Chúc thư

Đầu mùa đông năm 1975

Trước khi anh kịp nhận ra, vùng đất mềm dưới chân đã chuyển thành nền đá cứng tự lúc nào. Vừa ra khỏi rừng, anh chợt nhận ra mình đang đứng trên một vách đá. Với đôi đế giày được tăng ma sát bằng sự rắn chắc gồ ghề của đá, anh tìm đường ra mép, nhìn qua bên kia và thấy một vách đá dốc đứng không cao hơn bóng anh đổ xuống. Rừng đột ngột chấm dứt ở đây, và bên dưới vách đá mở ra một dải đất thoai thoải phủ đầy lá rụng. Lẽ ra ở đó phải có thứ gì đó như một dòng suối nhỏ uốn lượn xuống theo sườn Đông ngọn núi mới đúng, nhưng đứng từ chỗ này nhìn ra phía trước chẳng thể trông thấy một đầm nước nào, tiếng nước chảy cũng không hề nghe thấy.

Chỉ một lát trước đây thôi còn cảm thấy ánh mặt trời ban trưa dừng như hắt lên từ mặt nước, liên tục chiếu vào mắt. Vậy mà giờ dòng suối đã biến mất như thể bị mặt đất nuốt chửng.

Không cần phải xem lại bản đồ. Dòng nước ngầm dâng lên từ mạch núi này cung cấp nước cho một nhánh phụ của sông Tama, và khi đã phình ra đến quy mô lớn hơn nhiều lần, nó đổ vào vịnh Tokyo. Bên dưới những tảng đá khiến đế giày anh thấy khá gồ ghề là những dòng nước ngầm tạo nên từ nước mưa lọc qua đã cứng. Khi Fumihiko Sugiyama nghĩ tới thứ nước trong vắt đó, anh chợt thấy có gì đó phi lý đến kỳ quặc. Anh sống trong một khu chung cư cao tầng công quản nhìn ra vịnh Tokyo hùng vĩ. Anh ngắm sông Tama hàng ngày và có thể nhớ rõ ràng màu của nước. Nước sông khá dơ dáy và chỉ có thể được miêu tả bằng một màu nhờ nhờ đen đen bẩn thỉu. Anh tự hỏi bằng cách nào mà dòng nước thanh khiết, trong vắt chảy ra từ nguồn này khi tới vịnh Tokyo lại có thể biến đổi thành đống hổ lốn khó coi đến thế. Khi đứng trên vách đá nhỏ, Sugiyama băn khoăn không biết việc quan sát mọi thay đổi tinh tế và chi tiết trong sắc màu của nước khi nó chảy ra từ nguồn tới vịnh Tokyo sẽ hấp dẫn tới nhường nào.

Sugiyama đang định nhảy xuống khỏi vách đá thấp thì chợt thấy ngần ngại. Đó không phải là vách đã cao và có thể xảy xuống dễ dàng. Nhưng anh bỗng cảm thấy cảm giác bất an dâng lên. Đất bên dưới dốc đã nhỏ được lá bao phủ, khiến việc đáp xuống đó trở nên không chắc chắn một cách kỳ lạ. Ngày trước, lá rụng thường làm anh trượt chân khi đi đường núi. Lá ướt dính vào mặt đá đặc biệt nguy hiểm vì nó làm người đi bộ rất dễ trượt chân và ngã. Cho dù lớp đất mùn nằm dưới đám lá kia sẽ gây ra ít vấn đề hơn, đám lá ấy vẫn có thể đang che dấu một hõm đá che giấu một hõm đá hay một khúc rễ cây, mà mấy món này là thủ phạm chuyên gây trật mắt cá. Tuy nhiên Sugiyama không lo bị trật mắt cá. Trong đầu anh có hình ảnh thứ gì đó như một cái hố đen ngòm không đáy rình rập dưới thảm lá. Nghĩ tới những hậu quả khủng khiếp khi nhảy vào trong một thứ kiểu như thế, anh bước lùi lại khỏi mép đá. Sau lưng anh vang lên tiếng sột soạt của bụi cây bị rẽ sang hai bên. Đoán rằng Sakakibara sẽ chẳng mất nhiều hơn một phút để theo kịp, Sugiyama quyết định chờ bạn trên vách đá. Sakakibara thở như muốn hết hơi khi đến chỗ Sugiyama đang đứng. Sugiyama hất cằm về phía vách đá ra hiệu cho Sakakiraba chú ý tới thứ bên dưới. Sugiyama nghĩ cách biểu lộ này sẽ đủ để truyền tải được sự băn khoăn không biết liệu họ có nên nhảy xuống không với Sakakibara. Tuy vậy, trưng ra vẻ mặt chậm hiểu đặc trung, Sakakibara liền nhảy luôn xuống, thậm chí còn không thèm kiểm tra chỗ đáp. Anh đáp xuống đánh thịch một cái trên thảm lá bên dưới. Vì mặt đất phía dưới hơi thoải, Sakakibara phải tiếp đất bằng mông. Ngồi đó, chống hai tay ra sau cho vững, anh hất hàm về phía trên và cười toét miệng với Sugiyama như thể thách thức Sugiyam đừng có lãng phí thời gian nữa mà hãy xuống đây với anh ngay luôn đi. Là một gã to xương và một phản đề của sự nhanh nhẹn, Sakakibara cũng là kẻ liều lĩnh từng không ít lần đặt Sugiyama vào những tình huống dựng tóc gáy.

“Dưới đó ổn chứ?” Sugiyama hỏi.

Như thể được câu hỏi kích thích. Sakakibara bắt đầu đứng dậy, nụ cười nhạo báng vẫn còn thấy rõ trên mặt anh. Nhưng đúng lúc đó, chân anh lại trượt trên lá, khiến anh ngã dập cả mông. Sugiyama cười lớn. Như chợt bị thứ gì đó chiếm lĩnh tâm trí, Sakakibara lồm cồm bò dậy, mặt ngửa thẳng lên vách đã và bắt đầu nhìn ngó xung quanh với vẻ lo âu trên khuôn mặt.

“Này, nhìn cái này đi!”

Anh giơ tay lên và ra hiệu cho Sugiyam mau nhảy xuống. Ước lượng độ dốc của mặt phẳng nghiêng vên dưới xong, Sugiyama nhảy xuống, tiếp đất bằng chân; anh đã xoay xở giữ được thăng bằng và chỉ cần chống một tay xuống đất để trụ vững thân hình. Anh quay lại thấy Sakakibara giờ đang nằm sấp, mặt sát xuống chân vách đá. Ngay bên khuôn mặt tròn trĩnh của Sakakibara là một cái hố đen ngoác miệng to đúng bằng khuôn mặt anh chàng ấy. Trườn đến chỗ Sakakibara, Suugiyama ngó xuống cái hố.

“Có thể nào nó là một cái hang không nhỉ?’

Ngữ điệu của Sagiyama chỉ ra rằng anh đang tự hỏi mình nhiều hơn là hỏi Sakakibara. Anh không muốn hy vọng nhiều chỉ để thất vọng, nên anh cố kiềm chế cơn phấn khích đang bắt đầu dâng lên. Họ cuốc bộ ở vùng núi này đã nửa ngày nay và những khe hở duy nhất là các vết nứt trên đá, không đủ rộng để cho một tay vào, đừng nói đến cả cơ thể. Vì thế, vừa cố kiềm chế hy vọng, Sugiyama vừa thấy mình tin rằng cái lỗ này có lẽ cũng chẳng khá gì hơn một cái hang thú.

Hết sức nghiêm túc, Sakakibara bắt đầu dùng tay gạt lá ra. Một lúc lâu sau, một khoảng đất mềm, ẩm lộ ra, nhưng Sakakibara vẫn không ngừng tay. Có dấu hiệu của không khí bên ngoài bị hút xuống cái lỗ. Rõ ràng có một dòng không khí chảy xuyên qua lòng hàng. Cửa hang không hề nhỏ. Hy vọng của Sugiyama bắt đầy dâng lên một chút.

Sốt ruột đặt ba lô xuống đất, anh lôi ra một cái xẻng gấp và bắt đầu xúc đất ở phần bên dưới cửa hang hất sang bên cạnh. Sau khi xúc chừng mười phút, anh đã mở rộng được cửa hang đủ cho một người có thể lọt qua. Cả hai bọn họ sau đó mang theo đèn pin lần lượt trườn xuống độ nửa người để kiểm tra bên trong.

“Chúng ta làm được rồi! Lần này thì không nghi ngờ gì nữa!” Sakakibara gần như thét lên vì phấn khích.

Sugiyama cuối cùng cũng cho phép mình tin chắc. Đối lập với lối vào chật hẹp là phần không gian không thể nào đo đạc được rộng mở bên dưới. Không khí thoát lên từ sườn núi đang bị kéo xuống lối vào hang. Nếu chăm chú lắng nghe, họ có thể nghe thấy tiếng vang khe khẽ của nước rỏ xuống đâu đó trong sâu thẳm bóng tối.

“Đúng là có thể.”

Cho dù đã tin rằng cuối cùng họ đã tìm thấy thứ cả hai đang tìm kiếm, gương mặt Sugiyama lại như vẫn giữ vẻ ngờ vực mơ hồ; khám phá một cái hang ngầm trước nay chưa từng in dấu chân người là chuyện không hề đơn giản.

Kể từ khi có con đầu lòng hồi hai năm rưỡi trước, và đặc biệt là giờ khi vợ anh đang mang thai đứa con thứ hai, Sugiyama cảm thẩy máu ham thích phiêu lưu trong mình dần giảm sút. Anh không thấy sự thay đổi đó hoàn toàn phi lý; với hai đứa con cần chu cấp, anh chẳng còn dám mạo hiểm mà theo đuổi phiêu lưu. Anh gần như sẵn sàng chấp nhận việc sẽ không bao giờ thưởng thức cảm giác phiêu lưu mạo hiểm đó nữa.

Còn trẻ, mới ngoài ba mươi, nhưng Sugiyama đã kịp nhìn thấy thời thanh xuân của mình trượt vào bóng tối trưởng thành, và thực tế này giày vò anh ngày này qua ngày khác. Gần đây, anh mỗi lúc một cảm thấy mình nới lỏng tay ga xe mô tô hơn, ý thức vè nguy cơ tai nạn, ngay cả khi anh có thể đi nhanh hơn nhiều và vẫn trong giới hạn cho phép. Anh chỉ bắt đầu trở nên như thế kể từ khi lấy vợ và trở thành một người cha. Trước đây, hẳn anh không thể tưởng tượng mình lại cẩn trọng thế này. Trước đây, say cảm giác mạnh, anh thường tìm kiếm nguy hiểm bằng trực giác và đẩy vận may của mình tới giới hạn. Suốt những năm mười mấy hai mươi tuổi, anh từng sống vì cảm giác phấn khích được trải nghiệm trên mép bờ vực giữa sự sống và cái chết.

Tuy nhiên, nỗi khao khát phiêu lưu dần lụi tắt ngay khi anh nhận ra những gì mình có thể để lại cho vợ con nếu có chuyện gì xảy ra thật ít ỏi biết bao, ấy là đã tính cả khoản tiết kiệm còm cõi và những thứ đại loại thế. Ở tuổi ba mươi mốt, chẳng thể nào nhận ra ở anh nét gì của kẻ từng mạo hiểm hết ga nữa – có quá nhiều việc cần làm. Việc anh chết dí với nghề cũ ỏ một tờ báo trực thuộc một tổ chức nghiên cứu gần mười năm nay chẳng giúp được gì nhiều. Giá như anh tránh được không sa vào vũng bùn đơn điệu ấy, và luôn nhạy bén để kiếm cho mình một vị trí tốt hơn, thì giờ động tác chân của anh chắc chắn đã dứt khoát hơn nhiều. Điều tốt nhất là anh đã học được cách kiềm chế bản thân; còn tệ nhất: anh trở nên quá thận trọng. Thử thách hiện tại anh đang đối diện là liệu nên để cho ý thức tự kiềm chế hay óc táo bạo tiên phong điều khiển cách anh nhìn cái miệng hang rộng mở trước mặt.

Sugiyama lấy bản đồ trong ba lô ra và đánh dấu ước định sơ bộ vị trí hiện tại của họ. Anh còn chụp một bức ảnh của quan cảnh xung quanh để sau này có thể tái xác định vị trí của nơi này.

Không để tâm tới tình trạng khó xử của Sugiyama, chẳng mấy ngạc nhiên khi Sakakibara đang cố nhét thân thể đồ sộ của anh vào miệng hang.

Rõ ràng là anh đã dự định sẽ vào hang đá vôi này. Họ đang mặc bộ áo bảo hộ liền quần vải bông và mang theo vài thiết bị đi hang trong ba lô, dù không phải những thứ họ cần trong một chuyến đi khảo sát hang động thực thụ.

Sugiyama giật giật bộ đồ của Sakakibara cố kéo anh lại.

“Anh không nghĩ là tốt hơn chúng ta nên để sau sao?”

Chuyến đi quanh vùng núi này của họ hôm đó có mục đích đơn giản là tìm ra các hang động ngầm chứ không phải thám hiểm thực sự. Sugiyama cố truyền đạt ý mình rằng họ tìm được hẳn một cái hang ra hồn là may lắm rồi, và giờ họ nên về thôi. Nhưng anh không đủ khỏe để kéo Sakakibara lại. Cũng không thển phủ nhận rằng anh cũng tò mò muốn biết có gì đang ở trong đó.

“Không có chuyện đi về bây giờ đâu!”

Giọng Sakakibara hùng hổ khi anh vặn người hất tay Sugiyama ra. Sugiyama tức giận gọi với theo rồi đứng đó tặc lưỡi lo lắng. Nhưng anh cũng cảm thấy trong lòng có gì bứt rứt rồi nhận ra mình đang tự giải thích với chính mình: Miễn là mình chỉ xuống đó quan sát nhanh một cái. Miễn là bọn mình tự hài long nếu thế - thì sẽ chẳng gì có thể xảy ra.

Chừng mười mét đầu tiên trong hang, chỉ có đủ chỗ để trườn hàng một về phía trước. Trong ánh sáng ngọn đèn đeo trên trán, Sugiyama trông thấy phần hậu của Sakakibara phía trước lắc từ bên này qua bên kia khi bò sau anh bạn. Trên thực tế, mông của Sakakibara chiếm hết cả lối vào, khiến Sugiyama chẳng nhìn thấy gì phía trước.Sugiyama không thể tưởng tượng là sao một người với thân thể như Sakakibara lại có thể trở thành nhà thám hiểm hang động. Anh cũng không biết liệu mời Sakakibara tham gia chuyến đi bộ leo núi này có phải là ý hay không. Ở Sakakibara có cái gì đó khinh suất, và khinh suất thường phải trả giá bằng mạng sống.

Sugiyama quen biết Sakakibara chưa được ba năm. Anh gặp Sakakibara sau khi tham gia câu lạc bộ Thám hiểm Hang động ở Hachioji. Từng là thành viên câu lạc bộ Những nhà thám hiểm hồi Đại học, Sugiyama quan tâm đến cả leo núi và các môn thể thao dưới biển, cống hiến năng lượng tuổi trẻ của mình cho các hoạt động leo vách đá và lặn có bình thở. Khi đi làm và quỹ thời gian cũng như tiền bạc dành cho những thú tiêu khiển mạo hiểm ngày càng eo hẹp, anh tập trung vào khám phá hang động để theo đuổi thú chơi mạo hiểm mang cả tính đặc tính của leo núi và lặn biển này. Kỹ thuật leo núi đá rất cần thiết để leo lên leo xuống những vách hang dựng đứng cao ba mươi mét hoặc hơn. Hơn nữa, không thể tránh khỏi gặp nước trong hang động, đặc biệt với các hang động đá vôi: chúng được hình thành nhờ nước chảy mòn đá. Vì thế, kỹ thuật lặn cũng rất cần thiết cho những kẻ say mê hoạt động này khi họ muốn khám phá dòng nước trong vắt như thủy tinh không thể vượt qua nếu không dùng cách đó. Sugiyama say mê khám phá hang động ngay khi bập vaofnos. Không thiếu địa điểm để thám hiểm ở Nhật Bản, đất nước có vô số cao nguyên đá vôi. Không chỉ thế, ngay trong những dãy núi đá cách không quá xa trung tâm Tokyo cũng tọa lạc các hang động thạch nhũ nguyên sơ chỉ có thể được miêu tả như những lâu đài kỳ diệu. Thám hiểm hang động không chỉ là một sở thích ít tốn kém, nó còn hoàn toàn thỏa mãn máu phiêu lưu trong anh.

Khái niệm khám phá hang động không phải là đi thám hiểm những hang động người khác từng phát hiện ra, mà bạn phải là người đầu tiên đặt chân lên một phiến đá hoang sơ trong một hang chưa ai từng biết đến. Với một nhà thám hiểm hang động, không gì có vị ngọt ngào hơn khoảnh khắc ấy. Người ta nói rằng ai từn một lần thưởng thức nó sẽ gắn chặt với định mệnh mãi mãi mê đắm trong môn chơi này.

Khi áp bụng trườn về phía trước, Sugiyama không thể ngăn mình tự hỏi không biết có phải anh thực sự đang trong một hang động chưa được phát hiện hay không . Nếu phải thì đây sẽ là lần đầu tiên của anh. Anh đã say sưa nghiên cứu bản đồ hàng tháng nay. Anh tin chắc rằng tất cả các dấu hiện, đặc điểm địa chất, địa hình hay dáng uốn lượn của những dòng sông, đều chỉ ra sự hiện diện của một hang động chưa từng được khám phá trong khu vực này. Tối hôm trước, Sugiyama đã nói điều này qua điện thoại với Sakakibara. Nhận thấy hôm sau là Chủ nhật, cuộc đàm thoại của họ đã chuyển sang việc sắp xếp một chuyến leo núi nhẹ nhàng tìm kiếm hang động mới.

Họ khởi hành sáng sớm nay, lái xe hai giờ và đỗ quay lại con đường bìa rừng. Đã vài tiếng đồng hồ trôi qua kể từ khi họ rời xe và bắt đầu đi bộ vào trong núi. Ngay cả trong những giấc mơ điên rồ nhất, Sugiyama cũng chưa từng tưởng tượng rằng một cuộc đi bộ bình thường thế này có thể dẫn đến việc khám phá ra một hang động mới. Sugiyama đã nhất trí răng nếu họ có gặp được một cửa hang thật đi chăng nữa, họ cũng sẽ chưa chui xuống vội mà sẽ đợi cho đến khi có thể tổ chức một cuộc thám hiểm với đầy đủ trang thiết bị cùng các thành viên khác trong câu lạc bộ. Sakakibara đã ngâm ngam một cách giễu nhại cụm từ “một cuộc thám hiểm với đầy đủ trang thiết bị”, như thể ngụ ý theo một kiểu cường điệu rằng khả năng họ khám phá ra một hang động mới toanh còn thấp hơn zero.

Họ thấy mình dưới một vòm hang có lẽ được hình thành sau một vụ sụt lún. Nhưng dù họ cố chiếu sáng trần hang bằng đèn như thế nào, tia sang cũng không đủ mạng để lên đến trên cùng, vì thế không thể đánh giá chính xác trần hang cao bao nhiêu. Ít nhất cũng phải hơn ba chục mét từ nền. Cái hang mở ra ở cuối đường hầm hẹp đó, và phải đến khi đứng lên được Sugiyama và Sakakibara mới nhận thấy kích thước vĩ đại của nó. Nhận ra cái hang rộng đến thế nào, họ chết lặng, đúng nghĩa của từ này. Khi đã chuẩn bị tinh thần đụng phải một ngõ cụt, giờ họ lại có mặt ở một hang động ngầm khổng lồ vượt khỏi mọi giấc mơ điên rồ nhất của họ. Đá vôi hình thành từ quá trình trầm tích xác sinh vật biển. Vì thế vùng đất này, tại một thời điểm nào đó rất xa xưa, hẳn đã từng chìm dưới biển sâu. Nổi lên từ biển cả, vỏ trái đất trở thành đất liền, sau đó được rừng bao phủ. Sự xâm thực của nước sau đó đã hình thành nên hang động khổng lồ hùng vĩ nhường này. Sugiyama đờ đẫn nhìn trần hang không chớp mắt vì kinh ngạc, không phải trước kích thước hang động mà trước khoảng thời gian lâu đến không thể tin nổi cần để hình thành nó. Sau một khoảng im lặng sững sờ kéo dài gần một phút, cả hai cùng đồng thanh.

“Tuyệt vời!”

Không lời nào khác có thể miêu tả nó. Không nghi ngờ gì nữa, họ đã khám phá ra một trong những hang đá vôi ngầm lớn nhất từng được tìm thấy ở vùng Kanto. Họ không thể tượng tượng lại có một không gian rộng lớn đến vậy ngay bên dưới một ngọn núi mà chỉ một lát trước đây họ còn đang leo. Niềm phấn khích trào dâng tự đáy lòng tràn ra đến từng lỗ chân lông. “Chính những khoảnh khắc thế này đã khiến anh nhận ra mình sẽ không bao giờ từ bỏ môn thám hiểm hang động, đúng không?” Ngây ngất trước may mắn này, Sakakibara huýt sáo một điệu điên khùng, khi anh lia đèn pin khắp bên trong hang.

Điệu huýt dáo đó khiến Sugiyama khó chịu; nó vang lên không đúng chỗ. Bình thường vẫn chẳng để tâm tới điệu huýt sáo nghịch tai của Sakakibara, nhưng giờ Sugiyama lại thấy nó giày vò thần kinh anh đến mức anh không thể lờ đi được.

Bất chợt Sugiyama cảm thấy thấp thỏm không yên. Luôn tồn tại nguy cơ rằng, mò mẫm vượt qua một lối hẹp vào một hang lớn, nhà thám hiểm sẽ quên mất đường. Sugiyama lấy la bàn ra xem, rồi ghi nhớ hướng chỉ của kim. Nhưng chỉ vừa ghi vội ghi vàng ra giấy xong anh đã nhận ra mình hơi ngớ ngẩn. Dù sao thì, chỉ cần thiết phải thận trọng đến vậy khi định xuống sâu hơn thôi. Việc chỉ hai người, với trang thiết bị thô sơ như thế, đi vào một cái hang vừa được khám phá, quả thật quá nguy hiểm. Họ nên ngừng ở đây và quay trở lại.

Dù vậy Sakakibara đã tìm đường đến tận rìa hang và đang chiếu đèn pin xuống tìm kiếm đường đi tiếp. Anh vẫn đang huýt sáo. Tiếng sao vang dội một cách kỳ quái qua khu vực đầy măng đá vây quanh.

“Này, Sakakibara, quay lại thôi,” Sugiyama gọi với theo người bạn đồng hành đang so vai lại và nhìn chăm chú như thôi miên xuống sàn.

Cuối cùng Sakakibara cũng ngừng huýt sáo. “Đến đây mà xem này. Dưới này có lối thông xuống dưới!” Không để ý đến điều Sugiyama vừa nói, Sakakibara đứng đó, vẻ đắc thắng. Trông anh thậm chí còn không muốn rời đi hơn trước đó.

Nghe thấy từ “lối thông”, quyết tâm của Sugiyama chợt lung lay, vì anh nổi tiếng trong câu lạc bộ Thám hiểm Hang động là người có kỹ năng trèo lối thông giỏi nhất. Sakakibara và những người khác không thể nào so được.

Nghĩ rằng có khi mình cũng nên xem qua để phán đoán giá trị của phát hiện đó, anh hững hờ tìm đường ra chỗ ánh đèn pin của Sakakibara đang rọi vào. Trong cái hang mênh mông hình quả chuông nơi họ đang đứng, có vẻ chẳng có thêm gì hứa hẹn sẽ dẫn họ đi xa hơn cái lối thông nơi Sakakibara đang rọi đèn in vào. Rủ xuống như những tấm rèm, vách hang thỉnh thoảng lại được nối vào nhau làm một bằng những măng đá mọc trồi lên từ sàn. Có lẽ ở đây từng có một đường đi dẫn ra đâu đó bên dưới rìa hang, nhưng rõ ràng là nó sđã bị lấp bởi đất đá từ một vụ lụt sún.

Xoay xở ra được đến lối thông nói Sakakibara đang hào hứng chờ anh, Sugiyama nhòm xuống dưới. Lối thông này hơi dốc chứ không thẳng đứng. Anh còn nhìn thấy điểm nút xa nhất tạo thành một đường hơi cong. So với các lối thông khác, cái này không sâu lắm, và có thể vượt qua khá dễ dàng mà không cần thừng và thang.

Sugiyama rùng mình. Anh không khẳng định được đó là do sợ hãi hay phấn khích, dù cảm giác nhoi nhói trong các mạch máu có vẻ giống sự kinh sợ hơn là giá lạnh.

“Thế nào, chơi không?” Sakakibara thì thào với một nụ cười, như thể anh đi được guốc trong bụng Sugiyama vậy.

Sugiyama quay lại xác nhận quãng đường họ đã đi được cho đến chỗ lối thông, và cố tự thuyết phục mình rằng chỉ làm nốt việc này thôi. Khi đã xoay xở xuống đáy được bằng lối thông, anh thề sẽ trở về nhà ngay lập tức.

Bước vào vòng ánh sáng của cây đèn pin trong tay Sakakibara, Sugiyama tựa lưng vào mặt dốc và bắt đầu trèo xuống.

“Ở dưới đó thế nào?” Sakakibara hỏi khi Sugiyama xuống được gần nửa đường.

Không đáp, Sugiyama dừng lại và căng tai ra lắng nghe. Anh có thể nghe thấy tiếng nước nhỏ mơ hồ quanh đay. Anh nhớ đã nghe thấy tiếng tương tự ở miệng hang.

“Tôi nghe thấy tiếng nước!”

Ngay khi Sugiyama đáp, Sakakibara nhét cái lưng nặng nề của mình vào lối thông.

“Tôi đến đây!”

Sakakibara bắt đầu trèo xuống như Sugiyama, và chẳng có gì ngăn cản được anh.

Đáy lối thông mở ra, hơi cong một chút, dẫn đến một tầng hang nữa có hình dạng gần giống với hang trước. Đó là một cái hang cũng có hình quả chuông nhưng nhỏ hơn nhiều. Lớp màng nước dính vào vách hang sát đến nỗi bạn phải chạm vào thì mới chắc được rằng nó có ở đó. Ngấm qua đường nứt trên trần hang, nước lặng lẽ chảy men theo vách đá vào rồi mất hút qua sàn hang, không để lại dù chỉ một vũng nhỏ. Cảnh tượng khiến Sugiyama mê mệt khi anh lướt ánh đèn pin xung quanh khu vực ấy. Anh cảm thấy niềm vui trào dâng khi nghĩ rằng mình là người đầu tiên trên bề mặt trái đất này được nhìn thấy nó. Đó là kiểu khoảnh khắc chỉ được nếm trải một lần trong đời, thậm chí là không bao giờ. Sức mạng của khoảnh khắc ấy khiến Sugiyama quên mất lời thề với chính mình trước khi trèo xuống lối thông. Thực tế rằng nước rỉ rỉ chảy xuống nhưng không tạo thành vũng mà lại biến mất dưới sàn hang cho thấy có lẽ bên dưới còn có một hang khá rộng nữa.

Sugiyama và Sakakibara bắt đầu tìm đường đến cái hang bên dưới đó. Mọi cảm giác tự kiềm chế giờ đã bay biến hết, Sugiyama đã quên sạch mọi chuyển khác. Miếng mồi này quá cám dỗ, và anh đang bị nhử sâu hơn vào lòng trái đất.

Đến một chỗ Sugiyama bỗng cảm thấy một luồng khí nhẹ. Một dòng khí ấm mơ hồ tỏa lên từ nơi không xác định.

Sugiyama gọi Sakakibara lại hỏi ý anh. Sakakibara nhăn trán. Không nghi ngờ gì nữa, anh cũng cảm thấy có không khí thổi lên từ đâu đó. Nhưng gần đó chẳng có lối thông nào khả dĩ cho không khí thoát ra như vậy cả.

Băn khoăn không biết luồng khí đó có thể bắt nguồn từ đâu, Sugiyama bắt đầu bước chậm lại, với cảm giác luồng khí phảng phất trên làn da. Rồi anh đứng trong một chỗ đất sụt đầy những đống đất đá. Dưới chân anh là đủ loại đá lớn nhỏ. Anh rọi đèn xem xét kỹ địa hình một lần nữa. Chỗ sụt nơi anh đứng dường như có hình như một cái chậu hoặc giống một cái miệng núi lửa tròn. Sugiyama chợt nghĩ đây có thể từng là một phễu tiêu nước bị lấp kín sau một vụ sụt lở. Nếu thế, tất cả những gì họ cần làm chỉ là dỡ hết đống đá mở lối thông xuống hang bên dưới mà thôi.

Hai người đàn ông bắt đầu nhanh chóng chuyển đá, và cuối cùng đã làm lộ ra một tảng đá tròn lớn. Họ có thể cảm thấy luồng không khí toát lên rõ rệt hơn qua những khe hở dưới tảng đá này. Không nghi ngờ gì nữa, đâu chính là tảng đá đã chặn đường xuống hang động bên dưới.

Cả Sugiyama và Sakakibara cùng gắng sức đẩy tảng đá đó lăn sang một bên. Nó nghiêng đi để lộ ra một phần của một miệng tròn dẫn xuống cái hang bên dưới. Chỉ cần buông tay là nó lập tức sẽ trở về vị trí cũ che lấp lối chui xuống. Vì thế, họ tăng sức gấp đôi, hò dô đẩy mạnh thêm một lần nữa. Phần đáy của tảng đá lớn giờ đã lật hẳn qua một bên, họ bèn chèn thêm vào một hòn đá để cố định nó. Giờ lối vào hang bên dưới đã hoàn toàn mở ra. Mỗi khi một trong hai người nhấc chân, những hòn đá dưới chân họ lại lăn xuống miệng hang, va vào đám thạch nhũ dỗi ra những tiếng ầm ầm như sấm động. Cả hai chờ cho đến khi mọi hòn đá có thể lăn xuống đều đã lăn xuống hết và chấn động ngớt hẳn. Dù sao thì họ cũng không muốn bị đá rơi vào đầu khi đang trèo xuống cái hang bên dưới ấy.

Sugiyama đã quyết định: sẽ không có chuyện quay trở lại nữa khi mà họ đã đi xa thế này. Anh quyết tâm sẽ theo đến cùng.

Sugiyama buộc dây thừng quanh một tảng đá, thả đầu dây kia và buông mình rơi uống đáy hang. Dù cảm thấy mình có thể trèo xuống đó mà không cần thừng, nhưng anh vẫn muốn phòng xa mọi chuyện, để đảm bảo rằng mình sẽ trở về an toàn.

“Chờ tôi ở đây.”

Giọng Sugiyama điềm đạm, nhưng rõ ràng là một mệnh lệnh. Dù hai người bằng tuổi nhau, nhưng về số năm tham gia câu lạc bộ Thám hiểm Hang động thì Sakakibara hơn Sugiyama một bậc. Vì thế, Sakakibara đầy miễn cưỡng khi gật đầu đồng ý với câu nói ngang như một mệnh lệnh từ cấp dưới đó. Mặc dù vị trí trong câu lạc bộ là ngang hàng, Sugiyama vượt xa Sakakibara về các kỹ thuật đi hang. Xét thấy chỗ có thể đặt chân xuống kia quá không chắc chắn, một trong hai người phải ở lại trên miệng hang để đảm bảo một đầu dây thừng vẫn ở đúng chỗ, và Sakakibara hợp với nhiệm vụ này hơn.

Khi Sugiyana tụt sâu vào trong lối thống, một lần nữa anh lại cảm thấy thấp thỏm. Anh băn khoăn không hiểu sao, nhưng rồi chỉ đơn giản cho rằng tại tiếng huýt sáo bực mình của Sakakibara. Sakakibara đang thản nhiên nhìn xuống anh, huýt sáo những điệu gàn dở. Sakakibara hoàn toàn quá thư giãn, và điều này khiến Sugiyama có một dự cảm rất khó chịu.

Đặt bàn chân lên một gờ hẹp, Sugiyama định nghỉ một lát. Anh bắt đầu suy ngẫm về linh cảm khó chịu mình vừa có. Đây có lẽ là một hang động đá vôi nguyên sơ, đến nay vẫn chưa từng in dấu chân con người. Nhưng trực giác không mời mà tới chợt lóe lên, bảo với anh rằng trong quá khứ xa xăm từng có người cố vào leo xuống đúng cái lối thông này hệt như anh đang làm giờ đây. Đó là một ấn tượng hẳn đã được hình thành một cách vô ý thức từ việc nhìn thấy bằng chứng nào đó về sự hiện diện của ai đó trước mình.

Anh gí chiếc đèn đeo trước trán lại gần một mỏm thạch nhũ. Anh càng quan sát vách hang, các hoa văn trên đó càng trở nên kỳ dị. Được trát lên và tương phản với màu hoàng thổ của hang là thứ bùn màu đen xám. Anh vươn tay sờ vào bề mặt. Những đường nét này hoàn toàn khác so với nền hang, Anh tự hỏi phải chăng đó là do có người cố tình tạo nên ở đây? Không, anh cảm thấy chắc chắn không phải như vậy. Anh kết luận nhiều khả năng đó là một vết bùn trên lưng ai đó từng đi qua hang này như anh lúc này. Khi người đó đi qua, bùn trên lưng anh ta hẳn đã bị chà xát mà dính lên vách đá vôi.

Sugiyama cảm thấy năng lượng của mình nhanh chóng cạn sạch. Lý do duy nhất cám dỗ anh tham gia cuộc phiêu lưu liều lĩnh này là niềm tin rằng chưa ai từng đặt chân tới hang động này. Đầu tiên và thứ hai là hai chuyện khác nhau một trời một vực. Nhận thấy đã đến lúc, anh gọi với lên chỗ Sakakibara. Tuy nhiên khi anh vừa lớn tiếng gọi thì những hòn đá nhỏ đã rào rào đổ xuống mặt anh. Ngay lập tức anh phản xạ lấy cả hai tay ôm cái đầu đã đội mũ bảo hiểm để bảo vệ. Đá vừa ngừng rơi, anh vội ngẩng lên, thấy Sakakibara đang vụng về loay hoay trong bồ đồ màu xanh biển, chui qua bít kín miệng lối thông.

“Này, Sakakibara!” anh cố la to hơn.

“Chờ đấy! Tôi xuống đây!”

Không dằn lòng được, Sakakibara có vẻ đang hạ ngườ xuống miệng hang, chân vào trước.

“Đừng, ra khỏi đó đi!”

Cuộc trang luận tiếp đó của họ về việc ai lên ai xuống kéo dài khoảng vài giây. Một cơn mưa rào những hòn đá nhỏ trút xuống, ngay sau đó là một tiếng “ầm” lớn, tiếng thét thất thanh, và âm thanh kinh hoàng của xương người gãy. Rồi, cũng chớp nhoáng như khi bắt đầu, trận mưa rào đá ấy tạnh hẳn. Nửa người dưới của Sakakibara đã chặn hết miệng lối thông, khiến Sugiyama chẳng thể nào đáng giá được hết quy mô của thảm họa vừa đổ lên đầu anh.

“Trên đó có chuyện gì thế?”

Gượng anh bắt đầu run, vì anh, một cách bản năng, đã biết có chuyện gì đó rất không ổn. Sakakibra không trả lời, thay vào đó và tiếng rên khe khẽ thấm vào bóng tối âm u.

Sugiyama cố găng leo lên cho đến khi anh có thể cảm thấy chân của Sakakibara trên đầu mình. Anh rọi đèn ngược qua khe hở giữa thắt lưng Sakakibara và vạch lối thông. Anh sửng sốt, khoảng trống trên miệng lối thông đã không còn mở nữa: tảng đá lớn kia đã bịt kín nó.

Anh đờ người ngây dại. Anh cảm thấy máu đang cạn dần trong đầu mình. Khi đương đầu với cơn choáng váng, anh ân hận rằng họ đã không chêm tảng đá lăn cho cẩn thận. Sau những lần đá lở xuống, tảng đá lớn, bị sức nặng của chính nó tác động, lại nghiêng về vị trí cũ, và trong quá trình đó thình lình va vào đầu của Sakakibara. Đối với kẻ chỉ phạm lỗi bỏ vị trí, đó đã là một hình phạt quá nghiệt ngã rồi. Nhưng Sugiyama không thể ngăn mình nguyền rủa Sakakibara vì sự xuẩn ngốc ấy.

Chùm sáng từ đèn pin của anh làm hiện ra quai hàm trắng nhợt của Sakakibara, dưới nữa là các bắp thịt của cái cổ đang căng ra hết cỡ. Đầu bạn anh đang kẹp giữa một bên vách lối thông và cạnh của tảng đá lớn lên Sugiyama không trông thấy nửa khuôn mặt từ mũi trở lên được. Sugiyama cứ trân trân nhìn như thế một lúc trong sự hồ nghi. Chân anh đứng không vững, và anh cảm thấy buồ nôn.

“Anh không sao chứ?” Anh cố nói câu này, nhưng lời không sao phát ra khỏi cái miệng đang khô khốc của anh.

Mà sự thật cũng đã rành rành rồi. Giờ có nói nhiều đến mấy thì cũng thế thôi. Dưới cái cổ đang căng hết cỡ kia chảy xuống những dòng máu sền sệt. Sugiyama toan với tay lên sờ chân Sakakibara để xem còn sống không thì cơ thể Sakakibara cong ngược ra sau và bắt đầu co giật. Những chuyển động giật cục một cách quá bất thường này, không thể là gì khác ngoài cơn quằn quại của cái chết. Đôi mắt chết sững vì nỗi kinh hoàng khủng khiếp, Sugiyama run lên và thấy miệng mình đắng nghét.

Không thể phủ nhận rằng anh đang lâm vào một tình thế tuyệt vọng. Cứ như thể bị mắc kẹt dưới một lỗ cống bị đậy chặt bằng cái nắp cống nặng một tấn vậy. Sugiyama là con chuột sa bẫy.

Anh cảm thấy mình đã ở đó trong bóng tối lâu hơn hai ngày nhiều. Vài giờ đầu tiên sau khi mắc két, anh đã cố tìm đường ra, lãng phí không biết bao nhiêu thời gian và năng lượng. Giờ khi đã ở đã ở đó tròn bốn mươi tám tiếng, anh co ro, gần như bất động trên bờ nước, chấp nhận sự thật rằng mình có hai và chỉ hai lựa chọn. Vấn đề là chọn cái nào. Anh từng nảy ra ý thử đẩy táng đá lớn đang lấp lối thông kia lên. Nhưng lúc trước anh đã từng cố di chuyển nó, và biết rõ nó nặng đếm mức nào. Lúc hợp sức đẩy nó ra, Sakakibara và anh đã phải huy động toàn bộ sức lực của từng đường gân thớ thịt. Chuyện anh đẩy được tảng đá lên trong lúc lủng lặng trong hang, chân không có điểm tựa, là điều không thể. Hơn nữa, thi thể của Sakakibara đang buông thõng đu đưa với cái đầu bị kẹo cứng kia khiến anh chỉ chạm vào tảng đá lăn thôi cũng không được, mà Sugiyama không có gan kéo cái xác đang dần lạnh ngắt ấy xuống khỏi khe hở giữa tảng đá và bề mặt lối thông.

Từ bỏ ý định thoát ra ngoài bằng đường đã xuống, Sugiyama quyết định tập trung vào hướng ngược lại: tìm đường xuống tiếp. Anh nhìn về mọi hướng, bên trong hang đá vôi cấu tạo rắc rối như một mê hồn trận. Tìm được một lối ra khác có thể xem là khả thi. Nhưng cuối cùng anh kết thúc ở một cái hang dạng ống đường kính khoảng hơn chín mét. Phần nền thấp ngập nước ngầm, tạo thành một cái hồ dưới lòng đất. Mọi lối anh đi theo đều dẫn tới cái hồ này. Anh tuyệt vọng sục sạo khắp các ngóc ngách, xó xỉnh dọc theo mép nước tìm đường thông sang buồng hang khác. Rồi nhận ra mình bị mắc kẹt trong một cái hang kín.

Suốt mười tiếng vừa qua, anh không hề bật ngọn đèn treo trước trán, trừ phi để xem giờ. Dù mang theo hai cái đèn, anh đã dùng đến cái dự phòng từ lâu rồi và không thể lãng phí nguồn năng lượng quý giá thứ hai này được.

Lúc này là chiều thứ Ba – năm rưỡi. Bình thường giờ này anh đang sửa soạn từ cơ quan về nhà.

Anh đặt ra các quy tắc luôn phải ăn tối với gia đình ít nhất ba lần một tuần. Ngay khi anh mở cánh cửa trước, đứa con trai Takehiko của anh sẽ lon ton chạy ra đón. Sugiyama yêu biết bao nhiêu cảm giác được nghe thấy tiếng thằng bé bi bô cố phát âm từ mới học được. Lúc anh ôm con bế bổng lên, thằng bé sẽ phát ra những tiếng ngọng nghịu cố kể cho bố nghe tất tần tật mọi chuyện đã xảy ra trong ngày. Những khoảnh khắc ấy khiến Sugiyama vô cùng nhẹ nhõm và thoải mái. Khát khao lại được trải qua niềm vui của những khoảnh khắc ấy tiếp thêm cho anh năng lượng anh cần để nhanh chóng kết thúc công việc và trở về nhà.

Sugiyama nhớ là vợ anh đã nhờ anh lấy cái lò sưởi dầu ra khỏi phòng để đồ. Anh đã cất cái lò sưởi cồng kềnh này ra phía sau nhà kho, mà nó thì lại quá nặng, vợ anh không nhấc lên được. Thời tiết chẳng mấy chốc nữa sẽ lạnh cóng, và tất cả những gì anh có thể nghĩ tới lúc này là vợ con anh ở nhà có thể bị lạnh. Đó là cái lò sưởi duy nhất mà họ có, và đơn giản là anh không sao vứt nó ra khỏi đầu đươc. Anh hối hận vì đã không lấy nó ra cho hai mẹ con trước khi khởi hành vào sáng Chủ nhật. Trong hang rất lạnh, dù có lẽ nhiệt độ ở đây ổn định quanh năm. Có lẽ ở chỗ anh hiện giờ nhiệt độ chỉ dưới mười độ C. Thật kỳ lạ là trong tình huống khó khăn như vậy lại có người lo lắng cho những người khác, nhưng anh chẳng mảy may thấy chuyện đó có gì phi lý cả.

Được tiếp thêm năng lượng từ khát vọng không thể cưỡng lại là được trở về nhà với gia đình, Sugiyama thấy nhất thiết phải rời khỏi đây càng sớm càng tốt. Một lần nữa, anh ngẫm nghĩ về mọi khả năng có thể mở ra đối với anh. Dù anh biết mình đã xem đi xét lại mọi thứ trong đầu không biết bao nhiêu lần, nhưng vẫn luôn tồn lại khả năng anh đã bỏ sót điều gì đó.

Buổi sáng hôm ấy, trước khi lên đường anh đã nói với gia đình rằng anh đi “leo núi một chút.”Anh không hề nói gì về thám hiểm hang động đá vôi cả. Sakakibara đến đón anh và họ lái xe đến tận cuối con đường ven rừng dưới chân úi Shiraiwa. Rồi họ đỗ xe và đi bộ ba bốn dặm nữa qua vùng thôn dã tới khi tình cờ phát hiện ra lối vào hang này. Sugiyama tự hỏi không biết Sakakibara có nói với ai rằng họ đi theo hướng này không. Chẳng có mấy khả năng. Rốt cuộc anh ra cũng sống một mình và làm gì có ai mà nói. Họ chẳng có kế hoạch thám hiểm hang động nào cả; mục đích ban đầu chỉ là leo núi và xem có hang mới nào không.

Thường hay lo lăng ngay cả trong những tình huống tốt đẹp nhất, đến giờ có lẽ vợ anh đã nóng ruột lắm rồi. Có lẽ cô đã tưởng tượng ra chuyện tồi tệ nhất và gọi cảnh sát từ lâu. Nhưng bằng cách nào cảnh sát có thể đến tìm họ được? Đầu mối khả thi duy nhất là chiếc ô tô bỏ lại bên đường, mà thậm chí là cũng chẳng có nhiều khả năng cảnh sát sẽ tìm thấy nó. Cứ cho là họ tìm được chiếc xe, cũng không chắc chắn có đội cứu hộ nào đi theo con đường anh đã đi. Chẳng những hang đá vôi này không hề được ghi trên bản đồ, mà thậm chí cả sự tồn tại của nó cũng không ai biết tới.

Không thể tránh khỏi kết luận rằng cơ hội được cứu hộ từ bên ngoài là vô cùng thấp. Lựa chọn duy nhất dành cho anh là tự tìm đường ra.

Sugiyama có thể ngồi đợi đội cứu hộ hoặc tự nghĩ ra cách nào đó để thoát. Nói cách khác, anh chỉ có một lựa chọn thực sự. Nhưng bất cứ nỗ lực thoát ra nào cũng đòi hỏi lòng dũng cảm nhiều đến mức thách thức mọi tưởng tượng, và thực tế này dần phủ bóng xuống đầu Sugiyama. Anh cần lòng dũng cảm, và không phải lòng dũng cảm bình thường.

Sugiyama có lẽ chưa từng nghĩ đến tìm lối thoát nếu chưa khám phá ra những dấu vết để lại trên vách hang.

Tìm kiếm kỹ hơn anh thấy trên các vách khác cũng có vài dấu vết. Đầu những thạch nhũ như trụ băng rủ từ trần xuống ven bờ nước có vẻ bị vỡ, còn lớp cặn canxi dòng nước để lại trên đá thì bị trầy xước như thể có thân thể ai đã cọ xát lên nó. Những tổn hại tương tự có thể tìm thấy ở nhiều chỗ khác trong hang. Sugiyama chợt nghĩ bên trong cái hang này từng bị một đoàn thám hiểm từ một câu lạc bộ khám phá hang động hoặc một nhóm người nào đó làm xáo trộn lên. Nhưng anh chưa từng biết đến một tài liệu nào chứng tỏ khu vực này đã được khám phá. Các câu lạc bộ khám phá hang động thường xuyên giữ liên lạc; nếu có ai phát hiện ra một hang động không người biết đến thì hẳn đã là một vụ lớn. Sugiyama kết luận: Nếu hang này chưa từng bị con người xâm phạm, thì hẳn phải có con thú nào đó. Một ý nghĩ xẹt qua đầu anh rằng có thể từng có một con thú lớn đi lạc vào trong hang và đập phá chỗ này chỗ khác. Sugiyama vỗ đùi khi nghĩ đến điều đó. Miệng lối thông đã bị tảng đá to bịt kín. Điều này có nghĩ nếu có con thú nào đó thì nó sẽ phải bò vào hang theo đường khác. Anh chưa thể hình dung ra con đường ấy ở đâu. Nhưng phải tồn tại một đường bí mật ở đâu đó; chỉ là anh đã bỏ sót nó mà thôi.

Dù đã tuyệt vọng kiếm tìm hết xung quanh hang, anh vẫn không thể tìm thấy kẽ hở nào, dù là nhỏ nhất. Anh cũng không chắc làm sao tìm được bằng cớ chứng minh nó có tồn tại.

Tắt đèn đội đầu đi, anh chìm sâu vào suy nghĩ. Ngập trong bóng tối đặc quánh, anh tập trung các ý nghĩ lại và bắt đầu vắt óc suy tư. Trong hang không hoàn toàn tĩnh lặng. Vẫn có tiếng nước nhỏ đều đều. Những giọt nước chảy dọc theo thạch nhũ đá vôi buông xuống từ trần hang, và rơi tí tách trên mặt hồ ngầm bên dưới. Ngay cả trong bóng tối, anh vẫn cảm giác như mình có thể trông thấy từng giọt khi chúng làm gợn sóng mặt hồ. Âm thanh ấy khuếch đại ý niệm về nước trong tâm trí anh, cho đến khi anh nhận ra nước là chìa khóa để giải câu đố này. Có thể nào nước đang chảy ra ngoài từ đáy hồ trong lòng hang này? Và điều đó có nghĩa là gì? Mở ba lô, Sugiyama tháo nắp bảo vệ ống kính máy ảnh ra và đặt nó lên mặt nước. Cái nắp bắt đầu dập dềnh từ phải sang trái Anh thử thả trôi cái nắp lần nữa, nhưng lần này ở chỗ khác. Nó vẫn chuyển động theo hướng đó. Anh để cái nắp ở đâu trên mặt nước nó cũng trôi từ phải sang trái. Có dòng nước đang chảy ở đáy hồ. Hơn thế, dòng chảy khá xiết. Cuối cùng Sugiyama cũng nhận ra, dù bề ngoài mặt nước này có vẻ là một hồ ngầm dưới lòng đất, nhưng thực tế nó là một khúc sông ngầm.

Từ đầu tháng Mười một đã có hai cơn bão quét qua vùng Kanto, mang theo mưa lớn. Kết quả là nước ngầm dâng lên cao hơn thường lệ, và con đường dẫn ra khỏi hang hẳn đã chìm dưới nước. Anh kết luận rằng vì nước chảy từ phải sang trái, nên chắc ở đâu đó bên trái phải có một đường hầm để nước chảy qua nó thoát ra thế giới bên ngoài. Nếu không có một chỗ trũng kích thước đáng kể để nước có thể đổ vào thì dòng chảy không thể mạng như thế.

Càng nghĩ về điều đó, anh càng chắc chắn rằng có đường hầm ngầm dưới nước. Thế đã tốt lắm rồi, nhưng anh vẫn phải tìm cách nào đó để thoát ra. Mà dù anh có thể tìm được đường ra, cũng không thể cứ thế thong thả mà đi ra được.

Sugiyama vẫn chưa tập trung đủ dũng khí để đi bước đầu tiên. Một khi đã bước tới thì tuyệt đốt sẽ không có đường quay lại, và anh chẳng có cách nào biết được có gì đang đợi mình dọc đường đi.

Anh hẳn sẽ vui khôn tả xiết khi được thấy ánh nắng ban ngày! Lúc cuốc bộ xuyên vùng núi này, anh để ý thấy dòng sông uốn lượn theo sườn Đông qua núi đột ngột mất hút. Theo la bàn của Sugiyama, nên trái là hướng Đông. Có vẻ có lý khi kết luận rằng dòng nước ngầm đó đang chảy vào dòng sông ở phía Đông. Vì từ lúc vào hang đến giờ họ vẫn di chuyển về hướng Đông, rất có thể lúc này anh đã ở khá gần cửa hang nơi nước thoát ra đó.

Anh cố gắng một cách cuồng nhiệt, cố tưởng tượng ra ánh trời rực rỡ, ra cảnh anh loạng choạng bước ra khỏi hang động tù túng, dầm mình vào không gian khoáng đạt. Anh phải lên dây cót can đảm bằng cách hình dung ra niềm sướng vui khi cảm nhận được ánh sáng ban ngày rọi xuống từ trên cao. Nhưng nghịch lý thay, khát khao được thoát ra khỏi đó càng lớn thì nỗi sợ hãi và sự đau khổ của anh càng mạnh lên, vì anh sợ rằng điều mình mong mỏi đó sẽ bị tướ khỏi tay chỉ ngay trước khi đến đích.

Sugiyama rất giỏi lặn trần. Anh có thể lặn xuống vùng nước tối thẫm kia, tìm đường xuống dòng chảy ngầm ấy dựa vào cảm nhận dòng nước trên da mà xác định hướng chảy. Tuy nhiên, anh không có cách nào biết được dòng sông ngầm ấy rộng đến đâu. Một khi theo dòng về phía trước thì tuyệt đối sẽ không có chuyện quay lại. Nếu anh không tìm được lối ra, sẽ không có đường trở lại. Và ngay cả nếu anh thực sự xoay xở tìm được lối ra, cũng chẳng nói trước được nó có đủ lớn cho một người qua không . Cứ tưởng tượng ra nỗi thống khổ khi phải vật lộn với một cái lỗ bé xíu, chiến đấu để được sống… Toàn bộ sự khốn khổ có thể hành hạ một người sẽ cùng lúc bóp nghẹt anh trong khoảnh khắc cuối cùng ấy. Bất lực, đau đớn, tuyệt vọng, nỗi đau thể xác…

Nếu anh chỉ ngồi chờ ở đây, anh sẽ không phải gánh chịu nỗi thống khổ ấy. Nhưng chờ ư? Chờ gì mới được? Vài năm trước từng có trường hợp một nhà thám hiểm hang động được cứu sau bốn ngày mất tích trong hang đá vôi ở Okinawa. Hình như anh ra đã đánh mất đèn pin và lạc đường. Nhưng trong trường hợp ấy, không những đội cứu hộ đã biết được anh ra đang thám hiểm hang nào, mà dân khảo sát hang động địa phương cũng góp sức tìm kiếm. Vậy mà cũng tốn tròn bốn ngày mới tìm thấy và cứu được anh ta.

Sugiyama không biết lựa chọn nào trong số hai lực chọn ấy sẽ mang lại nhiều cơ may sống sót hơn. Khó mà tưởng tượng được có đội cứu hộ nào lại tới được đây trong vài ngày tới. Lặn xuống tìm lối ra chắc chắn là lựa chọn tốt hơn, về mặt mang lại cơ hội sống sót. Vấn đề là liệu anh có đương đầu nổi với những đau khổ rất có thể đang chờ phía trước hay không.

Lại hai ngày nữa trôi qua. Giờ anh đã mắc kẹt được tổng cộng bốn ngày.

Anh không thể lưỡng lự thêm được nữa: phải quyết định bây giờ hoặc không bao giờ nữa. Tất cả những gì anh ăn trong suốt bốn ngày đó là mọt hộp bánh quy luôn mang theo trong ba lô để đề phòng. Đúng là tinh lực của anh đã vơi đi rất nhiều, nhưng anh vẫn còn đủ năng lượng để lặn, miễn là không chần chuwg nữa. Tuy nhiên, sức lực của anh sẽ suy sụp nhanh chúng trong hai, ba ngày tới, và sau đó anh sẽ chẳng thể đưa ra quyết định nào nữa mà chỉ còn một lựa chọn mặc định: một cái chết từ từ nhưng không đau đớn. Mọi cơ hội được cứu sẽ trôi qua.

Nhìn lại ba mươi mốt năm qua, anh bắt đầu thắc mắc liệu mình đã sống hạnh phúc chưa, vì giờ đây sinh mệnh anh có thể dập tắt bất cứ lúc nào. Dù anh muốn cảm thấy hài lòng với những năm tháng được ban cho ấy, nhưng anh không khỏi giận dữ trước cách sống thiếu suy nghĩ của mình trước đây. Đời anh còn quá nhiều việc phải làm. Còn đó tất cả những cuộc phiêu lưu mà anh cùng con trai, Takehiko, đã lên sẵn kế hoạch, đợi khi nào nó lớn hơn một chút. Còn đó bao điều anh muốn dạy thằng bé. Sugiyama hy vọng sẽ dần truyền thụ cho nó bài học về cuộc sống rút ra từ những trải nghiệm của chính anh, để nó có thể vận dụng hiểu biết đó mà sống trọn vẹn hơn, bổ sung bằng những hiểu biết của chính nó, rồi truyền lại cho thế hệ sau. Điều ấy, với Sugiyama, là ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người. Anh cũng không thể không lo cho người vowjc và đứa con đang mang trong bụng. Nhưng lúc này anh sẽ cố gắng không nghĩ đến những lo lắng như thế. Không có điểm kết nào cho những việc còn dang dở đang giăng kín đầu anh: thanh toán tiền bảo hiểm, giấy tờ thế chấp, ai sẽ chăm sóc cha mẹ già, vân vân. Nhưng anh vẫn muốn để lại di chúc cho con trai.

Trong ánh sáng yếu dần của ngọn đèn đeo trước trán, anh bắt đầu viết di chúc cho con trai trên khoảng trống đằng sau tấm bản đồ. Như thể để tự thuyết phục mình, anh thận trọng nắn nót từng chữ, từng cụm từ. Anh cuộn lá thư viết xong lại, bỏ nó vào hộp đựng phim rỗng. Anh bịt chặt cái hộp lại bằng băng dính nhựa, rồi cho nó vào túi chống nước, trên túi viết rõ tên và địa chỉ. Để kiểm tra lại lần cuối cho chắc, anh dán túi lại và thử nhúng xuống nước. Thí nghiệm cho thấy túi nhỏ này nổi được và hoàn toàn không cho nước lọt vào. Trong đầu Sugiyama đang nghĩ xem sẽ làm gì nếu lối ra quá hẹp không qua được. Nếu đúng thế, anh sẽ thả lá thư viết cho gia đình này theo dòng nước về hướng lối thoát đó. Anh cảm thấy có rất ít khả năng nó ra được khỏi hang, trừ khi anh ra đến cửa hang rồi lập tức thả nó ra. Ngay cả khi anh có cố đẩy được nó vào dòng nước dẫn ra ngoài, cái gói nổi vẫn có nguy cơ bị mắc vào vô số thạch nhũ từ trần bên đường hầm đâm xuống.

Việc viết lá thư ấy củng cố quyết tâm của Sugiyama. Anh phải tin rằng mình có cơ hội. Khi sung sức nhất, anh có thể bơi chừng năm mươi mét mà không cần trồi lên lấy hơi. Với sự trợ giúp của dòng chảy, có lẽ anh còn bơi được xa hơn. Để đề phòng đám thạch nhũ trồi ra, anh sẽ đội mũ bảo hiểm và không cởi bộ đồ bảo hộ ra.

Anh bật đèn rồi đặt nó lên một tảng đá gần đó để chiếu sáng phần mặt hồ bên trái. Ánh sáng nhấp nháy yếu ớt như thể sẽ vụt tắt bất cứ lúc nào. Anh dần chuồi người xống nước, chờ quen dần với nước lạnh trước khi ngụp hẳn cả người xuống. Bơi qua hồ sang bờ trái, anh đặt tay lên một bờ đá và ngô đầu lên để lấy hơi. Ngọn đèn trên tảng đá cơ hồ sắp tắt. Sugiyama lấy thêm vài hơi ngắn nữa cho đầy phổi khí. Chiếc hộp chứa lá thư được dắt vào thắt lưng anh để giảm thiểu mọi rủi ro anh có thể đánh mất nó. Anh vỗ vỗ thắt lưng để yên tâm là lá thư vẫn ở đó. Ngay khoảnh khắc anh là thế, đèn vụt tắt.

Như thể đó là hiệu lệnh, Sugiyama bắt đầu lặn xuống dọc theo đường gờ đá. Xuống khoảng dần hai mét, dòng chảy bắt đầu xiết hơn, táp thẳng vào mặt anh và suýt hất tung mũ bảo hiểm khỏi đầu. Bàn tay anh đã dò dẫm sờ thấy cửa thoát. Nước quanh anh đang ào ào chảy vào đó ra dòng sông ngầm. Đúng như anh suy đoán. Với quyết tâm mạnh mẽ, anh phó thác số mình cho dòng nước.

Mùa hè năm 1995

Một đoàn mười hai người dựng trại dã chiến trên sườn dốc thoai thoải đằng trước lối vào hang. Họ là những thành viên của câu lạc bộ Những nhà thám hiểm Đại học S. do Takehiko Sugiyama đứng đầu.

Dù họ đã cầu kỳ chọn một chỗ có bóng râm để dựng trại nhưng những cái trại vẫn phải phơi mình dưới nắng gắt đến tận quá ba giờ chiều. Mặt đầm đìa mồ hôi, các thanh viên câu lạc bộ khoác thiết bị lên vai. Hành trang của họ không chỉ bao gồm bộ thiết bị thám hiểm hang, họ còn phải mang theo thiết bị lặn đầy đủ, những thứ không phải để đùa. Ô tô đổ ở một chỗ trống gần chân núi, cách điểm dựng trại chừng một dặm rưỡi. Mỗi thành viên câu lạc bộ phải đi lên đi xuống hai lần để khuân bộ thiết bị lên.

Tiếng ve sầu ing ỏi lớn đến mức đừng tính đến việc nói chuyện bình thường. Các thành viên câu lạc bộ thà dành sức để dựng trại còn hơn nói chuyện. Quá trình chuẩn bị của họ hoàn thành trước tiến độ. Takehiko nở nụ cười hài lòng khi thấy các thành viên thực hiện công tác chuẩn bị khéo kéo ra sao. Đặt đồ mang theo xuống, anh nghĩ một lát và duỗi thẳng lưng ra.

Miệng hang đen ngòm mở ngoác ra ngay trước mắt họ. Lối vào hang đã được mở rộng hơn so với hồi cha anh đặt chân đến đây hai thập niên trước. Dù vậy, bóng tối dày đặc nằm bên dưới lối vào thì vẫn y hệt như cha anh từng chứng kiến. Đối với Takehilo, hang này là nơi anh cảm thấy nhất định phải đến, dù sớm hay muộn.

Giờ đã mang một cái tên ấn tượng là Quần thể Hang Đá Trắng, những hang động đá vôi được cha anh phát hiện ra này từng đón hàng chục đoàn nghiên cứu đến thăm. Đến năm ngoái, người ta đã lên nhiều kế hoạch nhằm phát triển nơi đây thành điểm du lịch nằm dưới sự bảo trợ của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, phần lớn các kế hoạch đó đều bị bỏ dở. Không chỉ bởi chúng bị các nhóm môi trước địa phương phản đối mà còn vì dự toán chi phí xây dựng đường xá và các hạ tầng cơ sở du lịch khá đã lên đến con số choáng váng. Vì thế những hang động đá vôi này vẫn còn nguyên sơ. Công chúng bình thường không được phép vào. Kiểm lâm quận chỉ cấp phép cho các nhóm nghiên cứu chính thức.

Quần thể hang này chỉ cách nhà Takehiko ba giờ lái xe. Anh lẽ ra đã có thể đến đây bất cứ khi nào anh muốn. Anh cùng không thiếu bạn bè những nhà chuyên môn; lẽ ra anh đã có thể lặn xuống cái hồ ngầm nơi cha anh đã chết đó bất cứ khi nào anh muốn.

Nhưng Takehiko đã cố ý trì hoãn chuyến đi. Trong suốt phần lớn đời mình, hầu như không ngày nào trôi qua mà anh không hình dung ra cái hồ ấy. Hình hài nó xuất hiện cả trong giấc mơ anh. Từ lâu anh đã không còn đếm nổi đã bao lần mình thức giấc giữa đêm, hổn hển trong hoảng loạn khi mơ thấy nước và bóng tôi bủa vây mình.

Lần này, anh không gặp khó khăn nào đáng kể. Có vẻ như đã đến lúc. Khi kỳ nghỉ hè này kết thúc, anh sẽ phải giảm bớt các hoạt động với câu lạc bộ Những nhà thám hiểm để dành thời gian hoàn thành luận văn cử nhân và tìm việc làm. Sang năm anh sẽ trở thành một thành viên có việc làm bận rộn và có đóng góp cho xã hội. Anh cảm thấy phải đến thăm nơi này, bây giờ hoặc không bao giờ nữa.

Khi thi thể của cha anh được tìm thấy và mang về từ đáy hồ nước ngầm đó, Takehiko chỉ vừa mới bước sang tuổi thứ ba. Trẻ con tuổi đó thậm chí còn chưa hiểu ý nghĩa của cái chết. Cái thân thể lực lưỡng, sống động anh từng ôm lấy hàng ngày ấy xuất hiện ở đó một khoảnh khắc rồi biến mất ngay; cảm giác duy nhất anh có lúc đó là có gì đó thân thuộc vừa bất ngờ tan biến.

Sáu tháng sau khi hai người đàn ông gặp bi kịch trong hang, một đội thám hiểm địa phương tình cờ tìm thấy thi thể Sakakibara, người bạn cùng đi cha Takehhiko. Ngay sau phát hiện gây choáng váng này, khi nghiên cứu cái hồ ngầm, đội thám hiểm còn tìm được thi thể của cha anh. Cuối cùng họ cũng đã làm sáng tỏ vụ việc liên quan đến hai người đàn ông mất tích hồi sáu tháng trước. Thậm chí ngay cả khi đội thám hiểm di chuyển được tảng đá lăn, thi thể mục rữa của Sakakibara vẫn đu đưa treo ở đó. Khi bật đèn chiếu vào xác của Sakakibara, họ thất kinh khi thấy phần sau hộp sọ vỡ bị vôi hóa của anh đã dính liền vào vách hang đá vôi.

Cảnh sát giải thích với mẹ Takehiko rằng cái chết của cha anh có lẽ là “do tình trạng loạn trí tạm thời vì mắc kẹt quá lâu trong bóng tối.”

Ý của viên cảnh sát là cha anh đã hoảng loạn tới độ nhảy xuống hồ tự trầm. Những trường hợp tự tử như vậy hiển nhiên không phải hiếm ở những người tuyệt vọng khi lạc trên hoang đảo hoặc trôi dạt giữa biển khơi một thời gian dài. Mẹ Takehiko không chấp nhận kết luận của cảnh sát, nhưng tranh cãi cũng chẳng ích gì; đó là vấn đề mang tính chất cá nhân hơn là hình sự. Tuy nhiên, bà đã khăng khăng khẳng định rằng chồng mình không phải loại người dễ hoảng loạn khi gặp khủng hoảng. Hơn ai hết, bà hiểu tính cách của chồng mình.

Câu lạc bộ đã hoàn thành công tác chuẩn bị cho chuyến xuống hang vào mười một giờ sáng hôm sau. Takehiko và năm người khác sẽ là những người xuống đầu tiên, sáu người còn lại sẵn sàng chờ lệnh. Tất cả thành viên câu lạc bộ, kể cả hai thành viên nữ, đều là những thợ lặn bình khí nén có hạng và có nghiều kinh nghiệm lặn ở biển. Tuy vậy, chỉ có ba thành viên có kinh nghiệm lặn dưới hang ngầm. Là đội trưởng, vai trò của Takehiko là dẫn dắt chín người còn lại dấn bước vào môn lặn dưới hang ngầm bí hiểm này.

Sau khi kiểm tra tỉ mỉ để đảm bảo rằng mọi thiết bị đều hoạt động tốt, sáu thành viên đầu tiên xép hàng trên bờ hồ ngầm. Takehiko điểm lạ một lần nữa những điều cần ghi nhớ.

“Đạp chân nhái càng ít càng tốt. Nếu các bạn khuấy động trầm tích tầng nước đáy thì cuối cùng sẽ chẳng thấy gì cả. Nếu các bạn hoảng loạn thì cố nổi lên, xin hãy hiểu rằng không có chỗ nào nổi lên lên được cả. Vấn đề duy nhất là tránh hoảng loạn. Các bạn đã rõ chưa? Không được hoảng loạn, bất kẻ làm gì cũng không được. Luôn giữ bình tĩnh trong mọi tình huống. Đối diện với mọi tình huống xấu một cách bình tĩnh. OK?”

Các thợ lặn gật đầu đáp rồi trật tự nhét miệng ống thở vào miệng. Ngoài đèn gắn trên mũ bảo hiểm, họ còn mang theo đèn pha công suất lớn. Mỗi người đều được buộc chặt vào một sợi dây an toàn và cách đều nhau. Bình dưỡng khí không đặt trên lưng họ. Họ sẽ cần phải chuyển chúng ra trước ngực nếu cần nổi lên. Khả năng di chuyển chúng theo cách đó sẽ khiến chúng không vướng víu trong một môi trường hạn hẹp đến vậy.

Sự hiện diện của họ mang lại ánh hào quan đặc biệt cho hang khi ánh sáng từ khoảng hai chục cái đèn hắt lên mặt hồ và thắp sáng vách hang. Họ trang bị quá nhiều thiết bị và đèn đến mức họ chính họ cũng bị lóa mắt. Theo nghĩa đen. Hồi cố vật lộn trong đường hầm ngập nước đó, cha của Takehiko hoàn toàn không mang theo nhiều thứ lỉnh kỉnh như vậy. Nếu giờ ông còn có thể trông thấy họ, có lẽ ông cũng sẽ mỉm cười trước đống trang thiết bị có phần quá mức ấy.

Mùa mưa kéo dài đã khiến cho mực nước ngầm dâng lên. Takehiko lặng lẽ lặn xuống mặt nước hồ ngầm đầy ăm ắp, dẫn đường cho những người bạn đồng hành của mình.

Ngay khi xuống nước, anh đã chú ý đến lối vào hình ô van của đường hầm, cách anh chừng một mét về phía bên trái. Anh để ý thấy vô số bóng nước li ti chuyển động về phía lối nước ấy rồi bị hút vào. Đó hẳn là một đường hầm dẫn tới lối ra. Ráng hình dung lại những gì cha mình đã trải qua, Takehiko nín thở, mặc cho dòng nước cuốn mình về phía đường hầm, trong đầu gợi liên tưởng về ruột một con quái vật khổng lồ.

Khi anh chiếc đèn dùng nước của mình về phía trước, anh thấy rõ đám thạch nhũ rủ xuống từ đường hầm khiến lối đi qua trở nên hẹp đến phi lý. Dù đúng là dòng nước chảy vẫn đủ mạnh để liên tục đẩy anh về phía trước, chẳng mấy chốc anh đã nhận ra rằng nếu phó mặc hết cho lực đẩy của dòng nước thì anh sẽ va vào đám đá vôi chĩa xuống ấy. Anh phát hiện ra phải khá lão luyện mới tránh được những vú đã đâm xuống ngay trên đầu và đám cọc đá nhô ra tư hai bên. Anh chỉ có thể tiến lên bằng cách dùng tay khoát nước như điên, đập chân nhái dữ dội. Ngay cả khi nhìn rõ phía trước, gần như cũng không thể nào tiến lên mà không va phải thạch nhũ.

Takehiko nhẹ nhàng nhắm mắt cố tái tạo lại những gì cha anh chắc hẳn đã trải qua. Nhưng cứ nhắm vào là lập tức phải mở ra. Ngay khi anh nhắm mắt lại, một nỗi sợ hãi mãnh liệt liền xâm chiếm anh, khi trí tưởng tưởng biến đám thạch nhũ thành những lưỡi dao găm khổng lồ. Dù anh có thử nhắm mắt lại bao nhiêu lần chăng nữa, cảm giác nguy hiểm sắp xảy tới cũng sẽ bắt chúng mở ra lần nữa.

Đúng lúc anh sắp từ bỏ niềm hy vọng có thể nín thở mà đi xa thêm nữa thì đường hầm chợt rộng ra, xòe như một cái phễu. Nhìn lên, anh thấy cái gì đó có vẻ giống như những gợn sóng trên mặt nước. Dường như một khoảng không mở ra giữa mặt nước và trần tường hầm. Takehiko nổi lên và lấy hơi qua ống thở. Anh chắc chắn cha mình cũng từng phải nổi lên ở đây để nạp lại không khí vào phổi.

Anh băn khoăn không biết có thể miêu tả cảnh hùng vĩ đang đón chào mắt mình ra sao. Trên trần đường hầm khum khum rủ xuống vô số thạch nhũ như hằng hà sa số cọng rơm. Chúng rủ xuống gần chạm đỉnh đầu anh, sắc nhọn như hàng ngàn mũi kim đâm xuống dưới. Đám thạch nhũ này dài phải đến vài mét. Vậy mà, buồn thay, cha của Takehiko đã không thể chứng kiến cảnh tượng ngoạn mục này.

Xa thêm chút nữa, đường hầm bắt đầu thắt chặt trở lại gần như kích thước lúc trước. Khoảng không khí giữa trần đường hầm và mặt nước đã biến mất. Takehiko quyết định thử nín thở lần nữa. Dòng chảy bắt đầu hơi dốc xuống dưới, vậy nên nước bắt đầu xiết hơn. Nhưng anh không cảm thấy điều này đáng lo lắm. Mải mê bận tâm với việc tái hiện lại hoàn cảnh từng bủa vây cha mình, Takehiko đã quên đi nỗi lo đáng lẽ cần có cho sự an toàn của chính anh. Chợt tốc độ dòng chảy tăng lên đột ngột, và, kinh ngạc tột độ, anh nhận ra mình bị nuốt chửng vào một thác nước. Không cao hơn ba mét, đó chỉ là một thác nước nhỏ xíu. So với các thác nước thông thường, chỉ khiến anh lộn nhào hai vòng trong nước. Nhưng vì nước cuồn cuộn nên anh đã đánh rơi cái đèn vẫn cầm ở tay và va mạnh lưng vào một tảng đá. Bị nước cuốn đi, anh trượt theo đường hầm ấy, liên tục va đập. Anh không thể nín thở lâu hơn được nữa, và đang sắp sửa lấy một hơi nữa thì nhìn thấy một vệt dài thẳng đứng chừng ba mét phía trước. Dựa lưng vào vào vách đường hầm, anh bắt đầu tiền gần đến cái vệt dài kia. Khi đến gần, bản chất của nó hiện ra rõ nét. Đó là một vết nứt trong lòng đá, rộng chừng hai mươi phân. Nước đang phun ra qua đường nứt này chảy tràn ra ngoài. Đây là đầu ra! Qua lớp nước sục đầy bọt khí, anh vẫn có thể nhận rõ ánh trời yếu ớt lấp ló. Bên trong vết nứt, nước trên đường chảy ra hòa lẫn ánh sáng chiếu vào. Lưng bị áp lực nước cuồn cuộn ép chặt vào đá. Takehiko vặn vẹo vung tay qua dải ảnh sáng đó. Chính ở nơi đây, cha anh đã quăng ra hộp di chúc của mình.

Một năm sau khi gia đình anh biết tin cha anh đã mất, hộp phim chứa tấm bản đồ mới được chuyển lại cho người nhà Sugiyama. Trên mặt sau tấm bản đồ là những lời chứng thực cho việc làm cuối cùng của cha Takehiko. Đó là một lá thư của cha anh, có vẻ như là ông đã viết nó ngay trước khi chết.

Rõ ràng là dòng nước đã nối cái hồ ngầm này với vình Tokyo. Trước tiên nước chảy vào một nhánh phụ rồi vào nhánh lớn hơn của sông Tama, sông Tama lại đổ nước ra vịnh Tokyo. Nhưng liệu có bao nhiêu cơ hội để một lá thư thả theo hướng đó đến được với người nhận? Chắc chắn chỉ có thể miêu tả chuyện này là một phép màu. Dù sao chăng nữa, dải sáng tuyệt vời xuyên vết nứt đó có sức mạnh khiến người ta tin vào những phép màu như thế.

Họ tìm thấy lá thư trong hòm thư. Nó vẫn ở trong hộp đựng phim, trên phong bì không ghi trên người gửi, nên không thể biết ai tìm thấy nó và tim thấy khi nào. Họ có thể tưởng tượng ra rằng nó đã được một người dân vùng Okutama tìm ra; hoặc nó bị vướng vào lưới một ngư dân đánh cá trên vùng biển gần cửa sông Tama. Dù người tìm thấy nó có là ai, anh ấy, hay cô ấy cũng đã lấy lá thư trong hộp đựng phim ra đọc, rồi hiểu được tầm quan trọng của thông điệp ấy đối với gia đình mà nó được viết ra để gửi cho. Người đó cũng đã tốt bụng gửi lá thư cho họ.

Lá thư viết:

Takehiko, con yêu,

Ngay cả khi biết không còn lối thoát, đôi khi chúng ta vẫn phải gắng sức tiến lên tìm kiếm nó, bất chấp viễn cảnh mờ nhạt đến đâu…

Bố biết có thể tin tuowgnr rằng con sẽ chăm sóc mẹ và đứa em sắp tới.

Yêu con,

Bố của con.

Không nghi ngờ gì cả, đó chính là chữ viết tay của cha anh, từng con chữ một đều được ấn bút mạnh mẽ. Lá thư chứng minh rằng cha anh đã chuẩn bị tinh thần cho cái chết.

Giờ thì đã rõ tại sao thi thể của cha anh lại được tìm thấy ở gần lối ra dưới cái hồ ngầm. Biết rằng sẽ chẳng có đường ra, nhưng cha anh vẫn cố tìm một lối thoát và thử bơi xuống nhánh sông ngầm đó; có thể nỗ lực của ông đã kết thúc thất bại, nhưng ít nhất ông đã truyền cho anh một quyết tâm can trường rằng mình phải sống sót. Ông không gửi lá thư này cho vợ. Ông muốn gửi cho con trai mình – khi ấy còn quá nhỏ để đọc nó – một thông điệp: hãy mạnh mẽ.

Lá thư đã chứng tỏ rằng nó đúng là một nguồn sức mạnh vô giá đối voiwsw Takehiko. Anh đọc đi đọc lại nó. Khi cần đến can đảm trong cuộc đời, anh nhớ lại lời cha và những khó khăn mà ông từng nỗ lực hết sức để vượt qua. Takehiko chỉ có hai năm rưỡi được sống với cha, và thậm chí đến nay anh khó lòng nhớ được. Nhưng cái bóng tối cha anh từng đối mặt vẫn đeo đẳng Takehiko vào tận những cơn mơ, khiến anh hụt hơi ngạt thở. Mỗi lần thức giấc vì mơ ấy, anh chỉ cảm thấy quyết tâm phải trở nên mạnh mẽ tăng lên. Vì anh đã có lá thư ấy, trên đời này chẳng còn điều gì khiến anh sợ hãi nữa.

Anh thọc hết cánh tay qua kẽ hở, đến tận bả vai, rồi chầm chậm thu lại. Chỉ cần chỗ hở này rộng gấp đôi, ước muốn của cha anh đã thành hiện thực; ông hẳn đã nổi lên giữa ánh mặt trời chói rạng.

Takehiko cố gắng khắc ghi hình ảnh trước mắt, để anh không bao giờ quên. Và anh thì thầm tận trong đáy lòng, “Bố, con hiểu ước nguyện của bố rồi.”

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện