1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Liêu Trai Chí Dị - Tác Giả : Bồ Tùng Linh - Tình Trạng : Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Quân Tích Trúc, 16/4/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 120 - NỐI GIẤC KÊ VÀNG
    Mới đỗ ông nghè đã tự kiêu

    Càng nghe tâng bốc lại như diều

    Nồi kê tích cũ không chi lạ

    Giấc mộng giàu sang só bấy nhiêu.

    Ông cử họ Tăng, người Phúc Kiến, lúc vào kinh đô thi đỗ tiến sĩ vừa xong, cùng hai ông bạn tân khoa đi chơi ngoài thành. Chợt nghe trong chùa Bi Lô có một thầy xem số tử vi ở trọ, liền rẽ ngựa tới đó bói một quẻ.

    Tăng vào, nghênh ngang tự ngồi chẳng đợi ai mời chào. Thầy tướng thấy người có vẻ tự đắc, bèn kiếm lời nịnh hót thâm. Tăng cầm quạt phe phẩy, mỉm cười hất hàm hỏi thầy tướng coi mình có số mệnh mặc mãng bào, đeo đai ngọc triều phục của tể tướng không?

    Thầy tướng nghiêm trang nói Tăng sẽ làm Tể tướng yên ổn trong hai mươi năm. Tăng mừng lắm, vẻ mặt càng kiêu. Nhằm lúc trời mưa nhỏ bèn nhủ bạn vào trong chùa nhà thầy tạm ẩn. Một vị sư già, mũi cao mắt lõm, ngồi trên nệm cỏ, ngạo mạn không chào hỏi gì. Mấy người giơ tay chào qua loa, rồi tự leo lên giường ngồi nói chuyện với nhau. Ai nấy đều mừng Tăng là tể tướng. Tăng càng nở mũi tự kiêu trỏ bạn đồng du mà nói:

    - Lúc nào tôi làm tể tướng, tôi cử Trương huynh làm tuần phủ một tỉnh miền nam; ông anh cô cậu với tôi làm chức tham du; lão bộc nhà tôi cũng được chức thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện.

    Mọi người cười vang. Kế bên ngoài mưa như trút nước, Tăng mệt mõi, ngã người lên giường mà ngủ.

    Bỗng thấy hai vị trung sứ đem tờ chiếu chỉ của thiên tử viết tay, đến vời Tăng tể tướng vào triều bàn định việc nước. Tăng khoái chí lật đật vào chầu. Ngài Ngự bước ra nghênh tiếp hỏi han niềm nở giây lâu, rồi truyền cho Tăng được tự quyền bổ các quan tam phẩm trở xuống; lại ban cho mãng ngọc và ngựa quý. Tăng mặc áo mãng bào, mang đai ngọc cúi đầu lạy tạ ơn rồi đi ra.

    Về nhà thì thấy nhà mình ở cũ bây giờ là dinh thự, cột chạm cửa sơn, rất mực lộng lẫy, đến nỗi chính Tăng cũng không hiểu vì đâu mình chóng vinh hiển đến thế này. Chỉ biết giờ phút này cất tiếng khẽ gọi, đã nghe những tiếng vân dạ vang như sấm dậy. Rồi thì các quan công khanh đem biếu sơn hào hải vị, tấp nập ngoài cổng. Các quan lục khanh (tức lục bộ thượng thư) tới thăm thì Tăng còn đứng dậy chào mời; hạng thị lang thì xá và nói chuyện với, còn từ hạng đó trở xuống, Tăng chỉ trả lời bằng cái gật đầu mà thôi.

    Tuần phủ Sơn Tây gửi tặng một phường nữ nhạc mười người đều là gái mỹ miều son trẻ. Đẹp nhất Niễu Niễu và Tiên Tiên, hai người càng được yêu quý, hầu hạ vấn tóc gội đầu, ngày ngày đàn hát làm vui.

    Một hôm nhớ lại hồi còn hàn vi, thường được một thân sĩ trong làng là Vương Tử Lương giúp đỡ nay mình đã chót vót mây xanh, mà ông còn lênh đênh trên đường sĩ hoạn, sao không đưa tay dìu dắt ông ấy một phen?

    Sáng hôm sau, Tăng dâng sớ tiến cử Vương làm chức Gián nghị, liền được vua giáng chỉ bổ dụng ngay.

    Lại nghĩ Quách thái bộc từng trợn mắt gây gổ với mình liền mời bọn Lữ cấp gián và thị ngự Trần Xương tới, mách bảo ý tứ; rồi ngày hôm sau bọn ấy kế tiếp nhau dâng sớ kể tội Quách Thái bộc làm cho ông này bị cách chức và bị đuổi về vườn.

    Xong việc ân đền oán trả, Tăng hơi mát lòng khoái ý.

    Bữa nọ quan tể tướng đi chơi ngoài thành, một anh chàng say rượu đi loạng choạng thế nào đụng vào cờ quạt giàn hầu của ngài, ngài liền thét lính trói cổ và giải đến dinh phủ doãn kinh thành. Lập tức anh ta bị đánh đòn đến chết.

    Những người có nhà cửa nguy nga, ruộng nương bát ngát đều sợ quyền thế mà dâng đất đai màu mỡ. Từ đó Tăng càng trở nên giàu có.

    Không bao lâu Niễu Niễu và Tiên Tiên kế tiếp nhau qua đời. Tăng khuya sớm bâng khuâng, chợt nhớ lại năm nọ, mình trông thấy cô gái ở xóm đông tuyệt đẹp, thường ao ước mua nàng về làm hầu thiếp nhưng vì hồi đó còn nghèo nàn chẳng được như nguyện. Bây giờ có địa vị cao sang, muốn sao được vậy, liền sai mấy đứa tôi tớ giỏi đem tiền đến ấn đại vào nhà nàng mà bắt nàng đi. Một lúc, võng khiêng nàng về dinh. Tăng trông thấy so sánh với khi mình trông thấy ngày trước, giờ nàng càng đẹp hơn. Nghĩ lại bình sinh như vậy đủ mãn nguyện.

    Hơn một năm, xem ra các quan trong triều có ý thầm thì bàn tán, trong bụng chê bai, nhưng chẳng ông nào dám nói ra miệng.

    Tăng thấy vậy càng vênh váo nghênh ngang, chẳng thêm bận lòng chú ý.

    Có quan long đồ học sĩ họ Bao, dâng sớ hạch tội Tăng đại lược như sau:

    - "Thiết nghĩ: Tăng mỗ nguyên là một đứa rượu chè cờ bạc đàng điếm tiểu nhân, một lời nói hợp ý mà được hoàng thượng tin dùng, cha con vẻ vang, ơn huệ tột bậc. Thế mà chẳng nghĩ làm sao dốc lòng hiến thân, báo đáp ơn vua trong muôn một; lại dám lòng dạ buông lung, tự tiện làm điều oai, phúc, cái tội đáng chết, nhổ tóc mà đếm không đủ.

    "Danh vị quý báu của triều đình coi như món hàng đem bán lấy tiền làm giàu, tha hồ so đo gầy béo, đánh giá hơn thua, vì đó mà công khanh tướng sĩ đều phải luồn lọt tới lui nhà hắn, tính toán lo lót, như tuồng bán buôn, núp bóng nhờ hơi kể sao cho xiết. Hoặc có người là hạng kiệt sĩ hiền thần, không chịu a dua theo hắn, nhẹ thì đuổi về vườn còn nặng thì giáng xuống làm lính. Rối đổi không về hùa với hắn, liền bị buộc tội hươu vượn không đâu, đày đi những chốn hùm beo xa lắc. Nhân sĩ thấy mà lạnh mình, triều đình hóa ra cô lập.

    "Lại còn máu mỡ của dân, tha hồ bóc lột, con gái lương thiện ép uổng làm hầu; đến nỗi tiếng oán than dậy, khí uất xông lên, mặt trời cũng phải vì đó mà u ám.

    "Tôi tớ của hắn đi tới đâu, thì quan lại địa phương phải nể mặt, thư từ của hắn gửi tới đâu thì người cầm quyền tư pháp ở đó phải làm trái phép cho được chiều lòng. Có khi con cái bọn nấu ăn, giữ ngựa cho hắn, hoặc là bà con đi đâu cũng hạch sách ngựa trâu, hò hét như sấm vang gió bão, hễ điạ phương cung cấp hơi trễ, là roi vọt lập tức ra oai. Thôi thì chúng ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, thầy trò đi tới chỗ nào thì đồng ruộng chỗ ấy không còn một ngọn cỏ xanh.

    "Trong khi đó, Tăng mỗ vênh mặt ỷ mình đác thế, không chút ăn năn; khi ở trong triều đình thì giả dối xảo trá trước mặt nhà vua, chưa về tới nhà thì đàn ngọt hát hay đã chờ sẵn. Thanh sắc cẩu mã ngày đêm hoang dâm, quốc kế dân sinh không chút lo nghĩ, ở đời há có thứ tể tướng nhu vậy ư?

    "Vì thế, trong ngoài xôn xao, nhân tâm hồi hộp, nếu không kịp trị bệnh bằng hình phạt búa rìu, thể tất gây nên cái họa Tháo Mảng cướp nước. Hạ thần sớm tối lo lắng, không dám có lúc nào ăn ngon ngủ yên, liều chết đề ra các khoản trên đây, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong thánh thượng ra lệnh chém đầu gian nịnh, tịch của tham ô, hầu trên hợp ý trời, dưới khoái lòng dân. Nếu xét ra thần bày đặt chuyện, thì dao búa vạc dầu xin làm tội thần lập tức. v.v...."

    Sớ này dâng lên vua, Tăng nghe hồn xiêu phách lạc, lạnh mình như uống băng; nhưng may nhờ vua khoan dung, xem sớ bỏ đó, không hỏi gì cả.

    Tiếp đến các quan trong triều, ngoài quận thi nhau dâng sớ hạch tội trạng của Tăng. Ngay bọn xưa kia xin làm đồ đệ, thờ kính bằng cha, nay cũng đổi lòng trở mặt, theo hùa hạch tội như thường.

    Bấy giờ vua mới giáng chỉ tịch thu gia sản và bắt Tăng đi làm lính Vân Nam. Người con y làm thái thú quận Bình Dương, triều đình cũng sai quan ra tận nơi xét hỏi.

    Tăng ở nhà nghe tin con, đang kinh hoảng đau xót thấy có mấy người võ sĩ, nách gươm tay mác, vào thẳng buồng, lột áo mão cũa Tăng, trói chung với vợ. Tiếp thấy bọn lính chuyển vận của cải trong nhà ra ngoài sân, vàng bạc tiền nong đến mấy trăm vạn; hột châu ngọc quý có đến mấy trăm hộc, những thứ chăn màn giường chiếu cũng mấy ngàn món. Đến nỗi những áo lót trẻ con và giày tất đàn bà rơi vãi lung tung ở trên thềm. Tăng nhất nhất trông thấy như đâm vào tim vào mắt.

    Giây lát một người lính túm cổ nàng hầu đẹp của Tăng lôi ra, đầu bù miệng mếu, mặt ngọc tái xanh khiến Tăng càng bi thảm như lửa đốt ruột gan, nhưng nén tủi nuốt thương mà không dám nói.

    Rồi thì lâu đài kho vựa, niêm phong đâu đó xong xuôi, võ sĩ mới thét Tăng ra đi. Người cầm đầu toán áp giải lôi kéo bắt đi thật mau.

    Vợ chồng Tăng thổn thức lên đường; lúc này cầu lấy một con ngựa xoàng, cỗ xe xấu cho đỡ mỏi chân cũng không thể được.

    Đi được ngoài mười dặm vợ mỏi chân, đuối sức loạng choạng muốn ngã, Tăng đưa một tay ra nâng đỡ vợ. Lại đi hơn mười dặm nữa, chính mình cũng mổi mệt hết hơi; xa trông thấy những ngọn núi cao ngất mây xanh, tự lo không thể trèo nổi. Chốc chốc lại nắm tay vợ nhìn nhau khóc sướt mướt nhưng chủ cai trợn mắt ra oai, không cho ngừng một tí nào khả dĩ ngủ đỡ, cực chẳng đã, vợ chồng níu nhau, cà nhắc đi từng bước.

    Khi đến sườn núi vợ đã kiệt sức, ngồi phịch bên đường mà khóc. Tăng cũng đánh liều ngồi nghỉ, mặc kệ chủ cai mắng chửi.

    Bỗng nghe trăm tiếng nổi lên ồn ào, một tốp trộm cướp vác giáo dài , dao nhọn nhảy qua lề đường mà tiến đến trước mặt. Chủ cai hoảng sợ bỏ chạy, Tăng quì mọp nói với bọn chúng rằng mình làm quan bị cách chức và đi đày xa, trơ trọi một thân, trong hành lý chẳng có tài vật gì đáng giá, năn nỉ chúng tha cho làm phúc.

    Bọn cướp trợn mắt nói:

    - Tụi tao là bọn lương dân bị hại, chỉ lấy cái đầu thằng nghịch tặc mà thôi, ngoài ra không đòi hỏi gì hết.

    Tăng nổi giận:

    - Tao dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ bay là lâu la giặc cỏ, sao dám hỗn xược như thế?

    Bọn cướp nổi xung, huơ búa lớn chặt cổ Tăng, nghe đầu rơi xuống đất một tiếng huỵch.

    Hồn vía đang hãi hùng bỡ ngỡ liền có hai quỷ sứ đến nắm lấy tay lôi đi. Đi mấy khắc đồng hồ, vào một nơi đô hội. Giây lát trông thấy một tòa cung điện trang nghiêm, trên điện có một vị vương giả mặt mày dữ tợn, ngồi chiễm chệ xét xử tội phúc. Tăng khúm núm ngồi xuống đợi lệnh.

    Vương giả mở tập hồ sơ ra xem qua mấy hàng, bỗng thịnh nộ thét lớn:

    - Thằng này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu.

    Lũ quỷ dạ ran, muôn miệng họa theo, tiếng như sấm sét.

    Tức thời có những quỷ cao lớn chặn lại, túm cổ Tăng lôi xuống giữa sân, thấy cái vạc dầu cao chừng bảy thước bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run rẩy kêu gào, muốn chạy trốn cũng chẳng được, quỷ lấy tay trái nắm lấy tóc, tay mặt xách cẳng đưa bổng Tăng lên mà ném vào vạc dầu. Tăng thấy mình tùy theo dầu sôi mà nổi lên chìm xuống, da thịt cháy bỏng, đau buốt đến tận tim, dầu sôi vào miệng, phanh xé ruột gan, ý muốn cho mau chết nhưng lại không chết liền cho. Phỏng chừng xong xuôi bữa ăn, quỷ mới cầm cây nĩa lớn khều Tăng ra ngoài, lại đặt dưới thềm.

    Bấy giờ Vương giả lại kiểm sổ sách, nổi giận và nói:

    - Nó cậy thế hiếp người, phải xử phạt núi đao phanh thây xé các nó mới xứng.

    Quỷ lại lôi Tăng đi, đến chỗ thấy một trái núi không to lớn lắm nhưng đá mọc dựng đứng chung quanh có đao nhọn đâm ra ngang dọc tua tủa, như những khóm măng dày kiến. Đã sẵn có có mấy người bị đâm bụng thọc ruột đang vướng trên đó, nghe tiếng họ kêu gào và trông thấy cảnh tượng mà thương tâm thảm mục. Quỷ giục Tăng leo lên. Tăng khóc rống lùi trở lại, quỷ cầm đùi nhọn đâm vào óc, Tăng đau quá, kêu lên van nỉ, khiến quỷ nổi giận, chụp lấy Tăng rồi ra sức tung bổng lên không.

    Tăng thấy mình lơ lửng trên không, rồi rơi xuống một bụi gai, mũi dao nhọn đâm thẳng vào bụng, đau đớn không sao tả xiết. Giây lát vì thân thể nặng nề, thành ra lổ dao đâm dần dà khoét rộng, rồi mới rớt xuống đất, chân tay rúm lại.Quỷ lại dẫn vào trước mặt vương giả.

    Vương giả sai người tính sổ coi một đời Tăng bán chức buôn danh, cướp đơạt của cải thiên hạ, cộng lại số tiền là bao nhiêu? Tức thời, cón 1 rậm râu đứng gảy con toán rồi đáp: "Hết thảy là ba trăm hai mươi tư muôn".

    Vương giả nói:

    - Nó đã chứa vào, giờ bắt nó phải uống đi.

    Một lát, bầy quỷ khiêng vác tiền bạc ra xếp đống dưới thềm, cao như gò núi. Đoạn, bỏ lần vào trong nồi gang, chất lửa mà nấu cho hóa ra nước.

    Mấy đứa quỷ sứ thay phiên nhau lấy gáo múc nước ấy đổ vào miệng Tăng tràn qua hai má thì da thịt cháy xèo xèo, vào tới cuống họng thì ruột gan sôi lên sùng sục. Sinh thời chỉ lo cái vật ấy thu vào ít, bây giờ lại sợ nó đến mình quá nhiều.

    Công việc uống vàng bạc tới nửa ngày mới xong. Vương giả sai người áp giải Tăng đi Cẩm Khâu, chuyển sinh làm con gái.

    Đi độ vài bước, thấy trên giàn cao, gác một cây dầm bằng sắt, chu vi độ mấy thước, buộc một bánh xe khổng lồ, rộng lớn không biết là mấy trăm dặm, sáng lòe năm sắc, chiếu rọi mây xanh. Quỷ cầm roi vụt Tăng, bắt phải leo lên bánh xe ấy. Tăng vừa nhắm mắt leo lên thì bánh xe quay tít, dường như bị té rơi xuống, khắp thân thể mát lạnh, té ra đã hóa làm đứa trẻ sơ sinh, mà lại là con gái.

    Rồi nhìn tới cha mẹ, thì áo rách quần lành, ở trong lều tranh vách đất, bị gậy treo kia, bấy giờ Tăng mới tự biết mình đã chuyển sinh làm con kẻ ăn mày.

    Lớn lên, ngày ngày đi theo lũ trẻ đồng bối ăn mày ăn xin khắp nơi. Cái bụng lép kẹp, không một bữa nào được ăn no, mình mặc áo rách tả tơi, gió thổi lạnh buốt thấu xương. Năm mười bốn tuổi, cha mẹ đem bán làm nàng hầu. Ông tú tài họ Cố, tuy cơm áo hơi đủ no ấm, nhưng phải người vợ lớn độc dữ, hàng ngày roi vọt đánh đập luôn tay, lại nung sắt đỏ mà đốt vú. May được ông chồng khá thương yêu, cho nên tự an ủi đôi chút. Xóm bên đông có một thiếu niên hung tợn leo tường sang nhà, ép phải giao hoan với nó. Nàng tự nghĩ kiếp trước của mình làm nên tội ác những gì, để bị quỷ sứ hình phạt đáo để rồi, có lý đâu kiếp này lại phải chịu nhơ nhuốc lép vế thế này nữa, nàng bèn kêu cứu ầm lên. Chồng và vợ lớn vùng dậy, tên thiếu niên kia mới chạy trốn.

    Không bao lâu, một đêm ông tú qua buồng nà nằm ngủ, đầu ấp tay gối, nàng đang rủ rỉ kể nỗi oan khổ của mình cho chồng nghe, bỗng dưng có tiếng thét vang cửa buồng mở toang, hai tên côn đồ xách dao áp vào chặt đầu ông tú rồi vơ vét áo xống đồ vật mà đi. Nàng cuộn tròn trong chăn, không dám ho he. Bọn côn đồ đi rồi, mới kêu la ầm và chạy qua buồng vợ lớn. Chị này cả kinh, ôm thây chồng khóc lóc, nghĩ nàng đưa tình nhân đến giết chồng bèn làm đơn trình quan thứ sử bản hạt.

    Nàng bị bắt và bị tra tấn đau quá, buộc phải nhận tội. Quan kết án lăng trì ( lóc từng miếng thịt) xử tử.

    Lính trói ra chỗ hành hình, trong bụng nàng nghẹn ngào nỗi mình oan uổng, vừa đi vừa la trời cho rằng trên trần dưới âm, không có tình cảnh nào đen tối hơn thế này. Đang lúc kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn đồng du lay gọi:

    - Anh bị ma đè hay sao mà la dữ thế.

    Bấy giờ Tăng mới tỉnh giấc, thấy vị sư già vẫn ngồi xếp bằng tròn trên chiếu. Các bạn xúm lại hỏi: "Trời chiều bụng đói sao anh ngủ ngon thế?" Tăng buồn rười rượi đứng lên, vị sư già mỉm cười hỏi:

    - Quẻ bói tể tướng đã thấy nghiệm chưa?

    Tăng càng kinh hãi chắp tay vái sư và hỏi tại sao mà biết. Sư nói:

    - Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có bóng sen nở ra chứ bần tăng có biết gì đâu.

    Tăng vênh mặt khi đến, bây giờ xuôi xị trở về, cái ý nghĩ đài các từ đó nguội lạnh, rồi vào núi tu, về sau thế nào không rõ.




     
  2. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 121 - PHIÊN CHỢ GIỮA BIỂN
    Mã Tuấn biểu thị Long Môi, con nhà buôn bán, đẹp trai tính phóng khoáng, thích múa hát, theo phường hát hội lấy khăn gấm bịt đầu trông mỹ miều như con gái, nhân đấy có biệt hiệu là Tuấn Nhân.

    Hồi mười bốn tuổi, lên học trường quận, liền nổi tiếng học giỏi. Cha già yếu, nghỉ buôn bán ở nhà, bèn khuyên con:

    - Mấy quyển sách khi đói không thể náu mà ăn, khi rét không thể may mà mặc, con ạ! Thôi thì con nghỉ học nối nghiệp theo cha, xoay ra thương mại thì hay hơn.

    Từ đó, Mã tập buôn bán, lần hồi, theo người ta đi buôn ngoài biển. Một hôm, ghe bị gió bão thổi băng đi mấy ngày đêm, tới một nơi đô hội, người trên đảo xấu xí lạ lùng.

    Vậy mà họ thấy Mã, lại cho là yêu ma, ồn ào bỏ chạy. Ban đầu, Mã sợ hãi quá, đến khi biết rõ người bản xứ sợ mình, bèn lợi dụng ngay tình trạng ấy mà nhát họ. Gặp họ đang ngồi ăn, Mã chạy càn đến; ai nấy đều sợ hãi chạy tán loạn, chàng được xơi những món ăn thừa.

    Lâu dần vào mãi xóm làng chân núi, thấy ở đây cũng có kẻ mặt mũi giống y như người, duy có quần áo lam lũ rách rưới như lũ ăn mày. Chàng ngồi nghỉ dưới gốc cây, người ta không dám mon men đến gần, chỉ đứng xa xa mà ngó trầm trồ. Lâu rồi thấy chàng không phải là loài cắn xé ai, bấy giờ mới dần dà đến gần.

    Chàng cười và nói với họ. Tiếng họ tuy khác, nhưng có thể hiểu được nửa phần. Chàng tỏ căn do vì sao mình lạc đến xứ này. Người làng mừng rỡ loan báo cho làng xóm biết rằng người khách lạ không phải đến vồ cắn ai đâu. Tuy nhiên những kẻ xấu xí nhất hạng chỉ đứng xa ngó, chẳng nỡ bỏ đi ngay, nhưng không dám đến gần.

    Bọn đến gần chàng, nhận thấy vị trí mũi miệng cũng giống người Trung Quốc. Họ bày rượu thịt ra mời ăn. Chàng hỏi tại sao thấy mình lại sợ. Họ đáp:

    - Chúng tôi thường nghe ông bà truyền lại rằng: Cách đây hai mươi sáu ngàn dặm, về phía tây có người Trung Quốc, người dân mặt mũi kỳ quái. Bấy lâu chỉ nghe đồn thôi, ngày nay mới tin là có sự thật.

    Hỏi tại sao dân bản xứ nghèo, họ đáp:

    - Điều quý chuộng ở nước chúng tôi, chẳng phải ở văn chương mà ở hình mạo. Người đẹp nhất hạng làm chức thượng khanh; thứ đến chức dân xã; hạng dưới chót nữa cũng được các bậc quý nhân thương yêu, cho nên có lương bổng để nuôi con. Còn như hạng chúng tôi đây, lúc mới oa oa chào đời, cha mẹ cho là vật bất thường, nhiều nhà quăng đi không nuôi. Trừ ra nhà nào vì sự nối dõi tông môn thì mới không đành lòng bỏ đi; miễn cưỡng mà nuôi thôi.

    - Nước này tên là nước gì?

    - Đây là nước Đại La Sát, kinh đô ở cách ba mươi dặm về hướng Bắc.

    Mã yêu cầu họ dẫn đi xem kinh đô một phen cho biết. Gà gáy thức dậy cùng đi. Trời sáng đến kinh đô. Thành xây bằng đá đen như mực; lâu đài cao ngót trăm thước, nhưng có ít lợp ngói chỉ lấy những phiến đá đỏ úp lên trên, trông chẳng khác son đỏ.

    Vừa gặp lúc bấy giờ bãi chầu, các quan nghênh ngang võng lọng từ trong triều ra về. Người nhà quê cùng đi với Mã, trỏ vào một vị quan nói:

    - Quan lớn tướng quốc đó.

    Mã nhòm thấy hình dung quan lớn mà thấy rùng mình, hai tay ngoẳng ra lưng, mũi có ba lỗ, lông mày úp lấy ba mắt như treo tấm màn. Đến mấy ngài cưỡi ngựa đi qua, người hướng đạo nói với Mã:

    - Đó là quan đại phu. Lần lượt giới thiệu quan chức mỗi vị từ trong triều kế tiếp ra về. Mã trông mặt mũi người nào người nấy dị hợm quái kỳ, có điều quan chức càng thấp kém chừng nào thì diện mạo cũng bớt xấu xí chừng ấy.

    Một lúc sau, Mã đi về qua các phố phường; người ta trông thấy vừa la vừa chạy, té lên ngã xuống làm như gặp phải quái vật chi vậy. Người quê hết sức phân phải, bấy giờ người chợ mới dám đứng ngó xa xa, không chạy tán loạn nữa.

    Sau khi Mã trở về sơn thôn, khắp trong nước trẻ già lớn nhỏ, chẳng ai không nghe biết sơn thôn có một người quái cư trú. Từ đó các nhà quyền quý danh vọng muốn cho dân gian được rộng kiến văn cho nên tranh nhau bảo người sơn thôn luân phiên nhau mời Mã đến chơi.

    Nhưng, Mã đến nha nào, nhà ấy sợ hãi vội vàng đóng chặt cửa ngõ, đàn ông, đàn bà, con gái lén lút dòm qua khe cửa, run sợ bàn tán nhau; hết trọn ngày ấy, ngày khác không có ai mới tới gặp mặt. Người trong làng nói:

    - Chốn này có một vị quan chấp kích, xưa kia từng phụng mạng tiên vương đi sứ ngoại quốc, từng trông thấy thiên hạ nhiều, có lẽ chỉ ông ta dám tiếp kiến anh mà không sợ hãi thôi.

    Mã nghe lời, đến nhà ông chấp kích. Thật quả ông này vui mừng tiếp rước, đãi như thượng tân. Mã ngó diện mạo ông, như một cụ già tám chín mươi tuổi, hai con mắt nổi bật ra bên ngoài, râu tua tuả như lông con chim.

    Ông ung dung nói chuyện:

    - Hồi lão còn trẻ tuổi, từng phụng mạng vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ tiếc chưa đi tới nước Trung Hoa lần nào. Nay đã một trăm hai chục tuổi lại được trông thấy thượng quốc nhân vật thế này, thật là có phước, không thể nào không tâu thiên tử hay biết. Nhưng lão về ở ẩn nơi rừng núi đã mười năm nay, không để gót tới sân rồng; vậy sáng ngày mai, lão xin vì ông, cố gắng đi chầu thiên tử một phen.

    Laõ nói đoạn, sai dọn tiệc thết đãi. Sau vài tuần rượu, gọi phường nữ nhạc gồm mười mấy cô ra trước tiệc thay phiên nhau múa hát làm vui. Cô nào mặt mày cũng xấu xí như quỷ dạ xoa, bịt đầu bằng gấm trắng, mình vận áo đỏ quét đất, giọng hát nghe ồ ồ, chả biết là bản gì, mà nhịp nhàng cũng kỳ cục khó hiểu. Coi bộ lão quan vui sướng lắm, hỏi coi Trung Hoa có đờn nhạc xướng hát như vầy không? Mã đáp: có. Lão quan xin Mã hát thử một bài ca Trung Hoa cho nghe. Mã gõ nhịp trên bàn, ca một bài.Lão quan hớn hở nói:

    - Lạ thay! Tiếng hát như hoàng kêu, phụng gáy, lão chưa từng nghe bao giờ.

    Sáng bữa sau, lão lên đường, vào chào quốc vương, cốt tiến cử Mã.

    Vua hân hoan xuống chiếu vời ngay. Song có ba quan đại thần, tau bày hình dạng Mã quái gở, nếu vời vào chầu, e làm kinh hãi thánh thể. Quốc vương nghe tâu liền bãi lệnh tuyên triệu quái nhân Trung quốc.

    Lão quan tức tốc về nhà, thuật chuyện cho Mã nghe và tỏ ý rất tiếc. Mã ở nhà lão quan lâu ngày đâm buồn, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, bèn cầm gươm đứng dậy múa, lấy than lọ bôi mặt đen thủi đen thui, đóng vai Trương Phi. Chủ nhân trầm trồ khen thế là đẹp:

    - Xin ông cứ để bộ mặt Trương Phi đến bái yết quan tể tướng, chắc ngài trọng dụng lo gì chẳng được chức cao lộc nhiều.

    Mã lắc đầu nói:

    - Trời ơi! Bôi nhọ thế này mà chơi đùa, còn có thể yêu thương được, có lý nào vác bộ mặt hát bội đi cầu lấy vinh hiển.

    Chủ nhân cố nài ép mãi, Mã mới chịu nghe.

    Hôm sau, ông làm tiệc lớn, mời các nhà đương quyền đến nhà yến ẩm, bảo Mã vẽ bộ mặt nhọ nồi sẵn sàng chờ đợi. Một chặp quan khách kéo đến đông đủ, ông kêu Mã ra trình diện. Khách đều sửng sốt, nói:

    - Quái lạ, sao bữa trước xấu như ma lem, nay hóa mỹ miều xinh đẹp đến thế?

    Rồi các quan cùng kéo Mã ngồi chung tiệc rượu, chén tạc chén thù hết sức vui vẻ. Mã đứng dậy múa may, hát ê a một khúc đúm, cử tọa tấm tắc khen hay. Qua ngày sau, các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã với vua. Nghe nói Mã đã đổi xấu ra đẹp, vua lấy làm mừng rỡ sai đem cờ mao tiết đi vời chàng vào triều.

    Khi làm lễ bái kiến xong, vua hỏi về đạo trị an của Trung !uốc, chàng cặn kẽ tâu bày, được vua khen thưởng đáo để, liền ban yến ở ly cung. Rượu ngà ngà say, vua hỏi:

    - Nghe đồn khanh giỏi múa hát, có cho quả nhân được thưởng thức chăng.

    Mã đứng lên bỏ bộ múa hát, cũng bắt chước trùm đầu bằng gấm trắng, hát giọng đò đưa. Vua nghe thích chí liền phong cho Mã chức hạ đại phu. Chàng thường được vua ban tứ yến riêng, hậu đãi khác cả mọi người.

    Lâu dần, các quan lớn nhỏ trong triều biết cái mặt chàng bôi nhọ là bộ mặt giả, nhờ đó mà công danh phú quý. Chàng đi tới đâu cũng được người ta nói thì thầm với nhau, không niềm nở với mình nữa. Từ đó chàng hóa ra cô lập, trong lòng cắn rứt không yên, liền dâng biểu xin về hưu dưỡng. Vua không cho. Lại nằn nì xin nghỉ có hạn, vua cho nghỉ ba tháng.

    Chàng dùng ngựa trạm, chở các món vàng bạc châu báu trở về sơn thôn. Dân sở tại kéo nhau ra quì đón bên đường. Chàng phân cấp tiền bạc cho những nhà tử tế với mình lúc nọ, tiếng chúc tụng hoan hô, vang dậy như sấm. Dân làng nói:

    - Chúng tôi hèn mọn, mang ơn quan đại phu tặng cho tiền bạc, ngài mai có phiên chợ giữa biển, sẽ tìm mua vật quý để đền đáp quan đại phu.

    Chàng hỏi chợ biển ở chỗ nào, dàn làng nói:

    - Tức là chợ họp dưới biển, người cá (người sống dưới nước như cá) ở bốn biển, gom góp châu báu, bốn phương 1 hai nước, cùng tới trao đổi. Trong đó có nhiều thần nhân đến chơi, mây ráng đầy trời ba đào cuồn cuộn; vì thế những hạng quý nhân tự trọng, không dám xông pha hiểm nghèo, cứ trao lụa là cho chúng tôi, mua dùm các món đồ lạ đem về cho họ. Nay mai sắp đến phiên chợ ấy rồi.

    Mã hỏi tại sao biết chắc ngày giờ nào đến phiên chợ biển họp. Dân chúng cắt nghĩa:

    - Mỗi khi chúng tôi thấy có đàn chim đỏ bay liệng tới lui tức là bảy hôm sau có chợ.

    Mã lại hỏi hành kỳ bao lâu, ý muốn cùng đi xem chợ cho biết nhưng dân làng ngăn bảo chàng phải tự trọng, vì đi chợ rất mạo hiểm, thường thường có đi không về. Chàng nói:

    - Các ngươi đừng lo dùm tôi. Tôi vốn đi biển đã quen, sợ chi sóng gió.

    Cách mấy ngày sau, quả thấy có người đến gửi tiền của để mua đồ. Tới kỳ chàng vận hành lý xuống thuyền cùng đi chợ biển với người ta. Thuyền chở được khoảng vài chục người, dáng thẳng lườn cao, mười tay bơi chèo, thuyền đi vùn vụt như tên.

    Trải qua bốn ngày, xa trông khỏang mây nước giáp nhau, lâu đài lo nhô trùng điệp, những ghe buồm bán đậu dày như kiến. Một chặp đến dưới chành thành nhìn lên vách tường cao bằng đầu người, lầu gác trên mặt thành chót vót đụng mây xanh.

    Buộc thuyền xong vào bờ, thấy các món châu báu la liệt trong chợ, ánh sáng lóng lánh chói mắt, nhiều thứcc trần gian không có. Một thiếu niên cưỡi ngưạ đi tới, người họp chợ đều dạt ra tránh đường, bảo nhau đó là Đông dương tam thái tử.

    Thế tử đi ngang, liếc mắt thấy Mã, nói:

    - Người này là người xứ lạ!

    Lập tức, có kẻ tùy tùng đến hỏi Mã tên họ là gì, quê quán nơi nào. Chàng đứng bên đường, chắp tay vái chào thế tử và tự giới thiệu mình. Thế tử mừng và nói:

    - Được ngài quá bộ tới đây, thật có duyên phận không ít.

    Nói đoạn, trao một con ngựa cho chàng cưỡi, cùng nhau song song theo hướng tây một quãng, mới tới bờ đất cù lao.

    Ngựa phăng phăng nhảy đại xuống nước, chàng khiếp đảm kêu lên thất thanh; bỗng thấy nước biển tách ra thành đường đi, hai bên chót vót như vách thành dựng đứng. Đi một lát thấy bày ra trước mắt những toà cung điện nguy nga, đồi mồi làm kèo, vẩy rồng làm ngói, bốn vách thủy tinh, lóng lánh chói mắt.

    Chàng xuống ngựa, bước vào cung điện, ngó lên thấy Long vương ngồi trên. Thế tử kính tâu:

    - Thần đi xem chợ, được gặp một hiền sĩ Trung Quốc, nên dẫn về đây ra mắt đại vương.

    Chàng làm lễ bái yết xong, Long vương hỏi:

    - Tiên sinh là bậc học sĩ, hẳn làm vă n hay, vậy quả nhân muốn cậy làm giùm bài phú chợ biển, xin đừng tiếc công nhả ngọc phun châu.

    Chàng cúi đầu phụng mạng, liền có thị vệ đem ra nghiên thuỷ tinh, bút râu rồng, giấy trắng như tuyết, mực thơm như lan. Chàng tức thời viết thành bài văn hơn một nghìn chữ đưa trình. Long vương xem rồi khen không tiếc lời:

    - Tài lớn của tiên sinh, làm cho thủy quốc vẻ vang biết mấy.

    Rồi hội họp các thủy tộc, mở tiệc lớn ở cung Thế Hà. Sau vài tuần rượu, Long vương nâng chén hướng về phía khách nói:

    - Quả nhân có đứa con gái cưng, hiện chưa lấy chồng, muốn gả cho tien sinh, thuận hay không?

    Chàng tự thẹn không biết nói thế nào chỉ cúi đầu vâng dạ mà thôi, Long vương day lại tả hữu, nói gì chẳng rõ, giây lát mấy nàng cung nữ phò công chúa ra làm lễ, vàng ngọc leng kheng, đàn sáo inh ỏi. Chàng đáp lễ và liếc dòm công chúa, mỹ miều như tiên.

    Công chúa chào khách xong trở vào hậu cung.

    Sau khi bãi tiệc, hai thị nữ cầm đèn lồng, đưa chàng vào hậu cung.

    Công chúa trang điểm ngồi đợi trong phòng kê giường san hô, chạm đồ bát bảo, tấm màn che ngoài kết bằng ngọc minh châu, viên nào viên nấy lớn như cái đấu; chăn mền nệm gối đều bằng thứ rêu mềm mại thơm tho. Trời mới bừng sáng, a hoàn cung nữ đã tấp nập trước mặt để chờ sai khiến.

    Chàng ra triều đường bái tạ, Long vương phong chức phò mã đô úy, và sai chép bài phú gửi đi các biển xem.

    Long vương ở các biển điều sai sứ đến mừng, nhân dịp gửi thiếp mời phò mã tới uống rượu.

    Chàng vận đồ gấm vóc cưỡi rồng xanh ra đi, mấy chục võ sĩ cưỡi cá ngựa theo hộ vệ cùng mang cung sơn son, cầm hèo bịt bạc long lanh rầm rộ, lại có phường nhạc theo hầu, trên lưng ngựa gảy đàn tranh ngồi trong xe gõ phách ngọc.

    Nội trong ba ngày, chàng dạo chơi khắp các biển, vì đó cái tên "Long môi" (rồng làm mai) vang dậy bốn biển. Trong cung có một cây ngọc, mình đầy một ôm sáng ngời và trong suốt như lưu ly trắng; giữa có rượu màu vàng lợt, nhỏ thua cánh tay, lá cây giống như bích ngọc dày bằng đồng tiền âm u rậm rạp. Thường ngày vợ chồng ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo làm vui. Đến mùa hoa nở chi chít, cứ mỗi lá rụng xuống đất, kêu lên một tiếng keng, lượm lên xem như mã não màu đỏ, có chạm trổ và trong sáng khác thường. Thỉnh thoảng có loài chim lạ, tới đậu trên cây hót vét von, lông vàng ánh, đuôi dài hơn mình, tiếng hót có khi não nùng tới gan ruột. Mỗi lần chàng nghe đều chạnh lòng tưởng nhớ quê hương, bèn thừa dịp nói với công chúa:

    - Tôi lạc lõng đã ba năm, cha mẹ già bặt tin vắng bóng, lần nào tôi nghĩ đến cũng thắt lòng thắt ruột, muốn về thăm quê quán, khanh có vui lòng theo tôi về chăng?

    Nàng nói:

    - Tiên phàm cách trở em không thể nào đi theo. Tuy nhiên em cũng chẳng nỡ vì tình yêu cá nước mà để chàng lỗi đạo hiếu với cha mẹ, vậy thong thả, em tính cho.

    Chàng nghe khóc vùi, nàng cũng than thở:

    - Sự thế bắt buộc phải vậy, tình hiếu không thể lưỡng toàn.

    Hôm sau chàng đi dạo, Long vương hỏi:

    - Ta nghe phò mã muốn về thăm quê, vậy sớm mai khởi hành được chăng?

    Chàng thưa:

    - Thần bơ vơ lưu lạc may nhờ đại vương đoái tưởng,, bấy lâu mang ơn quá nhiều, vẫn ghi trong gan ruột, chỉ mong sẽ trở lại hầu đại vương.

    Tối lại nàng đặt tiệc từ giã. Chàng hẹn sau lại gặp nhau, nhưng nàng thản nhiên nói:

    - Tình duyên đôi ta đến đây là hết rồi.

    Chàng xót xa khóc lóc cực thảm. Nàng an ủi và nói:

    - Về nhà phụng dưỡng cha mẹ tỏ rõ lòng chàng hiếu thảo. Đời người ta tan hợp, trăm năm cũng như đầu hôm sớm mai, can chi khóc lóc như đàn bà? Miễn sao từ nay, em vì chàng mà giữ tiết trinh, cũng như chàng vì em mà giữ tín nghĩa, thì mỗi người một nơi, hai lòng như một, thế là vợ chồng gắn bó đấy; hà tất sớm tối ngồi ôm nhau, mới là bách niên giai lão ư? Nếu bên nào có ăn ở lỗi với thề nguyền, có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng gặp tốt lành êm đẹp. Ví bằng chàng lo trong nhà không ai nội trợ thì có thể mua hầu cưới thiếp, không sao. Nhân dịp em còn một chuyện nói với chàng: từ ngày kết bạn đến nay, dường như em đã có thai, vậy xin chàng đặt tên sẵn cho con.

    Chàng nói:

    - Hễ con gái thì tên là Long Cung, con trai thì mang tên Phước Hải.

    Nàng xin để lại một vật làm tin. Khi chàng ở nước La Sát được một cặp hoa sen bằng ngọc đỏ, nay đem trao cho công chúa giữ làm tin, nàng tính đốt tay căn dặn:

    - Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng nhớ bơi thuyền ra Nam đaả, em sẽ giao con.

    Đoạn, nàng lấy một da cá làm túi, nhét đầy châu ngọc vào trong, đưa cho chồng và nói:

    - Mình giữ kỹ túi này, mấy đời ăn xài cũng chẳng hết đâu.

    Trời mờ sáng, Long vương thân đến từ biệt, tặng cho đồ vật cực nhiều. Chàng lạy tạ rồi ra khỏi cung vua. Nàng ngồi xuống xe dê trắng kéo,, đưa ra tận bờ biển. Chàng lên bờ, xuống ngựa. Nàn ngỏ lời chúc mong trân trọng rồi quay trở về thấm thoát đã thấy xa biệt. Nước biển khi ấy rẽ ra hai bên thành con đường đi, giờ khép lại cho nên không thấy công chúa đâu nữa. Chàng rầu rĩ xuống ghe, nhắm hướng về quê.

    Từ ngày Mã sinh vượt biển, rồi mất tích, ai cũng bàn tán chết mất xác đâu rồi. Nay thấy lù lù trở về, cả nhà càng sửng sốt kinh ngạc.

    Cũng may cha mẹ già còn khoẻ mạnh, tuy có người vợ đã đi lấy chồng khác. Chàng nhớ lại câu: "giữ vẹn tình nghĩa", của long nữ đã nói, thì ra nàng đã tiên tri vợ chồng cải giá vậy.

    Cha mẹ muốn cưới cho vợ khác, nhưng chàng không nghe, chỉ mua một người về làm cô hầu để hầu hạc song thân, lo việc nội trợ.

    Đúng kỳ hẹn ba năm và ngày tháng đính ước, chàng bơi thuyền ra tận hải đảo, thấy hai đứa trẻ ngồi lềnh bềnh trên biển, đang tạt nước đùa giỡn nhau, không động mà cũng không chìm. Chàng đến gần, hai đứa trẻ mừng rú lên, mỗi đứa nắm một cánh tay chàng, và nhảy vào lòng đòi ẵm. Một trong hai đứa bỗng khóc lớn tiếng, hình như giận dỗi cha không ẵm mình trước vậy. Nhìn kỹ té ra một trai, một gái diện mạo cùng tuấn tú, khôi ngô, đồi đội mũ hoa gắn ngọc, tức là bông sen đỏ làm tin. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, chàng mở ra xem là bức thư nàng viết:

    "Kính thăm chàng và song thân bình an.

    Thấm thoát đã ba năm, bụi hồng cách tuyệt đôi nơi, chim xanh bề đi sứ; chẳng qua tơ tưởng trong giấc chiêm bao, nghểnh cổ xa trông nào thấy mênh mang trời biển, còn hận nào bằng?

    Nhưng lại suy nghĩ: Chị Hằng còn để cung Quế vắng tanh, ả Chức còn bị sông Ngân cách trở, huống chi là đây là người gì mà hòng đoàn tụ mãi được. Em nghĩ tới đó, liền gạt nước mắt vui cười. Sau khi từ biệt được hai tháng thì em ở cữ sinh đôi. Nay hai đứa trẻ khỏi cần bồng ẵm, cười nói líu lo suốt ngày đòi táo đòi lê, dù xa mẹ cũng có thể sống được rồi cho nên em giao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ em gài trên mũ hai đứa trẻ để làm tin đó. Những chàng ôm con trên đầu gối, hôn hít nâng niu cũng như có em bên cạnh vậy.

    Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền với em, em rất vui lòng. Phần em cũng một lòng duy nhất, đến chết không rời, bấy lâu vẫn sống một cách mộc mạc đơn sơ, gấm vóc xếp xó trong giương, phấn son không hề thoa mặt, chàng như chinh phu đi trận phương xa, em như quả phụ ở nhà thủ tiết, vậy đó chẳng là nhân duyên gắn bó sắt cầm hảo hợp ư?

    Có điều em nghĩ, bây giờ cha mẹ chồng đã được ẵm cháu nội, mà còn chưa thấy mặt nàng dâu ra sao, xét đến tình lý cũng là điểm khuyết. Vậy nếu năm tới bà cụ quy tiên, lúc đó, em sẽ đến mộ ai điếu cho tròn đạo dâu con.

    Ngoài việc ấy ra, Long Cung vô sự, có lúc mẹ con bắt tay; Phước Hải trường sinh, tất sẽ tới lui ngoài biển. Trân trọng kính thư, chúc chàng mạnh giỏi".

    Mã sinh đọc lại đôi ba lần, vừa đọc vừa khóc. Hai trẻ ôm cổ, nói: về nhà ta đi, khiến chàng đau đớn xót ruột, buồn lại thêm buồn, nựng con và hỏi: con có biết nhà ta ở đâu không nào?

    Hai đứa cùng khóc rấm rức, một hai đòi về nhà. Chàng nhìn ra biển cả mênh mông, chân trời tít trong khoảng mây mờ sóng vỗ kia, có thấy đâu nhiều mình thương yêu tưởng nhớ ở đâu bèn buì ngùi ôm con, quay mũi thuyền trở về.

    Theo lời nàng nói, chàng biết mẹ già không còn thọ lâu, cho nên lo việc tang sự sẵn sàng. Quanh nhà trồng hơn trăm cây tùng. Năm sau quả nhiên bà cụ qua đời, khi quan tài sắp sửa hạ huyệt, có người con gái mặt sô gai đến bên làm lễ. Mọi người đang nhìn có vẻ sửng sốt, bỗng dưng nổi cơn bão gió sấm sét, kế trời mưa to, trong nháy mắt nàng đã biến đi đằng nào mất. Những cây tùng bách mới trồng phần nhiều đã khô bây giờ trở lại tươi tốt.

    Phước Hải lớn lên, nghĩ tới mẹ ruột, tự đi ra biển thăm viếng, mấy hôm mới về. Long Cung là phận nữ nhi, không thể mạo hiểm, thời thường đóng cửa ngồi khóc một mình. Bữa nọ đang giữa ban ngày, trời tự nhiên tối sầm lại, Long nữ chợt đến vỗ về con cái và nói: Con sẽ lập thành gia thất tốt còn ngồi khóc làm gì? Nói đoạn, cho nàng một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một hộp minh châu, một đôi vòng vàng chạm bát bảo, để làm của hồi môn khi lấy chồng.

    Chàng nghe vợ tiên hiện về thăm con gái, tức tốc chạy đến nắm tay Long nữ mà khóc nức nở. Bỗng trời nổi mưa gió, sét đánh vang nhà, nàng biến đi mất.




     
  3. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 122 - OAN NGHIỆT TRƯỜNG VĂN
    Vương Tử Bình, người Bình Dương, đi thi trọ ơ chùa Báo Quốc. Trong chùa đã có Dư Hàng là học trò đến ở từ trước. Vương lấy tình lân cận liền nhà, gửi danh thiếp sang làm quen. Dư không đáp. Sớm tối gặp nhau, anh ta còn tỏ vẻ vô lễ. Vương giận anh ta quá lên mặt, không đi lại chơi bời nữa.

    Một hôm, có một chàng trai trẻ đến chơi chùa, mũ mãng quần áo đều trắng bong, dáng vẻ đường hoàng, Vương lại gần bắt chuyện, thấy nói năng hòa nhã troChâu". Vương sai đầy tớ bày ghế mới ngồi, cùng nhau cười nói vui vẻ nhã nhặn. Đúng lúc Dư Hàng sang, ngồi tót lên cao, thái độ ngạo mạn. Thản nhiên, anh ta hỏi Tống:

    - Anh cũng đi thi phải không?

    Đáp:

    - Không, tôi vốn tài hèn nên đã không có chí bay nhảy từ lâu rồi.

    Lại hỏi:

    - Ở tỉnh nào?

    Tống kể rõ, Dư bảo:

    - Đã không có chí tiến thủ, đủ biết là bậc cao minh. Cả Sơn Đông, Sơn Tây, không có ai đáng bậc "thông giả".

    Tống đáp:

    - Người phương Bắc (1) vốn ít kẻ thông tuệ. Nhưng người "không thông" chưa hẳn là kẻ tiểu sinh này, người phương nam vốn nhiều bậc thông tuệ, song bậc "thông giả"cũng vị tất là túc hạ.

    Nói xong vỗ tay, Vương cũng phụ họa mà cười vang nhà. Dư Hàng xấu hổ vừa tức, trợn mắt phất tay áo, lớn tiếng:

    - Có dám ra đề thi làm văn ngay bây giờ không?

    Tống nhìn anh ta cười nhạt: "Có gì mà không dám", rồi lấy sách đưa cho Vương. Vương tiện tay giở ra, chỉ vào câu "Ở Khuyết Lý, trẻ con theo mệnh (2)". Dư đứng dậy tìm giấy bút. Tống ngăn lại bảo:

    - Đọc luôn ra miệng thôi cũng được. Tôi đã có đoạn phá đề thế này: "Ở chỗ tân khách qua lại, mà thấy một kẻ không biết tí gì".

    Vương ôm bụng cười lớn. Dư tức giận nói:

    - Toàn là những kẻ không biết làm văn, bày trò để chửi xỏ, sao đáng là người!

    Vương ra sức kêu là đố khó, xin tìm đề khá hay hơn. Lại lật trang khác đọc: "Thời Ân có ba vị vương giả (3)". Tống lập tức ứng khẩu đọc:

    - "Ba vị tuy hành động không đồng thanh nhưng cùng theo một đạo. Đạo ấy là gì? Thưa rằng: đạo nhân. Người quân tử chỉ cốt đạo nhân mà thôi, cần gì phải đồng".

    Dư thấy thế không làm nữa, đứng dậy nói: Đều là bọn tài xoàng. Rồi bỏ đi.

    Từ đó, Vương càng trọng Tống, mời vào nhà chuyện phiếm suốt ngày, đưa hết văn thơ của mình ra xin Tống duyệt đọc. Tống lướt thật nhanh, một khắc đã hết trăm bài, nhận xét:

    - Anh cũng đã sâu sắc trong nghiệp này, song cái bệnh của bút nghiên không cầu mà được. Văn anh còn gửi gắm cái lòng cầu may, do đó đã rơi xuống mức thấp kém.

    Rồi lấy những bài đã duyệt nhất nhất giải thích rõ. Vương vừa ý lắm, tôn làm bậc thầy, sai nhà bếp lấy đường mía làm món bánh trôi. Tống ăn lấy làm thích lắm, khen:

    - Bình sinh chưa được ăn món này, phiền hôm nào đó lại làm cho ăn.

    Từ đó hai người càng tâm đắc. Cứ dăm ba ngày Tống lại đến. Vương lại sai người làm món bánh trôi. Dư Hàng thỉnh thoảng cũng bắt gặp, tuy không đàm luận đằm thắm nhưng cái thói ngạo nghễ cũng bớt. Một hôm anh ta cũng đem văn cho Tống xem. Thấy bạn bè anh ta phê son khuyên bình, tán thưởng chi chít, Tống chỉ nhìn qua rồi dẹp sang góc bàn, không nói một lời. Dư ngờ Tống chưa đọc, lại giục. Tống nói đã đọc rồi. Dư cho là không hiểu. Tống trả lời:

    - Có gì mà không hiểu, chỉ không hay thôi.

    Dư vặn:

    - Mới nhìn qua những nét son khuyên điểm, sao đã biết là không hay?

    Tống liền bình to lên như đã đọc kỹ lưỡng, vừa bình vừa chê. Dư sợ toát mồ hôi hột, bỏ đi không nói gì. Lát sau, Tống đi, Dư lại vào, nài nẵng Vương cho xem văn. Vương không chịu, Dư cố tìm được tập văn của Vương, thấy nhiều khuyên son, cười rằng:

    - Những cái nàu to như cục bánh trôi vậy.

    Vương cố ghìm bực tức, chỉ lừ mắt nhìn mà thôi. Hôm sau Tống đến, Vương kể lại hết. Tống giận nói rằng:

    - Tôi cứ cho rằng thằng cha này được những bài học thích đáng đã tỉnh ra, thế mà sao lại vẫn dám vậy. Thế nào tôi cũng lại cho biết tay.

    Vương cố lấy lời răn đừng khinh bạc để khuyên can Tống. Tống càng cảm phục.

    Sau khi thi xong, Vương đem bài văn thi cho Tống xem. Tống hẹn sẽ xem. Ngẫu nhiên hôm ấy hai người đi chơi thăm thú các đền đài chùa miếu, thấy một ông sư mù ngồi ở hành lang, bày thuốc bán. Tống khen:

    - Đây là bậc kỳ nhân, rất giỏi thẩm văn, không thể không xin lời chỉ giáo.

    Theo lời, Vương về nhà lấy văn, giữa đường gặp Dư Hàng dẫn nhau cùng đến. Vương lựa lời nói với sư, sư tưởng mua thuốc liền hỏi bệnh tật. Vương nói rõ ý định. Sư cười:

    - Ai mà nhiều lời vậy? Ta không có mắt lấy gì để bàn luận văn chương?

    Vương xin dùng tai. Sư bảo:

    - Ba bài hon hai nghìn chữ, ai mà kiên nhẫn nghe hết được. Chi bằng cứ đốt đi ta sẽ ngửi bằng mũi.

    Một khi đốt một bài, nhà sư lại hít hà, rồi nhấm nháp nói:

    - Anh mô phỏng các vị đại gia, tuy chưa đúng được nhưng cũng gần giống. Ta đang thưởng thức bằng tì vị. Hỏi:

    - Có được không?

    Trả lời:

    - Cũng được.

    Dư Hàng không tin lắm, lấy văn của các bậc đại gia cổ, đốt đi để thử. Nhà sư lại ngửi:

    - Hay thật! Văn này bụng dạ ta chịu được. Phi ông Quy, ông Hồ (4) ai mà làm được.

    Dư sợ quá, lúc ấy mới đốt đến văn của mình. Sư nói:

    - Mới thấy được một, chứ chưa thấy toàn thể, sao lại bỗng có văn người khác vào đây?

    Dư nói đổ:

    - Đó là văn của bạn, chỉ có một bài. Còn đây mới là văn của tiểu sinh.

    Sư ngửi các bài tiếp, phát ho mấy tiếng, bảo:

    - Thôi đừng đốt nữa! Nó cứ tắc mãi không xuống được. Nếu đốt thì chứng ra mắt.

    Dư xấu hổ rút lui.

    Mấy ngày sau treo bảng, Dư đỗ hương cống, còn Vương trượt. Tống và Vương đến báo với nhà sư. Sư than rằng:

    - Ta tuy mù mắt nhưng tai không mù. Còn các vị khảo quan đều mù cả tai.

    Lát sau Dư Hàng vẻ hãnh diện hỏi sư:

    - Này hòa thượng mù, người cũng ăn bánh trôi của người ta ư? Nay thế nào?

    Sư cười trả lời:

    - Điều ta bàn là về văn chứ không nói với anh về mệnh. Anh hãy tìm văn của các quan chấm trường đến đây, đốt đi mỗi thứ một bài, ta có thể biết ai là thầy anh.

    Dư và Vương cùng đi tìm, chỉ được văn của tám chín người. Dư giao hẹn:

    - Nếu đoán sai thì phạt gì? Sư giận đáp:

    - Thì móc con mắt thong manh của ta đi!

    Dư đốt văn, hết một bài, sư lại nói không phải. Đến bài thứ sáu, sư nghỏanh vào vách mà mửa, đánh rấm liên hồi. Mọi người cười ầm, nhà sư lau mắt, quay về phía Dư bảo:

    - Đúng là thầy của anh rồi! Lúc đầu không biết ta vội hít vào, nó đâm vào mũi, chọc vào tai, không sao dung được phải tống ra khỏi hạ bộ.

    Dư tức giận lắm, bỏ đi còn dọa:

    - Ngày mai sẽ biết tay, đừng hối, đừng hối!

    Hai ba ngày sau cũng không thấy hắn đến, xem lại thì hắn đã dọn đi rồi, lúc ấy mới biết đúng là hắn là học trò của ông quan chấm trường ấy thật.

    Còng Tống an ủi Vương rằng:

    - Phàm bọn đọc sách chúng ta không nên muốn hơn người mà cần nghiêm khắc với mình. Không muốn hơn người thì đức càng rộng. Biết nghiêm khắc với mình thì học mới tiến. Bận này anh không gặp may là do số chưa gặp. Nhưng bình tâm mà bàn thì văn anh cũng cũng chưa thành thục. Từ đây mà mài giũa, thiên hạ vẫn còn người không mù.

    Vương cảm tạ lời dạy bảo. Nghe tin năm sau lại mở khoa thi hương, Vương không về quê mà ở lại để học. Tống khuyên:

    - Ở chốn thị thành, gạo châu củi quế nhưng cũng chớ ngại việc tư cấp. Sau nhà tôi có cái hầm chứa tiền từ trước bị đổ lấp, có thể sửa sang lại ở tạm.

    Rồi chỉ chỗ cho. Vương cảm tạ rằng:

    - Ngày xưa ông Đậu ông Phạm (5) nghèo mà chó thể liêm. Nay tôi may còn được tư cấp, sao dám tự ô danh.

    Một hôm Vương đang ngủ bỗng sực tỉnh nghe sau nhà có tiếng đào đất thình thịch. Vương lén dậy thì thấy người hầu và người làm bếp đang thừa cơ đào trộm, vàng đã bày trên mặt đất. Biết cơ sự đã lộ, họ đang định lấp đi. Vương đang định mắng họ thì thấy tấm kim bài, có khắc kim úy người ông cùa Vương. Nguyên là người ông ấy đã từng giữ chức Nam Bộ Lang (một chức quan như lang trung ở Nam kinh). Khi vào kinh nhậm chức ông ta đã từng ở đó, bị bệnh nặng mà mất. Vàng ấy là do ông cụ để lại. Vương mừng lắm, cân lên được hơn tám trăm lạng. Hôm sau Vương chuyện ấy nói với Tống, đưa cho xem cả tấm kiem bài và cũng muốn chia cho Tống một phần. Tống từ mãi mới thôi. Lại lấy một trăm lượng định tặng nhà sư mù thì ông đã đi đâu mất.

    Suốt tháng Vương khổ công ôn luyện. Đến khi thi Tống bảo:

    - Khoa này anh đỗ mới đúng là do mệnh.

    Rồi vì phạm quy (6), Vương bị đánh hỏng. Vương còn chưa nói gì thì Tống đã khóc lớn, không cầm được. Vương lại phải an ủi ngược lại. Tống mới than thở:

    -Tôi bị tạo vật ghen ghét, khốn đốn trọn đời, nay lại lụy đến bạn tốt. Đó là số mệnh vậy, là số mệnh vậy!

    Vương bùi ngùi:

    - Muôn việc vốn đều có số. Như tiên sinh không có chí tiến thủ, không phải là mệnh vậy.

    Tống gạt lệ giãi bày:

    - Lâu nay tôi có muốn nói, chỉ sợ anh kinh ngạc; tôi không phải là người sống mà là hồn quỷ phiêu bạt. Lúc nhỏ tuổi ôm mang ý khí tài danh, không được đắc chí nơi trường ốc, tôi giả cuồng lên đô thành, gặp người tri kỷ truyền cho cho trước tác. Lại gặp nạn Giáp Thân (7), năm tháng nổi trôi. Nay may mắn được anh yêu mến, cho nên định đem hết sức mọn ra giúp bạn để tuy cái ước nguyện bình sinh của tôi chưa đạt thì mượn bạn để thực hiện như một điều khoái riêng vậy. Nay cái tai ách của nghiệp văn tự là như vậy, có ai tránh được!

    Vương cũng cảm động khóc mà hỏi:

    - Nay lục dụng lại như thế nào?

    - Năm trước đã có mệnh của Thượng Đế ủy cho đức Tuyên Thánh (Khổng tử) và Diêm La Vương tra soát lại các hồn ma, loại trên thì giao các tào bổ dụng, số còn lại cho đầu thai kiếp khác. Tên tôi đã được chọn bổ dụng, sỡ dĩ chưa kịp đi là vì còn muốn thấy được cái khóai tranh chiếm bảng vàng. Nay xin từ biệt.

    - Tiên sinh được khảo chức gì?

    - Phủ Tử Chàng còn khuyết chức Tư Văn Lang, tạm lĩnh triện ở nha Tủng Đồng (8). Nơi đó đã làm cho văn vận điên đảo, vạn nhất nay được chức ấy thì sẽ gắng làm cho thánh giáo minh thịnh.

    Hôm sau, Tống hớn hở đến nói:

    - Được, toại ý rồi. Đức Tuyên Thánh sai làm bài "Tinh đạo luận", người xem xong, vui hiện ra mặt, bảo tôi có thể làm tư văn. Diêm La xem sổ lý lịch đòi bo không dùng vì tội :z5:hẩu nghiệt". Đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi, tôi mới được duyệt. Khi tôi lạy tạ. Người còn gọi lại gần án dặn rằng: "Nay ta thương tài chọn sung chức thanh Bạch, vậy nên phải rửa lòng mà nhận chức, chớ mắc phải lỗi lầm cũ". Thế mới biết, ở cõi âm tăm tối còn trọng đức hạnh hơn cả văn học. Việc tu sửa đức hạnh ở anh ắt cũng chưa đến nơi. Vậy không nên quên làm điều thiện.

    Vương nói:

    - Quả vậy. Còn đức hạnh của Dư Hàng thì đến đâu?

    Tống đáp:

    - Điều đó tôi không biết. Âm ti thưởng phạt không có chút sai sót nhỏ nào. Còn ông sư mù ngày trước cũng là hiện thân của quỷ. Đó là bậc danh gia triều trước, lúc sinh thời hao phí giấy bút quá đà cho nên bị phạt mù. Ông ta muốn tự bán thuốc chữa bệnh cho người để chuộc lại lỗi lầm xưa, cho nên mới thác cớ đi các nơi.

    Vương sai soạn tiệc rượu. Tống nói:

    -Không cần. Cả năm tôi đã quấy nhiễu, hãy tận hưởng một giờ khắc lúc này. Xin hãy cho ăn bánh trôi là đủ.

    Vương buồn quá không ăn chỉ ngồi nhìn Tống. Một lúc đã ăn hết ba bát to, Tống ôm bụng nói:

    - Ăn bữa này no ba ngày, tôi xin ghi công đức của anh. Thóc lúa ăn của tôi ngày trước đều ở sau nhà, nay đã mọc nấm cả rồi. Lấy nấm ấy, cất làm thuốc có thể làm cho trẻ thông tuệ. Vương lại hỏi hậu vận. Tống đáp:

    - Đã nhận quan chức hiềm không tiện hỏi.

    Lại hỏi:

    - Nếu đến phủ Tử Chàng cầu khấn gọi tiên sinh, có gặp được không?

    Trả lời:

    - Cái đó đều vô ích. Chín tầng trời xa lắm, nếu anh cố giữa mình trong sạch thì sẽ có tờ từ trên ấy xuống địa ty, lúc ấy tôi sẽ cho biết.

    Nói xong từ biệt rồi biến mất. Vương xem đằng sau nhà quả có nấm tía liền hái cất đi. Bên cạnh nhà tự nhiên mọc lên ngôi mộ mới.

    Vương trở về quê hết sức giữ mình nghiêm khắc. Một đêm nằm mộng thấy Tống đi xe có lọng che đến, bảo rằng: "Trước đây, do cơn bực dọc nhỏ, anh giết lầm một con gái hầu nên bị tước sổ lộc. Nay do gắn tu tỉnh nên đã trừ được bớt tội, song mệnh còn mỏng cho nên không đủ để tiến thân làm quan". Năm ấy Vương đỗ hương cống. Năm sau trúng tiến sĩ, nhưng không ra làm quan. Vươns sinh hai con, một đứa hết sức đần độn, liền cho ăn nấm thì thông minh rất mực. Sau đó có việc đi Kim Lăng, trên đường đi gặp Dư Hàng. Lão ta kể hết nguồn cơn xa cách, thái độ khiêm nhường, song đầu tóc đã bạc trắng cả.

    Chú thích:

    (1) cũng tức là vùng Sơn Đông , Sơn Tây

    (2) câu này lấy trong sách luận ngữ, nguyên văn là: "Khuyết đảng, đồng tử mệnh". Khuyết đảng tức là Khuyết lý, nơi ở của Khổng tử. Khổng tử nhân thấy trẻ con không biết lễ tiết mới sai chúng đi truyền mệnh để luyện cho quen mà hiểu được một chút đạo lý. Vương và Tống kẻ hô người ứng, chọn đề bài, đọc câu "phá đề" (vào đề) như trên để ngầm chê trách Dư Hàng vừa dốt vừa vô lễ.

    (3) nguyên văn trong sách luận ngữ: "Ân hữu tam nhân yên" (thời Ân có ba bậc nhân giả). Ba vị ấy là Vi Tử, Cơ Tử và Tỉ Can. Vua Trụ nhà Ân vốn là kẻ bạo ngược, vô đạo. Biết rằng không thể can ngăn nổi, Vi Tử bỏ đi để tránh tai họa. Cơ Tử cắt tóc giả người điên. Tỉ Can thề quyết chết đê can ngăn liền ba ngày, bị mổ bụng chết. KhổngTử cho rằng cách làm của ba ông không giống nhau, song là bậc nhân.

    (4) Chỉ hai ông Quy Hữu Quang và Hồ Hữu Tín là những văn học gia thời Minh, nổi tiếng đương thời.

    (5) Đậu tức là Đậu Nghi, người đời Tống, khi còn nghèo khó có giống Kim tinh hiện tình để đùa bỡn nhưng ông vẫn không động lòng.

    Phạm tức là Phạm Trọng Yêm cũng người đời Tống. Lúc còn bần hàn đến trú nhờ ở miếu thờ để học. Một hôm phát hiện thấy có một hố giấu tiền, nhưng do là của phi nghĩa không lấy, lấp hố lại như cũ.

    (6) Những quy định ngặt nghèo trong việc thi cử ngày xưa như kiêng huý nhà vua, cấm giập xoá, viết mất nét....

    (7)nạn Giáp Thân: chỉ niên hiệu 17 của Sùng trinh nha Minh, năm cuộc khởi nghĩa nông dân do Lý Tự Thành lãnh đạo, đánh chiếm bắc kinh.

    (8) Phủ Tử Chàng: Theo thần thoại TQ, Tử Chàng đế quân họ Trương tên A, chủ trì phủ Văn Xương, coi giữ sổ sách đỗ đạt, Tử Chàng đế quân có hai người thì hạ là Thiên Tủng (trời điếc) và Địa Á (Đất câm) Chữ Tủng đồng nghĩa đen với trẻ điếc.
     
  4. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 123 - VỢ DỮ HƠN CỌP
    Cao sinh ở Lâm Giang, tên là Phồn, thông minh, dáng dấp xinh đẹp, mười bốn tuổi đã vào học trường quận, cho nên nhà giàu quanh miền tranh nhau gả con gái cho.

    Nhưng chàng kén chọn khó khăn, thường trái ý cha.

    Cha là Trọng Hồng, sáu mươi tuổi, chỉ có một cậu con trai nên hết sứ chiều chuộng, không muốn làm trái ý con.

    Nguyên trước ở thôn Đông có họ Phàn, làm nghề gõ đầu trẻ ở chốn thị tứ, đem cả gia quyến lên mướn phố ở gần nhà chàng.Phàn ông có con gái tên Giang Thành, cùng tuổi với chàng, lúc đó cũng cỡ tám chín tuổi; hai trẻ ngây thơ ngày ngày quấn quít chơi giỡn với nhau.

    Sau Giang Thành theo Phàn ông dời đi xứ khác, trải năm sáu năm không nghe tin tức.

    Một hôm chàng đi trong hẻm, thấy một cô gái tuyệt đẹp, có con nhỏ sáu bảy tuổi theo hầu. Chàng không dám ngó ngay mặt chỉ đưa mắt liếc. Nàng nheo mắt nhường như muốn nói, lại thôi. Chàng nhìn kỹ té ra Giang Thành, chàng vừa sững sốt, vừa mừng rỡ. Hai người đứng trân trân ngó nhau không ai nói gì. Giây lát ai đi đường nấy mà tình ý xem chừng bịn rịn, không muốn rời nhau.

    Chàng cố ý đánh rơi chiếc khăn rồi bỏ đi. Con nhỏ theo hầu nhặt lấy trao cho nàng. Tức thời nàng móc túi lấy khăn của mình ra, đưa cho con nhỏ và nói:

    - Cao tú tài không phải là người nào lạ, chớ có lấy đồ vật của cậu ấy đánh rơi, vậy mi đuổi theo mà trả khăn lại cho cậu.

    Con nhỏ đuổi theo đưa khăn trả chàng.Chàng vớ được khăn nàng, trong ý rất mừng, về thưa với mẹ, xin cậy mai mối hỏi Giang Thành cho mình. Bà mẹ nói:

    - Nhà nó chẳng có đến cái túp lá để che mưa nắng, chỉ nay đây mai đó trôi nổi quanh năm, sao con lại muốn phối ngẫu với nó.

    Chàng thưa mẹ rằng tự ý mình muốn vậy, về sau ra sao chịu vậy, cố nhiên không dám ăn năn gì hết.

    tRong ý bà mẹ do dự không quyết, bàn tính với cha chàng. Cha chàng nhất định bảo không nên. Chàng nghe chuyện sinh buồn, bỏ cả cơm cháo. Mẹ chàng lo sợ quá, liền nói với cha chàng:

    - Họ Phàn tuy nghèo, nhưng cũng là nhà nho, chứ không phải hạng vô loại. Vậy để tôi đến nhà xem mặt đứa con gái, nên thì dạm, bằng không thì thôi có hại gì đâu.

    Ông bằng lòng. Bà liền mượn cớ đi trả lễ ở đền Hắc Đế, tiện đường ghé qua nhà Phàn, thấy con gái mặt mày xinh đẹp, lòmg rất vui mừng, rồi đem tiền lụa đến tặng và nói thiệt ý muốn. Phàn ông trước còn khiêm nhường, sau mới nhận lễ nhận lời. Bà về thuật lại, bấy giờ chàng mới tươi cười ăn uống như cũ.

    Năm sau, chọn ngày lành tháng tốt, đón Giang Thành về. Hai vợ chồng trìu mến nhau rất vui vẻ. Duy Giang Thành hay có tính giận hờn, hơi một chút là trở mặt coi chàng y như người lạ. Miệng lưỡi la lối, chàng nghe vang tai nhức óc, nhưng vì thương yêu quá đỗi cho nên chuyện chi cũng cố nhịn.

    Hai ông bà nghe phong thanh, lấy làm bất mãn, gọi con đến trách mắng. Nàng biết vậy, tức lắm, càng kiếm chuyện gây gổ nhục mạ chồng nhiều hơn nữa. Hễ chồng hơi trả lời nặng nhẹ, nàng giận dữ thêm, vac gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại.

    Tội nghiệp chàng đứng co ro bên ngoài, chứ không dám gõ cửa, đành ngồi xổm ở mái hiên, ôm gối mà ngủ.

    Từ đó nàng xem chồng như kẻ thù. Ban đầu còn có thể quì gối xin nàng hết giận làm lành, dần dà đến quì gối cũng hết hiệu nghiệm, thành ra lang quân khổ càng thêm khổ. Ông bà can thiệp trách nàngqua loa, nàng vung tay khoa chân, bộ điệu hỗn hào không thể tả xiết, đến nỗi ông bà phát giận đuổi nàng về nhà cha mẹ.

    Phàn ông vừa thẹn vừa sợ, cậy người đến năn nỉ Trọng Hồng cho Giang Thành trở lại, nhưng Trọng Hồng không cho. Hơn một năm sau, chàng đi đường chạm trán ông nhạc, ông níu áo lôi về nhà ân cần tạ lỗi và bảo con gái ăn mặc đàng hoàng ra chào. Vợ chồng gặp mặt nhau cùng tỏ vẻ đau thương. Phàn ông bèn mua rượu về đãi chàng rể, khuyên mời niềm nở. Một lúc trời tối, ông cụ giữ chàng lại ngủ dêm. Giang Thành muốn nằm giường riêng , nhưng ông xếp hai vợ chồng nằm chung.

    Sáng ngày, chàng về nhà, không dám nói chuyện thật với cha mẹ, chỉ tìm cách thêu dệt và che đậy cho qua. Từ đó, cách dăm ba ngày, chàng lại ngủ đêm tại nhạc gia một lần,, mà cha mẹ chàng không biết.

    Một bữa Phàn ông đến nhà Trọng Hồng xin cho giáp mặt nói chuyện. Trọng Hồng không tiếp, Phàn ông năn nỉ mãi, Trọng Hồng mới ra mặt, Phàn quì gối làm lễ tạ tội, Cao ông (tức Trọng Hồng, họ Cao) không nhận, đổ trút cho con, Phàn nói:

    - Đêm qua cậu nó ngủ tại nhà tôi có nghe chối từ cự nự gì đâu?

    Cao sửng sốt, hỏi nó ngủ bao giờ. Phàn kể rõ đầu đuôi, Cao thẹn thùng xin lỗi và nói:

    - Chuyện đó quả tôi không hay, vợ chồng nó đã thương yêu nhau, tôi há một mình thù hiềm cản trở nhân duyên của con ư?

    Phàn ông về rồi, Cao gọi con ra nhiếc mắng. Chàng chỉ cúi đầu, không nói gì cả. Giữa lúc đó Phàn dẫn con gái đến. Cao nói:

    - Tôi không thể nào gánh dùm lỗi lầm cho dâu con, chi bằng ở riêng ra, ai có nhà nấy.

    Tức thời cậy Phàn làm chứng giám hộ cha con mình về cuộc riêng nhà chia bếp.Phàn khuyên lơn mãi, Cao nhất định không nghe, dọn căn nhà riêng cho vợ chồng ở , lại sai một con hầu chuyên việc hầu hạ.

    Trong vòng hơn một tháng vợ chồng ăn ở với nhau hơi yên, chẳng nghe điều tiếng gì cả, ông bà đã mừng thầm trong bụng.

    Nhưng cách đó không bao lâu, Gianh Thành lại dần dà hung dữ, trên mặt chàng thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ là thế nhưng cũng ẩn nhẫn không hỏi đến.

    Một hôm chàng bị vợ đánh dữ quá, không thể chịu nổi phải chạy tụt sang nhà cha mà trốn, run rẩy xanh xám giống như chim sẻ bị cò ó mổ vậy. Hai ông bà đang kinh ngạc, đã thấy nàng xách roi xồng xộc chạy vào đến ngay bên cạnh ông túm lấy chàng, vụt lấy vụt để. Ông bà rầy la rầm rĩ nàng cũng mặc kệ, cứ việc đánh chồng tới mấy chục roi mới hầm hầm bỏ đi.

    Cao đuổi con đi và nói:

    - Tao muốn tránh sự ồn ào, cho nên mới ở riêng, còn mày lấy thế làm vui thì ở đó mà hưởng, trốn đi đâu làm chi?

    Chàng bị cha đuổi, bơ vơ không biết về đâu, Cao ông sợ con buồn tự tử, bèn cho căn nhà ở một mình, lại cấp dưỡng cho. Laị gọi Phàn đến, bảo dạy dỗ con gái thế nào, kẻo để lăng loàn quá đỗi. Phàn vô nhà, giảng dụ trăm phương ngàn cách nàng cũng chẳng thèm nghe, lại còn nói hỗn với cha. Phàn tức mình phủi áo ra đi, thề dứt tình cha con.

    Không bao lâu, Phàn giận con quá sinh bệnh, cùng bà vợ kế tiếp nhau qua đời. Nàng bực tức, không về điếu tang đưa đám cha mẹ, tối ngày ngồi mắng chửi cách vách, cố ý lớn tiếng cho Cao ông Cao bà nghe. Cao mặt kệ không thèm đếm xỉa tới.

    Chàng từ khi được ở riêng một mình thấy dường như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng chỉ khổ vì nỗi quạnh hiu buồn bực. Muốn được khuây khỏa chàng bèn chi tiền mụ Lý, để mụ dẫn gái vô nhà học tiêu khiển, gái thường lui tới ban đêm.

    Ít lâu sau, Giang Thành nghe biết, tới tận nhà học mắng chửi thậm tệ. Chàng hết sức phân trần nỗi oan và trỏ lên mặt trời mà thề nàng mới chịu lui.

    Từ đó ngày ngày rình mò cử động chàng. Một hôm mụ Lý từ trong nhà học đi ra, nàng bắt gặp, kêu gọi rùm lên. Mụ Lý xanh xám mặt mày, nàng thêm sinh nghi, túm lấy mụ đe dọa:

    - Có thế nào thì cứ việc nói thật, họa may còn tha thứ cho, nếu giấu giếm, tao vặt không còn một sợi lông đó!

    Mụ vừa run vừa nói:

    - Trong vòng nửa tháng nay duy có Vân nương, là gái ở nhà chứa đến đây hai bận mà thôi. Còn vừa rồi công tử lại nói bữa trước đi chơi núi Ngọc Ti dòm thấy cặp chân của người vợ Đào gia xinh đẹp, cho nên muốn cậy tôi làm manh mối, để dụ nó tới đây. Con đó tuy lẳng lơ nhưng chưa chắc chịu làm nhu gái nhà chứa. Công tử đã bảo tôi thử dụ nó coi, việc thành hay không thật chưa chắc.

    Nàng thấy mụ nói thành thật, cho nên rộng lòng khoan thứ. Mụ sửa soạn đi, nàng cố giữ lại cho đến trời tối, buộc phải làm theo mưu kế của mình:

    - Đến ngay nhà học làm bộ nói nhỏ với công tử bảo tắt đèn đi, cô ả Đào gia tới rồi đó.

    Mụ làm y lời. Nàng theo chân bước vô, chàng mừng quá, nắm tay mời ngồi và tỏ lòng khát khao mộng ước. Nàng làm thinh, chàng mò trong bóng tối rờ cẳng nàng và nói:

    - Sở nguyện ôm ấp bao lâu, nay mới được toại, lẽ nào không cho thấy mặt?

    Nói xong, chàng tự thắp đèn lên soi mặt. Trời ơi! Chính là Giang Thành!

    Chàng sợ hãi thất sắc, đánh rớt cây đèn xuống đất run rẩy quì mọp, dường như gươm dao đã kề trên cổ vậy.

    Nàng xách tai kéo về buồng mình, lấy kim thật nhọn đâm vào hai bắp đùi khắp, rồi bắt nằm dưới gầm giường, hễ tỉnh giấc hồi nào thì kể tội và mắng chửi hồi đó. Chàng đã sẵn sợ như hùm beo, cho nên dù khi được nàng nguôi ngoai mơn trớn, cho nằm chung trên giường nhưng trong lúc đầu ấp tay gối, chàng vẫn run sợ hãi hùng, cơ hồ không phải là con người nữa. Nàng vả vào mặt và thét đuổi đi, tỏ ý khinh khi và chán ghét, không coi chàng là hạng người nữa. Thành thử hàng ngày chàng được ở trong khoảng hương xông xạ ủ, mà như ở tù, thấy bóng người canh ngục là chết khiếp.

    Giang Thành có hai chị, cùng lấy chồng nho. Người chị lớn hiền lành ít nói, tính tình thường không hợp với nàng. Còn chị thứ hai lấy họ Cát, người giảo huyệt khéo nói, tuy dung mạo kém Giang Thành nhưng ghen tuông độc ác thì ngang vai sánh gót. Chị em gặp nhau không có việc gì khác hơn là đem những chuyện bắt nạt chồng ra khoe khoang đắc ý với nhau. Vì thế hai người đi lại với nhau rất thân. Chàng đến nhà bà con họ hàng nào, nàng cũng giận dữ trách mắng, duy chỉ đến nhà họ Cát thì nàng không nói gì.

    Một hôm chàng đến nhà Cát uống rượu. Lúc sau ngà ngà, Cát chế giễu chàng:

    - Sao chú sợ vợ quá thế?

    Chàng cười đáp:

    - Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi anh ạ! Tôi sợ vợ tôi là sợ sắc đẹp. Vậy mà có cái đẹp thua xa vợ tôi, người ta cũng sợ cái ngang như tôi mới là kỳ chứ.

    Cát thẹn đỏ mặt, không nói được câu gì. Con hầu nghe chuyện tọc mạch với chị hai (tức vợ Cát). Chị hai nổi giận, vác gậy chạy ra, chàng thấy bộ tịch hung dữ, toan bỏ cả giày mà chạy lấy thân. Nhưng gậy đã nện vào lưng, chàng bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, đập cả đầu, máu tuôn như xối. Chừng chị hai đi rồi, chàng mới lom khom cà nhắc về tới nhà.

    Nàng trông thấy cả kinh, gạn hỏi duyên cớ. Ban đầu chàng nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị trận đòn nên không dám nói. Đôi ba phen tra vặn, mới kể rõ đầu đuôi. Nàng lấy lụa rịt bó đầu chàng xong, nổi cơn tam bành:

    - Chồng của người ta, ai mượn nó đánh giùm cho ra thân thể này chứ?

    Lập tức mặc áo cụt, xắn cao quần, tay cầm chày gỗ, dắt một con hầu đi theo, hầm hầm đến thẳng nhà Cát.

    Chị hai tưởng như mọi bận, tươi cười ra đón. Nàng chẳng nói chẳng rằng, đánh chị túi bụi, ngã gục, rồi xé bươm cả áo xống, lại đánh thêm nữa, chị hai bị đánh tới bể môi gãy răng, vãi cả cứt đái, nàng mới chịu bỏ đi.

    Nàng đi rồi, chị hai mới lồm cồm trỗi dậy, vừa thẹn vừa tức sai chồng phải đi mách với Cao ông.

    Cát đến cửa, chàng ra đón, kiếm lời êm dịu an ủi. Cát nói nhỏ bên tai:

    - Tôi đến đây vì thế bắt buộc, không đi không xong. Lạ gì con đàn bà ấy hung dữ thuở nay, nhờ tay dì nó trừng trị cho một bữa là đáng kiếp lắm. Còn tôi với chú thì có hiềm gì với nhau đâu.

    Bất đồ Giang Thành nghe lén, tức tốc chạy ra điểm mặt anh rể và mắng như tát nước:

    - Thằng đểu giả kia! Vợ bị đòn đau điếng, không nghĩ cách nào rửa hận cho nó, lại còn nói vụng nói lén với người ta thế ư? Cái giống đàn ông thế đó, không đáng đánh cho chết còn để làm gì?

    Rồi nàng tru tréo kêu đầy tớ:

    - Bay đâu, đem gậy ra đây cho tao mau mau!

    Cát sợ hoảng hồn, vội lách ra cửa, co giò chạy mất.

    Từ hôm ấy trở đi, chàng sợ chị vợ theo dõi, không dám tới lui nhất định một chỗ nào cả. Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã đến chơi, chàng mời ở lại uống rượu cho vui. Trong khi chén tạc chén thù, đem chuyện khuê phòng ra nói bỡn, có hơi tục tằn. Chẳng dè nàng núp lén nghe rõ đầu đuôi, lén bỏ bã đậu vào cháo bưng ra cho khách ăn. Một chập, Vương thượng thổ hạ tả dữ dội nằm thở như hấp hối sắp chết. Nàng sai con hầu ra hỏi:

    - Còn dám nói hỗn nữa thôi.

    Bấy giờ Vương mới hiểu rõ vì sao mình lại mửa thốc mửa tháo bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa cháo đậu xanh nấu sẳn cho ăn để giải độc. Vương ăn cháo ấy mới hết bệnh. Nhân chuyện này bạn bè mách bảo nhau phải kiềng mặt, về sau không dám đến nhà ăn uống gì nữa.

    Vương sinh có quán rượu, trong có nhiều hồng mai đua nở, đặt tiệc mời anh em bạn đến thưởng lãm. Chàng mượn cớ họp văn xã, tâu trình với vợ, xin phép đi dự. Chiều tối đã say, Vương sinh nói:

    - Vừa mới có một cô đào non ở Nam Xương trôi nổi đến đây, ta nên gọi lại chuốc rượu cho vui nhé?

    Mọi người vui vẻ tán thành, duy có chàng đứng dậy xin kiếu ra về. Anh em kéo lại lại và nói:

    - Bà sư tử nhà anh có tai mắt dài đến đâu chăng nữa cũng không tài nào nghe thấy được tới chốn này. Anh ở lại cho vui, chúng tôi xin thề sẽ ngậm miệng, không nói lộ ra đâu mà sợ.

    Chàng lại ngồi xuống. Giây lát đào mới tha thướt bước vào, tuổi độ mười tám mười chín, hỏi tên cô khai họ Tạ, tên là Phương Lan, nói năng cực lanh lợi thanh nhã, khiến cho ai nấy cùng mê say như cuồng. Xem ra cô ta để ý chàng hơn cả, thường liếc mắt dòm sang chàng luôn, anh em biết thế liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Cô nắm lấy tay chàng viết trong lòng bàn tay một chữ "ngũ". Lúc đó chàng thật tiến thoái lưỡng nan, muốn đi thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối rộn không sao nói xiết. Hai người ngồi dựa đầu cạnh nhau, nghiêng tai nói nhỏ, càng say chừng nào càng lả lơi chừng nấy, quên cả sư tử ở nhà.

    Một chốc trống canh điểm khuya, khách trong quán rượu dần dà bỏ về gần hết, duy có một thiếu niên xinh đẹp ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu hạ. Ai nấy khen thầm là người cao nhã. Giây lát, thiếu niên uống xong đứng dậy đi, tiểu đồng ra theo rồi trở lại, nói ngay với chàng:

    - Thưa ngài, chủ tôi đợi ngài ngoài kia để nói một câu chuyện.

    Không ai hiểu người đó thế nào, duy có chàng mặt mày thất sắc không kịp chào anh em, vội vàng sấp ngửa ra đi, vị thiếu niên ấy chính là Gianh Thành, tiểu đồng là con hầu, hai thầy trò giả dạng đi rình chàng vậy.

    Chàng theo về nhà, chịu nằm mà nhận roi vọt. Từ đó chàng bị cấm cố gắt gao, mọi việc khách điếu cùng tuyệt. Chàng buồn bực lơ là việc học, kỳ hạch năm đó thi rớt, bị giáng làm thường dân và rút mất học bổng.

    Một hôm thì thầm với con hầu thế nào chẳng rõ, nàng nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu úp kín đầu con bé mà đánh lấy đánh để. Rồi lại trói chàng và con hầu chung nhau, cầm kéo cắt thịt bụng mỗi người miếng và đắp thịt của người nọ vào bụng người kia. Đoạn cởi trói ra để tự buộc lấy vết thương. Hơn tháng sau, chỗ vá thịt đó dính liền làm một.

    Còn độc ác hơn nữa, nàng thường lấy cẳng chân chà đạp chiếc bánh nhão nhoét, lại ném đất cát bụi rồi thét bảo chàng phải lượm lên mà ăn. Những cử chỉ tàn nhẫn của Giang Thành đối với chồng đại khái như thế, bà mẹ thương con, ngẫu nhiên đến nhà chàng ở, trông thấy con gầy, ốm mà động lòng. Lúc trở về bà nghĩ đau đớn khóc lóc, muốn chết cho rảnh, đêm ấy, chiêm bao một cụ già hiện đến nói:

    - Bà chớ nên lo phiền. Đó là nhân quả kiếp trước để lại, Giang Thành kiếp trước nguyên là Tinh Nghiệp hòa thượng có nuôi con chuột trường sinh. Còn công tử nhà bà tiền kiếp là học trò, một hôm đến chơi chùa vô ý đạp chết con chuột ấy. Vì thế kiếp này phải chịu ác báo về phía Giang Thành, chừng trả hết nợ mới yên, chứ không lấy sức người xoay đổi gì đặng. Tốt hơon là cứ thành tâm tụng niệm bài chú của quan Âm ( Nam Mộ Phật, Nam Mộ Pháp, Nam Mô Tăng v.v...) mỗi ngày một trăm lần tự nhiên sẽ có hiệu nghiệm.

    Sáng hôm sau, bà thuật lại chiêm bao cho Trọng Hồng nghe, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng tuân lời thầy dạy, ngày ngày niệm chú Quan Âm. Hơn hai tháng Giang Thành vẫn ngang ngược như cũ, lại có thêm điên cuồng, hễ nghe ngoài cửa có tiếng kèn trống thanh la, nàng liền xõa tóc chạy ra đứng dớn dác, cả ngàn người cùng chỉ trỏ chê bai, nàng cũng thây kệ. Ông bà thấy con dâu khất khùng như vậy, rất hổ thẹn nhưng không làm sao ngăn cấm được, lấy làm bực tức.

    Chợt thấy một lão tăng đến trước cửa thuyết pháp, người ta đứng xem vòng trong vòng ngoài. Lão tăng thổi vào mặt trống, thành ra kêu như trâu rống, nàng vội chạy đến, thấy người đứng kín mít không có khe hở mà lách vào lọt, bèn gọi con ở đem ghế ra để nàng đứng lên cao mà xem. Bao nhiêu cặp mắt cùng họp vào mình nàng, nhưng nàng thản nhiên dường như không hay biết gì cả.

    Một lát, lão tăng giảng sắp xong gọi lấy một tô nước lạnh cầm đến trước mặt nàng mà tuyên đọc:

    Chớ nên hờn!

    Chớ nên hờn!

    Kiếp trước chẳng phải giả

    Kiếp này chẳng phải chân

    Ôi!

    Con chuột rút cổ chạy!

    Kẻo bị mèo xơi ngon!

    Lão tăng đọc xong, ngậm nước phun vào mặt nàng, làm cho son phấn nhễ nhại, trôi xuống áo xiêm. Ai nấy sợ hãi đoán chắc nàng nổi cơn tam bành đánh bể đầu trọc không chừng. Chẳng dè nàng lặng lẽ chùi mặt mày rồi về, lão tăng cũng bỏ đi chỗ khác.

    Về nhà, nàng ngồi ngây ngất, như người mất hồn. Trọn ngày không ăn, tự giũ giường chiếu đi nằm.

    Bỗng dưng nửa đêm gọi chàng thức dậy. Chàng ngỡ vợ muốn đi tiểu, vội vàng bưng chậu tiểu dâng lên. Nhưng nàng lấy tay đẩy ra, kéo cánh tay chàng lôi vào trong mền nằm chung. Chàng phụng mạng mà chân tay run cầm cập, như ông quan khi tiếp kiến chỉ của vua ban xuống vậy.

    Nàng khảng khái nói:

    - Trời ơi! Tôi làm cậu ra thân thể này, còn đáng làm người sao đặng.

    Rồi hai tay xoa khắp mình mẩy chàng, cứ tới chỗ vết tích dao bầm roi đánh thì khóc rấm rứt, lấy móng tay nhọn tự cào vào mình, muốn cho chết ngay tức khắc. Chàng thấy tình trạng động lòng bất nhẫn, ra sức khuyên lơn yên ủi vợ, nàng nói:

    - Em nghĩ ông hòa thượng lúc ban ngày, tất là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh, như thay đổi cả gan ruột. Giờ em nhớ lại những việc làm lúc trước như việc ỏ kiếp nào khác vậy, có lẽ em chẳng phải giống người chăng? Có vợ chồng mà không biết vui vẻ, có cha mẹ mà không biết phụng dưỡng thờ phụng là nghĩa thế nào? Sáng mai vơ chồng ta phải dọn đến ở chung với cha mẹ, để chăm nom hầu hạ cho dễ.

    Vợ chồng nói chuyện suốt đêm, như là cách biệt mười năm giờ mới gặp gỡ vậy.

    Tảng sáng nàng trỗi dậy, thu xếp xống áo mâm chén, xon ở xách thúng mủng, nàng tự đội chăn mền, giục chàng đi trước kêu cửa. Bà mẹ hoảng sợ, mở cửa hỏi chuyện chi? Chàng tự bày tỏ ý muốn của vợ. Trong khi bà cụ còn đang ngần ngại, ý không muốn chứa, nàng với con ở đã tay xách nách mang bước vào.

    Bà mẹ theo gót trở vào, nàng phục dưới đất khóc lóc thảm thương chỉ xin cha mẹ tha chết cho nàng để nàng đền tội. Bà xét ra ý nàng thành thật, cũng khóc và nói:

    - Con ta sao thay đổi mau lẹ thế này?

    Chàng thuật rõ câu chuyện đã qua, bây giờ bà cụ mới nhớ lại giấc chiêm bao, thật quả ứng nghiệm,. vội vàng bảo tôi tớ dọn dẹp căn nhà cũ cho hai vợ chồng ở.

    Từ đó nàng thờ cha mẹ chồng còn hơn người con hiếu thảo. Cử chỉ đoan trang như cô dâu mới về nhà chồng. Có ai bỡn cợt nhắc lại chuyện cũ thì nàng đỏ mặt ra dáng hổ thẹn. Tính lại cần kiệm, khéo ăn nhịn để dành, trải ba năm, cha mẹ chồng không phải bận lòng vì sinh kế trong nhà, mà của để cũng có hàng vạn rồi.

    Năm ấy chàng thi đậu cử nhân. Nàng thường hỏi chồng:

    - Ngày nọ em thấy mặt cô Phương Lan một lần, nàng vẫn còn thương mình à?

    Chàng trả lời rằng, bây giờ sung sướng thế này là mãn nguyện rồi,chả dám mơ tưởng gì nhiều chuyện nữa.

    Rồi chàng vô kinh thi hội, mấy tháng mới trở về. Lúc bước vào nhà, thấy Phương Lan đang ngồi đánh cờ với Giang Thành, lấy làm sửng sốt. Hỏi ra thì do nàng tự xuất trăm đồng chuộc Phương Lan ra khỏi hồng lâu, vì là người năm xưa được chàng thương yêu.

    Hồi ta đến chơi miền Tích Thiệu, được gặp ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe chuyện nàng rất rõ ràng.




     
  5. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 124 - NGƯỜI NHỎ
    Tiểu quan nhân

    Trong khoản đòi Khang Hy, có kẻ làm mẹo đem theo mình một cái hộp, trong cái hộp có để một thằng nhỏ, dài chừng một thước, hễ ai cho tiền thời nó mở hộp cho thằng nhỏ chui ra, hát xong rồi lại vào. Đến đất Dịch. Quan tể ở Dịch bắt đem nộp vào dinh để coi. Hỏi kỹ về chỗ thằng người nhỏ ở đâu mà ra, trước còn không dám nói. Cứ hỏi mãi mới chịu kể là ở làng nó, nguyên là đứa trẻ đi học về, ngang đường gặp nó cho thuốc mê, bốn chân tay tự nhiên co dúm ngay lại, bèn đem đi như thế, để dùng làm trò chơi. Quan tể nổi giận, giết chết thằng làm trò, giữ đứa bé ở lại muốn chữa cho, mà chưa tìm được cách chữa.

    Khúc hát ếch

    Vương Tử Tôn nói: "Trong khi ở kinh đô, từng thấy một người làm trò chơi ở chợ,, đẩy một cái hộp gỗ có ngăn, có tất cả mười hai cái lỗ, trong mỗi lổ có phục một con ếch. Lấy cái que gõ vào đầu, thời liền kêu ì ộp cả. Có ai cho tiền thời khua gõ các đầu ếch một lượt như đánh dàn nhạc, cung, bực, từ khúc, nghe rất phân minh".

    Tản Đà dịch

    Trò chuột

    Lại nói: "Có một người ở trên chợ Trường An, bán trò chơi chuột. Trên lưng cõng một cái túi, trong có chứa hơn mười con chuột con, cứ gặp chỗ đông người thời để ra một cái giá gốc nhỏ như là cái lầu trong rạp hát tuồng, rồi bèn đánh nhịp trống, hát khúc tuồng cổ, tiếng hát vừa cất lên, thời có chuột ở trong cái túi ra, đeo mặt nạ, mặc đồ quần áo rất bé, từ ở vai đeo lên trên cái lầu đứng như người mà múa, trai và gái, thương cùng yêu, đúng hệt với tình tiết ở trong vở tuồng vậy".

    Tản Đà dịch


     
  6. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 125 - LIÊM SĨ CỦA KẺ LÀM QUAN
    Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia.

    Lão nhân trường lạc tín kham khoa.

    Ðường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp.

    Thử thị tam triều tể tướng gia.

    Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.

    Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.

    Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Ðời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.

    Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.

    Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Ðúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.

    Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.
     
  7. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 126 - LỘC SỐ
    Do lai lộc mệnh phú sinh sơ.

    Mệnh tận thiên giao lộc hữu dư.

    Lưu dữ lai sinh ưng diệc đắc.

    Hà duyên nhất định vị tiêu trừ.

    Ở kinh đô có viên quan quyền cao chức trọng, họ Chử, tên Bội Hành, vừa độ lục tuần, có vợ họ Vệ.

    Bội Hành thường ỷ quyền thế, xử ức dân lành, đòi tiền hối lộ, làm nhiều điều độc ác. Vệ thị thấy thế thì sợ lắm. Một hôm, Vệ thị khuyên chồng:"Phu quân nên ăn ở cho có nhân đức để được hưởng tuổi thọ lâu dài" Bội Hành cười, nói:"Nhân đức hay độc ác thì có ăn nhằm chi với tuổi thọ?" rồi chẳng nghe lời vợ khuyên.



    Thời ấy, ở chợ kinh đô có thày tướng họ Tưởng, tên Thái Toàn, nổi tiếng về nghề coi diện tướng. Ðặc biệt, Thái Toàn có thể coi diện tướng của từng người mà tính được số gạo và số miến mà người ấy còn được hưởng cho tới lúc chết, gọi là lộc số.

    Nghe tiếng Thái Toàn, Bội Hành liền sai lính ra chợ gọi Thái Toàn vào dinh để tính lộc số cho mình. Lính dẫn Thái Toàn vào. Bội Hành hỏi:"Lộc số của ta còn bao nhiêu?" Ngắm nhìn diện tướng Bội Hành hồi lâu, Thái Toàn đáp:"Lộc số của đại quan còn hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến!" Nghe thấy thế, Bội Hành mừng lắm, bèn ban thưởng cho Thái Toàn, rồi sai lính dẫn Thái Toàn trở ra chợ.

    Bội Hành vào phòng thuật chuyện lại cho vợ nghe rồi hỏi:"Mỗi năm ta ăn hết chừng bao nhiêu gạo, bao nhiêu miến?" Vệ thị đáp:"Trung bình thì mỗi năm, mỗi người chỉ ăn hết một thạch gạo và một thạch miến thôi!" Bội Hành cười, nói:"Nếu thế thì ta còn sống được hai mươi năm nữa. Năm nay ta đã sáu mươi. Nếu thày tướng đoán trúng thì ta còn thọ được tới tám mươi mới chết. Như vậy cũng đủ rồi!"

    Tin vào lời đoán của thày tướng, Bội Hành vẫn tiếp tục làm nhiều điều độc ác.

    Ðầu năm sau, Bội Hành sáu mươi mốt.

    Vào ngày mồng bốn Tết, đột nhiên Bội Hành bị bệnh tiêu khát, ăn nhiều, uống lắm, ăn bao nhiêu cũng còn thấy đói, ăn cả ngày lẫn đêm. Vệ thị tính ra mỗi ngày chồng mình phải ăn hết hai mươi phần ăn bình thường. Chưa đầy một năm, Bội Hành đã ăn hết hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến.

    Cuối năm ấy, quả nhiên Bội Hành lăn ra chết.
     
  8. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 127 - QUAN TRUNG THỪA ĐIỀU TRA TRỘM
    Thùy tòng cụ thất đạo trang liêm.

    Hoả sách kinh truyền pháp lệnh nghiêm.

    Sưu đắc chung y tần xuất nhập.

    Cá trung cơ trí diệc thao kiềm.

    Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa (tuần phủ) họ Vu, tên Thành Long, thường đi tuần du các huyện để điều tra giùm các quan tể những vụ án khó xử.

    Một hôm, Vu công tới huyện Cao Bưu, tỉnh Giang Tô. Quan tể Cao Bưu làm l đón tiếp rất trọng thể. Sau khi vào huyện đường, Vu công hỏi: "Trong huyện của quan tể có vụ án nào khó xử chăng?" Quan tể đáp: "Bẩm đại quan, có vụ mất trộm áo cưới của con gái phú ông họ Vệ" Hỏi:" Nội vụ ra sao?" Ðáp: "Bẩm đại quan, nguyên bản huyện có phú ông họ Vệ gả chồng cho con gái. Cô dâu có rất nhiều quần áo mới, xếp đầy một rương. Ðêm trước ngày vu quy, cô dâu bị trộm tới nhà, đào tường vào phòng, cậy rương vơ vét hết quần áo đem đi. Sáng ra, Vệ ông đem việc mất trộm lên huyện đường trình báo. Tiểu chức đã cho điều tra để tìm thủ phạm song chưa có kết quả" Nói: "Ðể bản chức thử cho điều tra xem sao"

    Vu công bèn ra lệnh cho lính đóng hết các cổng phụ chung quanh huyện thành, chỉ để mở một cổng chính rồi cho niêm yết thông cáo như sau: "Huyện dân phải về nhà ngay, đóng kín cửa mà ở trong nhà để chờ lính tới khám xét. Sau hai ngày mới được đi lại như thường. Lệnh giới nghiêm bắt đầu được thi hành từ tối nay" Nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà, huyện dân đều về đóng chặt cửa mà ở trong nhà.

    Vu công lại ra lệnh cho lính canh bắt giữ những kẻ có đem theo quần áo phụ nữ cũng như những kẻ ra vào cổng huyện tới hai lần.

    Chiều ấy, có hai kẻ đi chân tay không, ra vào cổng huyện tới hai lần. Lính bắt giữ, giải vào trình. Vừa nhìn thấy chúng, Vu công đã chỉ mặt, nói: "Hai tên này chính là hai tên trộm quần áo đây!" Chúng vội quỳ xuống đất, lạy Vu công, thưa: "Bẩm đại quan, bọn tiểu nhân bị kết tội oan" Vu công nói: "Ðể rồi xem tụi bay có bị oan hay không?" Vu công liền sai lính lột quần áo chúng ra thì thấy mỗi kẻ đều mặc lót trong mình một bộ quần áo phụ nữ mới. Vu công bèn cho gọi Vệ thị lên coi. Vệ thị nhận đúng là quần áo của mình. Hai tên trộm hết đường chối cãi, đành phải nhận tội để khỏi bị tra tấn. Vu công bèn trao lại vụ án cho quan tể.

    Nguyên hai tên trộm nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà thì kinh hãi quá nên bàn nhau tìm cách chuyển hết quần áo ăn trộm được ra ngoài huyện thành. Thấy lính canh khám xét kỹ, chúng mới nghĩ ra cách mặc lót quần áo ăn trộm được vào người, rồi chân tay không mà ra vào cổng huyện nhiều lần để khỏi bị khám xét.

    Dân chúng Cao Bưu cứ truyền tụng mãi về vụ án này.
     
  9. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 128 - QUAN TỀ ĐIỀU TRA CƯỚP
    Chiết ngục vô quan duyệt lịch thâm.

    Chỉ tu đương cục khẳng lưu tâm.

    Tống nghênh thiếu phụ giai nam tử.

    Hà huống tần tham thủ nhập khâm.

    Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa họ Vu, tên Thành Long.

    Khi còn làm quan tể huyện Chuy Xuyên, một hôm Vu công dẫn tám thuộc hạ cưỡi ngựa sang huyện Tân Thành kế cận để thăm người bạn họ Khang đang làm quan tể tại đó. Khang công mời bạn cùng đám thuộc hạ vào khách xá tạm trú.

    Một sáng, Vu công dẫn đám thuộc hạ cưỡi ngựa ra ngoài thành du ngoạn. Nhác thấy ở phía trước mặt có hai hán tử to lớn khiêng một chiếc cáng cùng bốn hán tử khác đi hộ tống ở hai bên, Vu công bèn dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa tới gần để coi. Thấy trên cáng có một nữ bệnh nhân nằm nghiêng, tóc cài trâm phượng, thân đắp chăn lớn, còn bốn kẻ hộ tống thì cầm ghì bốn góc chăn, tựa hồ như sợ gió lọt vào mình bệnh nhân, Vu công sinh nghi. Ðể ý nhìn thì thấy thỉnh thoảng bốn kẻ hộ tống lại thò tay vào chăn như để tìm kiếm vật gì rồi cứ đi được một quãng, cả bọn lại dừng chân để đổi phiên khiêng.

    Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa vượt xa lên phía trước, sai hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở bên đường để thám thính. Sau đó, Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa đi xa thêm chừng ba dặm, sai hai người nữa xuống ngựa, bí mật theo rình xem bọn hán tử khiêng cáng tới đâu. Rồi Vu công dẫn đám thuộc hạ còn lại ra về.

    Lát sau, khi bọn hán tử khiêng cáng tới, hai thuộc hạ thám thính chạy ra làm quen, hỏi:"Bệnh nhân nằm trên cáng là ai thế?" Một hán tử đáp:"Thị là em gái mỗ. Thị về thăm nhà rồi đột nhiên bị bạo bệnh khiến mỗ phải nhờ nhóm bằng hữu đây khiêng trả về nhà chồng" Cả bọn lại tiếp tục khiêng cáng đi. Hai thuộc hạ có nhiệm vụ theo rình thấy cả bọn khiêng cáng tới một căn nhà ở xóm Thanh Bình, rồi thấy hai hán tử khác từ trong nhà bước ra, đón cả bọn vào nhà. Bọn thuộc hạ quay về khách xá trình Vu công mọi chuyện. Vu công hỏi:"Các ngươi có thấy ai ở trong nhà chạy ra săn sóc bệnh nhân không?" Cả bọn cùng đáp:"Bẩm đại quan, không!"

    Vu công vội đi tìm Khang công. Gặp bạn, Vu công hỏi:"Ðêm qua, trong huyện của tôn huynh có vụ cướp của giết người nào không?" Khang công đáp:"Ðệ chẳng thấy ai báo cáo chi cả!" Vu công bèn trở về khách xá, mật sai thuộc hạ đi nghe ngóng tin tức ở trong huyện. Lát sau, thuộc hạ về báo:"Bẩm đại quan, trong huyện có tin đồn đêm qua có một bọn cướp xông vào nhà phú ông họ Phùng, lấy que sắt nung đỏ dí vào người Phùng ông để khảo của, làm Phùng ông bị chết bỏng. Bọn chúng đã vơ vét hết vàng bạc trong nhà tải đi" Vu công bèn sai thuộc hạ tìm tới nhà Phùng ông, gọi một thân nhân vào khách xá để hỏi chuyện. Con trai Phùng ông là Phùng Khải xin theo vào.

    Thời bấy giờ, triều đình ra nghiêm lệnh xử tử các kẻ cướp của giết người nên khi bọn cướp đã nghi ngờ ai đi báo quan thì chúng sẽ tìm cách sát hại để diệt khẩu. Do đó, gia đình nạn nhân dù có biết rõ danh tánh bọn cướp cũng phải làm ngơ, chẳng dám đi cáo giác vì sợ bị bọn chúng sát hại.

    Phùng Khải tới. Vu công hỏi:"Có phải đêm qua phụ thân khổ chủ bị cướp vào nhà sát hại không?" Phùng Khải chối:"Bẩm đại quan, không. Ðêm qua tự nhiên gia phụ bị bạo bệnh mà mất, chứ nhà tiểu nhân có bị cướp bóc chi đâu?" Vu công cười, nói:"Ta đã bắt được cả bọn cướp ấy giùm quan tể ở đây rồi, khổ chủ chẳng còn phải sợ bọn chúng trả thù nữa!" Lúc đó Phùng Khải mới rập đầu lạy Vu công, nói:"Bẩm đại quan, quả thực đêm qua gia phụ bị cướp xông vào nhà sát hại. Tiểu nhân cúi xin đại quan rửa hận cho!" Vu công vỗ về an ủi:"Cứ về nhà, im lặng mà chờ coi ta rửa hận cho!" Rồi tin Phùng Khải ra cửa.

    Phùng Khải về rồi, Vu công tức tốc đi tìm Khang công, nói:"Ðêm qua trong huyện của tôn huynh có xảy ra một vụ cướp của giết người. Ðệ đã điều tra được manh mối và biết rõ chỗ ở của tám tên cướp. Xin tôn huynh hãy ra lệnh cho quân sĩ tới vây bắt chúng ngay kẻo chúng trốn mất!" Rồi nói rõ căn nhà ở xóm Thanh Bình cho Khang công hay.

    Khang công vội làm theo lời bạn khuyên. Quân sĩ của huyện kéo ập tới căn nhà, bắt trói đủ tám tên, tịch thu tang vật, giải về huyện đường. Khang công liền ra lệnh dùng cực hình tra tấn. Cả bọn cùng nhận tội. Khang công bèn sai lính giải bọn chúng vào công đường, hỏi: "Bệnh nhân nằm trên cáng là ai?" Tên đầu sỏ đáp:"Bẩm đại quan, thị là một kỹ nữ" Hỏi:"Sao lại có kỹ nữ trong bọn chúng bay?" Ðáp:"Vì tối qua bọn tiểu nhân tới kỹ viện mua vui rồi rủ thị theo tới nhà Phùng ông. Bọn tiểu nhân cướp được vàng để trên cáng, bảo thị giả làm người bệnh, nằm ôm đống vàng để bọn tiểu nhân khiêng về sào huyệt" Hỏi:"Chúng bay chia chác với nhau như thế nào?" Ðáp:"Bọn tiểu nhân chia đều làm chín phần, mỗi người một phần" Khang công bèn cho lính đi bắt kỹ nữ. Thấy bọn cướp đã nhận tội cả, kỹ nữ cũng nhận tội ngay để khỏi bị tra tấn. Khang công bèn chiếu theo nghiêm lệnh triều đình, xử tử cả chín tên. Khang công lại cho gọi Phùng Khải tới, trả lại tất cả số vàng của Phùng ông mà quân sĩ đã tịch thu được. Sau vụ bắt cướp này, dân chúng huyện Tân Thành rất khâm phục tài điều tra của Vu công. Có vị bô lão trong huyện tới xin yết kiến, hỏi:"Tại sao đại quan lại biết rằng bọn khiêng cáng là một bọn cướp?" Vu công cười, đáp:"Vì ba lý do sau: Thứ nhất là một phụ nữ thì đâu có nặng gì mà lại có tới ba cặp hán tử thay phiên nhau khiêng? Thứ nhì là bệnh nhân nằm trên cáng là phụ nữ thì tại sao thỉnh thoảng bốn tên đi hộ tống lại cứ thò tay vào chăn để làm gì? Thứ ba là bệnh nhân bị bệnh nặng đến độ phải có hai tên khiêng và bốn tên hộ tống thì khi về tới nhà, thân nhân phải ùa ra săn sóc chứ đâu lại hững hờ như thế? Bất cứ ai tinh ý và chịu khó suy nghĩ một chút thì cũng có thể đoán ngay rằng chúng là một bọn cướp!".
     
  10. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 129 - THUỐC CƯỜNG DƯƠNG
    Phòng trung đan dược diệc kỳ tai.

    Bộ lý bàn san chuyển khả ai.

    Ngã hữu cuồng nhân cung nhất hước.

    Bất như thả tác tự nhân lai.

    Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Ðông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì dương vật ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diễu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.

    Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. Dương vật ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên dương vật đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.

    Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, dương vật cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.

    Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, dương vật thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, dương vật đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Ðành chịu cổ rụt, bụng phình, dương vật dài, thất thểu bước về nhà.

    Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.

    Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy dương vật Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.


     
  11. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 130 - GIẾT SÓI, BÁO THÙ CHA
    Phụ cừu hà cảm phiến thời vong.

    Cánh sát sơn trung bạch tị lang.

    Tự hữu hiếu tâm thông mộng ngữ.

    Bàng nhân hưu nhận mãng nhi lang.

    Huyện Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có cặp vợ chồng nhà nông họ Vu, có một trai tên Giang, 16 tuổi. Trong nhà, Vu ông có cất giấu một chùy sắt để đề phòng trộm cướp.

    Một đêm, Vu ông ra đồng ngủ coi lúa. Nửa đêm, bị sói tới cắn chết, ăn thịt. Sáng sau, thấy người làng tới báo tin, Vu bà lăn ra gào khóc. Vu Giang vội chạy ra đồng tìm xác cha song chỉ thấy còn lại có đôi giày. Vu Giang đau khổ lắm, rất căm thù sói.

    Tối ấy, Vu bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Vu Giang bèn lấy chăn đắp cho mẹ, rồi lén lấy chùy sắt của cha, ôm chạy ra đồng. Tới đúng chỗ cha thường nằm, Vu Giang ngả lưng giả vờ ngủ, mong sói đêm qua lại tới để mình có dịp báo thù. Lát sau, quả nhiên có một sói bước tới, đi vòng quanh người, đánh hơi. Vu Giang nằm bất động. Sói lấy đuôi quét thử lên trán để thăm dò. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói lại lấy lưỡi liếm thử vào đùi. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói mừng lắm, nhảy bổ vào người, nhe răng toan cắn thì bị Vu Giang vùng dậy, vung chùy bổ trúng sọ, óc phọt ra ngoài. Sói lăn ra chết. Vu Giang bèn kéo xác ra bỏ giữa cánh đồng rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lát sau, một sói khác cũng tới đánh hơi như sói trước. Vu Giang lại giết được sói, kéo xác ra đặt nằm song song với xác sói trước, rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lần này, chẳng thấy sói nào tới nữa. Quá nửa đêm, Vu Giang mệt quá, ngủ thiếp đi. Chợt mộng thấy cha về, nói:"Con giết được hai sói để báo thù cho cha thì cha cũng đã hả giận rồi. Thế nhưng, sói ăn thịt cha chẳng phải là hai sói này. Nó là một sói khác, có cái mũi trắng!" Tỉnh giấc, Vu Giang lấy làm lạ, cứ cố nằm chờ sói mũi trắng song chờ tới sáng cũng chẳng thấy sói nào. Toan kéo hai xác sói về nhà song lại e mẹ bị kinh hãi nên đổi ý, kéo tới giếng hoang gần đó mà ném xuống, rồi ôm chùy về nhà.

    Liền bốn tối sau đó, Vu Giang đều ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ song chẳng đêm nào thấy sói tới.

    Tối thứ năm, vừa ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ, bỗng thấy một sói tới ngoạm chân mình kéo đi, Vu Giang cứ nằm ôm chùy, mặc cho sói kéo. Bị gai đâm, đá chọc, đau thấu tâm can, Vu Giang vẫn cắn răng chịu đựng, giả vờ như chết. Sói kéo Vu Giang tới chỗ đất bằng phẳng, nhả ra rồi bước vòng quanh người để thăm dò. Thấy Vu Giang nằm bất động, đột nhiên sói nhe răng nhảy vào, toan cắn cổ ăn thịt. Nhanh như cắt, Vu Giang vụt đứng dậy, vung chùy bổ trúng sọ sói rồi tiếp tục bổ túi bụi cho óc sói phọt ra ngoài. Chân sói dãy giựt hồi lâu rồi duỗi thẳng. Lật xác sói ra coi, Vu Giang thấy sói có cái mũi trắng. Mừng quá, Vu Giang vội vác xác sói về nhà, thuật chuyện cha về báo mộng và chuyện mình giết được ba sói cho mẹ nghe. Vu bà ôm đầu con mà khóc.

    Chờ mẹ dịu cơn đau khổ, Vu Giang mới dắt mẹ ra giếng ngoài đồng, chỉ cho mẹ coi hai xác sói mình đã ném xuống từ năm hôm trước. Hai mẹ con thấy hai xác sói vẫn còn nguyên dưới giếng, song thịt đã rữa, ruồi nhặng đang bâu kín.


     
  12. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 131 - THẦN MIẾU
    Thần danh ưng hổ cánh hà do..

    Năng sử thâu nhi phản tự đầu.

    Tam bách thanh tiền nguyên tế sự.

    Chỉ lân đạo sĩ khổ phần tu.

    Núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu cổ, tên Ðông Nhạc Miếu, quay mặt về hướng nam. Phía trong cổng, ở hai bên lối đi có bày hai pho tượng đồng xanh, cao hơn trượng, mặt mày dữ tợn, ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Từ ngoài cổng vào miếu, người ta thấy pho tượng bên phải có một chim ưng đậu trên cánh tay gọi là pho Ưng Thần, pho tượng bên trái có một hổ nằm phục dưới chân gọi là pho Hổ Thần.

    Trong miếu có đạo sĩ họ Nhậm cư ngụ. Hàng ngày, vào lúc gà gáy sáng, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ thắp hương, ngồi xuống tấm thảm trước điện, nhắm mắt tụng niệm.



    Trong thôn Thái Hằng ở chân núi có thanh niên vô lại, họ Viên, tên Thiệt, có thói trộm cắp. Biết thói quen của đạo sĩ, Viên Thiệt rắp tâm lên miếu ăn trộm. Một đêm, Viên Thiệt trèo núi, lẻn vào miếu, nấp ở hành lang chờ sáng. Vào lúc gà gáy, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ. Chờ cho đạo sĩ đi khuất, Viên Thiệt lẻn vào phòng lục lọi. Tìm mãi chẳng thấy vật chi đáng giá, Viên Thiệt thất vọng quay ra. Ði ngang qua giường ngủ của đạo sĩ, tình cờ Viên Thiệt đưa tay lật chiếc chiếu lên coi thì thấy đầy giường tiền vàng, óng ánh chóa mắt, ước lượng cũng phải tới ba trăm đồng. Viên Thiệt mừng quá, vội vơ vét hết tiền cho vào chiếc túi đem theo, giắt vào lưng, đạp cửa chạy ra ngoài, co cẳng chạy thục mạng qua hai pho tượng, qua cổng rồi xuống núi. Viên Thiệt rắp tâm chạy xuống chân núi để lên núi Thiên Phật đối diện. Gần tới chân núi, ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy một hán tử cao lớn, lực lưỡng, đang xăm xăm từ trên núi chạy xuống, dường như có ý đuổi theo mình, Viên Thiệt kinh hãi quá, ra sức chạy nhanh. Tới chân núi, quay đầu nhìn lại, chợt thấy hán tử, mặt mũi xanh lè, có chim ưng đậu trên cánh tay, đã ở ngay sau lưng mình. Nhận ra là Ưng Thần trong cổng miếu, Viên Thiệt kinh hãi quá, co rúm người lại, chẳng nhấc nổi chân, ngã quỵ xuống đất, vừa nằm vừa run. Ưng Thần quát:"Ăn trộm của miếu, chạy đâu cho thoát?" Viên Thiệt chắp tay lạy:"Xin thần tha mạng! Xin thần tha mạng!" Ưng Thần cúi xuống xách cổ Viên Thiệt lên, nhẹ nhàng như người xách cổ mèo vậy. Rồi chạy băng băng lên núi, đem vào phòng ngủ của đạo sĩ, thả xuống đất, bắt quỳ. Lấy một chiếc khay ở trong phòng, đặt lên đầu Viên Thiệt, bắt phải giơ hai tay lên mà giữ. Lấy túi tiền lận ở lưng Viên Thiệt, dốc loảng xoảng đầy khay, nói:"Quỳ yên ở đây, không được nhúc nhích!" rồi dời khỏi phòng. Viên Thiệt sợ quá, cứ quỳ yên như thế.

    Lát sau, đạo sĩ tụng niệm xong, trở về phòng. Thấy có người đang quỳ ở trong phòng, hai tay cứ giữ chặt lấy chiếc khay ở trên đầu, đạo sĩ giật mình kinh ngạc, hỏi: "Cư sĩ là ai? Sao lại vào đây mà quỳ?" Viên Thiệt run rẩy thuật lại câu chuyện. Ðạo sĩ bèn lấy khay tiền cất đi rồi nói:"Bỏ thói trộm cắp đi! Tìm nghề lương thiện mà sinh nhai! Thôi, về đi!" Viên Thiệt vội lóp ngóp đứng dậy, chạy ra cổng. Thấy hai pho tượng vẫn còn đứng nguyên ở chỗ cũ, Viên Thiệt kinh hãi quá, chạy thục mạng xuống núi.

    Từ đó, Viên Thiệt bỏ hẳn thói trộm cắp.
     
  13. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 132 - ĐỊNH SỐ
    Dịch truyện huy hoàng sứ tiết trì.

    Quỹ di thiên hữu khố quan tri.

    Liêu tây quân xướng do thùy bát.

    Tích vị đương niên nhất vấn chi.

    Thời ấy, huyện Châu Bình, tỉnh Sơn Ðông có quan tể họ Trương, tên Hoa Ðông.

    Một hôm, Trương công phụng chỉ nhà vua, dẫn một đoàn tùy tùng đi tế thần ở núi Nam Nhạc. Lượt đi, tới huyện Giang Hoài thì trời vừa tối, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Trưởng đoàn thưa:"Dịch trạm này nổi tiếng là có nhiều ma, xin đại quan cho tìm nơi khác!" Trương công cười, nói: "Ta đâu có sợ gì ma! Cứ theo ta vào mà nghỉ!" Cả đoàn đành tuân lệnh.

    Nửa đêm, Trương công thức giấc, cứ thắc mắc về lời đồn dịch trạm có ma. Bèn phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm rồi ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem có chuyện gì lạ xảy ra không. Nửa giờ sau, đột nhiên thấy một hán tử, tóc hoa râm, mặc áo đen, thắt đai đen, mở cửa bước vào, chắp tay vái chào, Trương công bèn hỏi: "Nhà ngươi là ai? Nửa đêm tới đây có chuyện gì?" Hán tử đáp: "Tiểu chức được Thượng Ðế cử tới huyện này làm kẻ coi kho, giữ khoản tiền mà Thượng Ðế ấn định ban cho đại quan. Ðêm nay, thấy đại quan vào đây nghỉ nên tiểu chức tới xin trao nạp để còn đi lãnh trách vụ khác" Hỏi: "Thượng Ðế ấn định ban cho ta bao nhiêu?" Ðáp: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nói: "Bây giờ ta phải đi tế thần, chưa có thì giờ kiểm nhận. Vả lại, khoản tiền lớn quá, đem đi đem lại, tốn công vô ích. Vì thế, hãy chịu khó lưu lại đây thêm ít bữa mà giữ khoản tiền ấy cho ta. Hôm nào trở về, ta sẽ ghé vào đây thâu nhận" Hán tử vâng dạ rồi chắp tay vái chào mà lui. Trương công bèn vào phòng nằm ngủ lại.

    Sáng sau, Trương công dẫn đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường tới Nam Nhạc. Sau lễ tế thần, dân chúng quanh vùng đua nhau đem tiền bạc tới biếu tặng Trương công. Trương công bèn ra lệnh cho đoàn tùy tùng thâu nhận.

    Lượt về, tới huyện Giang Hoài thì trời cũng vừa tối, Trương công lại ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Nửa đêm, lại phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem hán tử áo đen có tới không. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy hán tử mở cửa bước vào, chắp tay vái chào. Trương công nói: "Nay trên đường về, ta ghé vào đây thâu nhận khoản tiền của ta. Hãy đem tới đây mà trao nạp!" Hán tử đáp: "Thưa đại quan, tiểu chức đã đem đi Liêu Ninh, mua thực phẩm để phân phát cho quân lính trấn đóng ở đó hết rồi!" Vì tiếc của, Trương công nổi giận, đập bàn quát: "Sao lại dám tự tiện đem tiền bạc của ta đi mà tiêu xài?" Hán tử đáp: "Ðại quan há lại chẳng biết tiền bạc cũng như thọ mệnh mà Thượng Ðế đã ấn định ban cho mỗi người đều có định số cả rồi hay sao? Trong chuyến đi này, đại quan đã thâu hoạch được đủ định số rồi. Vì thế, Thượng Ðế đã sai tiểu chức đem khoản tiền đang giữ đi làm việc khác. Ðại quan đã thâu hoạch được đủ định số, còn muốn đòi chi thêm?" Nói xong, chắp tay vái chào rồi biến mất.

    Sáng sau, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng kiểm lại khoản tiền dân chúng quanh vùng Nam Nhạc đã biếu tặng. Kiểm xong, trưởng đoàn báo cáo: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nghe thấy thế, Trương công thở dài, than: "Thế mới biết quả là mọi việc lớn nhỏ ở đời đều đã có định số! Ta muốn tham lam cũng chẳng được nào!"
     
  14. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 133 - BÙA CỜ BẠC
    Vị liu tham tâm bác cục khai.

    Thử trung thắng phụ bản nan sai.

    Linh phù thảng hứa tương truyền thụ.

    Nhất trịch hà phương bách vạn lai.

    Huyện thành Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu Thiên Tề và ngôi chùa Thiên Phật.

    Trong miếu có đạo sĩ họ Hàn cư ngụ. Thấy đạo sĩ có nhiều ảo thuật, cư dân quanh vùng gọi đạo sĩ là tiên ông. Sinh thời, thân phụ đạo sĩ rất yêu quý con, cứ mỗi lần lên huyện lại tới miếu thăm con. Một hôm, Hàn ông cùng bào đệ lên huyện chơi, toan tới miếu thăm đạo sĩ thì gặp đạo sĩ ở dọc đường. Ðạo sĩ đưa chìa khoá cho cha, nói:"Xin thân phụ và thúc phụ cứ về miếu trước, lát nữa tiểu nhi sẽ về" Hai ông tới miếu, mở cổng vào thì thấy đạo sĩ đã ở trong miếu. Có rất nhiều chuyện về đạo sĩ đại loại giống như chuyện này.



    Ðạo sĩ có người biểu đệ, họ Dương, tên Ðổ, rất ham mê cờ bạc. Một hôm, có một nhà sư thích đổ bác, tới chùa Thiên Phật, thách các con bạc trong vùng tới chùa đánh bạc với mình. Nghe tin, Dương Ðổ mừng lắm, vội vét hết tiền trong nhà đem lên chùa đánh bạc với nhà sư. Qua một đêm, thua nhẵn túi. Muốn gỡ lại tiền thua, Dương Ðổ về quê cầm cố hết ruộng nương, lấy tiền đem lên chùa. Qua một đêm, lại thua nhẵn túi.

    Hết tiền, Dương Ðổ buồn rầu, lang thang tới miếu thăm đạo sĩ. Thấy người biểu đệ phờ phạc, đạo sĩ hỏi: "Sao phờ phạc thế?" Dương Ðổ thú thực, nói:"Vì thua bạc" Ðạo sĩ cười, nói:"Thói thường thì ai đánh bạc cũng phải thua. Tuy nhiên, nếu hứa chừa hẳn cờ bạc thì có thể giúp cho gỡ hòa" Nghe thấy thế, Dương Ðổ mừng lắm, nói: "Nếu quả được như vậy thì xin thề là sẽ chừa hẳn cờ bạc" Ðạo sĩ cười rồi lấy giấy vẽ một đạo bùa, lấy ra một ngàn đồng, đưa cho Dương Ðổ mà dặn: "Gỡ hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, đem cả bùa lẫn tiền về đây mà trả! Nhớ kỹ là chớ có ham được!" Dương Ðổ mừng quá, vội đỡ lấy bùa và tiền mà đáp: "Xin vâng" Rồi giắt bùa vào thắt lưng, đem tiền trở lại chùa.

    Tới nơi, Dương Ðổ thách nhà sư đánh nữa. Thấy Dương Ðổ chỉ có một ngàn đồng, nhà sư chán ngán, chẳng muốn đánh. Dương Ðổ nài nỉ, chỉ xin đánh một ván thôi. Nhà sư cười mà bằng lòng. Dương Ðổ lấy cả ngàn đồng, đặt một tiếng. Nhà sư gieo hai súc sắc trước, được 11 điểm. Dương Ðổ gieo sau, được 12 điểm. Nhà sư thua, đòi đánh nữa, đặt hai ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt bốn ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt tám ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt đều đều, mỗi tiếng mười ngàn. Dương Ðổ thắng liền mười ván. Trong khoảnh khắc đã gỡ lại được hết số vốn đã thua trong hai canh bạc trước. Nhớ lời đạo sĩ dặn, Dương Ðổ toan nghỉ đánh song lại nghĩ vận đang hên, dại chi chẳng đánh thêm mấy ván để kiếm chút lời. Vì thế, lại tiếp tục đánh. Nhưng từ đó, Dương Ðổ thua liền ba ván. Lấy làm lạ, Dương Ðổ thò tay vào thắt lưng tìm bùa. Thấy bùa đã biến mất, Dương Ðổ kinh hãi quá, liền đứng dậy, nhất định đòi nghỉ đánh. Nhà sư đành chịu.

    Về miếu, Dương Ðổ đếm ra một ngàn đồng trả lại đạo sĩ. Kiểm chỗ còn dư thì thấy trước sau vẫn còn thua ba chục ngàn. Tính ra, nếu chẳng đánh ba ván sau cùng thì vừa vặn hòa. Ðạo sĩ hỏi: "Còn đạo bùa đâu? Trả lại đi!" Dương Ðổ ngượng quá, đáp: "Xin tha lỗi, chẳng biết đã đánh rơi mất ở đâu rồi!" Ðạo sĩ cười, nói: "Ðã bảo mà! Gỡ được hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, chớ có ham được. Vì chẳng chịu nghe lời nên mới bị thua!" Dương Ðổ bèn cám ơn đạo sĩ rồi xin cáo biệt, đem tiền về quê, chuộc lại ruộng nương.
     
  15. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 134 - CHỒN ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI
    Mạn thuyết tiền thân dữ hậu thân.

    Nam sơn hữu khách cánh thông thần.

    Ngọc hồ thảng bất phân minh ngữ.

    Thùy thức giai nhi thị cố nhân.

    Tiên sinh Hoài Lợi Nhân ở thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông, thuật truyện:

    Cuối triều Minh, huyện Nam Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có văn nhân họ Lưu, tên Cảnh, làm nhà dưới chân núi Nam, cùng vợ và gia nhân cư ngụ.

    Một hôm, có một lão khách tới gõ cổng, xin vào diện kiến. Gia nhân vào báo, Lưu ông bảo ra mời vào. Khách theo gia nhân vào nhà, chắp tay vái chào. Lưu ông chắp tay đáp lại. Khách tự giới thiệu:"Ngu mỗ họ Hồ, tên Lượng Thái!" Lưu ông hỏi:"Huynh ông tới tệ xá, có điều chi dạy bảo?" Khách đáp:"Ngu mỗ muốn tới chào tiên sinh để xin làm quen!" Hỏi:"Nhà huynh ông ở đâu?" Ðáp: "Cũng ở trong núi này! Ngoài gia đình tiên sinh và ngu mỗ, chẳng ai thèm vào núi này cư ngụ. Vì thế ngu mỗ muốn tới xin làm quen cho có bạn!" Lưu ông bèn mời khách ngồi đàm đạo. Thấy khách nói chuyện hoạt bát, cao nhã, Lưu ông thích lắm, sai gia nhân làm tiệc khoản đãi. Hai người yến ẩm, đàm đạo rất tương đắc. Ngà ngà say, khách đứng dậy xin cáo biệt. Lưu ông nói:"Ngày mai, nếu rảnh rỗi, xin mời huynh ông lại tới chơi!" Khách đáp: "Xin vâng!"

    Hôm sau, quả nhiên khách lại tới. Lưu ông sai gia nhân làm tiệc, thịnh soạn hơn hôm trước. Trong lúc yến ẩm, Lưu ông nói:"Ðược kết giao với huynh ông, thực là một điều hân hạnh, song vẫn còn điều thắc mắc, chẳng biết huynh ông có giải cho chăng?" Khách hỏi:"Tiên sinh thắc mắc điều chi?" Lưu ông nói:"Dám hỏi huynh ông quý xá ở đâu!" Khách nói:"Ngu mỗ xin nói, song xin tiên sinh tin lời, chớ kinh hãi!" Lưu ông nói:"Xin cứ nói!" Khách nói:"Ngu mỗ tới đây, chủ ý là để xin làm quen chứ chẳng phải là để gieo họa! Chẳng giấu gì tiên sinh, tệ xá là cái hang trong núi, còn ngu mỗ là chồn già trong hang!" Nghe thấy thế, Lưu ông đã chẳng sợ hãi mà còn kính trọng khách hơn. Bèn đề nghị kết nghĩa anh em. Khách nhận lời. So tuổi, khách lớn hơn, làm anh. Từ đó, hai người giao du rất thân mật, coi nhau như ruột thịt, có điều gì cũng đem ra nói cho nhau nghe, chẳng giấu diếm.

    Một hôm, Lưu ông than:"Tiểu đệ cũng đã nhiều tuổi rồi mà chưa có con nối dõi tông đường!" Khách nói: "Hiền đệ chớ lo. Ngu huynh sắp chết rồi. Ðể khi nào ngu huynh chết, ngu huynh sẽ đầu thai vào làm con cho hiền đệ!" Lưu ông kinh hãi, nói:"Sao đại ca lại nói gở thế?" Khách cười, đáp:"Già rồi thì phải chết chứ sao lại gọi là nói gở?" Lưu ông hỏi:"Nghe nói ai đã tu luyện thành tiên cũng trường sinh bất tử! Ðại ca đã tu luyện thành tiên, sao lại nói là sắp chết?" Khách lắc đầu, đáp:"Riêng điều này thì chẳng thể tiết lộ cho hiền đệ biết được, xin chớ hỏi nữa! Ngu huynh đã hết kiếp làm chồn, kiếp tới được đầu thai làm người. Song đầu thai làm con cho người khác, chẳng biết người ta có thích mình hay không, chi bằng đầu thai làm con cho hiền đệ, chắc hiền đệ sẽ chẳng ghét bỏ vì chúng ta là chỗ anh em kết nghĩa mà hiền đệ lại đang muốn có con!" Nói xong, đứng dậy xin cáo biệt.

    Ðêm ấy Lưu ông nằm ngủ, mộng thấy khách tới nói:"Ðêm nay ngu huynh vào làm con cho hiền đệ đây!" Giật mình tỉnh giấc, Lưu ông thấy gia nhân chạy vào báo: "Phu nhân vừa sinh công tử" Lấy làm lạ, Lưu ông bèn đặt tên đứa bé là Lượng Thái. Từ đó, khách biệt tăm. chẳng lui tới nhà Lưu ông nữa.

    Lượng Thái lớn lên, ăn nói hoạt bát, cao nhã, giống hệt khách. Học hành thông minh xuất chúng, năm mười tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Năm Nhâm Thìn (1652), niên hiệu Thuận Trị thứ 9, thi hội, đậu tiến sĩ, được triều đình bổ làm quan, tức Lưu công. Lưu công nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Có rất nhiều kẻ chẳng kể thân sơ, tới nhờ vả, đều được giúp đỡ.

    Khi về hưu, thấy dân làng tới cổng nhà, mở quán bán bánh quà, tương rượu, Lưu công cứ để mặc, chẳng ngăn cản. Ít lâu sau, bãi đất trước cổng nhà Lưu công trở thành một khu chợ mới.


     
  16. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 135 - GHEN VỚI NỮ THẦN
    Song song tố tượng sự hoang đường.

    Hồ quỷ bằng y tác tế hương.

    Liệt phách chân hồn không thụ điếm.

    Tiểu cô cư xứ bản vô lang.

    Ðời vua Thần Tông triều Minh, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, có thiếu nữ họ Mã, tên Thanh Mai, sanh năm bính tuất (1576).

    Khi Thanh Mai tới tuổi cập kê, cha mẹ hứa gả cho nho sinh họ Hoa ở trong huyện. Sắp tới ngày cưới, Hoa sinh bị bệnh mà mất. Thanh Mai buồn lắm, quyết tâm ở vậy, chẳng chịu lấy chồng khác.



    Năm bính ngọ (1606), Thanh Mai ba mươi tuổi, cũng bị bệnh mà mất. Hồn linh thiêng, thường hiện về báo mộng cho người trong họ biết nhiều việc sắp xảy ra nên họ quyên góp tiền bạc, xây cất một ngôi đền rồi đắp tượng mà thờ, gọi là đền Mai Cô.

    Năm mươi năm sau.

    Ở huyện Thượng Ngu, kế cận huyện Thiệu Hưng, có nho sinh họ Kim, ba mươi tuổi, có vợ họ Ngụy và hai con, một trai, một gái. Ngày 10 tháng 8 năm bính thân (1656), niên hiệu Thuận Trị thứ 13, Kim sinh lên đường tới tỉnh lỵ Triết Giang ứng thí. Dọc đường, tới huyện Thiệu Hưng, gặp lúc trời tối, sinh vào ngủ trọ trong quán Mai Hoa. Nửa đêm, nằm mộng thấy một tì nữ áo xanh mở cửa bước vào phòng, nói: "Mai Cô sai tiểu tì tới đây mời tú tài tới đền đàm đạo" Sinh bèn đi theo. Tới đền, thấy Thanh Mai đứng chờ ở hành lang, sinh vội chắp tay vái chào. Thanh Mai mỉm cười đáp lễ rồi hỏi: "Hiền lang còn nhớ thiếp không?" Sinh lắc đầu, đáp: "Thưa không" Thanh Mai nói: "Kiếp trước hiền lang họ Hoa, đã đính hôn với thiếp song vì hiền lang mất sớm nên chúng mình chưa nên duyên phu phụ. Vì cảm tấm lòng chiếu cố nên trong thâm tâm, thiếp vẫn mến mộ. Kiếp này, hiền lang họ Kim. Nếu hiền lang chẳng chê thiếp là người bỉ lậu thì thiếp xin được lấy thân mà báo đáp" Sinh kinh hãi quá, chẳng biết phải trả lời ra sao, chỉ thốt được hai tiếng: "Xin vâng" Thanh Mai nói: "Tạm thời, hiền lang cứ đi thi rồi về nhà mà chờ. Chừng nào thu xếp xong chỗ ở, thiếp sẽ xin báo để hiền lang biết" Sinh lại líu ríu vâng dạ. Thanh Mai bèn tiễn sinh ra khỏi cổng. Nằm mộng tới đây, sinh tỉnh giấc, cứ kinh hãi mãi, trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ lại được.

    Ðêm ấy, có một thôn dân, cư ngụ cạnh đền, cũng nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói: "Từ nay, Kim sinh ở huyện Thượng Ngu, hiện trọ trong quán Mai Hoa, là lang quân của ta. Sáng mai, các ngươi phải tới quán, tìm gặp cho biết mặt rồi đắp một pho tượng, đặt cạnh pho tượng của ta trong đền mà thờ chung" Sáng ra, người ấy kể cho đồng hương nghe thì được biết trên mười người nữa trong làng cũng nằm mộng thấy như thế. Họ kinh hãi quá, bèn kéo nhau tới quán Mai Hoa để biết mặt Kim sinh rồi kéo nhau tới nhà trưởng tộc họ Mã trong làng, là Mã Thành, mà thuật chuyện. Họ nói: "Xin cho đắp tượng Kim sinh để thờ chung trong đền" Mã Thành phản đối, nói: "Làm như thế tức là làm điếm nhục tiết trinh của Mai Cô lúc sinh thời, mà cũng là làm điếm nhục cả dòng họ Mã chúng tôi nữa!" Người làng khuyên thế nào Mã Thành cũng chẳng nghe. Họ đành giải tán.

    Tháng sau, cả nhà Mã Thành tự nhiên cùng bị bệnh. Một đêm, Mã Thành nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói:"Phải đắp tượng Kim sinh mà thờ chung với ta ngay!" Tỉnh giấc, Mã Thành kinh hãi quá, bèn mời mọi người trong họ tới nhà bàn bạc. Ai cũng khuyên nên đắp tượng Kim sinh, đặt ở bên trái tượng Thanh Mai mà thờ chung. Mã Thành đành theo lời.

    Sinh lên đường tới Triết Giang ứng thí rồi trở về nhà, thuật chuyện giấc mộng cho vợ nghe. Nghe xong, Ngụy thị nổi cơn ghen, nói: "Thần gì mà lại đi cướp chồng của người khác?"

    Một hôm, vào trung tuần tháng chín, sau bữa ăn trưa, tự nhiên sinh nói với vợ con: "Hôm nay Mai Cô tới rước ta đây!" Rồi đi tắm gội, mặc quần áo mới, đi giày mới, đội mũ mới, lên giường nằm mà chết. Ngụy thị đau khổ, tức giận Thanh Mai lắm.

    Chôn cất cho chồng xong, Ngụy thị đi ngay sang huyện Thiệu Hưng, tới ngôi đền, lấy tay chỉ vào mặt pho tượng Thanh Mai mà thóa mạ. Rồi Ngụy thị bước lên tận bệ thờ, lấy tay tát vào mặt pho tượng bốn cái. Sau đó, Ngụy thị bỏ ra về.

    Ngày nay, dân chúng huyện Thiệu Hưng không gọi ngôi đền ấy là đền Mai Cô nữa mà lại gọi là đền thờ vợ chàng Kim.
     
  17. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 136 - CHỒN CUỐI TRIỀU MINH
    Giao thiên cự điển thục năng can.

    Phiên hối tiềm tung đảm thượng hàn.

    Tất cánh thử hồ thái phân hiểu.

    Thừa dư bất tị tị linh quan.

    Cuối triều Minh, thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông có đạo quán Chiêu Thiên. Năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, đạo trưởng đạo quán họ Khương, rất giỏi thuật thổ nạp.

    Một hôm đầu năm, có một ông lão tới đạo quán xin gặp đạo trưởng, nói:"Bỉ nhân già rồi mà con cái thì bất hiếu, chẳng cho ở chung. Vì thế muốn tới đây xin đạo trưởng cho tạm trú một thời gian" Ðạo trưởng hỏi:"Quý danh là chi?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Hồ, tên Khứ Tật" Ðạo trưởng thuận cho ở. Vì Khứ Tật cũng biết thuật thổ nạp nên hai người rất chóng thân nhau, rồi kết làm đạo hữu.

    Ðầu năm Tân Tị (1641), vào dịp dân chúng sửa soạn lễ tế Trời Ðất, Khứ Tật bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, khi tế lễ xong, Khứ Tật mới trở về. Ðạo trưởng lấy làm lạ, hỏi:"Cư sĩ đi đâu lâu thế?" Khứ Tật đáp:"Vì đạo trưởng vừa là ân nhân, vừa là đạo hữu nên bỉ nhân chẳng dám giấu. Thực ra, bỉ nhân chẳng phải là người mà là chồn. Hàng năm, cứ vào dịp dân chúng làm lễ tế Trời Ðất thì Thượng Ðế lại sai linh quan xuống trần tẩy uế nơi lập đàn tràng cũng như vùng phụ cận. Giống chồn bỉ nhân bị coi là giống xú uế nên phải lẩn tránh đi xa trên trăm dặm, kẻo bị linh quan bắt được thì sẽ bị đánh cho đến chết!" Ðạo trưởng nghe nói cũng chẳng quan tâm, vẫn để cho Khứ Tật cư trú. Hai năm tiếp theo cũng thế, cứ gần tới dịp tế lễ Trời Ðất là Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi, nửa tháng sau mới về.

    Ðầu năm Giáp Thân (1644), gần tới dịp tế lễ Trời Ðất, Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, chẳng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng ngạc nhiên lắm. Ba tháng sau, vẫn chưa thấy Khứ Tật về, đạo trưởng cho là Khứ Tật đã tìm được nơi cư trú mới nên thầm trách Khứ Tật đã dời cư mà chẳng về nói với mình một lời.

    Bốn tháng sau, một hôm bỗng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng trách:"Cư sĩ đã tìm được nơi cư trú mới rồi phải không? Sao chẳng về nói với bần đạo một lời?" Khứ Tật lắc đầu, đáp:"Thưa chẳng phải thế! Khi dời đạo quán, bỉ nhân vẫn định tâm là nửa tháng sau sẽ về xin đạo trưởng tiếp tục cho cư trú. Song chẳng may lần này, bỉ nhân gặp phải một tai nạn suýt chết nên hôm nay mới về được"

    Hỏi:"Tai nạn chi mà nguy hiểm thế?"

    Ðáp:"Trong kỳ tế lễ vừa qua, bỉ nhân đã toan lẩn tránh đi xa như những kỳ trước, song vì lười biếng nên chỉ tìm cách tạm lẩn quanh vùng này. Khi tới khu rừng rậm cách đây hơn mười dặm về hướng tây, thấy trên bờ một suối nước trong, nằm khuất cuối nẻo rừng, có một chum vỡ, bỉ nhân bèn chui vào chum để tạm lẩn trong nửa tháng. Nào ngờ đúng vào ngày tế lễ, linh quan sục sạo tới cuối nẻo rừng, khám phá ra việc bỉ nhân lẩn tránh trong chum, liền cầm roi xông vào đánh. Kinh hãi quá, bỉ nhân vội bỏ chạy thục mạng!"

    Hỏi:"Cư sĩ chạy tới đâu?"

    Ðáp: "Thưa, tới tận bờ sông Hoàng Hà!"

    Hỏi:"Linh quan có đuổi theo không?"

    Ðáp:"Thưa có! Linh quan đuổi theo rất gấp. Khi ngoái cổ nhìn, thấy linh quan đã tới sát sau lưng, bỉ nhân quẫn quá, đành phải chui vào một cầu tiêu bên sông. Sợ mùi xú uế, linh quan chẳng dám vào, chỉ đứng chờ ở bên ngoài, song bỉ nhân quyết tâm nằm lỳ trong cầu tiêu, chẳng chịu ra. Lát sau, vì không chịu nổi mùi xú uế, linh quan đành bỏ đi!"

    Hỏi:"Linh quan đi rồi, sao cư sĩ chẳng về đây ngay?"

    Ðáp:"Vì bỉ nhân bị mùi xú uế trong cầu tiêu nhiễm vào thân thể nên chẳng dám về, phải chui vào hang đá gần sông tạm trú. Suốt bốn tháng qua, ngày nào bỉ nhân cũng phải nhảy xuống sông tắm gội song chẳng sao gột sạch được mùi xú uế. Sau hơn trăm ngày, mùi xú uế mới bắt đầu phai! Chỉ một ly nữa là bỉ nhân chẳng còn được nhìn thấy đạo trưởng!"

    Hỏi:"Bây giờ cư sĩ lại về đây cư trú phải không?"

    Ðáp:"Thưa không! Hôm nay bỉ nhân về đây để xin cám ơn đạo trưởng đã cho cư trú trong bốn năm qua và tiện thể xin đạo trưởng cho phép được dời khỏi đạo quán!"

    Hỏi:"Cư sĩ định đi đâu?"

    Ðáp: "Bỉ nhân định trở về hang cũ núi xưa"

    Hỏi: "Cư sĩ có cần bần đạo giúp đỡ điều gì không?"

    Ðáp:"Thưa không! Bỉ nhân chỉ muốn thưa với đạo trưởng một việc quan trọng!"

    Hỏi:"Việc chi mà quan trọng thế?

    " Ðáp:"Việc Trung quốc ta sắp bị biến loạn!"

    Hỏi:"Sao cư sĩ biết?"

    Ðáp:"Cơ trời chẳng thể tiết lậu, mong đạo trưởng hiểu cho!"

    Hỏi:"Thế chốn này có việc chi không?"

    Gật đầu, đáp:"Thưa có! Chốn này nguy hiểm lắm! Là hung địa chứ chẳng phải là phúc địa! Ðạo trưởng nên dời ngay đi nơi khác thì hơn!" Rồi xin cáo biệt. Ðạo trưởng nghe lời, bèn bỏ đạo quán mà đi, chẳng ai biết là đi đâu.

    Mấy tháng sau, quả nhiên biến cố Giáp Thân (1644) xảy ra. Trung quốc bị biến loạn. Nhà Minh mất ngôi với nhà Thanh. Trong cơn binh lửa, đạo quán Chiêu Thiên bị san thành bình địa.


     
  18. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 137 - KHỎE NHƯ HỔ, NHANH NHƯ VƯỢN
    Tiệp tự viên nhu tấn tự hồng.

    Tì bà thuấn tức đạo thâm cung.

    Khả lân cụ thử hảo thân thủ.

    Ngộ lạc Ngô Phiên nghịch để trung.

    Cuối triều Minh, tổng binh của quân đội triều đình là tướng quân họ Ngô, tên Tam Quế, tên chữ Trường Bạch. Vua Trang Liệt sai Trường Bạch đem quân lên trấn giữ cửa quan Sơn Hải ở Vạn Lý Trường Thành, thuộc huyện Lâm Du, tỉnh Hà Bắc.

    Năm Giáp Thân (1644), niên hiệu Sùng Trinh thứ 17, có tướng giặc họ Lý, tên Tự Thành ở tỉnh Thiểm Tây nổi lên chống lại triều đình. Tự Thành đem quân công hãm Bắc Kinh, ép vua thoái vị.



    Nghe tin, Trường Bạch vội đem quân về cứu giá song khi về tới nơi thì vua đã thắt cổ tự ải. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Trường Bạch bèn sai thuộc hạ lên mở cửa quan Sơn Hải, rước quân của Ái Tân Giác La về Bắc Kinh giúp mình đánh giặc. Tự Thành thua chạy, phải tự sát.

    Lợi dụng cơ hội vào được Bắc Kinh, Ái Tân Giác La liền diệt nhà Minh, lập nhà Thanh, lên ngôi hoàng đế, tức vua Thế Tổ. Ðặt niên hiệu là Thuận Trị, phong cho Trường Bạch tước Bình Tây Vương, sai trấn giữ vùng Vân Nam. Ít lâu sau, lại bãi tước của Trường Bạch. Trường Bạch bèn mưu phản, song chưa được bao lâu thì bị bệnh mà chết. Phản quân tan rã.

    Sinh thời, Trường Bạch có một tùy tướng tên Bảo Trụ, khỏe như hổ, nhanh như vượn.

    Một hôm, Bảo Trụ cho gọi thợ mộc tới tư thất xây cất lầu cao. Thợ vừa dựng xong sườn lầu, Bảo Trụ đã bám vào một góc, leo lên nóc lầu, chạy vùn vụt đủ bốn vòng, rồi nhún mình nhảy xuống đất, thân vẫn thẳng, chân không chùn.

    Vua có một quý phi rất thiện nghề đàn hát. Quý phi có một cây đàn tì bà rất quý, phím làm bằng noãn ngọc. Vào mùa đông, khi tiết trời lạnh lẽo, quý phi đem đàn ra gảy thì tiếng đàn làm cho căn phòng ấm áp hẳn lên. Quý phi quý cây đàn ấy lắm, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, trừ khi có chỉ dụ do chính tay vua viết.

    Một hôm, vua triệu quần thần về kinh ban yến. Trường Bạch cũng được vời, dắt Bảo Trụ về theo. Tối ấy, trong tiệc, vua kể chuyện lạ về cây đàn của quý phi. Quần thần đều nôn nóng muốn được coi nên đồng thanh tâu: "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ truyền cho nội thị đi lấy cây đàn tới đây cho chúng thần được chiêm ngưỡng một lần!" Vua ngần ngại, chẳng muốn cho coi nên đáp:"Trẫm đã hứa với quý phi là chỉ viết dụ để lấy cây đàn vào ban ngày thôi. Bây giờ tối rồi, quý phi cất giấu kỹ lắm, chẳng ai tới lấy được đâu! Sáng mai lâm triều, trẫm sẽ viết dụ sai nội thị tới lấy đem vào triều cho các khanh coi!" Quần thần đều im lặng, chẳng ai dám năn nỉ chi thêm.

    Lúc ấy, Bảo Trụ đang ngồi cạnh Trường Bạch, liền đứng dậy lên tiếng:"Muôn tâu bệ hạ, nếu bây giờ bệ hạ truyền mệnh cho hạ thần đi lấy cây đàn tới đây thì hạ thần nghĩ mình chẳng đến nỗi mang tội làm nhục mệnh vua!" Vua chẳng biết nói sao, bèn vẫy một tên nội thị thân tín tới gần, khẽ truyền:"Nhà ngươi hãy tới ngay phi cung, dặn quý phi bắt thị nữ phải canh phòng cẩn mật, không được để cho ai tới lấy cây đàn!" Nội thị phụng mệnh, chạy đi ngay.

    Lát sau, vua mới quay qua nói với Bảo Trụ:"Nhà ngươi vừa nói có thể đi lấy được cây đàn của quý phi tới đây. Vậy bây giờ trẫm cho phép nhà ngươi đi lấy đó!" Bảo Trụ liền cúi đầu đáp:"Hạ thần xin phụng mệnh!" Rồi bỏ chạy ra ngoài, lần đường tới phi cung.

    Tới nơi, thấy đèn đuốc bên trong thắp sáng chưng, cửa đóng then cài rất kỹ, Bảo Trụ chẳng sao lẻn vào được. Thấy ngoài hành lang có con vẹt đậu trên giá, Bảo Trụ chợt nghĩ ra một kế. Bèn bắt chước tiếng mèo gầm gừ rồi bắt chước tiếng vẹt khiếp hãi. Tiếng mèo gầm gừ càng gần thì tiếng vẹt khiếp hãi càng gấp. Quả nhiên trong phòng có tiếng nữ nhân truyền lệnh:"Duyên nô! Hãy ra mở cửa đem vẹt vào đây kẻo nó bị mèo vồ chết bây giờ!" Bảo Trụ vội đứng nép vào bức tường cạnh cửa.

    Lát sau, cánh cửa hé mở rồi có một thị nữ cầm đèn lồng bước ra. Bảo Trụ liền nhanh chân lẻn vào. Thấy quý phi đang ngồi ôm chặt cây đàn trong lòng, Bảo Trụ liền xông tới giật lấy rồi đẩy cửa chạy ra ngoài. Quý phi hốt hoảng, hô hoán ầm ĩ:"Ðạo tặc! Ðạo tặc!" Lính tuần phòng nghe tiếng, hò nhau cầm đèn chạy tới. Thấy một hán tử từ phi cung chạy ra, kẹp cây đàn ở nách, chúng liền đuổi bắt. Thấy hán tử chạy nhanh quá, chúng bèn lấy cung tên mà bắn như mưa song hán tử chẳng bị trúng mũi nào.

    Thấy ở dọc hàng rào có một dãy hòe cao, Bảo Trụ liền phóng mình nhảy lên một cây, leo lên ngọn, chuyền từ ngọn nọ sang ngọn kia nhanh như vượn. Xuyên hết dãy cây, lại nhảy xuống đất, chạy vụt qua mấy dãy cung thất, mấy ngôi nhà lầu, rồi về tới điện, nơi nhà vua và quần thần đang yến ẩm.

    Bảo Trụ vào điện, tới trước mặt vua, quỳ xuống mà dâng cây đàn. Vua hết sức ngạc nhiên, truyền nội thị chuyển cây đàn cho quần thần coi khắp lượt rồi truyền đem trả lại quý phi.

    Ai cũng khen Bảo Trụ là một viên tướng vừa khỏe lại vừa nhanh.
     
  19. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 138 - GÁI CHỒN
    Chung tình hà ý lai bôn nữ.

    Thủ lễ thiên tri tị nhược ông.

    Ám hợp tú châm công ảo hóa.

    Chu toàn nan đắc loạn ly trung.

    Huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây có thanh niên họ Y, tên Cổn, mồ côi mẹ, sống với cha là Y ông, một thày lang trong huyện.

    Một đêm, Y Cổn đang nằm ngủ, bỗng giật mình tỉnh giấc. Thấy một cô gái đẩy cửa bước vào phòng, Y Cổn kinh hãi, lớn tiếng hỏi:"Nàng là ai?" Cô gái mỉm cười, đáp:"Là chồn!" Hỏi:"Họ tên nàng là gì?" Cười, đáp:"Cần gì phải biết họ tên! Cứ gọi bằng Hồ Nữ là được rồi!" Nói xong, leo lên giường, cởi bỏ áo quần, ôm chặt lấy Y Cổn mà hôn hít, ép phải giao hoan. Tuy biết là chồn song vì thấy cô gái đẹp quá, Y Cổn chẳng sao cưỡng lại được nên truy hoan cuồng loạn. Sáng ra, Hồ Nữ cáo biệt, hẹn tối tối sẽ trở lại. Quả nhiên, từ đó, tối nào Hồ Nữ cũng tới. Y Cổn giấu kín chuyện, chẳng dám thuật lại cho ai nghe.

    Ít lâu sau, thấy thân xác con mình mỗi ngày một tiều tụy, Y ông lấy làm lạ, bèn tra hỏi. Y Cổn giấu bặt, nói rằng chính mình cũng chẳng biết tại sao. Y ông chẳng tin, cứ gặng hỏi mãi. Y Cổn đành thú thực. Y ông lo lắm, bèn thuê một thanh niên cường tráng trong làng, họ Cung, tên Ðạt, tới ngủ với con để cho Hồ Nữ sợ mà xa lánh. Thế nhưng, Hồ Nữ vẫn cứ tới, ép cả Y Cổn lẫn Cung Ðạt cùng giao hoan với mình. Thấy vậy, Y ông giận lắm, chẳng thuê Cung Ðạt nữa, tối nào cũng vào ngủ với con. Từ đó, Hồ Nữ lánh mặt.

    Một hôm, Y ông bận việc, phải nhờ một thanh niên khác, họ Ninh, tên Hoạt, tới ngủ với con. Hồ Nữ lại tới, ép cả Y Cổn lẫn Ninh Hoạt cùng giao hoan với mình. Thấy thế, Y Cổn lấy làm lạ, hỏi:"Tại sao nàng chỉ sợ có một mình cha ta thôi? Người nào khác tới ngủ với ta, nàng cũng vẫn tới, còn cha ta vào thì nàng lại lánh mặt?" Hồ Nữ đáp:"Thực ra thì thiếp có sợ ai đâu vì người trần thế có ai làm gì được thiếp? Tuy nhiên, thiếp vẫn còn chút luân thường đạo lý, chẳng thể ép cả hai cha con cùng giao hoan với mình được!"

    Sáng ra, Y Cổn thuật chuyện lại cho cha nghe. Từ đó, tối nào Y ông cũng vào ngủ với con. Cũng từ đó, Hồ Nữ biệt tăm.

    Nửa năm sau, huyện Cửu Giang bị giặc nổi lên cướp phá. Thấy dân chúng trong làng rủ nhau đem thực phẩm chạy giặc, gia đình Y Cổn cũng đem thực phẩm chạy theo, rồi lạc nhau, mỗi người một ngả.

    Y Cổn chạy thục mạng vào núi Côn Lôn, từ sáng tới tối mới dám chậm bước. Thấy mặt trời đã lặn mà bốn bề toàn là rừng núi hoang vu, chẳng có ai chạy cùng đường với mình, Y Cổn lo lắm. Chợt thấy thấp thoáng từ xa có bóng một cô gái chạy tới phía mình, Y Cổn mừng quá vì nghĩ rằng mình sắp có bạn để chia sẻ mối lo âu. Khi cô gái tới gần, Y Cổn mới nhận ra cô gái chính là Hồ Nữ. Tuy vẫn sợ Hồ Nữ lại ép mình giao hoan song trong hoàn cảnh ấy, gặp được người quen cũ, Y Cổn cũng mừng lắm. Bèn lên tiếng hỏi:"Nàng đi đâu mà tình cờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn này?" Hồ Nữ đáp:"Ðâu có phải là tình cờ! Thiếp cố tình tới đây đó chứ!" Hỏi:"Nàng tới đây để làm chi?" Ðáp:"Biết chàng chạy giặc tới đây nên thiếp tới để giúp chàng dựng tạm một ngôi nhà mà ngủ qua đêm! Bây giờ tối rồi, chàng chẳng nên đi đâu nữa, cứ đứng ở đây mà chờ, để thiếp dựng nhà cho!" Nói xong, chạy ngược lên phía bắc. Tới một bãi cỏ mãng um tùm, Hồ Nữ dừng chân rồi ngồi thụp xuống.

    Lát sau, Hồ Nữ đứng dậy chạy tới chỗ Y Cổn, nắm lấy tay, kéo xuôi xuống phía nam. Kéo được một quãng, Hồ Nữ lại dừng chân, nói:"Chạy tới đây đủ rồi! Ta quay trở lại thôi!" rồi lại nắm tay Y Cổn mà kéo ngược lên phía bắc.

    Tới bãi cỏ mãng, Y Cổn sửng sốt vì chợt thấy một ngôi nhà mọc sừng sững giữa khu rừng cổ thụ. Nhìn kỹ, Y Cổn thấy ngôi nhà rất kỳ lạ. Ngôi nhà vuông vức, dựng trên bốn trụ sắt, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường đồng, bốn bề kín mít, chẳng cổng ra vào. Thế nhưng, trên tường lại có những hốc lõm nhỏ, có thể tra chân vào để leo lên được. Y Cổn thắc mắc, hỏi:"Lúc nãy tuy nàng có nói là sẽ dựng tạm cho ta một ngôi nhà song ta có thấy nàng dựng lúc nào đâu mà bây giờ lại có ngôi nhà kỳ lạ này?" Hồ Nữ cười, đáp:"Thắc mắc làm chi cho thêm mệt sức? Có nhà thì hãy cứ vào mà ngủ cho qua đêm nay đi đã! Sáng mai rồi sẽ biết!" Nói xong, Hồ Nữ leo tường vào trong sân rồi bảo Y Cổn bắt chước mình mà leo vào. Y Cổn bèn leo vào theo. Thấy ngôi nhà chẳng giống những ngôi nhà bình thường, Y Cổn kinh hãi lắm. Thấy thế, Hồ Nữ cười, nói:"Có thiếp ở đây, chàng đừng có sợ!" Rồi nắm lấy tay Y Cổn mà dắt vào nhà.

    Ðêm ấy, Hồ Nữ ngủ chung với Y Cổn, lại ép giao hoan. Xong xuôi, Hồ Nữ giả vờ đòi từ biệt. Y Cổn kinh hãi quá, cứ năn nỉ mãi, Hồ Nữ mới chịu ở lại. Quá nửa đêm, Y Cổn đang ngủ say, Hồ Nữ lại lay dậy, nói:"Vì bị cha chàng ghét bỏ nên thiếp đã quyết tâm đoạn tuyệt với chàng. Hôm nay, chẳng hiểu vì cớ gì mà thiếp lại thấy thương hại chàng, muốn tới đây giúp chàng dựng một ngôi nhà để ngủ, chẳng còn giữ nổi cái quyết tâm ấy nữa. Sáng mai thiếp đi, sẽ tặng lại cho chàng ngôi nhà này! Trong nhà có nhiều vàng bạc, chàng có thể lấy mà ăn tiêu suốt đời! Bây giờ chàng hãy giao hoan với thiếp một lần nữa đi đã!" Nghe thấy thế, Y Cổn mừng lắm, bèn lại giao hoan với Hồ Nữ. Rồi nằm lăn ra ngủ.

    Sáng sau, khi tỉnh giấc, Y Cổn chẳng thấy Hồ Nữ đâu nữa. Bèn sục sạo tìm vàng bạc trong nhà, song chẳng thấy chi. Chán nản, Y Cổn leo tường ra ngoài.

    Xuống tới đất, ngửng đầu nhìn lên, Y Cổn thấy tường, nhà, đều đã biến mất, chỉ còn lại một chiếc hộp gỗ, đặt trên bốn chiếc đinh sắt nhỏ cắm dưới đất, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường tí hon, giữa bãi cỏ mãng.


     
  20. Quân Tích Trúc

    Quân Tích Trúc Riêng một góc trời ... Thành viên BQT Super Member
    • 617/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    3,717
    Đã được thích:
    15,070
    CHƯƠNG 139 - HỒI SINH, KHỎI BỆNH TÊ LIỆT
    Hồi đầu tỏa sự ký đương niên.

    Thiện ác phân minh tại nhãn tiền.

    Chỉ thử tính linh lưu nhất điểm.

    Từ hàng na đắc bất thùy liên.

    Năm Tân Sửu (1661), niên hiệu Thuận Trị thứ 18, có nho sinh họ Thang, tên Sánh, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan ở tỉnh Sơn Ðông.

    Mười một năm sau.

    Một hôm, Thang công bị bạo bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Gia nhân đi mời thầy lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc. Ba hôm sau, Thang công hết sốt song chân tay bên phải đã bị tê liệt.

    Ba tháng sau. Một sáng, Thang công lại lên cơn sốt dữ dội, phải nằm liệt giường. Gia nhân vội chia nhau săn sóc, người ngồi cạnh nắn bóp, kẻ đi mời thày lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc.

    Thang công đang nằm miên man trên giường thì bỗng thấy một luồng nóng từ lòng bàn chân trái bốc dần lên trên. Luồng nóng tới đùi, thấy cẳng liệt, luồng nóng tới bụng, thấy đùi liệt, luồng nóng tới ngực, thấy bụng liệt. Thế rồi luồng nóng dừng lại ở ngực, chẳng bốc lên nữa. Lát sau, hình ảnh các việc làm trong quá khứ lần lượt hiện ra trong đầu. Thoạt tiên là hình ảnh các việc thiện hiện ra. Thang công cảm thấy người thoải mái dễ chịu, lòng thanh thản. Kế đó là hình ảnh các việc ác từ hồi còn nhỏ hiện ra, như trèo cây, phá tổ chim, giết chim non. Thang công cảm thấy máu nóng dồn lên tim như nước thủy triều, làm cho người khó chịu, lòng bứt rứt, hồi lâu mới nguôi. Sau cùng là hình ảnh các việc ác mới làm gần đây. Thang công cảm thấy luồng nóng lại từ ngực bốc lên, xuyên qua cổ, qua đầu, rồi cuốn mình ra đứng bơ vơ ở giữa đường. Gia nhân thấy chân tay trái của Thang công cũng đã bị tê liệt.

    Tối ấy, Thang công mất. Sáng sau, gia nhân khâm liệm thi thể, quàn linh cữu giữa phòng khách.

    Thang công còn đang bàng hoàng thì bỗng thấy ở cuối nẻo đường có một người khổng lồ tiến tới gần, cúi xuống bắt mình bỏ vào ống tay áo. Vào trong, thấy có nhiều người đứng chen chúc chật cứng, Thang công muốn thoát ra ngoài song chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nhớ tới việc cầu xin nơi đức Phật, Thang công bèn nhắm mắt, chắp tay niệm Phật. Ðột nhiên, Thang công thấy mình thoát ra ngoài. Người khổng lồ thấy thế, lại cúi xuống bắt bỏ vào ống tay áo. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Người khổng lồ lại cúi xuống bắt lần nữa. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Thấy ba lần bắt, ba lần thoát, người khổng lồ bèn bỏ đi, chẳng bắt nữa.

    Ðứng bơ vơ ở giữa đường, Thang công phân vân chẳng biết là mình phải đi đâu. Chợt thấy mình đang đứng trên con đường đông tây và nhớ tới câu tây phương cực lạc, Thang công bèn nhắm hướng tây mà đi.

    Lát sau, thấy ở bên đường có một thiền sư ngồi nhắm mắt tham thiền, Thang công vội chạy tới hỏi:"Bạch hoà thượng! Xin hòa thượng cho biết đệ tử phải đi đâu?" Thiền sư mở mắt, đáp:"Thí chủ là người khoa bảng, phải tới miếu thờ thần Văn Xương với đức thánh Khổng" Lại hỏi:"Xin hòa thượng cho biết đường nào tới miếu?" Ðáp: "Ðường này, hướng tây, trăm dặm" rồi lại từ từ nhắm mắt tham thiền. Vừa lên đường, Thang công bỗng cảm thấy thân mình nhẹ nhàng, lướt nhanh như chim bay, lát sau đã tới miếu. Bước vào miếu, Thang công thấy đức thánh Khổng đang ngồi trên điện cao, quay mặt về hướng nam. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức thánh cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức thánh mở sổ ra coi rồi đáp: "Phải tới đền đức Ðế Quân" Lại hỏi:"Xin đức thánh cho biết đường nào tới đền?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, trăm dặm" Thang công lại lên đường. Lát sau, Thang công bước vào đền thì thấy bên trong nguy nga tựa như cung điện của các bậc vua chúa. Ngửng đầu nhìn lên, Thang công thấy một thần nhân ngồi trên điện cao, trông giống hình đức Ðế Quân mà thế nhân thường vẽ để thờ. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức Ðế Quân mở sổ ra coi rồi đáp: "Ðược trở về dương thế, song tứ chi đã bị tê liệt!" Hỏi: "Xin đức Ðế Quân cho biết có ai chữa được không?" Ðáp: "Chỉ có đức Bồ Tát chùa Trúc Lâm!" Lại hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đường nào tới chùa?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, ngàn dặm" Thang công lại lên đường. Tới khi mặt trời sắp lặn mới đến ngôi chùa ẩn hiện trong khu rừng trúc. Vào trong, Thang công thấy đức Bồ Tát ngồi trên điện cao, khuôn mặt đầy đặn, búi tóc trang nghiêm, bên phải có tiểu thần đứng hầu, bên trái có chậu dương liễu và bình nước trong. Thang công vội sụp lạy, cầu khấn:"Xin đức Bồ Tát mở lượng từ bi, cứu cho đệ tử khỏi bệnh tê liệt!" Ðức Bồ Tát nói:"Khó thay!" Thang công cứ rập đầu mà lạy. Ðức Bồ Tát còn đang trầm ngâm thì tiểu thần đứng cạnh chợt lên tiếng:"Bạch Ðức Bồ Tát, nếu Ðức Bồ Tát muốn thí đại pháp lực, cứu thí chủ này khỏi bệnh tê liệt thì xin Ðức Bồ Tát hãy bẻ liễu làm xương, nắm đất làm thịt mà đắp vào thân cho gã" Ðức Bồ Tát liền đưa tay bẻ một cành dương liễu, bốc một nắm đất, nhúng vào bình nước trong, rồi đắp vào thân Thang công. Thang công bèn phủ phục lạy tạ trước điện. Ðức Bồ Tát quay qua bảo tiểu thần:"Hãy dẫn thí chủ này về dương thế!" Tiểu thần đáp:"Xin tuân lệnh!"

    Tối ấy, tiểu thần dẫn Thang công về tới nhà, dắt đến cạnh linh cữu, đẩy vào trong, rồi quay mình bỏ đi. Mở mắt nhìn, thấy mình đang nằm trong linh cữu, Thang công bèn đằng hắng ho lên ba tiếng. Nghe tiếng ho, gia nhân kinh hãi lắm song cũng bảo nhau đem đèn lên coi. Thấy Thang công mở mắt, thở phập phồng, chúng bèn xúm lại khiêng ra khỏi linh cữu, đặt lên giường. Lát sau, thấy chân tay mình tự nhiên cử động được, Thang công bèn ngồi nhỏm dậy, hỏi chúng:"Ta chết đã được bao lâu rồi?" Chúng đồng thanh đáp:"Thưa đã được bảy ngày!" Thang công bèn đứng dậy, đi tắm rửa sạch sẽ rồi ra ngồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng nghe.


     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này