ Aksayamati của tôi.

    Lữ Quang đưa mắt về phía tôi, thoáng chút kinh ngạc:

    - Xin quốc sư nói rõ cho ta biết, cô gái người Hán này có điểm gì hơn công chúa Aksayamati kiều diễm, mà có thể khiến pháp sư siêu lòng?

    - Tướng quân không biết đó thôi, có rất nhiều uẩn khúc trong chuyện này.

    Pusyseda ngừng lại một lát, nhìn Lữ Quang với vẻ tự tin đắc thắng, tiếp tục nói:

    - Người cô của cô gái này năm xưa từng dạy anh tôi tiếng Hán, vốn đã có tình cảm sâu nặng với anh tôi, nhưng vì thân phận tăng sĩ của anh ấy, đành gạt nước mắt đi lấy người khác. Nhưng hơn mười năm qua, anh tôi vẫn không nguôi thương nhớ. Tuy thờ Phật, nhưng dù sao anh ấy cũng là con người, cũng biết yêu biết hận, chỉ là, người ngoài không hiểu mà thôi. Cô gái này giống hệt người con gái năm xưa, tôi tin rằng, chỉ cần nhìn thấy cô ấy, anh tôi sẽ không trái ý tướng quân nữa. Em họ Aksayamati của tôi tuổi còn quá nhỏ, lại không thân thiết với anh trai tồi. Tướng quân hãy tráo đổi Aksayamati với cô gái này, chắc chắn sẽ thành công.

    Lữ Quang chừng như sắp xuôi, Pusyseda lại tiếp tục:

    - Tướng quân chỉ cần anh tôi chịu phá giới, còn việc với ai, đâu có quan trọng gì, đúng không?

    Lữ Quang liếc nhìn tôi thêm vài lần nữa, dò xét, rồi bất giác cười vang:

    - Cũng phải, phụ nữ Khâu Từ cao lớn đẫy đà, chưa chắc đã khiến pháp sư động lòng bằng cô gái người Hán nhỏ nhắn xinh tươi như hoa như ngọc này.

    Rồi ông ta quay sang người có vẻ nhiều tuổi nhất đứng bên cạnh:

    - Soạn nhi, đưa quốc sư và cô gái này đến chỗ pháp sư.

    Anh ta là Lữ Soạn ư? Tôi liếc trộm anh ta, cũng là một bộ mặt thô kệch đáng sợ. Đó là người con lớn của Lữ Quang, tính tình tàn ác, thích ăn chơi hưởng lạc. Sau khi Lữ Quang qua đời, Lữ Soạn tự lập mình làm vua, ép em trai là Lữ Thiệu phải chết. Nhưng đáng tiếc, chưa đầy vài tháng, Lữ Soạn đã bị cháu trai của Lữ Quang là Lữ Siêu giết chết.

    Lữ Quang nở một nụ cười nham hiểm, dặn dò con trai:

    - Nhớ quay lại báo cáo!

    Rồi quay sang nói với Pusyseda:

    - Quốc sư đừng để ta phải thất vọng đấy!
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  3. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 42: Thoát biến
    Chúng tôi được đưa đến một cung điện nhỏ cạnh hoàng cung, hai tên lính canh cửa trông thấy Lữ Soạn vội vàng đứng lên hành lễ. Lữ Soạn ra lệnh mở cửa, tôi không kìm nổi, ngó theo. Không thấy Rajiva, trên giường chỉ có một cô gái trong trạng thái không mảnh vải che thân, hai tay khép chặt lại che chắn trước ngực, tôi không nhận ra cô bé Aksayamati năm nào nữa. Cô gái thấy chúng tôi thì vội thu mình hút vào một góc giường, cúi đầu, để những lọn tóc xoăn màu hung che phủ khuôn mặt.

    - Tình hình thế nào?

    Lữ Soạn hỏi mấy tên lính gác.

    Chúng cười xun xoe, xu nịnh:

    - Theo lời căn dặn của tướng quân, thuộc hạ đã lột hết quần áo của cả hai người, nhưng vẫn chẳng ăn thua. Nên khi nãy thuộc hạ đã ép Kumarajiva uống rất nhiều rượu, còn bỏ thêm một ít thuốc vào nữa. Vậy mà nhiều canh giờ rồi vẫn không có động tĩnh gì cả. Cô công chúa kiều diễm, nõn nà, mơn mởn như thế, nếu là người khác thì đã nhảy bổ vào rồi ấy chứ, huống hồ lại uống rượu đã bỏ xuân dược. Thuộc hạ cứ nghĩ tay hòa thượng đó là kẻ bất lực, nhưng hình như không phải. Hắn ép mình ói ra hết những gì uống vào. Hắn quả thật rất gan lỳ! Nhưng sự kiên trì của hắn khiến người ta phải nể phục, có lẽ hắn đúng là một bậc cao tăng đích thực…

    Lữ Soạn lừ mắt, hai tên lính im bặt, rồi quay sang tôi, lạnh lùng đe dọa:

    - Đêm nay phải khiến hắn phá giới bằng mọi giá, nếu cha ta mà thua vụ cá cược này, ngươi biết hậu quả sẽ thế nào rồi đấy.

    Bọn chúng hành hạ Rajiva đến mức ấy, khiến tôi không khỏi giận sôi người. Sử sách chép rằng Rajiva đã phá giới vì bị ép cởi bỏ quần áo và chuốc rượu, nhưng không hề ghi rằng bọn chúng còn bỏ cả xuân dược vào rượu. Nghe xong câu nói mất hết nhân tính ấy của Lữ Soạn, tôi ngẩng phắt lên, nỗi căm giận thiếu chút nữa thì bùng phát.

    Nhưng Pusyseda đã kịp chắn trước mặt tôi

    - Tiểu tướng quân cứ yên tâm giao cho cô ấy. Đám mỹ nữ hậu cung nhất định sẽ thuộc về cha con tướng quân.

    Pusyseda nhìn căn phòng, rồi bước tới chiếc bàn hình vuông đặt trong đại điện, kéo tấm khăn trải bàn xuống. Sau đó, bước vào phòng, phủ tấm khăn lên người Aksayamati, đỡ công chúa đứng lên. Lúc bước ra ngoài, cậu ta dừng lại giây lát, đưa mắt về một góc khuất, vẻ mặt ảo não, khẽ thở dài. Cậu ta dìu Aksayamati khuôn mặt tái nhợt vì sợ hãi ra ngoài, lúc đi qua tôi, cậu cất cao giọng bằng tiếng Hán:

    - Mau vào đi, đừng để Lữ tướng quân thất vọng!

    Sau đó lại đổi sang tiếng Tochari, thì thầm:

    - Anh ấy đã chờ đợi mười năm, hãy mang lại hạnh phúc cho anh ấy!

    Gương mặt cậu ta hết sức thản nhiên, nhưng nỗi u buồn hắt lên trong đáy mắt. Tôi nhìn Pusyseda, lấy hết can đảm gật đầu quyết liệt, rồi bước vào phòng. Cánh cửa cọt kẹt khép lại.

    Tôi đưa mắt về phía góc khuất mà khi nãy Pusyseda định hướng ấy và nhận thấy một bóng dáng cao gầy đang thu mình ở đó. Hơi thở như ngừng lại, tôi không dám nhìn chàng. Rajiva, thời gian với em chỉ là chín tháng, nhưng với chàng đã là mười một năm thời gian. Chín tháng thương nhớ dày vò đã khiến em trở nên tàn tạ, héo úa. Vậy mà, chàng đã trải qua những đêm trường cô tịch trọng chốn kinh kệ đền đài lạnh lẽo ấy suốt mười năm trời! Chàng đã phải chịu đựng nỗi cô đơn thăm thẳm ấy như thế nào? Nếu đổi lại, em là người phải đợi chờ trong mười năm ấy, có lẽ em không sống nổi. Tha lỗi cho em đã để chàng phải chờ đợi mỏi mòn như vậy. Tha lỗi cho em đã lựa chọn thời điểm này để đến với chàng trong cơ hội duy nhất này. Mong rằng đây chính là lúc chàng cần em nhất. Nếu có thể, em sẽ không ra đi nữa, hãy để em bù đắp cho chàng những mất mát đau khổ suốt mười năm đằng đẵng.

    Tôi nín thở, khẽ bước đến bên chàng, chưa kịp thấy rõ dấu vết của tháng năm để lại trên khuôn mặt chàng ra sao mà trái tim đã thổn thức và quặn thắt. Không mảnh vải trên người, chàng ngồi bó gối, đầu cúi thấp, giống hệt tư thế của hài nhi trong bụng mẹ, nước da bánh mật lấp loáng dưới ánh sáng của ngọn đèn. Tôi đưa mắt tìm kiếm, căn phòng không có rèm cửa, không khăn trải bàn, trên giường không có chăn, không có thảm trải, không có bất cứ thứ gì có thể che thân. Tôi cười cay đắng, Lữ Quang quả là hiểm ác!

    Tôi lôi trong ba lô ra một chiếc áo khoác, rồi lại gần chàng. Khắp người chàng tỏa ra hơi men nồng nặc, bên cạnh là hiện trường của một vụ ói mửa. Tôi ngồi xuống, choàng áo lên người chàng, làn da chàng bỏng rát. Sự tiếp xúc khẽ khàng đó khiến chàng giật mình, ngẩng lên, đôi mắt màu xám nhạt như hai vực nước sâu hun hút ấy lúc này đang vằn lên những tia đỏ. Chàng gầy đi nhiều, gương mặt càng trở nên thuôn dài hơn, dưới cằm râu đâm lên lởm chởm, khuôn mặt chàng đỏ gay gắt như sắp bốc hỏa. Mười một năm trôi qua, nhưng chàng vẫn cuốn hút như ngày nào. Chỉ có điều, tháng năm vô tình đã in lên vầng trán chàng những nếp nhăn mờ ảo. Mấy ngày qua, chịu cảnh dày vò, o bế, chàng tiều tụy, bờ phờ hơn, bờ môi tái xám, nứt nẻ. Vết máu khô dính trên khóe môi nứt vỡ, trông giống hệt một vết răng cắn chặt.

    - Rajiva…

    Càng nhìn chàng, lòng càng đau đớn như có ai vò xé. Chịu nhục mạ, chịu đày đọa thế này, người bình thường liệu ai có thể cầm cự được như chàng? Không phải chàng gắng sức để bản thân không phá giới, mà chàng đang ra sức bảo vệ đức tin của cả cuộc đời mình. Lữ Quang hành hạ chàng khổ sở như vậy, chỉ vì vụ cá cược nực cười đó ư?

    Đôi mắt thất thần ngước nhìn tôi, rồi đột nhiên tròng mắt mở rộng, một tia sáng chiếu ra từ con ngươi màu xám nhạt ấy, vẻ ngỡ ngàng rào đón khắp gương mặt tôi. Đôi môi nứt nẻ hé mở, khóe môi khẽ động đậy, mỏng và nhẹ như sự run rẩy của một chiếc lá khô trong gió.

    - Là em, em đã trở về…

    - Ngải… Tình…

    Những thanh âm tắc nghẹn, run rẩy ấy phải gắng gượng lắm mới bật ra được, sau khi đôi mắt màu xám nhạt đã vân du hồi lâu trên khuôn mặt tôi. Nhưng ngay lập tức, khuôn mặt nóng bừng lộ vẻ xấu hổ, chàng khép chặt đôi vai lại, toàn thân run rẩy, quay đầu đi, giọng chất chứa nỗi buồn tủi, khổ sở:

    - Đừng nhìn ta…

    - Rajiva…

    Trái tim tôi như tan nát! Một bậc cao tăng thanh cao nhường ấy lại phải chịu đựng sự sỉ nhục này, lòng nào có thể không xót xa!

    - Đừng khóc…

    Chàng quay đầu lại nhìn, cánh tay dài gầy guộc từ từ vươn ra như muốn vuốt ve khuôn mặt tôi, nhưng khi vừa chạm đến, cánh tay đã vội thu về, hai mắt chàng nhắm lại, tay phải nắm chặt chuỗi tràng hạt đã sờn bạc, cũ mèm, không còn nhận ra màu sắc lúc đầu nữa. Chàng lần tràng hạt tụng kinh, như thể tôi chỉ là không khí. Đó là chuỗi hạt tôi tặng chàng hơn hai mươi năm về trước. Bên tay trái chàng là chiếc vòng mã não màu đỏ, trong suốt, kể cả chiếc vòng ấy cũng đã được mười năm tuổi.

    - Rajiva, chàng sao vậy?

    Nhìn thấy thứ duy nhất trên người chàng là chuỗi hạt và chiếc vòng năm xưa, tôi cắn răng cố ngăn những giọt nước mắt cứ trực trào ra.

    Mong muốn sinh ra ảo giác, là cái vốn dĩ không có thực. Dục vọng khiến người ta u mê, không có gì tồn tại trên cõi đời này cả.

    Chàng vẫn nhắm chặt mắt, giọng như lạc đi khi đọc mấy câu kệ bằng tiếng Hán, rồi chàng lại tiếp tục tụng niệm.

    Tôi đưa tay lau nước mắt, có lẽ chàng nghĩ tôi chỉ là ảo giác. Chàng vẫn ngồi yên trên nền nhà. Tuy có thảm trải, nhưng kể cả vào mùa hè, đêm ở ốc đảo vẫn rất lạnh. Tôi đứng lên, bước ra cửa, thấy Lữ Soạn và đám lính đang trò chuyện, hắn vẫn chưa đi ư? Tôi lên tiếng yêu cầu một tấm chăn, Lữ Soạn cười vang, buông giọng ỡm ờ:

    - Không cần bất cứ thứ gì mà vẫn khiến hắn phá giới mới được!

    Tôi sa sầm mặt mày, đòi thêm một cốc nước. Lữ Soạn sai người đi lấy, rồi quay ra hếch mắt nhìn tôi:

    - Tranh thủ thời gian đi, ta còn phải về báo cáo với cha ta. Còn nữa, nhất thiết phải “làm” trên giường đấy!

    Hắn hất hàm về phía khung cửa sổ, tôi đưa mắt nhìn theo, một lỗ hổng hình quả trám trên khung cửa sổ đang chiếu thằng vào vị trí chiếc giường trong căn phòng. Bọn chúng thật vô nhân tính! Hắn muốn chứng kiến tận mắt thì mới yên lòng ư? Chúng coi đây là một trò đùa, là một trò cá cược bệnh hoạn ư?

    Nỗi căm hờn khiến tôi chỉ muốn hất cả cốc nước vào mặt hắn, phải hít thở nhiều lần tôi mới lấy lại được sự bình tĩnh và trở lại căn phòng. Tiếng cười giễu cợt của hắn văng vẳng phía sau:

    - Nếu không xong thì đến hầu ta nhé!

    Tôi ghê tởm loại người này, chỉ muốn ngay lập tức hét vào mặt hắn kết cục thảm hại của hắn sau này!

    - Rajiva, uống chút nước đi.

    Tôi vừa khẽ gọi, vừa đặt cốc nước kề sát miệng chàng. Có lẽ vì quá khát, chàng không từ chối, cứ thế nghiêng đầu uống sạch cốc nước trên tay tôi. Tôi lấy khăn tay, lau những giọt nước vương trên vành môi chàng.

    Chàng chăm chú nhìn chiếc khăn trên tay tôi. Tôi mỉm cười:

    - Chàng còn nhớ chiếc khăn tay này không? Chàng đã tặng cho em đó. Chàng nói rằng không thấy em dùng khăn tay bao giờ, lấy tay lau miệng không vệ sinh chút nào. Chiếc khăn này em vẫn luôn giữ bên mình, chưa khi nào lấy ra dùng cả, vì thấy tiếc…

    Đột nhiên tôi rơi vào lồng ngực nóng bỏng của chàng, tim chàng đập dữ dội bên tai tôi. Khuôn mặt nóng rực cọ xát trên cổ tôi, những đường gân trên cổ chàng nổi lên giật giật như đang gẩy vào tim tôi. Tay chàng lồng vào tóc tôi, mơ hồ khẽ rên tên tôi.

    Tôi ngã vào lòng chàng, vòng tay quen thuộc ấy bỗng chốc trở nên xa lạ. Làn da trần, nóng bỏng phủ lên gương mặt tôi, một đợt sóng khác thường lan toả toàn thân, tôi như đang bị thiêu đốt.

    Chàng khẽ đẩy tôi ra một khoảng nhỏ, ánh mắt mê loạn sục sạo da diết gương mặt tôi. Tôi chưa kịp mở lời, thân thể chàng đã áp sát và hôn riết lấy tôi.

    Nụ hôn của chàng không dịu dàng như trong hồi ức, mà hổn hển tách môi tôi ra và gần như điên cuồng khuấy động. Hơi rượu nồng nặc trong miệng, trùm lên lưỡi tôi. Những sợi râu dày lởm chởm cọ lên má tôi ram ráp. Hơi thở của chàng càng lúc càng gấp gáp, chàng ghì mạnh tôi xuống nền nhà, toàn thân phủ lên mình tôi.

    - Rajiva…

    Tôi lấy cánh tay nhăn lại, thì thầm bên tai chàng:

    - Chúng ta hãy lên giường.

    Chàng dừng lại, dường như có chút tỉnh táo, buông cánh tay đang ghì lấy tôi ra, cắn mạnh vào vành môi đã nứt toác, một tia máu rỉ ra, nhuộm đỏ đôi môi vốn khô nẻ.

    Lệ rơi chan hòa, chàng khổ sở nhẫn nhịn, gắng gượng kìm chế bản thân. Nếu còn cách khác, tôi sẽ tôn trọng ý nguyện của chàng. Nhưng đám người bên ngoài kia là những kẻ điên loạn, bọn họ nắm quyền sinh sát trong tay. Tôi và chàng chỉ là những kẻ yếu trong thời loạn này. Để sinh tồn, đêm nay, chúng tôi phải hoàn thành “nghi lễ trưởng thành” trước mắt kẻ khác.

    Tôi gạt đi nước mắt, định thần lại, khoác lên người chàng chiếc áo dài đã rơi sang bên. Sau đó đặt tay chàng lên vai tôi, từng bước nặng nề dìu chàng đến chiếc giường ô nhục. Phật tổ, xin hãy thấu hiểu tấm lòng thành kính của đệ tử của Ngài, xin hãy thương xót chàng. Chàng kìm chế, nhẫn nhịn, đã làm được điều người thường không thể làm được. Bởi vậy, xin Ngài, hãy giáng tội lên con, con bằng lòng thay chàng hứng chịu mọi sự trừng phạt.

    Cơ thể chàng trĩu nặng, toàn bộ trọng lượng của chàng gần như đè cả lên vai tôi. Chúng tôi cùng bước đi loạng choạng, ánh mắt không kìm được khẽ lướt trên người chàng, trái tim bỗng đập cuồng loạn. Dù đã cố nhẫn nhịn, dưới tác dụng của thuốc, chàng vẫn có ham muốn như những người đàn ông bình thường khác. Đó là bản năng của con người, bản năng mà ngay cả Phật tổ cũng không thể xóa bỏ được. Vậy thì, chí ít trong đêm nay, hãy để chàng làm một người đàn ông bình thường.

    Chàng rã rời đổ xuống người tôi, vẫn cố cắn chặt môi, nhưng đôi mắt theo sát tôi từng giây từng phút, trong sâu thẳm đôi mắt ấy là khát khao cháy bỏng của một người đàn ông bình thường. Tôi hít một hơi sâu, đưa tay cởi áo. Hán phục rất đơn giản, chỉ cần mở hết các nút áo là bộ đồ nội y hiện đại của tôi đã phơi bày trước mặt chàng. Mặt nóng bừng, mũi lấm tấm mồ hôi, tôi dừng lại, không dám cởi tiếp nữa, vì tôi biết bên ngoài cửa sổ hình quả trám kia còn có rất nhiều con mắt tà ác đang hau háu dõi theo.

    Tay phải chàng nắm chặt chuỗi tràng hạt, tôi muốn lấy ra, đặt lên kệ đầu giường, nhưng chàng không nói không rằng, xiết chặt tràng hạt. Tôi dịu giọng thuyết phục cũng chỉ có thể quấn tràng hạt quanh cổ tay chàng.

    Chàng nằm nghiêng, gần tôi trong gang tấc, đôi mắt màu tro nhạt lấp lánh, dục vọng dâng trào như làn sóng. Bàn tay nóng ran của chàng vuốt ve thân thể tôi, vụng về lướt nhanh một đường từ cổ tới ngực rồi xuống eo. Tôi vòng tay vít cổ chàng, liếm khóe môi bị rách, cảm giác mằn mặn chui vào cuống lưỡi, chàng đau đớn khẽ rên lên thành tiếng, rồi đột ngột cúi đầu ngậm chặt lưỡi tôi. Thân hình mảnh khảnh của chàng che phủ thân thể tôi, hơi thở hổn hển.

    Hơi rượu trong miệng chàng rất khó chịu, không biết bọn họ đã ép chàng uống nhiều tới mức nào. Một người chưa từng chạm đến một giọt rượu như chàng, dưới tác động của men say và xuân dược còn có ý thức được rằng người chàng đang đối diện là tôi không? Tôi muốn tin rằng chàng vẫn giữ được dù chỉ là rất ít sự tỉnh táo, đủ để nhận ra sự tồn tại của tôi và vì có tôi nên chàng mới yên lòng chấm dứt chuỗi ngày chịu đựng khổ sở và để dục vọng phơi bày tự nhiên như vậy.

    Tôi cười buồn, rút lại những ý nghĩ chua chát. Bây giờ là lúc nào mà tôi vẫn còn suy nghĩ những điều vẩn vơ như thế. Tôi cần nghĩ xem phải nhanh chóng tiến hành việc đó ra sao. Vì chỉ như thế, đám người ngoài kia mới buông tha cho chúng tôi, bằng không, những kẻ chẳng có chút tín ngưỡng gì ngoài kia có thể sẽ sử dụng nhiều thủ đoạn tàn bạo hơn nữa để dày vò chàng. Chàng đã gắng gượng suốt ba ngày rồi, cơ thể và tinh thần đều đã mệt mỏi, chàng cần được nghỉ ngơi.

    Lịch sử chép rằng chàng đã phá giới, vậy tôi sẽ tình nguyện làm việc đó thay Aksayamati. Tình yêu vốn ích kỷ, thay đổi lịch sử thì đã sao? Tôi chỉ biết rằng tôi yêu chàng và tôi muốn được trở thành “đối tượng phá giới” của chàng. Sau này dù chàng có hối hận, tôi cũng cam lòng.

    Ý nghĩ đó khiến tôi thêm can đảm, tôi đưa tay lên vuốt ve lưng chàng. Làn da chàng bóng mịn, trơn mượt. Di chuyển dần xuống dưới, cảm giác các cơ bắp của chàng đang căng dần lên trong lòng tay tôi. Chàng như đang gồng mình lên, mũi tên đã được căng trên dây cung, chàng muốn lao tới, nhưng lại không biết cách, gương mặt lộ vẻ băn khoăn, bối rối.

    Bàn tay đã chạm đến quần lót của tôi, chàng gắng sức giật ra, nhưng tôi ngăn lại:

    - Đừng vội, để em.

    Sau khi trút bỏ quần lót, tay tôi ướt đẫm, không dám nhìn chàng, nhắm mắt lại, cầu mong chàng mau chóng kết thúc.

    Cơ thể phơi trần hồi lâu đã thoáng chút tê lạnh, vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Tôi mở mắt ra, thấy chàng trong tư thế thân trên hơi chống lên, hơi thở gấp gáp, ánh mắt mê loạn, nhưng có vẻ chần chừ, khổ sở. Khen thay cho ý chí và sự kiên định của chàng, đó là điều mà không phải ai cũng làm được. Tới mức này mà ý chí vẫn ra sức đấu tranh với phản ứng sinh lý nguyên thủy. Tôi cắn môi, khẽ luồn tay xuống dưới. Má tôi bừng bừng, thì ra, vào những lúc như thế này, “chỗ đó” của đàn ông cương cứng và nóng bỏng như than.

    Chàng rên rỉ, vẻ do dự đã hoàn toàn biến mất, ánh mắt bùng lên như lửa thiêu. Trong tư thế nửa quỳ giữa hai đùi tôi, chàng để tôi dẫn dắt vào nơi kín đáo nhất của cơ thể mình. Tôi nhắm mắt, để mặc bản năng của chàng hành sự. Khoảnh khắc chàng đi vào tôi, trời đất như quay cuồng, thân thể như bị tách thành hai mảnh. Tôi bật khóc, muốn nắm lấy cái gì đó cho bớt đau đớn, nhưng chỉ thấy dưới thân trơn ướt vì chiếc giường hoàn toàn trống trải, móng tay muốn bám chặt vào đâu cũng khó. Tôi chỉ biết cắn răng chịu đựng những đợt sóng nối tiếp nhau trôi đi.

    Nghe tiếng tôi nức nở, chàng dừng lại, chống người lên nhìn tôi, lồng ngực phập phồng gấp gáp, mồ hôi trên trán chàng chảy dọc gương mặt thon dài, đọng lại nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu, rồi nhỏ xuống ngực tôi. Đôi mắt vằn tia đỏ của chàng vẫn như mê loạn, nhưng gương mặt lại thoáng vẻ ngại ngần.

    - Em không sao…

    Tôi cố kìm không để nước mắt rơi, họng nghẹn đắng, gượng gạo nở nụ cười ngây ngô của Ngải Tình. Những mong nụ cười quen thuộc ấy có thể lưu lại trong trí nhớ của chàng một chút ký ức ấm áp khi tỉnh lại vào ngày mai.

    Chàng đã dừng lại không lâu sau đó, khoảnh khắc lên tới đỉnh điểm, giọng chàng rên lên khản đặc:

    - Ngải Tình…

    Nước mắt ngưng đọng đã lâu, khóe mắt chẳng ngăn nổi nữa đã để từng giọt nặng nhọc rơi xuống gối, một cảm giác vừa ngọt ngào vừa xót xa xâm chiếm tim gan tôi. Thì ra chàng vẫn luôn nhớ đến tôi…

    Tôi ngước nhìn bầu trời đêm qua giếng trời trên mái nhà, ngàn sao tỏa sáng lấp lánh, nhưng tôi lại thấy bầu trời như đang xoay vần, vật đổi sao dời, ngàn năm vút trôi và chúng tôi đang ở bên nhau, trong khoảnh khắc này. Tôi đã hoàn thành cuộc biến đổi, không phải từ một thiếu nữ thành một người đàn bà, mà quan trọng hơn, kể từ giây phút này, linh hồn của tôi sẽ gắn chặt với chàng mãi mãi, không rời không buông.

    Chàng đang say trong giấc ngủ bình yên sau ba ngày bão tố. Tôi đưa tay vuốt nhẹ khuôn mặt gầy gầy xương xương của chàng, khẽ lùa các ngón tay vào hàng lông mày dài miên man của chàng, chạm đến đôi mắt sâu hun hút của chàng, đến chiếc mũi cao thanh tú của chàng, đến bờ môi ngọt ngào của chàng. Con người mà ngày đêm tôi mong nhớ ấy, đang ngon giấc bên cạnh tôi. Trước đây, dù có dũng cảm đến mấy, tôi cũng không dám tưởng tượng ra cảnh tượng này…

    Tôi ngồi dậy mặc quần áo, phần thân dưới buốt xót và nóng rực như lửa đốt, mỗi cử động dù rất nhỏ cũng như có gai nhọn đâm vào da thịt. Vệt máu trên chiếu đã khô, phía trong đùi trên của tôi vẫn còn dính vài vệt máu đỏ tươi. Tôi nén đau, bước xuống giường, lê ra ngoài cửa. Mỗi bước đi đều kéo theo cơn đau buốt như xé gan xé ruột. Chả trách, hầu hết phụ nữ đều mô tả giống hệt nhau về lần đầu tiên của mình.

    Đẩy cửa, lạnh lùng nhìn đám người đang cười đùa thô bỉ bên ngoài, tôi cất tiếng:

    - Giờ thì có thể mang chăn cho tôi rồi chứ?
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  4. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 43: Thức giấc
    Tôi ngồi bên giường lặng lẽ ngắm Rajiva.

    Hôm qua là một ngày vô cùng mệt mỏi, nhưng tôi không sao ngon giấc vì có chàng nằm bên cạnh. Căn phòng không còn bất cứ thứ gì khác có thể ngả lưng nên tôi đành thu mình nằm cạnh chàng. Một đêm dài dằng dặc với những nỗi lo sợ mơ hồ, sợ xoay người sẽ khiến chàng tỉnh giấc, sợ vô tình chạm vào người chàng, sợ thức dậy muộn hơn chàng khiến chàng khó xử. Vì thế, tôi chỉ có thể nằm yên, không nhúc nhích, không động đậy, toàn thân tê dại, rã rời. Trời vừa hửng sáng tôi đã thức giấc, đi lại vận động trong căn phòng, nhưng cố gắng hết sức để không gây ra tiếng động.

    Chàng đang say giấc, dù đã ba mươi lăm tuổi và không còn trẻ trung như mười một năm về trước, nhưng chàng vẫn rất thuần khiết, vẫn rất hấp dẫn. Chàng trẻ hơn rất nhiều so với những nam giới cùng tuổi khác ở thời đại này, có lẽ vì ngày này qua tháng khác, chàng chuyên tâm tu tâm dưỡng tính nơi cửa Phật. Những nếp nhăn mờ ảo trên vầng trán và khóe mắt càng tôn thêm vẻ đẹp trưởng thành, già dặn. Sau một đêm nghỉ ngơi, khí sắc của chàng đã khá lên rất nhiều, không còn nét tiều tụy của ngày hôm qua nữa. Khóe môi thấp thoáng nụ cười, khiến cả khuôn mặt trở nên rạng rỡ, hình như, chàng đang mơ một giấc mơ đẹp.

    Tôi cứ ngồi mãi như thế mê mải ngắm nhìn thần tượng của mình. Đã về trưa mà chàng vẫn say trong giấc ngủ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời chàng thức dậy muộn như vậy. Còn tôi, cơn buồn ngủ ập tới dữ dội, khiến tôi không sao kìm chế nổi, gục đầu xuống, thiếp đi.

    Ai đó đang khẽ vuốt tóc tôi, tôi giật mình mở mắt, trái tim đập rộn ràng khi bắt gặp đôi mắt màu xám nhạt long lanh như hồ nước mùa thu ấy, đôi mắt đã xuất hiện không biết bao nhiêu lần trong từng đêm mơ của tôi ấy, đang ở rất gần.

    - Chàng… tỉnh rồi ư…

    Tôi vội đứng lên, hỏi chàng:

    - Chàng có đói không? Em đã kêu họ mang đồ ăn tới…

    Tôi cầm chiếc bát đặt ở đầu giường.

    - Ôi, nguội cả rồi. Để em bảo người hâm nóng lại…

    Tôi, ánh mắt ngập đầy thương nhớ. Điều đó quá đỗi ngọt ngào, tôi khẽ gọi tên chàng:

    - Rajiva…

    - Quả là cứ sau mười năm, nàng sẽ quay lại.

    Chàng vẫn nằm trên giường, khẽ nhắm mắt, tiếng thở dài thoáng qua, khóe môi khẽ rung động:

    - Nàng trở về là tốt rồi…!

    - Tôi lại gần chàng, ngồi xuống, áp tay chàng lên má tôi, mỉm cười:

    - Vâng, em đã trở về…

    Bàn tay chàng run rẩy cọ xát trên khuôn mặt tôi, từ từ dạo qua hai mắt, sống mũi, bờ môi, đáy mắt phơi phới hơn qua mỗi dịch chuyển nhẹ nhàng. Rồi chàng đột nhiên bật dậy, giam chặt tôi vào lòng, cằm chàng đặt trên đỉnh đầu tôi, những sợi râu lúm phún cọ vào da đầu ram ráp, tôi muốn bật cười nhưng chỉ cười ra nước mắt.

    - Phật tổ, Ngài thật từ tâm...

    Giọng nói nghẹn ngào trôi bên tai tôi:

    - Ngài đã đưa nàng trở về...

    Chàng đỡ hai vai tôi, ánh mắt da diết nhìn tôi:

    - Mười một năm rồi mà nàng không hề thay đổi...

    - Có chứ, em đã hai mươi lăm tuổi rồi...

    Tôi mỉm cười nhìn chàng, sống mũi cay cay.

    - Một năm trên trời bằng mười năm dưới hạ giới ư?

    Chàng vuốt nhẹ mái tóc tôi, động tác êm dịu như nâng niu một vật báu.

    - Lần đầu gặp nàng, nàng hơn ta mười tuổi. Lần thứ hai gặp nàng, nàng bằng tuổi ta. Bây giờ, ta đã hơn nàng mười tuổi.

    Bàn tay chàng nhẹ nhàng vuốt ve hai má tôi, ánh mắt dịu dàng:

    - Ngải Tình, nàng có biết con số “mười” ấy chính là biểu trưng của định mệnh trong cõi u minh không?...

    Tôi cười, đúng vậy, ông trời đã sắp đặt mọi thứ, phải không? Nhìn khuôn ngực để trần của chàng, bất giác nhớ lại chuyện đêm qua, mặt tôi đột nhiên nóng bừng như phát sốt, ngượng ngập nói với chàng:

    - À... chàng lau người đi rồi dậy ăn cơm... Chắc chàng nhức đầu lắm phải không? Em đã kêu người nấu canh giã rượu cho chàng rồi...

    Tờ mờ sáng tôi đã kêu người mang nước vào và lặng lẽ lau rửa sạch sẽ. Tôi cũng muốn giúp chàng, nhưng sợ làm chàng thức giấc, vả lại, tôi cũng không đủ can đảm để làm việc đó. Mặc dù mồ hôi đầm đìa trên người chàng, lại thêm mùi rượu nồng nặc suốt ba ngày ba đêm, quả thực rất khó ngửi.

    Nghe vậy, chàng giật mình, rời tôi ra. Tấm chăn được gạt sang một bên, để lộ vệt máu đã khô trên mặt chiếu. Không mảy may nghĩ đến tình trạng của bản thân, chàng kéo vội cánh tay phải của tôi ra trước mặt, vén tay áo, quan sát khuỷu tay tôi. Sau khi phẫu thuật, vết thương hầu như đã biến mất, chỉ lưu lại những dấu vết rất nhỏ.

    - Thần Phật trên trời quả nhiên có sức mạnh siêu phàm, tay nàng đã hoàn toàn lành lặn.

    Chàng ngước lên nhìn tôi, đôi mày nhíu lại, vẻ băn khoăn:

    - Vậy thì nàng lại bị thương ở chỗ nào?

    Bây giờ tôi mới hiểu chàng đang nói về vệt máu kia. Tôi ngượng ngùng giải thích:

    - Em không bị thương, cái đó... là... lần đầu của phụ nữ...

    Tôi chưa bao giờ cảm thấy xấu hổ như vậy khi đứng trước mặt chàng.

    - Tóm lại, em không sao cả, chàng đừng lo...

    - Lần đầu ư?

    Vẻ băn khoăn ngày càng hiện rõ trên gương mặt chàng. Tôi bỗng cảm thấy hụt hẫng, lẽ nào chàng không nhớ gì cả ư?

    Không muốn nghĩ nhiều về vấn đề này, phải làm việc gì đó mới được. Tôi đứng lên, định đi múc nước, nhưng cử động hơi mạnh khiến vết thương ở phần thân dưới nhói buốt. Tôi buột miệng xuýt xoa.

    - Rốt cuộc là đau ở đâu?

    Chàng vội kéo tôi lại, đôi mắt trong veo ấy chà xát khắp người tôi.

    - Em không sao mà!

    Tôi khẽ kéo tay chàng ra, nên đau, lê ra ngoài bưng chậu nước vào phòng, chiếc khăn mặt tôi đặt trong chậu là sản phẩm của thế kỷ XXI, vì khăn vải của thời đại này quá ư thô ráp. Tôi vắt kiệt nước, ngượng ngùng đưa cho chàng:

    - Chàng lau người đi.

    Chàng không đón lấy, mà lẳng lặng kéo chăn ra nhìn, khuôn mặt chàng đột nhiên đỏ bừng như mặt trời mùa hạ. Chàng bỗng trở nên thất thần, một lúc sau mới quay đầu lại hỏi tôi:

    - Ta đã khiến nàng bị đau phải không?

    Tôi vừa giận vừa buồn cười. Con người tuyệt đỉnh thông minh ấy sao lại có thể khù khờ trong chuyện này như vậy? Tôi phải giải thích thế nào với chàng đây?

    - Không phải chàng làm em đau, em tự nguyện mà!

    Chàng bần thần hồi lâu, đột nhiên quay lại nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:

    - Ngải Tình, nàng trở về khi nào? Vì sao nàng tới được đây?

    - Hôm qua.

    Tôi nghĩ nên nói hết sự tình với chàng.

    - Tối qua Pusyseda đưa em tới gặp Lữ Quang để thuyết phục ông ta đã đồng ý tráo đổi em và Aksayamati...

    Chàng như run lên, sắc mặt tái đi, giọng nói nhẹ như gió:

    - Tối qua, ta đã gặp nàng thật ư?

    Tôi gật đầu.

    - Thì ra không phải là mơ... Trả trách ta cứ có cảm giác giấc mơ ấy sao mà hệt như thực vậy.

    Chàng lại gần tôi, định nói gì đó, nhưng không thốt ra lời.

    - Ta... đã... phá giới thật ư?

    - Rajiva, chính em là người đã mê hoặc chàng.

    Tôi cắn môi, khẽ nắm tay chàng.

    - Phật tổ sẽ hiểu sự thành tâm của chàng. Chàng đã kiên cường chống chọi suốt ba ngày, đó là điều mà không một người bình thường nào có thể làm được. Bọn chúng còn ép chàng uống rượu đã bỏ xuân dược vào. Thế nên, xin chàng đừng nghĩ ngợi về chuyện xảy ra đêm qua nữa, đừng tự trách mình, chàng không có lỗi gì cả...

    Rajiva cúi đầu thinh lặng, bàn tay nắm chặt tấm chăn đang run lên bần bật. Tôi biết trong phút chốc, chàng không thể chấp nhận sự thực này, nên chỉ biết thở dài, đặt chậu nước và quần áo lên tủ.

    - Em ra ngoài một lát, chàng lau người và thay quần áo đi.

    Đó là một bộ đồ lụa phổ biến mà bọn người ngoài kia trao cho tôi, bọn họ không chịu mang y phục của tăng sĩ tới.

    - Không tìm được y phục của tăng sĩ nên chàng chịu khó mặc bộ đồ này vậy.

    Tôi bưng khay đồ ăn đã nguội ra ngoài.

    Luôn luôn có người canh giữ ngoài cửa, tôi kêu bọn họ mang đồ ăn đi hâm nóng lại. Bọn họ không gây khó dễ, tỏ ra khá giữ lễ với tôi, yêu cầu thứ gì là mang đến thứ đó, chỉ không cho phép tôi đi lại tự do. Ánh nắng rực rỡ chiếu rọi cung điện, không thể tin nổi, dưới bầu trời xanh trong nhường này lại xảy ra cuộc chiến tranh khốc liệt và cảnh tượng loạn ly đẫm nước mắt. Nếu không có cuộc chiến tranh này, có lẽ Rajiva cũng chỉ là một hạt cát nhỏ giữa dòng sông lịch sử, sẽ không có một đại pháp sư tiếng tăm lừng lẫy, lưu danh sử sách. Nhưng để có được danh tiếng ấy, chàng đã đánh đổi cả một đời khổ nạn, không biết, như thế là may mắn hay bất hạnh?

    Khi tôi mang canh thịt và bánh nướng đã hâm nóng vào phòng thì chàng đã mặc lên mình bộ đồ của dân thường và ngồi thiền tụng kinh. Thân hình cao lớn, chỉ khoác lên mình chiếc áo ngắn chít eo đặc trưng của đàn ông Khâu Từ trông đã rất nam tính rồi. Không tính đến cái đầu trọc lốc, nhìn từ phía sau vẫn có thể dùng từ “đẹp trai ngời ngời” để miêu tả về chàng.

    Tôi đặt khay đồ ăn lên bàn, nhìn chậu nước chuyển màu, biết là chàng đã lau rửa sạch sẽ. Gọi chàng tới ăn cơm, nhưng chàng không đáp lại, vẫn miệt mài tụng kinh. Không muốn làm phiền chàng, tôi ngồi yên lặng chờ đợi.

    Nhưng chàng đã tụng niệm gần hai giờ đồng hồ liên tục, không hề ngơi nghỉ. Càng lúc tôi càng buồn bã nhận ra rằng, không phải chàng đang giữ nếp tụng kinh buổi sáng, mà là đang tự trừng phạt. Chàng định sẽ tiếp tục tụng niệm đến bao giờ nữa?

    Không kìm chế nổi, tôi kéo tay chàng, cầu khẩn:

    - Rajiva, xin chàng đừng tụng kinh nữa. Là lỗi của em, chính em đã mê hoặc chàng. Kẻ dụ dỗ người tu hành phạm giới mới là kẻ có tội lớn nhất. Xin hãy để mình em gánh chịu tội nghiệt này, chàng không có lỗi gì cả.

    Chàng mở mắt, nhìn tôi ai oán, khẽ lắc đầu, kéo tay tôi ra, tiếp tục lầm rầm tụng niệm.

    Nhìn quanh căn phòng, thấy một chiếc phất trần cắm trong chiếc bình, tôi đi lấy, mang lại gần chàng.

    - Rajiva, nếu chàng nghĩ rằng đã phạm phải tội lỗi tày trời, em có thể giúp chàng. Con người ở phương tây xa xôi tín theo một thứ tôn giáo. Tôn giáo ấy cho rằng, tội phá giới có thể được giảm nhẹ nếu người mắc tội tự quất roi lên người mình. Nỗi đau thể xác sẽ giúp thuyên giảm nỗi đau tinh thần và như thế sẽ nhận được sự tha thứ của đấng tối cao.

    Tôi ngồi xuống trước mặt chàng, khẽ hỏi:

    - Chàng muốn thử không?

    Ki- tô giáo rất thịnh hành phương pháp tự trừng phạt này. Giáo hội không ngừng nhồi nhét vào đầu các con chiên cảm giác tội lỗi về nhu cầu tình dục và nhấn mạnh, tình dục làm ô uế linh hồn con người và khiến họ không thể lên được thiên đàng. Bởi vậy, những người căm ghét hoặc sợ hãi việc hành lạc, bao gồm cả các tu sĩ nam và nữ đều chuộc tội bằng cách tự quất roi vào người, họ làm vậy, những mong dùng đau đớn của kiếp này đổi lấy hạnh phúc của kiếp sau. Trong thời gian bệnh dịch hạch hoành hành khắp châu Âu, người ta đã tổ chức những đoàn người hành xác, cả một thôn làng hoặc thị trấn cùng diễu hành qua khắp các nẻo đường, rồi tập trung tại một nơi công cộng, sau đó họ bắt đầu tự quất roi vào lưng mình, cho đến khi máu tươi chảy ra.

    Chàng nhìn tôi, vẻ đau khổ tột cùng, lặng lẽ buông áo trễ xuống thắt lưng, rồi nhắm mắt lại, tiếp tục tụng kinh.

    Tôi đứng ra sau lưng chàng, cầm ngược cây phất trần, hít một hơi thật sâu, giữ chặt tay, cắn răng vụt thật mạnh. Một âm thanh rùng rợn vang lên trong không gian, chàng rùng mình kinh ngạc, một vệt dài màu đỏ hằn lên rõ rệt trên lưng chàng. Tôi cắn chặt răng, quay cán phất trần lại, ra sức vụt vào lưng mình. Cơn đau buốt truyền đến não bộ, kích thích nước mắt xô nhau ra quanh viền mắt.

    - Nàng làm gì vậy?

    Cây phất trần bị giằng lấy, tôi ngã vào lòng chàng, trong đôi mắt ngấn lệ, tôi nhìn thấy nỗi kinh ngạc và xót thương của chàng.

    - Chàng muốn trừng phạt bản thân, em sẽ cùng chàng hứng chịu. Chàng không thiết ăn uống, em sẽ cùng chàng tuyệt thực. Nếu chàng không thể chấp nhận thân phận của em, em có thể xuống tóc làm ni cô.

    Những tiếng nức nở, nghẹn đắng nơi cuống họng, tôi dừng lại lấy hơi:

    - Nhưng, Rajiva, lần này, dù có thế nào em cũng sẽ không ra đi. Dù phải đối mặt với bao nhiêu phong ba bão tố, hãy để em ở bên chàng, cùng chàng vượt qua, được không?

    Chàng xiết tôi chặt hơn, tôi vòng tay qua ôm riết lấy chàng. Nếu có thể nhờ vòng tay ôm riết ấy để được hòa tan vào lồng ngực của chàng, để hai người hợp lại thành một thì hạnh phúc biết bao. Gối đầu lên bờ vai để trần của chàng, những giọt nước mắt chảy xuống lằn roi đỏ in trên lưng chàng. Khuôn ngực chàng rung động mãnh liệt, nước mắt chàng thấm ướt vai áo tôi. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu chúng tôi khóc trong vòng tay nhau? Em không đành lòng thấy chàng khóc...

    - Ngải Tình, ta không trừng phạt bản thân vì đã phá giới. Thân xác, chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài. Giáo lý Phật giáo Đại Thừa không quy định ngặt nghèo về chuyện đó. Huống hồ, lần này là do ta bị ép buộc. Nhưng ta phải hối lỗi với Phật tổ, và trái tim ta đã “phá giới” theo thân xác ta rồi...

    Chàng khẽ đẩy tôi ra, những ngón tay nhẹ nhành lướt trên má tôi, nỗi đau khổ phủ một màu ảm đạm lên gương mặt thanh tú.

    - Không đúng. Trái tim ta không phải phá giới từ đêm qua, mà mười một năm trước, hai mươi năm trước đã phá giới rồi. Thuở thiếu thời gặp nàng, trái tim ta đã khôn nguôi thổn thức. Sau khi nàng ra đi, ta không hiểu vì sao mình lại lặng lẽ phác họa chân dung nàng, hết bức này đến bức khác. Rồi khi ngắm nhìn tượng Phật lại tưởng tượng ra gương mặt của nàng, thì ta biết mình đã sa vào lưới tình, chẳng thể thoát thân. Ái dục vốn là trở ngại lớn nhất đối với người tu hành. Ta vô cùng sợ hãi, nên mỗi lần nghĩ tới nàng là ta lại tụng kinh để sám hối. Nhưng khi nàng trở về, niềm vui được ở bên nàng lớn hơn cả việc nghiên cứu, tìm hiểu giáo lý Phật pháp và việc tụng niệm đã không thể giúp ta trừ bỏ những chướng ngại trong lòng được nữa. Sau khi hôn nàng, ta hiểu rằng mình đã không thể rời bỏ ái dục...

    Từng giọt lệ long lanh kết đọng trên khóe mắt chàng, nặng nhọc lăn dài trên gò má.

    - Mười một năm trước, không được gặp nàng lần cuối, ngày hôm đó, ta đã ngồi thiền trong phòng nàng ba ngày. Sau ba ngày, ta hiểu ra một điều: Nếu đã không thể quên được nàng, chi bằng ta biến nỗi nhớ nàng thành sự tu tập mỗi ngày. Nhờ vậy, tâm hồn ta bình lặng trở lại, ta chuyên tâm vào việc tu hành. Nếu mười năm sau nàng không quay về, ta sẽ thực hiện nguyện vọng của nàng, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp. Nhưng đúng lúc ta chuẩn bị khởi hành đến đất Hán, thì Khâu Từ gặp phải kiếp nạn và ta phải chịu sự sỉ nhục này.

    Chàng ngừng lại một lát, lấy hơi và tiếp tục:

    - Ba ngày bị giam cầm, ta vẫn một lòng hướng Phật, tâm thanh tịnh như nước, xem mỹ nữ trước mắt như không khí. Nhưng sau khi phá tửu giới, thì trước mắt ta, trong tâm tưởng ta lại luôn hiện lên hình bóng nàng. Không phải ta không nhớ chuyện gì xảy ra đêm qua, mà là ta không dám thừa nhận. Tuy chỉ là nhưng cảm giác mơ hồ, nhưng ta vẫn nhớ rõ khoảnh khắc ta có được niềm hoan lạc không thể diễn tả bằng lời. Bởi vậy, ta đã cố thuyết phục bản thân, rằng đó chẳng qua là một giấc mơ bí mật, một giấc mơ mà ta vẫn thường mơ. Nhưng nàng lại cho ta biết mọi thứ diễn ra trong giấc mơ đó đều là thật...

    Chàng ngẩng đầu hít một hơi dài, những đường gân trên cổ giật giật. Một lát, chàng cúi xuống nhìn tôi, rồi ảo não lắc đầu, những hạt nước mắt to tròn long lanh như những hạt ngọc đổ liên hồi xuống áo chàng.

    - Khi nãy biết ta đã có quan hệ... vợ chồng với nàng... Nếu không phải là do Lữ Quang sắp bày, ép buộc, Rajiva sao dám “làm vậy” với nàng! Thế nên, cảm xúc đầu tiên đến với ta khi biết tin đó, không phải là sám hối, mà là niềm vui vô bờ tựa mạch nước ngầm len lỏi trong tim. Ta đã vô cùng hoảng sợ và hổ thẹn khi mình có ý nghĩ đó. Mấy mươi năm tu hành vẫn chẳng thể giúp ta chống lại khát khao yêu đương với nàng. Tội lỗi này, dù có đọc bao nhiêu kinh văn đi nữa cũng không thể xóa bỏ. Ta không xứng là đệ tử nhà Phật... Ta nhớ đến lời nói của vị cao tăng mà ta gặp hồi nhỏ: Nếu không tuân thủ giới luật một cách nghiêm khắc, ngày sau sẽ chỉ có thể là một pháp sư thông minh, sáng láng không hơn không kém. Khi nãy, vừa tụng kinh ta vừa nghĩ về điều này và không khỏi đau đớn. Ta đã phá giới vào đúng năm ba mươi lăm tuổi, lẽ nào ý trời đã định, kiếp này Rajiva chỉ có thể trở thành một pháp sư thông minh, sáng láng, mà chẳng thể làm nên nghiệp lớn ư?

    Tôi đã khóc đến mềm cả tim gan, chưa bao giờ chàng thổ lộ với tôi nhiều đến vậy, mà mỗi câu mỗi tiếng thốt ra đều đau đớn đến xé lòng.

    - Xin lỗi chàng, em đã phá vỡ thế giới tĩnh tâm thiền định của chàng, đã khiến chàng khó xử. Nếu chàng muốn, em sẽ ra đi.

    - Không kịp nữa rồi...

    Chàng run rẩy hôn tôi, vị mặn chát nồng đượm nơi đầu lưỡi, không biết là nước mắt của chàng hay của tôi.

    - Nàng đã quay về thì sao ta có thể để nàng ra đi, để lại phải khổ sở chờ đợi mười năm nữa... Ngải Tình, một roi nàng tự quất vào người mình đã khiến ta bừng tỉnh. Nàng sẵn sàng san sẻ đau khổ với ta, bằng lòng cùng ta vượt qua phong ba bão tố, lẽ nào Rajiva không dám thừa nhận tình cảm với nàng suốt hai mươi năm qua? Ta chỉ biết tự trách mình vì đã phá giới, vì không thể trở thành một bậc danh sư, mà quên rằng nỗi đau khổ mà nàng phải chịu đựng lớn hơn ta gấp bội phần. Nàng đã trở về khi ta cần có nàng nhất. Đêm qua nàng đã dùng tấm thân trinh trắng của mình giải cứu ta khỏi sự đày ải ấy. Tình yêu cao cả đó, ta biết lấy gì báo đáp. Ta quyết không để nàng lại tiếp tục phải chịu dày vò, đau khổ nữa. Nỗi nhớ nhung vò xé tâm can mười năm lại mười năm mòn mỏi, vò võ ấy, ta không muốn phải chịu đựng thêm nữa. Trở thành bậc danh sư, đạt đến đỉnh cao tu dưỡng, nhập Niết Bàn thì sao chứ, không có nàng ở bên, ta cũng chỉ như một thân xác vô cảm, không có linh hồn mà thôi. Đời sống ấy có gì đáng sống đâu!

    Chàng rời khỏi bờ vai tôi, nhẹ nhàng lau nước mắt cho tôi, nâng cằm tôi lên, để ánh mắt lạ kỳ của cháng phủ lên gương mặt tôi:

    - Có nàng ở bên, ta cam tâm tình nguyện bị đẩy xuống tầng địa ngục sâu nhất – địa ngục vô gián.

    - Chàng đừng quên, luôn có em bên chàng...

    Mười ngón tay đan vào nhau, chúng tôi ôm nhau và hôn nhau mãi miết, hôn cho nhau cạn những giọt lệ tràn mi, nhưng những nụ hôn ngọt ngào ấm áp ấy chỉ càng khiến những dòng nước mắt tuôn trào. Cuộc đời còn mấy lần mười năm nữa để uổng phí? Bắt đầu từ bây giờ, chúng tôi sẽ trân trọng mỗi giây mỗi phút...

    Không biết chúng tôi đã khóc với nhau bao lâu.

    Rồi chàng đột ngột buông tôi ra, ngẩng đầu thở dài:

    - Chàng sao vậy?

    - Không ngờ sau khi cởi bỏ được nỗi day dứt quyện chặt trong tim suốt hai mươi năm qua lại khiến ta đau đầu đến vậy?

    Tôi bật cười:

    - Đó là vì chàng bị ép uống rượu.

    Tôi đưa bát canh đặt trên tủ cho chàng.

    - Đây là canh giã rượu, chàng uống ngay lúc đầu thì đã không sao cả.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  5. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 44: Sự thật
    Rajiva kinh ngạc nhìn chiếc dao cạo râu Gillette trên tay tôi. Khi đi dạo phố với bạn bè và thấy họ mua tặng bạn trai mình, trong phút xúc động tôi đã mua nó. Cứ ngỡ sẽ chẳng còn cơ hội để tặng Rajiva. Lẽ ra phải có kem bôi đi kèm với bộ dao cạo râu này, nhưng vì sợ nhiễm phóng xạ, tôi đã không mang theo.

    Cố nhiên là Rajiva không biết sử dụng. Tôi để chàng ngồi xuống, thấm nước ấm vào khăn mặt rồi đắp lên cằm chàng để những sợi râu trở nên mềm hơn. Tôi dặn chàng ngửa cổ lên và không được động đậy, sau đó nhẹ nhàng kéo chiếc dao cạo lướt trên cằm chàng. Tôi đã học được “ngón nghề” này từ từ các chuyên gia nam ở khu vực thực nghiệm. Chàng nhìn tôi chăm chú, bóng tôi in trong đáy mắt sâu hun hút của chàng, tim đập rộn ràng. Làn da của chàng trơn mượt, mỗi lần chạm vào, tâm trí tôi bỗng trở nên bấn loạn. Sợ thiếu tập trung sẽ khiến chàng bị thương, tôi cố gắng định thần lại, giữ cho bàn tay vững vàng, xử lý gọn gàng đám râu ria mọc lởm chởm lâu ngày.

    Sau khi cạo rửa xong xuôi, khuôn mặt chàng sáng sủa hẳn lên. Khi tâm trí tôi còn đang mê mẩn với vẻ thanh tú của gương mặt chàng thì trống bụng bỗng đổ liên hồi. Đã ba giờ chiều và tôi chưa có một hạt cơm nào trong bụng từ tối qua đến giờ. Tôi đỏ mặt xấu hổ, nhưng chàng đã nắm tay tôi, cười dịu dàng:

    - Chúng ta ăn cơm thôi…

    Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cơm canh đã nguội ngắt nhưng tôi vẫn thấy ngon miệng lạ thường. Tôi vừa ăn vừa nhìn chàng, nụ cười ngây ngô không lúc nào tắt trên môi. Chàng mỉm cười rạng rỡ đáp lại, mười năm sương gió để lại vết dấu trên khóe mắt và vầng trán chàng, khi chàng cười, những nếp nhăn càng hiện rõ, tôi ước gì mình có thể xóa đi những dấu hiệu mỏi mòn của tuổi tác, tháng năm ấy. Tôi không muốn lại phải trải nghiệm mười năm đằng đẵng của chàng bằng vài tháng ngắn ngủi của mình nữa, lần này, tôi muốn được cùng chàng đi trọn con đường đời.

    - Còn đau không?

    Xong bữa, chàng nhẹ nhàng vuốt ve vết thương trên lưng tôi, vẻ xót xa dâng lên trong mắt. Tôi lắc đầu, nếu không nhờ một roi ấy, có lẽ chàng chưa thể bước ra khỏi những trăn trở nội tâm. Vì vậy, tôi không hề thấy đau.

    Gương mặt chàng bỗng đỏ bừng, chàng cúi đầu khẽ hỏi:

    - Để ta xem được không?

    Tôi sững người, mặt mũi nóng ran, một xúc cảm kỳ lạ len lỏi trong tim. Do dự một lát, vẫn thấy chàng nhìn tôi chăm chú, tôi xoay người ngồi xếp bằng trên nền nhà, vén mái tóc sang một bên, thả áo xuống thắt lưng.

    Chàng ngồi phía sau, nhìn hoài mà không lên tiếng. Tôi cảm thấy vô cùng bối rối khi phơi làn da trần trước mặt chàng, chỉ muốn nhanh chóng kéo váy lên, nhưng bàn tay chàng đã nhẹ nhàng giữ lại.

    Chợt một cảm giác lành lạnh, chộn rộn nơi sống lưng, là bàn tay chàng đang dịu dàng lướt trên vệt roi quất ấy. Theo sau đó là đường môi ướt át nhưng ấm nồng của chàng gắn trên lưng tôi, từ đầu đến cuối vết thương, nụ hôn dài miên man ấy khiến toàn thân tôi rung động.

    - Ngải Tình…

    Bờ môi chàng kéo riết đến vành tai tôi, giọng nói trầm ấm, mê hồn cất lên:

    - Ta sẽ không để nàng bị thương nữa.

    Không gian quanh tôi tràn ngập dư vị nồng nàn, tôi bỗng cảm thấy căng thẳng, mồ hôi lấm tấm trên cánh mũi.

    Cánh cửa phòng đột nhiên bật mở, tôi giật mình, vội vàng chỉnh lại y phục. Chúng tôi đã quên mất nơi này vốn là một nhà giam và người khác có thể ra vào bất cứ lúc nào. Nhưng thân hình cao lớn của Rajiva đã che chắn cho tôi.

    Tên lính gác cửa người Đê thò đầu vào bẩm báo:

    - Pháp sư, Lữ tướng quân mời ngài đến gặp.

    Lữ Quang không nói muốn gặp tôi, nhưng vì lo lắng cho Rajiva, tôi chủ động đi theo chàng. Vẫn là đại điện to rộng ngày hôm qua, vẫn là đám con cháu bất nghĩa đang đứng vây quanh ông ta.

    - Pháp sư, hương vị của đêm qua không tồi chứ? Thằng con ta đã tận mắt chứng kiến khoảnh khắc thăng hoa của ngài.

    Lữ Quang cất tiếng cười thỏa mãn, không giấu diếm, hắn có vẻ rất hài lòng.

    - Làm người thì nên tận hưởng niềm hoan lạc ấy, tụng kinh niệm Phật nhiều có gì vui thú đâu! Nếu ta không ra sức tác hợp, e là kiếp này pháp sư chẳng thể được thưởng thức mùi vị của niềm vui sướng tột độ ấy!

    Vốn đã có sự chuẩn bị từ trước, rằng đến gặp ông ta là để nghe những lời nhục mạ chẳng kiêng nể gì ai, nhưng khi những lời ấy vang lên bên tai mình, tôi có cảm giác ghê tởm như ăn phải ruồi nhặng. Tôi lén quan sát Rajiva, mặt chàng hơi biến sắc, nhưng dáng vẻ vẫn đạo mạo, điềm tĩnh. Tôi ngậm ngùi nuốt giận, ai bảo chúng tôi là những kẻ yếu thế cơ chứ!

    Lữ Quang đưa ánh mắt cú vọ sang phía tôi:

    - Thì ra pháp sư cũng giống ta, chỉ thích những thiếu nữ yêu kiều, duyên dáng người Hán. Trong phủ đệ của ta ở Trường An đã thu nạp không ít phụ nữ Hán, ngày sau có dịp đến Trường An, ta nhất định sẽ tặng ngài vài nàng.

    Rajiva vẫn lặng thinh không đáp, môi mím chặt, lưng vươn thẳng. Tuy khoác trên mình bộ y phục dân dã, nhưng vẻ ung dung, tĩnh tại trong mắt chàng, khí chất thanh cao, thoát tục của chàng khiến cho một kẻ thô thiển, kệch cỡm như Lữ Quang trở nên nhỏ bé hơn vài phần.

    Thấy Rajiva lặng yên không đáp hồi lâu, chừng như bực tức, Lữ Quang đằng hắng vài tiếng:

    - Mấy ngày tới pháp sư cứ an tâm nghỉ ngơi trong cung, ta sẽ cho người đến hầu hạ pháp sư chu đáo.

    Rồi ông ta lại giả bộ tử tế, quan tâm:

    - Pháp sư có thiếu thốn gì không?

    Rajiva khẽ cúi người, hai tay chắp lại, điềm tĩnh đáp lời:

    - Tôi rời chùa đã lâu, lòng đầy lo lắng. Nếu tướng quân cho tôi trở về chùa Tsio – li hoặc chùa Cakra thì tôi rất cảm ơn.

    - Pháp sư không cần phải vội, ta còn rất nhiều vấn đề về Phật pháp muốn thỉnh giáo Pháp sư mà!

    - Những vấn đề Phật pháp của ngài, tôi đây không đủ sức giải đáp.

    Rajiva tỏ ra cương quyết không nhượng bộ:

    - Tôi là người xuất gia, không màng thế sự. Tướng quân giam giữ tôi cũng chỉ có thể ép tôi phá đi thân giới, tấm lòng hướng Phật của tôi, ngài chẳng thể lay động được. Những điều tướng quân kỳ vọng ở tôi, e là tôi chẳng thể giúp gì cho ngài, mong ngài sớm từ bỏ ý định đó đi.

    Tôi cảm thấy hết sức băn khoăn, lẽ nào Lữ Quang ép buộc Rajiva phá giới chỉ vì một vụ cá cược? Nhưng tôi nhanh chóng xua đi mối nghi ngờ đó, để ngẩng lên nháy mắt với Rajiva, ra hiệu cho chàng đừng kích động Lữ Quang.

    Ông ta quả nhiên nổi trận lội đình, gầm rít lên những tiếng ghê rợn:

    - Người giỏi lắm! …

    Nhưng Lữ Soạn đã kịp kìm ông ta lại. Hắn thì thầm nhỏ to vài câu gì đó vào tai Lữ Quang, sắc mặt ông ta trở nên thâm hiểm khó đoán, lấy hơi một hồi lâu ông ta mới giữ được bình tĩnh.

    - Mấy ngày qua chắc pháp sư đã thấm mệt, ngài nghỉ ngơi đi.

    Giọng nói của ông ta không có vẻ gì là thân thiện, tử tế.

    Đêm qua pháp sư đã giúp ta thắng cược, giành được các mỹ nữ ở hậu cung Khâu Từ, lát nữa ta sẽ chọn vài cô xinh đẹp, mỹ miều để tặng pháp sư.

    Rajiva liếc sang tôi, rồi quay ra cung kính nói:

    - Tướng quân khỏi cần nhọc lòng, Rajiva tu hành đã nhiều năm, nội tâm trong sạch, lòng ít ham muốn, tôi không cần mỹ nữ nào nữa cả.

    Chàng ngừng một lát, nói tiếp:

    - Mong tướng quân đoái thương những người phụ nữ đó!

    Lữ Quang cười ha hả:

    - Pháp sư quả là người giàu lòng từ bi.

    Rồi quay sang nhìn tôi.

    - Thiếu nữ người Hán ở Khâu Từ không có nhiều, chờ khi ta tìm được nàng nào ưng mắt, sẽ tặng cho pháp sư.

    Rajiva làm mặt nghiêm nghị, lặng thinh không đáp.

    - Rajiva, Lữ Quang đã thắng cuộc, vì sao vẫn muốn giam giữ chàng? Ông ta muốn gì ở chàng?

    Lựa lúc không có ai, tôi vội hỏi chàng câu hỏi quẩn quanh mãi trong đầu kể từ lúc gặp Lữ Quang đến khi trở về căn phòng giam giữ chúng tôi lúc trước.

    - Ngải Tình, nàng có biết thất bại thảm hại của nước Tần trong cuộc đại chiến với nước Tấn không?

    Tôi biết chứ và tôi tin hầu hết người Trung Quốc đều thuộc làu lịch sử về trận chiến đó. Đêm trước cuộc chiến, Phù Kiên vẫn còn là một bậc quân vương thành công nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Luận về cương vực, về cơ bản, lần đầu tiên Phù Kiên đã thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc (lãnh thổ rộng lớn hơn thời kỳ của Thạch Lặc rất nhiều). Luật về phẩm cách, có thể xem Phù Kiên là một vị vua nhân từ hiếm có trong thời đại loạn (mà hầu hết các đấng quân vương đều là hôn quân). Luận về chính sách dân tộc, trong thời kỳ “không chung dòng tộc, ắt sinh khác lòng”, phương châm của ông hết sức tiến bộ: hòa hợp dân tộc, không giết hại lẫn nhau. Nhưng trận đại chiến ở Phì Thủy đã làm thay đổi cục diện, thậm chí đã “đưa tang” nhà Tiền Tần vốn rất hùng mạnh trước đó.

    Cuộc chiến kỳ lạ ấy vừa mới xảy ra một năm trước thời điểm tôi có mặt ở đây, vào tháng Mười một năm 383. Mức độ chênh lệch về lực lượng quân sự hai bên trong cuộc chiến này được đánh giá là kỳ lạ nhất trong lịch sử Trung Quốc: 87:18. Tính chất hoang đường của toàn bộ quá trình diễn ra cuộc chiến khiến không ai có thể tin nổi. Bên giành thắng lợi không hề nắm chắc phần thắng, cũng không hiểu do đâu mà chiến thắng. Bên thua, thua trong nỗi ngỡ ngàng, bàng hoàng, đế quốc Tiền Tần hùng mạnh sụp đổ chỉ trong một sớm một chiều.

    Lữ Quang dẫn quân chinh phạt Tây vực vào tháng Giêng năm 383, trận Phì Thủy diễn ra vào đầu năm đó. Lữ Quang đánh chiếm Qarasahr (Yanqi), rồi tấn công Khâu Từ năm 384. Thực ra kế hoạch Tây chinh từng làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt trong triều đình của Phù Kiên từ trước đó. Nhiều đại thần không tán đồng việc phân tán lực lượng quân sự cho việc chinh phạt Tây vực, vì nhà Tần đang phải tập trung binh lực để đối phó với Đông Tấn. Nhưng sự tự tin thái quá được tích lũy sau những thắng lợi liên tiếp, khiến Phù Kiên muốn nhanh chóng trở thành Tần Hoàng (Tần Thủy Hoàng), Hán Vũ (Hán Vũ Đế) và ông cũng tự tin cho rằng lực lượng còn lại dư sức đối phó với Đông Tấn. Nếu không có cuộc Tây chinh này, e là muốn gặp đại tướng quân Lữ Quang, bạn phải tham gia trận chiến tại Phì Thủy. Và như thế, có lẽ đã không tồn tại nhà Hậu Lương do Lữ Quang dựng lên trong thời kỳ Thập lục quốc.

    Nhưng trận chiến có ảnh hưởng to lớn đến lịch sử Trung Quốc ấy, đối với một quốc gia xa xôi tận miền Tây vực như Khâu Từ và bản thân Rajiva có mối liên quan gì?

    - Lữ Quang đã hay tin nhà Tần bại trận. Tình hình hiện nay vô cùng rối ren, người Yên phục quốc, người Khương làm phản, vua Phù Kiên đã không còn đủ sức để cứu vãn thời cuộc.

    Ánh mắt chàng rực sáng, chàng bóp mạnh tay tôi:

    - Ngải Tình, theo nàng, vì sao nước Tần đang khốn đốn và cần viện binh như vậy, Lữ Quang lại ghìm giữ binh lính ở Khâu Từ dài ngày, không chịu quay về?

    Suy nghĩ giây lát, tôi chợt hiểu ra:

    - Ông ta muốn làm vua Tây vực?

    Vào thời Thập lục quốc, hầu hết những kẻ nắm giữ trong tay chút ít binh quyền đều muốn cát cứ, xưng vương xưng bá. Luận về dũng mãnh, Lữ Quang không bằng Thạch Lặc, luận về độ gian xảo, ông ta không bằng Diêu Trường, luận về mưu lược, cũng không bằng Mộ Dung Thùy. Nếu không có trận Phì Thủy, ông ta sao dám sinh lòng bội phản với triều đình Phù Kiên. Nhưng tình thế hiện nay đã khác, ông ta cầm quân ở nơi xa xôi, Phù Kiên lại đang đau đầu với quân phản loạn khắp nơi, chẳng còn hơi sức và tâm trí đâu mà nhớ tới Lữ Quang, bởi vậy, Lữ Quang nảy sinh tham vọng xưng bá cũng là dễ hiểu. Giữa vòm trời cao rộng, ở nơi khuất bóng hoàng đế này, ông ta có thể làm mưa làm gió mà không ai động đến.

    Rajiva gật đầu:

    - Đúng vậy! Lữ Quang có dã tâm rất lớn, những chức tước mà vua Tần phong cho ông ta: Tán kỵ thường thị, An Tây tướng quân, Tây vực hiệu úy đều không thỏa mãn tham vọng bành trướng và xưng bá của ông ta.

    Có câu: “Đầu gà còn hơn đuôi phượng” mà!

    Tôi chợt nhớ đến một chuyện cười có thật ở nước Nam Yên thời Thập lục quốc: Một người có tên là Vương thủy tập hợp được mấy vạn người trên núi Thái Sơn, tự xưng là hoàng đế Thái Bình, tôn cha mình làm Thái thượng hoàng, các anh em trai lần lượt là Chinh Đông, Chinh Tây tướng quân và hàng trăm chức quan khác. Sau khi bị quân đội Nam Yên đánh bại, lúc đưa ra hành quyết, có người hỏi ông ta: “Cha và các anh em của ngươi ở đâu?” Ông ta đáp: “Thái thượng hoàng lánh nạn ở nơi xa, các tướng Chinh Đông, Chinh Tây đã bị giết hại”. Vợ ông ta tức giận mắng: “Xảy ra cơ sự ngày hôm nay chính là tại cái miệng tai bay vạ gió của ông đó! Ông còn chưa chịu tỉnh ngộ hay sao?”. Ông ta đáp: “Hoàng hậu ơi, từ cổ chí kim, có gia đình nào không suy vi, có quốc gia nào không diệt vong. Đến ngày suy vi, trẫm cũng đành ngậm đắng nuốt cay, nhưng quyết không đổi quốc hiệu!”.

    Thật nực cười! Thực ra trong một trăm ba mươi năm lịch sử ấy, Trung Quốc không chỉ tồn tại mười sáu nước, mười sáu nước này chỉ là những tiểu quốc có quốc hiệu chính thức và có sự kế thừa ngôi báu. Nếu tính chính xác, thì giai đoạn lịch sử đó phải có đến hai, ba chục quốc gia tồn tại. Vương Thủy tuy ngu muội, nhưng ông ta đã phát biểu chính xác tham vọng của các tiểu bá thời bấy giờ. Không ai khi sinh ra đã là một bậc đế vương! Vả lại, gia đình nào rồi cũng đến lúc suy vi, quốc gia nào rồi cũng đến hồi sụp đổ, vậy thì cứ đăng cơ làm hoàng đế cái đã, rồi tính sau. Lữ Quang nắm trong tay cả một đội quân, lẽ nào ông ta không có tham vọng bá vương đó.

    Nhưng điều này có liên quan gì đến việc giam giữ Rajiva?

    Thấy tôi vẫn đầy vẻ thắc mắc, Rajiva tiếp tục giải thích:

    - Lữ Quang vốn là người nơi khác đến, quân đội của ông ta cũng chỉ có bảy vạn quân. Ông ta chỉ dựng lên một vương triều bù nhìn thì sao có thể duy trì lâu dài?

    Vậy là tôi đã hiểu! Đó là mối quan hệ giữa chính quyền và tôn giáo. Lữ Quang muốn bám rễ ở nơi đây với binh lực nhỏ bé như vậy, chẳng thể đủ sức trấn áp và cai quản miền Tây vực rộng lớn với hàng mấy chục tiểu quốc. Thế nên, ông ta buộc phải dựa vào sức mạnh của tôn giáo, để công nhận quyền lực chính thống của ông ta ở Tây vực – vùng đất vốn hết sức sùng bái đạo Phật. Và Rajiva lại là đại diện của thần quyền ở đây, Nếu Rajiva công khai công nhận tính hợp pháp của chính quyền Lữ Quang, ông ta sẽ không chỉ có được Khâu Từ, mà còn có thể có được sự quy thuận của mấy chục vạn dân khắp vùng Tây vực rộng lớn. Như vậy, đại nghiệp xưng bá ở Tây vực của ông ta sẽ không cần phải dựa vào sức mạnh vũ trang nữa.

    - Rajiva, Lữ Quang muốn xưng bá Tây vực, nhưng sức mạnh quân sự không đủ, nên mới phải cầu đến sự trợ giúp của chàng. Nhưng chàng không chịu khuất phục, chàng không muốn thừa nhận quyền lực của ông ta, đúng không?

    Ánh mắt Rajiva lộ vẻ tán thưởng, chàng khẽ cúi đầu, nắm chặt hai vai tôi:

    Nàng luôn là người hiểu ta nhất. Lữ Quang muốn ta đi tuyên truyền rằng ông ta là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, được Bồ Tát sai phái đến để cứu độ người dân Tây vực.

    Tôi lắc đầu. Phàm những kẻ có dã tâm cướp đoạt vương vị đều nghĩ ra một cái cớ mang tên “điềm lành” và đều tự xưng mình là háo thân của một vị thần tiên nào đó. Nhưng những điều thuộc về tâm linh này phải dựa vào một người nắm giữ thần quyền giúp hắn thực hiện mưu đồ. Lữ Quang đâu biết rằng, Rajiva không phải là Buddhasimha (Phật Đồ Trừng), nhà sư người Ấn Độ sống ở thời đại Thạch Lặc, Thạch Hổ, chịu khuất phục nhà cầm quyền đương thời. Rajiva cũng không giống Huyền Trang, hết lời ca tụng công đức của hoàng tộc và ra sức thiết lập mối quan hệ mật thiết với hoàng đế. Rajiva xuất thân cao quý, từ nhỏ đã vang danh khắp chốn, chàng coi sự tôn trọng và kính trọng của nhà cầm quyền đối với chàng là điều hiển nhiên, bởi vậy, chàng chưa bao giờ nghĩ rằng, chính trị có thể lấn lướt và áp đặt thần quyền như thế.

    - Chàng từ chối, nên không còn cách nào khác, ông ta đã ép chàng phá giới hòng uy hiếp chàng?

    Chàng gật đầu, vẻ mặt nghiêm nghị:

    - Ông ta đâu biết rằng, ta có thể phá giới, nhưng quyết không phục tùng. Ta làm vậy không phải vì ông ta là người ngoại tộc. Nếu Lữ Quang là một bậc minh quân, biết quan tâm chăm lo cho lẽ dân, ta nhất định sẽ ủng hộ ông ta. Nhưng ông ta lại là một kẻ tàn bạo, hoang dâm, ngu muội, lòng dạ ích kỷ, hẹp hòi, chưa bao giờ biết mưu lợi cho dân. Nếu ta công nhận quyền lực của Lữ Quang, sẽ gây hại không chỉ cho hơn mười vạn dân Khâu Từ, mà thậm chí cả mấy chục vạn dân Tây vực… Ngải Tình, nàng biết không, ông ta đã chôn sống hai vạn binh sĩ người Khoái Hồ ngay cả khi họ đã đầu hàng.

    Nỗi bi phẫn khiến gương mặt chàng trở nên ảm đậm, chàng giận dữ nắm chặt tay lại:

    - Chém giết lẫn nhau trong chiến tranh đã là tội lỗi tày trời, vậy mà ông ta còn chôn sống cả những người đã giơ tay chịu trói. Ông ta đã tước đoạt mạng sống của hai vạn người. Loại người như ông ta đời đời kiếp kiếp cũng không thể được siêu thoát. Nếu ta lại đi tiếp tay cho giặc, hại đến muôn dân, thì sao xứng là đệ tử nhà Phật?

    Đào hố chôn người là thủ đoạn phổ biến nhất sau mỗi cuộc chiến tranh trong thời kỳ Thập lục quốc. Số lượng binh sĩ bị chôn sống thường lên đến vài chục ngàn người. Bởi vì các cuộc chiến tranh xảy ra trong thời kỳ này, hầu hết đều là cuộc chiến giữa các tộc người khác nhau.

    “Không cùng dòng tộc, ắt sinh khác lòng”, đào hố chôn người có thể làm hao tổn nghiêm trọng lực lượng của đối phương, lại vừa có thể trừ hậu họa. Sự kiện chôn sống người thảm khốc nhất diễn ra trong trận chiến ở dốc Tham Hợp, quân Bắc Ngụy đã chôn sống năm vạn binh sĩ Hậu Yên. Năm thứ hai sau trận chiến dốc Tham Hợp, người anh hùng Mộ Dung Thùy đã thân chinh cầm quân đi báo thù, khi ngang qua hố chôn người ở dốc Tham Hợp, ông cùng tướng sĩ đã khóc thương thảm thiết, sau đó ông bị nôn ra máu, bệnh tình ngày càng nguy kịch và không lâu sau thì mất, kết thúc cuộc đời oanh liệt, đồng thời kết thúc vương triều Hậu Yên hùng mạnh.

    Ngày trước đọc sách sử, mỗi khi đến đoạn thảm khốc, tôi thường rơi nước mắt, nhưng chẳng thể so sánh với nỗi sợ hãi của ngày hôm qua, khi tôi được tận mắt chứng kiến hố chôn người khủng khiếp ấy. Khi những con số biến thành hàng chồng thi thể đẫm máu, tôi mới cảm nhận được sự khốc liệt, khủng khiếp của chiến tranh đằng sau những con chữ vô cảm. Những gì tôi trải qua ngày hôm qua khiến tôi hạ quyết tâm sẽ không thờ ơ trước mọi sự. Nếu có thể ngăn chặn thảm kịch, tôi sẽ không ngại thay đổi lịch sử. Làn sóng nhiệt huyết trào dâng trong tôi, tôi đưa mắt ngước nhìn người đàn ông cương nghị, nho nhã trước mặt mình. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến một Rajiva kiên cường như vậy khi đối mặt với quyền lực. Người tôi yêu, giờ đây, cũng là người mà tôi kính phục nhất.

    Tôi nắm lấy bàn tay chàng, nhìn chàng, nở một nụ cười rạng rỡ:

    - Chàng nhớ nhé, dù chàng quyết định thế nào, em sẽ luôn ủng hộ chàng.

    Chàng đặt tay mình lên tay tôi, truyền cảm xúc cho tôi:

    - Trước khi nàng xuất hiện, ta chẳng sợ gì cả. Ta thậm chí đã nghĩ, nếu bị dồn đến chân tường, ta sẽ tự vẫn…

    - Đừng!

    Tôi hoảng hốt đặt tay lên môi chàng:

    - Xin chàng đừng nói những lời như vậy. Em sẽ bảo vệ chàng.

    Nụ cười ngọt ngào tỏa rạng gương mặt chàng, chàng đặt tay tôi vào lòng bàn tay ấm áp của mình, dịu dàng nói:

    - Nhưng nàng đã trở về, ta không còn ý nghĩ đó nữa... Nàng còn nhớ bài giảng của nàng về “Mạnh Tử” không? “Vậy nên khi muốn trao trọng trách cho một người, ông trời sẽ tạo ra muôn vàn thử thách, khiến anh ta đau khổ, khiến anh ta mệt mỏi, khiến anh ta đói khát, gầy mòn, khiến anh ta cơ cực, làm rối loạn hành vi của anh ta, khiến anh ta không được như ý. Thông qua những khổ nạn đó, rèn luyện sự tỉnh táo, tính kiên cường và bồi đắp tài năng của anh ta”. Những gian nguy mà ta phải trải qua là sự khảo nghiệm của Phật tổ đối với Rajiva. Chí lớn của ta, sao có thể bị mai một bởi một kẻ ngang ngược như Lữ Quang?

    - Nhưng Lữ Quang sẽ không dừng lại ở việc ép chàng phá giới, ông ta sẽ còn dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo hơn để ép buộc chàng.

    Sử sách chép rằng, Lữ Quang đã ép Rajiva cưỡi ngựa ác, bò điên để làm trò cười cho thiên hạ. Nhưng đó chỉ là những ghi chép vắn tắt trong sách, hành vi sỉ nhục và sự đày đọa trên thực tế thê thảm hơn rất nhiều.

    - Ta không sợ.

    Chàng dịu dàng vuốt má tôi, khẽ thở dài, ánh mắt do dự:

    - Nhưng, sẽ khổ cho nàng...

    - Chàng đừng bận tâm về em, em có thể tự lo cho mình.

    Chúng tôi chìm trong mắt nhau, vòng tay khép chặt. Bóng tịch dương xuyên qua khung cửa sổ, tỏa rạng vầng trán cao rộng của chàng. Hạnh phúc như hoa nở trên môi tôi. Dù chông gai đang chờ ta phía trước, em vẫn nguyện được theo chàng.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  6. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 45: Lồng son
    Hai chúng tôi cùng tròn xoe mắt trước cảnh tượng ấy. Khắp nơi khảm nạm ngọc ngà châu báu, ngay cả rèm cửa sổ, khăn trải bàn cũng đính kim tuyến lấp lánh. Một chiếc bàn ghép từ khối ngọc trắng khổng lồ đặt giữa phòng. Căn phòng lấp lánh vàng bạc châu báu khiến tôi nhức cả mắt. Hơn mười cung nữ xếp thành một hàng dài, trong tư thế nửa quỳ lạy, đồng thanh cất giọng oanh vàng lảnh lót:

    - Xin nghe quốc sư sai bảo!

    Tôi hỏi nhỏ cung nữ đứng gần mình nhất:

    - Đây là nơi nào vậy?

    Cô ta hơi sững người, cung kính đáp:

    - Là tẩm cung (phòng ngủ) của tiên vương và công chúa Wusun mà người sủng ái nhất!

    Ra là vậy! Khi nãy tên lính gác cửa người Đê[26] nhắc nhở chúng tôi dọn dẹp đồ đạc rồi đi theo bọn họ, tôi cứ nghĩ sẽ bị tống vào một nhà lao hoặc một nơi tương tự như thế, nào ngờ lại là một cung điện xa hoa, tráng lệ. Thực ra đây vẫn là một nơi giam cầm, có điều là một nhà giam sang trọng, một cái lồng son. Có vẻ như, chiêu đầu tiên Lữ Quang nghĩ đến để mua chuộc Rajiva là dùng của cải và mỹ nữ.

    Vẻ mặt Rajiva bình thản, không chút biểu cảm, giọng chàng ôn hòa nhưng chắc nịch khi nói với đám cung nữ, rằng chúng tôi không cần ai hầu hạ và cho họ lui ra ngoài.

    Chờ khi chỉ còn hai chúng tôi, chàng nhìn quanh một lượt, thở dài ngao ngán:

    - Quá ư xa hoa! Trước lúc lên đường đi Thiên Trúc, mẹ từng căn dặn nhà vua, nội chính không nghiêm, giặc ngoài ắt mạnh, thế nước yếu hèn, suy vi có lúc.

    Chàng trầm ngâm một lát, lắc đầu:

    - Nhà vua có kết cục ngày hôm nay cũng là tất yếu.

    - Rajiva, Lữ Quang đổi nơi giam giữ chàng đến chốn này, mục đích của ông ta đã rất rõ ràng.

    Tôi đan những ngón tay mình vào tay chàng, cùng chàng quan sát tất cả những đồ dùng xa xỉ, bắt mắt, khiến người ta phải choáng ngợp trong căn phòng.

    - Ông ta muốn chàng đắm chìm trong đời sống xa hoa, hưởng lạc với của cải và mỹ nữ, khiến chàng nhụt chí.

    - Ta tin mình có thể chiến thắng cám dỗ. Của cải vật chất chẳng qua chỉ là vật ngoài thân, với ta, chẳng khác nào cát bụi. Còn mỹ nữ…

    Chàng dừng lại, nhìn vào mắt tôi, nụ cười dịu dàng đậu trên khóe môi:

    - Ba ngày bị giam cùng công chúa ta đã chẳng hề động lòng, mỹ sắc không thể khiến ta dao động.

    Chàng kéo tôi vào lòng, bàn tay vuốt một đường dịu dàng từ đỉnh đầu, theo làn tóc, xuống đến eo, giọng chàng rủ rỉ bên tai tôi:

    - Trên đời này, người duy nhất có thể khiến Rajiva bằng lòng phá giới, cam chịu bị đày xuống địa ngục, chỉ có nàng thôi…

    Hai má tôi nóng bừng. Câu nói ấy ngọt ngào hơn bất cứ lời thề non hẹn biển nào, khiến hồn phách tôi điên đảo, một cảm giác lạ kỳ xâm chiếm toàn thân.

    Cánh tay chàng xiết eo tôi ngày càng chặt hơn, tôi áp tai lên ngực chàng, nghe tiếng trái tim mình gõ nhịp dồn dập, tôi gọi khẽ:

    - Rajiva…

    Giọng nói của tôi nghe như một tiếng nấc nghẹn.

    Chàng đột ngột rời khỏi tôi, hít thở nhiều lần, ánh mắt trôi ra ngoài khung cửa sổ:

    - Khuya rồi, nàng đi tắm rồi nghỉ sớm đi.

    Cung điện nguy nga này có một bồn tắm rất lớn, khi tôi vừa bước chân vào, hai má nóng ran. Trên bốn bức tường đều gắn những chiếc gương dạng đĩa đồng khổ lớn, đứng ở bên trong, hình ảnh khỏa thân của bạn sẽ được chiếu rọi ở mọi góc độ. Hơi nước tỏa lên mờ mịt, càng khiến cho không gian trở nên mơ màng, mộng mị. Một cung nữ bước vào, nói rằng muốn giúp tôi, nhưng tôi vội vàng từ chối. Những cánh hoa dập dờn trên mặt nước, mùi hương tỏa bay ngào ngạt. Ngâm mình trong bồn tắm, không thể kìm chế bản thân tưởng tượng ra cảnh tắm chung của đức vua Bạch Thuần và công chúa Wusun, những tấm kính sáng loáng này sẽ chiếu rọi bao nhiêu cảnh diễm tình? Tôi cố gắng xua đi những ý nghĩ vẩn vơ đó, chỉ muốn nhanh chóng tắm cho xong để ra khỏi đây. Nhìn bộ quần áo mà họ chuẩn bị cho mình, tôi không khỏi đỏ mặt. Đó là một chiếc váy dài bằng lụa mỏng màu hồng, khuy áo trễ nải buông xuống tận đôi gò bồng đảo, váy xẻ cao đến tận hông. Trang phục kiểu này rõ ràng mặc vào là để quyến rũ người khác mà! Thôi, tôi cứ mặc lại bộ Hán phục mà phu nhân của Pusyseda chọn cho tôi vậy!

    Rón rén bước ra từ buồng tắm, đang thấp thỏm lo âu không biết tình hình tối nay sẽ ra sao, tôi đã thấy Rajiva ngồi thiền tụng kinh trên thảm, vẻ mặt bình thản. Có lẽ do tôi quá căng thẳng đó thôi!

    Nghe thấy tiếng động, Rajiva mở mắt nhìn tôi, mặt chàng bỗng ửng đỏ, chàng khẽ cúi đầu:

    - Đêm nay nàng ngủ trên giường lớn, ta sẽ ngủ giường nhỏ.

    Chiếc giường lớn trang trí lộng lẫy đặt ở vị trí bắt mắt nhất, màn màu hồng rủ xuống điệu đà, dưới ánh đèn lung linh, càng trở nên mê hoặc lạ thường. Hai má nóng bừng, tôi bước tới một góc của chiếc “giường mỹ nhân” [27]. Chiếc giường vô cùng tinh xảo và xinh đẹp, rộng đủ hai người nằm.

    - Em sẽ nằm giường nhỏ.

    Không chờ chàng đáp lời, tôi vội vàng kéo chăn trùm đầu, xoay mặt vào tường, nhắm mắt lại. Hồi lâu vẫn thấy sau lưng không có động tĩnh gì, nhưng tôi có thể cảm nhận được, chàng đang đứng rất gần tôi. Lòng bàn tay bỗng nhiên đổ mồi hôi, tôi bồi hồi không hiểu mình đang ngóng chờ điều gì.

    Rất lâu sau tôi mới nghe thấy tiếng bước chân vang lên, xa dần, nhỏ dần và kết thúc bởi tiếng cánh cửa khép lại. Tôi mở mắt, quay đầu nhìn, chàng đã ra khỏi cung điện. Bên ngoài là một khoảng sân vườn nho nhỏ, cũng nằm trong phạm vi đi lại tự do của chúng tôi.

    Tôi lờ mờ đoán ra dụng ý của chàng, nên không dám đi theo, sợ khuấy động không gian thanh tịnh của chàng. Tôi mệt mỏi nhắm mắt lại. Kể từ khi quay lại khu vực thực nghiệm cho đến đêm qua, chưa đêm nào tôi được ngon giấc. Thần kinh căng lên như dây đàn. Phía trước còn cả một chặng đường dài đầy trông gai đang chờ đợi, bởi vậy tôi phải nghỉ ngơi.

    Nghĩ vậy, tôi thấy nhẹ nhõm hơn, giấc ngủ say sưa ập tới. Trong cơn mê man, dường như tôi cảm nhận được một sự tiếp xúc khẽ khàng trên trán mình và một âm thanh nhẹ như gió thoảng bên tai:

    - Ngủ ngon nhé, mấy ngày qua thật tội cho nàng!

    Tôi ậm ừ đáp lời trong vô thức, xoay người, hình như tôi gối lên một vậy gì đó rất thoải mái và thế là lòng phơi phới, tôi bay đi tìm Chu Công[28].

    Trước mắt tôi là một khuôn mặt rất bự với hai hàng lông mày dài, chiếc cằm thuôn nhọn, đôi mắt khép chặt, hơi thở đều đều lướt trên mặt tôi. Tôi giật mình, bật dậy, cánh tay từ trong chăn vung ra mạnh quá, đập vào người chàng. Chàng co người lại phía sau, lúc mở mắt, chàng khẽ rên lên vì đau điếng, nhưng vẫn nằm yên và rồi khép chặt mắt lại.

    - Chàng có sao không?

    Tôi nhổm dậy, không biết khi nãy đã đập tay vào đâu, chàng xuýt xoa, có vẻ rất đau đớn.

    - Không sao.

    Chàng cắn môi, mắt vẫn nhắm nghiền, mặt đỏ bừng, sau đó nghiêng đầu sang một bên:

    - Nàng dậy trước đi.

    Tôi vẫn nằm yên trên giường, vậy là chàng đã không ngủ trên chiếc giường to rộng đằng kia mà chạy đến chỗ tôi.

    - Sao chàng lại ngủ ở đây?

    Tôi cất giọng lí nhí hỏi chàng.

    - Giới luật nhà Phật quy định, ta không được ngủ trên giường to chiếu rộng. Nhưng thấy nàng ngủ say sưa, không nỡ đánh thức nàng, nên cả đêm đành nằm như vậy.

    Tôi nhớ giới luật đó, vì chàng từng nhắc đến. Không biết chàng có căng thẳng giống tôi trong đêm đầu tiên nằm bên chàng hay không? Không biết chàng ngủ có ngon không? Bao nhiêu câu hỏi quẩn quanh trong đầu, bao suy nghĩ miên man, đan xen, dồn lại thành một cảm giác ấm áp, đột nhiên tôi thấy buồn cười. Tôi muốn chọc chàng:

    - Chỉ là cái cớ, đúng không? Nhìn chàng là em biết.

    Chàng quay đầu lại, thấy tôi cười, khuôn mặt càng đỏ lên gay gắt, hàng mi rủ xuống, những âm thanh lí nhí thoát qua kẽ răng:

    - Nàng… bị nàng phát hiện ra rồi! Cả đêm như vậy… ta không thể tĩnh tâm tụng niệm…

    - Tôi ngẩn ngơ, ý chàng là…

    Ánh mắt tò mò lướt trên người chàng, tuy phủ kín chăn, nhưng vẫn có thể nhận ra sự bất thường. Tôi chỉ muốn chui xuống một cái hố nào đó ngay lúc ấy.

    Tôi biết sức chịu đựng và kìm chế của chàng là phi thường, không ai sánh nổi, vì cả đêm chàng không hề đụng vào tôi. Nhưng phải kìm chế bản thân suốt đêm dài như vậy, phải chăng chàng đã rất khổ sở?

    Tôi lấy hết can đảm, khẽ hỏi:

    - Chàng… có muốn không?

    Chàng tròn xoe mắt nhìn tôi vẻ kinh ngạc, sau đó thì phấn chấn, hồ hởi nhổm dậy, áp sát vào người tôi. Đôi mắt màu xám nhạt, thường ngày trầm lắng như mặt nước hồ thu, lúc này bỗng nhiên nổi sóng. Hơi thở gấp gáp, chàng run rẩy tìm môi tôi, nhưng nửa chừng bỗng nhiên dừng lại, đổ người xuống, nghiêng đầu ảo não:

    - Không được…

    Chàng nhắm mắt, vẻ mặt đau khổ:

    - Nàng sẽ ra máu… và sẽ bị thương lần nữa…

    Tôi ngẩn người, thì ra chàng cố kìm chế không chạm vào người tôi là vì điều này. Sao chàng có thể thuần khiết như vậy! Bảy tuổi đã xuất gia, tuy tiếng tăm lừng lẫy khắp chốn, nhưng đó chỉ là thành tựu của chàng trong lĩnh vực Phật học. Khi chàng bước lên bục cao, chàng là bậc danh sư lỗi lạc trong con mắt của hàng vạn người, sự thông tuệ của chàng không ai sánh kịp. Nhưng về vấn đề tình dục, chàng hầu như không có một chút kiến thức nào. Có lẽ trong suốt ba mươi lăm năm qua, chàng chưa bao giờ nghĩ rằng mình cần tìm hiểu những tri thức này, cũng như cấu tạo của cơ thể phụ nữ.

    - Rajiva, nhìn em đi nào!

    Tôi chống một tay ngồi lên, tay còn lại tôi xoay nhẹ cằm chàng, kéo gương mặt chàng về phía mình.

    - Phụ nữ chỉ bị chảy máu trong lần đầu, sau đó sẽ hết. Vì vậy, chàng đừng lo em sẽ bị thương.

    - Ngải Tình...

    Chàng không dám nhìn tôi, cánh môi run run, câu hỏi được thốt ra trong sự gắng gượng đầy gian nan.

    - Nàng không khinh ghét ta chứ?

    - Vì sao?

    Tôi ngạc nhiên.

    - Vì lục căn của ta không thanh sạch, vì ta không thể dứt bỏ ham muốn.

    Chàng nhắm mắt lại, hàng lông mày dài không ngừng rung động.

    - Đêm qua vì sợ bản thân không kìm chế nổi, ta đã lặng lẽ ra ngoài sân tụng kinh rất lâu. Nhưng khi trở vào phòng lại khát khao được chạm vào người nàng. Nàng thiếp đi trên tay ta, khiến ta nhớ lại mười một năm trước khi nàng vừa trở về, trên đường đi, nàng đã gối lên đùi ta ngủ ngon lành. Hình ảnh đó khiến ta không sao kìm chế được ham muốn. Đêm qua ta đã tắm rửa rất nhiều lần, nhưng cứ nằm bên cạnh nàng, trong đầu ta lại nảy sinh dục vọng ma quái. Ta không thể nào chợp mắt nổi và cứ trằn trọc như vậy cho đến tới tận giờ tụng kinh buổi sáng... Sợ gây tiếng động, khiến nàng thức giấc, ta ra ngoài vườn tụng kinh. Cứ nghĩ không nhìn thấy dáng vẻ của nàng khi ngủ thì sẽ không nảy sinh ham muốn và như thế sẽ có thể tĩnh tâm tụng niệm. Nhưng không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, ta lại quay trở vào phòng và nằm xuống cạnh nàng. Nàng nói đúng, ta đã kiếm cớ để đến gần nàng.

    Chàng mở mắt, cuối cùng chàng đã chịu nhìn thẳng vào mắt tôi, vẻ sám hối và nỗi khát khao đan xen trong ánh mắt chàng.

    - Ta thiếu tôn trọng nàng như vậy, nàng có khinh ghét ta không?

    Tôi mỉm cười, làm sao có thể không yêu người đàn ông này được chứ! Chàng chỉ biết vùi đầu vào tụng niệm để xóa tan dục vọng trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng. Nếu không phải vì những nguyên nhân khách quan o bế, tôi tin rằng, chàng sẽ bảo vệ sự thanh sạch của mình đến cùng. Chính vì dành trọn tâm huyết cho lý tưởng truyền bá Phật pháp, nên dù đã ở tuổi ba mươi lăm, chàng vẫn thuần khiết, trong sáng như ngày nào. Hơn hai mươi năm qua chàng không hề thay đổi. Tôi bỗng thấy xúc động, liệu thế kỷ XXI còn có người đàn ông nào thuần khiết như chàng không?

    Tôi muốn chàng được tận hưởng sự gắn kết hài hòa của thể xác và linh hồn, nên tôi sẽ phải chủ động. Tuy tôi cũng chỉ có những kiến thức sách vở, nhưng dù sao cũng là con người của thế kỷ XXI, hiểu biết của tôi về vấn đề này chắc chắn phong phú hơn chàng. Tôi nghĩ tôi có rất nhiều điểm giống chàng, từ nhỏ đến lớn, tôi mải mê theo đuổi mục tiêu: đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường, nên chưa từng yêu ai. Những bộ phim và những cuốn sách cấm trẻ em dưới mười tám tuổi, tôi cũng chưa từng xem, chưa từng đọc. Bởi vì lý tưởng đã chiếm trọn tâm trí tôi, tôi không có thời gian để nghĩ đến những thứ khác. Có lẽ, tôi cũng có thể coi là một kẻ lập dị trong thế kỷ XXI, thế kỷ của ham muốn và hưởng thụ lan tràn.

    Tôi nhỏ nhẹ cất tiếng:

    - Tình dục không phải điều gì đáng sợ hay xấu xa. Cơ thể của người đàn ông và người đàn bà là do tạo hóa sinh ra, tình ái cũng là một vẻ đẹp của tự nhiên và là điều tuyệt vời nhất trên đời. Chàng khao khát em, không có nghĩa là chàng không tôn trọng em mà vì chàng yêu em.

    Tôi ngừng lại, đắm đuối nhìn ngắm gương mặt mà tôi chưa bao giờ ngắm thỏa ấy, khẽ hỏi:

    - Rajiva, chàng có yêu em không?

    Chàng mở miệng, muốn nói nhưng chẳng thốt được nên lời, nỗi thẹn thùng đã nhuộm đỏ cả chiếc cổ thiên nga của chàng.

    Tôi đặt tay lên miệng chàng, lắc đầu:

    - Chàng không cần nói gì cả, từ lâu em đã biết được câu trả lời rồi... Tình dục không phải ham muốn từ một phía, hai người yêu nhau đều khát khao được có nhau.

    Những ngón tay tôi đùa trên hàng lông mày dài của chàng, mơn man đến đôi mắt sâu thăm thẳm, đến sống mũi cao thanh tú và cuối cùng dừng lại trên làn môi đang khe khẽ rung động.

    - Em yêu chàng, nên em cũng khát khao được chạm vào người chàng, Em cũng từng có những giấc mộng yêu đương. Em cũng ham muốn chàng...

    Tôi không hiểu vì sao giọng nói của mình lại gợi cảm đến thế! Mỉm cười yêu kiều, tôi cúi xuống hôn chàng. Hương vị mềm ướt trên làn môi chàng thấm nhuần vào tận tim gan của tôi, chàng khẽ thốt lên một tiếng, mở rộng miệng để tôi xâm nhập vào bên trong, rồi cùng tôi giao hòa, quấn quýt. Chàng khẽ khép hờ đôi mắt, hàng mi rung rinh, sóng mắt xao động, tay chàng đỡ lấy lưng tôi, áp chặt tôi vào người chàng.

    Tôi đột ngột rời môi chàng, nhìn mắt chàng dâng lên nỗi thất vọng, không nhịn nổi cười. Tôi áp tay chàng lên má mình, khẽ nói:

    - Hãy nghe theo bản năng và mong muốn của chàng. Khoảnh khắc này, hãy quên đi mọi thân phận, giờ đây chàng chỉ là một người đàn ông và em là người phụ nữ của chàng. Chỉ cần chàng muốn, em sẽ không từ chối.

    - Ngải Tình...

    Chàng gọi tên tôi đầy cảm kích, vẻ do dự, chần chừ đã hoàn toàn biến mất, chàng xoay người trùm lên mình tôi. Đáy mắt rực lửa, bờ môi nóng rẫy lướt trên mắt, trên mũi, trên môi tôi, quấn quện đầu lưỡi tôi. Bàn tay chàng đã đặt lên nút áo bên sườn trái của tôi, nhưng loay hoay mãi không kéo ra được.

    Chàng rời môi tôi, chăm chú quan sát cấu tạo những nút áo, vẻ ảo não, khổ sở trên gương mặt chàng giống hệt vẻ bối rối của cậu thiếu niên Rajiva hai mươi năm về trước. Tôi không nhịn nổi cười, một cảm giác ngọt ngào tỏa lan khắp cơ thể tôi.

    Rốt cuộc cũng xử lý xong các nút áo, chàng tháo thắt lưng của tôi, kéo hai tà áo sang trái sang phải. Khi bụng tôi lộ ra, dường như có cơn gió lạnh từ đâu ùa tới, nhưng chẳng thể làm dịu đi cơ thể đang nóng bừng của tôi. Tôi thở hổn hển, mồ hôi lăn tăn trên trán, nhưng tôi không giấu mặt đi, vì tôi muốn được thấy biểu cảm của chàng khi chàng ngắm nhìn cơ thể tôi.

    Chàng thận trọng như nựng trên tay báu vật. Tôi vẫn mặc áo ngực. Chàng chớp mắt hồi lâu vẫn không tìm ra cách xử lý, chàng bối rối kiếm tìm nút thắt ở đai bên sườn tôi. Tôi xoay người lại, chàng nhìn thấy khuy áo, nhưng lần này độ khó đã tăng lên rất nhiều so với nút áo choàng bên ngoài. Chàng thử đi thử lại nhiều lần vẫn không thành công, nên đành ngước đôi mắt cầu cứu về phía tôi.

    Tôi mỉm cười, nhưng bàn tay không khỏi run rẩy, tháo khuy áo xong, tay tôi đã đẫm mồi hôi. Nhìn thấy ánh mắt chàng đổ dồn vào chỗ đó, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ, lấy tay định che đi, nhưng đã bị tay chàng nhẹ nhàng kéo ra. Bàn tay chàng run rẩy khám phá, bờ môi chàng hôn lên một bên ngực tôi.

    - Ngải Tình, nàng đẹp lắm!

    Những âm thanh khẽ khàng của sự tiếp xúc và tận hưởng khiến toàn thân tôi run rẩy, bàn tay chàng êm ái lướt trên khắp cơ thể tôi, nụ hôn da diết trườn trên ngực, lên đến cổ và dừng lại bên tai tôi. Khi chàng ngậm vành tai tôi, tôi bỗng giật thót mình, vội vàng né tránh.

    - Nàng sao vậy?

    Chàng ngẩng đầu, ánh mắt tha thiết, lo lắng.

    - Không sao. Chỉ là...

    Tôi ngượng ngùng, ấp úng:

    - Chỉ là... Vành tai của em rất nhạy cảm, nếu ai đó khẽ thổi vào tai là toàn thân em sẽ trở nên tê dại.

    Đây là lần đầu tiên tôi tiết lộ về điểm yếu của mình.

    Chàng sững người trong giây lát, sau đó thì bật cười thoải mái. Khi tiếng cười còn chưa tắt, tôi đã thấy ánh mắt láu lỉnh của chàng (vẻ láu lỉnh mà trước đây tôi chưa bao giờ thấy) đang thăm dò mình và giọng nói của chàng cũng không còn trầm ấm như mọi ngày nữa:

    - Vậy thì... ta rất muốn làm một chuyện tệ hại nhất trong đời mình...

    Tôi cảm thấy có gì đó không ổn, định trốn đi, nhưng đã bị vòng tay của chàng giữ chặt, chàng thổi hơi vào tai tôi, một luồng hơi tê buốt tựa dòng nước giá lạnh lan từ sống lưng đến chân tôi, cảm giác buồn buồn không chịu nổi, tôi cười lăn lộn, xin chàng buông tha. Chàng không trêu đùa tôi nữa, mỉm cười nhìn tôi đắm đuối, vẻ yêu chiều, dịu dàng.

    Tôi vòng tay qua cổ chàng, nũng nịu:

    - Không công bằng, chàng đã thấy hết cơ thể em rồi...

    Tôi đưa mắt lướt trên người chàng:

    - Ở nơi em sống, mọi người đều đề cao nam nữ bình đẳng, bởi vậy... em cũng muốn được ngắm chàng...

    Chàng giật mình ngẩng lên, đôi mắt tựa hồ nước sâu hun hút, bóng tôi như chiếc thuyền nhỏ in trong hồ nước ấy. Chàng nhìn tôi một lúc lâu mới khẽ gật đầu:

    - Ừ...

    Chàng ngồi dậy, cởi áo, mắt không rời khỏi tôi. Ánh nắng tràn vào phòng, xuyên qua tấm màn mỏng, phủ lên làn da bánh mật của chàng, từng đường nét trên thân hình gầy guộc của chàng hiện lên rõ rệt. Mắt tôi bám riết từng đường nét ấy, tôi không khỏi cảm động thốt lên:

    - Rajiva, cơ thể chàng cũng rất đẹp...

    Chàng cụp mắt lại, vội xoay người sang bên, vẻ thẹn thùng hiện trên gương mặt đỏ bừng, càng khiến người ta phải xao lòng. Đã ở tuổi trung niên, nhưng chàng vẫn bẽn lẽn như một cậu thiếu niên. Đứng trên bục cao thuyết giảng kinh pháp, chàng tự tin, phấn chấn bao nhiêu, thì lúc này chàng rụt rè, e thẹn bấy nhiêu. Trong lòng tôi không khỏi dâng lên nỗi xúc động và biết ơn vô bờ, cảm tạ ông trời đã ban cho tôi người đàn ông tuyệt vời như vậy!

    - Không, chàng đừng né tránh...

    Tôi khẽ cất tiếng, giữ tay chàng:

    - Em muốn ngắm nhìn toàn bộ cơ thể chàng...

    - Ngải Tình...

    Ánh mắt chàng vẫn muốn trốn tránh tôi:

    - Lúc này trông ta rất tệ...

    - Chàng có thích cơ thể em không?

    Cuối cùng thì chàng đã chịu quay lại nhìn tôi, ánh mắt lướt nhẹ khắp thân thể tôi, ngượng ngùng gật đầu:

    - Ta thích...

    Tôi mỉm cười, bàn tay xoa vuốt làn da trơn mượt của chàng, cảm nhận cơ bắp của chàng đang căng lên dưới lòng tay mình.

    - Em cũng yêu thích cơ thể chàng, rất đẹp... Vậy nên, chàng đừng ngại, hãy để em được ngắm chàng, đó là biểu hiện của tình yêu chàng dành cho em...

    Chàng khẽ cắn môi, nụ cười dần tỏa rạng. Chàng xoay người về phía tôi, gương mặt vẫn đỏ gay gắt, nhưng vẻ tự tin đã ngự trị. Đó là một cơ thể tuyệt đẹp, nụ cười tuyệt đẹp và ngay cả sự tự tin, sẵn sàng trải bày mọi thứ ra trước mắt tôi ấy cũng rất đẹp, tôi yêu mọi thứ thuộc về chàng...

    Chúng tôi để mình trần, ngồi đối diện nhau, tận hưởng sự vuốt ve đầy chăm sóc của nhau. Cảm xúc từ lòng tay truyền đến trái tim tôi những đợt sóng êm ái. Tôi hướng dẫn chàng đi vào cơ thể mình, khi chàng đột nhập, tôi khẽ rên lên. Chàng ngừng lại, đưa mắt thăm hỏi.

    - Em không sao...

    Tôi nghĩ tôi nên nói với chàng cảm xúc của mình:

    - Chỉ vì, chưa bao giờ có được cảm xúc hân hoan thế này...

    Chàng cười sung sướng, cúi xuống hôn tôi, khẽ thì thầm bên tai tôi:

    - Ta cũng vậy...

    Thời gian không còn ý nghĩa gì nữa. Những giờ, những phút, những giây ấy đâu có là gì. Lúc này chỉ tồn tại thước đo của sự sâu lắng. Vì tôi không còn cô độc trên thế gian nữa, đã có một người đàn ông tồn tại thực sự, dành cho tôi. Nhìn những giọt mồ hôi nóng hổi đổ ra từ hơi thở hổn hển của chàng, lắng nghe những tiếng rên rỉ thỏa mãn của chàng khi vươn lên đến đỉnh cao thăng hoa, khi hồn phách cuồng đảo, tôi đã khóc

    - Sao vậy?

    Chàng chống người lên, hơi thở vẫn gấp gáp, cuống quýt lau nước mắt cho tôi:

    - Ta làm nàng đau phải không, ta thật có lỗi...

    - Không, đừng rời em, hãy cứ tiếp tục...

    Tôi vòng chân, vòng tay quấn chặt lấy chàng, tôi muốn tạo ra sợi dây đầy sức sống để buộc chặt hai chúng tôi lại với nhau, tôi ghé sát tai chàng, nghẹn ngào:

    - Không phải em đau, em thấy hạnh phúc... Không phải em buồn, em thấy vui sướng...

    Tôi nấc lên, tôi muốn diễn tả mọi cảm xúc mà tôi có được lúc này:

    - Em rất hạnh phúc, hạnh phúc vô cùng, chưa bao giờ em thấy mình hạnh phúc như vậy. Em và chàng, chúng ta ở trong nhau, chúng ta hòa vào làm một. Em yêu cảm giác này...

    - Ngải Tình...

    Chàng thốt lên, rồi hôn tôi cuồng nhiệt. Mồ hôi đổ trên trán tôi, trên môi tôi, mồ hôi theo đầu lưỡi chàng thấm vào miệng tôi. Vị mặn mặn, nồng nồng ấy hệt như hương hoa nồng nàn tỏa bay trong sân vườn. Những nụ hôn da diết, nồng nhiệt của chàng như gắn vào cơ thể tôi đôi cánh kỳ diệu, đẩy tôi bay lên giữa bầu trời xanh trong, cao rộng. Tôi thỏa sức vẫy vùng, chao liệng giữa không gian bao la, rồi sải cánh vút bay về phía mặt trời.

    Tôi thầm nghĩ, loài thiêu thân, trong khoảnh khắc lao mình vào lửa, để thân thể bị thiêu đốt hoàn toàn ấy, phải chăng cũng cảm nhận được niềm hoan lạc tột độ giống như tôi lúc này?
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  7. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 46: Cuộc sống giam cầm
    Theo thói quen thường ngày, tôi đến bên một gốc lựu, khom lưng đánh răng. Tôi mang theo bàn chải đến đây, chỉ tiếc không có kem đánh răng, vì sợ nhiễm xạ, nên chỉ có đánh răng bằng nước muối. Tắm rửa xong, Rajiva tựa cửa quan sát. Tôi mỉm cười với chàng, rồi ngửa cổ lên trời, súc miệng sòng sọc.

    Còn nhớ một phẩm vui mà tôi từng xem. Anh con trai hỏi bạn gái: “Lấy anh nhé!”. Cô gái lắc đầu từ chối. Anh ta rất ngạc nhiên: “Chúng ta thân mật thế này rồi, sao em không chịu lấy anh?”. Cô gái đáp: “Vì em không muốn đánh răng, súc miệng trước mặt anh”.

    Đúng vậy, có câu: “Kẽ sỉ có thể chết vì tri kỷ. Người con gái làm dáng vì kẻ yêu mình” (Sử kí Tư Mã Thiên). Phụ nữ muốn mình luôn xinh đẹp trong mắt người yêu, âu cũng là lẽ thường tình. Nhưng nếu phải giống như phụ nữ Nhật Bản, trang điểm xinh đẹp trước khi chồng thức giấc, ở nhà cũng phải ăn mặc chải chuốt, trang điểm dịu dàng. Tôi không nghĩ như thế là đang sống, mà họ đang xem cuộc sống như một nghề. Nếu bạn không muốn người bạn yêu nhìn thấy bộ dang lôi thôi, lếch thếch, nhem nhuốc, thảm hại của bạn, điều đó chứng tỏ tình yêu của bạn chưa sâu sắc và như vậy thì đừng bàn đến chuyện sống chung. Yêu thật sự, không có nghĩa bạn phải yêu khuyết điểm của người kia. Mà là yêu con người giản dị, chân chất đằng sau lớp trang sức màu mè bên ngoài.

    Tôi thì sao? Khi hạn nộp luận văn sắp đến, tôi không buồn rửa mặt đánh răng, đầu bù tóc rối, ngồi ôm chiếc máy tính. Ngày cuối tuần, tôi nằm dài trên giường, ngủ nướng cho đến khi cơn đói ập đến, khiến đầu óc tôi quay cuồng. Mùa đông giá lạnh, tôi cắn răng nhìn đống quần áo chất cao như núi, ngâm trong chậu giặt suốt mấy ngày liền, sau đó xử lí chúng bằng tốc độ nhanh nhất và ẩu nhất có thể. Nhiều lúc tôi còn ngồi chồm hổm trong nhà vệ sinh, dán mắt vào một cuốn sách cho đến khi bàn chân tê dại, muốn đứng dậy mà không đứng nổi. Liệu tôi có đủ can đảm để phô bày sự lôi thôi, lếch thếch, vẻ thảm hại, những tật xấu đó của mình ra trước Rajiva?

    Còn chàng thì sao? Khi bước xuống từ bục cao, phải chăng chàng cũng có những thói quen xấu, không muốn bị ai phát hiện? Và liệu chàng có bằng lòng phô bày những tật xấu đó trước mặt tôi?

    Khi màn ân ái kết thúc, người ta phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống chung. Chúng tôi phải tìm cách điều hòa lối sống của hai con người ở hai thời đại khác nhau, mà sự khác nhau ấy đã kéo dài suốt mấy chục năm. Phải tìm ra cách để thích ứng với nhau, chấp nhận nhau. Mà điều này thì khó hơn ân ái rất nhiều.

    Đánh răng xong. Tôi ngước nhìn bầu trời trong xanh, trong lòng không khỏi dâng lên những xúc cảm. Chốn lồng son này, vô hình trung đã đặt chúng tôi vào hoàn cảnh phải suy tính đến những vấn đề của một cuộc sống chung, điều mà trước đó chứng tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Rajiva lặng lẽ đứng bên tôi, ngước nhìn chàng, chợt nhớ đến một chuyện, khiến tôi phì cười.

    - Có chuyện gì mà nàng vui thế?

    - Em muốn hỏi chàng câu này.

    Tôi khoác tay chàng.

    - Khi nãy, em không được thơm cho lắm, đúng không?

    - Sao lại không thơm?

    - Vì em chưa đánh răng…

    Lúc nãy tôi đã hôn chàng khi chưa đánh răng, không biết chàng có để ý chuyện này không.

    - Không sao cả…

    Chàng tủm tỉm cười, ngập ngừng:

    - Hôm đó, ta say rượu, còn nôn cả ra nữa, chắc chắn là khó ngửi hơn nhiều. Nàng có khó chịu không?

    - Vâng, đúng là rất khó ngửi.

    Tôi nghiêng đầu nhớ lại:

    - Nhưng khi ấy em chẳng bận tâm chuyện đó.

    Tôi nhìn chàng, ánh nắng rực rỡ mùa hạ tỏa rạng gương mặt chàng, nụ cười ấy đã quét sạch những điều bất an, trăn trở trong lòng tôi. Hai chúng tôi sẽ hạnh phúc, phải không? Cho dù thói quen sinh hoạt và thói quen ăn uống của chúng tôi khác xa nhau một trời một vực, cho dù quan niệm sống của chúng tôi cách biệt nhau hàng ngàn năm thời gian, nhưng sợi dây tình yêu kỳ diệu, không có gì có thể phá vỡ nổi, sẽ gắn kết chúng tôi lại. Chàng, là người em muốn ôm hôn ngay cả khi chưa đánh răng, là người em sẵn sàng phô bày vẻ lôi thôi, lếch thếch của mình, là người em muốn ngày rộng tháng dài sẽ thấy hết những tật xấu của em, là người sẽ nỗ lực kiếm tìm điểm tương đồng, để cân bằng đời sống của hai chúng ta.

    Và điểm cân bằng ấy, bắt đầu từ nhu cầu cơ bản nhất của con người – giấc ngủ.

    Chúng tôi vừa mới bắt đàu cuộc sống chung, nên vẫn còn rất nhiều trở ngại về tâm lý. Đêm thứ hai, tôi đã thử ngủ trên chiếc giường lớn lộng lẫy, nhường giường nhỏ cho chàng. Nhưng hai chúng tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được. sau cùng không biết quỷ thầy xui khiến thế nào, tôi đã trở lại chiếc giường nhỏ với chàng. Kể từ hôm đó, chúng tôi không tiếp tục những giằng có vô nghĩa ấy nữa, mà mặc nhiên nằm cạnh nhau.

    Bởi vậy, vòng một, tình yêu chiến thắng!

    Chúng tôi đều khao khát cơ thể của đối phương. Nhưng Rajiva đã sống hai mươi tám năm nơi cửa Phật. Sắc dục vốn là điều đại kị của người tu hành. Quan niệm đó đã ăn sâu bắt rễ trong tâm trí họ. Bởi vậy, dù chúng tôi cùng nằm trên một chiếc giường và dù ham muốn của chàng hết sức mãnh liệt, chàng vẫn không nguôi đấu tranh tư tưởng, nội tâm giằng xé, mâu thuẫn. Tuy vậy, sau cùng thì lí trí vẫn phải đầu hàng cơ thể. Thời gian khắc chế bản thân của chàng càng ngày càng ngắn lại. Hết lần này đến lần khác lí trí phải giương cờ đầu hàng dục vọng. Chí ít, sau mười ngày sống chung, tôi nhận thấy, chàng đã dần đón nhận và chấp nhận tình dục theo cách riêng của chàng và hoan hỉ tận hưởng nó.

    Bởi vậy, vòng hai, tình yêu chiến thắng!

    Sau những ngày đam mê, quấn quít, chàng dường như không mấy mặn mà. Tôi có thể hiểu điều này. Vì chàng chưa khi nào dành thời gian tìm hiểu về phụ nữ nên chàng không biết rằng, khi ân ái, điều người phụ nữ khao khát nhất, không phải là quá trình, mà là cảm giác gắn kết giữa hai con người, hai linh hồn. Những tri thức này, tôi sẽ hướng dẫn chàng dần dần. Nhưng, chàng lại muốn nằm riêng một mình một chăn, điều này khiến tôi rất bực mình. Chàng nói rằng hơn ba mươi năm qua đã quen ngủ một mình, nay có thêm tôi ở bên, chàng e ngại dáng vẻ khi ngủ của chàng ảnh hưởng đến tôi. Thế là tôi lại phải kiên nhẫn giải thích với chàng, hai người yêu nhau, được gối đầu bên nhau mang lại cảm giác hạnh phúc. Tôi cũng đã ngủ một mình hơn hai mươi năm và bộ dạng khi ngủ cũng rất khó coi. Nhưng tôi rất thích câu nói “sống chung tổ, chết chung mộ”. Sự gần gũi ấy cho tôi cảm giác, tôi đã thực sự hòa nhập và trở thành một phần không thể tách rời trong đời sống của chàng.

    Bởi vậy, vòng ba, Ngải Tình chiến thắng!

    Kể từ khi cuộc tranh luận nho nhỏ đó, chúng tôi ôm nhau ngủ mỗi đêm. Nhưng một vấn đề khác lại nảy sinh. Điệu bộ của chàng khi ngủ quả rất khó coi. Chàng thích nằm co người, giống hệt một con tôm khổng lồ. Trong khi tôi lại rất thích được nép sát vào người chàng, để cảm nhận hơi ấm của cơ thể chàng. Vậy là chiếc giường đã rất hẹp, hai chúng tôi lại co cụm vào góc nhỏ, khiến nửa đêm, tôi thấy toàn thân tê lạnh, thì ra chàng đã cuốn hết chăn về phía mình. Tôi ra sức kéo lại, nhưng dù đã chìm trong giấc ngủ say sưa, chàng vẫn nhất quyết không chịu buông. Sau vài lần diễn ra cuộc chiến giành chăn, chàng đã phải tìm cách giải quyết vấn đề này. Chàng cố gằng nằm thẳng người, như thế, tôi vừa có thể thoải mái tự vào vai chàng, lại vừa có thể tránh được tình trạng chăn bị cuốn đi. Chỉ khổ cho chàng, mỗi sáng tỉnh dậy lại phải xoa bóp hai vai, vận động xương cổ cho bớt tê dại. Tôi thấy xót xa, nhưng chàng chỉ cười dịu dàng, nói rằng: sẽ quen thôi!

    Bởi vậy, vòng bốn, Ngải Tình chiến thắng!

    Vẫn còn một vấn đề nữa cần điều chỉnh, đó là thời gian ngủ nghỉ.

    Giống như nhiều bạn bè ở thế kỷ XXI, tôi đã quen thức khuya dậy muộn. Có lúc tôi thức trắng đêm để làm luận văn. Nhưng khi trở về thời cổ đại, thói quen sinh hoạt làm việc và nghỉ ngơi của tôi có nhiều thay đổi. tôi đi ngủ từ mười giờ hoặc mười một giờ, bởi vì, tôi chỉ có thể ghi chép lại nội dung công việc khảo sát và buổi tối. Nhưng tật ngủ nướng thì vẫn không sửa được. Bảy, tám giờ sáng vào thời đại này đã là rất muộn rồi, nhưng tôi vẫn ngủ thêm ngủ nếm, vớt vát được chút nào hay chút ấy. Rajiva đã quen với thời gian biểu: bảy, tám giờ tối đi ngủ, bốn giờ sáng thức giấc. Mấy đêm đầu chung sống, Rajiva ngủ trước, tôi ngồi viết nhật ký đến hơn mười giờ. Nhưng tôi nhận thấy, khi tôi lên giường ngủ, chàng vẫn còn thức. Gặng hỏi mãi, chàng mới mới nói vì chàng rất mẫn cảm với ánh sáng và tiếng động, nên phải chờ khi tôi tắt đèn đi ngủ, chàng mới ngủ yên. Để đảm bảo chất lượng giấc ngủ cho chàng, tôi đành theo chàng đi ngủ khi trời vừa sẩm tối. Rồi tôi xót xa phát hiện ra rằng, mình chẳng thể tiếp tục làm con mèo lười được nữa. Bốn giờ sáng, Rajiva thức dậy và đặt một nụ hôn nhẹ lên trán tôi là tôi liền tỉnh giấc, ngủ thêm sẽ nhức đầu. Sau đó thì chàng sẽ vừa tụng kinh vừa kinh ngạc khi thấy tôi tập thể dục buổi sáng, chạy huỳnh huỵch, thở hồng hộc trong sân.

    Tôi bắt đầu học theo người cổ đại. thức giấc khi mặt trời mọc và lên giường khi mặt trời lặn. Tự động viên, rồi sẽ quen thôi!

    Bởi vậy, vòng năm. Rajiva chiến thắng!

    Về thói quen sinh hoạt, cả hai chúng tôi đều cố gắng thích nghi với sự tồn tại của người kia, quan sát lối sống của người kia một cách hiếu kì, cố gắng hi sinh một số nhu cầu và nguyện vọng cá nhân mình vì người kia. Tôi thấy rất hài lòng với cuộc sống chung. Còn Rajiva, tôi cũng có thể cảm nhận được niềm hân hoan của chàng, những bỡ ngỡ, ngạc nhiên của chàng và những thay đổi mau lẹ trong thái độ tiếp nhận sự xuất hiện của một người khác ở bên cạnh mình. Chúng tôi đều đang nỗ lực tạo dựng thế giới của hai người.

    Nhưng, đó chưa phải là toàn bộ cuộc sống. Chúng tôi vẫn còn một vấn đề nữa cần giải quyết là lại là vấn đề vô cùng bức thiết: chúng tôi sẽ làm gì những lúc rảnh rỗi trong thời gian bị giam lỏng tại đay? Nếu không bị giam giữ, chắc chắn tôi sẽ ra ngoài vào ban ngày để tiến hành công việc khảo sát. Mọi khung cảnh thuộc về đời sống cổ đại, từ ăn ở cho đến đi lại, đều có thể trở thành nội dung khảo sát của tôi. Còn Rajiva, chàng cũng có rất nhiều việc cần giải quyết khi ở trong chùa. Chỉ bảo đệ tử, giảng kinh thuyết pháp, truyền thụ giáo láy Phật pháp; giao lưu, luận chiến với các tăng sĩ đến từ Ấn Độ, Kabul, Tây vực hay các vùng khác của trung nguyên xa xôi, truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa; đi sâu tìm hiểu đời sống của người dân, tuyên truyền Phật pháp để ngày càng nhiều người hướng thiện, tín Phật.

    Nhưng chiếc lồng son này đã đảo lộn đời sống thường nhật của chúng tôi. Đôi lúc ánh mắt chàng nhìn tôi vương chút buồn bã, đôi lúc thấy chàng đứng giữa vườn hoa ngát hương, lặng lẽ ngước lên khoảng không bao la rất lâu, tôi hiểu rằng, tôi phải tạo ra công việc gì đó cho chàng.

    Vậy nên, một ngày kia. Sau khi kết thúc bữa sáng, tôi kéo chàng đến bên bàn đọc sách, sau đó lôi giấy bút trong ba lô ra trước sự kinh ngạc của chàng.

    - Cơm nước no nê rồi, bây giờ phải làm việc thôi!

    - Việc gì vậy?

    - Chúng ta đang trong cảnh tù đày, phải nghĩ ra một công việc gì đó để làm, nếu không sẽ rất buồn chán. Bây giờ, chàng hãy chép lại kinh văn, sau đó suy nghĩ xem nên dịch sang tiếng Hán như thế nào.

    - Dịch sang tiếng Hán ư?

    - Phật giáo khởi nguồn từ Thiên Trúc, mọi thư tịch đều được chép bằng tiếng Phạn. Nếu muốn truyền bá rộng rãi Phật giáo đến Trung nguyên, chàng phải dịch sang tiếng Hán để người Hán có thể đọc và hiểu được.

    Tôi mỉm cười giải thích:

    - Hầu hết các bộ kinh Phật được sử dụng ở Trung Nguyên hiện nay đều được dịch từ các ngôn ngữ cả các quốc gia khác nhau ở Tây Vực. Trong quá trình chuyển dịch từ tiếng Phạn sang ngôn ngữ địa phương Tây Vực, ngữ nghĩa của kính văn vốn đã không còn trọn vẹn, sau đó lại được chuyển dịch lần hai sang tiếng Hán, mức độ khác biệt so với nguyên nghĩa lại càng xa hơn. Sai sót trong quá tình dịch thuật, tam sao thất bản, khiến cho câu chữ trở nên cong vênh, cứng nhắc, ảnh hưởng rất lớn đến việc tuyên truyền giáo lý Phật pháp… Cả hai ngôn ngữ tiếng Phạn và tiếng Hán đều rất phức tạp. Các tăng sĩ từ Thiên Trúc và Tây vực đến Trung Nguyên truyền đạo, muốn phiên dịch kinh Phật đều cần đến sự giúp sức của tăng sĩ Tây Nguyên. Nghe câu đoán ý, dù có thể bảo lưu nguyên nghĩa, nhưng lại mất đi ngữ điệu, vần vè. Cho đến nay, vẫn chưa có ai tinh thông cả hai ngôn ngữ này để có thể thay đổi tình hình. Rajiva, một giáo phái muốn được lưu truyền rộng khắp, trước hết phải làm cho càng nhiều người đọc được các giáo lý của giáo phái đó càng tốt. Chàng sẽ là người thay đổi phương pháp dịch từng câu từng chữ cứng nhắc, thậm chí dịch sai, đang diễn ra phổ biến hiện nay.

    Ánh mắt chàng bừng sáng, nhìn tôi chăm chú, không giấu giếm sự ngưỡng mộ. Chàng đã hiểu, muốn truyền bá đạo Phật đến Trung Nguyên, việc phiên dịch những bộ kinh văn sang tiếng Hán với độ chính xác cao. Lại dễ nghe dễ hiểu có tầm quan trọng như thế nào.

    - Chỉ e trình độ Hán ngữ có hạn của ta chẳng thể cho ra đời những bản dịch chuẩn xác và thuận tai được.

    Chàng nắm lấy tai tôi, ánh mắt chứa chan kì vọng.

    - Ngải Tình, giúp ta nhé!

    Tôi lắc đầu, xấu hổ. Tôi không phải tín đồ Phật giáo, những kinh văn đó, tôi chỉ nhìn thôi đã thấy hoa mắt chóng mặt. Tuy nhiên, kiến thức mà tôi có, không phải không giúp ích gì cho công việc dịch thuật của Rajiva. Hơn nữa lại được làm việc cùng chàng, điều này khiến tôi vui hơn tất thảy. Chưa biết chừng, tôi cũng là một trong những dịch giả của bộ kinh văn đầu tay của Rajiva ấy chứ! Những thông tin vụn vặt thế này, rất có thể đã bị lãng quên hoặc lắng sâu trong dòng sông lịch sử và không ai biết được thực hư ra sao!

    - Vâng, chúng ta có thể luyện tập dần dần, bắt đầu từ bộ kinh văn đơn giản nhất.

    - Bộ kinh văn đơn giản nhất?

    Chàng đăm chiêu suy tư, rốt cuộc là bộ kinh văn nào đây?

    - Rajiva, chàng biết cuốn “Duy Ma Cật kinh” có tên gọi tương ứng với trong tiếng Phạn là gì không?

    Tôi hỏi chàng, bởi vì tôi không biết tiếng Phạn gọi thế nào. “Duy Ma Cật” là tên gọi phiên âm và chính chàng là người dịch thành tên gọi này, nên có lẽ chàng sẽ đoán ra được dựa vào phát âm của tôi.

    Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có, thông hiểu Phật pháp, nhiều vị bồ tát từng đến thỉnh giáo ngài.

    Cuốn kinh này làm một trong những tác phẩm dịch thật quan trọng của Rajiva, có thể xem là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Địa Thừa, bên cạnh “Địa Bát Nhã kinh”. Cuốn kinh này có sức ảnh hưởng rất lớn đối với người Hán ở Trung Nguyên. Bởi vì “tu tại gia” đã trở thành một trào lưu phổ biến ở đất Hán. Văn hóa Trung Nguyên coi trọng hiếu đạo: “Trong ba tội bất hiếu, không có con nỗi dõi là tội lớn nhất” (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại). Việc xuất gia tu hành đã gây nên mỗi xung đột với luân thường đạo lý và lễ giáo truyền thống của Trung Nguyên. Bên cạnh đó, xuất gia có nghĩa là phải từ bỏ rất nhiều lạc thú của cuộc đời, điều này đối với người Hán mà nói, sẽ là một sự lựa chọn hết sức khó khăn. Bởi vậy, trong mắt các tín đồ Phật giáo người Hán, một người vừa có thể tận hưởng vinh hoa phú quí của đời sống nhân gian, vừa có thể đạt được những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực Phật học như Duy Ma Cật, một tấm gương sáng để noi theo.

    - A, là bộ kinh văn này!

    - Rajiva đọc lên mấy từ tiếng Phạn, cách phát âm rất giống nhau.

    - Nhưng bộ kinh văn này không hề đơn giản!

    Tôi chỉ cười không đáp. Chàng dịu dàng nắm tay tôi, cất giọng trầm ấm:

    - Ngải Tình, ta hiểu ý nàng. Nàng muốn mượn gương đại trí của Duy Ma Cật để khuyên nhủ ta đúng không?

    Chàng đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Trầm tư giây lát, rồi ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt rạng ngời vẻ thông tuệ:

    - Bồ Tát từng hỏi Duy Ma Cật: “Ngài là một đại Bồ Tát, nhưng lại có gia đình vợ con, liệu ngài có được thảnh thơi?” Duy Ma Cật đáp rằng: “Mẹ ta là trí tuệ chói ngời, cha ta cứu độ chúng sinh, vợ ta là niềm vui tu hành, con gái ta là đại diện của lòng từ bi, con trai ta là đại diện của tính thiện. Ta có gia đình, nhưng cửa nhà ta được dựng lên bởi Phật tín. Đệ tử của ta là mọi chúng sinh. Bạn bè ta là các giáo phái tu hành khác nhau. Ngay cả các ca kỹ quanh ta cũng là những sứ giả của công cuộc giáo hóa, thu phục chúng sinh”.

    Tôi mỉm cười gật đầu. Quả nhiên, chỉ cần nhắc đến cuốn kinh văn này, Rajiva sẽ hiểu được ý định của tôi.

    - Rajiva, Duy Ma Cật có vợ con và sống cuộc đời thế tục, nhưng ông vẫn lưu danh “không tì vết” và đạt được sự giải thoát.

    Ánh mắt chàng rực sáng, nhưng vương chút thắc mắc:

    - Ngải Tình, nàng biết “Duy Ma Cật” nghĩa là “không tì vết” từ khi nào vậy?

    Tôi lại mắc bệnh “chưa đẻ đã đặt tên” rồi! Huyền Trang cũng từng dịch bộ kinh văn này, nhưng ngài đặt tên sách là “Thuyết vô cấu xưng kinh[29]”. Nhưng tôi hiểu được ý nghĩa tên tiếng Phạn của Duy Ma Cật là nhờ vào Vương Duy[30]. Bởi vì Vương Duy rất sùng bái Duy Ma Cật. Ông tên Duy, tự “Ma Cật” (chính là mượn tên gọi của Duy Ma Cật để đặt tên cho mình). Tập thơ của ông có tên “Vương Ma Cật tập”. Nhưng Vương Duy không hiểu tiếng Phạn. Ông không biết rằng, “Duy” trong tiếng Phạn nghĩa là “không có”, “Ma” nghĩa là “vết bẩn”, còn “Cật” nghĩa là “đồng đều”. Như vậy, Vương Duy nghĩa là Vương không có, tự “Ma Cật” tức là bẩn đều, bẩn toàn bộ. Khi đọc đến đoạn giải nghĩa trên đây của Tiền Huyền Trung trong cuốn “Huyền Trang Tây du ký” tôi đã cười lăn cười bò. Vì thế, tôi đã nhớ rất kỹ biệt danh “không tỳ vết” này.

    - Ngải Tình, nàng không biết tiếng Phạn, nhưng lại hiểu được một số ý nghĩa tiếng Phạn trong kinh Phật. Nàng chưa từng đến Kabul, Khotan, nhưng lại biết ở đó có những Phật tích gì. Dường như nàng có thể biết trước được một vài điều trong tương lai, nhưng lại không thể mô tả tường tận. Hai mươi năm qua, dung mạo của nàng không hề thay đổi, ta tin nàng chính là tiên nữ. Nhưng vì sao tiên nữ lại hiểu biết nửa vời như vậy. Lẽ ra tiên trên trời thì phải thông tỏ mọi điều, biết trước mọi điều chứ? Hay là…

    Chàng ôm vai tôi, mỉm cười đầy ý tứ:

    - Vì nàng lười nhác, bỏ bê việc tu hành, nên quyền năng yếu kém?

    Không ngờ, trí tưởng tượng của Rajiva lại phong phú đến vậy. Chàng đã lập tức suy luận ra hình ảnh một nàng tiên lười nhác dựa trên bản tính của tôi.

    - Rajiva, em không phải tiên nữ…

    Chàng lắc đầu, ngắt lời tôi:

    - Ngải Tình, mối nghi hoặc này đã quẩn quanh trong đầu ta suốt hơn hai mươi năm qua. Nhưng tiết lộ thiên cơ là một trong trọng tội của tiên giới. Thế nên, ta tuyệt đối không ép nàng nói ra sự thật đâu.

    - Rajiva, chàng là người thân thiết nhất của em, em không muốn giấu chàng thân thế của mình. Nhưng xin hãy cho em thêm thời gian, được không?

    Tôi ngước lên nhìn đôi mắt sâu thăm thẳm của chàng, trãi bày lòng mình:

    Em cần suy nghĩ thấu đáo xem nên giải thích với chàng như thế nào.

    - Không, không cần đâu…

    Chàng đưa tay ra kéo tôi vào lòng.

    - Ta biết, Phật tổ thương ta, đã gửi nàng đến để cứu ta thoát khỏi kiếp nạn này.

    Trong vòng tay ấm áp của chàng, tôi cảm nhận được âm thanh sống động từ nhịp đập mạnh mẽ của trái tim chàng. Tôi chắc chắn chàng đã bắt đầu nghi ngờ về thân thế đặc biệt của tôi từ năm chàng mười ba tuổi. Nhưng dẫu chàng có thông minh tuyệt đỉnh đến đâu, cũng vẫn chịu sự giới hạn của thời đại, lịch sử. Chàng đã phân tích và lý giải sự tồn tại của tôi bằng cách riêng của mình và hình ảnh tiên nữ là cách giải thích hợp lý nhất. Nhưng tôi yêu chàng, tôi muốn sống trọn đời bên chàng, tôi không nên giấu chàng bất cứ điều gì. Có lẽ đã đến lúc tôi nên nói sự thật với chàng. Nhưng, phải nói thế nào đây? Liệu chàng có thể chấp nhận lai lịch ly kỳ của tôi không?

    - Rajiva…

    Tôi mân mê chiếc vòng trên cánh tay chàng, chuỗi hạt đã bạt màu và mòn vỡ theo năm tháng, nhưng vẫn tỏa mùi đàn hương ngào ngạt.

    Chúng ta làm việc đi thôi!
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  8. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 47: Điềm báo
    Chúng tôi đã làm việc rất chăm chỉ. Đầu tiên, Rajiva chép lại một đoạn kinh văn bằng tiếng Phạn, sau đó chúng tôi cùng thảo luận, cân nhắc ý nghĩa và cách dịch từng câu, từng chữ. Có lúc, chúng tôi phải mất thời gian một ngày chỉ để giải nghĩa một từ. Tốc độ dịch không nhanh, vì mặc dù Rajiva có thể giao tiếp lưu loát, nhưng chữ Hán và đặc biệt là cách hành văn của Hán ngữ cổ đại 1650 năm về trước không dễ nắm bắt. Ngay cả bản thân tôi, tuy có thể đọc được các thư tịch cổ, nhưng chưa chắc đã viết được và điều này gây nên những trở ngại rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi đâu cần phải vội. Sau này, dưới sự trợ giúp của Diêu Hưng, Rajiva sẽ lập ra một đoàn thể dịch thuật quy mô rất lớn với hàng nghìn người tham gia. Theo tài liệu lịch sử, chỉ riêng cuốn “Duy ma Cật Kính” đã có đến hơn một nghìn hai trăm người tham gia dịch thuật. Việc chúng tôi làm hiện nay chỉ là bước tập dượt, chuẩn bị nền tảng cho sự nghiệp dịch thuật của Rajiva sau này. Không có bất cứ áp lực nào, chúng tôi say sưa làm việc trong niềm hân hoan vì sớm tối được ở bên nhau. Thường đến khi các cung nữ mang đồ ăn tới, rồi chăm đèn, chúng tôi mới nhận ra thời gian đã trôi nhanh thế nào.

    Một phần khác không thể thiếu trong cuộc sống chung của chúng tôi đó là: tình dục. Khi đã trở nên quen thuộc cơ thể của người kia và mức độ phản ứng tăng dần, chúng tôi ngày càng hòa hợp hơn. Vẫn tồn tại những giằng xé, mâu thuẫn và đấu tranh nội tâm gây gắt, nhưng, ngoài việc là một tín đồ Phật giáo trung thành, Rajiva còn là một người đàn ông, sở hữu cơ thể và những ham muốn của một người đàn ông thực sự. Cuộc tranh đấu của chàng lần nào cũng kết thúc bằng việc đầu hàng cơ thể. Tình yêu đã chiến thắng, chí ít là chiến thắng tôn giáo. Nhưng có thể chiến thắng bao lâu, tôi không thể biết trước. Kể từ thời đại Phật Đà, Phật giáo đã nghiêm khắc loại bỏ ái dục. Tôi chẳng thể thay đổi quan niệm về giá trị và nhân sinh đã hình thành vững chắc và không gì có thể lay chuyển từ khi Rajiva lên bảy tuổi. Thời gian thờ phụng Phật tổ của chàng càng dài hơn thời gian yêu tôi nhiều lần. Tôi không muốn tình yêu sẽ tước bỏ đi lí tưởng của chàng. Tôi chỉ mong có thể cảm hóa được chàng để chàng thấy rằng, tình yêu và lí tưởng có thể cùng tồn tại.

    Nhưng, liệu tình yêu và lí tưởng có thể cùng tồn tại?

    Giống như một mệnh đề triết học thiếu luận cứ đề chứng minh. Mâu thuẫn này vẫn luôn tồn tại, dù tôi có muốn thừa nhận hay không. Chúng tôi có thể tạm quên đi điều đó khi vẫn đang trong cảnh giam cầm này, nhưng sau khi được tự do, chúng tôi sẽ phải đối diện với bia miệng thế gian ra sao? Tôi cười buồn, thành ra chốn lồng son này lại có cái hay của nó.

    Khi ngồi viết nhật ký, tôi cứ luôn tự hỏi, vì sao Phật giáo ra sức lên án tình dục và mối quan hệ giữa tôn giáo và tình dục, rốt cuộc là thế nào?

    Tôn giáo nguyên thủy thừa nhận tình dục, thậm chí, sùng bái tình dục, vì muốn con người được hưởng niềm hoan lạc mà tự nhiên ban phát. Hoạt động tình dục trở thành nghi lễ cao quý và thần bí nhất trong các nghi thức của tôn giáo nguyên thủy. Nguyên nhân chính ở chỗ, tôn giáo nguyên thủy ra đời trong bối cảnh sản xuất của con người hết sức lạc hậu, điều kiện sống lại vô cùng khắc nghiệt. Quan hệ tình dục giúp chủng tộc ngày càng đông đúc, làm tăng thêm số nhân lực cho các bộ lạc.

    Rồi cùng với sự phát triển của sức sản xuất, khi nhu cầu vật chất không thể thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, thì tôn giáo với nền tảng lí luận đã được hệ thống hóa ra đời. Hầu hết các tôn giáo đều phủ nhận hiện tại và sùng bái tương lai, thêm vào đó, theo đuổi sự vĩnh hằng đã trở thành nguyên tắc căn bản của các tôn giáo. Thế nhưng, sinh hoạt tình dục mang lại cho con người niềm hoan lạc không gì có thể thay thế. Bởi vậy, nếu khẳng định hoặc thừa nhận hoạt động này, tức là khẳng định và thừa nhận niềm vui của hiện tại, mà như thế sẽ ảnh hưởng đến tín ngưỡng và lòng trung thành đối với cách thuyết pháp nhằm mục đích cứu rỗi linh hồn con người.

    Tôn giáo luôn sùng bái thần linh và thần linh thì luôn cao quý hơn con người phàm tục. Tôn giáo đề cao đời sống tinh thần, trong khi người phàm trần lại thường chìm đắm trong niềm vui ẩm thực và nhục dục. Tôn giáo không thể đứng ngang hàng với đám người đó. Muốn đưa tôn giáo lên tầm cao, thuần túy thuộc về thế giới tinh thần cao quý, nhất thiết phải phủ định những hoan lạc của đời sống thực tại, đẩy nhu cầu thể xác lên tầm cao của đời sống tinh thần, khiến nó thăng hoa, để con người sùng bái và theo đuổi nó.

    Ấn Độ giáo nghiêm cấm hoạt động tình dục và đề cao việc ăn chay. Nhưng ở Khajuraho lại có một ngôi miếu thờ thần tình dục rất nổi tiếng. Trong ngôi miếu thiêng ngàn năm tuổi ấy có hàng vạn bức điêu khắc phóng tác đủ mọi tư thế làm tình khác nhau. Đó là những tư thế mà người bình thường không thể tạo ra và chỉ có thần tiên trên trời mới được hưởng niềm lạc thú từ những tư thế đó mang lại. Ấn Độ giáo có một câu chuyện như sau: Chàng trai trẻ nọ đắm chìm trong hoan lạc trần thế, chẳng màng tu đạo. Thiên thần đến trách tội, chàng trai đáp, anh ta đã được hưởng thụ mọi thứ trên đời, không cần khổ công tu hành để được lên thiên đàng nữa. Thiên thần bèn đưa anh ta lên thiên đàng, để anh ta được thấy những mỹ nữ tuyệt sắc, thưởng thức các món sơn hào hải vị và vô vàn điều kỳ diệu tuyệt vời khác mà chốn trần gian không có được. Sau khi trở lại nhân gian, anh ta không còn cảm hứng với phụ nữ chốn trần tục cũng như các món ăn tầm thường thuộc về cõi người nữa. Thế là, anh ta quyết tâm tu đạo, sau khi chết, anh ta đã được lên chốn thiên đường mơ ước.

    - Ngày nào cũng thấy nàng ghi chép, nàng ghi chép gì vậy?

    Gắp cuốn sổ tay, tôi nhìn Rajiva, nở nụ cười rạng rỡ.

    - Ghi lại những cảm xúc của em. Nếu một ngày kia phải xa chàng, những dòng chữ này sẽ nhắc em nhớ về những kỷ niệm ngọt ngào khi được ở bên chàng.

    - Ngải Tình, chúng ta sẽ không xa nhau…

    Toàn thân chàng run rẩy, vòng tay xiết chặt tôi tựa như người đang chới với ngụp lặn giữa biển nước, ghì chặt lấy thanh gỗ cứu mạng vậy. Cằm chàng đặt trên vai tôi, má chàng kề sát cổ tôi, những sợi râu lún phún cọ vào da, ran rát…

    Có thể như thế thật ư? Vì sao tôi cứ luôn có linh cảm không lành? Rajiva, chàng thông tuệ hơn em, có phải chàng đã sớm dự cảm được dấu hiệu của phong ba sắp ập đến…

    - Râu mọc dài rồi đó, để em giúp chàng.

    Điềm báo của tai ương đã đến với chúng tôi sau hai mươi ngày bị giam lỏng. Lữ Quang muốn gặp Rajiva. Tôi đòi đi theo, nhưng chàng không chịu, lời chàng khiến tôi tiêu tan ý định:

    - Ngải Tình, nàng muốn Lữ Quang biết nàng quan trọng với ta như thế nào sao?

    Nhìn chàng hiên ngang bước đi, tôi không nguôi lo lắng, sợ hãi, mắt tôi giật liên hồi. Tôi có thể đoán biết mục đích của cuộc gặp này: Lữ Quang muốn kiểm tra xem có phải cuộc sống xa hoa, no đủ đã bào mòn ý chí của Rajiva. Tôi cũng có thể đoán được kết cục của buổi gặp này: Rajiva vẫn kiên quyết không thừa nhận Lữ Quang. Và tôi biết rõ hậu quả của sự từ chối ấy. Lữ Quang sẽ hạ nhục Rajiva trước đám đông để hạ thấp quyền uy thần thánh của chàng đối với dân chúng Khâu Từ.

    Không biết đã chờ đợi bao lâu, khi chàng xuất hiện tại ngoài cửa cung điện với những bước đi nặng nề và khuôn mặt nhợt nhạt, trái tim tôi như tan nát…

    - Chàng kiên quyết từ chối, phải không?

    Rajiva ngẩng lên, vẻ mệt mỏi, rã rời…

    - Đừng lo, ta không sao…

    Tôi đưa mắt nhìn quanh một lượt cung điện xa hoa lộng lẫy, chiến lồng son giam cầm chúng tôi suốt hai mưới ngày qua.

    - Chuỗi ngày nhàn hạ, no đủ sắp kết thúc rồi…

    Rồi quay lại nhìn Rajiva, tôi chậm rãi nói:

    - Nếu chàng vẫn kiên trì chống cự, ông ta sẽ hết kiên nhẫn, đến lúc ấy, sẽ chỉ còn một con đường.

    Khuôn mặt chàng bỗng nhiên tái nhợt. Chàng có thể đoán ra chiêu thức cuối cùng của Lữ Quang không khó khăn gì.

    - Nếu không thể lợi dụng chàng, ông ta sẽ nghĩ đủ mọi cách để hủy hoại danh tiếng của chàng, hạ thấp vị thế của chàng trong lòng dân chúng Tây vực. Như thế, sức mạnh hiệu triệu của chàng sẽ mất đi và không còn là mối đe dọa đối với ông ta nữa.

    - Ngải Tình, những điều này, ta đều đã nghĩ tới. Nhưng nếu ta chịu khuất phục, hậu quả sẽ ra sao?

    Chàng ngước mặt nhìn bầu trời xanh trong ngoài cửa sổ, gương mặt tuấn tú đượm vẻ u buồn.

    - Trăm họ sẽ rơi vào cảnh lầm than, tai ương và chết chóc. Thà một mình ta chịu nhục, còn hơn nối giáo cho giặc.

    - Ông ta sẽ bắt chàng cưỡi ngựa ác, bò điên trước mặt nhiều người, để chàng ngã ngựa hết lần này đến lần khác, làm trò cười cho thiên hạ.

    - Chỉ là sự đày đọa về thể xác, có gì đáng sợ đâu!

    Ánh mắt như sóng nước hồ thu nhìn tôi, nụ cười tỏa rạng trên môi:

    - Ngải Tình, nàng lại vì ta mà tiết lộ thiên cơ rồi, không sợ Phật tổ trách tội ư?

    - Em cũng chẳng còn bí mật nào để tiết lộ thêm nữa.

    Mắt tôi đã đỏ hoe, nghĩ đến sự tra tấn đó mà lòng đau như cắt. Nhưng vì sao sử sách chỉ ghi chép vài dòng giản lược như vậy, giá mà chi tiết hơn, tôi sẽ có thể giúp chàng đề phòng.

    - Rajiva, em chỉ biết ông ta sẽ bắt chàng cưỡi ngựa ác, bò điên, nhưng em không biết xảy ra khi nào và ở đâu. Em cũng không biết ông ta còn sử dụng thủ đoạn tàn bạo gì với chàng nữa.

    - Đừng lo, đó không phải điều khiến ta sợ hãi…

    Tôi ngừng lại, ngước nhìn chàng. Vậy chàng lo sợ điều gì? Chàng tránh né ánh mắt của tôi, đăm đắm nhìn lên bầu trời xanh ngoài của sổ. Thấp thoáng vài cánh chim bay lượn trong không trung, tự do phơi phới. Không biết khi nào chúng tôi mới có thể thoát khỏi sự trói buộc? Không phải chỉ là sự trói buộc về mặt thể xác, mà quan trọng hơn là sự trói buộc về tâm tình của cả hai người.

    Những ngày sau đó, cuộc sống trở nên ảm đạm hơn. Chúng tôi chẳng thể toàn tâm toàn ý cho công việc dịch thuật như trước nữa, nhưng cả hai vẫn mỉm cười với nhau. Những quấn quýt buổi đêm trở nên say mê, cuồng nhiệt hơn và kéo dài tưởng như bất tận, tựa hồ mỗi lần đều là thời khắc hân hoan sau cùng của đêm trước ngày tận thế và chỉ kết thúc khi cả hai đã sức cùng lực kiệt, sau đó, chúng tôi chìm vào giấc ngủ say sưa trong vòng tay nhau.

    Năm ngày sau, Lữ Quang lại cho gọi Rajiva, lần này chàng đi lâu hơn. Khi chàng cất bước nặng nề trở về, vầng trán cao rộng của chàng xuất hiện vệt sưng đỏ. Nhưng điều khiến tôi sợ hãi không phải vết thương đó, mà là vẻ tuyệt vọng tê tái tôi chưa từng thấy trên gương mặt chàng.

    Tôi bật dậy, đỡ thân hình rệu rã của chàng ngồi xuống, ruột gan quặn thắt. Hỏi chàng đã xảy ra chuyện gì, nhưng chàng chỉ lặng yên, ánh mắt thẫn thờ. Tôi định đi lấy thuốc, nhưng chàng kéo tay tôi lại.

    Ánh mắt quyến luyến ngước nhìn tôi, bàn tay vuốt ve khuôn mặt tôi.

    - Ngải Tình, khi nào được tự do, nàng hãy tới chỗ của Pusyseda, cậu ấy sẽ bảo vệ nàng bằng mọi giá.

    Chàng đột ngột kéo tôi vào lòng, tim chàng đập nhanh bất thường.

    - Phật tổ từ bi, ngài nghe thấu lời cầu khẩn của ta, đã đưa nàng tới đây. Tuy chỉ được ở bên nàng chưa đầy một tháng, nhưng ta mãn nguyện lắm rồi.

    Những lời nói nặng ẩn ý ly biệt ấy khiến toàn thân tôi lạnh toát. Điều khiến tôi lo lắng nhất, điều tôi không mong muốn xảy ra nhất đã xảy ra. Tôi quay lại, nhìn sâu vào mắt chàng, cắn chặt môi để sự đau đớn giúp tôi bình tĩnh thốt ra:

    - Rajiva, có phải, chàng định tìm đến cái chết không?

    Rajiva giật mình, nỗi sầu muộn tột cùng ngập trong mắt chàng, nhưng chàng vội quay đi né tránh, ra sức kìm chế để đôi vai thôi run rẩy.

    - Ngải Tình đừng nói nhảm, sao ta có thể…

    - Rajiva, chàng đã quên sứ mệnh truyền bá đạo Phật, phổ độ chúng sinh rồi sao?

    Tôi ngắt lời chàng, gào lên bằng tất cả sức lực mà tôi có:

    - Chàng đã quên, ở Trung Nguyên vẫn còn vô số chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ ư?... Còn em nữa, em sẵn sang từ bỏ gia đình, bất chấp bản thân bị nhiễm xạ, vượt ngàn năm thời gian đến bên chàng, đâu phải chỉ để cùng chàng đầu gối tay ấp vẻn vẹn một tháng thời gian.

    Tôi gầm gào, giận dữ:

    - Nếu chàng yêu em, chàng phải tiếp tục sống như thế mới vĩ đại! Tìm đến cái chết có gì khó đâu. Nhẫn nhục chịu đựng, tiếp tục sống, để hoàn thành sứ mệnh, đó mới là người kiên cường.

    Tôi nắm lấy cánh tay chàng, cắn thật đau. Vị mặn theo nước mắt tràn vào miệng, xót xa.

    Tôi ngẩng đầu, toàn thân chàng run lên nhưng vẫn gắng sức kìm chế. Tôi gào lên:

    - Rajiva, chàng đừng quên, sứ mệnh của chàng còn quan trọng hơn cả tính mạng!

    Ánh mắt chàng nhìn tôi, mây mù tuyệt vọng bỗng chốc như tan biến, nhường chỗ cho ánh sáng ấm áp của hy vọng. Chàng đột ngột cười vang, cất giọng hào sảng:

    - Ta đồng ý, Ngải Tình! Tiếp tục sống, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục sống.

    Nhìn lại vết hằn trên mu bàn tay, chàng gật đầu quả quyết:

    - Từ nay, ta sẽ không bao giờ nhắc đến từ “chết” nữa.

    Vẻ dịu dàng thường thấy lại trở về trên nụ cười hiền hòa của chàng:

    - Ngải Tình, nàng luôn biết cách giúp ta tỉnh ngộ.

    Tôi thở phào, nhưng ngay sau đó lại luống cuống đi tìm thuốc để bôi cho chàng. Tôi vốn chỉ định để lại vết răng trên tay chàng, nhưng không hiểu vì sao khi nãy chẳng thể kìm chế nổi bản thân.

    - Ngải Tình, nàng sẵn sàng từ bỏ gia đình, bất chấp bản thân bị nhiễm xạ, vượt qua thời gian hàng ngàn năm để đến bên ta. Một ngàn năm thời gian đó có phải là khoảng cách giữa trời và đất? Người thân của nàng đang ở trên trời đợi nàng phải không? Còn nữa, phóng xạ là gì vậy?

    Bàn tay bôi thuốc cho chàng bỗng nhiên run rẩy, tôi ngước nhìn ánh mắt đầy thắc mắc của chàng:

    - Rajiva…

    Ngón tay chàng khẽ đặt trên môi tôi, cánh tay còn lại dịu dàng kéo tôi vào lòng:

    - Tiết lộ thiên cơ không phải chuyện nhỏ, nàng sẽ bị Phật tổ trách tội. Vậy nên, sau này, nàng phải hết sức thận trọng, kể cả với ta, nàng cũng không được tùy tiện nói ra.

    Đêm đó tôi trằn trọc không yên. Câu nói mà các cô gái vượt qua thời gian nói nhiều nhất là: Tôi biết kết quả nhưng không biết quá trình. Với tôi, 1650 năm so với triều đình Mãn Thanh là khoảng cách lịch sư quá xa xôi. Những ghi chép chỉ vẻn vẹn ngàn con chữ trong sách sử còn chẳng thể xác minh được tính chính xác, huống hồ chỉ vài dòng súc tích về cuộc đời Rajiva trong truyện ký. Đằng sau những con chữ ít ỏi đó là cả một quá trình như thế nào, tôi chẳng thể đoán định.

    Một tiếng thở dài mơ hồ lướt qua trong không gian đêm, là chàng, có lẽ chàng cũng cảm nhận được nỗi trằn trọc của tôi. Có điều, chúng tôi hiểu nhau và chỉ biết im lặng, nằm chờ trời sáng.

    Chỉ một ngày sau, Rajiva lại bị Lữ Quang triệu gọi. Chàng vừa rời đi, lập tức có một cung nữ mang xiêm y đến, nói rằng đây là những bộ váy áo mới nhất, cô ta còn đập đập lên chồng váy áo, ánh mắt và động tác rõ ràng là những ám thị. Tôi tò mò lật mở thì phát hiện thấy một mảnh vải lụa có chữ viết được nhét bên trong.

    Nét chữ Tochari gấp gáp, nghuệch ngoạc:

    Hôm qua, pháp sư khẩu chiến kịch liệt với Lữ Quang, ông ta dùng chị để uy hiếp, huynh ấy giận quá đã lao đầu vào cột định tự vẫn, may thay có người kịp ngăn lại. Lữ Quang đã từ bỏ ý định mua chuộc pháp sư, thay vào đó, ông ta sẽ tìm cách hãm hại huynh ấy. Ba ngày nữa, pháp sư sẽ bị đưa đến chùa Cakra cùng đoàn tùy tùng của Lữ Quang. Bất luận ông ta đưa ra yêu cầu gì, chị hãy khuyên pháp sư tạm thời chấp thuận. Giờ đây, chỉ có chị mới khuyên nhủ được huynh ấy. Hãy ghi nhớ!

    Tức giận lao đầu vào cột tự vẫn… Thì ra vết bầm tím ấy chính là… Mảnh khăn rớt khỏi tay, chao xuống mặt đất tựa phiến lá khô. Bầu trời ngoài kia vẫn xanh ngăn ngắt, gió nóng buổi trưa tràn vào phòng, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, dính vào nham nháp, vô cùng khó chịu.

    Lữ Quang dùng chị để uy hiếp huynh ấy.

    Điều mà chàng lo sợ nhất chính là điều này ư? Cảnh vật trước mắt bỗng trở nên mơ hồ, sống mũi cay nồng. Con người mảnh khảnh ấy sẵn sàng chống đỡ mọi nguy nan, cốt để giữ cho tôi một khung trời bình yên. Ngải Tình ơi Ngải Tình, cô là con người của thế kỷ XXI kia mà, còn chần chừ, do dự gì nữa, hãy tận dụng khả năng mà cô có thể để cứu người cô yêu đi chứ!

    Chàng trở về rất nhanh sau đó, sắc mặt vẫn tái nhợt như mọi lần, nhưng ánh mắt kiên định:

    - Ngải Tình, ông ta đã hứa sẽ trả tự do cho nàng. Ngày mai nàng có thể rời khỏi đây.

    Thoáng chút vui mừng hiện lên trên gương mặt u buồn, chàng đưa tay chạm vào má tôi, đó là động tác thường xuyên nhất khi hai chúng tôi ở bên nhau.

    - Ra khỏi cung, nàng hãy đến chỗ Pusyseda, khi nào được tự do, ta sẽ tới đó tìm nàng.

    - Rajava, chàng đã chấp thuận điều kiện gì để ông ta thả em?

    - Ba ngày nữa, ta sẽ cùng Lữ Quang đến chùa Cakra lễ Phật.

    Tôi quay mặt đi, kìm nén những giọt nước mắt chỉ chực trào trào ra, lấy lại nhịp thở bình thường, quay lại nhìn chàng:

    - Rajava, chàng vì em sẵn sàng lao đầu vào cột, Lữ Quang thừa hiểu có thể dùng em để uy hiếp chàng, sao ông ta có thể dễ dàng thả em ra?

    Tôi thở dài, Rajiva tuy thông minh, nhưng chàng luôn tin rằng con người vốn lương thiện, chàng không hiều về những mưu mô chước quỷ ấy.

    - Chỉ e, bước ra khỏi cánh cửa này, em sẽ chẳng thể tới được chỗ Pusyseda.

    Sắc mặt chàng ngày càng thảm hại, chàng cắn chặt môi, nhắm mắt bất lực:

    - Ta cứ tưởng có thể giúp nàng. Không phải ta chưa từng nghĩ đến nguy cơ ấy, nhưng ta thực sự không biết phải làm thế nào để đưa nàng đi khỏi đây, nên ta tự thuyết phục bản thân thử tin Lữ Quang một lần xem sao.

    Chàng hướng đôi mắt buồn thăm thẳm về phía tôi:

    - Xin lỗi nàng, ta thật vô dụng, chẳng thể bảo vệ nàng…

    - Chàng đừng lo cho em, em có cách để thoát ra khỏi đây.

    Tôi dựa vào lòng chàng, áp má lắng nghe trái tim chàng dồn nhịp gấp gáp:

    - Em đang nghĩ cách để cả hai chúng ta cùng thoát khỏi nơi này.

    Chúng tôi ngồi tựa vào nhau trên thảm trải, màn đêm buông xuống. Cung nữ bước vào chăm đèn, Rajiva cho họ lui ra. Lúc này là tháng Chín, mùa hạ oi nồng đã đi xa, đêm thu khí lạnh tràn vào, tựa đêm mùa đông âm độ C. Giữa cung điện mênh mông này, chúng tôi chỉ có thể tìm thấy hơi ấm từ thân thể của nhau.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  9. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 48: Sự thật
    - Rajiva, chúng ta có thể trốn khỏi đây.

    Sau một hồi tính toán kỹ lưỡng, tôi nhận thấy vẫn còn chút hy vọng.

    - Em có một thứ vũ khí, không gây tổn hại đến tính mạng, nhưng có thể khiến người ta bất tỉnh suốt một ngày. Em còn có cả dụng cụ để vượt tường. Chỉ cần thoát ra khỏi hoàng cung, chúng ta sẽ đến chỗ Pusyseda. Không, không ổn, không nên gây phiền phức cho cậu ấy. Chúng ra không đến tìm cậu ấy nữa. Chúng ra có thể trộm một con ngựa, cũng không ổn sẽ không qua được cổng thành. Hãy cứ sử dụng dụng cụ của em để vượt tường vậy, ra ngoài sẽ tính tiếp. Chúng ta sẽ trốn đi nơi khác. Tây vực, Thiên Trúc, Kabul, Trung Nguyên, chàng muốn đi đâu cũng được.

    - Ngải Tình, nàng đã có cách thì hãy trốn đi.

    Rajiva lắc đầu nhìn tôi đang sững sờ:

    - Ta không thể bỏ trốn. Dù có trốn đến đâu, ta cũng sẽ bị phát hiện, sẽ liên lụy đến nàng và Pusyseda. Vả lại, rời khỏi đền chùa, ta chẳng thạo gì hết…

    - Chàng thông minh như vậy, sẽ học rất nhanh thôi. Nếu chàng chịu từ bỏ thân phận pháp sư của mình, chúng ta sẽ cùng mai danh ẩn tích.

    Tôi nắm chặt tay chàng, ra sức thuyết phục:

    - Chúng ta sẽ đến một nơi không ai nhận ra chàng. Em vẫn còn chút tiền bạc. Em lại được trang bị tri thức tiến bộ hơn một nghìn năm so với con người nơi đây. Em có thể phát minh ra những vật dụng mà thời đại này chưa có, chắc chắn sẽ bán được rất nhiều tiền. Trước khi tới đây, em đã nghiên cứu nhiều tài liệu, em hiểu rõ ai là anh hùng, ai là tiểu nhân. Em cũng biết ở đâu xảy ra chiến tranh, ở đâu tạm thời yên ổn. Tóm lại, chúng ta sẽ không chết đói, cũng sẽ không rơi vào cảnh chiến tranh, loạn lạc. Chàng hãy tin em, rời khỏi đền chùa, chúng ra vẫn có thể sống ổn.

    Viễn cảnh tương lai khiến tôi càng mường tượng càng xúc động. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có lúc phải sử dụng đến những kĩ năng và tri thức của thời đại mình. Nhưng trong hoàn cảnh này, nếu vận dụng hợp lý, tôi tin rằng hai chúng tôi có thể sống bình an bên nhau.

    - Ngải Tình, nàng vốn không phải người thường, ta tin nàng…

    Chàng ôm tôi vào lòng, tiếng thở dài lướt nhẹ bên tai:

    - Nhưng, nàng có biết nàng đã lại tiết lộ thiên cơ rồi không?

    Tôi giật mình, khi nãy, tôi đã lỡ để lộ xuất thân của mình. Có lẽ đã đến lúc cho chàng biết, nếu không chàng sẽ không tin một cô gái liễu yếu đào tơ như tôi làm sao có thể thoát khỏi vòng kiểm soát trùng trùng điệp điệp của cấm vệ quân mà không ai hay biết. Hít vào một hơi thật sâu, rồi nhìn thẳng vào mắt chàng:

    - Rajiva, đó không phải thiên cơ, em cũng không phải tiên nữ bên cạnh Phật tổ. Chàng sẽ là người duy nhất ở thời đại này biết về lai lịch thực sự của em. Có thể chàng sẽ cảm thấy hết sức hoang đường, nhưng xin hãy tin lời em nói.

    Nhìn chàng gật đầu đồng ý, tôi tiếp tục:

    - Em đến từ tương lai. Không phải chàng chỉ hơn em mười tuổi mà là hơn 1650 tuổi.

    Rajiva run lên, quan sát tôi đầy vẻ nghi hoặc.

    - Chàng tin rằng thời đại này sẽ ngày càng tiến bộ chứ? Thời đại chàng đang sống, xét về mọi phương tiện đều tiến bộ hơn rất nhiều so với thời đại của Phật tổ ngàn năm về trước. Sản vật phong phú hơn, đời sống văn minh hơn và tri thức của con người phát triển hơn. Nếu con người thời đại ấy có thể đến thời đại của chàng, chắc chắn sẽ rất kinh ngạc, thậm chí sợ hãi. Bởi vì, tư duy của con người luôn bị hạn chế bởi thời đại mà họ sống.

    Chàng trầm tư một lát, gật đầu đồng tình. Tôi lại tiếp tục:

    - Khoa học kĩ thuật thời đại của em đã đạt tới trình độ mà chàng khó có thể tưởng tượng nổi. Con người có thể bay lên không trung, có thể nói chuyện, hoặc thậm chí có thể nhìn thấy đối phương dù họ ở cách xa nhau cả ngàn dặm chỉ thông qua một sợi dây rất nhỏ. Bất cứ chuyện gì xảy ra ở bất cứ đâu đều sẽ được cả thế giới biết đến chỉ trong vòng một canh giờ. Vũ khí chiến tranh thì vô cùng đáng sợ. Một quả bom có thế phá hủy cả một thành phố với hàng triệu con người. Và còn rất rất nhiều những điều chàng cho rằng không thể thì con người trong tương lai đều có thể làm được. Cỗ máy vượt thời gian là một ví dụ. Chính cỗ máy vô cùng hiện đại này đã đưa em trở về thời đại mà với em nó đã trải qua 1650 năm. Nhiệm vụ của em là tới đây nghiên cứu và kiểm chứng lịch sử. Nhưng em đã tình cờ gặp chàng, dịch giả Phật giáo trứ danh, người có công lao vô cùng to lớn trong việc truyền bá đạo Phật và Trung Nguyên – hòa thượng Kumarajiva… Sở dĩ em biết được một số chuyện về chàng khi gặp chàng thời niên thiếu và thanh niên, là vì em đến từ tương lai, em đã đọc truyện ký về chàng. Ví dụ thế này, chàng thử tưởng tượng, nếu đột nhiên có một phép thần thông nào đó có thể đưa chàng trở về với thời đại của Phật tổ một ngàn năm trước. Khi ấy, Đức Phật còn chưa ngộ đạo, nhưng chàng biết Ngài chính là Phật tổ, chàng sùng bái và đi theo Ngài, chàng dõi theo từng cử chỉ, hành động và lời nói của Ngài. Chàng biết rõ những sự việc mà với Phật tổ thì vẫn chưa diễn ra. Nhưng những điều chàng biết về Ngài chỉ là những ghi chép trong sách vở. Những ghi chép đó, trải qua hàng ngàn năm thời gian, được không biết bao nhiêu lớp lớp hậu thế truyền khẩu, nên mức độ chính xác, thật giả khó mà xác định được. Vả lại, những dòng chữ ít ỏi ấy đâu thể giúp ta hiểu hết về một con người. Nhưng dù sao, chàng cũng có được tri thức tích lũy từ hàng ngàn năm thời gian so với con người ở thời đại đó. Chàng biết những điều họ không biết, chàng biết tương lai sẽ diễn ra thế nào và do vậy, chàng thể hiện ra những đặc tính mà con người thời đó không có được… Sở dĩ em biết về Thiên Phật động Kizil, vì năm 1650 năm sau nó vẫn tồn tại. Em biết về chùa Masha vì cách thời đại của chàng hai trăm năm mươi năm sau, có một nhà sư người Hán đã trải qua vô vàn gian nan nguy hiểm để đến Thiên Trúc thỉnh kinh. Trong những cuốn sách mà vị hòa thượng nhà Đường ấy viết, có rất nhiều tài liệu liên quan đến phong tục tập quán của con người ở Thiên Trúc và Tây vực. Sở dĩ, em biết các thuật ngữ đạo Phật: Đại Thừa, Tiểu Thừa, Niết Bàn, Duy Ma Cật là vì trong vòng năm trăm năm nữa sẽ có rất nhiều cao tăng tham gia dịch thuật kinh Phật, chàng cũng là một trong số họ. Dung mạo của em không hề thay đổi, bởi vì đối với em, thời gian chỉ mới trôi qua hai năm. Cỗ máy hiện đại đó có thể đưa em tới bất cứ giai đoạn nào của cuộc đời chàng.

    Tôi mở ba lô, lấy ra từng thứ một đặt trước mặt chàng:

    - Những thứ này được tạo ra sau 1650 năm nữa và đều là những vật dùng mà thời đại này không thể có được. Đây là dao đa năng Thụy Sỹ. Đây là súng gây mê, người bị bắn trúng sẽ bất tỉnh trong vòng một ngày. Đây là áo chống phóng xạ của em. Trước khi tới đây, em phải mặc chiếc áo này lên người, bằng không, tia phóng xạ cực mạnh có thể khiến toàn thân em tan chảy. Đây là chiếc đồng hồ vượt thời gian, chàng từng thấy nó rồi. Những cây kim đang chuyển động này là đơn vị để tính thời gian. Muốn quay về, em phải dựa vào năng lượng của chiếc đồng hồ này. Dây thường và móc câu này dùng để vượt tường. Cung tên này có thể bắn móc cây lên một vị trí rất cao. Còn có cả bút chì, sổ ghi chép, các dụng cụ khảo cổ, …

    Tôi vén tay áo lên, để lộ vết sẹo ở nơi đã trải qua phẫu thuật.

    - Chàng nhớ vết thương này chứ? Ở thời đại của chàng, đó là một vết thương nghiêm trọng, muốn giữ mạng, phải chặt bỏ cánh tay, nhưng thậm chí, ngay cả khi chấp nhận chặt bỏ cánh tay, cũng chưa chắc có thể sống tiếp. Nhưng ở thời đại của em, với các thiết bị y tế và dược phẩm hiện đại, vết thương đã lành lặn, ngay cả vết sẹo sau khi điều trị cũng trở nên rất mờ nhạt. Đó không phải là sức mạnh của phép thuật. Y học tương lai có thể chữa trị rất nhiều căn bệnh mà chàng cho rằng không thể chữa khỏi.

    Rajiva ngồi bất động, kinh ngạc không thốt lên lời. Tôi lấy ra một trong những thứ quý giá nhất tôi mang theo đến thời cổ đại này, đưa cho chàng:

    - Đây là tấm ảnh em chụp với cha mẹ. Họ chỉ có mình em.

    Nhắc đến cha mẹ, tôi mỉm cười:

    - Ở thời đại của em, em vẫn đang là một sinh viên theo học chuyên ngành lịch sử. Ước mơ của em là trở thành một nhà sử học. Cha mẹ không hề hay biết về dự án vượt thời gian này. Em chỉ nói với họ rằng, em đang tham gia một dự án khảo sát đòi hỏi tính bảo mật tối đa, ngay cả điện thoại cũng không được sử dụng. Họ đâu có biết rằng, con gái họ đang sống ở thời đại cách họ những 1650 năm… Cái này gọi là ảnh chụp, một dụng cụ đặc biệt giúp lưu giữ lại hình ảnh của con người trong một khoảnh khắc bất kỳ, sau đó nó được in ra bằng tấm phim. Trang phục của em trong tấm hình này gọi là quần bò, áo phông, là cách ăn mặc phổ biến của các cô gái ở thời đại đó.

    Tôi chỉ tay vào các dãy nhà cao tầng trên hình nền phía sau:

    - Đây là nhà em. Đời sống vật chất và dịch vụ y tế ở thời đại của em rất phát triển, tuổi thọ của con người rất cao, dân số đông đúc, nên phải xây nhà lên tận không trung thế kia, tuy nhiên sẽ có một cỗ máy có thể đưa con người lên bất cứ tầng cao nào chỉ trong chốc lát.

    Tôi nắm tay chàng, niềm hy vọng dâng lên trong mắt:

    - Rajiva, bây giờ chàng tin em đến từ tương lai rồi chứ?

    Vẻ kinh ngạc xen lẫn hoang mang vẫn bao trùm gương mặt chàng. Chàng nhìn tôi không chớp mắt, suy nghĩ rất lâu mới gật đầu xác nhận.

    - Vậy chàng sẽ tin em có thể đưa chàng thoát khỏi nơi này và giúp hai ta tiếp tục sống bên nhau chứ?

    Chàng nhìn tôi hồi lâu, từ tốn gật đầu.

    Tôi nở nụ cười rạng rỡ, kéo tay chàng:

    - Nếu vậy, đêm nay chúng ta sẽ đi khỏi đây.

    Chàng không trả lời đồng ý hay không đồng ý, chỉ yên lặng suy nghĩ giây lát rồi cất giọng hỏi:

    - Tuy nàng nói có rất nhiều từ ngữ lạ ta không hiểu: máy móc, khoa học, ảnh chụp, điện thoại…, nhưng ta tin nàng. Những dụng cụ đó của nàng chỉ có thể là đến từ tương lai.

    Chàng lại trầm ngâm, rồi ngước đôi mắt sâu thẳm tựa hồ nước mùa thu nhìn tôi:

    - Nàng đến từ tương lai, vậy chắc nàng đã biết số mệnh của ta ra sao, phải không?

    Tim tôi đập liên hồi, tôi đáp trong vô thức:

    - Em biết một chút thôi… Nhưng chỉ là truyện ký về chàng, rất sơ sài và vẻn vẹn trong một nghìn con chữ.

    - Ngải Tình, mười một năm trước, nàng nói ta sẽ làm nên nghiệp lớn, truyền bá rộng rãi đạo Phật vào Trung Nguyên. Nàng còn căn dặn ta không được hoàn tục. Những điều đó, nàng đều đọc được trong truyện ký về ta phải không?

    Tôi gật đầu, là một sinh viên ngành sử học, tôi phải tôn trọng sự thật lịch sử:

    - Truyện viết về chàng rất ngắn ngủi, thậm chí có những đoạn hư cấu. Nhưng những kinh văn mà chàng dịch thuật đã được lưu truyển rộng rãi suốt 1650 năm.

    Lại là những khoảnh khắc trầm ngâm và lại là đôi mắt sâu hun hút ấy ngước lên nhìn tôi:

    - Chả trách nàng gọi ta là Kumarajiva, động viên ta đến Trung Nguyên, khuyên ta dịch kinh Phật. Thì ra, đây chính là số mệnh của ta.

    Chàng nghiêng đầu sang một bên, giọng bình thản:

    - Vậy là, sự có mặt của nàng vào năm ta ba mươi lăm tuổi cũng là vì nàng đọc được ghi chép về ta và biết ta gặp phải kiếp nạn đó?

    - Vâng.

    Sợ chàng hiểu lầm, tôi vội vàng giải thích:

    - Nhưng hai lần gặp gỡ trước đó, đều là tình cờ. Cỗ máy vượt thời gian vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, không ai biết chắc em sẽ trở về thời kỳ nào. Bởi vậy, Rajiva, hai lần gặp gỡ trước của chúng ta đều là duyên trời định. Còn lần này, là do em chọn lựa. Bởi vì em yêu chàng, nên em muốn được ở bên chàng và cùng chàng vượt qua giai đoạn gian nan nhất của cuộc đời chàng.

    Lại tiếp tục những khoảng lặng trầm ngâm miên man. Một lúc lâu sau chàng mới buông tiếng thở dài:

    - Nếu đã vậy, bỏ trốn hay ở lại có gì khác nhau đâu? Kết cục đều như nhau.

    Chàng hé môi cười buồn:

    - Kết cục ấy là: Ta không cùng nàng mai danh ẩn tích, mà lưu lại nơi cửa Phật, đúng không?

    Tôi không biết phải nói sao. Tôi đã làm gì thế này? Sao tôi lại cho chàng biết những điều đó? Sao chàng lại thông minh tuyệt đỉnh như vậy? Sao chàng có thể nhanh chóng chấp nhận xuất thân của tôi, lại có thể lập tức suy luận ra kết cục ấy? Tôi đã nói rất nhiều, vì tôi muốn chàng tin tôi đến từ tương lai và tôi có đủ năng lực để bảo vệ chàng. Nào ngờ, suy nghĩ của chàng lại hướng theo chiều ngược lại. Lòng rối như tơ vò, đầu óc – trống rỗng. Thật đúng là: cái khó bó cái khôn!

    - Nàng từng nói ta phải gánh trên vai sứ mệnh truyền bá Phật pháp, dịch thuật kinh văn, trọng trách này còn quan trọng hơn cả tính mạng của ta. Ngải Tình, nếu ta bỏ trốn, ta sẽ không thể hoàn thành sứ mệnh đó, đúng không?

    Tôi vẫn chẳng thể thốt ra được lời nào. Nước mắt bất lực trào ra. Chàng thì ngược lại, tỏ ra bình tĩnh hơn bao giờ, khiến tôi sợ hãi, toàn thân run rẩy.

    - Do vậy, ta không thể bỏ trốn. Ta phải ở lại, chấp nhận mọi nguy nan, rèn giũa thâm tâm, hoàn thành quá trình khảo nghiệm của Phật tổ, hoàn thành sứ mệnh dịch kinh và truyền bá đạo Phật. Đó là số mệnh của ta, số mệnh mà ông trời đã định…

    Chiếc cổ thiên nga đẹp mê hồn rướn cao, khuôn ngực phập phồng chừng như rất xúc động. Chàng nhắm mắt lại, hai hàng lệ chảy dài trên đôi gò má gầy guộc, đọng lại nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu. Chàng khẽ lắc đầu, nước mắt vương trên chiếc áo lụa rộng mà trắng đục.

    - Rajiva, em không nên nói với chàng… Em thật là ngốc, sao em lại làm vậy?

    Tôi bật khóc dữ dội, và vô cùng hối hận. Tôi đã quên chàng là người theo chủ nghĩa duy tâm triệt để. Chàng sẵn lòng chấp nhận kết cục ấy, chỉ cần nói với chàng đó là số mệnh sắp bày, chàng sẽ tin ngay. Nhưng tôi không cam lòng, tôi không cam lòng…

    - Ngải Tình, nếu đã là số mệnh, thì dù nàng không nói ra cũng chẳng thể thay đổi được gì.

    Nỗi sầu muộn trong giọng nói của chàng khiến lòng tôi băng giá. Vậy là chàng đã chấp nhận số phận…

    - Rajiva, chàng có thể vì em, rời bỏ cửa Phật không?

    Tôi chờ đợi, tôi run rẩy. Thật không ngờ, tôi đã nói ra điều đó. Tôi luôn nghĩ sẽ giúp chàng tìm ra điểm cân bằng giữa tình yêu và lí tưởng. Tôi đã từng dặn lòng không được ép chàng lựa chọn. Nhưng tình thế trước mắt khiến tôi không còn thời gian để tìm kiếm cân bằng ấy nữa. Nếu không ra đi, tôi sẽ trở thành gánh nặng của chàng, Lữ Quang sẽ lợi dụng tôi để uy hiếp chàng. Nhưng nếu tôi đi rồi, chàng sẽ ra sao? Tôi không thể giương mắt nhìn chàng chịu đày ải, chịu sỉ nhục. Thế nên, dù hy vọng rất mong manh, tôi vẫn phải ra sức tranh giành với Phật tổ, ra sức vật lộn với số phận…

    - Ngải Tình, nàng hãy đi đi, hãy trở về bên cha mẹ nàng, đừng lo cho ta nữa…

    - Không!

    Tôi gào lên thảm thiết, giọng như lạc đi.

    - Cả hai ta sẽ cùng đi, nếu không, em quyết không đi…

    Chàng đứng dậy, yên lặng hồi lâu. Ánh đèn le lói trong buổi hoàng hôn kéo bóng chàng hắt thành vệt dài lên vách tường lạnh lẽo. Tôi ngẩng đầu nhìn chàng, nước mắt giàn giụa nhưng chẳng buồn lau đi. Sự im lặng của chàng, theo thời gian, khiến tôi như đóng băng. Tôi không thể thua, tôi không chịu thua! Nhưng tôi biết, mình đã thua. Đứng trước tình yêu, chỉ số IQ của tôi đã trượt dài từ một trăm hai mươi xuống chỉ còn một nửa. Tiếp theo, phải làm gì, tôi không biết nữa! Ai đó làm ơn cho tôi biết đi?...
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  10. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 49: Ly biệt
    - Ngải Tình, nàng tư chất thông minh, nhân hậu, lương thiện, lại có những khả năng đặc biệt, khác lạ. Sao trên đời lại có người con gái toàn vẹn như nàng! Kể từ khi gặp nàng năm mười ba tuổi, ta luôn nghĩ rằng nàng là tiên nữ. Lần này, nàng xuất hiện khi ta bị ép buộc phá giới, khiến ta càng thêm chắc chắn rằng Phật tổ đã cử nàng đến giúp ta. Bởi vậy, ngày đêm quấn quít bên nàng, tuy phạm tội phá giới, nhưng trong lòng vẫn còn chút an ủi. Vì ta nghĩ nàng là đệ tử của Phật tổ.

    Chàng xoay lưng về phía tôi, bờ vai xương xương rung động, ngừng lặng hồi lâu mới tiếp tục:

    - Nhưng giờ đây, nàng lại cho ta biết nàng không phải tiên nữ. Mọi phép màu đều được giải thích bằng việc nàng đến từ tương lai. Thì ra nàng chỉ là một cô gái bình thường, không phải đệ tử của Phật tổ. Nếu vậy, lần đầu phá giới có thể viện cớ là ta bị ép buộc. Nhưng những lần phá giới tiếp theo, tự ta đã hủy hoại cuộc đời tu hành của mình. Ta đã gây nên nghiệp chướng, Phật tổ nhất định sẽ trị tội. Ta cảm thấy bội phần hổ thẹn và hối hận.

    Như vừa nghe tiếng sét bên tai, toàn thân tê dại. Tôi không dám tin chàng có thể nói ra những lời đó. Tôi đứng bất động, mắt không rời khỏi bóng dáng gầy guộc ấy, quên cả khóc.

    - Rajiva, chàng hối hận vì đã yêu em, hối hận mỗi đêm ôm em trong lòng chàng đều vững tâm vì nghĩ rằng em là tiên nữ, phải không? Giờ đây, khi biết em chỉ là một cô gái bình thường, chàng không còn yêu em nữa, đúng không?

    - Ta vốn một lòng hướng Phật, không tơ tưởng chuyện yêu đương nam nữ. Nhưng rủi thay ma xui quỷ khiến, ta đã có quan hệ vợ chồng với nàng. Nhưng phút chốc hoan lạc ngắn ngủi sao có thể khiến ta từ bỏ Đức Phật! Ta sẽ không để sắc dục mê hoặc nữa! Quãng đời còn lại, ta sẽ toàn tâm toàn ý phụng sự Phật tổ. Tội phá giới, dù phải chết ngàn vạn lần cũng chẳng thế chuộc lại, ta chỉ có thể sống với nỗi sám hối vô bờ trong những ngày tháng còn lại. Vậy nên, nàng hãy đi đi, ta không bỏ trốn cùng nàng đâu!...

    Tôi gắng gượng đứng lên, lảo đảo lao đến trước mặt chàng, kéo tay áo chàng, nhìn vào đôi mắt đang tìm cách chạy trốn của chàng:

    - Em không tin! Chàng muốn em ra đi nên mới nói những lời này, đúng không?

    - Ngải Tình, cảm ơn nàng đã cho ta biết về tương lai và sứ mệnh của ta.

    Chàng nhắm mắt lại, lầm rầm tụng niệm:

    - Cội gốc của bể khổ.

    Tham dục chính là nguồn cơn

    Nếu diệt được tham dục

    Khổ chẳng còn chốn nương

    Dứt hết hẳn các khổ

    Gọi là đế thứ ba[31]

    Lìa hết thảy trói buộc

    Chừng sẽ được giải thoát.

    Ngải Tình, hãy sớm thoát khỏi bể khổ! Nếu đây là số mệnh, hà tất phải cố chấp!

    - Rajiva, em chỉ muốn chàng trả lời một câu thôi: chàng có yêu em không?

    Rajiva mở mắt, nỗi bi thương bất tận phủ trên gương mặt chàng, chàng cất giọng từ tốn:

    - Ngày trước có kẻ phạm tội, tìm cách bỏ trốn, nhà vua hay tin, thả voi điên đuổi bắt. Người này chạy đến một giếng nước khô và nhảy xuống. May mắn thay, khi rơi đến lưng chừng, anh ta bám được vào một bụi cỏ đâm rễ từ bụng giếng, thân mình treo lơ lửng bên vách giếng. Dưới đáy giếng, những con rồng dữ đang thè lưỡi phun độc. Bên cạnh lại có rắn độc đang chầu chực, hòng nuốt chửng anh ta. Ngoài ra còn có một đôi chuột đen trắng đang gặm nhấm bụi cỏ níu giữ anh ta. Bụi cỏ sắp đứt. Kẻ phạm tội muốn trèo ra ngoài, nhưng sợ bị voi điên xéo nát, sợ rơi xuống đáy giếng bị rồng phun độc. Muốn bám chặt tại chỗ lại sợ đôi chuột đen trắng cắn đứt bụi cỏ, sợ rắn độc phục sẵn bên cạnh. Lúc đó trên mặt giếng có một cây cao, trên cây có một tổ ong mật, những giọt mật ong ngọt lữ tình cờ rơi vào miệng kẻ tội nhân. Kết quả, hắn đã đê mê với vị ngọt ngào của mật ong mà quên đi tất cả những nguy hiểm đang rình rập quanh mình.

    Đôi mắt màu xám nhạt thăm thẳm, tựa hồ thấy suốt mọi sự trên cõi đời này, ngước nhìn tôi:

    - Ngải Tình, kẻ tội nhân ấy chính là chúng ta, voi điên kia tượng trưng cho lẽ vô thường, chuột trắng tượng trưng cho ban ngày, chuột đen là ban đêm. Bụi cỏ là sinh mạng của chúng ta. Rồng độc dưới đáy giếng tượng trưng cho sự sai trái, rắn độc tượng trưng cho “ngũ uẩn”[32] của chúng ta. Mật ngọt trên cây là biểu trưng của niềm vui khi ham muốn được thỏa mãn. Vì chúng ta đắm chìm trong hoan lạc, nên chúng ta đã quên đi tất cả: sinh mệnh, sự ràng buộc, thời gian, tất cả.

    Chàng ngồi xuống trong tư thế thiền, mắt nhắm lại, không buồn nhìn tôi:

    - Những ngày tháng còn lại, ta sẽ dành toàn tâm toàn ý cho thiền định, Phật pháp. Với ta, niềm vui tu hành mãi mãi vượt xa những ham muốn trần tục.

    - Đừng nói nữa… Em sẽ ra đi…

    Tôi đứng lên, toàn thân giá lạnh, chẳng còn một chút hơi ấm nào:

    - Chàng đã quyết không ra đi, em ở lại, sẽ chỉ tạo thêm gánh nặng cho chàng. Nếu sự ra đi của em khiến chàng có thể dành trọn tâm trí cho việc phụng sự Đức phật, tu hành ngũ đạo; nếu sự ra đi của em có thể khiến chàng xóa bỏ mặc cảm của tội lỗi, vậy em sẽ đi.

    Tôi khoác ba lô lên vai, thay bộ đồ màu đen mang từ thời hiện đại tới, lần chần đứng bên bậc cửa, thất thần nhìn chàng đang ngồi thiền tụng niệm. Đã nửa đêm, đêm khuya tắt lịm, chỉ có ánh trăng bàng bạc chếch nghiêng bên cửa sổ soi rọi bóng dáng cô độc của chàng. Chàng không ngừng tụng niệm, miệng chừng như không muốn khép lại, tuy chỉ lầm rầm, nhưng trong không gian tĩnh lặng này, thanh âm ấy trở nên trầm mặc, u sầu lạ thường. Chàng không chịu đi nghỉ, không chịu mở mắt, cũng không chịu nói với tôi một lời.

    Trong lúc thay quần áo, tôi đã xác định kế hoạch của mình rất rõ ràng, ra khỏi cung sẽ đi đâu, làm gì. Rajiva, chàng chấp nhận số mệnh vì chàng không biết ai có thể chống lại số mệnh. Nhưng em thì khác. Em đến từ thế kỉ XXI, em sẽ không dễ dàng từ bỏ tình yêu của mình như vậy. Chàng không muốn em ở bên cạnh chàng, vậy em sẽ lặng lẽ làm việc đó. Nếu chàng gặp nạn, em sẽ giúp chàng. Cho đến khi chàng thực sự không cần em nữa, em sẽ ra đi.

    - Rajiva, em đi đây. Chàng nhớ ăn uống đầy đủ, lúc rảnh rỗi, hãy tiếp tục dịch kinh Phật.

    Muốn dặn dò thêm đôi câu, nhưng sống mũi cay cay, cổ họng nghẹn lại. Tôi ngừng lại lấy hơi, nuốt nước mắt vào trong. Tôi không thể rơi nước mắt tùy tiện như vậy, khóc than không giải quyết được vấn đề gì.

    Chàng vẫn nhắm mắt, những âm thanh toát ra từ khóe môi dường như không phải là kinh Phật. Chàng ngẩng đầu, ánh trăng vằng vặc rọi lên gương mặt tựa điêu khắc nhưng cô độc và u buồn ấy…

    - Ngải Tình…

    Cuối cùng chàng cũng chịu mở lời, nhưng giọng nói mơ hồ như vọng lại từ cõi xa xôi miên viễn nào đó.

    - Hãy trở về thời đại của nàng, hãy quên đi tất cả. Đối với nàng, ta chẳng qua chỉ là một cổ nhân thuộc về quá khứ.

    Tôi cắn chặt môi, dặn lòng không được rơi lệ, tôi sẽ không tiếp tục để những giọt nước mắt rơi vô nghĩa nữa.

    “Tất cả các pháp hữu vi

    Như bóng, bọt nước có gì khác đâu

    Như sương như điện lóe mau

    Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng.[33]

    Biết chàng đang nhắm mắt, nhưng tôi vẫn nở nụ cười ngây ngô mang thương hiệu Ngải Tình mà thường ngày vẫn bị chàng trêu chọc:

    - Rajiva, đó là câu kinh em thích nhất trong cuốn kinh “Kinh kim cương” mà chàng dịch. Một tháng bên nhau, tựa như ảo ảnh, nhanh như chớp mắt. Kinh Phật dạy rằng, mọi sự hữu vi đều là kết quả của nhân duyên, em và chàng cũng vậy. Nhưng bất luận thế nào, những ngày qua em đã rất hạnh phúc, cám ơn chàng!

    Không chờ chàng đáp lại, tôi vội vã quay lưng bước đi, sợ nghe thấy tiếng chàng, quyết tâm ra đi sẽ tan biến. Bước tới hoa viên, giữa không gian thấm đẫm ánh trăng trong đêm giá lạnh, vẫn nghe tiếng lầm rầm tụng niệm của chàng tựa làn gió lướt nhẹ bên tai:

    Tất cả các pháp hữu vi

    Như bóng, bọt nước có gì khác đâu

    Như sương như điện lóe mau

    Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng

    Vợ chồng Pusyseda khoác áo choàng ra đón tôi vào nhà, kinh ngạc trước trang phục màu đen từ đầu đến chân của tôi. Trông tôi lúc này chẳng khác gì các nữ hiệp thường xuất hiện về đêm trong các bộ phim truyền hình cổ trang. Có điều, chiếc ba lô hiệu Northface trên vai đã làm hỏng phần nào hình tượng hiệp sĩ ấy. Nửa đêm gà gáy, bốn bề tịch mịch, khi bước tới cổng phủ quốc sư và đưa tay lên gõ cửa, tôi biết sẽ có rất nhiều câu hỏi đang chờ mình. Nếu không phải vì có việc phải nhờ đến Pusyseda, tôi cũng chẳng muốn khuấy động cuộc sống yên bình của họ. Tôi kể vắn tắt quá trình bỏ trốn khỏi hoàng cung của mình, sau đó vội vã hỏi:

    - Pusyseda, ngày kia cậu sẽ cùng nhà vua đến chùa Cakra chứ?

    Cậu ta gật đầu, ánh mắt thoáng chút khó hiểu. Tôi bật dậy khẩn cầu:

    - Dù bằng bất cứ cách nào, xin hãy đưa tôi đi cùng.

    - Ngải Tình!

    Cậu ta cũng bật dậy, giọng nói nghiêm nghị:

    - Chị trốn khỏi cung, Lữ Quang rất có thể sẽ cho người truy bắt chị. Lúc này chị không ngoan ngoãn ẩn mình mà còn muốn liều thân ư, chị thật dại dột!

    - Pusyseda, chính vì tôi bỏ trốn, nên chắc chắn Lữ Quang không thể ngờ được tôi dám đi theo đến chùa Cakra. Nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất. Vả lại, trong mắt Lữ Quang, tôi chỉ là cô gái khiến Rajiva phá giới, không có vai trò quan trọng gì cả. Ông ta có thể sẽ nghi ngờ không hiểu tôi đã bỏ trốn bằng cách nào, nhưng chắc chắn sẽ không cử cả một đội quân đi truy bắt một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi đâu.

    - Ông ta không cho rằng chị là một kẻ vô danh tiểu tốt đâu.

    Cậu ta giậm chân, lắc đầu:

    - Ông ta đưa đến cả tá mỹ nữ, vậy mà suốt bao nhiêu ngày, huynh ấy chẳng động đến ai cả. Nhưng khi ông ta mới tỏ ý muốn hại chị, huynh ấy đã lập tức lao đầu vào tự vẫn. Lữ Quang đâu có khờ, ông ta đã đoán ra chị quan trọng như thế nào đối với huynh ấy. Nếu để ông ta phát hiện ra chị, chẳng khác nào tự đến nộp mạng. Chị làm vậy sẽ khiến huynh ấy khó xử.

    - Pusysede, tôi có thể trốn khỏi hoàng cung, tất nhiên tôi sẽ có cách tự bảo vệ mình, Lữ Quang không bắt được tôi đâu. Nếu phải giam mình ở đây chờ đợi, tôi sẽ hóa điên mất. Xin cậu, hãy đưa tôi đi. Chỉ cần được nhìn thấy chàng là tôi mãn nguyện rồi. Tôi sẽ không làm việc gì dại dột khiến cậu gặp phiền phức đâu.

    Khóe mắt nóng ran, tôi ra sức kiềm chế, tôi đã tự hứa với lòng mình, sẽ không để những giọt nước măt vô nghĩa nhỏ xuống nữa.

    - Ngải Tình, tôi không sợ phiền phức. Nhưng nếu đưa chị đi cùng, cũng đâu phải giải quyết được vấn đề gì?

    Giọng nói của cậu ấy nhẹ nhàng hơn, bàn tay chực chìa về phía tôi, đến nửa chừng lại thu về.

    - Tôi không biết có thể làm được điều gì cho chàng, nhưng tôi không thể bỏ mặc chàng. Tôi chỉ muốn lặng lẽ đi theo, để ít nhất được yên lòng về chàng.

    Tôi hướng về Pusyseda tất cả nỗi kỳ vọng và khẩn cầu tha thiết của mình:

    - Nếu như Hiểu Huyên và bọn trẻ gặp nạn, cậu sẽ làm gì?Mong cậu hiểu cho tôi.

    Ánh mắt Pusyseda như đang trôi về miền ký ức xa xăm nào đó, nét mặt thoáng chút bi ai, cậu ta trầm ngâm nhìn tôi. Một lúc lâu sau mới thở dài ảo não:

    - Ngải Tình, chị vẫn giống hệt mười một năm về trước…

    - Lòng dũng cảm của cô Ngải Tình khiến người khác phải khâm phục. Thiếp xin chàng hãy giúp đỡ cô ấy.

    Hiểu Huyên nãy giờ vẫn yên lặng ngồi bên, đột nhiên cất tiếng trò chuyện với chúng tôi bằng tiếng Hán:

    - Hiểu Huyên…

    Pusyseda nhìn Hiểu Huyên cười buồn.

    - Thiếp cũng từng trải qua nỗi khổ vì yêu, nên rất hiểu tâm tư của cô, Ngải Tình. Xin chàng hãy giúp đỡ đôi uyên ương tội nghiệp ấy!

    - Không phải ta không muốn giúp, nhưng ta đưa chị ấy đi bằng cách nào? Lữ Quang và đám con cháu của ông ta đều từng gặp chị ấy, nếu để lộ tung tích thì phải làm sao?

    - Thiếp nghe nói, đức vua đưa cả thê thiếp đến chùa lễ Phật, chàng đưa người thân đi cũng đâu có gì lạ. Chàng hãy để cô Ngải Tình đóng giả thiếp là được.

    Hiểu Huyên suy nghĩ một lát, quan sát tôi một lượt, rồi tiếp tục thuyết phục chồng:

    - Từ khi về làm dâu nhà chàng, thiếp ít khi ra ngoài, nhưng ai nấy đều hay thiếp là người Hán. Chàng có thể ứng đối với người ta rằng, kể từ sau lần sinh nở thứ hai, thiếp luôn muốn đến chùa lễ Phật tạ ơn. Chỉ cần nói dối rằng thiếp bị cảm lạnh, phải trùm khăn che mặt là ổn. Cô Ngải Tình có đôi mắt rất giống thiếp, vóc dáng cũng vậy, cô ấy đóng giả thiếp chắc chắn không ai nghi ngờ. Chàng lại là quốc sư một nước, lẽ nào có kẻ dám vén khăn che mặt của thiếp để kiểm chứng đúng hay sai?

    Hay lắm! Quả là một phụ nữ thông minh, lanh lợi! Tôi vui như mở cờ trong bụng, nắm lấy tay Hiểu Huyên, xúc động:

    - Tốt quá! Cảm ơn phu nhân!

    - Cô Ngải Tình có quan hệ thân thiết với gia đình chúng tôi như vậy, xin đừng gọi tôi là phu nhân, nghe khách sáo và xa lạ. Chi bằng chúng ta gọi nhau là chị em. Tôi có lẽ hơn tuổi cô, tôi gọi cô là em gái, được không?

    Giọng nói dịu dàng và chân thành của cô ấy khiến tôi càng thêm yêu cô ấy hơn.

    - Được chứ! Được làm chị em với một phụ nữ thông minh, xin đẹp như phu nhân là diễm phúc cùa Ngải Tình! Có điều, hai chúng ta chưa biết ai là chị ai là em đâu!

    Ta thật thà khai báo:

    - Tôi đã hai mươi lăm tuổi rồi!

    - Hiểu Huyên, xét về tuổi tác, nàng phải gọi chị ấy là chị đó. Chị ấy hơn nàng một tuổi.

    Pusyseda đứng bên bật cười.

    - Nhưng, nhưng mà trông chị ấy giống như một thiếu nữ mới mười tám, mười chín tuổi vậy!

    Hiểu Huyên nhấc tay tôi lên, cử chỉ nhã nhặn, không ngừng tán thưởng.

    - Chị ấy còn rất nhiều điều khiến người ta phải ngạc nhiên nữa kia!

    Tôi nháy mắt ra hiệu cho Pusyseda, cậu ta thôi cười, dịu dàng nói với vợ:

    - Đã khuya rồi, nàng đưa chị Ngải Tình đi nghỉ đi. Ngày mai chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ để ngày kia lên đường.

    Đêm đó, tôi trở về căn phòng quen thuộc của mình. Không ngoài dự đoán của tôi, mọi thứ vẫn được giữ nguyên, thậm chí cả những mảnh giấy viết chữ của Pusyseda thuở nhỏ vẫn còn đó. Những năm tháng đã khiến chúng trở nên ố vàng, những nét chữ xiêu vẹo đã không còn rõ nét nữa. Đang chìm đắm trong xúc cảm được khơi gợi bởi ký ức, bỗng tôi nghe thấy tiếng ngâm nga phía sau. Giai điệu quen thuộc làm sao, tuy có hơi lạc nốt nhưng chắc chắn đó là bài “Ngủ ngon con yêu”. Tôi giật mình, quay lại nhìn cô ấy:

    - Tướng công tôi thường hát ru hai đứa nhỏ bằng bài hát này.

    Cô ấy mỉm cười, đôi mắt trong trẻo chiếu thẳng về phía tôi, có ý thăm dò phản ứng của tôi.

    - Tướng công có lần đã hỏi tôi về bài hát của người Hán này, nhưng tôi hiểu biết hạn chế chưa từng nghe bài hát này bao giờ.

    Thì ra cô ấy vẫn băn khoăn chuyện đó.

    - Hiểu Huyên, chính tôi đã hát cho cả hai anh em họ nghe bài hát này.

    Tôi hiểu ý tứ của cô ấy và nghĩ rằng nên thành thực:

    - Chuyện đó đã qua lâu lắm rồi, có lẽ chỉ còn là một chút ký ức mơ hồ mà thôi, quan trọng nhất vẫn là hiện tại… Hiện tại, cô và hai đứa trẻ mới là người thân thiết nhất của cậu ấy, là những người mà cậu ấy muốn chở che, bao bọc nhất.

    Tôi nhẹ nhàng nắm lấy tay cô ấy, giải bày lòng mình:

    - Tôi cũng có người mà tôi muốn bảo vệ. Mười năm trước tôi đã bỏ lỡ cơ hội, nhưng bây giờ, tôi quyết không từ bỏ.

    Tôi ngước nhìn bầu trời đêm tịch mịch bên ngoài, nỗi buồn dâng ngập lòng.

    - Trừ phi chàng không cần tôi nữa…

    Tôi nghĩ Hiểu Huyên đã trở về với niềm hân hoan vì khúc mắc đã được giải tảo. Tôi ngồi ngơ ngẩn rất lâu trên giường, kỷ niệm về căn phòng này lần lượt ùa. về. Chuyện xưa tựa như mây khói, chớp măt đã hơn mười năm. Cậu nhóc ngày xưa sáng nào cũng ngồi xổm, chầu chực bên giường tôi nay đã xuất hiện không ít nếp nhăn trên trán, mọi suy nghĩ hành động đã chín chắn, chững chạc, già dặn hơn rất nhiều.

    Tôi bất giác nhớ lại người cha của họ từng nói với tôi. Pusyseda là người dám làm dám chịu, tính cách phóng khoáng, nhiệt thành, tuổi trẻ bốc đồng, phóng túng, nhưng sẽ trưởng thành theo thời gian. Còn Rajiva, chàng quá ư thông minh, từ nhỏ lại chưa từng phải chịu khổ. Suy nghĩ đè nặng trong lòng nhưng chẳng chịu nói ra. Tính cách ấy sẽ phải đổi bằng một đời bất hạnh.

    Tôi cười buồn. Mười năm sau, những lời của Kumarayana đã được nghiệm chứng. Rajiva, chàng có bao nhiêu điều kìm nén trong lòng không thể nói ra? Lúc này, chàng đang làm gì? Hay là cũng ngồi thẫn thờ ngắm nhìn bầu trời đêm ngàn sao, chờ trời sáng? Lúc ra đi, em đã kìm lòng không nhìn chàng. Em đã tự an ủi rằng, vì chàng muốn em bỏ trốn nên mới nói những lời nghiệt ngã ấy. Tuy chàng chưa một lần nói yêu em, nhưng em biết, chàng đã yêu em từ khoảnh khắc chàng cầm lên cây viết và họa lại hình em. Chàng yêu em, không phải vì em là tiên nữ, không phải vì em là đệ tử của Phật tổ, mà chỉ vì em là cô gái đầu tiên, cũng là cô gái duy nhất bước vào trái tim chàng.

    Tôi thở dài, cố gắng đẩy những phiền muộn trong lòng ra ngoài. Lúc này tôi chỉ có thể dựa vào lí do ấy để tin tưởng và tự động viên. Nếu không tôi chẳng biết phải lấy cớ gì để đến được bên chàng.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  11. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 50: Pusyseda và lịch sử
    Xe ngựa của phủ quốc sư dừng lại ở quảng trường phía trước hoàng cung, chúng tôi đứng đó chờ đợi đức vua Khâu Từ và đoàn tùy tùng của Lữ Quang. Ốc đảo Khâu Từ lúc nàyđã bước vào đầu tháng Chín, buổi sớm tinh mơ khí lạnh giăng giăng. Bạch Chấn và bầu đoàn thê tử của ngài đã đến và sắp xếp ổn thỏa đâu vào đấy, vậy mà vẫn chưa thấy Lữ Quang xuất hiện. Chờ tới tận khi mặt trời đã lên cao bằng ba con sào, ông ta mới đủng đỉnh từ trong cung tiến ra, vây quanh là hàng tá mỹ nữ Khâu Từ, cùng đội quân hộ tống đông đảo, so với Bạch Chấn, sự lấn lướt rất rõ nét.

    Tôi chỉ dám đưa mắt nhìn trộm từ trong xe ngựa, tìm kiếm xung quanh Lữ Quang. Rất dễ nhận ra chàng, không phải vì khí khái bất phàm và vóc dáng nổi trội giữa đám quân lính người Hán, mà vì trang phục của chàng. Chàng khoác chiếc áo choàng rộng màu nâu sòng, một bên vai để trần, phục trang ấy hoàn toàn khác biệt so với đoàn tùy tùng rực rỡ, lấp lánh ngọc ngà châu báu của Lữ Quang. Trong những ngày chúng tôi bị giam lỏng, Lữ Quang ép chàng mặc trang phục của dân thường, nhưng hôm nay lại cho phép chàng khoác áo tăng lữ, ông ta hẳn có ý đồ đen tối gì đây.

    Đoàn tùy tùng của Lữ Quang đã chuẩn bị xong xuôi. Một tên lính ra sức kéo một con ngựa đến bên Rajiva. Con ngựa đó chỉ nhìn thoáng qua cũng biết là một con ngựa dữ, nó không ngừng hí lên dữ tợn và bất tuân lệnh chủ. Không nghe rõ họ nói gì với nhau, tôi chỉ thấy Rajiva lặng lẽ đón lấy dây cương, chuẩn bị trèo lên.

    Tôi nhắm chặt mắt lại, không dám chứng kiến những gì diễn ra tiếp theo. Trái tim như rỉ máu, đầu óc mê muội. Sự việc đã diễn ra như nó phải thế, dù tôi có cố gắng thay đổi thế nào đi nữa.

    Những trận cười nhạo ác ý vang lên giữa đám đông. Đó là những kẻ ngu muội, xem tôn giáo như trò phù thủy, như một thứ mê tín dị đoan. Bọn họ chỉ biết lăm le cợt nhả, xem thường, hòng áp chế uy lực của thần quyền. Lịch sử đã chứng minh, Lữ Quang chẳng qua chỉ là một tên hề, Rajiva mới là bậc danh sư được người đời tôn kính. Tôi không muốn phải chứng kiến cảnh chàng bị đem ra làm trò hề và chắc rằng chàng cũng không muốn để tôi phải thấy cảnh đó. Tôi nắm chặt chiếc khăn lụa Atala trong tay, thầm khích lệ: Rajiva, cố gắng lên, hãy cố gắng lên!

    Có tiếng xôn xao giữa đám đông, âm thanh của ai đó đang gào lên phẫn nộ. Kéo rèm cửa, ngó ra ngoài, Pusyseda đang đứng chắn phía trước con ngựa hung hãn, cậu ta đỡ lấy Rajiva mình lấm bụi đất, tay ôm đầu gối, vẻ mặt đau đớn.

    Lữ Quang to nhỏ vài câu với thuộc hạ, con ngựa ác bị dắt đi, một chiếc xe bò lại được đưa đến trước mặt Rajiva. Mọi người đều cưỡi ngựa hoặc ngồi xe ngựa, xe bò chỉ dành cho các gia đình nghèo khổ, thấp kém. Nhưng phô bày sự đãi ngộ tồi tệ chưa phải là mục đích chính của Lữ Quang. Con bò này chắc chắn không bình thường, có lẽ chính là loại bò điên được ghi chép trong sử sách.

    Pusyseda đầy vẻ lo lắng, không muốn để Rajiva lên xe. Vẻ mặt Lữ Quang cũng không dễ chịu gì, ông ta quay sang to nhỏ vài câu với Bạch Chấn, ngay lập tức nhà vua phải đích thân kéo Pusyseda ra ngoài.

    Nhìn thấy Bạch Chấn kéo tay Pusyseda đi về phía cỗ xe ngựa của mình, tôi vội vàng trùm khăn che mặt lại. Rèm cửa được vén ra, nhà vua gật đầu với tôi, vẻ ái ngại, tiếng Hán lơ lớ cất lên:

    - Phu nhân hãy can ngăn quốc sư, đừng làm chuyến đi bị chậm lại.

    Tôi đưa tay ra kéo Pusyseda, khẽ cúi đầu đáp lễ với Bạch Chấn, hạ thấp giọng:

    - Thần thiếp hiểu, xin tạ ơn đức vua!

    Chờ Bạch Chấn đi khuất, tôi nói khẽ với Pusyseda:

    - Lên xe đi, đừng chọc giận Lữ Quang nữa.

    Pusyseda cau mày:

    - Ngải Tình, chị nỡ lòng nào nhìn huynh ấy phải chịu như thế, chị không yêu huynh ấy sao?

    - Pusyseda, chính vì yêu Rajiva, nên tôi mới phải nhẫn nhịn. Lữ Quang bày mưu hạ nhục Rajiva bằng mọi cách, cậu đứng ra ngăn cản chẳng những không giải quyết được vấn đề gì, sẽ chỉ khiến hắn thêm tức giận mà trút hết lên đầu Rajiva thôi.

    Tôi buồn bã nhìn Pusyseda, thở dài:

    - Trong thời thế kẻ mạnh chà đạp kẻ yếu này, ngoài việc thản nhiên đối diện, chúng ta không còn cách nào khác.

    Pusyseda ngồi xuống phía đối diện với tôi, vẻ mặt vẫn nhuốm đầy uất hận. Cậu ta nặng nề buông tiếng giục phu xe.

    - Đi thôi!

    Cỗ xe từ từ lăn bánh, tiếng cười nhạo vẫn vang lên phía trước đoàn xe. Pusyseda sa sầm mặt mày, vén rèm cửa nhìn ra ngoài.

    Tôi nhìn cậu ta lại lắc đầu:

    - Đừng nhìn nữa.

    Rồi giữ giọng bình tĩnh nói với cậu ta:

    - Dù Rajiva có thể bình thản đối diện với mọi sự hành hạ, nhạo báng, nhưng chàng cũng có lòng tự trọng của chàng, chàng không muốn người thân của mình phải chứng kiến cảnh đó đâu. Chúng ra không nhìn, tức là chúng ta tôn trọng chàng, cậu hiểu chứ?

    - Ngải Tình…

    Vẻ mặt Pusyseda đầy đau đớn, khóe mắt nhuốm đỏ:

    - Chị có thể bình tĩnh thật ư? Nhưng sao sắc mặt lại trắng bệch và đôi mắt lại thâm quầng thế kia?

    Tôi ngẩng người, nghiêm trọng vậy ư? Mấy ngày qua đều mất ngủ, tôi biết sắc mặt mình rất khó coi. Nhưng diện mạo này, vô tình lại rất khớp với lời nói dối: phu nhân của Pusyseda đang bị cảm lạnh.

    - Tôi đã truyền tin dặn dò chị khuyên nhủ huynh ấy kia mà! Huynh ấy không chịu nghe, hay chị không chịu nói?

    Nhớ lại khoảnh khắc chia ly, tim tôi quặng thắt. Tôi phải hít một hơi thật sâu để lấy lại sự bình tĩnh:

    - Chắc cậu biết Lữ Quang ép Rajiva phải làm gì chứ?

    - Lúc đầu thì không, nhưng bây giờ tôi có thể đoán ra được.

    - Vậy theo cậu, Rajiva có chấp nhận cầu cạnh Lữ Quang và ca tụng công đức của ông ta không?

    - Dù không muốn, huynh ấy cũng nên nghĩ cách để kéo dài thời gian hoặc tạm thời chấp nhận, Tóm lại là phải tính kế lâu dài, việc gì huynh ấy phải một mực từ chối để bây giờ phải chịu sự đày đọa, sỉ nhục như vậy?

    - Pusyseda, Rajiva có niềm tin của riêng chàng, đó là điều mà Lữ Quang không bao giờ khuất phục được. Sự đày đọa về thể xác dù sao cũng dễ chịu hơn nhiều sự dằn vặt về tinh thần. Chàng đã quyết định như vậy, cho nên dù xảy ra chuyện gì, tôi cũng sẽ đi theo và ủng hộ chàng. Thậm chí…

    Tôi ngừng lại, giữ chặt bàn tay đang run lên bần bật, rồi mới tiếp tục:

    - Nếu chàng không cần tôi nữa, tôi sẽ ra đi.

    Ngày sau chàng sẽ theo Lữ Quang đến Lương Châu. Mười bảy năm đằng đẵng, vậy mà trong truyện kí về chàng chỉ lưu lại một và lời dự đoán lạ lùng, không đáng tin cậy. Từ việc này, có thể khẳng định, chàng không chịu thuận theo Lữ Quang. Mười bảy năm trời chàng còn không chịu khuất phục, nói chi bây giờ.

    Pusyseda nhìn tôi rất lâu, ánh mắt ngập đầy tình thương và nỗi bi ai:

    - Ngải Tình, chỉ có chị là người hiểu huynh ấy nhất, chả trách mười năm lại mười năm, huynh ấy vẫn một lòng chờ đợi chị. So với huynh ấy, tình yêu năm xưa của tôi dành cho chị, chẳng đáng kể gì. Tôi không giành được trái tim chị, cũng là điều dễ hiểu.

    Tôi mỉm cười nhớ lại Pusyseda thời trẻ bồng bột, bướng bỉnh, tôi không khỏi xúc động:

    - Vậy là, cậu đã chịu từ bỏ sự cố chấp của tuổi trẻ.

    Ánh mắt Pusyseda như trôi đến tận phương nào, sau một hồi trầm ngâm, đột nhiên cậu ta cất tiếng:

    - Huynh ấy gặp nạn cũng một phần do lỗi của tôi.

    Tôi không khỏi ngạc nhiên.

    - Trước khi ra đi, chị từng nói, ngày sau Khâu Từ sẽ trải qua một biến cố rất lớn. Nếu tôi tiếp tục theo nghiệp binh đao, sẽ khó bảo toàn tính mạng. Chị còn khuyên tôi nên tạo dựng mối quan hệ mật thiết với cậu út, cậu ấy sẽ là chỗ dựa của tôi sau này. Chị nhớ chứ?

    Tôi gật đầu, trong lòng không khỏi thấp thỏm:

    - Cậu đã làm gì?

    - Tôi cố ý chọc giận đức vua Bạch Thuần, giờ thì nên gọi ông ta là Tiên Vương mới phải, nên đã bị đuổi khỏi đội cấm vệ quân. Tôi và ông ấy vốn có ân oán từ trước, nên ông ấy không coi tôi ra gì. Sau khi cha mẹ tôi qua đời, ông ấy chẳng cần phải nể nang nữa… Rời đội cấm vệ quân, tôi quyết định buôn tơ lụa, kiếm được rất nhiều tiền. Nhưng Bạch Thuần không chịu trao quyền kinh doanh mỏ đồng cho tôi, lại trao cho hoàng tử thứ tư – một kẻ ngu muội. Hắn kinh doanh thua lỗ, lại đổ tội cho tôi ngăn cản thương nhân Shanshan mua đồng của Khâu Từ. Bạch Thuần tức giận xung công rất nhiều cửa hiệu tơ lụa của tôi. Thời gian đó, tôi sống rất khổ sở.

    Nhớ lại chuyện cũ, nỗi tức giận dâng lên trong giọng kể của Pusyseda:

    - Một tên vua tàn bạo, xa hoa như vậy, lật đổ ông ta sẽ tạo phúc cho trăm họ. Thêm nữa, tôi cũng muốn trả thù, nên đã kích động cậu út tạo phản. Cậu út bản tính hèn nhát, không có dã tâm, mọi việc trù bị cho cuộc soán ngôi đều do một mình tôi lo liệu. Chúng tôi vốn không có thực lực, lại không nắm giữ quân đội trong tay, nên trong chuyến cống nạp cho triều đình nhà Hán sáu năm trước, tôi đã theo cậu út đến Trường An. Năm đó được diện kiến Vua Tần – Phù Kiên, ông ta tự xưng mình là bậc anh hùng cái thế, trong cuộc chuyện trò, tôi nhận ra dã tâm muốn thu phục Tây vực của Phù Kiên… nên sau khi quay về, tôi liên lạc với Shanshan, Chirsh – các tiểu quốc từ lâu đã bất mãn với việc Bạch Thuần xưng bá ở Tây vực, cùng nhau tập hợp lực lượng. Ba năm trước, vua của ba tiểu quốc Tây vực đã cùng nhau đến Trường An tiến cống. Dưới sự chỉ đạo của tôi, họ đã cùng thỉnh cầu Phù Kiên Tây chinh, đồng thời tình nguyện làm “người dẫn đường” cho quân đội Tây chinh của Phù Kiên.

    Tôi tròn xoe mắt nhìn Pusyseda. Thật không ngờ, những diễn biến lịch sử mà tôi thuộc làu làu về giai thoại này, lại do cậu ta sắp bày tất cả.

    - Từ lâu tôi đã nể phục Phù Kiên, tôi muốn dựa vào sức mạnh của ông ta để trừ bỏ Bạch Thuần. Phù Kiên hứa hẹn sẽ đối xử với Khâu Từ như nhà Hán, cho phép Khâu Từ tự trị, chỉ cần hàng năm cống nạp đầy đủ là được. Tôi biết anh trai mình lúc nào cũng đăm đắm hướng về đất Hán, muốn đến đó tìm chị, lại lo huynh ấy gắn bó quá mật thiết với Bạch Thuần thì sau này sẽ bị vạ lây, nên trước mặt Phù Kiên, tôi đã hết lời ca ngợi tài trí của huynh ấy và khuyên Phù Kiên mời huynh ấy đến Trường An truyền pháp. Phù Kiên vốn nghe danh anh tôi đã lâu, nên đã hạ lệnh cho Lữ Quang nhất định phải công phá Khâu Từ, sau đó lập tức đưa anh tôi về Trường An.

    Tôi không thốt nổi nên lời, sao lại có chuyện như vậy…

    - Ngải Tình, tôi đâu ngờ Phù Kiên lại bị nước Tấn đánh bại vào lúc này, nước Tần của ông ra vốn hung mạnh nhất Trung Nguyên kia mà! Tôi lại càng không thể tin được, Lữ Quang nhân dịp này mưu đồ xưng bá Tây vực, đã giam cầm anh tôi. Nguyên nhân sâu xa những bất hạnh của huynh ấy đều do tôi gây nên.

    Khuôn mặt Pusyseda đầy vẻ hổ thẹn, bàn tay đan chặt vào nhau như muốn vò nát nỗi bi phẫn.

    - Nếu được, tôi sẵn sàng chịu tội thay huynh ấy. Mỗi lần nhìn huynh ấy rơi từ trên lưng ngựa xuống, tôi cảm thấy vô cùng đau đớn.

    Bên ngoài cửa xe lại rộ lên những tràng cười, âm thanh ấy tựa như những mũi tên từ bốn phương tám hướng bắn thẳng vào tôi, tôi như muốn ngã quỵ, phải vịn vào cánh tay của Pusyseda.

    - Không, không phải lỗi của cậu. Lỗi ở tôi, ngày ấy, chính tôi đã tiết lộ chuyện tương lai cho cậu. Nếu muốn truy xét, thì chính tôi đã hại chàng…

    Vì sao lại như vậy? Rốt cuộc tôi là ai? Tôi là một phần tử của giai đoạn lịch sử này ư? Vì sao không hề có ghi chép nào về tôi? Rốt cuộc, tôi đóng vai trò gì giữa dòng sông lịch sử đang cuồn cuộn chảy trôi này? Chính tôi đã chuyển động bánh xe lịch sử vĩ đại ư? Hay là, ngay cả khi không có tôi, kết cục vẫn như vậy? Rốt cuộc là ai, là ai đang bày trò chơi số phận này với chúng tôi?

    Nếu theo thuyết duy tâm, thì việc tôi vượt thời gian và gặp gỡ Rajiva cũng không phải là chuyện tình cờ. Và chàng không chịu bỏ trốn cùng tôi là quyết định đúng đắn. Bởi vì, cho dù thế nào, lịch sử vẫn sẽ diễn ra theo hướng đã định sẵn, Rajiva chắc chắn sẽ trở thành một vị cao tăng danh tiếng lẫy lừng trong lịch sử. Vậy nên, suy cho cùng, tôi chẳng thể thay đổi được bất cứ điều gì…

    Sách sử ghi chép rằng “Lữ Quang bày trò hạ nhục Kumarajiva, ép nhà sư thành thân với công chúa Khâu Từ”. Tôi đã cố tình bỏ qua chi tiết lịch sử này, thậm chí xóa khỏi bộ nhớ. Tôi tự nhủ rằng, những ghi chép về Rajiva có quá nhiều điểm không đáng tin cậy và điều này chắc chắn cũng là một dạng “tin đồn thất thiệt”. Vả lại, tôi đã thay thế Aksayamati, trở thành “đối tượng” phá giới của Rajiva, tức là đã thay đổi lịch sử. Đối với hậu thế, điều này sẽ trở thành một ẩn số. Nhưng, câu nói của Pusyseda khiến tôi thấp thỏm không yên. Nếu lịch sử vẫn lăn bánh theo hướng đã định sẵn, nếu ghi chép trên kia là sự thực, thì dù tôi có làm gì, Aksayamati vẫn sẽ trở thành vợ của Rajiva.

    - Ngải Tình, chị sao thế?

    Một cánh tay vòng qua đỡ lấy tôi.

    Tôi ngước nhìn Pusyseda, đầu óc choáng váng, toàn thân chao đảo. Không được, tôi không thể gục ngã, không thể yếu đuối trong lúc này. “Thành thân với công chúa Khâu Từ”, “thành thân với công chúa Khâu Từ”, không nghĩ ngợi nhiều nữa, mặc cho con đường phía trước sẽ ra sao, tôi nhất định phải giữ vững tinh thần để ứng phó với tất cả.

    - Tôi không sao, chỉ hơi chóng mặt thôi, chợp mắt một lát sẽ ổn.

    Tôi dựa lưng về phía sau, đầu óc trống rỗng. Dường như có ai đó đang gọi tên tôi. Tôi không cất nổi tiếng đáp lại, tôi thật sự rất mệt…

    Lúc lờ mờ tỉnh lại, tôi mới nhận ra mình đang nằm trong vòng tay Pusyseda. Tôi ngượng ngùng ngồi dậy, nhìn thấy sự quan tâm, lo lắng hiển hiện trên gương mặt cậu ấy.

    - Sao chị lại ngất đi thế?

    - Không sao đâu, chỉ tại mấy hôm nay tôi bị mất ngủ, nên hơi mệt thôi.

    Không muốn nói thêm nữa, nhận thấy xe ngựa đã dừng lại, tôi bèn hỏi cậu ấy:

    - Vì sao dừng lại?

    - Lữ Quang muốn nghỉ ngơi.

    Vẫn là ánh mắt lo lắng nhìn tôi đăm đăm, Pusyseda thở dài:

    - Tôi đi xem anh tôi thế nào.

    Tôi lên tiếng giữ cậu ấy lại, Pusyseda mỉm cười lắc đầu:

    - Yên tâm, tôi sẽ giữ bình tĩnh.

    - Đưa vật này cho chàng giùm tôi…

    Đón chiếc khăn lụa Atala từ tay tôi, Pusyseda trầm ngâm giây lát rồi nhìn tôi gật đầu.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  12. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 51: Yêu như một người đàn ông
    Thành Khâu Từ cách chùa Cakra chừng bốn mươi dặm, bình thường chỉ một ngày là tới nơi. Nhưng vì phải chờ Lữ Quang, buổi sáng đã xuất phát rất muộn, tốc độ di chuyển lại chậm chạp như rùa, vì vậy, khoảng bốn giờ chiều, đoàn người phải dừng lại nghỉ ngơi qua đêm cạnh một làng nhỏ, tức là ngày hôm sau mới có thể đến chùa.

    Ngôi làng này rất nhỏ, đám tùy tùng phải tất bật dựng lán trại, nổi lửa chuẩn bị bữa tối bên sông Tongchang. Chốc chốc những làn khói nhè nhẹ lại vấn vít bay lả lướt trên những lán trại san sát.

    Tôi được căn dặn là sau khi vào trong lán thì không được ra ngoài. Mặc dù rất muốn gặp Rajiva, nhưng tôi phải gắng nhẫn nại, không thể để lộ thân phận. Pusyseda đến dùng bữa cùng Lữ Quang và Bạch Chấn. Cậu ấy đã hứa sẽ giúp tôi mang thuốc trị vết thương đến cho Rajiva. Hôm qua tôi nhờ Hiểu Huyên tìm mua loại thuốc bôi ngoài da tốt nhất phòng khi dùng đến, không ngờ hôm nay đã phải dùng tới.

    Hiểu Huyên cử cô hầu gái thân thiết của cô ấy, tên là Mễ Nhi đi theo chăm sóc tôi. Cô hầu người Hán này theo Hiểu Huyên từ Trường An đến Khâu Từ. Tôi uể oải ăn cho xong bữa tối, rồi nhờ Mễ Nhi gỡ bỏ những trang sức cầu kì và kiểu tóc phức tạp mà Hiểu Huyên đã mất cả buổi sáng để vấn buộc cho tôi. Tôi muốn trở lại với mái tóc xõa ngang vai tự nhiên, nhẹ nhõm thường ngày. Màn đêm dần buông xuống, ngoài lán văng vẳng âm thanh náo động của tiếng ca hát và tiếng cười đùa. Lữ Quang coi việc đi chùa lễ Phật như một chuyến du lịch dã ngoại, ông ta mang theo không biết bao nhiêu ca kỹ. Không biết trong bữa ăn, ông ta có chịu buông tha cho Rajiva. Rajiva, em đang ở rất gần chàng, nhưng chẳng thể đến để an ủi chàng. Tôi thầm trách mình vô dụng, trong đầu được trang bị bao nhiêu kiến thức lịch sử, vậy mà không cứu nổi người mình yêu.

    Tôi thẫn thờ hóng ra phía cửa trại, thời gian chầm chậm trôi, không biết tôi đã ngồi như thế bao lâu. Bỗng có ai đó vén mở cửa trại. Nửa thân người Pusyseda xuất hiện, mặt mũi đỏ vang, bước đi chao đảo. Tôi vội vã chạy đến, từ xa đã ngửi thấy mùi rượu nồng nặc.

    Đưa tay ra định đỡ lấy cậu ấy thì nhận thấy sau lưng đã có người dìu cậu ấy. Trong đêm nhìn không rõ mặt, sợ bị lộ thân phận, tôi vội trùm khăn che mặt lên.

    Vạt áo cà sa thấp thoáng trước mắt, trái tim tôi đập cuồng loạn. Bóng dáng cao gầy ấy đang đỡ lấy Pusyseda, dưới ánh đèn mờ ảo, khuôn mặt đẹp như tạc tượng vẫn rõ nét, đôi mắt thăm thẳm u buồn, chăm chú quan sát tôi.

    Như bị ai đó điểm huyệt, tôi ngẩn ngơ không biết phải nói gì. Mới hai ngày mà chàng đã gầy rộc đi trông thấy.

    - Ngải Tình, ta đưa cậu ấy về rồi đây.

    Pusyseda mở mắt, lẩm bẩm câu gì không rõ.

    Chúng tôi bất giác giật mình, Rajiva vất vả dìu Pusyseda vào trong lán và đặt cậu ta nằm lên tấm đệm trải tạm. Nhìn quanh một lượt, cho Mễ Nhi lui ra nghỉ ngơi.

    - Anh nghe đây, mười một năm trước, tôi chấp nhận nhường cô ấy cho anh vì anh yêu cô ấy sâu đậm và bền bỉ hơn tôi.

    Pusyseda không chịu nằm yên, miệng làu bàu không ngớt, đòi đứng lên, Rajiva phải ra sức giữ chặt cậu ta lại. Cậu ta túm lấy áo cà sa của Rajiva, gào lên:

    - Cô ấy không nên yêu anh, vì anh mà cô ấy bất hạnh thế này đấy! Nhiều đêm mất ngủ, hôm nay còn bị ngất đi.

    Rajiva dịu dàng nhìn em trai, cất giọng nhỏ nhẹ:

    - Hôm nay cậu đã vất vả rồi, mau ngủ đi!

    - Tôi đã hứa với cô ấy sẽ lấy một người phụ nữ xứng đáng và sống thật hạnh phúc. Tôi đã giữ lời, còn cô ấy thì sao?

    Pusyseda đổ mình xuống gối, nhưng bàn tay vẫn nắm chặt áo cà sa của Rajiva không chịu buông, ánh mắt lờ đờ:

    - Cô ấy yêu anh, nhưng hai người chẳng thể có kết quả. Anh không bảo vệ được cô ấy, anh chẳng làm gì được cho cô ấy cả. Lẽ ra tôi không nên bỏ cuộc…

    Rajiva quay lại nhìn tôi, mặc cho Pusyseda vẫn túm chặt tay áo, chàng im lặng không nói. Nỗi buồn trong đáy mắt dâng lên tựa sóng biển, chỉ chực trào ra nhưng chàng đã cố kìm giữ trong hai vực nước sâu thăm thẳm ấy.

    - Cô ấy không nên yêu anh…

    Puyseda buông tay, mắt nhắm nghiền, hơi thở phì phò, miệng vẫn lẩm bẩm vài ba tiếng gì đó không rõ ràng, rồi chìm vào giấc ngủ.

    Chúng tôi ngồi đối diện, ngàn vạn lời muốn nói nhưng chỉ có thể trao nhau qua ánh mắt. Thời gian như lắng đọng, âm thanh như ngừng lặng, giữa trời đất này chỉ còn tôi và chàng, ước gì có thể cứ ngồi nhìn nhau như vậy cho đến ngày tận thế, không còn muộn phiền, không cần tương lai.

    Không biết bao lâu sau tôi mới chợt nhớ ra và hỏi chàng:

    - Vết thương của chàng sao rồi?

    - Sao nàng lại ngất xỉu?

    Chúng tôi cùng sững lại vì cả hai cùng đồng thanh hỏi người kia.

    - Ta không sao…

    - Em không sao…

    Lại đồng thanh trả lời. Sự đồng điệu dù rất nhỏ nhoi ấy khiến chúng tôi lặng đi. Rồi chúng tôi lại nhìn nhau, đưa tay về phía nhau và ôm nhau vào lòng. Khoảnh khắc áp má vào ngực chàng, tôi ngỡ ngàng, nhắm mắt lại. Đã bao lâu rồi tôi không được tựa mình trong vòng tay ấm áp này? Tôi không muốn mở mắt ra nữa, tôi sợ đây chỉ là ảo ảnh. Giá như có thể cứ thế ôm nhau đến suốt kếp, tôi sẵn lòng ngả vào lòng chàng đến tận khi sông cạn đá mòn.

    - Ngải Tình…

    Cuối cùng, chàng là người cất tiếng xua đi không khí u trầm này trước:

    - Vì sao không chịu quay về?

    - Chàng bảo em về là em sẽ về sao, như thế còn gì là thể diện!

    Tôi phải dùng đến chiêu bài này để né tránh chủ đề mà tôi không muốn nhắc đến ấy.

    - Nhưng nàng liều mình đến đây trong khi ta không có cách gì để bảo vệ nàng…

    Chàng thở dài não nề, ánh mắt dâng lên niềm trách móc, nhưng phần nhiều là nỗi bất lực.

    Có một vết trầy xước bên gò má phải của chàng, vết thương đã tấy đỏ. Tôi xót xa đưa tay xoa nhẹ vết xước, gắng gượng nở một nụ cười:

    - Chàng đừng quên, tuy em không phải tiên nữ, nhưng em đến từ tương lai. Dù không thể đưa chàng đi cùng, nhưng em đủ sức tự bảo vệ mình.

    - Ngải Tình!

    Chàng nắm lấy những ngón tay tôi đang mân mê khuôn mặt chàng, tỉ mỉ quan sát gương mặt tôi. Cảm xúc bị kìm chế khiến cho giọng nói như lạc đi:

    - Ta không đi theo nàng, là vì…

    - Em hiểu. Vì lý tưởng, vì sứ mệnh. Em sẽ không ép chàng phải từ bỏ, tại em quá tham lam ích kỷ, em muốn thay đổi lịch sử, muốn hai ta được ở bên nhau tự do tự tại. Tương lai của chàng, em không biết một cách tường tận, chỉ dựa vào vài dòng chữ ngắn ngủi, mơ hồ và phần nhiều là những lời đồn đoán. Bởi vậy, em muốn trốn tránh, em sợ phải đối diện với tương lai. Nhưng em đã quên rằng chàng không giống những người bình thường khác. Nếu phải từ bỏ lý tưởng và sứ mệnh, chàng sẽ không còn là chàng nữa. Bất luận những ghi chép về chàng có thể tồn tại nhiều sai sót, nhưng có một điều chắc chắn, đó là: những cuốn kinh phật chàng dịch, trải qua 1650 năm lịch sử, vẫn được lưu truyền rộng rãi. Số mệnh đã sắp bày như vậy, em sẽ thuận theo, em sẽ không chống lại ý trời nữa.

    Tôi tách khỏi khuôn ngực của chàng, để được nhìn sâu vào đôi mắt thăm thẳm, hút hồn của chàng. Người đàn ông này, tôi không có cách nào bớt yêu chàng, dù chỉ một chút, vì nếu thế, hẳn là tôi sẽ không có đủ dũng khí để bất chấp tất cả đi theo chàng.

    - Nhưng xin chàng đừng bao giờ nói với em những lời tuyệt tình ấy nữa. Em không sợ bất cứ điều gì, chỉ sợ phải nghe những lời đó của chàng, nó khiến em buồn vô hạn…

    Chàng đưa tay đón lấy gương mặt tôi, ánh mắt chứa chan nỗi niềm ân hận và thương xót. Bờ môi run run:

    - Ta xin lỗi…

    - Không sao.

    Tôi lắc đầu, tươi cười. Đó là cách tự bảo vệ và cân bằng trong nghịch cảnh. Dù xảy ra bất cứ chuyện gì, tôi cũng sẽ mỉm cười đối diện, dù cho nụ cười không hề có tác dụng gì trong bối cảnh hiện tại.

    - Trong thời đại của em, phụ nữ có quyền tự chủ, không cần dựa vào đàn ông. Do vậy, em có chủ kiến của mình.. Dù chàng có nói gì cũng không thể ngăn được em. Dù sau này có vấp ngã vỡ đầu chảy máu, cũng là do em tự chuốc lấy, không phải lỗi của chàng. Chàng không cần phải hứa hẹn, cũng không cần phải bảo vệ em, càng không cần day dứt vì nghĩ rằng em sẽ oán trách chàng.

    - Ngải Tình, nàng… Sao ta có thể vô trách nhiệm như vậy!

    Chàng nổi giận, giọng nói không được kiểm soát, đột ngột vút cao. Chàng có vẻ rất xúc động, ánh mắt sáng rực. Sau một tiếng thở dài, chàng buông tôi ra, bước đi vài bước, xoay lưng về phía tôi. Bờ vai chàng khẽ rung động, ánh mắt không rời ngọn đèn dầu, chàng cất giọng trầm ấm:

    - Ta nói những lời đó, đúng là vì muốn ép nàng ra đi. Ta có thể chịu đựng được mọi sự hành hạ, nhưng ta không thể để nàng phải chịu dù chỉ một chút uất ức. Nếu như người phải chịu đựng sự việc ngày hôm nay là nàng…

    Chàng ngừng lại, ngẩng đầu hít một hơi thật sâu để giữ bình tĩnh. Hồi lâu, mới quay lại đối diện với tôi, ánh mắt ngập tràn nỗi bi thương, cô độc mà tôi không thể chịu nổi mỗi khi bắt gặp:

    - Nàng rời xa người thân, từ bỏ cuộc sống tương lai tốt đẹp, để đến bên ta, ta hiểu nàng đã phải hy sinh những gì. Nhưng, ta lại là kẻ vô dụng…

    Tôi định cất lời, nhưng chàng đã ngăn lại:

    - Pusyseda nói đúng, nếu ta không bảo vệ được nàng, thì phải để nàng ra đi, để nàng tự bảo vệ mình.

    Đã thề với lòng mình sẽ không rơi nước mắt, nhưng sau khi nghe chàng nói, tôi đã không giữ được lời thề. Vì muốn ép tôi ra đi, chàng mới nói những lời tuyệt tình đó, điều này có ý nghĩa với tôi hơn tất thảy. Tôi lại gần chàng, đưa tay lên vuốt ve bờ vai gầy guộc của chàng, dịu giọng nói:

    - Rajiva, chàng không như vậy…

    Tôi gắng gượng nở nụ cười, để khỏa lấp đi những giọt nước mắt:

    - Chàng là người đàn ông nghị lực và kiên cường nhất mà em từng gặp. Em sẽ luôn ở bên chàng, đến khi nào chàng không cần em nữa mới thôi.

    - Sao ta có thể không cần nàng?

    Chưa từng thấy chàng hốt hoảng như thế bao giờ, chàng kéo tôi vào lòng, xiết chặt, vùi đầu vào mái tóc tôi:

    - Sau khi nàng đi, ta chẳng thể nào chợp mắt. Suốt hai ngày qua, lúc nào ta cũng tự hỏi: Rốt cuộc tình cảm ta dành cho nàng là gì? Hơn hai mươi năm qua, hình bóng nàng tồn tại trong niềm thương nhớ của ta bên cạnh hình ảnh của Phật tổ. Nếu ta không phá giới, nỗi niềm này chỉ Phật tổ mới thấu hiểu. Phật tổ từ bi, cho phép ta mỗi ngày được nhớ nàng một khắc. Cả đời được thương nhớ nàng như vậy, ta cũng đã mãn nguyện lắm rồi!

    Chàng rời bờ vai tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, bàn tay với những ngón dài, khẳng khiu lướt trên gương mặt tôi, hai hàng lệ tuôn dài trên gò má, đọng lại nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu:

    - Sau khi phá giới, ta đã chẳng thể nào xóa bỏ nỗi nhớ và dục vọng. Trước kia chỉ cần nhớ nàng là đủ, vì ta chưa từng có được nàng. Nhưng giờ đây, khi đã được nếm trải niềm hoan lạc tột cùng của cõi nhân gian, ta mới biết mình tham lam nhường nào. Không chỉ nhớ nàng, ta muốn có cả trái tim và thân thể nàng. Ham muốn ấy khiến ta run sợ. Bởi vì kể từ khoảnh khắc ấy, vị trí của nàng trong trái tim ta đã trở nên quan trọng hơn cả Phật tổ. Sao có thể như vậy được! Ta biết phải chuộc tội với Phật tổ thế nào đây? Ta đã cố tìm ra một lí do để an ủi bản thân: Lí do đó là, nàng là tiên nữ. Nàng là đệ tử do Phật tổ cử đến, nên Người sẽ không trách tội ta… Sau khi biết được thân thế thật sự của nàng, lẽ ra ta phải nhận tội với Phật tổ. Nhưng điều đầu tiên ta nghĩ tới lại là, vậy ra nàng không hề có pháp lực, nếu đi theo ta, nàng sẽ phải chịu khổ. Những lời nói với nàng khi ấy là những lời nói dối đầu tiên trong đời ta, nó khiến lòng ta đau như cắt. Trong hai ngày vắng nàng, ta chẳng màng tụng niệm. Chỉ biết nằm dài trên chiếc giường từng đêm ngày quấn quít bên nàng, chẳng thiết ăn uống. Thậm chí ta cảm thấy hối hận vì đã để nàng ra đi. Đó là lần đầu tiên trong đời, ta trải qua nỗi đau khổ, dày vò tâm can nhường ấy.

    Chả trách chỉ hai ngày ngắn ngủi mà chàng trở nên hốc hác như vậy, khóe mắt còn vằn lên những tia đỏ. Thì ra, nỗi đau khổ, dày vò mà chàng phải chịu đựng còn nặng nề hơn tôi nhiều lần. Tôi nén nỗi xúc động, khẽ gọi:

    - Rajiva…

    Chàng khẽ rời khỏi tôi, vén tay áo trái, để lộ chiếc khăn lụa Atala quấn trên cánh tay, màu sắc rực rỡ của chiếc khăn nổi bật trên nền da bánh mật của chàng, đẹp một cách lạ kỳ. Vẻ mặt trang trọng, chàng chậm rãi cất tiếng:

    - Khi Pusyseda đưa nó cho ta, ta biết nàng đang ở gần đây và nàng đang thầm động viên ta hãy kiên cường chịu đựng. Rốt cuộc, ta đã hiểu ra rằng: Nàng từ đâu đến, nàng là ai, những điều đó đều không quan trọng. Quan trọng là, nàng đã đến bên ta, ban cho ta tình yêu mà cả đời này ta không dám mơ tưởng. Chỉ thế thôi đã đủ rồi… Ngải Tình, ta không muốn giấu giếm tình cảm ta dành cho nàng thêm nữa, ta muốn thành khẩn thưa với Phật tổ rằng: Ta yêu nàng, yêu như một người đàn ông và tình yêu đó đã trải suốt hơn hai mươi năm. Không phải vì nàng là tiên nữ, không phải vì lai lịch kì lạ của nàng. Mà vì nàng là Ngải Tình, là cô gái có nụ cười ngây ngô nhưng lúc nào cũng kiên cường, quả cảm, mà từ thuở thiếu thời, hình bóng cô gái ấy đã nhẹ nhàng bước vào trái tim ta.

    - Rajiva…

    Tôi mỉm cười nhìn chàng, nhưng nước mắt tuôn rơi, những giọt nước mắt tựa những cánh hoa sen đậu trên khăn áo. Đây là lần đầu tiên chàng nói với tôi, chàng yêu tôi. Những lời bộc bạch như vậy, với chàng, khó khăn biết chừng nào. Sự thổ lộ ấy cảm động hơn tất thảy những lời đường mật trên thế gian này, khiến trái tim tôi ngây ngất.

    - Bởi vậy, ta sẽ không tiếp tục trốn tránh tình cảm ta dành cho nàng, cũng không kiếm tìm những lý do nực cười nữa. Ta luôn mong nàng sẽ tránh xa mọi phiền toái, khổ sở, vậy nhưng nàng vẫn chủ động dấn thân. Ngải Tình, ta không muốn trốn tránh sứ mệnh của mình, nhưng ta cũng có lòng ích kỷ. Nàng đã đến thì ta sẽ không để nàng ra đi lần nữa. Có điều, bản thân ta còn chưa biết ngày mai sẽ ra sao, ta chẳng thể hứa hẹn điều gì với nàng. Con đường phía trước còn nhiều gian nan, liệu nàng có muốn cùng ta kiên trì đi tiếp?

    Tôi hít một hơi thật sâu, ổn định cảm xúc, nở một nụ cười thật tươi:

    - Cách thời đại của chàng vài trăm năm sau có hai vị cao tăng người Hán tên Hàn Sơn và Thập Đắc. Giữa họ từng có một cuộc đối thoại như sau: Hàn Sơn hỏi Thập Đắc: Thế gian có kẻ phỉ báng tôi, ức hiếp tôi, sỉ nhục tôi, cười nhạo tôi, coi thường tôi, xử tệ với tôi, lừa dối tôi, thì tôi phải xử sự ra sao? Thập Đắc đáp rằng: Chỉ cần nhịn họ, nhường họ, tránh họ, để mặc họ, kính họ, không để ý đến họ, sau vài năm, hãy đến gặp họ.

    Tôi nắm lấy tay chàng, truyền cho chàng lòng quyết tâm và niềm hy vọng:

    - Chúng ta không cần phải lo lắng ngày mai sẽ ra sao, cũng không cần những lời hứa hẹn sáo rỗng, hãy quan tâm đến việc, đêm nay ngủ có ngon hay không. Chúng ta phải nuôi dưỡng tinh thần thật đầy đủ để có thể ứng phó với ngày mai. Lịch sử sẽ nhanh chóng chứng minh, Lữ Quang chỉ là một tên hề, chàng mới là bậc vĩ nhân lưu danh thiên cổ.

    - Ngải Tình, dù người đưa nàng đến bên ta có mục đích gì, ta đều cần phải cảm ơn người đó.

    Chàng cúi xuống hôn tôi, làn môi của chàng như thiêu đốt đôi mắt, hàng mi và gò má tôi, chạm đến đâu cũng để lại những làn hơi nóng bỏng. Đó là nụ hôn khi cả hai chúng tôi đã trút bỏ mọi vướng bận, để có thể thản nhiên với mọi sóng gió.

    - Vậy chúng ta sẽ cùng nhau đối mặt với tất cả. Chúng ta phải ăn đủ ngủ đủ, thì ngày mai mới có sức để chiến đấu.

    Tiếng ậm ừ của Pusyseda đột ngột vang lên, khiến hai chúng tôi hoảng hốt, vội tách nhau ra. Tôi đã quên hẳn sự có mặt của cậu ta trong lán trại này. Định thần lại, thấy cậu ta vẫn đang say ngủ, hơi thở phì phò. Chúng tôi nhìn nhau, bật cười, đột nhiên nhớ ra, tôi hỏi:

    - Sao Pusyseda lại uống say bí tỉ như vậy?

    - Lữ Quang ép ta phá tửu giới, cậu ấy chắn trước mặt ta, uống hết số rượu có trên bàn tiệc, đức vua phải đứng ra can ngăn, ông ta mới chịu buông tha.

    Trong tôi trỗi lên cảm giác ấm lòng, sau đó là đau lòng. Cậu ấy…

    - Tuy chưa bao giờ nói ra, nhưng trong thâm tâm, cậu ấy rất thương chàng

    - Ta biết…

    Rajiva kéo chăn đắp cho em trai, ánh mắt chàng nhìn Pusyseda chứa chan tình yêu thương. Chàng chăm chú ngắm Pusyseda chìm sâu trong giấc ngủ, khẽ thở dài:

    - Ta cũng vậy…

    Chàng đứng lên, xiết chặt lấy tôi:

    - Tự nhiên ta thấy buồn ngủ quá, như thể lâu lắm rồi chưa được ngon giấc.

    Chàng buông tôi ra, thì thào:

    - Ta về lán của mình đây…

    Tôi ngẩng đầu, hốt hoảng:

    - Chàng… chàng để em ở lại đây với cậu ấy ư?

    - Nàng đừng quên bây giờ nàng là phu nhân của cậu ấy. Ngoài kia đều là tai mắt của Lữ Quang, ta là huynh trưởng, ở lại trong lán của em trai quá lâu, sẽ khiến kẻ khác nghi ngờ.

    - Nhưng em… cậu ấy…

    - Ta tin tưởng em trai mình…

    Chàng ngừng lại một lát, rồi tiếp tục dặn dò:

    - Nàng nghỉ sớm đi, hãy ngủ thật ngon. Ngày mai, chúng ta phải ứng phó với rất nhiều gian nan.

    - Rajiva!

    Tôi giữ chàng lại:

    - Vết thương trên người chàng, còn cả vết thương trên mặt nữa, để em bôi thuốc rồi chàng hãy về.

    Chàng mỉm cười, lấy ra lọ thuốc tôi đưa cho Pusyseda ra, lắc lắc trước mặt:

    - Ta đã ở lại quá lâu, phải về thôi. Nàng yên tâm, về lán ta sẽ bôi thuốc.

    - Chàng nhớ phải bôi thuốc đó…

    Như đột ngột nhớ ra chuyện gì, chàng dừng bước. Tháo chuỗi hạt mã não trên cánh tay trái, đeo vào tay tôi. Chuỗi hạt quá dài, phải quấn thành hai vòng. Chàng đóng chốt, nhìn tôi mỉm cười:

    - Sau này sẽ làm thành hai chiếc, hai ta mỗi người giữ một chiếc.

    Tôi gật đầu, chợt nhận thấy vẻ bí hiểm, ranh mãnh xuất hiện trên gương mặt chàng. Chàng cúi xuống hôn nhẹ lên môi tôi. Chưa kịp có phản ứng gì thì chàng đã đi xa. Còn lại mình tôi ngẩn ngơ đắm chìm trong dư vị ngọt ngào của xúc cảm yêu đương, tôi khẽ đưa tay lên môi nở nụ cười ngây ngô…

    Dù Pusyseda đã mê man trong giấc ngủ sâu, tôi vẫn trùm khăn che mặt, đến khu lán của người hầu, vào ngủ cùng Mễ Nhi. Không phải vì e ngại Pusyseda, mà vì tôi muốn giữ gìn cho người vợ tốt bụng của cậu ấy. Mễ Nhi là người hầu thân cận của Hiểu Huyên, tuy nói là đi theo chăm sóc tôi, nhưng biết đâu còn dụng ý gì khác. Tuy nhiên, tôi rất cảm kích tấm lòng độ lượng của cô ấy, khi cô ấy đồng ý để chồng mình xa nhà cùng người phụ nữ khác và lại đóng giả là cô ấy. Thế nên, tôi cũng phải hành xử sao cho thật quang minh chính đại, để cô ấy yên lòng.

    Buổi tối hôm đó tôi đã ngủ rất say, như thể lâu lắm rồi chưa được một giấc nào ngon lành như vậy. Pusyseda nhiều lần bừng tỉnh trong đêm, nôn mửa trong lán, đều do một mình Mễ Nhi phục dịch, hôm sau cô ấy kể lại tôi mới biết. Trước khi chìm vào giấc ngủ mê mệt, tôi chỉ tâm niệm một điều duy nhất: Phải nuôi dưỡng tinh thần thật đầy đủ, để ngày mai tiếp tục chiến đấu!
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  13. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 52: Bánh xe số phận
    Lữ Quang dâng hương, lễ phật, rồi đưa mắt quan sát đại diện. Theo lệnh của ông ta, tất cả sư sãi trong chùa đều đã được tập hợp đông đủ, cả một biển người đứng chen nhau trong đại điện, ngay cả các ngóc ngách cũng đã chật kín. Ông ta gật đầu tỏ ý hài lòng, gọi Pusyseda tới.

    Tôi trùm khăn che mặt đứng sang một bên cùng đám đông gia quyến. Có người muốn bắt chuyện nhưng tôi vờ như không hiểu tiếng Tochari ậm ừ đáp lễ. Rajiva ở vị trí dẫn đầu, vầng trán tuy thoáng tiều tụy, nhưng vẻ mặt vẫn điềm tĩnh, tự tại.

    Lữ Quang đằng hắng vài tiếng, đại điện lập tức yên lặng.

    - Ta phụng mệnh Thiên Vương Đại Tần, chinh phạt vua Khâu Từ - Bạch Thuần tàn bạo, cũng là thuận theo ý muốn dân. Lữ Quang ta được trời giúp sức, lại nhờ uy danh của Thiên Vương, đã dẹp tan quân giặc. Thiên Vương Đại Tần phong cho ta làm Tần kị thường thị, tướng quân An Tây, Hiệu úy Tây vực, giao cho ta trọng trách thống nhất Tây vực. Vì muốn cảm tạ ơn vua, hôm nay, ta đến chùa Cakra này dâng hương lễ phật, cầu cho Khâu Từ quanh năm được mùa màng bội thu, quốc thái dân an. Cầu chúc Thiên Vương thiên thu vạn tuế!

    Lữ Quang ngừng lại, quay sang nói với Pusyseda:

    - Xin quốc sư hãy chuyển dịch những lời của ta sang tiếng Tochari.

    Pusyseda y lệnh.

    Lữ Quang tiếp tục cất giọng oang oang:

    - Ta vào thành đã được gần hai tháng. Đến nay Khâu Từ đã yên ổn trở lại, thực là điều may mắn! Tân vương Bạch Chấn không quản gian khổ, ngày đêm nhọc lòng, công lao to lớn.

    Ông ta hướng về Bạch Chấn, khiêm cung một cách giả tạo, Bạch Chấn vội vã đáp lễ.

    - Đến Khâu Từ, ta còn nhận được một vinh dự lớn lao. Đó là được nghe vị hòa thượng danh chấn Tây vực, thông tự, từ bi – pháp sư Kumarajiva giảng kinh thuyết pháp, ta như kẻ mê muội được ngài vén mây đen cho thấy ánh sáng mặt trời. Ta bội phần cảm phục, muốn tỏ lòng biết ơn, thế nhưng pháp sư kiên quyết không nhận bạc vàng, không màng quan tước, khiến ta vô cùng khó nghĩ.

    Lữ Quang ngừng lại, cho Pusyseda dịch hết, mới tiếp tục:

    - Danh tiếng của pháp sư lan truyền khắp nơi, tuổi ngài còn trẻ mà đã đạt đến trình độ tu hành thật đáng nể trọng. Ta thành tâm muốn trợ giúp công việc truyền đạo của ngài, nên đã dâng mỹ nữ tặng ngài. Pháp sư quả nhiên là bậc cao nhân, ngài không thấy điều đó có gì đáng ngại, đã hoan hỉ đón nhận.

    Vẻ mặt Pysyseda hoàn toàn biến sắc, cậu ta quắc mắt, ném cái nhìn giận dữ về phía Lữ Quang. Những người nghe hiểu tiếng Hán trong đám đông sư tăng đã chụm đầu lại bàn tán xôn xao. Tôi liếc nhìn Rajiva, mắt chàng khép hờ, nét mặt bình thản. Vẫn là phong thái trầm tĩnh, điềm nhiên, thoát tục ấy, nổi bật giữa muôn người. Thái độ ấy của chàng như muốn tuyên bố rằng, dù Lữ Quang có nói gì, chàng cũng sẽ ứng đối bằng sự bình tĩnh và ôn hòa.

    - Những lời vừa rồi của Lữ tướng quân có nhiều chỗ không đúng.

    Pusyseda gằn giọng giận dữ:

    - Pháp sư phá giới là do tướng quân ép buộc. Ngài đã ép pháp sư uống rượu và giam pháp sư trong mật thất.

    Lữ Quang nhếch miệng cười, nheo mắt nhìn Rajava với tất cả vẻ ngang ngược:

    - Thế nhưng một tháng trời ngài đã cùng mỹ nữ tận hưởng vinh hoa phú quý trong cung, không hề bước chân ra khỏi cửa. Đó là ý nguyện của pháp sư, đâu phải do ta ép buộc.

    - Đó là vì tướng quân giam lỏng…

    - Pusyseda!

    Rajava lên tiếng ngắt lời Pusyseda, tuy nét mặt chàng thoáng chút nhợt nhạt, nhưng giọng nói vẫn điềm đạm, từ tốn:

    - Ta đã phá giới, đó là sự thật không cần che giấu.

    Chàng quay lại đối diện với tất cả mọi người, đôi mắt trong suốt nhìn khắp lượt chúng tăng, những tiếng ồn ào lập tức biến mất, đại điện trở nên yên ắng lạ thường. Ai nấy đều ngước nhìn chàng với vẻ nghi hoặc. Rajiva mệt mỏi khép mắt, nỗi bi ai dâng lên khi chàng chậm rãi cất tiếng bằng ngôn ngữ Tochari:

    - Sự thật là ta đã phá tửu giới và sắc giới.

    Đại điện bỗng chốc trở nên ồn ào, náo loạn, ái nấy đều nhìn chàng bằng ánh mắt khó tin xen lẫn nỗi kinh ngạc và cả sự thất vọng. Có người cao giọng bức xúc:

    - Thưa thầy, vì sao lại có chuyện như vậy?

    Có người bật khóc rưng rức. Bị kích động quá mức, một hòa thượng trẻ tuổi đã chỉ thẳng tay vào Rajiva, gào lên:

    - Uổng công ta tôn ông làm thầy! Bậc cao tăng như ông lại gây ra những chuyện như vậy, chốn Phật môn sao có thể chấp nhận người như ông!

    Từ lâu, đại pháp sư danh tiếng lẫy lừng Tây vực - Kumarajiva đã trở thành người cha tinh thần của các nhà sư trẻ này. Giờ đây, hình tượng cao quý, thánh khiết ấy đã nhuốm một vết nhơ chẳng thể tẩy xóa được, thần tượng trong lòng họ bỗng chốc sụp đổ. Tôi có thể thấu hiểu nỗi bàng hoàng và tâm trạng khó chấp nhận sự thực này của họ, nhưng, họ đâu biết, phải thừa nhận điều ấy trước mặt chúng tăng như vậy, Rajiva đã phải gắng gượng và chịu đựng nhường nào! Tôi đau đớn nhìn chàng, nhưng nét mặt bình thản của chàng không hề biến đổi. Tôi cảm nhận được ánh mắt chàng lướt nhẹ về phía mình, chàng khẽ chạm vào cánh tay trái, mảnh vải hiện ra dưới lớp áo cà sa.

    Chàng đang an ủi tôi! Chiếc khăn Atala quấn trên cánh tay trái của chàng là cách chàng muốn truyền tin đến tôi, khích lệ tôi. Tôi khẽ gật đầu, lặng lẽ đưa cánh tay lên vờ vuốt nhẹ mái tóc, để lộ chuỗi hạt mã não dưới tay áo. Chàng nhận được tín hiệu từ phía tôi, khóe miệng dường như thấp thoáng một nụ cười, nhưng đã khép lại rất nhanh.

    - Pháp sư dũng cảm thừa nhận, thật đáng khen ngợi!

    Lữ Quang vỗ tay bôm bốp, cười ha hả nhìn đám đông, vẻ hài lòng.

    - Ta vốn định đưa cô gái ngày đêm quấn quýt bên pháp sư suốt một tháng trời đến chầu lễ Phật cúng, nhưng không biết pháp sư làm cách nào khiến cô gái bỏ trốn mất dạng.

    Đây chắc chắn là âm mưu của Lữ Quang, ông ta muốn Rajiva không thể ngẩng đầu trước các hòa thượng. Rajiva địa vị cao quý ngày nào, giờ đây sẽ chẳng thể thuyết phục được ai tin theo. Tôi giận run người, ông ta còn muốn lợi dụng tôi làm bằng chứng để vạch tội phá giới của Rajiva! Nếu không bỏ trốn, lúc này có thể tôi sẽ bị bêu ra trước đám đông, điều đó sẽ khiến Rajiva đau đớn biết bao! Phải chăng linh cảm được việc này sẽ xảy ra, nên Rajiva mới kiên quyết ép tôi ra đi, thậm chí bằng cả những lời tuyệt tình lạnh lùng nhất ấy. Còn tôi, chỉ nghĩ đến những tổn thương cá nhân và xúc cảm hẹp hòi của phụ nữ, mà không biết rằng nỗi dằn vặt, lo lắng chất chứa trong lòng chàng còn nặng nề hơn tôi gấp bội.

    Rajiva đã đúng, chàng không thể bỏ trốn! không phải vì tôi và chàng chẳng thể nào thay đổi được lịch sử, mà quan trọng hơn là vì, Lữ Quang rất muốn Rajiva bỏ trốn. Nếu thế, ông ta sẽ có cớ để phá hoại danh dự của chàng một cách triệt để, khiến chàng không còn chốn dung thân trên cõi đời này nữa. Tôi không muốn phải chứng kiến cảnh Rajiva bị hạ nhục, nhưng tôi chỉ biết suy xét sự việc bằng cách nghĩ của con người hiện đại. Trong trường hợp cấp bách, tôi vẫn còn công cụ để tự bảo vệ, mặc áo chống phóng xạ, khởi động đồng hồ vượt thời gian, chỉ trong tích tắc là có thể bình an trở về thế kỉ XXI tươi đẹp của tôi. Nhưng còn chàng thì sao? Chàng không thể xa rời thời đại của mình, nhưng chàng sẽ phải tồn tại ra sao giữa đám đông đang lăm le những mũi nhọn chỉ trích về phía chàng? Tôi chưa từng nghĩ tới điều này. Tôi luôn cho rằng mình nhiều tri thức hơn con người thời cổ đại, nhưng sự thực tôi đã đánh giá bản thân quá cao. Những tri thức đó không phải do tôi sáng tạo ra mà do thời đại trang bị cho tôi. Khi phải đối diện với thực tế khó khăn, tối vẫn chỉ là một cô gái suy nghĩ còn nông cạn.

    Tôi ngước nhìn chàng, đứng giữa hàng trăm con người, chàng vẫn lẻ loi, đơn độc. Lòng bỗng ngậm ngùi, chua xót: Xin lỗi Rajiva! Em sẽ không nông nổi, không ích kỉ như trước đây nữa. Em sẽ thay đổi lối suy nghĩ hẹp hòi của con người hiện đại trong em, sẽ đứng trên lập trường của chàng để nhận định và đánh giá sự việc. Tình yêu của chàng giúp em trưởng thành hơn, bao dung và thấu hiểu hơn. Cảm ơn chàng!

    Các nhà sư hiểu tiếng Hán đang quay sang người bên cạnh thì thào, có lẽ là đang dịch cho người kia hiểu lời Lữ Quang vừa nói. Nỗi giận dữ của Pusyseda đã bùng phát thành một chuỗi dài những âm thanh sang sảng, rõ ràng từng tiếng một, không phải ngôn ngữ Tochara mà là tiếng Phạn. Chúng tăng bỗng nhiên trở nên thảng thốt, bàng hoàng, những tiếng bàn tán lại rộn lên không ngớt. Không khí nặng nề, bi phẫn lúc trước dần tan biến. Vẻ điềm tĩnh của Rajiva vẫn không hề thay đổi, nhưng ánh mắt chàng lặng lẽ đưa sang phía Pusyseda một chút cảm kích xen lẫn một chút trách móc.

    - Quốc sư đang nói gì vậy? Sao không nói bằng tiếng Hán để ta cùng nghe.

    Khẩu khí của Lữ Quang cho thấy ông ta không hề vui vẻ gì.

    - Tôi phụng mệnh tướng quân, giúp ngài phiên dịch thôi mà.

    Pusyseda thản nhiên nghiêng mình trước Lữ Quang:

    - Nhân tiện, cũng cho các vị hòa thượng ở đây được biết, cô gái ấy có thân phận cao quý ra sao. Đó chính là tiên nữ do Phật tổ cử đến để cứu pháp sư khỏi kiếp nạn vừa qua.

    Lữ Quang sa sầm mặt mày, cười hiểm ác:

    - Không ngờ quốc sư lại suy nghĩ nông cạn như vậy! Vì muốn bảo vệ anh trai mình, dám bịa đặt những chuyện hoang đường như thế giữa chốn cửa Phật. Khi quốc sư đưa cô gái đến gặp ta, sao ngài không cho ta biết về xuất thân của cô ta?

    - Cô gái ấy đột nhiên xuất hiện, khi đó, một giọng nói chợt vang lên bên tai tôi, nói rằng hãy mau đưa cô gái này đến cứu pháp sư. Tôi nào dám đoán bừa chỉ ý Phật tổ. Nhưng, nếu tướng quân cho rằng tôi dựng chuyện, thì…

    Pusyseda đưa mắt đảo quanh một lượt đám đông phía trước, rồi mới quay lại nhìn Lữ Quang, ánh mắt sắc lạnh, không chút sợ sệt:

    - Xin tướng quân giải thích, vì sao một cô gái chân yếu tay mềm, không một tấc sắt trong tay lại có thể đột nhiên biến mất giữa chốn hoàng cung vốn được canh giữ cẩn mật như vậy?

    - Chuyện này…

    Lữ Quang cứng họng, không biết nói gì, đành quay lại trừng mắt trút giận lên Lữ Soạn, khiến hắn sợ hãi cúi đầu.

    Tiếng bàn tán ngày càng trở nên náo động trong đại điện khiến Lữ Quang nổi giận, điều đó cho thấy, những lời của Pusyseda đã phát huy hiệu quả. Đôi mắt tà dâm gian xảo của Lữ Quang đảo liên hồi, ông ta ngẩng đầu, hẳn là lại vừa nghĩ ra một âm mưu mới, ông ta cười nhạt:

    - Pháp sư phá giới tức là vẫn còn lưu luyến hồng trần. Nếu vậy, hãy để ta giúp pháp sư sắp xếp việc hôn sự. Ý ngài thế nào?

    Các hòa thượng hiểu tiếng Hán thảng thốt gật đầu, tiếp theo đó lại là những lời bàn tán rầm rộ.

    - Vì sao tướng quân nhất thiết phải gây khó dễ cho ta? Chuyện này tuyệt đối không thể được!

    Giọng nói sắc lạnh của Rajiva cho thấy chàng chẳng thể nhẫn nhịn thêm nữa.

    - Pháp sư không nên khiêm tốn. Cha của ngài, cũng hoàn tục, thành thân, sinh hạ ngài và quốc sư đấy thôi!

    Lữ Quang suy nghĩ một lát, gật gù nói tiếp:

    - Thế này đi, thân phụ ngài cưới công chúa Khâu Từ, pháp sư cũng là bậc danh sư đức cao vọng trọng, ta sẽ không khiên pháp sư phải chịu thiệt thòi.

    Lữ Quang quay sang đức vua Bạch Chấn, nãy giờ chẳng dám ho he một tiếng, hỏi:

    - Chẳng hay nhà vua có vị còn vị công chúa nào chưa thành thân không?

    - Ta…

    Bị bất nhờ với câu hỏi đột ngột của Lữ Quang, Bạch Chấn ấp úng đáp:

    - Các vị công chúa của ta đều đã thành thân.

    Ánh mắt mờ đục của nhà vua có ý né tránh, phải gắng gượng lắm mới thốt lên lời khuyên can:

    - Xin tướng quân đừng o ép pháp sư nữa.

    - Hả? Nghe nói vẫn còn một vị công chúa kia mà, tên là Aksayamati, lẽ nào đức vua không muốn gả cô ấy cho pháp sư?

    Lữ Quang cất tiếng cười nham hiểm, đưa mắt quét nhanh một lượt đám mỹ nữ Khâu Từ của ông ta:

    - Nếu thế, ta đành chọn trong đám thị nữ một người bất kì để gả cho Pháp sư vậy!

    Pusyseda mặt mày biến sắc, cúi xuống nhỏ to với Bạch Chấn, sau đó quay sang cao giọng với Lữ Quang:

    - Lữ tướng quân nhắc tôi mới nhớ, đức vua của chúng tôi vẫn còn một cô công chúa chưa gả chồng, tên gọi Akieyemoti.

    - Thế thì tốt quá!

    Lữ Quang cất tiếng cười hoan hỉ hỏi:

    - Vậy công chúa đang ở đâu?

    Bạch Chấn hoảng sợ, định đứng lên phân bua, nhưng Pusyseda đã kịp giữ lại và ra hiệu cho nhà vua không nên lo lắng, rồi quay sang đáp lời Lữ Quang:

    - Công chúa đang ở thành Khâu Từ.

    - Vậy hãy mau đi đón, hôm nay đi ngày mai về. Tốt lắm, ngày kia, ta đích thân tổ chức một hôn lễ thật long trọng cho pháp sư tại chùa Cakra này.

    Lữ Quang đưa mắt quan sát khắp lượt chúng tăng, cười đắc ý:

    - Trước nay chưa từng có chuyện hôn lễ được cử hành trong đền chùa, đúng không? Pháp sư là người đầu tiên phá lệ. Hôm đó, các nhà sư hãy đến tham gia hôm lễ của sư phụ các vị, hôn lễ phải tổ chức thật náo nhiệt mới được!

    - Xin thứ lỗi, tôi không thể theo ý Lữ tướng quân.

    Rajiva mặt mày tái xanh, hai tay chắp lại, gắng gượng kìm nén nỗi tức giận:

    - Tôi xuất gia từ nhỏ, đã nguyện cả đời phụng sự Đức Phật, không thể đắc tội với công chúa.

    - Pháp sư sai rồi!

    Lữ Quang cười thâm độc:

    - Tình yêu nam nữ là niềm vui lớn nhất trong đời. Phụ thân ngài có thể hoàn tục lấy vợ, pháp sư cũng có thể học theo cha, việc gì phải lần nữa khước từ như thế?

    - Xin tướng quân đừng nhọc lòng, tôi quyết không chấp nhận chuyện này. Nếu tướng quân vẫn cố ép buộc, kể từ hôm nay tôi sẽ bắt đầu tuyệt thực, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.

    Bất chấp nộ khí hiểm hiện trên gương mặt của Lữ Quang, Rajiva dõng dạc tuyên bố quyết tâm của mình, sau đó hướng về chúng tăng, truyền đạt lại một lượt bằng tiếng Tochari rồi ngồi xuống, nhắm mắt tụng kinh trong tư thế thiền.

    Tất cả các nhà sư đều tỏ ra bất bình, họ đồng loạt ngồi xuống thiền định, khắp trong và ngoài điện lúc này đã không còn dù chỉ một chỗ trống. Một lát sau, tiếng tụng niệm lan dần và lớn dần, bắt đầu từ Rajiva truyền đến khắp đại điện rộng lớn. Tiếng tụng niệm càng lúc càng đều đặn, nhịp nhàng và vang rộng, khiến Lữ Quang gần như mất hết thể diện.

    Lữ Quang trừng mắt nhìn Rajiva dầy hằn học, tia nhìn hung hiểm. Tôi lặng lẽ lên chốt chiếc súng gây mê giấu trong tay áo, khoảng cách vừa đủ để thuốc phát huy tác dụng. Nếu ông ta gây bất lợi cho Rajiva, tôi sẽ hạ gục ông ta rồi tính tiếp.

    Gương mặt Lữ Soạn trở nên bí hiểm, hắn thì thầm vào tai cha vài câu gì đó. Lữ Quang gật đầu. Lữ Soạn hô một tiếng, vài tên thuộc hạ lập tức rời khỏi vị trí. Tôi đang băn khoăn không biết Lữ Quang có âm mưu gì, thì thấy ông ta cười mỉa, nói với Rajiva đang miệt mài tụng niệm:

    - Pháp sư nhất quyết không thuận theo ý của ta, vậy đừng trách ta vô tình.

    Đang chuẩn bị rút súng gây mê, chợt nghe thấy những tiếng đổ vỡ ầm ầm phía sau. Quay lại, tôi thấy Lữ Soạn và bọn thuộc hạ đang ra sức đập phá bức tượng Phật tuyệt đẹp trên đại điện. Tượng Phật bị xê dịch khỏi bệ đỡ, đổ rầm rầm xuống đất, những mảnh vỡ vương vãi trên nền gạch.

    - Phật tổ!

    Các sư tăng gào khóc thảm thiết, những cánh tay bất lực chìa về phía tượng Phật, họ phủ phục trên mặt đất, tiếng khóc than vang đông đại điện.

    - Lữ tướng quân, phá hủy tượng Phật sẽ bị quả báo, tạo nghiệt sẽ bị đẩy xuống địa ngục! Xin tướng quân suy xét!

    Rajiva ra sức kìm chế giọng nói đã có phần run rẩy, bão tố xoay vần trên gương mặt chàng.

    - Thế ư?

    Lữ Quang nghếch mặt lên tỏ vẻ khinh miệt, giọng đầy mỉa mai:

    - Ta chẳng tin gì mấy thứ chuyện nghiệp báo. Nếu quả thật Đức Phật của các người hiển linh, hãy giáng tội xuống cho ta xem thử.

    Đức vua Bạch Chấn mặt mày tái nhợt vì sợ hãi, cất giọng run rẩy, khuyên can:

    - Lữ tướng quân, đây là nơi cửa Phật, xin ngài hãy ngừng tay!

    - Đừng khuyên can ta, nhà vua đi mà khuyên can cháu của ngài ấy. Chỉ cần pháp sư gật đầu, ta sẽ lập tức ngừng tay.

    Lữ Quang ra hiệu cho Lữ Soạn, để hắn cùng mấy đứa cháu khác cùa Lữ Quang là Lữ Long, Lữ Siêu tiếp tục khiêu khích, chúng hả hê nhảy từ hương án này sang hương án khác. Một bức tượng Phật A Di Đà và Phật Dược Sư nữa đã bị kéo đổ, những đám bụi đất bay mù mịt khắp đại điện. Lữ Quang xấc xược cười giữa tiếng kêu khóc thảm thiết của các sư tăng:

    - Ta muốn xem xem, ta phá tượng Phật, các người dám làm gì được ta!

    Rajiva kìm nén sự phẫn nộ, cất giọng sang sảng nói với chúng tăng bằng tiếng Phạn, tiếng khóc tắt dần. Các nhà sư tiếp tục ngồi thiền tụng kinh. Làn sóng tụng niệm ngày một dâng cao mạnh mẽ, vang động đến mọi ngóc ngách trong đại điện. Âm thanh tụng niệm ấy quả là có sức mạnh an ủi tâm linh rất lớn, đó là cách riêng của người nhà Phật để chống lại cái ác và thể hiện lòng kiên trì. Đó cũng như một cách tuyên bố với Lữ Quang: Ông ta có thể phá hủy tượng Phật nhưng không thể phá hủy tinh thần nhà Phật.

    - Được lắm, cứ tụng kinh đi, để ta xem các người chống cự được đến khi nào!

    Bị kích động, Lữ Quang gào lên:

    - Bay đâu, phá hủy phiến đã ngọc có dấu chân Phật tổ cho ta!

    Gương mặt Rajiva vẫn điềm nhiên bất biến, vẻ kiên định trong ánh mắt cho thấy, không có gì có thể lay động được ý chí của chàng. Chàng chậm rãi, dõng dạc cất lên từng tiếng một:

    - Lữ tướng quân, tượng Phật bị hủy có thể xây đắp lại, ngọc thạch bị hủy có thể tiếp tục tìm kiếm. Thậm chí, nếu ngài dỡ bỏ cả chùa Cakra, tôi sẽ đi nhặt từng viên gạch, xếp từng viên ngói mang về dựng lại chùa. Lòng hướng Phật của tôi vững như bàn thạch, không gì có thể lay chuyển được.

    - Ngươi đúng là tên hòa thượng cứng đầu!

    Lữ Quang nổi trận lôi đình:

    - Ngươi có thể xây lại chùa, nhưng liệu ngươi có thể khiến người chết sống lại được không?

    Lữ Quang đưa tay túm một hòa thượng đứng gần y nhất, sau đó vung tay ra sau rút kiếm, kề vào cổ vị hòa thượng đang run lên bần bật.

    - Hôm nay ta sẽ đấu với ngươi đến cùng. Nếu ngươi không chịu thành thân, cứ nửa canh giờ ta sẽ giết một hòa thượng. Để xem số hòa thượng trong chùa này nhiều đến mức nào.

    - Ngài…

    Rajiva bật dậy, ánh mắt nổi song, hai nắm tay run lên, tôi chưa từng thấy chàng tức giận như vậy bao giờ:

    - Tính mạng con người là thứ quý giá nhất trên đời. Ngài phạm tội sát nhân, sẽ bị đày xuống địa ngục Vô Gián vĩnh viễn, chẳng thể đầu thai làm người!

    Lữ Quang nhổ nước bọt lên bức tượng Phật đã nứt vỡ:

    - Tính mạng con người là cái thá gì! không được đầu thai thì đã sao! Ta đã giết không biết bao nhiêu người, thêm mất tên đầu trọc có xá gì!

    - Lữ Quang, ngài ức hiếp người Khâu Từ chúng tôi quá đáng!

    Pusyseda ánh mắt rục lửa, thanh gươm dài đã được rút ra, chực xông tới, nhưng đã bị con cả của Lữ Quang là Lữ Thiệu và thủ hạ đắc lực của ông ta là Đỗ Tiến chặn lại. Tất cả bọn họ dều đã rút kiếm khỏi bao, tình thế vô cùng căng thẳng.

    - Pusyseda, bỏ kiếm xuống!

    Đó là Bạch Chấn, vị vua nhu nhược, lúc này đang run rẩy, sợ hãi, giọng nói không còn được liền mạch. Nhà vua quay sang Lữ Quang, nghẹn ngào:

    - Lữ tướng quân, xin đừng làm vậy!

    Lữ Quang vẫn giữ chặt vị hòa thượng kia, xoay người lại nói với Rajiva:

    - Pháp sư mau quyết định đi, sự kiên nhẫn của ta có hạn. Ta sẽ đếm đến ba, một, hai, …

    - Khoan đã!

    Lữ Quang ngừng tay lại, cả đại điện bỗng nhiên im phăng phắc, không khí căng như dây đàn. Mọi ánh mắt đổ dồn vào chàng. Khóe môi chàng rung động, đôi mắt ngấn nước hướng về phía tôi, ánh mắt ai oán ấy muốn truyền đi ngàn vạn lợi. Không gian như lắng đọng, thời gian quên trôi chảy, chỉ còn lại tôi và chàng, bất động, nhìn sâu vào mắt nhau…

    Cánh tay tôi đã đặt vào nút gạt, nhưng không sao cử động nổi. Việc tôi có thể làm chỉ là khiên Lữ Quang bất tỉnh một ngày. Sau khi ông ta tỉnh lại thì sao? Lại thêm nhiều sự đày đọa, sỉ nhục nữa? Thậm chí có thể là chiến tranh. Tay chân của ông ta đông đảo là thế, chỉ quật ngã một mình Lữ Quang cũng đâu có ích gì. Tôi không thể ích kỉ, khiến Khâu Từ xảy ra chiến tranh được. Nước mắt lã chã, mắt tôi không rời mắt chàng, tôi khẽ gật đầu.

    Chàng quay đầu lại, khóe môi càng thêm run rẩy. Chàng ngước mắt lên trời hít một hơi thật sâu, rồi cất giọng thê lương:

    - Ta chấp thuận.

    - Thầy ơi!

    Tất cả các sư tăng đều sụp xuống quỳ lạy, tiếng khóc thương thảm thiết vang động cả chùa Cakra.

    Chàng lại đưa mắt nhìn về phía tôi, nỗi bi thương chẳng thể hóa giải nổi dâng lên trong mắt. Tôi lặng lẽ gạt nước mắt, gượng gạo nở nụ cười ngây ngô với chàng. Tuy trùm khăn che mặt nhưng tôi chắc chắn chàng sẽ nhận ra. Ánh mắt tôi vẫn chẳng thể rời khỏi chàng, thêm một lần nữa thôi, để hình ảnh chàng khắc sâu trong tâm trí tôi, từng nét một, không bao giờ phai nhòa. Vậy là tôi sẽ phải ra đi. Bánh xe số phận mới thật nghiệt ngã làm sao, những vòng quay vô tình vẫn thản nhiên xoay vần. Rốt cuộc em vẫn chỉ là một lữ khách đi qua cuộc đời chàng. Nhưng, Rajiva ơi, chàng đã lựa chọn đúng. Lịch sử cuộc đời chàng từ nay không còn cần đến em nữa. Vì vậy, em sẽ ra đi…
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  14. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 53: Tôi là ai?
    - Ngải Tình, chị làm gì vậy?

    Tôi dừng tay trong giây lát, rồi tiếp tục gấp quần áo. Sao tay tôi run bần bật thế này?

    - Pusyseda, tôi sẽ ra đi. Cảm ơn cậu đã không quản nguy hiểm đưa tôi đến đây.

    Tôi cắn chặt môi, cố gắng giữ bình tĩnh:

    - Nhờ cậu chuyển lời đến Rajiva, rằng chàng đã lựa chọn đúng. Nhưng tiếc là tôi không tham dự hôn lễ của chàng được….

    - Ngải Tình, chị ngốc quá!

    Pusyseda ngắt lời tôi, ánh mắt đầy thương cảm.

    - Biết chị sẽ hiểu lầm, nhưng công việc bộn bề khiến tôi quên mất, lẽ ra phải nói với chị từ sớm.

    - Nhờ cậu gửi cho Hiểu Huyên quần áo và đồ trang sức này giúp tôi. Và nhớ chăm sóc cô ấy chu đáo, cô ấy là người phụ nữ hiếm có…

    Sao thế này, đã dặn lòng không được khóc, vậy mà khi thốt lên những lời li biệt, nước mắt tôi cứ thế tuôn trào.

    - Ngải Tình, dừng lại, đừng thu dọn nữa, nghe tôi nói đã. Cậu ta ngồi trên giường, đối diện với tôi, kìm bàn tay vẫn đang bấn loạn với đống đồ đạc của tôi lại, thật trọng nhấn nhá từng lời:

    - Cô công chúa Khâu Từ sẽ thành thân với anh trai tôi ba ngày nữa chính là chị!

    Như bị sét đánh trúng, tôi kinh ngạc nhìn cậu ta, vẻ mặt nghiêm trang ấy không giống như đang đùa giỡn.

    - Tôi đã bàn bạc với đức vua, ngài sẽ nhận chị làm con gái nuôi và phong chị làm công chúa.

    Cậu ta gật đầu khẳng định lại lần nữa.

    - Nhưng, cậu, cậu nói rằng cô công chúa ấy tên là Aksayamati kia mà? Lẽ nào tôi sẽ thay thế cô ấy?

    - Sao lại thay thế? Cô dâu chính là chị. Chị chính là công chúa Akieyemoti của Khâu Từ.

    Vẻ mặt Pusyseda đầy ranh mãnh, cậu ta đưa đẩy hàng mi dài, nháy mắt với tôi:

    - Chị đã không nhận ra! Đức vua cũng tưởng rằng người mà tôi nhắc đến là cô em họ tôi. Anh trai tôi thông tuệ là thế mà cũng bị tôi gạt. Chị nghe thật kỹ nhé: tên cô công chúa mà tôi nói đến là Akieyemoti, không phải Aksayamati. Aksayamati kém anh trai tôi mười sáu tuổi. Xưa nay, họ vẫn chỉ xem nhau như anh em họ, Aksayamati đã có người yêu từ lâu. Chị còn nhớ người anh em Sudayera trong đội cấm vệ quân của tôi không? Cái tên nghe rất quen. Đúng rồi, chính là một trong bốn người từng hộ tống tôi đến thành cổ Taqian. Khi ấy, tuy trẻ tuổi nhất đội, nhưng cậu ta rất khôi ngô, tuấn tú, cao lớn, vạm vỡ và trên mặt luôn thường trực nụ cười bẽn lẽn.

    Thấy tôi gật đầu, Pusyseda tiếp tục:

    - Sudayera và Aksayamati thân thiết với nhau từ tấm bé, từ lâu họ đã yêu thương nhau. Sudayera vốn là kẻ si tình, mãi chẳng chịu cưới vợ. Công chúa của hoàng thất Khâu Từ xưa nay vẫn Phải gánh số phận trở thành lễ vật cầu thân với lân bang. Nếu chiến tranh không xảy ra, hẳn là Aksayamati sẽ bị gả cho lão vua già Uyhur nay đã sáu mươi tuổi kia. Buổi tối ngày tráo đổi chị với Aksayamati, tôi đã sắp xếp để hai người đó bỏ trốn đến Khotan.

    - Cậu…

    Đầu óc tôi bấn loạn, tôi sững sờ nhìn Pusyseda.

    Cậu ta cười đắc chí:

    - Khi tôi thông báo Aksayamati đã bỏ trốn, nhà vua rất lo sợ. Bây giờ, ngài chỉ còn cách là nhanh chóng nhận một cô con gái nuôi, sắc phong làm công chúa là đặt tên là Akieyemoti.

    - Nhà vua không sợ Lữ Quang trách tội sao?

    - Không đưa được công chúa ra trình diện, nhà vua sẽ mắc tội nặng hơn. Tình thế trước mắt nguy hiểm như dao kề cổ, làm gì có thiếu nữ Khâu Từ nào dám làm cô dâu? Lại còn phải lấy một nhà sư. Với người dân Khâu Từ vốn sùng đạo Phật, việc làm đó sẽ bị trời trừng phạt. Vậy nên, nhà vua vô cùng bối rối, không biết phải trả lời Lữ Quang ra sao. Tôi đã nói với ngài rằng có một cô gái người Hán bằng lòng lấy anh trai tôi, và tất nhiên, ngài rất mừng.

    Cậu ta ngừng lại giây lát, ngó sang tôi, dò ý:

    - Tuy sẽ rất thiệt thòi, nhưng chị bằng lòng chứ, Ngải Tình?

    - Tôi…

    Tim đập dữ dội, tôi nghĩ Pusyseda cũng có thể nghe thấy nhịp đập trái tim mình. Mặt nóng ran, tôi cúi đầu khẽ đáp:

    - Tôi bằng lòng.

    - Tôi biết mà…

    Cậu ta nhìn tôi chăm chú, khẽ thở dài, quay mặt qua hướng khác:

    - Dù phải chịu thiệt thòi đến đâu, chị cũng sẽ đồng ý…

    Không muốn thấy nét buồn ẩn hiện trong mắt cậu ta, tôi bèn chuyển đề tài:

    - Nhưng Lữ Quang từng nhìn thấy tôi, lỡ ông ta nhận ra và khống chế tôi để đối phó với Rajiva thì sao?

    - Chị sẽ trùm khăn che mặt suốt buổi lễ, chỉ chú rể mới được phép vén khăn trùm đầu của cô dâu. Nếu hắn ta cứ nhất quyết đòi kiểm tra, tôi sẽ có cách ứng phó. Sau hôn lễ thì…

    Cậu ta thở dài:

    - Tôi vẫn chưa nghĩ đến, bởi vì tôi không biết Lữ Quang &nbsP;sẽ làm gì tiếp theo. Tuy nhiên, mục đích của Lữ Quang khi ép anh trai tôi thành thân là để công bố với thiên hạ, anh ấy đã phá giới, đã hoàn tục, nhằm hủy hoại thân phận pháp sư của anh ấy. Hắn chẳng quan tâm anh ấy cưới ai đâu. Khi không còn cần Phải lợi dụng sức mạnh hiệu triệu của anh ấy nữa, hắn sẽ không động đến chị.

    Đúng vậy, cậu ta nói đúng. Mục đích của Lữ Quang là khiến cho Rajiva mất đi thần quyền, ông ta nghĩ rằng làm vậy có thể buộc Rajiva hoàn tục. Nhưng ông ta chẳng thể ngờ Rajiva có thể vì lý tưởng mà chịu nhẫn nhục mười bảy năm, để rồi sau đó được vua Diêu Hưng rất mực nể trọng.

    - Ngải Tình, đừng lo lắng, tôi sẽ xả thân bảo vệ chị.

    Pusyseda nắm lấy tay tôi đặt vào lòng bàn tay của cậu. Hơi ấm từ bàn tay cậu lan tỏa và sưởi ấm cõi lòng rối bời của tôi, vẻ dịu dàng và nhiệt thành trong đáy mắt thẩm thấu và đánh động những cảm xúc thẳm sâu trong tim tôi. Tôi vẫn luôn cảm thấy mắc nợ cậu ấy. Sống mũi tôi cay cay khi nghĩ đến những việc mà cậu ấy đã làm cho mình.

    - Thôi thôi, chị biết là tôi không thể cầm lòng được khi thấy chị khóc mà. Ngải Tình, tôi luôn cầu mong chị được hạnh phúc. Có lẽ đó là điều duy nhất tôi làm được cho chị. Ngó thấy đồ ăn trên bàn vẫn còn nguyên, cậu ta mỉm cười:

    - Thế nào, bây giờ thì có hứng ăn cơm rồi chứ?

    Tôi gạt nước mắt, bật cười, cầm bánh và ăn.

    Sách “Tấn thư” chỉ ghi lại vẻn vẹn sáu chữ “vợ là công chúa Khâu Từ”, mà không hề chép tên của cô công chúa đó. Trong “Truyện kể về Kumarajiva”, Tuệ Giảo có nhắc đến công chúa Akieyemoti, người từng mời Rajiva thuyết giảng giáo lý Đại Thừa và lấy làm “vui mừng tột độ”. Bởi vậy, người đời sau mới ghép hai đoạn ghi chép đó lại và cho rằng, người vợ của Rajiva chính là cô công chúa Khâu Từ Akieyemoti mà Tuệ Giảo nhắc đến.

    Khi biết con gái út của Bạch Chấn tên là Aksayamati, tôi cho rằng đó chính là người vợ mà Rajiva đã lấy. Sự khác biệt nho nhỏ về cách phát âm tên gọi, tôi cho là chuyện hết sức bình thường, vì dù sao nó là tên gọi được dịch sang tiếng Hán, nếu có sai lệch đôi chút cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa, thực tế là Lữ Quang đã chọn Aksayamati làm đối tượng phá giới của Rajiva. Nhưng đến lúc này tôi mới biết, tên gọi Akieyemoti là do Pusyseda bịa ra trong lúc cấp bách.

    Lịch sử không hề thay đổi, bánh xe vĩ đại vẫn tiếp tục lăn, bất chấp mọi vật cản. Và tôi, con người hiện đại của thế kỷ XXI đã hòa mình vào dòng chảy đó bằng một tên gọi nhỏ nhoi. Nhưng nếu lịch sử chứng minh tôi là có thật, tôi sẽ bước tiếp con đường của mình, sẽ tiếp tục ở bên, cổ vũ, ủng hộ chàng.

    Nhớ tới chàng, tôi bất giác ngừng lại, ngẫm ngợi:

    - Rajiva có biết không?

    - Chưa biết. Tôi không gặp được anh ấy. Lữ Quang giam anh ấy lại, cho thân tín của hắn cai quản, tôi không mua chuộc nổi bọn chúng.

    Cậu ta thở dài lo lắng:

    - Xem ra Lữ Quang sợ anh ấy sẽ tự vẫn trước ngày cử hành hôn lễ, nên cho quân của hắn canh chừng rất nghiêm ngặt.

    Tôi lắc đầu:

    - Chàng sẽ không làm vậy, vì chàng đã hứa với tôi sẽ sống thật mạnh mẽ, và không bao giờ nói đến chữ “chết”.

    Cậu ta nhìn tôi, mỉm cười:

    - Chị nói vậy thì tôi yên tâm rồi.

    Cậu ta lặng lẽ quan sát tôi ăn cơm, cất giọng mơ hồ:

    - Ngải Tình, chị có cho rằng, đây là chuyện đáng mừng với hai người không?

    Tôi ngẩng đầu lên, bắt gặp đôi đồng tử màu xám nhạt nhìn mình sắc lẹm.

    - Chị có từng nghĩ về điều này, rằng anh ấy yêu chị, nhưng vẫn một lòng hướng về Phật tổ, nên chẳng thể hoàn tục. Chị lại quá ư lý trí, một mực thôi thúc anh ấy đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp, không muốn anh ấy hoàn tục. Nếu cứ tiếp tục như vậy, thì cho dù hai người có yêu nhau đậm sâu bao nhiêu cũng mãi mãi không được ở bên nhau. Lữ Quang ép buộc anh ấy thành thân, tuy thủ đoạn tàn bạo, nhưng vô hình chung đã hợp tác cho hai người, giúp hai người phá bỏ những rào cản nội tâm.

    Cậu ta thở dài, ngừng lại, ánh mắt lênh đênh mơ hồ, một lúc sau mới dồn tụ về phía tôi, đăm đắm:

    - Nếu buộc phải thành thân, chẳng thà thành thân với chị. Như thế anh ấy có thể cho chị một chút danh phận.

    Danh phận ư? Tôi chưa từng nghĩ về điều này, cũng chưa bao giờ dám mơ tới. Danh phận? Thật thế ư? Sau hôn lễ, tôi sẽ trở thành người vợ danh chính ngôn thuận của chàng…

    - Còn nữa, tôi đã bố trí người đi đón công chúa, có lẽ ngày mai sẽ tới nơi.

    - Sao kia? - Tôi bị sặc nước, ho khan dữ dội.

    - Chị lo lắng cuống cuồng gì chứ!

    Cậu ta bật cười, vỗ nhẹ vào lưng tôi:

    - Tôi đón Hiểu Huyên - em dâu chị mà. Nếu không, trong buổi lễ, tôi làm thế nào để cô ấy xuất hiện?

    Chúng tôi nghỉ ngơi tại cung điện dành cho hoàng thất Khâu Từ trong thành Subash, cạnh chùa Cakra. Pusyseda là quốc sư, nên đãi ngộ dành cho cậu ấy chỉ xếp sau nhà vua và Lữ Quang. Thời cổ đại, nơi ăn chốn ở như thế này có thể xem là sang trọng rồi. Tối hôm đó, để che mắt người khác, tôi vẫn ở chúng phòng với Pusyseda, nhưng cậu ta ngủ gian ngoài, tôi và Mễ Nhi ngủ gian trong. Không biết có Phải là ảo giác không, nhưng suốt đêm đó, tôi nghe thấy tiếng trở mình trằn trọc từ gian ngoài đưa lại.

    Hôm sau, khi tôi tỉnh dậy, Pusyseda đã đi từ lâu. Tôi ở yên trong phòng, không ra ngoài, cả ngày trông ngóng Hiểu Huyên tới. Buổi trưa, Pusyseda trở về dùng bữa cùng tôi. Cậu ta là người chịu trách nhiệm chính cho buổi lễ, nên rất bận rộn. Hôn lễ sẽ được tổ chức tại chùa Cakra theo ý của Lữ Quang, trên một khoảng sân rộng trước điện thờ chính. Phòng tân hôn là căn phòng dành riêng cho Rajiva giữa một mảnh vườn nhỏ trong chùa.

    Tôi lặng nghe mà đắng lòng. Hôn lễ tổ chức trong chùa, phòng thiền tịnh trở thành phòng tân hôn, khách khứa đều là nhà sư. Đây có lẽ chính là hôn lễ có một không hai trong lịch sử.

    - Ngải Tình!

    Cậu ta xoay vai tôi lại, ghé sát vào tôi, khẽ nói:

    - Đừng nghĩ ngợi nhiều…

    Rồi như chợt nhớ ra điều gì, cậu ta vội rút tay khỏi vai tôi, nét mặt ngượng ngùng:

    - Tệ quá, tôi lại quên mất quy tắc của người Hán: nam nữ thụ thụ bất thân. Thôi, tôi đi đây.

    Thấy cậu ta luống cuống bước đi, tôi vội gọi lại. Ngập ngừng giây lát mới cất lời:

    - Cậu nghỉ ngơi một lát rồi hãy đi.

    Cậu ta dừng lại, như hiểu ra vấn đề, khẽ đưa tay lên má, cười nói:

    - Trông tôi mệt mỏi thế sao?

    Rồi đột nhiên nhìn tôi đăm đăm, thở dài:

    - Ngải Tình, đừng quan tâm đến tôi như vậy, tôi sẽ hối hận đã nhường chị cho anh ấy đấy.

    Tôi ngẩng đầu, bắt gặp đôi đồng tử máu xám nhạt ấy, bỗng nhiên bối rối.

    - Chị thật là, dễ mắc lừa quá!

    Cậu ta bật cười ha ha, rồi vừa cười vang vừa bước đi.

    - Tôi đùa đấy. Tôi đi đây, phải đi nghe ngóng tin tức của anh ấy giúp chị chứ.

    Buổi tối, Pusyseda trở về cùng với một phụ nữ Khâu Từ ăn vận lộng lẫy và mang khăn che mặt. Khi tôi còn đang băn khoăn suy đoán, cô ấy liền bỏ khăn che mặt, thì ra là Hiểu Huyên. Pusyseda nhíu mày thông báo, cậu ta vẫn chưa gặp được Rajiva, chỉ nghe phong thanh, rằng chàng vẫn ăn uống đúng giờ và dành phần lớn thời gian cho việc ngồi thiền tụng kinh. Pusyseda đề nghị tôi trao đổi trang phục với Hiểu Huyên, sau đó trùm khăn che mặt, rồi cậu ta bí mật đưa tôi đến gặp Đức vua và Hoàng Hậu Khâu Từ.

    Bạch Chấn và Hoàng Hậu ngự trên ngôi cao, tôi quỳ xuống bái kiến. Hoàng Hậu bước xuống đỡ tôi lên và chăm chú quan sát tôi. Hoàng Hậu đã ở vào độ tuổi trung niên, hơi đẫy đà, gương mặt phúc hậu. Bà tháo chiếc vòng vàng trên tay, đeo vào tay trái tôi (chắc bà thấy tay phải của tôi đã có vòng mã não). Chiếc vòng khá rộng, lúc la lúc lắc trên tay tôi. Ngắm nghía một lát, bỗng Hoàng Hậu thở dài, nói với tôi bằng tiếng Tochari:

    - Con ơi, theo đúng phép tắc thì phải có sính lễ cầu thân, nhưng với cơ sự này, con gắng chịu thiệt thòi vậy. Tuy nhiên, của hồi môn của con, ta và đức vua sẽ lo liệu chu đáo.

    - Tạ ơn Đức vua và Hoàng Hậu. Ngải Tình chỉ là một thường dân, không dám nhận lễ vật hậu hĩnh như vậy!

    - Con đã quỳ lạy nhận ta và Hoàng Hậu là cha mẹ nuôi thì sao có thể tiếp tục giữ thân phận của một thường dân được!

    Bạch Chấn cũng bước lại gần tôi, tháo miệng ngọc bội sư tử giắt bên mình, trao cho Hoàng Hậu, để Hoàng Hậu gắn vào thắt lưng của tôi.

    - Hãy ghi nhớ, con là công chúa Khâu Từ, tên gọi Akieyemoti, con không còn là cô gái người Hán trước đây nữa.

    Bạch Chấn nói câu trên với ngữ điệu đầy tức tối, ngài trút sự giận dữ vào ánh mắt trừng trừng ném về phía Pusyseda. Cậu ta chỉ mỉm cười đáp lại như thể chẳng có chuyện gì xảy ra, thái độ bất trị đó khiến tôi nhớ lại Pusyseda ngông nghênh, ngạo ngược của mười năm về trước.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  15. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 54: Hôn lễ của một đời
    - Làn da của chị Ngải Tình thật khiến người ta ngưỡng mộ!

    Hiểu Huyên giúp tôi trang điểm. Theo phong tục Khâu Từ, cô dâu phải đội khăn trùm đầu sau khi vấn tóc và cài trâm. Tôi vốn sinh ra ở vùng Giang nam, nước da quả thật có mịn màng hơn các thiếu nữ cổ đại đôi chút. Những đốm tàn nhang lấm tấm trồi lên do thường xuyên phơi nắng đã được che phủ bởi lớp phấn nền, trông tôi cũng ra dáng một thiếu nữ môi thắm má hồng lắm. Trang phục truyền thống của cô dâu Khâu Từ với hai tông màu đỏ và trắng lại càng tôn thêm vẻ tươi thắm của làn da. Soi mình trong gương, cô gái vừa e lệ, thẹn thùng vừa hạnh phúc rạng ngời kia là tôi ư?

    Bên ngoài, âm nhạc rộn ràng, các nghệ sỹ đang hát vang lời ca chúc tụng, không khí dường như rất náo nhiệt. Pusyseda bước vào phòng, sắc mặt khó coi, tôi đưa mắt dò hỏi.

    Cậu ta thở dài, buồn bã nói:

    - Tục lệ là chú rể phải đến rước dâu, Lữ Quang đã cho người đến đón, nhưng anh ấy một mực phản kháng, không chịu nhúc nhích. - Không sao, hôn lễ này vốn dĩ chỉ là trò hề thôi mà…

    Tôi khẽ lắc đầu. Vẫn biết chàng không hay biết cô dâu là tôi, nhưng sao lòng vẫn buồn rười rượi.

    - Ngải Tình, đừng nói vậy!

    Cậu ta nghiêm trọng, nhìn sâu vào mắt tôi, vẻ mặt nghiêm trang:

    - Dù Lữ Quang có bày trò gì, đây là hôn lễ chính thức và duy nhất của hai người. Chị xưa nay rất dũng cảm kia mà! Hãy chứng tỏ bản lĩnh của một cô dâu kiên cường cho tôi xem!

    Tôi lặng người, đón lấy vẻ mặt kiên định của Pusyseda, gật đầu cả quyết.

    Cậu ta dường như đã vững tâm hơn, nhưng một lát sau lại nhíu mày lo lắng:

    - Tôi vẫn chưa nói chuyện được với anh ấy, Rajiva vẫn chưa biết người anh ấy sẽ cưới là chị. Nhưng tôi nghĩ, cứ để anh ấy nhận ra chị sau khi vào động phòng là tốt nhất. Vì nếu anh ấy không phản kháng quyết liệt, Lữ Quang ắt sẽ sinh nghi. Ngải Tình, chị gắng nhẫn nhịn, tôi e rằng, anh ấy sẽ phản kháng dữ dội trong buổi lễ…

    Tôi hít một hơi thật sâu, nở nụ cười rạng rỡ nhất, sẵn sàng đối diện với tất cả:

    - Cậu nói đúng, Pusyseda, đây là hôn lễ của cuộc đời tôi, dù có thế nào, tôi cũng sẽ trân trọng. Tôi không tủi thân đâu, mà ngược lại, tôi phải cảm ơn ông trời, cảm ơn cậu, đã giúp tôi biến giấc mơ tưởng như không thể trở thành hiện thực…

    Có tiếng hó hét náo loạn ở bên ngoài, đám đông đã chen vào tới tận cửa phòng, Pusyseda để Hiểu Huyên ra ứng phó, vì cậu ta còn có chuyện muốn nói với tôi. Hiểu Huyên chỉ lẳng lặng gật đầu với chồng.

    Hiểu Huyên vừa đi khỏi, chưa kịp hỏi cậu ta muốn nói gì, bỗng tôi rơi vào một vòng tay xiết chặt. Tiếng thở dài khe khẽ lướt trên đầu tôi:

    - Tôi đã từng mường tượng hình ảnh chị mặc áo cưới, quả nhiên rất đẹp.

    Khẽ buông tôi ra, cậu ta ngắm tôi chăm chú, ánh mắt mơ hồ. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, thần thái ban đầu đã trở lại, miệng cười tinh quái, cất giọng dịu dàng:

    - Sau này không được ôm chị nữa rồi, chị dâu ạ…

    Một nụ hôn nồng ấm thả trên trán tôi, sau đó trước mắt tôi phủ một màu đỏ diễm lệ, qua làn vải mỏng đỏ thắm ấy, thế giới dường như đã biến đổi. Gương mặt điển trai với nụ cười rạng rỡ của Pusyseda nổi bật trong sắc đỏ ấy…

    Ly Cung chỉ cách chùa Cakra một bức tường. Xe ngựa đưa tôi ra phố chính thành Subash mà không phải qua cửa chính để vào chùa. Cỗ xe chầm chậm lăn bánh, tiếng kèn, tiếng trống vang rền trên đường. Đoàn rước dâu đều là người của Lữ Quang, họ phân phát hoa quả, bánh trái cho đám đông xung quanh. Lữ Long, cháu của Lữ Quang gào lên điệp khúc:

    - Hôm nay là ngày đại pháp sư Kumarajiva thành thân, ngài có lời mời bà con đến chùa Cakra tham dự hôn lễ, ngài sẽ chiêu đãi đồ ăn thức uống miễn phí, bà con chớ bỏ lỡ dịp này!

    Một tên đi bên cạnh Lữ Long chuyển dịch lời của hắn sang tiếng Tochari.

    Pusyseda mặt mày sa sầm, định thúc ngựa phi lên phía trước, nhưng tôi đã kịp vén rèm cửa xe, gọi cậu ta lại và lắc đầu ra hiệu. Lúc đó, tôi mới nhận thấy vẻ phẫn nộ và khinh bỉ từ bốn phía đổ về mình. Trong lòng tê tái, vậy là Lữ Quang đã đạt được mục đích, hắn muốn tất cả mọi người khinh bỉ chúng tôi.

    Hiểu Huyên ngồi bên cạnh kéo tay tôi lại, đặt trong lòng tay cô ấy. Tôi thấy mình được an ủi rất nhiều, và không để tâm những ánh mắt giận dữ ngoài kia nữa. Chợt nhớ đến lời Pusyseda, tôi ngẩng cao đầu, nhất định phải làm một cô dâu kiên cường. Hôm nay, tôi sẽ kết hôn với người mà tôi yêu thương.

    Màn kịch diễu hành trên phố đã kết thúc, xe ngựa dừng lại trên khoảng sân trống phía trước điện thờ chính của chùa Cakra. Pusyseda đỡ tôi xuống xe và đưa tới khu vực trung tâm. Lẽ ra chú rể phải đón cô dâu, nhưng Pusyseda phải làm việc đó thay anh trai.

    Trời đã tối hẳn, khắp nơi đèn hoa chăng kết rực rỡ, lụa hồng lụa đỏ giăng mắc bốn phía, vẻ kệch cỡm, khôi hài hiển hiện. Hàng nghìn người chen chân trên khoảng sân rộng. Vòng trong là toàn thể tăng sĩ chùa Cakra bị buộc phải có mặt theo lệnh của Lữ Quang. Vòng ngoài là đông đảo người dân địa phương. Âm nhạc ầm ĩ không hòa điệu với nét mặt u buồn tột độ của các nhà sư, khiến cho không khí của buổi lễ trở nên bi thương lạ lùng.

    Lữ Quang, Bạch Chấn và Hoàng Hậu ngự trên ngai cao. Rajiva đứng ở giữa sân. Chàng mặc bộ y phục màu trắng rộng thùng thình của chú rể, trên đầu đội chiếc mũ có chóp trắng vốn là trang phục đặc trưng của người Khâu Từ. Vẻ tuyệt vọng, cô tịch hiển hiện trên gương mặt xanh xao. Tôi hiểu chàng đã phản ứng dữ dội ra sao khi bị buộc phải khoác lên người thứ trang phục đó.

    Pusyseda đưa tôi đến cạnh Rajiva rồi lặng lẽ bước ra. Qua lớp vải mỏng, tôi nhận thấy vẻ mặt lạnh lùng, nghiêm nghị, đôi mắt khép hờ và miệng chàng không ngừng tụng niệm kinh Phật. Kể từ lúc tôi bước vào nơi này đến bây giờ, chàng không hề đưa mắt nhìn tôi dù chỉ một lần. Trong mắt chàng, tôi dường như chỉ là không khí.

    Lữ Quang gật đầu tuyên bố với Bạch Chấn, Đức vua đứng lên, ngượng ngùng tuyên bố:

    - Hôm nay là ngày thành thân của con gái ta. Tân lang, không phải là người xa lạ, chính là con trai của chị gái ta, tình thân lại càng thêm khăng khít. Mong pháp sư hãy yêu thương con gái ta, vợ chồng hòa thuận, cùng chung sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

    - Đại vương lỡ lời rồi, sao lại gọi là “pháp sư”?

    Lữ Quang cười lớn ngắt lời Bạch Chấn, cố ý đẩy trọng âm rơi vào hai tiếng “pháp sư”, gằn giọng:

    - Cháu trai ngài đã cưới vợ thì đâu còn là người nhà chùa nữa. Nhà sư nào cũng học theo cậu ta, thì còn đâu là Phật môn trang nghiêm nữa.

    - Lữ tướng quân, nhà sư cưới vợ quả là điều xưa nay chưa từng thấy, nhưng nguyên nhân sâu xa của chuyện này, hẳn là ai nấy đều hay.

    Rajiva đột nhiên ngừng tụng niệm, mở mắt, đẩy cái nhìn lạnh sắc về phía Lữ Quang, rồi quay sang các tăng nhân, cất tiếng:

    - Truyện xưa chép rằng, Ma Vương từng khiến tiên nữ tìm cách quyến rũ Bồ Tát Trì Thế, hòng hủy hoại đời sống tu hành thanh tịnh của ngài. Bồ Tát Trì Thế lựa lời khước từ, chỉ có đại sư Duy Ma Cật vui lòng đón nhận. Người đời khiển trách, nhưng đại sư không một lời biện bạch, ngài âm thầm giáo hóa tiên nữ học theo nếp sống tu hành. Và rồi các tiên nữ đã nhận ra rằng, niềm vui tu hành lớn lao hơn nhiều so với niềm vui mà những ham muốn thế tục mang lại. Rajiva xin học theo đại sư Duy Ma Cật, nguyện một lòng thiền định tu tập, đặng tìm kiếm niềm vui trong kinh kệ Phật pháp.

    Ánh mắt rực sáng, thông tuệ dạo qua khắp lượt các tăng sĩ, nhưng không hề ngó ngàng đến tôi, ngữ điệu tuy thê thiết nhưng lời nói kiên định, vững vàng: - Rajiva đã bước chân vào cửa Phật thì còn sống ngày nào sẽ nguyện phụng thờ Phật tổ ngày ấy, quyết không hoàn tục. Việc thành thân này là do bất đắc dĩ, Phật tổ từ bi, nếu ngài định tội, ta sẽ phải chịu tội lỗi bậc trung. Còn kẻ gây ra nghiệp chướng, o ép người khác sẽ phạm trọng tội, không thể dung thứ.

    Rajiva nhắc lại một lần nữa bằng tiếng Tochari, không thèm để tâm đến gương mặt sa sầm, biến sắc của Lữ Quang.

    Đám dông hò reo, ai nấy đều cảm động trước nỗi bi phẫn và sự kiên tâm của Rajiva. Vẻ mặt Lữ Quang biến dạng, hắn nhếch mép cười ham hiểm:

    - Vậy sao? Nếu ta đã đắc tội tày trời thì còn ngần ngại gì mà không mắc thêm vài tội nữa!

    Lữ Quang khoát tay, thủ hạ của hắn lập tức khuân ra mấy chục hũ rượu. Khi tất cả các hũ rượu đều được mở nắp, hơi men tỏa lan khắp sân chùa, các sư ai nấy đều nhăn mặt, bịt mũi. Một binh lính đi chia bát vào tay từng người một, một tên khác rót rượu vào bát. Các tăng sĩ cầm bát rượu trên tay mà cúi mặt run rẩy.

    - Lữ tướng quân, ngài định làm gì? Rajiva nổi giận. - Hôm nay pháp sư thành thân, chư vị tăng sĩ cũng nên chung vui với ngài. Đã đến tham dự hôn lễ thì phải uống rượu mừng cho phải phép chứ!

    Lữ Quang cười nham hiểm. Dường như không nhẫn nhịn nổi, Bạch Chấn cũng phải đứng ra can ngăn:

    - Lữ tướng quân, hôm nay là ngày ta gả chồng cho con gái, mọi người hãy giữ hòa khí là hơn. Vì sao tướng quân cứ cố o ép các nhà sư phải phá giới?

    - Đức vua, tại cháu trai ngài không chịu thấu hiểu ý tốt của ta, khiến các nhà sư khác phải chịu thiệt cùng đấy chứ!

    Lồng ngực Rajiva dường như đang căng lên tột độ, chàng nắm chặt bàn tay, nộ khí bừng bừng:

    - Rajiva đã phá giới, tội không thể dung tha. Ta sẽ uống hết số rượu này thay các tăng nhân.

    Chàng bước về phía các nhà sư, cất giọng nặng nề:

    - Chắc ta sẽ khiến Lữ tướng quân phải thất vọng! Vì dù có mất mạng, ta cũng quyết không hoàn tục!

    Dứt lời, chàng bước đến trước mặt một Sa Di, cầm bát rượu trên tay nhà sư, uống cạn:

    - Thầy ơi!

    Sa Di nọ bật khóc khi thấy men rượu gây ra cơn ho dữ dội cho Rajiva. Rajiva lấy tay áo lau miệng, bước đến trước mặt nhà sư tiếp theo, cầm bát rượu lên, uống cạn.

    - Pháp sư có thể uống hết số rượu trên tay của tất cả mọi người ở đây không?

    Sắc mặt Lữ Quang ngày càng trở nên khó coi hơn.

    - Có thể.

    Chỉ hai tiếng ngắn ngủi, nhưng chứa đựng sức nặng của lời cam kết đanh thép nhất trên thế gian này, làm tan nát cõi lòng của những ai có mặt khi đó.

    - Lữ tướng quân, còn cả tôi nữa.

    Đó là Pusyseda! Cậu ta sải bước đến bên cạnh Rajiva, giành lấy bát rượu thứ ba trên tay chàng, uống cạn.

    - Cả tôi nữa!

    Đội trưởng đội cấm vệ quân từ sau lưng Bạch Chấn bước tới trước mặt các tăng sĩ, đón lấy bát rượu, uống cạn. - Tôi cũng muốn uống thay các vị sư phụ! Ngày càng nhiều người bước lên phía trước.

    - Tôi nữa!

    - Tôi uống!

    - Tôi cũng vậy!

    Những tiếng hô ứng nối tiếp nhau tưởng như bất tận. Ngay cả trong đám dân chúng đang chen chân ở vòng ngoài cũng có người hùng dũng bước ra. - Các ngươi…

    Lữ Quang nổi trận lôi đình, lông mày dựng ngược, hắn vung mạnh thanh kiếm giắt bên hông lên:

    - Được lắm! Rượu mời không uống, muốn uống rượu phạt chứ gì! Để ta xem đám dân Khâu Từ các ngươi cứng đầu thế nào?

    - Tướng quân chớ làm vậy!

    Người can ngăn Lữ Quang chính là Đỗ Tấn, trợ thủ đắc lực đồng thời là vị quân sư mưu lược của Lữ Quang. Đứng cách đó không xa, tôi nghe thấy Đỗ Tấn thì thầm vào tai Lữ Quang:

    - Tức nước vỡ bờ, dân nổi can qua, không có lợi cho chúng ta, xin tướng quân suy xét thận trọng!

    Lữ Quang nhận ra vấn đề, hậm hực tra gươm vào vỏ. Bạch Chấn vội vã kết thúc buổi lễ:

    - Không còn sớm nữa, xin mời các vị sư phụ về chùa nghỉ ngơi. Pháp sư và công chúa còn phải vào động phòng nữa chứ!
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  16. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 55: Kết tóc se tơ
    Cửa phòng lạch cạch khép lại phía sau, tiếng bước chân xa dần, nhỏ dần rồi mất hẳn. Hai cây nến dài tỏa rạng căn phòng đơn sơ mà thanh tịnh, bốn góc phòng phản chiếu thứ ánh sáng dị thường. Vì là trụ trì, thân phận tôn quý, Rajiva được dành riêng một khuôn viên nhỏ, độc lập trong chùa Cakra. Trước đây, tôi từng quan sát công việc của chàng trong chùa và biết chàng sống ở khu nhà này, nhưng vì ngại điều tiếng, tôi chưa bao giờ đặt chân đến đây. Không ngờ, tôi sắp trải qua đêm tân hôn trong căn phòng này.

    Sự yên tĩnh căn phòng khiến người ta bồn chồn. Tôi phải nói với chàng thế nào đây? Tôi phải tự kéo khăn trùm đầu xuống ư? Hay, cứ chờ xem phản ứng của chàng ra sao? Không tìm được câu trả lời, tôi quay ra quan sát giá sách kín đầy thư tịch của chàng.

    - Hôm nay tội cho nàng quá!

    Hả? Tôi quay lại, nhìn chàng qua lớp lụa đỏ, trước mắt tôi là một vẻ điển trai mờ ảo. Tim đập mạnh, chàng say ư? Hay, đối với bất cứ người phụ nữ nào chàng cũng ngọt ngào như vậy?

    - Hai ta nên vợ chồng rồi ư?

    Chàng ngẩng đầu lên, khóe môi nở nụ cười mãn nguyện, khẽ nhắc lại hai tiếng vợ chồng bằng niềm vui hoan hỉ và sự nâng niu không giấu giếm. Chàng nhìn tôi đắm đuối, sóng mắt chan chứa yêu thương như muốn nhấn chìm tôi trong đó:

    - Nên vợ nên chồng, như chim liền cánh, như cây liền cành, mãi không xa rời. Ước mơ xa vời của Rajiva, chẳng ngờ đêm này đã trở thành sự thật.

    Tôi ngẩn ngơ nhìn chàng, đầu óc rối bời, không biết phải làm sao. Khi nãy, trước đám đông, chàng kiên định là thế, lạnh lùng là thế, vì sao có sự thay đổi lớn lao này? Chàng có biết chàng đang nói với ai không?

    - Chắc nàng mệt rồi, mấy ngày nay hẳn là chẳng thể ngon giấc. Mau nghỉ ngơi sớm đi!

    Chàng lại gần, định nắm tay tôi, tôi vội vàng né tránh.

    - Sao vậy? Nàng trách ta khi nãy lạnh nhạt với nàng ư?

    Giọng nói ấm áp, ngọt ngào như gió nhẹ, ru êm bên tai tôi, chàng mỉm cười, khẽ cúi đầu, thì thào:

    - Khi đó ta không biết là nàng, nên mới như vậy. Nàng độ lượng bao dung, sẽ không trách ta chứ?

    - Chàng… chàng biết em là ai rồi ư?

    Ngữ điệu ấy, chàng chỉ nói riêng tôi. Tôi đưa tay, định kéo tấm vải trùm đầu vướng víu xuống.

    - Đừng!

    Chàng giữ tay tôi lại, ngắm nhìn hồi lâu mới cất giọng dịu dàng:

    - Chỉ có chú rể mới được vén khăn trùm đầu của cô dâu.

    Màu đỏ trước mặt tôi suốt mất tiếng đồng hồ cuối cùng cũng đã biến mất, chiếc khăn vừa rơi xuống, tôi vừa nhắm mắt lại để thích nghi với ánh sáng, đã rơi vào một vòng tay ấm áp. Ngả đầu vào ngực chàng, lắng nghe tiếng trái tim chàng đập rộn ràng, chàng cũng hồi hộp đâu có kém tôi! Một lát sau, chàng khẽ buông tôi ra, vòng tay qua eo tôi, ngắm nghía một hồi, trầm trồ:

    - Ngải Tình, nàng mặc áo cưới rất đẹp!

    - Chàng… sao chàng biết là em?

    Nếu tôi nhớ không nhầm thì suốt buổi lễ, chàng không hề nhìn tôi một lần. Chợt nhớ lúc hai chúng tôi bị xua vào động phòng, chàng đi phía trước, đầu ngẩng cao, bờ vai khẽ rung động. Khi ấy, tôi đã nghĩ, hẳn là chàng vẫn đang rất tức giận. Lẽ nào, lúc đó, chàng đã biết cô dâu chính là tôi rồi ư?

    Chàng xòe bàn tay, một mẩu bút chì nằm trong lòng tay chàng.

    - Đây, đây là…

    - Pusyseda đã đưa nó cho ta.

    Chàng mỉm cười, niềm hạnh phúc vô bờ dâng trong đáy mắt:

    - Nàng nhớ không, chính là lúc cậu ấy giành được bát rượu thứ ba, cậu ấy đã nhét nó vào tay ta.

    Pusyseda ư? Tôi sững sờ! Chả trách, trước lúc động phòng, cậu ta cứ nháy mắt rất tinh quái với tôi, vậy mà tôi không hiểu ý. Nhưng cậu ta bảo sẽ để Rajiva tự nhận ra kia mà! Cậu ta lo ngại Rajiva vô tình khiến tôi bị tổn thương ư? Đã bao nhiêu năm rồi, cậu ta vẫn còn giữ những thứ lặt vặt đó ư…

    - Lúc trước, tưởng nàng là Aksayamati nên ta mới thờ ơ với nàng như vậy. Ta định sẽ không bước chân vào động phòng nửa bước. Nhưng khi cầm trên tay mẩu bút chì này, ta đã hiểu.

    Chàng cúi thấp, kề sát bên tai tôi, hơi thở của chàng khiến tôi chộn rộn:

    - Ta vội đưa mắt về phía cô gái đang đứng đơn độc giữa sân và nhận ra ngay cô dâu bị ghẻ lạnh, tội nghiệp kia chính là nàng.

    Lúc đó hỗn loạn, tôi không biết chàng đã nhìn mình. Tôi xoay người lại, bẽn lẽn hỏi:

    - Nhưng lúc đó em trùm khăn kia mà, sao chàng nhận ra em được?

    - Trên đời này, người con gái mà ta tường tận nhất chính là nàng, sao ta có thể không nhận ra dáng điệu của nàng được!

    Chàng cười tinh quái, lại ngắm tôi thêm một lượt nữa:

    - Aksayamati cao hơn nàng và không gầy như nàng. Nhưng, hai người đã tráo đổi vị trí như thế nào?

    Tôi kéo chẳng ngồi xuống cạnh giường, thuật lại toàn bộ câu chuyện cho chàng nghe. Khi đã hiểu ra tất cả, chàng vừa lắc đầu cười vừa than thở vì cả chàng cũng bị Pusyseda gạt. Tuy mọi chuyện đã sáng tỏ, nhưng tôi vẫn cảm thấy lo lắng, đắn đo giây lát, tôi quyết định hỏi chàng:

    - Rajiva, chàng có hối hận khi cưới em không?

    Chàng nhìn tôi kinh ngạc:

    - Ngải Tình, nàng hiểu lòng ta mà, tình cảm của ta dành cho nàng hai mươi năm qua không hề thay đổi. Được cùng nàng kết thành vợ chồng, ta ngàn lần cảm tạ ân đức của Phật tổ, sao ta lại hối hận được?

    - Nhưng…

    Tôi lúng túng:

    - Chàng nói niềm vui tu hành lớn hơn nhiều niềm vui do những ham muốn thế tục mang lại kia mà!

    Chàng giật mình trong thoáng chốc, sau đó, lại bật cười:

    - Sẽ chẳng có niềm vui nào khi phải đối diện với người con gái ta không yêu. Nhưng giờ đây, thê tử của ta là nàng. Ta chìm đắm trong niềm hạnh phúc ngọt ngào vô bờ, không thể thoát ra, và cũng không muốn thoát ra. Câu chuyện về đại tượng, ngũ độc và loài chuột kia, cho thấy trên đời này không ai có thể vượt qua những trầm luân. Rajiva là người bình thường, cũng có tình cảm và ham muốn thế tục. Ta không thể thoát khỏi số kiếp này, không thể nhập Niết Bàn, nhưng chỉ cần có nàng, niềm hạnh phúc ngọt ngào khi được ở bên cạnh nàng đủ để ta không còn sợ hãi bất cứ điều gì nữa. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, chàng ngẩng đầu trâm ngâm suy nghĩ. Vẻ rạng rỡ trên gương mặt dần khuất dạng, quay lại nhìn tôi, ánh mắt chàng nhuốm vẻ ủ dột. Tim tôi thắt lại, rốt cuộc, chàng vẫn chẳng thể nguôi ngoai, day dứt. Đến bao giờ, chướng ngại vật trong lòng chàng mới được gỡ bỏ?

    Một tay chàng đặt lên tay tôi, bàn tay còn lại nhẹ nhàng gạt mấy lọn tóc phơ phất trước trán tôi sang bên, cất giọng dịu dàng:

    - Ngải Tình, lời ước hẹn lớn nhất của người đàn ông dành cho người mình yêu là cùng người đó kết thành vợ chồng. Nàng bằng lòng đến với ta, đã phải chịu bao thiệt thòi. Hai ta từ lâu đã là vợ chồng. Ta hy vọng có thể trao cho nàng một danh phận…

    Tôi thở phào nhẹ nhõm, thì ra tôi đã nghĩ ngợi quá nhiều, chàng không hề hối hận. Tôi mỉm cười lắc đầu:

    - Em không bận tâm…

    - Nhưng ta bận lòng.

    Chàng ngắt lời tôi, ngước lên, trầm tư, lúc chàng quay lại nhìn tôi, ánh mắt bỗng nhiên rực sáng:

    - Ngải Tình, trong mấy ngày bị giam cầm, ta không nguôi nhớ đến khoảnh khắc nàng gật đầu với ta trên Phật đường. Vẻ tuyệt vọng trong đôi mắt nàng khiến lòng ta đau như cắt. Ta nghĩ rằng, nàng sẽ ra đi, vì nàng không thể chấp nhận việc ta cưới người con gái khác làm vợ. Nhưng nếu nàng ra đi, giữa hai ta sẽ là hàng ngàn năm cách trở, ta biết đi đâu kiếm tìm nàng? Cho dù ta bằng lòng chờ đợi thêm mười năm, hai mươi năm nữa, nàng cũng sẽ không quay lại.

    Chàng nức nở, nắm chặt bàn tay tôi, như thể chỉ cần khẽ buông, tôi sẽ biến mất vào không gian.

    - Ta đã nghĩ, vậy là ta sẽ mất nàng mãi mãi. Cảm giác đó khiến ta vô cùng sợ hãi, mấy ngày qua ta đã vô cùng hối hận, vô cùng thương tiếc. Sớm biết sẽ bị ép thành thân, cớ gì ta không thành thân với nàng? Vì sao không trao cho nàng một danh phận, điều mà ta luôn mong muốn nhưng không dám thực hiện? Sứ mệnh ư, lý tưởng ư, những thứ ràng buộc đó đã khiến ta phụ lòng nàng.

    Khóe môi chàng run run, bàn tay vuốt ve gương mặt tôi:

    - Ngải Tình, ta sẽ không thể chịu đựng nổi nếu để mất nàng thêm lần nữa…

    Nước mắt giàn giụa, tôi run rẩy đưa tay vuốt ve gò má gầy gầy xương xương của chàng, không thốt nổi lên lời, chỉ đủ sức lắc đầu.

    Chàng nghẹn ngào gọi tên tôi, hai bàn tay nâng niu gương mặt tôi, để trán chàng đổ vào trán tôi:

    - Vậy nên khi cầm trên tay mẩu bút chì này, tựa hồ như có tiếng sấm nổ bên tai ta, trí óc, cảm giác của ta bỗng chốc rối loạn. Thì ra người ta cưới chính là nàng, đích thực là nàng! Khoảnh khắc ấy, ta thậm chí đã thầm cảm ơn Lữ Quang. Ông ta hủy hoại đời sống tu hành của ta, ép ta phá giới, thành thân nhưng Phật tổ đoái thương, đã tác hợp cho hai ta, giúp ta thực hiện ước mơ lớn lao bấy lâu vẫn chôn chặt trong tim. Bởi vậy, ta không còn căm giận Lữ Quang nữa.

    Đôi mắt màu xám nhạt ấy bao phủ lên gương mặt tôi, xóa đi dấu vết của nước mắt đau thương.

    - Tội cho nàng quá, mình ơi… Mình ơi! Tôi ra sức lắc đầu, tôi không thấy thiệt thòi gì cả. Có thể với người khác thì đúng là như vậy. Đêm đầu tiên, tôi đã phải trải qua “chuyện đó” dưới sự giám sát của kẻ khác, biết bao tủi nhục. Buổi lễ thành hôn nồng nặc mùi gươm giáo, còn đâu một ngày vui! Nhưng, tôi không hề hối hận. Tôi yêu Rajiva. Tình yêu đâu thể toan tính thiệt hơn, ai hy sinh nhiều hơn ai. Tôi muốn được ở bên chàng, khát khao ấy lớn đến mức chỉ cần chàng yêu tôi, tôi chấp nhận mọi điều thiệt thòi.

    - Rajiva, chàng quên là em đến từ tương lai rồi ư? Tài liệu ghi chép về chàng viết rằng: vợ chàng là công chúa Khâu Từ, tên gọi Akieyemoti. Em luôn cho rằng mình không tồn tại trong lịch sử cuộc đời chàng, nhưng chàng thấy không, em chính là cô công chúa Khâu Từ đó, em chính là Akieyemoti. Em vượt qua hàng nghìn năm thời gian, gặp gỡ chàng, đem lòng yêu chàng, và rồi trở thành vợ chàng, mọi sự đều đã được ông trời sắp bày. Bởi vậy, em không hề hối hận, cũng không thấy mình thiệt thòi gì cả… Cách thời đại của chàng một nghìn năm sau, có nhà sư Tsangyang Gyatso. Ngài là Đạt Lai Lạt Ma - một vị Phật sống, biểu tượng tinh thần cao nhất của vương triều Tubo. Nhưng cũng giống như chàng, ngài sa vào lưới tình, chẳng thể tự tại. Ngài vốn tài hoa, đã viết tặng người yêu Makye Ame vô số bài thơ tình. Trong đó, có những câu thơ thế này:

    Tự thẹn đa tình đoạn kiếp tu

    Nhập thiền khôn xóa bóng hình xưa

    Thế gian ai vẹn đôi đường cả

    Không phụ Như Lai, không phụ nàng

    Tiếc thay, ngài đã không tìm ra được phương cách vẹn toàn, người yêu bị ép gả cho người khác, còn ngài đã qua đời trên đường khi bị áp giải về kinh đô vương triều nhà Thanh ở Trung Nguyên lúc tuổi đời mới ngoài đôi mươi.

    Tôi ngừng lại, để nỗi nghẹn ngào nguôi bớt, mỉm cười với chàng:

    - Nhưng chàng có thể. Chàng bằng lòng lấy em, em sẽ bằng lòng làm vợ người xuất gia. Sau khi chết, hai ta sẽ cùng xuống địa ngục. Dù phải lên núi đao xuống chảo dầu, chỉ cần có chàng ở bên, em sẽ không sợ hãi.

    Chàng xúc động, nhìn tôi trân trân:

    - Thế gian ai vẹn đôi đường cả. Không phụ Như Lai, không phụ nàng.

    Chàng cúi xuống tôi, bối rối: - Không phụ Như Lai, không phụ nàng. Ngải Tình, ta sẽ làm được như vậy sao!

    - Được chứ! Chỉ cần chàng không bận lòng với những lời gièm pha của người đời nay và những lời chỉ trích của người đời sau.

    Chàng tươi cười rạng rỡ:

    - Nếu hoàn thành được sứ mạng Phật tổ giao phó, lại được sống bên nàng, ta còn mong cầu gì nữa.

    Chàng cúi xuống hôn tôi, miệng chàng vẫn còn đượm hương rượu nồng nồng, tôi ngất ngây trong men say hạnh phúc bất tận. Nước mắt chàng thấm trên má tôi, hòa quyện cùng nước mắt của tôi, vị mặn mòi theo nụ hôn thấm vào tim.

    - Mình ơi!

    Chàng khe khẽ gọi tôi, dịu dàng kéo tôi vào lòng. Tôi như thể một bản nguyên trần trụi của loài người, phơi mình dưới ánh mặt trời, nhưng chẳng hề hổ thẹn. Phật tổ ơi, con được tạo ra là vì chàng phải không?

    - Ngải Tình, lẽ ra khi nãy trong buổi lễ phải có người đại diện đứng ra tuyên bố chúng ta thành vợ thành chồng. Nhưng vì tình thế lúc đó quá ư hỗn loạn, nên nghi thức này đã bị bỏ qua. Đi nào!

    Chàng dắt tay tôi đến trước bàn thờ Phật, thắp mấy nén nhang, giữ trong lòng tay khép lại, thành tâm khấn vái:

    - Chúng ta cầu xin Phật tổ chứng giám. Tuy là con người hiện đại, tiếp thu nền giáo dục duy vật, nhưng tôi vẫn chần chừ, do dự:

    - Rajiva, chàng… chàng không sợ Phật tổ trách tội sao?

    Chàng âu yếm nhìn tôi, khẽ lắc đầu:

    - Chúng ta đã trải bao gian khó mới được ở bên nhau, nàng không nghĩ, đó chính là ý chỉ của Phật tổ ư? Phật tổ từ bi, Ngài không muốn hai ta phải đau khổ thêm nữa.

    Quay về phía Đức Phật, chàng cất giọng nghiêm trang:

    - Xin Phật tổ chứng giám, kể từ hôm nay, Ngải Tình và Rajiva sẽ nên vợ nên chồng, trọn đời bên nhau, mãi không xa lìa.

    Chàng chia nhang cho tôi, chúng tôi cùng nâng cao nhang hương quá đầu, cung kính vái lạy ba lần, rồi cắm vào bát hương.

    - Rajiva…

    Tôi gắng nén lại nỗi xúc động chỉ trực trào ra thành nước mắt, hướng lên gương mặt từ bi của Đức Phật. Giây phút này, tôi ước gì Phật tổ ở trên cao đang hướng về chúng tôi, mỉm cười chúc phúc cho chúng tôi.

    Thắp hương xong, như chợt nhớ ra điều gì, chàng hỏi tôi:

    - Bức tranh vẽ cha mẹ nàng đâu rồi, bức tranh mà nàng gọi là ảnh chụp ấy.

    Tôi vẫn luôn giữ tấm hình đó bên mình, tôi băn khoăn trao cho chàng. Chàng đón lấy, ngắm nghía một lát, rồi đặt lên bàn thờ, cung kính vái lạy ba lần.

    - Thưa cha thưa mẹ, con xin cảm tạ cha mẹ đã sinh thành và dưỡng dục người vợ tuyệt vời của con. Vì muốn ở lại bên con, nàng không thể trở về bên cạnh cha mẹ, để chăm sóc cha mẹ và giữ trọn đạo hiếu, đó là lỗi của con. Xin cha mẹ yên lòng, con nguyện chăm sóc cho vợ con suốt đời.

    Không kìm nổi, tôi đã bật khóc nức nở, dập đầu, lạy cha lạy mẹ ba lạy. Trước lúc vượt thời gian, tôi rất ít khi nhắc đến dự án này với bố mẹ, phần vì sợ họ lo lắng, phần vì phải đảm bảo tính chất bí mật của dự án, phần nữa là vì tôi luôn nghĩ rằng, đằng nào mình cũng trở về. Nhưng giờ đây, tôi đã quyết tâm ở lại bên cạnh chàng. Xin bố mẹ thứ tội, vì con gái đã tự ý kết hôn, và bố mẹ thậm chí không biết con rể. Nhưng, con rất sung sướng, con chưa bao giờ hạnh phúc như lúc này. Bố mẹ sẽ yên lòng khi thấy con hạnh phúc, phải không? Xin bố mẹ tha tội cho con! Bố mẹ hãy giữ gìn sức khỏe. Con xin lỗi…

    Đã bái Phật, đã kính cha mẹ, bây giờ đến chúng tôi. Tôi cúi xuống, buộc tà áo của tôi và của chàng lại. Chàng ngạc nhiên dõi theo từng cử động của tôi. Tôi tiếp tục quỳ lạy ba lần nữa, lập lời thề nguyện ước bằng tất cả lòng thành:

    - Xin Phật tổ cùng cha mẹ chứng giám, con và Rajiva nguyện kết đôi trăm năm, người nào qua đời ở tuổi chín mươi bảy, sẽ chờ đợi người kia ba năm trên cầu Nại Hà…

    Chàng quỳ bên cạnh tôi, khi tôi vừa dứt lời ước hẹn, chàng kính cẩn khấu đầu lạy ba lạy. Lúc chàng ngước nhìn lên, ánh mắt long lanh rạng ngời.

    - Ngải Tình, chờ đợi nàng bao nhiêu năm, ta cũng vui lòng…

    - Em cũng vậy…

    Chàng kéo tay áo lên, để lộ chiếc khăn lụa rực rỡ quấn trên cánh tay. Chàng mỉm cười xúc động, nhẹ nhàng tháo chiếc khăn ra, quàng vào cổ tôi. Đổi lại, tôi tháo chiếc vòng mã não trên tay mình, đeo vào tay chàng. Mười ngón tay đan vào nhau, bờ vai ngả vào bờ vai, kể từ giờ phút này, chúng tôi chính thức thành vợ chồng và sẽ là vợ chồng suốt kiếp.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  17. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 56: Cuộc sống tân hôn
    Một nụ hôn khẽ khàng thả trên môi, tôi hé mắt, ngoài kia trời đã sáng.

    - Xin lỗi đã làm nàng thức giấc. Chàng ấn nhẹ tôi xuống gối. - Nàng ngủ thêm một chút đi. Đã đến giờ tụng kinh buổi sáng, ta phải đi tập trung sư sãi. Khi nào kết thúc, ta sẽ quay lại dùng bữa sáng với nàng. Chàng mặc áo cà sa, mở cửa, bước ra. Ban mai tràn lên vai chàng những tia sáng dìu dịu, bóng dáng cao gầy, đạo mạo, vẻ điển trai của chàng hắt lên không gian một quầng sáng hiền hòa, thanh khiết, sức cuốn hút kì lạ toát ra từ chàng chẳng ngôn từ nào có thể diễn đạt trọn vẹn.

    Cửa phòng khẽ khép lại, tôi trùm chăn kín đầu, bật cười khúc khích, mãi đến khi cảm thấy quá ư ngột ngạt mới chịu thò đầu ra ngoài. Đêm qua, hai chúng tôi chỉ lặng lẽ ôm nhau nằm ngủ. Tuy là đêm tân hôn, nhưng vì vẫn ở trong chùa, chúng tôi chẳng thể làm khác. Nhưng, chỉ thế thôi, tôi đã hạnh phúc đến muốn ngất đi. Hôm nay là ngày đầu tiên làm vợ chàng, lúc tham gia dự án vượt thời gian này, tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành vợ một người cổ đại, người đó lại là một nhân vật vĩ đại, với sức lôi cuốn lạ kì toát ra từ nhân cách, khí khái bất phàm và sức mạnh tinh thần trác việt.

    Vừa suy nghĩ miên man, vừa tận hưởng niềm vui bất tận. Bỗng bên ngoài kia ngân lên tiếng chuông chùa vang dội, tiếp đó là âm điệu du dương, ngân nga của tiếng tụng kinh buổi sớm. Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi có thể mường tượng ra cảnh Rajiva dẫn dắt chư vị tăng sư thắp hương, khấn vái, tụng niệm. Lắng nghe âm thanh ấy, tâm hồn trở nên thanh tịnh, yên bình hơn. Không muốn ngủ thêm nữa, tôi ra khỏi giường, thực hiện bài thể dục buổi sáng trong mảnh vườn nhỏ. Tôi không dám đi xa, vì sợ sẽ khiến chàng khó xử.

    Một chú tiểu mang nước đến, thấy tôi, không biết phải xưng hô làm sao, bèn đặt chậu nước xuống, mặt đỏ như gấc, cuống quít chạy đi. Lát sau, lại một chú tiểu khác đem đồ ăn vào, ấp úng hồi lâu cũng không biết phải mở lời thế nào. Chải đầu rửa mặt xong xuôi, tôi ngẩn ngơ ngồi ngó bữa sáng trên bàn, băn khoăn về danh phận của chính mình.

    Tình yêu và lý tưởng, tựa như nước với lửa, chẳng thể dung hòa, sức người vốn nhỏ bé, cho dù tôi bằng lòng ở bên chàng, không màng danh phận, tôi vẫn trở thành gánh nặng vô hình của chàng trên đường vươn tới lý tưởng. Bởi vậy, kết cục vẫn sẽ là dằn vặt nhau trong đau khổ, sau rốt cuộc là một cuộc chia tay buồn tủi. Nghĩ vậy, tôi thầm cảm ơn thời kỳ loạn ly này, vì chiến tranh ly loạn, Lữ Quang mới xuất hiện và mới ép buộc Rajiva thành thân, mặc dù ông ta không bao giờ có ý định tác hợp cho hai chúng tôi.

    Vì vậy, tôi và Rajiva có chung suy nghĩ. Chúng tôi sẵn lòng tha thứ cho Lữ Quang dù ông ta đã, đang và sẽ còn gây ra chuyện tàn ác gì nữa với chúng tôi. Vì rằng, nếu ông ta không công khai ép buộc Rajiva trước mặt quần chúng, các tăng sĩ chắc chắn sẽ không chấp nhận chúng tôi. Phá giới hoàn tục là một điểm tối trong cuộc đời lẫy lừng của Rajiva. Lẽ ra, danh tiếng của chàng có thể sánh ngang với Trần Huyền Trang, nhưng vì tiếng xấu này, những cống hiến lớn lao của chàng đã bị người đời sau hoặc né tránh luận đàm, hoặc đánh giá lệch lạc. Nhưng Rajiva đã nói, chàng không hề bận tâm. Giờ đây, chàng đã kết hôn, nhưng vẫn tiếp tục theo đuổi lý tưởng truyền bá rộng rãi giáo lý Phật giáo, phổ độ chúng sinh, được vậy chàng đã mãn nguyện rồi.

    - Lại đang vẩn vơ suy nghĩ gì vậy? Thấy chàng bước vào phòng, tôi nở nụ cười rạng rỡ đón chàng, khép cuốn sổ nhật ký lại. Chúng tôi cùng nhau dùng bữa sáng. Cảm giác như lại trở về những ngày an nhàn trong cấm cung, không ai làm phiền, bình yên bên nhau, cùng nhau ăn cơm, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu mỉm cười nhìn nhau.

    - Rajiva, hôm nay em định sẽ dọn đến căn nhà của chàng ở Subash.

    Chàng nhìn tôi gật đầu:

    - Được.

    Chàng cầm một chiếc bánh lên, căn dặn:

    - Vợ chồng Mavasu đã được con trai họ đón về Thiên Trúc dưỡng già, bây giờ ta giao chỗ đó cho vợ chồng Kaodura coi sóc.

    Chợt nhớ, Kaodura là phu xe của chàng, tôi gật đầu:

    - Sau bữa sáng, em sẽ dọn đi.

    - Ngải Tình…

    Một bàn tay len qua gầm bàn nắm lấy bàn tay tôi:

    - Ta xin lỗi đã để nàng sống ở đây.

    Tôi mỉm cười, đan ngón tay mình vào tay chàng:

    - Chúng ta đã là vợ chồng, chàng khách sáo làm gì. Chàng rời đi sau bữa sáng.

    - Đang lúc chiến tranh loạn lạc, ta lại bị giam lỏng, nên trong chùa vô cùng rối ren, rất nhiều nhà sư đã bỏ trốn. Nay ta đã quay lại chùa, phải khôi phục lại trật tự, nề nếp cũ.

    Chàng nhìn tôi áy náy:

    - Thế nên, mấy ngày tới ta sẽ rất bận.

    đi.

    - Không sao, chàng cứ lo việc của chàng

    Trước lúc chàng bước ra cửa, tôi đã kịp kéo cánh tay chàng lại, kiễng chân, đặt một nụ hôn lên môi chàng.

    Chàng hơi bất ngờ, nhìn tôi mỉm cười:

    - Ngải Tình, thu dọn cả tư trang của ta nữa.

    Chàng vòng tay qua eo tôi, thì thầm bên tai:

    - Kết thúc giờ tụng kinh buổi tối, ta sẽ về. Hai má tôi ửng đỏ. Tôi thu dọn đồ đạc, tư trang của tôi không nhiều, chủ yếu là của chàng. Áo cà sa của chàng chia thành y phục mùa đông và mùa hè. Nhìn những đôi tất may bằng vải thô của chàng, tôi thầm trách mình đã không để tâm mang cho chàng mấy đôi tất bằng vải cotton của thời hiện đại. Vừa gấp quần áo vừa tủm tỉm cười, đúng là cuộc sống của vợ chồng son: dọn đồ giúp chàng, ngóng đợi chàng về nhà, tôi là cô vợ trẻ đang ngất ngây trong hạnh phúc.

    - Sao hôm nay chị dâu dậy sớm vậy?

    Tôi ngẩng lên thì thấy Hiểu Huyên xách một gói đồ bước vào, Pusyseda đang tựa lưng bên bậc cửa quan sát tôi, trên lưng cậu ta là chiếc ba lô thân yêu của tôi.

    Má tôi nóng ran khi nghe hai tiếng “chị dâu”, tựa hồ một dòng mật ngọt vừa len vào lòng. Giờ đây, chúng tôi đã là người một nhà. Khi tôi nói sẽ chuyển đến căn nhà trong thành Subash, hai vợ chồng họ chung tay thu dọn đồ đạc giúp tôi. Hiểu Huyên mang quần áo cho tôi, còn nhét nào đó một túi bạc. Tôi từ chối không xong, đành nhận lấy. Ba lô đến thật đúng lúc, tôi nhét tất cả vào trong đó. Hiểu Huyên tròn xoe mắt nhìn chiếc túi kì lạ dường như có thể chứa mọi thứ ấy, Pusyseda chỉ mỉm cười lặng lẽ.

    Ba chúng tôi rời khỏi chùa Cakra, Pusyseda đeo ba lô, nếu khoác thêm bộ quần áo thể thao, trông cậu ấy sẽ không khác dân phượt chuyên nghiệp. Chúng tôi vừa đi vừa cười nói, trò chuyện rôm rả.

    Phía trước, Pusyseda đột nhiên dừng lại. Đang mải nghe Hiểu Huyên kể chuyện hai cậu nhóc Cầu Tư, Vịnh Tư, lúc ngẩng đầu lên, tôi sững sờ.

    Lữ Soạn là kẻ đi đầu trong đám người chặn đường chúng tôi, hắn nhìn tôi kinh ngạc. Nhanh như cắt, Pusyseda xoay người đứng chắn trước mặt tôi và Hiểu Huyên.

    - Xin chào tướng quân. - Quốc sư, cô ta chính là…

    - Tướng quân, cô gái này chính là con gái nuôi của Đức vua, công chúa Akieyemoti của Khâu Từ.

    - Quốc sư giỡn chơi với ta đấy ư?

    Cặp mắt cú vọ của hắn không ngừng đảo qua đảo lại trên người tôi.

    - Cô ta là người Hán, cô ta chính là…

    - Tướng quân trông cô ấy quen cũng phải. Lúc trước ta đã sơ suất không báo với tướng quân cô ấy là công chúa.

    Pusyseda bình thản khẽ cúi người, cất giọng dõng dạc:

    - Nhưng sự thực, cô ấy chính là công chúa đã Đức vua của chúng tôi ngự phong, có ngọc bội của Đức vua Khâu Từ ban tặng làm chứng. Vả lại…

    Pusyseda mỉm cười:

    - Đức vua của chúng tôi nhận một cô gái người Hán làm con nuôi, có gì không phải nào?

    Bây giờ tôi mới biết, miếng ngọc bội hình sư tử này chính là biểu tượng của hoàng thất Khâu Từ, chả trách Pusyseda từng nhắc nhở tôi không được tháo nó ra.

    - Quốc sư, ngài không thấy việc hoàng thất Khâu Từ có đến hai cô công chúa cùng một tên gọi Aksayamati là rất kỳ quặc hay sao?

    Pusyseda nhíu mày ra vẻ suy ngẫm, rồi lại làm ra vẻ như chợt nghĩ ra điều gì:

    - Thì ra tướng quân đang nói về con gái của vị vua trước. Con gái của kẻ phạm tội, sao có thể tiếp tục mang danh công chúa cao quý được.

    Cậu ta nhếch miệng cười:

    - Cũng khó trách tướng quân nhầm lẫn. Công chúa của Đức vua chúng tôi tên gọi là Akieyemoti, là tiếng Tochari, còn con gái của vị vua trước tên gọi là Aksayamati, vốn là tiếng Phạn. Phát âm có vẻ giống nhau, nhưng ý nghĩa của tên gọi thì hoàn toàn khác nhau. Tướng quân vốn không hiểu tiếng Tochari và tiếng Phạn, nên khó tránh khỏi nhầm lẫn.

    Lữ Soạn sa sầm mặt mày, muốn trút giận nhưng không có cớ. Pusyseda khẽ cúi người hành lễ, ung dung cất tiếng:

    - Nếu tướng quân không còn việc gì nữa, ta xin phép!

    Ba chúng tôi tiếp tục lên đường, không hiểu sao tôi cứ có cảm giác phía sau lưng mình, một cặp mắt tà ác đang không ngừng dò xét, khiến tôi bồn chồn, lo lắng, giữa cái nắng chói chang của trung tuần tháng chín mà vẫn cảm thấy gai lạnh.

    Pusyseda đưa tôi đến tận nơi mới ra về, trước khi đi, cậu ta không quên an ủi tôi. Hiểu Huyên luôn ở bên cạnh động viên tôi, hai vợ chồng ăn tối cùng tôi, chờ đến lúc khi Rajiva xuất hiện họ mới ra về. Rajiva có vẻ mệt mỏi nhưng tinh thần rất phấn chấn. Thì ra, trở lại với công việc bận rộn trong chùa, chàng như được hồi sinh. Chàng đúng là mẫu đàn ông hết mình vì sự nghiệp. Tôi bảo chàng ngồi xuống, nhẹ nhàng massage hai vai cho chàng, ra ngoài mang nước ấm đã được Kaodura chuẩn bị vào cho chàng rửa mặt. Trên môi chàng nở mãi nụ cười hạnh phúc, đôi mắt không ngừng dõi theo từng cử chỉ, động tác của tôi.

    Mang nước đi đổ, lúc trở lại phòng, đã thấy trên tay chàng có một chiếc hộp. Tôi mở ra, bên trong là một tập giấy tốc kí, những bức vẽ năm xưa chàng vẽ tôi, mỗi bức đều nhuốm màu thời gian của hai mươi năm đằng đẵng, mép giấy đã sờn bạc, cũ nhàu. Bức vẽ tôi ho ra máu đã chuyển thành màu rêu đỏ, không nhìn ra cô gái trong tranh nữa. Còn cả những bức vẽ tôi thẹn thùng trong vòng tay chàng, đó là kí ức về nụ hôn đầu của hai chúng tôi. Những bức vẽ mới này được chàng vẽ trong khoảng thời gian mười năm về sau. Mỗi bức vẽ là một niềm cảm xúc. Chàng đứng sát lại, ôm vai tôi, cùng tôi xem tranh. Hai chúng tôi yên lặng không nói, cổ tôi cọ vào cổ chàng. Tôi ngả đầu, hôn lên bờ môi ướt mềm của chàng. Chàng nghiêng đầu, cuốn lấy tôi, từ chỗ chậm rãi đẩy lên cuồng nhiệt. Đầu óc tôi quay cuồng, mụ mị, đột nhiên, tôi như được nhấc bổng lên, chân không chạm đất, người hơi ngả về sau, chàng ôm tôi dịch chuyển về phía chiếc giường.

    - Em… em nặng lắm đấy.

    Tim tôi đập rộn, cánh tay vòng qua cổ chàng, lòng bồi hồi, tôi sợ là chàng không nhấc nổi mình.

    - Nàng không nặng…

    Tuy vậy lúc đặt tôi lên giường, chàng thở khá nặng nhọc, ánh mắt nóng rực khiến tôi như muốn tan chảy.

    - Rajiva phải cố gắng học cách bế vợ mình chứ. Biết đâu sau này cần dùng đến…

    Chưa kịp hỏi sẽ “dùng” vào dịp nào, chàng đã phủ người lên mình tôi. Chàng đắm đuối nhìn tôi, nụ cười thường trực nơi khóe môi, gương mặt vẫn hiển hiện vẻ thẹn thùng, chàng khẽ thì thào bên tai tôi:

    - Ngải Tình, hôm nay mới là đêm tân hôn của chúng ta.

    Hai má nóng ran, mồ hôi đọng thành giọt nơi sống mũi, tôi hé miệng định nói một câu gì đó, nhưng âm thanh bật ra lại là những tiếng rên rỉ khe khẽ. Tôi giật mình, trời đất ơi, sao giọng tôi lại lả lơi nhường vậy?

    Đôi đồng tử màu xám nhạt rực lên như hai quả cầu lửa. Hơi thở gấp gáp, những nụ hôn dồn dập thả xuống, tưởng như muốn cưng nựng từng tế bào trên da thịt. Rajiva của đêm nay rất khác biệt, chàng hoàn toàn chủ động và mãnh liệt. Không còn dấu vết của sự tranh đấu, giằng co, do dự, không còn tàn dư của nỗi hoang mang, lo lắng. Chàng đã mở lòng thật rộng để tận hưởng triệt để khoảnh khắc đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng cho con người. Chàng dẫn dắt tôi vào thiên đường, những tiếng rên rỉ hoan hỉ trồi theo hết lớp sóng này đến lớp sóng khác, trầm bổng, dạt dào. Khoảnh khắc chàng gọi tên tôi khi cả hai cùng lên tới đỉnh điểm, nước mắt tôi bỗng trào ra cuồn cuồn. Tôi đã thèm khát, ngóng đợi khoảnh khắc kết nối này biết bao. Không chỉ có sự hòa hợp về thể xác, trái tim chúng tôi đã cùng chung nhịp đập dữ dội ở khoảng cách chưa đến mười xăng ti mét. Tôi mê dại quấn chặt lấy chàng bằng cả chân và tay mình. Chợt nhớ đến bài thơ “Cây dây leo”, tôi là dây leo, chàng là thân cây. Dây leo cuốn lấy thân cây, cây mục vẫn cuốn; dây leo bám vào thân cây, dây héo vẫn leo…

    Tôi đi phiên chợ cùng Adoly, vợ Kaodura. Đã lâu không bước chân ra khỏi nhà, thông tin về phiên chợ này đã kích động thói quen ham vui của tôi. Chợ phiên Subash cứ mười ngày mở một lần, nông dân ở các thôn làng lân cận cùng các lái buôn Khâu Từ đều tập trung ở đây. Chợ phiên ngoài trời vô cùng náo nhiệt, mặt hàng bày bán phong phú, đa dạng. Đồ đồng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ tự chế, khăn choàng lông cừu, các loại dao thái thịt nhỏ nhắn, tinh xảo, tôi nhìn mà hoa cả mắt. Dịp đến Tân Cương, tôi từng ghé qua Grand Bazzar ở Kashgar. Bazzar thời hiện đại là một khu chợ nông sản lớn, chợ họp hàng ngày, được quy hoạch thành một tòa nhà cao, rộng, với vô số các quầy hàng vuông vắn. Chợ tuy đông người, nhưng chẳng thể có được cái không khí, cái dư vị rất riêng từ thuở ban sơ như phiên chợ hôm nay. Tôi tròn xoe mắt ngồi xổm trước sạp hàng của một cô gái, ngắm nghía các sản phẩm thêu thủ công, tuy không tinh xảo bằng hàng thêu cao cấp dành cho hoàng thất, nhưng họa tiết trên tranh thêu mang đậm nét đặc sắc của văn hóa Khâu Từ. Tôi mê mẩn nghiên cứu từng bức tranh, đến khi chị Adoly kéo tôi đi, tôi mới mua được có ba bức. - Phu nhân, những thứ không dùng đến, đừng mua nhiều quá, mà không mua thì ngắm nghía ít thôi. Cô cứ thế này, trời tối chúng ta cũng không đi hết chợ đâu.

    Tôi hiểu nguyên do chị Adoly cằn nhằn rồi, đồ đạc trên tay tôi nặng lắm rồi. Bệnh nghề nghiệp thật khó sửa! Tôi đã quen xem mấy thứ vật dùng hàng ngày này như là đối tượng khảo cổ. Nghe chị Adoly làu bàu tôi mới chợt tỉnh ra, tôi không định trở về, sưu tầm những thứ này làm gì nữa.

    - Vâng vâng, tôi không tiêu xài lãng phí nữa!

    Nghiêm túc kiểm điểm bản thân và tỏ ra ngoan ngoãn.

    - Phải thế chứ!

    Adoly gật đầu hài lòng, nhưng khi chị quay lại, thì đã không thấy tôi đâu cả. Ngó nghiêng xung quanh, tôi lại sà vào một sạp bán túi xách bện thủ công từ lá thánh liễu (Chinese taramisk), lật cái nọ, xoay cái kia. Không cần nói cũng biết sắc mặt Adoly khi đó khó coi ra sao.

    Mấy ngày nay, chị Adoly đã bận rộn hơn hẳn, bởi vì chị có thêm một học sinh cực kỳ hiếu học. Một tuần qua tôi chỉ quẩn quanh trong nhà, không đi đâu cả, thi thoảng hai vợ chồng Pusyseda lại đến thăm tôi. Tôi dành ra phần lớn thời gian để học những kiến thức cơ bản về cuộc sống của người cổ đại. Tôi theo chị Adoly học nấu cơm, học nặn bột, học làm bánh. Những lần vượt thời gian trước đó, mục tiêu của tôi rất rõ ràng. Tôi phải nghiên cứu khảo sát quá nhiều thứ, nên không có thời gian cho việc bếp núc củi lửa, tôi ỷ lại vì luôn có người phục dịch. Nhưng giờ đây, khi đã trở thành vợ của Rajiva, tôi phải học cách sống khép mình, nền nã. Thêm vào đó, mong muốn được hòa nhập với đời sống cổ đại lại vô cùng mãnh liệt, nên tôi cần phải học thật nhanh tất cả các kiến thức, kĩ năng mà người phụ nữ ở thời đại này cần có. Nên tôi quyết định, sẽ khởi đầu bằng việc học nấu ăn - vốn là sở trường bấy lâu nay của tôi.

    Ở thế kỷ XXI, vì bố mẹ bận rộn với công việc cơ quan nên ngay từ khi học cấp ba, tôi đã phải tự mình nấu nướng, từng bước luyện tập, tích lũy kinh nghiệm, đến nay, tôi đã là một đầu bếp khá cừ. Muốn thể hiện tay nghề với Rajiva, tôi đã nhanh chóng vào bếp trổ tài. Nhưng sau buổi chiều vật lộn, lúc bước ra khỏi cửa bếp, mặt mũi người ngợm tôi lấm lem khói bụi. Cũng may còn có chị Adoly, nếu không chắc tôi sẽ thiêu cháy nhà bếp mất. Bởi vì một người quá ư quen thuộc với lò vi sóng, bếp từ, máy hút mùi như tôi đây, hoàn toàn không biết phải xử trí ra sao khi đứng trước bếp lò cổ đại. Chờ mãi không thấy nồi nóng lên, tôi cho thêm vài thanh củi, lửa bùng lên đột ngột, tôi lại không biết cách điều chỉnh, vì bếp củi đâu giống bếp từ! Thịt rang cháy đen. Lúc xào rau, vì không quen với loại muối thô của người cổ đại, tôi không biết phải nêm bao nhiêu mới vừa miệng, kết quả, rau xào mặn chát. Chỉ có món canh trứng là cứu vãn được chút ít vì tôi đã rút đã kinh nghiệm, tuy nhiên vẫn chưa đạt yêu cầu. Tôi rầu rĩ khi nhận ra rằng, tài nấu ăn của tôi hoàn toàn nhờ vào dầu ăn, bột nêm - các loại gia vị đã được điều chế sẵn của thời hiện đại. Rajiva chưa bao giờ ăn bữa tối, vì chàng phải tuân thủ giới luật không ăn uống sau buổi trưa. Nhưng hôm đó, khi về tới nhà và nhìn thấy bộ dạng lấm lem khói bụi của tôi, chàng cười ha hả khi nghe rõ sự tình. Biết tôi định đem đồ ăn đi trút bỏ, chàng giữ lại, bảo không được lãng phí, căn dặn Adoly gói lại, để hôm sau chàng mang tới chùa ăn trưa. Buổi tối hôm sau, chàng trở về với chiếc bát trống không, tôi xấu hổ không biết giấu mặt đi đâu, chỉ cầu mong sao chàng không bị đau bụng. Đồng thời, hạ quyết tâm, phải học nấu ăn cho bằng được, vì sức khỏe của Rajiva. Thế là, chị Adoly có thêm một người học việc, những kiến thức với chị là đơn giản, nhưng người học việc vẫn chăm chỉ, cần mẫn ghi chép tỉ mỉ.

    Sau khi đã đi hết lượt phiên chợ, tôi và Adoly vừa chuyện trò cười nói vừa tay xách nách mang ra về. Đến cổng nhà, chúng tôi cùng sững lại.

    Mấy tên lính của Lữ Quang đang nhởn nhơ tựa lưng bên cổng nhà, thấy chúng tôi, lập tức đứng lên.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  18. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 57: Bản án chữ "a" màu đỏ
    Lòng đầy bất an, nhưng đám lính tỏ ra là họ đang làm việc công, trịnh trọng thông báo với chúng tôi, quan lớn có lệnh tập trung dân chúng toàn thành tại quảng trường để tuyên bố những vấn đề qua trọng về an ninh, trị an. Chị Adoly tỏ ra không mấy quan tâm việc nhà quan đó, càu nhàu mãi: vì sao các vị cứ thích chuyện bé xé ra to, động một cái là binh đao, khiến người dân chẳng được sống yên ổn. Thời cổ đại không có phát thanh truyền hình, nên muốn thông báo, tuyên bố điều gì, chỉ có thể tập hợp dân chúng theo cách này. Nghĩ vậy, tôi cũng bớt lo hơn.

    Adoly và tôi xếp đồ vào trong nhà, rồi theo đám lính trở lại khu chợ. Chợ phiên mới đây còn náo nhiệt là vậy, thoáng chốc đã khác hẳn. Các sạp hàng đã được thu dọn từ bao giờ, ngó sang khu vực nhốt gia súc, nào ngựa nào lừa, con nào con nấy lặc lè đồ đạc, hàng hóa chất ngất trên lưng. Dân chúng toàn thành Subash như thể đều tập trung tại đây, hàng nghìn người chen chân trên quảng trường. Không ít trong số họ tay vẫn xách làn, có lẽ họ từ khu chợ đến thẳng đây, chưa kịp về nhà. Tôi không thấy Bạch Chấn và Lữ Quang trên bục cao phía trước, chỉ có Lữ Soạn và một nhóm người ở đó.

    Tôi cảm thấy có điều gì không ổn, định bụng rời khỏi đó, nhưng đã bị mấy tên lính đứng sau giữ lại rồi nói xin thứ lỗi, rồi cứ thế xốc tay tôi kéo về phía khán đài. Chị Adoly kêu gào phản đối, bị mấy tên lính khác trói lại. Tôi không thể sử dụng súng gây mê vì rất nhiều người đang có mặt tại đó, biết rằng phản kháng cũng vô ích, tôi gắng kìm chế, nghiêm mặt, chầm chậm bước về phía Lữ Soạn. Lòng như lửa đốt, mới yên ổn được có một tuần, Lữ Quang lại muốn giở trò gì nữa đây!

    Lữ Soạn sững lại khi thấy tôi điềm tĩnh bước về phía hắn, vẻ mặt hắn đổi sắc, trở nên khó coi hơn.

    Hắn gật đầu ra hiệu cho đám đông yên lặng, sau đó lớn tiếng: - Thưa bà con, hôm nay tập trung quý vị tại đây là để chúng ta được cùng nhau chúc mừng đại pháp sư Kumarajiva nhân dịp ngài kết thúc tuần trăng mật.

    Hắn ngừng lại, chờ người bên cạnh phiên dịch xong, lại tiếp tục:

    - Sau hôn lễ, pháp sư kiên trì giữ vợ yêu trong nhà, nên mọi người chưa có dịp được chiêm ngưỡng dung mạo của phu nhân. Hôm nay, ta mời phu nhân tới đây để mọi người được thấy mặt, phu nhân hiện đang sống trong căn nhà của pháp sư tại thành Subash, từ nay xin cậy nhờ bà con quan tâm nhiều hơn đến gia đình pháp sư và phu nhân.

    Tôi trút nỗi bực tức ngùn ngụt vào ánh mắt đẩy về phía Lữ Soạn. Thì ra Lữ Quang vẫn chưa chịu buông tha cho Rajiva. Sau hôn lễ, Rajiva không hề chán nản, suy sụp như Lữ Quang mong muốn, trái lại, chàng đã tập trung toàn bộ tinh thần, sức lực vào việc khôi phục hoạt động thường nhật của chùa Cakra. Các tăng sư trong chùa vẫn một mực kính trọng chàng, không mảy may xem thường. Kết quả này đi ngược lại hoàn toàn với ý đồ ban đầu của Lữ Quang. Còn về phần tôi, vì tôi đã được sắc phong là công chúa Khâu Tử, nên cha con Lữ Quang không thể tùy tiện ra tay với tôi. Bởi vậy, bọn họ chỉ có thể lợi dụng sức mạnh của đám đông, bêu riếu tôi trước quần chúng, muốn mượn bia miệng thế gian để ép Rajiva hoàn tục, hoặc cũng có thể là hắn muốn ép buộc chúng tôi phải rời khỏi Khâu Tử.

    Đám đông quả nhiên đã bị kích động, la ó ầm ĩ. Trong số họ, hẳn là có không ít người đã từng đến tham dự hôn lễ của tôi, nhưng vì hôm đó tôi trùm chăn che mặt, nên không ai nhận ra. Vả lại tâm điểm của đêm đó là việc Lữ Quang ép các nhà sư uống rượu, sự phẫn nộ của đám đông đã dồn hết lên ông ta. Giờ đây, khi tôi lộ diện, sự phẫn nộ đó đã chuyển sang tôi, chẳng thế né tránh. Tôi đứng đó, yên lặng. Trong tình cảnh này, tôi chẳng thể biện hộ gì được. Trước đám đông, nếu bất cẩn lỡ lời, khiến mọi người hiểu nhầm, sẽ ảnh hưởng rất tồi tệ đến danh tiếng của Rajiva.

    - Phu nhân chính là người khiến pháp sư phá giới. Phu nhân dịu dàng, hiền thục và cũng rất biết cách chiều chồng. Ngày thành hôn, pháp sư kiên trì không phá giới, nhưng với sức quyến rũ mê hồn, phu nhân đã đánh thức bản năng đàn ông của pháp sư, khiến ngài chẳng thể khống chế nổi bản thân.

    - Ngươi…

    Tôi quắc mắt đáp trả vẻ cười cợt nham hiểm của Lữ Soạn. Chưa kịp lên tiếng phản đối đã bị ném thứ gì đó vào đầu. Quay lại, tôi thấy một mẩu bánh. Tuy không đau, nhưng tôi cảm thấy ấm ức và tủi thân vô cùng. Tôi cảm thấy lạnh người trước ánh mắt hằn học từ bốn phía. Tôi giống như nhân vật Hester Prynne trong cuốn tiểu thuyết “Chữ A màu đỏ” của Nathaniel Hawthorne. Ánh nhìn sắc nhọn của đám đông như khắc trước ngực tôi một chữ A vô hình. Tôi hiểu rằng kết hôn với một nhà sư sẽ phải nhận lấy sự chỉ trích, tôi tưởng rằng mình có thể chịu đựng được. Nhưng, khi thực sự đối mặt với thời khắc đó, tôi chẳng thể kìm chế nổi nỗi buồn tủi và ấm ức. Đám đông ném vào người tôi nhiều thứ khác, tôi cắn răng chịu đựng, mặc cho họ ném. Tôi không thể lên tiếng, vì đám đông đã bị Lữ Soạn kích động, biện bạch lúc này chỉ càng khiến họ thêm tức giận. Tôi tự nhủ lòng, Lữ Soạn không thể giam giữ tôi ở đây mãi được, chịu khó chịu đựng một chút rồi sẽ qua thôi. Con đường phía trước còn rất dài, chúng tôi đã thề nguyền sẽ cùng nhau vượt qua tất cả, bởi vậy, lúc này tôi không thể gục ngã.

    - Dừng lại!

    Có tiếng hét vang đầy phẫn uất, đám đông rẽ lối. Là chàng! Chàng chạy như bay về phía tôi, hổn hà hổn hển, mặt biến sắc vì lo lắng. Tôi vội vã đưa mắt ra hiệu cho chàng đừng lại gần tôi. Với tình hình như hiện nay, chàng đến cũng không giải quyết được vấn đề gì, ngược lại sẽ gây bất lợi cho chàng.

    Chàng mặc kệ ám hiệu của tôi, vẫn sải bước nhảy lên khán đài, dang rộng hai tay, che chắn cho tôi. Đám đông lập tức ngưng bặt những tiếng bàn luận ồn ào, những cánh tay đang chực ném đồ về phía tôi cũng chững lại. Đứng phía sau chàng, không thấy rõ biểu cảm của gương mặt chàng, chỉ thấy chàng chắp tay hành lễ, cất giọng trầm ấm, từng lời rành rọt:

    - Thưa các vị thí chủ, phá giới, kết hôn là tội lỗi của Rajiva. Mọi người muốn trút oán giận, ta xin một mình chịu hết, không liên can đến vợ ta.

    Vợ ta ư?

    Chàng dõng dạc cất lên hai tiếng “vợ ta” trước đám đông! Nước mắt chực trào ra, tôi ra sức ngăn lại. Chàng có biết lời tuyên bố ấy sẽ khiến chàng phải chịu ô danh, bị người đời phê phán suốt hơn một nghìn năm hay không?

    - Pháp sư hết lòng bảo vệ vợ yêu, thật đáng ngưỡng mộ!

    Lữ Soạn cất giọng cười mỉa mai:

    - Pháp sư vẫn còn nặng lòng trần, cũng khó trách ngài quyến luyến niềm hoan lạc của người đời.

    Đầu ngẩng cao, lưng vươn thẳng, Rajiva đứng đó, ngạo nghễ kiêu hãnh, giọng nói quyết đoán:

    - Nhà sư lấy vợ, quả là chuyện khó có thể chấp nhận. Nhưng Rajiva đã thề trước Phật tổ, rằng sẽ chung sống với người con gái này trọn đời, cô ấy chính là vợ của ta, ta không bao giờ phụ nàng. Còn về chuyện Rajiva không giữ nghiêm giới luật, ta tự cảm thấy hổ thẹn với Phật tổ. Ta bằng lòng xuống địa ngục A Tì, vĩnh viễn chẳng thể tái sinh. Nhưng Rajiva vẫn nuôi khát vọng lớn lao, truyền bá đạo Phật khắp cõi Đại thiên Thế giới, phổ độ, cứu giúp chúng sinh thoát khỏi nạn kiếp.

    Chàng ngừng lại, xoay người, nhìn tôi, nụ cười mãn nguyện rạng rỡ bên khóe môi. Rồi khi quay lại đối diện với đám đông, giọng nói đã được đẩy lên một cung bậc cao hơn:

    - Khi tâm nguyện đã hoàn thành, vợ chồng Rajiva sẽ cùng nhau xuống địa ngục, quyết không chớp mắt sợ hãi. Bóng dáng cao lớn của chàng che chắn cả một vùng trời. Tôi cười, sao tôi có thể nấp sau lưng chàng! Tôi bước lên, đứng cạnh chàng, đan tay mình vào tay chàng, ngẩng cao đầu. Khoảnh khắc đó, niềm hạnh phúc ngập tràn trong lòng tôi. Xuống địa ngục thì sao? Bất kể nơi đâu có chàng, với em, cũng sẽ là thiên đường.

    Đám đông dưới kia nhất loạt tròn xoe mắt, dường như họ không biết phải phản ứng ra sao trước vẻ bình thản của chúng tôi. Yên lặng hồi lâu, tôi đưa mắt quan sát Lữ Soạn, bộ mặt hầm hầm tức giận của hắn bỗng nhiên giãn ra và hắn khẽ gật đầu. Theo chiều mắt hắn, tôi nhận ra một kẻ đứng lẫn trong đám đông, đang giơ tay lên và ném vật gì đó về phía chúng tôi.

    Rajiva thốt lên đau đớn, chàng lảo đảo. Một cục đá. Kẻ đó tuy vận trang phục Khâu Tử, nhưng rõ ràng không phải người Khâu Tử. Tôi giận sôi người, thì ra, Lữ Soạn đã cho quân trà trộn vào đám đông, bày trò kích động. Phải chăng những thứ ném vào chúng tôi đều là do người của hắn ra tay?

    Hành động đó quả nhiên đã phát huy tác dụng khơi mào. Đám đông rộ lên những tiếng la ó, chúng tôi bị bao vây giữa hàng trăm hàng nghìn cặp mắt khinh miệt, giận dữ, tưởng chừng không thở nổi. Người ta ném ngày càng nhiều thứ vào người chúng tôi. Rajiva quay lưng về phía đám đông, dang rộng hai tay che chắn cho tôi. Nép dưới cánh tay chàng, tôi âm thầm rút súng gây mê. Tôi có thể nhẫn nhịn để người ta ném đồ vào mình, nhưng Rajiva không thể được. Chàng là bậc danh sư, chàng phải giữ gìn sự tôn nghiêm của mình trước người đời. Chuyện xảy ra trong chùa khi trước, tôi đã gắng nhẫn nhịn, vì nếu nhằm vào Lữ Quang, sẽ ảnh hưởng đến cục diện chính trị. Lữ Soạn chỉ là đồng bọn, nhằm vào hắn sẽ không nguy hiểm gì nhiều.

    Lữ Soạn hả hê nhìn chúng tôi, định mở miệng nói điều gì đó, bỗng hai mắt trợn ngược, vẻ mặt kinh hãi, chỉ giây lát sau, cả người hắn đã đổ kềnh xuống, bụi đất tung bay.

    - Lữ tướng quân!

    Thuộc hạ của hắn hốt hoảng chạy đến, lật người lại, lay mạnh hồi lâu vẫn không thấy có phản ứng gì. Đám đông xôn xao, tình thế trở nên hết sức bất ổn.

    Rajiva quay lại nhìn tôi, vẻ băn khoăn, nghi hoặc. Tôi khẽ gật đầu ra hiệu. Chàng dường như không lí giải nổi, nên chỉ biết giữ chặt lấy tôi. Một cánh tay đặt lên vai tôi khiến tôi giật mình, né sang bên. Thì ra là Pusyseda, nụ cười gượng gạo trên môi cậu, hơi thở hổn hển, mũ áo xộc xệch. - Xin bà con trật tự, lắng nghe tôi nói. Pusyseda khua tay, ra sức kêu gọi đám đông giữ trật tự. Có lẽ nhờ thân phận quốc sư, đám đông dần bặt tiếng, ai nấy đều dồn sự chú ý vào cậu ta. - Thưa bà con, đây là ý chỉ của Phật tổ. Pusyseda đưa mắt đảo quanh một lượt, cất giọng sang sảng:

    - Phật tổ cũng thấy bất bình, nên muốn cảnh cáo Lữ tướng quân không nên ức hiếp người khác quá đáng. Ngày pháp sư thành thân, những vị nào tới tham dự, chắc hẳn vẫn nhớ, pháp sư đã bị ép buộc ra sao?

    Pusyseda sải bước trên khán đài, vung tay hướng về đám đông, nói lớn:

    - Pháp sư là người giàu lòng từ bi, hôn ước đã được lập trước sự chứng giám của Phật tổ, pháp sư đâu dám trái lời. Hơn nữa, ngài lại một lòng hướng Phật, truyền bá Phật pháp phổ độ chúng sinh vẫn luôn là lý tưởng lớn lao, là tâm nguyện khôn nguôi canh cánh bên lòng. Khâu Tử chúng ta có được một pháp sư hết lòng phụng sự Phật pháp, hết lòng vì muôn dân như vậy, chúng ta phải lấy làm vui sướng, hãnh diện mới phải chứ!

    Gương mặt của quần chúng đã trở nên khoan hòa hơn, không ít người gật đầu đồng tình. Tôi vừa quan sát vừa ngơ ngẩn, phản xạ của cậu ta mới nhạy bén làm sao! Bài hùng biện ngẫu hứng trước những người dân Khâu Tử - vốn một lòng tín Phật ấy, chắc chắn sẽ giúp Rajiva lấy lại thanh danh.

    - Còn cô gái này…

    Pusyseda đột nhiên quay lại, chỉ vào tay tôi.

    - Cô ấy không chỉ là công chúa Akieyemoti – con gái nuôi của Nhà vua, cô ấy còn là tiên nữ, được Phật tổ cử xuống, giúp pháp sư vượt qua kiếp nạn này. Bởi vậy, Phật tổ không đành lòng thấy họ phải chịu áp bức, mới hiển linh làm phép để cảnh báo mọi người. Kẻ nào còn nuôi dã tâm hãm hại vợ chồng pháp sư…

    Cậu ta ngừng lại, đưa mắt hết lượt những người có mặt tại đó, rồi dừng lại tại nơi mà Lữ Soạn đang nằm sóng soài, bất động, tỏ vẻ lo ngại:

    - Không biết Phật tổ sẽ trừng phạt kẻ đó nghiêm khắc đến thế nào?

    Pusydesa ngồi phía đối diện, quan sát tôi bôi thuốc cho Rajiva dưới ánh đèn dầu lập lòa. Tôi nhìn vết thâm tím trên cánh tay và trên trán chàng mà xót xa, nhưng Rajiva vẫn bình thản lạ lùng.

    - Những lời nói của đệ hôm nay tuy đã cứu nguy cho chúng ta, nhưng đó là những lời nói dối, từ nay không được nhắc lại nữa.

    Rajiva cất giọng nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc với em trai. Tôi ngạc nhiên, đưa mắt nhìn chàng.

    - Sao lại nói dối? Pusyseda bật dậy: - Ngải Tình rõ ràng là tiên nữ kia mà! Chỉ tại cái tên Lữ Soạn đó không biết trời cao đất dày là gì, cả gan xúc phạm hai người trước đám đông. Huynh có thể nhịn được, nhưng đệ thì không.

    - Tôi…

    Tôi ngập ngừng, không biết có nên nói cho cậu ấy biết thân thế thật sự của tôi hay không. Nhưng Rajiva đã kịp ấn nhẹ vào tay tôi. - Đệ nhiều lần tuyên bố trước đám đông, Ngải Tình là tiên nữ, làm vậy sẽ đẩy nàng vào chỗ nguy hiểm.

    Rajiva chậm rãi nói:

    - Nếu Lữ Quang biết Ngải Tình có được sức mạnh thần kỳ, nhất là biết dự báo tương lai, rất có thể hắn sẽ lợi dụng nàng.

    - Điều này…

    Pusyseda sững sờ không biết phải nói sao, mãi mới thở dài, cất lời xin lỗi:

    - Chỉ tại đệ nhất thời hồ đồ, không biết suy nghĩ thấu đáo.

    - Ngải Tình, Lữ Soạn sẽ thế nào? Rajiva quay lại hỏi tôi. - Hắn trúng thuốc mê, sẽ bất tỉnh một ngày một đêm, sau đó sẽ tỉnh lại, thuốc này không để lại di chứng gì cả.

    Chàng gật đầu, trầm tư giây lát rồi nắm chặt tay tôi:

    - Từ nay không được hành sự thiếu suy nghĩ như vậy nữa.

    Tôi gật đầu, nghĩ lại mới thấy quả là rất nguy hiểm. Nếu Pusyseda không tới kịp, tôi thật sự không biết phải xử trí ra sao. Ngoài ngõ đột ngột rộ lên tiếng chó sủa inh ỏi, tiếng bước chân rầm rầm từ xa vọng lại, dường như sắp có cả một đoàn người ngựa kéo tới đây. Ba người chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng đứng lên. Cánh cổng bật mở, những bước chân dồn dập ào vào sân nhà, dẫn đầu đoàn người là Lữ Quang, với bộ mặt tái nhợt vì lo lắng, phía sau là đám cháu con Lữ Thiệu, Lữ Long, có cả Đỗ Tấn và Bạch Chấn. Căn nhà nhỏ bé bỗng chốc chật kín người. Bạch Chấn đứng cạnh Lữ Quang, dùng ánh mắt sắc lạnh “trao đổi” với Pusyseda.

    Không đợi chúng tôi hành lễ, Lữ Quang vội chắp tay thi lễ với Rajiva:

    - Thưa pháp sư, không được ta cho phép mà thằng con hỗn xược của ta tự ý gây chuyện xằng bậy, đắc tội với pháp sư, nó thật đáng chết!

    Có thể thấy Lữ Quang đã phải gắng gượng thế nào đẻ tỏ ra nhún nhường, quỵ lụy:

    - Kính mong pháp sư mở lượng hải hà, cứu mạng con trai ta. Nó đã hôn mê suốt mấy canh giờ, ngự y tìm đủ mọi cách vẫn chẳng thể giúp nó tỉnh lại. Cứ tiếp tục như vậy, tính mạng của nó nguy mất.

    Rajiva chăm chú nhìn Lữ Quang, vẻ mặt bình thản. Chờ khi ông ta nói xong, mới chắp tay lại:

    - Tiểu tướng quân không…

    - Lữ tướng quân, Phật tổ giáng tội, sao có thể muốn cứu là cứu được ngay!

    Pusyseda ngắt lời Rajiva, lạnh lùng đáp lời. Lữ Quang ngẩng lên, chắp tay thành khẩn, lấy hơi, hỏi:

    - Vậy theo quốc sư, phải làm thế nào mới cứu được con ta?

    - Sở dĩ Phật tổ giáng tội là vì hai nguyên nhân: một là, Ngài không muốn đại ca tôi hoàn tục, hai là Ngài không đành lòng để vợ chồng họ phân ly. Nếu Lữ tướng quân có thể buông tay, không gây khó dễ cho họ nữa, chắc chắn con trai ngài sẽ được Phật tổ phù hộ.

    - Được, ta chấp thuận yêu cầu của quốc sư.

    Những đường gân xanh giần giật trên cổ Lữ Quang, ông ta lạnh lùng hỏi: - Nhưng phải làm sao để con ta tỉnh lại? Pusyseda nhìn Rajiva đầy ẩn ý, rồi quay sang Lữ Quang, khẽ cúi người:

    - Đại ca tôi sẽ tập hợp các nhà sư lại, cùng niệm chú cầu phúc cho tướng quân Lữ Soạn, nhất định Phật tổ sẽ thấu hiểu. Chỉ một ngày một đêm là con trai tướng quân sẽ tỉnh lại.

    - Nếu giờ này ngày mai con ta vẫn không tỉnh lại thì sao?

    - Chỉ cần tướng quân giữ lời hứa, Pusyseda nguyện lấy đầu mình ra đảm bảo.

    - Được! Nếu giờ này ngày mai con trai ta tỉnh lại, ta nhất định sẽ tuân thủ lời hứa. Lữ Quang đưa tay ra hiệu mời Rajiva:

    - Xin mời pháp sư!
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  19. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 58: Hạnh phúc giản dị
    Đêm đó, Rajiva ở lại trong chùa, không về nhà. Pusyseda đưa Hiểu Huyên tới trò chuyện để tôi đỡ buồn. Buổi chiều ngày hôm sau, cậu ta đến thông báo rằng, Rajiva cùng các nhà sư tụng kinh cầu khấn suốt một đêm, Lữ Soạn đã tỉnh lại, nhìn thấy Rajiva, hắn tỏ ra rất sợ hãi. Lữ Quang mất hết thể diện, không muốn tiếp tục lưu lại thành Subash, ra lệnh sáng sớm hôm sau sẽ khởi hành về thành Khâu Tử. Vợ chồng Pusyseda cũng nhớ hai đứa trẻ, nên sẽ trở về cùng Bạch Chấn.

    Hai vợ chồng họ ngồi đợi Rajiva cùng tôi. Ăn tối xong mới ra về. Trước khi đi, Pusyseda động viên chúng tôi cứ yên lòng, sau chuyện này, Lữ Quang chắc chắn sẽ nhận ra rằng, dù hắn có dùng thủ đoạn gì đi chăng nữa cũng không thể quật ngã nổi Rajiva. Tuy bạo ngược, nham hiểm, nhưng Lữ Quang là kẻ biết giữ lời, hắn đã cam đoan trước mặt bao nhiêu người như vậy, chắc chắn sẽ không gây khó dễ cho chúng tôi nữa.

    Tôi và Rajiva cùng thở phào nhẹ nhõm, cuối cùng cũng được yên ổn rồi! Phải đến tháng ba năm 385 sau Công nguyên, tức tháng ba năm sau, Lữ Quang mới rời khỏi Khâu Tử. Khi ấy, hắn sẽ đưa Rajiva đi cùng, nhưng chí ít, chúng tôi vẫn còn bốn tháng bình yên quý báu. Tối đó, tôi đem chuyện nói với Rajiva, ôm tôi trong lòng, chàng trầm tư hồi lâu mới lên tiếng:

    - Tới Trung nguyên vốn là sứ mệnh của ta, ta sẽ không nề hà. Có điều, nàng bằng lòng đi cùng ta chứ?

    - Em bằng lòng theo chàng đến chân trời góc bể.

    Tôi ngước nhìn đôi mắt thuần khiết đã khiến tôi mê đắm từ năm chàng mười ba tuổi, cất giọng chắc nịch:

    - Em sẽ bảo vệ chàng, ủng hộ chàng, trợ giúp chàng hoàn thành sứ mệnh.

    Nụ cười rạng rỡ khiến cả gương mặt điển trai của chàng bừng sáng. Nhưng như chợt nghĩ ra điều gì, chàng lập tức lấy lại vẻ nghiêm nghị, nhìn tôi:

    - Ngải Tình, không nên cho ai khác ngoài ta biết thân thế thực sự của nàng, cũng đừng nói cho ai biết về tương lai của họ. Ngoài ra, nếu không phải là trường hợp bất đắc dĩ, chớ nên sử dụng năng lực đặc biệt của nàng trước mặt người khác.

    Ánh mắt chàng hướng ra ngoài cửa sổ, tựa hồ đang trăn trở điều gì, nét muộn phiền, âu lo trùm lên hàng lông mày dài nhíu lại.

    - Chỉ e, khả năng dự báo tương lai của nàng sẽ thu hút sự chú ý của những kẻ đầy dã tâm kia hơn cả việc nàng là một tiên nữ…

    Tôi giật mình, chàng nói giống hệt sếp của tôi. Nhưng sếp nói ra điều này vì không muốn tôi thay đổi lịch sử, còn chàng là vì lo lắng cho sự an nguy của tôi. Trước đây, tôi không bận tâm về điều này, vì tôi luôn nghĩ tôi chỉ là khách qua đường, nếu có chuyện gì bất trắc, tôi sẽ lập tức trở về thời hiện đại. Nhưng, nếu muốn tồn tại trong thời đại chiến tranh loạn li này, chỉ một khoảnh khắc lỡ lời cũng có thể chuốc vạ vào thân. Huống hồ, giờ đây tôi không chỉ có một mình, tôi không thể để chàng bị liên lụy.

    Vòng tay lại, nghiêm cẩn hành lễ với chàng như một quân nhân, tôi trịnh trọng hứa hẹn:

    - Xin chàng yên tâm, em sẽ hoàn thành tốt vai trò của một người vợ, việc mình mình làm, không màng chuyện thiên hạ, thận trọng trong mọi hành động cử chỉ lời nói, sống khép mình, tuyệt đối không để lộ thân thế.

    Chàng phì cười, vẻ tuấn tú nho nhã làm sáng bừng cả căn phòng. Đã lâu tôi không được thấy chàng cười thoải mái như vậy, trong phút chốc, lòng háo sắc dâng lên cuồn cuộn, tôi cứ mải mê ngắm nghía chàng. Chàng đưa ngón tay cọ lên sóng mũi tôi, cười hỏi:

    - Chỉ làm vợ thôi ư? Tôi ngạc nhiên, tròn xoe mắt nhìn chàng. Vẻ thẹn thùng quen thuộc lại xuất hiện trên gương mặt chàng, chàng ôm tôi từ phía sau, ngả đầu vào vai tôi, bàn tay với những ngón dài, gầy guộc nhẹ nhàng đặt lên vùng bụng dưới của tôi: - Lẽ nào…

    Chàng dừng lại, hơi thở nằng nặng, giọng nói êm như ru lướt bên tai tôi:

    - Nàng không muốn làm mẹ ư?

    Tôi sững người. Làm mẹ? Sinh con? Em bé của tôi và chàng ư?

    Tôi xoay người lại, đối diện với chàng, gương mặt rạng rỡ, an nhiên của chàng giờ đây đang chín đỏ vì ngượng ngùng, nhưng ánh mắt nhìn tôi đăm đăm, khóe môi nở một nụ cười chờ đợi:

    - Chàng…

    Tôi ngập ngừng hỏi:

    - Muốn có em bé thật ư?

    - Trước đây, ta chưa bao giờ dám nghĩ đến việc sẽ có con.

    Gương mặt chàng vẫn đỏ như gấc chín, nhưng ánh mắt nhìn tôi kiên định:

    - Sau khi chung sống với nàng, ta rất muốn có một đứa con. Nếu được, ta muốn một cô con gái, trông giống hệt nàng. Ta nhất định sẽ yêu con hết lòng.

    Sống mũi cay cay, tôi nghẹn ngào:

    - Chàng không sợ điều tiếng ư?

    - Phá giới, kết hôn, lẽ nào ta chưa từng chịu điều tiếng, dị nghị? Nàng biết mà, ta không màng người đời nay, người đời sau phán xét ta ra sao.

    Vẻ mặt chàng bình thản, nhưng trong những khoảng lặng của suy tư, vẫn hiển hiện đôi nét phiền muộn:

    - Ta chỉ mong có một đứa con, để ngày sau, nếu nàng phải ra đi, có con ở bên cạnh, ta…

    - Em sẽ không đi đâu cả!

    Tôi đặt tay lên miệng chàng, bực bội:

    - Chàng đừng quên chúng ta đã buộc áo hẹn ước trăm năm rồi, chàng muốn bỏ em ư, đừng hòng!

    Chàng đáp lại tôi bằng ánh mắt thiêu đốt, khẽ hôn lên lòng bàn tay tôi đang đặt trên môi chàng. Như có một luồng điện lan khắp cơ thể, toàn thân tôi khẽ rung động. Chàng nhấc bổng tôi lên, chàng bây giờ rất thích bế tôi lên giường. Chúng tôi quấn lấy nhau, mắt môi hòa quyện, ngọt ngào, mềm mại trong những giao kết của xúc cảm yêu đương, nhưng vào khoảnh khắc hồn phách tôi điên đảo khi lên tới đỉnh điểm, chàng bỗng nhiên rút lui. Chàng chưa bao giờ làm vậy, tôi hỏi trong hơi thở hổn hển:

    - Chàng sao vậy?

    Chàng nghỉ ngơi trong giây lát, để kìm lại hơi thở gấp gáp, vén những sợi tóc ướt đẫm mồ hôi của tôi sang bên, dịu dàng đáp:

    - Chúng ta không thể có con lúc này. Tháng ba sang năm chúng ta sẽ lên đường, nửa năm sau mới tới được Guzang (Cô Tạng). Đường đi gian nan, nếu nàng có thai, làm sao chịu đựng nổi.

    Chàng đưa tay kéo tôi vào lòng, hôn lên trán tôi:

    - Chờ đến khi tới Guzang, mọi thứ được sắp xếp ổn thỏa, gia đình mình khi ấy sẽ có thêm thành viên mới.

    Vùi đầu vào ngực chàng, lắng nghe tiếng tim chàng thổn thức, tôi cười thẹn thùng, trong lòng chộn rộn những nỗi niềm lo âu. Chúng tôi chưa bao giờ sử dụng phương pháp tránh thai, lời chàng đã nhắc nhở tôi. Nửa năm lênh đênh trên đường với giao thông lạc hậu thời cổ đại, chắc chắn không thể êm ru, thoải mái như thời hiện đại. Nếu vậy, tôi không nên có bầu khi chưa đến Guzang. Nhưng điều khiến tôi lo lắng hơn cả, không phải chuyện này, mà là: liệu tôi có thể có thai không? Sau mấy lần vượt thời gian, không biết tia phóng xạ có hủy hoại chức năng làm mẹ của tôi hay không? Và ngay cả nếu như tôi có thể có thai, tôi không biết mình có thể sinh nở thuận lợi, mẹ tròn con vuông hay không? Tôi không ngại phương pháp đỡ đẻ lạc hậu thời cổ đại, nhưng tôi, tôi không thể bị thương. Sinh đẻ có được coi là bị thương không?

    Nhiều lần muốn nói với chàng, nhưng nụ cười tràn đầy hi vọng của chàng khiến tôi không sao mở lời được. Nếu chàng biết tôi đã phải trả giá thế nào để được vượt thời gian, chắc chắn chàng sẽ cảm thấy day dứt không nguôi. Chúng tôi đã phải trải bao sóng gió mới có được hạnh phúc này, tôi không thể phá hoại nó. Tôi đưa mắt ra ngoài cửa, chiếc ba lô của tôi giờ này đang nằm đâu đó trong phòng đồ đạc, đồng hồ vượt thời gian và áo chống tia phóng xạ cũng đều ở đó. Nhiều lần muốn vứt bỏ những thứ chứa phóng xạ ấy đi, nhưng tôi lại nhớ tới lời căn dặn của sếp. Chần chừ, do dự, cuối cùng tôi vẫn chẳng thể gỡ bỏ mối dây liên hệ với thế kỷ XXI. Tôi chỉ có thể giấu chiếc ba lô ấy ở một nơi càng khuất tầm nhìn của mình càng tốt và cầu mong rằng, cả đời này tôi sẽ không phải dùng đến nó nữa.

    - Đang nghĩ gì mà ngơ ngẩn vậy?

    Chàng nghiêng người, nằm sát bên tôi, bàn tay ve vuốt mái tóc tôi, ánh mắt yêu chiều, dịu dàng. - Còn một cách khác có thể giúp tránh thai. Tôi giải thích cho chàng hiểu các khái niệm thời kỳ rụng trứng, thời kỳ an toàn. Chàng lắng nghe chăm chú, tìm hiểu cặn kẽ kiến thức sinh lý của thời hiện đại, và không ngừng tán thưởng trí tuệ vượt trội của con người một nghìn năm sau. Tôi thầm vui mừng, vậy là chàng đã dần chấp nhận hiện thực, rằng chàng có một người vợ đến từ tương lai.

    Những ngày tháng hạnh phúc êm đềm khiến chúng tôi tạm gác qua một bên mọi phiền não. Tài nghệ bếp núc của tôi đã tiến bộ đáng kể. Rajiva thường xuyên mang cơm hộp tôi chuẩn bị cho chàng tới chùa. Sau khi đã học được cách nấu ăn của người cổ đại, tôi tiếp tục học hỏi cách họ giặt giũ quần áo. Không máy giặt, không bột giặt, không nước xả vải, chỉ có bánh xà phòng, tấm gỗ chà quần áo và chiếc chày gỗ. Lần đầu tiên theo chị Adoly ra sông Tongchang giặt giũ, vì không biết sử dụng chiếc chày gỗ, tôi khom lưng, khuỳnh chân trong tư thế Võ Tòng đánh hổ, thiếu chút nữa là đập rách cả quần áo, điệu bộ ấy khiến các chị em có mặt bên sông lúc đó cười vang.

    Giặt giũ xong, trên đường về nhà, ai nấy gặp tôi đều có ý né tránh. Tôi tự an ủi, không sao, không cần để ý người khác nghĩ gì về mình. Tôi vươn thẳng lưng, ngẩng cao đầu, bước đi. Bỗng, một người phụ nữ chặn tôi lại khiến tôi giật thót tim. Chị ta đặt vào tay tôi một bó rau, ngập ngừng nói:

    - Thưa công chúa, rau này tôi vừa hái. Pháp sư cầu phúc chữa bệnh cho con tôi, lòng từ bi của ngài đã cứu sống nó. Nhà tôi nghèo, không có của nả gì để đền ơn pháp sư, mong công chúa nhận lấy bó rau này. Cầu chúc công chúa và pháp sư được bình an, may mắn!

    Tôi đón lấy bó rau xanh non, vẫn còn đọng nước trong nỗi ngạc nhiên vô hạn. Đây là lần đầu tiên tôi nhận được lời chúc phúc từ người lạ, trong lúc bối rối, tôi chỉ biết cảm ơn. Về đến nhà, tôi cứ ngẩn ngơ ngồi nhìn bó rau, mãi cho tới khi Rajiva trở về. Tôi hớn hở kể lại cho chàng nghe câu chuyện về bó rau, nghe xong, chàng chỉ khẽ mỉm cười, rồi chìm vào suy tư.

    Ngày hôm sau, chàng về nhà sớm hơn mọi khi. Tôi đang học làm bánh với chị Adoly ở trong bếp. Chàng kêu tôi lau rửa sạch sẽ bột mì phủ đầy trên tay, trên mặt, thay quần áo khác, nhưng không nói để làm gì. Sau khi đã gọn ghẻ, tinh tươm trong bộ đồ mới, tôi vẫn đang băn khoăn thì chàng kéo tôi ra phố. Tôi hoàn toàn bất ngờ và kinh ngạc, đây là lần đầu tiên chúng tôi cùng nhau ra phố, và lại còn tay trong tay nữa chứ! Tôi muốn rút tay ra, nhưng chàng càng nắm chặt hơn. Chàng tươi cười nhìn tôi, nụ cười tựa gió xuân trong lành, nỗi xúc động rưng rưng trào dâng trong lòng tôi, tôi vươn thẳng người, mỉm cười đáp lại chàng. Chúng tôi dắt tay nhau, bước vào các con phố trong thành Subash.

    Bất cứ ai nhìn thấy chúng tôi cũng đều không giấu nổi vẻ kinh ngạc. Rajiva niềm nở chào hỏi mọi người như thường ngày với thái độ khiêm nhường, kính cẩn và phong thái cao đạo. Bao năm làm trụ trì chùa Cakra, chàng hầu như quen biết tất cả người dân trong thành Subash. Chàng đưa tôi đến từng nhà chào hỏi, chúng tôi như thể đôi vợ chồng son dắt tay nhau đi dạo sau bữa tối vậy. Thái độ ngượng ngập, khó xử ban đầu đã dần dà được thay thế bởi sự hòa nhã, cởi mở và đón nhận. Ngày càng nhiều người bắt chuyện với chúng tôi, gọi tôi là “công chúa”. Trên đường, chúng tôi gặp không ít các nhà sư, tuy lúc ngang qua, họ nhìn tôi với vẻ kinh ngạc, nhưng vẫn chắp tay cúi đầu Rajiva. Rajiva điềm nhiên chào lại họ và kiên trì yêu cầu từng tăng sĩ gọi tôi là “sư mẫu”. Lúc chúng tôi ra về, trời đã nhá nhem tối, trên tay đầy lương thực và đồ dùng. Tất cả đều là của bà con gửi biếu, muốn từ chối cũng không được.

    Kể từ đó, mỗi lần ra khỏi nhà, tôi không còn bị ghẻ lạnh, coi thường nữa. Ngày nào cũng có người tới nhà chơi, tặng quà, trò chuyện. Tuy không quen với sự tò mò của những người dân này, nhưng được họ đón nhận là tôi vui mừng rồi. Rajiva đọc sách dưới ánh đèn dầu. Tôi ôm giỏ kim chỉ ngồi cạnh chàng. Đặt một tờ giấy tốc ký xuống dưới đất, nhắc chàng cởi giầy, rồi đặt chân lên, dùng bút chì phác họa bàn chân chàng. Mấy ngày sau, chị Adoly đã dạy tôi cách khâu giày vải, làm tấm lót. Tập giấy tốc ký của tôi giờ đã có thêm tác dụng mới. Trong giỏ đồ may vá là chiếc áo bị rách một miếng nhỏ ở khuỷu tay, chàng nằng nặc muốn giữ lại. Vẽ xong cỡ giày, tôi trở về chỗ ngồi bên cạnh chàng, cắt một miếng vải đồng màu, vá lại tay áo cho chàng.

    Kim đâm vào tay tôi. Chàng đặt sách xuống, kiểm tra ngón tay tôi, rồi, đúng như tôi nghĩ, chàng đặt ngón tay tôi lên miệng và mút. Ha ha, tôi đã ngóng đợi phút giây ấm áp này biết bao! - Nàng không cần phải làm những việc này! Chàng ngước nhìn lên, thấy tôi cười thích thú, liền tỏ ra giận dỗi:

    - Vì sao không để chị Adoly làm?

    Tôi tinh nghịch nhướn mày trêu chọc chàng. Không thể nói với chàng, rằng tôi rất muốn được trải nghiệm. Trong các bộ phim cổ trang, thường xuyên xuất hiện cảnh này: anh chồng thư sinh ngồi đọc sách, cô vợ hiền thục ngồi khâu vá bên cạnh. Rồi cô vợ bị kim đâm vào tay, anh chồng lo lắng mút máu ở tay cho vợ. Mỗi lần xem cảnh này, tôi đều vô cùng cảm động. Con người ở thế kỷ XXI ai nấy đều bận rộn. Vợ chồng thời hiện đại, mặc dù cùng chung sống dưới một mái nhà, nhưng người thì xem bóng đá, người thì lên mạng. Làm gì còn cảnh “cùng nhau khêu nến bên song cửa”[1], đầu mày cuối mắt ngọt ngào như xưa nữa.

    [1] Câu thơ trong bài Dạ vũ ký bắc của Lý Thương Ẩn.

    Tâm sự ấy, nỗi niềm ấy không biết phải giãi bày ra sao để chàng hiểu, nên chỉ đành cười ngu ngơ và tìm cách chuyển đề tài:

    - Chàng đang đọc sách gì vậy?

    Câu hỏi vu vơ của tôi mà khiến chàng đỏ mặt. Lạ quá, tôi cầm sách lên đọc. Rajiva nghiên cứu rất nhiều lĩnh vực, dường như chàng đọc mọi loại sách, tốc độ rất nhanh và trí nhớ thì siêu phàm. Chàng đang đọc sách y dược viết bằng chữ Hán. Chàng có tìm hiểu về y dược, thỉnh thoảng chàng còn khám bệnh cho người dân. Nhưng vì sao chàng phải đỏ mặt! Tôi giải tỏa nghi vấn bằng cách lật mở đến trang sách chàng đang đọc và khi hai chữ “quý thủy”[2] lọt vào mắt tôi, tôi thấy hai má nóng ran.

    [2] Còn gọi là âm thủy, chỉ kinh nguyệt của phụ nữ.

    Trong những ngày bị giam lỏng trước đây, có lần thấy tôi ôm bụng quằn quại, chàng đã vô cùng hoảng hốt, vội vàng bắt mạch xem bệnh cho tôi. Tôi đỏ mặt, ngượng ngùng giải thích để chàng hiểu thế nào là đau bụng khi có kinh và rằng, ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt tôi đều đau suốt mấy tiếng. Chàng bối rối không biết phải làm sao, chỉ liên tục hỏi han: “Còn đau không?”. Lần thứ hai chàng chứng kiến cảnh ấy là khi chúng tôi đã thành thân. Rút kinh nghiệm lần trước, ngày hôm đó chàng hết sức dịu dàng, ân cần xoa bụng cho tôi. Chẳng ngờ, chàng còn tìm đọc cả phương pháp giúp giảm đau khi có kinh nữa, không cảm động sao được. Nhìn khuôn mặt đỏ như gấc chín của chàng, tôi không nhịn nổi cười.

    - Ba ngày nữa, nàng sẽ bị đau.

    Thấy tôi cười, chàng có vẻ bối rối:

    - Ngày mai ta bảo anh Kaodura đi lấy thuốc, nàng phải chịu khó uống, sẽ đỡ hơn.

    Tôi ngạc nhiên:

    - Sao chàng biết còn ba ngày nữa?

    - Ta là chồng nàng, ta phải biết chứ.

    Chàng cốc nhẹ vào trán tôi, sắc đỏ trên gương mặt vẫn còn nguyên:

    - Chỉ có người phụ nữ vô tâm vô tư như nàng mới không nhớ thôi.

    Tôi lè lưỡi chọc chàng. Quả thực, tôi chưa bao giờ ghi nhớ chính xác kỳ kinh nguyệt của mình. Bởi vì chu kỳ kinh nguyệt là hai mươi tám ngày, không đồng nhất với lịch dương mà chúng ta vẫn dùng, khiến tôi hay bị nhầm lẫn. Khi nào tôi cảm thấy sắp đến kỳ kinh, tôi sẽ mang theo băng vệ sinh bên mình. Trước lúc vượt thời gian đến đây, tôi đã nhét vào ba lô số lượng đủ dùng cho hai năm, mất khá nhiều diện tích. Tôi vòng tay ôm eo chàng, ngả đầu vào vai chàng, nũng nịu:

    - Trí nhớ của chàng tốt hơn em, chàng nhớ giùm em là được rồi!

    - Nàng thật là… Tôi xiết chặt hơn vòng tay, vùi đầu vào ngực chàng, hít hà mùi cơ thể chàng.

    - Chỉ những người được yêu mới có quyền lười nhác.

    Chàng bật cười, kéo tôi ngồi lên đùi chàng. Tôi vòng tay qua cổ chàng, ngả đầu vào vai chàng, cùng chàng đọc sách. Chàng là chiếc ghế tựa êm ái của tôi, mãi mãi như vậy.

    Chợt nhớ tới lời một bài hát xưa: “Em tự hỏi lòng mình qua nhiều ngày buồn thảm và nhận ra hạnh phúc thật sự chỉ đến trong những khoảnh khắc mộc mạc, thảnh thơi”. Tình yêu dù tươi đẹp, cuồng nhiệt đến đâu rồi cũng sẽ nhạt dần. Nhưng được cùng chàng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi trong cuộc sống lắm gian truân này, tôi cảm thấy vô cùng mãn nguyện.

    Ngày tháng êm đềm trôi qua, chúng tôi cùng nhau bước vào mùa đông năm 384 sau Công nguyên. Công việc của chàng đã gặt hái được những thành tựu to lớn: hầu hết các tăng sĩ bỏ trốn đều đã quay lại chùa, nền nếp trong chùa đã được khôi phục và duy trì. Nỗi đau chiến tranh khiến người dân càng thêm tín Phật, ngày nào chàng cũng miệt mài bận rộn. Tôi cũng đã học hỏi được rất nhiều kỹ năng sống của con người thời đại này. Tôi biết nấu cơm, giặt quần áo, may vá, khâu giày, muối dưa. Hàng ngày tôi đều theo chị Adoly ra chợ mua thức ăn, chuyện phiếm với bà con lối xóm. Dần dà, tôi đã hòa nhập được với cuộc sống của con người 1650 năm trước.

    Tất nhiên, Lữ Quang không buông tha cho chúng tôi. Bởi vậy, khi trận tuyết đầu tiên trút xuống Khâu Tử, nhìn thấy mấy tên lính người Đê đứng ngoài cổng, tôi thở dài, vậy là mọi chuyện sẽ xảy ra sớm hơn dự kiến.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
  20. Hoa Thiên

    Hoa Thiên Super Member
    • 1092/1243

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Nho Sinh Hàn Môn
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,328
    Đã được thích:
    4,709
    Chương 59: Lưu luyến
    Chúng tôi bị đưa về thành Khâu Tử và được sắp xếp ở trong cung. Tuy không xa hoa như tẩm cung của công chúa Wusun khi xưa, nhưng nơi đây không thiếu thốn thứ gì cả và còn có cung nữ phục dịch. Nhưng điều quan trọng là chúng tôi được tự do hơn trước đây. Lữ Quang viện cớ muốn nghe thuyết giảng Phật pháp, buộc Rajiva ngày ngày kề cận bên ông ta. Rajiva giống như một vị cố vấn, ngày nào cũng túc trực bên Lữ Quang, nên không thể tham gia bất cứ hoạt động nào của chùa Cakra.

    Nghe Rajiva than vãn về công việc chính sự nhàm chán hàng ngày của mình, tôi chợt hiểu ra mục đích của Lữ Quang. Ông ta không còn muốn chèn ép Rajiva, cũng không còn giữ ý đồ lợi dụng biến chàng trở thành “cơ quan ngôn luận” của ông ta nữa. Nhưng lòng nhiệt thành với ý tưởng và tôn giáo của chàng khiến ông ta lo ngại. Chùa Cakra chỉ cách thành Khâu Tử chừng bốn mươi dặm. Số lượng tăng sĩ và dân chúng trong thành cộng lại cũng đến hàng vạn người. Như vậy có nghĩa là, chỉ cần Rajiva lên tiếng kêu gọi, sẽ có một lượng không hề nhỏ bé ủng hộ chàng. Vì vậy, Lữ Quang không yên tâm để chàng tự do tự tại ngoài tầm kiểm soát của ông ta. Ông ta muốn Rajiva luôn ở cạnh mình để dễ bề kiểm soát. Tôi nói với Rajiva, kẻ nắm quyền lực xưa nay vẫn vậy. Vua chúa trong lịch sử đều không muốn các bậc cao tăng có sức mạnh hiệu triệu an cư tại những nơi mà nhà vua không thể kiểm soát, như những vùng núi đồi xa xôi, hẻo lánh. Vì rất có thể, khi số lượng tín đồ trở nên đông đảo, có kẻ nuôi dã tâm làm phản thì sao? Đường Thái Tông tin yêu Trần Huyền Trang là thế, vậy mà khi đại sư đã luống tuổi, muốn tới chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn an cư và dịch thuật kinh Phật, vua Đường đã từ chối thẳng thừng. Đây là một minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa cá nhân cực đoan của các bậc đế vương.

    Rajiva chìm trong suy tư hồi lâu. Cuộc sống an nhiên tự tại, muốn gì được nấy trước đây khiến Rajiva xem thường quyền lực thế tục. Thực ra, cho đến lúc này, chàng vẫn chưa nhận ra, tôn giáo vĩnh viễn không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc của quyền lực thế tục. Thế lực lớn mạnh của giáo đường Roma thời kỳ Trung thế kỷ lan tỏa khắp châu Âu, khiến tôn giáo này nghiễm nhiên trở thành sức mạnh thống trị của châu Âu. Thế nhưng, hoàng tộc các tiểu quốc châu Âu không chịu khuất phục, đã dấy lên các cuộc cải cách tôn giáo. Nổi bật nhất là cuộc cải cách tôn giáo của vua Henry VIII ở nước Anh. Ngài đã tự lập ra một tôn giáo và đặt làm quốc giáo, tuyên bố khai trừ Giáo Hoàng Roma ra khỏi danh sách nhà lãnh đạo các tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa tôn giáo và quyền lực thế tục đã diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử châu Âu thời kỳ Trung thế kỷ. Kết quả, tôn giáo đã phải lùi bước, trở thành công cụ thống trị tinh thần và phụ thuộc vào các vương triều.

    Sau khi Lữ Quang công phá Khâu Tử, Rajiva đã bảo vệ mọi thứ bằng cả tính mạng và sự tôn nghiêm của mình, nhưng trong cuộc đối đầu kịch liệt với nhà cầm quyền ấy, thực tế là chàng luôn rơi vào thế yếu. Mặc dù thế sự hỗn loạn đã tác hợp cho chúng tôi nên duyên, nhưng xét ở một góc độ khác, rõ ràng, đó chính là sự thất bại thảm hại của tôn giáo. Nhưng tôi không muốn giải thích cho chàng những lý luận kinh tế chính trị học này. Vì giả như chàng hiểu và chấp nhận những lý thuyết này đi nữa, tôi cũng không nên để tư tưởng của thời hiện đại ảnh hưởng đến chàng. Nhưng tôi tin, chàng sẽ nhận ra chân lý này, bởi vì khi Diêu Hưng xuất hiện, chàng đã biết tận dụng sự trợ giúp của sức mạnh thế tục để hoàn thành sứ mệnh của mình. Có điều, phải mất mười bảy năm trăn trở, mười bảy năm đằng đẵng trôi trong vô nghĩa ở Guzang, chàng mới nhận ra chân lý này. Như thế có phải là rất đáng buồn hay không? Hay ta hãy xét ở góc độ lạc quan, và xem mười bảy năm đó là khoảng lặng cần thiết, để chuẩn bị cho hành trình vinh quang, sáng lạn nhất trong cuộc đời chàng diễn ra sau đó?

    Tôi tựa vào vai chàng, ước gì có thể truyền cho chàng sức mạnh. Dù ngày mai có ra sao, mười bảy năm có em ở bên, mong rằng chàng sẽ hạnh phúc.

    - Cô Ngải Tình! Không đúng, phải gọi là công chúa mới phải.

    Tôi quay lại, nhận ra Đoàn Nghiệp trong bộ áo lông cừu, đang bước thấp bước cao tiến về phía tôi. Lúc này, tôi đã ra khỏi cung và đang trên đường đến phủ quốc sư thăm hai đứa nhỏ. Đoàn Nghiệp bước đến, cúi chào và niềm nở:

    - Đã lâu không gặp, công chúa trông tươi tắn hơn trước rất nhiều.

    Tôi vội đáp lễ. Ông ta hôm đó cũng theo Lữ Quang đến chùa Cakra, nhưng chỉ nhận ra tôi sau khi chúng tôi trở lại thành Khâu Tử. Lối sống của người Khâu Tử khá cởi mở, hoàng cung không có quá nhiều quy tắc nghiêm ngặt. Bởi vậy, tướng lĩnh của Lữ Quang đều được phép ra vào cung. Khi ông ta và Đỗ Tấn chạm mặt tôi, Đỗ Tấn đã nói với ông ta, tôi chính là công chúa Khâu Tử được gả cho đại pháp sư Kumarajiva, Đoàn Nghiệp vô cùng bất ngờ.

    - Công chúa, trời đông giá rét, ta có thể mời công chúa một chén rượu ấm, được không?

    Đoàn Nghiệp chỉ tay vào một quán rượu ven đường, dùng ánh mắt ra hiệu cho tôi. Tôi gật đầu, được thôi, tôi cũng đang muốn tìm hiểu một số thông tin từ ông ta.

    Đoàn Nghiệp chọn một buồng riêng, chúng tôi bảo người phục vụ đứng chờ ở bên ngoài. Khi chỉ còn lại hai người, Đoàn Nghiệp hạ thấp giọng:

    - Công chúa, Trường An đã bị Mộ Dung Xung bao vây. Thiên vương không tìm ra cách đối phó, cùng lúc gửi bốn lệnh triệu hồi Lữ tướng quân lập tức về kinh.

    Tôi ngẩng lên nhìn ông ta, im lặng. Sách “Tấn thư” viết rằng, Mộ Dung Xung là “người đồng tính”, là con trai út của Hoàng đế Tiền Yên – Mộ Dung Tuấn. Nhà Tiền Yên bị Phù Kiên tiêu diệt, năm mười hai tuổi, Mộ Dung Xung theo chị gái là công chúa Thanh Hà vào sống trong hậu cung của Phù Kiên, hai chị em đều được Thiên vương Phù Kiên rất mực sủng ái. Vương Mãnh nhiều lần khuyên ngăn, Phù Kiên mới đồng ý đưa Mộ Dung Xung ra ngoài cung, cho làm Thái thú Bình Dương.

    Đoàn Nghiệp cười mỉa mai:

    - Tên mọi trắng Mộ Dung này có biệt danh là Phượng Hoàng. Ngày trước, trong thành Trường An người ta hay kháo nhau về lời sấm truyền: “Chim phượng hoàng xuất hiện ở thành A Phòng”. Thiên vương nghĩ đó là điềm may mắn, đã cho trồng mấy chục vạn cây ngô đồng và tre trúc để chờ chim phượng hoàng tới. Điều đáng nực cười là, Mộ Dung Xung đã đánh bại quân của Thiên vương ngay tại thành A Phòng, như thế chẳng phải lời sấm truyền kia đã ứng nghiệm hay sao? Thiên vương xem nhẹ lời khuyến cáo của Vương Cảnh Lược[1], dung túng cho bọn người Sabir[2] nên mới có kết cục như hôm nay.

    [1] Vương Mãnh, chữ là Cảnh Lược.

    [2] Dân tộc thiểu số thời cổ, ở vùng Đông Bắc, Nội Mông, Trung Quốc.

    Tộc người Sabir khác với tộc người Hán, họ có nước da trắng như trứng gà bóc, lúc nào cũng tươi cười, khỏe khoắn. Hoàng thất Mộ Dung toàn là những vương tử điển trai, công chúa kiều diễm, người Đê gọi họ là bọn mọi trắng. Mộ Dung mới chừng hai mươi lăm tuổi, dẫn đầu một đội quân ô hợp, nhưng lực lượng của Phù Kiên lúc này đã suy yếu, nên mới bị dồn đuổi khỏi Trường An. Trên đường trốn chạy, Phù Kiên bị Diêu Trường (thuộc tộc người Khương) bắt. Và tháng năm năm 385 sau Công nguyên, người hùng bi kịch của thời kỳ Thập lục quốc – Phù Kiên đã bị giết bởi kẻ tiểu nhân giậu đổ bìm leo – Diêu Trường. Còn người đàn ông “nhan sắc” khuynh nước khuynh thành – Mộ Dung Xung, sau khi đánh chiếm Trường An, đã dung túng cho binh lính giết người cướp của, gây bao tội ác tày trời, biến vùng đất kinh kỳ trù phú, sầm uất thành địa ngục A Tỳ. Mộ Dung Xung không dám quay về quê cũ vì sợ thế lực lớn mạnh của người chú ruột Mộ Dung Thùy. Xưng đế chưa đầy một năm, Mộ Dung Xung bị thuộc hạ giết chết, khi ấy ông ta mới hai mươi bảy tuổi.

    Chuỗi biến cố lịch sử kinh thiên động địa ấy đang diễn ra ở cố đô Trường An, cách tôi cả ngàn dặm, mỗi khi nghĩ đến, tôi không khỏi xúc động rưng rưng. Nhưng vì sao Đoàn Nghiệp lại nói với tôi những điều này?

    Như đoán được nỗi băn khoăn trong mắt tôi, Đoàn Nghiệp tiếp tục hạ giọng, nói:

    - Lữ tướng quân vẫn chần chừ chưa quyết. Nếu quay về trong bối cảnh Trường An đang bị vây khốn bởi người Sabir và người Khương như hiện nay, sẽ rất nguy hiểm. Vả lại, có quay về cũng chỉ hao binh tổn tướng, chẳng thể lật ngược thế cờ, nên tướng quân không cam lòng. Nhưng nếu không quay về, một khi vượt qua được kiếp nạn này, Thiên vương ắt sẽ truy xét tội trạng, tướng quân khó thoát khỏi tội chết.

    - Vậy, Đoàn đại nhân mong tôi giúp gì cho ngài?

    Tôi điềm tĩnh nhấp một ngụm trà nóng. - Nay pháp sư ngày ngày túc trực bên tướng quân, nếu có thể, xin pháp sư mượn lời tiên tri thuyết phục Lữ tướng quân quay về Trường An. Tuy không tín Phật, nhưng tướng quân hẳn sẽ tiếp nhận những lời tiên đoán.

    Tôi chợt nảy ra ý định, hỏi:

    - Vì sao đại nhân muốn Lữ tướng quân quay về?

    - Như hầu hết anh em trong đoàn quân, gia đình tôi cũng ở vùng Quan trung[3], tôi đêm ngày thương nhớ cha mẹ, vợ con, nên một lòng muốn quay về.

    [3] Chỉ vùng đồng bằng phù sa màu mỡ thuộc hạ lưu sông Vị Hà, dưới chân núi phía Bắc của dãy Tần Lĩnh thuộc tỉnh Thiểm Tây – Trung Quốc, trung tâm là cố đô Tây An.

    Đoàn Nghiệp nở nụ cười đầy ẩn ý, hạ giọng thêm nữa:

    - “Hào quang xuất hiện ở Kiện Khang, nghiệp lớn sẽ thành ở Hà Tây”. Tôi chưa biết Kiện Khang và Hà Tây là vùng đất nào, nhưng chắc chắn không thể là Tây vực. Đoàn Nghiệp tôi muốn nên nghiệp lớn, không thể cứ níu chân ở Khâu Tử này mãi.

    Tôi khá bất ngờ, thì ra ý đồ của ông ta là vậy! Chưa xét đến thực lực, giống như hầu hết các vị nam nhi đại trượng phu, luôn tự vỗ ngực xưng anh hùng của thời đại này, Đoàn Nghiệp cũng nuôi dã tâm lớn. Tôi trầm tư hồi lâu mới cất tiếng:

    - Tôi ra ngoài đã lâu, đến lúc phải về rồi. Đứng lên, bước ra cửa, ngập ngừng một lát, tôi nói:

    - Một mình pháp sư không thể khiến Lữ tướng quân hạ quyết tâm trở về. Sao Đoàn đại nhân không nghĩ cách để Đỗ đại nhân thuyết phục Lữ tướng quân? Nếu không hành động nhanh chóng, chờ khi việc phân chia thiên hạ đã được an bài, Lữ tướng quân có trở về cũng chỉ còn cơm thừa canh cặn mà thôi.

    Lữ Quang cuối cùng cũng ra đi. Lúc này là cuối tháng mười hai, tuyết dày khiến giao thông trên con đường tơ lụa bị ngừng trệ. Bởi vậy, phải chờ vài tháng nữa, Lữ Quang mới lên đường. Hôm đó, sau khi phân tích cục diện của Trung Nguyên, tôi nói với Rajiva:

    - Rajiva, chàng phải khuyên ông ta trở về Trung Nguyên.

    Sử sách chép rằng, Lữ Quang nghe lời khuyên của Rajiva mới quay về Trường An. Nhưng tôi không cho rằng Rajiva có sức ảnh hưởng lớn đến ông ta đến thế. Mâu thuẫn giữa họ không dễ xóa bỏ nhanh chóng như vậy. Lữ Quang chần chừ, phần vì ông ta muốn có thêm thời gian vơ vét của cải của Khâu Tử, phần vì muốn quan sát tình hình ở Trung Nguyên. Ông ta quay về, không phải vì sợ uy Phù Kiên, mà vì muốn chiếm một vùng đất sau khi Đế quốc Tiền Tần tan rã. Các quốc gia ở Tây vực giống như những ốc đảo nhỏ giữa vùng hoang mạc khắc nghiệt, thực lực yếu ớt, muốn chiếm cứ và quản lý cả vùng Tây vực, ông ta sẽ phải bỏ ra rất nhiều công sức. Trong khi các vùng đất ở Trung Nguyên lại rộng lớn, màu mỡ, dễ dàng thiết lập và củng cố chính quyền. Thêm vào đó, binh lính của ông ta đều là người Quan trung, xa nhà đã lâu, ai nấy đều mong quay về. Bởi vậy, sau khi cân nhắc thiệt hơn, Lữ Quang nhận thấy quay về vẫn là thượng sách. Chỉ cần Rajiva và Đỗ Tấn cùng tác động, chắc chắn Lữ Quang sẽ sớm đưa ra quyết định.

    - Ta hiểu. Nếu ông ta ra đi, đó là may mắn của Khâu Tử.

    Chàng ngắm nhìn những bông tuyết trắng ngút bên ngoài cửa sổ với ánh mắt lưu luyến. Vài tháng nữa, chàng sẽ phải rời xa quê hương, không hẹn ngày trở về. Tôi đan tay mình vào tay chàng, dựa đầu vào vai chàng, cùng chàng lắng nghe tiếng tuyết rơi ào ạt ngoài kia. Đây là lần cuối cùng chúng tôi được ngắm nhìn khung cảnh tuyệt đẹp này.

    Tết Nguyên đán của người Hán, Lữ Quang tổ chức rất náo nhiệt. Người Đê bị Hán hóa đã lâu, nên phong tục tập quán không khác gì người Hán. Đèn hoa chăng kết khắp nơi trong hoàng cung. Đêm giao thừa, chúng tôi được mời đến đại diện tham dự yến tiệc. Lữ Quang tuyên bố sang xuân sẽ khởi hành về Trung Nguyên, tướng sĩ hoan hô vang dội. Ông ta quay sang Rajiva, nói rằng Thiên vương Đại Tần có lời mời pháp sư đến Trường An thuyết pháp. Rajiva bình thản gật đầu. Khi màn trình diễn ca múa hát bắt đầu, Lữ Quang không cho phép Rajiva ra về, chỉ đồng ý để chàng uống trà thay rượu. Đến tận nửa đêm, khi pháo hoa rợp trời, yến tiệc mới kết thúc, vậy là năm 385 sau Công nguyên đã đến. Biến cố lịch sử lớn nhất trong năm này là cái chết của Phù Kiên. Cùng với kết cục đó, vùng đất Trung Nguyên chuyển sang một thời kỳ mới.

    Cũng trong năm 385 sau Công nguyên, “người đồng tính” Mộ Dung Xung xưng đế, lập nước Tây Yên. Nhưng vì chính quyền rối ren, không lâu sau đã sụp đổ, nên Tây Yên không được liệt vào danh sách các nước nhỏ thời Thập lục quốc.

    Cũng vào năm này, vị vua đầu tiên của nhà Hậu Tần – Diêu Trường đã giết chết Phù Kiên, tấn công Mộ Dung Xung ở Trường An. Năm kế tiếp Diêu Trường chiếm cứ và biến Trường An thành kinh đô của nhà Hậu Tần, cho tới khi Lưu Dục tiến hành cuộc Bắc phạt, tiêu diệt Hậu Tần.

    Cũng năm này, Khất Phục Quốc Nhân – người Sabir ở Lũng Tây lập nên chính quyền ở vùng đất mà nay là phía Nam Cam Túc và phía Bắc Thanh Hải. Nhưng vì thế lực nhỏ bé, phải phụ thuộc vào các quốc gia lớn hơn, nên chỉ dám xưng hiệu là Thiền vu, Đô đốc, Tần vương. Sử gọi là nước Tây Tần.

    Cũng năm này, trên thảo nguyên Nội Mông xuất hiện một nhân vật anh hùng. Bộ lạc Thác Bạt (thuộc tộc người Sabir), dưới sự lãnh đạo của Thác Bạt Khuê (lúc này mới mười sáu tuổi) đã lập ra nhà Bắc Ngụy. Năm 439 sau Công nguyên, Bắc Ngụy tiêu diệt Bắc Lương – tiểu quốc cuối cùng của thời Thập lục quốc. Miền Bắc Trung Quốc, sau 135 năm chiến tranh loạn lạc, cuối cùng đã được thống nhất, mở ra thời kỳ Nam Bắc triều kéo dài 150 năm lịch sử, cho đến khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc.

    Tôi cùng Cầu Tư và Vịnh Tư chơi trò đắp người tuyết ở sân sau. Hai đứa trẻ được quấn bọc trong những bộ quần áo dầy bịch, ấm áp, khuôn mặt tròn xoe, hai má đỏ hây hây, đáng yêu vô cùng. Đắp người tuyết chán lại đến trò oẳn tù tì, ai thua sẽ phải bịt mắt bắt dê. Tiếng cười lanh lảnh vang khắp sân vườn. Tôi vờ thua, bịt mắt giả làm ngáo ộp, hai nhóc con chơi đùa thỏa thích.

    - A, bắt được rồi!

    Không phải, thân hình này chắc chắn không phải trẻ con. Kéo khăn bịt mắt xuống, Pusyseda cười rạng rỡ trước mặt tôi.

    - Ngải Tình, chị vẫn ngốc nghếch giống hệt hơn hai mươi năm trước.

    Một cục tuyết rơi trúng cậu ta, không phải tôi ném đâu, mặc dù tôi rất muốn. Cầu Tư cười ha ha, chạy biến, đến lượt Pusyseda bịt mắt làm ngáo ộp. Lúc sau, hai đứa trẻ mồ hôi nhễ nhại, Pusyseda gọi người hầu đưa chúng đi thay quần áo.

    Tôi nhìn theo hai đứa trẻ, thở dài:

    - Ước gì tôi cũng có những đứa trẻ đáng yêu thế này.

    - Nếu lúc đầu chị đồng ý lấy tôi, thì chúng đã là con trai và con gái của chị rồi.

    Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt đùa cợt tinh quái của cậu ta, vẻ điển trai ấy vẫn khiến người đối diện phải ngạt thở. Tôi hơi bàng hoàng, dường như được thấy lại Pusyseda của ngày xưa, lúc cậu ta nói với tôi: Chị có muốn chồng mình là một người thường không? Thấy tôi không lên tiếng, cậu ta hắng giọng, khẽ nói: - Vào nhà đi, mồ hôi ra, dễ cảm lạnh lắm!

    Hiểu Huyên đang ngồi bên lò sưởi, vừa cởi than vừa khâu vá. Nhìn thấy Pusyseda, nét mặt rạng rỡ, bước đến đón lấy áo khoác của chồng.

    - Mấy ngày nay tôi bận tối tăm mặt mũi. Lữ Quang là kẻ tham lam, như thể hắn muốn khuân cả Thuận Tử đi theo.

    Cậu ta bực dọc:

    - Đức vua muốn tống khứ hắn đi, nên chấp thuận mọi yêu cầu.

    Cậu ta bước đến bên lò sưởi, gắp một viên than bỏ vào rồi tiếp tục:

    - Lữ Quang đã quyết định sẽ khởi hành vào ngày mồng Một tháng ba. Hắn nói sẽ đưa đại ca đi cùng vì Phù Kiên muốn nghe thuyết pháp.

    Cậu ta cười khẩy:

    - Phù Kiên làm gì còn tâm trí nghe thuyết giảng kinh văn Phật pháp nữa. Nếu ông ta bị hạ bệ, Trung Nguyên sẽ đại loạn.

    Cậu ta ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt đầy lo lắng:

    - Ngải Tình, thời điểm này đến Trung Nguyên sẽ vô cùng nguy hiểm.

    - Chúng tôi đâu thể tự mình quyết định việc đó. Tôi cúi xuống lò lửa rực hồng:

    - Cậu yên tâm, sẽ không có chuyện gì xảy ra cả, chúng tôi cũng không đến Trường An ngay, mà sẽ lưu lại Guzang.

    - Có quay về đây nữa không?

    Im lặng. Chủ đề đau lòng này cuối cùng cũng được nhắc tới.

    - Tôi không biết, mong là có.

    Tôi không dám nhìn vào mắt cậu ta, vì tôi biết, chúng tôi sẽ không còn gặp lại, lòng tôi đau như cắt.

    - Muộn rồi, tôi phải về.

    Tôi đứng lên, tạm biệt Hiểu Huyên, bước vội.

    - Chờ đã.

    Pusyseda kéo tay tôi lại, đôi mắt màu xám nhạt dừng lại trên gương mặt tôi, cậu ta định nói gì đó mà không thể cất lời.

    - Tôi…

    Cậu ta có vẻ rất xúc động, ánh mắt trôi về một hướng khác, ngập ngừng:

    - Tuyết lớn lắm, để tôi đưa chị về.

    - Không cần đâu…

    Tôi cũng ngó sang một hướng khác, bỗng thấy Hiểu Huyên mang áo ra cho Pusyseda, lặng lẽ khoác lên vai cậu ấy. Chúng tôi bước đi trên tuyết, giữ một khoảng cách nhất định. Những bông tuyết trắng muốt ràn rạt đổ xuống, chỉ một lát đã phủ lên cầu vai chúng tôi từng lớp tuyết mỏng. Pusyseda không chọn đi trên con phố chính quen thuộc, mà đưa tôi vòng vèo qua con ngõ nhỏ phía sau hoàng cung. Phố xá vắng tanh, chỉ có tiếng bước chân chúng tôi xào xạo trên tuyết, vang động cả ngõ nhỏ.

    Dáng hình cao lớn phía trước bỗng nhiên dừng lại, vẻ mặt nghiêm trọng:

    - Ngải Tình, nói thật cho tôi biết, tôi còn được gặp lại chị nữa không?

    Tôi nhắm mắt lại giây lát rồi mở ra, nhìn Pusyseda thật lâu, lưu lại trong trí nhớ từng đường nét gương mặt cậu ta, vừa khe khẽ ngâm ngợi:

    - Ra đi lại ra đi, Cùng chàng sinh biệt ly. Xa nhau hơn vạn dặm, Mỗi kẻ một phương chia. Đường dài bao hiểm trở, Gặp nhau biết có khi? Ngựa Hồ run gió bắc, Chim Việt đậu cành nam. Đã lâu ngày xa cách, Áo mặc cũng rộng thêm. Trên trời mây che khuất, Người đi chẳng ngoái xem. Nhớ chàng người già béo, Chợt sắp hết tháng năm. Lời xưa thôi nói lại, Chỉ mong bữa thêm cơm.[4]

    [4] Đây là bài thơ ngũ ngôn khuyết danh thứ 19 trong tập thơ “Mười chín bài thơ cổ” lưu truyền từ đời Hán ở Trung Quốc (Bản dịch của Diệp Luyến Hoa)

    - Ngải Tình…

    Lặng đi trong âm hưởng buồn se thắt của lời thơ, Pusyseda nghẹn ngào, nước mắt lưng tròng. Cánh tay run run đặt lên vai tôi. Khi dòng thơ cuối cùng khép lại, cậu ta đã khóc nấc lên, kéo tôi vào lòng. Tôi ngả vào vai Pusyseda, cảm nhận hơi thở gấp gáp và khuôn ngực vạm vỡ của cậu ấy. Những bông tuyết nhẹ tênh sa xuống, nhanh chóng tan ra, hòa cùng nước mắt, lạnh buốt, tựa cõi lòng giá băng của tôi lúc này.

    - Hãy chăm sóc Hiểu Huyên và mấy đứa nhỏ thật chu đáo…

    Tôi nức nở:

    - Tôi sẽ rất nhớ cậu…

    - Tôi biết rồi… Pusyseda lau nước mắt cho tôi, nhưng để mặc nước mắt mình chảy tràn trên má. Khóe môi run run, mấy lần muốn nói điều gì đó, nhưng không cất nổi nên lời. Cậu ta hít một hơi thật sâu, gắng gượng nở một nụ cười rạng rỡ:

    - Nhớ bảo trọng…

    - Tôi hứa.

    Tôi cũng lấy hết sức đáp lại, như thể chỉ có như vậy mới diễn đạt được hết tâm trạng của tôi lúc này. - Pusyseda, cảm ơn đã làm tất cả cho tôi… Cậu ta lại kéo tôi vào lòng, vòng tay ngày một xiết chặt hơn:

    - Chị hiểu mà, chỉ cần chị hạnh phúc, tôi sẽ làm tất cả…

    - Tôi rất hạnh phúc, thật đó! Cậu đã tặng hạnh phúc cho tôi, cảm ơn cậu…

    Tôi ngồi bên cửa sổ, mải mê ngắm nghía chiếc trâm ngọc xinh xẻo trên tay. Một chuỗi hạt nhỏ thả xuống từ chiếc mỏ bằng vàng của chim phượng hoàng. Đó là món quà Pusyseda tặng tôi lúc chia tay, cậu ta vẫn nhớ sinh nhật của tôi. Cậu ta còn lưu lại trên trán tôi một nụ hôn mang theo cái giá lạnh của mùa đông, giống như khi xưa, lúc tôi trở về thế kỷ XXI. Nụ hôn mà tôi sẽ ghi nhớ suốt đời…

    - Đang ngắm nghía gì vậy?

    Vội gạt nước mắt, mỉm cười quay lại nhìn chàng. Ánh mắt chàng dừng lại nơi chiếc trâm ngọc, hồi lâu mới lấy ra từ trong áo một chiếc hộp, đưa cho tôi.

    Mở hộp ra, tôi thấy một đôi nhẫn cưới, kiểu dáng đơn giản, nhưng rất tinh xảo. Chàng nâng bàn tay trái của tôi lên, đeo vào ngón áp út chiếc nhẫn nhỏ. Rồi đưa tay ra trước mặt tôi, mỉm cười.

    Chàng từng hỏi tôi về hôn lễ thời hiện đại. Tôi đã miêu tả rằng, cô dâu chú rể sẽ trao nhẫn cưới cho nhau và phải lồng nhẫn vào ngón áp út. Chẳng ngờ, chàng đã ghi nhớ điều đó.

    Tôi lồng chiếc nhẫn to hơn vào ngón tay chàng, rồi ngẩng lên nhìn chàng. Chàng dịu dàng tươi cười, cài chiếc trâm ngọc lên tóc tôi.

    - Chúc mừng sinh nhật!

    Chàng ghé sát vào tai tôi, khe khẽ hát. Giai điệu lệch lạc, nhưng vẫn có thể nhận ra đó là bài hát chúc mừng sinh nhật mà 23 năm trước tôi đã dạy chàng và Pusyseda. Giọng hát êm ái của chàng khiến tôi mê đắm, tựa hồ làn sóng dặt dìu làm dịu mát tâm hồn tôi.

    - Nàng đã kìm nén rất khổ sở rồi. Chàng hát xong, ôm tôi vào lòng: - Muốn khóc, hãy khóc đi.

    Trong vòng tay ấm áp của chàng, tôi bật khóc nức nở.
     
    Trác Đông Lai thích bài này.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này