1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Trinh thám Không Khoan Nhượng - Bard Thor - Trạng Thái:Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi mrsiro2001, 17/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    KHÔNG KHOAN NHƯỢNG
    Tác Giả : Bard Thor
    Thể Loại : Trinh Thám,Linh Dị
    Tình Trạng : Full
    Nguồn : Sưu Tầm
    [​IMG]

    Giới Thiệu : Một tên sát nhân bậc thầy. Một mối thù truyền kiếp dai dẳng nhiều năm. Một đặc vụ chống khủng bố kiên cường, người dám đương đầu với mọi thách thức – cho dù bị quy tội phản quốc - để bảo vệ mạng sống cho những người thân yêu của mình.

    Brad Thor, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết kinh dị bán chạy nhất trong danh sách xếp hạng của Thời báo New York “Truy sát” đã từng ra một tác phẩm kinh dị bom tấn về đặc vụ Bộ An ninh Nội địa, người nhái Hải quân Scot Harvath, người đã để tội phạm sống sót trong một chừng mực nào đó.

    “Ngươi không nên thương lượng với lũ khủng bố…”

    Sáu tháng trước, vào một đêm khuya khoắt, năm tù nhân nguy hiểm nhất được đưa ra khỏi xà lim đặc biệt tại vịnh Guantanamo. Chúng bị áp giải bằng súng và được lệnh cởi bỏ bộ áo liền quần. Sau khi phát quần áo dân sự, chúng được đưa tới phi trường và tống lên một chiếc Boeing 727 rồi họ thả chúng ra.

    Sau đó, Điệp vụ chống khủng bố ngầm Scot Harvath tỉnh dậy và phát hiện ra rằng thế giới của anh đã thay đổi khủng khiếp – và thay đổi mãi mãi. Tên sát nhân tàn bạo với mối thù truyền kiếp cá nhân đang lên kế hoạch trả thù theo kiểu trong Kinh Thánh. Bằng cách khiến những người thân nhất của anh kinh hãi như trong cơn ác mộng, tên khủng bố đẩy tất cả những gì thân yêu nhất - kể cả mạng sống của anh – vào cơn nguy khốn.
     
  2. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 1
    TRẠI DELTA CĂN CỨ HẢI QUÂN MỸ

    VỊNH GUANTANAMO, CUBA

    Khi trời nóng ấm, ở Cuba, cuộc sống của con người ta đâu đó lơ lửng giữa hai thái cực, giữa nỗi khổ cùng cực và sự chịu đựng cái nóng nực, bức bối, chen chúc chờ đợi được tắm cho bớt khó chịu, để rồi, khi đến lượt mình thì, “Có bồn tắm rồi đấy, có ai có dao lam không?”. Còn khi mưa lạnh, ở Cuba quả là không thể chịu nổi. Đêm nay là một đêm như vậy.

    Lúc những người lính gác đễn chỗ xà lim đặc biệt thuộc “Trại 5” Delta, khu giam giữ những kẻ tình nghi nguy hiểm nhất và có giá trị tình báo cao nhất, nơi đây tồi tệ hơn ngày thường rất nhiều. Và đó không phải vì thời tiết. Có cái gì đó không ổn. Nó hiển hiện trên nét mặt họ khi đẩy năm tù nhân ra khỏi xà lim và giơ súng yêu cầu chúng cởi quần áo.

    Thời gian Philippe Roussard ở Guantanamo không phải là dài nhất, nhưng hắn đã trải qua những cuộc lấy cung khó khăn nhất. Một người Châu Âu mang dòng máu Ả-rập, hắn là tay bắn tỉa cừ khôi với những kỳ tích đi vào huyền thoại. Những cuốn băng video về tài nghệ bắn súng của hắn được đẩy lên liên tiếp trên khắp các trang web của các tín đồ Hồi giáo thánh chiến. Đối với những tín đồ Hồi giáo, hắn là một siêu anh hùng trong các danh nhân đạo Hồi cấp tiến. Đối với nước Mỹ, hắn là cỗ máy giết người kinh hoàng, kẻ đã gây ra cái chết của trên một trăm lính Mỹ.

    Nhìn vào gã cai ngục, hắn nhận thấy ánh mắt ấy hơn cả nỗi thù hận đơn thuần. Đêm nay, ánh mắt ất còn có cả sự ghê tởm tột độ. Có điều gì đó mách bảo, cho dù lính của Lực lượng Liên quân Guantanamo có chiến thuật hỏi cung nửa đêm đối với Roussard và bốn đồng nghiệp của hắn như thế nào đi nữa, đêm nay, sẽ hoàn toàn khác những gì chúng đã từng trải qua. Những người lính gác có vẻ bắt đầu bối rối.

    Liệu có phải đã có cuộc tấn công thành công vào nước Mỹ?

    Còn điều gì khác có thể khiến những người lính kia rơi vào trạng thái như thế? Nếu vậy, Roussard cảm nhận rõ ràng rằng người Mỹ sẽ bắt các tù nhân phải trả giá. Không nghi ngờ gì nữa, hẳn là chúng đã có một kiểu đê tiện khác để xúc phạm sự nhạy cảm kiểu đạo Hồi của các tù nhân. Riêng mình, Roussard hy vọng cuộc tra tấn có người lính tóc vàng tham gia và rằng cô sẽ cởi quần áo cho tới khi chỉ còn bộ đồ lót đen bằng ren và cọ sát thân hình quyến rũ ấy vào người hắn. Dù biết mình đoán sai, nhưng những suy nghĩ thích thú về những gì hắn muốn với người đàn bà ấy đã giúp hắn dễ dàng trải qua những giờ đồng hồ cách ly dài đằng đẵng và cô đơn mà hắn phải chịu đựng.

    Hắn vẫn còn đang tiên đoán về số phận của mình khi nghe tiếng khóa cửa ở tận đầu kia xà lim. Roussard nhìn lên, hy vọng đó là người lính tóc vàng, nhưng không. Một người lính khác bước vào mang theo năm cái túi giấy. Cứ ngang qua mỗi tù nhân, anh ta lại vứt cho một cái.

    “Mặc vào!” Anh ta ra lệnh bằng thứ tiếng Ả-rập vụng về.

    Tất cả tù nhân, kể cả Philippe, đều bối rối lấy quần áo dân sự ra khỏi túi và mặc vào người. Chúng kín đáo nhìn nhau trong khi cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Roussard nhớ lại những câu chuyện đã từng nghe về các tù nhân trong trại tập trung người Do Thái, chúng nói rằng đưa họ đi tắm, nhưng thực chất là đưa đến các phòng gas.

    Hắn ngờ rằng những người Mỹ này đang cho cả bọn mặc quần áo mới chỉ để hành quyết họ, tuy nhiên, hắn hơi lo lắng một chút vì không biết chắc sẽ phải đối mặt với cái gì.

    “Sao chúng không chạy nhỉ?” Một trong số những người lính gác thì thầm vào tai đồng bọn khi anh ta đánh vào cái vòng cản của khẩu M16 của mình. “Tao chỉ muốn một trong số những thằng khốn này nói dông dài với chúng ta.”

    “Nhảm nhí,” người lính kia trả lời. “Chúng ta đang làm cái quái gì vậy?”

    “Hai thằng, câm ngay!” Chỉ huy của họ quát lên, rồi ra một loạt lệnh qua điện đài.

    Hẳn có chuyện gì đó không ổn.

    Ngay khi vừa mặc xong quần áo, chúng bị còng tay chân và bắt đứng xếp hàng quay mặt vào bức tường phía xa.Thế đấy, Roussard nghĩ bụng khi hắn bắt gặp cái nhìn chằm chằm của gã lính gác đang hy vọng một trong những tù nhân sẽ chạy chọt. Ngón tay anh lính bắt đầu lần từ cái vòng cản xuống chỗ cò súng và có vẻ muốn nói gì đó khi có một loạt xe dừng lại phía bên ngoài.

    “Đón chúng ta đấy.” Vị chỉ huy Lực lượng Liên quân hết lên. “Lên thôi!”

    Đám tù nhân bị đẩy về phía cửa. Roussard hy vọng khi ra ngoài, hắn có thể nhìn thấy là họ đang đi đâu, như vậy sẽ rõ ràng hơn.

    Không được rồi, từng tù nhân một bị trùm đầu trước khi được đưa ra một đoàn xe đa năng màu xanh đang chờ bên ngoài.

    Mười phút sau, đoàn xe dừng lại. Trước khi cái mũ chụp đầu nặng nề ấy được gỡ bỏ, Roussard có thể nhận ra tiếng động cơ phản lực gào xé.

    Trên mặt nhựa đường đẫm nước mưa, trước khi được tháo còng, đám tù nhân nhìn lên, thấy một chiếc Boeing 727 khổng lồ. Một cái thang cuộn lên một bên chiếc phi cơ và khoang cửa mở rộng.

    Chẳng ai nói một lời, nhưng dựa vào thái độ của những người lính – dường như họ được lệnh đứng cách xa chiếc máy bay – Roussard đi đến một kết luận sáng suốt. Dù không được lệnh, Roussard cứ tiến một bước về phía trước. Không thấy người lính nào ngăn cản, hắn tiến lên bước nữa, rồi bước nữa, cho tới khi chân chạm vào bậc thang kim loại đầu tiên và hắn bắt đầu trèo lên. Hắn sắp có cơ hội được cứu. Chỉ đến cuối cùng hắn mới biết. Thấy tiếng các tù nhân khác chạy rầm rập ở lối đi phía sau mình, Roussard thận trọng bước vào cabin. Người hắn gặp đầu tiên trên máy bay là một sĩ quan, anh ta so sánh hắn với một tấm ảnh trên bìa kẹp hồ sơ, rồi rút ra một cái phong bì đen nặng nề, anh ta nói, “Chúng tôi được lệnh đưa anh cái này”.

    Trước đó, Roussard đã từng nhận được những phong bì giống thế này. Dù không mở ra, hắn cũng biết ai gửi nó tới.

    “Mời anh ngồi vào chỗ,” viên sĩ quan đầu tiên tiếp lời. “Cơ trưởng đang nóng lòng muốn cất cánh.”

    Roussard tìm thấy một chỗ trống gần cửa sổ và thả mình vào đó. Khi cánh cửa khoang chính đóng lại, một số thành viên phi hành đoàn biến mất về phía đuôi máy bay và quay lại mang theo những thiết bị y tế kì cục cùng một số đồ làm lạnh bằng nhựa to.

    Chẳng điều gì có ý nghĩa với Roussard cho tới khi hắn mở chiwwcs phong bì và đọc nội dung bên trong. Một nụ cười từ từ hiện lên trên khuôn mặt. Thế alf xong. Không những đã được tự do, mà người Mỹ còn không thể theo đuổi được hắn nữa. Hắn sắp được trả thù – và nhanh hơn rất nhiều so với hắn tưởng.

    Mở cánh cửa sổ ra, Roussard có thể nhìn thấy đám lính đang trèo trở lại những chiếc xe đa năng và lái ra khỏi đường bay, một số giơ tay ra ngoài cửa sổ và giơ ngón giữa ra chào một cách mỉa mai.

    Khi động cơ của chiếc máy bay bắt đầu rú lên và con thú to lớn bỗng chồm mình về phía trước, phía mũi máy bay vang lên những tiếng vui mừng “Allahu Akbar”, thánh Ala vĩ đại.

    Thánh Ala vĩ đại thật đấy, nhưng Roussard biết chẳng phải Người đã thu xếp vụ phóng thích này. Và khi nhìn vào chiếc phong bì màu đen, hắn biết rằng họ phải cảm ơn một người nào đó ít nhân từ hơn Người nhiều.

    Tập trung chú ý về phía cửa sổ nơi những người lính đang nhanh chóng khuất khỏi tầm nhìn, Roussard gõ gõ ngón trỏ và ngón cái, lấy mục tiêu và đẩy cò súng tưởng tượng.

    Giờ đây, khi đã được tự do, hắn biết rằng, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi người quản lý để hắn tự do trong lòng nước Mỹ để báo thù.
     
  3. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 2
    QUẬN FAIRFAX, VIRGINIA

    SÁU THÁNG SAU

    Một tiếng sấm làm rung chuyển cả tường và cửa sổ phòng ngủ nổ ra trong một trận mưa đá đày kính vỡ vụn. Hoàn toàn theo bản năng, Scot Harvath với tìm cô bạn gái Tracy và lăn ra khỏi giường.

    Phía vai yếu của anh va mạnh xuống. Nặng nhọc nâng người lên, anh với tay và kéo ngăn kéo ra khỏi cái bàn đầu giường. Nó rơi đánh xoảng xuống. Những đồng ngoại tệ, một lọ thuốc giảm đau, một chùm chìa khóa cất giữ tài sản, bút, một tập giấy từ Rizt ở Parkerris gửi đế, tất cả văng ra nền gỗ.Mọi thứ đề ở đó trừ thứ anh đang cần khủng khiếp – khẩu súng của anh.

    Harvath lăn ngửa ra và chới với dưới gầm giường. Cuối cùng, anh tìm được cái hộp đạn rỗng và vỏ súng cũng rỗng nốt.

    Bản năng gào lên làm anh phải đi tìm một thứ vũ khí, trong khi lương tâm lại đang mắng chửi anh vì tội đi ngủ mà không mang theo súng. Nhưng anh có mang súng đi ngủ đấy chứ. Anh luôn làm thế mà. Anh đã cất nó trong ngăn kéo cạnh chỗ anh nằm. Chắc chắn là như vậy.
    Có khi Tracy lấy nó trước cũng nên. Anh quay sang phía cô, nhưng cô không còn ở đó. Thực ra, trong lúc lăn lộn, anh cũng không rõ cô có trên giường hay không. Không hiểu thế nào nữa.

    Đứng dậy, Harvath cố lần ra hành lang và cầu thang ở tận đầu đằng kia. Cứ mỗi bước chân, anh lại càng thêm lo lắng. Ruột gan như cố mách bảo anh điều gì và đến bước chân cuối cùng, anh nhìn thấy máu. Nền nhà, tường, trần nhà, chỗ nào cũng đầy máu.

    Đâu cũng lênh láng máu. Máu từ đâu ra nhỉ? Máu của ai vậy?

    Mặc dù Adranalin đang chảy khắp cơ thể, nhưng chân anh vẫn cứng đờ ra như đá. Phải dùng hết sức bình sinh, anh mới lết được về phía đường vào và mở cửa trước ra.

    Khi anh bước ra ngoài, đạp vào mắt anh là hình ảnh làm tim anh đau nhói – ngay trên cửa, một cái hòm mây treo ngược, sơn đầy máu và đổ sụp xuống bên thềm cửa, ngay cạnh chú chó trắng nhỏ, chính là cơ thể của người phụ nữ anh yêu.

    Harvath nghĩ anh nhìn thấy có chuyển động đâu đó dọc theo hàng cây ở ven khu nhà, Một con dao dài, đen vung lên từ phía sau vai và mũi dao gí vào cổ họng trong khi anh đang tìm kiếm thứ gì đó để tự vệ.
     
  4. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 3
    BỆNH VIỆN FAIRFAX FALIS

    CHURCH, VIRGINIA

    Đầu Harvath bất ngờ ngật ra đằng sau làm anh giật mình tỉnh dậy. Vài giây sau, tim đập chậm trở lại, anh mới nhận ra là mình đang ở đâu. Nhìn quanh căn phòng trong bệnh viện, anh thấy mọi thứ vẫn như trước khi anh rời khỏi đây rồi bị chìm sâu vào giấc ngủ. Cái thành giường mà anh dịnhđể trán lên cho đỡ mỏi vẫn còn đó, Tracy Hastings, người đang nằm trên giường cũng vậy.

    Harvath quét mắt dọc cơ thể cô, xem có chút dấu hiệu chuyển động nào không, nhưng Tracy vẫn nằm bất động. Cô là nạn nhân bị trúng đạn của một tên sát thủ cách đây năm ngày và từ đó đến nay, cô vẫn nằm bất động, không xê dịch dù chỉ là một centimet nhỏ.

    Cánh quạt thông gió vẫn đang chạy đều đều. Harvath không thể chịu đựng được khi nhìn thấy cô như vậy. Cô đã chịu đựng quá nhiều. Và nỗi đau đớn mà cô đang phải chịu chính là do anh.

    Mặc dù bị thương nhiều lần – đặc biệt là trong một vụ thiết bị nổ tự chế ở Iraq, bom đã nổ ngay trước mặt, lấy đi đôi mắt xanh đẹp mê hồn của cô và cô cũng mất luôn công việc là chuyên viên kỹ thuật hàng đầu về tháo gỡ chất nổ hải quân – cô vẫn cố gắng để giữ được tính hài hước đến kỳ lạ.

    Dù ngần ngại một lúc mới dám thú nhận, nhưng phải nói rằng Harvath đã yêu Tracy ngay từ giây phút đầu tiên.

    Họ đã gặp nhau khá tình cờ ở Manhattan cách đây chưa đầy một tháng. Harvath đã tới Big Apple để nghỉ kỳ nghỉ cuối tuần mùng bốn tháng bảy với người bạn thân Robert Herrington. Robert, bạn thân của anh được biết đến với cái tên “Bob viên đạn”, từng là một đặc vụ huyền thoại của Lực lượng Delta mới giải ngũ do bị thương ở Afghanistan.

    Harvath và Herington đã có một kỳ nghỉ cuối tuần bù khú rất đã ở thành phố New York nơi đã xảy ra một vụ khủng bố kinh hoàng. Không ai trong số họ có thể ngờ rằng đêm khuya hôm ấy Bob lại bị giết.
    Đảo Manhattan hoàn toàn bị phong tỏa, cảnh sát, những đám cháy và các đơn vị EMS kéo dài tới mức không chịu nổi. Bob đã giúp Scot điều hành đội của mình để săn tìm thủ phạm. Đội này bao gồm những quân nhân hoạt động đặc biệt từ Hội Cựu chiến binh Manhattan, những người giải ngũ do bị thương ở nước ngoài gần đây giống như Bob. Harvath đang đứng trên nóc nhà của Hội Cựu chiến binh dọc sông Đông khi Tracy và hai người bạn nữa của Bob bước lên đó.

    Hai mươi sáu tuổi, Tracy trẻ hơn Harvath mười tuổi, nhưng sự khôn ngoan và hiểu biết ở cô khiến giữa họ như không còn sự khác biệt tuổi tác. Khi Harvath nhận xét điều này với cô, cô đùa rằng vô hiệu hóa các thiết bị gây nổ chết người có một cách để làm con người ta lão hóa rất nhanh.

    Bên trong cô là người chững chạc hơn tuổi hai mươi sáu của mình, nhưng bề ngoài lại không như vậy. Cô sở hữu một thân hình tuyệt đẹp. Thực ra, cô có vóc dáng đẹp nhất trong số những người phụ nữ Harvath từng biết. Tracy nói vui, cô có một thân thể đẹp mê hồn và một khuôn mặt để bảo vệ thanh hình ấy. Đó là cách cô dí dỏm về những vết sẹo trên mặt trong vụ nổ ở Iraq. Các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đã xử lý khuôn mặt cô thật tuyệt vời, phù hợp với đôi mắt màu xanh nhạt còn lại của cô, nhưng dù trang điểm kỹ đến thế nào, Tracy cũng không thể che lấp được những vết sẹo mờ ấy.

    Với Harvath, điều ấy chẳng có gnhiax lý gì. Anh nghĩ rằng cô là một người tuyệt vời. Anh yêu sao cái cách cô tết bím tóc vàng của mình lại. Chỉ những cô bé mới tết tóc, nhưng khi một người phụ nữ như cô để kiểu tóc ấy, lại cực kỳ quyến rũ.

    Đó là một Tracy nguyên bản. Ở cô, chẳng có gì bình thường. Trí thông minh, niềm đam mê, sự kiên định trên khuôn mặt đầy thương tích của cô là những nét để Harvath ngưỡng mộ Tracy sâu sắc. Lý do để anh yêu cô cũng vì bản thân anh nhiều hơn.

    Harvath quan tâm tới cô nhiều như vậy bởi lần đầu tiên trong đời, anh đã tìm thấy một người thực sự hiểu anh. Hơn ai hết, cô đã nhìn thấy chính anh đằng sau hàng chuỗi những lời nói lém lỉnh, những câu chuyện cười không bao giờ kết thúc và đống đá anh ném lên tường. Anh không cần phải chơi những trò chơi với cô và cô cũng vậy. Từ giây phút gặp nhau, họ đã tìm thấy chính mình. Đó là cảm giác Harvath tưởng mình chẳng bao giờ có được.

    Khi nhìn thấy Tracy ở trên giường bệnh, anh biết, đó là một cảm giác anh chẳng bao giờ có lại nữa.

    Anh nhẹ nhàng gỡ tay khỏi tay cô và đứng dậy.
     
  5. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 4
    Trong phòng tắm riêng ở bệnh viện, có cả bàn chải và thuốc đánh răng, dao cạo, khử mùi hôi và kem cạo râu. Laverna, người y tá đêm đã vứt chúng ngay sau khi Harvath tới vào buổi sáng Tracy bị bắn. Rõ ràng là anh không có ý định rời đi. Anh sẵn sàng ở lại lâu bao nhiêu cũng được, cho tới khi cô bình phục.

    Đóng cửa lại, Harvath cởi quần áo và vặn vòi nước bồn tắm. Khi nước đã đủ nóng, anh trèo vào trong và mặc cho nước mơn man cơ thể. Nhắm mắt lại, từng chi tiết của cơn ác mộng ấy lại trở lại và anh phải cố gắng lắm mới xua đuổi được chúng ra khỏi tâm trí. Anh vừa xoa bánh xà phòng nhỏ xíu lên người vừa cố nghĩ đến một điều gì đó.

    Đã xong rồi, nhưng anh biết những con quỷ ấy sẽ quay trở lại. Chúng đã ám ảnh anh ngày đêm từ khi Tracy bị bắn.

    Một trong những bác sĩ đứng trong phòng khi Harvath thoát ra khỏi một cơn ác mộng tồi tệ đã khuyên anh tìm một liệu pháp nào đó, nhưng anh lịch sự cười đáp lại ông ta. Rõ ràng là ông bác sĩ không biết mình đang nói chuyện với ai. Những người trong đường dây làm việc của Scot không tìm kiếm liệu pháp nào hết. Chẳng ai trên thế giới này có thể hiểu được cuộc đời anh như thế nào và hiểu được những tổn thất đã giáng xuống anh trong những năm qua.

    Vặn nước về mức lạnh, Harvath rùng mình tỉnh dậy và bước ra. Quấn khăn tắm quanh bụng, anh tựa vào bồn và lau lớp hơi nước mờ ở gương đi. Lần duy nhất trong đời, anh thực sự nhìn thấy mình thế nào – thật kinh khủng. Đôi mắt màu xanh lơ hàng ngày của anh ảm đạm và đỏ ngầu, khuôn mặt đẹp trai nhăn nhó, hốc hác. Mái tóc nâu hung hung đỏ, dù sao cũng đã đến lúc cắt. Thân hình vạm vỡ, cao lớn vốn khiến bất kỳ gã đàn ông nào bằng nửa tuổi anh cũng phải ghen tị thì đang suy nhược vì gần như năm ngày qua anh chẳng ăn gì.

    Giá mà trước đây Harvath từng nghi ngờ và căm ghét bản thân như bây giờ.

    Cách đây mười tám năm, anh không nghe lời cha, một giáo viên huấn luyện người nhái SEAL[1] tại Trường Chiến tranh đặc biệt của Hải quân gần nhà ở Coronado, Califonia.

    (1) SEAL: Người nhái với cả ba phương tiện, đường biển, đường không và đường bộ.
    Anh đã cố gắng và được nhận vào Đội trượt tuyết kiểu tự do của Mỹ. Măc dù biết con mình là một vận động viên trượt tuyết có một không hai, nhưng cha anh vẫn muốn anh học tiếp Đại học sau khi kết thúc phổ thông trung học chứ không tham gia vào giới điền kinh chuyên nghiệp. Cha và con đều ngang như nhau và từ đó, trong suốt một thời gian dài, chẳng ai nói với ai một lời nào nữa. Chính mẹ của Scot, bà Maureen, đã trở thành chiếc cầu nối trong gia đình. Và mặc dù đã có một số cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông, song mọi chuyện không thể nào trở lại thực sự như cũ được nữa. Cả cha và con đều chẳng muốn nhận lỗi về mình, việc này khiến cái chết của cha Harvath càng tồi tệ hơn.

    Khi ông Michael Harvath chết vì một tai nạn nghề nghiệp, Scot đã thay đổi hoàn toàn. Có cố gắng đến đâu đi nữa, anh cũng không thể để tâm trở lại với việc thi thố trượt tuyết. Anh rất yêu thể thao, nhưng dường như điều ấy chẳng còn quan trọng chút nào.

    Trích một phần trong số tiền thưởng lớn của mình, anh mua một cái ba lô và đi du lịch khắp Châu Âu, rồi cuối cùng dừng lại ở Hy Lạp, trên một hòn đảo nhỏ gọi là đảo Parkerros. Tại đó, anh tìm được công việc làm nhân viên đứng quầy bar cho một cặp không xứng đôi vừa lứa. Một người trước đây lái xe cho một gia đình tội phạm ở Nam Luân Đôn, còn người kia nguyên là lính trong lực lượng đặc nhiệm SWAT của Anh, một kẻ hay cằn nhằn. Sau một năm, Harvath biết anh muốn làm gì.

    Anh trở về nhà và vào học tại trường Đại học Nam Califonia, ngành khoa học chính trị và lịch sử quân đội.

    Ba năm sau, anh tốt nghiệp, anh vào ngành Hải quân và cuối cùng được nhận vào trường Người nhái Thủy công cơ bản và tham gia chương trình đặc biệt SQT hay còn gọi là chương trình Đào tạo Chuyên ngành Người nhái Hải quân. Mặc dù quá trình tuyển chọn và đào tạo làm anh mệt nhoài, nhưng tình trạng thể lực và tinh thần thuộc hàng vận động viên đẳng cấp quốc tế, việc anh không chịu từ bỏ bất cứ thứ gì và niềm tin rằng cuối cùng mình cũng tìm thấy tiếng gọi chân chính của cuộc đời mình điều đó đã trở thành động lực giúp anh tiến bước và mang lại cho anh vinh dự được coi là một trong những chiến binh xuất sắc nhất thế giới – một Người nhái của Hải quân Hoa Kỳ.

    Với khả năng trượt tuyết có một không hai, Harvath được giao nhiệm vụ làm việc với những chuyên gia khí hậu lạnh của SEAL, Đội số Hai. Vì không hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên, Harvath bị ra khỏi đội. Cuối cùng, những thành viên của đội Người nhái số Sáu danh tiếng lại để mắt đến anh. Chính họ đã giúp anh phát triển những khả năng của mình, không chỉ như một chiến binh, mà còn là một chuyên gia ngôn ngữ, cải thiện vốn tiếng Pháp ít ỏi và dạy thêm anh tiếp Ả-rập.

    Chính trong thời gian thuộc Đội số Sáu, Harvath đã hỗ trợ một đội bảo vệ Tổng thống ở Maine và lọt vào mắt xanh của Sở Mật vụ. Nhằm tăng cường đội ngũ chống khủng bố ở Nhà Trắng, cuối cùng, họ đã thuyết phục được anh rời khỏi lực lượng Hải quân và tới thủ đô. Harvath nhanh chóng tiến xa hơn nữa và chỉ trong một thời gian ngắn đã được đề cử vào một chương trình tuyệt mật tại Bộ Nội an Mỹ, đứng đầu là một người bạn cũ của gia đình anh, Nguyên Phó Giám đóc FBI Gary Lawlor.
     
  6. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 5
    Khi Harvath quay trở lại phòng bệnh, cha mẹ Tracy, Bill và Barbara Hastings đang ngồi bên giường cô. Ông Bill Hastings là một người đàn ông to lớn, cao hơn một mét tám và nặng gần một tạ. Trước đây ông chơi cho đội bóng ở Yale và trông vẫn có vẻ còn chơi được. Ông có mái tóc màu xám và Harvath đoán ông khoảng sáu lăm tới gần bảy mươi tuổi. Thấy Harvath bước vào phòng, ông nhìn lên và hỏi, “Có thay đổi gì không?”.

    “Không ạ,” Harvath trả lời.

    Bà Barbara mỉm cười với anh, “Anh lại ở đây cả buổi tối phải không?”.

    Harvath không trả lời. Anh chỉ gật đầu. Đối mặt với bố mẹ Tracy còn khó hơn cả việc thức đêm cạnh giường cô. Anh cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm nặng nề trước những gì xảy ra đối với cô. Anh không thể tin sao họ lại tốt với anh đến thế. Giá như họ trách mắng anh về tất cả chuyện xảy ra với con gái họ đã đành, đằng này, họ chẳng hề có một lời mắng mỏ.

    “Hai bác thấy khách sạn thế nào ạ?” Harvath gắng hỏi. Sự im lặng trong căn phòng không thể nào chịu nổi và anh biết mình phải bắt đầu một cuộc nói chuyện nặng nề.

    “Ổn mà,” bà Barbara trả lời khi với lấy tay Tracy và bắt đầu vuốt ve cẳng tay cô. Mẹ Tracy là một người phụ nữ quý phái tuyệt vời. Mái tóc màu đỏ sẫm của bà nằm trong mũ thật hoàn hảo và những móng tay bà được cắt tỉa thật đẹp. Bà mặc một chiếc áo lụa, váy của hãng Armani dài chấm gối, tất và giày đắt tiền.

    Mặc dù Harvath chẳng bao giờ thốt ra lời nào sáo rống, nhưng rõ ràng là trông Tracy giống bà.

    Ông bà Hastings là một cặp rất hấp dẫn. Với số tài sản mà ông Bill Hastings đã tích lũy được trên thị trường tài chính, không có gì đáng ngạc nhiên khi họ gần như là những nhân vật ngồi lì trên những trang tiêu biểu của xã hội Manhattan.

    Sau vụ tấn công vào thành phố New York ngày 3 tháng 7, họ đã bàn về việc rút ngắn kỳ nghỉ hè ở miền Nam nước Pháp, nhưng Tracy thuyết phục họ ở lại. Trong thời gian tới, Manhattan sẽ là cơn ác mộng nếu trở lại và ghé qua vì vậy họ càng lâu trở về càng tốt. Kế hoạch của họ đã thay đổi ngay khi Tracy bị bắn. Họ thuê một chiếc máy bay và vội vã lao tới Washington để đến bên con gái.

    Harvath đang cố để nói một chuyện gì đó khác khi một y tá ghé đầu vào cửa và nói, “Điệp vụ Harvath? Có một quý ông muốn gặp anh. Ông ấy đang chờ ở phòng khách”.

    “Được, tôi sẽ ra ngay,” Harvath trả lời. Anh rất mừng để cho ông bà Hastings có lúc riêng tư bên con gái.

    Bước vòng qua ông Hastings, Harvath cúi xuống và thì thầm vào tai Tracy rằng một lát nữa anh sẽ quay lại. Anh siết chặt tay cô âu yếm, rồi quay đầu bước ra cửa.

    Ngay khi anh tới chỗ nắm đấm cửa, ông Bill Hastings nói, “Nếu lại là anh chàng từ văn phòng ấy, hãy nói với anh ta rằng chúng ta không tìm thấy chứng minh thư của Tracy trong những vật dụng cá nhân của nó”.

    Harvath gật đầu và đi ra. Ra ngoài căn phònG, anh rút tấm bằng lái xe của Tracy ra khỏi túi và ngắm nghía. Trời ơi, cô ấy đẹp quá. Anh không đủ dũng cảm để nói với ông Bill Hastings rằng anh biết vì sao chứng minh thư của cô ấy lại biến mất. Anh và Tracy có ít thời gian bên nhau và họ chưa kịp để chụp ảnh.

    Mặc dù anh cảm thấy có lỗi khi lừa dối cha mẹ cô, nhưng Harvath không có ý định trả lại. Đó là một trong rất ít những thứ để anh nhớ lại cô như thế nào, trước khi họ bị chia lìa.

    Bước vào phòng khách, Harvath thấy sếp, người bạn lâu ngày không gặp, Gary Lawlor, đang chờ mình. “Cô ấy thế nào rồi?” ông hỏi.

    “Vẫn thế,” Harvath trả lời. “Đã điều tra ra cái gì mới chưa ạ?”

    Gary ra hiệu cho anh ngồi xuống. Đó là một căn phòng không có cửa sổ với một chiếc tivi trên giá đỡ trên tường. Harvath ngồi xuống và chờ đợi một người đàn ông, người đã trở nên giống người cha thứ hai của anh, đóng cửa lại và ngồi xuống.

    Khi Gary ngồi xuống ông nói rất nghiêm trọng. “Có thể chúng ta có lỗi trong vụ này.”

    Harvath ngồi chồm người về phía trước. “Lỗi thế nào?”

    “Nó liên quan tới chỗ máu vẽ trên cửa nhà cháu.”

    “Thì sao ạ?”

    “Bây giờ, những người ở bên tòa án đã biết đó không phải là máu người.”

    “Vậy là máu gì?”

    “Máu cừu.”

    Harvath bối rối. “Máu cừu sao? Vậy thì chẳng có ý nghĩ gì.”

    “Không,” Gary trả lời. “Nhưng đó là những gì họ thấy lẫn lộn với thứ máu mà bác muốn nói với cháu.”
    Harvath không nói gì. Anh chỉ chờ đợi.

    Vươn người về phía trước, Lawlor hạ giọng và nói, “Sau đám tang của Bob Herrington, ngài Bộ trưởng Bộ quốc phòng đã cho cháu đi cùng và nói cháu có nhiệm vụ phải tìm ra kẻ giết Herrington. Cháu có nhớ ông ấy đã kể với cháu rằng chúng đang bố trí để ông ấy trốn thoát để có thể theo dõi ông ấy mà lần ra những người đang làm việc với ông ấy không?”.

    “Vâng, rồi sao ạ?”

    “Vậy, cháu có nhớ chúng lên kế hoạch lần theo ông ấy thế nào không?” Ông Lawlor hỏi.

    Harvath thoáng nghĩ. “Chúng pha máu của ông ấy với một loại đồng vị phóng xạ để tạo nên một loại tín hiệu cho phép chúng theo dõi qua vệ tinh?”.

    Lawlor tựa vào ghế và theo dõi Harvath xử lý thông tin.

    “Máu cừu ở đây có chứa đồng vị phóng xạ?”

    Lawlor gật đầu.

    “Không thể nào. Chính cháu theo dõi kẻ giết Bob.” Harvath suýt nữa thì thêm vào và cháu đã nhìn thấy ông ấy chết khi ông ấy nhận ra ông ấy không phát hiện ra tên khủng bố trả phòng.

    Mặc dù Harvath nghi ngờ cỏ kẻ nào đó đã sống sót trong vụ việc anh làm với Mohammed bin Mohammed, đúng là anh không thể nào khẳng định rằng người đàn ông đó đã chết.

    “Họ không tin đó là Mohammed,” Lawlor nói tiếp. “Từ những gì tôi có thể thu thập được cho thấy đây là một loại đồng vị phóng xạ hoàn toàn khác.”

    “Chúng chủ ý trộn vào máu cừu và sơn lên cửa trước nhà cháu phải không?” Harvath hỏi.

    Ông Lawlor lại gật đầu.

    “Tại sao?”

    “Ai đó đang gửi cho cháu một lời nhắn.”

    “Rõ rồi, nhưng là ai? Nếu đó là một loại đồng vị phóng xạ, dù khác với loại sử dụng trên cơ thể Mohammed, khó có thể chỉ ra nó xuất phát từ đâu. Chúng ta sẽ bắt đầu từ đó.”

    “Không dễ như vậy đâu,” ông Lawlor cảnh báo.

    “Tại sao không? Tất cả là chương trình của Bộ Quốc phòng. Họ lưu giữ hồ sơ của bất kỳ ai. Hãy liên lạc với văn phòng Bộ Quốc phòng và cho ông ta biết rằng chúng ta cần tiếp cận.”

    “Tôi đã thử rồi.”

    “Và?” Harvath hỏi đầy vẻ sốt ruột.

    “Không đi đến đâu cả.”

    “Không ư? Hẳn là bác đùa cháu.”

    Lawlor lắc đầu. “Rất tiếc là tôi không đùa.”

    “Vậy chúng ta đến chỗ tổng thống. dù Bộ trưởng Bộ Quốc phòng không đồng ý nhưng nếu tổng thống Rutledge yêu cầu ông ta mở hồ sơ, tin cháu đi, ông ta sẽ phải mở.” Harvath đáp lời.

    “Tôi đã nói chuyện với ngài tổng thống Rutl. Chẳng đi đến đâu cả.”

    Harvath không thể tin vào tai mình nữa. “Cháu muốn tự mình đi gặp tổng thống.”

    “Ông ấy biết cháu sẽ nói thế,” Lawlor an ủi. “Và ông ấy cảm thấy nợ cháu điều đó. Có một chiếc xe đang đợi chúng ta ở dưới kia.”
     
  7. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 6
    NHÀ TRẮNG

    Khi Harvath và Lawlor được đưa vào phòng Bầu Dục, tổng thống Rut, đứng dậy và đi vòng ra chỗ bàn đặc biệt, lại là lời khen của tổng thống và lúc này anh càng thấy bối rối hơn. Hoạt động ở thành phố New York thất bại. Vì vậy, rất nhiều người phải chết trong đó có cả người bạn thân nhất của anh. Dù vậy Harvath và cả đội vẫn cố gắng để hạ hầu hết những tên khủng bố liên quan tới kế hoạch này, họ đã chơi bẫy lừa. Với anh điều đó chẳng có gì lấy làm tự hào.

    Anh đáp lại tổng thống bằng lời “cảm ơn” và yên lặng lắng nghe ông.

    “Scot, anh là một trong những tài sản quốc gia vĩ đại nhất trong cuộc chiến chống khủng bố. Tôi không muốn anh nghi ngờ, dù chỉ trong giây lát, về việc những cống hiến của anh sẽ được đánh giá cao thế nào. Tôi biết quá rõ rằng những gì anh đã làm có thể là công việc thầm lặng, vì vậy, một lần nữa tôi xin cảm ơn anh.”

    Harvath có linh cảm xấu rằng những lời khen ngợi này sẽ đi đến một nhiệm vụ mới. Anh có thể cảm nhận được một kế hoạch khác sắp tung ra. Chẳng phải chờ đợi lâu. Jack Rut nhìn thẳng vào mắt anh và nhấn mạnh, “Chúng ta đã biết nhau vài năm và tôi cũng luôn luôn thẳng thắn với anh.”

    Harvath gật đầu, “Vâng, thưa ngài.”

    “Thường thì ngược lại với lời khuyên của các cố vấn, tôi đã nói với anh về một viễn cảnh lớn, vì tôi muốn anh hiểu vai trò của mình trong đó và vì sao anh được giao làm một số việc nhất định.”

    “Còn nữa tôi làm vậy vì tôi biết có thể tin tưởng vào anh. Còn bây giờ, tôi đề nghị anh hãy tin tưởng ở tôi.”

    Tổng thống ngừng lại trong giây lát như thể cố gắng đọc suy nghĩ của Harvath. Nét mặt của viên đặc vụ chống khủng bố thật khó hiểu, buộc ông phải hỏi, “Anh có làm vậy được không? Anh có tin tưởng ở tôi không?”

    Harvath biết, câu trả lời đúng ý ngài tổng thống chỉ có thể là, “Vâng, thưa ngài tổng thống, tất nhiên là tôi có thể tin tưởng ngài rồi”, nhưng miệng anh lại không thốt ra những lời như vậy. “Thưa ngài, tin tưởng ngài ở vấn đề gì ạ?”

    Đó không phải câu trả lời ngài tổng thống muốn nghe, nhưng cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Có một lý do tại sao Scot lại từng làm được những việc giỏi như vậy. Anh chẳng phải người dễ thuyết phục, cũng chẳng phải người khó thắng.

    “Tôi muốn anh làm một việc. Tôi biết là anh sẽ không thích, nhưng tôi cần anh ở bên tôi.”

    Chuông báo thức của Harvath bắt đầu kêu. Anh chậm rãi gật đầu, khuyến khích ngài tổng thống tiếp tục.

    “Tôi muốn anh hãy để chúng tôi truy tìm tay súng đã bắn Tracy.”

    Tổng thống không cho anh được trả lời có đồng ý hay không. Tuy nhiên, Harvath không hề có ý định để mình bị loại ra ngoài cuộc chơi. Thận trọng trong từng lời nói và ngữ điệu, anh lên tiếng: “Tôi xin lỗi, thưa ngài tổng thống, tôi không hiểu.”

    Ngài Rut không hề đổi giọng. “Có, anh có hiểu đấy chứ. Tôi đang đề nghị anh đứng ngoài sự việc này.”

    Như mọi khi, Harvath không khách khí, ngoại giao. Nhìn thẳng vào mắt ngài tổng thống, anh hỏi, “Tại sao ạ?”

    Là tổng thống Mỹ, ngài Jack Rut không phải giải thích cho bất kỳ ai, nói gì đến Scot Harvath. Ông cũng không cần phải gặp mặt anh lần này, nhưng như ông đã nói, ông cảm thấy đất nước đã nợ Harvath một món nợ lớn – không chỉ vì những gì anh đã làm ở New Yorrk, rồi sau đó ở Gibealtar, mà còn nhiều việc khác nữa.

    Hơn nữa, Harvath đã từng cứu mạng ngài tổng thống cũng như con gái ông. Anh xứng đáng được giải thích rõ hơn và Rut biết rất rõ. Nhưng tổng thống không thể nói với anh. “Ở đây có nhiều lực lượng đang làm nhiệm vụ và tôi không thể tự do nói chuyện, dù là với anh,” ông né tránh.

    “Tôi đánh giá rất cao, thưa ngài tổng thống, nhưng đây không phải là một hành động khủng bố ngẫu nhiên. Cho dù là ai, đó cũng là việc cá nhân. Máu trên cửa nhà tôi, cái vỏ hộp, lời nhắn – kẻ nào đó đang khiêu khích tôi.”
    “Và tôi đã cho bố trí một đội để lo việc này.”

    Harvath cố giữ bình tĩnh. “Thưa ngài tổng thống, tôi biết ngài đã có FBI làm việc ngày đêm, nhưng cho dù có giỏi đến đâu đi nữa, họ cũng không phải là cơ quan chuyên trách trong việc này.”

    “Scot, anh hãy nghe đây,” ngài tổng thống tiếp tục.

    “Tôi không hề có ý thiếu tôn trọng nhưng theo đánh giá của chúng tôi đây là tên sát thủ chuyên nghiệp, có thể liên quan tới một tổ chức khủng bố lớn. Nếu muốn bắt hắn những người theo dõi phải hiểu được suy nghĩ của hắn. Họ phải có khả năng suy nghĩ như hắn và FBI không thể làm được điều đó.”

    “Những người tôi đã giao việc này có thể đấy. Tôi hứa với anh. Họ sẽ tìm ra hắn.”

    “Thưa ngài tổng thống, tên này đã bắn Tracy vào đầu. Các bác sĩ cho biết, thật kỳ diệu là cô ấy không bị chết. Nhưng cô ấy nằm hôn mê ở đó và có thể chẳng bao giờ tỉnh được trên hết đó là lỗi của tôi – tất cả là lỗi của tôi. Tôi có trách nhiệm phải tìm ra ai đã làm việc này. Ngài phải cho tôi vào cuộc.”

    Rut có vẻ lo lắng. “Scot, tôi không thể bị áp lực về việc nó quan trọng tới mức để anh tin tôi.”

    “Và tôi cần ngài tin tôi, thưa ngài tổng thống. Xin đừng loại tôi ra khỏi cuộc chơi. Dù là ai được ngài giao nhiệm vụ tôi có thể giúp họ.”

    “Không, anh không thể,” Rut rướn người trên ghế trả lời. Đó là dấu hiệu rõ ràng rằng cuộc gặp gỡ của họ thế là kết thúc.

    Buộc phải đứng dậy, Harvath nhắc lại: “Xin ngài đừng đẩy tôi ra khỏi sự việc này.”

    “Tôi rất tiếc,” tổng thống trả lời và giơ tay ra.

    Theo phản xạ, Harvath nắm lấy. Rut để tay trái của mình lên trên hai bàn tay của họ và nói: “Điều tốt nhất bây giờ anh có thể làm cho Tracy là hãy ở bên cô ấy. Chúng tôi sẽ tìm ra chân tướng sự việc, tôi hứa với anh.”

    Dần thay vào cú sốc của Harvath là cảm giác tức giận đang trào dâng. Nhưng chưa kịp nói gì thì Gary Lawlor đã cám ơn tổng thống và đẩy Harvath ra khỏi Phòng Bầu dục.

    Khi cánh cửa khép lại phía sau lưng những vị khách, cửa phòng nghiên cứu của tổng thống mở ra, một người đàn ông cao, tóc màu xám, trạc tuổi năm mươi, giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương, James Vaile, bước vào Văn phòng Bầu dục.

    Rut nhìn ông ta. “Anh nghĩ sao? Anh ta sẽ hợp tác chứ?”

    Ông Vaile nhìn chăm chăm vào cánh cửa nơi Scot Harvath vừa bước qua và nghĩ về câu hỏi của ngài tổng thống. Cuối cùng, ông nói: “Nếu anh ta không hợp tác, chúng ta sẽ gặp nhiều rắc rối đấy.”

    “Tốt, tôi vừa hứa với anh ta rằng người của anh sẽ giải quyết vụ này.”

    “Chắc chắn rồi. Họ có rất nhiều kinh nghiệm với những vụ việc thế này ở nước ngoài. Họ biết phải làm gì.”

    “Nên như vậy,” ngài tổng thống vừa trả lời vừa chuẩn bị để có chỉ thị. “Chúng ta không thể để Harvath dính vào vụ này. Rủi ro quá cao.”
     
  8. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 7
    Harvath và ông Lawlor trở về bệnh viện trong im lặng. Anh không thích bị cô lập, đặc biệt là khi họ đang đối mặt với một vấn đề mà anh thừa sức giải quyết.

    Ông Lawlor không đốc thúc anh. Ông đã biết cuộc nói chuyện sẽ đi đến đâu từ trước khi đến Nhà Trắng. Tổng thống đã nói quá rõ ràng vì vậy ông không muốn Harvath hay bất kỳ ai khác nhúng mũi vào vụ điều tra này. Điều mà ông không nói ra là Tại sao?

    Mặc dù Lawlor cũng không hài lòng với quyết định của tổng thống, nhưng ông vẫn phải để tổng thống gặp và nói chuyện riêng với Scot. Ông ấy nói đúng – đó là điều tối thiểu ông ấy nợ anh chàng này.

    Tại cổng bệnh viện, người lái xe cho xe sát vào lề đường và Harvath xuống xe. Lawlor muốn nói với anh biết bao điều nhưng dường như vẫn chưa phải thời điểm thích hợp. Ngược lại, chính Harvath lại là người phá vỡ im lặng. “Ông ấy sẽ phải cử một đội đặc biệt để truy tìm kẻ đã bắn Tracy, vậy thì cháu chẳng có gì liên quan sao? Vậy thì còn gì nữa chứ. Có nhiều việc hay hơn nhiều so với chỉ nói với chúng ta như vậy. Bác Gary, nó làm cháu bực cả mình.

    Lawlor biết anh nói đúng, nhưng cả hai người họ chẳng làm gì nổi. Tổng thống đã trực tiếp ra lệnh cho họ. Dù cũng đang bối rối như Scot, Lawlor chỉ gật đầu và trả lời: “Hãy cho tôi biết nếu Tracy có chuyển biến gì.”

    Tức giận, Harvath đóng sập cửa xe và đi vào bệnh viện.

    Trên phòng của Tracy, cha mẹ cô đang ăn trưa. Khi anh bước vào phòng ông Bill Hastings hỏi: “Cuộc điều tra có gì mới chưa cháu?”

    Harvath không muốn làm cha mẹ Tracy khó chịu vì những gì anh đang chịu đựng nên chỉ nói một nửa sự thật. “Họ đang điều tra từ mọi phía. Cá nhân tổng thống cũng quan tâm tới cuộc điều tra và đang làm mọi việc ông ấy có thể.”

    Cái quạt thông gió tiếp tục kêu đều đều và Harvath cố không để ý đến nó. Kéo cái ghế ra dọc giường Tracy anh cầm tay cô và thì thầm vào tai cô rằng anh đã trở lại. Giá tổng thống có thể nhìn cô thế này, hẳn ông ấy đã không vội vàng đẩy anh ra khỏi vụ điều tra. Suốt dọc đường trở về bệnh viện Harvath cố nghĩ xem tại sao Rut lại làm vậy. Từ mọi góc độ anh đều thấy vô lý.

    Tổng thống biết rõ hơn ai hết rằng Scot là người rất giỏi trong những vụ điều tra kiểu này. Anh thoáng nghĩ có thể Rut e ngại anh sẽ bị tình cảm chi phối trong trường hợp này chăng, nhưng Harvath đã từng chứng tỏ khả năng làm việc tách bạch giữa công việc với tình cảm của mình rồi còn gì.

    Càng nghĩ Harvath càng nhận thấy anh càng xem công việc là của riêng mình thì càng hoàn thành tốt. Không thực tế rằng anh có mục đích cá nhân đằng sau kết quả của vụ điều tra chẳng có gì liên quan tới lý do ngài tổng thống đẩy anh ra. Phải có cái gì đó khác.

    Harvath nhẹ nhàng vuốt ve tay Tracy trong khi nghĩ về các khả năng khác. Càng hình dung ra nhiều bối cảnh, anh càng không thể hiểu nổi sự thật. Anh nghĩ mình biết khá rõ về tổng thống nhưng lần này anh không thể hiểu nổi.

    Harvath nhớ lại cuộc gặp gỡ qua những gì anh quan sát được. Sở Mật vụ đã dạy cho anh cách nhận biết những dấu hiệu khả nghi được đối tượng đưa ra khi anh làm việc gì đó không minh bạch. Cho dù có là chính khách tài ba nhất của Washington cũng không thể giấu nổi suy nghĩ hoặc sự thật trước một đặc vụ của Sở Mật vụ vì anh ta biết mình cần gì. Và Scot Harvath cũng biết, mình cần gì.

    Vì lý do gì mà tổng thống Jack Rut lại phải nói dối anh nhỉ. Harvath biết chắc về điều này. Anh vẫn đang trong dòng suy nghĩ thì chiếc BlackBerry báo cáo có cuộc gọi. Anh mặc kệ cuộc gọi và để nó vào hộp thư thoại. Lúc này, chẳng có gì quan trọng bằng ở bên Tracy.

    Chuông đổ hai lần nữa, Harvath nghĩ có thể có việc gấp, anh mới lấy điện thoại ra khỏi cái bao ở bên hông,
    Số của người gọi cho thấy mã vùng Colorado.

    Anh nhấn nút trả lời, giơ điện thoại lên tai và nói, “Harvath nghe đây.”

    “Anh có một mình đấy không?” Giọng nói ở đầu kia vang lên.

    Harvath liếc, ông Bill Hastings đang vừa ăn vừa đọc Thời báo New York. Anh tập trung trở lại để nghe điện thoại, “Được, ông nói đi.”

    “Anh có còn thích vật nhau với gã Lùn không?”

    Harvath ngồi thẳng người lên. “Ông có gì thế?”

    “Nhất định rồi,” giọng nói lại vang lên.

    “Gì vậy?”

    “Không nói qua điện thoại. Có một chiếc máy bay đang chờ anh. Anh nhớ mang đồ theo. Anh cần ra khỏi đấy càng nhanh càng tốt.”

    Harvath im lặng nhìn Tracy.

    “Càng nhanh càng tốt,” giọng bên kia nhắc lại.

    Mặc dù Harvath biết chắc chắn anh đã hình dung ra sự việc đó, nhưng anh vẫn suy nghĩ một chút, anh cảm thấy là Tracy sẽ hiểu cho anh.

    “Anh vẫn còn ở đó chứ?” giọng nói vang lên sau vài giây im lặng.

    Harvath gằn giọng. “Vâng, tôi vẫn ở đây,” anh trả lời.

    “Sân bay quốc tế Reagan, ngay bây giờ,” phía bên kia ra lệnh. Rồi đường dây bị ngắt.
     
  9. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 8
    BALTIMORE, MARYLAND

    Mark ShepParkerrd vốn là một fan hâm mộ phim ma. Bình minh chết, Hai mươi tám ngày sau – ShepParkerrd không chỉ xem mà còn có cả những bộ phim này. Chết chóc có gì đó luôn hấp dẫn anh chàng.

    Đó là một việc kỳ lạ phải làm trước, nhưng chính nó làm hài lòng chàng phóng viên hai mươi bảy tuổi, cao lớn, tóc hung. Anh bắt đầu sự nghiệp ở Baltimore Sun bằng bài viết cáo phó. Đó là bài thử sức để các biên tập viên có thể đánh giá khả năng viết lách và biên tập của những phóng viên mới vào nghề. Hầu hết các nhà báo trẻ đều ghét thời gian phải ngồi bàn viết cáo phó, nhưng ShepParkerrd lại thấy thích.

    Từ đó, anh chuyển sang phần tin tội phạm. Phóng viên tin tội phạm huyền thoại Edna Buchanan từng cho rằng, tin tội phạm “Có tất cả: dục vọng, tình dục, bạo lực, bi hài kịch”, và bà đã đúng. Mặc dù đó là một vị trí có thu nhập cao, đầy thăng trầm từ đó các biên tập viên có thể tiếp tục rèn luyện khả năng tác nghiệp của mình trước khi chuyển sang các bản tin hay hơn, ShepParkerrd lại thấy yêu công việc này và muốn mọi người biết rằng anh không hề có ý định muốn làm loại tin nào khác.

    Quả là xứng danh, ShepParkerrd là một phóng viên điều tra tội phạm có một không hai. Anh có khả năng ghi lại chi tiết và thiên hướng tìm nguồn tin tài tình, anh biết cách kể lại câu chuyện một cách tốt nhất. Sau thời gian làm ở bản tin này, anh đã có hàng loạt mối quan hệ - ở cả hai mặt của pháp luật. Cả cảnh sát và công chúng đều tôn trọng anh vì sự chính trực trong mỗi bài viết. Những nơi cung cấp nguồn tin cho anh luôn biết rằng anh sẽ không bao giờ đưa lên mặt báo trừ khi có đầy đủ thông tin thực.

    Nhờ tiếng tăm là một phóng viên đưa tin thẳng thắn và luôn bảo vệ và giữ kín tên của người cung cấp nguồn tin nên việc mới thường xuyên đổ đến chỗ ShepParkerrd. Nhưng hiếm khi chúng đáng để đưa tin. Chìa khóa để thành công là phải biết nên chọn sự vụ nào đáng để theo sát. Nhà văn Hemingway từng cho rằng, bất kỳ nhà văn nào cũng cần có một “cái máy dò chống sốc”, và ShepParkerrd cực kỳ tâm đắc với kết luận này của ông. Anh phát hiện ra rằng, công sức anh dốc vào một nguồn tin nào đó thường tương xứng với kết quả thu được. Tất nhiên, bao giờ chẳng có ngoại lệ.
    Đối với ShepParkerrd vụ càng lớn càng khêu gợi sự quan tâm của anh. Lúc này, anh đang khá sốt ruột. Vừa lái xe về phía nhà tang lễ Thomas J. Gosse ở ngoại ô thành phố, anh vừa nghĩ ra các tiêu đề cho bài báo. Rõ ràng là anh đã cưỡi lên lưng ngựa, nhưng linh tính mách bảo ShepParkerrd rằng nếu đưa ra ánh sáng đây sẽ là một vụ rất lớn.

    Như vậy có nghĩa là phần rút tít cũng phải rất quan trọng. Và nó phải rất giật gân. Rất có thể đây sẽ là một bài ở trang bài. Tệ thật, có lẽ sẽ bùng nổ một loạt các vụ điều tra.

    Khi lái xe vào bãi đỗ xe của nhà tang lễ anh đã quyết định được tiêu đề của bài báo. Tiêu đề hơi hẹp, nhưng khi đọc vào bài của ranh tiêu đề này sẽ có ý nghĩa hoàn toàn khác. Nó sẽ gây sốc – không chỉ vì bản thân vụ án mà còn vì kẻ đã gây ra.

    Khóa chiếc xe lại, ShepParkerrd nhẩm qua cái tít trong đầu mình. Vũ khí sinh học.

    Đó là một cái tên thu hút sự chú ý. Anh hy vọng người đàn ông đã gọi cho anh về vụ này đã không lãng phí thời gian.
     
  10. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 9
    MONTROSE, COLORADO

    Mặc dù chưa vào thu, nhưng khi ShepParkerrd bước đi trên vỉa hè bên ngoài phi trường nhỏ, cũ kỹ, trời đã lạnh rồi.

    Tựa vào chiếc Hummer H2 màu trắng có trang trí logo của Khu resort Núi Elk là một trong những người đàn ông to lớn và ghê gớm nhất mà Harvath từng gặp trong đời. Trong công việc, ông lấy tên là Warlord, Tim Finneyney là nhà vô địch Bắn súng Thái Bình Dương. Rất siêu đẳng trong việc tiêu diệt những kẻ khác, chủ yếu là bằng cách bắn vào tay, đầu, đầu gối, khuỷu tay, Finneyney là một trong số rất ít người mà Harvath biết rằng anh khó lòng mà thắng được trong một cuộc chiến dốc sức nơi đường phố.

    Finneyney cao hơn anh tới hai chục centimet, gần to gấp đôi anh và cực kỳ cơ bắp. Quả là không tồi với một người đàn ông hơn năm mươi. Ông có đôi mắt xanh mãnh liệt và cái đầu cạo trọc hoàn toàn. Mặc dù có thân hình quá khổ và vốn mang tiếng là tay giết người cực kỳ thô bạo không gì ngăn được trong giới, nhưng Tim Finneyney lại là một người vui vẻ. Và ông ta có nhiều thứ để tự hào.

    Ở gia đình Finneyney, ai cũng tự lo cho mình. Ông già Finneyney là một blogger nổi tiếng và cũng là người cao tuổi nhất trong gia đình, tất cả các con ông đều tự lo học phí đại học. Tim đã lo tiền học phí bằng cách chạy xô ở một số hộp đêm ở Los Angeles trước khi người ta phát hiện ra tài bắn súng của ông. Một huấn luyện viên đã rèn luyện và định hướng cho Finneyney đến giải Bắn súng Thái Bình Dương, môn thể thao sẽ sinh ra giải Đấm bốc Tự do.

    Tim Fnney đã để mắt tới đỉnh núi tiếp theo mà ông muốn leo lên và nếu khó quá ông đã có kế hoạch hỗ trợ và cách khác để chiếm lĩnh nó. Ông là một hướng đạo sinh tài giỏi, luôn có sự chuẩn bị kỹ lưỡng.

    Ông đã kinh doanh khách sạn với gia đình được vài năm và giờ đây ông muốn chiến thắng trong một giấc mơ khác – lập một khu nghỉ mát năm sao với diện tích khoảng hơn năm trăm hecta ở vùng núi San Juan thuộc Colorado, cách Telluride nửa giờ đồng hồ. Nhưng giấc mơ của ông vẫn không dừng ở đó.

    Tại khu nghỉ mát, Finneyney đã cho xây một khu đào tạo chiến thuật mũi nhọn có một không hai trên thế giới. Nó được gọi là Valhalla, đặt theo tên thiên đường của các chiến binh trong thần thoại Na Uy.

    Finneyney mang tới những nhà thiết kế âm thanh, ánh sáng, dựng cảnh của Hollywood để tạo ra những mô hình, bối cảnh rùng rợn thật chưa từng thấy. Và ông còn làm một việc hết sức mới mẻ; ông không chỉ giới thiệu nó tới các đơn vị quân đội hiện đại bậc nhất và các đơn vị thực thi pháp luật, mà còn đưa tới cả những cơ quan dân sự. Ông còn quảng cáo trên tạp chí Robb Report và phần quảng cáo đó cùng những từ không thể tin nổi từ miệng lưỡi khách hàng của ông, đã giúp ông thành công rất lớn. Danh sách khác hàng đăng ký mong nhận được sự bảo vệ cẩn thận của ông, giống như cuốn Tiểu sử những người có ảnh hưởng lớn tới các tập đoàn của nước Mỹ cũng như thể thao và giải trí.

    Thành công đã cho phép Finneyney đưa Valhalla lên một tầm cao khác hẳn – tới mức người ta luôn nhắc đến nó tại những nơi hội họp an toàn nhất như Cơ quan tình báo trung ương CIA, doanh trại của Lực lượng Delta ở pháo đài Bragg và nhiều đơn vị tình báo hoạt động ngầm không có trên danh sách, nằm rải rác khắp phía Bắc Virginia và nhiều nơi xa xôi khác.
    Ở đó, người ta nhắc tới sản phẩm phụ của Valhalla như phần tối của mặt trăng. Ẩn giấu đằng sau biên giới của dãy núi Elk và thiên đường Valhalla, nó được gọi một cách tử tế là Khu số Sáu.

    Nó đã được gọi là Hogan’s Alley – cách gọi mỉa mai đơn vị đào tạo của FBI ở Quantico, nơi người ta dựng lên đủ các cảnh, từ cướp nhà băng cho tới giải cứu con tin.

    Finneyney có một số thợ mộc và kỹ sư có mặt 24/24 suốt cả năm. Rất nhiều người trong số họ từng làm việc ở Hollywood, nay muốn thoát ra khỏi ngành giải trí và thử tay nghề trong những lĩnh vực khác. Người ta đồn kháo nhau rằng chỉ cần có hình ảnh vệ tinh về mục tiêu cho Finneyney, chỉ trong vòng bốn mươi tiếng sau, ông đã dựng được mô hình để đào tạo và nếu cực kỳ cần thiết thì chỉ cần mười bốn tiếng.

    Trong một thung lũng tứ bề là núi bao bọc, ở khu số Sáu của Fnney có mọi thứ mô phỏng lại từ các làng mạc của Iraq cho tới các sân bay nước ngoài, các đại sứ quán và các trại tập huấn của quân khủng bố. Chi tiết và quy mô của chúng chỉ giới hạn do túi tiền của khách hàng và mức độ cần theo dõi mục tiêu. Finneyney không bao giờ để tiền gây ảnh hưởng tới quy trình đào tạo người của khách hàng tại khu số Sáu. Ông quả là một con người yêu nước và sãn sàng làm mọi thứ để các quân nhân rong ngành tình báo và quân đội Mỹ được đào tạo một cách chi tiết nhất và thực tế nhất có thể trước khi bước vào công việc thực sự.

    Xét cho cùng, Finneyney chẳng việc gì phải kiếm tiền thêm nữa. Ông đã có rất nhiều. Công việc chính của ông là kiểm tra xem liệu những khách hàng của ông ở khu nghỉ mát núi Elk có được tập luyện tốt nhất hay không trước khi ra nước ngoài làm nhiệm vụ. Họ chính là những tay súng tới tập để nâng cao kỹ năng bắn súng, những chiến binh thực sự tới để tập trên những mục tiêu mô phỏng.

    Cuối cùng thì Harvath cũng đến và làm quen được với Tim Finneyney và khu nhà số Sáu của Valhalla.

    Dựa trên một loạt các bức ảnh chụp từ máy bay, cũng như một đoạn video quay ở dưới đất, Finneyney và đội của ông đã dựng lên một khu vũ khí hóa học ở Afghanistan mà Harvath sẽ phải thâm nhập vào. Bất kỳ ai trong đội của Harvath cũng tin tưởng rằng những gì họ đã được đào tạo ở Valhalla và khu số Sáu sẽ giúp họ hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.

    Quá trình đào tạo ấy, cùng khả năng hài hước tuyệt vời của Finneyney đã tạo nên giữa họ một tình bạn tốt đẹp và Harvath không những được mời làm một huấn luyện viên tại khu số Sáu, Valhalla, mà còn có thể tới khu này nghỉ ngơi bất cứ khi nào anh cảm thấy muốn chạy trooins khỏi thủ đô Washington và thoát khỏi công việc của một sỹ quan chống khủng bố của chính phủ Mỹ.

    Mặc dù Harvath có thể có ngay một kỳ nghỉ năm sao, nhưng đó chẳng phải lý do anh tới bên ngoài sân bay Montrose, Colorado. Anh có mặt ở đây bởi Timothy Finneyney chẳng bao giờ ngừng nỗ lực tìm kiếm những cơ hội luyện tập ngày càng kỹ lưỡng hơn cho các chiến binh được đào tạo ở Valhalla và khu số Sáu. Gần đây, ông đã đưa ra một chương trình hoàn toàn mới mẻ, một lần nữa biến ông thành chủ đề trong các cuộc đàm luận trong giới tình báo Mỹ.
     
  11. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 10
    Finneyney vừa lái xe vừa với tay lấy lon bia lạnh phái sau và mời khách. Harvath lắc đầu từ chối. “Có khi tôi hoãn cả miệng mấy em vũ nữ lại vậy.” Finneyney vừa đặt lon bia lại vừa nói.

    Harvath không trả lời. Lấy chiếc điện thoại BlackBerry ra khỏi túi để xem tin nhắn, tâm trí anh còn đang ở cách đây hàng triệu dặm…

    Anh đã đưa số điện thoại cho cha Tracy và cô y tá để gọi nếu có gì thay đổi. Anh cũng đã cố gắng hết sức để giải thích với ông Bill Hastings lý do anh đi vắng.

    Biết là không nên nhận điện thoại ở khu nghỉ mát đó, nên Harvath băn khoăn về việc đã đưa số điện thoại cho họ. Bỗng Finneyney hỏi: “Tới đó, anh có muốn ăn không hay là vào việc ngay?”

    “Chúng ta sẽ ăn sau,” Harvath vừa nói vừa cất chiếc điện thoại đi. “Như vậy, không ai sẽ phải thức khuya vì tôi.”

    Finneyney cười. Tiếng cười, giọng nói của ông, tất cả đều phù hợp với dáng người mập mạp. “Chúng ta làm việc với đội Sagasso ba ca suốt hai mươi tư giò.”

    “Công việc tốt chứ?”

    Finneyney lại cười. “Tôi vẫn nói chẳng mấy nữa mà thiên đường cấm hòa bình.”

    “Đừng lo,” Harvath vừa nhìn đăm đăm vào hình ảnh của mình qua cửa và bầu trời đen thẫm lại, vừa trả lời. “Sẽ không như vậy đâu.”

    Họ đã nói chuyện với nhau suốt chặng đường về khu nghỉ mát. Finneyney hiểu rất rõ Harvath. Nếu ông nói về những gì đã xảy ra với Tracy, anh sẽ là người ngừng câu chuyện lại.

    Vì Harvath chẳng kể gì về Tracy, nên họ nói rất nhiều chuyện khác.

    Tới cổng chính vào núi Elk, Finney điện đàm cho lính gác nói rằng ông đã về “kèm theo một người nữa”.

    Mặc dù đám lính gác cứ nhìn là biết ngay ông chủ và cái xe của ông nhưng họ vẫn chặn lại, ghi lại thời gian, kiểm tra chiếc Hummer thật kỹ, rồi mới vẫy tay cho qua. Harvath luôn ấn tượng với độ an toàn tại khu núi Elk.

    Tại nhà nghỉ chính, Finney dừng lại để gọi giám đốc phụ trách các chiến dịch Ron Parkerrker. Đó là một người đàn ông gầu gò có bộ râu dê, xấp xỉ bốn mươi tuổi và cao khoảng một mét sáu.

    Trèo vào ghế sau, Parker lấy ra một lon bia, xoay lại đấm một cái vào vai trái Harvath. “Gặp lại anh vui ghê,” anh ta nói.

    Anh ta nhìn lên và thấy Finney đang nhíu mày trong gương chiếu hậu. “Gì vậy ạ?” Anh ta hỏi.

    “Anh nghĩ xem thái độ vừa rồi của anh có ổn không?” Finney trả lời.

    Parkerrker nghiêng người chỗ giữa hai ghế trước, vừa giật nắp lon bia vừa hỏi, “Vai bên kia của anh không ổn, phải không?”

    Harvath gật đầu. “Vai trái của tôi không sao, cứ yên tâm.”

    Parkerrker cười, ngồi lại và tu một hơi bia.

    “Anh biết đó không phải là những gì tôi đang nói tới chứ,” Finney nói tiếp. “Phải không?”

    “Anh nghe đây,” Parker nói, “Từ cách đây mười phút, tôi đã xong việc. Và những gì tôi làm trong thời gian cá nhân của tôi là chuyện riêng của tôi.”
    “Vậy anh bị sa thải. Sáng mai, trên bàn của anh sẽ có tờ giấy hồng.”

    Parker làm một ngụm bia nữa. “Tuyệt, tôi sẽ cài nó vào cái que nhọn cùng những cái còn lại thôi.”

    Cả Finney và Parker đều đang khôi hài về công việc của họ. Vì đã biết nên Harvath nhận ra cả hai có sự phân biệt rõ ràng. Họ rất nghiêm túc trong công việc ở núi Elk, nhưng lại không quá nghiêm khắc với bản thân, đặc biệt là khi bạn bè chiến hữu gặp nhau. Finney nhìn lại Harvath và cười. “Rất mừng vì anh đã trở lại.”

    “Chưa có nhiều thay đổi phải không?” Harvath lên tiếng.

    Finney đưa cánh tay đô vật của mình ra phía sau để Parker lấy cho lon bia. “Chúng tôi đã cho khóa kín gấp đôi tất cả các khóa ở hầm rượu từ lần anh tới thăm, ngoài ra không còn gì hơn.”

    Parker và Finney uống mỗi người một lon bia. Chỉ hai ngụm Finney đã uống hết cả lon và họ tới một điểm kiểm soát khác. Lần này, cả ba phải xuất trình nhận dạng ảnh. Những người lính bảo vệ mặc đồ Diều hâu đen giống như ở cổng chính, ngoài ra còn được phát quần áo chống đạn và công khai mang vũ khí.

    Harvath thừa biết những người ở cổng cũng có súng nhưng họ giấu không để người khác nhìn thấy. Ở đây, người của Finney thể hiện rõ sức mạnh của họ. hai người mang khẩu H&K 416, còn người thứ ba thì mang một khẩu Benalli và không lúc nào rời mắt khỏi những người khách trên chiếc Hummer. Không biết Finney lấy ở đâu ra những người lính gác ấy, nhưng có vẻ họ làm việc rất tử tế.

    Khi họ lùi ra khỏi điểm kiểm soát và lái về phía khi Sagasso, Harvath hỏi: “Lính SWAT[1] trước đây phải không?”

    “Thực ra là Lực lượng đặc nhiệm,” Parker trả lời.

    Harvath cười. “Tiếp đi.”

    “Anh ta nói nghiêm túc một trăm phần trăm đấy,” Finney lên tiếng.

    “Làm nhiệm vụ canh gác ấy à?”

    “Canh gác là một phần trong công việc của họ ở đây.” Parker tiếp tục. “Họ quay vòng. Mỗi tháng, một người phải làm một ca.”

    “Tôi biết những người đó làm gì trong thời gian rảnh rỗi rồi. Ông có những người gác cổng thật đắt giá.”

    Finney mỉm cười, “Và từng xu cũng đáng giá chứ?”

    “Nhưng không hề mắc lỗi,” Parker đế thêm. “Họ làm việc khá tốt. Ở đây, chúng tôi có những khoản tiền thưởng và trợ cấp vượt xa bất kỳ nơi nào khác.”

    [1] SWAT: Viết tắt của cụm từ “Vũ khí chiến thuật chuyên dụng”, là một đơn vị đặc biệt trong lực lượng cảnh sát Mỹ.

    Harvath nhìn Finney, ông nói: “Chúng tôi chẳng hề quảng cáo. Tự họ tìm đến với chúng tôi.”

    Chiếc SUV[2] dừng lại trước một lối vào đơn sơ, trông như một cửa hầm nhỏ.

    [2] SUV: Xe có tính năng thể thao.

    Harvath đang định hỏi xem đây là đâu thì nhìn thấy một cái biển đã bị mờ treo trên cửa cho biết đó là Công ty mỏ Sagasso. Anh đang ở lối vào của dự án tình báo mới, nóng hổi của Finneyney.
     
  12. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 11
    Một trăm phút[1] dưới đường hầm dốc thoai thoải dẫn tới khu hầm Sargasso, Harvath bán tín bán nghi rằng sẽ có một hướng dẫn viên du lịch với một cây đèn đeo trên trán của thợ mỏ, hoặc một diễn viên râu ria xồm xoàm, bụi mờ cả đi, kể cho họ nghe những câu chuyện về căn hầm số Bảy may mắn. Nhưng đến phút thứ một trăm, thái độ của Harvath thay đổi hẳn.

    [1] Đơn vị đo chiều dài của Anh bằng 0,3048m

    Khá khăn cho Tim Finney. Chào đón họ, không phải là một cái cửa bằng thép không gỉ, công nghệ cao theo phong cách James Bond. Thay vào đó là một cái cửa ghép bằng năm tấm ván cũ kỹ như sắp rơi ra khỏi bản lề. Một cái biển không lấy gì làm nổi bật được gắn hờ vào với dòng chữ. Nguy hiểm. Tránh xa.

    Finney đã làm một chum chìa khóa và mở cái khóa móc dây xích bằng sắt nặng nề vắt ngang cửa. Ông tiếp tục lần xuống một đường hành lang rộng, gồ ghề. Bộ tam dò theo một loạt đường ray mà Harvath nghĩ hẳn từng được dùng để đẩy nguyên liệu vào và đưa hàng ra.

    Tới đó, một hàng bảo vệ lại chào đón họ. Mặc dù trông họ cũng chỉnh tề như những người lính gác trước đó, nhưng những người này chỉ vẫy tay.

    “Ở dưới mặt đất vài trăm phút, người của ông bắt đầu bớt nhiệt tình à?” Harvath nói đùa.

    Cả Finney và Parker cùng cười. “Anh không biết, trên đường tới đây, anh đã qua bao nhiêu cửa kiểm tra an ninh phải không?” Parker nói: “Từ lúc anh vào mỏ, chũng tôi không chỉ theo dõi thân nhiệt và nhịp tim của anh, mà chúng tôi còn biết rõ nếu anh có mang theo bất kỳ một loại vũ khí, chất nổ, thuốc nổ, chất lỏng hay chất keo nào trên người anh nữa.”

    “Mọi thứ trừ việc liệu tôi mặc quần lót ống rộng hay không”, Harvath khẳng định.

    “Chúng tôi cũng biết cả điều đó”, Finney vừa giả vờ kiểm tra cái tai nghe vừa nói. “Rõ ràng, nó có đoạn da với từ Go Navy trên những đồng xê-quin[2]”.

    [2] Đồng tiền vàng ở Vơ-ni-zơ

    Harvath cười nhăn nhở và giơ ngón tay ra. Họ tiếp tục đi cho đến lúc tới chỗ một cái thang máy kiểu của thợ mỏ. Finney nâng cái lưới sàng quặng lên và họ cùng bước vào trong. Finney lấy một cái thẻ trong túi ra, quét qua chỗ đọc thẻ từ, rồi giơ ngón tay phải để máy kiểm tra. Khi được chấp nhận, thang máy mới bắt đầu chạy xuống.

    Xuống đáy hầm, có một chiếc xe đặc biệt được thiết kế để chạy trong lòng đất chờ bọn họ.

    Trong khi người lái xe đưa họ vào sâu trong lòng mỏ, Finney giải thích cho Harvath nghe về mục đích của chương trình Sargasso. Đã có nhiều đoàn từ pháo đài Bragg, Trại Perry cùng CIA, cũng như pháo đài Story với những người nhái hải quân SEAL tới thăm quan chỗ chúng tôi và họ đều thích quy trình đào tạo ở đây. Mục đích cuối cùng, dù người của họ có tốt đến đâu, dù thành công hay thất bại, đều đề đạt được một yêu cầu duy nhất: khả năng làm tình báo.

    “Từ đó tôi có một ý tưởng và tôi gọi vài cuộc điện thoại tới một số người quen trước đây ở phía Đông. Chúng tôi nghe nói nhiều về mức trợ cấp hao mòn sức lực rất cao khi một số người rời bỏ lực lượng vũ trang và tới làm việc cho những tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt như Black Water hay Triple Canopy, nơi họ có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Nhưng trong ngành tình báo, chẳng bao giờ người ta được nghe nói tới điều ấy.

    “Quả thật, tôi chưa bao giờ khao khát có một công ty quân sự tư nhân. Nhưng công ty tình báo tư nhân thì lại là một chuyện khác hẳn và có vẻ như nó rất hợp với những gì chúng ta đang làm ở đây.”

    Harvath tóm được một cái gối để tựa đầu ở phía trước khi họ va vào một loạt ổ gà. Khi đường bắt đầu bằng phẳng, anh hỏi, “Tôi biết Valhalla và khu số Sáu mang lại tiền cho ông thế nào, nhưng với công ty tình báo riêng, không hiểu ông kiếm tiền bằng cách nào nhỉ?”.

    “Có hai cách”, Finney trả lời. “Trước hết, chúng tôi không phải dàn trải vào cả thế giới, mà chỉ tập trung vào những điểm nóng, nơi đang xảy ra hầu hết các sự vụ. Qua tập hợp và phân tích, chúng tôi nhận thấy tất cả bọn khủng bố và tình báo khủng bố đều xuất phát từ những nơi có ảnh hưởng quá nhiều của chính phủ Mỹ.

    “Thứ hai, không có chuyện quốc hội bỏ quên việc làm của chúng tôi. Có nhiều người ủng hộ hoạt động của chúng tôi. Có những cơ quan sẵn sàng trả rất nhiều tiền để chúng tôi thu thập tin tức tình báo cho họ. Về tiến độ, có thể nói tới thời điểm này chúng tôi đã thực hiện lượng công việc nhiều gấp đôi so với dự kiến. Chúng ta không thể lôi kéo người từ CIA, NSA hay FBI tới đây để làm việc nhanh đến thế”.

    Harvath lắc đầu. Finney quả là đáng ngạc nhiên.

    Chiếc xe dừng lại trước điểm kiểm soát cuối cùng, trước một thứ giống như hai cánh cửa nặng nề. Khi được vẫy tay cho phép đi, Finney dẫn đường cho họ tới vị trí trung tâm của trung tâm các hoạt động của Chương trình Sargasso.

    Khác hẳn với dự đoán của Harvath. Vừa bước chân vào, họ mất ngay cảm giác đang ở trong một hầm mỏ bên dưới mặt đất hàng trăm phút. Nếu không biết nhiều hơn, có lẽ Harvath đã thề sống thề chết rằng anh đang ở một khu chuyên gia cố vấn phát triển mũi nhọn tại nơi làm việc của Microsoft.
    Không còn những bóng đèn trong lồng treo dọc những bức tường thô nháp nữa. Thay vào đó là những chum đèn tinh vi thụt vào các góc trên trần nhà, tạo ánh sang ngoài trời như thật. Nền nhà bằng đá nhẵn bóng và tường phòng đều ốp kính cách âm cho phép người sử dụng có thể điều chỉnh độ chắn sang theo ý muốn của mình.

    Những màn hình hi-fi mỏng tới mức không tưởng tượng được đang lơ lửng trên mặt kính giống như cửa sổ nhìn ra thế giới bên ngoài. Khi họ đi ngang qua phong cảnh nổi tiếng của các nước trên thế giới, Finney giải thích rằng, người làm việc được phép chọn cảnh mình thích từ các màn hình số hiển thị phong cảnh khắp nơi trên thế giới. Đó chỉ là một trong số rất nhiều những thứ nho nhỏ Finney tạo ra để thời gian làm việc dưới mặt đất của các nhân viên được dễ chịu hơn bao giờ hết.

    Ở cuối hành lang tiếp theo, cả nhóm rẽ trái và tới một văn phòng nơi có một cửa sổ ảo đang hiển thị một dòng sông với những dãy núi trập trùng phía sau. Một người đàn ông đi ủng lội nước đang bay và câu cá. Tiếng nước chảy róc rách nhẹ nhàng phát ra từ một chiếc loa ẩn đâu đó trong căn phòng.

    “Tom nên trở lại ngay”, Finney nói về nhân viên vắng mặt trong văn phòng. “Chúng ta có thể vào đây đợi anh chàng”.

    Trên mặt bàn bằng crôm bóng loáng là một cặp tài liệu gọn gang, một chiếc bút bằng bạc và một tệp giấy dán nhắc việc. Dù là ai đi chăng nữa, chắc chắn người đàn ông này hẳn chẳng có mấy việc mà làm hoặc chắn chắn là một người rất ngăn nắp. Căn cứ vào những gì Finney đã nói, Harvath đoán, đó là một người ngăn nắp.

    Khi Tom Morgan bước vào văn phòng, anh đang mãi mê ngắm cửa sổ ảo và phong cảnh hiện lên trên đó. “ Đó là dòng sông Snake[3] - Một trong những con sông lớn nhất của Idoho, một tiểu bang thuộc miền Tây Bắc nước Mỹ.

    [3] Sông Snake: Một trong những con sông lớn nhất của Idaho, một tiểu bang thuộc miền Tây Bắc nước Mỹ.

    Morgan vừa nói vừa đặt cốc cà-phê và chiếc máy tính xách tay lên bàn. “Một trong những dòng sông đẹp nhất thế giới”.

    “Địa điểm đặc biệt này ở ngay phía ngoài Jacson Hole, Wyoming, đảo Park, phải không?” Harvath quay đi và hỏi.

    “Anh đi câu trên dòng sông Snake rồi à?”.

    Harvath gật đầu. “Tôi đã câu ở chính điểm kia kìa”. Anh vừa nói vừa chỉ lên màn hình. Anh nhận ra chỗ đó ngay lập tức. Anh đã định mùa thu năm ấy đưa Tracy tới đó để dạy cô cách câu cá. Chẳng còn những đám đông nhộn nhịp của mùa hè, những chiếc lá cũng đã đổi màu và những ngọn núi cũng trở nên xanh tốt hơn. Anh đã đặt một cabin nhỏ tại một nơi gọi là Dormans ở ngay trong công viên quốc gia Grand Teton. Anh thầm nghĩ, ước gì bây giờ anh và cô lại có thể cùng nhau đi tới bất cứ nơi nào trên trái đất này.

    “Tôi yêu con sông Snake, nhưng ở Corlorado cũng có một vài điểm câu cá khá đẹp. Đó là một phần vì sao tôi chọn công việc này”, Morgan nói. Câu nói của ông đưa Harvath trở lại với thực tại.

    Harvath nở một nụ cười đồng ý với nhận xét đó, còn Finney đang tiếp tục giới thiệu. Tom Morgan nguyên là một nhân viên của NSA[4] và khoảng ngoài sáu mươi. Ông đeo kính, để ria và đi tập tễnh – hậu quả của một lần làm việc không may mắn và ông không bao giờ đả động tới.

    [4] NSA: Bộ An Ninh quốc gia Mỹ

    Sau cả đời suốt ngày mặc veston đeo cà vạt ở trụ sở của NSA tại Fort Meade, Mary Land, Morgan sung sướng được mặc quần áo thật thoải mái ở núi Elk. Tối nay, ông diện quần bò, áo sơ mi kẻ ô vuông và một cái áo khoác thể thao vải tuýt. Trông ông có vẻ rất săn chắc ở lứa tuổi của mình. Khi ông nói, có thể nhận ra một chút pha trộn chất giọng của người New England và Harvath cho rằng ông là người gốc đảo Rohde hoặc New Hampshire.

    Khi họ ngồi xuống, Finney nói, “Tom chính là lý do tôi đề nghị anh tới”.

    Harvath đang chờ đợi điều này. “Ông có cái gì vậy?”.

    Morgan không đổi giọng, “Tôi nghĩ chúng ta đã đặt gã Lùn vào trong hộp và khóa lại rồi”.

    Harvath rướn lông mày lên nhìn ông ta. “Mọi thứ à?” Anh hỏi.

    Morgan nhìn anh và trả lời, "Tài khoản ngân hàng, thế chấp, mọi thứ ".
     
  13. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 12
    Chương bị nhảy nguồn. Mời các bạn đọc chương kế tiếp nhé !
     
  14. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 13
    ANGRA DOS REIS, BRAXIN

    Nằm cách Rio de Janeiro ba tiếng đồng hồ lái xe hoặc bốn mươi lăm phút bằng trực thăng riêng về phía Tây Nam là cửa ngõ nóng nhất ở Braxin, vịnh Angra Dos Reis. Nổi tiếng với những làn nước ấm áp, những bãi biển lấp lánh cát trắng và những vườn cây trái xum xuê, Angra Dos Reis hay gọi một cách đơn giản là Angra luôn tự hào với 365 hòn đảo – mỗi hòn đảo là một ngày trong năm. Angra một nơi huyền bí với những làn gió thấm đẫm hương hoa miền nhiệt đới làm say lòng du khách.

    Sau khi các sỹ quan hải quân Bồ Đào Nha phát hiện ra Angra vào năm 1502, một người viết thư về nhà rằng họ đã tìm ra một thiên đường. Angra quả là một thiên đường thực sự. Một thiên đường dễ dàng khiến người ta như lạc vào một giấc mơ. Và bị lạc cũng chính là những gì gã Lùn muốn.

    Hòn đảo mà ông ta thuê dài nửa dặm và rộng một phần tư dặm. Tên nó là Algodao. Tại đó, có cả sân bay dành cho máy bay lên thẳng, tàu siêu tốc và tiện nghi hơn cả những khách sạn sang trọng nhất trên thế giới. Mặc dù trên đảo đủ chỗ cho mười tám người nghỉ ngơi, nhưng lúc này, chỉ có ba linh hồn có mặt trên đảo – gã Lùn và hai chú chó Cáp-ca trắng như tuyết, Argos và Draco. Nặng gần hai trăm pao[1], cao tới vai người, những chú chó khổng lồ này là lựa chọn của quân đội Nga và lực lượng biên phòng Đông Đức trước đây. Khi làm nhiệm vụ bảo vệ, chúng trở nên cực kỳ nhanh nhẹn và hung dữ. Chúng trở thành những tên vệ sỹ hoàn hảo cho những đàn ông chỉ cao dưới chín mươi phân và có những kẻ thù rất mạnh – rất nhiều trong số đó là khách hàng của ông ta.

    [1] Pound: Đơn vị đo lường Anh Mỹ bằng 0,454kg.

    Gã Lùn sống với khẩu hiệu rằng kiến thức cũng chẳng bằng quyền lực và đã áp dụng chính xác như vậy. Ông ta cũng nhanh chóng nhận ra rằng nó có thể bằng thật nhiều tiền bạc. Để theo đuổi khẩu hiệu ấy, gã Lùn kiếm sống bằng cách mua bán rất nhiều thông tin cao cấp. Mỗi thông tin đều có giá trị nhất định, những kỹ xảo nghệ thuật nếu có – nằm ở chỗ phải biết xâu chuỗi chúng lại với nhau thành những mẩu tin để tạo nên một kiệt tác thực thụ. Chính ở điểm này, gã Lùn đã thể hiện khả năng làm việc kiệt xuất của mình. Thật đáng buồn và đáng ngạc nhiên nếu niềm hi vọng trong cuộc đời của ai đó bị coi thường tới mức chính cha mẹ anh ta cũng ruồng bỏ anh ta.

    Khi thấy rằng gã Lùn không thể cao hơn nữa, cha mẹ gã chẳng hề tìm kiếm cho con trai họ một mái ấm tử tế hay một trại mồ côi cho ra hồn. Thay vào đó, họ bỏ rơi đứa con, bán nó cho một nhà thổ ở ven khu nghỉ mát Sochi ở Biển Đen. Tại đó, đứa bé bị đói khát, đánh đập và bị bắt phải biểu diễn những hành động khiêu dâm đồi bại.

    Chính ở nhà thổ đó, gã Lùn đã tìm ra được giá trị đích thực của thông tin. Những câu chuyện kể lại khi má ấp, môi kề bên gối của các vị khách quyền lực đã trở thành mỏ vàng khi hắn biết cách lắng nghe và lợi dụng.

    Những ả gái điếm, những kẻ sống cuộc đời phù du, đều cảm thấy thương gã và đối xử rất tốt với gã. Và thực ra, họ đã trở thành gia đình duy nhất gã từng biết. Rồi một ngày, gã đền đáp lòng tốt bằng cách mua tự do cho họ. Gã tra tấn mụ chủ nhà chứa và chống mụ rồi giết chúng để trả thù cho những năm tháng bị đối xử tàn nhẫn và vô nhân đạo khi gã ở trong tay chúng.

    Từ đống bùn nhơ nhớp của cuộc đời, gã Lùn đã trở thành một con Phượng hoàng đầy chất lửa với khả năng nhạy bén kinh doanh đến tàn khốc và luôn khao khát mọi thứ tốt đẹp nhất trên đời này.
    Trong căn phòng khách lợp lá dừa, gã vừa nâng niu trong hai bàn tay nhỏ bé một cốc rượu Bordeaux Château Quercy St. Emilion vừa đăm đăm nhìn qua lớp sàn biệt thự bằng kính, ngắm con sao biển rực rỡ và cả một thế giới sinh động trong làn nước lấp lánh bên dưới. Gã đã tiến được một chặng đường dài so với hồi còn ở nhà thổ Sochi. Nhưng như thế liệu đã đủ chưa. Draco ngước nhìn ông chủ trượt ra khỏi ghế và đi lại khắp phòng. Argos vẫn ngủ say như chết, nó đang hồi phục dần sau khi bị thương ở Gibraltar. Cả bọn họ rời khỏi khu nhà ở vùng cao nguyên đầy mưa của Scotland là đúng. Khí hậu ở Braxin dễ chịu hơn nhiều. Vả lại, đó cũng là nơi an toàn hơn.

    Mặc dù chẳng mấy ai biết tới ngôi nhà ở Eilenaigas, những vẫn có lúc gã cảm thấy không an toàn. Sau những gì khách hàng của gã đã làm ở thành phố New York, gã biết người Mỹ đã sôi máu lên rồi. Chính gã đã chứng kiến ở Gibraltar. Nếu có sống đến một ngàn tuổi, gã cũng chẳng thể nào quên cái chết thảm mà viên sỹ quan Mỹ Scot Harvath đã dành cho Mohammed bin Mohammed. Không phải ai cũng có thể nghĩ ra. Ấy vậy mà rất hoàn hảo. Mohammed đáng bị như thế hàng triệu lần vì những hành động tàn ác của hắn đối với gã khi gã là một cậu bé ở nhà thổ gần Biển Đen ấy.

    Harvath thật tàn nhẫn trong cách trừng phạt Mohammed, nhưng bản thân anh cũng là người đầy lòng trắc ẩn. Nếu không có Harvath, chắc chắn Argos đã chết. Thậm chí, anh còn dốc sạch tiền để trả cho bác sỹ chữa bệnh cho nó. Mặc dù gã Lùn chưa bao giờ thích người Mỹ, nhưng người đàn ông này quả đáng trân trọng. Anh ta là một tên sát nhân máu lạnh tàn nhẫn, nhưng đồng thời cũng là một con người hết sức nhân đạo.

    Chuẩn bị cho bữa ăn tối, gã Lùn lấy trong tủ lạnh ra vài miếng bít tết Kobe lớn mà hắn mang từ Nhật Bản đến.

    Người Nhật vốn có loại bò Kobe được chăm sóc rất cẩn thận, hàng ngày còn được xoa bóp bằng rượu cho thịt mềm. Ở bò Kobe, thịt nạc lẫn mỡ ít no hơn so với các loại thịt bò khác, ít cholesterol hơn, hương vị và độ mềm thịt khỏi phải nói.

    Khi gã bày thịt ra, cả hai con chó xúm quanh, cánh mũi phập phồng ngửi mùi thơm quyến rũ bốc ra từ những miếng thịt. Gã chỉ cần cho chúng một chút, nhưng chúng trả ơn cho gã rất nhiều. Chúng là những bạn đồng hành lâu dài nhất từ trước tới nay của gã, trung thành hơn và đáng tin cậy hơn bất cứ con người nào mà gã từng biết.

    Gã Lùn cho vào mỗi cái đĩa một miếng bít tết và để xuống sàn nhà. Ngay lập tức hai con chó cúi xuống và loáng một cái, miếng thịt bò biến mất. Sauk hi đã chuẩn bị xong đồ cho bữa tối, gã bày biện lên bàn ăn, mở thêm một chai Château Quercy nữa và trèo vào ghế ngồi ăn.

    Món bít tết quả là ngon thật. Chạm con dao vào để cắt, chẳng khác gì lướt lưỡi dao trên một miếng pho mát Brie[1] vừa mềm vừa mịn.

    [1] Brie: Pho mát mềm của Pháp

    Gã nhấm nháp, thưởng thức từng tí một và khi đĩa thức ăn đã nhẵn, cốc rượu đã cạn sạch, gã dẹp cái bàn vào trong bếp. Gã tự thưởng cho mình một ngụm Germain-Robin XO, gã làm một ngụm to và lim dim mắt tận hưởng. Dù thế nào đi nữa, cuộc đời của hắn cũng thật đơn độc.
     
  15. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 14
    Cửa sổ phòng khách đang mở để nhìn ra biển phía trước. Một luồng gió nhẹ phảng phất hương biển hòa với một thoáng hương hoa là lạ của hòn đảo nhỏ. Chỉ những người Braxin mới có thể tạo ra một đêm hoàn hảo đến vậy, gã vừa trèo lên trên cái bàn gã vẫn dùng làm ghế vừa nghĩ vậy và mở chiếc Laptop của gã ra. Qua một chảo vệ tinh nhỏ chắng mấy chốc hắn đã kết nối với hệ thống máy chủ một cách tinh vi được giấu trong một kho than ở sâu trong dãy núi Pyrenees.

    Một doanh nhân người Anh đã đưa ra ý tưởng rằng phương pháp quản lý ngành ngân hàng của Thụy Điển có thể được tái tạo lại trong vương quốc kĩ thuật số.

    Cơ sở vật chất của Anh ở Andorra rất tốt: nguồn điện, đường truyền, hệ thống cứu hỏa, điều hòa không khí, hệ thống an ninh đều có sẵn. Các máy chủ của hắn kết nối với mạng bằng băng thông rộng có dung lượng cao, luôn luôn đảm bảo một trăm phần trăm. Nhưng không thể dựa vào các máy chủ trong cơ ngơi của hắn. Lúc này, ngôi nhà Eilenaigas đã trở nên quá nguy hiểm. Thế nào tình báo Mỹ cũng tìm ra hắn. Nhưng tới khi họ tìm ra, hắn đã cao chạy xa bay khỏi ngôi nhà ở Scotland. Và khi mọi thứ đã đâu vào đó rồi, tiêu khiển thời gian tại hòn đảo riêng ở Braxin vẫn là khả dĩ nhất. Hắn biết rất rõ điều đó.

    Gã Lùn vừa lắng nghe tiếng sóng nhẹ nhàng vỗ vào bờ đá, vừa truy cập vào máy chủ trung tâm của gã và bắt đầu tiếp cận các dữ liệu trong đó. Gã vẫn chưa xem xét những thông tin tình báo mà gã vớ được từ vụ đột kích vào đám tài liệu tối mật của cơ quan An Ninh quốc gia Mỹ, NSA ở New York trong cuộc tấn công của Al Qaeda.

    Gã chưa bao giờ dám mơ tới việc ăn cắp được nhiều thông tin của người Mỹ đến vậy.
     
  16. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 15
    Tức điên người, gã Lùn kích vào biểu tượng và mở thư mục ra. Lâu đến phát bực mình mới tải được tệp tin về. Một suy nghĩ thoáng qua trong hắn. Hay đó là một cái bẫy – một cách có mục đích khiến hắn kết nối trực tuyến để tình báo Mỹ có thể định vị được hắn đang ở đâu.

    Cuối cùng cũng tải được tệp tin đó về. Đó là một loạt ảnh chụp lại màn hình hiện tại về toàn bộ tài khoản ngân hàng của gã. Số dư nào cũng cho thấy cùng một số lượng – không. Gã vừa hắt cốc rượu vào tường vừa hét lên một tiếng hét từ sâu thẳm trong con người bé tẻo teo của gã. Hai con chó nhảy lên và bắt đầu sủa.

    Thế là đi tong công trình cả đời của gã. Tất cả. Thứ duy nhất vẫn còn của hắn là cơ ngơi ở cao nguyên Scotland. Nhưng nếu người Mỹ biết rõ chuyện này chắc chắn họ sẽ tìm ra cách trói và cũng sẽ không cho gã làm gì liên quan. Luật chống khủng bố của Anh khá nghiêm. Người Mỹ sẽ chẳng phải tốn công sức gì lắm để thuyết phục các nhà cầm quyền Anh tham gia vào trò chơi.

    Hai con chó vẫn sủa ăng ẳng. Gã Lùn tóm lấy cái đĩa thiếc đựng đầy quả hồ trăn và sẽ ném đi khi nào gã cảm thấy đã nghĩ ra vấn đề. “Im nào”, gã quát hai con chó và chúng im thin thít ngay lập tức.

    Gã cần phải suy ngẫm. Phải có cách nào đó chứ, hai tiếng sau đó, gã lọ mọ làm việc trên các máy chủ kết nối với nhiều tài khoản ngân hàng khác nhau rải rác trên toàn cầu. Rồi một loạt các cuộc gọi đầy giận dữ, hết cuộc nọ đến cuộc kia toàn những lời xin lỗi từ các ngân hàng. Họ hứa hẹn tìm ra gốc gác sự việc nhưng gã biết chẳng ích gì đâu. Người Mỹ đã ra tay rồi. Họ đã nắm hết. Hắn mất trắng rồi.

    Gã không biết sẽ làm gì tiếp theo, nhưng chắc chắn, Scot Harvath chịu trách nhiệm về tất cả và gã sẽ bắt anh ta phải trả giá.
    Gã trở lại với tệp dữ liệu duy nhất còn lại. Gã người Na Uy vừa nhún nhảy vừa nhìn gã đầy khiêu khích. Gã chầm chậm chạy chuột qua hết dữ liệu và đến lần thứ ba gã đã tìm thấy.

    Giờ thì gã đã hiểu tại sao tải tệp tin đó tải về lại lâu đến thế. Lồng bên trong biểu tượng người đàn ông Na Uy đang nhảy nhót đầy khó chịu là một tin nhắn.

    Đó là một lời mời tham gia vào phòng chat riêng của chính Scot Harvath chứ không phải ai khác. Gã tắt máy tính.

    Sẽ phải đau đầu đây. Gã cố không rót cốc rượu khác. Thay vào đó, gã làm một tách cà phê và quay trở vào phòng khách.

    Vừa ngắm con cá sặc sỡ dưới nền kính bên dưới, gã vừa toan tính các giải pháp. Đây sẽ là một cuộc chiến sống còn của gã và mặc dù dự đoán rằng trí tuệ của bản thân gã sẽ vượt xa Harvath, không thể biết rằng người Mỹ đang có trong tay nguồn tin loại nào. Sai lầm lớn nhất gã có thể mắc phải là đánh giá thấp anh chàng đó.

    Vì không phải vội vàng tham gia vào phòng chat, gã quyết định trước hết phải dành thời gian nghiên cứu kẻ thù đã.
     
  17. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 16
    ELK MOUNTAIN RESORT

    MONTROSE, COLORADO

    “Ông có vẻ khả quan khi hắn kết nối?” Harvath hỏi.

    Morgan gật đầu. “Chúng tôi đã đưa vào biểu tượng đó một chương trình được viết riêng nó sẽ cho chúng tôi biết ngay khi hắn kích chuột vào và sau đó, các tệp tin sẽ tự động xóa. Cứ tin tôi đi. Hắn thấy rồi đấy”.

    “Tôi vẫn không thích mất nhiều thời gian. Ron Parker vừa bước men theo cái bàn dài vừa nói. Họ đã có mặt trong phòng họp của Chương trình Tình báo Sargasso. “Chúng ta cần giới hạn thời gian đối với hắn”.

    Tim Finney giơ tay lên “Các anh, đừng lo. Hắn sẽ tới. Hắn không còn lựa chọn nào đâu. Hắn đang cố kéo dài thời gian. Tại thời điểm này, thế mạnh duy nhất của hắn là bắt chúng ta phải chờ đợi. Và hắn hiểu rất rõ”.

    Parker dừng lại và rót một cốc cà-phê trong máy. Bên trên cái máy là một bức tranh sơn dầu lớn về một chú nai sừng tấm đang nhởn nhơ trên thung lũng tươi tốt. “Hắn cũng có thể bỏ đi”.

    Harvath luôn đánh giá cao đầu óc nhanh nhạy của Parker. Có ngốc mới không muốn cân nhắc chuyện rút lui khi đó là giải pháp tốt nhất. Nhưng trong vụ này, Harvath hiểu rõ đối thủ hơn Parker. Gã Lùn có thể chơi trò hai mặt với họ chứ không phải hắn sẽ biến đi một cách dễ dàng như thế. “Ở đây quá nguy hiểm cho hắn”. Harvath vừa nói vừa ra hiệu cho Parker rằng anh cũng muốn uống một cốc cà-phê. “Hắn không đủ khả năng để bỏ đi. Hắn sẽ muốn lấy lại những gì chúng ta đã cướp của hắn.”

    “Rất có khả năng”, Parker nhăn mặt và ngồi xuống cạnh Harvath. “Anh nghĩ thế nào, anh sẽ nói gì nếu hắn biến mất khỏi phòng chat?”

    “Thế còn, ngoài các dữ liệu và tài khoản ngân hàng, chúng tôi cũng thu hồi luôn cả thẻ hội viên của anh?” Finney đột nhiên hỏi.

    Mặc dù không cảm thấy như vậy, Harvath vẫn mỉm cười. “Tôi chưa nghĩ tới điều đó. Tôi sẽ quẳng nó đó rồi chờ khi thời điểm đến”.

    “Đến rồi”, Tom Morgan vừa nhấn một phím trên máy tính vừa nói vừa đẩy nó sang phía Harvath.

    Những màn hình phẳng ở trước phòng hội thảo bắt đầu hiện lên toàn cảnh phòng chat môt cách sống động. Một tin nhắn mới báo có người tham gia. Vì đây là phòng chat riêng nên họ đều biết rõ họ đang nóng lòng sự xuất hiện của người được biết dưới cái tên duy nhất là gã Lùn.

    Harvath đặt ngón tay lên bàn phím, nhưng Finney lắc đầu, không. “Hắn muốn chúng ta phải chờ. Vậy thì bây giờ chúng ta phải cao tay hơn. Phải làm rõ ra”.

    Mặc dù không đồng tình lắm, nhưng Harvath vẫn chờ đợi. Vài giây sau gã Lùn mở màn trước.

    Các anh đã lấy đi những thứ không thuộc về anh, gã gõ như thế.

    Harvath không cần úp mở. Ông cũng vậy, anh trả lời.

    Tôi muốn các tài khoản ngân hàng và các dữ liệu của tôi phải được khôi phục ngay lập tức.Và tôi muốn biết ai đã bắn Tracy Hastings. Harvath tiếp tục.

    Ngừng một lúc lâu. Cuối cùng gã cũng trả lời. Vậy thì tất cả là gì đây? Gã Lùn lại im lặng một lúc lâu nữa rồi mới gõ tiếp. Có lẽ chúng ta cần phải thỏa thuận.

    Có vẻ Finney muốn gợi ý gì đó, nhưng Harvath giơ tay ra ngăn ông lại. Anh biết mình đang làm gì. Nếu ông hợp tác, tôi sẽ để cho ông con đường sống.

    Gã Lùn gõ: Cho đến nay, tôi đã bị nhiều người mạnh mẽ hơn anh đe dọa đấy, ấy vậy mà tôi vẫn ở đây. Anh sẽ phải đề nghị tôi nhiều hơn đấy.

    Ông đã giết một người bạn rất thân của tôi ở New York, Harvath gõ lại. May cho ông là tôi dễ tính với ông đấy.

    Anh đang nói tới gã sỹ quan Robert Herington. Cái chết của anh ấy thật đáng tiếc, nhưng anh nên nhớ rằng chính Al Qaeda là kẻ đã giết anh ta. Tôi không hề ở gần New York khi xảy ra cuộc tấn công.

    Gã Lùn biết quá nhiều về Harvath, khiến anh cảm thấy khó chịu. Sao ông biết tôi sống ở đâu?

    Không khó.

    Hài hước thật, Harvath tấn công lại.

    Đơn giản, tôi chỉ việc kiểm tra thẻ tín dụng.

    Tôi không đứng tên căn nhà mới, không đứng tên bất kỳ một tài sản nào. Thậm chí tôi không hề nhận thư ở đó.

    Tôi không biết, gã Lùn trả lời. Tất cả đều liên quan đến một cửa hàng đóng gói và xuất hàng ở Alexandria. Đó là địa chỉ cuối cùng anh để tôi biết trước khi anh trở nên thông minh và chuyển đi. Tôi đã cho người theo dõi để biết chắc chắn liệu anh có còn sống ở đó không. Rồi một ngày nguồn tin của tôi cho biết rằng anh chuyển nhà. Anh ta chỉ việc theo chân anh tới khu nhà mới. Từ những gì anh ta cho biết, tôi thấy Cửa Tu viện thật đáng yêu.

    Harvath lại hỏi: Ông có ra lệnh bắn Tracy Hastings không?

    Gã Lùn suy nghĩ một lúc. Cuối cùng gã trả lời. Không phải tôi.

    Vậy ông có biết là ai không?

    Có thể.

    Harvath phải cố hết sức để kiềm chế.
     
  18. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 17
    Một lát sau, gã Lùn trả lời, Điệp vụ Harvath, anh đã lấy đi mọi thứ tôi có. Tôi không thấy có gì cần thiết với tôi ở đây và không cần thiết phải tiếp tục cuộc đàm thoại này trừ khi anh đưa ra lời đe dọa nặng hơn cả đe dọa lấy đi tính mạng của tôi.

    Harvath đã lường trước và chuẩn bị để mặc cả. Tôi sẵn sàng mua thông tin của ông.

    Tất nhiên là dùng tiền của tôi.

    Tất nhiên rồi.

    Tôi muốn tất cả, gã Lùn nhấn mạnh. Bây giờ mới là tin nhau một nửa, phần còn lại sẽ là khi nhận được thông tin.

    Harvath gõ máy tính chậm nhưng rõ ràng. Ông sẽ nhận được một triệu nếu ông cung cấp cho tôi bằng chứng nhân dạng kẻ đã bắn. Chừng nào vẫn còn tin nhau, ông sẽ chứng tỏ cho tôi thấy bằng cách cho tôi biết tên của người đã theo dõi tôi.

    Dù có là một triệu đô la, một phần nhỏ trong số những gì các anh lấy của tôi, tôi cũng không bao giờ để lộ nguồn cung cấp thông tin, gã Lùn trả lời.

    Vậy sẽ không có cuộc mua bán nào hết.

    Điệp vụ Harvath, những gì xảy ra đối với cô Hastings thực sự là không may mắn. Khi tôi biết chuyện, tôi đã hỏi nguồn tin của tôi, nhưng anh ta không nhìn thấy gì và cũng chẳng nghe thấy gì có giá trị đối với anh. Anh ta đã theo anh và sáng sớm hôm sau đặt món quà của tôi trước cửa nhà anh.

    Harvath đã chỉ ra, nó không chỉ là một người đưa thư đơn thuần, có lẽ là tai mắt của gã Lùn đã thuê để theo dõi anh. Gã sẽ phải nhượng bộ và anh mặc kệ.

    Anh chưa kịp trả lời, gã Lùn đã gõ tiếp, Tôi nghe nói người ta đã tìm thấy máu cừu bên trên cửa nhà anh.

    Nguồn tin của con người này khá thật. Harvath lo ngại rằng con người này có thể luồn vào tận chân tơ kẽ tóc của anh, bất kỳ chỗ nào hắn muốn, dù là cuộc điều tra cực kỳ nhạy cảm của liên bang. Vậy thì sao?
    Sao nhỉ, giống trong kinh thánh thật, anh không nói vậy chứ?

    Ông có giúp được tôi hay không? Harvath hỏi.

    Tôi muốn anh cho tôi thấy tôi có thể tin tưởng được anh trước đã.

    Tôi đã nói với ông rồi, tôi sẽ để ông được sống.

    Một lời dọa suông vì anh chẳng hề biết tôi đang ở đâu.

    Harvath gật đầu với Tom Morgan rồi gõ. Ông chỉ cần biết tôi không dọa suông đâu.

    Một phần tư giây sau, một hình ảnh hồng ngoại theo dõi gã Lùn hiện lên trên màn hình và Harvath bắt đầu kể. Hình ảnh qua vệ tinh này chụp nơi ở của ông tại Angra dos Reis cách đây chưa đầy mười phút. Từ đó, tôi có thể nói với ông rằng ông đang ở gần phía trước của khu nhà và hai điểm nóng phía bên trái ông là hai con chó. Tôi nói có đúng không?

    Gã Lùn không trả lời. Harvath nghĩ hắn đã bị sốc. Bị người ta theo dõi nơi ở của mình thì thật khó chịu. Nắm được thóp của hắn một chút cũng hay đấy chứ.

    Giờ thì ông thấy tin tôi được rồi chứ, Harvath đề thêm. Tôi là người biết giữ lời. Nếu tôi muốn ông chết, ông sẽ chết.

    Nhiều giây trôi qua, gã Lùn mới cố gắng xâu chuỗi lại được xem họ làm thế nào để lần ra gã. Cuối cùng, gã gõ. Đó là đường dây nối với công ty quản lý bất động sản.

    Đến lượt Harvath gõ cái mặt cười lên màn hình. Với sự giúp đỡ của Finney, anh đã bóc trần được gã và khiến gã hoàn toàn bị mất cân bằng.

    Vài phút sau, khi anh đã hướng dẫn xong cho gã Lùn vừa trở nên ngoan ngoãn, Harvath để lại cho gã lời cảnh báo cuối cùng. Ông không được rời khỏi hòn đảo. Nếu ông rời khỏi đó, tôi sẽ săn lùng ông đến cùng và tự tay tôi sẽ giết ông.
     
  19. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 18
    NAM CALIFORNIA

    Giữa nửa đêm, người quản lý của Philippe Roussard gọi điên. “Mọi việc đã ổn cả chưa?”

    Roussard ngồi trên giường, tựa đầu vào chiếc gối dựa vào tường. “Rồi”, hắn vừa trả lời vừa lấy một điếu Gitanes ra khỏi bao và châm lửa.

    “Những thứ đó sẽ giết cậu đấy?”, người quản lý của hắn cảnh báo khi nghe tiếng bật lửa Zippo của Roussard đóng đánh cạch một cái và hít một hơi dài. Philippe vuốt những sợi tóc đen vướng trên mặt và trả lời, “Thật cảm động trước mối quan tâm của ông”.

    Người gọi không bị cắn câu. Họ rất hay bất đồng với nhau. Nếu muốn thành công, họ phải hợp tác với nhau. Hít một hơi thở sâu, người quản lý nói, “Khi anh xong việc, sẽ có thuyền chờ. Phải nhớ không được để ai nhìn thấy anh lên chiếc thuyền đó”.

    Roussard khịt mũi trả lời. Sẽ không ai nhìn thấy hắn. Chưa từng có ai nhìn thấy. Hắn giống như một con ma, một cái bóng. Thực ra, hắn giỏi đến nỗi chẳng mấy ai tin rằng hắn tồn tại. Tuy nhiên, với chính phủ Mỹ lại khác.
    Cho tới lúc bị bắt, không ai nhìn thấy hắn. Không ai biết tên cũng như quốc tịch của anh ta. Những người lính Mỹ ở Iraq gọi anh ta là Juba và luôn sống thấp thỏm trong nỗi sợ hãi rằng mình sẽ là nạn nhân tiếp theo của hắn ta.

    Những phát súng của hắn ta thường từ cách xa ít nhất là hai trăm mét và gần như phát nào cũng chính xác tới mức hoàn hảo. Hắn hiểu rõ những phần áo giáp trên cơ thể và biết chính xác nơi nhắm viên đạn vào, chỗ sườn hoặc ngay bên trên ngực.

    Thỉnh thoảng, khi có một đội hải quân tứ mạnh, hắn ta thường dành cho mục tiêu những phát súng chính xác vào đầu. Với danh tiếng đã hạ trên một trăm người, Roussard là một anh hùng đối với những người Iraq căm thù sự chiếm đóng của người Mỹ và là một thiên thần đối với những chiến hữu đồng đạo trong phe nổi loạn.

    Những người Mỹ đã săn lùng hắn gắt gao và cuối cùng, họ cũng bắt được. Hắn bị đưa tới Guantanamo và chịu đựng hàng tháng trời tra tấn ở đó. Vậy mà cách đây khoảng hơn sáu tháng, thật tuyệt, hắn bỗng nhiên thoát khỏi cảnh giam cầm. Cùng với bốn tù nhân khác, hắn ta được đưa lên một chiếc máy bay về nước. Chỉ có Roussard là biết vì sao lại có chuyện đó và ai là người giúp đỡ.

    Lúc này, khi trườn thân thể cường tráng của mình vào bộ áo liền quần, trong hắn vẫn chưa mất đi cảm giác trớ trêu trước tình cảnh của mình. Người Mỹ đã đồng ý thả hắn và bốn tù nhân khác để bảo vệ các công dân của họ không bị lâm vào cảnh bị khủng bố. Ấy vậy mà giờ đây hắn lại đang ở trong lòng nước Mỹ, chuẩn bị cho một cuộc tấn công nữa.
     
  20. mrsiro2001

    mrsiro2001 Super Member
    • 374/497

    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    1,362
    CHƯƠNG 19
    Mặc dù có những thói quen xấu Roussard cố tạo ra để hòa nhập vào xã hội phương Tây nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, hắn vẫn là một mujahdeen[1]. Bản chất của hắn ngược hẳn với người quản lý. Ngoài việc dạy cho hắn hòa nhập dễ dàng vào những kẻ thù phương Tây, Trường nội trú Pháp, nơi Roussard được nuôi dạy có rất ít ảnh hưởng tới hắn ta. Sự giáo dục thật sự sâu sắc chính là từ những năm sống gần các nhà thờ hồi giáo và sau này là một số trại kín ở khắp Pakistan và Afghanistan.

    [1] Mujahdeen: Người tử vì đạo.

    Chính tại đó hắn đã học được rằng, “Al Quaeda” không dịch tệp “cơ sở” như hầu hết báo chí phương Tây đưa tin một cách mù quáng, mà là “cơ sở dữ liệu”. Nó dùng để chỉ một tệp tin máy tính gốc về hàng nghìn mujahdeen đã được truyền mộ và đào tạo với sự hỗ trợ của CIA nhằm đánh bại người Nga ở Afghanistan. Từ những năm 1990, danh sách này đã tăng thêm hàng nghìn người và đây là một trong những tệp tin được những người đứng đầu Al Quaeda cho bảo mật cẩn thận nhất. Những mujahdeen này thuộc mọi tầng lớp xã hội và thuộc nhiều xuất xứ dân tộc và nền tảng kinh tế xã hội khác nhau hơn bất kỳ chính phủ phương Tây nào từng tuyển dụng. Chúng được tuyển mộ, truyền giáo, đào tạo và phát tán đi khắp nơi trên thế giới và chờ đợi cho tới khi được yêu cầu chiến đấu.

    Khi lái chiếc xe tải đi qua cây cầu nối San Diego và Coronado, Roussard đã mường tượng ra những gì có thể xảy ra với anh ta nếu bị bắt.

    Suy cho cùng đó là nước Mỹ và họ đã đối xử với hắn ở Guantanamo tệ bạc nhất rồi còn gì. Bắt được hắn ở đây trên đất của họ, chắc họ sẽ đỡ hơn. Họ sẽ khai thác được một cách dễ dàng. Họ đã thông qua những đạo luật cho phép bảo vệ kẻ thù tốt hơn là người dân của nước họ.

    Khi Mỹ bắt được cái gọi là những kẻ thù khủng bố, lại thiếu dũng khí để bắt chúng chết. Zacarias Moussaoui, Sheik Omar Abdel-Rahman và thậm chí Ramzi Yousef đều bị tù chung thân. Chúng là bằng chứng rõ ràng về sự kém cỏi và yếu đuối của Mỹ và là bằng chứng thực tế là Mỹ sẽ sụp đổ trước những tín đồ đạo Hồi.

    Tới con phố Thứ ba, Roussard đã quay vài lần và lùi xe để chắc chắn mình không bị bám đuôi. Khi tới địa chỉ trên làn đường Enclo, hắn đỗ chiếc xe tải bên lề đường và chèn bánh trước và sau bằng một vật hình nón màu cam. Đỗ xe ở đây vào giờ này có thể khiến người ta chú ý, một chiếc xe tải dạng cứu hộ có thể khiến hàng xóm quanh đây tò mò, nhưng chắc chưa đến mức phải gọi cảnh sát.

    Tiến gần đến cửa trước, Roussard lôi ra một khẩu súng và giấu nó bên dưới quyển sổ kim loại có kiểu sáng như cái hộp. Đến sát cửa, hắn giả vờ bấm chuông. Hắn lặng lẽ mở khóa, thừa biết người phụ nữ trong nhà không hề có hệ thống báo động.

    Khóa mở ra, anh ta bước vào trong và đóng cánh cửa lại phía sau lưng. Roussard dừng lại chỗ lối vào cho tới khi mắt anh ta quen với bóng tối. Ngôi nhà có mùi như thể có đồ gỗ được đánh bóng hòa trộn với mùi ngai ngái của không khí gần biển.

    Ngay khi xác định được tầm nhìn, hắn nhẹ nhàng đi xuống hành lang dẫn tới phòng ngủ của chủ nhà. Dọc khắp hành lang là rất nhiều những bức ảnh của gia đình treo thẳng hàng, hầu hết trong số chúng là ảnh chụp từ nhiều năm.

    Đến chỗ phòng ngủ, Roussard thấy cửa phòng mở toang. Nhanh như cắt, nạn nhân đã như nằm ngủ trên giường. Chồm ngang qua người nạn nhân, hắn luồn tay vào cặp tài liệu kim loại dưới tay trái và mở khóa bộ quần áo liền.
    Một thoáng suy nghĩ, hẳn tưởng mình có thể làm nó bị rơi, nhưng rồi hắn nhanh chóng nắm lấy vật mình đang tìm kiếm.

    Quay lại, nhìn xuống nạn nhân, hắn giật nảy mình. Mắt bà ta mở thao láo và đang nhìn hắn chằm chằm. Cửa sổ phòng ngủ mở toang và nhỡ bà ta hét toáng lên thì hỏng bét.

    Bản năng của Roussard trỗi dậy. Hai tay hắn tóm chặt cuốn sổ và vung mạnh lên, đánh vào đầu bên trái của người phụ nữ.

    Miệng bà ta há ra như thể định kêu và Roussard lại đánh một nhát nữa. Mắt nhắm nghiền, bà ta nằm vô hồn trên giường. Máu từ tai và mũi trào ra. Máu bết lại trên mái tóc dài màu xám và thấm đỏ chiếc áo ngủ của nạn nhân. Bà ta không còn biết gì, nhưng vẫn sống, hắn muốn bà ta phải chịu như vậy.

    Vứt cuốn sổ trên giường, Roussard dùng tay lật người bà lên và kéo vào nhà tắm. Quăng bà ta vào bồn tắm, hắn cởi chiếc áo ngủ của bà ra và phủ lên một hỗn hợp ẩm ướt, sau đó hắn lấy dải băng dán kín lỗ thông hơi nhà tắm lại.

    Hắn quay trở lại chiếc xe tải đang đỗ bên ngoài và lấy ra hai thùng nhựa đóng kín và một ít đồ nghề.

    Quay vào nhà tắm, Roussard đặt hai cái thùng xuống cạnh bồn tắm và lấy bên trong bộ quần áo liền ra một cái máy phun. Hắn mở từng mắt một của người phụ nữ ra và phun một chất gì đó vào sao cho mắt nào cũng bị gắn kín lại. Hắn đã xong việc.

    Roussard lấy ra một cái tua-vít và mở nắp từng thùng nhựa một. Hắn ta với lấy một cái khăn tắm bên trên toa-lét và vứt nó ra bên ngoài cửa nhà tắm. Đúng thời điểm. Mở nắp hai cái thùng ra, hắn đổ hết phần bên trong lên người nạn nhân vẫn đang nằm bất tỉnh trong nhà tắm, hắn chạy vội ra khỏi đó và đóng chặt cửa lại. Roussard ném cái khăn tắm vào bên dưới cánh cửa và cố định nó bằng băng dính. Sau đó, hắn lấy một cái khoan ra vài cái tua-vít ra rồi vít chặt cái cửa vào khung cửa.

    Hắn bước ra ngoài, bỏ cái chặn xe ra rồi chậm rãi lái xe trở về trên con đường cũ.

    Tại khách sạn, Roussard thay bộ quần áo rồi rửa chiếc xe tải và ra bến tàu. Đúng như lời người quản lý, đã có một chiếc tàu sẵn sàng chờ hắn.

    Ngay khi chiếc tàu nổ máy lao vào làn nước mênh mông và đen sẫm như mực hắn lấy ra một chiếc điện thoại, bấm số 911, cho địa chỉ một người phụ nữ đang cần cứu giúp ở đường Encino của Coronado. Khi bên kia hỏi đến tên, Roussard mỉm cười và ném chiếc điện thoại đi. Rồi chẳng bao lâu, họ sẽ xâu chuỗi lại mọi thứ và tìm ra ai là người có trách nhiệm cho việc này.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này