1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Trinh thám Mật Mã Tây Tạng - Tác giả: Hà Mã -Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 28/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 60: Lời Nguyền Thần Bí


    Lữ Cánh Nam nhấp một ngụm nước, rồi lại nói: "Với những thông tin hiện nay chúng ta đang có, có thể nói tôn giáo thần bí kia đã từng vô cùng lớn mạnh, tôi nghĩ, sau khi nếm trải các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, mọi người chắc đều không phản đối tôi nói như vậy phải không. Thành tựu về mặt cơ quan học của họ có thể dùng hai chữ "đỉnh cao" để hình dung, theo những gì chúng ta được biết, bọn họ đã lợi dụng công trình thủy lợi một cách hoàn hảo để cung cấp động lực vĩnh cữu, họ cũng có nghiên cứu rất sâu với các hiện tượng quang học, về mặt khí động lực học, họ cũng tuyệt đối thuộc hàng đỉnh cao thời bấy giờ; đáng sợ hơn nữa là, hiểu biết của họ về sinh vật và vi sinh vật học thậm chí còn đạt tới trình độ cao khó thể với kịp, về mặt này cả khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay cũng chưa thể bì kịp với tôn giáo từ nghìn năm về trước này…

    Thời gian trôi nhanh, thấm thoắt đã ba tháng qua đi, tình hình hồi phục của những người còn lại đều rất tốt, chỉ có vết thương ở xương đùi giáo sư Phương Tân là hồi phục tương đối chậm hơn. Trong khoảng thời gian này, mọi người cũng không ai nhàn rỗi, hơi khỏe lên một chút là bắt đầu tiến hành huấn luyện thích ứng, ngay cả giáo sư Phương Tân tạm thời chưa thể tập luyện hồi phục cũng mải mê vùi đầu nghiên cứu các tư liệu tranh ảnh thu thập được.

    Thời gian các thành viên trong nhóm ở cùng giáo sư gần như đã thành quy luật, sáng sớm Trác Mộc Cường Ba sẽ đẩy giáo sư ra vườn hoa bệnh viện tản bộ, đây là thời gian thuộc về riêng hai thầy trò bọn họ, cả Đường Mẫn cũng không đến quấy nhiễu; sau đó lạt ma Á La và giáo sư sẽ cùng lên mạng nghiên cứu những vấn đề về mặt tôn giáo gặp phải trong chuyến đi vừa rồi. Đại sư hết sức chú ý đến những hình ảnh mà mấy người bọn giáo sư Phương Tân quay được trong kiến trúc tựa như cung điện ba tầng kia, còn cả tòa Thiên Phật điện cuối cùng và ba gian điện xung quanh nữa, mỗi lần xem lại đại sư đều bồi hồi xúc động. Trong lúc đó các thương bệnh binh khác cũng đều đang phân tích chỉnh lý lại những tư liệu họ thu thập được trong Đảo Huyền Không tự. Buổi trưa, tất cả tập trung ở phòng bệnh dùng bữa, Lữ Cánh Nam thông báo những tiến triển mới nhất và tình hình của đối thủ. Buổi chiều cũng là thời gian làm việc – giáo sư và Trác Mộc Cường Ba chủ yếu phụ trách phiên dịch và liên hệ với các chuyên gia, điều tra tư liệu, xem Tạng sử, Đường Mẫn còn tranh thủ thời gian rảnh rỗi xoa bóp cho giáo sư. Những người khác cũng đều bận rộn với công việc của mình: Trương Lập phụ trách nghiên cứu về cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, chuẩn bị cho lần xuất phát tiếp theo; Nhạc Dương và Ba Tang thì lo phân tích vũ khí và phương thức tác chiến của đám người Ben dẫn đầu, hy vọng có thể sử dụng máy tính tạo ra một chương trình huấn luyện mô phỏng với kẻ địch giả tưởng; ngoài việc chăm sóc giáo sư Phương Tân, Đường Mẫn còn phụ trách giao tiếp với các bác sĩ phía bệnh viện, tìm hiểu tình hình hồi phục của các bệnh nhân, đồng thời, được giáo sư Bùi chỉ bảo, cô cũng tiến hành một số điều chỉnh thích đáng đối với các loại thiết bị mang theo, tăng thêm một số thiết bị phẫu thuật bằng hợp kim.

    Một điều đặc biệt đáng nhắc đến là, trong thời gian này, dường như lạt ma Á La có rất nhiều cảm ngộ đối với những bích họa vẽ hình cổ nhân tu hành nhìn thấy trong thạch thất, hễ rảnh rỗi lúc nào là ông lại trầm tư mặc tưởng lúc ấy, những điều tâm đắc ghi lại kín cả mấy cuốn sổ dày, có lúc Trác Mộc Cường Ba còn kinh ngạc phát hiện ra tư thế của lạt ma Á La hoàn toàn giống hệt như tư thế của các tăng lữ trên bức bích họa mà họ trông thấy trong thạch thất.

    Ngày hôm ấy, Trác Mộc Cường Ba đang đẩy giáo sư Phương Tân tản bộ trong hoa viên như thường lệ, giáo sư đột nhiên cất tiếng: "Phải rồi, Cường Ba à, các chuyên gia ở nước ngoài lại có phát hiện mới về di chỉ Maya kia đấy."

    "Ừm, vậy sao!" Trác Mộc Cường Ba hờ hững đáp lại một tiếng. Trong tâm trí gã, Maya nói gì thì nói cũng cách Tây Tạng cả mười vạn tám ngàn dặm, cho dù có quan hệ gì đấy thì cũng chỉ hết sức mong manh nhỏ bé mà thôi.

    Giáo sư Phương Tân tựa như nhìn thấu được nội tâm của Trác Mộc Cường Ba, mỉm cười nói: "Hình như cậu không để ý đến phát hiện ở di chỉ Maya lắm thì phải."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm, thầy giáo, tôi cho rằng trước mắt chúng ta nên tập trung vào tấm bản đồ, chỉ có phá giải được thông tin trên bản đồ, hành động của chúng ta mới có đột phá quan trọng, còn chuyện ở Nam Mỹ kia thì, tôi nghĩ…"

    Giáo sư Phương Tân nghiêm túc nói: "Cường Ba à, cậu nghĩ như vậy là sai rồi. Đúng là Maya cách chúng ta rất xa, nhưng cậu đừng quên sự tích sứ giả đến châu Nam Mỹ. Theo những ghi chép về việc đến Nam Mỹ trong lịch sử, thời gian đi lại chỉ cần hai năm là đủ, nhưng trong tư liệu thì vị sứ giả đó đi về mất đến mười năm đằng đẵng, khoảng thời gian này rốt cuộc ông ta đã làm gì ở châu Mỹ, không ai biết cả."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng chuyện này có liên quan đến chuyện chúng ta tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu hay không?"

    Giáo sư Phương Tân nói: "Ừm, tôi biết là cậu sẽ nghĩ như thế mà. Vậy tôi hỏi cậu nhé, theo những gì chúng ta đã biết, tấm bản đồ đó bị người ta lấy đi từ một trăm năm trước rồi, tấm mà chúng ta lấy được có lẽ chỉ là bản sao thôi. Đám người kia đã nghiên cứu suốt một trăm năm, tại sao vẫn không thể phát hiện ra vị trí chuẩn xác của Bạc Ba La thần miếu chứ? Chẳng lẽ cậu không cho rằng, đó chẳng phải là vì họ chỉ chuyên chú tìm hiểu bản đồ, mà xem nhẹ rất nhiều thứ khác hay sao? Chúng ta phải suy nghĩ trên cơ sở kết quả của những người đi trước, phát hiện ra càng nhiều bí mật chưa bị phát hiện, không thể bỏ qua bất cứ đầu mối nào. Cậu không cho rằng, nếu chỉ dựa vào khoảng cách xa gần mà phán đoán những di tích cổ đó không có giá trị đối với hành động của chúng ta là quá võ đoán hay sao?"

    Trác Mộc Cường Ba vẫn còn muốn nói gì đó: "Nhưng mà…"

    Giáo sư Phương Tân ngắt lời: "Tạm thời đừng nói "nhưng mà" vội, tôi cho cậu xem một thứ này, xem xong rồi hãy đưa ra phán đoán." Giáo sư lấy trong lòng ra một cuốn sổ, đoạn nói, "Đây là văn bia trên trận đá do các chuyên gia dịch ra được. Lần trước đã phá giải một nửa, giờ đã được tám mươi phần trăm rồi, những chỗ còn lại cũng có thể đoán ra được một phần ý nghĩa, tôi có chỉnh lý và sửa chữa lại trong cuốn sổ đó, cậu xem thử coi."

    Trác Mộc Cường Ba cầm lấy cuốn sổ, xem lướt qua mấy hàng, nội dung đoạn đầu cũng giống như lần trước, kể chuyện người Kukuer bôn ba vất vả, xây dựng nhà cửa quê hương, còn đoạn phía sau lại là phần đầu của một lời nguyền: Một khi để máu tanh vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống tất thảy mọi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống sài lang an cư bên dưới Thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, loài hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông… Đọc đến đây, Trác Mộc Cường Ba không khỏi thần người ra, rồi sau đó giật thót mình. Gã nhớ ra rồi, chẳng trách lần đầu tiên nghe Đa Cát ngâm nga phần nguyển rủa này gã lại cảm thấy quen thuộc đến thế, thì ra lần đầu tiên gã nghe thấy lời nguyền này, lại chính là trong bài sử ca mà Babatou đã hát dưới trăng đêm, chỉ có điều lúc ấy gã đã uống khá say nên đến giờ cũng không nhớ ra nổi. Nỗi kinh hãi trong lòng chặn cả lời nói, một hồi lâu sau Trác Mộc Cường Ba cũng không thốt được nên lời.

    Giáo sư Phương Tân nói: "Sao thế? Có phải rất kinh ngạc hay không? Lời nguyền tương đồng, nội dung y hệt, có làm cậu có liên tưởng gì không?"

    Khóe miệng Trác Mộc Cường Ba khẽ giật giật, giáo sư Phương Tân lại nói tiếp: "Tạm thời đừng trả lời tôi vội, cứ đọc hết đi rồi hẵng nói."

    Nửa sau của bài văn bia viết về tình hình sau khi tai nạn xảy ra. Tất cả các vương quốc đều phải đối mặt với nguy cơ diệt vong, tuyệt đại đa số mọi người đều rời khỏi các tòa thành, lẩn sâu vào chốn rừng hoang núi thẳm, chỉ có một số rất ít người vì một nguyên nhân nào đó mà ở lại. Phần nói về nguyên nhân ấy có rất nhiều ký hiệu lạ nên vẫn chưa thể giải đọc ra được, ở giữa là một đoạn ký hiệu rất sơ lược, những người ở lại đã đứng trước lăng mộ của tổ tiên mà thề ước, dù chết cũng phải bảo vệ Bạch thành mà các bậc tổ tiên đã dùng máu và mồ hôi xây dựng nên, bày tỏ quyết tâm không bao giờ phản bội, phía sau là chú giải của chuyên gia, có bảy ký hiệu kiểu như ký tên. Đoạn văn dịch này hoàn toàn khớp với bài thành ca mà Babatou từng ngâm hát, duy chỉ có nguyên nhân kia là thiếu, dường như lúc đó người Maya hết sức kiêng kỵ việc đề cập đến nguyên nhân khiến họ diệt vong, ngay cả lời thề trên lăng mộ tổ tiên cũng mập mờ úp mở không nói rõ ra.

    Dã thú, cơn bão khủng khiếp, trận đá khổng lồ, bộ lạc ăn thịt người, rừng Mãng Xà, Bạch thành, địa cung Ahezt, từng cảnh tượng như đoạn phim quay ngược hiện lên trong óc, những trải nghiệm của lần ấy đến giờ Trác Mộc Cường Ba vẫn còn nhớ rõ như in. "Tất cả các vương quốc đều phải đối mặt với nguy cơ diệt vong… Tất cả các vương quốc…" Tai họa đáng sợ quất mạnh vào từng dây thần kinh của Trác Mộc Cường Ba. Sau khi từ di chỉ Maya trở về, Trác Mộc Cường Ba cũng từng có thời gian chuyên nghiên cứu lại lịch sử Maya. Sự hủy diệt của nền văn minh này cũng thần bí hệt như sự ra đời của nó vậy, tựa hồ như đây là một nền văn minh tự dưng xuất hiện, rồi sau đó lại tự dưng biến mất vậy. Có chuyên gia khảo cổ từng nói: "Là một lần mất mát văn hóa triệt để nhất, toàn diện nhất trong lịch sử loài người."

    Các chuyên gia có uy tín đưa ra nhiều giả thiết khác nhau, nhưng đều không có sức thuyết phục. Không ai giải thích được tại sao người Maya lại bỏ hết các thành trì, rồi làm thế nào lại mất cả nền văn minh. Chỉ biết rằng thời gian xảy ra sự kiện này đại khái vào khoảng năm 800 sau Công nguyên. Bấy giờ, những người Maya mà người đời sau cho là nhận được tri thức từ người ngoài hành tinh ấy tựa như được thần linh hiệu triệu, lũ lượt rời khỏi những thành trì hùng vĩ tiến vào rừng sâu rậm rạp đầy dã thú, ẩn mình rất kỹ. Khi xuất hiện trở lại trước mặt người đời, người Maya đã biến thành một đám người nguyên thủy sử dụng công cụ đá, mặc áo da thú, đã quên mất nền văn minh của mình, hoàn toàn không hề hay biết về một thuở xa xưa huy hoàng chói lọi. Đến nỗi mấy trăm năm sau, người phương Tây khi phát hiện ra di chỉ Maya cổ đại vẫn không chịu tin rằng những kiến trúc tồn tại như kỳ tích ấy lại do một đám người ăn lông ở lỗ, đốt rẫy gieo hạt kiến tạo nên.

    Giáo sư Phương Tân đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ thấy gã lật giở xem hết trang sổ cuối cùng rồi đứng ngẩn ra đó không nói một lời, tựa như đang suy tư. Ông lại điềm đạm nói: "Hai sự việc nhìn bề ngoài có vẻ hoàn toàn không liên quan đến nhau, kỳ thực lại có mối liên hệ không thể tách rời. Địa cung Ahezt đó có thể khiến giáo quan và đại sư Á La coi trọng như vậy, sao lại có thể nói là không có can hệ gì nhiều đến công cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu cơ chứ?"

    Trác Mộc Cường Ba đang suy tư, trong đầu óc lần lượt hiện lên hình ảnh trong tầng dưới cùng của địa cung Ahezt, núi xác chết trong Đảo Huyền Không tự, động xác khô ở Cổ Cách, còn cả huyết trì nữa, những thứ này dường như có một sợi dây vô hình nối liền với nhau. Gã biết, đầu mối của sợi dây có thể chính là ở trong Bạc Ba La thần miếu thần bí kia. Lúc này, gã mới hiểu dụng ý của giáo sư Phương Tân khi ông bảo gã cần phải nhìn lại di tích cổ Maya, giáo sư đang nói với gã, đây là một đầu mối cực kỳ quan trọng đã bị những nhóm thám hiểm khác bỏ qua, nếu không thể nắm bắt được, nói không chừng cả nhóm của gã cũng chỉ có thể bước theo vết xe của những nhóm truy tìm Bạc Ba La đi trước mà thôi. Trong ánh mắt ngời lên những tia sáng hy vọng, gã chân thành nói: "Thầy giáo, tôi hiểu rồi."

    Giáo sư Phương Tân nói: "Vậy là tốt nhất rồi, mặc dù nói Bạc Ba La thần miếu không phải là mục tiêu tìm kiếm cuối cùng của cậu, nhưng đến gần thần miếu một bước, cũng có nghĩa là tiến gần đến chiến ngao thêm một bước. Phải rồi, cậu còn nhớ tượng thần hình ngưu đầu mã mà lần trước chúng ta thấy trong địa cung Ahezt không?"

    Trác Mộc Cường Ba sao có thể quên được, ở tầng nào tượng thần ấy cũng xuất hiện, thậm chí còn ở nơi trung tâm nhất và ngang hàng với thần Rắn tối cao của người Kukuer. Nhưng gã cũng biết, dường như không thể tìm được tư liệu nào liên quan đến tượng thần đó cả. Giờ nghe giáo sư Phương Tân nhắc đến, gã không khỏi buột miệng thốt lên: "Đó là thần gì vậy?"

    Giáo sư Phương Tân mỉm cười thần bí: "Có quan hệ rất mật thiết với cậu đấy nhé." Thấy nét mặt nặng nề của Trác Mộc Cường Ba, ông đoán là gã không nghĩ ra được, lại gợi ý thêm: "Có quan hệ rất chặt chẽ với công việc của cậu…" Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, vẫn không thể nghĩ ra. Giáo sư đành mỉm cười nói: "Là thần Chó."

    "Thần… thần Chó?" Trác Mộc Cường Ba hết sức kinh ngạc, bộ dạng như thế mà gọi là chó được ư?

    Giáo sư Phương Tân nghiêm mặt nói: "Các chuyên gia đã nhiều lần phân tích khảo chứng, cuối cùng xác định đó chính là thần Chó trong tâm trí người Maya. Thần Chó "Huluter" là anh em ruột với thần Kukulcan, thần tối cao của người Maya, hằng ngày thần phụ trách lấy mặt trời dưới địa ngục nâng lên bầu trời, đến đêm lại đưa mặt trời trở về địa ngục. Trong tín ngưỡng của một số người Maya, thần Chó thực sự có địa vị chí cao ngang hàng với thần Rắn Kukulcan. Vị thần này chỉ được lưu truyền ở một số vùng nhất định, tượng hay hình ảnh rất ít, hơn nữa hầu hết những tượng khai quật được cho đến thời điểm này đều là tượng bốn chân nâng chén, bức mà chúng ta quay được, có lẽ là bức duy nhất thể hiện thần Chó ở tư thế đứng. Tuy nhiên, ở những nơi khác, tượng thần Chó và thần Rắn Kukulcan đều được đặt tách rời, vẫn có khác biệt nhất định về đẳng cấp. Chỉ có những người Maya trong Bạch thành mới đặt thần Chó ở địa vị quan trọng như thế. Về mặt này, có lẽ bên trong còn mối liên hệ gì đó nữa."

    Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi nói: "Thầy giáo, ý thầy muốn nói là có liên quan đến vị sứ giả kia phải không?" Gã biết, trên đất Tạng này, các địa phương khác nhau có những câu chuyện thần thoại khởi nguyên khác nhau, đại đa số dân Tạng cho rằng tổ tiên của họ là khỉ, cũng có người nhận là chó, hay cả cá nữa làm tổ tiên. Nếu như vị sứ giả kia có địa vị vô cùng cao trong tâm trí người Maya, thì rất có khả năng tín ngưỡng của ông ta cũng được người Maya phóng đại đề cao lên.

    Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Đúng thế, tôi suy đoán như vậy đấy. Vị sứ giả kia rốt cuộc đã làm gì ở châu Mỹ? Lời nguyền mà người Maya cũng biết kia là như thế nào? Bên trong đó có ngàn vạn mối dây liên hệ với nhau, tôi tin nếu chúng ta có thể tháo gỡ những liên hệ này, chắc hẳn sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đó. Trước mắt thì các bạn bè chuyên gia nước ngoài mà tôi tìm được, có một nhóm đang giải dịch thứ văn bia khó hiểu kia, ngoài ra còn một nhóm chuyên nghiên cứu những bức bích họa thần bí trong địa cung. Còn nhớ bức tranh trong lăng tẩm của vị vua Maya ấy không? Các chuyên gia nước ngoài dường như đã tìm được điểm đột phá, không biết họ sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui bất ngờ gì nữa đây. Còn nữa, các đầu mối khác cũng quan trọng như vậy cả, các tư liệu lấy được trong Đảo Huyền Không tự đương nhiên là rất quý trọng, mà trong thôn Công Bố chắc chắn cũng vẫn còn khá nhiều thông tin ẩn giấu. Cường Ba à, có vẻ sức khỏe cậu đã hồi phục rồi, không cần ngày nào cũng ở đây với tôi nữa, hãy đi điều tra những đầu mối bị xem nhẹ ấy đi. Cho tôi biết, trước mắt cậu có dự định gì không?"

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi định về nhà một chuyến trước đã, hỏi a ba xem chuyện Thánh sứ kia là như thế nào, xem gia tộc chúng tôi và Bạc Ba La thần miếu rốt cuộc là có quan hệ gì không. Sau đó, sau đó tôi sẽ đến thôn Công Bố báo cho họ biết việc của Đa Cát."

    Giáo sư gật đầu nói: "Ừm, vậy là tốt nhất, cậu phải tranh thủ, nếu bắt đầu huấn luyện hồi phục kiểu khép kín thì không còn thời gian đâu."

    Trác Mộc Cường Ba cũng gật đầu: "Vậy được rồi, tôi sẽ đi nói với Lữ Cánh Nam một tiếng."

    Trác Mộc Cường Ba nói chuyện này với Lữ Cánh Nam, không ngờ cô lại lập tức đồng ý luôn, hơn nữa còn tuyên bố rằng hiện nay tình hình hồi phục của mọi người đều rất tốt, công việc dở dang cũng gần hoàn thành rồi, nên tất cả đều được nghỉ một tuần, mọi người có thể nhân khoảng thời gian này mà đi làm những chuyện mình muốn làm. Mỗi người đều có việc riêng của mình, Trương Lập, Nhạc Dương chuẩn bị về quê một chuyến, sau đó nếu còn thời gian sẽ về đơn vị thăm thú, lạt ma Á La sẽ trở lại chùa Sắc Lạp, còn Ba Tang thì về nhà Trác Mộc Cường Ba gặp anh trai, Đường Mẫn muốn sang bệnh viện tâm thần Andrea thăm anh trai cô. Vậy là Trác Mộc Cường Ba cũng điều chỉnh lại hành trình của mình một chút, trước tiên sẽ đưa Đường Mẫn trở lại Mỹ, sau đó về nhà, cuối cùng mới đến thôn Công Bố. Còn giáo sư Phương Tân thì muốn ở lại Lhasa tiếp tục dưỡng thương. Trác Mộc Cường Ba biết chuyện liền hỏi ông: "Sao thầy không sang Canada thăm con trai?"

    Giáo sư Phương Tân đáp: "Con trai tôi lớn rồi, nó cũng có chuyện riêng của nó, có gì mà phải thăm thú chứ? Giơ vác bộ dạng thế này đến thăm nó, chẳng phải là lại khiến nó thêm lo cho tôi hay sao? Mọi người cứ đi làm việc của mọi người đi, ở đây tôi còn rất nhiều tư liệu phải chỉnh lý lại, còn phải giữ liên lạc với chuyên gia các nước nữa. Hoàn cảnh ở đây cũng tốt lắm, không cần lo cho tôi đâu."

    Tối hôm đó mọi người tổ chức một cuộc liên hoan nho nhỏ, mời cả đội trưởng Hồ Dương, các bác sĩ phụ trách điều trị trong bệnh viện, ngày hôm sau ai đi việc nấy, còn Hồ Dương ở lại với giáo sư.

    Ngồi máy bay một ngày, cuối cùng cũng đến được ban Pennsylvania, nước Mỹ. Lúc gần đến bệnh viện, Đường Mẫn bỗng thấy thấp thỏm không yên. Cô hy vọng được trông thấy anh trai mình khỏe mạnh trở lại biết bao, nhưng lại sợ phải thấy bệnh tình của anh vẫn chưa hề khởi sắc, ngồi trên máy bay mà cứ ngơ ngẩn thất thần, nhắc đến anh trai là lại rơi nước mắt lã chã, nơm nớp lo âu cứ như một chú thỏ con run rẩy. Trác Mộc Cường Ba ôm chặt lấy bờ vai Đường Mẫn, bình tĩnh nói: "Yên tâm đi, em cũng biết các phương pháp chăm sóc bệnh nhân của bệnh viện ấy cực kỳ tiên tiến mà, anh trai em ở đấy chắc chắn là đã hồi phục phần nào rồi, nói không chừng còn đã hoàn toàn bình phục rồi ấy chứ."

    "Xin lỗi, thưa cô, anh trai cô đã được người ta đón ra khỏi bệnh viện này từ nửa năm trước rồi!" Không ngờ, câu trả lời của bệnh viện giáng cho họ một đòn phủ đầu choáng váng.

    "Cái gì? Cô nói cái gì? Chắc chắn là nhầm rồi! Cô tra lại cho rõ đi, anh trai tôi tên là Đường Thọ, Tang, Tao, phiên âm viết thế này này, cô nhìn rõ chưa. Ngoài tôi ra, anh trai tôi không có người thân trực hệ nào nữa mà." Đường Mẫn lo lắng đến sắp phát khóc lên.

    Cô y tá tư vấn khẳng định: "Không sai, là Đường Thọ, người Trung Quốc, hai mươi bảy tuổi, cao một mét bảy, nặng tám mươi sáu cân. Đây là ảnh của anh ấy, có đúng không? Để tôi xem nào, đã được đón đi từ bảy tháng trước."

    Đường Mẫn biến sắc, toàn thân mềm nhũn không còn chút sức lực nào, sắp ngồi phịch xuống đất thì được Trác Mộc Cường Ba nhanh tay đỡ dậy. Gã nghiêm giọng hỏi: "Theo quy chế của bệnh viện các cô, mỗi khi bệnh nhân thuộc diện ủy thác chăm sóc xuất viện hẳn, hoặc bệnh tình có biến chuyển, đều cần phải cho người thân trực hệ mà. Tại sao chúng tôi không nhận được bất cứ thông báo gì vậy?"

    Cô y tá tư vấn nhíu mày nói: "Thế này nhé, xin chớ lo lắng, để tôi tra lại giúp hai người. Đường… Thọ, à, ở đây này, mời xem…" Cô y tá tư vấn chỉ vào số liệu trong máy tính, nói: "Khi đó, người ta trình công văn trực tiếp của Viện Kiểm sát, lấy tư cách là người giám hộ pháp định duy nhất của Đường Thọ mà đưa anh ta đi, bệnh viện chúng tôi không có quyền can thiệp. Còn việc thông báo với thân nhân trực hệ của người bệnh, vì phía bên kia là người giám hộ do phát luật chỉ định, thế nên việc thông báo với những thân nhân khác của người bệnh đã không còn nằm trong phạm vi trách nhiệm của bệnh viện chúng tôi nữa."

    Trên màn hình máy tính hiện ra một văn bản pháp luật, bên trên viết rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người giám hộ, cuối cùng là một chữ ký như rồng bay phượng múa, lối viết rất kỳ quái. Trác Mộc Cường Ba săm soi một hồi lâu mới có phản ứng. Đó là phiên âm tiếng Trung của chữ "Cường Ba" chứ không phải tiếng Anh. Gã ngẩn ra mất một lúc, không biết là ai đã giở trò đùa ác, Đường Mẫn cố vớt vát hỏi: "Vậy cô còn nhớ là người nào đã đưa anh trai tôi đi không?"

    Cô y tá tư vấn thoáng bần thần, rồi áy náy đáp: "Xin lỗi, hình như hôm ấy không phải ca trực của tôi, tôi không nhớ được. Tôi có thể giúp hai người kiểm tra lại trong danh sách ký tên của bệnh viện. À, là chữ ký của bác sĩ Owen."

    Đường Mẫn gật đầu nói: "Tôi biết rồi, cảm ơn cô, tiện cô cho hỏi luôn, hôm nay bác sĩ Owen có đi làm không vậy?"

    Cô y tá kiểm tra trong máy tính, rồi gật đầu đáp: "Có, ông ấy đang ở đây."

    Bác sĩ Owen là bác sĩ chủ quản của Đường Thọ, phụ trách việc trị liệu tâm lý. Trong phòng làm việc, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đã gặp được vị bác sĩ trung niên có mái tóc lấm tấm điểm bạc trước tuổi này. Sau khi nghe họ nói mục đích, bác sĩ Owen trầm ngâm nhớ lại, rồi đột nhiên kêu lên: "À, tôi nhớ ra rồi, anh trai cô chính là người Trung Quốc mãi vẫn không có chuyển biến chút nào. Đúng vậy, theo quan sát của tôi, tinh thần của anh ấy không hề có chuyển biến tốt lên. Lúc anh ta được đưa ra khỏi viện và lúc cô rời khỏi đây, bệnh tình về cơ bản là không có gì thay đổi. Có lẽ chính vì vậy nên các vị mới nghĩ đến việc đổi bệnh viện khác phải không? Nhưng thực là chúng tôi đã làm hết sức rồi. Tôi có cảm giác, căn bệnh của anh trai cô dường như thuộc trường hợp nghiêm trọng nhất. Mỗi lần chúng tôi tiến hành thôi miên hòng mở tiềm thức, anh ấy đều tỏ ra vô cùng khép kín, căn bản không thể đoán biết được nội tâm anh ấy có những gì. Các biện pháp trị liệu thông thường đều không có hiệu quả, các tác dụng phụ của thuốc cũng không xảy ra trên cơ thể anh ấy, đây đúng là một trường hợp không thể tin nổi. Cái gì? Anh chị muốn biết ai đã đưa anh ta đi hả? Nói vậy là anh chị không hề biết anh ta đã rời khỏi bệnh viện? Chuyện này là như thế nào? Hôm đó, người kia còn đưa ra cả giấy của Viện Kiểm sát cơ mà, sao anh chị lại không biết chuyện này được? Để tôi nghĩ lại xem nào, người đó cao xấp xỉ bằng tôi, khoảng một mét chín, đầu rất to, còn có mấy người nữa đi cùng, hình như là quân nhân, bọn họ đều mặc quân phục…"
     
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 61: Đáp Án Của Trí Giả


    Nghe bác sĩ Owen tả xong, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đều lạnh cả người. Người mà bác sĩ Owen vừa nói đến không phải chính là kẻ đối đầu của họ thì còn ai vào đây được nữa? Hỏi han thêm mấy lượt nữa, Trác Mộc Cường Ba lại càng khẳng định kẻ đó chính là Ben. Khoảng thời gian đó cũng chính là lúc Ben biến mất ở Trung Quốc, còn họ thì đến Nam Mỹ tập huấn, tình hình thật vô cùng tệ hại. Bọn gã thật sự quá sơ suất, bên phía mình đã điều tra về Ben vậy thì bọn hắn chắc chắn cũng có điều tra về những người bên phía gã. Nhất định là hắn đã biết được chuyện của anh trai Đường Mẫn từ nguồn nào đó. Bọn hắn đã bắt người điên ở Mông Hà đi, vậy thì không cớ gì lại bỏ qua Đường Thọ, sao gã không nghĩ đến chuyện này kia chứ. Mặc dù tinh thần Đường Thọ có vấn đề, nhưng chưa chắc là đã không thể hỏi ra được điều gì đó từ miệng anh ta.

    Đường Mẫn đã như chim sợ cành cong, toàn thân run rẩy, muốn khóc tới nơi nhưng lại không lấy đâu ra nước mắt. Trác Mộc Cường Ba chỉ còn biết dịu dàng an ủi. Khoảnh khắc ấy, Đường Mẫn sao mà yếu ớt mong manh, cô nép người vào lòng Trác Mộc Cường Ba nấc lên: "Làm sao bây giờ? Chúng ta phải làm thế nào bây giờ?"

    Trác Mộc Cường Ba nghiêm nghị đứng thẳng người lên, nói: "Yên tâm đi, anh nhất định sẽ tìm được anh trai em về. Giờ chúng ta báo cảnh sát trước đã, nhờ họ giúp sức điều tra xem ở đây còn đầu mối gì không? Sẽ không xảy ra chuyện gì đâu." Đường Mẫn dựa sát người vào đôi bờ vai khỏe mạnh, ánh mắt lộ rõ vẻ sợ hãi bất an, chỉ lo sẽ lại mất đi người thân duy nhất này nữa.

    Điều tra xét hỏi mất hai ngày trời, thời gian nghỉ đã hết quá nửa mà Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa về được đến nhà. Đường Mẫn đến Sở Cảnh sát cung cấp các đầu mối khác nhau, gã cũng chẳng giúp đỡ gì được. Đến hôm thứ ba, các công việc giấy tờ đã hoàn tất, mọi thông tin chi tiết đều đã giao hết cả cho phía cảnh sát, Trác Mộc Cường Ba mới ướm hỏi: "Họ có thông tin gì về anh trai em là sẽ báo lại ngay lập tức, hay chúng ta về nhà trước nhé?"

    Đường Mẫn càng thêm hao gầy so với trước, nhìn yếu ớt mong manh vô cùng, nhưng giữa hai hàng lông mày thanh tú đã dần ngưng tụ lại vẻ kiên cường, cô lắc đầu đáp: "Không, em muốn ở lại thêm một hai ngày nữa, để quay lại bệnh viện xem còn đầu mối gì khác không, nói không chừng còn có gì nữa thì sao. Hay là anh về trước đi, em muốn ở một mình. Yên tâm đi, em sẽ chăm sóc tốt cho bản thân mà…" Nói xong, Đường Mẫn nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt trong veo rạng ngời, giống như một cô con gái nhỏ đang nài nỉ cha mình chuyện gì đó vậy.

    Trác Mộc Cường Ba thở dài thầm nhủ: "Đã đến lúc để Mẫn Mẫn độc lập đối mặt với một số sự việc rồi, những chuyện mình đã làm trước đây, chẳng phải chính là để cô ấy thêm kiên cường, thêm tự lập đó hay sao?" Nghĩ đoạn gã gật đầu nói: "Được rồi, vậy thì anh sẽ về trước. Nhớ gọi điện thoại, chăm sóc tốt cho mình, nếu phát hiện hành tung của bọn Ben, ngàn vạn lần chớ có mạo hiểm…" Gã lại nói thêm rất nhiều lời khuyên răn an ủi, rồi mới quyến luyến từ biệt Đường Mẫn, một mình trở về nhà ở thôn Đạt Ngõa Nô Thố.

    Được mẹ Mai Đóa ân cần hỏi han, Trác Mộc Cường Ba lại trở về với cảm giác gia đình ấm áp, cả nhà hòa thuận vui vẻ ngồi ăn một bữa tối thịnh soạn với nhau. Sau đó, Trác Mộc Cường Ba đến phòng Đức Nhân lão gia, bày tỏ thắc mắc bấy lâu trong lòng gã: "A ba, con về nhà lần này là muốn hỏi một chuyện, trong gia tộc nhà ta, có người nào có thân phận Thánh sứ gì đó không vậy?"

    "Thánh sứ? Là làm gì vậy?" Đức Nhân lão gia kiến thức quảng bác tinh thâm cũng lấy làm nghi hoặc nhìn con trai mình.

    Trác Mộc Cường Ba đáp: "Là một thân phận rất đặc thù, có liên quan đến một tôn giáo cổ xưa đã biến mất trên đất Tây Tạng chúng ta." Kế đó, gã liền kể sơ lược những chuyện mình gặp phải trong khoảng thời gian vừa rồi cho cha nghe, đặc biệt nhấn mạnh đến Cánh cửa Sinh mệnh ở thôn Công Bố và những chuyện về tôn giáo thần bí kia trong Đảo Huyền Không tự, kể xong thì đêm đã về khuya rồi.

    Đức Nhân lão gia nhíu mày nói: "Tôn giáo mà con nói đến, hình như có quan hệ với cả Mật Tông Tây Tạng và Bản giáo cổ đại. Từ các kiến trúc cung điện và thiền phòng hành kia có thể thấy, đây là một tôn giáo rất ghê gớm, sao trong lịch sử lại không có tư liệu gì lưu lại nhỉ? Con trai, có vẻ như con rất hồ nghi về thân phận này thì phải, nhưng ta có thể xác định chắc chắn với con một điều, gia tộc nhà ta và tôn giáo thần bí kia không có bất cứ liên hệ nào. Từ khi có gia phả đến nay, gia tộc nhà ta vẫn chỉ định cư ở miền Tây Nam đất Tạng này, ngoài Phật giáo ra, thì cũng chưa từng tiếp xúc với bất cứ tôn giáo nào khác cả."

    Trác Mộc Cường Ba biết, gia phả nhà gã bắt đầu được chép từ hai trăm năm trước, còn thời kỳ trước đó nữa thì không thể khảo chứng được.

    Đức Nhân lão gia lại nói: "Phải nhớ cho rõ, các con còn tiếp tục điều tra thì phải cẩn thận hơn nữa. Ta vốn cho rằng Bạc Ba La thần miếu chỉ là một nơi chôn giấu các kinh điển Phật giáo từ Tứ Phương miếu chuyển đến, không ngờ lại còn liên quan đến cả giáo phái khác nữa. Có lẽ tại thời điểm diệt Phật đó, để bảo toàn những Phật điển tối cao, các tăng lữ không thể không ủy khuất cầu toàn mà hợp tác với một tôn giáo khác nữa. Con nghe cho rõ đây, mặc dù tôn giáo đó đã từng rất lớn mạnh, nhưng giáo lý của nó nhất định trái ngược với Phật pháp, nó là một thứ tôn giáo tà ác, từ các tượng Phật và cơ quan của họ có thể thấy, những người này không đề xướng vãng sinh, mà khát vọng được vĩnh sinh bất diệt, lấy mình ra so với Phật, tôn giáo này chính là bóng tối, là hắc ám. Sau này khi tiếp xúc với sự thật của tôn giáo này, con nhất định phải hết sức cẩn thận, chớ nên chạm vào, càng không nên thử tìm hiểu chúng làm gì, nói không chừng còn hại ngược lại con. Bọn họ đột nhiên biến mất, có lẽ chính là do bản chất tà ác của họ đó."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng mà a ba à, tôn giáo ấy đã biến mất cả ngàn năm nay, những thứ họ để lại chẳng qua chỉ là một khảo chứng lịch sử, tại sao chỉ dựa vào những thứ ấy mà đã cho rằng họ tà ác được?"

    Đức Nhân lão ra nói: "Ừm, mặc dù từ nhỏ con đã bị bắt học thuộc lòng cổ kinh Ninh Mã, nhưng con là đứa chẳng hứng thú gì với Phật học hết, tự nhiên là không biết rất nhiều điều liên quan đến tôn giáo. Chẳng hạn như những tượng Phật mà con và mọi người nhìn thấy đó, con cũng biết rồi, đó là hung Phật ba mắt, nhưng con có biết, trong giáo lý của Phật giáo, ba mắt đại biểu cho thứ gì không? Đại biểu cho đọa lạc đấy, những hung Phật ấy, thông thường chỉ xuất hiện ở chốn Địa ngục để trấn áp lũ ác quỷ thôi, nên còn có thể gọi là minh (u tối) Phật, Phật từ bị chân chính đều không bao giờ được tạo hình như thế cả. Hơn nữa, những tượng Phật ấy trong Mạn Đà La của Mật tông cũng là tượng trưng của khát máu và tàn sát sinh linh, Quỷ Tử Mẫu, Hoan Hỉ Thiên, Hắc Địa Mẫu Thần, bọn họ vốn đều là những hung thần được Phật tổ cảm hóa, nhưng những tượng các con nhìn thấy đó đều là tượng bản tôn của họ, điều này có ý nghĩa gì?"

    Trác Mộc Cường Ba lắc đầu không nói gì, nghe cha mình dịch ra, gã mới biết tên của mấy pho tượng Phật trong Cánh cửa Sinh mệnh đều là những cái tên quen thuộc trong Phật giáo, chỉ là những bức tượng ấy đều quá đỗi ghê rợn khủng bố, quả thực là không thể nào liên hệ đến những cái tên kia cho nổi.

    Đức Nhân lão gia thở dài nói: "Nếu con muốn biết thì ta cũng không ngại nói cho con biết. Trong Phật điển, Quỷ Tử Mẫu là hung thần ăn thịt trẻ con, bản thân bà ta có năm trăm con, mỗi ngày ăn thịt ba nghìn đứa trẻ chốn nhân gian. Để cảm hóa Quỷ Tử Mẫu, Phật tổ đã dùng Phật pháp vô biên giấu một đứa con của bà ta đi. Quỷ Tử Mẫu hết sức lo lắng, liền đến khẩn cầu Phật tổ giúp mình tìm lại con trai. Phật tổ bèn nói: Hôm nay người mất đi một đứa con đã cuống cuồng lo lắng như vậy, thế những đứa trẻ bị ngươi ăn thịt thì sao? Mẹ của chúng sẽ như thế nào? Vậy là Quỷ Tử Mẫu liền thức tỉnh mà quy y Phật pháp, trở thành Bồ Tát bảo vệ trẻ em."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy thì… vị Phật này cũng đâu có tệ lắm."

    Đức Nhân lão gia lắc đầu: "Đó là ghi chép trong Phật điển và sau khi Phật hóa, còn bản tôn Quỷ Tử Mẫu thì hoàn toàn không phải như vậy. Bà ta… bà ta là ác quỷ ăn thịt trẻ con để tăng cường sức mạnh của mình. Trong giáo lý của các tôn giáo khác, vì muốn sở hữu sức mạnh vô địch, đến cả con mình bà ta cũng ăn thịt luôn. Quỷ Tử Mẫu tượng trưng cho… đoạn tuyệt tình cảm, dù cho là thân như mẫu tử cũng có thể tàn sát ăn thịt lẫn nhau. Đây, đây mới chính là hàm nghĩa thực sự của bức tượng Quỷ Tử Mẫu mà con trông thấy, tên tiếng Phạn của bà ta là Kha Lợi Đế Mẫu. Lại nói đến Hoan Hỉ Thiên, bức tượng Hoan Hỉ Thiên mà con trông thấy đó tượng trưng cho sự buông thả dục vọng, chúng lấy được sức mạnh ngang ngửa với thiên thần từ trong dục niệm, dùng sức mạnh ấy để phá hoại người khác, tạo nên tai họa cho nhân gian. Chúng không ngừng phóng túng buông thả, rồi lại không ngừng phá hoại. Trước khi Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại, đây là ôn thần và thần tai họa trong các truyền thuyết dân gian, tên tiếng Phạn là Tì Na Dạ Già. Còn bức tượng đầu người mình rắn là một vị thần đã có từ trước khi Bà La Môn giáo ra đời ở Ấn Độ cổ… Na Già đầu người mình rắn, tượng trưng cho sự kết hợp với loài thú. Thời cổ đại, động vật có sức mạnh lớn hơn con người, sống được lâu hơn, khỏe hơn, hành động nhanh nhẹn hơn, còn có thể lên trời xuống biển, vì vậy người xưa luôn mong muốn được giao cấu với các loài động vật khác nhau, sản sinh ra một thế hệ sau khỏe mạnh hơn, các tượng đầu người mình rắn, đầu người mình cá và đầu người mình ngựa đều là những bị thần thể hiện khát khao chuyện người thú tạp giao thành công. Cuối cùng là Hắc Địa Mẫu Thần Gia Lợi, đây là một tên khác của nữ thần tối cao "Devi", vợ thần phá hoại Shiva, một trong ba đại chủ thần của Ấn Độ giáo, biểu hiện phần đáng sợ kinh khiếp nhất trong tính cách của nữ thần Devi, là một trong những chủ thần được Ấn độ giáo sùng bái, hay còn gọi là nữ thần Kali. Phật điển ghi chép, tướng mạo của Hắc Địa Mẫu Thần vô cùng hung ác, khắp người tuyền một màu đen, bốn đầu bốn tay, trên trán có con mắt thứ ba, tay cầm các loại binh khí khác nhau, trước ngực đeo chuỗi đầu lâu, lưng giắt cánh tay người. Vị thần này chuyên uống máu tươi, tượng trưng cho… ăn thịt người."

    Sau khi nghe hết ý nghĩa tượng trưng thực sự của bốn pho tượng Phật trong Cánh cửa Sinh mệnh, sắc mặt Trác Mộc Cường Ba biến đổi hẳn. Nếu những gì cha gã nói là sự thật, vậy thì hai chữ "tà ác" tuyệt đối không đủ sức đại diện nổi cho tư tưởng hạt nhân của tôn giáo này được.

    Đức Nhân lão gia lại nói tiếp: "Tuyệt tình, buông thả dục vọng, tạp giao với loài thú, ăn thịt người, đây chính là hàm nghĩa mà các bức tượng con trông thấy trong gian đại điện màu vàng kim ấy đại diện. Họ thờ phụng bản tôn của các hung Phật, chứng tỏ không hề cảm ngộ được sự từ bi vĩ đại của Phật pháp, mà vẫn hành sự theo bản tính hung tàn. Những kẻ tu hành theo ma đạo, thì dù tu luyện cao đến mấy, cũng chỉ là ma thần mà thôi, căn bản không thể thấu triệt đại ngộ. Họ vẫn còn tham, còn sân, còn dục, từ đây có thể thấy, tôn giáo này là một tôn giáo có thể bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích của mình."

    Đôi mắt Đức Nhân lão gia đột nhiên lóe lên ánh nhìn lạnh lẽo, cao giọng nói: "Mà mục đích của họ là gì chứ, là thoát khỏi bi kịch của con người, cầu mong được vĩnh sinh bất tử, đạt đến cảnh giới chí cao vô thượng, Phật bình đẳng với chúng sinh, ta tức là Phật! Phật tức là ta!... Đáng sợ quá, tôn giáo này quá là đáng sợ!"

    Trác Mộc Cường Ba nhận ra một thoáng sợ hãi trong sự giận dữ của cha mình, liền an ủi: "Con biết rồi, sau này con tự biết cẩn thận. Cha không cần lo lắng quá, bọn họ đã tự chuốc lấy diệt vong rồi còn gì." Ngoài miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng gã thầm thấy khó chịu: "Thôn Công Bố thật sự tà ác đến thế sao?"

    Đức Nhân lão gia dần lấy lại bình tĩnh. Ông nhìn con trai mình nói: "Còn nữa, ta cũng chưa từng nghe nói đến Đạo quân Ánh sáng kia bao giờ. Nhưng con không cảm thấy bọn họ và tôn giáo kia có quan hệ rất mật thiết à?"

    Trác Mộc Cường Ba lại cảm thấy khó hiểu, liền nói: "Theo cách nói của đại sư Á La, lúc đó Lãng Đạt Mã diệt Phật, bộ tộc Qua Ba canh giữ bảo vệ Tứ Phương miếu có lẽ chính là Đạo quân Ánh sáng. Bản thân họ không tiện tực tiếp vận chuyển các báu vật trong Tứ Phương miếu đi, vậy nên mới hợp tác với tôn giáo thần bí kia, bởi vì tôn giáo này vừa có tín ngưỡng giống như Mật tông, lại có cả nguyên tố Bản giáo bên trong, nên trong giai đoạn diệt Phật ấy không bị chú ý đến nhiều lắm. Quan hệ giữa họ chắc là như vậy chăng?"

    Đức Nhân lão gia khẽ lắc đầu: "Cách thức tìm kiếm thông tin của lạt ma Á La, một là từ các điển tịch tôn giáo, hai là từ các bậc trưởng lão lớn tuổi hơn ông ấy, những thông tin như vậy chưa chắc đã chính xác toàn bộ, con nên suy nghĩ một cách toàn diện hơn. Ta cho rằng cái cậu tên là Nhạc Dương kia phân tích cũng khá có lý, giữa Đạo quân Ánh sáng và tôn giáo thần bí kia có lẽ tồn tại một mối liên hệ trực tiếp hơn nhiều."

    Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra phần nào, nhưng lại không dám tin đó là sự thực: "Ý của a ba là… Đạo quân Ánh sáng và tôn giáo thần bí kia, bọn họ, bọn họ vốn chính là… Không thể nào đâu, tôn giáo đó tà ác mà đáng sợ như vậy, còn Đạo quân Ánh sáng đã được gọi là Đạo quân Ánh sáng, có lẽ là hóa thân của chính nghĩa. Hơn nữa, giữa quân đội và tôn giáo, có thể có quan hệ mật thiết như vậy được không chứ?"

    Đức Nhân lão gia giải thích: "Theo như ta biết, thời kỳ vương triều Thổ Phồn cầm quyền, quân đội đa phần đều tin thờ Bản giáo, những lúc đánh trận tác chiến cũng đều có vu sư của Bản giáo dẫn dắt, vai trò của vu sư cũng giống như quân sư hay bác sĩ tâm lý trong quân đội hiện nay vậy, vì thế có một cánh quân theo tôn giáo thần bí kia cũng không phải là chuyện gì lạ lùng lắm. Tuy nhiên, tín ngưỡng của kẻ thống trị lại không ngừng thay đổi, vậy đội quân át chủ bài dưới quyền họ thì thế nào, tín ngưỡng của đội quân này nên thế nào đây? Đương nhiên là cần phải điều chỉnh dựa theo kẻ thống trị mình rồi, kết quả của hành vi này, rất có khả năng là phát triển thành một thể dung hợp vừa có giáo lý của Bản giáo, đồng thời cũng tôn thờ Phật giáo. Còn cái tượng trưng cho chính nghĩa kia ấy à, chính nghĩa là gì? Kẻ thắng chính là chính nghĩa. Chiến trường là nơi có thể giết người một cách hợp pháp, nhưng với bất kỳ ai, ta nghĩ sức chấn động tinh thần khi nhìn thấy thi thể đồng loại mình chất đầy khắp mặt đất cũng tương đối lớn đấy. Một đội quân mà trận chiến nào cũng tế huyết kỳ, nếu không tin thờ những giáo lý tàn bạo khát máu, e là đánh chưa được mấy trận thì tinh thần đã tự suy sụp hết cả rồi. Hơn nữa, một đơn vị tác chiến mà quân số không vượt quá hai vạn người, lại chia thành từng tổ năm người một, con cho rằng bọn họ có thể là quân đội chính quy hay sao? Ngoài trận chiến với Tượng Hùng ra, lạt ma Á La có còn nhắc đến chiến dịch trứ danh nào của họ nữa không?"

    Trác Mộc Cường Ba lắc đầu đáp: "Không. Lạt ma Á La nói, vì mỗi trận chiến họ đều tế huyết kỳ, nên không có nhiều sử liệu tỉ mỉ lắm, trong lịch sử có một cái tên là quân hóa thân mà thôi."

    Đức Nhân lão gia nói: "Vậy thì đúng rồi, con nghĩ xem, một đội quân có biên chế cơ bản là nhóm năm người, sở hữu nhiều kỹ năng đặc biệt đồng thời lại có cả chiến ngao phối hợp, nhưng không hề để lại bất cứ tư liệu nào trong lịch sử, một đội quân thần bí như vậy có khả năng là quân đội chính quy dàn trận tác chiến hay không? E rằng cuộc chiến với Tượng Hùng là lần duy nhất mà họ chính diện xuất kích đó. Nếu đem tất cả những dữ kiện này xâu chuỗi vào với nhau, Đạo quân Ánh sáng này, trên thực tế phải là một đội quân ám sát hành động trong bóng tối mới đúng!" Nếu Merkin có mặt ở đây, chắc rằng hắn cũng phải thán phục những phân tích này của Đức Nhân lão gia đến sát đất, bởi vì những gì ông nói vừa hay lại hết sức phù hợp với hàm nghĩa của chiến huy kia. Bản lĩnh trực tiếp nhìn thấu được bản chất của sự vật này, Ben cũng chỉ có thể thở dài mà tự than không bằng mà thôi.

    Thấy Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, Đức Nhân lão gia lại tiếp lời: "Con nghĩ tiếp đi, nếu đúng như lạt ma Á La đã nói, Đạo quân Ánh sáng này là vô địch, vậy thì họ còn phải mượn sức người khác để vận chuyển bảo vật trong mấy ngôi thần miếu đi hay sao? Càng huống hồ, họ chính là những người bảo vệ mấy ngôi miếu đó."

    Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy tư: "Cũng có nghĩa là, căn bản chẳng có tôn giáo thần bí gì hết, tôn giáo ấy, chính là Đạo quân Ánh sáng. Nhạc Dương đã nói đúng."

    Đức Nhân lão gia ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, âu lo nói: "Cường Ba à, lần này con trở về đã thay đổi rất nhiều, ta phát hiện, trí nhớ, năng lực phân tích cũng như tư duy logic của con dường như đều đã giảm sút rất nhiều. Trước đây, con luôn có phán đoán của riêng mình, có năng lực phân tích toàn cục chứ có đâu nghe gì tin nấy như vậy. Tâm tư của con, có phải đã đặt ở nơi khác rồi hay không?"

    Trác Mộc Cường Ba khẽ chấn động trong lòng: "Không…"

    Đức Nhân thở dài: "Ta biết, chuyện của Anh gây cho con vết thương rất lớn, sau này con đã có thể vùng mình thoát ra khỏi nỗi đau, tập trung toàn bộ tinh thần vào công việc, ta cũng cho rằng vậy là chính xác. Thế nhưng ta không hiểu sao con lại đột nhiên nhiệt tâm với Bạc Ba La thần miếu như vậy, xưa nay con đâu có biểu hiện hứng thú như vậy với tôn giáo đâu. Cho ta biết đi, rốt cuộc là con muốn tìm kiếm thứ gì vậy?"

    Trác Mộc Cường Ba thoáng bần thần, mặc dù gã chưa từng nói với cha về ý đồ tìm kiếm chiến ngao của mình, nhưng giờ Đức Nhân lão gia đã hỏi đến, gã cũng không dám che giấu, đành nói ra suy nghĩ thực của mình.

    Đức Nhân lão gia trầm tư: "Ừm… Tử Kỳ Lân hả? Như vậy có nghĩa là, nó ở cùng một chỗ với Bạc Ba La thần miếu hả?"

    Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Vâng thưa cha. Con nghĩ có lẽ nó là thần thú bảo vệ Bạc Ba La thần miếu, cứ thế đời này tiếp nối đời khác." Không thấy cha bừng bừng nổi giận, trong lòng Trác Mộc Cường Ba thoáng hiện lên một tia hy vọng.

    Đức Nhân lão gia trầm ngâm một hồi lâu rồi mới cất tiếng hỏi: "Cường Ba, nói cho ta biết, nếu tìm thấy Tử Kỳ Lân, con sẽ làm gì?"

    Trác Mộc Cường Ba lại ngẩng người ra, phải rồi, nếu tìm được Tử Kỳ Lân, gã nên làm gì tiếp theo đây? Trác Mộc Cường Ba xưa nay chưa từng nghĩ đến vấn đề này bao giờ. Trong tiềm thức của gã, tự nhiên là sẽ đánh thuốc mê, đóng thùng, rồi tập huấn và nuôi dưỡng rồi trở thành chó ngao giống trong cơ sở nuôi luyện danh khuyển Thiên Sư của gã. Nếu nói còn có suy nghĩ nào cao thượng hơn nữa, vậy thì chắc chắn là mở họp báo, tuyên bố với toàn thế giới về sự tồn tại của một giống vật siêu cấp Tử Kỳ Lân, sau đó đi khắp thế giới triển lãm, tổ chức hội chợ về loài chó. Nhưng sau một thời gian huấn luyện đặc biệt, gần như ngày nào cũng phải vật lộn với tử thần, khiến cách nhìn của gã đối với sự sống đã có những thay đổi về mặt bản chất. Đó dù sao cũng là mắt xích cuối cùng trong chuỗi sinh vật mà, bản thân gã sẽ đối mặt với nó thế nào đây, sẽ đối đãi với nó như với vua sói ư? Đúng vậy, phải đối đãi với nó như với vua sói vậy.

    Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm đáp: "Con sẽ giữ tình hữu nghị với nó, để cả nhân loại biết được sự tồn tại của nó, đồng thời cũng cho nó hòa nhập với xã hội của loài người. Con nghĩ, chúng con sẽ trở thành bạn bè sống chết có nhau được." Gã nghĩ rằng đáp án này có lẽ sẽ khiến cha mình hài lòng.

    Không ngờ Đức Nhân lão gia lại nở một nụ cười châm biếm, kế đó chuyển sang vẻ thương hại: "Hòa nhập với xã hội loài người ư? Suy nghĩ vẫn còn nông cạn lắm. Hừ, đây là suy nghĩ của con với tư cách một con người đúng không, chắc chắn con nghĩ rằng, làm được như vậy đã là rất tốt rồi phải không. Vậy con đã bao giờ nghĩ rằng, nếu bảo con hòa nhập với xã hội của ruồi nhặng, con sẽ cảm thấy thế nào chưa? Con nhíu mày, bởi vì con thấy ghê tởm. Đúng thế, con có suy nghĩ đó, là bởi thâm tâm con cho rằng xã hội loài người là ưu việt nhất, là tốt nhất. Nhưng con có từng nghĩ rằng, xã hội tốt nhất, ưu việt nhất trong tâm trí Tử Kỳ Lân là như thế nào chưa? Trời cao chim bay lượn, biển rộng cá vẫy vùng, Cường Ba à, nếu con muốn thực sự hiểu một giống vật khác thì con phải từ bỏ ý nghĩ mình là một con người đi, hãy dùng tư thái nguyên thủy của sinh mệnh mà thẳng thắng đối mặt, như vậy thì mới nhận được sự đồng thuận của các giống vật khác nhau. Xã hội loài người… thực ra, xã hội mà loài người thời viễn cổ sinh sống, là một xã hội hài hòa gồm nhiều giống loài khác nhau cùng tồn tại, con người, chẳng qua chỉ là một thành viên trong đó mà thôi. Theo con thì người Qua Ba sống chung với sói là như thế nào? Chỉ khi nào con thực sự hiểu được thế nào là sống chung với sói, thì mới có thể thực sự hiểu thông được hàm nghĩa của những gì ta nói hôm nay."

    Trác Mộc Cường Ba quả thực không thể hiểu nổi, gã thầm nhủ: "Từ bỏ suy nghĩ mình là một con người? Nếu ta không phải là một người, vậy thì ta là gì đây?"

    Đức Nhân lão gia nói: "Đừng vội, nghĩ không thông thì từ từ mà nghĩ. Ta vốn tưởng rằng đây chỉ là một chuyện huyền ảo mơ hồ, cả nghìn năm nay đã có vô số người đi tìm kiếm Bạc Ba La rồi mà có ai thành công đâu, thật không ngờ các con lại tìm thấy đầu mối quan trọng như vậy. Được rồi, nếu con sắp phải đến lãnh địa của người Qua Ba tìm kiếm Tử Kỳ Lân, vậy thì có một số thứ ta không thể không cho con biết được, đi theo ta nào."

    Đức Nhân lão gia đứng lên bước vào nhà trong, Trác Mộc Cường Ba cũng đi theo, đây là phòng ngủ của cha gã. Đức Nhân lão gia dừng lại trước một chiếc tủ bằng gỗ hạch đào. Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, chiếc tủ này vô cùng thân thuộc với gã. Hồi nhỏ gã đã coi nó như chiếc rương bảo vật, mỗi khi có khách quý đến thăm, cha gã lại lấy từ trong đó ra những vật trang sức lấp lánh, sau khi đeo lên, ông liền toát lên một vẻ uy nghiêm bất khả xâm phạm. Em gái gã thì lại càng thích cái tủ này hơn nữa.

    Đóa sen hồng nở rộ trên tủ vẫn sinh động như xưa, nhưng ký ức thuở thiếu thời đã trở thành quá khứ. Giờ đây Trác Mộc Cường Ba hiểu rất rõ, những thứ để bên trong chiếc tủ này đều vô cùng quý giá, thí dụ như cuốn cổ kinh Ninh Mã mà hồi xưa gã nhìn thầy là muồn ngủ giờ đã là quốc bảo của Trung Quốc rồi. Gã thực sự không sao hiểu nữa, báu vật để ở nơi nổi bật thế này, tại sao đám trộm cướp kia lại không đến mà trộm mà cướp đi, lại cứ giở ra những thủ đoạn thấp hèn đó, nghĩ đến đây, gã chợt thấy như có một mũi dao đâm vào tim mình. Chiếc tủ mở ra, đập vào mắt Trác Mộc Cường Ba trước tiên là góc phía trên bên phải, nơi đó có một cái hộp vuông nhỏ sơn đen thiếp vàng, bên trong đặt Bát bảo cát tường bằng vàng, đó là lễ vật mà vợ gã dành tặng riêng cho a ba trong lần đầu tiên về nhà sau khi kết hôn, vật còn đó mà người thì đã mỗi ngả mỗi nơi. Cái ngăn ở giữa kia vốn là để cô kinh Ninh Mã, cái tráp đựng kinh thì a ba đã tặng cho gã, còn kinh sách thì tặng cho nhà nước, hồi nhỏ, cứ mỗi lần cha gã mở cái ngăn ấy ra là gã lại thấy nhức hết cả đầu. Góc bên trái phía trước, Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn một cách bản năng, mảnh vải đỏ vẫn còn, bên trong ấy vốn bọc một miếng ngọc bích lễ vật của thượng sư Đa Nhân Kim Cương, bị em gái vô tình đánh vỡ làm tám mảnh, rồi năn nỉ gã nhận tội thay, chỉ sợ đến giờ a ba vẫn còn tưởng là gã đánh vỡ mảnh ngọc ấy cũng không chừng.

    Bao nhiêu đồ vật trong nhà gã đều mang theo ký ức của quá khứ, mỗi lần nhìn thấy là lại gợi nhớ, dù xa cách cả một thời gian dài cũng không thể xua đi nổi. Đây cũng là một nguyên nhân khiến Trác Mộc Cường Ba không thường xuyên về nhà cho lắm.

    Trong lúc Trác Mộc Cường Ba chìm vào những hồi ức, Đức Nhân lão gia đã lấy ra trong tủ một chồng những tấm thảm trông như nệm ngồi. Ông trải phẳng chúng ra, không ngờ đấy lại là những bức thangka khác nhau, hình vẽ được đồ trên lụa hoa, trước tiên dùng giấy da trâu dày chắc dính thật chặt vào lụa hoa, sau đó bọc bên ngoài một lớp tơ vàng, tấm lụa màu đen đã hơi ngả sang vàng phơi bày ra lịch sử lâu đời của nó.

    Những tấm thangka này dường như đã được xử lý đặc biệt, tơ lót toàn bộ thuần một màu đen, nột dung cũng hết sức cổ quái. Bức đầu tiên vẽ cảnh một đám người và một đàn sói đứng lẫn lộn nhau, cả bọn vây quanh một vật giống như cây cột, ngẩng đầu nhìn trăng; bức thứ hai miêu tả những người đàn ông cao lớn uy mãnh ấy dùng dao cắt cổ tay mình, máu tươi nhỏ xuống bát, trông khá giống với cảnh cắt máu ăn thề, bức thứ ba thì bắt đầu kỳ lạ, bọn họ đem máu vừa cắt ra ấy cho sói uống, lại như là đang làm gì đó khác nữa; bức thứ tư tả cảnh người và sói cùng hoan lạc nhảy múa dưới trăng. Bên cạnh mỗi bức tranh đều có rất nhiều ký hiệu cổ xưa, một vài ký hiệu khá là khớp với ký hiệu trong tiếng Tạng cổ, nhưng tuyệt đại đa số đều là những ký hiệu lạ mà Trác Mộc Cường Ba chưa từng trông thấy.

    Trác Mộc Cường Ba nhìn những tấm thangka màu đen ấy, rồi lại nhìn những bức thêu hết sức sắc nét tinh xảo, đoạn ngước lên nhìn cha như dò hỏi. Đức Nhân lão gia giải thích: "Đây là một nghi thức, một nghi thức rất cổ xưa, có lẽ nó liên quan đến việc sống chung với sói của người Qua Ba. Đây là một trong ba cổ vật quý báu nhất của gia tộc chúng ta, người trong gia tộc đã tốn rất nhiều thời gian mới có thể đọc được hết những chữ Tạng cổ này, giờ thì đã hiểu được ý nghĩa và phương pháp thực hiện nghi thức rnafy rồi. Mặc dù ta không thể ấn chứng được tính chân thực của nghi thức minh ước này, nhưng nếu con muốn đến cái nơi nguy hiểm đó, ta sẽ cho con biết về nó, đây là một khế ước giữa ngày xưa và loài sói, lấy máu ăn thề…"

    Đêm hôm đó, Trác Mộc Cường Ba được cha kể cho một nghi thức cổ quái, đồng thời cũng nghe được rất nhiều quan điểm mà gã chưa từng nghe nói đến, thậm chí cũng chưa từng nghĩ đến bao giờ. Gã đã thực sự hiểu được nguyên nhân tại sao cha mình lại được ca tụng là một bậc trí giả. Hai cha con đã rất nhiều năm không trò chuyện trao đổi với nhau một cách trọn vẹn như vậy, bất giác trời sáng lúc nào chẳng hay, Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đi nghỉ thì nhận được một cú điện thoại thúc giục gã trở về căn cứ.

    "Chúng ta chuẩn bị bắt đầu đợt huấn luyện hồi phục cuối cùng rồi." Lữ Cánh Nam ở đầu dây bên kia chỉ nói một câu như thế là đã khiến trái tim Trác Mộc Cường Ba như bay vút trở lại căn cứ. Không lâu trước đây giáo sư Phương Tân đã nhắc nhở gã, trừ phi việc nghiên cứu bản đồ xuất hiện đột phá, bằng không thì trong thời gian ngắn sẽ không bắt đầu huấn luyện mang tính chất hồi phục. Gã không khỏi có chút hưng phấn trong lòng.

    Trác Mộc Cường Ba không kịp nghỉ ngơi, vội vàng thu dọn đồ đạc, gọi Ba Tang rồi chuẩn bị xuất phát luôn. Trước khi lên đường, Đức Nhân lão gia nói với Trác Mộc Cường Ba: "Còn ba tháng nữa là sinh nhật Hồng Hồng, mặc dù con và Anh đã chia tay, nhưng dù sao nó cũng là con gái con, là cháu của ta, ít nhất cũng phải gọi một cú điện thoại chúc mừng đấy. Tiện thể hỏi thăm Anh một tiếng luôn, thế nào thì cũng phải ra dáng một bậc trượng phu chứ."

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu ậm ừ một tiếng, trên đường trở về căn cứ gã cứ mãi chìm đắm trong những suy nghĩ mông lung, lúc thì nghĩ tình cảnh khi đối mặt với Tử Kỳ Lân, lúc lại nghĩ đến cảnh tượng huy hoàng của Bạc Ba La thần miếu, lúc lại nghĩ con gái mình đã mười tám tuổi đến nơi rồi. Mặc dù quan hệ của gã và vợ cũ khá nhạt nhẽo, nhưng con gái dù sao cũng vẫn là hòn ngọc trong nhà, sau khi hai người ly di, nó theo mẹ di dân sang Canada, có lẽ vì ngại cha dượng của con bé nên hai phía cũng không liên lạc gì nhiều, mà một hai năm nay đa phần thời gian Trác Mộc Cường Ba đều trong khu vực không có tín hiệu điện thoại, dù có muốn gọi điện cũng không gọi được. Trên đường đi qua cơ sở luyện ngao Thiên Sư, Trác Mộc Cường Ba giới thiệu công ty của gã với Ba Tang, nhìn tấm bản hiệu hình kim tự tháp khí thế hừng hực ấy qua cửa xe hơi, gã cũng không hiểu tình hình công ty dạo này thế nào nữa, tin rằng dưới sự quản lý của Đồng Phương Chính, công ty nhất định sẽ vượt qua được cửa ải khó khăn này.
     
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 62: Tổng Kết


    Lúc gã về đến căn cứ huấn luyện, bọn Trương Lập, Nhạc Dương đã đến trước một bước, ánh mắt người nào người nấy đều vui vẻ hớn hở tràn trề, một điều khiến Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc hơn nữa là, đội trưởng Hồ Dương cũng có mặt ở đó. Hồ Dương nói: "Đằng nào thì sắp tới đây tôi cũng không có dự án khảo sát khoa học nào, vậy là cấp trên liền điều tôi đến nhập tổ với mọi người thay cho vai trò của Ngải Lực Khắc. Lần này mọi người phải đi Đại Tuyết Sơn, về mặt này thì tôi cũng có kinh nghiệm kha khá mà." Dứt lời, anh mỉm cười đầy ngụ ý.

    Trác Mộc Cường Ba vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ thốt lên: "Đại Tuyết Sơn nào thế? Đã quyết định rồi à?"

    Hồ Dương làm ra vẻ thần bí nói: "Thiên cơ không thể tiết lộ." Kế đó anh lại nói, "Mức độ nguy hiểm rất cao đấy, ngọn núi tuyết này không thể đem so sánh với những nơi khác được, băng nguyên ở Khả Khả Tây Lý mà đem so với nó cũng gần như là thiên đường đấy. Chưa nói chuyện gì khác, chỉ riêng môi trường không khí loãng ở độ cao trên bảy nghìn mét so với mực nước biển đã đủ khiến mọi người khó mà chịu đựng nổi rồi. Khu vực lạnh giá vùng cao ấy, nhiệt độ thấp đến nỗi thức ăn nấu không thể chín, vì nhiệt độ sôi của nước thấp hơn một trăm độ C rất nhiều. Gió thổi táp vào mặt như có lưỡi cưa cứa qua vậy."

    Nghe Trương Lập kể, sau khi mọi người rời viện, Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói chuyện với đội trưởng Hồ Dương rất lâu, sau đó giáo quan đã gửi báo cáo yêu cầu điều động đội trưởng Hồ Dương về làm cố vấn chuyên môn cho nhóm của họ. Lúc đầu đội trưởng Hồ Dương cảm thấy hết sức bất ngờ khi thấy cả người như Đường Mẫn cũng có thể tham gia đội ngũ, nhưng không biết giáo sư Phương Tân đã nói gì, cuối cùng Hồ Dương vẫn chấp nhận sự thực này một cách hết sức miễn cưỡng. Còn Nhạc Dương lại ra vẻ thần bí nói với mọi người, dường như giáo quan Lữ Cánh Nam đã mời thêm mấy vị giáo quan mới, chỉ là vẫn chưa thấy người đâu cả. Phía sau căn cứ huấn luyện đã được cải tạo lại rất nhiều, không biết là muốn huấn luyện gì nữa.

    Lạt ma Á La cũng đã trợ lại, quả nhiên ông không nuốt lời, mang theo cả một bao Thiên châu phát cho mỗi người một chiếc mang theo bên mình để tránh các cơ quan chốt bẫy. Nhạc Dương cứ bám nằng nặc hỏi xem rốt cuộc đại sư kiếm ở đâu ra mà nhiều Thiên châu thế, nhưng lạt ma Á La tránh không đáp, chỉ nói rõ rằng số Thiên châu này đều là của đi mượn, dùng xong nhất định phải trả về cho chủ nhân, không được làm mất mát. Để phân biệt, các Thiên châu lạt ma Á La mang đến đều có số mắt khác nhau, chiếc của Nhạc Dương chỉ có một mắt, còn của Trương Lập lại có đến ba mắt. Anh chàng vì chuyện này mà phẫn nộ bất bình cả nửa ngày trời, mãi đến khi giáo sư Phương Tân đổi cho chiếc Thiên châu năm mắt mới chịu yên.

    Chiều hôm đó Đường Mẫn cũng từ Mỹ trở về, hai mắt đỏ lựng, rõ ràng là từ đến đến giờ cô vẫn khóc suốt. Trác Mộc Cường Ba lại phải an ủi một hồi. Sau khi biết chuyện, Nhạc Dương liền bình tĩnh phân tích: "Chắc anh trai cô không gặp chuyện gì đâu. Nếu Ben hỏi được từ anh ấy chuyện gì thì hắn đã không liều mạng đến Đảo Huyền Không tự tranh cướp bản đồ với chúng ta nữa, chắc chắn là hắn đã đến Bạc Ba La thần miếu luôn rồi. Ngày nào tinh thần anh trai cô còn chưa hồi phục thì bọn hắn sẽ chẳng hỏi ra được gì đâu, mà bản đồ còn ở trong tay chúng ta, thì chúng ắt sẽ không làm gì anh trai cô." Nghe Nhạc Dương phân tích, tâm trạng Đường Mẫn mới nguôi ngoai phần nào mà thôi không khóc lóc nữa.

    Trong căn cứ, mọi người ngồi quây lại thành vòng tròn, cả Lữ Cánh Nam cũng không giấu nổi vẻ vui mừng. Cô tuyên bố: "Lần này yêu cầu mọi người về căn cứ, đặc biệt là tiến hành huấn luyện hồi phục ngay cả khi có thành viên vẫn chưa hoàn toàn khỏe lại, đó là vì, có lẽ đây là lần huấn luyện định hướng cuối cùng của chúng ta rồi."

    Mọi người đều mỉm cười lắng nghe, ai cũng hiểu rõ ý nghĩa của câu nói này. Trương Lập phấn khích thốt lên: "Giáo quan, nói cách khác đi, nói kiểu ấy không may mắn lắm đâu."

    Lữ Cánh Nam không phản đối cũng không nổi giận, chỉ mỉm cười nói: "Được rồi, vậy tôi sẽ nói theo cách khác, sau kỳ tập huấn đặc biệt này, chúng ta sẽ thẳng tiến đến điểm đích cuối cùng của nhiệm vụ lần này, mở ra cánh cửa Bạc Ba La thần miếu đã bị bụi mờ phủ lấp cả nghìn năm nay!"

    Trương Lập, Nhạc Dương lập tức vỗ tay rú lên, cả những bậc lão thành như giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La cũng không kiềm chế nổi cảm giác xúc động dâng trào trong tâm khảm, nét mừng vui lộ hẳn ra mặt. Bao nhiêu đè nén và đau đớn phải chịu đựng trong Đảo Huyền Không tự, thảy đều tan biến trong bầu không khí phấn chấn hồ hởi này.

    Lữ Cánh Nam cười cười bảo mọi người đừng làm ồn nữa, nhưng nói hai ba lần vẫn không được, tất cả cảm xúc đều bừng lên trong một khoảnh khắc, công sức bỏ ra đã thu về kết quả, chỉ riêng điểm này thôi đã khiến tất cả mọi người kích động khôn nguôi rồi. Cuối cùng, khi cảm xúc của mọi người đã phát tiết hết, căn phòng mới tĩnh lặng trở lại, Lữ Cánh Nam cố làm ra vẻ nghiêm túc, nói tiếp: "Nhưng nhiệm vụ lần này của chúng ta có thể nói cũng là nhiệm vụ khó khăn gian khổ nhất từ trước tới giờ, mức độ nguy hiểm của nó vượt xa bất cứ lần hành động nào trước đây. Để có thể hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này, chúng ta cần phải chuẩn bị cho thật tốt, chính vì thế, tôi không thể không triệu tập mọi người sớm hơn dự kiến, tiến hành huấn luyện đặc biệt có định hướng. Phải nhớ cho kỹ, chúng ta chỉ có thời gian ba tháng mà thôi."

    Mọi người đều vui mừng không kể xiết, vì sau ba tháng là đã được khởi hành đến Bạc Ba La thần miếu. Mặc dù còn le lói, nhưng ánh sáng hy vọng đã thắp lên, cơ hồ cánh cửa thành công đã ở ngay trước mắt họ rồi vậy.

    Lữ Cánh Nam nói: "Đầu tiên tôi sẽ tổng kết lại những gì đã biết, để mọi người nhận thức được tình hình chúng ta đang phải đối mặt một cách rõ ràng hơn. Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta tìm kiếm, đại khái được xây dựng trong khoảng từ năm 840 đến 940 sau Công nguyên, vì thời điểm đó xảy ra cuộc tàn sát diệt Phật, nên có rất nhiều tăng lữ phải lưu vong, vô số chùa chiền miếu mạo bị phá hủy, một lượng lớn các văn vật quý giá đã bị mất. Thời ấy nổi tiếng nhất là Tứ Phương miếu, bốn ngôi miếu này hầu như đã tập trung đến hơn chín mươi phần trăm các văn vật Phật giáo của Tây Tạng trước thời Đường, trong cuộc tàn sát diệt Phật, để bảo vệ số văn vật này không bị thiêu hủy, các cao tăng đã nghĩ hết mọi cách, cầu cứu thế lực các phương, cuối cùng đã đưa được hầu hết các văn vật quý giá đến nơi bí mật trước khi Tứ Phương miếu bị hủy diệt. Sau đó, dưới chính sách đè nén áp bức Phật giáo của Lãng Đạt Mã, bọn họ buộc phải rời xa Tây Tạng, nhưng đường xá xa xôi, nếu mang theo một lượng văn vật lớn thì rất dễ bị phát hiện, mà bọn họ cũng không muốn để những bảo vật quý giá ấy lưu lạc ra ngoài đất Tạng. Do một phát hiện bất ngờ, họ tìm được một nơi xa lánh thế gian – các kinh sách ghi chép như thế này, đó là một nơi không thấy mặt trời mọc ở phương Đông, cũng không thấy mặt trời lặn ở phương Tây, quanh năm đều tắm mình trong ánh dương chói lọi. Những tín đồ có linh hồn trung thành vĩnh viễn đang bảo vệ nơi ấy. Bọn họ đã xây dựng Bạc Ba La thần miếu ở đó, đồng thời chia các báu vật đã được bí mật giấu kỹ vận chuyển thành nhiều đợt đến thần miếu. Còn ở Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự chúng ta đã tiếp xúc với một tôn giáo hoàn toàn khác. Vì tôn giáo này hàm chứa giáo lý của cả Phật giáo lẫn Bản giáo cổ đại, trong hoàn cảnh không có lựa chọn nào khác, các tăng lữ Phật giáo đã ủy thác trách nhiệm vận chuyển bảo vật đến thần miếu cho tôn giáo có thân phận tương đối an toàn này. Nhưng tiếc một điều là, tôn giáo thần bí này đột nhiên biến mất trong lịch sử vì một nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, hơn nữa còn biến mất một cách vô cùng triệt để, khiến đời sau không còn bất cứ tư liệu nào mà tra xét. Vậy là, Bạc Ba La thần miếu cũng như cả tôn giáo thần bí này đã vĩnh viễn vùi sâu trong lịch sử." Nghe đến đây, Trác Mộc Cường Ba hơi nghiêng người ra phía trước, tựa hồ muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng vẫn lắc lắc đầu, không nói ra miệng.

    Lữ Cánh Nam hít vào một hơi, rồi nói tiếp: "Mặc dù tôn giáo đó và Bạc Ba La thần miếu đã biến mất, nhưng nhờ có các nghệ nhân hát rong mà thông tin về chúng vẫn được lưu truyền đến ngày nay trong các pho dã sử và truyện ký, sử thi, viên minh châu của cao nguyên ấy chắc chắn sẽ có ngày sáng rực lên lần nữa. Mãi đến năm 1944, nhà thám hiểm người Anh Stanley nghe được một đoạn truyền kỳ đã bị chôn vùi cả nghìn năm từ các nghệ nhân hát rong, và bắt đầu một đoạn hành trình huy hoang rực rỡ nhất trong đời ông ta. Nhưng sự huy hoàng ấy, lại được xây dựng trên cơ sở là hủy diệt nền văn hóa Tây Tạng của chúng ta. Với tư cách một nhà thám hiểm, vết chân Stanley đã đi khắp những nơi lúc đó còn chưa in dấu chân người ở Tây Tạng, đã có vô số di tích cổ được ông ta phát hiện, vô số văn vật cũng bị ông ta đưa đi, nhưng may mắn là, cả đời nhà thám hiểm này cũng không tìm được viên minh châu rực rỡ nhất Tây Tạng – Bạc Ba La thần miếu. Sau này, đã có vô số nhà thám hiểm khác tìm đến đất Tạng, dựa trên ghi chép và những đầu mối ôngta tìm được, bọn họ tham lam vơ vét hết số bảo vật còn sót lại, nhưng riêng chuyện tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu thì không người nào không phải thất vọng trở về. Thực ra, ở Trung Quốc, từ thời nhà Thanh, nhà cầm quyền đã rất quan tâm đến Bạc Ba La thần miếu, còn phái đại thần đặc trách đóng ở Tây Tạng nữa, sau rồi cục thế hỗn loạn rối ren, chuyện này cũng dần nhạt đi rồi trôi vào quên lãng. Giờ đây, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải tìm được Bạc Ba La thần miếu trước các thế lực khác! Cuối cùng, tôi muốn nói về tôn giáo thần bí kia…"

    Nói tới đây. Lữ Cánh Nam không khỏi tắc lời, đưa mắt nhìn sang phía lạt ma Á La, nhận được ánh mắt cổ vũ của ông, cô mới tiếp lời: "Chúng ta biết rất ít về tôn giáo thần bí ấy." Mặt cô không giấu nổi nét ửng hồng, có điều mọi người cũng không hề chú ý đến, "từ những gì chúng ta nắm được đến giờ, tôn giáo này có tham gia hoặc đã độc lập hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Bạc Ba La thần miếu và vận chuyển bảo vật. Khi thần miếu xây xong, họ từng phái sứ giả đi, chuẩn bị giao ba tín vật có thể dẫn đến thần miếu cho ba vị trí giả của đất Tạng, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, cuối cùng họ chỉ giao ra một tín vật, còn hai thứ kia đã bị Cổ Cách vương giữ lại. Trong các tín vật, cố một là bản đồ, tương truyền đã bị Stanley mang đi, còn trong những tấm bản đồ mà chúng ta đang giữ, có lẽ cũng có một tấm tương đồng với tấm bị ông ta mang đi, do khi ấy Stanley vì sợ cơ quan cạm bẫy mà để lại. Ngoài ra trong thư tịch có ghi chép về một tín vật được gọi là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chúng ta cũng từng thu được một tấm bản đồ, nhưng không rõ bản đồ này và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan đến nhau không. Chúng ta chỉ dựa vào các ghi chép trong thư tịch cổ mà suy đoán rằng, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy vốn đã được sứ giả mang ra hải ngoại, rất có khả năng là tới khu vực Nam Mỹ ngày nay, và được chôn giấu trong một kim tự tháp. Địa cung Ahezt ở Bạch thành có rất nhiều nét tương đồng với văn hóa Tây Tạng, nhưng chúng ta cũng mới chỉ có lý do để tin tưởng rằng đó là nơi cất giấu Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chứ không hề có chứng cứ xác thực. Còn về tín vật thứ ba, đến nay chúng ta vẫn hoàn toàn chưa có thông tin gì. Vì nguồn tin của chúng ta, đa phần đều dựa trên cơ sở là các ghi chép của vương cung Cổ Cách, mà những ghi chép ấy lại bị Stanley đưa cả về nước Anh, một hai năm gần đây mới trở về Trung Quốc, ngoài ra còn một số thông tin quan trọng khác thì đến sau khi chúng ta ở châu Mỹ trở về mới biết. Tôn giáo thần bí kia có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng Bạc Ba La thần miếu và chôn giấu báu vật, nhưng đến giờ chúng ta mới chỉ biết, người dân thôn Công Bố có khả năng là hậu duệ của tôn giáo thần bí ấy, bọn họ phụ trách liên hệ giữa tôn giáo đó và thế giới bên ngoài. Chắc Stanley đã từng đến Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng đã bị cơ quan ngăn lại từ bên ngoài, vì vậy ông ta không phát hiện ra đầu mối dẫn đến Đảo Huyền Không tự. Mà Đảo Huyền Không tự này, mới chính là nơi cung cấp cho chúng ta đầu mối quan trọng nhất về tôn giáo thần bí ấy."

    Lữ Cánh Nam nhấp một ngụm nước, rồi lại nói: "Với những thông tin hiện nay chúng ta đang có, có thể nói tôn giáo thần bí kia đã từng vô cùng lớn mạnh, tôi nghĩ, sau khi nếm trải các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, mọi người chắc đều không phản đối tôi nói như vậy phải không. Thành tựu về mặt cơ quan học của họ có thể dùng hai chữ "đỉnh cao" để hình dung, theo những gì chúng ta được biết, bọn họ đã lợi dụng công trình thủy lợi một cách hoàn hảo để cung cấp động lực vĩnh cữu, họ cũng có nghiên cứu rất sâu với các hiện tượng quang học, về mặt khí động lực học, họ cũng tuyệt đối thuộc hàng đỉnh cao thời bấy giờ; đáng sợ hơn nữa là, hiểu biết của họ về sinh vật và vi sinh vật học thậm chí còn đạt tới trình độ cao khó thể với kịp, về mặt này cả khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay cũng chưa thể bì kịp với tôn giáo từ nghìn năm về trước này. Bọn họ có một hệ thống tín ngưỡng độc lập của riêng mình, giữa Bản giáo và Phật giáo thì nghiêng về phía Bản giáo hơn, nhưng cũng không hề bài xích Phật giáo, đây có lẽ chính là nguyên nhân khiến các tăng lữ thời đó lựa chọn hợp tác với tôn giáo này. Hiện nay, những điều chúng ta sắp phải đối mặt có mấy thứ sau đây, thứ nhất, là cơ quan ở thời kỳ phát triển cao nhất. Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự mà chúng ta đã đến đều được xây dựng trước Bạc Ba La thần miếu, vì vậy, cơ quan trong thần miếu có lẽ còn lợi hại ghê ghớm hơn rất nhiều so với những gì chúng ta gặp phải trước đây. Về mặt này, chúng ta có thể sử dụng các công cụ đo kiểm hiện đại, cố gắng giảm mức độ nguy hiểm xuống thấp nhất. Thứ hai, là quần thể các sinh vật cổ xưa thần bí. Thông tin của Trác Mộc Cường Ba mang về giúp chúng ta biết, tôn giáo thần bí kia có được rất nhiều loài sinh vật cổ mà chúng ta chưa từng trông thấy hoặc đến nay vẫn đang trong giai đoạn tìm tòi, bất kể là động vật lẫn thực vật, chúng ta cũng đều không có hiểu biết gì về chúng hết. Có điều, dường như chúng đều có khả năng tấn công, vì vậy, chỉ cần dùng hỏa lực mạnh áp chế, có lẽ là sẽ tránh được sự uy hiếp của chúng. Thứ ba, là tập đoàn hợp tác với bọn lính đánh thuê. Lần vừa rồi chúng ta đã được nếm mùi lợi hại của chúng, vũ trang và các thiết bị khoa học của chúng đều không thấp hơn chúng ta, thậm chí có thể nói là cao hơn chúng ta rất nhiều. Muốn đối phó với chúng, cần phải dựa vào thân thủ cứng cáp và chiến thuật cũng như kỹ năng cơ động linh hoạt…"

    Lữ Cánh Nam đột nhiên ngừng lại, quét ánh mắt nghiêm khắc nhìn từng thành viên đang ngồi bên dưới, nói với giọng đầy ẩn ý: "Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, chúng ta vẫn có cơ hội giành thắng lợi. Thứ tư, cũng là vấn đề khó khăn nguy hiểm nhất mà chúng ta phải đối mặt trong hành trình này, đó chính là vu thuật cổ của Bản giáo. Có thể nói đây là lĩnh vực hoàn toàn xa lạ đối với chúng ta, lại liên quan đến một loạt ngành khoa học phức tạp có độ khó cao như vi sinh vật, hóa sinh vật. Người xưa không có cơ sở khoa học vững chắc gì, toàn bộ đều dựa vào vô số lần thực nghiệm để cho ra kết quả khiến họ hài lòng, vì vậy, giải đáp bí mật của vu thuật cổ từ góc độ khoa học là một chuyện tuyệt đối không thể hoàn thành trong thời gian ngắn được. Về vấn đề này, yêu cầu của tôi đối với mọi người là, phải tuyệt đối cẩn thận ở những chỗ có cơ quan, gặp phải cơ quan nào không tểh hoàn toàn lý giải thì gắng hết sức không nên đụng chạm vào. Một khi không may trúng phải vu thuật cổ, cần lập tức cách ly quan sát, nếu quả thực không thể chịu đựng được nữa, hoặc giả vì quá đau đớn mà mất đi lý trí… thì… nhất thiết phải diệt trừ! Kể cả tôi cũng không ngoại lệ, đến lúc ấy không ai được mềm lòng hết, đã hiểu chưa!"

    Nhạc Dương lấy làm kỳ quái nói: "Mặc dù chúng ta có gặp phải cổ độc ở Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng ở Đảo Huyền Không tự thì đâu có gặp thứ đáng sợ ấy, thật sự chúng ta sẽ gặp phải thứ đó sao?"

    Lữ Cánh Nam gật đầu khẳng định chắc nịch: "Đúng vậy, lần ở Đảo Huyền Không tự chỉ có thể nói là chúng ta may mắn. Thực ra, bọn giun phun ra axit mà mấy người Trác Mộc Cường Ba gặp phải trong hang động cũng có thể tính là một loại cổ độc, lợi dụng một số đặc tính sinh hóa nào đấy của sinh vật. Hơn nữa, mấu chốt là ở gian điện phía Tây gian Thiên Phật điện, giáo sư Phương Tân đã vô tình quay được một số tư liệu, khiến chúng tôi khẳng định chuyến đi này chúng ta sẽ gặp phải cổ độc."

    Trương Lập lớn tiếng hỏi: "Là gì vậy? Sao chúng tôi không thấy?" Họ đã xem đi xem lại những đoạn phim tư liệu đó rất nhiều lần, nhưng không hề phát hiện ra nội dung nào liên quan đến vu thuật cổ.

    Lữ Cánh Nam trầm giọng nói: "Còn nhớ chúng ta đã thấy rất nhiều những tấm thangka màu đen trong gian điện ở mé Tây không?"

    "A…" "A!" Cùng lúc có hai tiếng kêu kinh ngạc thốt lên. Trương Lập thì sực nhớ ra những tấm thangka màu đen ấy, lúc đó khung cảnh tối tăm, họ cũng không lưu ý xem nội dung của những tấm thangka đó là gì; còn Trác Mộc Cường Ba thì bởi vừa mới nghe chính cha mình nói gia tộc nhà gã không có quan hệ gì với tôn giáo thần bí ấy. Vậy thì, thangka màu đen đó là như thế nào? Càng đi sâu điều tra, gã càng cảm thấy quan hệ giữa gia tộc mình và tôn giáo thần bí kia dường như không hề đơn giản, đáp án nằm ở đâu đây? Ở Bạc Ba La thần miếu chăng?

    Lữ Cánh Nam không thể đoán được tâm tư hai người, cô nói: "Hình ảnh những tấm thangka đen đó đã được xử lý bằng máy tính, hoàn nguyên lại bản lai diện mục, trên đó đều vẽ những vu thuật cổ cực kỳ đáng sợ, hiện giờ chuyên gia vẫn đang phân tích chỉnh lý các bức vẽ đó. Nhưng vì niên đại quá xa xôi, thêm nữa là chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn lý giải được nội dung các bức vẽ, có lẽ việc làm rõ cổ nhân chế tạo cổ độc như thế nào vẫn còn chưa hiện thực cho lắm." Lữ Cánh Nam hồi tưởng lại nội dung những bức thangka đen ấy, không khỏi run người lên, vì chúng quả thực là vô cùng tàn nhẫn tanh máu, thực tình cô không muốn tiết lộ với mọi người, vậy nên đã che giấu đi một phần. Bên rìa những bức thangka ấy còn có cả giải thích bằng văn tự, nhưng những ký hiệu đó không phải tiếng Tạng cổ mà họ biết, dường như là để che giấu nội dung nên đã cố ý thay đổi cách viết, các chuyên gia nói, loại văn tự ký hiệu ấy có thể nói là mật mã của tiếng Tạng cổ.

    Những người ngồi phía dưới không ai dám thở mạnh, đến giờ họ mới hiểu, Lữ Cánh Nam nói họ sẽ phải đối mặt với những khó khăn xưa nay chưa từng thấy, đó tuyệt đối không phải là nói cho có mà thôi, sau khi cơn hưng phấn vì sắp xuất phát đến thần miếu qua đi, một thoáng sợ hãi dâng lên trong tâm trí mỗi người. Lữ Cánh Nam lại an ủi mọi người: "Có điều cũng không cần quá lo lắng, chúng ta sắp tới sẽ triển khai huấn luyện đặc biệt nhằm vào bốn tình huống đó. Sau khi hoàn thành lần huấn luyện đặc biệt này, năng lực đối diện với khó khăn của mọi người sẽ được nâng cao đáng kể, chúng ta cần phải có lòng tin tuyệt đối rằng mình có thể chiến thắng bất cứ khó khăn nào để đạt được mục tiêu một cách viên mãn."

    Mọi người đều phấn chấn tinh thần, lại hoan hô thêm một lượt nữa. Lữ Cánh Nam để mọi người yên lặng trở lại, đoạn nói tiếp: "Bây giờ, tôi sẽ cho mọi người biết kế hoạch cụ thể của lần huấn luyện này. Đợt huấn luyện này chia làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất, vì hầu hết mọi người vừa mới hồi phục sức khỏe, nên sẽ tiến hành huấn luyện nửa trị liệu nửa hồi phục thể lực, cố gắng sau khi kết thúc giai đoạn này, thể lực của mọi người sẽ hồi phục trở lại trạng thái trước khi đến Cánh cửa Sinh mệnh. Tôi dành cho giai đoạn này mười ngày; giai đoạn hai, là nhằm vào những khuyết điểm trong biểu hiện của mọi người khi đối mặt với các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, vì vậy, tôi sẽ giới thiệu với mọi người mấy vị giáo quan mới, bọn họ sẽ tiến hành chỉ đạo từ xa thông qua mạng Internet. Nhớ kỹ, mặc dù thân phận của họ đã được xác minh là không vấn đề gì, nhưng mọi người vẫn phải đặc biệt chú ý cho, chuyện gì không nên nói chuyện thì không nên nói." Kế đó, cô bật đèn laser lên, trên màn hình liền xuất hiện ba gương mặt mới, một người Trung Quốc, hai người nước ngoài, ba người này đều có đặc điểm chung là thân hình săn chắc tráng kiện, đường nét cơ bắp đều toát lên mỹ cảm đồng thời lại có độ đàn hồi. Lữ Cánh Nam giới thiệu: "Vị này là Vương Nhất Dân, ông ta là trụ cột của Đoàn Nghệ thuật Tạp kỹ Trung Quốc, mọi người có biết các diễn viên tạp kỹ leo cột như thế nào không?"

    Nói đoạn, Lữ Cánh Nam bấm nút trên bộ điều khiển, trên màn hình liền hiện ra cảnh một diễn viên tạp kỹ leo cột, linh hoạt như khỉ vượn, tốc độ cực nhanh, lại còn nhảy nhót nhào lộn giữa hai cột tre nữa. "Tôi yêu cầu mọi người cũng phải làm được như vậy." Lữ Cánh Nam nói. "Ngoài ra, ông Vương Nhất Dân còn hướng dẫn mọi người một số kỹ năng đặc biệt của nghệ thuật tạp kỹ như đu dây trên cao, kỹ thuật giữ thăng bằng, thuật co xương rút cốt…"

    Đầu roi của Lữ Cánh Nam chỉ vào bên cạnh người thứ hai, cơ bắp của người đàn ông ngoại quốc hơi thâm thấp này lực lương nhất, tuổi tác tầm như Trác Mộc Cường Ba, sống mũi rất cao. "Vị này là Divari, người Nga, từng là vận động viên thể dục toàn năng, sau khi nghỉ thi đấu lại huấn luyện ra mấy quán quân nữa, ông ta sẽ hướng dẫn mọi người về mặt kỹ xảo và hình thể." Cô vừa nói dứt lời, màn hình đã chuyển sang cảnh người đàn ông đó đang tập xà đơn, chỉ nghe giọng Lữ Cánh Nam lại cất lên: "Những kỹ xảo nhào lộn này có tác dụng rất lớn khi phải đối phó với các cơ quan cạm bẫy thời cổ đại. Tôi không yêu cầu động tác của mọi người phải quy phạm như vận động viên thể thao, nhưng tốt nhất là có thể đồng thời ngắm chuẩn, xạ kích trong khi nào lộn, mắt phải nhìn bốn phương, tai nghe tám hướng…"

    Trương Lập, Nhạc Dương nghe mà cặp mắt trợn tròn lên như muốn rơi ra ngoài.

    Tiếp đó, màn hình lại biến đổi. Chỉ thấy một thanh niên ngoại quốc ăn mặc rất thời trang đang chạy nhanh vun vút trên nóc một tòa nhà cao tầng, sau đó nhảy vọt qua khoảng trống rộng mấy mét sang nóc một tòa nhà khác, rồi bám vào mép tường mà nhảy thẳng xuống. Hai anh chàng Trương Lập, Nhạc Dương xem mà lạnh hết cả người. Lữ Cánh Nam lại chuyển cảnh, chỉ vào người thứ ba nói: "Vị này là Frank, người Pháp, là một người yêu thích môn chạy bộ vận động cực hạn. Môn thể thao này yêu cầu rất cao về sức mạnh cũng như khả năng thăng bằng của cơ thể, tôi hy vọng, mọi người có thể chạy nhanh trên mọi địa hình giống như họ vậy." Nói xong, màn hình lại chuyển về cảnh trong thành phố, một đám người đang chạy kiểu dích dắc giữa các cầu thang và tường bao, nhanh nhẹn vượt chướng ngại vật, nhảy lấy đà tại chỗ đã đạt độ cao ngang đầu người, đạp chân lên tường là có thể trực tiếp bám mặt tường mà leo thẳng lên tâng hai, nhìn họ chạy thật khác gì đang xem phim kungfu của Thành Long hay Lý Liên Kiệt vậy.

    Trương Lập thấp giọng hỏi: "Chúng ta làm được không nhỉ?"

    Lữ Cánh Nam nói: "Tôi không yêu cầu mọi người làm tốt như họ. Tạp kỹ, thể dục, chạy bộ mọi địa hình, ba loại vận động này đều có thể coi như một sự khiêu chiến và mở rộng đối với khả năng linh hoạt của cơ thể, chúng có những điểm chung, đồng thời có những nét đặc sắc riêng, và sẽ nâng cực hạn thân thể của mọi người lên một tầm cao mới. Tôi không yêu cầu phải là tốt nhất, nhưng yêu cầu tốt hơn, đây chính là yêu cầu của tôi dành cho mọi người. Đồng thời, ở giai đoạn thứ hai này, mọi người còn phải hoàn thành một khóa huấn luyện mô phòng bằng máy tính, đây là một phần mềm máy tính thiết kế như trò chơi chống khủng bố mà các chuyên gia phần mềm trong nước đã biên soạn dựa trên số liệu Ba Tang và Trương Lập cung cấp, hy vọng mọi người có thể tìm hiểu được phương thức tác chiến của kẻ địch thông qua phần mềm mô phỏng này. Còn nữa, về vu thuật cô, mọi người cũng phải tiến hành huấn luyện đặc biệt…"

    Lữ Cánh Nam yêu cầu các thành viên trong đội có thể mặc và cởi trang phục cách ly, hoàn thành hai người cấp cứu cách ly một người, bao gồm cả loại bỏ tất cả tạp vật bên ngoài, phun thuốc tiêu độc sát khuẩn và thiết lập khu vực quan sát cách ly đơn giản với tốc độ nhanh nhất trong tình huống vẫn mặc đồ leo núi vừa dày vừa nặng. Giai đoạn cuối cùng là huấn luyện leo núi tuyết, mọi người được yêu cầu phải nắm sơ lược kỹ năng phân tích địa lý tình hình, cách thăm dò các khu vực có khe nứt phủ tuyết, cách chống lại gió mạnh cấp mười, giữa lưng chừng núi dùng đinh tán và dây thừng tiến lên. Dưới ngọn roi giáo quan và giọng nói vang vang dễ nghe của Lữ Cánh Nam, đợt huấn luyện gian khổ đã được triển khai như vậy đó…

    Không chỉ thế, khi một ngày huấn luyện mệt nhọc kết thúc, mọi người lại phải bắt đầu một hạng mục huấn luyện khác, mỗi người đều không thể không ra sức nghiên cứu tìm hiểu về tôn giáo ở Tây Tạng cổ đại. Theo cách nói của Lữ Cánh Nam, điều này có tác dụng hỗ trợ mang tính quyết định khi họ phải đối mặt với các cơ quan sau này. Ngoài lạt ma Á La, giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba biết một số kinh điển của Phật giáo, hiểu biết của những người người khác về Phật học đều rất ít, càng không cần nói đến Mật tông Tây Tạng hay Bản giáo cổ đại làm gì. Gay go hơn nữa là, khu vực Tây Tạng thời Phật giáo chưa thống nhất có vô số các tông phái khác nhau, giáo lý nhiều không kể xiết, mà bọn họ thì chỉ có thể hoàn toàn dựa vào học thuộc lòng, học đến khi có thể nhận biết được hết các loại tượng Phật khác nhau trong Đại Mạn Đà La, Tam Vị Gia Mạn Đà La, Pháp Mạn Đà La, Kiệt Ma Mạn Đà La…, những thứ như Luân Vương Thất Bảo, Lục Nỗ Cụ, Thất Đại Trát Khắc La cũng đều nắm được đại thể, cả các khái niệm của Bản giáo như thần Sinh mệnh, Tán thần, Úy Nhĩ Mã, Mã Ma, Dạ Xoa, Đề Lung, Đốn, Đặc, Thủy Thũng Ma, Quán Ba… cũng nằm trong phạm vi buộc phải học thuộc lòng của họ.

    Lữ Cánh Nam còn thông qua nhiều nguồn khác nhau, tra ra được loại mìn mà bọn tên Ben đã sử dụng. Theo tư liệu cô tìm được, loại mìn này có thiết kế kiểu đồng hồ điện tử, hai đầu là keo siêu dính bóc ra là dán được, có thể dính mìn vào bề mặt của bất cứ vật thể nào, hơn nữa dù xuống nước cũng không bị ảnh hưởng. Phần ở giữa lớn bằng cái cúc áo là bộ phận chính của quả bom, trong đó thuốc nổ chỉ chiếm hai phần ba thể tích cái cúc áo ấy, một phần ba còn lại là linh kiện điện tử rất tinh vi. Nguyên liệu tạo ra loại thuốc nổ cực mạnh này có chứa uranocene nitro dioxit và nhiều nguyên tố khác. Đến mấy năm gần đây, quân đội Mỹ mới đưa loại này vào sử dụng, và được xưng là loại thuốc nổ thế hệ mới, uy lực vụ nổ chỉ đứng sau có vũ khí hạt nhân, khả năng phá hoại của cái "cúc áo" đó tương đương với 15 cân thuốc nổ TNT. Còn lớp vỏ bên ngoài, một là có thể tính giờ, sử dụng như bom mìn hẹn giờ thông thường, hai là có thể điều khiển cho nổ từ xa, tác dụng trong phạm vi năm trăm mét, ba là bên trên lớp vỏ này có thiết bị cảm biến áp lực, có thể lực chọn sử dụng hay không, một khi đã khởi động thiết bị này, quả bom sẽ tự cảm ứng được áp lực đè lên nó, nếu có người muốn bóc ra, bom sẽ tự động phát nổ. Cũng có nghĩa là, đây là loại bom không thể tháo gỡ. Quân đội Mỹ vẫn chưa công khai thông tin về loại bom này, cũng chỉ có quan hệ của tên Ben mới kiếm được, trước mắt có thể nói đó chính là loại vũ khí mạnh nhất của phe đối phương.

    Cuối cùng, Lữ Cánh Nam nói: "Mặc dù chúng ta đã biết về bọn chúng có bom hẹn giờ có thể dính ngay dùng ngay, nhưng vẫn chưa biết nhiều về uy lực của nó… Còn nữa, rốt cuộc Soares có phải tên thao thú sư trong hàng ngũ kẻ địch hay không, thân phận y là thế nào, những việc này chúng tôi cũng đang điều tra thêm."

    Giáo sư Phương Tân nói: "Về con người này thì tôi cũng có biết chút ít, có lẽ mọi người không tìm được mấy tư liệu về y đâu. Trước khi thành danh, y cũng giống như những nhà nghiên cứu khác, cả ngày vùi đầu vào phòng thí nghiệm, không ai biết y là ai cả. Cho đến… tôi nhớ xem nào, có lẽ là tám năm trước, bản báo cáo luận văn của y công bố đã làm chấn động cả Diễn đàn Sức khỏe Thái Bình Dương. Khi đó, những vị có uy tín trong giới học thuật bình luận rằng, Soares đã ném bom nguyên tử vào giới sinh vật học. Bản luận văn ấy, thực sự là đã dẫn tới đột phá mang tính cách mạng trong cả giới sinh vật học."

    "Tám năm trước…" lạt ma Á La lặng lẽ suy tư, tựa hồ như liên tưởng đến điều gì đó.

    HẾT TẬP 4
     
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 63: Tâm Sự Của Trác Mộc Cường Ba (Tập 5)

    Mở đầu

    Núi tuyết Tử thần, sông băng hiểm ác

    Bão tố mịt mùng, cửa vào Thần miếu nơi nao?

    Tiếp tục lần theo dấu vết của Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba và những người bạn đồng hành tiến về núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, ngọn núi mang tên Tử thần của người Tạng. Trên vùng đất kỳ vĩ bao la của cao nguyên Thanh Tạng, gã gặp lại một người bạn năm xưa, đồng thời cũng là hậu duệ cuối cùng của một gia tộc đã kiếm tìm Bạc Ba La thần miếu suốt cả ngàn năm qua. Với sự giúp đỡ của người đó và thần ngao Hải Lam Thú, đoàn thám hiểm quyết định liều mình vượt cơn cuồng phong bão tố khủng khiếp nhất, lần tìm lối vào thánh địa Bạc Ba La trên tấm bản đồ da dê tìm được trong Đảo huyền không tự…

    Liệu ngọn núi tuyết đã chôn thây vô số đoàn thám hiểm, cùng những kẻ thù giấu mặt vẫn đang rình rập dõi theo… có thể ngăn bước họ tiến đến miền đất trong mộng tưởng?

    Cương Nhật Phổ Bạc? Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương cùng thoáng ngẩn người ra, trong ký ức của hai người đều có chút ấn tượng đối với cái tên này. Ý nghĩa của nó là kẻ tôi tớ của núi tuyết. Trác Mộc Cường Ba vẫn còn lờ mờ nhớ được, chẳng những gã đã từng nghe thấy cái tên này, mà còn tiếp xúc với cả con người ấy nữa. Nhưng nghĩ cho kỹ càng hơn, lại cảm thấy không phải thế, tựa hồ như thiếu mất mối liên hệ then chốt nào đó.

    Thời gian trôi qua rất nhanh, vết thương ở chân giáo sư Phương Tân đã hoàn toàn hồi phục, giờ trong nhóm lại có thêm đội trưởng Hồ Dương, hai người rất hợp chuyện, nói cả ngày cũng không chán. Thực tế là đội trưởng Hồ Dương còn dễ nói chuyện hơn cả Ngải Lực Khắc hồi trước, với ai anh cũng nói chuyện được hết, đến cả Ba Tang cũng sẵn sàng xưng huynh gọi đệ với anh nữa. Đội trưởng Hồ Dương giọng nói to, tâm tư thì trong thô hào lại có tinh tế, nói năng hơi thô tục nhưng rất hài hước có duyên, chớ nhìn dáng vẻ bề ngoài như hung thần ác sát của anh mà tưởng lầm, thực ra con người Hồ Dương này rất dễ làm thân, trong vòng ba tháng, anh sớm đã hòa nhập làm một với cả nhóm bọn Trác Mộc Cường Ba rồi. Mặc dù chưa được huấn luyện một cách có hệ thống, nhưng cái danh đội trưởng Hồ Dương không phải tự nhiên mà có, ngoài hai phương diện cơ quan học và cận chiến tay không hơi thua sút mọi người ra, thể năng của anh hoàn toàn không kém gì giáo sư Phương Tân, đồng thời anh cũng là một tay có thời gian dài chơi súng ống, hiểu biết về các loại súng và vũ khí nổ gần như có thể so bì được với đám bộ đội đặc chủng, hơn nữa hiểu biết của anh đối với khí hậu và môi trường miền địa cực cũng giúp những người còn lại rất nhiều gợi ý.

    ° ° °

    Thời gian trôi qua, ngày kết thúc đợt huấn luyện đặc biệt càng lúc càng đến gần hơn, tâm trạng mọi người cũng càng ngày càng hưng phấn. Chỉ có Nhạc Dương là vẫn lờ mờ cảm thấy hơi bất ổn, bởi anh phát hiện ra, ngoại trừ mấy hôm mới tuyên bố bắt đầu đợt huấn luyện đặc biệt, giáo quan tỏ ra hưng phấn, về sau thì nét mặt cứ ảm đạm dần đi, ngày xuất phát càng gần kề, cô lại càng có vẻ nơm nớp lo lắng. Rốt cuộc là chuyện gì có thể khiến giáo quan của họ trở nên lo âu đến thế, Nhạc Dương thực không tài nào hiểu nổi, anh bèn kể sự thay đổi rất nhỏ nhặt này của Lữ Cánh Nam với Trương Lập và Hồ Dương.

    Cuối cùng, chỉ còn một ngày nữa thôi là coi như đợt tập huấn đặc biệt chính thức kết thúc, tiếp theo cả nhóm sẽ rời doanh trại đến vùng phụ cận ngọn núi tuyết phải leo lên để tiến hành huấn luyện thích ứng. Đêm xuống, tuy ngồi trong ánh nèn mờ ảm đạm, nhưng nghĩ đến chuyện ngày mai sẽ xuất phát, ai nấy đều có chút phấn khích. Trên sân huấn luyện rộng rãi, nơi Trác Mộc Cường Ba từng nán lại hôm đầu tiên bước vào doanh trại này, đội trưởng Hồ Dương hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, Trương Lập thì cầm một cành cây vẽ vòng vòng trên mặt đất, nét mặt cả hai đầy vẻ nghi ngại lo lắng.

    Trương Lập nói: "Mấy ngày nay giáo quan dường như càng lúc càng cuống rồi hay sao đó, cả thời gian đi núi tuyết cũng đẩy lên trước, trước đây có bao giờ thấy cô ấy như vậy đâu, chẳng lẽ là nhà nước có ý định chấm dứt hành động này hay sao?"

    Hồ Dương lắc đầu: "Không thể nào, đã đến trạm cuối cùng rồi, tất cả đều vận hành rất tốt, chẳng có lý do gì để nửa đường bỏ cuộc cả. Có lẽ nào vì một nguyên nhân gì khác mà nhóm này sắp phải giải tán hay không? Hay là sức khỏe của cô ấy có gì bất thường, không thể kiên trì lâu hơn được nữa rồi?"

    "Không đâu," Trương Lập nói như chém đinh chặt sắt, "thân thể giáo quan như là bằng thép ấy, cái tên Thiết nương tử có phải là gọi bừa bãi đâu. Hay là vì tuổi tác của Lạt ma Á La cao quá rồi nhỉ?"

    Hồ Dương nói: "Theo tôi thì không, tuy rằng tuổi tác đại sư Á La và giáo sư Phương Tân cao hơn chúng ta, nhưng hai người ấy đều là hàng cực phẩm trong các bậc cao niên, với sức khỏe của họ, sống thêm hai ba chục năm nữa cũng không phải vấn đề gì. Hơn nữa, cho dù trong đám đội viên chúng ta xuất hiện tình huống bất thường gì, đến lúc ấy cùng lắm là đổi người hoặc tạm thiếu người là được rồi; nếu nói là sức khỏe của ai đấy có vấn đề, nhất định đó phải là nhân vật quan trọng then chốt cho hành trình này rồi."

    Trương Lập nghi hoặc nói: "Vậy liệu còn có thể là ai chứ?"

    Hồ Dương nói: "Đấy, chính vì thế, nếu nói sức khỏe ai đó không ổn, ngoài Lữ Cánh Nam ra, tôi thật không nghĩ ra người nào khác nữa."

    Một lát sau, Nhạc Dương vội vội vàng vàng chạy bước nhỏ đến, vừa chạy vừa kêu lên: "Điều tra được rồi, điều tra được rồi."

    Trương Lập vội hỏi: "Sao hả?"

    Nhạc Dương đáp: "Gần giống với những gì chúng ta nghĩ, lãnh đạo cấp trên đã đưa ra kỳ hạn cuối cùng, nếu lần này chúng ta vẫn không tìm được Bạc Ba La thần miếu, đội ngũ sẽ phải giải tán. Xem ra lần này giáo quan đã giở hết bản lĩnh mà cũng không thể kéo dài thêm thời gian được nữa rồi. Xét cho cùng thì chúng ta cũng chỉ là một nhóm thử nghiệm, thử hơn hai năm rồi mà chẳng tìm được thứ gì có giá trị hơn, cũng khó trách giáo quan sao lại lo lắng đến vậy."

    Trương Lập nói: "Nhưng chẳng phải lần này chúng ta đã có bản đồ rồi hay sao?"

    Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu: "Không, các cậu không biết rồi, tấm bản đồ ấy chỉ có thể dựa vào hình vẽ mà so ra được ngọn núi có hình dáng tương tự, nó không chú thích rõ lộ trình lên núi, nói thực nhé, tôi và Lữ Cánh Nam đã thảo luận rồi, tỉ lệ tìm thành công Bạc Ba La thần miếu trong chuyến đi này của chúng ta không vượt quá năm mươi phần trăm đâu, nói thẳng ra là chúng ta vẫn đang mạo hiểm. Thông tin về ngọn núi ấy thế nào, ngày mai các cậu sẽ biết, chẳng lạc quan lắm đâu."

    Nhạc Dương chép miệng: "Nói vậy có nghĩa là, nếu không có phát hiện gì trên ngọn núi tuyết ấy, chúng ta sẽ phải ai về địa phương của người nấy rồi."

    Đội trưởng Hồ Dương nhả ra một làn khói thuốc, lặng lẽ gật đầu.

    Trương Lập nói: "Chậc, giờ tôi lo lắng nhất chính là Cường Ba thiếu gia đấy, với tính tình nóng nảy của anh ấy, lần này chỉ sợ… Tôi thấy mấy ngày nay anh ấy có vẻ trĩu nặng tâm sự, quả nửa chắc là cũng đã biết rồi."

    "Nói gì tôi đấy?" Trác Mộc Cường Ba từ phía ánh đèn tiến lại chỗ ba người.

    "Cường Ba thiếu gia," Trương Lập và Nhạc Dương mỗi người nhích ra một chút. Trác Mộc Cường Ba liền ngồi thụp xuống giữa hai người. Đợi Nhạc Dương nói ra tình hình lần này, Trương Lập cất tiếng: "Thực ra, Cường Ba thiếu gia cũng không cần quá lo lắng, nhóm của chúng ta giờ đây đã như đúc bằng thép luyện, lần hành động này nhất định là sẽ thành công."

    Nhạc Dương lẩm bẩm nói: "Nhưng chúng ta đã bao giờ leo núi tuyết đâu chứ."

    Trương Lập đưa tay vỗ bôm bốp lên người anh chàng một phát, nói: Không nói thì chết à."

    Hồ Dương nói: "Quan trọng là ngọn núi ấy… tóm lại là rất phiền phức."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi biết rồi, có câu mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, tôi tin là trời cao đã sắp xếp bao nhiêu thử thách thế mà chúng ta cũng vượt qua được hết rồi, thử thách lần này so với lựa chọn sinh tử thì có là gì chứ."

    Đội trưởng Hồ Dương thân thiện vỗ vai Trác Mộc Cường Ba: "Cậu nghĩ được như vậy là tốt rồi."

    Trác Mộc Cường Ba cười đáp: "Nói thực lòng, trước đây tôi chưa bao giờ tin vào thần phật, cũng chẳng tin có ông trời, tôi chỉ biết là mình chịu nỗ lực bỏ công, vậy thì chẳng có chuyện gì mà mình không làm được. Thế nhưng sau khi trải qua tất cả những việc này, tôi phát hiện ra, dường như tất thảy đều do ý trời âm thầm sắp đặt, có rất nhiều sự việc xảy ra quá đỗi bất ngờ, cứ từng bước từng bước đi tiếp, như thể có ai đó đang dẫn đường cho chúng ta vậy. Càng biết nhiều về Bạc Ba La thần miếu, cảm giác ấy trong tôi càng mạnh hơn. Đi đến đó, tựa như là một sự trở về mà định mệnh đã an bài cho tôi vậy, có rất nhiều điều nghi hoặc, dường như chỉ có ở nơi ấy mới có đáp án. Trước đây tôi chỉ mong có thể phát hiện ra tung tích của Tử kỳ lân ở vùng phụ cận thần miếu, nhưng giờ xem ra không tới thần miếu là không được rồi."

    Trương Lập kinh ngạc thốt lên: "Cường Ba thiếu gia thật sự nghĩ như vậy sao? Vậy mà tôi tưởng là anh biết chuyện này sẽ nhụt chí nản lòng nữa chứ."

    Trác Mộc Cường Ba cảm kích mỉm cười với Trương Lập: "Ý cậu muốn nói tâm trạng tôi mấy hôm nay không được tốt lắm phải không? Không phải vì chuyện này đâu, có mấy vấn đề cá nhân thôi." Gã ngưng lại một chút, rồi mới nói tiếp: "Mấy hôm nữa là sinh nhật lần thứ mười tám của con gái tôi rồi, tôi đã gửi thư điện tử chúc mừng nó. Mấy hôm nay chợt thấy hơi nhớ mẹ con nó."

    Nhạc Dương nói: "Con gái anh ở đâu? Trước nay chưa bao giờ nghe anh nhắc đến đâu à nha."

    Trương Lập nói: "Thư điện tử? Sao không gọi điện thoại?"

    Trác Mộc Cường Ba đáp lời: "Ở Canada. Gọi điện thoại ấy à, nói thực lòng, tôi hơi do dự. Một là không biết con gái tôi liệu có tha thứ cho người cha không xứng đáng làm cha này hay không, hai nữa là lo chồng của người vợ trước hiểu lầm tôi, để hai người họ xảy ra chuyện gì thì không hay. Có thể là quan niệm truyền thống của tôi đang tác quái đấy, ly hôn rồi, thì cố gắng hết sức để không làm phiền đến cuộc sống mới của người ta nữa. Họ đã đến tận Canada xa xôi như vậy, có lẽ cũng là vì không muốn tôi làm phiền đó thôi."

    Hồ Dương lắc đầu: "Vậy thì không đúng rồi, nói thế nào thì nói, dù sao đó cũng là con gái của cậu và vợ cậu, gọi một cú điện thoại thì có gì đâu chứ? Làm gì có đôi vợ chồng nào không lời qua tiếng lại với nhau bao giờ. Nếu họ thực lòng yêu thương nhau, tôi nghĩ người đàn ông kia cũng không đến nỗi không thông tình đạt lý tới mức đó đâu! Cậu đang tự bó buộc bản thân mình đấy, có phải là vẫn cảm thấy có lỗi với vợ cũ, vẫn áy náy mà chọn lựa trốn chạy hay không? Làm một kẻ đào ngũ không hay đâu đấy nhé."

    Nhạc Dương hỏi: "Thực ra con người Cường Ba thiếu gia cũng rất hay mà, sao vợ anh ấy lại muốn ly hôn chứ?"

    Trương Lập trừng mắt lên lườm anh chàng một cái. Đội trưởng Hồ Dương thì phá lên cười ha ha, nói: "Dù cậu là lính trinh sát thì cũng không cần chuyện gì cũng phải hỏi cho rõ ngọn ngành chứ."

    Trác Mộc Cường Ba cúi đầu đáp: "Không, không có gì đâu. Thực ra, yêu cầu của phụ nữ rất đơn giản, họ chỉ cần một người chồng có thể thường xuyên ở bên cạnh họ, một gia đình hòa thuận, vậy là họ thỏa mãn lắm rồi. Đáng tiếc tôi lại không làm được điều ấy! Con người là loài động vật có tính xã hội, lúc nào cũng có rất nhiều suy nghĩ cần có người để dốc lòng, sự cô quạnh đối với con người có thể nói là một sự giày vò." Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba tự bật cười chua chát một tiếng, lắc đầu bảo: "Xem tôi đấy, không biết mình đang nói cái gì nữa rồi. Trương Lập có lẽ cũng biết một chút, nhưng chỉ thầy giáo tôi, giáo sư Phương Tân mới hiểu con người tôi trước đây thôi. Khi ấy tôi là một kẻ cuồng công việc, thường xuyên ở ngoài cả một thời gian dài, rất ít về nhà. Con gái tôi lên bảy tuổi mới biết mặt mũi bố nó thế nào. Hơn nữa cho dù có về đến nhà, tôi cũng không nói năng gì. Khi Trương Lập mới gặp tôi lần đầu tiên, tôi vẫn là con người như thế. Tôi còn nhớ Trương Lập từng nói, với vóc dáng như của tôi, nếu không mở miệng thì có thể gây áp lực đè nén khiến người ta không thở nổi. Giờ hồi tưởng lại, những ngày vợ cũ sống chung với tôi, nhất định là phải nặng nề ngột ngạt lắm. Cô ấy đã nỗ lực để thực hiện tốt bổn phận của một người vợ tốt, còn tôi, tôi lại không tận hết trách nhiệm của một người chồng, đến cả tình nhân cũng không bằng nữa. Chậc, có lẽ, bản thân cuộc hôn nhân của tôi với vợ cũ đã là một sai lầm rồi. Cuộc hôn nhân ấy không lãng mạn và nhiều cảm xúc như các cậu tưởng tượng đâu. Khi đó, cha mẹ tôi hy vọng tôi suy nghĩ đến chuyện đại sự trong đời người, mà trong rất nhiều nhân viên của công ty chúng tôi, biểu hiện của cô ấy khá xuất sắc, ăn chung với nhau mấy bữa cơm, vậy là có quan hệ, nửa năm sau thì chúng tôi kết hôn."

    "Hả!" Nhạc Dương lấy làm thất vọng, anh chàng vốn tưởng rằng người đàn ông từng trải qua những sự việc như trong truyền kỳ này, hôn nhân cũng phải khắc cốt ghi tâm, vòng vo trăm mối, giờ nghe Cường Ba thiếu gia kể ra, quả nhiên là hết sức nhạt nhẽo tầm thường.

    Trác Mộc Cường Ba lại kể tiếp: "Kết hôn chưa đầy một năm thì con gái chúng tôi ra đời, sau đó cô ấy ở nhà chăm con, tôi đi làm ăn bên ngoài. Có lẽ mọi người đã nghe kể một số chuyện trước đây của tôi, hình như những trải nghiệm ấy khiến người ta hâm mộ thì phải. Thực ra tôi cảm thấy rất có lỗi với vợ mình. Tôi thường cả năm không ở nhà, về đến nhà chưa được mười ngày thì lại đi luôn. Lúc đó ở bên ngoài cũng thoáng lắm, thực sự là tôi không hề nghĩ đến cảm nhận của Anh (tên vợ Cường Ba).

    Trương Lập thì thầm nói: "Chị dâu, đáng thương quá…"

    Trác Mộc Cường Ba cười khổ: "Có lẽ là một sự trừng phạt với tôi. Khi cô ấy gặp được người đàn ông có thể mở ra được cánh cửa nội tâm mình, Anh mới biết tình yêu thực sự là gì, vậy là không hề… Khi tôi phát hiện ra, mọi chuyện đã xong hết cả rồi. Đúng là một cuộc hôn nhân tĩnh lặng như nước, đến cả ly hôn cũng thật nhạt nhẽo vô vị. Chúng tôi không cãi nhau, cô ấy cũng không cần gia sản, một tờ thỏa thuận, vậy là quan hệ hôn nhân mười năm kết thúc. Con gái muốn đi theo cô ấy, tôi cũng hy vọng con gái chúng tôi đi theo cô ấy, nếu ở với tôi, chà… tôi thật không tưởng tượng nổi sẽ thế nào nữa."

    Nhạc Dương hiểu ra: "Thì ra là có kẻ thứ ba nhúng chân vào."

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Cậu vẫn đau khổ lắm, cậu đâu có vô tình như cậu tự nhận chứ."

    Trác Mộc Cường Ba buồn rầu nói: "Đúng vậy, đúng là như anh Hồ Dương nói, tôi rất đau lòng. Đối với động vật cũng có thể nảy sinh tình cảm sâu sắc, huống hồ là với một con người đã từng sống chung với mình hơn chục năm trời. Đúng như lời một câu danh ngôn đã nói, con người là một loài động vật kỳ quái, khi sở hữu thì cảm thấy bình thường, phải đến khi mất đi, mới hối hận thì đã không kịp. Kể ra thì, buổi tối hôm vợ trước tôi bỏ đi, tôi đến một quán bar ở Thượng Hải uống say khướt không biết trời trăng gì, còn đánh nhau với một đám người ở quán bar ấy nữa, về sau bị người ta đánh cho nằm viện hơn một tháng, tôi cũng không hiểu mình bị làm sao nữa. Sau bận đó, tôi lại dốc hết tâm sức vào công việc như trước, nhưng trước sau vẫn thấy hụt hẫng như mất đi thứ gì đó. Nếu không phải sau này gặp được chuyện Tử kỳ lân, tôi cũng không biết mình còn trầm luân như thế bao lâu nữa."

    Thấy thần sắc Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng ảm đạm, Trương Lập nói: "Thế này là sao vậy, ngày mai chúng ta xuất phát rồi, nói chuyện gì vui vui một chút đi…"

    Nhạc Dương cũng tiếp lời: "À, đúng rồi, Cường Ba thiếu gia, hay là kể câu chuyện tình lãng mạn của anh với cô Đường Mẫn đi. Nhìn dáng vẻ hạnh phúc của hai người, tôi thấy ngưỡng mộ lắm…"

    Trương Lập cố ý vỗ mạnh vào lưng Nhạc Dương một cú, nói: "Thằng nhóc này, lại dò hỏi chuyện riêng tư của người khác rồi!"

    Trác Mộc Cường Ba ngoài miệng thì nói: "Có chuyện tình lãng mạn gì đâu, chỉ coi là… duyên phận thôi…" nhưng trái tim gã, thì đã ngược về khoảng thời gian ở nước Mỹ hơn một năm trước…

    ° ° °

    Khi Đường Mẫn cởi chiếc mũ mỏ vịt xuống, suối tóc đen tuyền bóng mượt như áng mây trôi ấy bung xõa ra, Trác Mộc Cường Ba thực sự nghe thấy tiếng tim mình đang đập, máu trong cơ thể như bơm xộc cả lên đầu, bên trong xương cốt nóng lên hầm hập. Dù nói dáng điệu của Đường Mẫn nhỏ nhắn dễ thương, tựa như cô bé nhà bên, thấy là không sao kìm được lòng thương cảm, nhưng Trác Mộc Cường Ba là kẻ từng trải, đã gặp vô số hạng người, những cô gái như vậy gã gặp cũng rất nhiều rồi. Gã không hiểu, tại sao lần này lại xuất hiện cảm giác động lòng tim đậm thình thịch như thế. Cảm giác đó thôi thúc gã chỉ muốn ôm cô vào lòng, ôm thật chặt mà bảo vệ cho cô thật tốt, không để người con gái ấy rời xa mình dù chỉ trong giây lát. Thậm chí gã còn thấy khó mà khắc chế được xung động ấy của mình, mấy ngón tay đặt bên sườn khe khẽ run rẩy. Chính cái cảm giác kỳ dị xuất hiện ngay lần gặp đầu tiên ấy, đã khiến gã mở lời nói với cô gái nhỏ hơn mình rất nhiều tuổi này khi rời khỏi bệnh viện: "Cô Đường Mẫn, không biết có thể mời cô ăn trưa với tôi được không, tôi biết như vậy là rất đường đột, nhưng có điều, tôi rất muốn biết thêm nhiều chuyện liên quan đến anh trai cô…"

    Trong một quán ăn Trung Quốc nho nhỏ, cô gái ấy chống tay lên cằm, ngồi dựa vào cửa sổ, trông cô rất xinh đẹp, nhưng không phải rất xinh đẹp, mà giống như một đóa ngọc lan màu trắng, rất mềm mại tươi tắn tựa hồ khẽ chạm vào một cái thôi cũng khiến đóa hoa ấy lụi tàn. Thế nhưng trong đôi mắt cô lại ánh lên vẻ thâm trầm không phù hợp với lứa tuổi, hoặc như là một nỗi buồn mênh mang mờ mịt. Dường như cô phải gánh vác quá nhiều, cha mẹ đã mất, anh trai lại phát điên, làm sao cô có thể đảm đương nổi đây?

    Ánh sáng xuyên qua cửa sổ chiếu lên gương mặt thanh tú ấy, hàng mi dài, sống mũi cao, đôi môi anh đào. Đặc biệt là gương mặt, mặt Đường Mẫn rất trắng, dưới làn ánh sáng tự nhiên mềm mại đó, tư thái lặng yên không nhúc nhích của cô ấy tựa như một pho tượng tạc từ bạch ngọc vậy. Trác Mộc Cường Ba thầm nghĩ, cô gái này rất giống một người, người ấy nhất định đã chiếm cứ địa vị cực kỳ quan trọng trong lòng gã, gảm giác ấy, không ngờ còn quan trọng hơn cả vị trí của người vợ cũ trong lòng gã, là ai đây nhỉ? Con gái? Không, giữa cô và con gái gã không hề có điểm nào chung cả. À! Em gái…"

    Cánh cửa ký ức đã phủ bụi từ lâu nứt ra một khe hở nhỏ, phòng tuyến kiên cường trong chốc lát đã bị phá, tất thảy những nỗi bi thương hòa với đau khổ cuồn cuộn dâng lên. Những ký ức từng khiến gã khắc cốt ghi xương, không bao giờ dám nhớ lại, chỉ xuất hiện trong những cơn mộng mị, giờ lại đột nhiên hiển hiện trước mắt rõ mồn một. Gương mặt ngây thơ non nớt ấy thường lúc nào cũng nhoẻn miệng cười, hai hàm răng trông như ngọc như sứ, đôi mắt bên dưới hàng lông mày vừa to vừa sáng, không hề có chút ô trọc của tục thế, thanh khiết như tuyết trắng trên đỉnh ngọn Cương Nhân Ba Tề. Cô bé con cả ngày theo sau gã, gọi "anh trai, anh trai" lớn nhất mà cũng thân thiết nhất, gương mặt ấy đang từ từ trùng khít lên cô gái đang ngồi trước mặt gã. Trác Mộc Cường Ba biết rất rõ, cô gái đang ngồi đối diện với mình đây tuyệt đối không phải là em gái gã. Nếu em gái gã vẫn còn trên thế giới này, có lẽ nó đã lập gia đình rồi, có lẽ còn có một đứa con trai tầm bảy tám tuổi, và cả một đứa con gái nữa; chồng nó là dân chăn nuôi, trong nhà có một đàn dê bò lớn, căn lều lớn nằm trên thảo nguyên xanh mướt, mặt hướng về núi xanh thăm thẳm, lưng quay hướng trời cao…

    "Cho một phần… Tôi rất là thích ăn món Thượng Hải. Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông gọi món gì nhỉ? Này, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh?" Đường Mẫn đã chọn xong món, phát hiện Trác Mộc Cường Ba đang nhìn mình chăm chăm, không hiểu tại sao, nhưng trong lòng không khỏi có chút căng thẳng. Cô nhanh chóng nhận ra, gã chỉ đang hướng về phía mình, nhưng ánh mắt kia tuyệt đối không phải đang nhìn mình, mà tựa như có chút xuất thần, không biết là đang nghĩ đến chuyện gì. Đường Mẫn hơi thấy hụt hẫng, lại gọi Trác Mộc Cường Ba thêm mấy tiếng nữa, nhưng giọng cô rất nhỏ, như sợ làm đứt đoạn dòng hồi ức của gã. Chính cô cũng cảm thấy không hiểu tại sao mình lại như vậy nữa. Còn Trác Mộc Cường Ba khi ấy đang hồi tưởng lại cảnh tượng xung quanh là núi xanh cỏ biếc, trên một dốc núi nhỏ, em gái ngồi trên vai gã ngước nhìn ra xa.

    "Anh ơi, Thượng Hải có lớn không?"

    "Ừm, lớn lắm."

    "Lớn thế nào? Có lớn bằng làng chúng ta không?"

    "Ừm, lớn hơn làng của chúng ta rất nhiều…"

    "Lớn hơn cả làng chúng ta nữa cơ à, thế thì đúng là lớn lắm rồi!"

    "Anh à…"

    "Ừ?"

    "Thượng Hải ở bên kia ngọn núi phải không?"

    "Ừm, ở bên kia ngọn núi… Anh dẫn em đi Thượng Hải nhé, có thích không? Thượng Hải ấy à… nhiều đồ ăn ngon lắm…" Nghĩ mãi nghĩ mãi, khóe mắt Trác Mộc Cường Ba đã hơi ươn ướt.

    "Trác, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, tôi, tôi nói gì sai à?" Không hiểu vì sao, nhìn thấy ánh mắt đó của Trác Mộc Cường Ba, Đường Mẫn bỗng dưng luống cuống.

    "Xin lỗi" Trác Mộc Cường Ba giật mình sực tỉnh, mỉm cười nói, "Không, không liên quan đến cô. Tôi có một người em gái, có lẽ lớn hơn cô một chút, nhưng không hiểu sao, vừa thấy cô, tôi liền nhớ đến nó."

    "A, xem ra ông rất tốt với em gái mình, chị ấy giờ đang ở đâu thế?"

    "Không biết, từ hồi nó còn rất nhỏ đã bị lũ phỉ bắt đi rồi…"

    Chết, xin, xin lỗi ông, tôi không biết, tôi…"

    "Không sao mà, đó có phải lỗi của cô đâu. Cô em gái đó của tôi ấy à, nó toàn mắc lỗi thôi, mỗi lần làm sai chuyện gì, là chỉ biết kiếm tôi ra chịu tội thay cho nó thôi, kỳ thực, thật tâm nó muốn làm cho tốt lắm chứ, nhưng lần nào cũng vụng về vậy cả. Khi ấy tôi thường nghĩ, nếu có một ngày nào đó, tôi không ở bên cạnh nó nữa thì nó biết phải làm sao, tôi chẳng bao giờ ý thức được ý nghĩ ấy lại đem tới vận hạn như thế cả." Trác Mộc Cường Ba khẽ gượng cười khổ não, nét mặt đượm vẻ đau buồn.

    Đường Mẫn cũng cảm động lây mà khẽ nói: "Đừng thế, có anh trai thật tốt biết bao, từ nhỏ tới lớn, dù là chuyện gì cũng có anh trai giúp hết. Nếu bị ai ăn hiếp, có thể lớn tiếng mà hét lên rằng, tao sẽ đi mách anh tao! Nhưng… anh trai tôi, anh ấy…" nói đến đây, nước mắt Đường Mẫn bỗng trào ra.

    Mới đầu Trác Mộc Cường Ba cũng không để tâm lắm, an ủi một hai câu cho xong. Nhưng nước mắt Đường Mẫn càng khóc thì lại càng nhiều, không ngừng rơi ra tựa chuỗi hạt đứt dây xâu, lúc ấy, gã mới ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề…

    ° ° °

    "Sao thế này? Mọi người không ai đi ngủ mà tụ tập ở đây nói chuyện hết à, vẫn hưng phấn vì chuyện ngày mai phải không? Đây không phải tố chất mà những thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt của chúng ta nên có đâu đấy nhé." Giáo sư Phương Tân cũng bước ra nhập bọn. Nhạc Dương vội nhích ra nhường chỗ cho ông, đồng thời nói: "À, Cường Ba thiếu gia mới kể một ít chuyện ngày xưa…"

    Nói đoạn, anh chàng liền kể vắn tắt một lượt những gì Trác Mộc Cường Ba vừa nói. Nhạc Dương hiểu rõ, phàm là những chuyện Cường Ba thiếu gia đã nói, giáo sư đều biết cả. Đúng là giáo sư Phương Tân biết chuyện này, nhưng ông chưa từng nghĩ rằng người đàn ông vẻ ngoài cương nghị ấy, sâu thẳm bên trong vẫn không thể buông bỏ được như thế. Ông vỗ lên sau gáy Trác Mộc Cường Ba, nói: "Những chuyện đã qua sẽ trở thành ký ức trong cuộc đời cậu, chớ nên mang trong mình quá nhiều gánh nặng không thể buông bỏ như thế. Cậu phải nghĩ thế này này: giờ đây chắc chắn cô ấy sống hạnh phúc hơn trước kia, cô ấy đã tự lựa chọn con đường của mình, cậu cần phải tôn trọng lựa chọn của cô ấy, mà cả cậu nữa, cậu cũng có lựa chọn của riêng mình. Trong cả cuộc đời của một con người, nói chung là sẽ phải trải qua rất nhiều chuyện, phải học biết trân quý, cũng phải học cách từ bỏ. Cậu không thể cứ ôm đồm tất cả mọi thứ rồi đổ lỗi cho mình được, đã từng đánh mất một lần, vậy thì càng phải trân quý những người hiện giờ ở bên cạnh cậu mới phải. Đường Mẫn là một cô gái tốt, tuy rằng tuổi tác của cô ấy và cậu hơi cách biệt, nhưng tôi nhìn ra được, cô bé ấy thật lòng với cậu đấy. Tôi nghĩ là cậu cũng biết chuyện này, mới đầu tôi không thích cô bé ấy cho lắm. Nhưng mà, cậu có biết tại sao không?"
     
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 64: Núi Tuyết


    Quả nhiên, vừa nghe nói đến Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba liền thoát khỏi hẳn tâm trạng tự trách móc mình, ngước nhìn giáo sư Phương Tân, không khỏi luống cuống ngượng ngùng, ấp úng nói: "Không… không biết."

    Trương Lập cũng biết chuyện này. Chính xác, ngay từ khi gặp Đường Mẫn lần đầu, giáo sư đã không được vui rồi. Về chuyện này, anh cũng từng nghĩ mãi mà không sao hiểu nổi. Bản thân Trương Lập thấy Đường Mẫn ngoài chuyện tuổi tác hơi chênh lệch với Trác Mộc Cường Ba thì cũng đâu có vấn đề gì.

    Giáo sư Phương Tân điềm đạm nói: "Bởi vì ngay khi gặp mặt lần đầu tiên, tôi đã không thích cô ấy rồi." Nói đoạn ông quay sang phía Nhạc Dương và Trương Lập tiếp lời, "Có lẽ cô ấy là loại con gái mà đám thanh niên các cậu ưa thích, xinh xắn đáng yêu, vừa đanh đá thông minh lại vừa cổ quái; nhưng khi tôi nhìn cô bé đó, trong cặp mắt cô ấy có một thứ tà mị hết sức tự nhiên, đó là một cặp mắt không cần điểm trang tô vẽ gì cũng có thể hút hồn đàn ông. Với kinh nghiệm làm người của tôi, một cô gái như thế rất khó có thể chỉ trung trinh với một người đàn ông thêm nữa là khoảng cách tuổi tác giữa hai người rõ rệt như vậy, thế nên khi ấy tôi đã nghĩ, cô công chúa nhỏ đã quen được cưng chiều này sẽ không thể nào ở lâu bên cậu được."

    Trác Mộc Cường Ba lấy làm ngạc nhiên, không ngờ lần đầu tiên gặp mặt Đường Mẫn giáo sư Phương Tân lại có ấn tượng như vậy, chẳng trách ông cứ mặt nặng mày nhẹ với Đường Mẫn mãi. Giáo sư Phương Tân hơi cúi đầu xuống, nói: "Sự thực chứng minh rằng tôi đã sai, tiện đây tôi cũng chính thức nói với cậu một tiếng xin lỗi."

    Trác Mộc Cường Ba hoảng hốt đứng lên, nói: "Thầy giáo, xin đừng nói thế, mỗi một việc thầy làm đều là vì tôi cả, sao tôi có thể không biết được. Thực ra, khi ấy tôi… tôi còn tưởng là…"

    Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: "Có biết là khi nào cô bé ấy làm tôi cảm động không? Không phải vì cô ấy có thể chịu đựng tất cả khổ sở khi huấn luyện, cũng không phải lúc liều mạng cứu cậu trong địa cung Ahezt, kể cả ánh mắt thê lương tuyệt vọng trong Đảo Huyền Không tự cũng không thể, chính là lúc ở trong bệnh viện ấy."

    "Trong bệnh viện? Là lúc hai chúng tôi cùng vào bệnh viện à?"

    "Không phải, đương nhiên không phải là lúc hai người tay nắm chặt tay lên bàn phẫu thuật, mà là sau khi phẫu thuật. Con người cậu lúc nào cũng tùy tiện cẩu thả, xưa nay chưa từng chú ý đến những chuyện Mẫn Mẫn đã làm trong bệnh viện. Vết thương của cô ấy vừa đỡ một chút, đã đòi tự mình chăm sóc cho tôi, lạt ma Á La, rồi cả hai thằng nhóc này và Ba Tang nữa, sự chăm sóc tỉ mỉ chu đáo đó, là do cô ấy đã đem tình yêu của mình dành cho cậu, dồn cả vào mỗi người ở bên cạnh cậu nữa, tình cảm ấy tuyetj đối không thể nào giả tạo được. Nếu cậu thật sự quan sát tỉ mỉ thì sẽ phát hiện ra thôi, cô ấy cẩn thận gấp từng chiếc ga trải giường, rồi ánh mắt chăm chú của cô ấy lúc tính vận tốc truyền dịch, mỗi lần rửa mặt cho chúng tôi, chiếc khăn mặt đã vặt khô cần dừng lại trên không mấy giây, mỗi động tác của cô ấy đều hết sức chu đáo, đều toát lên tình yêu sâu đậm dành cho cậu. Hơn nữa cô ấy không chỉ đối tốt với cậu, mà còn với từng người ở bên cạnh cậu nữa, có thể thấy đó đã không còn là một tình yêu bình thường nữa rồi, trong đời người có thể gặp được một vị hồng nhan tri kỷ như thế là thỏa mãn lắm rồi. Tất nhiên, đối với một người thiếu chú ý như cậu mà nói, chắc chắn là chẳng cảm nhận được gì rồi."

    Trác Mộc Cường Ba hổ thẹn cúi gằm mặt xuống, trong lòng thầm thở than: "Chậc, vẫn là thầy giáo hiểu mình nhất…"

    Nhạc Dương nhìn vẻ ngượng ngùng của Trác Mộc Cường Ba, trong lòng cầm không được thầm nhủ: "Chỉ sợ không chỉ mình Mẫn Mẫn như thế thôi đâu. Giáo quan, cả mấy cô y tá thường ghé qua nữa, tôi đều nhận thấy có một cảm giác như thế cả, đến cả con mèo thỉnh thoảng chạy lại ngoài cửa sổ kia nữa chứ. Hừm, anh đúng là sát thủ của phái nữ!" Anh chàng đánh mắt với Trương Lập một cái, cả hai đều ngấm ngầm gật đầu có vẻ hiểu nhau lắm.

    Giáo sư Phương Tân như sự hiểu ra chuyện gì dó, cất tiếng hỏi: "Đúng rồi, Cường Ba à, điệu bộ thẽ thà thẽ thọt muốn nói rồi lại thôi của cậu khi nãy là ý gì thế? Cậu bảo cậu tưởng là… tưởng cái gì thế hả? Khi ấy có phải cậu đang nghĩ, lão già sắp xuống lỗ này nhìn trúng cô bồ của cậu rồi, phải vậy không hả?"

    "A… ôi…" Trác Mộc Cường Ba vội đứng bật dậy, hấp tấp xua tay như thể bị người ta nhìn thấu tâm tư trong lòng: "Tôi… tôi không có nói như vậy… tôi không có nói như vậy mà, phải không?" Trương Lập đột nhiên nói: "Hình như tôi có nghe thấy, lúc ấy Cường Ba thiếu gia thì thẩm lẩm bẩm gì đó, cậu cũng nghe thấy nữa, đúng không, Nhạc Dương?"

    "Hai cậu này… đồ ăn có thể ăn bừa bãi được, nhưng nói năng thì không được bừa bãi đâu đấy…"

    "Đúng mà, nghe thấy rồi, nghe thấy rồi. nghe rõ lắm". Nhạc Dương cũng phụ họa theo.

    Đội trưởng Hồ Dương nhoẻn miệng cười, đám mây âm u trong lòng Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng nhạt bớt phần nào.

    Đêm hôm đó, gió nhẹ rì rào, lũ côn trùng khẽ ngâm nga trong bụi cỏ…

    ° ° °

    Sáng sớm ngày hôm sau, sương mờ vẩn vít, đoàn người đeo ba lô lên lưng, đứng trên ngọn đồi cao nhìn lại khu đất trũng sau lưng, nơi có doanh trại họ đã huấn luyện gần hai năm, giờ đây, bất luận là thành công hay thất bại, họ cũng đều không trở lại nữa. Tâm trạng ai nấy đều rất phức tạp, vừa khao khát thành công, lại pha lẫn một chút bất nhẫn, căng thẳng, hưng phấn, bất an, bao nhiêu cảm xúc hòa quyện vào nhau, chỉ thấy trái tim đập nhanh hơn, mạnh hơn bất cứ thời điểm nào khác trước đây.

    Máy bay trực thăng từ từ hạ cánh xuống bình đài trên đồi cao, các thành viên trong nhóm lần lượt xếp hàng một đi vào, cánh quạt quay chậm dần rồi lại nhanh dần, từ từ bốc lên cao, mang theo một đoàn người ôm bầu mộng tưởng bay thẳng lên trời xanh thăm thẳm.

    Nhìn núi non tuyết phủ điệp trùng đang dần thu nhỏ lại, trong lòng Trác Mộc Cường Ba chợt dâng trào một thứ cảm giác kỳ dị. Nơi mà bọn họ sắp đi tới đây, từ hai năm trước, chú La Ba đã nhắc đến với gã rồi, đó là vùng đất bị thần linh nguyền rủa, nơi mây đen bất tường đã mang màn khói mù đến che phủ vĩnh viễn, và đêm đen ngập ngụa trong những hơi thở tà ác. Chỉ có những sinh mạng đã mất hết lương tri mới bị ném vào địa ngục vĩnh viễn không thể quay đầu đó. Giờ đây thoắt cái đã hai năm trôi qua rồi, đi cả một vòng lớn, cuối cùng bọn họ lại đến đại tuyết sơn, vận mệnh tựa như đang đùa cợt với gã, một trò đùa không lớn mà cũng chẳng nhỏ, vòng một vòng, cuối cùng trở về khởi điểm. Điều khác biệt duy nhất là, giờ đây mục đích của bọn họ đã rõ ràng hơn trước rất nhiều, mà đoàn người cũng từ hai người khi ấy biến thành mười người của bây giờ.

    Trước khi xuất hành, Lữ Cánh Nam đã nói với mọi người, đích đến lần này của họ là một ngọn núi tuyết con người chưa từng chinh phục, tuy quốc tế đã có tên gọi chính thức, nhưng dân Tạng quanh vùng đó đều gọi là Nữ thần Tư Tất Kiệt Mạc. Nó nằm ở lưng chừng mạch núi Himalaya, so với các ngọn núi tuyết xung quanh thì không phải cao lắm, nhưng lại là ngọn núi nguy hiểm nhất. Thực tế là, trong quá khứ, cả một vùng từ Lạc Trát đi về phía Tây, dọc theo sống lưng dãy Himalaya kéo thẳng đến Phổ Lan, đều được coi là vùng đất cấm đối với nhân loại, người địa phương gọi là: Tử vong Tây phong đới. Đặc biệt là ngọn núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc mà họ sẽ đến lần này, theo lời chú Ba La từng nói, cao hơn bảy nghìn mét so với mực nước biển, tốc độ gió trung bình cấm mười tám, nhiệt độ trung bình khoảng ba mươi độ âm, độ bão hòa ô xi bình quân chỉ có 10%. Ngọn núi này chủ yếu có sáu triền núi, triền Tây Bắc – Đông Nam nằm trên sống lưng của mạch núi Himalaya, ngoài ra còn có triền Bắc, triền Tây, triền Tây Bắc, triền Tây Nam. Trên triền núi dốc ngược vẫn còn dày đặc dấu vết những trận lở tuyết. Lưng chừng núi là một dốc băng cao dần lên theo chiều từ Bắc hướng Nam, diện tích tương đối lớn. Mặt phía Bắc tựa như bị đao chặt rìu đẽo, độ dốc bình quân đạt tới trên 75 độ. Đỉnh phụ trên triền núi phía Bắc tên là La Mạc Cương Kỳ, cao 6.816 mét so với mực nước biển. Đỉnh phụ trên triền núi phía Tây tên là Tán Quách Hạ Ngõa Như Nhân, cao 6.640 mét so với mực nước biển. Đỉnh phụ trên triền núi phía Đông Nam là Đa Kết Ngọc Trọng Mã tương đối cao, 7.010 mét. Những đỉnh núi này đều phủ một lớp băng tuyết dày, trong khe núi có những sông băng khổng lồ, bên trên sông băng có nhiều vách dựng đứng và khe sâu hình răng cưa, rất thường xuyên xảy ra hiện tượng lở băng lở tuyết. Nhìn trên bản đồ vệ tinh, lờ mờ có thể thấy đỉnh phụ có hình răng sói, mấy đỉnh phụ giao nhau đan xen, giống một con ác quỷ đang nghiến chặt răng, vách băng dựng đứng, thế núi vô cùng hiểm trở, đỉnh núi quanh năm bị sương tuyết mù mịt bao kín, mờ mờ ảo ảo tựa như ảo ảnh. Thậm chí cả người dân tộc Hạ Nhĩ Ba xưa nay vốn được xưng tụng là những người hướng đạo trên núi tuyết cũng không sẵn lòng đến đó, một nơi dường như là vùng đất chỉ có đi mà không có về. Thế mà nơi họ muốn kiếm tìm phỏng chừng là một cái khe nằm giữa hai đỉnh núi, bị rặng núi vây quanh, hình thành nên ngõ tránh gió của dải Tây phong. Muốn tìm ra nơi ấy, trước tiên phải trèo lên được đỉnh gọn núi tuyết quanh năm không lộ ra diện mạo thật này đã.

    Thực ra mọi người đã quen với cái tên Nữ thần Tư Tất Kiệt Mạc này rồi, dịch nghĩa ra thì chính là chỉ Tử thần. Vị thần này mắt phóng ra tia chớp điện, mũi thở ra cuồng phong, tai vang tiếng sấm, đầu tóc dựng đứng xoay chuyển như mây, trên mình đeo trang sức là các thi thể màu đỏ đen, hình tượng cực kỳ đáng sợ.

    Máy bay trực thăng bay về phía Tây Nam, men theo sơn cốc khổng lồ mà tiến lên, hai bên núi non hiểm trở, đỉnh núi phủ tuyết trắng xóa nổi bật trên nền trời xanh thăm thẳm, tựa như đang bay trên đường bay Đà Phong vậy. Trác Mộc Cường Ba lờ mờ cảm thấy những dãy núi này như mỗi lúc mỗi quen thuộc, cảm giác ấy càng lúc lại càng thêm rõ rệt, cuối cùng, gã đột nhiên sực nhớ ra, nếu lộ trình bay này không sai, bọn họ đang tiến về phía huyện Đạt Mã. Nếu là huyện Đạt Mã thì Trác Mộc Cường Ba gã biết rất rõ. Huyện này ở đoạn giữ mạch núi dãy Himalaya, là vùng tiếp giao giữa ba nước Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, núi tuyết bao phủ ba mặt, địa thế cao dốc hiểm yếu, khí hậu bị ảnh hưởng của luồng khí nóng ẩm từ Ấn Độ Dương thổi vào, lương mưa rất dồi dào. Trong sơn cốc, cây cối xanh um rậm rạp, có những cánh rừng nguyên sinh rất lớn, các đường vào núi cũng giống như đường vào Mặc Thoát vậy, đều được đục trên vách núi dựng đứng cao ngất, nhìn từ xa, những con đường nhỏ trông như vết dây thừng thít vào da thịt núi đá thành vết hằn sâu hoắm. Hiện nay, trong đám dân mê đi du lịch lữ hành đã có nhiều người biết đến Mặc Thoát, song kẻ biết đến Đạt Mã thì vẫn còn ít, nhưng dấu chân của Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân thì gần như đã in khắp nơi trong huyện Đạt Mã này rồi.

    Nguyên nhân họ quen thuộc nơi này không gì khác chính là bởi trong các tư liệu cổ có ghi chép, huyện Đạt Mã là nơi sản sinh ra giống ngao hung hãn nhất, đồng thời cũng trung thành bảo vệ chủ nhân nhất. Ngày nay ở phía Nam huyện Đạt Mã vẫn còn giữ được nét chữ của người cổ đại khắc trên vách đá, do người Hán khắc theo thể chữ Khải, niên đại xa xưa lắm rồi, hầu như đã mờ tróc, chỉ còn lờ mờ nhận ra được mấy chữ "Thiên Trúc", "Ngao châu". Theo kết quả khảo chứng, một số tài liệu tạp ký dã sử có nhắc đến một cách sơ lược đại khái rằng, đi Thiên Trúc, ắt phải qua Đạt Mã – người Hán gọi đây là Ngao châu – nơi yết hầu cửa ngõ, là vùng đất binh gia nhất quyết phải tranh giành, vân vân. Niên đại của những tư liệu dã sử ấy có thể truy ngược lên tới triều Đường. Có điều khi bọn Trác Mộc Cường Ba đến huyện Đạt Mã và nghiên cứu, Ngao châu thuở xưa đã suy tàn, gã và giáo sư Phương Tân đã nỗ lực rất nhiều, song vẫn không thu hoạch được thứ gì khả quan. Còn có một điều khiến họ lấy làm nghi hoặc khó hiểu, đó là Ngao châu cách Đảng Hạng quá xa, cũng không phải nơi xảy ra trận đại chiến cuối cùng với vương triều Tượng Hùng, vậy mà lại là nơi sản sinh ra giống ngao hung mãnh nhất, trung thành bảo vệ chủ nhân nhất, cảm giác nghe không được lọt tai cho lắm.

    Ước chừng đã vào đến địa giới huyện Đạt Mã, máy bay trực thăng đưa họ lên tới độ cao khoảng hơn bốn nghìn mét gần năm nghìn mét so với mực nước biển. Theo lời Lữ Cánh Nam, ở đây có thôn làng gần với núi thần nhất – làng Nạp Lạp, cũng là trạm tiền tiêu của họ trong chuyến leo núi lần này. Trác Mộc Cường Ba lục tìm trong ký ức, dường như không có ấn tượng gì với địa danh này, hai hàng lông mày không khỏi nhíu lại.

    Nạp Lạp là một khe núi nằm giữa các đỉnh núi tuyết, địa hình tương đương với khe Nguyệt Lượng ở sa mạc.

    Núi tuyết vây quanh đây ngọn này cao hơn ngọn kia, chen vai thích cách, lằn ranh tuyết trên sườn núi nhấp nhô trải dài, hình thành nên một dải Vạn Lý Trường Thành từ băng tuyết thiên nhiên, cả trong lẫn ngoài dải trường thành đều trải ra một vùng mênh mang rộng lớn.

    Cơn gió cắt da cắt thịt gào thổi qua triền núi, một năm bốn mùa, vĩnh viễn không có phút nào ngơi nghỉ. Nhưng nhờ núi cao hai bên ngăn khí lạnh, trong khe núi đã ấm áp lại nhiều mưa, cỏ xanh mơn mởn, rất nhiều bò dê sinh sống, nên nhìn từ trên cao xuống, trên lưng chừng ngọn núi tuyết nom như trải ra một tấm thảm lông tơ xanh hình mảnh trăng khuyết vậy.

    Băng tuyết tan chảy thành những dòng suối trong vắt dồn tụ lại trên tấm thảm xanh, hình thành nên những hồ lớn hồ nhỏ, mặt hồ phản chiếu đỉnh núi tuyết phủ, nước hồ đều ánh lên một màu trắng sữa, nhìn tư xa trông chẳng khác nào vô số viên trân châu lớn nhỏ các cỡ. Một dòng sông tựa như sợi dây nối liền những mặt hồ trân châu này lại, rồi chảy vòng qua đòng cỏ, xuyên qua khu dân cư.

    Vì nơi này là khu dân cư ở vị trí cao nhất so với mực nước biển của Trung Quốc, thậm chí là của cả thế giới, khí hậu lại vô cùng lạnh lẽo, nên nhà cửa ở đây đều thấp lè tè, từ không trung nhìn xuống, trông hệt như những hộp diêm mỏng quét. Khá nhiều căn nhà đá xây dựng theo kiến trúc đặc trưng của người Tạng, cũng có cả những ngôi nhà gỗ nhỏ. Người dân nơi đây đều dựng nhà ở nơi có nước, trước cửa có dòng sông chảy qua, ngoài cửa sổ là hồ nước, cảnh tượng ấy dễ khiến người ta liên tưởng đến một khu dân cư ở vùng sông nước Giang Nam.

    Lũ bò dê đều được thả dải rác trên đồng cỏ, ung dung thoải mái, trông hết sức nhàn nhã. Nhạc Dương ngồi trên trực thăng ngắm nhìn mà lấy làm ngưỡng mộ, nói: "Xem ra người ở đây chẳng phải làm gì hết cả, sáng sớm dê bò tự ra ngoài, tối tối lại tự quay về chuồng, mở cửa sổ ra là nhìn thấy hồ nước đồng cổ, còn cả núi tuyết và trời xanh mây trắng nữa. Ngày ngày ở trong nhà uống ly trà, đánh ván cờ, hay cưỡi ngựa đi dạo một vòng cũng được, ối chà, cuộc sống như vậy cơ đấy, chậc chậc, tôi cũng muốn sống lâu dài ở đây!"

    Đội trưởng Hồ Dương cười mắng: "Cái thằng nhóc này, nếu thật sự sống ở đây, chỉ sợ chưa được hai tháng cậu đã kêu gào đòi về thành phố rồi ấy chứ." Nhạc Dương nghe thế chỉ "hứ" một tiếng, không thèm để ý.

    Lúc xuống trực thăng họ mới phát hiện ra, khí hậu nơi này còn khô hanh, lạnh lẽo hơn trong tưởng tượng của họ rất nhiều. Nhạc Dương không chịu được phải đưa tay lên bịt mũi rùng mình mấy cái. Tiếng ồn của máy bay trực thăng làm kinh động dân cư sống quanh đó, dân làng ở trong nhà lũ lượt chạy ra xem có chuyện gì. Khi nhận ra có khách đến, ai nấy đều tỏ ra hết sức nhiệt tình, trên mặt lần lượt hiện lên nụ cười rạng rỡ. Nhạc Dương lại cảm khái than thở, nơi này so với thôn Công Bố thì thật là khác nhau một trời một vực.

    "Lâu lắm rồi chỗ chúng tôi không có nhiều khách thế này, bên ngoài gió lớn, mời mọi người vào nhà tôi nghỉ ngơi đã. Cả anh phi công kia cũng vào uống chút rượu nóng cho ấm người nhé." Giữa đám người bước ra một vị tuổi tác khá cao, đại khái chắc là trưởng thôn, tươi cười vui vẻ bảo nhóm người bọn Trác Mộc Cường Ba, "Các đồng chí bộ đội đã nói với chúng tôi rồi. Tôi tên là Mã Bảo, tôi sẽ giúp mọi người giải quyết chuyện ăn ở."

    Mấy người lạt ma Á La, giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều không thấy có gì lạ, nhưng đám Nhạc Dương, Trương Lập thì nghe mà trợn tròn cả mắt lên. Bọn họ hoàn toàn không hiểu ông trưởng thôn tuổi độ ngũ tuần này đang nói cái gì. Nhạc Dương khẽ kéo kéo vạt áo lạt ma Á La, thì thầm hỏi: "Đại sư, ông ấy nói tiếng gì thế?"

    "Tiếng Tạng mà." Lạt ma Á La thoáng ngẩn người, rồi ngay sau đó liền mỉm cười, nói: "Họ nói tiếng Tạng đấy, chỉ có điều phát âm hơi khác, thuộc vào loại phương ngôn, các cậu chú ý nghe kỹ là hiểu được thôi."

    Đám Nhạc Dương đầu tiên cũng nghĩ là tiếng Tạng, vừa nghe thấy không giống, liền chiếu theo lối tư duy của tiếng Tạng cổ để tiếp nạp thông tin, nhưng cũng hoàn toàn chẳng hiểu gì. Giờ được lạt ma Á La nhắc nhở, mới biết là phương ngôn, nghiền ngẫm đoán mò một lúc lâu, cuối cùng cũng lờ mờ đoán ra được một chút, nghe kiểu như người Thượng Hải hay người Quảng Châu nói tiếng phổ thông vậy, đúng là bọn họ nói tiếng Tạng, chỉ là phát âm hoàn toàn khác biệt mà thôi.

    Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn đồng hồ, đoạn nói với đám Trác Mộc Cường Ba: "Chúng ta sẽ ở đây nghỉ ngơi chỉnh đốn mấy ngày, một là để thích ứng với hoàn cảnh núi cao, hai là đợi thông báo của Cục Khí tượng, xem lúc nào thời tiết thích hợp cho việc leo núi. Thời gian xuất hành lên núi có thể là bốn năm hôm nữa, hoặc cũng có khả năng là ngày mai. Chúng ta cần phải xem và tìm hiểu địa thế núi non xung quanh đây, xác định tuyến đường có thể lên tới đỉnh núi. Giờ là 11 giờ, trước chính ngọ là thời điểm sương mù trên đỉnh núi có khả năng tan nhiều nhất, chúng ta sẽ chia thành ba tổ, lần lượt tiến hành khảo sát tuyến đường lên đỉnh núi từ ba hướng Đông, Nam, Bắc. Giờ tôi sẽ sắp xếp, nhóm của Trác Mộc Cường Ba, Hồ Dương, Nhạc Dương đi hướng đông, lạt ma Á La, Ba Tang, Trương Lập đi theo hướng phía Nam, giáo sư Phương Tân, tôi và Mẫn Mẫn sẽ đi theo hướng Bắc, mọi người đã nghe rõ cả chưa? Mã Bảo, chúng tôi cần ba người dẫn đường.

    Mã Bảo gật đầu, gọi trong đám người làng ra hai tay trung niên cường tráng khỏe mạnh, rồi hỏi: "Không vào nhà nghỉ ngơi một lát à? Có cần bỏ bớt ba lô trong nhà không?"

    Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Không cần thiết, chúng tôi phải nhanh chóng thích ứng với hoạt động mang vác nặng trong môi trường mới này, nếu ở dưới chân núi còn không thể vừa mang vác những máy móc và nhu yếu phẩm này vừa hành động, vậy thì làm sao mà lên núi tuyết được?"

    Mã Bảo thở dài một tiếng, nói: "Lên núi tuyết ư… khó đấy!"
     
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 65: Kẻ Tôi Tớ Của Núi Tuyết


    Tổ của Trác Mộc Cường Ba phụ trách khảo sát xem khe núi nằm giữa đỉnh phụ phía Đông Nam Đa Kết Ngọc Trọng Mã và đỉnh chính có thích hợp để leo lên hay không, lối này vừa xa lại vừa khó đi, nên Mã Bảo đích thân dẫn đường cho bọn họ.

    Dọc đường, qua chuyện trò Trác Mộc Cường Ba mới biết, Mã Bảo thực ra không phải là trưởng thôn gì cả, ngôi làng trên danh nghĩa này kỳ thực là một khu dân cư hình thành tự phát của đám dân du mục, trong thôn có bốn năm chục hộ gia đình, mọi người thân thiết như trong một nhà vậy. Ai gặp chuyện gì chỉ cần nói một tiếng, tất cả mọi người trong thôn đều sẽ giúp đỡ. Hơn nữa từ bao nhiêu năm nay, trong thôn làng này cũng chẳng có chuyện gì lớn lao xảy ra cả, những chuyện lớn nhất đều không ngoài mấy thứ tang ma hiếu hỷ.

    Người trong làng đều là người Đạt Mã. Theo như Trác Mộc Cường Ba được biết, người Đạt Mã ở huyện Đạt Mã này đa phần đều từ Nepal di cư đến vùng giữa rặng Himalaya vào khoảng cuối đời nhà Thanh, nhưng bọn họ vẫn khăng khăng tin rằng mình là hậu duệ của người Tạng, cũng có người nói họ là con cháu của tộc Khắc Lạp Để. Họ không có chữ viết, trước giải phóng cũng sống theo lối hết sức nguyên thủy, đốt nương làm rẫy, thắt dây rừng để ghi nhớ lại sự việc. Vì nơi này là vùng tiếp giáp hai nước Trung Quốc và Nepal, nêu bọn họ cũng thường xuyên đi qua đi lại giữa hai nước, họ hàng thân thích của nhiều người Đạt Mã đều vẫn sinh sống ở Nepal, nhưng họ thì vẫn kiên trì cư trú trên lãnh thổ Trung Quốc, vì cho rằng đất nước Trung Quốc đang dần dần lớn mạnh, ngày tháng sau này sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. Hiện giờ thì cuộc sống của người dân trong làng Mã Bảo về cơ bản không khác biệt gì so với người Tạng, cũng nói tiếng Tạng, ăn bánh bột mì Thanh Khoa, chỉ có điều các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng thì tương đối ít, chỉ có các hoạt động chuyển kinh chuyển sơn 1, hơn nữa còn đi theo chiều ngược chiều kim đồng hồ của Bản giáo.

    Còn việc lên núi tuyết, Mã Bảo lắc đầu nói với họ, từ năm nọ năm kia nào đó, đội khảo sát của nhà nước cũng đến rồi, nhóm mười ba người đã vào núi, nhưng chưa đến một nửa số ấy sống sót trở ra; lại có năm, đội thám hiểm của Anh cũng đến, nhưng cuối cùng không thấy người nào quay lại; về sau có cả người Mỹ, người Đức, các loại thiết bị máy móc còn hiện đại tiên tiến hơn của họ bây giờ nhiều, nhưng lần nào cũng là mười người đi cùng lắm chỉ có một hai người về. Dải gió Tây chết chóc đâu phải chỉ là tên gọi, đỉnh Chomolungma (tức Everest, cao nhất trái đất: 8.848 m) có thể leo được, bởi đó là nữ thần nhân từ, còn Tử thần Tư Tất Kiệt Mạc lại là vị nữ thần có tính khí nóng nảy nhất, không ai có thể gánh chịu được lửa giận của Người.

    Lúc họ đến được điểm quan trắc, đỉnh núi phủ mây mù, chỉ có thể nhìn thấy khoảng từ lưng chừng núi đổ xuống. Đội trưởng Hồ Dương chỉ liếc mắt nhìn qua một lượt, đã đoán định ngay: "Con đường này không thể đi được." Kế đó anh tiến hành đo đạc trắc địa hết sức thuần thục, đồng thời chỉ cho Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương thấy những chỗ nguy hiểm. Anh cho rằng có ba nguyên nhân khiến con đường này không thể thông hành, một là khí hậu quá khắc nghiệt, hai là địa hình quá phức tạp, ba là độ dốc quá lớn. Với nhân lực và trang bị của họ lúc này, lên núi chính là tự lao đầu vào chỗ chết.

    Mã Bảo cười cười nói với họ, những gì họ thấy đã là tương đối tốt rồi, bỏi trong truyền thuyết Đa Kết Ngọc Trọng Mã là vị nữ thần có tính nết khá tốt so với các thần linh khác. Lúc bình thường, nàng là vị nữ thần màu trắng vô cùng xinh đẹp, gương mặt luôn rạng rỡ nở nụ cười thân thiện, trên cổ nàng có vòng hoa kết từ bảo thạch, vàng bạc châu báu và hoa tươi, thường cưỡi một con sư tử màu xanh ngọc Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng khi nổi giận, nàng sẽ biến thành nữ thần mặt đen tính tình bạo ngược hung tàn, miệng nhểu máu, hai mắt tóe lửa, mũi phun khói mù mờ mịt, y phục của nàng cũng biến thành bộ áo da người lột từ tử thi, tay cầm bát đầu lâu đầy ắp máu người.

    Trác Mộc Cường Ba cảm thấy câu chuyện sao mà quen thuộc, tưởng chừng như gã đã nghe qua ở đâu đó rồi, nhất định là không phải chuyện cổ được nghe kể hồi nhỏ, nhưng nhất thời không nhớ nổi. Chỉ nghe đội trưởng Hồ Dương hỏi: "Vậy ý của anh tức là, kết quả quan trắc của hai nhóm kia còn tệ hơn cả chúng tôi nữa ư?"

    Mã Bảo gật đầu: "Chắc là thế đấy."

    Nhạc Dương nghe xong phải nghĩ ngợi một lúc mới đại khái đoán ra được ý của Mã Bảo, lẩm bẩm cằn nhằn: "Mới chỉ đến lưng chừng núi mà đã khó đi như vậy rồi, không biết sau khi mây mù tan đi, đỉnh núi kia sẽ trông như thế nào nhỉ?"

    Mã Bảo thì nghe hiểu được những gì Nhạc Dương nói, vội xua tay lia lịa: "Không thể nào đâu, sương mù trên đỉnh núi một năm bốn mùa lúc nào cũng có, tôi sống ở đây từ nhỏ đến lơn chưa thấy sương tan lần nào cả. Hồi trước nghe các bậc già lão nói, vì dẫu sao nữ thần cũng rất thích đẹp, nàng không muốn bị con người nhìn thấy bộ dạng dữ dằn hung ác của mình, thế nên đã che gương mặt mình đi. Đỉnh núi này mấy vạn mấy ngàn năm nay đều như vậy cả, chẳng bao giờ sương mù kia tan đi đâu."

    Sắc mặt đội trưởng Hồ Dương lộ vẻ lo lắng, anh vân vê bộ râu xồm xoàm của mình nói: "Lần này thì hỏng bét rồi, nếu sương mù trên đỉnh núi quanh năm không tan, thì buộc phải tiến hành leo lên đỉnh trong khu vực mù rồi, tình huống này gọi là leo núi theo kiểu tự sát. Hơn nữa, dù sương mù có tan đi, với kiểu địa hình này, khó hơn leo lên đỉnh Chomolungma rất nhiều, chỉ sợ còn khó hơn cả leo núi Nam Ca Ba Ngõa ấy, nơi đây tuyệt đối có thể xếp vào độ khó leo treo cấp 5.12 trong hệ thống YDS 2 đó.

    Trong thoáng chốc, cả ba người cùng chìm vào im lặng. Họ đều biết rõ, cấp 5.12 là cấp độ leo trèo khó nhất rồi, mà đội trưởng Hồ Dương thì tuyệt đối không ba hoa nói khoác. Lúc này Mã Bảo lại lên tiếng: "Cho dù mọi người có thể leo lên đến sườn núi, thì đoạn đường phía sau cũng không thể vượt qua được đâu. Chúng tôi hồi trước từng gặp rất nhiều người có thể leo vào màn sương mù, nhưng rồi không một ai trở về hết cả." Thấy sắc mặt bọn Trác Mộc Cường Ba càng khó coi hơn, Mã Bảo lại nói tiếp: "Trừ phi có Cương Nhật Phổ Bạc dẫn đường cho các vị."

    "Cương Nhật Phổ Bạc?" Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương cùng thoáng ngẩn người ra, trong ký ức của hai người đều có chút ấn tượng đối với cái tên này. Ý nghĩa của nó là kẻ tôi tớ của núi tuyết. Trác Mộc Cường Ba vẫn còn lờ mờ nhớ được, chẳng những gã từng nghe thấy cái tên này, mà còn tiếp xúc cả với con người ấy nữa. Nhưng nghĩ cho kỹ càng hơn, lại cảm thấy không phải thế, tựa hồ như thiếu mất mối liên hệ then chốt nào đó.

    "Đúng," Mã Bảo gật đầu, "nghe nói, anh ta là người duy nhất biết đường lên núi."

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Sao anh ta lại biết đường lên núi?"

    Mã Bảo lại lắc đầu: "Không biết. Có điều rất nhiều năm trước, một đội khảo sát khoa học của nhà nước có đến đây một lần. Khi đó là vợ Cương Nhật Phổ Bạc dẫn đường cho bọn họ, lần ấy bị thất bại, nghe đâu cả đoàn không có người nào trở về được. Về sau lại có một số nhóm khác đến muốn tìm Cương Nhật Phổ Bạc dẫn đường, nhưng anh ta không bao giờ đáp ứng nữa."

    "Tôi nhớ ra rồi," đội trưởng Hồ Dương nắm tay đấm vào bàn tay bên kia của mình thốt lên, "hồi tôi còn ở đội khảo sát sông băng Tây Tạng đã nghe nói đến người này rồi. Dạo đó nhà nước muốn đi đo đạc thăm dò một ngọn núi tuyết, chỉ vì Cương Nhật Phổ Bạc không chịu dẫn đường, vì vậy mãi vẫn không thể xuất hành. Hồi ấy thường hay thấy nhắc đến cái tên này lắm, ái chà chà, tôi đã bảo sao cái tên này nghe quen thế mà! Nghe bảo sông băng ở đây rất đặc thù, có thể sánh được với sông băng ở núi Nạp Mộc Ma Ni 3 đó. Nói đên đây, đội trưởng Hồ Dương mê mẩn dõi mắt ngắm nhìn dòng sông băng trắng toát khổng lồ vươn xuống từ giữa đám mù sương mờ mịt. Đó tựa như một thiếu nữ để lộ ra nửa cánh tay trắng muốt như tuyết đang vẫy gọi, toát ra thứ ma lực lạ lùng.

    "Phải rồi, Mã Bảo, khi ấy mọi người làm sao biết Cương Nhật Phổ Bạc có thể tìm được đường lên núi? Ông ta cũng là người Đạt Mã à?" Trác Mộc Cường Ba hỏi.

    Mã Bảo lắc đầu: "Không phải. Hồi xưa tôi nghe các bậc già lão trong làng nói, trước khi tổ tiên chúng tôi đến đây, tổ tiên Cương Nhật Phổ Bạc đã định cư ở quanh nơi này rồi. Vì vậy tôi nghĩ, đấy chính là nguyên nhân bọn họ biết nhiều hơn chúng tôi."

    Ông ta lấy ngón tay chỉ hướng, đoạn nói: "Bọn họ trước nay vẫn cư trú ở phía Nam, còn phải đi lên thêm nữa. Môi trường ở đó không tốt như chỗ chúng tôi, rất ít người sống. Trước đây nơi đó cũng chỉ có một hai hộ gia đình, hiện nay thì chỉ còn lại một mình Cương Nhật Phổ Bạc thôi."

    Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Nhạc Dương; cả hai đều nghĩ đến những người dân sống trong thôn Công Bố, người tên Cương Nhật Phổ Bạc kia, liệu đám bọn họ có sứ mạng giống nhau hay không nhỉ?

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Dẫn chúng tôi đi gặp người đó."

    Mã Bảo nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: "Vô dụng thôi, trước đây không phải là không có người đến tìm anh ta, nhưng từ khi người vợ bị mất tích, anh ta từ chối dẫn bất cứ người nào lên núi."

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Anh cứ giúp chúng tôi tìm được anh ta đã, còn chuyện anh ta có sẵn lòng đưa chúng tôi lên núi hay không, chúng tôi phải nói chuyện với anh ta thì mới biết được, phải vậy không?"

    Mã Bảo nhíu mày nói: "Được thôi, có điều tôi phải nhắc nhở mọi người, lại gần căn nhà của anh ta là một chuyện hết sức nguy hiểm. Cương Nhật Phổ Bạc nuôi một con chó rất lớn, rất dữ, hơn nữa ngoại trừ chủ nhân của nó ra, con chó đấy không nhận bất cứ người nào khác cả. Có lẽ nó không cắn tôi, nhưng mà các vị thì…"

    "Chó lớn hả!" Trác Mộc Cường Ba liền sực nhớ ra, kêu toáng lên, "Cương Lạp! Cương Lạp Mai Đóa! Tôi nhớ ra rồi!"

    "Hả?" Mã Bảo lộ vẻ kinh ngạc nói, "Sao anh biết tên nó vậy?"

    Trác Mộc Cường Ba cười lớn nói: "Tôi đã bảo sao cái tên đó nghe quen quen vậy mà, Cương Lạp Mai Đóa, Cương Nhật Phổ Bạc, sao tôi lại không quen anh ta được cơ chứ, tôi đã ở nhà ấy cả nửa năm cơ mà!" Gã kéo tay Mã Bảo nói, "Anh không cần lo cho sự an toàn của chúng tôi đâu."

    Nhiều năm trước gã và giáo sư Phương Tân từng đến huyện Đạt Mã tìm chó ngao, bất ngờ phát hiện ra ở nhà Cương Nhật Phổ Bạc có giống ngao cực kỳ quý hiếm Hải lam thú, chính là con Cương Lạp Mai Đóa đó; trong tiếng Tạng, Cương Lạp Mai Đóa nghĩa là hoa sen tuyết. Để thuyết phục Cương Nhật Phổ Bạc đồng ý cho gã dẫn Cương Lạp Mai Đóa ra ngoài, giới thiệu thần ngao Hải lam thú với toàn thế giới, gã đã ở lỳ nhà Cương Nhật nửa năm ròng, có điều từ đầu chí cuối gã vẫn gọi Cương Nhật là a quả (nghĩa là đại ca), giờ đột nhiên nghe tên đầy đủ của anh ta, đâm ra không kịp phản ứng nhớ ra.

    Đội trưởng Hồ Dương và Nhạc Dương đều quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ thấy gã kích động nói với hai người họ: "Hải lam thú! Cương Nhật có một con Hải lam thú cực kỳ quý hiếm, tên nó là Cương Lạp Mai Đóa, đóa sen tuyết diễm lệ đẹp mê hồn người. Nó còn ở đó không?" Câu hỏi cuối cùng gã là dành cho Mã Bảo.

    Mã Bảo nhún vai đáp: "Vẫn còn." Ông dường như phải hạ quyết tâm lớn lắm, mới nói: "Đi theo tôi."

    Nhạc Dương hiếu kỳ hỏi: "Hải lam thú là gì thế?"

    Trác Mộc Cường Ba mỉm cười đáp: "Một giống chó ngao Tây Tạng. Thu hoạch duy nhất trong chuyến đi tới huyện Đạt Mã tám năm trước của tôi và giáo sư Phương Tân chính là tìm được con Hải lam thú này. Tôi ở nhà a quả suốt nửa năm, nhưng anh ấy không thể nào không có Cương Lạp, một ngày thôi cũng không được. Hiện nay những người biết đến chó ngao Tây Tạng, đa phần đều biết Thiết pháo kim, Tuyết ngao, Hồng ngao, Hắc ngao, những giống như Tượng kim sư, Lang thanh, Báo ban giờ cũng hiếm người gặp rồi, còn nếu là Hoàng kim nhãn, Hải lam thú thì chắc đến cả nghe tên cũng chỉ có mấy người thôi." Trác Mộc Cường Ba không kìm được mà nhớ lại sắc lam tuyệt đẹp ấy, sắc lam nhàn nhạt lấp lóa ánh bạc, đó là sắc màu mà bất cứ họa gia nào cũng không thể pha nổi. Bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng không biết phải miêu tả thế nào, chỉ có thể tán tụng sự ban ân của đại tự nhiên mà thôi.

    "Mười năm hiếm gặp Hoàng kim nhãn, trăm năm không có Hải lam thú." Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ lại những thần ngao, bảo ngao lưu truyền trong lời kể của những cụ già du mục ở các vùng hoang vu nơi dấu chân con người hiếm khi đặt tới. Hoàng kim nhãn và Hải lam thú đều là biến chủng của chó ngao Tây Tạng phổ thông. Hoàng kim nhã chính là tên gọi đôi mắt giả của giống Thiết pháo kim; bên trên hai mắt một con ngao giống Thiết pháo kim còn có hai đốm vàng, thoạt nhìn trông rất giống có thêm một đôi mắt nữa, tục gọi là Thiết pháo kim bốn mắt. Đôi mắt giả của Thiết pháo kim bình thường màu vàng nhạt hoặc màu hạt dẻ, còn cả màu nâu đỏ nữa, nhưng có một giống biến chủng, cặp mắt giả ấy biến thành màu vàng kim, tương truyền con ngao loại này sau khi trưởng thành thì to hơn chó ngao thường một bậc, khỏe vô cùng, vuốt như vuốt hổ, tiếng gầm như tiếng sư tử. Đặc biệt là cặp mắt vàng kim hết sức nổi bật kia như tượng trưng cho thân phận tôn quý, lũ chó ngao tầm thường trông thấy đều tự thu vuốt cụp móng cúi đầu lẩn đi, ánh mắt lộ rõ vẻ nhún nhường.

    Hải lam thú thì là biến chủng của Tuyết ngao. Tuyết ngao thông thường toàn thân trắng tuyền, con nào lông tốt còn ánh lên sắc bàng bạc, gọi là "nhuộm bạc ánh tuyết". Hải lam thú bình thường không khác gì Tuyết ngao cả, điểm kỳ dị là khi nó chạy nhảy dưới trời xanh mây trắng, qua một khoảng thời gian, màu lông của nó sẽ dần biến thành sắc lam nhàn nhạt, không phải màu lam sâu thẳm của biển khơi, mà là sắc lam nhạt kỳ dị của những hồ nước trên cao nguyên Thanh Tạng dưới bầu trời xanh, lại cũng giống như màu lam nhạt ánh lên khi băng tuyết tích tụ quá sâu, quá dày, đồng thời còn óng ánh sắc bạc, rất nhạt, nhưng đẹp tuyệt trần, bởi thế nên có tên là Hải lam thú. Lời bàn về Hải lam thú trong truyền thuyết là, giống ngao này thông linh, có thể đọc hiểu ý người, thân thể nhẹ như lông nhạn, chạy nhanh như gió không để lại dấu chân trên tuyết, không sợ giá lạnh băng tuyết, có thểm tìm được đường ra chính xác trên núi tuyết mù sương, có thể phá băng xuống nước tìm thức ăn, thường làm tọa kỵ Độ Mẫu và Bồ Tát. Thể hình của Hải lam thú nhỏ hơn một chút so với đồng loại, thông thường những con xảy ra biết dị đều là ngao cái, địa vị của chúng trong lòng dân du mục gần như có thể so với Tử kỳ lân được, điểm khác biệt duy nhất chính là Tử kỳ lân chỉ xuất hiện trong truyền thuyết, còn Hải lam thú thì ngẫu nhiên cũng có xuất hiện trong hiện thực.

    Trác Mộc Cường Ba còn nhớ, lần đầu tiên nhìn thấy Cương Lạp Mai Đóa gã đã từng kích động run rẩy nói với giáo sư Phương Tân: "Hải lam thú! Đó là Hải lam thú! Thầy giáo, thầy thấy chưa, đó chính là Hải lam thú, chúng không chỉ xuất hiện trong truyện thần thoại thôi đâu. Có Hải lam thú, thì cũng sẽ có Tử kỳ lân!"

    Trác Mộc Cường Ba vừa lôi mình từ hồi ức trở lại hiện thực, vội vàng liên lạc với giáo sư Phương Tân; trông gã lúc này như một đứa trẻ đang ra câu hỏi đánh đố người lớn vậy:

    "Thầy giáo, thầy đoán xem chúng tôi sắp đi kiếm ai nào?"

    "Kiếm ai?" giáo sư Phương Tân thoáng ngẩn ra, rồi lập tức đáp ngay: "Cương Lạp Mai Đóa! Tôi đã bảo chỗ này sao quen thế rồi mà lại, các cậu sắp đi tìm Hải lam thú đúng không?

    Lữ Cánh Nam trong bộ đàm lên tiếng hỏi: "Chuyện gì thế? Các anh đã thăm dò xong rồi à?"

    Đội trưởng Hồ Dương đáp: "Phải, con đường này không thể đi được. Giờ chúng tôi sẽ đi tìm một người biết đường lên núi, hy vọng anh ta có thể giúp được gì đó cho chúng ta."

    "Được rồi, chú ý an toàn, nhớ báo cáo lại cho tôi."

    Trên đường, Mã Bảo nhắc đến Cương Nhật Phổ Bạc. "Tuy tính khí có hơi cổ quái một chút, nhưng anh ta là người tốt. Anh ta đã nhiều lần giúp chúng tôi tìm lại lũ bò dê đi lạc, hơn nữa còn cho chúng tôi biết khu vực nào là nguy hiểm, chớ dắt dê vào đó chăn thả. Cũng có khi người trong làng trông thấy, lúc nào không có người ngoài vào núi, anh ta sẽ lẳng lặng một mình đi sâu vào trong núi."

    Lần này thì Nhạc Dương nghe lờ mờ hiểu được một nửa, liền hỏi: "Ý của anh là, anh ta sống một mình trên núi?"

    Mã Bảo gật đầu. Nhạc Dương kinh ngạc thốt lên: "Một mình thì sống làm sao được?"

    Mã Bảo nói: "Sao một mình lại không sống được? Anh ta nuôi một đàn dê lớn, có một căn nhà hầm to, đại khái một năm ra khỏi núi hai lần, dùng dê đổi lấy các nhu yếu phẩm cần dùng. Mỗi năm khi các đồng chí bộ đội đóng ở đây đến thăm chúng tôi, cũng chuẩn bị cho anh ta một phần các đồ dùng cần thiết. Người làng chúng tôi cũng đều sống như vậy cả."

    Nhạc Dương len lén đưa mắt nhìn ngọn núi tuyết khổng lồ, thầm nhủ, sống một mình ở cái vùng lạnh khủng khiếp này làm sao mà chịu nổi? Đến cả người nói chuyện cũng không có nữa, thế thì cô đơn lạnh lẽo đến như thế nào chứ.

    Vừa đi Mã Bảo vừa kể một số lời đồn về Cương Nhật Phổ Bạc nữa, được chừng nửa tiếng đồng hồ thì cỏ xanh dưới chân thưa dần, những viên đá cuội lớn bắt đầu nhiều lên, khí lạnh táp vào mặt người. Những viên đá cuội trơn nhẵn hết sức ẩm ướt, không dễ đi chút nào. Đội trưởng Hồ Dương lại ngước nhìn núi tuyết, chỉ tay vào đá, nói: "Nhìn thấy chưa, những tảng đá này chứng tỏ rằng, từ rất lâu rất lâu trước đây, sông băng vốn phủ kín cả khu vực mà chúng ta đang đứng đây, hiện giờ thì đã rút lên phía trên kia rồi." Nói tới đây anh ta lại bồi hồi cảm khái, "Tôi còn nhớ năm đó, kết quả khảo sát sông băng của chúng tôi là, không bao lâu nữa, trên dãy Himalaya này sẽ không còn sông băng nào nữa."

    Cùng với tiếng thở dài của đội trưởng Hồ Dương, không khí càng lúc càng lạnh hơn. "Cường Ba thiếu gia, nhìn kìa!" Nhạc Dương chỉ tay vào một mỏm núi xa xa. Mỏm núi đen thui giống như một bức tường dựng trên lưng chừng núi, bên dưới có mấy hang động thiên nhiên; chỗ tay Nhạc Dương chỉ vào chính là những hang động thiên nhiên ấy.

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm, trông thấy rồi. Tôi nhớ lần trước đến đây, thầy giáo có nói, đấy chắc là nơi cổ nhân thời Đồ đã cũ từng cư trú, nhưng kiểu hang động lộ thiên thế này dễ bị phá hoại lắm, nên bên trong chắc chẳng còn gì nữa cả. Huyện Đạt Mã có rất nhiều di chỉ Đồ đá cũ, đây cũng là một khi quần cư của cổ nhân."

    Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: "Không chỉ ở đây có, mà bên bờ sông Kim Sa kéo dài từ cực Tây đến cực Đông khu A Lý, nguyên một vòng cung tạo bởi mạch núi Himalaya đều có những hang động nham thạch thế này. Theo những suy đoán ban đầu, vào thời kỳ văn minh nhân loại mới manh nha khởi phát, dãy Himalaya đã trải qua một thời kỳ con người sống trong hang động rất dài."

    "Ồ" Nhạc Dương hơi có chút thất vọng nói, "tôi còn tưởng đấy là do người Qua Ba bỏ lại chứ."

    Trác Mộc Cường Ba thầm chấn động trong lòng, xem ra không chỉ mình gã có suy nghĩ như thế. Nhưng ý kiến của Nhạc Dương lại khiến gã nghĩ đến một ý, người Qua Ba và cổ nhân thời kỳ Đồ đá cũ trên cao nguyên Thanh Tạng liệu có phải là cũng một mạch truyền thừa, lưu truyền nền văn minh nguyên thủy từ một vạn năm trước đến tận thời hiện đại ngày nay? Trong đầu gã, chợt hiện ra cảnh tượng những người nguyên thủy mình quấn da thú, tay cầm gậy gỗ, đang vác vật săn trở về, sau lưng là một đàn… vân vân, sao lại xuất hiện hình ảnh như vậy được nhỉ? Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba trở lại với những hang động nham thạch thiên nhiên đen thui kia, hình ảnh vừa này giống như đoạn phim chiếu lại, gã nhìn thấy rất rõ ràng, sau lưng những người sống trong hang động ấy là… một đàn sói!

    Mã Bảo biết rất ít về người nguyên thủy, vẫn dẫn đường đi trước, miệng nói: "Vượt qua cửa thung lũng trước mặt, đi thêm nửa tiếng nữa là có thể trông thấy nhà của Cương Nhật Phổ Bạc rồi."

    Gió ở cửa thung lũng rất lớn, thổi rát cả mặt, núi hai bên như hai người khổng lồ sừng sững đan chéo chân vào nhau, và lúc này bọn họ phải đi xuyên qua hai khúc chân gác chồng lên nhau ấy. Đột nhiên, gió dường như mạnh hơn, trong tiếng gió rít vù vù phảng phất toát ra khí lạnh rùng mình, cảm giác nhìn không thấy, sờ không được đó khiến cả bốn người cùng dừng bước. Cỏ khô run rẩy trong cơn gió cuồng loạn, tựa như cũng muốn lẩn trốn lực lượng thần bí vô hình kia.

    Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, dựa vào trực giác nói: "Có thứ gì đó đang tiến về phía chúng ta, tốc độ rất nhanh!" Gã vừa nói dứt lời đã nghe Nhạc Dương kêu toáng lên, "Cường Ba thiếu gia! Cẩn thận!"

    Trác Mộc Cường Ba mở to mắt nhìn thấy trong gió lóe lên một tia chớp màu xanh…

    --------------------------------

    1 Chuyển kinh chuyển sơn: Một trong những nghi thức kiền thành nhất của Tạng truyền Phật giáo, Ấn Độ giáo và Bản giáo. Tín đồ vừa bái lạy vừa đi vòng quanh ngọn núi thần Cương Nhân Ba Tề (Giang Riponche). Tạng truyền Phật giáo và Ấn Độ giáo chuyển sơn theo chiều kim đồng hồ; còn Bản giáo thì đi theo chiều ngược lại.

    2 YDS (Yosemite Decimal System): hệ thống dùng để mô tả các cấp độ khó của hoạt động leo trèo. Cấp độ 5.12 là cấp độ khó nhất và chưa ai thực sự leo lên được.

    3 Gurla Mandhata: đỉnh núi cao nhất dãy Nalakankar Himal, một nhánh của dãy Himalaya.
     
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 66: Cương Lạp Mai Đóa


    Thông người nào nhìn thấy nó từ đâu đến, đến như thế nào, phảng phất như đột nhiên xuất hiện từ trong hư không, tất cả đều chỉ trông thấy đó là một luồng sáng xanh chỉ có ở những tia chớp bổ thẳng về phía Trác Mộc Cường Ba. Cái miệng há ra của Nhạc Dương vừa mới ngậm lại, đội trưởng Hồ Dương một chân đặt trước một chân đặt sau đang chuẩn bị vào tư thế phòng ngự, Mã Bảo thì không kịp có bất cứ phản ứng nào; trước luồng sáng xanh lam kỳ dị ấy, tất cả đều trở nên chậm chạp đến độ trì độn. Khi mọi người từ trong trạng thái chậm chạp trì độn ấy hồi phục lại bình thường, thì luồng sáng xanh nhàn nhạt ấy đã bổ lên người Trác Mộc Cường Ba rồi.

    Đúng vào khoảnh khắc luồng sáng xanh đó chạm vào người gã, đột nhiên xảy ra biến đổi, nó bỗng trở nên mềm mại nhẹ nhàng, đồng thời cũng không hất Trác Mộc Cường Ba ngã ngửa ra đất, mà vừa với chạm vào người gã, đã lập tức xoay ngược lại. Khi luồng sáng xanh lam ấy xoay chuyển, Nhạc Dương mới nhìn rõ, đó là một con thú khổng lồ, cũng cùng lúc đó cảm giác sợ bất an và sợ hãi trong lòng anh dâng trào lên vượt quá nỗi hoảng sợ trước bất cứ hiểm nguy nào mà anh từng trải qua. Bởi vì anh chợt phát hiện ra, nếu người đứng đó là mình, bất kể là bản thân phản ứng thế nào, cũng không thể tránh khỏi cú vồ vừa rồi của con thú màu lam ấy.

    Con thú lớn chạy ra xa mười mấy mét với tốc độ kinh người, rồi lập tức chạy ngược trở lại, lao bổ vào Trác Mộc Cường Ba lần nữa, vừa mới chạm phải người gã, nó lại lập tức xoay mình, cứ như vậy đến ba bốn lần, cuối cùng mới chịu dừng chân lại, đặt hai chân trước gác lên vai Trác Mộc Cường Ba, lè cái lưỡi dài của mình ra, cổ họng phát ra những tiếng thở hổn hển nặng nề.

    Bọn Nhạc Dương giờ mới nhìn rõ, đó là một con Tuyết ngao rất lớn, lúc đứng lên gần như cao ngang bằng Trác Mộc Cường Ba, bộ lông dài thuần một màu trắng lấp lánh ánh bạc, nhưng vừa nãy tại sao họ lại nhìn thấy nó màu lam? Lẽ nào là ảo giác? Nhạc Dương ngẫm đi nghĩ lại, đó cơ hồ không phải là màu lam, mà là một thứ màu sắc anh chưa từng thấy bao giờ mới đúng.

    Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba vòng tay ôm chặt con Tuyết ngao, vuốt ve mới lông cổ bờm xờm xõa tung ra của nó, lớn tiếng cười nói: "Cương Lạp, Cương Lạp, bé ngoan, bé ngoan! Còn nhớ tao hả!" Con Tuyết ngao không ngừng dùng mũi phát ra những tiếng rít ngắn mà chói tai, dường như đang đáp lại Trác Mộc Cường Ba.

    Nhìn thấy cảnh tượng này, cả Nhạc Dương lẫn đội trưởng Hồ Dương đều ngớ người ra, hệt như lúc Trương Lập lần đầu tiên trông thấy Trác Mộc Cường Ba nói chuyện với lũ sói vậy. Cả người Trác Mộc Cường Ba lúc này tỏa ra một sự thân thiết lạ kỳ, đó là sự thân thiết của bạn bè thân hữu. Ánh mắt ấy, nụ cười ấy, tưởng chừng như họ là anh em ruột thịt đã bị chia lìa mấy chục năm ròng, lại như một đôi vợ chồng già đã dắt tay nhau cùng đi hết cả đời người, hoặc có thể nói là một cặp sinh tử chi giao cùng sống sót trên chiến trường cũng không ngoa. Khi Trác Mộc Cường Ba và con Tuyết ngao ấy ôm chặt lấy nhau, sự thân thiết tỏa ra thậm chí còn khiến cả gió cũng trở nên ấm áp hẳn lên, đúng thật là dù có hình dung thế nào cũng không quá đáng. Đội trưởng Hồ Dương không chỉ kinh ngạc trước sự thay đổi đó của Trác Mộc Cường Ba mà con Tuyết ngao kia cũng khiến anh lấy làm chấn động. Anh từng gặp qua không ít chó ngao, trong hình dung của anh, lũ to đầu ấy lúc nào cũng mặt mày u ám, đôi mất lúc nào cũng lừ lừ nhìn người ta, trông hết sức dũng mãnh nếu không thì cũng là một bộ mặt cao ngạo mà hoang dã, chứ anh chưa bao giờ thấy chó ngao cũng có lúc dịu dàng tình cảm đến thế. Lúc này con Tuyết ngao đang gác chân lên vai Trác Mộc Cường Ba kia không chỉ phát ra tiếng ư ử trong mũi, mà cái đầu to tướng của nó còn không ngừng cọ đi cọ lại trên vai gã, giống như một thiếu nữ đầy một dạ những hờn tủi đang kể lể nỗi nhớ nhung và tủi thân của mình với tình lang mà nagnf xa cách bao năm, chờ đợi bao năm vậy.

    Một người một chó cứ thế ôm chặt nhau rù rì thủ thỉ trong gió lạnh một hồi lâu, ba người bên cạnh thì đờ ra nhìn. Cũng không biết bao nhiêu lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới buông Cương Lạp ra, vuốt ve trán nó. Cương Lạp vươn cổ, khoan khoái nhắm mắt lại. Trác Mộc Cường Ba nói: "Để tao giới thiệu với mày mấy người bạn nhé, Cương Lạp. Họ đều là bạn của tao cả." Kế đó, trước cặp mắt kỳ quái khó hiểu của bọn Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba hết sức trịnh trọng giới thiệu từng người bọn họ cho Cương Lạp biết.

    Đến lúc này, đội trưởng Hồ Dương cuối cùng cũng gặp lại điệu bộ của một con chó ngao Tây Tạng mà anh xưa nay vẫn thường thấy. Khi nghe thấy tên bọn họ, Cương Lạp chỉ khẽ mở mắt liếc một cái hững hờ, bộ dạng ấy, giống như một vị tổng giám đốc đang hưởng thụ dịch vụ massgage, bên cạnh có người giới thiệu những nhân viên mới xem có thể thu dụng hay không vậy, nó chỉ khép hờ mắt, rồi khe khẽ gật đầu. Nhạc Dương bất mãn nói: "Ái chà chà, nhìn điệu bộ nó kìa, ục à ục ịch!" Cương Lạp đột nhiên trừng mắt, hướng về phía Nhạc Dương nhe nanh ra. Nhạc Dương thấy thế giật thót mình. Mã Bảo đứng cạnh anh thì càng tỏ ra kinh hoàng hơn, không kìm hãm nổi mà lùi lại hai bước, nếu không phải có đội trưởng Hồ Dương đưa tay ra đỡ, suýt chút nữa ông ta đã ngã bổ kềnh ra đó rồi.

    Đội trưởng Hồ Dương cười cười nói: "Những con chó ngao Tây Tạng tôi từng gặp qua hầu hết đều như vậy cả. Tạng ngao trưởng thành thân thể rất to lớn, dũng mãnh khỏe mạnh, hơn nữa thông thường chúng đều giữ thái độ thù địch và cảnh giác đối với người lạ. Trong mắt của chúng, người bình thường căn bản không phải đối thủ, vì vậy chúng có tư cách để kiêu ngạo. Ngoại trừ chủ nhân của chúng ra, muốn được bọn chúng tôn trọng, trừ phi cậu cũng phải tôn trọng lại chúng, nếu cậu dùng ánh mắt nhìn vật nuôi để nhìn bọn chúng, Tạng ngạo cũng sẽ nhìn cậu với ánh mắt như nhìn một con vật nuôi thôi. Trông điệu bộ và thái độ của nó lúc này, chứng tỏ rằng nó đã chấp nhận cậu rồi, đương nhiên, đây là do nể mặt Cường Ba thiếu gia thôi."

    "Cương Lạp, cương lạp?" Nhạc Dương không tin, thử gọi hai ba tiếng. Cương Lạp ngoảnh mặt đi chỗ khác, đến nhìn cũng không thèm nhìn Nhạc Dương lấy một lần.

    Trác Mộc Cường Ba thấy sắc mặt Mã Bảo tái mét, lo lắng hỏi: "Anh không sao chứ?"

    Trên gương mặt Mã Bảo hiện ra vẻ khó xử: "Đến đây thì anh tự tìm đường được không?"

    Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn xung quanh, đoạn nói: "Tất nhiên, chỗ này đã gần căn nhà nhỏ của Cương Nhật lắm rồi. Nếu anh có chuyện gì phải làm thì không cần đưa chúng tôi đi nữa, chúng tôi có thể tự tìm đường về." Nhìn sắc mặt của Mã Bảo, Trác Mộc Cường Ba liền an ủi mấy câu.

    Mã Bảo cẩn trọng liếc nhìn Cương Lạp một cái, do dự giây lát, rồi cuối cùng cũng nói: "Vậy, vậy tôi đưa mọi người đến đây thôi, các vị nhớ cẩn thận đấy."

    Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương bắt tay tạm biệt Mã Bảo, tỏ ý cảm ơn.

    Sau khi Mã Bảo đi, Cương Lạp đột nhiên mở bừng mắt, chui ra khỏi vòng tay Trác Mộc Cường Ba, chạy vài bước rồi ngoảnh đầu nhìn lại, kế đó lại chạy thêm hai bước nữa, rồi lại ngoảnh đầu, tiếp đó thì liền tung bốn chân lên, chạy vút đi như một cơn gió.

    Trác Mộc Cường Ba nhìn bóng lưng Cương Lạp dần biến thành một áng mây xanh lam trong gió núi, mỉm cười nói: "Đi thôi, nó đã không chờ đợi được mà đem tin chúng ta đến đây nói với Cương Nhật Phổ Bạc rồi."

    Nhạc Dương nhìn theo bóng Mã Bảo, lấy làm kỳ quái hỏi: "Anh ta sao vậy nhỉ?"

    Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu: "Không biết nữa."

    Nhạc Dương và đội trưởng Hồ Dương còn tưởng căn nhà của Cương Nhật Phổ Bạc ở ngay phía trước, ai ngờ núi lớn đường xa, họ phải đi thêm mười mấy dặm 1đường nữa mới đi hết được khe núi. Đến đây khung cảnh phía trước bỗng dưng trải rộng, mây xanh ngút chân trời, đồng cỏ ngải xanh rợp trông như thảm cỏ trên sân vận động, căn nhà đá xây từ đá cuội và đất Ca Đạt nằm ở bên kia đồng cỏ xanh, sau nhà có mấy chục gốc cây bị đốn vây thành một vòng lớn. Có điều Nhạc Dương phát hiện ra trong hàng rào ấy không có gì hết, cả bãi cỏ cũng không thấy bò dê đâu.

    Đến trước nhà, chỉ thấy trên cánh cửa gỗ có vẽ mặt trăng mặt trời và ký hiệu Ung trọng, bậu cửa rất thấp. Bên trong vang vọng ra tiếng chó sủa, không phải tiếng "oắc oắc" mà là tiếng "um um um…", rồi sau đó trong nhà có người nói: "Cường Ba, cậu lại đến rồi!" Giọng nói mạnh mẽ trầm hùng, khí trung đầy đủ.

    Mấy người bọn Nhạc Dương giật mình ngạc nhiên, không ngờ người trong nhà lại biết đấy là Trác Mộc Cường Ba, lẽ nào con Tuyết ngao tên là Cương Lạp kia đã có thể trò chuyện với con người rồi, bằng không người ở trong nhà làm sao biết được người đến là Trác Mộc Cường Ba cơ chứ? Trác Mộc Cường Ba cũng hỏi: "A quả, làm sao anh biết là tôi thế?"

    Một gương mặt tươi cười xuất hiện nơi cửa, gương mặt người này trắng mà ẩn sắc hồng, vài lọn tóc rối bù chĩa ra bên dưới chiếc mũ lông cáo, những nếp nhăn trên mặt rất sâu, nhưng hai mắt có thần, mái tóc đen mướt, nhìn không ra là bao nhiêu tuổi. Người này bên ngoài khoác một chiếc áo vải Phổ Lỗ màu xanh phỉ thúy viền da báo bó sát người, ống tay trái buộc ở hông, ống phải vắt trên vai, rồi dùng dây tết bó chặt chiếc áo cộc bằng da dê non bên trong lại, trên thắt lưng giắt một thanh đao dài. Đây chính là Cương Nhật Phổ Bạc, bộ trang phục ấy và thanh đao dài cổ phác khiến người đàn ông mặt đỏ cao hơn mét sáu này trông càng giống người võ lâm hơn.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Có thể khiến Cương Lạp vui vẻ thế, ngoài cậu ra thì còn ai vào đây được nữa." Chỉ thấy Cương Lạp thò đầu ra bên cạnh ống quần Cương Nhật Phổ Bạc, cặp mắt lớn mở to nhìn cả đám người như dò xét, một thoáng sau nó lại rút đầu về, rồi chen ra ở phía bên kia, trông chẳng khác nào một cô bé thông minh lanh lợi mà lại hay xấu hổ cả.

    Mặc dù lần trước không mượn được Cương Lạp, nhưng ở chung với nhau nửa năm, Trác Mộc Cường Ba và Cương Nhật Phổ Bạc đã thành đôi bạn thân thiết, cả căn nhà bằng đá này cũng có một nửa là do gã dựng nên.

    Cương Nhật Phổ Bạc đứng tránh ra nhường đường, nói: "Nào, mau vào nhà ngồi đi."

    Căn nhà bằng đá này rất kỳ quái, không có cửa sổ, trong nhà tối om, giữa ban ngày ban mặt cũng phải đốt đèn dầu bơ; cửa rất thấp, đến cả Nhạc Dương cũng buộc phải khom người mới chui vào được, Trác Mộc Cường Ba gần như là phải ngồi xổm mới vào trong được. Trong nhà lại đột nhiên rộng mở thênh thang, chính giữa là một cái lò sưởi, bên trên đặt chậu nước nóng, trong chậu đặt một cái vò, cũng không rõ bên trong đựng gì nữa.

    Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu, đồ đạc nông cụ vứt lung tung thành từng đống bừa bộn trong nhà, trên đầu treo những tảng thịt sấy đẫm mỡ, bốn bức vách đều đen bóng cả lên, màu đen do bị khói dầu hun. Ngoài ra chủ nhân còn dùng dây thừng xâu rất nhiều miếng trông như miếng trà bánh treo lên tường, một chiếc ván dài vừa làm giường lại vừa làm ghế ngồi, chăn nệm bừa bãi rách rưới như bị chó cắn xé, bên cạnh giường có một tấm thảm hình tròn khá sạch sẽ gọn gàng, nhưng đó là chỗ ngủ của Cương Lạp. Cương Lạp vừa vào phòng liền nằm bò lên trên đó, chỉ mở cặp mắt to tròn ra nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba mà không chớp lấy một cái.

    Nhìn đống quần áo chất đầy một nhà, Nhạc Dương không biết phải ngồi xuống chỗ nào nữa, quay sang nhìn Cường Ba thiếu gia, chỉ thấy gã dồn quần áo sang bên cạnh thành một đống rồi tùy tiện ngồi luôn lên giường. Thấy thế, anh cũng nhặt quần áo lên, chọn một cái ghế đẩu ngổi xuống. Cương Nhật vơ một đống đồ linh tinh ném hết cả lên giường, rút ghế đẩu ra, rồi mở nắp cái vò đang đặt trong chậu nước, mùi rượu thơm lừng lập tức xộc vào mũi, thì ra anh đang hâm rượu.

    Đội trưởng Hồ Dương nói với Nhạc Dương, ở đây là vùng cao lạnh giá, khách đến thăm thường phải đi qua gió rét, vì vậy đạo đãi khách là lấy rượu thay trà, uống vừa ấm lòng vừa ấm bụng.

    Cương Nhật lấy ra bốn cái chén trà to, rót đầy bốn chén rượu đưa cho bọn Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương, vừa đưa rượu vừa lầm bầm nói gì đó, giống như đang niệm chú, lại cũng giống như đang khe khẽ hát.

    Nhạc Dương nhớ mang mấng rằng thứ rượu đãi khách này phải uống ba ngụm trước, nhưng không được uống hết, ngoảnh đầu nhìn sang thấy Cường Ba thiếu gia cũng không một hơi uống hết, nhưng ngụm rượu của gã trong rõ là lớn, vậy là anh chàng cũng bắt chước làm một ngụm to. Vừa nuốt ngụm rượu xuống, Nhạc Dương tức khắc cảm thấy như có cục than hồng ở cổ họng, bụng như có lửa đốt phừng phừng, khổ nỗi lại không phun ra được, gương mặt lập tức bị dồn ứ đỏ bừng lên. Chẳng ngờ đây lại không phải rượu gạo thông thường, mà mạnh như là Thiêu Đao Tử hay Nhị Oa Đầu vậy.

    Vừa thấy bộ dạng không ngừng hà hơi xua tay lia lịa đến là tức cười của Nhạc Dương, mấy người trong nhà đều cười phá lên, cả Cương Lạp cũng nheo nheo mắt, cằm dưới gật gù, tựa như một chú mèo đang nhoẻn miệng cười vậy. đội trưởng Hồ Dương nói: "Đây không phải rượu Thanh Khoa đâu. Chỗ này là vùng cao lạnh giá, người ta thích uống rượu mạnh, nghe nói nồng độ lên đến bảy mươi phần trăm, gần như là cồn còn gì. Cậu tưởng cậu uống giỏi như Cường Ba chắc!"

    Nét mặt Cương Nhật Phổ Bạc lộ ra vẻ đắc ý: "Đây chính là rượu A Thứ Cát được nhắc đến trong lịch sử đó, ngoài kia người ta vẫn nói phương pháp ủ rượu được truyền từ Ả rập vào Tây Tạng, kỳ thực tổ tiên chúng tôi đã biết kỹ nghệ chế tạo men rượu từ trước thời Đường rồi. Trong tiến Tây Tạng cổ, A thứ có nghĩa là nhựa cây, thứ rượu này vốn là dùng nhựa cây và mật ong pha trộn lại mà ủ thành, nhưng ở đây không có mật ong, tôi dùng thứ khác để thay thế, thành ra mạnh hơn các loại rượu khác một chút."

    Nhạc Dương không dám uống thêm nữa, thân thể anh giờ đã như bị bao bọc trong lửa nóng rồi. Cương Nhật Phổ Bạc cũng không để tâm chuyện đó, quay sang nói chuyện thuở xưa với Trác Mộc Cường Ba, rồi chuyển vào chủ đề chính: "Nói đi, mục đích lần này cậu đến đây là gì."

    Trác Mộc Cường Ba đáp: "Tử kỳ lân."

    Cương Nhật Phổ Bạc trợn tròn mắt, cười lộ cả răng đưa mắt nhìn Cương Lạp, rồi lại quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba: "Cậu vẫn tin là… có Hải lam thú, thì nhất định có Tử kỳ lân à?"

    Trác Mộc Cường Ba nói với giọng khẳng định: "Lần này nhất định là tôi sẽ tìm được."

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Tôi có thể giúp gì được cho cậu? Chắc không phải cậu muốn đem Cương Lạp của tôi… nó đã qua tuổi đó rồi mà?"

    Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, rồi phá lên cười ngay sau đó. Gã biết, Cương Lạp chắc là đã hơn mười lăm tuổi, tính theo tuổi thọ của chó ngao, nó đã thuộc loại lão trung niên, hiển nhiên là Cương Nhật cho rằng gã muốn để Cương Lạp giao phối với Tử kỳ lân, nhưng Cương Lạp đã quá tuổi sinh đẻ rồi. Trác Mộc Cường Ba nói: "Chuyện này kể ra thì phức tạp lăm, tôi chỉ có thể nói với anh một cách đơn giản thế này, chúng tôi muốn lên núi."

    Nụ cười của Cương Nhật Phổ Bạc lập tức biến mất: "Không thể nào, Tử kỳ lân không thể sống trên núi tuyết được."

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Tôi biết thế, nơi chúng tôi cần phải đến, có lẽ không phải trên đỉnh núi tuyết, chúng tôi đoán đó có lẽ là một địa phương gần giống như khu vực cư trú của người Đạt Mã, nơi đó có môi trường thích hợp cho Tử kỳ lân sinh tồn. Nhưng chúng tôi không tìm được đường lên núi, nghe nói anh là người duy nhất biết con đường đó."

    Cương Nhật Phổ Bạc sa sầm nét mặt nói: "Tôi không dẫn cậu lên núi đâu."

    Trác Mộc Cường Ba cuống lên: "Tại sao vậy, a quả?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Cậu cũng biết rồi đấy, Lạp Chân chính vì dẫn người khác lên núi tuyết, thế nên thần núi mới thu hồn phách cô ấy lại, đó là sự trừng phạt đối với tôi. Từ dạo đó trở đi tôi đã thề rằng, bất kể là ai vì bất kể nguyên nhân gì, tôi cũng không dẫn người nào lên núi tuyết nữa." Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, thầm tính toán xem nên làm thế nào để cởi bỏ gút thắt trong lòng này của Cương Nhật Phổ Bạc. Lúc này, đội trưởng Hồ Dương chợt cất tiếng: "Thực ra, chúng tôi không chỉ đi tìm Tử kỳ lân không thôi, chúng tôi còn đại diện cho nhà nước đi tìm kiếm một ngôi chùa đã biến mất trong lịch sử, nó rất có thể là phục tàng lớn nhất ở Tây Tạng…" đội trưởng Hồ Dương vốn định lợi dụng Bạc Ba La thần miếu thần bí để đánh động Cương Nhật Phổ Bạc. Không ngờ anh vừa nói thế, Cương Nhật đã cười gằn lạnh lẽo nói: "Bạc Ba La! Vậy càng không thể được, Bạc Ba La chỉ nên tồn tại ở n ơi đang tồn tại, không thể để người khác quấy nhiễu. Cường Ba, lần này thì bất kể là cậu có lý do gì, tôi cũng tuyệt đối không dẫn các cậu lên núi đâu!"

    Nhạc Dương thầm nhủ: "Hỏng bét rồi, đội trưởng Hồ Dương sơ suất quá, Cương Nhật Phổ Bạc là người duy nhất biết đường lên núi, nói không chừng những người đến tìm anh ta trước đây đã ít nhiều tiết lộ chuyện liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, thế này đúng là khéo quá thành ra vụng, có thể cả Cường Ba thiếu gia cũng bị người ta coi là thằng lừa bịp rồi!" Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, anh liền giở ngay chiêu sát thủ: "Chú Cương Nhật à, Cường Ba thiếu gia là Thánh sứ đấy, trước đây chúng tôi cũng không biết, Thánh sứ đấy!" Anh trịnh trọng nhấn mạnh thêm một lần nữa.

    Không ngờ, Cương Nhật Phổ Bạc đáp hết sức dứt khoát: "Tôi mặc xác cậu ta là cái gì sứ, cho dù cậu ta là khâm sai đại thần, tôi đã nói là không thì tức là không."

    Nhạc Dương ngẩn người, không ngờ cái danh Thánh sứ đấy lại không có công dụng gì ở đây hết.

    Cương Lạp dường như cảm nhận được điều gì đó, cứ ngoảnh đi ngoảnh lại hết nhìn chủ nhân của nó rồi lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, hai người đều trầm ngâm, không cười, khiến nó cũng không biết phải làm sao. Đột nhiên nó nhổm dậy, cọ cọ vào chân Cương Nhật, lấy đầu húc húc lên, rồi rên ư ử như thể tủi thân lắm. Cương Nhật Phổ Bạc vuốt ve đầu con chó, thở dài nói với Trác Mộc Cường Ba: "Tôi tin là cậu đi tìm Tử kỳ lân." Anh ta lại quay sang nhìn đội trưởng Hồ Dương và Nhạc Dương: "Bọn họ đi tìm Bạc Ba La…" Cương Nhật ngưng lại một thoáng, đoạn nói tiếp: "Có điều tôi vẫn phải nhắc nhở cậu, Bạc Ba La trong truyền thuyết bị Đạo quân Ánh sáng đem giấu đi là có nguyên nhân đấy. Tuy rằng Thần miếu và Hương Ba La thánh địa tượng trưng cho thế lực có thể thỏa mãn tất cả dục vọng của nhân loại, nhưng cậu cũng chớ có quên, phía sau tài sản vô tận ẩn chứa lời nguyền hủy diệt tất cả đó, cậu có được bao nhiêu thì sẽ mất đi bấy nhiêu. Trên đời này không có tiền tài từ trên trời rơi xuống, cũng không thể chỉ cứ ảo tưởng ra là thỏa mãn được."

    Hai mắt Trác Mộc Cường Ba sáng bừng lên, vội hỏi dồn: "Anh cũng biết Bạc Ba La và Đạo quân Ánh sáng. Anh biết được những gì?"

    Cương Nhật Phổ Bạc cười khẩy một tiếng: "Những gì tôi biết, chỉ sợ còn nhiều hơn những gì cậu nghĩ nhiều đó."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Có thể cho tôi biết một số chuyện về Bạc Ba La mà anh biết không?"

    Cương Nhật Phổ Bạc trầm tư, Trác Mộc Cường Ba len lén đưa mắt liếc nhìn Cương Lạp, Cương Lạp lại cọ cọ vào đùi Cương Nhật nịnh nọt, miệng rên "ư ư ư", rồi ngẩng đầu lên, cặp mắt nhìn đến tội, phảng phất như đang cầu xin: "Nói cho anh ấy đi, nói cho anh ấy đi." Nhạc Dương và đội trưởng Hồ Dương nhìn mà trợn tròn mắt lên, trong lòng lấy làm kinh hãi, duy chỉ có Trác Mộc Cường Ba biết rõ thế nào gọi là chó ngao thông linh, thế nào gọi là có thể đọc được ý người, đây chính là linh ngao Hải lam thú!

    Cương Nhật Phổ Bạc khẽ gõ nhẹ lên đầu Cương Lạp, đoạn nói: "Con nhóc này, đừng tưởng ở đó đầu mày cuối mắt với cậu ta mà tao không thấy nhé, chẳng lẽ tạo lại không biết tâm tư mày hay sao?"

    Cương Lạp lại kêu lên hai tiếng "ứ, ứ", nằm rạp xuống đất, hai chân trước ôm đầu tỏ vẻ oan ức lắm, cặp mắt đen đảo tròn một vòng. Cương Nhật Phổ Bạc giơ tay làm bộ gõ cho nó phát nữa, Cương Lạp vội nhân lúc anh ta không chuẩn bị, đã tót lên giường nấp bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, rồi lè le lưỡi, làm mặt quỷ với chủ nhân.

    Cương Nhật Phổ Bạc không biết làm sao, đành cười mắng: "Đồ phản bội." Cương Lạp lại kêu "ư ử", gối luôn đầu lên đùi Trác Mộc Cường Ba, vươn cổ ra, nheo nheo mắt như thể muốn nói, "ông làm gì tôi được nào," rồi cứ nằm yên thế để Trác Mộc Cường Ba vuốt lông cho mình.

    Cương Nhật Phổ Bạc dường như phải hạ quyết tâm rất lớn, cuối cùng mới cất tiếng: "Thôi được rồi, có một số thứ, vốn là tôi định mang theo xuống mộ, giờ thì… Cường Ba, tôi hỏi cậu, tám năm trước cậu đến đây đúng là vì Cương Lạp chứ?" Cương Lạp vừa nghe nhắc đến mình, vội mở mắt ra, dựng tai lên lắng nghe.

    Trác Mộc Cường Ba nửa giận nửa cuống nói: "Anh hỏi thế là ý gì? Tám năm trước, đến cả Bạc Ba La là cái gì tôi còn chẳng biết nữa là!" Cương Nhật Phổ Bạc gật gật đầu: "Mọi người có biết Đạo quân Ánh sáng là gì không?"

    --------------------------------

    1 Dặm (lý) Trung Quốc: bằng 0,5 km.
     
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 67: Tín Ngưỡng Của Người Qua Ba


    Trác Mộc Cường Ba gật đầu, Cương Nhật cười khổ nói: "Đội quân mạnh nhất của vương triều Thổ Phồn, không ngờ lại không để lại ghi chép gì trong bất cứ văn thư lịch sử nào, khục khục, thật là khiến người ta không thể tin nổi phải không!" Nói tới đây, anh ta lại hỏi, "Các cậu biết được những gì về Đạo quân Ánh sáng rồi?"

    Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn đội trưởng Hồ Dương, rồi kể đại khái một lượt những gì gã biết về Đạo quân Ánh sáng. Cương Nhật Phổ Bạc không ngừng gật đầu, sau đó nói: "Xem ra các cậu đã tốn rất nhiều công sức đấy, không ngờ khai quật được rất nhiều tư liệu như thế. Vậy còn bộ tộc Qua Ba thì sao, các cậu tìm hiểu đến đâu rồi?"

    Trác Mộc Cường Ba sắp xếp lại các ý nghĩ trong đầu, rồi bắt đầu kể từ mười tám tiểu bang cư trú trong các động đã của Tượng Hùng, kể cho Cương Nhật Phổ Bạc những gì gã biết về Qua Ba tộc. Cương Nhật lặng lẽ lắng nghe, có lúc lại mỉm cười tỏ vẻ tán thưởng, đợi Trác Mộc Cường Ba nói hết, anh ta mới nói: "Có thể thu thập được nhiều thông tin hữu dụng như thế trong các câu chuyện thần thoại và những mảnh vụn của lịch sử, nhất định là các cậu đã phải trả giá rất lớn. Nhưng tôi có một nghi vấn, các cậu biết tương đối nhiều về lai lịch của bộ tộc Qua Ba, lịch sử quá độ thành Đạo quân Ánh sáng và cả phương thức sinh hoạt của họ, nhưng còn tín ngưỡng của họ, dường như không đề cập gì đến thì phải?" Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng do dự, mặc dù gã nghe cha mình suy đoán về tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng, nhưng gã không dám khẳng định, vì vậy nên cũng không nói ra.

    "Tín ngưỡng?" Nhạc Dương ngờ vực hỏi, "Quân nhân chẳng phải là chỉ cần phục tùng mệnh lệnh thôi hay sao?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Chớ quên rằng, quân nhân trước tiên cũng là con người. Thời cổ đại, trên cao nguyên này có thể nói là người người đều có tín ngưỡng. Chẳng những vậy, tín ngưỡng của họ còn vô cùng kiên định, được khắc sâu vào linh hồn và xương cốt, bất cứ người nào cũng không thể thay đổi được, cả quân nhân cũng không ngoại lệ. Trong quân đội Thổ Phồn, có một chức trách chuyên biệt gọi là quân tân, chính là tế sư Bản giáo trong quân đội. Bói toán dự đoán hung cát, chiêu tập các vong hồn sau chiến trận, ngâm tụng để bình ổn lòng quân, đây chính là công việc của quân tân."

    Nhạc Dương gật gù nói: "Nói như vậy thì tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng hồi đó là Bản giáo phải không?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Chính xác, lúc đó trong quân đội đa phần đều tin thờ Bản giáo, nhưng Đạo quân Ánh sáng thì… Có thể nói là phải, mà cũng có thể nói là không phải."

    "Có thể nói là phải, mà cũng có thể nói là không phải?" Nhạc Dương giật bắn mình rung động, kinh ngạc thốt lên, "Chẳng lẽ Đạo quân Ánh sáng ấy vừa tin thờ Bản giáo, lại cũng tin thờ cả Phật giáo nữa! Bọn họ theo một tín ngưỡng dung hợp nằm giữa hai tôn giáo này?"

    Đây là lần đầu tiên Cương Nhật Phổ Bạc chú ý quan sát kỹ lưỡng anh chàng trông có vẻ vô ưu vô lo này. Cương Lạp cũng liếc mắt lên nhìn Nhạc Dương một cái, có điều thái độ ấy tỏ rõ sự dè bỉu coi thường. Cương Nhật lại nói tiếp: "Phản ứng nhanh lắm, xem ra các cậu cũng tìm hiểu được một số chuyện về mặt này rồi, có điều nói vậy cũng không hoàn toàn đúng. Bộ tộc Qua Ba đó, họ có tín ngưỡng của riêng mình, đó là một thứ tín ngưỡng mà chúng ta gọi là Vu giáo nguyên thủy."

    "Vu giáo nguyên thủy?" Nét mặt đội trưởng Hồ Dương và Trác Mộc Cường Ba trở nên chăm chú, đây là lần đầu tiên họ nghe thấy cách gọi như vậy.

    Cương Nhật Phổ Bạc gật đầu: "Đúng thế, tín ngưỡng nảy sinh vào thuở nền văn minh của con người mới manh nha phát triển, núi non sông suối, sấm chớp mưa gió, thậm chí cả cây cỏ hoa lá, chim bay thú chạy cũng đều tôn làm thần linh hết, thứ gì cũng sùng bái, thứ gì cũng tôn kính. Cũng có thể coi thứ tôn giáo này như là hình thức sơ đẳng của Bản giáo, mãi cho tới sau này khi tổ sư Bản giáo Tân Nhiêu xuất thế, ông ta mới thống nhất và sắp xếp địa vị của các thần linh, hệ thống hóa, quy phạm hóa tôn giáo nguyên thủy ban đầu, Bản giáo về sau mới hình thành. Đương nhiên, cũng có người nói, Bản giáo là từ Ba Tư truyền vào Đại Thực 1, rồi sau đó mới từ Đại Thực truyền vào cao nguyên Thanh Tạng, nhưng giả thiết này lại thiếu chứng cứ xác thực, chỉ có thể nói là hai tín ngưỡng tương tự nhau mà thôi. Có điều theo quan điểm của tôi, người nguyên thủy đa phần đều sùng bái sông núi tự nhiên đương nhiên là phải tương tự nhau rồi."

    Nhạc Dương nói: "Nói vậy thì lịch sử của tộc Qua Ba ấy chẳng phải là vô cùng xa xưa hay sao?"

    "Điều đó thì tất nhiên," Cương Nhật Phổ Bạc nói. "Mười tám tiểu bang cư trú trong động nham thạch ở Tượng Hùng, đó đã là chuyện sau khi bộ tộc Qua Ba bị sa sút rồi. Từ thời trước khi Tượng Hùng lập nước, bộ tộc Qua Ba ấy đã từng tồn tại, đồng thời còn có một độ huy hoàng. Đương nhiên, trong các văn kiện lịch sử chúng ta không thể tìm được những tư liệu xa xưa như thế, vậy nhưng, trong các câu chuyện thần thoại thì vẫn còn sót lại vô số hình bóng của bộ tộc đó. Bộ tộc Qua Ba bọn họ có thần linh đặc biệt của riêng mình, bên cạnh đó có cả lãnh tụ tôn giáo nữa, có điều muốn nói cho rõ ràng, trước tiên phải bắt đầu từ lai lịch của họ đã. Trước khi bọn họ trở thành mười tám tiểu bang sống trong hang động nham thạch của vương triều Tượng Hùng, ngược dòng lịch sử về đến thời viễn cổ xa xưa, có thể truy đến khởi nguồn của tộc Tạng…"

    Anh ta đưa mắt liếc sang Trác Mộc Cường Ba, nói tiếp: "Kể từ khi Ma nữ và khỉ sinh hạ đời sau… thời kỳ Tứ tộc, Cường Ba, cậu biết không?" Trác Mộc Cường Ba như đang ngẫm nghĩ gì đó, gật gật đầu, Cương Nhật Phổ Bạc cảm khái tiếp lời: "Tôi nghĩ, có lẽ đó cũng là thời kỳ huy hoàng nhất của bộ tộc Qua Ba…"

    Nhạc Dương không hiểu hai người họ đang nói chuyện gì, liền lên tiếng hỏi: "Thời kỳ Tứ tộc là gì vậy?"

    Trác Mộc Cường Ba đáp: "Mọi người đều biết Tây Tạng chúng tôi có một câu chuyện rất nổi tiếng về khởi nguyên của nhân loại, truyện kể rằng trong núi có một Ma nữ và một con khỉ khắt khao tu thành chính quả đã kết hợp với nhau, sinh hạ được sáu con khỉ con, sáu con khỉ này chính là tổ tiên xa xưa nhất của loài người. Về sau con cháu của chúng cứ sinh sôi nảy nở mỗi lúc một nhiều, cuối cùng đã thành bốn bộ lạc lớn, cũng chính là bốn dòng huyết thống lớn của người Tạng. Thời kỳ ấy, còn gọi là thời kỳ Tứ tộc, tựu trung là cách chúng ta bao nhiêu đời thì không rõ, e là còn xa xưa hơn cả thời kỳ Tam hoàng Ngũ đế mà ai ai cũng biết đó. Tôi trước nay vẫn nghĩ đó chỉ là một câu chuyện thần thoại mà thôi, có điều giờ nghĩ lại, tính chân thực của câu chuyện đó, sợ rằng cũng tương tự như truyền thuyết về Tam hoàng Ngũ đế vậy."

    Nhạc Dương hiểu ra, gật gù: "Cũng có nghĩa là, thời kỳ ấy đích thực có tồn tại, chỉ là một số người và sự vụ đã bị thần thoại hóa và phóng đại lên mà thôi."

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Không phải chứ, tôi còn nhớ trong các tư liệu hồi trước đọc thấy ghi là sáu con khỉ con ấy về sau thành sáu dân tộc, hơn nữa đến cả tên của các dân tộc ấy cũng không hề tương đồng. Tôi chỉ nhớ có một tộc Đảng thôi, chẳng hiểu đó có phải là tiên tổ của người Đảng Hạng không nữa."

    Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Tôi biết, điều anh vừa nói đó là nội dung chép trong điển tịch của Phật giáo, còn điều tôi nói là nội dung được nhắc đến trong cuốn kinh sách cổ ở nhà tôi cơ."

    Cương Nhật Phổ Bạc lại nói: "Theo những điều ghi chép trong sách cổ, bốn chủng người ở Tây Tạng lần lượt là Tư tộc, Mục tộc, Đồng tộc và Đông tộc. Từ thời kỳ đó bọn họ đã bắt đầu tin theo Vu giáo nguyên thủy, gọi thống lĩnh tối cao của bộ lạc là Bản Ba. Bản Ba có nghĩa là đại vu sư, là lãnh tụ tinh thần của người cổ đại. Cách xưng hô này vẫn còn giữ lại được đến giai đoạn trước khi các vương quốc mới nổi lên như Tượng Hùng, Thổ Phồn lập nước."

    Nhạc Dương không hiểu hỏi: "Đâu có nghe thấy tên Qua Ba tộc nhỉ, chuyện này thì có quan hệ gì với họ?"

    Cương Nhật Phổ Bạc đáp: "Sau khi thời kỳ Tứ tộc kết thúc, dựa theo thần thoại truyền thuyết thì xuất hiện Mã Tang cửu tộc, sau đó chia tách thành hai mươi lăm tiểu bang, về sau lại thành mười hai tiểu bang, bốn mươi tiểu bang, có lẽ đấy là thời kỳ chiến loạn, xuất hiện vô số bộ tộc nhỏ chinh phạt lẫn nhau. Những tiểu bang này đều là các dân tộc và bộ lạc không lệ thuộc, trong nội bộ đã bắt đầu xuất hiện vương và thần, chẳng qua là cùng với sự đổi dời của lịch sử, tên tuổi của các chủng tộc ấy đều đã trôi đi hết cả rồi, không thể nhất nhất truy ngược về căn nguyên cội rễ được. Chúng ta chỉ có thể suy đoán, bộ tộc Qua Ba chính là hậu duệ của một trong bốn bộ tộc thời kỳ đầu, có lẽ là tiểu bang sót lại sau khi bộ tộc nào đó suy bại rồi giải thể, thuộc vào nhóm hai mươi lăm tiểu bang."

    Nhạc Dương thắc mắc: "Tại sao lại nói như vậy?"

    Cương Nhật nói: "Bởi vì tín ngưỡng của họ, bộ tộc Qua Ba thờ phụng Tứ đại Vu vương kiệt xuất nhất trong lịch sử bốn bộ tộc, tên hiệu của bốn người này lần lượt là Đảng Bản Ba, Trại Bản Ba, Đông Bản Ba và Mạc Bản Ba. Tín ngưỡng này cùng với thói quen sống chung với sói của bộ tộc Qua Ba, có lẽ là đã có từ khi bộ tộc này ra đời hoặc thậm chí từ trước đó và kéo dài mãi cho đến ngày nay. Tương truyền năm xưa Tạng vương Tùng Tán Can Bố đổi tên bốn tòa Trấn Biên miếu thành Tứ phương miêu, chính là vì lựa theo tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng đó. Về sau rất nhiều người Qua Ba gia nhập Đạo quân Ánh sáng để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh, bọn họ lại chọn ra trong nhiều tôn giáo khác nhau một vị thần linh có sức phá hoại mạnh mẽ nhất để làm chiến thần cho mình, tiến Phạn gọi là Ma Hê Thủ La. Kỳ thực đó chính là Đại Tự Tại Thiên trong Phật giáo. Trong Ấn Độ giáo, Ma Hê Thủ La chính là thần hủy diệt Shiva. Ngài sở hữu sức mạnh có thể hủy diệt tất thảy, có thể thanh tẩy toàn bộ vũ trụ này, cho dù về sau được Phật giáo hấp nạp, ngài cũng sở hữu sức mạnh không thua gì Thích Ca Mâu Ni, một mình độc lập với các chư thiên thần Phật khác. Ngoài ra còn một điểm kỳ quái nữa, trước khi sở hữu chiến ngao, totem hay thần thú mà họ sùng bái không phải sói, mà là một sinh vật gần giống như rắn, tương truyền là hình dáng như rắn mà biết bay lượn. Tín ngưỡng này cũng tồn tại cả trong Bản giáo nữa, chính vì thế, khi con rồng ở Trung Nguyên truyền vào Tây Tạng, mới được người Tạng chấp nhận nhanh chóng." Nói tới đây, Cương Nhật Phổ Bạc dừng lại giây lát, đoạn tiếp lời, "Những gì tôi biết về tín ngưỡng và lịch sử bộ tộc Qua Ba đại khái chỉ có vậy, xét cho cùng thì sự tồn tại của Đạo quân Ánh sáng và bộ tộc Qua Ba xưa na vẫn là một điều vô cùng thần bí."

    Ba người ngơ ngác nhìn nhau, phải tiêu hóa mất một lúc lâu, Nhạc Dương mới lên tiếng: "Xin, xin lỗi, tôi thấy hơi hồ đồ rồi, tên của Tứ đại Vu vương kia sao lại không hề giống bộ tộc của họ vậy? Còn, còn nữa, tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba không phải là tín ngưỡng dung hợp của Phật giáo và Bản giáo hay sao? Tại sao lại thành một tín ngưỡng hoàn toàn khác hẳn với hai tôn giáo kia nữa vậy?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Trước tiên, bốn danh xưng kia hoàn toàn không phải tên của Vu vương, chúng đơn giản chỉ là một danh hiệu tượng trưng thôi, ý tứ của những âm cổ này là gì thì chịu không ai biết được, nhưng theo tôi thì đại khái chắc cũng tương đương với những Trí tuệ Thiên vương, Uy vũ Thiên vương mà ngày nay chúng ta vẫn hay nói đó thôi. Có điều, tương truyền con cháu của bốn vị Vu vương đó về sau đã trực tiếp đổi họ tộc mình thành Đảng, Trại, Đông và Mạc, chuyện này có thật hay không thì cũng không biết được. Còn vấn đề tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba, vậy thì phải bắt đầu từ một chuyện khác, nói ra cũng dài lắm.

    Cương Nhật Phổ Bạc nhổm người đứng lên, lại rót thêm một chén rượu nữa, ngửa miệng uống cạn: "Về thứ tín ngưỡng tôn giáo nằm giữa Phật giáo và Bản giáo này thì phải nói từ Tạng vương Tùng Tán Can Bố. Các cậu biết đấy, trước khi Phật giáo truyền vào đất Tây Tạng, cơ hồ tất cả các bộ lạc trên cao nguyên này đều tin thờ theo Bản giáo nguyên thủy. Đương nhiên, khi Bản giáo đã trải qua hơn nghìn năm phát triển, đã được hệ thống hóa một cách rất tỉ mỉ rồi. Nhưng Bản giáo có một đặc điểm đó chính là Đa thần luận, kế thừa đặc tính của Vu giáo nguyên thủy, vạn vật trên thế gian này đều có thần linh, hơn nữa những thần linh ấy đều độc lập tách rời, mỗi vị tự có lĩnh vực của riêng mình, mỗi vị quản hạt phạm trù của riêng mình, nếu giữa hai vị thần xảy ra xung đột, vậy thì sẽ đánh một trận, có thắng có thua, không có vị nào ngự trị vị nào, cũng không tồn tại vị nào có địa vị cao hơn hay thấp hơn vị khác cả. Chẳng những thế, thầy mo của Bản giáo đều hoàn toàn dựa vào lời tiên tri để quyết định đại sự của quốc gia. Ngày nay chúng ta đều đã biết những lời tiên tri bói toán ấy thiếu tính khoa học và hiệu quả thực tế, vì vậy, khi Tạng vương Tùng Tán Can Bố kế vị, ông đã quyết định thay đổi tất cả. Các cậu có biết rằng Tạng vương Tùng Tán Can Bố, vốn cũng là một giáo đồ của Bản giáo hay không?"

    "A!" Nhạc Dương khẽ thốt lên một tiếng kinh ngạc. Ai mà không biết Tạng vương Tùng Tán Can Bố là hóa thân của Quan m Bồ Tát, có địa vị cực kỳ tôn quý trong Tạng truyền Phật giáo, giờ không ngờ Cương Nhật Phổ Bạc lại bảo ông là giáo đồ Bản giáo, quả thực khiến Nhạc Dương bị một phen kinh ngạc. Có điều, nhìn phản ứng của đội trưởng Hồ Dương và Cường Ba thiếu gia, đây rõ ràng là sự thật rồi.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói tiếp: "Tôn giáo ra đời, xưa nay vẫn là để an ủi tâm linh con người, nhưng một khi tôn giáo đã móc nối với chính trị, thì tác dụng hàng đầu của nó là trở thành công cụ của tầng lớp thống trị. Bất kể là tôn giáo nào đi chăng nữa, trong mắt kẻ thống trị, chỉ cần nó khiến trăm họ trở nên dễ dàng chấp nhận sự thống trị của y hơn, thì đó chính là tôn giáo tốt, ngược lại, thì nó chính là hòn đá cản đường của kẻ thống trị. Đa thần luận và cơ chế mang chuyện quốc gia đại sự ra hỏi trời hiển nhiên là bất lợi cho hệ thống thống trị, vì vậy nửa đời trước của Tạng vương Tùng Tán Can Bố là một giáo đồ Bản giáo, việc này không có sai, nhưng ông đã nhanh chóng phát hiện ra rằng, những vu sư Bản giáo kia cứ đem quốc gia đại sự giao cho ông trời quyết định đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự thống trị của mình. Điều ông ta cần là trung ương tập quyền, quốc gia đại sự do ông ta quyết định, chứ không cần dựa vào trời xanh kia làm gì cả, bởi thế, cải cách ở trong tư thế buộc phải tiến hành! Mà Phật tổ của Phật giáo khi đản sinh đã thốt ra một câu: Thiên thượng địa hạ, bát hoang lục hợp, cổ vãng kim lai, duy ngã độc tôn, mười sáu chữ chân ngôn này rõ ràng là vô cùng thích hợp với kẻ thống trị. Kỳ thực, từ trước khi Tùng Tán Can Bố phát triển Phật giáo, Phật giáo đã truyền đén Tây Tạng từ lâu rồi, do Bản giáo bài xích một cách mạnh mẽ nên cơ bản không có đất đứng chân. Phải biết là, muốn khiến người ta thay đổi tín ngưỡng hơn nghìn năm để đi tin thờ một tôn giáo khác, ấy là một quá trình vô cùng gian nan, ngoại trừ Tạng vương Tùng Tán Can Bố ra, thật sự chưa có nhà thống trị nào dám giở chiêu này cả. Để thực hiện ý đồ đó, Tạng vương Tùng Tán Can Bố đã làm rất nhiều việc, thông qua hôn nhân để dẫn tiến Phật giáo, ban bố một loạt pháp lệnh và điều lệ mở ra cánh cửa cho các tăng lữ hoạt động, chế định và ra các chính sách ưu đãi cho người tín thờ Phật giáo…

    Nhạc Dương chau mày, những chuyện này hình như không liên quan gì đến bộ tộc Qua Ba cả. Chỉ nghe Cương Nhật Phổ Bạc tiếp tục nói: "Có điều lúc đó áp lực mà Tạng vương Tùng Tán Can Bố phải đối mặt, chỉ sộ còn lớn hơn trong tưởng tượng của chúng ta rất nhiều. Muốn để dân chúng chấp nhận một tôn giáo mới, trước tiên phải bắt đầu từ bản thân mình, từ các quan tước đại thần bên cạnh, mà hoàn cảnh lúc ấy, trên từ quan viên quý tộc, dưới đến dân chúng nông nô ai nấy đều là những tín đồ Bản giáo hết sức trung thành, trong triều ngoài nội đâu đâu cũng có tiếng phản đối. Có điều, điều này không làm Tạng vương lo lắng, điều khiến ông thực sự lo lắng là quân đội, vào thời điểm đó, binh sĩ trong quân đội cũng hoàn toàn là tín đồ Bản giáo, nếu binh sĩ nổi dậy, đảo ngũ, phản kháng, ám sát, thì hậu quả đó thực không thể tưởng tượng nổi. Vì thế, từ rất lâu trước đó, Tạng vương đã phải chuẩn bị chu toàn."

    Lúc này, ba chữ "Qua Ba tộc" đã xuất hiện trong đầu bọn Trác Mộc Cường Ba rồi. Quả nhiên, Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Giờ thì các cậu đã hiểu tại sao Tạng vương Tùng Tán Can Bố không chọn lựa người tộc khác mà cứ chấp ý huấn luyện người Qua Ba thành Đạo quân Ánh sáng rồi chứ. Chính vì tín ngưỡng của bọn họ khác với tất cả các dân tộc khác trên đất Tạng, chỉ cần không xúc phạm đến hạt tâm tín ngưỡng của họ, cũng chính là địa vị của Tứ đại Vu vương, còn lại bất kể là Niên, Tán, Ma của Bản giáo hay Thích Ca Mâu Ni của Phật giáo hoặc Đại Nhật Như Lai của Mật giáo, bọn họ đều có thể tin thờ mà không hề có bất cứ xung đột gì với tín ngưỡng nguyên thủy của họ hết. Vì vậy mà từ đó trở đi, Đạo quân Ánh sáng luôn đảm nhiệm chức vụ thân vệ hoàng gia, thực lực của họ là mạnh mẽ nhất, đồng thời tính bao dung trong tín ngưỡng của họ cũng là mạnh mẽ nhất."

    Nhạc Dương không hiểu hỏi: "Như thế tại sao, về sau bọn họ lại theo cả Phật giáo lẫn Bản giáo thế?"

    Cương Nhật Phổ Bạc đáp: "Nói chuyện này thì không thể không nhắc đến cuộc chiến giữa Phật giáo và Bản giáo. Chắc các cậu cũng biết, Phật giáo và Bản giáo đã tranh đấu mấy trăm năm trên cao nguyên, có thể nói là từ khi Tạng vương Tùng Tán Can Bố chính thức đưa Phật giáo vào Tây Tạng, đến khi vương triều Thổ Phồn diệt vong sụp đổ, cuộc tranh đấu giữa hai tôn giáo lớn này vẫn chưa từng gián đoạn bao giờ. Tại sao lại như vậy? Bởi vì Bản giáo nguyên thủy không chỉ khác biệt Phật giáo về tín ngưỡng, mà quan trọng hơn nữa là, lợi ích của vô số quý tộc đại thần liên quan mật thiết đến Bản giáo, thông qua hình thức bói toán và các nghi thức của Bản giáo nguyên thủy, bọn họ có thể giành được quyền phát ngôn đối với một số chuyện lớn của quốc gia, nhưng từ sau khi Phật giáo tiến vào cung đình, những vị đại thần ấy đã mất đi địa vị chủ đạo trong các quyết sách quan trọng và cả việc phân chia lợi ích nữa. Tạng vương Tùng Tán Can Bố là bậc kỳ tài khoáng thế, khi ông ta còn tại vị tất nhiên là không ai dám phản đối, nhưng sau khi ông ta qua đời không được bao lâu, đám đại thần được lợi ích từ Bản giáo kia bắt đầu ủng hộ Bản giáo trở lại. Nhìn bề ngoài, thời kỳ vương triều Thổ Phồn là thời kỳ Phật giáo và Bản giáo tranh đấu giành ảnh hưởng, còn trên thực tế, đây là cuộc tranh đoạt quyền lực giữa hoàng gia và các đại thần nắm giữ quyền bính trong tay mà thôi! Mấy trăm năm trở về sau, dưới ảnh hưởng của các đại thần, một số quân vương tín thờ Bản giáo, một số vị khác lại kiên trì Phật giáo, cứ như vậy lặp đi lặp lại không ngừng, trong lịch sử đã xảy ra không biết bao nhiêu lần thượng tôn Phật giáo, đè nén Bản giáo và ngược lại, thậm chí còn có vô số lần xảy ra xung đột đẫm máu. Chỉ có điều đời Tạng vương cuối cùng, Lãng Đạt Mã là triệt để nhất, hậu quả cũng nghiêm trọng nhất, trực tiếp khiến vương triều sụp đổ, vì vậy nên mới được người ta biết đến nhiều nhất. Mà trong thời kỳ ấy, Đạo quân Ánh sáng do bộ tộc Qua Ba cấu thành là quân cận vệ của Tạng vương, tức là đội quân trực thuộc gần với Tạng vương nhất, tín ngưỡng của họ cũng không thể không thay đổi tùy theo tín ngưỡng của các vị Tạng vương mà họ phục vụ. Bởi thế mà về sau này, tín ngưỡng của họ trở thành một mô thức cực kỳ quái dị, có thể chứa đựng hòa trộn hai thứ tôn giáo vốn hoàn toàn xa lạ là Bản giáo và Phật giáo vào làm một. Cũng chỉ có như vậy, kẻ nắm quyền cao nhất mới có thể yên tâm để bọn họ phụ trách công tác bảo vệ an toàn cho mình. Và Đạo quân Ánh sáng ấy cũng chưa một lần nào khiến các vị Tạng vương phải thất vọng cả."

    Nhạc Dương nói: "Không phải đâu, trong lịch sử Thổ Phồn vẫn xảy ra rất nhiều sự kiện ám sát mà."

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Đạo quân Ánh sáng chỉ phụ trách cảnh giới vòng ngoài, đề phòng thích khách ám sát khi Tạng vương xuất tuần bên ngoài, còn đối với các âm mưu tranh đấu trong nội bộ cung đình thì bọn họ không làm gì được. Nguyên nhân cái chết của chủ nhân cao nguyên Tùng Tán Can Bố cho đến nay vẫn hết sức li kỳ, bí hiểm, cậu không thể nói là Đạo quân Ánh sáng đã không tận hết chức trách của mình được. Trên thực tế nếu tra kỹ lại lịch sử Thổ Phồn, các cậu sẽ thấy chỉ có Tạng vương Lãng Đạt Mã chết vì bị thích khách ám sát ở nơi công cộng, còn các vị Tạng vương bất ngờ tử vong khác đều chết bất minh vì những tranh đấu trong cung đình cả."

    Nhạc Dương lẩm bẩm nói một mình: "Như vậy thì bộ tộc Qua Ba và Tạng vương dường như không có mâu thuẫn gì lớn lắm, vậy tại sao bọn họ lại đột nhiên bỏ đi, đồng thời còn mang theo cả toàn bộ báu vật cất giấu trong Tứ Phương miếu nhỉ?"

    Nét mặt Cương Nhật Phổ Bạc lộ vẻ bi phẫn, thở dài, nói: "Không biết nữa, đây chính là câu đố lớn nhất mà Đạo quân Ánh sáng để lại cho đời sau. Chẳng ai ngờ được, Đạo quân Ánh sáng mạnh nhất vương triều Thổ Phồn lại biến mất như bóng chim tăm cá chỉ trong có một đêm, nhất định là bọn họ đã lên kế hoạch xong xuôi từ rất lâu rồi. Nhưng rốt cuộc là đã xảy ra sự kiện gì khiến họ làm vậy thì không ai biết cả. Tôi chỉ biết có tin đồn rằng, ấy là bởi Tạng vương diệt Phật quá đỗi triệt để, đến cả Đạo quân Ánh sáng cũng không thể nhẫn nhịn được nữa; ngoài ra còn một thuyết khác nói đây là cuộc tranh đấu giữa hai gia tộc lớn, Nương thị và Vi thị, dù sao thì người của cả hai đại gia tộc này đều đã từng nắm giữ chức vụ chỉ huy cao nhất của Đạo quân Ánh sáng. Nhưng những ý kiến này đều thiếu chứng cứ xác thực, không đủ tin, không đủ tin đâu…" Nói tới đây, anh ta lộ vẻ mệt mỏi chán chường, ánh mắt toát lên nỗi cô đơn quạnh quẽ.

    Thông tin của Cương Nhật Phổ Bạc cung cấp khiến Nhạc Dương chìm sâu vào suy tư, anh đang gắng sức tìm cách liên hệ Đảo Huyền Không tự và Đạo quân Ánh sáng đã mất tích kia lại với nhau, đồng thời lờ mờ cảm thấy tất cả các sự kiện độc lập tựa như những mảnh ghép hình bị xáo loạn lên, chỉ cần tìm được trình tự xảy ra của chúng sẽ ghép lại được một bức tranh hoàn chỉnh. Nhưng cố gắng mãi, cuối cùng cũng đành phải chịu bỏ cuộc vì không đủ đầu mối, bức tranh ghép vẫn còn thiếu một số mảnh quan trọng, anh chỉ biết lắc đầu bất lực.

    Lúc này, Cương Nhật Phổ Bạc lại quay sang nói với Trác Mộc Cường Ba: "Phải rồi, còn một đầu mối nữa có lẽ sẽ giúp ích được cho các cậu ít nhiều. Cường Ba ạ, còn nhớ lần đầu tiên cậu đến đây, đã kể cho tôi nghe câu chuyện chín chó một ngao đó không? Chính là chuyện đào một cái hố, vứt bọn ngao con mới sinh xuống đó ấy."

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Đây là nội dung giáo sư Phương Tân đã giảng giải trong buổi học đầu tiên ông dạy gã, đồng thời cũng là câu chuyện gã thường được nghe từ thuở nhỏ. Gã cũng thường đem câu chuyện này kể cho các bạn bè của mình, nhưng còn lần đó…

    Cương Nhật Phổ Bạc lại tiếp lời: "Lần đó tôi đã cười nhạo cậu, còn nhớ không hả?" Đương nhiên là Trác Mộc Cường Ba không quên, lần ấy khi gã kể câu chuyện này cho Cương Nhật, vẻ mặt anh ta như thể cười mà không phải cười, tựa như đang chế giễu Trác Mộc Cường Ba gã đánh trống qua cửa nhà sấm, về sau gã hỏi Cương Nhật Phổ Bạc tại sao lại cười, anh ta chỉ đáp: "Không có gì, câu chuyện hay lắm, chân thực lắm, tôi từng nghe rồi." Nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cứ có cảm giác dường như Cương Nhật còn có điều gì đó chưa nói ra hết.

    Lúc này, Cương Nhật Phổ Bạc mới nói: "Bởi vì lúc đó, cậu chỉ biết có việc ấy chứ không biết việc ấy sở dĩ do đâu. Bây giờ, thì chắc cậu biết phương pháp huấn luyện chín chó một ngao ấy là ở đâu ra rồi chứ?"

    Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, kinh ngạc thốt lên: "Đạo quân Ánh sáng! Chiến ngao! Đó là phương pháp huấn luyện chiến ngao!" Đến lúc này gã mới hiểu ra, tại sao lần đó Cương Nhật Phổ Bạc muốn nói rồi lại thôi, lúc đó gã căn bản chẳng hề biết Đạo quân Ánh sáng là gì, chỉ sợ cho dù anh ta có nói ra, gã cũng chưa chắc đã tin, cứ mình mình ở đó mà ba hoa xích thố, trong mắt Cương Nhật Phổ Bạc sợ rằng chẳng khác nào loại ếch dưới đáy giếng cả.

    --------------------------------

    1 Đại Thực: Đế quốc Ả rập (632 – 1258), vương triều phong kiến do người Hồi giáo sáng lập nên trên bán đảo Ả rập. Trong các giáo trình lịch sử Trung Quốc từ thời Đường như Kinh hành ký, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử, Liêu sử… đều gọi là Đại Thực quốc (theo âm Tazi hay Taziks trong tiếng Ba Tư).
     
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 68: Suy Đoán Về Tử Kỳ Lân


    Cương Nhật Phổ Bạc lại khẽ gật đầu: "Đúng vậy, Đạo quân Ánh sáng trong thời đại Thổ Phồn đã là một câu đố rồi, không ai biết bọn họ đã trải qua huấn luyện như thế nào, đến cả các đại thần quyền quý, thậm chí cả Tạng vương, cũng chỉ có thể trông thấy những binh sĩ đạt chuẩn của đạo quân ấy mà thôi. Đồng thời, cũng không người nào biết được họ sử dụng phương pháp gì để thuần dưỡng chiến ngao cả, tất cả đều chỉ có thể suy đoán. Có điều, giả thiết vừa nãy hoàn toàn không phải đột nhiên lóe lên trong ý nghĩ hay tưởng tượng vô căn cứ, mà là kết luận người xưa qua vô số suy đoán và nhiều lần cân nhắc mới rút ra được, đích thực là nó có thể giải thích được những điểm phi thường ở một số giống ngao hiếm mà chúng ta vẫn thấy ngày nay."

    Nhạc Dương cũng lấy làm chấn động trong lòng. Từ đầu tới giờ bọn họ vẫn nghiên cứu Đạo quân Ánh sáng và chiến ngao, nhưng chưa từng liên hệ câu chuyện chín chó một ngao ấy với chiến ngao lần nào cả. Có lẽ là bởi trong tiềm thức của họ, đó cũng chỉ là một câu chuyện mà thôi. Anh chàng một mặt thầm mắng mình tư duy ấu trĩ hẹp hòi, một mặt nói: "Thì ra chuyện đào một cái hố lớn, bỏ mười con ngao con vào đấy, chỉ để một con sống sót trở ra lại có thật à, đúng là có cách thuần dưỡng như thế sao? Chiến ngao! Không ngờ từ lúc còn bú sữa đã bắt đầu tiến hành đào thải rồi, thật là tàn khốc quá đi!"

    "Tàn khốc!" Cương Nhật Phổ Bạc cười lạnh lùng: "Chiến tranh mới là tàn khốc! Đạo quân Ánh sáng và chiến ngao chẳng qua đều là vật hy sinh của chiến tranh mà thôi. Các cậu có biết, những người tộc Qua Ba đó không chỉ lựa chọn chiến ngao theo cách ấy, mà đối với chính bản thân mình cũng như vậy đó. Tin rằng các cậu đều từng nghe qua chuyện trên núi tuyết có một bộ lạc, khi lũ trẻ con của họ vừa mới sinh ra, nếu là con trai, thì sẽ lấy một tám da dê thông thường bọc đứa bé ấy lại, rồi ném ra giữa trời băng đất tuyết một đêm, phải chịu đựng qua đêm đó, thì mới được thừa nhận là tộc nhân đủ tư cách…"

    Nhạc Dương kinh hãi nhảy bật lên khỏi chỗ ngồi: "Chú, ý chú là…"

    Cương Nhật Phổ Bạc lạnh lùng nói: Đó, chính là bộ tộc Qua Ba đó, chính là Đạo quân Ánh sáng!" Giọng anh không khỏi pha chút thương cảm, "Nếu nói những đội quân khác là cây gậy, là chùy sắt trong tay kẻ cầm quyền, vậy thì Đạo quân Ánh sáng, chính là thanh kiếm trong tay người thống trị. Thuở ban đầu, thanh kiếm ấy vừa dày vừa nặng, nhưng rồi cùng với yêu cầu của chiến tranh, thì trở nên càng lúc càng mỏng hơn, nhưng đồng thời cũng càng lúc càng nhọn, càng lúc càng sắc bén, lưỡi kiếm ấy chỉ tới đâu, ai cũng không thể địch nổi. Nhưng có ai hay biết, phía sau danh xưng vô địch ấy ẩn chứa bao nhiêu là tàn khốc cùng nỗi chua cay."

    Thấy mọi người đều biến sắc, ngữ khí của Cương Nhật Phổ Bạc cũng dịu lại đôi phần: "Mặc dù nói vậy có lẽ hơi khoa trương quá sự thực một chút, nhưng theo tôi được biết, vào thời điểm trước khi Thổ Phồn sụp đổ, Qua Ba tộc chọn người vào Đạo quân Ánh sáng đúng là lúc bắt đầu từ khi trẻ con của họ còn đỏ hỏn. Còn cụ thể như thế nào thì tôi không rõ lắm, có điều là cái danh hiệu đội quân vô địch này không phải là tùy tiện mà gán lên được.

    Trác Mộc Cường Ba nghe đến mê mẩn tâm thần, đến nỗi quên cả gãi cổ cho Cương Lạp. Con chó liền há miệng ngáp một cái rõ to, rồi lại phát ra những tiếng rên ư ử ngắn hơi. Trác Mộc Cường Ba vuốt ve mấy cái, nó mới thỏa mãn nhắm mắt lại. Cương Nhật Phổ Bạc liếc mắt nhìn Cương Lạp, rồi lại bảo Trác Mộc Cường Ba: "Ừm, còn một quan điểm nữa về Tử kỳ lân. Còn nhớ lần trước tôi từng nói với cậu, Tử kỳ lân sinh ra là do di truyền cách đời không?"

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Còn nhớ."

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Thực ra, về điểm này, tôi còn được nghe nói đến một quan điểm khác nữa, có điều khi ấy thật tình là không biết nên nói với cậu như thế nào cả."

    Trác Mộc Cường Ba hơi nhổm người lên: "Hả? Cũng liên quan đến Đạo quân Ánh sáng ư?"

    Cương Nhật gật đầu nói: "Quan điểm đó cho rằng Tử kỳ lân, có khả năng chính là kết quả phối giống nhân tạo của các binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng."

    Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc đến độ không thốt nổi tiếng nào. Cương Nhật lại tiếp lời: "Cậu biết rồi đấy, ngoại trừ trong các câu chuyện thần thoại truyền thuyết, Tử kỳ lân chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong lịch sử, chính là cái lần Tạng vương Lãng Đạt Mã đi săn bị tập kích ấy, chắc là cậu còn nhớ…"

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Cương Nhật Phổ Bạc lại nói tiếp: "Có điều, theo những gì tôi biết được, lần đó Lãng Đạt Mã xuất tuần không phải để đi săn thú, mà là ông ta nhận được tin báo phát hiện ra tung tích của Đạo quân Ánh sáng." Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng hỏi: "Ý anh là…"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Con Tử kỳ lân ấy, có khả năng là do Đạo quân Ánh sáng thả ra để uy hiếp truy binh. Cậu thử nghĩ xem, thân làm người lãnh đạo cao nhất của vương triều Thổ Phồn, lúc nào cũng có một nhóm thân vệ do các binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng hợp thành ở bên cạnh bảo vệ, làm sao ông ta không biết đạo quân ấy đáng sợ đến mức nào. Cả một cánh quân như thế đột nhiên biến mất, liệu Lãng Đạt Mã có thể không lo lắng hay sao? Nếu đội quân ấy có ngày xoay đầu mũi giáo phản lại Thổ Phồn, chỉ sợ là bất cứ vị Tạng vương nào hiểu chuyện cũng ắt phải ăn ngủ không yên. Thử hỏi, ngoài Đạo quân Ánh sáng ra, còn lực lượng nào có thể khiến một vị Tạng vương nằm bệnh liệt giường không dậy nổi chứ?"

    Nhạc Dương kêu lên: "Sao lại thế được? Chẳng lẽ khi đó Đạo quân Ánh sáng là quân nổi loạn à? Chẳng phải bọn họ chỉ trung thành với người thống trị tối cao thôi hay sao?"

    Cương Nhật Phổ Bạc cười cười nói: "Ai bảo họ trung thành với người thống trị tối cao? Mặc dù tín ngưỡng của họ phù hợp với yêu cầu của người thống trị cao nhất, nhưng không phải họ tận trung với người thống trị. Tương truyền, ước định này là lời hứa của Tạng vương Tùng Tán Can Bố khi thu phục bộ tộc Qua Ba, bọn họ nghe lệnh tướng quân chỉ huy cao nhất của mình, nhưng vẫn giữ nguyên tín ngưỡng và lãnh tụ tinh thần. Mà tướng chỉ huy cao nhât của Đạo quân Ánh sáng, là hai gia tộc lớn đến từ Tượng Hùng, cũng tức là Nương thị và Vi thị; chỉ có lãnh tụ tinh thần mới là người duy nhất họ thực sự tận lòng trung, vị lãnh tụ tinh thần này là Đại Bản Ba trong tộc, tương truyền chính là hậu duệ đích truyền của Tứ đại Vu vương năm xưa. Sự việc Đạo quân Ánh sáng mất tích năm đó, nhất định là có liên quan đến vị Đại Bản Ba kia, bởi vì ngoại trừ ông ta, không ai có khả năng khiến toàn bộ Đạo quân Ánh sáng đột nhiên biến mất không tăm tích như thế cả. Có điều nếu nói là nổi loạn thì cũng không phải, dù sao thì họ cũng không hề có bất cứ hành động nào gây bất lợi cho Tạng vương hay quân đội Thổ Phồn khi ấy. Bọn họ chỉ biến mất mà thôi, biến mất một cách triệt để trên thế gian này!"

    Nhạc Dương lại hỏi: "Lần này thì tôi thật sự hồ đồ rồi, một đội quân không trung thành với người thống trị cao nhất thì kẻ thống trị nào dám dùng chứ?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Sự việc này giải thích ra thì phức tạp lắm, liên quan đến thuật cân bằng cán cân sức mạnh của người thống trị, tôi chỉ có thể nói, tình hình khi ấy hơi giống với lúc quân Thanh nhập quan chia sắc phong cho Tam phiên 1. Muốn để các gia tộc từ nơi khác đến bán mạng cho mình, nếu gia tộc ấy là những kẻ giỏi chinh chiến đánh trận, thì buộc phải cấp cho bọn họ quân đội và một số quyền tự trị, đồng thời cũng lại phải khiến cho bọn họ không tạo phản. Điều này yêu cầu người thống trị không những phải có đủ lòng tự tin và sức hấp dẫn, mà còn phải có thủ đoạn tương đối tinh diệu nữa. Cậu thử nghĩ xem, gia tộc Nương thị và Vi thị nghe lệnh của Tạng vương, Đạo quân Ánh sáng lại nghe lệnh của Nương thị và Vi thị, mà thống soái cao nhất của Đạo quân Ánh sáng là do người trong hai gia tộc ấy luân phiên đảm nhiệm, cũng có nghĩa Tạng vương có thể thay đổi quyền thống soái tối cao của hai gia tộc này đối với Đạo quân Ánh sáng bất cứ thời điểm nào. Nếu cậu muốn tạo phản, xin lỗi nhé, đối tượng duy nhất mà Đạo quân Ánh sáng thực sự trung thành tuyệt đối chỉ có một mình Đại Bản Ba của họ mà thôi, nhưng vị Đại Bản Ba này lại không có thực quyền, không trực tiếp lãnh đạo các binh sĩ. Bởi vậy, mối quan hệ giữa Tạng vương, thống soái tối cao của Đạo quân Ánh sáng, và lãnh tụ tinh thần của họ là hết sức phức tạp rối rắm, hình thành nên một sự cân bằng quyền lực vô cùng vi diệu, kết quả cuối cùng là, hai người sau đều phải ra sức tỏ rõ sự trung thành với Tạng vương. Riêng việc Đạo quân Ánh sáng mất tích, rõ ràng vấn đề cũng nằm ở giữa ba đỉnh tam giác quyền lực này, điều duy nhất mà chúng ta có thể biết là, lúc đó đã xảy ra một sự kiện gì đó, sự kiện ấy có ảnh hưởng đến mỗi một thành viên trong Đạo quân Ánh sáng, chú ý, mỗi một thành viên. Bởi vì nếu như một người trong số họ đi cáo giác, Đạo quân Ánh sáng cũng không thể biến mất một cách lặng lẽ âm thầm đến thế, mà còn mang theo cả toàn bộ các châu báu tàng trữ trong Tứ phương miếu nữa! Theo những gì tôi biết, Tạng vương Lãng Đạt Mã tuyệt đối không hề hay biết gì về chuyện này, bởi vì cả Đạo quân Ánh sáng canh giữ trước cửa cung điện của ông ta đã hoàn toàn biến mất chỉ trong một đêm. Sự việc này khiến Lãng Đạt Mã chấn động hơn bất cứ người nào khác, bằng không ông ta đã không hạ lệnh dù phải đào sâu ba thước đất cũng phải tìm ra tung tích cả Đạo quân Ánh sáng, mà cũng không đích thân dẫn quân đi truy xét đầu mối về bọn họ như thế. Cả đến trước khi chết, ông ta vẫn còn hoài nghi liệu có phải mình diệt Phật triệt để quá khiến cho Đạo quân Ánh sáng bỏ đi hay không, thậm chí còn định kiểm điểm lại hành vi ấy của mình, suy nghĩ lại về vai trò của Phật giáo đối với quốc gia. Còn về quan hệ giữa hai gia tộc Vi thị và Nương thị với Đạo quân Ánh sáng, từ thời kỳ vương triều Thổ Phồn đã có lời đồn. Một là nói Nương thị đã có hiệp nghị bí mật với Qua Ba tộc, xét cho cùng thì chính bọn họ đã đưa ra đề nghị chiêu nạp bộ tộc ấy vào Đạo quân Ánh sáng. Ngoài ra còn một thuyết khác, nói Vi thị đã lợi dụng dược vật để khống chế Đạo quân Ánh sáng và tộc trưởng, Đại Bản Ba của Qua Ba tộc… Những tin đồn này đã tự động tan biến sau đêm Đạo quân Ánh sáng biến mất. Nhưng có một điểm lạ, đó là hai gia tộc này dường như đã biết được chuyện gì đó đằng sau cuộc thoát ly của Đạo quân Ánh sáng. Dù sao thì sau khi đám người kia bỏ đi, bọn họ cũng không cuống quýt lên tìm kiếm như Tạng vương, mà sau khi Lãng Đạt Mã qua đời, cả hai gia tộc này đều trực tiếp tham gia vào cuộc tranh đoạt quyền lực mới, dường như bọn họ không hề lo lắng đạo quân ấy sẽ trở thành mối uy hiếp của mình, không biết rốt cuộc họ đã nắm giữ được bí mật gì nữa."

    Nhạc Dương nói: "Vậy, Vi thị và Nương thị có hậu nhân không?"

    "Không," Cương Nhật Phổ Bạc trầm giọng đáp, "những kẻ chìm đắm với quyền lực, cuối cùng sẽ bị quyền lực hủy diệt. Theo tôi được biết, hai đại gia tộc huy hoàng năm xưa cuối cùng đã tan thành tro bụi trong khói lửa chiến tranh, và một chút nội tình mà họ biết được đó, cũng bị mang theo xuống mồ rồi. Không còn một ai biết tung tích của Đạo quân Ánh sáng và nguyên nhân tại sao họ biến mất cả, từ đó về sau, phàm là kẻ nào muốn tìm hiểu về Bạc Ba La thần miếu và Đạo quân Ánh sáng, đến sau cùng đều nhận được sự trừng phạt đích đáng!" Giọng anh ta bỗng trở nên nghiêm khắc lạnh lùng, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nghe mà đều ngẩn ra, cả Cương Lạp cũng nghển lên khỏi đùi Trác Mộc Cường Ba. Cương Nhật Phổ Bạc biết mình lỡ lời, lại dịu giọng: "Nói đi quá xa rồi, vốn là định nói chuyện Tử kỳ lân kia mà, cậu xem đấy, đã kéo đi xa tới tận đâu rồi không biết. Đoạn anh lại rót cho mình thêm một bát rượu, nhưng rõ ràng là đã không thể bình tĩnh lại được, miệng ho sù sụ một tràng, gương mặt đỏ bừng cả lên. Cương Lạp dịu dàng rên ư ử bước đến, hai chân trước gác lên lưng Cương Nhật Phổ Bạc kẽ đập đập, hệt như cô a hoàn đang đấm lưng cho lão gia vậy. Đội trưởng Hồ Dương và Nhạc Dương ngạc nhiên đến bần thần cả người ra. Nhạc Dương không kìm nổi thầm nghĩ, con Cương Lạp ấy, thật đúng một con chó ngao hay sao? Nếu mình có một con như thế thì tốt quá!

    Cương Nhật Phổ Bạc xua tay ý bảo không cần, một lúc sau cơn ho ngừng lại, anh ta mới cất lời nói tiếp: "Các cậu đều biết cả rồi, phong tục sống chung với lũ sói của bộ tộc Qua Ba mấy ngàn năm nay chưa từng thay đổi, cho dù về sau có chiến ngao gia nhập, địa vị của loài sói cũng không hề có chút biến động, chẳng qua chỉ là thêm lũ chó ngao có địa vị đồng đẳng với sói mà thôi. Vậy thì, sẽ dẫn đến một vấn đề mới… khi chó ngao và sói ở cùng nhau, bọn chúng sẽ sống như thế nào, sẽ xử sự với ra sao? Ngoài ra, vì nhu cầu của chiến tranh, chó ngao thông thường về thể hình hay về sức mạnh và tốc độ đều không thể hoàn toàn đạt đủ tiêu chuẩn, các binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng cần chiến ngao của họ có thể hình lớn hơn, tốc độ nhanh hơn, nanh vuốt sắc bén hơn, phản ứng nhanh nhẹn hơn nữa…, phải thế nào mới làm được điều đó? Vậy là, dựa trên cơ sở này, chúng ta có một giả thiết, có lẽ mới ban đầu, đây chỉ là một sự tình cờ, tiếc là, chó ngao cùng với lũ sói sống chung với chúng, đã sản sinh ra thế hệ sau, khi các binh sĩ Đạo quân Ánh sáng phát hiện giống vật ấy có sức chiến đấu mạnh hơn, liền bắt đầu cho gây giống nhân tạo…"

    Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc đến nỗi quên cả vuốt lông cho Cương Lạp đang nằm trong lòng mình, ngẩn ngơ thốt lên: "Ý anh là, Tử kỳ lân…"

    Cương Nhật Phổ Bạc gật đầu, nói: "Dựa theo giả thiết này, Tử kỳ lân, có lẽ không chỉ Tử kỳ lân, mà còn cả một số thánh thú, linh ngao khác, có lẽ chúng chính là một loại lang ngao, hoặc giả có thể gọi là ngao lang, giống như là sư hổ thú của ngày này vậy."

    Nhạc Dương hỏi: "Tại sao lại gọi là giả thiết? Đây chỉ là suy đoán của chú thôi à, không có chứng cớ gì sao?"

    Cương Nhật Phổ Bạc lại khẽ gật đầu: "Đúng vậy, Đạo quân Ánh sáng trong thời đại Thổ Phồn đã là một câu đố rồi, không ai biết bọn họ đã trải qua huấn luyện như thế nào, đến cả các đại thần quyền quý, thậm chí cả Tạng vương, cũng chỉ có thể trông thấy những binh sĩ đã đạt chuẩn của đạo quân ấy mà thôi. Đồng thời, cũng không người nào biết được họ sử dụng phương pháp gì để thuần dưỡng chiến ngao cả, tất cả đều chỉ có thể suy đoán. Có điều, giả thiết vừa nãy hoàn toàn không phải đột nhiên lóe lên trong ý nghĩ hay tưởng tượng vô căn cứ, mà là kết luận người xưa đã trải qua vô số suy đoán và nhiều lần cân nhắc mới rút ra được, đích thực là nó có thẻ giải thích được những điểm phi thường ở một số giống ngao hiếm mà chúng ta vẫn thấy ngày nay." Anh ta ngưng lại một chút rồi nói tiếp, "ví dụ như Cương Lạp chẳng hạn…"

    Cương Lạp nghe nhắc đến tên mình, lè lưỡi ngước đầu lên nhìn Cương Nhật Phổ Bạc. Cương Nhật Phổ Bạc nâng mặt con chó lên, nói: "Cương Lạp của tôi, tổ tiên của nó có lẽ chính là một con ngao bối hoặc là bối ngao."

    "Bối ngao?" đội trưởng Hồ Dương cảm thấy diễn đạt như vậy hết sức mới lạ.

    Cương Nhật Phổ Bạc chỉ tay vào Trác Mộc Cường Ba nói: "Cường Ba biết đấy, cậu ấy có thể lý giải cho các cậu được."

    Trác Mộc Cường Ba cũng đã nghĩ đến rồi, so với giả thiết di truyền cách đời gã đưa ra thì giả thiết này đáng tin cậy hơn nhiều. Chính xác, nếu là bối ngao thì Trác Mộc Cường Ba vô cùng mừng rỡ, đây là một hướng tư duy hoàn toàn mới, trước đây Cương Nhật Phổ Bạc không nói cho gã biết, rõ ràng là vì còn vướng mắc những chuyện liên quan đến Đạo quân Ánh sáng. Gã đột nhiên phát hiện ra, Đạo quân Ánh sáng và chiến ngao không ngờ lại có mối liên hệ vô cùng mật thiết.

    Nhạc Dương thấy Trác Mộc Cường Ba cúi đầu không nói gì, sắc mặt lúc thì mừng vui, lúc lại tỏ ra kinh ngạc, không nén nổi tò mò kêu lên: "Cường Ba thiếu gia, đừng có vui trộm một mình nữa chứ, nói đi xem nào, bối ngao rốt cuộc là giống gì thế?"

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Bối, là biến chủng của sói, cũng có người nói là một loại hoàn toàn khác với sói, nhưng chuyện chúng sống chung với sói thì không thể nghi ngờ nữa, chỉ là đến ngày nay không còn ai trông thấy nữa mà thôi. Trong các ghi chép cổ, con bối, toàn thân trắng như tuyết, hai chi trước thiên sinh tàn khuyết, cần một con sói khác cõng mới đi được, nhưng nó sở hữu trí tuệ rất cao, đảm nhận vai trò như quân sư trong đàn sói. Đàn sói nào mà có một con bối, thì khả năng săn bắt của đàn sẽ nâng cao lên gấp mấy lần, cho dù cổ nhân của chúng ta đã tiến lên thời đại canh nông thì cũng không phải đối thủ của bọn chúng, chỉ có thể mắng chửi là "lang bối vi gian" 2 mà thôi, câu thành ngữ này cũng chính là từ đó mà ra đấy. Nếu bảo Hải lam thú chính là bối ngao, thì chúng ta có thể giải thích tại sao chúng thông minh đến thế rồi. Chính xác, đây là một giả thiết rất có khả năng…"

    Nhạc Dương nhìn Cương Lạp hỏi: "Cương Lạp thông minh lắm à?"

    Không ngờ, anh vừa dứt lời, Cương Lạp đã kiêu ngạo ngẩng cao đầu, bất ngờ phát ra một tiếng "oắc…" Nhạc Dương lại giật thót mình ngạc nhiên.

    Cương Nhật Phổ Bạc lại rót đầy chén rượu của mọi người, nói: "Những điều tôi có thể nói với các cậu chỉ có ngần ấy thôi, những đầu mối khác, các cậu có thể tìm được trong những nguồn tư liệu khác. Đương nhiên, nếu các cậu tìm được hậu nhân của tộc Qua Ba, biết đâu họ có thể cho các cậu biết nhiều hơn nữa cũng nên."

    Nhạc Dương ngạc nhiên thốt: "Hậu nhân của bộ tộc Qua Ba? Chẳng phải toàn bộ bọn họ đã đến Hương Ba La rồi hay sao?"

    Cương Nhật Phổ Bạc lắc đầu: "Ai bảo cậu thế? Cậu trai trẻ, cậu phải phân biệt cho rõ quan hệ giữa Đạo quân Ánh sáng và bộ tộc Qua Ba. Đạo quân Ánh sáng là người trong bộ tộc Qua Ba tổ chức thành, nhưng thế hoàn toàn không có nghĩa là Đạo quân Ánh sáng chính là toàn bộ người trong tộc Qua Ba! Năm xưa khi bộ tộc Qua Ba gia nhập vương triều Thổ Phồn, đã bị chia làm ba nhánh, những binh sĩ cường tráng nhất được lựa chọn để gia nhập Đạo quân Ánh sáng, binh sĩ bình thường thì lại ở lẫn trong các cánh quân khác, những người khác trong bộ tộc vẫn là bình dân bách tính. Những người mang châu báu ở Tứ phương miếu biến mất chỉ trong một đêm, về sau lại xây dựng nên Bạc Ba La thần miếu, chỉ có Đạo quân Ánh sáng thôi! Còn bộc tộc Qua Ba, thì vẫn ở lại sinh sống trên cao nguyên, có điều, bọn họ không thể không che dấu hành tung, sống cuộc đời của những kẻ trốn tránh ẩn nấp. Nói tới đây, gương mặt Cương Nhật Phổ Bạc thoáng hiện lên một nụ cười đượm nét bi thương, "Ngay hồi trước Giải phóng ấy, vẫn còn có người trông thấy người tộc Qua Ba bọn họ cũng như đám người Đạt Mã kia kìa, ở trong dãy Himalaya, sống nguyên thủy, đốt nương làm rẫy, du canh du cư."

    "Tại sao họ không đi theo Đạo quân Ánh sáng nhỉ?" Nhạc Dương kinh ngạc kêu lên, "Có lẽ nào, đến cả bọn họ cũng không biết Đạo quân Ánh sáng kia đi đâu hay sao?"

    Cương Nhật Phổ Bạc gật đầu nói: "Đúng thế, Đạo quân Ánh sáng biến mất quá bất ngờ. Sau khi họ bỏ đi, số phận của những người Qua Ba còn lại thật sự rất bi thảm. Họ tự nhận mình là dân tộc bị lưu đày, những binh sĩ đang bảo vệ họ - bảo vệ bộ tộc Qua Ba, đồng thời là trụ chống mạnh nhất của vương triều Thổ Phồn, đã đột nhiên biến mất. Khi vương triều sụp đổ, bộ tộc Qua Ba cũng chịu sự đàn áp cực lớn, có thể kéo dài kiếp sống tàn tạ ấy đến ngày nay, cũng coi như là một kỳ tích rồi."

    Trong lòng Nhạc Dương y còn đầy rẫy nghi vấn, bỗng nghe Trác Mộc Cường Ba nói: "Cám ơn anh, đối với chúng tôi mà nói, những tin tức này thực sự rất quan trọng…"

    "Gượm đã!" Nhạc Dương đột nhiên ngắt lời, vẻ nghi hoặc lộ ra trên khuôn mặt, anh đưa mắt nhìn Cương Nhật Phổ Bạc, nghiêm giọng hỏi: "Rốt cuộc chú là người như thế nào?" Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương đều ngẩn ra, tròn xoe mắt nhìn Nhạc Dương. Nhạc Dương lại nói: "Cường Ba thiếu gia, ở đây có vấn đề. Anh thử nghĩ mà xem, tại sao chú ấy lại biết nhiều chuyện như thế? Những chuyện thế này, chúng ta nghiên cứu bao nhiêu lâu nay rồi, nhưng đã bao giờ nghe nói đến đâu! Trong các tư liệu mà những người đi trước nghiên cứu, cũng không hề nhắc đến. "Nói tới đây, anh lại quay sang phía Cương Nhật Phổ Bạc, "Từ đâu chú có được những thông tin này? Tại sao chú lại sống trên con đường lên núi của chúng tôi? Rốt cuộc chú là ai? Chú…"

    Trác Mộc Cường Ba ngăn Nhạc Dương lại, nói: "Đủ rồi, Nhạc Dương, đừng có đoán bậy đoán bạ nữa, cậu… cậu vô lễ quá rồi đấy! Gã cũng không biết phải phê bình anh chàng thích hỏi cho đến rốt ráo tận cùng này như thế nào nữa, càng tệ hại hơn nữa là, trong lòng gã cũng nảy sinh những nghi vấn hệt như Nhạc Dương vậy.

    Cương Lạp thấy anh chàng này tuổi không lớn lắm, lại không phải quen thuộc gì cho cam mà dám chất vấn Cương Nhật Phổ Bạc, liền đột nhiên đứng phắt dậy trước mặt chủ nhân, lần này trong mắt nó đã lóe lên sát khí ghê người, rõ ràng là đứng yên bất động, vậy mà lại khiến người ta có cảm giác có thể lao bổ tới bất cứ lúc nào. Không hiểu vì sao, Nhạc Dương chợt cảm thấy hơi sợ hãi.

    Cương Nhật Phổ Bạc nhấc tay ấn Cương Lạp xuống, cười ha hả nói: "Cậu trai trẻ, rốt cuộc các cậu điều tra nghiên cứu về Bạc Ba La và Đạo quân Ánh sáng bao nhiêu năm rồi?"

    Nhạc Dương nhất thời tắc tị. Cương Nhật Phổ Bạc lại tiếp lời: "Tôi nghe nói, năm đó người dò hỏi được thông tin về Bạc Ba La thần miếu chẳng qua chỉ là nghe qua đoạn truyền thuyết từ miệng nghệ nhân hát xướng dân gian mà thôi, nếu thực sự truy ngược trở lại, thì còn chưa có đến hai trăm năm lịch sử, còn đến khi dân nước ta biết về Bạc Ba La thì đã là cuối đời Thanh, đầu đời dân quốc, tính ra chỉ có trăm năm mà thôi. Thế cậu có biết, thời gian gia tộc chúng tôi và Đạo quân Ánh sáng mắc mớ với nhau, đã trải qua hơn nghìn năm rồi hay không! Hơn một nghìn năm đấy! Kể từ ngày bọn họ biến mất khỏi cõi đời này!"

    Nhạc Dương đột nhiên nhớ ra điều gì đó, bỗng nhiên tỏ vẻ kính trọng: "Chú… chú chính là hậu nhân của bộ tộc Qua Ba!"

    Cương Nhật Phổ Bạc mỉm cười lắc đầu: "Cậu trai trẻ, đừng tự tin như thế, lần này thì cậu lầm rồi, tôi không phải hậu nhân của bộ tộc Qua Ba đâu."

    Anh ta khó che dấu nổi nét thê lương trên gương mặt, thở dài nói: "Nhưng gia tộc chúng tôi, lại phải gánh trên lưng mình vận mệnh hệt như hậu nhân của bộ tộc ấy, vì thế, tôi có thể cảm nhận được cảnh ngộ của những hậu nhân bộ tộc Qua Ba bị vứt bỏ lại trên cao nguyên ấy. Tất cả những gì họ trải qua, có lẽ là rất giống với những gì gia tộc chúng tôi đã từng gặp phải."

    Nhạc Dương lại hỏi: "Rốt cuộc thì chú là ai?"

    Cương Nhật Phổ Bạc lộ thần sắc đau đớn bi thương, Cương Lạp thì rên "ư ử", dúi đầu vào ngực chủ nhân, khe khẽ cọ cọ. đội trưởng Hồ Dương thấy vậy liền lên tiếng: "Đủ rồi Nhạc Dương, mỗi người đều có bí mật của riêng mình…" Nhạc Dương ngừng chất vấn, đột nhiên sực nhớ lại lời của Lữ Cánh Nam đã từng chỉ bảo: "Nhạc Dương, hãy nhớ cho kỹ, mỗi người đều có bí mật của riêng mình. Khi chất vấn người ta, cần phải phân biệt rõ ràng lúc nào là thẩm vấn kẻ địch, lúc nào là bạn bè trò chuyện. Hỏi cũng cần rất nhiều kỹ xảo đó!"

    Trác Mộc Cường Ba đang không biết xin lỗi Cương Nhật Phổ Bạc thế nào, thì Cương Lạp đã đột nhiên đứng phắt lên khỏi lòng anh ta, cảnh giác nhìn ra cửa, hai tai dựng đứng lên, khẽ nhúc nhích, tựa như đang tìm thông tin gì đó trong không khí, rồi đột nhiên nó ngoảnh đầu lại sủa lên một tiếng với Cương Nhật Phổ Bạc, tiếng sủa vang dội, đến cả Trác Mộc Cường Ba cũng giật thót nảy người.

    Cương Nhật Phổ Bạc giật mình sực tỉnh khỏi cơn bi thương, hỏi Cương Lạp: "Bắt đầu rồi hả?" Cương Lạp lại đáp hai tiếng nữa. Cương Nhật liền vịn tay nhảy xuống giường, bảo Trác Mộc Cường Ba: "Giờ không nói mấy chuyện này nữa, tôi dẫn các cậu đi xem một màn kich hay, đảm bảo là các cậu sống ngần này tuổi rồi cũng chưa từng thấy bao giờ đâu. Để tôi lấy ít đồ đã, Cương Lạp, mở cửa ra."

    --------------------------------

    1 Tam phiên: vốn là các tướng cũ của nhà Minh đầu hàng người Nữ chân, có công trợ giúp họ xâm nhập Trung nguyên, về sau được nhà Thanh phong vương tước, trấn nhậm ở mấy tỉnh phía Nam: Bình Tây vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam – Quý Châu; Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ ở Quảng Đông; Tĩnh Nam vương Cảnh Trọng Minh ở Phúc Kiến. Sau này làm phản, qua cuộc chiến Tam phiên chi loạn (1673- 1681) lần lượt bị hoàng đế Khang Hy tiêu diệt và xóa bỏ đất phong.

    2 Lang bối vi gian: cấu kết với nhau để làm chuyện xấu.
     
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 69: Sói


    Lạt ma Á La quan sát kỹ Cương Lạp, đoạn gật đầu nói: "Không sai, chiến ngao không cần con người ra lệnh, chúng sẽ tự căn cứ vào tình hình trên chiến trường mà phán đoán ra thực lực của hai bên địch ta. Nếu trong cuộc đọ sức vừa nãy, bên cạnh có một con chiến ngao, nó sẽ ra tay vào khoảnh khắc chiêu số của tôi kết thúc, biến hóa đã hết, tấn công lúc đối phương không phòng bị, một đòn là chí mạng ngay. "Không hiểu vì sao, nhìn thấy Cương Lạp chiến đấu, lại nghe lạt ma Á La nói đến chiến ngao, Trác Mộc Cường Ba bất giác nhớ đến ba anh em nhà sói xám họ gặp ở Khả Khả Tây Lý. Cũng đã gần hai năm rồi, không biết ba anh em nhà chúng bây giờ ra sao, bàn tay gã lần đến chiếc túi đựng đồ quý, cây sáo xương vẫn lặng lẽ nằm bên trong đó.

    Nhạc Dương và Trương Lập cũng chạy đến, hấp tấp hỏi: "Vừa nãy sao thế, hình như tôi thấy chú Cương Nhật Phổ Bạc và đại sư đánh nhau hả?"

    "Không có gì." Lạt ma Á La điềm đạm lắc đầu, "Anh Cương… Cương Nhật Phổ Bạc này là một võ sĩ, vừa nãy chúng tôi thử sức một chút thôi." Ông đưa mắt liếc sang phía Cương Nhật Phổ Bạc, chỉ thấy anh ta đang nói mấy câu gì đó với anh chàng người Đạt Mã tên là Kiên Tăng kia. Chàng trai trẻ biến sắc, lắc đầu lia lịa, rồi lại ngược sang phía họ, gật gật đầu không ngừng…

    "Các vị! Các vị!" Cương Nhật Phổ Bạc lớn tiếng nói, "Các vị, tôi định đưa Cường Ba đến một nơi, nhưng mà ở chỗ ấy, chỗ ấy hơi nguy hiểm một chút. Tôi thấy tất cả đều là người từng được huấn luyện, không biết mọi người có muốn đi chung không? Nếu không thích, thì giờ Kiên Tăng phải về làng, cậu ấy sẽ đưa mọi người về."

    Trương Lập cũng nghe Nhạc Dương nhắc đến chuyện này, liền cao giọng hỏi: "Chú Cương Nhật Phổ Bạc à, thế chúng ta đi đâu vậy?"

    Cương Nhật Phổ Bạc ngoảnh sang nhìn Nhạc Dương và Trương Lập: "Các chàng trai, hai cậu có sợ sói không?"

    Nhạc Dương còn chưa kịp đáp lời, hai mắt Trác Mộc Cường Ba đã sáng rực lên, trông hệt đứa trẻ sáu tuổi đột nhiên nghe thấy sắp được đi công viên Disney vậy. Gã vội hỏi: "Sói! Ở đây có sói hả? Phát hiện ra lúc nào thế? Lần trước tôi đến có nghe anh nói gì đâu?" Cương Nhật Phổ Bạc mỉm cười: "Tôi đã bảo chắc chắn cậu sẽ hứng thú mà. Sau khi cậu đi lũ sói mới đến vùng này, trước sau ba đợt, đặc biệt là đợt cuối cùng, tôi đảm bảo là cậu chưa thấy bao giờ. Hôm nay chúng có chiến dịch lớn, thế nào, có muốn đi xem không?"

    Nhạc Dương thắc mắc: "Chiến dịch lớn gì vậy?"

    Cương Nhật Phổ Bạc đáp: "Mấy hôm trước có một đàn bò Yak hoang đi qua lãnh địa của lũ sói, bị đàn sói bao vây rồi. Hôm nay, bọn chúng sẽ quyết chiến một trận. Cương Lạp đã ngửi thấy mùi thuốc súng, giờ đi nhanh nhanh lên thì vừa vặn kịp xem đó."

    "Gì hả, đàn sói và đàn bò Yak quyết chiến hả!" Nhạc Dương kích động đến nỗi lạc cả giọng đi. Từ sau khi nghe lạt ma Á La kể chuyện thú chiến, bọn họ vẫn cứ cảm khái rằng mình sinh muộn mất một nghìn năm, giờ ở ngay trước mắt lại có một màn hay như vậy, có lẽ so với cuộc chiến năm xưa cũng không khác nhau là mấy đâu.

    Cương Nhật Phổ Bạc nhìn mọi người, Nhạc Dương và Trương Lập thì kêu gào nhất định đòi đi cho được, lạt ma Á La thì thế nào cũng xong, đội trưởng Hồ Dương thoáng suy nghĩ một chút rồi nói: "Cũng tốt, tiện thể thăm dò địa hình luôn." Ba Tang dường như đang nhớ lại chuyện gì đó trong quá khứ, khóe miệng giật giật liên hồi, không nói câu nào, thấy Nhạc Dương ngước nhìn sang, anh ta lại kiên định gật đầu.

    Mọi người thương lượng một hồi, ai cũng đồng ý đi, Kiên Tăng trở về làng trước, rồi cả đám người còn lại tiếp tục theo chân Cương Lạp, trèo lên dốc phía Nam.

    Cương Nhật Phổ Bạc nhìn lại, thấy tính cả mình vào thì tổng cộng đã có tám thành viên, không khỏi lẩm bẩm nói: "Tám người, hơi nhiều rồi, cũng không biết là tốt hay không tốt nữa." Anh ta trông thấy thiết bị đo đạc trong tay Nhạc Dương, đột nhiên sực nhớ ra điều gì đó, liền hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Các cậu có thiết bị liên lạc gì không?"

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Cương Nhật Phổ Bạc cuống lên nói: "Tắt hết, tắt hết, sẽ bị phát hiện đấy." Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, không biết sóng điện từ có thể bị bầy sói phát hiện ra hay không, nhưng Cương Nhật Phổ Bạc đã lo lắng như thế, thì gã cũng đành báo lại tình hình cho Lữ Cánh Nam rõ, rồi cùng mọi người tắt hết các thiết bị truyền tin.

    Đi thêm một lúc nữa, Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: "Lũ sói đến vùng này từ khi nào thế?"

    Nhạc Dương cũng hỏi: "Tổng cộng có bao nhiêu con bò Yak hoang? Nghe khẩu khí lúc nãy của chú thì dường như bầy sói chiếm ưu thế hơn phải không?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nhìn hai người hai bên trái phải của mình, rồi trả lời Nhạc Dương trước: "Bầy bò Yak hoang ấy độ chừng có năm sáu chục con. Có điều sói là thiên địch của bò Yak, có lúc ba hay năm con sói đã có thể khiến cả bầy bò Yak hoảng loạn thất kinh rồi, huống hồ là lần này chúng không hề chiếm ưu thế về số lượng. Tôi cho rằng chúng thất bại là cái chắc, chúng ta xem là xem bầy sói dùng cách nào để chiến thắng thôi."

    Nghe nói bầy bò Yak không chiếm ưu thế về số lượng, Trác Mộc Cường Ba bất giác liếc mắt sang nhìn Cương Nhật Phổ Bạc. Cương Nhật Phổ Bạc cũng biết gã định nói gì, liền đáp luôn: "Cậu đi xem là biết ngay thôi, bầy sói này đảm bảo khác với tất cả những bầy sói mà cậu từng thấy trước đây." Nói rồi anh ta ngước nhìn lên phía trước, thấy Cương Lạp đang chạy ở phía xa, mới trả lời câu hỏi đầu tiên của Trác Mộc Cường Ba, "Lúc trước tôi nói rồi còn gì, trước sau có ba đợt, đại khái là sau khi cậu đi không bao lâu thì đợt đầu tiên đến, Cương Lạp phát hiện ra bọn chúng. Con đầu đàn trước đây thì tôi chưa gặp lần nào, có điều thủ lĩnh của chúng bây giờ là một con sói trắng, một con Bạch nhãn lang!"

    Cương Nhật Phổ Bạc gằn giọng nói, nhưng lại hạ giọng xuống rất thấp: "Đàn sói thứ hai đến đây vào khoảng bốn năm trước, chúng với đàn sói đầu tiên mỗi bọn chiếm một khu, từ trước đến giờ đều không có xung đột gì, con đầu đàn chắc là đã già rồi, lưng nó gù lên hơi giống lưng bò Yak hoang, tôi gọi nó là con Lưng gù. Hai đàn sói này đều chẳng khác gì các đàn sói thông thường cả, một đàn kiểu gia tộc, có khoảng mười lăm mười sáu con; đàn thứ hai là kiểu tập đoàn, đại khái có khoảng hai bảy hai tám con gì đó, theo tôi quan sát thì đại khái đàn này do bốn gia tộc sói hợp lại mà thành, nếu không phải do Cương Lạp thì có khi tôi cũng chẳng buồn quan tâm đến sự tồn tại của chúng làm gì. Nhưng đàn sói thứ ba thì hơi có chút cổ quái, nếu kết quả mấy lần thống kê của tôi chính xác, thì tổng số lượng bọn chúng là khoảng tầm trên dưới hai trăm con."

    Đội trưởng Hồ Dương trợn tròn mắt lên: "Không thể như vậy được!"

    Nhạc Dương tò mò thắc mắc: "Sao lại không thể chứ?"

    Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu: "Cậu không hiểu loài sói rồi, tuy sói là động vật quần cư, nhưng quần cư không có nghĩa là tụ tập một cách vô độ, điều này do nhiều nhân tố khác nhau như môi trường, thức ăn, gia tộc… kết hợp lại quyết định. Một đàn sói thông thường chính là một gia tộc, do một cặp vợ chồng sói đầu đàn dẫn các con cùng đi săn mồi, số lượng từ bảy đến mười hai con là ưu việt nhất, cực kỳ ít thấy đàn nào vượt quá hai mươi con. Chỉ khi đến mùa đông, con mồi ít đi, cần phải vây bắt các con mồi lớn thì mấy gia tộc sói đã quen biết, lại có lãnh địa gần nhau mới tập hợp lại thành một đàn lớn, có điều đông nhất thì số lượng cũng chỉ tầm ba bốn chục con, do một đôi vợ chồng sói ưu tú nhất, kinh nghiệm phong phú nhất làm thủ lĩnh. Còn chuyện hai trăm con sói tập trung một chỗ thì ít nhất là tôi chưa từng thấy bao giờ, chỉ có trong tiểu thuyết mới viết như vậy thôi. Việc này liên quan đến vấn đề số lượng vật săn và phân chia chiến lợi phẩm… vì khi bầy sói đi săn thì mỗi một con sói trưởng thành đều phải tham gia chiến đấu, hơn nữa còn phải đảm bảo rằng mỗi một con sói trưởng thành đều được phân chia cho đủ lượng thức ăn dành cho nó. Phải biết rằng, sói là loài động vật ăn tạp nhưng chủ yếu là ăn thịt, theo các nhà sinh vật học tính toán, khi số lượng một đàn sói vượt quá hai mươi con, hiệu suất săn bắt không những tăng lên mà ngược lại còn giảm đi đáng kể, sự sinh tồn của cả bầy sói sẽ rất khó duy trì được. Hai trăm con sói mà sống chung với nhau, trừ phi là chúng học được khai hoang cày cấy, ăn ngô thay thịt thì còn tàm tạm…"

    Nhạc Dương trầm ngâm nghĩ ngợi, nhìn bộ dạng như hiểu mà lại như không hiểu. Trương Lập thì nghe chẳng biết đâu vào đâu, lẩm bẩm một mình: "Tôi vẫn không hiểu, nói như thế nào thì nói, một quần thể bao giờ chẳng càng đông càng tốt sao?"

    Cương Nhật Phổ Bạc liền lên tiếng: "Lý luận về tổ hợp hiệu quả nhất khi đi săn của đội trưởng Hồ tôi cũng từng nghe nói đến rồi, nhưng chuyện đó phải có điều kiện tiên quyết trước đã. Ý tôi là, trong hoàn cảnh số lượng con mồi có hạn, sự khác biệt giữa đàn sói này và đàn sói khác không lớn, mỗi đàn đều có lãnh địa riêng và bị hạn chế phạm vi săn bắt, để bảo đảm bầy đàn của mình có thể tiếp tục sinh tồn về sau, bọn chúng mới cần thiết phải hạn định số lượng sói trong đàn. Khi số lượng vượt quá giới hạn mà vùng lãnh địa của bầy đàn có thể cung dưỡng, bầy sói sẽ tự động trục xuất những cá thể yếu nhược, đạo lý này cũng giống như các công ty lớn cắt giảm nhân viên khi kinh tế gặp khó khăn vậy. Có điều, quan điểm này chỉ được lập luận chứng minh trên giấy mà thôi, mấy nhà sinh vật học kia đã quá coi thường lũ sói rồi. Cậu cũng biết rồi, đến mùa đông khi đồ ăn thiếu thốn, các gia tộc sói sẽ gác bỏ thành kiến, hợp lại thành đàn lớn để tiến hành săn bắt trên diện rộng. Mà cậu có biết, các gia tộc sói dựa vào sự lớn mạnh của thực lực để phân định phạm vi lãnh địa hay không; cậu cso biết rằng, giữa các gia tộc sói, ngoài tổ hợp kết hợp ra, còn có xua đuổi và thôn tính lẫn nhau nữa hay không, cậu có biết hai gia tộc sói ở cạnh nhau tiến hành đàm phán, khiêu chiến, rồi dẫn đến chiến tranh như thế nào hay không, rồi chúng còn mai phục, vây công, thực hiện hành động đánh rắn chặt đầu với thủ lĩnh gia tộc đối phương, hoặc giả dẫn dụ các con sói trẻ tuổi của quân địch bỏ đàn, hay tìm những con sói đơn độc, để nó trở thành chốt cắm bên phía quân địch của mình nữa, những điều này cậu đã nghe nói đến bao giờ chưa?"

    Mấy người bọn đội trưởng Hồ Dương nghe mà trợn mắt há hốc miệng ra. Cương Nhật Phổ Bạc nói một hơi dài như vậy, phải đứng trên dốc núi nghỉ một chút rồi mới tiếp tục sải chân đi theo Cương Lạp, ngoảnh lại nói với đội trưởng Hồ Dương: "Trên thực tế, vì quan sát bầy sói là một chuyện hết sức nguy hiểm, thêm vào đó là bản thân lũ sói cũng không dễ dàng để kẻ khác theo dấu, số lượng lại càng ngày càng ít, đừng nói là các cậu, đến cả bản thân tôi canh chừng lũ sói ấy bao nhiêu năm rồi, cũng chỉ lén lút quan sát thấy có vài lần thôi. Thế nên tôi mới nói, lần này dẫn mọi người đi xem sói sẽ hoàn toàn khác với những gì mọi người tưởng tượng trong đầu."

    Nhạc Dương thoáng ngẩn người, rồi chạy đuổi theo hỏi: "Những gì chú vừa nói, toàn là về bầy sói thứ ba phải không?"

    Cương Nhật Phổ Bạc thầm khen anh chàng này là người cơ cảnh, chỉ dựa vào chuyện mình nói hai bầy sói đầu tiên đều rất bình thường mà đã đoán ra được những gì nói về sau đều là hành vi của bầy sói thứ ba, liền gật đầu đáp: "Đúng thế. Cậu không biết đấy thôi, quan niệm về lãnh địa của sói vốn rất mạnh. Một là vì tính ỷ lại, dù sao thì đấy cũng là nơi chúng nó sinh ra và trưởng thành; hai là vì chúng không tác chiến trong hoàn cảnh không quen thuộc, mỗi một con sói, có thể nói đều nắm rõ lãnh địa của gia tộc mình như lòng bàn tay vậy, đối với chúng, đây là một kỹ năng bắt buộc phải nắm vững. Thế nhưng, lãnh địa của lũ sói cũng không phải là bất biến, nếu gặp phải thiên tai, chẳng hạn như hạn hán hoặc giá lạnh kéo dài dẫn đến không thể duy trì được nguồn thức ăn, khi ấy sẽ xuất hiện một tình huống hiếm thấy, cũng chính là điều mà chúng ta sắp xem bây giờ đây."

    "Là gì thế?" Nhạc Dương nôn nóng hỏi. Cương Nhật Phổ Bạc đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, mỉm cười: "Những chuyện này đều do Cường Ba kể với tôi."

    "Sói di cư!" Trác Mộc Cường Ba tiếp lời, "Chuyện này phải có điều kiện tiên quyết. Trước tiên, phải xuất hiện một gia tộc cực kỳ lớn mạnh. Sói cũng như người vậy, cũng có thiên phú thiên bẩm, có những lúc, trong một gia tộc nào đấy đột nhiên xuất hiện một con sói thủ lĩnh hết sức cường tráng, hoặc rất có mưu lược, dưới sự lãnh đạo của nó, gia tộc ấy chắc chắn sẽ lớn mạnh hơn những gia tộc sói ở xung quanh lãnh địa của chúng. Khi gia tộc sói đó lớn mạnh đến độ có thể coi các gia tộc xung quanh không có trong con mắt mình, chúng đồng thời cũng sẽ chẳng buồn để tâm đến quy tắc ngầm về lãnh địa kia nữa. Trong mắt gia tộc ấy, sẽ không còn biên giới lãnh địa gì hết cả, chúng sẽ chiếm cả lãnh địa của các gia tộc sói khác. Những gia tộc yếu hơn, chỉ có thể lựa chọn phục tùng hoặc bị trục xuất, khi ấy, cả bầy sói đã bắt đầu chuyển từ gia tộc sang tập đoàn lớn, các gia tộc phụ thuộc tề tựu xung quanh gia tộc chiếm ưu thế này dần mỗi lúc một nhiều. Khác biệt ở chỗ, chúng không đơn thuần là một tập đoàn hợp tác, mà trở thành một tập đoàn chiến lược có đẳng cấp rõ ràng theo quan hệ hình bậc thang. Điều kiện thứ hai, chính là môi trường sống thay đổi. Ở những lãnh địa dồi dào vật săn sẽ không xuất hiện những gia tộc sói mạnh mẽ đến độ đáng sợ như thế, chỉ có những nơi vật săn thiếu thốn, lãnh địa không thể tiếp tục duy trì sinh kế, giữa các gia tộc không ngừng có tranh đấu, mới đột nhiên có một gia tộc nào đó nổi bật lên. Khi chúng đã tập hợp thành một tập đoàn, mà cả vùng lãnh địa lớn ấy vẫn không đủ vật săn để nuôi sống tất cả, thì cả tập đoàn đó sẽ nảy sinh biến đổi về chất, chúng sẽ từ sói lãnh địa biến chuyển thành sói di cư. Chúng bị bức bách phải di chuyển từ nơi chôn rau cắt rốn của mình đi xa mấy nghìn hoặc mấy chục nghìn cây số để tìm kiếm môi trường sinh tồn. Điểm khác biệt lớn nhất giữa sói lãnh địa và sói di cư nằm ở số lượng vì trên con đường bôn ba dài đằng đẵng, không thể tính đếm hết những khó khăn còn chưa biết đến, nếu không đủ số lượng để duy trì bầy đàn, lũ sói căn bản không dám di chuyển trên phạm vi rộng. Di cư là phương pháp bầy sói bị bức bách phải sử dụng để tiếp tục sinh tồn, lúc ấy thì không phải là mấy chục con, mấy trăm con, mà thậm chí còn xuất hiện trường hợp cả mấy nghìn con sói tụ tập lại với nhau. Có điều, những hiện tượng này chỉ xuất hiện ở những nơi không có người sinh sống, mọi người không đọc được những thông tin này, đó là bởi chưa từng có ai nhìn thấy, giả như có người nhìn thấy thì tỉ lệ sống sót của những kẻ ấy cũng gần như bằng không. Hơn nữa, hiện nay số lượng sói ở Trung Quốc cũng chỉ có vài nghìn con, tới đây có thể nhìn thấy hơn trăm con sói tụ tập với nhau, e sẽ là lần duy nhất trong đời chúng ta đó."

    Trương Lập kinh ngạc thốt lên: "Hơn nghìn con sói tụ tập lại thành bầy di cư, anh nghe được chuyện này ở đâu thế, Cường Ba thiếu gia?"

    Trác Mộc Cường Ba điềm đạm đáp: "Nếu cậu già hơn bây giờ ba chục tuổi, lại sống ở các vùng như Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông thì có thể cậu sẽ được nhìn thấy đó."

    Nhạc Dương liền xen vào: "Nói vậy thì chắc Cường Ba thiếu gia đã tận mắt thấy sói di cư rồi. Nói cho chúng tôi nghe xem nào, lũ sói di cư anh trông thấy như thế nào vậy?"

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Dù tôi chưa từng tận mắt trông thấy, nhưng ít nhất tôi cũng được nghe nói đến rồi, mọi người ở với tôi lâu như vậy, chắc là chưa quên tôi học ngành động vật học, chuyên nghiên cứu về động vật họ nhà chó đấy chứ. Muốn nói về sói di cư thì phải đề cập đến rất nhiều mặt, trước tiên phải nói với mọi người một ít kiến thức cơ bản về loài sói đã, như vậy thì sẽ dễ hiểu hơn." Trác Mộc Cường Ba nhỏ giọng rủ rỉ, kể cho các bạn đồng hành nghe những hiểu biết cơ bản về bầy sói.

    Sói thông thường quần cư theo mô hình gia tộc, số lượng từ dăm ba con đến mười mấy con, thường thấy nhất thì có hai loại, thứ nhất là một đôi vợ chồng dẫn dắt bầy con, một tình huống khác nữa là mấy anh chị em nhà sói và lũ con tụ tập lại thành một bầy. Có nhiều lúc, sói tỏ ra rất trung trinh, một vợ một chồng có thể duy trì đến tận cuối đời. Bình thường, trong gia tộc gồm có vợ chồng con cái, đôi vợ chồng bố mẹ sẽ trở thành thủ lĩnh; còn gia tộc loại anh chị em, thì không phân đực cái, con sói nào có kinh nghiệm phong phú, kỹ xảo bắt mồi tốt nhất, cả bầy đàn sẽ nghe theo con sói ấy…

    Chế độ đẳng cấp của loài sói hết sức nghiêm ngặt, thể hiện rõ nhất khi chúng ăn mồi, những con cầm đầu được ăn trước, đợi chúng ăn xong, những con khác mới dám lại gần thức ăn; cho dù có cùng ăn một lượt, thì cũng phải phân biệt ra các bộ phận như đầu, mình, chân, những con sói đẳng cấp khác nhau thì ăn thịt ở những bộ phận khác nhau, chỉ có lũ sói cái đang nuôi con nhỏ mới thi thoảng được ưu tiên, nhưng trường hợp này rất hiếm thấy. Thường thì sói phát dục vào đầu mùa đông, những con sống ở khu vực lạnh giá thì vào tháng Tư, hoài thai bốn đến năm tháng, sinh sáu tới bảy con sói con, nhiều thì cũng có trường hợp đẻ mười mấy sói con một lần, chỉ có vợ chồng sói đầu đàn mới có quyền giao phối bất cứ lúc nào, còn những con khác nếu muốn thì đều phải thỉnh thị sói đầu đàn, được phê chuẩn thì mới có quyền giao phối. Còn những đàn sói dạng anh chị em, thì tất cả sói con đều được tập chung về một mối nuôi dưỡng, mỗi một con sói cái đều có cơ hội được làm mẹ…

    Lãnh địa của sói đa phần đều là truyền đời kế tục, được xây dựng trên những vùng bình nguyên có quần thể sinh vật phong phú hoặc những con đường quan trọng mà động vật di trú nhất thiết phải đi qua, một đàn sói bảy tám con, thông thường cần một lãnh địa đường kính trên năm chục cây số thì mới duy trì sinh kế được, đường kính lãnh địa của những đàn sói lớn hơn thậm chí còn trên cả trăm cây số. Ngoài săn bắt và nghỉ ngơi, lũ sói còn thường xuyên đi tuần ở vùng biên lãnh địa của mình. Giống như lũ chó, chúng cũng biết chọn những cây to hay tảng đá làm mốc để bài tiết vào, những tảng đá và cây to ấy liền trở thành cột mốc biên giới giữa các lãnh địa. Thường thì lũ sói sẽ không vượt lằn ranh biên giới này. Các lãnh địa sói cũng không trực tiếp liền kề nhau, giữa các lãnh địa thường có vùng đệm, thường khi con mồi chạy vào khu vực công cộng này, đều dẫn đến sự tranh chấp giữa hai gia tộc sói khác nhau…

    Sói là động vật kiểu hình học tập, khác với những động vật có ký ức di truyền, cần phải có sói mẹ dạy sói con cách săn bắt. Khi săn mồi, sói đầu đàn sẽ chọn mục tiêu, các con khác đều có tuyến đường và vị trí riêng của mình, từ nhiều hướng khác nhau vây bắt chặn đường vật săn, thông thường thì sự phối hợp này trải qua mấy lần diễn luyện thực chiến là sẽ thông thạo. Rất nhiều gia tộc sói đã phối hợp săn bắt với nhau từ khi còn nhỏ, nên mức độ hiểu ngầm hết sức cao. Khi số lượng con mồi quá đông đảo, bầy sói sẽ xua đuổi vật săn, gây ra sự hỗn loạn trong bầy đàn đối phương, chạy được mấy vòng, chúng sẽ khóa mục tiêu vào những con chạy chậm nhất, những con tàn tật quặt quẹo, hoặc những con nhỏ không được con trưởng thành bảo vệ, sau đó từ tốn khép chặt vòng vây, tập trung lực lượng chiếm ưu thế đối phó với cá thể đơn độc, đây chính là chiến thuật bầy sói sau này được phát triển thành thế trận kinh điển. Khi con mồi chỉ còn đơn độc, đặc biệt là những con mồi cỡ lớn, hoặc những con mồi lớn tuổi một mình rời bỏ bầy đàn, lũ sói ngược lại sẽ không nôn nóng, chúng sẽ theo dấu con mồi từ xa, lần theo vết chân con vật kia để lại, xem xem vật săn của mình có tàn tật hay không; ngửi mùi phân, xem xem con mồi có vấn đề tiêu hóa hay không; quan sát lá cây nhành cỏ bị con mồi gặm ăn xem răng lợi chúng có còn tốt không…

    Tỉ lệ săn bắt thành công của sói rất cao, chúng là tập thể coi trọng hiệu suất nhất trong giới sinh vật, những khi có thể tiết kiệm sức lực thì chúng tuyệt đối không tấn công mạnh hay truy cùng giết tận, những lúc có thể tránh được nguy hiểm chúng quyết không mạo hiểm tấn công, nếu chúng phát hiện một con mồi đang ngắc ngoải chờ chết, mà con mồi ấy lại vẫn có thể uy hiếp chúng được, thì đàn sói sẽ vẫn cứ bám đuôi phía sau con mồi ấy. Mười mấy con sói vây thành một vòng cung, cách vật săn khoảng mười mét, nếu con mồi phản kích, cả bầy sẽ tản ra; đợi khi con mồi tiếp tục tiến lên phía trước, chúng sẽ lại tràn lên bao vây, giữ vững đội hình, chỉ cần không phải là sũ sói đã đói khát đến cực độ, thì chúng đều hết sức nhẫn nại. Chúng sẽ chờ đợi, chờ đến khi con mồi cỡ lớn kia già chết, bệnh chết, hoặc giả bị cắn chết…

    Nói đến chuyên ngành của mình, Trác Mộc Cường Ba ào ào như suối tuôn, hạ bút thành văn, mặc dù đã cố gắng lược bớt nội dung nhưng vẫn đủ khiến bọn Nhạc Dương, Trương Lập nghe mà thẫn thờ, đều nói nếu hồi xưa thầy cô giáo có thể giảng bài hay như vậy, chắc thành tích học tập của hai chàng đã không kém cỏi đến thế. Nói hết về các tập tính cơ bản của loài sói, Trác Mộc Cường Ba mới kể cho mọi người nghe chuyện sói di cư. Vì thiếu thốn vật săn, lũ sói mới bất đắc dĩ phải rời khỏi vùng lãnh địa bao đời cha truyền con nối, nên chỉ ở những vùng xuất hiện tình trạng đói kém thiếu ăn trên diện tích rộng mới hình thành bầy đàn di cư. Ban đầu bầy đàn di cư do một tập đoàn sói dẫn đầu, dọc đường ở những nơi đi qua lại có thêm các bầy đàn mới gia nhập, bởi vì trong những năm tháng đói kém ấy, không gia nhập đàn sói khác, kết cục duy nhất sẽ là bị đàn sói mạnh hơn ăn thịt. Bọn chúng vẫn lấy gia tộc làm đơn vị tác chiến cơ bản. Trong toàn bộ bầy đàn di cư, lũ sói tự động xếp đặt thành chế độ đẳng cấp dạng kim tự tháp, tầng thấp nhất là những con sói gia nhập bầy đàn cuối cùng, cũng chính là lũ sói bản địa nơi cả bầy đàn di cư đang dừng chân. Trong quá trình chuyển dịch, những bầy sói chấp nhận đầu hàng không chiến đấu gần như không tồn tại, bởi thế vị trí của lũ sói bản địa trong cả bầy đàn di cư cũng giống như là tù binh hay nô lệ vậy, chúng lúc nào cũng đi phía trước cả bầy, một là để dẫn đường, hai là để đề phòng những bầy đàn khác hoặc mãnh thú lớn tập kích, nhưng nếu phía trước xuất hiện con mồi, lũ sói đẳng cấp thấp này lại phải dừng bước, để những con phía sau xông lên săn bắt, dù cho bắt được con mồi thì chúng cũng không thể tự mình hưởng dụng. Những con sói gia nhập sớm hơn một chút ở phần giữa của kim tự tháp thứ bậc, sau một thời gian, hoặc sau khi rời khỏi lãnh địa của mình, chúng sẽ không cần làm tiên phong mở đường nữa, mà chuyển qua hộ vệ phía sau cả bầy đàn, đề phòng những mãnh thú khác tập kích sau lưng. Tầng cao nhất của kim tự tháp, do tập đoàn sói khở phát cuộc di cư này dẫn đầu, cộng thêm mấy gia tộc hoặc tập đoàn sói sống xung quanh chúng nữa, chúng là những kẻ theo gót đầu tiên trong cuôc thiên di, thế nên cũng nhận được đãi ngộ cao hơn. Tập đoàn sói đầu tiên khởi phát cuộc di cư có vị trí cao nhất; trong tập đoàn này, gia tộc lớn mạnh nhất chiếm tầng cao nhất trong kim tự tháp cấp bậc, tộc trưởng của gia tộc này, chính là đỉnh nhọn của kim tự tháp, toàn bộ bầy đàn di cư đều do nó chỉ huy.

    Trác Mộc Cường Ba nói, người ta gọi lãnh đạo cao nhất của một gia tộc sói là đầu đàn, còn trong một tập đoàn do mấy gia tộc sói kết hợp lại, lãnh đạo tối cao được gọi là sói thống lĩnh. Chỉ có trong những đàn sói di cư mới xuất hiện vua sói chân chính.

    Cuối cùng, gã thở dài cảm thán: "Bầy sói di cư, cũng giống như cuộc vạn lý trường chinh vậy, là một chặng đường hết sức bi tráng. Trên đường đi, sẽ diễn ra vô số trận ác chiến, đến nỗi gần như mỗi con sói đều mang thương tích đầy mình, bất cứ nguồn tài nguyên nào cũng không được bỏ phí, những con sói ngã xuống trên đường đều sẽ lập tức trở thành thức ăn cho đồng bọn của chúng, đến khi thực sự không còn gì có thể ăn nổi nữa, chúng phải gặm cả cỏ cho qua ngày. Trên đường di cư đằng đẵng, thời kỳ phát dục của sói cái sẽ bị trễ hoặc thậm chí là dần dần mất hẳn, bầy sói sẽ tự phát giảm thiểu số lần giao phối, những con sói đẳng cấp thấp thậm chí còn bị cấm giao phối. Cũng không biết cười, thiếu cả ngôn ngữ lẫn ngôn ngữ cơ thể, số lần trao đổi trở nên ít càng thêm ít, tư thế bước đi của chúng cũng khác hẳn với lũ sói bình thường, đuôi kẹp chặt, tai lúc nào cũng vểnh lên, bước chân hết sức cẩn thận dè dặt, gắng để bước nhẹ nhàng nhất theo sát cả bầy đàn, ánh mắt lúc nào cũng đảo tròn quan sát bốn phương tám hướng như lũ cáo cặp mũi kia dù chỉ ngửi thấy một phân tử máu thôi cũng đủ khiến hai mắt chúng biến thành sắc đỏ. Những người chưa từng thấy sói di cư sẽ không thể nào biết, khi những từ tham lam, đói khát được áp lên lũ sói này, rốt cuộc sẽ là một cảnh tượng đáng sợ đến nhường nào."
     
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 70: Thú Chiến


    Giọng Trác Mộc Cường Ba từ đầu chí cuối vẫn thấp trầm, nhưng lại khiến người ta rung động, đến cả Cương Lạp cũng thả bước chậm lại, vừa dẫn đường vừa dỏng tai lên lắng nghe, chốc chốc lại ngoảnh đầu nhìn về phía sau một cái. Trương Lập đang định hỏi tại sao chỉ trong bầy đàn di cư mới xuất hiện vua sói thì đã nghe Nhạc Dương tranh hỏi trước: "Không đúng rồi, Cường Ba thiếu gia, anh nói vào những năm đói kém khó khăn mới xuất hiện đàn sói di cư nhưng lúc này có giống như năm tháng đói kém gì đâu nhỉ."

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: "Đây cũng chính là điều tôi đang lấy làm khó hiểu, theo lý mà nói thì không thể có nhiều sói như vậy tụ tập lại một chỗ được. Hơn nữa người và súc vật trong làng gần đây đều không gặp phải chuyện gì, bầy sói này dường như không phải tụ tập vì thức ăn đâu."

    Cương Nhật Phổ Bạc chợt lên tiếng: "Mọi người nhỏ tiếng thôi, chúng ta đến rồi." Anh ta thấp giọng dặn dò mọi người, hễ thấy Cương Lạp nằm rạp xuống thì phải lập tức nằm rạp xuống theo, nếu Cương Lạp quay đầu, tất cả đều phải co giò mà chạy, nhanh bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

    Giờ cả bọn đang đứng trên lưng chừng núi, sườn núi phía trước trông như một lưỡi dao xuyên thẳng vào giữa chốn núi cao mây mù, không biết phía sau là gì. Chợt thấy Cương Lạp đi trước dẫn đường bỗng nhiên thấp lưng xuống, rạp mình tiến lên với một tư thế hết sức kỳ quái, hai tay Cương Nhật Phổ Bạc ra sức vỗ vỗ xuống, bảo mọi người đều thụp xuống, nửa quỳ hoặc rạp hẳn người mà nhích dần lên cao theo triền núi. Ở chỗ kín gió trên sườn núi có mấy bụi cỏ rậm, Trác Mộc Cường Ba nhận ra được có vài bụi hồng liễu với vài nhành thủy bạc. Cương Lạp rạp xuống sau bụi cỏ nhìn ra ngoài, Cương Nhật Phổ Bạc bảo cả đám chầm chậm lại gần, đang đi bỗng vươn tay giật tung cả rễ của một bụi cỏ không biết tên lên, lẩm bẩm chửi: "Lũ gai dầu này, không ngờ mọc lên cả đến trên đây rồi!"

    Nhạc Dương dè dặt thò đầu ra xem, chỉ thấy phía sau triền núi là những rãnh sâu bị sông băng cổ ăn mòn để lại, về sau sông băng tan đi, nơi đây liền trở thành lòng sông cạn lổn nhổn đá cuội trắng, giờ thì những khe rãnh này đã bị cỏ dại và địa y phủ lên những vệt nửa vàng nửa xanh rồi.

    Anh chàng thấy thế liền ngoác miệng nói: "Dốc núi ở đây quái lạ thật, sao nhiều nếp gãy thế nhỉ."

    "Đây là dạng địa hình bị sông băng xâm thực," đội trưởng Hồ Dương lướt tay qua sườn núi góc cạnh, nói tiếp, "những nếp đứt gãy này là dấu vết do lưỡi đao của các dòng sông băng vươn ra để lại. Khu bên dưới bị thung lũng lòng chảo hình chữ U vây quanh kia là di tích của hồ băng cổ đại."

    Đúng như đội trưởng Hồ Dương nói, từ vị trí của họ nhìn xuống phía dưới, những khe rãnh do sông băng cổ xưa để lại hệt như những bậc thang, phóng mắt nhìn ra xa, trông chẳng khác nào khán đài xem Thế vận hội Olympic, còn họ thì đang ở trên tầng cao nhất của khán đài. Nhưng Nhạc Dương đã trợn tròn hết cả mắt lên rồi, mà đừng nói là sói, đến cả bò Yak hoang cũng chẳng thấy đâu. Anh chàng nghi ngờ thị lực của mình có vấn đề, liền dụi dụi mắt nhìn lại, vẫn chẳng thấy gì là sao? Nhưng trong gió dường như đang phảng phất vẳng lại tiếng sói tru, bò rống.

    Cương Nhật Phổ Bạc xòe năm ngón tay vươn ra khỏi sườn núi, rồi nói: "Tốt quá, chúng ta đang ở cuối gió, chỉ cần nhỏ tiếng một chút thì sẽ không bị lộ đâu."

    Nhạc Dương hỏi: "Sói đâu?"

    Cương Nhật Phổ Bạc mỉm cười: "Đừng nôn nóng, dùng cái này này." Nói đoạn, lấy trong túi đồ đã chuẩn bị sẵn ra một cái ống nhòm quan sát chim trông như một cái nòng pháo. Nhạc Dương nhìn ký hiệu trên đó, thấy ghi mức phóng đại là 30 đến 80 lần, rồi lại thấy Cương Nhật Phổ Bạc đang không ngừng chỉnh tăng tỉ lệ phóng đại lên, lập tức ngẩn cả người. Nếu ở tỉ lệ phóng đại này, mục tiêu ít nhất cũng phải ở ngoài xa ba cây số, con bò Yak chỉ sợ không to hơn con kiến là bao nhiêu, vậy mà ông cú Cương Nhật Phổ Bạc vẫn bắt cả bọn phải nhỏ tiếng, lại còn bò rạp người tiến lên, cứ như lũ sói đã ở ngay trước mắt rồi vậy. Cương Nhật Phổ Bạc cẩn thận điều chỉnh tiêu cự và phương hướng, thần sắc hết sức chăm chú tập trung. Mấy người bọn Nhạc Dương cũng lần lượt lấy ống nhòm ra có điều với loại ống nhòm dạng xếp của họ, chỉ có thể thấy xa xa có mấy bóng đen mơ hồ mà thôi.

    Trương Lập làu bàu oán trách: "Chú cũng thật là, cách xa như vậy, làm sao bị phát hiện được cơ chứ?" Anh chàng định cầm ống nhòm đứng hẳn lên thì liền bị Cương Nhật Phổ Bạc ấn đè xuống. Chỉ nghe Cương Nhật Phổ Bạc giằn giọng uy hiếp: "Cậu không trông thấy chúng không có nghĩa là chúng không thấy cậu! Nếu không muốn mất mạng thì ngoan ngoãn nằm xuống đấy cho tôi, nói chuyện gì cũng nhỏ cái giọng thôi! Còn nữa, đừng để đá vụn hay gì đó cào xước đấy, phải biết là, lũ sói có thể bắt được mùi máu từ khoảng cách trên mười cây số đấy."

    Đội trưởng Hồ Dương không nhìn xuống dưới, mà hướng ánh mắt lên trên theo triền núi, chăm chú quan sát những khe rãnh lớn do sông băng để lại, lẩm bẩm nói một mình: "Địa hình này…," rồi lập tức lấy máy đo trong ba lô ra, bắt đầu đo đạc đường trên núi, Lạt ma Á La đang ở bên cũng giúp đỡ một tay, Cương Lạp sán lại gần, lấy làm hiếu kỳ trước những thứ máy móc nó chưa từng thấy bao giờ này.

    Trác Mộc Cường Ba nhìn qua ống nhòm thấy đoạn dốc bên dưới lòng chảo hình chữ U hơi thoai thoải, sau khi bị dòng chảy của sông băng bào mòn trong thời gian dài, hình thành nên hai khe sâu một lớn một nhỏ nối liền nhau, nhìn xa trông như một quả hồ lô. Bên trong hồ lô có một dúm điểm đen nhỏ như hạt vừng, chốc chốc lại thấy có dấu hiệu dịch chuyển, rõ ràng chính là bầy bò Yak bị kẹt ở bên trong đó rồi, còn đàn sói ở đâu thì ống nhòm của gã không nhìn thấy được.

    Nhạc Dương cũng dùng ống nhòm quan sát thấy địa hình bên dưới, không khỏi thầm thở dài khen lũ sói giảo hoạt. Anh đã được Trác Mộc Cường Ba cho biết, lũ sói rất giỏi dồn con mồi muốn bắt vào những nơi bất lợi cho đối phương, chẳng hạn như trên mặt băng hoặc bên bờ hồ. Như lúc này đây chẳng hạn, nhìn từ đại thể, hai bên đều là vách núi dựng đứng, khó mà leo trèo nổi, chỗ miệng hồ lô lại vừa hẹp vừa dài, chỉ sợ còn chẳng đủ cho hai con bò Yak cùng đi song song, bầy sói chỉ cần chặn ở nút thắt, vậy thì đàn bò Yak kia coi như là ba ba trong rọ rồi; còn đi sâu vào chi tiết hơn sẽ thấy, trong sơn cốc hồ lô ấy, toàn là đá cuội mọc đầy rêu với địa y, với thể trọng của bò Yak, giẫm phải đống đã cuội ắt sẽ kẹt luôn chân, hơn nữa đám địa y lại khiến mặt đất trở nên trơn trượt, bò Yak căn bản không thể chạy nhanh nổi, thật chẳng khác nào cá nằm trên thớt, chỉ còn biết để mặc cho kẻ địch cắn giết thôi.

    Cương Nhật Phổ Bạc đã điều chỉnh xong xuôi chiếc ống nhòm quan sát chim đầu tiên, quay sang bảo Trác Mộc Cường Ba: "Cậu xem đi." Kế đó, lại lấy trong túi ra cái ống nhòm thứ hai, quỳ xổm dưới đất lắp ghép.

    Trác Mộc Cường Ba gí mắt lại nhìn, chiếc ống nhòm quan sát chim đưa cảnh vật nơi xa tít lại gần ngay trước mắt, thậm chí cả nét mặt con bò Yak thế nào cũng nhìn được rõ mồn một. Chỉ thấy mấy chục con bò Yak hoang vây thành một vòng tròn hình ô van, bò đực hướng về phía nút thắt hồ lô, bò cái ở phía sau đoạn hậu vây bọc bảo vệ lũ bò con ở giữa. Đàn bò Yak này cũng có thể coi là một đàn hùng mạnh, lũ bò đực con nào con nấy đều cao lớn uy mãnh, sừng vừa dài vừa nhọn, ánh mắt sắc bén hung hãn, thoạt nhìn biết ngay là hạng đã tung hoành khắp chốn cao nguyên. Con bò đực đầu đàn đương tuổi tráng nhiên, lông dài thịt chắc, lưng gồ lên một cái bướu cao, đôi sừng giống như hai mũi thương thép được mài nhọn hoắt, đứng ở vị trí trọng yếu nhất trong thế trận của cả đàn, chỉ thoạt nhìn đã có thể phân biệt được cái đầu nó với những cái đầu cả các con khác rồi. Trác Mộc Cường Ba đã từng gặp khá nhiều bò Yak hoang dã, có điều thể hình lớn như vậy thì rất hiếm thấy, riêng thể trọng của con bò đực đầu đàn có lẽ cũng phải gần hai tấn chứ chẳng chơi. Chỉ có điều lúc này nó đang giận dữ nhìn thẳng về phía trước, ít nhiều cũng tỏ ra có gì đó bất lực. Góc quan sát của ống nhòm có hạn, không biết bầy sói mà đàn bò Yak này đang đối đầu thì ra làm sao.

    Trác Mộc Cường Ba khẽ nhích ống nhòm, hướng về phía chỗ thắt nút hồ lô, nheo mắt quan sát, nhưng rồi lại lấy làm thất vọng. Chỉ thấy cách bầy bò Yak chừng năm chục bước chân có mười mấy con sói đang nằm rải rác trên bãi cỏ, ánh mắt đầy vẻ cợt nhả, có con thì thong dong đung đưa qua lại, có con ngồi chồm hỗm trên mặt đất dùng móng vuốt chân trước chải chuốt lông bên mép, hay gãi đầu gãi tai, có con thì chạy nhảy nô đùa, hoàn toàn chẳng buồn coi đàn bò Yak hoang đang sẵn sàng liều mạng một phen cho "Trạng chết Chúa cũng băng hà" kia vào đâu cả. Sói cao nguyên thể hình vốn đã nhỏ, bầy sói Trác Mộc Cường Ba đang quan sát đây lại càng gầy gò ốm o hơn nữa, chỉ e cả mười mấy con sói này cộng lại cũng không nặng bằng con bò Yak đầu đàn kia. Cảnh tượng hơn trăm con sói tụ tập lại một nơi mà Cương Nhật Phổ Bạc nói, so với khung cảnh ở trước mắt gã đây, hoàn toàn có thể nói là một trời một vực. Mười mấy con sói này, e là cả chỗ thắt nút ở đáy hồ lô này cũng khó mà giữ nổi, đàn bò Yak kia chỉ cần tập trung lực lượng xông thẳng về phía Tây Nam một lần là hoàn toàn có thể đột phá vòng vây.

    Không đúng, bầy sói sao có thể lộ sơ hở một cách rõ rệt như vậy được chứ, chắc chắn là còn một nước cờ nào đó khác ở phía sau. Trác Mộc Cường Ba nghĩ tới đây, liền vội dịch chuyển ống kính ra phía chỗ khuyết, men theo lỗ hổng bầy sói để lại nhìn ra phía ngoài. Quả nhiên, ở chỗ đất trũng phía sau lỗ hổng còn một nhóm sói nữa đang mai phục. Nhóm này ước chừng khoảng gần hai chục con, từ vị trí của bầy bò Yak có lẽ không thể nhìn thấy chúng được. Có điều cả bọn này cũng có vẻ ngáp ngắn ngáp dài, uể oải tuồng như buồn ngủ lắm, con nào con nấy nằm bò cả ra bãi cỏ, điệu bộ biếng nhác rũ rượi, khiến Trác Mộc Cường Ba có cảm giác lũ sói này đều không phải đang đi săn mồi, mà giống như là đi dã ngoại hơn.

    Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên ngẩng đầu lên nhìn Cương Nhật Phổ Bạc, vừa hay anh ta cũng đang mỉm cười nhìn gã, tựa hồ như muốn nói, đã bảo cậu rồi mà, đảm bảo đó là những con sói cậu chưa từng nhìn thấy bao giờ, cũng tuyệt đối không thể đoán biết được hành vi của chúng. Cương Nhật Phổ Bạc đã lắp xong bộ ống nhòm quan sát chim thứ hai, liền bảo Nhạc Dương: "Cậu trai trẻ, đến đây, dùng cái này đi." Nhạc Dương thích chí cười hì hì nhận lấy ống nhòm, rồi lại thấy Cương Nhật Phổ Bạc như đang diễn trò ảo thuật, rút trong túi ra một cái ống nữa.

    Nhạc Dương kinh ngạc thốt lên: "Chú à, chú sống một mình trên núi, chuẩn bị nhiều thế làm gì vậy?"

    Cương Nhật Phổ Bạc giải thích: "Bộ Cường Ba đang dùng là mấy năm trước cậu ấy tặng cho tôi, bảo là vùng này núi cao ít người, nhiều dã thú, chẳng may mất bò mất cừu gì đấy thì dùng cái này rất tiện. Về sau khi bầy sói kia đến, tôi thường dùng ống nhòm này để quan sát chúng, lúc đó tôi nghĩ, khi nào Cường Ba và giáo sư trở lại đây, tôi sẽ dẫn họ cùng đi quan sát lũ sói, vậy là lại chuẩn bị thêm hai bộ nữa, không ngờ là có lúc dùng đến chúng thật. Cậu xem trước đi, chớ có làm ồn đấy nhé." Nói xong, anh ta lại bắt đầu lắp ráp bộ ống nhòm thứ ba.

    Nhạc Dương cũng thấy đàn bò Yak trước, nhanh chóng nhận ra cả đàn có hai mươi ba con bò đực trưởng thành, mười bảy con bò cái và bảy con bê con. Nhìn bộ dạng lũ bò Yak hoang ấy, mặc dù phần bụng những con trưởng thành vẫn còn một ít mỡ, nhưng lũ bê con thì đã đói đến nỗi bụng sôi "òng ọc" rồi, hai ba con nhỏ nhất muốn tới ngậm đầu vú mẹ, nhưng lại bị lũ bù mẹ hung hãn đuổi ra. Trông tình hình này thì đàn bò Yak đã bị vây khốn trong đây không phải mới một hai ngày.

    Kế đó anh cũng thấy lũ sói, rồi cũng giật mình kinh ngạc, suýt chút nữa thì kêu lên thành tiếng. Nhạc Dương đã đưa ra nhiều giả thiết, nhưng dù thế nào anh cũng không thể ngờ mình lại nhìn thấy những con sói gầy gò như thế. Lẽ nào mấy chục con bò Yak hoang trông hung hăng cường tráng như thế kia, lại bị một đám sói thế này vây khốn ư? Làm sao có chuyện như vậy được chứ.

    Nhạc Dương quan sát một lượt, thấy Trương Lập đang chờ bên cạnh, liền nhường ống nhòm cho cậu ta xem. Trác Mộc Cường Ba cũng để Ba Tang quan sát, nhưng Ba Tang hơi do dự, rồi lắc đầu từ chối. đội trưởng Hồ Dương và Lạt ma Á La thì đang bận điều chỉnh các máy móc đo đạc, không đến quan sát được.

    "Đây là sói kiểu gì vậy? Lũ sói này cũng có… sức chiến đấu hay sao?" Trương Lập vừa nhìn, đã mau mồm mau miệng hỏi luôn. Nhạc Dương hích Trương Lập ra, rồi cũng phụ họa theo: "Phải đấy, phải đấy."

    Lúc này Cương Nhật Phổ Bạc đã chỉnh xong chiếc ống nhòm cuối cùng, đang gí mắt vào gần ống kính, miệng hỏi: "Các cậu nói tới lũ sói ở đâu thế?"

    Nhạc Dương đáp: "Chính là đám sói đang đối mặt với đàn bò Yak ấy, ở ngay chỗ thắt nút hồ lô đó."

    "Nhìn thấy rồi, nhìn thấy rồi." Cương Nhật Phổ Bạc khẳng định, "Ừm, đây nhất định là cố ý tỏ ra yếu thế. Đây mới chỉ mấy con thôi mà, những nơi khác nhất định còn có mai phục. Đàn sói này này, chúng ta không thể coi chúng là sói được, chúng ta phải dùng ánh mắt khi nhìn người đi săn mà quan sát chúng. Mọi người tìm ở khu vực quanh đấy xem những con sói khác phân bố ở chỗ nào."

    "Thấy rồi!" Cương Nhật Phổ Bạc vừa dứt lời, Nhạc Dương đã có phát hiện, "Ở trên sườn núi đối diện với chúng ta kìa, có một đàn đông quá!"

    Trác Mộc Cường Ba và Cương Nhật Phổ Bạc cùng hướng ống kính về phía đó, nhanh chóng phát hiện ra ở chỗ cao phía đối diện đúng là có một đàn sói, có điều là mười mấy con sói cái dẫn theo hai ba chục con sói con. Mục đích của đàn sói này hiển nhiên cũng giống như bọn Trác Mộc Cường Ba vậy, từ trên cao nhìn xuống, rõ ràng là để quan chiến. Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Ừm, đám sói này không tham gia chiến đấu đâu, toàn sói mẹ dẫn sói con đến học tập kinh nghiệm đấy."

    "Hử?" Nhạc Dương lấy làm ngạc nhiên. Trác Mộc Cường Ba liền giải thích: "Sói chính là như vậy đấy, học hỏi khi quan sát, rèn luyện trong thực tiễn, kỹ xảo săn bắt của chúng đều được luyện thành theo cách này."

    Cương Nhật Phổ Bạc nhắc: "Tìm tiếp đi, còn nữa đấy."

    Tuy nhiên khu vực núi non này lớn như vậy, họ lại cách bầy sói quá xa, mà cũng không thấy bầy sói có động tĩnh gì lớn, muốn tìm được lũ sói tản mát giữa các khe núi thật không dễ dàng gì. Không lâu sau, Nhạc Dương lại nói: "Có rồi, phía Tây đàn bò Yak, men theo địa hình quả hồ lô lên trên độ hai trăm mét, ở đây chắc là quân chủ lực rồi." Anh chàng vừa có phát hiện, liền nhường ống nhòm lại cho Trương Lập quan sát.

    Trác Mộc Cường Ba và Cương Nhật Phổ Bạc đều đã phát hiện ra đàn sói mà Nhạc Dương nhắc đến. Màu lông lũ sói này sẫm hơn, so với lũ sói còn lại thì quả nhiên cường tráng hơn hẳn, số lượng ước chừng khoảng trên dưới hai mươi con. Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Đây chính là nhóm của Lưng gù. Nó ở giữa kia kìa, có thấy không, con hơi gồ lưng, lông màu xanh xám ấy." Trác Mộc Cường Ba tìm theo lời chỉ dẫn của Cương Nhật Phổ Bạc, quả nhiên phát hiện ở giữa đàn có một con sói lưng hơi gồ, lông màu xanh xám. Con sói bên cạnh hơi có hành động khác lạ, nó liền nhe nanh ra hừ một cái, con sói kia liền ngoan ngoãn phục xuống ngay tức khắc.

    Nhạc Dương kỳ quái hỏi: "Chú à, chúng ta rốt cuộc đang quan sát bầy sói thứ mấy đấy? Chẳng phải chú vừa bảo con Lưng gù kia là đầu đàn sói thứ hai hay sao…"

    Cương Nhật Phổ Bạc vỗ trán nói: "Tại tôi không nói cho rõ, giờ thì ở đây chỉ còn một đàn sói duy nhất thôi, hai đàn sói do Lưng gù và Mắt trắng cầm đầu đều gia nhập đàn sói thứ ba cả rồi."

    Trương Lập nói: "Đàn sói thứ ba ấy, chính là lũ sói lười nhác ủ ê kia hả?"

    "Lười nhác ủ ê, theo cách nói của tôi, thì phải là nắm chắc phần thắng, trong đầu đã có sẵn dự tính rồi mới đúng." Cương Nhật Phổ Bạc đáp, "Hai con sói Lưng gù và Mắt trắng đã tranh chấp ở vùng này suốt ba bốn năm liền, không con nào chịu nhường con nào, cũng không con nào chịu phục con nào, nhưng đàn sói thứ ba vừa mới đến, chúng liền đầu hàng hết cả đó."

    "Lợi hại như vậy sao?" Trương Lập vẫn còn nghi ngờ. Nhạc Dương có vẻ đang ngẫm nghĩ gì đó, dường như đã hơi tin những gì Cương Nhật Phổ Bạc nói, đột nhiên bảo Trương Lập: "Để tôi xem nào."

    Chỉ lát sau, đã nghe anh chàng thở dài, than: "Đàn sói thứ ba này, quả nhiên thật lợi hại!"

    Trương Lập vội hỏi: "Cậu nhìn thấy gì rồi?"

    Nhạc Dương chậm rãi nói: "Ở hướng miệng hồ lô, hai bên vách núi đều có một đám sói, ở phía Tây chỗ thắt nút hồ lô, cách tầm trăm mét có một nhóm nữa, cách thêm một trăm mét lại có một nhóm khác, hai trăm mét nữa lại có một nhóm đông hơn. Tất cả lũ này cộng lại, có lẽ cũng tương đương với số lượng mà chú Cương Nhật Phổ Bạc nói rồi."

    Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập, Cương Nhật Phổ Bạc đều lần lượt điều chỉnh ống nhòm, quả nhiên đúng như những gì Nhạc Dương nói, không sai một chút nào. Trương Lập thốt lên: "Thế này là thế nào? Lũ sói này chính là những con mà cậu bảo là rất lợi hại đấy hay sao? Chúng lợi hại ở chỗ nào thế? Làm sao cậu phát hiện ra chúng thế?"

    Nhạc Dương đáp: "Không sai, chính vì tôi phát hiện ra chúng, nên mới nói chúng rất lợi hại. Thoạt tiên, tôi định tìm kiếm theo kiểu cuốn chiếu từ trên sườn núi xuống, thế nên vừa bắt đầu đã phát hiện ra lũ sói cái đến quan chiến. Về sau tôi mới nhận ra, tìm kiếm theo kiểu như vậy không ổn, phạm vi lớn quá mà mục tiêu lại nhỏ nữa, vậy là liền thay đổi sách lược, tôi bèn nghĩ, nếu mình là lũ bò Yak đang bị vây khốn ở giữa kia, mình sẽ thoát vây như thế nào, còn nếu tôi là sói, tôi sẽ nên phòng thủ ở đâu? Trước tiên, tôi nhìn thấy dốc núi phía Tây ở đáy hồ lô kia kìa, độ dốc không cao lắm, lú bò Yak mà ráng sức thì chắc là leo lên được. Một khi leo được lên ấy rồi, ở đó là một cái khe chạy theo hướng Nam Bắc, khi ấy dù theo hướng nào thì cũng thoát được bầy sói cả, với sức cả đàn bò Yak cùng xông lên, chắc bầy sói cũng không dám đối đầu ngăn cản đâu, thế nhưng…"

    Giọng Nhạc Dương trầm xuống: "Nhưng ở chỗ giao nhau giữa dốc núi và khe sâu ấy, tôi phát hiện ra bọn sói do Lưng gù cầm đầu, chỉ cần chúng từ lưng chừng núi tràn xuống tấn công, lũ bò Yak đang leo trên triền dốc kia ắt không đánh đã tự rối loạn lên rồi. Sau đó, tôi lại nghĩ đến đạo lý "biết rõ là không thể mà vẫn quyết làm cho được", địa thế chỗ miệng hồ lô kia rất hẹp, chỉ đủ cho một con bò xông qua, nhưng, nếu con bò thủ lĩnh kia dẫn đầu xông lên, thì chỉ cần vượt qua được chỗ miệng hồ lô, phía trước sẽ là cả vùng rộng lớn. Thế nên thoạt tiên tôi đã tìm kiếm dấu vết của lũ sói ở bên ngoài miệng hồ lô, nhưng không phát hiện được gì, sau đó tôi mới nghĩ ra, vách đá hai bên miệng hồ lô cao không quá mười mét, nếu mai phục một nhóm ở đấy, từ trên cao lao xuống tấn công, vậy thì chẳng phải đàn bò chỉ còn biết cho chúng mặc tình chém giết rồi hay sao? Cách bố trí như vậy còn có thể khiến bầy sói tránh được mũi nhọn tấn công của con bò Yak đầu đàn, chỉ nhằm vào đám bò cái và bê con ở phía sau, con bò đầu đàn kia họa may có thể đào thoát được, nhưng cả bầy đàn của nó thì chết là cái chắc. Nghĩ vậy, quả nhiền tôi phát hiện ở hai bên vách đá chỗ miệng hồ lô có hai nhóm sói khác đang mai phục."

    Nhạc Dương đã hơi khô miệng, nhưng vấn nói liền một hơi: "Cuối cùng, tôi không thể không nghĩ đến vấn đề mà bầy bò Yak không muốn đối mặt nhất, tức là chính diện giao chiến với lũ sói. Khi ấy, những con sói cố ý tỏ ra yếu ớt kia liền trở nên hết sức quan trọng, mặc dù trông rất gầy yếu, mặc dù số lượng chúng rất ít, nhưng dù sao vẫn là sói, bò Yak muốn xông thẳng tới, phải cần đến dũng khí lớn tới nhường nào chứ? Mà ở bên cạnh lũ sói này lại để lộ một lỗ hổng, rõ ràng là sẽ khiến lũ bò động lòng. Khi tấn công thành trì, vây ba mặt mà lại mở lưới ở mặt thứ tư, vốn đây chính là tôn chỉ quan trọng trong chiến thuật, mục đích của hành động này chính là để tiêu diệt toàn bộ kẻ địch. Nghĩ tới đây, tôi đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, ở bên ngoài chỗ hổng kia, chắc chắn là có sói mai phục! Vậy nên, tôi phát hiện ra cách đấy khoảng trăm mét có nhóm sói đầu tiên, nhưng số lượng bọn này cũng chỉ khoảng hai chục con, tôi liền nghĩ, nếu bọn bò Yak kia mà nổi điên lên, chũng chưa chắc đã không thể xông qua phòng tuyến đầu tiên này; vậy là tôi lại nhanh chóng phát hiện ra tuyến phong tỏa thứ hai, đám này có khoảng hơn bốn chục con; nói thực một câu, tôi đã không dám nghĩ xa hơn nữa rồi, việc phát hiện ra đám thứ ba thuần túy chỉ vì số lượng của chúng quá là nhiều, vô ý lọt vào tầm mắt của tôi mà thôi. Thật không dám tưởng tượng, chúng lại bố trí những ba tuyến phong tỏa. Anh nghĩ thử xem, nếu anh mà là một con bò Yak trong đàn kia, khi anh xông qua phòng tuyến đầu tiên, lại gặp phải bọn sói ở nhóm thứ hai, rồi xông qua luôn cả phòng tuyến thứ hai này, lại gặp phải bầy sói thứ ba, anh sẽ nghĩ thế nào? Bầy sói càng lúc càng đông, còn thể lực anh thì càng lúc càng giảm sút…"

    Nhạc Dương hít vào một hơi khí lạnh, trầm giọng xuống nói: "Một tiếng trống thì dũng khí tăng lên, nghe tiếng trống thứ hai dũng khí liền suy giảm, đến tiếng trống thứ ba thì dũng khí không còn nữa, trong tình huống ấy, đàn bò Yak kia con lấy đâu ra dũng khí mà chiến đấu, một là bị dồn trở về trong hồ lô, hai là phơi thây trên bãi cỏ. Nói theo cách khác, nếu dưới kia không phải lũ bò Yak hoang mà là chúng ta bị bao vây, thì những cách đột phá vòng vây mà tôi có thể nghĩ đến, tất cả đều đã bị lũ sói kia khóa chặt hết cả rồi, không thể nào xông ra nổi. Anh bảo xem, lũ sói ấy có lợi hại hay không chứ?"

    Nghe Nhạc Dương phân tích xong, toàn thân Trương Lập đẫm mồ hôi lạnh, cảm giác ấy hệt như Tào Tháo bại tẩu trên đường Hoa Dung, mỗi lần thỏa thuê đắc chí ngoác miệng ra cười thì phục binh do Gia Cát Lượng sắp sẵn lại xông ra đuổi giết, dọa cho họ Tào sợ đến vãi cả rắm ra. Trương Lập bỏ tay khỏi ống nhòm, thấy đã ướt sũng những mồ hôi, chỉ nghe anh chàng lẩm bẩm nói: "Đây là… sói kiểu gì vậy chứ?" Lúc này anh mới hiểu được, rốt cuộc Cương Nhật Phổ Bạc có ý gì khi nói với họ, đây là những con sói họ tuyệt đối chưa thấy bao giờ.
     
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 71: Những Con Sói Chưa Thấy Bao Giờ


    Chỉ thấy lũ sói lùa đàn cừu đến chỗ đàn bò Yak có thể trông thấy, đàn cừu liền tản ra, bắt đầu tự do gặm cỏ trên trảng cỏ cuối cùng còn sót lại ấy, lũ sói thì cứ đi đi lại lại thoải mái giữa đàn cừu. Lũ cừu kia chẳng những không sợ bọn sói, mà ngược lại thi thoảng còn cúi đầu xuống cọ cọ vào đầu sói tỏ lòng hữu hảo. Cảnh tượng này, đừng nói là lũ bò Yak trố mắt ra nhìn, mà cả bọn Trác Mộc Cường Ba nữa, có ai đã từng thấy sói chơi đùa với cừu bao giờ? Nhạc Dương lẩm bẩm nói: "Công kiên chi chiến, công tâm vi thượng, e là đàn bò Yak này không chống đỡ được rồi."

    Lúc này, Cương Nhật Phổ Bạc mới ngẩng đầu lên nói với Nhạc Dương: "Không đúng, đàn sói tôi thấy trước đây không chỉ có từng này thôi đâu, còn những con sói được sắp xếp ở vị trí khác nữa."

    "Chú nói gì!" Nhạc Dương suýt chút nữa thì kêu toáng lên. Hai bên giao chiến cũng như hai người đánh cờ với nhau vậy, phải biết được ý đồ và chiến thuật của đối thủ thì mới nghĩ ra được chiêu số để phá giải. Nếu ngay cả ý đồ của đối phương mà anh cũng không thể nhận ra, thật chẳng khác nào sức cờ của hai bên khác biệt quá lớn, thì anh thua là cái chắc chứ chẳng nghi ngờ gì nữa. Nhạc Dương lấy thân phận là người ngoài cuộc, đã phân tích diễn biến trên chiến trường một cách khá sâu sắc, anh chàng cũng tự tin rằng mình đã nghĩ đến hết mọi nước rồi, nhưng Cương Nhật Phổ Bạc nói thế, chẳng khác nào nói với Nhạc Dương rằng, bầy sói còn có ý đồ tác chiến khác nữa, chẳng qua là cậu chưa nghĩ đến đấy thôi, điều này quả thực là một đòn quá lớn đối với anh chàng.

    Nhưng phản ứng của Nhạc Dương cũng đã nằm trong dự đoán của Cương Nhật Phổ Bạc, anh ta liền an ủi: "Chớ có nản lòng, dù sao thì lũ sói kia cũng ở đây hơn một năm rồi, còn cậu chỉ mới trong chớp mắt lập tức đã nghĩ ra các sách lược khác nhau, vậy là giỏi lắm rồi."

    Hai hàng lông mày của Nhạc Dương nhíu chặt lại, mắt trợn nhìn qua ống nhòm tìm kiếm, trong đầu đồng thời suy nghĩ trăn trở xem rốt cuộc còn điểm nào mình chưa nghĩ đến. Tìm mãi một hồi lâu cũng không có phát hiện gì mới, cuối cùng, anh chàng nghiến răng bỏ cuộc, không thể không thừa nhận rằng mình đoán không ra.

    Lúc này Trác Mộc Cường Ba chợt lên tiếng, "Tìm thấy rồi, ở vách núi đối diện, cách chỗ bọn sói cái chừng một cây số về phía Nam, bọn chúng đang di chuyển."

    Nhạc Dương vội dấn tới quan sát. Quả nhiên có bốn con sói trên triền núi, phương thức hành động của lũ sói này hết sức cổ quái, tăng tốc chạy nhanh một đoạn đường rồi dừng lại, ngẩng đầu ngoảnh xung quanh một lượt, kế đó hơi há miệng ra, tựa hồ như đang phát ra những tiếng gầm gừ thấp trầm. Anh đột nhiên có cảm giác là lạ, một con sói trong đám ấy dường như vô ý lại cố ý liếc sang phía mình một cái, Nhạc Dương giật bắn người, lúc nhìn lại thì con sói kia đã chạy đi xa mất rồi."

    "Là lính tuần tra!" Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Đấy là thủ hạ của con Mắt trắng, phụ trách cảnh giới vòng ngoài. Nếu có kẻ địch khác đến phá rối ý đồ tác chiến, chúng sẽ phát tín hiệu cảnh báo với bầy đàn. Chắc chắn không chỉ có một đội lính tuần tra như thế này đâu."

    Trương Lập kinh ngạc kêu lên: "Chú Cương Nhật, chú còn nhận ra đó là thủ hạ của con Mắt trắng nữa cơ à?"

    Cương Nhật Phổ Bạc mỉm cười đáp: "Đàn của Mắt trắng đến đấy sớm nhất, tính đến nay cũng sắp bảy năm rồi. Con Mắt trắng ấy còn sống ở gần nhà tôi suốt nửa năm, làm sao tôi lại không nhận ra chúng được chứ?"

    "Hử, sống ở gần nhà chú suốt nửa năm?"

    Cương Nhật Phổ Bạc đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi lại liếc sang Cương Lạp, chậm rãi thở dài nói: "Hà, chẳng phải vì Cương Lạp thì còn vì ai nữa!" Anh ta hạ thấp giọng xuống nói, "Cường Ba, cậu không biết đấy thôi, sau khi cậu đi, tâm trạng Cương Lạp rất không tốt, ngày nào cũng ngồi trước cửa, trời tối mịt cũng không chịu trở vào. Cứ như vậy suốt nửa năm trời, một hôm nó đột nhiên kéo con sói mắt trắng kia trở về, an trí cho ở trên triền cỏ ngọn núi sau nhà tôi, từ đó tôi mới biết gia tộc nhà con Mắt trắng ấy đã di cư đến vùng này. Con Mắt trắng khi đó có lẽ là kẻ thất bại trong cuộc khiêu chiến với sói đầu đàn, khắp mình mẩy đầy thương tích, lại gầy guộc ốm o, gặp gió là run lên cầm cập. Cậu cũng biết đấy, Cương Lạp uống sữa sói mà trưởng thành, giữa nó và loài sói luôn có một mối dây tình cảm nào đó, lúc ấy cậu lại vừa bỏ nó ra đi. Con Mắt trắng ấy cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ là màu lông trắng tuyền khá giống với Cương Lạp, chắc cũng chính vì nguyên nhân này mà Cương Lạp mới cứu nó về. Trong thời gian con sói ở trên triền dốc dưỡng thương, Cương Lạp thường giấu một phần thức ăn của mình lén lút mang đến cho nó. Con sói kia cũng biết tri ân, sau khi lành lặn trở lại thì cũng bắt về vài con thỏ hoang hay thú nhỏ gì đó cho Cương Lạp được bữa ăn tươi. Có lúc nhìn thấy chúng nó ở với nhau, mặc dù con sói kia hơi nhỏ hơn một chút, nhưng Cương Lạp dường như rất vui vẻ, cũng không u uất như lúc cậu mới đi nữa, tôi nghĩ nó cũng đến cái tuổi ấy rồi, bèn mắt nhắm mắt mở coi như không thấy gì. Ai ngờ chuyện không phải thế, mặc dù có lúc chúng tỏ ra rất thân mật, nhưng Cương Lạp căn bản không cho con sói kia chạm đến mình, mỗi lần con sói có hành động gì vượt quá là nó lại giáo huấn cho một phen. Có lần Cương Lạp làm dữ quá, con sói kia chạy mất và không trở về nữa. Thì ra, nó lại khiêu chiến sói đầu đàn lần nữa và thành công. Giữa Cương Lạp và bầy sói, con Mắt trắng ấy đã chọn phía thứ hai."

    Trác Mộc Cường Ba thở dài, than: "Tiếc quá, tại sao Cương Lạp không chấp nhận con sói kia chứ?"

    Cương Nhật Phổ Bạc thấp giọng oán trách: "Cậu thật sự không biết hay là… Cương Lạp thực sự yêu thích… là cậu đó!"

    Trác Mộc Cường Ba hơi ngẩn người ra. Nhạc Dương và Trương Lập cũng hơi kinh ngạc, có điều hai anh chàng nọ đã nhanh chóng trao đổi ánh mắt, cũng lúc nghĩ đến lý luận hấp dẫn giống cái của họ, quả nhiên là không sai chút nào!

    Cương Nhật Phổ Bạc thấp giọng nói: "Cậu có biết rằng, năm đó chúng ta để Cương Lạp tự lựa chọn ở lại hay đi theo cậu, đối với nó là một chuyện đau khổ đến nhường nào hay không. Sau khi cậu đi, nó cứ gục đầu vào lòng tôi mà khóc tức tưởi, khóc đến nỗi tim tôi cũng muốn vỡ tan ra rồi. Mỗi bức thư cậu gửi tới, tôi đều đọc cho nó nghe. Mỗi lần nghe xong, nó lại ngồi trước cửa, nhìn theo hướng cậu ra đi, từ đó đến giờ nó ngóng đợi cậu trở về…

    Một người một chó ấy cùng nhau tự do chạy nhảy nô đùa trên đồng cỏ, đuổi thỏ, ném cành cây, xuống sông tắm rửa, dù đi tới đâu, hễ vừa ngồi xuống là Cương Lạp liền bổ tới rúc vào lòng Trác Mộc Cường Ba; khi Trác Mộc Cường Ba nằm trên bãi cỏ nắm nhìn trời xanh mây trắng, Cương Lạp sẽ ngồi bên cạnh gã; khi được gã cài cho một bông hoa nhỏ, nó sẽ chạy tới bờ sông soi mình, Cương Lạp là con linh ngao có khả năng nhận thức hiếm thấy trên đời, nó biết cái bóng phản chiếu dưới nước kia chính là mình…

    Trong khoảnh khắc, những hồi ức vụn vặt về khoảng thời gian sống chung với Cương Lạp bỗng chốc dân trào lên trong tâm thức, Trác Mộc Cường Ba chợt thấy chua xót trong lòng, khóe mắt ngân ngấn nước.

    Nhạc Dương và Trương Lập cũng thôi không pha trò nữa, ngoảnh đầu nhìn Cương Lạp, chỉ thấy nó đang ngồi chồm hỗm quay lưng về phía họ, ngước nhìn các thiết bị tinh vi trong tay đội trưởng Hồ Dương, hai vai hơi khẽ run run. Hai người đều có thể tưởng tượng ra được, năm đó khi Cường Ba thiếu gia ra đi, Cương Lạp đã phải đưa ra một lựa chọn đau khổ đến nhường nào, một bên là người thân đã nuôi dưỡng mình, một bên là người minh yêu thích trong lòng, đối với Cương Lạp, đó mới thật sự là yêu ở trong lòng mà không thể nói ra thành lời.

    Để tránh nhắc đến chủ đề khơi gợi sự thương cảm này, Nhạc Dương nói với Cương Nhật Phổ Bạc: "Chú Cương Nhật này, tôi thấy nhất thời chắc chúng cũng không lao vào quyết chiến luôn đâu, chi bằng chú kể cho mọi người nghe đàn sói thứ ba kia, rốt cuộc là như thế nào đi, thủ lĩnh của chúng ở đâu? Tôi cũng muốn xem xem có phải con sói ấy có ba đầu sáu tay gì hay không."

    Cương Nhật Phổ Bạc cười khổ nói: "Thủ lĩnh ấy à, kha kha, tôi chưa bao giờ trông thấy nó cả, nhưng chắc chắn nó đang ở giữa bầy sói, từ đầu tôi vẫn luôn có cảm giác rằng con sói thủ lĩnh ấy đã biết tôi đang ngầm quan sát chúng, chẳng qua nó chỉ không vạch trần tôi ra thôi. Hử, dù sao thì cũng là ăn của người một miếng, nợ của người một tiếng mà."

    "Cái gì, cái gì? Cái gì mà ăn một miếng với chẳng nợ một tiếng, chú nói rõ xem nào."

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Lúc mọi người đến nhà tôi, có thấy lũ cừu của tôi đâu không?"

    "Cừu?" Nghe Cương Nhật Phổ Bạc nói vậy, Nhạc Dương mới nhớ ra: "Làm gì có, chuồng cừu của chú trống không mà, chẳng lẽ…"

    Cương Nhật Phổ Bạc gật đầu nói: "Đúng đấy, cừu nhà tôi đều bị lũ sói này trộm… ừm, bị chúng mượn đi hết rồi!"

    Trác Mộc Cường Ba cũng thầm giật mình kinh ngạc, thốt lên: "Anh bảo là, hơn một trăm con cừu của anh toàn bộ đều bị sói bắt đi hết rồi à? Cương Lạp đâu?" Gã liếc mắt sang phía Cương Lạp, con chó giả bộ ngó lơ nhìn về phía dãy núi xa xa, nhưng hai tai lại vểnh lên rõ cao.

    Cương Nhật Phổ Bạc bất lực đáp: "Cương Lạp à, hây à, đừng nói Cương Lạp nữa, đến cả người sống sờ sờ như tôi đây đích thân ngủ trong chuồng cừu, chẳng phải là vẫn không giữ được đấy sao? Tôi có cảm giác như là chúng nó đang thử thăm dò xem tôi nhẫn nại đến cỡ nào, mới đầu chỉ là năm ba con, về sau càng lúc càng táo tợn, đến nỗi chẳng còn để cho tôi con nào nữa."

    Nhạc Dương nói: "Lẽ nào chú không áp dụng các biện pháp đề phòng?"

    "Biện pháp đề phòng hả!" Không nhắc đến còn đỡ, vừa lôi chuyện này ra, Cương Nhật Phổ Bạc liền hừ mạnh một tiếng, nói: "Đặt thòng lọng, bẫy kẹp, bỏ thuốc, đào hố… nói cho cậu biết, tất cả những chiêu của con người có thể nghĩ ra được tự cổ chí kim tôi đều đã dùng hết cả rồi, chúng vẫn thong dong vô sự. Mấy thủ đoạn ấy đối với chúng cứ như là trò trẻ con vậy, tôi và đàn sói đó đã minh tranh ám đấu mấy chục lần rồi…" Cương Nhật Phổ Bạc đột nhiên cúi thấp mặt xuống, "mà chưa lần nào thắng được bọn chúng."

    Anh ta lại thở dài nói tiếp: "Cũng không phải Cương Lạp không tận hết trách nhiệm, chỉ hiềm nỗi bầy sói này quá đỗi giảo hoạt, đấu với bọn chúng có thể gặp đủ trí kế vô cùng vô tận, nào là "điệu hổ ly sơn", "che trời qua biển", "mượn xác hoàn hồn", "thay mận đổi đào", "ám độ Trần Thương"… Dù thế nào thì cứ đến đêm, chúng lại có thể dắt cừu đi qua ngay trước mắt tôi và Cương Lạp. Bọn cừu kia cũng đến thực thà, cả kêu cũng không kêu tiếng nào, cứ thế ngoan ngoãn đi theo ngường ta vậy tôi. Không chỉ mình tôi, ngay cả thôn Na La không nhà nào là không bị chúng dắt cừu đi."

    Nhạc Dương nói: "Vậy sao dân làng không hợp sức lại để đối phó với bọn sói ấy chứ?"

    Cương Nhật Phổ Bạc thở dài: "Cậu không biết chúng giảo hoạt thế nào đâu. Cừu của những nhà khác thì mỗi lần chúng chỉ dắt đi năm ba con, lại toàn bắt vào lúc thả rông ban ngày, dân làng còn tưởng là cừu tự đi lạc, hơn nữa bọn chúng còn dở trò bắt của nhà này bù vào của nhà kia, mà cừu của dân làng chẳng con nào đánh dấu đánh má gì, thế là ai cũng nói cừu nhà mình chạy sang chuồng nhà người khác, thành thử cãi nhau ầm ĩ hết cả lên. Chỉ có lũ cừu nhà tôi là chúng quyết chí mượn mà không trả, vơ vét sạch trơn, kể cả cái cọng lông cừu cũng không để lại cho tôi."

    Nhạc Dương thầm nhủ: "Ông chú ơi, một mình chú sống giữa vùng núi hoang đồng vắng này, trước không thấy làng, sau không thấy tiệm, lũ sói kia đến không dắt cừu của chú đi thì còn kiếm ai vào đây nữa!"

    Trương Lập lại nói: "Tôi thật không sao hiểu nổi, tại sao cừu của dân làng thì chúng chỉ dắt đi năm ba con, còn cừu của chú thì bị bắt đi hết sạch sành sanh như thế?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Chuyện này thì phải kể từ đầu. Đàn sói này đại khái đến đây từ khoảng một năm trước, mới đầu, bọn chúng dùng cách lấy vật đổi vật để bắt cừu của tôi đi. Đại khái cũng khoảng ngày này năm ngoái, sáng sớm tôi ngủ dậy đột nhiên thấy trong chuồng cừu chẳng hiểu sao lại có thêm ba con la hoang, liền cảm thấy có gì bất ổn, kết quả là đếm lại thấy thiếu mất năm con cừu, tôi hỏi Cương Lạp, không ngờ nó cũng chẳng hay chuyện gì đã xảy ra, đúng thực là kỳ quái hết sức. Lần đầu tiên tôi còn tưởng có ai đó đùa với mình, bèn thả lũ la đi. Đàn sói kia cũng thú vị ra phết, chúng tưởng tôi không thích la hoang Tây Tạng, lại xua vào chuồng cừu nhà tôi bốn con dê lông dài, rồi lại bắt đi năm con cừu của tôi để đổi chác, lần này thì tôi phát hiện trên hàng rào chuồng cừu có dấu vết vuốt sói trèo qua. Tôi biết, mình đụng với lũ sói rồi, đồng thời tôi cũng biết, lũ sói lần này mình đụng phải khác với tất cả bọn sói đã từng đến nhà tôi trước đây. Từ đấy trở đi tôi bắt đầu để ý đến bọn sói này. Tôi và Cương Lạp canh trong chuồng cừu suốt bảy ngày liền không có động tĩnh gì, vừa mới thả lỏng phần nào thì sang hôm sau đã lại mất thêm ba con cừu nữa, tức lộn cả ruột. Vậy là cuộc chiến giữa tôi và bầy sói chính thức nổ ra. Mới đầu, tôi nghĩ lũ sói này đều là động vật được nhà nước bảo hộ, chúng ăn thịt cừu của tôi, nhà nước sẽ có bồi thường thích đáng, vậy nên không định dùng súng, mà chỉ muốn dọa chúng kinh hãi một phen cho bớt cái thói hung hăng càn quấy đó đi. Thế nên lúc đầu, thì cũng chỉ dùng các cách như kết người rơm, treo chuông, giấu dây thòng lọng, đào hố. Không ngờ những cách này đều chẳng linh nghiệm, cừu nhà tôi vẫn cứ hôm nay mất ba con hôm sau mất năm con, mà tức hơn nữa là chúng lại có thể qua mắt Cương Lạp mà bắt trộm lũ cừu đi chứ. Mấy thứ bẫy rập thông thường đều vô dụng, vậy là tôi liền nâng cấp sử dụng loại lợi hại hơn, kiếm bẩy tám cái bẫy kẹp săn thú trong có mồi thịt tươi, giấu vào chỗ tối. Kết quả thế nào các cậu có đoán được không, bảy tám cái bẫy kẹp ấy nhất loạt đều bị kéo ra trước cửa nhà tôi, tôi mở cửa ra, suýt chút nữa là bị trúng chiêu rồi, chẳng những như thế, bọn nó còn ăn sạch sẽ thịt mồi ở bên trong nữa chứ. Tôi thật nghĩ nát cả óc ra mà cũng không hiểu, chẳng lẽ bọn sói này thành tinh rồi chắc! Về sau thế nào thì chắc các cậu cũng tưởng tượng ra được, tự nhiên là có bao nhiêu chiêu tôi giở ra hết, các cạm bẫy ấy thiết kế hoàn hảo đến nỗi bản thân tôi cũng cho rằng dù người thợ săn lợi hại nhất cũng phải trúng chiêu, chẳng lẽ tôi lại không chơi nổi mấy con sói tép riu hay sao? Thật không ngờ, chúng lại cho tôi một bài học vô cùng sâu sắc. Tôi cũng không nhớ là đã bao nhiêu lần mình bị cạm bẫy do chính mình thiết kế hại cho nhếch nhác thảm hại nữa. Nếu không phải có Cương Lạp, chắc có đến mấy lần tôi bị trúng bẫy không ra nổi rồi đấy."

    Trương Lập không dám tin đó là sự thật: "Hình như hơi quá thần kỳ thì phải? Sao mà chúng làm được thế chứ?"

    Cương Nhật Phổ Bạc bực tức nói: "Ai mà biết được, tôi mà biết thì tôi không phải con người rồi! Nhưng có mấy lần, chúng như là biểu diễn cho tôi xem vậy, cũng cố ý cướp đi mấy con cừu ngay trước mũi tôi, cậu đoán xem chúng làm thế nào chứ…" Không đợi bọn Trương Lập trả lời, Cương Nhật Phổ Bạc đã nói tiếp luôn, "Cậu tuyệt đối không thể ngờ đến đâu, đúng vào kỳ động dục của lũ cừu cái nhà tôi, chẳng hiểu chúng xua ở đâu về mấy con cừu đực cao lớn anh tuấn, vừa xuất hiện đã đè bẹp lũ cừu đực nhà tôi nuôi. Cậu bảo xem, cái lũ cừu cái ấy cũng thật ngu ngốc chẳng buồn nhìn xem đằng sau đám cừu đực kia là sối hay là cái giống gì đã tí ta tí tởn chạy theo giai rồi, đi xong rồi không bao giờ trở về nữa luôn."

    Cương Nhật Phổ Bạc lại phẫn nộ nói tiếp: "Ý đồ của bọn sói ấy rất rõ rệt, cậu dùng chiêu ác bao nhiêu thì cũng trả đòn bằng kế độc bấy nhiêu. Chẳng hạn có một lần, tôi bôi nước ớt lên đùi lũ cừu, bọn sói ấy mà dám đụng đến cừu nhà tôi là lỗ mũi nở hoa luôn, thấy chiêu này đủ độc chưa? Cả Cương Lạp tôi cũng không dám cho lại gần mấy con cừu ấy, vậy mà không ngờ, bọn chúng còn giáng trả một chiêu độc hơn nữa!"

    "Là gì thế?"

    Cương Nhật Phổ Bạc cười méo xệch: "Tôi mặc xác chúng làm thế nào mà đưa lũ cừu đi, có điều hành vi báo thù ngay sau đó thì khiến tôi suýt chút nữa là không chịu đựng nổi. Bọn chúng… bọn chúng… không ngờ đã xua lũ cừu của dân trong làng Na La vào chuồng cừu nhà tôi. Ngày hôm sau, đám dân làng ấy liền đến kiếm tôi hỏi tội, đúng là có miệng mà không biết nói sao, khổ sở không thể kể ra được! Thử nghĩ mà xem, Cương Nhật Phổ Bạc tôi đây tự hỏi mình đi ngay đứng thẳng, chưa từng làm chuyện xấu gì, vậy mà lại bị một đàn sói hại cho ô uế thanh danh, về sau dân trong làng hễ cứ mất cừu là lại đến tìm tôi, thật là…"

    Trương Lập, Nhạc Dương đều há hốc miệng ra, suýt chút nữa thì rơi cả cằm xuống đất. Trác Mộc Cường Ba cũng đắm chìm vào trạng thái thẫn thờ, trong đầu chỉ vẩn vơ một ý nghĩ: Cương Nhật Phổ Bạc đang nói đến sói đấy sao? Đấy có phải là sói không? Là loại sói gì vậy?

    Nhạc Dương là người đầu tiên tỉnh táo trở lại, vội hỏi: "Đợi chút đã… Chú Cương Nhật Phổ Bạc, vừa nãy chú nói bọn sói xua cừu đực đến dụ dỗ cừu cái nhà chú đi, lại còn xua cừu của dân làng vào chuồng nhà chú, chẳng lẽ, bọn chúng bắt cừu đi không phải để ăn thịt hay sao?"

    Nghe Nhạc Dương nói vậy, Trương Lập cũng có phản ứng, đúng thế, theo cách nói của Cương Nhật Phổ Bạc, bọn sói này bắt trộm cừu không phải để làm thức ăn, hành vi của chúng dường như là có ý ngấm ngầm đấu đá với anh ta vậy. Sói không ăn thịt cừu? Vậy bọn chúng bắt cừu đi đâu rồi?

    Cương Nhật Phổ Bạc gật đầu khen ngợi: "Câu này hỏi đúng vào tâm điểm rồi đấy. Không sai, bọn sói kia không ăn thịt cừu." Anh ngoảnh đầu lại, phóng mắt nhìn xuống mạch núi, nói với bọn Nhạc Dương: "Dưới chân ngọn núi lớn này cây cỏ tốt tươi, có rất nhiều la hoang Tây Tạng, dê lông dài, cầy ngựa, lợn rừng dừng chân nghỉ lại, tuy bọn sói này khá đông, nhưng hệ thống sinh thái nơi đây cũng vẫn thừa đủ để nuôi sống bọn chúng."

    "Vậy thì tại sao chúng còn đến trộm cừu?" Trương Lập thắc mắc.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Đây lại là một vấn đề mà không ai nghĩ ra được, nếu không phải tôi đã tận mắt chứng kiến, thì chính bản thân tôi cũng không thể tin được. Bọn chúng trộm lũ cừu kia đi, không ngờ lại là để… nuôi thả!"

    Trác Mộc Cường Ba ngẩn người. Nuôi dưỡng gia súc, đây tuyệt đối là hành vi chỉ có ở con người, bọn sói này quả thực khiến người ta quá bất ngờ rồi.

    Cương Nhật Phổ Bạc chỉ tay về phía trước nói: "Ở ngay phía sau sườn núi đối diện kia, có lẽ cũng là di tích của sông băng cổ, đã hình thành nên một khu vực địa hình như cái chậu. Tất cả lũ cừu sói trộm về đều được nuôi thả ở trong ấy, ngoài ra còn rất nhiều động vật ăn cỏ hoang dã khác nữa. Bọn sói này còn giỏi hơn cả những con chó chăn cừu xuất sắc nhất nữa. Chúng nó dồn lũ cừu lại thành từng nhóm từng nhóm, hoạch định phạm vi, chỉ huy bọn cừu ăn cỏ một cách có kế hoạch, có quy luật. Tại sao bọn sói này lại trộm cừu nhà nuôi chứ, chính vì chúng biết cừu nhà nuôi dễ quản lý, bảo đi sang bên Tây thì sẽ đi sang bên Tây, bảo đi sang bên Đông thì sẽ đi sang bên Đông."

    "Hả?" Mọi người càng nghe càng thấy mê hoặc, Nhạc Dương lấy làm kỳ quái nói: "Bọn chúng nuôi cừu, lại không ăn thịt cừu, mục đích để làm gì thế? Chẳng lẽ là muốn nuôi cho bọn cừu béo mẫm lên mới ăn?"

    Trương Lập nói: "Lẽ nào là vì phát triển bền vững? Sử dụng tài nguyên tái sinh một cách có hiệu quả?"

    Cương Nhật Phổ Bạc lắc đầu: "Đừng nói là các cậu, tôi đã nghĩ suốt nửa năm dài, nát đầu nát óc mà cũng không nghĩ ra được rốt cuộc tại sao chúng lại làm như thế, mãi đến một tuần trước khi đàn bò Yak kia bất ngờ xuất hiện…"

    Nhìn địa hình xung quanh, nghĩ đến đàn bò Yak hoang dã đang bị vây khốn, rồi lại ngẫm tới những hành vi của bọn sói, Nhạc Dương dường như đột nhiên hiểu ra điều gì đó, sống lưng bỗng dưng lạnh toát, "Chú, ý chú là…"

    Cương Nhật Phổ Bạc gật đầu: "Giờ thì cậu biết tôi không nói ngoa rồi chứ, đàn sói này, chính xác là đã bắt đầu tính cách đối phó lũ bò Yak từ một năm trước rồi. Theo tính toán của tôi, một năm trước bọn sói này đã theo dấu đàn bò Yak kia đến đây rồi. Lũ bò Yak hoang kia di trú một cách có quy luật trong dãy Himalaya này, ăn từ phía Nam lên phía Bắc, rồi lại quành ngược từ phía Bắc trở về phía Nam. Thung lũng đối diện chúng ta kia là một vùng đồng cỏ rất lớn, mà muốn đến đấy thì phải vượt qua triền núi có độ cao khá lớn so với mực nước biển, vì vậy cũng không nhiều đông vật hoang dã đến được đó, nhưng đối với bò Yak thì nơi ấy gần như là vườn cực lạc rồi. Mỗi năm cứ đến mùa này là chúng lại kéo đến, chỗ ấy đủ cỏ cho chúng ăn mấy tháng, cả bầy đàn nhà chúng có thể ở đấy nghỉ ngơi dưỡng sức, hoàn thành công việc giao phối. Chỉ tiếc là lần này, khi bọn chúng trèo đèo vượt núi đến được vùng lạc viên ấy, thứ còn lại chỉ là một vùng đất hoang không còn nhành cây ngọn cỏ cộng thêm mấy trăm con sói dữ."

    Mỗi bước hành động đều trải qua suy nghĩ cặn kẽ, mỗi quá trình đều được tính toán chu toàn, Nhạc Dương cảm thấy trào dâng lên một nỗi sợ xưa nay chưa từng có, tựa như anh đang nhìn thấy, đang nghe nói về một đám những kẻ âm mưu chứ không phải một bầy sói. Đừng nói là đối phó với một đàn bò Yak hoang dã, thậm chí đến cả Cương Nhật Phổ Bạc cũng bị chúng bỡn cợt nhũng nhiễu, phá rối cho đến thảm thương. Bọn chúng dường như đã nhìn thấu được bản tính con người, chỉ giở ra một mưu nhỏ thôi đã khiến người ta hoài nghi lẫn nhau, ngờ vực lẫn nhau, mà có lẽ trong mắt chúng, con người chẳng qua chỉ là một loài động vật bình thường, chẳng thông minh hơn bọn bò Yak kia là mấy.
     
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 72: Mưu Kế Của Bầy Sói


    Cương Nhật Phổ Bạc điềm đạm nói: "Có biết lần đầu tiên tôi nhìn thấy bọn sói chăn thả cừu ấy, trong lòng có cảm giác như thế nào không? Trong mắt tôi, chúng không phải là một đàn sói nữa, mà là một cánh quân có tổ chức, có kỷ luật. Bọn chúng phân công hợp tác, mỗi con một việt, cả đàn cùng hoạt động tựa như một cỗ máy mở hết công suất, bất cứ sức mạnh nào có ý đồ ngăn cản cỗ máy này xoay chuyển, khi đối mặt với chúng cũng đều tỏ ra lực bất tòng tâm hết."

    "Có khả năng chúng là sói chiến không? Chính là bọn sói sống chung với người Qua Ba tộc ấy?" Trác Mộc Cường Ba từ nãy vẫn chưa nói gì đột nhiên mở miệng cất tiếng.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Tôi cũng từng nghĩ đến khả năng này, nhưng lại tự loại trừ nó đi rồi. Đàn sói này được hình thành từ các gia tộc sói khác nhau, đến giờ vẫn còn giữ nguyên các đơn vị gia tộc, hơn nữa còn có rất nhiều gia tộc mới gia nhập bầy đàn."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Nếu vậy thì chỉ còn khả năng thứ hai nữa thôi." Cương Nhật Phổ Bạc gật gật đầu.

    Trương Lập láu táu hỏi ngay: "Là gì thế?"

    Cương Nhật Phổ Bạc giải thích: "Trong đám sói ấy đã xuất hiện một thủ lĩnh tài giỏi, dưới sự dẫn dắt của nó, hình thái xã hội đàn sói đã nảy sinh biến hóa long trời lở đất. Phải biết rằng, sói là loài động vật rất giỏi mô phỏng và học tập, chỉ cần có một con sói trong đàn học được kỹ năng nào đấy, trong trường hợp muốn, nó có thể dạy cho tất cả những con sói khác kỹ năng y như vậy."

    Nhạc Dương nói: "Nhưng chú còn chưa phát hiện ra con sói thủ lĩnh ấy mà?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Đây cũng là điểm khiến tôi lấy làm nghi hoặc, tôi quan sát đàn sói này cũng một thời gian rồi, nhưng vẫn không thể nào phát hiện được rốt cuộc là con sói nào chỉ huy thống nhất cả đàn. Có lúc, hình như có đến mấy con sói chia nhau phát các hiệu lệnh khác nhau, những con sói đứng đầu các gia tộc cũng tương tự truyền lệnh cho thuộc hạ của mình. Lúc chúng ăn, tôi cũng thấy có mấy con sói cùng ăn một lúc, không phát hiện ra một con nào độc lập với cả bầy." 1

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Xem ra con sói thủ lĩnh ấy cố ý trà trộn lẫn giữa bầy sói, một vị thống lĩnh tinh minh như vậy, chắc nó cũng biết bảo vệ bản thân mình như thế nào. Có điều, dựa vào thái độ của những con sói khác với con thống lĩnh thì vẫn có thể quan sát ra được sự khác biệt chứ."

    Cương Nhật Phổ Bạc lắc đầu: "Đây chính là điểm kỳ quái nhất, theo như tôi quan sát, đàn sói này tỏ ra hết sức cung kính với mấy con sói chứ không phải một con."

    Trác Mộc Cường Ba chau mày: "Lẽ nào cũng một lúc có tới mấy thủ lĩnh?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Tôi cũng nghĩ đến khả năng này rồi, nhưng xem biểu hiện của Cương Lạp thì dường như chỉ có một con thủ lĩnh thôi." Nói tới đoạn này, anh ta hạ giọng xuống rất thấp.

    "Cương Lạp?"

    Cương Nhật Phổ Bạc thấp giọng thì thào: "Nếu tôi đoán không lầm, Cương Lạp đã gặp con sói thủ lĩnh ấy rồi."

    "Cái gì?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Vừa nãy khi tôi và vị đại sư kia đọ sức, các cậu thấy thân thủ của Cương Lạp thế nào?"

    "Lợi hại."

    "Vậy thì tôi nói cho cậu biết, một năm trước, Cương Lạp không lợi hại đến mức ấy đâu. Sau khi nhà tôi bị trộm mất cừu, có một hôm Cương Lạp lén lén lút lút chạy ra ngoài, rồi trở về khắp mình đầy thương tích, phải ở trong nhà dưỡng thương ba tháng mới khỏi hẳn. Mặc dù nó không nói gì, nhưng tôi biết, nhất định là nó tức khí bầy sói kia, đi kiếm người ta đánh lộn rồi. Từ sau bận đó, tôi phát hiện thân thủ Cương Lạp linh động hơn rất nhiều, học được rất nhiều động tác và tư thế chạy mới. Số lần chạy nhảy mỗi ngày của nó tăng lên rõ rệt, tôi nhìn ra được, nó đang ôm cả một cục tức trong bụng đấy chứ, hình như nó muốn rèn luyện cho thân thể thêm cường tráng khỏe mạnh để tiếp tục kiếm người ta khiêu chiến. Có điều cho đến hiện nay, tôi không thấy nó ra ngoài lúc nửa đêm lần nào nữa. Cương Lạp rất cao ngạo, nếu là đánh hội đồng, chắc chắn nó đã quay lại trả miếng rồi, tôi nghĩ là chắc chắn nó đơn độc khiêu chiến con sói thủ lĩnh rồi để thua, đến giờ vẫn còn chưa nắm chắc được phần thắng, thế nên mới…"

    Nhạc Dương nói: "Ý chú là, đêm hôm đó, con sói thủ lĩnh kia đã đánh tay đôi với Cương Lạp? Từ sau khi khiêu chiến con sói kia, Cương Lạp mới học được các kỹ năng chiến đấu mới, nhưng với thực lực hiện nay của nó, thậm chí cả dũng khí khiêu chiến người ta cũng không có nữa…"

    Cương Nhật Phổ Bạc gần như ghé miệng sát vào tai mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba thì thầm: "Chuyện này ngàn vạn lần chớ nói trước mặt Cương Lạp đấy. Các cậu thử nghĩ xem, ngoài con sói thủ lĩnh kia ra, sói bình thường có thể đánh với nó được không?"

    Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại thấy cũng đúng, tuy so với những con chó ngao khác, thể hình Cương Lạp hơi nhỏ nhắn hơn một chút, nhưng so với sói thì ít nhất cũng phải to hơn một hai cỡ trở lên, nếu đơn đả độc đấu, quả thực khó mà tưởng tượng nổi lại có con sói nào có thể đánh cho nó mất luôn cả dũng khí phản kháng. Thế nhưng nghĩ theo chiều hướng ngược lại, vậy thì con sói thủ lĩnh kia cũng quá lợi hại! Nhạc Dương đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, liền hỏi: "Chú Cương Nhật Phổ Bạc này, thế Hải lam thú so với Tử kỳ lân thì con nào lợi hại hơn?"

    Cương Nhật Phổ Bạc không khỏi cảm thấy tức cười: "Tử kỳ lân là ngao vương trong truyền thuyết, Hải lam thú, Hoàng kim nhãn tuy đều là giống ngao quý hiếm, nhưng cùng lắm chỉ là trung thần mãnh tướng bên cạnh bậc vương giả mà thôi, có lợi hại mấy cũng chỉ là kẻ bề tôi. Ánh sáng đom đóm sao có thể so bì với vầng nguyệt trên cao được." Nhạc Dương tức khắc á khẩu không nói được lời nào, chỉ biết ngây người ra nhìn Trác Mộc Cường Ba.

    "Tốt lắm!" đội trưởng Hồ Dương đang ở cạnh đấy đo đạc núi non đột nhiên hưng phấn reo lên một tiếng khe khẽ, quay sang nói với cả bọn, "Đường này đi được đấy!" Anh đưa tay chỉ vào con đường dốc nơi lũ sói đang trấn thủ, đoạn nói: "Đã đo đạc rồi, khe dốc bị sông băng ăn mòn này là con đường an toàn nhất mà chúng ta phát hiện được cho tới thời điểm này!"

    Cả đám Trác Mộc Cường Ba đều sững người ra tại chỗ. Đội trưởng Hồ Dương thấy vậy liền ngạc nhiên hỏi: "Sao vậy? Thế mà vẫn không khiến mọi người hưng phấn lên chút nào hay sao?"

    Nhạc Dương đưa mắt nhìn bầy sói trên dốc núi, cười khổ não, nói: "An… toàn nhất hả? Hơ hơ, đội trưởng Hồ à, anh thật là, thật là biết đùa đấy?" Đúng lúc này, anh chàng đột nhiên để ý thấy Lạt ma Á La ở bên cạnh từ nãy đến giờ vẫn cứ liếc nhìn Cương Nhật Phổ Bạc. Phải rồi, chú Cương Nhật Phổ Bạc này biết rất nhiều chuyện, có lẽ nào, đại sư đã biết lai lịch của chú ấy rồi? Nhạc Dương thầm quyết định trong lòng, chuyến này trở về nhất định phải hỏi Lạt ma Á La cho cặn kẽ.

    Lúc này, Trương Lập đột nhiên nói: "Mau xem đi, lũ bò Yak bắt đầu hành động rồi!"

    Đội hình của đàn bò đã có thay đổi, lũ bò đực tập trung sang cánh phía Nam và phía sau, bò cái và bê con dồn cả sang phía đối diện với mười mấy con sói gầy guộc. Con bò đực thủ lĩnh ngửa cổ kêu vang một tiếng, bốn vó gõ lên đá cuội kêu "cạch, cạch", chỉ thấy đám bò đực bên cánh phía Nam liền nhất loạt xông lên dốc, bọn ở phía sau thì xông thẳng ra chỗ miệng hồ lô, còn bò cái và bê con lại lao ra khu trống ở đáy hồ lô.

    Chiêu này cũng nằm ngoài sức tưởng tượng của đám người Trác Mộc Cường Ba. Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Thì ra là muốn giở chiêu bốn mặt nở hoa, nếu đàn sói kia có sơ suất ở điểm nào đó, lũ bò Yak này sẽ xông ra khỏi vòng vây được đấy."

    Trương Lập nói: "Nhưng mà như vậy thì chẳng phải là thực lực của đàn bò sẽ càng bị phân tán hay sao? Nếu là đàn sói tầm thường thì dùng cách đó còn được, chỉ tiếc là chúng lại gặp phải bọn sói này…"

    Nhạc Dương giật lấy ống nhòm nói: "Không đúng, nếu chúng muốn đột phá vòng vây từ cả bốn phía, vậy thì nhóm nào cũng phải có bò cái, bê con và mấy con bò đực mới đúng. Lẽ nào bọn bò Yak này cho rằng kẻ địch đã dồn lực lượng vào miệng hồ lô và dốc núi phía Nam, muốn lợi dụng lũ bò đực để cầm chân đối phương, tạo ra cơ hội chạy thoát cho bọn bò cái và bê con?"

    Trương Lập nói: "Vậy tại sao chúng lại dám để bò cái và bê con xông pha vào giữa đàn sói? Bọn chúng không sợ đấy là cạm bẫy sao?"

    Nhạc Dương trầm ngâm: "Ừm, mưới mấy con sói gày guộc ở chính diện dụ địch kia xem ra có lẽ là lũ yếu ớt nhất trong cả đàn sói, hơn nữa phía sau bọn chúng cũng không còn quân hậu bị nữa, tôi nghĩ là bọn sói đang sử dụng chiến thuật hư mà thực, thực mà hư, đánh cược xem lũ bò Yak có dám xông thẳng lên phía trước hay không? Lẽ nào con bò đực đầu đàn kia đã nhìn thấu được sách lược của đàn sói rồi? Nhưng ở vị trí của chúng đâu có nhìn thấy được tình hình phía sau đám sói gầy guộc kia nhỉ."

    Trác Mộc Cường Ba chợt nói: "Đừng làm ồn nữa, chúng thay đổi chiến thuật rồi kìa."

    Chỉ thấy bọn bò đực đang xông về phía miệng hồ lô chợt không lao về hướng ấy nữa, cả bọn xông lên dốc núi phía Nam cũng chỉ leo được nửa chừng, rồi cả hai nhóm đều đổi hướng giữa đường, lao về hướng của lũ bò cái và bê con. Lũ bò cái và bê con ấy đang đứng giữa bọn bò đực và mười mấy con sói gầy guộc kia, thân thể chúng vừa hay che kín toàn bộ tầm nhìn của bọn sói, khi lũ bò đực kia lao ngược về được nửa chừng, đám bò cái và bê con mới cùng lúc dạt sang hai bên, lũ bò đực đã tập hợp thành đội hình liền lao thẳng vào giữa bầy sói, khí thế tựa như sấm sét mưa giông!

    Nhạc Dương kêu lên: "Ồ, thì ra là kéo dài khoảng cách để chạy lấy đà, chuẩn bị xung kích, giống như lúc người ta đánh nhau, trước tiên phải thu nắm đấm về rồi mới nhằm vào chỗ yếu nhất của kẻ địch, cho hắn một đòn chí mạng vậy! Chẳng những thế, đồng thời chúng còn làm nhiễu loạn tầm nhìn của kẻ địch, khiến đối phương không kịp điều chỉnh chiến thuật, con bò đực đầu đàn này cũng không phải hạng thường đâu!"

    Trương Lập lại nhổm lên ghé mắt vào ống nhòm, nói: "Nhưng mà lũ sói kia hình như cũng không căng thẳng gì cho lắm kìa?"

    Nhạc Dương nhìn lại, thấy đàn sói vẫn con nằm con ngồi thưa thớt, một con sói nâu ngoác to cái miệng ra ngáp, đích thực không hề có vẻ gì là căng thẳng khẩn trương, bọn sói mai phục ở những chỗ khác cũng đều lặng lẽ chờ đợi, không hề hoảng loạn nhốn nháo chút nào. Ngược lại Nhạc Dương ở trên quan sát lại hồi hộp, nói: "Đừng gấp, bọn sói kia đang giở kế không thành đấy, sau lưng chúng không có chi viện gì đâu, tất nhiên chúng không thể tỏ ra căng thẳng được. Giờ bọn chúng và bầy bò Yak đang đọ xem bên nào giữ được đến giây phút cuối cùng, nếu giờ mà chúng đã loạn lên rồi, bọn bò Yak kia tự nhiên là sẽ xông thẳng qua thôi, chúng chỉ có cách giữ vững ổn định… xem xem con bò Yak đầu đàn kia có thể dẫn cả bầy của nó đến cách bầy sói bao xa thì dừng lại."

    "Nếu lũ bò không dừng lại thì sao?"

    "Thì bọn sói này sẽ bị giẫm nát thành thịt xay. Anh nhìn mà xem, bò cái và bê con không tham gia hàng ngũ xung trận, bọn chúng chỉ dè dặt chạy theo phía sau, cũng có nghĩa là, đàn bò Yak vẫn để lại cho mình một đường lui, một khi có biến cố gì xảy ra, chúng sẽ chạy ngược trở lại."

    Thể trọng trung bình của bò Yak đực là khoảng trên một tấn, hơn hai chục con cùng lúc guồng chân lao tới, mặt đất cũng rung lên khe khẽ, từng viên đá cuội lớn bị bốn vó của lũ bò giẫm lên bắn tung ra bốn phía, đá vụn trên triền dốc cũng không ngừng lăn xuống…

    Đàn bò vẫn còn cách lũ sói chừng tám chục mét, mồ hôi dã ướt đẫm lòng bàn tay Nhạc Dương, anh thầm nhủ, bọn sói này cũng trầm tĩnh thật đấy. Lúc này, mắt sói nhìn đàn bò lao tới đâu có khác gì một người nhìn thấy cả bầy voi hoang ầm ập xông về phía mình, khoảng cách chỉ còn chưa đầy sáu chục mét nữa thôi, vậy mà vẫn còn ung dung uống trà hút thuốc được nữa nay sao? Trương Lập ở bên cạnh ấn tay lên vai Nhạc Dương, thấy Nhạc Dương hơi ngả ra, anh chàng liền chen lên ghé mắt quan sát.

    Một con sói nhổm đứng lên, Trác Mộc Cường Ba đang tưởng rằng bầy sói sắp có hành động rồi, nào ngờ con sói kia chỉ liếc nhìn lũ bò Yak một cái đầy khinh miệt, rồi lại nằm xuống, tựa hồ như chẳng liên quan gì đến mình vậy. Trác Mộc Cường Ba vội điều chỉnh ống nhòm, đàn bò chỉ còn cách lũ sói chưa đầy năm mươi mét.

    Theo những gì Cương Nhật Phổ Bạc hiểu về bọn sói này, chắc chắn chúng còn trò gì đó ở đằng sau. Nhưng anh ta đã trợn tròn hết cả mắt để tìm kiếm hai bên sơn cốc rồi, khoảng đất cao phía mé bên không hề có mai phục, sau lưng mười mấy con sói không có chi viện, chỉ có một khoảng đất trống, như thế còn giở ra được chiêu gì nữa đây? Khoảng cách giữa lũ bò và bọn sói càng lúc càng gần thêm, tâm trạng Cương Nhật Phổ Bạc chỉ e còn căng thẳng hơn cả bọn sói kia, anh ta cứ không ngừng thầm tự hỏi mình: "Tại sao bọn sói kia không hề căng thẳng? Rốt cuộc chúng còn bố trí gì nữa đây? Tại sao bọn chúng không hề tỏ ra căng thẳng một chút nào vậy?"

    Đội trưởng Hồ Dương và Lạt ma Á La mỉm cười nhìn bốn người hai lớn hai nhỏ đang gí mắt vào mấy chiếc ống nhòm quan sát chim, vừa kích động lại vừa hưng phấn, hệt như bốn con bạc khát nước trong trường đua ngựa; Ba Tang lạnh lùng ngước nhìn trời xanh mây trắng, đối với anh ta thì chẳng có gì quan trọng cả; còn Cương Lạp, lúc này lại cảnh giác đảo mắt nhìn xung quanh, chỗ nào có gió lay cỏ động một chút thôi nó trợn mắt trừng trừng về phía ấy.

    Không có bụi mù cuồn cuộn, không có tiếng gầm gào cuồng nộ, chỉ có tiếng thở nặng nề và tiếng bước chân rầm rập của lũ bò Yak, chúng cúi thấp đầu, mắt trợn trừng giận dữ nhìn về phía trước. Bò Yak là loài động vật có thể hình lớn nhất trên cao nguyên này, chúng đã xông thẳng về phía trước như thế, kẻ nào dám cản đường cơ chứ?! Bọn chó sói cỏn con này, không ngờ lại dám coi thường khinh rẻ chúng ta như thế! Giẫm nát bọn chúng!

    Con bò đực đầu đàn guồng chân lao lên, nó cảm thấy tim mình chưa bao giờ đập mạnh đến thế, mỗi lần sải chân xông tới, cả núi đá cũng phải nhường đường, vậy mà lũ động vật bốn chân lông ngắn đuôi cụt ngủn này lại khiến cả đàn, cả bầy nhà nó phải nếm đủ mùi đau khổ, thử hỏi nó không phẫn nộ làm sao được? Giờ đây cái lũ ấy lại còn dám lượn lờ ngay trước mắt, tỏ ra khinh khỉnh coi thường vênh vênh váo váo, nó đã điên tiết lắm rồi. Con bò đầu đàn hạ quyết tâm, xông lên! Giẫm bẹp bọn chúng ra!

    Khoảng cách với bầy sói kéo lại còn bốn mươi lăm mét, bốn mươi mét, ba mươi lăm mét. "Ò…" Đột nhiên bên cạnh vang lên một tiếng rống bi thảm làm con bò Yak đầu đàn đang bị lửa giận làm cho u mê đầu óc giật mình sực tỉnh. Khi khoảng cách giữa chúng và bầy sói còn khoảng ba chục mét, con bò đực đầu tiên đột nhiên khuỵu chân trước xuống, quỳ gục dưới đất, nhưng đà lao sầm sập ấy vẫn không hề giảm sút, cả thân mình nó vẫn lăn lông lốc về phía bọn chó sói. Kế tiếp đó là con thứ hai, con thứ ba, những con bò ngã xuống lại cản bước lũ đồng loại ở phía sau đang lao tới, tạo thành phản ứng dây chuyền, trong chốc lát đã có cả một đám ngã rạp ra, khắp nơi đều là những tấm thân khổng lồ lăn lông lốc cùng tiếng bò rống vang động khắp vùng sơn cốc. Khi nhà ảo thuật bóc trần bí mật của màn diễn, những người có mặt thường tỏ vẻ khinh khi coi thường, lớn tiếng nói rằng "thì ra là đơn giản như thế, có gì mà giỏi đâu, chẳng qua là tôi chưa nghĩ đến đấy thôi." Tâm trạng của bọn Trác Mộc Cường Ba lúc này cũng khá giống với những người xem nhà ảo thuật vén tấm màn bí mật của trò diễn lên ấy, thì ra là chúng dùng kẹp bẫy thú, mỗi một chuyện đơn giản như thế mà thôi, chẳng qua là không ai trong bọn nghĩ tới. Đàn sói không ngờ đã đặt phía trước mười mấy con sói gầy gò ốm yếu dụ địch kia mấy chiếc kẹp bẫy thú, không hiểu chúng còn kiếm được ở đâu mấy vầng cỏ và cả đất bùn phủ lên bên trên, nếu không giẫm phải thì thực sự khó mà nhìn ra nổi.

    Cương Nhật Phổ Bạc lắc đầu nói: "Những cái kẹp bẫy kẹp này chắc chắn là chúng tha của bọn săn trộm dưới chân núi. Có lẽ chúng giấu bẫy trong đống đá từ đêm hôm qua. Khi tối trời, thị lực của bò Yak thua xa lũ sói."

    Nhạc Dương vỗ đùi đánh đét một cái: "Tôi đã nói chắc chắn còn có hậu chước mà, không ngờ chúng lại dùng chiêu này. Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra từ trước rồi mới đúng, năm đó chẳng phải chúng đã lợi dụng thứ này để đối phó với chú Cương Nhật Phổ Bạc đấy sao…"

    "Ừm," Trác Mộc Cường Ba khẽ ho một tiếng. Nhạc Dương liền lập tức ngậm miệng không nói tiếp nữa.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Mấy vầng cỏ kia dày quá, bẫy kẹp không phát huy được hiệu quả thực sự, bọn bò Yak chỉ bị kẹp vào chân, xem ra không thương tổn đến gân cốt, chúng vẫn còn sức chiến đấu."

    Nhạc Dương thở dài cảm thán nói: "Biết dùng cỏ để ngụy trang đã là giỏi lắm rồi. Hơn nữa dù bọn bò Yak không bị thương, nhưng có một cái kẹp sắt thù lù thế kia kẹp vào chân, bước đi tập tà tập tễnh, sức chiến đấu cũng giảm sút đáng kể rồi."

    Trương Lập nói: "Nhìn kìa, chúng lại làm gì nữa thế kia!"

    Khi đàn bò Yak đang ngã ngáo ngã nhào, mười mấy con sói gầy guộc nằm dụ địch kia mới đứng lên, tinh thần phấn chấn, đồng thời một đám sói khác ở ba phòng tuyến bên ngoài cũng nhanh chóng đổi vị trí, tăng viện cho lũ sói dụ địch, còn hai phòng tuyến kia vẫn im lìm bất động. Lúc này cả một lũ bò Yak lăn lông lốc xô nhau tới ngay trước mặt lũ sói, giống như đem mình nộp vào miệng đối phương vậy, muốn đứng lên chạy trốn lắm nhưng lực bất tòng tâm.

    Lũ sói nhằm vào con bò đầu đàn tràn tới, con bò này cũng không được may mắn, bị một cái bẫy thú kẹp vào chân trước, thấy lũ sói vây đến, liền liều mạng quẫy đạp cả bốn chân, lật mình một cái rồi mang theo cả cái bẫy thú đứng thẳng dậy. Lũ sói lập tức kéo dãn cự ly, mấy con sói nhảy chồm lên trước mặt con bò đầu đàn để thu hút sự chú ý, một con sói mặt hoa nhân lúc kẻ địch không đề phòng, xồ lên lưng đối phương, hai chi trước bập mạnh, che luôn cặp mắt của con bò khổng lồ.

    Con bò đầu đàn không nhìn thấy gì, kinh hoàng rống lên "ò ò ò" bất chấp vết thương đau đớn, cứ thế guồng chân chạy như điên, con sói mặt hoa kia không ngờ lại như xe nhẹ chạy đường quen, đứng trên lưng bò Yak ta hết sức vững vàng, mặc tình đối phương có lắc giật thế nào cũng không rơi. Chạy được một quãng, con bò đầu đàn kiệt sức, vết thương nhói đau lên, liền khuỵu xuống, con sói mặt hoa kia giờ mới tung mình nhảy khỏi lưng bò. Con bò đầu đàn vừa nhìn được, liền lập tức hồn phiêu phách tán: chạy nhắng lên thế nào mà nó lại chạy đúng vào giữa đàn sói, lúc này xung quanh nó toàn sói là sói đứng chen chúc!

    Đàn bò Yak mất thủ lĩnh, lập tức náo loạn hết cả lên, những con bò không bị thương sớm đã lùi trở lại trong hồ lô đứng chung với lũ bò cái bê con. Những con bị thương khá nhẹ cũng đã khập khiễng chạy về, chỉ còn lại những con khó có thể đi lại nằm đờ ra giữa bầy sói, muốn chạy cũng không được, muốn đi cũng chẳng xong.

    Trác Mộc Cường Ba nhìn ba con bò Yak bị giữ lại giữa bầy sói, nói: "Vị trí lũ sói này đặt bẫy kẹp cũng rất khéo, có lẽ tổng cộng cũng chỉ khoảng bốn năm chiếc, nhưng lợi dụng được đà lao của lũ bò, khiến cho cả đàn cả lũ bọn chúng đều ngã nhào ra."

    Nhạc Dương nói: "Tôi vẫn còn một nghi vấn. Lũ sói này tốn bao nhiêu tinh lực vây khốn đàn bò Yak ở đây, rốt cuộc là có ý đồ gì? Chẳng lẽ vì thịt bò Yak ăn ngon hơn thịt cừu à? Hay là còn có mục đích nào khác nữa?

    Trương Lập vừa nãy mới nghe Nhạc Dương nói Tử kỳ lân có khả năng là do chó sói và chó ngao giao phối sinh ra, đột nhiên nói với vẻ rất suy tư: "À, tôi biết rồi, lũ sói thấy con bò đực đầu đàn kia cao lớn uy mãnh, nói không chừng lại muốn diễn trò bò sói tạp giao, đẻ ra mấy con ngưu lang cũng nên."

    Nhạc Dương phun "phì phì" nói: "Còn cả Chức Nữ nữa đấy, ngưu lang cái gì chứ! Chỉ có anh mới nghĩ ra thứ ấy được thôi."

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Chỉ dựa vào tưởng tượng đích thực là rất khó đoán ra được ý đồ của đàn sói này, cứ xem tiếp đi."

    --------------------------------

    1 Những con sói đó sau này gắn chặt với sự thành công của quá trình mở ra cánh cửa Bạc Ba La thần miếu và bản thân Trác Mộc Cường Ba.
     
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 73: Đụng Độ


    Con bò Yak đầu đàn lọt vào giữa bầy sói, tả xung hữu đột thế nào cũng ko thể thoát ra nổi, chỉ cần nó hơi lơ là một chút, bọn sói sẽ lập tức sử dụng chiến thuật chồng chất, tất cả lũ bổ nhào lên đối thủ, đè nghiến con bò Yak khổng lồ xuống đất. Nhưng chỉ cần con bò vùng vẫy một cái, lũ sói sẽ lại tản ra, rồi con bò lại đứng lên, gắng gượng chạy mấy bước lại bị lũ sói đè ngửa ra đất, cứ thế lặp đi lặp lại mấy lần, dù thể lực con bò kia có khỏe đến mấy thì cũng không chịu nổi. Nói gì thì nói, nó đã dẫn cả bầy băng đèo vượt núi, tới được đây thì gần như đã cạn kiệt sức lực, lại bị vây khốn mấy ngày liền không được ăn gì, giờ còn phải ác đấu với cả bầy sói đông đảo, tình thế hoàn toàn nghiêng hẳn về một phía cũng là lẽ dĩ nhiên.

    Cuối cùng, khi con bò Yak đầu đàn bị đè ngửa ra lần thứ tám, nó cũng nhận thức được một cách rõ rệt rằng giãy giụa và phản kháng chỉ là uổng công vô ích, liền nằm luôn ra đấy không đứng lên nữa, lỗ mũi khọt khà khọt khẹt thở phì phì. Bầy sói cũng không áp sát quá, mà chạy vòng vòng xung quanh con bò đầu đàn, cá biệt có vài con sói táo gan tiến lên lấy móng vuốt gẩy gẩy chân trước chân sau con bò, hoặc đứng lên đầu nó mà lắc lắc cặp sừng, quan sát xem đối phương phản ứng thế nào. Chỉ thấy con bò đầu đàn kia sợ đến run bần bật cả thân mình, nhưng không dám nhúc nhích chút nào, ánh mắt toát lên vẻ bất lực sâu sắc. Lũ sói dường như ý thức được thắng lợi của mình, một con sói gầy gò đứng trên mình con bò Yak, mười mấy con còn lại vây thành một vòng tròn, rồi nhất loạt ngửa cổ hú dài, cả lũ sói mai phục trên các triền núi cũng xuất hiện, tiền hô hậu ứng cất tiếng hú vang, nhất thời khắp cả vùng núi đều văng vẳng tiếng sói tru gào.

    Trương Lập vội nói: "Xem đi kìa, đó có phải thủ lĩnh của bầy sói không?"

    Cương Nhật Phổ Bạc lắc đầu: "Không phải, đó là binh sĩ giành được thắng lợi. Nó chính là con sói đầu tiên nhảy bổ lên mình con bò Yak đầu đàn, thế nên nó có tư cách nhận lấy vinh quang này."

    Con bò đầu đàn nằm yên bất động, bọn sói bắt đầu bạo dạn hẳn lên, chỉ thấy có mấy con sói dường như đang cắn một chân trước con bò, ra sức giằng xé gì đấy, Trương Lập nói: "Ừm, sao thế nhỉ, chuẩn bị mở đại tiệc mừng thắng lợi rồi sao?" Nhạc Dương đẩy Trương Lập ra, liếc nhìn một cái rồi nói ngay: "Mắt anh bị làm sao thế, chúng nó muốn gỡ cái bẫy kẹp ra đó, chậc. Rốt cuộc bọn này đang làm cái trò gì thế nhỉ?"

    Chỉ thấy cả mấy con sói cùng ra sức mở cái bẫy kẹp, con bò đầu đàn nhấc chân một cái là ra được luôn, lập tức lại có mấy con sói khác nhao tới, đứng bên cạnh chân con bò hít hít ngửi ngửi, kế đó lè lưỡi ra liếm lên cái chân bị thương của nó. Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: "Chúng đang chữa thương cho con bò Yak đầu đàn kia, trong nước bọt của sói có thành phần kháng viêm, có thể ngăn ngừa vi khuẩn sinh sôi, thế nên mỗi khi bị thương chúng lại lè lưỡi liếm vết thương. Rốt cuộc chúng đang giở trò gì vậy?"

    Nhạc Dương cũng hiếu kỳ nói: "Bắt sống thủ lĩnh của đối phương nhưng lại không giết, ngược lại còn chữa vết thương cho nữa? Bọn sói này rốt cuộc là muốn làm cái gì đây?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Xem ra ngay từ đầu chúng ta đã nghĩ lầm rồi. Bọn sói phủ lên bẫy kẹp những tảng cỏ dày chính là vì không muốn bọn bò Yak này bị thương quá nặng, bọn chúng căn bản không định khiến lũ bò Yak bị những tổn thương không thể phục hồi."

    Trương Lập thắc mắc: "Vậy thì rốt cuộc chúng nó muốn làm gì vậy?"

    Không lâu sau, một con sói từ đằng xa chạy tới, điều khiến bọn Nhạc Dương kinh ngạc nhất là trong miệng nó không ngờ lại ngậm một bó cỏ to tướng, bó cỏ được vứt ngay trước mặt con bò Yak đầu đàn kia. Lúc này con bò đầu đàn đã đứng lên được, nó trợn trừng trừng đôi mắt bò lên dò xét quan sát những con sói đã làm mình mất hết thể diện thanh danh này, sao mà nhỏ bé thế, mình bị cái đám nhỏ bé này đánh bại hay sao? Con bò đầu đàn mũi thở khụt khịt, ngoảnh đầu đi chẳng buồn nhìn bó cỏ lấy một lần.

    Cùng lúc đó, những con bò lùi về cố thủ trong địa hình hồ lô cũng nhận được đãi ngộ tương đương như thế. Trên dốc núi phía Đông, bọn sói không ngừng ném xuống những bó cỏ còn dính cả bùn đất, chẳng mấy chốc đã chất thành một đống nhỏ. Đối mặt với sự hấp dẫn đến mê hồn này, lũ bò đực đã kết thành một phòng tuyến, ngăn đám bò cái và bê con ở phía sau, không để chúng đến gần đống cỏ kia. Nhưng cả một đống cỏ xanh mơn mởn đối với đàn bò đã bị đói mấy ngày quả thực có sức hút quá lớn, lũ bê con cứ rống lên "be be be" ầm ĩ như phát điên, đầu vú mấy con bò cái khô quắt khô queo, không ăn cỏ thì chúng không thể có sữa, nghe thấy những tiếng kêu như xé ruột xé gan của lũ bê con, cuối cùng cũng có con bò cái không cầm lòng được, xông ra khỏi phòng tuyến của đám bò đực tiến về đống cỏ hấp dẫn kia. Đã có con đầu tiên, thì cũng có con thứ hai, thứ ba, mới đầu bọn bò đực vẫn đứng ngoài quan sát, sau khi thấy không có gì nguy hiểm, cả đám cũng chen vào, ngược lại còn đẩy lũ bò cái và bê con sang một bên, một mình ăn ngấu nghiến như hổ đói.

    Đống cỏ ấy thì ít mà đất thì nhiều, chỉ loáng cái đã bị lũ bò ăn hết sạch sành sanh, sợ rằng chẳng có lấy một con được ăn no. Lũ bò Yak này vốn dựa vào ý chí mà kháng cự lại cảm giác đói khát, giờ đã được nếm mùi của ngon, cảm giác đói bụng sôi ùng ục kia ngược lại còn dữ dội hơn lúc trước nữa. Không ít con bò cái đã không chịu đựng nổi tiếng kêu của lũ bê con, lần lượt ngẩng đầu lên hướng về phía lũ sói trên dốc núi phát ra những tiếng kêu như thể khẩn cầu, nhưng bọn sói kia giờ lại không ném cỏ xanh xuống nữa, mà đều ngoảnh mặt nhìn về một hướng khác – hướng con bò Yak đầu đàn kia. Chỗ con bò đầu đàn và đàn bò cách nhau chừng trăm mét, nó có thể trông thấy bầy đàn, đồng thời đàn bò cũng có thể nhìn thấy thủ lĩnh của mình, đây hiển nhiên cũng là do bầy sói kia dày công sắp xếp. Lúc này con bò đầu đàn kia vẫn không chịu ăn đám cỏ xanh trước mắt, cao ngạo bướng bỉnh đứng giữa một lũ sói dữ, ưu thế về thể hình nổi bật hẳn lên, tình thế thật sự vô cùng quái dị.

    Một lát sau, bầy sói lại bắt đầu châu đầu ghé tai rì rầm, dường như lại có trò gì mới. Quả nhiên, chẳng mấy chốc, ở bên kia dốc núi liền xuất hiện một lũ sói dẫn theo một đàn cừu đi tới. Cương Nhật Phổ Bạc ngẩn người ra, nói: "Đó là cừu của tôi mà."

    Chỉ thấy lũ sói lùa đàn cừu đến chỗ đàn bò Yak có thể trông thấy, đàn cừu liền tản ra, bắt đầu tự do gặm cỏ trên trảng cỏ cuối cùng còn sót lại ấy, lũ sói thì cứ đi đi lại lại thoải mái giữa đàn cừu. Lũ cừu kia chẳng những không sợ bọn sói, mà ngược lại thi thoảng còn cúi đầu xuống, cọ cọ mặt vào đầu sói tỏ lòng hữu hảo. Cảnh tượng này, đừng nói là lũ bò Yak trố mắt ra nhìn, mà cả bọn Trác Mộc Cường Ba, cũng có ai đã từng thấy sói chơi đùa với cừu bao giờ?! Nhạc Dương lẩm bẩm nói: "Công kiên chi chiến, công tâm vi thượng, e là đàn bò Yak này không chống đỡ được rồi."

    Cùng lúc Nhạc Dương thốt lên câu ấy, trong bầy sói dường như đã có con phát hiệu lệnh, lũ sói ở xung quanh đều tụ lại một chỗ, xếp thành trận thế hình kim tự tháp, đỉnh nhọn của kim tự tháp ấy hướng đối diện với con bò Yak đầu đàn. Trương Lập thấp giọng nói: "Xem nhanh lên, con sói thủ lĩnh, đây nhất định là con sói thủ lĩnh rồi, không thể sai được!"

    Chỉ tiếc là từ vị trí của bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn xuống, chỉ có thể nhìn thấy bóng lưng của con sói thủ lĩnh mà thôi, thoạt nhìn thì cũng là bộ lông màu nâu xam xám, chẳng khác biệt gì so với những con sói khác cả. Nhưng trong mắt con bò Yak đầu đàn kia thì hiển nhiên tình hình hoàn toàn khác với những gì mấy người đám Trác Mộc Cường Ba trông thấy, khi nó chính diện đối mặt với con sói thủ lĩnh kia, ánh mắt liền tràn ngập nỗi sợ hãi, hoảng loạn bất an, bốn chân loạng choạng như say rượu, cả thân hình cứ không ngừng đong đưa tại chỗ, đến đứng dường như cũng không đứng vững nổi nữa. Bất đồ, bầy sói đột nhiên lặng yên, cả lũ cừu cũng đột nhiên lặng yên, lũ bò Yak ở đằng xa cũng lặng yên, không gian chỉ còn lại tiếng cơn gió lạnh thổi se sắt. Một cảm giác tĩnh lặng lan tỏa ra xung quanh, cả mấy người bọn Trương Lập, Nhạc Dương đều cảm thấy từ gan bàn chân xông lên một luồng khí lạnh buốt hết sức cổ quái, nhưng tuyệt đối không phải do cơn gió lạnh kia gây ra. Lạt ma Á La cũng lần đầu tiên đưa mắt để ý quan sát bầy sói bên dưới, Cương Nhật Phổ Bạc bất giác đặt tay lên chuôi đao, bộ lông của Cương Lạp cũng dần lộ ra sắc lam nhàn nhạt dù nó chẳng hề chạy nhảy gì, lông trên cổ xù ra, trông như lông bờm sư tử đực vậy. Cả một đám người đó, duy chỉ có Trác Mộc Cường Ba là không phát hiện ra thay đổi gì. Ba Tang đứng bên cạnh hờ hững buông một câu: "Sát khí mạnh quá." Khóe miệng anh ta hơi giật giật, tự hồ nghĩ đến điều gì đó.

    Con bò Yak đầu đàn không sao kiên cường thêm được nữa, chân trước nó khuỵu xuống, lần này thì không phải vì đau đớn mà vẫn quỳ hẳn xuống. Nó cúi gằm cái đầu từ nãy đến giờ vẫn ngẩng cao, ngoan ngoãn ăn sạch sẽ đống cỏ trước mặt. Không khí bức bách ấy liền đột nhiên tan biến theo làn gió, Trương Lập thấy vậy thì hét toáng lên: "Nhìn đi, nhìn đi, con bò ấy đầu hàng rồi! Nó khuất phục rồi! Nó khuất phục rồi!"

    Nhạc Dương cũng kinh ngạc thốt lên: "Thì ra lũ sói này không phải muốn ăn thịt đàn bò Yak, chúng muốn chinh phục, chinh phục cả một đàn bò Yak hoang lớn như thế cơ đấy!"

    Bàn tay Cương Nhật Phổ Bạc ấn lên tảng nham thạch lạnh như băng đỏ bừng cả lên vì rét song anh ta không hề cảm thấy đau đớn, chỉ nghe anh lẩm bẩm nói: "Thì ra là chinh phục, không ngờ là chinh phục! Tôi thực sự khâm phục đàn sói này rồi đấy!" Anh ta giơ ngón tay chỉ về phía đàn sói,nói với Trác Mộc Cường Ba, Nhạc Dương, "Các cậu biết không, một vạn năm trước, tổ tiên loài người chúng ta cũng đã làm những chuyện giống như lũ sói này đây… huấn luyện nuôi dưỡng động vật hoang dã, biến chúng thành gia súc. Chỉ có điều là đàn sói này so với tổ tiên chúng ta thì ưu tú hơn nhiều."

    Cương Nhật Phổ Bạc đang xúc động bồi hồi, bỗng nghe Cương Lạp đột nhiên phát ra một tiếng kêu thấp nhưng ngắn và gấp, khẽ huých vào người chủ nhân một cái, rồi nói lại nhao tới trước cắn gấu quần Trác Mộc Cường Ba ra sức giật mạnh. Trác Mộc Cường Ba đang ngập ngừng do dự, chợt nghe Ba Tang nhíu mày nói: "Không xong rồi!" Cương Nhật Phổ Bạc cũng giật mình sực tỉnh, vội nói: "Chạy mau, bị phát hiện rồi!" Dứt lời liền guồng chân chạy xuống dốc núi. Nhạc Dương kéo Trương Lập, Trương Lập chạy ra kéo đội trưởng Hồ Dương, nhưng anh này lại nói: "Thiết bị, còn chưa thu dọn thiết bị mà."

    Trương Lập thúc giục: "Ôi cha, lúc nào rồi mà còn thiết với chẳng bị."

    Ba Tang đặt tay lên cán dao, theo ý nguyện của anh ta thì nên "trực tiếp đối thoại" với đàn sói một phen, nhưng một thứ bản năng phát xuất từ sâu thẳm trong nội tâm đã khiến anh ta đưa ra quyết định phải chạy cho mau.

    Đúng lúc ấy, lại chợt thấy Cương Nhật Phổ Bạc đang chạy ở phía trước dừng phắt lại như phanh xe… Bầy sói không ở sau lưng, mà ở giữa đường trở về của họ. Mấy cái bóng lom khom đứng thẳng lên, tổng cộng có năm con sói chặn trên đường. Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Bọn lính tuần tra, thủ hạ của Mắt trắng đấy."

    Nhạc Dương nói: "Bị phát hiện từ lúc nào thế, sao chúng biết mà vòng ra sau lưng chúng ta vậy?"

    Cương Nhật Phổ Bạc đáp: "Chỉ sợ là đã bị phát hiện từ sớm rồi, chỉ có điều chúng đợi cho sự việc phía bên kia kết thúc, sau đó mới chính thức tiếp cận chúng ta."

    Trương Lập nói: "Chú Cương Nhật Phổ Bạc, không phải chú nói hồi trước con sói thủ lĩnh kia đều nhắm một mắt, mở một mắt với chuyện này hay sao? Lần này sao lại…"

    Cương Nhật Phổ Bạc cười khổ: "Lần này chẳng phải đã dẫn theo mấy người lạ đến à? Chúng nó ngửi thấy mùi của người lạ đấy."

    Nhạc Dương nói: "Vậy phải làm thế nào bây giờ? Nhưng mà cũng còn may, chúng nó chỉ có năm con, bọn ta xông thẳng tới làm thịt cả lũ đi! Anh Ba Tang, anh thấy thế nào? Anh Ba Tang?" Nhạc Dương ngoảnh mặt lại, Ba Tang ngày thường ắt sẽ rút đao lao lên thì giờ lại đờ người ra như bị trúng phải bùa phép gì đó, miệng phát ra những âm thanh không ai hiểu nổi, hay là… anh ta dang run rẩy đến nỗi không thể thốt nên thành lời?

    Cương Nhật Phổ Bạc và Trác Mộc Cường Ba cùng lúc kêu lên: "Chớ manh động!" Cương Nhật Phổ Bạc liếc mắt với Trác Mộc Cường Ba một cái, đoạn bảo Nhạc Dương: "Tuy chúng chỉ có năm con, nhưng chỉ cần một con trong bọn há miệng rú lên, tất cả bầy sói đều sẽ bị kinh động. Đến lúc ấy, chúng ta có ai chạy thoát nổi chứ?" Nói xong, anh ta nhìn sang phía Lạt ma Á La, chỉ thấy vị sư già cũng khẽ gật gật đầu, đàn sói này đông quá, đúng là khó mà chạy thoát nổi.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Có điều, nhìn bộ dạng chúng thế này, ý chừng như vẫn còn khả năng thương lượng đấy."

    Trương Lập liền hỏi ngay: "Thương lượng, thương lượng thế nào chứ?"

    Cương Nhật Phổ Bạc gượng cười: "Giao cho Cương Lạp xử lý đi, dù sao nó cũng từng cứu mạng Mắt trắng, lũ sói này vẫn chưa có gan đụng tới nó đâu." Chỉ thấy Cương Lạp đung đưa cái đầu, đi thẳng lên phía trước, khí thế và thể hình của con linh ngao áp chế làm năm con sói phải chùn bước. Lúc này, một con sói già cụt đuôi nhảy lên trước, cổ họng gầm gừ phát ra những âm thanh thấp trầm, tựa như đang nói: "Không liên quan đến mày, đứng sang một bên đi, chúng tao sẽ không làm khó mày."

    Cương Lạp khẽ đáp lại hai tiếng, quay đầu nhìn đám người Trác Mộc Cường Ba, rồi lại gật đầu với con sói già kia, ý tứ muốn nói: "Thả chúng tao đi, lần này tao nợ mày."

    Con sói hơi lùi một bước nhỏ, trong mắt ánh lên vẻ hung hãn, lắc đầu một cách hết sức kiên định, bốn con sói còn lại xếp thành hàng ngang sau lưng nó hòng tăng thêm phần uy thế. Cương Lạp lại "gừ gừ" "oắt oắt" trao đổi với con sói già kia một hồi, nhưng dù cho Cương Lạp nói gì chăng nữa, con sói già cũng chỉ lắc lắc đầu. Cương Lạp gầm gừ mấy tiếng trầm đục. Con sói nghiêng đầu nghĩ ngợi, cổ họng lại phát ra một tràng những tiếng "ùng ục ùng ục", không hiểu đã nói gì. Cương Lạp đột nhiên nổi giận bừng bừng, vung chân cho nó một cái tát.

    Đòn này đánh cho con sói già kia lăn lông lốc dưới đất bốn năm vòng liền, lúc đứng dậy được cũng vẫn đung đưa lắc lư, dường như đã không nhận đâu ra phương ra hướng nữa rồi. Nhạc Dương không kìm được buột miệng tán thưởng: "Hay lắm, Cương Lạp!" Cương Lạp ngoảnh đầu lại, nheo nheo mắt nhìn, khóe miệng hơi nhếch sang hai bên, đối với Nhạc Dương mà nói, dùng bốn chữ "nụ cười tuyệt mỹ" mà hình dung bộ dạng của Cương Lạp lúc này thật không quá lố một chút nào.

    Con sói già nổi giận đùng đùng, trề môi trên ra với Cương Lạp, để lộ hàm răng sói nhọn hoắt, cổ họng run lên phát ra những âm thanh đe dọa, tựa như đang nói: "Đừng tưởng mày có giao tình với đại ca tao thì chúng tao không dám động đến mày nhé." Gầm gừ xong, nó quay đầu lại kêu lên một tiếng với lũ sói đằng sau, rồi hất mõm về phía Cương Lạp, "Các anh em, xông lên!" Có điều bốn con sói đằng sau chỉ khịt khịt mũi, vẫn chưa nhúc nhích.

    Cương Lạp nhảy chồm tới như hổ, thả mình rơi xuống bên cạnh con sói già làm sói ta sợ đến giật thót cả mình. Bốn con sói kia thấy tình thế không ổn, mặc dù không muốn dây dưa với Cương Lạp, nhưng vẫn kịp thời điều chỉnh chiến thuật, năm con sói tạo thành hình một bông mai lớn bao vây Cương Lạp vào giữa. Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Xem ra thương lượng không thành công rồi, chuẩn bị chiến đấu thôi."

    Trương Lập nhỏ giọng hỏi: "Không sợ lũ sói này kêu lên à?"

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Giờ thì mặc cha chúng nó kêu hay không kêu, cứ đá chúng bay sang một bên, chạy được nhanh chừng nào thì tốt chừng ấy!"

    Nhạc Dương kêu lên: "Chúng ta không còn thời gian nữa rồi, anh Ba Tang có vẻ không được ổn cho lắm." Chỉ thấy Ba Tang tuy hai chân đứng đờ ra bất động như mọc rễ xuống đất, nhưng trên trán đã rỉ ra những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu, hai mắt thẫn thờ, rõ ràng là đang kinh hãi đến cực điểm.

    Cương Nhật Phổ Bạc ra lệnh: "Cương Lạp, tốc chiến tốc thắng, đừng dây dưa nữa."

    Chân trước Cương Lạp vung ra, đánh bay một con sói, nhún mình xồ tới đè ngửa một con khác ra, đuôi quất mạnh, chân sau đạp vù một cái, hất văng con sói thừa cơ đánh lén, thân thể nghiêng sang một bên lăn tròn, lại húc trúng con sói thứ tư. Chỉ còn lại con sói già kia, vừa thấy Cương Lạp nhích động, liền cuộn mình lăn liên tiếp mấy vòng, chạy ra một quãng xa, nó đang định chuẩn bị ngửa cổ hú vang, thì Cương Lạp đã lao thẳng tới, húc đầu một cú, dồn luồng hơi con sói già kia vừa hít vào xuống bụng, làm nó không thể kêu ra thành tiếng được.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Chạy mau". Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương xốc nách Ba Tang lên, bảy người nhanh chóng sải chân bỏ chạy. Lạt ma Á La hiếu kỳ đưa mắt quan sát dò xét Cương Lạp, động tác của con chó ngao này rất quen thuộc, tựa như ông đã nhìn thấy ở đâu rồi vậy.

    Cả bọn chạy chưa được mười bước thì bỗng xẹt qua một tia sáng màu trắng, Nhạc Dương còn tưởng là Cương Lạp chạy trở về, nên không tránh không né gì, bị húc thẳng vào người, cảm giác như bị ai cầm chùy đập cho một phát, tức ngực khó chịu vô cùng, phải giật lùi ba bước liền mới lấy lại được hơi thở. Định thần nhìn lại, đâu phải là Cương Lạp, thứ húc vào anh không ngờ lại là một côn sói lông trắng nhờ nhờ. Lông con sói này tuy ánh lên sắc trắng, nhưng trong sắc trắng lại có thấp thoáng sắc vàng, như thể ở trong đống bùn ra, căn bản không thể so sánh với Cương Lạp được, có điều dưới lớp lông ấy có thể thấy cả cơ bắp cuồn cuộn, rõ ràng là mạnh mẽ hơn hẳn các đồng loại.

    "Mắt trắng!" Cương Nhật Phổ Bạc lạnh cứng người, sau lưng Mắt trắng còn mười con sói nữa, con nào con nấy đều mắt lộ hung quang. Cương Lạp từ phía xa chồm tới, đứng chắn trước mặt mọi người, thấy đầu lĩnh đã tới, năm con sói bị đánh ngã cũng lao nhao đứng dậy, miệng "gừ gừ gừ gừ" kêu oan uổng.

    Nhạc Dương thấp giọng nói: "Chú này, tròng mắt con sói kia có trắng lắm đâu."

    Cương Nhật Phổ Bạc gằn giọng: "Cương Lạp nhà tôi có lòng tốt cứu mạng nó, cái đồ lòng lang dạ sói này, sau khi đầu nhập vào đàn sói thứ ba, việc trước tiên nó làm là dẫn lũ sói đến trộm cừu nhà tôi, không gọi nó là sói mắt trắng 1 thì còn gọi là cái gì chứ?"

    Mắt trắng khẽ nhe nanh, ánh mắt khóa chặt vào bọn Trác Mộc Cường Ba, mười sáu con sói đối diện với sáu người bọn Trác Mộc Cường Ba, hình thành nên một vòng vây khép kín. Ý đồ của chúng hết sức rõ ràng, đám người này, đừng hòng thoát dù chỉ một tên.

    Trác Mộc Cường Ba thấp giọng thì thào: "Xem ra không tránh được rồi, mọi người cẩn thận, lũ sói này coi trọng sự phối hợp trong chiến thuật đấy."

    Nhạc Dương nói: "Sợ cái gì chứ, chúng ta có Cương Lạp cơ mà."

    Bỗng thấy Cương Lạp vội vàng chạy đến bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, cọ đầu vào đùi gã mấy cái.

    Trác Mộc Cường Ba đang chưa hiểu sao, lại thấy Cương Lạp hướng về phía con Mắt trắng kia sủa liền mấy tiếng thị uy.

    Ánh mắt con Mắt trắng nhìn Trác Mộc Cường Ba lập tức thay đổi, vốn chỉ là ánh mắt của kẻ chấp hành nhiệm vụ, chỉ trong thoắt cái đã biến thành sát khí đằng đằng. Nhạc Dương nói với Trương Lập: "Hỏng bét, Cường Ba thiếu gia gặp nạn rồi, xem ra anh ấy đã bị con Mắt trắng kia xếp vào hàng tình địch mất rồi."

    Trương Lập hỏi: "Sao cậu biết."

    Nhạc Dương nói: "Chuyện này còn phải nói nữa hay sao, anh không nghe thấy vừa nãy Cương Lạp nói gì với con Mắt trắng kia à? Sói con, nhìn rõ chưa, đây mới là hoàng tử bạch mã của tao, mày vẫn còn non lắm!" Nhạc Dương bóp cổ họng làm ra vẻ uốn éo.

    Trương Lập cười hích hích nói: "Cậu hiểu cả tiếng chó từ lúc nào thế?"

    Nhạc Dương liếc nhìn Cương Lạp, vừa hay trông thấy Cương Lạp dường như đang cảm kích nhìn mình, anh chàng giật thót, vội vàng làm ra vẻ khiêm tốn nói: "Dùng tâm lắng nghe, dùng tâm lắng nghe…"

    Trương Lập vẫn đang cười, nhưng lũ sói không cho họ cơ hội đùa cợt nữa. Mắt trắng ngửa mặt lên trời hú vang, lao bổ về phía Trác Mộc Cường Ba. Bầy sói hoàng toàn hành động theo ý chí của con đầu lĩnh, cả đám cùng nhất loạt guồng chân xông lên, mục tiêu chủ yếu của chúng, tự nhiên cũng chính là Trác Mộc Cường Ba chứ chẳng phải ai khác.

    --------------------------------

    1 Người Trung Quốc thường dùng cụm từ "sói mắt trắng – bạch nhãn lang" để chỉ kẻ vong ân phụ nghĩa, tâm địa thâm độc.
     
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 74: Lang Tiêu


    Trác Mộc Cường Ba từ nhỏ đã lớn lên với bầy sói, bản thân gã cũng không hiểu tại vì sao, dường như gã và lũ sói có một lực tương tác trời sinh, bởi thế, đây mới là lần đầu tiên gã bị lũ sói vây công. Vô số miệng sói lởm chởm răng nhọn hoắt, phả ra hơi thở nóng bừng bừng loang loáng trước mắt, cái mũi đen ngòm, lông tua tủa mọc bên mép, ánh mắt hung ác… tất cả rõ mồn một, thực khiến người ta có cảm giác như thể địa ngục cũng chỉ có thế mà thôi.

    Lũ sói phân công hết sức rõ ràng, đầu tiên để hai con sói cường tráng cầm chân Cương Lạp, nhưng cũng không lấy cứng chọi cứng mà chỉ không ngừng lượn lờ bên cạnh nó, ba con sói đối phó Lạt ma Á La, hai con khác đối phó với Cương Nhật Phổ Bạc, hai con đối phó Trương Lập; Nhạc Dương và đội trưởng Hồ Dương thì mỗi người bị một con sói kiềm chế. Còn Ba Tang lúc này thẫn thờ đờ đẫn, sớm đã không còn sức chiến đấu, chúng chẳng buồn để tâm, lũ sói còn lại tất cả đều nhằm Trác Mộc Cường Ba xông tới.

    Trác Mộc Cường Ba chỉ biết kêu khổ trong lòng, gã hiểu rất rõ, lũ sói có thói quen tấn công vật săn từ bốn phương tám hướng, giờ trong đám sói ở phía trước mặt gã đây lại đột nhiên có hai con vòng ra phía sau, tình hình có thể nói là cực kỳ bất lợi. Quả nhiên chỉ loáng sau, lũ sói phía trước cứ chạy qua chạy lại, gườm gườm mắt nhìn, phía sau đột nhiên có tiếng gió ập tới, Trác Mộc Cường Ba vội rùn người né tránh, con sói ở mé bên lại nhao tới, vuốt sắc răng nhọn không hề lưu tình một chút nào. Chỉ mấy lượt như thế, "soạt" một tiếng, y phục của gã đã bị cào rách một vệt, sợi bông lộ ra ngoài, trông như thể bị móc lòi ruột ra vậy, bọn Nhạc Dương muốn cứu viện nhưng đều lực bất tòng tâm. Có điều còn may, Lạt ma Á La đã ổn định được thế trận, còn Cương Nhật Phổ Bạc một mình đối phó hai con sói cũng dư sức. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, con Mắt trắng kia bổ tới mấy phát đều bị Trác Mộc Cường Ba tránh được một cách hiểm hóc, liền gầm gừ một tiếng, chiến thuật của lũ sói lập tức thay đổi.

    Chiến thuật sau khi thay đổi hết sức kỳ quái, hoàn toàn không giống với bất cứ phương thức săn bắt tác chiến nào Trác Mộc Cường Ba từng trông thấy, bọn chúng xông thẳng vào giữa, tách đám người bọn Trác Mộc Cường Ba thành hai nhóm, bầy sói tụ lại ở giữa, hình thành những vòng tròn nhỏ giao nhau. Khi ba con sói đối phó Lạt ma Á La gặp nguy, lập tức có con sói đang đối phó với Cương Nhật Phổ Bạc bên cạnh chi viện, khi Cương Nhật Phổ Bạc chuẩn bị tăng viện cho Lạt ma Á La, bọn sói lại quay đầu tập trung tấn công anh ta, cứ như thế, cục diện tựa như đã chuyển thành mỗi người đều phải trực tiếp đối mặt với cả một đàn sói. Mắt trắng không ngừng di chuyển giữa chiến trường, không ngừng gầm gào, chỉ thấy vị trí của lũ sói tiếp tục biến đổi, giống như một lễ khai mạc trọng thể đã được diễn tập nhiều ngày, khiến người ta nhìn mà đầu váng mắt hoa. Trương Lập vừa nhắm được một khe hở, chuẩn bị tung cước đá con sói bên trái mình, đột nhiên trước mắt bỗng trống không, con sói kia đã rời khỏi vị trí, hai bên trái phải phía sau lại cùng lúc có sói nhao tới. Trương Lập không kịp né tránh, đành vung dao găm lên múa vù vù, chỉ mong tự bảo vệ được mình. Con sói bổ vào sau lưng Trương Lập, không hề há miệng ra đớp mà ngược lại lấy luôn thân thể anh chàng làm điểm mượn lực, đạp mạnh lên lưng anh, tức tốc chuyển hướng,lao bổ về phía Nhạc Dương ở bên cạnh.

    Hệt như Cương Lạp lúc đạp lên cánh tay Cương Nhật Phổ Bạc vậy, rõ ràng là con chó đã học được kỹ xảo này từ bầy sói. Trương Lập và Nhạc Dương vốn chỉ gần nhau trong gang tấc, mà Nhạc Dương thì đâu phải Lạt ma Á La, biến cố vô cùng bất ngờ như thế, anh chàng làm sao mà tránh cho được? Vội vàng cuống cuồng đưa tay lên bảo vệ mặt, vuốt sói xé toang cả một mảng tay áo, cùng lúc ấy con sói thứ hai cũng đã bật lên nhe miệng ra đớp, chỉ sợ lần này cách tay Nhạc Dương khó mà giữ nổi, kế đó là sẽ gặp phải cảnh ngộ như con bò đực đầu đàn kia, bị lũ sói đè lên người…

    Nhạc Dương đang thầm kêu lên "thôi xong đời rồi!" thì chợt thấy ánh lam lóe lên, thì ra Cương Lạp đã từ trên không lao tới đè con sói ấy xuống. Nhạc Dương đưa mắt nhìn lại, chỉ thấy bầy sói đang lấy thân thể mọi người làm điểm mượn lực, vừa chạy vừa nhảy, cứ bay vù vù qua lại trước mắt, ngoài Lạt ma Á La là chúng không thể lại gần ra, những người khác đều trở thành bàn đạp của chúng cả. Người nào người nấy trông đều có vẻ nhếch nhác tả tơi, duy chỉ có Cương Lạp là ngồi rình một bên như thể mèo đang vồ bươm bướm, ngắm kỹ cơ hội là xồ tới luôn, trên không trung lập tức có một con sói bị hất văng xuống. Bọn sói kia dường như có vẻ cố ý né tránh Cương Lạp ra, con nào bị húc ngã thì liền lăn tròn ra xa, rồi lại nhắm đến những người khác. Nếu không phải vừa nãy có Cương Lạp nhào tới… Nhạc Dương càng nghĩ càng thấy lạnh cả người.

    Có điều không còn thời gian để bày tỏ sự cảm kích với Cương Lạp nữa, bên cạnh lại có con sói khác bổ tới, Nhạc Dương bật lên phản công, lại tiếp tục gia nhập vòng chiến. Lúc này Trác Mộc Cường Ba cũng liên tiếp gặp nguy hiểm, quần áo trên người rách bươm như cái váy của vũ công Hawaii. Đối với chiến thuật quái dị một con xông tới cào một phát rồi chạy, ngay sau đó lại có con khác chồm lên này, từ đầu đến giờ gã vẫn chưa nắm bắt được điểm nào sơ hở cả. Mấu chốt ở chỗ tốc độ của lũ sói này quả thực quá nhanh, dẫu cho có sơ hở chăng nữa thì cũng nhanh chóng được động tác tiếp theo bù lấp vào rồi. Hơn nữa trên triền dốc này toàn là đá cuội tròn bám kín địa y và rêu, rõ ràng là có cơ hội đánh trả đấy, nhưng lại khi thì bị trượt chân, khi thì bước lệch mà bỏ mất thời cơ quý báu. Trên dốc núi này, có thể nói là bầy sói đã chiếm hết cả thiên thời lẫn địa lợi rồi.

    Mỗi khi có con sói nào rơi xuống gần chỗ Ba Tang, Lạt ma Á La lại kéo giật anh ta ra, liên tiếp mấy lần như vậy, lũ sói liền nhận thấy ngay cả người không có năng lực chiến đấu như Ba Tang thì đám người này cũng ra tay cứu viện, chúng tức khắc thay đổi sách lược tấn công, lập tức có hai ba con sói rút khỏi chiến trường chủ đạo, chuyên môn tấn công Ba Tang. Ba Tang cứ liên tiếp lùi bước, Lạt ma Á La vừa phải bảo vệ cho Ba Tang, lại phải đối phó với bầy sói, liền rơi ngay vào thế bị động. Từ đó, trận thế của bọn Trác Mộc Cường Ba cũng trở nên rối loạn, đồng thời cả đàn sói lớn đằng xa lại cũng đang chạy về phía này, khoảng cách vài cây số đối với lũ sói chẳng qua cũng chỉ tốn có mấy phút mà thôi. Nhạc Dương cảm giác đàn sói tràn qua dốc núi đầy đá cuội phát ra những âm thanh lạo xạo, đồng thời nhìn thấy những cú lao bổ càng lúc càng cuống quýt của Cương Lạp, anh chàng nhận ra đại quân của đối phương đang bức bách tới mỗi lúc một gần hơn.

    Con dao găm trong tay đội trưởng Hồ Dương văng mất một chiếc, Nhạc Dương thì phanh ngực lộ cả cánh tay ra, trông như một vị lạt ma, còn Lạt ma Á La thì khắp mình dính bết rêu xanh, riêng Ba Tang được vị sư già bảo vệ, lại thành ra không bị thương tích gì.

    Chợt nghe "bình" một tiếng, cơ thể Cương Nhật Phổ Bạc và Trác Mộc Cường Ba va vào nhau. Cương Nhật Phổ Bạc giẫm phải một hòn đá đâm ra mất thăng bằng, Trác Mộc Cường Ba vội giơ tay đỡ, Cương Nhật Phổ Bạc chụp vào quần áo gã, liền nghe "xoẹt" một tiếng nữa, bộ y phục vốn đã rách tua lại bị xé toạc một mảng lớn. Tuy mặc mấy lớp áo liền, nhưng lúc này Trác Mộc Cường Ba đã lộ cả da thịt ra ngoài, chiếc bao nhỏ dấu trong lần áo cuối cùng sát người cũng lộ ra theo.

    Cương Nhật Phổ Bạc vừa mới đứng vững đã lại thấy có hai con sói bổ thẳng tới trước mặt, Cương Nhật Phổ Bạc và Trác Mộc Cường Ba tâm ý tương thông, liền cùng vận sức đẩy mạnh đối phương một phát, hai người tách ra hai bên tránh. Đúng lúc ấy, vuốt sói đã vồ tới chộp vào trước ngực Trác Mộc Cường Ba, chiếc túi nhỏ liền bị giật ra ngoài. Bên trong túi toàn là đồ quý giá, gã vội vươn tay giật lại, chiếc túi lộn ngược, món đồ đựng bên trong liền rơi xuống.

    Cương Nhật Phổ Bạc tinh mắt, đột nhiên mặc kệ cả con sói ở giữa ngăn trở, xoay người bổ nhào tới, trước khi món đồ kia kịp chạm đất đã vung tay nắm lấy, hóa ra là chiếc sáo xương! Anh ta nắm chặt chiếc sáo trong tay, chỉ kịp liếc nhìn qua một cái, "Quả nhiên! Thứ này là…" chưa kịp nghĩ tiếp, anh ta đã phải lăn sang một bên né đòn tấn công của lũ sói, rồi đưa mắt nhìn tình thế xung quanh. "Hết cách rồi, đành phải liều đánh cược một phen thôi!" Cương Nhật Phổ Bạc hạ quyết tâm, đưa chiếc sáo xương lên miệng, vận hết sức lực toàn thân thổi mạnh một cái…

    "Ù… huýt…" Ngay sau khi Cương Nhật Phổ Bạc vận hết sức thổi mạnh, âm thanh phát ra từ cây sáo xương mới đầu thấp rồi cao dần, từ thấp trầm thê lương biến thành cao vút chói tai, mọi người đều ù hết cả tai, chỉ thấy bốn phương tám hướng đều bị thứ âm thanh lanh lảnh ấy bao vây.

    Tình hình Cương Nhật Phổ Bạc dự đoán không xuất hiện, lũ sói bên cạnh chỉ hơi sững lại một chút, rồi lại lao tới liền, còn bọn Trác Mộc Cường Ba thì bị hành vi quái dị của anh ta làm cho giật thót mình. Trong tình thế giằng co như thế này, ai phản ứng nhanh hơn, kẻ ấy sẽ chiếm thượng phong, chỉ một khoảnh khắc lừng chừng ấy thôi, Nhạc Dương đã bị đè ngã ngửa xuống, cả đội trưởng Hồ Dương cũng cùng chung số phận, những đầu lưỡi đỏ lòm tanh tưởi, hàm răng nanh trắng ơn ởn nhằm thẳng tới cổ họng họ. Cương Nhật Phổ Bạc nản lòng thầm nhủ: "Hết rồi…"

    Sóng âm truyền đi xa thật xa, phảng phất như cộng hưởng với núi tuyết, đưa âm thanh vượt dốc núi, tràn qua đầu bên kia triền dốc. Đá cuội trên dốc "lạch cạch" lăn xuống, gió bốn bề xung quanh bỗng trở nên cuồng loạn, lũ bò Yak kia cũng nghe thấy, cả đàn run lên cầm cập, lũ cừu nghe thấy, liền co giò cong đuôi bỏ chạy theo hướng ngược lại, cả đàn sói cũng nghe thấy, đại đa số không phản ứng gì, nhưng có vài con dựng tai lên chăm chú lắng nghe.

    Những âm thanh dường như rất đỗi quen, khiến mấy con sói lẻ loi đột nhiên nghển đầu cao vượt lên giữa bầy đàn, hướng cả về phía phát ra âm thanh. Đến lúc đó, không ngờ những con sói khác dều lặng lẽ phục cả xuống để cho mấy con sói kia lần lượt nhảy lên những gò dốc nhỏ bên cạnh. Chúng đi tới đâu, lũ sói liền dạt ra tới đấy, cúi đầu sát đất. Đối diện với mấy con sói này, cả đàn sói tỏ ra hết sức nhún nhường, mà chúng cũng chỉ có thể nhún nhường mà thôi! "Huýt… ù… ù… huýt…" Mấy con sói hướng về phía âm thanh phát ra, hồi đáp lại một tràng, tiếng sói tru âm vang mà mạnh mẽ ấy không giống như tiếng gầm gừ giận dữ hòng uy hiếp kẻ địch, đó chỉ là một thứ hồi ứng, giống như tiếng hồi ứng mạnh mẽ của những chiến binh đứng dưới lá chiến kỳ hạ lời thề trước khi xuất chinh vậy. Nghe mấy con sói dùng hết sức lực để hồi đáp lại âm thanh kia, đàn sói phủ phục bên dưới cũng lần lượt ngẩng đầu lên, hú vang lên hòa theo, khắp vùng núi non hoang vắng dội lên văng vẳng tiếng sói tru gào, so với tiếng hú lúc bọn sói chiến thắng đàn bò Yak thì chỉ có hơn chứ tuyệt đối không kém. Tiếng tru không phải lúc trầm lúc bổng, mà như một đoàn hợp xướng hát điệu vịnh than, mỗi một tiếng đều trong vắt lanh lảnh, đợt này chưa dứt, đợt sau đã lại vang lên…

    m thanh vẳng tới chiến trường của bọn Trác Mộc Cường Ba, trước sau chưa đến mười phút, lũ sói đang vây công họ đột nhiên ngừng lại, cả thời gian lẫn không gian tựa như đều đứng lại trong khoảnh khắc ấy. Con sói đè trên người đội trưởng Hồ Dương đã giơ vuốt chân trước tới mắt anh, vuốt nhọn chỉ còn cách tròng mắt chưa đến hai centimet, bỗng cứ dừng sững ra như vậy; con sói bên cạnh Nhạc Dương thì đã ngoác cái miệng to như chậu máu nhắm tới cổ họng anh chàng, răng sói đã ấn lõm vào lớp da rồi, cả cái miệng ngoác ra cũng sững lại trong khoảnh khắc đó; trên người Trác Mộc Cường Ba đeo tổng cộng bốn con sói, chúng cắn vào vặt áo, gấu quần gã, đang chuẩn bị kéo đổ gã đàn ông cao lớn đang chao đảo chực ngã ấy xuống, đột nhiên cũng dừng lại hết; con sói sau lưng Cương Nhật Phổ Bạc đã nhấc chân trước lên, vuốt sắc hướng vào gáy người thổi sáo, rồi cũng dừng…

    Khoảnh khắc ấy, thời gian tựa như trôi đi vô cùng chậm chạp, đội trưởng Hồ Dương trợn tròn mắt, thậm chí không dám chớp; Nhạc Dương nín thở, cảm thấy nước bọt trong mồm con sói nhểu xuống cổ họng mình, trước tiên là nóng bỏng, rồi nhanh chóng trở nên lạnh băng…

    Không biết đã bao nhiêu lâu trôi qua, Mắt trắng đành hết sức không cam lòng mà khẽ gầm gừ một tiếng, vuốt sói đều thu về, miệng sói cũng từ từ nhả ra. Từng con sói lùi xa dần đám người, tụ tập lại rồi rút về phía bên kia dốc núi, chỉ một loáng sau đã không thấy bóng dáng chúng đâu nữa, chỉ còn lại những tiếng rú gầm gào theo gió vẳng về.

    Tựa như vừa trải qua ác mộng, Nhạc Dương đột nhiên cảm thấy toàn thân hụt hẫng hư thoát, sức lực còn lại chỉ đủ để thở dốc. Cương Lạp bước tới, liếm mạnh mấy cái lên mặt anh chàng, như khen ngợi anh đã dũng mãnh chiến đấu, kết quả là khiến Nhạc Dương ta sợ đến suýt chút nữa là bật dậy bỏ chạy.

    Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào Cương Nhật Phổ Bạc, nhìn chằm chằm vào cây sáo xương trong tay anh ta, vô cùng kinh ngạc, lắp bắp hỏi: "Cái này, rốt cuộc là…" Cương Nhật Phổ Bạc đang ngồi bệt dưới đất, mặt mũi tái nhợt, một tay chống xuống đất đỡ cơ thể, một tay vung vẩy cây sáo bằng xương: "Cậu có biết đây là cái gì không?"

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Sáo xương, pháp khí của Mật giáo…"

    Khóe miệng Cương Nhật Phổ Bạc nhếch lên, nở một nụ cười còn khó coi hơn là khóc: "Cậu đã thấy sáo xương của Tạng giáo bao giờ chưa? Mấy cái đó đều là thánh phẩm, phải dát vàng, khảm thêm mấu bạc, còn cái này của cậu thì rõ là một ống sáo bằng xương, không có bất cứ trang sức gì cả. Người nào không biết thì khó mà thổi được cho phát tiếng kêu."

    Đội trưởng Hồ Dương cũng lại gần xem xét cây sáo xương, trầm ngâm vân vê bộ râu, đoạn nói: "Ừm, đúng là không giống thật."

    Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy thì đây là…"

    Cương Nhật Phổ Bạc gắng gượng bò dậy, toàn thân hễ cử động là lại đau đớn. Anh ta khẽ kêu lên một tiếng, tập tễnh nói: "Giờ lũ sói đã rút rồi, nhân lúc chúng còn chưa đổi ý, chúng ta mau đi trước đã, vừa đi vừa nói."

    Nhạc Dương và Trương Lập cùng đỡ nhau đứng dậy, Lạt ma Á La bước đến đỡ đội trưởng Hồ Dương, rồi cả hai cùng qua xốc nách Ba Tang, Cương Lạp ngậm theo cái túi của Cương Nhật Phổ Bạc, rồi cả bọn cùng xuống núi. Có điều Nhạc Dương lại thấy Cương Lạp cứ tung tăng, năm ba bước lại đung đưa thân mình một lần, căn bản chẳng hề giống như vừa thoát ra khỏi chiến trường sinh tử, có vẻ đang hưng phấn lắm, thật chẳng thể hiểu nổi con chó này nghĩ thế nào nữa.

    "Cái này, những dân du mục lớn tuổi gọi nó là "tiếng gọi của sói thống lĩnh"". Cương Nhật Phổ Bạc đưa trả chiếc sáo xương vào tay Trác Mộc Cường Ba, "Nói đơn giản, có thể gọi nó là một cái lang tiêu." Đúng lúc đó, ở lưng chừng núi đột nhiên lại vang lên một loạt tiếng kêu rú kỳ dị, tựa như đáp lại tiếng hú vẫn còn chưa tan hết của bầy sói, chỉ có điều hướng âm thanh ấy vẳng tới lại… Mọi người cũng kinh ngạc ngoảnh mặt về vùng đất bị sương mù che phủ ở sâu trong núi tuyết.

    Riêng Cương Nhật Phổ Bạc chỉ nghiêng tai lắng nghe giây lát, đoạn nói: "Không phải lo, là dạ đế đấy. Bọn chúng đang đáp lại lũ sói thôi, lâu lắm rồi tôi không nghe thấy tiếng dạ đế kêu đấy."

    "Dạ đế là cái gì nữa?" Nhạc Dương vừa nghe thấy có sự vật ly kỳ, quên hết cả đau đớn, hỏi luôn.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Ừm, dạ đế chính là yêu tinh tuyết đấy, nhưng một lúc khó mà nói cho rõ được, trước tiên cứ nói chuyện lang tiêu đã. Ở Tây Tạng thời cổ có rất nhiều chức nghiệp đặc thù, có những nghề hết sức thần bí, chẳng hạn như hô phong hoán vũ hay cho linh hồn rời xác vậy, người ta gọi bọn họ bằng tên chung là Mật kỹ sư, không biết mọi người ở đây đã nghe qua hay chưa vậy."

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Cương Nhật Phổ Bạc lại nói: "Vậy thì dễ giải thích rồi. Thế mọi người có biết thao thú sư là gì không?"

    Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn chiếc sáo bằng xương trong tay mình nói: "Lẽ nào đây chính là thứ thao thú sư dùng để…"

    Cương Nhật Phổ Bạc ngắt lời gã: "Đúng thế, đây chính là công cụ thao thú sư dùng để giao tiếp với bầy sói. Tương truyền, nếu bị sói tấn công mà thổi thứ này, chúng sẽ rút đi; còn nếu bị các loài mãnh thú khác tấn công mà thổi nó, bầy sói sẽ đến giúp đỡ. Có điều, phạm vi sử dụng của nó chỉ giới hạn trên cao nguyên Tây Tạng, hơn nữa cho dù là sói trên cao nguyên, không phải đàn nào cũng có thể nghe và hiểu được, vừa nãy chẳng qua tôi cũng đánh liều một phen trong lúc không còn hy vọng nào khác đấy thôi."

    Trương Lập xen miệng vào nói: "m thanh ấy nghe chẳng giống tiếng sói tru gì cả."

    Lúc này, Cương Lạp đặt cái túi ngậm trong miệng xuống, ngẩng đầu lên, "Ù… huýt…" âm thanh nó phát ra, không ngờ lại có đến tám phần giống với tiếng sáo xương.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Đã nghe thấy chưa, tiếng gọi của sói thống lĩnh, không phải là để chỉ sói, mà là…"

    "Chiến ngao!" Trác Mộc Cường Ba kinh hãi thốt lên. Gã đã nhớ ra, Lạt ma Á La từng nói với bọn gã, sói thống lĩnh chính là một tên gọi khác của chiến ngao.

    Nhạc Dương cũng hết sức nhạy bén: "Vậy thì chiếc sáo xương này chẳng phải có liên quan tới Đạo quân Ánh sáng hay sao?"

    Cương Nhật Phổ Bạc cười cười nói: "Bản thân thao thú sư chính là một loại Mật kỹ sư ra đời trong Đạo quân Ánh sáng. Cái lang tiêu này vốn là sản phẩm thủ công truyền thống của bộ tộc Qua Ba, về sau này mới theo thao thú sư lưu truyền đến dân gian. Hồi nhỏ, trong nhà tôi cũng có một cái như thế này."

    Cả đoàn người trở lại thôn làng. Khi xuất phát người nào người nấy giống y như vận động viên leo núi, lúc trở về thì trông chẳng khác gì lũ ăn mày là bao. Mã Bảo đứng ở đầu làng đón họ không ngờ còn chẳng thể nhận ra nổi. Còn lũ chó trong làng thì hướng về phía họ mà sủa nhặng xị lên. Có điều tự bọn họ lại không hề thấy mất mặt chút nào, đặc biệt là hai anh chàng Trương Lập và Nhạc Dương, điệu bộ bước đi hết sức hùng dũng oai vệ. Đối với bọn họ, là những kẻ đối mặt với mấy trăm con sói mà vẫn an toàn thoát thân chẳng khác gì vừa đánh thắng một trận lớn, phải gọi là các vị anh hùng đang ca khúc khải hoàn mới phải.

    Khi Mã Bảo đưa cả đám trở về nhà mình, Đường Mẫn vừa trông thấy Trác Mộc Cường Ba, cặp mắt đã đỏ lựng lên: "Anh Cường Ba, anh…" nói tới đây, nước mắt cứ thế là chã tuôn. Trác Mộc Cường Ba ôm cô vào lòng, thì thầm an ủi: "Ổn rồi, không có chuyện gì đâu, bọn anh đều không sao cả, mọi người đều bình yên trở về rồi này!"

    Giáo sư Phương Tân trông thấy cả bọn cũng giật mình kinh ngạc, không phải nói chỉ đi thăm dò địa hình thôi hay sao? Sao lại thành ra nông nỗi này? Nhạc Dương, Trương Lập thì thôi không phải nói, nhưng sao đến cả Lạt ma Á La xưa nay không nhuốm bụi trần mà cũng…

    "Anh có biết không, anh… anh làm em, sợ chết đi được! Tại sao lại tắt đồng hồ nguyên tử đi… Tại sao lâu như vậy vẫn không trở lại… Em, hu hu hu…" Đường Mẫn rúc vào lòng Trác Mộc Cường Ba nức nở, đang khóc lóc bỗng nghe đội trưởng Hồ Dương sau lưng quát lên như sấm: "Này, cô nhóc, khóc cái gì mà khóc! Ba Tang không ổn rồi, mau ra giúp một tay đi!"

    Chỉ thấy sắc mặt Ba Tang xanh mét, răng nghiến chặt, mép đã sùi bọt trắng xóa. Lữ Cánh Nam rảo chân bước ra, u oán trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái rồi cũng chẳng nói gì nhiều, chỉ bảo bọn Nhạc Dương, Trương Lập: "Nhanh lên, tìm thứ gì đấy cho anh ta cắn, xoay nghiêng người anh ta ra! Cẩn thận một chút!"

    Đường Mẫn lấy vặt áo rách của Trác Mộc Cường Ba lau khô nước mắt, thút thít nói: "Em, em đi xem sao, anh mau đi thay quần áo đi!"

    Sau khi sắp xếp ổn thỏa cho Ba Tang, thay quần áo mới, mọi người lại bận rộn một hồi. Trác Mộc Cường Ba vốn định giữ Cương Nhật Phổ Bạc ở lại, gã còn rất nhiều chuyện muốn nói với anh ta, nhưng Cương Nhật Phổ Bạc cương quyết đòi ra về, đồng thời bảo bọn họ trong hai ba ngày tới tuyệt không có cách gì lên núi được, sau đó chỉ nói chuyện với giáo sư Phương Tân một lát rồi đi ngay. Trác Mộc Cường Ba ôm cổ Cương Lạp, rủ rỉ nói chuyện với nó một lúc lâu, sau khi hứa gã nhất định sẽ trở lại thăm nó, Cương Lạp mới hậm hực bỏ đi. Lúc chuẩn bị về, Cương Lạp còn trợn mắt lên nhìn Đường Mẫn một lúc lâu, sau đó lại nhìn chằm chằm vào Lữ Cánh Nam, như thể đã nhìn ra điều gì đó, cuối cùng lại nghển nhìn Trác Mộc Cường Ba đăm đăm khiến gã cảm thấy hết sức không tự nhiên…
     
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 75: Thân Thế Của Cương Lạp


    Đợi cho tình hình của Ba Tang ổn định, Lữ Cánh Nam mới đi ra. Trương Lập vội hỏi: "Anh Ba Tang thế nào rồi? Sao đột nhiên lại… thành ra như thế chứ?"

    Lữ Cánh Nam nói: "Khi đại não ra lệnh mà thân thể từ chối chấp hành, thần kinh đại não sẽ bị tổn thương giống như một người không đủ sức mà cứ nằng nặc đòi mang vác một vật gì rất nặng rồi cơ báp bị tổn thương vậy. Biểu hiện là thần kinh đại não sẽ phóng điện, y học gọi là động kinh, còn trong dân gian vẫn gọi là chứng phong sừng dê. Có điều mọi người có thể yên tâm, tình trạng của anh Ba Tang không tệ như chúng ta tưởng tượng đâu, chỉ là đột nhiên nhận một kích thích mà anh ta không thể chấp nhận, phản ứng đầu tiên của đại não là sẽ ngắt mạch, lăn ra hôn mê để tự bảo vệ, nhưng lúc đó rõ ràng là anh ta không bị hôn mê, khi về đến làng thần kinh bớt phần căng thẳng thân thể mới phản ứng với sự kích thích kia. Có thể anh ta sẽ hoàn toàn không nhớ gì về những việc xảy ra lần này, mọi người cũng không ai được nhắc đến trước mặt anh ta đấy nhé, biết chưa?"

    Cô ngoảnh đầu lại nhìn, nhóm của Trác Mộc Cường Ba đang ngồi đối diện với mấy người trong nhóm giáo sư Phương Tân. Nhạc Dương làm bộ làm tịch, xắn ống tay áo, mồm năm miệng mười kể cho giáo sư Phương Tân câu chuyện anh hùng của bọn họ. Lữ Cánh Nam bước đến nói với Nhạc Dương: "Mấy chuyện nhảm để sau rồi nói, chúng ta hãy sắp xếp lại những thông tin thu thập được trong ngày trước đã!"

    Mọi người ngồi quây lại, sắp xếp một lượt các thông tin về núi tuyết mà từng nhóm thu thập được.

    Núi ở đây không cao lắm, so với độ cao bình quân của những ngọn núi vùng trung bộ dãy Himalaya thì thấp hơn nhiều, nhưng mức độ nguy hiểm lại là lớn nhất trong cả dãy Himalaya này. Chẳng hạn như tuyết lở, băng lở, đá lăn, bão tuyết, tất cả đều chỉ có thể coi như những mối nguy bình thường dễ thấy, còn mối nguy lớn nhất phải kể đến gió thốc trên đỉnh núi. Nơi đây nằm ở dải giao nhau giữa các đợt gió mùa, gió ẩm từ Ấn Độ Dương thổi vào gặp phải vùng lá chắn mạnh nhất của cả dãy Himalaya, mạch núi khu vực này lại hơi cong vào bên trong, vậy nên cuồng phong thổi tới liền hình thành lốc xoáy, đó chính là gió thốc trứ danh của vùng núi này. Gió mạnh mang theo bông tuyết quất vào người thật chẳng khác gì dùng dao băng cắt thịt. Tốc độ gió ở đây thay đổi theo thời gian, nên nếu xuất phát từ sáng sớm tinh mơ thì lúc lên đến đỉnh núi sẽ gặp được gió phần nào nhẹ hơn, còn nếu xuất phát sau giờ trưa, khi lên đến đỉnh, gió to nổi lên thì cả đàn bò Yak cũng có thể bị thổi bay chứ chẳng nói gì đến con người.

    Mối nguy kì dị nhất phải kể đến mù tuyết. Vì có gió thốc, tuyết trên núi bị thổi cho bay mù mịt khắp trời, cảnh tượng không khác bão cát là mấy. Ở trong núi khi đó, hai người đứng đối mặt nhau chỉ cách có ba bước cũng đã không thấy bóng người rồi. Trong màn bụi tuyết ấy, bên tai chỉ nghe thấy tiếng gió thổi vù vù, dù có đã lăn xuống ngay trước mặt cũng không thể nào biết được. Người bản địa gọ thứ mù tuyết ấy là mê hồn vụ, người lạc vào bên trong đó rồi thì dù có xoay xở cách nào cũng không thể tìm được đường đi chính xác, có khi đi vòng quanh cả trái núi rồi mà không hề hay biết, cho đến khi sức cùng lực kiệt sẽ đông cứng lại thành những bức tượng người, ai may mắn thì còn giữ được toàn thây, không may thì bị lũ yêu tinh tuyết kéo về ăn thịt.

    Đáng sợ nhất là lũ yêu tinh tuyết chưa ai trông thấy bao giờ, chẳng ai nói được rốt cuộc nó là cái thứ gì, tóm lại chỉ nghe đồn chúng cao lớn kinh dị, sức khỏe vô cùng có thể xé người sống ra làm hai mảnh. Mỗi khi có mù tuyết, nhìn thấy trong đó có cái bóng cao chừng bốn năm mét, người ta cứ ngỡ là tảng đá lớn, nhưng có thể chính là yêu tinh tuyết cũng nên. Về sau có cả đoàn khảo sát khoa học đến đây, đoán rằng đó chính là người tuyết, nhưng thời tiết lúc đó hơi xấu, các chuyên gia trú trong làng suốt nửa năm không dám vào núi, vậy nên cũng chưa tận mắt trông thấy lũ yêu tinh tuyết bao giờ.

    Mối nguy giấu kín nhất là những khe rãnh băng ẩn dưới tuyết, có chỗ sâu đến cả trăm mét, bên trên chỉ có một tầng băng mỏng, phía dưới là đất đông cứng còn rắn chắc hơn cả sắt thép, không may giẫm hụt xuống thì đừng nói là thương tật có thể cứu chữa, ngã không thôi cũng đủ chết một trăm lần rồi.

    Tất nhiên, đó đều chỉ là những mối nguy mà bao đời nay dân làng truyền lại, có thể kể ra được, ngoài ra nghe nói vẫn còn có vô số những nguy hiểm khác mà người gặp phải cầm chắc chết, những thứ ấy mới đáng sợ tột cùng, còn nguy hiểm hơn cả nguy hiểm nữa. Tuy nhiên, những nguy hiểm ở vùng đất Tử vong Tây phong đới này không đủ khiến các thành viên trong đội e sợ, điều khiến thần kinh họ thật sự căng thẳng là, theo các tư liệu chính thức, cho đến nay vẫn chưa có ai leo lên được đến đỉnh ngọn núi không cao lắm này từ phía Trung Quốc cả. Còn về gió thốc, mọi người đều cho rằng khả năng tương đối cao là dân làng phóng đại lên; gặp phải gió thốc đáng sợ như vậy mà còn có người sống sót trở về được ư? Làm sao mà họ biết tường tận, nói nghe cặn kẽ rõ ràng như thế? Còn về mù tuyết thì đội trưởng Hồ Dương từng có trải nghiêm sâu sắc rồi. Tuyết đọng dưới đất bị cuồng phong thổi tung lên, tùy theo lượng tuyết có bao nhiêu mà quyết định mật độ của mù sương, lúc mù mịt, đừng nói là cách ba bước, thậm chí còn có thể khiến người ta giơ tay lên cũng không nhìn thấy năm đầu ngón tay chứ chẳng chơi. Những chuyện lạc đường trong núi vì gió lớn và mù tuyết thì ở đâu cũng có. Giữa màn bụi tuyết đó không thể phân biệt được phương hướng, lại còn bị gió lớn thổi cho ngã xiêu ngã vẹo, chuyện đi vòng tròn tuyệt đối chẳng hề khoa trương một chút nào, bản thân đội trưởng Hồ Dương đã đích thân nếm trải rồi.

    Hồi đó ở Nam cực, có một lần khi còn là nhân viên khảo sát chưa có kinh nghiệm gì, Hồ Dương đi ra ngoài lấy nước ở nguồn nước cách trạm của họ chưa đến hai trăm mét. Trời lúc ấy cũng có gió nhưng không lớn lắm. Bất ngờ khi anh vừa rời khỏi trạm thì gió đột nhiên tăng tốc, đến khi anh ra được chỗ có nước, gió đã mạnh đến mức đủ thổi ngã cả người, trời đất mù mịt, trước mắt chỉ còn hoa tuyết bay, trạm nghiên cứu hoàn toàn biến mất trong tầm mắt. Đội trưởng Hồ Dương thầm kinh hãi, vội phán đoán phương hướng, rồi liều đội gió đi về phía trạm, kết quả là đi gần năm trăm mét rồi cũng không thấy trạm nghiên cứu của họ đâu. Anh hoảng quá cuống cả lên, lại xoay người đi ngược trở lại hướng mà anh cho là ban đầu, tính toán bước chân, không ngờ cả chỗ lấy nước cũng không thấy đâu nữa. Cứ thế, đội trưởng Hồ Dương đi đi lại lại hơn nửa tiếng đồng hồ, cuối cùng cơn gió cũng dần yếu, anh mới nhìn rõ được xung quanh, mồ hôi lạnh lập tức túa ra đẫm cả người. Trong hơn nửa tiếng đồng hồ, không ngờ anh đã đi vòng vòng theo một hình tròn đường kính khoảng chục mét không biết bao nhiêu lần. Mặc dù không có chuyện đuổi theo bước chân như trong sa mạc, nhưng còn đáng sợ hơn, khi gió lớn thổi qua, dấu chân lưu lại sẽ lập tức bị đợt tuyết mới phủ lên, hoàn toàn biến mất, cứ tưởng rằng đang đi đường thẳng, kết quả lại là đi vòng vòng. Khi ấy còn có hai đội viên khác ra tìm anh về, không ngờ cũng bị đi vòng tròn, ba người đã vẽ ra ba vòng tròn hình chữ phẩm (品) phía trước trạm nghiên cứu. Tuy cả ba người sau đó nhìn nhau cười ha hả, nhưng thực ra trong lòng ai cũng kinh sợ. Gió lớn có thể khiến người ta hoàn toàn mất cảm giác, tuyết mù mịt khiến mắt người chỉ có thể nhìn xa không đến một mét, nên cho đến tận bây giờ, mỗi lần nhớ lại kinh nghiệm đó đội trưởng Hồ Dương lại rùng mình.

    Cách tốt nhất để đối phó với mù tuyết và gió thốc chính là không dây dưa với chúng. Những lúc đó nếu muốn giữ mạng, phải tìm một hang động ở gần mà trốn vào; còn cứ ngoan cố đội gió tiến lên, thì thà rằng tự đào hố chôn mình luôn còn hơn. Nếu may mắn, gió sẽ ngừng ngay, vẫn còn hy vọng sống sót; nếu không may mắn, khó nhọc đi được mười mấy cây số, sẽ phát hiện mình nằm đơ ra tại chỗ ban đầu, đông cứng thành que kem.

    Từ trước khi xuất phát, Lữ Cánh Nam đã nói rõ cho các thành viên trong đội biết, vì việc này hết sức cơ mật, đồng thời còn liên quan đến chuyện vượt qua biên giới quốc gia, nên chỉ có thể tiết lộ cho cực ít người biết. Những người dẫn đường kiểu như Mã Bảo cũng chỉ biết họ muốn lên núi mà thôi. Dưới chân núi do đó sẽ không có căn cứ hay đại bản doanh gì, đội chỉ có thể nhận được sự giúp đỡ từ một số chuyên gia cao cấp có uy tín. Mà đến cả những chuyên gia này cũng bị chia làm hai nhóm, những người biết họ đang làm gì thì không biết họ đang ở đâu, những người biết họ đang ở đâu thì không hề biết cả đám đến nơi ấy để làm gì.

    Vì vậy lần leo núi tuyết này hoàn toàn là leo núi kiểu Alps 1, không có tuyến đường định trước, không có bổ sung dọc đường, không có tiền lệ tham khảo, gió thốc cuồng loạn của vùng núi khiến trực thăng không thể lại gần, nên có gặp nguy hiểm thì cũng không có người cứu viện, tất cả đều chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình. Mặc dù phía trước khó khăn trùng trùng, đường đi hung hiểm vô kể, nhưng các thành viên trong đội đều chỉ cười cười cho qua. Nói gì thì nói,nhóm người này sớm đã đánh bạn với thần Chết, thân đến mức đủ để gọi anh gọi em được rồi.

    Cuối cùng, đội trưởng Hồ Dương đề cập đến chuyện bầy sói đã chiếm lĩnh con đường tốt nhất có thể leo lên núi. Vì thời gian có hạn, anh chỉ kể qua loa những gì họ gặp phải. Đối với bầy sói kia, đến giờ cả hội vẫn còn thấy rùng mình ghê sợ. Nhạc Dương kiến nghị với Lữ Cánh Nam nhờ quân biên phòng đến xua lũ sói đi. Lữ Cánh Nam trừng mắt lên nhìn, nói cô sẽ tự biết tính chuyện này.

    Sau khi tổng kết công việc đã làm được trong ngày, Lữ Cánh Nam dẫn Đường Mẫn kiểm tra tình hình sức khỏe của các thành viên trong đội, xem phản ứng với độ cao như thế nào. Doanh trại huấn luyện của họ năm ở khu vực trên bốn nghìn xấp xỉ năm nghìn mét so với mực nước biển, nên cơ thể mọi người đều không có dấu hiệu gì khác lạ. Một lúc sau thì Ba Tang cũng tỉnh lại, quả nhiên đúng như Lữ Cánh Nam đã nói, anh ta hoàn toàn không nhớ gì về chuyện đi xem lũ sói, chỉ nhớ chuyện đội trưởng Hồ Dương đo đạc địa hình trên dốc núi ấy. Lữ Cánh Nam đã có lời từ trước nên mọi người đều thống nhất nói rằng, Ba Tang bị hụt chân trên dốc núi, đầu va mạnh vào đá. Mà sau gáy Ba Tang cũng có một vết sưng vù lên thật, đó là do bị bọn sói húc ngã đập đầu vào tảng đá gây ra.

    Xử lý xong xuôi mọi thông tin có trong tay thì trời cũng đã muộn, Lữ Cánh Nam không đồng ý để mọi người tiếp tục tán phét, ra lệnh cho tất cả các thành viên trong đội phải lập tức nghỉ ngơi.

    Nhạc Dương và Trương Lập làu bàu khó chịu, hiếm khi mới được một trải nghiệm mà mấy người giáo sư Phương Tân không có, đang hưng phấn hừng hực thế này lại bị bắt phải đi ngủ. Hai anh chàng này ở chung phòng với Trác Mộc Cường Ba, nửa đêm cứ trằn trọc mãi không yên, cuối cùng liền kéo Trác Mộc Cường Ba dậy, nhũng nhiễu chuyện ban sáng, nằng nặc đòi Trác Mộc Cường Ba kể chuyện đến Đạt Mã tìm chó ngao, rồi làm sao lại phát hiện ra Cương Lạp, kết bạn với Cương Lạp như thế nào, đất đai con người vùng này như thế nào…

    Trác Mộc Cường Ba bị hai anh chàng bám nhằng nhẵng không buông, chẳng biết phải làm sao đành kể lại chuyện gặp gỡ làm quen với Cương Nhật Phổ Bạ, thì cũng chỉ là tìm kiếm khắp nơi, lần theo tất cả các đầu mối, cuối cùng thì mò được đến vùng này, chuyện đơn giản hết sức, đoạn gã nói: "Huyện Đạt Mã này đất đai con người thế nào ấy à, ừm, đại khái thì cũng giống như các nơi khác thôi, có điều trên các đồng cỏ xung quanh huyện thành, dân ở đây thích đua ngựa, giỏi cưỡi ngựa bắn tên. Phương thức thi đấu của họ khác với những nơi khác, cưỡi ngựa không có yên cương. À, còn nữa, huấn luyện ngựa hoang cũng là một trong những hoạt động được người bản địa rất ưa thích. Còn về ca múa nhạc, mấy điệu múa vòng tay, múa sư tử ở đây đều rất độc đáo đặc sắc…"

    Nghe Trác Mộc Cường Ba kể chuyện, Trương Lập như nhận ra điều gì đó: "Cường Ba thiếu gia, huyện Đạt Mã mà anh nói, chắc không phải chính cái huyện này đấy chứ?"

    Trác Mộc Cường Ba đáp: "Đúng, nó còn một cái tên khác nữa, đó là tên thường dùng, cũng cổ xưa lắm rồi."

    Trương Lập nói: "Vậy tại sao người ta lại gọi nó là huyện Đạt Mã? Là vì ở trong huyện có người Đạt Mã sinh sống à?"

    Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Tất nhiên là không phải. Từ trước khi vương triều Thổ Phồn thống nhất, ở đây có một quốc gia nhỏ tên là Đạt Mã, đến sau khi Thổ Phồn thống nhất, nơi đây vẫn được gọi là Đạt Mã, vì vậy trong các sách cổ xưa nhất người ta đều gọi là huyện Đạt Mã. Mãi về sau khi Liên Hoa Sinh đại sư vào đất Tạng mới đổi tên nơi này thành Ngao châu. Có điều, cứ nhắc đến Ngao châu, thì trước tiên chúng tôi đều nghĩ ngay đến huyện Đạt Mã rồi."

    Nhạc Dương quấn mình trong ổ chăn nói: "Cường Ba thiếu gia, tôi nhớ sáng nay chú Cương Nhật Phổ Bạc bảo, Cương Lạp lớn lên bằng sữa sói, chuyện đó là thế nào vậy?"

    Trác Mộc Cường Ba ưu tư nói: "Ừm, thực ra thân thế của Cương Lạp là…"

    ° ° °

    Mười lăm năm về trước, ở phía Đông Nam thôn Nạp Lạp có một căn nhà đá nhỏ đổ nát tan hoang. Đương mùa rét, tuyết lớn lả tả trên không trung, bầu trời đem đen kịt tựa chiếc áo choàng của thần Chết che phủ trên những vùng đất chật hẹp, vạn vật thảy đều im lìm, chỉ nghe tiếng gió tuyết lồng lộng thét gào.

    Căn nhà đá ấy trong ngoài đều lạnh lẽo như nhau, bếp lò chỉ còn lại một đống tro tàn nguội ngắt, tử khí nặng nề tràn ngập, bên cạnh bếp lò có một người đàn ông ngồi lặng yên như pho tượng tạc từ băng đá. Nếu không phải cặp mắt anh ta chốc chốc vẫn còn chớp, chỉ e ai cũng sẽ tưởng đây là một cái xác. Không sai, anh ta đã chết rồi, ngọn lửa sinh mệnh trong lòng anh ta đã tắt ngúm, thứ còn lại, trông giống cái bếp lò kia, chỉ là một năm tro tàn.

    Đó là Cương Nhật Phổ Bạc của mười lăm năm về trước, vợ anh ta mất tích đã ba năm, tìm kiếm khắp vùng núi tuyết này mà không ra, sống không thấy người, chết không thấy xác. Anh vẫn còn sống, là bởi vì anh không tin vợ mình đã chết. Anh tin chắc rằng, có một ngày Lạp Chân sẽ nhẹ nhàng đẩy cửa, nhẹ nhàng thốt lên một câu: "Em trở về rồi."

    Mỗi năm, khi ngày vợ lên núi tuyết gần kề, Cương Nhật Phổ Bạc lại không thể yên giấc. Cương Nhật Phổ Bạc khi ấy, đang suy tư không biết ngày mai sẽ chịu đựng đau khổ như thế nào. Đúng vào thời khắc tăm tối nhất trước buổi bình minh, chợt vang lên tiếng gõ cửa "cốc cốc cốc"…

    Cương Nhật Phổ Bạc đã lạnh cứng cả người, anh hơi trù trừ do dự, chẳng có ai ra ngoài trong đêm tuyết mù mịt thế này cả. "Cốc cốc cốc" âm thanh lại vang lên một lần nữa, rất nhẹ, nhưng cũng rất rõ ràng. Cương Nhật Phổ Bạc không dám tin, rồi đột nhiên, anh đứng phắt dậy như bị ma nhập, lao ra cửa như một cơn lốc…

    Bên ngoài tối đen như mực, cuồng phong mang theo băng tuyết ập tới, ngoài ra không còn gì khác. Cương Nhật Phổ Bạc không hề kinh hãi, ngược lại còn tỏ ra mừng rỡ, hướng về phía hư không vô tận lớn tiếng hỏi: "Lạp Chân, em phải không, Lạp Chân…"

    Đáp lại lời anh ta, là một tiếng rên khe khẽ yếu ớt trong gió, Cương Nhật Phổ Bạc lấy đèn dầu bơ ra soi mới phát hiện thấy trước cửa nhà mình có một con sói cái bị thương đang cuộn tròn. Chân sau nó bị dính bẫy kẹp, máu tươi đỏ rực như những đóa hoa mai nở rộ trên nền đất phủ tuyết, kéo dài mãi vào trong màn đêm vô tận.

    Con sói cái cuộn tròn dưới đất như một tấm nệm, không ngừng thè đầu lưỡi ra liếm liếm một vật nhỏ ôm trong lòng, một thứ gì đó lông lá xù xù, vẫn còn sống, vẫn còn động đậy.

    Cương Nhật Phổ Bạc cẩn thận lại gần, giơ chiếc đèn dầu lên trước. Trong lòng con sói cái là một con vật trắng muốt, thân cuộn tròn như quả cầu tuyết, đang ra sức thúc đạp cả bốn chân, muốn rúc vào dưới bụng con sói mẹ mà bú một hớp sữa.

    Con sói cái kia máu đã chảy cạn đến nơi rồi, lấy đâu ra sữa nữa? Nhìn vết thương của sói mẹ, Cương Nhật Phổ Bạc đột nhiên hiểu ra ý đồ của cuộc viếng thăm lúc đêm hôm khuya khoắt này, anh ta đặt chiếc đèn dầu xuống, hai tay run run đưa ra, chầm chậm đến gần thân thể con sói cái.

    Con sói nằm yên bất động, chỉ ngước mắt lên nhìn Cương Nhật Phổ Bạc, ánh mắt thâm tình, ân cần, từ ái ấy, Cương Nhật Phổ Bạc vĩnh viễn cũng không thể nào quên. Anh ta bồng con vật nhỏ lên tay, con nhóc cứ cục cựa không yên kia rồi cũng ngừng lại, đôi mắt đen tuyền chớp chớp nhìn chằm chằm vào gương mặt già nua quá đỗi của Cương Nhật Phổ Bạc, chăm chú dò xét. Cương Nhật Phổ Bạc quan sát lại nó, bộ lông nhung trắng mịn thật là đáng yêu quá, trông nó hệt như một đóa sen tuyết nở rộ trên sông băng vậy. Đột nhiên, bàn tay Cương Nhật Phổ Bạc khẽ run lên, anh thấy trên mình con vật nhỏ còn chưa dứt sữa này một vết sẹo rất nổi bật, một vết sẹo cháy đại khái to khoảng bằng đồng năm hào, hẳn là vết dí đầu thuốc lá của con người đây!

    Trong khoảnh khắc, Cương Nhật Phổ Bạc phảng phất như đã nhìn thấy những điều bất hạnh mà con vật nhỏ này gặp phải trong quãng thời gian ngắn ngủi nó có mặt trên đời này. Mẹ bị giết chết, nó bị loài người hành hạ chán chê rồi ném ra giữa trời băng đất tuyết, con sói cái kia đã phát hiện ra nó, rồi dùng bầu sữa của mình để nuôi sống sinh mạng nhỏ bé này. Chắc con sói cái cũng mất đi đứa con của mình vào thời gian đó? Mà khi ấy, ánh sáng của con sói mẹ cũng đang dần ảm đạm rồi tắt ngấm bởi bẫy kẹp của loài người… Bất kể thế nào, con vật nhỏ bé này vẫn có thể sống sót, quả là kỳ tích! Nghĩ tới đây, một cảm giác xung động bỗng dâng trào lên, Cương Nhật Phổ Bạc giơ cao sinh mệnh nhỏ bé trong tay mình, lớn tiếng hét lên một câu khiến sau này Trác Mộc Cường Ba khắc ghi vào tâm khảm suốt đời: "Bị con người làm tổn thương, vứt bỏ, phản bội, mà vẫn muốn tin vào con người hay sao?"

    Gió gào thét ầm ù, con vật nhỏ đột nhiên thè đầu lưỡi non tơ ra liếm lên lòng bàn tay Cương Nhật Phổ Bạc…

    Cảm giác ấm áp từ lòng bàn tay lan đến tận sâu trong đáy lòng, trong đống tro sớm đã tàn lụi, ngọn lửa ẩn giấu bắt đầu nhen nhúm cháy lên. Cương Nhật Phổ Bạc ôm chặt sinh mệnh non nớt kia trong áo khoác mình, anh ta quyết định sẽ bảo vệ bông hoa sen tuyết xinh đẹp này như bảo vệ đứa con của chính mình.

    Con sói mẹ từ đầu chí cuối vẫn lặng lẽ nhìn, cho đến phút cuối cùng, mới hướng về phía Cương Nhật Phổ Bạc một ánh mắt nhìn đầy cảm kích, rồi khó nhọc ngoảnh đầu về bóng tối xa xăm vô tận, nơi bầy sói đã từng dừng chân nghỉ lại, nhẹ nhàng khép mắt. Nơi trời đất giao nhau xuất hiện một vệt sáng của buổi bình minh, trong đêm gió tuyết bão bùng ấy, Cương Nhật Phổ Bạc đã có thêm một đứa con, tên là Cương Lạp…

    ° ° °

    Nghe Trác Mộc Cường Ba kể về lai lịch của Cương Lạp, Trương Lập không khỏi ngầm thở dài một tiếng. Nhạc Dương thì nắm chặt tay lại, nghiến răng hỏi: "Cường Ba thiếu gia, Hải lam thú không phải là một giống Tạng ngao rất quý giá hay sao? Tại sao… tại sao đám người ấy lại…"

    Trác Mộc Cường Ba đáp: "Không, cậu nghĩ sai rồi, một thứ vật phẩm hay động vật quý giá hay không, là do sự ưa thích và hiểu biết của con người đối với nó quyết định. Mười mấy năm trước, Tạng ngao không phải là thứ trào lưu thời thượng như hiện nay, chúng chỉ là những người bạn giúp dân Tạng chăm nhà coi cửa mà thôi, cũng không có người nào dùng tiền để định giá chúng cả. Còn nữa, chó ngao Tây Tạng khi còn non trông chẳng khác gì chó con bình thường cả, cho dù là những người Tạng lớn tuổi giàu kinh nghiệm cũng không thể phân biệt được con chó ấy lớn lên sẽ trở thành chó ngao Tây Tạng hay chỉ là chó bình thường, bọn săn trộm lại càng không để ý đến mấy chuyện ấy."

    Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba bỗng chợt nhớ lại những lời Cương Nhật Phổ Bạc từng nói với gã nhiều năm về trước: "Có ngao Tây Tạng? Cậu cảm thấy cái lũ bị nhốt trong lồng, hay đeo xích sắt, xích bên cạnh chuồng cừu là chó ngao Tây Tạng sao? Không, cùng lắm chúng chỉ có thể gọi là những con chó to mà thôi! Chỉ khi chúng tự do tự tại chạy dưới trời xanh mây trắng, lướt đi trên đồng cỏ cao nguyên như một cơn gió, lúc ấy chúng mới là chó ngao Tây Tạng chân chính…"

    Khi Trương Lập và Nhạc Dương đang bồi hồi xúc cảm vì thân thế của Cương Lạp, không ai ngờ, Cương Lạp đang ở ngay bên ngoài căn nhà nhỏ. Nó nhạy bén nhận ra tiếng người đang nói chuyện trong nhà, tựa như bị khơi gợi lại hồi ức cũ, cúi đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi lập tức lắc lắc đầu, ngước nhìn người áo xám đứng sau lưng, dẫn đường cho người đó đi về phía khu núi non trùng điệp. Một người một chó ngao không phát ra bất cứ âm thanh gì.

    Cương Lạp dẫn đường cho người đó đến trước căn nhà bằng đá của Cương Nhật Phổ Bạc, đẩy cửa ra. Trong nhà, lò sưởi đang cháy lép bép, Cương Nhật Phổ Bạc ngồi bên cạnh, chưa ngẩng đầu lên đã nói: "Ông đến rồi à."

    --------------------------------

    1 Là phương thức leo núi khởi nguồn từ khu vực Alps, người leo núi theo kiểu này đa phần phải tự lực để leo lên đến đỉnh, ngoài ra không có sự giúp đỡ nào khác.
     
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 76: Hậu Duệ Bạch Ngân


    Merkin thởi dài nói: "Thật không ngờ đấy, thì ra tấm bản đồ cũng chỉ đường đến nơi này, xem ra hồi ức của Tây Mễ là chính xác rồi, giờ chỉ còn xem rốt cuộc tấm bản đồ ấy chỉ tường tận đến mức nào thôi. Mấy trăm cây số lưng chừng núi bị bao bọc trong sương tuyết mù mịt, lại chỉ có một lối vào rộng chừng một mét là có thể đi xuống dưới, đám giáo đồ Mật giáo cổ đại ấy sao lại tìm ra được nơi như thế chứ? Thật là không thể tin nổi…

    Người áo xám bước vào nhà, không ngờ lại là Lạt ma Á La. Ngọn lửa nhỏ trong bếp lò vùng vẫy run rẩy một hồi, ánh sáng hắt lên chiếu vào gương mặt ông, già nua mà điềm tĩnh. "Anh biết là tôi sẽ đến…"

    "Đó là lẽ dĩ nhiên." Cương Nhật Phổ Bạc kéo một chiếc thảm trên giường đắp lên đầu gối, đoạn nói: "Ông nhất định có rất nhiều chuyện muốn hỏi tôi, vừa khéo, tôi cũng có khá nhiều chuyện muốn hỏi ông. Một nghìn năm rồi, các ông trước sau vẫn không chịu bỏ cuộc, xem ra, năm xưa Đạo quân Ánh sáng không chỉ mang đi báu vật trong Tứ phương miếu thôi phải không, ngoài ra còn thứ gì đó khác có thể khiến các người quyết chí đi tìm như thế?"

    Lạt ma Á La hỏi ngược lại: "Còn các anh? Cũng cùng chung cảnh ngộ, cùng chung vận mệnh, chẳng phải các anh cũng chưa từng bỏ cuộc đấy hay sao?"

    "Không!" Cương Nhật Phổ Bạc nhìn ngọn lửa đang nhảy múa đến mức xuất thần, trầm giọng xuống: "Gia tộc chúng tôi đã bỏ cuộc từ lâu rồi. La Long Ni Khắc – Cương Nhật Phổ Bạc tôi đây, đã là người cuối cùng của gia tộc, trở thành một gã hậu duệ Bạch Ngân danh phù kỳ thực. Khi tổ tiên tôi chọn lựa mảnh đất này để định cư, chúng tôi đã thôi không còn tìm kiếm nó nữa. Có lẽ, cứ để bí mật ấy chôn vùi trong dòng sông thời gian thì tốt hơn."

    Nói tới đây, Cương Nhật Phổ Bạc ngẩng đầu lên mỉm cười với Lạt ma Á La, rồi hỏi: "Xem ra thì bọn Cường Ba vẫn chưa biết thân phận thực sự của đám Mật tu giả các ông phải không?"

    Lạt ma Á La gật đầu: "Đợi thời cơ đến rồi mới cho họ biết thì tốt hơn."

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Điều này thì tôi có thể hiểu được. Thế nhưng, các ông đã để họ giúp đỡ tìm kiếm Bạc Ba La, song dường như lại không nói cho họ biết mấy thông tin thì phải? Đến cả lang tiêu mà cũng không biết là gì…"

    Lạt ma Á La nói: "Hầu hết tư liệu chúng tôi nắm được đều đã đưa cho họ cả rồi, vấn đề còn lại là phải xem họ lĩnh ngộ lý giải được bao nhiêu mà thôi; còn về lang tiêu, bản thân tôi cũng không ngờ đến ngày nay nó vẫn còn phát huy được tác dụng; ngoài ra còn một số việc mà chúng tôi không biết, đây chính là lý do tôi đến tìm gặp anh."

    "Ừm", Cương Nhật Phổ Bạc tựa như ngộ ra điều gì đó, nói: "gia tộc chúng tôi vì bị vu hãm, không nuốt được mối hờn căm này, nên mới quyết tìm Dquas hòng rửa nỗi oan khuất mà gia tộc phải gánh chịu. Tất nhiên, có thể tìm thấy các bảo vật trong Tứ phương miếu, trùng chấn lại thanh uy của gia tộc, khôi phục sự huy hoàng năm xưa cũng là một nguyên nhân rất quan trọng. Còn các ông thì sao?"



    Đêm đã khuya, Cương Lạp hoàn toàn không hứng thú chút nào với câu chuyện của hai người, nó cụp tai ngủ thiếp đi, chỉ còn ngọn lửa là vẫn nhảy múa không biết mệt mỏi.

    ° ° °

    Sáng sớm hôm sau, Nhạc Dương dậy rất sớm, chỉ thấy cảnh vật bên ngoài đẹp mê hồn, không khí trong lành, hồ nước núi non trông như tranh vẽ, anh chàng tập một bài thể dục, hít thở không khí thanh khiết, tinh thần sảng khoái, không kìm được mà phải ca tụng rằng, nếu được ở đây chắc chắn sẽ sống lâu thêm mấy năm.

    Nhạc Dương đã nghe Trác Mộc Cường Ba kể, rằng người Đạt Mã rất thanh đạm chất phác, cuộc sống đơn giản đến khó có thể tin nổi. Đàn ông trưởng thành chặt củi rèn sắt, còn dệt vải và dọn dẹp nhà cửa là việc của đàn bà, người già thì ngồi ngoài cửa xe sợi, nếu không thì đan lưới, hôm nào trời lạnh quá thì ngồi bên bếp lò. Dạo trước, trẻ con ở đây còn ít được giáo dục, đa phần đều được để mặc ngoài đồng cỏ với bò cừu hoặc tự do chơi đùa với bạn bè cùng lứa, lớn lên thì kết hôn sinh con, toàn bộ cuộc sống chỉ có thế, ngày lại qua ngày. Khi nghe kể mười mấy năm trước, trẻ con ở đây không cần đọc sách đi học, Nhạc Dương và Trương Lập không những không cảm thấy thương hại chúng, ngược lại còn tỏ ra hết sức ngưỡng mộ nữa.

    Nhạc Dương đang say sưa ngắm cảnh, thấy Trương Lập cũng bước ra, liền cất tiếng: "Chào buổi sáng!"

    Trương Lập nói: "Tập hợp, tập hợp, giáo quan gọi tập hợp kìa!"

    Các đồng chí ở Cục Khí tượng thông báo, trong khoảng thời gian ngắn tới đây thời tiết không thích hợp cho leo núi, Lữ Cánh Nam nói với các thành viên trong đội, mấy ngày này sẽ để dân làng dẫn họ đi thăm dò các tuyến đường, hy vọng có thể tìm được con đường lên núi nào khác ngoài con đường đã bị đàn sói chiếm cứ.

    Vì lý do an toàn, mọi người vẫn chia làm ba nhóm do những dân làng quen thuộc địa hình dẫn đường, cẩn thận tránh xa khu vực bầy sói tập trung, đi khắp xung quanh núi tuyết để đo đạc quan trắc. Mấy ngày liền bôn ba vất vả, đến cả người như Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy hơi mệt mỏi, xem ra họ vẫn phải tăng cường rèn luyện thể lực thêm nữa.

    Không chỉ vậy, họ còn chẳng có thời gian để nghỉ ngơi. Mỗi ngày trở về đều phải chỉnh lý, phân tích các tuyến đường mới thăm dò được, còn phải tiếp tục nghiên cứu tấm bản đồ đã được các chuyên gia đánh dấu kia. Hướng đi của mạch núi nhìn đại để thì không sai rồi, nhưng trên bản đồ không đánh dấu chỉ đường lên núi, đây cũng là lý do căn bản khiến họ phải nhọc công đến vậy. Lữ Cánh Nam nói với mọi người, về nơi này, ngọn núi này, ngoài bản đồ ra còn một bằng chứng khác nữa. Trong tư liệu lịch sử từng có ghi chép rất rõ ràng, tượng Phật và kinh thư theo Văn Thành công chúa vào đất Tạng năm xưa xuất hiện lần cuối cùng chính ở huyện Đạt Mã này, bởi thế mà từ rất nhiều năm trước, nhà nước đã tiến hành khảo sát ở khu vực núi non gần đây. Có điều khi ấy còn chưa có bản đồ chỉ rõ là ngọn núi nào, mà điều kiện kỹ thuật cũng không được hoàn bị cho lắm, cuối cùng đội khảo sát đã mất tích toàn bộ ở khu vực này, nghĩ lại thì có lẽ chính là lần mà Mã Bảo nhắc đến lúc họ mới tới đây rồi. Lữ Cánh Nam nói, về sau, nhà nước còn tổ chức đội khảo sát khoa học tới đây thăm dò nhiều lần nữa, nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nên cuối cùng cũng vẫn buộc phải bỏ cuộc. Nhạc Dương lập tức liên tưởng đến người dẫn đường Cương Nhật Phổ Bạc mà đội trưởng Hồ Dương nhắc tới, liền thì thầm nói riêng với Trác Mộc Cường Ba rằng, có lẽ Lạt ma Á La biết một số việc liên quan đến Cương Nhật Phổ Bạc, có điều tới giờ anh vẫn chưa nghĩ ra nên hỏi ông như thế nào thôi.

    Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nói: "Còn phải hỏi như thế nào nữa à? Trực tiếp hỏi thôi, để tôi đi tìm đại sư luôn."

    Trác Mộc Cường Ba tìm được Lạt ma Á La, liền hỏi ngay: "Đại sư, hôm qua ngài và a quả đọ sức một trận, có phải đã nhận ra được điểm gì đó từ thân thủ hay gì đấy của anh ấy phải không? Thí dụ như thân phận, lai lịch gì đó chẳng hạn. Nói thực lòng, tôi đã ở với anh ấy hơn nửa năm, trước giờ vẫn cứ nghĩ anh ấy chỉ là một người dân Tạng bình thường, nhưng hôm qua, từ những hiểu biết của anh ấy về Đạo quân Ánh sáng và Bạc Ba La, có thể thấy thân phận của a quả dường như không tầm thường một chút nào."

    Lạt ma Á La hơi ngạc nhiên đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hiển nhiên ông không ngờ gã lại đem mình và Cương Nhật Phổ Bạc liên hệ với nhau nhanh như vậy. Có điều cuộc nói chuyện đêm qua với Cương Nhật Phổ Bạc đã mở được khá nhiều nút thắt nghi vấn trong lòng ông, vậy nên đại sư cũng thẳng thắn trả lời luôn: "Đúng thế, tôi biết thân phận của Cương Nhật Phổ Bạc. Anh ta là người của gia tộc La Long Ni Khắc, chúng tôi gọi họ là hậu duệ Bạch Ngân."

    Thấy Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không hiểu gì, Lạt ma Á La nở một nụ cười điềm đạm, ý bảo gã tìm chỗ nào đó ngồi xuống, chậm rãi giải thích: "Sự việc này, thông thường phải là người hiểu biết về lịch sử các gia tộc ở Thổ Phồn mới dễ dàng thông hiểu được. Để tôi nói về gia tộc trước nhé. Vương triều Thổ Phồn hùng cứ cao nguyên Thanh Tạng cả mấy trăm năm, ngoài hai gia tộc thế gia đại thần Nương thị và Vi thị, còn có rất nhiều gia tộc được trọng dụng qua nhiều triều đại, họ cũng giống như Dương gia tướng, Nhạc gia tướng, Tiết gia tướng… mà ngày nay mọi người đều đã quá quen thuộc rồi vậy. Triều đại thay đổi, quý tộc thế tập cha truyền con nối, có rất nhiều gia tộc đã cùng hưởng vinh chịu nhục với Thổ Phồn. Đây chính là gia tộc, mỗi triều đại đều có mấy gia tộc lớn mạnh, tôi không nhắc đến hết ở đây, mà chỉ nói riêng về gia tộc La Long Ni Khắc thôi. Cậu cũng biết rồi đấy, Đạo quân Ánh sáng là lực lượng chiến đấu mạnh nhất do Tạng vương Tùng Tán Can Bố lập nên, về sau thì chủ thể của Đạo quân Ánh sáng là bộ tộc Qua Ba, nhưng trước khi chiến thắng Tượng Hùng, cậu có biết những người nào là chủ thể của Đạo quân Ánh sáng này hay không?"

    Trác Mộc Cường Ba đã lờ mờ đoán được: "Lẽ nào lại là…"

    Lạt ma Á La gật đầu: "Đúng thế, chính là gia tộc La Long Ni Khắc. Trong lịch sử, họ cũng từng được gọi là Nô bộc của Ánh sáng, họ chính là Đạo quân Ánh sáng tiền nhiệm. Sau khi bộ tộc Qua Ba được biên vào làm bộ phận chính của Đạo quân Ánh sáng, gia tộc La Long Ni Khắc được thuyên chuyển sang một cánh quân khác, ngoài chuyện đó ra, họ vẫn đảm nhận sứ mệnh giống như Đạo quân Ánh sáng, cũng tức là quân thân vệ của Tạng vương. Cũng có nghĩa là, vào thời đó, gia tộc La Long Ni Khắc đảm nhiệm cùng một cương vị với Đạo quân Ánh sáng, họ chính là những người tiếp cận gần nhất với bộ tộc Qua Ba. Còn nữa, tôi vẫn nhớ hôm qua Nhạc Dương đã nhắc đến một chuyện, nói rằng tại sao Tạng vương lại dám dùng một đội quân không trực tiếp trung thành với mình làm cận vệ, gia tộc La Long Ni Khắc này, chính là một trong các nguyên do đó. Gia tộc này đã trực tiếp thề sẽ tận hiến sức lực cho Tạng vương, so về số lượng trong quân thân vệ thời bấy giờ, bọn họ còn đông hơn cả Qua Ba tộc, đại khái cũng có vai trò khắc chế bộ tộc Qua Ba, cân bằng thực lực. Bởi vậy, khi Đạo quân Ánh sáng đột nhiên biến mất, gia tộc này cũng phải đối mặt với nguy cơ vô cùng to lớn…"

    Lạt ma Á La ngừng nói, Trác Mộc Cường Ba liền thắc mắc: "Đạo quân Ánh sáng biến mất thì liên quan gì với bọn họ kia chứ?"

    Lạt ma Á La nói: "Đạo quân Ánh sáng tuy là đội quân bí mật của Thổ Phồn, nhưng không phải là không ai hay biết, ít nhất cũng có hai gia tộc Nương thị và Vi thị là biết chuyện. Hơn nữa, khi ấy, những gia tộc lớn mạnh, nắm giữ các bí mật tối cao của quốc gia cũng ít nhiều biết được một chút. Vì vậy, bí mật về nguyên do tại sao Đạo quân Ánh sáng có thể trở thành lực lượng chiến đấu mạnh nhất của vương triều Thổ Phồn vẫn là điều mà các gia tộc lớn đều khao khát nhòm ngó. Sau khi Đạo quân Ánh sáng biến mất, cân bằng thế lực giữa các gia tộc lớn bị phá vỡ, không còn lực lượng nào áp chế được họ nữa, những gia tộc này thèm khát được sở hữu sức mạnh của Đạo quân Ánh sáng; hơn nữa, cậu chớ quên rằng, cùng biến mất với Đạo quân Ánh sáng còn có tất cả báu vật của vương triều Thổ Phồn thời kỳ toàn thịnh. Chỉ với hai điểm này thôi, cũng đủ khiến những gia tộc thực lực hùng mạnh kia đào đất sâu ba thước lên tìm kiếm bất cứ đầu mối nào liên quan đến Đạo quân Ánh sáng rồi. Mà những đầu mối này, ngoài hai gia tộc Nương thị và Vi thị ra, ai sẽ là người bị nghĩ đến đầu tiên chứ?"

    Trác Mộc Cường Ba giờ mới hiểu ra: "Gia tộc La Long Ni Khắc!"

    Lạt ma Á La gật đầu: "Không sai. Họ từng đảm nhiệm công việc ở cùng một nơi với Đạo quân Ánh sáng, lại là người tiền nhiệm của bộ tộc Qua Ba, trong con mắt người ngoài, chắc chắn họ còn biết rất nhiều ẩn tình bên trong mà không ai khác biết được. Vì vậy, trong cuộc chiến loạn sau này, vận mệnh của họ cũng giống như những người Qua Ba bị Đạo quân Ánh sáng bỏ rơi vậy, họ trở thành mục tiêu đầu tiên mà các gia tộc lớn muốn đối phó. Những gia tộc hơi có thực lực một chút, đều muốn tìm được đầu mối về Đạo quân Ánh sáng từ gia tộc La Long Ni Khắc. Liên tiếp nhiều năm chinh chiến, dẫu rằng sức chiến đấu của gia tộc La Long Ni Khắc cực cao, nhưng rồi cuối cùng cũng không thể thoát được số phận bi thảm. Thế nhưng, sự thực là họ cũng hoàn toàn không hề hay biết về sự biến mất của Đạo quân Ánh sáng, chỉ là vô tình đã trở thành chìa khóa mở cửa kho báu trong mắt người ngoài mà thôi."

    Trác Mộc Cường Ba bừng tỉnh ngộ, nói: "Thì ra là vậy. Thế nên để rửa sạch mối oan khiên, họ phải tìm ra Đạo quân Ánh sáng, và cũng gia nhập hàng ngũ những người đi tìm kiếm Bạc Ba La. Chẳng trách a quả lai nói, gia tộc nhà họ đã tìm kiếm gần nghìn năm nay rồi."

    Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, về sau những hậu nhân của gia tộc La Long Ni Khắc còn sống sót sau cơn chiến loạn đã bị buộc phải thay tên đổi họ, sống lưu vong hoặc ẩn cư. Có điều, để ghi nhớ lòng trung thành của họ với vương thất và sự cống hiến trong công cuộc mở rộng cương thổ của vương triều Thổ Phồn, người đời sau gọi họ là hậu duệ Bạch Ngân, ý chỉ những võ sĩ mạnh mẽ, sức chiến đấu chỉ đứng sau có Đạo quân Ánh sáng."

    Trác Mộc Cường Ba lại nó: "Vậy hôm qua làm sao đại sư nhận ra được thân phận của anh ấy thế?"

    Lạt ma Á La mỉm cười: "Chuyện này thì đơn giản thôi. Đầu tiên cậu phải biết, lịch sử của một số gia tộc thậm chí còn dài hơn cả bản thân vương triều Thổ Phồn nữa, những gia tộc này đều có huy chương, kỳ hiệu và những hoa văn trang trí đặc trưng chỉ thuộc về gia tộc họ. Thời đó, chỉ cần nhìn thấy những tiêu chí đặc biệt này, là lập tức có thể nhận ra đây là thuộc về gia tộc nào, cũng giống như bây giờ cậu thấy logo của ngân hàng Kiến thiết, ngân hàng Công thương là nhận ra ngay vậy thôi. Tôi nhận ra tiêu ký của gia tộc La Long Ni Khắc trên cán đao Cương Nhật Phổ Bạc, mà thực ra, đến ngày nay, mọi người cũng vẫn thường trông thấy những tiêu ký đó mà."

    Thấy vẻ hoài nghi trên mặt Trác Mộc Cường Ba, Lạt ma Á La nói: "Vì chiến tranh, những gia tộc ấy thường là bị tiêu diệt toàn bộ, huy hiệu của họ tản mát khắp trên cao nguyên, bị che phủ trong những bờ cây bụi cỏ. Về sau, khi dân du mục tìm thấy chúng, lịch sử đã bị lãng quên, nên người ta không thể nhận ra được đó là vật thuộc về ai, ở thời nào nữa, liền coi là những thứ trên trời rơi xuống, là vật trời cao ban tặng, vậy là những huy hiệu của gia tộc ấy liền được coi là vật tượng trưng cho may mắn, được giữ gìn như một thứ bùa hộ thân. Những huy hiệu gia tộc ấy, cũng chính là thiên khâm mà người ta vẫn thấy bây giờ. Tất nhiên, thiên khâm không chỉ gồm có huy hiệu của gia tộc, mà còn có cả các pháp khí từng được các tôn giáo cổ đại sử dụng. Ngoài ra, trong số rất nhiều hoa văn kỳ quái trên thiên châu, có không ít là hoa văn chuyên dụng của một số gia tộc nào đó, chỉ là đến ngày nay, e rằng không còn ai nhận ra được chúng nữa mà thôi."

    Lúc này, Nhạc Dương chạy đến hỏi: "Cường Ba thiếu gia, đại sư, hai người…"

    Lạt ma Á La hỏi: "Nói chuyện xong rồi, có chuyện gì vậy?"

    Nhạc Dương nói: "Cường Ba thiếu gia, giáo sư Phương Tân muốn anh qua nói một chút về tình hình bầy sói hôm trước."

    Trác Mộc Cường Ba đứng lên hỏi: "Các cậu chưa kể à?"

    Nhạc Dương gãi đầu: "Giáo sư bảo chúng tôi kể không chuyên nghiệp chút nào…"

    Trác Mộc Cường Ba cười lên ha hả, sải chân bước đi. Nhạc Dương ở phía sau căn vặn: "Thế nào, Lạt ma Á La nói gì vậy?"

    Trở vào trong nhà, Mẫn Mẫn và Trương Lập đang tranh luận gì đó, rõ ràng cô không tin những gì Trương Lập kể cho lắm, giáo sư Phương Tân đang nhập dữ liệu vào máy tính. Trác Mộc Cường Ba đã tự mình trải qua vụ đụng độ với bầy sói, lại lựa ra những chỗ chính yếu, nên nhanh chóng giúp giáo sư Phương Tân hiểu được tất cả mọi chuyện họ gặp phải hôm trước.

    Nghe Trác Mộc Cường Ba kể xong, giáo sư Phương Tân nói: "Rõ ràng là sói di cư rồi, nhưng lại có điểm khác biệt với tất cả những đàn sói di cư mà chúng ta từng nghiên cứu, tôi muốn đích thân đi quan sát một phen…"

    "Không, không, không, không thể được…" giáo sư Phương Tân còn chưa dứt lời, đã bị mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba cực lực ngăn cản. Hệ số nguy hiểm quá lớn, nhưng giáo sư Phương Tân đâu dễ dàng bỏ cuộc đến thế, cuối cùng Trác Mộc Cường Ba đành nói, muốn đi cũng phải đợi vũ khí trang bị vận chuyển đến đã, sau đó còn phải hỏi ý kiến Lữ Cánh Nam, vậy mới khiến giáo sư Phương Tân tạm gác ý định đó lại.

    Trương Lập nói: "À, tôi định hỏi anh từ hôm qua rồi cơ, Cường Ba thiếu gia, hôm trước anh nói, chỉ ở trong đàn sói di trú mới có thể xuất hiện vua sói, những đàn khác thì chỉ có sói đầu đàn, sói thống lĩnh, chuyện là như thế nào vậy?"

    Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, nói: "Chuyện này để thầy giáo giải thích thì rõ ràng hơn."

    Giáo sư Phương Tân nói: "Cậu có biết tập trí là gì không?"

    Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc lắc đầu. Giáo sư Phương Tân liền giảng giải: "Thấy chưa, đây chính là chỗ tai hại của việc không thích học đấy. Tập trí, chính là chỉ trí tuệ tập thể. Hệ thần kinh của những cá thể nhỏ bé như ong mật hay kiến đều hết sức đơn giản, khi chúng là một cá thể thì hầu như chẳng có trí tuệ gì. Thế nhưng, khi số lượng cá thể đạt đến một con số nhất định, sẽ tự động nảy sinh một dạng trí tuệ tập thể, chúng có thể xây dựng những cái tổ phức tạp, tuân theo những quy tắc xã hội phức tạp, có lúc thoạt nhìn thấy gần như là xã hội loài người thu nhỏ vậy, thậm chí còn tinh chuẩn hơn cả con người nữa, tại sao lại như vậy chứ?"

    Nhạc Dương và Trương Lập lại lắc đầu, giáo sư Phương Tân tiếp tục giải thích: "Ở đây có một vấn đề cấp độ. Một là điểm, vô số điểm nối lại với nhau thì thành đường, hai đường thẳng giao nhau thì thành một mặt phẳng, vô số mặt phẳng chồng chất lên nhau thì tổ hợp thành không gian lập thể mà chúng ta đang tồn tại, đây chính là không gian vĩ độ mà các nhà khoa học vẫn thường nói đến, các không gian vĩ độ cao đều do các không gian vĩ độ thấp tổ hợp mà thành. Đồng thời các nhà khoa học cũng cho rằng, phương diện trí tuệ cũng tương tự như vĩ độ không gian này vậy, sao các cậu ngây ra thế? Chà chà, vậy mà cũng không hiểu được hả? Thôi thì tôi nói đơn giản hơn một chút vậy, các cậu thử tưởng tượng một chút nhé, một cái bóng đèn nếu tắt hay sáng, thì nó chỉ có thể biểu thị tắt hay sáng thôi, có đúng không? Nếu như có một nghìn cái bóng đèn xếp thành hình vuông, vậy thì khi bật hay tắt một phần những bóng đèn trong đó, chẳng phải là sẽ có thể hiện thành những hình khác nhau hay sao? Như vậy đã hiểu được chưa, một con ong mật chính là một cái bóng đèn, nó không có trí tuệ gì cả, là một cá thể cùng lắm chỉ có một chút bản năng sinh tồn, nhưng khi cả đàn ong tập trung lại, bọn chúng liền trở thành động vật có tính xã hội, chúng có ong chúa, có ong đực, có binh sĩ chiến đấu, có con phụ trách ong non, có con thu thập lương thực. Khi ấy, hiện ra trước mắt chúng ta, là một đại biểu gia đình đầy trí tuệ."

    Nhạc Dương và Trương Lập đã hơi hơi hiểu, bắt đầu gật gù. Kế đó, giáo sư Phương Tân lại nói: "Kiểu trí tuệ tập thể này thích hợp với đại đa số các loài động vật quần cư, bao gồm cả tổ tiên loài người chúng ta; cùng một lý do đó, cũng bao gồm cả đàn sói. Khi đàn sói lấy gia tộc làm đơn vị, chúng chủ yếu là săn bắt, vấn đề mà con sói đầu đàn quan tâm chỉ là bảo vệ lãnh địa của gia tộc và địa vị thủ lĩnh của mình, đảm bảo gia tộc của nó có thể tiếp tục tồn tại lâu dài, mặc dù trong đàn sói có sản sinh ra quan hệ địa vị xã hội cao thấp, nhưng trí tuệ rất có hạn. Khi chúng phát triển thành một tập đoàn sói, quan hệ xã hội không chỉ là trong nội bộ gia tộc với nhau nữa, đồng thời, giữa các gia tộc cũng sẽ nảy sinh sự phân biệt về địa vị xã hội, săn bắt tập thể cũng cần sự phối hợp chặt chẽ hơn, điều động chỉ huy chuẩn xác hơn, có điều chúng cũng vẫn có một vấn đề,đó là vấn đề khu vực. Khu vực hạn định phạm vi hoạt động của chúng, không dám dời khỏi hoàn cảnh sinh tồn ban đầu của mình thì trước sau khó có thể đột phá được giới hạn thấp để nảy sinh trí tuệ tập thể. Cổ nhân có câu, đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường, trong thời đại không có thông tin điện tử như bây giờ, nếu muốn tăng cường kiến thức, thì cần phải du lịch khắp nơi, đối với bầy sói cũng vậy thôi. Chỉ có trên con đường di cư, chúng mới gặp được các sinh vật chủng loại khác nhau, giao lưu với những đàn sói ở khu vực khác, có thể học được các kỹ xảo săn bắt đặc biêt; trên đường di cư, mới cần phải thích ứng với những hoàn cảnh sinh tồn khác nhau; quan trọng hơn cả, là bầy sói di cư sẽ không ngừng lớn mạnh, khi số lượng sói trong đàn tăng đến một điểm giới hạn, toàn thể đàn sói sẽ nảy sinh đột phát, sản sinh ra trí tuệ tập thể mà tôi vừa nói đến.

    Giáo sư Phương Tân hít sâu vào một hơi, nói: "Về điểm tới hạn này thì trong giới học thuật cũng chưa có định luận, tóm lại, nếu số lượng bầy sói tăng đến một cơ số tương đối lớn, cả bầy sẽ xuất hiện một thay đổi nghiêng trời lệch đất. Phải biết rằng, trong bản thân lũ sói đã tiến hóa ra các loại ngôn ngữ cơ thể, cơ chế phụ trách săn bắt và đẳng cấp xã hội rất nghiêm khắc, khi chúng nảy sinh hiện tượng trí tuệ tập thể, trí tuệ của cả bầy sẽ có một bước nhảy lớn. Có chuyên gia đã tính toán, khi đó, trí tuệ và hình thái xã hội của bầy sói sẽ có thể đạt đến hoặc vượt trên trình độ văn minh của xã hội nô lệ loài người. Nói một cách thông tục hơn, chẳng hạn như bầy sói di cư xuất hiện hôm nay vậy, chỉ số thông minh của chúng còn cao hơn cả người thời đồ đá, có khả năng là đã đạt đến trình độ văn minh của nước ta thời kỳ triều Hạ 1, hoặc giả có thể còn cao hơn. Sự thực là, xã hội loài người xưa cũng thông qua hình thức trí tuệ tập thể này mà tiến hóa tới thứ mà chúng ta ngày nay gọi là văn minh, người ta vẫn thường nói, con người có trí tuệ từ lao động, điều này không hoàn toàn chuẩn xác cho lắm, nói một cách chuẩn xác, thì phải là, con người có trí tuệ từ trong lao động tập thể."

    --------------------------------

    1 Ông giáo sư này nghiên cứu về chó nhiều quá đến mức không còn tỉnh táo nữa rồi. Trí tuệ tập thể chỉ là một trong nhiều điều kiện lịch sử để hình thành nên nền văn minh nhân loại; vì thế cho dù chó sói có chỉ số IQ cao như trong truyện, thậm chí vượt cả loài người, nhưng không có hai chi trước phát triển để có thể chế tạo và sử dụng công cụ lao động thì sói vẫn là… chó thôi. Điều này giáo trình Sinh học phổ thông đã nói qua rồi.
     
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 77: Bình Minh Núi Tuyết

    Nhìn vẻ mặt nghi hoặc của Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: "Tôi biết cậu muốn hỏi gì rồi, nếu bầy sói đã có thể tiến hóa đến đẳng cấp xã hội cao như thế rồi, tại sao lại không xuất hiện người sói phải không? Thực ra cũng rất đáng tiếc, tại sao ngày nay không xuất hiện người sói chứ? Đó chính là vì, bọn chúng đã chậm mất một bước, tổ tiên chúng ta đã tiến lên trí tuệ tập thể trước rồi, cũng chính là nền văn minh mà ngày nay mọi người vẫn nói, trong khi bầy sói muốn tiến lên một nền văn minh thuộc về loài sói thì lịch sử đã không cho phép nữa rồi. Cậu phải biết rằng, tiền để xuất hiện sói di cư là những năm tháng đói kém, nếu không có con người, bọn chúng đã có thể đạt được tiến hóa cực đại, nhưng rất đáng tiếc, con người đã tiến hóa trước chúng. Cậu thử nghĩ xem, khi khó khăn đói kém, con người cũng phải đối mặt với tình trạng ấy, bầy sói dù có lợi hại đến đâu cũng sao có thể so được với loài người cũng đói khát như chúng cơ chứ. Trong lịch sử từng xuât hiện những lúc sói thành họa trên diện tích lớn, tổ tiên chúng ta đã dốc hết sức lực ra để diệt trừ, giờ thì đã hiểu ra rồi chứ. Vì vậy lũ sói chỉ có thể dừng ở sói di cư, chứ không thể tiến hóa thêm một bước nữa. Nhưng cho dù là thế, muốn khống chế cả một tập thể rất nhiều con sói, cân đối công việc ở các phương diện khác nhau, thì cũng cần có một vị thủ lĩnh có mưu lược, kiến thức, năng lực hành động đều vượt xa những con sói khác, chính là vua sói, được tất cả bầy đàn công nhận."

    Trương Lập nói: "Vậy thì trong đàn sói mà chúng ta thấy kia…"

    Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Trong đàn sói các cậu trông thấy đó không có vua sói đâu. Trước tiên là đàn sói chưa đủ số lượng để nảy sinh trí tuệ tập thể, chưa đạt đến mức có thể đột phá rào cản trí tuệ. Kế đó, nếu đã có vua sói, thì địa vị của nó là hết sức siêu nhiên, không cần phải tốn công tìm kiếm để nhận diện làm gì, nhìn một cái là thấy ngay… Ừm, tất nhiên, tôi cũng chưa thấy bao giờ, có điều đại đa số các chuyên gia đều có nhận định như vậy cả. Tôi nghĩ, với cảm giác mà đàn sói này mang đến cho tôi và Cường Ba, có lẽ chúng là bộ phận nhỏ ly khai khỏi một đàn sói đã sản sinh trí tuệ tập thể, do mấy con sói đầu lĩnh dẫn đầu, còn mục đích và kế hoạch của chúng là gì thì vẫn còn phải tiến hành quan sát sâu hơn mới đưa ra kết luận được. Cường Ba, cậu thấy thế nào?"

    Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Tôi cũng cho là như vậy. Trong quá trình chiến đấu giữa bầy sói và đàn bò Yak, không thấy xuất hiện một vị chỉ huy duy nhất, bọn chúng chia thành mấy nhóm lớn để triển khai hành động."

    Giáo sư Phương Tân nói: "Đúng rồi, các cậu kể rằng cuối cùng khi lang tiêu vang lên, trên núi tuyết có dạ đế đáp lại tiếng sói tru hả?"

    Nhạc Dương gật đầu: "Dạ đế ấy chính là yêu tinh tuyết, chú Cương Nhật Phổ Bạc bảo thế."

    Giáo sư Phương Tân nói: "Ờ, người tuyết, yêu tinh tuyết, dã nhân, dạ đế, các cách gọi đều có cả, có điều chỉ người Hạ Ba Nhĩ sống trong dãy Himalaya và cư dân ở đây mới phát âm là "dạ đế" thôi. Tôi từng nghe một thuyết nói rằng, cách phát âm "dạ đế" này là do người Hán lưu lại, người Hạ Nhĩ Ba lại đem nó dịch âm ra, về sau lại được dịch âm sang nước ngoài, rồi lại được dịch âm ngược trở lại một lần nữa."

    Nhạc Dương nói: "Làm sao có chuyện đó được?"

    Giáo sư Phương Tân mỉm cười: "Cậu không biết sao, ở huyện Đạt Mã từng có một con đường cổ nối liền Đại Đường và Thổ Phồn, tương truyền là do Văn Thành công chúa hoạch định xây dựng, người nước Đại Đường có thể thông qua con đường này mà thẳng đến Thiên Trúc, ừm, bên ngoài huyện thành có bia khắc bằng chữ Hán mà. Cũng có khả năng là do người Hán chúng ta đặt tên lắm chứ, có điều trong sử liệu không thể tìm thấy dấu tích gì mà thôi. Chúng tôi từng tìm kiếm trên diện rộng, cuối cùng chỉ phát hiện trong một cuốn tạp ký của người thời Tống có bài thơ Đường không đề tên tác giả nhắc đến: Đỉnh cao núi tuyết; có vượn đêm gào; trăng vừa lộ ra; có sói hòa theo… Chữ đêm gào (dạ đề) này có phải chữ dạ đế mà người Hạ Nhĩ Ba dịch âm ra hay không thì chúng tôi không thể biết được."

    "Cổ đạo Đường – Phiên?" Nhạc Dương lấy làm kỳ lạ nói: "Giáo quan và Mã Bảo có nhắc đến đâu nhỉ?"

    Giáo sư Phương Tân nói: "Ừm, là thế này, con đường đó đã biến mất từ lâu lắm rồi, có thuyết nói đấy là đường do Văn Thành công chúa xây nên, cũng có thuyết bảo đó là đường Xích Tôn công chúa đã đi và đất Tạng, nhưng đến ngày nay thì ngoài một tấm bia đá có khắc chữ Hán ra, không thể tìm được một sử liệu nào, cũng không tìm thấy dấu vết của con đường cổ xưa ấy nữa. Tôi đoán chừng có lẽ là vì con đường này băng qua đại tuyết sơn, quả thực hết sức hiểm trở khó đi, vậy nên sử dụng chưa được bao lâu đã bị bỏ hoang rồi. Chúng tôi cũng tình cờ nghe nói đến khi đến huyện Đạt Mã lần trước thôi, đúng không, Cường Ba?"

    Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu: "À, ờ, chữ dạ đế ấy trong tiếng Hạ Nhĩ Ba nghĩa là… người sống trên vách đá…" Dòng suy tư của gã bay đi rất xa, rất xa, dạ đế, người sống trên vách đá, sống chung với sói, bộ tộc Qua Ba… liệu có một liên hệ nào đó hay chăng?

    Đêm hôm ấy, Trác Mộc Cường Ba mơ một giấc mơ kỳ quái. Trong mơ, gã đến một nơi giống như hinh vòng cung trên bề mặt trăng, giữa vòng vây núi non trùng điệp là một mặt hồ phẳng lặng như gương, ánh trăng hòa tan trong nước hồ, tinh tú lấp lánh trên mặt hồ. Bên bờ hồ, một đám người mơ hồ đang ngồi, họ cao giọng ca hát, lời ca hào hùng phóng khoáng, nghe tựa như tiếng gọi từ thời viễn cổ xa xăm, khiến Trác Mộc Cường Ba chợt thấy nhớ nhung, chỉ muốn đến gần họ, cùng cất cao tiếng hát.

    Xung quanh những người đó còn có rất nhiều sói, chúng ngồi chồm hỗm bên cạnh mọi người, ngẩng đầu nhìn trời cao, cũng hòa theo tiếng ca khàn khàn hào hùng ấy mà cất tiếng tru khi cao khi thấp. Tiếng sói tru không ngờ lại hết sức hài hòa với tiếng hát, ngoài ra còn có tiếng côn trùng, chim muông, tiếng gió hòa vào, cùng làm nên một bản hợp xướng giữa trời đất mênh mang.

    Trong không gian đặc biệt ấy, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy tự do chưa từng thấy, gỡ bỏ được những xiềng xích trong lòng, vứt hết phiền não của chốn thế tục, tâm linh được giải phóng, cơ hồ như muốn theo tiếng ca cất cánh bay cao.

    ° ° °

    Ba ngày sau đó, ngoài khu vực bị bầy sói chiếm cứ, thật sự họ không tìm thấy con đường nào khác có thể lên núi, đội trưởng Hồ Dương lấy làm bực tức, đến cả lúc nói chuyện bình thường, khẩu khí của anh cũng hết sức nặng nề cứ như thể đang mắng chửi người ta vậy. Trác Mộc Cường Ba cũng đem suy nghĩ của giáo sư Phương Tân nói với Lữ Cánh Nam, tuy cô cho rằng khảo sát đàn sói này không phải là chuyện họ nên quan tâm, nhưng con đường lên núi mà đội trưởng Hồ Dương đã tốn công tìm ra thì lại rất đáng đi xem thế nào. Chỉ có điều, các đồng chí ở Cục Khí tượng mãi vẫn chưa tính toán được khi nào thì thời tiết trên núi thuận lợi, vũ khí lại phải đợi tới khi xác định xong thời gian lên núi mới được đưa đến, không có vũ khí, bọn họ cũng biết điều mà không đến quấy nhiễu lũ sói ấy.

    Lại thêm mấy ngày nữa qua đi, công tác khảo sát về cơ bản đã kết thúc, hàng ngày, Lữ Cánh Nam để mọi người tập luyện mang vác nặng dưới chân núi, coi như là huấn luyện để thích ứng với môi trường. Khoảng thời gian này dễ chịu hơn so với lúc đi thăm dò địa hình rất nhiều, ít nhất thì buổi chiều còn có nửa ngày nghỉ ngơi. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba thường đến nhà Cương Nhật Phổ Bạc, gã và giáo sư Phương Tân vốn đã quen biết Cương Nhật Phổ Bạc từ trước, chuyện gì cũng nói được, nếu không phải đại bản doanh đặt ở làng Nạp Lạp, bọn gã đã ở lại luôn nhà anh ta rồi. Trác Mộc Cường Ba cũng hỏi về gia tộc của Cương Nhật Phổ Bạc, thấy gã đã biết chuyện, Cương Nhật Phổ Bạc cũng không tiện che giấu nữa, gật đầu thừa nhận luôn, về đại thể cũng nói giống như với Lạt ma Á La. Đội trưởng Hồ Dương thì vẫn nuôi hy vọng Cương Nhật Phổ Bạc có thể dẫn đường cho họ lên núi, vì tuy quãng đường đến khu vực có mù tuyết không vấn đề gì, nhưng ở vùng có mù tuyết che phủ thì tình hình sẽ như thế nào, không lên trên đó thì không thể nói được. Trương Lập và Nhạc Dương thì chỉ đến chơi, hai anh chàng này rất thích chơi với Cương Lạp, đặc biệt là Nhạc Dương, anh cực kỳ quý mến con chó ngao thân trắng như tuyết, hơn nữa lại còn hiểu được ý người này. Đường Mẫn cũng rất quý Cương Lạp, vừa gặp đã yêu thích ngay, nhưng không hiểu vì nguyên nhân gì, Cương Lạp lại chẳng buồn để ý đến cô, đã mấy lần giở trò, hoặc cùng Nhạc Dương, Trương Lập đùa ác, khiến cô nàng cuống đến đỏ lựng cả mắt lên. Quan hệ của Cương Lạp với Lữ Cánh Nam cũng không được tốt lắm, có lúc còn nhe nanh múa vuốt ra với cô nữa, rõ ràng là có ý đồ muốn đọ sức với cô nàng này một phen. Còn Ba Tang và Lạt ma Á La thì ít khi đến, nói ra thì cũng lạ, từ lúc đến thôn Nạp Lạp, Ba Tang thường xuyên nhìn núi tuyết và quầng sương trên đỉnh núi mà ngây người ra, có lúc còn đờ đẫn một lúc rất lâu nữa. Nhưng từ sau khi xảy ra sự việc kia, mọi người đều cố gắng tránh không làm phiền anh ta, vừa hy vọng Ba Tang nhớ ra được gì đó, lại sợ anh ta bệnh cũ tái phát. Kỳ thực, Nhạc Dương còn phát hiện Trương Lập cũng có tình trạng tương tự như vậy, ngay cả lúc chơi đùa với Cương Lạp cũng có thể thấy anh chàng ngây người nhìn chăm chăm về phía núi tuyết, không biết là đang nghĩ gì nữa.

    Kết quả dự báo của Cục Khí tượng cuối cùng cũng được gửi đến, vậy là quyết định cuối cùng về ngày tháng lên núi đã được đưa ra, giờ thì chỉ còn vấn đề tuyến đường nữa thôi. Vũ khí vừa đến tay, giáo sư Phương Tân và đội trưởng Hồ Dương đều nôn nóng muốn tới khu vực của bầy sói xem xét. Lữ Cánh Nam dặn dò ba bốn lượt, nhắc cả đội cố gắng không làm tổn thương đến lũ sói. Dù sao thì số lượng sói trong lãnh thổ Trung Quốc cũng đã ít đến độ đáng thương rồi, ước chừng chỉ còn bằng với số lượng lạc đà một bướu hoang dã, ít hơn cả lũ gấu mèo nữa.

    Không ngờ, họ còn chưa kịp xuất phát thì đã nhận được tin của Cương Nhật Phổ Bạc. "Mọi người không cần mang theo nhiều vũ khí đi tìm chúng nữa đâu, mang theo các thiết bị đo đạc là đủ rồi." Nhìn bọn Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị hành trang lên đường, Cương Nhật Phổ Bạc điềm đạm nói.

    "Gì hả, tại sao?" Trương Lập buột miệng hỏi.

    Cương Nhật Phổ Bạc nói: "Chúng bỏ đi rồi, sáng sớm hôm nay tôi đã trông thấy."

    "Đi rồi? Đi đâu?" Lần này người cuống lên là giáo sư Phương Tân.

    Cương Nhật Phổ Bạc lắc đầu: "Không biết. Hôm nay tôi vừa tỉnh dậy thì phát hiện lũ cừu trong chuồng, chúng đã trả lại hết, còn thêm mấy con cừu con nữa. Cương Lạp nói với tôi, nó không cảm giác thấy mùi của lũ sói đâu nữa, tôi mới lấy can đảm đi xem thử. Quả nhiên, chúng đi hết cả rồi, đàn bò Yak cũng đi rồi, không còn gì để lại cả." 1

    "Đi thôi, mau dẫn tôi đi xem nào!" giáo sư Phương Tân đã luống cuống đến nỗi rối rít cả lên. Ở đây, người nghiên cứu sói lâu nhất, khát khao được quan sát tập tính sinh sống của đàn sói nhất phải kể đến giáo sư đầu tiên, một cơ hội tốt như vậy mà lại vô duyên với mình, thử hỏi làm sao mà ông không cuống quýt! Giáo sư Phương Tân không mang theo thứ gì, chỉ đeo chiếc máy tính xách tay rồi kéo Cương Nhật Phổ Bạc đi luôn. Lữ Cánh Nam dặn dò mấy câu, rồi mọi người vẫn mang theo một số vũ khí nhẹ đuổi theo phía sau. Đội trưởng Hồ Dương nửa tin nửa ngờ, mang theo cả bộ thiết bị đo đạc.

    Khi bọn Trác Mộc Cường Ba trở lại nơi lũ sói và đàn bò Yak kịch chiến, trong lòng mọi người đều dâng lên một xúc cảm bồi hồi. Trác Mộc Cường Ba chợt thấy trống rỗng, tựa như vừa đánh mất thứ gì, thực ra, mặc dù lũ sói ấy khiến người ta cảm thấy ghê sợ, nhưng gã vẫn muốn nhìn thấy chúng lần nữa. Lũ sói đã tụ tập ở phía sau một triền núi khác, nơi đây giờ chỉ còn lại vài bãi chất thải của cả sói lẫn bò Yak, và thức ăn thừa của sói bỏ lại nữa, tất cả chúng đã di rời tập thể, dốc núi đá cuội lại không lưu vết chân, nên không thể biết chúng đã đi về phương nào.

    Nghĩ đến cuộc chiến kịch liệt của lũ sói và đàn bò Yak Trác Mộc Cường Ba từng kể với mình, cùng sự giảo hoạt và trí tuệ của chúng, giáo sư Phương Tân cứ không ngừng lắc đầu. Sao mình lại không kiên quyết đòi đến trước xem thử một lần nhỉ? Tiếc quá, tiếc quá là tiếc. Ông cẩn thận thu thập đống phân sói còn vương lại, không thấy sói thì mang ít phân về nghiên cứu cũng được. đội trưởng Hồ Dương thì sử dụng các thiết bị đo đạc, cẩn thận giảng giải cho Lữ Cánh Nam về tuyến đường lên núi mà anh vạch ra, cũng những vấn đề cần chú ý đặc biệt dọc đường. Khi nói đến khu vực mù tuyết, có mấy lần anh liếc sang phía Cương Nhật Phổ Bạc. Nhưng Cương Nhật Phổ Bạc đã cố ý đứng ở chỗ xa, chỉ đi theo Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân. Lạt ma Á La thấy vậy, khóe miệng liền nở một nụ cười thần bí.

    Đoàn người rời khỏi nơi tụ tập của bầy sói, lúc sắp chia tay, Cương Nhật Phổ Bạc hỏi bọn họ bao giờ lên núi tuyết, Trác Mộc Cường Ba đáp: "Ngày mai sẽ đi."

    Cương Nhật Phổ Bạc không hỏi gì thêm nữa. Cương Lạp nghe nói Trác Mộc Cường Ba sắp đi, liền cắn chặt gấu quần gã, không để cho đi. Trác Mộc Cường Ba ngồi xổm xuống, ôm cổ Cương Lạp nói: "Hì, Cương Lạp xem đấy, tao hứa rồi mà, nhất định sẽ về thăm mày, tao có làm hay không nào?"

    Cương Lạp bất mãn lắc đầu. Trác Mộc Cường Ba lại nói: "Lần này, tao lại hứa với mày, khi nào tìm được nơi ấy, tao sẽ nhanh chóng trở lại thăm mày, thế có được không? Lần này sẽ không để mày phải đợi lâu thế đâu! Nói không chừng, tao còn đưa về cho mày một người bạn thực sự nữa. Cương Lạp, nhìn tao đây này, mày là cô bé ngoan mà, có phải không? Mày biết mà, tao sẽ không gạt mày đâu, lần này, tao sẽ đi tìm vua của chúng mày… Ngoan ngoãn đợi tao về nhế, được không?"

    Cương Lạp nghe như nửa hiểu nửa không, tủi thân cúi gằm đầu xuống, trong mũi khọt khà khọt khẹt. Trác Mộc Cường Ba phải khuyên giải mãi nói mới chịu thôi. Cương Nhật Phổ Bạc dẫn theo Cương Lạp đứng trên dốc núi nhìn bọn Trác Mộc Cường Ba đi khỏi, nét mặt hết sức phức tạp, hồi lâu sau mới nghe anh ta nói với Cương Lạp: "Họ đi rồi, chúng ta cũng trở về thôi."

    Trở về thôn Nạp Lạp, đội trưởng Hồ Dương liền thuật lại kỹ càng tình hình đo đạc quan trắc của ngày hôm nay với mọi người, chỉ ra các tình huống nguy hiểm có thể xuất hiện và cách đề phòng những hiểm họa tự nhiên. Đối với việc mang theo vũ khí lên núi tuyết, anh tỏ ra không tán đồng cho lắm, trước tiên là vì riêng bộ trang bị buộc phỉa mang theo khi leo núi đã nặng nề lắm rồi, hơn nữa khả năng kẻ địch xuất hiện trên núi tuyết là rất thấp, nếu có người thì đã phát hiện từ một quãng rất xa rồi, thêm nữa mang theo vũ khí có thể dẫn đến một số tai họa tự nhiên. Lữ Cánh Nam thương lượng với mọi người, rồi quyết định vẫn chọn một số vũ khí nhẹ mang theo, phòng họa khi chưa xảy ra vẫn hơn, sau đó cô lại dặn dò cả đội đi ngủ sớm, ngày mai họ sẽ có cả một hành trình mang vác nặng leo núi.

    Ở thôn Nạp Lạp đã mấy ngày, mọi người đều đã thân quen với dân làng. Dân ở đây nhiệt tình hiếu khách, lại giỏi ca múa, nghe nói cả đoàn sắp đi, còn định mở tiệc tiễn đưa, nhưng bị Lữ Cánh Nam và đội trưởng Hồ Dương từ chối. đội trưởng Hồ Dương nói với Mã Bảo, nếu muốn chúc mừng thì đợi khi họ trở về chúc mừng cũng chưa muộn. Mã Bảo thầm nghĩ, nếu lên núi tuyết, không biết còn có thể trở về hay không nữa…

    Nghỉ ngơi trong làng một đêm, hôm sau khi trời còn chưa sáng, đoàn người đã vác trên lưng những chiếc ba lô nặng trịch tiến về phía đỉnh núi tuyết. Ban đầu đội trưởng Hồ Dương nghĩ có thể thuê hai người Hạ Nhĩ Ba gồng gánh đống máy móc, nhưng mấy người Hạ Nhĩ Ba vừa nghe thấy họ muốn lên núi Tư Tất Kiệt Mạc còn đáng sợ hơn cả đỉnh Chomolungma thì không ai chịu đi theo nữa, đều bảo nơi ấy là vùng tuyệt địa bị ma quỷ nguyền rủa, người nào đến đó đều không thể sống sót trở về. Các thành viên trong đội phải cắm trại trên sườn núi một đêm, các thứ trang bị cộng thêm vũ khí, thực sự là không nhẹ chút nào.

    Đi được hơn một tiếng đồng hồ trên con đường lên núi mà trời vẫn chưa sáng hẳn, Nhạc Dương nói: "Sao phải xuất phát sớm vậy làm gì chứ?"

    Đội trưởng Hồ Dương đáp: "Tôi đã tính toán kỹ rồi, với tốc độ hiện nay của chúng ta, cần phải đi hết tốc lực mới có thể lên được quá lằn tuyết trước buổi trưa, ở đó sẽ là nơi đóng quân lâm thời để chúng ta lên đỉnh. Lên đến đó, muốn phục hồi thể lực ít nhất cũng cần nửa ngày mới đủ."

    Trương Lập nói: "Không nghiêm trọng đến vậy chứ, chúng ta leo thẳng lên từ độ cao năm nghìn mét so với mực nước biển, lằn tuyết ở độ cao khoảng sáu nghìn mét, cho dù đường núi xa, không khí loãng thì cũng đâu cần đến nửa ngày hồi phục thể lực chứ?"

    Ba Tang nhìn bầu trời đêm, trăng tròn còn chưa lặn, mây mỏng như tấm sa, bình tĩnh nói: "Đến chiều sẽ có gió lớn."

    Lữ Cánh Nam cũng nói: "Đúng thế, các đồng chí ở Cục Khí tượng nói, buổi chiều gió rất lớn, nếu trước giờ trưa mà không thể đến được nơi đóng quân lâm thời đã định trước, việc leo trèo buổi chiều sẽ khiến chúng ta tiêu hao nhiều thể lực hơn nữa."

    Đường Mẫn nghi hoặc lặp lại: "Gió lớn lắm à?"

    Bọn họ đều chưa từng trải nghiệm gió trên núi tuyết, gió như thế nào thì gọi là gió lớn họ cũng chưa có khái niệm rõ ràng cho lắm.

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Cô nhóc, ở đây không phải là Tử vong Tây phong cốc, nó gọi là Tử vong Tây phong đới, cả mạch núi hướng về phía Tây Bắc dài mấy trăm cây số đều bị bao bọc trong dải gió Tây. Những cơn gió thốc kia vượt qua núi, đến phía bên kia thì gặp phải khí áp thấp của cao nguyên, liền cuộn ngược trở lại, hoàn toàn khác hẳn với gió xuống dốc trên các sông băng thông thường, đó tuyệt đối là gió lên dốc đấy, chỗ chúng tôi vẫn gọi là vòi rồng xoắn, khá giống với lồng quay trong máy giặt là một kiểu gió lốc theo hướng ngang. Gió thổi thốc từ phía dưới lên trên, muốn đứng cũng khó có thể đứng cho vững được, dù dựng trại kiểu kén tằm cũng không thể chống đỡ lại thế gió ấy được, trừ phi có thể đến nơi đóng quân lâm thời đã định trước kịp lúc, bằng không rất có thể ngay từ dưới chân núi chúng ta đã bị thổi cho tan đàn xẻ nghé đó."

    Hiện giờ vãn còn ở chân núi tuyết, cả đoàn đều dốc hết tốc lực băng qua những con dốc đầy cỏ, trăng lặng sao mờ, sắc trời sáng dần lên, tinh thần của mọi người cũng dần dần khá hơn.

    Gió sớm lành lạnh phất vào mặt làm tinh thần sảng khoái, không khí đặc biệt thanh tân, hít sâu một hơi, tựa như có bạc hà trong miệng, mát đến tận phế phủ, tiếng côn trùng ẩn trong đám cỏ không ngừng không nghỉ, khi cao khi thấp, rất có âm điệu, khi thì như tiếng huyền cầm trầm ấm thiết tha, lúc lại như tiếng đàn tranh cao vút vời vợi. Phía Nam rặng núi, tinh tú vẫn còn chưa khuất hẳn, ánh sao lấm tấm lấp lóe như những viên bảo thạch, một vầng trăng sáng lộ nửa mặt ra trong áng mây, chậm rãi chìm xuống phía sau đỉnh núi phía Tây, vừa đúng lúc trông như một hạt minh châu khảm trên đỉnh núi, ánh trăng dịu dàng phản chiếu lên núi tuyết tựa ánh sáng của chư thần phổ chiếu khắp mặt đất mênh mang. Vào thời khắc đó, trắng xóa là tuyết trên núi, trắng sáng lên chính là vầng nguyệt trong mây kia.

    Đi tới lưng chừng núi thì trăng đã lặn về Tây, thay vào đó là ráng mây rực rỡ hiện ra phía trời Đông. Phía sau rặng núi sáng bừng lên, nơi chân trời bị tách ra một quầng sáng hình cung rõ rệt, những ráng mây bảy sắc đùn lên, tập trung phía trên rặng núi trập trùng, tựa như trăm loài chim cùng tề tựu về chầu chim phượng. Những dải ánh sáng ấy biến hóa hết sức khác thường, lúc như cưỡi rồng ngự gió ngự sương, lúc lại như cá chép vượt biển, có lúc lại giống chim ưng bắt thỏ, hay thiên mã hoành không, màu sắc diễm lệ phi phàm, đỏ như hồng bảo thạch, trắng như ngọc mỡ dê, lam thì như bầu trời xanh ngắt, lục thì như đồng cỏ mênh mang, quả là thiên công tạo hóa, khiến người ta lưu luyến quên cả lối về, tâm trạng cũng thông suốt và thư giãn hơn nhiều. Trong những ráng mây sắc màu rực rỡ ấy, vầng hồng từ từ dâng lên, mới đầu còn như một tiểu cô nương hay xấu hổ, giơ đàn tì bà lên che khuất nửa mặt, chỉ để lộ ra một nửa nhỏ của khuôn mặt, sắc đỏ bừng bừng, ngượng ngùng thẹn thùng không dám ra ngoài. Mọi người đều không cầm lòng được mà dừng bước, sững sờ đứng trên lưng chừng núi đợi mặt trời lên, tâm trạng ấy, tựa hồ như đợi chú gà con mổ vỡ vỏ trứng chui ra, tràn đầy niềm vui và sự kích động như khi chứng kiến một sinh mạng mới sắp có mặt trên đời này. Vầng hồng mới nhú không hề chói lóa, ánh sáng ôn nhuận mềm mại như ngọc, thần quang đều thu vào bên trong, nhưng lại ẩn chứa sức mạnh vô cùng vô tận. Nó chầm chậm gắng sức dâng lên cao, từng chút, từng chút, một cái mâm bằng huyết ngọc từ từ thành hình giữa những đỉnh núi sừng sững, mây mù bốn phương tám hướng đều tụ về triều kiến như muôn sao chầu quanh vầng nguyệt, tưng bừng hoan ca để chúc mừng ngọn nguồn của vạn vật trong trời đất lại một lần nữa xuất hiện. Cuối cùng, vầng hồng ấy vùng lên mạnh mẽ, tựa như dưa chín rụng cuống, chim non phá vỡ vỏ trứng, hoàn toàn thoát khỏi đường chân trời hình thành bởi dãy núi non nhấp nhô trùng điệp, tựa như cánh chim thoát khỏi lồng tung bay cao vút; tốc độ dâng lên của vầng dương cũng dần tăng, chỉ trong khoảnh khắc ánh sáng chói ngời đã phủ xuống mặt đất bao la, cả ngọn núi tuyết thần thánh cũng khẽ run lên trước uy nghi ấy! Mặt đất kiền thành cúi đầu khuất phục, những cơn gió đang thỏa sức tung hoành giữa núi non bỗng dưng lặng đi, cảm giác ấm áp bao bọc toàn thân mỗi người, khiến một chút mệt mỏi cùng tất thảy nỗi u uất khó chịu trong tâm thức đều tan biến. Đó là nguồn ánh sáng đã tạo nên vạn vật chúng sinh, đó là suối nguồn của mọi thứ lực lượng, đó là vị chúa tể chân chính của cả tinh hệ này! Mọi người không sao hiểu nổi, cảnh mặt trời trên núi tuyết này có điểm gì khác với những nơi khác, tại sao lại khiến tâm trạng của mình xao động đến thế, cảm giác xung động chỉ muốn khóc òa lên mà quỳ xuống bái lạy ấy khởi nguồn từ nơi nao? Nhất thời, thiên địa đều chìm trong tĩnh lặng, chỉ có quầng sáng chói lòa đang chăm chú quan sát vạn vật nó tỏa chiếu, không phân chính tà, không có đúng sai, từ thuở hằng cổ nó đã tồn tại, rồi mãi mãi về sau nó cũng vẫn bừng cháy như thế, đối với nó, con người chỉ là một loại chúng sinh trên mặt đất mênh mang này, cũng hèn mọn nhỏ bé, cũng chỉ là một thứ ký sinh vật sống trên thân thể đồng loại của nó, địa cầu.

    Lặng ngắt một hồi lâu, không ai nói gì, tâm trạng mỗi người mỗi khác, có hào hùng, có thẹn thùng, có kính ngưỡng, có tự ti. Mang theo tâm trạng phức tạp lạ thường, Lạt ma Á La là người đầu tiên xoay lại; mấy người Trác Mộc Cường Ba, Đường Mẫn vẫn đứng bần thần ở đó. Lữ Cánh Nam lạnh lùng phát ra mệnh lệnh: "Tiếp tục tiến lên."

    --------------------------------

    1 Thật tiếc khi lần này đội của Lữ Cánh Nam đã bỏ lỡ cơ hội rút ngắn hành trình tìm Bạc Ba La của họ.
     
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 78: Cánh Cửa Địa Ngục


    Đội trưởng Hồ Dương ngoảnh lại, chưa đi được mấy bước đã đột nhiên trợn mắt há hốc miệng ra, ngẩng đầu ngước nhìn đỉnh núi mà không thốt lên được tiếng nào. Trương Lập đứng bên cạnh anh cũng ngước nhìn theo, chỉ thấy trên vách núi tuyết, trên dốc núi tựa như miếng bạch ngọc khổng lồ không tì vết ấy đột nhiên xuất hiện một dải lụa đỏ như máu, không khác nào dải thắt lưng trên tấm váy trắng của nữ thần núi tuyết, nổi bật mà tuyệt diễm đến lạ kỳ, sắc đỏ rực như muốn nhỏ máu ra, lại toán lên cả vài phần bí ẩn yêu dị. Trương Lập chỉ lên đỉnh núi kêu toáng: "Nhìn xem! Nhìn kìa! Đó là gì thế?"

    Nhạc Dương cũng kinh ngạc thốt lên: "Vừa nãy làm gì có mà, chuyện gì thế nhỉ? Có phải ráng mây bay qua không?"

    Đường Mẫn reo vang: "Đẹp quá! Mỹ lệ quá, màu sắc này, màu sắc này thật là…"

    Giáo sư Phương Tân nói: "Không phải ráng mây, mây và tuyết có gần nhau đến mấy cũng không thể thế được. Lẽ nào! Lẽ nào là…"

    Đội trưởng Hồ Dương giờ mới cất tiếng: "Huyết tuyết (tuyết đỏ như máu), đó là huyết tuyết đấy! Lần này xuất hành thật đúng là hỏng bét rồi."

    Vừa nghe thấy "huyết tuyết", mọi người đều sực tỉnh. Huyết tuyết và kỳ vân (mây như lá cờ) cũng là những cảnh sắc kỳ lạ hiếm thấy ở vùng núi tuyết cao nguyên, nhưng ý nghĩa khác hẳn nhau, kỳ vân trắng muốn như chiếc khăn Hada là tượng trưng của may mắn cát tường; huyết tuyết lại ngầm ám chỉ tại nạn, bị dân Tạng coi là điềm chẳng lành. Có lúc ở lưng chừng núi, giữa màn tuyết trắng ngần bỗng dưng xuất hiện một quầng đỏ như máu, người ta gọi là huyết tuyết, nhưng lại gần thì không thấy gì nữa, chuyện như thế bọn Trác Mộc Cường Ba chỉ mới nghe nói thôi chứ chưa tận mắt chứng kiến bao giờ. Giải thích theo quan đểm khoa học, huyết tuyết này có lẽ cũng giống như cầu vồng hoặc ảo ảnh, thuộc loại hiện tượng chiết xạ quang học, còn tại sao hiện tượng này lại xuất hiện ở giữa tầng tuyết, đồng thời mỗi khi xuất hiện thường kèm theo các hiện tượng tự nhiên mang tính chất phá hoại như tuyết lở, cuồng phong thì tạm thời đến nay vẫn chưa có cách giải thích nào xác đáng.

    Đội trưởng Hồ Dương kiến nghị: "Huyết tuyết xuất hiện, thời tiết sẽ biến đổi. Tôi cảm thấy, chúng ta nên trở về thôn làng dưới chân núi, chọn một thời cơ khác để lên đỉnh thì đảm bảo hơn." Anh hướng về phía Lữ Cánh Nam đang xây lưng lại với mình hỏi, "Thế nào?"

    Lữ Cánh Nam ngoảnh lại, khe khẽ lắc đầu, kiên định nói: "Lần này chúng ta buộc phải lên đến đỉnh, cơ hội chỉ có một lần thôi. Không thể không nghĩ rộng ra được, ở vùng chịu ảnh hưởng của dải gió Tây này, mỗi năm từ đầu tháng Năm đến giữa tháng Chín là mùa mưa, gió mùa Đông Nam mạnh sẽ gây mưa lớn kéo dài, mây mù khắp nơi, băng tuyết sụt lở vô thường, khí hậu rất khắc nghiệt. Khoảng trung tuần tháng Mười một đến trung tuần tháng Hai năm sau, lại bị luồng không khí lạnh Tây Bắc khống chế, nhiệt độ có thể hạ xuống đến âm 60 độ C, nhiệt độ trung bình là khoảng âm 40 độ C đến khoảng âm 50 độ C, tốc độ gió cao nhất có thể đạt 90 mét/giây. Từ đầu tháng Ba đến cuối tháng Tư, là mùa xuân, mùa quá độ từ mùa gió sang mùa mưa, còn từ đầu tháng Chín đến cuối tháng Mười là mùa thu, mùa quá độ từ mùa mưa sang mùa gió. Trong khoảng thời gian này mới có thể xuất hiện thời tiết tương đối tốt. Vì vậy mới nói, nếu lần này không thể lên đỉnh núi, chúng ta sẽ phải đợi thêm một năm nữa, bất kể là nhà nước hay là bản thân chúng ta cũng đều không thể đợi lâu như vậy được. Thêm nữa, thông tin của Cục Khí tượng rất rõ ràng, gần đây tầng mây khí quyển rất bình hòa, chắc sẽ không tụ tập ở gần dải núi này 1, đây là cơ hội tốt nhất đồng thời cũng là cơ hội duy nhất của chúng ta. Mặc dù nói có điềm lạ, đường phía trước chưa rõ ra sao, nhưng chúng ta cũng không thể mạo hiểm phen này."

    Trương Lập cũng lên tiếng ủng hộ: "Không sao, có lần nào mà chúng ta không mạo hiểm đâu."

    Đội trưởng Hồ Dương nhìn bóng lưng Lữ Cánh Nam thầm nhủ: "Quả nhiên là có chuyện gì đó không thể kéo dài được nữa à?"

    Không ngờ, mới chỉ đi được thêm hai tiếng đồng hồ nữa, thế gió trên dốc núi đột nhiên lớn hẳn, tựa như một bức tường chắn trước mặt chặn đứng bước tiến của các thành viên trong đội. Nhạc Dương cuống quýt hét toáng lên: "Không phải nói đến chiều mới có gió à? Sao giờ đã có rồi thế này?"

    Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu: "Huyết tuyết, đây chính là huyết tuyết đấy!"

    Lữ Cánh Nam nói: "Nếu cứ tiếp tục tiến lên như thế này, chỉ sợ đến được nơi đóng quân lâm thời, thể lực của chúng ta đã tiêu hao cạn kiệt rồi, ngày mai không thể tiếp tục lên đỉnh, có cách nào hay không, đội trưởng Hồ?"

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Phương án hai mà tối qua chúng ta đã định ra, nơi đóng quân lâm thời còn lại ở đâu?"

    Lữ Cánh Nam hướng về phía gió lớn, trải tấm bản đồ xuống đất, lấy đá đè lên: "Anh xem…"

    Đội trưởng Hồ Dương xem bản đồ, đoạn nói với Lữ Cánh Nam: "Dùng vệ tinh dẫn đường, nhờ các đồng chí bên Cục Khí tượng và Cục Địa chất hiệp trợ, chúng ta phải đi vòng tránh cơn gió này. Phía trên lằn tuyết, leo trèo sẽ khó khăn gấp mười lần bây giờ, không thể tiêu hao thể lực một cách vô nghĩa ở đây thế này được."

    Dọc đường, Lữ Cánh Nam dùng vệ tinh định vị dẫn đường, đồng thời không ngừng liên lạc với thế giới bên ngoài bằng điện thoại di động. Khu vực gần dãy Himalaya này có một điểm tốt là thế, vệ tinh phủ sóng, điện thoại di động có tín hiệu, có thể giữ liên lạc với thế giới bên ngoài.

    Cuối cùng, nhờ có sự giúp đỡ của hệ thống định vị vệ tinh, các chuyên gia phân tích bản đồ, nhân viên quan trắc khí tượng và các nhà địa chất học, mọi người đã tìm được một chỗ có thế gió tương đối yếu ở một cái khe phía Nam ngọn núi. Đây vốn là một mảnh đất bằng phẳng, nhưng ở giữa như bị người khổng lồ nào đó dùng thìa múc đi một miếng, diện tích cũng không lớn lắm, cơn gió lốc lướt qua bên trên khe núi, ít nhất thì cũng có thể dựng trại một cách ổn định, đây chính là nơi đóng quân lâm thời số hai của họ.

    Lều của họ là lều con tằm chuyên dụng ở các vùng địa cực, thoạt nhìn trông như nửa con tằm nằm ngang trên mặt đất. Loại lều này bên trong có mười sau đinh chốt, bên ngoài lại có thêm bốn dây cáp gia cố, khiến nó có thể cố định hết sức chắc chắn, bất kể là gió thổi theo hướng nào cũng ngăn được. Quan trọng hơn nữa là, nó sử dụng nguyên liệu mảng mỏng được cường hóa gồm hai lớp dạng tổ ong được bơm đầy không khí, cộng thêm ngoại hình vỏ tằm, khiến lều có thể chống đỡ được đã lăn và tuyết lở bình thường. Ở môi trường địa cực, gió mạnh có thể thổi cho những tảng đá to bằng cái thớt lăn lông lốc khắp nơi, lều bạt bình thường đụng phải là thủng lỗ ngay, chỉ có loại lều con tằm này mới chống đỡ được. Ở Nam Cực, trạm khảo sát khoa học của Trung Quốc cũng có hình dạng kiểu con tằm như thế này, có điều để tăng thêm diện tích sử dụng, trạm khảo sát đã được xây dựng trong giống một cái thùng sắt chôn một nửa dưới lòng đất hơn.

    Lều bạt tương đối thấp, phải khom người, cong lưng mới chui vào được, giống như là chui vào cái túi ngủ cỡ lớn vậy, thông thường một lều nằm được bốn người, nhưng muốn nổi lửa nấu cơm hay làm các việc gì khác thì phải ra ngoài. Họ bắc nồi cao áp ở sát vách khe núi, nơi này rất cao so với mực nước biển, áp suất không khí thấp, không dùng nồi cao áp thì không thể nấu chín được thức ăn, đến đun nước cũng không thể sôi. Ăn qua loa bữa trưa, các thành viên trong đội lại bắt đầu bận rộn, họ phải quan sát đo đạc hướng gió, tốc độ gió, tình hình tụ tan của tầng mây, quan trắc địa hình, xác định tuyến đường của ngày hôm sau, kiểm tra nước tuyết tan, quan sát hoàn cảnh xung quanh và thảm thực vật mọc trên đất. Vì đội của bọn họ nhận được nhiều sự giúp đỡ từ nhiều phía khác nhau, nên trong khi Lữ Cánh Nam liên hệ với bên ngoài, những nơi này cũng nhờ họ giúp quan trắc sự thay đổi khí hậu và hoàn cảnh tại thực địa. Giờ đã cắm trại ở lưng chừng núi, họ vốn cũng chuẩn bị đo đạc quan trắc điều kiện thời tiết và địa lý để chuẩn bị đầy đủ cho hành trình lên đỉnh ngày hôm sau, vậy nên cũng tiện thể nhận lời luôn.

    "Hướng gió, Đông Nam chếch về phía Tây, gió lên dốc."

    "Tốc độ gió, 15 mét/giây, đang dần tăng tốc."

    "Nhiệt độ, âm 2 độ C, quá trưa nhiệt độ sẽ tiếp tục hạ thấp."

    "Khí áp, 56,466 kPa(1 kilopascal = 0,01at; vậy khí áp ở đó chỉ bằng nửa điều kiện tiêu chuẩn)."

    "Thảm thực vật bề mặt, hiện nay có thể thấy tuyết liên hoa, tam chỉ phượng mao cúc, còn có… một số thực vật họ dương xỉ vô danh."

    "Hiện nay, chúng tôi đang ở dưới lằn tuyết, vị trí này thuộc tầng đất đông cứng, đã lấy xong mẫu đất, tiếp sau đây sẽ đo đạc khả năng thoát khí, hoạt tính xúc tác, lượng vi sinh vật, sinh vật, lượng khoáng cacbon hữu cơ, lượng đạm, độ axit kiềm… Bên trên lằn tuyết, nhìn bằng mắt thường thì ước chừng khoảng ba cây số là vào tầng phủ tuyết, năm cây số là vào phạm vi bao phủ của mù tuyết. Trước mắt vẫn chưa rõ tình hình trên đỉnh núi ra sao, mù tuyết đang không ngừng lấn xuống dưới, đến chiều ước chừng có thể lấn xuống thêm năm trăm mét nữa."

    "Chất nước là thế nào…"

    Dưới sự chỉ dẫn của các chuyên gia, các số liệu đều được báo về. Tình hình xung quanh thì được giáo sư Phương Tân và Nhạc Dương dùng thiết bị thu hình chụp lại, tạm thời không thể sử dụng mạng không dây truyền dẫn, sau khi xuống núi mới gửi đi được.

    Bận rộn cả ngày, đến khi mặt trời gần lặn xuống dải núi đằng Tây mọi người mới hoàn thành các công việc điều tra cơ bản. Lúc này tốc độ gió đã tăng lên tới 22 mét/giây, nhiệt độ giảm xuống còn âm 15 độ, mà đây mới chỉ là vùng phụ cận bên dưới lằn tuyết, các thành viên trong đội ít nhiều cũng đều có chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho hành trình lên đỉnh ngày hôm sau.

    Gió trong khe núi tương đối nhẹ nhang, lại có bếp lửa ấm áp, ăn xong cơm tối, cả đội ngồi vây quanh bếp lửa. Lữ Cánh Nam tuyên bố với mọi người: "Theo thông tin từ các đồng chí bên Cục Khí tượng, ngày mai thời tiết tiếp tục quang đãng, không có đám mây nào có ảnh hưởng đến hành động lần này của chúng ta hình thành ở khu vực xung quanh đây, tốc độ gió và hướng gió đều tương đương hôm nay. Mọi người hãy nghỉ ngơi cho tốt một đêm, thành công hay không đều nằm cả ở lần này đó. Có điều, trước mắt chúng ta vẫn còn chưa nắm rõ được tình hình bên trong khu vực bị mù tuyết bao phủ, đây cũng là mối nguy lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt."

    Thấy không khí hơi nặng nề ngột ngạt, đội trưởng Hồ Dương là người có kinh nghiệm dẫn đội phong phú, liền hô hào mọi người: "Hiếm có lúc mọi người tụ tập thế này, để tôi chúc tất cả ngày mai thành công lên đến đỉnh núi trước nhé. Nào, mọi người cùng hát một bài đi, tất cả chúc mừng một phen, tôi bắt nhịp cho, chắc chắn bài này ai cũng biết…"

    Không khí trong trại lập tức sôi nổi hẳn lên. Đa số những người có mặt hôm nay đều từng chung hoạn nạn, đồng sinh cộng tử, hết lần này đến lần khác dắt nhau bò ra khỏi vòng tay thần Chết, mỗi người đều hiểu rõ và giữ vững một niềm tin rằng, bất kể phía trước có bao nhiêu hiểm nguy khó nhọc, bất kể sẽ gặp phải ngăn trở thế nào, bọn họ cũng sẽ hết lần này đến lần khác cùng nhau bò ra khỏi vòng tay Tử thần.

    Đội trưởng Hồ Dương mở đầu, Đường Mẫn cũng rất có năng khiếu văn nghệ, hát múa đều rất hay, giọng hát của Trác Mộc Cường Ba không ngờ cũng rất có sức thu hút, cả Trương Lập và Nhạc Dương đều vỗ tay khen hay rối rít. Kể cả người xưa nay chưa từng có dính dấp gì đến văn nghệ như Lạt ma Á La cũng bị huy động đứng lên, hát một bài kinh tiếng Phạn, chỉ có mình Ba Tang là chỉ cười khẩy lạnh lùng, một mình đứng ở cửa khe núi ngước nhìn ngọn núi tuyết.

    Đội trưởng Hồ Dương kể cho mọi người nghe những trải nghiệm của mình khi đi khảo sát khoa học, giọng kể truyền cảm, thần thái trên mặt cũng hết sức sinh động, đến chỗ hấp dẫn mọi người đều nín thở chăm chú lắng nhe, chỗ nào tức cười lại khiến tất cả phá lên cười ha hả. Nhạc Dương đã được nghe những chuyện này trước, khi tinh ý phát hiện ra Ba Tang đang đứng một mình ở cửa khe núi, bèn len lén rời khỏi đống lửa, đến bên cạnh anh ta hỏi: "Sao thế? Anh Ba Tang! Không qua nói chuyện với mọi người à?"

    Ba Tang cười lạnh lùng: "Tôi thích ở đây một mình, cậu không cần phải để ý làm gì."

    Nhạc Dương nói: "Có phải thấy núi tuyết, anh lại nhớ ra điều gì không?"

    Ba Tang lắc đầu: "Không. Năm đó khi bọn tôi vượt qua dải gió Tây này, toàn bộ đều đi phía trên lằn tuyết cả, gió tuyết mờ mịt, không thể nhận biết phương hướng, ngoài núi tuyết ra thì căn bản chẳng thấy gì hết."

    "Ồ." Nhạc Dương biết Ba Tang thích quạnh quẽ một mình, đang chuẩn bị trở lại chỗ mọi người bên đống lửa, chợt lại nghe Ba Tang nói: "Sương mù…"

    Nhạc Dương ngẩng đầu nhìn, mù tuyết mờ mịt bao bọc quanh đỉnh núi chính trông như một cây nấm khổng lồ, hai đỉnh phụ hai bên cũng ít nhiều bị hơi mờ che khuất, liền lẩm bẩm hỏi: "Sương mù làm sao chứ?"

    Ba Tang khẳng định: "Sương mù đang rút đi."

    "Hả, không phải chứ," Nhạc Dương kinh ngạc nói, "đến tối gió thốc càng mạnh hơn mà, sương mù phải lớn hơn mới đúng chứ?"

    Ba Tang lắc đầu: "Tôi ở đây quan sát nửa tiếng đồng hồ rồi, đúng là sương mù đang lui. Tôi nghĩ, đến nửa đêm nay khẳng định là sẽ có thu hoạch bất ngờ."

    Nhạc Dương vội đem tình hình này báo lại với Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân, đội trưởng Hồ Dương thương lượng một hồi, cảm thấy cũng có khả năng này, bèn lập tức sắp xếp cho hai anh chàng trẻ tuổi Nhạc Dương, Trương Lập nghỉ ngơi, chuẩn bị tiến hành quan sát lúc nửa đêm, cả Lạt ma Á La cũng vào lều nhập định.

    Đến nửa đêm, Lạt ma Á La đánh thức hai người dây, rồi cùng ra khỏi lều quan sát. Vầng nguyệt sáng treo lơ lửng giữa tầng không, gió núi lạnh buốt, ngọn núi tuyết vốn bị sương mù mờ mịt bao phủ kia không ngờ đã vén tấm sa mỏng che mặt lên, để lộ ra bản lai diện mục. Ba người hít ngược vào một hơi khí lạnh, dung mạo thật sự của ngọn núi tuyết kia thật dữ tợn chẳng khác nào ác quỷ, quả không thẹn với danh xưng nữ thần Tư Tất Kiệt Mạc, hai đỉnh phụ và đỉnh chính hợp thành một chiếc chĩa ba, tổng cộng có ba tuyến đường dốc có thể lên đỉnh chính, độ dốc của mỗi tuyến đường đều vào khoảng gần hoặc hơn 75 độ, khiến cả ngọn núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc này trông như một chiếc chuông cổ. Ở lưng chừng núi, một lưỡi băng khổng lồ liếm ngang qua, ăn lẹm cả vào ba tuyến đường dố, đồng thời do chịu ảnh hưởng của gió thốc quanh năm, nên bị cắt vụn tơi bời, các khe băng hệt như những vết đao chém tung hoành ngang dọc, đen ngòn sâu không thấy đáy, muốn lên được đỉnh núi thì buộc phải băng qua khu vực khe băng chằng chịt ấy. Gió thốc thổi khiến tuyết đọng nơi lưng chừng núi cuồn cuộn tung bay mù trời, nhưng gió cũng khiến tuyết trên đỉnh núi chất lên tựa như mái hiên, nơi tuyết dày nhất thì giống như một tán nấm cao vượt hẳn lên, làm thành cái núm chuông trông giống đầu người. Dưới ánh trăng ảm đạm, cả ngọn núi tuyết hệt như một bóng u linh khoác áo choàng, từng đống tuyết đọng chính là cái miệng khổng lồ đang ngoác ra của nó, và cái miệng này có thể ngậm lại bất cứ lúc nào. Giữa khu vực khe băng chằng chịt và đống tuyết dạng như cây nấm trên đỉnh núi, lộ ra một khoảng vách đá trần, vừa nhìn đã biết toàn đá lởm chởm chất chồng, bề mặt trông như ruộng ngày khô hạn, chốc chốc lại có tảng đá lớn bị gió thổi tốc lên, nhìn từ xa không biết là đã bị văng đi nơi nào.

    Ba người lần lượt nhìn vào ốm nhòm, không ai nói năng gì, sau cùng, chỉ có Nhạc Dương thốt lên: "Ngọn núi này mà cũng leo lên được sao?"

    Lạt ma Á La lắc đầu. Chưa nói chuyện khác, chỉ riêng những khe băng nứt toác kia thôi, nếu không dùng công cụ thì căn bản không thể vượt qua được. Còn cả những đống đã chất chồng đó nữa, đến đá còn bị thổi lăn qua lăn lại ầm ầm, dải gió Tây đáng sợ ấy làm sao mà vượt qua được đây? Dù cho có vượt qua được chăng nữa, thì vẫn còn cái đống tuyết như mũ nấm trên cao kia, đừng nói là lớn tiếng nói chuyện, sợ rằng bước chân hơi mạnh một chút cũng đủ khiến nó ập xuống rồi, khi ấy thì là tuyết sập chứ không phải tuyết lở đâu!

    Trương Lập điều chỉnh ống kính máy ảnh, cắn môi nói: "Cả ba con đường đều phải đi xuyên qua vùng khe băng và dải gió Tây, còn đống tuyết trên đỉnh núi kia thì ở dốc phía Nam và phía Bắc đỡ hơn một chút, chỉ hơn một chút thôi. Đáng sợ thật, quả là đáng sợ, chẳng trách xưa nay chưa có ai lên đỉnh ngọn núi này từ phía biên giới Trung Quốc cả."

    Nhạc Dương nói: "Còn một điểm rất quái dị, tại sao đến khuya mù tuyết lại tan đi như vậy nhỉ? Vì nhiệt độ quá lạnh à?"

    Trương Lập lắc đầu: "Không biết, để mai hỏi anh Ba Tang xem."

    Lạt ma Á La nói: "Ghi lại hết cả chưa? Chúng ta cũng về nghỉ thôi, ngày mai để họ xem lại những hình ảnh này, mọi người cùng nghĩ cách. Chẳng… ôi…"

    Sáng sớm hôm sau, lúc mọi người bước chân ra khỏi lều thì mây mù sương tuyết trên đỉnh núi chưa tụ lại hết, vẫn còn lờ mờ nhìn thấy những khe rãnh chằng chịt trên băng. Nhìn đống ảnh và phim Trương Lập chụp, không ai nói được câu nào. Đến cả người có kinh nghiệm ở vùng địa cực phong phú như đội trưởng Hồ Dương cũng cảm thấy chuyện này hết sức hóc búa, đối mặt với những khe băng rộng toác như vô số cái miệng khổng lồ đang há hốc ấy, anh căn bản không thể định ra tuyến đường nào được. Nhạc Dương quay sang hỏi Ba Tang: "Anh Ba Tang, sao anh biết đến đêm mù tuyết sẽ tan đi thế?"

    Ba Tang nói: "Không biết, tôi chỉ đưa ra kết luận dựa vào quan sát thời gian dài thôi, rốt cuộc là tại sao thì tôi cũng không rõ. Đội trưởng Hồ Dương và mấy người nữa chẳng phải đã nói là có khả năng này hay sao, có khi họ biết nguyên nhân đấy."

    Nhạc Dương nghi hoặc nhìn sang phía đội trưởng Hồ Dương. Anh này liền gật đầu: "Chúng tôi cho rằng, mù tuyết kia không đơn thuần chỉ có tuyết, mà còn có cả sương mù thực sự nữa."

    Nhạc Dương ngạc nhiên thốt lên: "Không thể nào chứ, trên đỉnh núi tuyết làm gì có mưa, nước đọng đều đông cứng thành băng cả, lấy đâu ra hơi sương thực sự chứ?"

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Chúng tôi nghĩ như thế này, nếu là nơi từng có một đám người cư trú, chắc chắn phải có nguồn nước, tuyết đọng trên núi tuyết này tan ra có thể giải quyết được vấn đề nguồn nước; sau đó là có một khe núi tương đối bằng phẳng, nhiệt độ trong khe núi cao hơn trên bề mặt núi tuyết rất nhiều, ban ngày ánh mặt trời chiếu vào làm hơi nước bốc lên, lên đến bề mặt núi tuyết thì lại gặp phải không khí lạnh, vậy là hình thành hơi mù dày đặc, đến tối nhiệt độ giảm xuống, không còn hơi nước bốc lên nữa, sương mù kia tự nhiên cũng tan đi thôi. Gió lốc của dải gió Tây dồn tuyết thành hình nấm như thế kia, thế nên mù tuyết thực ra không nổi rõ cho lắm. Giáo quan Lữ Cánh Nam cũng nghĩ giống như tôi vậy."

    Lữ Cánh Nam gật đầu: "Giờ tình hinh phía trước đã rõ ràng rồi, ở đây thảo luận cũng không ra kết quả gì đâu, chúng ta đến đó rồi sẽ phân tích cụ thể dựa trên tình huống cụ thể luôn. Để tránh gió thốc thổi chính diện, chúng ta sẽ leo lên từ sườn núi phía Nam, nếu quả thực không thể lên được, thì sẽ từ trong sơn cốc bám mặt băng leo lên vậy."

    Buổi sáng sớm, vì áp suất không khí chịu ảnh hưởng từ vòng quay của trái đất, sức gió quả nhiên yếu hơn trong ngày rất nhiều, nhưng nói chung vẫn rất mạnh. Các thành viên trong đội mượn gió trợ sức, tốc độ trèo dốc còn nhanh hơn bình thường đi đường núi, chẳng mấy đã vượt qua lằn ranh tuyết. Trên đường đi vượt qua mặt Nam của ngọn núi, họ phát hiện thêm một khe nữa. Cái khe này so với khe núi nơi họ trú đêm qua thì lớn hơn rất nhiều, bên ngoài dường như đã hình thành một vòng lặp hết sức quái dị của gió, mỗi lần chỉ có một chút gió nhẹ thổi vào bên trong. Nhưng điều khiến các thành viên trong nhóm dừng lại chụp ảnh, là hai cái giò Mã Ni rất lớn trong khe núi ấy, cờ phướn đón gió tung bay phần phật. Gò Mã Ni do vô số tảng đá trắng chất lên có thể nói là kiến trúc nhân tạo duy nhất trên ngọn núi này, những tảng đá cầu nguyện ở tàng dưới cùng đã bị phong hóa quá nửa, phải mất bao nhiêu thời gian mới khiến tảng đá bị cơn gió yếu như thế phong hóa kia chứ. Còn những tảng đá cầu nguyện phía trên cùng vẫn còn ánh lên sắc sơn đỏ mới, chứng tỏ ở đây vẫn có người đến quỳ bái.

    Càng khiến người ta kinh ngạc hơn nữa là, trên những tảng đá cầu nguyện ấy không khắc Lục tự đại minh chú như thường thấy, mà là các ký hiệu cổ xưa của người Tạng, chắc rằng đến cả người khắc ra chúng cũng chẳng còn biết những ký hiệu này mang ý nghĩa gì nửa rồi, nhưng họ vẫn cứ khắc hết sức chuẩn xác. Vậy là, trong mắt đội leo núi đặc biệt này liền xuất hiện vô số tảng đá trắng chất thành hai gò Mã Ni to tướng, bên trên mỗi tảng đá đều khắc thành những ký hiệu chuyển tải thông điệp: "Kẻ nào bước qua cửa này, phải từ bỏ tất thảy hy vọng."

    --------------------------------

    1 Thực tế ở nước ta đã chứng tỏ không thể hoàn toàn tin vào Cục Khí tượng được.
     
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 79: Khe Băng Nứt


    Người am hiểu văn hóa Tây phương là Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ra "Cánh cửa Địa ngục" mà Đường Thọ kêu gào ấy rốt cuộc là chỉ nơi nào. Gã không hiểu đây là tình cờ xảo hợp hay là kỳ tích, chỉ biết là lúc này, khi đứng ở chốn đây, gã đã cảm nhận được nó một cách sâu sắc. Ngẩng đầu nhìn lên, phía sau Cánh cửa Địa ngục, khe băng nứt tựa như lối vào chốn u minh, vô số con ma thú há miệng rộng ngoác, đợi chờ những linh hồn bị cắn xé rơi xuống, gió núi phát ra những tiếng rít gào nghe như loài ma quỷ đang gầm thét, khiến người ta không khỏi run rẩy hãi hùng; xoay người nhìn lại, chỉ thấy núi non nhấp nhô trùng điệp, toát lên một vẻ đẹp quyến rũ như thục nữ dưới ánh trăng dịu dàng, cảnh vật óng ánh lên một sắc lục pha lẫn ánh bạc như bảo ngọc, khắp trời tinh tú hòa cùng vầng nguyệt nhảy múa hoan ca. Gã lập tức trào lên một cảm giác, nơi này thật là yên tĩnh xiết bao, chỉ có ngọn gió đến tự chốn thiên đường đang ve vuốt bên cạnh mình, dịu dàng đến chừng như khiến người ta chỉ muốn ngả mình vào lòng mẹ. Đứng trước Cánh cửa Địa ngục, hướng về hai đầu sinh tử, Trác Mộc Cường Ba chỉnh lại trang phục, ánh mắt kiên định như sắt thép hướng về phía Địa ngục thẳm sâu, thầm nhủ: "Cánh cửa Địa ngục, ta đến đây!"

    Lạt ma Á La chỉ vào hoa văn bên dưới những văn tự trên đá Mã Ni: "Đây là hoa văn đặc trưng của gia tộc La Long Ni Khắc."

    Trương Lập hoan hỉ thốt lên: "Cũng có nghĩa là, đây chính là con đường chỉ có chú Cương Nhật Phổ Bạc mới biết, chúng ta không hề đi lầm đâu!"

    Giáo sư Phương Tân nói: "Chỉ có những tảng đá ở mười mấy tầng trên cùng mới có hoa văn, những tảng đá bên dưới bất luận là văn tự hay điêu khắc đều có chút khác biệt, cũng có nghĩa là, gia tộc La Long Ni Khắc đã phát hiện ra nơi này vào khoảng hơn một trăm năm về trước." Ông đưa mắt nhìn khu vực đầy khe băng rãnh băng phía sau "cánh cửa" lẩm bẩm nói: "Nhưng mà, con đường lên núi này, phải làm sao mới vượt qua được khu vực băng vỡ đây?"

    Mau lại đây mà xem, mọi người xem đây là cái gì!" Nhạc Dương cũng có phát hiện bất ngờ. đội trưởng Hồ Dương vội chạy đến chỗ anh chàng, bất giác đưa tay lên vân vê hàm râu, thốt ra một tiếng: "Ồ". Giáo sư Phương Tân cũng đi tới, lập tức ngồi xổm xuống, lấy làm kỳ quái nói: "Sao lại thế được nhỉ?"

    Chỉ thấy chỗ Nhạc Dương đang ngồi chồm hỗm, cũng là chính giữa Cánh cửa Địa ngục kia, trên tầng đã cứng có vô số vết đục tương đối nông, bị những tảng đá chất lộn xộn che khuất, nhưng quan sát kỹ một chút sẽ không khó nhận ra những bậc thang người xưa khoét ra để lên núi. Đây chính là một con đường, một con đường hiện lên rõ mồn một trước mắt mọi người.

    Nhạc Dương nói: "Lẽ nào, chúng ta đã phát hiện ra con đường cổ nối liền Đại Đường với Thổ Phồn?"

    Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Không phải đâu, người xưa càng không có khả năng leo lên ngọn núi tuyết nguy hiểm thế này. Đường – Phiên cổ đạo nhất định là đi xuyên qua các sơn cốc nơi những dãy núi giao nhau, không thể nào vượt qua đỉnh núi mà đi thế này được. Nhưng mà, nếu đã đục thành bậc thang đá, vậy chứng tỏ rằng từng có rất nhiều người đi qua đây, thế nên mới cần phải làm thành đường, con đường này thông thẳng đến khe băng nứt đó, ai lại đi đường này chứ nhỉ?"

    Đội trưởng Hồ Dương cũng lắc đầu, hoàn toàn không hiểu.

    Không có quá nhiều thời gian để thảo luận, họ chỉ dừng lại một lúc trước Cánh cửa Địa ngục rồi lại vội vã đi lên phía Bắc. Sau khi qua Cánh cửa Địa ngục, gió đã lớn hơn rõ rệt, không còn là người leo núi nữa, mà là gió đẩy người tiến lên phía trước, đẩy cả đoàn người tiến thẳng vào sâu trong địa ngục âm u.

    Vượt qua khu vực bị lưỡi băng liếm quẹt xuống, mọi người đã lên đến bên dưới sống núi, độ dốc bỗng đột ngột tăng, vách đã sừng sững trước mặt cả đoàn như một gã khổng lồ, lên độc dốc 75 độ ấy thật chẳng khác biệt gì so với leo bám một bề mặt thẳng đứng cả. Vách cao dựng đứng chắn phía trước họ lúc này rất giống với "nấc thang thứ hai" 1 trên đỉnh Chomolungma, nhưng độ cao thì phải gấp mấy chục lần "nấc thang thứ hai" đó. Trương Lập huýt sáo một tiếng: "Ối chà chà… được rồi, giờ mới chính thức bắt đầu leo núi đây."

    Đường Mẫn thấp giọng hỏi: "Đội trưởng Hồ, tại sao lại chọn con đường này thế?"

    Đội trưởng Hồ Dương mỉm cười: "Tôi biết cô đang nghĩ gì rồi, có phải muốn nói, độ dốc của vách núi phía bên kia thấp hơn, xem ra thì dễ leo hơn, đúng không?"

    Đường Mẫn gật đầu.

    Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu nói: "Sơn cốc phía bên kia có rất nhiều băng tuyết đọng, độ lún sâu có thể hơn cả chiều cao người, mà bên dưới còn có những khe nứt rất lớn không nhìn thấy được, bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra hiện tượng lở băng lở tuyết. Đội trưởng Hồ này chơi với băng tuyết nhiều năm rồi, không chọn sai đường cho cô đâu. Phải biết một điều là, muốn l ên núi tuyết thì chỉ được đi trên sườn núi, tuyệt không thể đi vào sơn cốc đâu đấy."

    Đội trưởng Hồ Dương lấy ra một chiếc dùi đục đá và một nắm móc, nói với mọi người: "Nào, chúng ta lên đó thôi!"

    Leo vách núi là một môn thể thao ngoài trời hiện đại, hiện nay càng ngày càng có nhiều người quen với môn này hơn, nhưng đeo trên lưng ba bốn chục kg mà leo vách núi trong môi trường không khí loãng ở độ cao sáu nghìn năm trăm mét so với mực nước biển thì không phải chuyện những người ưa thích môn leo vách đá bình thường có thể làm được. Các thành viên chuẩn bị xong công cụ, liền vươn mười ngón tay ra tìm kiếm điểm leo bám trên vách đá trần, chôn dùi đục xuống, buộc dây thừng chính, móc khóa, rồi thắt chặt dây an toàn, mở ra một con đường trên vách đá dựng đứng ở độ cao sáu nghìn năm trăm mét trên mực nước biển.

    Môi trường không khí loãng và nhiệt độ cực thấp là một khảo nghiệm lớn nhất đối với các thành viên trong đội, trong quá trình huấn luyện đặc biệt, họ đã biết làm cách nào để khiến hô hấp của mình trong hoàn cảnh này đạt được hiệu quả tương đồng như ở khu vực có độ cao tuyệt đối thấp hơn, và làm cách nào để lợi dụng cử động cực nhanh của các đốt ngón tay nhằm thúc đẩy tuần hoàn máu, kháng cự lại cái lạnh. Leo vách đã kiểu như thế này đối với bọn Trác Mộc Cường Ba không phải là vấn đề khó khăn gì, mà mọi người cũng đều biết, khảo nghiệm khó khăn hơn gấp bội vẫn còn đang ở phía trước, ở khu vực khe băng rãnh băng và phía sau đó nữa… Tử vong Tây phong đới!

    Leo lên chừng hai trăm mét, độ dốc giảm dần, nhưng vẫn phải nhờ các thiết bị bảo hộ thì mới thuận lợi tiến lên được, mọi người leo liền một hơi, thẳng đến phía trước khe băng nứt mà không gặp phải hiểm nguy gì quá lớn. Lúc này, cả một dòng sông băng chằng chịt vết nứt trải ngang trước mắt, trông như những con mãnh thú tham lam, bao nhiêu linh hồn cũng không thể nhét đầy nổi những cái dạ dày không đáy của lũ chúng.

    Khe băng nứt này là cả một dòng sông băng bị gió xâm thực mà thành, trông như làn da bị giá lạnh làm cho nứt nẻ, trước tiên là ba cái rãnh theo chiều dọc, sau đó là vì chịu lực không đều mà lại phân tầng đứt gãy theo chiều ngang, những chỗ nứt gãy đều tạo thành đường ngoằn ngoèo như gân lá, đâu đâu cũng là khe hở toang hoác. Những chỗ nứt toác ấy chịu ảnh hưởng của gió núi, mỗi ngày lại mỗi rộng thêm, có nhiều chỗ đã không thể coi là khe nứt được nữa. Dưới tác động của nhiều loại lực khác nhau, nơi đây đã hình thành nên vô số trụ băng sừng sững chọc trời, chính là một trong những cảnh tượng kỳ lạ hiếm thấy trên núi tuyết: rừng tháp băng!

    Đứng ở mép dưới sông băng, nhìn dòng sông băng khổng lồ bị gió cắt chằng chịt đầy những vết sẹo này, cảnh tượng hiện lên trước mắt họ lúc ấy là như thế nào chứ. Hệt như một tảng đậu phụ lớn, bốn phía đều hoàn chỉnh, nhưng phần giữa lại bị ai đó dùng máy đánh trứng khuấy loạn lên, ba vệt nứt chính rộng đến cả trăm mét, bên dưới sụt xuống thành rừng tháp băng, dọc theo những vệt nứt chính ấy, những khe nứt nhỏ hơn vươn ra bốn phương tám hướng như đường gân lá, nguyên cả một dòng sông băng đều ở trong trạng thái có thể sụp đổ vỡ tan bất cứ lúc nào. Tuy rằng những khe nứt ở bên rìa có thể bước chân qua được, nhưng bề mặt sông băng trơn như tấm kính, cho dù có lắp thêm vuốt đi trên băng cũng không thể đảm bảo có thể bước đi vững vàng, huống hồ càng đi vào khu vực trung tâm, các vết nứt càng lớn, sức người không thể nào nhảy qua nổi. Vài khe nứt còn cắt sông băng thành những vách băng hình cán chêm đầu to chân bé, bên trên là mặt băng rộng mấy trăm mét vuông, bên dưới lại nhỏ thít vào như lưng ong, gió thổi qua cũng khiến người ta có cảm giác nó muốn đổ sập xuống, càng không nói gì đến chuyện đứng vững ở chỗ ấy. Còn có những trụ băng đã đổ vật xuống, nhưng lại không chịu nằm ngang, mà gác lên những trụ băng khác, thành như cánh cổng hoặc như những quân bài domino xếp chồng lên nhau.

    Nhìn bức vách thủy tinh bị dao chém rìu bổ này, Lạt ma Á La chợt nhớ đến hồ axit họ từng phải nhảy qua ở Đảo Huyền Không tự. Còn Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương thì cùng lúc nghĩ đến hang động sông băng ở Khả Khả Tây Lý, hai thứ cực kỳ giống nhau mà lại hoàn toàn khác biệt. Hang động sông băng nối liền với những vết nứt lớn trên mặt đất, cuối cùng thông thẳng xuống dòng chảy ngầm dưới lòng đất, còn cở đây toàn là băng nứt ra, bên dưới là tầng đất đông cứng hơn sắt thép, từ độ cao thế này mà ngã xuống thì chẳng khác gì từ nóc nhà cao tầng nhảy xuống cả. Máy đo khoảng cách bằng tia laser hiển thị, khe nứt sâu nhất ước chừng khoảng một trăm năm mươi mét, đây cũng là độ dày củ khu vực băng phủ này. Thoạt nhìn thì khu vực băng nứt chằng chịt này không xa lắm, nhưng thực ra cũng có đến mấy cây số lộ trình, khoảng cách như vậy mà phải băng qua bên trên vô số khe nứt tung hoành, thực sự là không thể làm nổi.

    Đứng trước những khe rãnh ấy, mỗi người đều thầm suy tư, làm sao vượt qua được bây giờ? Những trụ băng kia cứng mà giòn, nếu dùng dây móc bám vào đu qua, không may mà trụ băng gãy lìa, bên dưới toàn là những cọc băng nhọn như đầu thương mũi giáo, rơi xuống thì ắt sẽ bị đâm cho thủng lỗ chỗ khắp người. Mà dù cho trụ băng có đủ chắc chắn để giữ được dây móc, thì vẫn còn những trụ băng sắc bén như dao như rìu ở cạnh đấy, ngộ nhỡ va đập chính diện mà không bị xẻ thành đôi mảnh mới là chuyện lạ. Càng tệ hại hơn nữa là, có một số chỗ nứt khoảng cách giữa hai bờ rất lớn, vượt quá cả cỡ chiều dài dây móc.

    "Tôi nghĩ thế này…"

    Đội trưởng Hồ Dương đang rầu rĩ không nghĩ ra được cách băng qua chỗ này, vừa nghe thấy câu nói ấy lền tức khắc nộ khí xung thiên, lập tức định mở miệng mắng người, nhưng ngoảnh đầu lại nhìn, hóa ra người vừa lên tiếng lại là Trác Mộc Cường Ba, anh đành nhẫn nhịn không phát tác nữa.

    Trác Mộc Cường Ba chỉ vào phía đối diện nói: "Bên dưới này là tầng đất đông, mà khe nứt cuối cùng và phía trên kia có hình thành một dốc băng, chỉ cần tìm một khe nứt đủ lớn, có thể trực tiếp trượt xuống tầng đất đông là được. Trước tiên chúng ta trượt xuống bên dưới khe nứt, chắc là sẽ có đường thông, rồi cứ thế đi xuyên qua khu vực nứt gãy này, vượt luôn qua rừng tháp băng, cuối cùng thì bám vào vách băng mà lên phía trên, tôi cho rằng như vậy thì an toàn hơn là đi trên bề mặt sông băng nhiều."

    Giáo sư Phương Tân phản đối: "Không được, ai biết bên dưới khe nứt tình hình như thế nào chứ? Nếu bị kẹt ở giữa lên không được, xuống không xong thì phiền phức lắm đó."

    Đội trưởng Hồ Dương cười khổ nói: "Tôi biết ý cậu rồi, Cường Ba à, có phải cậu cảm thấy, những động băng tan chảy này gần giống với hang động băng mà lần trước chúng ta đã chui vào ở Khả Khả Tây Lý hay không?"

    Đúng là Trác Mộc Cường Ba có suy nghĩ này, giờ nghe đội trưởng Hồ Dương nói vậy, gã cũng đoán xem ra mình đã nghĩ sai ở đâu đó.

    Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu nói: "Động băng tan chảy và động băng thoạt nghe chỉ lệch nhau có một chữ thôi, nhưng thực ra khác biệt rất lớn. Hang động băng là do băng tan nhiều năm tác dụng lên sơn thể, khoét ra hang động bên trong lòng núi; còn động băng tan chảy trên sông băng này đây, chủ thể của nó là sông băng bị ảnh hưởng của luồng khí nóng, tự thân xảy ra hiện tượng tan chảy, bên trong toàn là những chỗ nứt toác, đâu đâu cũng thấy vực sâu với vách băng dựng ngược, căn bản không tìm đâu ra đường mà đặt chân xuống, con người không thể đi trong đó được đâu."

    Mẫn Mẫn cuống lên hỏi: "Vậy, vậy phải làm sao bây giờ?"

    Đám Nhạc Dương, Trương Lập không hẹn mà cùng đưa mắt nhìn sang phía Lạt ma Á La. Vị sư già trầm tư hồi lâu, đoạn mới nói: "Diện tích sông băng này lớn quá, dù tôi qua được thì cũng không có cách nào đưa mọi người cùng qua, hơn nữa…" Ông nhìn một ba lô to tướng đầy những thứ tối cần thiết khi leo núi, sắc mặt nặng nề nói: "Chưa chắc gì tôi đã vượt qua được."

    Đúng lúc này, Trác Mộc Cường Ba kêu lên: "Mọi người, có thể im lặng một chút được không…" Tất cả mọi ánh mắt đều hướng về phía gã, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đang tập trung toàn bộ tinh thần lắng nghê gì đó, rồi nói với những người còn lại, "Hình như tôi nghe thấy tiếng Cương Lạp."

    Nhạc Dương nghển lên nhìn khắp bốn phía xung quanh, trên núi tuyết rặt một vùng trắng xóa, chẳng thấy gì hết.

    ° ° °

    Trong khe núi cách đó một quãng xa, ba bóng người cao lớn cũng đứng bên sông băng, trên người khoác một bộ áo phòng hóa chất bịt kín toàn thân màu trắng, hoàn toàn hòa làm một với ngọn núi tuyết, dù đến gần cũng không thể phân biệt nổi đây rốt cuộc là người hay mấy tảng đá phủ tuyết nữa. Đầu mình tay chân của họ đều hoàn toàn bịt kín, trước ngực có một ống dẫn khí nhỏ thò ra nối liền với mặt nạ phòng độc, nhìn qua kính mắt chống đạn có thể trông thấy ba cặp mắt trông như mắt diều hâu đại bàng. Người bên phải cất tiếng: "Chuyện gì thế? Bọn chúng đang nhìn cái gì vậy? Lẽ nào chúng ta bị phát hiện rồi?"

    Người bên trái lắc đầu: "Không thể nào, chúng ta cách chúng xa như vậy làm sao bị phát hiện được chứ. Phải không, ông chủ." Giọng nói ấy trong sự hòa nhã thân thiết mang cả vẻ xu nịnh, trong sự cung kính toát lên vẻ nhún nhường, rõ ràng chính là giọng của Max.

    Cái bóng cao hơn hẳn đứng giữa hai tên đồng bọn kia chính là Merkin. Y hạ ống nhòm xuống nói: "Ừm, xem ra chúng gặp phiền phức rồi."

    Sau lưng ba người, không ngờ còn có cả một đám mặc trang phục phòng hóa chất màu trắng nữa, ai nấy đều cầm vũ khí các loại, ánh mắt hừng hực sát khí.

    ° ° °

    Mọi người cùng yên lặng, âm thanh lập tức rõ hẳn lên. Trong tiếng gió, quả nhiên có lẫn cả tiếng chó sủa, âm thanh rất thấp trầm nhưng lại truyền được rất xa. Giáo sư Phương Tân mừng rỡ reo lên: "Cương Lạp đến rồi, vậy Cương Nhật Phổ Bạc nhất định cũng ở quanh đây thôi, rốt cuộc anh ấy cũng nghĩ thông được rồi."

    Lạt ma Á La lắng nghe âm thanh ấy, trong lòng lại hết sức kinh hãi: "Không thể nào, âm thanh gần chúng ta như vậy rồi, không thể có chuyện chúng ta vẫn không thấy gì hết được, rốt cuộc là âm thanh vọng ra từ đâu chứ?"

    Khi âm thanh vang lên lần nữa, mọi người đều lấy làm ngạc nhiên, bởi vì, âm thanh ấy không phải từ bên dưới vọng lên, mà ở ngay phía trước mặt họ, trong dòng sông băng!

    Tiếng sủa càng gần hơn, Nhạc Dương giơ đèn chiếu lên soi thử, rồi kinh ngạc kêu toáng lên: "Cường Ba thiếu gia, nhìn kia kìa!"

    Chỉ thấy dưới đáy sông băng, bên trong đường rãnh sâu hun hút kia, bổ ra một bóng xanh ngọc bích lấp lóa, không phải Cương Lạp thì còn ai vào đây được nữa? Con linh ngao cứ chạy qua chạy lại bên dưới, tỏ ra hết sức hưng phấn. Trác Mộc Cường Ba không kìm được mà thất thanh hỏi: "Cương Lạp, sao mày lại xuống dưới đó thế?"

    Đội trưởng Hồ Dương nhíu mày hỏi: "Lẽ nào, con đường ấy thực sự ở bên dưới kia?"

    Chỉ thoáng sau đó, một người đàn ông đội mũ da cáo, mặc áo chẽn bó sát người, hông đeo thanh đao theo sau Cương Lạp bước ra, lại không phải Cương Nhật Phổ Bạc thì còn ai! Cương Nhật Phổ Bạc hiển nhiên cũng không ngờ sẽ gặp bọn Trác Mộc Cường Ba ở đây, nét mặt lộ rõ vẻ kinh ngạc, cất tiếng hỏi: "Mấy người… sao vẫn chưa lên núi vậy?"

    Lữ Cánh Nam quay sang hỏi đội trưởng Hồ Dương: "Vậy chúng ta cứ xuống đó trước nhé?"

    Đội trưởng Hồ Dương không nén được nụ cười, gật đầu đồng ý. Nếu người duy nhất biết đường là Cương Nhật Phổ Bạc đã ở dưới đó rồi, vậy thì bên dưới ấy chắc chắn là có đường. Xem ra chắc là anh ta tưởng rằng hôm qua bọn họ định lên đỉnh chỉ trong một ngày, đoán chừng hôm nay đến thu nhặt thi thể, không ngờ hôm qua họ chỉ leo núi có nửa ngày rồi nghỉ ngơi qua đêm bên dưới lằn tuyết, hôm nay gặp mặt nhau ở đây cũng coi như là may mắn đi vậy.

    Đội trưởng Hồ Dương nói: "Xem ra Cường Ba thiếu gia nói đúng rồi đấy, bên dưới có đường, phải trượt xuống đó xem sao. Chỉ có điều e rằng sau khi vượt qua được rừng tháp băng, leo vách băng sẽ tương đối khó đấy."

    Lữ Cánh Nam chỉ thị: "Trượt nhanh xuống tầng đất đông, trước khi mù tuyết hoàn toàn che phủ khu vực khe rãnh này phải leo ngược lên dốc băng!"

    Các thành viên trong đội nhất tề bắt tay hành động, nhanh nhẹn đóng xong đinh tán, mũi khoan thép, móc dây thừng, chẳng buồn dùng đến các thiết bị an toàn như thừng phụ và thiết bị hạ độ cao, cứ thế trực tiếp trượt xuống luôn.

    ° ° °

    Max nói: "Sao vậy… không ngờ chúng lại trượt xuống khe băng kia!"

    "To gan thật, chúng nó điên rồi chắc? Tao chưa nghe nói có ai dám vượt sông băng theo lối đi xuyên qua khe nứt như thế này cả!" Merkin quay sang hỏi người đứng bên phải mình, "Mày thấy sao hả Thiết Quân?"

    Gã đàn ông tên là Thiết Quân này thấp hơn Merkin cả một cái đầu, nhưng nhìn phần vai hắn không ngờ lại còn rộng hơn cả vai Merkin, cánh tay cũng hết sức cường tráng, cả người hắn lúc đứng yên bất động thành ra hình một cái tam giác ngược, cộng thêm cả đôi cánh tay dài đến gối, trông chẳng khác gì con tinh tinh cả. Hắn cất tiếng nghe cũng như loài dã thú đang gầm ghè: "Tôi cho là trừ phi chúng có mục tiêu xác định, bằng không sẽ không dám xuống khe bắng nứt ấy đâu." Tiếng Anh của hắn cũng không được chuẩn cho lắm. Max liếc nhìn một cái đầy khinh bỉ.

    Merkin gật đầu: "Ừm, đúng thế, chúng có bản đồ mà." Tới đây, Merkin thở dài nói: "Thật không ngờ đấy, thì ra tấm bản đồ cũng chỉ đường đến nơi này, xem ra hồi ức của Tây Mễ là chính xác rồi, giờ chỉ còn xem rốt cuộc tấm bản đồ ấy chỉ tường tận đến mức nào thôi. Mấy trăm cây số lưng chừng núi bị bao bọc trong sương tuyết mù mịt, lại chỉ có một lối vào rộng chừng một mét là có thể đi xuống dưới, đám giáo đồ Mật giáo cổ đại ấy sao lại tìm ra được nơi như thế chứ? Thật là không thể tin nổi… Nếu ký ức của Tây Mễ chuẩn xác hơn một chút nữa! Nếu sườn núi đó không có từ trường đáng sợ nhường ấy! Nếu không có dải gió Tây chết tiệt ấy! Nếu không có đám sương mù dày đặc ấy! Chỉ cần thỏa mãn bất cứ điều kiện nào, tao cũng đã tìm được cái lối vào kia rồi! Hừ…"

    ° ° °

    Trượt xuống đáy khe băng, Trác Mộc Cường Ba bước tới bên cạnh Cương Nhật Phổ Bạc, ôm lấy Cương Lạp ngoảnh đầu lại hỏi: "A quả, sao anh lại ở đây?"

    Nhạc Dương ở cạnh đấy cười hì hì hết sức gian xảo: "Chú à, chắc không phải chú ở đây đợi bọn tôi đấy chứ?"

    Cương Nhật Phổ Bạc giận dữ quát: "Nói càn nói xiên! Tôi chỉ là… chỉ là…"

    Đội trưởng Hồ Dương cũng không nghĩ khác lắm.

    Mặc dù Cương Nhật Phổ Bạc đã kiên quyết từ chối dẫn đường cho họ lên núi, nhưng từ lúc biết họ vẫn quyết giữ ý lên núi tuyết cho bằng được, trong lòng cứ nghĩ mãi về Trác Mộc Cường Ba, giáo sư Phương Tân và cả Lạt ma Á La nữa, suy đi tính lại cuối cùng anh ta cũng không thể yên tâm. Đêm qua lại đột nhiên nằm mộng, vậy nên anh ta mới đến những chỗ mà mình biết trên núi xem thử một lượt coi sao. Chẳng ngờ, bọn Trác Mộc Cường Ba đi đường vòng quanh núi, rồi lại còn nghỉ ngơi một đêm ở bên dưới lằn ranh tuyết, đến hôm sau mới bắt đầu leo lên đỉnh. Cương Nhật Phổ Bạc dù nửa đêm về sáng mới bắt đầu lên núi, nhưng anh ta vốn đã thông thuộc đường xá, lại thêm cả Cương Lạp dẫn đường, vậy nên đã vượt lên phía trước cả bọn.

    Cương Nhật Phổ Bạc chỉ nói hai câu ấy, rồi cũng không biết phải giải thích ra sao, đành thở dài nói: "Đêm qua tôi mơ thấy Lạp Chân, cô ấy trách móc tôi, vậy nên, mới muốn đến đây xem thế nào…"

    Trác Mộc Cường Ba biết vị "a quả" này của mình ngoài miệng thì sắc bén như đao, nhưng trong tâm thì mềm như đậu phụ, gã ấn mạnh hai tay lên bờ vai Cương Nhật Phổ Bạc, cũng không nói gì thêm nữa.

    Đội trưởng Hồ Dương nhìn hang băng tan sâu hun hút, nói: "Thì ra, anh biết con đường duy nhất có thể lên đỉnh núi, hóa ra bí mật chính là ở trong dòng sông băng khổng lồ. Chẳng trách những đoàn leo núi khác trước nay vẫn không thể nào lên đến đỉnh được, thì ra bọn họ đều không thể vượt qua được dòng sông băng bị phủ kín trong sương mù dày đặc này."

    Giáo sư Phương Tân mừng rỡ nói: "Cương Nhật, đằng nào chúng ta cũng khéo gặp ở đây rồi, hay anh dẫn đường cho chúng tôi nhé?"

    Cương Nhật Phổ Bạc ngoảnh mặt đi, ấp úng nói: "Tôi, tôi không dẫn đường được. Muốn đi thì các vị tự tìm đường lấy mà đi, tôi chỉ theo sau thôi."

    Giáo sư Phương Tân lấy làm khó hiểu: "Anh hà tất phải…"

    Cương Nhật Phổ Bạc kiên quyết đáp: "Tôi không thể phản bội lại lời thề!"

    --------------------------------

    1 "Nấc thang thứ hai": chỉ vách đá dựng đứng cao chừng 5 mét chắn trên con đường truyền thống lên đỉnh Chomolungma ở sườn phía Bắc, nằm ở độ cao từ 8.680 mét đến 8700 mét; muốn lên đỉnh núi thì buộc phải vượt qua vách đá này.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này