1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Hà Thần - Tác Giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình Trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 2/4/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 14: Vợ cương thi, con yêu quái (Nửa chương cuối)


    Năm

    Những người già sống ở quanh đấy bảo rằng: Việc này không phải là tình cờ, các vị có biết người chết là ai không? Tổ tiên của người thanh niên này chính là vị Tôn thiện nhân nổi danh ở vùng này. Ngày xưa, ông ấy mở một cái Tôn ký tạp phố (tiệm tạp hóa nhà họ Tôn), tạp phố chính là tạp hóa phố (tiệm tạp hóa), người Thiên Tân vệ hay nói tắt, khi nhắc đến Tôn ký tạp hóa phố đã lược bớt chữ 'hóa' đi. Lão chưởng quầy Tôn ký tạp phố cả đời chuyên môn tích đức làm việc thiện, quét rác không làm hại con sâu cái kiến, khi bắt được con rận nào trên người cũng không đành lòng bóp chết, năm nào cũng đến Bàn Đào Cung trong miếu Đẩu Mẫu tám tay để thắp hương. Khi ấy, hậu điện Bàn Đào Cung rất lắm chuột, hội chùa năm nào chúng cũng lén đến ăn dầu thắp đèn gặm sáp nến. Người trông coi hương khói trong miếu không buông tha, có ý định diệt sạch đám chuột nhắt đó. Biết được điều này, lão chưởng quầy Tôn ký tạp phố khuyên nhủ người trông coi hương khói tha cho những con chuột một đường sống. Chúng cắn hỏng bao nhiêu ngọn nến ăn vụng mất bao nhiêu dầu thắp, khoản thiệt hại này sẽ do lão chưởng quầy Tôn ký tạp phố hoàn trả gấp bội cho ông ta. Bởi vậy, đến giờ, khi con cháu của Tôn gia tạp phố chết dưới ao tro, có một con chuột già đã từng chịu ân năm xưa đã dẫn Thần sông Quách sư phụ tới tận nơi, nếu không thì ai có thể tìm ra tử thi ở một nơi khuất nẻo như thế này? Theo truyền thuyết dân gian, Hồ Hoàng Bạch Liễu Khôi là ngũ đại gia, chuột là Khôi gia trong số đó. Trên thực tế, chuột ở trong miếu quanh năm, ai dám nói chúng không một chút linh tính nào?

    Khi nói xong, mọi người lại bắt đầu bàn tán lan sang thuyết mê tín nhân quả. Quách sư phụ đã tự mình biết thế nào là ăn trái đắng, nhìn thấy lão Lương xanh cả mặt, ông ta vội vàng bảo đám đông đừng nói đến chuyện này nữa. Nhưng, những người kia vẫn tiếp tục sôi nổi bàn luận không dứt, còn nói đến một vụ án trâu kêu oan xảy ra vào thời nhà Thanh. Có một nông dân do tranh chấp với người khác nên bị sát hại, hung thủ đã chôn xác anh ta ở một vùng đất hoang, hiếm người qua lại. Thủ phạm chắc mẩm thần không biết quỷ không hay, nhưng đâu ngờ, toàn bộ quá trình giết người vùi xác đều bị con trâu mà người nông dân dắt theo chứng kiến từ đầu đến cuối. Sau này, mỗi lần người nhà anh nông dân dắt con trâu đó đi cày ruộng, hễ đi qua chỗ chôn xác là nó lại quỳ xuống đất chảy nước mắt, quất mạnh thế nào cũng không chịu đi. Cảm thấy hành động đó của con trâu khác thường, mọi người đào đất lên thì tìm ra xác người bị sát hại, vì vậy báo án với quan. Khu vực gần miếu Đẩu Mẫu tám tay, trước kia xác thực có chuyện trâu kêu oan, hiện giờ lại xảy ra chuyện như thế này cũng chẳng phải là điều gì kỳ lạ hiếm có cả.

    Nghe xong, Lão Lương không vui ra mặt. Nhưng ông này không muốn tốn nước bọt với những người kia, nên gọi riêng Quách sư phụ ra một chỗ. Ông này bảo, theo dấu hiệu cho thấy, xác chết dưới ao tro rất có thể là do không may trượt chân rơi xuống, bị bùn hút chặt chân mà chết đuối. Thời tiết quá nóng, xác chết đã phân hủy cao độ, nguyên nhân cụ thể ra sao còn phải đợi tiến hành kiểm tra thi thể xong mới biết được, ít nhất ba ngày sau mới có kết quả. Đối với câu chuyện đội vớt xác hút thuốc đoán oan mà Quách sư phụ đã đề cập tới lúc trước, ông này vẫn cảm thấy khó có thể tin được, cho rằng tư tưởng mê tín đã bén rễ thâm căn cố đế trong đầu Quách sư phụ, làm sao có thể từ thuốc lá nhìn ra người chết có âm khí và oán khí được đây? Ông này yêu cầu Quách sư phụ thực hiện việc đốt thuốc đoán oan ngay tại đây một lần, thử xem phương pháp mê tín đã lưu truyền tại đội vớt xác mấy trăm năm đến cùng là ra làm sao. Nói như rồng leo, làm như mèo mửa, những kẻ chỉ biết khua môi múa mép nói cái gì mà chẳng một tấc lên đến trời, chưa hẳn đã có bản lĩnh thật sự nào.

    Lão Lương làm vậy là muốn bắt chẹt Quách sư phụ ngay tại trận. Ông này cho rằng xem thuốc đoán oan là việc hoàn toàn không có khả năng, bèn nảy ra ý định, đang lúc đông người như thế, nhân cơ hội cho mọi người tận mắt chứng kiến những điều như thế này chung quy lại chỉ là thủ đoạn mê tín của xã hội xưa.

    Quách sư phụ làm sao không rõ ý định của đồng chí lão Lương. Bình thường, công an đường thủy chỉ có trách nhiệm tìm kiếm xác chết trôi, không bao giờ thắc mắc người đó chết như thế nào, nhưng sự việc hôm nay có liên quan đến bản thân một cách kỳ lạ, ông ta phải đứng ra lãnh trách nhiệm. Nghe thấy lão Lương nói như vậy, ông ta không có cách nào từ chối được nữa. Nhưng khi sờ đến túi áo mới nhớ ra không mang theo thuốc, ông ta đành quay sang xin lão Lương một điếu.

    Lão Lương có một bao Tiền Tiến, một loại thuốc lá rất phổ biến thời kỳ mới giải phóng. Ông này móc thuốc ra đưa cho Quách sư phụ rồi hỏi: "Lão Quách, loại thuốc này có được không?" Nhưng ý tứ trong câu hỏi của ông này thực ra lại là: "Đợi lát nữa cái thủ đoạn mê tín đó của ông mất linh thì đừng có trách tôi đã đưa cho mình loại thuốc không tốt."

    Lúc trước, ông này đã nghe Quách sư phụ nhắc tới câu chuyện, mỗi khi vớt được một cái xác trôi sông đã trương phềnh bốc mùi phân hủy, đội tuần sông chỉ cần hút một điếu thuốc là có thể nhìn ra người này có oan tình hay không, bởi vì người chết có âm khí, nếu chết đuối dưới nước thì chính là đột tử, còn bị kẻ khác giết chết rồi mới vứt xác xuống sông là chết oan. Hai loại âm khí này khác nhau, âm khí nặng là có oan tình, khác nhau ở chỗ có phải chết dưới sông hay không. Lúc hút thuốc quan sát khói là có thể phân biệt được loại âm khí nào, đây dường như là điều quá thần kỳ, lão Lương kiên quyết không tin.

    Quách sư phụ nhận lấy điếu thuốc, trả lời: "Chẳng cần biết ngon hay không ngon, cứ thuốc lá là được." Đánh diêm châm thuốc, sau đó ông ta ngồi xổm bên cạnh xác chết, hút hết hơi này đến hơi khác, mắt không một lần nhìn đến cái xác chết trôi đó.

    Lão Lương nghĩ thầm, hút như thế và mình bình thường hút thuốc đâu có khác gì nhau, vậy mà nhìn được ra âm khí hay sao? Ông này bèn hỏi Quách sư phụ: "Thế nào rồi? Có nhìn ra cái gì không?"

    Quách sư phụ không đáp lại một câu, chỉ liên tục rít thuốc. Sau khi hút hết điếu thuốc đó, ông ta đứng lên bảo lão Lương: "Có oan khí, chuẩn xác là bị kẻ khác giết chết rồi mới vứt xác xuống ao."

    Những người đứng xem xung quanh lập tức xôn xao bàn tán ầm ĩ một trận. Ai cũng chỉ mới được nghe kể vị sư phụ già của đội tuần sông biết xem thuốc đoán oan, nhưng chưa một người nào được tận mắt nhìn thấy. Hôm nay được thấy Quách sư phụ chỉ ngồi xổm bên cạnh tử thi hút hết một điếu thuốc, sau đó đứng lên phán rằng có oan tình, quả thực là thần kỳ.

    Lão Lương kín đáo lắc đầu, trong lòng tự nhủ: "Giả thần giả quỷ, tôi đã nhìn chằm chằm vào ông ngồi bên cạnh tử thi hút thuốc, nhưng nào có thấy ở đâu có oan khí?"

    Xác chết trôi vớt từ dưới ao lên nhanh chóng được đưa đi kiểm nghiệm. Sau đó, lão Lương quấn lấy Quách sư phụ hỏi: "Vừa rồi thật sự là ông đã nói mò?"

    Quách sư phụ bảo: "Tôi không hề lừa gạt một chút nào. Năm xưa, vị sư phụ già của đội tuần sông đã truyền lại phương pháp này, chuyên dùng để xem sông âm khí của xác chết trôi, mười trường hợp ít nhất có thể xem chuẩn đến chín. Chỉ có điều, nhà nước có luật lệ của riêng mình, phương pháp dân gian này của chúng không thể đưa ra công khai được, chỉ đành âm thầm tự công nhận trong lòng mà thôi."

    Lão Lương thốt lên: "Bậy, nếu hút điếu thuốc có thể phân biệt được người chết có oan khí hay không, thế thì còn cần đến công an và pháp y làm gì?"

    Quách sư phụ nói: "Đội vớt xác năm sông của chúng tôi, hàng năm vớt được không biết cơ man nào là xác chết, những sự việc thế này đã thấy rất nhiều, qua thời gian dài đã tổng kết ra được một vài phương pháp dân gian, trên không nói cho cha mẹ, dưới không truyền cho con cái, ai cũng không thể dạy, chỉ có thể truyền từ sư phụ xuống đồ đệ, chỉ đời nọ tiếp nối đời kia truyền miệng ghi nhớ trong lòng."

    Lão Lương rất cố chấp: "Nếu ông không nói cho rõ ràng, rốt cục xem thuốc lá nhìn ra oan tình là như thế nào, tôi sẽ không thể nào tin ông được, đành phải phán xét ông làm vậy là hành nghề mê tín dị đoan."

    Tranh cãi đến đây, Quách sư phụ không còn biện pháp nào đối phó, bất đắc dĩ đành phải nói rõ toàn bộ cách xem thuốc đoán oan cho lão Lương biết. Khi hút thuốc bên cạnh xác chết, không phải ông ta xem hình dạng khói thuốc ra làm sao, bởi dù có phun mây nhả khói cũng không thể nào nhìn thấy âm hồn.

    Sáu

    Lão Lương nói: "Ông coi, tôi đã bảo là hút thuốc bên cạnh xác chết cũng chẳng nhìn thấy cái gì, thế này không phải giả thần giả quỷ thì là cái gì?"

    Quách sư phụ bảo, lúc hút thuốc thì đúng là không nhìn thấy được ma quỷ thật, nhưng vẫn có thể nhìn ra có oan tình hay không, chuyện gì đã xảy ra. Thiên Tân vệ là nơi chín con sông đổ vào biển, hố ngầm phân bố dày đặc tại nơi các nhánh sông giao nhau. Xác chết trôi xuất hiện trên sông, nguyên nhân không chỉ riêng bởi chết đuối do bơi lặn mà chết kiểu gì cũng có. Từ thời Thanh mạt cho đến nay, xã hội đói kém loạn lạc, các lộ bang phái mọc lên san sát như cây rừng, trộm cướp như rươi, giết người ném xác xuống sông chẳng phải là điều xa lạ gì. Đội vớt xác thì cả ngày chẳng làm gì khác ngoài việc làm bạn với những cái xác trôi sông đó. Mặc dù không quan tâm đến việc phá án, nhưng họ nhìn thấy xác chết trôi sông quá nhiều, cho nên đã tổng kết ra không ít kinh nghiệm, ví dụ như xem thuốc đoán oan này chẳng hạn. Không nhất định phải cần đến khói cuốn, năm xưa còn cách đốt phù giấy vàng, chỉ cần là những vật cháy sinh ra tro là được, hoặc là tàn thuốc, hoặc là tàn tro, hoặc là tàn hương, dùng chỗ tro đó vãi lên thân thể người chết, xem chúng bám vào được bao nhiêu, nếu bám vào nhiều là âm khí nặng, âm khí nặng chứng tỏ có oan tình.

    Âm khí là thứ khó mà giải thích, cũng không thể nào miêu tả được, có lẽ chỉ có thể cảm nhận được, nhưng nhìn không thấy sờ không được. Đội vớt xác bảo âm khí nặng, là muốn nói xác chết trôi đương nhiên có oan. Còn nếu như chết rồi mới vất xác xuống sông, lúc ấy hơi thở người đó đã tuyệt rồi, khác hẳn với người bị chết ngộp dưới nước. Tuy nhiên, thời điểm dưới sông xuất hiện xác chết trôi, đa phần là vào những ngày nóng, phát hiện ra sớm còn dễ phán đoán, phát hiện ra muộn thì xác chết đã phân hủy, không tài nào còn nhận diện được nữa. Vào thời nhà Thanh, quan phủ rất vô trách nhiệm, cứ vớt được xác chết trôi thì trước hết để mặc người của đội tuần sông đội xem qua một lượt, nếu nhìn ra có oan thì mới đi báo quan. Những vị sư phụ của đội tuần sông dần dần đã lần mò tổng kết ra được một vài kinh nghiệm, coi như là một anh khám nghiệm tử thi nửa mùa rồi. Họ lấy tàn thuốc tàn tro vẩy lên thân thể xác chết trôi, từ đó có thể nhìn ra có oan hay không. Nói là có oan, thực ra là muốn nói người đó đã chết trước khi rơi xuống nước. Ngày xưa ai mà chẳng mê tín, nếu nói thẳng tuột là có oan hay không có oan thì chẳng có ai tin nổi, phải nói là âm khí nặng thì mọi người mới thật tâm tin tưởng. Kể từ thời dân quốc trở đi, ngành tư pháp dần dần hoàn thiện, những phương pháp dân gian như thế này rất ít được dùng đến. Nguyên lý bên trong ra sao, Quách sư phụ không thể giải thích rõ ràng, bởi sư phụ chưa bao giờ giảng giải cho ông ta biết, nhưng biện pháp này đích thực là chuẩn xác.

    Nghe Quách sư phụ nói xong, lão Lương rốt cục đã hiểu ra ngọn ngành, ông này bảo: "Sau này có lẽ ông nên thu lấy vài đồ đệ, rồi truyền lại những kinh nghiệm và phương pháp dân gian của đội vớt xác lại cho họ, như vậy sẽ có trợ giúp rất lớn đối với công việc phá án của chúng ta. Nhưng ông không thể tiếp tục nói âm khí oan tình này nọ nữa, tất cả những cái đó đều xuất phát từ thói mê tín thời phong kiến."

    Trao đổi xong câu chuyện về việc xem thuốc đoán oan, lão Lương lại cùng với Quách sư phụ đề cập tới cái xác đã nhung nhúc giòi trắng dưới ao tro. Sau khi khám nghiệm tử thi xong, người ta đã phát hiện ra, nạn nhân chết do bị kẻ khác dùng một vật sắc bén nện vào gáy, sau khi cướp sạch tài sản trên người, hung thủ đã vứt xác xuống ao tro. Từ khi giải phóng đến nay, những vụ án mạng giống thế này đã xảy ra bảy tám lần, xét theo hung khí và thủ đoạn gây án, tất cả là do cùng một thủ phạm thực hiện. Hung khí là một vũ khí bằng sắt rất sắc bén, nhưng không phải búa, bởi búa bổ vào đầu người sẽ tạo ra vết thương theo chiều dọc, nhưng những vết thương này lại chạy theo chiều ngang. Người ta phán đoán, có lẽ hung khí là búa thợ mộc chuyên dụng. Vật dụng này giống hình cái búa, một đầu bị tán dẹt thành hình mỏ vịt, đầu bên kia giống như đầu búa, cán bằng gỗ. Từ trăm năm trước đã có những vụ ăn cướp bằng búa thợ mộc, bắt đầu xảy ra ở quan ngoại Hắc Long Giang. Bình thường, chỉ đến lúc nửa đêm hung đồ mới chọn những chỗ hoang vắng ít người để ra tay, nhân cơ hội người đi đường phía trước không để ý, nhanh chóng áp sát từ phía sau, vung búa thợ mộc nhè vào gáy người đó mà giáng. Thủ đoạn này vô cùng tàn nhẫn, còn được gọi là "Đóng tụt đinh", so với đánh ngất người khác để cướp bóc thì nguy hiểm hơn nhiều, bởi vì búa thợ mộc vừa sắc bén vừa nặng, người bị nện vào đầu không chết cũng thành tàn phế, không kịp kêu lên một tiếng thì đã đổ gục xuống rồi. Những người đi lại một mình giữa đêm khuya chẳng một ai là người có tiền, hung thủ chỉ cướp đoạt được một vài vật đáng giá. Có khi trên người nạn nhân còn không có lấy một xu, chỉ vẻn vẹn mang theo hai cái bánh nướng, nhưng không ngờ chỉ vì hai cái bánh nướng đó lại phải trả giá bằng tính mạng. Bởi vậy mới nói, kẻ cướp bằng búa thợ mộc bị người ta căm hận nhất, bắt được hung thủ thì dù có mang ra phanh thây xé xác vẫn chưa hả hết giận. Sau này do ảnh hưởng, thợ mộc càng ngày càng ít sử dụng loại búa này để làm việc, còn rất ít những vụ án liên quan đến hung khí này phát sinh, không ngờ sau giải phóng khơi khơi lại còn có kẻ cầm búa thợ mộc đi ăn cướp. Tuy rằng nhân viên công an đã nắm được manh mối về hung khí, nhưng vẫn không thể tìm ra xuất xứ của nó, bởi vậy vụ án này đã lâm vào ngõ cụt. Lão Lương biết Quách sư phụ quen thuộc với tình hình địa phương, cho nên lần này lại nhờ đến ông ta hỗ trợ.

    Quách sư phụ đã từng nghe nói đến một vụ cướp bằng búa thợ mộc. Đó là câu chuyện đồn đại từ ngày xưa, người ta kể trước kia ở địa phương nọ phát sinh một vụ án liên quan đến búa thợ mộc, toàn bộ thợ mộc của vùng đó đều bị lây ảnh hưởng xấu. Để tránh hiềm nghi, đám thợ mộc không dám tiếp tục dùng búa thợ mộc để làm việc nữa. Cho nên, cho tới bây giờ, búa thợ mộc đã là vật dụng rất hiếm gặp, nhưng nhìn chung không thể nào đi lục soát từng nhà một. Ông ta nhận lời lão Lương sẽ lưu tâm dò hỏi tìm kiếm. Trên đời này không có vụ án mạng nào không tìm được hung thủ, bất kể là hắn có lẩn trốn bao nhiêu lâu, cuối cùng vẫn sẽ tìm ra được. Giữa nửa đêm con chuột trong miếu Đẩu Mẫu đến gõ cửa, dẫn ông ta tới ao tro tìm được tử thi, ai dám nói đây không phải là âm hồn báo oan?

    Bảy

    Dù trong đầu có ý nghĩ này nhưng Quách sư phụ không dám nói với lão Lương, mà từ lúc đó trở đi chỉ bắt đầu lưu ý dò hỏi.

    Ngài đừng thấy khoảng cách giữa Thiên Tân và Bắc Kinh gần như vậy mà lầm, phong tục của dân chúng hai nơi này khác xa nhau. Đơn cử một ví dụ, thành Bắc Kinh gọi đám người xã hội đen là gọi 'ngoạn chủ', còn Thiên Tân vệ gọi là 'ngoạn nháo'. Mặc dù cùng bắt đầu bằng chữ 'ngoạn' để ám chỉ đám người dấn thân vào lăn lộn trong xã hội, nhưng chỉ khác nhau một chữ đã tạo ra sự chênh lệch rất lớn, đồng thời cũng đã thể hiện ra đặc điểm của cư dân hai địa phương. Những kẻ rỗi việc ầm ĩ tụ tập đi khắp nơi vớt con giống ở Thiên Tân vệ nhiều vô số kể. Bọn họ thích tham gia náo nhiệt, chỉ sợ thiên hạ không loạn. Mùa hè năm 1953, người ta tìm thấy một xác chết trương nhung nhúc giòi dưới ao tro. Theo phán đoán của cơ quan công an, người này kẻ cướp bị sát bằng búa thợ mộc. Sau khi Quách Đắc Hữu của công an đường thủy phát hiện ra, cơ quan công an đã phát động quần chúng cung cấp manh mối. Một sự việc rất đỗi bình thường, sau khi bàn ra tán vào đã không còn như lúc ban đầu. Ai cũng bảo đây là vụ trọng án giết người bằng búa thợ mộc, bởi vậy không tránh khỏi thêm mắm thêm muối, miêu tả đến độ vô cùng máu tanh nghe rợn cả người. Thậm chí, họ còn đặt cho hung thủ gây án biệt danh là "Thợ mộc", còn bảo nhau rằng, tên "thợ mộc" này tâm địa tàn nhẫn ra tay độc ác, hành tung xuất quỷ nhập thần, điều ra bao nhiêu công an cũng bắt không được hắn, mãi đến khi chuột tiên trong miếu Đẩu Mẫu kêu oan, dẫn Thần sông Quách Đắc Hữu đến ao tro mới tìm ra tử thi. Quách Nhị gia là ai chứ, là "Thần sông" đấy, ông ta mà ra tay thì không có án nào không phá được, thời gian lộng hành của "Thợ mộc" coi như đã chấm dứt, sớm muộn gì cũng sẽ rơi vào tay Thần sông Quách Đắc Hữu.

    Tại sao các loại hình khúc nghệ như bình thư tướng thanh (hát hài hước châm biếm) lại có đất diễn ở Thiên Tân như vậy? Nguyên nhân chỉ vì dân chúng bản địa luôn thích nghe những câu chuyện cũ đầy màu sắc truyền kỳ, bất kể là thật hay giả, cho dù đó chỉ là lời đồn, chỉ cần kể ra khiến người nghe kinh sợ là được. Thực ra lão Lương chỉ một lần nữa nhờ Quách sư phụ giúp đỡ thẩm tra những manh mối có liên quan, nhưng một đồn mười, mười đồn trăm, khắp nơi đâu đâu cũng bảo Quách sư phụ quyết tâm phá vụ án ăn cướp bằng búa thợ mộc. Lời đồn thật đáng sợ, nói cứ như là thật, khiến cho toàn bộ những vị sư phụ và phụ việc nghề mộc ai nấy đều cảm thấy bất an, nháo nhào tìm tới tận cửa, thanh minh với Quách sư phụ về sự trong sạch của mình. Toàn bộ gia đình cả già lẫn trẻ kéo nhau đến khóc lóc kể lể: "Thợ mộc chúng tôi có gây thù chuốc oán với ai đâu cơ chứ!"

    Lại nói tiếp, bởi khắp nơi đồn đại Thần sông Quách Đắc Hữu quyết tâm phá vụ án ăn cướp bằng búa thợ mộc đã khiến cho hung thủ thực sự trở nên sợ hãi. Thượng hạ tây đông ở đâu mà không nhắc tới danh hiệu này, những người sống ở thập kỷ bốn mươi năm mươi có ai là không biết tới "Thần sông"?

    Kẻ cướp bằng búa thợ mộc họ Bạch, sống ở gần nhà ga phía bắc, tầm ngoài ba mươi chưa đến bốn mươi, tên đầy đủ là Bạch Tứ Hổ. Trước kia hắn làm đồ tể giết mổ lợn bò, nhưng đường sáng không chịu đi, lúc nào cũng nhăm nhăm đâm đầu vào nẻo đường tà. Cách đây vài năm, khi đi ngang qua khu chợ lậu bán đồ cũ, hắn nhìn thấy trong một gánh hàng bày bán ở vỉa hè bán một cây búa đầu bẹt, người chủ hàng cũng không biết đó là cái gì. Bởi gia đình đã từng mở tiệm quan tài, thường đứng bên cạnh xem thợ mộc làm việc, cho nên hắn mới nhận đó là búa thợ mộc. Đồng thời, hắn cũng đã từng nghe nói đến, năm xưa ngoài quan ngoại có kẻ dùng búa thợ mộc đánh người cướp của. Cây búa bình thường băm bổ không tiện tay bằng búa thợ mộc, 'đóng lút đinh' là một phát ăn ngay không để lại người sống. Lúc ấy hắn bèn bỏ tiền ra mua, nhét vào trong lồng ngực, nhân dịp trời còn chưa sáng, ra bờ sông đánh gục một người, cướp được một bó hàng da, còn xác thì đạp xuống cống ngầm. Thời bấy giờ đang là lúc chiến tranh, chẳng ai quan tâm đến việc này. Bạch Tứ Hổ nếm đến mùi ngon ngọt, thường xuyên đến vùng ngoại ô 'đóng lút đinh', lúc thì cướp được tiền, lúc thì cướp được một chút lương thực, nhưng cũng có lúc ra về với hai bàn tay trắng.

    Cái tên Bạch Tứ Hổ này bình thường ăn không nên đọi nói không nên lời, không làm được cái gì ra hồn, khi ra ngoài không dám giao tiếp với ai. Tướng mạo hắn xấu xí, có vẻ trung thực, nhưng tính cách rất hèn nhát, ai bắt nạt ai khi dễ thì chỉ biết ghi hận trong lòng, hiếu sát thành tính. Cứ mỗi lần giết heo mổ trâu, trước tiên hắn thường tra tấn chúng cho đã tay rồi mới giết chết. Dù lần nào hắn cũng chọn thời điểm trời còn chưa sáng để ra tay giết mổ gia súc, nhưng căn phòng dùng để giết mổ heo luôn phát ra tiếng kêu thảm thiết cho đến tận hừng đông mới ngừng, khiến cho những người ở quanh đó lúc nào cũng giống như bị tra tấn tinh thần. Không ai dám mua thịt, hắn dần dần hết sạch tiền vốn. Không còn đường mưu sinh, hắn bèn dựa vào búa thợ mộc "đóng lút đinh" cướp bất cứ thứ gì để chống chọi qua ngày.

    Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, nội thành thực thi chế độ quân quản. Quân quản ra tay đối phó với các phần tử làm nguy hại đến trật tự trị an, cần bắt sẽ bắt, cần xử bắn sẽ xử bắn. Toàn bộ các bang phái lưu manh, du côn đầu đường xó chợ, hút thuốc phiện và kỹ nữ hành nghề trước giải phóng đều phải đi cải tạo, tình trạng an ninh tốt hơn trước kia rất nhiều. Nhưng những đêm không trăng gió lỡn, Bạch Tứ Hổ vẫn dám dắt búa thợ mộc vào người đi ra ngoài gây án. Mùa hè năm 1953, xác chết đang phân hủy mà Quách sư phụ tìm thấy dưới ao tro phía sau miếu Đẩu Mẫu, cũng là tác phẩm của kẻ này, nhưng hắn không cướp được cái gì của nạn nhân. Tên Bạch Tứ Hổ này là kẻ hung đồ lớn mật liều mạng, tâm địa tàn nhẫn ra tay độc ác, không coi công an ra cái gì, tự cho rằng mình gây án không theo quy luật, sẽ không bị bất cứ ai tìm ra. Nhưng khi nghe thấy người ta đồn ầm lên Thần sông Quách Đắc Hữu quyết điều tra vụ cướp bằng búa thợ mộc, hơn nữa, trước giải phóng hắn đã được nghe kể lại Quách sư phụ lợi hại như thế nào, lại nhớ tới thuyết nhân quả báo ứng, trong lòng không tránh khỏi hốt hoảng sợ hãi. Đêm đến hắn không tài ngủ yên, lúc nào cũng có cảm giác như mình đang bị người khác theo dõi. Chỉ cần gió thổi cỏ lay quanh đâu đây, hắn đã giật mình cho rằng Thần sông Quách Đắc Hữu dẫn công an tìm tới tận cửa rồi.

    Năm 1954 vừa đúng dịp vận động tiến hành quét sạch phản động, toàn thành lùng bắt với quy mô lớn. Hội quân quản, dân binh, đội tuần phòng, toàn bộ đều hành động. Trên đường cái, cứ cách mười bước lập một trạm năm bước lập một đồn, nhà nào cũng phải đăng ký hộ khẩu, bố cáo dán khắp nơi, tra xét nghiêm ngặt những thành phần khả nghi không rõ lai lịch, toàn bộ những việc đó chỉ là để nhằm truy bắt thủ phạm dã man ăn cướp bằng búa thợ mộc.

    Nhưng xét theo tình hình lúc bấy giờ, công an làm mọi cách vẫn không thể nào truy tìm được Bạch Tứ Hổ. Kẻ này có tướng mạo xấu xí, là người rất dễ lẫn vào giữa đám đông, khi ra ngoài lại chẳng giao tiếp với ai, xưa nay chỉ biết nhịn nhục cho người ta bắt nạt, rặn cả ngày cũng không dám đánh một phát rắm. Một người như vậy, có ai dám nghĩ là hung thủ chuyên ăn cướp bằng búa thợ mộc? Quách sư phụ vẫn tiếp tục tiến hành công việc của đội vớt xác, ngày nào cũng tất bật chạy đi chạy lại giữa nhà và cơ quan, đâu còn thời gian mà bận tâm đến việc phá án. Nhưng chỉ riêng Bạch Tứ Hổ là có tật giật mình, hắn càng nghĩ càng thấy sợ, rồi từ sợ lại sinh ra hận, biến Quách sư phụ trở thành cái đinh trong mắt cái gai trong thịt, cả ngày chỉ ru rú ở trong nhà không dám tiếp tục đi gây án. Lại nói tiếp, năm 1954, ngày mùng bốn tháng năm âm lịch, trước tết Đoan Ngọ một ngày, nhà nào cũng gói bánh chưng, Bạch Tứ Hổ thật sự không chịu yên được nữa. Đêm khuya nằm trên giường trằn trọc mãi mà không tài nào ngủ được, hắn thì thào trao đổi với vợ: "Hai ngày nay tâm thần tôi bất an, chỉ sợ sắp gặp chuyện không may. Tôi nghĩ mình sẽ không chịu phó mặc cho họ Quách đến tận nhà bắt nữa, đã không làm thì thôi, nếu đã làm thì dứt điểm một lần cho xong, tôi sẽ đến tận nhà hắn giết chết hắn, sau này một nhà ba người chúng ta sẽ được yên ổn mà ngủ, bà thấy có được hay không?" Vợ hắn nằm bên cạnh không nói câu gì, Bạch Tứ Hổ lại hỏi: "Bà không nói gì có nghĩa là đã đồng ý với tôi rồi phải không?" Vợ hắn vẫn nằm im không hề nhúc nhích, cũng chẳng thể nào có thể mở miệng nói chuyện, bởi vì người phụ nữ này không phải là người sống.

    Tám

    Tên cướp bằng búa thợ mộc Bạch Tứ Hổ, trong nhà cũng có vợ có con, nhưng một nhà ba người chỉ có hắn là người còn sống, vợ hắn là người chết còn đứa con là yêu quái, ngoại trừ Bạch Tứ Hổ không ai có thể nhìn thấy đứa trẻ này.

    Tôi sẽ nói qua một chút ngọn nguồn tại sao lại như vậy. Mấy năm trước, Bạch Tứ Hổ bắt gặp một cô gái ngoài đường, giữa đêm hôm khuya khoắt cô ta chỉ đi ra ngoài có một mình, trong lúc đang đi đường thì bị Bạch Tứ Hổ dùng búa thợ mộc đánh gục. Bạch Tứ Hổ càng nhìn càng thấy cô gái này vừa mắt, đâm ra hối hận sao mình lại đập chết cô ta, nhất thời sinh ra ý niệm ma quỷ, cho xác cô ta lên xe đẩy về nhà. Nhà hắn ở nơi rất hẻo lánh, trời còn chưa sáng, những hộ gia đình quanh đó không thể nào phát hiện ra. Khi về đến nhà, hắn thấy gương mặt xác chết vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống, phía sau gáy cũng không có máu chảy ra, giống như đang chìm vào giấc ngủ vậy. Bạch Tứ Hổ đã ngoài ba mươi, còn chưa lập gia đình, bèn coi đó là vợ leo lên giường gạch ôm người chết ngủ. Những lúc không ngủ, hắn nói chuyện giải buồn với xác chết. Hàng ngày, hắn hầm nước thịt đút cho xác chết, lau người, chăm sóc như vợ của mình. Nói ra kể cũng lạ, cô gái này rõ ràng đã chết rồi, thế nhưng không hề có mùi thối, lại còn có thể bón được nước hầm, dân gian gọi trường hợp này là 'hoạt thi'. Qua mấy tháng sau, bụng hoạt thi càng ngày càng phình to ra, rõ ràng là đã có bầu, nhưng chưa đủ tháng đã sinh rồi, sinh ra một cái tử thai, nhưng bản thân hắn thì ngày nào cũng đóng cửa ở trong nhà nựng nịu, còn đặt cho cái tên mụ là Tiểu Hổ, cứ như là thật sự có một đứa bé đang chạy khắp nhà vậy.

    Nửa năm sau, trên người cô gái này bắt đầu có mùi, nước thịt hầm cuối cũng cũng không bón được nữa. Trước kia, gọi là "Hoạt tử nhân" bởi khi ấy người ta không biết đến khái niệm người sống thực vật là thế nào, cứ có sao nói vậy gọi theo cách này. Sau khi xác thực đã chết hẳn, Bạch Tứ Hổ vẫn không nỡ mang xác cô gái đi chôn. Nhưng mùi thối của xác chết không thể che dấu được, trời thì lại nóng, xác chết bốc mùi càng ngày càng nặng, chẳng được mấy ngày nữa, những gia đình ở xung quanh sẽ lũ lượt kéo đến. Trong lúc đang không biết làm cách nào, hắn chợt nghĩ ra một kế sách. Hắn đi mua một loạt túi muối lớn cõng về nhà, tiến hành ướp xác cô gái. Khi nhìn thấy, tất cả hàng xóm láng giềng chỉ nghĩ rằng Bạch Tứ Hổ thích ăn mặn. Thiên Tân vệ ở ngay cửa biển, từ xưa đã là cái nôi sản xuất muối nên chẳng có một ai cảm thấy kỳ quái. Ướp xong, tử thi đã không còn bốc mùi gì nữa, nhưng hắn không thể tiếp tục thân mật được nữa, bởi vì quá mặn, mặn đến mức có thể hại chết người khác.

    Bởi đầu óc không bình thường nên Bạch Tứ Hổ mới coi xác chết này như vợ của mình, lại còn tưởng tượng ra một đứa con. Một nhà ba người đóng cửa quây quần chung sống, hàng xóm xung quanh không một nhà nào có thể phát giác ra. Giữa nửa đêm, hắn nổi lên ý định giết người, đến lúc hừng đông bảo với vợ: "Bà ở nhà trông con cẩn thận, tôi đi tìm họ Quách. Nếu không đục được một cái lỗ trên đầu của hắn, sau này chúng ta sẽ sống không yên ổn. Đến lúc về tôi sẽ mua bánh chưng cho hai mẹ con ăn."

    Tự lẩm bẩm một mình xong, hắn đứng dậy mặc quần áo vào, bắt đầu bận rộn làm việc nhà. Mùng năm tháng năm âm lịch tết Đoan Ngọ, thời ấy còn giữ nguyên tập tục xưa, bên cạnh cửa nhà nào cũng treo cỏ hao, bởi vì tiết trời dần dần nóng lên, treo cỏ hao với mục đích xua đuổi trùng độc. Dân chúng bện cỏ hao thành dây thừng, phơi khô rồi đốt lên, có thể xua muỗi trừ tà ma. Ngày xưa có câu nói rất phổ biến "Đoan ngọ không mang theo cỏ hao, chết biến thành yêu quái" .

    Trước kia, mỗi khi đến tết Đoan ngọ, người ta còn ngâm rượu hùng hoàng, dùng rượu đó để vẽ hổ cho trẻ con. Người ta dùng rượu hùng hoàng làm mực, vẽ lên trán trẻ con một cái chữ Vương (王), hơn nữa còn khuyên tròn ở miệng mũi tai mắt, bởi nghe nói làm như vậy cũng có thể phòng ngừa côn trùng. Đồng thời cắt giấy đỏ thành hình năm loài vật độc, dán lên những chỗ như cửa sổ góc tường; Đó chính là 'ngũ độc chỉ', dân gian còn gọi là 'trừ ngũ độc'. Năm loài vật độc bao gồm bò cạp, rết, rắn, cóc, thạch sùng. Tùy thuộc vào từng vùng, năm loài vật độc lại khác nhau. Ngoại trừ khoảng thời gian giữa thanh minh cốc vũ năm loài vật độc này sinh sôi nảy nở ra, nếu trong nhà có trẻ con, người ta phải nhờ những bà đỡ già dùng tơ năm màu tết thành các loại như Tiểu tống tử (bánh chưng), Tiểu bề tử (lược dày), Tiểu lão hổ rồi đeo lên cổ cho chúng. Bạch Tứ Hổ cũng làm theo tập tục của tết Đoan ngọ, dán giấy cắt hình năm loài vật độc trong nhà, thậm chí còn vẽ hổ cho cả đứa con hoàn toàn không có thật nữa. Đến xế chiều mới xong việc, hắn nhét búa thợ mộc vào sau lưng rồi lập tức đi tìm Quách sư phụ.

    Nhưng vừa đến đầu hẻm hắn lại quay về nhà. Đừng thấy lúc trước Bạch Tứ Hổ tàn nhẫn thẳng tay 'đóng lút đinh' mà lầm, lần này hắn tuyệt không dám ra tay, trong lòng ngập tràn sợ hãi, ủ rũ quay trở về. Lúc ấy vừa mới xế chiều, trời vẫn chưa tối hẳn, nhưng cửa nhà đã đóng kín, cũng chẳng đốt đèn, trong phòng tối om om. Hắn ngồi ở góc tường ôm đầu khóc ồ ồ, túm lấy tóc, thật lực dứt hết nhúm này đến nhúm khác, tràn ngập oán hận, vừa hận vừa sợ lại kèm cả uất ức, lồng ngực như sắp nổ tung. Chỉ cầu được sống yên ổn nhưng sao lại khó như vậy, không may bị tên họ Quách kia bắt được, vợ và con sẽ ra sao bây giờ?

    Xác cô gái trên giường gạch đột nhiên mở miệng nói: "Đồ vô dụng, một việc cỏn con như vậy mà cũng không có gan!"

    Chín

    Giọng nói của xác cô gái rất nhỏ, có lẽ bởi vì rất nhiều năm không hoạt động, thanh quản và lưỡi cực kỳ cứng.

    Bạch Tứ Hổ trợn mắt há hốc mồm, run rẩy sợ hãi rất lâu sau mới nói được thành lời: "Cuối cùng bà cũng chịu nói chuyện với tôi rồi!"

    Ngài sẽ cho rằng, đầu óc Bạch Tứ Hổ không bình thường, xác cô gái nói chuyện chỉ là do chính bản thân hắn tự tưởng tượng ra? Không phải, hắn thực sự nghe thấy trong phòng có người nói chuyện. Tôi và ngài là người ngoài càng nghe càng thấy sợ, nhưng Bạch Tứ Hổ lại không sợ những thứ đáng phải sợ. Khi nghe thấy câu nói đó, hắn ngồi ở trong góc nhà nhìn trừng trừng không chớp mắt, suy đi tính lại cân nhắc tới đủ mọi khả năng. Vì vợ con, cuối cùng hằn cũng hạ quyết tâm, dắt búa thợ mộc vào người ra khỏi nhà, chạy một mạch đi tìm Quách sư phụ. Trước giải phóng hắn đã nghe nói đến tên tuổi Quách sư phụ, nghe nhiều đến mức chai cả lỗ tai. Trước đó hắn đã nghe ngóng kỹ lưỡng, cũng đã nhìn tận mắt mặt mũi dáng người. Đến khi Quách sư phụ đi ca đêm, hắn lặng lẽ không phát ra tiếng động bám sát phía sau, chờ đến lúc tới nơi vắng vẻ một búa hạ gục ông ta.

    Quách sư phụ không hay biết gì về tình thế nguy hiểm của mình, tan tầm là đạp xe về nhà. Giữa tiết Đoan ngọ, là thời gian năm loài vật độc cùng xuất hiện, đến khi trời tối chẳng còn mấy ai đi ngoài đường, bởi vậy ông ta không thể nào ngờ tới Bạch Tứ Hổ lại bám theo phía sau.

    Bạch Tứ Hổ không lường trước được Quách sư phụ lại đi xe đạp. Hắn đành phải guồng hai chân mà chạy, cực kỳ chật vật đuổi theo. Được một lúc thì tới một con đường vắng vẻ, quanh đó không thấy một bóng người, đúng là cơ hội thuận lợi có thể ra tay, hắn thở hồng hộc chạy rướn lên, vung búa thợ mộc, nhằm thẳng vào gáy Quách sư phụ mà nện thẳng cánh. Thế nhưng, do hắn đuổi theo mệt đứt hơi, chân nặng như đeo đá, phát ra tiếng động bịch bịch.

    Khi nghe thấy tiếng bước chân đuổi theo sau, Quách sư phụ cứ nghĩ là có người quen chạy tới tìm mình. Ông ta quay lại nhìn, hóa ra lại là một gã đàn ông mắt to mày rậm, bên vành tai trái dường như có một vết thâm tím, tay đang giơ cao một vật gì đó chạy bổ từ phía sau tới. Nhìn thấy ông ta ngoái lại, người đó hoảng hốt quay đầu bỏ chạy. Quách sư phụ vẫn còn chưa hiểu nổi có chuyện gì xảy ra. Dưới ánh đèn đường mờ ảo, ông ta chỉ kịp nhìn thấy hình như đối phương đang cầm một cái búa thợ mộc. Trong lòng chợt giật đánh thót, ông ta suy đoán chắc kẻ này là nghi phạm cướp giật bằng búa thợ mộc, vội vàng đạp xe đuổi theo, nhưng đến lúc ấy chẳng biết người đó đã chạy đi đường nào.

    Không đề cập tới Quách sư phụ nữa, giờ nói tới Bạch Tứ Hổ. Vào ngày tết Đoan Ngọ, hắn bám theo sau Quách sư phụ, khi tới đoạn đường vắng định ra tay, đâu biết được đối phương đột nhiên quay đầu lại. Bởi đã mang sẵn tâm lý sợ hãi, đến khi bị Quách sư phụ nhìn thấy, hắn kinh sợ vội vàng bỏ chạy. Khi chạy về đến nhà, chốt then cửa xong, hắn tự cho rằng chỉ một hai ngày nữa nhất định sẽ có người tìm tới tận cửa bắt mình. Hắn hối hận đến mức ngẩn ngơ, nhưng lại không tự trách mình, mà đổ hết lỗi cho Quách sư phụ. Càng nghĩ càng hận, hắn ngồi phịch xuống đất ghè đầu bình bịch vào vách tường.

    Nhà của Bạch Tứ Hổ là căn phòng cổ được thừa hưởng từ cha ông, có từ lâu lắm rồi, không dưới năm sáu mươi năm. Mặc dù chỉ là nhà dân chúng bình thường, nhưng nó lại được xây dựng rất bề thế, ba gian nhà một chính hai phụ, nếu bớt đi một gian phụ thì vừa khéo cân đối một phòng khách một buồng ngủ. Cửa vào nằm ở gian chính, hai gian buồng nằm hai bên cánh, nền phòng được lát bằng gạch xanh theo kiểu Hải mãn. Nền những ngôi nhà cổ không láng xi-măng, toàn bộ đều được lát bằng gạch, nhưng không phải lát theo cách bình thường mà tất cả gạch lát nền đều dựng thẳng đứng, lát như vậy được gọi là Hải mãn. Bởi vì gạch dựng thẳng đứng nên tiết diện nhỏ, diện tích chịu lực không đáng kể, khó mà lún xuống, hơn nữa cũng không sợ bị ngấm nước mưa, có thể bảo tồn được rất nhiều năm. Tuy vậy, lát theo kiểu Hải mãn tốn gạch hơn rất nhiều so với cách bình thường. Mặc dù hai gian phòng của nhà Bạch Tứ Hổ không lớn, nhưng toàn bộ vật liệu đều đồng nhất, nền phòng và bốn vách tường được lát bằng cùng một loại "Ma chuyên". Ma chuyên tức là gạch cổ, lúc trước chúng ta đã từng đề cập đến. Trước kia, Thiên Tân vệ có rất nhiều lò gạch, hơn nữa đa phần thuộc quyền quản lý của quan phủ, chuyên nung loại gạch lớn để xây thành. Năm 1900, liên quân tám nước đồng minh ép buộc triều đình nhà Thanh dỡ bỏ thành lâu tường thành Thiên Tân, có không ít người đã nhặt gạch dỡ ra từ tường thành, chất lên xe đẩy về nhà xây phòng ở. Lúc ấy, người ta coi gạch xây thành cổ như bảo bối, bởi vậy mới có câu nói cửa miệng -- "Dùng gạch dỡ ra từ thành cổ xây tường, tường không đổ". Đa phần mái nhà được lợp bằng ngói xanh, theo kiểu âm dương đan xen, còn dùng cả than chì quét lên lên trên.

    Nghe nói, tổ tiên nhà Bạch Tứ Hổ mở tiệm bán quan tài được vài đời, đến lúc ấy đã tích cóp được ít tiền, cho nên khi xây nhà dựng cửa đã chia làm hai viện nội ngoại, còn xây cả tường ở cửa vào để làm bình phong, ngoại viện quay ngang dài, nội viện thẳng hẹp, theo hướng bắc ngoảnh về nam, nhà giữa chỉ có ba gian. Bởi vì khi ấy vẫn còn chế độ phong kiến, phòng xá thứ dân chỉ giới hạn ba gian năm mái, không được phép dùng đấu củng* hay vẽ hoa văn, đó là những điều cấm kỵ của xã hội này.

    * một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
    Hai bên nhà chính là nhĩ phòng, bố cục như vậy được gọi là "Cánh ô sa", mang hàm nghĩa thăng quan phát tài. Khi truyền đến đời hắn, tiệm quan tài đã tiệt đường kinh doanh, nhà cửa chỉ còn lại vẻn vẹn hai gian nhà trệt nhỏ, tổng diện tích áng chừng hai mươi mét vuông, nằm ở phía bắc của một con hẻm nhỏ, còn tất cả những gian phòng cũ còn lại đã nhiều lần bị phá dỡ sửa lại, bố cục phòng ốc sân sướng trong ngõ nhỏ đã hoàn toàn biến đổi. Phòng ở của mấy người Bạch Tứ Hổ là một gian giường gạch choán hết nửa, xác cô gái được đặt trên giường gạch, phủ kín chăn. Giữa nửa đêm ngày tết Đoan Ngọ, hắn ngồi phệt dưới đất một mình ở gian ngoài than khóc, đúng lúc ấy xác cô gái trên giường gạch đột nhiên mở miệng hỏi: "Họ Quách đã chết chưa?"

    Nhiều năm nay, Bạch Tứ Hổ có một thói quen, ở bên ngoài không hé răng nói một câu, hễ về đến nhà có chuyện gì là sẽ tuôn ra hết với xác cô gái này. Nghe thấy thế, hắn lập tức thở dài, bảo: "Đừng hỏi nữa, tôi đi theo tên họ Quách kia được một quãng, đang định thẳng tay nện cho hắn một búa. Có ngờ đâu cái thằng đó rất cảnh giác, vừa nghe thấy tiếng bước chân của tôi là ngoái đầu lại nhìn tôi, tôi. . . tôi nhất thời khiếp đảm, không dám xuống tay, đã thế còn để hắn nhìn thấy mặt. Ôi, có lẽ cuộc sống như hiện nay của chúng ta sắp chấm dứt, không tới hai ba ngày nữa, quan quân nhất định sẽ tìm tới tận cửa bắt tôi, tôi không nỡ lìa xa bà và con, tôi cũng không muốn dựa cột ăn kẹo đồng."

    Xác cô gái lại mở miệng ra bảo: "Ta chỉ cho ngươi một cách, ngươi cứ làm theo những gì ta nói, đảm bảo ngươi sẽ bình an vô sự, lại còn thực sự có thể dồn cái tên họ Quách kia vào chỗ chết, ngươi cứ làm như thế,... như thế,. . ."

    Kể cũng lạ, cô gái trong nhà Bạch Tứ Hổ đã chết tới năm sáu năm, tử thi được ướp bằng muối, mấy năm nay vẫn nằm im trên giường gạch không nhúc nhích, lúc bấy giờ lại đột nhiên mở miệng nói chuyện, thế chẳng phải là gặp quỷ hay sao? Ả ta đã chỉ cho Bạch Tứ Hổ cách gì? Đây cũng là một nút thắt, chúng ta cứ đặt nó ở đây đã, để đến hồi sau phân giải.
     
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 15: Táo quân trở mặt (Nửa chương đầu)


    Một

    Không nói đến Bạch Tứ Hổ nữa, giờ chuyển hướng câu chuyện sang phía Quách sư phụ. Tết Đoan ngọ năm 1945, mùng năm tháng năm âm lịch, đây là thời gian năm loài vật độc cùng xuất hiện, trên đường về nhà, Quách sư phụ bắt gặp một người cầm búa thợ mộc, lao từ phía sau lên định bổ vào đầu mình. Vừa mới ngoái lại thì kẻ đó đã bỏ chạy, ông ta vội chạy tới báo cho lão Lương biết.

    Lão Lương không nghĩ như vậy, bảo: "Năm nay triển khai hành động quét sạch bọn phản động, toàn thành lùng bắt với qui mô lớn, hung thủ ăn cướp bằng búa thợ mộc ăn tim gấu gan báo hay sao mà lúc này còn dám ra ngoài gây án? Lại còn rắp tâm ra tay với ông nữa? Nào đâu có việc trùng hợp như vậy? Chắc là người quen đùa giỡn vỡi ông mà thôi. Ông đấy, đừng có nghĩ ngợi nhiều nữa, mau mau về nhà ăn tết đi."

    Thấy lão Lương không coi trọng, Quách sư phụ đành nhịn không nói thêm một câu gì nữa, nhưng trong lòng vẫn chắc mẩm, kẻ vừa gặp giữa đường lúc nãy rất có thể là thủ phạm của những vụ cướp bằng búa thợ mộc. Ông ta đã nhớ nằm lòng hình dáng tướng mạo kẻ này, định bụng sau này sẽ chú ý điều tra, còn hôm nay cứ về nhà trước đã. Khi về đến nhà trời đã tối, bà vợ đã bọc kín bánh chưng để phần lại cho ông ta. Chợt nhớ ra tên lưu manh Đinh Mão không có bánh chưng ăn, ông ta giục vợ đi ngủ trước còn bản thân thì cầm theo mấy cái bánh chưng, rời nhà sang chỗ Đinh Mão. Hai người ở cách nhau không xa, chỉ cách có một con ngõ nhỏ.

    Thập kỷ năm mươi, vùng ngoại ô vẫn còn nhiều cây dâu và cây hòe. Lúc ấy vừa đúng giữa mùa dâu, mỗi lần ăn dâu, chẳng cần biết nhiều hay ít, cứ phải đầy một cái chậu rửa mặt, bởi loại quả này thực sự chẳng đáng bao nhiêu tiền. Đinh Mão cầm một chậu quả dâu, hai người ngồi ngay lề đường cùng ăn. Họ đang ăn thì chợt thấy có một người đi vào đầu hẻm, anh chàng này thở hồng hộc nghiến răng đạp một chiếc xích lô, khi đến gần thì hóa ra là Trương Bán Tiên. Sau giải phóng, Trương Bán Tiên cũng dọn đến ở vùng này, ai ai cũng tất bật vội vàng, lo cho thân mình còn chưa xong, khó mà có cơ hội gặp nhau lấy một lần.

    Quách sư phụ và Đinh Mão cùng đứng lên, cất tiếng chào hỏi Trương Bán Tiên: "Đây chẳng phải Trương tiên ư, thầy khỏe chứ?"

    Thời xưa, người ta gọi thầy tướng số và người kể chuyện thuyết thư là tiên sinh, văn dốt cũng làm được thầy tướng số, võ nát cũng làm được lưu manh, nhưng chỉ vì muốn ăn được chén cơm này thì đành phải ta đây văn vẻ. Cho dù những kiến thức chứa trong bụng chỉ là một mớ tạp nham, nhưng trên thực tế họ lại được tầng lớp dân chúng dưới đáy xã hội tôn kính. Quách sư phụ vẫn theo thói quen trước kia để gọi Trương Bán Tiên, vừa mở miệng ra đã gọi "Tiên sinh", nhưng người Thiên Tân vệ nói nhanh như máy, chuyên môn lướt qua chữ. Bởi vậy, khi nói ra mồm, chữ 'sinh' trong 'Trương tiên sinh' đã bị lướt qua: "Trương tiên Trương tiên, đã lâu không gặp, dạo này pháp thuật của thầy tinh tiến chứ?"

    Tuổi tác Trương Bán Tiên không lớn lắm, nhỏ hơn Quách sư phụ một chút, ngang ngửa với Đinh Mão, chẳng hiểu là Bán Tiên đời thứ bao nhiêu nữa, nhà anh ta bao đời nay xem phong thuỷ xem tướng theo phương pháp tổ truyền mà kiếm sống. Trước kia, thầy tướng số xem phong thuỷ còn có môn phái, ví như Long Môn, Ma Y, Âm Dương, Huyền Động, Thiên Nhãn....., Trương gia theo đường lối tướng thuật của Liễu Trang, coi trọng "Nhìn mặt xem tướng". Hai người vừa gặp mặt, chỉ cần nhìn qua ấn đường là đã đủ biết cát hung, phán định bao giờ cũng nghiệm, xưa nay không bao giờ dùng đến cách làm bày quầy xem tướng. Những kẻ bày quầy xem bói xem tướng đa phần là bọn bịp bợm giang hồ, đi đến đâu lừa gạt đến đó. Trương Bán Tiên là bảng hiệu do tổ tiên tạo dựng nên, chuyên môn xem phong thủy chọn nhị trạch âm dương (chỉ nhà ở và phần mộ) cho các quan to hiển quý. Nếu ai muốn mời Trương Bán Tiên tới xem nhà ở và phần mộ, trước tiên người đó phải đóng lễ kim tới cửa đưa thiếp, về phần có mời được được hay không thì tính sau, nhưng đến thời đại này coi như đã hết đất diễn. Sau giải phóng, không thể nào tiếp tục kiếm cơm bằng nghề này nữa, anh ta đành phải đi khuân vác đạp xích lô kiếm cái bỏ vào miệng, luôn chân luôn tay đến tận nửa đêm mới về đến nhà. Nhớ lại năm xưa, nội thành ngoại ô ai mà chẳng phải trọng vọng Trương Bán Tiên. Đến bây giờ đâu còn như ngày xưa, không thể nào tiếp tục chỉ dựa vào xem hai chỗ âm dương mà kiếm cơm được nữa rồi. Nhưng ngoại trừ việc đó ra, anh ta chẳng có năng lực gì nữa, cùng đường đành phải đạp xích lô chuyên chở giấy vào thành qua cửa tây. Loại giấy đó là giấy bản to, trọng lượng rất nặng, chất hơn mười cuộn giấy đã chặt cứng xích lô, tổng cộng hơn một ngàn cân, có thể đè gãy cả trục xe. Đường bằng thì không nói làm gì, mỗi khi gặp phải dốc, chỉ còn cách đứng dưới chân trợn mắt lên mà nhìn. Quả thật là kêu trời trời chẳng biết, gọi đất đất không hay! Cả ngày làm việc cực nhọc đến kiệt sức, anh ta đã chịu đủ mọi khổ ải rồi, một bụng đầy uất ức, đang muốn tìm người để hoài niệm lại chuyện cũ.

    Quách sư phụ mời Trương Bán Tiên vào trong phòng. Vừa hỏi anh ta đã bảo ngay là chưa ăn gì, ông ta vội vàng sai Đinh Mão nấu một ít mì sợi, ba người ngồi trong nhà nói chuyện phiếm.

    Trương Bán Tiên ăn ngấu nghiến như người sắp chết đói hết hai bát mì mấy cái bánh chưng, rồi ngẩng mặt lên ợ một cái, nhấp trà Đinh Mão pha sẵn, cầm lấy thuốc lá Quách sư phụ đưa cho châm lên rít một hơi, cuối cùng cũng phần nào tìm lại được cảm giác năm xưa; Lúc này mới mở miệng: "Quách gia, Đinh gia, các vị là những người hiểu rõ Trương mỗ, đừng thấy tôi chỉ có hai tay hai chân như mọi người mà lầm tưởng, thực ra là chân nhân bất lộ tướng, năng lực ẩn sâu bên trong. Không phải tôi nói vậy cho sướng miệng đâu, tổ tiên nhà họ Trương thực sự có bản lãnh, danh tiếng đã lưu truyền được mấy đời, âm dương phán chuẩn, đi đến đâu mà chẳng được mời mâm cao cỗ đầy. Có ai ngờ đến đời tôi lại chuyển sang nghề đạp xích lô gò lưng bán sức, thực sự đã làm cho tổ tiên mất mặt."

    Quách sư phụ và Đinh Mão chẳng biết nói cái gì, đành an ủi anh ta: "Những chuyện cũ vàng son không nên nhắc lại, giờ bán sức kiếm cơm cũng đâu phải là chuyện mất mặt."

    Trương Bán Tiên bảo: "Trước mặt người lạ tôi đâu có dám kêu khổ, nhưng khi gặp được hai vị, nếu không nói ra được đôi lời canh cánh trong lòng, chẳng phải bắt tôi uất ức khó chịu mà chết hay sao?" Anh ta luôn miệng cằn nhằn đến tận nửa đêm, rồi đột nhiên ngậm miệng không nói gì nữa, hai mắt mở trừng trừng, ngẩn người sững sờ nhìn chằm chằm vào mặt Quách sư phụ soi xét đến từng chân tơ kẽ tóc.

    Thấy anh ta như vậy, Quách sư phụ giật mình đánh thót, hỏi: "Bán Tiên thầy nhìn gì thế? Trên mặt tôi có gì lạ hay sao?"

    Trương Bán Tiên dụi mắt đi dụi mắt lại, quan sát kỹ thêm một lần rồi mới trả lời: "Quái lạ quái lạ thật, mới vừa rồi khí sắc Quách gia ông còn tạm được, nhưng bây giờ tôi nhìn đi nhìn lại vẫn thấy không hay. Ấn đường của ông đã biến thành màu đen, sắp gặp phải đen đủi, vận xui hiện lên mặt rồi!"

    Hai

    "Vận xui hiện lên mặt" là cách nói của người địa phương, dùng để miêu tả một người đang gặp vận rủi. Vận khí không tốt, chỉ cần xem sắc mặt là có thể nhìn ra, cứ khi nào khí sắc không tốt là sẽ hiện ra ở trên mặt. 'Hiện lên mặt' là nói theo cách xem tướng, ấn đường tái đi, còn một cách nói nữa là "Treo trên mặt" .

    Trương Bán Tiên gặp gỡ Quách sư phụ và Đinh Mão, ba người ngồi trong nhà ăn mì. Sau khi huyên thuyên một thôi một hồi, anh ta chuyển sang xem tướng. Ánh mắt anh ta không giống người bình thường, vừa gặp mặt nhau anh ta đã xem mặt cho Quách sư phụ, chỉ phán là tạm được, không có gì khác so với trước kia. Tuy nhiên, ngay trước khi định chào ra về, vừa liếc mắt qua anh ta đã phát hiện khí sắc trên mặt Quách sư phụ không tốt, ấn đường u ám. Ấn đường là "Mệnh cung" quan trọng nhất trong phép xem tướng của thầy tướng số, nằm ở vị trí chính giữa hai lông mày. Người gặp vận may, ấn đường nhất định sẽ sáng bóng như gương; vận khí không tốt, trên ấn đường sẽ có vẻ đen tối không sáng. Nhưng có lẽ anh ta chưa bao giờ thấy khí sắc một người có thể thay đổi đột ngột như thế, chỉ trong nháy mắt ấn đường đã biến thành màu đen, trước đó lại hoàn toàn không có dấu hiệu gì báo trước, giống y như bị quỷ không may ám vào thân. Sắc mặt của người sắp chết như thế nào thì của Quách sư phụ lúc đó cũng y như vậy.

    Trương Bán Tiên hoảng hốt, bảo rằng: "Quách gia, chỉ trong một chốc một lát như vậy, tại sao khí sắc của ông lại trở nên trầm trọng như thế?"

    Đinh Mão quan sát mặt Quách sư phụ, nhưng y đâu có biết xem tướng, chẳng thấy có gì khác lạ: "Bán Tiên thầy đừng có hù dọa người khác có được hay không, sư ca của tôi đang yên đang lành ở đâu nhảy ra khí sắc không tốt?"

    Nhưng tâm trí Trương Bán Tiên đã lạc đi tận đằng nào, anh ta tự lẩm bẩm một mình: "Thực quái lạ, vừa mới yên lành như vậy, tại sao chỉ trong thoáng chốc ấn đường đã biến thành màu đen, mặt đầy sắc xui rủi. . ."

    Đinh Mão hỏi: "Bán tiên thầy biết xem thời vận, tại sao lại không thấy trước được bản thân quẫn bách lâm vào tình trạng đạp xích lô chở giấy bản vậy?"

    Trương Bán Tiên trả lời: "Đinh gia, cậu có chỗ không biết rồi, thầy tướng số chúng tôi, không một ai dám xem tướng cho bản thân. Cậu ngẫm lại mà xem, nếu như tôi đoán trước được sau giải phóng chính mình sẽ phải đạp xích lô, cậu nói tôi còn có mặt mũi sống tới bây giờ được không?"

    Quách sư phụ cho rằng Trương Bán Tiên chỉ muốn tìm lại cảm giác trước giải phòng, cho nên hùa theo hai người đùa vui một chút, cho nên không coi những lời nói đó là sự thật, bèn bảo giờ không còn sớm nữa, mọi người cũng nên về nhà nghỉ ngơi.

    Trương Bán Tiên nghiêm mặt bảo: "Quách gia, tôi thực sự không có ý đùa vui với ông. Ông gặp vận rủi đến mức hiện cả lên mặt rồi, còn có tâm tư đi ngủ sao?"

    Quách sư phụ đáp lại: "Bán Tiên thầy đừng làm tôi sợ, rốt cuộc là có chuyện gì?"

    Trương Bán Tiên nói: "Tôi thấy có người đang muốn đối phó ông, ông phải cực kỳ cẩn thận. Sáng sớm ngày mai ông cứ chờ tôi, tôi chưa đến thì ông đừng có mà ra khỏi nhà." Nói xong, anh ta không đợi Quách sư phụ trả lời, vội vàng đạp xích lô về nhà.

    Quách sư phụ thấy Trương Bán Tiên nghiêm trọng như vậy, trong lòng không kìm được phải than thầm, lại suy nghĩ đã là phúc thì không phải là họa, đã là họa thì tránh không khỏi, nếu như số mệnh đã định sẵn, có muốn cũng không tránh khỏi.

    Đêm hôm đó, khi về đến nhà, Quách sư phụ bảo với vợ, sáng ngày mai Trương Bán Tiên chắc chắn sẽ đến với cái bụng rỗng không, cần chuẩn bị thêm một phần ăn sáng. Hôm đó mệt mỏi cả ngày, ông ta vừa đặt đầu xuống gối đã lăn ra ngủ. Sáng sớm ngày hôm sau, mí mắt ông ta vẫn còn nặng trịch, Trương Bán Tiên đã đến.

    Quách sư phụ hỏi: "Bán Tiên thầy thức dậy sớm nhỉ, ăn sáng chưa?"

    Trương Bán Tiên nói: "Chưa ăn, chị dâu làm món ăn sáng gì thế?"

    Vợ Quách sư phụ đã tự tay cán mì, còn có bánh nướng bánh quẩy. Sau khi bày hết lên trên bàn, bà ta vội vàng xách giỏ đi chợ mua thức ăn.

    Quách sư phụ mặc quần áo rửa mặt mũi xong, mời Trương Bán Tiên cùng ăn điểm tâm.

    Trương Bán Tiên vừa cho vào miệng đã cảm thấy mì sợi thật sự thơm, nấu ngon hơn nhiều so với gã lưu manh Đinh Mão, bánh quẩy rán cũng không tệ, thơm ngon đến tận miếng cuối cùng. Ăn bữa điểm tâm này tối thiểu có đủ dinh dưỡng cho cả ngày, nếu như thêm món tương cơm của Lục Tất Cư vậy thì đúng là hết chỗ chê.

    Quách sư phụ nói: "Đêm hôm qua mới biết được thầy sẽ tới, không có thời gian chuẩn bị sẵn mới thành ra thế này. Đợi chút nữa chuẩn bị đầy đủ sẽ mời thầy dùng tiếp."

    Trương Bán Tiên ngốn ngấu một lúc đã ăn xong món mì sợi cán, đáp lại: "Quách gia, ông đừng có nghĩ đến ăn uống gì nữa, trước tiên hãy nói cho tôi biết, thực ra ông đã chọc đến ai?"

    Quách sư phụ suy nghĩ rất lung, thật sự không nghĩ ra nổi bản thân đã gây thù chuốc oán với ai.

    Trương Bán Tiên bảo: "Ông suy nghĩ thật kỹ lại đi, có người muốn đẩy ông vào chỗ chết cơ mà? Tần Cối còn có bằng hữu, Nhạc Phi cũng có oan gia, trong cuộc đời mình có ai mà chẳng đôi lần gây hấn với người khác đây?"

    Quách sư phụ chợt nhớ tới tên hung đồ ăn cướp bằng búa thợ mộc. Ông ta bèn thuật lại toàn bộ cuộc chạm trán trên đường đi về nhà ngày hôm qua, đầu ra làm sao đuôi như thế nào, tuần tự theo đúng sự thực cho Trương Bán Tiên nghe một lần.

    Trương Bán Tiên nói: "Đích thị là tên thợ mộc này đã tin vào những lời đồn đại. Ngoài đường người ta đang đồn ầm lên là ông muốn bắt hắn. Nửa đêm ngày hôm qua rõ ràng là có kẻ muốn hại ông rồi, thế này là cái kiểu 'lưu manh đánh lưu manh, một trận lại một trận'*. Nếu ông không bắt được hắn, cả đời này ông đừng hòng thoát khỏi vận rủi."

    *Ý muốn nói việc này sẽ kéo dài mãi không bao giờ dứt

    Quách sư phụ không tin lắm: "Số mệnh lúc thăng lúc trầm, không ai có khả năng mãi mãi bay cao, cũng chẳng tránh được có lúc rơi xuống đáy, trên đời này đào đâu ra phương pháp có thể giúp cho con người ta cả đời luôn may mắn?"

    Trương Bán Tiên nói: "Người khác thì khó mà nói, nhưng với ông vận xui lại đến như cơm bữa. Tôi nói như vậy, ông có tin không?"

    Quách sư phụ không hiểu: "Nếu tin thì phải giải thích thế nào? Không tin thì sao?"

    Trương Bán Tiên nói: "Nếu không tin tôi, ông cứ tiếp tục sống bình thường như chẳng hề có chuyện gì, coi như lúc trước tôi chưa hề nói cái gì. Nhưng nếu tin lời tôi, ông phải nghe cho kỹ những gì tôi sắp nói ra đây, nhưng kể cả có nói ra ông cũng đừng sợ, ông có tai họa đổ máu."

    Ba

    Quách sư phụ nói: "Thầy làm thế này chẳng phải là chặn họng tôi trước hay sao, có chuyện cứ nói thẳng đừng ngại, rốt cục là như thế nào?"

    Trương Bán Tiên nói: "Thứ cho tôi nói thẳng, danh hiệu Thần sông Quách Đắc Hữu của ông không hay chút nào, quá phận mất rồi, con người có thể gánh được danh hiệu này sao? Mặc dù miệng là của người ta, muốn gọi thế nào thì gọi, nhưng ít nhất cũng làm cho phúc phận của ông mỏng đi. Ngày hôm qua tôi thấy khí sắc của ông thay đổi một chút, đích thị là do người khác đã lập bài vị của ông. Kẻ này đã khắc chữ Thần sông Quách Đắc Hữu lên một tấm thẻ gỗ rồi đặt lên bàn thờ nhà mình thắp hương, một ngày dập đầu bái lạy ông mấy lần. Ông là người sống, ông thừa nhận nổi không? Ông không gặp xui thì còn ai gặp xui đây?"

    Quách sư phụ nghe Trương Bán Tiên nói xong, sợ đến mức trán túa mồ hôi đầm đìa. Trước kia người ta tin vào những việc như thế này. Một kẻ phàm nhân ăn ngũ cốc hoa màu, có danh hiệu "Thần sông" đã là vượt quá phúc phận, huống chi còn bị lập bài vị tế sống, làm như thế đã bớt đi bao nhiêu phúc giảm đi bao nhiêu tuổi thọ, không xui rủi mới là lạ, nên làm thế nào mới phải đây?

    Trương Bán Tiên bảo: "Quách gia, hai ta là bằng hữu đồng đạo, những chuyện vướng bận khác tôi không thể giúp, có gì cần nói sẽ không dấu giếm trong lòng, giờ phút này nhìn khí sắc ông càng thêm sa sút, chỉ sợ không qua được hôm nay, chẳng qua. . ."

    Quách sư phụ cắt ngang: "Thầy đừng nói chuyện giật cục nữa có được không được, chẳng qua cái gì vậy?"

    Trương Bán Tiên nói tiếp: "Tôi cũng mới vừa nhìn ra thôi, mặc dù sinh mệnh trên cơ thể ông đang suy sụp, nhưng phong thủy bên trong nhà ông lại không tệ."

    Quách sư phụ biết rõ Trương Bán Tiên biết xem phong thủy nhà và mồ mả, sinh ra kỳ vọng vào khả năng xem xét của anh ta, bèn hỏi: "Căn phòng tồi tàn này của tôi cũng có phong thuỷ? Ở chỗ nào thế?"

    Người có năng lực thì hay khoe mẽ, chuyện gì cũng thường không nói ra miệng. Trương Bán Tiên cũng không nằm ngoại lệ, anh ta giơ một ngón tay chỉ vào cái bếp lò nhà Quách sư phụ.

    Quách sư phụ cực kỳ buồn bực: "Như vậy là có ý gì? Muốn làm thêm một bát mì nữa sao?"

    Nhà của Quách sư nhà là một căn phòng cấp bốn trong con hẻm ngõ miếu Đẩu Mẫu, gồm có hai gian. Vào thời đó, toàn bộ nhà dân chỉ có diện tích tầm mười mét vuông, hai gian tức là hai mươi mét vuông, đằng trước cơi nới ra một gian nhỏ dùng để nấu cơm và chất chứa những đồ vật linh tinh. Gian trong dùng để sinh hoạt, góc tường gian ngoài có một cái bếp lò cũ, thời đó được đắp bằng đất. Do nhiều năm không sử dụng đến, bếp lò đương nhiên nứt ra. Mỗi khi trời nóng, trong khe nứt thường xuyên có "Cùng ve" bò ra. Loài vật này rất thường thấy ở những hốc tường hoặc khe gạch của các căn phòng ở rách nát, ngoại hình nửa giống như con gián, nửa giống như con ve trên cây hồng bì, chân sau nhi đặc biệt dài, có khả năng nhảy rất cao. Bởi vì cùng quẫn, nhà của những người nghèo rất nhiều năm không tu sửa, đa phần đều cực kỳ ẩm thấp, bởi vậy mới sinh ra cách gọi "Cùng ve" như vậy. Trên một số đồ vật đồng thau thời Thương Chu được khai quật lên còn có hoa văn hình con ve, nhưng thật ra đó không phải là ve chân chính, mà là cùng ve. Qua đó có thể thấy được, từ cổ đến nay, cùng ve thường sống ở cạnh bếp lò. Bên trong cái bếp lò hỏng của nhà Quách sư phụ có đôi khi lại có một vài con cùng ve nhảy ra, đào đâu ra địa thế phong thủy gì, ông ta cứ tưởng Trương Bán Tiên vẫn còn muốn ăn mì nước.

    Trương Bán Tiên nói: "Nghĩ đi đâu vậy, ông thử nhìn bức tường phía sau bếp lò nhà mình mà xem."

    Phía sau bếp lò nhà Quách sư phụ có một bức tranh tết vẽ ông táo và bà táo, có lẽ là được dán lên từ trước khi giải phóng. Ông táo là thần cai quản bếp trong nhà, còn được gọi là Táo quân. Hai vợ chồng ông táo trong bức tranh mặc áo đỏ mũ cánh chuồn đỏ, béo tròn chắc nịch, mặt mũi phúc hậu. Theo tục lệ dân gian, cứ đến hai ba tháng chạp hàng năm là tết ông công ông táo, là thời gian ông táo lên chầu trời. Vào ngày hôm đó, từ vương công cho tới dân chúng đều phải cúng ông táo, cung thỉnh ông táo lên trời tâu với Ngọc Hoàng đại đế những điều có lợi cho nhân gian. Trong ngày này kiêng kỵ nhất là cắm cảu nói những câu oán hận trước mặt Táo quân, bởi vậy khi cúng ông táo không cho phép đàn bà con gái được khấn vái. Nếu không, rác tai với những câu miệng lưỡi của đám đàn bà, đến khi lên trời ông táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng đại đế nhà này không tốt thế này, không hay thế kia, dâng lên một tờ trình đủ khiến cho con người ta giảm tuổi thọ, kẻ nặng giảm một kỷ, kẻ nhẹ bớt một toán, một kỷ là ba trăm ngày, một toán là một trăm ngày. Trước đây có rất nhiều điều kiêng kị, cho nên mới có câu 'nam không bái nguyệt nữ không cúng ông táo'. Tết ông táo hai ba tháng chạp, người ta còn phải gỡ bức tranh trên bếp lò mang đi đốt, đến ngày ba mươi sẽ dán lên một bức mới. Nhưng từ thời dân quốc đến nay, người ta đã dần dần không còn quá để ý đến những tập tục như vậy nữa. Bức tranh ông táo ở căn bếp nhà Quách sư phụ đã dán sẵn ở đó từ lúc ông ta chuyển đến ở cho đến bấy giờ. Trên tường bếp của nhà ở có bức tranh vẽ ông tào là chuyện quá mức bình thường, bạn cứ thử vào nhà người khác mà xem, mười nhà e rằng có tới tám chín là như thế, như vậy lấy đâu ra thế phong thuỷ gì chứ?

    Trương Bán Tiên nói: "Không trong nghề sao biết được hay dở, ông không biết xem, đương nhiên sẽ không nhìn bí ẩn ở bên trong. Tôi bảo cho ông biết, nói ngắn gọn là thế này, bếp lò nhà ông cộng với bức tranh ông táo đã ngẫu nhiên hình thành nên một thế, gọi là lò bát tiên trấn trạch, có thể tiêu tai miễn họa. Ông trăm nghìn lần phải ghi nhớ, đừng hủy cũng đừng sửa, như vậy sẽ chắc chắn không đến nỗi gặp chuyện không may, một khi sửa đổi, ông chắc chắn đi tong."

    Bốn

    Truyền thuyết dân gian về nguồn gốc thân phận của ông táo và bà táo ở mỗi nơi mỗi khác. Vùng phía bắc Hoàng Hà cho rằng vợ chồng Trương Khuê là táo quân, cặp đôi này là nhân vật ở bên trong truyện Phong Thần, lên trời tâu những chuyện tốt, lúc xuống hạ giới thì bảo vệ bình an.

    Bức tranh tết Táo quân trong nhà Quách sư phụ đã được dán từ nhiều năm trước, bếp lò bên dưới cũng không sử dụng đến một thời gian dài. Trương Bán Tiên bảo với ông ta, đó chính là lò bát tiên, có thể bảo vệ số mệnh bình an, nhưng nếu có ngày nào đó thế này biến đổi thì đại nạn của Quách sư phụ đã tới, trừ phi mau chóng bắt được hung phạm ăn cướp bằng búa thợ mộc, ngoài ra không còn phương pháp nào khác.

    Trương Bán Tiên còn phải đạp xích lô đi giao giấy bản, những việc vướng bận khác anh ta không giúp được nữa, dứt lời vội vàng chạy đi.

    Quách sư phụ thừ người một mình ngồi trong nhà suy nghĩ cho đến lúc vợ ông ta đi chợ về đến nhà. Nhìn thấy Quách sư phụ ngồi bất động, bà ta bèn hỏi: "Lão Quách, sao ông vẫn còn chưa đi làm?"

    Quách sư phụ phục hồi tinh thần lại, bảo cái gì mà "Đau khắp mình mẩy, váng đầu nhức răng", tóm lại là toàn thân chỗ nào cũng thấy khó chịu, xin nghỉ vài ngày an dưỡng ở nhà một chút, lại kiếm cớ đẩy vợ về nhà mẹ đẻ ở mười bữa nửa tháng. Cùng ngày hôm đó, ông ta còn đi tìm Lý Đại Lăng và Đinh Mão, kể cả mấy người trước kia cùng lăn lộn ở đội tuần sông, rồi tuyên bố rõ nguyên do với tất cả bọn họ. Mặc dù ông ta đã từng đối mặt với tên cướp bằng búa thợ mộc khét tiếng, nhưng chỉ kịp nhận ra kẻ đó tầm ba mươi tuổi, chiều cao trung bình, tai trái có một vết bớt xanh. Thiên Tân vệ quá rộng, dân số lại nhiều, tìm một người như vậy chẳng khác gì tìm kim dưới đáy bể. Cũng còn may là có thể thu hẹp phạm vi tìm kiếm, bởi kẻ này dùng búa thợ mộc để ăn cướp, đương nhiên là đã từng làm nghề mộc, dù có thể sau này đã đổi sang nghề khác, nhưng khẳng định vẫn có liên quan đến thợ mộc. Những người làm nghề mộc ở nội thành ngoại thành đều không lạ gì nhau. Trước giải phóng, quê quán của phần lớn thợ mộc ở Thiên Tân là Sơn Đông. Bọn họ ra ngoài lang bạt đi kiếm tiền, đến tết âm lịch đa phần lại trở về quê ở Sơn Đông, nhưng vẫn có một phần nhỏ ở lại hẳn nơi này. Bởi vì ông tổ nghề mộc Lỗ Ban là người Sơn Đông, cho nên họ có một truyền thống, đó là đặc biệt đề cao tình nghĩa thầy trò. Hơn nữa, họ không tư lợi như con buôn, mỗi khi có việc, nếu một hai người thợ mộc làm không xuể, họ sẽ gọi thợ khác đến hỗ trợ. Do thường xuyên ghé chỗ này tạt chỗ kia, tần suất đi lại khá nhiều, cho nên họ biết hết về nhau, mặc dù trong đời chưa từng gặp mặt, nhưng hễ nhắc đến tên là có thể biết đang nói tới ai. Cứ chịu khó nghe ngóng từ miệng mấy vị sư phụ và thợ học nghề thợ mộc này, biết đâu lại có thể lần ra kẻ cướp đó.

    Mấy ngày liên tiếp, nhóm người Quách sư phụ đi khắp nơi tìm thợ mộc kiếm manh mối, thậm chí ngay cả những người trước kia đã từng làm thợ mộc sau này đổi nghề không làm nữa cũng không bỏ qua. Nhưng trong số những người đó lại không có một ai đã từng ở Thiên Tân nhiều năm, tầm ba bốn mươi tuổi, tai trái có vết bớt xanh. Họ chạy đến rạc cả cằng, nhưng hỏi ai cũng chỉ nhận được câu trả lời là cái lắc đầu, toàn bộ đều bảo không có người thợ nào như vậy.

    Chớp mắt đã trôi qua bảy tám ngày, một chút manh mối cũng không tìm được. Buổi chiều một ngày nọ, có một chàng trai ngã xuống con mương lớn ở cửa tây, Quách sư phụ đích thân lặn xuống cứu lên bờ, nhưng đến khi đó đã đã thấy người này tắt thở rồi. Năm nào cũng vậy, cứ đến tết Đoan Ngọ là lại thấy vô số người chết đuối dưới lạch ngòi ao chuôm, càng về sau càng xảy ra liên tục.

    Đến khi lão Lương biết được Quách sư phụ đã xin nghỉ ốm mấy ngày hôm trước, hơn nữa còn có người nhìn thấy ông ta đưa vợ về nhà mẹ đẻ, điều đó đã làm cho ông này nổi giận đến phát khùng, cho rằng những người đã từng sống dưới xã hội cũ đều ăn vào máu tật xấu vừa lười vừa tham ăn.

    Quách sư phụ nhảy xuống con mương lớn cứu người, kéo lên một cái xác đầy bùn thối. Trong lúc chờ người thân đến nhận xác, ông ta tranh thủ giải thích với lão Lương, không còn tâm tư tiếp tục đi dò hỏi đám thợ mộc. Đến lúc chạng vạng tối, trên đường về nhà, ông ta nhìn thấy một cái xe đẩy bán dê thập cẩm. Món dê thập cẩm đó được người ta làm rất sạch sẽ, không tanh không ngán, nấu rất ngon miệng, còn bán riêng từng món gan dê và móng dê. Vừa ngửi thấy mùi thơm, ông ta đã không cưỡng lại được, không đủ tiền mua gan dê, đành mua hai cái móng, ngồi ngay bên cạnh xe bán dê thập cẩm uống rượu giải sầu.

    Người bán món dê thập cẩm đó họ Trang, nhà ông lão đã bán món này được tám đời, người ta bèn gọi ông lão là Trang Bát Bối Nhi (con cháu đời thứ tám nhà họ Trang), tầm hơn sáu mươi tuổi, ngày nào cũng đẩy một chiếc xe nhỏ bày quán bán hàng bên vỉa hè. Gầm xe được phá thủng ra để đặt bếp lò, đặt một cái chảo lên trên nấu món dê thập cẩm. Đằng trước xe đặt hai cái ghế dài, đủ chỗ cho bốn năm người ngồi. Có người mua mang về nhà ăn, cũng có người tranh thủ lúc còn nóng ngồi ăn ngay ở trước xe. Đến khi trời tối, ông lão treo một cái đèn bão nhỏ để chiếu sáng, đến quá nửa đêm mới thu quán. Vào ban đêm vắng khách không có ai khác, Quách sư phụ vừa uống rượu, vừa nói chuyện phiếm câu được câu chăng với Trang Bát Bối Nhi. Sau khi gặm sạch móng dê, ông ta vứt bừa sang bên cạnh. Đúng lúc ấy, chợt nghe ven đường có tiếng bước chân sàn sạt rõ mồn một, ông ta quay đầu nhìn sang, nhưng không thấy một bóng người.
     
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 15: Táo quân trở mặt (Nửa chương cuối)


    Năm

    Trang Bát Bối Nhi khởi đầu bán dê thập cẩm ở góc tây bắc, năm nay vừa mới chuyển đến khu cửa Tây. Khi đó đèn đường còn ít, đêm ngày hôm đó trời lại tối mịt mùng, không có lấy một ánh trăng sao, trên đường tối đen. Quách sư phụ nghe thấy ven đường vang lên tiếng loạt xoạt rõ mồn một, nếu nghe cho kỹ thậm chí còn giống như có ai đang khẽ nói chuyện, nhưng trên đường rõ ràng không có một bóng người. Trong lòng cảm thấy kỳ quái, ông ta tháo cây đèn bão xuống qua bên đó xem rốt cuộc là kẻ nào. Ông ta giơ đèn lên soi, hóa ra là mười người tí hon, mỗi người chỉ cao tầm năm sáu tấc (50-60 cm), đang lén lút nhặt xương dê người ta ném đi. Ông ta là người can đảm, tóm lấy que cời lò đâm thẳng vào một tên trong số đó. Người tí hon kia kêu thảm thiết một tiếng rồi ngã gục xuống, đám còn lại lập tức bỏ chạy tứ tán. Ông ta lại giơ đèn lên xem xét, có mấy con hồ ly đang ngậm xương xẩu trong miệng chạy trốn, con bị que cời lò đâm trúng trợn trắng mắt giả chết phát hiện ra ánh đèn chiếu tới, cũng vội nhảy dựng lên chạy theo.

    Quách sư phụ cảm thấy kinh sợ, vội hỏi Trang Bát Bối Nhi bán dê thập cẩm: "Ông có nhìn thấy gì không?"

    Trang Bát Bối Nhi đáp lại: "Hồ ly hay là sói vàng? Có gì đáng nói đâu, dạo này chúng thường đến ăn trộm xương dê mọi người ném đi."

    Quách sư phụ thầm nghĩ: "Thời vận con người suy thoái, dương khí trên cơ thể đương nhiên yếu đi, cho nên sẽ nhìn thấy những vật không nên thấy. Vận khí của ta thực sự đã tận hay sao?"

    Nhìn thấy sắc mặt ông ta thảng thốt, Trang Bát Bối Nhi bèn bảo: "Có lẽ Quách gia cậu quá mệt mỏi nên đã hoa mắt rồi, nửa đêm nửa hôm rồi còn gì. Cậu đấy, cứ mắt nhắm mắt mở coi như chưa nhìn thấy cái gì, vậy là ổn cả rồi. Nghe nói cậu đi khắp nơi hỏi thăm đám thợ mộc, phải chăng là muốn truy nã tên cướp bằng búa thợ mộc?"

    Quách sư phụ gật đầu, thầm nhủ: "Hay thật, việc này ngay cả người bán dê thập cẩm cũng biết hay sao?"

    Trang Bát Bối Nhi nói: "Ngày hôm qua Đinh gia và Lý gia đến chỗ lão ăn dê thập cẩm, nhân tiện hỏi thăm về việc đó. Cậu đừng có tưởng lão chỉ là người bán dê thập cẩm không biết gì. Trước giải phóng, trong số những khách hàng quen thuộc của cái quán dê này của lão cũng có vài vị làm nghề mộc đấy."

    Quách sư phụ hỏi: "Vậy ông có biết người thợ mộc nào tầm ba mươi tuổi, bên tai trái có vết bớt màu xanh không?"

    Trang Bát Bối Nhi đáp: "Vậy thì chưa từng nghe nói có ai như vậy, nhưng nếu thực sự muốn tìm một thợ mộc có vết bớt xanh bên tai trái như vậy thì không đến mức quá khó khăn."

    Quách sư phụ nghe thấy bảo ngày hôm qua Đinh Mão đã tới đây hỏi thăm rồi, cho nên hỏi lại cũng là thừa hơi. Ông ta thở dài, đứng dậy định về nhà.

    Ai ngờ Trang Bát Bối Nhi lại nói tiếp: "Ngày hôm qua Đinh gia đã hỏi lão, nhưng mãi đến khi về nhà cả nửa ngày lão mới nhớ ra, ngày trước có một lần hai vị sư phụ nghề mộc đến cái quán dê thập cẩm này, trong lúc nói chuyện họ đã nhắc tới một sự việc rất khiếp sợ. . ."

    Trong lòng máy động, Quách sư phụ vội dừng bước, hỏi: "Ông kể lại sơ qua giúp con, đó là việc gì thế?"

    Trang Bát Bối Nhi kể lại cho Quách sư phụ, trước giải phóng ở cửa bắc có một tiệm bán quan tài nhà họ Bạch. Quan tài còn được gọi là áo quan, là loại đồ vật bán đi một cỗ mới làm tiếp một cỗ, không ai dám tích trữ sẵn nhiều, nguyên nhân nói ra thì rất khó nghe, bởi dù sao đi nữa phải đến lúc có người chết thì mới bán đi được. Ngoại trừ những gia đình đông con nhiều cháu, người già trong nhà đã nhiều tuổi, thì mới chuẩn bị sẵn quan tài, bởi vì gỗ tốt làm quan tài không phải lúc nào cũng sẵn có. Một khi gặp loại gỗ tốt, lập tức không tiếc tiền mua ngay, sau đó bỏ tiền ra mời sư phụ của tiệm quan tài đóng thành hòm áo quan. Công việc đầu tiên cần phải lưu ý là quét vài lớp sơn lót khắp mặt ngoài, phía trong lát một lớp gỗ mỏng, hai đầu mạ vàng vẽ chữ Phúc cùng với hoa văn hình hoa sen, cuối cùng bỏ áo liệm, mũ ông thọ và nguyên một bộ chăn nệm vào bên trong. Tuy nhiên, khi quan tài làm xong không thể khiêng về nhà, mà nó được lưu giữ trong tiệm bán quan tài, có khi được đặt ở đó tám mười năm cũng là chuyện rất bình thường. Nếu như nhà khác có người chết, không tìm được quan tài loại tốt ngay, con cháu nhà hiếu có thể thương lượng lại với nhà đã chuẩn bị sẵn quan tài, mượn tạm quan tài để an táng cha ông, sau đó chiếu theo nguyên dạng đóng một chiếc quan tài khác để trả lại. Đây là việc thiện tích đức, cho nên thông thường chủ nhà đã chuẩn bị sẵn quan tài sẽ đồng ý ngay. Về phần gia đình bình thường, mặc dù không đến mức bó chiếu mang đi chôn, nhưng thực sự không đủ tiền mua loại tốt nhất, phần lớn là sử dụng những tấm gỗ bách rẻ nhất để đóng quan tài, để mộc không quét sơn, hoặc chỉ quét một lớp nước sơn. Bởi phải hoàn thành công việc trong cùng ngày cho nên tiệm quan tài quanh năm phải có sẵn nhân công và vật liệu. Lão chủ tiệm quan tài nhà họ Bạch tự tay làm công việc nghề mộc, còn mướn hai vị sư phụ nghề mộc người Sơn Đông làm công cho mình.

    Mười năm trước, tiệm quan tài nhà họ Bạch đóng cửa. Buổi tối trước ngày trở về quê, hai vị sư phụ nghề mộc đến quán hàng của Trang Bát Bối Nhi uống rượu ăn dê thập cẩm. Lúc ấy, ông lão đã nghe thấy hai người này bảo ông chủ tiệm quan tài của mình đã gặp ma.

    Sáu

    Cửa tiệm quan tài ở cửa tây, ông chủ họ Bạch, bản thân biết làm mộc, thuê hai phụ việc, còn mướn thêm hai vị sư phụ nghề mộc. Cửa hiệu gồm ba gian mặt tiền liên tiếp, gian bên trái để quan tài, gian bên phải là phòng kế toán, gian chính giữa dùng để tiếp đãi khách hàng, kinh doanh tương đối lớn, nhưng tiệm quan tài đâu có phải hiệu ăn, không thể nào có những lúc đông như trẩy hội được. Tuy nhiên, bán quan tài có lợi nhuận cao, đặc biệt là khi có gia đình đông con nhiều cháu tới mua quan tài, khi ấy hét giá tiền bao nhiêu họ sẽ trả bấy nhiêu, chưa bao giờ trả giá. Tiệm quan tài có thể đóng cửa một tháng, nhưng chỉ cần mở cửa một lần là đủ ăn ba tháng. Sao khi lão chủ tiệm qua đời, con của ông ta là Bạch Tứ Hổ kế thừa gia sản, bao gồm một khu nhà cấp bốn, cộng thêm việc kinh doanh tiệm quan tài. Nhưng Bạch Tứ Hổ không biết đóng quan tài, chỉ biết đứng bên cạnh giám sát thợ mộc làm việc. Hắn là người không biết ăn biết nói, nhu nhược hèn nhát. Bởi vậy lợi dụng hắn không biết xem sổ sách, đám phụ việc và sư phụ nghề mộc đã thông đồng với nhau bí mật bòn rút tiền, bán ra bao nhiêu quan tài cũng vẫn lỗ lã, việc buôn bán giảm sút đi từng ngày.

    Bạch Tứ Hổ buộc phải lần lượt bán đi từng gian phòng của khu nhà cấp bốn, chỉ chừa lại hai gian phòng xiêu vẹo. Hàng ngày, hắn sinh hoạt cùng hai người phụ việc ở trong tiệm đằng trước, còn hai vị sư phụ ở gian phía sau. Vào buổi chiều một ngày, đến khi làm xong quan tài chờ người đến lấy thì trời đã tối đen. Mọi người trong tiệm quan tài chuẩn bị đi ngủ thì chợt nghe thấy bên ngoài có người đang đập cửa.

    Đêm hôm khuya khoắt đập cửa rầm rầm, nếu là loại cửa hàng khác, phụ việc kiểu gì cũng sẽ nổi cáu, nhưng tiệm quan tài và tiệm bán thuốc có một quy định, dù khách hàng tới trễ đến mấy cũng không có vấn đề gì. Nửa đêm chạy đến tiệm quan tài và tiệm bán thuốc gõ cửa, trong nhà người đó chắc chắn có chuyện lớn liên quan đến sống chết. Cho nên khi nghe thấy tiếng gọi cửa, người phụ việc lập tức khoác tạm quần áo rời giường. Trên cửa có khoét một ô nhỏ, mục đích là để phòng ngừa đạo phỉ, không mở cửa chính, chỉ mở ô cửa nhỏ đó ra để nhìn ra bên ngoài. Vừa ngó ra người phụ việc đã thấy bên ngoài cửa tiệm quan tài có một người cầm đèn lồng trắng đang đứng chờ, bảo rằng trong nhà có người chết, nhờ tiệm mau chóng chuẩn bị quan tài, giờ đang giữa tam phục thiên, người chết không để được lâu, đang cần dùng gấp, ngày mai sẽ đến lấy ngay. Nói xong, người đó lẳng tiền đặt cọc vào trong rồi vội vàng chạy đến những nhà thân thích báo tang.

    Những người trong tiệm quan tài vừa thấy có người đến mua, không ai còn được ngủ nữa, tất cả đều phải dậy làm việc. Sau khi thắp đèn trong tiệm, hai người thợ mộc lập tức chuẩn bị vật liệu để đóng quan tài, hai người phụ việc làm công việc phụ, tất cả cùng tất bật làm việc. Theo tục lệ xưa, nếu làm việc qua đêm, ông chủ phải cung cấp bữa điểm tâm, nhưng không phải là bữa điểm tâm bình thường mà phải có cá có thịt, cơm rượu đế. Sau khi làm xong việc, thợ sẽ ăn no uống say rồi đi ngủ bù. Thấy mình chẳng có việc gì để làm, Bạch Tứ Hổ bèn đi chợ mua thức ăn. Lúc ấy đã qua canh bốn chưa đến canh năm, canh năm thì gà mới gáy, canh bốn là sau nửa đêm, trời vẫn còn chưa sáng.

    Gần con mương lớn ngoài cửa tây có một cái chợ bán thức ăn. Vào đầu canh năm mới có nông dân đánh xe tới bán thức ăn, muốn mua đồ ăn sớm thì chỉ tới chỗ này mới có. Bạch Tứ Hổ ra khỏi nhà từ rất sớm, còn chưa đến chợ bán thức ăn thì trên trời đột nhiên nổi một tiếng sấm, mưa to như trút, khiến hắn ướt như chuột lột. Hắn vội vàng tìm chỗ tránh mưa. Vùng gần con mương lớn không có mấy gia đình ở, chỉ có vài căn phòng cổ từ đời nhà Thanh còn tồn tại đến bấy giờ. Thấy cánh cửa gỗ một căn phòng xiêu vẹo bên đường bên cạnh chỉ được buộc tạm bằng dây thừng, trong phòng tối ôm không đèn đóm, chắc hẳn là phòng bỏ hoang, hắn lập tức cởi dây thừng, mở cửa chui vào bên trong, nhưng đến khi muốn đóng cửa thì không khép chặt lại được nữa.

    Bên ngoài gió táp mưa sa, nước mưa tạt đầy vào vào trong phòng qua khung cửa hỏng cánh. Trên cánh cửa đúng ra là có khóa bằng đồng, nhưng không biết kẻ nào đã nạy ra lấy đi mất, chỉ để lại hai lổ thủng. Hắn xuyên dây thừng qua hai cái lỗ, buộc chặt cánh cửa lại. Nhờ ánh chớp lọt qua cửa sổ, hắn trông thấy trong nhà ngoài bốn bức vách thì chẳng còn cái gì, bụi đất phủ một lớp dày, chỉ có một cái giường đất. Hắn đành đặt mông ngồi xuống giường, nhắm mắt chờ ngớt mưa. Sau khoảng thời gian chừng ăn xong một bữa cơm, toàn thân hắn đột nhiên ớn lạnh, đồng thời hắn còn nghe thấy tiếng bước chân ai đó đang đi đi lại lại ở trong nhà. Hắn mở choàng mắt ra nhìn, giật mình nhìn thấy một người phụ nữ đang cúi gục đầu đi vòng quanh nhà.

    Bạch Tứ Hổ sợ hết vía. Hắn ngồi co ro trên giường gạch, miệng há hốc mắt mở trừng trừng, ngây dại không dám động đậy. Người phụ nữ trong phòng đột nhiên đi tới trước mặt hắn, đập vào mắt hắn là một gương mặt trắng bệch như tờ giấy, tóc dài, há mồm lưỡi thè ra ngoài. Trong khi Bạch Tứ Hổ đang luống cuống chân tay, đầu lưỡi người phụ nữ đã nhanh chóng quét tới, hắn lập tức ngả sang bên cạnh né tránh, nhưng đầu lưỡi vẫn kịp liếm vào vành tai trái của hắn. Hắn rú lên kinh sợ bỏ chạy, nhảy xuống giường định mở cửa chạy ra ngoài. Nhưng chẳng biết tại sao dây thừng buộc cửa thấm nước mưa, càng cởi càng chặt. Trong lúc quẫn bách không mở được cửa, hắn nhắm mắt nhắm mũi húc thẳng đầu vào cửa sổ, ôm theo cả cánh cửa bổ nhào ra bên ngoài, rồi ngất lịm. Lúc ấy đã sang canh năm, có người đi ngang qua cứu hắn tỉnh lại, nhưng tai trái hắn đã biến thành một đống bầy nhầy máu thịt. Sau ngày hắn mới biết, cách đó vài năm, có một người phụ nữ thắt cổ chết trong căn nhà đó, căn phòng lụp xụp đã bị bỏ hoang từ lúc ấy, cho tới bấy giờ, cũng chẳn có không ai dám dọn vào ở, đích thị là gặp quỷ thắt cổ rồi. Sau lần bị kinh hãi đó, đầu óc Bạch Tứ Hổ bắt đầu trở nên cực kỳ không bình thường. Không lâu sau, tiệm quan tài phải đóng cửa, phụ việc lẫn thợ mộc của tiệm đường ai nấy đi. Nghe nói Bạch Tứ Hổ đã đổi sang làm nghề đồ tể, sau này không bao giờ còn mở lại tiệm quan tài nữa.

    Mười mấy năm trước, trong lúc bán dê thập cẩm, Trang Bát Bối Nhi đã được hai người thợ mộc của tiệm quan tài nói cho biết, Bạch Tứ Hổ không biết làm nghề mộc, còn vết bớt bên tai trái cũng không có sẵn từ lúc mới sinh. Trang Bát Bối Nhi thích tán chuyện, có chuyện gì cũng kể ra tuốt tuột, nhớ ra cái gì là mang ra tán dóc hết với Quách sư phụ. Ông lão còn nghe hai vị sư phụ thợ mộc đó nhắc đến, bên ngoài có lời đồn bảo rằng bên trong khu nhà cũ của tiệm quan tài cất giấu của cải. Số của cải đó do tổ tiên Bạch chôn xuống, nhắn lại với đời sau, kể cả có bị chết đói, cũng không được phép bán hai gian nhà giữa đó.

    Tính toán theo thời gian, năm Canh Tý (1900) phá hủy thành Thiên Tân, nhà họ Bạch mót gạch cũ dựng nhà, như vậy hai gian nhà đó được xây vào thời ông nội của Bạch Tứ Hổ, cho tới năm 1954 bấy giờ, cũng chỉ mới được khoảng năm mươi năm. Hơn nữa, khi chôn của cải lại tiến hành trong bí mật không để lại di chúc, cho nên không ai biết được số của cải đó là những gì, Bạch Tứ Hổ đương nhiên càng không thể biết được. Hắn đã từng đào nền nhà sâu ba thước đất, nhưng chẳng tìm thấy bất cứ thứ gì.

    Bảy

    Tiệm quan tài của Bạch Tứ Hổ bị ăn cắp từ bên trong, thua lỗ không sao tiếp tục kinh doanh được. Mặc dù đầu óc ngu dốt, nhưng hắn vẫn ghi nhớ lời căn dặn của tổ tiên nên không chịu bán hai gian nhà giữa. Tuy vậy, hắn đã lật tung cả nhà lên mà vẫn không thấy bất kỳ thứ gì. Hai gian phòng đó nằm ở ngõ hẻm kho lương, cách nhà ga phía bắc không xa. Dù sao trước giải phóng ông lão mới ở cái vùng đó. Còn sau này thế nào, Trang Bát Bối Nhi chẳng hay biết chút gì.

    Người nói vô tâm, người nghe hữu ý, Quách sư phụ càng nghe càng cảm thấy Bạch Tứ Hổ chính là tên tội phạm mà ông ta đang truy tìm. Điểm thứ nhất, tuổi tác phù hợp; điểm thứ hai, tai trái có vết sẹo. Mặc dù kẻ này chưa từng làm thợ mộc, nhưng dù sao cũng đã từng mở một tiệm quan tài. Bởi vậy mới nói, giao thiệp rộng cũng là một loại tài nguyên. Nếu như không quen biết Trang Bát Bối Nhi, ông lão làm sao có thể thoải mái nhắc tới những câu chuyện cũ Trần Chi Ma Lạn Cốc Tử* với ông ta, làm sao ông ta có thể biết được vết xanh bên tai trái tên tội phạm không phải là cái bớt hay ngày trước hắn chưa bao giờ từng làm thợ mộc. Hóa ra trước kia họ đã đi nhầm hướng hoàn toàn, chẳng trách hỏi cái gì người ta cũng không biết.

    *Chuyện không đầu không đuôi, chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu

    Quách sư phụ cảm ơn Trang Bát Bối Nhi, đứng dậy ra về. Sáng sớm ngày hôm sau, ông ta và Đinh Mão đi về vùng lân cận phía bắc hỏi thăm một chút, thực sự có một kẻ Bạch Tứ Hổ như vậy. Hàng xóm xung quanh ai cũng bảo kẻ này là người trung thực, thường ngày rất ít khi ra khỏi nhà, ngoại trừ ăn mặn, mua rất nhiều muối thì không hề có hành động gì khác thường.

    Sau khi xác minh xong, Quách sư phụ không muốn đánh rắn động cỏ, trở về báo lạo với lão Lương, có một kẻ ở ngõ hẻm kho lương ở khu nhà ga phía bắc tên là Bạch Tứ Hổ, rất có thể là thủ phạm cướp của giết người bằng búa thợ mộc.

    Tuy lão Lương tin tưởng Quách sư phụ, nhưng vấn đề này tương đối nan giải. Câu chuyện về "Kẻ cướp bằng búa thợ mộc" đã lưu truyền ở Thiên Tân vệ vài chục năm rồi, từ đầu đến cuối chí ít liên quan đến hai ba mươi mạng người, khiến cho lòng dân không yên, ngay cả những khu vực đông người trong thành cứ đến khi trời tối, gần những chỗ vắng vẻ là không ai dám tới. Nhưng tên thủ phạm tàn ác này gây án không có quy luật, cho tới bấy giờ nạn nhân của hắn không một ai sống sót, truy nã mười năm mà không có kết quả. Muốn bắt trộm cướp phải có tang chứng, nếu không có thì không thể nào xông bừa vào nhà bắt người được. Nếu ông không tìm ra hung khí búa thợ mộc dùng để đánh cướp, làm sao có thể nhận định là Bạch Tứ Hổ gây án?

    Mặc dù vậy, nếu chính quyền muốn điều tra nhân thân thì chẳng có gì là khó, chỉ cần mượn lý do điều tra hộ khẩu tới gõ cửa nhà Bạch Tứ Hổ, trước tiên tra xét nhân thân kẻ này một chút. Trưa ngày hôm đó, chính quyền phái hai người tới nhà hắn, vừa gõ cửa còn chưa kịp hỏi han gì thì Bạch Tứ Hổ đã đột ngột xô dạt hai người ra rồi bỏ chạy. Công an viên được phái tới nhận định kẻ này làm vậy là bởi có tật giật mình, một người vội truy đuổi sát phía sau, còn một người ở lại xem xét bên trong nhà. Khi nhìn thấy bài vị của Thần sông Quách Đắc Hữu ở trong phòng, anh ta cảm thấy kỳ quái khó hiểu, mang theo tâm trạng buồn bực tiếp tục xem xét. Vừa liếc qua giường gạch, anh ta đã thấy có một người trắng tinh đang nằm trên đó, giống hệt như người tuyết, đến khi nhìn kỹ lại thì hóa ra là xác một phụ nữ ướp trong muối tinh.

    Vụ án này có lẽ nghiêm trọng hơn dự tính, công an dân binh đội tuần phòng đều phải tham gia, điều động không dưới bảy tám trăm người, chia thành mấy đường đuổi bắt kẻ trốn chạy Bạch Tứ Hổ. Tên này hết đường chạy trốn, cuối cùng bị bắt tại một rãnh nước thải. Hơn hai mươi người lại lần mò dưới rãnh nước đó mất hai ngày mới tìm được cây búa thợ mộc mà Bạch Tứ Hổ đã ném xuống đó. Bằng chứng rành rành, hắn hết đường chối cãi, khai ra trước giải phóng nhìn thấy búa thợ mộc tại một hàng bán rong ở vỉa hè như thế nào, sinh ra ý tưởng đen tối ra sao, sau khi mua được cây búa đã giấu vào trong người, chọn những nơi nào để gây án. Có một lần đánh gục một phụ nữ ở tỉnh ngoài, hắn thấy cô gái này tương đối có nhan sắc, bèn nhân dịp lúc trời tối đen mang người chết về nhà, ngày nào cũng ăn nằm với các xác đó, sau một năm thì xác chết mang bầu. Kế đó xác chết bắt đầu xuất hiện dấu hiệu phân hủy, hắn sợ mùi xác chết bay ra sẽ khiến cho hàng xóm phát hiện, bèn dùng muối để bảo quản. Nghe bên ngoài đồn đại Quách sư phụ muốn bắt mình, trong lúc bản thân cảm thấy kinh hoảng không biết phải làm sao, xác cô gái đã bày cách cho, bảo hắn làm một miếng gỗ hương, viết bài vị Quách sư phụ lên trên, bái vài ngày là người này chắc chắn phải chết, không ngờ tới chỉ vài ngày sau hắn đã bị bắt về kết án.

    Lão Lương cho rằng lời khai đó vô cùng ma quái, có thể thấy được tư tưởng mê tín đã cắm rễ trong đầu Bạch Tứ Hổ, xác chết cô gái làm sao có thể sinh con, lại còn nghĩ kế cho hắn nữa? Hơn nữa, lập bài vị thắp hương khấn vái là có thể khiến người khác bị chết, trên đời này làm gì có chuyện như vậy? Bị Bạch Tứ Hổ bổ vào gáy, chắc hẳn lúc ban đầu cô gái chỉ mới chết não còn trái tim vẫn còn đập, về sau cơ thể cô ta mang thai thai, rồi bắt đầu bốc mùi thì lúc ấy mới chết thực sự. Bởi vì Bạch Tứ Hổ không rõ chân tướng, cứ tưởng rằng trước khi mang về nhà thì cô gái này đã là một xác chết. Theo dân gian, người chết não được là 'hoạt thi', những gì hắn kể có lẽ là sự thực. Về phần Bạch Tứ Hổ bảo rằng mấy ngày hôm trước xác cô gái đột nhiên nói chuyện, nhất định là do chính bản thân hắn tưởng tượng ra. Cuối cùng vụ án đã được khép lại, phê duyệt hồ sơ thế nào, định án ra sao thì không nói đến nữa.

    Về phần xác cô gái trong nhà Bạch Tứ Hổ, liệu có phải đã thực sự mở miệng nói chuyện vào ngày tết Đoan ngọ, bày cách cho Bạch Tứ Hổ lập bài vị thắp hương để khấn vái làm cho Quách sư phụ chết hay không?

    Vậy tôi xin nói với ngài, xác cô gái bị muối tinh bao bọc kín mít, không thể nào mở miệng nói chuyện được, nhưng Bạch Tứ Hổ cũng không có nghe lầm. Ngài đừng có quên, trong ngôi nhà thừa kế lại ở ngõ hẻm kho lương của Bạch Tứ Hổ có cái gì, tại sao đã thử mọi biện pháp mà không tìm được. Trên thực tế, người đã nói chuyện với hắn không phải là cái xác cô gái mà là một kẻ hoàn toàn khác. Nếu như đây chỉ một câu truyện ngắn, vụ án "cướp bằng búa thợ mộc" tuyên cáo đã được phá, thủ phạm đã cúi đầu nhận tội và phải đền tội, thì đến đây câu chuyện của chúng ta coi như đã khép lại rồi. Nhưng câu chuyện về Thần sông lại mang tính dài kỳ, bên trong lại có tiền căn hậu quả của nó, phải đến phần nói về "Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương" mới có thể phá giải được nút thắt lúc trước.

    Tám

    Hai năm tiếp theo, đầu đường cuối ngõ bàn tán xôn xao, câu chuyện chỉ xoay quanh việc Quách sư phụ phá liền ba vụ án ly kỳ "Trạm điện đài ngầm dưới sông, bom người, đánh cướp bằng búa thợ mộc", trong đó không thiếu những tình tiết nghe nhầm đồn bậy. Thí dụ như vụ án "Bom người", thực ra chỉ là dùng xác chó để vận chuyển lậu nhựa anh túc, nhưng truyền qua miệng nhiều người, chẳng hiểu tại sao lại biến thành dấu thuốc nổ trong bụng xác trẻ con, quả thật là tam sao thất bản, người ta đồn đại càng ngày càng ly kỳ.

    Bản thân vụ án "cướp bằng búa thợ mộc" đã kỳ quái rồi, Bạch Tứ Hổ ru rú trong nhà, tuyệt không một ai có thể nghĩ ra hung thủ lại là hắn. Nhưng chẳng hiểu do ma xui quỷ khiến thế nào hắn mới đi tìm Quách sư phụ, cho nên mới nói hắn đáng chết, chết không ai thương tiếc.

    Tên Bạch Tứ Hổ này hành xử như ma quỷ, giết chết một cô gái từ tỉnh ngoài đến rồi mang xác về nhà coi như vợ của mình. Nghe nói, xác chết đó còn sinh cho hắn một đứa con. Câu chuyện về vợ cương thi con yêu quái trong căn nhà bị ma ám trong ngõ hẻm kho lương được dân chúng đồn ầm lên, hai gian phòng đó bị đóng cửa. Ai cũng bảo đó là căn nhà ma, các hộ gia đình quanh đó cứ nghĩ đến mấy năm nay ở canh một cái xác phụ nữ được bảo quản bằng rất nhiều muối, lâu ngày muối còn kết tinh thành kén trắng, có ai mà chẳng sợ hết hồn? Cho nên tất cả đều dọn nhà đi nơi khác. Số hộ gia đình sống ở ngõ hẻm kho lương vốn dĩ đã không nhiều lắm, sau vụ án kinh hoàng đó, đã không còn tới một nửa.

    Trước đây, địa danh được đặt rất bừa bãi. Trước đó, ngõ hẻm kho lương từng có một kho lương thực của nhà nước, bởi vậy mới được gọi bằng cái tên này, tên đầy đủ của nó là ngõ hẻm kho chứa lương thực, nằm cạnh nhà ga phía bắc, liền kề với "Ninh viên". Ninh viên là một khu vườn trồng cây được xây dựng vào những năm cuối triều Thanh, bên trong có hồ nhân tạo. Vào năm 1931 của thời kỳ hai mươi năm dân quốc, nó được đổi tên thành công viên Bắc Ninh. Đến tận thập kỷ năm mươi sáu mươi, mọi người vẫn quen gọi nó theo tên cũ là "Ninh viên".

    Nhà của Bạch Tứ Hổ nằm ở ngõ hẻm kho lương sát Ninh viên ở khu vực nhà ga phía bắc, sau khi hắn bị bắt rồi xử bắn, bất động sản bị sung công, trên cửa dán giấy niêm phong, những gia đình ở xung quanh cũng chẳng còn lại mấy hộ. Về sau, công viên Bắc Ninh mở rộng hồ, đã phá hủy khá nhiều những căn nhà cổ. Khi ấy, hai gian phòng của Bạch Tứ Hổ cũng bị dỡ bỏ. Chuyện này sẽ nói rõ ngọn ngành sau, tạm thời để đấy không nhắc tới.

    Cô gái trong nhà Bạch Tứ Hổ đã chết không dưới mười năm trước. Trước giải phóng, người ở nơi khác chạy nạn đến đó rất nhiều, chiến tranh loạn lạc, bởi vậy không điều tra ra được thân phận. Tử thi đưa đi hoả táng, căn nhà ở ngõ hẻm kho lương bị dán giấy niêm phong, vụ án này coi như đã đến hồi kết. Nhưng ngoài xã hội, rất nhiều người không rõ chân tướng, bởi vậy lời đồn tiếp tục nổi lên ở khắp nơi, mỗi người nói một kiểu.

    Quách sư phụ không dám kể công, vụ án này thực sự không phải do một mình ông ta phá, mà cũng chẳng tới phiên ông ta lập công. Cuối tháng sáu năm 1954 xử bắn Bạch Tứ Hổ, trị an xã hội ngày càng đi vào nề nếp. Nhưng vận khí Quách sư phụ vẫn không thể bảo là tốt, cũng không thể đánh giá là xấu. Thời gian trôi qua ngày từng, chỉ trong chớp mắt đã đến năm 1957, trời mưa to mấy trận, mực nước Hải Hà đột ngột dâng cao. Tới mùa hè năm 1958, khí hậu biến đổi khác thường, liên tục mấy tháng không có mưa xuống. Cái nóng mùa hè oi bức, nhiều người nhảy xuống sông bơi lội, liên tiếp xảy ra chết đuối.

    Có một ngày, Quách sư phụ phải vớt xác chết trôi trên sông, sau khi xong việc về đến nhà, do quá mệt mỏi nên ông ta lăn ra ngủ từ rất sớm. Nửa đêm nghe thấy gian ngoài có tiếng động, ông ta cho rằng có trộm vào nhà bèn đeo giày chạy ra xem sao. Gian ngoài không thấy có người, nhưng đến khi ông ta ngẩng đầu lên, nhìn đến bức tranh ông táo trên tường lò, ông ta chợt rùng mình đổ mồ hôi lặng ngắt toàn thân. Khuôn mặt ông táo và bà táo trong bức tranh đã biến đổi.

    Sờ sờ ra đó là hai gương mặt quái dị, bốn tròng mắt đen bóng đảo loạn xạ. Quách sư phụ cầm giầy lên ném thẳng vào, chợt thấy hai con vật lông xanh xám nhảy từ mặt bếp lò xuống đất, chui qua khe cửa bên dưới chạy mất. Thì ra là hai con hồ ly trưởng thành vừa trèo lên bếp lò ngồi.

    Quách sư phụ xem xét bức tranh ông táo bị giầy ném vào, thấy lưu lại dấu vết, vội vàng xoa bàn tay lau vết giầy đi. Nào ngờ bức tranh đã dán trên tường nhiều năm, giấy đã mủn lắm rồi, ông ta vừa mới xoa một cái, bức tranh rách ra luôn, không còn khả năng khôi phục lại nguyên trạng.

    Mấy năm trước, lúc ăn dê thập cẩm ở quán hàng của Trang Bát Bối Nhi, ông ta đã dùng que cời than đâm trúng một con hồ ly con. Rốt cục có phải bọn chúng đến trả thù hay không, thực sự không thể nào truy xét ra được. Nhưng dù thế nào thì thế phong thủy lò bát tiên cũng đã bị phá mất, chỉ sợ không phải là dấu hiệu báo điềm lành. Nhưng bất kể ra sao, ông ta cũng không tài nào đoán trước được, một vật trong "Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương" rục rịch muốn chui ra.
     
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 16: Mộ Hải Trương Ngũ (Nửa chương đầu)


    Một

    Con sông được nhắc đến nhiều nhất trong "Hà thần" là Hải Hà, không được xếp vào hàng ngũ những con sông dài. Bắt đầu từ cầu Kim Cương cho đến khi đổ ra biển ở cửa Đại Cô, toàn bộ con sông trải dài bảy mươi ba cây số, nhưng lưu vực của dòng Hải Hà lại rất rộng, bao gồm năm nhánh sông chính, theo thứ tự là "sông Bắc Tam, sông Vĩnh Định, sông Đại Thanh, sông Tử Nha và sông đào Chương Vệ Nam". Năm nhánh sông chính lại chia ra thành hơn ba trăm con sông nhỏ, trải khắp toàn bộ vùng Hoa Bắc với hình thù giống như một cái quạt, Hải Hà của Thiên Tân vệ có thể coi là cán quạt, bởi đến khu vực này con sông đột ngột thu hẹp lại. Địa hình của khu vực này là tây bắc cao, đông nam thấp, bắc có Yên Sơn, tây có Thái Hành sơn, đông nam là bình nguyên rộng lớn. Con sông bắt nguồn từ cao nguyên, xói mòn đất bazan, cuốn theo một lượng lớn bùn cát chảy đến Hải Hà, khiến lòng sông đầy dần lên theo từng năm. Ứng theo đó, nước lũ không chảy xuôi xuống hạ du được, cho nên thường xuyên xảy ra lũ lụt.

    Mỗi lần lũ định kỳ vào mùa hạ, nước sông cuồn cuộn chảy xiết, lần nào thế nước lũ tràn về cũng mãnh liệt đầy hung dữ. Căn cứ vào sách vở ghi lại, từ khi lập vệ dựng thành Thiên Tân vào triều Minh cho đến nay, lưu vực Hải Hà đã phát sinh ba trăm tám mươi bảy lần thiên tai lũ lụt nghiêm trọng, thành Thiên Tân đã bị nước lũ ngập lụt hơn bảy trăm lần, nhà cửa của quân dân bị hư hại vì hứng chịu nhiều trận lũ lụt. Sau giải phóng, Mao Chủ Tịch từng đưa ra chỉ thị, nhất định phải trị tận gốc thủy tai của Hải Hà. Bởi vậy, mỗi lần đến thời hạn cố định, người ta phải nạo vét bùn đất cho dòng Hải Hà, đồng thời đào mương máng phân lũ.

    Câu chuyện đã đến năm 1958. Năm đó, người chết đuối rất nhiều, bởi vì tình hình hạn hán nghiêm trọng, thời tiết nóng như thiêu như đốt, số người muốn tắm mát, xuống sông bơi lặn nhiều hơn những năm trước cả vài lần. Vào tháng nóng nhất của mùa hè, kể cả người không biết bơi cũng không chịu đựng nổi phải nhảy xuống sông tắm. Bởi vì thiên tai hạn hán, mực nước xuống thấp đến mức lộ ra cả bùn đất và rong rêu dưới đáy sông. Người xuống sông tắm rất dễ bị bùn lầy hút chặt, hoặc bị rong rêu cuốn lấy, càng giãy càng bị cuốn chặt, dù bơi giỏi đến mấy cũng không thể thoát chết.

    Bức họa ông táo nhà Quách sư phụ bị hủy, theo cách nói của Trương Bán Tiên thì đó là phá phong thuỷ, sẽ phải hứng chịu vận rủi. Nhưng ông ta bận rộn cả ngày vớt xác trôi sông, lấy đâu ra thời gian mà lo với lắng.

    Ngày hôm sau, lão Lương tìm tới Quách sư phụ, bảo rằng tất cả các ngành các chi đội đều phải cử người tham gia công việc trị thuỷ, nạo vét mương máng chống hạn phòng chống lũ lụt. Ông này quyết định cử Quách sư phụ và Đinh Mão đi tham gia lao động.

    Từ lúc ấy trở đi, ngày nào hai người họ cũng phải đi nạo vét sông cái. Nạo vét sông là việc cực nhọc nhất, đặc biệt là vào mùa hạ trời oi bức không mưa, trời nắng như đổ lửa, mặt trời chói chang chiếu thẳng xuống đỉnh đầu. Khi nạo vét dưới mương máng, ánh nắng chiếu xuống, lớp bùn lầy biến thành màu xanh lục, thối không thở nổi. Quách sư phụ không những chỉ nạo vét con sông cái, mà đến lúc có người chết đuối dưới sông, ông ta còn phải đảm nhận công việc vớt tử thi cùng với Đinh Mão.

    Công việc chống lũ chủ yếu là nhân lúc vào mùa nước cạn, nạo vét bùn lắng dưới đáy sông, khơi thông dòng chảy, để đến lúc gặp phải mưa to, lũ lụt không đến mức tràn thẳng vào nội thành. Đoạn sông mà Quách sư phụ và Đinh Mão nạo vét nằm ở vùng ngoại thành phía tây bắc. Nơi đó là một vùng xanh tươi, phủ đầy những vườn cây rộng lớn, không xa lắm về phía tây là "Đắc thắng khẩu", ngày xưa gọi là Tiểu Sao Khẩu. Vào thời Hàm Phong nhà Thanh, Lâm Phượng Tường Lý Khai Phóng đã chỉ huy quân Thái Bình Thiên Quốc bắc phạt, đánh tới Tiểu sao khẩu, chuẩn bị qua sông thì đột nhiên bị dân đoàn* phục kích, thất bại tan tác, bởi vậy triều đình mới ban cho cái tên "Đắc thắng khẩu" .

    *Tổ chức vũ trang ở địa phương của bọn cường hào địa chủ Trung Quốc thời xưa

    Khí trời oi bức, hai nhóm người luân phiên nạo vét sông cái. Giữa trưa ngày hôm ấy, đến phiên Quách sư phụ nghỉ trưa, những công nhân trị thuỷ xúm lại vây quanh bắt ông ta kể chuyện yêu ma dưới sông và biển.

    Quách sư phụ không dám kể chuyện liên quan đến quỷ thần, sợ lỡ lời nói sai cái gì, lại phải hứng chịu cơn giận của lão Lương. Ông ta chợt nhớ ra, đi về phía tây là "Đắc thắng khẩu", lại nghe nói nơi đây có mộ của Hải Trương Ngũ, bèn kể về những tích chuyện ngắn về kẻ này. Vào những năm cuối nhà Thanh, Hải Trương Ngũ là tên trùm lưu manh khét tiếng của Thiên Tân vệ, xuất thân nghèo khổ, làm giàu bằng cách khống chế việc buôn bán muối. Thiên Tân làm ra muối, bởi vậy vào thời nhà Thanh, tất cả những người giàu có nhất trong nội thành đều là thương nhân buôn muối, từ đó có thể suy đoán ra, Hải Trương Ngũ phải giàu đến mức nứt đố đổ vách. Vào cái năm quân Thái Bình bắc phạt đánh tới thành Thiên Tân, hắn đã bỏ tiền tổ chức lực lượng dân đoàn, mai phục tại Tiểu sao khẩu, dùng hoả lực đồng loạt tấn công. Quân Thái Bình ngã rạp từng mảng dưới họng súng kíp của dân đoàn, binh bại như núi đổ, cuối cùng bị quân kỵ mã của Tăng Cách Lâm Thấm** tiêu diệt. Bởi vậy, Hải Trương Ngũ đã được triều đình khen thưởng, phong tặng cho hàm võ quan tam phẩm. Hải Trương Ngũ là tư thương buôn muối xuất thân từ lưu manh. Đừng thấy hắn có mũ miện lông công mà lầm, một chữ bẻ đôi cũng không biết, đòn gánh đặt ngang trên mặt đất cũng không đọc ra được là chữ nhất. Có lần, một vị khâm sai đại thần xuống thị sát, Hải Trương Ngũ đứng ra tiếp đãi, hàn huyên với vị khâm sai đại nhân. Sau khi thảo luận xong việc công, vì muốn xóa ngăn cách, kéo gần quan hệ giữa thượng cấp và hạ cấp, Hải Trương Ngũ hỏi khâm sai đại thần có mấy người con. Khâm sai đại thần bảo rằng có hai khuyển tử, nói xong quay sang hỏi chuyện nhà Hải Trương Ngũ. Hải Trương Ngũ thầm nghĩ: "Chức quan lớn như vậy mà khâm sai đại nhân còn gọi công tử trong nhà là khuyển tử, theo chức võ quan Tam phẩm của mình thì nên gọi như thế nào mới phải? Tóm lại, con cái của ta bất kể thế nào cũng không thể đánh đồng với công tử nhà khâm sai đại nhân được." Nghĩ vậy, hắn lập tức cúi người đáp: "Khiến đại nhân chê cười rồi, trong nhà hạ quan chỉ có một tinh trùng lên não."

    **Tăng Cách Lâm Thấm (1811-1865), tiếng Mông Cổ: Sengge Rinchen, là người tộc Bác Nhĩ Tể Cát Đặc của Mông Cổ, danh tướng cuối thời Mãn Thanh. Thời Hàm Phong và Thuận Trị, khi tham gia chiến đấu với quân Thái Bình Thiên Quốc và liên quân Anh Pháp, ông đã lập được nhiều công lớn.

    Nghe kể xong, đám công nhân trị thuỷ con sông cái phá ra cười. Đang định nài nỉ Quách sư phụ kể thêm một tích chuyện nữa, họ chợt nghe thấy những người đang nạo vét bùn dưới sông trở nên huyên náo, bởi sau khi xúc hết lớp bùn, bên dưới đã xuất hiện quái vật.

    Hai

    Năm 1958, Thiên Tân vệ xảy ra hai sự kiện lớn, một là đua nhau luyện sắt thép theo phong trào, hai là nạo vét sông cái chống hạn phòng lũ, công việc chủ yếu là nạo vét hết lớp phù sa lắng đi. Khi ấy thực sự đã đào lên được không ít đồ vật, bởi vì lớp bùn lắng dưới sông đã tích tụ qua nhiều năm, đã chôn vùi những nghĩa địa hoặc thôn làng ở ven sông xuống dưới, bởi vậy mới đào được những đồ vật có niên đại vài trăm năm. Đến giờ, khi nhắc đến chuyện năm đó, một số ít người cao tuổi vẫn còn ấn tượng, cho dù không được tận mắt nhìn thấy thì cũng đã từng được nghe kể lại. Những sự việc thực sự đáng kinh ngạc đáng khiếp sợ, tổng cộng chỉ xảy ra bốn lần, sự việc mà Quách sư phó và Đinh Mão được chứng kiến là lần thứ tư.

    Người ta tiến hành nạo vét phù sa ở kênh mương ngoài thành để phòng chống lũ lụt ở hơn mười nơi, bốn sự việc đó không đồng thời xảy ra ở cùng một địa điểm. Sự việc kỳ lạ đầu tiên xảy ra trên sông Tử Nha. Năm đó, khi nạo vét sông cái, người ta chỉ làm vào ban ngày, đào hết bùn lắng lên, xúc lên xe cút kít mang đi đổ. Bên bờ sông dựng một cái rạp lớn, những người công nhân trị thuỷ nhà ở xa sẽ ở lại qua đêm trong cái rạp đó. Mùa hè oi bức, rất nhiều muỗi, nhưng công việc nạo vét sông quá cực nhọc, toàn bộ đám công nhân trị thủy vừa nằm xuống đã lăn ra ngủ ngay. Đến lúc ấy, bên ngoài rạp bỗng xuất hiện sáu đứa bé mặt đồ đen, độ tuổi xấp xỉ nhau. Chúng đẩy cửa rạp ra, sau đó nói một câu mà toàn bộ đám công nhân trị thuỷ không hiểu tí gì "Huynh đệ chúng ta vẫn luôn ở cùng một chỗ, đừng để họ tách chúng ta ra". Lúc ấy không có ai hiểu được câu đó có ý gì, cũng chẳng biết sáu đứa bé đó từ đâu mà đến, đang định truy hỏi thì đã thấy cửa rạp đóng chặt lại rồi, không kịp nhìn thấy sáu đứa bé đi về phía nào. Những người công nhân trị thủy cứ ngỡ mình nằm mơ. Ngày hôm sau tiếp tục nạo vét khơi dòng, trong lúc tiến hành công việc họ đào được sáu con mèo đúc bằng sắt rất lớn dưới lớp bùn, đã han rỉ toàn bộ, không nhìn ra được hoa văn ra sao, hình dáng giống loài như mèo, không biết là vật chìm xuống sông thuộc về triều đại nào. Khi đó, hiến đồng hiến sắt cho quốc gia là việc quang vinh, khi đi trên đường nhặt được một cây đinh sắt cũng không quên nộp lên trên, bởi vậy sáu con mèo sắt bị mang đi nấu chảy ra. Những người công nhân trị thuỷ đa phần là người có xuất thân thấp hèn làm công việc chân tay, những người này rất mê tín, tin rằng sáu đứa bé ngày hôm đó là do sáu con mèo sắt ở đáy sông biến thành người. Đồ cổ đã sinh ra linh khí, nếu bị hủy sẽ mang lại tai họa, họ bèn âm thầm thắp hương cầu khấn, nhưng từ đó về sau vẫn không hề có việc gì lạ phát sinh.

    Lần thứ hai xảy ra bên ngoài cửa tây. Thời xưa, Thiên Tân vệ có bốn cửa thành, theo thứ tự là "Củng Bắc Môn, Trấn Đông Môn, An Tây Môn, Định Nam Môn". Năm Canh Tý (1900) toàn bộ tường thành cửa thành đã bị phá dỡ, nhưng mọi người vẫn tiếp tục gọi theo tên cũ. Bên ngoài cửa tây có một con sông bảo vệ thành, có một thời đã từng là chiến hào. Khi người ta nạo vét bùn lắng ở đó đã đào được một ngôi mộ cổ, bên trong không có quan tài, chỉ có một cái huyệt rất chật hẹp. Bên dưới huyệt có một cái xác đã khô quắt, quần áo vẫn chưa hoàn toàn mục nát, kín mít từ đầu đến chân. Trong vài năm nạo vét sông khi ấy, số mộ mà người ta đã đào ra không dưới vào trăm, nhưng chỉ có ngôi mộ này là đáng sợ. Gương mặt của cái xác khô quắt đó lõm vào trong, cũng có thể nói là không có mặt, bởi phần mặt từ hàm dưới đến lông mày chỉ là một lỗ thủng bằng cỡ nắm tay. Nước tù đọng dưới ngôi mộ vàng úa, tanh hôi khó ngửi. Sau đó không ai biết cái xác ướp cổ đó đã bị mang đi đâu. Sự việc này đã làm dấy lên không ít lời đồn, nhưng tất cả đều không đáng tin.

    Lần thứ ba là tại cầu nổi Diêu Oa. Khi còn là mặt đất bằng, vào thời nhà Thanh nơi đây đã từng là nha môn Tổng đốc Trực Lệ. Khi nạo vét phù sa, người ta đã đào ra được một con rắn kỳ dị dài hơn thước, to cỡ cẳng tay, toàn thân đỏ rực, trên đầu có một cái mào thịt. Điều kỳ quái nhất là con rắn này biết nói, há miệng ra là có thể phát ra tiếng người. Có một người công nhân trị thủy bạo gan, vung xẻng đập chết con rắn đó, máu nó văng vào người những người đứng xung quanh, vừa tiếp xúc đã làm da thịt thối rữa biến thành mủ, bởi vậy đã chết mất tầm hai ba người. Sau này xuất hiện lời đồn bảo rằng, con vật nửa rồng nửa rắn đó là mầm gây tai họa, phải ăn đào mới tránh được nạn, khiến cho một dạo cháy hàng không tìm đâu ra đào mà mua.

    Lần thứ tư có sự có mặt của Quách sư phụ, xảy ra ngay tại nơi mà họ nạo vét con sông cái, lần đó là kỳ quái nhất. Khi nạo vét sông, họ đào được hai cái bàn đá xanh, mặt bàn lớn xấp xỉ với bàn bát tiên, dày đến vài thước, được mô phỏng theo hình dạng của một loại động vật nào đó, khắc chìm hoa văn hình sóng nước. Nếu có phiến đá, phía dưới chắc chắn có thứ gì đó.

    Khi nạo vét bùn ở đáy sông đã đào lên một phiến đá, mặt ngoài có khắc hình hoa văn bia đã bị mờ, hình như là ba chữ "Trương Cẩm Văn", còn có đầy đủ cả năm nào tháng bao nhiêu. Lúc mới đầu, họ cứ tưởng đó là mộ Hải Trương Ngũ. Tên thật của Hải Trương Ngũ là Trương Cẩm Văn, là trùm buôn lậu muối xuất thân từ du côn lưu manh vào những năm cuối triều Thanh. Khi còn bé, hắn theo mẹ ăn xin mà sống, sau khi lang bạt qua Quan Đông, lúc trở lại Thiên Tân vệ đã trở thành kẻ bảo kê đường buôn muối. Người khác muốn vận chuyển muối phải trả phí bảo vệ cho hắn, không trả tiền là sẽ bị "đao trắng đi vào đao đỏ rút ra", dựng nghiệp bằng hai bàn tay trắng khống chế việc buôn muối, cứ thế mà phát tài. Vào thời Hàm Phong, Hải Trương Ngũ bỏ tiền tổ chức dân đoàn đánh quân Thái Bình lập công, triều đình phong cho hắn danh hiệu quan Tam phẩm. Ở Thiên Tân Vệ, thanh danh Hải Trương Ngũ cực kỳ xấu, nhất là không có công danh, là võ quan ít ra ngươi cũng phải xuất thân từ võ cử thì mới được người kính trọng. Nói trắng ra, công danh chính là văn bằng. Thời xã hội phong kiến, người có công danh sẽ có đặc quyền cực lớn. Nếu ai có công danh, thân phận địa vị người đó đã thoát ra khỏi phạm trù dân chúng bình thường. Ví dụ như cùng phạm vào vương pháp, mặc dù cũng sẽ bị đưa lên công đường chịu thẩm vấn, nhưng nếu bản thân có công danh, phạm nhân gặp quan huyện không cần phải quỳ xuống, phạm tội cũng không bị đánh đòn. Muốn đánh đòn trước hết phải tước công danh đi đã. Hải Trương Ngũ là hạng người du côn vô lại ăn chùa cướp trắng không kiêng nể gì ai, nhưng lại làm quan đến chức to, bởi vậy ai cũng coi thường hắn. Hắn xuất thân bần hàn, hầu như là mù chữ, đầy mưu mô xảo quyệt, mỗi lần ghi sớ dâng triều đình là lại nhờ sư gia viết thay. Nhưng như vậy chưa đáng là cái gì, chủ yếu là vào năm Hàm Phong thứ tám, lúc liên quân Anh Pháp đến đánh chiếm, kẻ này đã từng làm tay sai cho liên quân. Từ lúc ấy thanh danh hắn không thể tồi tệ hơn được nữa, dân chúng không ai là không mắng chửi hắn. Nghe nói sau khi chết, Hải Trương Ngũ được chôn bên ngoài cửa tây.

    Đám đông cảm thấy có khả năng đây là mộ Hải Trương Ngũ, đào cũng đã đào lên rồi, huống chi quan hàm của Hải Trương Ngũ không nhỏ, lại còn là tư thương buôn muối, trong nhà vàng bạc thực sự chất cao như núi, trong mộ có lẽ có vài đồ tốt, thừa dịp hỗn loạn lấy đi một hai thứ, chẳng phải là bỗng dưng kiếm được món hời hay sao. Bởi có cùng ý nghĩ này, người nào người nấy hùng hục đào bới, toàn thân lấm lem bùn đất. Có ai ngờ, khi đào phiến đá đầy bùn đất lên họ mới phát hiện ra, đó căn bản không phải huyệt mộ. Hơn nữa, những vật chui từ trong ra còn khiến cho toàn bộ những người công nhân trị thuỷ kinh hồn bạt vía.

    Ba

    Đám công nhân trị thuỷ xúm vào nạy phiến đá ra, phát ra tiếng động vang vọng khắp bốn phía, những người nghỉ luân phiên gần đó cũng kéo hết đến xem, Quách sư phụ và Đinh Mão chen lên đằng trước. Ngay dưới phiến đá là một cái động lớn, vách động rắn như đá, tối om không biết sâu bao nhiêu, có nhiều khả năng là mộ Hải Trương Ngũ, bởi ngôi mộ này không giống với bất cứ ngôi mộ nào khác. Có hai công nhân trị thủy to gan lớn mật muốn đi xuống dưới, bảo người khác đi tìm dây thừng. Dây thừng còn chưa tìm được, mọi người chợt nghe thấy bên dưới có tiếng động vang lên, giống như tiếng một loạt thân cây cao lương bị bẻ gãy cùng một lúc.

    Đám công nhân trị thuỷ người nào người nấy giật mình kinh hãi, hai người có ý định đi xuống dưới lúc này cũng rụt vòi lại. Âm thanh đó giống hệt như tiếng thủy triều đang lên, bắt đầu từ dưới sâu rồi càng lúc càng lên cao dần. Mọi người biến sắc mặt, cảm giác trong động có vật gì đó sắp đi ra, chợt nhớ tới ngày xưa có truyền thuyết nói rằng Long Ngũ Gia đã trói Hạn ma Đại tiên lại rồi ném xuống một cái giếng cổ, cái giếng đó cũng nằm ở bên ngoài cửa tây. Chẳng lẽ khi nạo vét sông cái đã moi ra được Hạn ma Đại tiên hay sao?

    Đám công nhân trị thuỷ sợ hết hồn, tất cả đều không tự chủ được giật lùi về phía sau. Đinh Mão to gan lớn mật, vẫn còn muốn xông lên phía trước quan sát, nhưng đã bị Quách sư phụ túm chặt kéo lùi lại. Đúng lúc ấy, từ trong động có một bầy chuồn chuồn đuôi vàng chi chít bay ra, số lượng nhiều vô kể, vỗ cánh vù vù, giống như một đám mây vàng, rợp trời loạn xạ lượn vòng quanh. Những người đứng nhìn nổi da gà toàn thân. Hình dáng những con chuồn chuồn đuôi vàng đó rất quái lạ, chỉ có một cặp cánh, đầu to đuôi nhỏ, bay không cao lắm, chỉ trong chớp mắt đã tản ra khắp nơi, cắm đầu cắm đuôi rơi xuống đồng ruộng gần đó. Tất cả đám trẻ con đang chơi đùa gần đó lao tới bắt, còn mang cả chim tước tới mổ chuồn chuồn. Còn đám người nạo vét sông cái thì lại ngây người ra cả một đám, cả đời họ chưa từng thấy nhiều chuồn chuồn đuôi vàng như vậy. Cái động lớn dưới đáy bùn tại sao lại có chuồn chuồn?

    Giữa trưa đào được một cái động lớn, buổi chiều có người đến tìm Quách sư phó và Đinh Mão. Có một cậu học trò xuống sông Tử Nha bơi bị bùn nhão rong rêu ở đáy sông hút chặt nên đã chết đuối, không tìm thấy xác, nhờ họ chạy sang đó hỗ trợ. Hai người vội vàng chạy đi. Không nói tới chuyện Quách sư phụ tới sông Tử Nha tìm xác ra sao, giờ chỉ nói đến đám công nhân trị thủy. Họ đứng quây tròn xung quanh cái động bàn tán xôn xao. Có người mê tín bảo, chuồn chuồn là hóa thân của Hạn ma Đại tiên, người nào đụng tới sẽ chết, không cho bọn nhỏ bắt chúng, chẳng trách năm nay hạn hán lại khốc liệt như vậy, chẳng biết chừng Hạn ma Đại tiên còn sắp hiện thân cũng nên. Người khác lại bảo, long mạch của con sông biến chất, không phải là điềm tốt. Đủ mọi cách nói khiến cho lòng người hoang mang. Đến khi chiều đến, trong động không còn chuồn chuồn bay ra nữa, nhưng không một ai dám đi xuống, công việc đình trệ cho đến lúc chạng vạng tối. Trời vừa tối không thể nào tiếp tục làm việc được nữa, bởi thực sự sợ gặp chuyện không may, đám công nhân trị thuỷ trước hết đậy phiến đá lại, nếu như ngày mai tiếp tục nạo vét, cửa động nhất định càng đào càng rộng, có trời mới biết bên trong còn có vật gì nữa.

    Sắc trời dần tối, chỉ còn ba người ở lại cái rạp lớn để gác đêm, cuốc xẻng và xe cút kít dùng để phục vụ công việc nạo vét sông vứt ngổn ngang khắp nơi, những người còn lại đều đã ra về. Mùa hạ trời sáng sớm, tối muộn. Lúc ấy đã là tầm tám giờ tối, ba người ở lại chẳng có việc gì để làm. Trước giải phóng, ba người họ đã lang bạt khắp nơi làm công việc chân tay, kết nghĩa làm anh em, gọi nhau là lão đại lão nhị và lão tam. Lão đại là người âm trầm lớn mật, lão nhị lắm mưu ma chước quỷ, lão tam tay chân không sạch sẽ, trộm cắp móc túi. Người họp theo bầy, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, ba người bọn chúng táo tợn ăn trộm ăn cướp chẳng khác gì đám lưu manh, không làm được việc gì tốt. Những công nhân trị thuỷ còn lại đã về hết, bọn chúng ăn cơm xong, ngồi canh chừng giữa vùng trũng hoang vắng. Chúng đốt giấy bản để đuổi muỗi, quanh đó không một bóng người, trong khung cảnh mây đen trăng mờ, chợt nảy sinh ý tưởng tham lam đen tối.

    Lão đại lên tiếng: "Hai người các chú nói thử coi, dưới cái động lớn ở đáy sông có cái gì?"

    Lão Tam nói: "Có lẽ nào là Hạn ma Đại tiên?"

    Lão Nhị bảo: "Ngu dân nói hươu nói vượn, làm gì có chuyện như vậy. Trên tấm bia đá có khắc cái tên Trương Cẩm Văn, tôi thấy nhất định là mộ Hải Trương Ngũ."

    Lão đại tán đồng: "Lão Nhị nói rất đúng, phiến đá dưới lớp bùn là cửa mộ, phía dưới sẽ là quan tài của Hải Trương Ngũ."

    Lão Tam thắc mắc: "Nhưng tại sao bên trong mộ lại có nhiều chuồn chuồn bay ra như vậy?"

    Lão Nhị gắt lên: "Chú đúng là một thùng cơm vô tích sự, đó là bảo khí trong mộ biến thành."

    Lão Tam nói: "Đại ca nhị ca, tôi hiểu rồi, theo ý trong cách nói chuyện của hai ông anh, là định. . ."

    Lão đại cắt ngang: "Định làm cái gì, còn phải nói rõ ra nữa hay sao! Bản thân Hải Trương Ngũ là trùm buôn lậu muối, có công đánh bại quân Thái Bình, được phong làm mệnh quan triều đình, thứ có nhiều nhất chính là tiền, đồ tùy táng trong mộ của y toàn là đồ tốt."

    Lão Nhị nói: "Nếu ngày mai tiếp tục đào, số châu báu chôn cùng Hải Trương Ngũ tìm được sẽ bị hiến toàn bộ, nhưng bây giờ chỉ có ba người chúng ta, chẳng bằng xuống dưới lấy trước vài món, không tận dụng lần này sẽ không còn cơ hội nữa đâu."

    Lão đại và lão tam đồng loạt gật đầu: "Người không có thu nhập ngoài luồng không giàu, ngựa không ăn cỏ đêm không béo, có ai nguyện ý nghèo cả đời đâu, thời cơ đã tới trước mặt, nếu vẫn không có gan ra tay, vậy thì khốn cùng suốt kiếp cũng là đáng đời, có chết đói cũng chẳng ai thương tiếc."

    Toàn bộ dân chúng Thiên Tân vệ, ai ai cũng biết, trùm lưu manh Hải Trương Ngũ nhờ khống chế việc buôn bán muối mà giàu có. Xã hội xưa, thuế muối rất nặng, nhưng nhà nào mà chẳng phải ăn muối, có ai là ngoại lệ. Muối lại được lấy từ biển, buôn muối là hình thức mua bán không cần vốn. Đối với các ngành các nghề khác, khi thực hiện bất cứ vụ mua bán nào cũng là hình thức "bỏ vốn kiếm lời", chỉ có thương nhân buôn muối là không phải bỏ vốn nhưng vẫn có lời, cho nên tất cả những người giàu nứt đố đổ vách thời Thanh mạt đều là thương nhân buôn muối, Hải Trương Ngũ lại là kẻ đứng đầu trong số đó. Vào năm quân Thái Bình Bắc phạt, thế như chẻ tre thẳng tiến, chẳng mấy chốc sẽ đánh tận tới Thiên Tân vệ. Tri huyện Tạ Tử Trừng không có binh không có lương, quẫn bách đến độ muốn treo cổ tự vẫn, may nhờ có Hải Trương Ngũ bỏ tiền, chiêu mộ bốn ngàn quân không chính quy, mua thêm súng đạn, khi trận chiến ở Sao Trực Khẩu kết thúc, đã đánh tan quân Thái Bình. Hắn quả thực còn lắm tiền hơn cả triều đình. Vàng bạc châu báu trong mộ của hắn, có ai mà không mờ mắt động lòng?

    Ba người bàn nhau kỹ càng, quyết định xuống dưới động khai quật quan tài của Hải Trương Ngũ. Bởi vậy bọn chúng lập tức chọn đồ mang theo, nhét đèn lồng không thấm nước vào lồng ngực, bó mấy cây đuốc, cầm theo cuốc xẻng nạo vét sông chuyên dụng và dây thừng. Nhân lúc trời không có trăng, chúng lần mò đến chỗ phiến đá dưới đáy sông, xem thời gian thì vừa đúng tầm giữa canh ba. Sau nửa đêm chính là thời gian thích hợp để đào trộm mộ.
     
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 16: Mộ Hải Trương Ngũ (Nửa chương cuối)


    Bốn

    Trùm buôn lậu muối thời nhà Thanh Hải Trương Ngũ, tên thật là Trương Cẩm Văn, là con thứ năm trong gia đình, thuở bé bị mang cho Hải đại nhân quản lý ngành muối làm con nuôi, được triều đình phong thưởng. Ở trước mặt, mọi người tôn kính gọi hắn là Ngũ Gia, nhưng sau lưng thì khinh bỉ gọi là Hải Trương Ngũ*. Vào thời Hàm Phong, kẻ này dựng nghiệp bằng hai bàn tay trắng, đã từng đánh bại quân Thái Bình thủ vững Đại Cô Khẩu, chết vào những năm cuối thời Quang Tự. Lần nạo vét sông với quy mô lớn vào năm 1958, cách lúc hắn chết chỉ tầm năm mươi năm. Vào những năm cuối nhà Thanh, xã hội loạn lạc, dân trộm mộ hoành hành ngang ngược, quan trộm dân trộm, cấm mãi vẫn tái diễn. Bản thân Hải Trương Ngũ giàu kếch xù, cho nên để phòng ngừa bị người ta trộm mộ sau khi chết, việc hạ táng được tiến hành trong bí mật. Cho đến bấy giờ, vẫn không có ai biết rõ phần mộ Hải Trương Ngũ nằm ở đâu. Năm ấy, khi nạo vét sông cái ở ngoài cửa tây, người ta đã đào được một phiến đá có khắc tên Hải Trương Ngũ ở bên trên, chặn cửa cửa vào một cái động lớn dưới đáy sông, ba tên lưu manh nghèo kiết xác xuất thân từ đầu đường xó chợ cho rằng phía dưới có quan tài của Hải Trương Ngũ, trong đầu nảy sinh ý định đào trộm mộ.

    *Người Trung Quốc ghép họ bố đẻ và bố nuôi của ông ta lại để gọi mang hàm ý khinh miệt giống như người Việt chúng ta hay chửi là 'đồ năm cha ba mẹ'.

    Gặp phải hạn hán nghiêm trọng, lòng sông cạn nước, trong những bãi cỏ hoang không có lấy một tiếng ếch hay côn trùng kêu, bốn bề tối đen như mực. Đáng lẽ ra, ít nhất phải có một người ở lại để tiếp viện, hai người còn lại xuống dưới khai quật quan tài chiếm đoạt báu vật. Nhưng ba kẻ này nghi ngờ lẫn nhau, vì tiền bạc anh em ruột thịt còn cạn tình hết nghĩa với nhau, huống chi chỉ là anh em kết nghĩa. Bởi vậy sau khi bàn bạc thống nhất, ba người bọn chúng quyết định cùng nhau xuống dưới, tìm được bảo vật sẽ chia làm ba phần đều nhau, mỗi người được một phần. Lúc ban ngày, tảng đá lớn chắn cửa động đã bị đào lên một lần, bấy giờ đẩy ra rất dễ dàng. Bọn chúng đã uống vài ngụm rượu để tăng thêm lòng dũng cảm, lão đại cầm bó đuốc chiếu sáng, đồng thời để phòng ngừa dưới đáy sông có rắn, lão nhị cõng theo bao tải đựng vật dụng, lão tam cầm xẻng chuyên dụng để nạy quan tài. Chúng tìm ba sợi dây thừng dài, một đầu buộc chặt vào gốc một cây lớn bên bờ sông, đầu kia thả xuống dưới động. Sau khi thả hết chiều dài sợi dây, hình như mới xấp xỉ chạm đáy, ba người cùng nhau bám dây thừng tụt xuống dưới. Rõ ràng là cái động lớn này dựng đứng, vừa sâu vừa rộng. Bên ngoài trời vô cùng oi bức, nhưng vào bên trong khí lạnh đã ập tới, bởi vậy khi vừa chui xuống, bọn chúng không hẹn mà chợt cùng nhau rùng mình, toàn thân nổi hết cả gai ốc.

    Cái động thẳng đứng dưới đáy sông, càng xuống sâu lòng động lại càng rộng. Nói ra kể cũng lạ, trong động có một cây cột đá đồ sộ, được chạm trổ tỉ mỉ, cao hơn hai trượng, chóp nhỏ đáy rộng. Trong động tối đen như mực, nhìn không thấy cuối cùng, chỉ có vô số trận gió lạnh âm u đập vào người, nền động vô cùng lầy lội. Bọn chúng phán đoán bên trong cây cột đá dưới đáy sông chứa thi thể Hải Trương Ngũ, chắc hẳn là một loại quách được đục từ đá nguyên khối, lớn ngoài sức tưởng tượng. Chúng dùng tay xoa xạch lớp bùn đất bám bên ngoài, nhờ ánh đuốc để quan sát tìm hiểu một lúc lâu, nhưng nhìn thế nào cũng không giống một cái quan tài, mà có vẻ giống như một cái tháp bằng đá trắng được hạ táng dưới đáy sông. Cái tháp gồm năm tầng, được tạc bằng đá trắng nguyên khối, đặc ruột. Cái bệ tám cạnh dưới chân được khảm tám cái gương lớn bằng đồng lạnh như băng, sau khi lau sạch bùn đất, tấm gương đồng vẫn có thể soi rõ mặt người, một nửa số gương đã rơi xuống bùn. Ba người bọn chúng, mỗi đứa theo đuổi một ý nghĩ của riêng mình. Dù không có kiến thức, nhưng bọn chúng vẫn có thể nhìn ra, đây không phải là quan tài của Hải Trương Ngũ.

    Nhắc đến Hải Trương Ngũ là liên tưởng ngay đến một tư thương buôn muối xuất thân từ lưu manh. Một kẻ ăn mày thối tha ngoi lên từ tầng lớp bần cùng, khống chế thị phần lớn của việc buôn muối, được phong làm mệnh quan triều đình, một kẻ có năng lực như thế làm sao có thể là hạng người bình thường. Dù xét về mặt tâm trí hay là gan dạ sáng suốt, hắn luôn là nhân vật đẳng cấp hàng đầu. Không riêng gì năng lực giỏi nắm bắt yếu điểm của kẻ khác, ngay cả việc buôn bán hắn cũng có khả năng hơn người, gặp khó khăn không chùn bước, chỉ cần có cơ hội là lập tức nắm bắt dốc sức liều mạng bò lên bên. Nhưng cho dù bản lĩnh cao đến đâu, hắn cũng không phải là tăng nhân xuất gia, không cần phải đặt một tòa tháp đá ngay trong mộ của mình, huống hồ đó còn là một bảo tháp có bệ tám mặt. Bọn chúng chợt liên tưởng tới Tháp trấn yêu.

    Khu vực hạ lưu chín sông của Thiên Tân vệ, từ xưa đến nay lũ lụt liên miên. Theo truyện cổ, Thanh Xà Bạch Xà lừa Hứa Tiên, bởi vậy đã bị hòa thượng Pháp Hải giam dưới chân tháp Lôi Phong. Kể từ đó, truyền thuyết về bảo tháp trấn yêu đã in đậm trong lòng mọi người. Bạch xà trong câu chuyện cổ Bạch xà Thanh xà không hề giống như hình tượng Bạch Nương Tử trong kịch truyền hình cận đại của Hồng Kông. Trong kịch truyền hình Hồng Kông, Bạch nương tử đã được tô điểm thành hiện thân của cái đẹp. Trong truyện cổ, ả chính là một yêu quái, dùng sắc đẹp mê hoặc chính nhân quân tử, toàn bộ tiền ả mang cho Hứa Tiên đều lấy trộm từ quốc khố, lại dâng nước muốn nhấn chìm Kim Sơn, làm chết đuối vô số quân dân, bị giam dưới chân tháp cũng coi như trừng phạt đúng tội. Bởi vậy có thể nói, phong tục dựng Tháp trấn yêu đã hình thành từ thời xưa. Vào cuối thời nhà Thanh, để làm việc thiện tích đức, thương nhân đã bỏ tiền dựng tháp, nhằm mục đích trấn yêu trừ tà, còn dùng để chôn cất những thi hài vô chủ. Người dân Thiên Tân vệ không ai là không biết tới Tháp trấn yêu và Tháp dưỡng cốt. Ban ngày đào được phiến đá có khắc tên Hải Trương Ngũ ở bên trên, bởi vì năm xưa Hải Trương Ngũ đã bỏ tiền dựng Tháp trấn yêu khảm Kính bát quái, chôn dưới lòng sông để ngăn chặn cái ác.

    Mặc dù nhận ra đây không phải là quan tài của Hải Trương Ngũ, nhưng lão đại và lão nhị vẫn chưa chịu từ bỏ ý định, cầm bó đuốc tìm tòi khắp mọi nơi, nhưng ngoài mùi cá chết nồng nặc thì trong động chẳng còn thứ gì nữa.

    Lão tam nói: "Ca ca này, chẳng biết dưới chân tháp trấn có thứ quỷ quái gì nữa, không thể kinh động đến được, chúng ta mau ra ngoài thôi, đừng liều lĩnh chẳng có gì tốt lành đâu."

    Lão nhị bảo: "Lão Tam ngươi cả đời này không làm nên cơm cháo gì, 'mẹ cu tèo đưa thanh cài cửa -- nạy cái này lên'**."

    Lão đại nói: "Lão Nhị, tôi cũng không ngờ tới bên dưới này lại là Tháp trấn yêu, không phải mộ Hải Trương Ngũ, không có thứ gì đáng giá, không bằng ta rút về đã?"

    Lão nhị đáp: "Đại ca, chúng ta mạo hiểm xuống đáy sông một chuyến, cũng không thể nào tay không mà quay về, tốt nhất là cứ nạy hết số gương đồng này ra."

    Lão đại nói: "Ừ. . . Mấy cái gương đồng lớn này không dưới một trăm cân, cho dù nạy ra để hiến cho quốc gia, không thể thiếu đi được một phần công lao của huynh đệ chúng ta. Lợi ích đã bày sẵn ra trước mặt, không thể để cho người khác chiếm mất."

    Lão Tam hùa theo: "Đúng đúng. . . Vẫn là hai anh giỏi nghĩ cách, đừng có nghe đệ gàn, đệ đúng là 'mẹ cu tèo khóc than con -- chết lâu rồi'**."

    Lão đại nói: "Mau ra tay, tránh dây dưa đến hừng đông, thế này đúng là 'mẹ cu tèo ngồi bóc tỏi -- chậm quá thể'**."

    **Đây là cách hát bình thư tướng thanh theo lối ví của riêng người Thiên Tân, có đoạn ngắt ở giữa để người khác phỏng đoán. Phần trước là câu mượn cớ, ví von; phần sau là câu mục đích. Cách hát này chủ yếu dùng để thể hiện hoàn cảnh đặc thù hoặc tâm trạng của một người nào đó. Nguyên văn tên mụ đứa trẻ là "Nhị Cá" tôi đã chuyển thành "Cu Tèo'' cho phù hợp (DG).

    Trong khi chúng nói chuyện, chẳng biết có một trận gió âm u từ đâu quét qua, bó đuốc trên tay ba người đột ngột đồng loạt tắt ngấm.

    Khi còn đuốc chiếu sáng bọn chúng vẫn còn giữ lại được phần nào gan ăn cắp. Ngay khi bó đuốc vụt tắt, trước mắt tối sầm nhìn không rõ bàn tay, chúng chợt cảm thấy lông tóc toàn thân dựng đứng. Lão đại vội vàng lần tìm diêm, đánh lên thắp lại bó đuốc. Cứ mỗi lần lửa vừa thắp sáng là trận gió âm u lại nổi lên, bó đuốc liên tục bị thổi tắt ngấm. Y liên tiếp châm đuốc mấy lần, nhưng cứ châm lần nào là tắt lần đó.

    Năm

    Trong lòng ba tên lưu manh phát lạnh. Tại sao cứ đốt đuốc lên là gió âm u lại thổi tới, còn gì ma quái hơn nữa?

    Ba anh em bọn chúng hãi hùng khiếp vía, chẳng còn nhớ gì tới việc cạy gương đồng ra nữa, chỉ muốn mau mau ra khỏi đây, thế nhưng trước mặt tối om, mò loạn cả lên mà không tìm thấy sợi dây thừng đâu.

    Lão tam không tìm thấy dây thừng, vội la lên: "Đại ca, anh châm đuốc một lần nữa đi, có ánh sáng chúng ta mới leo lên được!"

    Lão đại moi diêm ra, vừa chạm vào bao diêm trong lòng đã lạnh ngắt, chỉ còn lại một cây cuối cùng, nếu như đốt đuốc lên lại bị trận gió âm u kia thổi tắt thì biết phải làm sao?

    Lão nhị bảo: "Đừng đốt đuốc vội, chẳng phải còn một cái đèn lồng không thấm nước ư, đèn lồng đó có thể thông khí, chỉ cần có một chút ánh sáng sẽ dễ dàng tìm thấy dây thừng."

    Lão đại nói: "Đúng vậy, chú thấy đấy, tôi đã hoảng sợ đến hồ đồ rồi, chẳng phải là có mang theo đèn lồng không thấm nước hay sao!" Y thò tay vào trong lồng ngực lấy cây đèn lồng không thấm nước ra, run rẩy cắm nến vào. Ba người xúm lại một chỗ, ngậm chặt miệng nín thở, khum tay che gió, trong đầu âm thầm niệm Phật, ngọn đèn lồng ngàn vạn lần đừng làm tắt. Hết Tây Thiên Phật tổ Thái Thượng Lão Quân Ngọc Hoàng Đại Đế lại đến Thổ Thần Long Vương, cứ nhớ tới vị thần phật nào là chúng lôi ra cầu khấn cho bằng sạch.

    Tay run lẩy bẩy, lão đại lập cập đánh cây diêm cuối cùng, thắp sáng ngọn đèn lồng không thấm nước. Ngọn đèn lồng sáng lên không bị tắt ngấm ngay tức thì, ba người thở phào một hơi, vừa cầm đèn lồng quay người lại thì đã sợ tới mức lão đại thiếu chút nữa đã tuột tay ném văng cây đèn lồng đi.

    Bó đuốc cứ châm lên là lập tức tắt ngấm, ba anh em bọn chúng quay sang đốt đèn lồng, lập tức làm sáng lên mấy khuôn mặt người trắng bệch như tờ giấy, chẳng thể hiểu nổi những người này đã đi ra từ chỗ nào. Đèn lồng không thấm nước thực ra là một loại đèn lồng đơn giản, được làm bằng cách dùng giấy nến dán lên ba thanh nan trúc uốn tròn, chính giữa cắm một ngọn nến, lúc treo ở nhà xí của cái rạp lớn giành cho công nhân trị thuỷ thì còn tạm đủ chiếu sáng vào ban đêm, bởi ánh sáng của nó rất yếu. Giờ ở giữa cái động đen kịt đáy sông này, tầm chiếu sáng của nó càng bị thu hẹp. Dưới ánh đèn lồng, y lờ mờ nhìn thấy trước mặt có mấy người, trong bóng tối hình như vẫn còn nữa. Tất cả những người đó đều ngây ngây ngô ngô, mặt trắng bệch không có một chút máu, quần áo tả tơi, có thậm chí có kẻ còn không mặc gì cả, cơ thể gầy đến mức chỉ còn da bọc xương, đủ mọi lứa tuổi, đa phần là đàn ông, người nhỏ tuổi nhất chỉ tầm mười mấy, đờ đẫn nhìn ba người bọn chúng chằm chằm, không nói một lời.

    Tâm trí ba anh em bọn chúng chết lặng, dưới đáy sông sao lại có những người này? Xưa kia, có một cách nói mê tín, ma quỷ không có bóng dưới ánh đèn. Bọn chúng cố giơ đèn lồng phía trước để chiếu sáng rộng hơn, những gương mặt trắng bệch trước mắt vẫn không có biểu hiện gì, giống hệt như ảo ảnh, lại vừa giống như chỉ có mỗi cái đầu. Trong động tối đen, trợn mắt hết cỡ cũng không nhìn rõ lắm, nhưng bọn chúng khằng định đó không phải là quỷ, bởi nếu thật sự là âm hồn chết oan, ba người đã chết từ lâu rồi. Lão đại lấy hết dũng cảm lên tiếng hỏi những những người kia từ đâu đến, tại sao lại sống ở dưới cái động dưới đáy sông?

    Nhưng sắc mặt những người đó vẫn đờ đẫn, không ai hé răng phát ra một âm thanh nào. Khi nhìn thấy ánh đèn, họ càng lúc càng xúm lại gần, văng vẳng vang lên tiếng khóc thút thít ai oán.

    Lão đại thầm nghĩ: "Trong động có nhiều người như vậy, có lẽ nào là những công nhân trị thuỷ ở nơi khác bị lạc dưới chỗ này, không có đèn nên không tìm thấy đường ra, định đi theo chúng ta ra ngoài? Xem ra đã bị nhốt ở dưới đáy sông đã lâu lắm rồi, chắc là đã sống sót nhờ ăn cá chết?" Y chỉ hy vọng suy đoán này của mình là đúng. Trong lúc y vẫn chưa quyết định được nên làm thế nào, nhóm người kia đã tiến đến ngay trước mặt rồi. Ba tên lưu mạnh bọn chúng không có biện pháp gì, có thể đuổi người ta đi được hay sao?

    Ba người ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi, cảm giác trận gió âm u vẫn luôn lượn lờ bên cạnh mình, mắt thấy đèn lồng chống thấm nước sắp tắt đến nơi, trong lòng giống như bị tảng đá nghìn cân đè nặng -- tâm trạng bất ổn, không tự chủ lùi lại phía sau.

    Lão đại cầm đèn lồng không thấm nước quay người, hoảng loạn tìm loạn sợi dây thừng bọn chúng đã thả xuống. Thật ra, sợi dây thừng ở ngay gần chúng, chỉ cần thò tay ra là có thể với tới. Nhưng do vừa rồi rơi vào cảnh tối lửa tắt đèn, trong lòng hốt hoảng không sao mò thấy được. Đã thấy cây cỏ cứu mạng, y vững tâm hơn phần nào, nhưng lão nhị và lão Tam ở bên cạnh lại cứ như đột nhiên bị rắn cắn vậy, toàn thân run lẩy bẩy.

    Lão đại là kẻ âm trầm lớn mật, người âm trầm thường bạo gan. Trong lòng y cảm thấy kỳ quái, hai người anh em này bị làm sao vậy, có sợ cũng nên sợ những người đang đứng đằng sau kia chứ, trước mặt chẳng phải chỉ có một tòa tháp hay sao, lẽ nào đã nhìn thấy cái gì? Y vừa đưa mắt nhìn vào gương đồng ở dưới chân tháp, tóc tai đã dựng đứng, hồn vía thiếu chút nữa đã lìa khỏi xác. Thì ra trong tấm gương đồng chỉ có ba anh em bọn chúng, còn những người bám theo phía sau, không có một kẻ nào hiện lên trên đó.

    Ba anh em bọn chúng lập tức nhận ra, những kẻ ở sau lưng không phải là người, tất cả đều là cô hồn dã quỷ. Ba tên sợ tới mức mặt xanh nanh vàng, âm thầm tìm cách chạy trốn. Nào ngờ, đám quỷ đói ở sau lưng đã vươn tay ra, tóm chặt lấy bọn chúng kéo về phía sau. Lâm vào thời khắc sống chết, phận ai nấy lo, lão đại dốc hết sức bình sinh giãy giụa. Vừa với được một sợi dây thừng, hắn đã hoàn toàn bỏ mặc hai người anh em của mình. Y quẳng cái đèn lồng không thấm nước đi, hai tay túm lấy dây thừng, hai chân đạp vào tòa tháp đá lấy đà, leo lên trên cửa động.

    Ngày hôm sau, khi đám công nhân trị thủy đến làm việc thì nhìn thấy lão đại đang nằm giữa vũng bùn, chỉ khác với người chết là còn một hơi thở mong manh, vội vàng cứu tỉnh hỏi xem đã xảy ra chuyện gì, hai người gác đêm còn lại đã đi đâu rồi?

    Sau khi trải qua cơn kinh hãi, hơn nữa còn có người mất mạng, lão đại không thể nào giấu diếm không khai báo, hai năm rõ mười khai ra sạch sành sanh. Y nói rằng, do lầm tưởng đây là mộ Hải Trương Ngũ, bản thân bèn cùng với hai người anh em xuống dưới định kiếm chác, nào ngờ dưới sông chỉ có Tháp trấn yêu.

    Sáu

    Năm 1958, khi nạo vét sông cái, người ta đã tìm được một cái Tháp trấn yêu, trả giá bằng tính mạng của hai người. Đương nhiên lời đồn ngoài đường nổi lên không phải là ít. Năm ấy, tình hình hạn hán nghiêm trọng, lúc đào sông đã phát hiện ra một cái động lớn, bên trong có mấy vạn con chuồn chuồn bay ra, mọi người đều thống nhất cho rằng, đó là dấu hiệu báo trước có thảm họa, lúc thì nói sẽ có động đất, lúc lại bảo sẽ xảy ra lũ lụt.

    Ba tên công nhân trị thuỷ nổi lòng tham, nhân dịp lúc trời tối đen lẻn vào động tìm mộ Hải Trương Ngũ, kết quả có hai người xuống dưới không bao giờ lên nữa. Kẻ trốn được ra bảo rằng bên dưới có quỷ, hai người kia đã chết cả dưới động rồi, còn bảo rằng dưới đó có Tháp trấn yêu do Hải Trương Ngũ chôn xuống. Vào thời kỳ ấy, xảy ra chết người thực sự không phải là chuyện nhỏ, sống phải thấy người, chết phải thấy xác, nhưng làm gì có ai dám xuống dưới nữa. Không còn cách nào đành mời Quách sư phụ tới, nhờ ông ta dẫn người xuống dưới thám hiểm. Quách sư phụ là người kiếm cơm bằng công việc này, nên phải đứng ra lãnh trách nhiệm. Ông ta và mấy người Đinh Mão mang theo đèn pin, xuống dưới cái động lớn ở đáy sông. Sau khi xem xét thì đúng là có một tòa tháp, còn hai tên công nhân trị thuỷ thì nằm giữa vũng bùn, mặt mũi tím tái, giống như bị ngạt thở mà chết. Họ bèn buộc xác chúng vào dây thừng để kéo lên trên. Giữa ban ngày ban mặt, không phát hiện thấy quỷ. Quách sư phụ vớt xác trôi sông trông nghĩa trang, xưa nay chưa bao giờ biết sợ là gì, nhưng riêng lần này ông ta lại cảm thấy sởn hết cả gai ốc, tại sao vậy? Thì ra dưỡi vũng bùn ở đáy động có không ít tử thi, giống như được bọc trong một lớp kén trắng muốt. Mặc dù đã làm việc ở đội vớt xác nhiều năm như vậy, nhưng đây mới là lần đầu tiền Quách sư phụ và Đinh Mão nhìn thấy nhiều người chết đến thế. Dù đã đào lên được rất nhiều tử thi, nhưng lại không thể lập án, bởi vì những người đó chết từ ít nhất bảy tám chục năm trước. Thời gian dài như vậy, đã qua mấy đời người, dù điều tra thế nào cũng không ra manh mối.

    Nhà nước có luật lệ của riêng mình, căn cứ vào những hồ sơ cũ được lưu lại của đội tuần sông, chỗ đào sông đó xưa kia có một cái động lớn, thông với con sông ngầm bên dưới, là mắt sông trong truyền thuyết dân gian. Thật ra, mắt sông không đến mức ly kỳ như trong truyền thuyết, mà chỉ là một cái động tiếp nối giữa con sông trên mặt đất và con sông ngầm dưới lòng đất, nhưng cực kỳ nguy hiểm. Thông thường, mỗi khi dòng sông hình thành xoáy nước, người đã bị hút vào đó thì đừng có mong trở ra. Những người bơi lặn bị chết đuối cùng với những xác chết trôi từ trên thượng du xuống đều bị xoáy nước hút xuống dưới con sông ngầm. Vùng đất nơi này bị nhiễm mặn, muối hòa tan trong nước của dòng sông ngầm. Người và cá chết lọt vào trong động sẽ ngập trong bùn, bị muối hòa tan trong nước kết tinh lại bao phủ kín toàn thân, vĩnh viễn giữ nguyên dáng vẻ như vừa mới chết không lâu, bao nhiêu năm trôi qua cũng không thay đổi. Năm ấy xảy ra hạn hán nghiêm trọng, mạch nước ngầm khô kiệt, đám côn trung bay từ cái động lớn dưới đáy sông ra rõ ràng là sinh vật phù du chuyên sống ở những huyệt động ẩm ướt, hoàn toàn không phải là chuồn chuồn. Chuồn chuồn có hai đôi cánh, còn sinh vật phù du chỉ có một cặp cánh, đuôi dài. Ba tên công nhân trị thuỷ xuống dưới trộm mộ, trong động nồng nặc khí phân hủy, không đủ dưỡng khí cho nên cây đuốc cứ châm lần nào là tắt lần đó. Hai trong số ba người đã ngạt thở vì khí phân hủy chết dưới động. Kẻ sống sót chỉ là bởi phước lớn mạng lớn, nhưng sau khi xuống động ngầm yếm khí dưới lòng đất, cũng bởi vì thiếu ôxi lên não, tâm thần trở nên hoảng hốt, hoa mắt tưởng rằng mình đã gặp quỷ. Người ta dùng các giải thích này để dẹp hết những lời đồn nhảm nhí, giúp cho mọi người không bị mê hoặc bởi những lời đồn đó.

    Trước kia quan phủ thường dùng tượng thú bằng sắt hoặc phiến đá để chặn mắt sông. Trên tảng đá dưới đáy sông có khắc tên Hải Trương Ngũ, cho nên chắc chắn là kẻ này là người đã chôn cái tháp ở bên dưới. Bên trong 'Địa phương chí' ghi lại thông tin đầy đủ rõ ràng về những người trước kia tương đối có thân phận có địa vị nguyện ý tích đức làm việc thiện, sửa cầu làm đường, xây tháp dựng miếu, thu nhặt xác chết vô chủ. Họ được cả xã hội công nhận là người làm việc thiện. Đến khi đã có tiền đã có địa vị, thứ người con người ta khao khát nhất chính là danh vọng. Tiền và địa vị đã không dễ gì mà có được, danh vọng tốt lại càng khó mà có hơn. Loại người như Hải Trương Ngũ không có công danh, là lưu manh vô lại dựng nghiệp bằng hai bàn tay trắng, cho nên lúc nào cũng cảm thấy vô cùng tự ti, luôn muốn gây dựng lên danh vọng. Theo tương truyền, vào thời Hàm Phong, Hải Trương Ngũ đã tổ chức dân đoàn đánh bại quân Thái Bình, triều đình phong thưởng cho hắn quan hàm Tam phẩm, nếu so sánh với hiện giờ thì tương đương với sĩ quan quân đội cấp trung đoàn. Ngay sau đó, đất Hà Nam Sơn Đông lại bị Niệp quân tàn phá, cách hai vùng Kinh Tân hai không xa, triều đình hạ chỉ ra lệnh phòng thủ thành phố vững vàng, phải tu sửa pháo đài, nhưng muốn tu sửa pháo đài thì phải có tiền mới làm được chứ. Mấy năm liên tục chiến tranh loạn lạc, quan phủ và dân chúng đều không có lấy một xu, thật sự không có màu mè gì mà kiếm chác. Từ quan viên cho tới dân chúng, nghe thấy phải bỏ tiền cá nhân làm việc công, toàn bộ đều bỏ trốn sạch. Nghe thấy có chỉ như vậy, riêng Hải Trương Ngũ lại chịu đứng ra đảm nhiệm, còn tuyên bố xanh rờn đó chỉ là chuyện nhỏ nhít, tình nguyện bỏ ra số tiền đó giúp triều đình phân ưu. Năm ấy đồng thời xảy ra lũ lụt, không chỉ tu sửa gia cố pháo đài phòng thủ thành phố, hắn còn một công đôi việc dựng tháp lấp mắt sông. Số tiền đó thực sự không phải là ít, nhưng Hải Trương Ngũ là kẻ leo lên từ đáy xã hội, dù bạc chảy vào túi như nước, nhưng tuyệt sẽ không tự móc tiền túi. Hắn khống chế việc buôn muối, lấy cớ chiến tranh và lũ lụt tàn phá vận chuyển không tiện, khắp nơi cung không đủ cầu, tăng thuế muối lên gấp ba. Trong lòng hắn thừa hiểu, thương nhân buôn muối kiếm được lợi nhuận rất cao, cho dù mình có sử dụng công phu sư tử ngoạm tăng thuế muối lên vài lần, đám thương nhân kia cũng không dám phản đối. Quả nhiên hắn kiếm được một khoản tiền lớn, chỉ cần dùng non nửa số tiền đó đã đủ để tu sửa pháo đài gia cố tường thành, lại xin dựng một ngọn Tháp trấn yêu để trừ tà trấn yêu, chôn xuống đáy sông ngăn chặn mắt sông. Hơn phân nửa ngân lượng còn lại, toàn bộ đều chui vào túi tiền của Hải Trương Ngũ. Năm 1958, khi nạo vét phù sa phòng lụt, người ta đã đào lên được đúng ngọn tháp này. Đến giữa thập niên chín mươi, khoảng năm chín bảy chín tám gì đó, khi xây dựng nhà bên ngoài cửa tây, người ta đã tình cờ đào trúng phần mộ của Hải Trương Ngũ. Nghe nói, quan tài của hắn hóa ra cũng không lớn lắm, tử thi bên trong vẫn chưa phân hủy. Người chết mặc trang phục và đeo giày quan lại rất giống cương thi thời nhà Thanh trong phim ảnh Hồng Kông. Trong hòm quan tài còn chôn theo cả chén đũa bằng vàng. Những vật tùy táng đã bị dân công và quần chúng hiếu kỳ đến xem giành giật nhau lấy đi mất. Từ đó, chén đũa bằng vàng đã bị thất lạc, không thể nộp hết lên trên. Đó là chuyện ngoài lề, cuốn sách này chỉ nói sơ qua, không đi sâu vào chi tiết.

    Chúng ta đang nói đến vụ hạn hán khốc liệt năm 1958, khi nạo vét sông cái đã tìm được Tháp trấn yêu chôn dưới đáy, vật này hóa ra lại có liên quan đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Vào buổi chiều cái ngày tìm được thi thể hai công nhân trị thuỷ, Trương Bán Tiên vội tới chỗ Quách sư phụ bói cho ông ta một quẻ. Anh ta căn dặn Quách sư phụ phải cẩn thận hơn nữa, phong thủy lò bát tiên của nhà họ Quách đã bị phá, coi chừng gặp phải vận rủi, quẻ hung tại bắc, có lẽ căn nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương sẽ gây bất lợi cho Quách sư phụ. "Căn nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương" là tên gọi ngôi nhà của tên ăn cướp bằng búa thợ mộc Bạch Tứ Hổ. Sau khi Bạch Tứ Hổ bị xử bắn, hai gian phòng đó đã bị dán giấy niêm phong bỏ không nhiều năm. Căn phòng đó là do tổ tiên nhà họ Bạch xây dựng nên bằng những viên gạch cổ mót về khi phá thành Thiên Tân vào cuối thời nhà Thanh. Trong phòng chôn dấu vật gì đó. Một khi vậy này xuất hiện, chắc chắn mực nước Hải Hà sẽ tràn đê, khi đó Thiên Tân vệ chắc chắn gặp phải lũ lụt nghiêm trọng. Nghe nói, Bạch Tứ Hổ coi cái xác phụ nữ như vợ của mình, cả ngày trốn trong nhà tâm sự với người chết. Nhưng thật ra, không phải là đầu óc hắn không bình thường, mà bởi trong căn nhà đó quả thật có vật gì đó biết nói. Tuy nhiên, vật đó không phải là xác người phụ nữ trên giường gạch, mà là vật tổ tiên Bạch Tứ Hổ đã dấu ở trong nhà. Mặc dầu vậy, rốt cục là bên trong ngôi nhà bị ma ám đó có vật gì, Trương Bán Tiên thật sự không suy tính ra.

    Quách sư phụ nghĩ thầm: "Mấy năm trước truy bắt Bạch Tứ Hổ, ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương đã bị người ta lật tung lên không dưới mười mấy lần, hai gian phòng từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài không bỏ sót một tấc nào, nhưng đâu có tìm ra cái gì?" Vì vậy, ông ta không tránh khỏi nghi ngờ, chẳng hiểu Trương Bán Tiên có phán chuẩn hay không. Năm 1958 phát sinh hạn hán nghiêm trọng, theo thường lệ, cứ một năm hạn thì đến năm sau quá nửa là sẽ phát sinh hồng thủy úng lụt. Hạn hán nghiêm trọng như thế, hồng thủy năm sau e rằng không nhỏ. Mặc dù đã làm cho hai người mất mạng, nhưng công việc nạo vét sông phòng lụt không thể dừng lại, mà vẫn phải tiếp tục tiến hành. Sau khi nạo vét thêm nửa tháng nữa, mọi người đã sắp đào đến đáy cái động lớn ở đáy sông, nhưng đào đến khi đã làm một nửa ngọn Tháp trấn yêu lộ ra ngoài, công việc bắt buộc phải dừng lại.

    Bởi vì lúc ấy đã xảy ra một sự việc kỳ lạ khiến người nghe phải kinh sợ, thậm chí tận đến hôm nay một số người cao tuổi vẫn còn nhớ như in. Nội dung câu chuyện mà họ kể lại đại khái như nhau, chi tiết bên trong không quá nhiều khác biệt. Nhưng bất kể nội dung như thế nào, mọi người đều nhắc đến "phần mộ số hai trăm linh chín". Vào thập niên năm mươi sáu mươi, chỉ cần nhắc đến cụm từ "phần mộ số hai trăm linh chín" là có thể dọa cho trẻ con không dám khóc đêm. Qua đó có thể thấy được, câu chuyện này đáng sợ đến thế nào. Nếu như có đứa trẻ nào không nghe lời, người lớn thường đe nó: "Mày còn nghịch nữa, coi chừng tao ném xuống phần mộ số hai trăm lẻ chín!". Bảy từ này nghiễm nhiên đã trở thành một danh từ làm cho con người ta sởn hết cả gai ốc. Sự việc đó vừa xảy ra, công việc nạo vét sông cái ở Thiên Tân vệ năm 1958 phải dừng hẳn lại.
     
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 17: Hành Thủy Đan cướp đoạt bảo vật (Nửa chương đầu)


    Một

    Trước khi nói đến "phần mộ số hai trăm linh chín", phải nhắc đến câu chuyện "Hành Thủy Đan cướp đoạt bảo vật", bởi vì câu chuyện này cũng có quan hệ đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương, hơn nữa còn xảy ra trước câu chuyện "phần mộ số hai trăm lẻ chín". Lại nói tiếp đến trận hạn hán khủng khiếp năm 1958, kỳ lạ nhất là cả mùa hè không mưa, công việc nạo vét bùn đã lấy đi tính mạng của hai người. Cùng ngày hôm đó, Quách sư phụ tất bật làm xong công việc thì trời đã chạng vạng tối. Ông ta cùng với Đinh Mão đạp xe đi về nhà. Trên đường về, hai người nhắc đến chuyện buổi chiều gặp Trương Bán Tiên, nghe anh ta nói bên trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương có bảo vật do tổ tiên nhà họ Bạch chôn dấu. Nhưng hai gian phòng lụp xụp đó chỉ có bốn vách tường trống trơn, mấy năm trước, lúc đuổi bắt Bạch Tứ Hổ họ đã từng đào sâu ba thước đất, lục soát khắp mọi xó xỉnh, cũng không thấy có đồ vật thần kỳ nào, xem ra câu chuyện này không đáng tin.

    Nói người nói vô tâm, người nghe hữu ý. Trong lúc vừa đạp xe vừa thảo luận về căn nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương, Quách sư phụ và Đinh Mão bỗng nhiên phát hiện ra có người bám theo sau. Hai người quay đầu lại, thấy người kia cũng đang đạp một chiếc xe đạp, là một người bán bánh hấp Dương Thôn.

    Người bán rong bánh hấp Dương Thôn đó tà tà theo sát phía sau hai người họ. Thấy họ quay đầu lại, người này vội vàng lớn tiếng rao to: "Ai mua bánh hấp nóng hổi đây, bánh hấp Dương Thôn vừa mới ra lò đây. Hai vị có mua bánh hấp không?"

    Đinh Mão đã bận việc cả ngày, đói ngấu chưa có hột cơm nào vào bụng. Nghe thấy người bán hàng rong đó mời chào, gã lập tức dừng lại định mua mấy cái bánh hấp.

    Quách sư phụ bảo: "Trời nóng thế này, lại không có nước uống, ăn bánh hấp làm gì. Chị dâu cậu đã làm mì sợi ở nhà, chúng ta về ăn cơm thôi."

    Đinh Mão nói: "Em đã đói đến mức da bụng đã dính vào lưng rồi, tốt nhất là cứ nhồi tạm hai cái bánh hấp đã."

    Thấy hai người họ dừng lại, người bán hàng rong vội vàng lấy bánh hấp ra, gói kỹ bằng lá sen rồi mới đưa cho họ.

    Quách sư phụ vừa cầm vào tay đã cảm thấy không đúng, bèn hỏi người bán hàng rong: "Chẳng phải anh nói bánh hấp vừa mới ra lò sao, tại sao lại nguội lạnh thế này?"

    Người bán hàng rong nói: "Bánh hấp nguội ăn cũng ngon mà, vào ngày nóng như đổ lửa thế này, làm gì có ai muốn ăn bánh hấp nóng chứ?"

    Bánh hấp Dương Thôn là loại bánh đặc trưng của riêng Dương Thôn Thiên Tân. Trước kia, toàn bộ những người vào thành bán bánh hấp đều là dân Dương Thôn, phần lớn là nông dân trai tráng, ăn ngay nói thật, tác phong nhanh nhẹn, khiến cho người mua cảm thấy tin tưởng. Bánh hấp thường là loại nóng hổi vừa mới ra lò, bên trong có nhân đậu, rắc thêm mấy sợi tơ màu xanh đỏ. Mặc dù còn có cả loại bánh hấp nguội không nhân, nhưng tuyệt không có ai nhầm lẫn bánh nguội thành bánh nóng được. Giữa đường tình cờ gặp cái tên bán rong này, nghe giọng nói đã thấy không phải là người Dương Thôn, cách nói chuyện cũng thiếu trung thực.

    Quách sư phụ và Đinh Mão là người ăn cơm công môn, mắt sắc tai thính, vừa nghe câu trả lời của hắn đã phát hiện ra kẻ này không phải người tốt, chí ít ra là không nói thật.

    Người bán hàng rong nói: "Hai vị đừng quá đa nghi, tôi có thói quen rao lớn tiếng, hôm nay bán loại bánh hấp nguội, quen mồm cứ rao thành bánh hấp nóng."

    Quách sư phụ quan sát kỹ người bán rong bánh hấp Dương Thôn đó một lượt, rồi mới hỏi hắn: "Anh là ngươi Dương Thôn?"

    Người bán hàng rong đáp: "Tôi là người sinh ra và lớn lên ở Dương Thôn, nhà tôi bao nhiêu đời nay đều bán bánh hấp. Các vị cứ nếm thử sẽ biết tài nghệ của tôi, ăn một miếng có lẽ cả đời sẽ không quên ấy chứ."

    Quách sư phụ lại hỏi: "Anh họ Đỗ hả?"

    Người bán hàng rong nói: "Rốt cục là các vị có mua bánh hấp hay không, tại sao lại cứ hỏi giống như là điều tra hộ khẩu thế?"

    Quách sư phụ nói: "Anh cũng đừng quá đa nghi, nhà làm bánh hấp gia truyền chính tông ở Dương Thôn là nhà họ Đỗ, bánh của những nhà khác kém ngon hơn một chút, cho nên tôi mới hỏi anh họ gì. Hai anh em chúng tôi rất kén ăn, chỉ ăn mỗi bánh hấp Dương Thôn nhà họ Đỗ thôi."

    Nghe nói vậy, người bán hàng rong bình tĩnh lại, bảo: "Tôi họ Đỗ, là con cháu dòng chính của nhà họ Đỗ làm bánh hấp, hai người các vị mua mấy cái bánh hấp mang về chứ?"

    Quách sư phụ đã nhận ra, kẻ bán bánh hấp này miệng lưỡi trơn tru, cứ mở miệng ra là nói dối như cháo chảy. Kẻ này tuyên bố mình là dòng chính của nhà họ Đỗ làm bánh hấp Dương Thôn, nói như vậy có lẽ sẽ lừa gạt được người khác, chứ không thể qua mặt được Quách sư phụ. Nói đến đây tôi lại phải nhắc tới đôi câu ngoài lề, nói thêm một chút thông tin về loại bánh hấp Dương Thôn này. Nghe nói, vào thời kỳ đầu nhà Minh, có một người tên Đỗ Thiệu Hưng đến phương bắc an cư lạc nghiệp, định cư tại Dương Thôn bán bánh hấp. Dương Thôn nằm ở ngay cạnh sông đào. Khi ấy, lương thực được vận chuyển từ phía nam lên phía bắc, số lượng dân phu làm công việc vận chuyển theo đường thủy lên đến mấy vạn người, lần vận chuyển nào cũng phải dừng chân nghỉ trọ tại Dương Thôn, bởi vậy quán cơm bình dân nhà hàng nhỏ ở nơi này mọc lên san sát. Hầu hết dân phu làm công việc vận chuyển đường thủy là người phương nam, thích ăn gạo. Để chiều theo khẩu vị của dân phu, Đỗ gia đã dùng gạo xay nhuyễn trộn với đường trắng hấp lên thành bánh hấp, dần dần gây dựng nên thương hiệu bánh hấp Dương Thôn. Vào năm kênh đào Panama thông tàu thuyền, người ta đã tổ chức hội chợ ẩm thực quốc tế, giới thiệu các món ăn đặc trưng từng vùng miền của các quốc gia. Khi ấy, bánh hấp Dương Thôn được cử đi dự thi và đã giành được huy chương. Từ đó về sau, món ăn này đã vang danh bốn biển. Sau khi quân Nhật chiếm lĩnh Bình Tân, gạo trở thành quân lương, dân chúng chỉ được trồng mà không được ăn. Ai dám ăn gạo, không may bị bọn lính Nhật phát hiện ra, không cần nhiều lời, tặng cho một nhát lưỡi lê. Nguyên liệu chính của Bánh hấp Dương Thôn là gạo xay nhuyễn, quân Nhật không cho dùng gạo, người ta không còn cách nào khác đành phải thay thế bằng bột ngô, coi như xứng với bốn chữ 'hữu danh vô thực'. Sau giải phóng, người ta lại khôi phục phương pháp làm bánh truyền thống, chuyên dùng loại gạo Tiểu Trạm thượng đẳng, ngâm nước cho nở rồi hong khô, nghiền thành bột mịn, sàng lọc kỹ lưỡng, cho thêm đường vào nhào kỹ, dùng dao cắt thành từng miếng nhỏ, cho vào xửng hấp chín, vậy là ra thành phẩm bánh hấp. Bánh hấp mềm dẻo mịn, trong suốt ngon miệng. Sau này, không chỉ có bánh hấp nhà họ Đỗ, mà còn có cả bánh hấp Chi Lan Trai. Nhà họ Đỗ chuyên làm bánh hấp nóng nhân đậu, Chi Lan Trai thì chủ yếu làm bánh hấp nguội. Ở Thiên Tân vệ, bánh hấp Dương Thôn là món ăn vặt phổ biến, Quách sư phụ và Đinh Mão đã từng nếm thử, sao lại không phân biệt được hai loại bánh này. Tên bán hàng rong rõ ràng là bán bánh hấp Chi Lan Trai, nhưng lại bảo là bánh hấp nhà họ Đỗ, nhân dịp trời tối đen không nhìn rõ đánh lừa người khác, kẻ này làm vậy chẳng phải là muốn lừa đảo hay sao?

    Hai

    Tên bán bánh hấp Dương Thôn rong thực ra mang họ Ô, có một biệt hiệu là "Đại Ô Đậu". Ô đậu không có nghĩa là đậu đen, mà là loại đặc sản đậu tằm của riêng Thiên Tân đã luộc chín. Sau khi đậu tằm được đun sôi, người ta không vội vớt ra khỏi nồi, mà dùng một cái nắp gỗ đã chuẩn bị sẵn úp kín một thời gian ngắn, ủ cho đậu tằm nhừ tướp ngon miệng, xưa gọi là đậu ủ, người dân gốc Thiên Tân chuyên nói nhịu, bởi vậy phát âm thành đậu đen, nhưng thực tế là đậu tằm. Kẻ này có biệt danh là ô đậu, qua đó có thể thấy hắn không phải là hạng đứng đắn lắm, tướng mạo trước gáo sau thìa*, trán dô hẳn ra đằng trước, gáy lõm sâu vào bên trong, mặt dài cằm vểnh, đầu có hình dạng y như hạt đậu đen, còn có một biệt hiệu khác là "Hành Thủy Đan".

    *Cách miêu tả tướng mạo của Thiên Tân, dùng để chỉ những người trán dô gáy hõm

    Vào thời xã hội cũ, bến tàu thuỷ bộ Thiên Tân vệ hoạt động nhộn nhịp, phường hội mọc lên san sát như cây rừng, người bốn phương tám hướng đổ về, nuôi sống rất nhiều kẻ biếng nhác không chịu làm việc đàng hoàng, Đại Ô Đậu chính là một người trong số đó. Hắn vừa tham ăn vừa lười nhác, phương châm sống của hắn là: "Tham ăn do mệnh, lười nhác tại số, không tham ăn không lười nhác là không tốt số", bởi vậy không chịu làm việc nặng nhọc, chỉ dựa vào miệng lưỡi trơn tru kiếm cơm. Gáy hắn lõm hẳn vào trong, nhưng không phải là dị tật bẩm sinh, mà nguyên nhân thực sự là do bị người khác đánh, bởi vì hắn bán "Hành Thủy Đan". Thiên Tân vệ có không ít người bán Hành Thuỷ Đan, đó là những kẻ bịp bợm chuyên lừa đảo người khác. Nghe nói, trước kia có một đạo sĩ bán rong một loại thuốc nam, tự đặt cho nó một cái tên rất kêu là tiên dược Hành Thủy Đan. Tại sao lại gọi là Hành Thủy Đan? Chỉ cần ăn viên thuốc này của y là có thể đi lại trên mặt nước, vượt sông giống như đi trên đất bằng. Ban đầu không ai tin, đừng thấy mọi người hay nhắc đến thần ma đạo sĩ mà lầm, sờ sờ bày ra trước mặt cũng chưa chắc đã tin hẳn, ai cũng cho rằng đạo sĩ này khoác lác. Lấy đâu ra tiên đan thần dược có thể giúp cho con người ta qua sông như đi trên đất bằng? Đạo sĩ khẳng định như đinh đóng cột, lại còn dám viết giấy biên nhận, ăn xong Hành Thủy Đan của y, nếu trăm ngày sau không thể đi trên mặt sông như đi trên đất bằng, y chấp nhận bồi thường tiền gấp mười lần. Có kẻ hay chuyện vừa nghe thấy vậy, cảm thấy có chỗ tốt dại gì mà không chiếm, lập tức đồng ý bỏ tiền ra mua Hành Thủy Đan của y, nhưng vừa nghe thấy giá đã biết không móc đâu ra đủ tiền mà trả. Đạo sĩ bảo, tiên đan há có thể là vật tầm thường, một viên Hành Thủy Đan ra giá một trăm lượng bạc ròng, không phải ông chủ lớn thì không thể mua nổi. Câu chuyện này lan ra, có người thực sự có tiền tìm đến mua, mua được tiên đan là ăn vào luôn. Qua một trăm ngày, ông này vừa mới đến bờ sông thì đã vỡ lẽ ra mình bị lừa. Bởi vì sau một trăm ngày, trời chuyển rét đậm, mặt sông đã hoàn toàn đóng băng, thế này chẳng phải là như đi trên đất bằng sao? Tuy có giấy tờ làm chứng nhưng không thể cãi lý lại được, đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt.

    Trước đây, những kẻ sử dụng mánh lới lừa tiền khiến cho người khác phải ngậm bồ hòn làm ngọt được gọi là Hành Thủy Đan. Đại Ô Đậu dùng mánh khóe này để kiếm cơm, hãm hại lừa gạt không có chuyện xấu gì là không làm. Trong vòng mấy năm đó, hắn đã bị người ta đánh không ít lần. Một trong những lần đó, gáy hắn bị người ta đập cho một cú như trời giáng lõm hẳn vào trong, thiếu chút nữa là đi đời nhà ma, đến nay vẫn không lần ra được là đòn đánh dã man của kẻ nào. Mụ vợ Đại Ô Đậu cũng chẳng phải kẻ tốt lành gì, há mồm ra là hót còn hay hơn cả hắn, trước kia chuyên môn đi mai mối hôn sự cho người ta, nhưng không chịu làm mai cho tử tế, mà lại gây ra không ít vụ lừa đảo thất đức. Ví dụ như nghe nói nhà phú hộ nào đó có một cô con gái đã sắp ba mươi rồi mà vẫn chưa gả được cho ai, Đại Ô Đậu nảy sinh ý định mờ ám, bảo vợ mình tới đó mai mối hôn nhân cho nhà đó kiếm mấy đồng tiêu xài. Ngài nên nhớ, vào thời ấy, phụ nữ ba mươi tuổi mà vẫn chưa xuất giá thì đã là gái lỡ thì rồi. Nhà mẹ đẻ cô nàng đó lại có tiền, nếu như không có duyên cớ gì, sao lại không thể tìm được một tấm chồng, bên trong nhất định là có khúc mắc. Nhưng kể cả cô gái đó có xấu đến ma chê quỷ hờn, qua lời giới thiệu của bà mai, cũng có thể biến thành Lâm Đại Ngọc. Người ta có câu "Chỉ cần qua mồm bà mối, sóng lăn tăn cũng có thể biến thành sóng thần**", câu này không sai một chút nào. Mụ vợ Đại Ô Đậu rất giỏi lừa gạt. Trước tiên, ả tìm một anh chàng gánh nước thuê, vào nhà người ta ngồi đàng hoàng, khách sáo mấy câu rồi mớm lời: "Chú em đâu còn ít tuổi nữa, tại sao vẫn chưa lập gia đình, hay là để bà chị dâu này đi mai mối cho một cô vợ. Chú có yêu cầu gì không?"

    **Một tấc lên đến giời.

    Anh chàng gánh nước thuê đáp: "Chị dâu à, dù tôi chỉ là người bán sức kiếm cơm nhưng yêu cầu lại rất cao, muốn kết hôn với một cô gái tốt, thà rằng cả đời làm lưu manh, cũng không muốn kết hôn với quả phụ, không phải hoàng hoa khuê nữ tôi nhất định không cưới."

    Mụ vợ Đại Ô Đậu lại bảo: "Chú thử ra ngoài hỏi thăm một chút, xem cách làm người của chị dâu chú ra sao, đã nói một là một, hai là hai, từ trước đến nay chưa từng có một câu điêu ngoa gian dối nào, trăm phần trăm sẽ là hoàng hoa khuê nữ."

    Anh chàng gánh nước mừng rơn, vội hỏi: "Một cô nương cao sang hoàng hoa khuê nữ có thể nào để mắt đến một kẻ cu li nghèo kiết xác như tôi chứ? Không phải tệ đến mức chó chê mèo mửa đấy chứ? Tôi xin nhấn mạnh trước, không đứng đắn chính chuyên tôi cũng sẽ không cưới."

    Mụ vợ Đại Ô Đậu nói: "Giờ bà chị dâu này xin cam đoan với chú, chú cứ yên một trăm hai mươi cái tâm đi. Thực sự là một hoàng hoa khuê nữ của một gia đình giàu có, tính tình đoan chính thế nào thì khỏi cần phải bàn, chỉ tiếc. . . chỉ tiếc là miệng không quá kín đáo. . ."

    Nghe bảo cô gái đó không kín miệng, anh chàng gánh nước thuê không coi đó là khuyết điểm gì quá lớn. Phụ nữ ấy à, có mấy người không chua ngoa lắm lời cơ chứ. Bởi vậy anh chàng lập tức đồng ý, bỏ tiền nhờ mụ vợ Đại Ô Đậu đến nhà gái cầu hôn.

    Mụ vợ Đại Ô Đậu là kẻ lừa gạt thành tinh. Bên phía anh chàng gánh nước thuê đã quyết định xong, mụ bèn đến nhà phú hộ bàn đến chuyện hôn nhân của con gái nhà người ta, bảo rằng có một chàng trai gánh nước thuê, tốt tính thế nào, tướng mạo đường đường ra sao, chỉ đáng tiếc là dưới mắt thiếu thốn một chút. Phú hộ đã xiêu lòng trước lời rào đón của mụ vợ Đại Ô Đậu. Tuy rằng hai nhà một giàu một nghèo, môn không đăng hộ không đối, nhưng con gái mình đã lớn tuổi, không gả đi được nói chung cũng không phải việc hay ho gì. Nghe nói anh chàng kia dưới mắt thiếu thốn một chút, đương nhiên là muốn ám chỉ thiếu tiền rồi, việc đó thì dễ giải quyết thôi. Lão phú hộ đồng ý bỏ ra một khoản tiền giúp đỡ con rể tương lai cục mịch, mau chóng đưa con gái về nhà chồng, coi như giải quyết được một mối tâm sự đè nặng trong lòng. Bởi vậy hai bên đã quyết định đính hôn, chọn ngày hoàng đạo bái đường. Khi chú rể tân nương vào động phòng, chú rể vạch khăn cô dâu của tân nương tử ra, hai vợ chồng vừa mới nhìn thấy mặt nhau, cả hai đã trợn tròn mắt chết sững. Tại sao lại như vậy? Tân nương tử là người bị sứt môi, theo cách nói bây giờ chính là hở hàm ếch, người ta thương tình thì bảo là "Miệng không kín", nhìn đến ngũ quan của chú rể cũng chẳng tốt hơn là bao, thiếu hẳn cái mũi, nhưng dù thế nào cũng không thể bảo rằng "Dưới mắt thiếu thốn một chút" được. Người hai nhà lôi bà mối là mụ vợ Đại Ô Đậu ra chửi ầm lên một chặp, mắng tám đời nhà thị không có đức. Nhưng mụ vợ Đại Ô Đầu đâu có quan tâm gì đến hai vợ chồng đó sau này sống với nhau như thế nào, đã lừa tiền vào tay chạy mất dạng từ bao giờ. Sau đó ả hết qua bên đông lại sang bên tây làm mai mối hôn nhân. Trước giải phóng, hai vợ chồng bọn chúng họ đã sử dụng mánh khóe lừa đảo này để kiếm ăn, cuộc sống có thể coi là không tệ, chỉ là bị người ta ghi hận.

    Từ khi đất nước thành lập năm 1949 cho đến bấy giờ, nghề mai mối hôn nhân coi như hết đường làm ăn, Thiên Tân vệ cũng chẳng còn là bến tàu giang hồ như dưới thời xã hội cũ. Kỹ nữ hoàn lương, quán thuốc đóng cửa, rắn rít địa phương và lưu manh vô lại hoành hành một thời, nếu không phải bị tống giam thì cũng bị đưa đi cải tạo, trật tự trị an xã hội càng ngày càng ổn định. Dạo ấy không còn giống như lúc trước, không bỏ sức ra làm việc không được, ngay cả tên thầy bói Trương Bán Tiên cũng còn phải đi đạp xích lô nữa là. Đôi vợ chồng Đại Ô Đậu đâu có biết làm cái gì, hơn nữa lại còn vừa tham ăn vừa lười nhác, thường ngày buộc phải thực hiện vài phi vụ trộm vặt móc túi. Có một ngày, Đại Ô Đậu trông thấy một người bán bánh hấp Dương Thôn để xe ở ven đường để đi vào nhà vệ sinh. Nhân cơ hội đó, hắn đẩy xe bánh hấp bỏ chạy. Thế nhưng, bánh hấp không thể mang về nhà, thỉnh thoảng ăn vài ba miếng còn thấy ngon, ăn nhiều quá ngán đến tận cổ. Nam ngọt bắc mặn đông cay tây chua, người phương bắc không quen ăn đồ ngọt. Vừa khéo giữa đường gặp Quách sư phụ và Đinh Mão, Đại Ô Đậu định nhân cơ hội trời tối đen, lớn tiếng rao bán số bánh hấp đã trộm được, kiếm vài đồng rồi về nhà. Nhưng hắn đâu có ngờ, Quách sư phụ là công an đường thủy, chỉ hỏi khó mấy câu đã làm hắn lòi đuôi. Đại Ô Đậu là kẻ cắp chuyên nghiệp, nói chuyện đến giữa chừng thì phát hiện ra tình hình không hay, thẳng tay vứt lại xe bánh hấp, cũng chẳng thèm quan sát chui ngay vào một con hẻm gần đó. Kết quả, hắn ngã xuống một khe nước lớn, đổ máu rách toạc da đầu, cũng còn may là trời tối đen không bị người ta đuổi kịp. Hắn thầm rủa: "Ngày hôm nay đúng là bị vận đen ám vào người, vất vả lắm mới trộm được một xe bánh hấp, ngờ đâu lại chạm trán với hai tên Tang môn thần***, may mà nhanh chân không thì đã bị người ta bắt được. Nhưng tay không trở về biết nói với vợ như thế nào đây?" Hắn chợt nhớ lại, trong lúc bàn chuyện về ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương trong khi đi đường, hai người kia có nói bên trong nhà đó có chôn bảo vật, đã nhiều năm trôi qua mà vẫn không ai có thể tìm ra được. Nghe nói, lúc trước, khi truy bắt kẻ cướp nguy hiểm chuyên dùng búa thợ mộc, người ta đã phát hiện ra một cái xác phụ nữ trong căn nhà đó, rốt cuộc là ngôi nhà bị ma ám chôn dấu bảo vật, hay chỉ là câu chuyện hoang đường về ngôi nhà bị ma ám?

    ***Thần cai quản về tang sự

    Ba

    Thời xưa có quan niệm mê tín "Bảo vật nhận chủ", bởi vậy Đại Ô Đậu thầm nghĩ: "Không có lửa làm sao có khói, ai cũng bảo ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương chôn dấu bảo vật, vậy nhất định trong ngôi nhà đó có nhiều của cải. Người khác không tìm thấy, chưa hẳn là ta cũng không thể tìm thấy, sao không đi thử thời vận một phen?" Hắn lại sợ trong ngôi nhà bị ma ám đó có quỷ, dâng cái mạng mình cho chúng chẳng phải là lỗ vốn hay sao. Trong lúc nhất thời, hắn phân vân không quyết định được. Huống hồ, cú ngã xuống khe nước vừa rồi không nhẹ, dường như đã bị vẹo cả xương sống rồi, hắn quyết định tới nhà Tô lang trung dán thuốc trước đã.

    Thiên Tân vệ có hai danh y họ Tô. Mặc dù cùng một họ Tô, nhưng một người có danh tiếng, còn người kia lại có tai tiếng. Vị Tô đại phu có danh tiếng là người kế thừa gia tộc hành nghề trung y nhiều đời, chuyên trị thương tật do té ngã, đặc biệt là thuốc viên đặc trị trật khớp. Vào cuối thời nhà Thanh, cha ông ông này đã từng theo học khoa chỉnh hình của người Pháp, kỹ thuật nối xương cao siêu đến mức thần kỳ. Trật khớp thì dùng thuốc viên đặc trị, còn gãy xương thì sẽ dùng đến kỹ thuật kia. Hai tuyệt chiêu đó của nhà họ Tô gia chỉ đời đời truyền riêng cho con cháu trong nhà. Vào cuối thời nhà Thanh, Thiên Tân vệ đầy rẫy lưu manh ngoài đường. Mỗi khi lưu manh nổi máu yêng hùng, phạm án bị bắt giải lên công đường. Nhưng bất kể quan phủ dùng hình như thế nào, đám lưu manh cũng dám không rên lấy một tiếng, bởi một khi nhận tội, sau này sẽ không đường lăn lộn nữa. Hình phạt nặng trên công đường há có phải trò đùa. Không cần nói đến hình phạt khác, chỉ riêng việc đánh bằng roi cũng đủ khả năng lấy mạng con người ta rồi. Năm mươi cây gậy gỗ nặng giáng xuống, tránh sao được da tróc thịt bong gãy xương đứt gân, toàn thân nhừ xương mềm oặt, đặt lên cáng vải mềm khênh đến nhà Tô đại phu, nhờ ông này nối lại từng đoạn xương đã bị gãy nát của toàn thân, đảm bảo xương cốt hình dạng của ngươi trước khi nhận hình phạt trên công đường như thế nào, một trăm ngày sau sẽ vẫn là như thế. Tô đại phu người ta dám lớn tiếng tuyên bố đến thế, bởi vì ông này thực sự có bản lãnh làm được điều đó. Bắt đầu từ thời Thanh mạt, nhà này bắt đầu gây dựng nên tên hiệu. Cho tới tận hôm nay, mỗi khi phải bó xương chỉnh hình, mọi người vẫn tranh nhau tới những bệnh xá treo biển hiệu Tô đại phu. Không cần biết đó có phải là đời sau của nhà họ Tô gia hay không, chỉ cần mang họ Tô, những người đó đã cảm thấy trình độ bệnh xá này nhất định sẽ tương xứng với cái tên đó. Về phần vị danh y tai tiếng kia, người này cũng nổi tiếng chả kém, nhắc đến tên y là ai cũng biết. Để cho dễ phân biệt, người ta gọi y là Tô lang trung. Tô lang trung là một người hành nghề y chuyên đi rong hoặc đến những hội chợ phiên bán thuốc nam. Trước giải phóng, y thường treo biển bày bàn bên lề đường, bán miếng dán thuốc cao. Từ bong gân trật xương phong thấp cảm lạnh, cho đến đau đầu sốt cao thổ tả, bất kể là bệnh gì, cứ đến chỗ Tô lang trung là đều được trị bằng cách dán thuốc cao. Nhìn, nghe, hỏi, sờ***, bắt mạch, xem lưỡi, toàn bộ những phương pháp chẩn bệnh đó y không thông một môn nào, cũng chẳng thèm ghi đơn thuốc, cứ dán thuốc cao là xong chuyện.

    ***Bốn phương pháp chẩn bệnh của đông y

    Thời ấy có một câu nói thế này: "Dán thuốc của Tô lang trung -- tự chuốc lấy phiền phức". Bởi vì thuốc cao dán của Tô lang trung không được nấu đủ lửa, do y không được chân truyền, nói chung khả năng nắm bắt và điều chỉnh thực sự không được tốt. Mặc dù không hẳn là non tay, nhưng thuốc dán của y không có đủ độ dính cần thiết. Trước giải phóng, có người bị xơ cứng cổ, đến chỗ y mua một miếng thuốc dán, bóc ra dán lên chỗ đốt sống cổ. Về đến nhà, đêm đang ngủ thì chợt giật mình tỉnh giấc, người này vừa mới sờ ra sau cổ thì tay đã dính đầy thuốc dán, vừa đen lại vừa nhớp nhúa, vậy là nổi giận đùng đùng chạy đến nhà Tô lang trung chất vấn. Tô lang trung cả vú lấp miệng em bảo rằng nhà ngươi bệnh nặng, miếng thuốc dán hơi nhỏ không trị được hết bệnh, phải đổi thành miếng lớn hơn, khiến cho người nọ lại phải bỏ tiền mua một miếng khác, vẫn tiếp tục dán vào chỗ đốt sống cổ. Đến đêm người này lại giật mình tỉnh giấc, sờ vào chỗ thuốc dán thì đã không thấy đâu. Hóa ra miếng thuốc dán không đủ độ dính, đến đêm đã dịch chuyển, chạy từ cổ xuống mông, rửa mãi mà không sạch. Người nọ ôm đầy một bụng tức giận, lại tiếp tục tới nhà Tô lang trung, yêu cầu y trả lại tiền. Tô lang trung bảy lần không chịu, tám lần không cam lòng, một trăm hai mươi lần không muốn, bèn gân cổ lên bảo, vậy chẳng phải điều đó đã chứng tỏ nguồn gốc căn bệnh của ngươi không phải ờ cổ mà là ở mông hay sao? Thuốc dán nhà hộ Tô của y có linh tính, có khả năng tự tìm được nguồn gốc căn bệnh, cho nên nó tự đã chạy xuống mông, có lý nào lại phải trả lại tiền? Chuyện này vỡ lở ra rồi trở thành một câu chuyện tiếu lâm, bởi vậy mới có câu nói châm biếm "Dán thuốc của Tô lang trung -- tự chuốc lấy phiền phức" như ở trên. Sau này, cấu nói đó đã trở thành câu cửa miệng để ám chỉ đến việc tự chuốc khổ vào thân hoặc tự mình làm bản thân điên đầu.

    Đại Ô Đậu leo lên bờ con mương, nhận thấy này cách nhà Tô lang trung không xa, bèn chạy đến đó gõ cửa mua thuốc dán. Tô lang trung là kẻ có tiếng không tốt lành gì, nhưng không hẳn đã là kẻ bất tài, bởi dẫu sao y cũng đã nấu cao dán cả nửa đời người. Cho dù không phải là linh đan diệu dược, nhưng ít nhiều cũng có một chút tác dụng. Y dán thuốc cao cho Đại Ô Đậu xong là ngửa tay đòi tiền. Đại Ô Đậu giở trò vô lại, phủi tay trợn mắt, không chịu trả một xu. Trước kia, Tô lang trung cũng đã từng lăn lộn ngoài giang hồ, hạng người lưu manh vô lại nào mà chưa từng gặp qua, không thể nào nuốt trôi cục tức này, không trả tiền đừng hòng mà đi được, một tay níu chặt Đại Ô Đậu không chịu buông tha, một tay cởi giày đánh loạn xạ lên mặt hắn. Đại Ô Đậu có tật giật mình, chỉ sợ ầm ĩ lên sẽ kéo người khác đến, cuống cuồng xô Tô lang trung ra, tông cửa xông ra ngoài. Nào ngờ Thái Dương của Tô lang trung đập thẳng vào góc mặt bàn, ô hô ai tai ngay tức thì. Vị lang trung nấu cao dán bán thuốc dạo ngoài đường có ngờ đâu mình sẽ lăn đùng ra chết oan chết uổng thế này.

    Đại Ô Đậu không hề hay biết, cú đẩy đó đã lấy mạng Tô lang trung. Vừa mới thấy đối phương vỡ đầu chảy máu, y vội vội vàng vàng đẩy tung cửa vọt ra bên ngoài, tai vẫn còn kịp nghe thấy trong nhà họ Tô vang lên tiếng vợ kêu con khóc. Y lo sợ bị người khác đuổi theo đánh mình, guồng chân hết tốc lực mà chạy. Lúc bấy giờ, lưng đã được dán thuốc cao, y chạy được một đoạn thì cảm thấy không còn đau nữa. Hắn là kẻ tham tiền ăn vào máu, trong đầu chợt thay đổi ý định, thế là chạy thẳng đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Ngõ hẻm đó nằm ở gần khu vực nhà ga phía bắc, nhà ga phía bắc lại ở ngay cạnh công viên Bắc Ninh. Cuối thờ nhà Thanh, công viên này vẫn còn là một vùng nước thải, dân cư thưa thớt, Viên Thế Khải đã cho tiến hành đào hồ tạo công viên khởi công xây dựng nhà ga. Tới thập niên năm mươi, quanh đó đã có không ít cư dân. Nhà ga phía bắc là một cái ga tàu hỏa. Để thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa, đường cái trước mặt nhà ga đã được mở rộng thênh thang, trải nhựa đường. Trước năm 1949, những gia đình ở khu vực nhà ga phía bắc, phần lớn là người nghèo sống nhờ vào ngành đường sắt. Người có sức khỏe thì đi bốc vác hàng lên tàu, trẻ con và đám đàn bà con gái thì đi dọc theo đường sắt nhặt than xỉ rơi từ đầu xe lửa xuống, còn một cách kiếm cơm nữa là bốc dỡ kho hàng. Nếu như có thể làm công nhân đường sắt, cả nhà già trẻ quanh năm suốt tháng được ăn ngũ cốc, coi như có nghề nghiệp ổn định. Thời bấy giờ, khắp nơi kết bè kéo cánh, lập đảng tạo phái, người không nằm trong tổ chức đừng có mong mon men lại gần. Cho dù chỉ nhặt than rơi trên đường tàu, không quen biết ai thì đừng hòng mà chen chân vào được. Tình trạng tẩy chay người ngoài rất nghiêm trọng, phát sinh vô số lần tranh giành. Kể từ lúc thành lập đất nước năm 1949 cho tới bấy giờ, nhà ga phía bắc đồng thời đóng vai trò là nhà ga vận chuyển khách lẫn vận chuyển hàng hóa, không chỉ có những đoàn tàu chở khách ngược xuôi nam bắc, mà hàng ngày còn có những đoàn tàu vận chuyển hàng hóa ra vào. Trước cửa nhà ga đông nghịt người, giao thông nhộn nhịp. Câu chuyện của chúng ta đang nói đến mùa hè năm 1958. Vào giữa mùa hè, nắng nóng khô hạn. Ban ngày vừa oi bức vừa nóng, hầm hập như trong một cái nồi hơi. Cái hồ trong Ninh viên cũng cạn nước, chẳng còn mấy người chèo thuyền du ngoạn. Sau khi trời tối, cái nóng dịu đi một chút. Những người ở quanh đó ai mà chẳng muốn tìm chỗ mát mẻ, thế là người lớn lẫn trẻ con đổ xô ra vỉa hè hóng mát, vừa mát mẻ vừa tiết kiệm điện. Nhưng chẳng có ai dại gì đi tới ngõ hẻm kho lương cả, có chăng chỉ là những kẻ mù lòa.
     
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 17: Hành Thủy Đan cướp đoạt bảo vật (Nửa chương cuối)


    Bốn

    Ngôi nhà cổ nào mà chẳng từng có người chết, nhưng nguyên nhân chết của người đó phải là đột tử mới được gọi là nhà bị ma ám. Lúc mới giải phóng, cơ quan công an đã phá án và bắt giam hung thủ của vụ án ăn cướp bằng búa thợ mộc, trong nhà của kẻ cướp nguy hiểm Bạch Tứ Hổ đã tìm thấy một cái xác phụ nữ. Kể từ ngày hôm đó, câu chuyện về ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương đã lan truyền ra với tốc độ chóng mặt. Nhưng hộ gia đình quanh đó trước kia không biết thì không sao, nhưng sau khi phát hiện ra cái xác đó, họ càng nghĩ càng thấy sợ. Nhà nào có khả năng dọn đi được thì không chần chừ lấy một giây. Cộng thêm việc Ninh viên được mở rộng, người ta lại phá dỡ thêm một bộ phận nhà dân. Bởi vậy, đến năm 1958, trong ngõ hẻm này chẳng còn lại mấy hộ gia đình sinh sống. Ngôi nhà hai gian của Bạch Tứ Hổ là ngôi nhà mang số bảy mươi hai ngõ hẻm kho lương, nhìn về hướng tây, ngay sau lưng là cái hồ của công viên Bắc Ninh. Vào thập niên năm mươi sáu mươi, cái hồ trong Ninh viên không rộng lớn như hiện nay, trong công viên cũng chưa có ngọn tháp trắng. Cứ đến đêm là công viên tối om om, tương đối hoang vắng.

    Đại Ô Đậu đã từng nghe người ta nói đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương từ lâu. Sau khi xử bắn Bạch Tứ Hổ, hai gian phòng đó bị dán giấy niêm phong, nhiều năm rồi mà vẫn không có người ở. Bởi dãi nắng dầm mưa, giấy niêm phong đã tróc ra từng mảng từ bao giờ. Tìm đến nơi là lẻn được vào trong nhà mà chẳng tốn mấy sức lực. Trong nhà, ngoài bốn bức vách thì chẳng còn cái gì, không có đèn chiếu sáng. Hắn đang ăn trộm, làm sao dám đốt đèn. Nhờ ánh trăng lọt qua cửa sổ mất cánh, hắn lờ mờ nhìn thấy mọi vật. Trong nhà, ngoại trừ tiếng tim đập thình thịch của chính hắn thì không có một tiếng động nào. Trước khi vào trong nhà, đầu óc hắn hoàn toàn bị ý nghĩ chiếm đoạt bảo vật phát tài chiếm cứ, nhưng đến khi đã vào trong đóng cửa phòng lại, chỉ có một mình trong bóng tối, lông tóc toàn thân bất chợt dựng đứng. Hắn bèn ư ử ngâm nga một đoạn dân ca để tăng thêm lòng dũng cảm để tiếp tục trộm cắp: "Uống no gió đông tây nam bắc, đói đến mức ăn sạch cả rễ cỏ; phiêu bạt ngang qua một ngôi mộ, gặp quả phụ vừa mắt hắn; lôi lôi kéo kéo về đến nhà, quả phụ đưa cho hắn hai cái bánh nướng, ăn xong bánh nướng đứng ngây cả người. . ."

    Vụ án Bạch Tứ Hổ hung hãn dùng búa thợ mộc ăn cướp năm ấy được bàn tán khắp đầu đường cuối ngõ. Mọi người kể rành rẽ Bạch Tứ Hổ mang cái xác cô gái về nhà coi như vợ, hàng ngày trốn biệt trong phòng tâm sự với người chết ra sao; Sợ láng giềng láng giềng phát hiện ra mùi thối, hắn đã còng cõng từng túi muối về nhà để ướp xác như thế nào. Bởi thế cho nên ngõ hẻm kho lương đặc biệt có nhiều dơi. Khi ấy, người ta cho rằng chuột ăn nhiều muối ăn là có thể biến thành dơi, toàn bộ dơi trong ngõ hẻm đều là chuột nhà Bạch Tứ Hổ biến hình, bởi vì trong nhà hắn muối chất đầy đến nóc. Quả thực là nghe cứ như chuyện thật vậy! Người nào người nấy nói cứ như mình tận mắt nhìn thấy. Nhưng những câu truyện đồn thổi ngoài đường chỉ thoảng qua như một làn gió. Bản án đã bị phá năm 1945, đến năm 1958 thì đã chẳng còn mấy người nhắc đến nữa. Nghe Quách sư phụ và Đinh Mão nói chuyện trong ngôi nhà bị ma ám có chôn dấu bảo vật, Đại Ô Đậu nảy sinh lòng tham. Hắn ngâm nga vài câu để tăng thêm lòng dũng cảm, cắn răng kiên trì lục lọi khắp nơi trong nhà với tâm lý cầu may, hòng kiếm cho bằng được tiền của phi nghĩa.

    Vào thời xã hội cũ, Thiên Tân vệ có một tác phong rất lệch lạc. Rất nhiều người ham ăn biếng làm, trong đầu lúc nào cũng chỉ quan tâm đến một từ 'quậy', bản thân không có lý tưởng gì đã đành, đã thế còn coi thường những người trung thực dốc sức làm việc, coi việc đầu cơ trục lợi như một loại bản lĩnh. Đại Ô Đậu cũng không nằm ngoại lệ. Sau giải phóng, hắn vẫn theo tác phong lệch lạc của thời trước, không chịu ép vào mình vào khuôn khổ, vẫn cố tình đến ngôi nhà bị ma ám cướp đoạt bảo vật. Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương này, ban đầu là do lão chưởng quầy của tiệm quan tài nhà họ Bạch nhặt gạch xây dựng lên vào cuối thời nhà Thanh. Nghe nói, trong nhà cất giấu một vật gì đó. Thời xưa, những gia đình giàu có thường làm thế này, có tiền không chịu gửi trong các ngân hiệu*, không lúc nào yên tâm, mà thường thường sẽ bí mật đào hố trong nhà để chôn dấu vàng bạc hoặc một vài đồ quý giá, phòng khi sau này có việc cần dùng gấp. Cuộc đời ngắn ngủi, thời gian thấm thoắt như thoi đưa, những ngôi nhà chôn dấu bảo vật đương nhiên đã qua vài lần đổi chủ. Kết quả, có một lần nào đó, người có phúc duyên đã vô tình đào được bảo tàng phát tài, hiện tượng giàu có chỉ sau một đêm như thế xảy ra không ít. Đại Ô Đậu lúc nào cũng mơ mộng hão huyền mình sẽ có lần được như vậy. Hy vọng của nửa phần đời còn lại của hắn hoàn toàn ký thác vào ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Giờ phút đó, chữ 'tham' đã choán hết tâm trí, chữ 'sợ' đã bị hắn ném lên tận chín tầng mây.

    *Một loại hình thái sơ khai của ngân hàng

    Hắn rón ra rón rén, sờ lần theo vách tường lục soát một lượt, còn cẩn thận tỉ mẩn hơn cả lúc bả hồ quét sơn lót. Hai gian phòng được xây hoàn toàn bằng gạch xây thành, mặt ngoài trát vữa. Có vài chỗ, vách tường đã tróc hẳn ra, vừa sờ tay vào đã cảm nhận được lớp gạch cổ lạnh như băng ở bên trong. Gõ tay vào là đã biết ngay bức tường không có khoảng trống bí mật ở bên giữa. Hắn hết sờ lần toàn bộ bốn vách tường, lại lần tìm trên mặt đất. Nền nhà được lát gạch theo kiểu Hải Mãn, có nhiều chỗ đã lung lay. Dưới lớp gạch là nền đất, chẳng có gì khác ngoài gạch vụn lẫn bùn đất. Mướt mồ hôi một phen, đến bát vỡ cũng không tìm thấy lấy một cái, hắn dựa lưng vào tường, mệt nhọc phù phù thở hổn hển. Vừa mới định há miệng chửi đổng để cho hả giận, hắn chợt nghe thấy trên đỉnh đầu vang lên tiếng "Lộp bộp".

    Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương được xây cùng một kiểu với đại đa số những ngôi nhà cổ khác, bốn bức tường gạch, trên mái có rầm nóc, diện tích không lớn, có xà không trụ, nóc nhà lợp ngói, trên cùng là tấm lợp che mưa. Nhưng nếu đứng nhìn từ bên dưới lên, người ta sẽ không nhìn thấy xà nhà, bởi vì những căn nhà được xây vào thời kỳ trước bắt buộc phải dán trần, nếu không dán thì ở không yên lành. Bốn vách tường quét vôi trắng, theo quan niệm 'Tứ bạch lạc địa' của các cụ, còn bắt buộc phải dán trần nhà bằng loại giấy dày để phòng ngừa tro bụi rơi xuống. Chẳng tới nửa năm, lớp giấy dán trần nhà đã bị ẩm mốc ố vàng, đến lúc đó lại dán đè lên một lớp khác. Ngôi nhà của dân chúng bình thường nào cũng được trang trí theo cách này. Nhờ ánh trăng, Đại Ô Đậu ngẩng đầu lên quan sát, nghe tiếng động có vẻ giống như chuột chạy trên mái nhà. Khi ấy, chuột rất nhiều. Chúng thường chạy tới chạy lui trên xà nhà, thỉnh thoảng không may rơi xuống lớp giấy dán trần, mỗi lần như vậy phát ra tiếng động "Lộp bộp". Ngã không chết, chúng lại vật lộn trở mình chạy tiếp. Mỗi khi đêm khuya thanh vắng, trong những ngôi nhà cấp bốn thường xuyên nghe thấy tiếng động như thế này. Đôi khi còn có hai con chuột đánh nhau, ngã lăn lộn trên trần nhà như muốn trêu ngươi, quấy phá đến mức con người ta không sao ngủ yên được. Thậm chí có cả những con chuột to đùng, hành động chậm chạp nặng nề, ngã xuống làm thủ cả lớp giấy dán trần, rơi tọt vào nồi canh đang đun sôi trên bếp. Việc này xảy ra thường xuyên không ai còn thấy lạ. Người nấu ăn nhìn thấy còn tốt, cùng lắm thì đổ đi không ăn nữa. Nếu không trông thấy, vậy thì cả nhà sẽ được thưởng thức món canh chuột rồi. Trước kia, rất hiếm khi con người không bị đám chuột quấy phá. Nghe thấy tiếng chuột náo loạn trên nóc nhà, Đại Ô Đậu không thèm để tới. Nhưng đột nhiên hắn ngẩn người ra một lúc. Hắn chợt có ý nghĩ, chẳng lẽ đồ vật được giấu trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương lại ở trên nóc nhà?

    Năm

    Giữa đêm khuya, ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương bị chuột quậy phá, phát ra tiếng động giống như hai con chuột đang đánh nhau. Một trong con ngã xuống lớp giấy dán trần, phát ra âm thanh "Lộp bộp", đã đánh động suy nghĩ của Đại Ô Đậu. Hắn suy đoán, hai gian phòng này đã bị người ta xới tung lên rất nhiều lần rồi, kể cả đào sâu ba thước cũng không thể tìm thấy một cái gì, nhưng lại chẳng có mấy người hướng ánh mắt lên nóc nhà. Theo lệ thường, mỗi khi những gia đình giàu có chôn dấu tiền tài bảo vật, phần lớn là sẽ bí mật chôn dưới đất. Nhưng, thật ra dấu chúng trên xà nhà mới xác thực là thần không biết quỷ không hay. Hắn khấp khởi mừng thầm. Các cụ xưa đã có câu, cuộc đời mỗi con người, giàu sang có số. Giàu nghèo sang quý, như mây trôi vô định, có lẽ thời vận của Đại Ô Đậu hắn đã đến, nếu không thì tại sao lại trùng hợp có con chuột rơi xuống trần nhà như vậy? Xem ra, trong số mệnh hắn đã định là sẽ có được số tiền của vô chủ này. Hắn cứ nghĩ rằng mình sắp phát tài, đâu có biết rằng "Tương lai mù mịt, không ai đoán trước được", bởi vậy làm sao có thể nghĩ ra, trên nóc nhà có vật nào đó đang chờ mình sẵn.

    Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương quay về hướng nam, hai gian phòng một khách một buồng, cửa chính nằm ở gian ngoài, trong góc là bếp lò, buồng trong có giường. Vào những năm năm mươi sáu mươi, những ngôi nhà cổ đã tồn tại nhiều năm mà ít khi được tu sửa lại. Sau khi Bạch Tứ Hổ bị xử bắn, nhà hắn vẫn luôn bị bỏ hoang. Giấy dán trần nhà đã xuất hiện vô số chỗ mủn nát, màu sắc ố vàng, thậm chí có nhiều chỗ nấm mốc đã mọc tốt um, trần nhà đã bị thủng nhiều nơi. Tinh thần trở nên hưng phấn, hắn trèo lên giường, kiễng chân với tay, nhưng chỉ có thể chạm đầu ngón tay tới lớp giấy dán trần. Không còn cách nào khác, hắn đành chạy ra ngoài tìm thứ gì đó để kê chân. Khi mở rộng Ninh viên, người ta đã phá hủy đi gần nửa con hẻm nhỏ, gạch đá la liệt ở khắp nơi. Hắn bê cả một chồng gạch vào trong nhà, xếp lên trên giường gạch. Đến lúc ấy, hắn đã có thể thò đầu lên trên lớp giấy dán trần rồi. Hắn chọc ngón tay vào lỗ thủng giật tung một mảnh giấy dán trần ra. Tro bụi phủ một lớp dầy bên trên cái trần nhà dán giấy, hắn vừa đụng đến đã ào ào đổ xuống, vậy là Đại Ô Đậu thành kẻ giơ đầu chịu báng. Tro bụi ở những ngôi nhà cổ đã được tích lại qua không biết bao nhiêu năm tháng, đen sì dinh dính, mùi vị bị đám tro bụi đó rơi vào miệng khó chịu thế nào thì khỏi cần phải bàn. Bụi bay mù mịt khiến mắt không sao mở ra được, lại còn cả chui vào lỗ mũi, khiến hắn sặc sụa hắt hơi liên tục. Bởi sợ người khác nghe thấy, hắn cố gắng hành động nhẹ nhàng không phát ra tiếng động lớn. Cuối cùng, sau khi tốn không ít công sức, hắn cũng xé thủng lớp giấy dán trần ra một lỗ hổng vừa phải. Đa phần phần đỉnh mái nhà truyền thống của dân chúng được dựng theo kết cấu hình chữ kim ( 金), khoan lỗ để bắt mộng rường nhà. Trước kia, mỗi khi làm mái nhà, người ta cần phải tuân thủ tục lệ không được dùng tới đinh sắt, toàn bộ những chỗ tiếp nối chỉ được gá bằng mộng. Người ta đồn rằng, nếu nhà dân và cung điện sử dụng đinh sắt để xây dựng sẽ có hại đến đường con cháu. Thời bấy giờ, quả thực có điều kiêng kị như vậy. Giữa nửa đêm, mặc dù trong phòng có ánh trăng, nhưng khi quan sát phần bên trên nóc nhà hắn không thể nhìn thấy cái gì, chỉ có mùi ẩm mốc mục nát xộc vào mũi rồi xông thẳng lên não. Đại Ô Đậu nghiện thuốc lá nặng, ngày nào cũng phải hút, đi đến đâu hút đến đó, bởi vậy trên người lúc nào cũng thủ sẵn diêm. Hắn đánh một cây diêm, hai tay khum lại để che ánh sáng. Vừa mới nhô đầu lên nóc nhà, một vật đã đập ngay vào mắt, hắn lợm giọng thiếu chút nữa là há miệng nôn mửa.

    Vô số mạng nhện đen xì, rủ từ xà ngang xuống, bụi bẩn tích tụ lại dày cỡ một đốt ngón tay. Nhưng cho dù không bị mạng nhện bám đầy bụi bẩn che chắn, tầm nhìn của hắn cũng không thể vượt quá nửa thước. Trước mặt hắn là một con chuột chết đang bốc mùi phân hủy, các loại côn trùng, gián, tường xuyến sống trong bóng tối bị kinh động, cắm đầu cắm cổ chạy loạn xạ. Trên nóc những ngôi nhà cũ phần lớn là như vậy, bình thường không nhìn thấy không biết ghê tởm đến thế nào, một khi nhìn thấy, không một ai có thể chịu đựng được. Đại Ô Đậu bụm miệng nôn khan một chặp, nhưng trong đầu thì lại đang có ý nghĩ, trong đêm nhìn thấy tường xuyến là dấu hiệu may mắn, sắp phát tài. Tường xuyến chính là con du diên, hình thù giống hệt như con rết, thường sống trên nóc nhà và trong hốc tường, dân chúng thường gọi chúng là "Tường xuyến", còn một cách gọi khác là "Dây xâu tiền", bởi vì tiền đồng ngày xưa được xỏ dây buộc thành từng xâu. Chữ xuyến chủ tài, nếu nhìn thấy tường xuyến trong nhà là sẽ có tài vận, nhưng không phải lúc nào nhìn thấy cũng là tốt. Tục ngữ có nói "Sớm xuyến phúc, muộn xuyến tài, không sớm không muộn xuyến tai", ý muốn nói, buổi sáng trông thấy tường xuyến là có phúc vận, buổi tối trông thấy là tài vận, giữa trưa nhìn thấy chắc chắn là điềm xấu. Đến giờ không ai còn tin tưởng cách dùng tường xuyến định cát hung nữa, nhưng thời trước thực sự có người tin vào điều đó. Vào giữa nửa đêm, Đại Ô Đậu nhìn thấy tường xuyến trên nóc nhà, tự cho rằng hy vọng phát tài đã lớn hơn vài phần, chỉ cần có thể tìm được số tài bảo trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương này, một chút dơ bẩn đó có đáng là cái gì. Hắn cố kìm chế cảm giác buồn nôn, đánh một cây diêm khác, mở mắt trừng trừng cố nhìn sâu vào bên trong. Đúng lúc đó, hắn đột nhiên phát hiện ra trong bóng tối có một đôi mắt đầy thù địch đối chọi lại mình.

    Đại Ô Đậu cứ đinh ninh là ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương chôn dấu bảo vật, có ngờ đâu nóc nhà lại có người đang lẩn trốn. Trần hai gian phòng này đã được dán từ vài chục năm trước, từ khi phá thành nhặt gạch năm Canh Tý cho đến năm 1958, nó chưa từng bị động chạm đến. Mặc dù lớp giấu dán trần đã thủng vài lỗ, nhưng phải xé rách ra một lỗ hổng vừa đủ mới có thể chui đầu lên bên trên được, làm gì có người nào có khả năng trốn ở trên xà nhà tích tụ đầy bụi đất không đi xuống cả vài chục năm, trừ phi là thần tiên không cần ăn uống, hoặc là những vong hồn không tiêu tán trong ngôi nhà bị ma ám. Trường hợp này tám chín phần mười rơi vào khả năng thứ hai. Lại nói tiếp, trên nóc nhà đen kịt không có ánh sáng, hắn chỉ có thể nhìn thấy ở phía đối diện hình như là hai con mắt, hai tròng mắt đen bóng to đến mức khó có người dám tin. Nếu gương mặt không to bằng cái khay trà, e rằng cũng không để đủ cân xứng với hai con mắt này. Nhưng vấn đề là làm gì có ai có gương mặt to như khay trà? Nếu như mặt người này to cỡ khay trà, vậy thân thể của y sẽ cao lớn đến mức nào? Đại Ô Đậu lập tức sợ gần chết, tay chân giống như đã không thuộc về mình nữa, miệng há hốc không khép lại được, lưỡi thè lè ra ngoài, cổ cứng đơ giống như đã hóa đá.

    Sáu

    Đại Ô Đậu vừa nhìn thấy vật trong ngôi nhà bị ma ám đã kinh sợ đến mức ba hồn bảy vía lìa khỏi xác, cứt đái tự động xổ đầy trong đũng quần. Đột nhiên có một trận gió nổi lên, quả thật là "Quét hết đất trước cửa địa ngục, thổi sạch bụi trên đỉnh Phong Đô"**, cây diêm đang cầm trên tay tắt ngấm, trước mặt tối sầm, hắn chợt rùng mình run rẩy từ đầu đến chân, thân thể không tự chủ lùi lại phía sau, quên bẵng mình đang đứng trên một chồng gạch. Hắn hẫng chân, thét lên một tiếng rồi ngã ngửa xuống cái giường gạch, bốn vó chổng lên trời, té cứt té đái tông cửa chạy ra bên ngoài. Lúc đến như cưỡi rồng giá hổ, khi về giống như chó nhà có tang. Hắn chạy trốn về đến nhà, còn chưa kịp chui đầu vào nhà thì đã bị người khác đè nghiến xuống. Thì ra vợ Tô lang trung đã báo án, tố cáo Đại Ô Đậu đến dán thuốc cao, không những không trả tiền, mà còn đánh người gây tai nạn chết người. Nghe nói có người chết, cục công an lập tức vào cuộc. Không xảy ra án mạng chỉ là chuyện nhỏ, nếu xảy ra thì là việc lớn rồi, họ không trì hoãn một giây phút nào, lập tức tìm tới tận cửa, vừa đúng lúc bắt được hắn.

    **Phong Đô là vùng đất của linh hồn người chết. Câu này muốn nói trận gió đó âm u rùng rợn như thổi tới từ âm tào địa phủ

    Đại Ô Đậu đã sợ đến bể mật, vừa đến cục công an đã thú nhận tất cả, từ lúc hắn bắt đầu ăn trộm, ngã xuống rãnh nước như thế nào, đi dán thuốc cao, nổi lên tranh chấp, không may đẩy Tô lang trung ngã gây ra án mạng ra sao, không dám giấu diếm một chút gì. Tiếp theo đó, hắn lại khai báo, bởi nghe nói ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương có bảo vật, bản thân đã nổi lòng tham, định mượn gió bẻ măng, nhân cơ hội trời tối đen lẻn vào trong nhà, xé rách lớp giấy dán trần, thò đầu lên nhìn xem có vớ được cái gì không, nào ngờ trên xà nhà đó lại có quỷ.

    Đại Ô Đậu ăn trộm bánh hấp Dương Thôn rồi phạm tội ngộ sát, coi như là việc ván đã đóng thuyền. Về phần lẻn vào nhà người khác ăn trộm vật báu, công an không có cách nào định tội hắn được. Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương đã bị đóng cửa từ năm 1945 cho đến bấy giờ, do mở rộng Ninh viên, ngôi nhà sẽ nhanh chóng bị phá hủy. Trong phòng có đầy chuột bọ côn trùng sinh sống, không có bất cứ đồ vật thần kỳ nào cả. Hắn lẻn vào căn nhà rách nát bị bỏ hoang một chuyến, hoàn toàn không thể nào khép vào tội gì được. Mọi người cho rằng con vật mà Đại Ô Đậu nhìn thấy trên nóc nhà chỉ là chuột, nhưng dù có thế nào thì đầu chuột cũng không thể to bằng cái khay trà được. Đến sáng ngày, cơ quan công an phái người đến kiểm tra căn nhà, nhìn thấy lớp giấy dán trần đã bị xé thủng ra một lỗ hổng lớn, trên giường gạch có mấy cục gạch, hoàn toàn ăn khớp với lời khai của Đại Ô Đậu. Nhưng khoảng không gian trên xà nhà ngoại trừ bụi đất phủ đầy, thì xác thực không còn gì khác nữa. Trong lúc tối lửa tắt đèn, rõ ràng là Đại Ô Đậu đã nhìn nhầm mất rồi, không ai tin tưởng vào những gì hắn nói. Nhưng kể từ đó về sau, Đại Ô Đậu sợ quá đâm ra ngớ ngẩn. Trong lúc bị giam chờ tái thẩm, hắn bắt đầu mê sảng nói huyên thuyên những lời vô nghĩa. Về phần sau này hắn bị phán xử như thế nào, tôi sẽ bỏ qua không nói đến nữa.

    Quách sư phụ phát hiện ra Đại Ô Đậu đã trộm cắp bánh hấp Dương Thôn. Đêm hôm đó, ông ta và Đinh Mão đuổi theo sau hắn rất lâu, nhưng không thể bắt được, nào có biết đêm ngày hôm đó tên trộm này lại đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương, hơn nữa còn khẳng định như đinh đóng cột là trong phòng có quỷ. Mặc dù cảm thấy nghi vấn, nhưng Quách sư phụ là công an đường thủy, không thể xen tay vào một vụ án như thế. Bởi vậy, ông ta không thắc mắc bất cứ câu gì, mà chỉ âm thầm ghi nhớ ở trong lòng, ban ngày vẫn tiếp tục xuống sông nạo vét bùn, còng lưng ra gánh đất chuyển đá. Bởi vì nhân lực có hạn, tiến độ công việc nạo vét sông rất chậm chạp. Dù đã qua Tam phục, trời vẫn khô hạn không chịu mưa xuống. Khoảng thời gian giữa Đại thử và Tiểu thử của âm lịch được gọi là tam phục***. Chẳng mấy chốc đã đến trung tuần tháng bảy âm lịch năm 1958, lúc ấy đã đào sâu ngang thân ngọn Tháp trấn yêu của Hải Trương Ngũ, nửa phần trên của ngọn tháp trắng đã bị phá cụt, chỉ còn lại phần chân bằng đá nguyên khối. Trời vẫn không dịu nắng đi chút nào.

    ***Tiểu thử bắt đầu ngày 7 hoặc 8/7, đại thử kết thúc vào ngày 7 hoặc 8/8 dương lịch. Như vậy, Tam phục là khoảng thời gian 1 tháng từ 7 hoặc 8/7 đến 7 hoặc 8/8 dương lịch.

    Tháng bảy âm lịch có hai cái tiết. Một là tiết "Khất Xảo" mùng bảy tháng bảy. Theo tương truyền, mỗi lần đến mùng bảy tháng bảy, Ngưu Lang Chức Nữ sẽ gặp nhau tại sông Ngân Hà. Theo tục lệ xưa, đêm ngày hôm đó, các cô gái sẽ xỏ bảy cây kim bằng bảy loại chỉ màu khác nhau, bày biện dưa leo đã bổ sẵn hướng lên trời tế bái, cầu khẩn được tài thêu thùa khéo léo như của Chức Nữ, có thể may được quần áo đẹp đẽ, ngay cả đám phi tần cung nữ trong hoàng cung đại nội cũng không nằm ngoại lệ. Lớp người già vẫn thường nói, vào giữa trưa ngày tết "Khất Xảo'', nếu thả một cây châm vào trong bát nước, nó sẽ nổi trên mặt nước không chìm. Đám thanh thiếu nữ xem bóng châm để bói xem là giỏi hay vụng, dân gian gọi là "Bổng chủy châm". Họ còn nhấn mạnh, tối ngày hôm đó, nếu ai đứng dưới giàn dưa là có thể nghe thấy tiếng Ngưu Lang Chức Nữ rủ rỉ nói chuyện ở trên trời. Mặc dù chỉ là truyền thuyết, nhưng đã đủ khiến cho người nghe phải kinh sợ, không có con cái nhà nào dám núp dưới bóng giàn dưa vào lúc nửa đêm nửa hôm. Qua tiết "Khất xảo" không được vài ngày là đã đến "Tiết vong linh" ngày mười lăm tháng bảy. Theo dân gian, vào ngày mười lăm âm lịch, Quỷ Môn quan mở rộng cửa, đó là thời gian thả đèn hoa đăng siêu độ vong linh.

    Công việc nạo vét sông năm ấy đã kéo dài đến ngày tiết vong linh mười lăm tháng bảy âm lịch. Ngày hôm đó vẫn bình thường như mọi ngày, không có chuyện gì xảy ra, người đào bùn cứ đào, người chở đất cứ chở. Nhưng đến ngày mười sáu tháng bảy âm lịch, công việc nạo vét bắt buộc phải dừng lại, liên tiếp vài năm về sau vẫn không thể tiếp tục thực hiện được. Toàn bộ đám công nhân trị thuỷ đều lén lút bảo rằng: "Ông trời không cho làm việc này!"

    Khi ấy, người ta bảo rằng công việc nạo vét sông cái không thể tiến hành được nữa, nguyên nhân chủ yếu là vì xảy ra sự việc "Phần mộ số hai trăm lẻ chín", sự việc này phát sinh đúng vào đêm ngày mười lăm tháng bảy đó.
     
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 18: Phần mộ số hai trăm lẻ chín (Nửa chương đầu)


    Một

    Theo dân gian, mười lăm tháng bảy âm lịch là tiết vong linh, Đạo gia gọi là Tết Trung Nguyên, còn Phật giáo lại gọi là "Lễ Vu Lan". Nhưng trên thực tế, trên thế gian này lấy đâu ra cái bồn theo đúng nghĩa bồn vu lan. Từ này bắt nguồn từ Phật giáo, trong tiếng Phạn đọc là vu lan bồn, nghĩa đen của nó là giải cứu treo ngược, còn hiểu rộng ra thì có nghĩa là giải cứu lũ quỷ đói dưới địa ngục khỏi nỗi thống khổ bị treo ngược. Vào ngày mười lăm tháng bảy âm lịch, các tín đồ mở đàn tràng, thả đèn hoa đăng, tôn vinh tăng chúng thập phương.

    Đến thời cận đại (1), tiết vong linh đã bị đơn giản hóa, chỉ còn giữ lại nghi thức hoá vàng mã và thả đèn hoa đăng. Hoá vàng mã có nghĩa là đốt tiền vàng mã cho tổ tiên nhà mình, đồng thời còn đốt thêm một chút tiền giấy cho cô hồn dã quỷ. Còn thả đèn hoa đăng chủ yếu là để giải cứu đám cô hồn dã quỷ, là việc thiện có thể tích âm đức. Người ta gấp giấy thành hình hoa sen, dưới đáy bôi sáp chống thấm nước, bên trên cắm một ngọn nến. Đến đêm ngày mười lăm tháng bảy âm lịch, người ta đốt ngọn nến rồi thả cho đèn trôi xuôi theo dòng sông. Theo tương truyền, toàn bộ vong hồn đều có thể được đèn hoa đăng siêu độ, thoát khỏi bể khổ vô bờ. Tuy nhiên, nếu đèn hoa đăng do chính tay mình làm thì không có tác dụng gì, phải mua những cây đèn do hòa thượng ở trong các chùa miếu làm thì mới được. Khi thiện nam tín nữ bỏ tiền mua đèn hoa đăng cũng không thể nói là 'mua', mà phải nói là 'quyên'. Không thiếu những người lắm tiền nhiều của cúng thẳng một khoản tiền vào trong chùa chiền, quy đổi thành số đèn hoa đăng nhất định, đến lúc cần thả đèn hoa đăng sẽ do tăng nhân thay mình thực hiện. Có nhiều tiền quyên nhiều, ít tiền quyên ít, bời dẫu sao mỗi một chiếc đèn hoa đăng cũng có thể siêu độ được một con quỷ đói. Bất kể là đèn nhiều hay ít, chỉ cần có lòng làm việc thiện là được, bời vậy dân gian mới có câu "Người giàu vạn ngọn đèn, người nghèo một ngọn đèn". Thời xưa, mỗi khi đến tiết vong linh, cứ nơi nào trong thành có nước là sẽ có vô số đèn hoa đăng, tạo thành cảnh tượng giống như muôn vì sao sáng. Người ta còn mời tăng ni đạo sĩ tụng kinh niệm chú, ném màn thầu cúng cô hồn, lại còn dựng đài Thí Cô (bố thí cho trẻ mồ côi), mở đủ các loại pháp đàn trên bờ dưới nước, cực kỳ náo nhiệt. Nơi nào không có nước thì chỉ cúng cô hồn hoá tiền vàng mã. Những người nào không phải ra ngoài hoá vàng mã và thả đèn hoa đăng thì phần lớn sẽ về nhà sớm. Trời vừa mới chập choạng tối đã đóng cửa, không bước chân ra khỏi nhà, bởi dù sao vào ngày mười lăm tháng bảy âm lịch cũng chính là ngày cửa địa ngục mở toang. Những gia đình bình thường, nếu không có chuyện gì khẩn cấp không hoãn lại được thì chẳng ai dám ra khỏi nhà vào lúc nửa đêm.

    (1) Từ giữa thế kỷ 19 đến năm 1919.

    Thời trước, cứ đến ngày mười lăm tháng bảy âm lịch, đội tuần sông lại phải đi hóa vàng mã dưới chân từng cây cầu một. Từ năm 1949 trở về sau, phong tục đã thay đổi, hoá vàng mã thả đèn hoa đăng bị liệt vào phong tục cổ hủ mê tín còn rơi rớt lại từ thời phong kiến, người ta cấm tuyệt đối. Thậm chí, Tết âm lịch năm 1945 còn không cho đốt pháo nổ, bảo rằng làm vậy là để phòng ngừa có phần tử phản động lợi dụng tiếng pháo nổ để nổ mìn tiến hành phá hoại, đúng là suy nghĩ thiển cận. Nhưng quan niệm và phong tục đã kéo dài cả trăm ngàn năm thì không thể nào chuyển biến chỉ trong một chốc một lát. Buổi tối ba mươi Tết năm ấy thành ra im lìm vắng lặng, không có lấy một chút không khí mừng năm mới. Nhưng đến mười hai giờ đêm, chẳng biết nhà nào đã mở đầu, đột nhiên tiếng pháo nổ đùng đùng tạch tạch nổi lên. Đã có nhà dám phá vỡ lệnh cấm, những nhà khác lập tức đua nhau đốt theo, sau đó toàn thành đều đốt, không khí của lễ mừng năm mới lập tức sống dậy. Sang năm sau, lệnh cấm đốt pháo đã trở thành thùng rỗng kêu to. Nhưng những tục lệ mê tín như hoá vàng mã, thả đèn hoa đăng, mở đàn tràng, vào thập niên năm mươi sáu mươi quả thật là không thấy diễn ra trong nội thành.

    Dù trong nội thành không thể hoá vàng mã, nhưng ở nông thôn và vùng ngoại thành hoang vu thì lại chẳng có mấy ai ngó ngàng tới. Nông thôn vẫn chôn cất theo hình thức thổ táng, cứ đến thanh minh đông chí là người đi tảo mộ hoá vàng vẫn nườm nượp như xưa. Ngay cả những người sống trong nội thành cũng đến vùng ngoại thành hoá vàng mã. Chúng ta đang nói về ngày mười lăm tháng bảy âm lịch năm 1958. Lúc bấy giờ có một chàng trai tên là Vương Khổ Oa(2), tầm hai mươi bảy hai mươi tám tuổi, con nhà cùng khổ. Nông dân không được đặt tên, anh ta họ Vương, tên mụ là Khổ Oa, bởi vậy lúc đăng ký hộ khẩu đã khai đại là Vương Khổ Oa, quê quán ở Quan Trung, trước đó vài năm đã chạy đến Thiên Tân bốc vác than đá kiếm miếng ăn. Khi ấy có không ít người ở nhà tầng, mùa đông phải đốt than đá để sưởi ấm. Những người bán than không những phải kéo xe chở than đá đến tận chân cầu thang, mà còn phải chất than vào giỏ rồi cõng từng giỏ một lên trên tầng. Cõng đến cửa nhà người ta, lại phải xếp gọn vào một chỗ ở ngoài hành lang. Kiếm sống bằng công việc này vừa bẩn vừa cực nhọc, không dễ chịu một chút nào. Mẹ Vương Khổ Oa theo đạo Phật, ăn chay trường, chú trọng tích đức làm việc thiện, bởi vì đi lại không tiện, rằm tháng bảy năm nào cũng sai Vương Khổ Oa thay mặt bà ta đi hoá vàng mã, siêu độ cô hồn dã quỷ, làm như vậy là để tích âm đức. Năm ấy cũng không ngoại lệ, bà ta lại sai Vương Khổ Oa đi hoá vàng mã.

    (2)Khổ Oa: đứa trẻ mệnh khổ

    Vương Khổ Oa cực kỳ bối rối. Từ khi giải phóng đến bấy giờ, người ta đã không cho hoá vàng mã nữa rồi. Năm ngoái, khi đi hóa vàng mã, thiếu chút nữa là anh ta đã bị tóm sống, năm nay sao còn dám đi tiếp? Nhưng mẹ anh ta là một bà lão nông dân mê tín đến u mê, nhất định bắt anh ta phải đi, tiền vàng đã chuẩn bị sẵn cả rồi. Anh ta không thể nào thoái thác, đến nửa đêm ngày mười lăm tháng bảy âm lịch không thể không ra khỏi nhà đi hoá vàng mã. Anh ta lo canh cánh bị người khác nhìn thấy sẽ đi tố cáo, nên định tìm đến một nơi vắng vẻ. Anh ta sống ở gần khu vực nhà ga phía bắc và Ninh Viên. Lúc bấy giờ, phía bắc Ninh Viên còn có một con kênh phân lũ, là một con kênh nhân tạo được đào vào thời nhà Thanh. Trời khô hạn không có nước, cỏ dại mọc um tùm dưới lòng sông, qua con sông nhân tạo này là đến một vùng đất hoang, xa hơn nữa là đất bị nhiễm mặn và rừng cỏ lau, xét theo địa hình thì chỗ đó là một góc chết. Vào thời Đạo Quang nhà Thanh vẫn còn có mấy hộ gia đình cư trú ở nơi này trồng cao lương. Sau này, họ đã dọn đi hết. Vắng khói thiếu rơm(3), khu vực này thường xuyên có hồ ly và nhím hoạt động, cho dù ban ngày cũng không có lấy một bóng người. Anh ta là một kẻ đầu óc đơn giản sức khỏe có thừa, không biết sợ là cái gì, một mình ôm buộc vàng mã lội qua sông nhân tạo, đi sang vùng đất hoang vu bên bờ bên kia, định hoá vàng mã ở bên đó. Anh ta là người ở nơi khác đến, chỉ nghe nói ở khu vực này có người sinh sống có nhà cửa, nhưng do đất bị nhiễm mặn, không trồng được hoa mầu, nên vào thời Quang Tự, toàn bộ các gia đình đó đã chuyển đi nơi khác sinh sống. Còn những chuyện khác, anh ta không hay biết gì. Giữa nửa đêm ngày mười lăm, trăng sáng vằng vặc, anh ta chợt thấy một ngôi miếu đổ nát thấp thoáng trong đám cỏ hoang, một bên chái miếu đã bị sập. Gió hiu hiu thổi, cỏ dại mọc trên mái hiên đung đưa dưới ánh trăng. Trên tấm bia đá bên cạnh miếu có ba chữ rất lớn nhưng anh ta chỉ đọc được chữ 'tam'. Sau miếu là một cái hủng, quan tài nằm ngổn ngang lộn xộn khắp nơi.

    (3)Ý muốn nói không có người sinh sống và trồng trọt

    Hai

    Trước mỗi quan tài có một viên gạch cổ được đánh số. Lúc mới giải phóng, nông dân hoàn toàn mù chữ, Vương Khổ Oa chỉ nhận biết được số không biết chữ, nhưng như vậy đã là khá lắm rồi, bởi vì lúc giao than phải xem biển số nhà, không đọc được số sẽ không giao đúng nhà. Anh ta nhìn thấy trong cái miếu đổ nát thờ phụng ba pho tượng thần, nhưng không phải là Tam Tinh Phúc Lộc Thọ, cũng không phải là Tam Thanh Đạo giáo(4). Vị tướng quân ngồi bệ vệ ngay chính giữa có tướng mạo hiền lành, mang khí thế vương giả, lưng đeo song kiếm. Một tướng quân mặt đen và một tướng quân mặt đỏ chia nhau đứng hai bên, vẻ mặt hung dữ rất đáng sợ. Tướng quân mặt đen cầm xà mâu, tướng quân mặt đỏ cầm Yển Nguyệt Đao. Vậy là đã rõ, đây là một ngôi miếu Tam Nghĩa, chuyên thờ phụng ba vị anh hùng kết nghĩa vườn đào Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Mặc dù nông dân mù chữ, nhưng nhắc tới Lưu Quan Trương thì không ai là không biết. Bên dưới cái hủng lớn sau ngôi miếu Tam Nghĩa cỏ hoang mọc um tùm, quan tài nằm bừa bãi khắp mọi nơi.

    (4) Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn cũng chính là Thái Thượng Lão Quân.

    Dưới cái hủng lớn có rất nhiều huyệt mộ đã bị đào bới, dãy nọ nối tiếp dãy kia. Trong mỗi huyệt mộ đều có một hoặc hai cái quan tài, nhưng chẳng có cái nào thuộc loại tốt, tất cả đều là những chiếc quan tài mỏng sơ sài bằng gỗ bách, thời gian hạ táng cũng không giống nhau, phần lớn đều nhỏ hẹp. Do dãi nắng dầm mưa quá lâu, thành quan tài hầu như đã mục nát, thậm chí còn có cả lỗ thủng, nhở ánh trăng có thể nhìn thấy xương trắng ở bên trong. Còn có hai con chó hoang đang chầu chực ở đằng xa. Vương Khổ Oa đã sợ đến mức không còn thấy sợ nữa, thậm chí trong lòng còn rất bức bối, rõ ràng sau miếu là một khu nghĩa địa, tại sao quan tài lại bị đào bới hết lên rồi bỏ mặc ở nơi này không có ai quan tâm tới? Kỳ quái nhất là trước mộ phần không có bia, chỉ cắm một viên gạch xanh theo chiều thẳng đứng đằng trước quan tài, một nửa viên gạch chôn dưới đất, nửa bên trên được viết số bằng sơn, giống như cố tình đánh số thứ tự cho quan tài vậy. Là người có đầu óc đơn giản, anh ta thấy nơi đó là một nghĩa trang, bèn có ý nghĩ hoá vàng mã mà chẳng là đốt, chẳng bằng đốt luôn cho cô hồn dã quỷ dưới khu mộ trũng này, tranh thủ lúc không có người đốt cho nhanh, đốt xong còn về nhà ngủ.

    Vương Khổ Oa không hiểu tại sao dưới khu mộ trũng này lại có rất nhiều quan tài, nhưng tôi thì lại được kể cho nghe rõ ngọn ngành. Muốn biết rõ đầu đuôi, chúng ta phải quay lại thời kỳ trước giải phóng. Trước đây, Thiên Tân vệ có hai Lý, là hai vị có tiền có thế cùng mang họ Lý. Mặc dù cùng một họ, nhưng hai người lại không có bất cứ quan hệ gì, bởi người họ Lý đâu có ít, Trương Vương Lý Triệu nơi đâu mà chẳng có, Lý lại là đệ nhất thế gia vọng tộc. Một trong hai Lý của Thiên Tân vệ là Đốc Quân Lý Thuần, chính là người đã phá vương phủ xây từ đường nhà họ Lý, phần đầu truyện đã đề cập đến chuyện của ông này. Lý còn lại tên là Lý Diên Chương, là nhân vật trong Thanh Bang, trước kia cũng đã từng là một phu khuân vác thuê, giúp người ta khuân đồ lên thuyền kiếm miếng cơm manh áo. Có một lần, có một ông khách người Sơn Tây ra tỉnh ngoài buôn bán, bôn ba vất vả kinh doanh nhiều năm, tích cóp đầy một cặp da vàng bạc đồ quý. Trên đường mang tiền của về nhà, ông khách này đã lên thuyền của Lý Diên Chương, đến lúc xuống thuyền thì không tìm thấy chiếc cặp da đâu nữa. Bởi vì đã nhận ra chiếc cặp da có chứa vàng bạc đồ quý ở bên trong, Lý Diên Chương chẳng khác gì ruồi nhặng ngửi thấy mùi máu. Nhân cơ hội ông khách kia mất cảnh giác, hắn ta đã âm thầm đánh cắp chiêc cặp da rồi giấu biệt. Đến lúc về gần đến nơi, ông khách người Sơn Tây mới phát hiện ra chiếc cặp đã bị mất cắp, lập tức lửa giận công tâm, há mồm phun ra máu tươi. Ông khách đó báo quan không đường, xin giúp đỡ không cửa, nhất thời phẫn uất tìm đến cái chết, nhảy cầu tự vẫn.

    Bởi đánh cắp được số vật báu trong cặp da của ông khách Sơn Tây, từ đó về sau Lý Diên Chương phất lên nhanh chóng. Hắn ta mua một giấy phép "Long Phiếu" để hành nghề khuân vác thuê, tiến hành bóc lột sức lao động của phu khuân vác trên sông đào bằng rất nhiều con đường. Bởi hắn có trong tay Long Phiếu là loại giấy phép hành nghề khuân vác thuê do chính quyền phát hành, cũng có nghĩa là được quyền thay mặt triều đình quản lý, bởi vậy không cần phải tranh giành công việc đến đầu rơi máu đổ. Nói theo ngôn ngữ của dân Thanh Bang, như vậy gọi là "Lăn lộn trong nước sạch". Toàn bộ việc bốc xếp bên bờ bắc của con sông đào đều nằm trong tay quân cửu vạn của hắn ta. Về sau hắn đến huyện Ninh Hà mua danh bán tước, bỏ ra tiền mua chức Huyện thái gia, Ninh Hà là tên một huyện thuộc Thiên Tân. Thời ấy có câu nói "Kim Bảo Để, ngân Võ Thanh, không nhiều bằng một lần năm canh của Ninh Hà", câu này thật ra không phải muốn ám chỉ vào lúc canh năm tối trời có thể đào được bảo vật ở huyện Ninh Hà, mà có nghĩa là cho dù huyện Bảo Để huyện Võ Thanh có tốt đến mấy, quản lý đến cả trăm ngàn cái thôn, làm quan huyện ở hai nơi này cũng có thể coi là chức vụ béo bở, nhưng vẫn không thể kiếm nhiều tiền bằng làm quan huyện ở huyện Ninh Hà một ngày. Nguyên nhân chính là bởi vì Ninh Hà làm ra muối, khắp nơi nơi đâu cũng là tiền. Làm quan huyện ở Ninh Hà béo đến mức chảy mỡ, chỉ riêng tiền hối lộ của đám thương nhân đã thu mỏi tay. Để thu phục nhân tâm, vị quan tiền nhiệm của Lý Diên Chương đã thắp hương thề trong miếu, tuyên bố nhất định sẽ làm quan thanh liêm, tuyệt không tham ô nhận hối lộ, tay trái nhận tiền sẽ thối rữa tay trái, tay phải nhận tiền sẽ thối rữa tay phải. Nhưng đến khi nhậm chức, kẻ này đã sinh ra hối hận, nhớ tới lời thề độc địa đã phát ra, không thể dùng đưa tay ra nhận tiền, nhưng không có tiền thì còn khó chịu hơn cả bị rữa nát bàn tay. Bởi vậy, kẻ này bèn dùng khay trà để nhận tiền, nếu có thối rữa thì chỉ cái khay trà phải chịu. Thời trước, hắn ta là kẻ nghèo cùng quẫn, loại người này một khi đắc thế sẽ vơ vét tiền của phi nghĩa, quá nửa là sẽ trở nên vi phú bất nhân (làm giàu thì thường không có nhân đức), càng nhiều tiền càng thấy thiếu, dùng hết mọi thủ đoạn để vơ vét của cải, bị người ta đặt cho biệt danh là Quát Địa Hổ(5). Sau khi đến huyện Ninh Hà, hắn ta giàu có đến mức nứt đố đổ vách, có tiền rồi đương nhiên là muốn mua sắm của cải phòng ốc đất đai. Hắn ta nghe nói ở Hà Đông có một nơi gọi là lầu Lý Công(6). Trên thực tế, vị Lý Công đó chẳng có quan hệ dây mơ rễ má gì với hắn ta. Hắn ta bắt đầu lập nghiệp bằng nghề khuân vác thuê, hễ nhắc tới là thấy khó nghe, dù có tiền vẫn bị người khác coi thường, cho nên lúc nào cũng muốn thếp vàng lên mặt chính mình. Hắn ta cảm thấy cách xưng hô Lý Công này rất kêu, coi như thuận thế bò lên trên, cho nên cũng muốn làm Lý Công.

    (5)Ý muốn chửi là loài cầm thú ăn tục, không chừa bất cứ cái gì
    (6)Người Trung Quốc thêm Công vào sau họ người nào đó để tỏ ý kính trọng

    Lý Công được tôn vinh ở lầu Lý Công là một vị quan viên quản lý đường thủy thời nhà Thanh. Ông này có công tìm được một tòa lầu nhỏ có phong thuỷ đẹp, bởi vậy tòa lầu đó mới có tên gọi như vậy, đến nay vẫn được gọi là lầu Lý Công. Vào cuối thời nhà Thanh, những thương gia buôn bán giàu có của Thiên Tân vệ đều xây dựng nhà tứ hợp viện ở khu vực lầu Lý Công để ở. Buôn bán quan trọng nhất là dĩ hòa vi quý phát tài, thường xuyên quyên tặng bố thí, bởi vậy nơi đó đã trở thành vùng đứng đầu về làm việc thiện. Lý Diên Chương cho rằng chỉ cần đến ở khu lầu Lý Công là mình có biến thành Lý Công. Nhà giàu mới nổi nào cũng có tâm lý tự ti như vậy. Hắn ta bỏ tiền mua lại toàn bộ vùng đất đó, những vẫn lo chưa đủ lớn bởi vậy mấy cái thôn cạnh đó cũng bị hắn ta mua luôn. Nói là mua, nhưng thực ra là cướp đoạt bằng mọi thủ đoạn, bởi vậy hắn ta cũng chẳng phải bỏ ra bao nhiêu tiền. Giữa khu vực đó có vài khu nghĩa địa, toàn bộ mộ phần ở những nghĩa địa đó đều là mộ cổ từ mấy trăm năm trước, chủ nhân của những ngôi mộ này đa phần là người nghèo. Bởi vì thời gian đã quá lâu, hầu như không thể xác định được con cháu của họ là ai, mộ phần đã biến thành mộ hoang vô chủ, ngay cả dân trộm mộ cũng không thèm ngó ngàng gì đến, bởi vì trong quan tài chỉ có xương cốt người chết, may mắn lắm thì mới vớ được một hai đồng tiền cổ áp mắt người chết (7), thật sự chẳng có chút béo bổ nào. Theo ý định ban đầu của Lý Diên Chương, cứ vứt bừa quan tài xuống những cái hủng ở nơi hoang vắng là xong chuyện, thế nhưng lại sợ việc đó làm hỏng danh tiếng của mình, khiến cho người ta có cớ chửi bới sau lưng, không thể nào rước lấy tai tiếng đó được. Nhưng hắn lại không muốn tốn nhiều tiền, làm cách nào bây giờ? Con ngươi đảo một vòng, Quát Địa Hổ nảy ra một ý hay. Phía sau miếu Tam Nghĩa là một cái hủng chuyên vứt xác vô chủ, chứa rất nhiều thi thể của những người chết ven đường không ai thu nhặt. Hắn ta sai người di chuyển toàn bộ quan tài dưới những ngôi mộ cổ đến cái hủng ở sau ngôi miếu, rồi dùng gạch có ghi số bên trên để đánh dấu phần mộ của nhà nào ra nhà đấy, tổng cộng có hơn hai trăm chiếc quan tài. Hắn bảo rằng đợi đến khi nào tìm được một nơi có phong thuỷ tốt sẽ chôn lại, nhưng trên thực tế thì cứ bỏ mặc như vậy. Lý Diên Chương làm như vậy đã bị tổn hại rất nhiều âm đức, đương nhiên là sẽ không có kết cục tốt lành. Sau khi di dời mộ không lâu, khi hắn ta đi ngang qua bến tàu kênh đào, trong lúc người ta đang cẩu hàng hóa, một chiếc hòm gỗ đang được cẩu giữa không trung đột nhiên rơi xuống, tức khắc đập Lý Diên Chương nát thành muôn vàn đóa hoa máu đỏ rực, đầu nát bét, dù có mời nghệ nhân đóng giày cao tay đến cũng không thể chắp lại được như cũ. Cuối cùng, đến khi đóng nắp quan tài để hạ táng, bên trong quan tài là một thi thể không đầu, dùng gỗ trầm hương đẽo thành đầu người để thay thế.

    (7)Theo quan niệm mê tín của Trung Quốc, người ta đặt hai đồng tiền lên mắt người chết để người này trả tiền cho người chèo đò khi qua sông Nại Hà.

    Sau khi Lý Diên Chương chết, cái hủng sau miếu Tam Nghĩa được quan phủ lấp đất qua loa. Nơi này vắng vẻ, hiếm khi có người xuất hiện, mọi người hầu như đã quên bẵng đằng sau miếu Tam Nghĩa còn có một cái hủng chôn người lớn như vậy. Trải qua vài chục năm dầm mưa dãi nắng, đất phủ trên quan tài càng ngày càng lún xuống, khiến cho đám quan tài dưới hố chôn người sau miếu Tam Nghĩa chồi lên mặt đất nằm bừa bãi ngổn ngang.

    Ba

    Anh chàng giao than Vương Khổ Oa nào có biết hố chôn xác sau miếu Tam Nghĩa đã từng xảy ra chuyện gì. Anh ta chỉ muốn tìm một nơi vắng người để hoá vàng mã. Thời trước, cứ đến ngày rằm tháng bảy là trên đường không có một bóng người, toàn bộ cửa tiệm đóng cửa cài then từ sớm, nghiêm cấm trẻ con ra khỏi nhà, để nhường hẳn đường lại cho cô hồn dã quỷ đến nhận bố thí, toàn bộ những người ra khỏi nhà hoá vàng mã đều là thiện nam tín nữ. Không giống như tiết thanh minh vào đông chí, người ta đốt quần áo rét hóa vàng mã lúc tảo mộ là để gửi cho gia tiên nhà mình, tiết vong linh tương đối mang nặng sắc thái đạo phật. Dù vào thập niên năm mươi sáu mươi không còn nhiều kiêng kỵ như thời trước đó, nhưng đến khi ra ngoài để hoá vàng mã người ta vẫn sợ bị người khác nhìn thấy, phải đợi đến lúc nửa đêm mới ra khỏi nhà. Họ không thể đi tới những ngõ hẻm và đường phố đông đúc người qua lại, cũng không thể tới công viên Bắc Ninh. Bởi mặc dù đến tối là công viên sẽ đóng cửa, nhưng vẫn có một ông lão gác đêm. Do rảnh rỗi đến phát chán, cho nên tính cảnh giác của ông lão này rất cao. Chỉ cần gió khẽ thổi cỏ khẽ lay, ông lão đẫ lập tức bật đèn pin chạy xộc tới xem xét, cho nên anh ta không thể không vượt qua công viên Bắc Ninh tới tận vùng đất hoang phía sau. Bởi chưa từng tới đó bao giờ, anh ta không ngờ nơi đó còn có một ngôi miếu đổ nát, còn cái hố chôn người sau miếu lại đầy rẫy quan tài. Nhưng anh ta không hề thấy sợ, tự đánh giá chưa từng làm ra bất cứ việc gì trái với lương tâm, một thanh niên khỏe như vâm tâm trí đơn giản can đảm thì có gì phải sợ. Anh ta vào trong miếu dập đầu bái lạy Lưu Quan Trương, tìm một chỗ kín gió trong góc tường để hóa sạch số vàng mã mẹ mình đã đưa. Đánh diêm châm lửa, lập tức tro tàn bay lượn lờ. Trước kia do mê tín, người ta cho rằng hiện tượng đó là ma quỷ đến lấy tiền vàng, nhưng thật ra là lúc hoá vàng mã đã làm khí nóng bốc lên cuốn theo tro tàn. Anh ta nhặt một cành cây khô cời đám tro, bởi khi hoá vàng mã người ta kiêng kị đốt còn sót, phải làm mọi cách để giấy cháy hoàn toàn thành tro, hơn nữa miệng còn phải lẩm bẩm khấn vài câu: "Hoá vàng mã hơ lửa tay, đánh bài thắng một đấu; hoá vàng mã hơ lửa chân, ngã sấp mặt nhặt được cục nguyên bảo to; hoá vàng mã hơ lửa mặt, phúc lộc thọ hỉ tất cả đều đến; hoá vàng mã hơ lửa mông, quanh năm suốt tháng không mắc bệnh."

    Ngày xưa, khi đến rằm tháng bảy, dân chúng sẽ rải bánh màn thầu ra đất gọi là cúng cô hồn, tức là tiến hành bố thí cho quỷ đói ở khắp nơi. Nhưng trên thực tế, bánh màn thầu ném khắp mặt đất thì chẳng có ma quỷ nào đến ăn, mà chỉ lát sau đã bị chó hoang tha đi bằng sạch, làm vậy chẳng khác gì là biến tướng cho chó ăn. Đồng thời, cũng không phải ai cũng rải màn thầu loại ngon. Vào thời kỳ đói kém mất mùa, lương thực cho người sống còn không đủ, lấy đâu ra dư thừa mà cho ma quỷ ăn? Bởi vậy có nhiều vùng dùng cách hoá tiền vàng mã để thay thế. Trong một năm có mấy cái tiết vong linh, phong tục vào rằm tháng bảy trong dân gian đã nhiều lại còn hỗn tạp, mỗi nơi một kiểu, ví dụ như "đài Thí Cô, cờ Chiêu Hồn, bày hương án, hoá tiền vàng mã, rải màn thầu, thả đèn hoa đăng". Nhưng dù làm theo hình thức nào, mục đích cũng chỉ có một, tất cả đều nhằm bố thí cho cô hồn dã quỷ không nơi nương tựa. Hòa thượng đạo sĩ nhân cơ hội đó làm pháp sự bán đèn hoa đăng, tranh thủ kiếm mấy đồng tiền.

    Năm nào Vương Khổ Oa cũng đi ra ngoài hoá tiền vàng mã. Bản thân anh ta không thể khẳng định được là mình tín, cũng không dám phủ nhận là mình không tín. Anh ta nghĩ: "Nếu như tích đức làm việc thiện thực sự được báo đáp, tại sao chân mẹ ta không thấy khá hơn, còn ta cũng chỉ có thể cõng than đá kiếm miếng cơm, ngày nào cũng đầm đìa mồ hôi như tắm, lần hồi sống qua ngày, chẳng lẽ là kiếp trước đã không làm được chuyện gì tốt? Nhưng vấn đề là ai có thể nhớ rõ kiếp trước đã làm cái gì, dù có nợ tiền kiếp đi nữa, cũng không nên báo ứng lên đầu ta. . ." Những việc liên quan đến nhân quả, anh ta vừa nghĩ đến đã cảm thấy nhức đầu, không muốn nghĩ ngợi nhiều, mẹ nói lúc nào cũng đúng: "Trong đời mình, người ta chỉ cần sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác, không cần biết sau này ra sao, trong lòng không cảm thấy hổ thẹn đã là có phúc rồi."

    Mỗi lần anh ta hoá vàng mã, trong đầu luôn luôn quanh quẩn những ý nghĩ này. Đốt xong tiền giấy đã là tầm mười giờ đêm, anh ta thu dọn sơ qua đám tro tàn trên mặt đất, vừa mới định đi về nhà thì đột nhiên gió nổi trăng lặn, bầu trời tối đen đến mức không còn nhìn thấy đường đi lối lại nữa. Đang lo không biết làm sao về nhà được, anh ta chợt nghe thấy tiếng cót két do nắp một chiếc quan tài ở sau miếu lay động phát ra. Bên đó là một hủng trũng phủ kín cỏ dại, giữa đêm tối nghe thấy ván gỗ phát ra tiếng động, chẳng phải bên trong quan tài xảy ra chuyện gì đó thì còn có thể là cái gì? Tuy rằng bản thân to gan lớn mật, nhưng một mình giữa đêm tối trong ngôi miếu đổ nát không một ánh đèn, chợt nghe thấy nắp quan tài phát ra tiếng động, anh ta cũng không tránh khỏi tóc tai dựng đứng, toàn bộ lỗ chân lông trên người nổi gai.

    Lúc ấy trời chợt nổi gió, ánh trăng xuyên qua tầng mây chiếu sáng mờ ảo, anh ta lại có thể nhìn thấy cảnh vật trước mặt, thầm nghĩ: "Trong quan tài chỉ có thi thể xương cốt người chết, làm sao có thể gây ra tiếng động, có lẽ nào là đám chó hoang đang cậy nắp quan tài?"

    Thời xưa, ở những vùng hoang vu có rất nhiều chó hoang, thậm chí có cả loại đầu lớn bằng cái đấu. Ban ngày chúng ẩn khuất quanh đâu đó, quan sát người ta chôn cất trong nghĩa địa, đợi đến lúc nửa đêm mới chạy đến đào bới mộ, phá tung nắp quan tài, lôi tử thi ở bên trong ra ăn nội tạng. Vào thời chiến tranh loạn lạc, mộ chôn sơ sài, xác chết được chôn trong quan tài bằng gỗ mỏng, còn nếu là người nghèo thì chỉ được bó bằng chiếu, sau khi chôn xuống tám chín phần mười là làm mồi cho chó hoang, xương thịt bầy nhầy, tình trạng thê thảm khó có thể miêu tả bằng lời. Vương Khổ Oa là người có tâm địa đơn giản, nghĩ đến đó, anh ta bèn nhặt một cây gậy đi ra ngoài, thầm nhủ: "Nếu như là chó hoang bới xác người chết, há có thể khoanh tay đứng nhìn, đến lúc ta xông ra đuổi sạch đám chó hoang, coi như đã làm được một việc tích âm đức."

    Lúc bấy giờ, nắp một chiếc quan tài dưới một cái huyệt đột nhiên mở tung, nhưng không thấy chó hoang đâu cả, mà giống như là người chết trong quan tài đã đẩy ra vậy. Anh ta vội vàng rụt bàn chân đã sắp bước ra ngoài ngôi miếu đổ nát trở về, nấp sau tường mở to mắt quan sát, chợt thấy từ trong quan tài có một bàn tay thò ra, tiếp theo là cái đầu nhô lên. Ánh trăng mờ ảo, đứng cách xa khó nhìn thấy rõ, anh ta chỉ loáng thoáng thấy được một kẻ nửa giống như người nửa giống thú, toàn thể có một lớp lông trắng dài hơn tấc, hai mắt sáng quắc, hai tay giống như vuốt chim ưng, bò từ trong quan tài ra, xoay người cúi lạy. Nói ra kể cũng lạ, nắp quan tài vậy mà tự động khép lại như cũ. Sương đêm mù mịt, con vật kia lắc người một cái, đẩy vẹt đám cỏ dại ra, nhằm về hướng tây mà đi, chỉ trong chốc lát đã biến mất.

    Bốn

    Trốn ở trong ngôi miếu đổ nát quan sát, Vương Khổ Oa ngây người ra, chẳng khác gì một bức tượng gỗ. Anh ta đã không ít lần được nghe câu chuyện đánh Hạn Bạt ở vùng nông thôn. Con vật chui từ trong quan tài ở miếu Tam Nghĩa ra, nhìn thế nào cũng thấy giống cương thi biến thành Hạn Bạt. Theo tương truyền, tử thi chôn dưới phần mộ hút sạch mây đen, khiến cho cả một vùng phát sinh nạn hạn hán. Thời xưa, tình hình hạn hán rất nghiêm trọng, hoa màu trong phạm vi vài trăm dặm héo rũ. Đến lúc ấy thì phải cúng tế Long vương gia. Tất cả các hộ gia đều phải dán bùa cầu mưa ở cửa chính, sau đó mời thầy phong thủy đến xem khí, tìm ra cái mộ nào sinh ra Hạn Bạt là lập tức đồng loạt khuya chiêng gõ trống, tụ tập dân chúng lại, chạy đến ngôi mộ đó đánh Hạn Bạt. Con nào mới trăm năm thì có thể moi lên quất roi rồi đốt cháy. Nhưng nếu là Hạn Bạt hơn ngàn năm, hơi thở và máu của nó có thể truyền ôn dịch, chém không chết đốt cũng không xong, chỉ có thể trói lại dùng tháp giam giữ. Tục lệ này bắt nguồn từ Quan Trung. Khí hậu Quan Trung khắc nghiệt, dưới lớp đất khô cằn có nhiều xác khô, cứ xuất hiện hạn hán là người ta sẽ đổ cho xác khô đã hút hết mây đen. Quê quán ở Quan Trung nên Vương Khổ Oa đã từng mấy lần được xem đánh Hạn Bạt. Anh ta tin tưởng vào sự việc này không mảy may nghi ngờ. Chẳng trách cả mùa hè năm 1958, Thiên Tân vệ lại không có mưa, rõ ràng là nghĩa địa ở miếu Tam Nghĩa đã sinh ra Hạn Bạt.

    Anh ta định đi tìm người giúp, nhưng lại lo ngại mình đã nhìn nhầm, nếu loan tin ra, không may con vật vừa rồi ở miếu Tam Nghĩa không phải là Hạn Bạt, chẳng phải là tự rước lấy phiền toái hay sao? Có lẽ chỉ là dân trộm mộ chuyên ăn cắp tiền áp lên mắt người chết, anh ta nghĩ thầm: "Nếu thật sự là Hạn Bạt, hiển nhiên là nó sẽ quay lại, bởi vì ban ngày quái vật này phải trốn trong quan tài. Trước hết ta sẽ không vội, cứ trốn kỹ ở trong ngôi miếu đổ nát này xem rốt cục là thế nào. Đến khi nhìn thấy hai năm rõ mười, ta mới can dự vào cũng không muộn." Xưa nay anh ta luôn là người lớn gan tò mò, cho rằng chỉ cần không xuất hiện, nhìn thêm một lần nữa cũng không có vấn đề gì. Nếu chính xác không phải là Hạn Bạt, mà chỉ là kẻ cắp đến trộm mộ thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Bức tường sau miếu Tam Nghĩa đã bị thủng một lỗ lớn, sau khi trốn ra sau bức tường đó, anh ta ngậm tăm không nói một câu, tập trung tinh thần canh gác khu nghĩa địa. Mây mù dày đặc cỏ đẫm sương, khung cảnh vắng lặng không một bóng người. Cành cây khô bị gió đêm lay động, đung đưa dưới ánh trăng mơ hồ giống như là ma quỷ giữa núi rừng đang giương nanh múa vuốt. Dù sao Vương Khổ Oa cũng là kẻ bạo gan lòng dạ đơn giản, nếu đổi thành người nhát gan thì đã kinh sợ bỏ chạy từ lâu. Đợi đến quá nửa đêm, vầng trăng đã lặn về phía tây, nhưng vẫn không thấy có chuyện gì xảy ra, Vương Khổ Oa thầm nghĩ trong lòng: "Chắc là đã nhìn nhầm rồi, đó chỉ là một kẻ nạy quan tài ăn trộm mà thôi, nếu không phải vậy tại sao kẻ đó lại phải cúi lạy quan tài? Làm ta mất công ngồi đợi ở đây cả nửa đêm, đào đâu ra Hạn Bạt cơ chứ? Nhưng mà. . . bên trong đám quan tài mục nát dưới khu mộ hoang, ngoại trừ mấy đồng tiền cổ áp lên mắt người chết thì làm gì có cái quái gì giá trị mà ăn trộm?"

    Trong lòng nghĩ ngợi lung tung, anh ta đợi lâu quá, không chống đỡ được bắt đầu ngủ gật. Đột nhiên có một cơn gió lạnh quét qua người, anh ta rùng mình một cái, lập tức cơn buồn ngủ bay đi mất. Anh ta vừa mở bừng mắt ra quan sát thì đã thấy đám cỏ dại trong khu mộ lay động dữ dội, xác chết trong quan tài đã quay trở về. Vương Khổ Oa ngồi lì trong ngôi miếu đổ nát cả nửa đêm, hai chân đã tê rần. Anh ta vừa vịn tay vào tường, thì chạm vào một con vật lạnh như băng di chuyển cực kỳ mau lẹ, trong bóng tối không nhìn rõ là con gì, có khả năng là thạch sùng sống trong hốc tường, đến đêm chui ra ngoài bắt muỗi ăn. Nó đâm sầm vào tay Vương Khổ Oa, dù không cắn người cũng có thể khiến người ta hoảng sợ nhảy dựng lên. Vương Khổ Oa vội vàng rụt tay lại, không may do không khống chế được tay vung quá đà về phía sau, khuỷu tay đập vào bàn thờ trong miếu, nghe đánh chát một tiếng, theo đó trái tim anh ta cũng thót lại. Mặc dù tiếng động không lớn, nhưng giữa đêm hôm khuya khoắt, lại nghe rõ mồn một. Trong lòng thầm than không hay, anh ta vừa ngẩng đầu lên thì đã nhìn thấy cách bức tường đổ nát ngoài một trượng có một con quái vật da thô ráp như cây chết khô, hai mắt như hai ngọn đèn nhỏ, phản chiếu ánh trăng phát ra màu xanh.

    Vương Khổ Oa thấy mình đã làm kinh động đến Hạn Bạt, chân tay trở nên luống cuống, thét lên một tiếng sợ hãi, mất thăng bằng rồi ngã nhào xuống đất. Anh ta bò dậy chạy ra chỗ cửa miếu. Có ngờ đâu xác chết biến thành quái vật kia có khả năng đi lại nhanh như gió, đã vòng từ sau bức tường ra trước cửa từ lúc nào, duỗi thẳng hai cánh tay ra chỉ chực vồ. May sao Vương Khổ Oa kịp hãm chân lại, mới không đâm sầm vào xác chết biến thành quái vật, đành phải lui lại phía sau, trốn sau lưng bức tượng thần Lưu Quan Trương. Khi đến trước cửa miếu, con quái vật đột nhiên dừng lại bất động, miệng phát ra tiếng rít chói tai. Vương Khổ Oa cực kỳ khó hiểu, thở hổn hển quan sát xung quanh một lượt, thầm nghĩ: "Hóa ra cái thứ này không dám vào miếu, đích thị là sợ hãi tượng thần ở bên trong, trong số Tam Nghĩa dù sao cũng có Quan Công. . ." Còn chưa kịp dứt ý nghĩ, anh ta chợt nghe thấy chỗ cửa miếu vang lên một tiếng rắc khô khốc. Cửa miếu vốn dĩ đã sập sệ, đến lúc đó lại hứng chịu cú đâm va của Hạn Bạt, lập tức bắn văng lên trời, xé gió rít lên chói tai, va đánh sầm vào đỉnh điện, ván cửa văng ngược trở lại mặt đất, còn đỉnh điện bị nó phá ra một lổ thủng, gạch ngói lập tức đua nhau rơi rụng mất một mảng lớn, tượng Lưu Quan Trương cũng ngập trong bụi đất, ba bức tượng thần phủ đầy bụi đất giống như tượng nặn bằng đất vậy, hoàn toàn không còn nhìn rõ mặt mũi.

    Vương Khổ Oa kinh hãi, thầm nghĩ: "Hoàn toàn dựa vào Tam Nghĩa hiển linh bảo hộ, vừa rồi mới may mắn thoát chết, nếu để bụi đất phủ kín thì tượng thần có khác gì là tượng đất tầm thường?" Anh ta vội vàng nhảy lên điện thờ dùng ống tay áo lau tượng. Có ngờ đâu, miếu Tam Nghĩa đã được xây dựng từ mấy trăm năm trước, đã bị hủy hoại do bị bỏ hoang nhiều năm, lâu không được hương khói, lớp sơn son trên mặt tượng đã bị hanh khô trở nên giòn, vừa mới đụng vào đã tróc ra thành từng mảnh. Con quái vật dĩ nhiên là nhảy vào trong miếu, giơ cánh tay ra vồ, một người một quái chạy vòng quanh ba bức tượng phủ đầy bụi đất. Chạy được hai ba vòng, hai chân Vương Khổ Oa gần như đã nhũn ra. Anh ta thở hổn hển như sắp đứt hơi. Khoảng cách giữa hai bên càng lúc càng gần, Vương Khổ Oa thấy rõ mình đã lâm vào đường cùng, chỉ sợ khó mà giữ được tính mạng. Bị ép đến nước này, đến chó cùng cũng phải rứt giậu người ngu cũng phải khôn ra, vừa liếc mắt qua lỗ thủng trên đỉnh điện, anh ta chợt nghĩ ra một cách: "Đến chồn còn biết đánh rắm cứu mạng, cũng chỉ còn cách như vậy mà thôi!"
     
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 18: Phần mộ số hai trăm lẻ chín (Nửa chương cuối)


    Năm

    Thấy Hàn Bạt hành động không linh hoạt, Vương Khổ Oa cái khó ló cái khôn, dùng cả tay lẫn chân leo lên vách tường phía sau, trèo lên đỉnh mái hiên đã đổ nát của ngôi miếu để tránh né. Anh ta còn chưa kịp thở lấy hơi, đột nhiên có một trận gió lạnh ngắt nổi lên, mây đen che khuất ánh trăng, cỏ dại lay động dữ dội. Hạn Bạt vừa nhảy dựng lên vừa vươn tay ra đánh thẳng về phía Vương Khổ Oa, nhưng vẫn còn cách đỉnh miếu gần nửa thước. Nó đánh trượt rồi rơi thẳng xuống đất, miệng phát ra tiếng kêu chói tai. Ngay sau đó, nó lại tiếp tục nhảy lên tấn công. Vương Khổ Oa thấy Hạn Bạt nhảy lên mỗi lân một cao, chỉ ba lần nữa là sẽ lên đến đỉnh miếu, anh ta vội vàng dỡ ngói trên mái ra, dùng hết sức bình sinh đập thẳng vào nó. Miếng ngói khảm hoa văn dày cộp đánh trúng đầu Hạn Bạt rồi nát vụt.

    Hạn Bạt lên không lên được, Vương Khổ Oa xuống không xong. Hai bên giằng co không biết bao lâu, chợt vang lên tiếng gà gáy văng vẳng đâu đây, phía đông sáng dần lên, bên dưới trở nên im ắng. Vượt qua cơn kinh hồn, anh ta đã sức cùng lực kiệt, vừa ngó xuống dưới quan sát thì đã thấy Hạn Bạt đang nằm bất động trên mặt đất. Mặc dù vậy, anh ta vẫn không dám xuống dưới. Không lâu sau có người tìm đến nơi. Thì ra mẹ Vương Khổ Oa bảo anh ta đi hoá vàng mã rồi một mình vừa ngồi may vá ở nhà, vừa chờ con. Nhưng thằng con Vương Khổ Oa ra khỏi nhà là mất tích giống như đá ném xuống biển, như diều đứt dây.

    Bà mẹ ngồi nhà đợi mãi mà không thấy anh ta trở về, đến quá nửa đêm vẫn không thấy bóng dáng đâu. Bà mẹ lo lắng nửa đêm nửa hôm anh ta gặp phải chuyện gì không may, năn nỉ hàng xóm giúp đỡ đi tìm. Theo mọi người suy đoán, Vương Khổ Oa lén lút ra khỏi nhà hoá vàng mã, nhất định là sẽ đến nơi vắng người, nhưng chắc hẳn sẽ không đi quá xa, nhưng ngẫm đi nghĩ lại quanh đó không có nơi nào như vậy. Mặc dù nhà ga phía bắc nhộn nhịp kẻ đến người đi, nhưng ngõ hẻm kho lương lại vắng tanh, thực sự không có mấy người cư trú. Công viên Bắc Ninh lại có một ông lão chuyên canh cổng gác đêm, vậy công viên đó không phải là nơi thích hợp để hoá vàng mã. Trong khi đó, phía sau Ninh viên có một ngôi miếu Tam Nghĩa. Ngôi miếu này đã đổ nát nhiều năm, trước không có lối, sau không có đường, ngăn cách với Ninh Viên bởi con kênh đào. Năm xưa Lý Diên Chương đã tiến hành di chuyển mộ phần, để lại một cái hủng sâu chứa đầy quan tài, thỉnh thoảng lại có chó hoang qua lại. Vương Khổ Oa tám chín phần mười là đã đến ngôi miếu đổ nát đó để hoá vàng mã. Đến hừng đông, khi mọi người tìm đến nơi, họ nhìn thấy Vương Khổ Oa đang trốn trên đỉnh mái hiên đổ nát của ngôi miếu, mặt cắt không còn một hột máu, dưới chân tường có một xác chết. Nhìn thấy thế, mọi người đều kinh hãi không thốt lên lời. Đến khi Vương Khổ Oa trèo xuống dưới, nghe anh ta kể lại rõ ràng những gì mình đã trải qua, họ lại càng thêm hoảng sợ.

    Đối với câu chuyện Vương Khổ Oa kể lại, những người có mặt ở đó nửa tin nửa ngờ. Họ tin là có Hạn Bạt, nhưng lại ngờ rằng Vương Khổ Oa đã đào cái xác đó lên để trộm mộ. Nhưng trong đám quan tài ở miếu Tam Nghĩa chỉ có xương trắng xác khô, đến một mảnh áo rách cũng khó mà tìm thấy, không có vật tùy táng nào đáng giá cả, chẳng lẽ lại có người ăn no rỗi việc đến mức đêm hôm khuya khoắt đi đào mộ mở tung quan tài ra giải sầu? Thảo luận một lúc lâu nhưng không ai nghĩ ra chân tướng sự việc. Mọi người bén báo cáo lên trên, nhưng không dám nhắc đến hai chữ Hạn Bạt. Dù sao đi nữa, xác những người nằm trong quan tài ở miếu Tam Nghĩa đã được chôn xuống khi tiến hành di dời nghĩa trang từ rất nhiều năm trước rồi, không thể nào do Vương Khổ Oa ra tay giết hại được. Vương Khổ Oa đi hoá vàng mã vào tiết vong linh chỉ đáng quy vào tệ đoan mê tín ngu muội, rốt cục chẳng phải là việc gì đáng kể, cùng lắm là phải nghe một bài giảng giải giáo dục để anh ta lần sau đừng có tiếp tục hoá vàng mã nữa. Xác chết được mang tới lò hỏa thiêu để đốt, sự việc được người ta tìm mọi cách để hạ tầm ảnh hưởng xuống mức thấp nhất, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Nhưng lời đồn ngoài xã hội không dễ dẹp tan được như vậy, mọi người lén lút truyền tai nhau rằng, trận hạn hán năm 1958 đó, nguyên nhân có lẽ là do Hạn Bạt ở miếu Tam Nghĩa tác quái, nhưng đa phần nghiêng về phía giả thiết "phần mộ số hai trăm lẻ chín" mới chính là nguyên nhân chủ yếu.

    Việc Vương Khổ Oa đến miếu Tam Nghĩa hoá vàng mã vào nửa đêm rằm tháng bảy năm 1958 và sự việc "phần mộ số hai trăm lẻ chín" đã nhắc đến lúc trước, cả hai phát sinh trong cùng một ngày, cũng vào tối mười lăm âm lịch đó. Tuy nhiên, nói chuyện phải có trước có sau, xong câu chuyện miếu Tam Nghĩa, giờ chúng ta sẽ nói tiếp đến sự việc "phần mộ số hai trăm lẻ chín" .

    Sáu

    "Phần mộ số hai trăm lẻ chín" mà chúng ta đang nói đến nằm ở vị trí không xa nhà ga phía bắc Ninh Viên lắm, chỗ đó được gọi là Vương Xuyến Tràng. Nghe nói, trước kia nơi đây có một sân đập lúa, người chủ tên là Vương Xuyến, người ta gọi gộp lại là "Sân đập lúa Vương Xuyến", nghe tên quá dài bèn gọi tắt lại là Vương Xuyến Tràng. Vào cuối thời nhà Thanh, nơi này đã bắt đầu có không ít nhà dân mọc lên, có vài con hẻm nhỏ. Ngôi nhà số hai trăm lẻ chín là một trong số đó, chủ nhà tên Triệu Giáp, đã ngoài ba mươi mà vẫn còn lận đận, trước kia từ tỉnh ngoài di cư đến, đã từng học theo người ta buôn bán, lăn lộn kiếm sống đi sớm về tối, vất vả lắm mới kiếm đủ tiền mua lại căn nhà cấp bốn bé tẹo này. Sau giải phóng, y bán bánh quẩy ở một cửa hàng quốc doanh chuyên phục vụ ăn sáng ở đối diện nhà ga. Đồ ăn sáng chủ yếu là bánh quẩy, còn được gọi là bổng chùy hoặc bánh rán, còn có cả bánh rán nhân trứng gà. Cửa hàng này còn bán cả sữa đậu nành, cháo quẩy, mì hoành thánh, bánh bao, sáng sớm mở cửa, buổi chiều mới đóng. Triệu Giáp chuyên trách bán bánh quẩy, trời lạnh thì không nói làm gì, nhưng vào mùa hè, đứng cạnh nồi mỡ sôi sùng sục, toàn thân quện đầy mỡ lẫn với mồ hôi, chẳng khác gì bị tra tấn.

    Trong lứa anh em họ hàng, Triệu Giáp thân nhau với một đứa em tên Triệu Ất, nhỏ hơn y mười mấy tuổi. Năm ấy cậu ta tới chỗ người anh nương nhờ, định xin vào làm ở một nhà máy nào đó, tạm thời ở tạm nhà của anh mình là Triệu Giáp. Hai anh em ở cùng một căn phòng. Khi ấy, diện tích nhà dân như nhau, tầm hơn một trượng vuông, tức là xấp xỉ trên dưới mười mét vuông, hai bên đặt hai tấm ván lát, Triệu Giáp ngủ bên trái, Triệu Ất ngủ bên phải. Ở chưa được vài ngày, Triệu Ất đã phát hiện ra căn phòng này có điều gì đó bất thường. Khi ở đây, cậu ta luôn khát nước, uống bao nhiêu nước cũng không thấy đủ.

    Ngay từ lúc ban đầu, Triệu Giáp đã bảo với Triệu Ất: "Em này, hiện giờ công việc ở nhà máy đang bị người ta tranh giành nhau, chỉ dựa vào sức lực là không đủ, phải có phương pháp. Có câu 'Thứ nhất là tự có cửa, thứ hai là đi tìm cửa, thứ ba là không có cửa', anh và em thì ngay cả thứ tư cũng còn không tới. Nói cho dễ hiểu, không cửa không đường chẳng biết lối nào mà lần, không phải cứ muốn là có thể tìm được. Theo anh thấy, trước tiên em cứ ở lại đây chơi vài ngày, sau đó quay về quê nhà đi thôi."

    Triệu Ất nghe nói vậy không thấy lọt tai, hỏi: "Có phải là anh ghét bỏ thằng em này hay không?"

    Triệu Giáp bảo: "Nghĩ đi đâu vậy, em là em họ của anh, sao anh lại ghét bỏ cho được."

    Triệu Ất lại hỏi: "Vậy tại sao anh lại muốn đuổi em về? Có phải khó chịu vì em ở đây làm phiền anh không?"

    Triệu Giáp nói: "Em không hiểu đâu, căn nhà này của anh không sạch sẽ, trước kia là một ngôi mộ."

    Triệu Ất nghi ngờ: "Thực sự là dựng nhà trên mồ mả hay sao?"

    Triệu Giáp đáp: "Anh lừa em làm gì, nếu không phải là một căn nhà như thế, một kẻ chỉ bán đồ ăn sáng như anh đủ tiền mua được sao?"

    Triệu Ất bảo: "Như thế là mê tín, nếu anh đã dám ở, em đây cũng chả sợ."

    Triệu Giáp nói: "Em ở lại đây cũng được, nhưng không được lục lọi lung tung trong nhà của anh."

    Triệu Ất không tin những gì người anh cậu ta nói, cứ nghĩ rằng ông anh mình đang tích cóp tiền cưới vợ rồi dấu ở trong nhà. Anh mình chỉ là một người bán đồ ăn sáng, ngoại trừ việc đó ra chẳng lẽ còn có việc gì khác hay sao? Tại sao lại cảnh giác với em mình cứ như đề phòng kẻ trộm như thế?

    Kể từ đó, Triệu Ất trú tạm tại căn nhà số hai trăm lẻ chín. Sớm tinh mơ mỗi ngày, chuông vừa điểm năm tiếng là Triệu Giáp đã đi tới cửa hàng bán ăn sáng bắc xoong chảo rán bánh, khi đó Triệu Ất vẫn còn đang chìm trong giấc ngủ. Mãi không tìm được việc làm, cả ngày cậu ta vô công rồi nghề, cũng chẳng cảm thấy căn nhà có chỗ nào không yên lành, ngoại trừ thường xuyên khát nước thì không còn có bất kỳ chỗ nào khác thường. Bởi vậy, cậu ta càng khẳng định những câu hù dọa của Triệu Giáp lúc trước chỉ là bịa đặt vô căn cứ. Đêm hôm ấy, cậu ta ngủ chập chờn, cứ có cảm giác là có người đang đứng trước mặt. Khi đó trời đã tảng sáng, trong phòng không đến mức quá tối, cậu ta vừa hé mắt định xem kẻ đó là ai thì đã nhận ra Triệu Giáp đang đứng giữa nhà, im hơi lặng tiếng, không nháy mắt nhìn chằm chằm vào mình. Triệu Ất giật mình nhận ra người đó là Triệu Giáp, nhưng đã thừa biết là anh mình thức dậy sớm để kịp đến cửa hàng ăn uống nhóm lửa rán bánh, ngày nào mà chẳng như vậy, bởi vậy cậu ta không để ý gì nữa, cứ thế nằm yên không nhúc nhích. Nhưng cậu ta không thể tưởng tượng nổi, sự việc xảy ra tiếp theo lại kỳ quái đầy khó hiểu.

    Bảy

    Triệu Giáp đứng giữa nhà không nhúc nhích, nhìn chằm chằm vào Triệu Ất, rất lâu sau y mới đi tới đầu giường của cậu ta thò tay lục lọi dưới gầm, giống như đang lần mò tìm cái gì đó. Đến khi cầm được vật đó vào tay xác nhận là nó vẫn còn ở đó, dường như y đã thở phào nhẹ nhõm, sau đó dấu vật đó trở lại chỗ cũ, xong xuôi mới chịu đi ra khỏi nhà, tới cửa hàng bán ăn sáng để bán bánh quẩy.

    Triệu Ất cực kỳ khó hiểu: "Chả hiểu ông anh giấu cái gì đầu giường của mình, đã thế lại còn lo lắng bất an, phải nhìn thấy vật kia vẫn còn thì mới an tâm, chẳng lẽ sợ ta nhìn thấy hay sao?" Cậu ta hết sức hiếu kỳ, lập tức ngồi dậy xem xét, thò tay xuống mò được một tấm phù đã cũ nát ố vàng, thuộc về loại phù chú trừ tà trước giải phóng. Cậu ta thầm nghĩ: "Anh em thân thích mà thế này ư, đuổi đi không được lại định dọa cho ta sợ phải bỏ đi, anh cứ chống mắt mà xem tôi đốt cái của nợ viết như gà bới này đi!" Hôm ấy, trong lúc tức giận, cậu ta đã đốt tấm phù ố vàng đó thành tro, rồi giận dỗi lượn lờ ngoài đường cả ngày, đến nhà đồng hương kiếm bữa cơm. Sau khi ăn uống no nê, mãi đến khi trời tối mịt, Triệu Ất mới nhớ đến về nhà.

    Đúng vào ngày rằm tháng bảy năm 1958. Sau khi trời tối, trên đường không còn ai qua lại, muỗi và dơi dường như cũng ít hơn so với mọi ngày. Triệu Ất nhát gan, chợt nhớ ra hôm đó là tiết vong linh, tinh thần trở nên hoảng hốt, một bụng tức giận lúc sáng đã tiêu tan sạch sẽ. Ngẫm lại cho kỹ, có khi ông anh không ghét bỏ mình như vậy, tóm lại dù có đánh sứt đầu mẻ trán thì cũng vẫn là hai anh em ruột thịt như tay chân liền với thân cơ mà, có lẽ mình đã trách oan anh ấy mất rồi. Càng nghĩ cậu ta càng cảm thấy hổ thẹn, vội vàng chạy về nhà. Bởi khi ấy không có ống nước dẫn đến từng căn nhà, muốn dùng nước thì đến vòi nước công cộng chung cho cả ngõ hẻm, hoặc là dùng nước giếng. Bởi vậy, khi về đến chỗ vòi nước ở đầu hẻm, cậu ta đến bên vòi nước rửa sơ qua mặt mũi, kỳ cọ chân tay, há miệng uống một bụng nước lạnh bởi chưa bao giờ biết tiêu chảy là cái gì. Chẳng hiểu vì sao cậu ta luôn khát nước, uống bao nhiêu nước cũng không đã, có khả năng là do thời tiết quá nóng, oi bức ra nhiều mồ hôi khát nước là chuyện bình thường. Cậu ta chưa bao giờ nghĩ ngợi quá nhiều về hiện tượng này, uống xong nước là mở cửa vào nhà.

    Do công việc hàng ngày của bản thân cực kỳ mệt nhọc, Triệu Giáp thức dậy cũng sớm mà đi ngủ cũng sớm. Còn Triệu Ất cứ lượn lờ nay đây mai đó, chẳng biết lúc nào mới về nhà, cho nên y để ngỏ cửa cho em mình, không chốt chặt ở bên trong, tránh cho nó về đến nhà còn phải gõ cửa, còn đồ ăn để phần thì đặt trên mặt bàn úp lồng bàn.

    Vẫn như mọi ngày, Triệu Ất đẩy cửa vào nhà, nghe tiếng ngáy phát ra là đủ biết Triệu Giáp đã ngủ say. Sợ đánh thức anh mình, có gì cần nói ngày mai nói sau cũng không muộn, cho nên cậu ta không đốt đèn lên. Căn phòng chỉ có diện tích tầm mười mét vuông, nhắm tịt hai mắt cũng có thể mò lên giường được. Cậu ta với tay cài chặt chốt cửa, miệng lẩm bẩm nói "Phá nhà đền bạc triệu". Sau nửa đêm phải đặc biệt đề phòng trộm cướp, tục ngữ có câu trộm không về tay không, không may có kẻ trộm vặt móc túi lẻn vào nhà, nhìn thấy cái gì trộm cái đó, ngay cả chổi cùn rế rách cũng không tha, nhưng đáng hận nhất chính là những kẻ ăn trộm giầy dép quần áo. Mặc dù quần áo giày dép không đáng giá mấy đồng tiền, nhưng chúng lại là đồ vật thiết yếu, dù có thế nào cũng không thể nào trần trùng trục đi chân đất ra ngoài đường được. Thiên Tân vệ có tập quán, trời có nóng đến mấy cũng không được đi chân trần ra ngoài đường, nếu không quấn xà cạp thì chí ít cũng phải đeo một đôi giày vải, giày tốt hay xấu thì không cần biết, chỉ có lũ người quê mùa mới đi chân trần ra đường. Ai không tuân theo tập quán đó sẽ bị người khác coi thường, bởi vậy mới có câu châm ngôn -- dưới chân không có giày, quá nửa là kẻ quê mùa.

    Nhập gia phải tùy tục, Triệu Giáp thực sự không muốn đi chân đất khiến người khác coi thường, vì thế năm lần bảy lượt dặn dò Triệu Ất, bảo cậu ta mỗi lần vào nhà nhớ chốt chặt cửa phòng, đề phòng trộm lẻn vào ăn trộm giày. Lúc trước Triệu Ất chỉ nghe tai nọ xọ tai kia, nhưng ngày hôm ấy chả hiểu sao lại nhớ ra, vào nhà xong cậu ta chốt chặt cửa phòng, sau đó lên ván nằm ngủ, chỉ chốc lát sau đã chìm vào cơn mơ. Đến nửa đêm, Triệu Ất phát hiện trên người mình có thứ gì đó, nhưng mí mắt nặng trịch không sao mở ra được, trong phòng lại tối đen, chẳng nhìn thấy rõ bất cứ cái gì. Cậu ta mơ mơ màng màng nhấc tay lên sờ lần, ngón tay chợt chạm vào một lớp da thịt trơn nhẵn lạnh như băng, hóa ra là tay của một cô gái.

    Tám

    Dù đầu óc tỉnh táo nhưng Triệu Ất không sao mở mắt ra được, cũng không thể ngồi dậy được, chỉ cảm nhận được cô gái kia từ từ bò qua người mình, ngay sau đó nghe thấy chiếc giường bằng ván lát bên kia dồn dập vang lên tiếng "Ken két ken két". Cậu ta thật sự buồn ngủ díp cả mắt, xoay nghiêng người rồi lại chìm vào giấc ngủ.

    Cậu ta đánh một giấc đến tận lúc trời đã sáng hẳn mới dậy, vừa nhìn sang bên kia thì thấy Triệu Giáp vẫn còn nằm lì ở đó. Mọi ngày, vào giờ này y đã đi bán bánh quẩy từ lâu rồi, hôm nay có chuyện gì không biết? Cậu ta vội vàng nhảy xuống giường, nhưng vừa mới qua bên đó xem xét đã phát hiện có chuyện xảy ra. Anh cậu ta nằm thẳng thuỗn, mặt xanh tím, thân thể lạnh ngắt, đã phơi thây trong phòng từ bao giờ. Lúc cậu ta về đến nhà ngày hôm qua, Triệu Giáp vẫn còn cất tiếng ngáy, tại sao ngủ dậy đã biến thành người chết rồi? Có lẽ nào trộm cắp đã lẻn vào lúc nửa đêm, nhưng nhìn đến chốt cửa phòng vẫn thấy còn chốt chặt, không có khả năng có người lẻn vào. Mà dù cho có người vào nhà đi nữa, lúc ra khỏi nhà cũng không thể nào buộc chặt chốt cửa từ bên ngoài. Đột nhiên nhớ ra, dường như đêm hôm qua trong phòng còn có một cô gái, cậu ta hoảng sợ, hét to trong nhà có ma rồi ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi nhà cầu cứu người khác.

    Nghe nói nhà số hai trăm lẻ chín xảy ra án mạng, toàn bộ hàng xóm láng giềng đều chạy sang xem, có người nhanh chân chạy đi báo án. Đến khi xem xét cơ thể Triệu Giáp thì không thấy có vết thương ngoài da nào, chắc chắn là đã đột tử trong đêm mà không phải là án mạng. Triệu Ất không đồng ý, cậu ta khăng khăng bảo rằng trong phòng có nữ quỷ, nữ quỷ đó đã bóp cổ chết anh mình. Nhưng chẳng có ai tin lời cậu ta. Cậu ta bất chấp tất cả, xông vào trong nhà lật ván lát lên, nhìn thấy gạch bên dưới có nhiều viên đã lung lay, rõ ràng là chúng bị thường xuyên động chạm đến. Cậu ta nhấc hai viên gạch lên làm lộ ra một cái xác đã khô quắt tóc dài.

    Sau khi nhận dạng, cái xác khô đó là của một quả phụ còn trẻ đã mất tích trước giải phóng. Bởi thế, sự việc đã trở nên nghiêm trọng rồi. Chúng ta sẽ nói ngắn gọn chi tiết những gì đã xảy ra. Nhà số hai trăm lẻ chín đã từng là một ngôi mộ cổ, khi di dời mộ để xây phòng, người ta đã đào ra được một cái xác khô quắt. Ở nơi này rất hiếm khi có xác khô, một khi xảy ra thì cái xác khô đó tức là Hạn Bạt, bởi vậy không có ai còn muốn sống ở nơi này. Trước giải phóng, Triệu Giáp tham rẻ nên đã mua ngôi nhà số hai trăm lẻ chín, nhưng nguyên nhân chủ yếu có lẽ là vì y động lòng với người quả phụ còn trẻ ở bên cạnh. Có một đêm, y mượn cớ lừa quả phụ trẻ đó vào nhà mình, cưỡng hiếp không thành nên đã lấy mạng cô ta. Bên ngoài nhiều người qua lại, y không có biện pháp nào phi tang xác chết, đành phải chôn dưới tấm ván lát. Y cũng biết, trước kia nhà số hai trăm lẻ chín là một ngôi mộ, phong thuỷ không tốt, bởi vậy đã mời một đạo sĩ "Thiên quan áp quỷ", dán lá bùa vào đầu giường. Quả phụ trẻ tứ cố vô thân, đột nhiên mất tích không còn bóng dáng, mọi người đều cho rằng cô nàng đã chạy trốn theo tình nhân. Bởi lúc ấy xã hội cực kỳ loạn lạc, chẳng ai thèm để ý đến việc này, cho nên y tự cho rằng thần cũng không biết quỷ cũng không hay, có ngờ đâu đến ngày rằm tháng bảy năm 1958 ấy, Triệu Ất giận dỗi anh mình nên đã lén đốt mất lá bùa, cho nên Triệu Giáp mới chết bất đắc kỳ tử trong phòng vào lúc đêm khuya. Sau này, bởi vì hung thủ là Triệu Giáp đã chết, vụ án đó không cần phải tiến hành điều tra nữa.

    Nhưng suy nghĩ của mọi người vẫn thiên hẳn về cách giải thích của Triệu Ất hơn. Theo những gì cậu ta nói, giữa đêm nữ quỷ dưới ván lát đã chui ra, bóp cổ anh trai mình là Triệu Giáp chết tươi. Nhà số hai trăm lẻ chín trước kia là một ngôi mộ cổ, đã từng sinh ra Hạn Bạt, Triệu Giáp giết người chôn xác trong phòng, cô gái đó cũng biến thành Hạn Bạt, nếu không phải vậy tại sao người ở khu vực này luôn khát nước, cây cối trong ngõ hẻm khô héo, giếng đào sâu bao nhiêu cũng không có nước. Câu chuyện phần mộ số hai trăm lẻ chín chỉ trong nháy mắt đã lan ra khắp nơi, cho tới nay vẫn còn có người nhắc tới. Tuy nhiên, đại bộ phận những câu truyền đồn thổi đó không thống nhất về mặt nội dung, đã bị thêm thắt rất tình tiết thần bí ly kỳ quái dị. Nhưng trên thực tế chỉ là hai anh em ở chung một phòng, người anh chẳng hiểu tại sao giữa đêm đột tử, người em báo án bảo rằng trong phòng có quỷ, sau đó đào lên được một cái xác khô. Vụ án này chính là tích truyện về phần mộ số hai trăm lẻ chín.

    Tóm lại, vào cùng một ngày, không hơn kém nhau vài giờ, ở hai nơi là miếu Tam Nghĩa và phần mộ số hai trăm lẻ chín cùng phát hiện ra xác khô, tuy nhiên cơ quan nhà nước không công nhận đó là Hạn Bạt. Nhưng không tin cũng không được, gần trưa ngày hôm đó, từ phía tây bắc mây đen ùn ùn kéo đến, sấm chớp ầm ầm, một trận mưa dữ dội đổ ập xuống, nước bắt đầu dâng lên dưới lòng sông khô cạn. Đám công nhân trị thuỷ vừa mới đào đến cửa động có chứa ngôi tháp của Hải Trương Ngũ thì trời mưa nước dâng, không thể nào tiếp tục đào sâu xuống nữa, từ đó về sau công việc nạo vét tạm dừng vô thời hạn.

    Câu chuyện xin được tiếp tục. Buổi chiều ngày mười sáu tháng bảy âm lịch, thời tiết đột nhiên biến đổi, mây đen vần vũ vang lên tiếng sấm rền, công việc nạo vét sông cái bắt buộc phải ngừng lại. Quách sư phụ đứng bên bờ sông nhìn thấy thời tiết thay đổi, vừa định tìm một chỗ tránh thì đột nhiên nhìn thấy một luồng khí đen bốc từ mặt đất lên tận trời cao, giống như một con rắn đang hóa rồng. Trời càng lúc càng tối, bắt đầu lất phất mưa, luồng khí đen đó nhanh chóng bị mây đen che khuất, cuối cùng không thể nhìn thấy được nữa. Xưa kia, người ta cho rằng mây mù bốc lên trời là hiện tượng rắn hóa rồng. Khi phát hiện ra phương hướng đám mây mù xảy ra quá trình rắn hóa rồng đó ứng vào ngõ hẻm kho lương ở cạnh công viên Bắc Ninh, Quách sư phụ mới chợt nhớ ra Trương Bán Tiên đã từng nói bên trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương thực sự có vật gì đó. Hơn nữa, một khi vật này hiện thân, nhất định sẽ nhấn Thiên Tân vệ chìm trong biển nước, xảy ra lũ lụt nghiêm trọng.
     
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 19: Hỏa thiêu con rối bằng da người (Nửa chương đầu)


    Một

    Khi việc nạo vét sông cái phòng lụt năm 1958 tiến hành đến ngày rằm tháng bảy, tại miếu Tam Nghĩa và Vương Xuyến Tràng liên tiếp phát hiện hai cái xác khô quắt. Khí hậu vùng đất hai bên bở Hải Hà không quá khắc nghiệt, rất hiếm khi có xác khô. Ngoài đường đồn ầm lên là đã phát hiện ra Hạn Bạt, chẳng cần biết lời đồn là thật hay là giả, dù sao sau đó mưa to cũng đổ ập xuống, liên tục hai ngày hai đêm mới tạnh, nước sông dâng cao.

    Trước khi trởi đất biến đổi, Quách sư phụ đã nhìn thấy một luồng khí đen xuất hiện ở đằng xa, nhờ vậy mới chợt nhận ra lời đồn ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương có chôn dấu bảo vật là không ngoa. Thứ đó sắp gây họa tới nơi, nếu không suy nghĩ ra biện pháp đối phó, sớm muộn gì cũng sẽ có ngày nước tràn đê Hải Hà, nhấn chìm Thiên Tân vệ. Chợt nhớ tới một câu chuyện cũ đã từng được nghe, nhưng muốn nói rõ được toàn bộ tiền căn hậu quả của nó, chúng ta phải quay về thời gian trước nữa. Câu chuyện này xảy ra vào cuối thời nhà Thanh.

    Lúc ấy, Đại Thanh thù trong giặc ngoài, quả thật là bốn bể rung chuyển, thiên hạ đại loạn. Vào thời đó, Thiên Tân vệ xuất hiện một vị kỳ nhân, tên là Thôi Đạo Thành chuyên bày quầy xem bói tại cửa Nam, được mọi người gọi là Thôi lão đạo, dựa vào xem bói kể chuyện thuyết thư kiếm sống. Mặc dù không thể coi là phán lúc nào cũng chuẩn, nhưng cũng đủ khả năng làm cho những người ở tỉnh ngoài đến tin sái cổ. Dân bản xứ thì ai cũng thừa biết, Thôi lão đạo xem bói "Mười quẻ chín không được". Nhưng Thôi lão đạo lại biết điển tích cổ, có thể kể thao thao bất tuyệt cả bộ Nhạc Phi truyện theo đúng nguyên bản. Nhạc Phi chính là Kim Sí Đại Bằng Điểu bị Phật Tổ Như Lai thu vào vầng hào quang trên đỉnh đầu của mình. Chỉ vì lúc nghe Phật Tổ giảng kinh không may phọt rắm, Nữ Thổ Bức đã khiến cho Kim Sí Đại Bằng Minh Vương nổi giận, mổ chết tươi. Bởi vậy, Kim Sí Đại Bằng Minh Vương bị giáng xuống hạ giới, nửa đường lại mổ chết Thiết Bối Cầu Long, sau đó đầu thai gửi hồn vào con người trở thành Nhạc Phi kháng Kim bảo vệ Tống. Nữ Thổ Bức và Thiết Bối Cầu Long cũng đi đầu thai rồi đến tìm Nhạc Phi báo thù. Bởi có những tình tiết nhân quả báo ứng liên quan cả đến thần tiên ma quái Phật Đạo, cộng thêm tình tiết Nhạc Gia quân đánh quân Kim ra sao, bày trận và phá trận như thế nào,cho nên càng kể càng ly kỳ kích thích trí tò mò của con người. Khi ấy, mọi người đặc biệt thích nghe những câu chuyện như thế này. Thôi lão đạo không những chỉ biết kể chuyện, mà còn có thể tự biên tự diễn thêm, trên giang hồ tương đối được lòng người khác. Thời ấy, được lòng người khác cũng có nghĩa là có được cơm ăn. Dựa vào xem bói và kể chuyện thuyết thư, ông này tạm kiếm đủ miếng cơm.

    Thấy Thôi lão đạo kiếm sống được không được khá giả lắm mọi người rất dễ lầm tưởng, nghe nói ông này thực sự có bản lĩnh, thủ đoạn không hề tầm thường, chỉ đáng tiếc là bị mệnh kìm hãm, có năng lực cũng không dám dùng, cho nên cuộc sống rất túng quẫn. Ông này cũng không phải là đạo sĩ thật sự, mà cũng có nhà có người thân, chuyên mặc một chiếc đạo bào rách rưới để làm chiêu bài bày bàn.

    Có một năm, nhiều tỉnh đồng thời bị mất mùa, lúc đầu nước sông Hoàng Hà khô kiệt, sau nạn châu chấu lại hứng chịu nạn hạn hán, đồng ruộng không thể gieo trồng được, đất khô cằn cả ngàn dặm. Trong nội thành còn sống tạm được qua ngày, nhưng ở ngoại thành thì người chết đói khắp nơi, mọi người đói vàng cả mắt, có ai còn muốn xem bói nghe kể chuyện? Gia cảnh nhà Thôi lão đạo nghèo rớt mồng tơi, đành phải đi phục vụ tang lễ. Lúc bấy giờ, ông lão chủ nhà của một gia đình giàu có bị chết, thiếu người chấp sự. Chấp sự là người đứng trước linh đường, khi các tăng nhân siêu độ xong, người này có trách nhiệm đọc văn tế. Ngoài ra, nếu có người đến viếng, khi họ được người phụ việc dẫn vào chánh đường qua cửa chính, chấp sự phải lập tức hô lớn: "Nhất bái, nhị bái, tam bái, gia đình nhà hiếu hoàn lễ." Những người đến phúng viếng và toàn bộ gia đình nhà hiếu đều phải làm theo lời hô của chấp sự, bảo quỳ xuống là phải quỳ xuống, bảo dập đầu là phải dập đầu, tương đương với người lãnh đạo có quyền lớn nhất trong linh đường, người ta thường gọi là "Đại Liễu" .

    Ông lão chủ nhà giàu này qua đời, khi tổ chức việc tang lễ, vừa vặn thiếu mất một vị chấp sự, Thôi lão đạo lấp vào vị trí đó. Phục vụ tang lễ nhìn thì có vẻ dễ dàng, nhưng không phải ai cũng có thể làm. Xã hội xưa có rất nhiều điều kiêng kị mê tín, nhưng nếu nói đến người thông thạo những chuyện kỳ lạ hiếm có, hiểu biết chữ nghĩa thì không ai sánh bằng Thôi lão đạo. Ông này tuyên bố xanh rờn "Mưu thắng Trương Lương, trí vượt Gia Cát", táo ông táo bà, Long Vương năm châu bốn biển, tiền hậu địa chủ tài thần, không vị nào là mình không biết. Ông này thầm tính toán "Việc này không tệ, chỉ cần khéo nói là xong chuyện, dù có nhắm cả hai mắt cũng không làm sai chuyện gì được. Bao ăn bao uống còn kèm theo phần thưởng, so với bày quầy ở cửa Nam uống gió thì tốt hơn rất nhiều. Từ lúc liệm cho đến lúc đưa tang, tổng cộng là bảy ngày. Trong vòng bảy ngày tới coi như không phải phát rầu vì phải tìm nơi kiếm miếng cơm rồi, sau này ra sao thì để tính sau", nhưng không lường trước được ý nghĩ đó đã gây ra họa lớn.

    Hai

    Đêm ngày hôm đó, gia đình nhà hiếu thuê công nhân dựng rạp kín cả con phố để ngày hôm sau bắt đầu phúng viếng. Thôi lão đạo đồng ý làm một chân phục vụ tang lễ, lĩnh trước một phần tiền đặt cọc rồi về nhà chuẩn bị. Vừa mới sớm tinh mơ, ông này đã ăn mặc chỉnh tề ra khỏi nhà. Vài ngày trước không có gì ăn, ông ta đói đến mức da bụng dính vào sau lưng. Lúc ban đầu, ông này định ăn cơm do nhà hiếu cung cấp, nhưng theo như tiền lệ thì phải bắt tay ngay vào việc, đến buổi trưa mới được ăn cơm. Ông ta thầm nhủ: "Trong bụng không có cái gì thì lấy đâu ra sức mà lớn tiếng hô với hét, vừa mới ngày đầu tiên cũng đừng có làm hỏng chuyện nhà người ta chứ, cứ tìm chỗ nào ăn sáng rồi mới tới đó sau." Vừa lúc ấy đi qua một cửa tiệm "Cơm cháy Đại Phúc Lai", ông ta vừa vào tới cửa là đã gọi ngay hai cái bánh nướng một chén cơm cháy.

    Cơm cháy là món ăn sáng chỉ riêng Thiên Tân vệ mới có, giá rất rẻ, chỉ hai đồng một chén. Thường ngày, Thôi lão đạo nghiện ăn món này, nhưng năm ấy mất mùa đói kém, nếu không phải nhận trước tiền đặt cọc phục vụ tang lễ, ông này cũng không dám ăn. Khi tiểu nhị bưng món cơm cháy lên, Thôi lão đạo còn ngắm nghía xem có đúng là cơm cháy Đại Phúc Lai hay không. Gia vị phải đầy đủ, miếng cháy phải mỏng, như vậy mới đúng là món của nhà này.

    Đại Phúc Lai là cửa tiệm lâu đời trên trăm năm, chủ tiệm họ Trương, theo tương truyền đã được hoàng thượng phong thưởng. Trước lúc ấy, dù tiệm này không có tiếng tăm gì, mọi người không biết tới, nhưng nhà này vẫn tuyệt tối nghiêm ngặt sử dụng đúng đủ nguyên liệu. Đậu xanh xay nhuyễn, tráng thành bánh, để nguội hẳn rồi cắt thành lát mỏng. Tương vừng trộn với nhiều loại gia vị chế thành nước chấm. Khi ăn, cho cơm cháy đã cắt sẵn thành miếng nhỏ vào chén đầy đến tận miệng, giội tương vừng, muối tiêu, đậu chao, tương ớt, cuối cùng rắc thêm một chút rau thơm lên trên, cách mấy con phố vẫn có thể ngửi thấy được mùi thơm mát đó, hình thức cũng rất ngon miệng. Có một ngày, một ông lão tôn quý dẫn theo mấy người tùy tùng tới, sau ăn xong món cơm cháy của nhà này đã khen ngợi không tiếc lời. Ngày hôm sau, một vị Ngự tiền thị vệ tìm đến cửa, bảo với chưởng quầy: "Chúc mừng chúc mừng, hồng phúc của ngươi đã đến." Chưởng quầy không hiểu đầu đuôi ra sao: "Nhà tiểu nhân chỉ làm buôn bán nhỏ thì lấy đâu ra hồng phúc?" Ngự tiền thị vệ bèn giải thích cho chưởng quầy: "Ngày hôm qua, Hoàng Thượng đã cải trang vi hành đến tiệm của ngươi, sau khi ăn xong món cơm cháy ở đây cảm thấy rất ngon, muốn phong thưởng cho ngươi." Từ đó về sau, món cơm cháy nhà này vang danh thiên hạ, thực khách nghe danh nối đuôi nhau không ngừng kéo đến. Nhà này mở thêm hơn mười chi nhánh, chưởng quầy đổi tên tiệm thành "Đại Phúc Lai"*.

    *Hồng phúc đến

    Lâu rồi Thôi lão đạo không có nổi vài đồng, hai ba tháng nay chưa từng được thưởng thức món này. Hôm ấy ngon miệng không cưỡng lại được, ông này liên tiếp ăn hết ba chén cơm cháy. Được nhà hiếu ứng trước tiền làm việc tang lễ, ông này cắm đầu vào ăn sạch ba chén cơm cháy rồi mới chịu tới chỗ đám tang. Bên đó người ta đã dựng xong rạp trước cổng chính, hai người phụ việc một phụ trách khu vực bên trong cửa chính, một phụ trách bên ngoài. Linh đường được đặt tại phòng khách, hòa thượng đạo sĩ đến siêu độ tụng kinh sắp đồ đầy cả gian phòng. Bởi ông cụ chủ nhà qua đời, con trai và con dâu phải mặc đồ tang đốt vàng mã, toàn bộ người thân họ hàng và thân bằng cố hữu gần xa thì chầu chực ở bên ngoài linh đường. Thôi lão đạo vừa đến nơi thì cũng là lúc bắt đầu tụng kinh niệm chú, ông ta vội vàng chỉnh trang lại quần áo rồi đứng vào vị trí trước linh đường. Đứng bên cạnh là một trợ thủ tên là Ngô Đại Bảo, là đồ đệ trên danh nghĩa của Thôi lão đạo, cũng coi như là một kẻ theo chân kiếm ăn. Anh chàng này dốt đặc cán mai, một chữ bẻ đôi cũng không biết, tay xách một ấm trà, chuyên châm trà rót nước cho đám hòa thượng và đạo sĩ tụng kinh nhấp giọng. Thôi lão đạo từng than thở, cái tên Ngô Đại Bảo này không hay, Ngô có nghĩa là không, Đại Bảo chính là nguyên bảo, gộp lại có nghĩa là ngay cả một đại bảo cũng không có, trong tay không có tiền, thế chẳng phải là khố rách áo ôm thì là cái gì?

    Không phải tất cả hòa thượng đạo sĩ đang siêu độ vong hồn trong rạp đều là người xuất gia, có những người tu tại nhà nhưng vẫn biết niệm kinh, đó cũng là một loại khả năng. Bảy ngày đầu tiên là tuần đầu, kéo dài từ lúc người đó chết đến lúc đưa đi hạ táng mới chấm dứt. Trong bảy ngày đó, ngày nào cũng phải niệm kinh năm lần, buổi sáng hai lần buổi chiều hai lần, đến đêm là lần dài nhất. Trong thời gian đó, chấp sự có trách nhiệm đọc văn tế, nhắc nhở con cháu nhà hiếu và người đến phúng viếng lúc nào cần bái lạy, công việc của Thôi lão đạo chính là việc này. Sau khi nghe thấy tiếng tụng kinh tắt hẳn, có nghĩa là lần niệm thứ nhất đã xong rồi, ông ta bắt đầu đọc văn tế. Bởi quanh năm suốt tháng kể chuyện thuyết thư xem bói ở cửa Nam, ông này biết cách ăn nói, làm bộ làm tịch sao cho hợp với tình huống, giọng nói cũng đầy tình cảm. Nghe thấy bên dưới linh đường đồng loạt dậy lên tiếng than khóc, đọc xong văn tế rồi hô to dập đầu bái lạy, Thôi lão đạo chợt thấy chóng mặt, thầm hô: "Hỏng hết cả việc rồi!"

    Ba

    Thì ra mấy ngày hôm ấy, Thôi lão đạo không có gì để mà ăn, trong bụng không có lấy một hột cơm, buổi sáng ăn liền ba chén cơm cháy, đầy bụng không tiêu, lúc đọc văn tế chỉ trực xả xú uế ra, khẩn cấp phải đi nhà xí. Thế nhưng, lúc ấy còn hơn chục người đến phúng viếng đang xếp hàng ngoài linh đường, chỉ chờ chấp sự hô lên là sẽ bước lên dập đầu, không thể nào bỏ mặc nhiều người đứng chờ như vậy, giờ nên làm thế nào cho phải?

    Chẳng kịp nghĩ ngợi nhiều, Thôi lão đạo lôi phắt vị đồ đệ trợ thủ Ngô Đại Bảo đang đứng bên cạnh lại, nhét vội bài văn tế vào tay y: "Vi sư phải chạy đi nhà xí một lúc, giờ con cứ bắt chước y chang theo mà hô, bình thường vi sư hô như thế nào con cũng sẽ hô như vậy, hiếu tử quỳ, dập đầu lần thứ nhất, tiếp tục dập đầu, dập đầu lần thứ ba, sau hiếu tử là đến con dâu, nhớ kỹ chưa?"

    Ngô Đại Bảo không biết chữ, văn tế không biết đọc, nhưng hô dập đầu thì y nghe suốt đến thuộc làu, chẳng có gì là khó cả, bèn bảo với Thôi lão đạo: "Sư phụ yên tâm, việc này cứ giao cho con, người mau đi đi, đã có giấy chùi chưa?"

    Thôi lão đạo chẳng buồn đáp lại cho mất thời gian, vơ vội một nắm giấy vàng mã dưới mặt đất, giống như bị lửa đốt đít, ôm bụng phóng thẳng tới nhà xí.

    Ngô Đại Bảo buông ấm trà xuống, tay cầm văn tế, bắt đầu dẫn dắt việc phúng viếng, hô lên một câu 'hiếu tử quỳ'. Con cháu trong xếp thành một hàng, ai trước ai sau phải tuân theo theo thứ tự nhất định, như vậy người chấp sự mới không gọi sai. Người con kia nghe thấy chấp sự gọi mình, lập tức bước lên trước linh đường quỳ rạp xuống đất, khóc ầm lên.

    Tiếp theo, đáng lẽ ra Ngô Đại Bảo phải hô "Dập đầu", nhưng y chỉ là kẻ "không có chó bắt mèo ăn cứt', cố sức lắm mới giữ được bình tĩnh, đột ngột bị nhiều người trong linh đường cùng đổ dồn ánh mắt vào như vậy, không tránh khỏi có đôi phần luống cuống. Y khẩn trương líu cả lưỡi, trong đầu thì nghĩ đến "Dập đầu", nhưng ra khỏi miệng lại thành "Lộn đầu" .

    Người con kia là kẻ sinh ra trong nhà giàu có, không hiểu biết gì về đạo đối nhân xử thế, cũng chưa từng tham gia một buổi tang lễ nào, đây mới chỉ là lần đầu tiên. Lúc trước có người nhắc nhở anh ta, khi ở trên linh đường thì nhất nhất phải nghe theo chấp sự, chấp sự bảo anh làm cái gì thì anh phải làm cái đó, bảo dập đầu thì phải dập đầu, bảo khóc thì phải khóc hết nước mắt, nếu không người ta chắc chắn sẽ đánh giá anh là người bất hiếu. Bởi trong đầu lúc nào nghĩ đến lời nhắc này, cho nên khi nghe thấy chấp sự hô lên "Lộn đầu", anh ta ngơ ngác không hiểu ra sao, "Lộn đầu" là nghĩa làm sao? Lộn nhào? Anh ta sợ không gánh nổi tội danh bất hiếu, nên cho dù không biết lộn nhào cũng phải lộn, thôi thì cứ cắn răng mà làm cho xong. Anh ta gồng người lên, hai tay ôm chặt lấy đầu, chổng mông lên lộn một vòng rồi té lăn chiêng linh đường. Mọi người đứng bên dưới nhìn lên hoa mắt choáng váng, thế này là thế nào?

    Ngô Đại Bảo hô đủ ba lượt, bắt hiếu tử phải nghiêng ngả lộn nhào ba lần. Sau khi người con đó đã lộn đủ ba vòng thì đến lượt cô vợ của anh ta. Dù cô ta đang mang thai tháng thứ sáu thứ bảy, nhưng trong lòng biết chắc là không thể trốn tránh, ai có thể gánh nổi tội danh bất hiếu? Nhưng cô ta thật sự không thể lộn nhào được, bèn van xin: "Tôi nằm dài xuống đất rồi lăn tròn thầy thấy có được hay không?"

    Đến nước này mọi người đến phúng viếng ở bên dưới không nhịn được nữa, nào đâu có cái trò bắt con cháu nhà hiếu phải lộn nhào trên linh đường? Chấp sự trên linh đường chẳng phải là Thôi lão đạo ư, sao lại thay bằng Ngô Đại Bảo rồi? Bèn quy kết là Ngô Đại Bảo đã nhận được lệnh của Thôi lão đạo, cố ý quấy rối linh đường, cái trò này còn đáng hận hơn cả đào mộ tổ tiên nhà người ta. Những người thâm giao với gia đình nhà hiếu đều là kẻ có quyền thế, những người này không có một ai là kẻ dễ trêu, nhổ bừa một sợi lông trên đùi cũng to hơn eo Ngô Đại Bảo và Thôi lão đạo. Lúc bấy giờ, họ bèn gọi một đám gia đinh hùng hổ như sói như hổ tới, đè nghiến Ngô Đại Bảo xuống, dùng côn đập loạn cho một trận thừa sống thiếu chết, sau đó tiếp tục nổi giận đùng đùng đi tìm chủ nợ là Thôi lão đạo để tính toán.

    Vừa mới bước ra khỏi nhà xí, Thôi lão đạo đã phong thanh nhận thấy có chuyện không hay, có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không rửa sạch tội, người khôn phải biết nặng nhẹ, lập tức vắt chân lên cổ chuồn ra ngoài thành, nhất thời không dám trở về. Nhưng trên người lại không có bao nhiêu tiền, ông này quyết định về nông thôn né tránh chờ mọi việc lắng xuống rồi tính sau, bèn lấy số tiền đặt cọc cho việc phục vụ tang lễ đi mua lương khô đủ cho vài ngày ăn, gói ghém qua loa rồi một đường thẳng tiến vượt qua vùng đất trũng phía nam. Sau khi ra khỏi thành, ông này lại chỉ thấy cảnh tượng hoa mầu mất mùa ở khắp nơi. Trên đường nghe được tin tức, ở Hà Nam có rất nhiều dân gặp nạn nổi loạn, triều đình cử quân đội đóng tại Trực Lệ tới trấn áp, thẳng tay tàn sát. Dọc đường ông ta chỉ gặp dân đói rách và quân nổi loạn chạy lên phía bắc, bỏ cả nhà cửa vườn tược lại đằng sau. Đi sâu xuống phía nam, ngay cả dân đói rách cũng không còn nhìn thấy nữa, mọi người đã chết đói cả rồi, khắp nơi la liệt xác chết, trong lòng ông này trở nên nặng trĩu, đau buồn thui thủi một mình cất bước. Khi đi ngang qua một khu nghĩa địa, ông này chợt thấy đầu một con chó đen ló ra sau một ngôi mộ. Cái đầu con chó đó chắc phải to hơn cả đầu con nghé, miệng ngậm một đứa bé, trợn trừng đôi mắt đỏ rực lên, nhe răng khẽ gầm gừ với Thôi lão đạo.

    Bốn

    Thôi lão đạo tay không tấc sắt, chắc mẩm lần này mình sẽ biến thành thức ăn trong miệng chó trong cái nghĩa địa này, nhưng mệnh chưa đến lúc tuyệt, đột nhiên một con chó dữ khác nhảy vọt ra, nhe răng há mõm muốn đoạt xác đứa bé trong miệng con chó đen. Nhân lúc hai con chó hoang tranh giành nhau, Thôi lão đạo tận dụng cơ hội chạy trối chết. Toàn bộ vùng đất trũng không có con đường mòn nào, ông ta lúc thì rẽ bên trái, khi thì ngoặt sang phải, rụng rời cả hai chân mà không biết đến khi nào mới thoát khỏi nơi này. Chạy được tầm hơn hai dặm, ông ta đột nhiên dừng phắt lại. Kể ra đôi mắt của ông ta cũng độc, đã phát hiện ra mặt đất bên đường có điểm không thích hợp. Cỏ dại trên mặt đất úa vàng héo rũ, nhưng màu sắc và tính chất của đất ở chỗ đó lại không có gì khác với khu vực xung quanh, vậy là đã chứng tỏ bên dưới mặt đất chắc chắn có mộ cổ. Dù không nhìn thấy tạo hình của ngôi mộ, cũng không thấy con thú cõng bia đá trước mộ, nhưng đại loại là một ngôi mộ cổ mà phần mặt ngoài được phủ một lớp cao lanh, bởi vậy cỏ trên mặt đất rất khó mọc được. Ông này bước qua bên đó nhổ một ngọn cỏ lên để quan sát rễ của nó, quả nhiên có ám âm khí của mộ cổ. Ngôi mộ bên trong lớp cao lanh này chí ít ra cũng phải là một của một vị Vương Hầu nào đó. Nếu là ngày trước, Thôi lão đạo chưa chắc đã có ý định đào trộm ngôi mộ này, nhưng khi chạy nạn đến nơi xa lạ, trên người không có tiền rất khó xoay sở, khắp nơi lại gặp thiên tai nhân họa liên tục, có ai còn tâm tư xem bói với đoán quẻ. Giờ giữa đường gặp một ngôi mộ cổ, chẳng phải là tiền tài do trời ban hay sao?

    Thôi lão đạo nghĩ thầm không làm thì thôi, đã làm thì làm cho chót, nếu phải làm chuyện xấu thà rằng đi trộm mộ cổ còn hơn, lấy được vàng ngọc đồ quý là sẽ xa chạy cao bay. Dù đã thông tư tưởng, nhưng ông này lại không phải là kẻ chuyên sống bằng cái nghề thất đức này. Mặc dù biết xem phong thuỷ tìm âm trạch dương trạch, nhưng ông này lại không có tay nghề đào đất khoét tường khai quật động tiên, một thân một mình trộm mộ cướp đoạt bảo vật là việc nằm ngoài khả năng của bản thân. Cũng may nơi này là vùng đất hoang vu làng xóm tiêu điều, phạm vi hơn mười dặm quanh đó không thấy một bóng người, chỉ cần có nước có lương khô, tìm một gian phòng đủ che nắng mưa trong những thôn hoang vắng gần đây trú tạm mấy ngày cho đến lúc đào được bảo vật, như vậy coi như đã tốt lắm rồi. Ông này hạ quyết tâm, trước tiên cần chuẩn bị đầy đủ nước uống và lương thực, còn phải kiếm thêm hai dụng cụ đào bới phần mộ, nếu không thì chẳng có cách nào mà ra tay. Lúc bấy giờ, mặt trời đỏ ối đã lặn về tây, Thôi lão đạo đang lo sợ lại gặp phải chó hoang thì chợt nhìn thấy có một con đường cách ngôi mộ cổ không xa. Đó là một ngã tư, bên cạnh lại có một lối rẽ khuất nẻo, cỏ mọc tốt um cao quá đầu người, bụi gai rậm rịt, giống như rất nhiều năm rồi không có người qua lại.

    Thôi lão đạo đã xông pha giang hồ nhiều năm, trong lòng tự hiểu con đường nhỏ đó không dễ đi, sài lang thổ phỉ thứ nào cũng nên tránh, bèn đi thẳng theo đường cái. Nhưng vừa đi được không bao xa, ông này đã bắt gặp một con lừa, có lẽ là do dân chạy nạn bỏ sót. Con lừa này cũng có thể coi là mạng lớn, không bị đám dân chạy nạn làm thịt. Thôi lão đạo mừng như điên, trong lòng hào hứng nghĩ: "Thật sự là ước cái gì được cái đó, con lừa này vừa khéo có thể giúp lão đạo ta chuyên chở đồ vật." Ông này bước lại gần tóm lấy dây cương, trèo lên lưng lừa. Nhưng đến lúc bấy giờ, bởi không dưng kiếm được món hời, ông này lại không dám đi theo đường cái nữa, sợ chạm mặt với người đã bỏ quên con lừa, vội vàng rẽ vào con đường nhỏ. Có con lừa ít nhất không cần phải sợ chó hoang nữa, lừa mà nổi nóng lên là sẽ đá hậu. Cho dù hung tàn đến mấy, đám chó hoang cũng không dám trêu vào một loại gia súc lớn như lừa.

    Ngoài ra còn có quan niệm mê tín, cho rằng cương thi sợ tiếng hí của lừa. Thôi lão đạo vớ bở được một con lừa, gan trộm mộ dường như đã lớn hơn trước nhiều. Ông này cỡi lừa đi xuôi theo con đường nhỏ. Con đường gập ghềnh, rất hoang vu. Bởi tính tình bướng bỉnh, con lừa cứ đi ba bước lại lùi hai bước. Đi được tầm hơn hai dặm, ông này chợt nhìn thấy một thôn làng hoang vắng nằm ven đường. Công việc đào trộm mộ cổ không thể nào chỉ trong vòng ngày một ngày hai là có thể hoàn thành, phải tìm một chỗ qua đêm. Ông này thầm tính toán, cái thôn này cách ngôi mộ cổ không xa, hay là cứ vào trong thôn tìm một ngôi nhà đủ che gió che mưa ở tạm, buổi tối ngủ, còn ban ngày đào mộ. Bởi vậy, ông này đánh lừa rẽ vào thôn. Giữa đám ruộng bỏ hoang có một cái cuốc, ông này tiện đường nhặt lên đặt ngang lưng lừa, chờ đến lúc đào mộ sẽ mang ra sử dụng. Khi đến cửa thôn, trong sương chiều bao la mù mịt, ông ta nhìn thấy trên tấm bia đá ở bên đường có khắc ba chữ "Thôn Huyền Đăng".

    Thôi lão đạo tự lẩm bẩm: "Tên thôn quái dị thật! Huyền mà chả là hắc, thôn Huyền Đăng thì có khác gì là thôn Hắc Đăng đâu? Chẳng lẽ vào buổi tối không nhà nào đốt đèn hay sao?"
     
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 19: Hỏa thiêu con rối bằng da người (Nửa chương cuối)


    Năm

    Thôi lão đạo đã đi lại trong giang hồ nhiều năm, không ngại ngần gì nếu phải một mình qua đêm ở một cái thôn vắng nhà hoang như thế này. Hiển nhiên "thôn Huyền Đăng" là một cái thôn bị bỏ hoang không có người ở, có khả năng người trong thôn đã chạy nạn hết cả rồi, nhưng ông này vẫn không hiểu tại sao người ta lại đặt tên thôn quái dị như thế, không thể không đề cao cảnh giác. Ông này giục lừa đi vào thôn. Rõ ràng là bố cục của thôn này hết sức kỳ lạ, phòng ốc xây quây lại thành một vòng, toàn bộ cửa sổ đều mở toang cánh khép vào bên trong, khác hẳn nhà bình thường. Chính giữa thôn là một khoảng đất trống, ở giữa khoảng đất này có một cái đèn đá to đùng, kiểu dáng rất cổ xưa, ít nhất cũng phải có từ mấy trăm năm trước. Đến khi vào trong, ông này mới phát hiện ra, nơi đây không hẳn là một thôn bị bỏ hoang không có người, nhưng cũng chỉ có mỗi một căn nhà là có người ở. Trong nhà có một ông lão ngoài sáu mươi tuổi, da mặt đầy vết sạm, bên cạnh ông lão còn có một thanh niên vụng về, cả hai đều đặc chất nông dân, nhìn bề ngoài dường như là hai cha con.

    Thôi lão đạo thấy trong thôn có người còn ở lại, do vậy không dám tự tiện chọn một căn nhà để ở. Ông này bước lại gần chắp tay, bảo với ông lão đó mình là một đạo nhân bán thuốc nam, đang hái thảo dược ở khu vực gần đó, định vào thôn tìm một gian phòng ở tạm vài ngày, lương khô nước uống thì tự mình đã chuẩn bị sẵn cả rồi, mong ông lão tạo điều kiện.

    Ông lão đáp: "Tạo điều kiện cho người cũng chính là tạo điều kiện cho chính mình. Huống chi, quanh đây ngoại trừ cái thôn Huyền Đăng này ra, không còn nơi nào có thể ngủ nhờ được nữa, trước không có thôn sau không có nhà trọ, không ở lại nơi này thì còn có thể ở đâu nữa? Tuy nhiên, nhà cửa trong thôn đa phần là cũ nát lắm rồi, tường xiêu vách nát, gió lùa mưa tạt, chỉ sợ không xứng với đạo trưởng."

    Thôi lão đạo nói: "Tôi là người thường lang bạt, tiện đâu ngủ đó, không quá kén chọn, chỉ cần một gian phòng nát một cái giường đất là được, dù sao cũng tốt hơn là ngủ ngoài trời nơi hoang dã."

    Nhận thấy đạo sĩ này đã quyết tâm tá túc trong thôn mình, ông lão bèn chỉ tay vào gian nhà bên cạnh, bảo: "Nếu đạo trưởng không chê, có thể vào ở gian phòng bên kia hai ngày."

    Thôi lão đạo rối rít cảm ơn rồi hỏi ông lão: "Tại sao trong thôn chỉ còn hai người lão trượng và con trai, những người cùng thôn còn lại đã chuyển đi chỗ rồi khác hay sao? Hơn nữa vì sao lại gọi là thôn Huyền Đăng, chắc hẳn là buổi tối không thể thắp đèn phải không?"

    Ông lão lắc đầu trả lời: "Dạo này khó khăn, người trong thôn đã chạy nạn đi nơi khác cả rồi, chỉ còn một mình tôi và đứa con trai vụng về này là còn ở lại nhặt ve chai kiếm củi lần hồi sống qua ngày. Còn những việc khác ấy ư, đạo trưởng ngài đừng có hỏi nhiều, bởi thấy ngài không có nơi ngủ qua đêm, cho nên tôi mới thương tình cho ngài ở lại. Ngài ở lại cái thôn này cũng không có vấn đề gì, chỉ cần đồng ý với tôi ba điều kiện."

    Mặc dù trong lòng Thôi lão đạo thầm nghĩ: "Rừng sâu núi thẳm mà còn lắm quy định như vậy", nhưng ngoài miệng lại nói: "Không vấn đề gì không vấn đề gì, không hiểu ba điều kiện đó là gì, kính mong lão trượng chỉ bảo."

    Ông lão nói: "Thứ nhất, ban đêm đạo trưởng đốt đèn cũng được, nhưng sau khi trời tối, bất kể có nghe thấy nhìn thấy bên ngoài có chuyện gì xảy ra, ngàn vạn lần không nên tò mò, hơn nữa còn tuyệt đối không được bước chân ra khỏi phòng."

    Thôi lão đạo âm thầm kinh ngạc, buổi tối không được ra khỏi phòng? Chẳng lẽ trong thôn có vật gì không tiện cho người khác nhìn thấy? Cũng may là ban ngày ông này còn phải đào trộm mộ, điều kiện này có thể tuân theo.

    Ông lão nói tiếp: "Thứ hai, không cần biết là lúc nào, đạo trưởng tuyệt đối không thể bước vào nhà của hai cha con chúng tôi."

    Lúc bấy giờ trời đã tối đen, Thôi lão đạo đứng ngoài cửa, còn ông lão kia và người con vụng về thì đứng ở trong nhà. Dù không nhìn thấy trong phòng ra sao, nhưng chỉ là một căn nhà ở vùng thôn quê thì có thể có thứ gì đáng giá cơ chứ, sao lại phải cảnh giác với người lạ cứ như đề phòng kẻ cướp thế? Chả hiểu trong thôn vì sao lại có quy định này nữa?

    Ông lão lại bảo: "Đạo trưởng đừng quá đa nghi, tôi làm vậy chỉ vì muốn tốt cho ngài, chỉ có điều là không tiện nói rõ ràng. Ngài còn phải đồng ý với tôi điều thứ ba nữa, đó chính là đừng có hỏi bất cứ câu nào. Nếu như có thể tuân theo thì ngài cứ ở lại, giả như không đồng ý, vậy cứ cứ nơi khác mà tìm chỗ ngủ trọ cho sớm."

    Thôi lão đạo vội nói: "Bần đạo là khách từ bên ngoài đến, nếu chủ nhân đã căn dặn, làm sao dám không vâng lời."

    Mặc dù ngoài miệng nói một đằng, nhưng trong lòng lại nghĩ một nẻo, ông này chắc mẩm trong thôn này có bí mật không thể cho ai biết. Nhưng vì mục đích trộm mộ cướp đoạt bảo vật, ông này thực sự chẳng cần tìm hiểu thêm cho rách việc, chỉ mong có một chỗ để qua đêm, sau khi khai quật được mộ cổ là sẽ lập tức xa chạy cao bay, bởi vậy đồng ý ngay tức thì. Sau khi trời tối, ông này đóng cửa không bước ra khỏi cửa, ăn lương khô cho đỡ đói rồi nằm ngủ trong phòng. Ngày hôm đó coi như trôi qua êm đẹp, ông này mặc nguyên quần áo nằm chết dí trên giường, ôn lại những lời căn dặn lúc trước của ông lão kia một lượt, trong lòng tự hiểu đến đêm nhất định có chuyện gì đó, dù ngủ cũng phải mở to một con mắt.

    Sáu

    Đang nằm trên giường gạch Thôi lão đạo bỗng cảm thấy khát nước. Lúc ăn lương khô ông này không uống nước, đến đêm cổ họng khô khốc, hối tiếc vì đã không tới chỗ ông lão xin chén nước uống. Lúc bấy giờ trời đã tối rồi, trong ba điều kiện mà ông lão nêu ra, điều đầu tiên là ban đêm không thể ra khỏi phòng. Ông này thầm nghĩ, dù trời đã tối đen, nhưng mới chỉ mới tối không lâu, chắc là chưa tới nửa đêm, tốt nhất là nên tranh thủ lúc này đi uống hớp nước sôi, có lẽ ông lão kia sẽ không trách móc. Ông ta lập tức bước ra khỏi nhà, nhìn thấy bên ngoài có ánh trăng, nhưng cửa nẻo nhà hai cha con ông lão đã đóng chặt, bên trong lại không đốt đèn. Ông này qua bên đó định gõ cửa thì chợt nghe thấy trong phòng vang lên tiếng thút thít nỉ non, giống như có hai người phụ nữ đang khẽ than thở.

    Thôi lão đạo cảm thấy hết sức kỳ lạ: "Ông lão đã khẳng định trong thôn chỉ có mỗi hai cha con mình, vì sao lại có tiếng của phụ nữ?" Lại suy đoán: "Chẳng trách ông lão lại không cho mình ra khỏi nhà vào ban đêm, nguyên nhân là bọn họ dự định làm việc bất chính như thế này, chắc là bắt cóc người ở nơi khác về, để ta xem rốt cục là. . ."

    Ông này nằm dán sát người xuống đất, ngó qua khe cửa để quan sát tình hình trong nhà. Lúc ấy ánh trăng mờ ảo, chỉ lờ mờ nhìn thấy hình dáng hai cha con đang ở trong nhà. Hai người nằm nghiêng, một người quay đầu về phía đông, người kia quay về phía tây, quay lưng vào nhau, nằm lộn đầu đuôi trên giường gạch, dường như đã ngủ lâu rồi. Căn phòng một trượng vuông (~10m2) nhìn một cái là thấy toàn bộ, nhưng nào có thấy người phụ nữ nào?

    Thôi lão đạo cảm thấy kinh hãi, toàn thân nổi hết da gà, rõ ràng không hề nghe lầm, nhưng ông này tự nhắc nhở chính mình thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện. Một mình chạy nạn tới nơi xa lạ, chưa đủ thời gian làm quen với cuộc sống ở nơi đó, lại chẳng quen biết ai để có thể tìm hiểu được tin tức, cũng chỉ còn cách nhìn trước quên sau, trước mắt đào trộm mộ kiếm bảo vật vẫn là quan trọng hơn, không thể vì bên cạnh phát sinh chuyện lặt vặt mà tự rước lấy phiền toái. Sau khi trải qua một hồi kinh sợ, ông này không còn thấy khát nước nữa, lặng lẽ trở về căn phòng sát vách ở bên cạnh, cài chặt thanh chặn cửa rồi nằm xuống ngủ. Nhưng đến nửa khuya, tầm khoảng giữa canh ba, ông này chợt nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng bước chân. Không nhìn cho rõ thì không thể nào yên tâm, ông này nhấm nước bọt vào đầu ngón tay chọc thủng một lỗ trên cửa sổ, nín thở, lặng lẽ nhìn trộm ra bên ngoài. Đập vào mắt là một đám đông xếp thành một hàng, đang đi từ khu đất trống chính giữa ra bên ngoài thôn. Nam nữ già trẻ gà vịt mèo chó đều có cả, còn có người cưỡi ngựa ruổi lừa. Lúc ấy mây đen che khuất ánh trăng, khi đứng trong phòng nhìn ra ngoài, ông ta chỉ có thể nhìn thấy những bóng hình mờ mờ ảo ảo. Những người đó quá nửa đêm đi ra ngoài, đi một lát rồi lại quay trở về, cứ đi đi lại lại cho tận đến tầm canh bốn rồi đột ngột biến mất không còn bóng dáng.

    Thôi lão đạo rùng mình toát mồ hôi. Trốn trong phòng nhìn không rời mắt cả nửa đêm, ông này cảm thấy vừa sợ vừa ngờ vực, thầm nghĩ: "Chẳng lẽ là những người trong thôn đã chết rồi biến thành quỷ? Vì sao linh hồn những người này không tan? Cặp cha con sống trong này rốt cục là đang che dấu cái gì?" Mặc dù thừa biết nếu mình ở lại cái thôn này thì có thể sẽ gặp nguy hiểm, nhưng ông này vẫn luyến tiếc ngôi mộ cổ, có thể nào trơ mắt đứng nhìn "con vịt" đã sắp đến miệng lại bay mất. Bởi lòng tham lấn át lý trí, cuối cùng Thôi lão đạo không nỡ bỏ đi. Đến lúc hừng đông, ông này làm ra vẻ như không có chuyện gì xảy ra, bảo với ông lão mình đi hái thảo dược rồi vác cuốc cưỡi lừa ra khỏi thôn. Trước đó đã ghi nhớ đường đến mộ cổ, cho nên ông này chằng mất bao nhiêu thời gian đã đến nơi. Sau khi ngẩng đầu nhìn mặt trời để xác định hướng của quan tài, dùng bước chân tính toán xong, ông này mới ra tay đào bới. Bình thường, việc trộm mộ phải tiến hành vào ban đêm, bởi bản thân công việc này thực sự có một vài kiêng kỵ mê tín, nhưng chủ yếu vẫn là sợ bị người khác bắt gặp.

    Vùng đất hoang vắng không một bóng người, coi như đã trút bỏ được phần nào gánh nặng đó. Mặt khác, vào ban ngày dương khí thịnh, một sẽ không có ma quỷ lộng hành, hai sẽ không có cương thi, không cần phải quá mức căng thẳng sợ bóng sợ gió. Mặc dù không phải là người chuyên kiếm cơm bằng cái nghề trộm mộ này, nhưng Thôi lão đạo thường xuyên tiếp xúc với âm dương trạch, dưới mồ mả tổ tiên hay mộ cổ có đồ vật gì, có thứ nào mà ông này chưa từng nhìn thấy. Nhưng đồ vật ở trong ngôi mộ cổ trước mặt lại nằm ngoài tầm hiểu biết của ông này.

    Bảy

    Lại nói tiếp, Thôi lão đạo một mình đào bới, cật lực làm việc cả một ngày mới đào sâu ngang thân ngôi mộ cổ. Lúc ngẩng đầu lên thì mặt trời đã ngả về tây, ông này vội vàng thu thập dọn cuốc thuổng, cưỡi lừa ra về. Trời sẩm tối mới về đến thôn Huyền Đăng, đến đêm lại đóng cửa ngủ trong nhà. Chúng ta sẽ chỉ nói đến ý chính. Ông này liên tục ở lại thôn Huyền Đăng ba ngày. Nửa đêm hôm nào cũng vậy, có rất nhiều người cứ liên tục ra khỏi thôn rồi lại đi vào. Thôi lão đạo đã lẳng lặng nhìn trộm mấy lần, lần nào cũng gặp tiết trời u ám, trong thôn không có lấy một ánh đèn, tối om om không thể nhìn rõ được là người hay là ma quỷ. Ông này đã thử tìm cách moi từ trong miệng ông lão và đứa con vụng về ở bên cạnh xem có lộ ra cái gì không, nhưng đáng tiếc là hai cha con nhà đó ít nói kiệm lời, hỏi chán cũng không nhận được một câu trả lời có tác dụng nào. Hơn nữa, thấy đã sắp mở được mộ cổ đến nơi, Thôi lão đạo bèn tự nhắc nhở bản thân đừng có vẽ thêm chuyện làm gì, đến mai cùng lắm chỉ cần một buổi là có thể khai quật được phần mộ, lấy hết những thứ đáng giá rồi bỏ đi trong ngày luôn, không muốn ở lại cái thôn không có chỗ nào là không kỳ quái này dù chỉ một ngày. Ông này tính toán rất hay, nhưng đến ngày hôm sau muốn đi cũng không thể đi được.

    Sáng sớm tinh mơ, Thôi lão đạo nuốt vội mấy miếng lương khô rồi nhanh chóng đi đào mộ. Sau khi phá thủng lớp cao lanh trong cùng, ông này nhìn thấy một cái huyệt xây bằng gạch cổ, chính giữa có một chiếc quan tài bằng đá. Thôi lão đạo không có kinh nghiệm khai quật, bởi vậy lúc cạy gạch đá lẫn mở nắp chiếc quan tài đó quả thực đã làm ông này mất không ít thời gian và sức lực. Nhưng sau khi cạy được nắp ra, ông này chỉ nhìn thấy bên trong chiếc quan tài bằng đá có mỗi bộ xương.

    Thôi lão đạo thất vọng, không ngờ người chết trong ngôi mộ này chỉ được mai táng theo cách đơn giản nhất. Chắc là lúc còn sống, chủ nhân của ngôi mộ lo sợ sau này kẻ trộm sẽ đào mộ mình lên, bởi vậy dù bản thân có tôn quý đến cỡ nào, lúc chết cũng chỉ dùng quần áo rẻ tiền, quan tài bằng đá để chôn cất, không mang theo một mẩu vàng bạc hay một miếng ngọc. Thôi lão đạo dậm chân thở dài: "Đúng là toi công mất vài ngày! Xem ra, mình không có cái phúc phận đó, ngay cả một đồng tiền rơi rớt cũng không được hưởng. . ."

    Trong lúc đang than thân trách phận, ông này chợt nhìn thấy trong quan tài đá có một vật duy nhất chôn cùng người chết. Đó là một cái hồ lô to khác thường, chắc hẳn là một đồ cổ hơn ngàn năm, có dây buộc bằng da trâu để có thể treo bên hông, nặng trịch giống như bên trong có chứa rất nhiều thứ. Nhưng đến khi mở nắp dốc lên dốc xuống, bên trong lại chẳng có cái gì rơi ra. Thôi lão đạo suy đoán: "Cái hồ lô lớn này nhất định là vật mà lúc còn sống chủ nhân ngôi mộ vô cùng quý trọng, nếu không thì đã chẳng chôn cùng trong quan tài đá, ta cứ mang về nhờ người khác xem hộ một chút." Nghĩ vậy, ông này vái lạy bộ xương trong quan tài đá: "Quý đài* thăng tiên đã lâu, giữ lại vật ngoài thân này cũng chẳng có tác dụng gì, chi bằng lại để cho bần đạo mang đi, dù sao cũng tốt hơn là để nó mai một trong đất vàng." Nói xong, Thôi lão đạo đóng nắp quan tài đá lại, chèn gạch đá và lấp đất lại, sau đó nhét hồ lô vào bao tải, cưỡi lừa định đi khỏi nơi này ngay. Thế nhưng sắc trời đã tối, ông này đành phải ở lại "thôn Huyền Đăng" thêm một tối.

    *Đài: cách xưng hô tôn kính của người xưa

    Thôi lão đạo về thôn chui vào nhà, cài then cửa chính đóng chặt cửa sổ. Nằm trên giường thao thức mãi mà không ngủ được, ông này bèn đứng dậy thắp nến, xem xét kỹ lưỡng cái hồ lô, thầm nghĩ: "Mặc dù đồ vật trong mộ này không đáng giá một xu, nhưng dù sao cũng là một đồ cổ đúng chất. Lúc ra ngoài đi lại, cứ mang theo nó bên người, chắc chắn người ta sẽ cho rằng trong cái hồ lô này của lão đạo ta chứa đan dược thần diệu nào đó. . ." Quá hưng phấn với ý tưởng đó, ông này vừa khoác chiếc hồ lô lên lưng thử xem sao, bất chợt nhớ ra một việc, thất thanh thốt lên: "Không hay!"

    Đêm hôm khuya khoắt, Thôi lão đạo chớt nhớ ra, hôm ấy sau khi trở về đã quên buộc con lừa lại. Ông này vẫn nuôi ý định cưỡi con lừa đó đến chợ để bán, kiếm lấy vài đồng coi như có cái để mà xoay sở, nếu không thì trên người không một xu dính túi, làm thế nào mà đi lại ở bên ngoài? Ông này tức thời sốt ruột, giầy cũng không kịp đeo, lập tức tông cửa phòng chạy ra ngoài, chỉ mong sao con lừa kia dù không bị buộc nhưng cũng đừng có chạy đi đâu. Ông này vừa mới ló mặt ra ngoài xem xét, đúng lúc những hồn ma đen thui trong thôn đi ngang qua trước mặt.

    Tám

    Lúc bấy giờ trời sáng trăng, mặt đất phủ đầy sương trắng, Thôi lão đạo chợt nhận ra, những kẻ trước mặt mình hoàn toàn không phải là hồn ma của người dân trong thôn, bởi chúng ăn mặc quần áo mũ mão theo lối xưa, hoặc mặc giáp cầm đao, hoặc áo bào đai ngọc, hoặc áo rồng mũ phượng, trong số đó cũng không thiếu quái vật mặt xanh nanh vàng, tư thế đi lại cứng đờ đầy quái dị, tay chân đều thẳng tắp, cách ăn mặc giống như những nhân vật trong các buổi diễn hí kịch của đoàn hát rong. Đang quây tròn xung quanh chiếc đèn đá giữa thôn, vừa nhìn thấy có người trong phòng đi ra, những kẻ này lập tới lao tới.

    Thôi lão đạo rùng mình lạnh buốt toàn thân, thấy không ổn, vội vàng lui về trong trong phòng, quên mất dưới chân còn có bậu cửa, vậy là ngã ngửa xuống đất. Nhưng ứng với câu nói "sống chết có số", đáy cái hồ lô thu được dưới mộ cổ treo ở bên hông đập xuống đất, từ bên trong đột ngột bắn ra một quả cầu lửa. Lúc ấy, đám người ăn mặc quan phục thời xưa đã xúm lại gần sát ông này rồi, sau khi bị quả cầu lửa bắn trúng chính diện, toàn bộ bắt lửa bốc cháy phừng phừng, phát ra tiếng gào thảm thiết. Lửa cháy càng lúc càng mạnh, chỉ trong nháy mắt bọn chúng đã biến thành tro bụi. Cả khu vực nồng nặc mùi thối xác chết, rất lâu sau vẫn không chịu tan.

    Thôi lão đạo giật mình tỉnh ngộ, bên trong cái hồ lô ở bên cạnh bộ xương có lắp đặt cơ quan bằng lò xo, nhét đầy đất dẫn lửa của Tây Vực, đập mạnh để phát động, có khả năng phun ra Thiên Lôi Địa Hỏa. Nghe nói xưa kia nước Liêu đã từng có một vị Hỏa Hồ Lô Vương, còn khu vực này lại thuộc về địa phận của nước Liêu, bởi vậy bộ xương trong ngôi mộ cổ quá nửa là của người này. Lúc bấy giờ ông này vẫn chưa hết kinh sợ, nhưng vẫn kịp nhận ra con lừa đã chạy mất rồi. Nhờ có con lừa bị buộc ở cửa mấy ngày vừa rồi, do tiếng lừa hí có thể trừ tà, cho nên ma quỷ trong thôn dám bước vào cửa. Hôm ấy ông này quên không buộc dây, con lừa đã chạy đi mất, nếu không phải lúc đào trộm mộ thu được cái hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa thì sợ rằng khó thoát khỏi cái chết. Ông này chỉ muốn mau chóng rời khỏi nơi ma quái này, lảo đảo đứng dậy, chợt nhớ ra lương khô vẫn để trong phòng. Bên ngoài loạn lạc, người chết đói la liệt khắp nơi, dù có chạy trốn giữ mạng cũng phải vào lấy lương khô rồi mới chạy. Ông này đẩy cửa vào trong nhà định lấy lương khô, thế nhưng do tâm trí hoảng loạn, trong lúc vội vàng không kịp định hướng, vừa đẩy cửa ra đã phát hiện mình đã vào nhầm phòng, căn phòng đó là của hai cha con nhà nọ.

    Dù bên ngoài ánh trăng sáng như gương, nhưng trong phòng vẫn tối đen. Đẩy cửa phòng ra, Thôi lão đạo vừa ngó vào đã lờ mờ nhìn thấy hai người phụ nữ. Ông này ngẩn người ra, dụi mắt nhìn kỹ lại. Ông lão và người con ngớ ngẩn đứng như trời trồng trong phòng, trong đầu ông này tự hiểu có chuyện không hay, nhưng còn chưa kịp nghĩ ra rốt cục là có chuyện gì xảy ra thì đã thấy hai cha con nhà nọ đột ngột xoay người lại. Sau khi quay lại, hai người đã hoàn toàn biến thành phụ nữ, phát ra tiếng thút thít nỉ non, gương mặt kỳ dị, nhìn thế nào cũng không thấy giống người còn sống.

    Thôi lão đạo chợt nhận ra, sau lưng ông lão và người con ngớ ngẩn có một vật thể giống như con rối bằng da người bám chặt vào, chúng cũng chẳng khác gì đám ma quỷ bên ngoài kia, tất cả đều là con rối bằng da người thành tinh. Ông này định thả Thiên Lôi Địa Hỏa trong hồ lô ra để thiêu hủy hai con rối bằng da người đó, nhưng lại sợ làm hại đến hai cha con nhà nọ. Cái khó ló cái khôn, ông này rút một cây châm thép trong lồng ngực ra, đâm vào hai con rối bằng da người mỗi con một phát. Chợt vang lên hai tiếng thét chói tai, ông lão và đứa con ngớ ngẩn ngã gục xuống đất, hai con rối bằng da người lảo đảo định chạy trốn. Nhìn thấy thế, Thôi lão đạo vội vỗ vào đáy hồ lô, Thiên Lôi Địa Hỏa phụt thẳng vào hai con rối bằng da người, chúng lập tức bị đốt thành tro bụi.

    Hai cha con nhà đó dần tỉnh lại, quỳ rạp xuống đất dập đầu binh binh cảm ơn ân cứu mạng của Thôi lão đạo. Thì ra thôn Huyền Đăng là nơi sống tập trung của những nghệ nhân diễn kịch bóng. Kịch bóng còn được gọi là hí kịch đèn chiếu hoặc hí kịch chiếu bóng. Nhà nào trong thôn cũng có tay nghề gia truyền. Họ dùng da dê làm thành con rối, sau khi trời tối căng một tấm vải trắng trước cây đèn chiếu sáng, nghệ nhân trốn phía sau, miệng hát theo câu chuyện, tay điều khiển con rối. Trên tấm vải trắng sẽ hiện lên hình ảnh có màu sắc. Người trong thôn túm năm tụm ba hợp nhau lại thành gánh hát, đi ra ngoài diễn hí kịch đèn chiếu để mưu sinh. Toàn bộ nam nữ già trẻ ai ai cũng biết diễn, trình độ làm con rối có thể nói là cao tuyệt. Mỗi khi đến dịp tế tổ hàng năm, họ phải căng vải trắng vây tròn xung quanh cây đèn đá trong thôn rồi diễn hí kịch đèn chiếu dưới ánh trăng.

    Đời này qua đời khác đều bám vào nghề này để kiếm sống, tình trạng này đã kéo dài cả mấy trăm năm. Nhưng chén cơm này không dễ nuốt trôi, bởi vì công việc này luôn đi đôi với tình trạng cạnh tranh gay gắt, đối thủ quá nhiều. Nếu muốn kiếm được tiền thì phải có tuyệt chiêu đặc biệt không giống ai, bởi vậy có người dân trong thôn đã giết người rồi lột da nạn nhân ra để làm con rối. Khi biểu diễn bằng loại con rối bằng da người, có khả năng biến giả thành thật, hình ảnh chẳng khác bao nhiêu so với người sống. Kể từ đó, nhà nào cũng đua nhau làm việc này. Những người đi ngang qua vào thôn Huyền Đăng tìm nơi ngủ trọ, thông thường sẽ bị người trong thôn giết hại để làm con rối bằng da người. Mặc dù tiền kiếm được không ít, nhưng có ai ngờ âm khí của con rối bằng da người rất nặng. Sau khi để trong hòm gỗ trên trăm năm, chúng sẽ biến thành yêu tinh hình người. Có một năm, sau khi diễn xong hí kịch đèn chiếu, họ đã nhất thời sơ sẩy quên không đóng kín rương, con rối bằng da người chui ra tác quái, ăn sống nuốt tươi toàn bộ người trong thôn, sau đó tản ra khắp nơi quậy phá, cứ đến tối mới quay hết cả về đây. Toàn bộ cư dân của thôn Huyền Đăng chỉ còn lại ông lão và đứa còn là may mắn sống sót, nhưng hai người bị con rối bằng da người bám chặt sau lưng. Những năm qua, hai người vẫn bị cầm chân ở trong thôn, may nhờ có Thôi lão đạo hỏa thiêu con rối bằng da người, yêu quái sau lưng họ tức thì bị diệt.

    Chín

    Ông lão kể lại ngọn ngành câu chuyện cho Thôi lão đạo, chỉ hận kiết xác không một xu dính túi, không biết báo ân bằng cách nào. Sau khi lục tung cả nhà, ông lão tìm được mấy cây đinh dài ba tấc, là loại đinh thuyền dùng để đóng quan tài, đưa chúng cho Thôi lão đạo, bảo rằng đây là thứ dùng để khóa chặt rương ngày trước.

    Bởi đào được hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa trong ngôi mộ cổ ở ngoài vùng hoang vu đã là tốt lắm rồi, cho nên Thôi lão đạo không còn đòi hỏi gì hơn. Thấy ông lão đưa cho mấy cây đinh đóng tài đinh, ông này nghĩ mãi mà không hiểu ông lão có dụng ý gì. Những người biểu diễn hát rong ngoài đường rất kiêng kị đinh, bởi vì đụng phải đinh tức là điềm báo bị đập vỡ nồi cơm. Ông này suy đoán, vào nửa đêm nửa hôm chắc con lừa sẽ không chạy đi quá xa, có lẽ ở ngay ngoài rìa thôn, tìm được nó còn có thể bán lấy tiền, bởi vậy không còn tâm tư nói thêm vài câu với ông lão nữa, giữa đêm chạy ra ngoài tìm lừa. Nhưng nói thì dễ làm thì khó, con lừa chẳng biết đã chạy đi đâu từ bao giờ, ông này lùng sục khắp cả vùng đất hoang cho đến lúc hừng đông, nhưng ngay cả lông lừa cũng còn chẳng tìm thấy được một cọng. Bởi vậy, trời vừa tảng sáng là ông này lại quay về thôn Huyền Đăng, trong lòng cực kỳ chán chường, định chào từ biệt ông lão. Thế nhưng, trong phòng không có người nào, chỉ có hai bức tượng đất chỏng chơ trên mặt đất, hình dáng tướng mạo có đôi nét tương tự như hai cha con nhà nọ. Thôi lão đạo chấn động, lúc bấy giờ mới biết, do được cúng bái đã nhiều năm, bức tượng tổ sư của thôn Huyền Đăng đã sinh ra linh, vội vàng nhặt mấy cây đinh đóng quan tài dưới nền nhà lên, khi cầm đến tay thấy nặng trịch, gõ vào nhau vang phát ra tiếng lanh lảnh. Thôi lão đạo có mắt nhìn hàng, trong lòng tự hiểu mấy cây đinh đóng quan tài đó không phải là vật tầm thường.

    Thôi lão đạo ngẫm nghĩ: "Năm xưa, người dân thôn Huyền Đăng dùng con rối bằng da người để biểu diễn hí kịch đèn chiếu, chắc là để phòng người lũ rối tác quái, chẳng hiểu họ đã tìm được ở đâu mấy cây đinh đóng quan tài rồi thả vào rương chứa bọn chúng. Sau này, vì chủ quan nên đã quên khóa rương, tạo cơ hội cho lũ con rối bằng da người chui ra tác quái, toàn bộ người trong thôn đã không thoát được kiếp nạn đó. Đến hôm nay, mấy cái đinh đóng quan tài này rơi vào tay lão đạo ta, chẳng biết chừng sau này sẽ có tác dụng trọng yếu." Bèn nhét số đinh đóng quan tài vào trong người, khoác hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa lên lưng, châm nến lạy hai bức tượng đất vài cái rồi tìm đường ra khỏi "thôn Huyền Đăng". Nghe nói Hà Nam xảy ra nạn đói chiến tranh loạn lạc, quan binh và nghĩa quân tàn sát nhau ở khắp nơi, qua bên đó là cửu tử nhất sinh, ông này đành chuyển hướng đi về phía Quan Đông. Sau này, Thôi lão đạo vượt qua được hiểm nguy rồi quay trở về Thiên Tân vệ, lại bày quày xem bói kể chuyện thuyết thư như trước. Lúc hỏa thiêu con rối bằng da người, hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa của ông ta đã bị sử dụng hết công năng, đất dẫn lửa lưu huỳnh diêm tiêu cũng không đào đâu ra được, chiếc hồ lô rỗng đã không còn tác dụng gì.

    Thôi lão đạo quen biết vị sư phụ già của đội tuần sông. Ông này từng bảo, khu vực hạ lưu chín sông của Thiên Tân vệ có thế phục long, xưa nay lũ lụt khó trừ, khi nào nhìn thấy mây đen trên trời xảy ra hiện tượng rắn hóa rồng, chắc chắn chỉ trong vòng vài năm nữa là sẽ xảy ra đại hồng thủy, đến lúc đó nước sẽ nhấn chìm Thiên tân vệ, cả người lẫn động vật chết đuối vô số kể. Nếu như có thể tìm ra chỗ phát ra yêu khí sớm, có lẽ còn có khả năng trừ được kiếp nạn này, đến lúc đó sẽ cần phải dùng đến mấy cây đinh đóng quan tài kia. Kể từ đó, ông này đã chôn số đinh đóng quan tài trong nghĩa trang miếu Hà Long. Từ cuối thời nhà Thanh cho đến năm 1958, cách nhau bởi thời kỳ dân quốc, chớp mắt đã vài chục năm trôi qua, chỉ còn Quách sư phụ là còn nhớ rõ việc này. Muốn đối phó vật ở trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương, không có mấy cây đinh Thôi lão đạo đã lưu lại chỉ sợ không làm nổi.

    Lúc dỡ bỏ nghĩa trang miếu Hà Long vào thời kỳ mới giải phóng, Quách sư phụ đã moi số đinh đóng quan tài đó lên, bọc kín bằng vải dầu, mấy năm qua vẫn chôn chặt dưới gầm giường gạch của nhà mình. Nhưng vấn đề là vật ở trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương đã trốn ở chỗ nào? Tại sao nhiều người tìm kiếm bao nhiêu lần như vậy mà vẫn không thể tìm ra? Truyền thuyết về ngôi nhà bị ma ám của chưởng quầy tiệm quan tài nhà họ Bạch có chôn dấu bảo vật, thực ra bảo vật đó là thứ gì? Ông ta tự hiểu, một mình không thể làm được việc này, phải gọi mấy người anh em đáng tin tưởng đến giúp đỡ. Bởi vậy, ông ta bèn bảo Đinh Mão đi gọi Lý Đại Lăng và Trương Bán Tiên đến để bàn bạc cách đối phó yêu ma trong "Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương".
     
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 20: Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương(Nửa chương đầu)


    Một

    Năm 1958, trời vẫn cứ khô hạn, mấy tháng liền không thấy một hạt mưa, Hải Hà đã sắp cạn thấy đáy. Việc không hay thì lại đồng thời xảy ra, đến đúng ngày mười sáu tháng bảy âm lịch, tại miếu Tam Nghĩa và Vương Xuyến Tràng lần lượt phát hiện hai cái xác khô, chẳng biết có phải là Hạn Bạt hay không nữa, nhưng dù sao trời cũng đổ mưa to, công việc nạo vét phòng chống lũ định kỳ phải ngừng hẳn lại. Quách sư phụ bảo Đinh Mão đi tìm Trương Bán Tiên và Lý Đại Lăng. Đúng lúc vợ không có nhà, ông ta làm vằn thắn chuẩn bị rượu, đợi ba người anh em tới rồi cùng nhau ăn sủi cảo uống rượu, đồng thời bàn tính về sự việc liến quan đến ngôi nhà bị ma ám.

    Từ lúc hồ ly lẻn vào nhà, bức tranh tết trên bếp lò đã hủy, trong lòng Quách sư phụ cảm thấy không yên. Hai ngày trước, ông ta đã nhờ người ta vẽ một bức tranh táo quân mới, làm sủi cảo cúng rồi dán tranh lên trên tường bếp. Nhưng thực ra, ông ta làm việc đó không phải do mê tín tin vào phong thuỷ, mà bởi trong nhà không có tranh tết táo quân, cứ cảm giác thiếu mất cái gì đó.

    Nghe nói có sủi cảo ăn, Trương Bán Tiên lập tức đến ngay. Hai người ngồi trước bếp lò nói chuyện phiếm.

    Quách sư phụ không hề nói năng gì tới ngôi nhà bị ma ám ở kho lương, định đợi tới lúc Đinh Mão và Lý Đại Lăng đến thì mới đề cập đến. Ông ta định xong món sủi cảo rồi mới vào chuyện chính.

    Vừa mới liếc qua bức tranh tết táo quân, Trương Bán Tiên đã giật mình kinh hãi, trên trán lấm tấm mồ hôi lạnh ngắt, quay sang hỏi Quách sư phụ: "Táo quân sao lại biến dạng như thế này?"

    Quách sư phụ đáp: "Không phải tranh lúc trước đâu, bức lúc trước đã dán ở đó nhiều năm nên đã rách mất rồi, tôi vừa mới thay đổi bằng bức khác, có gì đáng ngạc nhiên đâu."

    Trương Bán Tiên lại hỏi: "Quách gia, ông cũng biết là hai ba tháng chạp hàng năm táo quân lên chầu trời, nhưng cả đi và về tổng cộng là bao nhiêu ngày?"

    Quách sư phụ đáp: "Thầy hỏi thế để kiểm tra kiến thức tôi đấy hả, trên bếp lò của căn nhà cấp bốn nào mà chẳng dán tranh tết, không bên trên thì ở dưới. Chuyện về táo quân thì tôi cũng thuộc làu, cứ đến hai ba tháng chạp hàng năm là ông ta lên chầu trời, ba mươi lại quay về nhà, cả đi và về khoảng bảy tám ngày. Không xác định rõ là bảy hay là tám ngày là bởi vì tháng chạp có tháng thiếu có tháng đủ, tháng thiếu đi mất bảy ngày, tháng đủ đi mất tám ngày."

    Trương Bán Tiên bảo: "Ông chỉ biết một mà không biết hai, không phải lúc nào cũng dán tranh ông táo lên được đâu, nếu chưa đến ba mươi tết mà đã dán thì sẽ phạm vào điều kiêng kị, bát cơm của ông chắc chắn sẽ bể."

    Quách sư phụ nói: "Tôi chẳng qua chỉ là một kẻ vớt xác trôi sông, cả ngày làm bạn với xác chết, bát cơm như vậy bị đập bể cũng không đáng tiếc."

    Trương Bán Tiên lại nói: "Bát cơm bị đập bể thì không nói làm gì, không đáng vì điều đó mà phát sầu, nhưng còn một điều phạm húy khác nghiêm trọng hơn nhiều. Quách gia, tôi lại hỏi ông, khi táo quân lên chầu trời đi theo cửa trước hay là cửa sau?"

    Quách sư phụ đáp: "Bán Tiên thầy hỏi đi đâu thế, hỏi vậy ngang với đánh đố tôi rồi. Tôi nào có biết táo quân đi theo cửa trước hay là cửa sau."

    Trương Bán Tiên nói: "Tôi không hỏi đánh đố đâu, có nguồn cơn cả đấy."

    Quách sư phụ ngạc nhiên: "Như thế mà cũng có nguồn cơn sao? Vậy thầy thử nói xem, táo quên lên chầu trời bằng cửa trước hay cửa sau?"

    Trương Bán Tiên nói: "Táo quân chẳng đi theo cửa nào cả, bởi vì cửa nào cũng có thần canh cửa. Cửa trước là Tần Quỳnh Tần Thúc Bảo ôm song giản, cửa sau là Uất Trì Kính Đức cầm roi đồng, nếu cửa trước cửa sau đều có thần coi giữ, vậy thì cả hai đều không phải là lối đi của táo quân. Táo quân sẽ chui vào trong lòng bếp, mồi lửa tạo ra khói xanh, rồi theo làn khói đó lên trời."

    Quách sư phụ thử hình dung lại: "Đúng là có chuyện như vậy thật!. Những chi tiết vụn vặt như thế này, không ai có thể tinh thông hơn Trương Bán Tiên, nhưng vấn đề táo quân đi theo cửa nào thì có liên quan gì đến tôi?"

    Trương Bán Tiên bảo: "Táo quân theo khói bay lên trời, cho nên hình vẽ của ngài trong bức tranh phải ứng với chiều khói bay lên, ông lại dán bức tranh tết bị lệch đi, thế chẳng phải là chặn đường ông táo hay sao?"

    Nghe Trương Bán Tiên nói vậy, Quách sư phụ nhìn lại bức vẽ, quả thật là hơi lệch, dù nghĩ nát óc cũng không hiểu trong đó bao hàm vấn đề gì, nhưng nhất định không phải điềm may.

    Vừa rồi Trương Bán Tiên đã nhìn ra điềm xấu, lại hỏi Quách sư phụ dán bức tranh tết lên vào giờ nào. Chân đứng theo bát quái, tính toán chính xác phương vị, anh ta nhắm mắt lại bấm ngón tay suy tính, đột nhiên lớn tiếng hô "Hỏng rồi!!!".

    Hai

    Quách sư phụ và Trương Bán Tiên đang nói chuyện về bức tranh tết dán không cân xứng, hễ là điều gì vượt quá lẽ thường thì luôn luôn là điềm gở.

    Âm vang câu nói còn chưa dứt, Đinh Mão đã xộc vào bảo Quách sư phụ: "Lý Đại Lăng đã xảy ra chuyện!"

    Sau giải phóng, ban đầu Lý Đại Lăng đến nhà ga làm bốc vác, năm ngoại lại đi làm muối ở Ninh Hà. Công việc không những nhàn nhã mà còn kiếm được không ít. Sau khi muối kết tinh thành hạt thì cho vào bao tải, chất lên xe ngựa để chở đi. Khu vực sản xuất ra muối đương nhiên là đất nhiễm mặn, không mưa thì còn đỡ, nếu gặp phải mưa to, bùn đất quánh lại như mạch nha, cứ giẫm chân xuống là bị lún chặt. Ngày hôm đó có một xe ngựa chở bao tải muối bị kẹt chặt dưới bùn, Lý Đại Lăng và năm sáu người khác đẩy xe ở phía sau, nhưng dù họ đã dốc hết sức lực, bánh xe vẫn không chịu nhúc nhích. Trong lúc mọi người đang loay hoay tìm cách đẩy xe ngựa ra khỏi vũng bùn, nào ngờ trục xe đột ngột gãy đôi, chiếc xe trôi dần về phía sau. Thấy không ổn, Lý Đại Lăng định né tránh, nhưng hai chân dính chặt dưới bùn không sao nhấc lên được, bị bánh xe cán thẳng qua người, mất mạng ngay tại chỗ.

    Người ta thường nói "Gió mưa dễ đoán, sống chết khó lường". Nghe kể lại việc đó, Quách sư phụ và Trương Bán Tiên rất lâu sau vẫn còn chưa hồi phục lại. Những năm qua, mấy anh em vẫn luôn gắn bó với nhau, mối quan hệ rất mật thiết, Lý Đại Lăng đột ngột ra đi, ai có thể không đau lòng đây?

    Ba người than thở khôn nguôi. Lý Đại Lăng là một kẻ lưu manh, không nhà không người thân, chỉ có thể lén lút đốt thêm cho gã ít tiền vàng mã vào tam tiết lưỡng cung*.

    *Còn gọi là tam tiết lưỡng thọ. Tam tiết là tết Đoan ngọ, Tết Trung thu và Tết Nguyên đán. Lưỡng thọ là ngày sinh nhật của Khổng Tử và thày dạy học của mình.

    Vào ban đêm, ba người Quách sư phụ không còn tâm tư ăn sủi cảo, mỗi người ngồi riêng một góc lặng lẽ cúi đầu uống rượu giải sầu. Nhưng sự việc liên quan đến vật trong căn nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương thực sự không phải là chuyện nhỏ, dù bấy giờ không còn Lý Đại Lăng, ba người họ vẫn bắt buộc phải làm.

    Quách sư phụ bèn mượn rượu, nói ra đầu đuôi nguyên nhân hậu quả. Vào lúc phá hủy thành Thiên Tân, chưởng quầy tiệm quan tài nhà họ Bạch đã nhặt thành gạch về xây nhà. Nghe nói, trong nhà cất dấu một thứ rất giá trị. Nhưng sau khi trải qua vài chục năm, ngay cả con cháu nhà họ Bạch bao gồm cả Bạch Tứ Hổ, không một ai có thể tìm kiếm được vật đã được tổ tiên dấu trong nhà. Lục soát từ trên xuống dưới thậm chí đào sâu ba thước, dò xét không sót một phân bốn bức tường cũng không thấy vật thần kỳ nào cả. Bạch Tứ Hổ dùng búa thợ mộc ăn cướp, giết hại rất nhiều người, đến năm 1945 đã bị bắt rồi xử bắn. Người ta đã tìm thấy một cái xác cô gái trong nhà hắn, cái xác đó được ướp bằng muối, để ở trong nhà cả mười năm vậy mà vẫn không phân hủy bốc mùi. Kể từ đó, mọi người đều bảo rằng ngôi nhà đó bị ma ám. Thế nhưng, cái xác trong ngôi nhà bị ma ám đâu có phải do tổ tiên nhà họ Bạch để lại. Những năm vừa qua, kẻ đến ngôi nhà này ăn trộm bảo vật đâu có ít, nhưng không một kẻ nào được toại nguyện. Trước đó không lâu, có một kẻ không làm việc đàng hoàng là Đại Ô Đậu, kẻ này lòng tham vô đáy, đêm hôm khuya khoắt lẻn vào ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương một chuyến. Nhưng vì gánh tội giết người, hắn đã phải tay trắng trở về, vừa về đến nhà thì bị công an tóm sống, sau đó đã cung khai, trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương hắn đã nhìn thấy một đôi mắt, to bằng cỡ khay trà. Nhưng sau khi lục soát, trong phòng quả thực là không có một vật gì, hoặc là Đại Ô Đậu có tật giật mình nên đã hoa mắt, hoặc là hắn vòng vo bịa chuyện, nói tóm lại là không một ai tin tưởng.

    Nhưng cho tới hôm ấy, Quách sư phụ đã tin đó là sự thực, rất có thể vật tồn tại bao năm nay trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương là yêu quái, đã có đạo hạnh, sau này sẽ gây ra lũ lụt. Một câu chuyện ly kỳ như vậy, quan cũng được, mà dân cũng vậy, không một ai dám tin. Nếu vậy, ba người Quách sư phụ, Đinh Mão và Trương Bán Tiên cũng chỉ còn cách tự đi mà làm.

    Trương Bán Tiên nói: "Quách gia, tôi không có ý làm ông nhụt chí, nhưng vật bên trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương nhiều khả năng là rắn đã hóa rồng, đạo hạnh không dưới vạn năm, chỉ bằng ba anh em chúng ta, làm thế nào có thể đối phó được nó?"

    Quách sư phụ móc dưới gầm giường ra mấy cây đinh đóng quan tài lúc trước rồi bảo: "Khó nhất là không biết vật kia ở chỗ nào, chỉ cần tìm ra nó, tôi có thể làm cho nó trọn đời không thoát thân ra được."

    Sau khi trầm ngâm một lúc lâu, Trương Bán Tiên mới mở miệng: "Nếu Quách gia ông đã dám nói như vậy, tôi sẽ giúp ông tìm ra vật đang trốn ở trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương."

    Ba

    Mưa dầm không ngớt, từ sáng sớm đến đêm khuya. Ba người mải bàn chuyện, đến nửa đêm còn chưa ăn gì, bụng cả ba đều sôi lên sùng sục. Đinh Mão hâm nóng lại chỗ sủi cảo đã nguội ngắt, ba người ăn qua quýt mấy miếng cho xong bữa, sốc lại tinh thần, tính toán làm cách nào tìm ra được vật đang trốn trong ngôi nhà bị ma ám.

    Trương Bán Tiên nói: "Ngôi nhà bị ma ám ở kho lương chỉ có một điều kỳ quái, đó chính là dù xuất hiện lời đồn trong nhà chôn dấu bảo vật, thế nhưng lại không có một ai có thể tìm thấy. Nghe nói, kẻ ăn cướp bằng búa thợ mộc Bạch Tứ Hổ có đầu óc không bình thường. Tổ tiên nhà họ Bạch chôn dấu bảo vật bằng cách nào, đến đời Bạch Tứ Hổ thì đã thất truyền rồi, mà cũng có khả năng là chẳng truyền lại gì cho đời sau."

    Đinh Mão nói: "Cứ ngồi một chỗ mà nói suông thì có tác dụng gì, chi bằng để tôi tới ngõ hẻm kho lương một chuyến. Mắt tôi sắc bén, biết đâu có thể nhìn ra một vài dấu vết còn lưu lại, tìm hiểu đến tận gốc rễ xem thực ra là cái chết mẹ gì."

    Quách sư phụ lắc đầu bảo: "Ai mà chả muốn tới ngôi nhà bị ma ám cướp đoạt bảo vật. Thế nhưng, hai gian phòng ở ngõ hẻm kho lương đó chỉ thiếu mỗi phá trần đục tường nữa thôi, chỗ cần lục soát người ta đã lục soát cả rồi, chỗ cần tìm người ta cũng chẳng bỏ qua chỗ nào. Chúng ta không biết manh mối, dù có đi bao nhiêu chuyến cũng chỉ là uổng công."

    Trương Bán Tiên nói: "Quách gia Đinh gia, các vị thử ngẫm lại xem, ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương là nơi ở của lão chưởng quầy tiệm quan tài nhà họ Bạch. Theo tôi thấy, mặc dù tiệm quan tài kinh doanh có lãi đến mấy thì cũng không thể nào giàu bằng Bát đại gia ngày trước. Hơn thế nữa, Bát đại gia của Thiên Tân vệ lại chẳng hề để lại cho con cháu vật gì quý báu cả, vậy một thương gia bán quan tài như ông ta thì có thể để lại vật gì đáng giá đây?"

    Quách sư phụ tiếp lời: "Tiệm quan tài chỉ bán mỗi quan tài, cũng như mọi cửa tiệm khác mà thôi. Nếu gặp dịp có nhiều người chết, bán quan tài cũng có thể phát tài. Dù sao đi nữa, tiệm quan tài kiểu gì cũng lắm tiền, có bảo vật nào đó cũng chẳng biết chừng."

    Đinh Mão nói: "Năm Canh tý phá hủy thành Thiên Tân, chưởng quầy tiệm quan tài đã nhặt gạch xây thành về dựng nhà. Nghe lớp người già nói, gạch xây thành thực ra là bảo vật đấy."

    Trương Bán Tiên phản đối: "Không phải vậy đâu! Gạch xây thành vừa to vừa khó vỡ, nếu dùng để xây nhà thì tốt hơn rất nhiều so với gạch bình thường, gặp lũ lụt cũng không bị đổ, bởi vậy dân gian mới bảo gạch xây thành là bảo vật. Đó chẳng qua chỉ là cách nói ví von, sao có thể coi là đúng."

    Đinh Mão nói: "Tôi thật sự không nghĩ ra được cái gì. Nếu như là vật nhìn không thấy sờ không được, dù cho có phá sập toàn bộ nhà ở ngõ hẻm kho lương cũng chỉ là công cốc, tại sao lại có thể xảy ra sự việc bất thường như vậy?"

    Trương Bán Tiên ngửa mặt đau đầu suy ngẫm, bụng bảo dạ: "Trong nhà lão chưởng quầy tiệm quan nhà họ Bạch có thể có bảo vật gì chứ? Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương trống không, nhưng vật kia lại chẳng ở nơi nào khác mà rõ ràng là ở trong ngôi nhà đó, thế nhưng dù có trợn tét mi mắt ra cùng không tìm thấy, nó thực ra cái thứ gì?"

    Quách sư phụ là người điềm tĩnh già đời. Tuy là công an đường thủy, nhưng trong đời mình ông ta đã từng phá không ít những vụ án kỳ lạ, kinh nghiệm phong phú hơn người. Đinh Mão lanh lợi lão luyện, xưa nay là trợ thủ đắc lực của Quách sư phụ. Cộng thêm một kẻ trong đầu chứa đầy kiến thức tạp nham, được người ta gọi Trương Bán Tiên không gì không biết. Ba người họ tập hợp thành một nhóm, coi như cũng vượt quá nửa một anh Gia Cát Lượng rồi. Nhưng từ nửa đêm đến tận hừng đông, dù họ có suy nghĩ theo lối nào thì cũng đều đi vào ngõ cụt. Quách sư phụ cảm thấy lời nói của Trương Bán Tiên còn ẩn giấu ý nghĩa khác. Ông ta thừa biết anh chàng này cái gì cũng khư khư giữ ở trong lòng, rõ ràng đã biết điều gì đó nhưng lại lo lắng sẽ tiết lộ Thiên Cơ, suy tính ra rồi nhưng vẫn ra vẻ hồ đồ. Nếu như Trương Bán Tiên không chịu phá vỡ bức tường tâm lý của mình, dù có bàn luận cả ngày cũng chẳng có tác dụng gì.

    Quách sư phụ thầm nghĩ: "Trước khi xảy ra lũ lụt, phải tìm mọi cách tìm ra vật trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Năm nay đại hạn, qua rằm tháng bảy, thời kỳ lũ định kỳ cũng đã qua, tuy rằng sẽ có mưa, nhưng sẽ không đến mức xảy ra lũ lụt, vẫn còn nhiều thời gian, việc này không đến nỗi quá gấp." Ông ta định qua mấy ngày nữa sẽ đi tìm Trương Bán Tiên hỏi cho ra nhẽ, nhưng lại quên bẵng khi anh chàng này nhìn bức tranh tết ông táo đã nhìn ra điềm báo -- sẽ mất chén cơm.

    Bốn

    Lúc bấy giờ có người tố cáo lên trên, bảo rằng ngoài đường có rất nhiều lời đồn vô căn cứ, toàn bộ đều xuất phát ra từ bản thân Quách sư phụ, ảnh hưởng vô cùng xấu. Rất may là lão Lương đã đứng ra nói đỡ cho ông ta, nhưng người ta không thể để Quách sư phụ và Đinh Mão tiếp tục làm công an đường thủy được nữa, Đinh Mão bị điều tới vùng trũng phía nam, Quách sư phụ thì lập tức bị phái đến Bàn Sơn canh đập chứa nước. Thực ra, công việc vớt xác trôi sông của công an đường thủy mang nặng tính bất ổn, không phải là công việc sung sướng gì cả. Xác chết ngâm lâu nước phân hủy, hôi thối không ngửi được, thời buổi này chẳng còn ai muốn làm công việc này. Mặc dù bảo rằng có thể tích âm đức, nhưng trên trần thế lại chỉ thấy người sống chịu cực hình, có ma quỷ nào gánh đỡ cho đâu?

    So ra, gác đập chứa nước nhẹ nhõm hơn rất nhiều, mỗi tội là nơi đó vắng vẻ, điều kiện gian khổ, ăn uống được chăng hay chớ. Khu vực quanh đập chứa nước giữa rừng sâu hiếm có người lui tới, muốn tới thôn gần nhất thì phải đi băng qua ít nhất là hai mươi dặm đường rừng, mười ngày nửa tháng không thấy một bóng người. Công việc gác đập chứa nước chủ yếu là trông coi không cho người dân ở các thôn gần đó vào bắt cá. Quách sư phụ đã làm công an đường thủy nửa đời người, không ngờ bị người ta cho nghỉ việc, bắt vào đập chứa nước Bàn Sơn làm bảo vệ. Tuy nhiên, mọi việc trên đời này thường chẳng biết được là cát hay là hung, là phúc hay là họa. Nếu chỉ xét một cách đơn thuần, canh đập chứa nước Bàn Sơn không thể nào bằng làm công an đường thủy ở Thiên Tân vệ; Nhưng, nếu như xem xét theo chiều hướng lâu dài, năm 1959 bắt đầu bước vào thời kỳ ba năm khó khăn, toàn quốc thực hiện tiết kiệm lương thực nhịn đói, mọi người ăn không đủ no, lá cải dập nát rơi trên đường cũng bị người ta tranh nhau nhặt về ăn. Mấy năm đó, ông ta dựa vào đập chứa nước Bàn Sơn mà sống. Bên trong đập chứa nước có cá, trên núi có rất nhiều cây linh lăng, là một loại thực vật có thể ăn được. Bởi vậy, dù có nói như thế nào, ít nhất ông ta cũng không phải chịu đói. Quách sư phụ thừa biết mọi người đã đói vàng cả mắt, cho nên khi nhìn thấy người dân những thôn quanh đó đến đập chứa nước đánh trộm cá, ông ta chỉ mắt nhắm mắt mở cho qua, không đành lòng ngăn cấm, bởi thế đã phải gánh không ít tiếng xấu thay cho người khác. Sau một thời gian, cá bên trong đập chứa nước đã bị người ta ăn sạch.

    Ban đầu, Quách sư phụ luôn canh cánh trong lòng về ngôi nhà ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Nhưng vài năm tiếp theo, cơm cũng chẳng đủ no, ông ta lại phải trông coi đập chứa nước chết dí một chỗ. Hơn nữa, trời khô hạn nhiều mưa ít, không hể có dấu hiệu xảy ra lũ lụt, ông ta tự cho rằng mình đã quá cả nghĩ, trong căn nhà đó chẳng có cái gì sất, dần dần quên bẵng chuyện này đi, cũng không hay biết về sau ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương có bị phá hủy hay không.

    Chúng ta sẽ chỉ nói đến chuyện chính, lược bớt những gì không liên quan, giờ sẽ nói một cách ngắn gọn chi tiết. Sau thời kỳ vài năm tiết kiệm lương thực nhịn đói đó là bước vào năm 1963, đó là năm xảy ra lũ lụt. Theo sách vở ghi lại, trận lũ lụt năm 1963 là một trong những vụ thiên tai nặng nề nhất trong vòng hai ba trăm năm trở lại đây. Mùa hè năm ấy, khí hậu biến đổi khác thường, vào tháng nóng nhất của mùa hè, nhiệt độ bình quân lên tới bốn mươi độ, dông tố xảy ra liên tục. Từ vùng Hà Nam, có một đàn châu chấu đông nghìn nghịt bay sang, kéo theo lũ chim sẻ che kín cả bầu trời. Châu chấu thật sự rất nhiều, cả bầu trời biến thành một màu vàng úa. Còn xuất hiện cả hiện tượng "Cá trắng ao", trên mặt sông thường xuyên có cá chết phơi bụng trắng cả một vùng. Thời xưa, người ta cho rằng "Sông mù sương, cá trắng ao, gà gáy đêm, chó sủa mây", hiểu theo đúng nghĩa là "Chó nhắm vào mây trên trời sủa ông ổng, gà trống gáy vang giữa đêm khuya, nước sông chẳng hiểu tại sao biến thành đục ngầu, cá chết hàng loạt nổi trên mặt nước", tất cả đều là dấu hiệu báo trước có động đất, dù có tính khoa học nhất định, nhưng không phải lúc nào cũng tuyệt đối chuẩn xác. Ví như "Cá trắng ao" chẳng hạn, chưa chắc đã là dấu hiệu động đất, mà có lẽ là bởi nguyên nhân khác.

    Năm 1963, trên đoạn Hải Hà chảy qua Thiên Tân vệ xuất hiện hiện tượng cá chết hàng loạt, bởi trước kia chưa từng xảy ra sự việc như thế này, nên điều đó đã khiến cho lòng người bàng hoàng. Cấp trên muốn tìm người giàu kinh nghiệm để nghiên cứu, rốt cục là đã xảy ra chuyện gì, bởi vậy Quách sư phụ đã bị triệu hồi trở về, lại tiếp tục đảm nhận công việc tạm thời ở công an đường thủy, nhà cửa người thân vẫn ở lại đập chứa nước Bàn Sơn. Quách sư phụ thầm mắng, các vị làm thế này rõ ràng là "Cần người thì 'cách sông thì phải lụy đò', xong việc thì 'qua sông đấm bòi vào sóng'". Nhưng trên dòng Hải Hà xuất hiện sự việc bất thường, ông ta không thể nào đứng bàng quan. Đột nhiên xuất hiện nhiều cá chết như vậy, một dòng sông không xảy ra biến động, hai không có người nổ mìn đánh cá, có thể suy đoán ra dưới sông đã xuất hiện vật trái với quy luật.
     
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 20: Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương(Nửa chương cuối)


    Năm

    Năm 1963, trên dòng Hải Hà liên tục xuất hiện hiện tượng cá chết hàng loạt. Lúc còn ở đập nước Bàn Sơn, Quách sư phụ đã từng thấy vài lần tương tự, nhất định là cá lạ từ bên ngoài tới, nhưng Hải Hà dài vài chục km, nước sâu sông rộng, rất nhiều nhánh sông, cứ muốn là có thể tìm ngay ra được chân tướng hay sao?

    Quách sư phụ chưa kịp buồn phiền vì chuyện đó, dưới chân cầu Giải Phóng lại có người chết đuối, ông ta vội vàng chạy qua bên đó. Năm ấy mưa to, mực nước của tất cả các con sông đều dâng cao. Trời thì nóng tới phát sốt, ngoài đường giống như một cái nồi hơi. Có một cậu choai choai tên Nhị Tử, tầm mười hai mười ba tuổi, đen như hòn than, tóc trên đầu cắt kiểu hai trái đào như của chú tễu, năm nào cũng đi tắm sông dưới chân cầu Giải Phóng, kỹ năng bơi lội xuất chúng, kỹ năng nhảy cầu không một ai sánh bằng, cực kỳ quen thuộc dòng chảy dưới chân cầu. Khi cậu ta ra khỏi nhà đi bơi lặn, người trong nhà chưa bao giờ phải bận tâm. Hôm ấy, chẳng hiệu tại sao nữa, sau khi đi học về, cậu bé và mấy người bạn học đi qua cầu Giải Phóng thì chợt nảy ra ý định xuống sông. Thời ấy, khi bơi lặn, không ai mặc quần bơi, người lớn thì mặc đại một cái quần cộc rộng thùng thình, đám choai choai thì cởi truồng tất tần tật. Mấy cậu bé nhảy xuống sông, đang bơi lặn thỏa thích thì chợt phát hiện ra Nhị Tử chới với vùng vẫy. Lúc mới đầu, chúng cứ tưởng rằng là bạn mình đang diễn trò oái oăm nào đó, nhưng càng nhìn càng thấy không đúng. Chỉ một lát sau, cậu bé đã bất động úp mặt xuống nước nổi phập phù theo dòng nước. Mọi người sợ hết hồn, ba chân bốn cẳng lôi Nhị Tử lên bờ, đến khi nhìn lại thì cậu bé đã tắt thở từ lúc nào, bụng phình to, giống như hiện tượng bị chết đuối vậy.

    Người nhà phủ phục lên xác cậu bé khóc như mưa. Những người thường bơi lặn ở khu vực này kéo tới xem. Đa phần họ đều quen biết Nhị Tử, thừa biết kỹ năng bơi lội của cậu bé rất tốt, tại sao lại chết đuối kỳ lạ như vậy?

    Đúng lúc ấy, Quách sư phụ cũng vừa đến nơi. Nhìn thấy cậu bé nằm thẳng thuỗn trên mặt đất, phía sau mông có vết máu, ông ta bèn đè hai tay lên bụng nó ấn mạnh một cái. Chất dịch ộc ra khỏi miệng tử thi, là nước sông trộn lẫn với máu. Sau khi ấn thêm vài cái, tử thi phun ra một con vật đen sì, nửa giống cá nửa giống rắn, toàn thân trơn tuột, quả thật to đến kinh người, nhưng ông ta vẫn không cứu sống được cậu bé choai choai đang nằm trên mặt đất. Quách sư phụ nhận ra loại cá đó, tên nó là Tước Thiện (Một loài lươn của Trung Quốc), là loài cá nước ngọt nổi danh hung dữ, xưa nay chưa từng thấy dưới Hải Hà có loài cá này. Năm ấy mưa nhiều, vài ngày trước nước đã vài lần tràn sang, có lẽ khi đó Tước Thiện đã bị cuốn vào dòng Hải Hà. Cá dưới dòng sông này đã bị chúng cắn chết sạch. Nhị Tử xuống sông bơi lội, nên đã bị Tước Thiện chui vào bụng. Loài cá này chui luồn còn nhanh gấp mấy lần cá chạch, nháy mắt đã tọt vào trong bụng động vật sống, cho dù kỹ năng bơi lội có tốt đến mấy cũng khó mà giữ được mạng sống. Bắt một hai con e rằng không thể diệt trừ tận gốc, nhưng cũng còn may là loài cá này không sống qua được mùa đông, đến thời điểm này sang năm sẽ không còn con nào. Nhưng trước mắt, nếu muốn diệt trừ thì chỉ có cách thả lưới mắt nhỏ. Quách sư phụ chỉ vào mấy chỗ, bảo mọi người giăng kín lưới mắt nhỏ. Dòng nước Hải Hà bị cá ngoại lai xâm lấn, trước giải phóng đã từng từng xảy ra, nhưng chưa đáng coi là tai họa, điều thực sự khiến ông ta cảm thấy lo ngại là mực nước con sông này dâng lên quá cao. Nếu như vẫn cứ tiếp tục mưa to, toàn bộ nhà cấp bốn trong khu nội thành sẽ bị nước lũ nhấn chìm. Quách sư phụ ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, mây đen âm u chỉ chực đổ mưa xối xả, chim chóc nháo nhác bay vụt qua đỉnh đầu. Lúc bấy giờ có tin tức truyền tới, bảo là bên trên đã gửi xuống thông báo khẩn cấp, yêu cầu các hộ gia đình hai bên bờ sông lập tức sơ tán.

    Tháng tám năm 1963, trời mưa to không ngớt, mực nước năm nhánh sông chính của Hải Hà đồng loạt dâng cao, đã có vài lần nước lũ lớn tràn về, tất cả các đập chứa nước đã căng tràn, bên ngoài Thiên Tân vệ là một biển nước mênh mông, vô số thôn đã ngập chìm trong tai hoạ. Nước đã dâng cao tới vài mét, luồng nước lũ đầu tiên đã sắp đã tràn về đến nơi, cường độ vừa nhanh lại vừa mạnh, Thiên Tân thành làm lâm vào tình thế nguy ngập như trứng trên đầu đũa, thị ủy ra mệnh lệnh tổng động viên toàn dân, lấy các cơ quan công an và dân binh của địa phương làm nòng cốt, mọi người không phân biệt nam nữ, cùng nhau lên mặt đê chính để chống lũ.

    Sáu

    Cùng ngày tuyên bố lệnh tổng động viên, trên đường cái nhanh chóng không còn một bóng người. Người già và trẻ con được đưa lên chỗ cao để tránh nạn, những người còn lại thì cứ hai người cầm theo đòn gánh và sọt, toàn bộ lao lên trên con đê, dựa theo kế hoạch gánh đất tôn cao mặt đê. Con đê chính dài tới hơn ba trăm km, nếu để nước lũ phá ra một lỗ thủng, thành Thiên Tân coi như đã xong. Tuy rằng hàng năm được gia cố, nhưng trước kia chưa bao giờ gặp phải nguy cơ lũ lớn như vậy, quy mô vượt xa tất cả các lần khác trong quá khứ.

    Thời điểm đó, toàn bộ công an đường thủy đều là học trò mà Quách sư phụ đã từng dẫn dắt. Họ đi theo dòng người lên mặt đê, nhìn thấy đầu người như thủy triều, người đông nghìn nghịt không nhìn thấy cuối, không tài nào ngờ lại có nhiều người tham gia như vậy, chỗ này không thể nào dưới mười vạn người được. Nhiều người như vậy, đơn vị nào cũng có, có những đơn vị toàn bộ nhân viên cùng có mặt. Những người đó, nữ có nam có, trẻ có già có, người mạnh kẻ yếu, có người nhanh chân chạy tới trước, có người chậm hơn còn chưa tới, cũng có người nghe thấy lệnh tổng động viên tự mình chạy tới, không biết nên nghe theo lời chỉ huy của ai. Đối mặt với thiên tai khủng khiếp như thế, người nào cũng cảm thấy hoảng sợ bất an. Trên mặt con đê, mọi người chen chúc nhau tạo thành một cảnh tượng hỗn loạn .

    Rất nhiều người nhận ra Quách sư phụ, cùng đồng thanh nói: "Quách sư phụ là Thần sông, chúng ta đừng náo loạn nữa, tất cả hãy nghe theo sự chỉ huy của Quách sư phụ."

    Thấy đội ngũ quá lớn, Quách sư phụ tự biết mình không thể chỉ huy được. Nhưng bao nhiêu người đang trông chờ mình nhận lời như vậy, ông ta không thể nào từ chối. Cũng còn may là ông ta là người lăn lộn ở đội tuần sông, đủ biết cần phải tôn tạo đê điều để chống lũ như thế nào. Bởi vậy ông ta bèn bảo, muốn ngăn được nước lũ thì đê càng cao càng tốt, chúng ta chia ra làm ba đội, đội thứ nhất đến chân đê lấy đất, đội thứ hai chuyển đất lên mặt đê, đội thứ ba tôn cao mặt đê.

    Mọi người liên thanh đồng ý, lập tức lao đầu vào công việc, bắt đầu dùng đất gia cố con đê. Tuy nhiên, con đê chính dài hơn ba trăm km, số lượng người tham gia không dưới mười vạn, Quách sư phụ chỉ chỉ huy được một khu vực nhỏ, các nơi khác vẫn rơi vào tình trạng rối loạn, trong khi đó trời lại đang mưa to. Mọi người bất chấp trời mưa như trút nước, khiến trên mặt con đê lầy lội lại càng thêm rối loạn mất trật tự. Trong lúc nguy cấp, mười vạn quân đồn trú rầm rập chạy tới. Quân đội được huấn luyện nghiêm khắc, có tổ chức có kỷ luật, dùng liên làm đơn vị chia nhau tới các nơi giải nguy. Bộ đội vừa đến, đám người hỗn loạn lập tức đi vào khuôn phép, ổn định lại không còn hỗn loạn như trước, theo hướng dẫn của quân nhân vận chuyển đất đá. Bầu trời cứ như là bị dột, mưa như trút nước ào ào đổ xuống không ngừng. Ban ngày mà lại tối như giữa đêm, hai người đối mặt nói chuyện với nhau cũng không thể nghe thấy gì.

    Toàn thân mọi người ướt đẫm, giầy tuột chẳng buồn nhặt lại, quần áo và bả vai mặc cho đầu đòn gánh hành hạ, bất chấp tất cả mọi thứ, té ngã lại đứng lên. Rất nhiều người thoát lực ngất xỉu, được khiêng xuống dưới, một lát sau tỉnh lại, lại chạy về chỗ con đê tiếp tục công việc. Mưa gió bão bùng, bốn xung quanh tối như hũ nút, đột nhiên dòng nước bên bờ đê sủi bọt, vô số con chuột leo lên trên mặt đê, liều mạng lách qua chân mọi người chạy trối chết, nhiều đến mức không còn chỗ trống mà đặt chân.

    Quách sư phụ căng mắt nhìn lên thượng nguồn, thấy rõ ràng xa xa có một dải sóng trắng xóa, đang nhanh chóng lao tới gần con đê chống lũ, trong lòng thừa hiểu nước lũ đang ập tới, cường độ đã lên đến đỉnh, dải sóng trắng càng di chuyển càng rộng. Chỉ trong nháy mắt, sóng lớn đã trào tới, nước lũ quật mạnh vàp thân đê, mọi người cảm thấy dưới chân rung rinh như động đất, con đê lập tức bị lũ phá vỡ vài chỗ.

    Sắc mặt tất cả mọi người đều trắng bệch, nhưng thấy nước lũ hung dữ kéo tới với cường độ mạnh, không một ai dám chần chừ, quân dân quên sống liều chết, ra sức hàn gắn những chỗ đê bị vỡ. Cho đến khi trời tối đen, cuối cùng con đê cũng đứng vững trước sức công phá của đợt lũ đầu tiên. Năm sáu mươi vạn mọi người mệt mỏi đứng còn không vững, quấn vội áo mưa quanh người, vừa ngả lưng vào triền đê đã lăn ra ngủ. Chỉ chốc lát sau, tiếng ngáy đã đồng loạt nổi lên. Có người ngủ mê mệt không biết trời đất gì nữa, có người tỉnh ngủ động tí lại giật mình. Trên mặt con đê chính, không chỉ có con người, mà còn có cơ man nào là chuột, ếch xanh, rắn. Xuất phát từ bản năng, những động vật này đã leo lên chỗ cao để trốn tránh trước khi nước lũ kịp ập tới đó. Bởi vậy, đã tạo nên cảnh tượng người rắn chuột ngủ chung hiếm thấy.

    Bảy

    Tháng tám năm 1963, một trận lũ lụt với cường độ mạnh hiếm có đã cô lập thành Thiên Tân. Hơn mười vạn quân dân quên mình, dốc sức liều mạng chặn đứng dòng nước lũ đầu tiên. Quách sư phụ và số quân dân còn lại trên mặt đê, liên tục một ngày một đêm phối hợp tiến hành gia cố con đê, sống chết không rời vị trí, đúng lúc ấy lại nhận được lệnh không thể rút lui ngay, bởi vì sắp có một đợt lũ thứ hai còn lớn hơn. Tình hình hư hại của con đê vô cùng nghiêm trọng. Cho dù đợt lũ thứ hai có cường độ như đợt thứ nhất đi nữa, con đê rạn nứt khắp nơi cũng khó có thể chống chọi được, huống chi là còn mạnh hơn nhiều. Kể cả có phá đê xẻ lũ trên thượng du cũng không tạo ra được tác dụng quá lớn. Tình thế cực kỳ nghiêm trọng.

    Chạng vạng tối ngày hôm ấy, mưa to chợt tạnh, Quách sư phụ ăn vội phần cơm do công tác hậu cần cung cấp, ngồi trên mặt đê nghỉ ngơi lấy lại sức. Mặc dù mới chỉ năm sáu giờ chiều, nhưng sắc trời rõ ràng đã tối như hũ nút, có lẽ đợt lũ thứ hai sẽ tới vào sáng sớm ngày mai. Ông ta chợt nhớ tới sự việc ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Mấy cây đinh đóng quan tài, ông ta vẫn luôn dấu trong người mang theo, thầm nghĩ: "Vật trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương có liên quan đến hiện tượng rắn hóa rồng. Năm xưa, vị sư phụ trước của đội tuần sông đã nói trước một câu, nếu không diệt trừ được con quái vật này, chắc chắn sẽ dẫn tới cơn lũ lớn hơn nữa. Không tới ngôi nhà bị ma ám đó nhìn cho rõ ràng, tóm lại là vẫn không thể yên tâm."

    Tranh thủ lúc tạnh mưa, Quách sư phụ tìm học trò của mình mượn một chiếc xe đạp, không nói mình sẽ đi đâu, treo đèn pin lên ghi đông rồi xuống đê, đạp một mạch về phía công viên Bắc Ninh. Mặc dù con đê chính đã ngăn chặn được nước lũ, nhưng mương máng trong nội thành Thiên Tân đã ngập đầy nước. Những con đường nằm ở vùng thấp, nước đã ngập ngang eo, ông ta buộc phải xuống dắt xe lội qua. Trên những con phố chính đã cắt điện, toàn bộ đèn đường đều đen ngòm, mọi người đã rút lên khu vực cao. Khi đến khu vực cạnh Ninh viên, ông ta thấy tất cả các căn nhà đã đóng chặt cửa, trong phòng không có ai, quả thực giống như đang ở giữa một tòa thành bỏ hoang.

    Ông ta định trong đêm chạy đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương xem xét một lượt, trước khi hừng đông lại chạy về chỗ con đê, tránh bị tiếng xấu chưa lâm trận đã bỏ chạy.

    Mấy năm trước, công viên Bắc Ninh mở rộng hồ, dự định sẽ dỡ bỏ nhà dân ở ngõ hẻm kho lương. Nhưng mới phá dỡ được hơn phân nửa con hẻm thì bước vào thời kỳ nhịn ăn tiết kiệm lương thực, công việc mở rộng hồ bắt buộc phải dừng lại. Mặc dù ngõ hẻm kho lương đã bị phá hủy quá nửa số nhà cửa, nhưng ngôi nhà bị ma ám vẫn chưa bị động chạm đến. Ông ta tìm đến căn nhà hai gian của Bạch Tứ Hổ, trong ngõ hẻm không nhà nào có người ở cũng không có đèn, bầu trời đầy mây đen nặng trịch như sắp sập xuống. Cửa sổ hai gian phòng đổ nát đã bị mất cánh, phòng trong phòng ngoài tối đen như mực, không khí trong phòng nặng nề âm u, ngay cả muỗi cũng không có lấy một con.

    Quách sư phụ bật đèn pin, cầm mấy cây đinh đóng quan tài trong tay, cất bước đi vào trong phòng. Vừa bước vào cửa, hơi ẩm xộc thẳng vào mũi. Quét đèn pin một vòng, lớp vữa ngoài mặt tường trong phòng đã bị tróc sạch, lộ ra lớp gạch thành cổ được xây theo hàng ngũ rất chỉnh tề. Trần nhà bị mưa dột, giấy dán trần đã mủn nát hết, ngẩng đầu lên là có thể nhìn thấy đòn nóc phủ đầy bụi đất và mạng nhện, bên trên nữa là mái nhà. Hai gian đổ nát chỉ có như vậy, ngoại trừ gạch là loại gạch cổ nhặt về khi phá thành năm Canh tý, những thứ còn lại chẳng có gì khác với những nhà dân bình thường khác. Loại gian nhà cấp bốn mười mét vuông như thế này, bất cứ ở đâu cũng có thể dễ dàng nhìn thấy. Ông ta chợt nhớ lại những gì Trương Bán Tiên đã từng nói: "Vật bên trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương có lẽ ẩn trốn ngay ở trước mắt mọi người, rõ ràng là nhìn thấy nhưng lại cho rằng trong phòng trống không, vậy thì nó là cái gì?"

    Quách sư phụ sờ lần từng viên gạch một, rồi soi đi soi lại đèn pin vào những góc tối và trên nóc nhà mấy lần. Mặc dù không thấy có chỗ nào khác thường, nhưng ông ta vẫn có thể cảm nhận được, trong phòng có một luồng khí âm u lạnh lẽo, khiến cho lông tóc trên người dựng đứng. Nếu như chỉ là nhà ở bình thường, không thể nào có cảm giác như vậy, chẳng lẽ còn có điểm nào nằm ngoài tầm hiểu biết của con người? Ông ta không chịu từ bỏ ý định, gan quả thực lớn tày trời. Sau khi tắt đèn pin, ông ta ngồi cạnh chân tường nhắm mắt lại, ngẫm nghĩ kỹ lại toàn bộ từ đầu đến cuối: "Năm Canh tý, chưởng quầy tiệm quan tài nhà họ Bạch xây nhà chôn dấu bảo vật, nhà một người bán quan tài thì có nổi bảo vật gì đây? Chẳng lẽ là căn phòng này. . ."

    Vừa mới lần ra được đầu mối nào đó, Quách sư phụ chợt nghe thấy trong phòng có người rít qua kẽ răng cười lạnh lùng, trong lòng trở nên kinh hoàng, lập tức căng mắt lên nhìn, lập tức thấy một con rắn mối khổng lồ dài chừng hơn một trượng, đầu có sừng, thân hình ẩn hiện trong hơi nước, ngoằn nghoèo bò từ trên vách xuống, đang há cái miệng đỏ lòm nhằm thẳng vào ông ta chực đớp.

    Tám

    Quách sư phụ giật bắn người, rắn mối khổng lồ có sừng trên đầu chẳng phải là ứng với rắn đã hóa rồng? Vật trốn trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương nhất định là con vật này, nhưng tại sao bình thường không ai có thể nhìn thấy nó? Rốt cục là nó trốn ở chỗ nào?

    Lúc ấy không kịp nghĩ ngợi nhiều, con vật kia đang ngoác miệng bò đến gần, Quách sư phụ dùng luôn cây đinh quan tài đang cầm sẵn trên tay đâm thẳng vào nó. Đột nhiên một tiếng rít quái dị vang lên, ông ta lập tức ngồi bật dậy, trống ngực đánh thình thình. Trước mặt tối đen không có lấy một tia sáng, trong phòng không có hơi hám của sinh vật sống, hiển nhiên là không có bất cứ con vật gì. Ông ta vội lần tìm đèn pin, bật lên rồi quét xung quanh một lượt, rõ ràng là không thấy có gì khác lạ, trong lòng tự nhủ: "Có lẽ là mình đã mệt mỏi quá độ rồi, ngồi ngủ gật trong phòng lúc nào không hay, rồi chìm vào một cơn mơ như vậy, nhưng tại sao sao cảnh tượng trong mơ lại cứ như thật vậy?"

    Phát hiện ra số đinh quan tài đã rơi khỏi bàn tay, Quách sư phụ bèn cúi xuống nhặt lên từng cái một, nhưng vẫn thiếu mất một cây, tìm khắp nơi mà không thấy. Trong lòng sinh ra lo sợ, ông ta lần mò khắp cả gian phòng với tâm lý phải tìm cho bằng được cây đinh quan tài đó, bởi đã biết rõ vật trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương là thứ gì rồi. Bốn vách tường mặt đất đều đã tìm mấy lần, nhưng vẫn không thấy cây đinh quan tài đâu cả, ông ta lại leo lên nóc nhà tìm tiếp. Đột nhiên, một tia sét giáng xuống, trời sáng bừng lên như giữa ban ngày, ông ta chợt nhìn thấy cây đinh quan tài đó đang cắm trên xà ngang. Sau khi phủi bụi đất và mạng nhện đi, ông ta thấy rõ thanh xà ngang là một đoạn gỗ lim nặng trịch dài hơn trượng, bề mặt giăng kín vân gỗ giống như mai rùa, một mặt có hai lỗ thủng giống như đôi mắt. Vừa nhìn thấy, Quách sư phụ đã giật mình kinh hoảng không sao bình tĩnh lại được.

    Đúng lúc ấy, từ phía tây bắc, vô số đám mây đen xì nối tiếp nhau kéo tới, tiếng sấm nổ đinh tai, mưa như trút nước, trong lòng ông ta đã đại khái hiểu ra chuyện gì xảy ra rồi. Chưởng quầy tiệm quan tài nhà họ Bạch không biết nhặt ở đâu về một tấm ván quan tài bằng gỗ lim vân vàng tối sẫm, mơ hồ có dấu hiệu hóa rồng. Vào năm Canh tý, lúc phá thành xây nhà, ông này đã dùng đoạn gỗ lim đó làm xà ngang, không cần hỏi cũng biết, nhất định là âm mưu mượn Long khí để thay đổi phong thuỷ, bởi vậy mới bảo con cháu không thể tự ý động chạm đến đồ vật trong ngôi nhà này. Không một ai có thể nghĩ ra, vật bên trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm lương hóa ra lại là cây xà nhà bằng gỗ này. Thứ này đã thành tinh, rất may là đạo hạnh còn chưa đủ. Khi kẻ ăn cướp bằng búa thợ mộc Bạch Tứ Hổ cung khai, đã nói rằng đã từng nghe thấy trong phòng có người nói chuyện. Đại Ô Đậu tới đây ăn trộm bảo vật cũng khai rằng mình đã nhìn thấy nóc nhà có một cái đầu to cỡ khay trà. Toàn bộ những điều đó đều do cây xà nhà này tác quái.

    Quách sư phụ đóng hết số đinh quan tài còn lại lên xà ngang, đến mãi hừng đông mới xong xuôi, chợt nhớ ra còn phải quay về con đê chính để chống lũ, vội vàng rời khỏi con hẻm kho lương. Không lâu sau, đợt lũ thứ hai đã kéo đến, lớn hơn nhiều so với đợt đầu. Hơn mười vạn người tử thủ con đê, nhưng vẫn không ngăn được cơn sóng dữ dưới dòng Hải Hà, dù trước kia đã đào sông phân lũ cũng không thể chống chọi được với đợt lũ lớn đến thế, thật sự không còn biện pháp gì nữa rồi. Trong lúc nghìn cân treo sợi tóc, bên trên hạ lệnh phá vỡ đê biển, nước lũ trong nội thành Thiên Tân chảy ra biển, cuối cùng cũng đứng vững trước trận lũ lụt mạnh hiếm thấy vào năm 1963. Sang năm sau, ngõ hẻm kho lương bị dỡ bỏ hoàn toàn. Quách sư phụ gọi Đinh Mão và Trương Bán Tiên đến giúp đỡ, bới cây gỗ lim từ trong đống gạch ngói vụn ra, xỏ móc sắt xuyên qua, cột vào con sư tử đá đào lên được lúc di dời phần mộ, rồi ném cả hai xuống cái động lớn mà người ta đã phát hiện ra khi nạo vét sông cái.

    Chỗ ấy thông nhau với con sông ngầm, tạo thành một xoáy nước, được trấn giữ bởi cái tháp trấn yêu của Hải Trương Ngũ, vật nào đã chìm xuống mắt sông thì vĩnh viễn đừng hòng mong thoát ra được. Từ đó về sau, công việc khống chế lũ lụt trên dòng Hải Hà đạt được hiệu quả, thành Thiên Tân địa ninh nhân hòa, nói chung không còn phát sinh ra trận lũ lụt nào quá lớn. Phần thứ nhất của câu chuyện về Thần sông là "Bắt yêu ở thôn Chó Dữ", phát sinh vào trước thời kỳ giải phóng. Phần thứ hai là "Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương", toàn bộ sự việc diễn ra trong vòng hai thập niên năm mươi và sáu mươi, bắt đầu từ lúc truy bắt kẻ cướp bằng búa thợ mộc Bạch Tứ Hổ, kéo dài đến năm 1963, đến khi tấm ván quan tài bị đóng đinh chìm xuống đáy sông mới kết thúc. Câu chuyện coi như tuyên cáo đã được khép lại.

    (Hết)
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này