Chương 28
Trong những ngày đầu của tháng Giêng, sân trường đại học Clinton biến thành một lâu đài pha lê. Sau một trận bão tuyết, sinh viên đã vui đùa chạm khắc vài ba hình nộm tưởng tượng. Nhiệt độ âm giữ nguyên vẻ đẹp nguyên thủy của chúng cho đến lúc mưa rơi.
Hôm nay, vài ba vết trắng còn sót lại trên bãi cỏ nâu đẫm nước. Các vết tích của các chạm khắc khi tan tạo nhiều hình dáng quái đản. Sự sảng khoái sau các kỳ thi đã qua đã đưa các lớp học trở lại nhịp sống bình thường.
Laurie nhanh nhẹn băng qua bãi cỏ của sân trường để đến văn phòng của giáo sư Allan Grant. Cô đi với hai tay thọc sâu trong túi áo anôrắc mặc ở ngoài một quần jean và một áo thun. Mớ tóc vàng ánh của cô được cột theo kiểu đuôi ngựa. Trước đó để làm dáng, cô có tô một ít son và đánh bóng mờ nơi mí mắt, nhưng sau đó cô lại bôi hết đi.
Mày đừng có tưởng bở, mày trông ghê lắm đó.
Các giọng đó nói chuyện với cô mỗi lúc một thường xuyên hơn. Laurie bước nhanh hơn tựa chừng cô muốn bỏ chúng lại phía sau.
Laurie ơi, mỗi việc đều do lỗi của mày hết đó. Những gì xảy ra hồi lúc mày còn nhỏ cũng là do lỗi của mày.
Laurie hy vọng làm tốt các bài tiểu luận về các tác giả thời Victoria. Cho đến năm nay, cô luôn được điểm cao, nhưng thời gian sau này, cô có cảm tưởng như mình đang ở trên một chiếc xe trượt dốc vậy. Một hôm có được điểm A hay B+, còn hôm khác đề mà cô phải bàn luận tỏ ra quá xa lạ đến mức cô không nghĩ là mình đã được nghe trong lớp học. Sau đó, cô mới tìm thấy các ghi chép mà cô cũng không nhớ là đã ghi chúng khi nào nữa.
Đến lúc đó, cô mới nhìn thấy Gregg. Anh đang băng ngang lối đi giữa hai khối nhà dành cho sinh viên. Tuần trước, khi mới từ Anh quốc về, anh có gọi điện cho cô. Cô đã gần như hét bảo anh hãy để cho cô yên và gác máy một cách thô bạo.
Anh chưa nhìn thấy cô. Cô liền bỏ chạy về phía tòa nhà chánh chỉ cách có vài thước. Cám ơn trời, hành lang vắng tanh. Cô tựa đầu vào bức tường để thưởng thức cái không khí mát lạnh.
Đồ nhát gan.
Tao không nhát gan, cô phản đối với chính mình. Ưỡn vai ra, cô nở một nụ cười thân thiện với một sinh viên vừa bước ra từ văn phòng của ông Allan Grant. Cô gõ vào cánh cửa đang còn hé mở. Một cảm giác nồng ấm bao trùm lấy cô trước lời chào đón “Vào đi Laurie”. Ông luôn tỏ ra tử tế với cô.
Căn phòng làm việc nhỏ hẹp của ông Grant được sơn một màu vàng chói. Các kệ đầy sách chạy dài suốt bức tường bên phải của cửa sổ. Trên chiếc bàn dài đầy các ấn phẩm và bài làm của sinh viên, trông bàn làm việc rất ngăn nắp với một điện thoại và một chậu đứng cùng một con cá cô độc và một cây xanh.
Ông Grant chỉ cô ngồi vào chiếc ghế đối diện với bàn ông.
- Ngồi xuống đi Laurie, nói xong ông đưa bài làm mà cô viết về Emily Dickinson.
- Hình như ông không thích nó thì phải, cô e dè hỏi.
- Trái lại, tôi thấy nó hay đấy chứ. Nhưng tôi không hiểu tại sao cô lại thay đổi ý kiến về bà Emily này.
- Ông nhận thấy bài này hay. Laurie mỉm cười nhẹ nhõm. Nhưng ông muốn nói gì khi bảo là thay đổi ý kiến?
- Ở học kỳ trước, trong bài khảo luận về Emily Dickinson, cô đã chính xác nhấn mạnh đến cách sống ẩn cư, nêu rõ tài năng của bà ta chỉ được phát triển hết mức một khi sống lánh xa mọi người như thế. Còn hôm nay, cô triển khai giả thuyết Emily là một người bị rối loạn tâm thần, tỏ ra lo sợ nên thơ văn của bà chỉ có thể đạt đến đỉnh cao nếu như bà ta không đè nén các cảm xúc của mình như thế. Cô đã kết luận bằng câu “Một phiêu lưu tình ái với người thầy và là thần tượng của mình là Charles Wadsworth chỉ có lợi cho bà ta mà thôi.”
Ông Grant mỉm cười.
- Đôi khi tôi cũng tự hỏi, không biết lý do gì đã khiến cô thay đổi ý kiến như thế?
Đúng vậy, vì lý do gì? Laurie có câu trả lời.
- Có thể nào cách suy nghĩ của tôi lại giống như ông. Có thể tôi cũng đã tự hỏi mình chuyện gì sẽ xảy ra nếu như bà ta tìm được lối thoát bằng tình dục cho các cảm xúc của mình thay vì phải sợ hãi như vậy.
Grant gật đầu.
- Được rồi! Thế hai câu ở ngoài bìa có phải cô đã viết không?
Chúng không giống nét chữ của cô, nhưng ngoài bìa xanh lại đề tên cô.
Có một cái gì đó đã thay đổi nơi giáo sư Grant. Nét mặt của ông dường như trở nên suy tư, có thể nói là bối rối. Hay ông chỉ muốn tỏ ra tử tế với cô thôi? Có thể nào bài khảo luận của cô thật ra không đáng giá gì hết?
Con cá vàng lội trong sự vô định, dửng dưng trước mọi việc.
- Còn mấy con kia đâu rồi thầy? cô lên tiếng hỏi.
- Một tên đùa dai nào đó đã cho chúng ăn quá nhiều nên đã chết hết rồi. Laurie à, có một việc mà tôi muốn nói với cô…
- Thà tôi chết vì phát ách hơn là bị xe cán chết, ông có nghĩ vậy không? Ít ra thì không có máu. Ồ xin lỗi, hình như ông đang nói gì thì phải?
Allan Grant lắc đầu.
- Không có gì quan trọng cho lắm. Lúc này cô trông khỏe hơn rồi có phải không?
Cô biết ông muốn nói gì đây.
- Đôi khi với sự giúp đỡ của ông bác sĩ, cuối cùng tôi cũng phải chấp nhận tai nạn của cha mẹ tôi là do chiếc xe ca gây ra khi nó phóng quá nhanh với cái thắng hư hỏng, nhưng có lúc tôi vẫn không chấp nhận chuyện đó.
Một tiếng nói nội tâm vang lên trong cô.
“Mày đã tước đi mạng sống của cha mẹ mày, giống như mày đã đánh mất hai năm của cuộc đời họ khi mày ra đứng xem cái đám ma đó đi ngang qua nhà.”
Cô không muốn bật khóc trước mặt giáo sư Grant. Ông luôn tỏ ra quá tử tế với cô, nhưng rồi người ta cũng phải mỏi mệt khi cứ phải kích động tinh thần người khác lên. Cô đứng lên.
- Em… xin phép đi đây, cô ấp úng. Thầy còn có gì khác không ạ?
Allan Grant nhìn Laurie ra về, trong lòng rối bời. Còn quá sớm để biết chắc, những bài khảo luận mà ông đang cầm trên tay đã đem lại cho ông một đầu mối quan trọng về tác giả của những bức thư bí ẩn được ký với cái tên “Leona”.
Có một cái gì đó nhục cảm trong cách hành văn, rất khác lạ với lối văn phong thông thường của Laurie, nó dường như giống cách viết thư vậy. Ông dường như cũng nhận ra được vài câu lố lăng khác lạ. Có thể đây chưa phải là chứng cứ vững chắc nhưng ít ra ông cũng biết mình có thể bắt đầu từ đâu.
Laurie Kenyon là người cuối cùng mà ông nghi là tác giả của các bức thư kia. Thái độ của cô đối với ông luôn là của một sinh viên biết kính trọng vị giáo sư mà mình mến chuộng và khâm phục.
Trong lúc mặc áo vest, Allan quyết định chưa nói gì với Karen hay với ban điều hành về mối nghi ngờ của mình. Ông nhận vài bức thư hết sức táo bạo. Sẽ rất khó chịu cho một người vô tội khi bị hỏi về chúng, nhất là một đứa trẻ đã từng trải qua một thảm kịch như Laurie đây. Ông tắt đèn và đi về nhà.
Núp sau các bụi cây, móng tay bấu chặt trong lòng, Leona nhìn ông ra đi. Mới tối đêm qua thôi, cô còn núp ở ngoài ngôi nhà ông. Như thường lệ, ông vẫn kéo kín màn cửa sổ và cô đã rình ông ta suốt ba giờ liền. Vào khoảng chín giờ, ông hâm nóng một bánh pizza, sau đó đem nó vào trong phòng làm việc cùng một chai bia. Ông ngồi thoải mái vào trong cái ghế bành da nâu, lấy chân tháo đôi giày ra và gác chúng lên chiếc ghế dài.
Ông đọc một tiểu sử của Bemard Shaw. Sao cái cử chỉ vuốt tóc của ông đáng yêu đến như thế không biết. Ông vẫn thường làm như vậy trong lúc dạy. Khi uống hết chai bia, ông nhìn cái ly không, nhún vai rồi bỏ xuống nhà bếp để trở lên với một chai khác.
Đến mười một giờ, ông xem chương trình tin tức trên ti vi, tắt đèn và bước ra khỏi phòng làm việc. Cô biết ông sắp sửa đi ngủ và luôn để cửa sổ mở. Thường thì cô bỏ đi sau khi ông đã tắt đèn, nhưng có một đêm cô đã kéo cái cánh cửa lùa và thấy nó không bị khóa. Kể từ đó, có vài đêm, cô lẻn vào trong nhà, ngồi co người lại trên chiếc ghế bành, tưởng tượng là trong giây lát đây ông sẽ nói với cô “Này em yêu, em hãy đi ngủ đi, anh cần có em bên cạnh anh”.
Một hay hai lần gì đó, cô chờ cho đến khi nào biết chắc là ông đã ngủ say rồi để rón rén bước lại chiếc giường để ngắm nhìn ông cho kỹ hơn. Đêm qua, bị lạnh cóng mà mệt nhoài, cô đã bỏ về khi ông vừa tắt đèn phòng làm việc.
Lạnh cóng và mệt nhoài.
Lạnh cóng.
Laurie chà hai tay vào nhau. Đột nhiên trời tối đen. Cô không nhận thấy là trời đã tối như thế khi bước ra khỏi phòng làm việc của giáo sư Grant một phút trước đây.