1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Huyền huyễn Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân - Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình trạng: Đang Post

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 26/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân

    Tác giả:Thiên Hạ Bá Xướng
    Thể loại:Thám Hiểm, Huyền Huyễn, Kinh Dị
    Tình Trạng: Full
    Nguồn: Bachngocsach

    [​IMG]
    Giới thiệu:

    Những năm 80 của thế kỷ trước, "Nhóm ba người" mô kim hiệu úy quyết định rửa tay gác kiếm tu chí làm ăn.
    Không ngờ trong một lần ba người đi Tây An thu mua đồ cổ văn vật bị một người tên là Mã Lão Oa Tử chủ tâm hãm hại, thiếu chút nữa bỏ mạng.
    Trong lúc vô tình vào Tần Vương Huyền Cung, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, còn thu thập được từ trong mộ hoang một hộp sắt mạ vàng.
    Hộp sắt mạ vàng là một bộ kim sách (sách vàng), là bảo vật trấn quốc của Tây Hạ, trải qua mấy nghìn năm chưa hề bị hư hại.
    Vật này vừa xuất hiện liền chấn động khắp giang hồ. Tổ ba người mô kim phát hiện bí mật kinh thiên động địa được lưu giữ từ nghìn năm trước.
    Bọn họ lại một lần nữa lên đường, chuẩn bị tiến vào "Vong giả thế giới" (thế giới người chết), nghênh đón bọn họ chính là một hành trình u tối đầy mê hoặc!

    "Mô Kim Hiệu Úy" là kiệt tác mới nhất của Thiên Hạ Bá Xướng, có thể sánh vai cùng bộ truyện nổi tiếng "Ma thổi đèn" ở thể loại thám hiểm truyền kỳ!

    Giới thiệu tác giả:
    Thiên Hạ Bá Xướng là tác giả người Trung Quốc có óc tưởng tượng vô cùng phong phú, tác giả bộ truyện "Ma Thổi Đèn" vô cùng nổi danh trên diễn đàn Hoa ngữ. Tới nay là bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi bậc nhất tiếp theo các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung.
    Thiên Hạ Bá Xướng đã mang văn hóa thần bí của phương Đông kết hợp với yếu tố phiêu lưu mạo hiểm của văn học thế giới vào trong tác phẩm của mình, tạo ra một loại hình tiểu thuyết thám hiểm đậm dấu ấn Trung Quốc.
    Điểm đặc biệt ở tiểu thuyết thám hiểm của anh luôn nằm ở hành động và suy nghĩ đầy thú vị của nhân vật trong các hoàn cảnh bất ngờ.
    Anh đã không câu nệ mà thoải mái đưa vào truyện của mình các truyền thuyết cổ xưa, di tích thần bí, tình cảm anh em, sinh tử vô thường, cộng thêm câu từ hài hước, phong phú, đầy màu sắc, ngập tràn văn hóa dân gian khiến cho câu chuyện của tác giả xây dựng khác biệt với "giang hồ".
    Tác giả đang sáng tác thiên tiểu thuyết vĩ đại "Mô Kim Phù" hệ liệt, kính mong độc giả đón nhận.

    Một chút về nguồn gốc tên truyện: Từ ngàn năm trước, ở Trung Quốc đã có nghề trộm mộ, gồm bốn phái là Mô Kim, Phát Khâu, Ban Sơn đạo nhân và Xả Lĩnh. Mô Kim và Phát Khâu vốn từ một mạch mà ra nên thủ đoạn trộm mộ cũng gần tương tự nhau, Mô Kim có bùa Mô Kim không sợ tà ma, Phát Khâu có Ấn Phát Khâu, bên trên khắc tám chữ: Thiên quan tứ phúc, bách vô cấm kỵ”, cả hai đều được coi là bảo vật trấn phái. Đến thời Tam quốc, hai phái ấy được Tào Tháo sử dụng như một đội chuyên đi đào mộ. Tào Tháo đặt ra hai chức quan là Mô Kim Hiệu Úy và Phát Khâu Trung Lang Tướng để hợp thức hóa việc đào mộ quật mả của mình.

     
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    Chương 1: Thôi lão đạo bắn thiên cẩu


    Từ cổ xưa, thời điểm vẫn còn hoàng thượng, thành Bắc Kinh, chín cửa thành đều có trấn vật. Trấn vật ở cửa thành phụ là bức chạm trổ hoa mai ở bên phải Ủng thành (bức thành nhỏ ở ngoài cổng thành). Vì cửa thành phụ vận chuyển than đá qua lại lâu ngày, đường đi bên dưới ám toàn than đá đen kịt, rất nhiều phu kéo lạc đà chuyển than cũng ở đó, mà chỗ họ ở không mấy cái giống nhà, chỉ toàn là "ly ba đăng" (hàng rào đèn). Thực ra "ly ba đăng" cũng vốn không phải là đèn, người nghèo ở đó không làm được nhà ngói, dựng đại mấy cây cột gỗ thành cái khung, trên nóc rải cỏ, lấy thân cây cao lương quét vôi trắng làm vách, người ở đó gọi là "Ly ba đăng".

    Ở nơi bần cùng khốn khổ "Ly ba đăng" đó có một sạp bói quẻ. Tiên sinh xem bói khoảng chừng hơn ba mươi, vốn xuất thân từ gia đình đại phú, tổ tiên truyền lại ba cửa hiệu, một hiệu kinh doanh thư họa cổ, một hiệu kim châu bảo ngọc, một hiệu kinh doanh tơ lụa. Có điều truyền đến đời gã thì gia cảnh sa sút, của cải bạc vạn đều tiêu tán, gã cùng con gái nhỏ tới kinh thành bốc quẻ, với chút vốn hiểu biến trong bụng kiếm phần cơm tạm bợ.

    Đối diện sạp coi bói của gã là một hàng sửa giày da, thợ giày tuổi chừng ba mươi, tướng mạo hung dữ. Nhà hắn ở Sơn Tây, vì đói kém thiếu nợ quá nhiều, bất đắc dĩ phải bán xới tới thành Bắc Kinh vận chuyển than đá kèm thêm nghề vá giày, cả ngày đi sớm về khuya, không nỡ ăn, không nỡ mặc, tính toán xem còn bao nhiêu tiền, mang về cho vợ con. Thầy bói có bụng dạ tốt, thấy thợ giày không có chỗ nương tựa, gặp khi mưa gió không mở hàng được đều mời thợ giày tới nhà gã ăn cơm, ngủ lại qua đêm. Qua lại thường xuyên, hai người liền trở thành bạn tốt.

    Một hôm như vậy, thợ giày kiếm được một món bảo vật từ đồng hương. Vị đồng hương kia là một kẻ gian chuyên đào trộm mộ. Trước đó không lâu móc được một cái thúy ngọc ban chỉ (nhẫn đeo tay bằng ngọc bích), bóng loáng xanh biếc. Vương công quý tộc nhà Thanh cưỡi ngựa bắn tên, trên tay đều có ban chỉ, người bình thường không dám dùng.

    Đồ này là đồ tốt, có điều đến lúc cần dùng tiền thì mấy mối béo bở đều bỏ của chạy lấy người, dưới chân thiên tử, trước mặt là vương pháp, ai mà không sợ rơi đầu chứ? Vị kia nhất thời không tìm được người mua, đành phải tới cầu cạnh đồng hương. Thợ giày cho rằng cơ hội tới rồi, có thể phát tài, liền bỏ tiền mồ hôi nước mắt khốn khổ suốt ba năm đổi lấy cái ban chỉ này. Hắn không dám trưng ra quầy hàng mà chạy thẳng đến tìm thầy bói. Đóng cửa lớn lại, hắn bảo thầy bói đốt đèn, rút gói vải từ trong ngực ra, mở tiếp mấy lớp da dày bọc bên ngoài, vừa mở vừa nói: "Thợ giày thối tôi, ở thành Bắc Kinh không ai vừa mắt, chỉ có lão huynh xem trọng, chiếu cố tôi không ít, đang không biết báo đáp thế nào thì trời liền cho tôi vận lớn. Tôi kiếm được từ trên tay bọn trộm mộ một cái ban chỉ. Vật này quý giá vô cùng, là một trong thập đại trân bảo của Thanh triều, Hãn Vương xưa chỉ huy quân Bát Kỳ (thuộc tộc Mãn của Trung Quốc) vào cổng thành, một con ngựa ba mũi tên định thiên hạ, chính là dùng cái ban chỉ này giữ dây cung!"

    Thầy bói hoảng sợ nhảy dựng lên: "Trân bảo chôn theo vương tôn công tử đương triều không phải chuyện đùa, phải biết rằng da thịt còn có tình, vương pháp vô tình. Thành Bắc Kinh lại là nơi nổi tiếng nghiêm khắc, ngộ nhỡ bị buộc tội "nhanh tay lẹ mắt", kẻ phạm tội bị chém đã đành, phần mộ tổ tiên cũng không yên nổi!"

    Có điều dưới ánh nến, nhìn qua gói vải một chút, gã liền yên tâm nói với thợ giày: "Anh á! Còn không mau ra ngoài mua lấy cục băng ướp lạnh nó đi!"

    Thợ giày khó chịu nói: "Ý anh là gì? Cần băng làm gì?"

    Thầy bói nói: "Anh bị lừa chứ sao, cái này làm bằng đường thỏi, không mang ướp lạnh, nó chảy ra mất toi thì sao? . Thành Bắc Kinh này nơi nơi đều là "Lược giao hàng"(hàng giả), ngay cả thần tiên còn không tránh khỏi có lúc nhìn nhầm, cứ tưởng rằng được mối lợi, ai ngờ lại mắc mưu chịu thiệt. Toàn bộ tiền ba năm sửa giày cực khổ kiếm được đều đã không còn, gã lại là người ngắn học, nhất thời trong lòng bứt rứt không biết làm sao, liền chạy ra nhảy xuống con sông đào hộ thành.

    Thầy bói đuổi đến, mượn móc câu, kéo gã lên, khuyên nhủ một hồi lại đưa cho gã chút tiền, khuyên hắn bỏ suy nghĩ tự tìm cái chết.

    Đảo mắt đã sang tháng Chạp, thợ giày từ biệt thầy bói về nhà ăn Tết. Thời gian này làm ăn không tốt, nghe nói vải bố Sơn Tây vừa bền vừa rẻ, thầy bói muốn đánh một lô hàng, nhân dịp cuối năm kiếm chút tiền chênh lệch giá, chủ ý đã định, gã cũng mang theo lộ phí đi Sơn Tây. Không ngờ giữa đường gặp phải chiến trận, chậm trễ mất mười ngày, nửa đường lại gặp loạn quân, gã hoảng hốt chạy bừa chốn vào núi hoang, đi mấy ngày không thấy đường.

    Chẳng mấy chốc đã tới đêm ba mươi nhưng chỉ thấy mây đen dày đặc, gió bắc thổi qua, trời đầy tuyết giăng, núi non trùng điệp, thoáng trông không có dấu chân người. Thầy bói vừa lạnh vừa đói, đi không nổi nữa, nghĩ mình có lẽ phải chết cóng ở chỗ này. Chợt thấy trong gió tuyết có một căn nhà tường lở ngói vỡ, hình như có người ở, trong đó mơ hồ hắt ra ánh đèn. Gã thấy đường sống, vột vã chạy tới gọi cửa. Cửa nhà vừa mở, một người bước ra, vạn lần không thể ngờ, căn nhà này lại chính là nhà của thợ giày kia.

    Thợ giày thấy thầy bói vẻ mặt đầy tiều tụy, vội vàng mời gã vào nhà, nấu canh nóng cho gã uống, thầy bói lúc này mới từ cõi chết trở về. Hai người hàn huyên lại nguyên do xa cách đều xúc động rưng rưng. Thợ giày kêu vợ con ra dập đầu trước ân công, vợ gã là người phụ nữ nông thôn bình thường, chưa từng thấy qua chuyện đời, thằng nhỏ nhỏ ước chừng bảy tám tuổi, bộ dạng khỏe khoắn, kháu khỉnh, tên mụ là Hổ Oa, thấy người lạ cũng ngại không dám lên tiếng.

    Thầy bói vốn chạy thẳng một mạch tới nơi đây, không mang theo gì, sờ thấy trên người còn một cắc bạc vụn. Người Bắc Kinh coi trọng lễ nghĩa, ngày tết gặp trẻ nhỏ, đều phải mừng tuổi chút tiền. Thầy bói không có gì, lấy cắc bạc ra đưa cho Hổ Oa, Hổ Oa lắc đầu không nhận.

    Thầy bói nói với thợ giày: "Anh xem thằng nhỏ nhà anh này, cũng thật là phép tắc quá đi, tôi cho nó bạc nó còn không nhận."

    Thợ giày liền nói với Hổ Oa: "Bác con không phải là người ngoài, cho con bạc con có thể cầm."

    Hổ Oa vẫn lắc đầu không chịu đưa tay ra nhận bạc.

    Thợ giày nói: "Con còn nhỏ chưa từng nhìn thấy, không biết được là gì, cái này gọi là bạc đó!"

    Hổ Oa nói: "Thứ này có rất nhiều, con cần nó làm gì."

    Thợ giày nói: "Mồm con nít, cái gì cũng nói được, nếu như có rất nhiều bạc, cha với bác của con còn phải nghèo khổ như thế này không?"

    Hổ Oa nói: "Thật là có cả đống mà, mấy ngày hôm trước con lên núi kiếm củi, nhìn thấy một sơn động, bên trong toàn là là thứ này."

    Thợ giày cùng thầy bói nửa tin nửa ngờ, hôm đó ăn tối xong, nghỉ ngơi một chút liền lên giường đi ngủ. Qua ngày hôm sau, gió tuyết ngừng, thợ giày bảo Hổ Oa dẫn bọn họ đi xem. Ba người đi vòng sau thôn, quanh co trong núi một hồi thì tới một chỗ, trên sườn núi chỗ đó chôn một tấm bia đá. Trải qua thời gian quá lâu tấm bia đã bị vỡ, xung quanh cỏ ngải mọc um tùm che kín. Hổ Oa gạt cỏ dại sang hai bên, phía dưới là một huyệt mộ. Thợ giày bảo Hổ Oa chờ ở bên ngoài, hắn và thầy bói đốt đuốc, xách dao đốn củi một trước một sau đi vào.

    Vừa giơ đuốc lên soi liền thấy trên sườn bia đá có chữ viết: "Ngộ hổ nhi khai, hữu long tắc hưng" (Gặp hổ thì khai mở, có rồng thì hưng thịnh). Hai người tôi nhìn anh, anh nhìn tôi đều không nói được lời nào. Lại thấy bốn chiếc rương nằm đó, nắp rương mở một nửa, phủi bụi đất đi, bên trong toàn là đĩnh vàng bạc nguyên bảo (đĩnh vàng hoặc bạc thời xưa, một đĩnh bạc thường nặng 50 lượng, một đĩnh vàng thường nặng 5 hoặc 10 lượng), hai người nhìn thấy mắt đều dựng lên.

    Trong huyệt mộ cũng không có quan tài, chỉ có một bộ xương khô nằm rải rác trên bệ đá, không biết là người nào. Bên cạnh đặt một cái tráp bọc da phủ đầy tro bụi.

    Hai người lạy bộ xương khô vài cái, tiến tới mở cái tráp da ra, bên trong tráp là một quyển sách cổ, trang sách vô cùng cũ nát.

    Thợ giày vốn không biết nhiều chữ nghĩa, chỉ dán mắt vào vàng bạc trong rương, hắn nói với thầy bói: "Trời cho hai cha con tôi phát tài, lúc trước không nhờ có lão huynh cứu giúp thì tôi cũng không thể có ngày hôm nay, bốn rương vàng bạc này, chắc là nên chia đều đi."

    Thầy bói ngẩng đầu, qua làn ánh sáng thấy mặt gã thợ giày hiện lên như ác hổ hung tợn muốn lập tức cắn xé người. Thầy bói vốn là kẻ hiểu biết, có một câu thành ngữ thế này "Nói chuyện nghe thanh mà, chiêng trống nghe âm nhi" (Ý là qua giọng điệu của muột người mà đoán biết tính cách của họ, qua âm thanh của chiêng trống mà phán đoán nó tốt xấu), nghe qua lời trong lời ngoài của gã thợ giày, thầy bói cũng có thể hiểu được, trong lòng lay động, vội nói: "Lão đệ nói gì vậy, không phải nhờ anh cứu giúp, tôi cũng đã chết ở chân núi rồi, cho nên anh vốn không có nợ tôi. Con của anh tìm được cổ mộ, đồ bên trong đó đều là của nhà anh, mệnh trời đã như vậy, lại có thể tính toán được sao!"

    Thợ giày vẫn nói muốn chia đều: "Ít nhiều huynh cũng phải lấy một chút chứ, không thì chính là huynh khinh thường tôi đó."

    Thầy bói đành nói: "Vậy thế này đi, bốn rương vàng bạc toàn bộ đều là của anh, quyển sách cổ trong hộp thì cho tôi."

    Thợ giày hỏi: "Trong sách có đạo pháp thần binh hay sao?" (ý là pháp thuật của đạo gia như đuổi ma, trừ tà. . . )

    Dưới ánh đèn cầy, thầy bói thử lật giở trang sách, cuốn sách dường như viết về bí quyết "tầm long chi thuật" (thuật tìm long mạch trong phong thủy), xem ra bộ xương khô trong mộ kia khi còn sống là một vị "Thiên quan" (chỉ người trộm mộ), dân bản xứ ở đây có truyền thuyết về "Thiên quan" nhân, gần giống với chân nhân trong đạo gia, hiểu biết bát quái, thông tỏ âm dương, có thuật tầm long.

    Thợ giày vốn không hiểu biết gì, hắn là "Tỉnh để chi oa, sở kiến bất đại; huỳnh chúc chi quang, kỳ lượng bất viễn", (Tạm dịch là: ếch ngồi đáy giếng, việc trông thấy không nhiều, chỉ như ánh sáng đom đóm phát không xa - Trích từ 《 Phong thần diễn nghĩa 》), vừa nhìn thấy không phải là đạo pháp thần thông gì, hắn cũng không muốn tranh giành, liền tiện thể đưa luôn cho thầy bói. Đào bới đồ trong cổ mộ, dù sao cũng đã phạm vào vương pháp, chia cho thầy bói một chút cũng có thể khiến cho gã ngậm miệng, thợ giày liền an tâm.

    Hai người thu dọn đồ xong liền hướng về phía bộ xương khô lạy ba lạy, đào huyệt mai táng, sau đó mang bốn rương vàng bạc kia xuống núi. Nói đến mấy chiếc rương, chính là loại rương đặt trên giường lò của vùng nông thôn Trung Quốc, một chiếc đặt dọc theo vừa vặn bằng mép giường, một chiếc đặt ở đuôi giường sát mép tường, nhét vừa hai người lớn. Trong rương chứa đầy vàng bạc, một mình mang không nổi, hai người gói lại cho vàng bạc vào từng bao cõng mấy ngày mới hết. Thầy bói không dám ở lâu, sau khi từ biệt thợ giày liền ra đi suốt đêm. Về đến ngoài cổng thành rồi nghĩ lại mà trong lòng vẫn còn run.

    Gã xuất thân là gia đình tài phú, lúc hạ sinh gã mẹ gã mơ thấy có hổ đến cướp, không biết lành dữ thế nào, nên mới đặt tên cho gã một chữ "Triết" (thông minh, sáng suốt), tự là "Ngộ Hổ" (gặp hổ). Nửa câu đầu khắc trên bia đá là "Ngộ hổ nhi khai" (Gặp hổ thì mở), chẳng phải là chỉ gã đó sao? Gã cũng nhìn ra thợ giày là người thế nào, cũng bởi quá bần cùng, nghèo khổ mà ra, người như vậy đừng để cho hắn thấy hơi tiền, thấy hơi tiền liền nổi máu tham, không có chuyện gì là không làm được.

    Sau khi trở về, thầy bói vẫn mở hàng ở gò đất bên cổng thành xem bói, những lúc vắng khách, gã lại mở xem sách cổ, ghi nhớ từng câu từng chữ trong lòng. Trang cuối cùng cuốn sách chỉ có bốn câu: "Cần tìm chính xác để xem hình dạng thật, quẻ âm dương cân nhắc trong lòng. Sáu mươi tư quẻ không có quẻ nào biết được, chỉ e rằng tầm long đến tận cùng chỗ ấy. . ." Bên dưới vẽ một quẻ đồ hình, trong hộp da còn dấu một miếng ấn quan, trên có hai hàng chữ Triện (chữ cổ): "Thiên quan tứ phúc, bách vô cấm kỵ." (Thiên quan ban thưởng, không gì kiêng kỵ).

    Gã là người có căn cốt thông tuệ, người khác xem có thể không hiểu, đến tay gã vừa xem liền hiểu ngay, vì vậy cũng học được căn cơ của thuật tầm long. Sau đó người này không chỉ biết xem bói, còn kiêm luôn cả xem phong thủy cho người, phán chính xác cả chuyện âm dương, từ đó danh tiếng nổi khắp thành Bắc Kinh.

    Không ngờ có một ngày thợ giày lại tìm tới nhờ xem phong thủy, kể rằng sau khi phát tài, những thứ người sống nên có gã đều có, cuộc sống tột cùng sung túc, liền nghĩ tới liệt tổ liệt tông, hắn không chỉ muốn xây Từ Đường mà còn muốn di dời phần mộ tổ tiên, đến nhờ thầy phong thủy tìm giúp hắn chỗ đất phong thủy hưng vượng.

    Thầy xem bói nghe người đồn đại: "Thợ giày làm giàu bất nhân, lòng tham không đáy", không định qua lại với người này nữa, có điều biết người này vốn không thể chọc vào. Liền trầm ngâm một hồi lâu rồi nói: "Một phần đất tốt một phần phúc, phúc phần không đủ, chiếm vô dụng. Người vô phúc mộ tổ tiên chôn ở đâu cũng vô ích. Anh cứ suy nghĩ thật kỹ, nếu như thật sự động phần mộ tổ tiên, tương lai cũng phải làm thêm nhiều việc nhân nghĩa. Không cần tìm đâu xa, ngọn núi phía đông huyện thành của anh chính là long mạch. Đón thần tránh quỷ, mộ phần không định trước, không được tự ý dời quan tài mà phải theo đúng thời gian tôi chỉ dẫn mà khiêng quan tài ra ngoài, cứ hướng lên núi mà đi, lúc nào dây thừng nâng quan tài đứt, chỗ đất quan tài rơi xuống chính là long huyệt!"

    Thợ giày hỏi thầy xem bói thời gian cụ thể rồi về nhà chuẩn bị, dời quan tài trong phần mộ tổ tiên vào từ đường cúng bái. Lễ động thổ dời mộ cũng được tổ chức như đưa tang lần thứ hai. Hắn tiền muôn bạc vạn, bày trò phô trương lãng phí, trước thời hạn đã định hắn rình rang dựng lều phía trước từ đường, niệm kinh, làm đạo trường (nơi làm phép thuật của thầy thu hay đạo sĩ), mời danh quán "Tụ hợp thuận" tới đặt tiệc tang lễ, đặt mấy chục bàn, rượu thịt trên bàn như nước chảy, chỉ có thiếu người chứ không thiếu tiệc. Cho dù là người không quen biết, chỉ cần tới dập đầu hai cái là có thể tùy ý ăn uống. Lại tìm hơn một trăm hòa thượng, đạo sĩ, ni cô, lạt ma, niệm "ngũ phủng đại kinh", mở pháp hội sơn hào hải vị đầy nhà.

    Lần đưa tang thứ hai này, dây dưa tới hơn một trăm ngày, theo giờ tốt đã định khiêng quan tài ra khỏi thành. Theo lệ cũ chú ý "Đổi mộ phần không đổi quan", tránh mở quan tài kinh động tổ tiên, chỉ làm một cái lọng lớn che bên ngoài quan tài, lọng được trang trí bằng ngọc bội Vân Hải, mép viền vàng, kim tuyến, rủ xuống tua vàng, cần bao nhiêu khí thế có có bấy nhiêu. Thời đó quan tài phủ lọng, sáu mươi bốn phu khiêng đã là hoành tráng lắm rồi, thợ giày còn chơi trội dùng xà kép, thuê một trăm năm mươi phu khiêng đòn thay nhau nâng quan.

    Đội ngũ mở đường phía trước mang đăng (thứ đồ dùng để đựng đồ cúng), cờ, chiêng, ô, lọng, giáo mác búa rìu hướng lên trời, lại có hai đoàn nhạc công, vừa vặn một trăm lẻ tám đồng nam đồng nữ, ai nấy đều bưng lư hương, khói hương lượn lờ. Đội ngũ phía sau mang theo 'tang phổ", là thứ mà trước kia người ta hay dùng để thị uy. Chắc các bạn sẽ thắc mắc: "Phổ là cái thứ đồ chơi gì?". Giống như quan chức đi tuần có mộc bài, trên viết "Yên lặng, tránh đường" gọi là "quan phổ", "quan phổ" cũng được dùng để chỉ người miệng lưỡi kiểu cách, ra vẻ quan cách.

    Tang phổ là loại phổ nhiều màu sắc, đầu thẻ gỗ bôi phấn vàng, hai bên có treo đèn lồng tua rua, trên viết tên họ, đạo hiệu, ngày sinh cùng với ngày giờ mất. Thời đó người ta quan niệm có đạo hiệu có thể thăng thiên, tổ tiên hắn còn nghèo hơn cả hắn, lúc chết chỉ có ông nội hắn là có được cỗ quan tài còn lại toàn bộ đều ném ở núi hoang làm mồi cho chó hoang, đại danh không có, lấy đâu ra đạo hiệu, cái này cũng là sau khi giàu có hắn bỏ tiền ra mời người về phong cho. Một nghìn tám trăm người tiền hô hậu ủng đưa quan tài phủ lõng ra khỏi huyện thành đi về phía đông, gióng chống khua chiêng, uy thế rung động cả vùng.

    Ngoài cửa đông của huyện thành có một ngọn núi không cao lắm, thế núi vững trãi. Nhóm người khiêng quan tài lên trên sườn núi, chợt thấy dây nâng quan tài đứt, lập tức đào huyệt mộ chôn quan tài. Ứng với âm dương phong thủy trong câu nói kia.

    "Hữu địa phi nhân bất hạ, hữu nhân phi thì bất hạ". Những lời này nghĩa là gì? Tức là có đất phong thủy tốt không có người thích hợp thì không chôn được. Có người thích hợp nhưng không vào giờ phù hợp thì cũng không chôn được. Thợ giày có được thời vận này, phần mổ tổ tiên nhà hắn có được vị trí vô cùng đắc địa, nếu không phải người tinh tường thì nhìn không nhìn ra được. Nếu là người có con mắt nhà nghề, nhìn qua liền giật mình. Ngọn núi phía đông huyện thành hình dạng giống như một cái ghế ngồi đối diện với cổng thành phía đông, giống như một cái bàn thờ thiên tạo vậy, nhân dân trong trấn ngày ngày nhóm lửa thổi cơm, chẳng khác nào bày đồ cúng phần mộ tổ tiên nhà hắn. Quanh năm suốt tháng không ngày nào không thờ phụng. Đối với phong thủy mà nói, vừa hay hợp thành một cách gọi là "Nhật hưởng thiên trác cung, dạ thụ vạn trản đăng" (Ngày hưởng ngàn mâm cúng, đêm nhận vạn ngọn đèn).

    Theo Yêu Giản Thư nói lại, từ khi thợ giày dời phần mộ tổ tiên, hắn giống như gặp được vận lớn, làm gì cũng phát tài, mà không chỉ vận làm giàu, quan lộc của hắn cũng suôn sẻ, có thể nói là một bước lên mây. Về sau, con của hắn cũng làm quan, nhận nhiều bổng lộc, thăng chức rất nhanh. Tục ngữ có câu: "Lão miêu phòng thượng thụy, nhất bối truyền nhất bối" (đại khái nghĩa là con mèo ngủ trong buồng đã quen, thì đời sau của nó cũng vậy - ý chỉ tính nết di truyền), lòng tham của hắn cũng truyền lại, con của hắn còn tham lam hơn hắn, tiền càng nhiều thì càng tham lam, tâm địa càng đen tối, đảo mắt đã vô ơn, lừa trên gạt dưới, tàn hại người lương thiện. Hai cha con hắn lo lắng có người tới phá phong thủy phần mộ tổ nhà mình, nghĩ ra một kế nhổ cỏ tận gốc. Liền ra lệnh cho thủ hạ mời thầy bói tới xem phong thủy cho từ đường nhà mình, nửa đường đánh lén một gậy, cột vào tảng đá lớn rồi ném xuống sông Hoàng Hà.

    Thầy bói trước khi đi đã dặn dò vợ nhiều lần: "Thợ giày lần này tìm ta, chỉ sợ là lành ít dữ nhiều. Nếu ta không chỉ điểm long mạch cho người khác cũng không đến mức lãnh họa sát thân này. Ta tự làm tự chịu, không oán hận ai được. Các ngươi nhanh chóng trốn về quê, rồi chôn quan ấn và sách cổ, đời sau của ta không được phép ăn chén cơm phong thủy này nữa, cũng không cần báo thù cho ta, không quá ba năm, kẻ thù ắt gặp báo ứng."

    Không ngoài dự đoán của gã, ba năm trôi qua, tường thành phía đông huyện thành vì quá cũ nên đổ sụp, cửa thành bị đá rơi xuống bịt lấp lại. Chỗ đó ngày một suy sụp, nghèo khổ. Nhà nước không cấp bạc sửa lại cổng thành, lý do vì phía đông đều là núi, không có người lui tới, còn lại ba cửa thành vẫn đủ dùng, cửa đông bị phá hỏng cũng không quan trọng.

    Chỉ có điều không ai biết được cửa thành này bị lấp đã chặn đi nguồn thờ cúng của tổ tiên gã thợ giày kia, giống như người ở trong phòng kín thở không nổi, gia thế ngày một xuống dốc không phanh. Vận làm quan của cha con hắn cũng chấm dứt, bị hạch tội khi quân phạm thượng, cả nhà bị tịch thu tài sản, cả nhà bị chém, phần mộ tổ tiên đều bị san phẳng.

    Về phần hậu nhân của thầy bói, vẫn luôn sinh sống ở nông thôn, gia cảnh vẫn nghèo khó, cũng không còn xem long mạch cho người khác. Tổ truyền như vậy, truyền đến đời Bạch Bán Lạp, quan ấn cùng với sách cổ vẫn chôn ở quê nhà, trước sau không dám dùng tới. Bạch Bán Lạp có người huynh đệ kết nghĩa, tên là "Hạt Lão Nghĩa" (Lão Nghĩa Mù), theo sư phụ học phép thần thông, thầy của hắn là Kim Toán Bàn, sư tổ là Trương Tam thái gia, tất cả đều là Mô kim hiệu úy tiếng tăm lừng lẫy, nói tới thủ đoạn đào trộm mộ, không mấy người qua nổi anh ta. Chỉ có điều Hạt Lão Nghĩa thị lực không được tốt, ban ngày ban mặt ra cửa cũng có thể đâm đầu vào tường nên không ăn nổi chén cơm này.

    Hạt Lão Nghĩa nghe Bạch Bán Lạp kể lại chuyện của tổ tiên mình thì nói: "Thứ mà Tổ tiên anh trước kia truyền lại gọi là "Lăng Phổ", còn gọi là bí quyết tầm long, thực tế không phải là sách về xem âm dương phong thủy trên giang hồ, mà chính là Phát khâu mô kim bí quyết. Sách của sư tổ tôi là Trương Tam thái gia truyền dạy lại cũng chưa được đầy đủ, toàn vẹn bằng sách này, cái kia mới dạy mười sáu chữ ứng với mười sáu quẻ, còn cái này là những sáu mươi tư quẻ ứng với sáu mươi tư chữ. Ấn kia là Phát Khâu ấn, là vật chí bảo từ cổ xưa, sao lại có thể bị chôn vùi ở nơi trần tục thế này. Một người không thể đoạt bảo vật từ âm ty, cần có năm ba tinh hoa nhân lực, nhiều cũng vô dụng. Anh hãy nhập bọn với chúng tôi, chỉ cần hai người chúng ta lĩnh xướng là có thể xuất nhập chốn âm dương như đi trên đất bằng!"

    Bạch Bán Lạp khi đó nghèo đói tới mức sắp không có gì ăn rồi nhưng vẫn mặc cho Lão Nghĩa khuyên sống khuyên chết, một mực không động tâm. Không phải gã không muốn phát tài, cũng không phải là không có lá gan, vậy thì lý do tại sao?

    Cái đó cần phải xem lại chuyện trước kia, lúc gã còn là một tiểu tử chừng mười tuổi, không người thân thích, chạy nạn đến biến giới Liêu Hà, sống bằng nghề chăn trâu thuê. Ở nơi đó, ông chủ gọi bọn đầy tớ nhỏ như gã là tiểu bán lạp, nghĩa là làm một nửa việc, ăn một nửa cơm. Ông chủ này của gã tuy không phải là địa chủ, nhưng có mấy thưởng đất (1 thưởng = khoảng 1ha), hai con trâu cùng vài con la, ngựa, tìm tiểu bán lạp để ban ngày chăn trâu, ban đêm cho gia súc ăn, một ngày cho gã hai bữa cơm, buổi sáng ăn khô, buổi chiều ăn cháo loãng.

    Phía đông nhà có một cái sân, phòng lát gạch vuông, tường cũng lát gạch vuông. Đầu phía tây gần một tòa điện trấn sông, trong điện thờ Long Vương, lâu rồi không ai hương khói, giăng đầy bụi đất mạng nhện, bên ngoài hiên đã sụp một nửa. Đền tuy rằng đổ nát nhưng truyền thuyết nói rằng nơi này có thần tiên.

    Ông chủ là người từ nơi khác đến, vốn không tin ba cái chuyện cũ rích kia, lại muốn mở rộng sân viện, hắn mượn bức tường phía sau điện trấn sông, làm hai gian nhà gạch mộc. Tường điện bằng gạch viên, tường nhà làm bằng gạch mộc đắp đất, ba mặt tường nhà đất bám lấy một mặt tường gạch. Dù sao người cũng không dám ở, chỉ để làm kho chứa củi nên cũng không lo sụp. Trước vựa củi làm một cái chuồng gà, nuôi một ổ gà, hàng ngày đẻ trứng. Mỗi buổi sáng cũng nhặt được khoảng hai chục trứng. Ở góc vựa củi có một cái hũ lớn đựng trứng có nắp đậy rồi lại dùng tảng đá chẹn lên trên để tránh cáo hoang ăn trộm. Nhưng điều kỳ quái là, qua ngày hôm sau nhìn vào hũ, toàn bộ trứng bên trong đều không thấy, chỉ còn lại vài cái vỏ trứng rỗng.

    Từ lúc có vựa củi, trứng gà ông chủ đặt trong hũ không giữ được quả nào. Cái hũ kia vừa sâu vừa lớn, mèo chui vào đó cũng không ra được, lại dùng một tảng đá lớn đè lên trên, vậy thứ gì có thể mang trứng đi đây?

    Người khai hoang làm ruộng, vốn không muốn gây thù chuốc oán, có điều nhịn không được, ba lần bảy lượt mất trứng cũng không phải là việc nhỏ nữa rồi. Ông chủ đứng ngồi không yên, sau khi trời tối, một mình hắn ngồi xổm ở bên ngoài vựa củi, đợi tới nửa đêm thì nghe được bên trong có tiếng động. Vựa củi làm bằng gạch đắp đất, trên nóc phủ cỏ tranh, che không kín hết. Ông chủ vịn cửa nhìn vào chỉ thấy ánh trăng đầy trời, sương giăng đầy đất, một con rắn lớn từ giữa nóc nhà trườn xuống, chỉ thấy đầu mà không thấy đuôi, nó dùng đầu đẩy tảng đá trên hũ đi, nuốt từng quả từng quả trứng gà, quấn trên xà giũ vài cái rồi phun vỏ trứng ra, rồi lại bò lên nóc nhà đi mất, chớp mắt đã không thấy tung tích.

    Ông chủ xem rõ rồi, sợ tới mức lông tóc trên người dựng đứng, đầu túa ra đầy mồ hôi. Một hôm, hắn dẫn người tới điện bắt rắn, mọi người đều khuyên hắn, rắn lớn như vậy không thể đánh được. Hắn căn bản không nghe, lo rằng sau này khó mà sống yên ổn được, liền đem theo mấy người gan lớn, cầm súng săn đi vào, tìm trong ngoài vài lần cũng không phát hiện con rắn, gần đỉnh điện tìm thấy một cái hang lớn. Nghe người dân xung quanh đó nói lại, điện này có từ thời Liêu, quy mô vô cùng lớn, thời đó hương khói cực phồn thịnh. Rất nhiều người cao tuổi đã từng gặp "xà tiên" ở đây, có khi xà tiên quấn trên cột, có khi lại cuộn tròn ở đỉnh điện, miệng to như cái chén, vảy đen lưng bạc, có công che chở điện cho Long Vương, chưa từng gây hại. Còn có một lão đầu bán dầu chiên nói, năm đó lão gánh thúng qua đường, thấy một con rắn dài lượn quanh đỉnh điện ba vòng như đang tìm rạch nước để uống. Dưới nóc hiên có một cái động, có lẽ là động rắn, để cho rắn lớn trấn điện lui tới.

    Người xưa ít ai không mê tín. Gia đình ông chủ mặc dù là người nơi khác đến khai hoang nhưng nghe dân bản xứ khẳng định như vậy, cũng nghi ngờ không biết có phải là thật hay không, khó tránh khỏi cảm thấy sợ hãi, mặc dù vẫn sai người đi đánh rắn nhưng không ai dám đi. Gã nhanh trí nghĩ ra một cách, ra ngoài tìm gỗ đẽo thành hai mươi quả trứng gà, độ lớn như trứng thật, bên ngoài quét phấn trắng, đặt vào bên trong hũ ở vựa củi, phía trên vẫn dùng tảng đá đè lên.

    Nửa đêm hôm ấy, ông chủ lại nằm sấp ở ngoài cửa nhìn vào bên trong, con rắn lớn từ nóc nhà bò xuống nuốt trứng gỗ trong hũ, dốc sức quấn trên xà một hồi lâu, có điều ăn cả một bụng trứng mà không ép vỡ được, dùng nhiều sức lực mà cũng không nhả vỏ trứng ra được, nôn nóng đập loạn xạ khắp nơi. Ông chủ hết hồn liền trốn vào trong buồng trong, không dám nhìn nữa.

    Sau đó, tới hừng đông qua xem vựa củi, vẫn không nhìn thấy xác con rắn, không biết chết ở đâu.

    Một buổi sớm, tiểu Bán Lạp ra bờ sông chăn trâu, nhìn thấy con rắn lớn chết ở dưới tán cây, cuốn mấy vòng quanh thân cây, bụng bị vỏ cây mài rách, hai mươi mấy quả trứng gà gỗ rụng đầy đất, vết máu loang lổ khắp nơi. Nó không đành lòng liền đào đất chôn. Ngày hôm đó thời tiết nóng bức ngột ngạt, trâu không ăn cỏ mà nằm ở bờ sông hóng mát, nó ngồi trên lưng trâu, bỗng không biết một lão nhân từ nơi nào đến, nó thấy người này rất quen, chỉ có điều không nhớ nổi đã từng gặp qua ở đâu.

    Người đó đến trước mặt nó, không nói gì mà chỉ đưa cho nó một con cá mời ăn.

    Tiểu Bán Lạp nói: "Tôi không quen biết ông, vì sao vô duyên vô cớ lại mời tôi ăn cá?"

    Người kia nói: "Ngươi không cần hỏi, mau ăn đi! Ngươi ăn con cá này rồi, từ nay về sau sẽ không còn là người bình thường nữa!"

    Tiểu Bán Lạp nghe không hiểu gì: "Không phải người bình thường? Tôi khác người chỗ nào?"

    Người kia nói: "Ngươi ăn con cá này, toàn thân có sức lực, chờ khi trời tối, ngươi trèo lên nóc hiên của điện trấn sông, ba ngày không bị đói, qua ba ngày, ngươi trở xuống lại con đường này, đi đến cuối đường có một tòa Kim Loan điện, trong điện đó bên trên là vua, bên dưới là hạ thần, bên phải là quan võ, bên trái là quan văn, ở đó có một chỗ dành cho ngươi, đó là một tòa tháp chắn trước Kim Loan điện. Ăn con cá này, ngươi mới đi được . . ."

    Tiểu Bán Lạp nghe không hiểu lời nói của lão nhân kia, có điều đang lúc đói bụng liền nhận cá, ăn vài miếng. Mới ăn chưa hết một nửa thì ông chủ tới đạp nó một đạp, mắng chửi không chịu chăn trâu cho tốt lại ngủ gật ở bờ sông. Nó hoảng hốt xem lại thì trong tay không có cá, người lạ trước mặt cũng không thấy đâu, hóa ra là một giấc mộng, nhưng nó cũng không thấy đói bụng nữa.

    Đuổi trâu trở về, đi qua điện trấn sông, đột nhiên nhớ ra hình dáng lão nhân kia tại sao lại giống với Long Vương thờ trong điện như vậy? Trong lòng nó vô cùng khó chịu, nửa đêm, cho gia súc ăn xong liền trèo lên nóc hiên đại điện, nhìn khắp mọi nơi, không thấy điều gì bất thường, đang lúc buồn bực thì chợt thấy biến cố kinh hoàng.

    Đúng lúc nó định trèo xuống thì nghe phía xa xa tiếng động ầm ầm, giống như âm thanh của thiên binh vạn mã, Liên Hà lụt lớn rồi. Chỉ chớp mắt lũ lớn đã tràn đến, phòng ốc, gia súc của ông chủ cùng cả nhà lớn nhỏ đều bị hồng thủy nuốt hết, chỉ có điện trấn sông là không bị lũ xô đổ, người dân mê tín cho rằng Long Vương tới báo thù.

    Tiểu Bán Lạp trốn ở đỉnh điện, tránh thoát được một kiếp nạn. Hồng thủy ba ngày mới lui, ba ngày nó không ăn không uống, cũng không biết tại sao vẫn cầm cự được.

    Đợi tới lúc lũ rút đi, nó mới trèo xuống tìm đồ ăn, đi nhiều ngày nhưng không tìm thấy Kim Loan điện đâu. Sau đó nghe người ta đồn đại: "Trên giang hồ có một người là Thôi lão, là thầy tướng số tinh thông phép thuật." Nó liền nảy ra ý niệm đi tìm Thôi lão.

    Nhắc tới Thôi lão kia, trước tiên cần nói rõ nguồn gốc của gã, phía đông thành Thiên Tân nước Vệ có một tòa miếu thờ rất lớn, tục gọi là "Nương Nương Cung", thờ thánh mẫu nương nương. Miếu lớn, thần tiên được thờ cúng trong miếu cũng nhiều. Chính điện ở giữa thờ thánh mẫu, tiền điện thờ Vi Đà, chếch một bên cạnh thờ tứ đại kim cương, còn cả con cháu nương nương cùng thiên nhãn của nương nương. Hương khói quanh năm suốt tháng không ngừng. Thiện nam tín nữ đến đây thắp hương bái tế cầu con nối dõi thì tìm điện tử tôn nương nương, bệnh về mắt thì cầu thiên nhãn nương nương. Đều không tới tay không, đốt hương xong, ít nhiều đều cung tiến một chút gọi là tiền đèn đuốc, tiền dầu thắp.

    Thời đó trong miếu có một lão đạo trụ trì, chuyên thu tiền nhang đèn. Càng nhiều người đến cúng bái, lão càng kiếm được nhiều tiền. Lão còn thu hương chưa tàn hết, bán cho nhà làm hương, tái chế rồi lại mang bán ở trước cửa miếu, bản chất là kinh doanh không vốn. Từ xưa có câu nói rằng: "Thắp hương không được bỏ sót thần", người đến miếu cầu thần, cần có thành tâm, phải phục lạy lần lượt các điện, dâng hương xung quanh, cả con cháu của lão nương nương cũng phải cúng. Khi đó, làm ông từ ở "nương nương cung", chỗ nào cũng có thể thu tiền, thật đúng là "cật hương uống cay" (ý nói cuộc sống rất xa xỉ), cho dù là Huyện thái gia cũng không sánh bằng.

    Tiền điện, chính điện và hai điện hai bên của nương nương cung hương khói ngày càng vượng, hậu điện ngược lại vô cùng đìu hiu. Do hai nguyên nhân chính, thứ nhất do vị trí hẻo lánh, thứ hai chính là vì hậu điện thờ vị "Vương Tam nãi nãi". Có lẽ bạn đang nghĩ tới Hồ Tam nãi nãi, Hồ Tam thái gia, không cần hỏi cũng biết là hồ tiên, trong thành còn có miếu Hồ Tam thái gia, nhưng ba thái gia trong miếu Hồ Tam đó vốn không liên quan gì tới Vương Tam nãi nãi. Đến nỗi vị Vương Tam nãi nãi được thờ trong hậu điện là ai, thực ra cũng không ai biết. Nhìn qua thì tượng Vương Tam nãi nãi tạc bằng gỗ, không thấy mũ phượng, khăn quàng vai, áo quan, đai ngọc, cũng không có tướng mạo lão bà phúc hậu, dáng vẻ giống như một mụ già quê mùa, trông rất khó coi? . Vì thế qua mười năm mở hội, tiền điện luôn tấp nập chen chúc tới ngã ngoài cửa miếu mà hậu điện cũng không mấy khi được hương khói tử tế.

    Không biết từ khi nào, quan phủ bỗng ban bố một quy định, bố trí một nhóm đạo sỹ luân phiên trông coi hậu điện. Đạo sỹ không ở tại miếu, mà nhà ở trong vùng, bình thường không mặc đạo bào. Mỗi người đảm nhiệm một năm, đến phiên ai thì người ấy đi. Trong một năm ở đây, hậu điện có chuyện lớn chuyện nhỏ gì, tiền thu được bao nhiêu, đều thuộc quyền quản lý của đạo sỹ trông coi. Có điều cũng chẳng ai muốn đi, chẳng qua là vì sợ vương pháp, không đi là bị ăn gậy mà thôi.

    Năm đó, đến phiên Thôi lão đạo trông coi hậu điện Vương Tam nãi nãi. Lão cả ngày ủ rũ, chán nản. Người ta ở bên ngoài, làm cái gì cũng dễ, xuống thung lũng nhặt củi, trộm gà trộm chó, không lo lắng tới cái ăn, còn trông coi hậu điện, mười ngày nửa tháng không thấy có mống nào vào thắp hương, gió Tây Bắc cũng không có mà hít, qua một năm, chẳng phải sẽ chết đói ở đây sao?

    Có điều Thôi lão đạo là kẻ lắm mưu nhiều kế, hắn nghĩ tới nghĩ lui, nghĩ ra một cách. Hắn nghĩ các điện phía trước hương khói cực thịnh bởi vì đều tương truyền là có linh ứng. Thực sự là có linh ứng sao? Cũng chưa chắc, bât kể tâm nguyện của ngươi là gì, kết quả có linh ứng hay không đều có lý do cả, không ứng thì là do ngươi làm việc thiện chưa đủ.

    Có thể thấy rằng linh hay không linh cũng là thứ yếu mà thôi, chủ yếu là do đầu năm nhiều người mê tín, nhờ thần dựa quỷ, tin rằng cái gì cũng có cả. Nhìn xem điện Vi Đà phía trước, quá khác với Vi Đà ở nơi khác, hai tay tượng đất trống trơn không có chày hàng ma. Không có chày hàng ma, Vi Đà còn có thể coi là Vi Đà sao? Có người nói là chày hàng ma của Vi Đà trấn trụ tại mắt biển, Vi Đà ngồi cạnh trên, phù hộ một phương này không bị lũ lụt. Như vậy là chỉ một truyền thuyết dân gian thôi cũng có thể làm cho rất nhiều thiện nam tín nữ tin là thật. Vậy nếu Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, còn lo không có ai vào thắp hương sao?

    Thôi lão đạo quyết tâm để Vương Tam Nãi Nãi hiển linh. Ngày hôm sau có một vụ ồn ào, gần đến trưa, trước cửa miếu vô cùng hỗn loạn. Có một phu xe chặn trước cửa miếu, giọng như thanh la hướng vào trong miếu hò hét. Rằng có một lão thái thái, mặt mũi hiền từ, phúc hậu, mặc áo dài, tà áo màu xanh nhạt, quần đen quấn xà cạp, chừng bảy mươi tuổi, thân hình rắn rỏi, sáng sớm đã tới kêu xe của hắn tới miếu thắp hương đầu ngày, nói xong việc sẽ đưa cho hắn năm đồng. Nhưng mà lão thái thái kia vào miếu, tới trưa vẫn chưa thấy đi ra, một nhà già trẻ trông vào tiền kéo xe của hắn, hắn phải về nhà mua bột ngô không đợi được, liền ở trước miếu gây ồn ào, khiến cho rất nhiều người vây quanh xem náo nhiệt.

    Ông từ quản lý trong miếu đi ra, hỏi rõ ràng chuyện xảy ra, nói lão cũng rất ngạc nhiêu, từ sáng sớm tới bây giờ, lão đều ở trong miếu, không có lão thái thái nào như vậy đi vào thắp hương.

    Phu kéo xe tiếc năm đồng to kia, mượn dây xích khóa xe lại, đi vào trong miếu tìm người. Những kẻ xem náo nhiệt bên ngoài cũng kéo vào theo. Điện trước không có, chính điện không có, điện thờ hai bên cũng không có. Tìm đến hậu điện, phu xe liếc mắt một cái liền nhận ra lão thái thái ngồi xe của hắn, tà áo dài xanh nhạt, quần đen quấn xà cạp, chính là vị ở hậu điện này. Người xem náo nhiệt theo vào toàn bộ đều choáng váng, đây không phải là người, mà là tượng gỗ của Vương Tam Nãi Nãi phía trước tượng gỗ còn bày ra mười đồng tiền.

    Phu xe vừa nhìn thấy, vội quỳ rạp xuống đất, lạy như tế sao, hô là: " Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, thương cảm người nghèo chúng ta, đã nói chỉ cần năm đồng, lại thưởng cho những mười đồng!"

    Đương nhiên, toàn bộ trò này đều do Thôi lão đạo một tay sắp xếp, hắn đã thuê gã phu xe đến cửa miếu gây một trận náo loạn. Kể từ đó, một truyền mười, mười truyền trăm, truyền khắp đông tây. Thiện nam tín nữ từ bốn phương tám hướng đều đổ về thắp hương, quyên tiền hiến vật nhiều vô kể, đều kháo nhau rằng Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, cầu được ước thấy.

    Có điều người tới thắp hương cầu thần đều thắc mắc không biết Vương Tam Nãi Nãi ở hậu viện cai quản sự vụ gì? Thôi lão đạo thấy trong điện có bày một cái cung tên, hắn nhanh trí nói vói thiện nam tín nữ, Vương Tam Nãi Nãi là vị hộ tử nương nương (nhũ mẫu của con cháu nương nương), hậu điện có cung tên bắn thiên cẩu (chó trời). Trước đây có câu nói mê tín: "Hách tẩu thiên cẩu, tử tôn tiến lai" (đuổi đi thiên cẩu, con cháu tiến vào). Dân gian mê tín, nghĩ chuyện hai vợ chồng không có con cái là do thiên cẩu chặn tiểu hài tử đi đầu thai, nhất định phải dùng cung tên bắn lên trời, dọa thiên cẩu đi mới có hậu thế. Lại có truyền thuyết thiên cẩu chui trong ống khói, dọa nạt trẻ con, dễ dọa cho linh hồn đứa bé rơi rụng. Hễ là vợ chồng nào cần cầu sinh con cái hoặc là trẻ nhỏ trong nhà gặp tai họa, liền mang tiền nhang đèn cúng cho Thôi lão đạo ra để hắn giả bộ bắn ba mũi tên lên trời.

    Thôi lão đạo mượn việc Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, bắn thiên cẩu ở hậu điện, thu được không ít tiền tài. Phải nói rằng đối với những người mê tín, đã tín thần tiên thì đương nhiên cũng tín số mệnh. Không ít người cũng tìm đến Thôi lão đạo nhờ xem số, đều nói lão xem vô cùng chính xác. Thôi lão đạo sẽ nói là: "Ngươi hỏi mệnh là gì? Nói cho ngươi biết trước cũng vô dụng, ngươi sống sẽ không thể nhìn thấy, sau này ngươi biết cũng không còn kịp nữa, mới hiểu ra rằng cái này gọi là mệnh!"

    Bóc mẽ Thôi lão đạo là để nói tới chuyện lão coi bói cho Tiểu Bán Lạp. Nó vốn nghĩ rằng Thôi lão đạo là chân nhân đương thời, không quản ngàn dặm xa xôi mà chạy tới tìm Thôi lão đạo để hỏi mệnh. Thôi lão đạo nói với nó như vậy: "Ngươi mơ thấy Long vương mời ngươi ăn cá, cái này là phúc của ngươi không nhỏ, vận may này người bình thường khó mà có được. Bát tự của ngươi cũng tốt, sinh ngày mười tám tháng tám, gặp phải bát tự có Mã Kỵ, nên có số làm vương làm tướng, thậm chí là mệnh được ngồi cung điện, sao không tìm đường xuất thân trong nghiệp binh?"

    Nó cũng không hiểu, ngày trước xem số đầu năm, thầy tướng số cũng nói như vậy, nhìn đĩa thức ăn nhà nó, hắn liền bảo nó phải đi nhập ngũ, nói rằng có mệnh "Cao quan đắc tọa, tuấn mã đắc kỵ" (Được làm quan lớn, được cưỡi ngựa khỏe).

    Hễ đầu quân binh nghiệp, đương nhiên không thể tránh khỏi việc chết đi sống lại giữa đám đao thương, chỉ cần có thể sống sót, là có cơ hội được làm quan. Làm quan rồi nghĩ đến lời phán của thầy tướng số, sao có thể biết rằng lời phán xằng này của hắn đã khiến cho bao nhiêu người chết oan. Thầy tướng số Thôi lão đạo kia cũng đều là quen miệng nói láo, mượn danh Vương Tam Nãi Nãi hiển linh để lừa bịp, bắn thiên cẩu cầu con cái cho người thu tích tiền tài. Có điều Bạch Bán Lạp vốn là người không có chủ kiến, lỗ tai mềm yếu, người khác nói gì hắn cũng tin, hơn nữa lại cực kỳ mê tín, không may mắc lừa đều là vì thế. Hắn tin lời nói của Thôi lão đạo là đúng, cho rằng mình có mệnh ngồi cung điện, một lòng muốn phong vương bái tướng. Hắn đưa "lăng phổ" mà tổ tiên truyền lại cho Hạt Lão Nghĩa, chạy đi đầu quân, mất đi tiền đồ.

    Qua thời kỳ chiến tranh, không đếm nổi bao nhiêu lần vào sinh ra tử, cuối cùng đánh tới Tháp Sơn, Tháp Sơn thực ra không hề có tháp, cũng chẳng phải núi, có điều trong tên đất có chữ "Tháp", trùng với tên địa danh. Có thể do hắn chỉ ăn có nửa con cá, tới Tháp Sơn không qua được, bị nổ mất một chân. Hắn nghĩ đây là mệnh, luôn nhắc tới việc hắn chỉ ăn có nửa con cá, đường Long Vương chỉ cho chỉ có thể đi được một nửa.

    Vì hắn luôn nói như vậy nên bạn bè cũng thường gọi hắn là "Bạch Bán Lạp" (Bạch nửa đường). Năm 1966, hắn qua đời, Bạch Kỳ con của hắn đi trấn thủ biên cương ỏ vùng biên cương phía bắc, không chịu đổi nghề.

    Trước đây tổ tiên Bạch gia có được một quyển cổ thư, ứng với bốn chữ "Ngộ hổ nhi khai" (Gặp hổ mà mở", truyền lại hai trăm năm, vẫn không ai biết "Hữu long tắc hưng" (có rồng thì hưng thịnh) ứng nghiệm ở đâu. Kết quả lại thành ra ứng với câu nói của Thôi lão đạo- Người ở trong thì nhìn không thấy, sau này thấy được rồi thì đã muộn, đây không phải mệnh thì là gì?
     
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    Chương 2: Hội tranh trống

    Những năm tám mươi, thị trường đồ cổ ở thành Bắc Kinh phân ra làm bốn khu vực lớn, phía đông có hai cái chợ âm phủ hay còn gọi là “chợ sớm”, một cái ở Sùng Văn môn, một cái ở Tuyên Vũ Môn, canh ba mở chợ, canh năm tan chợ, hai trăm năm nay vẫn luôn như vậy, bán hầm bà lằng các loại hàng bất chính vàng thau lẫn lộn, đồ tốt ở đó giá cũng không hề rẻ chút nào. Còn có hai nơi khác nữa, một là Xưởng Lưu Ly, ra đời và phát triển từ hai triều đại trước, còn một cái khác ra đời sau chót hiện cư ngụ tại chợ đồ cũ Phan Gia Viên. Mặc dù sinh sau đẻ muộn nhưng người ta vẫn truyền tai nhau rằng, nếu muốn tìm đồ cổ chất lượng thực sự thì phải đến Phan Gia Viên.

    Lúc ấy mặt hàng buôn bán ở chợ đồ cũ Phan Gia Viên có thể nói là thượng vàng hạ cám, từ đồ cổ đến tang vật trộm cắp. Trong chợ, kẻ gian nhan nhản, rùa, thỏ tả pín lù loại người nào cũng có. Các sạp hàng ở vỉa hè đồ giả như mây mà đồ thật trên tay cũng không ít. Hôm nay ở chợ tôi đụng trúng một gã béo đeo bùa Mô Kim, kiếm chén cơm đổ đấu. Hồi đó ở Phan Gia Viên nhắc tới tên tôi, tốt xấu gì dù sao cũng có chút số má.

    Gã béo đó là Lão Nghĩa mù, hôm đó, lão tới thăm tôi. Nếu xét về vai vế tôi phải gọi lão một tiếng "sư thúc". Lão tìm tới, giao cho tôi một cái túi vải lớn, trong túi có dù kim cương, bát chu sa, vuốt phi hổ, roi đả thần, móng lừa đen, áo thủy hỏa, áo da chuột, giày may mắn, ấn Phát Khâu, túi càn khôn, còn cả một cuốn "lăng phổ" nữa. Tôi nghe lão Nghĩa mù nói roi đả thần, bát chu sa, dù kim cương, túi càn khôn, vuốt phi hổ, áo thủy hỏa chính là do sư phụ lão tức sư tổ của tôi truyền lại.

    Đó là toàn bộ trang bị hành nghề của dân đổ đấu. Mấy thứ này người ngoại đạo có cũng vô dụng, chỉ nằm trong tay người được trân truyền bùa Mô Kim mới có thể phát huy khả năng chân chính của nó.

    Tôi vốn tưởng rằng lão Nghĩa mù niệm tình hương hỏa mà chiếu cố tôi, đâu biết rằng thực ra không phải lão định cho không. Mắt lão không tốt, lại lớn tuổi, tay chân chậm chạp, kiếm ăn không nổi nữa, muốn tôi đi kiếm đồ rồi chia cho lão một nửa. Kỳ thật cho dù lão không nói tôi cũng sẽ không để lão phải chịu thiệt. Có điều từ sau khi chui ra được từ núi quan tài, tôi đã không còn đổ đấu nữa. Theo tôi được biết, Mô Kim Phát Khâu nổi lên từ thời Hậu Hán, người đeo bùa là Hiệu úy, lưng cõng con dấu gọi là Thiên quan, đều có thuật tầm long.

    Nói đến tầm long, long là gì? Long giả có thể sáng có thể tối, có thể lớn, có thể nhỏ, bay lên trời, lặn xuống vực sâu. Có người cho là chém gió, làm gì có ai nhìn thấy long? Người khác nhìn không ra nhưng Mô Kim hiệu úy có thể nhìn ra. Cái gọi là tầm long, chính là nhờ vào xem hình thế núi, xem thiên văn tìm nơi có long mạch, long huyệt. Tầm Long Quyết có nói: "Đại đạo long hành suất hữu chân, tinh phong lỗi lạc thì long thân, tứ chi phân xuất tứ thế giới, nhật nguyệt hạ chiếu vi sơn hình!" (Đi theo đường lớn sẽ gặp rồng, đỉnh tinh tú chiếu sáng là thân rồng, tứ chi phân ra bốn thế giới, soi sáng nhật nguyệt thành hình núi!) Mô Kim phù là vật hộ thân của dân đổ đấu Mô Kim Hiệu Úy, không có Mô Kim phù, không phải là Mô Kim Hiệu Úy. Mô Kim Hiệu Úy đeo phù tầm long, đào trộm mộ lấy bảo vật cứu nhân độ thế. Tổ sư gia lập ra quy củ: Mô Kim Hiệu Úy có hai điều đại cấm kỵ: Một: Không đi một mình; Hai: Không truyền cho người trong nhà. Không đeo phù thì không sao, đeo Mô Kim phù rồi, dám không tin hai đại kỵ này sao?

    Điều hai đại kỵ này muốn dăn dạy đó là, không phải kiêng lúc gà gáy tắt đèn không được trộm mộ mà là tối kỵ việc hành động một mình, riêng lẻ. Bất luận bạn tài giỏi, nhiều kỹ năng thế nào đi chăng nữa, phạm vào đại kỵ, quay đầu lại đều không có kết quả tốt! Nghe nói Phát Khâu tầm long ấn bị hủy vào đời Minh, tôi không biết vật mà lão Nghĩa mù lấy được này thật hay là giả. Còn Mô Kim phù truyền lại tới đời sau chỉ còn ba miếng, tới những năm cuối triều Thanh lại rơi vào tay Trương Tam Thái Gia, một mình hắn ta đeo ba phù, cũng không dám tách Mô Kim phù ra. Trương Tam Thái Gia có bốn đồ đệ, Mô Kim phù truyền lại cho ba người đồng thời còn truyền lại một câu: "Hợp tắc sinh, phân tắc tử" (Hợp thì sống, chia thì chết). Mấy người bọn họ không tin lời này của Trương Tam Thái Gia, kết quả là toàn bộ đều bị chôn vùi trong lòng đất.

    Ban đầu do hoàn cảnh bức bách tôi mới bất đắc dĩ phải đi trộm mô, tôi cũng không phải loại người lúc ngã sông thì hô cứu mạng, được cứu lên bờ mặc quần áo vào rồi lại còn khóc đòi xuống sông, chân không dài ra trên cơ thể người khác, đường đều do mình tự chọn mà đi, không nên nói hai chữ hối hận, nhưng mà cái nghề đổ đấu này, vất vả khổ cực thì không nói, nguy hiểm đến tính mạng mà cũng chỉ thu được vẻn vẹn một hai món đồ chôn theo người chết, tôi càng nghĩ càng cảm thấy không đáng. Minh khí (đồ chôn theo người chết) cho dù có đáng tiền, vẫn không đáng giá bằng mạng người. Người đời thường nói trộm mộ đoạt bảo có thể phát tài, đó là trong truyền thuyết cổ xưa thôi, thời đại bây giờ, tên lửa cũng phóng lên vũ trụ rồi, vài ba thủ đoạn trộm gà, trộm chó này cơ bản đã lỗi thời lâu rồi?

    Nói khó nghe hơn một chút thì trộm mộ tổn hại âm đức, không cần biết là anh kiếm lời bỏ vào túi riêng hay là giúp đỡ người nghèo khổ, nói thế nào cũng vẫn là lấy đồ vật của người chết bán lấy tiền. Đồ người chết là đồ không nên lấy, kỳ trân dị bảo trong mộ cổ một khi lại thấy ánh mặt trời, tất nhiên sẽ dẫn tới chuyện tranh giành, cướp đoạt, tất có người mất mạng, nguyên nhân cũng đều đổ lên đầu Mô Kim Hiệu Úy. Bởi thế mới nói, chén cơn đổ đấu bới mộ này, không thể ăn cả đời được, tôi đã quyết tâm phải cao chạy xa bay.

    Lão Nghĩa mù không đồng ý: "Hổ không rời núi, rồng không rời vực, cao chạy xa bay, nói dễ vậy sao!"

    Lão tin cũng được mà không tin cũng chẳng sao, tôi đã quyết tâm là phải ra đi, tôi mang toàn bộ vốn liếng trong tay đưa hết cho lão Nghĩa mù, lão chê không đủ, tôi cũng không có thêm nữa.

    Đêm hôm ấy, tôi hẹn Thượng Bàn Tử (Thượng Béo) cùng Đại Kim Nha (Răng Vàng Lớn), đến quán cơm Đông Tứ. Nửa đêm không còn đồ ăn, chỉ còn bát bánh canh. Ba người ngồi xuống, tôi mang những việc đã trải qua nói với bọn họ một lượt.

    Đại Kim Nha nói: "Hồ gia, buôn bán thứ đồ này không sợ thua lỗ, anh nên thuận theo chớ có coi thường số mệnh, mệnh của anh đã định là phải ăn chén cơm đổ đấu này rồi, nếu không những thứ này cũng sẽ không rơi vào tay anh!"

    Tôi nói: "Tôi đổi lấy roi Đả thần, bát Chu sa, ô Kim Cương, Áo Thủy hỏa, cũng không phải là vì muốn hành nghề đổ đấu, chỉ vì không thể bỏ vật mà tổ sư truyền lại mà thôi. Hai người các anh không cần phải lo lắng, hiện giờ, tuy rằng tôi một đồng xu cũng không có, nhưng tôi đã nghĩ thông rồi. Sau này ra ngoài, ba anh em ta cũng không thể không ăn không uống, nghề mới thì làm không nổi, vả lại nghĩ kỹ lại thì sao phải đổi nghề chứ, trăm hay không bằng tay quen mà. Chúng ta vẫn cứ làm con buôn thì tốt hơn. Nghe đồn Quỷ thành có một kỹ nghệ tuyệt đỉnh, làm đầu phật giả cháo đầu thật, người bình thường căn bản không thể phân biệt. Anh mà có được một cái đầu Phật khiến cho hai ba mươi gã nhà nghề chong mắt mười ngày, nửa tháng cũng không dám chắc là thật hay giả, không sợ không bán được hàng, bán một cái cũng đủ ăn nửa năm. Chỉ có điều kỹ nghệ đó cũng không dễ có được, tôi còn phải nghiên cứu nữa, nhưng dù sao cũng tốt hơn đến nơi rừng sâu núi thẳm móc mộ cổ có phải không?”

    Bàn Tử nói: "Bán một cái đủ ăn nửa năm, vậy còn trần chừ gì nữa? Hai hoành dựng lên đánh một chữ - Kiền!*

    (Chữ Kiền干 hay là can nghĩa trong câu này là theo, do hai thanh ngang có một thanh dọc ở giữa dựng lên tạo thành nên mới có câu: hai hoành dựng lên đánh một chữ Kiền)

    Đại Kim Nha nóng nảy: "Ôi trời hai vị đại gia, các người đừng trách Đại Kim Nha ta nói chuyện không lọt tai nha, bán một cái mà đủ ăn nửa năm, vậy cũng còn phải xem là ăn cái gì nữa kìa, ăn bánh canh nửa năm cũng còn chưa chắc, thật đó! Hồ gia anh đừng có chê tôi nói năng dông dài, anh nói xem anh cũng già đầu rồi, vì sao vẫn phải tối ngày lăn lộn ở cái chỗ không ra gì, thực ra chỉ cần qua lại với mấy người có lai lịch thôi thì cuộc sống của anh cũng đã khác lắm rồi. Ngược lại anh cái gì cũng không muốn, chỉ chăm chăm buôn bán “lược giao hàng” (hàng giả), không phải là muốn làm muối mặt tổ tông sao? Không để cho anh gặp vố thua lỗ lớn, đồ đạc trong nhà đội nón đi sạch, thì anh còn chưa trắng mắt ra! Tôi cũng không muốn múa lưỡi với anh nữa, anh ngồi đây mà tự ngẫm lại đi, đừng khiến cho toàn bộ nước miếng của Đại Kim Nha tôi phải lãng phí trôi theo dòng nước!"

    Đại Kim Nha lại nóng nảy nói: “Béo ca ca, ngươi đừng có chỉ biết quan tâm đến bánh canh như thế, nói vài câu đi!

    Bàn Tử nói: “Tôi theo Hồ huynh, như anh nói đó tương lai sợ rằng cả bát bánh canh cũng không được húp nhiều nữa, tôi còn không tranh thủ húp hai bát được sao?

    Đại Kim nha nói: "Lại còn hai bát nữa? Đầu óc giản đơn, đổi lại là ta, nuốt cũng chẳng trôi!"

    Bàn tử nói: "Bánh canh còn húp không được? Anh dựa vào cái gì mà đòi làm việc lớn? Dựa vào tổ tiên hả?”

    Đại kim nha thấy Bàn tử không để ý tới lời của hắn, xì mũi chán nản một cái, xoay đầu lại nì nèo tiếp với tôi.

    Tôi nói: "Anh phun ra cả chậu nước miếng, rốt cuộc là muốn nói gì? Không phải là muốn tôi đi đổ đấu đó chứ?”

    Đại Kim Nha nói: "Không phải, anh đường đường là Mô Kim Hiệu Úy, vậy mà lại buôn bán “lược giao hàng”, còn mặt mũi đi lại bên ngoài sao? Anh không thấy có lỗi với tổ sư gia sao? Trên tay không có đồ thật mà có thể là Mô Kim Hiệu Úy sao? Chỉ có Mô Kim Phù thôi chưa đủ, muốn kiếm nhiều tiền vẫn là phải có hàng thật, không cần tham nhiều, chỉ cần có một hai món đồ thật, từ nay về sau tuyệt đối có thể phát tài!"

    Tôi cùng Bàn Tử đều biết Đại Kim Nha không giỏi chửi bậy, hắn ta đầu tóc suốt ngày chải keo bóng nhẫy, giọng thì lơ lớ Bắc Kinh pha tiếng Mỹ, ít chửi bậy nhưng giọng điệu thì đầy vẻ lên lớp, rất biết ra oai, nhìn qua thì là “nhân mô cẩu dạng” * có điều người ngoài chỉ cần mạo phạm tới hắn một chút thôi, hắn dám bán con của họ lấy tiền, để họ khóc tới mù mắt chứ đừng đùa! Loại thương nhân như hắn, cần bạn thì nói trước mặt, không cần bạn sẽ nói xấu sau lưng, bình thường kiếm cơm bằng cái miệng. Có điều những lời này của hắn cũng không phải hoàn toàn vô lý, "Lược giao hàng" là tiếng lóng trong nghề, nói cách khác, người mua bán thứ đồ này chẳng khác nào để cho người ta ném qua ném lại, chẳng may mua bán thất bại ngã sứt đầu mẻ trán như chơi. Hơn nữa giới buôn bán “lược giao hàng” ở thành phố thường phải có nhiều mánh lới đối phó với người ngoài, muốn phát tài ở nghề này, tuyệt không hề đơn giản.

    (* thành ngữ có ý châm chọc chỉ những người hình dung, cử chỉ, không giống người như dáng vẻ giả bộ nghiêm trang, lịch sự thái quá …)

    Buôn bán đồ cổ không giống với những loại hình kinh doanh khác, có đổi vật ra tiền được hay không, hoàn toàn dựa vào nhãn lực và kiến thức, sau này phát giác ra bị mắc lừa, cũng đành ôm hận nhận phần thiệt thòi mà thôi. Xét trên đạo lý này mà nói, trước mắt thật giả bất phân, sau này dù thật dù giả biết được rồi cũng chỉ là "cánh tay gãy trong ống tay áo", ngã ngựa rồi dậy không nổi, phải tranh thủ lúc còn sớm kiếm bãi nước trong tránh lội nước đục. Ở Phan Gia Viên "lược giao hàng" có thể dễ bán, tôi lại đeo Mô Kim phù, đồ trên tay tôi ai dám nói không phải là đồ thật? Nhưng ra ngoài rồi, không có đồ thật thì đương nhiên là không ổn. Muốn bán được "Lược giao hàng", ít nhất cũng cần có một hai món đồ thật để ngụy trang, nếu không thì khó mà có chỗ đứng.

    Đại Kim Nha nói: "Hai người các anh nghe tôi một lần, không phải bảo chúng ta đi đổ đấu, mà là ra ngoài một chuyến, thu mua mấy món đồ mới được đào lên rồi nói là Mô Kim Hiệu Úy chúng ta móc được, Đại Kim Nha tôi nhận chi tiền vốn, cho dù bất kể kiếm được bao nhiêu tiền, anh đây ba phần ăn một, thế nào? Hồ gia, Bàn gia hai người các anh đều là người thẳng thắn, nói một câu xem, có được hay không, một lời quyết định đi!"

    Tôi với Bàn Tử vốn là những kẻ không thích ngồi mát ăn bát vàng, ưa lao đầu vào mấy nơi mạo hiểm, nghe con đường Đại Kim Nha vẽ ra như vậy thấy cũng có lý, không thể không động tâm, vấn đề là đồ thật ngày nay không dễ tìm, không móc ở mộ thì lấy đâu ra?

    Vừa hay ở Quan Trung (Lưu vực Sông Vị ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) có một gã là Mã Lão Oa Tử, không lâu trước đây nhờ người bắn tin, tuyên bố rằng mới lượm được bảo vật trên núi. Chúng tôi ngay cả Đại Kim Nha cũng chưa từng gặp Mã lão Oa Tử, không biết tin này chính xác được mấy phần.

    Đại Kim Nha nói nếu thực sự muốn thu mua đồ thật, không phải là không có khả năng. Quan Trung- Thiểm Tây xưa kia vốn là vùng đất Đế vương, Nhà Chu hưng thịnh như rồng, đất Tần vững như hổ, từ thời Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán) đến nay đều vô cùng coi trọng Quan Trung. Ở đó cổ mộ nhiều, dân trộm mộ cũng nhiều, có điều cổ mộ cho dù nhiều, trộm mãi cũng cạn. Nhất là đối với những vùng quê nghèo hoang vắng, mười năm thì tới chín năm không cấy hái gì được.

    Từ hai triều Tần, Hán tới nay, trộm mộ đã trở thành phong trào. Đạo tặc đào nhiều năm như vậy, không có ngôi mộ cổ nào mà chưa bị động vào. Có đến trên trăm cái mộ sắp bị rỗng như cái rổ rồi, cũng chẳng còn đồ gì có giá trị để trộm nữa. Dân chúng địa phương ăn chén cơm này quả thật cũng vô cùng vất vả, buông bỏ thì không được, đói ăn vụng, túng làm liều, quyết tâm chuyển sang làm “lược giao hàng”. Tay nghề chế tác “lược giao hàng” nghe nói cũng truyền qua nhiều đời, làm đồ giả tráo đồ thật. Người mua chỉ cần sơ sót một chút, chẳng những không thu được chút tiền lời nào, mà còn có thể lỗ nặng vì mắc lừa.

    Cũng may Đại Kim Nha có cái mũi rất thính, hắn không cần nhìn mà chỉ dùng lỗ mũi cũng ngửi ra được thật giả, hơn nữa hắn có mối khách hàng lớn, cổ nhân thường nói "Hóa đáo địa đầu nhi tử"*, có người mua mới dám kiếm hàng. Ba người thảo luận hồi lâu, quyết đinh đi Quan Trung một chuyến, tìm một hai món đồ thật làm màu để từ nay về sau đi lừa đảo.

    *(Hàng xuống đất thủ lĩnh chết- ngạn ngữ Trung Quốc ý nói nếu người bán không chuẩn bị thương lượng với khách hàng trước, sản xuất số lượng lớn, đến lúc chuyển tới bị ép giá hoặc không lấy nữa người bán sẽ chịu thua thiệt)

    Theo hoàng lịch, bốn ngày sau là ngày tốt, thích hợp xuất hành. Hôm đó, tôi cùng Bàn Tử, Đại Kim Nha gấp rút tới Quan Trung. Vận trang phục mang theo đạo cụ đổ đấu bất li thân, trước giờ chúng tôi ra ngoài làm ăn buôn bán cũng đều dựa vào mấy thứ này để dọa người.

    Ba người tới Tây An trước, không hổ danh là đất cố đô, tám trăm dặm đất Tần bụi vàng tung bay, danh lam thắng cảnh cổ xưa nhiều vô số. Nói tới ẩm thực, sủi cảo Đức Phát Trường, phao mô hay thịnh tường (các món đồ ăn vặt ở TQ) có thể nói là cái gì cần có cũng đều có đủ. Có điều chạy qua chạy lại ở đây lâu cũng không được, còn phải về vùng nông thôn hẻo lánh nữa. Chúng tôi đi dạo ở Tây An nửa ngày, rồi lại ngồi xe đường dài tới Hàm Dương, qua Kỳ Sơn, lại đi về hướng tây, đều là núi non trùng trùng điệp điệp. Thế núi hoang dã oai phong, hùng vĩ như rồng xanh, từng ngọn từng ngọn như lầu rồng bảo điện.

    2

    Lại nói mèo có đạo của mèo, chó có đạo của chó, chớ lẫn lộn sang nhau. Muốn thu mua đồ dưới đất phải tìm chỗ có hang động. Theo tin tức chúng tôi nhận được, tòa núi lớn như lầu rồng bảo điện đó có một khe núi lớn gọi là "Cửa điện", lác đác có mấy chục hộ dân sinh sống. Mặc dù dân cư ở đây thưa thớt nhưng cổ mộ lại nhiều vô kể, minh khí phát tán ra ngoài dân gian không ít, đầu giường đất (giường lò) của người dân ở đây toàn là bảo vật.

    Sinh sống ở "Cửa điện" có một gã là Mã Lão Oa Tử, từ nhỏ đã chui hầm móc cổ vật, thường xuyên qua lại với lái buôn đồ cổ. Ba người chúng tôi lên đường đi tìm lão, đi tới lúc sắc trời sắp tối thì gặp được. Lão khoảng hơn sáu mươi tuổi, mặt tím hơn gan dê, cằm lại có một nhúm râu dê. Có điều lạ là mặc dù lão chăn dê chứ không có chăn ngựa, nhưng ở đây từ xưa người ta vẫn gọi lão là Mã Oa Tử (trẻ chăn ngựa), chẳng mấy người gọi là Phóng Dương Oa Tử (trẻ chăn dê), lớn lên cũng không đổi cách gọi, cùng lắm là thêm vào một chữ "Lão". Mã Lão Oa Tử thấy người từ Bắc Kinh tới, liền ra đón từ xa, dẫn đường vào nhà, nấu mỳ sợi cho chúng tôi ăn. Hắn tự xưng là kiếm sống nhờ vẽ tranh tết, bận bịu làm việc cả một năm, đầu năm mở hàng được mười mấy hai mươi ngày. Chi tiêu, ăn uống cả một năm phần lớn là tiền kiếm được từ vẽ tranh. Mã Lão Oa Tử vẽ tranh môn thần (tranh hộ pháp trấn yểm để trừ tà trên cánh cửa) rất đẹp, một phòng toàn môn thần, đỏ thẫm lại xanh đậm, người đi vào không có chỗ đặt chân.

    Ngồi một lát, Mã Lão Oa Tử mang mỳ lên, mỗi người múc một tô. Bàn tử ăn như hổ đói, húp hai ba cái đã hết bát mì, lau miệng, quay đầu nói với Đại Kim Nha: "Từ nơi xa xôi chạy đến cái khe núi rách nát này, chân cẳng mệt mỏi rã rời, xoắn lại như củ tỏi lấy nhíp cậy cũng không ra, đương nhiên không phải là tới chỉ để ăn bát mỳ. Lúc bình thường không phải anh mồm năm miệng mười sao? Vừa mới bưng chén cơm lên mà sao đã thành như hồ lô mất miệng rồi? Anh xem trời đã nhá nhem tối rồi, mau hỏi Mã Lão Oa Tử xem hắn có đồ tốt gì hay không?"

    Sau khi vào phòng, tôi đã để ý xung quanh, Mã Lão Oa Tử quả thực rất nghèo, trong nhà không có đồ thừa, tất cả đều là tranh môn thần, không đợi Đại Kim Nha mở miệng, tôi liền hỏi Mã Lão Oa Tử trước: "Tôi nhìn thấy lão vẽ môn thần, không chỉ có Úy Trì Cung và Tần Thúc Bảo, lại còn có thêm cả tranh lừa! Trên cửa mà lại dán hai cái đầu lừa đen, đó là là phong tục gì?"

    Theo như truyền thuyết mê tín thời xưa, cương thi tấn công người sống, nghe tiếng lừa đen hí mới buông ra, cho nên dân đổ đấu phải mang "Móng lừa đen". Tôi đã từng nghe qua chuyện ba ba cắn người chứ chưa từng nghe lừa không hí thì không nhả miệng. Không biết có phải truyền thuyết cương thi sợ lừa hí có xuất xứ từ nơi này không. Chỉ có điều trong truyền thuyết dân gian, tướng quân lừa có thể hàng yêu trừ quái, trước đây thường xuyên xảy ra hạn hán, nơi có hạn hán bệnh tật thường có miếu thờ tướng quân lừa, có điều đều là miếu nhỏ, hương khói cũng không vượng. Đông bắc, tây bắc vốn là hai vùng mê tín nhiều, cũng chưa từng thấy có người dùng lừa làm môn thần.

    Tranh Tết thường thấy ở Quan Trung là tranh môn thần, táo quân, mặt hoa*, mặt tịnh*, hay là tranh Lưu Hải câu cóc vàng*, Vương Tiểu Nhi ôm cá lớn, cũng có thể là ba ngôi sao Phúc Lộc Thọ, còn cả Thương thần và Ngưu Mã Vương. Ngưu Mã Vương tương truyền là thần phù hộ cho mùa màng bội thu vẽ vào tranh tết thì còn có lý. Có điều cả một phòng tranh tết của Mã Lão Oa Tử toàn là lừa đen thì thật không thể hiểu nổi, trên cửa vẽ hai cái đầu lừa đen, vậy thì là cầu phù hộ cái gì? Phù hộ cho cả nhà ngu như lừa sao?

    (* -Mặt hoa, mặt tịnh: diễn viên trong hý kịch trong đó mặt hoa hay là mặt vẽ thường đóng vai có tính cách mạnh mẽ hoặc thô bạo, mặt trắng thường đóng chính kịch không vẽ mặt
    - Lưu Hải câu cóc vàng: hình vẽ Lưu Hải hai tay cầm một xâu tiền, dưới chân có cóc ba chân gọi là Kim Thiềm, cóc này là cóc thần)

    Mã Lão Oa tử lớn lên ở một khe núi nghèo xác, những thứ truyền thuyết dân gian mê tín mà hắn nói là của địa phương có lẽ toàn từ trong bụng hắn chui ra, hắn nói đây là phong tục của “cửa điện”, vẽ lừa đen chắn ở cửa để cho người chết không đi vào nhà. Đất ở Quang Trung vừa cứng vừa dầy, người chết chôn xuống trăm năm thành hung, ngàn năm biến thành sát, toàn thân mọc đầy lông dài, ban ngày núp trong huyệt mộ, nửa đêm ra ngoài ăn thịt người, cái này gọi là "Phệ mao sát" (hung thần khoác lông)!

    Bàn Tử nói: "Mã Lão Oa Tử ông chớ thấy bọn ta mới tới mà nói bừa, tôi chẳng tin đâu, người chết ở “cửa điện” rồi không phải là cả đời ăn hương ăn hoa, được chủ đất cung phụng bánh bột ngô, bột mì đó sao? Sao còn sinh ra tâm địa độc ác như vậy được?

    Đại Kim Nha xem chừng Mã Lão Oa Tử vẫn còn muốn nói tiếp liền nháy mắt với bọn tôi.

    Tôi gật đầu hiểu ý lại đưa sang Mã Lão Oa Tử điếu thuốc bảo hắn nói tiếp.

    Mã Lão Oa tử nói hắn vẽ lừa đen chắn ở cửa, màu vẽ thì dùng máu gà trộn với mực đỏ vẽ lên, có thể trừ tà, trong vòng vài trăm dặm quanh đây có thể nói độc nhất vô nhị không tranh của qua qua nổi.

    Thổ ngữ địa phương thường gọi tranh đẹp là tranh trống. Tranh giống như đồ, tiếng trống bừng lên, sống động, linh hoạt, vút lên lại hạ xuống, vô cùng phấn khích. Có điều tay nghề của hắn bây giờ vẫn chưa đuổi kịp ông tổ nhà hắn, ông tổ nhà hắn vẽ tranh trống vô cùng sống động, có thể nói là kỳ tài ảo diệu, gần xa không ai không biết. Ông tổ hắn vẽ một con lừa, treo ở trong nhà, nửa đêm trăng sáng sao thưa con lừa trong tranh sẽ đi xuống. Có người nhìn lén ở ngoài nhà, chỉ thấy con lừa này chân đỏ, tai như đóa hoa, mõm trắng, móng trắng, viền mắt cũng trắng, toàn thân đen lay láy, còn đẹp hơn cả khoác áo gấm, trên bức tranh tết chỉ còn là tờ giấy trắng! Tổ truyền nhà hắn mỗi năm mở hội tranh trống một lần, qua mấy trăm năm, cho tới bây giờ bức tranh vẫn còn, chính là vật chí bảo gia truyền nhà Mã Lão Oa Tử! Dứt lời, hắn đứng dậy vào trong phòng lục tung đồ đạc tìm bức vẽ tổ truyền nhà hắn.

    Hai mắt Đại Kim Nha sáng lên, sáp lại gần tôi nói: "Hồ gia, anh có nghe thấy không, Mã Lão Oa Tử này có bức tranh cực quý!"

    Tôi nói: "Anh tin lời hắn nói nhảm sao? “Kịch đánh người chẳng phải kịch hay” *, hắn có cái tranh trống cổ quý giá gì đó liệu còn chịu ở cái nhà ngói rách nát này sao?

    (* Thành ngữ: Kịch đánh người - Cổ đại có tiết mục biểu diễn đánh người, ý câu này là chê trách màn kịch vụng về chẳng có gì hay ho)

    Bàn tử nói: "Ha Ha! Cái thằng con giời này, thì ra hắn định làm quảng cáo hả!"

    3
    Đại Kim Nha vào phòng trong gọi Mã Lão Oa Tử nói hắn đừng tìm nữa, tìm được chúng tôi cũng không cần.

    Mã Lão Oa tử nói: "Bức tranh quý của tôi không phải gặp ai cũng mang ra khoe, tôi thấy ba người các vị không tầm thường mới định cho các vị xem thử một chút, các ông không định mở rộng tầm mắt sao? Ra khỏi thôn này rồi muốn xem thứ này cũng không có!"

    Hắn còn nói ở “cửa điện” thứ gì cũng là đồ tốt chỉ tội nghèo, bình thường hắn chăn dê, tranh thủ chợ phiên đi bán tranh tết, cũng không kiếm được bao nhiêu, hắn vốn lại là kẻ tham ăn lười làm, nợ nần chồng chất trả không nổi, bức bách quá không biết làm sao mới nảy sinh ra ý định bán đi bức tranh quý tổ truyền.

    Đại Kim Nha nói: "Nghèo cũng được cái là nhàn hạ, lão Hoàng đế áo vàng, đai bạc, cai trị bốn bể, hắn không phải dậy sớm thức khuya thượng triều phê duyệt tấu sớ sao? Không cẩn thận còn bị người ta cướp ngôi vua, cũng không bằng lão ở trên núi chăn dê tự do, tự tại."

    Mã Lão Oa Tử tiện miệng nói: "Tôi chỉ cần một ngày đủ hai bữa cơm, có đổi cho làm hoàng đế tôi cũng không đổi"

    Bàn tử nói: Thật chẳng hiểu nổi cái suy nghĩ của lão, đòi mang hai chén cơm tính đổi ngôi vị Hoàng đế? Ngược lại lão nghĩ rằng hoàng thượng muốn đổi với lão sao? Tôi nghĩ Mã Lão Oa Tử ông cũng là kẻ chăn dê biết điều, ai dè toàn nói lời bây bạ? Có phải ăn nhiều bột ngô quá, ăn no dửng mỡ rồi lại muốn bị ném sang Cao Ly không, tự dưng lại đẻ ra một bụng toàn “Yêu con bướm” *? Có khi phải tìm một bát nước lạnh dội cho lão sáng suốt ra, dội cho hết hồ đồ đi!"

    (*Yêu con bướm: Thổ ngữ của người phương bắc Trung quốc Ý: hoàn toàn bịa đặt, kiếm chuyện, câu này đa số là nghĩa xấu, cũng có thể hiểu là đùa bỡn, trêu hoa ghẹo nguyệt, có ý đồ xấu.)

    Ta thấy Mã Lão Oa Tử không phải là cây đèn thiếu dầu, có thể là thường ngày những người tới chỗ hắn kiếm đồ cũng hay tán chuyện phiếm, hắn nghĩ chúng tôi là con cóc dễ bắt, tôi nghĩ cũng không nên vòng vo với hắn nữa. Tôi rỉ tai Đại Kim Nha vài câu, bảo hắn nói với Mã Lão Oa Tử là chúng ta tới kiếm đồ, có vật gì moi móc được từ đất hoặc bảo vật nhặt được trên núi thì lấy ra cho chúng ta xem qua một chút, muốn làm Hoàng thượng thì đừng mơ, nhưng chỉ cần có đồ tốt trên tay, tám trăm hay cả nghìn đồng chúng ta cũng có thể trả cho lão, từ nay về sau một ngày ba bữa không cần phải lo lắng.

    Mã Lão Oa Tử cũng là kẻ từng chui ra từ đất, hắn đương nhiên rất gian khản (giảo hoạt cứng cỏi), người Bắc Kinh thường nói là kẻ gian khản nhưng ở vùng Quan Trung từ này dùng như hắc thoại (tiếng long của dân đạo tặc). Dân trong nghề hỏi thăm nhau vài câu cũng thường dùng tiếng lóng để tán gẫu. Có điều tôi nghe được ẩn ý trong lời nói của Mã Lão Oa Tử chứng tỏ hắn chưa tin tưởng chúng tôi lắm. Tôi nhặt một viên gạch, dùng Mô Kim phù rạch một cái, viên gạch liền đứt làm hai nửa. Mã Lão Oa Tử mặt biến sắc, vội nói: "Thất kính, thất kính!"

    Hắn mang rượu gạo tới, chuẩn bị mâm bát, uống tới nửa đêm. Tôi nói: "Lão gọi chúng tôi tới cái vùng đất hoang nghèo xơ nghèo xác này chỉ để giao dịch mấy cái tranh đầu lừa vô giá trị kia thôi hả?."

    Mã Lão Oa Tử nói:"Ba người các anh tới đúng chỗ rồi đấy, đừng xem thường cửa điện này, mặc dù bây giờ rất nghèo nhưng thời xưa không như vậy đâu! Minh triều đất này được gọi là đất Tần, có Tần vương cai quản, một chữ Vương đích thực, Tịnh Kiên Vương được tề vai với Hoàng Thượng, lên điện thấy mặt vua không cần quỳ, ngồi ngang hàng cùng hoàng thượng. Cửa điện có một ngọn núi gọi là Ngọc Hoàng điện, dưới núi có long mạch, nối thẳng tới long cung, người được táng trong núi Ngọc Hoàng không phải ai khác chính là một vị Tần vương. Thông thường phải gọi là mộ táng vương, quy mô của mộ Tần vương kia cũng ngang ngửa với lăng tẩm của Hoàng đế rồi!"

    Bàn Tử nói: "Lão đừng dọa bọn này, cửa điện toàn là núi hoang, tới cỏ ngải còn xơ xác, mà dám nói từng chôn Tần vương sao?"

    Mã Lão Oa Tử nói: "Đây là chuyện mà bọn trẻ chăn dê đời này qua đời khác truyền lại, trên núi có minh lầu bảo đỉnh, bốn phía có thành quây, bên dưới là ba cánh cửa cung điện, huyền cung quy mô khủng khiếp, kỳ trân dị bảo táng theo vô số!"

    Tôi nói: "Trộm mộ ở Quan Trung này như nấm, huyền cung táng Tần vương chẳng lẽ không có ai động tới sao?"

    Mã Lão Oa Tử nói: "Anh hãy nghe tôi giải thích, Hoàng đế Sùng Trinh của Minh triều khi còn tại vị, Hoàng Hà ngập lụt, mất mùa liên miên, dân chúng không có cơm ăn, từ xưa tới nay, dân nghèo thì sinh đạo tặc, trộm cướp tụ tập thì sinh loạn, chờ thời cơ mà vác gậy tre làm phản. Ở đây có một gã gọi gã "Lão Cao Lương Cán Tử" (thân cây cao lương) sinh ra là một hảo hán đội trời đạp đất, bị quan phủ bức ép tới đường cùng, bất đắc dĩ đành phải chỉ huy bách tính đói cơm nổi dậy giết quan lại tạo phản. Gã có cái dũng vạn người không địch, trên lưng xăm một cái bảo bình, trong bình cắm một cây bảo kiếm, có thể chém bay đầu người! Chỉ cần nói qua tên họ kẻ thù, chỗ ở, đọc xong lời chú, kiếm này liền hóa thành con rồng xanh bay đi chém đầu kẻ thù kia rồi ngậm đầu trong miệng mang tới! Gã dẫn theo hai trăm ngàn nghĩa quân, đánh vỡ châu phủ, mở kho phát lương, người nghèo khổ không ai không cảm phục Lão Cao Lương Cán Tử đại nhân hắn!"

    Đại Kim Nha nói: "Chúng ta đừng luyên thuyên qua chuyện khác có được hay không vậy, đang nói tới chỗ trọng yếu, tại sao lại nói sang chuyện làm phản?

    Mã Lão Oa Tử nói:" Lão Cao Lương Cán Tử dẫn quân tiến vào phủ châu, phá vỡ sườn núi phía nam, quật mộ tổ tiên Hoàng đế lên, khiến cho Hoàng đế Sùng Trinh tức ói máu. Có thể do đại Minh triều mệnh chưa cạn, Lão Cao Lương Cán Tử không có số ngồi đại điện, một lần cuồng phong nổi lên, cát bay đá nhảy, hai mắt do bị tổn thương quá lớn gần như bị mù, đưa tay ra không nhìn thấy bàn tay, khiến cho Cao Lương Cán Tử nếm mùi thất bại ở Quan Trung. Gã thu thập tàn binh bại tướng lui đến của điện, ra lệnh cho mấy chục ngàn nghĩa quân đào khoét cung điện bí ẩn, móc ra một Tần vương Đại bánh chưng*!"

    (*Đại bánh chưng: là chỉ thi thể người trên đó có đồ chôn theo)

    4
    Nghĩa quân vơ vét sạch trân bảo chôn theo, lại phỏng hỏa đốt núi, lửa cháy chừng ba ngày, sau không có một ngọn cỏ nào lên nổi, khắp nơi đều là gạch bể ngói nát. Lão Cao Lương Cán Tử lấy được bảo vật, vô cùng thỏa mãn cho là có thể đợi thời cơ lại dấy binh khởi nghĩa, không thể ngờ những thủ lĩnh dưới trướng hắn vì chia của không đều, giết hại lẫn nhau để tranh của. Quan quân nhân cơ hội này hợp vây bốn phía, hai bên ở khe núi huyết chiến một trận tới đen đục cả dòng nước, Lão Cao Lương Cán Tử trúng tên bị bắt, giải vào kinh thành, bị xử lăng trì vô cùng thê thảm.

    Tôi nói: "Cũng khó trách, gã kia chỉ biết tạo phản chứ chưa từng ăn qua chén cơm đổ đấu, hắn không hiểu đường đi nước bước, trộm mộ lấy bảo vật không thể giống với mở kho phát lương, thấy kỳ trân dị bảo táng theo, cha con anh em cũng còn trở mặt với nhau, huống chi tay chân của hắn toàn là người nghèo không còn đường sống mới giết quan tạo phản, có được kỳ trân dị bảo rồi ai còn muốn chém giết quan quân làm gì?"

    Đại Kim Nha giục Mã Lão Oa Tử mau nói tiếp: "Huyền cung của Tần vương thực sự đã trống rỗng sao? Không thể đào ra bảo vật nữa sao?"

    Mã Lão Oa Tử nói: "Đâu chỉ huyền cung không còn bảo vật, ngay cả minh lầu, bảo thành trên núi cũng bị đốt sạch. Tòa điện lớn chính giữa kia từng được dựng bởi một trăm sáu mươi cây kim ti nam mộc (là loại gỗ đặc biệt quý hiếm của Trung Quốc), quân phản loạn đánh tới đó, thiêu rụi quá nửa. Về sau, những cột không cháy hết cũng bị người ta mang đi bán lấy tiền, thực sự là chẳng còn lại gì."

    Hồi đó kim ti nam mộc chỉ có rải rác ở nơi rừng già núi thẳm, những nơi sườn núi, hang vực hiểm trở hiếm có dấu vết con người, chủ yếu là nơi qua lại của mãnh thú và rắn độc, đặc biệt là những nơi đó có rất nhiều chướng khí ngăn trở, đốn hạ được vô cùng gian nan. Mang ra được một cây thì không biết có bao nhiêu người ngã chết. Chờ đến khi vượt sông được rồi, lại phải vận chuyển bằng đường thủy lên phía bắc, lại không biết bao nhiêu người làm mồi cho hà bá. Một lần vận chuyển kim ti nam mộc, tiền chuyên chở cũng phải tới ba ngàn năm trăm lượng bạc. Kim ti nam mộc nước lửa bất xâm, chôn hơn ngàn năm cũng không mục nát. Quân phản loạn nổi lửa đốt minh lầu bảo điện, kim ti nam mộc trên điện đốt không cháy hết. Sau này ngay cả xà nhà cột gỗ cũng bị người ta trộm hết.

    Lúc đó loạn như vậy, đạo tặc nổi lên tứ phương, những kẻ xông vào cướp phá bảo vật không ai khác chính là dân nghèo làm thổ phỉ, một bữa no cũng chưa từng có, trong mắt chỉ có vàng bạc, nhìn thấy trân bảo rơi vào tay họ cũng không ai dám làm gì. Anh nhìn cửa điện vô cùng đói kém? Hạn hán triền miên, ba thước đất khô nẻ. Mặc dù cổ mộ rất nhiều, đào ra không ít trân bảo của các triều đại, nhưng cho tới nay chưa từng có ai ở đây phát tài. Có lẽ do đời trước không biết kiếm tiền, đến đời sau vẫn không có cơm ăn như thường. Như năm cuối triều Minh hồi đó, đồ trộm ra từ trong huyền cung của Tần vương, không ai dám mang bán ra bên ngoài, dân nghèo không thể có đồ tốt như vậy, mang ra ngoài chắc chắn bị bắt. Người nghèo lại không biết hàng tốt xấu, trân bảo rơi vào tay, bọn họ chỉ đành đập vỡ bán đồng nát đổi mấy đồng tiền lẻ. Ăn mày chỉ nghĩ tới bao gạo, bánh bột ngô, đồ tốt rơi vào tay những người này cũng vô dụng. Vì vậy mới nói vì sao mà bảo vật vô giá trong mộ từ lúc xuất thổ tới nay qua tay bao người, mãi sau này không ai rõ tung tích, mười cái thì có tám chín cái như vậy.

    Đại Kim Nha nói: "Huyền cung của Tần vương lớn như vậy, trân bảo chôn theo nhất định không ít, có đồ vật gì khác thường không?"

    Mã Lão Oa Tử nói: "Đương nhiên là có bảo vật, cho nên trước đây tương truyền rằng lúc cung điện bí ẩn của Tần vương mở ra, hàng ngàn hàng vạn quân xông vào, giơ cao đao thương, bó đuốc, tràn vào cung như nước thủy triều. Truyền thuyết nói rằng Tần vương lòng tham không đáy, xảo trá đa nghi. Quan quân khởi nghĩa tạo phản bị giết đa số là kẻ khốn khó liều mạng, ngoài ra cũng có nhiều cường đạo lâm tặc. Lão Cao Lương Hán Tử mang theo mấy thủ hạ lớn gan đục mở quan tài, đôi mắt tham lam nhìn chòng chọc vào vàng bạc bên trong. Dưới ánh lửa chiếu sáng, chỉ thấy Tần vương ngửa mặt lên trời, đầu đội mũ vàng, miệng ngậm minh châu, chân đeo giày da, người mặc áo quan, trên áo thêu hình núi sông, cây tùng, chim hạc, lưng đeo đai ngọc, ôm trường kiếm trong ngực, tay nắm đĩnh vàng, mặt đầy vẻ âm dương kỳ quái!"

    Nói theo thổ ngữ địa phương, Mã Lão Oa Tử là kẻ miệng lưỡi giảo hoạt, nửa lít rượu cao lương uống xuống bụng liền văng nước miếng khoác lác, chém gió cứ như tận mắt hắn nhìn thấy vậy: "Trong quan tài, trên người Tần vương phủ một chiếc cẩm bào, xung quanh đầy bảo vật chôn theo. Quân phản loạn xông vào thấy Tần vương chẳng khác gì người sống, trên mặt đầy âm dương quái khí, còn tưởng rằng Tần vương đã biến thành hung thần, vô cùng kinh sợ, không ai dám tiến lên lấy bảo vật. Lão Cao Lương Cán Tử liền tiến lên, rút trường đao ra, dùng đầu đao khều cẩm bào trên người Tần vương ra. Không thể ngờ khi hắn vừa vén lên một cái, Tần vương bên dưới bỗng biến thành bộ xương khô, dọa Lão Cao Lương Hán Tử giật mình kinh hãi, cẩm bào tuột khỏi đầu đao rơi xuống, bộ xương khô lại biến trở lại thành mặt mũi như người sống, lúc đó hắn mới hiểu được. cẩm bào kia chính là bảo y!"

    Ban đầu tôi nghe Mã Lão Oa Tử nói còn tạm nghe được, càng về sau quá nửa là chém gió, nói quàng nói xiên, vòng vo cố làm ra vẻ huyền bí, tôi cũng không muốn nghe hắn nói liên thiên nữa.

    Mã Lão Oa Tử thấy chúng tôi không tin, không thể làm gì hơn đành nói rằng chuyện kỳ trân dị bảo trong cung Tần vương kia, tất cả đều là nghe được từ miệng đám Oa tử chăn dê truyền lại, qua mấy trăm năm, người đã chết hết từ lâu rồi, lời truyền miệng có thể cũng bị sai lệch đi nhiều rồi, không còn đúng tuyệt đối được nữa. Nói xong câu này, hắn vào phòng mang ra một cái bọc nhỏ cuốn năm ba lớp, mở từng lớp từng lớp ra, bên trong là một chiếc bát gốm lớn, lớp gốm mỏng, lớp men tráng dày, hoa văn xanh như nước, nổi lên hình một con rồng xanh đang giương nanh múa vuốt.

    Hắn không để chúng tôi chạm vào, tôi sáp lại gần quan sát một hồi, trong bụng giật mình mấy cái, theo tiếng lóng mà nói, cái này gọi là "Quỷ kiếm nhi thanh" (Mặt quỷ xanh - Màu xanh của quỷ)!
     
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    Chương 3: Tần vương huyền cung.

    Vùng núi đá hiểm trở Tây Bắc có một loại dê rừng, dân địa phương gọi là huyền dương, số lượng vô cùng ít ỏi, rất hiếm gặp. Máu của huyền dương rất có giá, một con huyền dương lấy được khoảng gần ba bát máu, rót vào bát để khoảng nửa ngày, trên mặt bát sẽ nổi lên một lớp mỡ màu xanh, thứ này chính là bảo vật, không những có công dụng cải tử hồi sinh mà còn có tác dụng cường dương, thái giám dùng xong cũng có thể cưới vợ. Chính vì vậy mà mỗi khi nơi nào có tin huyền dương xuất hiện, liền sẽ có cả trăm con mắt soi mói tìm kiếm nó, chưa kể các loài thú khác cũng săn huyền dương làm mồi, cho nên số lượng ngày một ít ỏi. Số huyền dương còn sót lại đều bị dọa khiếp không dám ngang nhiên xuất hiện nên rất hiếm khi gặp được, chỉ có thể trông đợi vào vận may chứ không thể cầu. Nếu như may mắn săn được một con huyền dương sẽ lập tức phát tài. Còn đối với Phi Mao Sát, lời đồn đại rất nhiều nhưng người gặp thực sự thì vô cùng ít ỏi.

    Mã Lão Oa Tử ngồi trên lưng Mã Xuyên dẫn chúng tôi theo đường mòn lên núi, xa xa đã có thể nhìn thấy đỉnh núi đối diện, xưa kia được gọi là "Ngọc hoàng điện", tục gọi là đài hoàng đế, chính là vị trí của Tần vương huyền cung. Nơi này vách đá sừng sững hiểm trở, trông vô cùng kỳ vĩ. Ngọn núi dưới chân chúng tôi nằm ở vị trí tương ứng với cung án (bàn thờ) của huyền cung nên gọi là "Núi bàn thờ". Bàn thờ đối xứng với bảo điện, có thể nói là kiệt tác của tạo hóa, lại có khả năng tự dấu mình, ở dưới chân núi không thể nhận ra, chỉ còn cách lên núi bàn thờ mới có thể ngắm nhìn ngọc hoàng điện. Địa thế từ nam sang bắc, dần dần lên cao, phía sau có núi cao trùng điệp, có thể tựa vào. Địa thế đắc địa như vậy, người táng ở đó chắc chắn sẽ được cả vạn người cúng tế!

    Theo tục lệ từ xưa, mộ phần của vương hầu lấp cao bao nhiêu cũng phải theo quy củ, vượt quá nửa thước cũng là có tội. Quy mô của Tần vương huyền cung có lẽ không bằng lăng tẩm Hoàng đế, nhưng địa thế long mạch không hề thua kém. Lăng tẩm thời Minh triều quan trọng nhất là địa thế. Cửa, hành lang, tiền đường, minh lầu bảo thành, tẩm điện tế cung, đều được bố trí theo một trục ở giữa, mặt quay về hướng nam, lưng hướng về phía bắc, từ dưới lên trên, trước sau theo thứ tự là các hình rùa, rắn; hai bên trái phải toàn là rồng, hổ. Lăng tẩm đều được bố trí ở gần sông và xa núi, ngôi thứ rõ ràng, khí thế uy nghiêm, nhìn vào giống như một bức họa khiến người xem vô cùng cảm thản. Theo như sách "Mười sáu chữ âm dương phong thủy bí thuật" thì địa thế bố trí lăng mộ, cung điện Tần vương trên núi chắc cũng tương tự như vậy.

    Ở đây đã từng có thời vô cùng hưng thịnh, trên núi đầy tùng bách bao phủ, chim thú quý hiếm rộn ràng dạo chơi. Có điều trải qua mấy trăm năm biến thiên của lịch sử, cây cối và cung điện đã không còn gì, chỉ vẻn vẹn còn sót lại một cái hố lớn, do đám quân đạo tặc ngày đêm sống chết đào lên, nhìn giống như cả một mảng núi đã bị móc đi. Giữa hố cỏ dại, gai góc mọc um tùm, thê lương tiêu điều, ngổn ngang gạch đá. Ngọc hoàng điện vốn dĩ bề thế là vậy mà nay đã bị tàn phá thành một quả núi hoang.

    Đoàn chúng tôi đi vòng quanh quá nửa quả núi, thấy cái hố này vừa rộng lại vừa sâu, vùng đất này tuy khô hạn nhưng cũng không phải không có mưa, đáy hố ngổn ngang đất đá, cỏ dại còn cao hơn người, đi vào nửa bước cũng khó khăn. Răng Vàng không quen đi đường núi, thở không ra hơi, tôi với Tuyền Béo mặc kệ hắn, vén cỏ đi thẳng tới trước. Lăng Oa dẫn chúng tôi tới một nơi, giữa bụi cỏ um tùm xuất hiện một tượng người bằng đá, nó đẩy tượng đá, bên dưới lộ ra một cửa hang, nói rằng đây chính là chỗ đã kể. Tuyền Béo bật đèn pin, đi vào bên trong nhìn một vòng, nói rằng sâu không thấy đáy.

    Tôi thầm đoán định chỗ này có thể là đoạn cuối của Tần vương huyền cung, mộ ở đây có thể được xây bằng gạch, khe hở giữa các đường gạch đại khái là lớn hơn cây ngải.

    Không hiểu vì sao ở đây lại có lỗ thủng, phía trên còn được bịt kín bằng tượng đá. Tôi nghĩ chuyện Mã Lẫm sau khi xuống động bị mất tích cũng vốn không có gì khó hiểu, trong động ứ đọng lâu ngày, uế khí không lưu thông được, người đi vào tới chỗ sâu rất dễ bị ngạt thở mà chết.

    Bỗng dưng trời nổi một trận gió lớn, cát bay đá chạy, khiến mọi người tối tăm mặt mũi, từng đợt gió giống như mới từ miếu thổ địa thổi qua, lại thấy mây đen trầm thấp như muốn trở trời.

    Mã Lão Oa Tử vốn mê tín, sợ kinh động đến quỷ thần, hơn nữa bây giờ sắc trời đã tối, theo lão thì nếu muốn xuống cũng nên xuống vào ban ngày.

    Tôi lại không nghĩ như vậy, đêm không trăng là đêm để giết người, ngày gió lớn là ngày phóng hỏa, trộm mộ gặp mưa mới có thể nói là được thiên thời, mưa gió nổi lên, uế khí trong động cũng tan đi, mới không khiến kẻ trộm mộ bị chết ngạt.

    Mã Lão Oa Tử nói: "Nửa đêm trời tối đòi chui xuống đất? Không sợ chết sao?"

    2

    Răng Vàng nói :"Hồ gia của chúng ta từng làm Đại đội trưởng rồi, gan góc phi thường đó"

    Mã Lão Oa Tử nói: "Đại đội trưởng, Đại đội trưởng, ha ha bằng nửa Hoàng thượng rồi đó, đại pháo vừa nổ là có ngay vạn lượng hoàng kim!"

    Tôi nói: "Mẹ kiếp! Móc đâu ra vạn lượng hoàng kim? Nghèo như con chuột gặp xà nhà, ngược lại thì đúng hơn."

    Mã Lão Oa Tử nói: "Vốn dĩ người nghèo bọn ta cũng là do các cậu ban phước mà sinh ra vậy!"

    Trời u ám tới nửa đêm, sau cuồng phong, trên trời sấm lại nổi ầm hầm, hạt mưa lớn như hạt đậu tí tách rớt xuống, rồi màn mưa đen nhánh bao trùm tất cả, chốc chốc có một tia chớp xẹt qua, thoáng phản chiếu một khuôn mặt người rầu rĩ, chán nản.

    Mã Lão Oa Tử bị què một chân, không chui xuống đất được, hắn nói để Mã Xuyên đi xuống cùng tôi, nhặt vài món minh khí. Tiểu tử Mã Xuyên là kẻ nhát gan, mới có mấy tiếng sấm nổi lên mà gã đã tim đập chân run, mặt như màu đất. Có câu nói: "Một cây táo có quả chua, quả ngọt; con cùng một mẹ cũng có kẻ lừa gạt, có người thật thà", huống chi Mã Xuyên và Mã Lẫm đều là do Mã Lão Oa Tử nhặt về, vốn không phải là anh em ruột, nên tính khí hoàn toàn không giống nhau.

    Tôi nói với Mã Lão Oa Tử: "Tôi nhận không ra bên dưới có phải là nhà trẻ hay không, mang một đứa con nít xuống chỉ rước thêm phiền toái, thà rằng để nó ở bên trên kéo dây cho tôi còn hữu ích hơn!" Sau đó nói Răng Vàng đợi ở trên, tôi cùng với Tuyền Béo nhất tề động thủ, thả một sợi dây xuống. Tôi đeo đèn lồng vỏ giấy trên người, xòe dù kim cương, dẫn đầu xuống dưới động, phía dưới cũng không sâu lắm nhưng cảm giác dưới chân thô ráp, dùng đèn lồng vỏ giấy soi xuống thì thấy toàn là gạch khối, rêu phong loang lổ, bốn phía không thấy điểm cuối. Từng cơn gió lạnh thổi qua, đèn lúc sáng lúc tối nhưng cũng chưa tắt hẳn. Tôi mở đèn pin lên, đi vòng quanh mấy vòng. Tuyền Béo ở trên thấy có ánh sáng đung đưa cũng đu dây xuống theo.

    Tuyền Béo xuống tới nơi, đốt một cây đuốc, phía trước mặt sáng sủa hơn rất nhiều. Hai người liều lĩnh đi vào sâu hơn, mò được bờ vách đá, cảm giác có mùi mục nát xông vào mũi. Tôi nhấc đèn pin lên xem thử, vách tường bằng đá, toàn loại bốn mươi cân một khối, lại dùng ba loại đất chát lên, vững chắc dị thường. Nơi chúng tôi thả mình xuống, hình như là một ngôi mộ trong Tần vương huyền cung, bên trong mộ rất rộng rãi, năm đó phản quân phá hủy huyền cung có lẽ chưa đào tới đại điện tận cùng phía sau huyền cung này. Ngôi mộ kiên cố, không tìm thấy đường ra, bên dưới vách tường có mấy rương đồ thờ cúng, làm bằng gỗ đàn hương, bên ngoài mạ đồng, màu đỏ đã phai, ván gỗ mục nát, bên trong lẽ ra phải có năm phần đồ cúng nhưng hiện giờ trống không. Nhìn sang bên cạnh thì thấy một bộ tử thi ngồi dựa vào vách đá, hông đeo thắt lưng màu đỏ, toàn thân khô đét đã chuyển thành màu đen, bên cạnh vứt mấy cái bao tải, lối ăn mặc gần giống với Mã Xuyên, không cần hỏi cũng biết đây chính là Mã Lẫm xuống tìm bảo vật.

    Tuyền Béo nói: "Oa tử chăn dê vì sao lại chết ở đây chứ? Không biết hắn có nhặt được thứ đồ gì ra hồn không" nói xong hắn lại gần dở xem mấy bao tải rớt dưới đất, bên trong toàn là đồ kim khí trong Tần vương huyền cung, vàng, ngọc cũng phải đến mười bảy, mười tám món.

    Tôi vừa định nhặt cái bao lên liền nghe thấy tiếng rít của rắn, trên vết nứt ở vách tường đá thò ra một cái đầu dẹt ba sừng, ánh sáng đèn pin chiếu vào vảy nó liền ánh lên màu sắc sặc sỡ. Quan Trung có một loại rắn, tục gọi là "Lạc thiết đầu", bị nó cắn trúng thì khó mà toàn mạng. Tuyền Béo nhanh tay lẹ mắt, vung cây đuốc trong tay về phía trước dọa con Lạc thiết đầu chạy mất. Tôi nghĩ Lạc thiết đầu ở đây chắc hẳn không chỉ có một con. Trên đỉnh đầu lại có đá vụn rơi xuống, sợ rằng ngôi mộ sẽ sụp xuống, tôi liền dùng dây bó thi thể Mã Lẫm lại, Tuyền Béo lượm mấy bao tải kia, hai người vội lôi thi thể ra ngoài.

    Mã Lão Oa Tử nằm trên đống bao bố khóc rống lên, mặc dù Mã Lẫm chỉ là cô nhi do lão nhặt về nhưng có lẽ vì lão đã nuôi nấng cậu ta từ nhỏ nên cũng có chút tình cảm. Bất chợt tôi cảm giác tiếng khóc của lão có chút bất thường. Bầu trời không mưa bỗng nổ một tiếng sấm khô khốc! Tôi tự nhủ không hay rồi, quay đầu lại, đúng lúc một tia chớp lóe lên, trong mắt tôi bây giờ là một màu ảm đạm, chỉ thấy Mã Lão Oa Tử đang giơ súng săn đã tra thuốc lên, nhắm ngay vào tôi định bắn! Trong lòng tôi chợt lóe lên một ý niệm, Mã Lão Oa Tử này thấy tài vật liền nổi lòng tham, nhưng dù không muốn chia chác minh khí với chúng tôi, hắn cũng không cần thiết phải làm như vậy, hắn thật sự muốn giết người diệt khẩu sao! Tia chớp vừa vụt tắt, trên trời lại nổ ẩm một tiếng, gần như cùng lúc súng trong tay Mã Lão Oa tử cũng khai hỏa, Mã Xuyên ở bên cạnh cũng đã nhồi xong thuốc súng. Tôi muốn tránh cũng không kịp nữa rồi, vội mở dù kim cương, hai khẩu súng săn nổ cùng lúc, đạn chì ghim hết vào tán dù kim cương. Máu nóng toàn thân tôi lúc này đã xộc lên não, trong lòng chửi thầm: "Hai đứa khốn kiếp các người với ta không thù không oán, chỉ vì mấy món đồ cúng người chết mà lại ám toán sau lưng ta, không phải may mắn trời đột nhiên nổi sấm sét, cộng thêm có dù kim cương thì chẳng phải ta đã biến thành quỷ chết oan rồi sao?"

    Làng quê này là vùng đất cằn cỗi, nghèo xơ nghèo xác, vì thế nên lòng người cũng sinh ra hiểm độc, vì tiền có thể sẵn sàng giết người không gớm tay, lẽ ra tôi không nên chủ quan như vậy mới phải, thành ra đi bắt nhạn lại bị nhạn mổ vào mắt! Khoảng cách quá gần tôi cũng không thể làm gì hơn, dù kim cương trúng đạn, phản lực không hề nhẹ, tôi mất đà bị đẩy lùi về sau một bước, chân đạp trúng vào khoảng không rơi trở lại cửa hang. Lúc đó thân thể còn đang lơ lửng giữa không trung, trước mắt là một màu đen kịt, nghĩ rằng phen này chắc tan xương nát thịt mất rồi thì lại nghe "ầm" một tiếng, rơi trúng người Tuyền Béo. Mặc dù có dù kim cương trên tay làm giảm lực bay nhưng rớt xuống vẫn không dễ chịu chút nào, trước mắt tôi trời đất như quay cuồng, sao bay loạn xạ.

    Tuyền Béo nói: "Lão Hồ sao anh lại xuống đây? Ôi trời! Người tôi ê như bại liệt rồi —— anh đúng là đồ hại người!"

    3

    Tôi chưa kịp giải thích, đã thấy Răng Vàng rớt từ bên trên xuống trúng dù kim cương, lăn sang bên cạnh, hắn bị ngã một cú trời đất quay cuồng, luôn mồm than khóc: "Ai da cái mông tôi, thằng Mã Lão Oa Tử khốn kiếp!". Vốn dĩ Răng Vàng ở bên trên thấy Mã Lão Oa Tử đột nhiên động thủ, sợ đến ngây người, trời mưa lớn như vậy, súng săn của Mã Lão Oa Tử nhồi thuốc bắn một lần thì không xài tiếp được nữa, lão liền lôi đao ra, hùng hổ hỏi: "Mày có xuống hay không? Không muốn xuống thì để tao thử cây đao này luôn thể!" Răng Vàng cắm đầu muốn chạy, bị Mã Lão Oa Tử đạp một đạp vào mông ngã nhào xuống hang. Vừa dứt lời, sợi dây thả xuống động đã bị Mã Lão Oa Tử kéo lên.

    Tuyền Béo lúc này mới hiểu, ngẩng đầu lên chửi: "Con lừa già kia đừng có chạy, mày có lên trời tao cũng lôi mày xuống cho xem!"

    Chưa mắng hết câu lại nghe một tiếng nổ rền vang như sấm. Hóa ra là Mã Xuyên bên trên kích nổ "Băng sơn pháo", là loại pháo dùng để phá núi. Mã Xuyên là đứa trẻ dốt nát, ngờ nghệch, Mã Lão Oa Tử bảo hắn làm gì thì hắn làm nấy, không những đã kéo mất sợi dây lại còn đánh sập cửa hang, quyết chôn sống bọn chúng tôi. Giữa tiếng sấm rền vang, đất đá ào ào trút xuống, ba người chúng tôi ôm đầu né tránh, lùi tới bên dưới vách đá. Tôi sợ bị Lạc thiết đầu cắn liền vội mở đèn pin, tranh thủ chút ánh sáng nhìn xung quanh một chút, trên mặt hai người kia ngoam nguếch toàn là đất và máu, tôi đoán chừng trên mặt tôi bây giờ chắc cũng như vậy, đưa tay quệt một cái, bầm ruột chửi thầm: "Con lừa Mã Lão Oa Tử vô danh vô học kia, làm việc thất đức rồi sẽ có ngày tuyệt hậu! Chờ ngày tao ra ngoài rồi cũng chính là ngày hạn của mày!"

    Tuyền Béo không cam tâm, lôi cả mười tám đời nhà Mã Lão Oa Tử ra, lần lượt chửi từng người từng người một.

    Tôi nói: "Anh có mắng ba ngày ba đêm thì lão cũng không mất một cọng lông nào đâu, ra ngoài trước rồi tính."

    Tuyền Béo nói: "Làm sao ra ngoài bây giờ? Đào hầm cũng không ổn, chẳng may sập hầm không phải Răng Vàng sẽ bị chôn sống sao."

    Răng Vàng nói: "Tôi đâu có trêu ghẹo ai mà đáng chết hả? Hơn nữa cái hầm này sớm muộn gì cũng sập thôi, tới lúc đó rồi không phải là ba người chúng ta cùng "đồng quy vu tận sao" ?"

    Tuyền Béo nói: "Anh đi mà chết một mình đi, "có cô thì chợ thêm đông, cô đi lấy chồng thì chợ vẫn vui", dù nói thế nào đi chăng nữa anh cũng là người thừa ra."

    Răng Vàng nói: "Tuyền Béo anh còn không biết tôi là loại người như thế nào sao? Tôi một lòng trung thành với anh và Hồ gia như là dao găm bên sườn, sao lại có thể nói là dư thừa chứ? Đúng rồi, tôi nhìn Mã Lão Oa Tử nhặt được một túi minh khí, mười bảy, mười tám món toàn là đồ tốt!"

    Tuyền Béo nói: "Anh xem tình trạng của anh bây giờ thế nào, vẫn còn tâm trí nghĩ đến đồ nữa sao? Bây giờ nói thẳng ra là ăn phân cũng thấy ngon, ngửi rắm cũng thấy thơm! Anh đừng trách tôi nói năng khó nghe, sự thật thường mất lòng! Nói ngọt như mật ong mà chui lên khỏi được hai dặm đất thì tôi cũng làm. Giờ việc quan trọng nhất là làm cách chó chết nào để ra, anh có biết không?"

    Răng Vàng vội hối lỗi, đáp liên tục: "Được rồi, được rồi không nói chuyện nhặt đồ nữa. . . ."

    Tuyền Béo nói: "Không nhặt đồ cũng không được, nói đi cũng phải nói lại, chúng ta ăn chén cơm này tối kỵ việc đi không về rồi, đi không nhặt được đồ sẽ vô cùng bất lợi, bất kể thể nào cũng không thể ra ngoài tay không được. Bàn gia tôi nói chuyện không quan tâm nặng nhẹ, nhưng đã nói là phải có lý lẽ! Ngày có đạo của ngày, người có lý của người, Vì sao phải nhặt, mà không nhặt thì lại bởi vì sao, đều có đạo lý của nó!

    Lúc nói chuyện, tiếng đất lở trên đỉnh đầu vẫn đều đặn rót xuống, tôi sợ mất hết hồn vía, định tìm đường ra ngoài nhưng nhìn quanh bốn phía đều là vách đá, không có lối đi nào khả dĩ. Vừa rồi đất đá sụp xuống, lạc thiết đầu đều bị dọa sợ chạy mất, hồi lâu cũng không thấy bóng dáng. Huyền cung này quả thực có nhiều điểm kỳ quái, nước mưa từ cửa động chảy xuống khá nhiều nhưng dưới chân lại không có nước đọng. Tôi chờ cho Tuyền Béo với Răng Vàng cãi nhau xong mới đi xung quanh xem kỹ một chút, hi vọng có thể tìm ra đường ngầm. Tuyền Béo tìm quanh chỗ góc tường có thi thể lúc trước, nhặt được một cây đuốc còn có thể cháy tiếp. Qua ánh lửa lập lòe mông lung, bóng dáng ba người nhìn cũng mịt mờ, bất định.

    Tôi tìm được ở cuối vách đá có khe nước chảy qua được, bùn đất không ngừng chảy xuống.

    Tôi giơ tay gạt bụi đất trên vách, phát hiện vách đá lồi lõm giống hoa văn, giơ cây đuốc lên nhìn thử, thì ra là một cánh cửa đá của địa cung. Địa cung mặt hướng nam, lưng quay về hướng bắc, khí thế nguy nga. Trên cửa có đinh đá và vòng cửa, đinh này được gọi là "nhũ đinh" vì hình dáng tương tự như đầu vú phụ nữ, vòng cửa được ngậm trong miệng thú. Cửa đá được người dùng một khối đá lớn khéo léo chế tác mà thành, phía trên có trạm trổ long xà, kỳ lân, hải mã, nóc cửa đá còn có hình tiên nhân cưỡi hạc.

    Cửa đá huyền cung đóng rất khít, không có dấu hiệu từng bị cạy mở. Ba người dồn hết sức vào bầu sữa mẹ trên cửa, vai đẩy chân đạp cửa đá mới chậm rãi hé dần ra. Bên trong cánh cửa là một hành lang vô cùng lớn, dốc xuống dưới, toàn bộ hành lang đều được xây bằng đá, phía trên hai bức tường đá dựng đứng là vòm hành lang cuốn hình vòng cung, khiến cho người đi vào trong đó giống như đi vào một tòa cung điện rộng lớn, thần bí, nó tồn tại một loại khí thế bức người, khiến cho người ta hô hấp không thể bình ổn.

    4

    Tôi bước vào, soi đèn pin lên vách đá, chỉ thấy trên các khối đá lớn màu xám đều có khắc hoa văn hình chữ "vạn - 万" thầm giật mình, địa cung này là thế nào đây? Chính là huyền cung Tần vương trong truyền thuyết sao? Vừa nghĩ tới huyền cung Tần vương, cằm tôi nếu không dính chặt trên miệng có lẽ đã bị rớt xuống đất. Vào những năm cuối triều Minh, huyền cung Tần vương đã bị loạn quân đào bới, cung điện ở trên núi cũng bị hủy diệt, long mạch đã không còn, chỉ còn sót lại trăm hầm ngàn hố như tổ mối trên đất mà thôi, vậy mà hiện giờ nơi chúng tôi đang đứng ở dưới lòng đất lại có một tòa địa cung hoàn toàn không bị tổn hại chút nào! Mấy trăm năm về trước đạo quân phá huyền cung Tần vương vì sao lại bỏ qua địa cung này chứ?

    Tôi nói với Tuyền Béo và Răng Vàng chuyện tôi luôn đau đáu từ lâu. Những hố đào lớn trên đỉnh núi mặc dù đã rất sâu nhưng thực ra chưa đáng là bao so với địa thế của núi này, Tầm Long Quyết có nói "Thanh Long nhập địa nhi huyền, thâm bất khả tri dã" (Mạch rồng khi nhập xuống đất thì trở nên huyền bí, sâu kín khó tường). Tần vương chọn huyền cung là địa cung chắc hẳn là đã tính toán vị trí đặt mộ phần phải thật sâu dưới lòng đất, ít nhất cũng phải là đáy quả núi này mới tương xứng với địa thế của huyền cung, nói không chừng còn là "Cửu trọng huyền cung" (huyền cung chín tầng)! Thời phong kiến, hoàng đế băng hà thì không được gọi là chết mà phải nói là đại hành, cưỡi rồng thăng thiên. Tần vương vốn xem trọng đại hành không kém gì hoàng đế, dùng huyền cung làm lăng mộ, huyền cung vừa vặn cân xứng với pháp cung, chín tầng bằng đá khối, ba khối đá là một trọng, ba trọng là một tầng, hai tầng bên trên đều là mộ giả, chỉ có quan quách và minh khí. Số loạn quân kia vốn xuất thân là nông dân nghèo khổ, chân đất mắt toét, phần lớn chưa từng thấy qua cảnh đời nói gì tới kiến thức đạo mộ. Có lẽ cũng đào bới được một vài mộ giả, tưởng rằng đào sâu như vậy vốn dĩ đã hết rồi, không thể ngờ huyền cung của Tần vương quy mô lại lớn như vậy, bên dưới huyền cung còn có một tầng nữa, đây mới thật sự là quách thất (phòng để quan tài)!

    Răng Vàng vỗ đùi: "Ha ha! Tôi nói trúng phóc rồi nhé, Hồ gia anh đúng là gặp vận lớn! Trước đây tôi còn nói, vào núi đổ đấu gặp mưa gió là đại phát, chính là điểm báo trước vận số của chủ mộ kia đã hết, quá nửa sẽ có đồ xuất thổ! Xưa có câu thế này "long hành hữu vũ, hổ hành hữu phong" (rồng bay sinh mưa, hổ đi sinh ra gió). Nơi cửa điện này quanh năm ẩm thấp lại chẳng được trùng tu bao giờ, trận mưa vừa rồi sớm không tới, muộn không tới mà lại chờ đúng lúc mấy anh em ta lên núi mới ập xuống, đây chẳng phải điểm bất thường thì là gì? Tôi dám lấy đầu ra cược, trong quan quách của Tần vương nhất định là có bảo vật vô giá! Hồ gia anh là người hiểu biết, tên tiểu tử chăn dê ngoài cửa điện kia không phải kẻ bất tài, tổ tông nhà lão đời nào chẳng đào mộ? Anh không ra tay, đến khi tin tức lộ ra, trân bảo chôn theo quan quách Tần vương cũng chẳng thể bảo toàn! Đồ trong tầm tay chúng ta, không thể để bọn Mã Lão Oa Tử ẵm tay trên được?"

    Tuyền Béo nói: "Răng Vàng nói đúng lắm, anh không muốn thì kẻ khác cũng lấy, anh đành lòng nhìn tên tiểu oa tử chăn dê đó mang đồ đi sao? Minh khí rơi vào tay người khác thì không nói, rơi vào tay Mã Lão Oa Tử, anh không thấy mắc ói sao? Nói thật, tôi vốn cũng không muốn làm cái nghề này, nhưng đã sa chân xuống rồi thì phải đi cho hết, muốn leo lên cũng chẳng có chỗ móc dây mà trèo lên, người đã sa xuống giếng rồi, mà vẫn muốn lỗ tai được thông sao?"

    Tôi nói: "Anh không cần phải lải nhải khích tôi, đã ăn chén cơm đổ đấu này, thấy hầm đất mà còn không dám vào sao? Có điều tôi nói hai câu này các anh phải nhớ cho kỹ —— "lưu đắc xanh sơn tại, bất phạ một sài thiêu, gia cường kỷ luật tính, đảo đấu vô bất thắng" (Núi xanh vẫn còn, không sợ không có củi đốt, tăng cường tính kỷ luật, đổ đấu không thể không thắng)!

    Răng Vàng nói: "Lời của Hồ gia một câu đổi mười ngàn câu, câu nói thật sắc mà lại do anh nói ra thì ý nghĩa càng thâm sâu hơn bội phần, càng nghĩ càng thấy thấm, chỉ cần nghiền sâu ngẫm đúng đủ cho tôi dùng cả đời, đúng là —— lời ít nhưng đạo lý sâu, vô cùng ảo diệu!"

    Tuyền Béo nghe không nổi nữa nói: "Răng Vàng anh dù gì cũng là hán tử lông dài đầy ngực, anh còn muốn hay không muốn cái mặt của mình thế? Có phải hắn đánh rắm anh cũng ca tụng thành tiếng sấm giữa trời quang không?"

    Vừa nói chúng tôi vừa đi vào bên trong, xuống qua ba tầng bậc thang thì nhìn thấy mội ngôi điện, hai bên có có hai chiếc cột lớn rồng lượn cuốn quanh. Trong điện âm u không đèn đuốc, trống trải, tĩnh mịch như đêm ba mươi lại tối tựa như canh năm.

    Ba người đi vào địa cung vắng vẻ, nương theo ánh sáng đèn pin thăm dò xung quanh, trong bóng tối dường như có một thứ áp lực vô hình uy hiếp, bốn xung quanh chúng tôi đều một màu đen kịt âm u lạnh lẽo, xộc vào mũi là thứ mùi ẩm mốc, mục ruỗng. Càng đi sâu vào huyền cung cảm giác càng bức bách, khó chịu. Đi tới cuối điện lại gặp một khung cửa hình vòng cung do một khối cẩm thạch lớn đẽo thành, bên trên xếp một hàng chín mươi chín chiếc đinh ngọc, có lẽ là cửa trong của huyền cung. Hai bên cửa vòm có khạp thờ hình rồng xanh thắp trường minh đăng (đèn thắp suốt ngày đêm), mấy pho tượng linh thú trấn điện đứng đối xứng nhau. Hai bên cửa đá bạch ngọc đều có một đài sen, trái phải bày ra hai cỗ quan tài lớn phủ đầy bụi bặm và mạng nhện. Phủi sạch bụi bặm thấy lộ ra đầu quan tài màu đỏ thắm.

    Tuyền Béo hỏi Răng Vàng: "Sao lại có hai cái quan tài thế này? Tần Vương lão bánh trưng* là cái bên phải hay bên trái? Còn lại một cái khác là để làm gì đây?"

    *Tiếng lóng chỉ thi thể Tần Vương.

    Răng Vàng nói: "Thi hài chủ mộ làm sao có thể đặt khơi khơi trước cửa điện như vậy? Quan quách lim hương (một loại lim có mùi thơm đặc biệt quý hiếm) này là của phi tần tòng táng*."

    *Tòng táng: Được chôn theo chủ mộ.

    Tôi không thể không nể phục Răng Vàng, đừng coi thường hắn là người không ra gì, nhãn quan của hắn hiếm kẻ bì kịp, hắn không cần cầm đồ lên xem, chỉ cần dùng mũi hít ngửi cũng có thể ngửi ra được là mùi quan quách lim hương.

    Tuyền Béo đi tới bên cạnh, thò tay mở nắp quan tài, định xem thử bên trong có đồ gì.

    Răng Vàng kinh hãi nói: "Không được! Quan quách của phi tần không động vào được!"

    Tuyền Béo nói: "Đừng có mà thần hồn nát thần tính, Ông đây tò mò mở ra xem một chút chứ có quái gì mà làm như đỉa phải vôi thế? !"

    Răng vàng nói: "Phi tần chết ngạt trong quan quách nhìn vô cùng khó coi, đáng sợ lắm!"

    Tuyền Béo nói: "Bảo anh thu minh khí chứ không phải bảo anh đi ôm người thân của lão bánh trưng kia mà lo xấu với chả đẹp?"

    Răng Vàng nói: "Khi chôn cất hoàng đế đại hành sẽ trói chân tay của phi tần rồi bỏ vào quan quách, sau đó nắp quan tài sẽ bị đóng chặt bằng đinh, mang vào địa cung chôn theo hoàng đế, Quan quách chôn sống phi tần không có bất kỳ món đồ trang sức táng theo nào, trong quan quách phi tần tòng táng rất ít khi có trân bảo, cùng lắm là được trùm lên mấy tầng lụa vàng. Trong đó toàn là ma quỷ chết oan làm gì có cái gì mà nhìn?"

    Tuyền Béo không quan tâm phi tần tòng táng có oán khí hay không, nhưng hắn vừa nghe qua trong quan quách không có minh khí cũng hết hứng thú. Hắn lại hỏi Răng Vàng: "Tần vương huyền cung lớn như vậy, quan quách tòng táng theo sao lại không có vài món minh khí được chứ?"

    Răng Vàng nói: "Không có kỳ trân dị bảo chôn theo đâu, mà cho dù là có cũng phải là ở bên cạnh Tần vương."

    Tuyền Béo nói: "Ha Ha! Anh biết tính tôi rồi sao không nói sớm?"

    Nói xong hắn đẩy cửa điện ra, bên trong cửa điện cẩm thạch màu trắng đã đặt chốt chống cửa nên mặc cho bên ngoài dùng sức thế nào cũng không làm sao đẩy ra được.

    Hắn lấy ra thanh xuyên cửa, chọc vào khe giữa hai cánh cửa, vừa đẩy vừa xoay, một lúc sau thì đẩy bung được cái chốt đá. Tuyền béo đẩy cửa điện ra, tôi len người vào chính điện.

    Nơi này còn được gọi là quách thất. Huyền cung Tần vương được bố trí giống với lăng mộ vua chúa triều Minh, quách thất là nơi xếp đặt quan tài, kích thước tương đối nhỏ. Vừa mở cửa điện, bên trong tối tăm lạ thường, dưới ánh sáng đèn pin, bụi bặm đang trôi lơ lửng trong không khí khẽ lay động, trong phòng trống rỗng, chung quanh bốc lên một thứ mùi ẩm mốc, thối rữa xộc thẳng vào đầu, chúng tôi không làm sao xua đi được. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả tiếng vang của bước chân cũng khiến cho người ta phải giật mình phát sinh cảm giác mông lung, bất an không làm sao hình dung nổi ngấm thẳng vào tận xương tủy, da nổi da gà, cảm giác toàn thân lạnh toát, xuyên gan thấu mật.

    5

    Tôi đang lần mò đi về phía trước, đột nhiên phát giác có thứ gì đó đang treo lủng lẳng trước mặt, vị trí rất gần với cửa điện, nếu đi tiếp phía trước sẽ đụng trúng. Tôi nghĩ chắc là bồ hóng đóng trên mạng nhện lâu ngày, chưa kịp giơ đuốc lên soi, giơ tay khều thử, vật kia lắc lư vài cái, trên đỉnh đầu tôi phát ra mấy tiếng "kẽo kẹt kẽo kẹt", trong đại điện âm u nghe rợn cả tóc gáy.

    Ba người chúng tôi ngẩng đầu lên nhìn, lông tóc dựng đứng cả lên, thực ra chẳng phải là bồ hóng gì hết, trên hốc cửa chính điện đang treo lơ lửng một cung nữ tóc dài bù xù, hai chân buông thõng giữa không trung, lúc ẩn lúc hiện ở dưới cổng vòm.

    Thi thể treo dưới cổng vòm, toàn thân vận đồ cung nhân, áo dài đã biến thành đen sì, mái tóc dài xõa xuống che đi khuôn mặt, bụi bặm phủ đầy, trước ngực còn buộc một bọc lụa vàng, là dùng dây đai lưng tự thắt cổ, treo ở trong địa cung không dưới mấy trăm năm, mũ phượng đã rớt xuống đất. Vì bị treo nhiều năm nên thi thể cũng bị kéo dài ra rất nhiều, tứ chi khòng khoèo, lại thêm mái tóc dài bù xù, bất ngờ nhìn thấy ở huyền cung tối tăm này thật có thể khiến cho người ta vỡ tim mà chết.

    Thi thể cung nữ treo trên cửa điện vừa đụng trúng tôi thì lung lay mấy cái giữa không trung, đai ngọc thắt cổ đột nhiên bị đứt, thi thể rớt xuống trên mặt đất. Có điều cái đầu bị mái tóc lòa xòa phủ kín thì vẫn treo lơ lửng trên cao, không ngừng đung đưa như quỷ sống.

    Sân khấu hí kịch ở Quan Trung có tám tuyệt kỹ lớn, nói đến kỹ năng dọa người, đáng sợ nhất phải kể đến tuyệt kỹ treo thi thể, thường gọi là "đại thượng điếu" (treo người lên), trước kia đã từng hù chết trẻ con, các bạn thử nghĩ xem thi thể theo trên sân khấu hí kịch đã đủ dọa chết người, huống chi là một cái tử thi thực sự đang treo lủng lẳng như vậy?

    Tuyền Béo nói: "Thật là đồng cỏ lắm rắn, ổ sói thì chó nhiều, bánh trưng trong mộ cổ cũng nhiều thật đó, trên cửa cũng treo một cái, cái này là để hù dọa dân đổ đấu phải không? Chúng ta không có chuyện sẽ không lên tam bảo điện, có việc mới vào cửa này của ngươi, ngươi cho ta vào đàng hoàng thì được, cứ gây chuyện lằng nhằng, ông đây móng lừa đen ra hỏi thăm ngươi!"

    Răng Vàng khiếp sợ, toàn thân toát mồ hôi lạnh, không ngờ vừa mới vào chính điện đã đụng phải một màn như vậy, hắn nghĩ con đường kiếm minh khí có lẽ khó mà hanh thông rồi. Đột nhiên thấy trong bọc lụa buộc trên người cung nữ vận cẩm bào rơi ra một cái hộp sắt mạ vàng, hắn cúi đầu xuống nhìn thử, ngạc nhiên nói: "Ban đêm tôi mơ thấy cửu cung nương nương hiển linh, nói tôi phúc lớn, mạng lớn, vận may lớn, gặp dữ hóa lành, gặp nguy thành an, tương lai nhất định sẽ thăng quan tiến chức nhanh chóng, vạn họa đều tiêu, giàu sang vô hạn, đúng là ứng ở đây rồi!"

    Tôi hỏi hắn: "Cửu cung nương nương không nói với anh là anh đang nằm mơ không?"

    Răng Vàng nói: "Không nói, nhưng tôi có thể nhận biết được."

    Ta nói: "Tự mình biết được mình đang nằm mộng sao? Có gà gáy là trời sáng, mà gà không gáy thì trời vẫn sáng, có phải phát tài hay không cũng không phải do cửu cung nương nương hiển linh báo mộng."

    Răng Vàng nói: "Được rồi, là do tôi lỡ miệng, đúng ra phải nói cả ba chúng ta cùng phát tài chứ gì? Tôi nói cho hai người các anh biết đại tỷ treo trên cửa điện kia không phải cung nữ, đây là một "phủng bảo quan" (Người nâng bảo vật)!"

    Tương truyền hoàng đế sau khi hạ táng sẽ lấy cung nữ tâm phúc táng theo. Trên thực tế không hề có chức quan như vậy, cung nữ tòng táng thời cổ đại văn bản cũng giống như minh khí, cung nữ cùng với đồ chôn theo sẽ cùng theo quan tài tiến vào địa cung, đến khi địa cung đóng chặt lại, nàng ta hoặc ngậm tiền hoặc tự vẫn đều chết ở bên trong.

    Tôi cùng với Tuyền Béo nghe Răng Vàng nói những chuyện ly kỳ như vậy thì vô cùng ngạc nhiên, Dùng đèn pin soi thử hộp sắt mạ vàng, chỉ thấy hai mặt trên dưới hộp đúc hoa văn, chính diện có hình một vị thần móng hổ đầu người, phía trên có chín cái đầu người đàn ông, dưới đáy cũng có chín đầu một thân, thân là một con rắn, do đầu của chín cô gái ghép lại mà thành. Mở hộp sắt ra, bên trong cũng có những hình vẽ kỳ dị giống như vậy, bên trên là chín con rồng rắn, chính giữa là thần, chim, hươu đầu đuôi giáp nhau, lượn vòng hợp nhất, dưới có một quan hai con quỷ, tôi chưa từng thấy qua. Có điều bên trong hộp sắt mạ vàng cũng không có để đồ.

    Răng Vàng nói: "Anh khoan hãy nói Răng Vàng tôi vô dụng, các anh chưa từng thấy qua nhưng tôi thì có, người chín đầu thú gọi là "lục ngô", mặt người nhưng móng hổ, hung ác đa nghi, thiên về bảo vệ bí mật, thân rắn chín đầu gọi là "bành họa", mặt người mà thân hươu, tham lam thành tính, thiên về trấn thủ kho báu. Kỳ trân dị bảo trong địa cung này chưa từng xuất thế, nói không chừng là thứ đồ vật kinh thiên động địa, không ở đây thì cũng trong quan tài, cơ bản là không thể thoát được bàn tay chúng ta, có hai người các vị ra tay cộng thêm cái đầu của Răng Vàng tôi coi như là bảo hiểm gấp đôi, còn lo không tìm ra được sao?"

    6

    Tuyền Béo là ăn mày bóc tỏi – kẻ nghèo có toan tính của kẻ nghèo, chuyện hôm nay chớ để ngày mai. Hắn nhặt hộp sắt mạ vàng nhét vào túi sau lưng, còn không quên lý sự: "Mô kim hiệu úy ở trong mỗi cổ mộ chỉ lấy một món minh khí, có điều túi đựng bên ngoài cũng không thể coi là vật ở bên trong, giống như anh đi mua giày, không có hộp đựng vẫn là một đôi giày, có hộp đựng thì không phải là một đôi giày sao?"

    Tôi nói: "Anh kiềm chế nói nhảm cho tôi, coi chừng dưới chân, đừng chỉ chú ý đào minh khí."

    Tuyền Béo nói: "Não phía sau gáy tôi còn lợi hại hơn mắt nhiều, đợi lát nữa anh xem, nếu tôi không mang chút ngón nghề ra cho Răng Vàng xem thử, hắn còn tưởng rằng tôi chỉ là kẻ hành nghề là ăn cơm trắng (ý chỉ vô dụng)!

    Tuyền béo vừa nói vừa đứng dậy, tiến về hướng tới quan tài trong phòng, có điều thi thể phủng bảo quan treo ở dưới mái vòm mấy trăm năm, mục rữa đã lâu lại bị đung đưa, thi thể rơi xuống đất, đầu người vẫn còn treo trên đai ngọc, buộc vào xà cửa, giữa không trung không ngừng phát ra những tiếng "kẽo kẹt kẽo kẹt", lúc ẩn lúc hiện. Lúc này đầu người cung nữ lung lay mấy cái rồi cũng rơi xuống.

    Răng Vàng đi qua dưới cửa, đầu người cung nữ liền rơi ngay xuống người hắn, khiến cho hắn sợ són đái, sợ bị đầu người kia cắn cho một cái, vội vàng vung tay gạt sang một bên. Mái tóc dài cuộn lấy đầu người, rơi xuống trên thềm ngọc, lăn vào chính điện. Trong quách thất tối lửa tắt đèn, chúng tôi cầm đuốc đi vào, thấy quách thất này cũng không lớn, theo phong thủy mà nói, có thể là vì tụ khí*.

    *Tụ khí: Đại khái theo phong thủy, kiến trúc tụ khí sẽ đem lại may mắn (khí gồm hai loại khí âm dương, do cách bài trí nội thất hoặc do cấu trúc, thiết kế mà sinh ra, tụ khí là để giữ lại dòng năng lượng tốt của hai loại khí này).

    Khung đỉnh phía trên và bốn vách của quách thất đều chạm khắc kinh văn, hai bên có hai buồng đối xứng, phía cuối là hậu thất xếp một tấm bia đá không có chữ, dưới bia có bị hí**, tục ngữ dân gian gọi cái này là bia vương bát đà (bia cõng rùa).

    ** Bị hí: Một loài động vật trong thần thoại giống như rùa.

    Chính giữa là một tòa bảo đài hoa sen trạm trổ long phượng. Có một cỗ quan tài lớn đã tróc sơn, hoa văn trang trí là hình cá hóa rồng. Trên bảo đài bày ra ba mươi cánh hoa sen. Hai bên cũng bày khạp thờ hình rồng phía trên có cung đèn (đèn trong cung đình) mạ vàng. Đèn dầu vẫn còn bấc nhưng đã cạn dầu từ lâu. Chung quanh quan quách có năm tượng gốm phủ đầy bụi đất. Lớp sơn của quan quách rơi xuống đất màu chói như vân vàng, tất cả đều là hoa văn vảy rồng.

    Gỗ lim sinh trưởng ở nơi núi thẳm cùng cốc có thể do bị gió lớn đánh bật gốc, chôn dưới đất qua hơn ngàn năm đã chuyển thành màu tím. Mặc dù vẫn là gỗ nhưng do chôn qua hơn mười ngàn năm, nửa phần đã hóa thạch mới có thể tạo thành vảy rồng vân vàng, nước ngâm không thấm, kiến mối không đào được. Tương truyền năm đó ở Vân Quý, giữa nơi rừng sâu núi thẳm, hơn ngàn người đổ xô đi tìm một tấm gỗ lim vảy rồng, lúc đi ra chỉ còn một nửa.

    Báu vật thượng hạng ở Quan Trung từ xưa đều đã biến mất, cầu cũng không thể gặp, vảy rồng vân vàng có thể nói là vạn tiền khó cầu! Đài sen có đôi rồng uốn lượn bao quanh, thường gọi là pháp đài, theo truyền thống của đạo phật, hàm ý ở đây là được siêu sinh sang kiếp sau. Chúng tôi dù đã lo lắng đề phòng nhưng khi bước vào chính điện, mọi ánh mắt đều bị quan quách trên đài sen thu hút không thể dời đi.

    Tôi nhủ thầm: "Đế vương thì sao chứ? Chẳng phải lúc lâm đại nạn đều như tạt đèn nhổ nến (ý chỉ sự lung lay khốn đốn) thành bánh chưng cả sao?"

    Răng Vàng là kẻ chỉ giỏi tán dóc, mồm năm miệng mường chém gió không ai bằng, có điều lá gan rất nhỏ, dương khí toàn thân hư nhược, lúc ho thì không khác gì phun ra khói, hắn buôn bán minh khí đều dựa vào độ dèo của miệng lưỡi, gắng dựa vào chút nhãn lực và kiến thức, mười phần là hạng người ham sống sợ chết, như gà rừng đứng cửa, không lên được núi Thiên Vương, từ trong bụng mẹ sinh ra đã vậy. Nhìn thấy trong bảo điện trong huyền cung khí thế khoáng đạt, bất giác hai chân run rẩy, bò lổm ngổm ở dưới bảo đài, dập đầu lạy quan quách Tần vương.

    Tuyền Béo nói với Răng Vàng: "Anh dập đầu cái bánh chưng làm gì? Không biết người Trung Quốc đã đứng lên rồi sao (ý mỉa mai)?

    Tôi nói: "Đúng, đứng nói chuyện sẽ không bị đau lưng mà!"

    Răng Vàng nói: "Đúng là thế, có điều. . . có điều quan quách này quá vĩ đại. . ."

    Tuyền Béo nói: "Quan quách lớn mang ra không được, trị giá bao nhiêu bạc cũng vô ích thôi, làm sao mà anh lại kích động tới nỗi run lập cập như thế?"

    Răng Vàng nói: "Ở trên quan quách có hoa văn long phượng, chứng tỏ là quan tài chôn chung, còn có một vị vua chôn cùng theo nữa!"

    Tuyền Béo nói: "Hai người? Minh khí chẳng phải sẽ nhiều gấp đôi sao?"

    Răng Vàng nói: "Theo như thế cục này, trong quan tài chắc chắn là có vật chí bảo giá trị liên thành!"

    Tuyền Béo nói: "Còn cố làm ra vẻ huyền bí nữa, giá trị liên thành là bao nhiều tiền?"

    Răng Vàng nói: "Tôi chỉ giả thiết như vậy thôi, anh đừng chê tôi chưa từng thấy qua sự đời, nói tóm lại là tôi không thể định giá, chỉ có thể nói rằng nó đáng rất nhiều tiền, anh muốn bao nhiêu thì là chừng ấy!"

    Tuyền Béo nói: "Anh thật sự nghĩ tôi là kẻ ngu sao? Tôi muốn bao nhiêu được bấy nhiêu? Vậy cũng phải có người chịu xuất đủ số tiền này có phải không? Tôi ở đây suy nghĩ hồi lâu, kết quả nghĩ không ra là ai, không phải tôi sẽ thất vọng sao? Tốn thời gian của tôi, lãng phí tình cảm của tôi, anh có đền được không?"

    Răng Vàng nói sao cũng không lại được, hắn không dám tiếp lời Tuyền Béo nữa, đành phải im miệng bám theo sau lưng tôi, nghển cổ nhìn quanh phía trước.

    Chúng tôi đi lên bảo đài, giơ cao cây đuốc trong tay, lên phía trên vòm đài, mới nhìn thấy tán đài hình đấu củng *, phía trên điêu khắc một con rồng vàng miệng ngậm bảo châu, ở giữa ánh lửa lúc sáng lúc tối, nét vẽ đầu rồng trông vô cùng sống động.

    * Đấu củng: Một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.

    Răng Vàng ngẩng đầu lên nhìn, cả kinh nói: "Thật đáng sợ! Một con ngũ trảo kim long (rồng vàng năm móng)!"

    Tuyền Béo nói: "Mắt anh làm sao vậy, rõ ràng chỉ có bốn cái móng vuốt."

    Răng Vàng nói: "Kim long tứ chi đặc biệt đều có năm móng, giống như tay người, cái này gọi là ngũ trảo kim long!"

    Tuyền Béo nói: "Mấy cái móng vuốt có gì mà ghê gớm thế?"

    Răng Vàng nói: "Lão Béo có chỗ không hiểu, long trảo từ xưa tới này đều được quan tâm rất lớn, rồng để Hoàng thượng dùng mới là ngũ trảo kim long, rồng khác không có nhiều móng vuốt như vậy, móng vuốt không đủ thì không phải rồng thật, bảo châu mà kim long ngậm gọi là Hiên Viên Kính."

    Tôi nói: "Huyền cung của Tần vương không chỉ có địa thế lớn, lại còn dùng ngũ trảo kim long để trấn, sau khi xuống mồ rồi còn vọng tưởng làm hoàng đế sao?"

    Tuyền Béo nói: "Hoàng đế không làm nổi, làm cái bánh trưng còn phải phô trương thanh thế lớn như vậy, tốn kém máu thịt của dân!", Hắn là người điếc không sợ sấm, heo chết không sợ nước sôi, ăn trong chén nhìn trong nồi, thấy Ngọc Hoàng đại đế cũng dám đùa bỡn, nói xong là muốn lên mở quan tài.

    Có điều cho dù minh khí có tốt đi nữa, không mang ra được thì vẫn là đồ của người chết, chỗ này là tận cùng chính điện rồi, Tần vương huyền cung chôn sâu ở trong lòng núi lớn, chung quanh vách núi dầy, khó có thể xuyên ra được, phải cần đến bao nhiêu bản lĩnh mới xuyên núi mà ra được đây?
     

Chia sẻ trang này