1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Trinh thám Không Có Ngày Mai - Tác Giả: Lee Child - Tình Trạng: Đang Post

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi YukiShiota, 16/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

  1. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 60
    Springfield mặc bộ com lê lần trước tôi đã gặp. Chất vải len nhẹ mùa hè, dệt kiểu giống lụa và hơi óng. Nó có vết nhăn và dúm, kiểu như anh ta cứ mặc thế mà đi ngủ. Có khi anh ta đã làm thế thật.

    Springfield nói, “Ông nghĩ đây là nơi ấy hả?”

    Tôi không trả lời. Tôi đang bận kiểm tra xung quanh. Tôi nhìn vài trăm người và vài chục chiếc xe hơi. Nhưng không thấy gì đáng lo ngại. Springfield chỉ có một mình.

    Tôi quay lại.

    Springfield lặp lại câu hỏi, “Ông nghĩ đây là nơi ấy hả?”

    Tôi hỏi, “Sansom đâu?”

    “Ông ấy ở nhà.”

    “Tại sao?”

    “Vì kiểu công việc này khó khăn, tôi làm tốt hơn ông ấy.”

    Tôi gật đầu. Mình giỏi hơn sĩ quan là một tín điều của các hạ sĩ quan. Và thường thì họ đúng. Chắc chắn tôi hài lòng với các hạ sĩ quan của mình. Họ đã làm rất nhiều việc tốt cho tôi.

    Tôi hỏi: “Vậy thỏa thuận là gì?”

    “Thỏa thuận nào?”

    “Giữa ông và tôi ấy.”

    “Chúng ta chẳng có thỏa thuận nào,” anh ta nói. “Vẫn chưa có.”

    “Chúng ta sẽ có thỏa thuận chứ?”

    “Có lẽ ta nên nói chuyện với nhau.”

    “Ở đâu?”

    “Tùy ông,” anh ta nói. Đó là dấu hiệu tốt. Nghĩa là trước mắt nếu có cái bẫy nào hay vụ phục kích nào chờ đợi tôi, nó sẽ diễn ra theo kiểu tùy cơ ứng biến, do đó sẽ không đạt hiệu quả tối ưu. Thậm chí đến mức còn chẳng triển khai được.

    Tôi hỏi, “Ông biết về thành phố rõ đến mức nào?”

    “Cũng ở mức chấp nhận được.”

    “Hãy rẽ trái hai lần và đến số 57 phố 57 Đông. Tôi sẽ đến sau ông mười phút. Ta sẽ gặp nhau bên trong.”

    “Đó là địa điểm kiểu gì thế?”

    “Ta có thể uống cà phê ở đó.”

    “OK,” anh ta nói. Rồi Springfield nhìn một lần nữa căn nhà có nhà hàng ở tầng trệt rồi cắt chéo phố qua làn xe cộ và rẽ trái sang đại lộ Madison. Tôi đi theo đường khác, đến ngang cửa sau khách sạn Four Seasons. Cửa sau của khách sạn Four Seasons nằm ngay đây, trên phố 58. Đây là một tòa nhà thông hết cả dãy. Nghĩa là cửa trước nằm trên phố 57. Chính xác là số 57 phố 57 Đông. Tôi sẽ vào trong trước Springfield chừng bốn phút. Tôi sẽ biết liệu anh ta có đi cùng một đội nào hay không. Tôi sẽ biết liệu có kẻ nào vào trước, đi cùng hoặc bám theo anh ta không. Tôi từ phía sau đi qua sảnh, bỏ mũ và kính rồi đứng trong một góc yên tĩnh, chờ đợi.

    Springfield bước vào một mình, đúng giờ, nghĩa là sau bốn phút. Không có thời gian để triển khai vội vàng trên phố. Không có thời gian để bàn bạc. Có lẽ thậm chí chẳng đủ thời gian để gọi một cú bằng máy di động. Phần lớn người ta đều đi chậm lại một chút khi vừa bấm số vừa nói chuyện.

    Có một người đàn ông mặc lễ phục buổi sáng ở gần cửa. Áo đuôi tôm đen, nơ bạc. Không phải nhân viên trực cổng, cũng chẳng phải trưởng đội trực khuân vác. Một kiểu nhân viên chào đón khách, dù có thể chức danh của anh ta lớn hơn. Người này bắt đầu bằng việc hướng về phía Springfield, Springfield liếc người này một cái, anh ta né ngay về hướng khác như thể bị tát. Springfield là người có kiểu mặt đó.

    Anh ta dừng lại một chút, lấy lại tác phong và hướng về phía phòng trà, nơi tôi đã gặp mẹ con nhà Hoth một lần. Tôi vẫn đứng trong góc quan sát cửa thông ra phố. Không lực lượng hỗ trợ. Không có chiếc xe hơi mui kín thông thường nào dừng lại phía ngoài. Tôi đợi cho mười phút trôi qua, rồi thêm hai phút nữa, chỉ để đề phòng. Chẳng gì xảy ra, chỉ có những âm thanh thường thấy của một khách sạn sang trọng. Người giàu đến, người giàu đi. Người nghèo lăng xăng xung quanh làm việc này việc kia cho họ.

    Tôi bước vào phòng trà thấy Springfield ngồi đúng chiếc ghế Lila Hoth đã ngồi. Cũng người phục vụ già tôn quý đang trực, ông bước tới. Springfield gọi nước khoáng. Tôi gọi cà phê. Người phục vụ gật đầu mà chẳng ai nhận thấy, rồi ông lại đi ra.

    Springfield nói: “Ông đã gặp nhà Hoth ở đây, hai lần.”

    Tôi nói, “Một lần ở đúng bàn này.”

    “Thực chất thì đó là rắc rối. Liên quan tới họ bằng bất kỳ hình thức nào cũng bị quy là trọng tội.”

    “Vì cái gì?”

    “Vì Luật Yêu nước.”

    “Chính xác thì mẹ con nhà Hoth là ai?”

    “Và băng ngang đường tàu điện ngầm cũng là một tội nghiêm trọng. Cụ thể ông có thể ngồi tù liên bang tới năm năm vì chuyện ấy. Họ đã nói với tôi như thế.”

    “Và tôi đã bắn bốn nhân viên điều tra liên bang bằng tên.”

    “Chẳng ai quan tâm tới họ cả.”

    “Mẹ con nhà Hoth là ai?”

    “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”

    “Thế tại sao chúng ta lại ở đây?”

    “Ông giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp ông.”

    “Các ông có thể giúp tôi thế nào?”

    “Chúng tôi có thể khiến mọi trọng tội của ông biến mất.”

    “Còn tôi có thể giúp các ông thế nào?”

    “Ông giúp chúng tôi tìm thứ chúng tôi đã đánh mất.”

    “Chiếc thẻ nhớ hả?”

    Springfield gật đầu. Người phục vụ đã trở lại cùng một cái khay. Nước khoáng và cà phê. Ông sắp xếp các thứ trên bàn cẩn thận rồi lùi ra.

    Tôi nói, “Tôi không biết chiếc USB đang ở đâu.”

    “Tôi chắc chắn là ông không biết. Nhưng ông đã tới gần Susan Mark hơn bất kỳ ai khác. Cô ấy đã rời khỏi Lầu Năm Góc cùng với nó, nó không có trong nhà, trong xe hay ở bất kỳ nơi nào cô ấy đã tới. Thế nên chúng tôi hy vọng ông đã trông thấy gì đó. Có thể nó không có ý nghĩa gì với ông, nhưng lại có ý nghĩa với chúng tôi.”

    “Tôi đã trông thấy cô ấy tự sát. Tất cả chỉ có thế.”

    “Chắc chắn phải có nhiều hơn thế.”

    “Các ông đã cử người đứng đầu đội tham mưu lên tàu. Ông ta đã thấy gì?”

    “Chẳng gì cả.”

    “Trong chiếc thẻ nhớ có gì?”

    “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”

    “Vậy thì tôi không thể giúp các ông được.”

    “Tại sao ông cần phải biết?”

    Tôi nói, “Tôi muốn biết ít nhất là hình thù cơ bản của cái rắc rối tôi sắp dấn thân vào.”

    “Vậy thì ông nên tự dành cho mình một câu hỏi.”

    “Câu hỏi nào?”

    “Câu hỏi ông chưa từng đặt ra, câu hỏi lẽ ra ông nên hỏi ngay từ khi mọi chuyện bắt đầu. Câu hỏi mấu chốt, đồ ngốc ạ.”

    “Chuyện này là sao đây? Một cuộc thi à? Hạ sĩ quan thi với sĩ quan hả?”

    “Trận đánh ấy qua lâu rồi.”

    Thế là tôi lộn lại từ đầu, để tìm câu hỏi mà tôi chưa bao giờ đặt ra. Bắt đầu là chuyến tàu số 6, với hành khách số bốn, ở mé phải toa, một mình trên băng ghế dành cho tám người, da trắng, trạc bốn mươi, không trang điểm, tóc đen, quần áo đen, túi đen. Susan Mark, một công dân, từng là vợ, người mẹ, người chị, con nuôi, người sống ở Annadale, Virginia.

    Susan Mark, nhân viên dân sự làm việc ở Lầu Năm Góc.

    Tôi hỏi, “Công việc chính xác của cô ấy là gì?”
     
  2. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 61
    Springfield uống nước mất một lúc lâu rồi thoáng nở nụ cười mà bảo, “Chậm, nhưng rốt cuộc ông cũng nghĩ ra rồi đấy.”

    “Vậy công việc của cô ấy là gì?”

    “Cô ấy là nhân viên quản trị hệ thống, chịu trách nhiệm về một phần công nghệ thông tin.”

    “Tôi không biết thế nghĩa là gì.”

    “Nghĩa là cô ấy biết một số mật khẩu chủ của các máy tính.”

    “Những máy tính nào?”

    “Không phải các máy quan trọng. Cô ấy không thể phóng tên lửa hay những thứ gì khác. Nhưng rõ ràng cô ấy được phép truy cập các hồ sơ của HRC. Và một số tài liệu lưu trữ.”

    “Nhưng không phải tài liệu lưu trữ của Delta, phải không? Chúng nằm ở Bắc Carolina. Ở Fort Bragg. Không ở Lầu Năm Góc.”

    “Các máy tính được nối mạng với nhau. Bây giờ mọi thứ ở mọi nơi và chẳng ở nơi nào cả.”

    “Và cô ấy có quyền truy cập hả?”

    “Lỗi của con người.”

    “Cái gì?”

    “Có phần nào đó lỗi của con người.”

    “Một phần nào đó?”

    “Có nhiều nhân viên quản trị hệ thống. Họ chia sẻ các vấn đề chung. Họ giúp đỡ nhau. Họ có phòng chat riêng, họ có bảng tin riêng. Hình như có một dòng mã bị lỗi khiến các mật khẩu cá nhân không đảm bảo bí mật như người ta muốn. Vậy nên có sự rò rỉ. Chúng tôi nghĩ là trên thực tế tất cả họ biết điều ấy, nhưng họ thích như vậy. Một người có thể vào hệ thống đặng giúp đỡ người khác khi có những rắc rối nhỏ nhặt. Ngay cả khi dòng mã có đúng đi nữa, có khi họ cũng xóa nó đi.”

    Tôi nhớ lại lời Jacob Mark đã nói, Chị ấy giỏi máy tính.

    Tôi nói, “Vậy là cô ấy có quyền truy nhập các hồ sơ lưu trữ của Delta?”

    Springfield chỉ gật đầu.

    Tôi nói, “Nhưng ông và Sansom đã xuất ngũ trước tôi năm năm. Hồi ấy chẳng có gì được đưa vào máy tính. Hồ sơ lưu trữ thì chắc chắn lại càng không rồi.”

    “Thời cuộc thay đổi,” Springfield nói. “Quân đội Hoa Kỳ như tôi và ông biết nay đã chín mươi tuổi rồi. Chúng ta đã có những thứ rác rưởi tích tụ chừng chín mươi năm. Những thứ vũ khí cổ han gỉ mà ông của ai đó mang về làm kỷ niệm, những lá cờ và quân phục thu được đang mốc meo lên, đủ thứ. Cộng thêm vài ngàn, vài chục ngàn tấn tài liệu. Có khi vài triệu tấn. Một rắc rối thực tiễn. Nguy cơ hỏa hoạn, chuột bọ, thay đổi nhà cửa.”

    “Thế thì sao?”

    “Thế nên trong vòng mười năm qua họ dọn dẹp nhà cửa. Các mẫu vật hoặc được gửi cho viện bảo tàng hoặc được tống vào thùng rác. Còn hồ sơ thì được quét và lưu trữ vào máy tính.”

    Tôi gật đầu. “Và Susan truy cập và sao chép một hồ sơ.”

    “Hơn cả sao chép một hồ sơ,” Springfield nói. “Cô ấy đã trích lấy một bộ. Chuyển nó sang một ổ lưu trữ bên ngoài rồi xóa hồ sơ gốc.”

    “Ổ lưu trữ ngoài là chiếc USB phải không?”

    Springfield gật đầu. “Và chúng tôi không biết hiện nó đang ở đâu.”

    “Tại sao lại là cô ấy?”

    “Bởi cô ấy thích hợp cho việc đó. Phần hồ sơ liên quan được lần ra qua việc tặng thưởng huy chương. Người của HRC lưu giữ hồ sơ về huân huy chương. Như ông nói đấy. Và cô ấy là quản trị hệ thống. Và cô ấy có thể bị tấn công thông qua con trai mình.”

    “Tại sao cô ấy xóa hồ sơ gốc?”

    “Tôi không biết.”

    “Chắc chắn nó đã làm tăng nguy cơ lên.”

    “Rất nhiều.”

    “Hồ sơ ấy là gì?”

    “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”

    “Nó được đưa ra khỏi phòng lưu trữ và sao quét khi nào?”

    “Hơn ba tháng trước một chút. Công việc ấy chậm chạp lắm. Chương trình thực hiện đã mười năm rồi mà người ta chỉ mới giải quyết đến đầu thập kỷ 1980 thôi.”

    “Những ai làm?”

    “Có đội ngũ chuyên môn.”

    “Cùng một kẽ hở. Mẹ con nhà Hoth có mặt ở đây gần như là ngay lập tức.”

    “Rõ ràng thế.”

    “Ông có biết đó là ai không?”

    “Các bước đang được thực hiện.”

    “Hồ sơ ấy là gì?”

    “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”

    “Nhưng đó là hồ sơ lớn.”

    “Khá lớn.”

    “Và mẹ con nhà Hoth muốn có nó.”

    “Tôi nghĩ chuyện đó thì rõ rồi.”

    “Tại sao chúng muốn có nó?”

    “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”

    “Ông nói câu ấy lắm lần quá.”

    “Tôi muốn nói ý đó lắm.”

    “Mẹ con nhà Hoth là ai?”

    Springfield cười và dùng tay làm cử chỉ hàm ý Một lần nữa. Nghĩa là Tôi không tình nguyện trao thông tin được. Câu trả lời tuyệt vời của một hạ sĩ quan. Tám từ, có lẽ từ “tình nguyện” quan trọng nhất.

    Tôi nói, “Ông có thể đặt nhiều câu hỏi cho tôi. Tôi có thể tình nguyện đưa ra phỏng đoán. Ông có thể nhận xét về chúng.”

    Anh ta nói, “Ông nghĩ mẹ con nhà Hoth là ai?”

    “Tôi nghĩ bọn đó là người Afghanistan bản xứ.”

    Springfield nói, “Tiếp đi.”

    “Đó không đúng là lời nhận xét lắm.”

    “Tiếp đi.”

    “Có lẽ là những kẻ có tư tưởng ủng hộ Taliban hay al-Qaeda, hoặc mật vụ, hoặc bọn tay sai.”

    Chẳng có phản ứng nào.

    “Al-Qaeda,” tôi nói. “Chủ yếu cánh Taliban ở trong nước.”

    “Tiếp đi.”

    “Mật vụ,” tôi nói.

    Không có phản ứng nào.

    “Lãnh đạo?”

    “Tiếp đi.”

    “Al-Qaeda có sử dụng phụ nữ làm lãnh đạo không?”

    “Chúng sử dụng bất kỳ thứ gì mang lại hiệu quả.”

    “Nghe không hợp lý lắm.”

    “Đó là điều chúng muốn ta nghĩ. Chúng muốn ta tìm kiếm những gã đàn ông không tồn tại.”

    Tôi không nói gì.

    “Tiếp đi,” Springfield nói.

    “OK, kẻ tự xưng là Svetlana Hoth đã chiến đấu cùng lực lượng du kích Hồi giáo và biết rằng các ông đã thu được khẩu súng trường VAL từ Grigori Hoth. Chúng đã sử dụng tên và câu chuyện của Hoth để tìm kiếm sự thông cảm ở đây.”

    “Vì cái gì?”

    “Vì bây giờ al-Qaeda muốn có bằng chứng thành văn về bất cứ việc gì khác mà đám các ông đã làm vào đêm hôm ấy.”

    “Tiếp đi.”

    “Việc đã giúp Sansom được tặng một huy chương lớn. Thế nên việc đó phải trông ngon lành lắm, khi xửa khi xưa, mãi tận hồi ấy. Nhưng bây giờ các ông lo lắng về chuyện nó lộ ra. Thế nên tôi cho rằng việc đó không có vẻ hay ho gì nữa.”

    “Tiếp đi.”

    “Sansom thì khổ sở, nhưng chính phủ cũng chẳng yên tâm chút nào vì một chuyện con con. Thế nên chuyện này vừa ảnh hưởng tới cá nhân vừa có ảnh hưởng về chính trị.”

    “Tiếp đi.”

    “Đêm đó có giúp ông giành được huy chương không?”

    “Huy chương Thành tích Xuất sắc.”

    “Nhận thẳng từ Bộ trưởng Quốc phòng.”

    Springfield gật đầu. “Món đồ trang sức rẻ tiền nho nhỏ và đẹp, dành cho một trung sĩ hèn mọn.”

    “Thế nên chuyến đi ấy liên quan tới chính trị hơn là quân sự.”

    “Rõ ràng thế. Hồi ấy chúng ta không chính thức có chiến tranh với ai hết.”

    “Các ông biết rằng mẹ con Hoth đã giết bốn người, có khi cả con trai của Susan nữa, đúng không?”

    “Chúng tôi không biết nhưng nghĩ là thế.”

    “Tại sao ông không ngăn chặn chúng?”

    “Tôi đảm bảo an ninh cho một nghị sĩ. Tôi không thể ngăn chặn ai.”

    “Những tay nhân viên điều tra liên bang kia có thể làm.”

    “Đám nhân viên điều tra ấy làm việc theo kiểu cách bí hiểm. Rõ ràng họ coi hai mẹ con Hoth là những chiến binh hàng đầu của kẻ thù, là mục tiêu rất quan trọng, cực kỳ nguy hiểm, nhưng hiện không có khả năng gây hại.”

    “Thế nghĩa là sao?”

    “Nghĩa là ngay lúc này để yên cho chúng thì vẫn lợi nhiều hơn.”

    “Thực tế điều đó có nghĩa là họ không thể tìm ra chúng.”

    “Tất nhiên rồi.”

    “Ông vui vì điều đó à?”

    “Mẹ con nhà Hoth không giữ chiếc USB, nếu không sẽ chẳng có chuyện chúng vẫn đang tìm kiếm nó. Thế nên kiểu gì tôi cũng chẳng thực sự quan tâm.”

    “Tôi nghĩ là ông nên quan tâm đấy,” tôi nói.

    “Ông nghĩ đây là nơi của chúng à? Nơi ông đã có mặt à?”

    “Dãy nhà này hoặc dãy bên cạnh.”

    “Tôi nghĩ là dãy này,” Springfield nói. “Đám nhân viên điều tra liên bang ấy đã lục soát phòng khách sạn. Lúc bọn chúng ra ngoài.”

    “Lila đã nói với tôi.”

    “Chúng có các túi đựng đồ mua sắm. Như đồ trưng bày. Để tạo vỏ bọc hợp lý cho chỗ đó.”

    “Tôi đã trông thấy chúng.”

    “Hai chiếc từ cửa hiệu Bergdorf Goodman, hai chiếc từ Tiffany. Hai cửa hiệu đó ở gần nhau, cách những tòa nhà cổ đó chừng một dãy nhà. Nếu như căn cứ của chúng cách đại lộ Park một dãy nhà về phía Đông, chúng sẽ tới cửa hiệu của Bloomingdales thay vì hai cửa hiệu trên. Vì chúng không mua sắm thực sự. Chúng chỉ cần có các thứ phụ kiện trong phòng khách sạn của mình, để đánh lừa người khác.”

    “Ý kiến hay đấy,” tôi nói.

    “Đừng đi tìm mẹ con Hoth,” Springfield nói.

    “Giờ ông lo lắng về tôi sao?”

    “Cả hai cách ông đều có thể thất bại. Chúng sẽ tư duy hệt như chúng tôi, rằng thậm chí dù ông không giữ chiếc USB, bằng cách nào đó ông cũng biết nó đã biến đi đâu. Và thậm chí chúng có thể có sức thuyết phục hơn và xấu xa hơn chúng tôi nữa.”

    “Và gì nữa?”

    “Có thể chúng sẽ nói cho ông trong đó có gì. Trong trường hợp ấy, theo quan điểm của chúng tôi, ông sẽ trở thành một đầu mối sơ hở.”

    “Như thế tệ hại đến mức nào?”

    “Tôi không thấy xấu hổ. Nhưng thiếu tá Sansom sẽ thấy bối rối.”

    “Và nước Mỹ nữa.”

    “Đúng thế.”

    Người phục vụ trở lại hỏi xem chúng tôi cần thêm gì khác hay không. Springfield bảo có. Anh ta gọi đồ cho cả hai chúng tôi. Nghĩa là người này còn có thêm chuyện để nói. Anh ta nói, “Hãy thuật lại chính xác những gì đã diễn ra trên tàu.”

    “Tại sao ông không có mặt ở đó thay vì tay tham mưu trưởng? Có vẻ đó là việc của ông hơn là việc của ông ta.”

    “Chuyện xảy ra với chúng tôi thật nhanh. Khi ấy tôi đang ở Texas, cùng Sansom. Gây quỹ. Chúng tôi không có thời gian để triển khai một cách hợp lý.”

    “Tại sao cơ quan liên bang không có người trên tàu?”

    “Có. Họ có hai người trên tàu. Hai phụ nữ. Giả trang, mượn từ FBI. Đặc vụ Rodriguez và đặc vụ Mbele. Ông đã lạng quạng lên nhầm toa và đi cùng họ suốt cả chặng đường.”

    “Họ giỏi,” tôi nói. Và đúng là họ giỏi thật. Người phụ nữ gốc Tây Ban Nha nhỏ bé, nóng bức, mệt mỏi, chiếc túi siêu thị cũ rích quấn quanh cổ tay. Người phụ nữ Tây Phi mặc chiếc váy bằng vải nhuộm tay. “Họ rất giỏi. Nhưng làm thế nào mà tất cả các ông biết rằng cô ấy sẽ lên chuyến tàu đó?”

    “Chúng tôi không biết,” Springfield đáp. “Đó là một chiến dịch rất lớn. Một vụ tranh giành lớn. Chúng tôi biết cô ấy lái xe đi. Thế nên chúng tôi có người đợi sẵn ở các đường hầm. Ý tưởng là bám theo cô ấy từ đó, tới bất kỳ nơi nào cô ấy sẽ tới.”

    “Tại sao cô ấy không bị bắt ngay ở bậc thềm của Lầu Năm Góc?”

    “Có một cuộc tranh cãi ngắn. Đám nhân viên điều tra liên bang đã thắng. Họ muốn chỉ một lần là lật tẩy cả đường dây. Và lẽ ra họ đã làm được.”

    “Nếu như tôi không phá hỏng.”

    “Đấy là ông nói nhé.”

    “Cô ấy không cầm chiếc USB. Thế nên kiểu gì cũng sẽ chẳng có đường dây nào để mà lộ cả.”

    “Cô ấy đã rời Lầu Năm Góc cùng với nó, mà nó lại không có trong nhà hay xe của cô ấy.”

    “Ông chắc chắn chứ?”

    “Nhà cô ấy đã bị đập ra đến từng mảnh, tôi có thể ăn được phần còn lại lớn nhất của chiếc xe cô ấy.”

    “Họ đã lục soát đoàn tàu điện ngầm kỹ mức nào?”

    “Toa số 7622 vẫn còn nằm ở sân ga trên phố 207. Người ta nói rằng để lắp ráp lại nó phải mất một tháng hoặc hơn.”

    “Trong cái USB đó có cái quái quỷ gì vậy?”

    Springfield không trả lời.

    Một trong những chiếc điện thoại tôi thu được nằm trong túi bắt đầu rung.
     
  3. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 62
    Tôi rút cả ba điện thoại ra khỏi túi đặt lên bàn. Một chiếc đang xê dịch, mỗi lần chừng ba milimét. Rung mạnh. Trên màn hình của nó hiện dòng chữ Cuộc gọi hạn chế. Tôi mở nắp máy, đặt lên tai và nói: “Alô?”

    Lila Hoth hỏi, “Ông vẫn còn ở New York à?”

    Tôi đáp: “Đúng.”

    “Ông ở gần khách sạn Four Seasons không?”

    Tôi đáp, “Không gần lắm.”

    “Đến đó bây giờ đi. Tôi gửi một cái gói cho ông ở quầy lễ tân.”

    “Khi nào?”

    Nhưng cuộc gọi đã kết thúc.

    Tôi liếc Springfield bảo: “Đợi ở đây nhé.” Rồi tôi vội vã chạy ra sảnh. Không thấy ai lui ra phía cửa. Nơi này yên tĩnh. Nhân viên chào đón khách mặc áo đuôi tôm đang đứng im. Tôi bước về quầy lễ tân, xưng tên và hỏi xem họ có giữ gì gửi cho tôi không. Một phút sau trong tay tôi có một phong bì. Mặt trước của nó ghi tên tôi bằng chữ viết tay đen đậm. Tên của Lila Hoth ghi ở góc trên bên trái, nơi ghi địa chỉ người gửi. Tôi hỏi nhân viên lễ tân chiếc phong bì được chuyển tới khi nào. Anh ta bảo nó được chuyển tới hơn một giờ trước.

    Tôi hỏi, “Anh có trông thấy người mang nó tới không?”

    “Một ông người nước ngoài.”

    “Anh có nhận ra ông ta không?”

    “Không, thưa ngài.”

    Chiếc phong bì có đồ độn, dài hai mươi ba phân rộng mười lăm phân. Nhẹ. Bên trong có thứ gì đó cứng. Tròn, đường kính có lẽ khoảng mười hai phân. Tôi mang nó trở lại phòng trà và lại ngồi cùng Springfield. Anh ta hỏi, “Từ nhà Hoth đấy à?”

    Tôi gật đầu.

    Anh ta bảo, “Nó có thể đầy bột chứa vi khuẩn bệnh than đấy.”

    “Có vẻ là đĩa CD hơn,” tôi nói.

    “Chứa cái gì?”

    “Có thể là dân ca Afghanistan.”

    “Tôi hy vọng là không phải,” Springfield nói. “Tôi đã từng nghe dân ca Afghanistan, cả từ xa và ở cự ly gần.”

    “Ông muốn tôi đợi rồi mới mở nó chứ?”

    “Cho đến khi nào?”

    “Đến khi ông đã tránh xa.”

    “Tôi sẽ chấp nhận rủi ro.”

    Thế là tôi xé phong bì rồi lắc. Một chiếc đĩa duy nhất trượt ra, nhựa va vào bàn gỗ gây ra một tiếng động nhẹ.

    “Đĩa CD,” tôi nói.

    “Thật ra là đĩa DVD,” Springfield bảo.

    Đây là đĩa tự ghi. Nó là một chiếc đĩa trắng do Memorex sản xuất. Dòng chữ Hãy xem đĩa này được ghi bằng bút dạ đen ở mặt ghi nhãn đĩa. Cùng loại chữ viết trên phong bì. Cùng một cây bút. Chắc là chữ viết tay và bút của Lila Hoth.

    Tôi nói, “Tôi không có đầu chạy DVD.”

    “Thế thì đừng xem.”

    “Tôi nghĩ là tôi phải xem.”

    “Chuyện gì đã xảy ra trên tàu?”

    “Tôi không biết.”

    “Ông có thể xem đĩa DVD trên máy tính. Như người ta xem phim bằng máy tính xách tay khi đi máy bay ấy.”

    “Tôi không có máy tính.”

    “Khách sạn nào cũng có máy tính.”

    “Tôi không muốn ở lại đây.”

    “Trong thành phố có nhiều khách sạn.”

    “Ông đang ở chỗ nào?”

    “Khách sạn Sheraton. Nơi trước đây chúng ta đã tới.”

    Rồi Springfield thanh toán hóa đơn của phòng trà bằng thẻ tín dụng hạng titan, và chúng tôi đi bộ từ khách sạn Four Seasons tới khách sạn Sheraton. Đây là lần thứ hai tôi thực hiện hành trình này. Cũng mất chừng đó thời gian. Các vỉa hè chật người, người ta đi lại chậm chạp trong cái nóng. Đã 1 giờ chiều, trời rất ấm. Trên suốt chặng đường tôi trông chừng các cảnh sát, việc này chẳng giúp chúng tôi đi được nhanh hơn. Nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng tới nơi. Màn hình plasma ngoài sảnh liệt kê cả loạt sự kiện. Phòng khiêu vũ chính đã được một tổ chức đại diện thương mại đặt. Liên quan tới truyền hình cáp. Điều này khiến tôi nghĩ tới kênh National Geographic và con đười ươi lưng trắng.

    Springfield dùng thẻ từ của mình mở cửa dẫn vào trung tâm văn phòng. Anh ta không vào cùng tôi. Anh ta bảo sẽ đợi tôi ngoài sảnh, rồi bước đi. Ba trong bốn ô làm việc đã có người. Hai phụ nữ, một nam giới, tất cả đều mặc com lê sẫm màu, tất cả đều có cặp da bật mở, giấy tờ khắp nơi. Tôi lấy một chiếc ghế và bắt đầu cố gắng tìm hiểu cách mở đĩa DVD bằng máy tính. Tôi tìm thấy một cái khe trên cục CPU trông thích hợp với mục đích ấy. Tôi đút chiếc đĩa vào, thấy máy tạm thời cưỡng lại, rồi thì động cơ kêu vo vo, CPU nuốt cái đĩa và kéo khỏi tay tôi.

    Trong năm giây chẳng có gì xảy ra. Chỉ có nhiều tiếng dừng, chạy và tiếng vo vo. Rồi một cửa sổ lớn mở ra trên màn hình. Nó trống trơn. Nhưng ở góc dưới cùng có các biểu tượng. Như ảnh vẽ các nút điều khiển của một đầu DVD. Chạy, tạm dừng, tua xuôi, tua ngược, bỏ qua. Tôi di chuột, con trỏ hình mũi tên biến thành hình bàn tay mũm mĩm khi lướt qua các nút điều khiển.

    Điện thoại trong túi tôi bắt đầu rung.
     
  4. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 63
    Tôi lấy điện thoại ra khỏi túi, mở ra. Liếc quanh phòng. Ba đồng nghiệp tạm thời của tôi đang rất tập trung vào việc. Trên màn hình của một phụ nữ có biểu đồ dạng cột. Các cột đậm màu sáng, một số cao, một số thấp. Người đàn ông đang đọc thư điện tử. Người phụ nữ còn lại đang đánh máy nhanh.

    Tôi áp điện thoại vào tai và nói, “Alô?”

    Lila Hoth hỏi, “Ông đã nhận được chưa?”

    Tôi đáp, “Rồi.”

    “Ông đã xem chưa?”

    “Chưa.”

    “Tôi nghĩ là ông nên xem.”

    “Tại sao?”

    “Ông sẽ thấy rằng nó có tính giáo dục.”

    Tôi liếc những người trong phòng một lần nữa rồi hỏi, “Băng có tiếng động không?”

    “Không. Đó là phim câm. Thật không may. Nếu có âm thanh thì sẽ hay hơn.”

    Tôi không nói gì.

    Cô ta hỏi, “Ông đang ở đâu?”

    “Ở trung tâm văn phòng của một khách sạn.”

    “Khách sạn Four Seasons à?”

    “Không.”

    “Trong trung tâm văn phòng có máy tính không?”

    “Có.”

    “Ông có thể chạy đĩa DVD trên máy tính, ông biết mà.”

    “Người ta đã bảo tôi như vậy.”

    “Có ai khác có thể nhìn thấy màn hình không?”

    Tôi không trả lời.

    “Chạy đi,” Lila nói. “Tôi sẽ giữ máy. Tôi sẽ làm công việc bình luận. Kiểu như một bản đặc biệt.”

    Tôi không trả lời.

    “Như bộ phim có lời của đạo diễn,” cô ta nói và khẽ cười.

    Tôi di chuột và đưa bàn tay mũm mĩm lên phía trên nút Chạy. Nó chờ ở đó, kiên nhẫn.

    Tôi bấm chuột.

    Bộ xử lý trung tâm kêu vo vo thêm nữa rồi cửa sổ trống trên màn hình sáng lên và hai đường ngang vặn vẹo hiện ra. Chúng nháy sáng hai lần rồi hình ảnh liền ổn định, đó là một nơi ngoài trời được quay với góc rộng. Vào ban đêm. Máy quay giữ yên. Tôi đoán là đặt trên một giá ba chân. Nơi quay được chiếu sáng rực bởi các bóng đèn halogen nằm ngoài khung hình. Màu còn thô. Nơi quay có vẻ ở nước ngoài. Đất nện. Màu ka ki sẫm. Những viên đá nhỏ và một tảng đá lớn. Tảng đá phẳng, rộng hơn một chiếc giường cỡ lớn. Nó được khoan và lắp bốn sợi xích sắt. Mỗi góc một sợi.

    Có một người đàn ông trần truồng bị cột vào xích. Anh ta thấp, gầy và dẻo dai. Anh ta có nước da màu ô liu và bộ râu đen. Người đàn ông chừng ba mươi tuổi. Anh ta nằm ngửa, bị kéo căng người thành hình chữ X lớn. Máy quay đặt cách bàn chân anh này có lẽ chừng một mét. Ở góc trên khung hình, đầu người đàn ông lắc từ bên nọ sang bên kia. Hai mắt anh ta nhắm lại. Miệng há ra. Các gân ở cổ người này nổi lên như những sợi dây.

    Anh ta đang la hét, nhưng tôi không nghe được tiếng.

    Đây là bộ phim câm.

    Lila Hoth nói vào tai tôi.

    Cô ta hỏi, “Ông đang xem đấy chứ?”

    “Một người đàn ông trên một phiến đá.”

    “Cứ xem tiếp đi.”

    “Anh ta là ai?”

    “Anh ta đã là một lái xe taxi làm việc vặt cho các nhà báo Mỹ.”

    Tôi đoán là góc quay ở khoảng bốn mươi lăm độ. Nó khiến hai bàn chân của anh lái xe taxi trông to và đầu trông nhỏ. Anh ta quẫy đạp cả phút liền. Anh nhấc đầu lên rồi lại đập đầu xuống tảng đá. Cố gắng khiến cho mình ngất đi. Có khi cố tự kết liễu đời mình. Chẳng ăn nhằm gì. Một dáng người mảnh mai chen vào phía trên khung hình, đặt một miếng vải vuông gập lại xuống dưới đầu người lái xe taxi. Cái dáng đó là Lila Hoth. Chẳng nghi ngờ gì. Độ nét của đĩa không được cao, nhưng không thể lẫn được cô ta. Mái tóc, đôi mắt, kiểu cô ta di chuyển.

    Miếng vải vuông có lẽ là một chiếc khăn tắm.

    Tôi nói, “Tôi vừa trông thấy cô.”

    “Với chiếc khăn hả? Nó là thứ cần thiết tránh những chấn thương do bản thân gây ra. Và tạo góc cho cái đầu của người ta. Làm cho người ta rất muốn nhìn.”

    “Nhìn gì?”

    “Cứ xem tiếp đi.”

    Tôi liếc quanh phòng. Cả ba đồng nghiệp tạm thời của tôi vẫn đang làm việc. Tất cả họ đều tập trung cao độ cho công việc của mình.

    Trên màn hình của tôi, trong hai mươi giây chẳng có gì xảy ra. Người lái xe rền rĩ, trong câm lặng. Rồi từ phía bên, Svetlana Hoth bước vào khung hình. Cũng không thể nhầm được mụ già. Thân hình mập như trụ nước cứu hỏa, mái tóc màu xám ánh thép cắt kiểu chân phương.

    Tay người đàn bà này cầm một con dao.

    Mụ già leo lên tảng đá rồi ngồi xổm bên cạnh người đàn ông. Bà ta nhìn vào máy quay cả một giây dài. Không phải vì tự phụ. Bà ta chỉ tính toán góc sao cho mình không chắn mất ống kính. Svetlana điều chỉnh tư thế cho tới khi cúi người trong góc tạo bởi cánh tay trái của người đàn ông và một bên ngực của anh ta mà không chắn tầm nhìn.

    Người đàn ông trừng trừng nhìn con dao.

    Svetlana cúi người về trước, sang phải, kê đầu mũi dao vào điểm giữa hạ bộ và rốn người đàn ông. Bà ta nhấn xuống. Người đàn ông giãy đành đạch không thể kiểm soát nổi. Một dòng máu lớn từ chỗ rách phọt ra. Dưới ánh đèn, máu có màu đen. Người lái xe taxi cứ thế la hét. Tôi có thể thấy miệng anh ta đang hét lên từ này từ kia. Không! và Làm ơn! là những từ dù tiếng nào cũng hiểu.

    “Nơi này là đâu?” tôi hỏi.

    “Cách Kabul không xa,” Lila Hoth đáp.

    Svetlana Hoth kéo lưỡi dao lên phía rốn người lái xe taxi. Di chuyển tới đâu máu đuổi theo đó. Bà ta vẫn tiếp tục nhích. Như bác sĩ phẫu thuật hay tay thợ mổ heo, thản nhiên, rất thành thạo, quen tay vì đã làm nhiều. Trước đó bà ta đã có nhiều lần mổ tương tự. Lưỡi dao tiếp tục di chuyển. Nó dừng lại phía trên xương ức người đàn ông.

    Svetlana bỏ con dao xuống.

    Bà ta dùng ngón tay trỏ lần theo đường rạch. Máu bôi trơn giúp nó di chuyển tốt hơn. Bà ta thọc thẳng ngón tay xuống chỗ rạch, cho ngập tới đốt đầu tiên. Bà ta kéo xuống rồi lại kéo lên. Có những lúc đột nhiên ngừng lại.

    Lila Hoth nói, “Bà ấy đang kiểm tra xem đã rạch hết phần thành cơ bụng chưa.”

    Tôi hỏi, “Làm sao cô biết? Cô có xem những hình ảnh này đâu.”

    “Tôi có thể nghe thấy hơi thở của ông.”

    Rồi Svetlana lại nhặt dao lên và trở lại những chỗ ngón tay bà ta đã ngừng lại. Bà ta sử dụng mũi dao rất nhẹ nhàng, cắt đứt những thứ có vẻ là cản trở nho nhỏ.

    Rồi bà ta lùi lại.

    Khoang bụng của người lái xe taxi đã mở, như một chiếc khóa kéo được kéo xuống, vết rạch dài tách ra một chút. Thành cơ bụng đã bị cắt đứt, không còn khả năng giữ lại áp suất phía bên trong.

    Svetlana cúi người về phía trước lần nữa. Bà ta dùng cả hai bàn tay. Bà ta đặt tay vào vết rạch, cẩn thận tách những mảng da ra rồi thọc cả hai bàn tay vào trong. Ngập đến tận cổ tay. Svetlana Hoth căng người và ưỡn hai vai ngang bằng nhau.

    Bà ta nhấc ruột của người lái xe taxi lên.

    Chúng tạo thành một khối hồng sáng lấp lánh có kích thước như một quả bóng đá mềm. Xoắn, lỏng, ướt át, rung rinh và bốc hơi.

    Bà ta đặt đám ruột ấy lên ngực người đàn ông, một cách nhẹ nhàng.

    Rồi Svetlana trượt xuống tảng đá và bước ra khỏi khung hình.

    Con mắt không hề chớp của máy quay vẫn chăm chăm nhìn.

    Người lái xe taxi kinh hoàng nhìn xuống.

    Lila Hoth nói, “Bây giờ chỉ là vấn đề thời gian, vết rạch không làm họ chết. Chúng tôi không cắt đứt bất kỳ mạch máu quan trọng nào. Máu sẽ ngừng chảy khá nhanh. Chỉ là đau đớn, sốc và nhiễm trùng. Những người khỏe chống chọi được cả ba điều ấy. Chúng tôi nghĩ rằng họ chết vì giảm thân nhiệt. Rõ ràng nhiệt độ trong cơ thể của họ bị đảo lộn. Nó phụ thuộc vào thời tiết. Kỷ lục chúng tôi ghi nhận được là mười tám tiếng. Người ta nói họ từng chứng kiến những trường hợp sống trọn hai ngày. Nhưng tôi không tin.”

    “Cô là loại điên, cô biết điều đó chứ?”

    “Peter Molina cũng nói thế.”

    “Nó đã xem cảnh này sao?”

    “Cậu ta có trong phim đấy. Cứ tiếp tục xem đi. Nếu thích thì cứ tua nhanh. Dù gì thì không có âm thanh nên không được hay lắm.”

    Tôi ngó toàn bộ căn phòng lần nữa. Cả ba người đều đang làm việc chăm chú. Tôi đặt bàn tay mũm mĩm lên nút Tua và bấm. Các hình ảnh bật lên chạy nhanh chóng. Đầu của người lái xe taxi bật về trước rồi về sau theo một vòng cung nhỏ.

    Lila Hoth nói, “Thông thường chúng tôi không thực hiện việc này mỗi lần một người. Làm theo thứ tự vẫn hay hơn. Người thứ hai theo dõi cho tận tới khi người thứ nhất chết, cứ thế tiếp diễn. Điều đó làm tăng nỗi sợ hãi. Ông nên xem họ, trong lòng chỉ ước người trước mình sống lâu hơn một phút. Nhưng cuối cùng họ chết, và cuộc trình diễn tiếp tục. Đó là lúc họ bị đau tim. Không biết liệu mình có bị thế không. Liệu mình có bị thế không. Nhưng không phải lúc nào chúng tôi cũng bố trí được cảnh diễn trực tiếp. Vì vậy bây giờ chúng tôi dùng đĩa video, hiệu quả cũng gần như vậy.”

    Tôi muốn nói với cô ta thêm một lần nữa rằng cô ta là kẻ điên, nhưng tôi không nói, bởi cô ta sẽ lại nói với tôi về Peter Molina.

    “Xem tiếp đi,” Hoth nói.

    Hình ảnh chạy nhanh về phía trước. Hai tay hai chân của người lái xe taxi giật giật. Những cử động cứng lạ lùng, tốc độ tăng gấp đôi.

    Đầu anh ta ngật sang phải rồi lại sang trái.

    Lila Hoth nói, “Peter Molina đã xem toàn bộ cảnh này. Cậu ta cầu cho người đàn ông tiếp tục sống. Đó là điều lạ, bởi người đàn ông đã chết cách đây vài tháng. Nhưng tác động là vậy. Như tôi đã nói với ông, đĩa video có giá trị tương đương với cảnh thực tế.”

    “Cô là đồ bệnh hoạn,” tôi nói. “Cô cũng chết rồi. Cô biết điều đó chứ? Như thể cô vừa mới bước ra đường. Xe tải chưa cán cô, nhưng nó sắp cán.”

    “Ông là chiếc xe tải à?”

    “Mẹ kiếp, cứ đặt cược thế đi.”

    “Tôi thấy vinh hạnh đấy. Cứ xem tiếp đi.”

    Tôi bấm nút Tua liên tục, tốc độ hình tăng lên gấp bốn lần bình thường, rồi tám, mười sáu, rồi ba mươi hai lần. Thời gian trôi vùn vụt. Một giờ. Chín mươi phút. Rồi hình ảnh dừng lại một cách hoàn hảo. Người lái xe taxi ngừng cử động. Anh ta nằm im một lúc lâu rồi thì Lila Hoth vội vã bước vào. Lila quỳ gối gần đầu người đàn ông và bắt mạch. Rồi cô ta ngẩng đầu nở một nụ cười hạnh phúc.

    Thẳng về phía máy quay.

    Thẳng vào tôi.

    Bên kia đầu dây cô ta hỏi, “Phim hết rồi chứ?”

    Tôi đáp, “Rồi.”

    “Thật thất vọng. Anh chàng này không chịu được lâu. Anh ta ốm yếu. Trên người anh ta có động vật ký sinh. Sâu bọ. Chúng tôi có thể thấy lúc nào chúng cũng vặn vẹo bò trong ruột anh ta. Trông phát gớm. Tôi đoán là chúng cũng đã chết. Vật chủ chết thì các loại ký sinh cũng chết.”

    “Giống như cô sẽ chết.”

    “Tất cả chúng ta sẽ chết, Reacher. Câu hỏi duy nhất là khi nào và chết như thế nào.”

    Sau lưng tôi, một trong các doanh nhân đứng dậy đi ra cửa. Tôi xoay người trên ghế cố giữ cho thân mình chắn giữa ông ta và màn hình máy tính. Tôi không nghĩ mình đã thành công. Ông ta nhìn tôi rất lạ và bước ra khỏi phòng.

    Hoặc có khi ông ta đã nghe được đoạn cuối của cuộc nói chuyện qua điện thoại.

    “Xem tiếp đi,” Lila nói vào tai tôi.

    Tôi lại bấm nút Tua. Người lái taxi nằm chết gần Kabul một lát và rồi những hình ảnh tắt phụt và bị thay thế bởi một chuỗi tiếng ồn do băng. Rồi mở ra một cảnh mới. Tôi bấm nút chạy. Tốc độ bình thường. Cảnh trong nhà. Cùng bóng đèn sáng chói. Không thể nói là đêm hay ngày. Có thể là tầng hầm. Dựờng như sàn và tường sơn trắng. Có một phiến đá rộng như cái bàn. Nhỏ hơn tảng đá ở Afghanistan. Hình chữ nhật, làm ra để phục vụ một mục đích nhất định. Có thể là một phần của một căn bếp cũ.

    Một thanh niên trẻ to lớn bị cột vào phiến đá.

    Cậu ta trạc nửa tuổi tôi và to lớn hơn hai mươi phần trăm.

    Nó là khối cơ bắp nặng tới một trăm ba lăm ký, Jacob Mark đã bảo thế. Nó sẽ tham gia giải bóng bầu dục quốc gia.

    Lila Hoth hỏi, “Ông đã thấy cậu ta chưa?”

    “Tôi thấy nó rồi.”

    Peter trần truồng. Rất trắng dưới ánh đèn. Khác mọi mặt so với người lái xe taxi ở Kabul. Làn da tái, mái tóc rối sáng màu. Không có râu. Nhưng nó đang cử động cùng một kiểu. Đầu nó ngật về trước rồi lại ra sau và nó đang hét lên những từ Không! và Làm ơn! mà bằng tiếng gì cũng hiểu. Và đây là tiếng Anh. Tôi có thể đọc âm môi dễ dàng. Thậm chí tôi còn cảm nhận được giọng điệu. Chủ yếu là cảm giác không thể tin nổi. Kiểu giọng điệu người ta sử dụng khi một điều gì vốn được cho là đe dọa vô hại hay thậm chí một trò đùa ác lại hóa ra là nghiêm trọng chết người.

    Tôi nói, “Tôi sẽ không xem đoạn này.”

    Lila Hoth nói, “Ông nên xem đấy. Nếu không ông sẽ chẳng bao giờ biết chắc chắn. Có thể chúng tôi đã thả cậu ta.”

    “Chuyện này diễn ra khi nào?”

    “Chúng tôi đã đặt ra thời hạn và chúng tôi đã giữ đúng thời hạn.”

    Tôi không nói gì.

    “Xem đi.”

    “Không.”

    Cô ta nói, “Nhưng tôi muốn ông xem. Tôi cần ông xem. Chỉ là để duy trì trình tự. Bởi tôi nghĩ ông sẽ là người tiếp theo.”

    “Nghĩ lại đi.”

    “Xem đi.”

    Tôi xem. Có thể chúng tôi đã thả cậu ta. Nếu không ông sẽ chẳng bao giờ biết chắc chắn.

    Chúng đã không thả thằng bé.
     
  5. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 64
    Sau đó tôi gác máy, bỏ đĩa DVD vào túi, cố gắng bước vào nhà vệ sinh ở sảnh và nôn vào bồn tiểu. Không hẳn vì hình ảnh trong đó. Tôi từng chứng kiến những cảnh tệ hơn thế. Mà vì cơn giận dữ, thịnh nộ và thất vọng. Tất cả những cảm xúc có tính ăn mòn ấy tích tụ bên trong tôi và phải tìm chỗ xả ra. Tôi súc miệng, rửa mặt và uống chút nước từ vòi rồi đứng một lúc trước gương.

    Rồi tôi dốc hết các thứ đồ trong túi ra. Tôi giữ lại tiền mặt, cuốn hộ chiếu, thẻ ATM, thẻ đi tàu điện ngầm và danh thiếp NYPD của Theresa Lee. Tôi giữ lại chiếc bàn chải đánh răng. Tôi giữ lại chiếc di động đã nhận cuộc gọi. Tôi ném hai chiếc kia vào thùng rác, cùng cái sạc khẩn cấp, cả tấm danh thiếp giả của bốn gã đàn ông đã chết và những tờ Theresa Lee dùng để ghi lại tin nhắn từ đồng sự của mình.

    Tôi cũng ném cả chiếc đĩa DVD.

    Và chiếc USB mua ở cửa hàng Radio Shack, cùng lớp vỏ màu hồng.

    Tôi chẳng cần mồi nhử nữa.

    Rồi, sạch sẽ gọn gàng, tôi ra ngoài xem Springfield còn quanh đây không.

    Vẫn còn. Anh ta đang ngồi trên ghế ở quán bar ngoài sảnh, lưng tựa vào một góc vuông trong tường. Trên bàn trước mặt Springfield có một cốc nước. Trông anh ta thoải mái song vẫn đang quan sát hết mọi thứ. Ta có thể đưa người này ra khỏi Lực lượng Đặc biệt, vân vân và vân vân. Springfield trông thấy tôi tới. Tôi ngồi xuống cạnh anh ta. Anh ta hỏi, “Đó có phải dân ca không?”

    “Đúng,” tôi nói. “Là dân ca.”

    “Trong một đĩa DVD à?”

    “Còn có một chút nhảy nhót nữa.”

    “Tôi không tin ông đâu. Trông mặt ông tái xám hết cả. Nhảy dân tộc kiểu Afghanistan tệ cực, tôi biết chứ, nhưng chẳng tệ đến mức khiến ông phải thế đâu.”

    “Có hai người đàn ông,” tôi nói. “Cả hai đều bị rạch bụng và lôi hết ruột ra ngoài.”

    “Họ sống lúc ghi hình à?”

    “Rồi họ chết lúc đang ghi hình.”

    “Có âm thanh không?”

    “Phim câm.”

    “Hai người đó là ai?”

    “Một người là lái xe taxi từ Kabul và người còn lại là con trai của Susan Mark.”

    “Tôi không đi taxi ở Kabul. Tôi thích dùng phương tiện của mình hơn. Nhưng với USC thì tệ quá. Họ mất một vị trí phòng thủ rồi. Khó tìm đấy. Tôi đã kiểm tra thông tin về thằng bé. Họ bảo là nó có đôi chân tuyệt vời.”

    “Giờ thì không còn nữa.”

    “Mẹ con Hoth có xuất hiện trong đĩa không?”

    Tôi gật đầu. “Như một lời thú tội.”

    “Chẳng quan trọng. Chúng biết rằng kiểu gì ta cũng giết chúng. Chúng ta giết chúng vì lý do gì đâu thành vấn đề.”

    “Với tôi thì có.”

    “Tỉnh lên đi, Reacher. Đó là toàn bộ mục đích của việc gửi cho ông chiếc phong bì. Chúng muốn làm cho ông nổi điên và cuốn ông vào. Chúng không thể tìm ra ông. Thế nên chúng muốn ông tới tìm chúng.”

    “Đó là điều tôi sẽ làm.”

    “Kế hoạch cho tương lai của ông là chuyện riêng của ông. Nhưng ông cần cẩn trọng. Ông cần hiểu. Bởi đây đã là chiến thuật của chúng trong suốt hai trăm năm qua. Đó là lý do những vụ hành hạ của chúng luôn diễn ra trong phạm vi có thể nghe thấy được rất gần chiến tuyến. Chúng muốn thu hút các lực lượng giải cứu. Hoặc kích động người ta tấn công trả thù. Chúng muốn nguồn cung cấp tù nhân không bao giờ cạn. Cứ hỏi người Anh ấy. Hoặc người Nga cũng được.”

    “Tôi sẽ rất thận trọng.”

    “Tôi chắc chắn là ông sẽ gắng thế. Nhưng ông sẽ không đi đâu cả chừng nào chúng tôi chưa xong việc với ông, về chuyến tàu.”

    “Người của các ông đã thấy những gì tôi thấy.”

    “Giúp chúng tôi thì có lợi cho ông đấy.”

    “Cho tới giờ thì không. Tất cả những gì tôi có là những lời hứa.”

    “Tất cả các cáo buộc sẽ được bãi hết khi chúng tôi có trong tay chiếc USB.”

    “Chưa đủ.”

    “Ông cần cam kết bằng văn bản à?”

    “Không, tôi muốn các cáo buộc được bãi bỏ ngay bây giờ. Tôi cần chút tự do hành động ở đây. Tôi không thể lúc nào cũng phải canh chừng cảnh sát.”

    “Tự do hành động để làm gì?”

    “Ông biết là gì rồi.”

    “Được rồi, tôi sẽ làm điều tôi có thể làm.”

    “Chưa đủ.”

    “Tôi không thể đảm bảo với ông. Tất cả những gì tôi có thể làm là cố gắng.”

    “Cơ hội thành công của ông là bao nhiêu?”

    “Không hề có. Nhưng Sansom có thể.”

    “Ông được quyền phát ngôn thay ông ta không?”

    “Tôi sẽ phải gọi cho ông ấy.”

    “Bảo ông ta rằng không bày chuyện vớ vẩn nữa, được chứ? Giờ chúng ta qua giai đoạn ấy rồi.”

    “OK.”

    “Và cũng nói cho ông ta nghe về Theresa Lee và Jacob Mark nữa. Cả Docherty. Tôi muốn tất cả họ được sạch sẽ mọi tội.”

    “OK.”

    “Và Jacob Mark sẽ cần được tư vấn tâm lý. Đặc biệt nếu anh ấy xem một đĩa DVD như thế.”

    “Anh ta sẽ không xem.”

    “Nhưng tôi muốn anh ấy được quan tâm. Cũng như người chồng cũ, ông Molina.”

    “OK.”

    “Thêm hai việc nữa,” tôi nói.

    “Ông ngã giá quá nhiều, đối với một tay chẳng có gì để trao.”

    “Bộ An ninh Quốc gia đã lần ra rằng mẹ con nhà Hoth đã cùng đội của chúng từ Tajikistan tới. Cách đây ba tháng. Một loại thuật toán do máy tính thực hiện. Tôi muốn biết chúng có bao nhiêu người.”

    “Để đánh giá lực lượng địch hả?”

    “Chính xác.”

    “Và gì nữa?”

    “Tôi muốn gặp Sansom một lần nữa.”

    “Vì sao?”

    “Tôi muốn ông ta nói cho tôi nghe trong chiếc USB đó có gì.”

    “Sẽ không có chuyện đó.”

    “Thế thì ông ta sẽ không lấy lại được nó. Tôi sẽ giữ nó và tự xem.”

    “Gì cơ?”

    “Ông nghe thấy tôi nói rồi đấy.”

    “Thực sự ông đã có chiếc USB rồi hả?”

    “Không,” tôi nói. “Nhưng tôi biết nó đang ở đâu.”
     
  6. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 65
    Springfield hỏi: “Nó ở đâu?”

    Tôi đáp, “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”

    “Ông láo toét.”

    Tôi lắc đầu. “Lần này thì không.”

    “Ông chắc chắn chứ? Ông có thể đưa chúng tôi đến đó chứ?”

    “Tôi có thể đưa các ông tới trong bán kính năm mét. Phần việc còn lại thuộc về các ông.”

    “Tại sao? Nó bị chôn à? Hay trong két ngân hàng? Trong một ngôi nhà?”

    “Chẳng nơi nào trong số đó.”

    “Vậy thì nó ở đâu?”

    “Gọi cho Sansom đi,” tôi nói. “Bố trí một cuộc gặp.”

    Springfield uống chỗ nước còn lại của mình và một nhân viên phục vụ xuất hiện cùng hóa đơn. Springfield thanh toán bằng thẻ tín dụng hạng titan, hệt với cách thanh toán cho cả hai chúng tôi ở khách sạn Four Seasons. Điều tôi cho là tín hiệu tốt. Nó thể hiện một động thái tích cực. Thế nên tôi chọn đẩy vận may của mình đi xa hơn.

    “Muốn thuê cho tôi một phòng chứ?” tôi hỏi.

    “Tại sao?”

    “Bởi sẽ cần thời gian cho Sansom đưa tôi ra khỏi danh sách những kẻ bị truy nã gắt gao nhất. Vả lại tôi mệt. Tôi đã thức cả đêm. Giờ muốn ngả lưng một chút.”

    Mười phút sau chúng tôi đã có mặt ở một tầng cao, trong một căn phòng có giường cỡ lớn. Không gian đẹp, song xét về mặt chiến thuật thì không được ưng ý. Như mọi phòng khách sạn trên tầng cao, nó có một cửa sổ chẳng hề thuận lợi cho tôi, do vậy chỉ có một đường ra. Tôi có thể thấy rằng Springfield cũng đang nghĩ hệt như mình. Anh ta đang nghĩ rằng tôi là gã điên tự đưa mình vào chốn này.

    Tôi hỏi anh ta, “Tôi có thể tin tưởng ông chứ?”

    Anh ta đáp, “Có.”

    “Chứng minh đi.”

    “Bằng cách nào?”

    “Đưa súng của ông cho tôi.”

    “Tôi không có vũ khí.”

    “Những câu trả lời như vậy không giúp ích cho sự tin tưởng đâu.”

    “Tại sao ông muốn lấy nó?”

    “Ông biết vì sao mà. Để nếu ông đưa không đúng người tới cửa phòng tôi, tôi có thể tự vệ.”

    “Tôi sẽ không làm thế.”

    “Đảm bảo cho tôi đi.”

    Springfield đứng yên một lúc. Tôi biết rằng anh ta thà cắm kim vào mắt còn hơn bỏ vũ khí. Nhưng rồi đầu anh ta tính toán, và rồi tay đưa xuống dưới áo khoác sau lưng, rút ra một khẩu súng ngắn Steyr GB cỡ chín ly. Súng ngắn Steyr GB là loại vũ khí đeo bên sườn được các Lực lượng Đặc biệt của Mỹ thời những năm 1980 ưa thích. Lực lượng Đặc biệt. Springfield xoay súng và đưa cho tôi phần báng. Đây là một món vũ khí cũ đẹp, đã dùng nhiều song được bảo dưỡng tốt. Trong ổ đạn có mười tám viên, một viên đã lên nòng.

    “Cảm ơn,” tôi nói.

    Springfield không nói gì. Chỉ bước ra khỏi phòng. Tôi bấm chốt, xoay chìa khóa cửa ngay sau khi anh ta ra, đặt dây xích vào rồi đẩy một chiếc ghế vào phía dưới tay nắm. Tôi dốc hết mọi thứ trong túi ra cái giá đầu giường. Tôi bỏ quần áo xuống dưới nệm cho phẳng. Rồi tôi tắm nước nóng một lúc lâu.

    Và tôi nằm ngủ, khẩu súng của Springfield nhét dưới gối.

    Bốn tiếng sau, tôi thức dậy vì tiếng gõ cửa. Tôi không thích nhìn qua lỗ quan sát ở các cửa phòng khách sạn. Quá nguy hiểm. Tất cả những gì một kẻ tấn công ngoài hành lang phải làm là đợi cho tới khi thấu kính tối lại rồi bắn một phát súng xuyên qua đó. Thậm chí một khẩu.22 giảm thanh cũng hoàn toàn có thể gây chết người. Chẳng có gì quan trọng lắm nằm giữa giác mạc và thân não. Nhưng trên bức tường trong cửa có một chiếc gương soi toàn thân. Tôi đoán là để kiểm tra lại quần áo lần cuối cùng trước khi rời khỏi phòng. Tôi lấy một chiếc khăn tắm từ phòng tắm ra, quấn quanh eo rồi lấy khẩu súng từ dưới gối ra. Tôi dịch chiếc ghế và mở cửa mà vẫn để dây xích. Lùi về phía bản lề và theo dõi qua tấm gương.

    Springfield và Sansom.

    Chỉ có một khe hẹp, hình ảnh trong gương bị đảo ngược và ánh sáng ngoài hành lang lờ mờ song tôi vẫn nhận ra họ khá dễ. Tôi có thể khẳng định là chỉ có hai người. Và họ sẽ vẫn chỉ có hai, trừ phi họ đã mang thêm hơn mười chín người. Khẩu Steyr không có lẫy an toàn. Chỉ nặng tay khi kéo cò ở phát bắn đầu tiên, rồi thêm mười tám phát. Tôi bỏ ngón tay khỏi cò súng và gỡ dây xích ra khỏi cửa.

    Họ chỉ có hai người.

    Cả hai bước vào, Sansom trước, Springfield sau. Sansom trông vẫn như trong buổi sáng tôi gặp lần đầu tiên. Rám nắng, giàu có, quyền lực, đầy sức sống và oai vệ. Ông ta mặc bộ com lê màu xanh hải quân, sơ mi trắng cà vạt đỏ, trông ông nghị sĩ tươi tỉnh như mới được lột xác. Sansom lấy chiếc ghế tôi đặt bên dưới tay nắm cửa, mang đến đặt bên bàn gần cửa sổ và ngồi xuống. Springfield đóng cửa và cài lại dây xích. Tôi vẫn giữ khẩu súng. Tôi lấy đầu gối nâng nệm lên khỏi lò xo giường và dùng một tay lôi quần áo ra.

    “Hai phút,” tôi nói. “Các ông hãy nói chuyện riêng với nhau.”

    Tôi mặc quần áo trong phòng tắm rồi trở ra, Sansom hỏi, “Anh thực sự biết chiếc USB đang ở đâu chứ?”

    “Có,” tôi nói. “Tôi biết thực sự.”

    “Tại sao anh muốn biết trong đó có gì?”

    “Bởi tôi muốn biết nó khiến người ta mất mặt đến đâu.”

    “Anh không muốn cho tôi vào Thượng viện à?”

    “Tôi không quan tâm xem ông sử dụng thời gian thế nào. Tôi chỉ tò mò, thế thôi.”

    Sansom hỏi, “Tại sao anh sẽ không nói cho tôi biết ngay bây giờ nó ở đâu?”

    “Vì tôi có một việc khác cần làm trước. Và tôi cần ông giữ sao cho cánh cảnh sát đừng động vào lông chân tôi khi tôi đang làm việc ấy. Thế nên tôi cần một cách khiến ông để tâm tới việc ấy.”

    “Có thể anh đã lừa tôi.”

    “Tôi từng có thể, nhưng giờ thì không.”

    Sansom không nói lại gì.

    Tôi hỏi, “Mà sao ông lại muốn vào Thượng viện?”

    “Tại sao tôi lại không muốn chứ?”

    “Ông từng là một người lính giỏi và giờ thì ông còn giàu hơn Chúa. Tại sao không đi ra bờ biển mà sống?”

    “Những việc này là một cách liên tục ghi thành tích. Tôi chắc chắn là anh cũng có cách liên tục ghi thành tích của riêng mình.”

    Tôi gật đầu. “Tôi so sánh số câu trả lời tôi nhận được với số câu hỏi tôi đặt ra.”

    “Và việc anh làm tiến triển thế nào rồi?”

    “Tính trung bình cả đời gần được một trăm phần trăm.”

    “Tại sao lại hỏi? Nếu như anh biết chiếc USB ở đâu, hãy đi mà lấy nó.”

    “Tôi không thể.”

    “Sao lại không?”

    “Việc đó đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn mức tôi có thể huy động.”

    “Nó ở đâu?”

    Tôi không đáp.

    “Nó ở New York này hả?”

    Tôi không trả lời.

    Sansom hỏi, “Nó được an toàn không?”

    Tôi đáp: “Đủ an toàn.”

    “Tôi có thể tin tưởng anh không?”

    “Nhiều người đã từng tin.”

    “Và sao?”

    “Tôi nghĩ hầu hết sẽ sẵn sàng làm chứng điều ấy cho tôi.”

    “Còn những người khác?”

    “Không mấy người không được hài lòng.”

    Sansom nói, “Tôi đã đọc hồ sơ quân nhân của anh.”

    Tôi nói, “Ông đã nói với tôi điều đó rồi.”

    “Nó có sự thăng trầm.”

    “Tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng tôi có quan điểm riêng.”

    “Tại sao anh xuất ngũ?”

    “Tôi thấy chán. Ông thì sao?”

    “Tôi thấy già.”

    “Trong cái USB đó có gì?”

    Sansom không trả lời. Springfield đứng im lặng ở góc khuất của tủ đặt ti vi, gần cửa ra vào hơn cửa sổ. Tôi đoán đó thuần túy do thói quen. Phản xạ tự nhiên. Anh ta là kẻ tàng hình đối với một tay bắn tỉa tiềm tàng ngoài cửa và đủ gần hành lang để khống chế một kẻ đột nhập ngay ở giây cánh cửa bật mở. Những gì được đào tạo cứ tồn tại mãi cùng con người. Đặc biệt là đào tạo của lực lượng Delta. Tôi bước tới trả lại anh ta khẩu súng. Không nói một lời, Springfield cầm lấy giắt vào thắt lưng.

    Sansom nói, “Hãy cho tôi biết những gì anh biết cho tới thời điểm này.”

    Tôi nói, “Các ông được máy bay đưa từ Bragg tới Thổ Nhĩ Kỳ, rồi tới Oman. Sau đó có thể là Ấn Độ. Rồi Pakistan, và Mặt trận Tây Bắc.”

    Ông ta gật đầu, không nói gì. Trong mắt Sansom hiện lên cái nhìn xa xăm. Tôi đoán đầu ông ta đang hồi tưởng lại chuyến đi. Máy bay vận tải, trực thăng, xe tải, nhiều dặm đường cuốc bộ.

    Tất cả diễn ra đã lâu.

    “Rồi tới Afghanistan,” tôi nói.

    “Tiếp đi,” ông ta bảo.

    “Có thể các ông đã lưu lại ở rìa dãy Abas Ghar và hướng về phía Nam và Tây, theo rìa thung lũng Korengal, có thể cách đáy thung lũng chừng ba trăm mét.”

    “Tiếp đi.”

    “Ông đã vô tình chạm mặt Grigori Hoth, tước khẩu súng trường của ông ta rồi bỏ cho người đó đi lang thang.”

    “Tiếp đi.”

    “Rồi các ông tiếp tục đi bộ, đến nơi nào đó các ông được lệnh tới.”

    Sansom gật đầu.

    Tôi nói, “Đó là tất cả những gì tôi biết cho đến nay.”

    Ông ta hỏi, “Tháng Ba năm 1983 ông ở đâu?”

    “West Point.”

    “Có sự kiện gì lớn?”

    “Hồng quân đang cố gắng ngăn chặn tình trạng đổ máu.”

    Sansom gật đầu lần nữa. “Đó là một chiến dịch điên rồ. Chưa ai từng đánh bại được các bộ tộc ở Mặt trận Tây Bắc. Suốt cả lịch sử chưa hề có. Và họ có kinh nghiệm ở Việt Nam của người Mỹ để nghiên cứu. Một số việc đơn giản là không thể làm được. Đó là cái cối xay thịt tốc độ chậm. Kiểu như bị chim rỉa thịt cho tới chết. Chúng ta rất vui về chuyện đó, cái này thì rõ rồi.”

    “Chúng ta đã góp phần vào điều đó,” tôi nói.

    “Chắc chắn là thế rồi. Chúng ta trao cho cánh du kích Hồi giáo mọi thứ họ muốn. Miễn phí.”

    “Kiểu như Lend-Lease.”

    “Tệ hơn thế,” Sansom nói. “Lend-Lease liên quan đến việc giúp đỡ các nước bạn bè bị phá sản vào thời điểm ấy. Cánh du kích Hồi giáo không phá sản. Ngược lại hẳn. Có đủ mọi loại liên minh kỳ quái theo hình thức bộ lạc kéo tới tận Arập Saudi. Trên thực tế thì cánh du kích Hồi giáo có nhiều tiền hơn cả chúng ta.”

    “Và sao?”

    “Khi ta đã có thói quen cho người ta mọi thứ họ cần, rất khó dừng lại.”

    “Họ muốn thêm gì?”

    “Sự công nhận,” Sansom đáp. “Cống nạp. Sự thừa nhận. Sự biết điều. Giáp mặt thời gian. Thật khó biết chính xác làm cách nào khái quát được nó.”

    “Vậy phi vụ đó là gì?”

    “Chúng tôi có thể tin tưởng anh không?”

    “Ông có muốn lấy hồ sơ lại không?”

    “Có.”

    “Vậy phi vụ đó là gì?”

    “Chúng tôi đến gặp tay cầm đầu cánh du kích Hồi giáo. Mang quà. Tất cả những loại quà linh tinh mang tính phô trương, từ chính Ronald Reagan. Chúng tôi là phái viên riêng của ông ta. Chúng tôi đã có một buổi họp phổ biến nhiệm vụ ở Nhà Trắng. Người ta bảo chúng tôi xun xoe nịnh bợ bất kỳ khi nào có cơ hội.”

    “Và các ông đã làm thế?”

    “Chứ sao nữa.”

    “Chuyện cách đây hai mươi lăm năm rồi.”

    “Thế thì sao?”

    “Vậy thì có ai quan tâm nữa chứ? Nó là một tình tiết lịch sử. Và dù sao đã thành công. Đó là sự chấm dứt của chiến tranh lạnh.”

    “Nhưng không phải sự cáo chung của đám du kích Hồi giáo. Chúng vẫn hoạt động.”

    “Tôi biết,” tôi nói. “Chúng trở thành lực lượng Taliban và al-Qaeda. Nhưng đó cũng là một tình tiết. Cử tri ở North Carolina sẽ không nhớ về lịch sử. Hầu hết cử tri thậm chí còn chẳng nhớ nổi họ đã ăn gì trong bữa sáng.”

    “Còn tùy,” Sansom nói.

    “Vào cái gì?”

    “Việc nhận ra tên người.”

    “Tên nào?”

    “Korengal là nơi diễn ra việc ấy. Chỉ là một góc nhô ra, nhưng là nơi Hồng quân đã bị tiêu diệt. Cánh du kích Hồi giáo ở đó đã thực hiện công việc thật tốt. Thế nên tay lãnh đạo du kích Hồi giáo bản địa là một nhân vật thực sự quan trọng. Khi ấy hắn là một ngôi sao đang lên. Hắn là người chúng tôi được cử đến gặp. Và chúng tôi đã thực hiện. Chúng tôi đã gặp hắn.”

    “Và các ông đã liếm đít hắn?”

    “Bằng mọi cách chúng tôi có thể.”

    “Hắn là ai?”

    “Ban đầu hắn là một gã khá ấn tượng. Trẻ, cao ráo, đẹp trai, rất thông minh, rất nhiệt huyết. Mà này, lại rất giàu nữa. Có rất nhiều quan hệ. Hắn xuất thân từ một gia đình tỷ phú ở Arập Saudi. Cha hắn là một người bạn của Phó tổng thống thời Reagan. Nhưng bản thân tay này là một tay cách mạng. Vì lý do ấy hắn đã từ bỏ cuộc sống thuận lợi.”

    “Hắn là ai?”

    “Osama bin Laden.”
     
  7. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 66
    Căn phòng yên lặng một lúc khá lâu. Chỉ có những âm thanh của thành phố bị cửa sổ chặn lại cùng tiếng rì rì của không khí từ máy điều hòa chạy qua ống phía trên phòng tắm. Springfield bước ra khỏi chỗ cạnh tủ đặt ti vi, ngồi xuống giường.

    Tôi nói, “Việc nhận ra tên người.”

    Sansom nói, “Đó là điều khốn nạn.”

    “Ông nói đúng đấy.”

    “Chứ còn gì nữa.”

    “Nhưng đó là một tệp lớn,” tôi nói.

    “Thế thì sao?”

    “Thế nên nó là một bản báo cáo dài. Và tất cả chúng ta từng đọc các báo cáo của quân đội.”

    “Và gì nữa?”

    “Chúng rất khô khan.” Và đúng thật. Lấy khẩu Steyr GB của Springfield làm ví dụ. Quân đội đã thử nó. Nó là một phép thần kỳ của kỹ thuật hiện đại. Không chỉ hoạt động đúng như nó nên thế, khẩu súng còn hoạt động đúng như cách nó không nên. Loại này có hệ thống nạp đạn tự động phức tạp sử dụng khí đẩy về phía sau, nghĩa là súng có thể nạp cả đạn kém chất lượng, đạn cũ hay được lắp ráp không chuẩn mà vẫn bắn được. Hầu hết các súng đều gặp vấn đề với nhiều kiểu áp suất khí khác nhau. Nhưng khẩu Steyr có thể xử lý được bất kỳ trường hợp nào. Đó là lý do Lực lượng Đặc biệt thích loại súng này. Họ thường ở xa căn cứ nên không được hỗ trợ nhiều, buộc phải dựa vào bất kỳ thứ gì có thể xoay xở được ở nơi họ đang dừng chân. Khẩu Steyr GB quả là một kỳ quan bằng kim loại.

    Báo cáo của quân đội gọi nó là về mặt kỹ thuật có thể chấp nhận được.

    Tôi nói, “Có thể chúng không đề cập tên ông. Có thể chúng không đề cập tên hắn. Có thể tất cả là chữ viết tắt tên lãnh đạo Delta và chỉ huy tại địa phương, tất cả chôn vùi trong ba trăm trang chú giải bản đồ.”

    Sansom chẳng nói gì.

    Springfield nhìn đi nơi khác.

    Tôi hỏi, “Hắn ta thế nào?”

    Sansom nói: “Thấy không? Đây chính là điều tôi đang nói tới. Giờ đây cả đời tôi chẳng là gì hết trừ một điều tôi là cái kẻ đã liếm đít Osama bin Laden. Có nhớ chăng thì người ta nhớ độc một điều đó thôi.”

    “Nhưng hắn ta như thế nào?”

    “Hắn là kẻ đáng sợ. Hắn thể hiện rõ sự hết mình đối với việc giết người Nga, đó là điều ban đầu chúng ta thấy vui, nhưng rất mau chóng chúng ta nhận ra rằng hắn hết mình với việc giết chết bất cứ kẻ nào không đúng hệt như hắn. Hắn thật kỳ quặc. Hắn là một kẻ tâm thần. Người hắn có mùi khó chịu. Đó là một kỳ cuối tuần thật kinh khủng. Lúc nào tôi cũng sởn da gà.”

    “Các ông đã ở đó cả hai ngày cuối tuần à?”

    “Khách quý mà. Chỉ có điều không thực sự như vậy. Hắn là tay ngạo mạn chó chết. Lúc nào hắn cũng lên mặt ông chủ với chúng tôi. Hắn rao giảng cho chúng tôi về chiến thuật và chiến lược. Hắn dạy cho chúng tôi cách giành thắng lợi cuộc chiến ở Việt Nam nếu hắn là ta. Chúng tôi phải vờ ra vẻ thấy ấn tượng lắm.”

    “Các ông đã trao những quà gì cho hắn?”

    “Tôi chẳng biết quà là những gì. Chúng được bọc kín. Hắn không mở ra. Chỉ quẳng vào một góc. Hắn chẳng thèm để tâm. Kiểu như người ta nói ở đám cưới ấy, sự có mặt của chúng ta đã là quà rồi. Hắn nghĩ hắn đang chứng minh điều gì đó cho thế giới thấy. Quỷ Satan khổng lồ đang quỳ gối trước mặt hắn. Có tới mấy chục lần tôi suýt nôn mửa. Và không chỉ vì đồ ăn đâu.”

    “Các ông ăn cùng hắn à?”

    “Chúng tôi ở trong lều của hắn.”

    “Trong báo cáo, nó sẽ được gọi là tổng hành dinh của họ. Ngôn ngữ sẽ rất chung chung. Chuyện liếm đít hắn sẽ không được đề cập. Nó sẽ là ba trăm trang tài liệu nhàm chán về nỗ lực sắp xếp một cuộc hẹn và một cuộc hẹn đã được thực hiện. Người ta sẽ chết vì buồn chán trước khi ông mới đi qua Đại Tây Dương được nửa đường. Sao ông lại lo lắng thế chứ?”

    “Chính trị đáng sợ lắm. Chuyện về Lend-Lease ấy. Tuồng như không phải bin Laden sử dụng khối gia sản của riêng hắn mà là chúng ta đã cung cấp cho hắn. Gần như là trả tiền cho hắn.”

    “Đâu phải lỗi của ông. Đó là việc của Nhà Trắng. Trong suốt Thế chiến thứ hai có thuyền trưởng nào bị trừng phạt vì chuyển những thứ theo chương trình Lend-Lease cho Liên Xô chưa? Họ cũng chẳng tiếp tục là bạn bè của ta đấy thôi.”

    Sansom không nói gì.

    Tôi nói, “Đó chỉ là từ ngữ trên giấy. Chúng không có gì quen thuộc. Người ta không đọc đâu.”

    Sansom nói, “Đó là một tệp lớn.”

    “Càng lớn càng tốt. Nó càng lớn thì những phần tệ hại càng bị chôn kỹ. Và nó sẽ rất cũ. Tôi nghĩ hồi ấy chúng ta thường đọc tên hắn theo kiểu khác. Có chữ U. Là Usama. Hoặc UBL. Có thể thậm chí người ta chẳng nhận ra. Hoặc ông có thể nói rằng đó là một người hoàn toàn khác.”

    “Anh có chắc chắn là anh biết chiếc USB ở đâu không?”

    “Chắc chắn.”

    “Bởi nghe giọng anh có vẻ không được chắc. Nghe giọng anh có vẻ như anh đang cố an ủi tôi, bởi anh biết nó đang nằm sờ sờ ra cho thế giới thấy.”

    “Tôi biết nó đang ở đâu. Tôi chỉ cố hiểu tại sao ông lại căng thẳng đến vậy. Người ta từng vượt qua những tình huống tệ hơn thế.”

    “Anh đã bao giờ sử dụng máy tính chưa?”

    “Hôm nay tôi đã dùng.”

    “Những gì tạo nên những tệp lớn nhất?”

    “Tôi không biết.”

    “Thử đoán xem.”

    “Các văn bản dài?”

    “Sai rồi. Độ phân giải lớn tạo nên các tệp lớn nhất.”

    “Độ phân giải à?” tôi hỏi.

    Sansom không nói gì.

    “OK,” tôi nói. “Tôi hiểu rồi. Đó không phải một bản báo cáo. Nó là một tấm ảnh.”
     
  8. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 67
    Căn phòng một lần nữa trở nên yên lặng. Những âm thanh của thành phố, tiếng của máy điều hòa. Sansom đứng dậy đi vệ sinh, Springfield trở lại vị trí cũ bên tủ ti vi. Trên tủ đặt các chai nước, trên cổ chai gắn những mảnh giấy ghi rằng nếu uống nước sẽ bị tính phí tám đô la.

    Sansom ra khỏi phòng tắm.

    “Reagan muốn có tấm ảnh,” ông ta nói. “Phần vì ông ta là lão già đa cảm lập dị, phần vì ông ta là ông già đa nghi. Ông ta muốn kiểm tra xem chúng tôi có tuân thủ mệnh lệnh của mình không. Theo như tôi nhớ, tôi đứng cạnh bin Laden, trên mặt tôi là nụ cười khốn nạn nhất trong các kiểu khốn nạn.”

    Springfield nói, “Cùng với tôi phía bên kia.”

    Sansom nói, “Bin Laden đã hạ gục Tháp Đôi. Hắn đã tấn công Lầu Năm Góc. Hắn là tay khủng bố ghê gớm nhất thế giới. Tên này là nhân vật dễ nhận ra, rất dễ nhận ra. Hắn thuộc loại hoàn toàn không thể nhầm lẫn được. Tấm ảnh đó sẽ giết chết sự nghiệp chính trị của tôi. Tắt lịm luôn. Vĩnh viễn.”

    Tôi hỏi, “Đó là lý do mẹ con nhà Hoth muốn có nó hả?”

    Ông ta gật đầu. “Để al-Qaeda có thể làm mất mặt tôi, và mất mặt nước Mỹ cùng với tôi. Hoặc ngược lại.”

    Tôi bước tới tủ ti vi lấy một chai nước. Xoáy nắp chai ra và uống một ngụm dài. Tiền phòng được thanh toán bằng thẻ của Springfield, nghĩa là Sansom trả. Và Sansom có thể chịu được khoản chi tám đô.

    Rồi tôi mỉm cười, rất nhanh.

    “Vì vậy mới có bức ảnh trong cuốn sách của ông,” tôi nói. “Và trên tường trong văn phòng ông. Donald Rumsfeld cùng Saddam Hussein, ở Baghdad.”

    “Đúng,” Sansom nói.

    “Chỉ để đề phòng. Để cho thấy rằng có một người khác cũng đã làm chuyện tương tự. Như con bài chủ, chỉ nằm lẫn kín đáo trong bụi rậm. Không ai biết nó là bài chủ. Thậm chí không ai biết nó là một quân bài.”

    “Đó không phải bài chủ,” Sansom nói “Thậm chí không hề. Nó như con bài bích kém giá trị. Bởi bin Laden còn tệ hơn Saddam. Và sau đó Rumsfeld không tìm cách được bầu vào vị trí gì. Ông ta được bổ nhiệm vào mọi vị trí ông ta đảm nhiệm sau đó là nhờ bạn bè. Ông ta phải chịu thế. Chẳng có kẻ điên nào đi bỏ phiếu cho ông ta cả.”

    “Ông có bạn bè chứ?”

    “Không nhiều lắm.”

    “Chưa ai từng nói nhiều về bức ảnh của Rumsfeld.”

    “Bởi ông ta không tranh cử. Nếu ông ta từng tham gia một chiến dịch tranh cử nào, nó sẽ là bức ảnh nổi tiếng nhất thế giới.”

    “Ông là người tử tế hơn Rumsfeld.”

    “Anh không biết tôi đâu.”

    “Phán đoán có cơ sở đấy.”

    “Được rồi, có thể. Nhưng bin Laden tồi tệ hơn Saddam. Và hình ảnh đó là thuốc độc. Thậm chí nó chẳng cần lời chú thích. Tôi đứng đấy, cười như chó con với gã đàn ông tàn bạo nhất thế giới. Người ta đã làm giả những bức ảnh như vậy để quảng bá cho cuộc tấn công. Còn bức này là đồ thật.”

    “Ông sẽ lấy lại được nó.”

    “Khi nào?”

    “Ông đang xử lý ra sao với các cáo buộc trọng tội?”

    “Chậm.”

    “Nhưng chắc?”

    “Không chắc chắn lắm. Có cả tin tốt và tin xấu.”

    “Hãy cho tôi biết tin xấu trước.”

    “Rất ít khả năng FBI sẽ muốn hợp tác. Và chắc chắn Bộ Quốc phòng sẽ không như thế.”

    “Ba gã đó à?”

    “Họ đã thôi vụ này. Rõ ràng họ đã bị thương. Một người bị rách mũi, một bị thương ở đầu. Nhưng họ đã bị thay thế. Bộ Quốc phòng vẫn nóng lòng muốn theo.”

    “Họ nên thấy biết ơn. Họ cần tất cả mọi sự hỗ trợ mà họ có thể nhận được.”

    “Không phải như thế. Có những cuộc chiến giành lãnh địa buộc phải thắng.”

    “Vậy tin tốt là gì?”

    “Chúng tôi nghĩ rằng NYPD đã sẵn sàng tỏ ra thoải mái về vụ tàu điện ngầm.”

    “Tuyệt,” tôi nói. “Như thế giống như bỏ một vé phạt đỗ xe sai cho Charles Manson.”

    Sansom không nói gì.

    Tôi hỏi ông ta, “Còn về Theresa Lee và Jacob Mark? Cả Docherty nữa thì thế nào?”

    “Họ đã trở lại làm việc. Với văn bản của cơ quan liên bang tuyên dương họ đã hỗ trợ Bộ An ninh Quốc gia thực hiện một vụ điều tra nhạy cảm.”

    “Vậy là họ ổn còn tôi thì không?”

    “Họ không tấn công ai cả. Họ không làm bất kỳ ai bị thương.”

    “Ông sẽ làm gì với chiếc USB khi lấy lại được nó?”

    “Tôi sẽ xem có đúng là nó không, rồi tôi đập nát nó ra, rồi đốt các mảnh, nghiền tro thành bụi và cho vào tám toa lét khác nhau rồi xả nước.”

    “Giả sử tôi yêu cầu ông không làm thế thì sao?”

    “Tại sao ông làm như vậy?”

    “Tôi sẽ nói với ông sau.”

    Tùy theo quan điểm mỗi người, bây giờ là đầu buổi tối hoặc cuối buổi chiều. Do vừa ngủ dậy nên tôi coi đây là thời gian ăn sáng. Tôi gọi xuống bộ phận phục vụ tại phòng yêu cầu mang lên một khay lớn. Chừng năm mươi đô tính theo giá khách sạn Sheraton New York, cộng với thuế, tiền boa, các loại phí. Sansom chẳng ngại chút nào. Ông ta ngồi trên ghế, người hướng về phía trước, nhấp nhổm vì thất vọng và sốt ruột. Springfield thì thư thái hơn nhiều. Cách đây một phần tư thế kỷ anh ta đã cùng chia sẻ chuyến hành trình qua núi, cùng chia sẻ mối ô nhục. Đôi khi bạn bè của chúng ta trở thành kẻ thù, và đôi khi kẻ thù trở thành bạn bè của chúng ta. Song Springfield chẳng có gì phụ thuộc vào nó. Chẳng mục đích, chẳng kế hoạch, chẳng tham vọng nào. Và điều đó bộc lộ ra. Anh ta vẫn đúng như con người của mình hồi ấy, chỉ là một người thực hiện công việc của mình.

    Tôi hỏi, “Lẽ ra các ông đã có thể giết hắn chứ?”

    “Hắn có cận vệ,” Sansom đáp. “Như một vòng tròn bên trong. Sự trung thành ở đó còn hơn cả sự cuồng tín. Hãy nghĩ về lính thủy quân lục chiến hay người trong công đoàn xe tải Teamster rồi nhân lên một ngàn lần. Chúng tôi bị tước vũ khí khi còn cách lều vài trăm mét. Chúng tôi không bao giờ được có mặt bên hắn khi không có kẻ khác. Luôn luôn có người lảng vảng xung quanh. Cộng thêm bọn trẻ con và vật nuôi. Chúng sống như ở kỳ Đồ đá.”

    “Hắn là thằng khốn cao gầy,” Springfield nói. “Hồi ấy tôi đã có thể vươn người ra bẻ gãy cái cổ nhẳng của hắn bất kỳ lúc nào tôi muốn.”

    “Hồi ấy ông muốn thế chứ?”

    “Ông có thể cá là có. Bởi tôi biết. Ngay từ lúc đầu. Có lẽ đúng ra tôi đã nên làm ngay khi đèn flash nháy. Như bẻ một thanh bánh mì trong nhà hàng Ý. Thế thì ảnh chụp sẽ đẹp hơn.”

    Tôi nói, “Việc làm tự sát.”

    “Nhưng sau này sẽ cứu được nhiều mạng người.”

    Tôi gật đầu. “Cũng như thế nếu Rumsfeld đã thọc một con dao vào người Saddam.”

    Tay nhân viên phục vụ mang bữa ăn của tôi lên, tôi bảo Sansom rời khỏi ghế và tôi ăn tại bàn. Sansom lấy điện thoại di động gọi một cú và xác nhận rằng từ thời điểm đó tôi được thoát khỏi các cáo buộc liên quan tới những việc làm ở ga tàu điện ngầm. Đối với NYPD, tôi không còn là người đáng quan tâm. Nhưng rồi ông ta thực hiện cuộc gọi thứ hai và bảo tôi rằng ban hội thẩm vẫn ngả về bên FBI và những dấu hiệu có vẻ chẳng ổn chút nào. Rồi Sansom gọi cú thứ ba và khẳng định rằng cánh bên Bộ Quốc phòng chắc chắn sẽ không cho qua. Họ như con chó đang giữ xương. Tôi đang gặp rắc rối đủ loại ở tầm liên bang. Cản trở công lý, tấn công và ra đòn, làm người khác bị thương bằng một thứ vũ khí có thể gây chết người.

    “Hết chuyện,” Sansom nói. “Tôi sẽ phải trực tiếp đi gặp Bộ trưởng.”

    “Hoặc Tổng thống,” tôi chêm vào.

    “Tôi chẳng thể làm việc nào cả. Xét về bề nổi, Bộ Quốc phòng đang ráo riết săn đuổi một nhóm al-Qaeda đang hoạt động. Trong bối cảnh hiện nay, không thể lập luận bác bỏ việc ấy.”

    Chính trị là một bãi mìn. Làm cũng chết, không làm cũng tiêu.

    “Được rồi,” tôi nói. “Miễn là tôi biết hình thù của chiến trường.”

    “Nói đúng ra thì đây không phải trận đánh của anh.”

    “Jacob Mark sẽ thấy ổn hơn khi có một chút kết cục.”

    “Anh làm việc này cho Jacob Mark à? Cánh nhân viên điều tra liên bang có thể dành cho ông ấy tất cả những kết cục ông ấy cần.”

    “Ông nghĩ thế hả? Cánh điều tra liên bang chẳng đi tới đâu. Ông muốn chuyện này kéo dài bao lâu?”

    “Vậy ông làm việc này cho Jacob Mark hay cho tôi?”

    “Tôi làm cho bản thân tôi.”

    “Ông chẳng có liên quan gì.”

    “Tôi thích các thách thức.”

    “Trên thế giới có đầy thách thức khác.”

    “Chúng đã làm cho nó thành thách thức đối với cá nhân. Chúng đã gửi cho tôi đĩa DVD đó.”

    “Đó là chiến thuật. Nếu anh phản ứng, chúng sẽ thắng.”

    “Không, nếu tôi phản ứng, chúng sẽ thua.”

    “Đây không phải Miền Tây hoang dã đâu.”

    “Ông nói đúng. Đây là phương Tây hèn nhát. Chúng ta cần quay đồng hồ ngược lại.”

    “Anh thậm chí biết bọn chúng đang ở đâu chứ?”

    Springfield liếc nhìn tôi.

    Tôi nói, “Tôi đang xem xét vài ý tưởng.”

    “Anh vẫn có kênh liên lạc để mở chứ?”

    “Từ lúc xem đĩa DVD tới giờ cô ta chưa gọi cho tôi.”

    “Từ lúc cô ta cho anh vào bẫy, ý anh là thế đấy.”

    “Nhưng tôi nghĩ cô ta sẽ gọi cho tôi lần nữa.”

    “Tại sao?”

    “Bởi cô ta muốn thế.”

    “Có thể cô ta thắng. Chỉ đi một bước sai lầm, anh sẽ trở thành tù nhân của cô ta. Rồi rốt cuộc anh sẽ phải nói cho cô ta điều cô ta muốn biết.”

    Tôi hỏi: “Từ vụ mười một tháng Chín tới giờ ông đã bay bằng máy bay thương mại bao nhiêu lần?”

    Ông ta đáp, “Vài trăm lần.”

    “Và tôi cá rằng trong mọi lần, một phần nhỏ tâm trí ông đều hy vọng rằng trên máy bay có bọn không tặc. Để ông có thể trông thấy chúng diễu hành trên lối đi, để ông có thể bật dậy đánh cho chúng vãi ra quần. Hoặc để ông chết trong lúc đang cố gắng làm việc ấy.”

    Sansom cúi đầu, miệng trễ xuống hé một nụ cười ảo não. Điều đầu tiên tôi thấy ở ông ta trong suốt một thời gian dài.

    “Anh nói đúng,” ông ta nói. “Lần nào cũng thế.”

    “Tại sao vậy?”

    “Tôi muốn bảo vệ máy bay.”

    “Và ông muốn trút những cơn giận dữ của mình. Và trút bỏ sự căm hận của mình. Tôi biết tôi cũng sẽ thế. Tôi thích tòa Tháp Đôi. Tôi thích kiểu của thế giới trước kia. Ông biết đấy, là trước đây ấy. Tôi không có kỹ năng chính trị. Tôi không phải nhà ngoại giao hay chiến lược gia. Tôi biết những nhược điểm của mình, và tôi cũng biết những ưu điểm của mình. Thế nên tóm lại thì với một kẻ như tôi, cơ hội gặp một nhóm al-Qaeda đang hoạt động rất giống như tất cả các ngày sinh nhật và lễ Giáng sinh được gom vào một.”

    “Anh thật điên. Đây không phải việc để làm một mình.”

    “Còn cách nào khác nữa chứ?”

    “Rốt cuộc Bộ An ninh Quốc gia sẽ tìm ra chúng. Rồi họ sẽ tập hợp lại thành gì đó. NYPD, FBI, các đội SWAT, thiết bị, vài trăm người.”

    “Một chiến dịch khổng lồ với vô số thành phần riêng rẽ.”

    “Nhưng được lên kế hoạch cẩn thận.”

    “Trước đây ông đã tham gia các chiến dịch như thế chứ?”

    “Vài lần.”

    “Với ông thì kết quả như thế nào?”

    Sansom không trả lời.

    Tôi nói, “Một mình luôn tốt hơn.”

    “Có thể không,” Springfield nói. “Chúng tôi đã kiểm tra thuật toán máy tính của Bộ An ninh Quốc gia. Mẹ con nhà Hoth mang theo cả một lũ đông.”

    “Bao nhiêu?”

    “Mười chín gã đàn ông.”
     
  9. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 68
    Tôi ăn nốt bữa sáng. Ấm cà phê đã hết sạch. Thế nên tôi uống nốt chai nước giá tám đô rồi quẳng về phía thùng rác, phần đáy chai đi trước. Nó va vào thành thùng rác, tạo nên một âm thanh nhựa rỗng rồi bật lăn ra thảm. Nếu tôi mê tín thì đó là điềm không tốt. Nhưng tôi lại không mê tín.

    “Tất thảy mười chín tên,” tôi nói. “Bốn gã đã rời Mỹ và hai gã đang cuốc bộ trong tình trạng bị thương, bị vỡ hàm và sái khuỷu tay. Như vậy còn mười ba tên có khả năng chiến đấu.”

    Sansom nói, “Vỡ hàm và sái khuỷu tay à? Chuyện đó xảy ra thế nào?”

    “Chúng ra ngoài tìm tôi. Chúng có thể là những thằng chó ác chiến với súng phóng lựu ở mấy vùng đồi quê chúng, nhưng có vẻ là tẩn nhau trên phố không phải thế mạnh của chúng.”

    “Anh đã viết lên trán chúng đấy à?”

    “Trán một tên. Tại sao ông biết?”

    “FBI nhận được điện thoại từ phòng cấp cứu Bellevue. Hai người nước ngoài không rõ danh tính bị bỏ lại đấy sau khi bị đánh. Một trong hai người có chữ viết trên trán.”

    “Hình phạt,” tôi nói. “Chắc chắn mẹ con Hoth không hài lòng với màn trình diễn của chúng. Thế nên họ bỏ chúng đi, để khích lệ những tên khác.”

    “Bọn nhẫn tâm.”

    “Giờ chúng ở đâu?”

    “Trong phòng được canh gác ở bệnh viện. Bởi trước đây một trong số chúng đã ở đó. Một phòng cấp cứu nào đó ở ga Penn. Hắn không nói gì cả. FBI đang cố gắng xác minh hắn là thằng quái nào.”

    “Làm gì họ phải mất thời gian thế nhỉ? Tôi đã viết tên của Lila lên trán hắn. Tôi viết Lila, hãy gọi cho tôi. Ngay bây giờ có bao nhiêu người tên Lila mà Cục Điều tra Liên bang quan tâm?”

    Sansom lắc đầu. “Tin tưởng họ chút đi. Phần da ghi tên đã bị gọt đi bằng dao.”

    Tôi bước qua mở chai nước thứ hai giá tám đô. Nhấp một ngụm. Vị ngon. Nhưng không ngon hơn nước giá hai đô. Hoặc nước miễn phí uống từ vòi.

    “Mười ba người,” tôi nói.

    “Cộng thêm mẹ con nhà Hoth nữa,” Springfield nói.

    “OK, mười lăm.”

    “Phi vụ tự sát.”

    “Tất cả chúng ta sẽ chết,” tôi nói. “Câu hỏi duy nhất là khi nào và chết như thế nào.”

    “Chúng tôi không thể chủ động giúp anh,” Sansom nói. “Anh hiểu điều đó, phải không? Chuyện này sẽ kết thúc với ít nhất là một và nhiều nhất là mười lăm trường hợp người chết trên đường phố New York. Chúng tôi không thể là một phần trong đó. Chúng tôi không thể mon men tới gần dù cách cả triệu dặm.”

    “Vì chính trị à?”

    “Vì rất nhiều lý do.”

    “Tôi không đề nghị giúp đỡ đâu.”

    “Anh là kẻ điên cuồng.”

    “Chúng sẽ nghĩ như thế.”

    “Trong đầu anh có chương trình chứ?”

    “Sớm có. Chẳng phải chờ đợi lâu đâu.”

    “Tất nhiên trường hợp tối thiểu một người chết chính là anh đấy. Trong trường hợp đó tôi sẽ không biết làm thế nào để tìm ra bức ảnh của mình.”

    “Thế thì cầu mong may mắn cho tôi đi.”

    “Điều có trách nhiệm là anh nói cho tôi biết bây giờ.”

    “Không, điều có trách nhiệm là tôi nhận công việc làm lái xe buýt cho trường học.”

    “Tôi có thể tin tưởng anh không?”

    “Về việc sống sót à?”

    “Về việc giữ lời ấy.”

    “Ông đã học điều gì ở trường dự bị sĩ quan?”

    “Rằng anh em sĩ quan cần tin tưởng nhau. Đặc biệt là anh em sĩ quan cùng cấp.”

    “Vậy thì nó đấy.”

    “Nhưng chúng ta không phải anh em thực sự. Chúng ta nằm ở các bộ phận rất khác nhau.”

    “Ông nói đúng. Tôi đã làm việc rất vất vả trong lúc ông bay qua hết cả thế giới đặng mà hôn đít gã khủng bố thế giới. Ông thậm chí còn chẳng giành được lấy một Huy chương Trái tim Tía.”

    Sansom không nói gì.

    “Đùa thôi,” tôi nói. “Nhưng ông nên hy vọng rằng tôi không phải trường hợp bỏ mạng đầu tiên, nếu không thì có thể lúc nào ông cũng nghe những điều như vậy.”

    “Vậy thì hãy nói cho tôi bây giờ.”

    “Tôi muốn ông yểm trợ cho tôi.”

    Sansom nói, “Tôi đã đọc hồ sơ của anh.”

    “Ông nói tôi nghe điều đó rồi.”

    “Anh đã được tặng Huy chương Trái tim Tía do bị xe bom ở Beirut thổi bay. Trại lính thủy quân lục chiến.”

    “Tôi nhớ rõ chuyện đó.”

    “Anh có một vết sẹo làm ảnh hưởng tới diện mạo.”

    “Muốn xem không?”

    “Không. Nhưng anh cần nhớ rằng lũ ấy không phải mẹ con nhà Hoth.”

    “Ông là ai đây, chuyên gia trị liệu của tôi à?”

    “Không. Nhưng điều đó không khiến cho nhận xét của tôi bớt đúng chút nào đâu.”

    “Tôi không biết thủ phạm ở Beirut là ai. Chắc chắn chẳng ai biết. Nhưng dù có là ai đi nữa, chúng cũng là anh em sĩ quan của nhà Hoth.”

    “Anh có động cơ trả thù. Và anh vẫn cảm thấy tội lỗi về chuyện Susan Mark.”

    “Thế thì sao?”

    “Thế thì có thể anh không hoạt động với mức hiệu quả tối đa.”

    “Lo lắng cho tôi à?”

    “Chủ yếu cho bản thân tôi. Tôi muốn lấy lại bức ảnh của mình.”

    “Ông sẽ có nó.”

    “Ít nhất hãy cho tôi manh mối về nơi nó đang tồn tại.”

    “Ông biết những gì tôi biết. Tôi đã luận ra. Thế nên ông sẽ luận ra.”

    “Anh là cảnh sát. Kỹ năng của anh khác của tôi.”

    “Thế nên ông sẽ chậm hơn. Nhưng đây không phải trò cao siêu gì đâu.”

    “Thế là trò gì?”

    “Hãy một lần tư duy như người bình thường. Không giống như một người lính hay chính trị gia.”

    Sansom thử. Ông ta thất bại. Ông ta nói, “Ít nhất hãy nói cho tôi biết vì sao tôi không nên phá hủy nó.”

    “Ông biết những gì tôi biết.”

    “Nghĩa là sao?”

    “Hoặc có thể ông không biết những gì tôi biết. Bởi ông quá khép kín. Còn tôi chỉ là một thành viên của công chúng.”

    “Thế thì sao?”

    “Tôi chắc chắn ông là một tay ác chiến đấy, Sansom. Tôi chắc chắn ông sẽ là một thượng nghị sĩ tuyệt vời. Nhưng nói cho cùng thì bất kỳ thượng nghị sĩ nào cũng chỉ là một trong một trăm nghị sĩ. Gần như tất cả họ có thể đổi chỗ cho nhau. Ông có thể cho tôi một cái tên chứ? Tên của một cá nhân thượng nghị sĩ nào đã thực sự tạo được khác biệt cho bất cứ chuyện gì ấy?”

    Sansom chẳng nói gì.

    “Ông có thể nói cho tôi nghe cá nhân ông sẽ tiêu diệt bọn al-Qaeda thế nào không?”

    Sansom bắt đầu nói về Ủy ban Quân lực, Ủy ban Đối ngoại, Tình báo, ngân sách, sự giám sát. Như một bài phát biểu theo công thức. Như ông ta đang diễn thuyết. Tôi hỏi, “Phần việc nào trong đó sẽ không được ai khác thực hiện nếu như ông không được giao thực hiện?”

    Sansom không trả lời. Tôi hỏi, “Hãy tưởng tượng là có một cái hang ở Đông Bắc Pakistan. Tưởng tượng là ngay bây giờ bọn chỉ huy cao cấp của al-Qaeda đang ngồi đó. Liệu chúng có vò đầu bứt tai nói rằng khốn thật, ta không nên để cho John Sansom vào Thượng viện Mỹ không? Ông có đứng đầu danh sách trong chương trình nghị sự của chúng không?”

    Ông ta đáp, “Có lẽ không.”

    “Thế tại sao chúng muốn có bức ảnh?”

    “Những thắng lợi nhỏ,” Sansom nói. “Vẫn hơn là chẳng có gì.”

    “Ông không nghĩ rằng như thế là hơi quá nhiều việc để chỉ giành một thắng lợi nhỏ à? Hai nhân viên cộng thêm mười chín gã đàn ông cộng với ba tháng?”

    “Nước Mỹ sẽ mất mặt.”

    “Nhưng không đến nỗi mất mặt lắm. Hãy xem bức ảnh của Rumsfeld. Chẳng ai quan tâm. Thời thế thay đổi, mọi việc tiếp diễn. Người ta hiểu điều ấy, ngay cả khi có nhận ra đi nữa. Người Mỹ hoặc rất trưởng thành và nhạy cảm, hoặc rất dễ quên. Tôi chưa bao giờ chắc chắn là khả năng nào. Nhưng dù gì đi nữa, bức ảnh đó cũng sẽ là thứ không quan trọng. Nó có thể hủy diệt cá nhân ông, song hủy diệt mỗi lần một người Mỹ không phải kiểu hoạt động của al-Qaeda.”

    “Nó sẽ làm tổn thương những kỷ niệm về Reagan.”

    “Ai quan tâm chứ? Hầu hết người Mỹ thậm chí còn chẳng nhớ ông ta. Hầu hết người Mỹ nghĩ Reagan là một sân bay ở Washington.”

    “Tôi nghĩ anh đang đánh giá quá thấp đấy.”

    “Còn tôi nghĩ ông đang đánh giá quá cao. Ông quá gần với việc ấy.”

    “Nhưng tôi nghĩ bức ảnh đó sẽ gây hại.”

    “Nhưng nó sẽ gây tổn thương cho ai? Chính phủ nghĩ gì?”

    “Anh biết rằng Bộ Quốc phòng đang cố gắng như điên để lấy nó lại.”

    “Thật hả? Vậy tại sao họ lại giao nhiệm vụ cho một đội hạng B của mình?”

    “Anh nghĩ mấy tay đó là đội B của họ à?”

    “Tôi thực lòng hy vọng thế. Nếu đó là đội hạng A của họ, tất cả chúng ta nên chuyển sang Canada mà ở cho lành.”

    Sansom không nói gì.

    Tôi nói, “Bức ảnh có thể gây một chút tác hại cho ông ở địa phương, tại Bắc Carolina. Nhưng rõ ràng tất cả chỉ thế. Chúng ta đang không thấy bất kỳ kiểu nỗ lực tối đa nào từ Bộ Quốc phòng. Bởi không thực sự có ảnh hưởng tiêu cực nào ở cấp quốc gia.”

    “Đó không phải cách hiểu chính xác.”

    “Được rồi, bức ảnh tệ là tệ cho ta. Đó là bằng chứng của một lỗi chiến lược. Nó thật khó chịu, thật đáng xấu hổ, nó sẽ bôi tro trát trấu vào mặt chúng ta. Nhưng chỉ có thế. Sẽ không phải là ngày tàn của thế giới. Chúng ta sẽ không sụp đổ.”

    “Vậy là những kỳ vọng của al-Qaeda quá cao sao? Anh nói rằng chúng cũng lầm à? Chúng không hiểu người Mỹ như cách anh hiểu à?”

    “Không, tôi đang nói rằng toàn bộ chuyện này hơi mất cân bằng. Hơi thiếu cân xứng. Al-Qaeda đã điều một đội hạng A còn chúng ta điều một đội hạng B. Vì vậy mong muốn của chúng đối với việc giành bức ảnh đó mạnh hơn một chút so với mong muốn của ta trong việc giữ lấy nó.”

    Sansom chẳng nói gì.

    “Và chúng ta phải đặt câu hỏi tại sao Susan Mark không được lệnh chỉ sao chép nó? Nếu mục đích của chúng là làm mất mặt ta thì sao chép nó là ý tưởng hay hơn. Bởi nếu chuyện lộ ra và những người hoài nghi cho rằng nó bị làm giả, mà họ sẽ cho là thế thật, thì bản gốc vẫn còn nằm trong tệp, và ta sẽ không thể phủ nhận nó một cách bình thản được.”

    “OK.”

    “Nhưng Susan Mark đã không được lệnh sao chép nó. Thực tế là cô ấy được lệnh đánh cắp nó. Để lấy nó khỏi tay chúng ta. Mà không để lại dấu vết gì. Điều đó làm tăng đáng kể nguy cơ và khả năng bị phát hiện.”

    “Nghĩa là thế nào?”

    “Nghĩa là chúng muốn có nó, cũng như chúng muốn ta không có nó.”

    “Tôi không hiểu.”

    “Ông cần hồi tưởng lại. Ông cần suy luận chính xác như chiếc máy ảnh đó đã thấy. Bởi al-Qaeda không muốn công khai bức ảnh ấy. Chúng đánh cắp nó bởi chúng muốn dìm nó đi.”

    “Tại sao chúng muốn thế?”

    “Bởi dù nó có tệ cho ông đến thế nào đi nữa, trong ấy có gì đó còn tệ hại hơn cho Osama bin Laden.”
     
  10. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 69
    Sansom và Springfield trở nên im lặng, tôi biết họ sẽ thế mà. Trí não họ đang quay ngược lại một phần tư thế kỷ trước, tới một căn lều có ánh sáng lờ mờ nằm trên nền thung lũng Korengal. Họ cứng người rồi lại thẳng ra, vô thức lặp lại những tư thế trang trọng. Một ở bên trái, một ở bên phải, tay chủ nhà ở giữa hai người. Các ống kính máy ảnh chĩa vào họ, lấy hình, thu gần lại, điều chỉnh, lấy nét. Nhấp nháy, nạp điện, rồi tiếng tách, trùm ánh sáng lên khung cảnh xung quanh.

    Chính xác thì máy ảnh đã thấy gì?

    Sansom nói, “Tôi không nhớ.”

    “Có lẽ là chúng tôi,” Springfield nói. “Đơn giản thế. Có thể bây giờ những cuộc gặp với người Mỹ có vẻ giống như nghiệp chướng vậy.”

    “Không,” tôi nói. “Đó là cách đánh bóng tên tuổi tốt. Nó khiến bin Laden có vẻ đầy quyền lực và đắc thắng, đồng thời khiến chúng ta trông như những thằng khờ. Nó phải là điều gì đó khác.”

    “Trong đó là một vườn thú. Lung tung lộn xộn.”

    “Nó phải là thứ gì đó không phù hợp đến mức nguy hiểm chết người. Các bé trai, bé gái, thú vật.”

    Sansom nói, “Tôi không biết những thứ nào bị chúng coi là không phù hợp. Ở đó chúng có cả ngàn luật lệ. Thậm chí có thể là thứ gì đó hắn đang ăn khi ấy.”

    “Hoặc hút.”

    “Hoặc uống.”

    “Ở đó không có rượu,” Springfield nói. “Tôi nhớ điều đó.”

    “Phụ nữ?” tôi hỏi.

    “Cũng không có phụ nữ.”

    “Phải là gì đó. Ở đó có vị khách khác không?”

    “Chỉ có người của bộ tộc.”

    “Không có người nước ngoài à?”

    “Chỉ chúng tôi thôi.”

    “Phải là gì đó khiến hắn trông có vẻ nhún nhường, hay yếu đuối, hay lạc lối. Hắn khỏe mạnh không?”

    “Có vẻ khỏe.”

    “Vậy còn gì khác nữa?”

    “Lầm đường lạc lối so với các luật lệ của chúng hay lầm đường lạc lối theo ý ta muốn nói?”

    “Đại bản doanh al-Qaeda,” tôi nói. “Nơi đàn ông là con người còn đám dê hoảng sợ.”

    “Tôi không nhớ. Đã lâu rồi. Chúng tôi mệt mỏi. Khi ấy chúng tôi vừa cuốc bộ một trăm dặm xuyên qua chiến tuyến.”

    Sansom trở nên im lặng. Như tôi biết ông ta sẽ im lặng. Cuối cùng ông ta nói, “Chuyện này thực là khốn nạn.”

    Tôi nói, “Tôi biết nó là thế.”

    “Tôi sẽ phải đưa ra một quyết định lớn.”

    “Tôi biết ông sẽ như thế.”

    “Nếu bức ảnh đó gây tổn hại cho hắn nhiều hơn cho tôi, tôi sẽ phải công bố nó.”

    “Không, nếu nó có gây tổn hại cho hắn, dù chỉ chút ít thôi, ông sẽ phải công bố nó. Và ông sẽ phải chấp nhận và đối mặt với hậu quả.”

    “Nó đang ở đâu?”

    Tôi không trả lời.

    “Được rồi,” ông ta nói. “Tôi sẽ yểm trợ anh. Nhung tôi biết những gì anh biết. Và anh đã luận ra. Nghĩa là tôi có thể luận ra. Nhưng chậm hơn. Bởi vì nó chẳng phải khoa học cao siêu gì. Nghĩa là mẹ con nhà Hoth cũng có thể luận ra. Chúng sẽ chậm hơn chứ? Có thể không. Có thể ngay bây giờ chúng đang cầm nó lên.”

    “Đúng,” tôi nói. “Có thể chúng đang cầm nó lên.”

    “Và nếu chúng sắp dìm nó đi, có thể tôi nên cứ tự nhiên và để mặc chúng làm thế.”

    “Nếu chúng sắp dìm nó đi, thế nghĩa là nó là một vũ khí quý giá có thể sử dụng chống lại chúng.”

    Sansom không nói gì.

    Tôi nói, “Nhớ trường dự bị sĩ quan không? Điều gì đó về tất cả mọi kẻ thù, dù trong hay ngoài nước chăng?”

    “Chúng ta đã có những lời thề như nhau ở Quốc hội.”

    “Vậy thì ông có nên để cho nhà Hoth dìm bức ảnh đi không?”

    Sansom im lặng một lúc lâu.

    Rồi ông ta lên tiếng.

    “Đi đi,” ông ta bảo. “Đi tìm mẹ con nhà Hoth trước khi chúng lấy được bức ảnh.”

    Tôi không đi. Ngay lúc ấy thì không. Không phải ngay lập tức. Tôi có những điều cần nghĩ, những kế hoạch cần vạch ra. Và những thiếu sót cần khắc phục. Tôi không được trang bị. Tôi đang đi đôi ủng làm vườn bằng cao su và mặc quần xanh. Tôi không có vũ khí. Chẳng có gì là hay ho cả. Tôi muốn đi vào giữa đêm, mặc đồ đen thích hợp. Với đôi giày phù hợp. Và vũ khí. Càng nhiều càng tốt.

    Quần áo thì dễ.

    Vũ khí thì không dễ lắm. Thành phố New York không phải nơi tốt nhất trên hành tinh này có thể dễ dàng mua một món vũ khí cá nhân. Có lẽ ở vùng ngoại vi có những nơi lén bán vũ khí cũ với giá đắt, nhưng ở vùng ngoại vi cũng có những nơi bán xe đã sử dụng, và các tài xế khó tính được khuyến cáo tránh thật xa những nơi đó.

    Rắc rối.

    Tôi nhìn Sansom nói, “Ông không thể chủ động giúp tôi, đúng không?”

    Ông ta nói, “Đúng.”

    Tôi nhìn Springfield mà bảo, “Giờ tôi sẽ đến một cửa hiệu bán quần áo. Tôi tính mua quần đen, áo phông đen và giày đen. Cùng một chiếc áo gió đen, có lẽ cỡ XXXL, loại lùng thùng ấy. Ông nghĩ sao?”

    Springfield nói, “Chúng tôi chẳng quan tâm. Lúc ông trở lại thì chúng tôi sẽ đi khỏi rồi.”

    Tôi đến cửa hiệu ở Broadway, nơi tôi đã mua chiếc sơ mi ka ki trước hôm diễn ra bữa trưa gây quỹ của Sansom. Nơi này làm ăn khá, có sẵn rất nhiều đồ. Tôi tìm thấy mọi thứ mình cần ngoài giày và vớ. Quần jean đen, áo phông trơn màu đen, một chiếc áo gió màu đen bằng cô tông kéo khóa may cho một gã to con hơn tôi nhiều. Tôi thử chiếc áo gió và đúng như mong muốn, nó vừa hai cánh tay và phần vai, phần trước phồng lên như áo bà bầu.

    Hoàn hảo, nếu như Springfield đã hiểu mách nước của tôi.

    Tôi mặc các thứ trong ô thay đồ, ném bỏ các thứ cũ và trả cho nhân viên bán hàng năm mươi chín đô la. Rồi tôi theo chỉ dẫn của cô ta, đi thêm ba dãy nhà tới cửa hàng giày. Tôi mua một đôi giày chắc khỏe màu đen buộc dây, một đôi tất đen. Mất gần một trăm đô. Đầu tôi vang lên giọng nói của mẹ tôi, từ lâu lắm rồi: Với cái giá như thế, nên dùng cho lâu. Đừng có giậm mạnh. Tôi bước khỏi cửa hiệu, giậm chân xuống vỉa hè vài lần cho chắc chân. Tôi dừng ở một cửa hàng bán thuốc mua chiếc quần đùi lót màu trắng. Tôi nghĩ rằng, do mọi thứ khác đều mới, tôi nên làm thế cho đồng bộ.

    Rồi tôi bắt đầu trở lại khách sạn.

    Được ba bước, điện thoại trong túi tôi bắt đầu rung.
     
  11. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 70
    Tôi lùi lại dựa vào một tòa nhà trên góc phố 55 và rút điện thoại khỏi túi. Cuộc gọi hạn chế. Tôi mở nắp máy và đưa lên áp vào tai.

    Lila Hoth nói, “Reacher phải không?”

    Tôi nói, “Phải.”

    “Tôi vẫn đang đứng ngoài đường. Tôi vẫn đang chờ xe tải cán tôi đây.”

    “Nó đang tới đấy.”

    “Nhưng khi nào nó tới?”

    “Cô có thể toát mồ hôi một lúc. Tôi sẽ ở cạnh cô trong vài ngày nữa.”

    “Tôi không thể đợi được.”

    “Tôi biết cô đang ở đâu.”

    “Tốt. Điều đó sẽ đơn giản hóa mọi việc.”

    “Và tôi cũng biết cái USB đang ở đâu nữa.”

    “Một lần nữa, tốt. Chúng tôi sẽ giữ cho ông sống đủ lâu để có thể nói cho chúng tôi. Và có thể thêm vài giờ, chỉ để vui thôi.”

    “Cô là con bé giữa rừng già đấy, Lila. Lẽ ra cô nên ở nhà chăn dê mới phải. Cô sắp chết và bức ảnh ấy sẽ lan truyền khắp thế giới.”

    “Chúng tôi có một cái đĩa DVD trắng,” cô ta nói. “Máy quay đã nạp điện, sẵn sàng chờ vai diễn của ông.”

    “Cô nói nhiều quá, Lila.”

    Cô ta không trả lời.

    Tôi gập điện thoại và quay trở lại qua bóng tối đang sụp xuống để về khách sạn. Tôi lên thang máy, mở cửa phòng, ngồi xuống giường chờ đợi. Tôi đợi một lúc lâu. Gần bốn tiếng. Tôi nghĩ tôi đang đợi Springfield. Nhưng cuối cùng Theresa Lee mới là người xuất hiện.

    Cô gõ cửa phòng tôi khi còn tám phút nữa là đúng nửa đêm. Tôi thực hiện động tác với xích cửa và tấm gương thêm lần nữa rồi cho cô vào. Nữ thám tử ăn mặc theo kiểu tôi đã gặp lần đầu tiên. Quần, áo sơ mi ngắn tay bằng lụa. Không đóng thùng. Màu xám sẫm, không phải xám vừa phải. Ít ánh bạc hơn. Nghiêm trang hơn.

    Cô mang một chiếc túi thể dục màu đen. Túi nylon đựng đạn. Dựa vào kiểu nó trĩu xuống ở tay Lee, tôi đoán chiếc túi chứa những đồ nặng. Dựa vào kiểu những vật nặng dịch chuyển và va lanh canh vào nhau, tôi đoán chúng làm bằng kim loại. Lee bỏ túi xuống sàn gần nhà tắm rồi hỏi, “Ông ổn chứ?”

    “Cô thì sao?”

    Cô gật đầu. “Như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Tất cả chúng tôi đều trở lại công việc cũ.”

    “Trong túi có gì thế?”

    “Tôi không biết. Một người đàn ông tôi chưa bao giờ biết mặt chuyển nó tới đồn.”

    “Springfield à?”

    “Không, ông ta xưng tên là Browning. Ông ta đưa cho tôi chiếc túi và bảo rằng vì lợi ích ngăn ngừa tội phạm, tôi nên bảo đảm sao cho ông không bao giờ chạm tay vào nó.”

    “Nhưng dù sao cô vẫn mang nó tới?”

    “Cá nhân tôi bảo vệ nó. An toàn hơn là để nó bừa ra đó.”

    “OK.”

    “Ông sẽ phải khống chế tôi. Và tấn công sĩ quan cảnh sát là vi phạm pháp luật.”

    “Đúng.”

    Cô ngồi xuống giường. Cách tôi một mét. Có khi sát hơn.

    Cô nói, “Chúng tôi đã đột kích vào ba tòa nhà cũ ở phố 58.”

    “Springfield đã nói với các cô về chúng à?”

    “Ông ta bảo ông ta tên là Browning. Lực lượng chống khủng bố của chúng tôi đã vào đó cách đây hai giờ. Mẹ con nhà Hoth không ở đó.”

    “Tôi biết.”

    “Chúng từng ở đó, nhưng giờ thì không còn nữa.”

    “Tôi biết.”

    “Làm thế nào ông biết?”

    “Chúng đã bỏ Leonid và bạn của hắn. Vì vậy chúng đã di chuyển tới nơi nào đó mà Leonid và bạn của hắn không biết. Âm mưu chồng chất âm mưu.”

    “Tại sao chúng lại tố giác Leonid và bạn hắn?”

    “Để khích lệ tinh thần mười ba tên khác. Và để nạp năng lượng cho cỗ máy. Chúng ta đánh chúng một chút, cánh truyền thông Arập sẽ gọi đó là tra tấn, chúng sẽ có thêm chục tên mới gia nhập. Con số tăng là tám. Mà Leonid và bạn của hắn dù sao cũng chẳng phải mất mát lớn. Hai tên ấy vô dụng.”

    “Liệu mười ba tên khác giỏi hơn không?”

    “Định luật trung bình trả lời là có.”

    “Mười ba là con số điên rồ.”

    “Mười lăm, kể cả mẹ con nhà Hoth.”

    “Ông không nên làm việc ấy.”

    “Nhất là khi không có vũ khí.”

    Theresa Lee liếc chiếc túi. Rồi cô nhìn lại tôi. “Ông có thể tìm ra chúng không?”

    “Chúng làm gì để có tiền?”

    “Chúng ta không thể lần ra chúng bằng cách đó. Chúng đã ngừng sử dụng thẻ tín dụng và ATM từ cách đây sáu ngày.”

    “Đó là điều có thể hiểu.”

    “Và làm chúng trở nên khó tìm.”

    Tôi hỏi, “Jacob Mark ở Jersey an toàn chứ?”

    “Ông nghĩ rằng ông ấy không nên dính vào à?”

    “Không.”

    “Còn tôi thì nên sao?”

    “Cô đang dính vào rồi,” tôi nói. “Cô đã mang cho tôi chiếc túi.”

    “Tôi đang bảo vệ nó.”

    “Lực lượng chống khủng bố của các cô còn đang làm gì khác?”

    “Lục soát,” Lee đáp. “Cùng với FBI và Bộ Quốc phòng. Bây giờ trên phố có sáu trăm người.”

    “Họ tìm kiếm gì?”

    “Bất kỳ địa điểm nào được mua hay thuê trong vòng ba tháng qua. Thành phố đang hợp tác. Cộng thêm việc họ đang điều tra bảng theo dõi khách của các khách sạn, các hợp đồng thuê căn hộ và hoạt động của các nhà kho, trong cả năm quận.”

    “OK.”

    “Thông tin người ta đang đồn đại là vụ này liên quan tới một tệp tin của Lầu Năm Góc chứa trong chiếc USB.”

    “Gần đúng rồi đấy.”

    “Ông biết nó nằm ở đâu chứ?”

    “Khá gần.”

    “Nó ở đâu?”

    “Chẳng nơi nào giữa đại lộ Chín, đại lộ Park, phố 30 và phố 45.”

    “Tôi cho là tôi đáng được cho biết.”

    “Cô sẽ suy luận ra.”

    “Ông thực sự biết chứ? Docherty cho là ông không biết. Anh ấy cho là ông đang cố gắng giở trò để thoát khỏi rắc rối.”

    “Rõ ràng Docherty là một kẻ rất hoài nghi.”

    “Hoài nghi hay đúng?”

    “Tôi biết nó đang ở đâu.”

    “Thế thì đi lấy đi. Hãy để mẹ con Hoth cho người khác.”

    Tôi không trả lời câu này. Thay vào đó tôi nói, “Cô có dành nhiều thời gian cho phòng tập thể dục không?”

    “Không nhiều lắm,” Lee đáp. “Sao thế?”

    “Tôi đang băn khoăn không hiểu khống chế cô khó đến mức nào.”

    “Không khó lắm,” cô đáp.

    Tôi không nói gì.

    Cô hỏi, “Ông dự định lên đường khi nào?”

    “Hai tiếng nữa,” tôi đáp. “Và thêm hai giờ để tìm kiếm chúng, rồi tấn công vào lúc 4 giờ sáng. Thời điểm tôi ưa thích. Một điều chúng ta học được từ cánh Xô viết. Họ đã cho bác sĩ nghiên cứu về điều đó. Người ta ít tỉnh táo vào lúc 4 giờ sáng. Đó là sự thật của toàn nhân loại.”

    “Ông bịa ra thôi.”

    “Không phải đâu.”

    “Ông sẽ không tìm ra chúng trong vòng hai giờ.”

    “Tôi nghĩ là có.”

    “Tệp đang bị mất liên quan tới Sansom, phải không?”

    “Một phần.”

    “Ông ta biết rằng ông có nó chứ?”

    “Tôi không có nó. Nhưng tôi biết nó ở đâu.”

    “Ông ta biết điều đó chứ?”

    Tôi gật đầu.

    Lee nói, “Vậy là ông đã mặc cả với ông ta. Cho tôi, Docherty và Jacob Mark khỏi rắc rối, rồi ông sẽ dẫn ông ta tới chỗ nó.”

    “Trước tiên và quan trọng nhất, mặc cả là nhằm đưa bản thân tôi ra khỏi rắc rối.”

    “Không có hiệu quả với ông. Ông vẫn đang nằm trong danh sách truy bắt của cơ quan điều tra liên bang.”

    “Xét tới liên quan đến NYPD thì nó có hiệu quả với tôi.”

    “Và nó hiệu quả cho tất cả những người còn lại trong chúng ta. Cảm ơn ông về điều đó.”

    “Không có gì đâu.”

    Lee hỏi, “Nhà Hoth đang tính cách thoát khỏi Mỹ bằng cách nào?”

    “Tôi không nghĩ chúng đang tính thế. Tôi nghĩ lựa chọn đó đã biến mất cách đây vài ngày. Tôi nghĩ chúng đã trông chờ mọi việc diễn ra thuận lợi, nhưng hóa ra không thế. Giờ thì chúng phải hoàn thành công việc, làm hoặc chết.”

    “Như một nhiệm vụ cảm tử à?”

    “Đó là việc chúng giỏi làm.”

    “Là việc khiến tình hình với ông tồi tệ hơn.”

    “Nếu chúng thích tự sát, tôi rất vui lòng giúp đỡ.”

    Lee nhúc nhích trên giường, đuôi áo lụa mắc phía dưới người cô và căng ra phía trên hình thù một khẩu súng ở hông. Tôi đoán là một khẩu Glock 17, trong bao súng mỏng.

    Tôi hỏi Lee, “Ai biết cô đang ở đây?”

    “Docherty,” cô đáp.

    “Anh ta nghĩ khi nào cô sẽ về?”

    “Ngày mai,” Lee đáp.

    Tôi chẳng nói gì.

    Lee hỏi, “Bây giờ ông muốn làm gì?”

    “Muốn trả lời thành thực hả?”

    “Làm ơn đi.”

    “Tôi muốn cởi khuy áo của cô.”

    “Ông nói điều đó với nhiều sĩ quan cảnh sát hả?”

    “Trước đây thường thế. Sĩ quan cảnh sát là tất cả những người tôi biết.”

    “Hiểm nguy khiến ông nổi hứng sao?”

    “Phụ nữ khiến tôi nổi hứng.”

    “Tất cả phụ nữ à?”

    “Không,” tôi nói. “Không phải tất cả phụ nữ.”

    Lee im lặng một lúc khá lâu rồi nói, “Không phải ý hay.”

    Tôi nói, “OK.”

    “Ông coi đó là câu trả lời không đấy hả?”

    “Tôi không phải coi thế hay sao?”

    Lee im lặng một lúc khá lâu nữa rồi nói, “Tôi đã đổi ý.”

    “Về chuyện gì?”

    “Về chuyện đó không phải ý hay.”

    “Tuyệt vời.”

    “Nhưng tôi đã từng tham gia đội phòng chống tội phạm đạo đức trong một năm. Đặt bẫy bắt tại trận. Chúng tôi cần bằng chứng rằng gã nọ có mong đợi khá cao về cái hắn nghĩ mình sẽ được. Thế nên trước tiên chúng tôi buộc hắn cởi áo ra. Như là bằng chứng về ý định.”

    “Tôi có thể làm việc ấy,” tôi nói.

    “Tôi nghĩ ông nên làm.”

    “Cô sẽ bắt tôi chứ?”

    “Không.”

    Tôi cởi chiếc áo phông mới khỏi đầu. Ném về một bên phòng. Nó rơi xuống bàn. Lee mất một lúc chằm chằm nhìn vết sẹo của tôi, đúng như Susan Mark đã nhìn khi trên tàu. Những đường chỉ nổi khủng khiếp từ vết thương do vụ đánh bom xe vào doanh trại ở Beirut. Tôi để cho cô nhìn một phút rồi nói, “Đến lượt cô. Với chiếc sơ mi.”

    Cô nói, “Tôi là kiểu phụ nữ truyền thống.”

    “Thế nghĩa là sao?”

    “Ông sẽ phải hôn tôi trước.”

    “Tôi có thể làm việc ấy,” tôi nói. Và tôi làm. Từ từ, nhẹ nhàng, ban đầu hơi ngập ngừng, theo kiểu thăm dò, và theo kiểu cho tôi thời gian thưởng thức cái miệng mới, vị mới, hàm răng mới, cái lưỡi mới. Tất cả đều tuyệt. Rồi chúng tôi đi qua giai đoạn khởi động và thực hiện việc ấy mạnh mẽ hơn. Một phút sau chúng tôi hoàn toàn mất kiểm soát.

    Sau đó Lee tắm rửa, rồi đến tôi. Cô mặc quần áo, rồi tới tôi. Cô hôn tôi thêm một lần, và bảo tôi hãy gọi nếu cần cô, chúc tôi may mắn rồi bước ra khỏi cửa. Cô để lại chiếc túi đen trên sàn gần phòng tắm.
     
  12. YukiShiota

    YukiShiota Super Member
    • 537/746

    • Chân Nhân Bất Lộ
    Bài viết:
    723
    Đã được thích:
    2,582
    Chương 71
    Tôi nhấc chiếc túi lên giường. Khoảng gần bốn ký, tôi đoán vậy. Nó chạm xuống lớp ga dày làm phát ra âm thanh kim loại thật dễ chịu. Tôi kéo khóa, tách hai mép túi cho rộng ra như cái miệng rồi nhìn vào bên trong.

    Thứ đầu tiên tôi trông thấy là một bìa kẹp hồ sơ.

    Nó có kích thước bằng loại đựng hồ sơ luật, có màu ka ki, làm bằng giấy dày hoặc bìa mỏng, tùy theo quan điểm người nhìn. Trong đó có hai mươi mốt trang in. Thông tin nhập cảnh, của hai mươi mốt người riêng biệt. Hai phụ nữ, mười chín nam giới. Công dân Turkmenistan. Chúng đã từ Tajikistan nhập cảnh vào Mỹ cách đây ba tháng. Các hành trình có liên quan tới nhau. Có những tấm ảnh kỹ thuật số và vân tay kỹ thuật số, gửi từ các bàn làm thủ tục nhập cảnh ở sân bay JFK. Các bức ảnh hơi bị méo mó một chút do hiệu ứng mắt cá. Chúng đều là ảnh màu. Tôi dễ dàng nhận ra Lila và Svetlana. Cùng Leonid và tay bạn hắn. Tôi không biết mười bảy gã kia. Bốn trong số đó có dấu đã xuất cảnh. Chúng là bốn tên đã rời khỏi Mỹ. Tôi ném những trang thông tin của bốn tên này vào thùng rác và rải lên giường các trang về mười ba tên tôi chưa biết để xem rõ hơn.

    Cả mười ba gương mặt đều trông buồn chán mệt mỏi. Các chuyến bay ở nước chúng ra đi, móc nối, một chuyến bay dài băng ngang đại dương, lệch múi giờ, khoảng thời gian chờ đợi dài ở khu làm thủ tục xuất nhập cảnh của sân bay JFK. Mắt sưng sỉa ngó máy ảnh, mặt giữ thẳng, hai mắt ngước lên phía ống kính. Điều đó cho tôi biết rằng cả mười ba tên đều tương đối thấp. Tôi xác minh điều này bằng trang thông tin về Leonid. Ánh mắt của hắn cũng chán chường mệt mỏi hệt như những tên khác, song ở tầm ngang. Hắn là tên cao nhất trong đám đó. Tôi xem trang của Svetlana. Bà ta là người lùn nhất. Những kẻ khác đều cao lưng chừng giữa hai người này, là những gã đàn ông Trung Đông nhỏ, dẻo dai, từ xương cốt đến cơ bắp và gân đều quắt queo do khí hậu, chế độ ăn uống và văn hóa của nơi đó. Tôi nhìn chúng thật kỹ, từ tên một đến tên mười ba, nhìn tới nhìn lui, cho tới khi đầu tôi ghi nhớ rõ những hình ảnh của chúng.

    Rồi tôi trở lại với chiếc túi.

    Ít nhất là tôi hy vọng có một khẩu súng tốt. Nhiều nhất là tôi hy vọng có một khẩu tiểu liên. Mục đích của tôi khi nói với Springfield về chiếc áo khoác lùng thùng là cho anh ta hiểu rằng tôi sẽ có chỗ mang thứ gì đó dưới lớp áo, treo cao bên trên ngực tôi bằng một cái đai rút ngắn, và được che kín bởi lớp sợi vải thừa được kéo khóa phía ngoài. Tôi đã hy vọng anh ta sẽ hiểu được ý ấy.

    Springfield đã hiểu. Anh ta đã nhận được thông điệp. Anh ta đã hiểu hết một cách tinh tế.

    Tốt hơn mức tối thiểu.

    Thậm chí tốt hơn khả năng tốt nhất.

    Anh ta đã mang cho tôi một khẩu tiểu liên giảm thanh. Một khẩu Heckler & Koch MP5SD. Phiên bản giảm thanh của dòng MP5 cơ bản. Không thân không báng. Chỉ có một tay nắm, một vòng cò, một chỗ chứa băng đạn cong gồm ba mươi viên, rồi tới nòng dài mười lăm phân bị làm cho bẹt hẳn ra bởi một lớp vỏ giảm thanh hai lớp. Đạn cỡ chín ly, nhanh, chính xác, yên lặng. Một món vũ khí tốt. Nó có quai đeo bằng nylon đen. Quai đeo đã được thắt vào và cắt cho tới mức tối thiểu mà vẫn đảm bảo sử dụng tiện lợi. Cứ như Springfield đang nói: Tôi hiểu rồi, ông bạn.

    Tôi đặt khẩu súng lên giường.

    Anh ta cũng đã cung cấp đạn. Chúng nằm ngay trong túi. Một hộp đạn cong duy nhất. Ba mươi viên. Ngắn, to, vỏ đạn đồng sáng loáng lấp lánh dưới ánh đèn, các đầu đạn chì được đánh gần như sáng rực. Đạn Parabellum cỡ chín ly. Theo câu phương châm bằng tiếng La tinh Si vis pacem para bellum. Nếu anh ước có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh. Một câu nói khôn ngoan. Nhưng ba mươi viên đạn không phải nhiều. Không phải để chống lại mười lăm người. Nhưng thành phố New York không dễ dàng. Không dễ với tôi, không dễ với Springfield.

    Tôi xếp hộp đạn bên cạnh khẩu súng.

    Kiểu tra chiếc túi thêm một lần, đề phòng còn đạn nữa.

    Không có.

    Nhưng có một món kiểu như thưởng thêm vào.

    Một con dao.

    Một con dao kiểu Benchmade 3300. Loại cán bấm màu đen. Cơ chế tự mở. Bị cấm sử dụng ở tất cả năm mươi bang, trừ phi ta là người của cơ quan thực thi pháp luật hoặc quân nhân tại ngũ, mà tôi lại không phải thế. Tôi dùng ngón tay bấm nút, lưỡi dao bật ra nhanh và mạnh. Một con dao găm hai lưỡi có đầu nhọn. Dài mười phân. Tôi chẳng phải kẻ cuồng dao. Tôi không thích riêng loại món vũ khí nào. Tôi không thực sự thích loại nào. Nhưng nếu bảo tôi dựa vào một thứ để chiến đấu, tôi sẽ chọn một món gần với những thứ Springfield đã cung cấp. Loại có cơ chế tự động, lưỡi hai mặt, mũi nhọn. Cho người thuận bất kỳ tay nào, tốt cho việc đâm, tốt cho việc rạch dù ở tư thế móc vào hay vung ra.

    Tôi gập dao lại để trên giường, cạnh khẩu H & K.

    Có hai món đồ cuối cùng trong túi. Một găng tay bằng da, màu đen, có kích thước và dáng hợp với bàn tay trái to lớn của một người đàn ông. Một cuộn băng keo đen. Tôi đặt cả lên giường, thẳng hàng với khẩu súng, băng đạn và con dao.

    Ba mươi phút sau tôi đã ăn mặc chỉnh tề, trang bị đầy đủ và đi về phía Nam trên chuyến tàu tuyến R.
     

Chia sẻ trang này