Trôi dạt
1
Như một dòng thác tung bọt trắng xóa, cơn bão bất ngờ tràn qua chỗ Wakashio VII, một tàu đánh bắt cá xa bở đang chở đầy cá ngừ. Khi đã đi qua con tàu, cơn bão tràn qua mặt biển về phía Nam. Chiếc cầu vồng được hình thành sau đuôi hiện lên như một vòm khải hoàn môn chào đón con tàu trở về bến cảng. Vài tiếng trước đó, họ đã vượt biển đến tận quần đảo Ogasawara, đi về phía Bắc thêm chút nữa là có thể trông thấy mặt nghiêng của đảo Torishima. Tiến xa hơn nữa cũng theo hướng Bắc, họ sẽ tới đảo Hachiojima. Kazuo Shiraishi càng lúc càng nhẹ nhõm, như thể họ đã trở lại Nhật Bản rồi vậy.
Khi Kazuo đứng trên đài chỉ huy, một cảm giác rằng cuộc hành trình cả năm trời cuối cùng cũng kết thúc cứ lịm dần vào anh. Đây là chuyến đi thứ ba như vậy của anh. Nhưng lòng anh cảm thấy dạt dào hơn nhiều so với lần trở về thứ nhất. Điều chắc chắn là do khoảng thời gian kéo dài dai dẳng đang chờ đợi trước khi anh ra khơi lần nữa.
Khi trở về từ chuyến đi biển thứ hai bảy năm về trước, Kazuo bắt đầu nhận chân giám sát bốc dỡ hàng trong một kho cá của ngư trường, chuyên phụ trahcs phân loại cá ngừ. Ký ức của anh về chuyến đi biển lần thứ hai đó không được tốt lắm; cụ thể thì anh thấy khó chịu trước những tính xấu lan tràn trong thủy thủ đoàn, hệ quả là anh đã viết đơn, một lá đơn ngắn, xin một công việc trên đất liền.
Dù có bằng kỹ sư, trong vòng năm năm sau đó anh tiếp tục bám lấy công việc trên đất liền của mình ở Ngư trường Wakashio, kiên quyết chối từ mọi cơ hội trở lại biển cả.
Rồi đến hai năm trước, khi đang lái xe tải của công ty đến Tokyo, anh bị kẹt trong cảnh tắc đường. Chứng sợ không gian hẹp khi lọt thỏm giữa bốn bề toàn những xe tải đã đánh bại anh. Trong khoảnh khắc đó anh nhận ra rằng cuối cùng thì mình thực sự không thuộc về đất liền. Anh thuộc về biển cả nơi tầm nhìn không bị cản trở. Để miêu tả cảnh mặt trời lặn trên biển, Kazuo thường vòng tay mình thành hình tròn, dù một cử chỉ như thế khó mà thực sự thể hiện được vẻ huy hoảng của cảnh hoàng hôn trên biển. Mỗi khi kẹt giữa dòng xe cộ tắc nghẽn, chợt nhớ lại bức tranh biển ấy, anh lại càng thấy thấm thía vẻ đẹp của nó. Sự tĩnh lặng bình yên ở biển sâu sắc biết bao nhiêu so với tiếng ầm ĩ hỗn loạn của dòng xe cộ này! Bởi thế, như thế đó là lần đầu tiên bị sự cám dỗ của biển cả đánh thức, Kazuo hạ quyết tâm đã đến lúc khởi hành chuyến đi thứ ba, và ngay lập tức liên hệ với công ty về việc đó.
Là trợ lý máy tàu, Kazuo hài lòng với chuyến đi này. Giắt lưng một sự nghiệp đáng kể, anh được tất cả mọi người trên tàu đánh giá là một thủy thủ dạn dày. Không ai đối xử với anh như mấy cậu chíp hôi bồi tàu như họ đã làm với anh trong chuyến đi trước, và lần này trên tàu cũng không chia phái lèn cựa nhau. Sau khi hoàn thành công nhiệm vụ ở Nam Thái Bình Dương, khoang lạnh của tàu Wakashio VII giờ đã đầy ắp cá ngừ vây xanh phương Nam loại lớn. Hơn nữa, trong suốt cuộc hành trình, họ cũng không phải đối mặt với điều kiện thời tiết nào nguy hiểm đến mức có thể coi là đe dọa tính mạng. Từ đầu đến cuối, chuyến đi đã diễn ra đúng như kế hoạch. Nếu không kể đến vụ việc hai thành viên thủy thủ đoàn bị lốc cuốn khỏi tàu ở ngoài khơi New Zealand thì toàn bộ nhiệm vụ sẽ thực sự hoàn hỏa. Như có phép màu, một trong hai người này đã được cứu sống, một kỳ tích lôi kéo sực chú ý của báo giới. Nhưng đán buồn là các phóng viên đã tập trung quá mức vào vụ cứu hộ biển kịch tính mà phớt lờ thực tế rằng có một người khác đã mất đi mạng sống trong vụ việc đó. Trong lúc đau buồn vì cái chết của một đồng nghiệp, các nhân viên trên tàu đồng thời lại quá vui mừng khi người kia, tưởng đã chết chắc, đã trở lại với họ. Việc đáng lẽ phải được coi như một sự kiện bi thảm kỳ lạ thay lại làm dấy lên cảm hứng hân hoan của một lễ hội. Có lẽ chuyện này là do thủy thủ bị mất tích ấy không phải là người nổi bật cho lắm.
Chiếc cầu vồng như khải hoàn môn đó xuất hiện chỉ hai, ba ngày trước khi họ về tơi lục địa Nhật Bản. Khi Kazuo đứng quan sát trên đài chỉ huy, chẳng ai nhận thấy nụ cười nở trên mặt anh. Chuyến đi này là một mẻ bội thu. Anh đã kiếm được một số tiền kha khá. Nghĩ đến việc sẽ tiêu số tiền này như thế nào, anh không thể nén một nụ cười.
Một trong các cách sử dụng khoản tiền này là dùng nó để trang trải chi phí đám cưới của anh. Kazuo đã bước sang tuổi hai mươi bảy ngay trong chuyến đi và đang nghiêm túc xem xét việc lấy một cô gái ở quê nhà làm vợ. Trong cuộc hành trình, cuối cùng anh cũng quyết định khi nào trở về sẽ chính thức cầu hôn cô gái. Còn về những chuyến đánh bắt xa bờ trong tương lại thì trước hết hai người bọn họ sẽ bàn bạc rồi quyết định xem đó có phải là điều cả hai muốn hay không. Nếu cô không muốn có thêm bất kỳ chuyến đi nào nữa, anh sẽ nghe theo. Khi nghĩ thông những chuyện này, Kazyo nhận ra đây có thể là chuyến ra khơi cuối cùng của anh. Ý nghĩ rằng đây có lẽ là chuyến trở về từ biển cả cuối cùng của mình khiến cho toàn bộ khoảnh khắc trên đài chỉ huy đó với anh càng trở nên xúc động.
Khi những đám mây tiếp sức cho cơn bão rớt lại đằng sau rất xa, những tia nắng mùa hạ bắt đầu chảy xuống qua vùng mây phía trước, tạo thành những mảng sáng tối xen trên mặt biển như vô số ngọn đèn pha. Lúc đó là ba giờ chiều. Trước mặt, hướng biển cảng, có thể trông thấy mặt nghiêng của một con tàu như một chiếc du thuyền đang trôi từ vùng tối ra khoảng sáng. Sau khi căng mắt về phía ấy, Kazuo dùng ống nhòm nhìn lại cho chắc. Đó là một tàu tuần dương dạng nhỏ đang ra khơi. Tuy có vẻ như xuất hiện từ một khoảng trống giữa các đám mây, nhưng nó đang hướng thẳng về phía mạn trái tàu họ như thể định cắt ngang đường tàu Wakashio VII – lúc này đang chạy chế độ lái tự đồng. Kazuo kéo năm hồi còi hơi liên tục. Ngoài để cảnh báo về hướng đi của tàu tuần dương cho mọi người trên tàu mình, tín hiệu đó còn có có nghĩa là cảnh báo con tàu đó. Sau khi kéo còi, Kazuo lại nhìn vào ống nhòm lần nữa. Tàu đó vẫn đang di chuyển, buồm hạ. Chẳng có dấu hiện của bất cứ ai trên tàu. Dù gì thì loại tàu đó cũng phải có người đứng điều khiển chứ! Không có người canh chừng, lúc nào cũng có nguy cơ va chạm.
Kazuo lại kéo còi, trong lúc vẫn đang quan sát con tàu đó qua ống nhòm. Không ai xuất hiện trên boong. Anh tự hỏi không biết có phải toàn bộ thủy thủ đoàn đã lăn ra ngủ trên cabin không. Tất nhiên là anh chẳng thể nào nghĩ ra cách nào khác nữa để giải thích cho việc hoàn toàn không có một bóng người nào trên boong tàu. Trông đáng ngờ như một con tàu ma, con tàu tuần dương đó đang hùng hổ tiến đến như sắp va vào tàu Wakashio VII.
Kazuo gọi ngay Thuyền trưởng Takagi và thông báo tình hình. Viên Thuyền trưởng lặng lẽ chăm chú quan sát tàu tuần dương kia bằng mắt thường trong lúc Kazuo chờ đợi.
“Quái, quái thật,” cuối cùng Thuyền trưởng Takagi lẩm bẩm một mình trước khi đưa động cơ tàu mình về số không. Động cơ ngừng quay, nhưng con tàu vẫn tiếp tục trôi về phía trước do quán tính của chính nó, trước khi ngừng hẳn. Lúc này thân tàu tuần dương đã ở ngay bên dưới boong tàu Wakashio VII. Nhìn kỹ hơn thì nhận ra cái mà họ tưởng là tàu tuần dương nhỏ thực ra lại là một du thuyền sang trọng, dài khoảng hơn mười hai mét. Boong du thuyền màu trắng, toàn bộ phần thân còn lại đều sơn mày nâu nhạt vương giả, với một đường viền kép chạy dọc theo hai bến. Họ trông thấy một bệ lặn đặt trên đuôi thuyền được uốn cong rất đẹp. Chỉ nhìn qua cũng thấy ngay rằng chủ chiếc du thuyền này phải vô cùng giàu có.
Các thủy thủ túm tụm thành nhóm hai, ba người trên boong dọc mạn trái. Từ đó họ gọi vọng xuống chiếc du thuyền.
“Có ai dưới đó không?”
Tiếng gọi gặp đi lặp lại của họ không nhận được một lời đáp trả từ chiếc du thuyền. Không một khuôn mặt nhô lên từ cabin bên dưới. Một chiếc du thuyền dài mười hai mét loại này bình thường sẽ có ít nhất bốn đến năm người ở trên đó.
“Chúng ta nên làm gì đây?”
Người phụ trách neo buồm, Shibasako quay sang thuyền trưởng chờ chỉ thị, nét cau có hiện lên trên mặt anh. Rõ ràng là anh chỉ muốn mặc xác vụ này và tiếp tục chạy hết tốc lực về phía trước, về càng nhà của họ ở Misaki.
“Ừm, chúng ta không thể vờ như chưa thấy nó được.”
Thuyền trưởng Takagi sau đó cũng thôi không khoanh tay nữa và lệnh cho một thủy thur cấp thấp hạ một chiếc xuồng xuống. Chiếc du thuyền có thể đang gặp nạn, và ông không thể cứ thế mà lờ nó đi và tiến về phía trước .Giúp đỡ tàu thuyền gặp nạn là nghĩa vụ của một thủy thủ chân chính.
Một sợi dây thừng từ Wakashio VII được bộc chắc vào cọc đầu dây ở mũi du thuyền. Sau khi ngăn nó không trôi ra xa, một thủy thủ bèn lên thuyền. Anh xem xét qua khu cabin rồi gọi với lên.
“Không có ai ở đây hết!”
“Kiểm tra kỹ lưỡng các giường ngủ!”
“Chẳng có ma nào trên thuyền cả, thưa Thuyền trưởng!” Rồi anh ta hạ giọng nói thêm, bớt dõng dạc hơn, “Chuyện này có gì đó thật kỳ quặc…”
Nhưng những lời này đã bị tiếng gầm của Thuyền trưởng át mất: “Cho tôi số đăng ký của nó!”
Anh này đọc to số đăng ký trên cả hai bên thuyền: “KN201785, thưa Thuyền trưởng!” KN có nghĩa là du thuyền này được đăng ký ở Kanagawa.
“Nghe rõ rồi. Ở đó và chờ các chỉ thị tiếp theo.”
Trở lại đài chỉ huy, thuyền trưởng gọi điện thoại qua mạng viễn thông vệ tinh Inmarsat cho trụ sở Phân khu An toàn Hàng hải Số 3 ở tỉnh Kanagawa để báo cáo về việc một du thuyền không người đang tự trôi ở vị trí 29 độ vĩ Bắc, 141 độ kinh Đông. Khi được yêu cầu miêu tả chi tiết chiếc du thuyền lúc được phát hiện, thuyển trưởng Takagi đã mô tả trung thực những gì ông vừa trông thấy.
“Có người nào trôi nổi quanh nó không?”
“Không.”
“Có vật nào trôi nổi gần nó không?”
“Không.”
“Có đàn cá hay chim nào đáng ngờ không?”
“Không.”
Mọi câu hỏi chỉ nhận được các câu trả lời y hệt nhau: “Không.” Chiếc du thuyền đơn giản là nằm đó, trôi nổi trên mặt nước bình lặng, buồm đang hạ.
Phân khu An toàn Hàng hải Số 3 liên lạc với đội cứu hộ bằng máy bay tại Haneda, và ngay lập tức người ta sắp xếp cử một máy bay đến vùng biển đó. Trong suốt hai hay ba giờ chờ cho đến lúc máy bay đến được vùng biển chỗ họ, tàu Wakashio VII buộc phải ở nguyên vị trí và trông chừng chiếc du thuyền bị bỏ mặc kia.
Mười chín thủy thủ của tàu Wakashio VII phản ứng lại sự việc này theo một trong hai cách: một số ca cẩm vì bị cầm chân trong khi đã ở gần Nhật Bản đến thế; những người khác băn khoăn về chiếc du thuyền bí ẩn tự dưng xuất hiện ấy. Kazuo thuộc nhóm thứ hai. Anh luôn mơ đến việc một ngày nào đó sẽ được lái một chiếc du thuyền sang trọng hệt như thế khắp đại dương, ra nước ngoài. Sự xuất hiện bất ngờ của chiếc du thuyền này theo cách nào đó là điềm báo rằng giấc mơ của anh sẽ trở thành hiện thực. Anh cảm thấy bị thôi thúc mạnh mẽ phải lên nó.
Họ đã đợi được hai tiếng rưỡi trước khi nghe thấy tiếng ầm ầ của máy bay đang tiến tới, chiếc máy bay do Phân khu An toàn Hàng hải Số 3 cử đến.
Chiếc trực thăng bay cao vòng vòng trên tàu Wakashio VII vài lần, tìm kiếm kỹ bằng chứng nào chứng tỏ có người trôi dạt. Nó sục sạo khu vực gần ba mươi phút rồi quay đầu trở về căn cứ.
Bước hành động tiếp theo được thảo luận trong cuộc điện đàm thứ hai giữa tàu Wakashio VIII và Phân khu An toàn Số 3. Nếu con tàu cá có bất cứ nghĩa vụ gì với chiếc du thuyền bỏ hoang, thì nó cũng đã hoàn thành bằng cách thông báo cho Cơ quan An toàn Hàng hải. Trong suốt thời gian chờ cơ quan này cử trực thăng đến để xác nhận báo cáo, tàu Wakashio VII đã luôn giám sát du thuyền đó. Chẳng có lý gì để bắt họ làm thêm điều gì hơn những việc họ đã làm.
Nhưng, trên thực tế, họ không thể cứ để chiếc du thuyền ở đó mà đi. Ai biết được không có người giám sát thì nó sẽ trôi đi đâu? Tàu tuần tra từ Cơ quan An toàn Hàng hải sẽ rất khó khăn để xác định lại vị trí của chiếc du thuyền đó. Hiển nhiên là, cơ quan này đã yêu cầu tàu Wakashio VII ở nguyên đó và trông nom chiếc du thuyền cho đến khi tàu tuần tra đến.
Thuyền trưởng Takagi nghĩ một lát trước trả lời yêu cầu được diễn đạt một cách mềm mỏng của Cơ quan An toàn Hàng hải. Từ chối thì quá dễ rồi. Họ đâu có muốn nấn ná ở đây nữa. Nếu chẳng may mà cuối cùng họ lại bị kẹt ở đây vài ngày trong khi đã ở gần cảng quê nhà đến thế, thủy thủ đoàn có thể nổi loạn. Với tư cách một thuyền trưởng, mối quan tâm chủ yếu của Takagi là, một cách chính xác, làm sao để giữ sự bực tức và bất mãn của những người dưới quyền trong tầm kiểm soát.
Mặt khác, đã có tì vết trên danh tiếng của ông khi có hai người bị lốc cuốn bay khỏi tàu ngoài khơi New Zealand. Một người đã được cứu sống, nhưng người kia đã mất mạng. Đó đơn giản và thuần túy là một tai nạn, nhưng vị thuyền trưởng biết rằng Cơ quan An toàn Hàng hải sẽ tiến hành điều tra ngay khi họ trở về. Tình nguyện giúp đỡ cơ quan này trong tình huống hiện tại chắc chắn là một việc khôn ngoan; điều đó sẽ mua được một kiểu thiện chí mà sau này có thể sẽ hữu ích cho họ.
Thuyền trưởng Takagi thỏa hiệp. “Nếu chúng tôi kéo chiếc du thuyền một đoạn trên đường trở về thì sao?”
Thỏa hiệp này sẽ cho phép Wakashio VII tiếp tục cuộc hành trình về phía Bắc của nó, kéo theo chiếc du thuyền, trong lúc duy trì liên lạc với tàu tuần tra đi về phía Nam từ Shimoda. Hai tàu sẽ gặp nhau ở một điểm, tại đó tàu Wakashio VII có thể dỡ bỏ gánh nặng của mình. Kéo theo một chiếc du thuyền, họ sẽ buộc phải giảm vận tốc xuống còn chừng năm đến sáu hải lý, nhưng như thế vẫn còn tốt chán so với phải đứng yên một chỗ chờ tàu tuần tra đến.
Cơ quan An toàn Hàng hải chấp nhận đề xuất của thuyền trưởng Takagi, vậy là tàu Wakashio VII gánh trách nhiệm kéo theo du thuyền đó.
Ngay khi quyết định được thông qua, Kazuo liền khẩn khoản nói với thuyền trưởng, “Chẳng lẽ không nên có ai điều khiển chiếc du thuyền ấy sao, để đề phòng thôi?”
Tất nhiên sẽ rất có ích nếu có một thủy thủ trên du thuyền được kéo để xử lý các vấn đề ngoài dự kiến, điều chỉnh khi cần thiết, giả sử các trang thiết bị của du thuyền vẫn hoạt động bình thường. Như thế sẽ tránh hoàn toàn khỏi việc mỗi lần có vấn đề gì lại phải hạ một chiếc xuồng xuống.
“Anh thích nó, đúng không?” Takagi đi guốc trong bụng anh.
“Vâng, thưa truyền trưởng.”
“Thế thì đi đi.”
Thuyền trưởng đưa cho anh một máy bộ đàm, thiết bị này có thể hoạt động dễ dàng trong bán kính khoảng cách giữa tàu cá và du thuyền và dễ sử dụng hơn nhiều so với máy thu phát vô tuyến.
Quyết định cuối cùng là Kazuo sẽ điều khiển du thuyền một mình. Việc sao chẳng có thèm xung phong nữa khiến anh thật khó hiểu. Trừ những thủy thủ phải trực, chắc chắn phải có việc gì làm trên một con tàu đang trên những bước cuối cùng của cuộc hành trình về nhà. Thật thoải mái biết bao, anh tưởng tượng, khi ngủ trong cabin du thuyền, thay vì ngủ trên một cái giường tầng trong khoang chung với bốn người khác! Anh hình dung ra chính mình, chỉ mình mình thôi, nằm ườn ra trên cả một chiếc giường đôi.
Khi Kazuo lên chiếc du thuyền, Ueda, một thủy thủ giàu kinh nghiệm, đưa cho anh nước và đồ ăn. Tuổi trung bình của thủy thủ đoàn tàu cá này là ba mươi bảy, Kazuo là người trẻ nhất, mới hai mươi bảy, còn Ueda già nhất, đã năm mươi bảy. Kẻ từng sống sót qua bao nhiêu biến động ở biển cả ấy nhăn khuôn mặt vốn đã nhăn nhúm của mình thêm nữa và thì thầm, “Không phải ngày nào cũng thấy một con tàu ma đâu.”
Những lời này khiến Kazuo khựng lại. Con tàu ma… Đó là cách những thủy thủ khác cảm nhận về chiếc du thuyền sao?
Cuối cùng Kazuo cũng hiểu sao những thành viên khác lại nhìn anh với ánh mắt tò mò như thế. Điều đó lý giải sao không ai ngoài anh muốn lên du thuyền.; họ không coi nó là một du thuyền sang trọng mà là một thứ gớm guốc nào đó đến từ địa ngục.
Chỉ đến khi xuồng của Ueda bơi ra xa Kazuo mới cảm thấy những mối hồ nghi đầu tiền.
Thử nghĩ mà xenm, chuyện gì đã xảy ra với những người trên du thuyền chứ?
… Bị cuốn khỏi tàu.
Kazuo giả định rằng họ đã rơi xuống biển vì một tai nạn. Có lẽ vài người đã bị một con sóng lớn chồm qua mạn cuốn xuống biển, và những người còn lại đã lao mình xuống biển trong nỗ lực tuyệt vọng cứu bạn mình. Vì xuồng cứu sinh vẫn ở nguyên vị trí và chẳng có dấu hiệu được sử dụng nên không thể có chuyện họ lấy nó ra để chạy trốn khỏi thảm họa nào đó trên du thuyền được. Kazuo có ấn tượng rằng các thủy thủ cùng tàu với anh cũng ít nhiều nghĩ như vậy; nhưng giờ, anh chợt nảy ra ý nghĩ rằng có lẽ chiếc du thuyền đã bị bỏ hoang vì một lý do nào đó khác. Suy nghĩ này khiến anh lạnh ớn, nhưng đã hơi qua muộn.
Xuồng của Ueda đã trở lại tàu mẹ an toàn, tàu Wakashio VII bắt đầu chầm chậm chuyển động, khiến sợi thừng kéo nối nó với du thuyền căng ra. Chiếc du thuyền sang trọng bắt đầu lướt đi trên mặt biển phẳng lặng. Trong cảm giác nuối tiếc, Kazuo đứng một lát trên boong và chằm chằm nhìn vào đuôi tàu Wakashio VII. Con tàu không bỏ rơi anh phía sau, nó chỉ cách anh chừng bốn mươi mét về phía trước. Sợi dây thừng được buộc vào cọc đầu dây. Nếu thấy cần hoặt thậm chí chỉ là thích tán chuyện, anh có thể dùng máy bộ đàm bất cứ lúc nào. Anh chẳng có gì mà phải lo lắng.
Vầng ta dương đang khuất dần phía sau đường chân trời phía Tây. Bằng cách nào đó, sắc đỏ rực của buổi chiều muộn đó dường như khiến nó khác hẳn mọi buổi hoàng hôn anh từng chứng kiến. Anh không thể diễn đạt được sự khác biệt đó bằng lời, nhưng anh nghĩ đến màu của máu.
Kazuo sẽ phải ở một mình suốt đêm trong cabin du thuyền. Nỗi náo nức đã rời xa, và hai cơn rùng mình chạy dọc cơ thể anh.
2
Kazuo ý thức rằng mình đang mơ. Nhưng anh không tỉnh dậy mà cứ ngồi thu lu trên một tảng đá lớn chơ vơ giữa biển, nghiền nát đám cua dưới chân với hòn đá to bằng nắm tay. Càng nghền nát nhiều cua, chúng càng bò lên khỏi mặt nước đông hơn, cố leo lên chân anh. Khi gí hòn đá xuống, ban đầu, anh có cảm giác cái mai cứng chống lại nó trước khi bị rạn nứt và vỡ ra thành từng mảnh, tiếp đó là cảm giác giác mềm nhũn. Trên tảng đá lớn vương vãi đầy xác cua bị nghiền nát đến mức hầu như chẳng còn thấy bề mặt đá đâu nữa. Như một người bị ám ảnh, Kzuo tiếp tục tiêu diệt lũ cua. Anh cảm thấy một cái nhìn chằm chằm vào lưng mình đến nóng ra và băn khoăn không biết đó có phải là bản thể ý thức anh đang nhìn vào bản thể đang mơ của anh không. Nhưng không, cái nhìn đó mang trong nó sự chủ định của ý chí mạnh mẽ muốn thực hiện sự hủy diệt vô nghĩa, và nó khiến Kazuo không còn lựa chọn nào khác ngoài việc vung hòn đá đó lên.
Chẳng mấy chốc đã chẳng còn con cua nào còn sống trên tảng đá, nhưng nỗi thôi thúc tiếp tục giết chóc vẫn không hề dịu đi. Ở đâu Kazuo có thể tìm thấy sự sống để trút cơn thịnh nộ hừng hực sát khí của mình nào? Cảm giác có ai đó đang quan sát càng lúc càng mạnh lên, và cái nhìn đó cứ thôi thúc anh tiếp tục. Một cách hăm hở, Kazuo giơ hòn đá lên cao quá đầu và đập mạnh nó xuống bàn chân. Âm thanh đùng đục của cơ thịt rách toác và xương vỡ dội ngược lên qua người anh. Dù không cảm thấy đau chút nào, anh vẫn phải chịu đựng nỗi đau đớn kinh khủng vì biết mình vừa xé nát da thịt của chính bản thân. Anh cứ đập đá vào chân mình cho đến khi xương nát ra thành từng mảnh, và nỗi đau đớn ấy cuối cùng cũng khiến anh tỉnh giấc.
Mắt mở thao láo, dán vào trần thuyền, Kazuo há hốc miệng và nín thở. Cảnh trong giấc mơ dần lùi vào bầu không khí loãng cùng với mùi thối rữa của xác cua chết, và các đặc điểm của thế giới thực, sự lắc lư của du thuyền, từng cái liếm của lưỡi sóng, dần chiếm lĩnh tâm trí anh. Kazuo cảm thấy có gì đó khang khác. Anh chưa từng giật mình tỉnh giấc chỉ vì nỗi kinh hoàng trong cơn ác mộng; linh cản bản năng của người đi biển rằng có điều gì đó không ổn khiến anh thấy không yên. Quên bẵng giấc mơ, anh tập trung mọi tế bào thần kinh trong cơ thể vào chuyển động của du thuyền. Dường như hơi khác một chút so với lúc anh vừa đi ngủ.
Ngồi dậy, anh sang cabin chính và cố thở đều trở lại. Vừa tự bảo mình hãy thả lỏng anh vừa nhìn đồng hồ: 12 giờ 30 đêm. Anh mới ngủ được ba tiếng. Trông ngực anh khua loạn xạ. Anh đang dần nhận thấy chiếc du thuyền không hề quạt nước.
Từ cabin chính ra buồng lái không nhiều hơn năm bước chân. Là một chàng trai cao lớn, Kazuo bổ tới, khom người, mở cửa khoang, và lách ra ngoài.
Dù anh khá chắc mình đã bật đèn hiệu lên trước khi đỉ nghỉ rồi, nhưng giờ anh lại thấy khác hẳn. Boong thuyền rộng bằng gỗ tếch chỉ được trăng và sao chiếu sáng. Đuôi tàu Wakashio VII, lẽ ra phải hiện lên ở ngay trước mặt, lại không ở đó.
Không tin nổi vào mắt mình, anh tuyệt vọng nhìn kỹ mọi hướng. Chẳng có tín hiệu của bất cứ con tàu nào. Đường thẳng phân cách bầu trời và mặt biển giờ chỉ còn là thứ gì đó tối thẫm nhấn chìm chiếc du thuyền. Kazuo đứng lẻ loi giữa đại dương lúc nửa đêm. Vị chua chợt trào lên miệng.
Kazuo trườn về phía mũi thuyền để kiểm tra cọc đầu dây buộc sợi thừng nối với tàu Wakashio VII. Sợi thừng đã biến mất. Trông có vẻ như nó đã tuột ra khỏi cọc đầu dây. Kazuo nuốt khan lo sợ. Chuyện này tuyệt đối không thể xảy ra; bởi không phải một tay nghiệp dư nào đã thắt nút buộc dây ấy; mọi thủy thủ dạn dày đều là những bậc thầy thắt nút dây. Sợi dây thừng đã được buộc chặt vào cọc đầu dây bằng nút chéo đôi và còn được cuốn quanh cọc hai vòng cho chắc hơn. Nó không thể nào tự dưng lại tuột ra được. Anh đã kiểm tra vài lần sau khi du thuyền được kéo đi rồi cơ mà. Liệu có thể có ai đó đố kỵ Kazuo đã cố tình thắt nút hờ? Không giống như vậy lắm, nhưng ngay cả thế thì kẻ quái nào có thể tháo nó ra khi mà không còn ai khác ngoài chính anh ở trên du thuyền này? Có khả năng nào là anh tự làm điều đó không? Thật là một ý nghĩ mơ hồ. Kazuo xòe hai tay ra và nhìn chúng chằm chặp. Anh mơ hồ nhớ lại đã thấy mình ở đằng xa đang tháo dây trước sức mạnh cưỡng bức nào đó. Lại một cảnh trong mơ chăng?
Những gì anh đọc được từ cuốn nhật ký chợt lóe lên trong đầu anh.
… Trên du thuyền này còn có ai đó nữa.
Đó là điều cụ thể hơn nhiều một linh cảm. Anh đang bị theo dõi. Thứ gì đó đang lẩn khuất trên du thuyền này và bám sát anh từng khoảnh khắc. Nhảy lùi lại, anh lướt mắt quanh tứ phía và hét lên. Anh tha hồ hét to, nhưng chẳng có bóng dáng tàu thuyền nào trong tầm mắt và điều đó là hoàn toàn vô ích. Anh không còn thời gian để lãng phí nữa. Anh phải liên lạc với tàu Wakashio VII ngay lập tức. Quay lại cabin, anh với lấy bộ đàm và nhấn phím SPEAK.
“Đến đây, xin hãy đến đây.”
Không có phản hồi gì. Nếu dây thừng tuột ra từ vài giờ trước thì tàu Wakashio VII đã ra khỏi phạm vi truyền tín hiệu của bộ đàm rồi. Anh cố gắng gọi đi gọi lại, nhưng bộ đàm vẫn lặng im. Máy bộ đàm chẳng ích gì nữa. Không nản lòng, anh liên lục gào vào nó cho đến khi giọng khản đặc. “Đến đây, xin hãy đến đây!”
Kazuo căng tai ra. Anh nghĩ mình vừa nghe thấy gì đó, một tiếng động khe khẽ vẳng ra từ miền sâu thẳm xa xôi trong chiếc bộ đàm. Một giây trước khi tiếng o o đó biến thành lời nói, một cách bản năng, Kazuo quăng chiếc bộ đàm xuống sàn cho vỡ tan. Đã quá muộn, tiếng o o đã truyền những lời đó đến não bộ anh.
“Vắt kiệt sự sống khỏi chúng đi.”
Những gì nó phát ra nghe như vậy. Đó là một giọng hắc ám, nghèn nghẹn, như thể một thông điệp từ đáy biển sâu bên dưới. Kazuo đang trong tình trạng gần như hoảng loạn, bên bờ vực của sự mất kiểm soát cảm xúc.
Anh đáp lại bằng một trang chửi rủa, và tự củng cố tinh thần bằng cách tạo ra nhiều tiếng ồn nhất có thể, anh tìm cách đến chỗ bộ điện đàm vô tuyến.
Đừng để nó quấy nhiễu mày, anh tự mắng mình. Chỉ là cảm giác căng thẳng của chính mày thôi. Nhanh lên và liên lạc với tàu Wakashio VII ngay!
Kazuo không rõ cách sử dụng bộ đàm này lắm. Anh tưởn cứ mày mò một lúc thì cuối cùng cũng sẽ gọi được. Nhưng khi bật công tắc lên, bộ điện đàm vẫn không chịu hoạt động. Xem xét các phần phía sau bộ điện đài, anh nhận ra dây nối pin đã bị cắt đứt, có lẽ để ngăn không cho ai dùng nó.
Thật không tin được. Không có phương tiện liên lạc. Bình tĩnh, bình tĩnh nào…
Nếu mất bình tĩnh, chắc chắn anh sẽ phạm sai lầm. Một điều bắt buộc là anh phải suy xét mọi việc một cách bình tĩnh. Không việc gì phải vội. Cho dù chuyện gì xảy ra thì người thủy thủ đang quan sát trên tàu Wakashio VII chắc chắn sẽ để ý thấy chiếc du thuyền đã tuột ra khỏi dây kéo. Có khi họ biết rồi cũng nên. Chắc chắn họ sẽ quay lại và có thể hiện ra ở chân trời ngay thôi.
Kazuo thò đầu ra khỏi buồng lái và trân trân nhìn về hướng Bắc. Không một dấu hiệu của tàu Wakashio. Anh căng tai trong vô vọng chờ nghe tiếng còi hơi già cỗi quen thuộc của nó.
Rồi Kazuo chợt nghĩ rằng họ vẫn chưa để ý thấy. Dù sao thì thủy thủ quan sát cũng thường bận bụi với việc nhìn về phía trước hơn, hiếm khi họ chú ý đến những thứ phía sau tàu. Họ tình cờ phải kéo một tàu khác trong trường hợp đặc biệt này, nhưng thói quen cũ làm sao xóa bỏ ngay được. Không ai có thể tưởng tượng ra rằng ngay từ đầu sợi dây thừng đã tự lỏng ra. Để khiến mọi chuyện tồi tệ thêm, đèn hiệu của du thuyền nãy giờ vẫn luôn tắt. Có lẽ đến tận sáng mai họ mới nhận ra rằng chiếc du thuyền kéo đằng sau đã biến mất.
Từ giờ đến lúc mặt trời mọc vẫn còn vài tiếng nữa. Nhưng vài giờ đồng hồ dường như kéo dài bất tận. Kazuo hoàn toàn không chắc rằng mình có thể cầm cự lâu đến thế với sự tồn tại không thể miêu tả đang lan tỏa khắp con tàu hay không. Như hầu hết các thủy thủ, Kazuo có khuynh hướng tin vào những điều siêu nhiên. Cả gan ra tận ngoài khơi, lãnh địa bao la của tự nhiên, người ta thường phải chạm trán với các hiện tượng nằm ngoài tầm hiểu biết hạn hẹp của con người. Cơ hội trải nghiệm sự huyền bí ở biển luôn nhiều hơn trên đất liền.
Chẳng còn ngờ gì nữa. Chủ du thuyền và gia đình anh ta biến mất không phải vì tai nạn nào cả; một thế lực bí ẩn nào đó đã tác động lên họ. Lên những gì họ mơ, nơi họ đi, việc họ làm. Bị một thế lực tà ác xui khiến… Và giờ nó đang cố gắng điều khiển Kazuo.
“Lạy trời phù hộ,” Kazuo cầu nguyện. Dù anh chẳng thờ thần thánh nào cả, nhưng dường như chẳng còn cách nào khác để ngăn chặn nỗi sợ của anh.
Phải có lời giải thích nào đó chứ. Kazuo cố gắng suy nghĩ một cách logic nhất có thể. Nếu không còn cách nào khác thì ít ra suy nghĩ và hành động cũng có thể làm anh sao nhãng khỏi cơn sợ hãi.
…Chiếc du thuyền này trước nay vẫn gánh một lời nguyền chăng? Không, chuyện gì đó đã xảy ra trong chuyến đi này. Khi nào?
Kazuo lấy lại nhật ký hải trình và bắt đầu lật giở từng trang. Đêm ngày 23, tất cả thành viên gia đình đó đều có chung một giấc mơ. Ngày hôm sau, đứa con gái, Yoko, cảm thấy sự hiện diện của một người nữa trên du thuyền. Điều đó có nghĩa chắc chắn họ đã mang cái gì đó lên du thuyền vào ngày 23 hoặc trước đó. “Mang lên?” Những từ đó cứ thế nảy ra trong anh. Họ đã cho thứ gì đó lên thuyền. Nhưng thật ra đó là một thứ hung ác. Cuốn nhật ký cũng nói gì đó đại loại như vậy, đúng không nhỉ? Kazuo mơ hồ nhớ lại một đoạn lúc trước anh chỉ đọc lướt qua. Sự việc đó có vẻ không mấy quan trọng với ông bố, nên được nhắc đến rất sơ sài trong nhật ký, và vì thế người đọc cũng không mấy để tâm.
Kazuo vội vàng giở cuốn sổ để tìm đoạn đó. Anh chắc chắn trong đấy có gì đó như thế.
“Đây rồi!” Đoạn này đề ngày 23 tháng Bảy và có vẻ được viết tầm buổi trưa.
…
Yoko có thói qen thật khó chịu là nhặt bất cứ vỏ sò nào nó thấy. Lần này nó tìm được một thứ thật lạ lùng. Kỳ lạ ở chỗ lẽ ra nó phải trôi dạt trong nước biển mới đúng. Nhưng nó lại là một loại vỏ cứng, giống như một con trai, nằm trong một cái chai. Cái vỏ cỡ khoảng bàn tay người lớn và lớn hơn nhiều so với cổ chai, thế mà nó lại nằm đó, bên trong cái chai nút kín. Tôi tự hỏi không biết ai lại có thể cho nó vào mà không làm vỡ cái chai. Chắc chắn nó không thể tự lớn lên tới cỡ đó trong chai được, đúng không? Xóa ý nghĩ này ngay!
Tôi bảo nó vứt thứ đó đi ngay, nhưng nó không thèm nghe và giấu đâu đó mà bố nó sẽ không thể tìm thấy. Rõ ràng nó sợ chỉ cần tìm thấy là tôi sẽ quăng cái chai xuống biển. Nhưng bố nó đâu có ác đến nỗi lại vứt đi thứ gì trong kho báu của nó, kể cả cái vỏ đó. Tôi không hiểu sao Yoko không thấy cái vỏ ấy đáng “rùng mình”. Vân của nó giống như một con mắt. Nếu cầm cái chai lên và nhìn gần, thật sự trông nó rất đáng sợ, cái cách cứ như nó đang trừng trừng nhìn lại mình ấy.
Đó là một CON MẮT, nếu có con mắt nào như thế. Bình thường thì mặt trong của một cái vỏ trai mở hờ có màu ngọc trai bóng láng. Nhưng cái vỏ này lại có một cục như cơ thịt lồi ra ở mỗi mặt. Nó hoàn toàn khác với thớ cơ mỏng nối hai phần vỏ với nhau; trông nó như thịt, với những mao mạch đỏ tươi trên bề mặt. Hình dạng tổng thể của con mắt hơi méo mó, với thủy tinh thể và giác mạc bầy nhầy màu nâu nhờ nhờ. Giống như mắt một con cá ngừ đang thối rữa và dường như đang tiết ra tà ý. Một ánh mắt hiểm dị, tôi phải nói thế. Chúng tôi thực sự nên vứt bỏ thứ này đi! Kho báu hay không cũng thế thôi, tôi không thể chịu được nó thêm nữa. Con bé ngốc nghếch này có thể giấu nó ở đâu cơ chứ?...
Vào lúc nào đó khoảng giữa trưa ngày 23, Yoko thấy một cái chai và nhặt nó lên khỏi mặt biển. Trong chai có một cái vỏ cứng như con trai. Hơn thế, cái vỏ còn có hình dáng trông y hệt một con mắt.
… Chính là nó. Nguồn gốc lời nguyền.
Vấn đề là đứa con gái đã giấu cái vỏ đó ở đâu. Anh phải tìm ra nó thật nhanh. Rồi sau đó? Vứt trả nó lại biển, dĩ nhiên.
Vì đôi vợ chồng ngủ trên giường ở đuôi du thuyền, bọn trẻ hẳn phải dùng giường phía trước. Ý thức rõ ràng hơn bao giờ hết về cái thứ đang rình rập sau lưng mình, Kazuo bắt đầu sục sạp đống đồ trong tủ.
Ý thức của anh dường như bị lỗi một nhịp, và điều tiếp theo anh nhận thức được là mình đang chằm chằm nhìn vào bàn tay đang đặt trên cánh tủ như thể tất cả chuyện này đều không khiến anh bận tâm. Bàn tay ấy dường như là một bộ phận tách rời khỏi toàn cơ thể. Khi bàn tày khẽ chuyển động, anh cảm thấy nỗi thôi thúc muốn đập nát nó. Anh muốn hủy diệt mọi thứ di chuyển, mọi thực thể sống. Một ánh mắt chiếu xuống anh từ nơi nào đó có trời mới biết sai khiến nah như vậy.
Giật đầu ra sau với một tiếng gầm kháng cự, anh chống lại cơn thôi thúc giết chóc ấy. Nếu anh không nhanh lên, nó sẽ đánh bại anh. Thua trận chiến này có nghĩa là anh sẽ đối xử với chính mình như đã làm trong giấc mơ đó.
Anh không ngừng tìm kiến, ở giường trước, ở cabin chính, ở giường sau, anh tìm mọi ngóc ngách xó xỉnh, những chỗ có thể giấu được vật gì đó. Nhưng anh chẳng tìm được gì giống như một cái vỏ trai trong chai cả.
“Đứa trẻ chết tiệt đó có thể giấu nó ở đâu chư?”
Trút giận lên đồ đạc của du thuyền, Kazuo lật nhào mọi thứ.
Trước khi kịp nhận ra, khuỷu tay anh đang chảy máu. Chắc anh đã va vào góc bàn trong cơn thịnh nộ. Có khả năng nào là anh chủ động làm thế? Anh căn bản không thể khẳng định. Thậm chí anh còn không thể nhớ lại, không thể vượt khỏi miền sa mù trong óc, xem mình vừa là gì vài giây trước. Tay trái chạm vào thứ âm ấm, lầy nhầy, khẳng định thêm cho màu của máu, anh phát hoảng và tiếp tục cơn thịnh nộ điên cuồng. Anh còn không biết được mình đang tìm cái chai hay chỉ đang cố gắng làm tổn thương bản thân nữa. Anh cắt cẳng chân mình bằng một mảnh chai vỡ, và lát sau trượt chân trong vũng máu, ngã dập mông xuống sàn thuyền.
Nhưng, bất chấp mọi nỗ lực hết sức, cuộc tìm kiếm của anh vẫn lâm vào tuyệt vọng.
…Mình không thể ở đây.
Anh chợt nghĩ đến việc bỏ trốn. Như thế chỉ khiến mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn với anh, nhưng anh không có thời gian để nghĩ nữa. Lầm bầm “Không thể ở lại đây” như niệm thần chú, anh tìm thấy một chiếc đèn pin và loạng choạng tìm đường lên boong. Bốn bề chỉ có biển. Anh phải cưỡng lại ham muốn mạnh mẽ muốn nhảy qua mạn thuyền.
… Phải trốn!
Vừa di chuyển vừa chiếu đèn pin lên boong, anh tìm kiếm chiếc xuồng cứu sinh để sau buồng lái. Khi anh lên du thuyền, họ đã khẳng định xuồng cứu sinh còn ở đó mà.
Miệng cầu nguyện, anh mở tủ, và ở đó, anh nhẹ hẳn người, anh đã tìm thấy thứ nãy giờ đang tìm kiến. Đây là cơ hội duy nhất còn lại anh có. Cơ quan An ninh Hàng hải chắc chắn phải cử đến một máy bay nữa vào buổi sáng. Chiếc xuồng cứu sinh có màu sắc rực rỡ để có thể dễ dàng nhận ra từ trên không. Chắc chắn họ sẽ tìm thấy anh. Còn có cả vài quả pháo hiệu nữa. Đặt bọc xuồng cứu sinh ra rìa boong, Kazuo giật giây tự bơm theo hướng dẫn sử dụng. Chiếc xuồng khẽ phát ra một tiếng xì và bắt đầu phồng lên. Buộc chặt nó vào một sợi dây, anh hạ nó xuống biển. Trước khi treo lên nó, anh nhìn quanh lần cuối cùng. Anh bắt gặp ba túi chống thấm ghi chữ TÚI ĐỒ DỰ TRỮ trong thùng. Chủ thuyền hẳn đã đặc biệt chuẩn bị chúng ngoài những đồ dự trữ trong trường hợp khẩn cấp cùng với cái xuồng. Đoán là trong túi có nước và đồ ăn, Kazuo ném cả ba túi xuống xuồng cứu sinh rồi nhảy lên sau đó.
Có lẽ vì không có nhiều sóng lắm nên mọi thứ đều diễn ra trôi chảy. Đường kính chỉ khoảng mét tám, chiếc xuồng tròn được dán nhãn là đủ chỗ cho sáu người, nhưng thậm chí chỉ một người cũng đã đủ thấy chật chội.
Kazuo tháo dây buộc, chiếc xuồng cứu sinh lắc lư tròng trành trôi xa khỏi du thuyền. Anh ngạc nhiên khi thấy cả việc chứng kiến chiếc du thuyền từ từ lùi xa mình cũng chẳng khiến anh nhẹ nhõm hơn. Anh chỉ có thể giải thích với chình mình rằng đó là vì nỗi lo lắng khi phải ở trên một chiếc xuồng mỏng manh như thế, cứ như một miếng cao su nổi vậy. Khi ngồi duỗi thẳng chân ra phía trước, qua đáy xuồng anh cảm thấy chuyển động của biển cả ngay dưới chỗ ngồi. So với chiếc du thuyền kia, chiếc xuồng này chỉ như một cái lá.
Giữa Kazuo và du thuyền giờ đã mở ra một khoảng cách hơn ba mươi mét. Cảm giác bị theo dõi lẽ ra phải tan biến rồi mới phải. Nhưng, đã không mờ phai thì chớ, dường như nó còn tăng thêm cường độ. Mức adrenaline trong anh đang tăng vùn vụt, nhưng giờ anh chẳng còn biết trốn vào đâu nữa. Nhảy ra khỏi xuồng cứu sinh sẽ chẳng còn gì dành cho anh ngoài cái chết.
Anh quan sát khoảng giữa anh và du thuyền cứ thế nới rộng ra. Ngay khi nó khuất tầm mắt và chìm vào bóng tối, đầu óc anh như con tàu trật khỏi đường ray. Nhận thức của anh trở nên mụ mị đến mức anh chẳng còn hiểu nổi chính xác thì chuyện gì đang diễn ra. Trăm ngàn người đang cùng lên tiếng trong đầu anh. Sự ầm ĩ hỗn loạn lộn xộn ấy nghe như những tiếng ồn vẫn thống trị sàn giao dịch chứng khoán. Cuối cùng những giọng nói đó hòa thành một mối và hối thúc anh từ đằng sau. Kazuo vục tay xuống biển và vốc nước lên dấp vào hai thái dương đau nhức. Nhoài người ra khỏi mạn xuồng, anh nhúng mặt xuống nước và nhìn xuống dưới. Một vực nước đen thẫm sâu thẳm đang cuộn xoáy dưới đáy biển đêm. Nhòm vào đó, Kazuo gần như bị nuốt chửng vào trong.
Anh đã hoàn toàn không để ý. Kazuo không bao giờ tìm ra nơi đứa con gái chủ du thuyền đã giấu cái chai thủy tinh đó. Con bé nhét nó vào một TÚI ĐỒ DỰ TRỮ. Bị quẳng lên xuồng cứu sinh, giờ nó đang thoải mái yên vị giữa đáy cao su và mạn xuồng. Trong chiếc túi màu bạc, giữa những bịch nước và hộp đồ ăn, con mắt lặng lẽ nhìn.