1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Mê Tông Chi Quốc II - Ma vực Lâu Lan - Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng -Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 26/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi hai: Bảo cốt


    Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lúc trước còn bận chăm sóc giáo sư Nông địa cầu, nên không biết hội Tư Mã Khôi đã tìm thấy gì cạnh đống hài cốt, mãi đến lúc này mới phát hiện ra cuốn cổ tịch. Anh chàng sinh ra và lớn lên trong đội lạc đà, thường nghe các bô lão chăn lạc đà kể những sự tích biệt bảo như thế này: Nghe nói người Hồ Thương ở Tây Vực và người bản địa Giang Tây rất giỏi sử dụng phương thuật, mọi bảo vật trên trời dưới đất, không thứ gì bọn họ không biết lai lịch gốc tích. Tuy vậy, phương thuật sử dụng của dân biệt bảo hai vùng này cũng hoàn toàn khác nhau. Dân Giang Tây có thuật “khai địa nhãn” trong hầm tối, còn người Hồ Tây Vực lại nuôi “huyết châu” trên cơ thể mình. Huyết châu chính là cái u thịt mà con ba ba dưới đáy sông tiết ra từ cơ thể, to như viên thuốc hoàn, không bóng sáng, bởi vậy người xưa còn gọi thuật biệt bảo này là “ba bảo”. Thông thường họ đều dùng dao khoét một lỗ ngay trên cánh tay mình rồi nhét viên ba bảo vào trong thịt, đợi khi vết thương liền miệng thì bất kể muốn tìm bảo vật gì, nó đều phản ứng báo hiệu cho chủ nhân biết. Loại cổ thuật này đã thất truyền từ lâu, phần lớn chỉ những người có tuổi mới biết đến nó. Đương nhiên trong đó cũng không thiếu những truyền thuyết hư hư thực thực, thực ít hư nhiều. Bởi vì có một số nơi lạc hậu nghèo khó, thương nhân từ ngoài đến làm ăn lại chăm chỉ thực tế, tính toán việc gì đều cẩn thận chi li, dần dần họ trở nên phát tài giàu có, trong khi đó thì người bản địa chỉ biết an phận thủ thường, suốt ngày ôm ấp vợ con trong chăn ấm nệm êm, không có ý chí phấn đấu. Nay thấy người khác kiếm được tiền thì cũng đỏ mắt thèm thuồng, nhưng lại không thể hiểu vì sao nhà mình không ăn nên làm ra như nhà họ, vì sao tất cả tiền bạc đều chảy vào túi bọn ngoại tỉnh? Thế là họ bèn đổ trách nhiệm lên đầu những khách biệt bảo từnơi khác đến kia, nói đám người này đã sử dụng bí thuật để cướp mất bảo vật bí mật khiến linh khí của mạch núi mạch sông khô kiệt, làm hại phong thủy của cả dải đất. Trên sa mạc Gobi còn lưu truyền một truyền thuyết thế này: Sa mạc Lopnor trước đây, chỗ nào cũng toàn rừng rậm và hồ bể, dê bò thả khắp cánh đồng, cỏ cây tươi tốt mỡ màng, cá diêu hồng trong hồ bắt mãi không hết, tiếng chuông lạc đà kêu leng keng suốt dọc các con đường cổ. Các sứ thần và dòng khách buôn đến từ Trường An, Quý Sương(1), Parthia(2), Đại Uyên(3) lúc nào cũng nườm nượp không ngớt. Người ta sử dụng tiền tệ của các nước Trung Á và đồng tiền lưu hành thời Hán để giao dịch mua bán các mặt hàng như tơ lụa, hương liệu, gương đồng, lưu ly… (1) Quý Sương: tức đế quốc Quý Sương, còn gọi là đế quốc Kushan, một vương quốc cổ ở Trung Á. Đế chế này trải dài từ Tajikistan tới biển Caspi và từ Afghanistan xuống đến lưu vực sông Hằng. Đế chế này được thành lập từ bộ lạc Quý Sương của dân Nguyệt Chi đến từ Tân Cương. Đó là trung tâm trao đổi giữa phương Đông và phương Tây. (2) Parthia: tức đế quốc Parthia, là một quốc gia của người Iran ở Trung Đông, trải dài từ từ phía bắc sông Euphrates, nay là phía đông Thổ Nhĩ Kỳ, tới phía đông Iran. Đế quốc này trên tuyến đường tơ lụa giữa Đế chế La Mã ở lưu vực Địa Trung Hải và nhà Hán ở Trung Quốc, là một trung tâm buôn bán và thương mại. (3) Đai Uyên: là một dân tộc và quốc gia ở Tây Vực Hán. thuộc tộc người Ferghana ở Trung Á. Mãi đến khi quốc vương nước Thiện Thiện ban bố mệnh lệnh phải xây dựng bằng được tòa thành Vu Nê, nhưng không hiểu sao cứ xây đoạn nào là sụp đoạn đó. Lúc đó, có vị khách thương người Hồ Ba Tư đi qua mới nói: dưới chân thành có “khương kiết”, nên bắt buộc phải đào đất lấy nó lên rồi mới xây thành được. Sau khi được sự cho phép của quốc vương nước Thiện Thiện, vị thương nhân người Hồ Ba Tư nọ mới khảo sát phương hướng, vị trí rồi đào một cái hố rất sâu, nhưng bên trong không hề có “khương kiết” gì, mà chỉ là chiếc đinh han gỉ đừng trong bình gốm, dài không đến một thốn (1 thốn = 3.3cm), sau khi rửa sạch sẽ thì nó ánh lên màu nửa xanh nửa đỏ như chất ngọc. Từ đó về sau việc xây dựng thành Vu Nê được tiến hành thuận lợi, không còn bị sụp đổ nữa, thế nhưng đất nước này bắt đầu xuất hiện tình trạng đất lún nước cạn, bão cát xảy ra liên miên. Lúc đó mọi người mới biết cái đinh ngọc mà gã người Hồ Tây Vực đào được, chính là bảo cốt. Người Ba Tư thờ hỏa vương, từng để lại lời nguyền: kẻ nào có được nó, kẻ đó sẽ được bái làm tướng quốc. Vị quốc vương Thiện Thiện làm mất bảo vật quý giá thì rất lấy làm hối hận, nhưng mọi sự đã quá muộn. Cùng với sự đổi dòng chảy của sông Khổng Tước và chặn dòng của sông Tháp Lý Mộc(4), thì các thành trì cổ đại hiển hách phồn hoa bậc nhất Tây Vực như Vu Nê, Lâu Lan cuối cùng cũng bị bỏ hoang phế một cách thần bí ở nơi sâu trong sa mạc, và rồi dần dần trở thành biển cát mênh mang, im lìm đầy chết chóc. Dấu tích con người toàn biến mất, chỉ còn lại thành quách hoang vắng, sừng sững đối chọi với đất trời. (4) Tháp Lý Mộc: còn gọi là sông Tarim. Cũng chính vì vậy mà đến tận ngày nay, người ta vẫn có một quan niệm khá phiến diện, cho rằng thuật biệt bảo của khách buôn người Hồ Tây Vực đều là loại tà môn ngoại đạo, chuyên dùng để mê mị hồn người. Nếu kẻ thi triển pháp thuật tham lam quá độ khi nuôi dưỡng huyết châu trong cơ thể, thì cuối cùng sẽ tự rước họa vào thân, trở thành hình nhân giống như con ma sống vậy. Từ nhỏ, Lưu Giang Hà đã theo đoàn lạc đà hành tẩu trên sa mạc. Anh cũng nghe rất nhiều câu chuyện loại này, tuy cũng biết những quan niệm hủ cựu kiểu đó đáng lẽ phải sớm bị bài trừ khỏi luồng tư tưởng của con người cách mạng mới phải, nhưng không ngờ lại nhìn thấy Tư Mã Khôi mang theo cuốn cổ tịch kia bên mình, lại còn định làm theo các hướng dẫn trong sách, nên anh mới không nhịn được, mà mở lời khuyên can. Tư Mã Khôi đã sớm nghe đồn về những chuyện tương tự như Lưu Giang Hà vừa kể, nhưng anh không hề bận tâm. Đúng như giáo sư Nông nói: “Nhìn vấn đề phải nhìn thẳng vào bản chất, không nên bị nhiễu loạn bởi các hiện tượng bên ngoài”, huống hồ phương thuật mà Triệu Lão Biệt sử dụng là thổ pháp khai địa nhãn của dân biệt bảo Giang Tây, chứ đâu phải của người Hồ Tây Vực. Mà rốt cục các phương thuật biệt bảo lưu truyền trong truyền thuyết dân gian, tất thảy đều là các phương pháp vô cùng ly kỳ cổ quái, người thường ngay cả nghĩ cũng không thể nghĩ ra, cũng bởi vậy nên nó mới được đồn thổi một cách thần bí khôn lường như vậy. Anh nhận định: trong các hình minh họa mà Triệu Lão Biệt để lại, nhất định phải tồn tại một ám thị gì đó, bốn bức tranh có khả năng là bốn phương pháp biệt bảo khác nhau. Năm đó, sau khi Tư Mã Khôi chôn thi thể Triệu Lão Biệt ở nghĩa địa khu Hắc Ốc, trong đầu anh thường vẩn vơ nghĩ về ẩn ý của hai câu ám ngữ này. Bây giờ lại nhìn thấy mấy bức tranh minh họa trong cuốn cổ tịch biệt bảo, anh bèn nhớ lại một điển cố mà Văn Võ tiên sinh từng kể trước đây, không chừng nó lại có liên quan đến hai câu trăng trối “Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn… ” của Triệu Lão Biệt cũng nên. Tương truyền, trong vách đá cheo leo ở núi sâu Côn Lôn có cao ngọc cốt ngọc(5), nhưng nơi đó khe sâu cốc tối, đường đi hiểm trở chênh vênh khác thường. Vả lại dưới đáy cốc lại mù mịt sương mây, có cả chướng khí chết người, nên không ai có thể leo xuống được dưới đó. Thế là người ta bèn nghĩ ra một kế để lấy bảo vật. Đầu tiên, họ dắt các con thú lớn như bò, ngựa hay con la lên đỉnh núi, sau đó đẩy chúng xuống khe núi sâu thẳm phía dưới. (5) Cao ngọc cốt ngọc: chỉ nhựa của ngọc, là thuốc tiên trong truyền thuyết. Các loài thú thân hình to lớn như bò, ngựa – có trọng lượng cơ thể rất nặng, khi rơi tự do từ độ cao hàng nghìn mét xuống, đương nhiên thịt nát xương tan, máu me be bét, sau khi da thịt nó thối rữa sẽ bốc ra mùi hôi thối dẫn dụ các loài mãnh điểu từ nơi khác đến kiếm mồi. Những loài chim này có thân hình rất to lớn, đủ sức quắp cả con bò hoặc dê lên không trung. Bọn chúng có thể trực tiếp bay vào tận trong khe sâu, xé thịt và nội tạng của con mồi sau đó dùng mỏ quắp về tổ. Lúc này, những kẻ săn lùng bảo vật đã mai phục sẵn trên đỉnh núi, sẽ khua chuông gõ mõ khiến lũ chim hoảng hốt bỏ lại miếng thịt thối mà bay đi. Lúc lũ bò dê rơi xuống khe núi và bị chết, da thịt chúng sẽ bám đầy ngọc cao. Sau khi đánh đuổi lũ chim, những kẻ săn tìm bảo vật có thể nhẹ nhàng thu lượm cao ngọc cốt ngọc dính trên miếng thịt thối. Ngọc dính vào đó ít hay nhiều, còn phải xem vận may ở từng thời điểm. Đây cũng là một môn phương thuật tiềm tàng, người thường không rõ nguyên lý của nó thì khó lòng tưởng tượng được sự thần diệu ẩn chứa bên trong. Những nhà thám hiểm người Pháp bị chết trước cửa Hắc Môn, trong ba lô đựng rất nhiều bảo vật quý giá của vương triều Lâu Lan, ví dụ như dao găm bằng vàng, bằng ngọc thạch, trên bề mặt các đồ vật này có những tia chấm màu đen, dường như đó là vết máu đông kết lại mà thành. Giờ đây có thể suy đoán: có lẽ người Pháp cấu kết với dân biệt bảo đã lợi dụng bí thuật cổ truyền này để lấy bảo vât dưới lòng địa máng, chỉ có điều chưa hẳn bọn họ dùng các loài gia súc như bò dê, mà dùng người chết ném xuống vực sâu thì vẫn có thế đạt được hiệu quả tương tự. Tư Mã Khôi nói: bức tranh minh họa đầu tiên trong cuốn cổ tịch biệt bảo có lẽ muốn mượn điển cố khai quật bảo vật ở núi Côn Lôn, đế ám thị cho chúng ta thấy mối hiểm họa to lớn tiềm tàng trong địa máng. Nếu tranh minh họa vẽ tử thi, thay vì bò, thì có lẽ đã không tối nghĩa khó hiểu thế này. Nhưng dưới lòng đất chắc chắn không thể có loài mãnh điểu nào tồn tại, nên tuy đoàn thám hiểm Pháp cuối cùng đã lấy được bảo vật, nhưng tất cả thành viên vẫn tử nạn trên đường trở về. Vậy xem ra lời gợi ý trong bức tranh chỉ có tác dụng tham khảo, chúng ta không thể không tin, nhưng cũng không thể tin tưởng nó một cách hoàn toàn được. Thắng Hương Lân gật đầu thừa nhận: “Địa thế của khe địa máng này chạy theo chiều Nam Bắc; cửa động phía dưới cửa sổ núi chính là điểm khởi đầu của cực nam, đồng thời cũng chính là Hắc Môn an táng thi thể của tiên vương Lâu Lan cổ. Từ xưa đến nay, chưa người nào có thể đi sâu vào khu vực bên trong, chúng ta xuống lòng địa máng thì sẽ vô cùng nguy hiểm, vì chỉ cần lơ là một chút là lập tức xảy ra bất trắc. Bởi vậy chúng ta cần phải cố gắng lên tinh thần một trăm hai mươi phần trăm mới được.” Lúc này Hải ngọng tìm thấy một khe đá nằm lơ lửng phía dưới cửa sổ núi, nó hơi chênh chếch, ăn thong với lòng đất ở mặt cạnh, có điều bắt buộc phải buộc giáo sư vào cáng thì mới khênh đi được. Tư Mã Khôi thấy vách cheo leo hiểm trở căn bản không thể xoay chuyển được cáng, bèn bảo mọi người vứt bớt một ba lô, rồi từng người lần lượt cõng giáo sư trên lưng, đồng thời lấy khẩu K54 – mà đại đội trưởng Mục để lại, giao cho Thắng Hương Lân phòng thân. Sau đó anh lên quy lát khẩu thần công của mình, rồi cuối cùng anh kết sẵn mấy bó đuốc cất vào trong ba lô. Lúc này Thắng Hương Lân mới thấy: lúc ở nông trường khai hoang, Tư Mã Khôi cương quyết đòi phân phát vũ khí cho tất cả thành viên trong đội, quả thực là suy nghĩ rất chu toàn. Cô khoác súng chéo qua vai, bật đèn cacbua để thăm dò chất lượng không khí, nhìn sang thấy đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà trông rất căng thẳng, khuôn mặt tái xanh, cô bèn hỏi: “Đội trưởng Hà, anh không sao chứ?” Tuy Lưu Giang Hà rất thông thuộc địa hình và khí hậu ở sa mạc, nhưng anh lại chưa bao giờ trải qua tình huống với đạn thật súng thật, vì đơn vị liên lạc không dây lại không phải bộ đội tác chiến. Hơn nữa, anh cũng chưa bao giờ đi xuyên qua sơn động, nên cảm giác lạc lõng trong bóng tối sẽ khiến người ta vô cùng hoảng loạn và áp lực, những người không có kinh nghiệm khó tránh khỏi tâm lý sợ hãi khi rơi vào hoàn cảnh ấy. Thế nhưng anh là một người khá sĩ diện, không muốn cho mọi người thấy sự sợ hãi của mình, nên cố gắng ra vẻ cứng cỏi đáp: “Không sao cả, tôi nghe đại đội trưởng Mục nói, nhiệm vu chúng ta chấp hành lần này là một trong những chiến lược vĩ đại của đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản. Tôi có quyết tâm…” Hải ngọng cõng giáo sư trên lưng giục giã: “Tôi hỏi các cậu có muốn đi hay không hả? Con bà nó, đến bây giờ thì cuối cùng tôi cũng ngộ ra: bắt Hải ngọng cậu đây chết vì mệt, khả năng cũng là một trong những chiến lược vĩ đại của đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản đấy nhỉ!” Tư Mã Khôi nghe xong, bỗng nhiên nghĩ đến kế hoạch kính viễn vọng địa cầu, đó là kế hoạch do người Liên Xô thực thi vào những năm năm mươi, nhưng những bí mật họ phát hiện dưới lòng đất cho đến nay dường như vẫn không phát huy được tác dụng gì. Bây giờ đội thám hiểm lại quên mình liều mạng tiến vào cực vực Lopnor, đã chết bao nhiêu người, rồi cho dù lấy được số liệu và mẫu đá mà người Liên Xô để lại, thì e rằng cũng viễn không thể trở về được nữa. Lần hành động này có ý nghĩa gì lớn lao thực sự không? Chẳng lẽ họ sẽ có cái kết, giống như cái kết mà bao tiểu thuyết cổ vẫn thường bình luận trước khi đóng sách: “Từ đó về sau, quốc thái dân an, văn trung võ dũng, thiên ha thái bình”? Nghĩ đi thì chắc chẳng thể đạt đến được mức ấy, có điều nghĩ lại, kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh hành sự lén lút vụng trộm, cũng vì muốn giải mã các kí hiệu cổ trong tòa thành Nhện Vàng. Hắn còn nghĩ ra kế hoach quái dị: sử dụng máy móc đặc biệt để thu nhận luồng sóng điện u linh, tư tưởng và hành vi tà mị của hắn dường như không bao giờ cạn, việc gì cũng có thể ra tay được, nên nếu không tìm cách xác minh chân tướng sự việc, thì hậu họa chắc chắn sẽ vô cùng ghê gớm. Nếu đúng như lời giáo sư nói: trong cực vực dưới lòng đất tồn tại mọi bí mật của Nấm mồ xanh, thì cho dù chuyến đi này không có ngày trở về, cho dù phải hi sinh tính mạng, thì mình cũng quyết liều đi đến cùng. Chính bởi thế nên Tư Mã Khôi không hề nghĩ đến việc rút lui; tuy biết rõ đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà thiếu kinh nghiệm tác chiến, nhưng cũng không thể đuổi anh ta về, cơ sự đã đến nước này thì chỉ còn biết cố hết khả năng của mình, để mắt đến anh ta nhiều hơn một chút. Anh theo sát mọi người bám vào vách núi hiểm trở lần mò xuống dưới. Trong địa máng mịt mù màn sương đen dày nặng, nó được hình thành do hơi nước ngưng tụ, giống như tầng mây quẩn quýt giữa bầu không. Khi cả đội đi xuống độ sâu khoảng năm, sáu ngàn mét so với lớp vỏ Trái Đất, đồng hồ khí áp bắt đầu mất tác dụng. Nhưng kể cũng lạ. không ai trong đội cảm nhận thấy sức nén mãnh liệt của địa áp, hàm lượng dưỡng khí cũng không hề suy giảm, nhịp tim hơi thở của họ đều bình thường. Trước mắt mọi người bóng tối bủa vây đen đặc, nên không thể phán đoán nguyên nhân cụ thể của hiện tượng này, mà chỉ suy đoán có lẽ nó liên quan đến cấu tạo địa chất đặc thù ở đây. Cuối cùng, đội thám hiểm cũng đến tầng đáy của vách đá dựng đứng, nơi chạm đất là bậc thềm bằng phẳng trầm tích hóa vật canxi, khó có thể thăm dò được phạm vi bao trùm, đến đâu cũng toàn là một làn khí lạnh lẽo ẩm ướt nhơm nhớp, mặt đất vương vãi đầy chum vại vàng bạc và xương cốt chất chồng, phần lớn đều là đồ chôn theo của tiên vương Lâu Lan cổ An Quy Ma Nã. Đó đều là những báu vật hiếm có, mà người đời sau mang cúng tế quốc chủ, vật bắt mắt nhất là một cây đại thụ, nhìn trong suốt, được làm bằng san hô khảm ngọc trai. Khi ánh sáng đèn cacbua soi vào, toàn thân nó ánh lên vẻ lung linh rực rỡ khiến người ta phải chói mắt. Tư Mã Khôi biết về báu vật này, nó chính là cây phong hỏa (6) trong Mậu Lăng của Hán Vũ Đế, cao mười mét, từng là bảo vật trấn tà trong cung nhà Hán. Những năm thời Đông Hán, xã hội loạn lạc nhiễu nhương nên bảo vật này mới bị lưu lạc đến Tây Vực, không ngờ giờ đây lại có thể tận mắt nhìn thấy nó ở Hắc Môn. Anh lại nhìn thấy dưới gốc cây phong hỏa, có một chiếc quan tài lớn đặt trên bệ ngọc màu mỡ dê. Quan tài có dạng mình dê đầu rắn, rất giống với chiếc thuyền rồng. Có lẽ thi hài của tiên vương An Quy Ma Nã được khâm liệm ở bên trong. Lúc này, mọi người còn đang nóng lòng tìm kiếm nguồn nước, nên không có nhiều thời giờ để ý, chỉ men theo vách đá lần mò về phía trước, rồi dần dần phát hiện phía dưới là hàng bệ đất, cũng chính là phần lồi ra trong địa máng. Vây quanh bệ đất là gỗ hóa thạch với nhiều hình thù kỳ quái, vào sâu hơn nữa là vũng nước tù, dường như đó là đầm nước tích ngầm dưới lòng đất do thiên nhiên hình thành, nhìn kỹ hơn thì thấy trong nước có một vài sinh vật phù du đang bơi lội tung tăng, xem ra đó không phải nước tù mà là nước chảy trong mạch ngầm. Hải ngọng thấy dưới lòng đất có nước bèn đặt giáo sư đang hôn mê xuống đất, định bụng lấy bình ra múc nước. Tư Mã Khôi liền vội ngăn anh lại: “Khoan đã! Có gì đó không ổn! Di chỉ Hắc Môn Lâu Lan cổ này hoàn toàn rộng mở, ngoại trừ vị trí nằm sâu trong lòng đất ra, thì không hề nhìn thấy bất kỳ biện pháp phòng bị hiệu quả nào cả. Vậy mà sao bọn thổ tặc lại không dám đến đây? Nguy hiểm mà cuốn cổ tịch biệt bảo ám thị lại không biết nằm ở chỗ nào?” Hải ngọng nói: “Tớ đã nói với các cậu bao nhiêu lần rồi, bọn thổ tặc mà biết có những nguy hiểm gì thật, thì chúng đã không đến nỗi phải bỏ mạng ở đây, cậu tin mấy lời ma quỷ đó làm gì”. Nói xong anh liền bật đèn quặng, gập người xuống lấy nước, nhưng vừa mới thò tay ra thì đã rụt vội tay lại như bị điện giật. Anh ngửa mặt lên trời ngồi phịch xuống đất, thảng thốt kêu lên: “Ối! Ma!” Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Tiên sư Hải ngọng! Lại sợi dây thần kinh nào bị chập mạch rồi à? Làm gì mà la oai oái lên thế? Tớ thấy ở đây chắc chắn có loài sinh vật bí ẩn nào đó đang rình rập trong bóng tối, cậu vặn loa nhỏ một tí cho tớ nhờ, đừng có mà để lộ mục tiêu.” Hải ngọng ngẩng đầu nhìn lòng bàn tay của mình, hoảng hốt lẩm bẩm: “Các cậu mau lại mà xem! Mẹ kiếp! Nó có phải là tay tớ nữa không nhỉ? Sao giống y chang tay người chết thế này?”
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi ba: Địa áp


    Khi Hải ngọng đi lấy nước dưới địa máng, bỗng nhiên nhìn thấy toàn bộ đường gân và mạch máu ở mu bàn tay mình đều nổi lên cuồn cuộn, không những vậy bên trong lại có các vết bầm tím bất thường, còn làn da thì tái xanh đến đáng sợ. Anh không biết chuyện gì đang xảy đến với mình, nên vội vàng soi đèn cacbua và gọi hội Tư Mã Khôi lại xem. Các nước Tây Vực rất coi trọng châu ngọc, có lẽ trong đống đồ bồi táng của tiên vương Lâu Lan cổ trưng bày rất nhiều ngọc quý phát dạ quang, có thể chiếu sáng như ánh trăng, nhưng trong môi trường âm u tăm tối, trải qua hơn hai ngàn năm, những viên ngọc đó đã sớm thành khoáng vật đen sì như than đá. Chính vì trong điều kiện bóng tối bủa vây tuyệt đối dưới lòng địa cốc, khắp không gian không hề tồn tại một tia sáng nào. Đội thám hiểm bước chân vào bên trong, chẳng khác gì ngã vào vũng mực tàu mênh mông không nhìn thấy bờ bến, cho dù hai người có ghé sát mặt nhau nhưng vẫn không thể nhìn rõ ngũ quan của đối phương. Nếu không phải Hải ngọng tự cầm đèn quặng soi tay mình, thì không ai phát hiện ra thân thể anh đã xảy ra biến đổi dị thường. Lúc này mọi người túm tụm chạy lại dưới ánh đèn, mới phát hiện thì ra không phải chỉ một mình cơ thể Hải ngọng xuất hiện những dấu hiệu bất thường, mà tất cả các thành viên còn lại đều có biểu hiện tương tự, dường như có loại vật chất hắc ám nào đó đã xâm nhập vào cơ thể họ trong lúc không ai để ý đến. Thắng Hương Lân cảm thấy rất kinh ngạc: “Sao lại xuất hiện tình trạng này được nhỉ?” Hải ngọng nói: “Tuy tôi không hiểu về khoa học, nhưng ít nhiều cũng chuẩn bị chút ít kiến thức cơ bản cổ xưa, lần này chúng ta đúng là xong đời rồi. Năm 1973, ở Miến Điện từng bùng phát một loại bệnh dịch truyền nhiễm, dường như gọi là cái gì mà dịch chuột đen, tỉ lệ tử vong gần lên đến 99.8%, thôn xóm nào cũng thấy toàn là người chết. Tôi đã tận mắt chứng kiến bộ dạng của họ trước khi lìa đời, nó giống hệt với dấu hiệu xuất hiện trên cơ thể chúng ta bây giờ, từ lúc phát bệnh đến lúc chết chưa tới một ngày, khi nào miệng bắt đầu nôn ra dãi trắng, mũi chảy máu đen, thì cũng là lúc một mạng người sắp tờ oi toi rồi đấy!” Đội trưởng Lưu Giang Hà sợ xanh mắt, lẩm bẩm “Chắc chúng ta bị chuột cát trong địa cốc truyền bệnh thật rồi. Bọn thổ tặc kia có lẽ cũng chết vì mắc dịch này ” Tư Mã Khôi nghi ngờ: “Này trại chủ Hải ngọng, mong cậu hãy dùng đám kiến thức cơ bản cổ xưa của cậu mà thử phân tích một chút đi. Chúng ta đã mắc phải căn bệnh do loài chuột truyền nhiễm với tỉ lệ tử vong cao lai còn sắp đến giai đoạn cuối; nhưng tại sao đến tận giờ vẫn chưa xuất hiện triệu chứng thường gặp nhất của loại bệnh này là người run lẩy bẩy, nóng lạnh bất thường thế hả?” Hải ngọng không giải thích được nguyên nhân, đành lấp liếm: “Cậu có biết cách chết hay nhất trên thế giới này là gì không? Chính là chết mà không cần trải qua suy nghĩ, chết càng đột ngột càng tốt đấy. Bây giờ cả lũ đã sắp chết đến nơi rồi, sao cậu còn nỡ lòng nào bắt đầu óc tớ phải đào sâu suy nghĩ về vấn đề đó, đúng là không có tí tinh thần chủ nghĩa nhân đạo cách mạng chút nào.” Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói dường như còn hàm chứa ẩn ý khác, bèn hỏi: “Có phải anh phát hiện ra điều gì không?” Tư Mã Khôi đáp: “Quan tài của tiên vương Lâu Lan cổ An Quy Ma Nã được đặt trên bệ đất dưới đáy địa máng, không hề có tường đất bao quanh, cũng không có địa cung, trên dưới trái phải đều trống trải không vật che chắn, cách chôn này được gọi là ‘tuyệt địa thông thiên’. Sau khi chúng ta xuyên qua địa cốc, men theo khe đứt gãy gấp khúc giữa các vách đá, là có thể tiến thẳng vào trong Hắc Môn. Tôi thấy gần chỗ đặt quan tài mình dê đầu rắn, giống như chiếc thuyền rồng này, chồng chất xương khô, có khả năng đó đều là những người bị tuẫn táng theo tiên vương, nhưng cũng có thể là của các nô lệ khênh quan tài và báu vật bồi táng, sau khi xuống dưới này thì không trở về nữa. Những người này không hề chạy trốn hay phân tán ra nơi khác, mà họ ngồi co ro ở nguyên vị trí và chờ đợi cái chết. Điều này rõ ràng không hợp tình hợp lý chút nào. Trừ khi trong địa máng tồn tại thứ gì đó vô hình vô ảnh, có sức mạnh trói buộc người sống phải ở đây. Thêm vào đó, bức vẽ minh họa trong cuốn cổ tịch biệt bảo cho thấy: bọn họ cũng sử dụng phương thuật khai quật cốt ngọc bằng cách mượn thi thể người chết, và thông qua đó ám thị cho chúng ta biết không được xuống hố sâu dưới địa máng.” Thắng Hương Lân hỏi Tư Mã Khôi: “Bệ đất nhô ra khỏi vách đá trên cửa sổ núi vừa hiểm trở lại vừa nhỏ hẹp, dù có mãnh điểu bay xuống đây quắp thi thể, rồi bị người ta dọa cho hoảng sợ mà nhả miếng thịt, thì chưa chắc miếng thịt đã rơi xuống khu vực gần cửa sổ núi, huống hồ hội người Pháp và Triệu Lão Biệt, tuy chưa vào bên trong địa máng nhưng vẫn phải chết ở ngay ngoài cửa Hắc Môn đấy thôi. Anh giải thích thế nào về những việc quái lạ này?” Tư Mã Khôi đáp: “Nội dung mà bức vẽ đề cập đến chỉ là một hình ảnh ẩn dụ. Người Pháp có thể dùng nhiều tiền để thuê toàn bọn thổ tặc không sợ chết xuống dưới mò bảo vật – rốt cục trên thế giới này mạng người là thứ vô giá trị nhất, nhưng tất cả những người đã vào địa cốc thì không có ai sống sót trở về, kể cả những người dừng chân ở khu vực an toàn bên ngoài cửa sổ núi, tất cả đều bất ngờ đổ gục giữa đường chết bất đắc kỳ tử. Điều này đủ để chứng minh, trong Hắc Môn tồn tại một lời nguyền: nơi này chỉ có thể vào chứ không thể ra, bất kể người nào vi phạm quy luật này, kẻ đó phải chết.” Lưu Giang Hà không hiểu hàm ý ẩn chứa của Tư Mã Khôi, bèn hỏi: “Nếu trong địa cốc thực sự tồn tại lời nguyền của các hài cốt người Lâu Lan cổ xưa, khiến tất cả những kẻ xâm phạm – ngay từ khoảnh khắc thâm nhập vào địa cốc, đã lập tức bị định đoạt đường trở về. Thế thì chẳng phải tất cả chúng ta rồi sẽ chết cả sao? Chết vì lời nguyền, hay chết vì mắc bệnh dịch, đâu có gì khác nhau? Bây giờ nói những chuyện này thì có ý nghĩa gì chứ?” Tư Mã Khôi vẫn nhẫn nại giải thích: “Đương nhiên là khác chứ, dịch chuột đen là nạn dịch mang tính tuyệt diệt, tốc độ lây truyền nhanh chóng, tỉ lệ tử vong rất cao, nếu quả thực mắc phải căn bệnh này thì không ai có thể cứu nổi chúng ta, nhưng tôi cho rằng chúng ta không hề mắc bệnh truyền nhiễm này. Người Lâu Lân cổ chắc chắn đã phát hiện trong Hắc Môn tồn tại hiện tượng tử vong rất thần bí và trái với quy luật bình thường, nên họ mới đặt quan tài của tiên vương trong lòng địa máng. Chiêu này đúng là tuyệt đỉnh, nó nham hiểm và tàn độc hơn bất cứ biện pháp chống trộm mộ nào, hơn nữa lại rất hiệu quả. Có điều, cổ nhân cũng thường nói: ‘Trời không tuyệt đường người’, vạn vật trên thế giới này đều được ông trời để lại cho một cơ hội sống sót, nên chỉ cần chúng ta nắm bắt được đặc trưng và quy luật của cái chết thì nhất định sẽ tìm ra cách phá giải lời nguyền. Cho nên chỉ mong rằng lúc này mọi sự vẫn còn chưa quá muộn.” Thắng Hương Lân cũng là người tư duy rất nhanh nhạy, cô nói: “Quy luật và đặc trưng của cái chết rất rõ ràng, bọn thổ tặc đều bị chết bất ngờ trên đường trở về mà không có bất kỳ dấu tích ngoại thương nào, thi hài cũng không hề có biểu hiện của bệnh biến hay trúng độc. Những tình trạng này không đủ để nói rõ bất kỳ việc gì, có lẽ phải kết hợp phân tích với đặc điểm địa thế địa lý đặc thù trong Hắc Môn…” Cô chưa nói dứt câu, thì đột nhiên nghe thấy một tiếng động vang lên trong bóng tối, dưới ánh đèn quặng uốn éo, có một người đang tiến lại gần cả hội. Tư Mã Khôi lập tức đề cao cảnh giác, giương khẩu thần công lên, Thắng Hương Lân giữ vai anh ngăn lai: “Đừng vội nổ súng, hình như là người của phân đội khoan thăm dò.” Lúc này, kẻ mới đến đã bước vào phạm vi chiếu sáng của đèn quặng. Đó là một người đàn ông trung niên mắt đeo cặp kính cận gọng đen, chưa đến bốn mươi tuổi, trông rất thư sinh nho nhã, thân hình gày gò như thể bị suy dinh dưỡng lâu ngày, xem trang phục và ba lô thì có vẻ anh ta thuộc phân đội khoan thăm dò đến từ Karamay. Tư Mã Khôi nhìn rõ mặt kẻ mới đến, trong lòng càng cảnh giác hơn, thầm nghĩ: “Tất cả thành viên thuộc phân đội khoan thăm dò Karamay đều bị vật chất phân rã thể khí trong địa cốc thiêu chết, nếu đội mình mà không nhanh chân chạy trốn thì chắc cũng chịu chung số phận, bị cát lún vùi chết dưới đó. Việc này nhất định là do kẻ địch nấp trong bóng tối ra tay sát hại, nhằm phá hoại mọi hành động thăm dò kính viễn vọng Lopnor. Gã này lai lịch không rõ ràng, mình nhất định phải đề phòng mới được”. Nếu đây là rừng rậm Miến Điện thì chắc chắn đã lập tức nổ súng mà không cần do dự, nhưng bây giờ vẫn chưa có chứng cứ xác thực, nên không thể dễ dàng ra tay giết người, ngộ nhỡ xảy ra nhầm lẫn thì biết ăn nói thế nào với giáo sư. Gã trí thức trong phân đội khoan thăm dò kia có bộ dạng giống với nhân viên kỹ thuật, thấy hội Tư Mã Khôi đội mũ bấc Pith Helmet, trong tay lại lăm lăm khẩu súng thần công kiểu cổ, cách ăn vận vô cùng đặc biệt nên không khỏi ngạc nhiên. Anh ta đứng ngây người không biết phải làm thế nào mới phải. Thắng Hương Lân vẫn giữ vững tinh thần cảnh giác, cô thấy sắc mặt người đó có vẻ hơi kỳ dị, bèn nói rõ lai lịch của mình, rồi hỏi: “Có phải anh là người của phân đội khoan thăm dò Karamay không? Sao lại xuống chỗ này?” Người đó nghe xong thì như bị kích động, nước mắt lẫn nước mũi thi nhau tuôn rơi. Anh ta hỏi rõ thì biết Tư Mã Khôi là người chỉ huy toàn đội, liền lập tức đi lên trước giơ tay bắt tay Tư Mã Khôi thật chặt và nói: “Thủ trưởng Khôi, tôi ngày đêm mong ngóng, cuối cùng các anh cũng đến được đây rồi..” Hải ngọng bất bình nổi giận mắng: “Thằng ranh Khôi trong bụng chứa toàn nước thối, nó làm thủ trưởng lúc nào hả?” Tư Mã Khôi ôm súng trường – vẫn không rời giáo sư nửa bước, anh vừa bắt tay người đó vừa nói: “Anh đừng vội thân mật với bọn tôi như thể, cái chết của các thành viên phân đội khoan thăm dò còn chưa rõ ràng, chúng tôi cũng đang rất sốc; nói không chừng trong địa cốc có nội gián quân địch mai phục. Thủ trưởng tôi đây không chiu được cát chui vào trong mắt, nên trước tiên tôi phải xác nhận thân phận của anh đã.” Người đó lập tức liên mồm thanh minh: “Thủ trường Khôi, anh quả không hổ danh là bậc cán bộ lão thành, lãnh đạo lão thành, đúng là có kinh nghiệm, có trình độ. Nếu chúng tôi không được sự chỉ đạo đúng đắn của anh trong công tác, thì quả thực không biết còn phạm bao nhiêu sai lầm nữa…” – Sau đó anh ta bắt đầu kể lại đầu đuôi câu chuyện trước mặt mọi người. Anh ta tự xưng mình họ Điền, tên đầy đủ là Điền Khắc Cường, bắt đầu tham gia công tác thăm dò ở khu vực Karamay từ trước cách mạng, nhưng không trực thuộc phân đội khoan thăm dò, mà là kỹ sư thuộc đại đội vật lý thăm dò. Cả đời anh ta sống và làm việc rất mực cẩn trọng, tận tụy với nghề nghiệp. Sau cách mạng, anh ta được bầu làm tổ trưởng tổ đấu tranh tư tưởng. Nghe nói tổ chức muốn điều động một lực lượng tinh nhuệ vào công tác thăm dò tài nguyên khoáng sản quặng trong sa mạc Lopnor, tuy biết điều kiện sẽ rất gian khổ, nhưng anh ta lại sợ trở thành điển hình lạc hậu và bị tổ chức phê bình, nên đã viết huyết thư biểu thị sự quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ. Thế là anh ta được nhận vào phân đội khoan thăm dò và cử đi sa mạc Lopnor. Khi gặp trận gió nóng khốc liệt, phân đội khoan thăm dò buộc phải trốn vào nơi sâu dưới hang cát để tránh khí hậu khắc nghiệt, nhưng không may lại gặp phải luồng quang sương giống như làn khí chưng hơi, khiến rất nhiều người đã bị thiêu cháy trong địa cốc. Lúc đó, Điền Khắc Cường vừa quay đầu lại tìm ba lô bị rớt phía sau nên may mắn thoát nạn, nhưng một mình anh ta bị cô lập giữa sa mạc, không có cứu viện, nên chỉ biết tiếp tục xuống địa cốc tìm nguồn nước. Lúc này Điền Khắc Cường lại phát hiện cơ thể mình đã xuất hiện những triệu chứng khác thường, giống như bị mắc loại bệnh truyền nhiễm nào đó. Anh ta nhìn thấy dọc đường đi có vô số bộ hài cốt gục đổ dưới đất, bèn nhớ ra trong một lần đi thăm dò mỏ quặng trước đây, đã gặp phải tình trạng tương tự thế này, rất có khả năng là nhiễu loạn địa áp đã dẫn đến chứng tăng áp lực nội sọ, cơ thể con người không cảm giác rõ rệt chứng bệnh này, nhưng chỉ cần quay trở về điểm cách mặt đất trên ba ngàn mét thì huyết dịch trong khắp cơ thể sẽ lập tức sôi ùng ục như nước sôi. Đây là một loại của hội chứng địa áp, mới được các nhà khoa học phát hiện từ đầu những năm năm mươi. Trước mắt, y học vẫn chưa có biện pháp chữa trị đặc thù nào đối với căn bệnh này. Sau khi biết nội tình sự việc, anh ta không dám quay trở lên nơi cao hơn mà tiếp tục đi sâu xuống địa máng tìm khu vực có nguồn nước Anh ta nói với hội Tư Mã Khôi, tuyệt đối không được quay về con đường hầm cửa sổ núi, vì các huyết quản trong não sẽ nứt vỡ dẫn đến cái chết một cách nhanh chóng. Tư Mã Khôi nghe kỹ sư Điền Khắc Cường nói xong mới biết nguyên nhân cái chết của bọn thổ tặc đều là do nhiễu loạn địa áp. Bản thân những lời này không có điểm gì đáng phải hoài nghi, nhưng thời gian xuất hiện của Điền Khắc Cường lại rất đáng ngờ. Vì sao anh ta sớm không đến, muộn không đến, mà giữa lúc mọi người đã dò dẫm ra chút manh mối và sắp có kết quả đến nơi, thì mới vội vàng xuất hiện? Điều này có nghĩa là khả năng con người này chính là đặc vụ quân địch trà trộn vào phân đội khoan thăm dò Karamay, sau khi ép các thành viên trong đội đến chỗ chết, hắn luôn trốn trong bóng tối lén theo dõi hành động của đội thám hiểm, rồi tìm cách dùng cát lún chôn sống mọi người, nhưng âm mưu bất thành. Lúc này, hắn xuất hiện để giải thích nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của phân đội khoan thăm dò là mong chiếm được lòng tin của đội thám hiểm, sau đó sẽ dẫn mọi người xuống vực sâu chết chóc và đẩy tất cả vào vùng vạn kiếp không thể siêu sinh. Đây chính là thủ đoạn của Nấm mồ xanh vẫn thường dùng. Trong đầu Tư Mã Khôi vừa lóe lên cái tên Nấm mồ anh thì một luồng gió lạnh buốt như chạy dọc sống lưng. Có điều, khi nãy anh bắt tay với Điền Khắc Cường, hơn nữa khoảng cách giữa hai người lại còn rất gần, nên có cảm giác rõ ràng đối phương chắc chắn là người sống, vì hắn ta không có hơi khí khủng bố của Nấm mồ xanh như bóng ma u hồn. Anh không thể chỉ vì thời gian xuất hiện của hắn ta có chút nhạy cảm mà lập tức chụp mũ cho người này là gián điệp được. Sau khi kỹ sư Điền Khắc Cường báo cáo xong, thì lại tự lấy thẻ công tác của mình đưa cho Tư Mã Khôi kiểm tra: “Bây giờ thì các đồng chí có thể tin tôi rồi chứ?” Tư Mã Khôi không thèm liếc mắt đến chiếc thẻ công tác lấy một cái, mà chỉ nhìn chằm chằm vào gương mặt Điền Khắc Cường. Từ trước đến nay, anh rất giỏi đánh giá con người, nên không hiểu sao cứ thấy người này có nét gì đó rất quái dị khó có thể diễn tả bằng lời. Nói tóm lại, anh thấy người này không giống với những người bình thường khác, nhưng nhất thời vẫn chưa nhận ra điểm khúc mắc đó rốt cục nằm ở chỗ nào, bèn nói: “Anh đừng gọi tôi là thủ trưởng nữa, tôi có tài cán gì đâu? Chẳng qua đủ khả năng cho mấy đồng chí đây ăn thêm một tí muối mặn suốt mấy năm qua thôi. Ở cửa tôi thì anh tạm có vấn đề gì, nhưng vị Hải ngọng đây – hồi trước từng là trinh sát viên làm việc tại cơ quan công an, có kinh nghiệm lâu năm trong công tác phản gián, chắc anh ấy có vài vấn đề muốn hỏi anh, hy vọng anh có thể trả lời rõ ràng.” Hải ngọng thấy đã đến lượt mình xuất trận, bèn lên tiếng hỏi Điền Khắc Cường: “Trước tiên, tổ chức muốn tìm hiểu một chút về vấn đề quá khứ của đồng chí sau đó mới bàn luận đến vấn đề hiện tại. Đồng chí có mắc sai phạm nào về chính trị không? Có lạm dụng công quyền chiếm dụng tài sản xã hội chủ nghĩa không? Có ly hôn với bà vợ già ở quê nhà không?” Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng có phần hơi quá đáng, vì những sự việc này làm sao mà chứng thực được, nên hỏi với không hỏi cũng đâu khác gì nhau? Giáo sư mà biết thì sớm muộn cũng tức bọn họ đến lồng ruột mà chết mất thôi. Nhưng kỹ sư Điền Khắc Cường thì không hề có ý trách móc gì cả, dường như anh ta rất quen thuộc với phương thức hỏi kiểu này, thế là bèn trả lời theo đúng sự thực. Hải ngọng thấy Điền Khắc Cường ứng đáp trôi chảy thì không tiếp tục gạn hỏi về vấn đề này nữa: “Bây giờ tôi phải hỏi đồng chí vấn đề mang tính chuyên nghiệp hơn một chút, nếu là kẻ mạo nhận thì chắc chắn sẽ lộ cái đuôi cáo ngay tức thì, đại đội thăm dò vật lý của các đồng chí rốt cục thăm dò con vật gì vậy?” Điền Khắc Cường tỏ vẻ lúng túng: “Cái này… phải nói thế nào nhỉ, cách hỏi của đồng chí không được đúng lắm, thăm dò vật lý không phải là thăm dò con vật gì, mà là phương pháp thăm dò quặng bằng vật lý học, cũng giống như phương pháp thăm dò hóa học vậy. Thăm dò vật lý là sử dụng các phương pháp trong vật lý học để tìm kiếm các mạch quặng nằm tiềm tàng trong lòng đất, thông thường được chia ra thành hai phương pháp là điện và từ”. Lúc này đội trưởng Lưu Giang Hà cũng lên tiếng khuyên can Tư Mã Khôi: “Trên cơ thể kỹ sư Điền Khắc Cường cũng xuất hiện biểu hiện của hội chứng địa áp. Anh ấy giống chúng ta là đều đang phải đối mặt với sự uy hiếp của cái chết, nên nếu quả thực là nội gián quân địch thì đã không xuống đây chịu chết làm gì. Anh ấy không có điểm gì đáng phải hoài nghi đâu.” Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Đúng là tôi không thể đối chứng được thân phận của vị kỹ sư đây, nhưng cũng không thể tra ra bất kỳ khúc mắc nào.” Kỹ sư Điền Khắc Cường bị Tư Mã Khôi soi kỹ mức tim gan cũng hơi gai lạnh, đột nhiên nghe đối phương nói thế, cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm, anh ta cố nặn một nụ cười bảo: “Chỉ cần tổ chức tin tưởng là tốt rồi…” Ai ngờ Tư Mã Khôi lại nói: “Tuy rằng anh trả lời không lộ một khe hở nào, nhưng tôi biết: anh nhất định phải tận mắt nhìn thấy bọn tôi lập tức chết ráo thì anh mới yên tâm được.” Điền Khắc Cường có vẻ hơi run, anh ta đẩy gọng kính rồi ngẩng đầu lên nói: “Thủ trưởng Khôi, anh cứ việc tiếp tục điều tra, nhưng trước khi có chứng cứ xác thực thì anh tuyệt đối không được dễ dàng đưa ra kết luận sai lầm, không có việc gì khiến người ta cảm thấy đau khổ hơn phải chịu oan ức đâu.” Mặt Tư Mã Khôi đột ngột lóe lên tia sát khí, anh lạnh lùng hừ một tiếng rồi chửi: “Đồ khốn kiếp! Oan cái con mẹ nhà mày, tao chỉ hỏi mày một câu cuối thôi, vì sao từ đầu chí cuối mày không chớp mắt hả? Cả đời tao chỉ gặp hai kẻ chưa bao giờ chớp mắt. Một đứa là mày, còn kẻ kia chính là Nấm mồ xanh!”
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi bốn: Đáy hàn sơn dưới âm tuyền


    Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã phát hiện thấy Điền Khắc Cường có đôi chỗ khác thường, khi nói hắn luôn luôn giả vờ nâng gọng kính trên mũi lên, cố tình né tránh ánh mắt nhìn thẳng của đối phương, đồng thời đầu cúi hơi thấp như muốn che đậy đôi mắt của mình phía sau cặp kính cận dày cộp. Hai tròng kính của hắn có khi còn dày hơn cả đáy bình rượu, chí ít cũng phải hơn một mười độ, nếu hắn ta không đeo kính cận thì chắc không khác người mù là mấy. Mọi lời nói, cử chỉ, trang phục, dung mạo của hắn đều rất bình thường, chỉ thiếu mỗi cơ năng sinh lý cơ thể thường nhất của con người là sự vận động của mí mắt. Từ đầu chí cuối, hắn ta không hề chớp mắt lấy một lần, thử hỏi trên đời này làm gì có người nào lại không chớp mắt. Có lẽ cũng không hẳn là không có. Tục truyền, dưới trướng của Nhạc Phi có một đại tướng tên là Ngưu Cao và thời Tam Quốc nước Yên có một người tên là Trương Dực Đức, hai người này từ lúc sinh ra đã có tướng mạo đầu báo mắt tròn, cho dù là ban đêm ngủ nhưng mắt vẫn mở to y như lúc thức, rồi cả đêm chỉ nghe thấy tiếng ngáy vang tựa sấm rền mà thôi. Nhưng rốt cục đó chỉ là lời tả trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, chứ không hề có căn cứ xác thực, vì tình tiết này chưa bao giờ được ghi trong chính sử, cũng không có ai từng tận mắt nhìn thấy họ ngoài đời. Lần trước, Tư Mã Khôi đã gặp một người không chớp mắt, đó chính là Nấm mồ xanh mà anh chạm trán dưới tòa thành Nhện Vàng. Hắn che giấu đôi mắt đăng sau chiếc mặt nạ da người của quốc vương Chăm Pa, còn trong con ngươi đen hun hút tuyệt đối không có chút sinh khí của người sống, vừa nhìn đã biết là đôi mắt của tử thần. Tất cả những điều này trước đây Tư Mã Khôi đều lập tức cảm nhận được ngay, còn gã kỹ sư Điền Khắc Cường vẫn sống sờ sờ đứng ở đây, vậy mà đôi mắt của hắn lại không có khả năng nhắm chớp, như thể không phải là con người vậy, bởi vì chỉ những sinh vật không có mí mắt mới không bao giờ chớp mắt mà thôi. Tư Mã Khôi nhận ra đặc điểm bất thường này, anh âm thầm chạm tay vào cò súng, lòng nghĩ thầm: “Kẻ mới đến chắc chắn không mang ý đồ gì tốt đẹp. Hắn lén lén lút lút trốn trong bóng tối, phát hiện thấy đội thám hiểm sắp phá vỡ được quy luật chí mạng của hội chứng địa áp, trong lúc nhất thời nóng ruột, hắn liền hiện thân tiếp cận với mọi người, định bụng trước tiên sẽ lợi dụng tin tình báo không chút giá trị này để lừa gạt chiếm lấy lòng tin của cả đội, sau đó sẽ đẩy mọi người vào chỗ chết.” Điền Khắc Cường không ngờ chưa đến ba câu sáu điều, đã bị đối phương phát hiện ra chân tướng. Biết không thể tiếp tục che đậy, sắc mặt hắn lập tức sa sầm, ngậm miệng không nói thêm câu nào. Mọi người thấy tình hình diễn biến như vậy, thì đều khẳng định chắc chắn: “Không còn nghi ngờ gì nữa, gã kỹ sư vật lý Điền Khắc Cường chính là gián điệp.” Hải ngọng thấy Tư Mã Khôi vẫn chưa nổ súng thì biết chắc anh muốn bắt sống hắn, lại trông đôi vai gã kỹ sư hơi rung rung như thể sắp sửa hành động. Hải ngọng bèn gầm lên một tiếng trong cổ họng, rồi nhảy bổ vào người hắn. Dựa thế thân dài vai rộng, anh dùng một tay khóa chặt cổ hắn, rồi vặn ngược hai tay hắn ra sau và giữ bằng tay còn lại. Tư Mã Khôi luôn chăm chú quan sát nhất cử nhất động của đối phương. Lúc này thấy Điền Khắc Cường đã bị Hải ngọng khống chế, nhưng tay trái của hắn lại giơ cao lên như thể muốn vứt một vật gì đó ra ngoài. Anh vội và hét lớn: “Cẩn thận vật trong tay hắn!” Hải ngọng cũng biết sử dụng một số thế võ nhưng chủ yếu vẫn dựa vào thể lực và thân hình cao to hơn người bình thường, anh vẫn có thể một người địch mười tên, khi nghe Tư Mã Khôi hét lớn nhắc nhở, anh bèn khép chặt khuỷu tay gia tăng thêm ba phần công lực, phút chốc đã thấy Điền Khắc Cường trợn mắt trắng dã, đánh tuột cả vật đang cầm trong tay, chỉ thấy nó rơi “cạch” một tiếng xuống đất. Thì ra đó là một bình thuốc nhỏ làm bằng thủy tinh, sau khi chạm đất thì vỡ tan tành, bột thuốc đựng bên trong gặp không khí liền biến thành đám khói đặc màu vàng. Tư Mã Khôi ngửi thấy mùi sộc lên tận óc này rất kích mũi, thì biết chất đựng đầy trong lọ thủy tinh là độc tố Ricin, một loại độc tố được chiết xuất dễ dàng từ hạt thầu dầu, độc tính cực mạnh. Chỉ khoảng 70 microgram Ricin, tương đương với một hạt muối, cũng đủ giết chết một con người, qua đường tiêm, hít hoặc tiêu hóa. Khi nhiễm độc, nạn nhân sẽ bị sốt cao, nôn mửa, đi ngoài liên tục và co giật. Những triệu chứng này thường kéo dài trong vòng 24 giờ, và kết thúc bằng cái chết. Gã Điền Khắc Cường giấu độc tố Ricin trong tay áo, định bụng sẽ tiến sát lại gần đội thám hiểm và ra tay hạ độc. Chiêu này đươc gọi là: “súng đạn ầm ầm dễ tránh, mũi tên bắn lén khó phòng”. Nếu Tư Mã Khôi không để mắt theo dõi hắn ráo riết, khiến hắn người không dám chuyển động, tay không dám giơ cao, thì mọi người đã sớm bị hắn sát hại từ lâu rồi. Lúc này, thấy bình thuốc lăn lóc rơi trên mặt đất, độc tố chảy tràn ra ngoài, Tư Mã Khôi vội vàng hét bảo mọi người nhanh chóng lùi ra xa. Hải ngọng cũng biết nguy hiểm, vốn định kéo tên tù binh này lùi ra sau tránh né chất độc, nhưng trong lúc nguy cấp, anh lại sử dụng lực cánh tay hơi quá đà, không ngờ bẻ gãy cả cổ đối phương. Đầu của Điền Khắc Cường dường như quay ngoắt 180° mặt hướng ra sau lưng, lỗ mũi và mồm phun trào máu tươi, ngáp cũng không kịp ngáp một tiếng đã vội ngoẻo đời. Hải ngọng chửi thầm: ‘‘Đúng là mẹ nhà mày không rắn chắc tí nào cả, oặt à oặt ẹo như cái cổ gà, thế mà cũng dám bày đặt làm đặc vụ à?”. Sau đó anh tóm lấy cổ áo sau của hắn lôi đi xềnh xệch như người ta dắt chó. Nào ngờ khuôn mặt đang vẹo ra sau của Điền Khắc Cường đột nhiên động đậy, cái mồm chợt há to ngoạm một miếng thật mạnh vào tay Hải ngọng. Hải ngọng cúi đầu nhìn khuôn mặt đang chảy ròng ròng máu tươi và mấy cái răng trắng nhởn, thì sợ hết cả hồn vía, vội vàng rụt phắt tay lại, quăng cái xác xuống đất. Chỉ thấy phần đầu cái xác của gã kỹ sư Điền Khắc Cường vặn ngược nửa vòng nghe rắc rắc, rồi cả hai tay lẫn hai chân bò lồm ngồm lẩn trốn vào nơi sâu trong bóng tối. Các thành viên còn lại chứng kiến cảnh tượng ấy không ai là không kinh hãi tột độ. Đến khi Tư Mã Khôi giương súng lên bắn, thì bóng hắn đã hòa lẫn vào bóng đêm. Lúc này, anh có thể hoàn toàn chắc chắn rằng: gã Điền Khắc Cường không phải nội gián Liên Xô nằm vùng trong nước, mà tên này có liên quan đến tổ chức ngầm Nấm mồ xanh. Tư Mã Khôi nghe bên tai có tiếng trườn bò trong bóng tối, bèn nghĩ thầm: “Trong huyệt mộ này, chỗ nào cũng chồng chất xương cốt, rương hòm vàng bạc vương vãi khắp nơi, chỉ cần khẽ chạm một cái là sẽ lập tức phát ra tiếng động. Tao không lo mày mọc thêm cánh mà bay lên trời trốn thoát được”. Sau đó, anh bảo đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà cõng giáo sư Nông địa cầu, rồi mọi người đều bật sáng đèn quặng treo trên mũ bấc Pith Helmet, bám đuổi theo tiếng động đang phát ra. Trống ngực Thắng Hương Lân đập thình thịch, nắm chặt khẩu súng lục K54 trong tay, bám sát ngay sau lưng Tư Mã Khôi, không nhịn được liền hỏi: “Cái cổ của gã kỹ sư đó đã gẫy lìa, sao…sao vẫn có thể cử động được?” Tư Mã Khôi khẽ đáp: “Gà cắt đứt đầu vẫn còn chồm lên được mấy cái, huống hồ là con người? Có lẽ tổ chức thần kinh trong cơ thể gã đó vẫn chưa chết hẳn”. Anh đột nhiên nghĩ đến việc khi trước đúng như mình tiên liệu, sau khi tên đầu sỏ của tổ chức Nấm mồ xanh mất tích một cách thần bí dưới tòa thành Nhện Vàng, thì hoạt động của tổ chức này đột ngột chìm lắng xuống, nhưng không có nghĩa mọi việc đã kết thúc triệt để. Bây giờ quả nhiên tai họa đã tự gõ cửa tìm đến, không biết hai người Tuyệt và Ngọc Phi Yến, đang ở mãi nơi đất khách quê người xa xôi có được an toàn không? Suy nghĩ ấy vừa lướt qua trong óc, anh bất giác cảm thấy một nỗi sợ không thể kiềm chế cứ thế trỗi dậy. Lúc này âm thanh trườn bò liên tục qua những đống xương khô đột nhiên dừng hẳn, Tư Mã Khôi chiếu đèn quặng về phía trước, thì thấy cả bọn đã đuổi theo đến gần chỗ đặt cỗ quan tài hình thuyền rồng, đầu rắn mình dê của tiên vương Lâu Lan, nhưng lại không thấy bóng dáng gã Điền Khắc Cường đâu cả. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, ngầm hỏi: “Chẳng lẽ gã chui vào trong quan tài trốn rồi ư? Sao không nghe thấy tiếng mở nắp quan tài nhỉ?” Đang định tiến lên phía trước tiếp tục lùng sục thì đột nhiên họ phát hiện gã kỹ sư – giống như con thạch sung bám vào phần đỉnh cỗ quan tài, khắp mặt nhoe nhoét máu tươi, ngũ quan méo mó, hắn gằn giọng uy hiếp: “Bọn mày không được đuổi theo nữa, nếu không tao sẽ cho nó phát nổ đấy!” Tư Mã Khôi biết tổ chức ngầm Nấm mồ xanh hành sự kỳ quái khó lường, nếu đối phương bí quá sẽ “chó cùng rứt dậu”, thì không biết sẽ giở những thủ đoạn gì. Trước khi làm rõ được tình hình, tốt nhất không nên mạo hiểm nhào lên, thế là anh bèn dẫn mọi người nằm phủ phục phía sau một hàng đá nhô ra, chiếm cứ vị trí thuận lợi cho tấn công. Chỉ cần Điền Khắc Cường thò người khỏi đỉnh quan tài, thì anh sẽ nổ súng bắn hắn ngay lập tức. Gã kỹ sư Điền Khắc Cường thấy mọi người không tiến lên nữa, mới nghiến răng ken két nói với Tư Mã Khôi bằng giọng đầy hận thù: “Tư Mã Khôi, mày đã biết được thân phận của tao, thì tao cũng chẳng giấu làm gì. Tao biết mày và thằng Hải ngọng là hai kẻ may mắn sống sót chạy thoát khỏi tòa thành Nhện Vàng. Nhưng phàm những kẻ muốn chạm vào bí mật của thủ lĩnh bọn tao, đều không được phép tiếp tục sống trên cõi đời. Hai đứa đồng bọn của chúng mày trốn ở Bắc Miến và Anh Quốc đã chết lâu rồi; còn hai con ma cụt đầu bọn mày nữa, đừng có hòng sống qua nổi hôm nay!” Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe đến câu này thì đúng như bị sét đánh trúng đỉnh đầu, trước mắt đột nhiên tối sầm lại một hồi lâu. Trên đời này, người ngoài không thể biết được tung tích của Tuyệt và Ngọc Phi Yến, đối phương đã nói đích xác như thế, chứng tỏ hai người chắc chắn đã gặp nạn rồi. Điền Khắc Cường thấy hội Tư Mã Khôi bị tổn thương tinh thần ghê gớm thì cất giọng cười khoái trá. Hắn tự nhận mình là thành viên của tổ chức ngầm được Nấm mồ xanh cài vào trong phân đội vật lý thăm dò Tân Cương chuyên phụ trách giám sát kính viễn vọng Lopnor. Nhưng sau năm 1958, quốc gia không tổ chức đội khảo sát nào xuống lòng đất tìm kiếm cực vực, thế nên hắn luôn nằm trong trạng thái mai phục và đi vào hoạt động bí mật, đã nhiều lần lẩn trốn thành công qua các đợt truy quét phản động. Mãi đến gần đây mới nhận được mật lệnh của cấp trên, cử hắn trà trộn vào phân đội khoan thăm dò Karamay, cản trở bất kỳ kẻ nào muốn tiếp cận kính viễn vọng Lopnor, sẵn sàng trả mọi giá để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời phải triệt tiêu tất cả những kẻ may mắn sống sót chạy thoát khỏi tòa thành Nhện Vàng bằng mọi thủ đoạn. Hắn đã hành sự thất bại trong hang cát, nên bám đuôi đội thám hiểm suốt dọc đường tiến vào địa máng, nhưng vẫn chưa tìm được cơ hội thích hợp để ra tay. Điền Khắc Cường đành chủ động lộ diện tiếp cận mọi người, nhân cơ hội cả đội sơ ý, sẽ sử dụng độc tố Ricin xuất đòn chí mạng. Chỉ có điều hắn không dự tính được Tư Mã Khôi lại cảnh giác cao độ đến vậy, nên không những hắn không hành động thành công, mà còn lỡ làm lộ thân phận của chính mình. Điền Khắc Cường càng nói càng căm hận sôi sục, cuối cùng hắn dần dần trở nên cuồng loạn giống người mắc chứng Hysteria(1): “Không ngờ tao ngụy trang kín kẽ đến nỗi đến ngay cả bản thân tao còn tin là thật, mà vẫn bị mày phát hiện ra khe hở; bọn mày không chỉ gây tổn thương cho thể xác mà còn gây tổn thương đến cả lòng tự trọng của tao. Nỗi thống khổ trong lòng này, tao sẽ bắt bọn mày phải trả giá gấp đôi.” (1) Hysteria: còn gọi là chứng cuồng loạn, là một trạng thái của tâm thức, biểu hiện là sự kích động thái quá, không thể khiển được các cảm xúc. Lúc trước, Tư Mã Khôi đã nghĩ trên người Điền Khắc Cường chưa chắc đã có thuốc nổ, có lẽ hắn chi muốn kéo dài thời gian mà thôi. Anh đang định xách dao săn lẳng lặng mò ra chỗ hắn, vung dao phanh thây hắn ra để xem rốt cục thằng ranh này là cái thứ gì, thì không ngờ đối phương lại lên tiếng áp đảo trước, vừa mở miệng hắn đã thông báo tin Tuyệt và Ngọc Phi Yến đã chết, sau đó lại tiết lộ thân phận và lai lịch của mình. Những tin tức này đều vô cùng quan trọng, khiến người ta không thể không tiếp tục nghe đến cùng. Thêm vào đó, Tư Mã Khôi và Hải ngọng đột nhiên nghe tin dữ đến tai, ruột gan đau khổ đến tuyệt vọng, nên không thể lập tức hành động ngay được, mãi đến khi nghe đến câu cuối cùng, Tư Mã Khôi mới hoảng hốt choàng tỉnh: “Thôi chết! Trúng kế rồi!” Điền Khắc Cường cười lạnh lùng: “Bây giờ mới phát hiện ra thì đã quá muộn rồi chú em ạ! Chẳng lẽ mấy cái máy giết người bọn mày chưa từng nghĩ là vì sao tao lại chọn cỗ quan tài này để ấn trốn ư? Kẻ nào dám cả gan chạm đến quan tài của An Quy Ma Nã, kẻ đó sẽ bị kéo xuống tận đáy hàn sơn dưới âm tuyền..” Trong cỗ quan tài hình thuyền rồng với đầu rắn mình dê là tiên vương cổ quốc Lâu Lan đang an giấc ngàn thu, phần thân quan tài to lớn được bảo quản rất toàn vẹn, nhưng màu sắc văn hoa đã bị lớp bụi thời gian che phủ, nó giống như sa mạc thâm trầm, như biển cát mênh mông và sự im lìm vô biên bao trùm tất cả, giống như đỉnh núi ngàn chìm lấp trong mây để mặc thế nhân phải ngẩng đầu ngước nhìn. Điền Khắc Cường vừa để lộ tin tình báo để kéo dài thời gian, vừa nhẹ nhàng dùng khuỷu tay chùi hết lớp bụi trên nắp quan tài và tìm thấy huy hiệu lạc đà bay nạm trên ván quách. Chỉ cần người sáng mắt đều có thể nhận biết, trong quan tài tất phải có bảo vật vô cùng quý giá, hiếm có trần gian. Tuy bọn thổ tặc đã xông vào địa máng nhưng không dám bạo gan động chạm tới cỗ quan, vì chắc chắn bên trong phải có ẩn tình gì đó. Lúc trước hội Tư Mã Khôi chỉ để ý đến việc tìm nguồn nước, nhất thời sơ ý bỏ qua chi tiết quan trọng này, đến khi phát hiện thấy hành động của Điền Khắc Cường thì đối phương đã đưa tay ấn vào huy hiệu trên ván quách. Thế rồi, mép cỗ quan tài đột nhiên nứt toác, từ trong bay ra làn tử khí giống như cụm khói đen, trong chốc lát, làn khói lan đã tỏa khắp nơi, ánh sáng của đèn quặng lập tức tối sầm lại. Tư Mã Khôi dự cảm thấy tình hình bất ổn, nhưng cũng không biết biến cố gì sắp xảy ra, lòng thầm nghĩ: “Tốt nhất mình phải tóm được gã Điền Khắc Cường trước đã, còn mọi chuyện để sau hẵng nói”. Anh đang định xông lên, nhưng cảm thấy dưới chân rung chuyển từng hồi, mặt đất bỗng nhiên chìm xuống. Thì ra bệ đất này vốn là bục do hóa vật Silicon hàng trăm ngàn năm tích tụ hình thành. Nước âm tuyền đều đọng ở chỗ trũng rồi chảy xuống lòng đất, dòng nước chảy xuống dưới sẽ sản sinh axít, nó từ từ xâm thực và làm tan chảy tầng đá, đồng thời sản sinh rất nhiều hố động hĩnh phễu với nhiều kích cỡ ở tầng đáy địa máng, bởi thế nên phía dưới toàn là những nhũ đá dài nhọn. Tầng đá do hóa vật Silicon tích tụ thành bắt đầu đứt gãy, rơi thẳng xuống hố động hình phễu sâu hun hút phía dưới. Mọi người vội leo lên bề mặt đang ngếch lên trên, chỉ thấy xung quanh đất trời xoay chuyển u tối, dòng khí đối lưu xuyên qua các khe đá đan cài hình răng lược phát ra những âm thanh ù ù nghe rất quái dị. Trên mặt phẳng của bệ đất rộng mấy trăm mét vuông, trong hố động nhỏ hẹp, đang trong thế chúi xuống cực nhanh, tầng đá liên tiếp chịu sự cản trở và va đập của đá đứt gãy đoạn tầng, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng phân rã vụn rời. Mọi người không dám động đậy, chỉ biết nhắm mắt đợi chết, nhưng đúng lúc này, cái bệ lại rơi xuống một góc hẹp trong hố động, vừa vặn mặc kẹt ở đó và lắc lư giữa không trung trong thế chuẩn bị rơi. Đầu óc Tư Mã Khôi vẫn hết sức tỉnh táo, phát hiện thấy mặt đất vẫn đang không ngừng rung chuyển. Anh biết nó sắp vỡ vụn đến nơi vì không chịu được xung lực do va chạm, đến lúc đó thì cả đội chỉ còn biết nhắm mắt rơi xuống vực theo chiếc quan tài và đá vụn. Nhờ chùm sáng phát ra từ chiếc đèn quặng của Thắng Hương Lân, anh phát hiện bên cạnh có mấy hang động đá vôi, có lẽ được hình thành do dòng sông ngầm chảy dưới tầng đáy địa máng không ăn mòn. Tư Mã Khôi không để ý đầu óc mình quay cuồng, chân tay đang bủn rủn, càng không tìm kiếm tông tích Điền Khắc Cường, anh vội lôi Hải ngọng và cõng bổng giáo sư Nông địa cầu không biết sống chết thế nào, dò dẫm chạy trốn vào trong động. Chân trước vừa bước đến nơi, thì bệ hóa vật Silicon ầm ầm nứt vỡ, rơi rào rào xuống đáy động, tiếng vọng rung động bên tai mãi một hồi lâu vẫn chưa dứt. Người Tư Mã Khôi ướt đẫm mồ hôi lạnh, tâm thần vẫn còn hoảng hốt, đèn quặng của anh cũng tắt ngấm. Chưa kịp thay pin mới, anh ngồi phịch xuống đất thở hổn hển, thò tay ra quờ quạng hai bên vách, phát hiện thấy hang động đá vôi mà mình đang ẩn trốn rất ẩm ướt lạnh lẽo, lại còn nhỏ hẹp thấp lùn, nền đất hiểm trở giống hình rắn lượn. Anh đang định hỏi xem những người bạn đồng hành có ai bị thương hay không, thì đột nhiên ngửi thấy một mùi hôi thối sộc lên tận não, chỉ thấy trong bóng tối âm u thấp thoáng một cái lưỡi dài tanh tưởi và nhầy nhụa, nó lặng lẽ trườn tới rồi liếm vào mặt anh.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi năm: Bạch tạng


    Cái hang động đá vôi này vô cùng nhỏ hẹp, ngay cả xoay chuyển người cũng rất khó khăn, Tư Mã Khôi đột nhiên cảm thấy cái lưỡi trơn nhuồi liếm lên mặt mình, trong bóng tối. Anh không thể phân biệt rốt cục mình đang gặp phải tình cảnh gì, nên đành thu mình lùi lại nửa bước, nhưng vừa lùi lại thì thấy một con vật to lớn cũng nhào theo, bám sát lấy anh. Khẩu súng thần công của Tư Mã Khôi rơi trên đất. Trong lúc gấp gáp, anh mò lấy cuộn ô bát liên, thứ này chỉ cần gặp gió là bén cháy, rồi ngọn lửa bùng lên, trong phút chốc mọi thứ xung quanh đều bừng sáng. Anh thấy ngay trước mắt là con vật lưỡng cư, thuộc nhóm bò sát đầu cá lưỡi xương, từ đầu đến đuôi dài khoảng ba đến năm mét, thân hình to dẹt, da trơn tuồn tuột, trắng ởn, không có vẩy; ngoại trừ cái lưỡi đỏ au au như máu ra, thì trên thân thể nó không hề nhuốm bất kỳ màu sắc nào khác. Đối với những con vật quanh năm săn mồi trong thế giới không có ánh sáng dưới lòng đất này, thì màu sắc đối với nó hoàn toàn vô nghĩa. Tư Mã Khôi nhận ra đây là một con cá mái nhà (1) bị bạch tạng, bởi vì trong lưỡi nó có xương, mang nhiều đặc điểm của loài lưỡng cư, đầu cá như có lồi cầu xương chẩm, có khe tai, có xương bàn đạp, xương trụ tai, nhưng chúng vẫn mang những đặc điểm của cá như có vết tích nắp mang trên sọ, có lỗ mũi ngoài cạnh hàm như cá phổi có vảy trên đuôi. Thế nên chúng mới có tên là cá mái nhà. Loài này quanh năm săn mồi trong hang động đá vôi âm u lạnh lẽo, thức ăn chủ yếu của chúng là các loài cá sinh sống dưới sông ngầm, đồng thời nó còn ăn cả thịt thối và tử thi. Lúc trước, vật liếm láp đầu tử thi của phân đội khoan thăm dò trong địa cốc, rất có khả năng cũng là sinh vật thuộc loài này. Những sinh vật bị bạch tạng sống dưới lòng đất đa số đều rất sợ lửa và lẩn tránh ánh sáng, nên chỉ cần mang theo đủ đèn nến thì chúng sẽ không dám lại gần. (1) Cá mái nhà: tên khoa học là Ichthyostega, là một loài lưỡng cư 4 chân có xương sống trên cạn đầu tiên xuất hiện trên Trái đất, sống ở cuối kỷ Devon (khoảng 374 – 359 triệu năm trước), một trong những ghi chép hóa thạch đầu tiên của Ichthvostega nó có phổi và tứ chi, giúp nó di chuyển qua vùng nước nông trong đầm lầy (ảnh minh họa) Lúc hội Tư Mã Khôi còn đứng trên bệ đất, họ đều bị tử khí giống như màn sương đen xông hun khắp người, giờ cái mùi hôi thối của xác rữa ấy vẫn còn chưa bay hơi hết. Con bò sát đầu cá nấp trong khe đá, bị mùi khí hôi thối này hấp dẫn, nên mới đột ngột xuất hiện. Nó bị ngọn lửa phát ra từ cuộn ô bát liên thiêu cháy thì vừa kinh sợ lại vừa tức giận, trong khi khoảng cách giữa hai vách trong động đá vôi lại rất hẹp khiến nó không thể xoay chuyển thân hình to lớn, nên nó chỉ biết xông thẳng về phía trước một cách điên cuồng. Tư Mã Khôi có muốn cản cũng không cản được, muốn tránh cũng không tránh được, đành lui hai ba bước, thì bị chi trước của con bò sát đầu cá giữ chặt, cuộn ô bát liên mới cháy được một nửa cũng rơi xuống đất, anh cảm thấy mình sắp ngạt thở đến nơi, lòng nóng như lửa đốt: “Nếu bị cái thứ này giẫm lên người, thì chắc mình sẽ sùi cả bọt mép chứ chả chơi, đến lúc đó không khéo đến ruột cũng phải phọt ra khỏi mồm mất”. Giữa thời điểm nguy cấp đó, Hải ngọng ở phía sau phát hiện thấy tình cảnh nguy khốn của Tư Mã Khôi. Anh rút dao săn dốc hết sức đâm mạnh về phía trước, vừa vặn thọc đúng vào miệng con bò sát đầu cá, ngập đến tận cán. Anh lại tiếp tục ngoáy mạnh chuôi dao mấy cái rồi rạch một đường. Con bò sát đầu cá bị rạch từ đầu đến lưng chỉ còn biết nằm vật ra phơi cái bụng trắng ởn đổ rạp xuống đất, bốn chân co giật liên hồi trước khi chết hẳn. Hải ngọng lôi Tư Mã Khôi ra khỏi cái xác con bò sát đầu cá, thì thấy trong ánh lửa lập lòe sắp lụi tắt của cuộn “ô bát liên”, ở nơi sâu trong động đá vôi, thò ra một khuôn mặt vẫn còn dính đầy vệt máu. Đó chính là khuôn mặt của gã kỹ sư Điền Khắc Cường vừa bị Hải ngọng vặn gãy cổ lúc trước. Tư Mã Khôi vừa trông thấy kẻ đó thì lập tức nổi giận đến nỗi gân xanh nổi cả lên mặt, anh nhặt khẩu thần công đánh rơi dưới đất lên, bắn “pằng” một tiếng. Đúng lúc đó cuộn “ô bát liên” cũng vừa vặn tắt ngấm, trong bóng tối chỉ thấy tia lửa đạn bay vèo vèo, trước mắt trống không, chỉ còn sót lại vách đá vôi màu trắng sữa, còn bóng dáng gã Điền Khắc Cường đã biến mất dạng từ lúc nào. Hai người tức đỏ mắt, vác súng dồn đuổi theo, nhưng nơi sâu trong động đá vôi giống như một mê cung thiên nhiên, bốn bề đều thông thoáng, các măng đá lấp lánh ánh lân tinh đan cài giao thoa, thêm vào đó nước nhỏ từ các nhũ đá xuống đất tí tách như mưa, lấn át tất cả những âm thanh nhỏ bé khác, nên không thể tìm thấy kẻ đang lẩn trốn giữa mê cung này. Tư Mã Khôi biết tâm lý gã Điền Khắc Cường rất lệch lạc, quái đản, hắn còn định chết chung với mọi người, may mà cái bệ đá lại mắc kẹt giữa khe động hẹp, nhờ thế cả đội mới thoát nạn. Chẳng ngờ, hắn cũng nhân cơ hội này trốn vào trong động đá vôi, chắc hẳn muốn lẩn vào nơi nào đó để chuẩn bị tìm cơ hội thích hợp tiếp tục ra tay, nên sớm muộn gì hắn cũng phải xuất hiện mà thôi. Bây giờ có tìm hắn cũng vô ích, hơn nữa anh lại canh cánh bên lòng về sự an toàn của giáo sư Nông địa cầu, nên đành phải quay lại không truy đuổi hắn nữa. Lúc này, Thắng Hương Lân và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng đang khiêng giáo sư đi đến. Tư Mã Khôi thấy chỗ này quá chật hẹp, gò bó, rất khó đối phó khi bị công kích. Anh dùng dao khoét lấy óc con bò sát đầu cá đổ vào bình nước, sau đó dẫn mọi người tiếp tục lần mò tiến về phía trước. Những hang động đá vôi như mạng nhện này phân bố dày đặc ở phần đáy địa máng, hệ thống huyệt động tạo thành kết cấu giao thoa lập thể, âm u thần bí, đường đi lúc rộng lúc hẹp, lúc lên lúc xuống. Đi không bao lâu, cả đội tìm thây một căn phòng lớn được khép kín bởi các bức mành đá vây quanh, không gian sâu hút thoáng đạt. Mọi người đã kiệt sức muốn chết, chỉ mong được nghỉ chân đôi chút dưới hàng mành đá, nghĩ lại tình cảnh vừa mới trải qua, người nào người nấy vẫn còn tim đập chân run. Cả đội nghỉ ngơi một hồi lâu, đội trưởng Lưu Giang Hà phụ trách xách súng đứng gác ca trực đầu tiên. Hương Lân thấy sắc mặt Tư Mã Khôi và Hải ngọng khó coi, cả hai mắt đỏ au, im lặng không nói gì, lại thấy giáo sư Nông địa cầu hơi thở yếu ớt, mà khổ nỗi lại thiếu thuốc men, nên thực sự không thể nghĩ ra được cách gì cứu chữa cho bác ấy. Tư Mã Khôi lúc này mới nghĩ đến tủy óc của con bò sát đầu cá, mà mình mới khoét được. Lúc anh còn lang thang kiếm sống ở khu Hắc ốc từng nghe một lão sư phụ chở than trên đường sắt kể, mới biết thứ này có tác dụng giữ khí hoàn hồn, là loại dược liệu vô cùng quý hiếm, nên anh bảo Thắng Hương Lân bón cho giáo sư uống, nếu mệnh của ông chưa đến lúc đoạn, nói không chừng vẫn còn có thể cứu sống được. Thắng Hương Lân không biết Tư Mã Khôi nói thật hay không, nhưng có bệnh thì vái tứ phương. Cơ sự đã đến nước này, cô cũng chỉ biết tin lời anh, thực hiện theo cách anh hướng dẫn, rồi lại dùng khăn mặt hứng lấy chút nước lạnh nhỏ từ khe đá xuống, đắp lên trán giáo sư. Một lúc sau, cô thấy hơi thở của giáo sư cũng dần dần ổn định trở lại, cơn sốt cũng bắt đầu hạ nhiệt, lúc ấy cô mới hơi yên tâm hơn một chút. Thắng Hương Lân biết lần chạm trán với đặc vụ do Nấm mồ xanh cử đến này rất không bình thường, dường như các chiến hữu quân đội cộng sản Miến Điện của Tư Mã Khôi ở nước ngoài cũng bị lâm nạn. Chính bởi vậy, tinh thần của anh mới sa sút nghiêm trọng đến thế. Thấy anh rơi vào trạng thái tuyệt độ, cô chỉ biết lấy lương khô đưa cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng rồi khuyên họ dù gì cũng phải ăn một chút trước đã sau đó tính kế lâu dài cũng không muộn. Tư Mã Khôi cố gắng khắc chế cảm xúc và tinh thần của mình. Anh thấy chuyện của Ngọc Phi Yến cũng không nên giấu giếm Thắng Hương Lân thêm nữa, thế là anh bèn kể hết sự thật cho cô nghe. Cha mẹ Thắng Hương Lân sớm đã qua đời từ lâu, bên cạnh cô không còn bất cứ người thân nào, nên trong lòng cô luôn tồn tại cảm giác cô đơn rất mãnh liệt. Khi nghe Tư Mã Khôi kể đầu đuôi câu chuyện, thì cảm giác hoang mang thẫn thờ, xâm chiếm khắp cơ thể, cô cúi thấp đầu, lặng lẽ gạt nước mắt. Hải ngọng an ủi: “Hương Lân, đừng khóc nữa, từ nay về sau thằng Khôi và Hải ngọng tôi chính là người thân của cô. Khí phách của hội chúng ta là thà làm gươm gãy còn hơn làm đinh cong, càng giết, cụ nội nhà nó, lại càng mê, món nợ máu này sớm muộn gì cũng phải được trả bằng máu tươi, chúng ta nhất định phải tìm cách báo thù.” Tư Mã Khôi biết rõ: tình cảnh hiện giờ của cả hội hoàn toàn bị cô lập, không có cứu viện, bắt buộc phải lần ra được manh mối giữa mớ hỗn độn rối như tơ vò này, nếu không, nguy hiểm mà họ phải đối mặt sẽ càng lúc càng lớn. Anh nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân: “Vấn đề then chốn trước mắt là chúng ta căn bản không biết kẻ đầu não của tổ chức Nấm mồ xanh rốt cục là ai, càng không biết bộ mặt thật sự của bóng ma đó.” Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói có vẻ hơi cổ quái, bèn nhẹ giọng hỏi: “Thủ lĩnh Nấm mồ xanh… có giống với gã đặc vụ họ Điền kia không?” Tư Mã Khôi nói: “Từ đầu đến giờ, tôi mới tiếp xúc với hai thành viên của tổ chức ngầm này, một tên là kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh, còn tên kia chính là gã Điền Khắc Cường mai phục trong phân đội khoan thăm dò, phụ trách giám sát kính viễn vọng Lopnor. Gã kỹ sư đó có lẽ là người sống, tuy bị Hải ngọng vặn gãy cổ, nhưng tôi cảm giác dường như gã chưa chết, còn nguyên nhân vì sao thì đến giờ vẫn là ẩn số. Kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh còn đáng sợ hơn, hắn là người có âm mưu thâm độc, mức độ giảo hoạt và nham hiểm đều vượt xa sức tưởng tượng của chúng ta. Trên người hắn luôn tỏa ra một mùi khí hắc ám khó có thể hình dung cụ thể là gì. Tôi từng nghi ngờ Nấm mồ xanh là một thành viên ẩn náu trong đội thám hiểm, theo tôi được biết khi đó những người vào hẻm núi Dã Nhân, bất luận sống hay chết, tổng cộng có bảy người, ngoại trừ tôi và Hải ngọng ra, còn có Tuyệt, Ngọc Phi Yến, chuyên gia bộc phá người Liên Xô Ciglovski, Karaweik, Thảo Thượng Phi. Trong bảy người thì có ba người chế dưới hẻm núi, thân phận thật sự của Nấm mồ xanh có khả chính là một trong số những người này, thậm chi có khả năng là người đã chết ngay trước mặt tôi.” Nhưng sau đó tôi lại thấy phán đoán này có vẻ không đúng lắm bởi vì ngoài bảy thành viên đội thám hiểm thì còn có các thành viên thám hiểm Anh đáp chiếc máy bay tiêm kích vận tải rơi xuống lưng chừng trời giữa khe cốc. Những người này đều bị rắn bay ăn mất xác, tàn dư thi thể cũng bị đám sương mù dày đặc phân hủy hoàn toàn. Tuy lực lượng rơi vào tình trạng thương vong như vậy nhưng không loại trừ khả năng Nấm mồ xanh vẫn lẩn trốn trong khoang máy bay, bởi vì sương mù trong núi Dã Nhân không hề có tác dụng với động vật bò sát máu lạnh. Nấm mồ xanh lại giống như một u hồn, hoàn toàn không có hơi thở của sự sống, bởi thế sương mù và rắn bay chắc không phải là mối nguy hại gì với hắn.” Hải ngọng không đồng tình với nhận định của Tư Mã Khôi, anh nói: “Cậu trước đây thông minh bao nhiêu thì bây giờ hồ đồ bấy nhiêu; sao cậu không thử nghĩ kỹ xem, sương mù trong hẻm núi lợi hại đến mức nào? Ngay cả thi thể người chết còn bị nó phân hủy, nếu Nấm mồ xanh thực sự không ngại bức bình phong do sương mù hình thành, thì hắn đã tự mình kích nổ quả bom và vào tòa thành Nhện Vàng từ lâu rồi, chứ tội gì mà phải mất công cải tiến máy bay tiêm kích vận tải và cả đội thuộc hạ, rồi lại còn phải lấy cắp da mặt của người chết, phải đợi chờ đến lúc thời tiết chuyển sang khắc nghiệt mang theo bão nhiệt đới mới dám xuất phát?” Tư Mã Khôi cho rằng, đây chính là điểm quan trọng hé lộ thân phận thật của Nấm mồ xanh. Trong chiếc tiêm kích vận tải bị rơi xuống khe núi, vì sao Nấm mồ xanh phải uy hiếp những thành viên may mắn sống sót của đội thám hiểm kích nổ quả bom địa chấn – thông qua băng ghi âm? Sau khi hẻm núi sụt lở, hắn cũng bất chấp nguy hiểm để lộ thân phận, lợi dụng pháo sáng phát tín hiệu để dẫn mọi người vào trong tòa thành Nhện Vàng, rồi bố trí mìn chống bộ binh (2) ép Tư Mã Khôi phải thay hắn mở cánh cửa mật thất đang bị đóng kín. Tất cả những tình huống này đủ để chứng minh một điều: năng lực của Nấm mồ xanh vô cùng hạn chế, ngay cả việc trèo lên tháp cổ cheo leo hắn cũng khó làm được, cùng lắm cũng chỉ có thể sử dụng đèn tín hiệu, máy ghi âm và lén khởi động kíp nổ. Chính vì vậy mà hắn buộc phải che giấu thân phận và khuôn mặt thật sự của mình. Nếu những bí mật này bị người khác biết được, cũng có nghĩa là hắn để lộ tử huyệt của chính mình. (2) Mìn chống bộ binh: là loại mìn có phạm vi phát nổ trong vòng 40 mét, thường được gài đặt ở các địa điểm như đầu đường hoặc cầu thang… Tư Mã Khôi lại nói: “Những bí mật này đều được giấu giếm rất kỹ, chúng ta lại đang bị lún chân vào giữa mê cung động đá vôi ở tầng đáy địa máng, không thể có thêm bất kỳ manh mối nào mới, nên cũng rất khó tìm ra đáp án. Vì thế bây giờ chúng ta bắt buộc phải tìm ra biện pháp xác định rõ phương hướng, rồi sau đó nghĩ cách tiến vào kính viễn vọng Lopnor. Vì tôi đoán bác Nông nói rất chính xác, dưới cực vực nhất định che giấu chân tướng và tất cả ẩn số liên quan đến Nấm mồ xanh, nếu không hắn cũng không cử đặc vụ đến trước đánh lén chúng ta. Trên đường đi, chúng ta cũng phải để ý cẩn thận hơn mới được, thứ nhất là đề phòng bị ám hại, thứ hai là cố gắng bắt sống tên gián điệp, biết đâu có thể khai thác được tin tình báo gì từ miệng hắn.” Hải ngọng cảm thán: “Nếu ông bác Nông hói không xảy ra sự cố thì hay biết mấy, tớ cảm thấy dường như cái gì ông bác ấy cũng đều biết hết. Tớ nhớ có lần Tuyệt bảo độc tố đỏ là vua của các loại thuốc, bệnh gì cũng có thể chữa khỏi, chẳng phải chỗ bọn mình vẫn còn loại này sao? Mau lấy ra cho ông bác uống hai lọ đi, nói không chừng ông bác uống xong lại hoàn dương cũng nên…” Ba người còn đang bàn bạc thảo luận chưa xong, thì bỗng nhiên nghe thấy giáo sư Nông ho sặc sụa một hồi, không ngờ ông đã tỉnh khỏi cơn hôn mê, nhưng cơ thể vẫn vô cùng yếu ớt. Ông nhìn trái nhìn phải, lòng không khỏi hoang mang: “Chúng ta đang ở đâu thế này?”. Ba người Tư Mã Khôi thấy ông đã tỉnh, liền lập tức đứng vây quanh, Thắng Hương Lân kể tóm tắt đầu đuôi câu chuyện cho giáo sư nghe. Giáo sư nghe xong, càng thấy đầu đau như muốn vỡ đôi, ông bảo Hải ngọng đỡ mình ngồi dậy, gắng gượng nói: “Thật không ngờ lại xảy ra tình huống này, đây cũng là do tôi tính toán không chu toàn…” Tư Mã Khôi bảo: “Vết thương của bác hãy còn đau đừng hao tổn thần kinh làm gì, bác cứ nghỉ ngơi thêm một lát nữa đã!” Giáo sư Nông chầm chậm lắc đầu: “Cơ thể tôi, tôi rõ hơn ai hết, chỉ e chẳng còn bao thời khắc nữa đâu. Nếu nói sinh ra là một điều ngẫu nhiên, thì chết đi lại là một điều tất nhiên. Tôi đã ngần này tuổi rồi, sống đến ngày hôm nay mới phải “tất nhiên” thì cũng chẳng còn gì phải hối tiếc, cho nên các cô cậu cũng không cần đau buồn thay tôi. Nhưng có một vài điều tôi buộc phải nói với các cô cậu. Người Liên Xô đào kính viễn vọng Lopnor, thông sâu hàng chục ngàn mét xuống lòng Trái Đất….” Tư Mã Khôi thấy thần trí của giáo sư dường như vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, miệng ông cứ lặp đi lặp lại nhưng lời đã nói trước đây, anh bèn chặn ngang hỏi: “Bác Nông, chuyện này trước đây bác đã nói rồi, bác có biết Nấm xanh rốt cục là ai không?” Giáo sư nghe thấy ba chữ Nấm mồ xanh, thì đột nhiên toàn thân vã mô hôi lạnh ra đầm đìa, như thể nhớ ra một việc gì vô cùng đáng sợ, ý thức mơ hồ của ông phút chốc tỉnh táo thêm mấy phần, ông đột ngột nhìn chằm chằm vào Tư Mã Khôi và nói: “Nấm mồ xanh không phải bất kỳ ai.”
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi sáu: Long ấn


    Tư Mã Khôi càng nghe càng không hiểu: “Sao Nấm mồ xanh lại không phải là bất cứ ai? Cho dù nó chỉ là bóng ma, thì trước khi chết cũng phải có thân phận đàng hoàng mới phải chứ.” – Rồi anh lại ngẫm nghĩ: “Mình quen gọi tên đầu não của tổ chức ngầm này là Nấm mồ xanh, nên khi nãy giáo sư mới trả lời như vậy, có lẽ mình phải hỏi kẻ cầm đầu của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh là ai.” Giáo sư Nông ra hiệu cho mọi người đừng hỏi thêm gì nữa, ông muốn nhân lúc đầu óc còn tỉnh táo, tranh thủ thời gian nói với mọi người một số tình hình. Rồi giáo sư bắt đầu câu chuyện bằng giọng kể đứt quãng: “Tất cả nội dung tôi sắp kể ra đây, các cô cậu không được ghi chép hay thu âm lại, bởi vì những thông tin này vô cùng nguy hiểm, nếu để lọt ra ngoài, hậu quả sẽ khôn lường. Nấm mồ xanh không phải là bất cứ người nào hay bất cứ vật gì…” Thì ra khi giáo sư Thắng Thiên Viễn làm việc trong đoàn khảo cổ Pháp lưu trú ở Ấn Độ, giáo sư từng nhận được thư ủy thác của một tổ chức ngầm, muốn mời ông dẫn đoàn vào rừng rậm nguyên sinh ở Miến Điện, tìm tòa thành Nhện Vàng bị thất lạc của vương triều Chăm Pa. Khi đó giáo sư chỉ nghĩ sự việc đơn giản là nghiên cứu khoa học, thì đâu cần phân biệt ranh giới quốc gia, thế là ông vui mừng nhận lời. Trước đấy, giáo sư từng có lần tiến hành đi sâu nghiên cứu vương triều Chăm Pa một thời huy hoàng hiển hách. Lần này, sau khi đến Miến Điện khảo sát chuyến nữa, ông dần dần phát hiện tiền thân của tòa thành Nhện Vàng, hay còn gọi bằng cái tên khác là tòa Thạch Sơn di vật kỷ Devon, còn che giấu trong lòng một bí mật còn cổ xưa hơn cả vương triều Chăm Pa. Quốc vương Chăm Pa Anagava tìm thấy di tích này dưới lòng đất từ hơn một ngàn năm trước. Trong khi di vật kỷ Devon ở khe cốc Bắc Miến đã có dấu tích loài người sinh sống từ hai ngàn năm trước. Có lẽ tòa thạch sơn này chính là “mật cung nằm dưới tận cùng của lòng đất”, đã được ghi chép trong sách địa lý cổ thời tiền Tần: “Cùng giải tận dã, cung vi quật long”, hàm ý đó là huyệt động sâu nhất dưới lòng đất. Tiền sử từng gọi dải đất Miến Điện ngày nay là: “Diệt Hỏa quốc”, và mô tả: “Diệt Hỏa thị tộc mắt như ngọn nến, động tác nhanh như rắn, xuất quỷ nhập thần, vượt hắc thủy, sống ở địa cùng, không quen hỏa tính.” Tư liệu còn ghi chép: “trong địa cùng có đá ngầm, dưới đá ngầm là biển lớn.” Tất cả những ghi chép có liên quan đến bí ẩn dưới lòng đất mà hậu thế có thể tìm thấy cũng chỉ vẻn vẹn mấy chục chữ đó thôi. Trong quá trình nghiên cứu và khảo sát, giáo sư Thắng Thiên Viễn vô tình biết được mục tiêu thật sự của tổ chức Nấm mồ xanh không phải là kho báu chất cao như núi của vua Chăm Pa, mà là lời giải của bức mật mã thần bí nằm sâu trong mật cung dưới lòng đất. Những phù hiệu cổ xưa nằm ở địa cung Diệt Hỏa quốc bắt nguồn từ sự kết hợp giữa chữ giáp cốt thời kỳ Ân Thương và lưu vực sông Hoàng Hà – khu vực Trung Nguyên. Theo suy đoán, nó ít nhất cũng phải xuất hiện từ thời nhà Hạ trong triều đại thượng cổ Hạ Thương Chu, thậm chí có khi còn sớm hơn. Chính vì vậy, các nhà khảo cổ học mới đặt tên cho nó là “long ấn triều Hạ”, long là chỉ các phù hiệu khác thường tương tự như long li quy phụng, âm dương bát quái, ấn là chỉ ấn ký, cách đánh dấu, phù hiệu. Long ấn triều Hạ tồn tại cực kỳ hiếm hoi trên thế giới, hơn thế nữa nội dung của nó lại vô cùng huyền hoặc cao siêu và thâm thúy, tựa đó không phải ngôn ngữ của loài người vậy. Bởi thế sau thời Tống, trên thế giới hầu như không còn thấy xuất hiện bóng dáng của nó nữa, cũng không người nào có thể hiểu được cái ảo diệu ẩn sâu bên trong nó. Diêt Hỏa quốc có lẽ là một phân nhánh phát triển tiếp nối của nền văn minh cổ đại long ấn triều Hạ, sau đó vì bị nước biển xâm lấn nên quốc gia này hoàn toàn diệt vong, còn về lai lịch thật sự của nó ra sao thì không có căn cứ khảo chứng. Trong gian mật thất nằm dưới địa cung Diêt hỏa quốc khắc đầy các ký tự long ấn, nội dung của nó ghi chép những bí mật có liên quan đến thông đạo dưới lòng đất. Đầu tận cùng bên kia của thông đạo là khu vực mà loài người vĩnh viễn không bao giờ đặt chân tới được, có thể nói nó không thuộc về thế giới này. Tổ chức ngầm thuê các đội thám hiểm và các nhà khảo cổ tìm kiếm tòa thành Nhện Vàng, đã lên kế hoạch phải bắt được luồng sóng điện u linh bị giam cầm ngàn năm dưới tòa thành cổ, đồng thời tìm cách xác định tọa độ khu vực bí mật và con đường dẫn tới thông đạo từ ký ức lưu tồn trong sóng điện. Cổ nhân cho rằng, khu vực đó chính là vương quốc của người chết. Không rõ vì nguyên nhân gì mà tổ chức ngầm này lại gọi khu vực bí mật ấy là Nấm mồ xanh, đồng thời lấy cái tên kinh dị và rùng rợn đó đặt biệt danh cho tổ chức của mình. Do giáo sư Thắng Thiên Viễn vẫn chưa thực sự tiếp xúc với tòa thành Nhện Vàng, nên ông cũng không biết chân tướng thực sự của Nấm mồ xanh. Thật ra, cho dù giờ phút này ông có tự mình đứng trong gian mật thất tòa thành cổ, đối diện với những ký tự long ấn triều Hạ kỳ bí khắc đầy trên vách tường, thì cũng đành lực bất tòng tâm. Chỉ có điều, ngay từ lúc đó, ông và các đồng nghiệp trong đội khảo cổ Pháp lưu trú tại An Độ, đã phát hiện ra được bộ mặt tà ác của tổ chức ngầm này. Phía sau bức màn lại có sự hậu thuẫn của thế lực chiến tranh lạnh phương Tây, trộm nghĩ đằng sau nó tất phải có những bí mật không thể tiết lộ ra ngoài, và chắc chắn còn tồn tại rất nhiều thứ hắc ám khác. Khi đó, có một nhóm thành viên trong đội khảo sát đã lên kế hoạch mạo hiểm xông vào khe núi Dã Nhân, trong tình trạng mọi điều kiện còn chưa chín muồi. Họ dự định phá hủy các ký tự long ấn triều Hạ bên trong di vật kỷ Devon, nhưng kết quả toàn đội không ai sống sót trở về, vì tất cả đều chết trong núi. Giáo sư Thắng Thiên Viễn may mắn thoát khỏi sự khống chế của tổ chức ngầm và tìm cơ hội quay về tổ quốc. Tư Mã Khôi nghe đến đây thì hiểu ra tất cả, hóa ra chiếc máy bộ đàm chiến thuật không dây trong khe cốc khi đó, đã thu được tín hiệu tá thanh hoàn hồn của các vong hồn thành viên đội khảo sát. Những người đã chết đó chính là đồng nghiệp trong đoàn khảo cổ Ấn Độ của giáo sư Thắng Thiên Viễn, còn Nấm mồ xanh là cụm từ phiếm chỉ khu vực bí mật tồn tại ở gần tâm Trái Đất; vị trí cụ thể của nó và thông đạo đều được ghi chép trong mật thất địa cung Diệt Hỏa quốc bằng các ký tự long ấn triều Hạ. Những việc này rốt cục có liên quan gì đến kính viễn vong Lopnor, và kẻ cầm đầu tổ chức ngầm là ai? Giáo sư Nông địa cầu lại cảm thấy những cơn đau đầu đến càng dồn đập và mạnh hơn, thỉnh thoảng trong óc lại trống rỗng, nên đôi khi phải nói đi nói lại cùng một câu mấy lần liền mà vẫn chưa thể giải thích rõ nghĩa, lại đôi khi miệng đã há ra rồi mà bỗng nhiên lại quên mất mình định nói gì. Ông biết đây có thể là hậu quả do việc não bị chấn động mang lại, ý thức tỉnh táo không duy trì được lâu, nên ông tiếp tục kể cho ba người nghe những nội dung quan trọng nhất. Tên cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh ẩn thân rất kỹ, không một ai biết lai lịch và hoàn cảnh của hắn, ngay cả giáo sư Thắng Thiên Viễn cũng chưa thể lần ra bất kỳ manh mối nào. Thế là sau khi về nước, ông liền lập tức bắt tay vào việc khảo chứng lai lịch “long ấn triều Hạ”, nhưng vẫn không có kết quả. Ông bèn dần chuyển hướng nghiên cứu sang cực vực nằm dưới sa mạc Gobi, đồng thời nhận định cực vực chính là cái mà người ta gọi là thông đạo. Giáo sư Thắng Thiên Viễn dẫn đoàn khảo sát tiến vào sa mạc, cuối cùng cũng tìm thấy huyệt động nguyên sinh giống như vực sâu. Nào ngờ người Liên Xô cũng biết được một vài tin tình báo, nên họ chủ động đề nghị giúp đỡ Trung Quốc thực hiện kế hoạch hành động thăm do kính viễn vọng Lopnor. Năm 1958, sau khi đội khảo sát liên hợp Liên Trung đột ngột mất tích, đoàn chuyên gia Liên Xô mau chóng rút lui, công tác thăm dò khai quật cũng bị gác lại từ đấy, và không còn ai đề cập đến nó nữa Trong quá trình này, chúng ta cũng bắt được một vài phần tử gián điệp ngoại quốc của các thế lực đối địch gài vào hàng ngũ nhân viên, trong đó có cả các nhân viên tình báo của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, thậm chí có người còn hoài nghi ngay cả trong nội bộ đội khảo sát liên hợp Liên Trung cũng bị bọn đặc vụ trà trộn vào, bởi thế mới dẫn đến kết quả hành động thất bại. Giáo sư Thắng Thiên Viễn còn phát hiện thấy tổ chức thần bí Nấm mồ xanh có liên quan mật thiết đến cực vực Lopnor, nếu không bọn chúng đã không cố công che đậy những sự thật này. Ông từng nhiều lần bị ám sát hụt, mãi đến năm 1963 sau sự cố chuyến bay Ilyushin-12, ông bị bọn đặc vụ cho uống thuốc độc phát tác chậm, nên cuối cùng ông đã ra đi mà y học không có biện pháp gì cứu chữa nổi. Ông đem tất cả những phát hiện khảo sát ở hoang mạc Tân Cương và rừng rậm Miến Điện, cùng với những suy đoán dựa trên căn cứ thực tế, lén ghi chép lại vào cuốn sổ công tác – dưới hình thức mật mã, nếu người ngoài xem sẽ không phát hiện ra nội dung gì khác thường, chỉ có người bạn tâm giao của ông – là giáo sư Tống Tuyển Nông, mới có thể hiểu được hoàn toàn mà thôi. Giáo sư Nông địa cầu biết những việc này liên đới đến rất nhiều vấn đề hệ trọng khác, và rất nhiều tình huống không thể công khai với thế giới bên ngoài. Thế nên sau khi xem xong, ông đã tự tay hủy ngay cuốn sổ ngay trước mặt lão Lưu Hoại Thủy. Giáo sư cũng không dám hé môi tiết lộ với bất kỳ ai về việc này. Khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu bùng nổ, ông lại bị đẩy về vùng nông thôn tham gia lao động sản xuất. Trong suốt mười năm đó không hề có biến cố gì xảy ra, nên ông cho rằng tất cả phần tử nằm vùng của tổ chức Nấm mồ xanh đã bị cảnh sát mật bắt hết trong chiến dịch đại thanh trừng, nhưng không ngờ lại gặp phải nội gián do tổ chức này cử đến ở ngay sa mạc Lopnor. Mấy chục đồng chí trong phân đội khoan thăm dò đã phải hi sinh oan uổng, khiến những nguy hiểm và khó khăn mà đội thám hiểm phải đối mặt lại càng tăng lên gấp bội. Giáo sư Nông địa cầu coi Thắng Hương Lân như con gái. Để bảo vệ sự an toàn của cô, ông chưa bao giờ nhắc đến bất cứ nội dung gì trong cuốn sổ của cha cô, ông cũng từng hứa sẽ nói cho cô biết nguyên nhân dẫn đến cái chết của giáo sư Thắng Thiên Viễn. Giáo sư Nông địa cầu nói đến đây thì tư duy bắt đầu hỗn loạn. Ông còn kể người Liên Xô đã phát hiện thấy gì bên dưới cực vực, và vì sao bọn họ lại phá hủy động đạo trước khi rút lui. Thế nhưng ý thức ông dần dần trở nên mơ hồ, lời nói đa phần đều không rõ nghĩa, không ai hiểu đươc ông rốt cục muốn biểu đạt ý gì. Thắng Hương Lân biết cha mình cũng bị Nấm mồ xanh sát hại, lại thấy tư duy vốn uyên bác mà cô từng biết của giáo sư Nông địa cầu đột ngột trở nên hỗn loạn, nên tuy rằng bình thường cô là người rất có chủ kiến, nhưng đứng trước tình hình này, cô không ngăn được hai dòng nước mắt cứ thi nhau tuôn chảy như mưa. Hai người còn lại chỉ biết bất lực ngồi nhìn. Trước mắt vẫn còn một vấn đề vô cùng quan trọng, nếu kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh nắm được bí mật dưới cực vực, thì tại sao hắn lại phải hao tâm tổn trí nghĩ cách lẩn xuống tòa thành Nhện Vàng trong rừng rậm Miến Điện? Kính viễn vọng Lopnor rốt cục có phải thông đạo thực sự hay không? Kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh đã từng xâm nhập vào bên trong cực vực hay chưa? Nhưng lúc nay, hai người còn cảm thấy lo ngại cho tình trạng của giáo sư hơn cả. Cuối cùng, Tư Mã Khôi vẫn là người quyết đoán nhất, anh bảo: “Bây giờ chúng ta lâm vào tình cảnh khốn đốn, vừa mất phương hướng trong động đá vôi, vừa mất nguồn lương thực và nước uống, lại còn bị tên nội gián mai phục trong bóng tối theo dõi nhất cử nhất động. Tôi thấy chỗ này quá trống trải, có vẻ không được an toàn lắm, mọi người có mệt hơn nữa cũng vẫn phải cố mà gắng gượng. Đợi khi ra khỏi cái mê cung đá vôi này, thì chúng ta sẽ dựng trại nghỉ ngơi sau vậy.” Lúc này đội trưởng Lưu Giang Hà đang trực gác gần đó đột nhiên chạy về, thở hổn hển nói với Hải ngọng: “Đại ca! Trong động có rắn trắng đấy!” Hải ngọng bảo: “Chú Hà! Chú em cũng là người trong quân ngũ, mà sao hễ hở miệng ra là lại đại ca với nhị ca thế hả? Mấy cái từ này là tác phong của bọn sơn đầu hoặc tập tính của dân du kích, từ nay về sau chú chỉ cần gọi bọn anh là lãnh đạo hoặc thủ trưởng là được rồi. Thủ trưởng anh đây ngày xưa luyện tay nghề mãi trong rừng rậm Miến Điện, chuyên gia đi bắt rắn. Vả lại bọn bạch xà cùng lắm cũng chỉ biến thành mấy con nữ yêu, chúng ta sợ quái gì nó?” Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Vị trí hiện tại chí ít phải cách mặt đất bốn năm ngàn mét. Chỗ này dường như có dòng khí đối lưu, môi trường ẩm ướt lạnh lẽo, hàm lượng oxi cũng không quá thấp. Bởi thế sông ngầm trong động đá vôi có loài rắn hoặc chuột bạch tạng sinh tồn, thì bọn chúng phải hoàn toàn có khả năng thích ứng với bóng tối và sự ảnh hưởng của địa áp, nên cũng đâu có gì kỳ lạ. Việc gì cậu ta phải hốt ha hốt hoảng lên thế nhỉ?” Nhưng rất mau sau đó Tư Mã Khôi liền biết vì sao cậu đội trưởng lại thất kinh đến như vậy. Đầu tiên anh nhìn thấy mấy con côn trùng thân dài màu trắng đang ngọ ngoậy ngoằn ngoèo. Bọn chúng bò lướt cạnh chân mọi người, con nào con nấy to bằng cánh tay, toàn thân bọc lớp vảy trắng, hai mắt đỏ lựng, sau đó chỉ nghe thấy những tiếng “soạt soạt” từ xa dội lại, âm thanh vừa gấp lại vừa dày, gió thổi bạt khắp lòng động tối đen như mực. Tư Mã Khôi thầm biết tình hình không ổn: “Rắn!”, anh vội vàng cầm khẩu súng trường và ba lô, rút thêm hai cây đuốc ra, lần lượt quẳng cho Thắng Hương Lân và Lưu Giang Hà. Ba người chụm đầu châm lửa, Hải ngọng cõng giáo sư trên lưng, lập tức quay người chạy trốn. Ban đầu, mọi người còn cho rằng cả đội bị bọn rắn bao vây, nên định tìm đường tháo thân, nhưng liền sau đó phát hiện tình thế dường như không giống vậy, vì giữa bầy rắn còn có lẫn vô số con chuột dũi. Bầy chuột dũi cũng đều bị bạch tạng hoàn toàn, thân mình to như nắm đấm và đều mất khả năng thị giác. Lúc này, chúng chen chúc nhau chạy như điên, không biết có mấy ngàn mấy vạn con, tất cả như dòng thủy triều ào ạt cuồng loạn lao đầu chạy. Mọi người thấy cảnh tượng này thì vừa thấy lạ lại vừa thất kinh, không ngờ trong lòng động im lìm lại ẩn chứa nhiều loài sinh vật bạch tạng đến vậy. Thực sự không thể tưởng tượng nổi vì sao chúng lại chạy như ong vỡ tổ về cùng một hướng, như thể sắp đến ngày tận thế thế kia? Phải chăng ở đây sắp xảy ra chuyện lớn gì rồi? Nhưng tình trạng không nhìn thấy được phía xa trong bóng tối khiến người ta càng cảm thấy bất an. Người nào người nấy tim như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Tư Mã Khôi rút cuộn ô bát liên ra, loại pháo sáng này chỉ cần gặp gió là bén cháy, bắn cán ngầm ở phần đáy về phía trước, chùm pháo sáng liền tỏa ra như chiếc ô. Nó đâm vào một hàng mành đá rồi từ từ rơi xuống, soi rõ cả một vùng sâu hút trong huyệt động. Lúc bấy giờ mọi người mới biết rõ tình hình mình phải đối mặt, khiến cả đội dựng đứng chân tóc vì hãi hùng: “Bức tường đá dưới lòng đất đang chuyển động, nó chính là bức tường chết nuốt chửng mọi sinh mạng.”
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi bảy: Dòng sông không có điểm tận cùng


    Cơ quan cảm ứng của sinh vật dưới lòng đất nhạy bén hơn loài người rất nhiều. Loài rắn chuột nằm rình mồi trong hang động đá vôi dường như đều cảm thấy đại nạn sắp giáng xuống đầu, nên chúng thục mạng chạy trốn ra ngoài. Trong khi đó, mọi người vẫn chưa biết sắp xảy ra biến cố gì, mãi cho đến khi Tư Mã Khôi vứt cuộn ô bát liên lên cao, nhờ luồng sáng phát ra từ pháo tín hiệu, mọi người mới nhìn thấy ở nơi xa mãi sâu trong lòng động xuât hiện màn bụi đen khổng lồ dày đặc như một bức tường. Do tia sáng quá nhạt mà khoảng cách lại xa, nên cả đội chỉ cảm thấy dường như đó là màn bụi đen mịt mù, vô cùng vô tận, chất liệu thô nặng, chìm lắng. Nó đậm đặc hơn khói sương thông thường nhiều lần, mật độ lại lớn, tựa hồ một bức tường thành đang chuyển động, bên trong còn kẹp lẫn những lằn sét lóe sáng và tiếng rền vang như sấm dội. Bức tường thành đang lao vùn vụt về phía mọi người với tốc độ kinh hồn. Cuộn ô bát liên rơi trên mặt đất vẫn đang tiếp tục cháy sáng, nhưng khi vừa mới chạm vào đám bụi đen thì ánh lửa lập tức bị bóng tối nuốt chửng, phàm sinh vật nào rơi vào trong đó cũng đều biến mất, bặt vô âm tín, tựa hồ như thể bị phân giải trong bóng tối chỉ trong khoảnh khắc vậy. Mọi người nhìn mà dựng hết tóc gáy, thứ vật chất bụi bặm màu đen tích tụ giống như bức tường kia, mang theo từ tính và phong áp rất mãnh liệt, tuy chưa đến gần nhưng nó bắt đầu khiến đầu óc người ta ong ong. Vật chất phân rã dưới lòng đất và khí gas axít cacbonic là những uy hiếp lớn nhất đối với đội thám hiểm; nhưng những loại vật chất thể khí đó phần lớn đều bị trầm tích bất động ở những khu vực khép kín, nên tuyệt đối không thể hình thành sấm dội. Cổ nhân gọi thứ vật chất này là “bức tường chết”, người hiện đại có lẽ cũng không thể tìm ra tên gọi nào phù hợp hơn dành cho nó, bởi vì loại vật chất hắc ám xuất hiện dưới lòng đất kia đã hoàn toàn vượt xa phạm trù nhận thức từ trước đến nay của loài người. Tư Mã Khôi am hiểu cổ thuật tướng vật, thấy tình hình này, anh lập tức nhớ đến một thuyết cũ: tương truyền dưới lòng đất có hắc khôi, tức là lớp tro bụi màu đen, đó khác, rồi lớp canxi càng tích tụ càng lớn, đã tạo nên lớp vỏ rất mịn màng nhẵn nhụi và đặc biệt láng bóng. Tuy rằng từng chuỗi sấm rền văng vẳng càng lúc càng lùi xa sau lưng, nhưng hội Tư Mã Khôi lại phát hiên cái dốc này quá sâu, tay trơn tuột khỏi vách đá, muốn dừng cũng không thể dừng được, nên đành trượt xuôi theo vách đá trân châu lồi lõm xuống tận khu vực đáy động. Cả đội hoàn toàn không thể dự tính được địa hình phía dưới thế nào, vì với tốc độ trượt nhanh như tên bắn thế này mà bên dưới lại là nhũ đá, thì thân thể nếu không bị xuyên táo như thịt xiên thì cũng khó tránh khỏi xương cốt gãy lìa. Đúng lúc nơm nớp lo lắng chưa biết lành dữ thế nào, thì mọi người đột nhiên nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Thì ra vách đá trân châu này vươn dài mãi xuống lòng sông ngầm nằm rất sâu dưới lòng đất. Hội Tư Mã Khôi rơi xuống bờ cát thì dừng lại, người nào người nấy đều xây xước, bầm tím, không ai biết mình đang ở nơi nào. Tư Mã Khôi rút ngọn đuốc cuối cùng, châm lửa và giơ cao trên tay. Nhờ ánh sáng bập bùng, mọi người có thể thăm dò xung quanh, chỉ thấy dưới lòng sông toàn là tầng nham thạch nhuộm cát vàng, ánh lên lấp lánh dưới ánh lửa lập lòe. Trong sông ngầm trôi nổi vô sô loài phù du và bọ gậy, mặt sông đen ngòm, sâu hút toàn là xoáy nước, xem ra phía dưới chắc chắn có mạch ngầm chảy xiết. Rất khó phân biệt dòng sông này chảy theo hướng nào, chỉ thấy phía xa liên tục nhấp nháy những đốm lửa ma trơi bất định. Hải ngọng kiểm tra tình trạng của giáo sư rồi nói với Tư Mã Khôi: “Ông bác già trượt từ tít trên cao kia xuống, mông đít sắp bị mài nhẵn đến nơi rồi, tớ thấy chỗ này thế tựa vào sông, có thể tiến cũng có thể lui, hay ta để ông bác nghỉ ngơi ở đây một lát nhé!” Tư Mã Khôi vẫn không dám lơi lỏng cảnh giác, dòng sông ngầm dưới lòng đất này, không khéo chẳng có ai lai vãng từ thưở hồng hoang hỗn độn cũng nên, nên chỉ có trời mới biết chỗ này ẩn nấp thứ gì, anh bảo mọi người: “Ở đây nhất định có xác chết sinh vật bị phân hủy, nên mới sản sinh ra phốt pho, nhưng ánh lửa ma trơi lại xuất hiện quá nhiều, nên chắc chắn không thể bình yên vô sự được đâu, chúng ta phải qua đó xem cho rõ đã rồi mới nói tiếp được.” Thắng Hương Lân cũng có cảm giác bất an: “Tôi nghe thấy dường như có âm thanh kỳ lạ từ trên cao vọng xuống….” Tư Mã Khôi gật đầu, bảo mọi người hãy giữ vững tinh thần cảnh giác cao độ, tiết kiệm nguồn nhiên liệu, cố gắng giảm thiểu sử dụng đèn quặng, không ai được phép ra khỏi phạm vi chiếu sáng của bó đuốc. Sau đó, anh kiểm tra lại súng trường, thấy không có gì hỏng hóc, mới dẫn mọi người đi về nơi phát ra ánh lửa lập lòe. Mọi người chưa đi được nửa đường, thì ngửi thấy một mùi vô cùng hôi thối, đến nỗi phải lấy khăn tay ra bịt mũi. Trong bóng tối, chốc lát lại có luồng gió, với âm thanh không xác định, đột ngột quét qua, giống như thể một vật gì đó vụt lướt trước mặt với tốc độ cực cao, phả ra luồng gió thổi ánh lửa chập chờn lúc sáng lúc tối. Cả đội tiếp tục đi về phía trước, khắp nơi trên mặt đất vương vãi toàn đá vụn và lớp vỏ Silicon hóa thạch. Thì ra, bệ Silicon rơi từ trên cao xuống đều đáp xuống dòng sông ngầm này, chỉ duy chiếc quan tài đầu rắn mình dê là vẫn nguyên lành không hề bị hư hại gì, có điều nắp quan tài không còn nữa, lòng quan tài mở toang hoang, có thể trực tiếp nhìn thấy hài cốt người chết nằm bên trong. Tư Mã Khôi cảm thấy kỳ lạ, anh lại gần quan sát, mới phát hiện khe hở quan tài có lỗ gió, nó đóng vai trò làm giảm vận tốc rơi và cường độ va chạm. Người Lâu Lan cổ đúng là liệu việc như thần, họ biết cổ mộ Hắc Môn kiểu gì cũng có ngày bị phá hủy, nếu bọn thô tặc nào ý đồ kinh động đến giấc ngủ ngàn thu của tiên vương, thì chiếc quan tài sẽ chìm xuống đáy hàn sơn dưới âm tuyền, mang theo cả tên thổ tặc mở nắp quan tài xuống vực và trở thành tế vật sống tuẫn táng cho tiên vương. Moi người đều rất hiếu kỳ, không biết thi hài của vua Lâu Lan hai ngàn năm trước trông thế nào, nếu cứ tuân theo nguyên tắc của ông bác nói: “không được sờ vào nếu chưa thực sự cần thiết”, thì cả hội hoàn toàn không có cơ hội nhìn thấy tình hình bên trong quan quách, bây giờ nội gián địch đã phá vỡ kết cấu huyệt mộ, khiến thi thể của tiên vương Lâu Lan lộ ra ngoài, món nợ này nói thế nào cũng phải tính vào đầu đối phương mới phải. Nhưng khi mọi người túm tụm đến trước quan tài, nghé mắt vào xem thì ai nấy đều rất đỗi kinh ngạc, vì chỉ thấy bên trong cái quách khổng lồ mình đê đầu rắn, không hề có cỗ thi hài nào, mà lổn nhổn toàn những bảo vật hiếm có, những loại ngọc ngà gấm vóc đó thì ngay cả Tư Mã Khôi cũng không biết tên tuổi của chúng, ngoài ra còn có mười mấy vật thể hình cầu vô cùng tanh tưởi hôi thối, bề mặt gồ ghề, giống như nội tạng bị phong hóa. Tư Mã Khôi nhíu mày nhìn: “Đám này đều là não người bị khô hóa!” Những người còn lại thất kinh: “Sao chỉ sót lại mỗi cái não của người chết bị phong hóa thế nhỉ? Còn hài cốt đâu? Vả lại cái quan tài này tuy to thật nhưng làm sao chứa được mười mấy thi thể hợp táng chứ…” Giáo sư Nông địa cầu vừa nhìn thấy cỗ quan quách, có lẽ xuất phát từ phản xạ điều kiện được hình thành do thói quen nghề nghiệp lâu năm, ông bỗng dưng trở nên tỉnh táo hơn mấy phần. Cặp kính lão của giáo sư không biết đã bay mất từ lúc nào, nhưng chỉ cần sờ hoa văn và hình thù đầu dê kỳ dị ở đỉnh quách, rồi nghe Tư Mã Khôi nói cái gì mà “não người”, ông đột nhiên mở miệng: “Nó là quan quách của tiên vương An Quy Ma Nã đây mà, ai đã mở nó ra vậy? Ai bảo đây là não người chết bị phong hóa? Đúng là không biết còn nói bừa. Theo sử sách ghi chép thì rất có khả năng đó là não ngựa”. Tư Mã Khôi nghe giáo sư nói là não ngựa, anh hơi sững người lại một chút, rồi lập tức hiểu ra vấn đề. Các phương thuật biệt bảo tướng vật ở các cổ quốc Tây Vực nhiều vô số kể, những người giỏi kiểm định, chỉ cần thông qua tiếng ngựa hí cũng có thể phân biệt màu sắc não ngựa. Nghe nói những con ngựa mà não có màu đỏ tươi như máu, một ngày có thể phi vạn dặm, lướt nhanh như bay giữa không trung, loại này được gọi là thần mã. Những con ngựa có não màu vàng sẫm thì một ngày có thể đi ngàn dặm, tiếng hí vang xa cả trăm dặm. Hai loại ngựa này đều là ngựa báu, còn những con ngựa có bộ não mang màu sắc khác đều không thể coi là ngựa, mà có thành ngựa thì cũng chẳng ra gì. Đến khi con ngựa đó chết đi, người ta lấy não của chúng ra xem màu sắc, về cơ bản thì đều trùng khớp với phán đoán ban đầu của các thuật sĩ biệt bảo. Bởi vậy các công tôn quý tộc Tây Vực khi hạ táng, thường đặt não ngựa ngàn dặm vào trong quan tài để làm đồ bồi táng, thể hiện sự trân trọng và coi vật này là vô giá. Trong cỗ quan quách của tiên vương An Quy Ma Nã chỉ có não ngựa báu, còn thi hài thì không biết biến mất nơi nào. Thắng Hương Lân thấy giáo sư tỉnh táo trở lại, cô cũng nhẹ người hơn một chút. Hương Lân định quay sang hỏi ông tình hình dưới địa máng, trong lòng huyệt động cách bề mặt Trái Đất mấy ngàn mét này, ngoại trừ địa áp khác thường thì địa mạo đa trùng cũng rất hiếm gặp, lại còn đám bụi đen với mật độ dày đặc như hắc khôi kia, rốt cục được hình thành như thế nào? Nhưng giữa lúc này đột nhiên cô thấy má mình chợt mát lạnh, dường như có giọt nước từ trên cao nhỏ xuống mặt, cô đưa tay chùi, thì phát hiện đó là chất dịch thối trơn dính như mực. Dưới ánh lửa, Tư Mã Khôi cũng nhìn rõ mồn một, anh lại ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc, lẫn với mùi thối của xác chết rữa nát từ trên cao dội xuống. Rõ ràng đây không phải giọt nước dột từ tầng nham thạch, mà là máu của tử thi nhỏ xuống. Nhờ ánh lửa ma trơi yếu ớt lập lòe xung quanh, anh quan sát thấy vô số bóng đen đang bay lượn vù vù trên đỉnh đầu. Tư Mã Khôi biết não ngựa khô có thể bốc cháy cao cả trăm thước. Tình hình trước mắt cấp bách, anh không màng đến sự ngăn cản của giáo sư, liền nắm lấy một miếng dùng dây thừng buộc lại, châm lửa đốt rồi tung lên cao, chỉ thấy ngọn lửa bùng lên ngùn ngụt như một quả cầu, trong ánh lửa xuất hiện hàng ngàn hàng vạn con dơi trắng, chúng đông nghìn nghịt chao liệng giữa không trung, có những con sải cánh rộng cả mét, thân hình trông như cái sọ người. Chúng tụ tập thành bầy, quyện thành một cơn lốc màu trắng khổng lồ, cảnh tượng này khiến mọi người chỉ biết há hốc miệng sợ hãi. Thì ra bục Silicon rơi từ trên cao xuống đã đè sập động dơi, cả phần đáy sào huyệt và phần lớn thịt thối đều bị sụt xuống, đồng thời làm kinh động đến những con dơi đang nằm săn mồi trên vách đá âm lạnh. Chúng xuất quân từ sào huyệt nằm giữa khe động, rồi bay lượn vòng vèo rợp trời xung quanh địa bàn bên dưới vách nhũ đá nằm ngược trong lòng sông ngầm, cỗ tử thi của vua Lâu Lan trong quan quách đã bị chúng sớm rỉa thành từng mảnh vụn. Do còn sợ ngọn lửa nhiệt lượng cao nên bây giờ chúng chỉ mới bay lượn xung quanh, chưa dám tiếp cận, nhưng chỉ cần đợi khi lửa tắt, chúng sẽ nhào tới cắn xé con mồi. Mọi người biết đuốc và mấy miếng óc ngựa khô trong quan tài gộp lại, cũng chẳng thể cháy sáng được bao lâu; cứ nghĩ khi mất đi sự phòng vệ của bó đuốc là tức khắc bị gặm sống thành bộ xương trắng ởn mà rùng rợn hết cả người, tóc gáy bất giác dựng ngược lên. Hải ngọng đột nhiên nảy ra một kế: “Mọi người mau nhảy xuống sông, nếu thực sự không xong thì con có thể lặn xuống nước trốn”. Đội trưởng Lưu Giang Hà mặt vàng như nghệ lắp bắp’ “Em…em không biết bơi, nếu không mọi người cứ trốn đi, mặc kệ em!” Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Tuyệt đối không được, mạch ngầm của con sông này chảy rất xiết, cho dù người nào có thông thuộc thủy tính đến đâu cũng có khả năng bị cuốn trôi. Quan tài trong cái quách kia làm bằng gỗ, chúng ta hãy chẻ nó ra làm vài bó đuốc, chí ít cũng có thể duy trì thêm một lúc nữa”. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: đây cũng là một cách, tuy rằng trong ba lô vẫn còn hộp đèn dầu, nhưng dựa vào nguyên liệu dầu đốt thì không duy trì được bao lâu, mà để nó bốc cháy một chỗ thì mình cũng không thể chạy đi đâu được; chi bằng cứ chẻ cái quan tài kia ra thành củi, chỉ cần tìm được chỗ dung thân nhỏ hẹp nào đó trong động đá vôi trước khi đuốc cháy hết là chúng ta có thể sẽ trốn thoát khỏi kiếp nạn này. Nhưng Tư Mã Khôi vừa mới quay người, thì nhìn thấy giữa lớp quan và quách thò ra một cánh tay người máu thịt trộn lẫn vào nhau be bét, tiếp đó lại thò ra nửa thân trước, khắp người đỏ hon hỏn, toàn bộ da trên cơ thể đều bị lột sạch, da mặt cũng không còn, gương mặt không thể phân biệt nổi, chỉ còn sót lại một con ngươi trong hố mắt, con mắt trợn trừng không nhắm.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi tám: Điện thoại từ thạch


    Hội Tư Mã Khôi vừa mới quay nguời thì phát hiện từ khe quách thò ra một người thân hình be bét máu thịt. Toàn bộ da của người này đều bị lột sống, trên mặt còn lủng lẳng một con ngươi. Cả đội hoàn toàn không ngờ cái khe nhỏ hẹp nằm kẹp giữa quan và quách lại đủ chỗ cho một người ẩn nấp, nên ai nấy đều kinh hoàng thét lên một tiếng, đồng thời lùi vội ra sau hai bước. Tư Mã Khôi thấy gương mặt đối phương máu chảy đầm đìa, ngũ quan đã biến dạng hoàn toàn, nhưng nhìn dáng người lại có vài nét quen quen, dường như hắn ta chính là gã kỹ sư Điền Khắc Cường đã trốn vào trong động đá vôi lúc trước. Anh nghĩ thầm: chắc chắn hắn cũng gặp phải vật chất đen tối, mới buộc phải lao xuống lòng sông nằm sâu dưới địa máng, vì hắn không mang theo đuốc nên bị bầy dơi nằm rình mồi trong hốc đá ùa ra bao vây tấn công. Những con dơi bạch tạng đó có thân hình rất to lớn, theo sự phân loại của phương thuật tướng vật thì loài dơi to bằng nắm tay người, gọi là dơi nguyên bảo(1), còn loài có “hình hài tựa bạch cốt, sải cánh rộng cả mét, dám lao bổ vào con người” thì không gọi là dơi nữa mà phải gọi là đầu lâu trắng. Bọn chúng sinh tồn trong môi trường khắc nghiệt, nên cơ thể dần dần tiến hóa, hàm răng và chi trước trở nên nhọn hoắt. Bọn chúng không chỉ hút dịch thể của sinh vật, rút tủy liếm xương làm thức ăn, mà những lúc đói quá, chúng còn ăn thịt cả đồng loại, đây cũng là một biện pháp giúp chúng khống chế số lượng bầy đàn. (1) Nguyên bảo: khối vàng hoặc bạc đúc thành thỏi theo khuôn gần giống hình con thuyền. Tư Mã Khôi thấy thân mình gã Điền Khắc Cường thảm thương như vậy, thì biết suýt chút nữa hắn đã bị bầy dơi gặm thành xương trắng, giãy giụa mãi cuối cùng cũng thoát thân trốn vào khe quách. Nhưng người bình thường nếu bị lột sạch da như thế thì đau đớn muốn chết luôn cho rồi, không ngờ hắn lại vẫn còn sống. Ý niệm này chỉ thoáng vụt qua đầu Tư Mã Khôi, anh không kịp nghĩ đến nguyên do ẩn chứa bên trong, thì thấy miếng não ngựa khô, vừa vứt lên không trung khi nãy, đã rơi xuống đất. Gã Điền Khắc Cường giấu mình giữa khe quách, không màng đến cái nóng bỏng rẫy tay do nhiệt độ bốc cháy kịch liệt tỏa ra, đã thò cánh tay ra chộp lấy quả cầu lửa, không gian phút chốc mù mịt mùi cháy khét hôi thối. Tư Mã Khôi lập tức hiểu ý đồ đối phương, hắn trốn giữa khe quách, nghe thấy mọi người nói muốn chẻ quan tài để bổ sung thêm đuốc, nên mới chộp lấy vật đang phát cháy, định dùng nó để đốt quan tài. Trong quan tài toàn là óc ngựa khô và gấm vóc khâm liệm tử thi, đó đều là những vật dễ cháy, nên chỉ cần châm là bén và phút chốc tất cả sẽ tan tành thành tro bụi mây khói. Đến lúc đó thì những người bị mắc kẹt trong lòng sông ngầm, từng người từng người, sẽ bị hàng ngàn hàng vạn con đầu lâu trắng lao vào ăn tươi nuốt sống. Tư Mã Khôi phản ứng rất nhanh, chưa kịp đợi đối phương thu cánh tay vừa chộp quả cầu lửa về, anh đã cùng Hải ngọng giương khẩu súng trường và bóp cò. Khẩu thần công do Nga chế tạo tuy hơi cổ lỗ sĩ, mức độ chuẩn xác và tốc độ bắn cũng không phải hàng đỉnh, nhưng lại sử dụng loại đạn dành cho họng súng cỡ lớn, nên lực sát thương rất kinh khủng. Hai khẩu súng đồng loạt nhắm vào cánh tay gã Điền Khắc Cường, đạn bắn ra khiến xương tay cũng phải nát vụn, xuyên thủng những lỗ to từ bên này sang bên kia. Tay trái gã Điền Khắc Cường bị súng trường bắn nát chỉ còn hai ngón, hắn không thể nắm được khối não ngựa đang bốc cháy, đành thu mình lại, định tiếp tục trốn trong khe quách. Nhưng Tư Mã Khôi và Hải ngọng đã vác súng lao đến, hai người dùng sức lôi hắn ra khỏi khe, rồi quật mạnh xuống đất. Tư Mã Khôi lấy chân giẫm lên thân thể toàn máu của gã Điền Khắc Cường. Anh cảm thấy dưới chân dường như không phải cơ thể người sống, mà chỉ là một cái xác không có da, nó hoàn toàn không có hơi thở và nhịp tim. Tư Mã Khôi thầm cảm thấy kỳ quái, đang định nhìn lại cho kỹ thì thấy ngọn đuốc trong tay đột nhiên tắt lịm. Anh vội vàng hét gọi đội trưởng Lưu Giang Hà mau đến chẻ quan tài, nào ngờ cỗ quan tài bên trong quách làm bằng loại gỗ cổ hàng vạn năm, được đào dưới lòng đất, nên thớ gỗ đẹp như tranh vẽ, khỏe như rồng cuộn, chất gỗ rắn chắc đặc lõi, trong lúc gấp gáp thế này thì không thể dùng dao săn chẻ nó ra được. Đúng thời khắc khẩn cấp ấy, bọn đầu lâu trắng đông nghìn nghịt giữa không trung đã cảm nhận được mùi máu toa ra từ tử thi dưới đất bốc lên, nhân lúc ánh lửa nhạt dần, chúng sà sát xuống, bay là là. Tư Mã Khôi thấy: tuy mấy miếng não ngựa khô trong quan quách cháy rất mạnh, nhưng thời gian bốc cháy lại ngắn, đốt miếng nọ liền miếng kia cũng chỉ duy trì được mấy phút, anh bèn hét lên gọi mọi người: “Cỗ quan tài có thể bơi qua sông, mọi người mau đến gần mặt nước”. Nói xong, anh bồi thêm mấy phát đạn vào thi thể gã Điền Khắc Cường, rồi quay người đẩy chiếc quan tài đầu rắn mình dê hình thù quái dị dịch chuyển. Mọi người hợp lực vác cỗ quan tài gỗ trong quách đẩy nó xuống dòng sông ngầm. Cả đội quẳng ba lô và súng ống lên trước, rồi từng người lần lượt lội nước nhảy lên thuyền. Lòng quan tài vừa sâu vừa rộng, có lẽ là loại quan tài dùng để hợp táng, năm sáu người ngồi bên trong cũng vẫn thoải mái. “Con thuyền” vừa nổi bập bềnh trên mặt nước được một đoạn, thì đã bị dòng nước ngầm chảy xiết phía dưới cuốn phăng, nhanh chóng trôi vào lòng sông. Mọi người xoay ngược súng, lấy cán làm mái chèo, điều khiển con thuyền xuôi về hạ lưu. Phía sau, trong bóng tối, vẫn vọng lại bên tai âm thanh cắn xé bổ nhào ồn ã. Mọi người biết, có lẽ giờ đây cái xác của gã Điền Khắc Cường đã bị bầy dơi xả thành trăm mảnh, trong khi đó bầy dơi bay trong huyệt động vẫn chưa chịu bỏ cuộc, bọn chúng bám đuổi sát nút dọc theo bờ sông. Tư Mã Khôi rọi chùm sáng của đèn quặng lên cao, chỉ thấy bầy dơi trên đầu đông nghịt như thể có một đám sương trắng đang bay sà xuống. Anh không nhịn được chửi thầm: “Mả bà nó! Đúng là dính như ruồi dính cứt – xua kiểu gì cũng không chịu đi”. Anh đành lấy vụn gấm bọc thi thể ở đáy quan tài, xé ra bện thành bó đuốc liên tục đốt cháy, buộc bầy dơi không dám tiến đến gần. Lòng sông dưới địa máng ngoằn ngoèo uốn khúc, nó được tạo nên bởi vô số huyệt động lớn nhỏ, có nơi mặt nước lại rộng mênh mông đến kinh ngạc. Những khoáng vật quý hiếm đủ loại xuất hiện ở khắp nơi trong quần thể sơn động, dường như chỗ nào cũng là phòng thí nghiệm vĩ đại của thiên nhiên, đang bày ra sự thần kỳ của tạo hóa. Lúc này đã thoát khỏi sự theo dõi của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, cuối cùng mọi người cũng có thể nhấc được hòn đá đang đè nặng trong lòng; nhưng tình trạng của giáo sư Nông địa cầu thì vẫn khiến cả đội phải lo lắng, cơ thể ông lúc nóng lúc lạnh, thần trí hỗn loạn không tỉnh táo. Đội trưởng Lưu Giang Hà lo lắng đến nỗi cứ khóc mãi không thôi: “Thủ trưởng ơi, bác mau tỉnh dậy đi, bác có mệnh hệ gì, thì cháu phải biết ăn nói thế nào với đại đội trưởng đây?” Hải ngọng cũng cảm thấy sống mũi cay cay anh nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Tớ sợ ông bác già nhà mình không xong rồi…” Thắng Hương Lân nghe thấy câu này thì bực mình mắng: “Anh không được nói năng hồ đồ, giáo sư quanh năm theo đuổi công việc thăm dò ở ngoài trời, thể chất lúc nào cũng tráng kiện, đi nhanh như chạy, bước chân sải rộng, trong đội khảo cổ không học viên trẻ tuổi nào đuổi kịp được ông đâu.” Hải ngọng không phục đốp lại: “Mọi người định bức tử tôi đấy à? Sao hễ tôi mở miệng nói câu gì là lại bảo nói năng lung tung, hay mọi người muốn tôi phải cắn lưỡi tự tử thì mới hả lòng hả dạ sao?” Tư Mã Khôi hòa giải: “Kỳ thực mọi người cũng đều vì quá lo lắng cho bác Nông mà thôi, nhưng chuyện sống chết rốt cục đâu phải thứ năng lực mà con người có thể khống chế được. Ngoài ra, tôi cũng phải nhắc nhở các đồng chí, địa thế dòng sông ngầm dưới lòng đất này không ngừng đi xuống, khoảng cách so với bề mặt Trái Đất càng lúc càng xa, bởi vậy chúng ta căn bản chưa hề thoát khỏi nguy hiểm, chỉ là di chuyển từ khu vực nguy hiểm này đến một khu vực khác nguy hiểm hơn mà thôi.” Hải ngọng bảo đội trưởng Lưu Giang Hà kiểm đếm lại trang thiết bị. Pin và đèn cacbua hóa học trong ba lô còn khá đầy đủ, nhưng lương thực thì chỉ có thể cung ứng đươc thêm mấy ngày nữa, chiếc máy quang học không dây thì vẫn đang bị hỏng, về vũ khí thì ngoài dao săn phòng thân ra, cũng chỉ có hai khẩu thần công, một khẩu bán tự động K56 và một khẩu súng ngắn K54, cùng một ít đạn dược, sáu hộp dầu hỏa Pháp, một cuốn cổ thư biệt bảo không ai hiểu nội dung, bên cạnh đó thì chỉ có một vài thiết bị trắc họa giản tiện và chiếc máy ảnh. Tư Mã Khôi nói dưới nước xuất hiện cá đại hồng, có thể bổ sung một ít thực phẩm và nước sạch cho cả đội, nên khó khăn lớn nhất trước mắt là định vị phương hướng, vì không biết dòng sông ngầm dưới đáy địa máng này rốt cục thông ra nơi nào? Thắng Hương Lân từng nhiều lần thực hiện nhiệm vụ trắc họa thăm dò, cô bảo với Tư Mã Khôi: bây giờ không khó xác định phương hướng, hướng mà sông ngầm chảy qua, về cơ bản là đồng nhất với hướng chạy của địa máng, còn vấn đề khó khăn nhất mà đội thám hiểm phải đối mặt là không biết tọa độ chính xác của nó; bởi vì độ sâu của động lên tới gần mười ngàn mét, mà cũng không phải chỉ nghiêng theo chiều thẳng đứng, nên mọi người không có cách nào xác định được vị trí cụ thể. Tư Mã Khôi cho rằng phía dưới kính viễn vọng Lopnor chính là cực vực. Khu vực này là một cực của đất trời, hàng ngàn tỉ năm nay không hề được nhật nguyện soi sáng, nên nhận thức của loài người về nó dường như chỉ là số không. Trong các cuốn cổ tịch địa lý thời tiền Tần như cuốn: “Ngạn thiên tự truyền” mới có một vài ghi chép vụn vặt, có điều nơi đó đã được gọi là “vực” thì chắc hẳn phải là khu vực có nước sâu. Dòng sông ngầm xuất hiện dưới lòng đất rất có khả năng sẽ chảy về cực vực, bởi thế nên giáo sư Thắng Thiên Viễn và Tống Tuyển Nông mới coi địa máng dưới Hắc Môn, là một lối vào khác của kính viễn vọng Lopnor. Nếu suy đoán này chính xác, thì đội thám hiểm lần theo nguồn nước tiếp tục xuống dưới, chắc chắn sẽ tìm thấy mục tiêu. Bây giờ điều khiến Tư Mã Khôi cảm thấy không an lòng nhất vẫn là Nấm mồ xanh, bởi vì phân đội khoan thăm dò Karamay chỉ có hai mươi mấy thành viên, mà toàn bộ họ đều bị vật chất phân rã thể khí do nội gián địch dẫn cháy, thiêu chết trong địa cốc. Nhưng mọi người lại không thể xác minh chính xác số người đã chết, và ai dám đảm bảo trong đội ngũ này chỉ có một tên gián điệp nằm vùng, bởi biết đâu vẫn còn tồn tại những kẻ địch khác. Trong khi đó, cái chết của gã kỹ sư Điền Khăc Cường cũng còn nhiều điều khó lý giải. Lúc Tư Mã Khôi chưa lôi hắn từ trong khe quách ra, thì rõ ràng cảm thấy gã này vẫn còn sống, nhưng sau khi đạp hắn nằm bẹp ra đất thì đột nhiên lại cảm thấy gã đoạn khí lìa đời. Vì tình hình lúc bấy giờ quá gấp gáp, nên anh cũng không kịp kiểm tra thủ cấp của hắn, vả lại còn phải dùng cái xác làm mồi nhử cho bầy dơi tránh xa để tháo chạy. Lúc ấy, anh chỉ vội vàng bồi cho hắn thêm một phát súng. Bây giờ ngồi ngẫm nghĩ lại, thấy rằng thi thể gã Điền Khắc Cường tuy không còn tồn tại, nhưng cũng không thể đoán định gã đặc vụ đó đã hoàn toàn biến mất. Ba người còn lại cũng có chung cảm nhận ấy, bởi rốt cuộc hành vi gã đặc vụ đó quá đỗi quái dị, vì muốn bảo vệ bí mật của thủ lĩnh tổ chức, mà hắn có thể thực hiện mọi hành vi cực đoan tâm thần cuồng loạn nhất, liên tiếp hai lần định chết cùng mọi người; huống hồ là trên thế giói làm sao lại có loại “người” đã bị bẻ gãy cổ mà vẫn chuyện trò như thường được. Tư Mã Khôi nói: “Những ẩn số này nhất thời không thể tìm ra lời giải đáp, có điều tôi dám khẳng định, tên cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh hoàn toàn khác gã Điền Khắc Cường. Gã này chỉ là một thành viên trong tổ chức, địa vị cũng không cao lắm, hắn nằm vùng trường kỳ ở mỏ dầu Tân Cương, phụ trách giám sát và phá hoại các đội khảo sát thăm dò kính viễn vọng Lopnor. Mười năm gần đây, hắn không hề hành động gì, cho dù trước đây hắn đã từng được huấn luyện đặc biệt ở nước ngoài đi nữa, nhưng lâu ngày nếu không sử dụng đến thì kỹ năng cũng bị mai một ít nhiều. Hắn không những không làm nên động tĩnh gì lớn, mà ngược lại còn liệu sự thiếu chu toàn. Tôi thấy mọi người không nên nảy sinh tâm lý sơ hãi hắn, bởi chúng ta hiện nay cũng có ưu thế riêng. Sau khi Nấm mồ xanh lấy được luồng sóng điện u linh thì cũng phải mất một thời gian, hắn mới phát hiện được những kẻ may mắn sống sót bọn ta đã chạy thoát khỏi tòa thành Nhện Vàng, đồng thời đội thám hiểm lại tiến vào kính viễn vọng Lopnor. Đó đều là những việc mà kẻ cầm đầu tổ chức này không muốn nhìn thấy nhất. Thế nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi như thế, đối phương cũng không kịp trở tay, thì chỉ có thể cắt cử gã Điền Khắc Cường nằm vùng ở gần đó nhất trà trộn vào phân đội khoan thăm dò, phá hoại mọi hành động thăm dò của cả đội. Đó cũng chính là ưu thế của chúng ta, nên chúng ta phải cùng ôm mối hận quyết chiến với quân địch, khắc phục mọi khó khăn, đánh nhanh thắng nhanh, cố gắng tìm thấy kính viễn vọng Lopnor một cách sớm nhất, vạch trần chân tướng của Nấm mồ xanh. Chỉ như vậy chúng ta mới có thể loại bỏ tận gốc tổ chức thần bí này, thay những người bạn đã chết trả mối thù huyết hận, nếu không gian kéo dài càng lâu, thì chúng ta càng rơi vào tình thế bất lợi.” Tư Mã Khôi nói xong, mọi người đều gật đầu cho là phải, lúc này cỗ quan tài vẫn xuôi theo dòng sông ngầm. Cả đội lấy đèn quặng soi về phía mặt nước mênh mông, nhưng tứ bề bát ngát không biết đâu là bờ, duy chỉ trông thấy những luồng nước đục ngầu cuồn cuộn nổi sóng dữ dội. Cùng với sự gia tăng độ sâu của lòng đất, nhiệt độ âm hàn lạnh thấu xương xung quanh cũng bắt đầu có sự thay đổi. Bầy đầu lâu trắng bay lượn giữa tầng không dần dần im hơi lặng bóng, có lẽ chúng sợ địa nhiệt nên không dám tiếp tục bám theo. Hải ngọng thấy trước mắt đâu đâu cũng chỉ một màn đêm đen sì, trong lòng cũng thắc thỏm bất an, cảm thấy là dòng sông này dường như không có điểm tận cùng, thế là thỉnh thoảng anh lại quay sang hỏi Hương Lân xem phương hướng có chính xác không? Hương Lân trấn an: “Địa máng là dải địa tầng sụt lún khổng lồ, tuy phân bố thành thể hệ huyệt động nhiều tầng lớp, nhưng hướng chạy của nó thì đều đồng nhất, đó là đường rãnh nhỏ hẹp dưới lòng đất, bởi thế phương hướng tổng quát chắc chắn không thể nào xảy ra sai lệch lớn lắm. Hơn nữa, nhiệt độ trong huyệt động đang dần tăng lên, điều đó có nghĩa là chúng ta đã bắt đầu tiếp cận đến dòng địa nhiệt đối lưu ở tầng quyển manti; bây giờ chúng ta đang ở cách bề mặt Trái Đất ít nhất tám ngàn mét.” Tư Mã Khôi cũng hỏi: “Nơi sâu hơn dưới lòng đất rốt cục có thứ gì, mà khiển địa áp và dưỡng khí vẫn duy trì được ở mức bình thường vậy?” Thắng Hương Lân khẽ thở dài: “Thực ra địa áp đã sớm vượt qua định mức cho phép từ lâu. Gã Điền Khắc Cường nói rất chính xác, bây giờ tất cả chúng ta đều đã mắc phải hội chứng địa áp, chỉ cần lòng đất xuất hiện sự dao động lớn dẫn đến việc mất áp lực, thì toàn bộ huyết dịch trong cơ thể sẽ sôi lên ùng ục giống như nước sôi vậy.” Tư Mã Khôi không rõ vì sao huyết dịch trong cơ thể lại có thể biến thành nước sôi được, nhưng anh biết, nếu rơi vào tình trạng ấy thì đã cầm chắc cái chết trong tay không cần nghi ngờ gì nữa. Anh nghĩ, việc này có lo nghĩ thì cũng vô dụng, nhưng nếu tất cả mọi người đi xuống lòng đất đều đột ngột tử vong, thì Nấm mồ xanh việc gì phải cắt cử gián điệp phá hoại hoạt động thăm dò của cả đội, nên chắc chắn trong vực sâu không đáy gần tâm Trái Đất phải tồn tại cơ hội sống sót nào đó. Lúc này, anh nhìn thấy mặt nước xung quanh sủi bọt lăn tăn. Tư Mã Khôi bật đèn quặng soi cho rõ, thì thấy trong làn nước có một bầy cá lớn đang bơi qua. Có lẽ đó là loài cá hồi sống ở vùng nước ngầm lạnh, miệng rộng mõm nhọn, tập tính hung dữ, thân mình to hơn các loài cá mù sống dưới sông ngầm thông thường khác nhiều lần. Lúc này, chúng đang bơi ra khỏi huyệt động tranh mồi. Hải ngọng rất giỏi chọc cá bắt rắn, nhìn thấy bầy cá bơi lội xung quanh, anh dùng dao săn đâm ngửa bụng hai con rồi róc vảy chia cho mọi người ăn. Loài cá nước ngọt dưới sông ngầm mỡ dày, nhiều chất, chỉ cần quen mùi vị tanh tanh là sẽ cảm thấy khá ngọt và không đến nỗi khó nuốt lắm. Mọi người định đưa cho giáo sư Nông địa cầu một chút thịt cá, nhưng ông vẫn ngậm chặt hai hàm răng, ngay cả nước cũng không chịu uống. Hơi thở của ông yếu ớt, tựa hồ có thể ra đi bất cứ lúc nào. Tư Mã Khôi thấy giáo sư mất máu quá nhiều, khả năng không giữ nổi tính mạng. Trước mắt anh cũng bó tay bất lực, không biết làm gì ngoài việc cứa cổ tay mình cho máu nhỏ vào miệng giáo sư. Hải ngọng và Lưu Giang Hà thấy vậy thì hơi sững người lại một chút rồi không ai nói gì, chỉ lẳng lặng xắn tay áo lên đứng bên cạnh đợi đến lượt mình thay thế Tư Mã Khôi. Trước đây, Thắng Hương Lân luôn cho rằng Tư Mã Khôi và Hải ngọng là loại người vô thiên vô pháp, mới mười lăm tuổi đã dám chạy đến Miến Điện đánh nhau, tham gia đội du kích lật đổ chính phủ; tuổi còn trẻ mà đã giết người như giết rận, nói không chừng còn cưỡng hiếp phụ và đốt nhà dân thường cũng nên. Nói chung, bọn họ dám làm tất cả những chuyện bại hoại nhân tính, đi ngược vói đạo trời, tôi luyện trái tim sắt đá vô tình, nhìn thấy người chết trước mặt cũng hoàn toàn dửng dung, lời nói thì phù phiếm, đã thô tục lại còn bẻm mép nói lý đâu ra đây, giảo hoạt đến mức khiến người khác không đám đấu khẩu, bởi vậy cô không có thiện cảm với họ lắm Nhưng lúc này, thấy Tư Mã Khôi không do dự cắt mach máu ở cổ tay cho giáo sư uống mà mắt cũng không chớp một cái, thì cô lại thấy vô cùng cảm động, trong lòng trào lên sự cảm kích khó nói thành lời. Kỳ thực, Tư Mã Khôi cũng biết biện pháp dân gian này rốt cục không thể thay thế việc truyền máu được nhưng trong lúc cấp bách, thì anh cũng không thể nghĩ ra biện pháp nào hiệu quả hơn. Có điều, máu tươi của người sống giữ được mạng là chuyện có thật. Giáo sư cảm thấy vị tanh mặn nóng ấm chảy vào cổ họng, ông nuốt “ực” một cái rồi dần dần mở hai mắt. Lúc này, giáo sư thấy hồi quang phản chiếu, những sự việc từng trải qua trong quá khứ đều lần lượt hiện về trong trí não. Tư Mã Khôi thấy giáo sư tỉnh lại lần nữa thì trái tim đang treo vắt vẻo mới tạm quay về vị trí cũ. Anh đang định bảo Lưu Giang Hà băng bó lại vết thương trên cô tay cho mình, thì phát hiện đôi mắt của giáo sư trở nên vô cảm, không hề có chút phản ứng nào với tia sáng của đèn quặng. Anh kinh ngạc hỏi: “Bác Nông, mắt của bác…” Giáo sư nghe thấy giọng nói của Tư Mã Khôi thì giơ tay nắm lấy cánh tay anh, thở dài bảo: “Hỏng rồi! Tôi không nhìn thấy gì nữa. Cậu hãy ghi nhớ, nếu như tôi chết, thì hãy giúp tôi hỏa táng thi thể và để lại dưới lòng đất cho tôi được thanh tịnh. Cả đời tôi không có gì đáng phải bận tâm, điều duy nhất chưa thể yên lòng chính là mấy đứa các cậu mà thôi….”, giáo sư nói đến đây thì ngừng một lát, rồi đột nhiên hỏi: “Đúng rồi, tôi… tôi đã kể cho các cậu nghe về điện thoại chưa nhỉ?” Hội Tư Mã Khôi ngớ người không hiểu hỏi lại: “Điện thoại gì cơ ạ?” Giáo sư hổn hển đáp: “Làm sao tôi lại quên khuấy chuyện quan trọng như thế cơ chứ, tất cả chỉ tại tôi không tính toán mọi sự thiếu chu toàn và cũng vì phải tuân thủ chế độ bảo mật nghiêm ngặt, nên định sau khi vượt địa máng mới nói cho các cậu biết, điện thoại…. các cậu phải tìm thấy một chiếc máy điện thoại quân dụng từ thạch Aφ53, chỉ cần thông máy… là có thể đi vào kính viễn vọng Lopnor; nhưng sau khi nối được máy, bất kể đầu bên kia nói gì, các cậu cũng tuyệt đối không được tin …” Tư Mã Khôi càng thấy kỳ quặc hơn, vì sao dưới lòng đất lại có máy điện thoại từ thạch Aφ53? Có phải do người Liên Xô để lại không? Vì sao chiếc điện thoại đó là cổng vào của kính viễn vọng Lopnor? Chưa kịp đợi Tư Mã Khôi hỏi, bàn tay giáo sư đã đột nhiên tuột khỏi bờ vai anh, tim ông đã ngừng đập.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 4: Liên xô chế tạo - Hồi một: Rừng rậm than đá


    Mọi người tìm thấy một phiến đá nhô khỏi mặt nước, liền lấy dầu hỏa táng thi thể giáo sư, theo như lời ông trăng trối trước lúc từ giã cõi đời. Cục diêm tiêu lập tức cháy phừng phừng trên mặt nước, ngọn lửa bốc mạnh đến nỗi mọi người không thể đứng cạnh, đành nhảy lên thuyền rời đi. Bốn người ngoái đầu nhìn ngọn lửa bùng cháy ngùn ngụt khuất dần vào bóng tối phía sau lưng, đều không cầm lòng được. Trái tim họ tựa hồ bị ai cắt cứa, cảm giác bần thần trống trải như vừa đánh mất vật gì vô cùng thiêng liêng. Anh đội trưởng Lưu Giang Hà và cô nhân viên trắc Thắng Hương Lân lặng lẽ rơi lệ, Hải ngọng miệng lầm bầm than ngắn thở dài: “Xong thật rồi! Ông bác già không còn nữa rồi!” Tư Mã Khôi nhiều năm chiến đấu ở vùng sơn cước Miếng Điện, anh rất quen thuộc với cảnh sinh ly tử biệt, nhưng giờ đây hoàn cảnh của anh cũng tương tự như ba người còn lại, quanh mình không có người thân, đối với bọn họ mà nói, giáo sư Nông vừa là thủ trưởng lãnh đao vừa giống như người cha trong gia đình. Hôm nay, anh vừa hay tin dữ: Tuyệt và Ngọc Phi Yến tử nạn ở nước ngoài, bây giờ lại chỉ biết trừng mắt nhìn giáo sư chết ngay trước mặt. Trong một ngày liên tiếp nhận hai ba cú sốc nặng, khiến anh cảm thấy khó lòng chịu đựng. Những ý niệm hỗn loạn thi nhau ùa về, khiến cơ thể và tinh thần anh rệu rã, kiệt quệ đến đỉnh điểm. Tư Mã Khôi nằm ủ rũ trên sàn quan tài, chìm sâu vào giấc mộng mị. Trong lúc thần trí mơ màng, anh phảng phất như đang được trở về cánh rừng rậm ẩm ướt tối đen ở Miến Điện. Hội anh Thiết Đông và Karaweik vẫn còn sống, không hiểu vì sao cả giáo sư Nông, Ngọc Phi Yến và đại đội trưởng Mục cũng nằm trong hàng ngũ. Trong khoảnh khắc tiếng súng tạm lắng giữa trận đấu, mọi người ngồi quây quần nghỉ ngơi, không ai mở miệng nói với ai câu gì, bốn phía xung quanh im ắng như tờ. Tư Mã Khôi cảm thấy lòng vô cùng thấp thỏm bất an, vừa thầm mong thời khắc này kéo dài càng lâu càng tốt, lại vừa nơm nớp lo sợ tiếng súng đùng đoàng nổi lên, báo hiệu bộ đội phải lập tức ra trận địa. Sau trận chiến ác liệt này, chẳng biêt ai con ai mất, bao nhiêu người trong số những gương mặt thân quen này sẽ sống sót trở về. Lúc này, hội anh Thiết Đông đột nhiên đứng dậy, cả đội vội vàng xuất phát. Tư Mã Khôi biết rõ chắc có nhiệm vụ cấp bách gì đây, anh đang định hành động theo đội ngũ, nhưng người nọ đứng kề sát người kia, nối thành hàng dài, không còn chỗ trống dành cho anh. Tư Mã Khôi sốt ruột, lôi tuột Karaweik ra khỏi hàng bảo: “Thằng ranh con nhà cậu, lông còn chưa mọc hết, theo đi quậy phá làm gì. Mau tránh ra nhường chỗ cho ông Khôi”. Nhưng anh Thiết Đông giữ tay Tư Mã Khôi lại bảo: “Lần này, cậu không đi được.” Năm đó, anh Thiết Đông từ Bắc Kinh trở về Hồ Nam, đã tuyên truyền tình thế trước mắt cho bọn đàn em trong quân khu, triệu tập mọi người tham gia phong trào Hồng vệ binh dành cho học sinh sinh viên. Tư Mã Khôi và Hải ngọng còn trèo lên tường ngồi nghe anh nói. Cả hai đều rất thán phục tài thao lược của anh, cam tâm theo gót anh đến cùng, sau này lại tình nguyện cùng anh tham gia chiến trận ở Bắc Miến, không ngờ bây giờ lại bị anh ngăn lại. Tư Mã Khôi không nhịn được tức giận, bèn lớn giọng: “Mấy năm nay vào sinh ra tử, có khi nào em chịu lùi sau lưng kẻ khác đâu? Sao anh không cho em đi?” Anh Thiết Đông lẳng lặng đáp: “Vì lần này, bọn anh phải đến một nơi rất xa. Nếu em đi sẽ không thể quay trở về được nữa.” Tư Mã Khôi nghe chưa rõ, đang định bám theo gạn hỏi thì đội ngũ đã bắt đầu lên đường. Anh muốn đưa tay kéo anh Thiết Đông lại, nhưng không hiểu sao người cứ mềm nhũn ra không còn chút sức lực, chỉ cảm thấy bầu không khí xung quanh càng lúc càng bí bách oi nồng, dường như ngột ngạt đến mức không thở nổi. Tư Mã Khôi nhìn từng gương mặt quen thuộc càng lúc càng đi xa dần, cảm giác lạc lõng thất vọng trong lòng cứ dâng trào không cưỡng lại được. Dòng nước mắt nóng hổi thi nhau lăn dài từ khóe mắt. Lúc này, ở cuối hàng có một cô gái bỗng đứng lại, quay người về phía Tư Mã Khôi, nắm chặt tay anh rồi ngẩng đầu lên nhìn, dường như đó là Ngọc Phi Yến. Anh cảm thấy có chút khó hiểu: “Ơ, thủ lĩnh! Tôi cứ tưởng Sơn lâm đội thiếu lão đoàn của cô đều là dân trộm mộ cơ mà? Sao lại nhập hội với quân Cộng sản Miến Điện? Mọi người rốt cục định đi đâu vậy?”, Ngọc Phi Yến đột nhiên tuôn chảy hai hàng nước mắt, cô nhỏ giọng thì thầm: “Hoàn cảnh của anh bây giờ rất nguy hiểm, Nấm mồ xanh… đang trốn ngay bên cạnh anh đấy!” Tư Mã Khôi vừa nghe thấy bốn chữ Nấm mồ xanh thì vụt tỉnh táo hẳn ra. Anh đột ngột ngồi bật dậy, nhìn thấy con thuyền vẫn trôi dập dềnh theo sông ngầm, độ dòng nhiệt lưu quyển manti tăng cao đã hình thành màn sương dày đặc tựa như chưng hơi, lúc đó Tư Mã Khôi mới biết mình vừa gặp ác mộng; còn người con gái đang nắm chặt tay anh không phải Ngọc Phi Yến, mà là Thắng Hương Lân. Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi ngủ mê mệt, miệng lại lẩm bẩm toàn những lời mê sảng, rồi khóc nấc lên như một đứa trẻ. Cô cảm thấy rất lo lắng, bèn lại gần nắm chặt tay Tư Mã Khôi, lay anh tỉnh dậy: “Anh mơ thấy gì thế? Sao lại khóc ra nông nỗi này?” Tư Mã Khôi như bị ai lấy mất hồn, anh ngồi thừ một lúc lâu không nói năng câu nào. Sau đó, anh tóm tắt kể lại giấc mơ cho mọi người nghe: “Không hiểu đó là giấc mơ gì mà sao nó lại có cảm giác chân thực đến thế? Hay là những người bạn đã chết muốn báo mộng cho chúng ta: Nấm mồ xanh đang ẩn nấp trong quan tài?” Thắng Hương Lân an ủi: “Phần lớn giấc mơ được sinh ra đều do sự cảm ứng của tâm niệm, có lẽ anh đau lòng quá, tinh thần bắt đầu rơi vào trạng thái căng thẳng cao độ, nên mới gặp ác mộng. Huống hồ, bây giờ chúng ta đang trôi trong dòng sông ngầm dưới lòng đất, không gian quan tài bé tí xíu thế này, làm gì đủ chỗ cho ai trốn được chứ?” Tư Mã Khôi lại không cho là vậy, anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu giải thích nguồn gốc của các con ác mộng: khi ngủ, con người thường rơi vào hai loại trạng thái, trạng thái thứ nhất là giấc ngủ đảo ngược, trạng thai thứ hai là giấc ngủ sóng chậm. Trạng thái thứ nhất tao thành do áp lực hoặc mệt mỏi quá độ. Giấc ngủ đảo ngược còn gọi là giấc ngủ nhanh hay giấc ngủ có động mắt, nó chiếm khoảng 25% thời gian ngủ, khi ấy tần số sóng điện não nhanh gần giống lúc thức, kèm theo đó là các cử động nhanh và thành từng đợt của nhãn cầu, trong tình trạng mắt nhắm chặt, nhãn cầu vẫn có thể vận động khoảng 60 -70 lần/giây. Ngoài ra trong giấc ngủ đảo ngược còn có hiện tượng mất trương lực cơ, giật cơ nhẹ ở ngón chân, ngón tay, nhịp thở và nhịp tim không đều, những giấc mơ chủ yếu xảy ra trong trạng thái ngủ này. Lúc đó các tín hiệu rối loạn trong não sẽ đan cài vào nhau, thông qua tiềm thức nảy sinh tự kỷ ám thị; ví dụ như có một số nhà nghệ thuật đột nhiên tìm được cảm hứng qua giấc mơ, cũng có một số nhà trinh thám phát hiện ra manh mối quan trọng của vụ án trong giấc ngủ. Đây đều là sự phản ánh được nảy sinh ngẫu nhiên từ tầng sâu của tư duy, chỉ có điều phần lớn giấc mơ đều không trực quan, khiến người ta khó lòng giải thích ý nghĩa thực sự của nó, bởi vậy thời cổ những thuyết giải mộng hay điềm dự báo đều hình thành dựa trên nguyên lý cơ bản này, có lẽ những thuyết luận này chưa hẳn là hoàn toàn hư cấu. Tư Mã Khôi cũng không đi sâu nghiên cứu bộ môn khoa học ấy, anh chỉ dự cảm cơn ác mộng chính là lời cảnh báo: Nấm mồ xanh hiện đang nằm mai phục trong quan tài. Hải ngọng cũng biết Nấm mồ xanh thâm độc xảo quyệt anh không dám lơ là, vội cầm súng trường rà soát từng góc chết trong quan tài, rồi bảo Thắng Hương Lân và Lưu Giang Hà: “Các cậu biết rồi đấy, tên cầm đầu Nấm mồ xanh giống như u hồn. Trước đây, không gian trong khoang máy bay tiêm kích vận tải Anh còn khép kín hơn cả cỗ quan tài rách này, thế mà hắn vẫn trốn được ngay trước mắt bọn tôi, không ai tóm cổ nổi hắn.” Đội trưởng Lưu Giang Hà nhắc nhở Hải ngọng: “Liệu tên gián điệp có trốn dưới nước không anh?”, Hải ngọng gật đầu tán thành: “Có lý đấy! Gián điệp mà lại, làm gì hắn lại không biết mấy chiêu chó bới hố đó?”. Hai người bèn soi đèn quặng xuống mặt nước, nhưng chỉ thấy dòng nước ngầm cuồn cuộn hung dữ, vô số cá chết phơi bụng trắng hếu nằm ngửa trên mặt nước, thì bất giác giật oảy mình: “Địa nhiệt cao quá, bầy cá bơi đến đoạn này không chịu nổi nhiệt dẫn dến tình trạng chết hàng loạt, xem ra không có chuyện người trốn dưới nước được”. Mọi người lại lo lắng nếu tiếp tục lái thuyền xuống sâu hơn, dòng địa nhiệt sẽ càng lúc càng cao, nên tuy quan tài bằng chất gỗ rắn chắc, nhưng người ngồi trên thuyền có khác gì ngồi trong nồi hơi, không khéo bị hấp chín cả cũng nên. Thắng Hương Lân thấy vậy bảo Tư Mã Khôi: “Nếu Nấm mồ xanh trốn trong quan tài, hắn chỉ cần đục thủng ván là cả bọn chúng ta chết chìm dưới sông ngay, nhưng suốt dọc đường không hề xuất hiện động tĩnh gì, có lẽ anh quá đa nghi đấy thôi. Bây giờ biên độ gia tăng của dòng nhiệt lưu trong quyển manti tiến triển quá nhanh, chúng ta cần ứng phó với tình hình này trước đã”. Tư Mã Khôi nói: “Tôi dự đoán bây giờ kẻ mai phục bên cạnh chúng ta có lẽ không phải tên cầm đầu, mà là gã đặc vụ Điền Khắc Cường. Khi ấy, tôi vẫn chưa kịp kiểm tra kĩ cái xác bị lột da; đã không thể xác định thân phận của gã, thì cũng không thể chủ quan loại trừ bất kỳ nhân tố bất ngờ nào. Bây giờ gã đặc vụ đó liên tục thất thủ, giờ đây hắn như chim sợ cành cong, tuyệt đối không dám mạo hiểm hành động thêm lần nữa đâu. Vì chất gỗ chiếc quan tài này rất dày dặn chắc chắn, nếu không thể đục một phát thủng tận đáy quan tài thì chẳng những không thể diệt trừ được chúng ta, mà ngược lại tiếng động phát ra sẽ khiến vị trí ẩn nấp của hắn bị bại lộ, nhất định hắn đang chờ đợi cơ hội hành động thích hợp hơn.” Thắng Hương Lân nói: “Anh phân tích rất chính xác, nhưng tất cả chỉ hoàn toàn dựa vào trực giác, chưa hẳn đã hợp logic, trừ khi gã đặc vụ đó thực sư là một u hồn, còn không, sao chúng ta lại không nhìn thấy hắn?” Tư Mã Khôi nói tiếp: “Thủ lĩnh Nấm mồ xanh có khả năng là u hồn, nhưng gã Điền Khắc Cường thì chắc chắn là một người đang sống sờ sờ. Gã cũng không biết sử dụng yêu thuật tàng hình, nếu quả thực hắn có bản lĩnh đó thì e rằng chúng ta đã không thể sống sót đến tận bây giờ. Tôi thấy chỉ là đối phương đã trốn vào trong quan tài bằng cách mà không ai có thể nghĩ đến mà thôi.” Hải ngọng cũng bắt đầu cho rằng Tư Mã Khôi nghi bóng nghi gió, rõ ràng mọi thứ đều bình thường, sao cứ phải tự đặt ra giải thiết kẻ địch đang ở ngay bên cạnh, đúng là tư duy chiến tranh lạnh điển hình, chẳng lẽ vẫn còn chê trạng thái tinh thần của cả đội chưa đủ căng thẳng hay sao? Anh bảo Tư Mã Khôi: “Đã là cách không ai có thể nghĩ đến, thì chúng ta phải mở rộng tư duy sang một thế giới khác mới lý giải được, mà chúng ta đâu có khả năng làm việc đó.” Tư Mã Khôi ấn đèn quặng chúi xuống dưới, anh quan sát kỹ xung quanh: “Tôi thấy chúng ta nên tin tưởng đôi mắt chính mình hơn là tin vào trực giác. Mọi người có phát hiện ở đây thừa ra vật gì không?” Cuối cùng Tư Mã Khôi soi đèn vào một góc tối không hề bắt mắt. Hội Thắng Hương Lân vừa nhìn theo chùm sáng ánh đèn hướng mắt xuống đáy quan tài thì cảm thấy không khí nóng bức ngột ngạt xung quanh phút chốc trở nên lạnh ngắt: “Đây là ba lô của đội khoan thăm dò Karamay, ai đã mang nó lên thuyền vậy?” Ba lô mà hội Tư Mã Khôi mang theo đều là loại ba lô địa chất sa mạc, được làm bằng vải buồm màu vàng đất; cho đến bây giờ, trên người bốn thành viên chỉ còn lại ba chiếc ba lô và một cái máy điện đàm. Trong khi đó, ba lô đội khoan thăm dò sử dụng lại là loại ba lô tác nghiệp thăm dò, tuy đều dùng chất liệu vải buồm, nhưng kiểu dáng và màu sắc thì hoàn toàn khác nhau. Mọi người đều nhớ rõ, chiếc ba lô nằm trong góc khuất kia từng thấy trên người gã kỹ sư Điền Khắc Cường. Lúc bơi qua sông ngầm, nó thoát khỏi tầm nhìn của mọi người vì được thân mình giáo sư Nông đang bị trọng thương che chắn, vả lại, trong cỗ quan tài rặt một màu đen, không ai để ý chiếc ba lô xuất hiện ở đó. Lúc này, Tư Mã Khôi lấy đèn quặng lục soát kỹ từng ngóc ngách, mới phát hiện ra sự có mặt nó. Tư Mã Khôi quan sát chiếc ba lô tác nghiệp thăm dò, thấy dung tích của nó rất hạn hẹp, tuyệt đối không đủ chỗ để chứa một người, huống hồ gã Điền Khăc Cường đã bị hủy hoại thân thể. Bây giờ chiếc ba lô nằm im bất động ở đó, không biết rốt cục bên trong đựng thứ gì? Hải ngọng chửi đổng: “Bà nội nó! Đúng là gặp ma thât rồi!”. Anh giương súng trường định bắn thủng một lỗ, nhưng Tư Mã Khôi giữ tay anh bảo: “Không được bắn! Lỡ bắn thủng ván quan tài thì đừng ai nói đến chuyện sống sót rời khỏi đây”. Hai người cất súng định dùng dao rạch ba lô ra, bỗng nhiên toàn thân chợt lắc lư rung chuyển. Chiếc quan tài trôi trên sông ngầm bị dòng nhiệt lưu mạnh đẩy bổng lên giữa không trung. Cả hội cuống quýt bám chặt tay vào hai bên mạn thuyền, mới không bị văng xuống nước. Trước mắt là dòng nhiệt lưu sủi ùng ục, nên không ai mở nổi mắt. Nơi sâu của con sông ngầm dưới địa máng là khu vực dòng nhiệt đối lưu quyển Manti và hiện tượng nước trồi hoạt động mạnh, khiến một phạm vi địa tầng rộng lớn ở hai bên bờ sông nâng cao hẳn lên, dòng dung nham đỏ rực như dòng thép nung chảy phun trào dữ dội dưới lòng chảo sông, thủy hỏa tương giao sinh ra dòng địa nhiệt sôi sục, cả con sông ngầm đều bị bốc hơi ngay giữa đường. Chiếc quan tài từ dải địa chất đứt sãy, đoạn tầng phân bố dày đặc những lớp nham thạch gấp nếp, bị một dòng nước trồi chảy xiết cuốn trôi tuột xuống phía dưới. Bốn người lộn tùng phèo trong quan tài rồi văng ra ngoài, trên mặt đất toàn là dung nham, nhiệt độ cao đến mức người ta không thể đặt chân xuống nền đất. Hội Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy trên dốc nham thạch phía sau lưng có một vài khe nứt màu đỏ sẫm, lòng thầm biết phía dưới quyển manti đều là dung nham, nếu không phải chiếc quan tài được làm bằng chất liệu gỗ nặng âm khí, thì khi nãy tất cả đã mất mạng. Trong cái nóng bỏng rát và bóng tối vô biên moi người không biết chiếc ba lô tác nghiệp khoan thăm dò đã rơi mất chỗ nào, bốn người đành gắng sức tiến về phía trước. Đi khoảng một dặm, thì họ cảm thấy mặt đất dưới chân bắt đầu trở nên bộp xốp, thì ra là than đá, đèn quặng không thể soi rõ toàn cảnh, chỉ thấy đâu đâu cũng một màu đen ngòm, trải dài vô cùng vô tận. Đá trầm tích hữu cơ đan cài giao thoa tầng tầng lớp lóp, giống như cây tùng già rủ tán xòe ô, thậm chí có những cây cổ thụ cao đến mấy chục mét, tất cả giống như những con mãng xà đen sì thả mình từ cành xuống. Tuy đã hoàn toàn biến thành than đá, nhưng hình hài vỏ cây, gân thớ cũng như phiến lá hãy còn rất rõ ràng, chỉ có điều chúng không còn màu xanh đậm mỡ màng đầy sức sống nữa, mà thay vào đó là màu đen kịt tượng trưng cho sự chết chóc. Ngay cả nằm mơ Hải ngọng cũng chưa thấy cảnh tượng này bao giờ, nên anh bất giác kêu lên vẻ kinh ngạc: “Ối trời phật ơi! Đây là một khu rừng rậm than đá! – Tài nguyên khoáng sản ở Lopnor tuy rất phong phú, nhưng chưa bao giờ người ta phát hiện thấy sự tồn tại của Đá, vì than đá chính là loại đá trầm tích hữu cơ được hình thành bởi xác các loài thực vật dưới lòng đất từ thời viễn cổ. Sau khi cả cánh rừng rậm bị than hóa, nó vẫn giữ nguyên diện mạo như lúc ban đầu, đúng là một kỳ tích hiếm có khó tìm, nó lật đổ mọi khái niệm địa lý từ trước đến nay. Thắng Hương Lân cũng kinh ngạc cao độ, cô xác định phương hướng rồi nói với Tư Mã Khôi: “Nếu tài liệu mà giáo sư nắm bắt không có gì sai sót, thì động đạo kính viễn vọng Lopnor nằm ngay trong cánh rừng than đá này.” Tư Mã Khôi nói: “Thì ra điểm tận cùng của con sông ngầm dưới địa máng lại là lớp vỏ than đá, không biết thể tích của nó lớn bao nhiêu? Nếu kính viễn vọng Lopnor mà người Liên Xô khoan đào nằm trong địa phận khu này, thì chỉ e chúng ta có tìm một trăm năm cũng chưa chắc đã tìm thấy nó.” Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà nói: “Thủ trưởng chẳng phải đã chỉ thị cho chúng ta: trước tiên phải tìm một cái máy điện thoại nào đó sao?” Tư Mã Khôi gãi đầu đáp: “Là máy… điện thoại từ thạch Aφ53, trong các cậu có ai từng sử dụng nó chưa?” Mọi người đều lắc đầu, điện thoại từ thạch Aφ53 có lẽ là loại điện thoại dã chiến do Liên Xô sản xuất, trong nước hiếm có người nào nhìn thấy loại điện thoại này. Nhưng hội Tư Mã Khôi lại khá thông thuộc các loại điện thoại dã chiến thông thường, cái được gọi là điện thoại từ thạch quân dụng cầm tay, chính là chiếc hộp dài bẹp, to bằng hai hộp cơm, mở chiếc hộp ra bên trong sẽ là điện thoại, bên cạnh có một ống quay, chỉ cần quay vài vòng là có thể phát điện nhờ manheto, chuyên dùng để liên lạc trực tiếp giữa điểm này với điểm kia, nhưng nó bắt buộc phải có giá đỡ và đường dây, và phạm vi chỉ thu nhỏ trong khoảng hai chục ki lô mét. Trước đây, trong một số bộ phim thời chiến, các vị lãnh đạo chỉ huy quân đội, sau khi xem bản đồ xong, sẽ ra lệnh cho nhân viên tham mưu quay điện thoại, thủ trưởng sẽ phân công nhiệm vụ cho các viên chỉ huy ở tiền tuyến bằng con đường đó. Điện thoại từ thạch chính là loại phương tiện liên lạc thuộc dạng này. Tư Mã Khôi không hiểu vì sao cuối cùng giáo sư lại dặn dò mọi người như vậy. Trong cánh rừng rậm than đá với quy mô rộng lớn và kết cấu phức tạp thế này, muốn tìm một chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 thì quả đúng là mông lung như chuyện ngàn lẻ một đêm. Kính viễn vọng Lopnor được khoan đào bằng thiết bị khoan hạng nặng, đường kính động đạo chí ít phải lên đến cả trăm mét; trực tiếp tìm kiếm động đạo dưới lòng đất sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với việc đi tìm một chiếc máy điện thoại, mà cho dù thực sự có chiếc điện thoại đó đi nữa, nhưng nó đã vùi dưới đất bao nhiêu năm, thì ai biết còn sử dụng được nữa hay không, vả lại sau khi nối máy được thì sẽ nói chuyện với ai? Thắng Hương Lân vẫn kiên quyết muốn thực hiện theo kế hoạch của giáo sư, cô muốn nghĩ cách tìm chiếc điện thoại. Giờ đây lương khô đội thám hiểm mang theo chỉ đủ ăn trong một ngày, hơn nữa vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi sự theo dõi của Nấm mồ xanh, chỉ cần đi sai một nước cờ thì khó mà cứu vãn được cục diện. Tư Mã Khôi trầm ngâm suy nghĩ, tuy giáo sư Tống Tuyển Nông và giáo sư Thắng Thiên Viễn chưa đích thân xâm nhập kính viễn vọng Lopnor, nhưng Trung Quốc cũng có bộ đội công trình và các chuyên gia tham dự cả quá trình hoạt động, bởi vậy rất có khả năng họ đã nắm bắt một số tư liệu bí mật lưu hành nội bộ. Nếu trước lúc lâm chung, đầu óc giáo sư Nông địa cầu hãy còn tỉnh táo, không nói năng lộn xộn, thì chiếc máy điện thoại thạch từ Aφ53 chắc chắn phải đóng vai trò rất then chốt, nhưng vì sao người Liên Xô lại lắp đặt điện thoại thạch từ ở khu vực sâu cách mặt đất hàng vạn mét? Làm sao chúng ta có thể tìm thấy nó ở giữa biển than đá rộng vô bờ bến như thế này? Có lẽ bây giờ chúng ta thực sự cần sự xuất hiện của một kỳ tích.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi hai: Nhân tố ngẫu nhiên


    Lớp vỏ than khổng lồ không thể đo được chiều rộng và độ sâu, bị các dòng nhiệt đối lưu hoạt động liên tục bao vây xung quanh, chốc lát lại có dòng dung nham trào lên ùng ục. Hội Tư Mã Khôi không thể dừng chân ở đây lâu, lập tức chui qua khe nứt bên rìa rừng rậm, lớp than đen có tác dụng cách nhiệt rất tốt, nhiệt độ lập tức trở nên âm lạnh trở lại. Những cây cổ thụ đan cài chằng chịt đã hoàn toàn hóa thành đá trầm tích hữu cơ, trong lòng nó, chỗ nào cũng sụt lở lún xuống. Điều nguy hiểm nhất là ngoài màu đen đặc quánh trong địa tầng ra, thì không hề tồn tại bất kỳ màu sắc gì khác, điều đó khiến cảm giác về không gian và phương hướng của con người trở nên hỗn loạn, hoàn toàn không thể phân biệt được trên dưới trái phải, đông tây nam bắc. Tư Mã Khôi định vị phương hướng bằng la bàn, rồi dẫn cả đội mò mẫm trong bóng tối tiến về phía trước, càng đi càng cảm thấy quy mô cánh rừng rậm than đá này thật đáng kinh ngạc, nếu dựa vào lực lượng mỏng manh của đội với mấy người ít ỏi này mà dò dẫm trắc địa từng bước, thì rất khó tìm thấy kết quả. Anh bèn tìm một khu vực tương đối kiên cố, để treo đèn quặng lên, rồi bảo mọi người tạm thời nghỉ ngơi chốc lát, gặm lương khô, lần lượt canh cho nhau ngủ. Chỗ này than vụn vương vãi khắp nơi, giẫm chân lên là phát ra âm thanh lạo xạo, nếu có vật gì định tiếp cận khu vực phụ cận, cả đội sẽ phát hiện ra ngay. Trong cánh rừng than đá im lìm như cõi chết, không hề nhìn thấy bất cứ dấu tích nào của sự sống, hội Tư Mã Khôi cho dù ngủ mơ cũng phải mở một mắt trông chừng, nhưng từ đầu chí cuối không có gì xảy ra ngoài ý muốn, chỉ là cơn sóng tâm lý lo lắng trong lòng cứ dập dềnh, khiến không ai ngủ yên được. Vài tiếng sau, cả đội lại tiếp tục lên đường. Nhờ đèn quặng và la bàn, mọi người đã đi xuyên qua khe nứt nhỏ hẹp trong lớp vỏ than. Những cây cổ thụ hóa than cao to sừng sững, vươn dài tán đan cài chập trùng vào nhau, dường như không có điểm tận cùng. Thắng Hương Lân dừng lại quan sát kim la bàn, rồi quay sang bảo Tư Mã Khôi: “Chúng ta không có bản đồ chính xác đánh dấu chiều sâu. La bàn chỉ có thể cung cấp phương vị đại khái, tìm loạn lên thế này cũng không phải cách hay.” Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Tôi cũng đang đinh chuyển hướng đây, chỉ cần thấy dấu tích tầng nham thạch bị dòng nước bào mòn trong động đá vôi, thì sẽ biết ngay phương hướng tiến lùi, nhưng với lớp than đen sì sì thế này, rất khó phán đoán địa hình địa thế. Bây giờ ngay cả đường cũ, chúng ta cũng không thể quay về được nữa.” Hải ngọng nói: “Thế thì bọn ta cứ kiên nhẫn đợi mấy trăm ngàn năm sau, biết đâu lại có công nhân mỏ than nào đó chui vào đào thi thể của cả bọn lên. Đến lúc đó, độ nổi tiếng của bọn mình phải ngang ngửa với xác ướp người phụ nữ ở Mã Vương Đôi. Người ta sẽ giật tít trên tờ Nhân dân nhật báo và Quang Minh nhật báo thế này: “Xác ướp nam giới ở rừng rậm than đá”. Bọn mình khi sống chăng kiếm nổi bậc lương mười bảy, nhưng chết đi thì lại vinh quang rạng danh cả tổ tông mấy đời ấy chứ!” Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà cứ ngỡ Hải ngọng định làm thế thật, liền cuống quýt nói: “Mọi người đã khắc phục được bao nhiêu khó khăn như vậy, chẳng dễ gì tìm thấy rừng rậm than đá, sao lại không thể nghĩ ra cách chứ? Chẳng phải thủ trưởng đã nói rồi đấy ư? Chỉ cần tinh thần không trượt ngã thì biện pháp tháo gỡ khó khắn luôn nhiều hơn khó khăn. Các đại ca lắm mưu nhiều kế, thử nghĩ kỹ lại xem, chẳng phải chúng ta còn cần kỳ tích gì đó mới tìm thấy điện thoại thạch từ hay sao? Thứ đó rốt cục là cái gì vậy? Hay để tôi lên phía trước tìm thử nhé!”. Tư Mã Khôi bảo: “Kỳ tích không phải là thứ gì. Câu lúc trước tôi nói có ý là: cần xuất hiện nhân tố ngẫu nhiên giống như kỳ tích, thì chúng ta mới có khả năng thành công, cũng có nghĩa hy vọng vô cùng mờ mịt. Chú em cứ nghĩ kỹ mà xem, phải tìm một cái máy điện thoại trong cả khu rừng rậm than đá mênh mông bát ngát thế này, có khác nào mò kim đáy bể?” Trình độ văn hóa của Lưu Giang Hà đã không cao, lại còn rất cứng đầu: “Mao Chủ tịch từng nói, quần chúng có thể tạo nên kỳ tích, công nông binh chúng ta chính là bộ phận quan trọng tạo nên quần chúng, vì sao lại không thể tạo ra kỳ tích cơ chứ? Bây giờ chúng ta dốc hết sức tạo ra kỳ tích, thì chẳng phải sẽ tìm thấy điện thoại thạch từ hay sao?” Tư Mã Khôi đang ngẫm nghĩ đối sách, bèn thuận miệng giải thích cho Lưu Giang Hà: “Kỳ tích, cái thứ đó được chia thành rất nhiều loại, có cái hiện hữu thực chất, có cái phi thực chất, kỳ tích thực chất thường đạt được sự huy động sức mạnh tập thể và vật chất lớn lao, nhưng còn một loại kỳ tích đích thực khác, mà chỉ có thể hiện nhờ vào nhiều nhân tố ngẫu nhiên trùng lặp. Trước đây, thời kỳ đại chiến thế giới thứ nhất, có một anh lính Pháp không cam tâm làm xác pháo lót đường, bèn lẻn trốn về nước, kết quả bị xử treo cổ, nghĩa là tròng dây vào cổ, thắt lại mãi cho đến lúc tội nhân đoạn khí lìa đời. Ngày hành hình, viên thực thi hành hình thòng dây vào cổ và chuẩn bị thực hiện hình phạt treo cổ cho anh lính đào ngũ, nhưng không ngờ sợi dây treo cổ liên tục đứt năm sáu lần, cuối cùng không có cách nào hoàn thành bản án, đành phải trì hoãn lại. Vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai cũng vậy, tên sĩ quan Đức quốc xã đang định xử bắn một người Do Thái, được áp giải từ trong trại tập trung, thì khẩu Luger (1) trong tay hắn đột nhiên bị kẹt đạn. Hắn ta lần lượt thay bằng hai khẩu súng khác, nhưng súng vẫn xảy ra sự cố, cuối cùng hắn đành buông tay. Việc dây treo cổ liên tục đứt hay khẩu Luger bỗng dưng hỏng hóc, đều là tình huống bất ngờ xảy ra với tỉ lệ rất thấp, huống hồ lại xuất hiện liên tục trong khoảng thời gian ngắn, lúc đó dường như có một sức mạnh thần bí vô hình nào đó ngầm bảo vệ những con người này. Trong chuỗi thường lượng tập trung nảy sinh những biến lượng không thể giải thích, rồi trở thành một kết quả nào đó mà không ai ngờ tới được, đó chính là kỳ tích, cũng có thể gọi là vận may hay nhân quả. Tóm lại, giờ đây chúng ta đang rất cần thứ đó, nhưng nó lại chuyển động không phụ thuộc vào ý chí của con người, và cũng tuyệt đối không phải thứ có thể tạo ra bởi năng lực của bất cứ ai trên thế giới.” (1) Luger: tên một loại súng ngắn nổi tiếng của quân đội Đức quốc xã, đạn bay nhanh và rất chính xác. Ông bố nuôi làm việc trong đội lạc đà của Lưu Giang Hà thường nhờ người viết thư gửi cho cậu con nuôi, thư nói: “Bay tòng quân trong đơn vị liên lạc đã mấy năm rồi, kỹ thuật cũng học đầy một bụng, mà đến bây giờ mới làm đến chức đội trưởng, ngay cả cán bộ cũng không lên nổi, sao chẳng bao giờ thấy bay lập công thế hả? Mấy tên tiểu tử đi lính ở khu du mục cũng đều lập công cả rồi, bay đúng là làm ta tức nổ ruột. Bay phải làm cho thật tốt, vì nhân dân phục vụ, chứ không phải chỉ quai miệng ra nói là xong, cần thực hiện bằng hành động thực tế, vả lại bay không kiếm chút thành tích về đây, thì sau này làm sao kiếm nổi “dương cang tử” (2) nào làm vợ hử?” (2) Dương cang tử: nghĩa là cái cong đựng nước, ở Tân Cương dùng để chỉ phụ nữ. Những bức thư đó, tuy lời lẽ lộn xộn, logic lý lẽ cũng không thông suốt, nhưng lại là liều thuốc kích thích khá mạnh đối với Lưu Giang Hà. Anh chứng kiến cảnh đại đội trưởng Mục và giáo sư Nông địa cầu lần lượt hi sinh, long thấy xúc động sâu sắc, bèn hạ quyết tâm phải hoàn thành nhiệm vụ lần này, nhưng rốt cục anh vẫn chỉ là chú lính mới thiếu kinh nghiệm, không thể giữ bình tĩnh như ba người còn lại, vừa thấy không tìm được máy điện thoại thạch từ thì lòng đã nóng như lửa đốt, chỉ hận không thể lập tức móc ba tấc đất lên đào bới. Lúc này, nghe Tư Mã Khôi nói có lý có lẽ, dường như trình độ không thua kém giáo sư bao nhiêu, anh chàng mới dần an tâm, cảm thấy Tư Mã Khôi đúng là người đi nhiều hiểu rộng, chắc chắn sẽ tạo ra nhân tố ngẫu nhiên. Thắng Hương Lân cũng cảm thấy kỳ lạ: “Anh Khôi! Nhìn bộ dạng anh thất học vô nghề, từ trước đến giờ không nói được câu nào cho tử tế, mà sao lại biết nhiều vậy?” Hải ngọng nói: “Tất cả những gì cậu ta vừa nói đều nghe từ miệng bác Nông đấy. Nhưng nói gì thì nói, làm gì thì làm, bây giờ chúng ta cũng không thể kỳ vọng xảy ra nhân tố ngẫu nhiên gì được; muốn tìm chiếc điện thoại thạch từ đâu phải chuyện dễ dàng, chẳng lẽ nó lại rơi từ trên trời xuống chắc…” Anh vừa đi vừa nói, một chân giẫm lên vật gì lồi lồi, cảm giác không giống than đá. Hải ngọng liên ngồi xổm xuống lấy đèn quặng soi cho rõ, thì thấy đó là một chiếc hộp dài bẹt, được đặt thẳng đứng, bên trên bám đây bụi than đen bóng. Hải ngọng phủi lớp đất bụi phía ngoài thì thấy đó là một chiếc hộp nhôm, mặt hộp còn in dòng chữ bằng sơn trắng “Магнитыи (3) Телефон_______79013”, mặt cạnh cũng có một hàng chữ in chìm giống như biển hiệu Прифронтовыми (4) (3) Điện thoại từ tính (4) Tạm dịch là vùng giáp ranh Mẹ của Thắng Hương Lân biết tiếng Nga. Thời kỳ những năm năm mươi, cô cũng được học tiếng Nga ở trường, lại chịu ảnh hưởng từ môi trường gia đinh, nên Hương Lân khá thạo hai thứ tiếng Pháp và Nga. Thời kỳ Liên Trung còn thắm thiết, hội Tư Mã Khôi cũng được học một ít ở trường, nhưng trình độ còn thua xa Hương Lân, nên phát hiện lúc này phải nhờ cô phiên dịch. Thắng Hương Lân quan sát dòng chữ dưới ánh đèn quặng, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi: “Có lẽ đây chính là chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 đấy, ký tự in chìm có khả năng là số hiệu dự án quân sự”. Tư Mã Khôi cảm thấy bất ngờ vô cùng: “Cánh rừng than đá rộng lớn như thế, câu cốc, khe nứt nhiều vô số kể, chúng ta lòng vòng trong này đến chóng mặt, sao đột nhiên nó lại bị Hải ngọng phát hiện ra được nhỉ?” Hải ngọng nói với giọng cực kỳ bất bình: “Có lần đen đủi nào mà thiếu lượt tớ, uống ngụm nước lạnh còn bị giắt răng, chẳng lẽ nhân tố ngẫu nhiên thì không thể xuất hiện với tớ một lần hay sao? Tên lính đảo ngũ người Pháp và anh Do Thái bị áp giải trong trại tập trung của Đức quốc xã giỏi giang hơn Hải ngọng tớ ở điểm nào. Dựa vào cái gì mà dám nói tớ không thể gặp kì tích được?” Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy có cái gì đó không ổn lắm: “Nếu nói đó là nhân tố ngẫu nhiên chi bằng bảo đó là vận mệnh mà thần phật đã an bài cho cậu thì đúng hơn. Hải ngọng cậu được số phận định đoạt sẽ phải gặp cái máy điện thoại thạch từ Aφ53 này, bất kể xảy ra bao tình huống bất ngờ thì việc gì cần xảy ra nhất định sẽ xảy ra, nếu không thì bên trong chắc chắn có trò quỷ gì đó, chúng ta phải cẩn thận đề phòng chiếc điện thoại là cái bẫy mìn tên đặc vụ bố trí sẵn.” Hải ngọng nghe xong, liên tục lắc đầu: “Kiểu suy diễn này của cậu có vẻ hơi chủ nghĩa duy tâm quá thì phải, chẳng phải vận may của tôi nhuận hơn các đồng chí một chút sao?”. Rồi anh quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Hương Lân, cô thấy thằng Khôi nói năng có vớ vẩn không, lại còn tuyên truyền mê tín dị đoan nữa chứ. Cô có tin trên đời này tồn tại thần phật không?” Thắng Hương Lân vẫn đang chăm chú quan sát chiếc máy điện thoại thạch từ trong lớp than bụi, nghe câu hỏi không hợp thời điểm, bèn do dự một lát mới trả lời: “Tôi chỉ có thể nói, người Liên Xô không tin vào điều đó.” Cả đội đều thấy kết quả suy đoán thứ hai của Tư Khôi có vẻ đáng tin hơn, mọi người thận trọng phủi sạch bụi than, lấy ống nghe trong chiếc hộp ra, nhưng không thấy xảy ra điều gì bất thường. Cuộn dây đi ngầm dưới đất càng kéo càng dài, nhưng có một số khu vực bị tảng than sụt lở vùi lấp, không thể mò theo đường dây lần về phía trước, không rõ đường dây này nối đến nơi nào, hơn nữa dưới đáy điện thoại còn được cố định bởi ống thép dài cắm sâu xuyên qua tầng than. Mọi người không thấy có gì khác thường thì suy đoán chiếc điện thoại có lẽ không phải bẫy mìn, rồi nhớ lại: Trước lúc lâm chung, giáo sư đã dặn dò, chỉ cần thông máy là có thể trực tiếp xâm nhập kính viễn vọng Lopnor, nhưng bất luận đầu bên kia nói gì, cũng tuyệt đối không được tin. Bây giờ đã tìm thấy chiếc điện thoại, điều đó chứng minh tin tình báo giáo sư nắm được vô cùng chuẩn xác, nhưng việc sau thì thật sự khiến người ta rất khó hiểu. Kính viễn vọng Lopnor đã bị bỏ hoang phế nhiều năm, chắc chắn không thể xảy ra khả năng người sống vẫn còn ở lại dưới lòng đất, sau khi thông máy, bọn họ sẽ nói chuyện với ai? Người Liên Xô lắp đặt điện thoại thạch từ trong lớp vỏ than đá ở độ sâu hàng vạn mét dưới lòng nhằm ý nghĩa gì? Trừ khi nó được lắp đặt không phải để liên lạc với con người? Hải ngọng nói: “Mọi người đa nghi quá đấy, vì Hải tôi bẩm sinh đã không phải người bình thường, cho nên những nơi tôi có mặt mới xuất hiện đầy nhân tố ngẫu nhiên. Các cậu cũng không cần cảm thấy tâm lý mất thăng bằng vì việc này, mười đầu ngón tay giơ ra còn có ngón ngắn ngón dài nữa là, trong đám người cũng phải có người đứng bên trái, người đứng bên phải và người đứng giữa chứ. Còn cái máy điện thoại này, nó có thể bắt đươc tín hiệu đến đâu, thì cứ để tôi thử gọi một cú mới biết được, rốt cục thực tiễn mới là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý…”. Anh chàng vừa huyên thuyên bắn bọt dãi tứ tung, vừa lấy tay chộp điện thoại, quay mạnh cán cầm ở mặt bên, không ngờ do anh dùng sức quá mạnh nên cái cán gỗ – vốn đã mục nát, bị gãy làm đôi, lắp kiểu gì cũng không liền lại được. Hải ngọng lo lắng đến nỗi mồ hôi trên trán vã ra như tắm: “Gãy rồi à? Cái này… cái này đơn thuần chỉ là ngẫu nhiên…” Tư Mã Khôi và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng lạnh hết cả người: “Toi rồi! Máy điện thoại này phải quay cán để manheto phát điện, thiết bị đó chỉ cần hỏng một cái là rất khó sửa chữa”. Thắng Hương Lân soi đèn quặng quan sát kỹ ống thép dài dùng để cố định điện thoại, dường như cô hiểu ra điều gì đó, liền nói với ba người còn lại: “Tôi nghĩ chúng ta tìm thấy máy điện thoại thạch từ không phải nhân tố ngẫu nhiên đâu. Trong cánh rừng rậm than đá không chỉ có một chiếc Aφ53, mà ít ra phải có hàng trăm hàng ngàn chiếc.”
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi ba: Viễn thám tầng sâu


    Hải ngọng nghe nói dưới lòng đất còn có hàng ngàn chiếc điện thoại thạch từ, lòng cuối cùng cũng yên ổn hơn đôi chút. Anh giơ tay quệt mồ hôi lạnh đang chảy ròng ròng trên trán: “Ối mẹ ơi! May mà không phải nhân tố ngẫu nhiên. Khi nãy tôi cứ nghĩ mình đã phạm sai lầm khủng khiếp không thể cứu vãn nổi. Hối hận quá đi mất! Nếu làm hỏng cái máy điện thoại thạch từ duy nhất, thì Hải ngọng tôi đã trở thành tội nhân của lịch sử rồi còn gì.” Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng lúc trước có chút dương dương tự đắc, thì tạt luôn gáo nước lạnh cho cậu ta tỉnh hẳn: “Cậu đừng có tự trát vàng vào mặt nữa, chỉ có vĩ nhân mới phạm phải sai lầm to lớn thôi, còn Hải ngọng nhà cậu là cái thớ gì. Đúng là một trăm cân bột hấp được quả đào tiên, tớ chưa thấy cái món điểm tâm nào rởm đời mà to tổ bố như của cậu, lại còn ngông cuồng tự nhận là tội đồ của lịch sử nữa chứ? Sau này chúng ta phải khiêm tốn hơn một chút biết chưa hả?” – Nói đoạn anh quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Cô có thể khẳng định chắc chắn người Liên Xô đã lắp rất nhiều máy điện thoại thạch từ Aφ53 trong cánh rừng than đá không? Tôi nghe mà sao thấy giống họ vùi địa lôi quá vậy?” Thắng Hương Lân nói: “Chúng ta nên tìm kỹ ở khe nứt giữa các lớp vỏ than đá, rất có thể sẽ tìm thấy chiếc điện thoại thứ hai trong khu vực địa hình trũng lún sâu. Bây giờ tôi chỉ có thể phỏng đoán, đợi khi có kết quả rồi tôi sẽ giải thích cặn kẽ nguyên nhân cho các anh.” Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, dẫn ba người triển khai lục soát khu vực lân cận, quả nhiên cách đó không xa đã phát hiện thấy đường dây nằm trên bộ rễ của một cây đại thụ hóa than. Rồi lần theo đường dây, cả đội nhanh chóng tìm thấy chiếc điện thoại thứ hai nằm trong đống vụn than. Tư Mã Khôi thấy sự việc bắt đầu có manh mối, bèn khích lệ Thắng Hương Lân: “Về sau cứ cố gắng làm việc cho tốt nhé, tôi sẽ đề bạt cô.” Thắng Hương Lân nói: “Anh đừng có mạo nhận cán bộ lão thành cách mạng nữa đi, mau rung điện thoại xem nó có phản ứng gì không.” Lúc này đội trưởng Lưu Giang Hà không còn đợi được nữa, vội vàng chạy tới rung máy, nhưng không nhận được bất kỳ hồi âm nào từ ống nghe, anh chàng sợ mình chân tay lóng ngóng, bèn vội hỏi Tư Mã Khôi: “Hay là cái máy này cũng bị hỏng rồi hả anh?” Tư Mã Khôi lại gần kiểm tra nói: “Không phải đâu! Máy móc thiết bị do Liên Xô sản xuất đều rất bền, hoàn toàn dựa trên nền tảng quan điểm: phải thích hợp sử dụng sau chiến tranh hạt nhân, nên kết cấu đơn giản nhưng rất chắc chắn, phải đảm bảo hoạt động bình thường trong điều kiện môi trường khắc nghiệt nhất, nên không thể có chuyện liên tiếp hai cái điện thoại bị hỏng được; có khả năng đầu dây bên kia vẫn chưa thông, cũng có thể do đường dây bị người ta cố tình cắt đứt…” Thắng Hương Lân nói: “Anh đừng phân tích linh tinh nữa, phía đáy điện thoại có một ống thép hàn cắm sâu xuống lớp than, bởi vậy tôi mới cảm thấy chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 không phải dùng để liên lạc.” Tư Mã Khôi không hiểu: “Sự tồn tại của điện thoại thạch từ quân sự tiện dụng là để sĩ quan chỉ huy thiết lập liên lạc trực tiếp với tiền tuyến, nếu không thể nối máy thì còn dùng làm gì? Người Liên Xô chắc không đến nỗi ăn no rửng mỡ tiến hành diễn tập kéo dây trong lớp vỏ than dá ở độ sâu hàng vạn mét dưới lòng đất chứ hả?” Thắng Hương Lân nhắc nhở mọi người: “Các anh còn nhớ lúc anh Hải hỏi gã kỹ sư Điền Khắc Cường, từng nhắc đến một vấn đề: phân đội thăm dò vật lý làm công việc gì không? Thực ra thăm dò vật lý chính là phương pháp thăm dò khoáng vật bằng vật lý học. Phân đội khoan thăm dò Karamay vốn định đến để giúp chúng ta hành động, trong đó có một tiểu đội vật lý thăm dò, bao gồm các nhân viên kỹ thuật và kỹ sư. Lúc đó tôi cũng rất thắc mắc, kính viễn vọng Lopnor là công trình khoan thăm dò độ sâu, khoan đào huyệt động nguyên sinh bằng các loại thiết bị khoan hạng nặng. Từ đó thăm dò các vật chất không giống nhau trong kểt cấu địa tầng, trực tiếp lấy mẫu vật lõi đá. Nhiệm vụ này hoàn toàn không cần sự tham gia của các chuyên gia vật lý thăm dò, nhưng khi nhìn thấy đường dây điện thoại nối liền với cây thép dài cắm sâu dưới lớp than, thì tôi mới hiểu rốt cục là chuyện gì. Rất có khả năng vô số máy điện thoại thạch từ Aφ53 mà người Liên Xô lắp dưới lòng đất là một hệ thống thăm dò khoáng quặng vật lý với quy mô khổng lồ, nguyên lý sử dụng theo phương pháp viễn thám điện trường, hay còn gọi tắt là địa mạng, chắc chắn bọn họ muốn thám trắc những khu vực bí ẩn nằm sâu nhất trong cánh rừng rậm than đá.” Cách biệt về trình độ chẳng khác nào cách núi ngăn sông, hội ba người Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Lưu Giang Hà rốt cục đều là hạng quê mùa, chưa bao giờ nghe đen cái gọi là: “phương pháp viễn thám điện trường’, cũng không thể lý giải về nó. Chẳng lẽ sử dụng máy điện thoại thach từ cũng có thể tìm thấy mỏ quặng hay sao? Đã đến được đáy kính viễn vọng Lopnor, thì chỉ cần tiếp tục bới lớp vỏ than đá bên trên ra chẳng phải là tới nơi rồi ư? Bọn họ không hiểu vì sao người Liên Xô lại phải tốn công đi vòng vo như vậy? Thắng Hương Lân biết: nếu muốn làm rõ mọi ẩn sổ trong kính viễn vọng Lopnor, thì tất cả bốn thành viên của đội thám hiểm cần phối hợp chặt chẽ với nhau. Bây giờ cô phải nói cho mọi người để họ hiểu được đích xác họ đang đối mặt với tình huống gì. Thế là cô nhẫn nại giải thích cặn kẽ: “Công tác trắc họa thăm dò mà tôi đang làm, chủ yếu là vẽ lại bản đồ địa hình, đánh dấu các đường biểu thị độ sâu và độ cao khác nhau. Phần lớn các bản đồ đường đẳng sâu đều căn cứ vào số liệu hệ số phân cực mà phân đội thăm dò vật lý cung cấp làm vật tham chiếu, bởi thế tôi cũng hiểu sơ qua một số nguyên lý thăm dò vật lý. Nói một cách đơn giản, phương pháp điện từ trong vật lý thăm dò chính là chôn hộp từ và ống hàn thăm dò xuống lòng đất, sau đó nhân viên chạy phân cực sẽ cõng giá đỡ dây, nối liền ống hàn với dây điện thoại. Dòng điện sản sinh sau khi cán quay của máy điện thoại phát điện, sẽ truyền dẫn xuống lòng đất thông qua ống hàn, đồng thời sản sinh ra luồng sóng điện từ trong địa tầng. Phân đội thăm dò vật lý sẽ sử dụng các thiết bị đo đạc để giải mã các hệ số phân cực được phản xạ ra ngoài, rồi chuyển cho nhân viên trắc họa biến những số liệu ấy thành biểu đồ, từ đó mà suy đoán khung hình kết cấu địa chất và tình trạng phân bố mạch quặng và tầng quặng.” Hải ngọng và Lưu Giang Hà dỏng hai tai lên nghe, một hồi, sau vẫn ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, miệng há ra khô khốc, không hiểu được nửa lời. Tư Mã Khôi thì hiểu được mấy phần, tuy anh không biết gốc rễ nguyên lý, nhưng cũng biết những chiếc máy điện thoại thạch từ Aφ53, tương đương với tầng địa mạng dày đặc được bố trí dưới lóp vỏ than đá, có thể thông qua nó thám trắc từ xa mọi tình hình chi tiết xảy ra trong vực sâu dưới lòng đất. Thắng Hương Lân thấy chỉ có đầu óc Tư Mã Khôi là có vẻ còn khai thông được, bèn nói: “Tôi lấy thêm một ví dụ rất trực quan, nếu nói điện thoại thạch từ Aφ53 và đường dây của nó là vô số sợi thần kinh cảm ứng, thì phần đáy huyệt động của kính viễn vọng Lopnor chính là trung khu đại não. Mạng lưới thần kinh lấy đó làm trung tâm và phân bố xung quanh theo hình phóng xạ, những số liệu lấy được từ hệ thống thăm dò khoáng quặng từ xa đều đưa trở lại kính viễn vọng Lopnor để tăng hiệu ứng tín hiệu; ở đó có khả năng đã được lắp đặt sẵn một số thiết bị, thậm chí có thể còn tồn tại một cỗ máy phát điện công suất lớn cung cấp điện xuống lòng đất.” Hải ngọng bấy giờ mới hiểu ra: “Cô nói thế thì tôi hiểu rồi, chúng ta chỉ cần mò theo đường dây tiếp tục đi về phía trước thì sẽ tìm thấy một huyệt động nằm sâu hơn chục ngàn mét, cũng chính là kính viễn vọng Lopnor, chứ không cần quay máy điện thoại. Thực ra, cho dù chúng ta có nối thông máy thì cũng không có ai nghe, nhưng mấy lời dặn dò lúc trước của ông bác già có ý nghĩa gì nhỉ?” Thắng Hương Lân đáp: “Tôi nghĩ giáo sư không vô duyên vô cớ nói như vậy, có lẽ trong kính viễn vọng Lopnor quả thực tồn tại một chiếc máy có thể bắt được liên lạc.” Tư Mã Khôi nói: “Động đạo người Liên Xô khai quật, sau khi đào sâu đến đây thì ngừng lại, rồi chuyển sang sử dụng phương pháp viễn thám gì gì đó để thám trắc. Điều này chắc chắn vì họ phát hiện thấy khu vực bí ẩn dưới lớp vỏ than vô cùng nguy hiểm, nên không dám trực tiếp thâm nhập nữa. Bởi thế mà tôi đoán: phía dưới chính là cực vực, chúng ta cách chân tướng sự thật không còn bao xa nữa đâu, đừng lo lắng quá, trước tiên phải tìm kính viễn vọng Lopnor, sau đó sẽ bàn tính tiếp”. Mọi người lập tức đeo ba lô và vác súng, mò mẫm theo đường đây điện thoại lắp đặt gần đó tiến về phía trước. Cánh rừng rậm than đá rộng hàng ngàn mét ẩn mình dưới lòng sa mạc, được hình thành từ xác các loài thực vật rậm rạp chìm lún xuống lòng đất từ thời kỳ viễn cổ, do lớp vỏ thực vật sinh trưởng phủ kín cả vùng sơn địa nhấp nhô. Chính vì vậy sau khi chìm lún xuống lòng đất nó cũng phân bố theo hình lượn sóng, về cơ bản vẫn giữ nguyên diện mạo ban đầu, chỉ có điều toàn bộ tàn tích đều hóa thành mạch quặng than đá đen bóng. Các khe nứt và câu cốc trong lòng rừng rậm than đá lại cấu thành mạng lưới huyệt động, có địa hình hiểm trở khó lường. Giữa những khu vực sụt lún cũng không thể tìm thấy đường dây, nhưng chính những chỗ đó lại vùi lấp rất nhiều điện thoại thạch từ. Sau khi liên tiếp tìm thấy mấy cái, cả đội gần như đã nắm bắt được hướng chạy tổng thể và quy luật phân bố của đường dây. Bây giờ có vật tham chiếu cụ thể dẫn đường, cả đội không còn lớ ngớ đi lung tung như lúc đầu nữa.” Đường dây điện thoại nhiều nhất chỉ có thể kéo dài hai mươi ngàn mét tuyến tính (1), giữa lớp than cố thụ với kết cấu phức tạp này, lần mò tìm kiếm cũng không phải chỉ trong chốc lát là xong. Họ đang tiến hành được nửa chừng, bỗng nhiên mặt đất bắt đầu rung chuyển, chấn đông, khiến lớp vụn than đổ xuống rào rào, kèm theo đó là luồng gió lạnh âm u, chỉ nghe bên tai vọng lại chuỗi âm thanh ù ù phát ra từ nơi sâu dưới lớp vỏ than đá, dường như một loài sinh vật nào đó đang nằm rình mồi dưới vực sâu trong bóng tối đang di chuyển. (1) Mét tuyến tính: là một đơn vị thống kê biểu thị công trình lượng, thường dùng cho các công trình bất quy tắc công trình đường ống, đường bờ biển hay đào cống. Mọi người nghe mà căng cả da đầu, lập tức dừng bước quỳ hẳn xuống. Hải ngọng kêu khổ: “Hình như động đất thì phải! Con bà nó, sao vận rủi nào lúc nào cũng bám theo tụi mình thế nhỉ, nhân tố ngẫu nhiên gần đây xảy ra nhiều quá rồi đấy!” Tư Mã Khôi đưa tay sờ chiếc đồng hồ vàng mà Triệu Lão Biệt để lại, lúc trước anh đã điều chỉnh thời gian trùng với thời gian trên chiếc đồng hồ của giáo sư Nông địa cầu. Lúc này nhìn giờ, anh không ngờ nó lại hoàn toàn giống với thời gian lúc mọi người gặp vật chất hắc ám trong hang động đá vôi. Bây giờ, anh cũng không hiểu lớp tro bụi mà đại kiếp giữa thiên địa tàn lưu lại rốt cục là thứ gì, trong lòng chợt dấy lên cảm giác sợ hãi lạ lùng. Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Đám bụi dày đặc giống như màn sương đen, có khả năng là hiện tượng đặc thù nảy sinh do tác dụng của địa áp. Nó có tính chu kỳ nhất định, thời gian ngắt quãng khoảng 48 giờ. Nếu giáo sư vẫn còn sống, bác ấy chắc chắn sẽ giải thích được nguyên nhân ẩn chứa bên trong. Có điều, dòng đối lưu nhiệt gia tăng hoạt động liên tục, tồn tại xung quanh rừng rậm than đá, chắc không thể ảnh hưởng đến đây được đâu. Anh cũng không cần quá lo lắng về điều này.” Tư Mã Khôi hỏi: “Cô có nhớ tai nạn hàng không xảy ra năm 1963 với chiếc Ilyushin-12 không? Khi đó, kim đồng hồ của toàn bộ hành khách ngồi trên máy bay đều vĩnh viễn dừng lại ở một điểm, bây giờ cô thử nhìn xem đồng hồ của cô chỉ mấy giờ?” Thắng Hương Lân nhìn kim đồng hồ, cô cảm thấy tim đập thình thịch: “12 giờ 30 phút!” Tư Mã Khôi nói tiếp: “Sự cố hàng không năm 1963, mà khoa học không thể giải thích, và đám bụi màu đen xuất hiện trong hang động đá vôi, rất có khả năng đều liên quan đến thứ tồn tại trong cực vực dưới lòng đất. Điều tương đối may mắn bây giờ là thời gian vẫn chưa ngừng lại, điều đó chứng tỏ khu vực chúng ta đang đứng tạm thời vẫn coi là an toàn.” Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà tò mò hỏi: “Ngộ nhỡ thời gian ngừng lại không chuyển động nữa, chuyện gì sẽ xảy đến với cơ thể chúng ta?” Tư Mã Khôi lắc đầu: “Điều đó thì tôi không biết. Tôi cũng hy vọng chúng ta vĩnh viễn không cấn biết đến nó, bởi vì lúc đầu tôi cũng từng hỏi giáo sư Nông về việc này. Câu trả lời của ông cũng là vậy. Ông còn nói chiếc máy bay xảy ra sự cố ở Kumtag vào năm 1963, may mà nhờ có dòng nhiễu loạn trời trong đẩy nó ra khỏi đường bay, và viên phi công Đinh Đắc Căn bình tĩnh cho máy bay đáp xuống thành công, nếu không thì chiếc Ilyushin-12 đã vĩnh viễn biến mất”.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi bốn: Trạm thám trắc trung tâm


    Thời gian đại khái có thể chia ra thành ba bộ phận: “quá khứ” vĩnh viễn im lìm, “tương lai” xa vời mờ mịt, “hiện tại” vùn vụt tên bay. Lí giải của Tư Mã Khôi về thời gian cơ bản khá tương đồng với quan điểm này. Đội trưởng Lưu Giang Hà lại không có chút khái niệm nào về vấn đề đó, nhưng vẫn cố chấp gạn hỏi: “Vì sao chiếc máy bay vận tải không quân lại vĩnh viễn biên mất trên bầu trời? Nó biến đi đâu vậy?” Tư Mã Khôi không thể giải thích, mà chỉ dựa vào kinh nghiệm từng trải của mình căn dặn Lưu Giang Ha. “Lòng hiếu kỳ quá mãnh liệt đối với những sự vật mới lạ không có lợi cho sức khỏe tâm sinh lý đâu, bởi sớm muộn gì nó cũng sẽ kéo chú em vào vòng hiểm nguy không lối thoát đấy.” Lúc này Thắng Hương Lân nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Đia chấn và sụt lở sẽ khiến những vật chất thể khí có hại đang bị niêm phong kín trong lớp than, được phóng thích ra ngoài, dừng chân ở đây lâu không an toàn đâu.” Tư Mã Khôi sao lại không rõ tình cảnh trước mắt, anh bèn bảo ba người còn lại: “Vũ khí trong tay lúc nào cũng phải trong trạng thái sẵn sàng nhả đạn, đề phòng kẻ theo dõi mà Nấm mồ xanh phái đến.” – Nói xong, anh lấy khăn bông bịt chặt mũi, xuyên qua bụi than đang không ngừng sụt rơi tiếp tục tiến sâu về phía trước. Cả hội mò mẫm đi trong cánh rừng rậm than đá khá lâu, bốn phía xung quanh dần yên ắng trở lại, đường dây điện thoại càng lúc càng dày đặc, có lẽ khoảng cách đến động đạo dưới lòng đất không còn bao xa nữa. Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà đang đi đằng trước, bỗng nhiên giẫm phải vạt than vụn, trước mặt anh chàng là sườn dốc của một hố than lớn nằm nghiêng. Lúc đó, không gian tối như hũ nút, Lưu Giang Hà không hề phát hiện thấy nguy hiểm, khiến cả thân người mất trọng tâm ngã lăn xuống; may mà Tư Mã Khôi nhanh tay nhanh mắt, vội vàng tóm lấy, rồi soi đèn quặng nhìn xuống: phía dưới đen ngòm không trông thấy đáy, nhưng mọi đường dây thoại Aφ53 vươn dài từ tứ phía đều dòng xuống đó. Mọi người tìm thấy một sườn dốc tương đối thoai thoải đi xuống hố than, phát hiện xung quanh có dấu tích phá nổ còn sót lại. Có lẽ lúc đầu người ta sử dụng phương thức tác nghiệp bom mìn để phá vỡ, tạo ra một hố sâu khổng lồ ngay trong lòng cánh rừng than đá, đáy hố được lấp đầy bằng bức tường xi măng dày chắc, bằng phẳng, hai mặt và nơi cao đều xa tít hút. Mọi người lên trước lấy tay sờ sờ bề mặt bức tường thô ráp, thấy kết cấu của nó tuy đơn giản nhưng rất kiên cố và bền chắc. Đặc biệt trong không gian bí bách ngột ngạt của cánh rừng than đá, nó càng khiến người ta cảm nhận được sự lạnh lùng thần bí đến rùng rợn một cách đầy đủ, toàn vẹn và sự cơ giới hóa chính xác đến từng centimet. Tư Mã Khôi kinh ngạc nói: “Thứ này chính là kính viễn vọng Lopnor à? Sao tôi cảm thấy nó giống một căn phòng hay giao thông hào được làm bằng bê tông cốt thép, hoặc hầm phòng không dưới lòng đất thế nhỉ? Hải ngọng cũng rất rầu rĩ: “Nếu nói là căn phòng, thì nó phải có cửa chính và cửa sổ mới đúng. Cái thứ chết tiệt này bí quá, cả kết cấu của nó giống như một cái hộp xi măng khổng lồ và kín bưng vậy!” Thắng Hương Lân soi đèn quặng lục soát tỉ mỉ mọi dấu tích trên bức tường, cô phát hiện thấy trên đó tồn tại những khe nối giữa các tấm bê tông, bèn bảo Tư Mã Khôi: “Đây là một trạm thám trắc trung tâm, nó to hơn tôi tưởng tượng rất nhiều. Dường như nó hoàn toàn được lắp ráp từ các tấm bê tông, mọi đường dây điện thoại thạch từ đều nối tới công trình kiến trúc này, bên trong có lẽ lắp đặt thiết bị trắc họa và máy phát điện công suất cao.” Hải ngọng đoán bừa: “Thằng cha này to lớn chắc chắn gớm, chống hạt nhân và hóa học chỉ là chuyện nhỏ, chẳng lẽ bọn khỉ lông dài Liên Xô định làm thí nghiệm nổ hạt nhân dưới lòng đất chắc?” Tư Mã Khôi nói: “Làm gì có chuyện đó! Lãnh thổ Liên Xô rộng mênh mông bát ngát, đồng hoang, đất đóng băng không có người ở, nhiều vô số kể. Muốn làm thí nghiệm thì tìm chỗ nào chẳng được, việc gì phải ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng tới đây cho vừa phí sức lực vừa không đảm bảo bí mật. Tôi cảm thấy có lẽ việc này liên quan đến kế hoạch khoan thăm dò độ sâu của bọn họ. Người Liên Xô muốn tìm vật gì đó ở đây thì phải.” Hải ngọng cũng hơi đồng cảm: “Năm đó, khi ông già tớ ở Quan Ngoại cũng biết không ít về mấy trò của bọn người Nhật và Liên Xô. Đa số bà con ở Đông Bắc đều biết, bọn mũi tẹt chiếm ba tỉnh phía đông, cái sự tỉ mỉ của bọn đấy thì đúng là thôi rồi; khai hoang khai hóa, xây dựng bao nhiêu công trình lớn lớn nhỏ nhỏ như thể bọn chúng muốn dọn nhà đến sống ở đây vậy, mà đã đến là không thằng nào muốn về. Còn hơn 160 vạn Hồng quân Liên Xô lông lá xồm xoàm, sau khi tiêu diệt hết quân Quan Đông, thì đừng nói các thiết bị công nghiệp ở Mãn Châu mà ngay cả đường sắt, cột điện bọn mũi tẹt xây dựng cũng tháo ra mang đi sạch. Bọn này không dự đinh ở lâu, cướp xong là rút. Mấy năm trước, người anh cả Liên Xô sang trợ giúp Trung Quốc là có mục đích hẳn hoi, người xưa nói quá chuẩn: đệ tử giỏi thì sư phụ đói. Tớ thấy câu này mà áp dụng cho mối quan hệ quốc tế thì đúng là đo ni đóng giày, bởi thế chỗ này cũng vậy, chắc chắn bọn chúng phải giở trò gì đây.” Tư Mã Khôi gật đầu, rồi hỏi Thắng Hương Lân: “Cô xuất thân từ tầng lớp khoa học, cô cảm thấy bên trong cái trạm này có thứ gì? Cô thử phân tích cho mọi người nghe, để mọi người còn có tâm lý chuẩn bị trước.” Thắng Hương Lân nói: “Tôi vẫn chưa đoán ra được kết cấu bên trong, nhưng lợi dụng đường dây điện thoại thạch từ Aφ53 để thám trắc lòng đất, đều phải do nhân viên nối dây chạy phân cực gọi điện thoại về trạm thám trắc trung tâm, từ đó lấy các số liệu phản hồi của hệ số phân cực và biết được tình hình không gian nơi sâu hơn dưới rừng rậm than đá. Đội khảo sát liên hợp Liên Trung chắc chắn sau khi có được bản đồ trắc họa cực vực, mới bắt đầu triển khai hành động từ đây. Bởi thế, lối vào cực vực, và các loại mẫu vật lõi đá cùng trang thiết bị có lẽ vẫn còn ở bên trong. Ngoài ra, có một việc rất đáng chú ý đoàn chuyên gia Liên Xô rút lui khỏi lòng đất, đều an toàn trở về quê hương, và không người nào bị chết vì hội chứng địa áp cả, nên rất có khả năng bên trong trạm thám trắc trung tâm có lắp đặt khoang giảm áp”. Tư Mã Khôi lập tức bố trí công việc căn cứ theo tình hình Thắng Hương Lân suy đoán: “Những thiết bị này sợ rằng đều cần dùng đến điện mới có thể vận hành được. Bởi vậy, sau khi chúng ta thâm nhập vào trong, trước tiên sẽ thăm dò kết cấu nội bộ, kế đến phải tìm được máy phát điện, nghĩ cách khôi phục để nó cung cấp điện cho hệ thống dưới lòng đất, đồng thời lục soát triệt để từng ngóc ngách, chụp ảnh tài liệu. Nhưng có một điểm mà mọi người phải ghi nhớ cho tôi: không ai được phép tự tiện sờ vào máy điện thoại thạch từ Aφ53 đặt ở trạm thám trắc trung tâm.” Mọi người gật đầu tán thành, rồi lần lượt phủi mông xoa tay đứng dậy, thay pin và cacbua cho các thiết bị chiếu sáng. Tư Mã Khôi đi thám thính lối vào. Đầu tiên, anh sờ chỗ góc rìa tường xi măng, rồi bò ngược lên trên. Nhờ thân thủ nhanh như gió, trong phút chốc anh đã bò lên tới đỉnh cao cách đó hai mươi mét, nhưng ánh sáng của đèn quặng không thể soi hết toàn bộ diện mạo trạm thám trắc trung tâm. Tư Mã Khôi mò mẫm xung quanh một vòng, cảm thấy quy mô thể tích của nó quả không nhỏ chút nào, anh dự tính phần nội bộ lộ ra ngoài, chí ít phải có hai tầng, dưới hố than có lẽ phải còn một tầng ngầm nữa. Tứ phía đều có lỗ thông gió để thoát khí, người thường thì không thể nào chui vào bằng đường đó. Phía đông có một cánh cửa thủy lực đóng kín, được bọc bằng lớp vỏ sắt, rất khó mở ra từ bên ngoài. Anh lại thấy phần đỉnh xi măng của trạm thám trắc có hộp cầu giao hình cầu, hai bên có hố sâu như lòng giếng cỡ lớn để kéo thang hàng. Bên trên hố xi măng khổng lồ, căn bản không nhìn thấy đáy, là động đá có đường kính gần trăm mét. Nó treo chênh vênh ngay trên đỉnh đầu, yên ắng im lìm giống như hắc động; có lẽ đó chính là động đạo chính của kính viễn vọng Lopnor. Nó không dựng đứng một cách tuyệt đối, mà nằm chênh chếch từ khu hồ cạn Lopnor, chạy theo hướng nam kéo dài đến đây. Hàng loạt dầm hộp rỗng bằng xi măng và các loại máy móc thiết bị trước đây, đều được vận chuyển từ lớp vỏ than đá cách bề mặt Trái Đất hàng vạn mét xuống dưới này, thông qua con đường đó. Nhưng khi đoàn chuyên gia Liên Xô rút lui, họ đã phá hủy kết cấu nội bộ của động đạo, bây giờ hội Tư Mã Khôi không thể trở lên mặt đất bằng con đường ấy nữa. Trước tiên, Tư Mã Khôi dùng đèn quặng phát tín hiệu, rồi thả dây thừng xuống, kéo ba người còn lại leo lên đỉnh vách tường, hợp lực kéo cửa thủy lực. Sau đó, anh buộc dây thừng vào đèn cacbua và thả nó vào trong thám trắc chất lượng không khí. Không gian nhỏ hẹp bên trong của kết cấu dầm hộp rỗng ngột ngạt, đen tối khác thường, đúng là một chiếc quan tài bằng xi măng khổng lồ. Đội trưởng Lưu Giang Hà không thể thích ứng với môi trường huyệt động dưới lòng đất, nhìn thấy kiến trúc đóng kín được đúc bằng bê tông cốt thép, anh chàng càng căng thẳng đến ngộp thở, hai hàm răng va lập cập vào nhau. Hải ngọng lại còn thêm mắm thêm muối dọa nạt: “Tôi thấy rất có khả năng người Liên Xô đào được con yêu quái gì đó dưới lòng đất, bọn chồn tinh chuyên môn cắn vịt ốm, người nào tâm lý không vững vàng thì dễ bị ma nhập lắm đấy. Các cậu ai không dám xuống thì nhân lúc này nên xung phong ở lại canh chừng cho cả đội, đừng để đặc vụ địch chặn đường rút lui của chúng ta.” Đội trưởng Lưu Giang Hà càng không dám hành động một mình, cuống quýt nói: “Tôi chỉ hơi hoảng khi ở nơi vừa bí vừa hẹp thôi, các anh tuyệt đối không được bỏ tôi lại một mình. Tôi nhất định sẽ cố gắng khắc phục tâm lý ngại khó đó.” Thắng Hương Lân sờ túi lấy ra một viên kẹo, cô đưa cho Lưu Giang Hà, nói: “Phản ứng của anh không phải tâm lý ngại khó, mà do không gian khép kín, tối đen khiến thông tin thị giác bị thu hẹp trên phạm vi rộng, dễ tạo thành phụ tải nặng nề cho tâm lý, làm người ta khó tránh khỏi cảm giác căng thẳng lo âu. Ăn kẹo sẽ có tác dụng làm dịu trạng thái tinh thần căng thẳng. Anh cũng đừng nghe anh Hải dọa, trong cánh rừng rậm than đá này ngay một con dơi hay kiến trắng còn không có, thì lấy đâu ra yêu quái chứ.” Hải ngọng đứng bên cạnh đỏ mắt thèm thuồng, lại còn dày mặt hỏi: “Đây không phải con thỏ trắng to kềnh thì là gì? Hương Lân! Hàng trong kho của cô còn nhiều quá nhỉ. Loại kẹo này lần gần đây nhất tôi được ăn là trước khi đi Miến Điện. Đến tận bây giờ, tôi vẫn còn mơ tưởng đến vị ngọt làm tan chảy cả trái tim của nó. Nó không chỉ có tác dụng làm dịu căng thẳng thần kinh, mà còn mang lại sự an ủi lớn lao cho những linh hồn cô đơn lạnh lẽo nữa đấy.” Thắng Hương Lân đành phải đưa mấy viên kẹo cuối cùng cho Hải ngọng và Tư Mã Khôi. Mọi người yên lặng chờ đợi một hồi, thấy ngọn lửa đèn cacbua vẫn sáng trắng, thì biết bên trong trạm thám trắc trung tâm thông gió, bèn lục tục trèo xuống bằng thang sắt, soi đèn quặng tứ phía xung quanh, thấy mình đang ở trong một gian phòng xi măng bên trong dầm hộp rỗng, rộng tầm 20 m2, trong bóng tối trông nó thật trống trải. Vị trí mọi người đang đứng chính là lối thoát hiểm khẩn cấp, nên không có bất kỳ thứ gì khác thừa ra. Vì máy phát điện công suất lớn, cung cấp điện cho hệ thống dưới lòng đất, chắc hẳn phải được lắp ở tầng thượng tòa kiến trúc, cho nên cả hội không vội vàng trèo xuống dưới mà sang phòng bên cạnh triển khai lục soát. Đoàn chuyên gia Liên xô rút chạy vô cùng vội vã, các thứ trong trạm thám trắc về cơ bản vẫn duy trì nguyên dạng, không hề bị hư hại hay dịch chuyển. Gian bên cạnh lắp đặt một số thiết bị thăm dò, trên tường còn để lại bản đồ cơ cấu nội bộ của trạm thám trắc trung tâm, mọi thiết bị và vị trí lắp đặt đều được thể hiện hết sức rõ ràng. Thắng Hương Lân lấy tấm bản đồ, chỉ vào mấy khu vực vẽ trên đó rồi nói với mọi người: “Trạm thám trắc trung tâm giấu dưới lòng đất, chính là ống kính của kính viễn vọng Lopnor. Thông qua nó, người ta có thể trực tiếp quan sát tình hình diễn ra bên trong cực vực. Chỗ này tất cả chia ra làm ba tầng. Tầng trên phía tây có kho chứa đồ, phía đông lắp đặt máy phát điện công suất cao, cấu hình Desire, phía bắc có các loại thiết bị máy móc sử dụng cho công tác thăm dò vật lý, phía nam là khoang giảm áp, tầng trệt nhất có lẽ chính là động đạo nối liền với cực vực, hai bên đều có hồ chứa nước rất sâu, khả năng được dùng để cung cấp nước và làm nguội mũi khoan…” Tư Mã Khôi đón lấy bản đồ xem đi xem lại, anh thấy một vài chỗ không rõ lắm, bèn hỏi Thắng Hương Mn: “Khu tầng giữa của trạm thám trắc dưới lòng đất có gì thế?” Thắng Hương Lân nói: “Toàn bộ đường dây và máy điện thoại thạch từ Aφ53 của thám điểm đều được nối từ tầng giữa lên đến tầng thượng, nhưng phía bên trái của tầng giữa có một gian phòng rất kỳ quái, được xây kép bởi hai bức tường xi măng dày gần một mét, vòng tường thứ hai có lẽ được xây tạm thời để gia cố cho vững chãi hơn, nên ngay cả lỗ thông gió cũng không có. Các anh xem các dấu mốc trên bản đồ, trong gian mật thất đó lắp đặt một chiếc máy điện thoại thạch từ, không biết là công trình gì, cũng không thấy giáo sư nhắc chuyện gì có liên quan đến nó.” Hải ngọng nói: “Bức tường xi măng gia cố dày như thế, lại còn xây kép hai lớp, chắc chắn là vì mục đích an toàn rồi, hay là người Liên Xô quả thực đã đào được con quái vật nào đó dưới lòng đất rồi sợ nó chạy trốn khỏi đây nhỉ?” Tư Mã Khôi lờ mờ cảm thấy đôi chút bất an, tuy bản thân đang ở trong ống kính của kính viễn vọng Lopnor, nhưng tất cả ẩn số vẫn rất khó suy đoán. Cánh rừng rậm than đá sâu hàng vạn mét dưới lòng đất mà lại tồn tại dưỡng khí, đã là điều khiến người ta cảm thấy không thể lý giải, bây giờ lại không ai có thể tưởng tượng được người Liên Xô đã phát hiện thấy thứ gì trong cực vực. Đúng như cố thủ tướng Anh Churchill từng nói: “Không ai có thể dự đoán chuyện của người Nga, bởi vì bản thân họ vốn đã là một ẩn số trong các ẩn số”.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi năm: Liên lạc với ma


    Diện tích lãnh thổ Liên Xô rất rộng lớn, nhưng nó lại xa rời ba hệ thống kinh tế văn hóa chủ chốt của thế giới; bởi vậy trong con mắt người đời, nước Nga để lại chút ấn tượng lạnh lùng và xa vời. Hội Tư Mã Khôi đi vào bên trong trạm thám trắc trung tâm với kết cấu phức tạp, càng cảm thấy chỉ có bốn chữ: “thần bí khôn lường” mới đủ sức hình dung về nó. Anh cũng biết bí mật nơi sâu dưới lòng đất mà người Liên Xô muốn thăm dò thông qua kính viễn vọng Lopnor, chính là điểm then chốt giải đáp toàn bộ ẩn số của Nấm mồ xanh, càng tiến gần đến chân tướng sự thật thì càng nguy hiểm. Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Cậu đừng suy nghĩ phức tạp thế, chúng ta đâu phải chưa trải qua giai đoạn hữu hảo Trung Quốc – Liên Xô. Thời kỳ đó, đâu đâu cũng học theo Liên Xô, ví dụ như các thể loại ca nhạc, điện ảnh, tác phẩm văn học Nga, tất cả những thứ đó chúng ta đều tiếp xúc không ít. Ông già nhà tớ còn ôm eo mấy em Nga nhảy tăng gô tít mù nữa cơ, nói tiếng Nga cũng xì xà xì xồ loạn cả lên…” Tư Mã Khôi nói: “Cậu đừng nhắc đến lịch sử sa đà, hủ bại đầy vinh quang của ông già cậu nữa. Trước tiên chúng ta hãy lục soát xem trong căn phòng này còn thiết bị máy móc nào có thể sử dụng được nữa không.” – Nói xong, anh dẫn mọi người kiểm tra bốn phía xung quanh, phát hiện tất cả máy móc thiết bị thăm dò đều phủ một lớp bụi dày, bản đồ bảng biểu để lộn xộn trên mặt đất, chất cao hơn cả đầu người. Thắng Hương Lân tìm được vài tấm bản đồ trắc họa quan trọng từ trong chồng giấy đó, nên cô đã chụp ảnh lại. Ba người còn lại nhìn mớ giấy tờ như nhìn bức vách, bọn họ cũng không thể phân biệt được tấm biểu đồ nào mới có giá trị, vì hàng loạt số liệu hệ số phân cực và các đường đẳng sâu khoanh tròn chi chít nên trông cái nào cũng nhang nhác cái nào, đúng là còn khó hiểu hơn cả thiên thư. Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Từ mấy cái biểu đồ nhằng nhịt quái quỷ này, cô có biết người Liên Xô đã phát hiện thấy thứ gì dưới lòng đất không?” Thắng Hương Lân đáp: “Chỗ này phần lớn là các số liệu phân cực nguyên thủy, phải chụp ảnh mang về, sau đó dùng thiết bị chuyên dụng tiến hành phân tích mới cho ra kết quả được.” Tư Mã Khôi cũng mang máng hiểu, bèn nói: “Xem ra ở đây không có thiết bị nào còn sử dụng bình thường được. Cho dù chúng ta đang ở trong lòng kính viễn vọng Lopnor, nhưng hai mắt mở to mà chẳng khác nào mù lòa. Mặc kệ đám giấy lộn đó đi, chúng ta phải tìm những manh mối trực quan trước đã!” – Anh vừa dứt lời là lập tức xách đèn quặng soi dọc đường đi, dẫn mọi người vào hành lang, từ bức tường xi măng dày nặng ngoặt sang đã là phòng chứa đồ được đánh dấu trên bản đồ. Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà đi trước đẩy cửa sắt, nhìn thấy bên trong chất đầy mấy chục cái thùng gỗ. Trong rừng rậm than đá khô hanh, âm lạnh, không tồn tại sinh vật dưới lòng đất, nên không cần đề phòng chuột bọ gặm nhấm, bởi vậy không ngửi thấy chất chống ẩm thường thấy ở các nhà kho. Thể tích thùng gỗ to như cái tủ kệ thường đặt trên giường đất(1) ở vùng nông thôn, mặt bên cạnh cũng in mấy ký hiệu bằng tiếng Nga “Вокруг Пролетарии всех стран, Соединяйтесь” (1)Giường đất: là loại giường phổ biến ở Đông Bắc, Trung Quốc, được xây bằng đất sét hoặc gạch, phía dưới rỗng để đặt lò than, bề mặt có lỗ để dẫn khí ấm lên sưởi ấm trong ngày lạnh. Hải ngọng khi nãy còn tự xưng mình rất thông thạo văn học Nga, vừa nhìn thấy dòng chữ này đã lác mắt, để riêng rẽ từng từ thì còn hiểu được một nửa, nhưng liên kết chúng lại với nhau thì chịu hẳn, có điều nhìn các ký hiệu trên thùng gỗ đều giống nhau thì có thể đoán định thứ đựng bên trong các thùng gỗ hoàn toàn là một loại. Thắng Hương Lân nói: “Đây là câu tiếng Nga rất thông dụng, nó có nghĩa là: ‘Giai cấp vô sản toàn thế giới hãy đoàn kết lại!’ – phần trên cùng là kí tự viết tắt của kính viễn vọng, đánh dấu các số hiệu khác nhau, khả năng bên trong là đồ dùng đặc biệt chuyên cung cấp cho kế hoạch thăm dò kính viễn vọng Lopnor sử dụng.” Hải ngọng hơi nghi ngờ, còn lên trước mở một thùng gỗ ra xem, bên trong quả nhiên đều là máy thở chống hóa chất kiểu mang cá mập, có lẽ là thiết bị phía Liên Xô cung cấp cho đội khảo sát liên hợp dùng để ứng phó với môi trường khắc nghiệt dưới lòng đất. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Nếu thứ này có tác dụng thật thì cả đội khảo sát liên hợp Xô Trung đã không mất tích toàn bộ khi đi từ trạm thám trắc xuống cực vực”. Nhưng phòng còn hơn không, thế là anh bảo mọi người hãy nhét một cái vào ba lô. Vì họ từng học qua các lớp huấn luyện “ba phòng”(2), nên việc sử dụng các loại thiết bị này thành thạo khỏi phải bàn. (2) “Ba phòng”: tức phòng chống phóng xạ hạt nhân, chất độc hóa hoc và vũ khí sinh hoc. Hải ngọng liên tiếp cậy nắp mấy thùng gỗ, ngoại trừ số ít dược phẩm hóa học ra, còn phần lớn đều là đồ hộp và lương khô ép chuyên dùng cho hành quân sa mạc và cả hai thùng rượu Vodka còn nguyên đai nguyên kiện, thậm chí có cả sôcôla sữa màu nâu và thuốc lá đầu lọc ABPOPA. Tư Mã Khôi thầm nói: “Phen này thì phát tài thật rồi”, anh bảo mọi người nghỉ tại chỗ mười lăm phút để ăn uống nghỉ ngơi, sau đó phân phát lương khô, đồ ăn và nước uống cho mọi người nhét vào ba lô, cố gắng lấy càng nhiều càng tốt. Tư Mã Khôi thấy đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà còn vác theo cái máy điện đàm hỏng thì bảo: “Cậu quẳng ngay cái của nợ đó đi cho khỏi nặng người, tìm một túi vải đệm cỏ dùng để đựng mẫu vật lõi đá trong phòng chứa đồ, rồi nhét đầy đồ ăn vào đó mà vác. Đội chúng ta tiếp tục đi vào sâu hơn, thì hi vọng liên lạc với hậu phương thông qua sóng điện từ là vô cùng mờ mịt, nên thà vác thêm một số lương khô còn hơn phải vác cái của nợ đó. Vào thời khắc then chốt, chúng ta còn phải nhờ vào nó để duy trì tính mạng nữa đấy.” Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà vẫn không yên tâm: “Nhiệm vụ của tôi là phụ trách thông tin điện đàm không dây, nếu vứt máy đi thì tôi còn biết làm gì?” – Nhưng anh chàng cũng biết lời Tư Mã Khôi nói là thật, nên đành y lệnh hành sự. Tư Mã Khôi nhai một miếng lương khô, cảm thấy trong trạm thám trắc trung tâm này lạnh lẽo thấu xương, bèn cùng Hải ngọng mỗi người mở một chai Vodka ra uống. Hai người chạm cốc rồi nói một câu cửa miệng bắt buộc, mà bộ phim Liên Xô nào cũng nói mỗi khi uống rượu mạnh: “Za – zdarovina”, ý là “chúc sức khỏe” sau đó ngửa cổ lên nuốt ừng ực hai hơi, chỉ thấy một luồng cay nóng xộc vào tận tim phổi. Hải ngọng tấm tắc khen: “Chà! Nếu muốn sống ở vùng đất băng tuyết ngập lụt trời đất như Siberia thì quả thực không thể thiếu cái món thú vị này được”. Anh vừa nói vừa mở tút thuốc đầu lọc, rút một điếu ra châm lửa. Vừa mới hít sâu một hơi, anh liền vội vàng nhổ nước bọt ra, phì phì rồi nói: “Sao thuốc lá Liên Xô lại có mùi thôi thối như nước cống thế nhỉ? Theo năng lực kiểm định thuốc lá hàng hiệu quốc tế của Hải ngọng tớ mà phán đoán, thì loại này thua xa loại thuốc thơm hiệu Red của Anh.” Tư Mã Khôi cũng rít thử một hơi, thấy đúng là mùi vị chẳng ra sao. Nghe nói tập đoàn lãnh đạo Liên Xô đều hút thuốc thơm hiệu Golden của Anh, nên khả năng thuốc lá bên đó sản xuất chỉ đạt chất lượng như vậy; nhưng vào những năm 50, các mặt hàng như sôcôla hay sốt cá hộp lại đều thuộc phạm trù hàng hóa xa xỉ, vậy mà họ đều mang sang đây để cung cấp cho đội khảo sát liên hợp, cũng đủ rõ điều kiện đãi ngộ của các phần tử trí thức Liên Xô hậu hĩnh thế nào. Lúc này, Tư Mã Khôi cũng đưa cho Thắng Hương Lân uống mấy ngụm rượu mạnh để ngừa phong hàn; lại thấy đội trưởng Lưu Giang Hà chỉ uống nước lạnh và ăn lương khô, không uống rượu cũng không hút thuốc, thì nói: “Chú em cũng uống tí đi cho nó vững dạ”. Lưu Giang Hà lộ nét mặt khó coi: “Bộ đội chúng em có kỷ luật, khi đang chấp hành nhiệm vụ không được phép uống rượu”. Tư Mã Khôi nói: “Trời thì cao, vua thì xa, ở đây làm gì có kỷ luật, nếu khí lạnh chạy vào tận xương thì có mà đổ bệnh, sau này chú em lấy vợ, cũng không sinh nổi em bé đâu”. Lưu Giang Hà không chịu được mấy lời khích tướng, bèn uống luôn một ngụm, hơi rượu sộc lên khiến anh chàng ho sặc sụa liên hồi, mặt đỏ bừng, cổ nổi gân xanh. Tư Mã Khôi nói: “Không sao! uống quen là khỏi ngay ấy mà!” – Nói xong, anh dụi điếu thuốc lá, đứng dậy xem xét cỗ máy phát điện cấu hình Desire dưới lòng đất. Bốn người đóng cửa phòng chứa đồ lại, đi sang phòng cung cấp điện ở phía đông, bật đèn quặng kiểm tra cỗ máy khổng lồ. Những đường dây dẫn điện thông xuống lòng đất sợi nào sợi nấy to như cổ tay. Tư Mã Khôi nói: “Phải nghĩ cách cung cấp điện phục hồi cho trạm thám trắc mới được, nếu không, khoang giảm áp và nhiều máy móc thiết bị đều không thể hoạt động bình thường được.” Thắng Hương Lân hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có biết sửa chữa máy móc thiết bị không?” Tư Mã Khôi đáp: “Giết gà thì cần gì đến dao mổ bò. Ngày trước, anh Thiết Đông – người dẫn bọn tôi sang Miến Điện, trước cách mạng từng là nghiên cứu sinh của Học viện Kỹ thuật quân sự. Hải ngọng đã học mót không ít ngón nghề của anh ấy, ngay cả xe tăng, xe hơi cậu ấy còn vật ra sửa được nữa là. Hon nữa, cái máy phát điện Desire do Liên Xô sản xuất này chắc là loại đời cũ, nước ta thường nhập số lượng lớn vào đầu những năm 50, rất nhiều công xưởng đến bây giờ vẫn còn sử dụng, nếu hỏng hóc không quá nghiêm trọng thì chắc cậu ta ứng phó được.” Hải ngọng liếc mắt nhìn rồi nói: “Chuyện này cứ để tớ lo, máy móc Liên Xô phần lớn đều được sản xuất theo tiêu chuẩn hồi chiến tranh, thằng cha này cũ mẻm cũ mèm rồi”. Thế là, anh tìm vài dụng cụ rồi bước lên trước, gõ gõ đập đập một hồi, chiếc máy phát điện phát ra những âm thanh coong coong điếc tai, thiết bị bắt đầu hoạt động trở lại. Nhưng bóng đèn có lưới bảo vệ gắn trên tường, chỉ lóe lên mấy cái rồi vụt tắt cùng với tiếng nổ “bùm” chát chúa. Bốn phía xung quanh lại rơi vào màn đêm đặc quánh. Hải ngọng bất lực nói với Tư Mã Khôi: “Tuy cái máy này hỏng không nặng lắm, nhưng bị ngắt máy suốt mười mấy năm, lại không được duy tu bảo dưỡng, cho nên chỗ nào cũng có những tật nhỏ. Muốn nó hoạt động trở lại bình thường, chí ít cũng phải mất hai ba tiếng nữa.” Tư Mã Khôi móc chiếc đồng hồ ra xem giờ, rồi hỏi Hải ngọng: “Cậu có chắc chắn không đấy?” Hải ngọng nói: “Cậu cứ việc yên tâm một trăm hai mươi phần trăm đi, tớ mân mê sờ mó nếu chẳng làm nó tốt lên được, thì chí ít cũng không đến nỗi chữa lợn lành thành lợn què đâu.” Tư Mã Khôi biết lời Hải ngọng nói phải đứng cách xa ngoài tám dặm để nghe thì mới không bị nổ tai, nhưng việc phục hồi khả năng cung ứng điện cho trạm thám trắc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những bước hành động tiếp theo của cả đội, nên bất kể có thành công hay không, đều phải gắng sức thử một phen. Tư Mã Khôi bảo ba người còn lại dừng chân ở đây để sửa máy phát điện, còn anh sẽ tranh thủ đi trinh sát hai tầng còn lại. Thắng Hương Lân thấy vậy nói: “Để đội trưởng thông tin ở lại giúp anh Hải là được rồi, tôi sẽ đi cùng anh, ngộ nhỡ gặp phải biến cố gì còn kịp thời tiếp ứng.” Tư Mã Khôi không quen thuộc các loại thiết bị thăm dò ở trạm thám trắc trung tâm, nên anh đồng ý để Thắng Hương Lân đi theo. Hai người chỉnh trang lại hành lý rồi đi thẳng xuống tầng dưới bằng thang sắt xoắn ốc ở trục đường chính. Không khí ở đây càng âm u lạnh lẽo hơn, chân tường dầm hộp xi măng còn đóng băng trắng. Tư Mã Khôi soi đèn quặng tứ phía xung quanh, thấy nơi sâu nhất là giếng khoan, đường kính rộng gần trăm mét, được đậy nắp bên trên. Hai khoang trái phải là hai hồ chứa nước rộng lớn khác thường, sâu cả trăm mét, có bậc thang dẫn xuống đáy; nhưng lòng hồ trơ cạn, không một giọt nước, chỉ có ba thanh dầm thép khổng lồ nằm vắt ngang ở phía trên cùng. Tư Mã Khôi biết đây là cầu trục treo dùng để cẩu hàng nặng, xem ra hồ nước này không dùng để trữ nước, mà để cẩu một thiết bị hạng nặng nào đó từ dưới giếng khoan lên. Đâu đâu cũng đượm vẻ kì quái bí hiểm, nên thực sự không thể nghĩ ra, hai cái máng xi măng cỡ lớn đóng chặt đằng kia đựng cái gì bên trong. Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Năm 1958, đoàn khảo sát liên hợp Liên Trung đã đi từ cái giếng khoan này để xuống khu vực sâu hơn, sau đó tất cả đều mất tích. Chúng ta phải cố gắng thu thập các tư liệu tình báo mà đoàn chuyên gia Liên Xô lưu lại để tham khảo, tránh đi vào vết xe đổ của kẻ đi trước.” Tư Mã Khôi từng nghe giáo sư Nông địa cầu giảng giải: cực vực kỳ thực là một cái động trống rỗng, nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, chỉ sử dụng phương pháp viễn thám điện trường của người Liên Xô mới thăm dò được kết cấu bên trong, nhưng toàn bộ thành viên đội khảo sát liên hợp đều bị mất mạng. Điều đó chứng tỏ, có thể thông tin được phản ánh từ thiết bị trắc họa không đồng nhất với tình hình thực tế diễn ra bên trong, nên nhiều nhất cũng chỉ có thể tin một nửa. Anh thấy không thể phát hiện được gì ở khu vực xung quanh, bèn bảo Thắng Hương Lân quay về tầng giữa, đối chiếu với các kí hiệu trên bản đồ, tìm căn phòng xây kép hai bức tường. Đến đây, anh mới phát hiện bên trong có khoang bị bịt kín hai lớp, cửa thông gió đều nằm dưới mặt đất và bốn két bảo hiểm còn khép hờ, trong két trống trơn – rõ ràng mọi tài liệu đều bị tiêu hủy một cách vội vàng trước lúc rút lui, còn trên bàn là chiếc điện thoại thạch từ được nối bằng đường dây màu trắng. Loại điện thoại thạch từ quân dụng này có thể nối đường dây dài đến hai mươi ngàn mét, rất thích hợp để thiết lập liên lạc trực tiếp dưới lòng đất. Dường như xuất phát từ nguyên nhân bảo mật, nên tất cả đường dây của máy điện thoại thạch từ trong trạm thám trắc trung tâm đều có màu đen, chỉ duy có chiếc này là màu trắng mà thôi, hơn nữa nó còn xuất hiện trong khoang bảo mật, thì chắc hẳn phải vô cùng đặc biệt. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đều hơi ngạc nhiên, chiếc điện thoại nối đường dây màu trắng chắc chắn liên quan đến việc mà giáo sư nhắc đến. Trạm thám trắc trung tâm đã thông trực tiếp với cực vực dưới lòng đất, cho nên cực vực có lẽ cũng thuộc một bộ phận nằm ở tầng sâu nhất của kính viễn vọng Lopnor. Trước khi lâm chung, giáo sư Nông đã để lại đoạn thông tin cuối cùng nhưng quan trọng nhất, ông muốn hội Tư Mã Khôi quay điện thoại cho thông, như vậy mới có thể đi vào kính viễn vọng Lopnor, nhưng sau khi nối được máy, bất kể đối phương nói gì đều tuyệt đối không được tin. Mặc dù vậy, bây giờ Tư Mã Khôi hoàn toàn không hiểu chiếc điện thoại thạch từ nối với đường đây màu trắng này rốt cục thông với nơi nào? Nó rõ ràng được lắp đặt để thiết lập liên lạc trực tiếp giữa điểm với điểm, nhưng đầu kia là một điểm khác trên mặt đất, hay lại là nơi sâu hơn dưới lòng Trái Đất? Thắng Hương Lân quay đầu nhìn Tư Mã Khôi, rõ ràng là đợi anh đưa ra quyết định. Tư Mã Khôi nói: “Gọi hay không gọi là một vấn đề rất đáng để suy nghĩ. Có điều, nếu không gọi thì vĩnh viễn không thể biết những lời trăng trối của giáo sư có ý nghĩa gì. Tôi thấy loại điện thoại thạch từ này không phải lắp đặt để kích nổ, chúng ta đừng lo trước nghĩ sau nữa, khéo máy lại không thông ấy chứ…” Thắng Hương Lân đồng ý với phán đoán của Tư Mã Khôi, cô liền lên trước cầm ống nghe và quay cán nắm. Tư Mã Khôi quan sát thần thái của cô thì biết máy điện thoại đã thông. Thắng Hương Lân mới nói: “Alô…anh là…”, nhưng vừa nghe thấy giọng đối phương thì sắc mặt cô đột ngột thay đổi, dường như rất kinh hãi, mồ hôi lạnh vã đầm đìa trên trán, cô lập tức dập ống nghe xuống cắt đứt liên lạc. Tư Mã Khôi vội vàng hỏi: “Đối phương là ai thế?”, Thắng Hương Lân vẫn chưa hoàn hồn, lắc đầu bảo: “Không thể nào…” – Suy nghĩ của Tư Mã Khôi nhanh như điện xẹt, chỉ cần nhìn phản ứng của Thắng Hương Lân, anh đã đoán được tám chín phần, người xuất hiện ở đầu bên kia chiếc điện thoại thạch từ có đường dây màu trắng chính là giáo sư Tống Tuyển Nông.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi sáu: Đường dây màu trắng


    Tư Mã Khôi nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Người nhấc máy có phải là giáo sư Nông địa cầu không?” – Thắng Hương Lân run lập cập, rồi khẽ gật đầu. Tư Mã Khôi thấy đúng như mình phán đoán, bèn hỏi: “Người đó nói những gì vậy?”, Thắng Hương Lân đáp: “Chỉ nói tên, còn mấy lời sau… tôi không dám nghe tiếp”. Tư Mã Khôi thắc mắc: “Cô có chắc chắn không?” Thắng Hương Lân nói: “Tôi không bao giờ nghe lầm giọng của giáo sư.” Tư Mã Khôi tin vào năng lực phán đoán của Thắng Hương Lân, chắc cô không thể nghe lầm, cũng chính vì trước lúc chết giáo sư đã dặn dò mọi người: “Sau khi máy thông, bất luận đối phương nói gì, cũng tuyệt đối không được tin” – cho nên kẻ bên kia đầu dây điện thoại màu trắng dù có là ma, thì cũng tuyệt đối không phải hồn ma của giáo sư Nông địa cầu. Đây mới là điều khiến Thăng Hương Lân cảm thấy khiếp sợ nhất. Tư Mã Khôi cầm điện thoại quay thêm mấy lần nữa, định tự mình nghe lại một lần, nhưng điện thoại chỉ reo vài tiếng rồi ngắt, không có ai bắt máy, anh đành bỏ ống nghe xuống. Trước đây, anh từng tiếp xúc với sóng điện vong hồn đầy thần bí, nhưng đó chỉ là những mẩu ký ức còn tồn lưu trong sóng từ trường, không ngừng lặp đi lặp lại một cách vô thức. Còn bây giờ, chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 đặt trong khoang bảo mật của trạm thám trắc Liên Xô lại hoàn toàn không giống với sóng điện u linh như thể băng cassette kia. Đầu tiên, mọi người không hề cảm nhận thấy từ trường tồn tại ở khu vực gần đây, kế đến địa điểm mà giáo sư Tống Tuyển Nông qua đời là ở dòng sông ngầm, cách cánh rừng rậm than đá ngoài hai cây số, trong khi đường dây điện thoại chỉ có độ dài tối đa là hai mươi ngàn mét, nên căn bản không thể vươn đến tận đây. Thắng Hương Lân định thần, hỏi Tư Mã Khôi: “Hay là tên gián điệp theo dõi chúng ta lại giở trò quỷ gì nhỉ?” Đầu óc Tư Mã Khôi chuyển động cực nhanh, anh cảm thấy khả năng này không thể tồn tại, bèn nói: “Tuy nước ta cũng nắm được một số tài liệu và tình hình kết cấu nội bộ của trạm thám trắc Liên Xô, nhưng trong thời gian Cách mạng Văn hóa, nó đã bị tiêu hủy, thất lạc rất nghiêm trọng. Tin tình báo giáo sư Nông địa cầu có được vô cùng ít ỏi, thêm nữa ông cũng chưa bao giờ thực sự thâm nhập kính viễn vọng Lopnor, bởi thế những gì ông được nghe kể vẫn có thể có một chút sai lệch so với sự thật, không tận mắt nhìn thì không thể khẳng định chính xác được. Bây giờ suy ngẫm kỹ lại mấy lời giáo sư căn dặn chúng ta trước lúc lâm chung, trong đó ông tiết lộ tình hình thực tế có lẽ là: tìm thấy chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 trong rừng rậm than đá, thì có thể lần theo đường dây tìm được trạm thám trắc trung tâm. Nhưng nếu có nối thông được bất kỳ chiếc máy điện thoại nào, cũng tuyệt đối không được tin nội dung đối phương nói. Giáo sư có thể biết trước một vài tin tình báo về phương diện này, chứng tỏ ngay từ lúc đoàn chuyên gia Liên Xô tháo lui khỏi kính viễn vọng Lopnor, tuyến đường dây màu trắng đã xuất hiện hiện tượng bất thường gì đó; còn rốt cục nó đã xảy ra những biến cố gì trong trạm thám trắc trung tâm, công dụng thực sự của tuyến đường dây điện thoại màu trắng trong khoang bảo mật như là gì, và cả việc vì sao đoàn chuyên gia Liên Xô lại từ bỏ công cuộc tìm kiếm cứu hộ đội khảo sát bị mất tích, mà vội vàng rút khỏi kính viễn vọng Lopnor, thì những điều này chúng ta đều được biết rất ít. Bây giờ chỉ có thể xác định một điểm, đó là chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 nối đường dây màu trắng này có chút kì quái, trừ điều đó ra, thì không còn lời giải thích nào hợp lý hơn.” Thắng Hương Lân vẫn cảm thấy khó lòng tin được: “Anh cho rằng trong trạm thám trắc dưới lòng đất có ma sao?” Tư Mã Khôi nói: “Thực ra trên đời này, mọi sự vật sự việc chỉ tồn tại một cách tương đối. Thời cổ đại, người ta tin rằng nguyệt thực là do chó trên trời gặm mất mặt trăng, nhưng người hiện đại chúng ta thì nhận định đó là sự chuyển động của các hành tinh, có lẽ sau này người ta còn có cách giải thích khoa học hơn về hiện tượng này. Nói tóm lại, ngôi nhà dẫu bình thường mà bỏ hoang lâu ngày, còn khó tránh khỏi xảy ra một vài hiện tượng kì quái, huống hồ trạm thám trắc của Liên Xô lại nằm ở khu vực sâu hàng vạn mét dưới lòng đất, bởi thế tôi có cảm giác không lành với cái hộp xi măng to lù lù kia.” Thắng Hương Lân gật đầu hỏi: “Vậy bây giờ chúng ta nên làm thế nào?” Tư Mã Khôi đáp: “Làm thế nào à? Nhà triết học vĩ đại người Nga Nikolai Gavrilovic Chemyshevsky(1)từng viết một tác phẩm bất hủ khi ở trong ngục, có tên là “Làm gì?(2)”. Tôi thấy hai từ này đúng là sự khái quát tinh túy nhất đối với cuộc đời và số mệnh của con người, bởi vì chúng ta từng giây từng phút đều luôn tự mình hỏi mình câu hỏi đó. Thực ra đáp án duy nhất chính là “Hãy tin vào thứ nên tin, nếu không còn biết phải làm gì” (1) Nikolai Gavrilovic Chemyshevsky: là nhà dân chủ cách mạng Nga, nhà triết học, nhà phê bình văn học, lãnh tụ phong trao dân chủ cách mạng Nga những năm 60 thế kỉ XIX, một trong những tiền bối xuất sắc của phái dân chủ xã hội Nga. (2) Nguyên văn: Stodelat Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi vẫn vững vàng như lúc đầu, tâm lý cô cũng dần trấn tĩnh trở lại: “Nhưng thứ nên tin bây giờ là thứ gì? Chẳng lẽ lại tin rằng ở đây có ma sao?” Tư Mã Khôi nói: “Tôi không biết trong trạm thám trắc trung tâm có ma hay không, nhưng tôi tin tưởng giáo sư Tống Tuyển Nông từng sống bên cạnh chúng ta. Bởi vậy, trước tiên chúng ta phải tìm cách xác minh rõ đường dây màu trắng này rốt cục thông đến đâu. Dù sao thì ông đây cũng mắc hội chứng địa áp rồi, lại còn khẩu súng trường đã lên quy lát sẵn sàng, sống chết gì cũng chỉ một mạng, cho dù ở đây có ma thật chăng nữa thì cũng không có gì đáng sợ cả.” Kỳ thực Tư Mã Khôi chỉ nói miệng vậy thôi, chứ tim cũng đang đánh trống thình thịch: “Mong rằng đường dây màu trắng không nối xuống giếng khoan dưới trạm thám trắc. Có câu “thiên huyền địa hoàng”, huyền là cao, hoàng là sâu, địa hoàng chính là chỉ hoàng tuyền dưới lòng đất. Nghe nói sau khi con người chết đi đều phải về nơi ấy, vương triều Chăm Pa gọi đó là vương quốc của người chết, nó rất giống với cái động khổng lồ nằm giữa quyển manti và lớp vỏ Trái Đất kia. Nếu quả thực người Liên Xô đủ trình độ nối được đường đây điện thoại xuống động không đáy đó, thì đúng là hoàn toàn vượt ra ngoài tầm nhận thức của chúng ta.” Sau khi bàn bạc kỹ, nhờ ánh sáng đèn quặng, hai người lần theo đường dây trong khoang bảo mật. Thật bất ngờ, họ lại tìm thấy một vài tấm bản đồ và ảnh chụp chưa kịp cháy hết nằm khuất trong góc hẹp, thậm chí còn có một tập bảng kê điện báo dày cộp, bên trên đóng dấu tuyệt mật, tuy phần lớn đã bị cháy nham nhở, nhưng một số chỗ vẫn còn đọc được. Mắt Tư Mã Khôi sáng bừng lên, anh lập tức nhặt lên giở từng trang, rồi nói với Thắng Hương Lân: “Khả năng đây là thu hoạch lớn nhất từ trước đến nay của chúng ta, tuy tôi xem không hiểu chữ nào, nhưng tệp bảng kê điện báo này chắc chắn vô cùng quan trọng, không ngờ bọn mũi lõ cũng có điểm sơ sót.” Thắng Hương Lân nói: “Không phải họ sơ suất đâu, những bức điện văn này đều là điện mật được mã hóa, nếu không có bản giải mã thì cầm nó trong tay cũng chẳng khác gì nắm giấy lộn.” Tư Mã Khôi vẫn lạc quan: “Tôi cho rằng thời gian chính là thiết bị giải mã tốt nhất. Bộ mã vạch điện mật quân dụng, cùng lắm cũng chỉ vài năm là phải thay một lần, thời kỳ chiến tranh lạnh tần suất sửa đổi còn nhanh hơn, bởi vì nó chỉ cần bị lộ ra ngoài thì cũng đồng nghĩa với việc không có gì đáng gọi là bí mật nữa cả. Mật mã thông tin điện báo của Liên Xô vào những năm 50, bây giờ chỉ là đồ bỏ, không thể sử dụng được nữa. Những nội dung quân sự cơ mật cao độ trong thời điểm đó, đến hiện nay lại trở thành kiến thức cơ bản mà bộ đội thông tin nhiều quốc gia bắt buộc phải nắm vững. Bởi vì mô thức thiết kế mật mã thông tin của quân đội Xô Viết rất tiên tiến và hoàn thiện, nên nhiều thông tin điện báo mà quân đội của các quốc gia như Việt Nam, Miến Điện sử dụng, đến tận ngày nay, vẫn lấy thông tin bảo mật của lực lượng vũ trang Liên Xô những năm năm sáu mươi làm cơ sở. Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà chắc chắn cũng đã học qua, đợi chút nữa cho cậu ta xem, nếu điện văn không sử dụng phương thức bảo mật kép đặc biệt nào đó, biết đâu chúng ta sẽ phát hiện được một số tin tình báo quan trọng tò nó.” Lúc này Thắng Hương Lân đã sắp xếp lại số tài liệu và bản đồ còn sót lại thành một tập ngay ngăn. Do nội dung phức tạp, nên trong khoảng thời gian gấp gáp, cô không thể đọc và phân tích kỹ được. Trong lúc cô chuân bị nhét tất cả vào ba lô mang đi, thì có một tập tài liệu khiến cô lập tức cảnh giác, nội dung tài liệu thể hiện rõ, trong kính viễn vọng Lopnor, tổng cộng hai lần xảy ra biến cố trọng đại: Biến cố thứ nhất là, toàn bộ hai mươi hai thành viên của đội khảo sát liên hợp Liên Trung đều bị mất tích. Biến cố thứ hai là khi tiến hành kiểm nghiệm hệ thống điện thoại thạch từ Aφ53 lắp đặt trong rừng rậm than đá, có một viên cố vấn người Liên Xô và ba nhân viên người Trung Quốc đã gặp nạn, chỉ một người duy nhất may mắn sống sót sau khi được cứu chữa. Tư Mã Khôi nói: “Tôi cho rằng mấy thông tin đó không có gì đáng gọi là cơ mật cả, chuyện đội khảo sát bị mất tích chúng ta đã biết từ trước, còn rừng rậm than đá kết cấu rất phức tạp, khu vực sụt lở khá nhiều, nếu có xuất hiện một vài sự cố thì cũng là điều khó tránh.” Thắng Hương Lân nói: “Nhưng không đơn giản như anh nghĩ đâu…”, cô chỉ tay vào một đoạn ghi chép rồi nói: “Kẻ may mắn sống sót trong rừng rậm than đá chính là gã kỹ sư vật lý thăm dò Điền Khắc Cường”. Tim Tư Mã Khôi run lên từng chập: “Thì ra ngay từ giữa những năm 50, gã Điền Khắc Cường này đã trà trộn vào đây với thân phận nhân viên kỹ thuật vật lý thăm dò, tham gia kế hoạch thám trắc kính viễn vọng Lopnor.” Thắng Hương Lân cảm thấy tập tài liệu này dường như đã tiết lộ một tình huống vô cùng quan trọng, nhưng tổng thể sự việc lại quá ly kỳ khó hiểu, nên nhất thời cô khó lòng lý giải, đành phải cẩn thận tất cả đám tài liệu và giấy tờ còn sót lại này vào ba lô. Hai người tiếp tục xem xét khoang bảo mật, phát hiện đường dây màu trắng trong bức tường được nối lên tầng thượng của trạm thám trắc trung tâm, điều này khiến hai người có chút bất ngờ. Tầng thượng là kho chứa đồ và phòng cung ứng điện cao thế cho hệ thống dưới lòng đất, còn lên trên nữa chính là động đạo bị phá sụp. Mọi đường dây điện và đường dây điện thoại liên hệ với thế giới bên ngoài đều cắt đứt tại đây. Vậy thì chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 có đường dây màu trắng rốt cục nối thông đến khu vực nào? Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ một lát, đoạn nói với Tư Mã Khôi: “Vấn đề khả năng nằm ở độ cao của tòa kiến trúc xi măng khép kín này. Kết cấu ba tầng thượng – trung – hạ ở đây rất không đồng đều, khu vực tầng giữa có cánh cửa sắt thông với cánh rừng rậm than đá, còn hồ chứa nước và cầu trục treo ở tầng hầm lại chìm sâu trong hố quặng. Nếu từ bên ngoài quan sát độ cao trạm thám trắc dưới lòng đất, bằng thiết bị quan trắc khoảng cách, thì phần lộ thiên khỏi hố than cao khoảng 23 mét, nhưng không gian thực tế bên trong của tầng giữa và tầng thượng, kể cả độ dày của dầm hộp xi măng cộng lại cũng không đến hai phần ba độ cao này”. Tư Mã Khôi lập tức hiểu ngay suy đoán của Thắng Hương Lân: “Ý cô là giữa tầng thượng và tầng trung của trạm thám trắc dưới lòng đất… còn có một khu vực tầng bị ẩn kín, đồng thời đó cũng chính là khu vực đường dây màu trắng đi vào sao?” – Khi Tư Mã Khôi từ tầng trên xuống, ngang qua đây đã nhìn thấy cánh cửa sắt đóng chặt nằm ở vị trí lửng lơ, không hẳn thuộc tầng trên cũng không hẳn thuộc tầng dưới; thêm nữa, vị trí này cũng giống như khoang bảo mật, không được đánh dấu rõ ràng trên bản đồ. Anh lập tức cùng Thắng Hương Lân tiến hành tìm kiếm. Hai người đi đến trước cửa, thấy cánh cửa sắt vẫn chưa khép hẳn, bên trong là căn phòng kết cấu dầm hộp, trong phòng không có cửa thông gió để thoát khí. Không khí lâu năm không lưu thông, bốc mùi ẩm mốc vô cùng nặng nề, khiến người ta cảm thấy ngạt thở, khó chịu. Hai người đi đến trước cửa, soi đèn quặng vào bên trong, chỉ thấy trên giá sắt có từng tầng trưng bày rất nhiều mẫu đá. Đứng ở nơi xa trông không rõ lắm, chỉ thấy chỗ nào cũng đen ngòm, dường như đây là nơi đặt mẫu vật lõi đá, tương đương với một khoang bảo mật cỡ lớn khác. Sở dĩ mẫu đá được đặt ngay giữa trạm thám trắc dưới lòng đất, là vì phải đảm bảo trạng thái chân không tốt nhất cho mẫu vật. Căn phòng chỉ có một lối ra vào duy nhất. Tư Mã Khôi nhìn cửa khoang không có ổ khóa, không lo bị nhốt bên trong, nên lúc này anh mới dám bước vào. Anh thấy trong khoang bảo mật không chỉ cất chứa lõi đá ở các địa tầng khác nhau, mà còn có không ít tiêu bản hóa thạch của các sinh vật và thực vật cổ đại. Tất cả chúng đều được đào từ dưới động đạo sâu hàng vạn mét trong kính viễn vọng Lopnor lên, trên nhãn còn lần lượt chú thích thời gian tiêu bản hình thành và độ sâu địa tầng của nó. Người Liên Xô chưa kịp đóng gói các vật phẩm này vào thùng gỗ vận chuyển lên mặt đất. Tư Mã Khôi giương súng đi vào nơi sâu nhất, thấy ở tận cùng có một căn phòng biệt lập, mặt trên có lắp cửa sổ quan sát trong suốt. Tư Mã Khôi thầm sinh nghi: “Bên trong đó chứa cái gì vậy? Không lẽ đúng như lời Hải ngọng nói, người Liên Xô đã đào được con yêu quái nào đó dưới lòng đất sao?”. Anh bò lên tấm kính thủy lực rồi nhìn vào trong, ánh sáng đèn quặng như bị hút mất, bên trong đen kìn kịt nhìn không rõ là gì. Thế nhưng anh mơ hồ cảm thấy vào đúng giây phút đó, thứ bên trong cũng đang chằm chằm nhìn lại mình. Tư Mã Khôi bất giác hãi hùng. Thắng Hương Lân giật áo Tư Mã Khôi hỏi: “Anh nhìn thấy gì vậy?”. Tư Mã Khôi đáp: “Tối quá, nhìn không rõ là thứ gì! Có điều tôi cảm thấy thứ bên trong… dường như còn sống.”
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi bảy: Sự hi sinh vĩ đại vì mục đích vĩ đại


    Thắng Hương Lân hiếu kỳ, bèn lên trước ghé mắt vào xem, cô cũng cảm thấy kỳ lạ đến mức dựng cả tóc gáy lên. Trong bóng tối dường như đúng là có một sinh vật đáng sợ nào đó. Trong căn phòng cất chứa tiêu bản hóa thạch và lõi đá, không khí lâu ngày không lưu thông, tuy bây giờ đã mở cánh cửa sắt ra khá lâu, nhưng vẫn cảm thấy rất khó thở. Khoang bảo mật có cửa sổ quan sát được bọc thép xung quanh, xem ra xung quanh hoàn toàn kín bưng không có khe hở nào. Mọi vật đã tồn tại trong trạng thái ấy những mười sáu năm, thì làm sao bên trong còn sinh vật nào sống sót được? Tư Mã Khôi cảm thấy khi nãy mình vừa nhìn một cái, thì hồn suýt chút nữa đã bị xé rời khỏi xác. Tuy lòng bồn chồn thấp thỏm, nhưng anh vẫn muốn tìm xung quanh xem có cửa khoang không, để làm rõ rốt cục nó là thứ gì. Thắng Hương Lân nói: “Anh đừng vội, tôi thấy những ghi chép ở đây thể hiện rõ, tất cả tiêu bản lõi đá trong phòng đều được đào trong động đạo và rừng rậm than đá, không liên quan gì đến cực vực dưới lòng đất đâu.” Tư Mã Khôi đang định lên tiếng, thì chợt nghe âm thanh sột soạt rất nhỏ phát ra từ phía trên khoang bảo mật. Động tĩnh đó chỉ khẽ khàng như tiếng chuột chạy, nhưng vì căn phòng lúc này yên ắng như tờ, lại thêm thính giác của Tư Mã Khôi vô cùng nhạy bén, nên anh lập tức phát hiện ra điều khác thường. Tư Mã Khôi ngẩng phắt đầu lên, thì thấy có một bóng đen đang nằm phục trên trần. Đối phương bị ánh sáng đèn quặng soi vào, liền nhanh chóng quay người rút lui. Tư Mã Khôi chỉ nhìn thấy cái đầu người mờ mờ trên đỉnh khoang, đầu không có tóc, mũi diều hâu, miệng nhô ra, một mắt to một mắt nhỏ, con mắt nhỏ lộ ánh nhìn hiểm độc, trong khi con mắt trái thì mờ đục. Khuôn mặt quái dị đó lướt qua trước ánh đèn, rồi vụt biến vào bóng tối chỉ trong nháy mắt. Tư Mã Khôi biết, theo cổ thuật tướng vật, người có mắt to mắt bé rất hiếm gặp, đôi mắt đó được gọi là yêu nhãn, mắt to để nhìn vào ban ngày còn mắt bé nhìn ban đêm, cho dù không sử dụng đèn nến trong bóng tối, thì cũng vẫn có thể duy trì thị lực như bình thường. Thế nhưng khuôn mặt này, hai người chưa từng gặp bao giờ. Tư Mã Khôi định tâm bắt sống, bèn khoác súng lên lưng, tung người bám tấm thép leo lên khoang bảo mật đuổi theo tên quái nhân. Thắng Hương Lân là con gái nhà nòi, cô cũng am hiểu một số kỹ nghệ thời xưa. Lúc này thấy Tư Mã Khôi giống con thạch sùng lặng lẽ chúc đầu bám sát tường, động tác nhanh nhẹn không khác gì loài khỉ, cô không khỏi thốt lên đầy thán phục: “Ồ! Tháo ủng ngược!” – Cô lo ngộ nhỡ Tư Mã Khôi xảy ra điều bất trắc, bèn leo lên bám theo anh. Tư Mã Khôi leo lên đến nơi bèn soi đèn nhìn quanh, nhưng không thấy bóng dáng tên quái nhân đâu cả, mà chỉ có chiếc ba lô tác nghiệp khoan thăm dò của phân đội số sáu Karamay sử dụng, đang nằm chỏng chơ trên đó. Lúc này Thắng Hương Lân cũng trèo tới nơi, hai người đều nhận ra chiếc ba lô của gã Điền Khắc Cường, lòng bất giác dấy lên dự cảm chẳng lành: “Gã Điền Khắc Cường này trà trộn vào phân đội vật lý thăm dò ngay từ những năm 50. Trong lần xảy ra sự cố ở cánh rừng rậm than đá, chỉ một mình gã may mắn sống sót. Giờ đây lại được Nấm mồ xanh cử đến để phá hoại hành động của đội thám hiểm. Sau khi thân phận bị bại lộ, đầu tiên gã bị Hải ngọng vặn gãy cổ, rồi lại gặp thảm cảnh phanh thây ở sông ngầm. Lúc này, chiếc ba lô của hắn một lần nữa lại xuất hiện ở đây, điều đó chứng tỏ mọi người chưa hoàn toàn thoát khỏi sự theo dõi của gã. Kẻ khi nãy nằm phục trên đỉnh khoang có dung mạo giống như quỷ hiện hình vậy, rõ ràng trông khác xa gã Điền Khắc Cường. Tên đặc vụ này nhiều lần chết đi sống lại, thử hỏi gã có phải con người hay không?” Tư Mã Khôi cảm thấy hơi thở tỏa ra ở khu vực gần đây, gã Điền Khắc Cường có lẽ đang trốn trong chiếc ba lô, hơn nữa hắn vẫn còn sống, mà điều kỳ lạ là không gian chiếc ba lô căn bản không thể chứa nổi một người. Anh lấy tay ra hiệu, bảo Thắng Hương Lân không được mạo hiểm đến gần, sau đó hít sâu một hơi, rờ thắt lưng rút dao săn, anh định lên trước mở ba lô ra để làm rõ sự tình. Ai ngờ Tư Mã Khôi vừa sờ vào ba lô, thì một cánh tay không có da người từ bên trong thò ra, liền sau đó nửa thân trước cũng thò ra theo. Lúc này, Tư Mã Khôi có thể nhìn rõ mồn một dung nhan tên dị nhân dưới ánh sáng đèn quặng. Đúng là chiếc ba lô có đủ chỗ cho người trốn, có điều con người này không phải con người hoàn chỉnh theo ý nghĩa thông thường, nhiều nhất nó chỉ có một phần năm cơ thể. Phía dưới chiếc đầu là một phần nội tạng, chỉ có một cánh tay, phần thân dưới còn kéo lê một đường cột sống. Tuy rằng Tư Mã Khôi là người rất cứng vía nhưng nhìn thấy cảnh tượng đó, anh cũng bất giác nổi da gà khắp toàn thân, kinh ngạc nghĩ thầm “Người hai đầu ư?” Thuở nhỏ, anh sống ở Bắc Kinh, từng nhìn thấy một đám đông, cả già trẻ gái trai tụ tập túm tụm lại, khiến đường phố tắc nghẽn như bị tắc cống. Anh chen qua khe hở giữa làn người chui vào trong ngó thử. Thì ra mọi người đang vây quanh xem một người ăn mày trên phố. Ăn mày trước đây lưu lạc tứ phương, hoặc mang theo trẻ nhỏ hoặc lê lết tấm thân tàn tật, phô bày ra giữa phố nỗi thống khổ của mình để tìm kiếm chút lòng thương hại của kẻ qua đường. Tay gãy chân cụt, thân mình lở loét, đều là vốn kiếm ăn của họ. Tục ngữ có câu: “Ba năm làm kiếp ăn mày, đổi thành hoàng đế một ngày không ham”. Có những kẻ sinh ra đã lười nhác, muốn ngồi mát ăn bát vàng, bọn họ không muốn lao động sản xuất, cũng không có trình độ văn hóa gì, lại thấy nghề ăn mày có thể ăn không của thiên hạ, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, thì còn gì thoải mái hơn. Loại ăn mày này đúng là không đáng để người đời cảm thông. Nhưng cũng có một số người đúng là thực sự tàn tật khốn khổ, họ không có kế gì để sinh nhai, đành phải ra phố ngửa tay xin ăn. Kẻ ăn mày lần này lại là một thiếu niên, anh ta phanh ngực ra giữa phố, trước ngực mọc một cái cổ trẻ con, chân tay mắt mũi mồm miệng đều đầy đủ, nhưng mắt cứ khép chặt, vạch mí mắt ra thì thấy bên trong không có con ngươi, sờ mũi miệng cũng không thấy hơi thở, chân tay mềm nhũn như không xương, có đầu ti nhưng không có rốn, mông lại nằm phía trước, ai nhìn cũng thấy rất kỳ dị. Thiếu niên đó tự xưng cùng người anh sinh đôi dính liền cơ thể từ Sơn Đông đến đây. Nếu ai đưa cho ít tiền, cậu ta sẽ mở khuy áo cho mọi người xem người anh dị hình trong lòng mình. Cậu ta chạy khắp hang cùng ngõ hẻm, quanh năm kiếm sống bằng nghề này, nhiều lần được chính phủ đưa vào trại tế bần nhưng lại trốn ra ngoài, vì không chịu được cảnh bị quản thúc. Cậu ta định xin ít tiền, đợi sau khi đến Thiên An Môn sẽ đi Thượng Hải để mở mang tầm mắt. Trên đường cũng có rất nhiều người hảo tâm, thấy cậu ta đáng thương, bèn móc tiền quyên góp. Có người hỏi cậu thiếu niên: “Sao người trong lòng lại là anh trai cậu được?”. Cậu thiếu niên đáp: “Người nào sinh ra trước đương nhiên sẽ là anh, mấy năm trước anh ấy còn có thể nói chuyện, nhưng mấy năm nay mặc kệ hô hoán thế nào, anh ấy cũng không phản ứng gì nữa”. Tư Mã Khôi thấy cảnh đó thì tròn mắt thất kinh, vừa thấy cảm thông vừa thấy kì quái, nên còn bám theo nhìn cả nửa ngày trời, mãi đến khi người của sở cảnh sát đến bắt cậu thiếu niên mang về mới thôi. Sau này, anh nghe cụ nội nói mới biết: “Đây không phải sự lạ, chỉ là dị dạng mà thôi, có thể thấy trời cho ta sinh ra làm người nhưng đôi khi vẫn có điểm biến hóa khó lường.” Việc cũ cách đây đã nhiều năm, Tư Mã Khôi quên khuấy từ lâu, lúc này, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, anh chợt hồi tưởng lại. Không ngờ đối phương lại là cặp song sinh ký sinh dị hình. Gã Điền Khắc Cường mà mọi người vẫn trông thấy, thực ra chỉ là con rối vô tri vô giác, còn ý thức chủ quan thực sự là của vật quái thai nằm trong cơ thể gã. Trong lúc anh đang ngẩn người, thì gã Điền Khắc Cường đã kéo lết nửa cái sống lưng từ đầu kia của khoang bảo mật xuống dưới đất. Giống như sinh vật đầu người mình rắn, gã hành động vô cùng mau lẹ. Tư Mã Khôi thầm biết không ổn, làm gì có chuyện anh cho phép gã đó dễ dàng chạy thoát thân, nên cũng lật người lộn xuống, cầm dao ráo riết bổ theo, nào ngờ hành tung đối phương quái dị khó lường, hắn quay người trốn vào góc chết, và “chiu” một cái, đã luồn vào trong khoang qua cánh cửa ở mặt bên, rồi dùng khóa sắt khóa trái, tự nhốt mình bên trong. Tư Mã Khôi thầm than: “Hỏng hẳn rồi! Lúc trước chưa kịp phát hiện vị trí cửa khoang. Xem ra cái ngữ này lẳng lặng chuồn vào trạm thám trắc dưới lòng đất và sắp đặt sẵn đường rút lui, hắn cố ý xuất hiện để dẫn dụ bọn ta đến chỗ này đây mà!” Hàng loạt biến cố chỉ diễn ra trong khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, Thắng Hương Lân bám sát sau lưng Tư Mã Khôi, cô thậm chí còn chưa kịp nhìn rõ thứ bò ra khỏi ba lô là gì, chỉ thấy dưới chùm sáng lay lắt của ánh đèn quặng, cô thấy một bóng đen luồn vào khoang bảo mật, tim cô đập thình thịch liên hồi. Tư Mã Khôi chặn cửa khoang, thuật lại tình hình, Thắng Hương Lân kinh hãi đến cực điểm, nhưng cô cảm thấy có vấn đề uẩn khúc còn đáng quan tâm hơn: “Vì sao đối phương lại trốn vào trong khoang bảo mật, một khi người bên ngoài đóng chặt cánh cửa, thì bên trong đừng mơ chui ra.” Lúc này chợt nghe thấy âm giọng sắc lạnh, thê lương của gã Điền Khắc Cường vọng qua khe cửa: “Mẹ kiếp! Bọn mày đừng phí công tốn sức làm gì. Điền mỗ đây đã tự nguyện vào thì không nghĩ đến chuyện còn sống mà chui ra. Nói thật cho bọn mày biết, bọn mày cũng vĩnh viễn không thể rời khỏi căn phòng này đâu.” Tư Mã Khôi bừng bừng lửa giận, lớn tiếng chửi: “Bịt cái miệng thối của mày lại, bố mày sợ quái gì? Tao cóc tin…” Điền Khắc Cường cười gian manh: “Thực ra tao hoàn toàn có thể lặng lẽ xử lý mấy thằng trộm quèn bọn mày, nhưng bây giờ tao lộ mặt vì muốn tận mắt chứng kiến thần sắc tuyệt vọng của chúng mày, vì muốn để chúng mày biết vì sao mình lại phải chết, và chết thảm khốc ra sao. Nếu không, lũ chuột yếu đuối nhỏ nhoi chúng mày vĩnh viễn không thể lý giải được tao đã hi sinh vĩ đại vì mục đích vĩ đại đến nhường nào.” Tư Mã Khôi thầm nghĩ: tâm lý gã này méo mó lệch lạc cực độ, chắc hắn điên thật rồi, nhưng mình cũng có thể lợi dụng điểm này để thăm dò bí mật của Nấm mồ xanh. Thế là anh lấy tay ra hiệu, bảo Thắng Hương Lân chuẩn bị rút lui khỏi căn phòng bất cứ lúc nào. Gã Điền Khắc Cường tự biết mạng sống của mình chỉ có thể kéo dài trong khoảnh khắc, nên tinh thần hắn càng kích động phẫn uất hơn. Hắn kể lể, ngay từ những năm 30, lúc đó đúng thời điểm nạn đói đang hoành hành dữ dội, mọi người lại kéo nhau nhập ngũ hết, bá tính ly tán lưu lạc tứ phương, phần đông đều chạy sang nơi khác lánh nạn. Lúc ấy, cô con dâu nhà họ Điền cũng chạy loạn cùng gia đình và bị lạc. Một mình cô đi vào núi hoang, ban đêm gió lạnh thổi hun hút, tuyết rơi nặng hạt, một mình đi bộ vừa lạnh vừa đói, cô bèn trốn vào trong một ngôi miếu thổ địa tránh gió. Cô thấy trong ngôi miếu đổ nát có một bà già đang lấy cái nồi to hầm thức ăn. Cứ nghĩ đó là canh rau dại, cô bèn kể cho bà lão nghe hoàn cảnh hoạn nạn của mình, rồi ngỏ ý xin một bát canh nóng. Nhưng bà lão thoái thác: “Một mình già đơn độc ở đây, tứ cố vô thân, khó khăn lắm mới hầm được nồi canh, đâu dễ chia cho người khác? Cho cô uống thì tôi hết đường sống mất”. Cô con dâu nhà họ Điền khổ sở van nài mãi, cuối cùng cũng được bà lão chia cho một bát, nào ngờ đó lại là canh thịt. Cô vừa lạnh vừa đói, không quản gì nữa, bèn húp sùm sụp, ngay cả đáy bát cũng liếm sạch trơn. Sau đó, cô nhìn thấy bà lão vớt một cái chân trẻ con từ đáy nồi lên, mới hoảng hốt hiểu ra, bát canh khi nãy uống là canh thịt người. Cô vội vã đội gió tuyết chạy trốn khỏi miếu thổ địa, kết quả ngã gục giữa đường vì quá khiếp sợ, may mà người nhà tìm thấy và kịp thời cứu sống. Người dân xung quanh biết việc, bèn đốt đuốc quay trở lại tìm ngôi miếu đổ nát, nhưng không biết nó đã biến mất đằng nào. Sau khi cô con dâu họ Điền trở về quê, cô bắt đầu mang thai, nhưng thời đó người ta rất mê tín, biết cô ăn thịt đứa trẻ con chết, ai cũng ngấm ngầm sợ hãi, họ lo oan hồn của đứa trẻ sẽ tìm đến đầu thai đòi trả nợ. Người nhà biết việc này đều đối xử với cô rất ghẻ lạnh và hà khắc, động một chút là đánh chửi những lời cay nghiệt. Cô cắn răng chịu đựng, chỉ mong đứa trẻ sinh ra tất cả đều bình thường, nếu được như vậy, cô có thể tiêp tục gắng gượng sống những ngày còn lại. Nào ngờ, cô vác bụng bầu, hoài thai suốt hai mươi tháng mà vẫn chưa thấy lâm bồn. Cuối cùng cực chẳng đã, cô quyết định bỏ nhà đi tìm cái chết. Cô vào một rừng cây hoang vắng, treo cổ tự vẫn mà không biết rằng hành tung của mình đã sớm bị một tay biệt bảo lõi đời để mắt đến. Nhân lúc thai phụ vừa mới qua đời, hắn liền mổ bụng cô lấy bào thai ra. Trước ngực thai nhi đó có một dấu tích hình mặt người mờ mờ, khung hình không rõ lắm, chỉ có hai con mắt khép hờ, quả nhiên là một bào thai nửa người nửa quỷ. Tay biệt bảo biết yêu nhãn của đứa trẻ này có thể nhìn thấy khoáng quặng dưới lòng đất, bèn bắt đầu nuôi nấng nó từ đấy, đồng thời nhận nó làm đồ đệ. Có điều, hắn không truyền thụ cho nó bất kỳ tài nghệ đích thực nào, mà ngày nào cũng cho nó uống thuốc để cơ thể hình người luôn trong trạng thái hôn mê, chỉ để con mắt yêu dị gắn bên trong cơ thể tỉnh táo, nhằm phục vụ cho mục đích của hắn. Sau này, khi quân Nhật xâm lăng, khắp Trung Nguyên dậy sóng, thầy trò phải chạy về Tây Nam. Tên đồ đệ vốn ôm mối hận trong lòng, biết sư phụ là hạng người không ra gì, hắn bèn nhân cơ hội ra tay giết hại tính mạng ông thầy biệt bảo, sau đó được thủ lĩnh Nấm mồ xanh thu nạp vào tổ chức ngầm, tuyên thệ sẵn sàng xả thân vì tổ chức. Sau giải phóng, hắn lấy tên giả là Điền Khắc Cường và trở thành nhân viên liên lạc tình báo được gài ở Tân Cương. Năm 1955, Liên Xô nhận được tin tình báo của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, mới chủ động cung cấp đoàn chuyên gia cố vấn và các thiết bị khoan thăm dò hạng nặng, khoan thông thẳng xuống kính viễn vọng Lopnor dưới lòng đất. Lúc đó, gã Điền Khắc Cường cũng tham gia công trình, với tư cách nhân viên kỹ thuật vật lý thăm dò. Cuối năm 1958, đường dây điện thoại thạch từ dùng để thám trắc tình hình dưới lòng đất xảy ra sự cố, hắn ta và một nhóm đồng sự, cùng viên cố vấn Liên Xô, thâm nhập rừng rậm than đá để xác minh nguyên nhân, nào ngờ lại phát hiện thấy một số thứ rất đáng sợ nằm trong lớp than, rồi tất cả mọi người đều chết một cách kỳ bí. Thực ra, cái chết được chia ra làm hai loại, loại thứ nhất là chết về mặt thể xác, loại thức hai là chết về mặt linh hồn. Nếu thể xác vẫn sống, nhưng đại não rơi vào trạng thái tử vong, thì người đó trở thành người thực vật, cũng không khác đã chết là bao nhiêu. Tình huống mà nhóm vật lý thăm dò gặp phải có lẽ là não chết. Não của gã Điền Khắc Cường khi đó cũng đột nhiên tử vong, từ đó trở đi, hai mắt không thể nhắm chớp được nữa. Cũng bởi hắn đi chậm hơn mọi người, nên mới may mắn giữ được cái mạng. Không lâu sau đó, kế hoạch kính viễn vọng Lopnor đành gác lại, gã Điền Khắc Cường nằm mai phục ở mỏ dầu Karamay đợi lệnh. Giờ đây, gã lại được cử đến để phá hoại hành động đội thám hiểm, cản trở bất kỳ kẻ nào muốn dòm ngó bí mật của Nâm mồ xanh. Lúc đầu mọi chuyện còn khá suôn sẻ, nhưng không ngờ Tư Mã Khôi lại nhanh nhạy, mưu trí đến vậy, buộc hắn phải lộ diện. Hai lần ba lượt hành hung đều thất bại, cuối cùng hắn định hủy quan tài, cũng bất thành, nên đành phải băm nát thân mình, cắt bỏ phần cơ thể đã sớm trở thành người thực vật từ lâu, lẩn trốn trong quan tài tiếp tục bám đuôi đội thám hiểm. Lợi dụng mùi máu tanh chảy ra từ miệng vết thương của giáo sư Nông địa cầu, và mùi hôi thối của vải vóc khâm liệm hàng ngàn năm trong quan tài, hắn đã thuận lợi che mắt mọi người ẩn giấu tung tích. Cơ thể không có phần thân dưới hiện giờ của hắn, sau khi cắt đi chủ thể thì không sống được bao lâu, hắn gộp tất cả món nợ đổ dồn lên đầu Tư Mã Khôi. Hắn cho rằng lũ chuột nhát gan này có tư cách gì mà dám thăm dò bí mật lớn nhất của thế giới? Nhưng hắn cũng tự lượng sức mình không phải đối thủ của Tư Mã Khôi, nên đành cắn răng nhẫn nhịn, đợi đến khi lừa anh vào trong phòng cất chứa mẫu đá mới ra tay hành động. Đây là cơ hội cuối cùng của hắn, đồng thời cũng là cơ hội tuyệt đối không thế thất bại. Bởi vì con yêu quái mà người Liên Xô đã đào được trong cánh rừng rậm than đá, lúc này đang ở trong khoang bảo mật, nên phàm những ai bước chân vào kính viễn vọng Lopnor, đều trở thành người chết không có sóng điện não.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi tám: Thời gian trước đây


    Gã Điền Khắc Cường chỉ còn lại một nửa cơ thể, cười lạnh lùng đầy vẻ âm hiểm, con mắt yêu dị ghé sát vào ô cửa quan sát trên khoang bảo mật, trốn trong bóng tối nhìn Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân chằm chằm, hắn chỉ sợ mình bỏ lỡ mất giây phút ngắm nhìn thần sắc tuyệt vọng khiếp sợ hiện lên hai gương mặt đó. Tư Mã Khôi căn bản không hiểu thế nào gọi là người thực vật không có sóng não, anh chỉ muốn lợi dụng cơ hội này thăm dò bí mật của Nấm mồ xanh từ miệng đối phương. Nào ngờ, gã Điền Khắc Cường từ đầu chí cuối không hở miệng một câu, mà chỉ nói năm đó hắn không có tên, thường gọi tay biệt bảo đó là thầy và xưng trò. Sư phụ hắn định lợi dụng con mắt yêu dị của hắn để phát hiện khoáng quặng dưới lòng đất, định tìm kiếm mỏ vàng. Cho nên từ lúc rời bụng mẹ, suốt ngày hắn bị ép uống thuốc mê để đề phòng chạy trốn, quanh năm suốt tháng bị khóa xích sắt, không lúc nào lơi lỏng. Mỗi khi sư phụ không hài lòng, nhẹ thì thượng cẳng tay hạ cẳng chân, nặng thì thước sắt, côn lim. Nhưng tay biệt bảo này không hề hay biết, phía sau con mắt lộ ra trên vùng ngực của đồ đệ còn có một nửa thân thể. Cơ thể này có nhận thức suy nghĩ hẳn hoi, lòng dạ thậm chí còn thâm độc hiểm ác hơn cả người bình thường. Cả ngày hắn giả ngốc giả dại, mọi chuyện đều thuận theo ý sư phụ, bảo gì làm nấy, nhưng thực ra hắn đã sớm nhìn rõ thủ đoạn của sư phụ, cũng biết lai lịch thân thế của mình. Hắn ngấm ngầm khắc ghi toàn bộ sự việc vào tim, nhẫn nhục chịu đựng, không để tiết lộ ra ngoài. Mãi đến lúc hai thầy trò đụng độ quân Nhật trong lúc tháo chạy, sư phụ hắn bị bắn một phát vào sau mông. Cả hai trốn vào rừng sâu, vết thương do súng bắn bây giờ mới phát tác; sư phụ hắn nằm rạp trong sơn động không thể hành động, bất đắc dĩ phải mở còng tay cho đồ đệ, bảo hắn đi tìm thuốc ở khu vực xung quanh. Nào ngờ, đồ đệ lại trói chặt ông thầy biệt bảo lại, dùng dao rạch thịt sư phụ lấy viên “nhục ngọc” trong người ông ta ra, chiếm làm của riêng. Thông thường, phần lớn khách biệt bảo đều giỏi nuôi ngọc, đó chính là kết thạch mọc trong cơ thể rắn rết, ba ba, chỉ cần khoét một hố dưới nách, rồi nhét viên ngọc đó vào, huyết nhục cơ thể sẽ dưỡng ngọc đan, lâu dần nó trở thành cục thịt gắn liền với cơ thể, người chết ăn vào còn có thể duy trì sinh khí liên tục trong ba ngày. Sau khi lấy viên nhục ngọc, đồ đệ liền ăn tươi nuốt sống cơ thể sư phụ, ngay cả xương xẩu lông tóc cũng không chừa tí nào. Sau đó, gã Điền Khắc Cường gia nhập tổ chức tình báo ngầm Nấm mồ xanh, đồng thời nhờ vào một vài bản lĩnh năm xưa học lén của tay biệt bảo lọc lõi, trà trộn vào phân đội vật lý thăm dò, trở thành nhân viên phía Trung Quốc theo đoàn chuyên gia Liên Xô tham gia công trình “kính viễn vọng Lopnor”. Mã số liên lạc của hắn là “Căn phòng số 86”, còn Điền Khắc Cường chỉ là tên giả mà thôi. Cuối cùng, hắn nghiến răng ken két nói với Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Bọn mày biết bấy nhiêu là quá nhiều rồi, đừng ảo tưởng tới việc chạm tới bí mật nằm trong cực vực dưới lòng đất. Rất nhanh thôi, bọn mày sẽ được trải nghiệm cảm giác thế nào gọi là tuyệt vọng một cách chân thực nhất…”. Nói xong, hắn nghiến răng cắn đứt động mạch trên cổ tay, kéo lê cái cột sống bò vào nơi sâu trong khoang bảo mật, rồi chẳng bao lâu sau thì không còn nghe thấy động tĩnh gì nữa. Tư Mã Khôi căm hận “Căn phòng số 86” như căm hận loài ác quỷ, anh giận mình không thể xẻ thịt lột da hắn. Anh cũng biết từ lúc đối phương xuất hiện, những người bước chân vào trạm thám trắc trung tâm đều lâm phải hiểm họa tuyệt diệt; gặp tình huống đó, có muốn chạy trốn cũng vô dụng, chỉ còn cách xác định rõ tình hình rồi dốc toàn lực xoay vần đến cùng. Lúc trước, anh nghe hắn nói, trong khoang bảo mật cất giữ con yêu quái được đào trong rừng rậm than đá lên, bất kỳ ai tiếp xúc với nó đều trở thành người thực vật không có sóng não. Sao trên đời lại tồn tại thứ như vậy được nhỉ? Thắng Hương Lân cũng thầm hoài nghi. Cô nhìn hàng chữ viết trên biển gắn ở cửa khoang, phủi lớp bụi phủ bên ngoài rồi quan sát thật kỹ. Sau khi nhìn rõ, cô cảm thấy hơi chấn động, dòng chữ ghi chú: “Dự đoán niên đại hình thành tiêu bản: trước đây…” Tư Mã Khôi đang áp sát mình soi đèn quặng vào trong khoang nghiêng ngó nhìn, nghe Thắng Hương Lân nói cái gì mà “trước đây”, anh cũng cảm thấy kỳ quái: “Bọn mũi lõ hành sự đúng là hàm hồ, sao lại đánh mốc thời gian như vậy, rốt cục định chỉ trước đây của lúc nào? Là trước ngày hôm qua, hay trước của một vạn năm trước?” Thắng Hương Lân nói: trong quá trình suy đoán niên đại cấu tạo địa chất, người ta thường sử dụng tọa độ thời gian. Điểm thời gian “trước đây” mà người Liên Xô đánh mốc, có lẽ không mang ý nghĩa trước đây như thông thường, bởi vì Einstein từng nói: “Trước đây không có thời gian”, cho nên tất cả khoảng thời gian không thể xác định đều được gọi chung là trước đây. Lúc này, Tư Mã Khôi mới nhớ lại: đúng là có thuyết như vậy thật. Quan niệm khoa học cận đại ủng hộ sự bùng nổ và hình thành lý luận về vũ trụ, vũ và trụ chính là tọa độ của thời gian và không gian. Điều này khá tương đồng với truyền thuyết “Bàn cổ khai thiên lập địa” trong quan niệm truyền thống của người Trung Quốc. Nghe nói trước đây, tất cả mọi vật chỉ là một mớ hỗn độn, trong đục bất phân, từ khoảnh khắc Bàn cổ sinh ra thời gian, thì thời điểm ấy được gọi là “giây số 0”, những sự việc xuất hiện trước tọa độ không giây đều không thể xác định được niên đại bởi khi đó thời gian vẫn chưa tồn tại. Hai người nghĩ đến tình tiết này, lòng bất giác rờn rợn. Chẳng lẽ tiêu bản cổ sinh vật mà chuyên gia Liên Xô đào được trong rừng rậm than đá, lại là con quái vật nào đó tồn tại ở tận cùng thời gian? Cho dù không phải vậy, thì nó vẫn rất cổ xưa, cổ đến mức không thể dùng tọa độ thời gian để định lượng, mà chỉ có thể suy đoán một thời điểm hết sức mơ hồ là “trước đây”. Lúc này, trong đầu Tư Mã Khôi đột nhiên lóe lên một suy nghĩ, anh nhớ lại trong cuốn cổ tịch biệt bảo nhặt được ở Hắc Môn có mấy bức vẽ rất thần bí ly kỳ, nên căn bản không thể lĩnh ngộ được nội dung sâu xa của nó. Bức tranh thứ hai vẽ hai căn phòng lồng vào nhau. Trước đây, anh cứ nghĩ rằng đó là gian phòng kết cấu kép, nằm trong trạm thám trắc trung tâm, nhưng bây giờ nghĩ lại thấy dường như không phải vậy. Gã kỹ sư vật lý thăm dò Điền Khắc Cường tự xưng số hiệu của mình là “căn phòng số 86”, hắn lại mang dị tướng của cặp song sinh ký sinh. Chẳng lẽ căn phòng kép mà quyển sách đó mô tả, chính là để ám chỉ người này sao? Đồng thời cũng dự báo trước nguy hiểm thứ hai mà đội thám hiểm phải đối đầu? Lời tiên đoán như đúng mà lại như không, càng nghĩ càng rối rắm. Cuốn sách đó có phải của Triệu Lão Biệt để lại không? Gã biệt bảo chết trong Hắc Môn rốt cục là ai? Thắng Hương Lân thấy khu vực xung quanh vẫn yên ắng như tờ, thì nghi hoặc trong lòng càng mạnh hơn, cô nhỏ giọng nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Bất kể khoang bảo mật cất chứa thứ gì, thì nó đều vượt xa phạm vi nhận thức của tôi và anh, chỉ e nguy hiểm đang rình rập và sắp bùng nổ đến nơi. Cái nhà kho này là gian mật thất được hình thành từ nhiều kết cấu dầm hộp xi măng hạng nặng. Cho dù trong này có nổ súng, thì bên ngoài vẫn không nghe thấy tiếng gì. Chúng ta phải mau chóng rời khỏi đây, quay trở về phòng cung ứng điện, thông báo cho anh Hải và đội trưởng Hà biết mới được.” Tư Mã Khôi định thần lại, và trấn an Thắng Hương Lân: “Cô đừng nghe gã Điền Khắc Cường đó nhát ma, bản thân gã chỉ còn non nửa cơ thể, rời khỏi cơ thể người thực vật bị chết não kia, thì cùng lắm cũng chỉ sống thêm ba bốn ngày nữa là cùng. Khi nãy hắn còn tự cắn đứt động mạch cổ tay, giờ này chắc chắn đã ngỏm rồi, còn giở được trò gì nữa chứ? Tôi chưa tận tay phanh thây hắn ra làm trăm mảnh, là coi như tính rẻ cho cái mạng chó của tên ác tặc đó đấy.” Thắng Hương Lân thở dài: “Lòng dạ gã đó quá nham hiểm, ngay cả thân thể của chính mình mà còn nhẫn tâm băm cho nát vụn, đúng là khiến người ta nghĩ mà sởn hết cả gai ốc. Nhưng tôi cảm thấy thứ đáng sợ thực sự, vẫn là con quái vật mà người Liên Xô đào được trong rừng rậm than đá. Anh có nhớ chiếc điện thoại thạch từ nối liền với đường dây màu trắng không?” Tư Mã Khôi gật đầu đáp: “Hình như trong đường dây đó có ma, nhưng đến tận bây giờ, chúng ta vẫn chưa tìm thấy điểm bên kia của đầu dây.” Thắng Hương Lân chỉ tay về phía khoang bảo mật im lìm lạnh lẽo nằm ngay sát cạnh. Bây giờ, cô đã phát hiện giọng nói nghe được qua máy điện thoại Aφ53, xuất phát từ chính sinh vật cổ đại đang ngủ say trong lớp vỏ than đen ngòm kia. Tư Mã Khôi lặng người mất một lúc, anh đang định hỏi lại thì thấy một luồng sáng trắng rất chói mắt, rồi mọi thứ phía trước đột nhiên sáng bừng, thì ra chiếc máy phát điện công suất cao đã phục hồi trạng thái làm việc, đèn báo khẩn cấp trong phòng soi chiếu khắp nơi. Anh mừng thầm: “Đúng lúc lắm”, rồi lập tức cùng Thắng Hương Lân chạy đến cửa sổ quan sát nghé mắt vào trong. Trong khoang bảo mật không lắp đèn chiếu sáng, hai người nhìn qua ô cửa quan sát, chỉ thấy nơi sâu nhất vẫn tối đen, thi thể gã Điền Khắc Cường nằm rạp trên mặt đất, những vết máu loang lổ xung quanh, còn trong bóng tối kia dường như có một vật thể giống xác ve sầu bị khô hoá; huyết dịch của thi thể chảy đến lớp biểu bì khô vàng, tựa hồ đều bị hút sạch rồi thẩm thấu vào bên trong. Do phần lớn cơ thể của vật thể đó vẫn ẩn trong bóng tối, nên không nhìn rõ được đường nét hình dạng của nó, nhưng một điểm có thể khẳng định chắc chắn, nó tuyệt đối không phải tiêu bản lõi đá ở tầng quặng dưới lòng đất. Tư Mã Khôi định thần lại nhìn thì không thấy thi thể của “Căn phòng số 86” đâu nữa, trên mặt đất chỉ còn trơ lại những vết máu. Anh thầm thất kinh, bố mày mới chỉ chớp mắt một cái, sao thi thể trong khoang bảo mật lại biến mất được nhỉ? Dường như nó bị kéo vào bóng tối chỉ trong khoảnh khắc rất ngắn ngủi, đúng là, mả bà nó, gặp ma thật rồi, thứ kia rốt cục là cái gì vậy? Có điều nó đã có hình có chất, lại còn bị nhốt trong khoang bảo mật kiên cố như vậy, thì chắc cũng không thể trốn ra ngoài được. Lúc này đèn báo khẩn cấp trong phòng lại chập chờn lúc sáng lúc tối như thể điện áp không ổn định, sau đó bùng lên như một quả cầu lửa, cùng lúc đó ánh điện đột nhiên tắt lịm. Tư Mã Khôi vốn định ở lại để tiếp tục xác minh sự việc, bởi vì một nguy hiểm đã biết rõ thì bao giờ cũng dễ đối phó hơn nỗi khiếp sợ chưa biết; nhưng với cục diện hiện giờ thì kế hoạch ban đầu, bảy tám phần đành hủy bỏ. Anh vẫy tay gọi Thắng Hương Lân: “Mau rút thôi!”. Thắng Hương Lân níu anh lại nói: “Không kịp nữa rồi”. Tư Mã Khôi thấy cánh cửa vẫn đóng chặt, chỉ có không khí u tối là đè nén nặng nề hơn ban đầu rất nhiều, chỗ nào cũng đầy sự im lặng chẳng lành. Anh lên quy lát khẩu súng trường trong tay, soi đèn quặng tứ phía, nhưng không nhìn thấy hiện tượng nào bất thường, bèn quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Cô phát hiện ra tình hình gì khác thường sao?” Thắng Hương Lân nói: “Đồng hồ của tôi đã ngừng chuyển động, thời gian bây giờ là mười hai giờ đúng, kim giờ kim phút và kim giây, hoàn toàn chụm thành một đường”. Tư Mã Khôi lập tức móc chiếc đồng hồ trong túi ra xem, phát hiện thời gian trên mặt đồng hồ đã dừng lại tại điểm mười hai giờ. Anh thực sự cảm thấy kinh ngạc khó nói thành lời. Tuy là người rất giỏi tùy cơ ứng biến, nhưng chưa bao giờ anh thử tưởng tượng thời gian ngưng trệ sẽ là trạng thái như thế nào. Trong ý niệm của anh, thời gian giống như một dòng sông chảy êm đềm, làm sao nó có thể ngưng tụ bất động được? Thời gian của chúng ta bắt đầu ngừng trôi từ khi nào vậy? Thắng Hương Lân biết sự lý giải của Tư Mã Khôi về thời gian cơ bản không đúng lắm. Thời gian không phải dòng sông êm đềm, nó cũng không phải không có khả năng ngưng tụ bất động. Thời gian không phải là hằng định, mà có thể co giãn tùy thuộc vào hệ quy chiếu. Bản chất của thời gian chỉ là một tham số của sự kiện vận động, không có sự kiện sẽ không có sự tồn tại của thời gian. Giờ đây chúng ta vẫn có thể mặt đối mặt nói chuyện, xem đồng hồ, chứng tỏ sự kiện vẫn đang diễn ra. Tư Mã Khôi càng thấy khó hiểu, nếu sự kiện đã xảy ra bình thường, thì thời gian cũng phải chuyển động mới đúng, nhưng sao hiện giờ thời gian hiển thị trên mặt đồng hồ lại dừng lại? Tuy anh hiểu rất mơ hồ về điều này, nhưng lại biết rõ ràng hiện tượng kinh dị đến cùng cực đang diễn ra kia, chắc chắn có liên quan đến sinh vật cổ xưa nằm ẩn mình trong bóng tối. Nếu không nhanh chóng tìm ra lời giải về thời gian này, thì đừng mong sống sót rời khỏi trạm thám trắc trung tâm.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi chín: Cơn ác mộng không động


    Tướng thuật Kim Điển gia truyền của Tư Mã Khôi có thể phân biệt vạn vật trong cõi trời đất, duy chỉ không nhắc đến thời gian. Lúc này, nghe Thắng Hương Lân nói thời gian căn bản không phải bất kỳ loại vật chất nào, mà chỉ là tham số vận động của sự kiện, thì Tư Mã Khôi mới giác ngộ. Phải chăng thứ bị con quái vật trong khoang bảo mật bóp méo, không phải thời gian mà chính là sự kiện? Thắng Hương Lân nói: “Tôi cũng không rõ chuyện này rốt cục là sao, nhưng sau khi “Căn phòng số 86” tự sát, chắc chắn sẽ có biến cố không thể ngờ tới xảy ra trong căn phòng biệt lập này.” Tư Mã Khôi thấy xung quanh yên ắng đến khó hiểu, sự im lìm này khiến người ta càng lúc càng cảm thấy bất an. Cái gọi “sắt sợ rơi vào lò, người sợ rơi vào tròng”, chính là để chỉ trong tình trạng mọi thứ đều thuộc phạm trù chưa biết, nên con người rất khó đưa ra sự lựa chọn chính xác. Anh vốn không để tâm đến chuyện sống chết, nhưng bây giờ thân mang trọng trách, anh chưa muốn mình phải về bên kia thế giới điểm danh với Diêm Vương một cách vô giá trị như thế. Bởi vậy, khát vọng sống trong anh trỗi dậy cực kỳ mãnh liệt. Tư Mã Khôi nghĩ: bắt tay hành động vẫn tốt hơn ngồi yên chờ chết, nên anh nói nhỏ với Thắng Hương Lân: “Cô nhớ bám sát theo tôi, chúng ta phải rút ra chỗ cánh cửa sắt trước đã.” Thắng Hương Lân gật đầu một cái, hai người liền lao về phía cửa kho theo đường cũ. Đợi khi sờ thấy bức tường xi măng trong bóng tối, hai người lại tiếp tục lần tìm ra hai đầu, nào ngờ không thấy cánh cửa sắt đâu cả, mà chỉ sờ thấy bề mặt tường thô ráp, kiên cố và lạnh lẽo trải dài đến vô tận. Họ lại rọi ánh đèn quặng gắn trước mũ bấc Pith Helmet lên trên, nhưng cảnh tượng nhìn thấy khiến họ càng thêm hoảng sợ, nơi tận cùng của chùm sáng chỉ là một màn đêm đen đặc, hoàn toàn không thấy trần nhà – vốn cách mặt sàn rất thấp, đâu cả. Tư Mã Khôi há hốc mồm ngạc nhiên, anh chửi thề: “Con bà nó! Trúng tà rồi!” – đầu tiên là thời gian trên mặt đồng hồ ngưng trệ bất động, sau đó không gian trong phòng dường như cũng trở nên méo mó, tiếp sau đây sẽ là những việc quái dị gì nữa? Tư Mã Khôi bất lực, anh đứng tựa lưng vào tường, nhìn sang bên cạnh thấy thân thể Hương Lân khẽ run rẩy, thầm đoán: có lẽ cô đang rất sợ hãi, rốt cục cô không thể so sánh với những kẻ liều mạng từng tham gia đội du kích Cộng sản Miến Điện như anh được. Anh nhỏ giọng hỏi: “Cô sợ à?” Thắng Hương Lân trong lòng rõ ràng cũng hơi hoảng, nhưng vẫn lắc đầu, cô bảo Tư Mã Khôi: “Rất nhiều người thân của tôi đều bị chết dưới tay tổ chức ngầm Nấm mồ xanh. Tôi chỉ hận mình là phận nữ nhi, không có bản lĩnh trả mối thù lớn mà thôi.” Tư Mã Khôi nói: “Cô tuyệt đối không nên nghĩ như vậy. Những nhân tài được các vị lãnh đạo cao cấp bồi dưỡng như các cô, đều không phải hạng tầm thường. Thăm dò vật lý, thăm dò hóa học, mảng nào cô cũng biết. Các cô giống như bình trà trong máy bay – ở mãi trên cao, rồi trọng trách mai táng chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa phản cách mạng, cũng đang đợi các cô đến để hoàn thành. Còn bè lũ Nấm mồ xanh thì giống như loài gián sống chui lủi dưới cống ngầm hôi thối, nên kẻ thực sự cần cảm thấy sợ hãi phải là bọn chúng mới đúng. Chúng ta càng tiến gần đến bí mật trong kính viễn vọng Lopnor bao nhiêu, thì bọn chúng lại càng đứng ngồi không yên bấy nhiêu.” Thắng Hương Lân đáp: “Anh nói đúng lắm! Bất luận thế nào, chúng ta cũng không được dễ dàng từ bỏ, nếu không sẽ làm những người thân yêu của chúng ta đau lòng, còn kẻ địch thì hả hê đắc thắng.” Tư Mã Khôi trầm ngâm nói: “Nếu muốn sống sót rời khỏi đây, thì chúng ta bắt buộc phải làm rõ xem cảnh ngộ hiện tại thực sự là gì. Tôi thấy dường như chúng ta bị nhốt trong chiếc hộp thời gian và không gian méo mó. Không hiểu trong vô thức, căn phòng chứa tiêu bản dưới lòng đất đã xảy ra biến cố gì, nhưng việc này chắc chắn không thể xảy ra nếu ở ngoài đời thật. Đây đúng là một cơn ác mộng…” – Anh nói đến đây thì không khỏi hoài nghi cảnh tượng đang hiện ra trước mắt chỉ là ảo ảnh, bèn lấy tay tự véo má mình một cái, đau đến nỗi bai hết cả miệng. Anh lấy tay xoa má nói: “Chắc không phải ác mộng đâu.” Tư duy Thắng Hương Lân cũng chuyển động cực nhanh. Sau khi đã trấn tĩnh lại, cô ngẫm kỹ mọi sự việc phát sinh từ trước đến nay, dường như đã tìm thấy manh mối, cô nói với Tư Mã Khôi: “Có lẽ những gì chúng ta đang trải qua lúc này chính là một cơn ác mộng.” Tư Mã Khôi nói: “Tôi từng nghe người ta nói: ‘đồng sàng dị mộng’, chứ chưa bao giờ thấy hai người cùng nằm mơ một cơn ác mộng cả. Huống hồ trong cơn ác mộng tuy rằng chúng ta cũng sợ hãi, lo lắng, nhưng chắc chắn không thể có cảm xúc tri giác chân thực như thế này được.” Thắng Hương Lân nói: “Cơn ác mộng mà chúng ta đang trải qua, không phải do tự bản thân chúng ta tạo ra, mà là cơn ác mộng xuất hiện trong đầu sinh vật cổ đại đang nằm trong khoang bảo mật đằng kia.” Tư Mã Khôi thấy càng lúc càng không thể tưởng tượng nổi; trước đây có một câu nói cổ: “Điệp mộng Trang Chu vị khả thi”, ý nói: không biết có phải Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, hay là bướm mộng thấy hóa Trang Chu. Câu nói này có thể dùng để so sánh tính không xác định của sự thật, những thứ có thể nhìn tận mắt sờ tận tay, nhưng vẫn chưa hẳn đã chân thực đáng tin. Anh hỏi Thắng Hương Lân: “Cô căn cứ vào điều gì mà đưa ra phán đoán như vậy?” Thắng Hương Lân nói: “Tôi cho rằng tiêu bản trong khoang bảo mật rất có khả năng không phải bất kỳ sinh vật gì, bởi vì người Liên Xô đánh dấu phân loại số hiệu cho nó là nhóm: ‘lõi đá khoáng vật nguyên sinh’. Lúc chúng ta nhìn qua ô cửa sổ, đều cảm thấy có sinh vật đang nhìn thẳng vào mình trong bóng tối, và cả chuyện giọng nói ma quái trong chiếc điện thoại thạch từ nữa; kỳ thực, tất cả chỉ là sự phản xạ từ tiềm thức của chính mình.” Tuy Tư Mã Khôi là người rất nhanh trí, nhưng vẫn cảm thấy ý của Thắng Hương Lân rất khó hiểu: thứ cất chứa trong khoang bảo mật đã là tiêu bản lõi đá nguyên sinh, thì làm sao chúng ta lại có thể bước vào cơn ác mộng do nó tạo ra? Và sự phản xạ của tiềm thức cá nhân là gì? Thắng Hương Lân nói: đây là sự giải thích hợp lý duy nhất, bởi vì “Căn phòng số 86” đã tiết lộ một vài thông tin rất quan trọng, trong quá trình phân đội vật lý thăm dò, phát hiện thấy nó trong rừng rậm than đá, một vài thành viên đã gặp phải sự cố, trở thành người thực vật không có sóng điện não. Thật ra, bất kỳ sinh mệnh nào trên đời, dù lớn hay nhỏ, cũng đều có luồng điện sinh học, chỉ là mạnh hay yếu mà thôi. Ví dụ như con người, tần suất suy ngẫm tìm tòi vấn đề trong não càng lớn, thì dòng điện sản sinh ra càng mạnh. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của hoạt động sống. Trong khi đó, tiêu bản đang nằm ở khoang bảo mật, bản thân nó không hội tụ đủ cơ năng sinh mệnh, nhưng lại có thể thông qua luồng điện hút được từ các sinh vật khác, mà sản sinh hoạt động điện thần kinh. Đồng thời, nó đã thẩm thấu đến toàn bộ hệ thống thiết bị điện và đường dây dẫn điện trong trạm thám trắc trung tâm, rồi lấy đó làm mồi nhử hút các sinh vật gần đấy đến khoang bảo mật – chỉ có điều dòng điện này rất yếu, khó duy trì được lâu, vì thế khi đến lượt anh gọi điện thoại, thì không nghe thấy bất kỳ âm thanh gì nữa. Cuối cùng Tư Mã Khôi mới hiểu một chút ngọn ngành, anh nói: “Nói tóm lại, cô giải thích theo quan điểm phương Tây, còn tôi giải thích theo quan điểm phương Đông, nhưng xét về mặt bản chất thì hoàn toàn giống nhau, chỉ là góc độ nhìn nhận hiện tượng vừa kinh dị vừa đáng ngạc nhiên này khác nhau mà thôi. Tạo vật nguyên sinh mà người ta tìm thấy trong tầng quặng rừng rậm thân đá, tồn tại một ‘hồn ma’ bên trong. Có điều ‘hồn ma’ này không phải của bất kỳ sinh vật nào, mà phàm những ai chạm vào nó, người đó lập tức rơi vào trạng thái chết não. Theo cách nói cũ, hồn ma là điện khí, hồn kỳ thực là dòng điện rất nhỏ bé sản sinh trong não con người, không có luồng điện đó, con người cũng đồng nghĩa với đã chết. Bởi vậy hành vi hút điện sinh vật, hay nuốt chửng linh hồn con người cũng không có gì khác biệt. Trong thuật tướng vật, người ta gọi tạo vật nguyên sinh kiểu đó là địa hài, vân như xác ve, khô như xác rắn, là vật chí hung trên thế gian, tuy đã trải qua hàng ngàn vạn năm, nhưng vẫn không ai hiểu gì về nó cả.” Tư Mã Khôi là người nhìn nhận vấn đề rất thông suốt, anh ngẫm nghĩ địa hài có thể nuốt chửng luồng điện sinh vật trong não những người tiếp xúc ở cự ly gần, khiến đại não tử vong chỉ trong nháy mắt. Từ khi phân đội thăm dò vật lý đào được tiêu bản này giữa tầng quặng rừng rậm than đá, thì nó được chuyển vào khoang bảo mật đế quan sát thêm, nhưng không ngờ hoạt động điện thần kinh rất nhỏ của nó lại có thể gây nhiễu loạn đường dây điện thoại. Tiếc rằng người Liên Xô vẫn chưa kịp đưa ra bước xử lý tiếp theo thì thời cục đã thay đổi, họ đã phải rời khỏi kính viễn vọng Lopnor, mà cũng nhờ thế giáo sư Tống Tuyển Nông mới biết tin đồn “ma làm” trong máy điện thoại thạch từ Aφ53. Điều khiến Tư Mã Khôi thấy kỳ quái nhất là: tuy địa hài vô cùng đáng sợ, nhưng chỉ cần không tiếp xúc với nó ở cự ly gần thi sẽ không bị uy hiếp đến tính mạng, hơn nữa, bản thân nó chỉ có thể hút luồng điện sinh vật. Thế nhưng vì sao thi thể của “Căn phòng số 86” lại đột nhiên biến mất? Vì sao thời gian trên mặt đồng hồ lại dừng lại không chuyển động nữa? Vì sao không gian trong căn phòng này lại xuất hiện biến đổi? Những tình huống dị thường cực độ này dường như không phải luồng điện sinh vật có khả năng thay đổi được. Hai người đang hoang mang không nghĩ ra được kế sách gì, thì bỗng nhiên mặt đất dưới chân trở nên mềm xốp, rồi lặng lẽ sụt xuống không ngừng như cát lún. Tư Mã Khôi biết tình hình không ổn, bèn hét một tiếng, rồi trèo vội lên bức tường phía sau lưng. Từ khi tập tễnh biết đi, anh đã bắt đầu luyện tập chiêu: Bọ cạp đảo đầu leo tường, nên chỉ cần một khe gạch nhỏ đủ để mũi chân và đầu ngón tay có lực đẩy, thì anh có thể treo mình trên đó suốt một ngày một đêm. Thắng Hương Lân tuy cũng chưa hề học qua kỹ nghệ xuất chúng nào, nhưng thân thủ cũng rât nhanh nhẹn hoạt bát. Cô bám tay Tư Mã Khôi, mượn lực trèo lên chỗ nối với thanh dầm. Hai người trèo lên tường, soi đèn ra xung quanh, chỉ thấy mặt đất căn phòng cất chứa tiêu bản đã trở thành một hố động đen ngòm khổng lồ. Hai người bất giác rùng mình kinh hãi. Khi nãy Thắng Hương Lân vẫn chưa kịp giải thích cho Tư Mã Khôi một chuyện, bèn vội nói: “Tình huống chúng ta gặp phải bây giờ còn đáng sợ hơn sa lầy vào cơn ác mộng của tiêu bản sinh vật cổ, bởi vì cơn ác mộng giống như ảo giác, cuối cùng còn có thể quay trở về thực tại, nhưng chúng ta thì từ đầu chí cuối vẫn đang ở trong thực tại. Giờ đây khu vực xung quanh sinh vật cổ chắc chắn là động không đáy, nó được sản sinh do xung đột vượt quá phụ tải của dòng điện sinh vật. Bởi thế nên cơ thể gã Điền Khắc Cường mới đột nhiên biến mất, nói chính xác hơn là nó đã bị phân giải. Lúc này cái không động đó đang càng lúc càng phình to hơn.” Tư Mã Khôi nghe xong, bất giác hít ngược một ngụm hơi lạnh. Anh biết hai môn Cổ pháp biệt bảo và Tướng vật thực sự có rất nhiều điểm tương thông. Giờ đây nghĩ lại mới thấy, thì ra hành động quái dị nghiến răng cắn đứt động mạch của mình lúc trước của gã Điền Khắc Cường, không phải để kết thúc sinh mạng, mà rất có khả năng là hắn muốn lấy viên ngọc ba bảo ẩn trong cánh tay, đồng thời dùng nó để địa hài sản sinh ra “thực”, hay còn gọi là sự ăn mòn. Trong phạm vi phát sinh “thực”, tất cả định luật về thời gian và không gian đều mất đi ý nghĩa, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nó sẽ ăn mòn thế giới vật chất thành một khe nứt không đáy. Thời xưa, có rất nhiều môn phái tà giáo cho rằng: khu vực xảy ra xâm thực chính là cánh cổng thông tới thế giới u linh, kỳ thực thứ tồn tại bên trong con đường đó chỉ có hư vô. Lúc đầu, giáo sư Tống Tuyển Nông từng nói với Tư Mã Khôi: người đời lấy vật chất để xác thực, nhưng trong thế giới vật chất lại tồn tại ba loại động, thần bí nhất là hắc động hay còn gọi hố đen vũ trụ, nó là một lực lượng vật chất có khối lượng và thể tích cực kì lớn, lớn đến nỗi lực hấp dẫn của nó làm cho mọi vật thể, thậm chí cả ánh sáng, không thể nào thoát ra được sau khi đã bị nó hút vào; vì vậy người ta không thể quan sát được bất cứ vật thể nào sau khi nó bị lọt vào lỗ hổng này. Tiếp đến là bạch động, đó là cực đối lập và hoàn toàn khác với hắc động, nó là một loại tồn tại phi vật chất, cự tuyệt bất kỳ sự xâm nhập nào. Cuối cùng là không động, mật độ không gian bên trong của nó chỉ bằng 1/25 môi trường bình thường. Có lẽ “thực” được đề cập tới trong cổ lý tướng vật chính là không động mà giáo sư và Thắng Hương Lân vừa nhắc đến. Hai người cũng không ngờ gã Điền Khắc Cường lại nham hiểm đến thế, để bảo vệ bí mật của Nấm mồ xanh, hắn sẵn sàng trả giá bằng cả tính mạng của mình, muốn mượn sức mạnh của không động đáng sợ, khiến đội thám hiểm và cả trạm thám trắc trung tâm trong kính viễn vọng Lopnor biến mất một cách triệt để. Tư Mã Khôi liên tiếp nghĩ ra mấy kế sách, nhưng đều cảm thấy vô nghĩa trước hoàn cảnh hiện tại. Anh thầm nghĩ: “Phen này đúng là trở thành con diều đứt dây mẹ nó rồi, đừng hòng quay đầu trở về được nữa”. Cùng lúc đó, bức tường xi măng mà hai người đang bám cũng bắt đầu phân rã, lặng lẽ tan chảy trong bóng tối mênh mông.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 5: Cách vỏ trái đất mười ngàn mét - Hồi một: Kình thép


    Tư Mã Khôi nhìn bức tường bắt đầu phân rã, bèn bảo Thắng Hương Lân leo sang mặt bên cạnh lẩn trốn. Hai người soi đèn quặng xuống dưới, thấy sàn căn phòng xoáy lún giống như con quay, tất cả vật chất đều bị không động phân giải thần tốc, khoang bảo mật dưới đáy hố không tồn tại nữa, chỉ còn mẩu lõi đá giống như xác ve khô, to như cái cối xay. Nó đang ùng ục chảy ra thứ nước màu vàng. Ven rìa hố sụt lún là cơn lốc bụi đen mịt mùng cuốn như hốc xoáy. Cảnh tượng này rất giống với hố bom hạt nhân được hình thành sau khi phát nổ. Tư Mã Khôi thầm thất kinh, anh hỏi Thắng Hương Lân: “Tôi chỉ nghe nói trong thế gian có ‘thực’, nhưng không biết rơi vào ‘vùng thực’ sẽ có kết quả gì? Tôi thấy tình hình bây giờ dường như không phù họp với định luật vật chất lắm thì phải.” Thắng Hương Lân đáp: “Mật độ trong không động chỉ bằng 1/25 môi trường bình thường; nếu vật chất là chân thực, thì không động giống như hư vô phủ xóa chân thực, rơi xuống đó còn có thể có kết quả gì được nữa chứ?” Thực ra ngay cả giáo sư Nông địa cầu cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy không động, cho nên nhận thức của Thắng Hương Lân đối với nó cũng dừng lại ở bề mặt lý luận mà thôi. Chỉ biết địa hài là loại vật chất đặc biệt, giá trị lớn nhất của hoạt động điện thần kinh trong cơ thể nó có thể lên tới mười mấy vôn, trong khi điện áp tế bào não người bình thường là 0,07 vôn, còn viên nhục ngọc giấu trên cơ thể gã Điền Khắc Cường – lại được nhiều đời biệt bảo nuôi dưỡng hàng ngàn năm, thì không thể luận bàn theo lẽ thường được. Nên một khi hút luồng điện của nó, thì cơ thể địa hài sẽ xảy ra hiện tượng điện mức vượt quá phụ tải, dẫn đến việc ăn mòn không gian xung quanh, đồng thời ăn mòn cả chính nó; mãi cho đến khi lõi đá – giống như xác ve ấy, phân giải triệt để, thì toàn bộ quá trình ăn mòn mới dừng lại. Nhưng địa hài vốn là thứ còn sót lại từ khi thiên địa còn chưa phân chia rõ rệt, mật độ của nó lớn đến khiếp người, trong khi tốc độ phân rã trong không động lại diễn ra chậm hơn tốc độ phân giải của vật chất phổ thông ở môi trường bình thường rất nhiều, nên đợi nó hoàn toàn biến mất thì cả trạm thám trắc trung tâm, được làm bằng bê tông cốt thép này cũng bị xóa số triệt để khỏi thực tại. Tốc độ ăn mòn của không động càng lúc càng nhanh, hai người chưa kịp nói thêm câu gì, chỉ không ngừng di chuyển sang khu vực an toàn hơn, bỗng họ chợt cảm thấy một lực hút rất mạnh, hút chặt hai người xuống dưới, nhưng bên tai vẫn hoàn toàn yên ắng, dường như không một âm thanh nào tồn tại trong không động vậy, hai người dựng đứng chân tóc, tay chân bắt đầu mềm nhũn. Tư Mã Khôi định liều mình một phen, anh quay sang nói với Thắng Hương Lân: “Cho dù bây giờ chúng ta có tìm thấy cửa ra của nhà kho, thì e rằng cũng không kịp rút khỏi trạm thám trắc trung tâm nữa rồi. Nghe nói, ‘thực’ xuất hiện theo hình xoắn ốc, càng tiếp cận gần khu vực trung tâm thì lại càng an toàn. Tôi thấy phần chính giữa không động không có sương đen…” Chưa đợi Tư Mã Khôi nói xong, Thắng Hương Lân đã hiểu ý, cô vội can ngăn: “Anh không thể xuống đó được, vì chỉ cần chạm vào nó sẽ lập tức mất sóng não, và trở thành một cái xác vô tri giác.” Tư Mã Khôi nói: “Cái thứ này cũng không phải không có nhược điểm gì, chẳng qua cũng chỉ biết hút luồng điện sinh vật thôi mà. Lúc đầu, người Liên Xô vẫn có thể đào nó ra khỏi tầng quặng rừng rậm than đá đấy thôi!” – Anh càng nghĩ càng căm hận: “Tiên sư tám đời thằng Điền Khắc Cường, nó dám bắt ông Khôi trở thành thằng trộm vô văn hóa, bố mày tuy chưa đi học ngày nào, nhưng cũng biết thế nào là vật cách điện đấy.” Năm đó, lúc Tư Mã Khôi còn ở Miến Điện, cũng chính là thời kỳ chiến tranh Việt Nam đang diễn ra ác liệt nhất, ngồi bất cứ chỗ nào có thể nghe được tình hình chiến sự ở Việt Nam, trong đó có một câu chuyện rất ly kỳ. Chuyện đồn rằng: người Mỹ khi đó rất hứng thú với vật thể lạ bay, không chỉ chính phủ và quân đội rất quan tâm đến nó, mà ngay cả thường dân bách tính cũng rất thích bàn luận về chủ đề này. Họ đều cho rằng UFO thường xuất hiện vào ban đêm, chuyên bắt cóc những công dân Mỹ vô tội về hành tinh của chúng để làm thí nghiệm – có lẽ người Mỹ cũng thích buôn chuyện ồn ào, và kết quả là tin đồn thổi bùng lên khắp nơi, rất nhiều người tin đĩa bay có thật bèn nghĩ cách bảo vệ bản thân. Ví dụ như họ đội thiết bị che chắn trên đầu để UFO không do thám được sóng điện não của mình đang hoạt động. Thậm chí quân Mỹ tác chiến ở Việt Nam, còn tin rằng tình huống này thường xuyên xảy ra, bởi vậy bọn họ không quản ngại thời tiết nóng ẩm oi bức, mà thường lót thêm giấy thiếc cách điện bên trong mũ, để đề phòng sự tấn công của một thế lực mà họ cho là còn khó đối phó hơn cả bộ đội Việt Nam, đó là người ngoài hành tinh. Tất cả những câu chuyện xuất quỷ nhập thần, huyễn hoặc tà mị đó, rất khó nói rốt cục chuyện nào là thật, chuyện nào là giả. Có điều, thiết bị che chắn sóng não – mà người Mỹ sử dụng, cũng không phải những chất cách điện phổ thông. Lúc trước Tư Mã Khôi đã giở hồ sơ sự cố trong mật thất, phát hiện số người bị chết não bất ngờ trong rừng rậm than đá cũng chỉ có một nhóm duy nhất mà thôi. Người Liên Xô chắc chắn đã áp dụng biện pháp đặc biệt nào đó, mới có thể khai quật thành công con yêu quái trong tầng quặng; biện pháp ấy rất có khả năng chính là lợi dụng thiết bị phòng chống hóa chất để cách điện một cách hiệu quả. Tư Mã Khôi mò mẫm lôi thiết bị máy thở chống hóa chất kiểu mang cá mập trong ba lô ra, thầm nghĩ: “Có thằng cha này chụp lên đầu, có lẽ sẽ phát huy được tác dụng cách ly sóng điện.” Thắng Hương Lân níu Tư Mã Khôi nói: “Anh đừng cố, nếu chưa chắc chắn. Địa hài là vật chất cổ đại xuất hiện từ niên đại trước đây, đã trải qua vô số đại nạn đại kiếp trời tru đất diệt, thủy hỏa đều không thể xâm hại được nó, thì sau khi anh xuống đó hiện sẽ diệt nó bằng cách nào? Huống hồ, tuy năng lượng điểm trung tâm của không động tương đối yếu, nhưng lại có một lực hút vô hình rất khủng khiếp, nhất định dưới đáy của nó sẽ hình thành giếng trọng lực, cơ thể bằng da bằng thịt như chúng ta thì làm sao có thể chịu đựng được?” Lúc này, một cái giá thép rất lớn đang đứng sừng sững trên mặt đất, bỗng đổ rầm xuống bức tường. Tư Mã Khôi nghe hơi gió dữ sau lưng, vội vàng né sang bên cạnh. Cùng với độ nghiêng của giá thép chứa đầy tiêu bản lõi đá khoáng vật, những hòn đá đựng bên trong cũng rào rào rơi xuống, trong đó có một tầng đựng mấy lõi đá tinh thể – do thể tích quá lớn, nên bị mắc kẹt ở mé góc rìa. Dường như Thắng Hương Lân phát hiện ra điều gì đó, nên cô bất chấp cái giá sắt có thể bị hút xuống đáy động bất cứ lúc nào, bèn trèo từ trên tường xuống dưới, nhoài người nhặt lấy một viên kết tinh khoáng vật không màu, trông khá to. Tư Mã Khôi thông thạo thuộc tính vật chất, anh vừa nhìn đã biết ngay đó là hàn the, được khai quật trong địa tầng, nó rất thường gặp ở địa tầng khu vực lòng hồ khô cạn. Anh nghĩ thầm, sắp chết đến nơi rồi mà cô nàng còn xả thân nhặt mấy viên tiêu bản khoáng vật làm gì không biết? Nhưng liền đó nghĩ lại, anh lập tức hiểu ra: hàn the gặp nước sẽ tạo thành a xít đậm đặc, có thể thúc đẩy tốc độ phân rã của địa hài, đồng thời ngăn chặn sự ăn mòn của không động ra bốn phía xung quanh. Anh vội chạy đến giúp cô một tay. Hai người dựa vào vách tường, dùng chân đạp cái giá sắt nặng trịch ra ngoài, mấy viên hàn the thuận thế rơi xuống vùng trung tâm không động đang bị sương đen bao vây. Trong khoảnh khắc, mấy viên hàn the đã hòa tan vào dòng nước vàng dưới đáy động. Địa hài giống như xác ve khô, phân rã cực nhanh dưới tác dụng ăn mòn của axít bôric nồng độ đậm đặc, nên chẳng bao lâu, khối đá chỉ còn lại khúc bé tẹo như ruột côn trùng. Cùng với sự biến mất của không động, cơn lốc bụi đen ở gần đó cũng từ từ tản đi, diện mạo mặt sàn căn phòng hoàn toàn bị hủy hoại, giờ đây đã nối thông với tầng đáy của trạm thám trắc trung tâm, tạo ra một cái hố khổng lồ hình xoắn ốc, bê tông cốt thép bốn phía xung quanh đều méo mó biến dạng. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân lau mồ hôi lạnh trên trán, lòng thầm hiểu: lần này đúng là nguy hiểm đến cực điểm, nếu không kịp thời phát hiện ra hàn the, thì cùng lắm cũng chỉ mấy chục giây nữa, tất cả sẽ bị không động hư vô nuốt chửng. Hai người càng nghĩ càng khiếp đảm, vì nếu gã Điền Khắc Cường cứ lẩn vào khoang bảo mật, rồi lặng lẽ ra tay, thì có khi mọi người chết cũng không biết vì sao mình chết; may nhờ tâm lý lệch lạc của gã dị hình đó trước lúc lâm chung, lại cứ muốn mọi người phải lý giải được sự hy sinh của hắn vĩ đại đến nhường nào, nếu không hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi. Tư Mã Khôi vốn hơi e ngại việc giáo sư Nông địa câu cho Thắng Hương Lân gia nhập đội thám hiểm, vì người xưa thường có câu: “Ba quân mà có đàn bà, quân uy bất vượng họa đà kéo theo”. Tuy đây chỉ là quan niệm cũ, nhưng Tư Mã Khôi cứ thấy Thắng Hương Lân chẳng qua chỉ là cô nhân viên trắc họa, đã không có y thuật cao minh như Tuyệt thì thôi, lại cũng không phải hạng giặc đất trộm mộ giống Ngọc Phi Yến, nên cho cô đi theo bên mình chỉ tổ rước nợ vào thân. Thế nhưng trải qua tình cảnh thập tử nhất sinh vừa rồi, anh mới cảm thấy tầm hiểu biết của mình chưa chắc đã nhiều hơn người ta bao nhiêu, thậm chí có mặt còn thua xa, thế là anh bảo Thắng Hương Lân: “Bận này trở về nhà, tôi phải hiệu triệu hội Hải ngọng tích cực học tập theo tấm gương của cô, tranh thủ đẩy phong trào ‘Học tập, thi đua, đuổi kịp, giúp đỡ, vượt qua’(1) lên một tầm cao mới”. (1) “Học tập, thi đua, đuổi kịp, giúp đỡ, vượt qua”: là khẩu hiệu do nhà nước Trung Quốc đề ra vào đầu những năm 60, được đăng trên tờ Thạch Hóa. Khẩu hiệu này đã dấy lên cao trào mới trong thi đua lao động của nhân dân cả nước. Thắng Hương Lân lại cho rằng: kiểu người như Tư Mã Khôi, tuy rằng thân thủ đảm khí đều phi phàm nhưng phẩm chất và tư tưởng thì có vấn đề nặng, thích khua môi múa mép làm lệch lạc sự thật, ai mà biết được lúc này anh ta lại nghĩ ra trò quỷ gì nữa, bởi vậy cô không thèm để ý đến lời anh vừa nói. Hai người lo Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng gặp phải nguy hiểm, nên chỉ dừng lại thở dốc một lúc rồi vội tìm khe nứt giữa các dầm hộp xi măng, trèo ra khỏi căn phòng chứa tiêu bản. Khi lên đến gần phòng cung ứng điện ở tầng thượng, Tư Mã Khôi mới phát hiện hai người đó căn bản không hề hay biết sự cố vừa xảy ra ở tầng dưới, họ vẫn đang cắm cúi bên cỗ máy phát điện cấu hình Desire của Liên Xô. Hải ngọng tự nhận mình lành nghề, nhưng không ngờ lợn càng chữa càng què, thấy Tư Mã Khôi quay lại, bèn thoái thác nói: lúc trước tính toán không chu toàn, bây giờ mới thấy chí ít cũng phải mất năm tiếng nữa, mới khôi phục được hệ thống điện. Nhân lúc Tư Mã Khôi ra xem xét máy phát điện, anh quay sang thì thầm to nhỏ hỏi Thắng Hương Lân: “Sao hai người đi đâu mà lâu dữ vậy, thằng ôn Khôi có giở trò đồi bại gì ra với cô không? Nếu cô bị nó bắt nạt, thì cứ nói với anh Hải đây, thằng anh này sẽ đứng ra lo liệu cho cô”. Thắng Hương Lân đáp: “Cảm tạ sự nhắc nhở của anh vô cùng, nhưng nhân dân quần chúng bọn tôi đã sớm nhìn thấu bộ mặt phản động xấu xa tàn ác của anh Khôi từ lâu rồi”. Sau đó, cô thuật lại cảnh ngộ vừa gặp ở tầng dưới cho Hải ngọng và Lưu Giang Hà nghe một lượt, đồng thời đưa cho Lưu Giang Hà tập bảng kê điện mật đã bị cháy rụi mất một nửa, và hỏi: “Anh Khôi nói: có thể anh hiểu được mật mã liên lạc của lực lượng vũ trang Liên Xô những năm 50, vậy anh thử đọc xem có giải mã được không?”. Đội trưởng Lưu Giang Hà trước đây chưa bao giờ tiếp xúc với lĩnh vực này, nhưng trước khi tiếp nhận nhiệm vụ thám trắc kính viễn vọng Lopnor, anh chàng cũng đã tham gia khóa huấn luyện tăng cường hai tháng, tuy chỉ thuộc dạng “lâm trận mới mài gươm”, nhưng cũng coi là đã có sự chuẩn bị. Anh lập tức lôi một bản tài liệu và cây bút trong người ra, dưới ánh đèn quặng, chăm chú dịch từng chữ một trong tập bảng kê điện mật còn sót lại. Hải ngọng nghe kể dây dẫn điện ngầm đã bị không động phá hủy, thì biết máy phát điện có hồi phục lại cũng vô tác dụng, nên mặc kệ không làm nữa mà ngồi xuống bàn luận bước hành động tiếp theo cùng Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân. Tư Mã Khôi nói: “Tên ‘Căn phòng số 86’ bây giờ đã tiêu tan cả hài cốt, nên cuối cùng chúng ta cũng giải quyết được mối hiểm họa lớn nhất. Nhưng nhân viên mà Nấm mồ xanh cử đến liệu có phải chỉ có một mình gã Điền Khắc Cường hay không, thì chúng ta khó có thể phán đoán được, nói không chừng, kẻ địch tiếp theo sắp xuất hiện rồi cũng nên. Những nguy hiểm còn chưa biết vẫn tồn tại ở mọi chỗ mọi nơi, lần này thoát hiếm thực sự là dựa vào may mắn, nhưng lần sau chưa chắc đã gặp vận đỏ như vậy được đâu.” Hải ngọng nói: “Thế thì chúng ta càng không được mài sắc nhuệ khí của kẻ địch mà tự triệt uy phong của chính mình. Tớ thấy gã Điền Khắc Cường đó cũng chẳng có gì đáng gọi là quái dị cả. Năm đó, ở lâm trường núi Đông Bắc, từng có một gã thân hình rất khôi ngô tuấn tú đến đó làm công nhân đốn gỗ. Lúc thường anh ta vẫn cùng mọi người lao động, ăn uống, xuống sông tắm táp, chẳng khác gì người thường cả, chỉ duy có điều là ban đêm rất hay nói mê sảng. Trong trại gỗ, mỗi giường phải có bảy tám người ngủ chung, nửa đêm tối lửa tắt đèn, thì mọi người phải nghe một mình anh ta nói lảm nhảm luôn mồm, không ai hiểu anh ta nói gì, giống như bị ma nhập vậy, người nào cũng sợ hết vía, vả lại cho dù có bịt miệng, thì giọng nói cũng vẫn phát ra. Sau này mọi người mới tá hỏa, thì ra sau gáy gã đó còn có một cái đầu nhỏ, nó trốn biệt trong đám tóc. Nó có tóc xanh đen, mày thanh tú, trông cũng khá được mắt; hơn nữa trong mắt có con ngươi, trong miệng có lưỡi đàng hoàng. Ban ngày cái đầu to tỉnh táo thì cái đầu nhỏ đi ngủ, đêm đến cái đầu nhỏ mới mở mắt há miệng lảm nhà lảm nhảm nói chuyện. Trước đó, gã đó hoàn toàn không hề hay biết gì về điều này, cuối cùng anh ta tìm một thầy lang lấy que sắt nung làm nó bỏng chết, từ đó không còn xảy ra chuyện gì quái lạ nữa. Gã đó cũng đâu khác gã Điền Khắc Cường là mấy?” Tư Mã Khôi nói: “Tiên sư nhà cậu, giống với khác cái gì; thằng cha ‘Căn phòng số 86’ chẳng qua chỉ là một đặc vụ của Nấm mồ xanh được cài vào phân đội vật lý thăm dò thôi, thế mà chúng ta không những không thể vạch trần được thủ đoạn của gã, lại còn bị đánh cho thua to lỗ nặng. Tuy cách hành sự của gã rất quái dị, nhưng gã rốt cục vẫn là người sống, còn kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh thì tinh ranh như yêu quái, hoàn toàn khác với Căn phòng số 86. Chúng ta không thể dựa vào kinh nghiệm trước đây, để phán đoán những nguy hiểm có khả năng sẽ gặp sau này. Bây giờ đã không phục hồi được máy phát điện, cũng không rõ tình hình cụ thể ở nơi sâu nhất dưới kính viễn vọng Lopnor, chỉ biết cực vực là huyệt động ở giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, có lẽ nó nằm xung quanh đâu đấy, vị trí… cái gì mà điểm gián đoạn Moho, còn mọi tình trạng xảy ra trong lòng nó đến giờ vẫn là một ẩn số lớn. Chuyện hai mươi hai thành viên đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích một cách thần bí dưới lòng đất vào năm đó, và cả chuyện cứ cách 48 tiếng lại xảy ra một lần chấn động dữ dội, thì chúng ta đều chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Nhưng cho dù kính viễn vọng Lopnor có thông xuống địa ngục chăng nữa, thì chúng ta vẫn phải liều mình xuống đó thăm dò cho rõ mới được.” Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà nói với Tư Mã Khôi: bảng kê điện mật bị cháy không còn nguyên vẹn, hơn nữa lại là loại ám ngữ mật kép, phải mang về hậu phương đưa cho các chuyên gia thì mới có thể phân tích nội dung toàn vẹn. Hiện giờ, em chỉ giải mã được một câu liên tục xuất hiện nhiều lần trong văn bản, đó là: “Dưới lòng đất không có chùm sáng”. Hải ngọng nói: “Chú em đừng nói nhảm nữa! Dưới lòng đất đến một tia sáng còn chẳng có, chứ nói gì đến cả chùm sáng”. Tư Mã Khôi phát hiện sắc mặt Lưu Giang Hà có vẻ khác lạ, bèn chặn Hải ngọng lại, hỏi tiếp: “Có phải chú em biết chuyện gì mà bọn anh chưa biết không?” Đội trưởng Lưu Giang Hà chần chừ mãi mới ấp úng nói: “Chùm sáng khả năng… khả năng là… của bọn Liên Xô.” Tư Mã Khôi tiếp tục gạn hỏi, mới phát hiện: anh chàng liên lạc quèn như Lưu Giang Hà không ngờ còn biết cả việc tàu ngầm động cơ diesel 615-Z số hiệu 107 của hải quân Liên Xô đã mang hai trái tên lửa ngầm R-19 ra biển vào cuối năm 1953; đồng thời vì thiết bị bánh lái hỏng hóc, nên sau khi ra khơi nó đã biến mất một cách hết sức kỳ lạ. Quân đội Liên Xô đã cố công tìm kiếm, nhưng vẫn vô hiệu. Con cá kình bằng thép đó là chi đội tàu ngầm thứ 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, khả năng chạy liên tục trên biển là 11 ngàn hải lý, có thể lặn sâu 200 mét, động cơ chính gồm ba bộ động cơ diesel P37-D mỗi bộ 6000 mã lực, lượng thoát nước dưới mặt nước là 2475 tấn trên mặt nước là 1952 tấn, chiều dài 91 mét, chiều rộng 7,5 mét, kể cả thuyền trưởng thì trên tàu có tất cả 72 thành viên, trong trạng thái độc lập hoàn toàn, sức duy trì có thể kéo dài đến 53 ngày. Tên lửa ngầm do cục UKB-17 thiết kế, có mã hiệu Sunshine, nghĩa là chùm sáng, là hệ thống trợ lực bắn đạn đạo. Vào những năm 50, loại tên lửa này vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, thuộc hàng cơ mật quân sự cao độ. Tuy người Liên Xô luôn chiếm vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này, nhưng cùng với thời gian, loại tên lửa ngầm này đã nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cuộc chạy đua vũ khí chiến tranh đầy ác liệt. Năm 1955, phía Liên Xô căn cứ vào tin tình báo nhận được từ một số nguồn kênh đặc biệt, cho rằng tàu ngầm Z-615 bị mất tích có khả năng nằm dưới huyệt động kính viễn vọng Lopnor, nên hy vọng được hợp tác với phía Trung Quốc đã tiến hành khoan đào khai quật, thứ nhất là mong tìm thấy tên lửa ngầm, thứ hai là muốn thăm dò kết cấu địa chất thần bí trong cực vực. Điều kiện họ đưa ra là cung cấp toàn bộ thiết bị và đội ngũ chuyên gia, đồng thời trao đổi với phía Trung Quốc những kỹ thuật quan trọng, nhưng đoàn chuyên gia Liên Xô chưa tìm thấy mục tiêu đã định thì đã đột ngột rút về nước vào cuối năm 1958, động đạo kính viễn vọng Lopnor đã bị phá hủy. Kỳ thực, về mặt lý luận, cho dù lòng đất và đáy biển có thông nhau, thì chiếc tàu ngầm chỉ có động lực động cơ diesel Z-615, duy trì mức 11 ngàn hải lý, căn bản không thể xuất hiện trong lòng cực vực được. Phía Liên Xô chỉ căn cứ vào một số tin tình báo mơ hồ để đưa ra phán đoán, hơn nữa sự thật cuối cùng cũng chứng minh: đây là một phán đoán hoàn toàn sai lầm. Nhưng đến tận lúc này, ngoại trừ đội khảo sát liên hợp Liên Trung đã mất tích ra, thì chưa một ai tận mắt nhìn thấy: rốt cục trong cực vực Lopnor tồn tại thứ gì.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi hai: Minh cổ


    (1) Minh cổ: hay còn gọi là liên đại Hỏa Thành hay Thái viễn cổ, tiếng Anh là Hadean, là thời kì cổ xưa nhất trong lịch sử hình thành Trái Đất, khoảng 4570 triệu năm trước. Cấu tạo trái đất gồm 1. Crust: Lớp vỏ (địa chất) – 2.Upper Mantle: Quyển Manti trên – 3. Mantle: Quyển Manti dưới – 4. Outer core: Lõi ngoài – 5. Inner core: Lõi trong Tư Mã Khôi nghe xong cảm thấy rất kinh ngạc, những việc này ngay cả giáo sư cũng chưa chắc đã hiểu rõ, vậy mà sao anh chàng đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lại biết vanh vách như thế được nhỉ? Hải ngọng cũng rất rầu rĩ: “Anh đây nam chinh bắc phạt bao nhiêu năm, mà ngay cả cái vỏ tàu ngầm còn không biết trông nó ra sao, chứ nói gì đến các tính năng chiến thuật chi tiết của tàu ngầm Liên Xô. Không phải chú em là đặc vụ đấy chứ hả?” Đội trưởng Lưu Giang Hà thấy rõ sự nghi hoặc của mọi người, anh chàng cuống quýt giải thích: “Kế hoạch khoan thăm dò độ sâu kính viễn vọng Lopnor của Liên Xô chính xác là vì muốn tìm kiếm chiếc tàu ngầm động cơ diesel Z-615 mất tích đầy bí ẩn đó, thực ra 72 thành viên đi trên con tàu hoàn toàn không quan trọng, mà bí mật quan trọng đích thực chính là cỗ tên lửa R-19. Đây là cơ mật quân sự, thời đó rất ít người biết rõ nội tình, đến tận bây giờ cũng vẫn chưa đến kỳ hạn giải mã.” Trong số những người chấp hành nhiệm vụ thám trắc kính viễn vọng Lopnor lần này, chỉ những thành viên xuất thân quân nhân mới biết trước bí mật quân sự đó, và tiết lộ cho giáo sư Tống Tuyển Nông trong phạm vi thích hợp cho phép. Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà chỉ nói nguyên văn lại những gì mình được thông tin, điều có thể khẳng định chắc chắn bây giờ là: dưới cực vực không tồn tại chiếc tàu ngầm Z-615 của Liên Xô, bởi vậy tin tình báo này không còn ý nghĩa thực tế nữa, mà chỉ có tác dụng tham khảo. Tư Mã Khôi cố gắng gạn hỏi, cuối cùng cũng xác định tình hình đội trưởng Lưu Giang Hà nắm được vô cùng có hạn, xem ra muốn đạt được tiến triển mang tính thực chất, thì bắt buộc phải xuống tầng sâu nhất của kính viễn vọng Lopnor. Còn chuyện con tàu ma Z-615, chuyện đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích, hay long ấn triều Hạ lưu giữ trong mật thất tòa thành Nhện Vàng, đối với Tư Mã Khôi mà nói hoàn toàn không có gì khác biệt. Những ẩn số đó cũng giống Nấm mồ xanh, tuy đều thuộc vào phạm trù chưa biết, nhưng dường như đều có đoán định, toàn bộ những sự việc trên đều liên quan đến cực vực lún sâu giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất. Giờ đây, mọi người đều đặt mình ra ngoài vòng sinh tử, từ bỏ ý định phục hồi hệ thống cung cấp điện dưới lòng đất, cũng không còn bận tâm đến khoang giảm áp có thể cứu mạng cả hội nữa, tất cả chuẩn bị trực tiếp tiến vào động đạo giếng khoan dưới trạm thám trắc trung tâm. Tư Mã Khôi nhận định cực vực khả năng là vùng nước sâu, anh định vào trong kho kiếm mấy cái bình dưỡng khí và dụng cụ vượt sông, nhưng tìm khắp nơi không thấy, nên đành thôi. Mọi người thu xếp chỉnh trang lại hành lý xong đâu đấy, bèn tức tốc lên đường. Đường xuống động đạo phải đi qua mặt sàn tầng giữa bị không động ăn mòn, bức tường xi măng bị hủy hoại nghiêm trọng, nó rùng rình như muốn sập đến nơi; kết cấu chịu lực nội bộ của trạm thám trắc trung tâm mất trạng thái cân bằng, khả năng sẽ xảy ra hiện tượng sụt lở liên tiếp. Cả đội mạo hiểm tụt xuống gần chỗ đặt cầu trục treo ở tầng hầm, một lần nữa Tư Mã Khôi lại đưa mắt nhìn rìa mép hồ chứa nước cỡ lớn ở mặt cạnh, lúc trước còn thấy cái máng xi măng này quái dị vô cùng, nhưng bây giờ xem lại thì thấy nó gần giống cái kho chứa tàu ngầm. Có lẽ người Liên Xô dự định: sau khi tìm thấy tàu ngầm Z-615, thì sẽ tháo dỡ nó dưới lòng đất, rồi dùng cầu trục treo cẩu từng bộ phận vào nhà kho, đổ xi măng niêm phong triệt để, họ căn bản không định mang nó về nước. Công tác bảo mật của bọn mũi lõ đúng là làm chu toàn tận chân tơ kẽ tóc. Thắng Hương Lân nói: “Sự việc khả năng không đơn giản như anh nghĩ đâu. Nếu chỉ là tháo dỡ tàn tích chiếc tàu ngầm, thi vì sao họ lại phải xây hẳn hai cái máng xi măng to cỡ này? Mà bất kỳ cái nào cũng đủ chứa một cỗ tàu ngầm dài cả trên trăm mét ấy chứ.” Tư Mã Khôi nói: “Cô nói cũng phải, vì sao lại phải xây hai cái nhà kho to tổ bố như nhau vậy nhỉ? Lẽ nào người Liên Xô cho rằng dưới kính viễn vọng Lopnor có hẳn hai cái tàu ngầm chắc?” Hải ngọng nói: “Thế thì bọn mũi lõ cũng tham quá nhỉ, suốt ngày nghĩ cách ăn không của thiên hạ. Tàu ngầm chứ có phải cá kình hay chó chửa đâu, mà mất một lại tìm thấy hai được?” Tư Mã Khôi lắc đầu: “Chuyện này đúng là khó hiểu; căn cứ vào tin tình báo mà đội trưởng Lưu Giang Hà cung cấp thì dưới lòng đất căn bản không có tàu ngầm Z-615, nhưng phía Liên Xô quả thực lại nắm được vài tin tình báo khác, đồng thời còn sử dụng cả phương pháp viễn thám từ trường trong rừng rậm than đá để thám trắc kính viễn vọng Lopnor một cách chính xác, tinh vi nhất. Trộm nghĩ, thông tin xuất hiện khi đó nhất định phải đủ sức thuyết phục khiến các chuyên gia Liên Xô tin rằng chiếc tàu ngầm bị mất tích thực sự tồn tại dưới cực vực, nếu không, bọn họ đă không huy động sức người, sức của lớn đến thế. Mà cứ cho là tàu ngầm Z-615 quả thực bị một sức mạnh chưa biết nào đó đưa đến khu vực sâu hàng vạn mét dưới hoang mạc, thì nó cũng không thể đột nhiên phân thân thành hai chiếc được. Đây chính là điều khiến người ta cảm thấy khó tưởng tượng nhất.” Nếu dưới lòng đất không có con tàu đó, thì người Liên Xô đã phát hiện thấy vật thể gì trong quá trình quan trắc viễn thám? Hiện giờ hội Tư Mã Khôi căn bản vẫn chưa thể dự đoán được gì, chỉ đoán bừa hai máng xi măng to như cỗ tàu ngầm kia, chắc chắn có thể tích tương đương với vật tồn tại dưới cực vực. Lúc đó một mảnh tường từ trên cao ào ào rơi xuống dưới, đập vào cầu trục treo nát vụn, phát ra tiếng vọng âm ầm, đá bụi văng vào mặt đau rát. Tư Mã Khôi thấy sàn tầng trên sắp sụp đổ, chỉ sợ khối bê tông cốt thép nặng trịch đó đập vào người thì có mà nát bét như tương. Anh hét to giục mọi người nhanh chân hơn nữa, chạy nhanh đến nắp đậy của động đạo giếng khoan. Cái nắp này có kết cấu mẹ con, nắp to xuyên qua cầu trục treo, sáu nắp con ở ven rìa để chừa cho nhân viên chui vào, cái nào cũng đều có van bánh khóa chặt, nhiệt độ dưới lòng đất rất lạnh, nên bề mặt nắp đậy phủ một lớp tuyết trắng. Mọi người đeo găng tay cùng dồn sức quay van bánh, họ mở được nắp đậy kiên cố dày nặng bên trên ra, rồi bật đèn quặng và đèn các bua soi sáng bên trong, lần lượt từng người một chui xuống giếng khoan. Tư Mã Khôi đi trước dò đường, thấy lòng giếng được khoan đào bằng thiết bị khoan hạng nặng này rất rộng rãi, hướng chạy gần như dốc đứng, rất hiểm trở. Trong lòng động đạo sâu hun hút này còn phất phơ những bông tuyết lạnh, khí âm lạnh xuyên thấu xương tủy, quầng sáng của ánh đèn không vượt quá mười bước chân, bầu không khí ở đây ma quái khó lường, quay đầu lại nhìn thì thấy con đường phía sau đã mờ mịt xa khuất. Hội Tư Mã Khôi không biết động đạo này còn sâu bao nhiêu. Họ mò mẫm từ cầu thang sắt dựng sát thành giếng xuống dưới thêm một đoạn nữa thì phát hiện mặt bên cạnh có gian mật thất hình hộp, bên trong có máy điện thoại thạch từ nổi đường dây màu trắng, đường dây chạy liên tục xuống nơi sâu dưới động đạo. Ngoài ra, còn có một thiết bị tương tự rada, một máy phát sóng ngắn và một máy phát điện tay quay độc lập. Nơi đây dường như là khoang liên lạc trung chuyển, các đơn vị bên trên có thể cung cấp chi viện cho đội khảo sát liên hợp thâm nhập lòng đất từ điếm gác này. Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Nếu máy phát điện và các thiết bị trắc họa trong phòng còn hoạt động bình thường, thì có lẽ ta sẽ biết dưới lòng đất tồn tại thứ gì qua các số liệu hệ số phân cực thu thập được.” Tư Mã Khôi cũng thấy cần phải gắng hết sức có thể, thu thập những bí mật mà người Liên Xô đã thăm dò dưới kính viễn vọng Lopnor, thế là anh bèn bảo mọi người mau vào trong xem rõ tình hình. Hải ngọng xung phong đảm nhận việc kiểm tra máy phát điện tay quay, còn Tư Mã Khôi đến thẳng chỗ đặt máy điện thoại thạch từ, anh quay mấy cái nhưng không thể kết nối với đầu bên kia, xem ra trong kính viễn vọng Lopnor tổng cộng có hai đường dây màu trắng, một đường nối lên mặt đất, còn đường kia nối xuống lòng đất. Từ năm 1958, hệ thống đường dây này bắt đầu mất tác dụng hoàn toàn. Anh lại thấy kiểu dáng cái máy phát sóng ngắn rất kì lạ, bèn hỏi đội trưởng Lưu Giang Hà: “Bộ đội liên lạc bọn chú chắc biết thông tin sóng ngắn chứ hả, ở độ sâu mười ngàn mét dưới lòng đất, còn dùng được thứ đồ chơi này không vậy?” Lưu Giang Hà nói: “Loại máy phát sóng ngắn này không chỉ phát được thiên sóng, địa sóng mà còn có thể thu nhận tín hiệu sóng điện. Nhưng đơn vị liên lạc bọn em chưa bao giờ tiến hành diễn tập thông tin trong, địa động sâu đến mức này, cùng lắm chỉ dùng trong hầm phòng không cách mặt đất chừng hai mươi mét. Truyền dẫn địa sóng còn phải xem môi trường dẫn thế nào, nếu mức độ tiêu hao sóng điện của địa tầng quá cao thì cũng không thể sử dụng được loại máy này, nó còn không đáng tin cậy bằng máy bộ đàm không dây quang học của mình.” Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ đến sóng điện u linh trong tòa thành Nhện Vàng, anh cảm thấy người Liên Xô không phải vô duyên vô cớ mà mang máy phát sóng ngắn xuống lòng đất, trong đó tất có nguyên nhân của nó. Tư Mã Khôi bèn bảo Lưu Giang Hà cất vào ba lô, biết đâu có lúc phải dùng đến nó. Trong lúc hai người họ nói chuyện, Hải ngọng đã vận hành được máy phát điện, hai bóng điện khẩn cấp gắn trên trần nhà lập tức sáng bừng. Trong động đạo sâu không đáy này, điểm sáng yếu ớt đó chẳng khác nào ánh đom đóm trong vực sâu u tối, tuy vậy tinh thần mọi người cũng nhờ đó mà trở nên hưng phấn hơn rất nhiều. Hải ngọng nói: “Các cậu còn dám không tin tưởng tớ nữa ư? Cái máy phát điện cấu hình Desire đời cũ lúc trước chắc chắn bị bọn Liên Xô động tay động chân rồi, chứ nếu không dựa vào tay nghề của tớ, sờ mó một lúc kiểu gì mà chẳng chữa được?” Tư Mã Khôi chỉ mong mau mau đọc được mấy tờ biểu đồ viễn thám trong lòng cực vực; ngặt nỗi anh lại không biết sử dụng máy trắc họa, nên đành chăm chú đứng một bên ngó Thắng Hương Lân thao tác; chỉ thấy trong thiết bị trắc họa giống như rađa kia, hiển thị chi chít những đường đẳng sâu, ngoại trừ Thắng Hương Lân ra, thì ba người còn lại không ai hiểu nội dung của nó. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân chuyên tâm chăm chú nhìn vào thiết bị, hai mày nhíu lại, cũng không biết cô có tìm thấy kết quả gì không, anh không chờ được thêm, bèn hỏi: “Kính viễn vọng Lopnor xuyên vỏ Trái Đất này, rốt cục nhìn thấy cái gì vậy?”. Thắng Hương Lân đáp: “Dựa vào số liệu nguyên thủy thì chỉ lấy được một số thông tin rất hạn hẹp, nhưng tôi có thể khẳng định: khoang liên lạc lắp đặt máy móc trắc họa này, chắc chắn dùng để thám trắc địa hình, đồng thời họ sử dụng máy điện thoại thạch từ để chỉ đạo phương hướng vị trí cho đội khảo sát trong cực vực.” Cô lấy tập biểu đồ tìm thấy trong trạm thám trắc trung tâm mang ra đối chiếu, mới dần dần lần được chút manh mối: khả năng các chuyên gia Liên Xô đã suy đoán cực vực nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ, được hình thành do vụ nổ thiên thạch xảy ra từ thời minh cổ. Huyệt động này tách biệt với dòng nhiệt đối lưu trôi lên ở tầng quyển manti. Thông qua phương pháp viễn thám điện trường, họ chỉ thăm dò được một số rất ít tình hình trong lòng cực vực, phạm vi không vượt quá vài cây số, tức là cách rừng rậm than đá khoảng 1000 mét. Vì bên trong cực vực hoàn toàn trống rỗng, cho nên sóng từ do phương pháp viễn thám điện trường sản sinh, khó có thể lan truyền liên tục xuống dưới, nên tín hiệu phản hồi phần lớn là để trắng. Có điều, loại biểu đồ này đều đo chính xác theo đơn vị giờ, nghĩa là cứ cách một giờ lại tiến hành đo đạc một lần, nhưng không biết xuất phát từ nguyên nhân gì, mà căn cứ vào sự thay đổi khác nhau về thời gian, vẫn có một số ít tờ biểu đồ đường đẳng sâu thăm dò được phần đáy huyệt động. Theo số liệu phản hồi, thì dưới đáy động tồn tại hai khu vực có hàm lượng sắt vô cùng bất thường, nó giống như vật thể nào đó làm bằng sắt từ niên đại cổ xưa, có thể tích khổng lồ. Hình khối hai vật thể này tương tự nhau, có lẽ không phải tầng đá mỏ quặng, chúng nằm cách nhau tầm hai trăm mét, mỗi khối có thể tích tương đương với quy mô chiếc tàu ngầm Z-615, nhưng nhìn hình thù, chắc chẳn không phải tàu ngầm của Liên Xô mà nó giống với cái tai người. Biểu đồ số liệu hệ số phân cực rốt cục không phải ảnh chụp, lại thiếu rất nhiều tư liệu và thiết bị trắc họa cỡ lớn, nên Thắng Hương Lân khó lòng đưa ra các bước phân tích tiếp theo. Tư Mã Khôi lập tức nhớ đến mấy lời kể của lão Lưu Hoại Thủy, trong cuốn sổ mà giáo sư Thắng Thiên Viễn để lại, từng xuất hiện bốn chữ “Yêu nhĩ Lâu Lan”. Phải chăng bốn chữ đó chính là để chỉ hai vật thể cổ đại bằng sắt đang nằm trong cực vực này?. Giáo sư Tống Tuyển Nông và giáo sư Thắng Thiên Viễn đều chưa bao giờ trực tiếp đặt chân đến kính viễn vọng Lopnor, bởi vậy nội dung mà cuốn sổ đề cập tới có khả năng cũng chỉ phác họa ra hình khối một cách mơ hồ, hoặc mô tả trừu tượng giống như biểu đồ trắc họa mà thôi. Vì kính viễn vọng Lopnor nằm trong phần lãnh địa của cổ quốc Thiện Thiện, tức Lâu Lan trong lịch sử, hơn nữa vật thể sắt lại có hình dạng giống với tai người, nên giáo sư mới đặt tên cho khối sắt ấy bằng bốn chữ như vậy, nhưng có lẽ chính giáo sư cũng không hiểu sâu sắc lắm về nó. Tư Mã Khôi cảm thấy tình hình diễn biến vô cùng phức tạp, tuy đội thám hiểm đã vượt địa máng dưới di chỉ Hắc Môn, tiến vào được kính viễn vọng Lopnor, nhưng suốt dọc đường đi lại không hề phát hiện ra bất kỳ di tích lịch sử nào, vậy mà không hiểu sao mọi phân đội thám trắc đều phải mang theo nhân viên am tường địa lý Tây Vực cổ, chắc quá nửa là do hai khối vật thể – lai lịch không rõ ràng tồn tại dưới lòng đất kia. Có lẽ người thượng cổ đã để nó lại đó, nhưng anh nghĩ nát óc mà vẫn không thể nghĩ ra nó rốt cục là thứ gì. Mãi đến cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc mới kết thúc thời kỳ đồ đồng, niên đại sớm hơn nữa thì vẫn chưa xuất hiện kỹ thuật luyện sắt, còn nó hiển nhiên cũng không phải là tạo vật của thiên nhiên, vậy thì vì sao lại xuất hiện trong lòng cực vực không được nhật nguyệt soi chiếu đã hàng tỉ năm nay? Vì sao lịch sử không để lại bất kỳ ghi chép nào có liên quan đến nó? Vì sao đội khảo sát liên hợp tiếp xúc với nó đều một đi không trở lại? Nó có liên quan tới Nấm mồ xanh hay không? Vật chất hắc ám mà cả đội gặp phải trong động đá vôi, rất có khả năng chính là tro bụi được sản sinh do vụ nổ thiên thạch xảy ra từ thời minh cổ; có điều, chỉ nghe thấy người ta nói đến thời kỳ thái cổ và thời kỳ viễn cổ mà thôi, còn thời kỳ minh cổ rốt cục là bao giờ? Thắng Hương Lân cũng không hiểu chuyện này nhiều hơn Tư Mã Khôi bao nhiêu, chỉ biết minh cổ là thời kỳ sơ khai của thiên địa, lúc đó ánh sáng văn minh nhân loại có lẽ vẫn còn đang chu du nơi hắc động xa xôi.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi ba: Xuyên qua tầng không


    Tư Mã Khôi vốn cho rằng, tìm thấy biểu đồ thám trắc kính viễn vọng Lopnor là có thể biết tình hình cụ thể trong cực vực dưới lòng đất, nào ngờ sự việc càng lúc càng rắm rối phức tạp, hai vật thể bằng sắt khổng lồ rất cổ xưa tại sao lại xuất hiện ở độ sâu cách lớp vỏ cả mười ngàn mét? Điều khiến người ta khó lòng tưởng tượng nhất là: kết cấu của vật thể quái dị đó rất đơn giản, phán đoán theo số liệu phản hồi từ hệ số phân cực thì cùng lắm nó chỉ là hai thỏi gang cỡ lớn, chứ không phải bất kỳ loại máy móc thiết bị có kết cấu phức tạp nào, và cũng chỉ xuất hiện vào những thời điểm đặc biệt, còn kết quả mà các chuyên gia Liên Xô thu được từ bộ cảm sóng điện từ viễn thám thì hầu như trắng trơn không có gì. Thắng Hương Lân cũng không thể giải thích tình hình lúc này một cách tường tận, cô nhận định: “Nếu không tận mắt trông thấy, tận tay sờ thấy thì căn bản không thể lý giải được gì. Bây giờ có đưa ra bất kỳ suy đoán nào cũng là thiếu căn cứ và vô nghĩa. Giờ đây, thông tin mà chúng ta nắm được, không khác đội khảo sát liên hợp Liên Trung thâm nhập lòng đất mười mấy năm về trước là mấy, chỉ có điều trang thiết bị vật tư chẳng những kém xa họ, mà còn không nhận được sự chi viện, hỗ trợ từ hậu phương, cho nên hi vọng thành công càng nhỏ bé, mờ mịt. Nhưng không tìm ra đáp án các ẩn số cổ xưa vùi chôn dưới kính viễn vọng Lopnor, thì cũng đồng nghĩa không thể vạch trần chân tướng của Nấm mồ xanh. Từ phản ứng của tổ chức này mà phán đoán, thì phương hướng hành động của chúng ta cho đến thời điểm này là hoàn toàn đúng đắn.” Tư Mã Khôi tiếp lời: “Tuy chúng ta có rất nhiều điểm bất lợi, nhưng ưu thế cũng không ít. Các lực lượng vũ trang suốt dải Bắc Miến như quân phiệt, thổ phỉ, đội du kích, đều vì tiền mà bán mạng cho Nấm mồ xanh. Nước ta cũng liên tục tổ chức các cuộc tiễu trừ, thanh trừng, tóm cổ vô số bọn đặc vụ nằm vùng, nên những con cá lọt lưới như ‘Căn phòng số 86’ thuộc dạng thiểu số, bởi vậy phạm vi phương thức hoạt động của Nấm mồ xanh đã bị bó hẹp rất nhiều. Trong khi đó, chúng ta lại có sự hậu thuẫn vững chắc của hơn sáu trăm triệu đồng bào nông dân và tám triệu quân giải phóng.” Lúc này, Hải ngọng đã lục soát mấy góc chết trong khoang liên lạc, nhưng không phát hiện thấy gì. Sau khi mọi người chụp xong ảnh, thì thời gian có lẽ đã là nửa đêm. Thế nhưng ngày đêm dưới lòng đất sâu này hoàn toàn vô nghĩa, mọi người bèn quay lại chỗ cầu thang sắt trong động đạo, thấy phía dưới có một chiếc xe goòng chờ quặng vẫn nằm trên đường ray. Chắc nó được dùng để chuyên chở vật tư thiết bị xuống lòng đất, hoạt động theo nguyên lý trượt theo đường ray uốn quanh thang sắt để chạy xuống dưới, trong lòng goòng có phanh xe, lúc đi xuống thì không cần động lực, còn khi đi ngược trở lên lại phải nhờ sức người liên tục ép đòn bẩy xuống. Kết cấu của nó tuy đơn giản, nhưng vô cùng chắc chắn. Hải ngọng lên trước ngó, thấy phía dưới là động đạo sâu cả ngàn mét, lòng đất lại vô cùng lạnh lẽo, nếu lê từng nấc thang xuống dưới, thì khi nào mới đến được nơi tận cùng? Chi bằng cứ ngồi lên xe quặng trượt theo đường ray cho đỡ tốn công tốn sức, thế là anh tung người nhảy luôn vào trong. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân cũng là người ưa mạo hiểm, nên không kiêng kỵ gì, cũng lần lượt nhảy cả lên lòng xe goòng. Duy có anh chàng đội trưởng Lun Giang Hà là không thể khắc phục khỏi tâm lý sợ sệt không gian tối tăm chật hẹp, khi trước đứng trong khoang liên lạc, anh chàng phải gắng gượng lắm mới trụ được, còn lúc này lại phải ngồi vào xe chở quặng lạnh lẽo, nên hai hàm răng cứ va đập côm cốp không thể cưỡng lại, mồ hôi lạnh thì thi nhau túa ra. Anh chàng bấu chặt hai tay vào thành xe, không dám thả lỏng tí nào. Hải ngọng ngồi phía đầu xe bắt đầu thả phanh, chiếc xe rùng rùng rung lắc từng hồi, dần dần trượt xuống nơi sâu dưới động đạo. Vì thiếu biện pháp an toàn, nên anh cũng không dám lơ là, thỉnh thoảng lại hãm phanh giảm tốc độ, trượt từng quãng một, thấy tình hình vẫn tạm ổn định. Tư Mã Khôi nhìn Lưu Giang Hà ngồi trước mặt đang run lẩy bẩy, bèn vỗ vai anh chàng một cái: “Đồng chí đội trưởng ơi, anh thấy chú mày lật bà lật bật sắp rụng hết cả hào khí rồi đấy; theo đuổi sự nghiệp vĩ đại và hùng tráng mà thiếu hào khí thì coi sao được?” Đội trưởng Lưu Giang Hà căng thẳng quá độ, mỗi lần chiếc xe rung lên một chập là anh chàng lại cảm thấy sắp lộn cổ xuống vực sâu đến nơi, tim như trồi lên tận cổ họng, thở còn khó nhọc nói gì đến việc trả lời. Thắng Hương Lân trách Tư Mã Khôi: “Mọi người đã cố gắng hết sức rồi! Tại anh ấy bị áp lực tâm lý trong bóng tối thôi. Việc gì anh cứ phải chọc ngoáy nỗi khổ của người khác thế hả?” Tư Mã Khôi bào chữa: “Cô hiểu nhầm rồi, tôi chỉ có ý tốt thôi. Tôi đang định kể cho cậu ấy nghe một ví dụ điển hình có thật để khích lệ tinh thần chiến đấu ấy mà. Hồi đó, khi còn ở Miến Điện, nghe nói một số vùng rừng rậm nguyên thủy có rất nhiều loài chim hoang dã hiếm có, nhưng chúng không bao giờ bay ra khỏi rừng, mà trong rừng lại toàn rắn độc quái xà, nên ngay cả những thợ săn có kinh nghiệm nhất cũng không dám chui vào, bởi vậy người thường rất khó bắt chúng. Tôi để ý thấy một số người dân bản địa thường nhốt gà vào lồng chim, rồi treo lơ lửng trên cao. Hóa ra gà bị nhốt trong lồng chim lâu ngày cũng phát đần, mà cũng phải thay đổi tập tính cũ. Chúng không gáy nữa mà bắt đầu học hót giống chim, giọng hót nghe rất kì quái. Thợ săn bản địa thường xách lồng gà biết bắt chước tiếng chim ra ngoài bìa rừng, lợi dụng tiếng hót giả lừa bầy chim hoang dã ra khỏi rừng già để dễ bề bẫy bắt. Và thực tế là họ đã bắt được rất nhiều loại chim quý hiếm bằng cách này đấy!” Thắng Hương Lân thắc mắc: “Ví dụ điển hình gì mà vớ vẩn thế không biết!” Hải ngọng vội tiếp ngay lời, quay sang giải thích cho Thắng Hương Lân: “Ý thằng Khôi muốn bảo: ngay cả gà còn bắt chước hót được giống chim, thì con người có khó khăn nào mà không thể khắc phục nổi? Đồng chí đội trưởng của chúng ta ạ, chú em cũng nên thử tự đột phá điều kiện bẩm sinh của bản thân xem sao….” – Anh vì chỉ mải nói chuyện, nên quên để ý chiếc xe, đột nhiên thấy xe rung chuyển dữ dội, nó trượt vèo vèo xuống phía dưới không tài nào khống chế nổi. Anh vội vàng dùng hết sức nhấn phanh trong tiếng cọ sát ken két đến inh tai nhức óc của kim loại, thành đường ray bắn lên những hoa lửa màu sáng xanh. Phanh xe để lâu ngày trong động đạo nên đã bị ôxi hóa, đã bắt đầu lỏng lẻo han rỉ, phần phanh xe còn sót lại không đủ giúp chiếc xe giảm tốc. Tư Mã Khôi chửi rủa: “Đúng là con mẹ nhà nó, đen gì mà đen cả tám đời tổ tông! Các đồng chí phải thắt chặt dây an toàn nhé, chúng ta sắp sửa trải qua một đêm quay cuồng rồi đấy!”. Lời chưa nói dứt, chiếc xe mất kiểm soát như con ngựa hoang đứt dây cương, lao ầm ầm xuống vực, trong chớp mắt đã lượn vòng mấy chục vòng quanh động đạo. Trong lòng xe nào có dây an toàn, nên mọi người chỉ còn biết gắng sức bám chặt vào thành để không bị hất văng ra khỏi xe mà chết mất xác. Dù vậy, những xung lực khủng khiếp sản sinh do xe lao xuống dốc đâu phải chỉ ngàn cân, cho dù trên đường không bị ngã lộn cổ thì cũng bị va đập bôm bốp vào thành xe, thử hỏi cơ thể bằng xương bằng thịt của con người làm sao có thể chịu đựng nổi? Mọi người tự biết kiếp nạn lần này chắc khó thoát khỏi, theo xe rơi xuống đáy động thì đúng là chỉ còn bất hạnh, chỉ mong sao dưới vực sâu toàn nước thì mới có thể thoát chết. Nào ngờ tầng đáy động lại căng lưới bảo vệ, nên chiếc xe chở quặng bị chặn lại, trong chốc lát tốc độ giảm đi đáng kể, nó trượt chầm chậm xuống tới đáy thì dừng hẳn, nhưng sức tích tụ từ trận chấn động vì rung chuyển vừa rồi cũng không nhẹ, khiến bốn người đều bị hất tung xuống lưới, mắt hoa tai ù, chân tay mềm nhũn, ba hồn bảy vía mãi nửa ngày trời mới chịu đoàn tụ về vị trí cũ. Mọi người lấy tay huýt còi gọi nhau, may mà không ai xảy ra điều gì đáng tiếc, tất cả lổm ngổm bò dậy quan sát tình hình xung quanh, chỉ thấy cầu thang sắt và đường ray đều đã chạy đến điểm tận cùng, xe quặng nằm lật nhào sang một bên, còn trước mắt là màn sương ẩm ướt âm lạnh, bên tai văng vẳng tiếng sấm nổ ì ùng, tầm nhìn hạn chế ở mức rất thấp. Có lẽ đây là tầng sâu nhất dưới động đạo, cực vực chắc phải tiếp tục đi sâu hơn nữa, thế là cả đội bám vào lưới thừng treo vắt vẻo trên cao từ từ bò xuống dưới, nhưng không biết thời gian đã trôi qua bao lâu mà vẫn không nhìn thấy đáy, chỉ cảm giác sương mây bên cạnh lan tỏa càng lúc càng đày, có lúc giơ tay ra còn không nhìn thấy năm đầu ngón. Xa xa vọng lại chuỗi âm thanh ầm ù vi vu của dòng khí đối lưu. Tư Mã Khôi thầm cảm thấy kỳ quái, tuy rằng xung quanh sương mù dày đặc, nhưng lại cho người ta cảm giác hoàn toàn trông rỗng, dường như nó không còn là con đường động đạo kính viễn vọng Lopnor nữa mà, chắc là đã tiến vào khu vực nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, nhưng sương mù ở đây từ đâu phun ra vậy? Chẳng lẽ bên dưới lại có thêm một cây thần Udumbara thời thượng cổ nữa? Lúc này, một luồng điện sáng quắc xẹt qua trước mặt, kèm theo tiếng sấm nổ đinh tai nhức óc. Nhờ ánh sáng ngoằn ngoèo vụt lóe lên trong chớp mắt, mọi người mới phát hiện xung quanh là biển mây trải dài vô cùng vô tận, trời đất như thể hòa nhập thành một thể hỗn độn. Chốn này nào giống với huyệt động dưới lòng đất, khiến ai nấy đều kinh hãi: “Chúng ta đang ở trên trời sao?” Thắng Hương Lân thầm biết đây là sương mù dày đặc dưới lòng đất còn sót lại sau vụ nổ thiên thạch, vì chịu ảnh hưởng của địa áp liền trở thành mây khí tượng. Chẳng trách hàm lượng dưỡng khí ở kính viễn vọng Lopnor và địa máng không hề bị giảm sút, là vì trong vực sâu có dòng khí đối lưu trào lên, nhưng nếu lỡ bị sét đánh trúng người thì cũng hỏng hẳn, cô vội hét gọi hội Tư Mã Khôi: “Mau di chuyển xuống phía dưới, phải tránh xa tầng mây này ra!” Lúc này luồng sấm sét lập lòe đã bám sát da đầu, mọi người lập tức vứt ba lô và súng trên người xuống, rồi bám lưới thừng cuống cuồng bò xuống dưới. Lưới thừng trong động đạo chạy thẳng đứng, dài đến mấy trăm mét, phần đáy là bóng tối trống trải, tầng mây vần vũ đều ngưng tụ ở giữa tầng không. Tư Mã Khôi đặt chân lên mặt đất, nhưng phía dưới không phải vùng nước sâu như anh dự đoán, soi đèn quặng quan sát, thì thấy khắp nơi toàn là cát vàng óng, đưa chùm sáng ra xa hơn, phàm những nơi mắt có thể chạm tới ngoài cát ra cũng chỉ có cát. Thắng Hương Lân kéo anh chàng đội trưởng bị ngã dúi dụi trong sa mạc đứng dậy. Mọi người lần lượt nhặt ba lô hành lý của mình lên, đứng yên đưa mắt hoang mang nhìn khắp bốn phía, thấy phần đáy vực sâu u tối này rộng thênh thang như thủa hồng hoang hằng cổ, cự ly đèn quặng có thể chiếu sáng, cùng lắm cũng chỉ khoảng hai mươi mét, ngoại trừ có thể quan sát rõ cảnh vật ngay trước mặt, thì nó không phát huy được tác dụng gì hơn, nói gì đến việc xác định địa mạo địa hình phía xa. Hải ngọng khi nãy chạy trốn gấp gáp quá, giờ bò rạp trên mặt đất thở hổn hển, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, anh không kìm được tự lẩm bẩm một mình: “Ối ông bà ông vải ơi! Dưới lòng đất lại là sa mạc nữa à…” Tư Mã Khôi quỳ gối vốc một nắm cát, xoa xoa trong tay, rồi đưa lên mũi ngửi mấy cái: “Đây không phải đất bị sa mạc hóa, mà chính là biển cát thứ thiệt, khả năng từ hàng bao nhiêu năm trước, cực vực là biển sâu dưới lòng đất, nhưng giờ đây nó đã bị khô kiệt.” Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Quy mô của không động dưới lớp vỏ rộng không thể tưởng tượng được, ngoài thang thừng đằng sau chúng ta ra, thì không còn bất kỳ vật tham chiếu nào khác trong sa mạc. Dựa vào phương vị bản đồ, tôi chỉ có thể suy đoán vật thể bằng sắt cổ, khả năng nằm ở phía đông kính viễn vọng Lopnor, cách đây chừng bốn cây số. Hiện giờ chúng ta không có các thiết bị trắc họa tiên tiến của Liên Xô, nên cũng khó lòng xác định vị trí, phương hướng chính xác được, mà chỉ cần chênh lệch tọa độ một chút thì sẽ lạc đường như chơi, thậm chí không thể trở về theo đường cũ được nữa”. Tư Mã Khôi cũng không nghĩ ra cách gì hơn, bây giờ chỉ biết phương hướng một cách đại khái, thì làm sao tìm thấy mục tiêu trong biển cát tối đen như mực thế này, vả lại cát lún sẽ vùi lấp hết dấu chân, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chỉ cần rời khỏi vị trí xuất phát là đừng nghĩ đến chuyện quay trở lại chỗ cũ. Tư Mã Khôi đang khổ não nghĩ đối sách, thì vừa lúc đó giữa tầng không xuất hiện một làn chớp lóe sáng, ba người còn lại đều ngẩng đầu lên nhìn. Đột nhiên, Tư Mã Khôi cảm giác dường như sau lưng có vật thể gì đó đang khẽ khàng ngọ ngoạy, anh lập tức quay phắt đầu lại, chỉ thấy trong bóng tối xuất hiện bóng ma cúi đầu xõa tóc đứng sừng sững, khuôn mặt đối phương quen thuộc đến mức không thể quen thuộc hơn, cái gương mặt trắng bệch như quỷ ấy. Tư Mã Khôi hãi hùng tóc tai dựng đứng cả lên, làn khí lạnh buốt phút chốc xâm chiếm khắp cơ thể. Trong thế giới dưới lòng đất tĩnh mịch này, cái rộng lớn và quái dị hòa quyện vào nhau, đã tạo nên không gian đầy chết chóc im lìm của không động, còn vong hồn tựa hồ đến từ đáy vực sâu kia, thì giống như con giòi lặng lẽ bám riết lấy xương cốt người ta, vĩnh viễn không thể gỡ bỏ ra được.
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Hồi bốn: Lạc trong biển cát


    Tư Mã Khôi quay đầu lại thấy sau lưng có ma, do khoảng cách quá gần, tựa hồ mặt đối mặt, nên anh cũng không thể phân biệt rõ mọi đường nét, chỉ cảm giác dung mạo giống như thần phật kia cực kỳ giống quốc vương Chăm Pa, vả lại hai tay của đối phương đã thò ra đặt lên bờ vai anh. Tư Mã Khôi bất giác rợn người đến dựng hết tóc gáy. Anh lập tức thét lên một tiếng, rồi bổ nhào về phía trước, đồng thời giơ khẩu súng thần công trong tay lên. Lúc này, sấm sét hoàn toàn biến mất trong tầng mây dày nặng, chùm sáng đèn quặng soi đến đâu, chỗ ấy chỉ toàn cát vàng, không hề có dấu chân nào thừa ra, bóng tối im lìm khiến người ta ngộp thở. Ba người còn lại bị kinh động, giật nảy mình, vội vàng quay người lại xem xét, nhưng không phát hiện ra tình hình gì khác thường. Hải ngọng lầu bầu trách móc: “Tớ bảo, từ giờ không có chuyện gì thì đừng la hét om sòm thế nhé, làm tớ vãi cả linh hồn đây này!” Tư Mã Khôi rất khó xác định thứ khi nãy mình mới nhìn thấy rốt cục là gì, nhưng có thể khẳng định chắc chắn: đó không phải ảo ảnh do sấm sét tạo ra, bởi vì trước khi quay đầu, anh đã phát hiện thấy có động tĩnh ở sau lưng. Anh kể lại chuyện này cho mọi người, tuy “Căn phòng số 86” đã chết mất xác, nhưng đội thám hiểm vẫn chưa triệt để thoát khỏi sự đeo bám của Nấm mồ xanh, kẻ địch tiếp theo đã xuất hiện, có lẽ nó đang lẩn trốn ngay bên cạnh chúng ta. Thắng Hương Lân cũng cảm thấy hiện tượng bất thường này rất khó giải thích, ban đầu còn cho rằng có lẽ đó là ảo giác nảy sinh do thần kinh căng thẳng quá mức, đến lúc nghe Tư Mã Khôi thuật lại đầu đuôi, cô mới biết nó không phải ảo giác. Cô hỏi: “Anh đã nhìn thấy kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh sao?” Tư Mã Khôi lắc đầu đáp: “Tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt trắng bợt như tượng sáp cực kỳ quái dị thôi, nó rất giống với hình tượng vẽ trên bích họa trong miếu thần, nhưng chiếc mặt nạ da người của quốc vương Chăm Pa đã bị cháy rụi ở tòa thành Nhện Vàng từ trước rồi mà; theo lý mà nói thì nó không thể xuất hiện trên đời lần nữa. Nói tóm lại, chỗ này chắc chắn không an toàn, mọi người phải để ý quan sát hơn mới được”. Thắng Hương Lân nói: “Chỉ cần giải được các ẩn số trong cực vực dưới lòng đất, là có thể xoay chuyển cục diện bị động hiện nay, thời gian càng kéo dài chúng ta càng bất lợi, bởi thế phải mau chóng tìm thấy vật thể bằng sắt cách đây hơn ba cây số nữa mới được.” Tư Mã Khôi nghĩ thầm, trong biển cát mênh mông cách bề mặt Trái Đất đến mười ngàn mét, lại sừng sững tồn tại hai thỏi gang lớn có hình dạng giống hai cái tai người, dường như tất cả mọi người đều cho rằng vật thể đó chính là đáp số cuối cùng trong kính viễn vọng Lopnor, nhưng chúng rốt cục đóng vai trò gì trong cả chuỗi câu đố đó? Anh lại ngẫm nghĩ, chiều dài của nó đến gần trăm mét, cấu tạo lại vô cùng đơn giản, mà cũng không phải tàu ngầm Z-615 bị mất tích của Liên Xô, hay đó là hai quả bom hạt nhân nhỉ? Có điều bom hạt nhân hình như không có thể tích lớn đến dường ấy, xem ra không đến gần nó thì không tưởng tượng ra nổi. Hải ngọng đề nghị: “Tớ thấy cứ lằng nhằng mãi thế này chỉ tổ lãng phí thời gian, chúng ta đã không thể xác định chính xác phương hướng, chi bằng cứ mỗi người đứng cách nhau một trăm mét, tiến hành tìm kiếm đồng bộ về phía đông, nếu vận may tốt một chút, biết đâu lại tìm thấy mục tiêu.” Thắng Hương Lân nói: “Thiên thạch là đám mây băng khổng lồ xuất hiện trong lớp vỏ Trái Đất từ khi thiên địa còn chưa hình thành. Sau khi chịu ảnh hưởng của địa áp phát nổ, nó đã hình thành không động, quy mô và kết cấu của nó rất khó dự đoán. Trong bóng tối không có vật tham chiếu như hiện nay, la bàn chỉ có thể cung cấp cho chúng ta phương vị tương đối, cự ly chiếu sáng của đèn quặng còn chưa tới hai mươi mét, thế này thì khác gì bịt hai mắt mò mẫm tìm kiếm trong biển cát, cách của anh không có khả năng thành công đâu.” Đội trưởng Lưu Giang Hà cũng cho rằng biện pháp của Hải ngọng hoàn toàn không khả thi: “Bộ đội chúng ta khi phải hành quân gấp vào ban đêm, cũng không cho phép các chiến sĩ đi cách nhau 100 mét, vì chắc chắn đoàn quân sẽ bị lạc nhau.” Hải ngọng nói: “Hai người vẫn chưa bao giờ đánh trận trong rừng nên chưa biết đấy thôi. Khi đó đội du kích bọn tôi chui vào trong rừng rậm nhiệt đới quanh năm không thấy ánh nắng mặt trời, cách mười mấy bước đã không ai nhìn thấy ai nữa, lúc đó tiểu đội trưởng hay trung đội trưởng chỉ cần bôi một loại nước ép cỏ gì đó vào quân phục, mùi của nó theo gió sẽ truyền khắp tám dặm, lính phía sau chỉ cần có mũi thì cho dù bịt chặt hai mắt, cũng vẫn không bị rớt đội như thường”. Tư Mã Khôi đảo mắt đã nghĩ ra cách, anh nói với ba người còn lại: “Tôi thấy đội hình chúng ta lắm thầy nhiều ma, để các cậu bàn luận vấn đề mãi cũng chẳng ra ngô ra khoai gì được, cuối cùng vẫn là tôi phải đưa ra ý kiến. Lúc trước, ở khoang liên lạc dưới động đạo, tôi nhìn thấy điện thoại thạch từ Aφ53, đường dây dẫn trực tiếp xuống lòng đất. Năm 1958, đội khảo sát liên hợp chắc chắn đã vác giá đỡ xuống đây, dường dây màu trắng kéo dài hai mươi ngàn mét, thừa sức trợ giúp hậu phương duy trì liên lạc liên tục trong vòng bán kính ba cây số. Chúng ta chỉ cần mò theo đường dây mà tìm, chắc chắn sẽ đến được mục tiêu.” Tư Mã Khôi nói xong, bèn bắt tay tìm kiếm. Anh tìm thấy một đường dây thả song song với thang dây thừng. Khi trước mọi người bận trốn tránh mây khí tượng, nên vội vã bò xuống dưới, còn sợi dây màu trắng lại bị biển cát che lấp, nên không ai phát hiện ra nó. Lúc này thấy đường dây điện thoại vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, có thể sử dụng làm đường dây chỉ hướng. Phát hiện mới khiến cả đội phấn chấn hẳn lên. Đoàn chuyên gia Liên Xô lắp đặt toàn những thiết bị trắc họa rất tinh vi, thậm chí còn có cả thiết bị tiên tiến thám trắc nguyên tố sắt, bởi vậy phương hướng mà đội khảo sát tiến hành năm đó chắc không thể xảy ra sai lệch được. Mọi người phủi cát bám bên trên, lần theo đường dây màu trắng, không nhìn thấy điểm tận cùng, mò mẫm tiến về hướng đông. Biển cát tồn tại dưới tầng đáy vực sâu hàng ngàn tỉ năm nay, đã trải qua bao kiếp luân hồi khô kiệt của nhật nguyệt, tựa hồ đã rời hẳn khỏi quỹ đạo của thời gian và không gian, chỉ có tiếng sấm xa thỉnh thoảng lại ì ùng vọng tới, những lằn chớp mang ánh sáng yếu ớt vừa lóe lên đã nhạt nhòa giữa bầu không tăm tối. Phía dưới tầng cát, khả năng chính là lớp dung nham của tầng quyển manti, dòng nhiệt đối lưu dâng trào sùng sục, khiến không khí trở nên nóng bức khác thường, nhiệt độ hoàn toàn khác xa với cái lạnh căm căm nơi kính viễn vọng Lopnor, nó đưa đội thám hiểm trải nghiệm từ cực khắc nghiệt này sang cực khắc nghiệt khác. Tư Mã Khôi thấy bốn phía xung quanh tuy tối đen, nhưng không gian u tối đó lại đem đến cho anh cảm giác rất mênh mông, hoang mang, có lẽ vì nó quá sâu và quá xa, chỉ nhớ trong sách địa lý cổ thời tiền Tần, mô tả về cực vực là nơi “có rồng phun lửa, chiếu sáng bốn cực”. Có lẽ những mô tả này ngầm hình dung về dòng dung nham trong quyển Manti luôn phun trào dữ dội lên trên, còn rất khó phán đoán đội khảo sát liên hợp Liên Trung đã gặp phải sự cố gì dưới lòng đất sâu. Đi trên con đường lần tìm ý nghĩa của cùng cực này, tất cả phía trước đều mù mịt chưa biết, vận mệnh cũng theo đó mà biến đổi cũng khó lường. Địa hình trong biển cát thoai thoải nhấp nhô, hội Tư Mã Khôi đã quen hành quân đường trường, nên đi bộ mấy cây số khoảng cách theo đường chim bay không phải vấn đề lớn lắm. Cả đội bất giác đến một nơi, dưới lớp cát lún lấp ló rất nhiều xương trắng giống như hóa thạch, soi đèn quặng xem thì không thấy đầu bên kia đâu cả, chẳng biết phần chôn vùi dưới đáy cát còn lớn chừng nào. Đội trưởng Lưu Giang Hà chưa bao giờ nhìn thấy bộ xương cá nào lớn cỡ ấy. Loài cá hồng to nhất ở biển hồ Tân Cương là loài Hucho Taimen, một loại cá hồi nước ngọt, nhưng nó cũng chỉ dài hơn hai mét là cùng. Giờ đây nhìn thấy con thủy quái này, anh chàng kinh ngạc thốt lên: “Hình như nó là xương của rồng thì phải…” Hải ngọng bảo: “Chú em đừng có chuyện bé xé ra to nữa, vừa nhìn đã biết đó chỉ là con quái thú khổng lồ ở dưới biển hoặc là con cá lớn nào đó, cùng lắm cũng chỉ là loài thằn lằn cá thôi”. Tư Mã Khôi cũng nhận xét: “Chắc là cá, nhưng chỉ còn lại mỗi bộ xương tàn thế này, thì không thể nhận ra rốt cục nó là loại cá gì. Tôi đoán phần đầu của nó chắc cũng rất đại tướng, không khéo còn to không kém gì cỗ tàu ngầm của Liên Xô ấy chứ. Dưới lòng đất khả năng còn tồn tại rất nhiều hình thái sinh mệnh vừa phức tạp vừa cổ xưa, may mà bây giờ nước đã cạn, chứ nếu không lúc chúng ta phải vượt biển mới sang được bờ bên kia, thì có mà bị nó nuốt chửng vào bụng từ lâu rồi.” Hải ngọng nói: “Mặc kệ cá lớn cỡ nào, chỉ cần rời khỏi nước là chẳng khác gì ăn mày đốt pháo hoa giữa trời mưa, có mà quẫy đằng trời.” Thẳng Hương Lân bảo: “Các anh đoán sai cả rồi. Đâv là xương cá voi, cá voi cổ đại, nó thuộc loài thú chứ không phải loài cá đâu.” Tư Mã Khôi hiểu ra tiếp lời: “Hóa ra nó là cá voi cổ đại à? Trước đây tôi thường nghe người ta nói: thứ khó lường nhất trong cõi trời, không gì thắng được biển cả, thứ khó lường nhất trong cõi vật, không có gì thắng được cá voi, nó xuất quỷ nhập thần, đến vô hình, đi vô ảnh. Bây giờ nhìn thấy xương trắng của nó kẹt giữa dòng cát lún, cũng có thể tưởng tượng ra lòng đất này đã từng là nơi bao la hùng vĩ biết bao, nó vừa mênh mông bát ngát vừa thâm trầm trang nghiêm”. Hải ngọng cũng biết cá voi không thuộc họ cá, tự thấy mình thua kém kiến thức Thắng Hương Lân, anh bắt đầu mồm năm miệng mười tía lia bốc phét, nước bọt bắn tứ tung: “Cá voi cổ đại ấy à, tôi cũng từng nghe kể về nó rồi. Thằng cha này lợi hại lắm. Năm đó, ông già nhà tôi cùng đoàn bộ đội vượt biển đánh Quan Đông, cả đội thuê hẳn một chiếc thuyền cá gắn mô tơ, hơn một trăm người ngồi chen chúc trên thuyền. Vừa mới ra đến biển đã gặp sóng to gió lớn, những con sóng bạc đầu cuốn vút đến tận trời, đánh cho cái thuyền cá rách của hội ông già đổ nghiêng đổ ngả, rồi đột nhiên thấy sắc nước chuyển dần thành màu xanh đen, rồi một ngọn núi sừng sững từ giữa biển trồi lên, cũng không biết dài cả mấy ngàn mét. Ngọn núi cứ nhấp nhô chìm nổi trong làn nước, còn chưa đợi ai kịp nhìn rõ rốt cục là chuyện gì, thì cả chiếc thuyền cá bị hút vào một động tối om, bốn phía u ám đầy bất trắc. Ông bác lái thuyền sợ nhũn cả người, muốn khóc mà khiếp đến nỗi không vắt ra nổi một giọt nước mắt, biết chắc sắp phải chôn thây trong bụng cá đen nơi. Đúng lúc đó, bỗng nghe tiếng sóng biển nổi lên ầm ầm, chiếc thuyền cá lại bị đẩy ra ngoài mặt biển, rơi từ đầu sóng xuống vỡ tan tành, may mà khoảng cách khi đó cũng khá gần bờ, những người biết bơi đều cố gắng giãy giụa bơi vào bờ. Lúc đó họ mới biết: thì ra là cá voi phun nước, nên chiếc thuyền mới theo dòng nhào ra ngoài. Các cậu thử nghĩ xem, nếu lúc ấy mà không thoát được thì đúng là toi đời rồi còn gì?” Tư Mã Khôi lật tẩy Hải ngọng: “Này trại chủ Hải ngọng, có phải đầu óc cậu bị lú lẫn không thế? Thế hệ ông già nhà cậu thuộc lớp người đi trước, đều là bộ đội tham gia chiến dịch Bình Hình Quan, sau đó ở lại núi Thái Hành, Sơn Tây lánh xa căn cứ địa, đánh Quan Đông sao lại phải vòng vèo chạy đến tận Sơn Đông vượt biển? Cậu không định bái thằng người gỗ Pinocchio làm bố đấy chứ hả?” Hải ngọng tức đến nỗi mặt đỏ bừng, cổ nổi gân xanh, đang định lên tiếng phản kích lại, thì đột nhiên anh thấy tay bỗng nhẹ bẫng đi, sợi dây điện thoại vùi trong cát chỉ còn sót mỗi đầu mẩu. Anh bới cát mãi, cũng không nhìn thấy đầu dây nối với nó nằm ở đâu. Mọi người cảm thấy rất bất an, vốn dự đoán lộ trình phải đi dài chừng bốn cây số, bây giờ mới đi được một nửa quãng đường, sợi dây chỉ hướng lại bị mất, thì làm sao có thể tìm thấy đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích giữa biển cát rộng vô bờ bến này đây? Tư Mã Khôi nói: “Đừng cuống! Bộ xương con cá voi cổ đã hóa thành đá, chí ít cũng phải chết cả ngàn năm rồi, đội khảo sát chắc chắn không thể bị nó nuốt vào bụng được. Chúng ta chỉ cần tìm kỹ theo hướng đoạn dây bị đứt là được. Đầu bên kia có lẽ bị vùi đâu đấy trong cát thôi”. Nói xong, anh bèn cùng ba người lại bắt đầu tìm kiếm. Tư Mã Khôi liên tiếp đào mấy hố cát, quả nhiên nhìn thấy sợi dây màu trắng bị đứt nằm vùi dưới đó. Quả tim đang treo lơ lửng của anh bấy giờ mới chịu về chỗ cũ, vì nếu tìm không thấy sợi dây chỉ hướng, thì hậu quả thật không dám nghĩ đến. Anh vươn tay định tóm dây điện thoại, nhưng vừa chạm tay vào thì thấy mình tóm hụt, cái dây điện thoại dã chiến bỗng nhiên như sống dậy, nó luồn vào trong cát rồi không biết chui đằng nào mà biến mất tăm mất dạng. Mọi người vô cùng ngạc nhiên: “Chẳng lẽ dây điện thoại lại mọc chân biết chạy?”, rồi tất cả đổ xô lại giúp Tư Mã Khôi bới cát, bới sâu cả nửa mét vẫn không tìm thấy gì. Tư Mã Khôi bỗng nhiên cảm thấy có gì chẳng lành, anh nhỏ giọng bảo ba người còn lại: “Đừng tìm dây điện thoại nữa. Trong biển cát này, căn bản chẳng có thứ gì đâu. Mọi người mau chạy về hướng đông, lát nữa bất kể nghe sau lưng phát ra tiếng gì cũng tuyệt đối không được quay đầu lại nhìn.”
     
    Hoài Nam, sáng ngx and Phucminhon like this.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này