1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Ma Thổi Đèn - Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình Trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 13/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 21: Bản Kim Phong
    Lão Trần thua hai trận liên tiếp, sợ rằng không phá được Bình Sơn sẽ ảnh hưởng đến địa vị và tiếng tăm của mình trong giới lục lâm, nay nghe Ban Sơn đạo nhân Gà Gô nói có một pho Ban Sơn Phân Giáp Thuật có thể thi triển thì như mở cờ trong bụng, vội nói: “Không biết thuật này có thể dùng thế nào? Tôi muốn nghe cho kỹ, nếu quả thật dùng được sẽ lập tức phong đài bái tướng!”

    Gà Gô nói: “Đào mộ bằng thuật không có nghĩa là không cần sức, muốn đào mộ cổ trong núi Bình Sơn bắt buộc hai phái Ban Sơn Xả Lĩnh phải cùng chung tay, còn về Ban Sơn Phân Giáp thuật…” Anh ta thoáng trầm ngâm đoạn nói tiếp: “thiết nghĩ, nguyên lý thiên nhân tương ứng có trong Xuân Thu, Chu Dịch cũng ghi chép lại chuyện dư ương[24], dư khánh. Nghe nói Mô Kim hiệu úy dùng Dịch đào mộ là do kế thừa từ đời xưa, pháp thuật của Ban Sơn đạo nhân cũng đã có lai lịch trên ngàn năm, có điều Ban Sơn Phân Giáp thuật không giống với bất kỳ phương thuật nào trên đời, tuy theo đuổi sinh khắc chế hóa, nhưng lại không xuất phát từ nguyên lý ngũ hành sinh khắc của Dịch. Vạn sự vạn vật trên đời dù mạnh đến đâu cũng có cái chế ngự, cường nhược sinh khắc chế ngự lẫn nhau, đó chính là thuật của phái Ban Sơn.”

    Gà Gô cho rằng sau núi Bình Sơn có vô số loài độc vật sinh trưởng, tu luyện nhờ vào dược tính trong núi, sớm muộn gì cũng sinh ra họa lớn, dù không đào bới ngôi mộ cổ thì cũng phải trừ khử tận gốc mối họa này, nhưng việc cần kíp trước tiên là phải tìm xung quanh Bình Sơn xem có vật gì thiên tạo, khắc chế được đám độc vật trong núi kia không.

    Lão Trần là người tinh nhanh, nghe xong liền bừng tỉnh, có câu “yếu khắc mạnh, chẳng ở hình dáng to nhỏ”, giống như một con rắn lục ba tấc có thể cắn chết một con mãng xà dài mấy trượng, chỉ cần tìm ra báu vật khắc yêu trừ độc thì lo gì không quật được ngôi mộ cổ trong núi Bình Sơn? Lão lộ vẻ xúc động, đập bàn đứng dậy họa theo: “Nghe lời vàng ngọc của người quân tử, thực đúng như vén mây nhìn thấy mặt trời, thiết nghĩ loài độc vật trăm năm tuổi ẩn mình trong lòng mộ cổ kia hấp thu được khí trong núi và âm khí của địa cung, lăm le hại người, hậu quả thật khôn lường. Phái Xả Lĩnh chúng tôi, dẫu không ham giành châu báu trong mộ cũng nhất định phải tiêu diệt sạch bọn chúng, việc công đức này mà làm đến tận cùng, không chừng thì còn nhờ đó mà thành tiền nữa ấy à…” Lão xưa nay vốn chẳng tin gì chuyện thần Phật tu tiên, lúc này nói vậy chẳng qua muốn để Ban Sơn đạo nhân biết rằng, những tay hảo hán của Thường Thắng sơn không phải chỉ chăm chăm đào mộ mưu cầu tài vật, mà vẫn luôn có lòng cứu giúp muôn dân.

    Hai người bàn bạc rất lâu, sau cùng cũng quyết định cải trang thay hình đổi dạng, lại làm một chuyến tới mấy bản người Miêu quanh núi Bình Sơn. Gà Gô tuy sát khí lộ rõ giữa hai hàng chân mày, nhưng anh ta lăn lộn núi rừng đã lâu, lại thông thuộc phương ngữ các nơi, hiểu rõ phong tục tập quán, nếu có cải trang thành thanh niên Băng Gia Miêu thì chỉ cần không đụng phải cao thủ trong giới lục lâm, chắc chắn sẽ không bao giờ bại lộ.

    Lão Trần đã quen làm thủ lĩnh Thường Thắng sơn, thoạt nhìn là biết ngay là dân giang hồ chứ dứt khoát chẳng phải hạng con buôn gì, vì vậy chỉ có thể cải trang thành thầy bói xem tướng hoặc thầy địa lý xem phong thủy, bằng không thì là nghệ nhân một trong bảy mươi hai nghề.

    Cuối cùng Gà Gô đành giúp lão cải trang thành gã thợ học việc. Ở Tương Tây có nhiều nhà sàn, thường có cánh thợ mộc vượt núi xuyên bản, giúp người dân dựng nhà sửa cửa đổi lấy sơn vật mưu sinh, ở đây sơn dân gọi họ là thợ buộc lầu. Chẳng quản núi sâu rừng rậm, chỉ cần nơi nào có làng bản sơn dân sinh sống là nơi đó có dấu vết của thợ buộc lầu, nên có đóng giả chắc cũng sẽ không bị nghi ngờ mảy may.

    Lão Trần thân phận cao quý, đi đến đâu cũng phải kéo theo vô số tay chân thuốc hạ, nay gã câm Ma Lặc và Hoa Ma Linh đều đã chết, đám trộm mộ Xả Lĩnh sao có thể yên tâm để thủ lĩnh một thân một mình lên núi cùng Ban Sơn đạo nhân. La Lão Oai thì thương tích vẫn chưa lành không thể đi theo, cuối cùng chỉ đành để cho Hồng cô nương đi với lão và Gà Gô, ngoài ra còn có hai mươi tay súng âm thầm theo sau tiếp ứng. Đám lính của La Lão Oai hết đào bới lại cho nổ mìn trên núi Bình Sơn, ồn ào huyên náo kinh động tới mấy phiến quân cùng đám sơn tặc thổ phỉ lân cận, bọn người đó không phải vây cánh Thường Thắng sơn, nhìn thấy mộ cổ Bình Sơn cũng thèm chảy nước dãi, chỉ vì thế lực không bằng La Lão Oai, lại thấy đám trộm Xả Lĩnh bị ăn quả đắng nên mới không dám manh động. Dù vậy chúng vẫn cứ mật thám lân la nghe ngóng, định thừa cơ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Thế nên, trùm sỏ phái Xả Lĩnh lần này đích thân lên núi thăm dò quả thật vô cùng mạo hiểm, nhất định phải chuẩn bị chu đáo, tránh xảy ra bất trắc.

    Gà Gô thấy thế có vẻ xem thường, nhíu mày đợi mãi hồi lâu, lão Trần mới bố trí xong xuôi, cùng anh ta và Hồng cô nương, ba người cải trang thành thợ buộc lầu, lại ép tay người Miêu bị bắt theo làm hướng dẫn viên lúc trước dẫn đường, khởi hành xuống Lão Hùng Lĩnh tiến vào vùng thâm sơn.

    Quanh núi Bình Sơn dân sinh sống thưa thớt nên chỉ lác đác có mấy bản làng, dân làng bản Nam ở gần nhất đã bị bọn công binh dọa cho chết khiếp, đều đã bỏ của chạy lấy người. Nhờ có tay người Miêu dẫn đường, đám người Gà Gô xuyên qua một khe sâu trong núi, tiến thẳng về bản Bắc.

    Đoạn đường này càng đi càng nguy hiểm, hầu như đều là rừng rậm nguyên sinh không có lối mòn, thông thường để miêu tả cảnh sắc nước non người ta thường dùng từ “mỹ lệ”, nhưng với khe núi vẫn được dân bản địa gọi là khe Sa Đao này, chỉ có thể dùng một từ “kỳ mỹ” để hình dung. Nhìn ra trước mặt, kỳ phong san sát, quái thạch bắc ngang, sâu trong khe núi vài trăm mét có hàng ngàn ngọn nhũ đá thẳng tắp cao vút, muôn hình vạn trạng, chĩa lên trời xanh. Trong khe núi mây trời lồng lộng, sương trắng cuộn bay, tầng tầng lớp lớp những mỏm đã hình thù kỳ quái lúc ẩn lúc hiện trong làn sương mù, khắp dọc đường đi, đâu đâu cũng thấy những phong cảnh kỳ vĩ như vậy.

    May có anh chàng người Miêu thông thuộc địa hình, nên cả bọn cũng không sợ lạc đường giữa chốn núi non kỳ quái này. Tay người Miêu vốn nhát như thỏ đế, biết bọn người lão Trần là đầu đảng phiến quân thì hầu hạ hết mực cẩn thận, nào dám có gan bỏ trốn. Lại thêm anh ta dẫu sao cũng là một “yên khách”, tức kẻ nghiện thuốc phiện theo cách gọi của sơn dân, đám lính dưới trướng La Lão Oai người nào người nấy đều hai tay hai “súng”, một cái để giết người, một cái để diệt thuốc, có lần anh ta được hưởng sái một ít cao Phúc Thọ, thứ cao thuốc thượng đẳng mà ngày thường có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến, chưa bao giờ được bữa sảng khoái đê mê đến vậy, cho nên đã quyết một lòng dạ theo hầu lão Trần.

    Khe Sa Đao một đầu thông với Bình Sơn, đầu còn lại thông với bản Bắc lớn nhất trong vùng, tuy khoảng cách theo đường chim bay không xa nhưng đường bộ hiểm trở nên ít người qua lại. Nhóm người lão Trần đi theo anh chàng người Miêu, vượt núi xuyên rừng cả ngày lẫn đêm, tờ mờ sáng ngày hôm sau thì nghe thấy tiếng gà gáy râm ran, rốt cuộc đã tới được bản Bắc.

    Bản Bắc còn có tên gọi là bản Kim Phong, hình thành từ vài trăm năm trước, là nơi cư trú của nhóm người Kim Miêu mưu sinh bằng nghề đào vàng, ngày nay trong bản còn có cả người Di người Hán. Sơn dân vốn quen dậy sớm, trời vừa sáng đã lục tục chui ra từ các căn nhà sàn, người nào người nấy bận bịu với công việc, quang cảnh thật ồn ào náo nhiệt. Thời buổi loạn lạc, bản làng tuy ở nơi non cao rừng thăm thẳm nhưng vẫn phải đề phòng bọn sơn tặc thổ phỉ tới cướp bóc, trong bản lập ra một đội dân phòng, mang theo ná và giáo mác, gác ở đầu hẻm núi kiểm tra những thương nhân từ nơi xa tới.

    Lão Trần và Gà Gô đã quen hành tẩu giang hồ, bị mấy sơn dân giữ lại xét hỏi liền đáp ứng thành thạo, dễ dàng mạo danh thợ buộc lầu trà trộn vào bản. Bọn lão Trần phải cải trang vào bản chủ yếu do bách tính trong núi đã căm hận phiến quân thổ phỉ đến tận xương tủy, hễ thấy bóng dáng chúng, nếu không nhất loạt bắn ná thì cũng cuốn gói chạy tuốt vào rừng sâu, muốn moi tin từ miệng sơn dân, nhất định phải cải trang, tránh gây hoảng loạn không cần thiết trong đám dân bản.

    Người trong bản thấy có người từ bên ngoài tới đều tò mò quay lại, xem bọn họ là người bán rong hay thương lái. Gà Gô láu tôm láu cá, thấy sơn dân kéo tới một lúc một đông bèn lên tiếng chào hỏi, đoạn xướng lên bài khẩu tán nghề mộc của thợ buộc lầu. “Khẩu tán” chính là “bài tuyên truyền quảng cáo” với khách hành khi hành nghề, chuyên dùng để khoe khoang tay nghề bản thân, cũng là những lời có vần có điệu để kính thiên cáo thần, mong được ăn nên làm ra, lúc thì hát khi lại đọc. Nghề nào có khẩu tán nghề ấy, gánh hát có hí tán, thuyết thư có thư tán, nghề mối lái có hiệu tử tán, nghề mổ lợn có sinh nhục tán, riêng nghề thợ mộc có những hơnười loại khẩu tán, nào thương lương tán, khai đường tán…

    Gà Gô tinh thông trăm nghề, lại là kẻ tinh nhanh, giả gì giống nấy, lúc này xướng lên bài khai đường khẩu tán, giống hệt mấy tay thợ mộc chính hiệu vẫn hành nghề trong núi, sơn dân nghe anh ta hát xong thì đồng thanh reo hò cổ vũ, không tiếc lời khen: “Anh thợ mộc này thật giỏi, hát khẩu tán hay quá!”, những sơn dân có mặt ở đó không ai không thích.

    Lão Trần và Hồng cô nương đứng bên nghe hát cũng phải nhìn anh ta bằng con mắt khác. Nhìn từ góc độ này, Gà Gô giống hệt một chàng thợ mộc trẻ trung tuấn tú, nhất cử nhất động đều không chút sơ sẩy, đâu thể nhận ra thân phận thật sự của thủ lĩnh Ban Sơn đạo nhân sở trường Phân Giáp Thuật, chuyên giết người phóng hỏa, đào bới biết bao mộ cổ.

    Lão Trần lo bị lép vế, cũng vội họa theo: “Chẳng giấu gì bà con, ba anh em tôi tuy tuổi đời còn trẻ nhưng tay nghề buộc lầu thì chẳng kém ai, biết nghề từ lúc còn nằm trong bụng mẹ, buộc lầu buộc ghế không gì không tinh, ghép mộng đóng chốt đều kiêm hết thảy, việc gì liên quan đến nghề mộc cứ gọi chúng tôi…” Lão mặt dày dạn khoác lác một tràng, chỉ còn thiếu nước nhận mình là Lỗ Ban chuyển thế đầu thai. Người Miêu cực kỳ kính trọng Lỗ Ban, tương truyền phương pháp dựng nhà của người Miêu Động chính là do Lỗ Ban truyền dạy, nếu lão nói khoác tung giời sẽ tự lộ ra sơ hở, chẳng ai tin nổi.

    Hồng cô nương kia cũng là tay mãi nghệ giang hồ xuất thân từ Nguyệt Lương Môn, khả năng ca xướng ca khẩu tán chẳng kém gì Gà Gô và lão Trần. Ba người họ kẻ tung người hứng ăn ý vô cùng, nhanh chóng có được lòng tin của đám sơn dân, ai thuê việc gì to tát phức tạp thì họ lấy cớ lùi sang hôm sau, chỉ nhận việc vặt sữa chửa linh tinh, tay dẫn đường người Miêu cũng bận bịu chạy tới chạy lui. Cứ thế tất bật đến tận trưa thì nhờ bếp một người già trong bản để thổi cơm ăn, lúc này mới có thời gian làm việc chính.

    Bản Bắc cùng chung phong tục với bản Nam mà lão Trần tới lần trước, tầng dưới nhà sàn nào cũng có tô tem huyền điểu làm bằng gỗ đen bóng, xem chừng niên đại đã rất lâu. Trước đây lão Trần không hề để ý đến chuyện này, vì từ xưa Tương Tây đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Vu Sở, tranh huyền điểu vẽ trên vách đá cổ và những tô tem thế này có thể thấy ở khắp nơi, tuy thần kỳ cổ quái nhưng chẳng có gì đáng lưu tâm.

    Cặp mắt Gà Gô Gáy còn tinh hơn lão Trần, nhìn vật hay người đều cực kỳ chuẩn xác, anh ta đặt bát cơm xuống, thi lễ với chủ nhà rồi hỏi về ý nghĩa của các hình vẽ huyền điểu này. Ông chủ nhà hồi trẻ là môn đệ của phái Kim Trạch Lôi Đàn, về sau lánh nạn mới đến đây định cư, cũng đã hơn hai mươi năm rồi. Nghe Gà Gô hỏi lão lắc đầu quầy quậy: “Huyền điểu thực ra chính là phượng hoàng đấy! Người miền núi Tương Tây đa số đều thờ huyền điểu. Tương Tây có một thị trấn cổ ở biên thành, tên là Phượng Hoàng, mạch núi thế núi giống như một con phượng hoàng đang dang cánh. Người Tương Tây cho rằng phượng hoàng có thể trấn mạch bảo an nên mới mang gỗ tốt khắc thành hình huyền điểu, mấy thứ đó quá đỗi bình thường ở chỗ chúng tao, ở đây nhà nào cũng có huyền điểu do tổ tiên để lại, người khác đến đây sinh sống phần lớn đều nhập gia tùy tục.”

    Quả nhiên không ngoài dự liệu, huyền điểu bắt nguồn từ nền văn hóa Vu Sở, Gà Gô và lão Trần nghe xong đều lặng lẽ gật gù, có gạn hỏi thêm cũng chẳng moi được gì, đành lặng lẽ ăn cơm, vừa ăn vừa nghe ngóng tình hình trong bản, tính kiếm xem có thứ gì khắc chế được đám độc vật trong núi kia không. Bản Bắc này rất gần với Bình Sơn, vậy mà thổ dân không trúng độc bao giờ, chắc hắn họ có bí quyết khắc độc nào đó mà chính họ cũng không hề biết. Bọn người lão Trần đành giở thủ đoạn dõng tai nghe ngóng, đích thân sục sạo khắp nơi.

    Đúng lúc ấy chợt nghe tiếng gà gáy vang, thì ra là con trai chủ nhà đang bắt một con gà trống trong lồng, bát to đựng tiết và đôn gỗ để sẵn bên cạnh, con dao sống dày vứt ngay dưới đất, trông bộ dạng hình như chuẩn bị giết gà.

    Con gà trống này lông vũ sặc sỡ, đã bị trói giật cánh khuỷu mà vẫn không mất đi dáng vẻ dũng mãnh uy phong, thần thái rất cao ngạo khó thuần. Nó không nộ mà oai, cốt cách toát ra từ cái mào đỏ chót, cứ thế mà gáy vang giữa ban ngày, không hề giống những con gà trống thông thường. Cái mào của nó vừa to vừa đỏ, mỗi khi đầu nó động đậy cái mào đỏ tươi lại rung lên, trông như ngọn lửa đang cháy. Lông trên mình nó chia làm năm màu, mỏ và móng vuốt sắc nhọn lấp lánh vàng dưới ánh nắng ban trưa, hình dáng cũng to gấp đôi con gà trống thông thường.

    Gà Gô có con mắt hơn người, nguyên lý cơ bản của Ban Sơn Phân Giáp thuật lưu truyền bao đời nay đều nằm trong bốn chữ “sinh khắc chế hóa”, muốn tinh thông nguyên lý của sinh khắc, cần phải biết hết bảo vật nhân gian. Anh ta vừa thấy con gà trống lông vũ sặc sỡ thì biết ngay không phải vật thường, liền khen thầm: “Quả là thần vật!” Hòn đá đang đè nặng trong lòng lập tức được hất bỏ, không ngờ đến bản Kim Phong mới có nữa ngày, chưa kịp để ý kỹ càng đã gặp ngay việc này, xem ra thần vật phá mộ cổ Bình Sơn đích thị là đây.

    Lúc này con trai chủ nhà đã xách con gà trống tới bên cọc tre, con dao phay lăm lăm trong tay chỉ chực vung lên chặt đứt cổ con gà trong tích tắc, Gà Gô đang đờ đẫn nhìn con gà, thấy tình thế nguy cấp vội hắng giọng hét lớn: “Hãy khoan!”

    Chủ nhà và con trai đang muốn giết gà, không ngờ lại bị tay thợ mộc trẻ tuổi can ngăn, đều không rõ anh ta định thế nào. Nghĩ tay thợ mộc nhiều chuyện, ông ra bèn trách: “Nhà tao giết gà liên quan gì đến người ngoài, mày đừng xen vào.”

    Gà Gô cười cầu tài nói: “Lão trượng chớ lấy làm lạ, chỉ vì tôi thấy con gà này tốt mã, đám gia cầm bình thường sao có được tướng mạo phi phàm như nó thế này, đang yênang lành không biêt sao lại đem giết nó? Nếu lão trượng buông dao phóng sinh tôi sẽ mua nó.”

    Lão Trần cũng nói vào: “Có phải lão tiên sinh giết gà đãi khách…chiêu đãi bọn tôi? Hà tất phải vậy, cánh thợ mộc chúng tôi chỉ ngày rằm mồng một mới ăn mặn, mỗi người hai lạng thịt, mà còn phải bớt này bớt nọ, đó là quy định lề thói từ xưa Tổ sư gia đã đặt, không thể vi phạm, hẵng cứ hạ dao thả gà…”

    Chủ nhà ỷ mình vốn là môn đệ Kim Trạch Lôi Đàn, tuy lánh nạn ở bản Miêu thâm sơn cùng cốc nhưng không xem đám thợ mộc buộc lầu ra gì: “Chúng mày trẻ người non dạ không hiểu lệ xưa. Nhà tao giết gà không phải đãi khách, chỉ vì không thể để nó sống qua hôm nay, dù chúng mày trả vạn tiền mua, tao vẫn phải chặt đầu nó.”
     
  2. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 22: Chó Không Qúa Tám Năm, Gà Không Qua Sáu Tuổi
    Lão chủ nhà không muốn lỡ thì giờ, bèn bảo anh con trai lập tức giết gà, con trai ông ta là một gã cục mịch to xác hơn ba mươi tuổi, tay trái anh ta đang túm chặt hai cánh con gà, tay kia cầm con dao phay đã hoen gỉ. Cách giết gà không nằm ngoài bốn chữ “một cắt một chặt”, đưa lưỡi dao kề sát cổ gà, cắt đứt mạch máu và khí quản, đợi cho máu chảy hết gà ắt tắt thở. Một chặt là dao phây chém xuống, chặt lìa cổ gà, nhưng gà trống là loài dũng mãnh vô song, nên tuy đầu đã rơi khỏi cổ nhưng phần thân không đầu vẫn nhảy nhót lung tung do các dây thần kinh trong cơ thể chưa chết hẳn, cảnh tượng thập phần máu me ghê rợn.

    Đối với các gia đình sơn dân nông dân, giết gà giết ngỗng là việc hết sức bình thường, cứ nhìn dáng giết gà của con trai chủ nhà thì biết ngay anh ta định dung dao chém phăng đầu gà. Gà Gô và lão Trần đá mắt nhìn nhau, hai người họ muốn giành lấy con gà của lão chủ nhà chỉ là chuyện vặt, chưa cần nói đến cưỡng chế cướp không, chỉ cần đập ra một thỏi “đại hoàng ngư” lấp lánh vàng chẳng nhẽ lại không mua được. Nhưng thợ buộc lầu lấy đâu ra vàng thỏi, làm như thế chẳng hóa ra tự vạch áo cho người xem lưng, khó tránh lộ thân phận, đến nước này đành phải tùy cơ ứng biến, bước lên trước ngăn gã sơn dân kia giết gà.

    Hai người họ là đầu sỏ đám trộm cướp lục lâm, chuyên giết người cướp của chứ đâu phải là phường cắp gà trộm chó tầm thường, tuy cải trang làm thợ buộc lầu nhưng tác phong cử chỉ vẫn không giấu được tướng tá lẫm liệt, lời tiện miệng nói ra cũng tự thấp thoáng khí độ trấn nhiếp.

    Hai bố con chủ nhà năm lần bảy lượt bị họ ngăn cản không cho giết gà, tuy bực mình nhưng thấy lời nói cử chỉ bọn họ hiên ngang bất phàm, không dám tùy tiện nổi giận, chỉ trách rằng: “Thợ buộc lầu chúng mày thật không biết điều, con gà nhà tao cho ăn uống mới lớn từng này, muốn giết thì giết, muốn nuôi thì nuôi, làm thế nào là việc nhà tao, đến ông trời còn không quản được nữa là…”

    Lão Trần thấy Gà Gô cứ nhất quyết mua bằng được con gà thì trong bụng đã hiểu tám chin phần. Gà trống vốn là khắc tinh của loài rết, hơn nữa con gà này lại tuấn kiệt phi phàm, chắc sẽ trấn nhiếp được con rết sáu cánh thành tinh dưới mộ cổ, có được con gà này nắm chắc đại sự sẽ thành, việc cần làm bây giờ là làm sao dọa gạ gẫm để bắt nó đi.

    Lão đảo mắt một vòng tính kế, đoạn quay sang cười hì hì với chủ nhà, chắp tay nói: “Lần lữa cản trở việc của gia đình, hẵng xin lão trượng lượng thứ. Ba anh em chúng tôi đây vốn chẳng phải ruột rà, vì cùng sư môn nên mới kết thành sư huynh sư muội, bao năm nay vượt núi xuyên bản nương tựa lẫn nhau,ấy ngề buộc lầu làm kế sinh nhai, gặp phải thời buổi loạn lạc vẫn quyết không chia đàn xẻ nghé, ngụm nước chia ba, miếng lương khô bẻ đều. Chỉ vì năm xưa, trước bài vị Tổ sư gia từng cắt cổ gà, đốt vàng mã, kết nghĩa anh em đồng lòng đồng dạ, tuy không dám sánh với kết nghĩa vườn đào nhưng lời thề nguyền đến nay vẫn còn văng vẳng bên tai, có hoàng thiên hậu thổ, thần nhân chứng giám cho lời thề kê minh, nếu có chút nào bội phản, kết cục sẽ thê thảm như cái đầu gà bị chặt lúc đó, vì thế mà ba anh em tôi đồng lòng thề đến chết không ăn thịt gà, cũng không để người khác giết gà trước mặt mình, nếu gặp cảnh giết gà thì phải bỏ tiền chuộc mạng cho nó.”

    Lão Trần bịa ra chuyện lời thề kê minh, sau còn giở mánh khóe quen thuộc, bảo con gà này có bộ lông ngũ sắc, mắt sáng như sao, quyết không phải vật tầm thường, nếu đem giết đi ắt sẽ xúi quẩy, nhẹ thì chiêu tai gọi họa, nặng thì trong nhà mất người, gặp họa đao binh. Cánh thợ mộc dựng nhà xưa nay nắm giữ bí thuật của Lỗ Ban, rất giỏi yểm thắng[25] tương trạch, còn biết bày trận bùa phép ở các cửa. Nghe nói có nhà đang rất giàu có, sau khi chuyển vào nhà mới gia cảnh cứ lụn bại dần, may nhờ cao nhân chỉ dạy mới biết trong lúc xây nhà mới, do ăn bớt tiền của thợ mộc nên bị họ bày trận áp thắng trong nhà, quả nhiên sau khi dỡ tường đào xuống bốn chân cột ở bốn góc thì thấy bên dưới chôn bốn cỗ xe ngựa chở đầy tiền đồng, tất cả được làm bằng giấy cứng, bốn cỗ xe quay về bốn hướng khác nhau, rất giống như đang chở tiền bạc của gia chủ ra khỏi nhà. Sau khi biết được bùa trận mà thợ mộc yểm trộm, gia chủ cũng không bỏ bốn cỗ xe ngựa giấy kia đi mà quay đầu xe lại, đem tài vật từ ngoài đổ về nhà, từ đó trở đi quả nhiên tiền tài như nước.

    Đây chỉ là truyền thuyết dân gian nhưng chứng tỏ phép thuật của phường thợ mộc đã có từ xưa, cho nên bách tính không hế mảy may nghi ngờ chuyện thợ buộc lầu thông hiểu rất nhiều dị thuật. Lão Trần dựa vào đó mà hù dọa, lời nói có tình có lý, còn mang chuyện năm xưa ba sư huynh muội cùng lời thề kê minh ra nói, nói đi nói lại, rốt cuộc cũng chỉ vì một mục đích, là chuộc mạng cho con gà tướng tá bất phàm này.

    Lão Trần học rộng hiểu nhiều, lý sự cao thâm, lại có tài tùy cơ ứng biến, có câu phú quý từ miệng hung cát từ tâm, nói bã bọt mép chỉ mong xoay chuyển được ý định của chủ nhà. Ai ngờ chủ nhà lòng gang dạ sắt, không xem lời lão ra gì, vẫn lắc đầu nói: “Phường dựng nhà chúng mày biết một mà không biết hai, giao con gà này cho chúng mày nghĩa là đổ hết tai họa cho chúng mày đấy, chuyện thất đức như vậy sao tao làm được? Con gà này không phải là gà mà là yêu vật, chúng mày sinh sau đẻ muộn lẽ nào chưa nghe câu “chó không quá tám năm, gà không qua sáu tuổi”?

    Lão Trần và Gà Gô khi trước không hề nghĩ tới phong tục cổ xưa này, giờ nghe nói mới vỡ lẽ, “Ồ! Hóa ra giết gà là vì thế!” Thì ra chủ nhà vốn là môn đệ của Kim Trạch Lôi Đàn, vùng núi Tương Tây có hai Lôi Đàn lớn là Hồ và Kim, đều là những đạo môn tiếng tăm lừng lẫy. Hai môn phái này có cả đạo nhân và phương sĩ, giỏi bùa Thần Châu, mấy trăm năm nay mưu sinh bằng ngề bê nước đuổi thây hoặc trừ mê giải độc. Những năm gần đây giặc cướp nổi lên, cuộc sống lương dân không sao yên ổn, tình hình trong môn phái sa sút không được như xưa, những người lưu lạc tới núi sâu heo hút sống qua ngày như lão trượng đây không phải là ít. Ông ta tuy chẳng là gì trong Kim Trạch Lôi Đàn nhưng cũng thông hiểu một vài phương thuật, tuyệt đối tin vào thuyết Dịch Yêu.

    Dịch Yêu là một cuốn cổ tập, bắt đầu được lưu truyền từ thời Tam Quốc Lưỡng Tấn, chuyên giảng về những hiện tượng yêu dị trên đời, cái gì là yêu? Dịch Yêu cho rằng không hợp với lẽ thường tất ắt sẽ là “yêu”, một khi có hiện tượng đặc biệt xuất hiện không hợp với lẽ thường, đó chính là điềm báo về thiên hạ đại loạn hoặc đại nạn cập kề. “Chó không quá tám năm, gà không qua sáu tuổi” là cách nói bắt nguồn từ cuốn Dịch Yêu, do ảnh hưởng tư tưởng mê tín phong kiến trong xã hội cũ mà nhân gian vẫn rất mực tin tưởng.

    Câu nói này chỉ những loài cầm súc chó gà nuôi trong nhà đều không thể nuôi quá nhiều năm, bởi nếu để chúng sống quá lâu trong xã hội loài người, hằng ngày tiếp xúc với con người, tai nghe tiếng người nói, mắt quan sát nhất cử nhất động của con người, dần dần chúng sẽ thông hiểu tính người, sớm muộn cũng thành tinh thành quái, làm ra những việc xấu hãm hại con người.

    Nghe kể rằng năm đó có một phú ông, con cháu tôi tớ đầy nhà, phú ông nuôi một con chó trắng, con chó này hiểu ý chủ nên rất được yêu chiều, hằng ngày không rời chủ nửa bước, chủ ra ngoài chơi cũng dẫn nó đi theo. Về sau lão phú ông đột ngột lâm bạo bệnh qua đời, sau khi chôn cất xong xuôi, người nhà không thấy con chó già của ông ta đâu nữa, mọi người tưởng con chó nhớ thương chủ, chủ nó chết nó cũng đau lòng bỏ đi hoặc chết ở đâu rồi, nên chẳng mấy để tâm.

    Không ngờ đúng một năm sau ngày mất, một tối nọ lão phú ông đột ngột trở về, người nhà lúc đầu tưởng là quỷ nhập tràng nên ai cũng sợ, nhưng lại thấy lời nói cử chỉ của ông đều giống hệt như lúc sinh thời. Ông ta bảo một năm trước mình bị hôn mê ngất đi, nên mọi người cứ ngỡ mắc bạo bệnh mà chết, đem đi chôn sống, may sao cơ duyên xảo hợp, lúc đó có một đạo sĩ ngang qua mộ phần, cứu được ông ta, sau đó ông ta đi theo đạo sĩ du ngoạn khắp danh sơn ngũ nhạc, mãi hôm nay mới về đến nhà.

    Người nhà thấy lão phú ông còn sống thì mừng lắm, ông chủ cũng hệt như trước, thói quen và khẩu vị ăn uống chẳng thay đổi chút nào, ban ngày xử lý mọi việc to nhỏ trong nhà, thưởng phạt phân minh ai ai cũng phục, tối đến lại ngủ cùng tam thê tứ thiếp, cứ như vậy suốt hơn nửa năm, gia tộc lại trở nên êm ấm hưng thịnh.

    Đến hôm sinh nhật, cũng là ngày mừng thọ lão phú ông, buổi tối có tiệc đãi khách nên ông ta uống hơi quá chén, hơi men chếnh choáng ngủ gục ngay bàn. ỗng nhiên một cơn gió lạnh thổi ngoài cửa vào, đèn nến trong sảnh tắt ngấm, người hầu vội châm lại đèn định dìu ông chủ vào trong nghỉ ngơi. Nào ngờ đèn vừa sáng, chẳng thấy ông chủ đâu, chỉ có con chó già lông trắng đang cuộn tròn trên chiếc ghế bành ngủ say như chết, mùi rượu từ mõm nó phả ra nồng nặc. Tất cả những người có mặt đều tái mét mặt mày, bấy giờ mới biết lão phú ông đã chết từ lâu, nửa năm nay là con yêu quái này làm loạn trong nhà, bèn nhân lúc nó đang ngủ say dung dao chặt thành từng khúc, rồi đem đốt xác cháy thành tro.

    Từ thời Tần Hán tới thời Lưỡng Tấn, những câu chuyện đại loại như thế này nhan nhản khắp nơi, không chỉ bách tính đinh ninh là thật mà bậc đại phu hễ mở mồm ra cũng hay nhắc tới. Những việc kì quái ấy được coi là điềm báo đặc biệt cho họa binh đao hoặc quân vương vô đạo. Mãi đến tận sau này, người ta mới thôi không nhắc tới nữa, nhưng chó mèo vịt gà nuôi trong nhà vẫn thường tránh không để chó nuôi quá tám năm, gà chăn qua sáu tuổi. Bởi nhiều người vẫn tin rằng nếu để chúng lại trong nhân gian quá lâu, hằng ngày chứng kiến mọi sự vật trong nhân thế ắt nảy sinh tư duy, chỉ cần vượt quá thời gian sáu năm tám tuổi, chúng sẽ có thể làm ra những việc tà ma người thường khó mà tin nổi, nhất định phải đề phòng, ngay Khổng Lão Phu Tử cũng nói “không thể làm bạn với súc sinh”.

    Lão trượng ở bản Kim Phong nuôi con gà trống này đã gần sáu năm, dáng vẻ nó quả là tuyệt đẹp, năm đó trong bản gà đẻ nhiều trứng nhưng đều hỏng hết, nhà ông chỉ có mỗi một quả nở ra con gà trống này, những thứ khác đều là vỏ không. Nghĩ rằng con gà trống này là kết tinh của trời đất, nên ông ta yêu quý coi nó như báu vật, ngày ngày đều cho nó ăn những thứ ngon lành, con gà trống cũng không phụ lòng yêu của chủ, trong núi rất nhiều trùng độc và rắn hổ mang, là mối đại họa đối với sơn dân, con gà trống ngày đêm tìm bắt trùng độc dưới sàn nhà, khi trời tờ mờ sáng lại cất tiếng gáy vang, chuẩn xác còn hơn đồng hồ báo thức nên chủ nhà không nỡ giết. Có điều thời hạn sáu năm đã đến, để cho nó sống sợ không lành, thể theo lệ cũ, hôm nay trước khi trời tối nhất đ̏nh phải mang nó ra cắt tiết, bằng không gặp rắc rối thì hối cũng không kịp, vậy nên chủ nhà bèn cho nó ăn một bữa no diều, rồi mài dao phây thật sắc chuẩn bị giết gà.

    Lão Trần rốt cuộc cũng rõ nguyên do, nếu đổi vào tình cảnh khác, tốt xấu gì chắc cũng lừa lấy được con gà trống này, nhưng gà qua sáu tuổi xưa nay vốn không lành, nếu để lại sẽ đem đến xui xẻo cho chủ nhà. Sơn dân Tương Tây nhất quyết tin như vậy, ông chủ nhà này tính tình lại có vẻ ngang ngược, không biết nói sao để ông ta hồi tâm chuyển ý? E dẫu đổi hai thỏi đại hoàng ngư ông ta cũng chẳng cần, nước bọt không có tác dụng thì phải giở thủ đoạn ra thôi.

    Ý nghĩ vừa lóe lên, lão lập tức đánh mắt với Hồng cô nương. Hồng cô nương kín đáo gật đầu, cô ả rất giỏi món Cổ thái Hí pháp của Nguyệt Lương Môn. Trong Cổ thái Hí pháp có rất nhiều phương pháp bí mật tương tự như cạm bẫy, được gọi là “niêm, bài, hợp, qua, nguyệt, biệt, liên, khai”, trong đó quyết “nguyệt” là một phương pháp giống như thuật che mắt, người xem dù gần ngay trước mắt vẫn không phát hiện ra người dụng pháp thế nào để cắp núi qua biển, dời hình đổi vật. Nghệ nhân của Nguyệt Lương Môn giỏi nhất thuật này, chỉ cần Hồng cô nương ra tay dung thuật che mắt giấu ngay con gà ngay trước mặt cha con chủ nhà, thì dù cha con họ có mắt lửa ngươi vàng cũng không phát hiện ra cô ả làm thế nào, trơ mắt nhìn nhóm thợ mộc nẫng mất con gà, mà không tìm ra vật chứng thì có bắt bẻ bằng giời.

    Hồng cô nương đang định động thủ thì thấy Gà Gô thu tay vào ống tay áo, chỉ để lộ ra hai ngón tay khẽ xua, đó chính là ám hiệu trong giới giang hồ, ý bảo cô ta và lão Trần chớ vội manh động, nếu để chuyện xảy ra ngay trong bản, tuy bọn họ có thể dễ dàng thoát thân, nhưng sẽ gay go tới kế hoạch trộm mộ cổ Bình Sơn.

    Lão Trần và Hồng cô nương biết Ban Sơn đạo nhân hẳn có diệu kế, bèn án binh bất động, lẳng lặng quan sát, nửa vô tình nửa cố ý bước đến cạnh hai cha con chủ nhà, đợi lát nữa nóiãi mà ông ta vẫn không nghe, thì lập tức ra tay cướp lấy con gà, quyết không để hai cha con họ giết nó.

    Gà Gô nói với lão chủ nhà: “Chó không quá tám năm gà không qua sáu tuổi, theo lệ cũ quả thật không sai, nhưng thiên hạ thiếu gì chuyện lạ,không nên theo lệ cũ mà lý giải mọi điều, tiểu tử bất tài, xin được nói lý để lệnh tôn không giết con gà này.”

    Chủ nhà thấy Gà Gô thần thái ung dung, lời nói như phun châu nhả ngọc, bụng bảo dạ không nên thấy anh chàng này ít tuổi mà xem thường, nếu anh ta thật là thợ buộc lầu thì cũng quyết không phải hạng tầm thường, nhưng ông vẫn không tin anh ta có thể nói ra lời hay ý thật gì thuyết phục được mình, bất quá cũng chỉ như lão Trần kia, mở mồm là mấy câu lừa gạt giang hồ khí độc với chả ma thổi đèn, thôi thì cứ xem anh ta nói gì. Nghĩ vậy, ông liền bảo: “Thôi được, để tao nghe xem hậu sinh có cao kiến gì, nếu mày nói làm tao tâm phục khẩu phục thì con gà này sẽ tặng không cho mày. Thực lòng tao không nỡ giết nó, chỉ vì lệ cũ phải theo, tao làm sao cãi lại? Nếu mày không nói được thì đừng xía vào nữa nhé!”

    Gà Gô sớm đã có chủ ý, không muốn giở thủ đoạn giang hồ ra lừa gạt sơn dân, chỉ đợi lão trượng nói ra câu này, hai người cụng tay giao ước. Đoạn đưa tay lên ôm con gà lông ngũ sắc trong tay chủ nhà. Con gà trống tuy chết đến đít, nhưng chẳng biết nó không hiểu hay không sợ mà chẳng thèm giãy giụa, vẫn giương mắt nghển cổ, thần thái uy dung, phong độ điềm tĩnh hiên ngang như đại tướng thống binh.

    Gà Gô để mọi người nhìn kỹ con gà, rồi nói: “Chó không quá tám năm gà không qua sáu tuổi tuy là phong tục cổ xưa nhưng đến nay vẫn có nhiều người tin phục, đương nhiên không thể không theo. Phàm là gà nuôi trong nhà đều không thể để nó sống qua sáu tuổi, nhưng con gà này không phải là gà, nên không cần phải tuân theo lệ này.”

    Ông chủ nhà nghe thế thì lắc đầu quầy quậy, lão Trần cũng thầm kêu khổ, nghĩ bụng: “Gà Gô ơi là Gà Gô, thế mà nhận làm thủ lĩnh Ban Sơn, lại đi nói con gà trống này không phải gà, không là gà thì là cái gì? Chẳng lẽ là chim? Đến trẻ lên ba còn không tin được thì sao thuyết phục được lão già này, xem ra phải theo lệ cũ của phường lục lâm chúng ta…thẳng tay mà bắt gà đi thôi.”

    Gà Gô còn chưa nói xong, thấy mọi người đều có vẻ không tin liền nói tiếp: “Đã là gà thì mí mắt phải ngược với người, mí mắt của người nằm ở phía trên nên phần mí mắt có thể động đậy gọi là chớp mắt, còn loài gà mí mắt lại nằm bên dưới. Mọi người sao không để ý kỹ xem con gà trống này mí mắt thế nào?”

    Chủ nhà trước nay không hề để ý việc này, nhưng người nuôi gà ai mà chẳng biết mí mắt của gà nằm ở dưới. Nhìn kỹ thì thấy con gà trống lông ngũ sắc đang nghển cổ này quả nhiên có mí mắt ở trên giống người, nếu không chú ý kỹ chắc sẽ bỏ qua chi tiết này, ngay cả lão Trần học rộng biết nhiều lẫn Hồng cô nương cũng đều cảm thấy kỳ lại, liền hỏi: “Thế là thế nào?”

    Gà Gô nói: “Mí mắt như vậy chỉ vì nó không phải là gà.”

    Câu trả lời này khiến mọi người vẫn lơ mơ mờ tịt, ơ hay, không phải gà thì là gì?

    Gà Gô chẳng buồn làm vẻ thần bí nữa, nói thẳng luôn: “Tương Tây từ xưa đã có tô tem huyền điểu phượng hoàng, địa danh đặt ra cũng có liên quan về truyền thuyết phượng hoàng thời cổ, giống như huyện này gọi lả huyện Nộ Tinh. Nô Tinh chính là tượng phượng gáy, mí mắt con gà này nằm ở phía trên, lại them bộ lông ngũ sắc với móng vuốt ánh vàng, sao có thể là gà thường? Nó vốn chính là một loại phượng hoàng vô cùng hiếm, khắp thiên hạ này chỉ có huyện Nộ Tinh đất Tương Tây, gà Nộ Tinh!”
     
  3. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 23: Tài Kê Lệnh
    Gà Gô nói con gà này gọi là gà Nộ Tinh, kim kê báo sáng vốn có ý phân biệt đêm ngày âm dương, tiếng gáy sáng của gà Nộ Tinh chẳng những có tác dụng xua yêu giải độc, mà còn có thể diệt trừ ma quỷ. Loài gia cầm bình thường chỉ có mí mắt dưới, con gà này có mí mắt trên thì đích thị là “Phượng Hoàng”, tuy cũng gọi là gà nhưng tuyệt nhiên không thể xem như gà thường.

    Trên đời này thật sự có phượng hoàng hay không, chưa ai tận mắt trông thấy nên cũng không tiện bàn luận lung tung. Ngày nay nhiều người cho rằng “huyền điểu dụ hồn” chính là bắt nguồn từ tô tem gà trống. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đã có truyền thuyết về gà Nộ Tinh, nhưng đến thời Dân Quốc hiện nay, giống gà quý này rất hiếm gặp, dù ngay trên vùng dất Nộ Tinh Tương Tây đã sản sinh ra chúng, cũng dễ đến một hai trăm năm mới gặp một lần. Xưa nay “rồng bay phượng hót” vốn là điềm lành trong cõi nhân gian, bởi loài linh vật này chính là kết tinh của trời đất, giết hại bừa bãi tất sinh ra đại hoạ.

    Gà Gô khẩn thiết nói với chủ nhà: “Vì thế mới khuyên lão trượng không nên động dao giết gà.” Nói xong liền nhắc ông ta thực hiện giao ước khi nãy, nhượng lại con gà ngũ sắc cho mình, bản thân cũng chẳng lấy không, trong cái sọt sau lưng Hồng cô nương có một túi muối to, dễ đến hơn năm cân. Ở vùng sơn cước, muối còn có giá hơn tiền, đối với dân bản nơi thâm sơn cùng cốc này, hơn năm cân muối đâu phải chuyện nhỏ, Gà Gô bằng lòng mang túi muối này đổi lấy con gà.

    Ông chủ nhà nghe xong mới biết, hoá ra gà trống nhà mình đúng là báu vật nhân gian, bình thường giết gà mổ lợn là chuyện không đáng phải bàn, nhưng giết phượng mổ rồng thì ai có gan? Thế khác nào tự chuốc lấy vận đen? Ông ta lập tức bỏ ý định giết gà, chỉ giận mình lâu nay không chịu để ý mí mắt con gà cổ quái như vậy, giờ thì đành trơ mắt ếch, đem báu vật nhà mình trao cho đám thợ buộc lầu. Ông có ý muốn huỷ giao ước, nhưng cũng là kẻ có chút hiểu biết, vừa trông hai người Gà Gô và lão Trần đã biết không phải thợ buộc lầu tầm thường, chẳng may đắc tội với thợ buộc lầu biết bày bùa trận thì rắc rối to, đành chịu thiệt, cắt đặt con trai mang gà Nộ Tinh nhốt vào trong sọt tre, đem đổi lấy túi muối của đám thợ mộc.

    Lão Trần đứng bên nhìn thật sướng mắt, hàng ngày lão tự cho mình tài trí hơn người, bụng đầy học vấn, mấy năm nay lại dẫn dắt phái Xả Lĩnh đi khắp nơi trộm mộ, cũng coi là học cao hiểu rộng, ăn không ít gà quay, chém không ít đầu gà kết nghĩa, vậy mà quả thật cũng không biết mí mắt bọn gà nằm trên hay dưới.

    Bây giờ mới biết núi cao còn có núi cao hơn, người tài còn có người tài hơn, không thể không thầm giơ ngón tay cái khen ngợi. Ban Sơn đạo nhân thịnh vào thời Đường, đến nay tuy đã lâm vào cảnh chợ chiều, môn đệ còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng thuật Phân Giáp đã truyền cả ngàn năm quả có chỗ kỳ diệu. Mấy năm gần đây lại xuất hiện một nhân vật kiệt xuất như Gà Gô, xem ra ngày sau chính là thời Ban Sơn đạo nhân chấn hưng, nếu kéo được họ cùng nhập hội với Thường Thắng sơn thì lo gì Xả Lĩnh không có ngày hưng thịnh?

    Lão Trần còn đang âm thầm tính toán làm thế nào để kéo được Ban Sơn đạo nhân nhập bọn, thì Gà Gô đã trao đổi xong xuôi, cõng trên lưng sọt gà Nộ Tinh, chắp tay cáo từ chủ nhà rồi quay người bước ra khỏi cổng. Thấy lão Trần vẫn thừ người như kẻ mất hồn, Hồng cô nương liền kéo nhẹ tay lão. Lúc ấy lão mới giật mình sực tỉnh, vội vã chắp tay, cười hì hì với hai cha con chủ nhà, nói: “Đã quấy quả lão trượng, nếu có gì đắc tội, xin lão trượng hải hà lượng thứ, xin cáo từ”. Nói xong liền giũ tay áo, dẫn Hồng cô nương và anh chàng người Miêu dẫn đường đuổi theo Gà Gô.

    Chủ nhà từng là môn đệ phái Kim Trạch Lôi Đàn phải ngậm bồ hòn chịu thiệt, lại thua kém hiểu biết, càng nghĩ càng bực mình, thâm tâm ông ta cũng linh cảm đám người này không giống thợ buộc lầu, không nhịn được bèn nói với theo: “Bái sơn bái đến Bắc Cực sơn, Bắc Cực sơn mây tía tràn đầy, thập thất nhị danh sơn thiên hạ, chỉ có Bắc Sơn ánh kim quang... Cướp gà Nộ Tinh nhà tao, tốt xấu gì cũng nên để lại cái tên!”

    Thời đó bọn kết đảng buôn lậu nhiều như trấu vãi, lại thêm đám người chuyên hành tẩu giang hồ mãi nghệ kiếm ăn, lục lâm khắp nơi phân thành hai phái chính tà riêng biệt, đều lấy chữ “sơn” làm hiệu, mỗi “sơn” đại diện cho một ngành nghề hoặc một tổ chức độc lập, trong thiên hạ lớn thì có ba mươi sáu, nhỏ thì có bảy mươi hai “sơn”, ví như cánh thợ mộc đều thuộc Hắc Mộc sơn; ăn mày hành khất là Bách Hoa sơn; phường Cổ thái Hí pháp tạp kỹ mãi nghệ là Nguyệt Lương sơn; còn mấy môn đạo trước nay đều tự xưng là Bắc Cực sơn, thực ra cũng chỉ là nói phét không mắc cỡ, ám chỉ nơi thần tiên cư ngụ. Các nghề khi báo sơn đầu với nhau đều dùng tiếng lóng, gọi là “sơn kinh”, trong mỗi nghề mỗi đạo cũng có tiếng lóng riêng không truyền ra ngoài, so với “sơn kinh” thì phạm vi sử dụng nhỏ hơn nhiều. Chủ nhà cho rằng đám thợ mộc này không giống nghệ nhân Hắc Mộc sơn, nên buột miệng dùng ám ngữ trong “sơn kinh” hỏi xem rốt cuộc bọn họ là người phái nào.

    Chủ nhà đã tự báo gia môn, nhưng trùm sỏ Ban Sơn Xả Lĩnh nào xem bọn Bắc Cực sơn ngoại đạo ấy ra gì. Lão Trần nghe xong chỉ hừ một tiếng, vờ như không biết, cùng Gà Gô chăm chăm bước thẳng không thèm quay đầu, đằng nào cũng đã lộ hành tung, đôi ba cái lễ giáo chẳng cần quan tâm làm gì, một lão già cặn bã trong cái môn đạo vớ vẩn, đến xách giày cho thủ lĩnh bọn lão còn không xứng nữa là.

    Nhưng theo quy định trong giới giang hồ, chỉ cần đối phương xưng tên hiệu trước, người nghe thấy buộc phải đáp lại một câu, đây gọi là “người quang minh không làm việc mờ ám”. Lão Trần đã làm lơ thì Hồng cô nương đi sau phải báo sơn đầu thay cho thủ lĩnh, lời lẽ cô ả cũng xem như “khiêm tốn”, không nhắc Bắc Cực chỉ so Côn Luân.

    Bởi Côn Luân là tổ tiên của các ngọn núi, không nghề nào dám lấy Côn Luân làm tên hiệu, thế khác nào tự xưng thủ lĩnh của người khắp thiên hạ, chỉ có quan phủ triều đình mới được xưng là Côn Luân sơn. Trong số một trăm lẻ tám sơn đầu chỉ có Côn Luân là ngọn núi thật, những tên núi khác đều là hư danh, chỉ quan lại hoặc đám cảnh sát quân đội mới được bách tính trộm gọi là Côn Luân sơn. Ngoài những kẻ có tâm làm phản, coi thường vương pháp, còn chẳng ai dám tuỳ tiện so mình với núi Côn Luân. Hồng cô nương nghĩ vậy lập tức đáp rằng: “Phỏng sơn có phải phỏng Côn Luân sơn[26], Côn Luân sơn cao thần tiên lắm, Thường Thắng còn cao hơn Côn Luân, khí phách trên non thấu tận mây.”

    Ông chủ nhà nghe rõ mồn một, giọng Hồng cô nương tuy không cao nhưng từng từ từng chữ lọt vào tai ông ta đều như sấm nổ giữa trời quang, hai chân ông ta nhũn ra, cả người ngã phịch xuống đất.

    Anh con trai ngờ nghệch làm sao hiểu được đoạn ám ngữ đối đáp này, thấy cha ngồi bệt xuống đất lại tưởng trúng gió, vội giơ tay ra đỡ: “Cha... cha sao vậy?” Ông chủ nhà mặt mày xám ngắt, tim đập thình thịch, thở dốc mấy hơi mới trả lời được: “Ối cha mẹ ôi, đám buộc lầu đó... là quân trộm cướp... Thường Thắng sơn!”

    Từ đám môn nhân đệ tử Kim Trạch Lôi Đàn cho đến tất cả những kẻ tu đạo ở Bắc Cực sơn, bất kể đạo sĩ hay phương sĩ, chẳng qua chỉ là vẽ bùa đuổi tà kiếm miếng ăn lay lắt, lừa lọc ngu dân kiếm chút bạc tiền mà thôi. Nay thiên hạ đại loạn, lại đã là thời Dân quốc rồi, còn ai rỗi hơi tin vào mấy thứ bùa chú luyện đơn ấy nữa? Đám người Bắc Cực sơn đến sống lay lắt qua ngày còn khó, sao sánh được với chúng thái tuế chuyên giết người phóng hoả, tụ tập làm phản của Thường Thắng sơn? Vào thời đó, trộm cướp và phiến quân không khác nhau là mấy, chúng xông vào phủ huyện gặp thành to thành nhỏ đều cướp sạch chẳng tha, tiện tay giết vài mạng dân đen còn dễ hơn di mấy con kiến.

    Thường Thắng sơn tuy không có hưng thịnh như xưa, nhưng vẫn nắm trong tay mười mấy vạn quân trộm cướp rải rác khắp các tỉnh lớn, còn ngấm ngầm chống lưng cho mấy thế lực phiến quân, nếu thật sự hợp sức lại thì những tỉnh thành lớn có trọng binh trấn giữ cũng khó lòng chống đỡ, Hồng cô nương báo danh vậy là muốn doạ cho chủ nhà sợ vỡ mật. Ông ta nghĩ lại mà run, vừa nãy nếu có ý huỷ giao kèo, không chịu giao gà Nộ Tinh theo thoả thuận, chọc giận lũ trộm cướp giết người như ngoé đó, sợ rằng giờ này già trẻ lớn bé trong nhà đã mất mạng cả rồi. Nghĩ vậy, ông ta vội cất cờ dẹp trống, đóng chặt cổng giả, trốn biệt trong nhà không dám ho he tiếng nào.

    Bọn lão Trần lấy được gà Nộ Tinh dễ như trở bàn tay, yên tâm rời khỏi bản Kim Phong, quay về nghĩa trang Lão Hùng Lĩnh. Lúc này vết thương của La Lão Oai đã khỏi được bảy tám phần, con mắt độc nhất của hắn long lên sòng sọc, thề dẫn quân lật tung núi Bình Sơn, mặc kệ Thi vương Thi hậu gì gì, nhất định phải lôi mấy cái xác khô thời Nguyên ấy ra khỏi mộ cổ giày xéo cho hả dạ, đốt xương cốt thành tro mới giải được mối hận này.

    Lão Trần nói, một dải Bình Sơn Lão Hùng Lĩnh là nơi sản sinh nhiều chu sa, dược liệu nên sơn dân thường liều chết lên núi hái thuốc, vì thế có nhiều truyền thuyết bắt gặp cương thi trong núi, giờ đã tìm được khắc tinh của độc vật bên trong mộ cổ, nhưng lũ cương thi mấy trăm năm kia một khi đã thành tinh thì cũng phải đề phòng. Nghe nói cương thi là thứ chết rồi không hoá, những cổ thi đó nếu chết đúng giờ âm ngày âm tháng âm năm âm, nhờ vào âm khí trời đất sẽ không thối rữa, ban đêm thường hiện về ăn não người sống. Chúng ta phá núi Bình Sơn ngoài việc diệt trừ hết lũ yêu tà trùng độc, vét sạch của báu trong mộ đem mưu đồ đại sự, cũng phải nghĩ cách trừ khử Thi vương Tương Tây, làm vang danh tên tuổi Ban Sơn Xả Lĩnh.

    Gà Gô gật đầu đồng ý, địa hình Tương Tây đa phần là núi cao nước xiết, rừng sâu lắm hang động, cách biệt với thế giới bên ngoài, là nơi người Di Hán quần cư nên phong tục tập quán khá đặc biệt. Truyền thuyết về Thi vương Tương Tây đã lưu truyền không dưới hàng trăm năm, phàm những người lên núi hái thuốc bán hàng hoặc đào mồ trộm mả, phải qua đêm nơi núi hoang vắng vẻ, gặp phải bất trắc là chuyện thường tình, trong số đó quả thật có vài người bị khoét rỗng não, chết rất lạ lùng, nên sơn dân bản địa mới tin chuyện Thi vương ăn não người sống là có thật. Gà Gô vốn không tin chuyện này, nhưng nhiều sơn dân đã thề độc từng trông thấy cổ thi đời Nguyên ăn thịt người trên núi, nếu không tận mắt trải nghiệm, quả khó đoán định thật giả.

    Mô Kim hiệu uý có ấn Phát Khâu, dây trói thây, móng lừa đen và kim Tinh Quan đóng thây để đối phó với cương thi. Ban Sơn đạo nhân cũng có tuyệt kỹ Khôi Tinh Thích Đẩu chuyên đá cương thi; phái Xả Lĩnh lại có các loại khí giới như lưới quần thây giống như lưới bắt cá, sào khiêng thây... Vào trong mộ cổ Bình Sơn không tìm được Thi vương đời Nguyên thì thôi, nếu đụng phải thật, mọi người cùng tung ra tuyệt kỹ, nhất định phải bắt lấy nó đốt thành tro.

    Đám trộm cùng bàn mưu tính kế, trước tiên cắt cử một nhóm người vào các bản làng thu mua gà sống, chỉ lấy gà trống không lấy gà mái, đằng nào việc quân đội của La Lão Oai vào núi lấy cớ diễn tập để trộm mộ cũng bại lộ rồi, không làm thì thôi, đã làm phải làm cho trót, chẳng cần giấu giấu giếm giếm nữa làm gì. Mộ cổ Bình Sơn đã nằm trong tầm ngắm của Thường Thắng sơn, những thế lực khác muốn nhằm vào nó, ít nhất cũng phải cân nhắc xem thực lực thế nào, chắc không dám manh động.

    Nếu trong mộ cổ quả thực có giếng châu báu từ thời Tống, dù bị quân Nguyên cướp mất một phần, số còn lại đem làm đồ tuỳ táng cũng tương đối đáng kể. Mộ người Nguyên chôn sâu táng lớn, nhưng không có nghĩa là dùng toàn áo giấy quách đất giản tiện việc mai táng, đồ tuỳ táng cũng hậu hĩnh vô cùng. Có thể thấy huyệt mộ và địa cung trong núi Bình sơn tuyệt đối không nhỏ, một khi đào được, đừng nói là trang bị vũ khí Anh quốc cho một sư đoàn, ngay cả lập ra hai sư đoàn vũ khí Đức quốc e vẫn đủ, đám trộm nóng lòng sốt ruột, vội vã bắt tay chuẩn bị.

    Mấy hôm sau, lão Trần chọn ngày hoàng đạo tiến hành lễ “kết liên minh”, lấy nghĩa trang Lão Hùng Lĩnh làm nghĩa đường. Đám trộm trước khi tiến vào Bình Sơn đổ đấu lần thứ ba, cần phải kính cáo trời đất, bởi việc lần này không giống mọi khi, Ban Sơn, Xả Lĩnh hai ngọn sơn đầu bắt tay hành sự, không còn đơn thương độc mã nên cần phát nguyện trước mặt Thần minh, một là tỏ đồng tâm, hai là cùng kết nghĩa, tránh cảnh ham lợi quên nghĩa giữa đường, tạo phản ngay trong nội bộ.

    Hôm đó hương án được bày trong mảnh sân đổ nát của nghĩa trang, thực chất chính là bàn thờ chuẩn bị cho người chết trong toàn quán. Trên án bày thủ cấp ba loài gia súc lợn, bò và dê, sau treo bức hoạ hai vị Tổ sư gia Tây Sở Bá Vương và Ngũ Tử Tư, cùng thần vị Quan đế bên trên. Đám trộm khấu đầu bái Tổ sư gia trước, sau mới cắt máu ăn thề.

    Do không phải kết nghĩa nên rượu huyết không cần máu cắt từ ngón tay giữa mà chỉ dùng máu gà. Việc cắt máu gà do người phụ trách nghi lễ đảm nhiệm, tuỳ ý chọn lấy một con trong số gà trống thu được mấy ngày nay, trước tiên xướng bài ca ngợi gà trống, khen con gà này tốt ra sao, vì cớ sao mà phải giết, bởi đây là bài tán khẩu hát khi cắt tiết giết gà nên còn được gọi là “Tài kê lệnh”.

    Mặt trời đã lặn sau dãy núi phía Tây, núi rừng mênh mông dần trở nên mơ hồ. Trong ánh hoàng hôn, đám trộm đốt đuốc xung quanh thắp sáng mảnh sân, chỉ nghe tiếng người chấp sự cao giọng đọc rằng: “Gà này không phải gà thường, thân khoác lông ngũ sắc, gót mang cựa ngũ đức, mào đỏ uy phong; gà bay lên đỉnh Thiên cung, Ngọc Đế gọi là Tử vân kê, bay tới núi Côn Luân, nhân gian gọi là gà báo sáng; hôm nay rơi vào tay đệ tử đặt tên là gà Phượng hoàng, gà Phượng hoàng thế gian hiếm có, tiếng vang khắp miền Nam Bắc; mượn máu tươi mày tế trời đất, dâng lên chư vị thần linh, hai chữ trung nghĩa trước sau như một, đồng tâm hợp lực lên tận trời xanh...”, chưa dứt lời đã dùng dao cứa cổ gà, đem máu gà nhỏ vào bát rượu.

    Tiếp đó, đám trộm tay bê bát rượu lập lời thề, cũng không nằm ngoài mấy chữ “đồng tâm đồng đức, tụ lực đoạn vàng”, sau cùng thề độc để tỏ rõ tấm lòng, nếu ai trái lời thề, thiên địa quỷ thần không dung, tất sẽ bị trời tru đất diệt.

    Người chấp sự đứng bên ghi tất cả những lời thề ấy vào một tờ giấy vàng, đoạn cuộn lại giơ lên cao hỏi rằng: “Minh thệ ở đây, lấy gì làm chứng?”

    Được hai vị đại thủ lĩnh là lão Trần và Gà Gô dẫn đầu, đám người đồng thanh đáp ran: “Có tán thi làm chứng.”

    Người chấp sự lại giơ cao cuộn giấy vàng hỏi: “Tán thi ở đâu?”

    Cả đám trộm mặt mày nghiêm trang, không dám chểnh mảng, lập tức ngửa mặt lên trời đọc hết bài tán thi kết minh, bài tán khẩu này trước ca ngợi Quan Nhị Gia nghĩa khí thầu trời: “Giáng trần mặt đỏ tóc xanh, lòng son một tấm sánh cùng nước non, năm cửa ải chặt đầu sáu tướng, bạch mã phi nhanh tỏ thần uy, đào viên kết nghĩa càn khôn thấu, tiếng thơm vạn cổ mãi lưu truyền.”

    Sau là ca ngợi Tống Công Minh ở Thuỷ Bạc Lương Sơn: “Lương Sơn Thuỷ Bạc một toà thành, hảo hán trong thành trăm lẻ tám, thiên cang địa sát tụ về đây, Cập Thời Vũ chính ngôi cao nhất, đến nay bách tính còn ngợi ca, can đảm vô song một lòng trọng nghĩa.”

    Đọc hết tán thi, đám trộm nhất tề hướng về người chấp sự hô to một tiếng “Đốt!”, người chấp sự đốt tờ giấy vàng, đám trộm đồng thời ngửa cổ uống cạn bát rượu huyết, rồi giơ cao cái bát không trong tay, ném mạnh xuống đất, chỉ nghe một loạt những tiếng “choang choang”, mảnh sành bắn tung toé.

    Một buổi lễ kết liên minh trong giới lục lâm nhất định phải đầy đủ những thủ tục nói trên, đem so sánh với nghĩa cử của người xưa sẽ thấy có phần học hỏi. Sau khi tuyên thệ, thề độc, hán tán khẩu, lại uống rượu huyết, đốt giấy vàng, coi như lễ bái xong xuôi, hai sơn đầu đã có thể “hợp binh một mối, cùng đánh một nhà”, giở hết tuyệt kỹ cất nơi đáy hòm, hợp sức xới tung mộ cổ Bình Sơn
     
  4. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 24: Sơn Âm
    Đám trộm chặt đầu gà đốt giấy vàng, lập thành hiệp ước đồng minh: tất cả đơn dược minh châu bên trong mộ cổ đều thuộc về Ban Sơn đạo nhân, số minh khí tuỳ táng còn lại là của đám trộm Xả Lĩnh. Ngay sau đó, đèn đuốc nhất loạt được thắp sáng, đoàn người rời khỏi nghĩa trang Lão Hùng Lĩnh, mượn ánh trăng soi đường rồng rắn kéo nhau lên núi trộm mộ.

    Đội quân trộm mộ đi đầu là lính công binh của La Lão Oai, gồm không ít người “cắm chân hương” tại Thường Thắng sơn. Cắm chân hương trong giới lục lâm mang hàm ý nhập bọn, đám lính này cũng giống như quân trộm mộ Xả Lĩnh, trên cánh tay đều buộc dây chu sa làm dấu.

    Đám công binh còn lại chẳng khác gì lính hậu cần của phiến quân, có nhiệm vụ khiêng súng ống và thuốc nổ, mang vác các loại dụng cụ đào đất như cuốc, xẻng, rìu, ngoài ra sau lưng mỗi người còn phải đèo sọt tre lồng tre đựng một con gà trống sống. Trong tiếng gà gáy loạn xị, lính công binh xếp thành hàng rời rạc hành quân lên núi.

    Đường núi mấp mô bước đi chật vật nhưng người nào người nấy mặt mày rất phấn chấn, không mảy may nghĩ tới những nguy hiểm gặp phải trong hai lần lên núi trước, vì hầu như tất cả đều mong được cùng Trần thủ lĩnh và La đại soái đổ đấu phát tài. Một khi đào được địa cung thật, phận lính quèn chẳng sơ múi gì nhiều, nhưng cứ theo lệ cũ thì cũng không dưới mười đồng bạc trắng và một bánh Phúc Thọ cao. Trộm mộ tuy là công việc nguy hiểm nhưng thời đó phiến quân bạo loạn khắp nơi, lòng người rối ren, dù trộm mộ trúng tà gặp ma vẫn còn tốt hơn làm bia đỡ đạn nơi sa trường, cái việc đào mồ quật mả này, đổ sức đổ máu ít ra còn được vài đồng bạc trắng, làm lính ăn lương cũng là vì kiếm bát cơm ăn, có mấy ai vì đánh trận mà sang quân làm lính.

    Theo sau đội công binh là đám trộm Xả Lĩnh do lão Trần trực tiếp cầm đầu, hai lần trước vào núi thiệt mạng hơn trăm huynh đệ, nên vừa phải điều thêm một đội quân tinh nhuệ từ Tương Âm, ai nấy trang bị kỹ lưỡng giắt trong giắt ngoài, đều là các anh tài.

    Ban Sơn đạo nhân Gà Gô dẫn theo Lão Tây và Hoa Linh đi lẫn trong đội hình Xả Lĩnh. Gà Gô đeo trên lưng sọt gà Nộ Tinh, trong người giắt theo khẩu súng ngắn hai mươi viên. Sư đệ Lão Tây tướng mạo quá đỗi đặc biệt, nhìn biết ngay là người Sắc Mục từ Tây Vực tới, tuổi đời mới ngoài hai mươi tám mà bộ râu rậm đã dài tới ngực, dáng người lại cao to vạm vỡ, trông như gã trung niên ngoài bốn mươi. Người này tính tình rộng rãi nhưng kiệm lời, chỉ răm rắp nghe theo sư huynh Gà Gô.

    Hoa Linh lại có tướng mạo khá giống Gà Gô, ngoài đặc điểm mũi khoằm mắt sâu ra thì chẳng khác gì người Hán, bên người lúc nào cũng mang theo một gùi thuốc. Đám Ban Sơn đạo nhân hiện giờ có thể ra ngoài trộm mộ chỉ còn ba người bọn họ. Lần này vào núi Bình Sơn, cả ba đều mang theo Phân Sơn Quật Tử giáp vô cùng nặng, xưa nay vật này luôn là bí mật của phái Ban Sơn, chưa ai từng tận mắt thấy họ sử dụng, ngay cả lão Trần là trùm sỏ Xả Lĩnh cũng không được tường tận.

    Vùng Tương Tây có tổng cộng tám trăm ngọn núi, ba ngàn con sông, cách cổng trời mười bước leo, địa hình thế núi so với nơi khác đều rất đặc biệt. Đám trộm tới được Bình Sơn thì trời đã sáng rõ mặt người, chỉ thấy xung quanh núi cao rừng sâu, xanh ngắt một màu. Bên trong khe núi sương mây âm u, yêu khí bao trùm, đâu đâu cũng thấy vẻ yêu dị tà quái, cũng may lần này lên núi lại kéo cả đội quân hùng hậu, sát khí nặng nề trên người đám lính đã giúp xua tan lớp sương mù ma quái.

    Lão Trần mời Gà Gô tới xem địa hình Bình Sơn, hai phái Ban Sơn Xả Lĩnh đều không có bản lĩnh xem thế núi dò địa mạch như Mô Kim hiệu uý, song được cái lão Trần giỏi dùng quyết “văn”, trong núi chỗ nào có địa cung lớn ra sao lão đều đã thăm dò được ngay từ đầu, toà ủng thành có giếng thuỷ ngân bẫy tên đã bị cát chảy vùi lấp, nhưng có lẽ còn minh thành đại điện, ước chừng vị trí nằm ngay giữa lòng núi.

    Có điều cấu tạo Bình Sơn toàn là đá xanh nên rất khó nhìn sắc cỏ phân vết bùn, tìm ra lối vào thực sự của mộ đạo địa cung, cũng có lẽ chẳng có lối vào nào khác ngoài toà thành bẫy đã bị lấp đá đổ chì kín mít từ khi niêm phong minh điện kia. Nếu muốn vào mộ cổ trộm bảo vật, chắc chỉ còn cách trèo xuống khe nứt trên đỉnh núi, thông thẳng tới hậu điện, có điều giữa hậu điện và đại điện cũng bị bít kín bằng đá tảng, lính tráng phải đông đảo mới mong dịch chuyển được.

    Lão Trần đưa ra kế hoạch: đầu tiên thả lũ gà trống giải quyết gọn ghẽ bọn trùng độc ẩn nấp trong khe núi và hậu điện, sau mới dùng thuốc nổ mở đường tới thẳng minh điện, hoặc vẫn dùng thuốc nổ mở đường làm chủ đạo, chọn một nơi kém kiên cố nhất trên triền núi rồi cho nổ mìn từ đấy, sau đó đào thằng tới địa cung. Đây là cách đám lực sĩ Xả Lĩnh hay làm, tuy khả thi nhưng tốn rất nhiều thời gian lẫn sức người sức của.

    Gà Gô quan sát Bình Sơn, trầm ngâm giây lát, ngọn núi này quả thật đặc biệt, dáng núi xiêu vẹo như sắp đổ, thân núi có nhiều vết nứt lớn như dao chém, nhìn tổng thể ngọn núi giống như một chiếc bình cổ, e đúng là bình quý đựng tiên đơn từ trên trời rơi xuống, nếu không lấy đâu ra một thứ tạo vật thần kỳ như vậy? Nhìn mãi nhìn mãi, anh ta bỗng sực nghĩ, đã không vào được từ đỉnh núi, sao không tiến vào từ chân núi?

    Núi Bình Sơn đổ nghiêng tạo thành một góc nhọn so với mặt đất, trong góc dây leo chằng chịt, nước chảy róc rách, cùng với thế đổ của vách đá, góc càng vào sâu càng hẹp, ánh sáng mặt trời bị mây mù núi đá che khuát, khiến chân núi lúc nào cũng như bao phủ bởi màn đêm.

    Gà Gô tuy không hiểu về thuật phong thuỷ nhưng vốn là kẻ tinh nhanh, cũng biết nhìn bùn phân đất. Khe đá dưới chân núi trăm ngàn năm không có ánh mặt trời, chính là bối âm địa, vậy mà lại xuất hiện dây leo rậm rạp, chứng tỏ chân núi không phải toàn nham thạch, nếu từ đó đào thông lên trên, chắc sẽ tốn ít công sức hơn đào từ trên xuống.

    Mọi người bàn bạc hồi lâu, cuối cùng quyết định chia quân thành hai lộ, lão Trần và La Lão Oai dẫn đội công binh tới lưng chừng núi đào lỗ gài mìn, nổ mìn phá đá đào mộ đạo, còn Gà Gô dẫn người của Ban Sơn và một toán quân Xả Lĩnh xuống chân núi kiếm lối vào. Lần này nhân lực dồi dào, chia nhau hành động như thế, dù lộ quân nào đắc thủ trước, báu vật trong mộ cổ Bình Sơn cũng coi như nắm chắc trong tay.

    Số gà trống gom được đều giao cho lão Trần sử dụng, đủ để tiêu diệt trùng độc trong lòng mộ cổ. Tiếng gà gáy giữa núi rừng âm u xua tan hoàn toàn lớp sương độc khí độc trong khe núi, rết lớn rết nhỏ hình như biết khắc tinh xuất hiện nên bảo nhau trốn biệt trong gốc cây khe đá, không dám cựa quậy, sao còn dám nhả độc hại người nữa. Cánh quân lão Trần bận bịu với việc nghe đất tìm huyệt, đặt mìn, chuyện này không nhắc tới nữa.

    Chỉ nói đến cánh quân của Gà Gô mang theo mỗi con gà Nộ Tinh sau lưng thủ lĩnh, ngoài hai Ban Sơn đạo nhân là Hoa Linh và Lão Tây, còn có Hồng cô nương dẫn theo mười mấy tên trộm Xả Lĩnh tương trợ. Bọn họ chuẩn bị xong xuôi, bèn vòng ra sau núi, đường xuống chân núi chẳng dễ xơi tẹo nào, từ lưng đèo tới chân núi toàn vách đá dốc đứng, không có lấy một lối đi, cả bọn phải bám vào vách núi mà bò xuống.

    Khắp vách núi là những mỏm đá đâm ngược lên hoặc chĩa thẳng xuống, tuy có thể mạo hiểm leo bám, nhưng nếu phải kẻ nhát gan, chỉ cần nhìn thôi cũng đủ cứng cả bắp chân. Đám Ban Sơn đạo nhân Gà Gô đều là những tay to gan lớn mật, nhóm anh em Xả Lĩnh do Hồng cô nương chỉ huy cũng là cao thủ Thường Thắng sơn, dùng thang rết móc vào vách đá hiểm trở trèo xuống không tốn chút sức nào.

    Gà Gô thấy thang rết móc vách núi tuy cấu tạo đơn giản nhưng lại là công cụ đào mộ độc đáo sáng tạo, tác dụng cực lớn, không khỏi thầm khâm phục món đồ bí truyền của phái Xả Lĩnh.

    Đoàn người như lũ vượn vọp đu dây bám thang tụt xuống, ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy cổ và thân bình Bình Sơn xanh ngắt một màu, cao vợi trên đỉnh đầu. Nhìn từ xa, chỉ thấy ngoài thế núi kỳ thú vách đá hiểm trở, cũng chẳng có gì đáng sợ, nhưng xuống tới chân núi rồi mới nhận ra ngọn núi đá xanh này quả thật hùng vĩ thâm nghiêm, ngàn vạn mỏm đá lớn cứ treo nghiêng giữa trời như vậy không biết đã mấy ngàn mấy vạn năm. Nếu chẳng may cả quả núi này bỗng dưng đổ xuống, dân chúng chỉ còn nước thịt nát xương tan, đến thần tiên cũng khó tránh nổi hoạ, đám tộm tuy to gan lớn mật vẫn không khỏi run sợ trước hiểm thế Bình Sơn, hơi thở bất giác nặng nề hẳn.

    Đi thêm mấy bước, nước từ các nhũ đá thấm ra rỏ tí tách xuống đầu, lạnh thấu xương, cả đám đành đội nón lá khoác áo tơi, xách đèn bão tiến về phía trước, chốc chốc lại phải đưa tay ra gạt đám dây leo thòng lòng trước mặt, chậm chạp nhích lên từng bước. Vách núi trên đỉnh đầu ngày càng thấp xuống, không khí xung quanh ẩm ướt vô cùng, ai cũng cảm thấy ngột ngạt khó thở.

    Thêm mấy trăm bước nữa, trước mặt hiện ra một cái ao do nước mưa trong núi tích tụ thành, mặt đất bị nước lạnh ngâm trong nhiều năm, lõm xuống thành ao. Ao rất sâu, mặt nước nổi đầy bèo tấm, nước trên nhũ đá liên tục rỏ xuống khiến mặt ao cứ lăn tăn gợn sóng, lại thêm rất nhiều dây leo rủ xuống lòng ao. Gà Gô thấy dưới chân núi quả thực có động thiên hiếm có, chứng tỏ phán đoán ban đầu của mình là đúng. Có điều nơi này thâm u nhỏ hẹp, ao nước lại sâu, nếu muốn tiếp tục tiến vào trong chỉ có cách đu dây nhảy qua, cách này đối với Gà Gô đương nhiên không khó, nhưng những người khác thì chưa chắc đã ổn, không lẽ lại dầm mình trong nước hồ lạnh thấu xương mà bơi qua? Nghĩ đến đây, hàng chân mày hắn khẽ cau lại.

    Hồng cô nương nhìn ra ý hắn, liền bảo thuộc hạ lấy thang rết kết thành dạng lưới, ruột tre vốn rỗng nên sức nổi cực lớn, có thể làm bè vượt ao.

    Gà Gô bèn gật đầu tán thưởng, nhanh chóng bước lên bè tre ghép bằng thang rết, giơ cao cây đèn bão xác định rõ hướng đi, đoạn lệnh cho mọi người khoát nước lái bè tiến lên phía trước, ba chiếc bè tre rẽ nước trôi ra giữa ao.

    Đi được nửa đường, Hồng cô nương đang đứng trước mũi bè chợt thấy trong bóng tối dường như có hàng loạt tiếng bò lúc nhúc, cô cũng là người có nhãn lực tốt nhưng không thể so với lão Trần sinh ra gặp kỳ duyên, trong lòng cổ mộ còn có thể mở to mắt cú, chứ nơi tối đen thế này thì chịu, không sao nhìn rõ được.

    Hồng cô nương từng tận mắt trông thấy những loại độc vật sinh trưởng trong núi Bình Sơn, ngờ rằng phía trước không lành, vội rút ra ba cây phi đao, dồn hết thần lực chăm chăm hướng về phía trước, hễ có thứ gì xuất hiện, lập tức dùng thủ pháp của Nguyệt Lương Môn găm cho nó mấy phát rồi tính.

    Gà Gô cũng phát hiện thấy điều bất ổn từ sớm, nhưng hắn vốn là tay lão luyện nên vẫn dỏng tai nghe ngóng đoán định tình hình. Bè tre càng tiến tới âm thanh phía trước lại càng rõ ràng hơn, như thể có cả một đàn chuột đang đua nhau gặm nhấm, chí chí chách chách không biết bao nhiêu con. Trong đầu chợt loé lên một ý nghĩ, hắn vội la lớn “Nằm xuống!” rồi ấn ngay Hoa Linh đứng bên nằm úp xuống bè tre.

    Bọn Hồng cô nương nghe vậy cũng giật mình, vội ngồi thụp xuống. Chỉ thấy bên tai vù vù hỗn loạn, từ khe đá trước mặt bỗng ào ra một bầy dơi lớn, tựa như một trận cuồng phong đen ào tới giữa không gian chật hẹp của vách đá và mặt ao. Bầy dơi quá đông, lại hoảng loạn nên bay loạn xị đâm cả vào nhau rơi xuống ao nước hoặc va đầu vào vách đá, kêu lên thảm thiết, âm vang cả núi.

    Một tên trộm Xả Lĩnh đứng trên bè tre phản ứng hơi chậm liền bị lũ dơi xúm lại. Chúng hoàn toàn không có chủ ý tấn công con người, song vì vừa bị kinh động, đụng phải thứ gì liền vô thức cắn bừa theo bản năng để bảo toàn mạng sống, móng vuốt lũ dơi rất sắc nhọn, cào trúng một nhát có thể tước cả mảng da thịt. Tên trộm giãy giụa tránh né thế nào cũng vô dụng. Chỉ trong chốc lát da thịt trên người hắn đã bị tước sạch, còn trơ lại bộ khung xương nham nhở máu thịt rơi tõm xuống nước, tiếng kêu thảm trước khi chết của hắn như còn vọng lại giữa vách đá âm u.

    Gà Gô không ngờ trong khe núi này lại có nhiều dơi đến vậy, cái khó ló cái khôn, anh ta vội vỗ mạnh vào lồng gà sau lưng, gà Nộ Tinh lập tức cất tiếng gáy vang, âm thanh dội xuống mặt nước. Gà gáy sáng vốn là điềm báo âm dương phân chia giữa trời và đất, loài dơi chỉ xuất hiện khi đêm tối, vật tính thiên nhiên tương khắc, gà Nộ Tinh lại không phải vật thường, quả nhiên bầy dơi đông đúc nghe tiếng liền bay tan tác, không dám bén mảng tới gần bè tre nữa, chẳng bao lâu đã tản đi không còn một mống.

    Đám trộm vừa vào núi đã mất đi một mạng, ai cũng rùng mình ớn lạnh, cảm thấy mới xuất quân đã gặp điểm bất lợi thật chẳng tốt đẹp gì. Đời họ tuy đã quen với cảnh đầu rơi máu chảy, chẳng lạ lẫm gì chuyện sống chết, cũng biết trộm mộ mất vài mạng người là chuyện thường, nhưng cái chết của người anh em vừa rồi quá đỗi tàn khốc, khiến ai nấy chứng kiến đều dựng tóc gáy.

    May sao bầy dơi đến nhanh đi lại càng nhanh, chiếc bè tre cũng sắp sửa cập bờ. Núi Bình Sơn cắm xuống lòng đất chính tại nơi này, quanh chân núi toàn đá vụn, không ai có thể tiếp cận chỗ hẹp nhất, chỉ cần đứng thẳng ngẩng đầu liền va phải nham thạch lạnh ngắt phía trên.

    Mọi người theo Gà Gô nhảy lên bờ, chợt nghe có tiếng chóp chép như người đang uống nước, ai nấy đều kinh ngạc, giơ đèn soi bốn phía, bỗng buột miệng kêu “á” một tiếng.

    Dưới ánh đèn tù mù, họ thấy trong khe núi có tới mười mấy đụn đất, như một dãy mồ nằm san sát bên nhau, bị nước xối bùn rơi, những chiếc quan tài dưới mộ đều lộ cả ra ngoài. Trong số đó có một cỗ áo quan gỗ để mộc bắt mắt, máu tươi tanh tưởi rỉ ra từ nắp áo quan, một con báo nhỏ đang nằm phục trên nắp áo quan, thè lưỡi liếm lấy liếm để vũng máu đen
     
  5. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 25: Phân Sơn Quật Tử Giáp
    Con báo nhỏ nằm bò trên nắp áo quan liếm máu, say sưa tham lam không hề biết đến đám người mới tới. Gà Gô cách đây không lâu đã cùng Hoa Linh và Lão Tây trừ khủ Bạch Lão thái thái dùng thuật Viên quang hại người trên bia cổ. Quanh núi Bình Sơn âm u lạnh lẽo, ít thấy báo, không ngờ xuống dưới chân núi này lại đụng phải một con, nhìn màu lông và dáng vẻ gian tà của nó thì biết ngay chính nó là cháu chắt chút chít của con báo già ở khu bia mộ bên kia.

    Những việc thế này trước đây không cần đến Gà Gô ra tay, sư đệ tóc xoăn Lão Tây đã nhanh nhẹn bước lên phía trước, dùng bàn tay như gọng kìm sắt tóm lấy cổ con báo, xách đến trước mặt sư huynh chờ xử lý.

    Lúc này con báo nhỏ như mới bừng tỉnh, hai bên mép vẫn còn vương máu đen rỉ ra từ vỏ quan tài, nó thông thuộc tính người, tựa hồ cũng có thể thấy sát khí bừng bừng tỏa ra từ đám trộm mộ, biết đại nạn sắp giáng xuống đầu nên toàn thân run lên lẩy bẩy, vãi ra cả cứt lẫn đái.

    Hồng cô nương đứng bên chẳng hiểu trời trăng gì, cô ta giữa đường xuất gia nhập bọn với bọn Thường Thắng sơn, đối với việc trộm mồ quật mả vẫn là dân ngoại đạo, nay thấy trong khe núi âm u có mộ phần quan quách, lại có con báo nhỏ mắt la mày lét không biết đang làm trò xấu xa gì, không kìm được lên tiếng hỏi.

    Gà Gô không trả lời, chỉ khoát tay ra hiệu với Hồng cô nương và thuộc hạ đứng sau, dẫn cả bọn tiếp cận dãy mồ trong chân núi. Chỗ này là nơi Bình Sơn tiếp giáp với mặt đất, đám trộm vào đến đây không thể đứng thẳng lưng, chỉ đành lom khom xách đèn chui vào góc hẹp, tới gần cỗ áo quan để mộc đang rỉ ra máu bẩn.

    Mùi máu tanh xộc vào tận mũi, cả bọn vội dùng lụa đen che mặt, bịt kín mũi mồm, đoán chừng trong áo quan đến tám phần là đựng xác thối. Nhưng Gà Gô cảm thấy cỗ quan tài mộc này không giống áo quan thông thường, phàm là nơi có mộ cổ, đại điện, đạo quán lớn, sinh khí ắt phải tràn trề, núi non bàn đất đều có hai mặt âm dương, trong chân núi tối tăm ẩm ướt này, một cỗ áo quan từ hàng trăm năm trước không thể nào mới tinh như vậy được, dù là kẻ đi nhiều hiểu rộng, hắn cũng không biết có chuyện cổ quái gì ở đây.

    Gà Gô vốn là cao nhân to gan lớn mật, gặp phải chuyện gì kỳ lạ đều nhất định phải tra tới ngọn nguồn, hắn đưa tay gõ vào cỗ áo quan hai cái, “cạch cạnh”. Thứ gỗ này xem ra cũng là loại quý, nhưng tuyệt đối không phải hàng hiếm, từ các khe kẽ trên áo quan rỉ ra thứ máu tanh tưởi dính nhớt, bốc mùi như cá chết gặp nắng.

    Quan sát bên ngoài không thu được kết quả gì, Gà Gô bèn lệnh cho mấy tên Xả Lĩnh lên trước phá quan, đám người này đã nghe lão Trần căn dặn phải phục tùng Gà Gô như phục tùng thủ lĩnh Thường Thắng sơn, lập tức vâng lời, xách rìu dài tiến lên phía trước.

    Phá quan là một khâu quan trọng không thể thiếu trong mỗi vụ đổ đấu của dân trộm mộ. Mô Kim hiêu úy khai quan dùng Thám Âm trảo và Hắc Chiết tử, chủ yếu là “bẩy” và “nhấc” nên mới có câu “thăng quan phát tài”, Xả Lĩnh lực sĩ đi trộm mộ khai quan lại quen dùng Khai Sơn phủ, tập trung “phang”, “bổ”. Có điều không gian dưới chân núi này quá hẹp, không thể bổ nắp áo quan, chỉ thấy ba người họ cùng vung ngang rìu lên, lưỡi rìu bổ xuống, nứt toác một khe lớn trên thân quan tài.

    Họ lại dùng rìu bẩy rộng khe nứt ra, chẳng mấy chốc cỗ áo quan lành lặn đã bị tháo tung, soi đèn nhìn vào, chỉ thấy bên trong chẳng có cái xác nào ngoài đám nhục khuẩn[27] to lù lù, đang không ngừng rỉ nước đen, mùi vị màu sắc đều giống hệt xác thối.

    Gà Gô thấy vậy chợt hiểu sự tình, bèn sai người thắp đuốc đốt cháy đống nhục khuẩn. Thì ra cỗ áo quan để mộc này không phải quan tài đặt xác chết mà hộp đựng nhục khuẩn trong Đơn cung. Kỹ thuật luyện đơn bằng thủy ngân thời Tống khác xa thời Tần Hán, so với triều đại trước đã tinh vi hơn nhiều, bắt buộc phải nung chảy thủy ngân thành bạc, đồng sắt thành vàng, thêm thảo dược làm vật dẫn để hợp thành đơn, thảo dược luyện đơn không thể thiếu những thúy quý hiếm như linh chi, cửu long bàn, nhục khuẩn, thái tuế[28]…, nhưng nhục khuẩn sau khi bị hái, để trong môi trường bình thường rất khó bảo quản, chẳng mấy chốc sẽ khô đi, mất hết dược tính, cách bảo quản duy nhất là bỏ chúng trong lớp gỗ mộc, chôn chặt sau sườn núi tối tăm ẩm thấp.

    Tất cả các đụn đất trông như mộ phần ở đây đều chôn những hộp gỗ như vậy, cũng không biết là do con báo kia moi lên hay bị nước bùn xâm thực nên trồi cả lên. Nhục khuẩn trong hộp ở môi trường ẩm ướt vẫn sinh sôi nảy nở, nhưng chôn đã nhiều năm nên không thể làm thuốc, chỉ tổ cho con báo nhỏ tìm đến liếm nước dịch tiết ra.

    Gà Gô gườm gườm nhìn con báo nhỏ bị Lão Tây bắt về, chửi: “giống súc sinh này cũng không khác gì lũ người vọng tưởng thành tiên kia, đều định nuốt đơn phục thuốc để được trường sinh bất tử. Người xưa chưa luyện được linh đơn trong núi Bình Sơn, dược liệu thừa lại thành ra báu chúng mày, còn để mày làm xằng làm bậy, sớm muộn gì cũng sinh hậu họa.”

    Hồng cô nương nghe lão Trần kể chuyện con báo già ở chỗ bia cổ nên vô cùng lo lắng, bèn hỏi Gà Gô: “Đã vậy, hay là để anh em giết luôn con báo này đi?”

    Gà Gô bình sinh giết người như ngóe, gặp phải hạng lòng lang dạ sói hay gian xảo điêu ngoa, đều ra tay không dung tình, giết một con người bằng xương bằng thịt chỉ đơn giản như di lũ chấy rận, huống hồ một con báo không biết thân biết phận, ham muốn đơn dược?

    Nhưng anh ta trước nay đều quen hành sự một mình, chỉ vì phái Ban Sơn đang trong cảnh chợ chiều, người biết thuật Ban Sơn ngày càng ít, nên mới dẫn Hoa Linh và Lão Tây theo mình để học chút tài nghệ thực sự, phòng khi đổ đấu nhỡ may bất trắc thì Ban Sơn Phân Giáp thuật lưu truyền cả ngàn năm cũng không đến nỗi thất truyền. Gà Gô không muốn tùy tiện sát sinh trước mặt sư đệ sư muội, mọi việc trong thiên hạ vốn đã không thể rạch ròi, giết hay không giết cũng chỉ là ranh giới mong manh trong suy nghĩ, anh ta không muốn đưa họ vào con đường tà đạo gieo nhiều nghiệp chướng.

    Cho nên nghe Hồng cô nương hỏi có nên giết luôn con báo hay không, Gà Gô liền lắc đầu: “Cứ tạm giữ cái đồ thối thây này lại đã, lát nữa khắc cần đến.”

    Đám trộm không biết Gà Gô định giữ lại con báo làm gì, nhưng cũng không dám hỏi nhiều, đành theo lời anh ta cắt đặt, đào từng hộp nhục khuẩn lên rồi châm lửa đốt, sau đó tận dụng đám cháy châm một lượt đuốc, tạm thời tắt đèn bão đi, tản ra khắp các ngóc ngách dưới chân núi tìm xem chỗ nào có thể đào được đường hầm.

    Cứ theo tuyệt chiêu nghe gió nghe sấm của lão Trần thì mộ cổ trong núi Bình Sơn chẳng khác mấy so với tiên cung đạo quán xây dựng trên đỉnh núi, chẳng qua chỉ là lợi dụng các hang động, dựng tiên cung trong lòng núi, xây dần theo hình bậc thang. Bình Sơn thế núi đổ nghiêng, điện cung trong lòng núi cứ dải nọ cao hơn cái kia, ước chừng cao đến bốn năm tầng, quy mô cực kỳ hùng vĩ.

    Tòa thành đào được từ địa môn dưới chân núi có lẽ là lối vào tiền diện, nhưng khó ở chỗ không biết âm cung chôn mớ xương khô mộ chủ và đống minh khí bồi táng rốt cuộc nằm ở điện nào. Theo suy đoán của Gà Gô, nếu bắt đầu đào từ chân núi ước chừng vị trí vừa hay có thể đào thẳng tới đại điện phía sau ủng thành. Nhưng dưới chân núi đất đá lẫn lộn, khe núi lại tịch mịch ngoắt ngoéo, thực không biết phải đào từ đâu.

    Gà Gô trước khi vào đây cũng chỉ định thăm dò một chuyến chứ không nắm chắc được gì, có điều vừa quan sát qua đã biết mình đoán trúng đến bảy tám phần. Bình Sơn tuy là một khôi đá xanh nguyên vẹn, nhưng không phải không cách nào phá nổi, ở sườn núi Nam như một tấm khiên đá xanh khổng lồ, tựa tấm giáp sắt đao gươm bất nhập, chặn đứng hết thảy đám trộm mộ định dùng ngoại lực đào khoét mộ cổ, thì sườn núi Bắc chính là nơi bị bỏ ngỏ lãng quên, là khe hở của tấm giáp sắt. Dưới gầm trời này thứ càng quy mô to lớn thì càng dễ tìm ra nhược điểm, trăm chỗ dày ắt có chỗ thưa, sơ hở nơi sườn Bắc đất đá hỗn tạp này, e rằng đến lũ người Nguyên cải tạo cung điện thành huyệt mộ cũng không ngờ tới.

    Phương pháp trộm mộ muôn hình muôn vẻ, trên thực tế đều can hệ đến khoét hầm xuyên quách phá quan, tuy mỗi cách một kỹ thuật riêng, nhưng cũng không mấy khác biệt, duy chỉ có phương pháp tìm mộ táng là khác nhau một trời một vực, phân ra cao thấp rõ ràng. Ba quyết đầu trong “vọng văn vấn thiết” đều là phương pháp tìm mộ táng, trong đó kỹ thuật của Mô Kim hiệu úy là lợi hại nhất, Ban Sơn Xả Lĩnh đều tâm phục khẩu phục, những bí thuật phong thủy như “Tẩm long quyết”, “Phân kim định huyệt” thì chỉ những kẻ đeo bùa Mô Kim mới có thể triển khai. Phái Mô Kim vạch núi bới đầm tìm kiếm mộ cổ, nhìn dáng núi biết được địa cung nông sâu, xem sao trời đoán ra phương vị quan quách, bản lĩnh tài nghệ đám trộm mộ khác có theo cũng không kịp.

    Nhưng ai nấy đều có điểm mạnh điểm yếu, Ban Sơn đạo nhân cũng có phương pháp độc môn của mình.Đám trộm tìm kiếm hồi lâu, giơ gậy tre chọcông chọc tây, nơi này đâu đâu cũng ngấm nước ẩm ướt, phương pháp nhìn vết bùn phân sắc cỏ của phái Xả Lĩnh coi như vô dụng.

    Trong các thủ pháp đào mộ, hạn chế nhất là xem đât phân bùn, hễ gặp nơi sa mạc hoặc chố bị ngập nước là mất hết linh nghiệm. Gà Gô thấy tình hình như vậy bèn bảo đám Xả Lĩnh dừng tay, túm lấy con báo trong tay Lão Tây, lại thò tay vào bụng móc ra một viên rết châu. Đây chính là thứ lão Trần và La Lão Oai lấy được từ đợt đào Thi đầu man lần trước, khi vào núi đã chia cho mỗi người một ít, phòng khi bị trùng độc cắn có dùng để hút độc, nhưng tuyệt đối không được đưa sát vào mũi miệng.

    Gà Gô móc ra viên rết châu, đưa lên huơ huơ trước mũi con báo mấy cái, con báo nhỏ lập tức co rút toàn thân, hai mắt trợn trừng trắng dã, lỗ mũi nhỏ máu tươi tí tách. Gà Gô xách nó đi lại quanh khe núi để máu tươi nhơ xuống khắp nơi, Hoa Linh giơ bó đuốc theo sau soi cho Gà Gô, quan sát tỉ mỉ xem những giọt máu tươi rỏ trên đất đá biến đổi ra sao.

    Rốt cuộc cũng phát hiện ra một nơi máu nhỏ xuống nền đất cứng mà không ngấm xuống ngay cũng không chảy đi, cứ lăn tròn sau mới thấm vào lòng đất. Xem ra thổ tầng chỗ này tiếp nhận âm khí của Bình Sơn nên kỵ máu tươi nóng, thay đổi này cũng vô cùng nhỏ, nếu không phải tay lão luyện sẽ không thể phát hiện ra điều kì diệu bên trong. Nơi này đã cách xa chỗ chôn nhục khuẩn, Gà Gô quan sát thật kỹ rồi mới gật đầu nói: “Chính là chỗ này, đào từ đây chắc chắn sẽ xuyên thẳng tới địa cung.”

    Sau khi xác nhận xong xuôi, anh ta bảo Hoa Linh bôi thuốc cầm máu cho con báo. Con báo này có lẽ kiếp trước không tu nhân tích đức nên kiếp này mới gặp tai ương, không may rơi vào tay Ban Sơn đạo nhân, mất không biết bao nhiêu là máu, tìm ra thổ tầng chậm tí nữa chắc cạn sạch.

    Gà Gô lại lấy dao găm cắt đứt yêu gân sau gáy con báo, để kiếp này nó khỏi thổ nạp tu luyện, chẳng thể dùng thuật che mắt tàn hại sinh linh được nữa, chỉ có thể thuận theo quy luật tự nhiên cùng vạn vật sinh diệt, xong xuôi mới tiện tay ném nó sang một bên: “Cút mau, đừng để rơi vào tay Ban Sơn đạo nhân lần nữa đấy.”

    Con báo được đại xá, cố nén cơn đau bị cắt gân máu tuôn xối xả, cúp đầu chui thẳng vào khe đá. Hồng cô nương và đám trộm Xả Lĩnh thấy thủ pháp của Gà Gô biến hóa khôn lường, đều trợn mắt há mồm kinh ngạc, lẽ nào đào xuống mặt đất nơi có máu tươi của con báo rỏ xuống là có thể đâm thẳng vào địa cung mộ cổ? Đây khác nào thuật “ bốc huyệt” trong thượng pháp của quyết “vấn”, thực là thần kỳ bí ẩn, bọn họ còn tưởng Ban Sơn đạo nhân dùng máu báo gieo quẻ, để tìm ra vị trí đào đường hầm nữa kia.

    Đám trộm xoa chân xoa tay, lũ lượt chuẩn bị khí giới đào hầm. Hồng cô nương thấy chỉ có hơn chục người, lại không biết đường hầm này nông sâu thế nào, e một chốc một lát không đào xong được, có ý cử hai anh em quay lại điều thêm người tới hỗ trợ.

    Gà Gô nghĩ bụng, Hồng cô nương xuất thân từ Nguyệt Lương Môn, không am tường mấy trò đồ đấu, không biết rằng nếu chỉ dựa vào người đông thế mạnh thì Ban Sơn chi thuật đã chẳng nổi danh như thế, bèn nói: “Không cần đâu, các anh em Xả Lĩnh chỉ cần đứng bên nghỉ ngơi, tiện xem Ban Sơn Phân Giáp thuật…” Nói đoạn liền vẫy tay gọi Lão Tây và Hoa Linh: “Mang Quật Tử giáp lại đây!”

    Đám trộm Xả Lĩnh nghe xong liền sững cả người, không ngờ hôm nay lại được mục sở thị bí thuật Ban Sơn. Dân đổ đấu ai chẳng nghe qua Ban Sơn Phân Giáp thuật, nhưng trước đây Ban Sơn đạo nhân thường không qua lại với người ngoài, nên hầu như chưa có ai được tận mắt nhìn thấy Phân Sơn Quật Tử giáp, cùng trong nghề đồ đấu với nhau, bọn họ sao có thể không hiếu kỳ? Mọi người lập tức tập trung cao độ, ai nấy đều nín thở dán mắt vào nhất cử nhất động của ba Ban Sơn đạo nhân.

    Chỉ thấy Lão Tây và Hoa Linh hạ cái sọt sau lưng xuống, sọt tre được đậy kín bằng tấm vải hoa nhuộm sáp, bên trong có có vẻ nặng như đựng rất nhiều thứ. Hoa Linh lấy ra một bánh thuốc, bóp nát rắc lên sọt tre, không biết bánh thuốc đó được làm bằng gì mà Hoa Linh mới động tay đã nghe trong sọt có tiếng thứ gì cựa quậy như muốn chui ra, “loạt roạt loạt roạt”, tựa hồ hàng ngàn chiếc lá giáp sắt đang cọ xát vào nhau.

    Đám trộm vô cùng kinh ngạc, từ lâu đã nghe đại danh Phân Sơn Quật Tử giáp, nhưng ai có ngờ đó lại là một vật sống. Hai chữ “quật tử” vốn là tên gọi khác của lính công binh khi xưa, chiến tranh thời cổ thường có sách lược công thành, gặp phải thành cao hào sâu khó lòng công phá, lính công thành sẽ phân chia binh lực đào địa đạo vây quanh, lính giữ thành bên trong cũng đào hào sâu rồi chôn đá đổ nước xuống, ngăn chặn kẻ địch từ ngoài đào xuyên tường thành. Binh lính đảm nhiệm công việc này đa số đều là những người thấp bé thô kệch, rất giỏi đào đất bới bùn, có thể chui rúc trong địa đạo như lũ chuột đồng, nên còn được gọi là “quật tử quân” hoặc “quật tử doanh”. Bởi thế nên ai cũng tưởng Phân Sơn Quật tử giáp là một bộ giáp đồng, có lẽ là loại giáp trụ đặc biệt mà quân quật tử thời xưa thường dùng mặc mỗi khi đào đất, có vuốt sắt lá sắt dùng để bới đất, chứ hoàn toàn không ngờ nó lại là một vật sống. Âm thanh phát ra từ sọt tre mỗi lúc một lớn, đột nhiên lại có hai vật hình cầu phủ kín lá giáp từ trong sọt lăn ra, lăn tròn trên đất hai vòng rồi mới duỗi dài thân hình, hiện rõ là hai con quái vật khắp mình đầy vải giáp.

    Cặp quái vật này hình dáng giống như loài cá sấu Dương Tử[29], lớp vảy trên mình ngay ngắn như khôi giáp thời cổ, đầu như cái dùi, đuôi mọc sừng, bốn chân vừa ngắn vừa to, móng vuốt sắc nhọn khác thường, lắc đầu vẩy đuôi đều tỏ rõ sức mạnh phi phàm, mỗi khi bò lớp vảy trên mình lại phát ra tiếng lách cách như giáp sắt va vào nhau, trên mình chúng còn đeo vòng đồng, trên vòng khắc hai chữ “Huyệt lăng”.

    Đám trộm Xả Lĩnh đa phần đều chưa từng thấy loài vật này, vẻ kinh ngạc hiện rõ trên nét mặt, chẳng ai bảo ai liền lùi hết về phía sau, chỉ có hai ba tay giang hồ lão luyện xem ra có chút kiến thức, vừa nhìn dã nhận ra đây là con tê tê, nhưng thấy chiếc vòng gỉ hoen gỉ hoét trên mình chúng thì biết đây không phải tê tê thông thường, chợt nhớ ra một chuyện, không khỏi thốt lên kinh ngạc: “Lẽ nào là Xuyên Sơn Huyệt Lăng giáp?”
     
  6. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 26: Huyệt Lăng

    Cặp tê tê Huyệt Lăng một to một nhỏ, dường như từ nãy đến giờ vẫn ngủ say trong chiếc sọt tre, mãi tận khi bò lăn ra đất mới thực sự tỉnh giấc, vặn mình duỗi chân, móng cào rồn rột, nghe đã biết ngay sức mạnh kinh người. Trong đám trộm có nhiều kẻ không hiểu chuyện, sợ nó tấn công con người nên không ai bảo ai đều lùi cả về phía sau.

    Lúc này Hoa Linh và Lão Tây cùng bước lên phía trước, túm chặt chiếc vòng đồng trên mình cặp tê tê, ấn chúng nằm dạt xuống đất. Hai con tê tê ra sức giã dụa, bốn cặp chân cào loạn xạ trên đất, khổ nỗi đã bị vòng đồng khóa chặt huyệt vị, nên dù có sức mạnh xuyên đá phá núi cũng không tài nào thoát được.

    Loài tê tê Huyệt Lăng vốn là dị vật trên đời, diện mạo tuy giống tê tê nhưng kỳ thực khác nhau một trời một vực. Hơn hai ngàn năm trước, dân trộm mộ đã bắt đầu thuần phục tê tê bằng cách cho chúng ăn những thức ăn và dược liệu tinh túy, để chi trước của chúngtriển vượt bậc, trải qua quá trình thuần dưỡng lâu dài có thể trở thành vũ khí đào bới lợi hại dùng để trộm mộ, gọi là tê tê huyệt lăng.

    Mộ cổ thời xưa đa số bên trên đắp đất thành gò, bên dưới không có địa cung minh điện, mà phần lớn chỉ là quan quách, dùng gỗ xếp tầng tầng lớp lớp thành thế Hoàng tràng đề tấu[30], rất ít lăng mộ được xây hoàn toàn bằng gạch, càng hiếm những sơn lăng đồ sộ táng trong núi, những mộ phần bằng đất đầm thông thường đều không ngăn được móng vuốt của tê tê Huyệt Lăng.

    Mộ táng sau này dần rút ra kinh nghiệm chống trộm, đá dùng xây mộ càng ngày càng lớn, mức độ kiên cố cũng theo đó mà tăng lên, các khe còn được nung đồng nấu sắt đổ vào bịt kín kiến tê tê Huyệt Lăng mất đất dụng võ. Tuy vậy, đối với những mộ phần táng ở những nơi ẩm ướt lạnh lẽo này, chúng vẫn tỏ ra vô cùng hữu hiệu. Cổ thuật tê tê Huyệt Lăng đã thất truyền từ thời Đường, đến nay chỉ có Ban Sơn đạo nhân còn biết cách sử dụng nên vẫn được xem như pháp môn bí truyền của phái Ban Sơn.

    Ban Sơn đạo nhân không dùng pháp “thiết huyệt” của Mô Kim và Xả Lĩnh, Mô Kim hiệu úy ỷ vào Phân kim đinh huyệt đã chính xác tuyết đối, quen dùng xẻng Hoàn Phong đào hầm; Xả Lĩnh lực sĩ người đông thế mạnh, đống đất to đến mấy cũng không cản nổi họ; còn Ban Sơn đạo nhân lại thường dùng Phân Sơn Quật Tử giáp để đào mộ, xưa nay vẫn gọi là “Tam đinh tứ giáp”. Tê tê huyệt lăng là một trong tứ giáp, ra khỏi đất Tương Kiềm Lưỡng Việt thì thuật này coi như vô dụng, nhưng bọn họ vốn giỏi tùy cơ ứng biến, vẫn có thể dùng Phân Sơn Quật Tử giáp khác, đây đều thuộc về quyết “thiết” trong khi đồ đấu của phái Ban Sơn.

    Gà Gô sai Hoa Linh mang ra mấy ống tre, trong đựng đầy kiến đầu đỏ, nặng dễ đến vài cân, trước tiên phải để cho hai con tê tê Huyệt Lăng này ăn lửng bụng, rồi mới lôi chúng vào trong khe chân núi, lấy thuốc mồi rắc lên chỗ máu báo vừa nhỏ xuống khi nãy, đẩy chúng tới đó bới đất đào đá.

    Loài tê tê Huyệt Lăng này cứ thấy núi là dúi đầu vào, thích nhất lớp thổ tầng nham thạch âm khí nặng nề gần huyệt mộ, chỉ thấy con nhỏ hơn húc tới trước, thân hình cong lên, vảy giáp dựng đứng, móng cào thoăn thoắt khiến người đứng bên xem cũng hoa cả mắt, khoét đất cứng mà như chọc đậu phụ, xuyên vào lòng núi dễ như trở bàn tay.

    Con tê tê Huyệt Lăng lớn hơn lại bị Lão Tây giữ chặt, buộc xích sắt vào vòng đồng để nó không lao theo con tê tê nhỏ. Hai con vật này như cán cân phải đi liền với quả cân, túm chặt lấy một con thì không lo con kia đi chệch phương hướng, hay đào ngũ giữa chừng, đoạn dây xích chỉ hơi nới lỏng đủ để con tê tê to cuống lên xoay tròn tại chỗ, khoét rộng thêm lỗ con tê tê nhỏ vừa đào.

    Đám trôm Xả Lĩnh tuy đều là những tay đổ đấu lão luyện nhưng chưa ai được mục sở thị phương pháp này nên cứ trố mắt nhìn. Thì ra cặp tê tê Huyệt Lăng kích cỡ khác nhau chính là sự kết hợp vây công tuyệt vời: một con chuyên đào huyệt đạo theo chiều ngang, tốc độ đào đất xuyên núi nhanh đến nỗi không thể tưởng tượng, nếu không tận mắt chứng kiến, chắc chẳng thể tin trên đời lại có loại dị thuật này.

    Đường hầm tê tê Huyệt Lăng đào rộng đủ cho người ngồi xổm chui vào, góc độ song song với mặt đất, từ chân núi xiêu vẹo đâm thẳng vào trong lòng núi, khoảng cách từ đây tới địa cung sau tòa ủng thành cũng khá xa, cặp tê tê dù thần kỳ dũng mãnh vẫn phải tốn nhiều công sức nếu muốn xuyên thẳng vào địa cung.

    Gà Gô lúc rảnh rỗi liền ngồi xếp bằng trên đất, nhắm mắt dưỡng thần, một khi cặp tê tê đào tới địa cung, bọn họ không biết sẽ gặp phải những nguy hiểm gì bên trong ngôi mộ cổ hình thế kỳ tuyệt này. Bên tai là những tiếng ầm ầm vang trong lòng núi, đoán chừng đám trộm Xả Lĩnh do lão Trần cầm đầu đang đặt mìn phá đá. Nhưng Gà Gô nắm chắc mười mươi, thế núi Bình Sơn kiên cố, vững chãi thế này, từ sườn núi nam phá đá chui vào chắc chắn không thể xong trước trong hai ngày. Cặp tê tê Huyệt Lăng này nếu không gặp trở ngại gì, ước chừng chỉ cần qua đêm nay là có thể vào được địa cung, không biết đơn hoàn châu tán trong mộ cổ hình dạng ra sao, nhưng đến nước này có vội mấy cũng đành kiên nhẫn chờ đợi, nhấn nha giăng lưới bắt cá mà thôi, theo đà suy nghĩ, tinh thần anh ta cũng dần phiêu du như cao tăng nhập định.

    Đám trộm Xả Lĩnh đương nhiên không dám quấy rầy anh ta, liền ngồi cả dưới chân núi nghỉ ngơi. Hồng cô nương mấy hôm nay ở bên, mắt thấy Gà Gô thần cơ ứng biến, cử chỉ phóng khoáng, lời lẽ hào sảng, tuyệt nhiên không giống đám người Thường Thắng sơn trên là hai kẻ đầu sảo Trần La, dưới toàn đám trộm vô lễ thô tục, lúc nào cũng chỉ ôm giã tâm xưng vương xưng bá, thầm nhủ gả cho người này mới không phí một đời, năm xưa phát nguyện cả đời không xuất giá giờ không khỏi thấy làm hối hận, thật là “Đêm về ngắm trăng sáng trên lầu, chỉ mình Thường Nga không xuất giá”. Nghĩ đến đây cô ta khẽ thở dài, trong lòng đã quyết, từ nay về sau dù chân trời hay góc bể, tốt xấu gì cũng theo anh ta, chẳng màng tới lời thề độc năm xưa nữa, có điều không biết tay Ban Sơn đạo nhân này đã lấy vợ hay chưa?

    Nghĩ đoạn, Hồng cô nương bèn hạ giọng hỏi nhỏ sư muội của Gà Gô là Hoa Linh, có điều chuyện này tế nhị không thẻ hỏi thẳng, chỉ đành vòng vèo: “Tiểu muội này, chị thấy em đẹp như hoa như ngọc thế này, năm nay đã mười bảy mười tám rồi nhỉ? Sau này ai lấy được em thực là có phúc, thế sư huynh đã định hôn sự cho em chưa?”

    Hoa Linh chưa nghe nói đến tục lệ này nên ngạc nhiên hỏi: “Chị à, sao hôn sự của em lại do sư huynh quyết đinh được? Bố mẹ em vẫn còn, tuy đều ngã bênh nhưng…”

    Hồng cô nương nói: “Theo lý mà nói, lệnh tôn lệnh đường sức khỏe không tốt, đại sự nên để sư huynh em lo liệu mới phải. Trai khôn dựng vợ gái lớn gả chồng, có câu củ cải nhổ lên thì đầu bờ mới rộng, em lấy chồng thì anh em mới yên tâm được. Nhìn sư huynh em suốt ngày mặt cau mày có, hình như tâm sự trùng trùng, cũng không biết anh ấy đã nghĩ tới chuyện của em chưa nữa, anh ấy…anh ấy đã có vợ chưa? Chắc cũng chưa đâu nhỉ?”

    Hoa Linh mới mười bảy tuổi, lại ít giao tiếp với người ngoài sao hiểu được ý tứ của Hồng cô nương, chỉ thấy mấy chuyện cô ta hỏi có phần kỳ quặc. Nhưng trong đám người Xả Lĩnh có rất nhiều kẻ từng trải tình trường, thính tai nhanh mắt, đã đoán được quá nửa suy nghĩ của Hồng cô nương, thấy cô ả cứ xoắn lấy tiểu cô nương kia hỏi dò Ban Sơn đạo nhân có vợ hay chưa thì không khỏi cười thầm, không ngờ mỹ nhân băng giá như ả cũng biết rung động.

    Càng nghĩ lại càng thấy buồn cười, một trong số họ không nhịn được liền cười lên thành tiếng, Hồng cô nương nghe thấy thì biết ngay chuyện đã hỏng bét, khi nãy nóng vội không nghĩ âm thanh trong khe núi vốn vang vọng, giờ thì những lời gan ruột đều bị nghe thấy cả rồi.

    Cô ta bực bội vung tay lên tát cho người kia gãy hai cái răng cửa, những người còn lại đều biết đến sự lợi hại của người đàn bà này, ngoài đầu sỏ Xả Lĩnh ra, đến La Lão Oai cô ta còn dám đánh nữa là, lũ lâu la Thường Thắng sơn ai có gan chọc vào cô ta. Cả đám vội nghiêm mặt lại, làm vẻ thản nhiên như không có chuyện gì, bầu không khí bỗng trở nên gượng gạo vô cùng.

    Hồng cô nương mặt nóng phừng phừng, chỉ muốn tìm ngay cái lỗ nẻ để chui xuống. Đúng lúc ấy, Lão Tây từ trong đường hầm chui ra, dắt theo hai con tê tê Huyệt Lăng, thông báo với Gà Gô: “Đã đào tới sơn lăng, phong sinh thủy khởi.”

    “Phong sinh thủy khởi” là tiếng lóng thường dùng khi đào mộ, “phong” có nghĩa là trong mộ không có âm khí tích tụ, không khí lưu thông. Tòa ủng thành phía trước bị phong tỏa cô lập để làm thành một cái bẫy mộ giả, nên bên trong không thấy dấu vết trùng độc. đường hầm hai con tê tê Huyệt Lăng đào vừa hay xuyên thẳng vào cái địa đạo bịt kín ngay sau ủng thành. “Thủy” ám chỉ của cải hoặc minh khí, có thủy chứng tỏ có minh điện địa cung thực sự.

    Gà Gô nghe thế liền đứng bật dậy, lập tức lệnh cho mọi người chuẩn bị tiến vào đường hầm. Bản thân anh ta đeo riêng một chiếc đèn bão, kiểm tra hai khẩu mô de hàng Đức quốc lắp đầy đạn, lấy một mảnh lụa đen che kín mít, chỉ để lộ hai con mắt. Những người còn lại đều nhanh chóng chuẩn bị, tháo rời thang rết chia nhau mang theo, hàng ngũ chỉnh tề đợi lệnh ngay trước đường hầm.

    Gà Gô thấy mọi người đã tập hợp đầy đủ, liền bế gà Nộ Tinh ra khỏi sọt tre, con gà trống lông cánh sặc sỡ, móng vuốt vàng kim, dường như cũng có thể cảm thấy có tử địch ẩn nấp trong mộ cổ Bình Sơn, biết hôm nay thế nào cũng có trận huyết chiến sống còn, tức thì nghển cổ ngó quanh, dang rộng hai cánh, cất cao tiếng gáy, thần thái vô cùng phấn chấn.

    Gà Gô khẽ gật đầu, không cần biết con gà trống có hiểu tiếng người hay không, vẫn dặn dò nó một lượt trước mặt mọi người, bảo rằng nó là Nộ Tinh được cứu khỏi lưỡi dao trong nhà dân bàn Kim Phong, giờ có bao nhiêu tài nghệ hãy trổ hết ra đi, khỏi uổng uy danh gà Nộ Tinh, cũng không ơn cứu mạng của Ban Sơn đạo nhân.

    Mười mấy tên trộm Xả Lĩnh thấy vậy cũng biết gà Nộ Tinh có thể quét sạch rắn rết trùng độc trong mộ. Bọn họ đã tận mắt chứng kiến con sâu rết sáu cánh dưới khe sâu xuyên qua sương dày bay lên, tuyệt không phải thứ súng đạn thông thường có thể chống chọi, lòng thầm nhủ chỉ cần con gà trống này đuổi hết lũ trù rết kia đi, giúp Ban Sơn Xả Lĩnh lấy được báu vật trong mộ cổ thì từ nay về sau gọi nó một tiếng “ông gà” cũng không hề gì, sinh mạng của cả bọn giờ đều trông vào nó cả.

    Gà Gô lập tức cử ra bốn người, hai người lên núi báo tin cho lão Trần. Từ chỗ này chốc chốc lại nghe thấy tiếng nổ mìn phá đá vang lên, có lẽ lính công binh trên núi vẫn chưa nổi ra được manh mối nào, đường hầm dưới chân núi dù sao cũng đã đào xong, phải bảo lão Trần đưa người xuống hợp sức. Hai người còn lại đứng ngoài đường hầm phụ trách liên lạc.

    Bố trí xong xuôi đâu đấy, anh ta liền dẫn những người còn lại chui vào đường hầm. Đám trộm mang theo trên người rất nhiều đinh sắt, cứ đi được một đoạn lại đóng lên vách hầm hai cái đinh bắt chéo nhau, treo lên một chiếc đèn lồng đơn giản thắp sáng làm dấu.

    Vào trong mới thấy địa đạo xuyên núi mà cặp tê tê Huyệt Lăng đào được thực rộng rãi bằng phẳng, người ở bên trong chỉ cần hơi khom lưng là di chuyển được. Bên trong địa đạo ngoài đất cứng còn có rất nhiều nham thạch kiên cố, vậy mà hai con tê tê vẫn có thể xuyên qua, đám người Xả Lĩnh thấy vậy không khỏi chậc lưỡi khen ngợi cổ thuật trộm mộ bằng tê tê Huyệt Lăng quả nhiên ghê gớm.

    Chiều dài đường hầm ngắn hơn so với dự tính của Gà Gô, nhưng cũng đến mấy trăm bước chân. Đám trộm thận trọng lần mò từng bước, rất lâu mới đi hết đường hầm, chỉ vừa chui ra liền gặp ngay một đoạn đường dốc, đá lát trên mặt đường dã bị nạy tung, soi đuốc xung quanh thì thấy dưới chân dốc bị một khối đá to tướng chặn ngang, bịt kín lối đi, men theo con dốc đi lên, trên cao là vòm đá xanh khổng lồ.

    Giữa các khe kẽ đá của bức tường đá, thi thoảng gặp một hai con rết đang cuống cuồng đào tẩu, vật tính vốn tương sinh tương khắc, loài rết gặp gà Nộ Tinh khắp nào lửa gặp nước, một khi đụng phải chỉ còn có cách bỏ chạy tháo thân. Các loài trùng độc trong núi thường nhả độc trong đêm hoặc ở những nơi tối tăm, vừa nghe gà Nộ Tinh gáy một tiếng đã không dám nhả độc nữa, chỉ lo rúc vào khe núi sâu, tránh loài thiên địch này càng xa càng tốt.

    Gà Gô biết trong mộ cổ có nhiều cạm bẫy nên không dám chủ quan, cứ từ từ men theo con dốc tiến lên phía trước, đám trộm cõng thang rết xúm xít xung quanh. Đi chưa được bao xa thì bắt gặp trên vách đá có một tấm bia đá lớn, đề bốn chữ như rồng bay phượng múa, Gà Gô xách đèn lại xem, thấy bốn chữ đó là “Hồng trần đảo ảnh”, không biết là ý gì.

    Đi hết con dốc rồi lại băng qua một cây cầu đá chạm nổi rồng mây, cảnh vật hiện ra trước mắt vô cùng lộng lẫy. Bên trong huyệt động to lớn là vô số đại điện trùng trùng gác mái, điện vũ cao ngất, lầu các cheo leo, mái cong đấu củng chen nhau, rường hoa cột đẽo lặng lẽ thâm nghiêm, đèn đuốc sáng rực trong điện ngoài điện, tầng tầng lớp lớp không thấy điểm dừng, ánh lên nét huy hoàng riêng có của gạch vàng ngói ngọc.

    Bụi đá bay lên từ tầng nham thạch trong động trông rực rỡ như khói hương bảng lảng chốn cung điện Thiên Hà, toát lên một vẻ thần bí tịch mịch khó mà tưởng tượng, không khác gì tiên cảnh nhân gian trong thiên động. Có điều trong lòng núi âm u kỳ lạ, lại bị mây khói bao trùm, khiến người ta có cảm giác không thật, cứ hư hư ảo ảo như mộng thủy cung, chả trách trên bia văn ghi là “Hồng trần ảo ảnh”.

    Thì ra Bình Sơn kiên cố song dáng núi lại xiêu nghiêng theo năm tháng, thành ra trên thân núi có rất nhiều khe nứt to nhỏ, từ ngoài nhìn vào khó mà thấy được. Lòng núi này là nơi có phong thủy cực quý, sinh khí không ngừng lưu thông nên cổ vật chôn bên trong dù qua nhiều năm vẫn còn như mới, chén lưu ly, nến vạn niên trong lầu đài điện các, nhất nhất được sắp đặt theo bố cục tinh cung, nhiều mà không loạn, vô cùng chặt chẽ.

    “Tiên cung” này vốn là nơi thờ cúng trong quá trình Hoàng gia cất đơn luyện dược, bắt đầu được xây dựng từ thời Tần Hán, lưu giữ rất nhiều dấu tích khác nhau của các triều đại, nhưng tất cả đều mang cốt cách Hoàng thất. Bên trong những chiếc chén lưu ly đều là nến thiên niên, đuốc vạn niên quý báu, ánh sáng tuy leo lét nhưng ngàn năm không tắt, hiện tại mới chỉ cách mấy trăm năm nên đa phần vẫn sáng như xưa, đặc biệt những chiếc chén lưu ly bát bảo vẫn còn lấp lánh trong ánh nến bập bùng.

    Đám trộm đi theo Gà Gô, thấy tiên cảnh trong núi Bình Sơn đều ngây ra như phỗng, nhìn đến lờ cả mắt, dù tham lam đến đâu có nằm mơ, họ cũng không nghĩ lại có tòa minh điện to thế này, chỉ tính riêng mấy cây đèn cổ kia thôi cũng đã lấy không hết rồi.

    Hoa Linh ra ngoài đổ đấu chưa đầy nửa năm, chẳng có mấy kinh nghiệm, chỉ thấy sâu trong tòa cung điện này có yêu khí bao trùm, không khỏi thầm run sợ, níu chặt cánh tay Gà Gô, nấp sau lưng anh ta: “Sư huynh này, nơi kỳ quái trước mặt…giống như cung điện đạo quan luyện đơn, sao có thể là minh điện chôn người chết?”

    Gà Gô mười ba tuổi đã theo các tiền bối Ban Sơn đạo nhân đi trộm mộ, để lăng dẫn mổ cổ chư hầu vương quy mô hoành tráng đều đã đào qua, địa cung trong các sơn lăng tuy xa hoa tráng lệ nhưng không thấy nơi đâu có tiên cảnh tráng lệ thế này. Dường như toàn bộ kiến trúc trong danh sơn đạo giáo đều được đặt vào đây, song âm khí nơi này quá nặng nề, giống như quỷ cung chứ chẳng có chút khí tiên nào.

    Nghe Hoa Linh hỏi vậy, Gà Gô bèn đáp bừa: “Ăn uống để cầu thành thần tiên? Ha ha… Đó chẳng qua chỉ là giấc mộng xuân của mấy tay hoàng đế mà thôi, về sau sơn hà tan nát, tiên cung kim điện này chẳng phải đã biến thành mộ phần cho đại tướng quân nhà Nguyên đó sao. Ta đây phải xem Thi vương Tương Tây trong tiên cung thế nào…xem nó rốt cuộc ba đầu sáu tay, hay mình đồng da sắt?”
     
  7. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 27: Đấu Cung
    Gà Gô trước đó tời đất Kiềm đào mộ Dạ Lang Vương, không ngờ lại toi công một chuyến nên đang nóng ruột, thấy mộ cổ Bình Sơn cảnh sắc tráng lệ, tựa nơi tiên cảnh trong lòng núi, không biết bên trong cất giấu những bí mật gì của triều đại trước, thì ngứa chân ngứa tay, chỉ trực phô tài, lập tức muốn đơn thương độc mã tiến vào địa cung phía trước thăm dò thực hư.

    Đám trộm Xả Lĩnh với Lão Tây và Hoa Linh thấy anh ta săp sửa động thủ cũng vội vàng chuẩn bị khí cụ, theo đi đổ đấu. Nhưng chân vừa nhúc nhích đã thấy lâu đài, điện các trước mặt thấp thoáng làn khí đen,, giữa các mái hiên bao cột tựa như có những dòng hắc thủy cuồn cuộn chảy. Mọi người tức thời sững sờ, không biết trong điện có điều gì cổ quái, có người tinh mắt nhìn rõ kinh hoàng thốt lên, không hay rồi, trong điện có rất nhiều rết.

    Gà Gô biết mang theo gà Nộ Tinh bên người có thể khắc chế độc vật trong mộ, nhưng cũng chỉ đảm bảo được trong phạm vi mấy trăm bước, nếu mười mấy người cùng vào một lúc, một mình anh ta khó lòng bảo vệ hết tất cả. Lúc này trời đã về đêm, chính là lức loài rết trong núi nhả độc, chẳng may sót lại vài con trong khe núi,tính mạng cả đám ắt gặp nguy hiểm. Cung điện trong núi Bình Sơn quả thật quá lớn, muốn vơ vét báu vật, chỉ còn cách chờ Lão Trần đưa người tới diệt tận gốc lũ trùng độc trong mộ.

    Chuyến này vào Bình Sơn trộm mộ không giống những lần đổ đấu trước của Gà Gô, thứ nhất là vì Ban Sơn Xả Linh đã kết liên minhnếu không đợi thủ lĩnh Thường Thắng sơn tới đã động thủ trước, chỉ e bị coi là bội ước, không có nghĩa khí; thứ hai là hiện giờ đi theo anh ta còn có mười mấy anh em, không phải như trước một mình hành sự, cho nên không chỉ vì ý nghĩ nhất thời của mình mà mạo hiểm tính mạng bọn họ.

    Nghĩ vậy, Gà Gô cố dằn lòng, thăm dò tỉ mỉ địa hình kết cấu kiến trúc trong lòng núi, rồi cùng Hồng cô nương dẫn mọi người rút ra ngoài, chỉ để mấy người ở lại nới rộng đường hầm, mở đường cho đại đội phía sau.

    Địa hình Bình Sơn cheo leo hiểm trở, hai tên trộm được cử lên núi liên lạc với Lão Trần, không thể từ sáng tới chiều mà vừa đi vừa về được. Gà Gô bèn tìm một nơi khô ráo bằng phẳng trong lòng khe núi, ngả lưng đánh một giấc, tĩnh dưỡng xong mới ba hoa khoác lác với đám trộm, ai cũng hào hứng kể ra những phi vụ đổ đấu đắc ý của mình trước đây.

    Gà Gô nhớ lại năm xưa đào lăng cung Tư Thiên Đại Đường ở Thiểm Tây, có quen hai đứa bé chăn cừu, vừa hay khi ấy Lão Trần đang làm ăn ở hai tỉnh Sơn Thiểm, anh ta bèn đem hai anh em nọ gửi gắm cho lão, giờ mới nhớ ra lên hỏi thăm họ hiện giờ ra sao.

    Nhắc đến hai người này, đám Xả Lĩnh đều tỏ vẻ coi thường. Lão Dương Bì và Dương Nhị Đản tính tình hèn nhát, bụng dạ lại hẹp hòi, tuy được thủ lĩnh cho gia nhập Thường Thắng sơn, nhưng chỉ có thể làm chân lăng xăng sai vặt, lần trước đi đổ đấu hai tên sợ vãi ra quần, chuyến này nghe nói đi đào mộ Thi vương Tương Tây thì nhũn cả chân ra, nên mọi người cũng chẳng buồn cho theo, thật không biết làm sao ngày ấy thủ lĩnh lại thu nạp bọn chúng.

    Gà Gô nghe xong cũng thấy buồn cười, hai thằng nhóc chăn cừu đó xuất thân là dân lương thiện, việc xấu không làm việc phạm pháp càng không hay, giữa chừng lên núi làm cướp, đổ đấu, tạo phản, giết người, phóng hỏa, quả thật là làm khó cho bọn họ, càng nghĩ càng thấy không ổn, sau này thế nào cũng phải nói cho Lão Trần một tiếng, để bọn họ rút chân hương rửa tay gác kiếm, phát cho ít tiền vốn làm ăn lương thiện.

    Cứ thế đợi mãi đợi mãi, cuối cũng Lão Trần cũng dẫn người tới sườn núi phía bắc, kể chuyện công binh nổ mìn phá đá mất tan một ngày vẫn chẳng thu được kết quả gì,thế mà dưới chân núi đã đào thông được huyệt đạo, có thể dặn người tiến vào đổ đấu rồi, đoạn nhất rẽ vào đường hầm xem cung điên trong lòng núi thế nào

    Bọn Lão Trần và La Lão Oai lần đầu thấy cảnh cung vàng điện ngọc nguy nga nhường ấy cứ trầm trồ xuýt xoa mãi, sướng đến phát cuồng. Trên đời này chỉ có bậc đế vương tự xưng là chân long thiên tử mới có thể ngự trong cung điện, thứ nữa là thánh thần tam giáo Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đa phần đều xây dựng trong động thiên phúc địa của thần tiên Phật đạo. Tuy Bình Sơn đất đai chật hẹp, nhưng đơn cung đặt trong lòng núi đem so với những cung điên Phật giáo nổi tiếng trên đất Đại Xuyên chỉ hơn chứ không kém, không hổ là “hồng trần đảo ảnh, thái hư ảo ảnh”. Châu báu trong cung ắt lấy thỏa thích không hết.

    La Lão Oai dùng mũi sung đẩy vành mũ, vui sướng đến khô cả họng, hớn hở nói: “Trần huynh còn đợi gì nữa? cho anh em xông lên thôi!”

    Lão Trần lần trước suýt chút nữa bị lũ âm binh hộ lăng chôn sống trong ủng thành,giờ đã khôn ra, thấy địa cung to lớn kinh người, đoán chắc không phải bẫy mộ giả, nhưng vẫn không dám manh động thấy lợi trước mắt mà mạo hiểm tính mạng, chẳng may bên trong có cạm bẫy rồng lửa mai phục thì khác nào tự dẫn xác vào tấm lưới giăng sẵn của chủ mộ lần nữa?

    Lão lập tức cắt đặt, để một trăm lính công binh mang theo bầy gà trống đi trước mở tung các cửa điện, nếu không có gì bất trắc sẽ cho đại độvào vét của; lại phái riêng hai trăm lính công binh đi bắc cầu tre qua ao bùn tích dưới chân núi, đồng thời khoét rộng huyệt đạo, chuẩn bị vận chuyển của báu ra ngoài.

    La Lão Oai chột mất một mắt,thương tích còn chưa khỏi hẳn lên được Lão Trần cho dẫn trọng binh, mang theo súng ống cố thủ bên ngoài núi phòng khi đội trộm mộ có kẻ bất ngờ tạo phản, ngoài ra còn mở đường núi, để dắt lừa ngựa vào núi chở hàng. La Lão Oai hậm hực vì không được đích thân vơ vét minh khí, nhưng lại nghĩ vào núi lần này tuy là đám tâm phúc, nhưng vẫn không ít kẻ thấy tiền hoa mắt, thành ra không thể lơ là, đành nghe theo sắp xếp của Lão Trần, ra sau núi điều binh.

    Lão Trần và Gà Gô ở lại quan sát tình hình, chỉ thấy một trăm lính công binh tiến sâu vào khu điện các, xua bầy gà trống xông vào các cửa điện lớn, làm lũ rết kinh động bỏ chạy tán loạn, huyên náo một hồi cũng không thấy động phải bẫy mai phục gì.

    Lão Trần mừng thầm trong bụng, nghĩ lần này xem ra nắm chắc phần thắng, dẫn đầu lấy mảnh lụa đen che mặt, bịt kín mũi mồm. Truyền thống khi đổ đấu phải dùng lụa đen che mặt khởi nguồn từ đám trộm cướp chuyên phóng hỏa giết người, khi hành sự đều muốn trời không biết đất không hay, sợ ngườ khác nhìn thấy sẽ lộ thân phận, báo quan binh tới bắt, đi đào mộ lại sợ oan hồn trong mộ dòm dỏ, che kín mặt mụi lại để khi về nhà khỏi lo ma quỷ đeo bám.

    Đám trộm mặt bịt lụa đen, cánh tay buộc dây tầm chu sa, thắp đèn đốt đuốc, mang theo thang rết, nghe tiếng hô hào của thủ lĩnh, cả trăm người đồng thanh đáp lớn, cùng xua gà trống đi vào.

    Mấy ngày nay quân của La Lão Oai đi khắp nơi lung bắt sạch gà trống trong vùng, lại mua thêm một lô từ Tương Âm, già có non có, đến gà lỡ cỡ cũng tha cả về. Bầy gà quá đông khó tránh hỗn loạn, chẳng hiểu tại sao lại lẫn vào mấy chị gà mái, vừa được thả vào địa cung đã lập tức xảy ra vô số trận đòn ghen giữa đám gà trống. Đôi bên xông vào mổ nhau đến toác đầu chảy máu, nhưng hễ thấy con rết nào trong đại điện lại lao vào tranh ăn ngay lập tức, lấy chân dí bẹp rết độc không kể lớn bé xuống mổ chết ngay tại chỗ.

    Lão Trần và đám Xả Lĩnh thấy thuật Ban Sơn Điền Hải quả thật không thể xem thường thì vô cùng thán phục. Thuật này tuy không hợp với nguyên lý ngũ hành nhưng lại vận dụng được thuyết sinh khắc chế hóa của vạn vât trên đời, xua bầy gà trống vào địa cung đuổi cùng giết tận lũ rết độc, cũng coi như trừ được mối họa lớn, giờ đoạt lấy sô châu báu trong mộ này há chẳng dễ như trở bàn tay.

    Tiếng gà gáy phá tan không khí tĩnh mịch trong địa cung, bầy gà trống tỏa ra khắp nơi truy tìm rết độc, chốc lát đã có hàng ngàn con rết mất mạng. Tạo hóa sinh ra vạn vật trên đời đều tương khắc, bởi vậy mới gọi là thiên địch. Rết thường nhả độc màu đen, nhưng do mộ cổ Bình Sơn là nơi cất giữ nhiều dược liệu quý giá, nên dịch độc của lũ rết sống trong này đều có màu sắc sặc sỡ, vài con rết già trên mình còn có luồng khí ngũ sắc biến ảo, bị đàn gà trồng dồn đến đường cùng đành phải đối mặt với lũ khắc tinh, tuy không thể tiết độc nhưng vẫn liều chết xông lên, trong trận ác chiến liên miên, có đến mấy chục con gà già ốm yếu, đuối sức bị rết cắn chết, lông cánh rũ rượi nằm lăn ra đất, toàn thân chuyển thành màu đen, rồi dần dần biến thành bãi máu.

    Địa cung Bình Sơn tuy đèn đuốc rực rỡ nhưng bao năm không có ánh mặt trời, âm khí nặng nề, lũ rết con nào con nấy cứ béo mẫm, lại chuyên ăn các loài trùng độc khác nên dịch độc tiết ra càng ghê gớm. Rết trong đại điện quá nhiều, mới đầu bị thiên địch truy đuổi chỉ lo chạy tan tác tứ phía, nhưng khi bị dồn đến chân tường lại như chó cùng rứt giậu, lũ lượt chui ra từ khe kẽ cột điện, ba bốn con cùng hợp sức tấn công một con gà. Mặt đất giữa các điện rải đầy xác gà xác rết, những con còn sống vẫn hăng máu lao vào kẻ thù,quần au không biết mệt.

    Đám trộm Xả Lĩnh đều là lũ trộm cướp giết người như ngóe, đám công binh cũng nhiều kẻ gan dạ từng trải sa trường, nhưng những cảnh gió tanh mưa máu họ từng chứng kiến tựa hồ cũng chả ác liết bằng trận chiến giữa bầy gà trống và đàn rết độc trong mộ cổ này. Không phải một hai con, không phải năm mười con mà là hàng ngàn con rết đang quần nhau với hàng ngàn con gà trống, sát khí ngùn ngụt át cả ánh đèn ánh đuốc.

    Gà trống vốn tính hiếu chiến, hễ thấy bóng từ thù là tự dựng xù lông dựng cánh, quyết dồn đồi phương tới chỗ chết mới thôi; lũ rết kia bị đuổi tới đường cùng, dù nấp trong khe đá nghe tiếng gà gáy vẫn không được yên thân, đành liều mạng sống mái với thiên địch, trong trận chiến khốc liệt dưới ánh đèn nến chập chờn, chẳng bên nào chịu lui lấy nửa bước, nhất thời quả khó phân thắng bại.

    Trong đám trộm mộ có những kẻ nhát gan, nhìn thấy trận huyết chiến trước mắt thì mặt vàng như nghệ. Lão Trần thầm than không hay, trong tình hình này, gà và rết không biết bên nào thắng bên nào thua, sớm biết thế đã mang theo gà trống lên núi.

    Gà Gô đứng quan sát bên cạnh, con gà Nộ Tinh sau lưng anh từ đầu chí cuối vẫn nằm yên trong sọt, chưa được thả ra. Con gà trống mào đỏ móng vàng này chính là phượng hoàng trong bầy gà, một khi con rết sáu cánh sắp thành tinh còn chưa xuất hiện, quyết không thể thả nó ra, cứ nhốt trong sọt để nuôi dưỡng nộ khí.

    Gà Nộ Tinh cảm giác được bầy gà đang ác đấu với lũ rết ngoài kia, quả nhiên nó nóng lòng sốt ruột muốn xông ra mổ cho chúng một trận nên thân, khổ nỗi lại bị nhốt trong sọt che, cứ dụi lấy dụi để toan thoát ra ngoài.

    Thấy bầy gà đã không còn giữ được thế thượng phong, ngược lại còn bị rết đôc cắn chết một lúc một nhiều, Gà Gô bèn đưa tay vỗ mạnh vào cái sọt sau lưng, gà Nộ Tnh trong sọt đang bồn chồn, lập tức vỗ cánh, cất tiếng gáy dội vang trong lòng đại điện. Lũ rết đang liều mạng ác chiến chợt nghe tiếng gáy của gà Nộ Tinh đều sợ rúm lại, hồn xiêu phách tán, lũ lượt đờ ra như gỗ, chân cẳng tê cứng, những con đang bò trên rui cột, vách đá đều cắm đầu rơi xuống, bị đám gà trống đứng gần đuổi tới mổ chết.

    Lão Trần thấy tình thế tức thời xoay chuyển thì mừng lắm, quay sang tâng bốc Gà Gô: “Ban Sơn chi thuật quả là danh bất hư truyền, đại sự thành đến nơi rồi!” Nói xong liền ra hiệu cho mấy trăm thuộc hạ đứng sau, cao giọng nói: “Các anh em, ai muốn phát tài thì đi cùng với ta đây!”

    Gần ngàn tên trộm Xả Lĩnh và lính công binh theo sau thủ lĩnh, tay giơ cao đuốc, chia thành mấy lộ hệt như những con rồng lửa đang chuyển mình, họ giẫm lên thềm đá cầu đá trước đại điện, xông vào tầng đại điện đầu tiên. Đa phần rết ở đây đã bị giết sạch, bầy gà được xua vào sâu bên trong điện các, tiếp tục truy sát những loài độc trùng còn lại.

    Đám trộm ai cũng mang theo sung ống, thấy con rết nào chưa chết thì bồi them phát đạn, hoặc lấy cuốc xẻng đập cho nát bét. Tiếng chân người, tiếng súng nổ vang lên ầm ĩ trong lòng núi, đám trộm ùn ùn kéo vào gian điện, trong điện có động, lợi dụng địa hình địa thế tự nhiên mà kiến tạo vô cùng tài tình khéo léo.

    Bọn người Lão Trần và Gà Gô tay lăm lăm dao súng, bước vào gian đại điện ngoài cùng, thấy bên trong đèn lưu ly bát bảo, mới cháy được chừng non nửa, dưới ánh sáng bập bùng của đèn đuốc, cảnh tượng trong điện cứ như mơ như thực. Trong ngôi điện này chỉ có một cây cột sơn son, trên bắc mười tám xà ngang làm trụ đỡ, kiểu kiến trúc một cột mười tám xà này rất hiếm gặp trong cung điện thời xưa, vì điện chính trong đơn cung thường chỉ có một cột mà không có xà, hàm ý “vô lượng” trong tiên pháp.

    Trên bức tường bên trong tiền điện một cột mười tám xà có treo rất nhiều tranh vẽ thần tiên, được khảm nạm, điểm xuyết bằng trân châu đá quý, ánh lửa chiếu lên càng lung linh rực rỡ, khiến đám trộm trông thấy mà ngây ra như phỗng. Lão Trần nói: “Giờ thiên hạ đại loạn, trên đời làm gì có nghề nào làm ăn chân chính? Tụ nghĩa chia của là việc lên làm, đây gọi là anh hùng khắp nơi vùng dậy, kẻ nào có súng kẻ ấy làm vua, giờ chính là lúc Thường Thắng sơn chúng ta hưng thịnh phát tài. Chúng ta cả đời quật mồ vơ của, đến nước này hà tất phải kiêng dè, cứ cái gì đáng tiền là đào hết khuân về, nửa cái cũng không để lại.”

    Đám trộm Xả Lĩnh không giống mô kim hiệu úy, vào mộ cổ chỉ lựa lấy một hai món đồ cổ rồi còn đắn đo đường tiến đường lui, Thường Thắng sơn có đến mười mấy vạn anh em, vơ ít minh khí về lại không đủ chia chác. Trần thủ lĩnh đã có lời, mọi người chẳng ai giữ kẽ nữa, lập tức chia nhau hành sự, dùng cuốc xẻng nạy hết những viên ngọc quý khảm nạm trên tường.

    Thực ra báu vật trong ngôi điện này đều đã bị quân Nguyên trước kia khoắng sạch, những món còn sót lại vào thời ấy đều chẳng được xem ra gì, nhưng năm tháng qua đi, đến thời Dân Quốc này, cổ vật mấy trăm năm trước cũng thành báu vật cả rồi, bao gồm những lư hương đồng hình hạc, những món trang sức mạ vàng khảm trên những cây cột giữa điện, phàm thứ gì gỡ được đều bị đám trộm nạy ra bằng sạch. Riêng đám đèn lưu ly bát bảo tạm thời giữ lại để chiếu sáng, khi nào rút đi mới lấy cũng chưa muộn.

    Trong đám trộm, những kẻ nhanh tay nhanh mắt đều là tâm phúc của Lão Trần, thuộc hạng lão luyện trong nghề, phân nhau ra chỉ huy anh em vận chuyển của cải châu báu, vì thế người tuy đông mà không bị loạn, thậm chí còn rất trật tự.

    Hai vị thủ lĩnh Lão Trần và Gà Gô đương nhiên không bị đống của cải trong tiền điện hút hồn, chân không dừng bước, tiếp tục dẫn anh em đi qua tiền điện ồn ào, thằng tới gian điện phía sau. Dọc đường đi, xác rết la liệt khắp nơi, tuy đều đã chết hết cả nhưng số lượng kinh khủng khiến ai nhìn vào cũng phải sởn da gà.

    Toán trộm người đông thế mạnh can đảm kỳ lạ, chen nhau xông lên, qua hết mấy tầng điện là đến điện Vô Lượng ở nơi cao nhất. Ngôi điện này tọa lạc trong một hang động cheo leo, trước mặt có một khoảng sân bằng phẳng rộng rãi, xung quanh là hàng lan can bằng đá cẩm thạch chạm rỗng, phía sau là lớp đá xanh sẫm của núi Bình Sơn, hậu điện của Vô Lượng đã bị lấp kín, từ cấu trúc điện, có thể suy đoán hậu điện này chính là nơi Lão Trần đã xuống lần đầu qua nối khe nứt trên đỉnh núi.

    Trong mấy ngôi điện đã qua đều không thấy quan quách của mộ chủ, nên chắc rằng nó sẽ nằm trong điện Vô Lượng này. Đám trộm nhớ lại truyền thuyết Thi vương Tương Tây thì không khỏi run run, bước chân bất giác chậm lại, xúm xít quanh Lão Trần và Gà Gô, tiến vào khoảnh sân trước điện.

    Chỉ thấy trên sân có mấy trăm con gà trống máu me bê bết đang vây đánh gần trăm con rết còn lại. Cạnh đó là chiếc cầu đá hình vòm, dưới cầu là ao sâu không thấy đáy. Có lẽ trước kia ở đây đã từng có một dòng suối chảy qua các hành lang trạm quán rồi chảy ra ngoài núi, làm tăng thêm cảnh sắc sơn thủy lâm tuyền trong chốn địa cung, nhưng nay nước suối đã khô cạn từ lâu, chỉ còn lại một hố sâu đen ngòm ngay trước sường núi dưới gian điện.

    Đúng lúc mọi người đang định tiến lên diệt sạch đám rết to nhỏ còn lại, Gà Gô bỗng phát hiện có điều không ổn, vội vàng rụt ngay tay về bấm quẻ, biết có sát cơ trước mặt, ngẩng đầu nhìn lên đã thấy mấy tên trộm đang bước lên đầu cầu, vội vàng la lớn: “Mau quay lại!”
     
  8. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 28: Cường Địch
    Lão Trần cũng nghe thấy tiếng động khác thường từ dưới sâu lòng hồ cạn, nhưng cả lão lẫn Gà Gô lên tiếng cảnh báo đều đã quá muộn, loạt roạt loạt roạt, con rết sáu cánh đã men theo vách đá bò lên. Thì ra nó cảm nhận được thiên địch đã vào trong núi, theo bản năng sợ hãi trốn riệt dưới khe sâu không dám động đậy, nhưng lại thấy lũ con cháu bị bầy gà đuổi cùng giết tận, không sao nín nhịn được cuối cùng xông lên cầu đá trước điện Vô Lượng.

    Hai Bình Sơn đạo nhân mới xuất đạo là Lão Tây và Hoa Linh vừa khéo cũng đang cùng mấy tên trộm Xả Lĩnh đi trên cầu, ai ngờ con rết cụ kia xuất hiện quá nhanh, người khác muốn cứu họ cũng không kip. Con rết sáu cánh bò tới chân cầu, cong mình xồ ra từ thành cầu, trăm chiếc chân dưới cái bụng nâu vàng ngọ nguậy liên tục, dáng vẻ vô cùng dữ tợn.

    Đám trộm tuy đã chuẩn bị tinh thần nhưng việc xảy ra quá đường đột, thấy con rết khổng lồ bỗng dưng chui lên thì quên cả bỏ chạy, Lão Tây cùng hai tên trộm khác bị nó hất văng khỏi cầu, gào thét rơi xuống lòng hồ lởm chởm đá chết ngay tại chỗ.

    Tiếng kêu thảm thiết cùng tiếng xương cốt vỡ nát vọng lên từ đáy hồ, còn âm vang mãi trong lòng địa cung, khiến đám trộm còn lại nghe mà mặt mày thất sắc, những người ở hang trên hét lớn một tiếng, chực giương súng bóp cò. Trước khi tiến vào mộ cổ, súng ống đã được lên đạn sẵn sàng, loạt đạn này vãi ra, tốt xấu gì chẳng khoét được mấy lỗ trên thân con rết cụ.

    Nhưng Gà Gô th con rết sáu cánh đang bám vào thành cầu, nếu nhất loạt nổ súng không những khó lòng giết được nó mà ngược lại, mấy người còn sống trên cầu gồm cả Hoa Linh đều sẽ thành bia đỡ đạn,lúc này nhất định không được nổ sũng bừa bãi. Anh ta vội giơ tay gạt lòng súng của mấy kẻ hàng trên, giữa tình thế ngàn cân treo sợi tóc, “đoàng đoàng đoàng” một loạt đạn sượt qua đầu mấy người trên cầu.

    Lão Trần lập tức hét lên: “đừng nổ súng nữa, bắn phải anh em ta rồi!”. Đám trộm nghe tiếng thủ lĩnh quát mới miễn cưỡng hạ súng, vài tên công binh chết nhát thấy tình hình trước mắt liền lũ lượt quay đầu bỏ chạy, trong đội quân trộm mộ có những tay sũng chuyên phụ trách những kẻ đào ngũ này, mấy kẻ bỏ chạy lập tức bị bắn chết tại chỗ, đám người bỗng trở lên hỗn loạn.

    Gà Gô thấy Lão Tây chết tức tưởi, trong bụng vừa cuống vừa hận, đưa tay gạt phăng mấy người đứng cạnh, cuống cuồng xông lên cầu định cứu sư muội Hoa Linh, nhưng bấy giờ con rết sáu cánh trong thoắt chốc từ dưới chân cầu nhảy lên, hai hàm quắp lấy Hoa Linh, con rết sáu cánh trăm chân nhanh nhẹn, tha Hoa Linh lên lóc mái điện Vô Lượng.

    Động tác của con rết sáu cánh nhanh không thể tưởng, nào để cho người ta kịp phản ứng hay tránh né, Hồng cô nương cũng nóng lòng cứu người,vội vàng phóng ra mấy cây tụ tiễn, nhưng con rết cồng kềnh mà di chuyển lại nhanh như chớp, chỉ thấy một bóng đen xẹt qua trước gian điện, mấy cây tụ tiễn đã ngắm chuẩn mục tiêu, đủ kình lực song rốt cuộc vẫn chậm một tích tắc, găm cả lên cây cột trước cửa điện, đến cái bóng nó cũng không chạm được tới.

    Gà Gô không biết Hoa Linh sống chết thế nào,không kịp suy nghĩ vội chụp lấy thang rết của người bên cạnh, móc vào góc mái điện, phi lên lóc điện đuổi theo con rết.

    Gà Gô giẫm lên mái ngói trơn trượt, chỉ nghe phía trưc tiếng gạch ngói va vào nhau loảng xoảng, ngước mắt nhìn, thì ra con rết sáu cánh kia duỗi ra cả trăm cái chân gạt ngói lưu ly lợp trên lóc điện rơi rào rào, tốc độ bò của nó cũng vì thế mà chậm hẳn lại. Lão Trần ở dưới chỉ huy đám trộm ổn định lại trận thế, chĩa hết lòng súng lên trên mái điện, nhưng phần vì Gà Gô cũng đang trên đó, phần vì con rết sáu cánh đang nấp mình thập thò giữa mái điện và xà nhà, nên không ai dám tùy tiện nổ súng. Chợt nghe tiếng ngói rơi loảng xoảng, mọi người hoảng sợ vội lùi hết về sau, liền sau đó mấy chục mảnh ngói to rơi xuống đất vỡ tan. Đám trộm thấy con rết sáu cánh khí thế phi phàm, tựa hồ đã thành tinh vậy, vậy mà Ban Sơn đạo nhân Gà Gô lại dám trèo lên mái điện đuổi theo, gọi ới ới bảo anh ta mau quay lại, vội gì thì vội cũng không bằng mạng sống của chính mình.

    Nhưng Gà Gô đã quen đối đầu với song to gió lớn, coi ngàn nguy vạn hiểm cũng như không, nào chịu nghe lời đám người Xả Lĩnh. Anh ta lách người tránh những mảng ngói rơi, đi vòng qua mái điện, quành về bên cạnh con rết, chỉ thấy con rết sáu cánh dùng hàm quặp chặt lấy Hoa Linh, dãi rớt chảy ra đầy mồm.

    Gà Gô chợt hiểu ra, con rết này quanh năm hung cứ trong núi thuốc, đặc biệt thích mùi vị các loài kì hoa dị thảo để luyện đơn, Hoa Linh từ nhỏ lên núi hái thuốc, bầu bạn với các loài thảo dược, nên mới bị con rết sáu cánh bắt đi, tính tha về tổ ăn dần.

    Ý nghĩ vừa lóe lên trong óc, nhân lúc con rết sáu cánh đang loạng choạng trên ngói lưu ly, anh ta vội nhào lên phía trước, giật phắt lấy Hoa Linh bị kẹp trong hàm rết, ôm cô bé lăn theo mái điện xuống đất.

    Con rết sáu cánh đang định nhảy từ mái điện sang vách hang rồi lần xuống dưới, nên hai hàm ngoặm Hoa Linh có phần hơi lỏng, nào ngờ có kẻ tiếp cận quá gần, chớp mắt cướp mất con mồi ngon trong miệng. Nó vốn đã bị bức đến tức điên, sao có thể bỏ qua việc này, trong tiếng ngói lưu ly loảng xoảng, nó nhảy vọt lên cao, rồi nhào xuống đuổi theo Gà Gô.

    Đám người Xả Lĩnh đứng nhìn rõ mồn một, thấy Gà Gô hai tay ôm chặt Hoa Linh, trượt xuống theo mái điện, đằng sau là con rết sáu cánh đang đuổi theo, khí thế mạnh tựa sấm vang chớp giật, ai nấy đều há hốc mồm kinh sợ, đồng thanh kêu trời, tim thót lên tận họng.

    Nghe tiếng gió rít phía sau, Gà Gô biết khó lòng tránh nổi, đành nghĩ cách chặn đứng mũi tấn công của con rết tinh, anh ta vặn hông, ôm chặt Hoa Linh quay phắt người lại, lưng áp sát mái điện lộn một vòng, theo đà trượt xuống góc mái vểnh náu mình, hai khẩu súng Đức lăm lăm trong tay.

    Mọi người đứng nghển cổ nhìn lên chỉ thấy trước mắt nhoắng một cái, không ai trông rõ anh ta rút súng xoay người trên mái điện thế nào, càng không biết anh ta lên nòng ra sao, đến khi nhìn thì rõ tiếng súng đã vang lên chát chúa.

    Hai khẩu súng trong tay Gà Gô đều là loài súng bắn nhanh, bóp cò một phát, bốn mươi đầu đạn bay tới tấp tựa hai luồng sao băng, dội thẳng vào mồm con rết sáu cánh đang nhào tới phía sau.

    Đà lao của con rết thì khựng lại,cứ mỗi lần trúng đạn, sức mạnh gê gớm của khẩu mô de lại đẩy nó lùi về sau một đoạn, phát đầu tiên trúng đích thì những phát tiếp theo không thể chệch được, bốn mươi viên đạn bắn ra là bốn mươi cái lỗ được khoét trên mình con rết chẳng thiếu cái nào, chất dịch màu trắng đặc quánh chảy ra từ những cái lỗ, con rết bị trọng thương lăn lốc xuống đoạn mái bằng trên nóc điện, đau đớn giãy dụa khiến ngói lớp trên mái va vào nhau loảng xoảng. Sự việc xảy ra quá nhanh, đám trộm phía dưới thậm chí còn chưa kịp bắc thang trèo lên giúp sức thì cục diện thắng thua trên mái đã được phân định. Mọi người đều đang trợn mắt há mồm trông lên, đến tận lúc nghe tiếng súng nổ mới như bừng tỉnh, liền hò hét vỗ tay vang dội, tán tụng Ban Sơn đạo nhân Gà Gô quả nhiên bản lĩnh phi phàm. Nhưng tiếng vỗ tay chưa dứt hẳn đã thấy con rết vặn mình, cong thân bật lên cao rồi lạ từ trên lao xuống, đột ngột ngóc dậy phản công, rốt cuộc bốn mươi viên đạn kia vẫn không lấy được mạng nó.

    Hai khẩu súng trong tay đã hết đạn, Gà Gô không kịp thay hộp đạn mới, vội vàng quay sang kiểm tra thương thế Hoa Linh. Thấy trên người cô có mấy vết bị hàm rết cắn vào, máu chảy ròng ròng, mặt vàng như nghệ, thực đúng là “thân như ngũ nhạc ôm sơn nguyệt, mệnh tựa tam canh bấc sắp tàn”, hít vào thì ít thở ra thì nhiều, dáng vẻ như sắp hương tàn ngọc nát tới nơi, không sao cứu nổi. Không ngờ chỉ trong chớp mắt Ban Sơn Ban Sơn đạo nhân cuối cùng trên đời chỉ còn lại một mình Gà Gô, nghĩ tới đây anh ta chợt thấy đầu óc trống rỗng, quên mất mình đang ở đâu.

    Bỗng nghe phía dưới có tiếng hò hét kêu trời ầm ĩ, Gà Gô sực tỉnh, thấy con rết sáu cánh đang lao bổ xuống, hai mắt anh ta vằn đỏ, hai hàm răng nghiến chặt, lòng ngùn ngụt sát cơ. Nãy giờ không còn tay nào tháo sọt thả gà Nộ Tinh, lúc này gân xanh nổi lên đầy trán,anh ta chống tay tung người nhảy lên khỏi lớp mái ngói, ngoác mồm ra chửi: “súc sinh, xem pháp bảo đây!”.

    Tiếng hét còn chưa dứt, anh ta đã xé tung nắp sọt, đá thẳng chiếc sọt về phía con rết khổng lồ, đột nhiên thấy chui ra một con gà trống ngũ sắc móng vàng, chính là thiên địch khắc tinh của nó thì hồn vía lên mây, vội quay đầu bỏ chạy.

    Gà Nộ Tinh đâu chịu bỏ qua, dù vừa đáp xuống đầu rết, còn đang loạng choạng, nó vẫn kịp mổ cho kẻ địch mười mấy phát. Bấy giờ con rết đột ngột chồm lên, gà Nộ Tinh mắt đỏ vằn, chỉ chăm chăm dồn đối phương vào chỗ chết, bị thân hình khổng lồ của con rết lắc mạnh một cái, trượt khỏi đầu nó, vội bấu thật sâu hai bộ móng vào lưng rết, đúng chỗ mọc ra sáu cái cánh,trong tiếng gà kêu quang quác, một cái cánh rết trong suốt đã gãy lìa.

    Gà Gô thấy hai luồng khí ngũ sác và sương đen cứ quấn nhau trên đỉnh điện, không phân nổi thắng thua,chốc chốc lại thấy mấy cọng lông ngũ sắc, mấy cái chân gãy cánh cụt lả tả rơi xuống. Gà Nộ Tinh không phải vật thường, nhưng con rết kia cũng đã ẩn náu trong núi thuốc nhiều năm, lúc này tuy đang bị khắc tinh khống chế không dám nhả độc, song vẫn chống trả ngoan cường, muốn giết nó không phải chuyện dễ. Hiện giờ đã thế để thêm mười mấy năm e rằng không còn vật nào trên đời đả thương nổi nó, nếu hôm nay để nó thoát sau này tất thành đại họa.

    Nghĩ vậy Gà Gô quyết tâm phải trừ khử con vật này, tránh cảnh đêm dài lắm mộng đế nó lọt lưới. Anh ta lập tức lắp đạn cho hai khâu súng Đức, tung người lại gần đoạn mái bằng trên lóc điện, định hợp sức với con gà Nộ Tinh giết chết con rết sáu cánh. Ở dưới Lão Trần cũng chỉ huy thuộc hạ bắc thanng trèo lên.

    Lúc này con rết sáu cánh đang giãy chết, đột nhiên lật mình hất văng gà Nộ Tinh ra, bản thân nó rơi uỵch xuống dưới. Ngôi điện Vô Lượng kì thực là điện không xà, không có lấy một thanh xà ngang, toàn bộ trọng lượng của mái điện đều đè lên cột rui, tuy vô cùng kiên cố nhưng dù sao cũng không vững bằng bốn xà tám cột, mái điện bị con rết khổng lồ hết lần này đến lần khác húc vào từ lâu đã không chống đỡ nổi, sau cú dội cuối cùng của con rết, rui mộc lỏng lẻo cùng gạch ngói tức thời đổ ập xuống để lộ trên mái điện Vô Lượng một lỗ hổng to tướng.

    Gà Gô đang chạy được nửa đường thì hẵng chân rơi xuống, có câu “lực sinh ra từ đất”, bất kể là nhấc tay hay giơ chân gì cũng đều phải dựa vào đất mà phát lực, anh ta tài giỏi cỡ nào cũng không thể lăng không bay qua, rầm một tiếng đã cùng con rết theo rui gãy ngói vụn rơi xuống gian điện.

    Đột nhiên bị hụt chận, Gà Gô chỉ thấy trước mắt tối sầm, người đã rơi xuống gian điện. Không ngờ trong gian điện lại có một cái động không đáy như một miệng giếng sâu, to lớn lạ kì,bên trên che lọng ngọc, Gà Gô rơi xuyên cả qua tán lọng, khắp mình ê ẩm, xương cốt tưởng chừng nátụn, vậy mà đà rơi vẫn chưa chịu dừng, cứ thế tiếp tục rơi xuống cùng gạch vỡ gỗ vụn.

    Cũng may Gà Gô thân thủ phi phàm, kinh ngiệm dày dạn, lúc cận kề nguy hiểm cũng không hề hoảng loạn, thân xác tuy đau đớn nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn, trong khi rơi xuống bỗng thấy trước mắt lóe lên một tia sáng, vội vứt luôn khẩu súng đang cầm, với dài tay, bám vào một cái hốc nhỏ trên vách đá dựng đứng. Bản lĩnh phiên cao đầu của Gà Gô không thua gì Lão Trần, ngón tay tuy mất một mảng da nhưng rốt cuộc cũng treo được người giữa không trung.

    Lúc này chợt nghe bên trên ầm ầm chấn động, lại một trận đất đá ào ào đổ xuống, thì ra mấy cây cột trong gian điện cũng đã sập, chèn kín miệng giếng bên trong, dù cho cả đám người Xả Lĩnh lập tức bắt tay đào bới cứu người, một sớm một chiều cũng không thể dỡ nổi tòa điện Vô Lượng đã sập này.

    Gà Gô hít một hơi thật sâu, đổi tay bám vào hốc đá, cả người treo lơ lửng giữa không trung, anh ta cố nén cơn đau, đưa mắt nhìn quanh mới biết mình đang bám trên một cái giếng khổng lồ. Gọi là giếng có lẽ không đúng lắm, bởi riêng đường kính của nó dễ dãi cũng đã mười trượng, rất giống một hang động khổng lồ thẳng đứng, bốn bề nhẵn thín trơn bóng, cứ cách một đoạn lại có một cái hốc lõm vào, có điều không phải để cho người trèo lên, mà bên trong mỗi một hốc lõm đều gắn một ngọn thạch đăng Kim Giáp thần nhân bưng lửa, ngàn năm không tắt, chuyên được dùng trong các tổ miếu tổ lăng của bậc đế vương, những hốc đá đặt thặch đăng ấy chính là những máng đèn.

    Chỉ thấy trong lòng động rộng mênh mang, đâu đâu cũng lập lòe những đốm thạch đăng nhiều không đếm xuể, Gà Gô liều chết bám lấy một cái máng đèn mới may không ngã chết, nhưng thạch đăng để qua bao năm, dầu bên trong đã sắp cạn, ánh sáng tỏa ra vô cùng tù mù, cúi đầu nhìn xuống vẫn không thấy đáy chỉ thấy tầng tầng nhưng quầng sáng vàng vọt mịt mùng.

    Gà Gô một tay bám vào thành giếng, sau khi quan sát kĩ địa hình mới điều hòa nhịp thở, thử duỗi duỗi chân thì biết mình không sao. Anh ta vốn gan lớn tày trời, rơi vào hiểm cảnh vẫn ung dung trấn tĩnh ngẩng đầu nhìn lên, thấy từ chố mình lên điện Vô Lượng bên trên không xa lắm, toan bám vào vách đá dốc đứng trèo lên.

    Đang định hành động bỗng nge tiếng rết bò loạt soạt dưới giếng sâu, Gà Gô ớn lạnh toàn thân, thầm rủa con rết thối tha bám dai như đỉa. Hai khẩu súng vừa ý vừa tay đã ném đi ban nãy rồi, gà Nộ Tinh lại bị chặn bên ngoài động, lúc này dù có lòng diệt ác cũng lực bất tòng tâm. Anh ta thầm kêu khổ đưa mắt nhìn về phía phát ra tiếng động thì thấy con rết sáu cánh đang men theo thành giếng bò về phía mình.

    Dọc theo mình nó có tới trăm cái chân, trời sinh loài rết vốn là quán quân leo tường, tuy thương tích đầy mình nhưng tốc độ của nó vẫn cực nhanh, không để Gà Gô kịp chuẩn bị, loáng cái đã ập tới ngay trước mặt, hai cái hàm khua khua cũng những vết thương chi chit mình mẩy đều hiện ra rõ mồn một.

    Gà Gô biết tình thế xoay chuyển,chuyến này mình lại bị dồn tới đường cùng, cá không chết thì lưới rách, việc đến nước này chỉ còn cách liều thôi, nghĩ đoạn anh ta hét to: “đến đúng lúc lắm” rồi buông tay khỏi máng đèn, hai chân đạp mạnh vào thành giếng, né mình trách đà lao tới của con rết, trong tiếng rít lanh lảnh anh ta đã tung người nhảy xuống vực sâu.
     
  9. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 29: Giả Chết
    Gà gô cũng vì cuống quá sinh liều, để tránh đà lao tới thần tốc của con rết sáu cánh, vội đạp hai chân vào thành giếng, tung người nhảy xuống giếng sâu. Nhưng thân thủ của anh ta đã nhanh tốc độ của con rết còn nhanh hơn, nó thấy mình vồ hụt, bèn khua râu rung hàm, rướn nửa thân hình khỏi vách đá dựng đứng, tựa như con rồng đen quay đầu tìm châu, nhắm thẳng Gà Gô đang lơ lửng giữa không trung.

    Gà Gô nào phải dạng hữu dũng vô mưu, làm gì cũng có tính toán kỹ càng, biết con rết sau khi vồ hụt thế nào cũng giở chiêu này. Anh ta nhảy khỏi thành giếng, dồn trọng tâm vào hai bàn chân, xoay người một vòng giữa không trung, nhanh tay cởi phăng áo choàng đang mặc trên người, quăng thẳng vào con rết, chuẩn xác thần kỳ, vừa hay trùm kín đầu nó.

    Con rết đột nhiên bị tấm áo choàng trùm kín hàm râu, chẳng biết đây là thứ gì thì không khỏi hoảng hốt, bám trên vách đá ra sức quẫy đầu vẩy đuôi, toan hất tung tấm đạo bào nhưng càng giẫy giụa lại càng bị thít chặt, trong chốc lát không sao thoát nổi.

    Gà Gô tuy nhanh trí, dùng đạo bào chặn được con rết, nhưng anh ta tung mình bay ra giữa lòng giếng, lại cởi phăng tấm áo choàng chẳng khác nào bá vương cởi giáp, quả thực đã sức cùng lực kiệt, sau khi áo bào rời khỏi tay, cả người cũng lập tức rơi xuống, trước mắt chỉ thấy lập lòe ánh đèn nến hệt một bầu trời đầy sao.

    Huyệt giếng bày đầy thạch đăng sâu không thấy đáy, càng không biết bên dưới là nước hay là đá, rơi thẳng xuống thế này dù có mình đồng da sắt e cũng thịt nát xương tan. Nhưng Gà Gô liều chết nhảy xuống hoàn toàn không phải tự tìm cái chết, mà là tìm đường sống trong cái chết.

    Bên ngoài anh ta khoác đạo bào nhưng bên trong còn mặc bộ quật tử giáp leo núi chịu được nước lửa. Bộ quật tử giáp này làm từ da cá nhám, ở mặt trong chổ khủyu tay, cổ tay, mắt cá, đầu gối đều có vô số móc câu ngược nhỏ xíu, bình thường nằm im trong rãnh giáp, chốt mở nằm ở sau lưng, lúc sử dụng chỉ cần gạt một cái, bách tử câu leo núi sẽ lập tức bắn ra khỏi rãnh. Hai chữ “bách tử” trong bách tử câu, ‘bách” có nghĩa là nhiều, “tử” có nghĩa là nhỏ bé, trong những khí giới trộm mộ có rất nhiều dụng cụ có cấu tạo “bách tử”, như tấm quật tử giáp leo núi này cất giấu bên trong rất nhiều những móc câu bằng thép tinh luyện nhỏ bé mà chắc chắn.

    Trong lòng giếng sâu không phải nơi không gian thoáng đãng, mà luôn có khí lưu tồn tại nên tốc độ rơi của cơ thể chậm hơn bình thường đôi chút. Gà Gô thả mình xuống lòng giếng, đưa tay giật giây chốt sau lưng, lợi dụng dòng khí lưu, dang rộng hai cánh tay liệng tới nơi thành giếng gần nhất, bách tử câu ở cổ tay chỉ chờ có thế bám chặt vào vách đá dốc đứng thành vại, đà rơi đột ngột chậm lại, cả người dính chặt vào vách đá như thạch sùng.

    Gà Gô bám lấy vách đá thở phào, vừa nãy cởi đạo trùm lên đầu con rết, rồi lại dùng quật tử giáp treo người trên thành giếng, động tác nối tiếp nhau không một chút ngơi nghỉ, bao nhiêu tuyệt kỹ sống còn cất sâu đáy hòm đều đã lôi ra cả, chỉ cần giữa chừng có chút sai sót, e không làm mồi cho rết thì cũng thịt nát xương tan, dù anh ta có to gan lớn mật cũng không khỏi tim đập chân run.

    Nhưng không đợi Gà Gô kịp lấy lại hơi, trên đầu đã lại nghe lạo xạo tiếng rết bò. Con rết sáu cánh đã thoát được khỏi tấm đạo bào vướng víu, men theo thành giếng bò xuống, qua mấy trận ác đấu liên tiếp nó đã thương tích đầy mình, tức giận điên cuồng, nhất quyết phải dồn Gà Gô vào chỗ chết.

    Gà Gô trước khi vào núi Bình Sơn vốn định dùng gà Nộ Tinh đối phó với con rết già thành tinh này, không ngờ người tính không bằng trời tính, rốt cuộc lại cùng nó rơi xuống miệng giếng khổng lồ dưới điện Vô Lượng, lối ra bên trên bị bịt kín, tự biết lần này nguy hiểm tột cùng, gặp phải kình địch bình sinh hiếm thấy, đương nhiên không dám lơ là, vội hít sâu một hơi, lợi dụng quật tử giáp leo núi bám chặt vào thành giếng, triển khai thuật thạch sùng leo tường, nhanh chóng bò xuống đáy giếng.

    Gà Gô từng bước bò xuống đáy giếng, thân thủ tuy nhanh nhẹn nhưng con rết từ trên cao đuổi xuống quá sát, anh ta đành phải rời khỏi thành giếng, vừa đu vừa nhảy xuống dưới, chỉ thỉnh thoảng dùng quật tử giáp bám vào vách đá dốc đứng để giảm bớt đà rơi, tránh rơi thẳng xuống đáy giếng.

    Cái giếng này sâu đến mấy chục trượng, lại dốc đứng thành vại, tựa hồ sắp đâm thẳng xuống chân núi tới nơi, thân mình Gà Gô như phiến đá rơi, tránh rơi thẳng xuống đáy giếng đã hiện ra trước mắt. Chỉ thấy dưới này chất đống đến mấy trăm cỗ quan quách, có quan có quách, lại có cả chum vò táng xương, tất cả đều cũ kỹ dị thường, kiểu dáng niên đại cũng không hề giống nhau, phía trên là quan tài sơn son khảm ngọc xa hoa, phía dưới là áo quan mộc đầy mối mọt giòi bọ, hình như từ quan lớn quyền quý tới bách tính tiện dân đều được an táng tại đây, quan tài chất cao như núi, nhiều không đếm xuể.

    Gà Gô hành nghề đổ đấu đã lâu nhưng thấy đống quan quách chồng chất dưới đáy giếng cũng không khỏi kinh ngạc, chưa kịp nhìn kỹ thì cả người đã rơi xuống tới nơi, bấy giờ mới thấy rõ xung quanh núi quan tài còn vô số những hài cốt, có người chết rồi mà diện mạo vẫn như còn sống, cũng có người chỉ còn trơ sọ, nhìn vào dáng vẻ phục sức lại càng thấy rõ khác biệt, như thể lẫn lộn cả người Di người Hán, niên đại thì từ Thương Chu cho tới Đường Tống đều có cả.

    Gà gô hiểu biết uyên thâm, vả lại Ban Sơn đạo nhân thường cải trang thành đạo sĩ hành tẩu khắp thiên hạ, cũng biết chút ít về thuật Hoàng lão, anh ta vừa nhìn thấy cái lò luyện đơn bằng đồng xanh khổng lồ kia thì trong bụng đã hiểu bảy tám phần. Thì ra cái giếng sâu này chính là giếng luyện đơn trong đơn cung Bình Sơn, khi luyện đơn hỏa bốc lên cao, bắt buộc phải có một nơi như thế này, còn đống quan quách cổ xưa kia đều do đám phương sĩ luyện đơn đào trộm từ khắp nơi đem về nấu đơn. Từ xa xưa, người ta đã cho rằng thịt cường thi có thể làm thuốc gọi là “muộn hương”, bởi những cường thi chết rồi mà không thối rữa đều nhờ hấp thụ long khí trong địa mạch, long khí vô hình vô ảnh khó lòng nắm bắt, nhưng đem nấu thịt cường thi thì có thể tinh luyện được long khí trong di hài.

    Lại thêm quan quách dùng để liệm hài cốt đều được làm từ những nguyên liệu như gỗ, đá, ngọc, đồng, chôn vùi dưới đất nhiều năm, cũng hấp thu linh khí của địa mạch nên có thể dùng làm nguồn lửa luyện đơn. Chuyên luyện đơn thuốc để thành tiên từ xa xưa đã có, ai mà chẳng mong được trở thành bậc thần tiên sống nơi thanh tịnh, đi mây về gió, siêu phàm thoát tục, trẻ mãi không già, thọ cùng trời đất? Nhưng phép luyện nội đơn tu chân luyện tính, gạn đục khơi trong, cũng phân trên dưới cao thấp khác nhau, đa số phương sĩ đều không muốn dùng người chết để luyện âm đơn. Không ngờ Bình Sơn tuy là đơn cung luyện đơn cho hoàng gia song bên trong kỳ thực lại là nơi nhơ nhuốc thế này, không từ thủ đoạn để luyện thành chân đơn, thực khiến người ta phẫn nộ.

    Gà Gô đảo mắt một vòng đã thông tỏ đầu đuôi ngọn ngành, thấy xung quanh đáy giếng có rất nhiều khe đá hình thành do dáng núi xiêu vẹo của Bình Sơn. Con rết sáu cánh nhờ đó mà có thể chui qua chui lại giữa các gian điện, chứ con người ở dưới này chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng, không phân biệt nổi Đông Tây Nam Bắc, cũng chẳng biết cái khe nào mới thông được ra ngoài. Anh ta đang định chui vào đó trốn tạm thì lại nghe tiếng hàng trăm cái chân rết lạo xạo từ thành giếng trên cao bò xuống càng lúc càng gần, con rết sáu đuôi đang đuổi riết.

    Gà Gô thấy con rết đến quá nhanh, dưới đáy giếng chẳng khác nào đáy phễu này làm sao quần nhau được với nó? Anh định lách mình trốn vào một khe đá nhưng không kịp, huống hồ một khi con rết kia đuổi theo vào khe núi, tính mạng sẽ càng khó bảo toàn.

    Cái khó ló cái khôn, anh ta đảo mắt nhìn quanh rồi nhả đại xuống chỗ quánh ngọc, nằm lẫn trong đống xác chết, lại tiện tay túm lấy một cái xác khô che chắn. Cái xác cổ được bao bọc trong một lớp da khô đỏ tía, mồm há hốc để lộ hàm răng lởm chởm, hai hốc mắt sâu hoắm, trên đầu và dưới cằm còn mấy sợi râu tóc hoa râm vẫn chưa rụng hết, dáng vẻ vô cùng nanh ác.

    Nhưng Gà Gô vốn to gan lớn mật, đương nhiên chẳng nề hà gì, anh ta đẩy cái xác khô sang bên chừa chỗ cho mình chui xuống nằm, rồi trốn trong đống xác người xương cốt lổn nhổn, vận thuật Quy tức điều hòa cho hơi thở và nhịp tim tức thì chậm lại.

    Ban sơn đạo nhân khi đổ đấu thường qua lại như con thoi trong mộ cổ dưới lòng đất sâu yếm khí, ở đó âm khí và tử khí đều rất nặng nề, để đối phó ngoài cách ngậm thuốc, các đạo nhân còn bắt buộc phải học cách bế khí, tinh thông thuật này rồi, có thể luyện đến mức nhiều nhất chỉ hơn người chết một hơi sinh khí. Loài rùa đất sống sâu dưới lòng đất, nhịp thở và nhịp tim đều vô cùng chậm, vậy mà sống được mấy trăm năm. Từng có người đào lên một tấm bia mộ, dưới tấm bia có một con rùa đất bị chôn vùi suốt mấy trăm năm, chỉ sống nhờ vào không khí trong các khe kẽ dưới lòng đất, không hề ăn bất cứ thứ gì, khát thì uống nước mưa ngấm qua bùn đất, đói thì cực kỳ chậm rãi nuốt từng tí không khí luồn qua kẽ đất, mãi đến mấy trăm năm sau mới được moi lên, tấm bia đã mục nát nhưng con rùa vẫn còn sống. Cho nên phương pháp hít thở dưới lòng đất sâu của dân trộm mộ được gọi là thuật Quy tức.

    Gà Gô sử dụng thuật này, bế khí nín thở trốn trong đống xác khô đề cao cảnh giác với mọi tiếng động bên ngoài, chỉ nghe sột soạt từng chập trên thành giếng, con rết sáu cánh đã bò xuống tới đáy.

    Gà Gô hé mắt trộm nhìn, thấy nó đang loay hoay giữa núi quan quách và đống xác khô, chốc chốc lại thò hai cái râu dài vào đống xác người như thể muốn tìm kẻ vừa đả thương mình. Thân nó đã trúng phải một loạt đạn, lại bị gà Nộ Tinh mổ cho một trận nên thân, sáu cái cánh trong suốt đã rụng mất ba, mình mẩy te tua nhưng bản tính hung tợn và sức mạnh vẫn còn, râu chân loạt xoạt, thoăn thoắt bò qua lại dưới đáy giếng.

    Gà Gô thầm lo, cái đồ thối thây này không phải đã tu thành chính quả thật rồi chứ, sao bị thương nặng thế vẫn không suy sụp tẹo nào? Đang kinh ngạc, chợt thấy mắt mũi tối sầm, con rết vừa khéo bò qua người anh ta, từng đốt vỏ giáp dưới bụng nó như những chiếc lá khô cận kề ngay trước mắt, may có đống xác khô che phía trên nên nó vòng qua vòng lại mấy lần vẫn không phát hiện ra Gà Gô.

    Gà Gô vốn tưởng con rết sáu cánh bị thương sắp chết nên tính trốn trong đống xác khô kéo dài thời gian, đợi vết thương phát tác, nó chết đi rồi tính tiếp, nào ngờ giống rết này bản tính hung ác, thân mang trăm ngàn vết thương mà vẫn bò tới bò lui không ngừng. Gà Gô không biết rằng con rết này tuy lợi hại nhưng cũng không phải không biết đau, kỳ thực do bầy gà trong núi Bình Sơn cứ gáy ầm ĩ nên nó mới bứt rứt không yên, cứ như phát rồ phát dại, không muốn nghỉ ngơi phút nào.

    Con rết sáu cánh vòng đi vòng lại mấy lượt không đánh hơi thấy người sống liền bò lên thành giếng, liên tục cọ mình vào vách đá. Gà Gô thấy lạ lại he hé mắt nhìn, thấy góc thành giếng chất đầy dược thạch cỏ cây, lại thêm vô số vò thuốc bình đơn vỡ nát khắp nơi, các loại đơn dược vãi đầy trên đất, con rết già cọ vết thương vào dược thạch, hóa ra đang tự chữa thương cho mình.

    Gà Gô chửi thầm trong bụng: “Con yêu nghiệt, còn chưa chịu chết đi!” Anh ta tuy muốn trừ khử con rết nhưng lúc này chỉ có tay không, hai khẩu súng Đức vứt đi khi nãy không biết đã rơi ở chỗ nào, nghĩ tới sư đệ sư muội chết thảm trong tay nó mà hận đến nghiến răng nghiến lợi, lại nghĩ Ban sơn giờ đây chỉ toàn người già trẻ nhỏ ốm yếu, nhớ năm xưa Ban Sơn đạo nhân từ núi Song Hắc sông Khổng Tước trên sa mạc tiến vào nội địa, lưu truyền cả ngàn năm nay, giờ chỉ còn lại mỗi mình mình, trong lòng tuyệt vọng, chỉ muốn hất tung đống xác khô, nhảy ra sống mái với con rêt kia một phen. Nhưng anh ta cũng rõ, chỉ cần bản thân nhất thời xốc nổi, có sơ suất gì thì Ban Sơn đạo nhân coi như tuyệt tự từ đây, nên đành tiếp tục ẩn nhẫn, trốn trong đống xác khô hôi thối đợi thời cơ, nếu chưa chắc ăn quyết không thể manh động.

    Đang lúc suy nghĩ đắn đo, Gà Gô bỗng cảm thấy bên tai ngứa ngáy, suýt nữa thì giật mình đánh thót, mồ hôi lạnh túa ra. Hóa ra trong đống xác chết này có con rết dài chừng ba tấc, bò ra từ hốc mắt một cái đầu lâu bên dưới, tựa hồ phát hiện ra Gà Gô là vật sống, men theo tai bò lên mặt anh ta.

    Gà Gô than thầm: “Khốn khổ khốn nạn, chắc rơi vào ổ rết mất rồi, giờ làm sao đây?” Anh ta cảm thấy con rết từ bên tai trái bò lên trán, rồi mấy chục cặp chân lại du ngoạn xuống sống mũi, hai sợi râu linh hoạt quét qua quét lại, cảm giác ngứa ngáy vô cùng khó chịu, oái oăm hơn là lòng dạ nhộn nhạo, thuật Quy tức sắp mất tác dụng rồi.

    Gà Gô biết chỉ cần hơi thở của mình loạn nhịp, con rết sáu cánh sẽ phát hiện ra ngay, nên đành gắng chịu, mặc cho con rết nhỏ bò lên bò xuống giữa hai chân mày, không dám cựa quậy. May sao tiếng gà gáy trong núi đã làm lũ rết mất đi bản năng, không dám nhả độc, bằng không chỉ cần dính phải một ít chất kịch độc của loài rết trong núi Bình Sơn, thì dù có bản lĩnh thông thiên cũng phải bỏ mạng ở đây.

    Hàng trăm cái chân rết cứ ngọ nguậy, bò qua bò lại trên mặt như thế ai mà chẳng sợ đến sởn da gà, may mà Gà Gô có sức chịu đựng hơn người, toàn thân cứng đơ như xác chết, ngay cả lông mày cũng không hề động đậy. Nhưng điều gì phải đến cũng đã đến, con rết nhỏ bò qua bò lại chán chê, lại tính chui vào mồm Gà Gô.

    Dưới lòng giếng sâu trong đơn cung này xương cốt chất thành núi, con rết vốn đã quen trò chui ra chui vào các cái xác chết, nó cảm thấy cái xác này hình như vẫn còn sinh khí, nhưng lại khó xác định nên chẳng nghĩ ngợi gì liền bò ngay vào mồm Gà Gô.

    Toàn thân Gà Gô căng cứng như dây đàn, nếu để con rết nhỏ này chui vào mồm không biết hậu quả sẽ ra sao, việc này xẩy ra quá bất ngờ, khiến anh ta không sao lường nổi, giờ có tiếp tục nhẫn nhịn giả chết cũng không được nữa rồi, nhưng chỉ cần cử động hơi mạnh một chút, nhất định sẽ kinh động tới con rết sáu chân kia.

    Gà Gô ứng biến cực nhanh, lại quyết đoán kịp thời, chuyên làm những việc người bình thường chẳng ai dám nghĩ, anh ta lập tức hạ quyết tâm, thừa lúc con rết vừa đưa đầu thăm dò, chưa kịp cong mình chui vào, Gà Gô liên há mồm cắn một nhát thật mạnh.
     
  10. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 30: Lò Luyện Đơn
    Đám trộm Xả lĩnh mang theo bầy lớn gà trống vào núi trộm mộ, trời sinh rết và gà trống vốn là tử địch, lũ rết to rết nhỏ trong địa cung mộ cổ mới đầu còn đua nhau bỏ chạy thục mạng, về sau không chịu được tiếng gà gáy váng óc, lũ lượt bò ra liều chết, sống mái với bầy gà, song lại vừa hay rơi vào vòng tròn sinh khắc chế hóa của Ban sơn đạo nhân, cuối cùng chỉ còn sót lại con rết sáu cánh và vài con rết nhỏ sợ đến vỡ mật.

    Bầy rết trong núi Bình Sơn đã chết gần hết, con rết nhỏ ba tấc này trốn trong đống xác người dưới đơn tỉnh, nghe tiếng gà gáy trong núi càng hồn xiêu phách lạc, cuống quýt chui ra chui vào cái đầu lâu khô, không chịu yên lấy một giây, thế nào lại chui đúng mồm Gà Gô đang giả chết.

    Gà Gô tuy đảm lược hơn người, nhưng nếu làm kinh động tới con rết trời đánh thánh vật không chết kia thì chỉ có bỏ mạng trong núi luyện đơn này. Tuy nhiên, cứ để mặc con rết nhỏ chui vào mồm cũng chẳng khác nào trơ mắt chờ chết, anh đành hạ quyết tâm, chờ cho nó bò tới mồm, hai sợi râu vừa chạm vào đầu lưỡi, liền hơi ngẫng đầu, há mồm cắn phập một phát, đứt đôi con rết nhỏ.

    Gà Gô dùng lực vô cùng chuẩn xác, hai hàm răng cắn phập chỉ nghe đánh “khậc” một tiếng khẽ khàng. Nhưng cái đầu rết tuy bị cắn đứt rời thân vẫn chưa chết ngay, còn ngúc ngắc trong mồm anh ta,nhe răng giơ râu rồi mới chịu đơ ra.

    Gà Gô cảm thấy đầu lưỡi chân răng bắt đầu tê dại, tự nhủ chắc con rết nhỏ trước khi chết vẫn kịp nhả độc. Tuy khoang miệng không bị nó cắn rách, chất độc không thể ngấm vào máu thịt, nhưng cứ ngậm mãi thứ độc tố này trong mồm cũng không phải là cách, anh ta vội nghiêng người nhổ toẹt cả đầu rết lẫn bãi máu tươi sang đống xương bên cạnh, nhưng cảm giác tê miệng vẫn không biến mất. Gà Gô lòng thầm kinh hãi, trúng độc là cái chắc rồi.

    Nào ngờ tiếng động nhỏ xíu khi nãy đã đánh động con rết sáu cánh. Nó đang chà xác vết thương vào đống dược thạch, không biết thứ vụn thuốc đó làm từ nguyên liệu quý hiếm nào mà có tác dụng cầm máu trị thương tuyệt vời đến vậy, chỉ thấy con rết lăn mình lật cánh cho mình mẩy dính đầy bột thuốc, vết thương to bằng cái sàng trên thân nó lập tức liền miệng. Tựa hồ phát giác thấy động tĩnh trong đơn cung, nó quay phắt lại, ngoe nguẩy đôi hàm và râu thăm dò, rồi bắt đầu ngọ nguậy trăm cái chân bò về đống xác.

    Gà Gô đang lo trúng phải kịch độc, lại nghe tiếng con rết sáu cánh thoăn thoắt từ góc giếng bò tới, nghĩ bụng lần này đúng là họa vô đơn chí. Hoa Linh và Lão Tây đều chết trong Bình Sơn, không ngờ nay lại đến mình cũng không thoát khỏi kiếp nạn này, đây hóa ra lại là nơi Ban Sơn đạo nhân tuyệt tự.

    Song anh ta cũng nhanh chóng trấn tĩnh, nín thở nhẹ nhàng nắm lấy một khúc xương cánh tay của người chết, khúc xương gẫy tương đối sắc nhọn, vừa khéo có thể dùng làm dùi đâm. Gà Gô hạ quyết tâm, đã giả chết thì giả chết đến cùng, cứ để nó tới đây, mày không động đến tao thì tao cũng không động đến mày, còn nếu bị con rết sáu cánh phát hiện ra thật, anh ta sẽ liều mạng dùng khúc xương này đâm thẳng vào đầu nó.

    Sẵn sàng cho một trận quyết tử, Gà Gô nằm bất động dưới đống xác, hé mắt nhìn trộm, thấy con rết khổng lồ di chuyển lòng vòng trên đống quan quách lổm nhổn, cuối cùng lại bò tới một góc giếng. Anh ta chột dạ nhủ thầm: “Trò quái quỉ gì đây? Giờ cũng chỉ lấy bất biến ứng vạn biến thôi, cứ nằm yên xem nó định làm gì rồi tính”.

    Lại thấy con rết bò đến một cổ áo quan sơn son thếp vàng rực rỡ rồi đột nhiên dừng lại, cuộn mình xòe hàm, nhúc nhích như đang giơ vuốt nhe nanh. Gà Gô cành nhìn càng thấy kỳ lại, nhờ ánh đèn như sao trời giăng kín trên thành giếng, anh ta lờ mờ trông thấy hình mấy người phụ nữ vận cổ trang, dáng điệu thướt tha, đang gẫy đàn thổi sáo giữa cung điện mây trời, xem ra đều là tiên nữ trên thiên đình, tuyệt nhiên không giống người phàm, vẫn còn lưu giữ trên cổ áo quan to lớn.

    Mặt ngoài quan quách thời xưa thường vẽ hình tiên nhân sơn son thếp vàng, có ý gởi gắm chốn đi về ở cõi u minh cho người chết nằm trong quan tài. Không biết cỗ quan tài quét sơn này được tạo ra từ bàn tay người thợ tài hoa của triều đại nào chỉ thấy thần thái các tiên nữ vô cùng sinh động, khung cảnh trong tranh cũng rất truyền thần, khiến người ta nhìn vào đã có cảm giác thoát tục như đang được lắng nghe khúc nhạc trời giữa chốn tiên cung.

    Con rết sáu cánh quanh quẩn trước cỗ quan tài, hồi lâu vẫn không muốn bỏ đi, tựa như đang quỳ bái thần tiên trong bức tranh. Rồi đột nhiên, từ mồm nó nhả ra một viên hồng hoàn to bằng quả long nhãn, đỏ tươi như máu, xung quanh bao phủ một quầng sáng mờ ảo, hồng hoàn bị con rết nhả ra rồi lại nuốt vào, lặp đi lặp lại, vờn giỡn mãi không thôi.

    Gà Gô thấy con rết bất ngờ nhả ra hồng hoàn thì vô cùng kinh ngạc, lại ngửi thấy trong lòng giếng tự nhiên có mùi hương lạ xộc thẳng vào mũi, không khỏi run run trong dạ. Thì ra con rết này ngoại thương sắp lành, bèn nuốt nhả nội đơn tự chữa trị nội thương. Bất kể sinh linh nào cũng chỉ có thể đem nội đơn kết thành trong cơ thể ra nuốt nhả trong núi vào giờ khắc giao nhau giữa hai giờ Tý Ngọ, phân rõ âm dương mà thôi.

    Gà Gô trong lòng hiểu rõ, vạn sự vạn vật trên đời đều có định mệnh, có hai cực âm dương, đó là lẽ tự nhiên của tạo hóa, là thuyết âm dương, bất kỳ sinh linh sự vật nào, có sinh tất có diệt, chỉ có thần tiên phiêu diêu cõi hư vô trong truyền thuyết mới có thể tu hành chính quả, hoàn toàn siêu thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

    Bất luận con người hay những sinh linh khác, một khi sinh ra trong cõi đời này, sẽ không bao giờ tránh khỏi nỗi khổ sinh lão bệnh tử, cho nên từ xưa đã có biết bao người vứt bỏ gia nghiệp người thân, cả đời chuyên tâm cầu tiên luyện đơn, chỉ để được hóa thân xác thành thần tiên, trường sinh bất lão, trường tồn cùng thiên địa nhật nguyệt, suy nghĩ này có lẽ xuất phát từ nỗi sợ hãi trước quy luật tàn khốc của tự nhiên.

    Thực ra không chỉ con người mới có nỗi sợ này, tất cả mọi sinh linh trên đời đều tham sống sợ chết như vậy, mưu toan nhìn thấu thiên cơ, tu thành chính quả. Trong ngàn vạn năm qua,cách thức muôn loài kiếm tìm sự trường sinh không nằm ngoài hai loại nội đơn ngoại đơn, trong đó ngoại đơn được luyện từ các loại kim thạch dược liệu thủy ngân, còn nội đơn thì thần bí hơn, bên trong có âm dương bổ trợ, lại cả luyện khí nạp thổ nạp ra.

    Chỉ nói riêng về luyện khí, thực ra là thông qua nuốt vào nhả ra tinh hoa của nhật nguyệt để dưỡng thành nội đơn trong cơ thể, cách thức thì nhiều vô số kể, lại phức tạp ảo diệu, khó mà nói hết, nhưng đa phần đều chỉ là mấy mánh khóe hù người, bất luận sinh linh nào sống trong trời đất, nếu không gặp được cơ duyên đặc biệt, tuyệt đối khó lòng luyện thành.

    Trái lại, loài súc sinh ngu độn như trâu ngựa lợn dê lại vô tình sinh ra ngưu hoàng, cẩu bảo, một dạng kết thạch từa tựa như nội đơn, chỉ bởi đầu óc đơn giản hơn nhiều so với các loài khác. Nhưng cũng chính bởi chúng ngu ngốc, nên nếu trong cơ thể nếu có nội đơn cũng không biết, càng không hay cách thổ nạp tu luyện, cuối cùng chỉ báu những tên đồ tể chuyên giết lợn mổ bò, hễ lần nào giết trâu bò, nhặt được ngưu hoàng, la bảo trong bụng gia súc, đem bán cho những người thu mua dược liệu, là coi như kiếm được một món bẫm.

    Bắt đầu từ thời Tần Hán, đã có trường phái xây dựng thuật nội đơn khảm ly, người tu tập theo có cả nam lẫn nữ, kỳ thực là bắt đầu từ nguyên lý “ngưu sinh hoàng, cẩu kết bảo”. Phái luyện đơn này cho rằng sở dĩ mọi sinh linh trên đời không thoát khỏi sinh lão bệnh tử là bởi trong cơ thể có một búi gân, muốn nắm lấy số tuổi thọ sinh mệnh, phải thông qua nuốt nhả tinh hoa nhật nguyệt, đem bó gân ấy hóa thành chân đảm, đợi đến khi luyện thành hình tròn thì có thể thoát khỏi sinh tử luân hồi, tu thành Đại la Kim tiên. Môn khí công thổ nạp này lưu truyền mấy ngàn năm, quả thực cũng có người cá biệt luyện thành, luyện đến cuối cùng kết thành huyết đơn trong Đan Điền, nhưng đến lúc phải chết thì v cứ chết, hầu như không ai sống quá trăm tuổi, chết rồi có thành tiên không thì cũng chẳng ai biết.

    Không ngờ con rết sáu cánh sống trong đơn cung nhiều năm, ăn đơn dược sót lại trong địa cung mà cũng luyện thành nội đơn hồng hoàn, trông hành động của nó, có vẻ như muốn thổ nạp nội đơn mấy lượt dưới giếng này, gia tăng tinh lực rồi lại ra chiến đấu với gà Nội Tinh.

    Gà Gô chợt nghĩ: “Viên hồng hoàn này chính là sinh mệnh của con rết sáu cánh, tất cả tinh lực của nó đều tích tụ trong đó, giờ là cơ hội ngàn vàng, cần phải liều chết cướp lấy nội đơn. Bằng không để nó nuốt đơn vào rồi, không biết đến tận khi nào mới lại nhả ra, tới lúc đấy không phanh thây nghiền xương được nó, e khó mà dồn nỗi nó vào chỗ chết.”

    Gà Gô đang cảm giác nơi đầu lưỡi đang dần mất hẳn, biết còn chần chừ thêm nữa chất độc sẽ công vào tim, lúc đó chỉ còn biết giương mắt ếch ra nhìn con rết sáu cánh bay lên khỏi đơn tỉnh. Không nghĩ ngợi nhiều, anh ta nhắm chuẩn thời cơ, nhằm lúc con rết quay lưng lại phía mình nhả viên hồng hoàn, bèn nhanh như cắt hất phăng cái xác khô che phía trước, tung người nhảy vọt khỏi đống xác chết, giơ chân đá bay một cái đầu lâu về phía con rết.

    Đây là chiêu dương Đông kích tây, cái đầu lâu bị đá bay vụt qua đầu con rết, đập vào thành giếng nát vụn. Tiếng động đột ngột quả nhiên làm con rết giật mình, đơn khí đứt đoạn khiến viên hồng hoàn đang lơ lửng giữa không trung rơi ngay xuống nắp quan tài, xoay tròn mấy vòng.

    Cú đá càn khôn của Gà Gô tựa long trời lở đất, chân đá đầu lâu, người cũng cùng lúc bắn ra, nhanh tới nỗi tựa hồ chân không chạm đất, trong lúc viên nội đơn của con rết rơi xuống, anh ta chỉ nhún chân mấy cái đã tới bên cỗ áo quan, viên nội đơn chưa kịp từ nắp áo quan rơi xuống đã nằm gọn trong tay.

    Con rết sau cánh coi nội đơn như sinh mạng, nhưng vì trọng thương nên thành ra như “chim sợ cành cong”, thấy cái đầu lâu đập đánh bốp vào thành giếng thì hoảng hốt không để đâu cho hết, vừa thoắt phân tâm đã đánh rơi nội đơn, vội vàng quay lại định hút ngay hồng hoàn vào cơ thể. Nào ngờ chỉ trong tích tắc ấy, nội đơn đã bị người khác cướp mất, nó lo sợ cuống cuồng, vội khua khoắng râu vuốt toàn thân, bổ nhào tới chỗ Gà Gô.

    Gà Gô vừa cúi người chộp được nội đơn nhưng chân vẫn không hề ngừng nghỉ, theo quán tính tiếp tục nhảy về phía trước, đồng thời hất tấm ván áo quan trên mặt đất ra sau cản đường con rết.

    Đợi đến khi con rết phá tung được mảnh nắp quan tài mục nát, Gà Gô đã chạy được nửa vòng giếng, vòng tới lò luyện đơn bằng đồng xanh ở chính giữa đáy giếng. Anh ta biết dù thân thủ mình có nhanh đến mấy cũng không thể quần nhau với con rết khổng lồ trong lòng giếng sâu như cái thùng sắt này được, tốt nhất là tìm nơi tránh mũi tấn công của nó. Con rết đã mất nội đơn chắc cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa, vừa chạy vừa phóng mắt quan sát, chỉ thấy có cái lò luyện đơn là nơi dung thân tốt nhất.

    Gà Gô chẳng buồn quay lại nhìn xem con rết đã đuổi tới đâu, anh ta hít sâu một hơi, lao thẳng về phía lò đơn, một bước sáu thước hai bước trượng hai, loáng cái đã tới cạnh lò, đoạn xoạc chân, triển khai Khôi Tinh Thích Đẩu, vận lực xuống chân, đá tung nắp lư đồng nặng tới trăm cân có lẻ, để lộ ra một khe hở vừa khéo đủ cho một người chui vào. Chỉ chờ có vậy, anh ta liền phóng người lên, lách một cái chui tọt vào lò đơn

    Chỉ nghe tiếng nắp lò sập xuống đánh rầm một tiếng, tiếp theo đến là tiếng con rết sáu cánh xồ đến dội mạnh vào chiếc lò đồng. Tất cả điều diễn ra nhanh như chớp giật, Gà Gô trở mình chui vào lò đơn, người còn chưa chạm đáy lò đã nghe tiếng nắp đồng đóng sập trên đỉnh đầu, cùng tiếng con rết húc đầu vào thân lò dội lại.

    Âm thanh trong lò đồng đặc biệt vang vọng, nghe như tiếng chuông đồng, cứ lùng bùng bên tai không dứt. Gà Gô vội há mồm bịt tai, nhưng lúc này trăm cái chân rết bên ngoài đang thi nhau cào vào lớp vỏ đồng, phát ra từng trành sột soạt nhức óc, mặc Gà Gô ra sức bịt tai, chuỗi âm thanh dày đặc ấy vẫn như khoan thẳng vào óc anh ta.
     
  11. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 31: Tiên Cảnh Điêu Tàn
    Gà Gô cướp được rết đơn, tiện thể trốn luôn trong chiếc lò đồng, tuy nằm trong lò nhưng anh ta vẫn nghe rõ mồn một mọi động tĩnh bên ngoài, biết con rết đuổi sát theo sau, không húc thủng được lò đơn, liền bò quanh, dùng râu vuốt cào vào thành lò.

    Con rết sáu cánh dường như cũng biết mất nội đơn coi như chết chắc, bèn mang nỗi ai oán căm hận trút lên cái lò đồng, hàng trăm cái chân cứ cào lấy cào để vào thành lò. Tuy cái lò chẳng xây xước gì nhưng âm thanh sột soạt từ bốn phương tám hướng dội vào tai, chẳng có vô số con rết nhỏ đang đục vào óc, khiến Gà Gô gần như phát điên, chỉ biết ôm đầu chịu đựng.

    Gà Gô vốn có sức khỏe hơn người, nhưng khi nãy thực hiện liền một loạt hành động cướp đơn không ngơi nghỉ, nhanh đến khó bề tưởng tượng, kỳ thực chỉ là quẫn quá làm liều, mang hết tuyệt học bình sinh ra sử dụng. Do ban nãy anh ta đang trong trạng thái Quy tức lại đột ngột bật dậy chạy nhanh, khiến khí huyết trong lồng ngực cuộn lên ùng ục, giờ lại bị nhốt trong lò đồng, trong đầu ong ong tiếng hàng trăm cái chân rết khua khoắng, tưởng như sắp vỡ tung ra, tim đập loạn xạ, làm thế nào cũng không trấn tĩnh được.

    Gà Gô vẫn còn tỉnh táo, sợ mình sẽ phát điên mà chết, định cắn rách đầu lưỡi để định thần, nhưng lại thấy cảm giác tê dại nơi đầu lưỡi, đang dần lan rộng, biết độc rết trong mồm đã phát tác, vừa nãy vận sức vượt quá khả năng chịu đựng của cơ thể, giờ đầu lưỡi lẫn chân răng đều dính phải kịch độc, e sắp ngấm vào não tủy mất rồi.

    Anh ta chợt nhớ ra viên nội đơn đang nằm trong tay, nội đơn của loài rết vốn là tinh hoa của dược thạch nhật nguyệt trong núi Bình Sơn, con rết sáu cánh để mất nó không chỉ nguy hiểm đến tính mạng mà còn không thể nhả độc được nữa. Nghe nói nội đơn có tác dụng cải tử hoàn sinh, cho dù bệnh nặng đến đâu, chỉ cần vẫn còn chút hơi tàn, nuốt viên chân đơn này vào là có thể sống lại, hoàn dương lần nữa. Rết châu đã giải được độc rết thì viên nội đơn này hẳn cũng có thể, có điều rết châu không thể để sát mũi mồm, không biết nội đơn có đặc tính vậy không.

    Gà Gô nghĩ bụng đằng nào cũng chết, tội gì không nuốt thử xem sao? Nếu ông trời không bắt Ban Sơn đạo nhân tuyệt tông từ đây, có lẽ vẫn còn một hy vọng sống. Anh ta xưa nay vốn không tin quỷ thần, cũng không phải gánh trách nhiệm nặng nề, tốt xấu gì cũng không thể để Ban Sơn Phân Giáp thuật tuyệt đường hương hỏa. Nghĩ vậy, anh ta thầm cầu khẩn: “Hỡi các vị tổ tiên an nghỉ nơi Song Hắc sơn, hỡi vị chân thần toàn trí toàn năng duy nhất tổ tiên chúng con tôn thờ, nếu thần sơn Zhaklama có linh thiêng, xin hãy cho con giữ lại mạng này…”

    Trong tích tắc suy nghĩ, Gà Gô đã cảm thấy cổ họng bắt đầu tê tê,nếu không mau chóng nuốt nội đơn vào, đến khi cổ họng đã tê dại đi rồi thì viên kim đơn này có là tiên dược khó lòng nuốt nổi, việc đến nước này không thể tiếp tục chần chừ nữa. Nghĩ vậy, anh ta bè đem viên nội đơn của con rết bỏ tọt vào mồm, rướn cổ nuốt gọn xuống bụng, chỉ thấy lục phủ ngũ tạng lập tức nóng như lửa đốt, tiếp đến máu tươi bắt đầu ộc ra từ mũi và mồm.

    Gà Gô không chỉ can đảm hơn người mà còn lòng gan dạ sắt, dù róc xương lột da cũng không cau mày, vậy mà lúc nà lại đau đến mức nghiến nát cả hàm răng, không sao chịu đựng nổi cơn đau đang đục khoét khoan sâu vào ngũ tạng cốt tủy, chỉ biết đấm thùm thụp lên thành lò, những mong giảm bớt cảm giác đau đơn khủng khiếp này.

    Con rết sáu cánh đang bò bên ngoài lò đồng, dường như cũng cảm nhận được nội đơn của mình đã bị người khác nuốt mất. Trên thân lò tuy có nhiều khe kẽ chạm rỗng nhưng nó không sao chui vào được, càng không thể làm gì với lớp thành đồng vừa dày vừa nặng, chỉ biết cuồng lên lo lắng. Vô số chân rết cào vào thành lò mỗi lúc một gấp gáp, nhưng nó cũng đã đến lúc sức cùng lực cạn, chẳng được bao lâu tiếng lạo xạo cũng yếu dần đi, con rết sáu cánh cuối cùng rơi khỏi lò đơn, mấy đôi cánh mỏng và cặp râu rung rung mấy cái rồi không cựa quậy gì nữa.

    Không gian trong giếng luyện đơn bỗng trở nên im ắng, Gà Gô nằm trong lò đơn, cảm giác như trăm ngàn mũi tên đang đâm thẳng vào tim, thầm nghĩ chắc sắp chết đến nơi. Nhưng cứ thế hồi lâu, lại thấy khí huyết trong ngực dần dần thông thuận, từng luồng khí mát luồn vào tam quan, tỏa khắp xương cốt tứ chi, tâm thần dần ổn định lại, anh ta há mồm thổ ra mấy ngụm máu đen, cảm giác tê dại dã mất hẳn, tay chân cử động như thường, thầm reo lên: “May quá!”

    Nghe ngóng bên ngoài chỉ thấy một bầu không khí im lặng chết chóc, Gà Gô bèn đẩy mở nắp lò đồng, vịn một tay vào miệng lò, nhún người nhảy ra. Đập vào mắt là cảnh tượng con rết sáu cánh nằm chết ngay bên cạnh lò đồng, toàn thân khô héo, cái mai vốn đen bóng giờ nhăm nhúm vàng ệch như xác ve tựa hồ đã lão hóa trong chớp mắt, già yếu mà chết, chắc chính vì mất kim đơn.

    Lúc này từ trong khe đá bên lề đáy giếng bỗng vang lên một tràng tiếng động lớn, lão Trần dẫn hơn trăm tên trộm Xả Lĩnh soi đèn ùa tới. Thì ra bọn họ đứng trước điện Vô lượng, thấy gian điện sụp xuống chôn vùi cả Gà Gô và con rết sáu cánh, còn nghĩ rằng Ban Sơn đạo nhân chuyến này khó lòng sống sót, bèn vội vàng nạy cột khiêng gạch, Ban Sơn Xả Lĩnh đã đồng tâm kết nghĩa, tốt xấu gì cũng phải mang thi thể nguyên vẹn của Gà Gô trở về an táng.

    Có điều điện Vô lượng kết cấu quá đỗi đặc biệt, cả một khối kiến trúc không có xà ngang mà toàn bộ trụ gỗ san sát, giật một sợi tóc động đến toàn thân, đám trộm Xả Lĩnh tuy người đông thế mạnh cũng không thể đào hết đống đổ nát này trong chốc lát. Có vài người xuống lòng hồ cạn nhặt nhạnh thi thể các anh em bỏ mạng, liền phát hiện dưới đáy hồ có một khe đá, chính là nơi con rết sáu cánh đã chui ra rồi bò lên cầu.

    Lão Trần dẫn theo một đám người, chui vào khe đá đuổi theo Gà Gô, không ngờ bắt gặp anh ta đang đứng ngay cạnh một lò luyện đơn bằng đồng xanh to tướng, con rết sáu cánh dữ dằn nằm chết dưới chân, lại thấy bên trong giếng cổ thây chất cao như núi, ai nấy đều kinh ngạc vô cùng.

    Hồng cô nương mừng vui hơn cả, những tưởng hôm nay sinh ly tử biệt, nào ngờ còn được gặp lại cố nhân, cô ta vội chạy lại túm lấy Gà Gô, nhìn đi nhìn lại mấy lượt. Gà Gô cười gượng nói: “Các vị, tôi là người không phải ma, nhưng cũng không chịu được bị chiêm ngưỡng thế này đâu.” Đoạn kể lại cho mọi người đầu đuôi sự việc mình ngã từ điện Vô Lượng xuống giếng luyện đơn.

    Đám trộm nghe xong không ngớt trầm trồ than phục Ban Sơn đạo nhẫn bản lĩnh thông thiên. Từ thời Tần Hán đến nay, phường trộm mộ được chia thành bốn phái Phát Khâu, Mô Kim, Ban Sơn, Xả Lĩnh, trong đó Ban Sơn đạo nhân và Mô Kim hiêu úy trước giờ nhân số không nhiều, đem so với số người lên đến hàng nghìn vạn của Thường Thắng sơn, thì thật chẳng là gì, nhưng đấy chỉ là xét thể lực, nếu luận về “phương pháp” đỗ đấu thì Ban Sơn vẫn hơn Xả Lĩnh một bậc. Trước đây một số người phái Xả Lĩnh vốn rất không đồng ý với điều này, hôm nay tận mắt thấy Ban Sơn đạo nhân cướp lấy nội đơn, diệt trừ con rết sáu cánh mới hoàn toàn tâm phục khẩu phục.

    Hơn nữa, lần này vào núi trộm mộ, tuy thuận theo thuyết sinh khắc trong Ban Sơn Phân Giáp thuật, mang theo cả ngàn con gà trống đối phó với lũ rết độc, nhưng cuối cùng lại vẫn phải dựa vào bản lĩnh công phu điêu luyện của Gà Gô tiêu diệt cường địch.

    Dân trộm mộ thường kể cho nhau nghe một truyền thuyết cổ xưa rằng, trước kia có một bậc tiền bối hành nghề đổ đấu, tìm được một cỗ áo quan rách trong ngôi miếu cố trên núi hoang, cỗ áo quan đó là mục nát lắm rồi, bên trong không có xác chết nhưng rất nhiều vàng bạc minh khí, đã là trộm há có chuyện tay không quay về, đương nhiên ông ta tiện tay vét sạch. Đúng lúc định bỏ đi thì một cơn gió lạnh bỗng nhiên nổi lên, một cương thi tay ôm một người con gái từ ngoài miếu xông vào, tay trộm mộ đêm hôm đụng phải cương thi thì biết thế nào cũng bỏ mạng, cái khó ló cái khôn, liền co mình chui vào cỗ áo quan, lấy chăn bông trong quan tài trùm lên nắp quan, mặc cho cương thi đứng ngoài cào cấu, ông ta cứ nằm lì bên trong, cố sống cố chết túm chặt không buông. Đến khi trời sáng gà gáy, cương thi phủ ục trên nắp áo quan bất động, móng tay cắm sâu vào tấm ván, không thể rút ra được nữa, tay trộm mộ vội vàng châm lửa đốt luôn nó cùng nắp áo quan thành tro bụi.

    Câu chuyện này đã lưu truyền rộng rãi trong giới trộm mộ, mà việc Gà Gô cướp đơn lần này cũng gần giống như thế, quả là có cốt cách của bậc tiền nhân đổ đấu, nên đám trộm cứ chụm đầu ghé tai thì thầm bàn tán mãi, đúng là thần dũng hơn người.

    Lão Trần cũng khen: “Không chặt tay rồng sao lấy được long châu. Con rết sáu cánh này cuối cùng vẫn bị người anh em dụng kế lạ trừ khử, thực khiến bọn tôi phải vỗ tay khen ngợi…” Nói đến đây lão Trần thở dài, lần thứ ba tiến vào Bình Sơn, lại mất thêm vài huynh đệ, hai Ban Sơn đạo nhân là Lão Tây và Hoa Linh cũng bỏ mạng trong lúc hỗn loạn, mộ cổ Bình Sơn dường như là nơi cực kỳ xúi quẩy, đến nay tổng cộng đã lấy hơn trăm sinh mạng, linh đường tạm thời trong nghĩa trang Lão Hùng Lĩnh đã không còn chỗ đặt bài vị nữa rồi.

    Sắc mặt Gà Gô cũng vô cùng nặng nề, anh ta thoát chết là do may mắn nên nào dám huênh hoang, từ nay trên cõi đời này phái Ban Sơn chỉ còn lại một mình anh ta đơn thương độc mã, cái giá phải trả cho lần vấp ngã này quá lớn, mà địa cung minh điện thật sự của mộ cổ Bình Sơn thì vẫn chưa thấy đâu. Xem ra đơn cung này vẫn chỉ là mộ giả, chứ không hề chôn cất tay quý tộc người Nguyên nào.

    Đám người Ban Sơn Xả Lĩnh đều là những kẻ thích tranh cường háo thắng, không đành để từng ấy anh em chết oan như thế, cả bọn quyết định dằn lòng, tiếp tục gắng sức, dù có phải cày nát cả ngọn núi đá này cũng quyết vét sạch mộ cổ Bình Sơn.

    Lão Trần và Gà Gô là hai kẻ vô cùng lão luyện trong nghề trộm mộ, vậy mà hết lần này đến lần khác đều phán đoán sai vị trí minh điện trong mộ cổ Bình Sơn, xem ra chuyến này không thể suy đoán theo nguyên lý sơn lăng thông thường được, tiếc là không ai biế thuật phân kim định huyệt nên khó lòng đào thẳng vào hoàng long. Hai vị thủ lĩnh lập tức chụm đầu bàn bạc, cảm thấy bên trong giếng luyện đơn này có rất nhiều điều cổ quái, tiên cung luyện đơn đáng lẽ là nơi động thiên phúc địa, không ngờ bên trong lại chất đầy thi hài quan quách, dưới đáy tiên cung “Hồng trần đảo ảnh, thái hư ảo cảnh” lại ẩn giấu một mật thất dùng cương thi luyện đơn âm, chả trách âm khí trong núi nặng nề như vậy.

    Muốn nấu âm đơn, trước hết phải đào lấy cổ thây ở những nơi có huyệt phong thủy tốt, sau đó dùng vạc đồng ninh nấu, chưng cất long khí địa mạch từ trong cơ thể cương thi ra dưới dạng thi du thi lạp, rồi dùng thứ đó làm chất dẫn để luyện kim đơn. Cách làm này thường bị đạo phái chính tông khinh miệt, coi là “yêu thuật” nên hầu như không mấy ai dám ngang nhiên nấu luyện âm đơn. Không biết việc nấu luyện âm đơn trong tiên cung Bình Sơn này là do vị hoàng đế triều nào muốn trường sinh bất lão tới mức hóa điên, hay đám phương sĩ luyện đơn vì muốn đối phó với bọn quan sai mà áp dụng tà thuật. Vị hoàng đế nào không biết rõ nội tình, cứ uống âm đơn được luyện từ thi du thi cao này, đợi khi chết đi nằm trong Hoàng lăng biết được chân tướng, chắc cũng đội mồ sống dậy mà nôn thốc nôn tháo.

    Thành giếng trong đơn cung do bị thế núi Bình Sơn xiêu vẹo chèn ép, lại thêm tác động của trận động đất từ mấy trăm năm trước nên nứt ra vô số khe kẽ, ngoài khe nứt một đầu thông ra lòng hồ cạn dưới điện Vô lượng, một đầu có lẽ thông thẳng ra từ đỉnh núi đến hậu điện, cũng chính là nơi lão Trần dẫn người phóng hỏa thiêu rụi, bên trong giếng ngoài lò luyện đơn này chắc vẫn có đơn phòng, hỏa thất, dược các, cùng nơi chưng cất thi du.

    Giếng luyện đơn này bị con rết sáu cánh chiếm cứ nhiều năm, nó tham lam dược thạch, thường lặn lộn cọ mình dưới đáy giếng, khiến đống quan quách xương cốt chất đống xáo trộn bung bét cả, giờ muốn tìm ra mật thất khác dưới đấy hặc trên thành giếng, trước hết phải thu dọn sạch sẽ đống thây cổ quách cũ này đã.

    Lão Trần lập tức hạ lệnh, trước tiên cắt một nhóm người khiêng những anh em tử thương ra khỏi Bình Sơn, một nhóm khác tiếp tục chuyển những thứ đáng tiền ra khỏi tiên cung. Ngoài núi đã có La Lão Oai dẫn quân tiếp ứng, trong này lão và Gà Gô sẽ đích thân đốc thúc chỉ huy một toán công binh đào bới thu dọn đống hài cốt quan quách.

    Gà Gô thấy thi thể sư đệ sư muội được đám trộm khiêng ra khỏi núi, trong lòng đau đớn không nói nên lời. Bọn họ tuy xưng hô sư huynh đệ, nhưng thực ra Hoa Linh và Lão Tây đều do một tay anh ta dìu dắt, là đồng tông đồng tộc, lại sớm tối bên nhau, quả thực tình thân như ruột thịt. Nếu chỉ dựa vào một mình anh ta thì dù bản lĩnh đến đầu, tài thuật đảm lược cũng có giới hạn, nay mắt thấy sư đệ sư muội chết thảm nơi núi hoang mà không thể ra tay cứu giúp, hỏi sao không đau lòng cho nổi? Tuy đã tự tay báo thù cho họ nhưng trong thâm tâm anh ta vẫn đau đớn vạn phần, càng lo Ban Sơn Phân Giáp thuật từ nay thất truyền.

    Tuy nhiên đại sự trước mắt vẫn chưa thành, Gà Gô đành phải xốc lại tinh thần, chỉ huy đám trộm thu dọn đống hài cốt quan tài dưới đáy giếng. Để đề phòng trong đống xác chết có cương thi đột ngột vùng dậy, vài chục người được cắt cử cầm gậy sáp trắng canh chừng xung quanh, nếu có gì bất thường sẽ nhất loạt xông vào khống chế, không để cương thi hại người.

    Cổ thây được tập hợp từ khắp mọi nơi, đa phần đều là những nơi có mạch phong thủy rất tốt, nên rất nhiều cương thi vẫn tươi tắn như khi còn sống. Cương thi ở đây không nhất định là quái vật thi biến vùng dậy, những trường hợp chết mà không hóa, cơ thể cương thi cứng không thể uốn gập, cũng có thể gọi là cương thi.

    Còn có những người sau khi chết đi, thi thể sinh ra dị tướng, ví dụ như cổ thây trăm năm, đầu tóc móng tay vẫn tiếp tục mọc dài ra mãi, móng tay dài tới mức cuộn cả lại, da thịt vẫn mềm mại như khi còn sống, các khớp tứ chi vẫn có thể duỗi gập bình thường, loại này cũng được gọi là cương thi, song phân tích kỹ hơn thì nên được liệt vào dạng “hành thi”

    Dưới sự chỉ đạo của lão Trần, hơn hai trăm lính công binh và đám trộm Xả Lĩnh, người nào người nấy mặt che tấm lụa đen, tay xỏ găng, cố chịu đựng mùi hôi thối thấu trời, lên gân lên cốt len lỏi vào đống xác chết, trước tiên bật nắp từng cỗ áo quan, cạy hết vàng ngọc khảm trên đó, sau lại dùng lưỡi câu móc vào mõm từng cái xác lôi tuột ra ngoài, đoạn dùng thừng trói chặt, rồi lấy dao cạy mồm, móc ruột tìm châu ngọc. Minh khí tùy táng chia làm hai loại trong ngoài, trong đó thứ minh khí giấu trong thi thể thường có giá hơn nhiều.

    Phương pháp đổ đấu này của phái Xả Lĩnh tất nhiên không giống với Mô Kim hiệu úy. “Mô” trong “Mô Kim” tức là “mò”, dùng tay sờ soạng khắp lượt thi thể người chết rồi thôi; còn Xả Lĩnh lại là “xả”, cũng chính là dỡ, nếu trong mồm cổ thây có khảm răng vàng, bọn họ không dùng búa gõ thì dùng kìm để kẹp, tốt xấu gì cũng phải dỡ ra cho bằng hết. Cổ thây nào trong mồm ngậm châu ngọc, rơi vào tay đám người Xả Linh thì coi như xui tận mạng, nếu hài cốt cương cứng không cạy mồm ra được, thì bọn họ cũng quyết dùng rìu bổ vỡ sọ ra mới cam.

    Thời xưa, phong tục khâm liệm an táng người chết rất khác nhau, có người mong muốn sau khi chết cơ thể được giải thoát, nhưng giữa thời Xuân Thu – Tần Hán, lại có rất nhiều người ủng hộ việc giữ gìn diện mạo người chết y như lúc sống. Các phương pháp lưu giữ hình hài lại càng muôn hình muôn vẻ, giàu có kiểu của giàu, nghèo có cách của nghèo, có người dùng tráp ngọc, áo ngọc để khâm liệm, có người nhét ngọc lạnh vào trong thi thể, lại có người ngậm trụ nhan châu, trụ nhan tán, hoặc đổ thạch tín, thủy ngân vào xác chết, người nghèo không có điều kiện cũng cố ngậm một đồng xu, gọi là “tiền áp khẩu”.

    Người phái Xả Lĩnh róc thây tìm ngọc hầu như chẳng kiêng kỵ gì, các loại thủ đoạn đều có thể mang dùng, chuyện này liên quan tới truyền thống của quân Xích Mi năm xưa. Khi đó quân Xích Mi khởi nghĩa đào bới khắp lượt lăng tẩm Hán đế, tiêu hủy thi thể tổ tiên của những kẻ cầm quyền chính là một cách để cổ vũ tinh thần nghĩa quân nông dân. Loạn qân tạo phản, có có còn để ý đến thi thể trong mộ cổ lúc sinh thời vinh hiên quyền quý ra sao, dù trong hài cốt không có minh khí cũng cứ theo lệ giày xéo một phen, hoặc thiêu đốt hoặc phanh thây, thủ đoạn vô cùng tàn khốc, giữa họ và đám chủ quý tộc kia dường như đều có mối huyết hận thâm thù.

    Cho nên thuộc hạ của lão Trần vẫn làm theo những quy ước thủ đoạn đã được truyền lại từ bao đời nay. Tuy nhiên tới thời Dân Quốc đã không còn ý nghĩa gì đặc biệt nữa, nhưng về độ tàn khốc vẫn khiến cho Ban Sơn đạo nhân Gà Gô nhìn mà không thôi xýt xoa, Ban Sơn đổ đấu, quả nhiên khác xa Mô Kim Xả Lĩnh.

    Cảnh tượng trong giếng vô cùng hỗn loạn, hài cốt quan quách tan tành, nước thối, chu sa, thủy ngân vung vãi khắp nơi, đâu đâu cũng nghe những tiếng đao rìu bổ quan chặt thây đinh tai nhức óc. Để rảnh chân rảnh tay, đám trộm đã mang hết cổ thây treo ngược lên trên cái lư hương bằng đồng, trước tiên vơ sạch trang sức liệm phục, sau đó moi hết các chất độc thủy ngân, dịch thối trong bụng cương thi, rồi phanh thây mổ bụng, đến khi chắc chắn bên trong xác chết không còn thứ gì đáng tiền, mới mang cái xác nát bươm vứt vào sọt tre để lính công binh khiêng ra khỏi giếng. Hài cốt quan quách liên tục được chuyển đi, toàn bộ diện mạo nơi đáy giếng cũng dần lộ ra. Lão Trần và Gà Gô đưa mắt nhìn quanh, dưới ánh đèn bập bùng, thấy nền đá nơi đáy giếng không bằng phẳng mà lồi lõm khác thường, dường như lờ mờ hai bức phù điêu hình người, liền giật mình đánh thót, đưa mắt nhìn nhau: “Trong giếng này ngoài hài cốt ra…lẽ nào dùng cả ma quỷ để luyện thành đơn hoàn?”
     
  12. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 32: Vân Tàng Bảo Viện
    Lão Trần dẫn đám trộm Xả Lĩnh phá quan hủy thây trong giếng đơn, chẳng kiêng kỵ gì quỷ thần. Ai nấy đều nén nỗi ghê sợ, hạ quyết tâm, tập trung vào việc, đến khi tiêu hủy sạch sẽ đồng cổ thây quách cũ, lại thấy trên phiến đá dưới đáy giếng lộ ra một bức phù điêu, khắc hình hai con ác quỷ tóc tai bù xù. Tuy dáng vẻ mơ hồ nhưng vẫn nhìn ra bộ mặt nanh ác chẳng khác nào Tu La, Dạ Xoa, quái dị hơn là cả hai con quỷ này đều không có mắt, thay vào đó là hai cái hốc đen ngòm.

    Lão Trần và Gà Gô là những kẻ dĩ nhiên đi nhiều hiểu rộng, nhưng cũng chưa từng thấy trên đời có dạng quỷ mù không mắt thế này, thấy hình ác quỷ kỳ quặc dị thường khắc dưới đáy giếng, trong lòng không khỏi hồ nghi, thực không biết có ẩn ý gì.

    Trên đời này quả thật từ xưa đã có thuật dung cương thi luyện âm đơn, nhưng tuyệt nhiên không nghe nói đến chuyện luyện đơn bằng ma quỷ. Đơn cung trong núi Bình Sơn nhìn giống như một dao đài thần tiên với lầu vàng điện ngọc, vậy mà bên trong lại giấu một đống xác chết moi lên từ khắp mọi nơi, chuyện thực hiện những tà thuật bàng môn tả đạo, không thể suy đoán theo lẽ thường. Thêm nữa, xem ra mộ thất của tướng quân nhà Nguyên hoàn toàn không đặt trong đơn cung chính điện, không biết bên dưới cánh cửa đá khắc hình ác quỷ này ẩn giấu huyền cơ gì đây?

    Lão Trần đảo mắt suy tính, bảo thuộc hạ đưa người dẫn đường tới, hỏi anh ta xem Bình Sơn có truyền thuyết ma quỷ quấy nhiễu không. Gã Động Di xua tay lắc đầu quầy quậy: “Nói để chư vị anh hùng biết, chỗ chúng tôi xưa nay chỉ có truyền thuyết về cương thi hại người, chưa từng nghe nói có ma quỷ làm loạn…”

    Lão Trần nghe thế gật đầu, không có ma thì tốt, nghe nói trong núi Bình Sơn có một cái giếng chứa tất cả của cải châu báu do các bậc Hoàng đế cúng tiến thần tiên, lẽ nào chính là chỗ này? Xem ra quân Nguyên sau khi chiếm được Bình Sơn cũng không phát hiện ra dưới đống xác người nơi đáy giếng còn có chỗ bí mật này, lão bèn nói với Gà Gô: “Mật thất dưới đáy giếng rất có thể là hang giấu báu vật, trong tình hình này có vẻ vẫn chưa bị quân Nguyên sờ đến. Lão Hoàng đế dùng thi du luyện đơn, lẽ trời không dung, đống của báu trong đơn cung này coi như là của anh em ta rồi.”

    Gà Gô đã tìm lại được hai khẩu súng Đức, anh ta mất không hai người cộng sự, lửa giận bừng bừng trong gan ruột, chỉ muốn xới tung cái địa cung này lên, nghe lão Trần nói vậy lập tức gật đầu tán thành: “Giờ vẫn còn mấy trăm con gà trống, máu gà trống và tiếng gáy của nó là thứ trừ ta diệt ma tốt nhất, dù bên trong gian mật thất này chứa thứ tà tông độc dị thế nào cũng không lo, tôi đây chẳng ngại gì nguy hiểm, quyết truy tới cùng.”

    Lão Trần lập tức lệnh cho thuộc hạ cạy tung cánh cửa đá khắc hình ác quỷ, phía ngoài cánh cửa đã bị khóa chặt bằng khóa đồng, loại khóa đầu chó dùng để khóa thành vào thời Tống, khóa đóng khít như hai hàm răng chó, không có chiếc chìa đặc biệt sẽ không tài nào mở nỗi. Nhưng đám trộm Xả Lĩnh người đông thế mạnh không gì không khuất phục nổi, hàng trăm cuốc xẻng búa rìu thay nhau bổ xuống, chưa tới một tuần trà, cánh cửa đá đã được nạy tung.

    Đáy giếng bỗng chốc lộ ra một cái hố to tướng, không đèn không đuốc, chỉ tuyền một màu đen kịt, xòe tay ra không thấy ngón, chỉ nghe tiếng gió thổi ù ù bên dưới, có vẻ động huyệt rất rộng rất sâu, lính công binh lấy dây thừng buộc vào đèn bão thả xuống thăm dò. Nhìn rõ quang cảnh dưới huyệt, ai nấy không khỏi giật mình kinh ngạc.Thì ra dưới đáy giếng là một cây quế khổng lồ sum suê rậm rạp, tán lá ken dày như cái lọng, không biết rộng tới bao nhiêu dặm.

    Cây quế này mọc dưới chân núi, sống nhờ vào thi khí trong đơn tỉnh, tán lá sum suê âm khí bức người. Đám trộm đứng trên miệng hồ nhìn xuống, ai cũng cảm thấy tán cây quế toát ra một luồng khí lạnh thấu xương, khiến lông mao khắp người dựng đứng.

    Lão Trần cũng thấy kỳ quái, câu quế cổ thụ cành lá sum suê dưới đáy giếng này tại sao bị cánh cửa đá khóa lại? Động huyệt phía dưới rất rộng, không giống với mật thất chôn giấu của cải châu báu, lão rủa thầm quái lạ, đoạn lệnh cho thuộc hạ khiêng thang rết tới móc vào chạc cây, trèo xuống thăm dò tình hình.

    Đám trộm khiêng thang tre tới, tất cả đều mang theo dao súng, gà trống trên lưng, từ ngọn cây ù ù gió âm trèo xuống. Cây quế già trong động huyệt to thì to thật, nhưng không cao lắm, chỉ được cái cành nhánh rậm rạp, thân cây phủ lớp vỏ xù xì, có tên trộm sờ vào, cảm giác là lạ bèn đứng trên thang giơ đèn soi, lập tức giật mình kinh hãi suýt thì rơi ngã, may mà Gà Gô giơ tay túm kịp.

    Gà Gô cũng giơ đèn soi lên thân cây, thì ra những chỗ lồi lõm trên đó đều có hình mặt người, cũng có mắt mũi mồm miệng đầy đủ ngũ quan, có điều thần thái đều như quỷ khóc thần sầu, méo mó vẹo vọ đáng sợ.

    Gà Gô hít một hơi khí lạnh, quế là loại cây thuộc tính âm hàn, trong giếng lại chôn nhiều xác chết, thi khí trong đó đều bị cái cây này hút hết, nghĩ đoạn anh tiện tay chém một nhát dao lên thân cây thì thấy máu tươi tuôn ra xối xả, nghĩ nát óc cũng không đoán ra nổi tại sao trong tiên cung luyện đơn lại phải cất giấu một cây quế già hấp thu khí như vậy. Có lẽ đây là một cây “thi quế”, giống như “quỷ du”, đều là những loại cây độc hiếm thấy, tương truyền loài cây này là cầu nối giữa hai cõi âm dương. Trong đơn cung Bình Sơn đâu đâu cũng đầy những thứ quỷ dị, không biết địa cung thật sự nằm ở chỗ nào, nghĩ đến đây anh ta bèn âm thầm rút súng ra.

    Lão Trần cũng có cùng cảm giác như Gà Gô, lão và thủ lĩnh Ban Sơn đạo nhân dặn mọi người trèo xuống gốc cây, giơ đèn giơ đuốc soi bốn phía, thấy rễ cây cắm sâu vào vách đá, trong động không hề có hơi ẩm mà chỉ có khí lạnh thấu xương, cây quế này hoàn toàn sống nhờ vào âm khí cổ thây, cành lá rậm rạp sắp trĩu cả xuống đất.

    Dưới tán cây quế sương mây vấn vít như trong cõi mơ, quanh gốc cây có bốn tòa lầu các, hình dáng kích thước tương đồng, đều chung lối kiến trúc hai tầng, mái cong lợp ngói, hiên rộng xà cao, đứng dưới gốc cây, cảm giác như mọi tục niệm trong lòng đều được gột rửa, xuất trần thoát tục, khác hẳn cảnh giới nhân gian.

    Nhưng cả bốn tòa lầu đều tối thui, không có lấy một tia sáng nào, ngay mái ngói và khung cửa sổ cũng tuyền một màu đen. Khung cảnh thần tiên này cùng tồn tại bên âm khí nặng nề của cây quế già, thật chẳng hài hòa tí nào. Đám trộm đứng dưới gốc cây quan sát chung quanh, ai cũng có cảm giác như rơi vào hiểm cảnh, run rẩy sợ hãi, không đợi lão Trần ra lệnh đã tự giác lưng tựa lưng, kết thành trận thế, đề phòng bất trắc.

    Bọn người lão Trần đã bị cạm bẫy mai phục trong núi Bình Sơn làm cho khiếp đảm, giống như chim sợ cành cong, thấy mặt ngoài bốn tòa lầu dưới gốc cây đều được chạm trổ tinh xảo vô cùng thì bất giác căng thẳng, hè nhau giơ khiên chầm chậm tiến lại gần, song các tòa lầu các vẫn tối đen như mực, lại thêm bên trong động huyệt không có đèn nến, khiến chúng dường như tan nhòa vào bóng tối.

    Gà Gô là người gan dạ, lại có áo giáp bảo vệ, tự mình xách theo một cây đèn bão và khẩu súng Đức, bước ra khỏi hàng, đến trước một tòa lầu để nhìn cho rõ. Nhưng điện đài lầu các tối đen như mực, rọi đèn vào cũng không thể nhìn rõ, chỉ lờ mờ thấy hình dáng nhà cửa ẩn hiện trong biển sương mù.

    Anh ta đành chĩa súng bắn một phát vào tòa lầu đen thui, lập tức nghe thấy tiếng vọng lại, hình như đã bắn phải một bức tường sắt. Lão Trần đứng sau ngạc nhiên hỏi: “Không lẽ tòa lầu này được đúc bằng sắt?”

    Gà Gô gật đầu xác nhận, tòa lầu này quả thật làm hoàn toàn bằng sắt, chả trách không có màu sắc của ngói ngọc cửa son, anh ta chưa từng gặp tòa lầu sắt nào kỳ quái thế này, cửa ra vào cửa sổ đều làm bằng sắt, chạm rỗng hoa văn, tinh xảo tới phi phàm, giống hệt lầu thông thường, cửa có thể mở ra khép vào, bên trong lầu đầy đủ phòng ốc. Có điều cả ngôi điện được làm bằng sắt thép, kiên cố vô cùng, từ ngoài nhìn vào không phát hiện ra bên trong có gì, nhưng bên ngoài chắc sẽ có mấy chốt bẫy, giờ anh ta vẫn chưa biết cái chốt đó nằm chỗ nào, nên nhất thời không dám manh động, bèn quay lại hội ý với lão Trần.

    Lão Trần ngẫm nghĩ, đoạn nói: “Lầu sắt đương nhiên không thể là nơi ở của chủ nhân, nhìn tường đồng vách sắt thâm nghiêm thế này, lại còn khóa kín khác thường, bên trong nhất định cất giấu của cải châu báu gì đó. “Đám trộm Xả Lĩnh đến Bình Sơn vì mưu cầu tiền tài, nay tìm thấy tòa lầu cất giâu của báu này thật như mèo già vơ được chuột chù, sao cầm lòng cho đặng?

    Lão lập tức dặn dò thuộc hạ và cử ra một nhóm người nào người nấy cao to vạm vỡ, đều là những tay cường tráng giỏi nghề đập phá, dùng cuốc to xẻng lớn phá cửa. Có điều, tuy người đông thế mạnh nhưng do không tìm được chốt mở lầu nên cũng phải tốn nhiều sức mới phá được cánh cửa sắt. Dưới bốn mái hiên của tòa lầu giấu nhiều cung nỏ, nhưng sắt thép lâu ngày đều đã hoen gỉ, mất hết công dụng, chẳng thể gây khó khăn gì cho dân trộm mộ.

    Thấy tòa lầu sắt bố trí cung nỏ chống trộm, mọi người càng thêm chắc chắn bên trong thế nào cũng có châu bau. Trong tiếng bản lề gỉ sét rít lên ken két, cánh cửa sắt từ từ mở toang. Đám trộm hết sức cẩn trọng, trước tiên cử hai người vào thăm dò xem còn cạm bẫy gì không, sau đó hơn mười người nữa mới tiếp tục tiến vào, soi đèn bão kiếm tìm châu báu giấu trong đơn cung.

    Gà Gô tò mò nên để lão Trần đứng ngoài tiếp ứng, còn mình xách súng theo đám trộm vào trong, ngẩn đầu nhìn quanh bốn phía, chỉ thấy vừa bước vào cửa đã là chính đường, bên trong ngay cả nền nhà cũng đúc bằng sắt. Ngay giữa chính đường là bức tượng ngọc chân trần, có lẽ là Dược Vương trong tiên đạo, tượng thần không cao, chỉ chừng hai thước, toàn thân bóng láng, vài tên trộm lập tức bước lên phía trước, khiêng tượng Dược tiên từ trên bàn xuống bỏ vào bao da.

    Gà Gô thấy thế nhủ thầm trong bụng, thì ra đây là Dược vương các. Nơi cất giáu đan dược trong đơn cung còn được gọi là lộ các, thứ được cất giữ trong lộ các nhất định đều là những loại dược liệu vô cùng quý hiếm, có lẽ cây quế khổng lồ được trồng dưới đáy giếng là để hút hết âm khí, mục đích giữ cho đơn hoàn cao tán bên trong lộ các không bị biến chất. Anh ta vừa đi vừa nhìn ngó, vòng qua mấy gian phòng bằng sắt chật hẹp sau chính đường.

    Trong căn phòng cuối cùng toàn bình gốm lọ ngọc dùng để đựng thuốc, vài cái còn được nút kín, linh chi dược thảo cùng nhục khuần vẫn giữ được dược tính y như cũ. Trong đó có một cái hộp ngọc bắt mắt nhất, ngoài mặt vẽ hoa văn sặc sỡ, toàn những biểu tượng cát tường như tùng hạc tiên thảo. Gà Gô mở nắp hộp ngọc, chỉ thấy bên trong được chia làm rất nhiều ô vuông, trên mỗi ô đều có một kim bài nhỏ xíu, trong ô đựng các loại dược thạch hình thù khác nhau.

    Soi đèn nhìn kỹ, thấy trên các tấm kim vài viết nào là vuốt sư tử, ngọc nhện, mắt rắn, ngọc chó, ngọc ba ba…tuyền là kết thạch nội đơn của các loài linh vật. Nhưng thứ này đều là những dược liệu quý hiếm chỉ có trong hoàng cung đại nội, ngay như viên ngọc nhện nhỏ nhất ở đây cũng phải to bằng quả hạch đào, bóng tròn đen nhánh, là linh đơn dược liệu hiếm thấy trên đời.

    Đám trộm đa phần đều là những kẻ sành sõi, chỉ riêng đống chai lo đựng thuốc kia đã là cực phẩm đắt tiền rồi, đơn hoàn dược thạch bên trong càng khỏi phải nói, đứng trước kho báu này ai nấy đều sướng rơn, thấy gì nhặt nấy, không hề khách khí. Từ cầu thang sắt đi lên tầng hai, sương khói dần dày hơn, các bức tường sắt vẫn đen kịt, trong ánh đèn lờ mờ không thể nhìn rõ bất cứ thứ gì.

    Gà Gô cầm đèn xách súng dẫn đầu đi lên, vừa đến tầng hai, anh ta liền giơ chân đá tung cánh cửa sắt, thứ đầu tiên trông thấy là một người con gái áo quần diêm dúa đang đứng ngay trong phòng. Người đó ngoảnh mặt vào trong, đứng yên bất động giữa căn phòng sắt tối đen, nhìn từ phía sau hệt như người sống, nhưng thân thể không toát lên chút hơi người nào.

    Cặp mắt chuyên đào mộ cổ cửa Gà Gô tinh như mắt cú, ánh đèn vừa quét qua đã nhìn rõ người con gái đó mặc trang phục thời Minh, chân đi giày bó đế gỗ, trên người vận một bộ quần áo thủy điền ghép từ bốn loại vải vụn, hình dáng hơi giống áo cà sa của đám tăng nhân, bên ngoài khoác một chiếc áo chẽn không tay, đây chính là trang phục thủy điền của phụ nữ thời Minh.

    Bắt đầu từ thời nhà Minh, tất cả sĩ nông công thương quân dân đều bị cấm mặc Hồ phục, hoàng đế Đại Minh chiếu cáo thiên hạ “áo mũ hết thảy theo kiểu nhà Đường”, về tổng thể khôi phục hệ thống trang phục Hán tộc, sử dụng kiểu áo cổ vạt chéo phải hoặc áo cổ tròn đã có từ thời Thương Chu xa xưa. Phụ nữ thời Minh thường mang khăn quàng vai, áo chẽn không tay, đeo gùi, về màu sắc trang phục phải tuân theo yêu cầu nghiêm ngặt, chỉ được dùng màu sắc nhã nhặn như tím, xanh, hồng đào, không được dùng bất kỳ màu sắc sặc sỡ nào.

    Mộ cổ đời Minh qua tay Gà Gô không dưới mười cái, đương nhiên anh ta vừa nhìn đã nhận ra ngay niên đại của bộ y phục này, trong lòng vô cùng kinh ngạc. Tòa điện sắtá này đã bị phủ bụi từ thời Nguyên, cửa khóa kín mít, chẳng khác nào cái lồng sắt, đến con chuột nhắt còn không chui vào được, vậy người con gái thời Minh này ở đâu ra? Làm thế nào cô ta vào được đây, chẳng nhẽ ả biết phép thu cốt thuật di hình ư?

    Gà Gô dẫn đám trộm lên lầu, nhưng người con gái nọ vẫn đứng im như tượng, quay lưng lại về phía họ, như không hề hay biết có kẻ tiến vào, từng làn sương lạnh len qua cánh cửa sổ đen thui, bóng người con gái mơ hồ cũng như trong cõi âm tào địa phủ.

    Đám trộm khựng lại chen chúc trước cửa, cứ ngây ra nhìn, trộm mộ lắm quả nhiên có ngày gặp ma, đừng thấy ngày thường đào mồ quật mã chẳng làm sao, ấy là chưa thực sự gặp phải chuyện tà môn đó thôi. Vừa nghĩ tới có ma thật, ai nấy đều mềm nhũn cả hai bắp chân, chỉ chực quay đầu bỏ chạy, nhưng lúc này chân tay đã không còn nghe theo ý người nữa, cứ như bị đinh đóng chặt xuống đất.

    Gà Gô không buồn để ý đến phản ứng của mấy tên trộm, xách đèn bước lên phía trước, đột ngột quát hỏi: “Là người hay là ma?”, vừa nói, anh ta giơ tay vỗ vai người con gái mặt y phục thời Minh, nào ngờ thứ mà anh ta chạm phải chỉ là khoảng không.
     
  13. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 33: Sương Ẩn Hành Lang
    Gà Gô thấy một người con gái mặc y phục thời Minh, đứng bất động trên tầng hai tòa lầu sắt, nền nhà phủ một lớp bụi dày nhưng không hề có dấu chân, xem ra mấy trăm năm rồi không ai qua lại, chả nhẽ là gặp ma? Anh ta khẽ rùng mình, lại muốn xem người con gái này có gì cổ quái, bèn bước lên trước hai bước, từ phía sau giơ tay vỗ vào vai cô ta, không ngờ chỉ vỗ vào khoảng không.

    Gà Gô vồ hụt, vội né người lại, chỉ thấy từ vị trí người con gái bỗng chốc bốc lên một làn khói bụi, tản ra khắp một căn phòng chật hẹp.

    Đám trộm tưởng có độc vội vàng nín thở, bịt mũi bịt mồm tránh cả ra xa. Gà gô từ khi bước vào tòa lầu cũng cảm thấy nơi đây dược khí nặng nề, sợ đụng phải bẫy khói độc nên đã sớm phòng bị kĩ càng. Có điều người con gái kia vừa bị chạm phải đã hóa thành bụi, lớp bụi dày như một lớp sương mù, nhưng hoàn toàn không có vẻ gì khác thường.

    Gà Gô đeo gang tay da cá nhám, tiện thể chộp vào đám sương mù một cái, soi đèn thì thấy trên găng tay mạt giấy khô xác, nát vụn như bột, chỉ còn sót lại vài vết tích gân giấy, chả nhẽ đây là người giấy được cắt dán tinh xảo, đặt trong phòng đã mấy trăm năm, gân giấy sớm đã khô xác, vừa bị chạm vào lập tức hóa thành tro bụi. Gà Gô càng lấy làm lạ: “Lẽ nào người con gái này không phải người cũng chẳng phải ma, chỉ là hình nhân bằng giấy? Vậy mà nom y như người thật, quả là thật tài tình, nhưng cô ta mang trang phục thời Minh, sao lại ở trong lộ phòng bằng sắt khóa kín này được? Niên đại này…”

    Liên tiếp gặp phải bao chuyện kì lạ trong núi Bình Sơn, người học vấn uyên bác như anh ta cũng không sao đoán được nguồn cơn. Anh ta đi quanh căn phòng sắt trên lầu hai một vòng, thấy không có gì bất thường, cửa sổ và cửa ra vào đều khóa chặt, thực sự khó phán đoán người giấy đời Minh kia được đặt trong phòng bằng cách nào, chẳng nhẽ do mình hoa mắt? Bụng đầy ngờ vực, anh ta bèn quay xuống dưới lầu, đến bên cây quế già, đem chuyện gặp phải trong lộ phòng cho lão Trần nghe.

    Lão Trần nghe xong cũng thấy kỳ lạ, vắt óc suy nghĩ mãi chẳng tìm chút manh mối nào, đành cử người đi lục soát ba tòa lầu sắt còn lại, hoặc bẩy hoặc đào, bật tung cửa từng tòa, trong ngoài lục lọi một lượt mới biết bốn tòa lầu sắt này thì ra chẳng cất giấu thứ báu vật đại nội gì. Động huyệt dưới đáy giếng này là mật thất, còn bốn tòa lầu sắt đen sì kia đều là lộ phòng cất giữ đơn dược quý báu và thư tập kinh điển, bọn họ vơ vét được không ít của cải, chỉ riêng hà thủ ô thành hình đã lên đến hơn chục cặp, nhưng trong cả ba tòa lầu còn lại không thấy hình nhân bằng giấy mặc trang phục thời Minh nào nữa.

    Lão Trần thấy thu hoạch không nhỏ, khoan hãy nói tới những thứ đơn hoàn cao tán đã hang trăm năm không biết còn có dược tính hay không, chỉ riêng những cái chai lọ đựng thuốc đều là cổ vật thời Hán Đường, cái nào cũng giá trị vô cùng. Nhưng trước sau vẫn không tìm thấy cái cương thi già gọi là “Thi vương Tương Tây” đâu cả, nếu làm đến đây rồi thôi, lão thân làm đầu sỏ đám trộm mộ không biết giấu mặt đi đâu nữa, dù gì cũng đã mất hơn trăm anh em ở cái chốn Bình Sơn này rồi.

    Lão quyết định tiếp tục lùng sục, cho quân tản ra khắp nơi trong huyệt động có cây thi quế. Đám trộm đốt đuốc lùa gà, xếp thành một bức tường người, sục sạo kỹ từng khe núi hốc đá xung quanh.

    Phạm vi tìm kiếm được mở rộng, đám người dần phát hiện động huyệt này bao quanh bởi một bức thành đồng vách sắt, tạo thành một mảnh sân ở giữa. Ngoài bốn tòa lầu sắt dưới cây thi quế, còn có đơn thất luyện đơn, bên trong xây lò gạch ống bễ, để vài dụng cụ bằng đồng xanh cổ đại, đằng sau tấm bình phong bằng ngọc thạch là một cánh cửa bị khóa trái bên trong.

    Lão Trần và Gà Gô tuy là những bậc “trạng nguyên khôi tinh” đứng đầu làng đổ đấu, nhưng trước giờ chỉ trộm mộ cổ, vào đơn cung gặp phải bao thứ bình sinh chưa từng trông thấy, đều thầm lấy ngạc nhiên. Tìm kiếm mấy lượt vẫn không phát hiện ra dấu vết địa cung cổ mộ, cuối cùng cả bọn tới trước cánh cửa lớn đằng sau tấm vách ngọc, lão Trần bèn lệnh cho người dùng cuốc xẻng nạy cửa, tiếp tục đi sâu vào bên trong.

    Lão dựa vào địa thế Bình Sơn để phán đoán, sau cánh cửa này có lẽ thông tới đáy hậu điện, nhưng địa hình trong lòng núi vốn lắt léo phức tạp, bên trong ủng thành, chính điện lẫn đơn cung đều không có dấu vết của mộ cổ đời Nguyên. Sau khi phóng hỏa hậu điện, cả bọn vội vã thoát ra ngoài, nhưng trong ngôi điện đó quả thật có xương ngựa, binh khí, giáp trụ bồi táng, cứ từ giếng đơn này suy ra thì dưới hậu điện chắc cũng có mật thất mật động gì đấy, mộ thất thực sự có lẽ nằm đâu đó gần đấy.

    Đoạn lão lệnh cho thuộc hạ phá tung cửa lớn, còn mình cùng Gà Gô đứng đợi giữa mảnh sân bên trong bức tường sắt. Khi đó lão Trần có dã tâm rất lớn, lão cho rằng đám trộm Xả Lĩnh chuyên bày trò tụ tập mưu phản, dưới triều đại nào cũng luôn là “cái đinh trong mắt cái dằm trong tay” của bọn quan phủ, thế lực phái Xả Lĩnh tuy lớn, nhưng một khi thiên hạ thái bình, bọn họ sẽ trở thành mục tiêu trấn áp đầu tiên của quan binh, đến nay khó khăn lắm mới gặp cảnh thiên hạ đại loạn, phiên quân chia rẽ, đây chính là lúc cần phải mở rộng thế lực, thâm nhập vào “Côn Luân sơn”, chính vì vậy lão vẫn luôn ngấm ngầm hỗ trợ tiền cho vài lộ phiến quân, đi khắp nơi lôi kéo người tài trong thiên hạ.

    Trước mắt lão tự thấy bản lĩnh đổ đấu của mình còn thua Gà Gô một bậc, nên sớm có ý lôi kéo Ban Sơn đạo nhân nhập bọn, có kẻ bản lĩnh cao cường như Gà Gô làm trợ thủ đắc lực, lão có thể rảnh tay chuyên tâm vào củng cố thế lực quân phiệt, như thế lo gì đại sự không thành? Có điều con người này trước sau chỉ thích độc hành, tầm nhìn lại xa, muốn anh ta nhập bọn thực không phải là dễ.

    Nhân đây lão muốn vòng vo thăm dò ý tứ Gà Gô, kiếm cớ lôi kéo Ban Sơn đạo nhân nhập bọn. Đảo hai hàm răng, uốn ba tấc lưỡi, lão bắt đầu nói từ Thi Vương Tương Tây trong mộ cổ Bình Sơn. Nghe tên dẫn đường người Miêu nói, vùng lưu vực sông Mãnh Động nhiều núi cao rừng sâu, nhất là ngọn Bình Sơn dưới chân Lão Hùng Lĩnh, trước đây thường có người lên đó hái thuốc, bị cương thi nấp trong khe núi kéo vào hút hết máu tủy, những người may mắn thoát chết đều nói, cương thi đó thân hình vô cùng cao lớn, thân khoác bào tím lưng thắt đai vàng, nhìn trang phục thì biết không phải vương hầu cũng là thừa tướng, cho nên đều gọi là Thi vương Tương Tây. Nghe nói ban ngày ban mặt nó cũng dám mò ra hại người, từ đó không ai dám bén mảng đến gần núi này nữa, vậy mà chúng ta lên núi chỉ thấy đủ loại trùng độc, chứ chưa gặp yêu tinh yêu tướng gì cả, xem ra mấy truyền thuyết của đám người Động Di kia không hề đáng tin.

    Gà Gô lòng đầy tâm sự, nghe những lời không đầu không cuối của lão Trần bèn thuận mồm đáp: “Trần thủ lĩnh nói rất phải. Nghe nói vùng Lưỡng Quảng – Quảng Đông Quảng Tây cũng có nhiều truyền thuyết tương tự, phàm đào được cổ thây quý tộc, chỉ cần nhìn thấy trang phục xa hoa, lưng thắt dây vàng đai ngọc, lập tức một đồn mười mười đồn trăm, gọi là Thi vương, gần như cương thi cũng có thể phân làm Tam lục, cửu đẳng, sinh thời làm Vương công sau khi chết đi, thi biến cũng lợi hại hơn cương thi bình thường. Quan niệm này của đám trộm vặt ngu dân, nói ra chỉ tổ nực cười.”

    Lão Trần liền bảo, người anh em nói rất có lý, thực ra người cao quý lúc sinh thời sau khi chết đi, cách an táng và bảo quản thi hài không giống như bách tính nghèo khổ, cho nên thi hài quý tộc moi lên từ mổ cộ thường vẫn tươi tắn sinh động nhờ tác dụng của minh khí quan tài; còn thi thể người nghèo chôn trong bãi tha ma, nếu không bị chó hoang moi lên gặm xương thì cũng bị dòi bọ gặm nhấm, chỉ chưa đầy nửa năm, ngay cả xương sọ cũng khó lòng nguyên vẹn nữa là. Cho nên sinh tiền là vương công tôn quý, chết đi thi thể vẫn tôn quý vạn phần so với bách tính tầm thường, còn được làm “Thi vương” hù dọa đám người khổ mạng đổ đấu chúng ta nữa chứ, nghĩ mà bực mình, chỉ tổ càng thêm căm hận..

    Lão Trần nhân cơ hội chuyển chủ đề, đi thẳng vào vấn đề chính, nói: “Cái nghề đổ đấu này tuy có thể kiếm bộn tiền nhưng trong mắt người ngoài lại vô cùng tăm tối, năm này qua năm khác tiếp xúc với minh khí quan quách trong mộ cổ, khắp người khó tránh âm khí. Bọn chúng ta không phải sinh ra đã muốn làm cái việc đào mổ quật mả vơ vét cổ đổng này, nhưng tạo hóa âm dương có cái lý của nó, cứ theo như tôn chỉ Ban Sơn Phân Giáp thuật của phái Ban Sơn các chú, thì trên cõi đời này một vật sinh ra tất có một vật khắc chế, vậy nghệ nhân đổ đấu chính là khắc tinh của cái đám sinh tiền phú quý đó đấy thôi.

    Thời thế loạn lạc, nạn binh đao thiên tai xảy ra liên miên, nào để bách tính có ngày an cư lạc nghiệp. Nói như Trần gia tôi đây, sản nghiệp tổ tiên để lại tưởng chừng tiêu mười đời cũng không hết, vậy mà trong thời loạn chỉ như muối bỏ biển. Trần mỗ một thân tuyệt kĩ đổ đấu Xả Lĩnh, lại được anh em coi trọng, tôn làm đầu sỏ Xả Lĩnh khắp Nam Bắc mười ba tỉnh, trước loạn thế này thật không cam lòng đứng nhìn nước chảy bèo trôi, chỉ mong nắm lấy thời cơ giơ cao cờ nghĩa, trộm mộ đem tiền tài cứu tế muôn dân.”

    Nói đến đây lão thở dài, làm ra vẻ hào sảng nói tiếp: “Tiếc rằng lực bất tòng tâm, bên cạnh thiếu người thực tài có bản lĩnh. Nếu người anh em bằng lòng cắm chân hương ở Thường Thắng sơn, ta đây đảm bảo ngôi vị thứ hai sẽ thuộc về đệ. Thường Thắng sơn của chúng ta có tới mười mấy vạn quân, gọi gió được gió hô mưa được mưa, từ nay hai ta liên thủ…”

    Gà Gô sớm đã đoán được ý của lão Trần, chỉ đợi lão nói đến câu nhập bọn bèn vội vàng từ chối: “Bí mật của ba phái trộm mộ từ xưa truyền lại, trong đó Mô Kim, Xả Lĩnh đều là tụ nghĩa đoạt tài cứu độ thế nhân, tiếc rằng Ban Sơn lại không đi theo con đường ấy, đã không cùng đạo sao lại có thể cùng mưu việc lớn, ý tốt của Trầ thủ lĩnh tôi xin nhận, nhưng quả thật tôi không thể.”

    Lão Trần vốn tưởng Ban Sơn đạo nhân Gà Gô giờ đã thành thân cô thế cô, tỉ tê một hồi chẳng khác nào “dốc ruột dốc gan, thiên hạ thuận lòng” có thành ý mời anh ta nhập bọn Thường Thắng sơn như vậy, rốt cuộc lại bị đối phương thẳng thừng từ chối, không vừa khỏi ngạc nhiên vừa phẫn nộ, liền hỏi: “Đạo của nghề đổ đấu không nằm ngoài câu trộm cũng có đạo, lẽ nào đạo của Ban Sơn có chỗ nào không giống? Có thể nói thẳng cho ta rõ được không.”

    Gà Gô lúc này đã có phần chán nản, vả lại cũng không hứng thú với mấy chuyện tạo phản mưu đồ bá nghiệp, bèn nói thẳng: “Tiểu đệ vốn có chút tâm sự trước mặt người khác không tiện nói ra, nay huynh trưởng đã có lời hỏi, lẽ nào lại giấu?” Đoạn kể vắn tắt chuyện Ban Sơn đạo nhân trộm mộ tìm Mộc Trần Châu, nhưng manh mối ngày càng mờ mịt, giờ phái Ban Sơn chỉ còn lại mình anh ta, có lẽ số trời đã định không thể cưỡng. Nhưng chỉ cần anh ta còn sống một ngày, sẽ còn tuân theo di huấn của tổ tông, tiếp tục đi khắp nơi tìm kiếm viên trân châu ấy.

    Lão Trần chợt hiểu ra, té ra vẫn là vì “tìm kiếm tiên dược bất tử”, liền cười nói: “Sao không nói sớm, đợi sau khi xong việc ở Bình Sơn, ta sẽ phái tay chân đi khắp nơi dò manh mối…” Lão vốn giỏi lung lạc lòng người, định ôm đồm gánh luôn việc khó cho Gà Gô, về sau chẳng lo anh ta không nhập bọn, nhưng chưa nói hết câu đã nghe thấy tiếng la thất thanh của đám trộm đang phá cửa đá.

    Lão Trần và Gà Gô biết có chuyện dị thường, vội dặn người tới xem. Thì ra đám trộm đã mở được cánh cửa đá trên bức tường sắt vốn chỉ có thể mở từ phía trong, chỉ thấy đằng sau cánh cửa là một đường hầm trong núi, tối tăm ngoằn nghèo, bên trong sương mù lững lờ trôi nổi, hệt như cảnh khói hương nghi ngút, không nhìn rõ sâu bên trong có gì.

    ão Trần thấy đám trộm chuyện bé xé ra to, thực mất hết uy phong của Xả Lĩnh thì trong bụng không vui, sầm mặt hỏi: “Vừa nãy làm sao mà la hét kinh thế? Chỉ là một cái hành lang thôi mà, bên trong rất có thể chính là mộ thất của người Nguyên rồi…”, vừa nói vừa giơ đèn soi ra ngoài cửa, nào ngờ lại nhìn thấy giữa làn khói sương bềnh bồng, hình như có người đang ngồi xếp bằng dưới đất, trong lúc hốt hoảng chỉ nhìn thấy người đó toàn thân mặc áo đen, trang phục vô cùng quái dị. Dáng người cao to béo tốt, mũi mồm to rộng, râu hùm hàm én, hai mắt sáng quắc. Ánh mắt hai bên vừa chạm nhau, lão Trần chợt thấy ớn lạnh, mồ hôi túa ra khắp người, muốn nhìn kĩ hơn nhưng người đó đã bị sương mù che khuất.

    Trong khoảnh khắc đó, những người đứng cạnh lão Trần cũng nhìn rõ mồn một, người nào người nấy nhũn cả chân ra, lắp bắp nói không nên lời: “Cương thi… là…là Thi vương trong mộ cổ Bình Sơn đấy!”

    Đám trộm nghe thế lập tức dựng hết sào tre vót nhọn lên, giăng sẵn lưới cá nghênh địch. Cương thi có loại chết rồi vẫn không thối rữa, lại có loại gặp phải dương khí của người sống liền bật dậy vồ người, nếu thật gặp phải đại bánh tông, chỉ có cách chụp lưới cá lên nó, hoặc nhét cho no cái móng lừa đen vào mồm.

    Lão Trần đang định gọi mọi người tiến lên dàn trận, bỗng con gà trống Nộ Tinh bay vụt ra từ trong bầy gà, đậu ngay trên vai lão nghền cổ gáy vang. Sau khi Gà Gô rơi xuống đơn tỉnh, con gà này liền nhập bầy gà trống, đuổi giết lũ rết khắp nơi trong cung điện. Khi đám trộm tiến vào lộ phòng bằng sắt, để đề phòng lũ trùng độc cũng đem theo cả bầy gà, nhưng mãi vẫn không thấy xảy ra chuyện gì bất thường, vậy mà gà Nộ Tinh đột nhiên cất tiếng uy phong lẫm liệt, nhất định có điềm báo gì đây.

    Đám trộm thấy thế cũng ngẩn người ra, bước chân có phần do dự, ai nấy đều có linh cảm rằng, chỉ cần đến gần Thi vương Bình Sơn lập tức rước họa vào thân. Gà Gô thấy vậy liền bảo: “Kẻ trong đó có vẻ không bình thường, có khi nào lại là người giấy không? Bên trong hành lang sương mù bưng bít, e là có yêu thuật tác quái, để mình tôi vào trước xem tình hình thế nào.” Nói đoạn liền xách đèn bước lên.

    Hồng cô nương ngăn anh ta lại nói: “Khoan đã, lẽ nào mọi người lại không nhận ra, Thi…Thi vương đó mặc áo bào đen, dưới chân lại còn đi ủng, quý tộc người Nguyên sao lại có thể ăn mặc như thế?”

    Lão Trần và Gà Gô đều cảm thấy kỳ lạ, sao Hồng cô nương lại biết bộ trang phục màu đen quái dị đó? Phục sức như vậy có nghĩa gì? Hồng cô nương nói: “Trước đây tôi từng ở trong Nguyệt Lương Môn lương bạt giang hồ mãi nghệ mưu sinh, Thuyết Thư Xương Hí hay Cổ thái Hí pháp cũng chung một nghề cả, các chiêu trò trong ghánh hát tôi đều nắm rõ trong lòng bàn tay. Vừa nhìn rõ rành, trên đời chỉ có con đào hát kép trong ghánh hát mới ăn mặc như vậy, ăn vận đen từ đầu tới chân thế này, rõ ràng đang diễn vai quỷ câu hồn trong kịch văn.”
     
  14. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 34: Quan Sơn Thái Bảo
    Hồng cô nương đã quá quen với những trang phục đạo cụ trong ghánh hát, vừa nhìn đã nhận ra kẻ trong hành lang không hề ăn mặc như tướng nhà Nguyên, mà từ đầu xuống chân vận toàn màu đen, hóa trang thành ác quỷ Vô Thường. Áo liệm mặc cho thi thể khi liệm táng tuy khác xa quần áo thông thường, nhưng dù gì không có quý tộc nào mặc bộ áo quần hóa trang mà khâm liệm thế này. Trang phục của người xưa, có lẽ vào thời Dân Quốc trông chẳng khác phục trang trên sân khấu là bao, nhưng làm gì có ai mặc bộ áo đen hóa trang làm quỷ câu hồn ngồi trong mộ kia chứ?

    Đám trộm nghe vậy đều kinh ngạc vô cùng. Lúc đầu thì gặp phải hình nhân nữ bằng giấy mặc trang phục thủy điền thời Minh, bây giờ lại lòi ra một kẻ mặc áo đen đóng giả quỷ câu hồn, mộ thất thực sự trong đơn cung Bình Sơn chưa thấy đâu đã gặp phải bao chuyện cổ quái kì dị thế này, ai nấy đều có cảm giác run sợ, nếu chẳng may trong lớp sương mù kia quả thật có Hắc quỷ Vô Thường ẩn náu thì biết phải làm sao?

    Đào mồ quật mả hoàn toàn dựa vào can đảm nhất thời, lòng càng bất an thì càng dễ bị quỷ ám, cho nên xưa nay vẫn có câu “đổ đấu chớ tin ma quỷ, tin ma quỷ chớ đổ đấu”. Đám trộm Xả Lĩnh trước giờ đều cho rằng những nguy hiểm bên trong mộ cổ chủ yếu chỉ là mấy thứ cạm bẫy, cương thi, hiếm ai nhắc đến những chuyện kỵ húy về yêu tinh ma quỷ. Nhưng khi nãy tất cả đều đã tận mắt nhìn thấy con quỷ câu hồn vận đồ đen, hoạt động giải trí chủ yếu vào thời bấy giờ chính là nghe sách xem kịch, các vở kịch dân gian tương đối bình dân gồm có các loại kịch về ma quỷ, hồ ly, và mèo, đều dựa vào những tình tiết ma quỷ được thổi phồng để hấp dẫn người xem, quỷ câu hồn vận áo mũ đen, là một trong những nhân vật chính trong các vở kịch kiểu này, chính vì rất gần gũi với cuộc sống nên lại càng dễ khiến người ta tin là thật.

    Lão Trần thấy lòng người hoang mang, sợ đám thuộc hạ mất hết nhuệ khí, bèn nói: “Kịch cọt toàn là mấy thứ bịa đặt hàm hồ, mười vở thì đến tám chín vở bốc phét nói bừa, sao có thể tin là thật? Khoan nói tới cái gì mà quỷ Vô Thường chuyên hút hồn lấy mạng người ta, ở thời nay, ngay cả thần tiên cũng không tránh nổi súng Tây đạn Tây nữa là, thôi kệ trong hành lang này có thứ gì, hãy cứ nã hai loạt đạn vào trước rồi hẵng nói.” Nói xong liền khoát tay lệnh cho thuộc hạ giơ cao súng trường, đồng loạt kéo chốt an toàn, sẵn sàng lên nòng, chuẩn bị nã đạn tới tấp vào trong hành lang.

    Gà Gô đứng bên thấy đám trộm sắp sửa nổ súng, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, vội nhỏ giọng khuyên lão Trần không nên dùng súng, gà Nộ Tinh đã gáy khác thường, nhất định trên người cái xác mặc đồ đen kia có vật gì cực độc, không thể cậy súng đạn mà sơ suất, bằng không một khi chất độc tung tóe khắp nơi, lúc ấy có muốn tiến vào bên trong cũng không được nữa.

    Lão Trần chợt hiểu ra, vội nói: “Thực đúng là bậc hào kiệt kiến giải tương đồng, hô anh em lên đạn sẵn là để tăng thêm can đảm thôi, ta đây cũng đang định cử một nhóm dùng sào móc.” Nói đoạn liền ra lệnh cho mười mấy tên thuộc hạ tiến lên phía trước, thò thang rết vào đám sương mù, ngoắc vào người mặc áo đen kéo về.

    Đám trộm theo lệnh hành động, sau một hồi hết lôi lại kéo cũng móc được người mặc áo đen ngồi xếp bằng vào trong vách tường sắt, những người còn lại tay lăm lăm dao súng, như đang vao vây bốn phía nghênh đón cường địch. Kéo lại gần mới biết, quả nhiên là một cương thi mặt mũi quái dị, cũng chính là loại cổ thây chết rồi không thối rữa.

    Cái xác nam mặc áo bào đen này cao to béo tốt, ngồi khoanh chân xếp bằng, tay bấm chỉ quyết rất kì dị, quần áo trên người quả nhiên là trang phục đóng quỷ câu hồn, bị thang tre lôi kéo một hồi, bộ quần áo đã mục nát từ lâu liền bị toạc ra tơi tả, để lộ lớp da thịt đang trương phềnh, trắng bệch như ngâm nước, chọc thang tre vào thấy có mủ chảy ra, trong các hốc tai mắt mũi mồm toàn là thứ bột màu đen, có thể nguyên nhân chết trước kia là do thất khiếu thổ huyết. Nhìn bề ngoài, thực không phân biệt nổi cái xác này niên đại thế nào, chỉ thấy áo quần giày dép đều mục nát hết cả, chắc chết cũng đã lâu rồi.

    Đám trộm thấy chỉ là cái thây cổ cứng ngắc, bấy giờ mới yên tâm, thi nhau mắng mỏ: “Đồ quỷ chết giẫm, ăn mặc giả quỷ giả ma làm khi nãy các ông nội mày sợ vỡ mật…”

    Lão Trần thấy cái xác này chết rất kì lạ, bèn dẫn người lại gần kiểm tra tỉ mỉ, thấy bên trong xác đồ đầy kịch độc, nhưng nhìn thì không phải dịch độc của loài rết thường thấy trong núi Bình Sơn, chất độc đã lan khắp người, hẳn trước khi chết kẻ này đã uống độc dược. Vì sợ dính phải mủ độc nên bọn họ chỉ dám gảy gảy bằng sào tre, khều hết những thứ trên người xác chết ra xem, ngoài vài chai lọ đựng thuốc, một hình nhân bằng giấy đủ cả chân tay, còn có một cái túi da to tướng, bên trong đựng đầy hạt đậu cứng đen, mọi người thây thế đều mơ mơ hồ hồ, không biết trăm thứ bà rằn này là thế nào.

    Cuối cùng có kẻ khều ra được một tấm kim bài từ eo xác chết, tấm kim bài bên trên khắc chữ, lão Trần và Gà Gô đều biết cổ văn, vừa nhìn đã nhận ra ngay đó là bốn chữ Triện cổ rắn rỏi “Quan Sơn thái bảo”.

    Hai người thoạt nhìn thấy vật này, đầu óc đang mờ mịt chợt lóe lên một tia sáng, bỗng nhớ một chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước, thì ra ngôi mộ cổ Bình Sơn này đã có người nhanh chân đến trước, bọn họ không phải là nhóm trộm mộ đầu tiên đặt chân đến nơi đây! Hai người đồng thanh thốt lên: “Té ra là Quan Sơn thái bảo của Đại Minh!”.

    Lão Trần cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, đoạn sai người kéo cái xác tới lò luyện đơn châm lửa đốt, sau đó mới quay lại hỏi Gà Gô: “Chuyện Quan Sơn rất khó đoán định, trước đây chỉ coi là truyền thuyết dã sử không có thật, giờ mới biết thì ra trên đời đúng là có Quan Sơn thái bảo thật. Hiền đệ đi khắp thiên hạ, đã nghe nói tường tận bao giờ chưa?”

    Gà Gô đã từng nghe nói đến chuyện này nhưng cũng không hơn lão Trần là mấy. Tương truyền nghề trộm mộ trong thiên hạ có tiếng tăm, truyền thống chỉ gói gọn trong bốn phái Phát Khâu, Mô K, Ban Sơn và Xả Lĩnh, nói bốn phái nhưng kỳ thực là ba nhánh, bởi Phát Khâu thiên quan và Mô Kim hiệu úy vốn là một. Sau khi ấn Phát Khâu bị hủy, trên đời chỉ còn lại Mô Kim hiệu úy, cùng Xả Lĩnh lực sĩ người đông thế mạnh và Ban Sơn đạo nhân cơ mưu biến hóa.

    Ngoài ba môn phái này, còn lại toàn là đám trộm cướp vặt, có chút tiếng tăm chẳng qua cũng chỉ là phiên huân tử cõng xác ở phương Nam, còn những phường trộm gà trộm chó đều không đáng nhắc đến. Nhưng trong lịch sử nghề trộm mộ mấy trăm năm vẫn lưu truyền một truyền thuyết vô cùng thần bí. Nghe nói vào thời Minh có một đám nghệ nhân đổ đấu gọi là “Quan Sơn thái bảo”, rất giỏi quan núi chỉ mê, đã bí mật đào được vô số lăng tẩm đế vương, thủ pháp và động cơ trộm mộ của bọn họ trước sau không ai biết được, một khi đã ra tay, ngay cả thần tiên cũng không ai đoán nổi. Truyển thuyết chỉ nói có vậy, người đương thế càng không biết gì về họ, ngay cả sự tích Quan Sơn trong truyền thuyết cũng không rõ thật giả thế nào.

    Không ngờ hôm nay lại gặp phải một thây ma Quan Sơn thái bảo trong một đường hầm đằng sau lộ phòng Bình Sơn. Nhìn phục trang phong thái, cũng như những thứ kẻ này mang theo bên mình, thực đều hết sức kì quái, bình sinh hiếm gặp. Lão Trần bất giác liên tưởng tới trong đám phi tặc mò mẫm ngàn nhà đi qua trăm hộ trước đây, có phái chỉ nhờ vào “thuật thu cốt” mà có thể chui qua lỗ chó hang chuột, mò vào cả những nơi kín cổng cao tường, khoắng hết tiền của trong nhà, sau đó lại theo đường cũ chui ra.

    Nhưng tà thuật này bị hạn chế về mặt thời gian, một khi quá giờ, tên trộm sẽ kẹt cứng trong phòng ngay. Có điều đây đây chẳng qua chỉ là mấy lời đồn thổi đầu đường xó chợ, nếu trên đời này quả thật có thuật thu cốt tháo cùm phá gông thì cũng chỉ là phép tháo khớp chứ làm sao có thể chui qua được lỗ chó mèo. Bên cạnh đó còn có thuật áp vong gần giống với thuật điều khiển cương thi, có thể điều khiển người giấy chó giấy chui qua khe hở trên tường để trộm cắp, nguyên lý điều khiển hoàn toàn không phải cho hồn nhập giấy, mà ép buộc lũ sâu kiến trở thành những tên trộm, nội tình cụ thể bên trong lão Trần cũng không nắm được.

    Trông người giấy trong lầu sắt và Quan Sơn thái bảo chết ngoài cửa, hình như đang dùng phương thuật tà môn để trộm đơn dược trong lầu, do muốn tránh bị rết độc trong núi bị cắn chết nên vị Quan Sơn thái bảo này đã tự mình uống thuốc để có thể chui vào trốn trong đây, nhưng có vẻ bố cục của cây thi quế già và bốn tòa lầu sắt vượt ngoài dự liệu, khiến ông ta mất quá nhiều thời gian cuối cùng phép hết mạng tận ở đây.

    Lão Trần dựa vào kinh nghiệm bản thân suy đoán được bảy tám phần, có điều thuật trộm mộ của Quan Sơn thái bảo kỳ dị vô cùng, người ngoại môn căn bản không thể nhìn ra ngọn nguồn. Đám trộm Xả Lĩnh vì muốn đào trộm mộ cổ Bình Sơn có thể nói đã dốc hết toàn lực, không chỉ hao tiền tốn của mà còn tổn thất không ít nhân mạng, không ngờ lại gặp cảnh “nhất xuất nhị tiến cung”, chậm chân hơn Quan Sơn thái bảo đến mấy trăm năm.

    Nhưng cái thây đen này chết trong đường hầm, trên người chẳng có thứ minh khí châu báu nào, lại không người nhặt xác, điều này chứng tỏ vị tiền bối này tuy nhanh chân đến trước, vào được Bình Sơn đào báu vật, song không hề có bạn đồng hành, nếu thực có mộ cổ trong núi, chắc phần lớn của cải trong mộ mật thất vẫn còn nguyên vẹn.

    Nghĩ đến đây, lão Trần cũng yên tâm phần nào. Xưa nay giữa các phái trộm mộ không mấy khi có thù hằn ân oán, trước sau không có chuyện can thiệp vào công việc của nhau, ai chậm chân hơn người khác, vào mộ cổ đổ đấu phát hiện thấy đã có người đào qua thì tối đa cũng chỉ trách mình đen đủi mà thôi. Bởi vậy đám người Xả Lĩnh cũng không mấy bận tâm trước việc phát hiện ra một cỗ cổ thây đeo bên mình thẻ bài Quan Sơn trong mộ, dù sao cũng là cổ nhân chết cách đây hai triều đại rồi, sau khi thiêu hủy cái xác trong lò gạch, chẳng ai còn để ý đn chuyện này nữa.

    Sau khi đống của báu dưới cây quế già được khuân đi hết, đám trộm liền cử ra mấy tên tay chân nhanh nhẹn đi trước dò đường, số còn lại cùng với lão Trần và Gà Gô dàn hàng theo sau, tiến vào đường hầm. Con đường trong lòng núi này ngoằn ngoèo uốn lượn, cao dần lên theo thế núi, đi được một quãng, con đường đá càng lúc càng dốc, rồi bỗng chốc biến thành một cầu thang đá, trèo lên lại là một cái hang chật hẹp, cửa mật đạo đã bị mở toang, mọi người xách đèn đuốc chui ra khỏi hang, thấy trước mắt bày ra một đống phế tích cung điện hoang tàn đổ nát, ngói gỗ ngổn ngang.

    Quả nhiên không ngoài dự liệu của lão Trần, chỗ này chính là gian hậu điện mà nhóm trộm mộ đã vào ban đầu. Hành lang giữa hậu điện và điện Vô Lượng trong đơn cung đã bị người Nguyên bịt kín bằng đá tảng và đồng nung, còn tòa điện thì bị bọn lão Trần cho một mồi lửa lúc bỏ chạy thoát thân. Mật đạo thông từ đây tới giếng đơn được giấu trong khuôn viên non bộ, vị trí vô cùng kín đáo, nếu không phải từ trong đó chui ra, tìm từ bên ngoài hậu điện sẽ không bao giờ thấy.

    Đến được đây rồi, lão Trần không khỏi sốt ruột trong lòng, lũ rết trốn trong núi đã bị diệt sạch, nhưng trước sau vẫn chưa tìm thấy dấu vết của mộ thất, chỗ nào cũng là mồ giả mả trống, khiến lão không nhịn được thầm rủa lũ người Nguyên xảo quyệt. Mộ cổ khó đào nhất trong mọi thời đại chính là mộ cổ thời Nguyên, bởi thời Nguyên dung hòa thu nhận nhiều luồng văn hóa, cùng là vương công quý tộc nhưng phong tục an táng lại khác nhau một trời một vực. Bố cục và địa điểm của lăng mộ mang đậm phong tục vùng sa mạc phía Bắc Tây Vực, lại pha lẫn cái huyền diệu của thuật phong thủy Trung Nguyên, những mộ phần chôn ngang táng ngược chính là kết quả của thời kì đặc biệt này, cho nên chuyện nghệ nhân đổ đấu đào được mộ cổ đời Nguyên đa phần đều là đào bới lung tung mà được, chứ xưa nay mộ cổ đời Nguyên vẫn là “điểm mù” của dân trộm mộ.

    Lúc này có một tên thuộc hạ hiến kế với lão Trần, đã tìm khắp lượt mà vẫn không thấy mộ thất đâu, sao không dùng thuật Ủng thành thám thính? Thuật Ủng thành có nghĩa là đào một cái hố trong núi, chôn xuống một cái vò vừa đủ để người chui vào, sau đó kẻ trộm mộ nằm phục trong vò, gần như chôn mình trong lòng đất, nhờ sự khuếch đại âm thanh của cái vò khổng lồ để thám thính vị trí không gian trong lòng đất.

    Lão Trần lắc đầu, nghe đã biết là kẻ ngoại đạo. Thuật Ủng thành chỉ có thể thăm dò lòng đất ngay dưới chỗ chôn vò, thường dùng tại nơi có thổ tầng, thế núi Bình Sơn xiêu vẹo thế này, khắp núi đâu đâu cũng là đá xanh, về cơ bản không thể làm vậy được. Hơn nữa lần đầu thăm dò Bình Sơn, lão Trần cũng đã dùng “quyết văn” nghe ngóng, chỉ biết được động huyệt trong lòng núi rất lớn, cái nọ nối tiếp cái kia, nhưng cũng chính vì động huyệt quá lớn nên ảnh hưởng tới độ chính xác của tiếng vọng trong lòng đất, dù thính lực của lão hơn hẳn người thường, cũng không thể phân rõ hình dáng từng nơi trong lòng núi, vì thế không thể dùng cách này.

    Nay Ủng thành, đơn cung Vô Lượng, giếng đựng thây, lộ phòng bằng sắt và hậu điện, đều đã tìm khắp lượt mà vẫn không thấy chỗ chôn tay tướng Nguyên kia, không hiểu có phải huyệt mộ này chẳng nhưng bên trên kín mít không cây không cửa, mà còn được lấp kín bằng đất nên mới không có kẽ hở nào như vậy hay không. Ở nơi địa hình phức tạp như trong lòng Bình Sơn, nếu quả thật mộ phần được làm bằng đất nện sẽ không có cách nào tìm ra, người Nguyên không dựng mộ theo hình thức phong thủy, nên sợ rằng dù có Mô Kim hiệu úy tới đây tương trợ cũng không thể dùng Phân kim định huyệt đào thẳng đến hoàng long.

    Song lão Trần cũng biết, lần này tuy kiếm được nhiều đồ quý giá, nhưng nếu không tìm ra mộ huyệt thực sự thì vẫn coi như thất bại, đầu tư một khoản lớn thế mà rốt cuộc lại công cốc qu về, từ nay lão thân làm thủ lĩnh còn mặt mũi nào đi tranh cao thấp với người trong thiên hạ.

    Đang khi khó xử, Gà Gô chợt nảy ra một suy đoán, nghe đất tìm mồ tuy rằng hiệu nghiệm, nhưng quy mô đơn cung trong núi Bình Sơn quá lớn, khiến mọi người dồn hết chú ý vào đó mà bỏ qua địa hình của núi. Dáng núi Bình Sơn giống như chiếc bình quý thần tiên đựng tiên đơn, cả quả núi không khác nào một chiếc bình cổ, lòng núi cũng rỗng như ruột bình, đơn cung bảo điện đều được xây trong đó, cho nên dân trộm mộ tới đây chỉ chăm chăm vào hang động trong núi mà quên mất miệng bình trên đỉnh núi.

    Lăng tẩm thời xưa đều xây trong lòng đất, xẻ núi làm quách, đục đá xây lăng, một thất cũng nằm sâu trong núi, nhưng mộ cổ Bình Sơn lại thuận theo lẽ thường? Rất có thể vị trị huyệt mộ sẽ hoàn toàn trái ngược với các mộ cổ thông thường, xây tít trên đỉnh núi cao, dưới chân núi chỉ cố tình bố trí huyệt mộ giả không để đánh lừa tai mắt.

    Đỉnh núi Bình Sơn cheo leo hiểm trở, nếu quả thật mộ cổ được chôn trên đó, ưu điểm người đông thế mạnh của đám trộm Xả Lĩnh sẽ không có đất dụng võ, kế sách oái ăm này thực nằm ngoài dự liệu của mọi người. Nhưng Gà Gô có tài tùy cơ ứng biến, kinh nghiệm trộm mộ cũng cực kỳ phong phú, vòng ra vòng vào núi đã đoán ra khả năng này.

    Lão Trần luận về tài trí mưu lược không hề thua kém Gà Gô, không hiểu sao lão thống lĩnh đám trộm cướp khắp thiên hạ, mưu đồ nghiệp lớn, lòng dạ sâu hiểm, nhưng đến khi gặp phải vấn đề nan giải lại không sáng suốt, nhạy bén bằng Gà Gô, nên trước sau không mảy may nghĩ tới chi tiết này. Giờ nghe Gà Gô nói vậy lão mới sực tỉnh, vội nói: “Thực ra là một câu nói vén cả màn mê!” Người Nguyên xây mộ trong đơn cung Bình Sơn là có ý đồ trấp áp người Động Di, cái này gọi là thuật Áp thắng, bày trận Áp thắng trong lăng mộ quả thật hiếm thấy, nhưng thợ buộc lầu bày trận Áp thắng cho dương trạch thường ở nơi cao nhất trong nhà, nên chắc chắn mộ cổ Bình Sơn được chôn trên đỉnh núi.
     

    Các file đính kèm:

  15. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 35: Núi Có Tam Hương
    Lão Trần đã có chủ định, nhưng thấy đám người Xả Lĩnh và đội công binh đều sức cùng lực kiệt, nhất là trong đó có nhiều con nghiện, cơn nghiện phát tác nên bải hoải toàn thân, đi tìm mãi vẫn không thấy mộ cổ đời Nguyên chôn ở chỗ nào, thì nhất loạt chùn chân không buồn bước nữa.

    Lão đành khích lệ mọi người: “Các anh em, theo quy định của Thường Thắng sơn chúng ta, phàm đào được mồ to mả lớn thì đều có thưởng. Hôm nay chính là ngày hoàng đạo đổ đấu, tuy trên đường đi gặp nhiều khó khăn, làm hơn trăm anh em phải bỏ mạng ở Bình Sơn, nhưng họ đều là những bậc anh hùng hảo hán có chí khí, cũng là anh em kết nghĩa của chúng ta, nhất định đã lên thiên giới, ở trên đó phù hộ cho chúng ta hồng phúc dồi dào, kiếp này không thể gặp lại, những kiếp sau vẫn nguyện cùng kết nghĩa vườn đào...”

    Trước tiên lão nói đến hai chữ “lợi, nghĩa”, sau đó lại nhắc nhở đám trộm trước khi vào núi Bình Sơn đều đã thề nguyền chưa vét sạch Bình Sơn quyết không trở về. Tuy người trong giới lục lâm có thể không tin quỷ thần nhưng rất trọng lời hứa, làm trái lời thề coi như đã phá vỡ lời nguyền, tất bị người đời khinh bỉ. Sách sử cũng có nhiều sự tích nổi tiếng ghi trên giấy trắng mực đen làm chứng: năm xưa Lương Vũ Đế không tin lời nguyền nên chết đói trên Đài thành không người thu lượm; Ngân Thương tướng quân La Thành vào thời Tùy Đường không tin lời nguyền nên đoản mệnh, chết năm ba mươi hai tuổi; Tổng Công Minh ở Thủy bạc Lương sơn không tin lời nguyền, cuối cùng mất mạng vì một bỉnh rượu độc.

    Dân trộm cắp lấy “lợi” làm đầu, xem nghĩa khí làm trọng, nghe những lời này tinh thần như được lên dây cót, lũ lượt xin thủ lĩnh cho lên phía trước, lần này dù có thịt nát xương tan cũng không làm nhụt nhuệ khí Thường Thắng sơn, nhất định dốc lòng dốc sức. Còn lại đám lính công binh không phải là người Xả Lĩnh, tuy trong bụng muốn bỏ cuộc giữa chừng, nhưng bị đám trộm cướp này thúc giục, đành lên gân lên cốt tiến lên.

    Họ giẫm lên đống hoang tàn đổ nát của hậu điện, tìm kiếm khắp xung quanh, cuối cùng cũng đến được khe nứt lớn nhất của núi Bình Sơn. Khe nứt khổng lồ này giống như bị một lưỡi rìu chém xuống, nằm ngay gần cổ bình, do thân núi xiêu vẹo nên vết nứt cũng xiên lệch xuống dưới, ăn vào điểm đầu thân bình. Khe nứt trên rộng dưới hẹp, sương mù dày đặc dập dềnh dưới vực sâu, cổ tùng mọc ngược, nhìn từ trên cao xuống mà bủn rủn chân tay, từ bên dưới nhìn lên thấy vách núi dựng đứng, treo giữa lưng trời, dường như chỉ cần một cơn gió lớn thổi qua, mỏm núi cheo leo đầu cổ bình sẽ bị cuốn bay bất cứ lúc nào. Ngọn núi mang hình chiếc bình cổ nứt toác này cứ lơ lửng như thế qua vô số tuế nguyệt, dưới thân núi xiêu vẹo lơ lửng lại là trập trùng khe sâu hẻm đá rừng rậm um tùm, dù nhìn từ góc độ nào, thế núi Bình Sơn vẫn nguy hiểm vạn phần.

    Lão Trần quan sát phần đáy khe núi rất lâu, đỉnh núi như một tảng đá xanh khổng lồ nặng đến ngàn vạn cân, hai bên vách đá dốc đứng lạnh lẽo tuy hẹp nhưng vẫn khá rộng, nơi sâu nhất tích tụ nước mưa trong lòng núi, muốn leo lên hai bên vách chỉ có cách bắc thang rết bám vào đó mà trèo. Lão lại cho gọi anh chàng dẫn đường tới, lệnh cho anh ta chỉ rõ nơi những sơn dân hái thuốc thường bắt đầu leo xuống vực sâu, và nơi họ thường hái thuốc.

    Anh chàng người Miêu tuy chưa lên núi Bình Sơn bao giờ, nhưng dù sao vẫn là dân bản địa, nghe hơi nồi chõ nên ít nhiều cũng biết được đại khái, còn hơn người ngoài. Anh ta nghển cổ chỉ tay vẽ các vị trí trên vách đá.

    Bình Sơn là nơi có lắm kỳ hoa dị thảo và các loại dược liệu quý hiếm, sơn dân Động Di quanh đây thường mưu sinh bằng nghề hái thuốc, nếu hái được hoàng sinh, tử sâm trên núi, có thể bán cho thương lái thu mua dược liệu, hoặc tự mang vào thành mà bán. Thứ đáng tiền nhất trong núi chính là hà thủ ô, linh chi, cửu long bàn... tréo ngoe một chỗ là chúng đều mọc sâu trong kẽ đá trên vách núi dựng đứng.

    Trong những kẽ đá vốn toàn đá xanh, nhưng thỉnh thoảng cũng có bùn đất từ trên cao rơi xuống, tích tụ nhiều năm lấp đầy các khe nhỏ, lại nhờ sương khí dưới vực sâu nên mọc ra nhiều loại linh dược, dân bản địa gọi khe nứt trên đỉnh núi Bình Sơn này là Dược khe. Nhưng nghe nói bên trong Dược khe có cương thi thành tinh ẩn nấp, người xuống đó hái thuốc dù không gặp phải cương thi thì cũng bị vật độc trong núi lấy mạng, lại thêm Bình Sơn được bao bọc trong dược khí, xung quanh tiềm phục rất nhiều thứ tà ma kiểu như Bạch Lão thái thái, nên lâu dần chẳng ai dám tự tiện vào núi nữa, thỉnh thoảng cũng có kẻ liều lĩnh to gan đâm đầu vào đây, song đa phần đều có đi mà không có về.

    Trong Dược khe này có một khu vực gọi là Trân Châu Tản, Trên vách núi xuất hiện nhiều mỏm đá nhấp nhô, hình như thạch nhũ, chất như mã não, trông giống một cái ô bằng trân châu nên mới có tên như vậy. Những mỏm trân châu này không có màu tro hay trắng mà đỏ tươi màu máu, giống như huyết thạch của gà, là nơi sinh trưởng của loại cửu long bàn vô cùng quý giá.

    Từng có một gã trai người Động Di, cả nhà tám đời đều giỏi nghề hái thuốc, muốn chữa bệnh cho vợ bèn liều mạng men theo vách đá leo xuống tìm cửu long bàn, anh ta quen thuộc dược tính, trên người mang theo cả thuốc xua rết và rắn độc, rốt cuộc cũng tìm được Trân Châu Tản, nhưng đúng lúc giơ tay hái thuốc thì chợt trông thấy từ trong khe núi bò ra một cương thi cao lớn, mặc áo bào màu tím thắt đai lưng vàng. Cỗ thây đó đã thành tinh, há mồm nhả ra làn khí tím, giơ cánh tay to lớn đầy lông trắng ra định túm lấy anh ta, anh chàng Động Di nọ sợ đến hồn bay phách lạc, chẳng còn lòng dạ nào màng tới cửu long bàn nữa, vội vận hết thân thủ nhanh chẳng kém khỉ vượn, leo dây xuyên mây, chạy như bay lên đỉnh núi, từ đó sợ quá ốm liệt giường, không đầy hai năm sau thì chết.

    Theo người này kể lại, khu Trân Châu Tản đó nằm bên mặt âm của khe núi. Lão Trần nghe xong nghĩ ngợi một hồi, những lời đồn thổi kiểu này không thể không tin, cũng không thể tin hết, nhưng dù không tìm được lối vào mộ cổ, ít nhất cũng phải hái hết cửu long bàn mọc trên Trân Châu Tản mới được. Đoạn lão quay sang hỏi ý kiến Gà Gô.

    Gà Gô thấy vách đá dốc đứng, nhưng có thể dùng thang rết leo lên không khó khăn gì, quanh Trân Châu Tản có mộ đạo, huyệt môn hay không cũng phải tận mắt nhìn mới biết được, bèn gật đầu đồng ý. Chỉ chờ có thế, lão Trần liền chọn ra hơn ba mươi tên trộm sở trường chạy tường đạp ngói, mỗi người hai chiếc thang tre leo lên vách núi, lại dùng sọt tre cõng theo hai con gà trống, nếu quả thật có cương thi thành tinh hại người, nghe tiếng gà gáy ắt sẽ kinh sợ, đoạn phái tất thảy số linh công binh còn lại theo đường cũ trở ra, cùng đồng bọn vận chuyển mấy thứ như đèn lưu ly trong đơn cung ra ngoài...

    Dưới đáy khe núi rất nhiều nước mưa, mặt nước phủ kín lá bào, khí ẩm nặng trĩu, trên vách đá đẫm nước li ti, không gian dưới đáy vực chật hẹp, nếu chẳng may bị kẹt dưới này thì đúng là tiến thoái lưỡng nan, đám trộm chỉ còn cách móc thang tre vào các khe đá, treo mình leo lên vách đá dựng đứng.

    Mọi người bỏ ra mấy chục cái thang rết, ghép, nối, xếp, treo, rồi lấy hơi tập trung trèo lên vách đá. Cứ men theo các kẽ đá mà leo lên, chỉ thấy giữa hai vách vực mây xanh thăm thẳm, cách nhau vỏn vẹn mấy bước chân, vách đá trên miệngình xanh như bức tường ngọc. Màu sắc của đá núi cũng dần sẫm hơn, xung quanh tử đằng rủ xuống khe sâu, trên thân cây nở đầy những hoa cỏ lạ lùng, lớp bùn đất trong các kẽ đá thì mọc đầy cỏ dại.

    Chỗ này tiếp giáp với điểm đầu sườn núi Bắc, trên Dược khe quanh năm không thấy ánh mặt trời này càng leo lên càng bắt gặp nhiều loài cây cỏ kỳ lạ không rõ tên, điều này rất không bình thường. Lão Trần và Gà Gô đều biết thuật nhìn vết bùn phân sắc cỏ trong tìm mộ táng, chỉ cần quan sát các loài cây dại cỏ hoang trên mồ có thể đoán ra tuổi tác, thân phận, giới tính của bộ hài cốt nằm bên dưới, bất luận niên đại xa gần, thực vật sinh trưởng quanh mộ đều có điểm khác biệt. Tình trạng sinh trưởng của cây cỏ trên mộ được gọi là “mạch phần”, cách phân loại mạch hưng suy đều bắt nguồn từ tập Lăng phổ thời xưa, nói kỹ e còn phức tạp hơn cả bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy.

    Ví dụ quanh mộ hoang vô chủ, ngay đến bia mộ cũng không có, nhìn vào chỉ thấy cỏ dại um tùm, nhưng trong mắt người hiểu “mạch phần” thì đám cỏ dại giản đơn ấy lại ẩn chưa rất nhiều thông tin, chẳng hạn như “cỏ trên mồ xanh xanh, trong quan là nhược quán”, hay “cỏ trên mộ mọc lung tung, dưới đất tất có người chết bệnh”, ý nói rằng nếu cỏ mọc trên nấm mồ vừa xanh vừa non, người nằm bên dưới chắc chắn là yểu mệnh chết trẻ; cỏ vàng khô xơ xác, chứng tỏ không có sức sống, người chết nằm dưới mồ nhất định là do nhiễm bệnh mà chết; xung quanh mộ phần của người khỏe mạnh cây cỏ ắt tốt tươi... đại loại như vậy, có thể kể ra vô số. Riêng cái gọi là mộ phần đã có nghĩa rất rộng, những chỗ có đất có vỏ trên nấm mồ đều thuộc về mạch phần, quy mô mộ phần dưới lòng đất càng lớn thì phạm vi mạch phần càng rộng. Nhưng trên đời này chỉ có những kẻ trộm mộ nắm chắc quyết “vọng” mới hiểu cách quan sát phân biệt.

    Đám trộm trèo lên thang rết, soi đèn nhìn kỹ các loài thực vật sinh trưởng trên vách đá. Gà Gô nhìn sang hai bên, thấy cành lá cây tùng lẫn các câyây leo đều um tùm xanh tốt, rõ ràng là phần mộ của võ tướng, anh ta lại chỉ một đóa hoa màu vàng trên thân dây leo, nói với mọi người: “Đây chính là hoa mắt mèo, chỉ mọc gần mồ mả, chắc chắn trong đỉnh núi có mộ huyệt rồi.”

    Lão Trần thấy mấy đóa hoa lạ quả nhiên có hình dáng giống mắt mèo, hoa cỏ nơi này sinh trưởng nhờ vào âm khí ngưng kết trong mộ cổ, nên đều thấp thoáng tỏa ra sát khí, xem ra ngôi mộ đời Nguyên kia tuy táng rất sâu nhưng rốt cuộc vẫn để lộ dấu vết. Lão xem xét một lượt vết cỏ, lại hếch mũi hít hà mùi trên Dược khe. Thuật ngửi đất trong quyết “văn” tuy dính thêm chữ “thổ” nhưng về cơ bản làm gì có ai nằm bò ra đất như loài chó mà đánh hơi từng tí một, thuật này bắt buộc phải học từ khi còn nhỏ, suốt đời kiêng cữ rượu thuốc đắng cay, hơn nữa không chỉ đơn thuần ngửi đất, mà phàm núi cao vực sâu, có nhiều mùi lạ vấn vít, lão Trần đều có thể dùng thuật Văn sơn ngửi mùi tìm mộ táng.

    Những mùi thường thấy nơi thâm sơn cùng cốc gồm có ba loại, những ngọn núi không có mùi hương thì đều là núi hoang, chỉ ở nơi địa hình đặc biệt như tận cùng hai vách đá dốc đứng song song, nơi sơn khí ngưng kết, mới có thể triển khai thuật này. Mùi hương rõ rệt nhất trong núi chính là mùi khí độc, chướng khí càng độc thì mùi càng nồng, nhưng mùi khí độc thường pha lẫn mùi bụi đất, rất dễ nhận ra.

    Còn có mùi hương tinh túy của các loài cây cỏ như dược thảo, dã hoa, sơn dược, thoang thoảng phảng phất, khiến người ta ngửi vào cảm thấy sảng khoái tinh thần. Mùi hương đặc biệt nhất lại là mùi mộ cổ, pha trộn giữa các mùi thủy ngân, gỗ áo quan, minh khí, tử thi và vôi bột chống thối rữa. Bên trong mộ nhất định sẽ thấy âm lạnh hôi thối, nhưng bên ngoài lẫn với mùi hoa cỏ mạch phần, nên chỉ ngửi thấy một mùi hương dìu dịu phảng phất mơ hồ, lúc gần lúc xa. Càng lại gần huyệt mộ, mùi hương lạnh lẽo này càng mạnh hơn, xen lẫn một mùi tanh đặc biệt, âm lạnh nhưng không hề khó ngửi.

    Lão Trần hít một hơi thật sâu, cảm thấy trong mùi hương tươi mát ở dải Trân Châu Tản này thoang thoảng một mùi tanh nồng kỳ lạ, càng xuống sâu mùi tanh ấy lại càng nồng đậm, rất khó diễn tả, vừa ngửi một lần đã cảm thấy lạnh thấu xương tủy, thì càng khẳng định trong vách đá có giấu huyệt mộ. Chỗ này là nơi khuất nẻo bên sườn núi Bắc, nếu không phải rắp tâm tìm kiếm thì dễ gì tìm ra. Hai bên vách đá chằng chịt cổ tùng dây leo, chắc hẳn mộ đạo đã bị bịt kín, lão Trần nghĩ vậy bèn khoát tay ra hiệu, lệnh cho đám trộm mang thang rết kết thành một chiếc cầu tre bắc ngang khe núi.

    Mọi người thấy đã tìm ra tung tích mộ cổ, tinh thần phấn chấn hẳn lên, liền bắc cầu tre giữa hai bên vách Dược khe, từng người giẫm lên cái thang tre rung rinh, nối nhau đi xuyên qua làn sương mây, nếu không bám vào dây leo thì dùng thang rết bám vào vách đá, treo lơ lửng giữa không trung, rút dao rút rìu phạt hết cây cỏ che phủ trên Trân Châu Tản.

    Dây leo cành cây đã bị phạt đứt rơi lả tả xuống đáy vực, không lâu sau mảng đá lõm vào màu máu gà đã lộ ra quá nửa, chỉ thấy trên vách đá có nhiều vết nứt lớn, vết to nhất nhét vừa một con bò, bên trong tối om không biết nông sâu thế nào, trong những vết nứt nhỏ hơn là mấy khóm cửu long bàn vảy giáp xinh xắn.

    Bọn người lão Trần mừng thầm trong bụng, truyền thuyết về người Miêu trèo xuống Trân Châu Tản Dược khe hái thuốc quả nhiên là thật. Loại cửu long bàn mọc ở sườn núi Nam đều không đáng tiền, thông thường chỉ có thể đánh cảm giải độc, duy ở những khe sâu quanh năm không thấy ánh mặt trời mới có thể mọc ra loại cửu long bàn vảy giáp mỡ màng này, còn được gọi là cửu quỷ bàn, mỗi cây đáng giá ngàn vàng, có công dụng thần kỳ kéo dài tuổi thọ.

    Đám trộm thấy thế thì tạm thời quên phắt chuyện mộ cổ, những kẻ ở gần vội thò tay hái thuốc, nhẹ nhàng cẩn trọng nhổ cả rễ lẫn gốc, bởi chỉ cần cửu quỷ bàn thiếu mất một cái rễ hay cái vảy thì coi như mất hết giá trị, không còn đáng tiền nữa.

    Gà Gô lại hoàn toàn dửng dưng, từ trên thang tre, anh ta tung người nhảy vào khe nứt to nhất, vừa giơ tay chạm vào vách đá đã cảm thấy đầu ngón tay lạnh buốt, chính là cái lạnh chỉ có trong mộ cổ. Giơ đèn soi vào phía trong, anh ta phát hiện ra phía cuối ánh đèn chập chờn có một bóng người, tiến lên trước nửa bước, thì thấy một cái xác nam cao to đang đứng yên bất động trong khe núi hiện ra rõ ràng trước mắt. Cổ thây so vai cúi đầu nên không nhìn rõ mặt, khắp người bám đầy bụi đất, cứ nhìn lớp bụi dày đó đủ thấy cái xác này đã đứng cô độc trong khe núi rất nhiều năm không hề nhúc nhích, bộ giáp trụ trên người rõ ràng là quân phục khi lâm trận thời xưa.

    Gà Gô đã quen hành sự một mình, hơn nữa lại là cao nhân to gan lớn mật trong nghề đổ đấu, anh ta không đủ kiên nhẫn chờ đám người Xả Lĩnh đang dò dẫm vơ vét đến từng tấc một, thầm nghĩ tội gì không vào trước xem sao. Nghĩ là làm, không đợi bọn người lão Trần đang ở phía sau, anh ta giơ cao cây đèn bão trên đầu, rút khẩu súng Đức từ eo ra, dùng mũi súng nâng đầu xác chết lên, định xem diện mạo nó thế nào. Không ngờ khẩu súng Đức còn chưa chạm được vào cổ thây toàn thân giáp trụ, trong động bỗng nổi lên một cơn gió lạnh cỗ cương thi rùng mình giũ khỏi lớp bụi dày, bất ngờ bổ nhào về phía trước.
     
  16. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 36: Núi Cao Rung Chuyển
    Cái xác cổ đời Nguyên toàn thân khôi giáp, so vai cúi đầu đang đứng yên bất động bỗng đột nhiên vồ lấy Gà Gô, bụi đất mạng nhện trên người nó cũng bay lên tứ tung, thoắt chốc mù mịt cả hang động.

    Gà Gô đâu phải kẻ hữu dũng vô mưu, anh ta dám lấy nòng súng chọc vào cái mũ sắt trên đầu cổ thây, đương nhiên gan đã to tài nghệ lại càng cao, không có bản lĩnh đã không dám liều. Đứng sẵn theo tư thế chân trước chân sau, bất luận gặp phải dị trạng đột biến gì Gà Gô cũng đều đã chuẩn bị sẵn sàng kế sách tiến thoái ứng biến. Chợt nghe có tiếng giáp sắt lách cách, không đợi cổ thây kia tới gần, anh ta đã cúi người xoay nửa vòng, sượt qua cương thi trong lòng mộ đạo chật hẹp, vòng ra sau lưng nó.

    Thân hình Gà Gô cực nhanh, tựa như một làn khói nhẹ, vòng một cái đã tới sau lưng cương thi, hai cánh tay lập tức vươn ra, móc vào dưới nách, rồi bẻ ra sau khóa cứng ót nó, đầu gối phải đồng thời co lên, thúc mạnh vào xương sống. Chiêu này nhìn có vẻ đơn giản, kỳ thực chính là tuyệt kỹ Khôi Tinh Thích Đẩu mà Ban Sơn đạo nhân dày công luyện tập, hai cánh tay và đầu gối Gà Gô cùng lúc phát lực, chỉ nghe tiếng xương cốt gãy răng rắc, cái xác khô khoác giáp sắt đã bị Gà Gô bẻ gãy xương sống, đổ sụp xuống đất như đống bùn nhão.

    Dân đổ đấu ít nhiều đều chuẩn bị vài ngón nghề đối phó với xác chết bị quỷ nhập tràng khi khai quan, đề phòng hiểm nguy bất trắc trong mộ cổ. Mô Kim hiệu úy có đinh đóng thây và móng lừa đen, còn Ban Sơn đạo nhân lại có sở trường là Khôi Tinh Thích Đẩu, nhưng nếu không phải xảy ra thi biến, cương thi chưa chắc đã bật dậy vồ người.

    Nghe nói một trong những nguyên nhân phổ biến của hiện tượng quỷ nhập tràng là do thi khí tích tụ không tiêu, xác chết gặp phải luồng điện hoặc dương khí của người sống bèn sinh ra phản ứng, đột nhiên chồm dậy vồ người. Loại cương thi này không hề biết mệt mỏi, da thịt lại cứng hơn sắt thép, dao súng đều không thể đả thương, duy có vị trí sau gáy sau lưng là nơi thi khí yếu nhất, có thể dùng tuyệt chiêu bẻ gãy xương sống nó, rồi dùng lực vặn mạnh, khiến xương cốt nó gãy vụn, không thể tác oai tác quái được nữa.

    Nhưng sự việc không đơn giản như thế. Động tác của Gà Gô quả thực quá nhanh, anh ta thấy cương thi nhào tới bèn mau lẹ xoay người bẻ gãy xương sống của nó, chuỗi động tác liên hoàn này vừa nhanh vừa hiểm, một khi đã ra tay là không chút dung tình, nhưng chính vì Gà Gô ra tay quá hiểm quá độc nên muốn dừng lại giữa chừng cũng không dừng nổi. Anh ta vừa nhao người lên trước, cùng lúc liền cảm thấy trong lòng núi có một trận rung lắc dữ dội, hình như không phải xác chết bị quỷ nhập tràng mà là cả ngọn núi Bình Sơn đang chuyển mình, làm cho cái xác khô ngã dúi về trước.

    Gà Gô giật mình: “Chả nhẽ trong núi lại có động đất?” Anh ta sợ còn động đất tiếp, cả ngọn núi sẽ đổ sập xuống chôn sống mình, không dám nán lại bên trong mộ đạo nữa, mà vội vàng rút ra ngoài. Ra khỏi khe núi trên Trân Châu Tản, anh ta thấy đám trộm đang trèo trên vách Dược khe ai nấy mặt vàng như nghệ, nắm chặt lấy thang tre và dây leo, dường như cũng vừa cảm thấy cơn chấn động dữ dội khi nãy.

    Lão Trần thấy Gà Gô chui ra từ hang đá hẹp vội gọi lớn: “Không hay rồi, Bình Sơn sắp sập, mau tẩu phản thôi!”

    “Tẩu phản” ở đây chính là bỏ chạy. Thì ra khe nứt trên núi Bình Sơn này quá sâu, cổ bình và thân bình chỉ còn gắn hờ với nhau, mười phần thì đến chín phần đã nứt toác theo năm tháng, cứ chực gãy như thế mà hứng mưa chịu gió suốt mấy trăm năm, đây chính là kiến tạo tinh xảo của tự nhiên, giống như “phong động thạch”, nhìn có vẻ bấp bênh nhưng thực ra lại rất vững chắc, trong cheo leo tuyệt hiểm vẫn có sự thăng bằng vô cùng tinh tế, nếu không có ngoại lực cực mạnh tác động phá vỡ sự thăng bằng này, có lẽ mấy trăm mấy nghìn năm sau, nó cũng vẫn cứ như vậy.

    Thế nhưng đám trộm Xả Linh trước nay chưa từng có kinh nghiệm với mộ táng trong lòng núi, lại đi sử dụng thuốc nổ quá liều. Trong số họ chẳng ai hiểu thế nào là “rút dây động rừng”, chỉ chăm chăm đặt mìn chôn thuốc, nổ cho miệng núi lưng núi chi chít lỗ, sóng xung kích của những vụ nổ hết lần này đến lần khác dội vào lòng núi, khiến khe nứt khổng lồ trên đỉnh sắp sửa nứt lìa, chấn động khi nãy chỉ là điềm báo ban đầu mà thôi.

    Cả quả núi lại rung lên từng cơn, nhẹ hơn so với lần đầu nhưng kéo dài liên miên, cơn này nối tiếp cơn kia. Bùn đất và đá vụn rào rào rơi từ trên cao xuống, Gà Gô biết một khi thân núi thực sự đứt lìa, cả đám người đang bám trên vách đá sẽ theo một bên vách Dược khe rơi xuống khu rừng rậm bên sườn núi Bắc, lúc ấy thì dù có mình đồng da sắt cũng đừng mong sống sót. Ngọn núi vẫn đang rung lắc không ngừng, chỉ cần sẩy chân một bước là lập tức rơi xuống vực sâu, trong tình cảnh này, điều tối kỵ chính là manh động, Gà Gô nghe thấy tiếng lão Trần lệnh cho mọi người mau chóng nhảy sang vách núi bên kia thì vội vàng ngăn lại.

    Nhưng không đợi anh ta kịp mở mồm, đã có mấy tên trộm do quá sợ hãi, nóng lòng muốn thoát khỏi hiểm cảnh, trong lúc hoảng loạn mất hết bình tĩnh, mặc kệ ngọn núi đang rung lắc mỗi lúc một dữ dội, cứ giơ bừa thang rết, tung người nhảy sang vách đá đối diện, đinh ninh sẽ móc được thang rết vào vách đá, nào ngờ đúng lúc ấy, từ trong lòng núi bỗng vang lên tiếng ầm ầm tựa trời long đất lở, khe nứt đột nhiên toác rộng ra tới vài trượng. Những kẻ bỏ chạy trước tiên còn đang lơ lửng giữa không trung, vốn đã ngắm chuẩn khoảng cách, giờ lại không thể với tới mục tiêu, thang rết bắc sang bị hụt, cả người rơi thẳng xuống vực thẳng trong tiếng kêu gào khiếp đảm.

    Mạng của mấy người này kể ra cũng lớn, trong khi rơi xuống tay vẫn nắm chặt thang rết không rời, mấy cái thang tre vướng vào nhau tạo thành một mảnh võng tre, kẹt lại khoảng hẹp giữa vách đá. Nhưng bọn họ còn chưa kịp vui mừng vì thoát chết thì mấy chục tảng đá to bên trên đã ầm ầm rơi xuống, bọn họ bám trên thang tre biết tránh đi đâu, tất cả đều bị nghiền nát như tương. Đá lớn đá nhỏ theo nhau rơi xuống, đập vào vách đá phát ra tiếng vọng trầm vang, lẫn với tiếng kêu gào xé ruột xé gan, hết thảy đều rơi tõm vào hồ nước dưới đáy vực sâu, vẳng lại những tiếng lùng bùng hỗn loạn.

    Lúc này những người còn lại đều cố ép sát vào vách đá phía miệng bình, cả người và vách đá cùng rung lên từng chập, đá tảng cổ thụ đen sì bị kình phong cuốn phăng từ trên xuống. Những tảng đá lỏng lẻo chênh vênh trên đỉnh núi đều rơi hết xuống vực, tránh được một tảng cũng khó tránh nổi cả trận mưa đá giội xuống không ngớt, liên tiếp có người bị đá va phải, ngã xuống vực chết bất đắc kỳ tử. Việc đã đến nước này chỉ còn cách nghe theo mệnh trời, ai chết thì là cái số, những người may mắn sống sót coi như chưa đến ngày tận.

    Chỉ nghe một tiếng nứt toạc như xé vải từ dưới khe sâu vọng lên, đám người lão Trần và Gà Gô cảm thấy Dược khe càng thêm xiêu vẹo, khe nứt vốn dày đặc sương mù mây cuộn cứ mỗi lúc một rộng thêm mãi. Mọi người chợt thấy trước mắt hoa lên, như có ánh sáng mặt trời rọi thẳng vào mặt, cây cỏ trong khe núi đều đã lộ rõ mồn một, hóa ra sau khi vết nứt toác ra, ánh sáng mặt trời đã chiếu được vào trong.

    Bình Sơn trong chớp mắt đã thực sự chao đảo tựa trời nghiêng đất ngả, nhật nguyệt đổi dời, đám trộm trải qua cơn sóng gió, chân tay ai nấy đều đã mỏi nhừ. Gà Gô bám trên vách đá né trái tránh phải, mắt thấy tảng đá ngàn vạn cân trên miệng bình đang từ từ lăn ngược ra sau, đám đá vụn từ trên không tới tấp rơi xuống khi nãy cũng đột nhiên giảm hẳn, bèn hô lớn: “Đến lúc đi được rồi đấy!” Đoạn chìa tay kéo tên trộm đang run như cầy sấy bên cạnh, bảo mọi người mau kết thang rết lại thành cầu tre để chạy về khe núi trước mặt.

    Bọn người lão Trần cũng hiểu đây là cơ hội cuối cùng, ngọn Bình Sơn đã sắp đứt lìa đến nơi rồi. Nhưng dục tốc thì bất đạt, đám trộm trong lòng hoảng loạn, lại thêm chân tay run rẩy, liên tiếp tuột tay đánh rơi mất mấy cái thang rết, chỉ còn lại bốn cái thang tre kết thành hai cái cầu, nối liền giữa khe núi.

    Đám trộm đẩy lão Trần lên thang tre trước, dù sao lão cũng là thủ lĩnh Thường Thắng sơn, về lý đương nhiên phải để lão thoát thân trước. Lão Trần lúc này cũng không hơi đâu làm bộ làm tịch, chẳng từ chối lấy nửa lời, ngẩng đầu nhìn lên thấy không có đá rơi nữa, liền hít sâu một hơi giẫm lên thang tre, bước vội ba bước làm hai, chao đảo chạy qua, đến hết cầu tre thì nhún chân nhảy lên bám vào mỏm đá, quay đầu lại vẫy tay lia lịa, ý bảo Gà Gô đừng để ý đến đám người bên cạnh, quả núi này có thể đổ xuống bất cứ lúc nào, mau nhảy sang đây, việc cấp bách là bảo toàn tính mạng hai huynh đệ ta, nếu không vạn sự đều vô ích.

    Gà Gô vốn tự tin vào bản lĩnh của mình, không muốn giành giật đường sống với người khác, anh ta vẫy tay ý nhường cho những người còn lại sang trước, còn mình đi cuối cùng. Hơn chục kẻ may mắn sống sót thấy vậy tuy trong bụng kính nể nhưng chân chẳng muốn nhường, lập tức chen nhau chạy lên cầu tre, trong cơn chấn động tựa sấm rền chớp giật, trời rung đất chuyển, lại thêm mấy người nữa trượt chân rơi xuống vực sâu bỏ mạng, cuối cùng bên này vách núi chỉ còn lại Hồng cô nương và Gà Gô.

    Lúc này Gà Gô thấy núi non rung chuyển, cỏ cây đổ gãy, ngọn núi sắp đứt lìa đến nơi, đã không đủ thời gian để từng người một qua cầu nữa, anh ta chẳng còn tâm trí nghĩ xem cầu tre có chịu được sức nặng của hai người hay không, vội đẩy Hồng cô nương phi thân nhảy lên cầu, chạy thật nhanh qua trong tiếng đá núi nứt lìa và dòng khí lưu xoay vần giữa chừng không.

    Gà Gô đi được nửa đường, chợt cảm thấy chiếc thang tre dưới chân có vẻ không ổn, liền theo đó là trận cuồng phong thổi qua khe núi, chân người chợt lơ lửng như tàu lá bay, chỉ chực cuốn theo cơn gió. Anh ta biết sức gió quá mạnh, hễ có chút sơ sảy ắt sẽ bị cuốn xuống vực sâu, lại càng vội vã lao về phía trước đưa tay nắm chặt lấy Hồng cô nương nhẹ như chim yến, hai người liên thủ sẽ không d bị cuốn xuống vực nữa.

    Nhưng vừa giữ được thăng bằng thì một cơn chấn động tựa trời long đất lở nữa lại từ đáy vực truyền đến, hai bên vách đá như mồm con quái vật đang từ từ há to, cuối cùng đã tách hẳn ra, tảng đá khổng lồ trên miệng bình lăn xuống đất. Chiếc thang rết dưới chân Gà Gô bị luồng loạn khí sinh ra từ cơn chấn động cuốn đi chẳng khác nào phiến lá, lộn nhào rồi rơi xuống đáy núi, Gà Gô và Hồng cô nương cũng chỉ cảm thấy hẫng một cái, bên tai gió thổi ù ù, người đột ngột rơi xuống.

    Gà Gô lâm nguy không loạn, vội nắm chặt cánh tay Hồng cô nương, lợi dụng luồng loạn khí, cùng nhau nhoài người về phía vách đá nơi có bọn lão Trần, hai người như đôi chim, liệng xuống chênh chếch theo hình vòng cung giữa tiếng rít gào của gió núi, cảnh vật nơi vách núi lướt nhanh qua mắt.

    Gà Gô nhanh tay tinh mắt, thấy sắp tới gần vách đá liền với tay trải ra, bách tử câu giấu ở mặt trong khuỷu tay và cổ tay lập tức cắm vào vách đá, nhưng lớp đá xanh rắn chắc trơn tuột, phủ đầy rêu xanh, bách tử giáp chỉ có thể cào lên đó mấy chục vết, rồi lại bị Hồng cô nương đang theo đà rơi kéo đi, hai người dán chặt vào vách đá dựng đứng, từ từ trượt xuống không sao dùng lại được.

    Hồng cô nương lúc này cũng đã sợ đến hồn bay phách lạc, nhắm chặt mắt không dám nhìn, chợt cảm thấy Gà Gô túm lấy cánh tay mình, hai người chầm chậm rơi xuống như cưỡi mây đạp gió, thì thu hết cản đảm nhìn xuống, đúng lúc tảng đá to trên miệng bình rơi xuống đất đánh uỳnh một cái, nghiền nát bấy bùn đất cây cối dưới đáy vực, bắn tung tóe đủ loại vụn lên giữa tầng không. Cô ta vội lấy tay che mặt để tránh bị bắn vào mắt, chỉ thấy một luồng khí lưu giội mạnh vào người, cảm giác như nghẹt thở, không biết mình còn sống hay đã chết.

    Mặt đất và cây cối dưới chân núi mấp mô, tảng đá khổng lồ trên miệng bình sau khi rơi xuống đất lăn hai vòng rồi uỳnh một tiếng trời long đất lở rơi vào giữa đám cổ thụ cao lớn um tùm. Gà Gô nào rỗi hơi xem xét tình hình dưới chân núi, anh ta bị Hồng cô nương kéo không hãm nổi đà rơi, trượt qua liên tiếp mấy kẽ đá lồi lõm cũng không ăn thua gì, bên tai chỉ nghe tiếng bách tử câu cọ vào vách đá ken két.

    Gà Gô biết nửa còn lại của Bình Sơn đã trở thành vách núi dốc đứng, do thế núi xiêu vẹo như sắp đổ, phần chân vách đá vuông góc với mặt đất sẽ tạo thành một khoảng không, cứ thế này trượt xuống, tay không có điểm bám, ắt sẽ rơi thẳng xuống đất mà chết. Lúc này tính mạng đã như ngàn cân treo sợi tóc, tay anh ta càng bám chắc hơn, chợt thấy cánh tay căng ra, anh ta kéo Hồng cô nương treo người trên gờ con dốc dựng đứng, thân hình đong qua đưa lại giữa không trung. Cuối cùng cũng bám được vào một khe đá, bách tử giáp tuyệt đối không thể bám vào hư không, nếu rơi xuống thêm nửa thước nữa e cả hai người chẳng còn sức mà sống nữa.

    Gà Gô một tay bám vào dốc đá, thở hắt ra một hơi, nhìn cảnh sắc mây núi xa mờ, khói sương thấp thoáng quanh núi Bình Sơn nằm gọn trong tầm mắt thì không khỏi thầm thán phục: “Tạo hóa!” Anh ta cúi xuống nhìn Hồng cô nương, hỏi: “Bị treo lơ lửng giữa không trung thế này, phong cảnh tuy đẹp thật nhưng cánh tay chẳng dễ chịu tẹo nào, cô có tự bám được không? Tôi kéo cô lên trước nhé?”

    Hồng cô nương rốt cuộc cũng chỉ là phận nữ nhi, tuy thủ đoạn hiểm độc, lại là người trong giới lục lâm, nhưng không được thần dũng đảm lược như Gà Gô. Mặt cô ta tái xanh, tim đập thình thịch, song nghĩ lúc này rơi vào hiểm cảnh, may sao ông trời lại xếp đặt cho mình ở cùng Gà Gô, có chết cũng không uổng, nên nỗi hoảng sợ cũng vơi đi phần nào, hai tay bám chặt lấy cánh tay Gà Gô, hít vào một hơi, đau đớn đáp: “Tôi không sao, nhưng... mấy trăm anh em vận chuyển minh khí dưới chân núi coi như xong rồi... e là bị tảng đá lớn này nghiền nát cả...”
     
  17. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 37: Trong Màn Đêm
    Đám phiến quân do La Lão Oai cầm đầu đang vận chuyển báu vật bên sườn núi Bắc, cả đội quân lên tới trăm nghìn người tụ tập cả dưới chân núi, địa hình nơi này lại gồ ghề khúc khuỷu, cho dù bọn họ phát hiện ra đỉnh núi trên đầu đang sập xuống thì cũng không thể di tản hết trong chốc lát. Lại thêm tảng đá ngàn cân từ trên miệng bình rơi xuống, sức mạnh vô cùng khủng khiếp, ngay cả những cây cổ thụ trọc trời còn bị đè nát như tương, xem ra cánh quân dưới chân núi đa phần đều chết chắc.

    Gà Gô đang treo người giữa không trung, nghe Hồng cô nương nói vậy liền cúi đầu nhìn xuống, tuy bản thân đã thoát chết nhưng trong lòng vẫn rầu rĩ bi thương, không ngờ chỉ trong chốc lát đã mất đi nhiều mạng người như vậy.

    Gà Gô cảm thấy cánh tay bắt đầu tê mỏi, khó mà bám trụ trên gờ vách đá được nữa, vội để Hồng cô nương leo lên lưng mình, sau đó triển khai bách tử giáp, bám chặt vào vách núi cao trăm nhẫn[31] mà leo lên như thạch sùng leo tường.

    Hồng cô nương không dám nhìn xuống, cứ nhắm tịt hai mắt lại, chỉ nghe bên tai tiếng gió ù ù, cả người như đang bay giữa không trung, chân đạp lên mây, sượt qua từng lớp sương mù vấn vít, vững vàng leo lên cao. Cô ta thầm nhủ, cả đời mình chưa bao giờ gặp nguy hiểm thế này, lại càng khâm phục thân thủ và lòng can đảm của Gà Gô.

    Hai người bám vào vách đá trèo lên, sắp đến lỗ hổng nơi hậu điện sơn cung thì thấy thang rết của đám người Xả Lĩnh thả xuống tiếp ứng. Lúc này lão Trần và những người may mắn sống sót đều đã tới hậu điện tụ họp lại với nhau, ai nấy không ngớt lời thán phục, còn tưởng Gà Gô đã bỏ mạng dưới vách đá, nào ngờ vị Ban Sơn đạo nhân này quả là mạng to phúc lớn.

    Cả bọn mê tín chăm chăm tin rằng mộ cổ đời Nguyên táng trên đỉnh núi thực sự linh thiêng, vừa bị đám trộm mộ phát hiện ra liền tự nứt khỏi núi Bình Sơn, đè chết bao nhiêu người phái Xả Lĩnh, mà không hề nghĩ nguyên nhân thực sự đến từ chính việc nổ mìn phá đá của họ.

    Lo lắng không biết tình trạng thương vong của các anh em dưới chân núi thế nào, đám người vội vàng ra khỏi Bình Sơn, chạy sang sườn núi Bắc xem xét, quả nhiên thảm cảnh tử thương vô cùng nặng nề, số người chết vì bị đá nghiền nát nhiều không kể xiết, lại thêm vô số người toác đầu chảy máu, thương tích nặng nề, ngay đại quân phiệt hoành hành khắp Tương Âm như La Lão Oai cũng thịt nát xương tan, bỏ mạng tại trận.

    Tảng đá lớn trên miệng bình theo triền dốc lăn xuống một khu rừng rậm rạp, cách sườn núi khá xa. Mặt đất bị lõm thành một cái hố to, cây cối đất đá, máu thịt người ngựa trộn thành một đống nát bấy. Những kẻ may mắn sống sót ai nấy mặt cắt không còn giọt máu, thần sắc đờ đẫn, bị bợp tai mấy cái vẫn không có phản ứng gì.

    Thấy tình hình này lão Trần cơ hồ tuyệt vọng, thầm than một tiếng: “Trời hại ta rồi!” Cơ đồ bao năm khổ tâm dốc sức giờ đã tan tành theo núi Bình Sơn. Thương vong mất mấy trăm người chỉ là chuyện nhỏ, có điều đám phiến quân địa phương vốn là một đội quân ô hợp, nay La Lão Oai chết đi, đội quân mấy vạn người trong tay hắn tất sẽ như rắn mất đầu. Tương Âm lại chính là sào huyệt của phái Xả Lĩnh, hậu quả việc này thực nghiêm trọng khó lường, thêm cả ba lần vào núi Bình Sơn, số người tử thương lần sau nhiều hơn lần trước, uy danh thủ lĩnh Thường Thắng sơn giờ chẳng còn gì nữa, nếu không đào thêm được mười cái mồ to mả lớn, e khó lòng lấy lại danh dự.

    “Tát cạn nước sông Tương, khó rửa nỗi nhục này”, lão Trần chán nản vô cùng, cảm giác như sự nghiệp, dã tâm đời mình từ nay tan tành mây khói, đúng sai thành bại thoắt cái đã về không, nghĩ đến đây bi hoả công tâm, suýt chút nữa thổ ra cả máu.

    Thuộc hạ vội dìu lão ra một bên ngồi xuống, lần lượt khuyên giải: “Trần thủ lĩnh thần thông cái thế, tuy chuyến này chúng ta thua một vố đau, nhưng nền móng của Thường Thắng sơn chưa hề lung lay, sau này tất có lúc ngóc đầu trở dậy. Chẳng phải ngài từng khuyên răng bọn tiểu nhân rằng thành bại binh gia không hẹn trước đó sao, La soái tuy bỏ mạng chết thảm, nhưng cũng coi như oanh liệt bất khuất. Bậc anh hùng hảo hán không chết thì thôi, đã chết là phải vì đại sự đại danh, chỉ cần thủ lĩnh không mệnh hệ gì, chúng ta còn núi xanh lo gì không có củi đốt.”

    Lão Trần thấy đám thuộc hạ toàn nói những lời xằng bậy chẳng đâu vào đâu, đến nửa lời cũng không lọt lỗ tai thì lòng càng ảo não, bèn xua tay bảo bọn họ tránh cả sang bên, chỉ để Gà Gô ở lại với mình, đoạn thở dài nói: “Người anh em, chúng ta từ khi kết nghĩa chưa từng phụ nhau, nay lòng ta đã quá loạn, thực không biết phải làm sao mới tốt, chỉ có cậu mới có thể đưa ra chủ ý giúp ta mà thôi.”

    Gà Gô là nhân vật cơ mưu tuyệt đỉnh, anh ta hiểu rõ hoàn cảnh trước mắt của lão Trần, cái ghế thủ lĩnh Xả Lĩnh e không ngồi vững nữa rồi, kế sách duy nhất bây giờ chỉ có cố gắng sửa sai, còn nước còn tát, giang hồ hành sự xưa nay luôn ngược dòng quạt mái, không tiến thì lùi, lại rất khó quay đầu.

    Việc gấp trước mắt là phải vỗ yên lòng quân, đề phòng lính của La Lão Oai thừa cơ làm loạn. Cuộc chiến giành địa bàn giữaác phiến quân hiện nay rất khốc liệt, nếu không ổn định được quân đội, một khi xảy ra việc đào ngũ hàng loạt, các phiến quân to nhỏ xung quanh sẽ thừa nước đục thả câu, phái Xả Lĩnh về sau đừng hòng còn chỗ đứng ở Tương Âm nữa.

    Tiếp đến, vẫn phải tiến vào mộ cổ Bình Sơn lần nữa. Nay mộ thất trên đỉnh núi đã theo một phần Bình Sơn lăn vào rừng sâu, không biết quan quách minh khí bên trong có bị tổn hại gì không, nhưng nếu không vét sạch ngôi mộ cổ này, lão Trần sẽ chẳng còn mặt mũi nào nữa.

    Gà Gô xung phong một mình một súng vào rừng trộm mộ, còn lão Trần phải chỉ huy thuộc hạ thu thập tàn binh, động viên thương binh, thu liệm người chết, đồng thời phái người trở về Tương Âm ngay trong đêm, tìm nhân vật thứ hai trong đội quân của La Lão Oai, dùng thủ đoạn để người này dốc lòng dốc sức vì Thường Thắng Sơn, mau chóng ổn định lại cục diện.

    Lão Trần nói: “Đây chính là sách lược vẹn toàn nhất, có điều ngôi mộ cổ đó đã bị lộn ngược mất rồi, để một mình cậu vào đó thực quá mạo hiểm, một bàn tay vỗ không lên tiếng, cần cử thêm người tương trợ mới được.”

    Gà Gô không muốn có thêm người đi theo, thủ pháp của Ban Sơn không giống như Xả Lĩnh, xưa nay không cần nhiều người, đối với Ban Sơn đạo nhân, người càng đông lại càng khó hành động, tuy vậy anh ta cũng ngại từ chối lão Trần. Cuối cùng hai người bàn bạc, nhất trí để Hồng cô nương và tay người Miêu dẫn đường đi theo Gà Gô, nếu gặp nguy hiểm thì phóng hoả tiễn là ám hiệu, đám tàn quân ở đây sẽ lập tức tiếp ứng.

    Hồng cô nương là cao thủ trong Nguyệt Lương Môn, phá khoá mở quan đều tài giỏi hơn người, lại có tuyệt kỹ phóng tiễn phi dao, không ham lợi danh như đám người Xả Lĩnh, thực sự là trợ thủ đắc lực bên cạnh Gà Gô. Tay người Miêu kia tuy nhát như thỏ đế nhưng là thổ dân bản địa, quen thuộc địa hình Lão Hùng Lĩnh cùng sự tích trong vùng, xuyên rừng vượt núi đều không thể thiếu hắn. Tay này tham mấy lạng thuốc phiện lão Trần thưởng thêm nên chẳng xá gì mạng sống, lập tức bằng lòng theo Ban Sơn đạo nhân đi trộm mộ.

    Sắp xếp xong xuôi đâu đấy, ăn được chút lương khô thì trời đã sẩm tối. Gà Gô và Hồng cô nương đều thay áo đi đêm màu đen, để tay dẫn đường vác theo một cái thang rết, ba người mỗi người cõng theo một cái sọt, đựng gà Nộ Tinh và hai con gà trống khác, chờ khi trăng vừa ló dạng, ánh sáng rõ như ban ngày thì lập tức khởi hành.

    Mõm núi gãy ra đã văng xuống đáy thung, dọc đường đè gãy biết bao cây cối, khắp nơi toàn máu thịt vung vãi, không có lấy một tấc đất bằng phẳng mà đặt chân, ba người đành men theo bìa rừng đi vòng vào trong. Ánh trăng đêm sáng vằng vặc, cả ba không cần thắp đèn mà chỉ giữ đèn bão ở thắt lưng, xuyên qua rừng cây tĩnh mịch. Mới tiến vào thung lũng không xa đã không còn nghe thấy tiếng đám người Xả Lĩnh thu gom thi thể, chỉnh đốn hàng ngũ sau lưng nữa.

    Ba người vừa đi vừa bàn bạc về mộ cổ Bình Sơn, Hồng cô nương nhân cơ hội liền cảm ơn ơn cứu mạng của Gà Gô, anh ta không mảy may để tâm, nói chỉ là việc nhỏ không đáng nhắc đến.

    Hồng cô nương nói ơn cứu mạng sao có thể coi như việc nhỏ, tuy cô ta tạm thời nương thân lánh nạn chốn giang hồ, theo chân Trần thủ lĩnh đi làm những chuyện trái vương pháp, nhưng vẫn không quên đạo làm người sống ở trên đời có ơn phải báo. Hôm nay Ban Sơn đạo nhân cũng đã mất đi hai người, cô ta thấy Gà Gô hiện tại không còn trợ thủ nào nữa, bèn nói nguyện từ nay rời khỏi Thường Thắng sơn, theo anh ta đi khắp nơi đổ đấu, tuy là phận liễu yếu đào tơ nhưng nhất định không quản an nguy, hết lòng phò trợ.

    Gà Gô là người tinh ý, nghe Hồng cô nương nói vậy thì biết ngay cô nàng có ý lấy thân đáp đền, đành nói thẳng tránh sau này tình cảm mắc míu lại sinh ra lắm phiền phức, rằng Ban Sơn đạo nhân tuy vẫn có thể kết hôn với người ngoài, nhưng vì trong gia tộc đã có lời nguyền nên những người này đều rất đoản mệnh.

    Hồng cô nương thấy đối phương biết tỏng ý tứ của mình thì nóng bừng cả mặt mày, may là dưới ánh trăng nên nhìn không rõ, gã người Miêu ngoài cuộc không phát hiện ra. Cô ta vội nói lảng sang chuyện khác, tuy không bận tâm tới thành bại được mất trên đời, nhưng nói về mệnh khổ, Nguyệt Lương Môn xưa nay vốn là tầng lớp dưới đáy xã hội, phải chịu mọi áp bức bóc lột, kẻ đoản mệnh đâu ít hơn Ban Sơn đạo nhân chịu lời nguyền. Sư muội của Hồng cô nương là Hắc nha đầu mới mười sáu tuổi đã phải mất mạng, già trẻ lớn bé trong nhà tổng cộng bảy mạng người đều bị quan phủ hại chết, nói đến đây cô ta lại không cầm nổi nước mắt.

    Gà Gô không muốn bàn chuyện thế thái nhân tình, nhắc đến lại khiến người ta thêm ngán ngẩm, chỉ thấy Hồng cô nương nói có sư muội tên Hắc nha đầu, phái Nguyệt Lương Môn này thật kỳ lạ, toàn lấy màu sắc làm tên. Nghĩa trang Lão Hùng Lĩnh cạnh núi Bình Sơn trước kia vốn là “Miếu Bà Bà”, thờ phụng Bạch Lão thái thái, chả nhẽ con hồ ly già đó cũng là người của Nguyệt Lương Môn? Hèn nào nó cũng biết dùng yêu thuật.

    Vừa đi vừa nói chuyện đã sắp tới canh ba, trăng đã lên cao, sương khói bủa vây tứ phía, vẫn là thứ yêu khí bảng lảng chốn rừng sâu. Gà Gô bảo hai người Hồng cô nương và tay người Miêu tạm dừng chân, còn mình trèo lên một cây đại thụ, phóng tầm mắt quan sát xung quanh, xác định nơi tảng đá lớn lăn tới đang chìm trong một màn sương mỏng quái dị, xong xuôi liền tụt xuống, hỏi cặn kẽ tay người Miêu về địa hình sau núi.

    Tay Động Di vồn vã trả lời: “Nói để ông anh mộc công biết, sau núi này chỉ toàn rừng thôi, hoang vu không có lấy một bóng người, bốn bề là cột đá nhũ đá tự nhiên, Động dân chúng tôi gọi là thẻ đá. Rừng thẻ đá đó chính là thung lũng Nộ Tinh có hình dáng như phượng hoàng sải cánh bay, nơi sâu nhất nghe nói năm xưa vốn là động tổ của bảy mươi hai động ngày nay, đến giờ hình như vẫn còn vài di tích tượng đá huyền điểu, hắc hùng[32], hoang phế đã lâu nên cũng chẳng ai coi trọng nữa.” Ấn tượng ban đầu của hắn về Gà Gô đến giờ vẫn không đổi, cứ ngỡ người này là thợ buộc lầu do lão Trần mời tới giúp việc trộm mộ, Động dân bản địa vốn vô cùng kính trọng cánh mộc công buộc lầu nên cứ gọi Gà Gô là mộc công.

    Gà Gô gật đầu, thầm nghĩ mộ cổ Bình Sơn quả nhiên dùng phép Yếm thắng, lấy âm khí huyệt mộ trên không để trấn áp khí lành của động tổ người Di. Phương pháp này của người Nguyên không hề hiếm thấy, sau khi Nguyên diệt Nam Tống, tổng quản Phật giáo ở Giang Nam Dương Liễn Chân Già từng đào xới tất cả Hoàng lăng của triều Nam Tống ra băm vằm, trộn lẫn với xương cốt của loài súc sinh chó lợn rồi chôn xuống một cái hố to, bên trên xây một toà tháp Trấn Nam, dùng để trấn áp long khí người phương nam, cách làm này chính là phép Yếm thắng điển hình. Lại nghĩ: “Động tổ của người Di không biết có trò trống gì thực không, cứ nhìn sương trong rừng mãi không tan thế này có thể thấy đây cũng chẳng phải nơi tốt lành, không thể không đề phòng.”

    Nghĩ đến đây, anh ta liền bảo Hồng cô nương và tay người Miêu bước chân khẽ thôi, tìm nơi bóng cây ánh trăng không soi tới mà đi. Lúc này bỗng nghe có tiếng khóc vang lên từ bốn bề rừng sâu. Tiếng khóc nức nở nghẹn ngào nghe vô cùng thống thiết, hệt như tiếng khóc bên linh cữu người chết lúc đưa ma, vang lên giữa rừng sâu trong đêm khuya thanh vắng lại càng thê lương, khiến người ta nghe mà sởn da gà.

    Tay người Miêu biết rõ trong núi không hề có người sinh sống, sao có thể có nhiều tiếng khóc vang lên cùng lúc như vậy, bụng bảo dạ lẽ nào là oan hồn tiền nhân trong động tổ hiện về kể khổ trong đêm? Nghĩ đến đây hắn liền run như cầy sấy, tóc tai dựng ngược cả lên, chân nhũn ra như giẫm phải ruột bông, chỉ chực ngồi bệt xuống đất.

    Gà Gô vội giơ tay tóm lấy gáy áo, không để hắn ngồi phệt xuống đất phát ra tiếng động, đồng thời ra hiệu cho hai người kia im lặng, lấy mảnh lụa đen bịt kín mũi mồm che giấu hơi thở người sống, đoạn rút khẩu súng Đức lên đạn, sẵn sàng tư thế chiến đấu. Anh ta làm dấu chỉ hướng cho Hồng cô nương và gã người Miêu, ý bảo hai người theo sát phía sau, còn mình nhón chân đi trước lần theo tiếng khóc lóc thảm thiết vọng lại từ rừng sâu.
     
  18. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 38: Vượn Trắng
    Gà Gô mặc quần áo đi đêm, dẫn theo Hồng cô nương và anh chàng người Miêu, ba người lần mò theo tiếng khóc… dẫn bước tiến vào bóng đêm phía trước. Nơi phát ra tiếng khóc trùng hợp thay lại chính là chỗ tảng đá lớn rơi xuống, càng tới gần, tiếng khóc nức nở nghe càng rõ hơn thống thiết hỗn loạn, giống như một đám người đang cất tiếng ai oán khóc thương. Tiếng khóc theo gió vang vọng trong rừng sâu, tuyệt đối không phải là âm thanh do gió động rừng lay tạo ra.

    Gà Gô thấy giữa đêm khuya tự nhiên có âm thanh lạ lùng như vậy thì đâu phải chuyện thường. Anh ta thầm lấy làm kinh ngạc bèn vậnh hết tinh lực, nín thở bước lên phía trước mấy chục bước, thấy trước mắt hiện ra một rừng cổ thụ um tùm rậm rạp, âm thanh quỷ khóc thần sầu đang phát ra từ đó, trong rừng ánh trăng mờ ảo, yêu khí bức người.

    Gã dẫn đường người Miêu thấy cảnh tượng như vậy thì sợ hết hồn hết vía, hắn biết không được lên tiếng lúc này, liền ra hiệu bằng tay với Gà Gô và Hồng cô nương, ý bảo đừng tiến lên trước nữa. Đêm hôm khuya khoắt trong rừng sâu làm gì có người, chắc chắn là ác quỷ trong mộ cổ Bình Sơn thấy huyệt mộ bị phá hủy, âm hồn không siêu thoát, cứ lảng vảng quanh đây, ba người chúng ta có ăn phải gan hùm mật gấu cũng chớ lại gần đấy.

    Gà Gô đâu thèm để ý đến tay người Miêu, thấy bóng cây kín mít che khuất cả ánh trăng đi sâu vào rừng lúc này chắc không ổn, bèn túm lấy cổ áo gã người Miêu, chỉ lên ngọn cây ra hiệu cho Hồng cô nương, rồi lập tức kéo gã dẫn đường trèo lên một gốc cây to, nhờ chạc cây to khỏe nên ngọn cây đầu cành đều chịu được trọng lượng không nhỏ.

    Trong ba người, tay người Miếu vốn là dân bản địa đã quen trèo cây băng rừng, Hồng cô nương và Gà Gô thân thủ lại càng nhanh nhẹn phi phàm, bọn họ trèo lên tán cây không phát ra tiếng động nào, đoạn thu mình nấp trong đám cành lá, từ trên cao lặng lẽ quan sát động tĩnh bên dưới trong ánh trăng mờ ảo.

    Dưới ánh trăng, họ thấy sau cánh rừng chính là phần ngọn trên của núi Bình Sơn đã nứt lìa, nằm im lìm đen thui trên mặt đất như một con quái vật khổng lồ đang say ngủ. Mỏm núi đã bị nứt ra thành vô số khe to kẽ nhỏ, với rất nhiều đá vụn vỡ nát bên trong, phần lõi đá phơi bày hết ra ngoài, có điều bọn họ ở quá xa không nhìn rõ được.

    Ngay trước tảng đá là ngói vụn và các loại minh khí rơi đầy trên mặt đất, vàng bạc đồng ngọc có cả, hẳn do một thất phải chịu xung lực quá mạnh nên gạch đá minh khí bên trong đều vỡ hết. Trên mặt đất còn có một cố quách tử kim to lớn khác thường nằm nghiêng ngả, trông vô cùng xa hoa lộng lẫy, xung quanh phủ tráp ngọc áo châu, áo châu ở đây chính là tấm vải đính trân châu, trên thân quách khảm đầy ngọc bích.

    Tiếc thay cỗ quách tử kim đã vỡ, châu ngọc bên trên nát vụn văng tung tóe khắp mặt đất, trong quách là một chiếc quan tài quét sơn, làm bằng gỗ lim ánh vàng, nắp áo quan đã bị bật tung, chỉ còn một tấm ván thất tinh đậy hờ bên trên. Tấm ván này được làm bằng gỗ sam, kích thước vừa vặn đặt lọt thỏm trong lòng áo quan, được thiết kế nằm dưới nắp quan tài, bên trên đục bảy cái lỗ tròn to bằng đồng xu, có một cái rãnh được khoét để nối liền bảy cái lỗi với nhau, nên gọi là ván thất tinh, phong tục này xuất hiện vào thời Tùy Đường.

    Tấm ván thất tinh che hờ lòng quan tài, bên trong tối om không trông thấy gì,hài cốt của viên tường Nguyên kia không rõ đã ra sao, chỉ nghe tiếng khóc ai oán vẫn từ trong rừng vọng lại. Lúc này trong rừng sâu, sương đêm đã giăng dày đặc giữa những gốc cây, ánh trăng cũng bị mây che khuất, bốn bề đều mờ mờ ảo ảo. Ba người Gà Gô nấp trên ngọn cây, tuy nghe thấy tiếng khóc từ bốn phương tám hướng nhưng vẫn không cách nào phân biệt được âm thanh thảm thiết đó xuất phát từ đâu, chỉ đành kiên trì bám trụ, im lặng chờ đợi, hạ thấp nòng súng, mở to cặp mắt cú, chăm chú quan sát động tĩnh dưới gốc cây.

    Đang trong lúc nín thở quan sát, Hồng cô nương đột nhiên kéo nhẹ ống tay áo Gà Gô, giơ tay trỏ cỗ quách tử kim, ra hiệu từ chỗ cô ta có thể nhìn thấy điều bất thường dưới đáy quách. Gà Gô nhẹ nhàng di chuyển trên ngọn cây, đổi vị trí, vừa căng mắt ra nhìn đã thấy chột dạ: “Cái gì thế kia?”

    Thì ra dưới đáy quách đăng mắc một cánh tay người trắng ởn, cánh tay đó to khỏe thô kệch, năm móng tay dài tới mấy tấc, lông trắng mọc dài tua tủa, thò ra một nửa từ đáy quách, im lìm bất động.

    Cương thi có hiện tượng thi biến, bỗng chốc mọc lông khắp người xưa nay được gọi là “hung”, đây cũng là cách gọi khác của xác biết đi, thường nghe có hắc hung, bạch hung và phi mao sát. Nhưng vào thời Dân Quốc, lý luận khoa học đã tiến bộ hơn nhiều so với thời kỳ phong kiến, nên đến Gà Gô cũng biết thi biến mọc lông chỉ là do tác dụng của nấm mốc.

    Quan quách đóng kín cả trăm ngàn năm, chỉ cần bên trong không có không khí lưu thông, cổ thây ngàn năm sau khai quan ra vẫn hệt như khi còn sống, nhưng tiếp xúc với không khí rồi, cương thi nhất định sẽ biến đổi trong chớp mắt, sự biến đổi này có liên quan tới vật liệu làm quan quách, cũng như minh khí giấu trong xác chết.

    Nếu trong áo quan phủ một lớp vôi xác hay thủy ngân chống ẩm, thi thể ắt sẽ thành xác khô, không bị sinh nấm mốc. Còn nếu cổ thây được ngậm châu ngọc, nút chặt cửu khiếu[33], được bảo quản đúng cách, khi khai quan đã phần đều là xác ướt, bởi tất cả lượng nước trong thi thể vẫn được giữ lại nguyên vẹn, thậm chí cả tóc và móng tay vẫn tiếp tục mọc dài ra trong quan tài suốt trăm năm. Khi tiếp xúc với không khí, lượng nước trong xác chết nhanh chóng tiêu tan, nếu đột ngột tiếp xúc với luồng điện hay sinh vật sống, quá trình sinh nấm càng được thúc đẩy nhanh hơn, thi mao màu trắng xám sẽ nhanh chóng mọc dài, hiện tượng quỷ nhập tràng hay xác chết biết đi đều từ đó mà ra.

    Đối với thủ lĩnh Ban Sơn chuyên nghề trộm mộ như Gà Gô, từ hiện tượng thi biến hay quỷ nhập tràng đến những chuyện kỳ quái như xác chết biết đi vồ người đều là bình thường, anh ta đã gặp qua không biết bao nhiêu lần nền chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng thấy dưới cỗ tử kim quách nạm châu khảm ngọc kia kẹt cứng một cương thi thì không khỏi lấy làm cổ quái, đỉnh núi Bình Sơn sụp xuống bao bọc mộ thất trong lòng núi, cỗ quách này văng ra từ đó, vừa hay lại ngửa lên trời, lẽ nào bộ quan liền quách này lại không chắc chắn đến nỗi lòi cả cổ thây bên trong ra ngoài? Hay là trong rừng vốn đa có cương thi ẩn mình, nay cỗ tử kim quách rơi trúng, đè cứng dưới áo quan?

    Mộ thất này xây trong đỉnh núi, treo lơ lửng giữa trời cao do núi sập đất lở nên quan quách trong mộ mới văng vào rừng rậm, tình huốn này xưa nay e rằng chưa từng có dân trộm mộ nào gặp phải, nên đương nhiên Gà Gô cũng không có kinh nghiệm, trong rừng yêu khí nặng nề, chưa nấm được tình hình cụ thể, anh ta không dám manh động.

    Tay người Miêu thấy Gà Gô và Hồng cô nương đều dán mắt vào cỗ quách tử kim, không biết hai người đang nhìn gì, bèn nhanh tay bám chạc cây đu qua, dụi mắt nhìn kỹ, thấy dưới đáy áo quan là một cương thi khắp người mọc toàn lông trắng, gã bất giác túa mồ hôi lạnh.

    Cổ nhân có câu: “Con nít miệng hôi sữa, đâu dám nghe tiếng sấm vang chớp giật? Kẻ tiều phu ốm yếu, sao dám hóng tiếng hổ gầm rồng rít?” Nười sống nơi hoang sơ hẻo lánh là đám người mê tín nhất, nỗi sợ hồ ly cương thi đã ăn vào máu tủy, tay người Miêu vừa nhìn thấy cương thi liền tái xám mặt mày, nằm rạp trên ngọn cây run lên bần bật, chỉ hơn mỗi tượng gỗ phỗng đất là còn biết run.

    Hồng cô nương bên cạnh thấy tên man di sợ đến nỗi tứ chi tê liệt, dễ thường tuột tay cắm đầu xuống đất như chơi, bèn vội vàng túm lấy lưng hắn. Lúc này tiếng khóc lóc trong rừng đã gần tụ lại, giữa những vạt cây nháo nhác bóng người, va quệt vào cành lá phát ra tiếng lào xào.

    Thấy nhân vật chính đã xuất hiện, Gà Gô khẽ xua tay vơi Hồng cô nương và gã người Miêu, ra hiệu: “Không được gây ra bất kỳ tiếng động nào kẻo đánh rắn động cỏ, trước mắt hẵng cứ lo ẩn nấp, nhìn rõ đầu đuôi sự tình rồi hẵng tính.” Tay anh ta còn chưa hạ xuống, bên dưới đã có một đám những bóng đen loi nhoi nhảy tới.

    Lúc này sương đêm đã tan bớt, mặt trăng nó ra nửa chừng sau những đám mây, chỉ thấy trong rừng xuất hiện một bầy vượn, già trẻ lớn bé lên tới trăm con, thậm chí có cả những con non đỏ hỏn mới đẻ cũng được vượn mẹ bế theo. Bầy vượn khóc lóc chạy đến, cách cỗ quách tử kim chừng mười mấy bước thì dừng cả lại, có vẻ vô cùng sợ hãi trước cỗ quách vỡ, không dám mon men tới gần nửa bướ cứ đứng xung quanh gãi đầu gãi tai, ôm mặt khóc, nhảy nhót không yên lấy một phút

    Gà Gô và Hồng cô nương thấy bầy vượn giống như người ùa vệ hộ tang, không khỏi lấy làm kinh hãi, Gà Gô chột dạ nghĩ: “Hay là cỗ quách kia đè chết một con vượn già lông trắng?” ý nghĩ vừa lóe lên trong óc, anh ta lại nhìn kỹ cánh tay dưới cỗ quách tử kim, quả nhiên dài hơn tay người thường, địch thị là cánh tay vượn, có vẻ một con vượn trong rừng đã bất ngờ gặp phải tai bay vạ gió, chết thảm dưới cỗ áo quan.

    Nghe nói muôn loài sinh linh sống trên đời đều có số kẻ nào sống lâu tất bị trời tru đất diệt, nếu may mắn tránh khỏi trùng trùng kiếp nạn mới có thể thoát khỏi nỗi thống khổ của luân hồi, đi vào cõi tiên trường sinh bất lão. Con vượn trắng này nhanh hơn một bước, hay chậm hơn một bước đều sẽ không bị cỗ quách tử kim từ trên trời rơi trúng, nếu không phải số kiếp thì sao đến nỗi chết oan thế này?

    Gà Gô nhất thời cũng không chắc mình đoán trúng hay không, đành tiếp tục dõi theo động tĩnh của bầy vượn. Chúng đang vây quanh cỗ quách, khóc than thảm thiết, như muốn nhấc cỗ quan lên để khiêng thi thể con vượn trắng ra nhìn lần cuối, nhưng lại có vẻ sợ hãi thứ gì đó, vừa hò nhau tiến lên nửa bước lại kêu choe chóe như có lửa đốt đít, nhảy thụt về sau.

    Ba người ở trên cây nhìn rõ mồn một, không ai biết vì sao bầy vượn lại sợ cỗ quách tử kim đến vậy, chả nhẽ chúng cũng biết cái bánh tông trong áo quan vô cùng lợi hại? Có câu: “Bánh tông Thần Châu, quỷ Liễu Châu”, trong số những sản vật địa phương nổi danh nhất vùng Thần Châu Tương Tây, ngoài chu sa được gọi là Thần Châu Sa và Miêu khí Thần Châu, còn phải kể đến cương thi. Nơi đây có tập quán hành cương tống xác lâu đời, truyền thuyết thi biến cũng nhiều hơn cả, nên vào núi Bình Sơn Tương Tây gặp phải thi biến cũng không có gì là lạ, e rằng ngay cả vượn vọp trên núi cũng biết không được tùy tiện chạm vào cổ thây.

    Gà người Miêu kia sợ hồ ly cương thi chứ không sợ vượn, bởi lưu vực sông Mãnh Động thường xuất hiện vượn hoang kéo bầy, ở Lão Hùng Lĩnh cũng có Bạch Hầu động xa gần nức tiếng, đám vượn này là một trong những kẻ thù của thương nhân qua lại nơi núi sâu rừng thẳm. Chúng biết người qua đường trên người lúc nào cũng có rượu nước lương khô, bèn nấp trong rừng cây rậm lây đá chọi người, sau đó cướp lấy thức ăn, nên dân bản địa dẫn đường cho thương khách qua đây đều biết hát “vượn ca”, xua đuổi bầy vượn quấy nhiễu.

    Gà Gô rất giỏi khẩu kỹ, cũng biết hát “vượn ca, vượn tán” đuổi vượn, có điều lúc này bầy vượn đông nhung nhúc vây quanh cỗ quách tử kim nhảy nhót khóc thương, hành động rất khác thường, trước khi biết rõ đầu đuôi sự tình thì không nên động thủ, anh ta bèn ra hiệu cho hai người đồng hành cứ ở trên cây quan sát, không được làm kinh động bầy vượn.

    Lúc này trong hang trăm con vượn nhốn nháo vòng quanh cỗ quách, có một con nom nhanh nhẹn nhìn xa trông rộng, đi đi lại lại mấy vòng liền ngồi thụp xuống, nhặt đá chọi thẳng vào áo quan, lũ vượn còn lại lũ lượt học theo, hang trăm hòn đá rào rào như mưa rơi xuống cỗ quách tử kim, nhưng bên trong quách vẫn yên lặng như tờ, không chút động tĩnh.

    Gà Gô nhủ thầm: “Lũ vượn này khôn thật, còn biết ném đá dò đường, không biết chúng rốt cuộc định làm gì, mình cứ yên lặng theo dõi xem sao.” Đoạn lại nghĩ: “Cỗ quách bị trận mưa đá tấn công tới tấp vẫn không có động tĩnh gì, xem ra lũ vượn phải tới gần thôi…”

    Vừa nghĩ đến đó, quả nhiên thấy mấy con vượn to gan nhanh nhẹn chui ra khỏi bầy, một con trong số đó có vẻ hơi sợ sệt, giữa chừng muốn quay đầu bỏ chạy, liền bị một con vượn đực vừa cào vừa cắn đuổi ra. Năm sáu con vượn rón rén lại gần cỗ quách tử kim nặng nề âm khí, không thôi gãi đầu gãi tai kêu chí chách, rõ ràng vừa sợ vừa sốt ruột, chỉ muốn lập tức khiêng cỗ quách sang bên nhưng lại e thứ ghê gớm bên trong đột nhiên xuất hiện, cứ thấp thà thập thò, mãi mới thu hết can đảm tiến lên phía trước song vẫn cảnh giác nhìn quanh, chỉ cần thấy gió động cỏ lay là lập tức cong đuôi bỏ chạy.

    Đúng lúc ấy, cánh tay con vượn trắng bị đè dưới cỗ áo quan đột nhiên động đậy, không biết là hoàn dương hay bị quỷ nhập tràng, khiến mấy con vượn đứng gần sợ đến long tóc dựng đứng, nhảy lên tưng tưng rồi phóng tót về phía bầy vượn. Những con còn lại cũng sợ hãi không kém, lập tức bỏ chạy tán loạn.

    Nhưng chỉ lát sau, chúng lại từ đằng xa thò đầu thò cổ nhìn về chỗ áo quan, chí chóe ầm ĩ một hồi mới vây quanh cỗ quách tử kim lần nữa. Gà Gô đứng ngoài quan sát, cũng thấy sốt ruột thay cho lũ vượn. Bầy vượn sau phút hoảng sợ đã dần trấn tĩnh lại, phát hiện ra con vượn trắng bị đè dưới cỗ quách hình như vẫn còn sống thì nhảy tưng tưng trong bụi cây tỏ vẻ vui mừng.

    Tức thì có mấy con vượn cong đuôi mò tới, thò tay sờ sẫm vào cỗ áo quan như muốn khiêng nó đi, khổ nỗi không biết bắt đầu từ đâu, nên cứ nhảy tới nhảy lui. Một con vượn già cụt đuôi, dáng vẻ to cao, có vẻ cam đảm nhất bọn, sau mấy lần xem xét thấy bên trong áo quan không có gì bất thường bèn tung người nhảy lên tấm ván thất tinh, định lôi tấm gỗ ấy ra.

    Đúng lúc đó, một làn khí đen bỗng trồi lên từ trong áo quan, một cỗ cổ thây ngồi bật dậy. Cương thi này cao to vạm vỡ, mặt đỏ tía như gan bò, đầu không đội mũ, tóc tai rũ rượi, dáng vẻ vô cùng quyền quý. Xác chết bật dậy nhanh như điện, con vượn cụt đuôi chưa kịp phản ứng đã bị cương thi lôi tuột vào trong áo quan, kêu ré lên thảm thiết. Cỗ quách tử kim vừa sâu vừa tối, từ trên cây nhìn xuống không thấy được tình hình bên trong, chỉ nghe con vượn cụt đuôi đang ré lên thất thanh đột nhiên im bặt, bên trong cỗ quách lại lặng như tờ.
     
  19. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 39: Khều Xác
    Cảnh con vượn cụt đuôi bị cương thi lôi vào áo quan nhanh tới mức bọn Gà Gô trên cây chưa kịp nhìn rõ, chỉ thấy trước mắt nhoáng lên một cái, liền sau đó đã nghe tiếng kêu thê thảm của con vượn đang hấp hối vọng ra từ cỗ quách tử kim. Gà Gô lo tay người Miêu sợ quá sẽ bật lên thành tiếng, vội lấy tay bịt ngay mồm hắn lại.

    Trong rừng, bầy vượn cũng sợ hãi chết sững tại chỗ, mắt nhìn chòng chọc vào cỗ quách tử kim, tròng mắt như sắp lồi cả ra ngoài, mãi đến lúc tiếng kêu xé ruột xé gan của con vượn cụt đuôi im bặt, cả bầy như mới sực tỉnh, cây đổ thì khỉ tan đàn, cả lũ kêu la ầm ĩ bỏ chạy tán loạn vào rừng, thoáng cái đã không thấy bóng dáng con nào nữa. Khu rừng sâu trở lại tĩnh lặng như lúc ban đầu, chẳng còn sót nổi nửa cọng lông vượn.

    Hồng cô nương thấy có thi biến, vội vớ lấy cây phi đao bôi máu chó mực, chuẩn bị phóng ra. Gà Gô khẽ xua tay ý bảo đừng vội manh động, cương thi quý tộc đời Nguyên kia rất lợi hại, nhìn ngoại hình có lẽ là người Sắc Mục Tây Vực. Nhà Nguyên vốn duy trì chế độ đa sắc tộc, có người Sắc Mục là tướng cũng không có gì lạ, vị đại tướng thống binh thảo phạt bảy mươi hai động ở Lão Hùng Lĩnh có lẽ chính là người này. Phong tục tuẫn táng người sống rất thịnh vào thời Nguyên, cái xác khô khoác bộ áo giáp gặp phải trong mộ lúc trước có lẽ là võ sĩ bồi táng. Thiên tử được tuẫn táng hàng trăm người, vương công được tuẫn táng hàng chục người, đại tướng thốnginh tuân táng theo vài tùy tùng thân cận canh cửa trong mộ đạo, theo quan niệm xã hội lúc bấy giờ cũng chẳng lấy gì làm tàn khốc hay xa xỉ.

    Nhưng nền văn hóa Tây Vực có bối cảnh rất đặc biệt, tập tục an táng cũng khác xa quy củ truyền thống, quan quách, mộ huyệt, minh khí cũng như phương pháp bảo quản thi hài, dưới mắt nhìn thời đó đều nhuốm màu thần bí. Ban Sơn đạo nhân từ núi Song Hắc sa mạc Tây Vực tiến vào Trung Nguyên đã hàng ngàn năm, hiểu biết về phương pháp an táng Tây Vực bắt đầu nổi lên từ thời nhà Hán có phần hạn chế, Gà Gô cũng không dám chắc ngọn nguồn về việc thi biến trong cỗ quách khổng lồ Bình Sơn, chỉ đành kiên nhẫn, tiếp tục nấp trên cây quan sát tình hình.

    Trong khu rừng im lìm chết chóc, chỉ có tiếng rột roạt phát ra từ cỗ áo quan, như thể cương thi bên trong đang gặm xác con vượn cụt đuôi, tay người Miêu nghe mà muốn nghẹt thở, chợt thấy trên cổ lạnh ngắt trơn trượt. Gã còn tưởng rằng Gà Gô sợ mình rơi xuống gốc cây nên buộc dây vào cổ, vừa kinh hoàng đưa tay lên sờ, vừa thì thầm hỏi: “Ông anh mộc công, đừng thít nữa, để tôi thở với chứ…”

    Nói chưa hết câu, gã đã phát hiện ra thứ trên cổ chẳng phải dây nhợ gì, vội hoảng hốt túm lấy giơ ra trước mặt nhìn, thì ra là một con rắn bách hoa cực độc, đang phì phì lưỡi chực mổ tới, tay người Miêu kia thất kinh, hồn phách lên mây, vội lấy hết sức bình sinh, quăng mạnh con rắn ra xa, khổ nỗi cành cây bên dưới chịu không nổi anh ta làm tình làm tội như thế, tức thì gây đánh rắc một cái, cả người lẫn cành rơi tọt xuống dưới.

    Gà Gô và Hồng cô nương đang chú tâm vào cỗ áo quan không để ý thấy tay người Miêu gặp bất trắc, gà Gô tuy thân thủ nhanh nhẹn, nhưng đến khi phát hiện cành cây bị gẫy cũng đã chậm nửa bước. Cây đại thụ này cao đến vài trượng, anh ta lo tay người Miêu từ trên cây ngã xuống không chết cũng bị thương, trong lúc mạng người nguy cấp, chẳng kịp màng đến chuyện ẩn mình nữa, vội treo ngược người, chân đạp cành cây hai tay dang rộng, thả người rơi xuống như con dơi, chậm chân mà đến trước, giữa chừng túm được cổ áo tay người Miêu.

    Từ trên cao thế này rơi xuống, cho dù Gà Gô cũng không tránh khỏi bị thương, may mà cây cối um tùm, dây leo đan kín, nên cả hai chưa kịp chạm đất đã mắc lại trên một bụi dây leo già, bấy giờ Gà Gô mới thả tay người Miêu ra, từ trên cây tụt cuống, hai người họ đứng ngay trước cỗ quách tử kim.

    Lúc này Hồng cô nương cũng từ trên cây tụt xuống, nghe tiếng ken két từ trong áo quan phát ra không ngừng, cứ như cương thi bên trong sắp sửa nhảy ra bắt người, không khỏi nhíu mày rùng mình, hỏi Gà Gô: “Xử lý thế nào đây? Hay phóng hỏa đốt!”

    Gà Gô vốn định ẩn mình trong tối quan sát đầu đuôi, nhưng giờ đã đứng trước quan tài, đành lập tức động thủ. Có điều dân trộm mộ xưa nay rất kỵ chưa kiểm tra áo quan đã phóng hỏa thiêu rụi, một khi ngọn lửa bùng lên, tất cả minh khí bên trong coi như hết, đang trông mong tìm được đơn châu, sao có thể tùy tiện phóng hỏa? Anh ta liền bảo Hồng cô nương: “Đừng phóng hỏa, hãy dùng thang rết khều cương thi ra trước, sau đó hẵng tính.”

    Nói xong liền quay đi lôi thang rết tới giao cho gã người Miêu cùng Hồng cô nương nắm chắc thang rết trong tay, song song chọc vào trong áo quan, bất kể móc phải thứ gì đều vận hết sức lôi ra, còn anh ta đứng bên canh chừng, tay đặt sãn trên cò súng.

    Gã người Miêu gặp rắn ngã từ trên cây xuống, trong lòng hoảng loạn, bắt đầu có ý bỏ trốn, nhưng thấy khẩu súng Đức trong tay Gà Gô thì hiểu rõ, bỏ chạy lúc này tất ăn cả băng đạn. Trời sinh ra gã là kẻ nhát gan, mây năm gần đây thấy bao chuyện phiến quân thổ phỉ tàn sát nhân mạng, nên còn sợ bọn phiến quân trong tay có súng hơn cả ác quỷ cương thi, hễ nhìn thấy nòng súng đen ngòm, bắp chân liền nhũn ra, có thêm mấy lá gan cũng không dám bỏ chạy nửa bước, đành phải lên gân lên cốt giúp Hồng cô nương khiên thang rết chọc vào trong cỗ quách tử kim.

    Trước tiên hai người họ dùng thang rết hất tung tấm ván thất tinh che hờ bên trên áo quan, rồi hạ thấp đầu thang giống như đuôi rồng khuấy nước, khoắng một lượt bên trong, thấy nằng nặng tay, liền biết đã móc được vào thứ gì đó. Hồng cô nương liếc nhìn Gà Gô, thấy anh ta đang trong tư thế sẵn sàng, bèn đưa mắt ra hiệu cho người Miêu, đoạn dồn sức vào hai tay, hất thang rết lên.

    Cả Hồng cô nương và gã người Miêu đều cảm thấy thang bỗng nặng khác thường, liền dồn hết sức nhấc lên, không ngờ lại lôi ra một đống tròn tròn. Lúc này ánh trăng lạnh lẽo trải dài trên đất, ba người đứng gần đều nhìn thấy rõ mồn một, chiếc lưỡi câu bọc đồng trên đầu thang rết móc trúng mồm con vượn cụt đuôi đã chết, cái mồm con vượn bị móc đến toác ra, khuôn mặt không chút sinh khí ngửa thẳng lên trời, để cho lưỡi câu lôi ra khỏi áo quan như câu cá.

    Gà Gô đã quen với việc sinh tử, trong mắt anh ta xác chết ở trong trạng thái kinh khủng thế nào cũng chỉ như đồ bằng đất nặn, khi chưa cần thiết, quyết không dùng thủ đoạn tàn khốc với cổ thây. Anh ta cho rằng chỉ khi hiểu đúng sự uy nghiêm của cái chết mới có thể hết lần này đến lần khác tránh khỏi tiếng gọi của Tử thần. Trước mắt dùng thang rết khều xác chỉ là bất đắc dĩ, bởi chẳng ai biết cương thi trong áo quan sẽ phát tác thế nào, thấy cái xác vượn được lôi ra ngoài, anh ta vẫn trơn mắt đứng yên bên cạnh quan sát, toàn thân thu liễm chờ đợi, chuẩn bị sãn sàng ứng phó với mọi biến cố xảy ra.

    Hồng cô nương thấy cái xác vượn dữ dằn khủng khiếp như vậy, cô ta dù sao cũng không phải dân dổ đấu chuyên nghiệp, không khỏi sợ đến dựng tóc gáy, không dám nhìn thẳng vào mặt nó, chỉ biết đánh bạo hợp sức với tay người Miêu lúc này cũng đang run như cầy sấy, từ từ nhấc thang rết lên.

    Thứ được lôi ra từ trong áo quan không chỉ có mỗi cái xác vượn lông mọc tua tủa, xác con vượn cụt đuôi dính chặt với cỗ cương thi trong quan tài, đầu cương thi rúc vào cổ vượn, tựa như đang ngoác miệng ngoạm chặt không buông, thang tre lôi được xác con vượn nên cũng lôi luôn cương thi ra ngoài.

    Một mình con vượn cụt đuôi kia thì bọn họ còn cố được, chứ cỗ cương thi đời Nguyên to lớn kềnh càng, quá sức nặng nề, có lẽ bên trong được đổ đầy thủy ngân chống thỗi rữa, tóm lại Hồng cô nương và gã người Miêu trán đẫ lấm tấm mồ hôi, cố nâng thang tre lên mấy lần liên tiếp mà cặp thi thể một vượn một người cứ như mọc rễ trong quan, không thể chốc nhát mà khều ra được.

    Sở dĩ Gà Gô bảo họ đứng từ xa dùng thang rết khều cương thi ra khỏi áo quan là vì anh ta sợ đứng gần cỗ quách tử kim trong tình trạng ván nắp đã mở toang thế kia, nếu chẳng may cương thi đột ngột bật dậy, anh ta sẽ trở tay không kịp, cách xa một chút mới đủ thời gian ứng phó. Không ngờ hai cái xác bị thang tre lôi lên mới được vài thước đã không chịu nhúc nhích thêm lấy một li, cây thang dài bị trọng lượng hai cái xác ghì xuống cong như cây cung, run lên bần bật phát ra những tiếng răng rắc.

    Gà Gô thầm lấy làm lạ: “Lại trò quái gì nữa đây, không lẽ cương thi không muốn ra ngoài?” Anh ta bán tín bán nghi, rảo bước vòng sang mé bên quan tài, ai ngờ vừa dợm bước thì phát hiện phía sau cương thi thò ra hai cái càng cua đen nhánh, giống như hai gọng kìm quặp chặt lấy cái xác vượn, sau gáy cương thi cũng thò ra một cái đuôi mọc đen sì. Té ra có một con bò cạp núi to như con chó ưa thích âm khí bên trong áo quan bèn nhân lúc quan quách rời ra khỏi mộ thất chiu vào trong, thứ ban nãy bầy vượn e sợ, có lẽ cũng chính là con vật cực độc nấp trong áo quan này.

    Loài bò cạp núi lúc sắp tấn công đuôi thường dựng đứng lên, không biết tại sao khi chui vào áo quan nó lại nấp dưới cương thi, đợi khi con vượn cụt đuôi lật tấm ván thất tinh lên mới ra tay, con bọ cạp chỉ cần nhấc đuôi lên là nâng được cương thi ngồi dậy, sau đó cắn chết con vượn già, từ sau cương thi lôi nó vào áo quan. Giờ bị thang tre lôi ra khỏi đáy quách, con bò cạp dường như không muốn rời cái quách tử kim, càng không muốn bỏ cái xác vượn nên cứ giằng co với cai thang rết như thế.

    Gà Gô vừa nhìn thấy con bọ cạp to tướng nấp dưới đáy quách, phản ứng tức thì là nổ súng bắn chết nếu không đợi nó trở lại quách rồi, lại phải tới gần chỗ quách mới nổ được súng. Khẩu súng Đức trong tay đã lên đạn chờ sẵn, có thể khai hỏa bất cứ khi nào, anh ta bình sinh rất giỏi bắn súng, cách trăm bước vẫn ngắm cực chuẩn, lập tức giơ tay lên định bóp cò.

    Nào ngờ Gà Gô thân thủ đã nhanh, con bò cạp núi còn nhanh hơn, nó cảm thấy có người sống lại gần, thình lình vung đuôi lên, một dòng kịch độc đen sì như mũi thủy tiễn bắn thẳng vào Gà Gô. Khí hậu quanh núi Bình Sơn rất đặc biệt, mưa dầm quanh năm, trên núi mọc nhiều kỳ hoa dị thảo, loài bò cạp núi ở vùng này không chỉ to lớn mà đuôi của con cái còn có thể phun độc như rắn chúa mắt kính, nhanh như điện giật khiến đối phương không kịp phản ứng.

    Gà Gô chỉ ngửi thấy mùi tanh, thậm chí còn không kịp nhìn kỹ con bọ cạp phun độc thế nào, dòng thủy tiễn cực độc đã bắn tới trước mắt, không sao tránh kịp, trong lúc nguy cấp, Gà Gô đành ưu tiên bảo toàn tính mạng, vội giơ khẩu súng trong tay lên chắn trước nguời, chất độc lập tức phun trào lên khẩu súng Đức, anh ta sợ chất độc dính vào tay nên quẳng súng đi ngay, đồng thời rụt người lùi thật nhanh.

    Lúc này Hồng cô nương là tay người Miêu cũng đã nhìn thấy con bò cạp núi sau lưng cương thi, kinh ngạc buông lỏng tay, con bò cạp lập tức lôi tuột cả cương thi lẫn cái xác vượn vào lại trong áo quan.

    Gà Gô nhảy sang một bên kêu to: “Mau thả gà Phượng Hoàng ra đi.” Ba người họ trước khi vào rừng đào mộ, ai cũng mang theo một sọt tre đựng gà, đích thân Gà Gô cõng con gà Nộ Tinh thần kỳ nhất, hai con của Hồng cô nương và tay người Miêu cũng đều là hạng ngàn con lấy một.

    “Long lân quy phụng” vốn là bốn loài linh vật Trung hạ, từ thời Yên Thương đã có tô tem Kim Phượng điểu, nhưng cũng như rồng, phượng hoàng chỉ là loài vật hư cấu, trong thần thoại nó là huyền điểu trường sinh bất tử, chết đi rồi lại tái sinh trong ngọn lửa, chỉ đậu trên cây ngô đồng, không bao giờ đậu nơi đất thường, cho nên từ xa xưa đã là loài vật linh thiêng được người tu tiên luyện đơn coi trọng nhất. Nộ Tinh chính là điềm phượng gáy, hoàng đế các chiều đại xưa xây đơn cung trong núi Bình Sơn thuộc huyện Nô Tinh Tương Tây, e ít nhiều cũng có liên quan đến địa danh này.

    Nếu truy theo nguồn cội thì phượng hoàng có thể được tiến hóa từ loài gà núi, lông mao gà núi hoang vốn rực rỡ óng ánh, đuôi dài như đuôi công, cũng có thể bao vòng vòng giữa không trung, rất giống với phượng hoàng. Có điều chỉ trong đám gia cẩm mới có thể xuất hiện giống gà Nộ Tinh hiếm có, mí mắt mọc ở phía trên như phượng hoàng, khác hẳn gà thường, là khắc tinh tự nhiên của trăm loài độc vật.

    Song đồng hồ sinh học trong cơ thể loài gà lại hoạt động vô cùng chuẩn xác, trời vừa tối, còn nào con nấy đã ủ rũ ỉu xìu, hơn nữa vào ban đêm thị lực và năng lực cảm nhận của loài gà cũng suy giảm nghiêm trọng, tuy bị nhốt trong sọt tre, dọc đường lắc lư không thể chợp mắt nhưng chúng đều im lặng như thóc đổ bồ, không ho he tiếng nào. Lúc này ba người Gà Gô không nghĩ được gì nhiều, vội mở nắp sọt tre, ném cả ba con gà trống về phía cỗ quách tử kim.

    Với gà Nộ Tinh dẫn đầu, ba con gà trống từ trên cao dang cánh lao xuống, chúng sinh ra đã là khắc tinh của muôn loài độc vật, chỉ cần đụng phải là xông vào đánh nhau một trận sống mái. Tuy dưới ánh trăng tinh thần sa sút, nhưng đột nhiên gặp phải bò cạp núi, mắt chúng đều vằn đỏ, vừa đáp xuống áo quan đã mổ lấy mổ để.

    Con bò cạp núi trốn dưới cương thi tuy không muôn rời bỏ cỗ quách tử kim, nhưng bị dồn tới đường cùng, lại không thể chống cự trong cỗ áo quan chật hẹp, đành phải nhả cương thi và xác con vượn cụt đuôi ra, chui qua kẽ hở trên áo quan, thoát ra ngoài theo lối cũ.

    Ba người bọn Gà Gô đứng nhìn từ xa, chỉ thấy con bò cạp khắp mình dơ bẩn, từ đầu tới chân tuyền một màu xanh đen, hai càng to như cánh tay em bé, bên trên phủ đầy lông đen tua tủa cưng như kim châm, phần bụng rất dày, đuôi chia làm mười ba đốt, khi chạy trốn di chuyển nhanh như chớp giật. nó dừng lại một chỗ hoảng loạn xoay vòng, cái đuôi cong lên, lộ rõ vẻ lo lắng không yên. Ba con gà trống tuy vây quanh nó nhưng trong đêm tối cũng khó xông vào mổ, đành không ngừng khiêu khích làm nó tiêu hao sức lực.

    Gà Gô thấy đã đuổi được con bò cạp ra khỏi áo quan, liền rút khẩu súng Đức còn lại trong người ra, định một phát kết liễu mạng sống của nó, nhưng thấy ba con gà trống đang quần nhau ác liệt với con bò cạp khổng lồ, che khuất tầm ngắm, chuyến đào mộ lần này không thể thiếu gà Nô Tinh trợ giúp chống lại cương thi trùng độc, đương nhiên không thể tùy tiện làm nó bị thương, đành nín nhịn đứng bên quan đấu.

    Đúng lúc đó, trên lưng con bò cạp núi bỗng lồi lên một cục, dần dần kéo căng lớp giáp lưng khiến nó gần như trở nên trong suốt, con bò cạp như phát điên đâm loạn khắp nơi, phút chốc, một tiếng xoạc như xé lụa vang lên, lưng con bò cạp lập tức toác ra, từ bên trong trồi lên một làn khí trắng, hình dạng giống như thủy ngân, xộc thẳng lên mặt trăng.
     
  20. nguyễn đình tùng

    nguyễn đình tùng Member
    • 133/98

    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    2,739
    Ma Thổi Đèn
    Thiên Hạ Bá Xướng


    Quyển 7 - Thi Vương Tương Tây

    Chương 40: Hắc Tì Bà
    Trong mắt người đời, Ban Sơn Phân Giáp thuật của Ban Sơn đạo nhân sử dụng khi đổ đấu thực sâu xa huyền diệu, song mấu chốt hết thảy đều không rời xa thuyết “sinh khắc chế hóa”. Lần này vào Bình Sơn trộm mộ, chính vì trong khe núi có lắm độc trùng chướng khí nên mới đặc biệt đi tìm gà Nộ Tinh ở bản Kim Phong, trăm loài độc vật tiềm dưỡng thành hình bên sườn núi Bắc này đều không phải đối thủ của nó. Nhưng ban đêm, gà trống chỉ còn lại một nửa dũng khí, nhất thời không làm gì được con bọ cạp núi đã chui khỏi áo quan.

    Bọn Gà Gô đứng cách đó mười mấy bước, thấy con bọ cạp lưng bè bụng dày đang lồng lộn điên cuồng, tả xung hưu đột mà không sao thoát được, cuối cùng bỗng co rúm lại, trên lưng nứt ra một kẽ to, từ bên trong bay lên một làn sương trắng, dập dềnh lên xuống chứ không tan ra, ba con gà trống tuy đang máu chiến, nhưng thấy con bọ cạp núi đột nhiên biến đổi khác thường cũng không khỏi kinh ngạc, không biết xảy ra chuyện gì, lập tức mạnh con nào con nấy chạy.

    Gà Gô thấy lưng con bọ cạp bốc lên một làn sương trắng cổ quái cũng vội vã xua tay bảo Hồng cô nương và gã người Miêu kia lùi lại mấy bước. gió núi khẽ thổi, đánh tan là sương trắng, lúc này vết nứt trên lưng con bọ cạp đã rộng ngoác ra như một cái mồm đen ngòm, một lũ bọ cạp con trắng lốm đốm từ bên trong bò ra, giẫy giụa thoát khỏi lưng bọ cạp mẹ, rồi tán loạn tìm đường trốn.

    Bọ cạp mẹ bị rách toạc cả lưng, giống như bọc giáp rách nằm im lìm dưới đất, chắc là đã chết. Gà Nộ tinh thấy bao nhiêu bọ cạp com trắng trắng đỏ đỏ bò ra từ lưng bọ cạp mẹ, vốn đã thiên địch khắc tinh, lẽ nào chịu bỏ qua, lập tức vỗ cánh xù lông xông vào mổ từng con một, nuốt gọn vào bụng. Hai con gà trống còn lại cũng tả xung hữu đột,trong nháy mắt đã ngốn sạch mấy chục con bọ cạp con, như gió cuốn mây bay, hết thảy đều chui vào bụng gà không sót lấy nửa con.

    Người Miêu đứng bên thấy vậy liền đưa tay vỗ đầu, đoạn nói với Gà Gô: “Hóa ra bọ cạp núi chui vào áo quan là muốn nhờ âm khí để sinh con…” Độc vật ở núi Bình Sơn đều là những loài kỳ độc, lại quanh năm suốt tháng hít nhả dược khí trong núi, nên đều thích trốn ở những nơi âm u lạnh lẽo, đặc biệt bò cạp cái lúc sinh con lại càng tích chui vào quan tài hay phần mộ.

    Quanh Lão Hùng Lĩnh vốn lưu truyền câu ngạn ngữ “Bọ cạp từ nhỏ không có mẹ”, bọ cạp núi ở đây cả đời chỉ sinh sản một lần, đẻ con đằng lưng, khi bò cạp con ra đời cũng chính là lúc bọ cạp mẹ từ giã cõi đời, bởi thế những đứa trẻ mồ côi không người thân thích trong các làng bản Tương Tây đều được sơn dân gọi là “bọ cạp con”.

    Bọ cạp mẹ chui vào quan quách có xác chết vì tử khí âm u sẽ giúp nó tạm thời giảm bớt đau đớn do nứt da mà chết. Đa phần sơn dân bản địa đều biết bọc con mà bọ cạp mẹ sinh ra lúc nào cũng có ba mươi sáu con, không hơn không kém, vừa bằng số xương sườn của một bộ xương sườn, vì thế bọ cạp núi còn được gọi là “xương sườn”.

    Gà Gô trước giờ chưa bào giờ từng đi qua Lão Hùng Lĩnh vùng Mãnh Động này, anh ta tuy kiến thức sâu rộng nhưng không phải điều gì cũng biết, tập tính đặc biệt của loài bọ cạp núi ở vùng này chính là một trong những điều anh ta không am tường, nghe người Miêu giải thích ngọn nguồn mới biết. Có điều Bình Sơn này lắm dược thạch quý hiếm, độc vật sinh sống trong núi hình dạng đều kỳ quái, sao mà biết cho hết được, chỉ cần nắm rõ thuyết sinh khắc, mang theo mấy con gà trống vào núi là ổn thỏa cả thôi.

    Gà Gô thấy ba con gà trống đã ngốn sạch mấy chục con bọ cạp con, bụng no căng, tinh thần càng thêm ủ rũ, liền bảo người Miêu nhốt chúng lại vào sọt, còn anh ta và Hồng cô nương tiến lên trước kiểm tra tình hình bên trong áo quan.

    Hai ngư̗i xách dao súng tới bên áo quan, trước tiên kiểm tra con vượn già bị đè dưới cỗ quách. Phần đáy quách tử kim đúc tám con kỳ súc khiêng quan, đều mang hình dạng nửa người nửa thú, cơ thể to khỏe mình đầy vảy giáp, quái vật có vảy khiêng quan không chỉ thể hiện địa vị tôn quý của người chết trong quan, mà còn có tác dụng chống ẩm bên trong mộ thất, giúp nâng cỗ quách tử kim lên cao cách mặt đất một đoạn, phòng khi nước mưa tràn vào mộ thất không thể thoát ra ngay, quan tài gỗ bên trong cũng không bị ngâm nước.

    Con vượn già toàn thân lông trắng bị cỗ quách rơi trúng, may mà phần đáy quách có quái thú khiêng quan, tạo thành khe hở giữa áo quan với mặt đật, lại thêm lá mục sau mỗi trận mưa táp gió quật, phủ lên mặt đất một lớp thảm dày êm ái, cộng với bản thân nó xương cốt chắc khỏe, trải qua đại nạn không chết, có điều thương tích cũng không nhẹ.

    Gà Gô cúi xuống, xách đèn bão soi vào đấy quách, thấy con vượn già lông bạc mồm mũi chảy đầy máu tươi, bị đè chặt không thể cựa quậy, nằm im như chết.

    Anh ta nghĩ bụng, con vượn già ban nãy còn động đậy, sao giờ lại bất động thế này, liền giơ chân đá vào cánh tay vượn đang thò ra. Con vượn già quả nhiên rụt tay lại tránh, hai con mắt gian xảo mở to, đảo loạn lên rồi nhe nanh ra bộ hù dọa Gà Gô, trong ánh mắt nó ngoài bảy phần sợ hãi còn ba phần độc địa.

    Gà Gô thấy con vượn già lông bạc trắng, thần sắc gian xảo thì biết không phải loài lương thiện. Vạn vật trên đời sinh diệt đều theo lẽ tự nhiên, nếu sống lâu năm, màu lông nguyên bản trên thân mình tất sẽ thay đổi, từ màu tro chuyển sang màu trắng, rồi lại từ màu trắng chuyển thành màu bạc, đến giai đoạn này đã không còn là vật thường nữa, không phải tiên tất là yêu, có thể nhìn thấu lòng người.

    Nghe tay người Miêu nói, bầy vượn này ở hang Vượn Trắng trên núi Bình Sơn, thường chặn đường thương khách để cướp thức ăn, đã hại chết rất nhiều mạng người, ngay cả quần áo hàng hóa cũng không chừa, khuân tất vào hang rồi gianh giật với nhau, có khi mặc cả quần áo, bắt chước dáng vẻ con người, diễu qua diễu lại trong núi, quá nửa đều do con vượn lông bạc này bày trò dẫn lối.

    Gà Gô thầm nghĩ thứ này cũng cùng một giuộc với con báo già ở bia cổ, rắp tâm trừ khử, định cho nó một phát đạn, xóa sổ cái tên hang Vượn Trắng. Hồng cô nương lại không tin vào chuyện lũ vượn hại người của tay người Miêu, hắn đâu có tận mắt nhìn thấy bầy vượn hại người, huống hồ con vượn già này đã bị trọng thương, có được thả ra cũng không thể sống thêm mấy ngày, cô ta bèn khuyên Gà Gô nương tay, niêm tình con vượn trắng chỉ còn chút hơi tàn mà để nó sống thêm ngày nào hay ngày nấy, hôm nay số anh em ta mất mạng đã quá nhiều, chúng ta cũng nên vì họ mà tích chút âm đức.

    Gà Gô nghe cô ta nói vậy không tiện phản đối, đành bỏ ý định giết con vượn già, đằng nào nó cũng đã dở sống dở chết, tạm để lại cái mạng cho nó cũng chẳng sao, sẵn súng trong tay, muốn lấy mạng nó thì thiết nghĩ chẳng có gì khó. Giờ đại sự phải đặt lên hang đầu, khai quật lấy báu vật mới là việc gấp, nghĩ vậy anh ta bèn thu súng đứng dậy, để mặc con vượn già bị đè dưới cỗ quách nhe nanh nhe lọi, không thèm để ý đến nó nữa.

    Ba người lập tức đến bên cỗ quách tử kim, nhờ ánh trăng sáng thò đầu vào trong xem xét tình hình. Lúc này trăng đã ngả bóng, ánh sáng lạnh lẽo mờ ảo rọi vào trong quan tài, chỉ thấy bên trong xác vượn và cương thi vẫn đè chồng lên nhau, bọn họ liền dùng thang rết móc xác con vượn cụt đuôi, lôi nó ra ngoài quăng dưới gốc cây đằng xa.

    Cỗ thây nằm ngửa trong quan bây giờ mới hiện rõ mồn một. Cương thi đời Nguyên tuy chết đã gần bảy trăm năm, ngay cả bộ áo bào tím thêu hoa mặc trên người cũng bắt đầu biến chất, nhưng diện mạo vẫn không hề thay đổi, chỉ có da thịt trên người là trương lên tím bầm cứng ngắc, tóc trên đầu bù xù che khuất nửa mặt, thân hình cao lớn hơn hẳn người thường, tuy chết mấy trăm năm rồi nhưng khí phách uy phong lẫm liệt vẫn chưa tiêu tan.

    Quân đội thời Nguyên không chỉ có người Mông Cổ, mà còn tụ họp đủ trai tráng từ các nước ở sa mạc phía Bắc Tây Vực đến Cao Ly, Hán Di. Vị tướng này diện mạo màu tóc đều mang đặc điểm của người Tây Vực, duy có cái miệng ngậm chặt, hai má hơi nhô vẫn chưa tóp lại, có lẽ đang ngậm báu vật trụ nhan.

    Gà Gô đương nhiên hy vọng thứ cương thi ngậm trong mồm là một viên minh châu, nhưng anh ta biết rõ, xưa nay vật trụ nhan ngậm trong mồm thi thể vương công qúy tộc phân làm ba loại: một là Trụ nhan tán, phương thuốc chống thối rữa bí truyền lấy thủy ngân làm nguyên liệu chính; hai là ngọc, bởi ngọc sinh hàn, đem miếng ngọc lạnh đẽo thành hình lưỡi người, đợi khi liệm thì đặt vào mồm người chết sẽ giúp cửu khiếu thoáng mát, thi thể không bị thối rữa; tốn kém nhất chính là minh châu Nguyệt Quang dưới đáy biển sâu, hoặc các loại trân châu quý hiếm, riêng cách ngậm tiền áp khẩu, giới quý tộc cổ đại hầu như không dùng.

    Cứ nhìn cương thi trong cỗ quách tử kim bằng gỗ lim này được phơi trước gió đêm mà da dẻ vẫn không hề teo tóp khô héo, thì biết trong thi thể tất có phương pháp chống rữa đặc biệt nào đó. Nhưng đén khi cúi gần nhìn kỹ, Gà Gô lập tức ngạc nhiên khôn cùng, hóa ra lỗ mũi lỗ tai cương thi đều nhét đầy bột vàng ròng. Chuyện dùng vàng trụ nhan xưa nay chưa từng có, trong người cương thi đời Nguyên này sao lại có vàng? Lấy mũi súng ấn vào tai xác chết, bột vàng lập tức rơi ra lả tả, máu từ trong tai tràn ra áo quan thối không ngửi nổi.

    Gà Gô trong lòng nghi hoặc, không đoán được đầu đuôi sự tình,chỉ còn chách vạch mồm xác chết ra xem thế nào. Đúng lúc định nhập quan phanh thây, chợp nghe sau vạt cây có tiếng sột soạt, vội ngẩng lên nhìn thì thấy một cành cây cong đang rung lên bần bật, lá rụng tơi tả, như bị ai đó lắc mạnh, nhưng thân cây đó to đến vừa một sải tay người ôm, sức mạnh thông thường sao có thể làm nó lay động?

    Gà Gô ngoác mồm chửi: “Nhiễu quá, lại là lũ vượn trộm cắp kia phải không?” Chưa dứt lời đã rút khẩu súng pạc hoọc lia một vòng, chốt an toàn mở sẵn, nòng súng nhắm thẳng vào con vượn trắng nằm dưới áo quan, bụng nghĩ nếu bầy vượn còn ở bên chọc phá thì làm sao yên tâm phanh thây moi ngọc, tốt nhất là cho con vượn già ngắc ngoải này một phát cho sạch sẽ.

    Thấy Gà Gô định kết liễu con vượn già, tay người Miêu bấy giờ mới nhảy dựng lên chừng hơn thước, la lớn: “Không xong rồi, lại quên béng mất chuyện quan trọng. Ông anh mộc công ơi, giờ tý đã qua mất rồi, hôm nay là mồng mấy nhỉ?”

    Gà Gô và Hồng cô nương thấy tay người Miêu biến sắc, không biết sợ hãi điều gì mà cứ như bị quỷ nhập tràng, càng không hiểu anh ta hỏi thế có ý gì, đồng thanh hỏi: “Mồng mấy cái gì cơ?”

    Tay người Miêu ôm cái lồng gà vào lòng lắc lấy lắc để, cũng đã nhớ ra ngày giờ, liền bảo: “Nói để hai vị biết, vào thời khắc giao nhau giữa ngày và đêm, bọ cạp núi thường đi thành đôi, ban nãy vữa trừ khử một bọ cạp cái, quanh đây ắt vẫn còn một con đực độc hơn ẩn nấp.” Trong loài bọ cạp núi, bọ cạp đực là hung dữ nhất, hình dáng tuy nhỏ hơn con cái nhưng chất độc tiết ra lại khủng khiếp vô cùng, cực kỳ khó đối phó. Giờ là canh khuya, ba con gà trống vừa ăn đẫy bọ cạp con, tinh thần đều đã suy kiệt, lắc sọt thế nào cũng không chịu tỉnh.

    Thấy tay người Miêu hoảng sợ, trán vã mồ hôi, Gà Gô bèn giữ lấy hắn, nói: “Hoảng gì chứ? Chỉ là một con bọ cạp thì làm được trò trống gì?”

    Lúc này hồng cô nương bỗng chỉ tay về phía gốc cây lay động đằng xa, khẽ gọi: “mọi người xem có thứ gì trên cây thế kia?” Gà Gô và tay người Miêu nghe tiếng liền quay lại nhìn, dưới ánh trăng đêm trông rõ rành rành một con bọ cạp núi đen sì treo ngược trên cành cây cong, như một cây đàn tỳ bà cũ kỹ mãu đen. Hễ con bò cạp khẽ cựa quậy những đốt vỏ như những chiếc lá sắt trên mình nó lại cọ vào nhau kêu ken két, dũng mãnh khác thường, không thua gì con rết sáu cánh trốn trong đơn cung.

    Tay người Miêu sợ hãi nói: “Ối ông nội ơi, chính là Hắc tì bà thành tinh trong đàn bọ cạp núi Tương Tây…” Không đợi hắn nói hết câu, con Hắc tì Bà đang treo ngược cành cây nhe nanh thò ra hai cái càng màu đỏ máu, thoăn thoắt từ trên cây bò xuống.

    Bò cạp không phải loại vật tầm thường, chúng cực kỳ nóng nảy, lấy ví dụ một việc đòi hỏi sự cương quyết như tự sát, có người dám làm nhưng không phải ai ai cũng làm được, trong số các loại trùng độc thì chỉ có bọ cạp núi mới có khả năng tự sát. Nếu bắt một con bọ cạp nhốt vào bình thủy tinh, lấy kính núp chiếu thẳng vào nó dưới ánh mặt trời, bọ cạp đau đớn, lại không tài nào thoát khỏi chiếc bình, sẽ lập tực dùng đuối tự đâm mình rồi chết, từ đấy có thể thấy một phần bản tính tàn bạo của nó.

    Con Hắc Tì Bà từ trên cây bò xuống, nhận thấy quanh cỗ áo quan có bọ cạp chết và gà trống thì bỗng trở nên điên cuồng, nỗi căm hận sục sôi khắp toàn thân, quay mòng mòng dưới gốc cây như một trận gió đen, cái cây mọc vẹo tức thì bị nó nhổ bật cả rễ, đổ rầm xuống đất. Hắc Tì Bà nhân đó liền chui tọt vào trong bụi cỏ, chỉ thấy đám cỏ xao động nhanh chóng xáp gần tới cỗ quách tử kim.

    Gà Gô kêu lên: “Mày khá lắm!”, khẩu súng pạc hoọc chờ sẵn trong tay vãi ra một loạt đạn, làn mưa đạn bay rào rào khiến cả dải cỏ tốt um tùm rậm rạp, không thể biết con Hắc Tì Bà có trúng đạn hay không, hai mươi đầu đạn đã bắn sạch chỉ trong giây lát. Gà Gô dán chặt hai mắt vào đám cỏ đang xao động theo chuyển động của con bò cạp, tay thoăn thoắt thay băng đạn khác, đông thời quát bảo gã người Miêu và Hồng cô nương mau mở sọt thả gà. Trong bụi cây có quá nhiều chướng ngại vật, đứng từ đằng xa khó lòng bắn trúng mục tiêu, chỉ có thả gà trống vây đánh trước mới là thượng sách.

    Không đợi Gà Gô ra lệnh, Hồng cô nương và gã người Miêu đã tự động tung ba con gà trống đang say ngủ ra ngoài. Khổ nỗi chúng đã no nê, lại đang giữa đêm hôm khuya khoắt, dù tử địch ở ngay trước mắt vẫn không tài nào phấn chấn lao lên ra sức truy đuổi cho được. Gã người Miêu có lo cũng chỉ đành bó tay hết cách, mắt dán vào con Hác Tì Bà đang từ trong bãi cỏ lao tới mỗi lúc một gần, chẳng kịp nghĩ ngợi gì nhiều, ôm cả ba con gà trống đang ngái ngủ, tung thẳng về phía con bọ cạp đực.

    Gà Nộ Tinh bị tung lên cao đột ngột, luc lơ lửng trên không mới choàng tỉnh dậy, cái mào đỏ chót lập tức dựng đứng, nộ khí bừng bừng, cất tiếng gáy vang, chao lượn trên không rồi đáp xuống bãi cỏ rậm, lập tức xông vào quần nhau với con Hắc Tì Bà. Gà trống không thể bay như chim, độ sải cánh và lực gân đều có hạn, duy chỉ cổ và chân là chắc chắn khỏe khác thường. Cặp móng vàng của gà Nộ Tinh quắp chặt lấy đuôi bọ cạp, dồn hết sức lực, kéo con Hắc Tì Bà xoay tròn trên đất.

    Lúc này, hai con gà trống còn lại cũng lần lượt lao tới, thần thái không lẫm liệt như gà Nộ Tinh, vừa quần nhau với bọ cạp mẹ một trận đã mệt rã rời, giờ lại bỗng nhiên phải lâm trận, chúng không khỏi có chút mông lung. Một con còn chưa tỉnh hản liền bị Hắc Tì Bà hung bạo dùng càng cắt phăng mất đầu, đuôi bọ cạp vung lên, hất cái đầu gà máu me bay thẳng về phía tay người Miêu.

    Gã ta đương khi hoảng sợ, thấy cái đầu gà đầy máu xé gió lao tới, chỉ nhìn thôi đã hoa cả mắt thì làm sao tránh nổi, may mà Gà Gô nhanh thay tinh mắt, kéo gã sang một bên, vừa hay cái đầu gà bay sượt qua mặt, suýt đâm mù mắt gã người Miêu. Chỉ nghe một tiếng “phập” vang lên, đâu gà đâm trúng vật gì đó phía sau.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này