1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Spiral - Dòng Xoáy Chết - Tác giả: Suzuki Koji - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Gackt2, 26/3/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 8

    Ando đi cạnh Nemoto trong hành lang mờ tối của trường y. Ando mặc chiếc áo blu không cài cúc, đuôi hất ra phía sau, tay giữ chặt chiếc đĩa trong túi áo jacket. Cả Myashita và Nemoto đều không hỏi anh về chiếc đĩa. Ando không có ý giấu giếm gì. Myashita mà hỏi, anh sẽ trả lời thành thật. Nếu họ biết chiếc đĩa có thể chứa chìa khóa của toàn bộ bí ẩn, chắc chắn bây giờ hai người đó đang bám riết anh.


    Tất nhiên Ando vẫn chưa nhìn thấy những gì có trong đĩa. Luôn tồn tại khả năng chiếc đĩa chứa cái gì đó hoàn toàn khác. Anh hoàn toàn không biết gì cho đến khi xem được nó trên màn hình. Dù vậy, anh cảm thấy nó bình thường trong tay mình: chiếc đĩa ấm nóng trong túi áo anh. Nó ấm gần với nhiệt độ cơ thể. Khi chạm vào chiếc đĩa, dường như anh biết rằng nó chứa những con chữ sống.


    Nemoto mở cửa phòng xét nghiệm khoa Sinh hóa. Ando lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo, chuyển nó sang tay trái, còn tay phải dùng để giữ cho cửa mở.


    “Này, Ueda.” Nemoto ra hiệu cho người thanh niên gầy còm đang ngồi trong góc phòng.


    “Vâng?”


    Ueda xoay ghế về phía Nemoto, nhưng không đứng dậy. Nemoto tiến lại gần, mỉm cười, và đặt tay lên vai Ueda. “Máy xử lý văn bản của cậu có bận dùng gì bây giờ không?”


    “Không, không cần lắm.”


    “Tuyệt. Cậu có phiền nếu bác sĩ Ando đây mượn nó một lúc được không?”


    Ueda ngước nhìn Ando và cúi đầu. “Xin chào.”


    “Xin lỗi về chuyện này. Tôi có một chiếc đĩa cần phải mở, và nó không tương thích với máy của tôi.” Ando đến cạnh Nemoto, giơ chiếc đĩa lên.


    “Anh cứ dùng đi,” Ueda nói, lấy chiếc máy xử lý văn bản nằm ở sàn nhà gần chân anh ta đặt nó lên bàn.


    “Cậu có phiền không nếu tôi kiểm tra nó ngay tại đây, chỉ để chắc chắn thôi?”


    “Không sao đâu.”


    Anh mở nắp máy xử lý văn bản và bật lên. Ngay sau đó menu chính xuất hiện trên màn hình. Trong số các tùy chọn được hiển thị, Ando chọn DOCUMENTS, rồi cho đĩa vào. Màn hình tiếp theo có hai tùy chọn. NEW DOCUMENT và OPEN DOCUMENT. Ando di chuyển con trỏ đến tùy chọn thứ hai và rồi nhấn tiếp. Với một tiếng kêu ro ro, máy bắt đầu đọc chiếc đĩa. Cuối cùng, tên của các file lưu trong đĩa xuất hiện trên màn hình.




    RING 9 1990/10/21


    RING 8 1990/10/20


    RING 7 1990/10/19


    RING 6 1990/10/17


    RING 5 1990/10/15


    RING 4 1990/10/12


    RING 3 1990/10/07


    RING 2 1990/10/04


    RING 1 1990/10/02




    Ando đọc các tên phai như mê sảng. “Ring, ring, ring, ring...”


    Ring!


    Cái quái gì thế này? Đúng từ mà anh tìm được khi giải mật mã lòi ra từ thi thể Ryuji.


    “Anh có sao không?” Nemoto nói, vẻ lo lắng. Anh ta nhìn vào vẻ mặt đột nhiên sửng sốt của Ando. Ando khó khăn lắm mới gật đầu được.


    Không thể nào có sự trùng hợp ngẫu nhiên đến thế. Asakawa đã viết một phóng sự chi tiết về toàn bộ chuỗi sự kiện lạ, lưu nó lại thành chín phần, đặt nhan đề là Ring. Và rồi chính cái nhan đề đó lại lòi ra từ bụng Ryuji.


    Giải thích kiểu này thế nào đây? Không thể nào như thế.


    Ando rơi vào trạng thái đờ đẫn. Thi thể của Ryuji đã hoàn toàn trống rỗng; anh ta giờ giống như một người bằng thiếc rồi. Vậy mà mình đang nói rằng anh ta gửi cho mình một thông điệp từ ổ bụng của anh ta? Rằng anh ta đang cố nói với mình về sự tồn tại của những file này?


    Ando mường tượng lại khuôn mặt Ryuji ngay sau ca mổ pháp y. Khuôn mặt vuông chữ điền của anh ta đang mỉm cười. Ando đã nghĩ, ngay trong giây phút đó anh ta đã bắt đầu cười chế nhạo anh, vẫn trần truồng trên bàn mỗ, xương hàm rung lên.


    Từ trong sâu thẳm, Ando có thể cảm thấy câu chuyện kỳ dị của Yoshino bắt đầu gây cảm giác có thực. Có lẽ nó hoàn toàn là thực. Có lẽ thực sự tồn tại một cuốn băng sẽ giết chết anh bảy ngày sau khi anh xem nó.
     
  2. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 9


    Chiếc máy xử lý văn bản kêu ro ro không ngớt trong khi chiếc máy in in ra hết trang này đến trang khác. Ando kéo mạnh từng trang giấy ra khỏi máy in khi nó trườn ra và đọc thật nhanh.


    Mỗi trang để cách dòng đơn, nhưng Ando vẫn có thể đọc nhanh hơn tốc độ máy in in ra. Vì muốn có một bản in, nên anh đã quyết định in ra toàn bộ thay vì đọc trên màn hình. Giờ thì anh đâm nản khi mất hai đến ba phút mới in được một trang.


    Cuối cùng anh đành mượn chiếc máy của Ueda về nhà. Kiểm tra sơ qua cho thấy toàn bộ phóng sự lên đến gần một trăm trang, nhiều hơn mức hợp lý mà anh có thể in ra ở phòng xét nghiệm. Anh không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thức khuya ở nhà.


    Giờ mới đến cuối trang hai mốt của bản thảo, anh vừa đọc vừa tranh thủ ăn bữa tối mua ở một cửa hàng tạp phẩm trên đường về nhà. Cho đến lúc này, những gì anh đọc đúng y như Yoshino đã kể cho anh tuần trước đó. Nhưng nó khác với những gì Yoghino đã kể anh nghe trong quán cà phê ở chỗ, có thời gian và địa điểm cụ thể. Do đó nó thuyết phục hơn rất nhiều. Lối viết phóng sự - không hoa mỹ - cũng khiến bài viết càng đáng tin cậy hơn.


    Torng khi điều tra bốn cái chết đồng thời do đau tim của bốn thanh niên ở Tokyo và tỉnh Kanagawa vào tối mùng 5 tháng Chín, Asakawa đã đi đến ý tưởng cho rằng thủ phạm là một loại virus. Nói theo khoa học, đó là một kết luận hiển nhiên. Vì các ca mổ tử thi đã phát hiện ra một loại virus gần giống như virus đậu mùa, và linh cảm của Asakawa đã đúng. Theo phỏng đoán của Asakawa, do bốn người chết cùng một thời điểm, nên họ chắc phải nhiễm cùng một loại virus ở cùng một nơi. Anh ta nhận ra rằng mấu chốt cho toàn bộ vụ việc là phải tìm ra nơi họ phơi nhiễm với virus, nghĩa là xác định con đường lây truyền.


    Asakawa đã thành công trong việc tìm ra thời gian và địa điểm mà bốn người này ở cùng nhau: ngày 29 tháng Tám, đúng một tuần trước khi họ chết, tại Pacific Land, Nam Hakone, trong một căn nhà gỗ cho thuê. Villa Log, Cabin số B-4.


    Trang tiếp theo, trang hai hai, bắt đầu với việc Kazuyuki Asakawa tự tìm đến tận ngôi nhà gỗ này. Anh ta bắt tàu tốc hành đến Atami, rồi thuê một chiếc xe đi theo đường Atami-Kannami đến khu nghỉ mát cao nguyên. Trời mưa, bóng đêm hạn chế tầm nhìn, và con đường miền núi rất khủng khiếp. Anh ta đặt thuê nhà B-4 vào buổi trưa, nhưng mãi đến tận quá tám giờ tối mới làm thủ tục nhận phòng. Vậy đây là nơi bốn thanh niên đã ở qua đêm: ý nghĩ đó khiến Asakawa giật mình sợ hãi. Đúng một tuần sau khi ở trong ngôi nhà này, họ đã chết. Anh ta biết chính bàn tay ma quái kia cũng sẽ chạm vào mình. Nhưng anh ta không vượt qua được tính tò mò của một nhà báo nên cuối cùng đã lục lọi khắp ngôi nhà.


    Từ những gì các thanh niên kia viết trong một cuốn sổ tay để lại trong căn nhà, Asakawa xác định rằng tối hôm đó họ đã xem một cuốn băng video, nên anh ta đã đến phòng quản lý để tìm cuốn băng đó. Anh ta tìm thấy một cuốn băng không có nhãn, không có vỏ, nằm ở đáy tủ. Đây liệu có phải là cái mà anh ta đang tìm? Được sự cho phép của người quản lý, anh ta đưa cuốn băng trở lại nàh B-4, rồi, không còn cách nào khác, để biết điều gì có trong cuốn băng, anh ta đã đưa nó vào đầu máy VCR đặt trong phòng khách và xem một mạch từ đầu đến cuối.


    Lúc đầu, màn hình tối đen, Asakawa mô tả cảnh mở đầu thế này:


    Từ giữa màn hình đen, có một điểm sáng bắt đầu nhấp nháy. Nó lớn dần lên, lắc lư sang trái và sang phải, cuối cùng dừng lại phía bên trái. Rồi nó tỏa ra các nhánh, trở thành những đường sáng hỗn độn, trườn bò như những con sâu...


    Ando ngước nhìn lên trang sách. Dựa trên những gì đang đọc, anh có thể hình dung một cách khá rõ ràng hình ảnh có trên màn hình. Khi đọc đoạn mô tả mở đầu của Asakawa, một hình ảnh nhảy vào trong đầu anh như thể anh đã nhìn thấy nó đâu đó trước đây. Một con đom đóm bay trên một màn hình đen, lớn dần lên... rồi một điểm sáng lan rộng ra giống như những sợi của chiếc chổi quét sơn. Đó là một cảnh ngắn ngủi, nhưng đúng là cảnh mà anh nhớ là đã xem rồi, và rất gần đây.


    Ando mất không nhiều thời gian để nhớ ra. Ấy là khi anh ở trong căn hộ của Mai, cố tìm dấu vết của cô. Anh thấy một cuốn băng nằm trong đầu máy VCR, rồi anh nhấn nút play. Cuốn băng có nhan đề Frank Sinatra, Liza Minnelli, v.v..., ghi trên nhãn bằng chữ viết tay của một người đàn ông. Vài giây đầu tiên của cuốn băng phù hợp với mô tả này một cách hoàn hảo.


    Nhưng trong cuốn băng ở nhà Mai, cảnh này chỉ kéo dài vài giây trước khi màn hình đột nhiên trở nên sáng hơn. Trong nỗ lực rõ ràng là nhằm xóa đi những gì có trong cuốn băng, Mai đã ghi lại các chương trình buổi sáng, chương trình phát lại vở kịch mê-lô về một samurai, bất cứ cái gì, cho đến khi cuốn băng chạy hết. Ngay lập tức Ando hiểu ra điều này có nghĩa là gì. Bằng cách nào đó, có thể là thông qua Ryuji, Mai đã được cuốn băng gây rắc rối kia và xem nó tại căn hộ của cô. Rồi khi xem xong, cô đã xóa bất cứ thứ gì chứa trong băng. Hẳn cô phải có lý do để xóa. Nhưng cô đã không thể xóa đoạn mở đầu, nên hình ảnh của vài giây đầu tiên vẫn còn lại, ẩn náu. Có phải thế nghĩa là cuốn băng Asakawa tìm thấy ở Villa Log Cabin đã bằng cách nào đấy tự tìm đường đến tay Mai?


    Anh cố gắng sắp xếp ý nghĩ. Không, không thể thế được. Cuốn băng Asakawa tìm thấy và cuốn băng Mai có rõ ràng là hai cuốn băng khác nhau. Theo bài phóng sự, cuốn băng ở trong ngôi nhà gỗ không có nhãn. Nhưng cuốn băng trong đầu máy VCR của Mai có nhan đề được viết bằng bút mực dạ đen. Điều đó có nghĩa nó là một bản sao.


    Cuốn băng ở ngôi nhà gỗ là bản gốc, và cuốn băng ở nhà Mai là bản sao. Vậy là cuốn băng đã được sao chép, ngụy trang, chuyển đi – một chuỗi thay đổi làm chóng mặt. Trong đầu Ando, cuốn băng, đang nằm tại một điểm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh, bắt đầu giống như một loại virus.


    Vậy sự biến mất của Mai có phải là kết quả của việc cô đã xem cuốn băng? Khả năng này khiến anh lo lắng. Từ lúc đó cô không trở về phòng. Cô không đến trường, thậm chí còn không gọi điện cho mẹ. Mặt khác, anh chưa nghe tin gì về việc người ta tìm thấy một phụ nữ trẻ chết vì những nguyên nhân không giải thích được.


    Anh để cho trí óc nghĩ lan man một lúc, trong khi cân nhắc mọi tình huống có thể xảy đến với cô. Có lẽ cô đã chết đơn độc ở một nơi không ai biết đến. Ý nghĩ ấy là anh đau nhói – cô chỉ mới hai mươi hai tuổi. Anh đã cảm thấy những xao động đầu tiên vì phải lòng cô, và việc này khiến cho sự việc trở nên khó chịu đựng hơn.


    Cuối cùng máy in cũng in xong một trang nữa, với một âm thanh làm Ando thoát ra khỏi dòng suy tưởng. Bất luận thế nào, thì giờ không phải lúc chuốc thêm rắc rối. Hiện tại, tốt hơn là anh nên tìm xem trong cuốn băng đó có gì trước tiên.
     
  3. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 10


    Vài trang tiếp theo chứa những đoạn mô tả toàn bộ nội dung cuốn băng. Khi đọc nó, Ando có thể thấy trong đầu mình một màn hình TV chứa đầy hình ảnh thay đổi liên tục.


    Một thứ gì đó sền sệt màu đỏ phun lên màn hình. Tiếp sau là cảnh một ngọn núi mà nhìn qua cũng biết là núi lửa đang hoạt động. Dung nham trào ra từ miệng núi; mặt đất ầm ầm chuyển động. Cảnh phun trào chiếu sáng cả bầu trời đêm. Rồi cảnh này đột nhiên chấm dứt, thay thế bởi màn hình nền trắng, chỉ hiện lên chữ “núi” màu đen, chữ này mờ dần rồi biến mất. Sau đó là cảnh hai viên xúc xắc đang xoay dưới đáy bát.


    Cuối cùng một dáng người xuất hiện trên màn hình. Một bà cụ da nhăn nheo ngồi trên chiếu tatami. Bà cụ đang nhìn thẳng vào máy quay nói điều gì đó. Bà cụ nói một thứ phương ngữ gần như không thể hiểu được, nhưng ít nhiều qua những âm thanh phát ra, anh có thể chắc rằng bà cụ đang tiên đoán tương lai của ai đó, cảnh báo người ấy.


    Tiếp theo là một đứa trẻ sơ sinh đang gào khóc. Không hề có mối liên hệ rõ ràng giữa các cảnh. Cảnh này nối tiếp cảnh kia hoàn toàn bất ngờ và ngẫu nhiên như người ta rút những quân bài.


    Đứa trẻ biến mất, thay vào đó là hang trăm khuôn mặt tràn lấp màn hình cứ thế nhân lên như sự phân bào, trên nền hàng vô số giọng nói phát ra những lời buộc tội: Đồ dối trá! Quân lừa đảo! Sau đó là cảnh một chiếc tivi cũ, màn hình hiện lên chữ sada.


    Rồi khuôn mặt người đàn ông xuất hiện. Ông ta đang thở hổn hển và vã mồ hôi. Có thể thấy phía sau ông ta là một bụi cây rậm rạp. Mắt ông ta đỏ ngầu hung tợn; miệng chảy nước dãi và méo mó do cười thét lên. Bên vai trần của ông ta có một vết thương hõm sâu, máu từ đó túa ra. Rồi không biết từ đâu lại vang lên tiếng khóc của một đứa bé. Ở chính giữa màn hình là vầng trăng tròn, từ đó những hòn đá to bằng nắm tay rơi xuống, chạm đất với những tiếng kêu thịch thịch.


    Cuối cùng, có thêm nhiều chữ nữa xuất hiện trên màn hình.


    Những ai đã xem những hình ảnh này sẽ chết đúng giờ này tuần sau. Nếu ngươi không muốn chết, hãy làm theo đúng những chỉ dẫn sau...


    Rồi cảnh tượng thay đổi hoàn toàn. Thay vì mô tả biện pháp để tránh cái chết, màn hình bây giờ lại hiện lên chương trình quảng cáo hương diệt muỗi. Mục quảng cáo kết thúc và hình ảnh kỳ lạ trước đó xuất hiện, hay đúng hơn là ký ức về nó.


    Vào lúc kết thúc chuỗi hình ảnh kỳ lạ đó, Asakawa đã hiểu được chính xác hai điều. Thứ nhất, những ai đã xem cuộn băng này đều chịu số phận phải chết đúng một tuần sau khi xem. Và thứ hai, có một cách tránh được định mệnh này, nhưng giải pháp đó đã bị đè một cách cố ý. Bốn thanh niên, những người đầu tiên xem cuộn băng, đã xóa nó trong một trò đùa độc ác tinh quái. Điều duy nhất Asakawa có thể làm là bỏ cuốn băng vào trong túi đồ và vội vã rời khỏi nhà B-4.


    Ando thở sâu và đặt bản thảo thiên phóng sự sang bên cạnh.


    Chết tiệt.


    Trong bài phóng sự, Asakawa đã kể lại cẩn thận và chi tiết những hình ảnh kỳ quái kéo dài hai mươi phút trên cuốn băng. Anh ta đã vận dụng mọi nỗ lực để tái tạo, chỉ bằng ngôn ngữ, những gì chuyển tải thông qua hình ảnh và âm thanh, và đã rất thành công. Những cảnh đó vẫn khuấy đảo lên trong tâm trí Ando, rõ ràng như thể như chính anh đã nghe và xem chúng. Anh lại thở dài, đột nhiên thấy kiệt sức. Hay có lẽ đó không phải là mệt mỏi. Có lẽ giờ đây anh đang cảm thấy nỗi sợ của Asakawa là của chính mình, và muốn tống khứ nó đi bằng cách nào đó.


    Nhưng thậm chí một khắc ngừng nghỉ chỉ kích thích anh ham muốn được biết nhiều hơn. Anh nhấp một ngụm trà, cầm lên trang tiếp theo của bài phóng sự, và bắt đầu đọc tiếp, thậm chí còn đọc nhanh hơn trước.


    Điều đầu tiên Asakawa làm khi quay về Tokyo là gọi điện cho Ryuji Takayama và kể cho anh ta chuyện đã xảy ra. Asakawa không có thời gian hay can đảm để một mình giải quyết chuyện này. Anh ta cần một đối tác đáng tin cậy, và người đầu tiên anh nghĩ đến là Ryuji, bạn anh ta quen từ thời trung học. Anh ta cũng liên lạc với Yoshino, nhưng Yoshino từ chối xem cuốn video. Bất kể có thực sự tin vào cuốn băng hay không, nếu có một khả năng mỏng manh rằng thảm họa sẽ đổ xuống đầu anh ta do xem cuốn băng, thì Yoshino muốn tránh xem nó.


    Nhưng Ryuji không từ chối. Sau khi nghe nói đến cuốn băng sẽ giết chết bất cứ ai sau khi xem nó đúng một tuần, câu đầu tiên anh ta nói là, trước hết hãy để tôi xem cuốn băng đã.


    Do đó, Ryuji đã xem cuốn băng tại căn hộ của Asakawa, và bị mê hoặc. Xem xong anh ta đề nghị Asakawa sao chép cho một bản.


    Chữ “sao chép” khiến cho Ando ngồi thằng dậy và chú ý. Giờ anh nghĩ có thể hiểu được con đường di chuyển của cuốn băng. Bản gốc lấy từ Villa Log Cabin nhiều khả năng vẫn do Asakawa nắm giữ. Nó đã nằm trên chiếc đầu máy trên xe của Asakawa vào thời điểm tai nạn, được giao cho anh trai của Asakawa là Junichiro, sau đó bị vứt đi. Còn một cuốn băng khác, là cuốn băng ở trong căn hộ của Mai, chỉ còn lại một chút đoạn mở đầu. Đây có lẽ là bản mà Asakawa đã sao lại cho Ryuji vào đêm đầu tiên đó. Nó có nhan đề trên nhãn, bằng chữ viết tay của một người đàn ông. Có lẽ là của Asakawa. Khi Ryuji nhờ Asakawa sao cho một bản, thì thay vì lấy một cuốn băng mới, Asakawa dung lại cuốn băng cũ mà ban đầu anh ta dùng để ghi một chương trình ca nhạc. Cuốn băng này được truyền qua tay Ryuji rồi đến tay Mai. Điều đó rất hợp lý. Nhưng Mai nhận cuốn băng lúc nào? Mai chưa bao giờ nói với Ando rằng cô đã có được cuốn băng. Điều đó, theo Ando đoán, có nghĩa cô tình cờ thấy nó vài ngày sau khi Ryuji chết, và đã xem cuốn băng mà không biết rằng nó nguy hiểm.


    Trong trường hợp nào đi nữa, cuốn băng đã được sao chép lại ở căn hộ của Asakawa. Ando cảm thấy cần phải lưu ý điều này trong đầu.


    Vậy là Ryuji đã mang bản sao cuốn băng về nhà mình và bắt tay vào tìm thông điệp bị xóa (anh ta và Asakawa gọi điều này là “bùa phép”). Cả hai người đều thắc mắc, cuốn băng kỳ lạ này xuất hiện tại Villa Log Cabin để làm gì. Lúc đầu họ nghĩ rằng nó được một chiếc máy quay video ghi rồi để lại đấy, nhưng hóa ra không phải vậy. Ba ngày trước khi những thanh niên kém may mắn kia đến thuê phòng, đã có một gia đình ở trong nhà B-4; họ đã đặt một cuốn băng vào VCR và để chế độ RECORD. Sau đó họ quên bẵng nó và bỏ lại đấy khi ra về. Như vậy hình ảnh trong cuốn băng không phải được quay ở một nơi nào khác rồi mới đưa đến ngôi nhà gỗ, mà là một dạng truyền phát chưa biết đến đã được chụp lại trên cuốn băng khi đầu máy chạy chế độ ghi. Những người tiếp theo đến ngôi nhà gỗ là bốn nạn nhân trẻ kia. Rảnh rỗi, họ quyết định xem một chương trình video; khi họ bật máy VCR lên, cuốn băng chui ra. Họ đã xem nó. Lời đe dọa ở cuối cuốn băng hẳn đã làm họ thích thú. Làm như chúng ta sẽ chết thật trong một tuần nữa nếu không làm theo điều cuốn băng chỉ dẫn? Thế rồi họ quyết định chơi một trò tinh nghịch, bằng cách xóa đi phần giải pháp; điều đó sẽ làm cho vị khách tiếp theo đến thuê nhà phải sợ hãi. Tất nhiên, những chàng trai trẻ kia không bao giờ thật sự tin vào lời nguyền của cuốn băng. Nếu tin thì họ không bao giờ đi đến hành động nguy hiểm như thế. Dù sao đi nữa, ngày hôm sau người quản lý đã tìm thấy cuốn băng, ông ta để nó ở trên giá trong văn phòng, nó nằm đó không ai để ý cho đến khi Asakawa đến.


    Vậy thì: làm thế nào những hình ảnh được đưa vào chiếc đầu máy trong khi nó đang chạy chế độ ghi? Asakawa có ý rằng một sức mạnh kỳ lạ nào đó đã kiểm soát song trong không gian, do đó anh ta cố gắng xác định một nguồn phát sóng như thế. Trong lúc ấy, khi Asakawa đi ra ngoài, vợ và con gái anh ta thấy cuốn video vẫn nằm trong đầu máy VCR và đã xem nó. Giờ thì Asakawa bị thôi thúc bởi mong muốn giữ được không chỉ tính mạng mình, mà còn của vợ con anh ta nữa.


    Rồi Ryuju phát hiện ra một điều đáng kinh ngạc. Anh ta ngồi nhà xem đi xem lại cuốn băng rồi chợt nảy ra một ý tưởng. Anh ta vẽ ra một sơ đồ và phát hiện cuốn băng có thể chia thành mười hai cảnh, thuộc hai nhóm: nhóm những cảnh trừu tượng dường như gồm những điều có thể gọi là hình ảnh trong tâm trí, và nhóm những cảnh thực gồm những điều được nhìn thấy qua một đôi mắt thường. Ví dụ, cảnh núi lửa phun và khuôn mặt của người đàn ông rõ ràng là những điều nhìn thấy được trong thực tế, trong khi ánh sáng trong bóng đêm giống như đèn đom đóm lúc mở đầu cuốn băng thì giống như thứ do tâm trí gợi lên – như điều gì đó từ giấc mơ. Vậy nên Ryuji gọi hai nhóm là “thực” và “trừu tượng”, để tiện cho việc so sánh. Xem xét sâu hơn nữa, anh ta nhận thấy trong những cảnh “thực”, có những lúc màn hình bị che phủ bởi cái gì đó giống như một tấm mạng đen, chỉ trong một phần nhỏ của một giây. Trong những cảnh “thực”, những khoảnh khắc này xảy ra với tần suất mười lăm lần mỗi phút, trong khi ở những cảnh “trừu tượng” chúng hoàn toàn không xuất hiện. Điều đó có nghĩa thế nào? Ryuchj kết luận tấm mạng đen đó trên thực tế chính là một lần chớp mắt. Dường như nhửng cảnh đó được nhìn bằng con mắt thường, chứ không phải là một chuỗi chỉ nhìn thấy được bằng “con mắt” của tâm trí. Ngoài ra tần số mạng đen xuất hiện khớp với tần số chớp mắt bình quân của nữ giới. Vì vậy, khá chắc chắn khi cho rằng chúng là những cái chớp mắt. Điều này đương nhiên dẫn tới kết luận rằng hình ảnh trên cuốn băng đã được chụp lại không phải bằng một máy quay video, mà là từ hình ảnh và sự tưởng tượng của một cá nhân và đưa lên cuốn băng bằng cách chiếu hình qua ý nghĩ.


    Ando thực sự khó mà tin được phần này. Ý nghĩ rằng người ta có thể ghi các hình ảnh lên một cuốn băng bằng trí óc vô cùng phi lý. Anh có thể sẵn sàng, dù chỉ phần nào thôi, chấp nhận khả năng ghi hình bằng ý nghĩ lên phim ảnh tĩnh, nhưng đối với ảnh động? Trước hết, đó là một cách thức khác hoàn toàn. Để tiếp tục, Ando phải tạm bỏ qua điểm này, thậm chí khi anh ngưỡng mộ trí tuệ của Ryuji.


    Giả sử rằng ai đó đã ghi lại cuốn băng một cách siêu nhiên, thì câu hỏi tiếp theo là: ai? Asakawa và Ryuji tập trung vào điểm này, họ tìm đến Phòng Tưởng niệm Tetsuzo Miura ờ Kamamura. Là một nhà nghiên cứu các hiện tượng tâm lunh lạ thường, ông Miura đã dành cả đời mình để truy tìm những điều huyền bí trên toàn Nhật Bản. Các tập hồ sơ chứa những phát hiện của ông được lưu lại ở nhà tưởng niệm. Hai người đã được phép vào xem hồ sơ, gồm trên một nghìn tập, họ nghĩ rằng một nhà ngoại cảm có sức mạnh đến mức ghi được hình động lên một cuốn băng video sẽ không thể vượt ra khỏi tầm chú ý của giáo sư Miura. Và sau nhiều giờ tìm kiếm, họ tìm thấy một ứng cử viên khả dĩ.


    Tên cô gái là Sadako Yamamura. Cô sinh ra ở thị trấn Sashikiji, trên đảo Izu Oshima.


    Theo một tập trong tập hồ sơ của cô, lúc mười tuổi cô đã có khả năng ghi các ký tự yama (núi) và sada, các ký tự trong tên viết của cô, lên một đoạn phim. Những ký tự này đã xuất hiện trên cuốn video. Khi chắc chắn Sadako Yamamura chính là người họ đang tìm, ngày hôm sau Ryuji và Asakawa lên một con thuyền đến đảo Izu Oshima. Họ hy vọng khi biết thêm cô được dạy dỗ thế nào, tính cách cô ra sao, sẽ soi sáng được một số bí mật trong cuốn băng. Sadako đã đe dọa bất ai cứ ai xem những hình ảnh của cô sẽ chết, nhằm mục đích buộc người xem phải làm gì đó. Chính cuốn băng đã chứa mong muốn của cô rằng hành động đó sẽ được thực hiện. Điều quan trọng là phải tìm ra được Sadako mong muốn cái gì. Tại thời điểm đó, Ryuji đã có ý nghĩ mơ hồ là Sadako không còn sống nữa. Anh ta tin rằng, lúc cận kề cái chết, cô đã bộc lộ ước muốn cuối cùng chưa được đáp ứng của mình dưới hình thức phóng chiếu hình ảnh bằng phép ngoại cảm, nghĩa là truyền lại ước muốn cho một người khác. Lòng căm thù sâu kín của cô cuối cùng cùng truyền vào cuốn băng.


    Với trợ giúp của một cộng tác viên tờ Tin tức Hằng ngày tại Oshima và sự giúp đỡ của Yoshino ở Tokyo, những người mà họ liên lạc thường xuyên, Asakawa và Ryuji đã gom được một tập hồ sơ về Sadako Yamamura.


    Cô sinh năm 1947, là con gái của bà Shizuko Yamamura, người từng là một hiện tượng huyền bí tạo nên tiếng vang lớn nhất thời trong giới truyền thông quốc gia, và ông Heihachiro, một phó giáo sư Tâm thần học tại Đại học Taido, ông đã tham gia nghiên cứu hiện tượng siêu nhiên mà đối tượng là Shizuko. Lúc đầu, ba người Ikuma, Shizuko và Sadako được công chúng đón nhận do trí tò mò đơn thuần, và thực tế họ đã trở thành con cưng của giới truyền thông như một thứ thời trang. Nhưng một tổ chức hàn lâm uy tín đã tuyên bố rằng sức mạnh của Shizuko là giả tạo, công chúng quay sang công kích họ, và họ trở thành chủ đề bị tấn công nặng nề trên báo chí. Ông Heihachiro bị sa thải khỏi trường đại học, rồi mắc bệnh lao, còn bà Shizuko bị suy nhược thần kinh và cuối cùng gieo mình xuống miệng núi Mihara, ngọn núi lửa trên đảo Izu Oshima.


    Sadako được họ hàng mang về nuôi trên đảo, cô sống ở đấy cho đến khi tốt nghiệp phổ thông. Một lần, vào năm học lớp bốn, cô trở nên nổi tiếng trong trường khi dự đoán núi lửa Mihara phun trào, nhưng ngoài chuyện đó ra cô dường như không thể hiện bất cứ năng lực nào được thừa hưởng từ người mẹ. Sau khi học xong phổ thông, cô chuyển đến Tokyo, tại đây cô tham gia một đoàn kịch với hy vọng trở thành diễn viên. Chính Yoshino là người tìm ra dấu vết của cô ở đoàn kịch này.


    Từ ngoài đảo, Asakawa gọi điện cho Yoshino và đề nghị anh ta tìm đến địa chỉ của đoàn kịch tại Yotsuya, Tokyo. Yoshino làm theo, và khi đến đó, anh ta được một người đàn ông tên là Arima, trưởng đoàn kịch, cho biết thêm nhiều thông tin về Sadako. Đã hai lăm năm kể từ khi Sadako gia nhập đoàn kịch, nhưng ông ta nhớ cô rất rõ. Cô dường như có một năng lực siêu nhiên; cô có thể dùng ý chí để chiếu các hình ảnh lên màn hình một chiếc tivi đã rút phích cắm. Nếu điều này là đúng, thì năng lực của Sadako vượt rất xa mẹ cô. Ở đoàn kịch, Yoshino lấy được một tấm hình chụp Sadako. Người ta vẫn giữ lại bản lý lịch của cô trong hồ sơ, và trong đó có hai tấm hình đen trắng chụp khi cô gia nhập đoàn kịch. Một tấm ảnh chụp chân dung, còn tấm kia chụp toàn thân. Cả hai tấm ảnh đều cho thấy Sadako có những đường nét cân đối hoàn hảo vượt xa khái niệm “đẹp”.


    Yoshino không thể xác định những gì xảy ra với Sadako khi cô rời đoàn kịch, do đó anh ta gửi fax những tấm ảnh và các thông tin khác thu thập được cho Asakawa, lúc này ở tại văn phòng của báo Tin tức Hằng ngày ở đảo Izu Oshima.


    Khi đọc bản fax và biết được rằng dấu vết của Sadako đã bị mờ, Asakawa chán nản. Nếu họ không thể tìm thấy cô thì làm sao có thể hy vọng tìm ra bùa phép?


    Một lần nữa chính Ryuji lại nảy ra một ý. Anh ta nhận ra rằng có lẽ không nhất thiết phải lần theo từng cử động của Sadako. Thay vì thế, có lẽ họ nên tập trung vào hiện trường nhà Villa Log Cabin B-4 và cố tìm hiểu xem tại sao những hình ảnh lại xuất hiện ở đó. Hẳn Sadako phải có mối liên hệ nào đó với nơi này.


    Họ nhận ra tất cả những ngôi nhà ở Pacific Land, Nam Hakone, đều được xây mới. Không phải không có khả năng có những công trình gì khác từng tọa lạc ở đó. Asakawa liên lạc với Yoshino ở Tokyo và đề nghị anh ta thử theo hướng điều tra mới: tìm hiểu xem trước khi khu nghỉ mát được xây thì đã có cái gì ở đó.


    Yoshino gửi fax cho Asakawa sáng hôm sau. Thì ra trước đây ở khu đất này là bệnh viện lao phổi. Anh ta còn gửi cho họ một sơ đồ bệnh viện này. Kèm theo bản fax còn có tên, địa chí và lý lịch một người có tên Jotaro Nagao, 57 tuổi, một bác sĩ đa khoa và nhi khoa hành nghề ở Atami. Trong khoảng thời gian năm năm, từ 1962 đến 1967, ông ta làm việc ở Trại Điều dưỡng ở Nam Hakone. Điều này dường như gợi ý rằng muốn biết thêm bất kỳ điều gì nữa về viện điều dưỡng thì tốt nhất nên lấy từ Nagao.


    Do đó, chỉ với những thông tin có được từ Yoshino, Asakawa và Ryuji bắt chuyến phà cao tốc đến Atami. Đã được một tuần kể từ ngày Asakawa xem cuốn băng. Nếu họ không tìm ra “bùa phép” trước mười giờ tối, Asakawa sẽ chết. Hạn chót của Ryuji là mười giờ đêm tiếp theo. Giờ chết của vợ và con gái Asakawa sẽ là mười một giờ sáng hôm sau.


    Hai người đàn ông lên chiếc xe mà họ đã thuê và đi thẳng đến văn phòng bác sĩ Nagao. Hy vọng của họ về việc sẽ có được dù chỉ một chút thông tin từ vị bác sĩ này, đã được đền đáp. Khi đối mặt với vị bác sĩ, cả Asakawa và Ryuji đều nhận ra ông ta. Gần cuối cuốn băng là hình ảnh một người đàn ông từ phần thắt lưng trở lên, thở hổn hển và vã mồ hôi, máu chảy ra từ một vết rách sâu trên vai. Mặc dù ông ta đã già và rụng nhiều tóc, nhưng Nagao chắc chắn là người đàn ông đó. Nadako đã nhìn khuôn mặt ông ta rất sát. Không những thế, trong “đôi mắt” của cô, ông ta có cái gì đó độc ác.


    Bằng sự xấc xược điển hình, Ryuji đã dồn ép Nagao cho đến khi anh ta thú nhận hết. Ông ta kể cho họ tất cả về buổi chiều hè nóng rực cách đây hai mươi lăm năm...


    Nagao bị nhiễm bệnh đậu mùa từ một bệnh nhân khi ông ta đi khám bệnh tại một khu cách ly của viện điều dưỡng trên núi, và chiều hôm đó, những triệu chứng sơ khởi của bệnh bắt đầu xuất hiện. Nhưng, mặc dù bị đau đầu và sốt, lúc đầu ông ta không nhận ra rằng mình bị đậu mùa, tiếp tục đi chữa trị cho các bệnh nhân lao như bình thường. Ông ta nghĩ chỉ là bị cảm. Rồi ông ta gặp Sadako Yamamura trong sân bệnh viện. Cô thường đến bệnh viện để thăm cha mình đang là bệnh nhân ở đó. Vì mới rời khỏi đoàn kịch, Sadako không còn nơi nào khác để đi, nên cô hay đi thăm cha.


    Chỉ một lần thoáng nhìn Sadako, Nagao đã bị sắc đẹp của cô chinh phục. Ông ta tiến lại gần cô và họ bắt đầu trò chuyện, và rồi, như thể bị dẫn dắt bởi điều gì đó bên ngoài bản thân, ông ta dẫn cô đến một ngôi nhà bỏ hoang ở sâu trong rừng. Ở đó, trước một cái giếng cũ, ông ta đã cưỡng hiếp cô. Chính lúc ấy Sadako đã cắn vào vai ông ta trong nỗ lực vô vọng nhàm kháng cự. Giữa máu chảy và cơn điên cuồng sôi sục, ông ta mất một lúc mới nhận thấy sự đặc biệt của Sadako. Cô bị hội chứng tinh hoàn nữ giới, một tình trạng rất hiếm xảy ra, khi một người có cơ quan sinh dục của đàn ông lẫn đàn bà. Người bị hội chứng này thường có ngực và âm đạo, nhưng không có dạ con và ống dẫn trứng. Khi mặt quần áo, người đó có dáng vẻ hoàn toàn là một phụ nữ, nhưng nhiễm sắc thể lại có dạng XY của một người đàn ông, và không có khả năng mang thai.


    Nagao đã bóp cổ Sadako và ném xác cô xuống giếng.Rồi ông ta ném đá xuống giếng vùi xác cô.


    Sau khi nghe lời thú nhận của Nagao, Asakawa đưa cho ông ta xem sơ đồ khu nghỉ mát và đề nghị vị bác sĩ chỉ cho anh ta vị trí của cái giếng trên bản đồ. Nagao có thể chỉ khu vực theo cách chung chung, nơi đó hiện giờ là Villa Log Cabin. Asakawa và Ryuji ngay lập tức đến Pacific Land.


    Ở đó, họ bắt đầu tìm kiếm cái giếng ở vùng lân cận khu nhà gỗ. Họ tìm thấy nó ở dưới nhà B-4. Ngôi nhà gỗ được dựng trên một mặt đất nghiêng thoai thoải, và khi thăm dò khoảng không bên dưới hiên nhà, họ nhìn thấy mép của một cái giếng cũ có nắp bằng bê tông che lại. Nếu lòng căm thù của Sadako thoát ra ngoài giếng, nó sẽ tác động đến chiếc TV và đầu máy VCR trong ngôi nhà gỗ bên trên. Cuốn băng nằm ở vị trí hoàn hảo để nhận sự chiếu hình bằng phép ngoại cảm.


    Asakawa và Ryuji gỡ vài tấm ván, bò xuống dưới ngôi nhà, lật nắp giếng lên, và bắt đầu tìm di hài của Sadako. Cả Asakawa và Ryuji lúc đó đều giải thích “bùa phép” bị mất là: Sadako muốn người nào xem cuốn băng phải giải phóng cho cô khỏi nơi tối đen bưng bít đó. Hai người họ thay nhau xuống giếng và dung xô múc hết nước ra. Và khi cuối cùng cũng tìm được trong lớp bùn một hộp sọ mà họ cho là của Sadako, thì đã qua thời điểm mười giờ. Giờ chết của Asakawa đã đến và đi qua, mà anh ta không chết. Họ hài lòng rằng đã tìm ra bí mật cuốn băng.


    Sau đấy, Asakawa đưa di hài Sadako về đảo Izu Oshima, trong khi Ryuji về nhà mình ở Tokyo để viết một công trình nghiên cứu. Vụ việc đã được gác lại. Xương cốt của Sadako Yamamura, người sở hữu sức mạnh ngoại cảm đáng sợ, đã được giải thoát khỏi tận sâu lòng đất. Cô đã được khuây khỏa. Cả Asakawa lẫn Ryuji đều không chút nghi ngờ về chuyện đó.
     
  4. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 11

    Đọc đến đây, Ando đứng dậy, tay vẫn cầm bản phóng sự, và đi mở cửa sổ. Cảm giác như đang trèo xuống giếng bằng một sợi dây khiến anh nghẹt thở. Không gian bị thu hẹp bằng một nửa; dưới ngôi nhà gỗ, khoảng không vẫn tối dù là vào ban ngày, và ở đó có một cái giếng, rộng chưa đến một mét. Nó tạo cho anh một thoáng sợ hãi vì bị giam giữ; anh phải hít thở không khí bên ngoài. Ngay bên dưới cửa sổ, anh có thể nhìn thấy rừng cây tối om xung quanh Điện thờ Minh Trị Thiên hoàng lay động trong làn gió nhẹ. Những trang giấy trên tay anh cũng rung rinh bởi chính làn gió kia. Trang cuối của bản thảo bài phóng sự đang nằm ngay trong máy in. Một trang nữa là bài phóng sự của Asakawa sẽ được in xong. Ando nghe thấy âm thanh ủa chiếc máy in khi nó hoàn thành công việc. Anh quay lại nhìn máy xử lý văn bản và chỉ thấy một trang giấy gần như trống không đang nhìn lại anh.


    Anh cầm trang cuối cùng lên. Trên đó viết:




    Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười


    Bản chất của virus là tự sinh sản.


    Bùa phép: sao một bản cuốn video.




    Và đó là tất cả. Nhưng nó là phần quan trọng nhất.


    21 tháng Mười là ngày Asakawa gặp tai nạn. Buổi sáng hôm trước, Ando mổ tử thi của Ryuji và đã gặp Mai tại văn phòng cơ quan giám định pháp y. Mặc dù bản thảo phóng sự kết thúc đột ngột, nhưng Ando có thể tự hiểu được phần còn lại của câu chuyện.


    Ngày 19 tháng Mười, di hài của Sadako Yamamura được giao lại cho người thân của cô. Nhưng rốt cuộc đó không phải là kết thúc của câu chuyện. Ngay khi Asakawa ngồi trong một khách sạn ở Oshima viết bài phóng sự chi tiết, thì Ryuji đang hấp hối ở nhà mình tại Đông Nakano. Khi về Tokyo và biết được cái chết của Ryuji, Asakawa tức tốc đến nhà Ryuji. Ở đó anh ta gặp Mai Takano và hỏi đi hỏi lại cô điều mà với cô dường như là những câu hỏi kỳ quặc và không phù hợp.


    Ryuji thực sự không nói gì với cô lúc lâm chung sao? Không một lời, chẳng hạn như, về một cuốn băng sao?


    Để hiểu tại sao Asakawa lại hoang mang. Anh ta tin rằng đã thoát được tử thần bằng cách tìm ra bí mật của cuốn băng, và giờ đây phát hiện ra mình đã nhầm. Lời nguyền vẫn còn đó. Và Asakawa được bỏ qua mà không có lấy một manh mối gì. Tại sao Ryuji chết còn Asakawa vẫn sống? Không chỉ thế, hạn chót cho vợ và con của Asakawa đang đến, 11 giờ ngày hôm sau. Do đó Asakawa phải tìm bùa phép lại từ đầu, lần này một mình và chỉ có vài tiếng đồng hồ để thực hiện. Theo logic, anh ta nhận ra rằng cho dù cuốn băng kia có muốn anh ta làm điều gì đi nữa, thì anh ta hẳn đã thực hiện điều đó tại một thời điểm trong tuần trước mà không hề biết. Điều mà anh ta có thể chắc chắn rằng Ryuji đã không làm. Có thể là gì đây? Có lẽ anh ta dành cả đêm để suy nghĩ. Và rồi cuối cùng, vào buổi sáng ngày 21, linh cảm của anh ta đã lóe lên, có lẽ như vậy, và vụt chạm đến điều mà anh ta chắc chắn là giải pháp. Anh ta nhanh chóng ghi nó lại trên máy xử lý văn bản.


    Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười


    Bản chất của virus là tự sinh sản.


    Bùa phép: sao một bản cuốn video.


    Điều mà Asakawa ám chỉ ở đây không gì khác ngoài virus bệnh đậu mùa. Ngay trước khi chết, Sadako Yamamura có quan hệ xác thịt với nạn nhân bệnh đậu mùa cuối cùng của Nhật Bản, ông Jataro Nagao. Dĩ nhiên có thể giả định rằng virus đã xâm nhập vào cơ thể cô. Bị đẩy đến bờ tuyệt chủng, loại virus này đã mượn năng lực phi thường của Sadako để thực hiện mục đích tồn vong của nó, có nghĩa là tự sinh sản. Nhưng một khi ở dưới dạng một cuốn băng video, virus không tự sinh sản được. Nó phải làm việc đó thông qua con người, bắt buộc họ phải sao chép cuốn băng. Nếu phải điền vào phần đã mất ở cuối đoạn băng, phần đó sẽ như thế này:


    Người nào đã xem những hình này sẽ chịu định mệnh phải chết vào giờ này đúng một tuần sau. Nếu ngươi không muốn chết, phải làm theo đúng những chỉ dẫn sau. Sao cuốn băng ra một bản và đưa nó cho người khác xem.


    Theo hướng này, mọi việc đều hợp lý. Ngay hôm sau khi xem cuốn băng, Asakawa đã cho Ryuji xem, và anh ta cũng sao một bản cho Ryuji. Anh ta giúp virus phát tán mà không hề biết. Nhưng Ryuji không bao giờ sao chép lấy một bản.


    Khi chắc chắn đã có câu trả lời, Asakawa mang chiếc đầu máy VCR lên xe và lái đi đâu đó. Chắc chắn anh ta định sao thêm hai bản và đưa cho hai người nữa xem – một để cứu vợ, và một để cứu con gái nhỏ. Những người được anh ta cho xem cuốn băng, sau đó phải tìm những con mồi mới, những người khác để cho họ một bản sao cuốn băng. Nhưng đó không phải là vấn đề cấp thiết. Điều quan trọng là phải cứu tính mạng của vợ con anh ta.


    Nhưng ngay khi anh ta đang vô cùng nhẹ nhõm vì đã cứu được tính mạng của những người thương yêu, Asakawa đưa tay ra ghế sau chạm vào vợ và con gái mình và thấy họ đã lạnh toát. Anh ta mất lái.


    Ando có thể hiểu được tình trạng căng trương lực hiện giờ của Asakawa. Anh ta không chỉ suy sụp khi mất đi gia đình, mà chắc chắn còn bị hành hạ bới câu hỏi: bản chất thực sự của bùa phép là gì? Mỗi lần anh ta nghĩ là đã tìm ra, thì câu trả lời lại trôi tuột qua tay anh ta, lại thay đổi, và cướp đi một tính mạng khác. Giận dữ, đau đớn, và không ngớt lặp lại câu hỏi: Tại sao? Tại sao anh ta vẫn sống?


    Ando đặt các trang bản thảo thành một tập trên bàn. Rồi anh tự hỏi:


    Mình có thực sự tin vào chuyện vớ vẩn này không?


    Anh lắc đầu.


    Thực sự mình không biết.


    Anh không biết nói gì khác. Chính mắt anh nhìn thấy khối u bất thường trong động mạch vành của Ryuji. Bảy người khác bị chết vì cùng một nguyên nhân. Người ta tìm thấy trong máu của họ một loại virus gần giống với virus bệnh đậu mùa. Và Mai đã biến mất đi đâu? Còn bầu không khí quái dị trong căn hộ của cô thì sao, căn hộ dường như cô đã bỏ trống? Dấu hệu rợn tóc gáy rằng có cái gì đó trong căn hộ? Những dấu vết còn lại trên cuốn băng vẫn còn trong đầu máy VCR của Mai? Liệu cuốn băng có còn đang phát tán? Liệu nó có tiếp tục cướp đi sinh mạng của những nạn nhân mới? Càng nghĩ anh càng đặt thêm nhiều câu hỏi.


    Anh tắt máy xử lý văn bản và lấy chai whisky trên tủ. Anh biết đêm nay mình sẽ không ngủ được nếu không có rượu trợ giúp.
     
  5. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 12


    Đầu tiên Ando ghé qua phòng xét nghiệm hóa sinh trả lại máy xử lý văn bản cho Ueda, rồi đi đến khoa bệnh học. Anh kẹp dưới tay bản phóng sự đã in đêm hôm trước. Anh định cho Miyashita đọc.


    Miyashita ngồi cúi xuống sát bàn, gãi gãi đầu bằng một chếc bút bi. Ando thả bài phóng sự lên mặt bàn cạnh Miyashita, anh ta ngước mắt lên nhìn ngạc nhiên.


    “Cậu đọc hộ tôi cái này được không?”


    Miyashita chỉ nhìn chằm chằm Ando, ngạc nhiên.


    “Có chuyện gì thế?”


    “Tôi muốn biết cậu nghĩ gì về cái này.”


    Miyashita cầm tập văn bản lên. “Khá dài đấy.”


    “Đúng thế, nhưng trong này có những thứ sẽ làm cậu thích thú đấy. Không mất nhiều thời gian để đọc đâu.”


    “Cậu không định nói với tôi là cậu đang viết tiểu thuyết trong lúc rảnh rỗi đấy chứ?”


    “Kazuki Asakawa đã viết một bài phóng sự về những cái chết.”


    “Ý cậu là Asakawa của chúng ta?”


    “Đúng.”


    Miyashita bấy giờ trông có vẻ quan tâm khi anh ta lật qua một số trang. “Hừmm.”


    “Tôi để nó ở đây. Lúc nào đọc xong thì cho tôi biết cậu nghĩ thế nào.”


    Ando bắt đầu đi, nhưng Miyashita gọi anh lại. “Chờ đã.”


    “Gì thế?”


    Miyashita chống tay lên má và gõ đầu bút bi lên bàn. “Cậu chơi trò giải mã giỏi lắm đúng không?”


    “Tôi sẽ không nói là tôi đặc biệt giỏi môn này. Hồi ở trường y, một số bạn tôi đã chơi trò này, nhưng chỉ thế thôi.”


    “Hừmm”, Miyashita nói, cầm bút gõ lên bàn.


    “Sao thế?”


    Miyashita nhấc khủy tay ra khỏi bản in mà anh ta đang xem và chuyển cho Ando. “Đây là lý do.” Anh ta chỉ bút vào giữa trang giấy. Đó là bản in mà anh đã nhìn thấy ngày hôm trước, kết quả phân tích chuỗi virus tìm thấy trong máu Ryuji.


    “Cậu cho tôi xem hôm qua rồi mà.”


    “Tôi biết, nhưng tôi không thể bỏ qua nó được.”


    Ando cầm tờ giấy lên để trước mặt. Một dãy các bazơ xếp theo cùng một trật tự đã được chèn vào nhiều lần trong một chuỗi hỗn hợp các bazơ khác.


    ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA


    Rõ ràng, thật là kỳ lạ khi một dãy bốn hai bazơ xuất hiện vài lần với những khoảng cách phù hợp.


    “Và virus của Ryuji là loại virus duy nhất thế này?”


    “Đúng. Virus của anh ta là loại virus duy nhất có thêm những bazơ này,” Miyashita nói, ánh mắt không rời khỏi Ando. “Cậu không thấy lạ à?”


    “Tất nhiên là có.”


    Tiếng gõ bút bi dừng lại.


    “Ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi có thể là một dạng mật mã.”


    Ando nấc lên. Anh không nhớ là đã kể gì cho Miyashita về chuyện xảy ra sau khi mổ tử thi Ryuji chưa. Không phải là góc tờ báo, và chắc chắn không phải là việc anh đã tìm ra được rừ “ring”. Thế mà bây giờ Miyashita lại nói về mật mã.


    “Cứ cho đó là mật mã đi, thế thì ai gửi nó?”


    “Ryuji.”


    Ando nhắm nghiền mắt lại. Đó là ý nghĩ anh đã hết sức cố gắng tránh nghĩ đến, và giờ Miyashita lại bày ra trước mặt anh.


    “Ryuji chết rồi. Chính tôi đã mổ tử thi.”


    Miyashita không một chút bối rối. “Ờ, thế nào cũng được. Thử xem cậu có thể giải mã được không?”


    Liệu thực sự có khả năng rằng chuỗi bazơ kia có thể bằng cách nào đó được chuyển thành một từ được không? Giống như các chữ số 178136 đã nhanh chóng cho ra từ RING, có lẽ bốn mươi hai chữ cái này có thể được dùng để tạo thành những từ nào đó. Có lẽ chúng thực sự mang một thông điệp quan trọng. Có phải chính Ryuji, từ nơi hầm mộ, đã khắc đi khắc lại nó trong thi thể của anh ta?


    Tay Ando, đang nắm chặt bản in, run lên khi thấy chính mình đang bị đẩy vào ngõ tối giống như Asakawa. Nhưng không khi nào anh có thể từ chối lời đề nghị thẳng thắn của Miyashita. Ý nghĩ rằng nó có thể là một mật mã cũng đã xảy đến với Ando khi lần đầu tiên anh thấy chuỗi bazơ đó, nhưng anh đã chôn sâu ý nghĩ này trong não bộ. Anh sợ nếu không chôn nó, cái khuôn khổ khoa học mà anh gắn cuộc đời mình vào đấy sẽ bị biến dạng thêm nữa. Mọi chuyện đang đe dọa sẽ vượt qua khả năng lĩnh hội của anh.


    “Cậu cứ giữ lấy. Cứ thư thả thôi, xem cậu có thể làm gì với nó.”


    Miyashita được cho là một nhà khoa học. Ando không thể hiểu, tại sao anh ta có thể nói về những ý tưởng phi khoa học này quá dễ dàng.


    “Tôi tin ở cậu. Cậu sẽ làm được,” Miyashita nói, tay vỗ vào mông Ando.
     
  6. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Phần 3: Giải Mã

    Chương 1



    Ando và Miyashita đi theo cô phục vụ đến một bàn gần cửa sổ. Nhà hàng nằm ở tầng cao nhất của bệnh viện đại học và có tầm nhìn tuyệt đẹp ra Khu Ngoại viên của Đền thờ Minh Trị Thiên Hoàng. Bên cạnh đó, nhân viên của trường được giảm giá. Cả hai người đã cởi áo blu trước khi vào nhà hàng, nhưng nhìn thoáng qua cô nhân viên cũng biết họ không phải là khách đến thăm bệnh nhân. Cô đưa cho họ menu đồ ăn trưa đặc biệt dành riêng cho nhân viên. Cả Ando và Miyashita chỉ xem qua rồi gọi suất đặc biệt trong ngày và cà phê.


    Ngay khi cô phục vụ đi khỏi, Miyashita nói với một vẻ kỳ lạ. “Tôi đọc rồi”. Từ khi Miyashita rủ anh đi ăn trưa, Ando biết anh ta sẽ mở đầu bằng câu nói đó. Miyashita đã đọc bài phóng sự Ring của Asakawa và bây giờ đã sẵn sàng nhận xét nó.


    “Cậu nghĩ sao?” Ando rướn người ra trước.


    “Tôi không nói dối đâu. Thật kinh ngạc.”


    “Nhưng cậu có tin không?”


    “Khỉ thật. Vấn đề không phải là tin hay không. Còn nhiều hơn thế. Tên của các nạn nhân và thời điểm chết anh ta đưa ra đều chuẩn xác. Chúng ta, cả cậu và tôi, đã xem các báo cáo sự việc và biên bản mổ tử thi.”


    Tất nhiên anh ta nói đúng. Họ có bản sao báo cáo những cái chết bất thường kia và cả những tài liệu liên quan đến bốn nạn nhân ở Villa Log Cabin. Thời gian chết ghi trong các bản báo cáo đó được Asakawa phản ánh rất chính xác. Không hề có sự mâu thuẫn nào. Nhưng điều làm Ando ngạc nhiên là một nhà nghiên cứu bệnh học sắc sảo như Miyashita lại không tỏ ra chống đối một cách rõ ràng cái ý tưởng rằng những lời nguyền và sức mạnh siêu nhiên đang đóng vai trò trong toàn bộ chuyện này.


    “Vậy là cậu chấp nhận nó?”


    “Ờ, không phải là tôi không có những nghi ngờ. Nhưng, cậu biết đấy, nghĩ kỹ lại thì khoa học hiện đại chưa tìm ra câu trả lời cho bất cứ câu hỏi cơ bản nhất nào. Sự sống đầu tiên trên trái đất xuất hiện ra sao? Tiến hóa xảy ra như thế nào? Là một loạt sự kiện ngẫu nhiên hay theo một hướng đã định sẵn? Có đủ các loại học thuyết, nhưng chúng ta chưa thể chứng minh được một cái nào. Cấu trúc nguyên tử không phải là hình ảnh thu nhỏ của hệ mặt trời, mà là cái gì đó khó nắm bắt hơn thế nhiều, với đầy rẫy những điều mà ta gọi là sức mạnh tiềm ẩn. Và khi chúng ta cố quan sát thế giới hạ nguyên tử, chúng ta nhận ra rằng tâm trí của người quan sát lại có ảnh hưởng theo một cách khó nhận thấy. Tâm trí, ông bạn ạ! Từ thời Descartes, những người đề xướng ra thuyết cơ giới về vũ trụ đã coi tâm trí lệ thuộc vào bộ máy cơ thể. Và giờ chúng ta nhận ra rằng tâm trí ảnh hưởng đến kết quả quan sát. Do đó, tôi từ bỏ. Chẳng có gì làm tôi ngạc nhiên nữa. Tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra trên thế giới này. Tôi thực sự khá là ghen tị với những người vẫn còn có thể tin vào quyền lực tuyệt đối của khoa học hiện đại.”


    Chính Ando cũng có ít nhất một chút nghi ngờ về cái gọi là quyền lực tuyệt đối của khoa học hiện đại, nhưng rõ ràng những nghi ngờ đó không mạnh mẽ như của Miyashita. Làm sao một người có thể cảm thấy thoải mái đứng trong hàng ngũ khoa học nếu như người đó vẫn chứa chấp sự hoài nghi như thế?


    “Thế là khá cực đoan đấy.”


    “Tôi chưa bao giờ nói với cậu điều này, nhưng thực sự tôi là người theo triết học duy tâm.”


    “Một kẻ duy tâm ư?”


    “Như đức Phật đã nói, sắc là không và không tức là sắc.”


    Ando không chắc lắm Miyashita đang cố nói điều gì. Anh chắc giữa triết học duy tâm và cái thực tại là trống rỗng đó có rất nhiều điều chưa hiểu hết, nhưng giờ không phải là lúc để tìm hiểu rõ hơn luận điểm về thế giới quan của Miyashita.


    “Dù sao, trong bài phóng sự có điều gì đặc biệt khiến cậu băn khoăn không?” Ando muốn biết liệu Miyashita có nghi ngờ giống anh.


    “Ồ, cái gì cũng khiến tôi băn khoăn cả.” Cà phê đã được mang đến, và Miyashita khuấy tách cà phê đầy kem và đường. Khuôn mặt đỏ ửng của anh hứng trọn ánh nắng chiếu qua cửa sổ. “Trước hết, tại sao lại là Asakawa và chỉ duy nhất Asakawa vẫn còn sống sau khi đã xem cuốn băng?”


    Miyashita nhấp một ngụm cà phê.


    “Vì anh ta đã tìm ra bùa phép, không phải à?”


    “Bùa phép?”


    “Cậu biết mà, phần bị xóa ở cuối cuốn băng.”


    “Cái đoạn băng muốn buộc người xem phải làm điều gì đó.”


    “Vậy nếu Asakawa đã làm mà không hề biết …”


    “Làm điều gì?”


    “Nó nằm ngay ở cuối bài phóng sự, đúng không? ‘Bản chất của virus là tự sinh sản. Bùa phép: sao cuốn băng ra một bản.’”


    Rồi Ando giải thích cho Miyashita vài điều mà anh ta không biết. Có một đầu máy video trong xe của Asakawa vào thời điểm xảy ra tai nạn, và Ando tìm thấy trong căn hộ của Mai một bản sao cuốn băng đã bị ghi đè.


    Miyashita giờ dường như đã hiểu ra. “À ha, ra ý của anh ta là thế. Asakawa nghĩ bùa phép là sao cuốn băng ra một bản, và đưa cho người nào chưa xem cuốn băng xem nó.”


    “Tôi chắc chắn đấy là điều anh ta đã nghĩ.”


    “Vậy, anh ta đi đâu với chiếc máy VCR vào buổi sáng xảy ra tai nạn?”


    “Tất nhiên là tới nơi anh ta có thể tìm được hai người để xem cuốn băng. Anh ta hẳn phải rất sốt sắng cứu vợ và đứa con gái nhỏ.”


    “Nhưng anh ta khó mà đưa được cuốn băng nguy hiểm kia cho một người hoàn toàn xa lạ xem.”


    “Tôi cho rằng anh ta đến nhà bố mẹ vợ. Không thể là bố mẹ đẻ của anh ta được, vì bố anh ta còn sống khỏe mạnh. Tôi đã nói chuyện với ông ấy hôm trước.”


    “Vậy là bố mẹ cô vợ đã tự đặt mình trước một mối nguy hiểm nhất thời để cứu con gái và cháu gái mình.”


    “Có vẻ như chúng ta cần tìm ra họ sống ở đâu và đi hỏi cảnh sát địa phương.”


    Nếu cuốn băng, kèm theo lời đe dọa, được sao chép và phổ biến, thì hẳn sẽ có thêm nhiều nạn nhân nữa trong khu vực xung quanh nhà của bố mẹ Shizu Asakawa. Nhưng nếu như vậy, thì giới truyền thông sẽ không bỏ qua. Cuốn băng còn được phổ biến ngấm ngầm, chưa được công chúng biết đến.


    Miyashita dường như cũng vừa có ý nghĩ rằng cuốn video có khả năng phát tán giống như một virus. Anh ta nói giọng chế giễu. “Có vẻ sắp tới cậu sẽ mổ nhiều tử thi lắm đây.”


    Câu nói này khiến Ando chợt nhận ra một việc. Xét theo tình hình, nhiều khả năng là Mai đã xem cuốn băng. Kể từ khi cô biến mất đến giờ đã gần hai tuần. Có lẽ cuối cùng chính anh sẽ là người mổ tử thi của cô. Anh tưởng tượng cơ thể xinh đẹp của cô nằm trên bàn mổ, và điều đó khiến anh kinh hãi.


    “Nhưng Asakawa vẫn còn sống.” Anh nói như cầu nguyện.


    “Vấn đề lớn nhất chúng ta đang gặp phải là: nếu Asakawa đã sao hai bản của cuốn băng, thì tại sao vợ và con gái anh ta vẫn chết?”


    “Nói cách khác, tại sao Asakawa vẫn còn sống?”


    “Tôi không biết. Virus đậu mùa có liên quan đến chuyện này, đúng không? Theo hướng đó thì hoàn toàn hợp lý khi cho rằng ‘bùa phép’ là sao cuốn băng nhằm giúp virus lan truyền.”


    “Nó vẫn hợp lý cho đến cái chết của Ryuji. Nhưng cái chết của vợ và con gái Asakawa lại đặt ra câu hỏi đó một lần nữa.”


    “Vậy, việc sao chép có phải là điều cuốn băng muốn?”


    “Tôi không biết.”


    “Anh không biết giải thích tình huống này như thế nào. Hoặc là bùa phép đã chuyển sang cái gì khác, hoặc có điều gì đó không may đã xảy ra trong quá trình sao chép. Hay có lẽ cuốn băng giết bất cứ người nào xem nó bất kể họ có thực hiện theo bùa phép hay không. Nhưng như thế còn khó giải thích hơn tại sao Asakawa còn sống.


    Đồ ăn trưa đã được mang đến, hai người yên lặng một lúc, chú tâm vào việc ăn.


    Cuối cùng, Miyashita buông nĩa và nói, “Tôi thấy mình đang ở vào thế rất mâu thuẫn.”


    “Ý cậu là sao?”


    “À, nếu có một cuốn băng như thế, tôi muốn xem nó. Nhưng nó có thể sẽ giết chết tôi. Tôi nói đó là một mâu thuẫn. Một tuần không phải là thời gian dài.”


    “Không phải là thời gian dài?”


    “Để tìm hiểu. Nó thực sự khiến tôi tò mò. Về mặt khoa học mà nói, cái chúng ta có là một cuốn băng, một vật trung gian tấn công vào não người thông qua ý nghĩa của hình ảnh và âm thanh, bằng cách nào đó chúng có thể cấy vào cơ thể một loại virus giống virus bệnh đậu mùa.”


    “Có lẽ không phải nó cấy virus. Có lẽ những hình ảnh trên cuốn băng bằng cách nào đó đã ảnh hưởng đến ADN của tế bào nạn nhân rồi biến đổi thành một loại virus bí ẩn.”


    “Có thể cậu nói phần nào đúng. Tôi đang nghĩ về virus AIDS. Chúng ta không chắc chắn về nguồn gốc của nó, nhưng người ta cho rằng có gì đó đã khiến cho virus của loài người và loài khỉ, vốn tồn tại song song với nhau, tiến hóa, và đấy là điều đã sản sinh ra virus AIDS mà chúng ta biết. Dù sao thì, AIDS cũng không phải là một loại virus đã xuất hiện hàng mấy trăm năm. Phân tích chuỗi bazơ của nó cho thấy rõ ràng rằng nó phân ra thành hai chủng chỉ cách đây khoảng một trăm năm mươi năm. Thông qua một sự kiện ngẫu nhiên.”


    “Và cậu muốn tìm ra trong trường hợp này sự kiện ngẫu nhiên đó là gì.”


    “Tôi à, tôi nghĩ nó liên quan đến tâm trí.” Miyashita nhoài người về trước cho đến khi mũi anh ta gần chạm mũi Ando.


    Tất nhiên, người ta đã biết rằng tâm trí, vốn trừu tượng và phi vật chất, có thể ảnh hưởng đến cơ thể theo nhiều cách khác nhau. Ando biết rất rõ điều này. Bằng chứng là chỉ cần suy nghĩ căng thẳng về điều gì đó sẽ dẫn đến thủng loét màng dạ dày. Bây giờ Ando và Miyashita đang cùng một hướng suy nghĩ. Trước hết, cuốn băng tạo ra cho người xem một trạng thái tâm lý đặc biệt, rồi bằng cách nào đó ảnh hưởng đến ADN của người xem, biến đổi nó đến khi loại virus bí ẩn giống virus đậu mùa sinh ra. Rồi, loại virus giống virus đậu mùa này gây ung thư trong động mạch vành xung quanh tim, dẫn đến xuất hiện khối u. Trong vòng một tuần, khối u đạt đến kích thước đỉnh điểm, chặn dòng máu và làm tim ngừng đập. Nhưng chính virus loại này giống như một kiểu virus gây ung thư, chức năng của nó là lần đường vào ADN và gây ra đột biến tế bào trong lớp giữa của động mạch vành, và nó không có tính lây nhiễm. Ít nhất, các phân tích cho đến bây giờ khiến họ nghĩ vậy.


    “Thôi nào, cậu không muốn xem à?” Miyashita thách thức.


    “À …”


    “Tôi chỉ muốn có cuốn băng đó.”


    “Không, tôi nghĩ tốt hơn là không gây thêm rắc rối nữa. Cậu sẽ có kết cục như Ryuji thôi.”


    “Nói về Ryuji, thế cậu đã giải mã được chưa?”


    “Chưa. Ngay cả khi đó là một mật mã, bốn mươi hai bazơ là con số quá nhỏ để làm được gì. Nó chỉ có thể chứa nhiều nhất là vài từ.”


    Đây là một lời bào chữa. Thực tế Ando đã thử giải mật mã đó vài lần, nhưng mọi nỗ lực của anh đều kết thúc thất bại.


    “Tôi nghĩ mình đã biết cậu sẽ dùng ngày nghỉ để làm gì rồi.”


    Lúc đó Ando mới nhận ra ngày hôm sau là dịp nghĩ lễ toàn quốc, Ngày Cảm tạ Lao động. Và do ngày kia, thứ Bảy, anh không phải làm việc, nghĩa là anh sẽ có một kỳ nghĩ cuối tuần ba ngày. Kể từ khi mất đi đứa con trai và ly thân vợ, anh không để ý nhiều lắm đến những ngày nghỉ. Ở nhà một mình chẳng được việc gì ngoài sự đau khổ, và ba ngày nghỉ cuối tuần mà không có kế hoạch làm gì khiến anh cực kỳ chán nản.


    “Ừ, à, tôi sẽ thử xem.”


    Có điều, dành cả kỳ nghỉ cố đọc một thông điệp được mã hóa do một người chết gửi nghe có vẻ khá ảm đạm. Nhưng mặt khác, nếu thành công, nó cũng tạo cho anh chút cảm giác đã làm được việc. Ít nhất nó là một trò tiêu khiển.


    Do đó anh hứa với Miyashita sẽ tìm ra khi kỳ nghỉ kết thúc. “Đến thứ Hai tôi sẽ cho cậu biết Ryuji muốn nói gì.”


    Miyashita với tay qua bàn đập vào vai trái Ando. “Giờ chuyện đó tùy thuộc vào cậu.”
     
  7. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 2



    Sau bữa trưa, Ando quay trở lại văn phòng của anh và gọi điện đến khoa Pháp y bệnh viện Đại học Joji, ở Utsunomiya, tỉnh Tochigi. Qua tìm hiểu một chút, anh đã có được thông tin rằng bố mẹ vợ của Asakawa sống ở Ashikaga, Tochigi. Bất kỳ cái chết khó hiểu nào xảy ra trong vùng đó sẽ do các bác sĩ ở Đại học Joji đảm trách mổ pháp y.


    Một vị phó giáo sư trả lời điện thoại, và Ando hỏi ông ta trong tháng trước có bệnh nhân nào chết vì suy tim do bị tắc động mạch vành không. Người đàn ông trả lời bằng một câu hỏi cộc lốc.


    “Xin lỗi, anh định nói gì thế?”


    Ando giải thích cho ông ta rằng người ta đã ghi nhận có bảy trường hợp chết vì cùng một nguyên nhân trong khu vực xung quanh Tokyo, và có những dấu hiệu cho thấy có thể có thêm nhiều nạn nhân nữa. Anh tránh nhắc đến hiện tượng dị thường.


    Điều này dường như không làm cho người đàn ông đó bớt nghi ngờ. “Vậy là anh liên lạc đến các trường y ở trong vùng?”


    “Không, không hẳn thế.”


    “Thế tại sao anh lại gọi cho chúng tôi?”


    “Bởi vì khu vực của các anh có nguy cơ.”


    “Có phải anh đang nói chúng tôi sẽ tìm thấy những thi thể ở Utsunomiya?”


    “Không, ở Ashikaga.”


    “Ashikaga?” Việc nhắc đến cái tên này làm người đàn ông giật mình. Ông ta yên lặng, và Ando gần như cảm nhận được ông ta đang nắm chặt ống nghe.


    “Thật lạ quá. Tôi không tưởng tượng nổi làm sao anh biết được. Thực tế, vào ngày 28 tháng Mười, người ta phát hiện ở đấy có thi thể của đôi vợ chồng già. Chúng tôi đã mổ tử thi họ vào hôm sau đó.”


    “Anh có thể cho tôi biết tên của họ được không?”


    “Họ của họ là Oda, tôi nghĩ vậy, còn tên cụ bà là Setsuko. Tôi quên mất tên cụ ông rồi.”


    Ando kiểm tra tên bố mẹ của Shizu Asakawa: Toru và Setsuko Oda. Đó hẳn là họ rồi. Bây giờ đã có bằng chứng. Ngày 21 tháng Mười, Asakawa đã mang một đầu máy VCR lên chiếc ô tô mà anh ta thuê, rồi lái xe đến nhà bố mẹ vợ ở Ashikaga, ở đấy anh ta đưa hai bản sao của cuốn băng cho hai ông bà xem. Chắc chắn anh ta đã đảm bảo với họ rằng, nếu họ sao thêm các bản khác và cho những người khác xem trong vòng một tuần, thì tính mạng của họ sẽ không gặp nguy hiểm. Không cần phải thuyết phục nhiều, cho dù họ có hoàn toàn tin hay không câu chuyện kỳ dị của người con rể. Nếu có bất cứ cơ hội nào khiến cho tính mạng của con gái và cháu gái được bảo đảm, thì hẳn là họ sẽ sẵn sàng chấp nhận. Và thế là Asakawa đã sao hai bản, tin rằng làm như thế sẽ cứu được vợ con mình. Nhưng trên đường về nhà anh ta đã mất họ cùng một lúc, và rồi một tuần sau, hai ông bà cũng chết.


    “Tôi cá là anh sẽ rất ngạc nhiên vì điều anh phát hiện được khi mổ pháp y.” Ando có thể tưởng tượng rõ ràng cú sốc của nhóm nhân viên mổ pháp y khi phát hiện ra cùng một triệu chứng trong hai thi thể.


    “Anh có thể nói điều đó sau. Ý tôi là, với thời gian chết cùng một lúc, cộng với việc họ đã để lại một bức thư, chúng tôi đương nhiên cho đó là một vụ cùng nhau tự tử. Nhưng khi mổ tử thi họ, thay vì tìm thấy chất độc, chúng tôi thấy những khối u lạ nơi động mạch vành. Ngạc nhiên không phải là từ đủ để mô tả.”


    “Khoan đã,” Ando cắt lời.


    “Sao?”


    “Anh nói họ để lại một bức thư?”


    “Đúng. Cũng không nhiều nhặn gì lắm, một bức thư được tìm thấy cạnh gối của họ. Có vẻ như họ viết nó ngay trước khi chết.”


    Ando bối rối trước diễn biến này. Thế nghĩa là sao? Tại sao họ để lại một bức thư?


    “Anh có thể cho tôi biết bức thư nói gì không?”


    “Chờ một lúc.” Vị phó giáo sư đặt ống nghe xuống, nhưng vài giây sau quay lại. “Sẽ phải mất khá lâu để tôi tìm được nó. Tôi gửi fax cho anh sau được không?”


    “Tôi rất cảm kích vì điều đó.”


    Ando đọc cho người đàn ông số fax của anh rồi cúp máy.


    Sau đó anh không thể rời bàn của mình. Máy fax nằm trên ngăn giữa của chiếc bàn máy tính cách anh hai bàn. Anh xoay ghế theo góc 45 độ để hướng mặt về chiếc máy, đợi bản fax đến.


    Anh không thể thư giãn; anh thậm chí không thể dựa lưng lên ghế. Thay vì thế, trong khi ngồi đợi, trong đầu anh điểm lại dòng sự kiện cho đến tận bây giờ. Xem xét lại những việc đã xảy ra là tất cả những gì anh có thể làm. Anh quá bị phân tâm với việc bao giờ chiếc máy fax hoạt động nên cũng không suy nghĩ được gì.


    Cuối cùng, máy fax bắt đầu kêu ro ro và một bản fax bắt đầu chạy ra. Anh chờ đến khi nó kết thúc, rồi đứng dậy kéo ra. Anh quay lại ghế, trải bản fax lên bàn, và đọc:


    Gửi Bs. Ando, Trường Y Đại học Fukuzawa. Đây là bức thư ông bà Oda đã để lại. Làm ơn cho tôi biết bất kỳ diễn biến mới nào.


    Bs. Yokota


    Trường y Đại học Joji


    Dưới dòng chữ nguệch ngoạc của vị giáo sư là vài dòng có kèm theo tên của ông bà Oda. Chữ viết tay không phải của Yokota; hẳn anh ta đã sao từ bản gốc.


    Sáng 28 tháng Mười


    Chúng tôi nhận trách nhiệm xử lý những cuốn băng. Không còn gì phải lo lắng nữa. Chúng tôi mệt mỏi rồi. Yoshimi và Kazuko, hãy chăm lo mọi thứ.


    Toru Oda Setsuko Oda


    Nội dung rất ngắn, nhưng như vậy cũng đủ để rõ rằng họ biết mình đang đối mặt với cái chết. Yoshimi và Kazuko có lẽ là hai người con gái khác của họ. Nhưng câu trước là để nhắn nhủ cho ai.


    Nghĩa của chúng là gì, họ đã xử lý những cuốn băng?


    Có phải ý họ là đã vứt chúng đi? Chắc chắn không thể hiểu là họ đã sao chép chúng.


    Ando quyết định thử hình dung lại tình trạng tâm lý của ông bà Oda từ đầu.


    Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười, con rể họ xuất hiện trước cửa và nói với họ rằng tính mạng của Shizu và Yoko đang bị đe dọa bởi lời nguyền trong một cuốn băng. Ông bà Oda đồng ý sao cuốn băng. Nhưng sau đấy, vào cùng ngày đó, Shizu và Yoko đã chết vào thời điểm được biết trước. Thậm chí nếu lúc đầu ông bà Oda có nghi ngờ về câu chuyện của Asakawa, thì giờ họ chắc chắn phải tin vào sức mạnh của cuốn băng. Rồi, sau lễ tang, họ biết được kết quả mổ tử thi: suy tim vì nguyên nhân không thể giải thích được. Lúc này, ông bà Oda hẳn đã quyết định từ bỏ hy vọng tự cứu mình. Con gái và cháu gái họ đã mất đi mạng sống cho dù đã tuân theo yêu cầu của cuốn băng. Ông bà Oda hẳn đã nghĩ rằng họ không thể thoát được cái chết cho dù họ có làm gì đi nữa. Mệt mỏi vì mọi nỗ lực đều dẫn đến cái chết, và có lẽ chán nản về cuộc sống nói chung, họ quyết định không sao cuốn băng và ngồi yên chờ đợi cái chết tiến đến. Nhưng nếu tin vào bức thư, trong khi chờ chết, họ đã “xử lý” cuốn băng là nguồn gốc của mọi đau khổ.


    Không có cách nào để Ando biết được họ đã xử lý cuốn băng như thế nào. Có lẽ họ đã xóa hoàn toàn và vứt chúng đi, hay họ đã chôn chúng trong sân. Trong trường hợp nào đi nữa, khi Ando thử vẽ sơ đồ đường đi của cuốn băng trên một tờ giấy nháp, lúc đó anh quyết định nghiêng về giả thiết cuốn băng bị xóa.


    Đầu tiên có một cuốn băng ở Villa Log Cabin, nhà số B-4, nguồn gốc của mọi tai họa, được tạo ra khi một đầu máy VCR để chế độ ghi đã chụp được những hình ảnh lên cuốn băng. Asakawa đã mang cuốn băng về nhà mình và sao một bản cho Ryuji. Đến lúc này có hai bản. Tuy nhiên, dường như bản sao Ryuji có đã tìm được đường đến tay Mai, và đã bị xóa gần như toàn bộ ngoại trừ mười giây đầu tiên. Trong khi đó bản sao do Asakawa giữ được chuyển cho anh trai anh ta là Junichiro, người này đã vứt nó đi cùng với chiếc đầu máy VCR bị hỏng. Bản gốc của Asakawa được sao thêm hai bản nữa, và được đưa cho ông bà Oda, nhưng hai bản sao này đã bị xử lý. Tóm lại, các cuốn băng chứa đựng lòng căm thù của Sadako Yamamura giờ đã biến mất khỏi trái đất.


    Ando xem đi xem lại sơ đồ hình cây mà anh đã tạo ra để chắc chắn là mình vẽ đúng. Nhưng thực sự cuốn băng dường như không đi đến tuyệt diệt. Chỉ hai tháng sau khi nó xuất hiện, kể từ cuối tháng Tám, nó đã giết chín nạn nhân, và giờ mối tai họa đó biến mất. Nhưng … Ando nghĩ. Nếu cuốn băng giết tất cả những ai xem nó bất kể họ có sao chép hay không, sớm muộn gì nó cũng đi đến tuyệt diệt. Chỉ bằng cách đe dọa nó mới có khả năng tái sinh, để thích nghi với môi trường và tồn tại. Một khi cái lối thoát duy nhất đó bị phát hiện ra là dối trá, thì cuốn băng sẽ không tránh khỏi bị dồn vào ngõ cụt.


    Nếu nó bị tuyệt diệt, nghĩ là người ta đã thấy những cái chết bí ẩn cuối cùng. Nếu không còn ai có thể phơi nhiễm với những hình ảnh đó, thì không còn phải lo có ai sẽ chết vì chứng suy tim khó hiểu nữa. Nhưng một điểm cơ bản lại chiếm lấy tâm trí Ando.


    Tại sao Asakawa vẫn còn sống?


    Câu hỏi này lại được nối tiếp bởi một câu hỏi khác.


    Mai Takano ở đâu?


    Theo logic, cuốn băng dường như đã biến mất. Nhưng linh tính của Ando phủ nhận điều đó. Chuyện này không thể qua đi dễ dàng như thế được. Có điều gì không ổn.
     
  8. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 3



    Ando lấy chìa khóa tại bàn thủ thư, rồi vừa cởi áo jacket vừa đi đến tủ đựng đồ. Trời lúc này vẫn đang mùa đông. Bất cứ ai thấy anh, chỉ mặc mỗi áo sơ mi, sẽ rùng mình thay cho anh. Nhưng Ando dễ đổ mồ hôi, khi mặc áo sơ mi anh cũng cảm thấy nóng ngay cả trong phòng thư viện có máy điều hòa. Anh lấy bút và sổ ra khỏi cặp, quấn áo jacket quanh cặp và nhét vào ngăn tủ.


    Trong cuốn sổ anh kẹp tờ giấy có bản phân tích ADN của virus tìm thấy trong máu Ryuji. Hôm nay Ando quyết tâm thúc đẩy việc giải mã, đó là lý do anh ở đây trong thư viện vào sáng sớm thế này, nhưng khi nhìn vào chuỗi ký tự vô nghĩa trên bản in, mắt anh đờ ra. Không cách nào để anh có thể giải được mật mã này. Nhưng nghĩ kỹ lại, anh làm việc này một phần là để giết thời gian. Anh không thể nghĩ ra điều gì tốt hơn để vượt qua được ba ngày nghỉ cuối tuần trống trải.


    Anh kẹp cuốn sổ vào dưới cánh tay và đi thẳng đến phòng đọc trên tầng ba, ở đó anh chọn một chỗ ngồi cạnh cửa sổ.


    Là một sinh viên từng chơi trò giải mật mã với Ryuji, ở nhà anh có khá nhiều sách về mật mã. Nhưng vì kết hôn và sau đó ly dị, anh đã chuyển nhà ba lần kể từ lúc ấy, còn chưa kể đến việc anh đã mất hứng thú với trò chơi này; những cuốn sách cứ biến mất dần theo thời gian. Có một số loại mật mã nhất định mà anh không thể hy vọng sẽ giải được mà không có sự trợ giúp của bản thay thế ký tự và sơ đồ tần số xuất hiện các chữ cái được trình bày trong những sách chuyên ngành, anh nghĩ sẽ chẳng thể làm được gì nếu không có sự trợ giúp này. Và quả là ngớ ngẩn khi đi mua mới toàn bộ số sách đó, nên cuối cùng anh phải đến thư viện.


    Đã có thời anh nắm khá chắc những kiến thức cơ bản về xây dựng và hóa giải các mật mã, nhưng đó là chuyện của mười năm trước đây, vì vậy trước hết anh đọc qua một cuốn sách cơ bản về mật mã. Anh quyết định rằng bước đầu tiên nên làm là quyết định xem loại mật mã nào chứa trong chuỗi bazơ của loài virus giống virus đậu mùa này.


    Nhìn chung mật mã có thể chia ra thành ba loại: mật mã thay thế, trong đó các chữ cái của thông điệp được thay thế bằng những chữ cái, biểu tượng hoặc con số khác; mật mã hoán vị, trong đó trật tự các từ trong thông điệp bị thay đổi; và mật mã chèn thêm, trong đó người ta chèn thêm một số từ vào giữa các từ của thông điệp. Những số lòi ra từ bụng Ryuji sau khi mổ, mà Ando có thể liên hệ đến từ tiếng Anh “ring” là một ví dụ tiêu biểu của mật mã thay thế đơn giản.


    Anh không mất nhiều thời gian cũng đoán được rằng mật mã trong virus phải thuộc dạng mật mã thay thế. Cái anh phải xử lý là một nhóm gồm bốn chữ cái, ATGC, tương ứng với bốn bazơ, vì vậy nhiều khả năng mật mã này bao gồm việc gán một ký tự cụ thể cho một nhóm các chữ cái. Như thế giống với mật mã nhất.


    Giống mật mã. Khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu, nó khiến anh ngồi thẳng dậy và suy nghĩ. Mục đích cơ bản của một mật mã là chuyển tải thông tin từ một bên cho bên khác mà không để bất cứ bên thứ ba nào có thể biết được. Đối với các sinh viên, mật mã chẳng là gì khác hơn một trò chơi, một thứ khiến người ta suy nghĩ nát óc. Nhưng, ví dụ trong chiến tranh, khi tính chất nhạy cảm với kết quả giải mật mã có thể làm dấy lên một làn sóng xung đột, sử dụng một mật mã “giống mật mã” là thực sự quá nguy hiểm. Nói cách khác, cách để kẻ thù không phá được mật mã là làm cho chúng không giống như những mật mã nếu nhìn qua. Nếu bắt được một tên gián điệp của kẻ thù và phát hiện ra hắn ta mang theo một cuốn sổ có những dãy số đáng ngờ, thì có thể dám chắc đó là thông tin tối mật đã được mã hóa. Thậm chí cho phép khả năng đó chỉ là cái bẫy, thì khi một mật mã được xác định như thế, khả năng nó bị hóa giải tăng lên đáng kể.


    Ando cố suy nghĩ một cách logic. Nếu mục đích của một mật mã là để tránh bên thứ ba khỏi biết được, thì mật mã chỉ nên “giống mật mã” đối với người mà thông tin được dự định được chuyển đến. Nhìn vào bốn hai chữ cái được thêm vào chuỗi bazơ của virus, Ando thấy chúng hoàn toàn giống mật mã. Đó là ấn tượng ngay từ lần đầu tiên anh nhìn vào dãy ký tự ấy.


    Vậy thì tại sao lại như thế?


    Anh cố phân tích nguồn gốc của ấn tượng đó. Tại sao anh lại thấy nó giống-mật-mã? Không phải vì chưa bao giờ người ta phát hiện thấy sự lặp lại khó hiểu đó trong quá trình phân tích trình tự ADN. Mà là vì, sự lặp lại đặc biệt này dường như mang ý nghĩa. Nó hiện ra ở mọi nơi người ta nhìn vào chuỗi, cho dù người ta có cắt ra ở đâu. Nó giống như thể đang gây sự chú ý, bảo rằng, ta là một mật mã đây, kẻ đần độn kia. Do Ando đã có kinh nghiệm với những con số lòi ra từ bụng Ryuji, nên anh thấy chuỗi ký tự ấy dường như giống mật mã một cách đặc biệt. Nói cách khác, có lẽ từ “ring” có hai mục đích khi nó chui ra ngay lúc ấy: nó không chỉ nhằm cảnh báo cho Ando sự tồn tại của phóng sự Ring, mà nó cũng chính là một dạng báo trước. Như thể Ryuji muốn nói với anh, có thể tôi sẽ dùng lại mật mã khi tình huống cho phép, cậu cứ chờ đợi và đừng bỏ lỡ. Và có lẽ anh ta đã dùng dạng mật mã thay thế đơn giản nhất như một lời ám chỉ.


    Với chuỗi bazơ bí ẩn chỉ tìm thấy trong virus trong người Ryuji, có thể chắc chắn khi cho rằng chính anh ta là người gửi mật mã. Tất nhiên, sự thật không thể chối cãi là Ryuji đã chết và thi thể anh ta đã hóa thành tro, nhưng mẫu mô của anh ta vẫn còn ở trong phòng xét nghiệm. Hàng vô số những mẫu ADN của anh ta, thiết kế tạo nên cá thể Ryuji, vẫn còn giữ lại trong các tế bào của mẫu mô đó. Nếu ADN đó kế thừa ý chí của Ryuji, và đang cố diễn tả điều gì đó bằng những con chữ thì sao?


    Đấy là một giả thuyết vô lý hoàn toàn vô giá trị đối với một nhà giải phẫu như Ando. Nhưng nếu anh thành công trong việc biến những ký tự kia thành những từ có nghĩa bằng phương pháp thay thế, thì nó sẽ thắng tất cả những lời giải thích khác về tình huống này. Theo lý thuyết, có thể lấy ADN từ mẫu máu của Ryuji và dùng nó để tạo ra một cá thể giống hệt như Ryuji, một người nhân bản vô tính. Tập hợp ADN này mang ý chí của Ryuji và gây ảnh hưởng đến virus có trong máu, chèn vào một hoặc nhiều từ. Bỗng nhiên Ando cảm thấy thiên tài tuyệt đối và sự láu cá của Ryuji đằng sau chuyện này. Tại sao anh ta chỉ chèn thông điệp vào virus, một kẻ xâm nhập, mà không chèn vào tế bào hồng cầu của anh ta? Bởi vì, với kiến thức về y khoa của mình, Ryuji biết rằng ADN từ những tế bào khác sẽ không có cơ hội nào được phân tích. Anh đã biết rằng chỉ có thể dựa vào loại virus gây ra những cái chết, thông điệp mới được chạy qua máy giải mã ADN, nên anh ta tập trung nỗ lực vào ADN của virus. Do đó những từ mà anh ta gửi đi sẽ được tiếp nhận.


    Tất cả những điều đó cuối cùng dẫn Ando đến một kết luận. Vì với anh mật mã này trông giống một mật mã, nên về cơ bản nó không hoạt động như một mật mã thông thường. Mà chỉ vì ADN của Ryuji không còn cách nào khác để giao tiếp với bên ngoài. Chuỗi xoắn kép ADN được tạo thành từ bốn bazơ, các bazơ này được biểu diễn bằng bốn chữ cái ATGC. Ando không thể nghĩ ra cách nào khác để biết được thông điệp của nó ngoài việc kết hợp bốn chữ cái đó theo nhiều cách khác nhau. Cách này được chọn vì không còn cách nào khác cả. Đây là biện pháp duy nhất sẵn có mà Ryuji có thể sử dụng.


    Bỗng nhiên mọi nỗi tuyệt vọng mà Ando cảm thấy cách đây vài giây đã biến mất, thay vào đó là sự tự tin phấn chấn.


    Có lẽ mình có thể giải được giải được mật mã này.


    Anh muốn hét lên. Nếu ý chí của Ryuji, rơi rớt lại trong ADN của anh ta, đang cố nói với Ando, thì dường như rất có lý khi nghĩ rằng từ ngữ được sử dụng sẽ là những từ Ando dễ dàng hóa giải. Tại sao chúng phải khó hơn mức cần thiết? Ando quay lại và kiểm nghiệm dòng lý lẽ của mình để xem có kẽ hở nào trong suy luận của anh không. Nếu bước đầu tiên anh đi sai, thì anh sẽ mãi lang thang mà không bao giờ tìm ra câu trả lời.


    Anh không còn thấy việc mình đang làm là để giết thời gian nữa. Giờ đây, khi cảm thấy rằng mình thực sự có thể giải mã được thông điệp, anh nóng lòng muốn biết nó nói gì.


    Phần còn lại của buổi sáng, cho đến giờ ăn trưa, Ando làm việc với hai cách tiếp cận.


    Chuỗi bazơ mà anh phải xử lý là:


    ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA


    Vấn đề đầu tiên là nên phân chia các ký tự này như thế nào. Anh thử chia chúng thành các nhóm hai ký tự và nhóm ba ký tự.


    Trước hết, nhóm hai ký tự:


    AT GG AA GA AG AA TA TC


    GT TA TA TT CC TC CT CC


    TC AA CA AC AA


    Coi một cặp ký tự là một đơn vị, bốn ký tự sẵn có sẽ cho mười sáu cặp kết hợp khả dĩ. Anh tự hỏi liệu một cặp có thể đại diện cho một chữ cái không.


    Nhưng điều này ngay lập tức dẫn đến một câu hỏi khác: thông điệp này được viết bằng ngôn ngữ nào?


    Có lẽ không phải là tiếng Nhật tượng hình. Tiếng Nhật có gần năm mươi ký tự, quá nhiều so với con số mười sáu mà phương pháp chia theo cặp đôi cho phép. Tiếng Anh và tiếng Pháp đều có hai sáu chữ cái, trong khi tiếng Ý chỉ có hai mươi. Nhưng anh cũng biết mình không thể bỏ qua khả năng thông điệp được viết bằng tiếng Nhật Latin hóa. Đôi khi việc xác định ngôn ngữ của mật mã chiếm một nửa phần công việc.


    Nhưng với Ando vấn đề này đã được giải quyết. Việc anh có thể thay thế những con số 178136 để cho ra chữ “ring” có thể xem là một gợi ý của Ryuji rằng mật mã hiện tại cũng cho ra kết quả dưới dạng tiếng Anh. Ando chắc chắn về điểm này. Do đó vấn đề ngôn ngữ đã được giải quyết.


    Bốn mươi hai chữ cái của các bazơ có thể chia ra thành hai mốt cặp. Nhưng có một số cặp giống hệt nhau: có bốn cặp AA, ba cặp TA, ba cặp TC, và hai cặp CC. Chỉ có mười ba kiểu cặp đôi. Ando viết lại các con số lên một tờ giấy và giở một cuốn sách hướng dẫn giải mật mã đến khi tìm hiểu được biểu đồ trình bày tần số xuất hiện của các ký tự trong bảng chữ cái tiếng Anh.


    Anh biết mặc dù bảng chữ cái tiếng Anh có hai sáu chữ cái, không phải tất cả các chữ cái đó xuất hiện với số lần ngang nhau trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày. Ví dụ E, T và A là những chữ cái thường xuất hiện, trong khi đó Q và Z có lẽ chỉ xuất hiện một hoặc hai lần trên một trang sách. Hầu hết các tài liệu hướng dẫn giải mật mã đều có rất nhiều dạng bảng tần số xuất hiện chữ cái được trình bày ở phần cuối, bên cạnh những số liệu thống kê tham khảo khác. Sử dụng các bảng và thống kê đó giúp xác định dễ dàng hơn ngôn ngữ của thông điệp được mã hóa.


    Trong trường hợp này, những số liệu trong các bảng cho anh biết rằng trong một cụm từ tiếng Anh có hai mốt chữ cái thì số lượng bình quân của các chữ cái khác nhau được sử dụng là mười hai. Ando ngồi thần ra. Cái anh đang có là mười ba chữ cái khác nhau, không hề quá nhiều so với số bình quân. Điều này, xét về mặt thống kê, cho anh biết rằng chẳng có gì sai khi chia chuỗi bazơ ra thành hai mốt cặp và giả định mỗi cặp đại diện cho một chữ cái.


    Cân nhắc khả năng đó một lát, bước tiếp theo Ando chia chuỗi bazơ thành từng bộ ba chữ cái:


    ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT


    CCT CCT CAA CAA CAA ATT CCT


    Việc phân chia này cho mười bốn bộ ba, hay bảy kiểu bộ ba: ATG, GAA, TAT, CGT, ATT, CCT và CAA. Biểu đồ cho anh biết rằng một cụm từ tiếng Anh mười bốn chữ cái chứa bình quân chín chữ cái khác nhau. Không quá nhiều so với bảy chữ cái anh có.


    Ngay lập tức Ando nhận thấy rằng phân chia theo cách này có rất nhiều sự trùng lặp. GAA, CCT và CAA mỗi bộ xuất hiện ba lần, và TAT xuất hiện hai lần. Nhưng điều thực làm Ando băn khoăn GAA, CCT và CAA xuất hiện ba lần liên tiếp. Nếu anh gán cho mỗi bộ ba một chữ cái thuộc hệ alphabet, trong thông điệp ngắn ngủi này có ba trường hợp một chữ cái xuất hiện ba lần liên tiếp. Vốn tiếng Anh của Ando đủ để anh biết rằng hai chữ cái trùng lặp đứng cạnh nhau hoàn toàn không phải là hiếm. Nhưng anh không thể nghĩ ra một từ tiếng Anh nào có ba chữ cái giống nhau đứng cạnh nhau. Khả năng duy nhất anh có thể nghĩ đến là tình huống trong đó một từ kết thúc với hai chữ cái giống nhau, và từ tiếp theo bắt đầu bằng chính chữ cái đó, ví dụ “too old” hoặc “will link”.


    Anh cầm lên một quyển sách tiếng Anh tình cờ tìm thấy ở gần đó và bắt đầu kiểm tra ngẫu nhiên một trang xem mức độ thường xuyên một chữ cái xuất hiện ba lần liên tiếp. Anh giở qua bốn hay năm trang gì đấy mới tìm được một trường hợp. Anh kết luận rằng khả năng sự xuất hiện này xảy ra ba lần trong một chuỗi mười bốn chữ cái về cơ bản là bằng không. Ngược lại, chia bốn hai chữ cái này theo các cặp đôi thì chỉ có một chữ cặp ký tự đứng cạnh nhau. Do đó, anh thấy rằng sẽ hợp lý hơn khi đi theo lựa chọn đầu tiên và chia bazơ thành các nhóm hai chữ cái.


    Anh đã thu hẹp các khả năng. Từ đây anh có thể tiếp tục bằng phương pháp thử và lỗi.


    AT GG AA GA AG AA TA TC


    GT TA TA TT CC TC CT CC


    TC AA CA AC AA


    Cặp AA xuất hiện bốn lần, điều đó có nghĩa là nó tương ứng với một chữ cái được dùng đến rất thường xuyên. Tham khảo một bảng khác, Ando khẳng định chữ cái thường được dùng nhất trong tiếng Anh là E. Do đó, anh giả sử rằng AA nghĩa là E. Cặp chữ phổ biến thứ hai trong dãy là TA và TC, mỗi cặp xuất hiện ba lần. Anh cũng nhận thấy TA đứng sau AA một lần, còn AA đứng sau TC một lần. Điều này có thể quan trọng, do cũng có những thống kê về sự kết hợp các chữ cái. Anh bắt đầu thử các khả năng khác nhau của TA và TC, bằng cách tham khảo các bảng thống kê.


    Với những chữ thường đứng sau chữ E và cũng là những chữ phổ biến, chữ A dường như là ứng cử viên khả dĩ nhất, điều đó có nghĩa là TA có thể là A. Theo logic này, anh nghĩ TC có lẽ tương ứng với chữ T. Hơn nữa, theo cách kết hợp với các chữ cái khác, anh đoán CC có thể là N. Cho đến lúc đó, các số liệu thống kê dường như phục vụ cho anh rất tốt. Ít ra anh không gặp phải trục trặc nào cả.


    Đây là những chữ cái anh đã tìm ra:


    ˍˍEˍˍEATˍAAˍNTˍNTEˍˍE


    Dãy bazơ, từng là mớ chữ cái lộn xộn, giờ dường như có vẻ giống với tiếng Anh. Bước tiếp anh cố điền vào những chỗ trống bằng cách dựa trên những điều anh biết về sự kết hợp giữa các phụ âm – nguyên âm, và vẫn tham khảo các bảng.


    SHERDEATYAALNTINTECME


    Ba chữ cái đầu tiên dường như tạo thành chữ “she”, nhưng những chữ còn lại không lập thành chữ nào cả, cho dù anh có chia ra như thế nào. Anh cố đảo vị trí của các chữ E, A, T, N và thay đổi các chữ cái khác dựa vào linh cảm. Khi việc viết những khả năng ra trên giấy trở nên quá mất thời gian, anh xé những tờ giấy ra khỏi cuốn sổ, trước hết là để tạo ra hai sáu cái thẻ, mỗi thẻ ứng với một chữ cái. Mọi việc bắt đầu giống như một trò chơi.


    THEYWERBORRLNBINBECME


    Khi sắp xếp như thế này, cụm từ đầu tiên nảy ra trong đầu Ando là “they were born”. Anh biết phần chính tả có đôi chút sai lệch, nhưng có lẽ cũng không quá sai. Vả lại anh thấy ý nghĩa của nó có phần nào hợp lý. Nhưng cảm giác rằng tồn tại đâu đó một cách sắp xếp khác hợp lý hơn, nên anh tiếp tục trò chơi.


    Sau khoảng mười phút mày mò, Ando nghĩ anh có thể đoán ra kết quả sẽ như thế nào, nên anh dừng lại. Nếu như bên cạnh có một máy vi tính, mọi việc sẽ dễ dàng hơn rất nhiều, anh nghĩ. Những chữ cái thứ ba, sáu, tám và hai mốt giống nhau. Chữ thứ bảy, mười và mười một giống nhau. Chữ thứ tám, mười bốn và mười bảy giống nhau. Chữ thứ mười ba và mười sáu giống nhau. Cụm từ dài hai mốt chữ cái. Nếu anh lập các điều kiện đó và đưa vào máy tính, có lẽ nó sẽ cho ra kết quả, với điều kiện anh có điều chỉnh phù hợp về chữ cái thường được sử dụng. Nhưng chắc chắn máy tính sẽ cho ra nhiều kết quả khả dĩ. Hẳn là phải có vô số cụm từ có nghĩa trong tiếng Anh thỏa mãn những điều kiện ấy. Làm sao anh có thể nói cụm từ nào là thông điệp Ryuji gửi cho anh? Chỉ khi có dấu hiệu nào trong đáp án có thể cho anh biết ngay khi nhìn qua rằng đó là thông điệp của Ryuji, giống như kiểu một chữ ký vào cuối bức thư. Nhưng nếu không có, anh sẽ lạc lối.


    Ando nhận ra rằng anh đang ở vào ngõ cụt. Anh gục đầu, thấy mình thật ngu ngốc vì đến giờ mới nhận ra điều này. Nếu trở lại thời sinh viên, khi linh cảm giải mật mã của anh được mài giũa sắc bén hơn, anh sẽ nắm được thông điệp này trong một hay vài phút. Anh phải thay đổi cách suy nghĩ. Anh cần một giả thiết mới.


    Ando mải mê đến nỗi không còn chú ý đến thời gian trôi qua. Anh nhìn đồng hồ, thấy đã gần một giờ chiều. Anh đói. Anh đứng dậy, định sẽ đi ăn ở quán ăn trên tầng bốn. Thay đổi quang cảnh xung quanh có thể tốt cho anh. Phương pháp loại suy cùng cảm hứng: anh sẽ cần cả hai nếu muốn tìm ra đáp án. Và anh thường tìm được cảm hứng trong khi ăn.


    Đáp án rồi sẽ phải rõ ràng thôi.


    Anh lẩm nhẩm như niệm thần chú trong khi đi lên tầng bốn.
     
  9. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 4



    Vừa ăn trưa, Ando vừa nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm cây cối bên dưới, ngắm những đứa trẻ chơi xích đu và bập bênh trong công viên. Đã hơn một giờ, khi anh đến, quán ăn đông nghịt, nhưng bây giờ đã có nhiều ghế trống. Bản in chuỗi bazơ nằm trên bàn cạnh khay nhôm của anh, nhưng anh không nhìn vào đó.


    Một bức tường của quán ăn có những cửa sổ cao từ sàn lên trần, vì vậy không có gì cản tầm mắt anh ngắm bọn trẻ vui chơi. Giống như đang xem một bộ phim câm. Mỗi khi thấy một cậu bé tầm năm tuổi, ánh mắt Ando lại tập trung vào đó. Ando không hề nhận ra là mình đang nhìn chằm chằm cậu bé, và phải mất vài phút anh mới thoát ra khỏi trạng thái ấy.


    Đã có lần anh đến thư viện cùng con trai. Đó là một ngày Chủ nhật cách đây hai năm, khi anh còn sống ở căn hộ Nam Aoyama. Ando đột nhiên nhớ ra anh cần tìm một số dữ liệu cho bài thuyết trình định trình bày tại một buổi hội thảo nghiên cứu, cho nên anh quyết định đến thư viện. Anh dắt Takanori đi theo. Nhưng khi đến nơi, ở lối vào có một tấm biển đề TRẺ EM DƯỚI 18 TUỔI KHÔNG ĐƯỢC VÀO. Anh không thể yên tâm bắt thằng bé đợi ở ngoài trong khi anh nghiên cứu, do đó anh từ bỏ ý định và cùng đi chơi với con trong công viên. Anh vẫn còn nhớ mình đứng sau ghế xích đu, đẩy cho Takanori; anh còn nhớ cả nhịp đung đưa của ghế đu. Chính cái xích đu đó giờ đang đung đưa, dưới tán lá vàng của cây bạch quả. Anh không thể nghe thấy âm thanh, thậm chí không thể thấy biểu hiện trên nét mặt của lũ trẻ khi chúng lần lượt duỗi chân ra rồi co chân lại. Nhưng trong đầu anh, anh vẫn nghe rõ tiếng con mình.


    Nhưng anh lại đang lan man rồi. Anh quay lại nhìn trang giấy và cầm bút lên.


    Đã đến lúc phải trở lại với những kiến thức cơ bản về giải mã. Không có cách nào khác để phá mật mã này ngoài việc đưa ra nhiều giả thiết, và rồi đi theo từng giả thiết một. Khi một giả thiết trở nên rõ ràng là sai, điều tốt nhất nên làm là nhanh chóng bỏ qua nó và chuyển sang giả thiết khác. Với một thông điệp chỉ có hai mốt chữ cái, anh sẽ không thể chỉ dựa trên bảng tần số xuất hiện các chữ cái và quy tắc kết hợp chúng. Thực sự, nếu mật mã phức tạp đến mức đòi hỏi một giải pháp chuyển đổi đặc biệt, thì có nguy cơ là nó quá khó, và trong trường hợp ấy nó không thể chuyển tải cái mà nó muốn chuyển tải. Không, anh chỉ cần lần qua hết các giả thiết theo phương pháp loại suy. Nếu một giả thiết là sai, anh cần bỏ qua nó, chỉ có thế thôi.


    Tuy nhiên còn một giả thiết khác mà Ando nghĩ anh đã bỏ qua quá sớm. Anh chợt nghĩ mật mã này có thể là một phép đảo chữ cái.


    ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT


    CCT CCT CAA CAA CAA ATT CCT


    Anh đã bỏ qua cách tiếp cận này bởi vì nó dẫn đến sự lặp lại ba lần của cùng một chữ cái, một điều bất thường trong tiếng Anh. Nhưng nếu chính những ký tự đó cần được sắp xếp lại? Anh nghĩ đến một trường hợp mà anh đã từng đọc, trong đó câu “Bob opened the door” đã được mã hóa thành OOOOEEEBBDDTPNHR. Dĩ nhiên, một chuỗi có quá nhiều ký tự lặp lại không thể tạo thành một cụm từ có nghĩa trong tiếng Anh, nhưng khi sắp xếp lại theo những quy tắc nhất định, nó sẽ cho ra một câu hoàn toàn bình thường.


    Điều này có thể có tác dụng, anh nghĩ.


    Nhưng ngay khi chuẩn bị bắt tay vào việc, anh dừng lại. Anh cũng có thể biết được điều này sẽ dẫn đến đâu. Nếu anh không những cần xác định từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào, mà còn phải tìm cách để sắp xếp lại các ký tự, thì nhiệm vụ ấy đột nhiên trở nên khổng lồ. Và không chỉ là vấn đề thời gian. Nếu không có một chìa khóa ở dưới dạng nào đấy, rốt cuộc anh sẽ gặp phải vấn đề mà anh đã gặp lần trước: có quá nhiều giải pháp khả dĩ mà không biết chọn giải pháp nào. Anh nghĩ về những chữ số đã dẫn anh đến chữ “ring” và phân vân, liệu chúng có thể là một dạng chìa khóa không, để chỉ cho anh đi theo đúng trật tự sắp xếp các chữ cái. Nhưng trước hết anh còn phải tìm ra từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào.


    Một ngõ cụt nữa.


    Mình cần một góc độ xem xét hoàn toàn mới, Ando tự nhủ. Anh đang cố tiếp tục với phương pháp loại suy, nhưng anh có cảm giác như đang lặp đi lặp lại cùng một việc. Có lẽ anh quá ràng buộc với ý tưởng gán mỗi cặp hai hoặc ba bazơ tương ứng với một chữ cái tiếng Anh.


    Đáp án phải là cái gì đấy rõ ràng, cái mình có thể tìm ra mà không phải trải qua một quá trình dài và phức tạp.


    Anh cảm thấy sự tập trung của mình chùng xuống, mắt anh lơ đễnh nhìn ra ngoài trang giấy. Đột nhiên anh nhận ra mình đang nhìn mái tóc của một thiếu nữ ngồi cùng bàn ở đầu bên kia. Khi ngả đầu xuống như thế, trông cô giống Mai Takano, đặc biệt là phần trán.


    Bây giờ cô ấy ở đâu?


    Anh lo lắng cho sự an nguy của cô, đặc biệt khi anh nghĩ đến việc cô từng là người tình của Ryuji.


    Có thể nào Ryuji thông qua mật mã này đang cố cho mình biết cô ấy ở đâu?


    Anh xem xét khả năng đó một lúc, nhưng rồi loại bỏ nó bằng một nụ cười chế giễu, vì thấy quá ư là giống truyện tranh. Thật trẻ con khi tưởng tượng mình là thám tử nổi tiếng đi cứu nữ nhân vật chính thoát khỏi tình huống nguy hiểm chết người. Đột nhiên Ando thấy toàn bộ chuyện này thật ngớ ngẩn. Có thể đây hoàn toàn không phải là một mật mã. Có lẽ có một sự giải thích hoàn toàn khoa học về việc làm thế nào các chuỗi bazơ đó có trong ADN của virus. Khi thừa nhận khả năng đó, Ando cảm thấy niềm say mê giải mã của anh hoàn toàn biến mất. Có phải anh chỉ đang giết thời gian? Thế mà anh đã làm việc cật lực với nó.


    Ánh mặt trời sắp lặn nhuộm vàng lông trên cánh tay anh. Mọi hăm hở sáng nay giờ đã biến mất. Anh nghĩ đến việc chuyển sang ngồi ghế khác, nơi mặt trời không chiếu vào anh, và nhổm dậy. Tuy nhiên, khi nhìn quanh, anh thấy bao quanh mình toàn là bọn trẻ, những sinh viên đại học hoặc học sinh trung học đang ôn thi đại học, tất cả đều ngập trong hàng núi sách vở. Chuyển sang chỗ khác không giúp anh lấy lại được sự tập trung. Toàn bộ phòng đọc chìm trong không khí uể oải. Ando lại ngồi xuống chỗ cũ.


    Hãy suy nghĩ một cách logic đi nào, anh tự nhủ. Phải có một công thức nào đó.


    Anh ngồi thẳng dậy. Anh đã và đang cố gán những bộ ba bazơ cho các ký tự trong bảng chữ cái, nhưng việc đó không tạo thành một công thức nào cả. Nếu anh có thể chuyển nó thành một hàm số song ánh, hoặc thậm chí một hàm số toàn ánh, câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng. Song ánh, có lẽ là toàn ánh… Chắc chắn cần phải tìm ra một công thức như thế.


    Anh đứng dậy. Nói một cách logic, không còn cách nào khác cả. Linh tính mách bảo rằng anh đã tiến thêm một bước gần tới đáp án, và nhận thức đó thổi bay mọi mệt mỏi trong anh, thúc đẩy anh hoạt động.


    Anh bước đến gian sách khoa học tự nhiên, tìm một cuốn về ADN, và bắt đầu điên cuồng lật trang. Khi sự phấn khích trỗi dậy, bàn tay anh lại đổ mồ hôi. Cái mà anh đang tìm là một bảng trình bày từng bộ bazơ sẽ tạo ra axit amin nào.


    Cuối cùng anh cũng tìm được một bảng như thế. Anh mang cuốn sách về đặt ngay ngắn trên bàn, giở đến trang có bảng đó, để cạnh thông điệp mã hóa.


    Khi một bộ bazơ, một codon, tạo ra một protein, thì codon được dịch thành axit amin. Bảng Ando đã tìm thấy có chứa những nguyên tắc phiên dịch các axit amin. Có hai mươi loại axit amin. Có bốn bazơ, nghĩa là có thể tạo ra sáu mươi tư bộ ba khác nhau. Sáu mươi tư bộ ba chỉ đại diện cho hai mươi axit amin, nghĩa là sẽ có khá nhiều sự trùng lặp. Đây là một ánh xạ toàn ánh. Mỗi bộ ba bazơ biểu thị cho một axit amin này hoặc axit amin khác (hoặc một mã kết thúc).


    Tham khảo bảng, Ando viết ra tên viết tắt của các axit amin ngay dưới bốn mươi hai bazơ của mật mã.


    ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT ATT CCT


    (Met) (Glu) (Glu) (Glu) (Tyr) (Arg) (Tyr) (Ile) (Pro)


    CCT CCT CAA CAA CAA


    (Pro) (Pro) (Gln) (Gln) (Gln)


    Tiếp theo, anh lấy chữ cái đầu tiên của từng axit và xếp chúng thành một dòng:


    MGGGTATIPPPGGG


    Nhưng dòng chữ này không có nghĩa gì cả. Và anh vẫn gặp phải trường hợp có ba chữ cái liên tục. Dù thế nào thì có vẻ anh vẫn sẽ phải tìm ra cách làm gì đó với chúng. Phải có một cách giải thích khác. Ví dụ lặp lại ba lần liên tiếp một chữ cái thì hai chữ đầu tiên được hiểu là một khoảng cách giữa các từ.


    Anh thử cách đó:


    MG TATIP G


    Cũng không phải là tiếng Anh.


    Nhưng ngay lập tức, Ando cảm thấy mình sắp đến nơi. Có thể nói anh đang tiến gần đến đáp án. Anh không biết tại sao, nhưng anh cảm thấy trong chốc lát nữa thôi anh có thể tìm ra một từ có nghĩa.


    Met, Pro và Gln là những chữ lặp lại ba lần. Anh cố viết chúng theo cách khác:


    Met


    Glu (x3)


    Tyr


    Arg


    Tyr


    Ile


    Pro (x3)


    Gln (x3)


    Anh nhìn chăm chú danh sách này trong khoảng một phút, và rồi thấy một từ tiếng Anh mà anh biết.


    Anh chợt nhận ra các codon lặp lại ba lần đó không ám chỉ “số ba” mà là “thứ ba”. Nhưng trong này là chữ cái thứ ba tên viết tắt của axit amin.


    Nói cách khác:


    Met


    Glu


    Tyr


    Arg


    Tyr



    I
    le


    Pro


    Gln


    Điều đó có nghĩa đáp án là: Mutation.


    Quên mất mình đang ở đâu, Ando bật lên một tiếng kêu. Câu trả lời duy nhất mà anh có thể tìm ra là đây, một kết quả của logic, phương pháp loại suy. Nó là một câu trả lời rõ ràng, đơn giản và hẳn là đúng.


    Nhưng anh vẫn gục đầu. Anh biết nghĩa của từ tiếng Anh “mutation” – tức là anh biết nó có nghĩa gì trong tiến hóa sinh học. Nhưng anh hoàn toàn không có chút ý tưởng gì về việc phải hiểu nó như thế nào trong tình huống hiện tại.


    Cậu đang cố nói cái quái gì thế hả Ryuji? Anh không bật ra câu hỏi đó. Nhưng thậm chí trong đầu mình, Ando có thể nghe giọng anh đang run lên phấn khích vì đã giải mã được thông điệp.
     
  10. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 5


    Anh đi ra sảnh, tìm một chiếc điện thoại công cộng, rồi quay số nhà Miyashita. Anh ngờ là bạn mình không có nhà vì đang là tối thứ Bảy, ngay giữa kỳ nghỉ cuối tuần ba ngày, nhưng lạ quá, Miyashita ở nhà cùng gia đình. Ando có thể báo cho Miyashita biết anh nghĩ mình đã giải được mật mã.


    Ando đoán Miyashita có lẽ đang ở phòng khách kiêm phòng ăn; thực ra, anh có thể tưởng tượng rõ cảnh vợ con Miyashita đang chuẩn bị bữa tối. Dù Miyashita đã đặt một tay che ống nói để chặn tiếng ồn trong nhà, nhưng vẫn không thể ngăn nổi dấu hiệu của một cuộc sống gia đình yên ấm lọt qua đường dây.


    “Cừ lắm! Rất tuyệt. Nó nói gì?”


    Giọng Miyashita vốn đã rất to rồi, lại thêm tay của anh ta che quanh ống nói, âm thanh càng vang to hơn trong tai Ando.


    “À, không phải là một câu. Chỉ có một từ.”


    “Ừ, vậy là chỉ có một từ duy nhất. Thế từ đó là gì?”


    “Mutation.”


    “Mutation?” Miyashita nhắc lại từ đó nhiều lần, như thể đang cố định lượng nó.


    “Cậu có ý tưởng gì về ý nghĩa của nó không?” Ando hỏi.


    “Tôi không biết. Còn cậu? Có ý nói không?”


    “Chẳng ý gì sất.”


    “Này. Sao cậu không đến đây?”


    Miyashita sống trong một khu chung cư trang nhã ở Bắc Terao, quận Tsurumi, Yokohama. Ando sẽ phải bắt tàu di Shinagawa rồi chuyển sang tuyến Keihin Express, nhưng anh có thể đến đó trong vòng chưa đầy một giờ.


    “Được thôi.”


    “Gọi cho tôi khi cậu đến nhà ga. Tôi biết một quán ba rất hay gần ga, ở đó ta có thể vừa nhậu vừa nói chuyện.”


    Cô con gái ở độ tuổi đi nhà trẻ của Miyashita dường như đoán được bố nó sắp đi ra ngoài. Nó níu hông anh ta nài nỉ, “Bố ơi! Bố ở nhà đi!” Chẳng để ý đến Ando, Miyashita lấy tay che ống nói và mắng cô bé. Ando có thể nghe thấy anh ta đang tha điện thoại quanh nhà, cố tránh xa khỏi cô con gái. Ando thấy có lỗi, cho dù không phải anh là người đầu tiên đưa ra ý tưởng đi ra ngoài. Đồng thời, anh còn có cảm giác mất mát và ghen tị một cách khó tả.


    “Để lúc khác cũng được, nếu cậu muốn.”


    Nhưng Miyashita không chịu. “Không đời nào. Tôi muốn nghe tất cả chi tiết. Dù sao, hãy gọi cho tôi ở nhà ga, tôi sẽ đến đó ngay.”


    Anh ta gác máy, không chờ Ando trả lời. Thở dài bất lực, Ando rời thư viện đến ga tàu điện ngầm, những âm thanh yên ấm trong ngôi nhà người bạn vẫn còn văng vẳng bên tai.


    Ando đã không đi tuyến Keihin Express kể từ hôm ghé thăm căn hộ của Mai tám ngày trước. Đâu đó gần nhà ga Kita Shinagawa, con tàu chạy ở tuyến đường sắt trên cao. Anh nhận ra mình đang nhìn xuống những ngôi nhà và bảng hiệu neon. Sáu giờ tối, một ngày cuối tháng Mười một, trời đã tối đen. Hướng mắt nhìn ra phía cảng, anh thấy những chung cư cao tầng Yashio ở hai bên kênh đào, những cửa sổ sáng tối xen kẽ tạo thành họa tiết bàn cờ. Số lượng cửa sổ tối đèn đáng ngạc nhiên trong một buổi tối cuối tuần. Ando thấy mình đang cố tìm những con chữ trong những họa tiết tạo nên ánh sáng và bóng tối đó; bộ não anh gần đây đã làm việc quá nhiều với mật mã. Từ một trong vô số tòa nhà, anh nghĩ đã nhìn thấy từ phiên âm ko – trẻ con? – nhưng tất nhiên nó chẳng có nghĩa gì cả.


    Mutation, mutation.


    Anh vừa liên tục lẩm nhẩm từ đó vừa nhìn xa xăm. Anh hy vọng có lẽ càng lẩm nhẩm từ đó nhiều thì ý định của Ryuji sẽ càng trở nên rõ ràng hơn.


    Anh nghe tiếng còi inh tai từ xa vọng lại. Con tàu chạy vào một nhà ga và dừng lại ở đó; có thông báo yêu cầu tàu dừng lại chờ cho một chuyến tàu cao tốc chạy qua. Ando đang ở toa cuối. Anh ngó đầu ra cửa để nhìn tên nhà ga. Chắc chắn đây là nơi Mai sống. Từ trên tàu anh có thể nhìn thấy con phố phía ngoài nhà ga, dọc theo phố là các cửa hàng, và dựa trên những ký ức cách đây tám ngày anh bắt đầu tìm căn hộ của Mai. Anh nhớ khi đứng trước phòng cô và nhìn ra cửa sổ, anh đã thấy nhà ga tàu Keihin Express đúng ngang tầm mắt. Anh có thể thấy mọi người đứng đợi ở ga, nghĩa là từ đây anh sẽ có thể nhìn thấy căn hộ của cô.


    Nhưng anh không thể nhìn rõ khi đứng bên trong tàu nên anh đứng dậy. Anh đi dọc xuống cuối sân ga và ngửa đầu lên nhìn qua hàng rào. Khu phố buôn bán chạy dài về phía Đông và tạo với đường ray thành một góc vuông. Cách không quá ba mươi mét, anh thấy một ngôi nhà bảy tầng quen thuộc.


    Đột nhiên, anh nghe thấy tiếng tàu tốc hành chạy tới từ phía Shinagawa. Một khi nó chạy qua, chuyến tàu nội thành mà Ando đang đi sẽ đóng cửa và tiếp tục đi theo hướng Kawasaki. Ando vội tìm cửa sổ căn hộ của Mai. Anh biết cô sống ở phòng 303, và đó là cánh cửa thứ ba nhìn từ bên phải. Giờ chuyến tàu tốc hành đã đi qua, và chuông đang báo chuyến tàu nội thành sắp khởi hành. Ando nhìn đồng hồ. Mới hơn sáu giờ. Miyashita có lẽ giờ này đang ăn tối với gia đình. Anh không muốn đến quá sớm và quấy rầy giây phút sum họp gia đình quý giá của họ. Anh nhận ra còn sớm hơn ba mươi phút so với dự kiến, nên anh quyết định bắt chuyến tàu sau. Anh để tàu chạy mà không có anh.


    Các cửa sổ tầng ba ít nhiều ngang tầm với sân ga nơi anh đang đứng. Anh nhìn cẩn thận vào từng cửa sổ một, nhưng không cái nào sáng đèn.


    Vậy là cô ấy không ở đó.


    Đó là một hy vọng yếu ớt, dễ dàng tan biến đi. Rồi, khi anh vừa định quay đi, ánh mắt bị giữ lại bởi một dải màu xanh nhạt phát ra từ cửa sổ thứ ba về phía bên phải. Anh nheo mắt nhìn, tự hỏi có phải mình đang tưởng tượng ra, nhưng nó có thật, đang phất phơ như một lá cờ màu xanh nhạt. Ánh sáng rất yếu ớt, thoắt ẩn thoắt hiện, đến mức anh có lẽ không nhận ra nếu không nhìn chăm chú. Anh rướn người về phía trước, nhưng nó ở quá xa. Anh không thể nhìn rõ được.


    Anh muốn quay trở lại căn hộ của cô. Việc này chắc chỉ mất chừng hai mươi phút, và anh sẽ vừa kịp giờ chuyến tàu tiếp theo. Không do dự thêm một phút nào nữa, anh bước qua cửa soát vé và đi vào con phố bên dưới.


    Chỉ khi đứng ngay dưới cửa sổ phòng cô, ngước nhìn lên đó, anh mới có thể nhận ra ánh sáng lạ ấy là gì. Cửa sổ đang mở, rèm đăng ten trắng bay ra ngoài, nhảy múa trong gió nhẹ, và ánh sáng từ bảng hiệu đèn neon của một hãng cho thuê ô tô phía bên kia đường phản chiếu lên màu trắng muốt của tấm rèm. Đôi khi những màu cơ bản chiếu lên vải trắng sẽ phát ra màu giống như huỳnh quang, điều đó giải thích cho dải sáng màu xanh nhạt mà anh thoáng thấy lúc ở nhà ga. Dù vậy, cảnh tượng này vẫn có điều gì đấy khiến Ando thấy không ổn. Cửa sổ đang mở và rèm cửa buông nửa chừng khi anh vào nhà tám ngày trước, nhưng anh nhớ rõ là đã đóng cửa và kéo rèm sang bên trước khi rời khỏi đó. Anh biết anh đã không để cửa sổ mở. Nhưng còn một điều làm anh băn khoăn hơn nữa. Vào buổi tối đầu mùa đông thế này không thể có gió được. Thế mà rèm cửa vẫn bị thổi bay gần như ngang với thanh treo rèm. Luồng gió đó bắt nguồn từ đâu? Anh không nghe thấy tiếng gió. Lá cây dọc bên đường không rung rinh. Thế mà ngay bên trên những cành cây không chút lay động kia, tấm rèm cửa đang nhảy múa. Cảnh tượng thường đến mức kỳ quái. Nhưng không có khách bộ hành nào ngước nhìn lên; dường như không có ai nhận ra hiện tượng kỳ lạ này.


    Cách giải thích duy nhất mà Ando có thể nghĩ ra là một lý giải cơ học. Có lẽ một chiếc quạt đang thổi trong căn phòng, tạo ra một luồng gió nhân tạo hướng ra ngoài. Nhưng tại sao? Trí tò mò của anh nổi lên.


    Anh vòng lại để tới sảnh. Cách duy nhất để tìm ra là vào phòng đó một lần nữa.


    Viên quản lý dường như nghỉ làm. Rèm cửa ở quầy trong văn phòng đã kéo xuống. Cả tòa nhà tĩnh lặng, không một dấu hiệu có người quanh đây.


    Anh đi thang máy lên tầng ba, rồi đi bộ đến phòng 303. Càng đến gần bước chân anh càng nhỏ và chậm hơn. Bản năng mách bảo anh quay lại, nhưng anh cần phải biết. Cửa ra hành lang bên ngoài đang mở, và xa hơn nữa anh có thể thấy một cầu thang hình xoắn ốc dùng trong trường hợp khẩn cấp. Nếu xảy ra chuyện gì, có lẽ mình không nên dùng thang máy. Có lẽ mình nên chạy xuống cầu thang… Ando thấy mình đang dự tính một con đường tẩu thoát mà không biết chính xác anh sợ cái gì.


    Anh đến cánh cửa đánh số 303. Dưới chuông cửa là một bảng đỏ ghi TAKANO. Mọi thứ đều giống như lúc trước. Ando lại gần để nhấn chuông, nhưng rồi nghĩ lại. Anh kiểm tra xem hành lang có ai không, rồi áp sát tai vào cửa. Anh không nghe thấy một âm thanh nào, chắc chắn không có tiếng động cơ quạt điện. Anh thắc mắc liệu lúc này tấm rèm còn bay lất phất ngoài cửa sổ không. Không nghe được gì phía sau cửa, anh khó mà tin được là nó còn đang bay.


    “Mai.”


    Thay vì nhấn chuông, anh khẽ gọi tên cô, rồi gõ cửa. Không có tiếng trả lời.


    Mai đã xem cuốn băng, anh tự nhủ. Và cô, hoặc là ai đó, đã ghi đè lên cuốn băng ấy, chỉ hai ngày trước khi Ando đến. Ngày thứ năm kể từ khi cô biến mất. Ai đã làm điều đó, và tại sao?


    Đột nhiên, Ando có thể cảm nhận lại trên da mình bầu không khí kỳ lạ của căn phòng, giống như bên trong một thi thể. Nước ở đáy bồn tắm, tiếng chảy nhỏ giọt, cảm giác có gì chạm nhẹ lên Lỗi hệ thống của anh.


    Ando lùi xa cái cửa. Dù sao thì bốn bản của cuốn băng quỉ quái đó đã biến mất khỏi trái đất. Cuộc khủng hoảng đã kết thúc. Chắc chắn người ta sẽ sớm tìm thấy thi thể Mai. Loay hoay ở đây thêm nữa cũng chẳng giúp anh thay đổi được gì, Ando tự nhủ khi anh bắt đầu quay trở lại thang máy. Anh lại muốn thoát ra khỏi chỗ này, thậm chí đi mà chưa tìm ra lời giải thích. Anh không chắc tại sao, nhưng dường như lần nào đến đây anh cũng cảm thấy như thế này.


    Anh nhấn nút gọi thang máy. Trong khi chờ, anh vẫn lặp đi lặp lại trong đầu, mutation, mutation. Anh muốn nghĩ đến một cái gì khác, bất cứ cái gì. Thang máy dường như không bao giờ đến.


    Từ hành lang phía bên phải, anh nghe dội lại một tiếng tách do xoay ổ khóa. Ando cứng người. Thay vì xoay người lại nhìn, anh chỉ quay đầu vừa đủ để nhìn qua khóe mắt. Anh thấy cửa phòng 303 từ từ mở ra. Anh có thể nhìn thấy cái bảng đỏ: không cần nghi ngờ đó là cánh cửa phòng nào nữa. Một cách vô thức, Ando nhấn nút thang máy liên tục. Thang máy cứ nằm ở tầng trệt lâu đến tuyệt vọng.


    Thấy một bóng người xuất hiện từ ngưỡng cửa, Ando gồng mình. Một cô gái trong chiếc đầm xanh mùa hè. Cô ta lấy chìa khóa trong túi xách và khóa cửa, Ando có thể thấy khuôn mặt nghiêng của cô. Ando dò xét khuôn mặt. Cô ta đeo kính râm, dù vậy, chắc chắn đó không phải là Mai. Là một người khác. Anh chẳng có lý do gì để sợ cả, nhưng lúc đó cơ thể anh đã nằm ngoài tầm kiểm soát của tâm trí rồi.


    Cửa thang máy mở ra, Ando luồn vào trong. Anh định nhấn nút CLOSE, nhưng vô tình nhấn phải nút OPEN. Cuối cùng, sau vài giây, cửa cũng bắt đầu đóng. Rồi, vào giây cuối, một bàn tay trắng len vào khe hẹp giữa hai cánh cửa, khiến cửa lại mở ra. Cô gái đứng đó. Đôi kính râm che giấu mọi biểu hiện trong mắt, nhưng Ando có thể thấy cô gái khoảng tầm hai lăm, với các đường nét hài hòa tuyệt mỹ. Một tay đặt lên mép cửa, cô ta bước nhẹ vào thang máy, nhấn nút đóng, rồi chọn số một để xuống tầng một. Ando bồn chồn nhích dần ra phía sau cho đến khi lưng và khuỷu tay chạm vào thành thang máy và anh chỉ đứng trên đầu ngón chân. Từ vị trí đó, anh nhìn chằm chằm vào người phụ nữ lạ, người đã bước ra từ phòng 303, và hỏi cô ta một câu duy nhất từ phía sau:


    “Cô là ai?”


    Một mùi lạ, không phải nước hoa, xông vào mũi khiến anh nhăn mặt và nín thở. Có thể là mùi gì? Mùi giống như chứa sắt, giống mùi máu. Tóc cô gái dài ngang lưng, và bàn tay đặt trên thành thang máy trắng đến mức gần như trong suốt. Nhìn kỹ hơn, móng tay trên ngón trỏ của cô ta nứt ra. Chiếc váy quá mỏng, không có ống tay, không phù hợp để mặc vào mùa này. Hẳn cô ta đang lạnh cóng. Cô ta không đi bít tất dài, chân chỉ có đôi giày vải. Anh có thể nhìn thấy những vết thâm tím trên chân. Điều này khiến anh ghê tởm, nhưng anh không biết tại sao. Dù rất cố gắng, anh cũng không thể chặn nổi cơn run rẩy đang dồn lên từ sâu thẳm trong mình.


    Bị đóng kín trong buồng thang máy nhỏ bé một mình với cô gái kia, Ando thấy thời gian trôi qua quá chậm chạp. Cuối cùng, họ xuống đến tầng một, Ando nín thở cho đến khi cửa mở. Cô gái bước thẳng ra sảnh đi qua phố.


    Trông cô ta cao chừng hơn mét rưỡi, dáng cân đối. Chiếc váy ôm sát người ngắn trên đầu gối chừng năm centimet, làm nổi bật bộ hông tuyệt đẹp, bước đi của cô ta cũng thật uyển chuyển. Bắp chân cô lộ ra trắng một cách đặc biệt, cô không đi tất để che đi, làm cho những vết thâm tím càng nổi bật hơn. Trời đêm lạnh đến mức mọi người khác trên đường đều mặc áo khoác, vậy mà cô ta lại ra đường không mặc gì ngoài chiếc váy hè không tay.


    Ando ra khỏi thang máy rồi đứng lại một lúc, dõi theo cô gái trong bóng đêm.
     
  11. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 6



    Ando đợi Miyashita trước ngân hàng như được dặn. Giờ là buổi tối cuối tuần, ngân hàng đã đóng cửa. Khi những cánh cửa kim loại kéo xuống, khu vực trước ngân hàng trông yên bình một cách kỳ lạ. Bóng đêm ở đây thật dễ chịu, nhưng trong lúc chờ đợi Miyashita xuất hiện, anh không thể xóa đi hình ảnh cô gái ở căn hộ 303 trong đầu.


    Anh cố gắng quên, nhưng hình ảnh cô gái đã khắc sau vào võng mạc anh. Suốt từ lúc vừa đi bộ vừa gà gật ngủ từ căn hộ của Mai đến nhà ga, rồi từ ga Tsurumi đến đây, anh vẫn nhìn thấy cô ta trong đầu.


    Cô ta là ai?


    Lời giải thích hợp lý nhất anh nghĩ ra là chị của Mai vì lo lắng cho cô em nên đã đến thăm. Chính Ando đã gọi điện cho mẹ Mai và cho bà biết sơ qua những gì anh phát hiện được. Nếu Mai có một người chị gái, và nếu cô ấy cũng sống ở Tokyo, thì chẳng có gì lạ khi gặp cô ở căn hộ của Mai.


    Nhưng ở cô gái toát ra một vẻ rất khó diễn tả, nó phủ nhận câu trả lời dễ dãi đó. Việc đi cùng thang máy với cô gái khiến Ando rùng mình đến tận đáy tâm can. Cô ta dường như không thuộc về thế giới này, nhưng trông cô ta cũng không giống một bóng ma. Cô ta chắc chắn đã ở đó với anh bằng xương bằng thịt. Nhưng Ando nghĩ anh sẽ dễ dàng chấp nhận hơn nếu cô ta là một hồn ma.


    Anh nhìn thấy một luồng sáng phát ra từ sau tòa nhà hỗn hợp văn phòng – chung cư, chiếu thẳng vào anh.


    “Ê, Ando!”


    Ando nhìn về phía ánh đèn, nhận ra đó là Miyashita đang lao về phía anh trên chiếc xe đạp mini của phụ nữ, có gắn giỏ đựng đồ. Chắc là anh ta mượn xe đạp của vợ.


    Với tiếng phanh kít, anh ta dừng lại trước mặt Ando. Miyashita thở dốc đến mức không nói nên lời. Anh ta đứng đó, hai chân giạng ra trên xe, khuỷu tay để trên ghi-đông, đầu ngụp lên ngụp xuống để thở. Ando chưa bao giờ nghĩ sẽ nhìn thấy Miyashita trên một chiếc xe đạp. Vận động sức lực dù chỉ một chút cũng khiến anh ta thở hổn hển.


    “Nhanh thế.” Ando đã nghĩ anh sẽ phải chờ ít nhất là mười phút. Miyashita chưa bao giờ đến sớm vì bất cứ chuyện gì cả.


    Sau khi dựng xe bên vệ đường trước nhà ga, Miyashita vòng tay qua lưng Ando và dẫn anh vào một ngõ hẻm, trong đó dường như mọi ngôi nhà đều treo đèn lồng đỏ trên mái hiên. Nhịp thở của anh ta cuối cùng đã dịu xuống một chút, và khi họ đang đi, anh ta nói với Ando.


    “Tôi nghĩ tôi biết ‘mutation’ có nghĩa là gì rồi.”


    Điều đó giải thích tại sao Miyashita lại đi xe đạp đến. Anh ta nóng lòng muốn cho Ando biết.


    “Nghĩa là gì?”


    “Uống bia trước đã.”


    Khi họ ngồi xuống dưới mái hiên một cửa hàng, Ando để ý đó là cửa hàng Lưỡi Bò. Miyashita không bận tâm hỏi Ando muốn dùng gì, thay vì thế, ngay khi họ vào quán, anh ta gọi hai cốc bia tươi và món lưỡi bò ướp muối. Hình như Miyashita quen chủ quán. Họ chào nhau, tỏ vẻ quen biết khi Miyashita và Ando tiến đến hai ghế ở cuối quầy bar. Đó là chỗ ngồi yên tĩnh nhất trong quán.


    Đầu tiên Miyashita hỏi Ando đã làm gì để tìm ra mật mã được chèn vào trong virus của Ryuji. Ando lấy bản in trong cặp ra và bắt đầu giải thích những bước mình đã thực hiện. Miyashita gật đầu lia lịa. Trước khi Ando nói hết một nửa, Miyashita dường như đã bị thuyết phục bởi sự hợp lý trong phương pháp của anh.


    “Có vẻ như ‘mutation’ chính là câu trả lời. Bằng chứng về sự đúng đắn trong cách tiếp cận của cậu là nó chỉ cho một đáp án duy nhất.” Miyashita vỗ vai Ando. “Nhân thể tôi chắc là cậu đã nhận ra tất cả điều này tương đồng với cái gì?”


    “Ý cậu là sao?”


    Miyashita lấy trong túi áo một tờ giấy bị vò nhàu và giở ra. Trên giấy có vẽ cái gì đó. Cho dù là gì, thì nó cũng được vẽ rất thô sơ, chỉ để minh họa cho một ý tưởng chợt nảy ra.


    “Cậu thử nhìn xem” Miyashita nói, đưa tờ giấy cho Ando. Ando cầm lấy và trải ra trên quầy bar trước mặt.


    Anh hiểu ngay lập tức. Đó là hình minh họa chuỗi xoắn kép ADN trong một tế bào tự nhân đôi. Các chuỗi của chuỗi xoắn kép có tính bổ sung lẫn nhau: khi cấu trúc của một chuỗi được xác định, cấu trúc của chuỗi còn lại cũng được xác định một cách tự động. Khi một tế bào phân đôi, hai chuỗi tách ra, mỗi chuỗi sẽ tạo ra bản sao của thế hện sau đúng y như ban đầu. Quá trình sao chép một gen và truyền nó từ đời mẹ sang đời con có thể xem là cơ sở của ngành di truyền học.


    Tất nhiên điều này không có gì khó hiểu đối với Ando. “Thế thì sao?” anh hỏi.


    “Hãy nghĩ một chút về cơ chế đằng sau quá trình tiến hóa của các loài.”


    Sự tiến hóa còn rất nhiều điều mà người ta chưa biết. Ví dụ, quan điểm cơ bản trong học thuyết của Kinji Imanishi khác với các quan điểm trong học thuyết Darwin Mới, nhưng không thể xác định được một cách chắn chắn quan điểm của ai là đúng. Nói chung, học thuyết tiến hóa giống như phong trào “trăm hoa đua nở”; mọi người, dù có đủ tư cách hay không, đều tham gia tranh luận bằng những quan điểm rất kiên định. Nhưng cho dù không có bằng chứng thuyết phục để giải quyết vấn đề, Ando biết rằng những tiến bộ gần đây trong ngành sinh học phân tử đã tiến gần đến chứng minh được những sự đột biến bất thường về gen là động lực của sự tiến hóa.


    Do đó anh trả lời bằng cách nói với một chút tự tin, “Có lẽ nó bắt đầu từ đột biến gen.” Anh thấy có thể đoán được cuộc nói chuyện đang đi theo hướng nào.


    “Đúng thế. Đột biến là một phát súng thúc đẩy sự tiến hóa đi lên. Vậy, đột biến diễn ra như thế nào?” Miyashita làm một hớp bia thật dài, rồi lấy từ túi áo ngực ra chiếc bút bi. Trước khi Ando kịp trả lời câu hỏi, Miyashita lại viết lên trên hình minh họa. Lý do xảy ra sự đột biến. Ando cố nhìn vào hình phác họa bên dưới tay anh ta.


    “Có lỗi phát sinh trong mã gen – một tổn thương bất thường nào đó – và lỗi này được sao chép lại rồi truyền cho đời sau. Đấy gọi là đột biến. Cậu đồng ý không? Đây là quan điểm hiện hành về cơ chế đột biến.”


    Miyashita lấy bút chỉ vào hình vẽ để nhấn mạnh lập luận, nhưng chẳng cần giải thích điều này cho Ando. Có thể gây ra sự tổn thương gen một cách có chủ ý trong phòng xét nghiệm bằng cách dùng tia X hoặc phóng xạ cực tím. Nhưng thông thường, đột biến xảy ra ngẫu nhiên. Chuỗi ADN về lý thuyết sẽ được sao chép chính xác và truyền cho thế hệ tương lai, nhưng đôi khi bị đột biến do xảy ra lỗi trong quá trình sao chép, đại khái thế, và khi những đột biến này tích tụ đủ thông qua sự tái tạo, dần dần loài mới xuất hiện. Một đột biến có thể xem là một bước nhỏ trong quá trình tiến hóa.

    upload_2017-3-28_13-53-50.png



    Cậu còn nhớ sự tương đồng tôi đã nói không?” Miyashita thì thầm. Cuối cùng Ando cũng hiểu ra Miyashita đang nói điều gì. X giống Y. Giờ khi xem xét điều đó, quả là có sự giống nhau.


    “Cậu đang nói về chuyện sao chép những cuốn băng đúng không?” Cuối cùng Ando hỏi.


    “Cậu có nghĩ về cơ bản chúng giống nhau không?” Miyashita cho hai lát lưỡi bò vào miệng và nuốt ực bằng một ngụm bia.


    Ando lật tờ giấy lại, trải ra trên quầy, mượn chiếc bút của Miyashita và bắt đầu vẽ một sơ đồ. Anh cần xem xét lại các điểm tương đồng. Thậm chí đối với những điều mà anh nghĩ mình đã hiểu rất rõ, anh vẫn biết rằng vẽ mọi thứ lên giấy theo một sơ đồ thường sẽ hữu ích.


    Vào ngày 26 tháng Tám, một cuốn băng được tạo ra tại Villa Log Cabin. Vào ngày 29, bốn thanh niên đến thuê căn nhà gỗ đó đã xóa đi phần cuối cuốn băng – phần có nội dung, Bất cứ ai xem cuốn băng này, trong một tuần, phải sao cuốn băng ra một bản và đưa cho người khác xem. Những thanh niên kia đã ghi đè một đoạn quảng cáo lên phần cuối ấy. Đối với cuốn băng, điều này giống như một sự kiện ngẫu nhiên không biết trước được, đã phá vỡ chuỗi sắp xếp gen của nó, chuỗi các hình ảnh. Đã xảy ra một lỗi. Cuốn băng giờ có một lỗi, sau đó được Asakawa sao chép lại. Dĩ nhiên lỗi đó cũng được sao chép. Cho đến lúc ấy, quá trình này giống hệt như quá trình mà ADN sử dụng để tự sao chép. Không những thế, phần bị xóa của cuốn băng, phần thông điệp, đóng một vai trò thiết yếu đối với khả năng sinh sôi của cuốn băng. Nói về mặt di truyền, nó là gen điều hòa. Một cú sốc xảy ra với gen điều hòa có thể khiến sự đột biến xảy ra dễ dàng hơn. Liệu sự hư hại ở cuối đoạn băng có khiến cho cuốn băng bị đột biến?


    Ando dừng bút. “Khoan đã. Ở đây chúng ta không nói đến một sinh vật.”


    Miyashita không một chút bối rối. Như thể anh ta đã chuẩn bị câu trả lời từ trước.


    “Nếu có người bảo cậu định nghĩa sự sống, cậu trả lời thế nào?”


    Sự sống, theo quan niệm của Ando, về cơ bản được tóm lược thành hai điểm: khả năng một thực thể tự sinh sản. và nó có hình thể. Lấy ví dụ một tế bào, nó có ADN để giám sát quá trình tự sinh sản, có protein để tạo nên hình dáng bên ngoài. Nhưng một cuốn băng video? Chắc chắn nó có hình thể - là vỏ nhựa của nó, thường có màu đen và hình chữ nhật. Nhưng không thể nói rằng nó có khả năng tự sinh sản.


    “Một cuốn băng không có khả năng tự sinh sản.”


    “Thì sao?” Miyashita nghe như đã hết kiên nhẫn.


    “Thì cậu đang nói nó giống như một loại virus…”


    Ando muốn rên lên. Virus là một dạng sống kỳ lạ: chúng thiếu khả năng tự sinh sản. Cho nên chúng nằm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh. Điều mà virus có thể làm là chui vào trong tế bào của sinh vật khác và sử dụng chúng để giúp nó sinh sản. Giống như cuốn băng đang nói đến, nó bắt người xem phải trở thành nô lệ bằng cách đe dọa giết họ trừ phi họ sao chép nó. Cuốn băng sử dụng con người trong quá trình sao chép của nó.


    “Nhưng…” Ando cảm thấy buộc phải phản đối luận điểm này. Anh thậm chí còn không chắc mình muốn phản bác điều gì. Anh chỉ cảm thấy nếu không làm vậy, sẽ có thảm họa xảy ra.


    “Nhưng tất cả các bản sao của cuốn băng đã bị vô hiệu hóa.”


    Nói cách khác, sẽ không còn nguy hiểm nào nữa. Thậm chí nếu cuốn băng có sống được theo cách hạn chế như đời sống của một virus, thì giờ nó đã tuyệt chủng. Bốn cuốn băng đã được vào thế giới, giờ đã bị loại bỏ khỏi thế giới.


    “Cậu nói đúng. Cuốn băng bị tuyệt diệt. Nhưng đó là chủng cũ rồi.” Những giọt mồ hôi trên mặt Miyashita ngày càng lớn hơn theo những ngụm bia anh ta uống vào.


    “Ý cậu cũ là sao?” Ando hỏi.


    “Cuốn băng bị đột biến. Thông qua sự sao chép, nó tiến hóa cho đến khi một chủng mới xuất hiện. Nó vẫn còn ẩn náu ở đâu đó ngoài kia. Và nó mang một hình dạng mới. Dù gì thì đó là điều tôi nghĩ.”


    Ando chỉ có thể há hốc miệng nhìn. Cốc bia của anh đã cạn, nhưng giờ anh muốn một thứ gì mạnh hơn cả bia. Anh cố gọi rượu shochu pha đá, nhưng giọng anh ấp úng và anh không thể khiến cho người phục vụ nghe thấy. Miyashita gọi thay, anh ta giơ hai ngón tay và gọi lớn, “Shochu!” Hai cốc rượu được đặt trên quầy bar trước mặt họ, Ando ngay lập tức nâng lên và uống một ngụm hết một phần ba. Miyashita nhìn anh qua khóe mắt, rồi nói:


    “Nếu cuốn băng bị đột biến và tiến hóa thành một chủng mới trong quá trình sao chép, thì chủng cũ bị chết đi cũng chẳng ảnh hưởng gì đến chủng mới cả. Cứ nghĩ đi. Ryuji đã phải mất công can thiệp vào một chuỗi ADN để có thể giao tiếp với chúng ta từ bên kia thế giới. Tôi không thể nghĩ ra lời giải thích nào khác về việc tại sao anh ta lại gửi cho chúng ta từ ‘mutation’. Cậu có nghĩ ra không?”


    Tất nhiên là Ando không thể. Làm sao anh lại có thể chứ? Anh đưa ly rượu lên môi uống và uống, nhưng dường như mãi không say. Đầu óc anh minh mẫn một cách khó chịu.


    Có lẽ là đúng. Ando thấy mình đang dần ngả về quan điểm của Miyashita. Có lẽ Ryuji dùng từ “mutation” với ý cảnh báo. Ando có thể nhìn thấy khuôn mặt của Ryuji khi anh ta cười nhạo, Cậu nghĩ mình đã an toàn. Cậu cho là virus đã tuyệt chủng. Nhưng cậu không thoát khỏi chuyện này dễ dàng thế đâu. Nó đã đột biến, và một phiên bản mới đang xuất hiện.


    Ando nhớ đến virus bệnh AIDS. Người ta cho rằng cách đây vài trăm năm, một loại virus thời tiền sử đã đột biến và trở thành virus bệnh AIDS như ta biết đến ngày nay. Loại virus trước đó không lây nhiễm sang người và có lẽ hoàn toàn vô hại. Nhưng thông qua đột biến, nó có sức mạnh tàn phá hệ miễn dịch của con người. Nếu điều đó cũng xảy ra với cuốn băng? Ando chỉ có thể cầu nguyện cho điều ngược lại xảy ra, rằng cái thứ tai hại kia đã trở nên vô hại. Nhưng thực tế lại gợi ý điều trái ngược khác. Trái ngược với vô hại, cuốn băng bị đột biến đã chuyển thành một thứ giết chết bất kỳ ai xem nó, cho dù họ có sao chép nó hay không. Nếu đó là dấu hiệu, sự việc đang trở nên ghê gớm hơn. Và vì Ando không thể đưa ra kết luận gì về sự biến mất của Mai, chỉ còn Asakawa là người duy nhất còn sống.


    “Tại sao Asakawa còn sống?” Ando hỏi Miyashita đúng câu hỏi mà anh đã hỏi anh ta ngày hôm trước.


    “Đó chính là vấn đề, đúng không? Anh ta là đầu mối duy nhất để biết cuốn băng biến đổi thành cái gì.”


    “À, thực ra là… còn một người khác nữa.”


    Ando kể vắn tắt cho Miyashita về Mai: vì sao cuốn băng đến được với cô qua Ryuji, rằng có bằng chứng cô đã xem nó, và cô đã mất tích gần ba tuần như thế nào.


    “Nghĩa là có hai người đã xem cuốn băng và vẫn còn sống.”


    “Asakawa vẫn còn sống, dù chỉ là hình thức. Tôi không chắc về Mai.”


    “Tôi hy vọng cô ấy còn sống.”


    “Tại sao?”


    “À, tại sao không. Có hai đầu mối thì tốt hơn là có một.”


    Anh ta có lý. Nếu Mai còn sống, họ có thể tìm ra được điểm chung giữa cô và Asakawa. Điều đó có lẽ sẽ cho họ câu trả lời. Nhưng về phần mình, Ando chỉ hy vọng cô vẫn an toàn.
     
  12. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Phần 4: Tiến Triển

    Chương 1


    Chiều thứ Hai, ngày 26 tháng Mười một


    Ando kết thúc ca mổ cho một cậu bé bị chết đuối trên sông, và giờ anh đang điền vào bản báo cáo trong khi nghe cha cậu bé giải thích sự việc.


    Ando cố tìm hiểu ngày sinh và những việc cậu bé làm vào hôm xảy ra tai nạn, nhưng câu trả lời của người đàn ông mơ hồ và lộn xộn, khiến công việc của Ando trở nên khó khăn. Đôi khi người cha nhìn ra ngoài cửa sổ khi cuộc trao đổi trùng xuống, đôi lúc Ando lại bắt gặp ông ta ngáp. Ông ta trông kiệt sức và uể oải, Ando muốn kết thúc càng nhanh càng tốt để giải phóng cho người đàn ông.


    Lúc ấy, phòng Giám định Pháp y đột nhiên rúng động. Họ vừa được cảnh sát báo cho biết một thi thể nữa đang được mang đến, là thi thể của một người phụ nữ chưa xác định được danh tính. Lúc này, mọi người cùng chuẩn bị tiếp nhận tử thi để mổ. Bác sĩ Nakayama, một đồng nghiệp lớn tuổi hơn Ando, sẽ được giao ca mổ này. Cảnh sát cho biết cô gái được phát hiện trong một khoang thông gió trên sân thượng một toà nhà văn phòng. Điều này có nghĩa kíp mổ phải thực hiện hai ca mổ liên tiếp nhau, vì vậy những người trợ lí và cảnh sát đang chạy ra chạy vào để chuẩn bị.


    "Thi thể đã được mang đến, thưa bác sĩ"


    Giọng của người trợ lý mổ vọng ra. Ando vô tình giật mình và nhìn về phía âm thanh đó phát ra. Viên trợ lý tên là Ikeda đang đứng nơi cánh cửa khép hờ, mặt hướng về Nakayama. Tuy nhiên không hiểu sao Ando có cảm giác như thê chính anh là người được gọi vào.


    "Được rồi," Nakayama nói, từ từ đúng lên. "Cậu chuẩn bị xong hết rồi chứ?" Nakayama vào làm việc tại phòng Giám định Pháp y sớm hơn Ando hai năm, anh ta là người của khoa Pháp y, Trường Y Đại học Joji.


    Người trợ lý biến mất, một cảnh sát xuất hiện ngay chỗ anh ta và tiến đến Nakayama. Sau vài lời chào hỏi, viên cảnh sát kéo ghế ra ngồi cạnh Nakayama.


    Ando quay lại với công việc của mình. Nhưng anh có thể nghe lén cuộc trò chuyện giữa người cảnh sát với Nakayama từ phía sau lưng, cuộc nói chuyện khiến anh quan tâm. Anh chỉ nghe loáng thoáng, câu được câu mất. Viên cảnh sát dường như đang giải thích tình huống mà người ta tìm thấy thi thể.


    Ando dừng ghi chép và nghe ngóng. Những tiếng "chưa xác định được danh tính" và "phụ nữ trẻ" cứ lặp đi lặp lại.


    Nakayama hỏi " Nhưng tại sao cô ta lại lên sân thượng?"


    "Chúng tôi không biết tại sao cô ta lên đó. Có lẽ cô ta định tự tử."


    "Có thư từ gì để lại không?"


    "Chúng tôi chưa tìm thấy gì."


    "Tôi nghĩ, khi ở trong một khoang thông gió, sẽ không có ai nghe tiếng cô ta kêu cứu cả."


    "Đây không phải là khu dân cư."


    "Thế ở đâu?"


    "Đông Oi, quận Shinagawa. Đó là một toà nhà cũ mười bốn tầng dọc theo đường Shore."


    Ando sửng sốt ngước lên. Anh nhớ lại cảnh nhìn thấy từ trên đường tàu Keihin Express. Phía bên kia khu dân cư, anh có thể thấy đường Shore chạy qua một khu vực, dọc hai bên đường là những nhà kho và toà nhà văn phòng. Chỉ cách căn hộ của Mai một quãng ngắn. Một phụ nữ trẻ chưa xác định rõ danh tính, trên mái toà nhà ở đường Shore.


    "Tôi nghĩ thế là đủ rồi. Nếu cần hỏi gì thêm tôi sẽ gọi điện cho ông." Ando cảm ơn người cha của cậu bé và kết thúc công việc anh đang làm. Anh quá quan tâm đến cuộc trao đổi phía sau lưng, nên không thể làm nốt bản báo cáo ngay bây giờ được. Vẫn còn một vài diều anh biết là cần phải làm rõ, nhưng anh quyết định sẽ thực hiện sau.


    Ando bỏ các giấy tờ vào một ngăn hồ sơ rồi đứng dậy. Nakayam và viên cảnh sát đứng lên cùng một lúc. Ando bước lại và vỗ nhẹ lên vai Nakayam. Ando biết người cảnh sát này, anh hơi cúi đầu chào, rồi nói. "Người phụ nữ các anh sắp mổ, danh tính của cô ấy chưa xác định được đúng không?"


    Ba người rời văn phòngm bước xuống hành lang đến phòng mổ.


    Viên cảnh sát trả lời Ando. "Đúng thế. Cô ta không mang theo gì bên người giúp chúng tôi xác định cả."


    "Cô ấy bao nhiêu tuổi?"


    "Cô ta còn trẻ, khoảng hai mươi tuổi gì đấy. Cô ta khá xinh đẹp, nếu còn sống."


    Khoảng hai mươi tuổi gì đấy. Mai hai mươi hai tuổi, nhưng trông cô như đoá hoa chưa đến hai mươi. Ando có thể cảm thấy mình bắt đầu ngạt thở.


    "Có đặc điểm gì nổi bật không?"


    Anh sẽ biết ngay nếu anh nhìn thấy thi thể. Nhưng trước hết anh cần chuẩn bị. Tất nhiên là anh muốn nghe một điều gì để chứng minh rằng: đó không phải là cô. Rồi anh có thể đi mà không cần vào xem.


    "Có chuyện gì thế, bác sĩ Ando?" Nakayama nhe răng cười "Biết được cô ta là gái đẹp khiến cậu hứng thú hơn à?"


    "Không, không phải thế." Ando nói, không muốn hùa theo. "Chỉ là có vài điều khiến tôi băn khoăn." Nhìn vẻ mặt của anh, Nakayama nhanh chóng thôi ngay nụ cười châm chọc.


    "Anh đã nhắc đến thì tôi cũng nói luôn. Bác sĩ Nakayama cũng nên biết. Có điều gì đó kỳ lạ về cô gái này."


    "Là gì thế?"


    "Cô ta không mang đồ lót."


    "Thật sao? Đồ lót trên hay dưới?"


    "Cô ta có mang áo ngực, nhưng không mang quần lót."


    "Quần áo của cô ấy có bị xộc xệch lúc được phát hiện không?"


    Cả Ando và Nakayama đang nghĩ giống nhau: có lẽ cô gái bị hiếp dâm ở trên sân thượng, và sau đó bị ném vào khoang thông gió.


    "Quần áo cô ta không bị rách nhàu, và ít nhất qua quan sát bằng mắt thường, không có dấu hiệu bị hiếp dâm."


    "Cô ta mặc đồ gì?"


    "Một chiếc áo chui đầu dày, tất dài, áo cánh. Trang phục bình thường. Thậm chí có thể nói là bảo thủ."


    Nhưng cô ta không mặc quần lót. Vào tháng Mười một, cô gái mặc váy nhưng không mặc quần lót. Liệu điều đó đối với cô ta có phải là bình thường hay không?


    "Xin lỗi nhưng không rõ lắm ý khi anh nói rằng cô ấy được tìm thấy trong một khoang thông gió trên sân thượng," Ando không tưởng tượng ra được hiện trường.


    "Chúng tôi đang nói về một khoang thông gió sâu ba mét và rộng một mét, bên cạnh phòng máy, trên sân thượng. Thường nó được che lưới, nhưng lưới bị rách một phần."


    "Đủ để cô ấy rơi xuống."


    "Có lẽ thế."


    "Đó có phải là chỗ mà ta có thể bị trượt chân và rơi xuống không?"


    "Không đâu. Thậm chí đến được gần chỗ ấy cũng không dễ. Trước hết, cửa hành lang dẫn đến thang máy chạy lên sân thượng bị khoá."


    "Làm sau cô ấy vào được đó?"


    "Có một cái thang nối lên sân thượng từ cửa trên lối thoát hiểm. Thang được xây liền bên ngoài bức tường. Chúng tôi nghĩ cô gái lên bằng đường này. Đó là cách duy nhât để cô ta có thể lên được sân thượng."


    Ando không hiểu cô gái có thể làm gì ở trên đấy.


    "Nói về chuyện đồ lót. Anh có nghĩ rằng cô gái đã cố ý cởi nó ra, khi ở trong khoang thông gió?" Cái khoang sâu ba mét. Nếu ngã xuống, cô gái sẽ bị thương. Có lẽ cô ta cởi quần lót dùng để băng vết thương. Hoặc có lẽ cô nghĩ có thể dùng nó bằng cách nào đó để người ta giúp cô thoát ra.


    "Chúng tôi đã tìm. Trong khoang, và cả trên mái nhà. Và sau đó, để cho chắc chắn, chúng tôi đã kiểm tra trong phạm vi của toà nhà nữa."


    "Tại sao lại phạm vi toà nhà?" Nakayama xem vào.


    "Tôi nghĩ có lẽ cô ta quấn chúng quanh một mảnh kim loại hoặc cái gì đấy rồi ném ra ngoài. Ở trong cái khoang, không có cơ hội nào để ai đó có thể nghe tiếng kêu cứu của cô ta. Cách duy nhất để người bên ngoài biết được cô ta ở đâu là ném một cái gì xuống để gây chú ý cho mọi người. Nhưng điều này hóa ra lại là bất khả."


    "Tại sao lại thế?"


    "Từ đáy khoang, không cách nào cô ta có thể ném cái gì qua khỏi hàng rào sân thượng."


    Nghĩ rằng có liên quan đến góc ném, Ando không hỏi về điểm này thêm nữa.


    "Vậy là, giả định hiển nhiên nhất là cô ấy không mang đồ lót khi ra khỏi nhà."


    "Lúc này, đó là lời giải thích duy nhất mà chúng tôi có thể nghĩ ra."


    Họ dừng lại trước phòng mổ.


    "Anh muốn tham gia với tôi không, bác sĩ Ando?" Nakayama hỏi.


    "Có lẽ chỉ một lúc thôi." Câu trả lời khá thành thật. Nếu không phải là Mai, anh sẽ thở phào nhẽ nhõm và đi ra. Nếu là cô… có lẽ anh cũng sẽ đi, để mặc việc mổ tử thi cho Nakayama. Dù gì thì việc cần làm bây giờ là kiểm tra xem có phải là cô không.


    Bên kia cánh cửa, anh có thể nghe nước từ vòi chảy túa ra như vẫn vậy. Khi Ando cố lắng nghe những âm thanh khác, mong muốn bỏ chạy chiếm lấy anh. Dạ dày anh sôi lên, chân tay run rẩy. Anh cầu nguyện rằng không phải là cô. Đấy là điều duy nhất anh có thể làm.


    Trước khi Ando thực sự sẵn sàng, Nakayama đã mở cửa và đi vào phòng mổ. Viên cảnh sát bước theo sau. Ando không bước vào, mà chỉ qua khung cửa mở nhìn chằm chằm thi thể tái xanh, trần truồng trên bàn mổ.
     
  13. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 2



    Anh đã lén nghi ngờ rằng, ngày đó sẽ đến, nhưng nhìn cận cảnh thi thể người phụ nữ trẻ ấy anh có cảm giác ớn lạnh chết người chạy suốt cơ thể. Cuối cùng Ando cũng tiến đến bàn mổ, đứng sau Nakayama và viên cảnh sát. Anh nhìn vào khuôn mặt người chết từ mọi góc độ, mà vẫn không muốn nhận ra nó. Trên phần tóc sau đầu cô gái có vết bùn đã khô và cứng. Mắt cá chân bị trẹo một cách bất thường. Anh nghĩ là mắt cá chân bị vỡ, hoặc ít nhất là bị bong. Không có dấu hiệu cho thấy cô bị bóp cổ. Thực tế, không hề có một vết thương ngoài nào. Thi thể đã đến độ cứng đờ. Từ lúc chết đến giờ đã hơn chín mươi tiếng đồng hồ.


    Ando biết khi còn sống, cô có sắc da khoẻ mạnh. Đã biết bao lần anh tưởng tượng đang ôm cô và cảm nhận làn da cô chạm vào da mình? Anh không bao giờ có cơ hội nữa. Giờ chỉ còn là một thi thể đông cứng đã bị huỷ hoại. Cô gái mà anh từng có ý định yêu đương giờ đang nằm phơi trần nghiệt ngã trên bàn. Ando không thể chịu đựng được thực tế này, nỗi tức giận trào lên trong anh.


    "Chết tiệt," anh thở dài. Nakayam và viên cảnh sát đồng thời quay sang nhìn anh.


    Viên cảnh sát không giấu nổi vẻ sửng sốt. "Anh biết cô ta à?" Ando thoáng gật đầu.


    "Tôi rất tiếc," Nakayam lầm bầm, không thể biết chính xác mức độ gần gũi giữa Ando và cô gái.


    Viên cảnh sát nói tiếp, thật chậm và có chú ý. "Anh có thể cho tôi biết phải liên lạc với ai không?" Đằng sau giọng lịch sự đó, Ando có thể nhận thấy dấu hiệu kỳ vọng. Nếu anh biết cô là ai, thì việc này sẽ giúp cảnh sát khỏi nhọc công xác định danh tính của cô.


    Ando không nói gì, lấy cuốn sổ ghi chép của anh và giở ra. Anh chắc chắn đã viết số điện thoại của bố mẹ cô trong ấy. Anh tìm thấy số, viết lên một trang giấy khác, rồi đưa ra. Viên cảnh sát đọc lại cho Ando nghe.


    "Anh có chắc chắn không?" Giọng anh ta gần như khúm núm.


    "Tôi chắc chắn. Đó là Mai Takano."


    Viên cảnh sát chạy vội ra khỏi phòng để gọi điện thoại cho bố mẹ Mai và thông báo với họ về cái chết của cô. Ando tưởng tượng ra cảnh diễn ra ở nhà họ: điện thoại đổ chuông, mẹ cô nhấc máy lên, một giọng nói phô trương từ phía đầu dây bên kia, tự xưng là viên chức này nọ từ sở cảnh sát, rồi Con gái bà đã chết…Ando rùng mình. Anh cảm thấy xót xa cho bà mẹ sắp phải trải qua giây phút ấy. Bà sẽ không ngã quỵ xuống, bà sẽ không khóc oà lên. Thế giới xung quanh bà chỉ lùi xa dần.


    Anh không thể chịu đựng được việc ở trong phòng mổ lâu hơn nữa. Khi lưỡi dao mổ luồn vào thi thể cô, không khí sẽ ngập mùi tồi tệ hơn rất nhiều so với thứ mùi đang chào đón họ. Và khi thành nội tạng được cắt ra để kiểm tra các chất trong dạ dày và ruột non, thì mùi hôi thối sẽ trở nên cực kỳ khủng khiếp. Ando biết rõ khứu giác có thể lưu lại sự khủng khiếp đến mức nào, và anh không muốn ngửi thấy mùi này. Anh biết rõ đó là định mệnh của mọi sinh vật, cho dù có thuần khiết và xinh đẹp đến nhường nào, thì cuối cùng cũng để lại mùi hôi thối không thể chịu nổi. Nhưng chỉ lần này, anh không muốn bày tỏ tình cảm uỷ mị. Anh muốn giữ cho ký ức của anh về Mai khỏi bị dơ dáy bởi mùi đó.


    Anh nói nhỏ vào tai Nakayama, "Tôi phải đi rồi."


    Nakayama nhìn anh nghi hoặc. "Rốt cuộc thì cậu không muốn tham gia?"


    "Tôi còn vài việc cần hoàn tất ở phòng thí nghiệm. Nhưng tôi muốn nghe chi tiết sau đấy."


    "Hiểu rồi."


    Ando đặt tay lên vai Nakayama và lại thì thầm với anh ta. "Chú ý đến động mạch vành. Hãy chắc chắn là anh lấy mẫu mô ở đó."


    Nakayama bối rối vì Ando đã có giả thiết về nguyên nhân cái chết. "Cô ấy bị chứng đau thắt ngực sao?"


    Ando không trả lời. Thay vì thế, anh bóp vai Nakayama, vẻ mặt cảnh báo đừng hỏi tại sao, rồi nói, "Cứ làm như thế, được chứ."


    Nakayama gật gật đầu.
     
  14. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 3


    Quay trở lại văn phòng, Ando kéo một chiếc ghế ra khỏi bàn cạnh bàn Nakayama rồi ngồi xoay lại, tay ôm lưng ghế. Anh ngồi như thể để chờ Nakayama hoàn thành nốt mấy thứ giấy tờ của anh ta.


    "Trông cậu có vẻ lo lắng," Nakayama nói, ngước lên khỏi bản báo cáo đang viết dở.


    "Đại khái thế."


    "Có muốn xem báo cáo mổ tử thi không?" Nakayama chỉ vào tập hồ sơ trước mặt Ando.


    "Không. Tôi chỉ cần nghe tóm tắt thôi."


    Nakayama nhìn vào mặt Ando.


    "Thế thì tôi nói vào điểm chính luôn. Nguyên nhân cái chết không phải là do suy tim gây ra bởi nghẽn động mạch vành."


    Vậy giả thiết mà Ando nói với Nakayama trước khi mổ là sai. Ando yên lặng một lúc, không biết lý giải điều này thế nào. Vậy là Mai không xem cuốn băng? Có lẽ, khối u chưa đủ lớn để làm nghẽn dòng máu.


    Anh quyết định cần phải tìm hiểu rõ hơn. "Thế không có khối u nào trong động mạch vành sao?"


    "Tôi không thấy khối u nào cả?"


    "Anh có chắc chắn không?"


    "À, tôi sẽ phải chờ cho đến khi có kết quả xét nghiệm mẫu mô trước khi có thể nói chắc chắn."


    Lúc này, cái khối u báo hiệu đó dường như không có trong động mạch của Mai.


    "Vậy thì cái gì đã giết chết cô ấy?"


    "Có lẽ là vì lạnh. Cô ấy đã ở trong tình trạng kiệt sức."


    "Còn các chấn thương?"


    "Mắt cá chân trái của cô ấy bị vỡ, và có vết xước ở cả hai khuỷu tay. Rất nhiều khả năng cô ấy bị thế khi rơi xuống. Trong các vết thương có vài mẩu vụn của sân bê tông."


    Vậy là cô rơi xuống, chân chạm nền trước, mắt cá bị vỡ, và không thể ra khỏi chỗ đó. Cái khoang rộng khoảng một mét và sâu ba mét, quá sâu khiến cô không thoát được ra ngoài. Cô đã bị mắt kẹt ở đó, chỉ có nước mưa làm cô thoát khỏi khát. Cho dù như thế, cô sẽ chỉ sống thêm được vài ngày.


    "Tôi không biết cô ấy sống được bao lâu trong đó." Đấy không thực sự là một câu hỏi. Anh chỉ nghĩ trong đầu và buột miệng nói ra khi tưởng tượng nỗi sợ hãi và tuyệt vọng của cô lúc ở một mình dưới đáy một cái hố trên sân thượng.


    "Tôi đoán khoảng mười ngày." Dạ dày và ruột cô trống rỗng, lớp mỡ dưới da gần như đã tiêu hết.


    "Mười ngày." Ando mở cuốn sổ của anh ra. Cứ cho rằng cô sống được mười ngày trong cái khoang thông gió, và thêm năm ngày nữa thi thể của cô mới được phát hiện, thì cô mất tích vào khoảng ngày mười tháng Mười một. Ngày Ando hẹn cô là mồng chín; việc cô không trả lời điện thoại cả ngày hôm đó đã đẩy ngày mất tích của cô lùi xa đến chừng ấy. Thực tế, hộp thư của cô có những số báo của ngày mồng tám. Nghĩa là có chuyện gì đó đã xảy đến với cô vào ngày mồng tám hoặc mồng chín khiến cô rời khỏi nhà.


    Ando đánh dấu hai ngày này vào lịch.


    Điều gì đó đã xảy ra với cô vào khoảng từ ngày tám đến ngày mười tháng Mười một.


    Anh cố tưởng tưởng ra chính mình ở chỗ ấy. Khi người ta tìm thấy cô, cô chỉ mặc váy và tấm áo nỉ. Cách ăn mặc ấy gợi ý rằng cô chỉ đi ra ngoài một lúc, có lẽ để hít khí trời. Nhưng thật lạ là cô không mặc quần lót.


    Anh nhớ lại những điều cảm thấy khi anh đến căn hộ của cô. Mọi thứ vẫn rõ ràng trong đầu anh. Hôm ấy ngày 15 tháng Mười một. Nếu tin vào kết quả mổ pháp y, thì vào thời điểm đó cô đã rơi vào cái khoang trên sân thượng, và đang chờ đợi được cứu ra. Nói cách khác, cô đã ra khỏi nhà mấy ngày rồi. Nhưng, Ando chắc chắn anh đã cảm nhận được điều gì đó trong căn nhà của cô. Đáng lẽ bị bỏ trống, nhưng anh chắc chắn có cái gì đó biết thở.


    "Ồ, và…" Nakayama nói, giơ ngón tay trỏ lên như thể vừa nhớ ra một điều gì quan trọng.


    "Cái gì?"


    "Anh khá thân thiết với cô ấy phải không, bác sĩ Ando?"


    "Không phải thân thiết. Tôi chỉ mới gặp cô ấy hai lần."


    "Ồ. Lần cuối anh gặp cô ấy là bao giờ?"


    "Cuối tháng trước, chắc là thế."


    "Nghĩa là khoảng ba tuần trước khi cô ấy chết." Nakayama như đang ngần ngừ một điều gì quan trọng. Ando nhìn vị đồng nghiệp đàn anh, cái nhìn chằm chằm như muốn nói, Thôi nào, nói đi.


    "Cô ấy mang thai, đúng không?" Nakayama cuối cùng thốt ra. Trong một lúc, Ando không chắc anh ta nói gì.


    "Ai mang thai?" anh nói.


    "Tất nhiên là Mai." Nakayama vẫn chăm chú quan sát phản ứng bối rối của Ando. "Cậu không biết sao?"


    Ando không trả lời.


    "Cậu không định nói với tôi rằng đã bỏ qua dấu hiệu rõ ràng của một phụ nữ gần đến kỳ sinh nở chứ."


    "Gần đến kỳ sinh nở?"


    Ando chỉ có thể lặp lại lời của Nakayama như một con vẹt. Anh nhìn lên trần và cố nhớ lại chính xác những đường nét trên thân hình Mai. Anh gặp cô một lần trong bộ đồ tang và một lần trong chiếc váy sáng màu. Cả hai bộ trang phục đều bó sát eo và hông, để lọ những đường nét thon thả. Vòng eo thắt đáy lưng ong là một trong những nét quyến rũ nhất của cô. Nhưng không chỉ có thế. Ando cảm nhận được ở cô điều gì thật trinh khiết. Và giờ Nakayama đang cố nói với anh rằng cô ấy mang thai sao? Thậm chí là gần đến kỳ sinh nở?


    Không phải anh đã quan sát cô kỹ lưỡng đến mức như thế. Thực sự, anh càng nghĩ về cô, thì hình ảnh của cô càng trở nên mờ dần. Ký ức của anh mờ mịt. Nhưng không, không thể như thế được. Không thể nào cô đã mang thai chín tháng. Bằng chứng là chính mắt anh đã thấy thi thể cô. Bụng cô quá hóp đến mức gần như chạm vào cột sống.


    "Cô ấy không thể nào gần đến đế kỳ sinh nở được."


    "Tuy nhiên một số phụ nữ lại như thế. Bụng họ không lớn lắm, thậm chí ở ba tháng cuối."


    "Tuy nhiên, vấn đề không phải là bụng to hay nhỏ. Chính tôi dã nhìn thấy thi thể cô ấy."


    "Cậu hiểu nhầm rồi." Nakayam xua tay nói. Rồi anh ta dàn bằng chứng ra trước mặt Ando.


    "Tử cung mở khá lớn và cô ấy có vết thương nơi nhau thai bị đứt. Âm đạo đầy những chất tiết màu nâu. Và ở phía trong âm đạo, tôi phát hiện có những mẩu thịt nhỏ mà tôi tin là của dây rốn."


    Anh bị mất trí rồi, Ando nghĩ. Nhưng anh không thể tưởng tượng một bác sĩ mổ pháp y nhiều kinh nghiệm như Nakayama lại gặp một lỗi sơ đẳng như thế. Ba mẫu chứng cứ hiện diện nơi thi thể Mai chỉ có thể dẫn đến một kết luận: cô đã sinh không lâu trước khi rơi vào khoang thông gió.


    Giả sử việc sinh đẻ của cô là có thật, điều đó có giải thích được cho hành động của cô không? Có lẽ, vào khoảng ngày mồng bảy, cô đã đau đẻ, rồi đến chỗ một bác sĩ sản khoa. Cô đã sinh, nằm năm hoặc sáu ngày trong bệnh viện, rồi làm thủ tục ra viện ngày mười hai hoặc mười ba gì đấy. Có lẽ đứa trẻ chết trong lúc sinh. Trong cơn đau đớn, người mẹ đã đi lang thang cho đến khi thấy mình đứng trên sân thượng một toà nhà, ở đấy cô rơi vào một cái khoang thông gió. Cô sống trong đó được mười ngày. Rồi sáng hôm nay, thi thể của cô được người ta phát hiện ra.


    Xét về thời gian, giả thiết đó chấp nhận được. Việc sinh đẻ là lời giải thích hợp lý cho sự biến mất của cô. Và đương nhiên cô hoàn toàn giữ kín chuyện này, không cho mẹ mình biết.


    Nhưng Ando không chấp nhận. Thậm chí cứ cho là thể tạng mỗi người khác nhau, bỏ qua việc trông bề ngoài cô không giống người mang thai, thì anh vẫn không thể quên ấn tượng lần họ gặp nhau đầu tiên.


    Lần đầu tiên anh nhìn thấy Mai là ngày tại văn phòng này. Ngay trước khi anh mổ cho Ryuji, cô được một viên thanh tra hộ tống đên, người này muốn cô kể cho Ando nghe toàn bộ những gì cô biết về hoàn cảnh cái chết của Ryuji. Cô đã cố ngồi xuống, rồi mất thăng bằng và lấy tay dựa lên chiếc bàn bên cạnh. Nhìn qua, Ando biết rằng cô bị thiếu máu. Anh đã nhận ra vẻ thiếu máu nơi cô và suy luận rằng đó là do cô đang ở kỳ kinh nguyệt. Kết luận của anh được củng cố bằng nét mặt ngại ngùng khi cô nói: "Xin lỗi, chỉ là tô…" Ánh mắt của họ đã nhìn nhau, và giữa họ đã có một thoáng giao tiếp không lời.

    Xin đừng lo lắng. Chỉ là chuyện hàng tháng thôi.



    Đã hiểu.


    Mai đã dùng ánh mắt để thông tin cho anh biết, không muốn làm cho tình huống trở nên quan trọng hóa. Ký ức về việc làm thế nào cô tỏ rõ ý được mà không dùng lời vẫn còn rõ ràng một cách lạ lùng đối với Ando. Anh đã thực hiện cuộc phẫu thuật pháp y cho Ryuji vào ngày hai mốt tháng trước. Thế nghĩa là Mai, vốn được cho là đã sinh nở, đã có kinh chưa đầy một tháng trước khi sinh nở. Tất nhiên chuyện này là không thể.


    Có lẽ mình hiểu nhầm mọi chuyện. Từ đó đến giò mình cứ nghĩ đã có sự trao đổi ngầm giữa mình với cô ấy, nhưng có lẽ mình chỉ tưởng bở. Có lẽ mình đã hoàn toàn sai lâm. Nhưng càng nghĩ về chuyện sinh đẻ, anh lại càng không thể tin được. Anh đã tự tin là hiểu được ý của cô.


    Tuy nhiên, sự thực mà cuộc mổ pháp y hé lộ ra hoàn toàn trái ngược với nhìn nhận của anh đối với vấn đề.


    Ando đứng dậy nói, chỉ vào báo cáo mổ pháp y, "Anh có phiền nếu tôi sao một bản không?" Anh muốn đem về nhà và đọc cẩn thận.


    Nakayama đưa tập giấy tờ cho anh. "Cứ tự nhiên."


    "Ồ, còn một điều nữa," Ando nói thêm. "Anh đã lấy máu chứ?"


    "Tất nhiên."


    "Tôi có thể có một chút mẫu máu được không?"


    "Một chút à, chắc chắn rồi."


    Ando nhận ra rằng anh phải lập tức xác nhận xem liệu cô có mang virus giồng virus bện đậu mùa không. Nếu anh tìm thấy loại virus ấy trong máu cô, thì đó là bằng chứng cô đã xem cuốn băng. Anh cần xác định xem liệu thảm họa đã xảy đến với cô có nguồn gốc từ cuốn băng kia hay đó là kết quả của một điều gì hoàn toàn không liên quan. Lúc này, tất cả những gì anh có thể làm là góp nhặt dữ liệu, tưmg chút một. Nếu anh có thể làm rõ vai trò của cuốn băng trong chuyện này, có lẽ anh sẽ tiến thêm một bước gần hơn đến việc giải quyết bí ẩn của từ "mutation".
     
  15. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 4



    Ngay sau khi nhìn thấy thi thể Mai, Ando được thông báo về cái chết của Kazuyuki Asakawa. Khi tình trạng của Asakawa trở nên xấu đi, anh ta được chuyển từ Bệnh viện Shinagawa Saisei đến Bệnh viện Đại học Shuwa, nhưng anh ta đã chết gần như ngay lập tức. Ando được thông báo về sự thay đổi tình trạng của Asakawa, nhưng anh không tưởng tượng bệnh nhân này lại ra đi nhanh chóng thế. Theo bác sĩ chăm sóc, cái chết là do bị nhiễm khuẩn, và bệnh nhân đã ra đi thanh thản, như là do tuổi già. Asakawa không bao giờ tỉnh lại sau vụ tai nạn.


    Ando đến Bệnh viện Shuwa và dặn các bác sĩ được giao ca mổ tử thi để tâm đến một vài thứ trong qua trình mổ: một khối u làm nghẽn động mạch vành, một loại virus giống virus bệnh đậu mùa có trong khối u. Ando hiểu những điểm này có vai trò thiết yếu trong việc dự báo tương lai. Sau khi chắc chắn rằng các bác sĩ mổ hiểu được tầm quan trọng của tình huống, anh mới ra về.


    Khi quay lại nhà ga, anh lại cảm thấy thất vọng vì Asakawa không bao giờ tỉnh lại. Anh ta có những thông tin cốt yếu, vậy mà anh ta đã chết và không chia sẻ thông tin đó cho một ai. Nếu như Ando biết điều mà Asakawa biết, hẳn anh sẽ phải rõ hơn nên dự tính điều gì. Giờ tương lai đang mờ mịt đến phát rồ. Và Ando không biết phải chuẩn bị cho cái gì.


    Ngay giờ đây, điều lớn nhất mà Ando lo lắng là liệu cái chết của Asakawa là do vận rủi hay là môt kết quả tất yếu. Câu hỏi này, tương tự, cũng dành cho trường hợp của Mai. Cả hai người sau khi gặp tai nạn đã lụi dần rồi chết - với Asakawa là tai nạn giao thông, còn Mai là do bị ngã. Cái chết của họ dường như có điều gì giống nhau. Nhưng Ando không sao biết được, nó có liên quan gì đến việc họ đã xem cuốn băng không.


    Khi đang đi, đột nhiên anh nhận ra rằng tòa nhà nơi thi thể Mai được tìm thấy cách không xa bệnh viện mà anh vừa rời khỏi. Anh thắc mắc tại sao cô lại chọn leo lên sân thượng của một toà nhà văn phòng cũ nát; giờ anh có cơ hội xem qua và có lẽ sẽ hiểu ra. Anh cần đến đó ngay, trước khi bất cứ bằng chứng nào mất đi.


    Anh quyết định quay lại phố Nakahara và bắt một chiếc taxi. Anh sẽ đến đó trong mười phút nữa.


    Sau khi dừng lại một lần để mua hoa, Ando bảo taxi cho anh xuống trước nhà kho của một công ty vận tải. Tất cả những gì anh nghe được tại phòng Giám định Pháp y là tên công ty và lời chỉ dẫn rằng toà nhà nằm ở phía Nam nhà kho; anh không biết tên toà nhà là gì.


    Đứng bên vệ đường, anh nhìn một ngôi nhà ở hướng nam. Không thể nào nhầm với căn nhà khác được. Đó là toà nhà mười bốn tâng, có cầu thang hình xoắn ốc phía chạy dọc lên ở khoảng không giữa bức tường ngoài của toà nhà với nhà kho.


    Ando đi đến cửa trước toà nhà rồi dừng lại. Anh đi vòng ra chỗ cầu thang bên ngoài. Anh cố nghĩ xem làm thế nào Mai lên được trên kia. Cô có thể đã dùng thang máy để lên tầng mười bốn, đi ra cửa thoát hiểm ở đó, rồi leo thang lên sân thượng, hoặc có thể cô đã dùng cầu thang thoát hiểm nối từ mặt đường lên tận chiếc thang lên sân thượng. Có lẽ vào ban đêm người ta khoá sập cửa ở trước, do đó cô phải vào qua lối đi dành cho thợ bảo dưỡng, vốn được bảo vệ nghiêm ngặt. Và nếu quá muộn, thì lối vào dành cho thợ bảo dưỡng cũng bị khoá nốt, người bảo vệ cũng đã về. Nếu cô lên vào ban đêm, hẳn cô phải dùng lối thoát hiểm.


    Nhưng có một cánh cổng ở đầu cầu thang tầng hai, và trông như khó mà qua được. Ando trèo lên đó và quan sát. Một cánh cổng sắt, có tay nắm. Anh cố vặn tay nắm, nhưng nó không nhúc nhích. Hẳn là nó bị khoá ở mặt bên kia để ngăn ngừa xâm nhập. Tuy nhiên, cánh cổng chỉ cao tầm 1,8 mét, một người nhẹ nhàng và nhanh nhẹn có thể vượt qua dễ dàng. Mai từng tham gia đội tuyển điền kinh ở trường trung học; hẳn cô đã trèo qua cánh cửa đó không mấy khó khăn.


    Bên cạnh anh, phía chân cầu thang là cánh cửa dẫn vào toà nhà. Anh cố xoay nắm cửa, nhưng thật ngạc nhiên, cánh cửa này cũng bị khoá. Anh tự hỏi Mai đã đến đây vào thời gian nào trong ngày. Nếu vào ban ngày, có lẽ cô đã dùng thang máy để lên tầng mười bốn. Nếu vào ban đêm, hẳn cô đã trèo qua cánh cổng và đi theo lối cầu thang.


    Ando quay lại phia cửa trước toà nhà, đi vào, và đến chỗ thang máy. Có hai thang máy, và cả hai đang chờ ở tầng trệt. Mỗi tầng của toà nhà dường như được một hoặc nhiều doanh nghiệp khác nhau thuê, tên của tất cả các doanh nghiệp để được ghi theo từng tầng, trên một tấm bảng cạnh thang máy. Nhưng gần nửa số công ty đó đã bị gạch xoá. Hẳn là họ đã chuyển đi mà chủ cho thuê nhà vẫn chưa tìm được người thuê mới thay thê. Toà nhà yên ắng và gây chút cảm giác bị bỏ hoang.


    Đến tầng mười bốn, anh bước ra khỏi thang máy và đi vào hành lang tối, ở đó anh tìm cầu thang lên sân thượng. Sau khi đi dọc một lượt suốt chiều dài hành lang, anh vẫn không tìm thấy cầu thang nào cả. Mai hẳn đã phải đi ra phía ngoài. Quả thực, có một cánh cửa ở cuối hành lang, Ando mở cửa rồi bước ra ngoài. Gió từ biển thổi vào mạnh đến mức anh phải dựng cổ áo khoác kên. Chỉ khi ở đây, trên tầng cao nhất, anh mới nhận ra Vịnh Tokyo gần đến thế nào. Kia là kênh đào Keihin, xa hơn nữa là bến tàu Oi, và cuối cùng là đường hầm Cảng Tokyo nhanh chóng bị biển nuốt chửng. Từ điểm nhìn thuận lợi đó, hai lỗ đen lối vào đường hầm trông thật bất thường. Anh nghĩ chúng trông giống lỗ mũi của một người chết đuối với khuôn mặt nổi lên từ mặt nước.


    Từ chỗ này anh cũng nhận ra tại sao tầng mười bốn dường như quá chật chội bất chấp kích thước của toà nhà. Các kiến trúc sư đã thiết kế diện tích nền của tầng này bằng chừng một nửa so với những tầng khác, sử dụng không gian còn lại cho ban công ngoài chạy bao quanh toà nhà cả bốn phía. Ando bước ra, và thấy thoát hiểm nằm ở một góc ban công. Nhưng thi thể của Mai được tìm thấy ở một chỗ cao hơn nữa.


    Bên cạnh cánh cửa có một chiếc thang được xây gắn vào tường, chạy thẳng lên. Từ chân thang lên đến đỉnh cao chừng ba mét.


    Cố tưởng tượng xem Mai có thể cảm thấy thế nào, Ando ngậm bó hoa vào miệng, túm lấy thanh ngang và bắt đầu trèo.


    Điều gì khiến cô ấy lên tận đây? Ando tự hỏi trong khi leo lên từng bậc thang. Không phải cô muốn nhảy xuống. Điều này hẳn đã rõ khi xét đến cách toà nhà được thiết kế. Nhảy từ sân thượng, cô sẽ chỉ rơi chừng hơn ba mét xuống ban công phía dưới. Để rơi xuống tận mặt đất, cô phải nhảy từ đầu cầu thang thoát hiểm ở tầng mười bốn.


    Đây cũng không phải kiểu sân thượng người ta leo lên để ngắm cảnh. Sơn chống thấm đã bong tróc và nứt nẻ, khiến cho lối đi dưới chân trở nên khó chịu khi anh bước qua. Không có dãy lan can chạy quanh mép sân thượng, và anh sẽ không đến gần mép ngay cả khi ban công ở gần bên dưới.


    Có những ụ bê tông nhô lên được đặt với khoảng cách đều đặn, hình dáng giống như những ụ đá bốn chân dùng làm vật chắn sóng trên bờ biển. Ando không biết chúng được dùng để làm gì, nhưng chúng cao vừa tầm để anh ngồi lên. Thay vì đi ra mép sân thượng, anh trèo lên một cái ụ và nhìn xung quanh. Giờ chưa đến năm giờ, vào thời gian này trong năm, mặt trời lặn sớm nhất. Đèn đã bật sáng ở những toà nhà xung quanh và những cửa hàng bên phía dưới. Phía bên kia kênh đào, anh có thể nhìn thấy tàu Keihin Express màu đỏ đang chạy vụt qua sân ga như thể lao trong không trung. Anh biết sân ga đó. Anh đã ở đó hai lần khi đến căn hộ của Mai. Bọc trong thứ ánh sáng trắng khuếch tán, trông con tàu khá vắng khách so với thời điểm này trong ngày.


    Dùng nhà ga làm điểm tham chiếu, anh cố định vị căn hộ của Mai. Anh thấy nó chỉ cách chừng bốn trăm mét theo đường chim bay; có thể nói nó ở ngay đằng trước mũi anh. Ánh mắt anh nhìn dọc theo con phố theo con phố mua sắm, rẽ sang phải theo đường Shore. Thêm một trăm mét nữa là đến toà nhà nơi anh đang đứng.


    Tại sao lại sân thượng nhà này? Có vô số toà nhà cao tầng khác trong khu vực. Thực tế, cô có thể trèo lên sân thượng của chính toà nhà nơi cô đang sống. Anh đảo mắt nhìn quanh cho đến khi thấy toà nhà đó. Có lẽ bởi vì toàn bộ các phòng trần đều thấp, ngôi nhà bảy tầng chưa cao bằng một nửa so với toà nhà mà Ando đang đứng. Những trên sân thượng toà nhà Mai ở có khoảng phẳng phiu để dạo bộ. Đồng thời, nó là những toà nhà cao tầng. Đặc biệt, có một tòa nhà thưong mại cao chín tầng về phía Tây, có thể dẽ dàng nhìn được sân thượng của nó. Đó là toà nhà nổi bật nhất Ando nhìn thấy. Trên đường Shore đầy những nhà kho, không có nhiều những tòa nhà cao tâng ngay sát xung quanh. Không sợ có ai đó có thể nhìn thấy từ trên xuống.


    Ando xuống khỏi ụ bê tông và đến đứng giữa hai phòng thiết bị nhô lên. Một phòng vận hành thang máy, còn phòng kia dường như chứa hệ thống thông gió. Có một bể chứa nước lớn trên đỉnh của phòng thiết bị phía Nam.


    Giữa hai phòng đó là một rãnh sâu được dùng làm khoang thông gió. Ando đi cẩn thận, dò dẫm từng bước một, tiến dần lên cho đến khi đứng cạnh nó. Cái khoang được rào lưới thép, nhưng có các lỗ rách trên lưới. Hẳn là nhóm bảo dưỡng đã quyết định mặc kệ những lỗ rách, vì cho rằng ngoài họ ra không có ai sẽ lên đến đây. Ando không thể bước gần thêm được nữa. Chỉ đặt một chân lên mép của cái hố hình chữ nhật tối om này, anh đã cảm thấy mình sắp bị nó hút vào. Nhưng anh rướn người ra trước rồi run run, anh ném bó hoa đang cầm xuống một trong các lỗ rách của lưới sắt. Anh chắp hai bàn tay cầu nguyện cho cô được an nghỉ vĩnh hằng. Nếu hôm qua một nhân viên kỹ thuật không đến đây để kiểm tra thang máy, có lẽ Mai sẽ nằm ở đó lâu hơn mà không ai phát hiện ra.


    Bóng đêm nhanh chóng đổ xuống. Sân thượng giờ bị bao phủ trong bóng tối, và cơn gió nhẹ từ biển xoáy vào khoảng trời hẹp nơi Ando đứng, ba phía bao quanh là bê tông. Anh rùng mình. Đáng lẽ ra anh nên đến sớm hơn, khi mặt trời còn trên đỉnh đầu. Nhưng anh biết là mình không đủ can đảm, thậm chí ngay giữa ban ngày, để nhìn vào cái khoang, cái hố chỉ mới hôm qua còn chưa xác chết. Không chỉ ý nghĩ về xác chết khiến anh nổi da gà. Ý nghĩ về việc phải chờ chết dưới cái chỗ bưng kín ấy cũng khiến anh kinh hãi. Mai đã nằm dưới đó bao nhiêu ngày, mắt cá chân bị trẹo do ngã, không thể đứng được, nhìn vào khoảng trời phía trên cô chừng ba mét, dần dần bị mất hết hy vọng, cho đến khi chết? Có lẽ giống như cảm giác bị chôn sống trên một cỗ quan tài lơ lửng giữa trời. Ando thấy khó thở. Tình huống quá bất thường, không thể gọi là tai nạn được.


    Từ bên trong một phòng máy, anh nghe tiếng rì rì như thể dây cáp đang được một cái tời quấn vào. Rõ ràng một thang máy đang hoạt động. Ando bắt đầu lùi lại từng bước nhỏ để ra khỏi khoảng giữa hai phòng máy. Tường của hai phòng có những chỗ nhám xù xì và đen sỉn, sơn bị bong, chứng tỏ chỗ này hiếm khi có người đến.


    Anh ra khỏi nơi này nhanh hết sức, chạy đến thang và leo xuống ban công tầng mười bốn. Thanh thang dưới cùng cách mặt sàn gần một mét, nên anh phải nhảy xuống. Ando bị trượt chân khi tiếp đất. Gót chân anh bị tê cứng một lúc; anh chúi xuống và thấy tầm mắt mình ngang với bậc cuối cùng của chiếc thang gỉ.


    Anh quay vào trong và tiến về phía thang máy. Một chiếc thang máy đang chầm chậm đi lên. Anh nhấn nút chiếc thang máy đó và đứng chờ trước cửa.


    Trong lúc chờ đợi, anh cố nghĩ xem tại sao Mai lại lên sân thượng của toà nhà này. Anh tính đến khả năng cô bị theo dõi. Khu nhà kho hầu như vắng người vào ban đêm, và có lẽ, khi đi qua đây, cô nhận ra là đang bị người khác bám theo. Cô nhìn thấy cầu thang phía ngoài toà nhà có chiếc cổng sắt. Nhận định rằng cô có thể trèo lên đó còn kẻ lạ mặt thì không, nên cô đã trèo lên. Có lẽ kẻ lạ mặt kia sau đó cũng trèo được qua cánh cửa, và Mai không còn cách nào khác là tiếp tục trèo lên. Sai lầm đầu tiên của cô, đúng là sai lầm, đã đẩy cô đến ngõ cụt. Chiếc thang dẫn lên sân thượng có lẽ là lối thoát cuối cùng của cô. Bậc thang thấp nhất cách sàn gần một mét. Hy vọng rằng cuối cùng kẻ theo đuổi cô sẽ từ bỏ, Mai đã trèo lên sân thượng. Vậy là kẻ lạ mặt có bám theo cô nữa không? Ando cố tưởng tượng xem hạng người nào sẽ gặp khó khăn khi trèo lên một chiếc thang được dựng vuông góc với mặt sàn, và hình ảnh hiện ra trong đầu anh là một con thú bốn chân.


    Khi ý nghĩ đó vừa đến thì cũng là lúc thang máy mở cửa. Thang máy có người. Ando đang nhìn vào mũi giày; anh ngưóic mắt lên và bắt gặp ánh mắt của một cô gái. Cô ta nhìn anh như thể đang phục sẵn. Chắc chắn anh đã gặp cô gái này rồi, trong tình huống tương tự. Cô ta là người đã đi ra từ phòng Mai và đi chung thang máy với anh. Móng tay bị nứt, và cái mùi đó, anh chưa bao giờ ngửi thấy mùi như thế - có cố anh cũng không thể quên được cô ta.


    Giờ anh lại đứng ngay trước mặt, đối diện với cô ta, và anh đờ người. Anh bối rối. Đầu óc anh không thể xử trí những gì đang thấy, và cơ thể không còn tuân theo ý chí của anh nữa.


    Sao. Cô. Ta. Ở. Đây? Anh cuống quýt tìm một lý do, cái lý do anh không có khả năng tìm thấy. Việc không tìm được một lý do nào hợp lý chính là điều làm anh sợ hãi. Chừng nào có được lời giải thích thì nỗi kinh sợ mới có thể bị xua đi.


    Khi họ nhìn nhau, cửa thang máy bắt đầu đóng lại giữa họ. Cô gái đưa tay ra giữ cho cửa mở. Động tác thật mềm mại, khéo léo. Cô ta mặc váy chấm màu xanh dương, phía dưới chiếc váy anh có thể nhìn thấy chân cô ta, đôi chân trần, không mang tất bất chấp thời tiết mùa đông. Tay phải cô ta giữ cửa; còn trong tay kia là một bó hoa nhỏ.


    Hoa! Ánh mắt Ando dừng lại ở bó hoa.


    "Tôi đã gặp anh rồi, có đúng không?" Cô ta bắt chuyện, giọng nói đã lôi kéo được anh. Giọng nói trầm hơn anh trông đợi khi nhìn vào vẻ mỏng manh của cô ta.


    Miệng Ando há hốc cho đến khi cuối cùng anh thốt ra được vài lời từ đáy họng khô khốc. "Cô là chị gái của Mai phải không?"


    Đó là vai anh muốn cho cô ta sắm. Nếu đúng như thế, thì cũng hợp lý: cô ta đi ra từ phòng Mai, cô ta đến toà nhà này với một bó hoa. Mọi việc sẽ được giải thích.


    Cô gái hơi cử động đầu một cách khó lý giải. Không hẳn là cái gật đầu, cũng không hẳn là lắc. Cũng có thể là xác nhận hoặc bác bỏ, nhưng Ando quyết định rằng cô ta định nói là phải.


    Cô ta là chị gái của Mai, đến để đặt hoa trên sân thượng toà nhà nơi em mình chết. Điều này hoàn tự nhiên, rất hợp lý. Người ta chỉ tin vào những thứ họ có thể hiểu được.


    Khi anh đã hiểu như thế, nỗi sợ trước đó khiến anh buồn cười. Anh sợ điều gì chứ? Anh không thể hiểu nổi tâm lý của mình. Lần đầu gặp nhau, cô gái này đã gây cho anh ấn tượng mạnh mẽ về thế giới bên kia. Nhưng giờ đấy khi bí ẩn được lý giải, ấn tượng đó nhạt nhoà đi như thể một lời nói dối, trong khi chỉ có vẻ đẹp của cô choán hết cách anh nhìn nhận về cô. Sống mũi thanh tú của cô, đường nét tròn mềm mại nơi gò má, đôi mắt hơi xếch với hàng mi rậm. Chúng không nhìn thẳng vào anh; chúng dường như không chú ý tập trung vào đâu. Trong ánh mắt đo ẩn giấu một vẻ rực sáng quyến rũ.


    Đôi mắt ấy. Khi anh gặp cô ta hôm trước tại căn hộ của Mai, cô ta đeo kính. Đây là lần đầu anh nhìn thấy mắt cô ta. Cái nhìn đó, thẳng vào anh, có một sức hút mãnh liệt. Anh thấy khó thở, trông ngực đập thình thịch.


    "Xin lỗi, nhưng mà…" Từ cách nói và nét mặt rõ ràng cô ta muốn biết mối quan hệ giữa anh với Mai.


    "Tôi là Ando. Làm việc ở Trường Y của Đại học Fukuzawa." Anh biết rằng điều này không trả lời đúng câu hỏi của cô.


    Cô gái bước ra khỏi thang máy, tay vẫn giữ cho cửa mở, và mắt ra hiệu cho anh bước vào. Anh phải tuân theo. Những cử động tinh tế của cô ta khiến anh không còn sức để từ chối. Như thể bị bỏ bùa, Ando bước vào thang máy ngay chỗ cô ta đã đứng. Họ nhìn nhau lần nữa từ vị trí bây giờ đã đảo ngược.


    "Tôi có một lời đề nghị, sẽ sớm nhờ đến anh."


    Cô ta nói điều này ngay trước khi cửa đóng. Ando nghe rất rõ, đó chắc chắn là lời cô ta nói. Cánh cửa đóng lại như cửa chập của ống kính máy ảnh, xoá bỏ cô gái khỏi tầm nhìn của Ando, nhưng hình ảnh cô ta thì đã in trong não anh.


    Khi thang máy đi xuống chầm chậm, Ando thấy mình đã mất tự chủ bởi một ham muốn không thể kiểm soát được. Mai là đối tượng của những tưởng tượng dục tình đầu tiên anh có kể từ khi gia đình đổ vỡ, nhưng lần còn mãnh liệt hơn nhiều. Anh chỉ mới ở bên cô gái ấy vài giây, nhưng anh có thể nhớ rõ mọi chi tiết trên cơ thể cô ta, từ đường con nơi mắt cá chân, lộ trần ra phía bên trên đôi giầy vải, cho đến khoé mắt cô. Hình ảnh của cô ta trong anh vẫn còn rõ ràng, ngay cả khi những giây phút đó đã qua đi. Bối rối vì dục vọng bất ngờ, Ando lao nhanh ra khỏi toà cao ốc, vẫy một chiếc taxi, rồi vội vã về nhà.


    Trên taxi, anh nghĩ về những lời sau cùng của cô gái đã nói.


    Tôi có một lời đề nghị, sẽ sớm nhờ đến anh.


    Đề nghị của cô ta là gì? Cô ta có ý gì khi nói "nhờ đến" anh? Liệu đó có phải là một kiểu nói đùa xã giao không?


    Anh đã vội vã rời khỏi toà nhà trên taxi, như thể bị ánh mắt cô ta rượt đuổi. Anh tiếc đã không hỏi ít nhất là tên và số điện thoại của cô ta. Tại sao anh không hỏi? Lẽ ra anh nên chờ cô ta từ sân thượng đi xuống. Như thể mỗi hành động của anh đều bị cô gái kia kiểm soát. Anh đã hành động trái với ý chí của mình.
     
  16. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 5





    Một tuần trôi qua kể từ ngày khám nghiệm tử thi của Mai. Đã vào tháng Mười hai, tiết trời đột ngột trở nên lạnh giá. Ando chưa bao giờ thích mùa đông - anh thích thời tiết cuối xuân đầu hè hơn - nhưng từ khi con trai qua đời, anh không quan tâm nhiều đến sự thay đổi các mùa nữa. Dẫu vậy, cái lạnh buốt của buổi sácg buộc anh phải nhận ra mùa đông đã đến. Trên đường đến trường đại học, vài lần anh dừng lại, định quay về lấy thêm áo ấm, nhưng cuối cùng vẫn đi tiếp. Anh không muốn quay về, vả lại đi bộ cũng khiến người anh ấm lên.


    Căn hộ của anh ở Sangubashi khá gần trường đại học nên nếu muốn anh có thể đi bộ đến chỗ làm. Và mặc dù thường thì anh đi tàu, quãng đường ngắn, nhưng việc chuyển tàu, điều anh bắt buộc phải làm, chưa bao giờ diễn ra suôn sẻ. Do đó, và cũng bởi vì biết rằng anh cần vận động thân thể, nên đôi khi Ando đành vừa đi vừa chạy từ nhà đến chỗ làm và ngược lại. Ngày hôm nay bắt đầu giống một trong những ngày đó, nhưng đang giữa đường đến trường, anh đổi ý và bắt tàu tại nhà ga Yoyogi. Anh muốn đến trường sớm.


    Vì chỉ còn hai ga nữa là tới, anh không có thời gian sắp xếp lại những suy nghĩ khi ở trong tình trạng lắc lư trên khoang tàu. Sáng nay anh định đến xem mẫu tế bào của Mai và Ryuji dưới kính hiển vi điện tử. Ý nghĩ về điều đang chờ đợi phía trước khiến Ando sốt sắng.


    Cho đến lúc này, người ta không tìm thấy loại virus giống virus đậu mùa ở bất cứ người nào chưa từng xem cuốn băng. Hiện chưa có báo cáo nào về trường hợp loại virus này lây lan do tiếp xúc qua da. Trong phòng Mai, anh thấy một bản sao cuốn băng, đã bị xoá. Hai sự kiện này có nghĩa rằng nếu tế bào máu của Mai có sự hiện diện của virus, thì có thể kết luận cô đã xem cuốn băng. Tai hoạ đổ xuống đầu cô chính là do cuốn băng gây ra.


    Anh mải suy nghĩ đến mức suýt lỡ bến, nhưng anh nhảy được ra khỏi tàu ngay trước khi cửa đóng lại. Anh cuốn theo dòng ngưòi về phía cửa soát vé. Bệnh viện đại học nằm oai nghiêm ngay phía ngoài nhà ga.


    Ando ngó đầu vào phòng xét nghiệm, thấy Miyashita quay khuôn mặt đỏ lựng về phía anh.


    "Cuối cùng thì hắn cũng xuất hiện!"


    Miyashita và Nemoto đã dành cả tuần trước để chuẩn bị cho buổi làm việc qua kính hiển vi hôm nay, virus không phải là thứ mà ta có thể chỉ cần đặt dưới kính hiển vi rồi lúc nào đó có hứng thú thì xem. Rất nhiều việc cần phải làm trước, dùng máy ly tâm, tách tế bào, và vân vân. Quy trình này quá sức đối với một người ngoại đạo như Ando. Nhìn những chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, có thể thấy Miyashita nóng lòng chờ đợi đến giây phút này. Anh ta đã ở đó từ sáng sớm để sửa soạn.


    "Tắt đèn," Nemoto nói.


    "Tuân lệnh!" Miyashita đáp, nhanh chóng tắt đèn. Mặc dù họ đã hoàn tất việc sắp xếp chuỗi bazơ từ trước, nhưng đây là lần đầu chính mắt họ được thấy trực tiếp virus. Loại virus này được tìm thấy trong máu của Ryuji và có lẽ cả trong máu của Mai nữa.


    Nemoto đi một mình vào phòng tối, đặt mẫu siêu mỏng lên giá mẫu. Ando và Miyashita ngồi trước bảng điều khiển, nhìn chăm chú vào màn hình, im lặng tuyệt đối. Mặc dù màn hình còn trống, nhưng mắt của hai người vẫn linh hoạt theo đuổi hình ảnh tưởng tượng của những gì họ sắp thấy.


    Nemoto quay lại và tắt bóng đèn cuối cùng trên trần. Tất cả đã sẵn sàng. Cả ba người nín thở nhìn màn hình. Một cách chậm rãi, khi mẫu siêu mỏng của lớp tế bào được chiếu sáng, chùm eletron, một thế giới vi mô bắt đầu mở ra trước mắt họ.


    "Chúng ta đang quan sát virus của ngưòi nào đây?" Miyashita hỏi Nemoto.


    "Của Takayama."


    Khối màu xanh trên màn hình trước mắt họ là cả một thế giới riêng. Một cú vặn núi điều khiển sẽ đưa tầm nhìn của họ chạy ngang trên bề mặt của tế bào. Đâu đó trong tế bào loài virus đang ẩn nấp.


    "Thử tăng độ phóng đại lên," Miyashita nói. Nemoto đáp ứng ngay, chuyển máy sang mức x9000. Nhìn lại bề mặt tế bào họ thấy rõ những tế bào đang chết. Tế bào chất loé sáng lên, trong khi bào quan chuyển thành các phẩm màu đen.


    "Tập trung vào tế bào chất phía trên bên phải và tăng độ phóng đại." Khi nói, khuôn mặt Miyashita phản chiếu hình dạng lấm chấm của các tế bào chết và có vẻ sáng mờ của bức tượng đồng bán thân. Nemoto tăng độ phóng đại lên x16000.


    "Nữa."


    X21000


    "Rồi. Dừng lại." Miyashita cao giọng, và anh ta liếc nhìn Ando, anh đang nhoài người ra trước, mặt sát màn hình.


    Chúng đây rồi… cả một đám!


    Những hình sợi xoắn quanh các tế bào chết trông như bầy rắn đang cắn xé và bám vào bề mặt chất nhiễm sắc.


    Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Ando. Đây là một loại virus mới, chưa ai từng thấy một loại tương tự trước đây. Anh chưa bao giờ nhìn thấy virus đậu mùa qua kính hiển vi điện tử, nhưng anh biết nó qua các tài liệu y khoa. Nhìn qua cũng có thể thấy ngay sự khác nhau giữa hai loại virus.


    "Lạy trời."


    Miyashita ngồi đó thở hắt, miệng há hốc ra.


    Ando hiểu cơ chế hoạt động của virus: cách nó theo mạch máu đến động mạch vành, tại đó nó bám vào thành trong của động mạch vành trước đoạn phân nhánh, gây đột biến trong tế bào của vùng đó cho đến khi những đột biến đó hình thành một khối u. Điều anh không thể hiểu được là làm thế nào loại virus anh đang nhìn thấy đây lại có thể được tạo ra thông qua ý thức của nạn nhân. Virus này không xâm nhập từ bên ngoài vào cơ thể. Mà nó được sinh ra từ bên trong, là hệ quả của việc xem một cuốn băng; đó là một chức năng của tâm trí. Điều đó quá bí ẩn khiến Ando chết lặng. Nó thể hiện một bước nhảy từ hư vô đến hiện hữu, từ ý niệm đến vật chất. Trong suốt lịch sử Trái Đất điều như vậy chỉ xảy ra một lần duy nhất, là khi sự sống bắt đầu xuất hiện.


    Điều này có nghĩa là sự sống xuất hiện do hoạt động của ý thức nào đó?


    Ý nghĩ của Ando đang đi trệch lối. Miyashita đưa anh trở lại thực tại bằng nhận xét tiếp theo của anh ta.


    "'Ring', có ai thấy không?"


    Ando quay lại nhìn màn hình kính hiển vi điện tử. Không mất nhiều thời gian để hiểu được nhận xét của Miyashita; anh ta đang cố tìm cái gì đó đê so sánh với hình dạng của virus. Một số virus dạng xoắn, một số có hình chữ u, nhưng hầu hết chúng trông giống như chiếc nhẫn hơi bị biến dạng, là đồ vật mà ta đeo ở ngón tay. Chính xác là "ring". Thậm chí còn có một chỗ nhô ra tại một điểm, trông không giống gì hơn một mặt đá đặt trên đế. Màn hình trông như cảnh tượng một nền nhà rắc bừa bãi những chiếc nhẫn, những con rắn và những sợi dây chun xoắn vào nhau.


    Ando và Miyashita, những người phát hiện ra loại virus mới kỳ lạ, có trách nhiệm phải đặt tên cho nó, và nhận xét của Miyashita như một lời gợi ý. Virus Ring.

    upload_2017-3-31_23-3-28.png


    "Tên nó thế nào?"


    Miyashita muốn nghe ý kiến của Ando. Cái tên thật hoàn hảo, nhưng Ando thấy khó mà nêu rõ lý do. Nó quá hoàn hảo, khiến anh tự hỏi có phải một thực tế giống-tạo-hoá đang gây nên cảm nhận đó không. Toàn bộ chuyện này bắt đầu như thế nào? Ando nhớ lại không chút khó khăn: nó bắt đầu từ những con số trên tờ báo lòi ra khỏi đường khâu ở bụng Ryuji. 178, 136. Những số đó cho anh từ tiếng Anh "ring". Rồi anh tìm được bài phóng sự kỳ lạ, nó được đặt nhan đề là Ring. Và giờ, cái này, cái anh đang quan sát - là một loại virus có hình dạng giống chiếc nhẫn. Tưởng như một ý chí nào đấy, thay hình đổi dạng sau mỗi lần tái sinh để phát triển thành cái gì đó lớn hơn, đã chọn hình này làm một biểu tượng.


    Thế giớ vi mô có những dạng vẻ đẹp nảy sinh từ sự lặp lại theo chu kỳ, nhưng điều Ando đang nhìn thấy là một thứ xấu xa núp dưới vẻ ngoài đẹp đẽ. Không chỉ bởi hiểu biết trừu tượng rằng virus này gây hại cho con người mà Ando thấy nó xấu xa. Điều anh đang cảm thấy gần giống như lòng căm thù bản năng đối với những sinh vật có hình dạng ngoằng ngoèo. Bất cứ người nào được cho xem hình này, mà trước đó hoàn toàn không biết đến nó, có lẽ sẽ phản ứng bằng sự ghê tởm.


    Như để chứng minh điều đó, Nemoto, người biết rất ít về nguồn gốc của virus, đã rùng mình thấy rõ. Tay anh ta rung lên trên các nút điều khiển. Chỉ có chiếc máy vẫn không bị ảnh hưởng, nó phát ra những hình ảnh âm bản một cách không chút cảm xúc. Khi đã chụp được bảy tấm hình, Nemoto gom chúng lại và đi vào phòng tối. Trong khi chờ tráng chúng ra, anh ta đặt mẫu siêu mỏng từ tế bào máu của Mai lên giá mẫu. Sau đó anh ta quay lại bàn điều khiển và nhẹ nhàng bật công tắc.


    "Tiếp theo chúng ta sẽ xem virus trong máu Takano."


    Họ tăng dần độ phóng đại, như đã làm với mẫu virus của Ryuji. Họ dễ dàng thấy cái đang tìm kiếm. Không nghi ngờ gì nữa, chúng thuộc một loại virus. Chúng đang quằn quại như những con virus trong máu Ryuji.


    "Giống y hệt," Ando và Miyashita nói cùng một lúc. Cả hai người đều không thấy bất cứ điều gì cản trở việc đưa ra kết luận đó. Nhưng Nemoto, chuyên gia vi mô điện tử, lại nhạy bén hơn đối với những khác biệt nhỏ bé.


    "Lạ thật."


    Miyashita nhìn anh ta đang nghiêng đầu, tay bóp cằm, rồi hỏi, "Cái gì lạ?"


    "Tôi sẽ không nói gì cho đến khi so sánh những tấm ảnh."


    Nemoto bao giờ cũng thận trọng trong mọi việc, anh ta do dự, chưa đưa ra kết luận khi chỉ hoàn toàn dựa trên ấn tượng về virus của Ryuji. Phương châm của anh ta là khoa học cần bằng chứng, chứ không phải cảm giác. Ngoài ra, Nemoto chắc chắn rằng anh ta nhận thấy khác biệt về số lượng. Không phải sự thay đổi về tổng số các con virus trong mỗi mẫu. Điều anh ta nhận thấy, là trong mẫu virus của Mai có nhiều vòng bị gãy. Dĩ nhiên, trong mẫu virus của Ryuji, một số con virus đứt ra, tạo thành hình chữ u, hoặc giống hình con rắn cuộn tròn, nhưng hầu hết chúng đều nguyên vẹn và trông như những vòng nhẫn. Trong trường hợp của Mai, có nhiều vòng nhẫn bị gãy hơn, và duỗi rra trông giống như những sợi dây.

    upload_2017-3-31_23-3-52.png


    Để xác nhận những nghi ngờ của mình, Nemoto tập trung vào một con virus trông khả dĩ và điều chỉnh tiêu cự cho đến khi mẫu virus tràn màn hình. Nếu virus bình thường trông như một vòng nhẫn, mẫu virus này trông như một vòng nhẫn bị đứt ở phía mặt đá. "Mặt đá" và "chân đế" giờ trông như một chiếc đầu có đuôi ngọ nguậy đằng sau.


    Kết quả là một hình dạng mà Ando, Miyashita và Nemoto thấy rất quen thuộc. Cùng lúc cả ba đều nghĩ đến cùng một điều nhưng không ai dám nói ra.
     
  17. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 6




    Ấn tượng ban đầu của Nemoto đã được chứng minh khi anh ta so sánh các bức ảnh chụp virus Ring. Ở bất cứ phần nào trong mẫu mô của Mai, số lượng virus hình vòng nhẫn đứt hay hình dây lớn hơn so với vùng tương ứng trong mẫu mô của Ryuji. Nói theo lối thống kê, gần một phần mười virus trong máu Ryuji bị đứt vòng, còn đối với Mai, tỷ lệ này là năm mươi phần trăm. Sự chênh lệch rõ ràng như thế không thể diễn ra mà không có lý do. Ando đề nghị quan sát mẫu virus tất cả các nạn nhân của cuốn băng dưới kính hiển vi điện tử.


    Mãi cho đến thứ Sáu, sau kỳ nghỉ Năm Mới, mới có tất cả các kết quả.


    Liếc ra ngoài cửa sổ phòng xét nghiệm, anh có thể nhìn thấy tuyết sót lại từ trận tuyết đêm qua vẫn còn vương trên những cành khô trong Khu Ngoại viên Đền thờ Minh Trị. Mệt mỏi với việc phân tích các bức ảnh, Ando đến bên cửa sổ ngắm quang cảnh bên ngoài. Nhưng Miyashita không nghỉ ngơi gì hết, anh ta cẩn thận so sánh các bức ảnh trên mặt bàn.


    Tính cả Asakawa và Mai, mười một người đã chết sau khi xem cuốn băng. Trong máu các nạn nhân người ta tìm thấy cùng một loại virus, và chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chính virus này là nguyên nhân của cái chết. Nhưng xét theo tỷ lệ virus vòng đứt, các nạn nhân được chia thành hai nhóm. Trong trường hợp của Mai và Asakawa, các vòng đứt chiếm một nửa số lượng virus trong mẫu máu, còn ở những người khác, số lượng virus vòng đứt chỉ chiếm một phần mười. Đây không phải là kết quả gây ngạc nhiên đặc biệt. Dường như số mệnh của người nhiễm virus có liên hệ với mức độ hiện diện của các virus vòng đứt.


    Các số liệu cho thấy khi số lượng virus vòng đứt vượt quá một tỷ lệ nhất định, vật chủ tránh được cái chết do đứng tim, tuy nhiên còn chưa rõ chính xác tỷ lệ phần trăm ấy là bao nhiêu.


    Mai và Asakawa đã xem cuốn băng. Virus xuất hiện trong cơ thể họ. Tính đến điểm này, họ không khác gì chín nạn nhân kia. Nhưng điều gì đó đã khiến một số virus biến thành hình dây, và những vòng đứt này vượt quá một mức độ nhất định. Đó là lý do tại sao ngay cả khi đã xem cuộn băng, cả Mai và Asakawa đều không chết vì suy tim cấp. Câu hỏi là, điều gì đã khiến virus trong máu họ đứt ra? Điều gì làm cho họ khác với chín người kia?


    "Một dạng miễn dịch nào đấy?" Ando thắc mắc.


    "Đó là một khả năng," Miyashita nói, ngước đầu lên.


    "Hoặc có lẽ…" Ando hạ giọng.


    "Có lẽ sao?"


    "Một điều gì đó liên quan đến chính loại virus này?"


    "Cá nhân tôi ngả theo hướng ấy," Miyashita nói, gác chân lên chiếc ghế trước mặt, ưỡn cái bụng bự ra. "Vì trò tinh quái của bốn thanh niên đầu tiên xem cuốn băng, nó bị đẩy đến tuyệt chủng trong tương lai không-quá-xa. Để tìm lối thoát, virus phải đột biến. Đúng như Ryuji đã nói với chúng ta qua thông điệp của anh ta. Giờ thì: chính xác nó đã đột biến như thế nào, và nó sẽ tiến triển thành cái gì? Tôi cho rằng, câu trả lời nằm ở loại virus Ring trong người Mai Takano và Kazuyuki Asakawa. Nói chính xác là trong hình dạng bất thường của nó."


    "Theo lý thuyết, một virus mượn tế bào của vật chủ để tự sinh sản."


    "Đúng."


    "Và đôi khi, sự sinh sản đó diễn ra với một tốc độ bùng nổ."


    Đây cũng là thứ kiến thức quá phổ thông. Để tìm ví dụ về sự phát tán dữ dội của virus, người ta chỉ cần dẫn đến nạn dịch Cái chết Đen lan tràn thời Trung cổ, hoặc dịch cúm Tây Ban Nha thời hiện đại.


    "Thì sao?" Miyashati giục Ando nói tiếp.


    "Thử nghĩ xem. Cuốn băng bảo người ta, 'Sao một bản trong vòng một tuần, không ngươi sẽ chết.' thậm chí nếu người xem có làm thế, thì chỉ một cuốn băng được nhân đôi lên. Tỷ lệ này quá thấp. Giả sử những người xem sau này lại quá trình đó, thì sau một tháng chỉ mới có bốn cuốn băng."


    "Cậu nói có lý."


    "Điều đó chẳng có gì đáng sợ."


    "Ý cậu là nó không giống virus, đúng không?"


    "Nếu nó không gia tăng theo cấp số nhân, thì rất khó mà phát tán được."


    Miyashita nhìn trừng trừng Ando. "Chính xác thì cậu muốn nói cái gì?"


    "Chỉ là…"


    Ando không chắc mình muốn nói gì. Có phải anh đang cố giải thích sự việc theo hướng tồi tệ hơn? Chắc chắn có nhiều trường hợp khi một con virus, chỉ trong vòng một đêm, đã lây lan cho hàng nghìn, hàng chục nghìn nạn nhân. Đó là lý do để virus tồn tại, nó tự tái tạo lại đồng thời với số lượng rất lớn. Việc sao chép một cuốn băng, mỗi lần một cuốn, không mang lại hiệu quả. Kết quả đã nói lên điều đó, chỉ ba tháng sau khi được tạo ra, cuốn băng giờ đã tuyệt diệt. Trừ phi nó được tái sinh thông qua đột biến.


    "Chỉ là tôi có dự cảm xấu về chuyện này."


    Ando nhìn lại các bức ảnh virus Ring. Hàng vô số, đè lẫn lên nhau. Khi vài con virus chồng lên nhau, chúng trông giống như cuộn băng bị tháo ra và cuốn rối. Cô gái ngoại cảm Sadako Yamamura, trên bờ vực cái chết, đã chuyển thông tin thành hình ảnh, để lại một dạng năng lượng ở đáy giếng. Cuốn băng được tạo ra là kết quả của sự giải phóng năng lượng đó. Vấn đề không phải là sự phát tán, mà là thông tin, như đã được ghi lại trên cuốn băng và ADN.


    Anh không thể rũ sạch nỗi nghi ngờ rằng một dạng đột biến khủng khiếp đang diễn ra ở đâu đó mà anh không biết. Ando đã đến căn hộ của Mai, anh cũng đã đến khoang thông gió trên sân thượng mà cô rơi xuống. Anh cảm thấy sự kỳ quái trong căn phòng cô, cảm thấy sự quái dị dưới chân mình trên sân thượng. Có lẽ đó là lý do tại sao anh cảm nhận được mối nguy hiểm đang gieo rắc lên anh nhiều hơn Miyashita. Anh hầu như cố thể nghe thấy tiếng vặn xé của cái gì đó đang ráo riết dưới lòng đất.


    "Cậu có cảm thấy thảm hoạ đang đến không?" Giọng nói Miyashita nghe có vẫn khá thoải mái.


    "Chỉ là tất cả thật kỳ quái."


    Ngay từ khi mổ cho Ryuji, Ando đã bị lôi vào một thế giới kỳ quái. Nền bê tông như mềm đi và nhớp dính dưới bước chân của anh, mùi hương cuộc sống lan toả trong một căn phòng không có người ở. Hiện tượng khó hiểu này tiếp sau hiện tượng khó hiểu khác. Và rồi thứ mà Mai đã sinh ra; chính ý nghĩ ấy khiến anh rùng mình. Mai đã chết được một tháng rưỡi, và người ta chưa tìm thấy manh mối nào cho biết Mai đã sinh ra cái gì. Ando không nghĩ cô đã sinh ra một đứa bé đáng yêu.


    "Đừng ủ rũ thế. Nếu nó có đột biến, thì không có gì đảm bảo rằng nó đã thích nghi được với môi trường."


    "Thế cậu nghĩ loại virus đột biến cũng đã bị tuyệt chủng sao?"


    "Chúng ta không thể loại bỏ khả năng này."


    "Lạc quan quá."


    "Nhớ đại dịch cúm Tây Ban Nha xem, bệnh dịch đã càn quét cả thế giới vào năm 1918. Người ta tìm thấy đúng loại virus đó năm 1977, nhưng lúc này không có ai bị chết cả. Lúc đầu mới xuất hiện nó đã giết chừng hai mươi đến bốn mươi triệu ngưòi trên toàn thế giới, nhưng sáu mươi năm sau, nó cơ bản là vô hại."


    "Tôi cho là một virus có thể bị yếu đi qua quá trình đột biến."


    Đúng là kết từ khi phát hiện ra thi thể của Mai, người ta chưa tìm thấy thêm cái chết bí ẩn nào nữa. Anh vẫn theo dõi sát sao trên báo chí và khai thác các mối quan hệ của mình ở sở cảnh sát, nhưng cho đến nay mạng lưới của anh chưa phát hiện được gì. Có thể Miyashita đã đúng, loại virus đột biến mới được tái sinh đó không thích nghi với môi trường trong khoảng thời gian ngăn cần thiết, do đó nó mất khả năng phát tán. Có lẽ nó đã bị tuyệt diệt.


    "Nên làm gì tiếp theo đấy?" Miyashita hỏi, đá chân lên sàn và xoay người trên ghế.


    "À, còn một điều chưa biết."


    "Là gì?"


    "Mai có cuốn băng khi nào và từ đâu?"


    "Việc đó có quan trọng không?"


    "Nó làm tôi băn khoăn. Tôi muốn xác định rõ ngay."


    Ando cảm thấy nên kiểm tra điều này. Anh quá bận rộn với việc phân tích virus và quên bẵng mất. Giờ dường như đó là việc duy nhất còn lại cần làm. Anh hầu như chắc chắn rằng cuộn băng Mai xem là bản sao tại nhà Ryuji, nhưng anh không biết vì sao và khi nào cô có được nó.
     
  18. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 7




    Việc tìm ra lại dễ dàng đến bất ngờ.


    Giả sử đồ đạc của Ryuji, cả cuốn băng được chở về nhà cha mẹ anh ta trong vòng hai hoặc ba ngày sau khi anh ta chết, Mai chỉ có thể lấy nó ở đó. Vì vậy, Ando gọi điện đến nhà Ryuji.


    Khi biết Ando là bạn cũ thời đại học của con trai mình, mẹ Ryuji bỗng nhiên trở nên thân thiện. Ando hỏi xem có một cô gái tên Mai Takado đến thăm bà không.


    "Có," bà đáp. Bà còn biết rõ ngày bằng cách nhìn vào hoá đơn trong sổ ghi chép tài chính gia đình của mình. Bà đã mua một chiếc bánh bơ giòn cho Mai. Ngày 1 tháng Mười một, năm 1990. Ando ghi lại ngày.


    "Với lại, cho cháu hỏi tại sao Mai lại đến thăm bác?"


    Mẹ Ryuji giải thích rằng Mai đang giúp Ryuji trong một công trình mà anh ta viết đăng từng phần, bằng cách chép lại những bản thảo sạch cho mỗi phần, nhưng một trang của bài viết bị mất.


    "Vì thế cô ấy đến nhà bác để tìm trang bị mất ấy, có phải không ạ?"


    Ando ghi lại tên và nhà xuất bản của tờ tạp chí đăng loạt bài đó.


    Rồi anh gác máy. Anh không muốn bị hỏi thăm về tình hình của Mai. Nếu anh cho mẹ Ryuji biết là Mai đã chết, chắc chắn anh sẽ phải đối mặt với hàng tá câu hỏi mà anh hoàn toàn không có câu câu trả lời làm bà hài lòng.


    Ando ngồi đó, tay giữ ống nghe rất lâu sau khi đã ngắt cuộc gọi.


    Ngày mùng 1 tháng Mười một, Mai đến nhà bố mẹ Ryuji. Trong khi tìm trang bản thảo bị mất, cô ấy tìm thấy cuốn băng. Cô ấy mang nó về nhà. Có lẽ đã xem nó đúng vào hôm ấy.


    Anh bắt đầu đưa ra một giả thiết dựa trên điểm khởi đầu là ngày 1 tháng Mười một. Virus cần một tuần để gây tác dụng đầy đủ. Vậy điều gì sẽ xảy ra với cô vào ngày 8 tháng Mười một. Ngày Ando hẹn gặp cô là mùng chín. Anh đã gọi điện cho cô nhiều lần vào hôm ấy, nhưng không ai nhấc máy. Điều đó hợp lý. Hoặc là cô vẫn ở trong phòng nhưng không thể nhấc máy, hoặc là cô đã ở trong cái khoang thông gió kia rồi.


    Anh bắt đầu tính ngược thời gian. Khám nghiệm phát y có thể cho biết cô sống bao lâu trong khoang thông gió, và cô đã chết bao lâu khi xác được phát hiện. Theo các bằng chứng, cô đã chết vào khoảng ngày 20 tháng Mười một, và đã rơi vào khoảng thông gió mười ngày trước đấy. Quả là trùng khớp hoàn hảo với những tính toán này khi khẳng định virus đã biến đổi trong ngưòi cô vào ngày mùng tám hoặc mùng chín, dẫn đến việc cô bị rơi xuống khoang thông gió.


    Điều tiếp theo Ando làm là đến khu lưu trữ tạp chí của thư viện để tìm tờ tạp chí đăng các bài viết của Ryuji. Anh dã tìm thấy nó. Trong số ra ngày 20 tháng Mười một, anh tìm thấy phần cuối công trình của Ryuji, Cấu trúc của tri thức. Nó mách bảo Ando cái gì đó.


    Mai dã chép lại bài viết của Ryuji và đưa nó đến cho người biên tập.


    Có nghĩa trong khoảng thời gian từ khi xem cuốn băng đến khi chết, chắc chắn cô đã tiếp xúc với ít nhất là một người.


    Anh gọi điện đến phòng biên tập của tờ nguyệt san đã đăng bài viết và xin một cuộc hẹn với người biên tập đã phụ trách công trình của Ryuji. Ando quyết định mình cần đến tận toà báo, có điều gì đó khiến anh muốn gặp trực tiếp người này, thay vì chỉ nói chuyện với anh ta qua điện thoại.


    Anh bắt tàu đén Suidobashi. Từ đó anh đi bộ chừng năm phút, tìm địa chỉ cần đến, cuối cùng cũng thấy toà nhà mười một tầng nơi đặt văn phòng Shotoku, nhà xuất bản của Ryuji. Tại bàn lễ tân, anh xin gặp Kimura, biên tập viên của nguyệt san Currents. Trong khi đợi, anh nhìn lơ đễnh dọc hành lang, Ando mừng vì biên tập đã đồng ý tiếp một người hoàn toàn xa lạ. Qua điện thoại, giọng nói anh ta nghe như cuả một thanh niên ngoài hai mươi, nhưng hiểu biết. Trong đầu anh mường tượng ra một thanh niên đẹp trai, đeo kính.


    Trái lại, anh nhìn thấy một gã béo phệ, mặc quần ca rô có dây đeo, cái đầu hói bóng thấy mồ hôi cho đù đang vào mùa lạnh. Anhh ta hoàn toàn khác xa với tưởng tượng của Ando về hình ảnh người biên tập viên của một nhà xuất bản lớn, đặc biệt là người làm việc cho một tạp chí đăng tải những diễn biến mới nhất của tư tưởng đương thời.


    "Xin lỗi để anh phải đợi." Người đàn ông cười tươi và trao danh thiếp cho Ando. Satoshi Kimura, Tổng biên tập. Anh ta trông già hơn so với khi nghe giọng. Có lẽ đã gần bốn mươi.


    Ando trao danh thiếp của mình và nói, "Cảm ơn anh dã đồng ý gặp. Tôi có thể mời anh đi uống cà phê ở đâu đó được không?" Ý anh là ra khỏi toà nhà.


    "Quanh đây không có quán cà phê nào tử tế cả. Nhưng chúng tôi có một quầy bar, nếu anh không phiền."


    "Cũng được."


    Ando quyết định theo ý của Kimura, và cả hai cùng vào thang máy.


    Quầy bar ở tầng thượng của toà nhà, có thể nhìn xuống khu vườn ở khoảng sân bên dưới. Ở đây được trang bị khá đầy đủ, khi ngồi xuống ghế sofa, Ando nhìn xung quanh và bắt gặp những khuôn mặt anh biết là người của các báo và tạp chí. Dường như quầy bar này là nơi các biên tập viên ưa chọn để gặp gỡ các tác giả. Nhiều người đến đây với bản thảo trong tay.


    "Chúng ta vừa mất đi một người tốt."


    Nghe những lời này, suy nghĩ đang vẩn vơ của Ando quay trở lại với chủ đề chính, anh nhìn vào khuôn mặt bóng nhẫy của Kimura ngay bên kia bàn.


    "Tôi và Ryuji Takayama là bạn cùng lớp hồi còn ở trường y," Ando nói, chờ đợi một phản ứng. Anh không còn đếm được mình dã nói câu này với bao nhiêu người.


    "Thật vậy sao? Vậy là anh biết giáo sư Takayama."


    Kimura nhìn vào danh thiếp trong tay rồi gật gù, như thể xác nhận lại một điều gì. Danh thiếp có tên trường đại học nơi Ando làm việc. Có lẽ anh ta nhớ ra rằng Ryuji đã học ở khoa Y của chính trường đại học này.


    "Hơn nữa, tôi là người đã mổ xác cho anh ta."


    Mắt Kimura trợn tròn. Anh há miệng và phát ra tiếng kêu nhỏ kỳ lạ.


    "À, giờ, thế…"


    Kimura yên lặng, nhìn chằm chằm vào hai bàn tay đang cầm tách cà phê của Ando. Dường như anh ta quan tâm đến những ngón tay đã mổ xẻ Ryuji.


    "Nhưng hôm nay tôi đến đây không phải để nói về anh ta," Ando nói, đặt tách cà phê xuống và đưa hai tay lên bàn.


    "Vậy anh đến vì việc gì?"


    "Tôi muốn hỏi anh một chút về một sinh viên của anh ấy. Mai Takano."


    Khi nghe đến tên cô, vẻ mặt Kimura dịu xuống, anh ta rướn người ra trước. "Hỏi gì về cô ấy?"


    Anh ta chưa biết, Ando linh cảm. Nhưng sớm muộn anh ta cũng biết thôi.


    "Anh có biết là Mai đã chết không?"


    Kimura lại kêu lên, thậm chí nghe còn kỳ dị hơn ban nãy, anh ta gần như nhảy ra khỏi chiếc ghế đang ngôi. Cách anh ta biểu lộ những cảm xúc đầy kịch tính đến gần như khôi hài; anh ta đúng là Người Muôn Mặt. Đáng lẽ anh ta nên đến thử vai cho một bộ phim sitcom, Ando nghĩ.


    "Anh đang đùa đấy à!" Kimura kêu lên. "Mai không thể chết được?"


    "Cô ấy ngã xuống dưới một cái khoang thông gió trên sân thượng hồi tháng Mười một vừa rồi và chết trong đó."


    "Tôi đoán điều đó giải thích tại sao tôi không liên lạc được với cô ấy."


    Ando cảm thấy có chút gần gũi với người đàn ông này, người từng rơi vào cảnh ngộ như anh. Anh không biết Kimura đã có vợ hay chưa, nhưng anh sẵn sàng đánh cược rằng gã này ít nhất cũng có chút rung động trước Mai.


    "Anh có nhớ lần cuối gặp cô ấy lúc nào không?" Ando hỏi ngay, không muốn người đàn ông có thời gian để đắm chìm trong cảm xúc.


    Chúng tôi chỉ vừa mới sửa bản in cho ấn phẩm Năm Mới, lúc đó vào khoảng đầu tháng Mười một."


    "Anh có nhớ được chính xác ngày không?"


    Kimura lấy cuốn lịch hẹn năm ngoái ra và lật giở.


    "Ngày hai tháng Mười một."


    Mùng 2 tháng Mười một. Ngay sau hôm Mai đến nhà bố mẹ Ryuji và mang theo cuốn băng về nhà cô. Hẳn là lúc đó cô đã xem cuốn băng rồi.


    "Anh có thể cho tôi biết nơi anh gặp cô ấy khống?"


    "Cô ấy gọi cho tôi nói rằng đã chép xong bài báo. Tôi đến đó ngay để nhận bản thảo."


    "Đến đâu? Căn hộ của cô ấy ư?"


    "Không, chúng tôi gặp nhau tại một quán cà phê trước nhà ga chỗ cô ấy. Như mọi lần." Kimura dường như muốn nhấn mạnh rằng anh ta chưa bao giờ đặt chân vào căn hộ của cô, dù biết rằng cô sống một mình.


    "Khi gặp, anh có thấy cô ấy dường như có gì khác lạ không?"


    Kimura tỏ vẻ bối rối. Anh ta không biết ý của Ando là sao khi đặt câu hỏi đó. "Ý anh là sao?"


    "À, thật không may là vẫn còn một vài nghi vấn xung quanh nguyên nhân cái chết của cô ấy?"


    "Nghi vấn?"


    Kimura khoanh tay lại suy nghĩ một lúc. Ý nghĩ cho rằng điều mình nói có thể ảnh hưởng đến kết quả mổ pháp y của Mai đột nhiên làm anh ta thận trọng.


    "Bất cứ thông tin nào cũng có ích. Anh có nhận thấy điều gì không?"


    "À, hôm đó, cô ấy dường như hơi khác so với chính bản thân cô ấy."


    "Anh nói cụ thể hơn được không?"


    "Cô ấy có vẻ tái nhợt. Cô ấy dùng một chiếc khăn che miệng, như thể đang chống lại cơn buồn nôn."


    Từ buồn nôn khiến Ando chú ý. Anh vẫn nhớ đống màu nâu dường như là chất nôn mà anh đã nhìn thấy trên sàn phòng tắm nhà Mai.


    "Anh có hỏi cô ấy về cơn buồn nôn không?"


    "Không. Ý tôi là, ngay lúc đó cô ấy bảo tôi là không được khoẻ vì phải thức đêm viết lại bản thảo của giáo sư Takayama."


    "Tôi hiều. Vậy cô ấy nói đó là do thiếu ngủ."


    "Đúng."


    "Cô ấy còn nói với anh điều gì khác không?"


    "Lúc đó tôi cũng vội, anh biết đấy. Tôi cám ơn cô ấy về bản thảo, chúng tôi trao đổi một chút về cuốn sách sắp phát hành, rồi tôi từ biệt."


    "Sách. Ý anh là sách của Ryuji."


    "Đúng thế. Ngay từ đầu chúng tôi đăng loạt bài với ý định sau đó sẽ xuất bản một cuốn sách."


    "Cuốn sách đó bao giờ phát hành?"


    "Dự kiến sẽ xuất hiện ở các nhà sách vào tháng sau."


    "Tôi hy vọng nó đạt doanh thu tốt."


    “Đó là một tài liệu khá khó đọc, và chúng tôi không đặt nhiều hy vọng. Tuy nhiên, phải nói rằng cuốn sách thực sự tốt. Xuất sắc."


    Sau đó, cuộc nói chuyện chuyển hướng sang những hồi tưởng về Ryuji, và Ando thấy khó mà quay lại chủ đề chính. Ngay khi anh đưa được Mai vào cuộc trò chuyện để họ có thể nói về mối quan hệ giữa cô và Ryuji, thì thời gian Kimura hứa dành cho anh đã hết. Ando thực sự chưa thu được thông tin nào giá trị cả, nhưng anh quyết định tốt hơn hết là không nên nán lại lâu hơn thời gian mà tay biên tập dự định tiếp anh. Chắc chắn anh cần gặp người đàn ông này thêm, và anh muốn để lại một ấn tượng tốt. Do đó anh cảm ơn Kimura và chuẩn bị về.


    Khi Ando đứng dậy, bỗng dưng anh nhận thấy ba người đang đi vào quầy bar. Hai đàn ông và một phụ nữ, Ando đã nhìn thấy ba người họ trước đây rồi. Người phụ nữ là nhà văn viết tự truyện, cô ta đã nhảy lên hàng best-seller khi có một cuốn sách được chuyển thể thành phim. Ando đã nhiều lần thấy cô ta trên truyền hình và trong các tuần san. Trong số hai người đàn ông, một người là đạo diễn đã chuyển thể tác phẩm của nữ nhà văn kia thành phim. Nhưng người thực sự làm Ando ngạc nhiên là người đàn ông tầm bốn mươi, đi cùng với tay đạo diễn. Anh sắp nhớ ra tên của anh ta. Anh vắt óc. Người này phải là một nhà văn hoặc gì đấy. Khi họ đi qua, Kimura nói với người đàn ông.


    "Này, Asakawa. Tôi rất vui khi nghe mọi việc tiến triển."


    Asakawa.


    Đó là Junichiro Asakawa, anh cả của Kazuyuki. Ando đã đến nhà anh ta ở Kanda vào tháng Mười một để lấy chiếc đĩa mềm Ring. Lúc ấy, Ando quá vui mừng vì có được chiếc đĩa mềm nên anh đã không nói thêm gì ngoài lời tạm biệt chiếu lệ. Nhưng sau đó anh trả lại chiếc đĩa, và gửi kèm theo một bức thư cảm ơn rất lịch thiệp.


    Anh cũng nhớ trên danh thiếp Junichiro đưa cho có tên của nhà xuất bản này. Không biết do tình cờ hay là nhờ mối quen biết mà cuốn sách của Ryuji lại được công ty của anh trai người bạn thân xuất bản.


    Nhận ra Ando, Junichiro dường như hơi ngần ngại vì bất ngờ.


    "Rất vui được gặp lại anh…" Ando cúi chào, định sẽ cảm ơn lần nữa vì sự giúp đỡ của anh ta và cũng để nói một lời chúc năm mới phù hợp. Nhưng Junichiro quay mặt đi, và nói ngay trước khi Ando có thể nói tiếp.


    "Xin lỗi."


    Nói xong câu đó, anh ta né sang bên để tránh Ando, dẫn nữ nhà văn và tay đạo diễn đến một bàn trống. Ando có thể nói anh đã bị phủi mặt.Một lần nữa anh liếc nhìn Junichiro, giờ đã ngồi xuống bàn, nhưng anh ta đang mải nói chuyện với tay đạo diễn và không nhìn về phía anh. Rõ ràng anh ta phớt lờ Ando.


    Anh lục trong trí nhớ để tìm ra một lời giải thích cho cách ứng xử khiếm nhã của Junichiro. Ando nghĩ anh biết khá rõ người đàn ông đó khi họ tiếp xúc với nhau lần trước. Anh không thể nhớ đã làm điều gì để nhận được sự đối xử như vậy. Anh không hiểu nổi. Ando lắc đầu vì thái độ lạ thường của anh ta, rồi theo chân Kimura ra khỏi quầy bar.
     
  19. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Chương 8




    Tối hôm ấy khi về nhà, lần đầu tiên sau rất lâu rồi, Ando xả nước vào bồn tắm. Khi con trai còn sống, anh và nó thường tắm chung với nhau mỗi tối. Nhưng từ khi sống một mình, tắm trong bồn dường như quá phiền phức, và anh dần quen dùng vòi hoa sen.


    Sau khi tắm xong, Ando lấy những bức ảnh chụp qua kính hiển vi điện tử treo lên tường phía đầu giường anh trắng trơn, giống như một màn hình. Anh treo những bức ảnh lên đó, như những bức ảnh X-quang trên hộp đèn, theo thứ tự độ phóng đại tăng dần: x17000, 21000. Các bức ảnh chụp virus tách từ máu của Mai. Ando lùi vài bước nữa, vẫn không rời mắt khỏi chúng. Có một vùng nơi các virus Ring chồng lên nhau, trông giống như một cầu thang xoắn ốc. Anh tập trung, cố gắng tìm ra điều gì đó, bất cứ điều gì đó, bất cứ điều gì anh có thể đã bỏ qua lúc trước.


    Anh tắt bóng đèn trần và chiếu đèn bàn thẳng lên những tấm ảnh. Dưới ánh sáng, những con virus trông như thể đang bò quanh bức tường trắng. Anh xoay đèn sang bức ảnh x24000 chụp những vòng nhẫn đứt giãn ra như sợi dây. Chúng xuất hiện với số lượng rất nhiều trong máu của Asakawa và Mai, nhưng rất ít trong máu của Ryuji và những người khác. Trong trường hợp của Mai, không có dấu hiệu thành trong động mạch vành bị hẹp. Tuy nhiên, trường hợp của Asakawa, một khối u bắt đầu xuất hiện. Nói cách khác, giữa Mai và Asakawa có những triệu chứng hơi khác nhau.


    Tại sao động mạch của cô ấy không bị tổn thương? Ando chuyển sự chú ý sang vấn đề này. Những virus hình dây anh đang nhìn đã không tấn công vào động mạch vành của Mai, vốn là mục tiêu tấn công chính ở những người khác. Tại sao cô ấy là ngoại lệ?


    Có gì đó loé lên trong trí nhớ của anh. Anh giở trang đánh dấu những hoạt động của Mai từ cuối tháng Mười và tháng Mười một trong sổ ghi chép ra, soi dưới đèn. Lần đầu tiên anh gặp Mai là 20 tháng Mười tại phòng Giám định Pháp y, ngay trước khi mổ cho Ryuji. Hôm đó trông Mai không được khoẻ. Ando đã phỏng đoán được lý do: cô ấy đang ở kỳ kinh nguyệt. Dù chỉ là trực giác, nhưng anh tin chắc.


    Anh quay lại nhìn những bức ảnh trên tường. Anh nhìn vào những virus hình dây trong tấm chụp phóng đại x100000. Anh có nhớ lại ấn tượng đầu tiên khi thấy nó ở trường đại học.


    Đầu hình ôvan và đuôi ngọ nguậy, nó không nhắc anh nhớ đến điều gì sao? Những con sâu đó đã bơi trong mạch máu của Mai, nhưng chúng không tấn công động mạch vành của cô.


    Chúng tấn công vào cái gì?


    Anh thấy nóng đầu. Một khe nhỏ từ từ mở ra, để ánh sáng lọt vào. Đấy là một trong những khoảnh khắc khi điều trước đó bị che đi giờ đột nhiên lọt vào tầm nhìn. Ando xem lại cuốn sổ, vào ngày anh cho là Mai đã xem cuốn băng. Tối mùng 1 tháng Mười một. Ngày thứ mười hai hoặc mười ba sau kỳ kinh nguyệt của cô.


    Anh tiến một bước lại gần bức tường, rồi một bước nữa. Nhìn vào những virus Ring đang ngọ nguậy đuôi.


    Đúng rồi. Trông chúng giống y hệt tinh trùng đang bơi vào cổ tử cung.


    "Tinh trùng?" anh bật lên.


    Hôm đó là ngày cô ấy rụng trứng.


    Phụ nữ thường rụng trứng khoảng hai tuần sau kỳ kinh, và trứng chỉ ở trong vòi trứng tối đa là hai mươi bốn giờ. Nếu trong vòi trứng của Mai có trứng vào đêm cô ấy xem cuốn băng…


    Virus Ring bất ngờ tìm được lối thoát và chuyển mục tiêu từ động mạch vành sang trứng của cô. Ando thở dốc, ngồi xuống mé giường. Anh không cần nhìn vào cuốn sổ hay bức hình nữa. Chỉ có thể là Mai đã rụng trứng khi xem cuốn băng. Chính là cô đã gặp vận rủi khi xem đúng vào ngày ấy trong tháng. Điều đó giải thích tại sao cô lại là ngoại lệ. Trong số tất cả những phụ nữ đã xem cuốn băng, chỉ cô là người duy nhất đang rụng trứng.


    Và rồi…


    Khi cố suy luận xem điều gì chắc chắn đã xảy ra, xương sống Ando lạnh toát. Nhưng anh không thể ngăn mình đi đến một kết luận rõ ràng.


    Hàng vô số con virus Ring đã xâm nhập vào trứng của Mai và được ghép vào AND của trứng.


    Chúng thụ tinh trứng của cô.


    Mặc dù đã tiến hoá, bản chất của virus Ring không thay đổi. Trong đúng một tuần, trứng được thụ tinh sẽ phát triển hoàn thiện và thoát ra khỏi cơ thể Mai. Đó chính là lý do tại sao mổ pháp y lại tìm tháy bằng chứng Mai đã sinh nở.



    Nhưng cô đã sinh ra cái gì?



    Khi đến căn hộ của Mai, căn phòng được cho là không có người ở, anh chắc chắn đã cảm thấy hơi thở của một sinh vật. Khi cúi người trong tư thế bất thường để xem xét nhà vệ sinh của cô, anh đã cảm thấy một cái gì mềm nhũn chạm vào gót chân của mình, chỗ tất bị tụt xuống. Anh chắc chắn sinh vật đã chạm vào anh chính là vật Mai đã sinh ra. Cái gì rất nhỏ đủ để thoát khỏi sự chú ý của anh khi tìm kiếm. Có lẽ lúc ấy nó đang trong giai đoạn phát triển ban đầu nên có thể ẩn nấp trong tủ quần áo của cô. Cho dù là gì, anh cũng đã cảm thấy nó chạm nhẹ vào da anh.


    Ando rùng mình không dứt. Anh cảm thấy muốn ngâm mình trong bồn tắm lần nữa và cởi quần áo ra. Anh chưa tháo nắp đáy, bồn vẫn còn đầy nước. Anh xả nước nóng cho đến khi nhiệt độ nước cao hơn lần ngâm mình trước, xoay chân để nhìn vào gót. Anh co chân. Nó vẫn hoàn toàn bình thưòng, nhưng điều đó cũng chẳng khiến anh yên lòng chút nào.


    Anh thả bàn chân xuống nước và ngồi ôm gối. Lúc sau, một câu hỏi xuất hiện trong anh. Giờ anh đã biết lý do Mai không bị suy tim cấp, nhưng còn Assakawa?


    "Anh ta là nam giới," Ando lẩm nhẩm.


    Nhưng có lẽ, anh ta cũng sinh ra cái gì đó rồi cũng nên.


    Có lẽ nước quá nóng, Ando bỗng thấy khát.
     
  20. Gackt2

    Gackt2 Member
    • 585/746

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    2,694
    Phần 5: Điềm Báo

    Chương 1



    15 tháng Giêng, Lễ Thành nhân, là ngày nghỉ, thành ra một kỳ nghỉ cuối tuần ba ngày. Vào ngày đầu tiên của kỳ nghỉ dài đó, Ando nhận được điện thoại của Miyashita rủ anh đi chơi. Đối với Ando, nhận được lời mời chẳng khác gì kẻ dưới thuyền đang gặp bão mà nhìn thấy bến cảng, vì anh đang không biết làm gì cho hết ba ngày nghỉ vô công rồi nghề lủi thủi một mình. Anh không chắc có thích cách Miyashita đề nghị anh hay không - như thể anh ta đang giấu giếm điều gì - nhưng Ando không có lý do để mà không đi theo. Anh nói có, rồi hỏi " Chúng ta đi đâu?"


    "Có cái này tôi muốn cho cậu xem", đó là tất cả những gì Miyashita nói. Ando hiểu ông bạn có lý do, nên anh kiềm chế không hỏi dồn thêm nữa. Anh sẽ có câu trả lời khi gặp Miyashita.


    Miyashita đón Ando tại nhà . Ngay khi leo lên xe, Ando lại hỏi họ sẽ đi đâu.


    "Không nói với cậu được. Giờ đừng hỏi nữa".


    Do đó ngay cả khi khởi hành rồi, Ando cũng không biết mình sẽ đi đâu.


    Chiếc xe rời đường cao tốc Tokyo - Yokohama số 3 sang đường mới Yokohama. Dường như họ đang đến Fujisawa. Họ không thể đi quá xa, nếu vẫn muốn đó là chuyến đi trong ngày. Nếu xa lắm cũng chỉ là Odawara hoặc Hakone, có thể là bán đảo Izu, nhưng không xa hơn Atami hay Ito. Sau nhiều phỏng đoán về điểm đến của chuyến đi bí ẩn. Ando quyết định ngồi yên và tận hưởng cuộc du ngoạn.


    Ngay trước khi sắp hòa vào tuyến đường, họ phải dừng lại. Lối vào đường mới Yokohama luôn tắc nghẽn, đặc biệt là vào hôm nay, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần dài. Để Miyashita khỏi thấy chán ngắt khi cầm lái, Ando quyết định kể cho anh ta những giả thiết mà anh đã rút ra vài hôm trước, về việc tại sao chỉ có Mai không xuất hiện những bất thường trên động mạch vành. Theo lý luận của Ando, Mai đã rụng trứng vào ngày cô xem cuốn băng, và virus Ring chuyển hướng tấn công sang trứng của cô. Vì vậy, trước khi ngã xuống khoang thông gió trên mái nhà, Mai đã sinh ra một dạng sống chưa biết. Một giống gì có thai kỳ chỉ một tuần. Nếu cô mới sinh nở, điều đó giải thích tại sao cô không mang quần lót.


    Miyashita lắng nghe anh nói, rồi yên lặng một lúc. Đôi mắt tròn xoe của anh ta dường như đang nhìn chăm chú về phía trước, nhưng sau đó anh ta chuyển làn đột ngột, trái ngược với vẻ bình thản của mình, lái xe vào làn đường vượt.


    "Ít nhiều tôi cũng đã nghĩ như thế khi nhìn những con virus của Mai dưới kính hiển vi điện tử", Miyashita nói, không để ý đến tiếng còi réo ầm ĩ đằng sau.


    "Ý cậu là sao?"


    "Virus vòng đứt trông rất quen thuộc. Sau một lúc tôi mới nghĩ ra rằng chúng giống tinh trùng".


    "Cậu cũng nghĩ thế sao?"


    "Nemoto cũng nói y hệt".


    "Vậy là cả ba chúng ta đều có chung một ấn tượng".


    "Đúng. Đôi khi ta phải để ý đến trực giác". Miyashita nhếch mép cười với Ando, không để ý đến con đường đằng trước.


    "Cậu nhìn đường hộ tôi với!". Khi đèn phanh của chiếc xe phía trước sát gần, Ando ríu cả chân.


    "Đừng lo, chúng ta sẽ không chết giống Asakawa đâu". Miyashita nói, cố gắng tỏ ra vô tư lự khi đạp phanh. Nhưng cái hãm xung gần như chạm vào chiếc xe phía trước họ. Ando lau mồ hôi lạnh, tự hỏi trong sâu thẳm nhận thức của Miyashita có gì không ổn chăng. Lái xe kiểu ấy sớm muộn gì họ cũng sẽ gặp tai nạn.


    "Nói về Asakawa, tại sao anh ta không chết vì bị suy tim vẫn còn là bí ẩn".


    "Đúng. Đàn ông không rụng trứng được".


    "Nhưng có lẽ có một điều gì khác biệt trong thể chất của anh ta, giống như Mai".


    "Loại virus có thể đã tìm thấy một lối thoát".


    "Lối thoát?"


    "Một cách tốt hơn để lây lan và phát triển".


    Khi qua lối ra đoạn đường vòng Hodogaya, giao thông đỡ tắc nghẽn đi đôi chút, và họ đã tiết kiệm được thời gian. Chắc chắn, các bảng hiệu giao thông đã khiến Miyashita dùng đến từ "lối thoát". Anh ta nói tiếp.


    "Cậu biết đấy, có giải quyết được vụ này không là tùy thuộc vào chúng ta". Mọi dấu hiệu lãnh đạm thường thấy trong giọng nói của anh ta đã biến mất.


    "Tin tôi đi, tôi đang cố đây".


    Miyashita thay đổi chủ đề " Mấy ngày nghỉ Tết cậu làm gì?'


    "Không gì cả. Tôi nằm lì ở nhà".


    "Hừm. Tôi đưa cả nhà đến một làng chài ở mũi phía Nam bán đảo Izu. Chúng tôi ở trong một nhà nghỉ B&B nhỏ, nó thậm chí còn không được nhắc đến trong các sách hướng dẫn du lịch. Cậu biết tại sao tôi chọn nơi xa thế không?Là vì một trong những cuốn sách ưa thích của tôi chọn bối cảnh là ngôi làng đó, tôi luôn muốn đến đấy. Cuốn sách nói rằng nếu đứng từ làng nhìn ra chân trời ngoài biển khơi, ta sẽ nhìn thấy ảo ảnh. Tôi đã tin".


    Ando không biết Miyashita đang muốn nói gì. Anh chỉ gật đầu lắng nghe.


    "Tôi biết thật không ý tứ khi nói với cậu điều này, nhưng gia đình là một điều tuyệt vời. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng sóng từ trong nhà trọ, hiểu chứ, tiếng sóng đã đánh thức tôi dậy lúc nửa đêm. Và khi ngắm nhìn gương mặt vợ và con gái, từ trong sâu thẳm tôi thấy họ thân yêu biết nhường nào".


    Ando biết rõ gia đình thân thương đến thế nào. Anh cố tưởng tượng kỳ nghỉ Tết cùng gia đình ở một làng chài phía nam Izu, ở đó người ta có thể nhìn thấy ảo ảnh... Khi một mình, nỗi cô đơn sẽ xâm chiếm, nhưng sự hiện diện của những người thân yêu sẽ làm người ta thấy ấm lòng. Ando bắt đầu đắm chìm trong ý nghĩ về gia đình đã tan vỡ của anh, nhưng Miyashita không cho anh có thời gian.


    "Vợ tôi đẹp lắm, đúng không?"


    Nhưng khi trả lời, Ando không hình dung ra vợ của Miyashita, mà là vợ của chính mình "Rất đẹp", anh gật đầu, nghĩ lại vẻ ngây thơ và tươi tắn của cô khi họ lần đầu gặp nhau.


    "Còn tôi, lùn tịt, béo phệ, và xấu xí. Cô ấy xinh đẹp, và tính tình thì tuyệt vời. Tôi biết mình thật may mắn".


    Vợ của Miyashita cao hơn anh ta, trông như một diễn viên nổi tiếng. Đứng cạnh vợ mình, Miyashita rõ ràng trông như một nòi giống thấp kém hơn. Nhưng anh ta tài năng, và nếu cứ giữ đà này, anh ta chắc chắn sẽ có biên chế ở trường y. Ando cười buồn bã. Chả có gì thấp kém cả.


    "Nên tôi không muốn chết. Tôi nghĩ mình đã quá lạc quan. Từ đầu tôi đã tham gia vào vụ này như một người quan sát vô tâm. Thực tế, tôi còn thích thú tự hỏi mọi việc sẽ đi đến đâu".


    Ando thì nhìn nhận sự việc nghiêm túc hơn một chút. Nhưng chính anh cũng đã đứng ở vị thế của một người quan sát không vô tâm. Ngay cả nếu không giải quyết được vụ này, anh cũng không sợ phải chịu hậu quả là một tổn hại cụ thể nào đó. Vì vậy, tình huống của anh về cơ bản là khác với Asakawa và Ryuji.


    "Tôi cũng thế".


    "Nhưng tôi nhận ra có lẽ mình đánh giá quá thấp mối nguy hiểm".


    "Từ lúc nào?"


    "Sau kỳ nghỉ, khi tôi từ Izu trở về".


    "Có chuyện gì xảy ra ở đó?"


    "Không thấy ảo ảnh đâu cả".


    Ando cau mày. Miyashita nói khó hiểu quá.


    "Chỉ thế thôi à?"


    "Đã bao giờ cậu đến một nơi là bối cảnh của một cuốn tiểu thuyết chưa?"


    "Rồi, tôi nghĩ thế". Ando biết rằng hầu hết mọi người, ít nhất một lần, đều cảm thấy sự thôi thúc muốn đến nơi là bối cảnh của cuốn sách mình yêu thích.


    "Thế nào?"


    "Kiểu như là, ' Ờ, mình nghĩ là đúng chỗ này".


    "Có khác với những gì cậu tưởng không?"


    "Đa phần là thấy thất vọng?"


    "Bối cảnh cậu tưởng tượng ra khi đọc cuốn sách khác với thực tế cậu nhìn thấy".


    "Tôi không nghĩ nó có thể giống y như thật".


    "Chuyện xảy ra với tôi ở Izu cũng y như thế. Chính là chuyện này. Tôi nhận ra nơi đó từ những mô tả trong cuốn sách. Nhưng tôi cảm thấy không ổn và cuối cùng nó không phải là những gì tôi tưởng tượng. Tôi không thấy được ảo ảnh".


    Ando không nói ra, nhưng anh nghĩ sự bất bình của Miyashita thật hết sức trẻ con. Một tiểu thuyết gia không tránh khỏi việc nhìn sự việc qua lăng kính của ông ta và từ đó mà miêu tả chúng. Lăng kính đó là của riêng tác giả, và khi người đọc tự hình dung ra một quang cảnh dựa trên cuốn sách, thì kết quả chắc chắn không tránh khỏi khác với thực tế. Không có cách nào truyền tải chính xác được một cảnh vật cho người khác mà không cần dùng đến máy chụp hình hoặc quay phim. Ngôn ngữ có hạn chế của nó.


    Đột nhiên Miyashita ghé sát vào mặt Ando rồi nói " Mặt khác, nếu ..."


    "Cậu có thể vừa nói vừa nhìn đường được không?". Ando chỉ thẳng đằng trước, và Miyashita cho xe chạy chậm lại rồi chuyển sang làn đường khác.


    "Cậu có nhớ đọc Ring khi nào không?"


    Ando có thể nhớ chính xác. Đó là ngày sau hôm anh mượn chiếc đĩa mềm từ Junichiro, anh trai của Asakawa. Ando đã vồ lấy từng trang giấy ra khỏi máy in và đọc ngấu nghiến.


    "Tôi thậm chí còn nói được cả ngày. 19 tháng Mười một".


    "Tôi đọc một lèo đến hết".


    Điều đó cũng đúng với Ando. Anh đã đọc một mạch và chưa hề đọc lại "Thì sao?"


    "Dù đọc có một lần, nhưng tôi nhớ các cảnh vật rất rõ ràng. Đôi khi tôi vẫn nghĩ về chúng".


    Về điểm này anh cũng đồng ý. Các sự kiện và nơi chốn được miêu tả trong Ring hết sức sống động, như thể chúng được chôn vào những nếp nhăn trong não anh. Nếu cố gắng, anh có thể nhớ lại từng cảnh vật rất rõ ràng. Một bài phóng sự đầy hình ảnh. Nhưng mà, thế thì sao?


    Không hiểu ý của Miyashita ra sao, Ando không trả lời.


    "Bỗng nhiên tôi tự hỏi bài phóng sự đó đã truyền tải cảnh vật chính xác đến mức nào".


    Nét mặt Miyashita vẫn bình lặng lạ thường, so với sự nghiêm nghị trong lời nói anh ta vừa thốt ra.


    Giờ Ando đã hiểu được bản chất mối lo lắng của Miyashita. Nếu bối cảnh họ đã tưởng tượng khi đọc Ring không hề khác một chút nào so với thực tế thì sao? Liệu có thể xảy ra không?


    "Nếu như ...". Cổ họng Ando khô khốc khi anh thốt ra những từ đó. Máy sưởi giúp cho chiếc xe duy trì được nhiệt độ dễ chịu, nhưng nó cũng làm không khí khô đi.


    "Tôi nghĩ tốt hơn hết là chúng ta đến xem thử".


    "Tôi hiểu rồi. Thế nên cậu mới kéo tôi theo".


    Cuối cùng Ando cũng biết nơi họ đến. Họ đang đến Nam Hakone - vùng Atami, nơi diễn ra nhiều sự kiện được tường thuật trong Ring. Họ sẽ đến để xem hình ảnh hiện thực có phù hợp với những gì họ tưởng tượng trong đầu không. Và tất nhiên, hai người xem tốt hơn là một. Ando và Miyashita có thể quan sát, thảo luận, và hy vọng đi đến một đánh giá chính xác.


    "Lúc đầu tôi định không nói với cậu cho đến khi tới đó. Tôi không muốn cậu có định kiến".


    "Tôi sẽ ổn thôi".


    "Tôi quên mất không hỏi. Trước đây cậu chưa từng đến Pacific Land, Nam Hakone chứ?".


    "Dĩ nhiên là chưa. Thế còn cậu?".


    "Tôi còn chưa từng nghe đến cái tên ấy cho đến khi đọc thứ đó".


    Vậy là cả hai người họ chưa từng đến đấy. Nhưng khi nhắm mắt lại, Ando có thể nhìn rõ trong đầu mình những ngôi nhà gỗ ở Villa Log Cabin, nằm rải rác trên một con dốc thoai thoải. Ngôi nhà B-4 là nơi chuỗi sự việc kinh hoàng này bắt đầu. Dưới hiên nhà có một lỗ hổng dẫn đến một giếng cũ sâu chừng năm hoặc sáu mét. Cách đây hai lăm năm, một phụ nữ tên là Sadako Yamamura đã bị cưỡng hiếp, rồi bị ném xuống giếng - một nhà ngục tối tăm nơi ý chí báo thù của Sadako kết hợp với ý chí của virus đậu mùa để phát tán.


    Đó là nơi Miyashita dự định sẽ đến.


    Để đến núi Hakone, bị mây che phủ, phía bên phải, Miyashita lái xe qua Manazuru theo hướng Atami. Theo phóng sự Ring, họ sẽ nhìn thấy biển báo Pacific Land, Nam Hakone, ngay khi ra khỏi Atami trên đường cao tốc Atami - Kannami. Đó là tuyến đường Miyashita và Ando đang chạy.


    Lần đầu tiên cả hai người họ đi trên đường cao tốc này. Nhưng Ando cảm tưởng rằng anh đã từng đi rồi. Kazuyuki Asakawa đã ở trên con đường này vào ngày 11 tháng Mười. Anh ta đã đi vào một con đường đồi núi mà không biết rằng cái gì đợi mình tại nhà B-4, mặc dù không phải là không cảm thấy một điềm báo. Lúc ấy gần giữa trưa, bầu trời trong sáng. Vào ngày 11 tháng Mười, trời mưa rồi lại tạnh, cần gạt nước trên xe của Asakawa đã bật lên. Ando nhớ đã đọc nó trong Ring. Asakawa khó khăn lắm mới nhìn được qua kính chắn gió vì chiếc cần gạt nước cứ chạy qua chạy lại. Cả thời gian trong ngày và thời tiết đều khác bây giờ, nhưng Ando cảm giác như anh đang trải qua những gì Asakawa đã mô tả. Anh thấy biển báo đến Pacific Land đặt bên sườn núi. Trông rất quen thuộc, kiểu chữ viết ít được sử dụng, màu đen trên nền trắng. Miyashita không chút lưỡng lự rẽ trái, chạy vào con đường núi như thể biết đường rất rõ.


    Con đường ngày càng hẹp và dốc khi chạy vào đoạn xuyên giữa những cánh đồng. Mặt đường xấu đến mức khó mà tin được là con đường này dẫn đến một khu nghỉ dưỡng. Những cành cây không được chặt xén, cỏ dại chết khô quệt vào hai bên xe tạo nên âm thanh rất khó chịu. Càng lên cao, cái cảm giác đã-gặp-rồi của Ando càng mạnh. Trước đây, anh chưa bao giờ đi trên con đường này, nhưng giờ thì anh không dám chắc điều đó.


    "Cậu thấy mọi thứ quen thuộc không?". Ando hỏi nhỏ.


    "Tôi cũng định hỏi cậu câu ấy".


    Vậy là Miyashita cũng cảm thấy thế. Tất nhiên Ando cũng có cảm giác đã-gặp-rồi nhiều lần trước đây, nhưng nó chưa bao giờ kéo dài như lần này. Cảm giác đó càng mạnh lên khi họ tiếp tục đi. Ando có thể hình dung rõ ràng trạm thông tin đang chờ họ ở cuối con đường, một tòa nhà ba tầng mặt tiền được lắp kính đen.


    Họ đi vào con đường vòng dẫn đến bãi đỗ xe, và một tòa nhà hiện lên trong tầm mắt. Đó là trạm thông tin, đúng như Ando hình dung. Anh thậm chí còn tưởng tượng ra nhà hàng ở phía sau hành lang. Không cần phải xác nhận gì thêm. Đọc bài phóng sự Ring, Ando và Miyashita đã được truyền tải những cảnh tượng này một cách trung thực hoàn hảo. Còn lời giải thích nào hơn?
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này