1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Mê Tông Chi Quốc III !! - Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 27/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Mê tông chi quốc III - Đại thần nông giá
    Tác giả:Thiên Hạ Bá Xướng

    Thể loại:z5:inh Dị, Phiêu Lưu, Kỳ Bí
    Nguồn: bachngocsach

    [​IMG]
    Giới thiệu:

    Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của những nhà khảo cổ.

    Thế giới lần đầu giải mã ẩn số hãi hung về vũng xoáy tử thần 30 độ vĩ Bắc theo một góc nhìn mới.

    Khe sâu u minh ẩn dưới núi cao, bí mật huyền hoặc giấu trong biển rộng.

    Biển Âm Dụ nằm ở 30 độ vĩ Bắc dưới lòng núi Thần Nông Giá, rốt cục che đậy sự thật kinh thiên động địa gì?

    Tổ chức tà ác Nấm Mồ Xanh nâng cấp âm mưu táng tận lương tâm, điên rồ cuồng loạn, tiếp tục vấy gió tanh mưa máu.

    Sa lầy nơi địa ngục sâu vạn trượng.

    Kẻ nhát gan tử nạn, người nhẹ dạ thiệt thân.

    Bạn đang lún chân vào vòng luân hồi sinh tử không có lối thoát.

    Đối diện với vòng tròn ma quái đáng sợ, vĩnh viễn không thể hóa giải…
     
    haicfc26, Kyoshuu, Pisces and 9 others like this.
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 1: Vô Trung Sinh Hữu - Hồi thứ nhất TẤM BIA NUỐT RẮN


    Tư Mã Khôi cho rằng, minh khí(1) đồng xanh khổng lồ mà đội khảo cổ phát hiện dưới lòng đất, tuy đã tồn tại cả ngàn năm nay, nhưng không hề bị ôxy hóa làm cho han gỉ, có thể trong thành phần của nó pha trộn hỗn hợp kim loại của vẫn thạch, nhìn bề ngoài thì chắc chắn là đỉnh Vũ Vương mà cổ nhân đã tạo ra ở Yên Sơn. Vì thân đỉnh có đúc Sơn Hải Đồ, nên tất cả hình họa và phù hiệu thần bí trên đó đều liên quan đến vô số thông tin quan trọng thời viễn cổ như địa lý, địa mạo, sông ngòi, đầm trạch, sa mạc, đất ngập nước và cả những thay đổi lớn lao dời non lấp bể, phân bố khoáng vật, thực vật, quá trình di cư và tuyệt diệt, biến đổi và tiến hóa của muông thú muôn loài…

    [1] Minh khí: đồ bằng gốm, đồng… được làm thu nhỏ, mô phỏng theo vật thật, để thờ cúng hoặc chôn theo người chết.

    Trong chín chiếc đỉnh có một chiếc đúc hình đầu trâu mặt ngựa, được xếp lớp lang theo thứ tự thời gian và độ sâu tầng đất, cổ nhân đã căn cứ vào đó để ghi lại địa hình địa mạo, các loại khoáng quặng và sinh vật cổ quái của bốn cực. Tầng sâu nhất là một hắc động giống như vực sâu không đáy, bên trong lấp ló thứ gì đó hình thù kì dị nửa ẩn nửa hiện, không rõ rốt cuộc là vật gì, vị trí và các đặc điểm của hắc động này hoàn toàn trùng khớp với miếu thần mà đội khảo cổ đang muốn tìm.

    Bên cạnh mỗi bức vẽ đều được chú thích bằng chữ triện cổ rất nhỏ, Tư Mã Khôi cố gắng đọc, nhưng có lẽ đó là văn tự long ấn triều Hạ, nên anh đành bó tay bất lực, không nhận ra chữ nào. Chỉ có đỉnh Vũ Vương là cội nguồn của cổ thuật tướng vật, Tư Mã Khôi nghe đồn đã lâu, nên mới không khó phỏng đoán lai lịch của nó. Nghe nói, Sơn Hải Kinh – một cuốn cổ tịch địa lý thời Tần cũng được phỏng tác từ Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ này, có điều nội dung bên trong đã bớt đi vài phần chân thực.

    Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói hoàn toàn hợp logic, có lẽ cũng không sai lệch so với thực tế là bao, lòng cô bất giác thất kinh. Trong các lăng tẩm của các đế vương chư hầu, vật phẩm tuẫn táng quan trọng nhất chính là đỉnh đồng. Đỉnh đồng chính là quốc bảo, nên chỉ có bậc đế vương mới đủ tư cách mang cửu đỉnh tuẫn táng theo mình, bởi nó đại diện cho chín châu. Nếu ngược dòng lịch sử tìm về cội nguồn, thì đỉnh đồng đúc ở Yên Son của Vũ Vương có thể coi là cái đỉnh ông tổ, vì vậy Vũ Vương còn gọi nó là đỉnh mẫu, Sơn Hải Đồ chạm khắc trên thân đỉnh là những bí mật kinh thiên động địa. Thế nhưng ghi chép về nguồn gốc của đỉnh đồng Vũ Vương trong lịch sử hầu như rất đại khái, không rõ ràng, vậy mà không ngờ, nó lại xuất hiện trong tòa thành cổ dưới lòng đất này.

    Hải ngọng nhìn mãi mà vẫn không hiểu gì, liền sốt ruột giục: “Đâu? Bản đồ đâu? Tôi thấy mấy cái đỉnh đồng to tổ bố này chẳng có tí ý nghĩa thực tế nào với đội khảo cổ bọn ta cả. Mau rời khỏi đây thôi! Đừng mất thời gian với nó nữa!”.

    Tư Mã Khôi nói: “Hải ngọng nhà cậu đúng là đồ ăn no vác nặng, trước đây suốt ngày nghe giáo sư Nông địa cầu nói cái gì mà quốc bảo “Tứ dương phương tôn” (2), “Quách quý tử Bạch bàn” (3), kiếm Việt Vương, gương Tần đế đấy thôi, nhưng nếu đặt trước cái đỉnh bằng đồng xanh này thì mấy thứ kia chỉ là hạng tép riu đáng hàng con cháu. Đây đúng là cơ duyên ngàn đời khó gặp, đồng thời cũng là phát hiện quan trọng nhất kể từ khi chúng ta từ Đại Sa Bản tiến vào lòng đất đến nay đấy!”.

    [2] Tứ dương phương tôn: là một trong những quốc bảo đặt ở viện bảo tàng Nhân dân Bắc Kinh, đó là bình đựng rượu làm bằng đồng xanh, bốn góc gắn bốn cái đầu cừu.

    [3] Quách (hoặc Quắc) Quý tử Bạch bàn: được xếp vào quốc bảo hạng nhất của Trung Quốc. Đó là chậu rửa tay của Quắc Tuyên Công, còn gọi Quắc Quý tử Bạch. Trong lòng chậu có 111 chữ triện cổ ghi lại chiến công Quắc Quý tử Bạch đại thắng quân Hung Nô ở bờ bắc Lạc Hà.

    Anh nói xong thì quay sang hỏi Thắng Hương Lân xem liệu cô có thể phác họa tại chỗ những họa tiết trên thân đỉnh đồng không. Những hình vẽ cổ xưa ghi lại mọi bí mật dưới lòng đất này vừa thần bí vừa phức tạp, dẫu kiếm cả một phân đội đến phác họa, e rằng cũng không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai, huống hồ đội khảo cổ có bốn người, mà lại chỉ mình Hương Lân nắm được món kỹ thuật này, còn ba người còn lại thì có nhìn bầu cũng vẽ ra dưa, không giúp được trò gì.

    Thắng Hương Lân nói: “Bích họa mới phải phác họa tại chỗ, còn những hình vẽ khắc trên đỉnh đồng chỉ cần dập thác bản trực tiếp là xong, cũng không tốn thời gian lắm”. Nói xong, cô liền lẩy thác bản trong ba lô ra, dập vào mấy cụm hình trên cái đỉnh cổ, rồi vẽ các ký hiệu chú thích vị trí.

    Hội Tư Mã Khôi toàn là dân ngoại đạo, không mó tay vào được, đành đứng bên hút thuốc chờ đợi, bàn tính tiếp theo sẽ đi khảo sát địa cung trong lòng núi.

    Đội trưởng Lưu Giang Hà đứng ngoài cảnh giới, anh chàng tò mò hỏi Tư Mã Khôi: “Thủ trưởng Khôi, khi nãy thủ trưởng nói cái đỉnh đồng này có ý nghĩa to lớn với đội khảo cổ chúng ta. Thế rốt cuộc nó có ý nghĩa gì vậy?”

    Hải ngọng bĩu môi: “Cái ngữ đấy có từ mấy ngàn năm trước thử hỏi có nổi ý nghĩa quái gì chứ? Cậu nhiễm tư tưởng mê tín phong kiến điển hình mất rồi, định quay về con đường tăm tối đấy hả? Lẽ nào cậu còn muốn lôi đội khảo cổ đi theo vết xe đổ trên lối làm việc sai lầm của chủ nghĩa xét lại.”

    Đầu Tư Mã Khôi đang rối bời, anh không tìm ra manh mối nào rõ ràng nào cả, nên cũng không còn tâm trí ngồi tán nhăng tán cuội với Hải ngọng. Anh đành nói: “Thật ra mục tiêu mà đội khảo cổ và tổ chức ngầm Nấm mồ xanh muốn tìm, giờ đây hoàn toàn giống nhau, đó chính là khu vực chưa biết nằm gần tâm Trái đất, Triệu Lão Biệt gọi nó là miếu thần, có lẽ nó là một hắc động bị sụt xuống do năng lượng tầng quyển manti tập trung với mật độ lớn. Vị trí cụ thể của hắc động và những bí mật tồn tại bên trong nó đều vượt xa khả năng lý giải của chúng ta. Manh mối xác thực duy nhất mà đội khảo cổ tìm được cho đến giờ phút này, chính là tòa thành cổ dưới lòng đất và Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ Vũ Vương. Tiếc là chúng ta không thể giãi mã được những chữ triện cổ thời Hạ, chỉ dựa vào mỗi mấy hình vẽ thần bí kì quái kia thì rất khó làm rõ chân tướng của nó. Gã kỹ sư thăm dò vật lý Điền Khắc Cường của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, cũng chính là tên đặc vụ có biệt danh căn phòng số 86 quanh năm mai phục ở sa mạc Gobi ở Tân Cương để theo dõi sát sao mọi động tĩnh xảy ra trong kính viễn vọng Lopnor, điều này chứng tỏ dưới lòng đất chắc chắn phải tồn tại thứ gì đó, trực tiếp uy hiếp đến mục tiêu của tổ chức đó. Tôi đoán, những bí mật đó đang được giấu kín trong chiếc đỉnh đồng Vũ Vương này. Vì vậy, nếu đội khảo cổ chúng ta muốn tiếp cận với hắc động gần tâm Trái đất, thì bắt buộc phải phá giải được ẩn số ở đây. Điểm tận cùng của biển cát dưới lòng đất là tòa thành cổ được xây dựng bao quanh ngọn núi lửa, lòng núi lại chứa địa cung. Văn tự chữ triện cổ thời nhà Hạ và cái đỉnh bằng đồng xanh to lớn kia, đều là chứng nhân chứng tỏ nó từ lưu vực sông Hoàng Hà di cư xuống đây. Vào thời điểm ấy, con người còn thưa thớt, thú hoang thì nhiều vô số kể, núi lở dữ dội, biển cả dậy sóng, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nshiệt, khắp nơi đều có người ở dưới động huyệt. Sự tồn tai của đỉnh đồng chứng tỏ, khi đó đã kết thúc thời đai hồng hoang, tòa thành hoang phế này có lẽ được hậu duệ các vương triều Hạ Thương để lại, bởi vậy, chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm khắp địa cung, hi vọng sẽ tìm thấy phát hiện mới nào đó.”

    Lúc này Thắng Hương Lân đã in thác bản xong, cô chỉnh sửa cho hoàn thiện rồi cất chúng vào ba lô, chỉ để lại một trang đưa cho Tư Mã Khôi xem, trang đó có ghi chép thông tin về cực vực.

    Tư Mã Khôi đón lấy, thấy mấy bức hình đều thể hiện biển sâu sóng dữ thét gào, trong đó không thiếu “cá voi thân khổng lồ, thuồng luồng dài vạn trượng”. Tương truyền, khi xưa Vũ Vương chia chín châu, thăm dò bốn cực, đo đạc tỉ mỉ hình thế của đồi núi sông suối, mới chặn được nước chảy tự do về phía đông, hướng nước đến đại dương theo một con kênh hẹp ở núi Long Môn dọc bờ Hoàng Hà, còn đại dương đó cụ thể đó là Đông Hải hay Nam Hải thì không tài liệu nào có thể khảo chứng, chỉ biết nơi dẫn nước lũ vào gọi là Vũ khư(4). Có lẽ, “không động” nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất chính là Vũ khư, có điều chuyện này họ cũng không thể kiểm chứng, mà chỉ đoán mò theo cảm tính cá nhân mà thôi. Tư Mã Khôỉ biết mấy hình vẽ này rất bất thường, liền bảo Thắng Hương Lân cất cẩn thận, để sau này có lúc cần dùng đến, rồi anh giục mọi người mau chóng rời khỏi đây, quay lại khu vực ven tòa địa cung. Đối diện với cánh cửa đá của thành cổ có một cửa động giống như mộ đạo, vừa cao lại rộng rãi, nhìn sâu vào trong thấy rất âm u lạnh lẽo, khác hẳn với không khí nóng bỏng ngoài bồn địa Turpan dưới sa mạc Gobi.

    [4] Vũ khư: tức là dấu cũ của Vũ Vương hay di chỉ Vũ Vương.

    Đội khảo cổ bật đèn quặng gắn trước mũ bấc lên, từ từ tiến vào bên trong. Đường hầm hoàn toàn trống trải, hai bên động cũng không hề có vật gì thừa ra. Tư Mã Khôi cảm thấy không khí ở đây có vẻ không ổn, liền nhắc nhở mọi người phải thận trọng hơn nữa, không ai được mạo hiểm xông vào.

    Đội trưởng Lưu Giang Hà bắt đầu lạnh gáy: “Chỗ này yên ắng quá, hình như chẳng có người sống hay sao ấy!”

    Hải ngọng cười nhạt: “Nếu ở đây bỗng nhiên mọc ra một thằng cha đang nhe nhởn sống mới khiếp, chứ không có người thì đâu có gì lạ; điều kì lạ là ngay cả một xác chết cũng chẳng thấy…”

    Lúc này, chùm sáng của đèn quặng trên mũ Tư Mã Khôi chiếu đến một góc tường, ở đó có một cái xác, phần đầu của xác chết đó to một cách bất thường, như thể bị trương phình lên vậy, lớn gấp đôi người bình thường, so với cái đầu thì gương mặt và cái cổ khô quắt trở nên vô cùng nhỏ bé, trông rất đỗi quái dị và đáng sợ.

    Đội trưởng Lưu Giang Hà chưa kịp chuẩn bị tinh thần, nên khi nhìn thấy bộ dạng kì quái của cái xác, thì bất giác giật bắn người, lùi lại phía sau, hốt hoảng kêu lên: “Ối! Người chết!”

    Dưới ánh đèn quặng, Tư Mã Khôi còn phát hiện thấy sâu bên trong còn rất nhiều thi thể khác, anh cũng thất kinh, vội vàng bịt miệng Lưu Giang Hà thì thầm: “Khép cái miệng một tí, ngộ nhỡ kinh động đến các ngài, thì chúng ta có mà ăn đủ”.

    Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi dọa làm đội trưởng liên lạc sợ xanh mặt, vì đến cô nghe mà còn thấy rờn rợn, liền trách móc: “Tư Mã Khôi! Anh đừng dọa người khác nữa, được không hả?”

    Tư Mã Khôi nói với Thắng Hương Lân: “Tôi có dọa đâu. Mấy năm nay tôi nhìn thấy rất nhiều người chết, nhưng chưa bao giờ thấy xác chết nào lại quái dị thế này”.

    Thắng Hương Lân gật đầu bảo: “Mọi người phải thật thận trọng! Tuyệt đối không được sờ vào mấy xác chết này!”

    Thế là cả đội ai nấy đều cẩn thận nhìn trước ngó sau, quan sát trang phục và trang thiết bị tùy thân của những xác chết, thì biết đây chính là đội khảo sát liên hợp Trung Xô mất tích năm 1958, chẳng ngờ lại tìm thấy họ trong tòa thành cổ này, đồng thời tất cả đều gặp nạn mà chết.

    Hải ngọng chỉ tay đếm, tất cả có hai mươi hai cái xác, toàn bộ thành viên đội khảo sát đều chết ở đây, bao gồm cả bóng ma trong tấm hình. Tình trạng khi chết của đội khảo sát rất quái dị, khoảng cách giữa các xác chết không xa lắm. Gần đó có một tấm bia cũ kỹ loang lổ dựa vào tường, cao tầm đầu người, hình thù giống khuôn mặt người, nhưng chỉ có hình khối, không khắc rõ đường nét ngũ quan, chỉ có dưới chân bia là chạm trổ cái miệng lớn đen ngòm ngòm, đang há rộng ngoác nuốt một con quái xà.

    Tư Mã Khôi soi đèn quặng vào tấm bia “nuốt rắn” trong địa cung, bỗng thấy gai lạnh cột sống. Anh nghĩ dường như khoảnh khắc đội khảo sát chạm vào tấm bia này, thì đột nhiên họ đều gặp phải bất trắc, không một ai thoát thân. Tuy Tư Mã Khôi biết khu vực quanh đây chắc chắn đầy rẫy hiểm nguy rình rập, nhưng việc đội khảo sát mất tích năm 1958 là việc rất quan trọng, nên anh không thể qua loa cho xong chuyện, đành lấy hết can đảm tiếp tục xem xét. Anh dặn ba người còn lại, trước khi anh cho phép, không ai được tự tiện tiếp cận tấm bia nuốt rắn trong địa cung.

    Mọi người lục ba lô và túi áo trên của từng thi thể và tìm thấy một số bản đồ, ảnh chụp cùng các vật phẩm khác như sổ tay công tác. Tuy xác chết đã teo quắt nhưng đường nét ngũ quan thì vẫn còn khá rõ, nên Tư Mã Khôi muốn đối chiếu từng thi thể với ảnh chụp để nhận diện họ.

    Lúc này, chợt nghe phía sau có tiếng động vọng lại, gân xanh trên trán Tư Mã Khôi giật giật, anh điên tiết hét lên: “Vừa mới dặn không được tiếp cận tấm bia cổ quái kia, thế mà ngoảnh đầu đi một cái đã quên khuấy rồi à?”, nhưng khi anh quay người lại, thì thấy ba thành viên của đội khảo cổ vẫn ở cạnh bên, khiến tim anh như hẫng xuống một nhịp; anh cảm thấy từng sợi tóc của mình đang dựng đứng cả lên: “Phía sau là ai vậy?”, anh bạo gan soi đèn quặng ra sau nhìn kỹ, nhưng ngoài tấm bia đá ra thì không còn vật gì khác. Tư Mã Khôi kinh hãi thốt lên: “Chẳng lẽ cái bia cổ này sống thọ quá nên thành tinh rồi sao?”
     
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 2: CĂN NGUYÊN




    Tư Mã Khôi thấy tấm bia nuốt rắn dựng dưới bức tường vẫn yên ắng im lìm, cũng không có biểu hiện gì khác thường, không biết âm thanh khi nãy phát ra từ đâu, nhưng hễ nhìn vào tấm bia đó, là anh lại lạnh toát sống lưng. Anh trấn tĩnh nhủ thầm, thấy vật quái mà không cho đó là quái, thì nó cũng sẽ tự khắc là bình thường, liền bạo gan soi đèn quặng lại gần, xem kỹ rốt cuộc thế nào.

    Tấm bia nuốt rắn này loang lổ, cổ phác, hình thù kì quái. Gọi nó là tấm bia cũng chỉ là cách mà đội khảo cổ dựa vào hình dáng bên ngoài đặt ra, chứ thực tế không ai biết đó là thứ gì, bởi hình khối trên bề mặt như thể khuôn mặt người, nhưng không có đường nét rõ rệt, chỉ mỗi phần chân là chạm khắc cái miệng ma quái đang nuốt rắn, trông vô cùng quái dị và tàn bạo.

    Tư Mã Khôi bỗng nhớ lại, ngày xưa có cuốn sách tên là “khu xà thư”, là sách ghi chép các loại bùa chú để thuần phục rắn. Nhiều đời trước, các trưởng môn cái bang thường giữ cuốn cổ thư này, để khi mở ra đọc là bầy rắn bất phân lớn nhỏ đều kéo đến nghe lệnh họ.

    Rồi mỗi kẻ ăn mày sẽ bắt một con trong số đó lột da, xả thịt nấu bát canh cho ấm dạ. Thế nhưng chiêu này chỉ được đem ra sử dụng vào những năm thực sự đói kém không kiếm nổi miếng ăn, nếu không sẽ phạm vào điều cấm kị. Liệu có phải tấm bia cổ này cũng có khả năng thu hút bầy rắn? Nhưng nhìn xung quanh địa cung này, ngoài hai mươi hai thi thể của thành viên đội khảo sát, thì không phát hiện thấy dấu tích của bất kì sinh vật nào khác.

    Lúc này, Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Thi thể của các thành viên đội khảo sát tuy rằng chưa mục nát hẳn, nhưng đầu đã biến dạng, gương mặt khô quắt nghiêm trọng, rất khó đối chiếu với dung mạo ban đầu trong bức ảnh, phải sử dụng kỹ thuật chuyên môn mới kiểm định được”.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Thi thể của toàn bộ thành viên đội khảo sát đều nằm ở đây, chứng tỏ bóng ma trong tấm ảnh chỉ là hiện tượng khúc xạ quang học ngẫu nhiên. Có lẽ lúc trước mình đa nghi quá, bây giờ đã phát hiện địa điểm đội khảo sát gặp nạn, lại tìm thấy rất nhiều bản đồ và ghi chép trên các thi thể, thu hoạch cũng không nhỏ, nên phải mau chóng rời khỏi đây thì hơn”.

    Rồi anh bảo mọi người thu dọn tử thi, chụp ảnh bằng máy ảnh phản quang ống kính đơn K205 làm tư liệu, sau đó nhanh chóng rút lui. Mọi người quay ra theo đường cũ, nhưng cảm giác càng đi càng thấy bất thường. Tứ phía trong địa cung đều có đường hầm, khu vực ở giữa là chính điện – có tấm bia nuốt rắn, hai bên đường hầm đều có rất nhiều gian động, lúc vào thấy đoạn đường hầm đi từ cửa đến chỗ các tử thi khoảng chừng hai ba trăm mét, nhưng khi đi ra thì không thấy cửa động đâu cả, mà chỉ có bức tường đá lạnh lẽo, sừng sững nằm ở điểm tận cùng.

    Hải ngọng hoang mang: “Bọn mình đi lạc rồi, sao lại chạy vào ngõ cụt được nhỉ?” Thắng Hương Lân nhìn kim la bàn, nghi ngờ nói: “Phương hướng không sai, chắc không phải lạc đường đâu…” Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, tòa địa cung này kì quái quá, chẳng lẽ lại có hệ thống ngầm ẩn giấu bên trong, nhốt sống những người bước chân vào đây?”.

    Có điều, Tư Mã Khôi cũng am hiểu sự biến hóa của hệ thống bẫy ngầm, nên không quá lo sợ, anh bảo mọi người: “Cái nơi quỷ quái này thì nhằm nhò gì, chỉ hù dọa được trẻ lên ba thôi, nếu nắm được nguyên lý tương sinh tương khắc, thì dễ như trở bàn tay ấy mà”. Nói xong, anh lên trước lần sờ vách tường, nhưng rồi anh lập tức phát hiện sự việc không hề đơn giản như mình nghĩ.

    Khối đá được tạo từ tro núi lửa cứng chắc, kín bưng không một kẽ hở, ít nhất cũng dày đến bảy tám centimét, bên trong đặc, không hề có thiết bị ngầm nào, cho dù sử dụng lượng lớn thuốc nổ, cũng chưa chắc phá hủy nổi nó. Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lo lắng nói: “Thủ trưởng ơi! Bên dưới tòa thành cổ này chắc có ma rồi, mấy con ma trong đội khảo sát không muốn chúng ta rời khỏi đây rồi!” Tư Mã Khôi mắng: “Này, đừng có thần hồn nát thần tính nữa.

    Tôi thấy chuyện này quá nửa là liên quan đến tấm bia nuốt rắn chết tiệt kia, bây giờ có mà chạy đằng trời, chúng ta đành quay về tìm tấm bia cổ quái đó thôi!” Đội khảo cổ đang định quay đầu trở về, thì thấy một loạt tiếng động văng vẳng bên tai, dường như có vật gì đang bò đến từ nơi sâu trong đường hầm, chúng cọ sát vào vách tường, phát ra âm thanh quái dị nghe sàn sạt, dường như có rất nhiều loài sinh vật cánh cứng.

    Rồi tiếng động càng lúc càng gần, không những vậy, tốc độ và sức mạnh còn dữ dội như nước triều dâng, thực sự khó lòng đoán được. Mọi người thất kinh, không biết nơi sâu trong địa cung rốt cuộc xuất hiện thứ gì, nhưng xem chừng kẻ sắp đến không phải hạng tốt đẹp, khẩu xung phong PPS chưa chắc đã cản được bước của chúng.

    Cả đội đành tháo lui về gian động bên cạnh, rồi hợp lực đẩy cánh cửa đá hình tròn để nó cách biệt hoàn toàn với cửa động dẫn ra đường hầm. Tư Mã Khôi áp người vào cánh cửa đá nghe ngóng một hồi, loáng thoáng thấy âm thanh phía ngoài đường hầm dường như đều bị chặn trước cánh cửa, anh mới thở phào một tiếng, đang định quay người, thì phát hiện ba thành viên còn lại đứng sững như trời trồng, dường như họ đã nhìn thấy thứ gì không thể tưởng tượng nổi.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ, trong gian động này thì có thứ gì được chứ? Anh ngẩng đầu nhìn lên và hồn bay phách lạc, thì ra dưới chân tường trong động thất, có một người đang ngồi lặng lẽ. Người đó vóc dáng tiều tụy, khuôn mặt đầy nếp nhăn, tóc bạc phơ, hai mắt sáng quắc như điện, lão ta đang nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi, cách ăn mặc giống hệt với các thành viên đội khảo sát tử nạn dưới lòng đất.

    Trong khoảnh khắc, Tư Mã Khôi có thể phân biệt người này chắc chắn không phải kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh, bởi vì Nấm mồ xanh giống như u hồn hoặc xác ướp, cái mùi tử khí nặng nề quái dị đó khó có thể che đậy được, nhưng chẳng phải hai mươi hai xác chết của đội khảo sát đều nằm ngoài địa cung sao? Ông già tóc bạc này rốt cuộc là ai? Lão tóc bạc nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi như thể đang ngầm đánh giá, bỗng nhiên lạnh lùng mở miệng hỏi: “Các cậu… đến đây tìm ta sao?” Tư Mã Khôi không đáp mà hỏi lại: “Lão có phải thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor năm 1958 không?” Lão tóc bạc “hừ” một tiếng rồi nói: “Này hậu bối! Đây là cơ mật quốc gia, ai là lãnh đạo của các cậu? Ta muốn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo của các cậu”.

    Hội Tư Mã Khôi nhìn nhau, ai nấy đều cảm thấy trên mình người này tỏa ra một luồng khí thần bí, khó lòng miêu tả được, người này rốt cuộc là ai? Vì sao lại xuất hiện trong địa cung? Lẽ nào cả đội đang chạm trán với u hồn của một trong những thành viên đội khảo sát? Hơn nữa, trong bức ảnh hình như không có người này, chẳng lẽ hắn chính là bóng ma đó? Tư Mã Khôi cảm thấy tình huống lúc này thật mơ hồ, anh định thăm dò hư thực, liền phân công đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà ra gác cửa, đề phòng trong động bất ngờ xảy ra biến cố, sau đó nói với lão tóc bạc: “Tôi là thủ lĩnh của đội, trước đây còn chụp ảnh cùng chủ tịch nước và bắt tay với thủ tướng rồi đấy…” Hải ngọng chen ngang: “Chuyện này tôi có thể làm chứng.

    Lãnh đạo Khôi đúng là đã từng chụp ảnh chung với chủ tịch nước, nhưng là chủ tịch nước Cộng hòa Miến Điện, còn thủ tướng mà cậu ta bắt tay là thủ tướng Lào đấy”. Lão tóc bạc nghi ngờ hỏi: “Thế nghĩa là các cậu không biết ta là ai hả?” Tư Mã Khôi thấy đối phương không giữ thái độ ôn hòa, nên cũng chẳng cần khách khí nói luôn: “Trông bộ dạng xui tận mạng của lão thì chắc là một chuyên gia chứ gì?” Lão tóc bạc gật đầu nói: “Người phàm tục bình thường đều gọi ta như vậy, nghe mãi cũng quen tai!” Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng mồm mép tép nhảy, cứ vòng vo nói đi nói lại mãi thế này, thì biết bao giờ mới có kết quả? Thế là, cô liền kể thật cho lão tóc bạc nghe toàn bộ quá tình từ khi đội khảo cổ tiến vào Đại Sa Bản, vượt địa máng và rừng rậm than đá, tìm thấy trạm thám trắc trung tâm, tiếp theo thoát khỏi sự đeo bám của căn phòng số 86, rồi đào thoát ra ngoài chiếc hộp thời gian, cuối cùng đến được thành cổ trong biển cát.

    Cô kể tóm tắt tất cả sự việc một lượt, mong giành được sự tin tưởng của đối phương. Tư Mã Khôi thấy lai lịch ông già tóc bạc rất bất minh, nên sao có thể dễ dàng khai tuốt tuột toàn bộ sự thật về đội khảo cổ cho lão nghe được? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thấy đội khảo cổ giờ đây đã đi đến đường cùng, nên những chuyện này cũng không cần thiết phải giữ bí mật nữa, bởi vậy anh cũng không ngăn cản cô, chỉ lặng im đứng bên quan sát xem cuối cùng đối phương sẽ nói gì.

    Lão tóc bạc nghe xong bán tín bán nghi, dường như lão đang tự suy đoán xem, câu chuyện Thắng Hương Lân vừa kể là thật hay giả. Trầm ngâm một hồi lâu, sau cùng, lão cũng thừa nhận mình là một trong những thành viên của đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958. Còn về việc vì sao lão lại xuất hiện ở đây và rốt cuộc, lúc đó đã xảy ra những chuyện gì, thì hầu hết đều gần với những gì Tư Mã Khôi phỏng đoán, hơn nữa mọi sự kiện đều có liên quan đến tấm bia nuốt rắn trong lòng núi.

    Lão nói với hội Tư Mã Khôi:. “Tôi không dám chắc mình hiểu tất cả những chuyện liên quan đến kính viễn vọng Lopnor, tàu ngầm Liên Xô bị mất tích và bí mật của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, nhưng chí ít cũng biết bảy tám phần, có điều những sự kiện này đan cài vào nhau rất phức tạp, phải kể từ lúc bắt đầu, đó cũng chính là ngày trời đất thành hình.

    Từ năm 1543, nhà vật lý thiên văn người Ba Lan Nicolaus Copernicus đã đưa ra một phát hiện mới đầu tiên của thuyết mặt trời là trung tâm, rồi từ đó những thảo luận về sự quay quanh của các thiên thể được quy nạp vào phạm trù khoa học. Sau đó, dần dần hình thành nên các trường phái khác nhau như: thuyết tinh vân, thuyết va chạm hành tinh… Nhưng trên thực tế, những học thuyết liên quan đến khởi nguồn của vũ trụ, cho đến tận bây giờ vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn giả thiết, hoàn toàn không cỏ căn cứ chứng minh.

    Trong các mẫu lõi đá mà các nhà khoa học Liên Xô sưu tầm được ở kính viễn vọng Lopnor, có một loại vật chất khoáng quặng tên là Zirconi. Đó là một kim loại chuyển tiếp màu trắng xám, bóng láng, tương tự như Titan. Suy đoán theo năm tuổi đo lường từ mẫu vật này, thì không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất, ít nhất cũng tồn tại từ cách đây 4 tỉ 600 triệu năm, khi đó, vụ nổ vẫn thạch dưới lòng đất khiến vực sâu cách bề mặt Trái đất mười nghìn mét này bắt đầu xuất hiện ôxy và nước.

    Trong khi đó, khoảng thời gian hơn bốn ngàn năm về trước, cũng chính là thời đại của hồng thủy, và chính trong thời điểm này, con người đã phát hiện ra không động dưới lòng đất. Huyệt động trong núi Long Môn khi Vũ Vương đào vét lưu vực sông Hoàng Hà, đã dẫn nước lũ ra đầm lớn, nó chính là Vũ khư mà sử sách vẫn ghi chép, đồng thời cũng là cực vực mà hậu thế sau này vẫn gọi.

    Tương truyền, mười vạn âm binh dưới lòng đất đã ra sức đào vét sông ngầm, nhờ vậy mới dẫn được nước từ núi Long Môn chảy vào Vũ khư. Mức độ chính xác về các số liệu địa lý mà cổ nhân đo đạc, cũng như độ khó và sự hùng vĩ của các công trình đó, quả thực khiến người đời nay khó lòng tưởng tượng nổi, mà chỉ có thể quy kết là được thần quỷ phù trợ.

    Kì thực, vì niên đại quá xa xôi, các ghi chép thực tế trong sách cổ lại vô cùng ít ỏi, nên rất nhiều phương pháp cổ xưa đã bị thất truyền”. Tư Mã Khôi càng nghe càng hiếu kì, tuy ông già tóc bạc này nói có đầu có cuối, nhưng sao lão ta lại hiểu rõ cặn kẽ ngọn nguồn mọi chuyện như vậy nhỉ? Có thể những bí mật này vẫn còn tồn tại trong thành cổ, nhưng từ sau thời Tống thì làm gì còn ai có thể giải mã được chữ triện cổ triều Hạ nữa, vậy lão già này rốt cuộc là người sổng hay là bóng ma trong tấm ảnh hiện thân trở về? Lúc này, chuyên gia tóc bạc lại càng làm ra vẻ bí mật, nói úp úp mở mở với mọi người: “Niên đại chữ triện cổ triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, vì nội dung của nó quá cổ xưa và ảo diệu nên di chỉ sót lại không nhiều, hàng ngàn năm trước nó đã hoàn toàn thất truyền.

    Nhưng có thể nói không ngoa là thời nay chỉ mỗi mình ta hiểu được chúng, bởi vậy ta mới có thể phá giải những ẩn số kinh động trong cối đời này. Tạm thời các cậu đừng vội gạn hỏi về nguyên nhân ẩn chứa bên trong, mà trước tiên hãy nghe lão đây nói hết đã. Trong lịch sử tồn tại truyền thuyết “Vũ Vương xiềng giao long”, tương truyền, thời nhà Hạ có con quái vật cổ, thân mình như vượn, mắt vàng răng tuyết, tên là Vô chi kì (1) .

    Khi Vũ Vương khơi thông sông Hoài Thủy, ông đã thu phục được nỏ, và xiềng nhốt nó trong giếng Hoài Cảnh sâu không thấy đáy. Cũng có quan điểm cho rằng Vô chi kì là con mãng xà lớn, bởi vậy mới xuất hiện truyền thuyết xiềng giao long. [1] Vô chi kỳ: là con quái vật cổ xưa nhất xuất hiện trong truyền thuyết Trung Quốc.

    Nó sinh ra ở Hoa Quả Sơn, tự nhận mình là thần sông Hoài Thủy, phép thuật thần thông quảng đại. Về sau Ngô Thừa n lấy hình mẫu con quái vật này để xây dựng hình tượng nhân vật Tôn Ngộ Không. Trên thực tế, thời đó, bên bờ sông Hoài Thủy có một cổ quốc tôn rắn làm thần.

    Người dân nước này đều sống trong các hang động dưới lòng đất, không biết sử dụng lửa. Do họ nhiều lần đào đường sông, nên dẫn đến nạn lũ lụt hoành hành. Sau khi bị vương triều nhà Hạ hàng phục, họ trờ thành nô lệ và bị đẩy xuống lòng đất đào con kênh ma quỷ. Lợi dụng kết cấu hợp lý sẵn có của các quần thể huyệt động nguyên sinh trong lớp vỏ Trái đất, nhà Hạ đã tạo ra con sông ngầm ngoằn ngoèo trải dài hàng ngàn dặm.

    Đồng thời, họ còn chôn giấu rất nhiều đồ vật cổ để trấn sông. Đỉnh đồng Vũ Vương cũng bị thất lạc dưới lòng đất chính vào lúc đó. Sau này, một lượng lớn bùn đất trong Hoàng Hà bị chìm lún xuống sâu, lấp kín con sông ngầm dưới lòng núi Long Môn. Mãi đến ngàn năm sau, những nô lệ tộc quỷ đã chạy trốn khỏi lòng đất, thâm nhập sa mạc Tây Vực và trở thành tổ tiên của tộc người Tochari(2) – một phân nhánh nhỏ trong tộc di cư đến Miến Điện vào thời Tần Hán, sau này chính là Diệt Hỏa quốc bị mất tích một cách thần bí dưới lòng đất.

    [2] Người Tochari: phiên âm Hán Việt là người Thổ Hỏa La, có tư liệu cho rằng, đó chính là tiền thân của tộc người Nguyệt Chi. Ban đầu họ định cư ở miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này thuộc Tân Cương, Cam Túc và Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc, sau đó di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và cuối cùng là miền bắc Ắn Độ, nơi họ lập ra Vương triêu Quý Sương.

    Thắng Hương Lân thấy chuyên gia tóc bạc kể chuyện lịch sử cổ xưa từ hàng ngàn năm trước mà rõ ràng như thể dọc đường chỉ lòng bàn tay, thì biết tri thức của lão vượt xa người thường. Cô bất giác vừa kinh ngạc vừa thắc mắc, không lý giải được vì sao đối phương lại am tường mọi chuyện đến thế.

    Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng tròn mắt đứng ngẩn ra nghe. Chỉ có Tư Mã Khôi là càng lúc càng hoài nghi, anh không muốn tiếp tục nghe chuyên gia tóc bạc huênh hoang kiến thức nữa. Trước khi làm rõ thân phận của đối phương, ai dám tin mấy lời xằng bậy của lão? Tư Mã Khôi lôi tấm ảnh chụp đội khảo cổ ra, dưới ánh đèn quặng, anh liên tục đối chiếu lão chuyên gia tóc bạc với từng người trong ảnh.

    Không thấy người nào có dung mạo tương tự với lão, dẫu đối phương là vong linh đã chết từ nhiều năm trước, thì cũng tuyệt đối không phải vong linh của thành viên đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958. Hải ngọng hậm hực nói với Tư Mã Khôi: “Cậu đúng là hạng đa nghi Tào Tháo! Có bao giờ chịu tin ai chưa hả? Trong tấm ảnh chẳng phải có một bóng ma lờ mờ không rõ mặt đấy à? Sao cậu dám chắc người thứ hai mươi hai không phải lão ta chứ?” Tư Mã Khôi nói: “Tuy khuôn mặt của bóng ma trong tấm ảnh không rõ, nhưng tớ dám chắc thằng cha đó là người Nga, còn chuyên gia tóc bạc mà chúng ta đang gặp này, căn bản không hề xuất hiện trong tấm ảnh”.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 3: TẤM ẢNH


    Tuy rằng khuôn mặt của bóng ma đứng đầu tiên mé trái hàng thứ hai trong tấm ảnh có dính một vệt sáng, khiến mọi người không thể nhận diện rõ ràng, nhưng ngoài khuôn mặt ra thì mọi chi tiết khác trên cơ thể đều được chụp lại một cách rất chân thực.

    Lúc này Tư Mã Khôi đã chú ý đến một chi tiết nhỏ, anh phát hiện trang phục mà hai mươi hai thành viên đội khảo sát mặc trên người không giống nhau, từ các đặc trưng trên trang phục có thể phỏng đoán, bóng ma trong bức ảnh khả năng là người Liên Xô. Bởi vậy, bất kể thân phận thực sự của bóng ma kia thế nào, thì chí ít nó cũng không phải chuyên gia tóc bạc đang trốn dưới lòng đất này.

    Ba người còn lại nghe Tư Mã Khôi chỉ ra vấn đề, cũng thấy mối nghi ngờ trong lòng càng lúc càng lớn. Tuy đối phương biết rất nhiều chuyện cơ mật quan trọng, nhưng lai lịch người này rất bất minh, vậy làm sao dám tin những lời lão ta nói?

    Chuyên gia tóc bạc thấy rõ tâm lý nghi kỵ của mọị người vẫn chưa giảm xuống, thì nói: “Bức ảnh đó đúng là được chụp trước khi đội khảo sát tiến xuống lòng đất, có điều, nếu như các cậu muốn biết bóng ma trong búc ảnh rốt cuộc là ai, thì buộc phải hiểu rõ bí mật hạt nhân của tổ chức Nấm mồ xanh. Tổ chức này chính thức thành lập năm 1946, kết cấu của nó giống như cái ô. Nội bộ tổ chức đặt biệt danh theo cấp bậc của các công trình kiến trúc khác nhau, chức danh cao nhất là nấm mồ, chức danh thấp nhất là căn phòng, còn kẻ cầm đầu chính là cánh tay cầm cán ô”.

    Tư Mã Khôi chăm chăm suy nghĩ xem phải thoát khỏi nơi này thế nào, nên không còn tâm trạng để ý đến mấy lời hù dọa củạ lão tóc bạc, nhưng thấy đối phương bỗng nhiên nhắc đến Nấm mồ xanh, rõ ràng là lão hiểu rất rõ về tổ chức ngầm này, anh đành kiên nhẫn nghe tiếp xem rốt cuộc lão định nói gì, đồng thời ngầm quan sát và phán đoán xem thân phận thực sự của lão. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

    Chuyên gia tóc bạc hiển nhiên rất thấm nhuần nghệ thuật rắc thóc dụ gà. Trước tiên, lão ta dùng mấy lời để trấn an tâm lý bốn thành viên đội khảo cổ, nhưng khi mọi người đã tập trung chú ý thì lão không nhắc lại chuyện Nấm mồ xanh nữa, mà tiếp tục kể về dòng sông ngầm dưới cực vực khi nãy hãy còn nói dở. Lão kể rằng, Quỷ Nô là một trong những tổ tiên của tộc người Tochari ở Tây Vực. Trong thể hệ ngôn ngữ Ấn Âu thì Tochari có nghĩa là “huyệt động”, cũng chính bởi vậy nên tòa thành cổ bị thất lạc dưới lòng đất mới có tên là thành Tochari.

    Trong thành cổ còn lưu lại khá nhiều bích họa và chữ triện cổ triều nhà Hạ, ghi lại truyền thuyết Vũ Vương thám hiểm bốn cực, đo lường đất trời. Nói theo quan điểm ngày nay thì, Vũ khư chính là không động khổng lồ được hình thành do vụ nổ vẫn thạch. Trong hố đất xung quanh nó cũng sản sinh những khe nứt sâu hun hút giống như hẻm núi. Khi đào vét huyệt động núi Long Môn, cổ nhân đã lợi dụng những khe nứt này để tạo sông ngầm, cuối cùng dẫn nước lũ từ lục địa đổ vào Vũ Khư.

    Trong long triện triều Hạ còn ghi chép một sự kiện vô cùng thần bí: dưới lớp vỏ Trái đất có một hắc động sâu như vực vô đáy, nó đóng mở bất thường, không biết bên trong tồn tại vật thể gì.

    Cổ nhân coi đó là điều cấm kỵ, không ai dám nhắc cũng không dám nói đến. Bởi vậy, những ghi chép mô tả về nó vô cùng ít ỏi. Dần dần, những bí mật cổ xưa này hóa thành lớp bụi trần ai của thời gian, từ mấy ngàn năm trước đã không còn ai nhắc đến nó nữa.

    Thời gian vật đổi sao dời, thoáng chốc đã đến năm 1953, thời kì đầu cuộc chiến tranh lạnh, một chiếc tàu ngầm thuộc phân đội tàu ngầm độc lập số 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, mang biển số chiến thuật là 615 cấp Z, động cơ Diesel, mang hai trái tên lửa Sunshine xuất phát vào hải vực Thái Bình Dương, chấp hành nhiệm vụ đã định theo lệnh của cấp trên. Khi đang lặn ở độ sâu cực hạn 200 mét thì đột nhiên xảy ra tai nạn nước biển ăn mòn, từ đó con tàu mất tích.

    Nhưng thực tế, sau khi mất tích, con tàu đó đã trở thành một bóng ma ngao du khắp nơi trên biển. Không quân Mỹ và đội tuần tra biển Anh, cũng đều từng nhận được tín hiệu định vị sóng ngắn của tàu Z-615 ở các địa điểm không giống nhau, nhưng nguồn tín hiệu thì đều xuất phát từ đáy biển sâu hoặc dưới lòng đất, nơi tàu thuyền căn bản không thể tới được, đồng thời con tàu liên tục di chuyển.

    Các bên đều vô cùng coi trọng sự kiện này, định tranh một bước tìm thấy con tàu ma trước nhưng sau nhiều lần tiến hành thám trắc lục soát, thì kết quả vẫn không tìm thấy gì. Khi đó, có tổ chức tình báo đã cung cấp manh mối, suy đoán con tàu ngầm đã thâm nhập khu vực hắc động gần tâm Trái đất, tín hiệu liên lạc của nó không ngừng lặp đi lặp lại, xuất hiện lẫn trong bức xạ vi sóng điện từ dưới lòng đất, từ đó khúc xạ lên bề mặt Trái đất, còn thứ đang không ngừng di chuyển dưới lòng đất không phải tàu ngầm 615, mà là bản thân hắc động.

    Hắc động nằm giữa lớp vỏ và lóp phủ Trái đất, cũng chính là khu vực bí ẩn bên trong Vũ khư, bởi vậy con tàu ngầm bị mất tích của hải quân Liên Xô mới xuất hiện ở cực vực bên dưới sa mạc Lopnor vào một thời điểm nhất định. Còn vì sao hắc động không ngừng di chuyển, thì đến nay vẫn chưa ai giải thích nổi.

    Tổ chức cung cấp nguồn tin tình báo đó chính là Nấm mồ xanh. Tiền thân của nó là một tổ chức ngầm chuyên giao dịch các tin tình báo về buôn bán vũ khí chiến tranh và buôn lậu. Các thành viên của nó thẩm thấu đến mọi vùng miền, nhưng nội bộ từ đầu chí cuối đều duy trì phương thức liên lạc đơn tuyến, tất cả đều do kẻ cầm đầu thông qua điện đàm trực tiếp thao túng.

    Vào thời kì đặc biệt đó, các phe phái quân sự trong cuộc chiến tranh lạnh không ngừng tranh chấp, và có xu hướng hâm nóng phát triển đến giai đoạn cao trào, trong đó bao gồm cả hành động thám trắc địa tâm. Liên Xô căn cứ vào tin tình báo này quyết định chuyển mục tiêu từ Kính viễn vọng địa cầu sang sa mạc Lopnor, đồng thời đạt được thỏa thuận với phía Trung Quốc là hai bên sẽ cùng nhau khai quật huyệt động nguyên sinh bị vùi sâu dưới lớp vỏ Trái đất. Thông qua phương pháp quan trắc địa ảnh viễn thám bằng điện trường, họ phát hiện dưới lòng đất có hai vật thể bằng sắt thần bí, nhưng không giống với chiếc tàu ngầm đang bị mất tích của Liên Xô. Cũng bởi vì họ đã sớm biết trước khu vực sâu mười nghìn mét dưới lớp vỏ Trái đất từng là di chỉ Vũ khư, nên năm 1958, hai phía Trung Xô đã tổ chức thành lập một phân đội khảo sát liên hợp, trong đó bao gồm các chuyên gia địa chất, khảo cổ và quan sát viên quân sự. Phân đội này thâm nhập cực vực, tiến hành các cuộc thám trắc thực địa. Mấy ngày trước khi chính thức xuất phát, cả đội cùng nhau chụp một bức ảnh tập thể, đó chính là bức ảnh xuất hiện bóng ma mà các cậu phát hiện được.

    Thành viên có khuôn mặt không thể nhận diện trong bức ảnh là một tùy viên quân sự làm việc trong cục tình báo KGB(1) của Liên Xô. Sau khi bức ảnh được chụp và đem rửa, viên sĩ quan đó bỗng vô cớ lăn ra chết, kết quả khám nghiệm tử thi được liệt vào phạm trù cơ mật, tình hình cụ thể chỉ phía Liên Xô mới biết rõ.

    [1] KGB: Viết tắt của ủy ban An ninh Nhà nước (tiếng Nga)

    Khi đó, Nấm mồ xanh đã dần dần thoát khỏi sự kìm hãm của thế lực chiến tranh lạnh. Mục tiêu chủ yếu của tổ chức này là bằng mọi giá phải tìm bằng được bí mật ẩn giấu trong hắc động. Kế hoạch kính viễn vọng Lopnor của Liên Xô chẳng qua cũng chỉ là một trong những nguồn lực có hiệu quả mà tổ chức muốn lợi dụng. Khoảng năm 1958, các bên bắt đầu phát hiện ra chân tướng sự việc, nên quyết định loại bỏ kế hoạch kính viễn vọng Lopnor ra khỏi chiến dịch. Nước ta cũng nhiều lần tiến hành các phong trào chống phản động và truy bắt không ít phần tử mai phục, nhưng tổ chức Nấm mồ xanh lại không thuộc về bất kì thế lực nào, còn nội bộ được duy trì theo phương thức liên lạc đơn tuyến, nên các thành viên không hề quen biết nhau, bởi vậy, nếu không tóm được tên đầu sỏ thì rất khó diệt trừ nó tận gốc.

    Chính vì thế, có người hoài nghi rằng, viên sĩ quan cục tình báo KGB đã bị phần tử mai phục của tổ chức này hãm hại, còn bóng ma xuất hiện trong bức ảnh cũng không phải chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu nói theo quan điểm mê tín thì có lẽ, anh ta đã bị ma nhập, hoặc còn do nguyên nhân nào khác. Chỉ có điều, máy ảnh rốt cuộc đã chụp được thứ gì, thì chúng ta không thể đưa ra kết luận khẳng định chắc chắn, bởi thiếu chứng cứ xác thực.

    Vì viên sĩ quan cục tình báo KGB bất ngờ tử vong, nên đội khảo sát bị khuyết mất một vị trí, lão tóc bạc nhận được mệnh lệnh đột xuất, cùng đoàn thâm nhập kính viễn vọng Lopnor. Nào ngờ, cả đội bị bọn trùng cát tấn công giữa đường, đường dây điện thoại thạch từ bị cắt đứt, máy phát sóng ngắn cũng xảy ra sự cố, từ đó, mất liên lạc với hậu phương, đội khảo sát không thể phân biệt được phương hướng giữa biển cát dưới lòng đất. Vì phải tránh sương đen, nên cả đội đành dựa vào biểu đồ thám trắc lực va chạm, lần theo vẫn thạch sắt chỉ đường, mò mẫm đến tòa thành cổ này, đợi đội cứu hộ đến giúp. Vậy mà có ai ngờ, địa cung trong tòa thành hoang phế tối tăm và im lìm như cõi chết này lại là huyệt ma khiến tất cả sinh mệnh lâm vào con đường một đi không trở lại.

    Tư Mã Khôi nghe hồi lâu, thấy tất cả đều khớp với những gì anh và đội khảo cổ đã trải qua, cảm thấy lời của lão già này không phải là giả. Hội của anh từ trước đến nay luôn căm ghét đến tận xương tủy với những tổ chức gián điệp. Nguyên nhân chủ yếu là vì những năm 50, 60 đúng là có vô số bọn đặc vụ mai phục.Thời kì này, dân gian xuất hiện rất nhiều tin đồn, mà tin đồn nào cũng sống động như thật, như chuyện: có một cậu bé chừng năm sáu tuổi sống cùng ông nội. Trước khi đi ngủ, cậu bé no bụng đói con mắt, ăn thêm hai miếng dưa hấu nữa, nên nửa đêm mới phải bò dậy vì mót tè.

    Vừa mở mắt, cậu bé đã thấy ông nội đang lén lén lút lút bày một bộ máy điện đàm, thì ra ông nội của cậu là đặc vụ. Thấy sự việc bị bại lộ, lão ta liền nhẫn tâm dùng tay bóp cổ đứa cháu cho đến chết Ngoài ra, còn có tin đồn, bom nguyên tử do đế quốc Mỹ chế tạo đều lấy nguyên liệu luyện từ các cơ quan trong cơ thể người, nam thì bị cắt tinh hoàn, nữ thì bị cắt tử cung, nếu nhà ai có người bị mất tích thì chắc chắn là bị đặc vụ quân địch bắt đi làm nguyên liệu hạt nhân. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

    Tuy bây giờ, mọi người đều biết tất cả những chuyện này chỉ là những tin đồn nhảm nhí, nhưng sức ảnh hưởng lan truyền ngầm của nó đối với lớp người thời các anh đúng là không nhỏ. Chỉ cần nhắc đến tổ chức đặc vụ là lập tức nghĩ ngay đến mối quan hệ đối địch nước lửa không đội trời chung. Tư Mã Khôi cho rằng, tổ chức Nấm mồ xanh không giống các tổ chắc đặc vụ ngầm bình thường khác. Mục tiêu của tổ chức bí mật này là vọng đồ thám trắc bí mật trong hắc động gần tâm Trái đất, nhưng trong đó có thể tồn tại thứ kinh động hãi hùng đến mức nào? Chẳng lẽ bọn họ muốn lật đổ chính quyền, âm mưu lấy ba trái núi đè bẹp đầu não giai cấp vô sản, khiến bách tính phải chịu cảnh lầm than thêm lần nữa, gây ra tội lỗi lần nữa?

    Hay là muốn học tập gương Tần đế, Hán Vũ, phá giải ẩn số trường sinh bất tử, thoát khỏi kiếp luân hồi? Nghĩ kỹ lại, Tư Mã Khôi thấy tất cả khả năng này đều không thể tồn tại. Ngoài ra, tuy rằng bóng ma trong tấm ảnh đã chết, nhưng đội khảo sát vẫn biên chế hai mươi hai thành viên, mà toàn bộ thi thể đều đang nằm dưới lòng đất. Vậy lão tóc bạc này rốt cuộc là ai? Vì sao lão ta lại hiểu hết các bí mật trong Vũ khư? Vì sao lão lại nói thành cổ Tochari là huyệt ma? Đội khảo sát đã gặp phải thứ đáng sợ gì trong địa cung? Lẽ nào người này… là một vong hồn trốn trong chiếc hộp thời gian?

    Tư Mã Khôi nghĩ, bất kể kẻ anh đang gặp là người hay ma, thì cũng phải làm rõ trắng đen mới được, lúc này có quá nhiều điểm khả nghi phải dò cho ra chân tướng thế là anh liền hỏi đối phương: “Tuy trong Vũ khư có một số bức bích họa khắc trên đá, nhưng đa số là chữ triện cổ triều Hạ, trông lúc nhúc như nòng nọc, lão thông suốt những sự việc đã xảy ra từ hàng ngàn năm trước như vậy chắc không phải là xem tranh đoán ý đấy chứ? Nếu lão không giải thích rõ nguyên nhân thì làm sao khiến người khác tin phục được”.

    Lão tóc bạc liếc xéo Tư Mã Khôi một cái, đoạn nói: “Long ấn triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, nội dung lại vô cùng thần bí ảo diệu, một ngàn năm trở lại đây không còn ai giải được nó. Đó là vì người đời ngu muội tối tăm, bởi ngay từ lúc đầu đã đi nhầm phương hướng. Nếu cậu chỉ tìm cách nhận biết từng chữ một, thì đến cả ngàn năm sau cũng chẳng nhận ra được nửa chữ. Nhưng cậu thấy đấy, giờ đây chữ giáp cốt không còn là bí mật nữa, chỉ cần tìm tấm bia đồng thời khắc cả chữ giáp cốt thời Ân Thương và long ấn Triều Hạ, rồi đối chiếu hai loại văn tự đó với nhau, thì chuyện giải mã chữ triện cổ triều Hạ há chẳng phải dễ dàng như trở bàn tay sao?”

    Hội Tư Mã Khôi và La Đại Hải căn bản không hiểu gì cả, nhưng nghe ra thì cũng không phải là không có lý.

    Hương Lân thì biết đúng là có tồn tại phương pháp đối sánh giao thoa này. Một vài năm trước, một đội khảo cổ của Pháp từng lợi dụng phương pháp ấy để giải mã thành công lượng lớn các phù hiệu thần bí khắc trên các ngôi mộ cổ ở Ai Cập, trong đó có cuốn sách rất nổi tiếng, mang tên “Tử thư Ai Cập”.

    Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân gật đầu biểu thị xác nhận câu trả lời, thì biết rõ không có gì phải nghi ngờ về điểm này, dù anh vẫn còn vô số ẩn số muốn tìm lời giải; nhưng lời phải nói từ từ từng câu, đòn phải đánh từ từ từng roi, cần biết cân nhắc nặng nhẹ, khoan nhặt, thế là anh liền hỏi chuyên gia tóc bạc xem có biết thân phận thực sự của Nấm mồ xanh hay không, đồng thời bí mật mà tổ chức ngầm này muốn tìm rốt cuộc là gì?

    Chuyên gia tóc bạc nói: việc này rất khó dùng một đôi câu mà giải thích rõ ràng được. Theo phần ghi chép về các vị vua nổi tiếng trong kinh thánh, thì vua Solomon từng đi sâu nghiên cứu tinh hoa bộ môn thần bí học, đã cảnh báo hậu thế rằng: không được khai quật kho báu chôn giấu dưới lòng đất, bởi trong vực sâu có “kẻ địch cổ đại” đang ẩn mình ngủ đông.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 4: HUYỆT MA




    Hội Tư Mã Khôi đều không hiểu ý của lão tóc bạc, những ghi chép thần bí trong “Thánh kinh liệt vương ký” sao có thể liên quan đến hắc động nằm gần tâm Trái đất được? Và kẻ địch cổ đại thực ra là thứ gì? Lão tóc bạc giải thích: kẻ địch cổ đại là chỉ những thứ nào đó tồn tại trong hắc động dưới lòng đất, còn khởi nguồn nền văn minh của các cổ quốc không giống nhau, mỗi nền văn minh đều tồn tại tính độc lập và giới hạn nhất định, vì vậy nhận thức về nó cũng không tương đồng.

    Ấn Độ cổ gọi nó là núi Sumeru(l), là con mắt khổng lồ có thể nhìn xuyên thấu đầu cuối thời gian, còn vương triều Babylon thì cho rằng đó là “cây sáng thế”. Những truyền thuyết cổ xưa này có thể chứng thực từ một mặt rằng: vị trí và thời gian vực sâu xuất hiện đều không thể xác định.

    [1] Núi Sumeru: là một ngọn núi tưởng tượng. Theo tư duy về vũ trụ quan của Phật giáo, núi Sumeru hơn một triệu km, là nơi ở của các đấng thần linh tối cao, là trục đứng của toàn vũ trụ, là trung tâm của thế giới. Ngay từ thời vương triều Hạ Thương cai trị, vì có bia Vũ Vương chìm sâu trấn quỷ dữ, nên cổ nhân mới coi hắc động là miếu thần.

    Bia Vũ Vương mà hậu thế còn lưu giữ, đều được đúc căn cứ vào các họa tiết khắc trên thân minh khí đồng xanh từ thời n Thương, Tây Chu. Trên tấm bia cũng dùng long triện triều Hạ ghi chép một đoạn thế này, đại ý là: “Dẫu có là thánh hiền tiên nhân thì cũng không thể phá giải được cửa ấy”.

    Nhưng từ cổ chí kim, đếm không xuể biết bao người có ý đồ dòm ngó bí mật trong miếu thần, mà mục tiêu của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh cũng chính là nó. Cuối cùng, Tư Mã Khôi cũng hiểu ra ít manh mối, thì ra tấm bia Vũ Vương đích thực đã bị ném xuống đáy vực sâu, nhưng đoạn ghi chép khắc trên tấm bia có nghĩa là gì? Tuy chuyên gia tóc bạc đã cố gắng diễn giải những ngôn từ cổ xưa, ảo diệu, bằng lối nói thông dụng nhất, nhưng anh vẫn cảm thấy rất khó lý giải, không biết bên trong còn tiềm tàng những bí ẩn gì nữa.

    Thắng Hương Lân bảo Tư Mã Khôi: “Hình như ý muốn nói từ thời hằng cổ đến nay, tuy có rất nhiều kẻ trí tuệ hơn người, tinh tường mọi điều, nhưng vẫn không ai có thể vén được tấm màn bí mật trong miếu thần”. Tư Mã Khôi càng rầu rĩ thắc mắc: “Vì sao lại thế?” Chuyên gia tóc bạc nói: “Bởi vì ai cũng muốn hỏi, nhưng nguyên nhân chính là đáp án.

    Tôi không tìm thấy ghi chép rõ ràng về điều này trong thành cổ Tochari. Khi Vũ Vương thám hiểm khắp bốn cực, ông đã từng cho đẩy một phiến đá rất lớn xuống đáy cực vực, để bịt kín lối vào. Hậu thế gọi vật này là bia Vũ Vương, nghe nói hai mặt tấm bia khổng lồ đều khắc cổ văn, mặt chính là long ấn triều Hạ, mặt đối diện khắc chìm loại chữ triện bí ẩn, nội dung bên trong rốt cuộc ghi chép điều gì, thì hậu thế không ai biết được.

    Chiếc tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô cũng bị mất tích ở khu vực gần hắc động, nếu các cậu có thể nghĩ cách tìm thấy tàn tích của nó, thì cũng có nghĩa sẽ tìm thấy lối vào”. Tư Mã Khôi biết mạch nước phun – mà cả đội gặp trong biển cát lúc trước, đại khái cũng bắt nguồn từ tầng sâu trong quyển manti, bởi vậy khi ấy ở khu vực đó mới thu nhận được tín hiệu sóng ngắn của Z-615.

    Anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu nói, phía dưới quyển manti có khả năng là biển lớn cuộn trào dữ dội và tối đen như mực, mọi sinh vật chỉ cần lại gần là sẽ bị thiêu cháy thành tro bụi. Có lẽ, vực sâu giống như hắc động ấy cũng theo đó mà bập bềnh chuyển động, bởi vậy vị trí nó xuất hiện mới khó lòng xác định.

    Người cổ xưa dường như đã nắm được quy luật chuyển động của nó, còn sóng điện u hồn bị giam cầm trong mật thất thành cổ Nhện Vàng, thì chính là phương vị tọa độ của hắc động. Đáng tiếc là nó đã bị Nấm mồ xanh cướp trước một bước, giờ đây đội khảo cổ làm sao tìm thấy con đường tăm tối đó?” Lão tóc bạc nghe Tư Mã Khôi thuật lại cảnh ngộ họ gặp phải lúc ở thành Nhện Vàng, lão cũng hoàn toàn tán đồng với phỏng đoán của anh, có điều, bản ghi chép liên quan đến thông đạo đó không phải bản ghi chép sớm nhất.

    Trong núi Tochari còn tồn tại một bản nguyên thủy hơn, nhưng chỉ có thể giải mã được nó với điều kiện là phải giải mã được long triện triều Hạ, giờ đây những nội dung này đều được viết trong cuổn sổ của lão. Nói đoạn, lão tóc bạc móc ra một cuốn sổ giấu trong áo, giao cho Tư Mã Khôi rồi nói: “Nếu ai trong số các cậu có thể sống sót rời khỏi nơi này, thì có thể dùng cuốn sổ của ta, đi tìm thông đạo dẫn đến vực sâu gần tâm Trái đất”.

    Tư Mã Khôi giơ tay ra đón lấy, anh đưa mắt liếc qua một cái, thấy bên trong toàn là cách giải mã chữ triện cổ triều Hạ, anh liền nhét cuốn sổ giải mã vào trong ba lô đeo sau lưng, cảm thấy lai lịch của lão tóc bạc quá sức thần bí và quái dị, vượt xa phạm trù nhận thức của đội khảo cổ, anh không kìm được buột miệng hỏi: “Rốt cuộc lão là ai?” Chuyên gia tóc bạc bắt đầu thấy hơi bực mình- “Ta đã bảo rồi! Ta chính là một trong những thành viên của đội khảo sát”.

    Mọi người trong lòng đều sinh nghi: “Người của đội khảo sát đều đã chết hết, hai mươi hai cỗ tử thi đều nằm ngoài kia, không ai may mắn sống sót, trừ khi kẻ đang gặp là cô hồn dạ quỷ, bằng không sao có thể hiện diện ở đây?” Ánh mắt lão tóc bạc sắc lẻm, lão sớm nhận ra sự nghi ngờ của mọi người, liền hạ thấp giọng nói: “Thực ra các cậu không cần gạn hỏi mãi về thân phận của ta làm gì, điều các cậu nên hỏi là, ta bây giờ… rốt cuộc là thứ gì?” Mọi người nghe lão nói đều cảm thấy quái dị đến cực độ, câu hỏi của lão khiến người ta rùng mình ớn lạnh: “Cái gì mà gọi là rốt cuộc là thứ gì?” Tư Mã Khôi vốn đã biết rõ, từ cổ chí kim, mệnh số thành bại ngoại trừ thiên thời, địa lợi, nhân hòa ra, còn có một nhân tố then chốt là “thần trợ”, cũng chính là “vận may”.

    Đội khảo cổ có thể gặp được chuyên gia tóc bạc nắm giữ rất nhiều bí mật ở địa cung trong thành cổ nơi sâu cùng của biển cát này, đồng thời có được cuốn giải mã chữ triện cổ triều Hạ từ lão, tuy cái giá phải trả vô cùng nặng nề, nhưng cuối cùng cùng tìm thấy manh mối về con đường dẫn đến tâm Trái đất.

    Căn cứ vào những thông tin mà chuyên gia tóc bạc tiết lộ, hội Tư Mã Khôi không khó suy đoán nguyên nhân và kết quả của cả chuỗi sự kiện. Ngay từ những năm 50, tổ chức Nấm mồ xanh đã cung cấp tin tình báo cho phía Liên Xô, đồng thời thâm nhập vào bên trong kính viễn vọng Lopnor. Điều đó chứng minh, ngay từ đầu, Nấm mồ xanh đã có cơ hội cởi nút các ẩn số, nhưng tổ chức ngầm này cũng nhận thức được rằng, di tích chôn giấu trong Vũ khư, phần lớn đều là long triện triều Hạ không thể giải mã, cho dù tìm thấy đáp án thì cũng không ai hiểu nội dung đáp án nói gì.

    Đồng thời, cũng vì hành tung của tên nội gián mai phục bị bại lộ, nên bọn chúng đành từ bỏ hoàn toàn kế hoạch kính viễn vọng Lopnor và chuyển mục tiêu hành động sang hẻm núi Dã Nhân ở Bắc Miến, lấy trộm sóng điện u linh trong thành cổ Nhện Vàng. Giờ đây, đội khảo cổ cũng nắm được bí mật của thông đạo.

    Đúng là trời không tuyệt đường người, vận may đã đến, muốn xua cũng không đi, còn như mệnh đã không gặp thời, thì có cầu cũng chẳng được. Nhưng nguồn cội của bí mật này lại không khỏi khiến người ta nảy sinh hoài nghi. Bởi vì cho đến bây giờ, mọi người vẫn không thể xác định thân phận của chuyên gia tóc bạc, trong thành cổ lại tồn tại rất nhiều hiện tượng quái dị khiến người ta khó lòng lý giải.

    Lúc đầu, cả hội còn hoài nghi mình bị rơi vào một chiếc hộp thời gian khác, nên mới gặp được người lẽ ra không thể xuất hiện ở đây. Nhưng tất cả các hiện tượng đều chứng tỏ không phải vậy, cho nên họ thực sự chưa nghĩ ra lão tóc bạc này rốt cuộc là người hay ma, hay là một thứ nào khác không tồn tại trong cõi đời? Hiện giờ không ai có thể trả lời được.

    Chuyên gia tóc bạc thấy vậy, liền nói: “Vẫn còn rất nhiều chuyện nữa chưa kịp kể hết cho các cậu nghe, nhưng bây giờ tình thế gấp gáp, các cậu phải mau chóng rời khỏi nơi đây, nếu có người mang được cuốn sổ giải mã này ra ngoài, thì tôi cũng có thể an lòng nhắm mắt”. Thắng Hương Lân hỏi: “Ông không định đi cùng bọn tôi sao?” Khuôn mặt của chuyên gia tóc bạc co rút từng hồi: “Ta đã chết từ năm 1958, thì còn có thể cùng các cô cậu trốn đi đâu được nữa?” Mọi người nghe mà mặt mày biến sắc, Hải ngọng không kìm được, đứng bên lầm bầm giục Tư Mã Khôi: “Lão đồng chí này nói chí phải đấy, chúng ta không được phụ sự hi sinh của đồng chí ấy, rút được thì mau rút thôi!” Tư Mã Khôi giơ tay bảo mọi người đừng hoảng loạn.

    Anh ngẫm nghĩ, nếu không làm rõ nguyên nhân khiến đội khảo cổ bị nhốt trong địa cung, e rằng không ai thoát ra khỏi đây được. Có điều, chẳng lẽ trên đời này có ma thật sao? Tư Mã Khôi gặp không ít sự lạ, nhưng chưa bao giờ thực sự nhìn thấy ma. Anh từng nghe các cụ già kể lại, con người sau khi chết đi sẽ trở thành ma với âm hồn không tiêu tán, trừ phi âm hồn nhập tràng đi lại như người thường, nếu không dưới ánh đèn, ma sẽ không có bóng.

    Nhưng ở đây tường đá đen thui, anh có soi đèn quặng, cũng không thể nhìn rõ đối phương có bóng hay không, thật khó lòng phân biệt lão là người hay ma. Chuyên gia tóc bạc thấy Tư Mã Khôi chiếu đèn quặng vào mình thì giơ tay che làn ánh sáng, bảo: “Các cậu không cần sợ ta, thật ra thứ đáng sợ đích thực là tấm bia nuốt rắn nằm trong địa cung cơ…” Tim Tư Mã Khôi lại hẫng một nhịp, quả nhiên có liên quan đến tấm bia nuốt rắn.

    Tấm bia cổ đó có hình khối giống như khuôn mặt người, nhưng không có mắt mũi, chỉ có một cái miệng rộng ngoác đang nuốt con quái xà, dường như nó biểu trưng cho một ám thị nào đó, không biết bản thân nó có điểm gì đáng sợ? Hải ngọng đoán mò: “Tôi thấy tấm bia đó phả ra một luồng khí rất tà mị, chắc tòa địa cung trong thành cổ này ẩn nấp quái xà, tấm bia nuốt rắn có khi ám thị chuyện này đấy…” Tư Mã Khôi biết, thời cổ đại, rắn tượng trưng cho sinh vật thần bí nguyên thủy.

    Chính bởi vậy, Hán Cao Tổ đã giơ gươm chém đầu rắn để bình thiên hạ, tổ tiên người Tochari cũng tôn rắn làm thần, bởi vậy dẫu cho con rắn khổng lồ xuất hiện dưới lòng đất, thì cũng không phải điều quái lạ, nhưng phải là loại quái xà nào thì mới có hình thù giống tấm bia cổ? Chuyên gia tóc bạc lắc đầu: “Tấm bia nuốt rắn không phải quái xà hay bất kì loài sinh vật nào.

    Vả lai người Tochari thờ rắn là thần, họ không bao giờ dựng tấm bia nuốt rắn đâu”. Tư Mã Khôi thấy gian thạch thất trong địa cung vừa hẹp lại vừa thấp, anh đoán phía trong chắc phân thành kết cấu lồng ghép, có lẽ trong bốn vách tường ngầm giấu cửa đá hoặc mật đạo nào đó.

    Anh liền phân công đội trưởng Lưu Giang Hà xem xét cẩn thận tứ phía xung quanh. Lúc này, nghe chuyên gia tóc bạc nói tấm bia cổ không phải quái xà, anh liền hỏi: “Tấm bia nuốt rắn đã không phải quái xà, thì vì sao lão lại chết ở đây? Chẳng lẽ bây giờ lão là… vong hồn đã chết từ nhiều năm trước thật à?” Chuyên gia tóc bạc không trả lời, chỉ nói: “Căn cứ theo phán đoán của ta, tấm bia nuốt rắn muốn ám thị không gian thứ sáu, không gian giống như huyệt ma này chỉ có lối vào, không có lối ra”.

    Tư Mã Khôi chợt nhớ tới khái niệm có chút liên hệ với cụm từ “không gian thứ sáu” mà chuyên gia tóc bạc vừa nhắc đến. Trong quân sự và địa lý ứng dụng, thông thường người ta chia không gian thành năm khu vực: lục địa là không gian thứ nhất, đại dương là không gian thứ hai, không trung là không gian thứ ba, vũ trụ là không gian thứ tư, không gian cách lớp vỏ Trái đất 300 mét trở xuống là không gian thứ năm.

    Vì địa hình khu vực phức tạp, cộng thêm bị vật chất cản trở, độ khống chế của góc phát hiện rađa vô cùng có hạn, nên đối với rađa, không gian thứ năm luôn là cực địa và điểm mù chưa hề bị công phá. Tuy biết có năm không gian, nhưng Tư Mã Khôi không biết còn có không gian thứ sáu.

    Thắng Hương Lân cũng chưa bao giờ nghe về điều này, thậm chí cô còn không thể hình dung nổi. Chẳng lẽ, toàn bộ thành viên của đội khảo sát năm 1958 đều bị huyệt ma nuốt chửng? Tư Mã Khôi đang định hỏi tiếp, thì phát hiện chuyên gia tóc bạc không có phản ứng gì nữa. Anh mon men lại gần vách tường nhìn kỹ, thì chỉ thấy ở đó là một cỗ thi thể khô quắt và cứng ngắc, xem bộ dạng thì có vẻ đã chết từ nhiều năm trước, nên tuy anh đã chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn thấy hoảng hồn, tim đâp liên hồi: “Chẳng lẽ đúng là âm hồn nhập tràng thật?” Thắng Hương Lân trống ngực gõ thình thịch, cô cố thu can đảm tiến lên trước xem xét tử thi của chuyên gia tóc bạc.

    Đội trưởng Lưu Giang Hà thấy vậy cuống quýt can ngăn: “Cô đừng lại gần, nó là ma đấy!”. Thắng Hương Lân xua tay ra hiệu không sao. Sau khi xem xét kỹ xác chết, cô quay đầu hỏi Tư Mã Khôi: “Sao trong thành cổ lại có những 23 xác chết nhỉ? Còn không gian thứ sáu có nghĩa là gì?” Hải ngọng trải qua chuyện vừa rồi, anh cũng cảm thấy toàn thân trên dưới nổi hết da gà, nên quay người nói với Thắng Hương Lân: “Cô em đừng lẩn thẩn nữa, cô hồn dạ quỷ là hay dẫn đường cho người sống đi vào cõi chết lắm! Bất kể nó nói gì cũng tuyệt đối không được tin, chúng ta phải mau chóng tìm đường rời khỏi nơi quỷ quái này mới được”.

    Tư Mã Khôi thầm cảm thấy việc này vô cùng bí ẩn, đội khảo cổ giờ đây bị nhốt trong địa cung, buộc phải nghĩ cách làm rõ xem u hồn mà mình vừa gặp phải rốt cuộc là thứ gì, và cả chân tướng của tấm bia nuốt rắn cùng nguyên do đội khảo sát gặp nạn năm 1958 nữa, nếu không thì đừng ai mơ còn sống mà thoát ra khỏi đây.

    Anh không lý giải được thế nào gọi là không gian thứ sáu, có lẽ, quá nửa đó chỉ là phán đoán chủ quan của lão chuyên gia tóc bạc đưa ra dựa vào cảnh ngộ mà bản thân gặp phải, chứ chưa chắc đã là sự thật. Có điều, nếu liên hệ những lời của đối phương với hình thù kì dị của tấm bia nuốt rắn, thì Tư Mã Khôi dường như lại tìm thấy chút manh mối.

    Lúc này, Hải ngọng phát hiện một vách tường có kết cấu tương đối lỏng lẻo, xung quanh xuất hiện các vết rạn, có lẽ là tường ngầm. Anh áp người vào tường nghe ngóng, cảm thấy phía ngoài không có hiện tượng gì lạ thường, liền vẫy tay gọi Tư Mã Khôi và đội trưởng Lưu Giang Hà lại giúp một tay.

    Tư Mã Khôi cũng nóng lòng muốn tìm lối ra, liền không nghĩ ngợi nhiều, lập tức cùng hai người hiệp lực đẩy bức tường. Thấy phía sau bức tường đúng là có một mật đạo. Anh soi đèn quặng vàơ trong, thấy nó im lìm, sâu hút và lặng ngắt không có bất kì động tĩnh nào, phán đoán theo vị trí thì có lẽ nó nối thông với một gian động thất khác.

    Hải ngọng ngó vào trong nhìn một lát, đoạn lắc đầu bảo Tư Mã Khôi: “Xem ra mạng lưới địa đạo ở đây nối liền thành một dải hay sao ấy!”. Tư Mã Khôi gật đầu: “Kết cấu nơi đây rất phức tạp, phải cẩn thận không là lạc đường như chơi đấy…”, nói đoạn, anh quay đầu nhìn ra sau, thấy Thắng Hương Lân vẫn mải quan sát cỗ tử thi dưới chân tường, liền giục: “m hồn nhập tràng, người sống không nên lại gần, chúng ta phải mau chóng rời khỏi nơi này”.

    Thắng Hương Lân nhìn thi thể của chuyên gia tóc bạc, tuy giống như một xác ướp đã tồn tại nhiều năm, nhưng quần áo trên người vẫn không hề bị mục nát, thì cảm thấy quái dị. Lại nghe Tư Mã Khôi bảo vậy, cô liền đuổi theo nói: “Các anh có cảm thấy điểm nào khả nghi không?” Hải ngọng nói: “Tôi thấy nơi quỷ qụái này chỗ nào mà chẳng khả nghi.

    Chúng ta phải nghĩ cách gì thoát ra khỏi đây trước đã, vả lại mọi chuyện chỉ dựa vào suy đoán thì ăn thua gì, phải đi thực địa, mắt thấy tai nghe mới tin được…” Càng về sau mọi người càng cảm thấy hoang mang, họ lần theo vách tường định tiến về phía trước. Lúc này, cả nhóm chợt nghe tử thi sau lưng bỗng phát ra tràng âm thanh quái dị.

    Tư Mã Khôi hít ngược một hơi lạnh, ấn đèn quặng trên đỉnh đầu xuống soi cho rõ, chùm sáng dừng lại chỗ khuôn mặt chuyên gia tóc bạc, khuôn mặt của xác chết không biết từ lúc nào đã quay về phía mọi người, cái miệng há rộng, đen ngòm hướng về phía đội khảo cổ, trong cổ họng vang lên những tiếng “cục cục! cục cục!”.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 5: TRÙNG ĐỘNG


    Đột nhiên mọi người nghe thấy tiếng động phát ra dưới lòng đất tối thui, thì ai nấy đều cảm thấy rùng rợn, chỉ muốn co cẳng chạy thật nhanh nhưng lòng bàn chân dường như bị dính nhựa đường, không nhấc nổi nửa bước. Lúc này, họ thấy phần đầu của thi thể bỗng nhiên nở to ra, mấy chục con cua móng ngựa ăn xác chết chen chúc chui ra từ thất khiếu của tử thi.

    Con lớn nhất to bằng lòng bàn tay, mình ngả màu xanh thẫm, phần đầu giống như con cua móng ngựa(1) thời kỷ Devon, thân chúng mọc toàn lông gai sắc nhọn, phần đuôi có một đốt cứng hình cột sống. Chúng bò với tốc độ cực nhanh, phát ra âm thanh nghe “chít chít sàn sạt” rất chói tai.

    [1] Cua móng ngựa: một loài động vật giáp xác, lớp vỏ giáp phần đầu và ngực có hình hơi giống móng ngựa, lớp vỏ giáp phần bụng có hình lục giác, đuôi giống như cấy kiếm, sống ở những vùng biển nông. Tư Mã Khôi soi đèn quặng, mắt nhìn rõ sư tình, và anh đã hiểu ra nguyên nhân.

    Thì ra đội khảo sát thâm nhập kính viễn vọng Lopnor năm 1958, đều bị bọn cua móng ngựa này chui vào trong cơ thể, chúng ký sinh một thời gian rồi dần dần tiềm dưỡng thành hình. Môn tà thuật quái dị này cũng được ghi chép trong các sách cổ, hậu thế rất ít người biết đến, chỉ có kẻ không muốn ai nhòm ngó bí mật dưới lòng đất như Nấm mồ xanh, thì mới giở thủ đoạn tàn độc như vậy.

    Có điều, hai mươi hai cỗ thi thể phát hiện trong địa cung lúc trước, đều đã bị loài cua móng ngựa này ăn hết não tủy, còn chuyên gia tóc bạc mà đội khảo cổ gặp khi nãy hiển nhiên chỉ vừa bị hút kiệt và trở thành cái xác rỗng không. Chuyện này thì không biết phải giải thích thế nào? Liệu có liên quan đến tấm bia nuốt rắn không? Tư Mã Khôi mới nghĩ đến đây đã cảm thấy như đang đứng giữa biển sương mênh mông, đầu óc mơ hồ, hoang mang.

    Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà nhìn những con bọ chui ra từ thi thể người chết sắp bò gần đến mình, mà chỉ có khẩu súng trường bán tự động trong tay thì cũng khó để tiêu diệt được chúng, anh chàng khiếp sợ đến nỗi hồn vía chu du tận ngoài biển khơi, cuống cuồng giơ chân ra sức giẫm.

    Một con bị anh chàng giẫm chết, tiếng “bép” nổ rất nhẹ bên tai, bụng nó vọt ra thứ dịch dinh dính màu vàng xanh, mùi hôi thối nhức mũi xộc lên tận não, rồi ngay sau đó anh chàng cũng thét một tiếng thảm thiết, và quỳ gục xuống đất; chỗ dính chất dịch của cua móng ngựa ở đáy giày không ngờ mục thành lỗ lớn, trong chớp mắt nó đã xuyên thủng cả da thịt, vào tận xương tủy, đồng thời không ngừng khuếch tán và đâm sâu, không hề có biểu hiện dừng lại hoặc chí ít là giảm chậm tốc độ.

    Thắng Hương Lân thấy đội trưởng Lưu Giang Hà gặp tình thế nguy cấp, liền vội vàng lao lên đỡ anh chàng rút lui vào góc tường. Cô soi đèn pin quan sát vết thương dưới lòng bàn chân Lưu Giang Hà, phát hiện trong cơ thể của móng ngựa chứa chất axít ăn mòn rất mạnh, chất này đậm đặc đến nỗi có thể ăn mòn cả sắt thép, nên chỉ cần dính một chút, nó sẽ khiến da thịt mục nát, máu quanh vết thương cũng theo đó biến thành axít nồng độ cao, thúc đẩy quá trình ăn mòn không ngừng gia tăng.

    Dính phải thứ này, đúng là vô phương cứu chữa, vì chỉ khi nào tất cả đều nhũn nát thành một đống mủ thì nó mới dừng lại. Tuy Thắng Hương Lân thuộc dạng cứng rắn, nhưng nhìn cảnh tượng thê thảm của đội trưởng Lưu Giang Hà lành ít dữ nhiều, cô cũng bất giác thấy lạnh thấu tận tim gan.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn thấy tình hình này, cũng không dám sử dụng súng xung phong PPS, mà hai người rút nến tín hiệu cán dài, rồi đốt cháy từng con bọ ăn xác đang bò đến gần. Trong cơ thể cua móng ngựa đã chết, lại bò ra lúc nhúc những con nhộng con chưa kịp biến thành bọ, có điều số lượng bọn chúng cũng có hạn, còn hội Tư Mã Khôi lại nhanh tay nhanh mắt, nên tạm thời vẫn cầm cự được với chúng.

    Hải ngọng chỉ sợ xác chết của chuyên gia tóc bạc vẫn còn bọ ăn xác chết, liền vứt nến tín hiệu chưa cháy hết vào thi thể lão. Mùi tử khí mịt mù lan tỏa trong làn khói lửa, hôi thối không thể ngửi nổi. Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng tiếp tục chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó quay người xem xét vết thương của Lưu Giang Hà.

    Anh chàng đội trưởng nghiến chặt răng cố nén cơn đau thấu tim, mặt mũi tái xanh, trán lấm tấm những giọt mồ hôi to bằng hạt đỗ tương, gan bàn chân và cả đế giày bị hoại tử thành một cái lỗ lớn, nhưng không hề thấy máu từ trong chảy ra, mà chỉ có chất dịch màu vàng xanh không ngừng tuôn trào, tình hình càng lúc càng chuyển biến xấu, nếu cứ thế này, thì chỉ vài phút nữa, cả cẳng chân cũng chẳng còn.

    Hải ngọng cũng quan tâm ngoái đầu lại nhìn, nhỏ giọng nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Vết thương này chẳng khác gì bị rắn năm bước trong rừng rậm Miến Điện cắn, chỉ cần nhân lúc axít vẫn chưa ăn mòn các bộ phận trên cơ thể, thì phải nghiến răng cắt phăng cái cẳng chân đi, thế còn tốt hơn mất cả tính mạng.

    Bị thương ở cánh tay hoặc cẳng chân cũng là may phúc rồi, nếu phải cắt đầu hay cắt bụng thì đúng là hết thuốc chữa, nếu cậu còn không mau ra tay giúp chú em, thì e sẽ muộn mất”. Thắng Hương Lân vội ngăn lại: “Không được! Ở đây chưa đủ điều kiện phẫu thuật, nếu không có biện pháp cầm máu, thì cắt các chi cũng đồng nghĩa với việc trực tiếp kết liễu sinh mạng!” Tư Mã Khôi quan sát mọi việc rất nhanh, anh thấy vết thương bị trùng ăn xác hoại mục, không khác gì bị trúng chất độc của rắn trong rừng rậm.

    Anh giữ chặt bắp chân đội trưởng Lưu Giang Hà rồi dặn: “Chú mày gắng chịu tí nhé…”, lòng tự biết tình thế cấp bách, không được phép chậm trễ, nên cùng lúc nói chuyện, anh đã gí mạnh ngọn nến tín hiệu đang cháy dở vào cái lỗ dưới gan bàn chân của Lưu Giang Hà. Ngọn nến đốt cháy hết phần thịt thối rữa từ trong ra ngoài, vết bỏng đã cản được quá trình rữa nát và cầm máu hiệu quả, sau đó anh bôi thuốc và băng bó vết thương lại.

    Hội Tư Mã Khôi tất bật một hồi, rồi cuối cùng cũng tạm thời giữ được mạng sống cho anh chàng đội trưởng, nhưng từ đầu chí cuối không nghe thấy cậu ta kêu đau hay giãy giụa gì. Thật không ngờ cậu chàng này lại cứng gan đến thế, đang định khen ngợi đôi câu, thì ngẩng đầu lên mới phát hiện đội trưởng Lưu Giang Hà đã bất tỉnh nhân sự từ bao giờ.

    Tư Mã Khôi thò tay thử xem hơi thở trên mũi và bắt mạch tay, mới biết anh chàng chỉ vì đau quá nên thần kinh trung ương đột ngột rơi vào trạng thái hôn mê, nên đặt anh chàng nằm thẳng ra đất, để duy trì hơi thở thông suốt. Mọi người đều hiểu rõ, dẫu cơ thể khỏe mạnh, cũng còn chưa chắc đã thoát khỏi vực sâu cách bề mặt Trái đất những mười nghìn mét này, huống hồ gan bàn chân lại bị đốt thủng một lỗ to như thế, chắc cậu đội trưởng khó có thể sống sót trở về.

    Đang lúc lo lắng, thì nghe sau bức tường ngầm dường như có bọn bọ ăn xác đang bò. Tư Mã Khôi chĩa nến tín hiệu về phía trước, chỉ thấy trong đường hầm xuất hiện một dải đen nghịt như bóng đêm từ những tầng địa ngục, đó là dòng chảy bọ ăn xác chui từ kẽ đá vào, số lượng nhiều đến khủng khiếp.

    Ba người thầm kêu khổ, nhìn thoáng qua đã biết không thể ngăn cản được chúng, liền cuống cuồng đẩy bức tường ngầm khép lại, kéo đội trưởng Lưu Giang Hà cùng lui trở về thạch thất. Tuy tạm thời an toàn nhưng môi trường tối tăm dươi lòng đất thực sự khiến người ta cảm thấy tuyệt vọng đến cùng cực.

    Tư Mã Khôi cố gắng định thần, kể lại cho hai người đồng hành nghe chuyện anh vừa mới ngẫm ra. Đội khảo sát năm 1958 đều bị bọ ăn xác trong chính cơ thể mình cắn chết, nhưng vì sao lão tóc bạc trong mật thất lại không chết cùng một chỗ với các thành viên còn lại? Vong hồn lúc trước mà cả hội chạm trán, liệu có phải là âm hồn nhập tràng thật không? Thắng Hương Lân trầm tư giây lát, rồi nói với Tư Mã Khôi: “Bí mật lớn nhất trong tòa thành cổ này có lẽ cũng vẫn là thời gian, hay nói chính xác hơn thì đó là linh hồn của thời gian”.

    Tư Mã Khôi trố mắt hỏi Thắng Hương Lân: “Thời gian đâu phải vật sống, làm sao có hồn phách được chứ?” Thắng Hương Lân đáp: “Tôi cảm giác ở đây tồn tại một thời gian khác, nó không giống với tọa độ thời gian mà chúng ta từng biết”. Hải ngọng nghe mà đầu óc mụ mị cả, anh hỏi: “Thế theo cô, lão già tóc bạc mà chúng ta gặp khi nãy, rốt cuộc là người hay ma?” Thắng Hương Lân nhìn lại cái xác dưới chân tường, nói: “Đội khảo sát khoa học năm 1958, có lẽ cuối cùng đã có 23 thành viên thâm nhập kính viễn vọng Lopnor, vị chuyên gia ấy rốt cuộc vẫn chưa nói cho chúng ta biết số người thực tế, không loại trừ khả năng tin tình báo chúng ta nắm được ban đầu có sai sót”.

    Tư Mã Khôỉ nói; “Đó cũng là một khả năng, nhưng nơi này cách bề mặt Trái đất những mười nghìn mét, dưới vực sâu không hề có ánh sáng, thì mọi màu sắc đều trở nên vô nghĩa, tất cả sinh vật đều bị bạch tạng. Điều đó đủ chứng tỏ, bọ ăn xác trong cơ thể các tử thi đều được đem từ mặt đất xuống, vì vậy nguyên nhân cái chết đội khảo cổ chắc là bị Nấm mồ xanh cấy ấu trùng bọ xác chết vào trong não từ trước, mãi đến khi họ xuống đến thành cổ Tochari thì mới thiệt mạng.

    Vị chuyên gia tóc bạc do gia nhập đội khảo sát sau cùng, nên phần tử mai phục của tổ chức ngầm dẫu muốn hại ông ấy, chắc chắn cũng chỉ sau khi biết ông ấy gia nhập đội khảo cổ mới có thể ra tay. Chính vị vậy, tuy rằng trong cơ thể lão tóc bạc có bọ ăn xác, nhưng lão lại không chết cùng thời điểm với các thành viên khác của đội khảo sát.

    Suy đoán theo lẽ thường, thì nguyên nhân và kết quả của cả chuỗi sự kiện này đều rất rõ ràng, điều kì lạ duy nhất là lão tóc bạc ấy… vì sao mãi đến khi nãy mới đột nhiên lăn ra chết? Khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Thắng Hương Lân nói: “Điều quái lạ chính là ở điểm này, Tôi cảm thấy khoảng thời gian này trong thành cổ dường như không hề tồn tại…” Tư Mã Khôi và Hải Ngọng càng lúc càng không thể tưởng tượng nổi, nếu nghĩ như vậy, thì năm 1958, hai mươi hai thành viên đội khảo sát chết trước tấm bia nuốt rắn, cho đến năm 1974 chuyên gia tóc bạc gặp gỡ đội khảo cổ, quãng thời gian kẹp giữa hai sự kiện này là một khoảng hoàn toàn trắng trơn.

    Trắng trơn có nghĩa là không có gì, ngay cả thời gian cũng không tồn tại. Có điều, nếu ngẫm kỹ trước sau, thì chỉ như vậy mới giải thích thông suốt được sự việc năm 1958. Hai mươi hai thành viên đội khảo sát tử nạn cùng lúc, riêng mình chuyên gia tóc bạc là không chết ngay tại chỗ, mà ẩn mình vào gian mật thất này để trốn lũ bọ ăn xác.

    Lúc đó, chắc ông ấy đã phát hiện ra trùng xác chết trong cơ thể đang dần dần thành hình, tự biết mạng sống của mình chỉ có thể kéo dài trong khoảnh khắc. Đúng lúc ấy, thời gian ở tòa thành cổ lại đột nhiên biến mất, mãi mười mấy năm sau, khi hội Tư Mã Khôi tìm thấy tấm bia nuốt rắn, thì thời gian ở đây mới bắt đầu trôi chảy trở lại.

    Ba người không thể tưởng tượng ra nguyên nhân cụ thể của tình hình này, hay chí ít, thuyết suy đoán chiếc hộp của Tesla cũng không nhắc đến loại tình huống này có thể xảy ra. Mọi người đành suy đoán rằng: mọi việc đều liên quan đến tấm bia nuốt rắn cổ quái, kì dị kia, hoặc có thể trong địa cung của tòa thành này còn tồn tại một thứ gì đó mà mắt thường không nhìn thấy được.

    Nếu không thể trốn thoát khỏi huyệt ma này, thì thời gian của chính đội khảo cổ cũng sẽ biến mất, điều đó có nghĩa là gì? Thắng Hương Lân suy đoán: “Sự thật khi ấy sẽ vĩnh viễn dừng lại giữa hư vô, tọa độ thời gian bình thường sẽ gia tăng tốc độ, đưa chúng ta càng lúc càng xa quỹ đạo thời gian theo hình xoắn ốc, và chúng ta vĩnh viễn không thể quay trở lại được nữa…” Hải ngọng há hốc miệng kinh hãi: “Ối giời ơi! Thế thì toi rồi! Hậu quả đúng là vượt ngoài sức tưởng tượng, mà nói gì đến vượt ngoài sức tưởng tượng, thế này đúng là làm gì còn hậu quả nữa chứ!” Tư Mã Khôi nói: “Bây giờ còn để ý đến hậu quả mẹ gì nữa, chúng ta buộc phải làm rõ vì sao lại xảy ra hiện tượng kì quái này, có nghĩa là phải nghĩ cách tìm lời giải cho ẩn số trên tấm bia nuốt rắn, bằng không, thì cả hội hết đường sống”.

    Ba người đang thầm thì bàn bạc, bỗng nghe thấy một tiếng động phát ra dưới đám đá vụn. Lúc này người nào người nấy như con chim sợ cành cong, tuy động tĩnh đó rất nhỏ, nhưng cũng đủ khiến cho thần kinh của họ lập tức căng thẳng. Cả ba khẩu súng xung phong PPS và ba chùm sáng của đèn quặng gắn trên mũ bấc Pith Helmet đều đồng thời chĩa về phía phát ra âm thanh.

    Họ thấy dưới mặt đất xuất hiện một hố lõm, thì ra con bọ ăn xác bị đội trưởng Lưu Giang Hà giẫm chết khi nãy đã tiết ra chất axít cực mạnh từ trong cơ thể. Không ngờ, nó có thể đục thủng cả gạch đá, chỗ nứt giữa các phiến đá trên mặt đất đã bắt đầu lỏng lẻo, nếu phải chịu thêm lực tác dụng từ bên ngoài, thì nó chắc chắn sẽ sụp xuống.

    Hải ngọng bấm đèn quặng soi vào đáy khe nứt, phát hiện phía dưới dường như còn có không gian khác, liền đề nghị cả hội nên xuống đó tìm lối thoát. Tuy không ai biết tình hình trong đó thế nào, nhưng bó gối chịu nhốt trong thạch thất, đợi thần chết đến rước thì cũng không phải là cách hay.

    Tư Mã Khôi cũng có ý đó, sự uy hiếp đáng sợ nhất trong địa cung không phải bọ ăn xác, mà là ẩn số về thời gian bỗng dưng biến mất, vả lại nói không chừng, lại phát hiện thấy thứ gì mới bên dưới kia cũng nên. Hai người nghĩ là làm ngay, họ dùng báng súng chọc rộng phần mặt đất đang bị sụt xuống, có điều gạch đá cứng quá, hì hục một hồi, mồ hôi vã ra như tắm, họ mới nậy được một cái hố đủ để một người chui vào.

    Tư Mã Khôi thấy đáy cũng không sâu lắm, nên định nhảy xuống trước thám thính, anh bảo Hải ngọng cõng Lưu Giang Hà đang bị thương trên lưng, còn Thắng Hương Lân đi sau chốt chặn đường. Nhưng đúng lúc này, Thắng Hương Lân lại nghĩ đến một số chuyện, cô vội nói với hai người: “Vẫn chưa rời khỏi đây được! Các anh thử nghĩ kỹ lại toàn bộ quá trình gặp nạn của đội khảo sát vào năm 1958 xem…” Không đợi Thắng Hương Lân nói hết câu, Tư Khôi đã sực tỉnh.

    Vị chuyên gia tóc bạc kia không chết ngay tại chỗ, mà trốn trong gian thạch thất này, sau đỏ thời gian bỗng dưng biến mất một cách khó hiểu. Trước đó, dường như ông ta cũng đã phát hiện ra bí mật nào đó của tấm bia nuốt rắn ở khu vực quanh mình, cũng có nghĩa là chìa khóa then chốt mở cánh cửa ẩn số của tấm bia nuốt rắn chỉ ở trong này mà thôi.

    Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì bảo Hải ngọng thả Lưu Giang Hà xuống trước đã, rồi lục soát cẩn thận khắp gian thạch thất. Hải ngọng đang rất sốt ruột, anh nói với Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Tôi nghĩ gì thì nói đấy nhé! Liệu các cậu có hơi võ đoán chủ quan không thế, làm sao xác định được sau năm 1958, khi đội khảo sát gặp nạn, thì thời gian đã bị biến mất, biết đâu chúng ta bây giờ cũng không phải ở năm 1974 thì sao? Tóm lại, nơi này tắt lửa tối đèn, vĩnh viễn không thể phân biệt được ngày đêm, lại không có điện đàm không dây để nghe đài, chỉ có quỷ mới biêt bây giờ là ngày nào tháng nào”.

    Lý giải về thời gian của Thắng Hương Lân đã chịu ảnh hưởng của giáo sư Nông địa cầu rất sâu sắc, mà quan điểm của giáo sư lại bắt nguồn từ học thuyết giả tưởng chiếc hộp thời gian của Tesla. Ông ta cho rằng: thời gian là sự vận động tuyến tính, những gì đã xảy ra thì đã xảy ra, vĩnh viễn không thể trở về quá khứ, mọi sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian đã trôi chảy, đều không thể phục hồi lại.

    Như vậy thì mọi hiện tượng ở đây chứng tỏ, tòa thành cổ này không phải chiếc hộp, bởi vậy họ tuyệt đối không thể gặp được những kẻ may mắn sống sót từ năm 1958. Lúc này chỉ có thể nghĩ đến sự giải thích duy nhất, đó chính là: trước khi chuyên gia tóc bạc chết, thời gian trong địa cung này đã biến mất mười mấy năm.

    Hải ngọng vẫn ù ù cạc cạc, anh tiếp tục gạn hỏi: “Thời gian biến mất rốt cuộc là ý gì?” Thắng Hương Lân đành giải thích đơn giản: cơ thể vị chuyên gia khảo sát bị bọn bọ ăn xác sống ký sinh, đây chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông ta. Theo lý mà nói, thì ông ta phải chết từ năm 1958, đây chính là kết quả của sự việc, nhưng kết quả này lẽ ra đã phải xảy ra từ năm 1958 mới đúng, thế mà mãi hơn chục năm sau nó mới phát sinh.

    Bởi vậy, chúng ta chỉ có thể đưa ra dự đoán bước đầu là, thời gian tồn tại giữa nguyên nhân và kết quả đã bị biến mất. Tư Mã Khôi biết Hải ngọng đầu óc bã đậu, nói vói cậu ta chuyện này thì khác gì đàn gảy tai trâu, nên anh mặc kệ, chỉ lo lục soát tứ phía xung quanh, nhưng bốn bức tường dựng đứng, anh không phát hiện thấy thứ gì đặc biệt, có điều dưới chân tường phía sau thi thể của chuyên gia tóc bạc có một hình tròn cực kì quái dị và thần bí, bên trong vẽ một hình người cao lớn, trên đầu mọc một cái sừng thịt, mày rậm râu xồm, hình thù rất lạ lùng, hai tay ông ta dang ngang, trước mặt ông ta là những thường dân chỉ cao bằng một nửa ông ta.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 6: CÁI XÁC TRONG TƯỜNG




    Hai người nghe Tư Mã Khôi gọi, liền chạy tới, vừa ngó một cái đã sững cả người. Phần chân bức tường là đá nham thạch màu xám, hình khắc trên đá không biết được sơn phết loại sắc liệu gì, mà trải qua hàng ngàn năm tuế nguyệt, bề mặt đã mọc rong rêu, hình vẽ khắc trên vách đã không còn rõ nữa, nhưng cũng vì thế mà trông nó càng quái dị và thần bí hơn.

    Tư Mã Khôi soi đèn vào hình người có vóc dáng cao lớn, tuy nét vẽ đơn giản, cổ xưa nhưng vẫn có thể nhận ra trên đỉnh đầu ông ta có hai vật nhọn. Hải ngọng kinh ngạc hỏi: “Dưới vòm trời này làm gì có người nào lại mọc sừng trên đầu được chứ?” Tư Mã Khôi cũng cảm thấy rất thần bí khó đoán.

    Trước đây, anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu kể, trong một di tích lịch sử mà đội khảo cổ tìm thấy ở sa mạc Tân Cương, phát hiện rất nhiều bích họa thần bí, mà ngay cả ông cũng không thể giải thích nội dung của nó. Một trong những bức đó mô tả cảnh tượng tiếp xúc giữa một thị tộc cổ xưa với vật thể lạ, dường như đến từ hành tinh khác.

    Ông cho rằng, hình khắc trong thành cổ Tochari có lễ là một sinh vật ngoài hành tinh nào đó. Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Liệu thứ… giống như cậu nói, có thật không?” Tư Mã Khôi đáp: “Thì tớ đã gặp bao giờ đâu, nhưng chưa gặp không có nghĩa là không có. Năm đó, Tô Đông Pha đi ngang qua chùa KiÂm Sơn vào lúc đêm khuya thanh vắng, “đồng chí” ấy đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng đáng phải hãi hùng tâm can, mà ngay cả phần tử tri thức có học vấn uyên bác như đồng chí ấy cũng không thể giải thích hiện tượng mình nhìn thấy lúc đó rốt cuộc là gì, nên chỉ đành ghi lại bằng mấy câu thơ: “Trăng lửa lơ lửng giữa lòng sông.

    Chim muông kinh hãi dáo dác trông, Về nhà bần thần lòng tự hỏi: Người ma chẳng phải, vật hư không?” Hải ngọng xưa nay chẳng biết Tô Đông Pha là đồng chí nào, liền bán tín bán nghỉ hỏi: “Sao tớ chưa nghe thấy chuyện này bao giờ nhỉ? Giáo sư Tô công tác ở đơn vị nào hả?” Thắng Hương Lân chăm chú quan sát kỹ vách tường đá, rồi lấy một thác bản trên Sơn Hải Đồ ra đối chiếu, nghe thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng luận đàm những việc chẳng đâu vào đâu, liền nói: “Hình thù khắc họa trên tường đích thị là người thượng cổ, chứ không phải sinh vật ngoài hành tinh nào đâu.

    Tương truyền, thị tộc Thần Nông trên đầu đều có sừng thịt, nội dung bức khắc họa có lẽ liên quan đến truyền thuyết này”. Hải ngọng nói: “Cô em đừng có lòe bọn tôi! Thời cổ hình như cũng làm gì có ai mọc sừng trên đầu. Nó là người hay là dã thú thế hả?” Tư Mã Khôi từng nghe kể về chuyện này.

    Tương truyền, người thượng cổ có dung mạo rất giống thú hoang, Phục Hi và Nữ Oa đều là các vị thần đầu người mình rắn, thị tộc Thần Nông có sừng, còn Xi Vưu là con gấu, có bốn mắt, sáu tay, đầu đồng, trán sắt. Tuy hình hài của họ giống như chim thú, nhưng đều là những bậc đại nhân đại đức, tính tình vô cùng thuần hậu; còn con người ngày nay, tuy dung mạo là người, nhưng một số lại lòng lang dạ sói, thâm hiểm khó lường.

    Có điều, những chuyện này chỉ là truyền thuyết, người thượng cổ không thể mọc sừng trên đầu thật được, vì rốt cuộc điều đó không phù hợp với quy luật của học thuyết tiến hóa sinh vật. Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ điều này đại khái giống với tín ngưỡng tô tem thời thượng cổ, bây giờ cũng không cần truy tìm gốc gác ngọn nguồn.

    Tôi thấy, nội dung khắc họa trên vách tường khả năng là một loại biểu trưng của thời gian và địa lý, ghi chép ẩn số về con đường dẫn xuống hắc động gần tâm Trái đất, những nội dung này đều được khắc trên chiếc đỉnh đồng Vũ Vương”. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, giờ đã có bản giải mã và thác bản Sơn Hải Đồ trong tay, muốn tìm ra con đường đó cũng không phải chuyện khó, mà chuyện nước sôi lửa bỏng trước mắt là, làm sao thoát khỏi mê cung không lối ra này, những việc còn lại sau này nói cũng chưa muộn.

    Anh liền bảo Thắng Hương Lân mau chóng sao chép lại, rồi tiếp tục quan sát những hình khắc trên tường ở gần đó. Lát sau, anh lại phát hiện một hình vẽ rất giống hình cái túi, bên trong là các động thất tầng tầng lớp lớp, to nhỏ không giống nhau, ngang dọc thông nhau, bên mép trái lộ ra một vết mẻ, dường như chính là lối vào mà đội khảo cổ thâm nhập địa cung khi trước, lúc này nhìn tổng thể, trông nó có vài phần giống với tấm bia nuốt rắn chỉ có miệng còn không có mắt mũi.

    Có lẽ là chuyên gia tóc bạc mà ba người từng biết đã phát hiện thấy bí mật nào đó ở trong này, nghĩ vậy anh liền ngó vào xem. Thắng Hương Lân đang giải mã các chữ triện cổ khắc trên vách tường theo bản giải mã, nhưng chuyện này đâu phải chốc lát có thể hoàn thành được.

    Thay sắc mặt Tư Mã Khôi lúc trắng bợt, lúc tái xanh, dường như đã nhìn ra manh mối gì đó, cô liền hỏi: “Anh phát hiện thấy gì à? Tư Mã Khôi nói: “Chỉ e chúng ta phải chuẩn bị tính đến nước xấu nhất rồi. Ở đây đúng là không có lối ra đâu…” Hải ngọng nói: “Sao cậu cũng nói lời nhụt chí thế hả? Núi Dã nhân hung hiểm như vậy mà chúng ta còn sống sót trở về được nữa là!” Tư Mã Khôi lắc đầu: “Nếu đem so sánh với sự đáng sợ của tấm bia nuốt rắn này, thì việc trốn thoát khỏi núi Dã nhân chẳng qua là chuyện cỏn con”.

    Hải ngọng nghe xong càng mù tịt, lòng hoang mang, anh ngó nghiêng nhìn hình khắc trên tường, rồi lẩm bẩm một mình: “Không có lối ra… cái bia nuốt rắn này rốt cuộc là cái ngữ gì thế?” Tư Mã Khôi nhất thời lơ mơ, anh biết nhãn lực và kiến thức của Thắng Hương Lân còn giỏi gấp mười lần đấng tu mi nam tử, nên anh định hỏi vài chuyện để xác nhận, chẳng ngờ mép tường ngầm từ trên xuống dưới bất ngờ nứt ra một khe hở, dòng nước dịch giống như axít đậm đặc không ngừng trào ra từ bên trong, chảy trên mặt đất, phát âm thanh nghe “xèo xèo”, nó đã ăn mòn nền sàn thành hố lõm sâu tầm một đốt ngón tay.

    Ba người nghe tiếng động, lập tức soi đèn quặng về phía trước quan sát, thì ra bầy cua móng ngựa bị chặn phía sau bức tường, đang điên loạn cắn xé lẫn nhau. Loài vật này đa số sống trong các cỗ tử thi nằm dưới mộ cũ, tên thường gọi là “trùng phệ kim”, nếu không tiêu diệt triệt để thì chúng có thể một sinh mười, mười sinh trăm, trăm sinh nghìn, cứ thế sinh sôi nảy nở không bao giờ ngừng nghỉ.

    Huyết dịch trong cơ thể chúng hàm chứa chất kịch độc, chỉ cần gặp không khí sẽ lập tức hóa thành axít đậm đặc đến sắt đá cũng không thể chịu nổi, bởi vậy chẳng bao lâu sau, bức tường đá đã bị xuyên thủng. Những con bọ ăn xác chết nhanh chân bò vào trước, khắp thân thể chúng đều đã bị axít xâm thực, rồi ruột gan phèo phổi lòi hết ra ngoài.

    Thế nhưng sức sống của chúng vô cùng mãnh liệt, tuy chỉ còn mỗi nửa đoạn thân nhưng chúng vẫn không ngừng giãy giụa, ngọ nguậy, còn dòng bọ ăn xác bám sát phía sau, vẫn giẫm đạp lên xác của đồng loại, ùn ùn kéo vào trong. Tư Mã Khôi kinh hãi, vừa giơ khẩu PPS lên quét một luồng đạn, vừa cùng Hải ngọng khênh đội trưởng Lưu Giang Hà mau chóng lui về sau né tránh.

    Lúc này, Thắng Hương Lân liền ném nến tín hiệu xuống huyệt đá dưới lòng đất, rồi ba người cùng khênh thành viên bị thương lui vào trong động. Hải ngọng đưa tay mò cuộn thuốc nổ trong ba lô đeo sau lưng, định vứt ra để phá cửa động. Tư Mã Khôi biết uy lực của thuốc nổ rất lớn, nếu nó đánh sập cả gian thạch thất này thì cả đội còn rơi vào tình thế bất lợi hơn, nên anh vội ngăn Hải ngọng lại, rồi cùng rút lui vào đường hầm từ cánh cửa đá bên cạnh.

    Bên trong địa cung chia thành nhiều tầng, kết cấu đại khái tương đồng, mỗi nơi trong động thất đều chạm khắc một lượng lớn bích họa, địa hình lại hao hao giống nhau, khiến người ta nảy sinh ảo giác trùng lặp ảnh. Ba người không dám chậm trễ, nhân lúc bọn bọ ăn xác chết vẫn chưa đuổi kịp, họ gắng hết sức hợp lực đẩy cửa đá đóng kín lại.

    Tư Mã Khôi kiểm tra các khe nứt giữa các bức tường một lượt, rồi nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân: “Với độ dày của cánh cửa đá này, thì chí ít trong vòng mấy chục phút nữa, đường hầm này vẫn tạm coi khá là an toàn”. Hải ngọng đối diện với thời khắc sinh tử, lại đâm ra trấn tĩnh hơn rất nhiều, anh nắm chặt cuộn thuốc nổ trong tay nói: “Cùng lắm là giật kíp chứ gì, chúng ta càng có dịp cùng nhau đi thăm các chiến hữu cũ”.

    Thắng Hương Lân xem xét vết thương của đội trưởng Lưu Giang Hà, thấy anh chàng vẫn hôn mê bất tỉnh, môi khô nẻ, trán nóng rực, nhưng lại nghệch miệng cười một cách kì quái, khiến cô bất giác lo lắng, liền goi hai người lại xem sự thế thế nào. Tư Mã Khôi cũng thấy kì lạ: “Thằng cu gà mờ này cười cái khỉ gì thế không biết?” Hải ngọng phân tích: “Chắc cu cậu mơ thấy được ăn dưa gang ngọt lịm ở quê nhà đây mà, cũng có thể là thấy mình đang cầm nắm cơm thơm phưng phức trong tay…”.

    Tư Mã Khôi thấy trên mặt Lưu Giang Hà hắc khí nặng nề, anh chợt hiểu ra: “Thằng này trúng khí độc trong quan tài rồi, phải cho cậu ta uống tiết vịt trắng thì mới giữ được mạng”. Hải ngọng than thở: “Tớ thấy sống chết có số, mỗi vật đều có tạo hóa riêng của nó, thằng ranh này là quân nhân, mình thì mặc quân phục, cu cậu phải giác ngộ tư tưởng treo sọ vào cạp quần mới được”.

    Tư Mã Khôi nói: “Lính thì cũng là người chứ sao, con sâu cái kiến còn tham sống, huống hồ con người sao chẳng tiếc sinh mạng? Chỉ cần cậu ta chưa đoạn khí, chúng ta không thể bỏ cậu ta ở lại được”. Thắng Hương Lân đồng tình với Tư Mã Khôi: “Anh nói đúng lắm! Có điều, thông đạo này bất cứ lúc nào cũng xảy ra nguy hiểm, giờ tính thế nào? Phải mau chóng quyết định ngay mới kịp”.

    Tư Mã Khôi cũng biết thời gian dành cho cả hội chẳng còn là bao, liền nói phán đoán của mình với hai người bạn đồng hành: “Nếu tôi đoán không sai, thì thứ mà tấm bia nuốt rắn ám thị chính là tòa địa cung này, bản thân nó là con quái vật chỉ có lối vào mà không có lối ra, thứ không biết là vật gì nằm dưới lòng đất có tên gọi là “vô”, “vạn vật thiên hạ sinh vu hữu, hữu sinh vu vô”.

    Hải ngọng chưa từng nghe thấy chuyện này bao giờ, anh không hiểu ý Tư Mã Khôi muốn nói gì: “Đừng nói cái gì mà vô vô hữu hữu nữa. Bây giờ bản thân tớ đang ở đâu tớ còn không biết nữa là”. Tư Mã Khôi nói: “Cậu cứ quan sát kỹ xung quanh đi, có thấy quen không?” Hải ngọng hơi rầu rĩ: “Bị nhốt sống ở nơi quỷ quái này lâu ra phết rồi, nhưng tớ chẳng thấy xung quanh đây có mẹ gì hay ho cả”.

    Anh nói rồi nhìn ngó khắp bốn phía thêm lần nữa, phát hiện đường hầm địa cung và cả trong các gian mật thất hai bên đường, khắp tường chỗ nào cũng khắc toàn phù chú thần bí như thể giun dế, chim chóc, rắn rùa. Cảnh tượng lạnh lẽo âm u này đúng là có vẻ quen quen. Trải nghiệm khủng khiếp đó chắc đến chết anh cũng không thể nào quên được, Hải ngọng bất giác hít ngược một hơi lạnh nói: “Thành cổ Nhện Vàng của vua Chăm Pa!” Thắng Hương Lân đã nghe Tư Mã Khôi kể tường tận những chuyện bọn anh gặp phải trong cánh rừng rậm nguyên sinh Miến Điện, bây giờ lại nghe Hải ngọng nhắc đến, cô mới phát hiện thấy tòa địa cung này đúng là cực kì giống tòa thành Nhện Vàng trong hẻm núi Dã Nhân.

    Tư Mã Khôi nói: “Không phải là thành cổ Nhện Vàng, mà là di vật kỷ Devon, là một di vật kỷ Devon khác bị chôn vùi dưới kính viễn vọng Lopnor…”. Lúc trước, khi gặp lão tóc bạc, nghe đối phương dùng từ “không gian thứ sáu” để hình dung nơi này có lối vào mà không có đường ra, Tư Mã Khôi cho rằng đó chỉ là suy đoán chủ quan của kẻ sắp chết, thậm chí ngay cả bản thân anh cũng không thể giải thích rõ ràng ý nghĩa của nó là gì, nên khó tránh khỏi nảy sinh quan điểm phiến diện, thiếu chân thực.

    Bởi vậy từ đầu chí cuối, anh thấy mình không thể không tin lời lão tóc bạc, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn được. Tư Mã Khôi cũng hiểu biết về lý luận khoa học, tuy không thể so với các thành viên đội khảo sát, nhưng anh lại thông hiểu thuật tướng vật và biết cách nhận biết báu vật, nên anh lờ mờ cảm nhận thấy điểm kì quái nhất của cả chuỗi sự kiến chính là khoảng thời gian biến mất từ năm 1958 đến năm 1974.

    Từ khi bắt đầu cùng đội khảo cổ bước chân vào kính viễn vọng Lopnor đến giờ, điều khiến Tư Mã Khôi cảm thấy đau đầu và khiếp sợ nhất cũng chính là thời gian. Nhưng vì bị tình thế bức bách, nên anh đành vắt óc suy nghĩ. Tư Mã Khôi nhìn các hình vẽ thần bí khắc trên tường trong các gian mật thất, rồi chợt nghĩ đến một thứ mà cổ thuật tướng vật có nhắc đến.

    Tương truyền, rất lâu trước đây, có một vật không biết là vật gì, hình thù giống cái túi, không có ngũ quan thất khiếu, cuốn “Bác Vật Chí” gọi nó là “Đế giang” (1), thần thoại gọi nó là quả trứng hỗn mang âm dương, trong bụng nó là “vô”, không có thời gian và không gian, tất cả chỉ là mớ hỗn độn, tối đen một màu.

    Cũng có thuyết pháp cho rằng, Bàn cổ sinh ra từ bụng nó, ông nạo vét hỗn độn để khai thiên lập địa. [1] Đế giang: là một quái vật tưởng tượng trong thần thoại Trung Hoa cổ đại, thân hình vô cùng to lớn, không có đầu, có 6 chân và 4 cánh. Sau này, Tư Mã Khôi có hỏi giáo sư Nông địa cầu về chuyện liên quan đến di vật kỷ Devon, thì được biết, khả năng di vật kỷ Devon thuộc hóa thạch thủy tổ của loài ốc cú vọ, trong cơ thể nó lan tỏa “thứ vật chất mịt mù”.

    Tư Mã Khôi đoán, thứ này quá nửa chính là “đế giang” mà cổ thuật tướng vật nhắc đến, chỉ có điều việc ấy chưa được chính miệng giáo sư xác nhận. Khi đó, anh cũng không đào sâu nghiên cứu thêm nữa, nên càng không biết “thứ vật chất mịt mù” kia rốt cuộc là gì. Bây giờ, anh cũng chỉ có thể mò mẫm theo cách lý giải cũ trong cổ thuật mà suy đoán, thứ vật chất mịt mù đó chính là “vô”, như vậy có thể lý giải đại khái chuỗi ẩn số.

    Thắng Hương Lân không hiểu cổ thuật tướng vật, nhưng lại biết rất rõ vật mà Tư Mã Khôi vừa nhắc đến bởi vì câu nói “vô trung sinh hữu – thiên hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu vô” (2). Nguyên bản của nó xuất hiện từ hơn hai ngàn năm trước, nó là câu danh ngôn do Lão Tử – thủy tổ của đạo gia Trung Quốc đề ra, có nghĩa là: “không” sinh ra “có” – vạn vật trong thiên hạ đều được sinh ra từ “có”, mà “có” được sinh ra từ “không”.

    Thời cận đại, quan điểm này được các nhà vật lý thiên văn học phương Tây vô cùng sùng bái, lấy đó để giải thích cho cội nguồn của tạo vật thiên địa, bởi thực sự không thể tìm thấy mô tả nào chính xác hơn thế. Chuyện này từng một thời là chủ đề nóng hổi vào những năm 50, 60, cả thế giới xôn xao bàn luận, tranh cãi rôm rả, mọi người đều muốn truy hỏi: “Khoa học và tôn giáo, rốt cuộc thứ nào chân thực hơn?” [2] Vô trung sinh hữu — thiên hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu vô: có nghĩa là, vạn vật trong trời đất đều được sinh ra từ cơ thể mẹ, mà cơ thể mẹ đó chính là vô số vật của không vật gì.

    Thắng Hương Lân từng nghe kể chuyện này ở trong nước, bởi vậy cô tin rằng phán đoán của Tư Mã Khôi tương đối phù hợp với tình hình thực tế, có điều tình thế hiện giờ nguy cấp như trứng treo trước miệng rắn, chỉ cần sai sót chút xíu thôi là toàn bộ ván cờ không thể cứu vãn được nữa.

    Ba người quyết định mò mẫm theo các khe hở tìm kiếm trước đã, xác nhận xem trong bức tường đá liệu có cái xác của di vật kỷ Devon hay không, sau đó mới tính tiếp. Ba người không muốn bỏ mặc anh chàng đội trưởng đang sống dở chết dở ở lại, liền khênh cậu ta đi cùng. Vết thương ở gan bàn chân Lưu Giang Hà chạm xuống mặt đất, đau đớn đến nỗi thần trí vụt trở nên tỉnh táo, cậu ta u u mê mê không biết vì sao mình ra nông nỗi này, liền gắng gượng phều phào hỏi: “Thủ trưởng Khôi ơi! Tôi bị… sao thế này?” Hải ngọng an ủi: “Thực ra cũng không có gì nghiêm trọng lắm đâu, chỉ có điều, từ nay về sau, cậu… không thể nghe được lời hiệu triệu vĩ đại của Đảng và nhân dân nữa thôi”.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 7: SINH VẬT KINH DỊ



    Đội trưởng Lưu Giang Hà hoang mang trong lòng, nhất thời không hiểu câu này có nghĩa gì, nhưng cậu chàng có thể cảm nhận từ lời của Hải ngọng rằng tình hình không ổn, lại phát hiện là súng và ba lô bên người đều không còn, thì đoán lần này đúng là chết tiệt thật rồi, thần sắc bất giác bàng hoàng.

    Tư Mã Khôi ra hiệu bảo Hải ngọng đừng nhiều lời nữa, rồi nhắc Hương Lân dùng đồng hồ thám trắc trọng từ lực, tìm kiếm hướng đi về phía đỉnh đồng Vũ Vương, ba người khênh cậu đội trưởng, dò dẫm từng bước trong đường hầm tối tăm, tiến về phía trước. Căn cứ vào từng manh mối, mọi người suy đoán, đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958 đã bị lạc vào bụng của di vật kỷ Devon.

    Lúc đó ngoài chuyên gia tóc bạc, tất cả các thành viên khác đều chết trước tấm bia nuốt rắn. Rồi sau đó, thời gian đột nhiên biến mất, mãi đến khi hội Tư Mã Khôi xuống đến đáy động, mọi sự kiện mới tiếp tục diễn ra. Điều này chứng tỏ, chỉ cần người sống từ bên ngoài bước chân vào di vật kỷ Devon, thì thời gian trong địa cung sẽ trôi chảy như bình thường.

    Nguyên nhân có lẽ là do nó chịu tác dụng bởi điện trường sinh vật của cơ thể con người, nhưng cũng chỉ được vài tiếng sau, “vật chất mịt mù” sản sinh từ cơ thể di vật kỷ Devon lại sẽ nuốt chửng tất cả, rồi mọi vật đều vĩnh viễn dừng lại trong “vô”, nơi không hề tồn tại không gian và thời gian, trừ khi lại có sự kiện bên ngoài tham dự vào.

    Hơn nữa, theo những ghi chép trong cổ thuật tướng vật, bất kì sinh mệnh nào đã bị “vô” nuốt chửng, thì đều không thể rời khỏi cơ thể nó, nếu không sẽ lập tức hóa thành tro bụi trong phút chốc. Bởi vậy, dẫu cơ thể chuyên gia tóc bạc không có ấu trùng bọ ăn xác, thì cuối cùng ông cũng không thể rời khỏi nơi này.

    Có điều, phần lớn những điều này chỉ là những suy đoán chủ quan của họ, tòa thành Nhện Vàng, mà hội Tư Mã Khôi phát hiện khi theo đội thám hiểm đến Miến Điện, chỉ là cái xác chứa lượng lớn từ trường nhiệt lưu giữ thông tin của di vật kỷ Devon, trong khi đó, cái xác nằm dưới đáy vực sâu trong kính viễn vọng Lopnor lần này còn tồn tại nhiều hiện tượng thần bí không thể giải thích hơn.

    Ngoài ra, anh cũng không rõ “thứ vật chất mịt mù” nuốt chửng thời gian rốt cuộc là thứ gì, mà chỉ cảm nhận một cách sâu sắc là hi vọng đào thoát khỏi “vô” và sống sót trở về của đội khảo cổ là vô cùng mờ mịt. Mọi người cố gắng kiềm chế cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng đang dâng trào.

    Họ men theo đường hầm sờ thấy vách tường đá nằm ở điểm tận cùng, và nghe thấy dường như trong một bức tường có âm thanh nhỏ vọng lại. Di vật kỷ Devon trong thành Nhện Vàng được cho là cái xác hóa thạch mang luồng cảm ứng từ nhiệt lưu trữ trí nhớ, nhưng vật ở dưới địa cung này dường như là một sinh vật còn sống hẳn hoi.

    Mọi người vừa kinh ngạc vừa kì lạ: “Hình như nó còn sống hay sao ấy, di vật kỷ Devon…chẳng lẽ nó sống từ thời trung kì của Đại cổ Sinh đến tận ngày nay? Có điều chỉ cần có hình, có chất, nói không chừng lại có thể dùng thuốc nổ phá sập một hố được cũng nên”. Khi trước, cả nhóm không dám dùng thuốc nổ phá vách tường, chủ yếu là vì đội khảo cổ không có ai thông thạo nghiệp vụ thuốc nổ, không dự đoán được bao nhiêu thuốc nổ sẽ phá thủng được lòng tường, càng không hiểu cách lựa chọn địa điểm phá nổ, ngộ nhỡ khiến cả khu vực dưới lòng đất sụt lở thì gay to.

    Nhưng lúc này, họ không còn lựa chọn nào khác, cá không chết thì lưới phải thủng. Thế là cả hội quyết liều. Họ chỉ để bốn cuộn thuốc nổ đề phòng bất trắc, số còn lại thì dùng băng dính cuốn thành khối rồi dán vào tường. Tư Mã Khôi châm lửa vào điếu thuốc thơm của Liên Xô, rít mạnh vài hơi, rồi gí đầu thuốc lá vào kíp nổ để dẫn cháy, sau đó cả hội vội vàng trốn vào trong động thất bên cạnh đường hầm, bịt chặt hai tai, đầu thầm nhẩm đếm “Một, hai, ba…” Một tiếng nổ long trời lở đất, chấn động đến nỗi chân tay người nào cũng tê dại, cổ họng toàn vị tanh mặn, trong đám khói bụi mịt mùng, bức tường đá bị phá hủy sụt vỡ một nửa, khắp nơi toàn đá vụn, sóng chấn động sản sinh sau vụ nổ lan tỏa trong thân tường, gạch đá rơi xuống rào rào, khu vực xung quanh vẫn không ngừng sụp xuống, chẳng biết chôn vùi bao thứ dưới lòng nó.

    Tư Mã Khôi thầm than: “Mẹ tiên sư! Chắc là dùng thuốc nổ quá liều rồi!” Mọi người tự biết, nếu không nhân thời cơ này mau chóng chạy ra ngoài, thì chỉ cần chậm trễ mấy bước nữa thôi, có thể sẽ bị chôn sống dưới lòng đất. Họ vừa mới định hành động, thì ai nấy đều cảm thấy có một vật thể khổng lồ bò ra từ kẽ nứt trong lòng bức tường.

    Tư Mã Khôi đứng gần cửa nhất, nhận thấy tình hình không ổn, liền lập tức giơ tay bảo mọi người dừng lại, anh nắm chắc khẩu súng xung phong PPS trong tay, thò nửa đầu ra khỏi động thất thám thính tình hình. Nhưng bên ngoài bóng tối bủa vây, cộng thêm khói thuốc nổ và bụi đất bay mù mịt, chùm sáng đèn quặng không thể soi sáng phía xa, mọi người đành nín thở, dựa lưng vào tường, không dám cử động mạnh.

    Tuy Tư Mã Khôi đã lường trước trong bức tường chắc chắn có điều kì quái, nhưng di vật kỷ Devon rốt cuộc hình dạng thế nào, thì anh lại không hề có khái niệm. Anh kết hợp những kinh nghiệm trước đây, thì chỉ biết khoảng 4 tỷ 600 triệu năm trước, khi lớp vỏ Trái đất vừa mới bắt đầu đông kết, có thứ vật chất mịt mù tàn lưu lại từ thời kì hỗn độn, bị phong tỏa dưới lòng đất, mãi đến cuối kỷ Devon, mới xuất hiện loài ốc cổ đại nào đó lấy vật chất này làm thức ăn, cho nên sau khi chúng hóa thạch, trong vỏ chúng vẫn còn chứa một luồng từ nhiệt lớn đến tận ngày nay.

    Từ đó, khu vực trong núi sâu đã hình thành nên một vùng điện từ trường, giống như vũng mù. Nhưng di vật kỷ Devon trong thành cổ Tochari thì dường như lại là một sinh vật sống, cả cơ thể nó ẩn trong bức tường kiên cố ở địa cung, nên ảnh hưởng sụt lở của vụ phá nổ hiển nhiên đã kinh động đến nó.

    Thời khắc này kéo dài đằng đẵng tựa thiên thu, khi nghe âm thanh ngọ ngoạy bò trườn dần dần tiến sát gần, nhịp tim đập của mọi người cũng tăng nhanh dữ dội theo sự rút ngắn của khoảng cách. Bất chợt, một luồng gió tanh tưởi thổi thốc vào mũi, cả nhóm định thần nhìn kỹ thì thấy trong đám khói bụi có một con vật khổng lồ đang lù lù tiến đến, trông nó giống một cái tủ to lớn bằng thịt, trong đó chỉ có miệng mà không có mắt mũi, chân tay, trong đường hầm nhỏ hẹp, cũng không thể phân biệt rõ hình thù cụ thể của nó ra sao, khả năng chẳng khác bia nuốt rắn là bao, bộ phận bị đèn chiếu vào thấy toàn nếp nhăn, phô bày sự già nua và cổ xưa của thời đại hồng hoang, mặt đất nơi nó lết thân qua để lại thứ nước đen ngòm.

    Mọi người kinh ngạc há hốc miệng, da đầu căng cứng, Tư Mã Khôi biết không thể đối đầu với nó, lại e rằng sẽ không thể xoay chuyển trong không gian chật chội của gian động thất, anh liền cùng Thắng Hương Lân xách nách đội trưởng Lưu Giang Hà, Hải ngọng đi sau yểm trợ, không quản nguy hiểm do đất đá sụt lở, thục mạng chạy trốn vào nơi sâu trong đường hầm.

    Đội trưởng Lưu Giang Hà lết cái chân bị thương, ban đầu còn thấy đau đớn không thể chịu đựng nổi, về sau bước chạy càng lúc càng nhanh, nên chất độc trong huyết dịch mau chóng khuếch tán, cả cẳng chân hoàn toàn mất cảm giác, nếu không có người giúp đỡ, thì cậu ta đã nằm bất động ra đất, lúc định nói thì phát hiện ngay cả cuống lưỡi cũng đã tê dại.

    Hải ngọng và Thắng Hương Lân đều phải đeo ba lô nặng trịch, nếu đội trưởng Lưu Giang Hà có thể tự vận động chút ít bằng sức lực chính mình, thì hai người còn gắng gượng kéo cậu ta tiếp tục chạy, nhưng lúc này thân thể của Lưu Giang Hà cứng đơ như cây chuối, nghiêng nghiêng ngả ngả chúi về đằng trước, khiến hai người không làm chủ được cũng ngã sõng xoài theo.

    Tư Mã Khôi vừa chạm đất đã lăn một vòng đứng dậy ngay, anh tiện tay vứt luôn ba lô xuống đất, dưới sự hỗ trợ của Thắng Hương Lân, anh vội cõng Lưu Giang Hà lên lưng. Chỉ chậm lại một khoảng ngắn ngủi như vậy, mà di vật kỷ Devon đã kịp bò trườn đến, cách mọi người chỉ khoảng năm mét.

    Hải ngọng đỏ mắt từ lâu, trông tình hình đoán có lẽ không thoát thân nổi, anh liền giơ tay châm lửa kíp nổ cuộn thuốc nổ rồi vứt ra sau lưng. Vừa lúc đó Thắng Hương Lân quay đầu lại nhìn, cô hốt hoảng la thất thanh: “Chết rồi!”. Tư Mã Khôi nghe động cũng quay người lại nhìn, anh biết dây dẫn rất ngắn, khoảng cách lại quá gần, trong đường hầm nhỏ hẹp thế này, sức công phá của cả chùm bốn cuộn thuốc nổ đủ để tất cả mọi người tan xác thành từng mảnh vụn.

    Nhưng giờ đây có muốn trốn cũng không kịp, anh đành cõng đội trưởng Lưu Giang Hà nằm rạp xuống đất, thuận thế trốn sau bức tường, hai người còn lại cũng vội vàng nằm úp mặt, đợi tiếng nổ dữ dội phát ra bất cứ lúc nào. Ai ngờ cuộn thuốc nổ rơi ngay bên cạnh cơ thể đang trườn bò của cái “tủ thịt”, nó liền nuốt chửng vào cái miệng đen ngòm ngòm, vào đúng thời khắc phát nổ, chỉ thấy bề mặt của di vật kỷ Devon bỗng nhiên phình to, nhưng ngay sau đấy liền trở về trạng thái như cũ, cũng không nghe thấy bất kì âm thanh hay chấn động nào nữa, nó vẫn lặng lẽ và tiếp tục trườn đến chỗ mọi người.

    Cả hội hãi khiếp đảm thất sắc, cuộn thuốc nổ phát nổ ngay trong cơ thể di vật kỷ Devon, vậy mà nó vẫn không hề hấn gì, có lẽ là do bên trong cơ thể đang bò trườn kia đầy rẫy những “vô”. Khái niệm về “vô” của Tư Mã Khôi tương đối mơ hồ, anh chỉ biết đó là thứ vật chất mịt mù trước khi lớp vỏ Trái đất phình to và đông đặc.

    Thời gian và không gian không ngừng vận động đều xuất hiện từ trong cơ thể nó. Lúc này, di vật kỷ Devon đã tiến gần trong gang tấc, Tư Mã Khôi thất vọng thầm kêu: “Lúc trước liệu sự không chu đáo, lẽ ra không nên mạo hiểm cho thuốc nổ phá hủy bức tường, bây giờ thì đến trời cũng không cứu nổi nữa rồi!”.

    Giờ đây anh cũng không biết nên ứng phó thế nào, chỉ cùng hai người còn lại ra sức kéo đội trưởng Lưu Giang Hà rút lui vào nơi sâu trong đường hầm. Thạch điện nằm ở điểm tận cùng của đường hầm vẫn chưa bị sụt vỡ, thi thể của các thành viên đội khảo sát và tấm bia nuốt rắn ở tầng trên có thể cùng gạch đá vụn nát sập xuống bất cứ lúc nào.

    Trong bóng tối mịt mùng, chỗ nào cũng toàn bụi đất hỗn tạp, chùm sáng của ánh đèn bấc không thể chiếu xa hơn hai mét, bốn phía xung quanh chỉ thấy âm thanh tường nhà đổ vỡ ầm ầm như thể đang trong cơn địa chấn. Tay chân mặt mũi các thành viên đội khảo cổ đều bị vụn đá cào rách, Hải ngọng cũng vừa bị đá rơi trúng đầu, tuy đội mũ Pith Helmet nhưng anh vẫn bị thương khá nặng, máu tươi đầm đìa khắp mặt.

    Trong cơn hỗn loạn, mọi người hoàn toàn không thể phân biệt được phương hướng và tình hình xung quanh, nên lòng càng hoảng hốt gấp bội. Họ vừa mới rút vào trong điện thì bỗng nhiên cảm thấy gạch đá, đất cát chất cao như núi bỗng rung chuyển rào rào, mặt đất nứt ra một đường khe lớn, dường như có vật gì đó từ dưới đất đội cả tòa điện lên.

    Dưới chân hội Tư Mã Khôi nghiêng ngả, tất cà không trụ vững được đều ngã ngửa ra sau, lòng tự biết không thể quay về đường hầm được nữa, may mà chân tay nhanh nhẹn, không thì đã bị vách tường hai bên đè nát cả xương lẫn thịt. Cả hội vừa tránh những mảnh gạch đá vụn rơi xuống, vừa di chuyển dần về phía cạnh tường.

    Lúc này mọi người đều phát hiện, phía dưới điện cũng có di vật kỷ Devon, đúng như tiên liệu ban đầu, tòa địa cung Tochari này giống với thành cổ Nhện Vàng ở Miến Điện, toàn bộ toàn thành đều ẩn chứa xác của di vật kỷ Devon, chỉ có điều cái xác ở thành Nhện Vàng một nửa là hóa thạch, một nửa là sinh vật, nó đã ở trạng thái chết cứng, còn thứ trong địa cung Tochari lại là con quái vật còn sống hẳn hoi, thứ xuất hiện dưới lòng đất và trong đường hầm có lẽ là phần chân – bụng của nó.

    Mọi người đã biết đến di vật kỷ Devon từ lúc nhìn thấy những bức khắc thần bí mà người Tochari để lại, cho đến khi nhìn thấy nó lần nữa trên Sơn Hải Đồ ở đỉnh đồng Vũ Vương, thấy nó có hình dáng hao hao sinh vật lớp chân bụng(1) và đặc biệt không có thất khiếu, nó sống kí sinh ở tầng giữa, kẹp trong bức tường ngoài của địa cung.

    [1] Lớp chân bụng: là một lớp động vật thuộc ngành Thân mềm. Lớp chân bụng bao gồm tất cả các loại ốc với mọi kích cỡ từ nhỏ đến khá lớn. Lúc trước, chuyên gia tóc bạc đã nói với đội khảo cổ, ở đây chịu ảnh hưởng của vật chất mịt mù, các hạt li ti rơi vào trạng thái lực lượng tử tác động lẫn nhau, cả tòa địa cung đều nằm trong phạm vi bán kính độ cong của thời gian và không gian, nó không còn thuộc về không gian rộng lớn, khoáng đạt mà chúng ta từng biết, mà là một không gian bất minh khác chỉ có lối vào, không có lối ra.

    Mọi sinh vật ở bên ngoài khi tiếp cận với nó, sẽ khiến không gian này xuất hiện một con đường vật chất bởi từ trường của chính mình, nhưng lúc từ bên trong đi ra thì thông đạo đã biến mất. Hình thù quái dị của tấm bia nuốt rắn, đại khái chính là sự mô tả trực quan nhất của người cổ đại về di vật kỷ Devon, quái xà ám thị sinh mệnh và thời gian, mọi thứ đều xuất hiện từ hư vô và đều có thể bị hư vô nuốt chửng hoàn toàn.

    Hội Tư Mã khôi đương nhiên không thể lý giải sự việc ở chiều sâu thế này, nhưng họ cũng rõ mình đang nằm bên trong thân xác di vật kỷ Devon, nếu không thể chạy ra thì bí mật, mà họ đã phải trả giá bằng bao nhiêu mạng sống của các đồng chí để đổi lấy, đều vĩnh viễn vùi chôn dưới lòng đất này; có điều, mấy cuộn thuốc nổ và khẩu súng xung phong PPS họ mang theo mình chẳng đủ để bảo vệ chính bản thân, thì nói gì đến các đại sự khác.

    Không gian trốn chạy trong địa cung càng lúc càng thu lại, đội khảo cổ dần dần bị đẩy vào góc chết, tình hình giờ đây không giống như cá sắp chết trong lưới rách để còn giãy giụa liều mạng một phen, mà lại giống như mấy con cá vàng muốn thoát khỏi cái bể cá đã bị niêm phong kín mít.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 8: THÍ NGHIỆM PHILADELPHIA


    Di vật kỷ Devon giãy giụa muốn thoát ra khỏi lòng bức tường, bốn phía xung quanh đội khảo cổ toàn là đá vụn và tường đổ nát, mọi người bò lên đến đỉnh tấm bia nuốt rắn đổ nghiêng, thì hết đường. Hải ngọng thả đội trưởng Lưu Giang Hà đang cõng trên lưng xuống, lấy tay quệt lung tung cả máu tươi và đất bụi trên mặt, thở hổn hển nói với hai người còn lại: “Bận này đúng là gặp phải ngưỡng không thể vượt qua được rồi!” Tư Mã Khôi cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực: “Nếu không dùng thuốc nổ phá tường, có lẽ còn sống lâu thêm được chút, bây giờ thì hay rồi, còn biết chạy đâu bây giờ?” Thắng Hương Lân nhìn tấm bia nuốt rắn lần nữa, chợt kinh ngạc, vội nói với Tư Mã Khôi:

    “Năm 1958, thời gian của đội khảo sát không hề bị biến mất…” Tư Mã Khôi không rõ Thắng Hương Lân đã nghĩ ra điều gì, nhưng tính mạng mọi người chỉ còn tính bằng giây, cho dù khoảng thời gian sau khi đội khảo sát tử nạn không bị biến mất đi chăng nữa, thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh hiện tại của họ.

    Tư duy Thắng Hương Lân rất nhanh nhạy, lúc này cô đã nhận ra: sự việc không như mọi người phỏng đoán lúc ban đầu, bởi sau khi chuyên gia tóc bạc gặp đội khảo cổ thì ông ta mới chết, bởi vậy mọi người từ đầu chí cuối đều có phán đoán sai lầm là “tiên nhập vi chủ” – nghĩa là người vào trước là chủ, kẻ vào sau là khách, cho rằng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 bị biến mất dưới lòng đất.

    Kì thực, không gian bị xác di vật kỷ Devon bao quanh, bên trong nó không hề có bất kì hiện tượng bất thường nào, mặc cho đội khảo cổ dừng lại ở địa cung bao lâu, thời gian cũng không biến mất, nếu thời gian bên cạnh chuyên gia tóc bạc đã từng biến mất, thì ông ta đã sớm bị hư vô xé nhỏ thành các hạt nguyên tử từ lâu rôi, ngay cả thi thể cũng không thể tồn tại nữa.

    Điểm kì quái đích thực, có lẽ chính là cái xác di vật kỷ Devon. Năm 1943, hải quân Mỹ từng tiến hành một thí nghiệm cơ mật ở Philadelphia(1) dựa trên lý thuyết “giả thuyết về chiếc hộp thời gian” do Tesla đề ra. Hiểu một cách ngắn gọn là: lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết thì có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành vô hình.

    Họ đề nghị cung cấp tàu khu trục USS Eldridge cho cái gọi là “Dự án Cầu vồng”. Những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7 năm 1943 và đạt được thành công đáng kể. Nhân chứng nói rằng, họ chỉ còn thấy chiến hạm Eldridge như một “chú ếch màu xanh”, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại rất phản đối vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng có, buộc Ban chỉ huy lực lượng Hải quân Mỹ phải ra lệnh tạm dừng.

    Thí nghiệm chính thức được tiến hành vào ngày 28 tháng 10 năm đó, trên vùng biển Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ. Lần này, Eldridge không chỉ trở thành vô hình trước mắt nhân chứng, mà còn biến mất không dấu vết trong tầm kiểm soát của sóng ra đa. Lạ lùng hơn, ngay cùng thời điểm đó, căn cứ Hải quân Mỹ tại Norfolk, bang Virginia nằm cách xa hơn 600 kilômét báo cáo: đã nhìn thấy Eldridge ngoài khơi trong vài phút, sau đó thì mất tăm – đó cũng là lúc Eldridge lại tái xuất hiện trên biển Philadelphia.

    Chấn động tâm lý để lại cho các thủy thủ trên chiếm hạm Eldridge mới thật nặng nề, sau thí nghiệm, phần lớn những binh sĩ này ốm thập tử nhất sinh, không ít kẻ rơi vào trạng thái hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt, chưa kể một số trường hợp được ghi nhận là “mất tích không dấu vết”.

    Quá hoảng hốt trước các sự việc trên, quan chức Hải quân Mỹ đã ra lệnh dừng thí nghiệm ngay lập tức. Lần lượt sau đó, những thủy thủ còn may mắn sống sót bị đào thải ra khỏi quân đội. Có người nói, họ còn bị tẩy não để quên đi mọi chi tiết về cuộc thí nghiệm kinh hoàng trên biển Philadelphia năm đó.

    [1] Philadelphia: một trong những thành phố lớn và cổ xưa nhất ở Mỹ. Thí nghiệm này chứng tỏ, trong giới tự nhiên quả thật tồn tại một không gian thần bí và biệt lập, xung quanh nó là thứ vật chất mịt mù không thể xuyên qua, nó chính là “vô” mà Tư Mã Khôi nhắc đến.

    Chính vì cung điện nằm trong xác di vật kỷ Devon, tương đương với hộp thời gian bị “vô” bao quanh, nên chỉ có một thông đạo duy nhất tương tự như trùng động vừa rồi mới có thể xuyên qua tọa độ thời gian tuyến tính. Đội khảo sát năm 1958 và độ khảo cổ năm 1974, đều từng đi qua trùng động để tiến vào chiếc hộp thần bí này, khiến thời gian của kẻ trước người sau giao thoa lẫn nhau.

    Vào thời khắc nguy cấp này, Thắng Hương Lân không kịp giải thích dài dòng với hai người, chỉ hình dung trùng động nằm trên xác di vật kỷ Devon chính là một thông đạo tồn tại khách quan. Chỉ có điều, lòng đất đặc quánh mây từ, không gian vật lý xung quanh lại bị bẻ cong, bởi vậy nếu đội khảo cổ quay trở lại theo đường cũ, sẽ không thể tìm thấy trùng động.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng đưa mắt nhìn nhau, hai người biết Thắng Hương Lân không bao giờ suy luận thiếu căn cứ, nếu tìm thấy trùng động phía trên cái xác di vật kỷ Devon, tức là có cơ hội chạy thoát ra ngoài; nhưng tứ bề tối đen như đêm ba mươi, chỗ nào cũng bị sụt lở, rất nhiều nơi bị gạch đá vụn lấp kín, nên mọi người chỉ còn cách cố đứng vững trên tấm bia nuốt rắn.

    Tình thế bây giờ vô cùng cấp bách, không chừng chẳng kéo dài nổi dăm phút nữa, làm sao đi xa được mà tìm trùng động? Ba người không nghĩ ra kế sách gì, cũng không biết phải làm thế nào. Lúc này, họ lại nghe thấy những âm thanh “chít chít sàn sạt” từ xa đang cuốn đến gần, soi đèn xem, thì thấy bầy cua móng ngựa độc đông nghìn nghịt đang kéo bè kéo đảng từ các đường khe bị nứt vỡ sụp đổ chảy trào ra ngoài, nhanh chóng vây quanh tấm bia nuốt rắn từ bốn mặt tám hướng.

    Hải ngọng không ngớt than khổ: “Sao bọn âm hồn không tan này bám dai như quần rách vướng cẳng chân thế không biết, sắp chết đến nơi rồi mà vẫn muốn ăn thịt người nữa sao?” Tư Mã Khôi vừa nhìn chằm chằm bọn bọ ăn xác đang ào đến, vừa nói với Hải ngọng: “Trại chủ Hải ngọng đúng là nói quá chuẩn! Bọn cua móng ngựa này tuy là sinh vật sinh sôi trong xác chết ở hầm mộ núi sâu, nhưng bọn nó có tư duy ý thức đàng hoàng đấy, có điều cùng một lúc chỉ nghĩ được một việc thôi, khi nãy tường đá sụp vỡ làm bọn nó kinh động, chỉ lo tìm đường thoát thân, bây giờ gặp người sống thì quên phéng mất chuyện phải tháo chạy, nên ý thức bọn nó bây giờ chỉ chăm chăm muốn gặm và hút não với nội tạng của con người.

    Nếu cậu giẫm cho nó tan xác, thì nó không nghĩ ra nổi chuyện gì nữa đâu”. Hải ngọng không biết Tư Mã Khôi nói thật hay giả, nhưng cứ nghĩ đến cảnh tượng thảm thương của các thành viên đội khảo sát, thì anh bủn rủn hết cả người, bị bọn ăn xác này chui từ thất khiếu vào lục phủ ngũ tạng, rồi luồn cả vào óc tủy, chi bằng bây giờ mình tự kết liễu cuộc đời, chết cho nó thống khoái vậy.

    Thế là anh liền quay sang bảo Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Cuối cùng ngày hôm nay, Hải ngọng tớ cũng cách mạng triệt để rồi. Chào các cậu! Tớ đi gặp Diêm Vương trước nhé, xuống dưới đó tớ sẽ chiếm chỗ hộ các cậu …” Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều thuộc hạng bản lĩnh mồm mép cao siêu.

    Trước kia, khi quân cộng sản Miến Điện bị nhốt trong rừng rậm nguyên sinh, lương hết đạn kiệt, rơi vào đường cùng, những thành viên còn lại bất cứ lúc nào cũng có thể bị quân chính phủ tóm cổ, hoàn cảnh gian nan, hiểm ác đến cực điểm như vậy, mà anh chàng vẫn tiếc không nỡ cho đầu ăn đạn, nên Tư Mã Khôi cho rằng Hải ngọng chỉ nói đùa.

    Nào ngờ, đúng lúc đó bên tai vang lên tiếng súng nghe “pằng!” một cái, tiếng súng quá đột ngột khiến Tư Mã Khôi phút chốc đổ mồ hôi lạnh khắp người, anh cuống cuồng quay đầu lại nhìn, thì ra người nổ súng không phải Hải ngọng, mà là đội trưởng Lưu Giang Hà đang nằm vật trên tấm bia.

    Tình trạng vết thương của cậu ta rất nặng, nửa thân dưới đã hoàn toàn tê liệt cứng đờ, nhưng não thì vẫn lờ mờ còn chút ý thức, cậu ta biết rõ mình coi như hết đường sống, vì không muốn bản thân liên lụy đến ba người còn lại, nên nhân lúc cánh tay trái vẫn còn tri giác, đội trưởng liền với lấy khẩu súng lục K54 đặt cạnh ba lô Thắng Hương Lân tự ra tay kết liễu đời mình.

    Từ khi mọi người bước vào tòa thành cổ dưới lòng đất, mọi khẩu súng đều trong trạng thái lên quy lát sẵn sàng, bất cứ lúc nào cũng có thể ngắm bắn, khi nãy mọi người mải chú ý tình hình xung quanh, nên không phát hiện ra hành động của Lưu Giang Hà. Chỉ có điều lựa chọn quyết định sinh tử đâu phải chuyện dễ dàng, vào khoảnh khắc bóp cò, lòng Lưu Giang Hà lại trở nên yếu đuối, cùng lúc tiếng súng vang lên, cánh tay lại hơi run rẩy, nên kết quả đạn không xuyên qua não, mà lại bắn trúng má, xuyên thùng từ má bên này sang má bên kia, đến khi mọi người kịp nhận ra, thì đội trưởng đã lăn xuống chân tấm bia nuốt rắn theo quán tính.

    Thắng Hương Lân cuống quýt giơ tay ra cứu, nhưng trong chớp mắt, bọn cua móng ngựa đã bò đen nghìn nghịt khắp thân thể cậu đội trưởng, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn mà lạnh thấu tận đáy tim, vội vàng kéo Thắng Hương Lân trở lên đỉnh tấm bia. Ba người soi đèn quặng xuống, cảnh tượng phía dưới thực sự làm người ta rùng rợn khiếp đảm, đội trưởng Lưu Giang Hà khắp người đầm đìa máu tươi, lúc lăn xuống đè nát mấy con bọ, chất dịch bên trong tiếp xúc với không khí nhanh chóng biến thành axít đậm đặc, cả cơ thể một con người đang sống mà chỉ trong nháy mắt, ngay xương cốt cũng không còn, những con bọ ăn xác xung quanh vẫn cố sống cố chết bò đến ăn hôi, thì đều bị axít hóa kiếp, axít từ khe nứt trên mặt đất, thẩm thấu xuống dưới, rơi vào da thịt di vật kỷ Devon, nó tức khắc hóa thành khối nước đen.

    Di vật kỷ Devon bắt đầu dần chết rục dưới sức ăn mòn của axít, lớp vỏ của nó từ trên xuống dưới nứt vỡ ra tứ phía rồi rơi xuống, hội Tư Mã Khôi thấy dưới chân sắp sụt đến nơi, đành bám vào vách tường sắp đổ, tìm đường trèo lên chỗ cao hơn, may mà đứng trong đại điện kiên cố nhất nên mới không bị gạch vỡ đá vụn đè bẹp và vùi xác phía dưới.

    Lúc này, cái xác của di vật kỷ Devon chẳng còn sót lại là bao, cung điện dưới lòng đất cũng bị sụt lún mất một nửa, cả tòa điện lộ ra trong huyệt núi lửa. Hội Tư Mã Khôi không ngờ lại có kết quả này, bất kể là vô tình hay hữu ý, cơ hội tháo thân lần này đã phải đánh đổi bằng sinh mạng của đội trưởng Lưu Giang Hà, không những thế cậu ta đã chết vô cùng thảm khốc, bởi vậy không ai cảm thấy may mắn vì tai qua nạn khỏi, mà chỉ thấy dường như có tảng đá ngàn cân đang đè nặng cõi lòng, thổn thức đến độ không thở nổi.

    Ba người cố gắng át chế cảm xúc bi thương, bới lật đám đất đá đổ nát chất cao như núi ở gần đó, rồi từ thông đạo trong cái xác tàn lưu của di vật kỷ Devon rời khỏi đống hoang phế của cung điện dưới lòng đất, đang định mò mẫm tìm cửa ra, thì bốn phía bỗng tối sầm lại, chùm sáng đèn quặng càng lúc càng mờ mịt, da đầu ai nấy giật lên từng hồi, cảm thấy ở nơi sâu trong bóng tối, phảng phất tồn tại một lực hút mạnh khủng khiếp, nó như muốn kéo linh hồn ra khỏi thể xác vậy.

    Sắc mặt Tư Mã Khôi thay đổi đột ngột, những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ vẫn chưa thoát nạn, thể xác của di vật kỷ Devon đã chết, nhưng linh hồn của nó thì vẫn tồn tại. Thắng Hương Lân cũng ý thức thấy, tuy thể xác của di vật kỷ Devon đã bị hủy diệt nhưng “vô” trong cơ thể nó không thuộc về bất kì loại vật chất nào, nên chất ăn mòn hoàn toàn vô tác dụng với nó.

    Ba người đâu ngờ đội trưởng Lưu Giang Hà chết thảm thương như vậy, mà lại không có chút ý nghĩa nào, ai nấy đều cảm thấy tiếc thay cho cậu. Lúc này, cả hội đang ở trong đáy lòng núi lửa, xung quanh toàn là sườn núi dốc đứng, vây quanh như cái thùng sắt, trừ phi mọc thêm đôi cánh, thì mới mong bay đến chỗ đoạn dây thừng thòng xuống miệng hố lúc trước.

    Trong khi đó, vật chất mịt mù tàn lưu của di vật kỷ Devon đã rũ bỏ được sự trói buộc của thể xác, nó không ngừng khuếch tán một cách nhanh chóng, tựa hồ một con mãng xà khổng lồ phun nhả yêu khí đang bừng tỉnh giấc trong vực sâu tăm tối. Đầu Tư Mã Khôi ong ong, anh nhớ ra ở rìa huyệt núi lửa có cánh cửa đá, thông với tòa thành cổ quấn quanh ngọn núi.

    Cánh cửa khổng lồ đó đóng theo chiều từ trong ra ngoài, hai bên đều có pho tượng đồng, từ ngoài đẩy vào nó không hề nhúc nhích, giờ đây nói không chừng chỉ có chạy đến đó rồi tìm cách đẩy từ trong ra, nếu cách này ổn thỏa thì chắc đó sẽ là con đường sống, nếu không xong thì cả hội phen này đành lượn xuống Quỷ Môn Quan vậy.

    Hải ngọng cũng biết cánh cửa đó kiên cố vô cùng, trọng lượng đâu chỉ ngàn cân, trải qua năm rộng tháng dài, quanh thân nó mọc đầy rong rêu, tựa hồ nó sắp bén rễ xuống đất đến nơi, mà chỉ dựa vào sức lực ba thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ, thì chắc chắn không thể chuyển dịch được nó.

    Nhưng điều ấy không quan trọng, cùng lắm thì đâm đầu vào đó “rầm” một cái là được chết thoải mái, chết sung sướng, còn tốt chán so với cái chết đau đớn đến từ từ khi cơ thể bị rữa nát ở nơi địa ngục quái quỷ kia. Ba người lập tức chạy về hướng cửa đá dưới chân núi, Tư Mã Khôi và Hải ngọng quyết chết, miệng đồng thanh thét lớn, đang định lên trước động thủ, thì Thắng Hương Lân bỗng nhiên cản hai người lại: “Đừng qua đó! Không được đi về hướng bên ấy nữa…” Tư Mã Khôi đâu phải không biết cân nhắc nặng nhẹ, cả tòa thành cổ trong lòng đất đều sẽ bị “vô” nuốt chửng, cho dù có chạy thoát khỏi huyệt núi lửa, e rằng cuối cùng vẫn không tránh nổi cái chết, nhưng chó cùng dứt dậu, khi chưa què chân cụt tay, lẽ nào cam tâm ngồi đây đợi chết hay sao? Thắng Hương Lân nói: “Anh nghe tôi nói xong đã, nếu chúng ta rời khỏi huyệt núi lửa, cả ba chúng ta chắc chắn sẽ chết”.

    Hải ngọng nghe mà u mê hết cả đầu, bây giờ còn chưa biết có đẩy được cánh cửa đá hay không, sao lại nói rời khỏi đây thì khó tránh khỏi cái chết? Tư Mã Khôi thấy lòng chợt kinh động, anh bỗng nhận ra ngọn núi lửa đứng cô lập trong lòng đất này có vẻ gì không ổn lắm, nói đúng hơn, nó căn bản không phải núi lửa.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 8: THÍ NGHIỆM PHILADELPHIA


    Di vật kỷ Devon giãy giụa muốn thoát ra khỏi lòng bức tường, bốn phía xung quanh đội khảo cổ toàn là đá vụn và tường đổ nát, mọi người bò lên đến đỉnh tấm bia nuốt rắn đổ nghiêng, thì hết đường. Hải ngọng thả đội trưởng Lưu Giang Hà đang cõng trên lưng xuống, lấy tay quệt lung tung cả máu tươi và đất bụi trên mặt, thở hổn hển nói với hai người còn lại: “Bận này đúng là gặp phải ngưỡng không thể vượt qua được rồi!” Tư Mã Khôi cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực: “Nếu không dùng thuốc nổ phá tường, có lẽ còn sống lâu thêm được chút, bây giờ thì hay rồi, còn biết chạy đâu bây giờ?” Thắng Hương Lân nhìn tấm bia nuốt rắn lần nữa, chợt kinh ngạc, vội nói với Tư Mã Khôi:

    “Năm 1958, thời gian của đội khảo sát không hề bị biến mất…” Tư Mã Khôi không rõ Thắng Hương Lân đã nghĩ ra điều gì, nhưng tính mạng mọi người chỉ còn tính bằng giây, cho dù khoảng thời gian sau khi đội khảo sát tử nạn không bị biến mất đi chăng nữa, thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh hiện tại của họ.

    Tư duy Thắng Hương Lân rất nhanh nhạy, lúc này cô đã nhận ra: sự việc không như mọi người phỏng đoán lúc ban đầu, bởi sau khi chuyên gia tóc bạc gặp đội khảo cổ thì ông ta mới chết, bởi vậy mọi người từ đầu chí cuối đều có phán đoán sai lầm là “tiên nhập vi chủ” – nghĩa là người vào trước là chủ, kẻ vào sau là khách, cho rằng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 bị biến mất dưới lòng đất.

    Kì thực, không gian bị xác di vật kỷ Devon bao quanh, bên trong nó không hề có bất kì hiện tượng bất thường nào, mặc cho đội khảo cổ dừng lại ở địa cung bao lâu, thời gian cũng không biến mất, nếu thời gian bên cạnh chuyên gia tóc bạc đã từng biến mất, thì ông ta đã sớm bị hư vô xé nhỏ thành các hạt nguyên tử từ lâu rôi, ngay cả thi thể cũng không thể tồn tại nữa.

    Điểm kì quái đích thực, có lẽ chính là cái xác di vật kỷ Devon. Năm 1943, hải quân Mỹ từng tiến hành một thí nghiệm cơ mật ở Philadelphia(1) dựa trên lý thuyết “giả thuyết về chiếc hộp thời gian” do Tesla đề ra. Hiểu một cách ngắn gọn là: lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết thì có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành vô hình.

    Họ đề nghị cung cấp tàu khu trục USS Eldridge cho cái gọi là “Dự án Cầu vồng”. Những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7 năm 1943 và đạt được thành công đáng kể. Nhân chứng nói rằng, họ chỉ còn thấy chiến hạm Eldridge như một “chú ếch màu xanh”, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại rất phản đối vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng có, buộc Ban chỉ huy lực lượng Hải quân Mỹ phải ra lệnh tạm dừng.

    Thí nghiệm chính thức được tiến hành vào ngày 28 tháng 10 năm đó, trên vùng biển Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ. Lần này, Eldridge không chỉ trở thành vô hình trước mắt nhân chứng, mà còn biến mất không dấu vết trong tầm kiểm soát của sóng ra đa. Lạ lùng hơn, ngay cùng thời điểm đó, căn cứ Hải quân Mỹ tại Norfolk, bang Virginia nằm cách xa hơn 600 kilômét báo cáo: đã nhìn thấy Eldridge ngoài khơi trong vài phút, sau đó thì mất tăm – đó cũng là lúc Eldridge lại tái xuất hiện trên biển Philadelphia.

    Chấn động tâm lý để lại cho các thủy thủ trên chiếm hạm Eldridge mới thật nặng nề, sau thí nghiệm, phần lớn những binh sĩ này ốm thập tử nhất sinh, không ít kẻ rơi vào trạng thái hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt, chưa kể một số trường hợp được ghi nhận là “mất tích không dấu vết”.

    Quá hoảng hốt trước các sự việc trên, quan chức Hải quân Mỹ đã ra lệnh dừng thí nghiệm ngay lập tức. Lần lượt sau đó, những thủy thủ còn may mắn sống sót bị đào thải ra khỏi quân đội. Có người nói, họ còn bị tẩy não để quên đi mọi chi tiết về cuộc thí nghiệm kinh hoàng trên biển Philadelphia năm đó.

    [1] Philadelphia: một trong những thành phố lớn và cổ xưa nhất ở Mỹ. Thí nghiệm này chứng tỏ, trong giới tự nhiên quả thật tồn tại một không gian thần bí và biệt lập, xung quanh nó là thứ vật chất mịt mù không thể xuyên qua, nó chính là “vô” mà Tư Mã Khôi nhắc đến.

    Chính vì cung điện nằm trong xác di vật kỷ Devon, tương đương với hộp thời gian bị “vô” bao quanh, nên chỉ có một thông đạo duy nhất tương tự như trùng động vừa rồi mới có thể xuyên qua tọa độ thời gian tuyến tính. Đội khảo sát năm 1958 và độ khảo cổ năm 1974, đều từng đi qua trùng động để tiến vào chiếc hộp thần bí này, khiến thời gian của kẻ trước người sau giao thoa lẫn nhau.

    Vào thời khắc nguy cấp này, Thắng Hương Lân không kịp giải thích dài dòng với hai người, chỉ hình dung trùng động nằm trên xác di vật kỷ Devon chính là một thông đạo tồn tại khách quan. Chỉ có điều, lòng đất đặc quánh mây từ, không gian vật lý xung quanh lại bị bẻ cong, bởi vậy nếu đội khảo cổ quay trở lại theo đường cũ, sẽ không thể tìm thấy trùng động.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng đưa mắt nhìn nhau, hai người biết Thắng Hương Lân không bao giờ suy luận thiếu căn cứ, nếu tìm thấy trùng động phía trên cái xác di vật kỷ Devon, tức là có cơ hội chạy thoát ra ngoài; nhưng tứ bề tối đen như đêm ba mươi, chỗ nào cũng bị sụt lở, rất nhiều nơi bị gạch đá vụn lấp kín, nên mọi người chỉ còn cách cố đứng vững trên tấm bia nuốt rắn.

    Tình thế bây giờ vô cùng cấp bách, không chừng chẳng kéo dài nổi dăm phút nữa, làm sao đi xa được mà tìm trùng động? Ba người không nghĩ ra kế sách gì, cũng không biết phải làm thế nào. Lúc này, họ lại nghe thấy những âm thanh “chít chít sàn sạt” từ xa đang cuốn đến gần, soi đèn xem, thì thấy bầy cua móng ngựa độc đông nghìn nghịt đang kéo bè kéo đảng từ các đường khe bị nứt vỡ sụp đổ chảy trào ra ngoài, nhanh chóng vây quanh tấm bia nuốt rắn từ bốn mặt tám hướng.

    Hải ngọng không ngớt than khổ: “Sao bọn âm hồn không tan này bám dai như quần rách vướng cẳng chân thế không biết, sắp chết đến nơi rồi mà vẫn muốn ăn thịt người nữa sao?” Tư Mã Khôi vừa nhìn chằm chằm bọn bọ ăn xác đang ào đến, vừa nói với Hải ngọng: “Trại chủ Hải ngọng đúng là nói quá chuẩn! Bọn cua móng ngựa này tuy là sinh vật sinh sôi trong xác chết ở hầm mộ núi sâu, nhưng bọn nó có tư duy ý thức đàng hoàng đấy, có điều cùng một lúc chỉ nghĩ được một việc thôi, khi nãy tường đá sụp vỡ làm bọn nó kinh động, chỉ lo tìm đường thoát thân, bây giờ gặp người sống thì quên phéng mất chuyện phải tháo chạy, nên ý thức bọn nó bây giờ chỉ chăm chăm muốn gặm và hút não với nội tạng của con người.

    Nếu cậu giẫm cho nó tan xác, thì nó không nghĩ ra nổi chuyện gì nữa đâu”. Hải ngọng không biết Tư Mã Khôi nói thật hay giả, nhưng cứ nghĩ đến cảnh tượng thảm thương của các thành viên đội khảo sát, thì anh bủn rủn hết cả người, bị bọn ăn xác này chui từ thất khiếu vào lục phủ ngũ tạng, rồi luồn cả vào óc tủy, chi bằng bây giờ mình tự kết liễu cuộc đời, chết cho nó thống khoái vậy.

    Thế là anh liền quay sang bảo Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Cuối cùng ngày hôm nay, Hải ngọng tớ cũng cách mạng triệt để rồi. Chào các cậu! Tớ đi gặp Diêm Vương trước nhé, xuống dưới đó tớ sẽ chiếm chỗ hộ các cậu …” Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều thuộc hạng bản lĩnh mồm mép cao siêu.

    Trước kia, khi quân cộng sản Miến Điện bị nhốt trong rừng rậm nguyên sinh, lương hết đạn kiệt, rơi vào đường cùng, những thành viên còn lại bất cứ lúc nào cũng có thể bị quân chính phủ tóm cổ, hoàn cảnh gian nan, hiểm ác đến cực điểm như vậy, mà anh chàng vẫn tiếc không nỡ cho đầu ăn đạn, nên Tư Mã Khôi cho rằng Hải ngọng chỉ nói đùa.

    Nào ngờ, đúng lúc đó bên tai vang lên tiếng súng nghe “pằng!” một cái, tiếng súng quá đột ngột khiến Tư Mã Khôi phút chốc đổ mồ hôi lạnh khắp người, anh cuống cuồng quay đầu lại nhìn, thì ra người nổ súng không phải Hải ngọng, mà là đội trưởng Lưu Giang Hà đang nằm vật trên tấm bia.

    Tình trạng vết thương của cậu ta rất nặng, nửa thân dưới đã hoàn toàn tê liệt cứng đờ, nhưng não thì vẫn lờ mờ còn chút ý thức, cậu ta biết rõ mình coi như hết đường sống, vì không muốn bản thân liên lụy đến ba người còn lại, nên nhân lúc cánh tay trái vẫn còn tri giác, đội trưởng liền với lấy khẩu súng lục K54 đặt cạnh ba lô Thắng Hương Lân tự ra tay kết liễu đời mình.

    Từ khi mọi người bước vào tòa thành cổ dưới lòng đất, mọi khẩu súng đều trong trạng thái lên quy lát sẵn sàng, bất cứ lúc nào cũng có thể ngắm bắn, khi nãy mọi người mải chú ý tình hình xung quanh, nên không phát hiện ra hành động của Lưu Giang Hà. Chỉ có điều lựa chọn quyết định sinh tử đâu phải chuyện dễ dàng, vào khoảnh khắc bóp cò, lòng Lưu Giang Hà lại trở nên yếu đuối, cùng lúc tiếng súng vang lên, cánh tay lại hơi run rẩy, nên kết quả đạn không xuyên qua não, mà lại bắn trúng má, xuyên thùng từ má bên này sang má bên kia, đến khi mọi người kịp nhận ra, thì đội trưởng đã lăn xuống chân tấm bia nuốt rắn theo quán tính.

    Thắng Hương Lân cuống quýt giơ tay ra cứu, nhưng trong chớp mắt, bọn cua móng ngựa đã bò đen nghìn nghịt khắp thân thể cậu đội trưởng, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn mà lạnh thấu tận đáy tim, vội vàng kéo Thắng Hương Lân trở lên đỉnh tấm bia. Ba người soi đèn quặng xuống, cảnh tượng phía dưới thực sự làm người ta rùng rợn khiếp đảm, đội trưởng Lưu Giang Hà khắp người đầm đìa máu tươi, lúc lăn xuống đè nát mấy con bọ, chất dịch bên trong tiếp xúc với không khí nhanh chóng biến thành axít đậm đặc, cả cơ thể một con người đang sống mà chỉ trong nháy mắt, ngay xương cốt cũng không còn, những con bọ ăn xác xung quanh vẫn cố sống cố chết bò đến ăn hôi, thì đều bị axít hóa kiếp, axít từ khe nứt trên mặt đất, thẩm thấu xuống dưới, rơi vào da thịt di vật kỷ Devon, nó tức khắc hóa thành khối nước đen.

    Di vật kỷ Devon bắt đầu dần chết rục dưới sức ăn mòn của axít, lớp vỏ của nó từ trên xuống dưới nứt vỡ ra tứ phía rồi rơi xuống, hội Tư Mã Khôi thấy dưới chân sắp sụt đến nơi, đành bám vào vách tường sắp đổ, tìm đường trèo lên chỗ cao hơn, may mà đứng trong đại điện kiên cố nhất nên mới không bị gạch vỡ đá vụn đè bẹp và vùi xác phía dưới.

    Lúc này, cái xác của di vật kỷ Devon chẳng còn sót lại là bao, cung điện dưới lòng đất cũng bị sụt lún mất một nửa, cả tòa điện lộ ra trong huyệt núi lửa. Hội Tư Mã Khôi không ngờ lại có kết quả này, bất kể là vô tình hay hữu ý, cơ hội tháo thân lần này đã phải đánh đổi bằng sinh mạng của đội trưởng Lưu Giang Hà, không những thế cậu ta đã chết vô cùng thảm khốc, bởi vậy không ai cảm thấy may mắn vì tai qua nạn khỏi, mà chỉ thấy dường như có tảng đá ngàn cân đang đè nặng cõi lòng, thổn thức đến độ không thở nổi.

    Ba người cố gắng át chế cảm xúc bi thương, bới lật đám đất đá đổ nát chất cao như núi ở gần đó, rồi từ thông đạo trong cái xác tàn lưu của di vật kỷ Devon rời khỏi đống hoang phế của cung điện dưới lòng đất, đang định mò mẫm tìm cửa ra, thì bốn phía bỗng tối sầm lại, chùm sáng đèn quặng càng lúc càng mờ mịt, da đầu ai nấy giật lên từng hồi, cảm thấy ở nơi sâu trong bóng tối, phảng phất tồn tại một lực hút mạnh khủng khiếp, nó như muốn kéo linh hồn ra khỏi thể xác vậy.

    Sắc mặt Tư Mã Khôi thay đổi đột ngột, những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ vẫn chưa thoát nạn, thể xác của di vật kỷ Devon đã chết, nhưng linh hồn của nó thì vẫn tồn tại. Thắng Hương Lân cũng ý thức thấy, tuy thể xác của di vật kỷ Devon đã bị hủy diệt nhưng “vô” trong cơ thể nó không thuộc về bất kì loại vật chất nào, nên chất ăn mòn hoàn toàn vô tác dụng với nó.

    Ba người đâu ngờ đội trưởng Lưu Giang Hà chết thảm thương như vậy, mà lại không có chút ý nghĩa nào, ai nấy đều cảm thấy tiếc thay cho cậu. Lúc này, cả hội đang ở trong đáy lòng núi lửa, xung quanh toàn là sườn núi dốc đứng, vây quanh như cái thùng sắt, trừ phi mọc thêm đôi cánh, thì mới mong bay đến chỗ đoạn dây thừng thòng xuống miệng hố lúc trước.

    Trong khi đó, vật chất mịt mù tàn lưu của di vật kỷ Devon đã rũ bỏ được sự trói buộc của thể xác, nó không ngừng khuếch tán một cách nhanh chóng, tựa hồ một con mãng xà khổng lồ phun nhả yêu khí đang bừng tỉnh giấc trong vực sâu tăm tối. Đầu Tư Mã Khôi ong ong, anh nhớ ra ở rìa huyệt núi lửa có cánh cửa đá, thông với tòa thành cổ quấn quanh ngọn núi.

    Cánh cửa khổng lồ đó đóng theo chiều từ trong ra ngoài, hai bên đều có pho tượng đồng, từ ngoài đẩy vào nó không hề nhúc nhích, giờ đây nói không chừng chỉ có chạy đến đó rồi tìm cách đẩy từ trong ra, nếu cách này ổn thỏa thì chắc đó sẽ là con đường sống, nếu không xong thì cả hội phen này đành lượn xuống Quỷ Môn Quan vậy.

    Hải ngọng cũng biết cánh cửa đó kiên cố vô cùng, trọng lượng đâu chỉ ngàn cân, trải qua năm rộng tháng dài, quanh thân nó mọc đầy rong rêu, tựa hồ nó sắp bén rễ xuống đất đến nơi, mà chỉ dựa vào sức lực ba thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ, thì chắc chắn không thể chuyển dịch được nó.

    Nhưng điều ấy không quan trọng, cùng lắm thì đâm đầu vào đó “rầm” một cái là được chết thoải mái, chết sung sướng, còn tốt chán so với cái chết đau đớn đến từ từ khi cơ thể bị rữa nát ở nơi địa ngục quái quỷ kia. Ba người lập tức chạy về hướng cửa đá dưới chân núi, Tư Mã Khôi và Hải ngọng quyết chết, miệng đồng thanh thét lớn, đang định lên trước động thủ, thì Thắng Hương Lân bỗng nhiên cản hai người lại: “Đừng qua đó! Không được đi về hướng bên ấy nữa…” Tư Mã Khôi đâu phải không biết cân nhắc nặng nhẹ, cả tòa thành cổ trong lòng đất đều sẽ bị “vô” nuốt chửng, cho dù có chạy thoát khỏi huyệt núi lửa, e rằng cuối cùng vẫn không tránh nổi cái chết, nhưng chó cùng dứt dậu, khi chưa què chân cụt tay, lẽ nào cam tâm ngồi đây đợi chết hay sao? Thắng Hương Lân nói: “Anh nghe tôi nói xong đã, nếu chúng ta rời khỏi huyệt núi lửa, cả ba chúng ta chắc chắn sẽ chết”.

    Hải ngọng nghe mà u mê hết cả đầu, bây giờ còn chưa biết có đẩy được cánh cửa đá hay không, sao lại nói rời khỏi đây thì khó tránh khỏi cái chết? Tư Mã Khôi thấy lòng chợt kinh động, anh bỗng nhận ra ngọn núi lửa đứng cô lập trong lòng đất này có vẻ gì không ổn lắm, nói đúng hơn, nó căn bản không phải núi lửa.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: VÔ TRUNG SINH HỮU - HỒI 9: TẦNG THỪA ÁP


    Hải ngọng cuống cả lên, lo không biết có phải Tư Mã Khôi đang nói nhảm? Ngọn núi lửa này rõ ràng trông như cái ống khói, có hình có chất hẳn hoi, đứng sừng sững trong tòa thành cổ dưới lòng đất, sao vô duyên vô cớ lại nói nó không phải núi lửa? Tư Mã Khôi phát hiện thấy tình hình không hẳn như vậy.

    Nếu chỉ nhìn hình thù thì ngọn núi cao lừng lững tựa ống khói kia, đúng là từ ngoài vào trong đều giống hệt núi lửa, nhưng bên trong lại không có vật chất trầm tích chứa lưu huỳnh, chẳng lẽ núi lửa này đã tắt từ hàng trăm triệu năm trước, nên vật trầm tích đó đã sớm phân giải và biến mất? Nhưng chấn động và âm hưởng kì lạ vẫn âm ỉ truyền đến từ phía dưới chân họ, chứng tỏ rõ ràng nơi sâu trong mạch núi vẫn ẩn chứa một nguồn năng lượng khổng lồ đang sôi sục không ngừng, vì không khí không có mùi lưu huỳnh, cho nên nguồn năng lượng phía dưới chắc chắn không phải dòng dung nham.

    Sau khi xác di vật kỷ Devon bị hòa tan hoàn toàn, axít đậm đặc vẫn tiếp tục thẩm thấu xuống tầng đáy động huyệt. Căn cứ vào các hiện tượng xung quanh, có thể phán đoán: núi lửa bấy lâu nay chìm trong giấc ngủ đang sắp sửa phun trào, còn vì sao núi lửa này không phải núi lửa, rốt cuộc nó sẽ phun ra thứ đáng sợ gì, thì Tư Mã Khôi hoàn toàn không thể đoán được.

    Trình độ lý giải cấu tạo địa chất của Thắng Hương Lân vượt xa hai người bạn đồng hành, cô biết, huyệt núi lửa không có dung nham nóng chảy, được gọi là núi lửa bùn, thường gọi là “nồi áp suất”, nó chính là sự tồn tai nguy hiểm nhất trong động huyệt dưới lòng đất, một khi đã phát nổ hoặc phóng thích năng lượng, thì hậu quả thật khôn lường.

    Ban đầu, đoàn chuyên gia Liên Xô phụ trách khoan đào kính viễn vọng Lopnor cũng rất khiếp đảm “cái nồi áp suất” dưới lòng đất này, nhưng họ cũng bó tay hết cách, đành cầu nguyện cho nó tiếp tục chìm trong giấc ngủ dài, vĩnh viễn đừng thức dậy. Vì áp lực và nước ngầm xuất hiện trong không động dưới cực vực phần lớn đều tập trung và truyền dẫn xuống tầng sâu, rồi bị gia tăng áp lực và nhiệt độ ở các khe nứt của lóp vỏ và quyển manti, nên dường như mỗi giọt nước đều thẩm thấu xuống khoảng cách sâu hàng ngàn mét, thêm vào đó lại chịu sự dồn nén của trọng lực, nung luyện hàng trăm năm trong lò lửa mạnh, mới chuyển hóa thành vật chất thể khí tuần hoàn bay lên và trở thành khối mây quân tụ lưng chừng không gian của cực vực.

    Quá trình này diễn ra sục sôi kịch liệt, quỷ khốc thần sầu, uy lực và sức phá hoại do nó sản sinh thật khó gì sánh nổi. Ngọn núi trong thành cổ chính là “nồi áp suất” hình thành từ hàng triệu năm trước, những nơi tương tự thế này có lẽ tồn tại rất nhiều ở nơi sâu dưới cực vực.

    Hiện giờ, kết cấu địa tầng lại bị phá vỡ, chấn động dưới chân mỗi lúc càng dữ dội, rõ ràng dòng nhiệt trong mạch đất bắt đầu giãn nở. Do cánh cửa đá khổng lồ phá hủy vách núi, nên tòa cổ thành phía ngoài ngọn núi chỉ trong nháy mắt nữa thôi sẽ bị bùn đá chôn vùi. Nếu đội khảo cổ không mọc thêm đôi cánh, thì chắc chắn chỉ còn nước chết.

    Ba người đứng trong đường hầm trước cánh cửa đá khổng lồ, soi đèn quặng khắp bốn phía, định tìm một nơi ẩn náu tạm thời, nhưng động huyệt trong lòng núi bị vây kín chẳng khác nào cái thùng tôn, trèo lên miệng núi ở trên cao cũng chỉ có con đường chết. Lúc này, đáy động huyệt bỗng nhiên nứt vỡ sụt lở, dòng bùn đất vô cùng vô tận bắt đầu phun trào từ dưới lên, phần xác còn sót lại của di vật kỷ Devon và cả thứ vật chất mịt mù bên trong cơ thể nó, đều biến thành một hốc xoáy như động huyệt không đáy đen ngòm, rồi bị dòng bùn đất phun trào nhấn chìm ngay sau đó.

    Trong lòng núi lửa, ngoại trừ lượng lớn thực vật dạng nấm ra, còn có rất nhiều loại vi sinh vật nhỏ bé đến nỗi không thể phát hiện bằng mắt thường. Chúng có thể chịu đựng nhiệt độ cao, địa nhiệt và axít cực mạnh, thậm chí ngay cả khi nhiệt độ lên cao đến 100°C, chúng vẫn có thể tồn tại như thường.

    Môi trường tàn khốc ở đây rất giống với điều kiện môi trường khi các sinh mệnh bắt đầu ra đời cách đây 3 tỉ 700 triệu năm; ngoài ra, những vi sinh vật này còn biến đổi theo dòng địa nhiệt, thể hiện các màu sắc khác nhau như vàng, cam, đỏ, nâu v.v… rực rỡ chói lòa như luồng cực quang, khiến cả không gian tối om trong lòng núi lửa bỗng chốc bừng sáng như ban ngày.

    Hội Tư Mã Khôi nhân cơ hội này nhìn rõ mọi cảnh vật xung quanh, một cảm giác hãi hùng xâm chiếm khó nói thành lời. Cái tủ thịt kia đúng là vô cùng đáng sợ, dẫu thể xác đã chết hẳn, nhưng thứ vật chất mịt mù trong cơ thể nó vẫn có thể nuốt chửng không gian. Vậy mà, chỉ trong chớp mắt, nó đã bị dòng bùn đất ngấu nghiến nhấn chìm, không thể xác định nó sẽ bị đưa đến nơi nào, từ nay về sau dưới lòng đất lại có thêm một không gian đầy rẫy những “vô”, trong dòng chảy cuồn cuộn không bao giờ cạn kiệt của bùn đất nằm sâu dưới quyển manti.

    Sự tồn tại của nó hoàn toàn bị hỗn độn bỏ qua, có thể cuối cùng nó sẽ lưu lạc rồi trở thành vong hồn vĩnh viễn nằm co ro giữa dòng dung nham. Ba người vẫn chưa kịp hồi phục sau nỗi kinh hoàng, thì dòng bùn đá đục ngầu cuồn cuộn chảy đã ào ào xô đến. Tư Mã Khôi bị bức đến bước đường cùng, nhìn quanh thấy gần đó có chín cái đỉnh đồng Vũ Vương, lòng sâu, chân cao, lại được luyện bằng vẫn thạch sắt, có thể chịu được sự thiêu đốt của nhiệt độ cao.

    Anh không còn tính toán gì nữa, mà gọi Hải ngọng và Thắng Hương Lân cùng tung người nhảy vào lòng đỉnh đồng, vẫn chưa kịp đứng vững, thì dòng bùn đất nóng bỏng đã chảy đến gần với sức mạnh như đổ sông dốc bể, đẩy mạnh mấy cái đỉnh bằng đồng xanh lao về phía trước, chỉ nghe bên tai vang lên “rầm” một tiếng dữ dội, cánh cửa đá khổng lồ liền bật mở.

    Mọi người nghiêng ngả chao đảo trong lòng đỉnh, người nào cũng ngã dúi dụi, lục phủ ngũ tạng đảo lộn hết, thần trí u u mê mê, nhưng vẫn cố gắng bám chặt lấy tai đỉnh, chỉ sợ mình bị hất văng ra ngoài. Khoảng hai phút trôi qua, cùng với tiếng thét gào ầm ĩ, mọi người lại nghe thấy có tiếng nổ kinh thiên động địa, sau đó hai tai ù đặc, không nghe thấy bất kì âm thanh gì nữa.

    Thì ra lượng lớn bùn đất phun trào lúc đầu, chỉ là vật chất trầm tích ở tầng đáy núi lửa, nhiệt độ vẫn chưa cao lắm, còn tiếng nổ vang lên sau đó là sự phun nổ của hơi nén trong “nồi áp suất”, ba người liều mạng thò đầu ra nghiêng ngó, thì thấy trên đỉnh núi lửa xuất hiện đám mây hình nấm, bụi tro trông trắng xóa, nó vọt cao đến hơn hai trăm mét, bên trong toàn là vầng quang dạng sương nóng bỏng.

    Khuôn mặt mọi người bị ánh sáng quái dị phàn chiếu, trông sắc mặt ai cũng trắng toát như người chết, Lúc này luồng gió nóng thổi bỏng rát, cảnh vật ở tầm xa trở nên mờ mịt. Thắng Hương Lân biết rõ điểm lợi hại của nó, dòng nhiệt lưu có thể biến mọi sinh vật trong cõi đời này trở thành tro bụi, cô vội ra hiệu cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng không được nhìn vào đám mây hình nấm trên đỉnh núi, tránh cho võng mạc khỏi bị đốt cháy.

    Ba người không dám nhìn nữa, tất cả cúi đầu, co người nằm tròn trong đỉnh đồng, mặc cho dòng bùn đá tuôn chảy sôi sục cuốn trôi bập bềnh. Lòng đất xảy ra sự vận động dãn nở quy mô lớn, lúc đám mây hình nấm tỏa quang sương xuất hiện, cũng là lúc rất nhiều mạch nước ngầm đang sôi sục dưới lòng đất bị cuốn lên cao, giống như dòng thác treo ngược, rồi nó từ không trung dội xuống xối xả vào người vào mặt.

    Liên sau đó, một lượng bùn đất nhiều không kể xiết trộn lẫn vào nhau từ động huyệt phun trào ầm ầm ra ngoài. Lòng núi của “nồi áp suất” bắt đầu rạn vỡ, cả tòa thành cổ dưới lòng đất lập tức lún vào dòng chảy cuồn cuộn, rồi vô số tảng đá bị nhiệt độ cao làm tan chảy, trôi nổi nhào lộn men theo sườn núi.

    Lớp vỏ phía trên cực vực chịu tác động của khí áp, cũng sụt lở từng tảng lớn, ầm ầm từ trên cao rơi xuống dưới, cảnh tượng vô cùng kinh hãi. Tư Mã Khôi trốn trong lòng đỉnh đồng, thầm nghĩ: may nhờ Thắng Hương Lân phát hiện ra sự vận động khác thường của “nồi áp suất”, nếu mọi người cứ thế liều mạng trốn ra ngoài thành cổ, thì lúc này đã bị dòng bùn đất chôn sống thành tượng người tuẫn táng rồi.

    Thế nhưng cái đỉnh đồng này cũng có thể bị nhấn chìm lộn xuống bất cứ lúc nào trong dòng bùn đất bỏng giãy, mà lại càng không biết nó sẽ đưa đẩy mình đến nơi nào, có điều việc đã đến cơ sự này, thì cũng đành nhắm mắt nghe theo sự định đoạt của số phận. Đúng lúc tinh thần mọi người đang hốt hoảng bất định, thì cái đỉnh đồng đột nhiên đâm rầm một cái vào đâu đó, ba người đặt hết kì vọng vào chiếc đỉnh, lấy nó làm chỗ dung thân, nên vội đeo kính chắn gió thò người ra quan sát, chỉ thấy trong dòng nước bùn cuồn cuộn sôi sục, thò ra một cánh tay rất lớn, dường như là cánh tay của bức tượng đồng đang nắm chặt con rắn dựng ở cánh cửa đá lúc trước, có lẽ nó cũng bị dòng bùn đất cuốn trôi đến đây, rồi đâm vào đỉnh đồng khiến thân đỉnh rạn ra vài đường khá lớn.

    Ba người chết lặng, nói như lời của Hải ngọng thì lúc này đúng là muốn khóc mà không tìm đâu ra điệu kèn đám ma. Cũng đúng khi ấy, một khối đá khổng lồ đen sì sì bỗng đâu hiện ra ngay trước mặt, đỉnh đồng bị dòng nước bùn nóng bỏng sôi sục đẩy về gần nó, rồi thân đỉnh từ từ chìm xuống.

    Tư Mã Khôi nhanh chân trèo vội lên tảng đá, rồi đưa tay xuống kéo hai người còn lại. Nhiệt độ của đá mắc ma tăng vùn vụt, tuy ba người đã đeo găng tay nhưng vẫn cảm thấy nóng bỏng không chịu nổi, hơi thở hổn hển, ngắt quãng, dòng nhiệt lưu sôi sục buộc họ phải không ngừng trèo lên chỗ cao hơn, vừa trèo vừa run; khối đá này cao không thể lường, có bảo nó là trái núi thì cũng không ngoa.

    Khi đội khảo cổ đến bồn địa Turpan lúc trước, nó đâu tồn tại ở đây, bây giờ tựa hồ như vừa mới đột nhiên mọc ra vậy. Thắng Hương Lân thấy mặt đá màu đen này lỗ chỗ đầy lỗ khí, thì biết nó là đá Peridotit huyền vũ, một loại đá mắc ma hạt thô, gồm chủ yếu là các khoáng vật Olivin và Pyroxen.

    Trong cực vực không có loại đá này, cô đoán nó vừa bị rơi xuống khi lớp vỏ Trái đất sụp vỡ, kết cấu đá huyền vũ rất tinh tế, nhưng lại xốp giòn, dễ bị nứt vỡ sụt lún, bởi vậy không thể lưu lại đây lâu. Ba người không màng đến cảm giác đau đớn do bị bỏng lửa, vẫn cắn răng bò lên tảng đá dốc nghiêng ba bốn mươi độ, điểm tận cùng của khối đá cao khoảng mấy trăm mét là một dải nứt gãy của phần đáy lớp vỏ Trái đất, có vô số vết nhăn gấp nếp như hàng ngàn tầng bánh; sự vận động giãn nở ở nơi sâu trong lòng đất khiến không động dưới cực vực được nâng đội lên cao với biên độ rất lớn.

    Những mảng đá nứt gãy phía sau lưng không ngừng sụt xuống, khiến mọi người không dám dừng chân phút nào, tiếp tục bò về phía trước theo mạch đất nứt gãy. Cả ba vừa đi vừa ngã dúi dụi, gắng di chuyển đến lòng chảo mặt đất tương đối bằng phẳng, rồi cuối cùng họ cũng không còn cảm nhận thấy dòng nhiệt lưu truyền lên từ dưới vực sâu nữa.

    Ba người nằm vật ra đất, tứ chi bải hoải, không chỗ nào là không đau nhức. Tinh thần và thể lực đều vượt quá sự chịu đựng, sức cùng lực kiệt, họ không thốt được lời nào; mặc kệ những vết thương la liệt khắp người, họ nằm thở hổn hển, đầu óc trống rỗng.

    Tư Mã Khôi nằm sõng soài hồi lâu, cảm thấy đầu đau như muốn vỡ tung, nhưng ý thức hỗn loạn cũng dần dần tập trung và sáng tỏ, anh nghe âm thanh chấn động của những mảng đá đang tiếp tục sụt lún vẫn ầm ĩ bên tai, trước khi bò hẳn ra khỏi vực sâu như địa ngục này, thì chưa thể nói đến hai chữ “an toàn” được.

    Thắng Hương Lân cũng cho rằng, mọi người vẫn còn ở trong tầng đáy của lớp vỏ, không chừng sẽ còn xảy ra biến cố gì cũng nên, cô liền giúp Tư Mã Khôi và Hải ngọng xử lý qua loa các vết thương, rồi định đứng dậy đi tiếp. Nhưng Hải ngọng lại nằm vật ra đất, nhắm chặt mắt, không muốn động đậy gì nữa, anh nghĩ đến hội đội trưởng Lưu Giang Hà vĩnh viễn không thể ra khỏi nơi này, lòng vô cùng buồn bã, mọi suy nghĩ đều nguội lạnh đến tận cùng, anh dứt khoát nói với hai người còn lại: “Các cậu cứ “bòm” tớ một phát cho xong, Hải ngọng tớ không thể chịu đựng sự giày vò của tội lỗi này thêm nữa đâu, huống hồ ba người còn sót lại trong đội khảo cổ chúng ta có sống trở về cũng còn mặt mũi nào mà gặp gỡ mọi người; nếu lại phải vào xưởng gạch ngói viết báo cáo, chui xuống hầm lò… hay nuôi lợn trên tàu hỏa thay cho đồng bào Hồng Kông, chi bằng chết quách ở đây cho xong, may ra còn bon chen được tí đãi ngộ liệt sĩ cách mạng…” Thắng Hương Lân chẳng ngờ vào lúc thời khắc sinh tử thế này, Hải ngọng tự dưng lại nảy nòi ra suy nghĩ đó, cô đâu thể mặc kệ anh, liền khuyên nhủ mấy câu, nhưng đối phương có vẻ không buồn nghe.

    Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà đã lên cơn dở hơi thì nói lý lẽ kiểu gì cũng chỉ vô dụng, liền bảo: “Tiên sư Hải ngọng! Cậu nằm đó giả chết làm cái mẹ gì, nếu bận này mà may mắn sống sót trở về được, thì ông Khôi sẽ đãi các cậu mấy món ngon trong nhà hàng tử tế”.

    Hải ngọng nghe xong, không nhịn được liền mở to mắt hỏi: “Món gì… trong nhà hàng hả?” Tư Mã Khôi nói: “Mấy năm trước, chúng ta chiến đấu ở vùng núi Miến Điện, lúc về lại phải chui vào trại gạch ngói cải tạo tư tưởng, sau đó thì theo chân đội khảo cổ hành quân đến sa mạc Lopnor, nên không biết bao lâu rồi tớ và cậu chưa được ăn một bữa cho ra hồn.

    Nếu bây giờ mà cậu toi mạng ở đây thì lỗ quá, tớ thấy sau khi bọn mình thoát ra khỏi chỗ này, kiểu gì cũng phải đến miếu Ngũ Tạng thắp hương một cái, rồi sau đó sẽ vào quán, vào đó đừng có gọi mấy món rau dưa lằng nhằng làm chó gì, cứ bảo bọn phục vụ mang hơn chục cân thịt bò hảo hạng lên đây cho các ông đánh chén, có bao nhiêu rượu thì mang cả ra…” Hải ngọng nói chen vào: “Cậu quên đi! Quán ăn bây giờ quanh năm suốt tháng cũng chỉ phục vụ có mấy món thôi, còn định gọi những món cao lương mỹ vị gì nữa hả? Vả lại, cậu mà ăn nói kiểu đấy với bọn phục vụ, thì bọn nó có mà vả cho cậu rơi răng.

    Đầu tiên, cậu phải dạo trước câu ‘đổi đời không quên Đảng Cộng Sản, ăn thịt cảm tạ Mao Trạch Đông’, sau đó mới được đề cập đến chuyện ăn uống, riêng việc này tớ sành sỏi hơn cậu nhiều”. Tuy nói thì nói vậy, nhưng con người khi bị rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, thì thứ họ cần nhất chính là niềm hi vọng, dẫu cho đó là cảm giác đói khát để níu kéo bản năng sinh tồn.

    Vậy nên đối với Hải ngọng mà nói, hi vọng thực tế duy nhất chính là được vào quán ăn đánh chén một bữa thả cửa, thế là tinh thần anh chàng hăng hái hẳn lên, ngồi bật dậy, cùng hội Tư Mã Khôi tiếp tục đi vào nơi sâu trong dải đứt gãy địa tầng. Các số liệu thám trắc mà đoàn chuyên gia Liên Xô để lại thể hiện rõ, thành phần chủ yếu của kết cấu lớp vỏ bên dưới sa mạc Lopnor, là đá mắc ma huyền vũ, độ dày trung bình của nó chừng 8000 mét, lòng chảo mặt đất và các dải đứt gãy đoạn tầng giữa các mảng đá đan xen giao thoa lẫn nhau, nó còn phức tạp hơn cả kết cấu huyết quản của cơ thể con người.

    Trong môi trường hoàn toàn khép kín, nó từng bước hợp lại, rồi lại phân tách, tiến hóa trải qua quá trình suốt ba tỷ năm, dần dần hình thành diện mạo như ngày nay. Vì lòng đất xảy ra sự vận động giãn nở, nâng cao với quy mô lớn, nên mạch kết cấu của nó mới bị lộ ra ngoài. Hội Tư Mã Khôi đều có kinh nghiệm thám hiểm hang động, di chuyển từ nơi sâu lên mặt đất dễ hơn khi xuống rất nhiều, bởi vì không phải tìm mục tiêu cụ thể, chỉ cần không xác định nhầm phương vị là ổn; thêm vào đó, chỉ cần phải tránh các khu vực sụt lở, men theo các dấu vết bị nước bào mòn trong các khe đá nứt, như vậy chắc chắn sẽ không bị lạc đường.

    Ba người cẩn thận phân biệt kết cấu địa tầng ở gần đó, rồi mò mẫm tìm đường, đi dần lên trên. Cứ như vậy liên tiếp mười mấy ngày, lương thực và nước uống đã hết từ lâu, cả hội chỉ biết bắt mấy con rắn trắng trong khe đá nướng ăn, mọi gian nan vất vả không cần kể chi tiết, cuối cùng họ cũng bò lên được mặt đất từ khe nứt trong lòng chảo một con sông khô cạn.

    Lúc đó, trời đã tối mịt, trước mắt chỉ thấy đại dương cát mênh mông và bầu không khí ngập tràn sự hoang lương, lặng ngắt, không khác tình hình ở dưới cực vực trong lòng đất là mấy. Chẳng bao lâu, sắc trời bắt đầu chuyển dần sang màu trắng như bụng cá, gió cuốn cát bay thành luồng, cả không gian nhuốm màu vàng kim, xung quanh nhấp nhô vô số gò đất và tháp đá, chúng đứng sừng sững và tản mát giữa trời xanh, cát vàng.

    Người Tây Vực cổ lập nước trong suốt quãng thời gian ba mươi sáu năm, có cả thảy bảy mươi hai tòa thành trì lớn nhỏ, hầu hết đều bị cát vàng chôn vùi, bây giờ chỉ lác đác một vài cổ quốc được phát hiện và khảo chứng lai lịch, bởi vậy đội khảo cổ không biết miền sa mạc thần bí và quái dị mà họ đang đứng rốt cuộc là nơi nào.

    Mặt mày cả ba người đen nhọ nhem, thân mình lâm lem khói lửa, bùn đất, vết máu, hai mắt đỏ lòm như thế sắp bốc khói; ở dưới lòng đất không ai chú ý đến điều này, giờ ra ngoài ánh sáng mặt trời nhìn mới thấy sao người nào trông cũng giống quỷ vậy? Chẳng ai nghĩ mình còn có thể sống sót đến ngày lại được trông thấy bầu trời, nên vô số cảm xúc bất giác đan xen lẫn nhau.

    Thế nhưng chưa kịp nói câu gì, thì Hương Lân bỗng nhiên ngã vật ra giữa sa mạc, hai người đứng bên vội vàng đỡ cô dậy, họ thấy sắc mặt cô tái xanh, miệng thổ toàn máu đen. Tư Mã Khôi thấy lạnh cả người: “Suốt dọc đường liên tiếp xảy ra bao nhiêu biến cố hãi hùng, đúng là thập tử nhất sinh, nên tự dưng quên bẵng mất chuyện “hội chứng địa áp”.

    Bây giờ thì kẻ đoạt mạng đã gõ cửa tìm đến nơi rồi”. Các thành viên đội khảo cổ tiến vào sa mac Lopnor trên cơ thể người nào cũng nổi mạch máu xanh lè vì chịu ảnh hưởng của địa áp, nếu trong tình trạng chưa được giảm áp mà quay trở về mặt đất, thì huyết quản sẽ bị nổ vỡ đẫn đến tử vong, nhưng vì sao trong ba thành viên sống sót đào thoát khỏi lòng đất, chỉ mình Thắng Hương Lân xảy ra chuyện? Thực ra, kết cấu địa chất của đá huyền vũ nằm sâu dưới lớp vỏ Trái đất thuộc tầng thừa áp, nói cách khác, nó là một khoang giảm áp tự nhiên, điều này có liên quan đến các lỗ khí phân bố chi chít trên bề mặt đá.

    Thời xưa, tộc người thờ rắn Tochari đã lợi dụng mạch khoáng đá huyền vũ để rời khỏi vực sâu, nhưng đương nhiên những ẩn tình này các thành viên đội khảo cổ hoàn toàn không hề hay biết. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân nôn ra ngụm máu đen, cô tựa hồ bị trúng độc do không chịu được sức nóng dưới lòng đất, khí độc tích tụ ở phổi, chỉ cần nôn được ra là không có gì đáng ngại.

    Thế nhưng trong sa mạc không có thuốc men và điều kiện tĩnh để chăm sóc, thì chưa chắc cô đã bảo toàn được tính mạng. Tư Mã Khôi không dám chậm trễ, liền tháo tung khẩu súng xung phong PPS ra, ngay cả đạn dược cũng vùi trong cát, chỉ giữ lại la bàn để xác định phương hướng. Anh và Hải ngọng thay nhau cõng Hương Lân đi bộ trong biển cát.

    Đi khoảng ba đến năm dặm, thì họ thấy bão cát bắt đầu nổi lên phía sau lưng, rồi dấu chân và ký hiệu dọc đường sắp bị dòng cát khỏa lấp. Hải ngọng hoang mang hỏi Tư Mã Khôi: “Đi đến bao lâu nữa mới đến trạm tiếp theo hả cậu?”. Tư Mã Khôi cúi đầu nhìn la bàn, trong điều kiện khắc nghiệt và gió cát vần vũ thế này, anh cũng không dám chắc kim la bàn còn tiếp tục chỉ hướng bắc nữa hay không.

    Nếu như ba thành viên sống sót của đội khảo cổ không thể thoát ra khỏi đây, thì họ cũng sẽ trở thành ba bộ xác khô vùi trong sa mạc; mà dẫu có thoát ra được, thì họ vẫn không thể rũ bỏ vòng tuần hoàn chết của số mệnh, bởi vì muốn giải phá vòng tròn khép kín đó, thì phải đi tìm quái nhân khắc trong bức bích họa dưới lòng đất, kẻ… mọc đôi sừng thịt trên đầu.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 1: CHUYẾN TÀU ĐƯỜNG DÀI



    Ba kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ đi bộ trong sa mạc ròng rã suốt một ngày đường, cuối cùng cũng gặp được đoàn văn công Ô Lan Mục Kì(1). Sau khi hỏi thăm, mới biết nơi này là rìa đông bắc sa mạc Kumtag, cách núi Bạch Sơn không còn bao xa.

    Khu vực nằm giữa sa mạc và núi Bạch Sơn là vùng thảo nguyên hoang vu, vắng bóng người, phần lớn dân du mục trong đội sản xuất ở đồng cỏ gần đó đều là người Mông cổ. [1] Ô Lan Mục Kì: tiếng Mông cổ có nghĩa là “mầm non màu đỏ”, ý để chỉ đội công tác văn hóa mặc sắc phục màu đỏ.

    Đó là đội văn công lưu động được thành lập năm 1957, hoạt động sôi nổi khắp khu vực thảo nguyên Mông cổ. Hải ngọng hơi ngỡ ngàng. Anh không ngờ vừa từ lòng đất chui lên, đã đến thảo nguyên bao la của Nội Mông. Quãng đường này ngoằn ngoèo nhấp nhô, hành trình đâu chỉ vài dặm, nếu không sao có thể gọi là Ô Lan Mục Kì? Tư Mã Khôi thì biết phía tây Tân Cương kéo dài đến tận bồn địa Tarim, phía đông kéo dài đến ven sa mạc Kumtag, chỗ nào có thảo nguyên, nơi ấy sẽ là vùng đất cư trú của dân tộc Mông cổ.

    Năm đó, sau khi thoát khỏi ách thống trị của sa hoàng Nga, lực lượng Torghut từ Liên Xô cũ ở lưu vực sông Volga trở về Trung Quốc, hoàng đế Càn Long triều Thanh ban bố ngự chỉ, lệnh chia khu vực này thành bốn lộ: đông, tây, nam, bắc, tất thảy mười kì, dân du mục định cư ở bồn địa Yourdusi, núi Ưng Sa, núi Bạch Sơn v.

    v… bởi vậy hầu hết dân du mục ở phía tây nam Tân Cương đều là người Mông cổ; còn đoàn ô Lan Mục Kì qua đường là đội văn công lưu động tuyên truyền ở giữa những khu vực này. Bây giờ gặp được họ, coi như đội khảo cổ đã lượm được cái mạng từ tay thần chết. Tư Mã Khôi không dám nói rằng ba người họ là đội khảo cổ vừa mới rời khỏi kính viễn vọng Lopnor, mà chỉ nói là phân đội trắc họa, được cử đến sa mạc để chấp hành nhiệm vụ thám trắc.

    Thẻ công tác mà Thắng Hương Lân mang theo trên người, tạm thời giúp cả hội chứng minh được mình đúng là nhân viên đội trắc họa. Họ nói dối rằng, sau khi máy điện đàm bị hỏng, cả đội lại gặp bão cát nên lạc đường, mọi người đã đi bộ trong sa mạc suốt mười mấy ngày trời.

    Đoàn văn công Ô Lan Mục Kì thấy Tư Mã Khôi có vẻ nói thật lòng, lại trông thấy một thành viên bị thương cần cấp cứu gấp, nên mọi người không ai hoài nghi gì cả, lập tức dắt ngựa đến rồi dẫn ba người vào nông trường cỏ gần đó, nhờ dân du mục bản địa chăm sóc. Trong vòng mấy chục dặm vuông quanh đây, chỉ có hai túp lều của người Mông cổ.

    Người dân Mông cổ từ xưa đã nổi tiếng thuần hậu, biết hội Tư Mã Khôi là phân đội trắc họa gặp nạn, họ liền nhiệt tình giúp đỡ. Tư Mã Khôi thấy tình hình sức khỏe của Thắng Hương Lân dần diễn biến theo chiều hướng ổn định, anh liền mượn dân du mục bộ trang phục chỉnh tề, thay quần áo xong liền vào huyện thành cách đó chừng trăm dặm, đánh một bức điện báo cho lão Lưu Hoại Thủy ở tận Bắc Kinh, bảo lão mau chóng đến Tân Cương tiếp ứng, đồng thời dặn dò lão tuyệt đối không được huênh hoang chuyện này với bất kì ai, sau này hội anh nhất định không quên ơn lão.

    Bố của Thắng Hương Lân, là giáo sư Thắng Thiên Viễn, từng là ân nhân cứu mạng của lão Lưu Hoại Thủy, nên sau khi nhận được tin, lão vội vã thu xếp chạy đến tiếp ứng, rồi chuẩn bị đưa cả hội đến gần địa phận Cam Túc, đáp chuyến xe lửa đường dài trở về Bắc Kinh. Tư Mã Khôi muốn mang chiếc đồng hồ vàng của Pháp, mà cả hội tìm thấy trước cửa Hắc Môn ở Lâu Lan, tặng cho những người dân du mục Mông cổ để thể hiện lòng cảm ơn, nào ngờ họ một mực chối từ, anh đành lặng lẽ đặt vào trong tay nải của họ lúc sắp rời đi.

    Thời kì ở khu Hắc Ốc, ăn cơm đường sắt trường kì, Tư Mã Khôi vô cùng thông thuộc chế độ của bộ phận đường sắt, ngẫm thấy vết thương trên mình mọi người vẫn chưa lành hẳn, chắc không chịu được nỗi khổ rung lắc suốt chặng đường dài, mà nếu còn phải ngồi ghế cứng hay phải đứng nữa, thì chuyến tàu về này chắc nuốt không trôi.

    Thế là anh lấy thư giới thiệu và thẻ công tác của giáo sư Tống Tuyển Nông ra, sửa trộm tí chút, rồi mang ra nhà ga mua liền bốn tấm vé nằm giường mềm. Lão Lưu Hoại Thủy trố mắt ngạc nhiên, phải biết toa giường nằm đâu phải chỉ cần giơ đầu ra là tùy tiện ngồi được, người thường dẫu có tiền cũng không mua nổi ấy chứ, theo quy định chỉ có cán bộ cấp cao từ bậc 13 trở lên mới đủ tư cách đi toa giường mềm, mà giá vé cũng cao gấp đôi so với toa giường cứng.

    Trước đây, lão Lưu Hoại Thủy thường đáp tàu hỏa đi lại đây đó, nhưng chưa bao giờ biết toa giường mềm trông ra sao, bây giờ được vào, thấy đúng là khác xa một trờỉ một vực, ngay cả rèm cửa sổ cũng thêu hoa tinh tế, tấm thảm trắng tinh, không bám một hạt bụi, suất ăn riêng biệt cũng ngon hơn rất nhiềum cảm giác đúng là mở rộng tầm mắt.

    Lão Lưu Hoại Thủy vốn đầy bụng chuyện muốn hỏi, ngặt nỗi lúc ở khu du mục lại không dám mở miệng, nên khi cánh cửa toa tàu vừa mới khép, lão đã lân la tìm cơ hội. Nhân lúc Hải ngọng chạy sang toa ăn, lão đột nhiên giơ ngón tay cái lên nịnh Tư Mã Khôi: “Quả không hổ danh là Bát Lão Gia, nếu là người khác thì chưa chắc đã trở về nổi”.

    Lão dạo đầu bằng một màn nịnh hót, nói: “Cái món “bọ cạp đảo đầu leo tường’ thời xưa còn gọi là ‘Bích Long công’. Khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dần còn tại vị, trong thành Biện Lương(2) có vị quan quân lừng danh, hành tung xuất quỷ nhập thần, võ công cao cường. Ông ta đặc biệt rất giỏi các món khinh công như phi đảm tẩu bích(3), chân đeo ủng da, bất kể tường cao hào sâu thế nào, cũng chao người vượt qua, nhẹ nhàng như én lượn.

    [2] Biện Lương: là tên gọi cũ của thành phố Khai Phong, thuộc tỉnh Hà Nam. [3] Phi đảm tẩu bích: có nghĩa là vượt rào trèo tường. Một đêm, khi Thái tổ đang quan sát khí tượng trong cung, bỗng nhiên ngài trông thấy vật gì tựa cánh chim liệng khẽ vào cung. Sang ngày hôm sau, chiếc gối khảm vàng của công chúa Đan Dương bỗng dưng không cánh mà bay.

    Thái Tổ tra hỏi, mới biết trong đội quân của thành Biện Lương có một dị nhân, chui ngách vượt tường dễ dàng như trở bàn tay, còn có thể men theo trụ phật trong đại điện bò lên tận đỉnh mái nhà, lầu các có độ cao trăm thước chẳng khó khăn gì với hắn. Tất cả bảo vật trong nội phủ bị mất cắp, chắc chắn là do người này lấy trộm.

    Khổ nỗi, từ trước đến giờ không tìm được chứng cớ xác thực nên không có cách gì trị tội tên đạo tặc. Hoàng đế Thái Tổ nghe tấu, cảm thấy kinh ngạc khôn xiết, liền truyền thánh chỉ, lệnh cho người này tuyệt đối không được lưu lại trong kinh thành, phải điều hắn xung quân đến vùng biên ải.

    Nào ngờ, đội cấm quân chưa kịp đến vây bắt, thì không biết người đó đã sớm biến mất tăm mất dạng từ bao giờ”. Lão Lưu Hoại Thủy còn tung hô Tư Mã Khôi không chỉ học được chân truyền công phu “tháo ủng ngược Bích Long”, mà còn thông hiểu cổ thuật tướng vật, không những gốc gác tốt, mà đảm khí thao lược cũng phi phàm, khí dũng đều hơn người, xem tướng mạng lại thuộc mệnh thổ, có khi là chuyển thế đầu thai của Bạch ngũ gia Cẩm mao thử Bạch Ngọc Đường thời Bắc Tống cũng nên, sau này tiền đồ còn rộng mở, có thể an bang trị quốc nữa.

    Tư Mã Khôi hiểu ra ý đồ của lão Lưu Hoại Thủy, liền chặn màn nịnh hót đang chảy thao thao bất tuyệt, anh đi thẳng vào tình hình thực tế, kể lại chuyện đội khảo cổ tiến vào sa mạc Lopnor lần này, chẳng ngờ vẫn còn giữ được mạng sống trở về, không những không chết mà còn phải xoay vần đến cùng với tổ chức Nấm mồ xanh.

    Bởi vậy, ba thành viên sống sót buộc phải mai danh ấn tính, mọi hành động sau này đều phải tiến hành một cách bí mật, tuyệt đối không được hé lộ bất kì tin tức nào, nếu không sẽ không thể đảm bảo an toàn. Bởi vậy, phải coi như tất cả thành viên của đội khảo cổ đều đã chết mất xác dưới lòng đất.

    Lão Lưu Hoại Thủy sớm thấy Tư Mã Khôi sẽ dự tính làm vậy, nên cũng không bất ngờ. Chỉ có điều đáng lo là hiện giờ Thắng Hương Lân đã mắc chứng trúng độc âm hàn nhiệt, máu tụ trong phổi khó tiêu tan sạch, thường xuyên thổ huyết, liên tục sốt cao không hạ nhiệt. Lão Lưu Hoại Thủy vẫn tưởng nhớ đến ân đức của giáo sư Thắng Thiên Viễn, dựa vào năng lực quan hệ xã hội hiện tại của lão, nếu muốn sắp xếp cho Thắng Hương Lân trốn vào đâu đó ở Bắc Kinh để trị bệnh thì không thành vấn đề.

    Lão còn có thể mời một số bác sĩ thân quen đến nhà chữa trị cho cô, nhưng không biết hai người Tư Mã Khôi và Hải ngọng sau này dự tính thế nào? Đối với Tư Mã Khôi, mạng sống của anh vốn dĩ chỉ là may mắn giữ lại được, nên định chỉ cần lo liệu đâu vào đấy cho Thắng Hương Lân là trong lòng anh không còn điều gì vướng bận nữa.

    Đội khảo cổ đã tìm thấy thác bản Sơn Hải Đồ dưới lòng đất, và cả cuốn sổ ghi cách giải mã chữ triện cổ triều Hạ của chuyên gia tóc bạc. Tiếp sau đây đương nhiên là phải lần theo manh mối nàv để đi tìm con đường nối xuống tâm Trái đât. Có điều, làm bất kể việc gì cũng cần có sự nâng đỡ đầy đủ về mặt kinh phí.

    Ban đầu, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nổi tiếng nhờ vụ bán áo da ngựa Xích Long, kiếm được bộn tiền, nhưng phần lớn số đó đã gửi về quê nhà Tuyệt cho ông nội Tô Lão Nghĩa của cô, phần còn lại thì vừa vặn đủ để mua mấy tấm vé tàu giường mềm. Lúc này, họ đúng là sạch bách không còn một xu, ngay cả nửa cắc cũng không, nên chẳng những không thể trả được món tiền mà anh hứa cho lão Lưu Hoại Thủy lúc gọi điện báo, mà bây giờ còn định mượn lão một món làm kinh phí hành động nữa kia.

    Lão Lưu Hoại Thủy thoáng nghe đến chuyện vay tiền đã ra sức lắc đầu, vừa nói vừa nhăn nhó mặt mày: “Tôi làm sai dịch cho đội khảo cổ thì kiếm được bao nhiêu tiền chứ? Bát gia đừng thấy tôi thường ngày buôn bán tí chút trống bỏi mà nghĩ rằng tôi giàu, mấy năm nay toàn là nhập hàng, có bán ra được món nào đâu, tiền nằm hết vào hàng họ cả rồi.

    Hơn nữa, cậu xem tôi đã từng này tuổi, không thể không ghém chút bạc lẻ trong người để dành mua quan tài được”. Tư Mã Khôi biết loại người như lão Lưu Hoại Thủy là loại giắt tiền vào tận xương sườn, lúc muốn lấy ra phải dùng kìm kéo mạnh, đòi tiền còn khó hơn đòi mạng lão.

    Thế là anh ngọt nhạt: “Lưu sư phụ à! Bác làm gì mà sợ rúm lại thế! Bác cứ để tôi nói hết nhời cái đã, hai gia đình chúng ta giao tình bao nhiêu đời nay, tôi nỡ lòng nào lấy không tiền của bác được?” Hai con mắt lão đảo nhanh một vòng: “Chẳng lẽ trong tay Bát lão gia vẫn còn món hàng gia bảo nào ư?” Tư Mã Khôi nói: “Hàng họ thì chẳng có gì cả, dẫu tôi có muốn giở trò lôi ra đôi ba món hàng giả, cũng đâu qua nổi pháp nhãn của bác.

    Có điều, chuyến đi Lopnor lần này, tôi cũng mang về vài bức thác bản, bác cứ xem qua đi! Xem nó trị giá mấy đồng bạc….” Có gì trên đời mà lão Lưu Hoại Thủy chưa từng xem qua. Lão nghĩ, mấy thể loại như thác bản hay bản mẫu thì có giá trị gì chứ, nên tỏ hết sức thờ ơ. Nhưng khi Tư Mã Khôi rút ra tập thác bản, vừa nhìn vào, hai con ngươi của lão Lưu Hoại Thủy liền bám riết lấy mặt giấy, không thể rời đi chỗ khác được nữa: “Đây là… Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương mà!” Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Lưu sư phụ! Mắt bác độc thật đấy! Đúng là người am hiểu hàng họ! Thế bác thử định giá xem vật này thế nào?” Lưu Hoại Thủy ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Nếu nói về giá trị của nó thì đúng là vô giá.

    Xa xưa, khi hỗn độn còn hợp nhất, chưa phân trong đục, từ lúc Bàn Cô khai thiên lập địa, khí trong bay lên thành trời, khí đục chìm xuống thành đất, thiên địa lại hợp nhất, thai nghén và sinh thành ra vạn vật, sau đó trời xanh rách lìa, huyền thiết tan chảy, mới có sự tích Nữ Oa vá trời, Vũ Vương trị thủy đúc chín đỉnh đồng chia thành chín châu.

    Có thể nói, chín chiếc đỉnh đồng này đều là bảo vật vô giá, chỉ cần xuất thế là sẽ gây chấn động cả thiên hạ. Có điều, đại đỉnh đồng xanh không phải vật phàm tục, người thường đâu dám thu nạp vào nhà, bởi vì pháp luật nhà nước sẽ không dung tha. Huống hồ người bình thường, cho dù bản mệnh gia đình có cứng đến đâu chăng nữa, e rằng cũng không đủ sức trấn giữ được loại báu vật này trong nhà.

    Ngoài ra, tấm bản đồ sông núi trên đỉnh đồng của lão gia lại là thác bản chỉ cần lưu truyền ra ngoài là lập tức bị tùy ý sao chép không thể trở thành bản độc nhất được. Bởi vậy, rốt cuộc vẫn không thể coi nó là bảo vật được. Theo tôi, mấy tấm thác bản này, cùng lắm chỉ đáng giá một đồng mà thôi”.

    Tư Mã Khôi bừng bừng lửa giận: “Vào mồm mấy tên buôn bán trống bỏi bọn lão, thì khắp gầm trời này làm gì có thứ gì tốt. Cho dù tôi có mang cây Phong Hỏa ở Hán cung đến, thì chắc nó cũng không đắt hơn gánh than đá là bao. Thứ mấy ngàn năm chưa từng xuất hiện trong thiên hạ, mà lão chỉ trả có một đồng thôi á? Một đồng thì làm được cái chó gì? Tôi thà trừ đi năm hào, cho nốt năm hào, tặng không lão chẳng phải còn tốt hơn sao?” Lưu Hoại Thủy hoan hỉ ra mặt, vội hỏi: “Thế thì tốt quá, lão gia nói thật không vậy?” Tư Mã Khôi đốp lại: “Thật cái con khỉ! Tôi vốn không muốn nhượng lại cho lão.

    Tôi phải giữ nó lại, sau này còn có việc lớn cần dùng, bây giờ mang ra cho lão xem, cốt chỉ để lão hiểu – dưới lòng đất không chỉ có than quặng, mà còn chôn vùi vô số kì châu bảo vật vô cùng hiếm có khó tìm. Nếu lão có thể giải quyết vấn đề kinh phí giúp anh em tụi tôi, thì bận này đi kiểu gì, tôi cũng mang hàng độc về cho lão”.

    Lưu Hoại Thủy động lòng. Lão cũng biết, phần lớn cổ vật đều bị chôn giấu dưới lòng đất, không phải trong mộ thì cũng ở trong hang động, nếu đi xuống càng sâu thì có càng nhiều báu vật chưa ai biết đến. Việc này không phải là giả. Chỉ có điều, lão lo hội Tư Mã Khôi không tha nổi mạng trở về, như vậy chẳng phải lão tự tay quẳng tiền của mình đi hay sao.

    Sự xung đột tư tưởng đã diễn ra kịch liệt, rồi cuối cùng, tâm lý đầu cơ vẫn chiếm thế thượng phong, vậy là lão Lưu Hoại Thủy nghiến răng, đồng ý với điều kiện mà Tư Mã Khôi đưa ra. Hai người lập tức thỏa thuận ngay trong toa xe lửa, còn thề bồi trang trọng trước huy hiệu Mao chủ tịch.

    Lão Lưu Hoại Thủy kính cẩn cài lại chiếc huy hiệu, rồi nói: “Đây đúng là chân mệnh thiên tử, chúng ta không được giả dối nửa câu trước mặt Người, càng không được thay lòng đổi dạ đâu đấy!”. Sau đó, lão quay sang dặn dò Tư Mã Khôi: “Thời buổi bây giờ không thể so sánh với ngày xưa được, loại hàng họ kiểu đỉnh đồng xanh quả thực rất dễ gây sự chú ý, còn đồ sứ thì dễ vỡ, mang vác trên đường đã không tiện, đem về cũng không dễ giấu.

    Hàng tốt nhất chính là ngọc cổ, người xưa nói: ‘Ngọc bất trác bất thành khí’, nhưng đồ ngọc dưới lòng đất không phải cứ có niên đại càng xa thì càng có giá trị đâu, mà lão gia cần phải biết phân biệt kỹ mới được. Tôi có phương pháp bí truyền đây. Phàm là ngọc tốt, đều phải rắn chắc, sờ vào thấy nhẵn và ấm, cầm lên thấy đầm tay và mịn màng.

    Ngọc nhập thổ càng lâu thì tính chất sẽ dần dần bị thay đổi. Nếu lão gia nom thấy thân ngọc lỗ chỗ, kết cấu lỏng lẻo, thì niên đại nhập thổ của nó đại khái đã 500 năm. Nếu niên đại một ngàn năm, chất ngọc sẽ trở nên giống thạch cao, hai ngàn năm sẽ giống như xương, ba ngàn năm thì nát như bùn đá, niên đại mà lâu hơn thì không còn xuất hiện trên đời, bởi vì nó đã sớm tan thành bùn đất từ lâu rồi.

    Ngọc xuất hiện từ thời tam đại Hạ Thương Chu, chất lượng tuy đã mủn nát, nhưng vẫn còn giữ lại đặc tính của ngọc. Nếu là ngọc già thời Ngụy Tấn, Nam Bắc Triều, thì chất lượng vẫn chưa biến đổi, nhưng đặc tính của ngọc cũng không còn chắc chắn nữa; đôi khi xuất hiện những đồ ngọc mềm cứng lẫn lộn, thì đó chính là cổ vật trong Nam Cương, nếu ai tìm thấy một vật cổ ngàn năm có hình thù giống như khúc xương khô, đỏ au như máu…” Lưu Hoại Thủy đang thao thao bất tuyệt thì bỗng nhiên nhớ ra mình vẫn chưa biết chuyến này Tư Mã Khôi định đến nơi nào, cũng chẳng hay nơi đó có ngọc cổ hay không.

    Tư Mã Khôi đứng bên cạnh, nghe tai nọ lọt tai kia, anh cũng đang định hỏi Lưu Hoại Thủy vài chuyện, liền chỉ tay vào một vật vẽ trên thác bản Sơn Hải Đồ: “Lưu sư phụ! Lão là thổ tặc có thâm niên trong hội hối tử, chắc hẳn phải mắt thấy tai nghe vô số cổ vật, không biết lão có nhận ra vật này rốt cuộc là thứ gì không?” Lưu Hoại Thủy đeo kính lão, nhìn chằm chằm vào tấm thác bản, rồi ngạc nhiên thốt lên: “Cổ vật phác họa trong Sơn Hải Đồ, hình như là một cỗ máy, một cỗ máy… rất to”.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 2: LÃNH ĐỊA THẦN BÍ


    Tư Mã Khôi biết vật thể kì lạ phác họa trên Sơn Hải Đồ có từ thời Thần Nông, và nếu nó là một “cỗ máy” thì chí ít cũng phải có lịch sử cả mấy ngàn năm. Anh thấy việc này quả là không thể lý giải bằng lý lẽ thường, liền thỉnh giáo Lưu Hoại Thủy: “Ông bác nói rõ ra xem nào.

    Tôi muốn nghe cụ thể sự tình”. Lưu Hoại Thủy mím môi rồi nói: “Theo như tôi biết, vật đó quả thực có thật, nhưng niên đại cổ xưa quá, đừng nói một gã đánh trống con như tôi, mà ngay cả bây giờ, ông chủ Viễn dẫu tái thế thì cũng chưa chắc giải thích rõ ràng được. Tôi dốc hết kiến thức về hàng họ ra cũng chẳng sao, nhưng chuyện này thì chỉ là nghe người khác kể lại, không dám bảo đảm nó là thật hay giả, bởi thế, tôi nói thì lão gia cũng chỉ nghe để đấy thôi nhé!” Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, cuốn sổ giải mã trong tay phần đầu ghi bản dịch chữ cồ triều Hạ, hơn nửa sau vẫn còn để trắng, anh liền tiện tay lấy bút ra ghi chép tỉ mỉ những điểm quan trọng mà Lưu Hoại Thủy kể lại.

    Thì ra, tập thác bản Sơn Hải Đồ mà đội khảo cổ mang về từ lòng đất chỉ là 1/9 tấm bản đồ. Những hình vẽ thần bí này ghi chép các loại địa hình địa mạo bên dưới tầng địa biểu và lượng lớn các loại sinh vật cổ đại. Ở khu vực tiệm cận điểm tận cùng, các bức vẽ mô tả một người khổng lồ mọc sừng thịt trên đầu, phía trước bày một vật thể thần bí hình tròn như cái đĩa, nó chia ra thành nhiều tầng, trông vừa giống vừa không giống tòa tháp, nhưng rất cổ quái kì dị, vì khắp thân mình nó khắc toàn những hoa văn phức tạp và thần bí, cũng không biết là kim loại hay đất đá, tứ phía có dị thú quấn quanh, phía trên là một con quái xà nuốt núi đang quây tròn mấy vòng.

    Lúc hội Tư Mã Khôi ở trong thành cổ dưới lòng đất cũng nhìn thấy bức bích họa tương tự như vậy. Căn cứ vào bản giải mã chữ triện cổ triều Hạ, họ biết được, hình người mọc sừng trên đầu chính là thị tộc Thần Nông thời thượng cổ, còn vật thể hình cầu có tên là “nhật quỹ”(1), nó là chìa khóa then chốt thông xuống vực sâu ở tâm Trái đất.

    [1] Nhật quỹ: là một loại đồng hồ mặt trời được dùng từ thời xa xưa, một trong những dụng cụ đo thời gian cổ xưa nhất của nhân loại. Những lời Lưu Hoại Thủy vừa nói về cơ bản khá đồng nhất với những manh mối Tư Mã Khôi đang nắm trong tay, nhưng cũng có nhiều điểm anh chưa hề biết Lưu Hoại Thủy kể rất tường tận.

    Lão nói, những chuyện như “Toại Nhân tạo lửa, Hữu Sào dựng nhà, Nữ Oa vá trời, Phục Hy kết lưới, Thương Hiệt tạo chữ” đều là những sự tích về các bậc đại thánh đại đức thời thượng cổ, nếu không có họ thì đến tận ngày nay chúng ta vẫn còn ăn lông ở lỗ, ngủ vắt vẻo trên cây nữa kìa, phần đông những người thượng cổ này đều có thân hình rất cao lớn, tính tình vô cùng thuần phác, vì họ sống ở thời kì nguyên thủy xa xưa nên hình hài đều giống thú.

    Hậu thế đời sau đã tô tem hóa những bậc cổ thánh tiên hiền này. Bởi vậy, nói đến Thần Nông thị, “Thuật dị ký” đã mô tả họ là đầu mọc sừng, bụng trong suốt như thủy tinh, có thể nhìn xuyên thấu cả gan ruột, bất kể họ ăn gì, đều có thể đứng ngoài trông rõ mồn một, vì thế họ mới có khả năng nếm thử bách thảo và phân biệt ngũ cốc.

    Có điều, lão Lưu Hoại Thủy cũng cho rằng, vị Thần Nông phác họa trên Sơn Hải Đồ có lẽ chỉ là một tọa độ địa lý nào đó, đại khái ám thị một tòa núi lớn nằm dưới lòng đất. Nghe nói, nơi cao nhất của một ngọn núi già là Thần Nông Giá. Đó là ngọn núi cheo leo hiểm trở, cây rừng rậm rạp, từ xưa đến nay đều vắng bóng người lai vãng, vùng này nằm ở cực đông của mạch núi Đại Ba kéo dài.

    Tương truyền, thị tộc Thần Nông đã gá gỗ thành giá đỡ làm nhà nên nơi này mới có tên Thần Nông Giá. Năm 1970, nước ta hợp nhất ba vùng là huyện Phòng, huyện Hưng và Ba Đông thành huyện Thần Nông Giá, cái tên này trước đây là tên núi, sau này lấy thành tên huyện. Tư Mã Khôi nghe đến đây, cảm thấy có đôi chỗ vẫn lơ mơ, anh thắc mắc: “Chỉ thông qua mấy hình vẽ trong thác bản, thì làm sao có thể dễ dàng xác định, nó chính là một tọa độ địa lý?” Lưu Hoại Thủy nói: “Sơn Hải Đồ ghi chép rõ ràng thế còn gì, có điều muốn hiểu tỉ mỉ địa hình địa thế của vùng này, thì trước hết phải xác định được thứ ngoằn ngoèo uốn lượn kia rốt quộc là thứ gì trước đã.” Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Hình như nó là con mãng xà khổng lồ ẩn mình dưới lòng đất, không những vậy thân hình nó còn to lớn dị thường, có thể nuốt trọn cả một trái núi.

    Nhưng nó thì có liên quan gì đến địa hình địa thế ở đây?” Lưu Hoại Thủy nói: “Làm gì có con quái xà nuốt núi nào chứ. Lão gia thử nhìn kỹ lại đi, xem nó còn giống thứ gì khác không?” Tư Mã Khôi ngắm đi ngắm lại tấm thác bản, nếu nói nó là quái xà dưới lòng đất thì cũng chỉ là hình thù đại khái thôi, chứ không thể phân biệt nổi đâu là đầu, là đuôi.

    Nhãn lực của anh rốt cuộc vẫn không thể nhận ra đây là vật thể gì. Lưu Hoại Thủy nói: “Thực ra nó là đường hầm trong lòng núi, tầng nham thạch phía trong xám ngoét, giống hệt khúc ruột lòi ra từ cỗ tử thi, bảo nó giống con mãng xà cũng chẳng saỉ. Nó chính là động huyệt quanh co do thiên nhiên tạo hóa nằm trong núi sâu, cổ nhân gọi nó là Thi Tràng động, tức là hang động ruột người chết.

    Hình núi phía bên trên cũng rất đặc biệt, hóa thạch chôn giấu trong địa tầng nhiều vô kể, loại địa hình địa thế này cực kì hiếm gặp, chỉ trong rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá mới có thôi. Nghe cắc cụ thời xưa kể lại, Thi Tràng động sâu không thấy đáy, điểm tận cùng chắc là thông với núi Âm Sơn, nơi giam hãm linh hồn con người.” Tư Mã Khôi nói: “Nó chẳng phải chính là sơn động hình rắn uốn lượn trùng điệp kia sao? Chẳng lẽ còn sâu hơn cả kính viễn vọng Lopnor nữa à? Theo ghi chép trong sách cổ, vực sâu nhất trên Trái đất chính là vực Cửu Tuyền.

    Nếu tôi nhớ không nhầm, Trang Tử từng nói ‘Viên ngọc đáng giá ngàn vàng chắc hẳn được đặt dưới hàm con hắc long nằm ẩn mình dưới đáy vực sâu Cửu Tuyền’. Điều này chứng tỏ, mọi bảo vật đích thực đều năm ở nơi sâu nhất dưới lòng đất, bởi vậy địa động càng sâu càng tốt”.

    Lưu Hoại Thủy gật đồng tán đồng: “Chuyến này các lão gia đi mà thành công, thì đúng là còn gì bằng, món hàng khủng của tôi coi như cũng có hi vọng gặt hái được. Nhưng lời của Trang Tử còn ám chỉ rõ nơi đó vô cùng hung hiểm. Lão gia đừng quên cổ nhân từng nói ‘dẫu có nến Thiện Chúc, cũng không soi tỏ vực sâu Cửu Tuyền”, đủ thấy dưới lòng đất có những vật tuyệt đối không được nhìn vào, cũng tuyệt đối không được phép tìm hiểu.

    Tôi chỉ mong Bát lão gia ngàn vạn lần đừng một đi không trở về mới hay”. Tư Mã Khôi nghe lão nói mà trong lòng cũng thấy rờn rợn, vực sâu Cửu Tuyền mà cổ nhân dự báo, có lẽ cũng chính là nơi mà Nấm mồ xanh muốn tìm. Anh quay sang hỏi Lưu Hoại Thủy: “Vị trí cụ thể của động Thi Tràng toàn là đường núi cheo leo hiểm trở, biển rừng rậm rạp bao phủ, rất nhiều sườn núi chênh vênh dựng đứng, nếu chỉ dựa vào sức của hai người thì làm sao tìm thấy lối vào của đường hầm? Ngoài ra, cỗ máy mấy ngàn năm kia rốt cuộc là vật gì? Có chắc nó nằm ở nơi sâu nhất trong đường hầm không?” Vì món hàng hời mà Tư Mã Khôi hứa, khiến lão Lưu Hoại Thủy đương nhiên chấp nhận mà moi hết gan ruột ra nói cả cho anh biết.

    Lão bảo: “Chúng ta phải nói từng chuyện một, trước tiên kể về cái gọi là ‘cỗ máy’ hay bảo nó là ‘thiết bị’ thì cũng được. Trừ mấy từ đó ra tôi cũng thực sự không thể tìm ra từ nào thích hợp hơn để hình dung về nó, cổ thư gọi nó là “nhật quỹ” – là vật dùng để đo lường đất trời, nó có khả năng tự vận hành.

    Thời Xuân Thu Chiến Quốc, nó nằm ở nơi sâu trong đường hầm dưới núi Thần Nông Giá. Trên các bức bích họa và ống trúc trong mấy mộ táng Sở Quốc cổ, bị khai quật ” mấy năm gần đây, cũng có những ghi chép liên quan đến vật này, nhưng nội dung rất li kì, thần bí, người đời nay phần lớn không thể lý giải được.

    Vì vùng đất này trước đây từng là biên giới của nước Sở thời xưa, nơi đó các thầy mo rất được trọng dụng. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, hơn sáu mươi vạn quân Tần ào ào kéo xuống phía nam diệt Sở, nhưng chẳng ngờ họ lại không hề tìm thấy kho báu vật hay đồng xanh trong cung của Sở Vương.

    Nghe nói, năm đó tất cả của cải đều được Sở U Vương chôn giấu ở động Thi Tràng, nơi đó lảng vảng toàn bọn ma bay, người sống không ai dám bén mảng đến gần. Hơn hai ngàn năm sau đó, núi cao trở thành vực sâu, biển rộng trở thành cát dày, địa hình địa mạo phát sinh biến đổi to lớn.

    Ngày nay, vị trí cụ thể của con đường hầm trong núi sâu chắc sẽ rất khó tìm, ngoài ra, địa danh động Thi Tràng có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, sau này trong bản đồ của huyện hay địa phương đều không sử dụng tên này nữa. Nó sớm trở thành một lãnh địa thần bí không còn ai biết đến, bởi vậy chỉ cần trên đời này quả thực tồn tại vật đó, thì chắc chắn nó vẫn còn ở trong Thần Nông Giá”.

    Tư Mã Khôi nghe lão Lưu Hoại Thủy kể một hồi vẫn không thể tưởng tượng nổi, nhật quỹ rốt cuộc là thứ gì, chắc năm dài tháng rộng, nên những truyền thuyết cổ xưa cũng đã mất đị nội dung ý nghĩa thực sự. Xem ra, chỉ có tận mắt nhìn thấy, tận tay sờ vào, phải tự mình tìm ra nó trong núi sâu, thì mới có cơ hội giải được câu đố này.

    Căn cứ theo những ghi chép bằng chữ triện cổ, mà tộc người thờ rắn để lại trong mật thất dưới lòng đất, dường như “nhật quỹ” chính là con đường thông tới vực sâu. Đây cũng là manh mối duy nhất mà Tư Mã Khôi có trong tay, nên bất kể kết quả thế nào, anh cũng quyết tâm phải xuống đó thăm dò một chuyến.

    Thế là, đợi sau khi Hải ngọng quay về, mọi người liền tiếp tục thì thầm họp bàn bí mật trong tòa xe. Từ trước tới giờ, Tư Mã Khôi nổi tiếng là người liều mạng, lại có bản lĩnh, anh dự định sửa trộm thư giới thiệu rồi cùng Hải ngọng mạo danh là thành viên đội khảo cổ, trực tiếp tiến vào núi sâu, thăm dò bí mật.

    Vả lại, giờ đây hội anh cần cố gắng mai danh ẩn tính, càng ít người biết càng tốt, vì dao súng dễ tránh, ám tiễn khó phòng, lúc này không thể xác định trong nước còn phần tử mai phục của Nấm mồ xanh hay không, ngộ nhỡ để lọt phong thanh thì khó đảm bảo sau khi vào núi không xảy ra sự cố bất ngờ.

    Lưu Hoại Thủy không tán thành, lão chỉ hi vọng hội Tư Mã Khôi có thể sống sót trở về, và mang theo mấy món hàng độc có giá trị, nên đương nhiên phải sắp xếp mọi việc thật ổn thỏa mới được. Đại Thần Nông Giá nằm ở rốn núi phía tây tỉnh Hồ Bắc, là vùng sơn cước trùng điệp núi cao rừng rậm, rừng nguyên sinh bao phủ quanh năm không thấy ánh mặt trời, tình hình trong đường hầm dưới lòng đất càng không biết thế nào.

    Tuy hội Tít Mã Khôi đều có chút bản lĩnh, nhưng chỉ có hai ngươi vào đó thì có vẻ cũng hơi đơn thương độc mã, e rằng khó thành đại sự; nên chí ít cũng phải trở về Bắc Kinh tính kế lâu dài cái đã, tốt nhất là phải đi tìm mấy vị kì nhân dị sĩ tương trợ mới được. Tư Mã Khôi cũng cảm nhận sâu sắc rằng, lực lượng hiện tại quả thực vô cùng có hạn, nhưng áp lực về thời gian căn bản không cho phép anh trì hoãn thêm nữa.

    Giờ đây có điều kiện cũng đi, mà không có điều kiện thì cũng phải tạo ra điều kiện mà đi. Vả lại, Tư Mã Khôi cũng không muốn để những người không liên quan bị cuốn vào chuyện này, số người chết trong hai chuyến đi trước đã quá nhiều rồi. Trước lúc lên tàu, Thắng Hương Lân còn đang truyền nước, cơ thể vẫn còn rất yếu ớt, nhưng từ đầu chí cuối cô đều lắng tai nghe hội Tư Mã Khôi bàn bạc kế hoạch tiến vào núi Đại Thần Nông Giá.

    Thắng Hương Lân gắng gượng ngồi dậy, nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ tôi đã khỏe rồi. Các anh vào núi tìm nhật quỹ chuyến này là một chuyện vô cùng trọng đại, tôi cũng phải tham gia. Vả lại, trong nhóm mà thiếu thành viên hiểu về kết cấu địa chất, thì khó khăn và nguy hiểm phải đối mặt khi thám hiểm hang động còn gia tăng gấp bội.

    Chúng ta đi cùng nhau ít ra còn có thể tiếp ứng cho nhau, bất kể gặp phải tình huống gì cũng có thể bàn bạc tìm cách ứng phó. Anh cứ yên tâm, tôi tuyệt đối không gây phiền phức gì cho anh đâu”. Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều hiểu rõ tính Thắng Hương Lân, nhìn bề ngoài có vẻ nhu mì ôn hòa, nhưng thực ra cô là người rất cá tính, những chuyện cô đã nhận định là đúng, thì không bao giờ chịu nghe người khác khuyên bảo, cho dù anh không đồng ý thì cô cũng tự mình bám theo, huống hồ để cô ở lại một mình thì đúng là cũng khó mà yên tâm được.

    Lão Lưu Hoại Thủy thực lòng không muốn để Thắng Hương Lân phải mạo hiểm chuyến này, nhưng lời của lão lại càng vô ích, khuyên nhủ mãi không có kết quả, Cuối cùng, lão đành rút ra mấy trăm tiền mặt dùng để mua hàng và tem phiếu của hơn một tạ gạo, tất cả giao cho Tư Mã Khôi, dặn dò anh nhất định phải tìm cách chăm sóc cho Thắng Hương Lân thật chu đáo, còn “hàng độc” để sau nói cũng không muộn, chuyến này đi chỉ cần sống sót trở về là may rồi.

    Hội Tư Mã Khôi tính toán kế hoạch xong đâu đấy thì sắc trời đã nhá nhem tối, đang định nằm xuống nghỉ ngơi thì Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Trước khi tàu về đến thành phố, nhân viên nhà ga chắc chắn sẽ đến toa giường mềm để kiểm tra, cả bốn người chúng ta cộng gộp lại cũng không bằng một cán bộ cấp 13, đến lúc đó chỉ sợ không che giấu được thân phận nữa.

    Hơn nữa, ga Bắc Kinh người đông, tai mắt nhiều, nếu xét đến yếu tố an toàn và bảo mật, thì tốt nhất chúng ta nên xuống xe giữa đường, trực tiếp đi xuống Nam luôn””. Ai ngờ Hải ngọng lại kịch liệt phản đối, anh chàng lớn giọng trình bày một tràng cao kiến. Mở màn là nhắc đến chuyện tàu hỏa, vì Hải ngọng thực sự dành quá nhiều tình cảm cho nó.

    Anh bỗng nhớ lại năm xưa, khi hội anh cùng anh Hạ Thiết Đông nam tiến xuống Miến Điện, khi ấy mọi người làm gì có tiền mua vé, giữa đường khó khăn lắm mới lẻn vào được một toa xe lửa. Chuyến tàu đó đừng hỏi là đã bò chậm đến mức nào, vì cứ đi một đoạn lại dừng một đoạn, chạy ì à ì ạch, đến độ sắp làm con người ta rã hết xương cốt; còn người trên tàu vừa đông lại vừa chen chúc, đến ngay cả chỗ để đặt chân xuống cũng không có, cộng thêm thời tiết oi bức, vợ kêu con khóc, nhộn nhạo cả lên, chỗ nào cũng toàn tiếng gào hét, bầu không khí đặc quánh một mùi quái lạ khiến người ta ngộp thở, cái sự đày đọa đó thật đúng là, tổ cha nó, không thể chịu nổi.

    Thông thường, những chuyến tàu quá tải như vậy, đa số nhân viên nhà ga đều rất lười soát vé, vì dẫu họ có muốn tận tụy với công việc thì cũng đành bất lực, bởi vì không thể chen chân vào nổi. Có điều, chuyến tàu hôm đó vừa vặn lại do tổ nhân viên Hồng Kì phụ trách. Liên đội này liên tục mấy năm liền được vinh dự bình bầu là tập thể tiên tiến, tất cả thành viên đều là nữ, người nào cũng trẻ măng, những cô em này như được tiêm thêm tiết vịt, nên tinh thần hừng hực nhiệt tình, chẳng sợ bẩn thỉu, lộn xộn gì cả, họ chen chúc qua những khe nhỏ giữa đám đông để soát vé.

    Không những vậy, họ còn giúp hành khách chuyển hành lý và mang cả nước uống cho khách, thật đúng là tấm gương sáng lóa cho người khác soi mình vào. Khổ một nỗi, hội Hải ngọng lúc đó lại chỉ sợ bị kiểm tra, rồi tống cổ xuống tàu, nhưng may nhờ anh Thiết Đông đa mưu túc trí, không biết kiếm đâu được một tờ báo rách, mặc kệ mọi người xung quanh có muốn nghe hay không, anh cứ chủ động học tập theo tinh thần của đồng chí Lôi Phong, thực hiện nghĩa vụ đọc báo cho tất 1 khách trên toa cùng nghe, để tuyên truyền tư tưởng, đường cách mạng của Mao Trạch Đông.

    Khi ấy anh Thiết Đông làm bộ như rất nhập tâm, giọng đọc sang sảng, có khi còn ngang ngửa với trình độ của mấy anh phát thanh viên trên đài truyền thanh Trung ương ấy chứ. Mấy cô em soát vé thấy cảnh đó thì vô cùng cảm động, thấy câu thanh niên kia sao mà vừa cao to đẹp trai, tư tưởng lại giác ngộ, ngồi trên tàu mà còn tự giác đọc báo cho quần chúng nghe, tuyên truyền tình thế tốt đẹp trước mắt của cách mạng; người có tư tưởng giác ngộ đến mức ấy thì làm gì có chuyện đi tàu còn trốn vé? Thế là, các cô bỏ qua hội anh, không cần soát vé nữa, mọi người cũng nhờ vậy mới thoát nạn, nhưng lòng vẫn vỗ cùng tự ti, mãi đến tận bây giờ cái bóng đen năm ấy vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong tâm tưởng.

    Thế rồi mọi người trốn khỏi Miến Điện trở về tổ quốc, Hải ngọng lại cùng Tư Mã Khôi lên tàu làm công việc khổ sai, và tất cả ký ức liên quan đến tàu còn lưu lại trong đầu, chẳng cái nào khiến anh muốn nhớ lại, nên bây giờ dẫu nằm mơ, anh cũng không ngờ lại có ngày mình hưởng diễm phúc đi toa giường mềm và sang toa ăn đánh chén một bữa đàng hoàng như thế, bon chen đến được tận bước này, coi như cả đời Hải ngọng cũng không sống uổng.

    Thế mà bây giờ, đít còn chưa ngồi ấm chỗ, nỡ nào lại bắt anh phải xuống tàu giữa chừng cơ chứ? Hải ngọng vừa nói đến đây, lão Lưu Hoại Thủy đột nhiên đứng bật dậy: “Nghe cậu nhắc đến tàu hỏa, tôi chợt nhớ ra một chuyện quan trọng”. Hải ngọng còn đang hậm hực, bị Lưu Hoại Thủy cắt lời, liền thể hiện luôn thái độ bất mãn: “Trí nhớ của lão kiểu gì vậy! Tôi không nói lão cũng chẳng nhớ ra, sao hễ tôi nói một cái là lão đã nhớ ra luôn thế hả? Tôi thấy Lưu sư phụ hình như hơi mắc chứng lẩn thẩn của người già thì phải, cứ đà này thì đúng là cách giai đoạn đánh trống thổi kèn chẳng mấy hồi nữa đâu, nhân lúc đầu óc còn minh mẫn, lão mau về mua hai trái bi sắt, để lúc rảnh rang nắm trong tay mà xoa đi xoa lại….” Tư Mã Khôi liếc xéo Hải ngọng một cái, ra hiệu bảo anh lát nữa hãy nói, sau đó quay sang hỏi Lưu Hoại Thủy: “Chuyện ông bác định nói, là chuyện tốt hay chuyện xấu vậy?”.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 3: CHUYỆN QUÁI DỊ TRONG LÂM TRƯỜNG


    Yacute; của Tư Mã Khôi là: “Chuyện tốt thì lão hãy nói, còn như chuyện xấu thì xin miễn, tôi nghe xong lại thêm đau đầu”. Lão Lưu Hoại Thủy cũng không chắc lắm: “Luận theo lẽ thường thì đó là chuyện tốt. Nói sao nhỉ? Tôi vừa nghe Hải lão gia nhắc đến tàu hỏa, liền nhớ ra mình có đứa cháu con bà chị ruột, nó họ Bạch, trước đây là bộ đội công trình.

    Hồi xưa từng tham gia chiến tranh Triều Tiên, còn đội bom Mỹ, sửa cầu trên sông Áp Lục nữa đấy, sau này trở thành bộ đội chuyên nghiệp, được phân công quản lý ngành đường sắt địa phương, vì biểu hiện xuất sắc trong thời kì cách mạng văn hóa, nên được bổ nhiệm làm lãnh đạo ủy ban cách mạng huyện.

    Khu vực nó quản lý vừa vặn lại chính là thị trấn Thương Bách, huyện Thần Nông Giá. Tôi có thể viết phong thư bảo nó nghĩ cách quan tâm đến các lão gia một chút; có điều… có điều phần tử bất hảo như tôi, chỉ e bây giờ nó không thèm nhận người cậu ruột này nữa”. Tư Mã Khôi thấy chuyện này có còn hơn không, được thì quá tốt mà không được cũng chẳng sao.

    Thế là, anh liền tìm giấy bút đưa cho Lưu Hoại Thủy, bảo lão mau viết thư, rồi kẹp vào cuốn sổ giải mã mang theo bên mình. Đêm hôm đó, mọi người nghỉ ngơi trên chuyến tàu đường dài. Ngày hôm sau, cả hội từ giã lão Lưu Hoại Thủy, giữa đường chuyển tàu vào nam. Thần Nông Giá nằm ở rốn núi phía Tây tỉnh Hồ Bắc, vùng thâÂm Sơn này giao thông vô cùng lạc hậu, nên căn bản không hề có đường sắt.

    Đến huyện Phòng, hội Tư Mã Khôi đành xuống tàu, rồi dừng chân nghỉ ngơi ở huyện suốt mấy ngày liền, thứ nhất là dành thời gian cho Hương Lân điều dưỡng cơ thể, phục hồi nguyên khí, thứ hai là cần phải chuẩn bị một vài thứ trước khi tiến vào núi. Lúc trước, Tư Mã Khôi sợ giữa đường có người kiểm tra, nên đã đem tất cả mấy khẩu súng xung phong Liên Xô, mang về từ kính viễn vọng Lopnor, vùi xuống sa mạc, bây giờ trên người chỉ sót lại ba con dao săn, mũ Pith Helmet, mặt nạ phòng độc hình mang cá, kính chắn gió, thảm chắn cát; ngoài ra thì cũng chỉ có mấy vật phẩm như: la bàn, diêm chống ẩm, máy ảnh, ống nhòm, nến tín hiệu, thuốc đuổi côn trùng, thiết bị lọc, băng dính, bình nước quân dụng, hòm cứu thương.

    Khi ấy, mệnh sắp đoạn mà vẫn tiếc không nỡ vứt đi, bây giờ đúng là phải dùng đến chúng thật. Huyện lị thiếu thốn đủ các loại vật tư nhưng đèn cácbua thì không thiếu, đến nỗi tối muộn rồi mà người dân vẫn thắp đèn sáng trưng. Vả lại địa phương cũng có khá nhiều mỏ quặng, nên các thiết bị chiếu sáng như đèn quặng được bổ sung đầy đủ.

    Để đề phòng gặp mưa trong núi, Tư Mã Khôi liền làm theo cách dân dã của đội du kích Miến Điện, lấy áo mưa tự chế thành túi chống nước rồi trùm lên ba lô. Ngoài ra, anh còn chuẩn bị một đống lương khô và thuốc lá thơm. Tư Mã Khôi ra cửa hàng bách hóa mua mấy đôi ủng và dây thừng dài, đồng thời tìm một bác thợ rèn đánh cho mấy cái móc câu nối vào dây thừng.

    Thứ duy nhất không kiếm được là vũ khí, đạn dược. Hội Tư Mã Khôi vẫn chưa biết tình hình trong núi ra sao, không có súng ống thì làm sao lòng đảm và dũng khí vững vàng lên được, có điều vấn đề này lại chẳng có cách nào giải quyết, đành đến đâu hay đến đó vậy. Trước lúc xuất phát, Tư Mã Khôi dẫn Hải ngọng và Thắng Hương Lân vào phòng tắm nước nóng.

    Đây là nhà tắm duy nhất trong huyện thành, còn gọi là hồ tắm Đông Phong, lấy tên từ nghĩa câu thơ “Đông phong áp đảo tây phong”. Tiệm này có từ mấy chục năm trước, lúc đó người phương Bắc đến lâm trường lao động tương đối nhiều, nên họ mới cho xây nhà tắm. Hồ tắm Đông Phong được xây dựng rất sơ sài, cũ kỹ, lâu ngày không được sửa chữa, quy mô lại khá nhỏ, bên trong đốt cái nồi hơi nho nhỏ, cả bên nam và bên nữ cộng gộp lại, diện tích cũng chỉ đủ cho mười mấy người tắm là đã chật ních.

    Hồi ấy, những mục như kì cọ, ấn huyệt bàn chân trong nhà tắm, bị quy kết là loại hình phục vụ chỉ dành cho các đối tượng chuyên chính văn hóa, nên tất cả đều nhất loạt bị hủy bỏ. Nhân viên chuyên kì cọ ngày trước, bây giờ chuyển nghề thành nhân viên chuyên đốt nồi hơi, bất kể có khách hay không, bác ta đều được nhận tiền lương hàng tháng, kĩ năng xoa bóp bấm huyệt cũng sớm bị bỏ phí bao năm rồi.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng không biết bên Thắng Hương Lân tắm ra sao. Tóm lại, hai người bọn họ huyên thuyên suốt hồi lâu, tâm sự cả đống chuyện, rồi hút mất nửa bao thuốc, sau đó mới gọi sư phụ xoa bóp bấm huyệt ra để cọ lưng giúp. Hải ngọng tự nhận mình là thành viên đội khảo cổ, quay sang giải thích với sư phụ bấm huyệt: “Bọn con tắm táp thế này hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu công tác cách mạng đấy chứ.

    Vì một chuyến đi dã ngoại chỉ ít cũng phải hút một hơi dăm bữa nửa tháng, gặp lúc điều kiện sinh hoạt gian khổ, không khéo còn chẳng rửa được mặt cơ, bởi vậy, tụi con phải làm vệ sinh cá nhân thật sạch sẽ trước khi lên đường”. Rồi anh dặn đi dặn lại vị sư phụ cọ lưng: “Bố cứ kì thật mạnh tay vào! Cọ cho bay luôn hai lớp da mới đã, tắm rửa sạch sẽ xong, bọn con lại phải nhảy vào biển lửa liền.

    Lần tắm sau… con mẹ nó, còn không biết phải đợi đến bao giờ!”. Vị sư phụ thấy thân thể hai người chi chít vết dao đâm súng bắn, thì không khỏi cảm thấy vừa kì lạ vừa ngạc nhiên, tuy nghi hoặc nhưng không dám hỏi nhiều, chỉ mong hai gã này tắm táp cho thoải mái rồi mau mau cuốn xéo.

    Ba người đi ra khỏi hồ tắm Đông Phong, thấy cả người nhẹ bẫng, cảm giác dường như được thay da đổi thịt. Mọi người sang vệ đường đi nhờ chuyến xe ngựa thồ gỗ. Thần Nông Giá là ngọn núi cao 3000 mét, so với mặt nước biển, hình thế nguy nga, cây rừng rậm rạp, vùng này được mệnh danh là nóc nhà Trung Hoa; con đường dẫn vào núi vô cùng gập ghềnh, rung lắc, khiến người ta liu diu muốn ngủ, nhưng vừa nhìn vào trong núi, hội Tư Mã Khôi đều trơ mắt ra.

    Trước khi đến đây, nghe nói độ che phủ của rừng rậm ở núi Thần Nông Giá rất cao, rừng nguyên sinh che khuất bầu trời, nhấp nhô trải dài theo địa hình núi, những gì nhìn thấy ven đường cũng chỉ toàn núi non hùng vĩ, khe suối chảy róc rách, nhưng cũng có khá nhiều núi trọc, khu vực có cây rừng phần đa là rừng tái sinh, khắp núi rừng đâu đâu cùng thấy những gốc gỗ tròn, rõ ràng ở đây hàng năm đều bị chặt phá với quy mô lớn, địa hình địa mạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng, lòng núi dần trở nên rời rạc, vụn vỡ.

    Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng vậy liền muốn hỏi dò tình hình trong núi. Anh lân la gợi chuyện bác phu xe: “Đồng chí cựu binh này! Tôi thấy cỗ xe của bác nom cũng lớn ra trò đấy nhỉ!” Người đánh xe trạc ngoại ngũ tuần, thời kì chiến tranh giải phóng từng là anh nuôi trong một đơn vị bộ đội nào đó, thời bình thì phục viên và an cư lạc nghiệp ở đây, con người trông có vẻ rất đỗi thuần phác, nhưng thực ra lại là một tay tán chuyện bẩm sinh, chỉ cần mở mồm ra là không khóa lại được.

    Bác ta nói cỗ xe này thì làm được trò trống gì. Nhớ năm đó, bộ đội giải phóng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây, tụi tôi toàn đội mũ lông, dắt hàng loạt gia súc cỡ lớn đến kéo pháo, chẳng phải loài ngựa Đại Dương của Nhật Bản thì cũng là họ la cỡ bự của khọm Mỹ.

    Bọn chúng đều được tuyển chọn từ vùng Đông Bắc đem xuống, thức ăn cho chúng thì ngon khỏi chê, mà sức kéo cũng miễn bàn luôn, đâu giống con súc sinh này, mới kéo vài khúc gỗ mà đã thở hồng hộc. Bây giờ phần lớn lâm trường đều đã đình công, nếu không thì làm gì đến lượt đời nó được hưởng phúc nhàn thế kia? Mấy năm trước, cuộc cách mạng gang thép bùng nổ, bao nhieu cây rừng bị đốn chặt, lâm trường nọ mọc san sát lâm trường kia, gỗ chở nườm nượp không ngớt.

    Cũng trong mấy năm đó, không biết bao nhiêu rừng rậm nguyên sinh hóa thành núi trọc, bây giờ cây rừng trên núi toàn là loại cây tái sinh thưa lớt tha lớt thớt. Có điều, cũng may nhờ phúc chuyện này nên vùng núi mới được tu sửa đường xá, nếu không thì ngay cả chuyện ra khỏi cửa cũng không dám nghĩ đến, nên ai đến được huyện lị thì đúng là oai khỏi phải bàn, coi như là được mở mắt nhìn thế giới rộng lớn, để lúc trở về tha hồ khoác lác suốt mấy năm, còn đến được tỉnh thành coi như một lần xuất ngoại, và nếu ai mà sang được tỉnh khác, thì chắc người đó cả đời không trở về quê hương bản quán nữa, bởi ở đây có rất nhiều người từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ rời khỏi miền sơn cước này.

    Tình hình có chút ngoài dự tính, Tư Mã Khôi không ngờ quy mô khai thác gỗ lại rộng lớn chừng ấy, anh hỏi bác bộ đội già: “Thế bây giờ quả núi lớn này bị đốn sạch hết rồi sao?” Ông bác cựu binh nói: “Tít sâu trong cánh rừng Thần Nông Giá vẫn còn rất nhiều nơi không thể chặt gỗ, vì có đốn đổ cây cũng không vận chuyển ra ngoài được.

    Đi qua eo núi dưới chân ngọn núi chính Thần Nông Giá, khu vực phía tây bắc toàn là khe sâu vách đá cheo leo, ở đó mới đích thực là rừng sâu núi thẳm, khó tìm thấy dấu chân người. Nơi đấy có rất nhiều cây bách cổ không biết sống mấy ngàn mấy vạn năm, thân cây to hơn chục người ôm không xuể.

    Trong đó thường xuất hiện nhiều loài chim quý hiếm và loài thú kì dị, như là khỉ lông vàng, thú một sừng, sói đầu lừa, rắn mào gà, còn có gấu trắng, báo, bạch xạ hương… Cậu có giơ hết cả mười đầu ngón tay lẫn mười đầu ngón chân cũng không đếm đủ đếm đâu”. Tư Mã Khôi nghe nói nơi này vẫn còn được bảo tồn trạng thái nguyên thủy trong núi sâu, nên lòng cũng yên tâm hơn rất nhiều.

    Anh tiếp tục dò hỏi: “Trong rừng già có an toàn không bác?” Ông bác cựu binh lắc đầu: “Ối trời! Nguy hiểm lắm! Ngần ấy năm, tôi sống trong rừng rậm cũng đâu phải là ít, nhưng cũng chỉ vào trong đó một lần duy nhất hồi tiễu phỉ thôi. Để tôi kể cho các cậu nghe, tương truyền trong núi Thần Nông Giá có người rừng đấy, nhiều người già sống trong rừng từng nhìn thấy dấu chân của người rừng, nhưng chưa ai tận mắt nhìn thấy bóng dáng người rừng thật, chỗ chúng tôi có nơi gọi là Yến Tử Ô, đó chính là nơi người rừng thường lảng vảng.

    Địa hình ở eo núi này thực sự vô cùng hiểm yếu, nhìn xuống cũng đủ khiến người ta rụng cả tim ra ngoài, chỗ hẹp nhất của vách đá cheo leo phía trước núi chỉ vừa cho một con én bay qua, trong khi phía sau núi lại là vực sâu dựng đứng, đúng là một nguời gác cửa, ngàn người không dám bước vào, thần quỷ trông thấy cũng phát ớn.

    Nhưng nếu cậu muốn lên đỉnh núi thì chỉ có mỗi con đường eo núi ấy mới leo lên được thôi. Năm đó, quân giải phóng dồn hàng ngàn tên thổ phỉ phải rút lên núi, bọn chúng chuẩn bị trước rất nhiều nước và lương thực, đủ để duy trì suốt mấy năm, chúng còn rêu rao sẽ tử thủ ở Yến Tử Ô, và khiến tất cả quân cộng sản muốn tấn công lên núi phải phơi thây giữa đồng hoang.

    Từ các triều đại cổ xưa trong lịch sử, hễ thổ phỉ bị quan binh truy bắt, chúng đều rút vào núi sâu, tử thủ ở eo núi vì người dưới chân núi không làm gì được, nên chúng mới ngang nhiên ngông cuồng như vậy”. Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe đến chuyện này thì vô cùng phấn khích, dẫu biết rõ quân giải phóng đã sớm tiêu diệt hết bọn thổ phỉ từ lâu; nhưng, xem ra độ khó của chuyến diệt phỉ này dường như còn ghê gớm hơn cả vụ “mưu chiếm Hoa Sơn” của đảng Cộng sản năm 1949, phải dùng chiến thuật cao siêu thế nào mới có thể công phá được địa hình hiểm yếu đó? Ông bác cựu binh nói: lũ thổ phỉ chăng qua chỉ là đám ô hợp, tưởng ràng lúc ấy hãy còn ở triều đại Thanh chắc, tụi tôi chỉ sợ bọn thổ phỉ tản ra, hợp thành nhóm dăm ba người lẩn trốn vào rừng già núi sâu thì không dễ đối phó, nhưng nếu cứ túm tụm cả toán quân ở đầu núi thì chẳng phải tự mình đào hố chôn mình sao? Lũ phỉ tưởng bọn tôi không có mưu lược gì đối phó được với bọn chúng chắc? Binh đoàn bốn đã đánh xuống tận thành Cẩm Châu và Thiên Tân, thì lũ thổ phỉ này nhằm nhò gì.

    Lựu đạn 105 do Mỹ sản xuất, của pháo binh chúng ta đâu phải hạng tôm tép tầm thường, rồi ngay cả hiệu lệnh cũng không buồn hô, liền trực tiếp đặt luôn súng lên ngọn núi đối diện mà khai hỏa. Trái pháo làm ngọn núi rung chuyển, xác đạn rơi vào đám người, tên nào tên nấy đầu óc nở hoa tùm lum, rồi chưa đầy hai phút sau, đã thấy cờ trắng đầu hàng giương phất phơ trên đỉnh núi.

    Lúc bộ đội tụi tôi lên trên đó lùng quét tàn quân phỉ, mấy chiến sĩ trong đội đã gặp phải người rừng ở ngay bờ vực sâu phía sau núi. Do hai bên gặp nhau quá bất ngờ, nên hai bên đều sợ hết hồn. Tên người rừng đó cao to lực lưỡng, có khi phải cao gấp rưỡi người thường, lông đen rậm kín toàn thân, cũng không rõ mặt mũi thế nào, trông nó giống vượn hơn là giống người.

    Nó giơ tay tóm một chiến sĩ, trực tiếp vứt luôn xuống vực, chiến sĩ còn lại chưa kịp nổ súng đã quần thảo thành một đống với tên người rừng, rồi cả hai cùng lăn lông lốc xuống vực. Sau này, trinh sát quân ta men theo đường vòng xuống dưới lục soát, nhưng tìm kiếm suốt một ngày trời, vẫn không thấy thi thể ở đâu, có lẽ đi bị dã thú trong núi tha vào rừng ăn thịt mất rồi.

    Có người phỏng đoán, tình hình lúc đó quá đột ngột nên mọi người hoa mắt nhìn chẳng rõ, chứ không chừng thứ họ gặp bên bờ vực là gấu cũng nên; thế nhưng cái ngữ ấy chân tay vụng về, thì làm sao mà trèo lên tận bờ vực cao thế này. Có người lại cho rằng, sau khi thi thể bị rớt xuống, cổ của nạn nhân bị mắc vào cành cây, chim rừng lại nhiều vô kể, nên chẳng cần tốn bao nhiêu thời gian chúng sẽ rỉa sạch cái xác thành bộ xương khung.

    Tóm lại, người ta đưa ra rất nhiều cách giải thích, nhưng cho đến tận bây giờ, đó là lần bọn người rừng tiến sát núi Thần Nông Giá nhất, đáng tiếc là bọn chúng sống không bắt được người, chết không tìm thấy xác. Ông bác cựu binh nói đến đây thì hỏi Tư Mã Khôi: “Các cậu định khảo… khảo cái cổ của ai vậy? Định lên đỉnh núi để làm gì? Chẳng lẽ định tóm cổ người rừng đấy phỏng?” Tư Mã Khôi chỉ sợ lộ chân tướng, vội vàng dùng mấy từ sách vở giải thích cho qua mắt: “Định nghĩa về khảo cổ rộng lớn lắm ông bác ạ! Chỉ 1% quá khứ của nhân loại được ghi chép thành tư liệu, số còn lại vẫn là những ẩn số chưa có lời giải; phải vén bức màn bí mật đó lên, chính là bài toán mà công tác khảo cổ cần nghiên cứu.

    Có điều, anh em bọn tôi đi Thần Nông Giá chuyến này không phải để tìm di tích lịch sử, mà để sưu tầm các tiêu bản hóa thạch nằm bên dưới địa tầng. Có phải hóa thạch trong cánh rừng rậm nguyên sinh đó nhiều lắm đúng không, ông bác?” Ông bác cựu binh gật đầu: “Tất nhiên là nhiều vô kể, chỉ cần nghe cậu nói là tôi biết ngay cậu là người trong ngành.

    Mấy năm trước, cũng có một phần tử trí thức đến lâm trường tìm tiêu bản, nói với chúng tôi ngọn núi này là cái gì mà… mà… bản ghi nhớ của thời đại hồng hoang viễn cổ, hình như là mấy từ đấy. Nhưng bản ghi nhớ chẳng phải là văn tự ư? Sao nó lại có thể là một ngọn núi được nhỉ?” Ông bác cựu binh nói đến đây thì không gạn hỏi thêm nữa, mà bảo hội Tư Mã Khôi, dưới ngọn núi Long Cốt nằm sau đỉnh Thần Nông có rất nhiều động huyệt, bên trong có các loại hóa thạch, hình dạng kì dị cổ quái, người bản địa gọi chung tất cả những thứ đó là long cốt, nhưng cũng có một nơi khác tụ tập chi chít hóa thạch, tên gọi m Hà Cốc, mà lối vào là một khe sâu, đi mãi xuống dưới có rất nhiều ác thú, còn có độc trùng, độc thảo nữa.

    Trước giải phóng, nghe nói nơi này xuất hiện cả người rừng, ngay những người hái thuốc cũng không dám mạo hiểm thò mặt xuống. Năm 1963, lâm trường chúng tôi ầm ĩ mãi vì một vụ án mạng: Khi ấy, công việc ở lâm trường rất cực nhọc, điều kiện chỗ chúng tôi lại thấp kém, ngoài bộ đội chuyên ngành thì còn lại toàn công nhân đốn gỗ ngoại tỉnh đến.

    Cái hay ở đây là, chỉ cần anh chịu đến thì sẽ có cơm cho anh ăn, không ai tra xét lý lịch tổ tông tám đời nhà anh cả, bởi vậy thành phần công nhân đốn gỗ khá phức tạp, ngay cả phạm nhân hết hạn tù được phóng thích cũng có. Ở lâm trường thỉnh thoảng cũng có khi được nghỉ ngơi, những lúc đó một số công nhân thường vào núi hái nấm bẫy thỏ để cải thiện bữa ăn.

    Bận ấy, bốn anh công nhân đốn gỗ vòng qua Yến Tử Ồ, trực tiếp tiến vào vùng lân cận m Hà Cốc, thấy ở khe đất dưới đáy vực sâu có sương đen bay mù mịt. Trong bốn công nhân, có một người biệt danh là ‘Khỉ Già’, gã này hiểu chút ít các phương thuật mê tín thời xã hội cũ, biết nhìn thế núi, đoán khí trời.

    Gã lim dim hai mắt một hồi, rồi phán: khí đen kia là bảo khí, dưới chân núi chắc chắn có bảo vật. Ba người còn lại không tin. Nơi này núi cao rừng thẳm, từ xưa đến nay đều vắng bóng người, nếu có bảo vật thật thì chắc cũng chỉ là hà thủ ô ngàn năm mọc trên vách núi, chứ trong hốc núi thì có nổi thứ gì? Tốt nhất đừng có làm kinh động đến bọn mãnh thú, bọn nó mà ra thì tan xác! Gã Khỉ Già nói: “Các cậu thì hiểu quái gì! Đừng nghĩ ngọc chủ yếu có nguồn gốc từ Côn Luân, Hòa Điền, Miên Điện… chứ miếng ngọc bích họ Hòa, có giá trị bằng mấy tòa thành, tìm thấy thời Xuân Thu Chiến Quốc, đích thị xuất thân từ m Hà Cốc ở Thần Nông Giá chúng ta đấy.

    Chỉ riêng chuyện này cũng đủ cho các cậu thấy nơi này đáng giá thế nào rồi chứ?” Nhưng ba người còn lại đều là hạng phàm phu tục tử, mù văn hóa, họ làm sao biết mảnh ngọc bích họ Hòa là thứ gì, món đồ chơi này làm bằng vàng hay bằng bạc. Khỉ Già chỉ nói: “Tóm lại, chiêu này của tôi chắc chắn không lầm đâu, dưới kia khẳng định là có thứ gì đó rất ghê gớm, ai muốn hưởng vinh hoa phú quý thì theo tôi, bất kể tìm thấy thứ gì, chúng ta cứ chia đều theo đầu người”.

    Khi đó, có một gã tên Nhị Lãn Tử, nổi tiếng liều mạng, đồng ý đi cùng hắn. Hai người họ thắt dây thừng ngang lưng, để đồng bọn đứng bên ngoài rồi thòng dây xuống. Hai người mang theo khẩu súng bắn chim, đốt đuốc dầu cây tùng vào hang động. Kết quả, bọn họ đã xảy ra một chuyện quái lạ mà mãi đến tận bây giờ vẫn không thể giải thích.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 4: TRAO ĐỔI


    Hai người đứng bên ngoài chờ đợi mãi không thấy động tĩnh gì, hét gọi cũng không nghe hồi đáp, giật dây thừng cũng yên ắng bất động. Bọn họ cho rằng đã xảy ra chuyện xấu, đang định nghĩ cách quay về báo cáo với đơn vị, thì đúng lúc này Khỉ Già trèo lên. Hắn bảo tìm thấy một vật rất quý nhưng vì nặng quá, hai người vần mãi không xong, nên nhờ những người còn lại xuống giúp sức, bây giờ Nhị Lãn Tử vẫn ở dưới đó canh chừng.

    Hai người kia nghe nói vậy thì động lòng, cũng không nghĩ ngợi gì nữa, chỉ hỏi một câu: “Trong động có an toàn không?” Khỉ Già nói: “Nó là cái hố có đáy khá chắc chắn, chẳng thấy bóng dáng con vật nào cả”. Hai người kia thấy tiền thì nổi máu tham, lập tức bạo gan cùng đi với hắn.

    Xuống dưới đó chẳng bao lâu, thì lão Khỉ Già lấy súng bắn chim đốn ngã một tên, tên còn lại sợ đực mặt ra, chưa kịp hiểu ra chuyện gì, đã bị một dao đâm trúng tim. Thì ra, gã Khỉ Già là dân ngoại tỉnh, sớm biết trong núi Thần Nông Giá chôn giấu minh khí đồng xanh, chỉ cần tìm thấy một món rồi trốn ra nước ngoài, thì cũng đổi được khoản tiền kếch xù.

    Khổ nỗi, hắn lại không thông đường thuộc lối, cộng thêm cánh rừng rậm nguyên sinh này đâu phải dễ chơi. Thế là, trước tiên hắn trà trộn vào lâm trường làm lụng một thời gian, rồi rủ hội Nhị Lãn Tử, những người dân bản địa đã thạo địa hình, dẫn hắn vào núi. Sau khi tìm thấy vật cần tìm, hắn lập tức ra tay giải quyết nhanh gọn ba gã đen đủi, tiếp theo đó vượt núi định trốn về phía nam, chẳng ngờ giữa đường thì bị tóm cổ.

    Lúc ấy, hắn mới khai ra chuyện này. Nhưng, khi công an vào núi tìm kiếm thi thể người bị hại, thì nước mưa đã xói lở sườn núi, lấp kín cửa động, bởi vậy không tìm được xác. Nếu cứ vậy mà khép lại vụ án thì chẳng có gì đáng bàn. Điều đáng bàn là, địa điểm bắt được gã Khỉ Già trên tàu hỏa.

    Khi đó, có hai nhân viên nhà tàu đến soát vé, thấy hành tung tên Khỉ Già lén la lén lút, trông rất khả nghi, vì hai mắt cứ láo liên, tay lại ôm khư khư một bọc rất to, nên hai anh liền lại gần hỏi hắn mấy câu, đồng thời yêu cầu cho kiểm tra hành lý. Khỉ Già có tật giật mình, lập cà lập cập mở bao hành lý ra.

    Nào ngờ, hắn đột nhiên ném vụt thứ bên trong ra ngoài cửa sổ. Lúc ấy, đoàn tàu đang băng qua cầu, dưới chân cầu là dòng sông nước chảy cuồn cuộn, có vẻ rất xiết. Vật bị ném xuống có mà tìm đàng trời. Hắn nhất thời hoảng hốt, đã tiêu hủy chứng cứ, nhưng nhân viên soát vé và các hành khách xung quanh thì thấy rõ mồn một, vật Khỉ Giả ném đi là xác một đứa bé, chứ nào phải minh khí đồng xanh gì, hai thứ ấy khác nhau một trời một vực, dẫu có cận thị cũng đâu thể nhìn lầm được chứ? Có điều, mặc cho cảnh sát liên tục thẩm vấn, Khi Già chỉ nhận mình đã sát hại ba mạng, còn chuyện kia thì khăng khăng không chịu nói thật, một mực bảo mọi người trên tàu nhìn lầm.

    Khi đó, cả nước đang dấy lên phong trào trấn áp, thanh trừ phản động, nên trong tình hình đó, bất kể Khỉ Già phạm phải điều luật gì, thì tội ác của hắn cũng không thể dung tha. Hắn mau chóng bị áp giải ra pháp trường xử bắn; còn chuyện Khỉ Già rốt cuộc đã tìm thấy thứ gì trong núi, có lẽ chỉ một mình hắn mới biết rõ mà thôi.

    Ông bác cựu binh nói với hội Tư Mã Khôi: “Các đồng chí trong cục cảnh sát đã vào núi tìm chứng cớ, bốn năm đồng chí đội mũ bằng, tá túc ở lâm trường tụi tôi; tôi toàn nấu cơm cho các đồng chí ấy ăn. Lúc ăn cơm, nghe các đồng chí ấy kể rất nhiều tình hình, nên tôi mới biết tường tận từng chi tiết như vậy.

    Tôi cũng biết gã Khỉ Già đó, hắn đáo để lắm, cũng lên bắc xuống nam suốt, biết rất nhiều chuyện trên trời dưới bể, đáng tiếc là cái bụng hắn xấu quá, có bản lĩnh nhưng không đi con đường chính đạo, cuối cùng phải đền bằng chính mạng sống của mình”. Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe xong, đều cảm thấy chuyện này quá là tà mị.

    Nếu vật gã Khỉ Già ném xuống sông từ toa tàu hỏa là xác đứa trẻ, thì vì sao hắn lại không thừa nhận? Hắn đã mang trọng tội sát hại ba mạng người, thì cho dù giữa đường có hại chết thêm một đứa trẻ, hoặc là lén vận chuyển thi thể của đồng nam đồng nữ xuống phía nam, thì chung quy cũng vẫn mắc tội chết, hà cớ gì còn không chịu nói thật cơ chứ? Tư Mã Khôi nghe nói, trước đây có một cuốn du ký, kể về một nhà thám hiểm người Ý, tên là Marco Polo.

    Thời Nguyên, Marco Polo theo đoàn thương nhân bộ hành vạn dặm đến Trung Quốc, ông từng diện kiến Hốt Tất Liệt. Sau khi trở về quê hương, ông đã tập hợp tất cả những chuyện kì lạ mắt thấy và tai nghe dọc đường và ghi chép lại trong cuốn du ký, những chuyện trong đó đã gây chấn động rất lớn.

    Nhưng, trước lúc lâm chung, Marco Polo đã nói: những điều mình viết lại chỉ là một nửa những gì mình tận mắt nhìn thấy, còn một nửa còn lại ông thà để nó mục ruỗng trong bụng chứ không muốn để bất kì ai biết; bởi cho dù có nói ra thì cũng không ai dám tin. Chẳng lẽ gã Khỉ Già bị xử tử kia, cũng phát hiện thấy thứ gì đó trong núi sâu, thứ mà… không một người nào dám tin? Ông bác cựu binh thấy thần sắc Tư Mã Khôi hiện rõ vẻ bất an, liền nói: “Tuy bây giờ nhắc lại vẫn khiến người ta rùng mình, nhưng chuyện này rốt cuộc cũng đã trôi qua bao năm rồi, bây giờ chỉ là tào lao ngồi kể lại thôi, ai còn quan tâm ngọn nguồn gốc rễ của nó nữa chứ; vả lại chuyện quái dị trong lâm trường nhiều vô kể, sau này có thời gian tôi sẽ từ từ kể cho các cậu nghe…”, nói đến đây, ông bác hỏi Tư Mã Khôi: “Cô gái ngồi cạnh cậu, nom khí sắc có vẻ không được tốt lắm nhỉ!” Lúc này, trời đã chuyển giữa thu, không khí trong núi lành lạnh.

    Cơ thể Thắng Hương Lân yếu ớt, cô che cuộn chăn len lên ngực, tựa người cạnh ba lô, mê man chìm sâu vào giấc ngủ, gương mặt trắng bệch như không còn sắc máu; cũng không rõ cô mơ thấy gì mà khi ngủ vẫn còn nhíu chặt hai mày, tình hình sức khỏe của cô trông có vẻ rất tệ. Tư Mã Khôi thở dài đáp: “Không nhắc đến thì thôi, cứ nhắc đến là tôi lại rầu hết cả ruột.

    Cách đây không lâu, cô ấy bị trúng khí độc hàn nhiệt trong sa mạc, thỉnh thoảng lại thổ huyết đen, tìm thầy thuốc chữa trị mấy bận rồi, nhưng đến nay vẫn chưa thấy biến chuyển gì, nên đã bảo đừng đi theo tụi tôi vào núi, mà cô ấy cứ nhất quyết không nghe. Thực ra, cô nàng chẳng qua cũng chỉ đọc nhiều sách tí chút, mới biết Trái đất hình tròn và người tiến hóa từ vượn thôi, chưa đâu vào đâu đã không còn biết trời cao đất dày gì cả”.

    Ông bác cựu binh rất nhiệt tình, quay lại bảo Tư Mã Khôi: “Đây là chứng trúng độc âm hàn nhiệt đó mà. Năm ấy, khi bộ đội vào núi tiễu phỉ, cả ngày chui luồn khắp hang hốc, khe cốc, những nơi đó đều rất ẩm thấp, âm khí nặng nề, có những khi dăm bữa nửa tháng không nhìn thấy ánh mặt trời, không khí quanh năm ứ đọng không lưu thông, lại liên tục phải truy quét bọn phỉ trong núi sâu, hành quân gấp gáp, khiến phổi muốn nổ tung, dễ khiến độc hỏa âm ỉ lặn vào tim.

    Chứng bệnh này như giả vờ vậy, cơ thể lúc nóng lúc lạnh, nôn ra toàn máu đen, thể lực người nào kém một chút là mất mạng như chơi. Đồng chí chỉ huy trong đội tụi tôi cũng chết vì nó đấy”. Tư Mã Khôi nghe ông bác cựu binh kể, thấy rất giống với tình trạng của Thắng Hương Lân.

    Theo cách nói của lang trung, chứng bệnh này “ngoài nóng, trong lạnh”. Anh và Hải ngọng đã sớm quen với khí hậu ẩm ướt trong rừng rậm, nên đủ khả năng miễn cưỡng ứng phó với môi trường khắc nghiệt cực độ đó, còn Thắng Hương Lân, tuy cô cũng thường xuyên theo phân đội trắc họa ra ngoài thực địa công tác, nhưng điều kiện vẫn tốt hơn nơi này rất nhiều; vả lại trong quá trình mò mẫm dưới đáy vưc sâu, áp lực và sự giày vò mà tinh thần phải chịu đựng cũng tàn khốc chẳng khác nào điều kiện môi trường, mà cô có thể chống đỡ đến tận thời điểm này thì cũng khó khăn và đáng quý lắm rồi.

    Ông bác cựu binh nói: “Năm đó, vì không hợp khí hậu, cộng thêm nhiệm vụ tác chiến cấp bách, nên quân số trong đội bị giảm đáng kể, số người chết trong núi cũng không ít, may nhờ lang trung bản địa đưa cho phương thuốc dân gian, tình hình mới có chuyển biến. Giữa rừng hoang núi sâu này có bốn vật quý là: giang biên nhất uyển thủy, đầu đỉnh nhất khỏa châu, văn vương nhất căn bút, thất diệp nhất chi hoa”.

    Tư Mã Khôi không biết đó là những vật gì, liền vội hỏi. Thì ra, rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá mọc rất nhiều dược thảo quý hiếm, thậm chí nước suối cũng có tính dược, mỗi khi tiếng sấm xuân nổi lên, hãy múc một bát nước suối dưới chân núi, nó có công dụng chữa trị chấn thương xương cốt, phong thấp.

    Một giọt sương trên đỉnh đầu có thể trị chứng đau đầu, cán bút Văn Vương có thể trị chứng nóng ngoài, còn bông hoa bảy lá có công liệu vô cùng kì diệu, thậm chí có thể nói là “khắc tinh của nọi chứng bệnh lạ khó trị”. Thứ gọi là “Thất diệp nhất chi hoa”, là một loại thực vật giống như cái tên của nó.

    Đặc trưng của loài cây này là có bảy chiếc lá, nâng một đóa hoàng liên, có thể bắt gặp nó ở bất kì đâu trong núi, có khả năng chữa trị tận gốc các chứng bệnh như trúng độc âm hàn nhiệt. Nghe nói, loài cây này là di vật lão tồ Thần Nông để lại cho hậu thế, những người nghèo không có tiền bốc thuốc, sống trong vùng núi có thể dùng nó cứu mạng.

    Ồng bác cựu binh còn nhiệt tình đi vòng một đoạn đường, tự mình xuống khe núi đào hai củ thảo dược, nghiền vụn nhào cùng nước suối, rồi gọi Thắng Hương Lân dậy, bảo cô mau uống, đoạn hỉ hả bảo: “Mệnh cô còn lớn đấy, trước đây chỗ này đâu đâu cũng toàn cây thuốc, nhưng bây giờ phần lớn rừng rậm đã bị chặt phá.

    Hôm nay đào được hai củ coi như trời thương người hiền rồi, bằng không các cô cậu phải vào tận trong rừng rậm nguyên sinh phía sau Yến Tử Ô mới tìm được cơ”. Giữa đường, ông bác cựu binh phải đến lâm trường số bảy, trong khi ba người hội Tư Mã Khôi lại muốn đến thị trấn Thương Bách, nên hai bên đành chia tay.

    Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân sau khi uống thảo dược, sắc mặt trông có vẻ hồng hào thấy rõ, bởi vậy anh rất cảm kích ông bác cựu binh đầy nhiệt tình, anh liền lấy tem phiếu toàn quốc, loại để mua 5 yến gạo ra để biểu thị lòng cảm ơn. Thời ấy, tem phiếu toàn quốc hoàn toàn có thể thay thế món tiền lớn, bất kể đi công tác hay đi thăm người thân, đến đâu cũng sử dụng được, nếu không có thứ này, ra ngoài nửa bước cũng thấy khó khăn, giá trị của nó còn đắt đỏ hơn nhiều so với tem phiếu địa phương, nhưng ông bác cựu binh kiên quyết không nhận, bác nói: “Lâm trường chỗ tụi tôi có lương, có gạo, không thiếu ăn cũng không thiếu uống, một tháng tiền lương trừ đầu trừ đuôi đi, vẫn đủ mua hai tút thuốc lá kinh tế, lấy chỗ tem phiếu này của các cậu làm chi? Vả lại, đem tem phiếu toàn quốc loại 5 yến ra để đổi lấy hai củ thảo dược thì nghe có vẻ cũng hơi nhiều đấy nhỉ.

    Nếu như các cậu thực sự có lòng muốn cảm tạ tôi, thì để lại cho tôi thứ khác nhé!” Thứ đáng giá nhất trên người Tư Mã Khôi chính là tem phiếu toàn quốc, còn những thứ khác toàn là vật dụng cần thiết để vào núi. Anh cũng không biết ông bác cựu binh thực ra muốn lấy thứ gì.

    Trên ngực Tư Mã Khôi có gắn “quân tinh”, đó là hàng xịn nhất trong các loại hàng xịn, là một “huy hiệu sao Mao chủ tịch”, được bộ chính trị cục giải phóng quân thiết kế và cấp phát. Nó chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái một chút, cùng một bộ với huy chương “vì nhân dân phục vụ” vẫn thường thấy, viền vàng nền đỏ trông rất bắt mắt, do chỉ phát ra với số lượng vô cùng ít ỏi, nên kỹ thuật khá tinh xảo, bởi vậy trông cực kì đặc biệt, người bình thường còn chưa bao giờ nhìn thấy ấy chứ.

    Lai lịch chiếc huy hiệu này của Tư Mã Khôi còn đặc biệt hơn. Thời kì đầu đại Cách mạng Văn hóa, anh cùng hội anh Thiết Đông đến Diên An tham quan quê hương cách mạng. Trên đường trở về, đột nhiên tuyết trắng rơi ngập trời như lông ngỗng, mọi người dõi mắt ra xa, chỉ thấy bầu trời mặt đất trắng xóa một màu tinh khiết, bất giác nổi hứng đồng thanh đọc to mấy câu thơ của Mao chủ tịch: “Phong cảnh phương bắc, ngàn dặm băng đóng, vạn dặm tuyết bay….”, đến câu cuối: “Đã qua hết cả, bao đời anh hùng, ngắm sao sớm ngời”, thì tên nào tên nấy xúc động đến mức những giọt nước mắt nóng hổi cứ ầng ậng khóe mắt như muốn tuôn trào, và họ không kìm được đã hô vang ba lần “Muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!”, lúc đó đứa nào cũng cứ ngỡ mình đang trở thành “nhân vật hào kiệt thời nay” của Đường Tông, Tống Tổ cơ đấy.

    Kết quả là, Tư Mã Khôi vì hơi đắc thắng quá, mà đã vô ý ngã lăn xuống sườn núi, chiếc áo khoác anh lén lấy trộm của bố bị rách một miếng to. Khi ấy, anh Thiết Đông thấy Tư Mã Khôi đau suýt khóc đến nơi, liền gỡ huy hiệu trên áo mình xuống, đeo trước ngực cho cậu, và bầu không gian phủ trắng tuyết lại càng tôn lên vẻ lấp lánh của ánh sao vàng, ai thấy cũng không khỏi ngưỡng mộ.

    Cũng chính vì ý nghĩa đặc biệt này, nên Tư Mã Khôi còn quý trọng nó hơn cả tính mạng mình. Lúc thường anh không nỡ mang ra đeo. Sau đó, lúc đi Miến Điện, anh gửi nó ở nhà Hạ cần, mãi khi được thả ra khỏi xưởng gạch ngói mới lấy về; nên cái này gọi là “nhìn vật lại nhớ đến người, vì hễ nhìn chiếc huy hiệu, anh lại nghĩ đến những chiến hữu đã chết thảm ở mảnh đất Miến Điện năm xưa.

    Tư Mã Khôi rất tiếc khi đem tặng nó cho người khác. Thực ra ông bác cựu binh cũng chưa chắc đã biết giá trị của chiếc huy hiệu, chỉ là thấy nó lạ mới thích mà thôi, nhưng người ta đã giúp đỡ, anh cũng không tiện chối từ, nên chẳng nói chẳng rằng, gỡ nó xuống đưa cho ông bác cựu binh.

    Ông bác cựu binh có được chiếc huy hiệu thì vui mừng hớn hở ra mặt. Ông cáo biệt hội Tư Mã Khôi rồi vội vã đánh xe vào đường núi, bóng dáng dần xa khuất. Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi rất coi trọng chiếc huy hiệu, lòng vô cùng cảm động, cô nói với anh: “Hôm nay rất cảm ơn anh, sau này tôi nhất định sẽ tìm một chiếc giống hệt như vậy trả cho anh”.

    Hải ngọng biết rõ nội tình, anh bảo Thắng Hương Lân: “Em gái! Em không biết đấy thôi, đừng thấy cả nước có bao nhiêu chiếc huy hiệu Mao chủ tịch to nhỏ khác nhau, nhưng tất cả chúng cộng gộp lại cũng không đổi được chiếc huy hiệu hình sao kia của thằng Khôi đâu”. Nói xong, anh quay người hỏi Tư Mã Khôi: “Hồi xưa tớ xin cậu mấy lần liền, mà tiểu tử nhà cậu còn không nỡ cho tớ đeo mấy phút, sao hôm nay đột nhiên lại trở nên hào phóng thế hả?” Tư Mã Khôi vờ bình thản: “Vật rốt cuộc cũng chỉ là vật! Đâu đáng để mình phải bận tâm!”.

    Đoạn anh vác ba lô lên lưng, đứng dậy khởi hành, miệng thì bảo vậy nhưng lòng lại ngẫm nghĩ: “Nếu sau này tìm được vật gì quý hiếm, mình sẽ tìm cách đến lâm trường, để đổi lại chiếc huy hiệu vừa cho ông bác kia.” Anh vì mải suy nghĩ miên man, mà không biết là cả hội vừa đi được một đoạn đường núi khá dài.

    Thị trấn Thương Bách đã ở ngay trước mắt, nhưng đi vào trong thị trấn, cả hội mới phát hiện nơi đó trống hoác, không có một bóng người, ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không thấy, chỉ có âm thanh vi vu của những làn sóng cây tùng bách nhấp nhô trong núi sâu văng vẳng truyền lại.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 5: THÁP CANH


    Thị trấn Thương Bách là địa phận xung yếu của Thần Nông Giá, tuy quy mô của nó nhỏ hơn các thôn xóm bình thường khác, nhưng đó là con đường bắt buộc phải đi qua nếu muốn tiến vào núi, vì bốn phía núi cao bao vây trùng điệp, tùng bách mọc um tùm rậm rạp. Từ đây đi tiếp vào Yến Tử Ô, chỗ nào cũng toàn vách cao vực sâu nguy hiểm, bị rừng rậm nguyên sinh che phủ, con đường ở đây không còn là “đường” theo nghĩa thông thường nữa.

    Hội ba người Tư Mã Khôi vào núi thăm dò bí mật chuyến này, cố gắng không tiếp xúc với người ngoài, tránh để bại lộ hành tung, gây ra những phiền toái không đáng có. Thế nhưng nếu không có người bản địa dẫn đường và bản đồ chi tiết, thì muốn vào rừng rậm nguyên sinh quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời này cũng đâu phải chuyện dễ, bởi vậy, trước tiên cả hội phải vào thị trấn để thăm đoàn trưởng Bạch.

    Đoàn trưởng Bạch là cháu ruột của lão Lưu Hoại Thủy, trước đây từng là đoàn trưởng binh đoàn đường sắt, xét theo cấp bậc hành chính mà nói, thì chức ấy cũng tương đương với cán bộ đoàn thể cấp huyện. Trước Cách mạng Văn hóa, ông phục viên rồi chuyển đến địa phương này công tác, bây giờ là thành phần cốt cán của ủy ban cách mạng huyện, nên chỉ cần ông ấy chịu ra tay giúp đỡ thì khó khăn của ba người lập tức được giải quyết.

    Nào ngờ, hội Tư Mã Khôi đến nơi thì cả thị trấn vắng tanh không một bóng người, nhà nào cũng cửa đóng then cài. Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều giàu kinh nghiệm trinh sát hành quân. Hai người quan sát tình hình xung quanh một hồi, thấy mặt đất hãy còn đám tro tàn, nhưng bếp lò thì đã nguội lạnh từ lâu, mọi đồ đạc có giá trị trong nhà đều được chuyển đi sạch bách.

    Xem ra, toàn bộ người dân sống trong thị trấn này đã di dời đến nơi nào đó vào mấy ngày trước, còn nguyên nhân vì sao thì hội anh không đoán ra được. Lúc này sắc trời đã dần tối, ba người đành trèo tường vào một nhà dân, ôm bó củi nhóm lửa, đun siêu nước nóng, nhuộm nhoạm ăn lót dạ vài miếng lương khô, rồi chuẩn bị ngả lưng cho lại sức.

    Màn đêm buông xuống, nhiệt độ hạ rất nhanh, toàn thị trấn vùng thâÂm Sơn chưa được mắc điện, nên chỗ nào cũng tối mò mò, mỗi lần gió núi quét qua, lại văng vẳng vọng đến âm thanh não nùng thê lương, như tiếng rên rỉ của rặng tùng bách phía ngoài thị trấn. Hội Tư Mã Khôi vì từng trải qua vô số trải nghiệm hãi hùng, nên cũng để ý đến mấy chuyện vặt vãnh ấy.

    Anh thấy Thắng Hương Lân sau khi uống thuốc, khí sắc chuyển biến rất tốt, nên cũng yên tâm hơn. Ba người ngồi quanh lò lửa, vừa sưởi ấm, vừa nói chuyện. Lúc trước, Hải ngọng đã dự tính đâu vào đấy, anh còn cho rằng, nếu tìm được vị lãnh đạo địa phương, thì hội anh chí ít cũng kiếm được bữa cơm ngon canh ngọt, làm gì có chuyện không thết đãi mình nổi mấy món “canh gà hầm nấm, nham nhĩ(1) xào thịt quay, dưa cải muối om đậu phụ”, chẳng ngờ lại bị ăn quả hụt, bây giờ đành ngồi gặm lương khô, nên trong lòng thấy chán nản khỏi phải bàn.

    Nhưng nghĩ cũng lạ, không hiểu người dân trong thị trấn đi đâu hết? Cả hội bàn luận ba câu sáu điều, rồi cùng cho rằng bớt một việc còn hơn thêm một việc, nên không cần thiết phải quan tâm xem thị trấn trong núi xảy ra chuyện gì, ngày mai vẫn tiến hành mọi việc theo đúng kế hoạch, tiến thẳng vào núi.

    Thế là, mọi người chuyển sang bàn bạc mục tiêu chuyến đi lần này. [1] Nham nhĩ: một loài thực vật mọc ra từ các khe đá, hình thức gần giống mộc nhĩ, thường được dùng làm thức ăn. Thông qua các manh mối phát hiện dưới kính viễn vọng Lopnor, đặc biệt là cuốn sổ giải mã chữ triện cổ triều Hạ, Tư Mã Khôi biết được có một nền văn minh cổ đại đã bị thất lạc ngoài sử sách.

    Nó khởi nguồn từ bộ tộc Quỷ Nô bị Vũ Vương nhốt dưới lòng đất, rồi hậu thế của họ phân nhánh và sinh sống ở nhiều nơi, trong đó có người Tochari ở Tây Vực và nước Diệt Hỏa ở Miến Điện v.v… Đặc điểm chung của họ là đều nhuốm màu sắc thần bí cô lập đậm nét, và có thể gọi chung tất cả hậu duệ của tộc Quỷ Nô là bộ tộc Bái Xà, tức tộc người thờ rắn.

    Người Bái Xà đã mang tất cả truyền thuyết li kì và thần bí của dân tộc mình, chạm khắc lên bức tường đá của gian mật thất dưới lòng đất. Theo sự lý giải của hội Tư Mã Khôi, những truyền thuyết đó có lẽ chính là bia Vũ Vương chìm xuống vực sâu dưới lòng đất, vĩnh viễn không còn lộ diện trước nhân thế, nhưng tộc người Bái Xà lại vẫn còn vọng tưởng tìm thấy nó.

    Buồn thay, thiên số thì cao mà địa số thì sâu, vực thẳm mù mịt, nên người thường không có cách nào đặt chân đến đó. Căn cứ theo những ghi chép mà tộc người Bái Xà để lại, muốn đến được chỗ đặt tấm bia Vũ Vương dưới vực sâu, trước tiên bắt buộc phải tìm thấy vật thể có tên là “nhật quỹ”.

    Vật thể lai lịch bất minh và quái dị này, khả năng xuất hiện từ thời Thần Nông. Thông qua sự khảo chứng chuyến đi lần trước của hội Tư Mã Khôi, thì người cuối cùng tận mắt nhìn thấy nó có lẽ chính là Sở U Vương thời Xuân Thu Chiến Quốc. Hơn hai ngàn năm từ đó về sau, ẩn số còn cổ xưa hơn cả niên đại cổ xưa, vẫn ngủ sâu trong Thần Nông Giá.

    Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi nói đến những chuyện này thì láu táu phỏng đoán: “Lẽ nào gã Nấm mồ xanh bảy phần giống quỷ, ba phần cũng không giống người kia, là người Bái Xà cổ đại?” Tư Mã Khôi lắc đầu phủ định: “Nấm mồ xanh không có khả năng nhận biết chữ triện cổ triều Hạ, vì vậy hắn có vẻ không phải người Bái Xà bị diệt vong hàng ngàn năm về trước.

    Giờ đây, khuôn mặt và thân phận thực sự của u hồn đó vẫn để lửng không lời giải, nhưng dẫu có là ma quỷ, thì hắn cũng phải có một lai lịch nhất định chứ”. Ba người đều cảm thấy chuyện này vô cùng kì quái, nhưng vì phục thù và chuộc lỗi, nên họ đành đặt mạng sống ra ngoài vòng sinh tử, tiếp tục đi tìm lời giải.

    Họ đã chuẩn bị sẵn tâm lý để ứng phó với mọi biến cố. Đêm hôm đó, hội Tư Mã Khôi tá túc trong thị trấn Thương Bách. Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng, Tư Mã Khôi đã dậy, đi lòng vòng quan sát những ngôi nhà xung quanh, anh không tìm thấy súng săn, liền tiện tay lấy một ít muối và dầu cây tùng, sau đó để lại hai đồng chèn dưới bệ đèn.

    Cuối cùng, anh và hai người bạn đồng hành thu xếp hành lý chỉnh tề, quấn vải vào bắp chân rồi tiến vào núi sâu. Tuy không có người dẫn đường, nhưng anh vẫn nắm được phương hướng đại khái, trước tiên phải vượt đỉnh Thần Nông Giá cao nhất so với mực nước biển, sau đó băng qua Yến Tử Ô, rồi tiến vào rừng rậm nguyên sinh; còn làm thế nào tìm thấy đường hầm trong m Hà Cốc, thì phải đợi vào núi trinh sát tỉ mỉ mới biết được.

    Núi non ở Thần Nông Giá uy nghi, hiểm trở. Những dãy núi trải dài ngút tầm mắt, trông đồ sộ, nhấp nhô, trùng trùng điệp điệp nhiều tầng. Trong rừng mọc đầy lãnh sam, trúc gai và hoa đỗ quyên dại. Lúc này, tiết trời đang lúc giữa thu, cả cánh rừng nhuộm đỏ sắc hoa và xác lá khô, không những vậy, còn có vô số thác nước, dường như mỗi một sơn cốc đều có dòng suối nước trong vắt, xanh thẳm, tuôn chảy róc rách.

    Đi qua thị trấn Thương Bách chính là cánh rừng nguyên sinh không bóng người, càng vào sâu, rừng rậm càng um tùm, thần bí, khe núi hun hút, đỉnh núi xanh thẫm, trùng độc rắn độc và các loài dã thú thường xuyên lai vãng. Ở Miến Điện, Tư Mã Khôi vẫn thường phải chui rúc trong các khu rừng rậm nhiệt đới, nhưng anh chưa bao giờ đi vào rừng rậm nguyên sinh giống như Thần Nông Giá.

    Anh chỉ biết đỉnh Thần Nông cách mặt biển 3000 mét, là ngọn núi chính cao nhất trong quần thể núi Đại Ba. Nhưng đến khi bước chân vào, anh mới phát hiện, các ngọn núi xung quanh đều sàn sàn giống nhau, địa thế nhấp nhô đan xen, không thể phân biệt rõ ngọn núi nào là đỉnh Thần Nông.

    Ngoài ra, cả dải rừng già núi thẳm này toàn là đỉnh núi cao chót vót và vực sâu chằng chịt, nhiều nơi không có đường đi, nên rõ ràng đã ngắm chuẩn hướng mà không qua nổi, đành đi đường vòng mất cả ngày trời, cuối cùng vẫn loanh quanh một chỗ. Ba người phải dựa vào kinh nghiệm trước đây, mò mẫm theo hướng chạy nhấp nhô trải dài của ngọn núi, không ngừng đi sâu vào trong.

    Họ xuyên rừng suốt hai ngày, cũng không rõ đã phải quanh qua bao khúc đường vòng, thì mới thấy ở nơi sâu trong rừng cây có một ngọn núi hình dáng trông như đỉnh mái nhà, mà nhìn bao quát tứ phía xung quanh, thì dường như những ngọn núi khác đều không cao bằng nó. Mọi người đoán, có lẽ đây chính là đỉnh núi chính của Thần Nông Giá, mà cho dù có không phải, thì cũng có thể trèo lên đỉnh để bao quát địa hình.

    Ngặt nỗi, trong rừng rậm không có đường, tứ phía toàn là rừng cây rậm rì rịt, dưới khe núi thấp hơn cả mực nước biển là rừng lãnh sam, còn ở trên cao là rừng trúc gai nguyên sinh đan cài mau rít. Những cây trúc cao to lực lưỡng, trên các đốt còn mọc đầy gai nhọn, đến khỉ vượn cũng phải bó tay không thể leo lên nổi.

    Các loại thực vật mọc xen lấn nhau, phân tầng theo độ cao, kết bện thành một tấm lưới khổng lồ, mảnh nọ tiếp nối mảnh kia, dường như không có khe hở nào cho phép con người đi xuyên qua. Những cây bách mọc không cao lắm, có thể bám vào cành mà leo lên, còn lúc thực sự không có đường nào để đi, thì chỉ có cách bới những lùm cây hoặc bụi cỏ ở chỗ thấp mà trèo qua, nên hệ thống định vị bằng các giác quan vốn có của cơ thể con người rất dễ bị nhiễu loạn, khiến cả hội buộc phải liên tục dựa vào la bàn để định vị phương hướng, điều đó khiến tốc độ giảm đi rất nhiều.

    Cứ như vậy, cả hội cũng đi được một đoạn đường rừng. Trong bụi cỏ trước mắt, đột nhiên có mấy con chim trĩ bay ra tán loạn, chúng kéo cái đuôi dài lê thê nhảy bật lên độ cao tầm ngang người. Tư Mã Khôi và Hải ngọng biết: ngữ này chạy thì cực nhanh, nếu rơi xuống bụi cây rậm rạp thì có mà trời bắt được, nhưng bay thì dở tệ, trông lóng nga lóng ngóng như quạ vào chuồng lợn.

    Hai người nhanh tay nhanh mắt, ngắm chuẩn thời cơ con trĩ từ lưng chừng trời rơi xuống là lao đến vồ mỗi người một con, ném xuống bờ suối vặt lông sạch sẽ, rồi bảo Thắng Hương Lân nhóm một đống lửa, xuyên cành cây qua thân nó rồi cho chim lên nướng. Hôi Tư Mã Khôi biết làm như vây là rất dễ dẫn dụ bọn dã thú trong núi sâu chui ra, nhưng thực sự không thể ngăn được sự mê hoặc của món hương vị núi rừng này, vả lại trên người đã có nến tín hiệu, nên cho dù có gặp hổ báo hay người rừng khó đối phó nhất, thì cũng nắm chắc khả năng xua chúng rút lui.

    Hải ngọng càng không đợi được, anh chàng nhìn con trĩ mà hai mắt mòng mọng muốn chảy dầu, mặc kệ bị bỏng tay, anh chàng xé luôn một miếng cả da lẫn thịt, đút vội vào mồm, kết quả lưỡi bỏng, không nhịn được định kêu ré lên. Tư Mã Khôi vẫn luôn giữ tinh thần cảnh giác rất cao độ, anh phát hiện ở nơi sâu trong rừng rậm đang có động tĩnh lạ khẽ truyền đến từng hồi, nên liền lập tức giơ tay bịt miệng Hải ngọng, không cho anh chàng kịp bật ra tiếng thét.

    Cùng lúc đó, Thắng Hương Lân vun đất dập tắt đống lửa trên đất. Hải ngọng cũng nghe thấy phía sau lùm cây có tiếng chân giẫm lá lạo xạo, dường như là con dã thú nào đó ngửi thấy mùi thơm liền tìm đến. Anh vội vàng túm vạt áo, nhét nửa con trĩ đã chín vào, rồi lập tức rút con dao săn ở thát lưng ra.

    Lúc này, phía sau những cây lãnh sam cao to, bỗng nhiên có hai con chó săn lưng đen tai nhọn mõm dài, thân hình to lớn, thần thái lầm lì, tinh nhuệ, lao vụt ra. Chúng không sủa tiếng nào, chúi đầu hất mõm, mắt gườm gườm nhìn hội Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi biết đây là loài chó săn được huấn luyện, liền đứng im tại chỗ, đưa mắt ra dấu với hai người còn lại.

    Ba người đều không dám manh động. Liền sau đó, có ba người chạy nhanh từ sau lùm cây ra, trong đó có một cậu thiếu niên chừng mười lăm, mười sáu tuổi, da đen ánh đỏ, tướng mạo dữ tợn, tay lăm lăm khẩu súng săn, thắt lưng giắt con dao đốn củi và hồ lô thuốc. Có lẽ, cậu ta là thợ săn trong núi.

    Phía sau cậu ta là một cô gái trẻ mặc quân phục, xem chừng cũng chỉ ngoài đôi mươi là cùng, mắt to tròn, đen láy, trông rất có thần, lưng đeo hành lý và bình nước quân dụng, cạnh eo giắt bao vũ khí, trông gọn gàng, chỉnh tề. Đi sau cùng là một thanh niên gầy yếu, giống bộ dạng thanh niên trí thức thường thấy trong lâm trường, sống mũi gá cặp kính cận dày cộp như đít chai bia, quần áo giặt đến bạc phếch, nhằng nhịt bao nhiêu chỗ vá, cậu ta cũng cầm súng săn, sau lưng đeo một chiếc máy bộ đàm không dây đời cũ, khi nãy chạy gấp quá, bây giờ mệt đến nỗi hai tay chống đầu gối thở hổn hà hổn hển.

    Cậu thiếu niên nhìn dáng dấp giống thợ săn nhíu cặp lông mày nhỏ, giọng nói rất kích động. Cậu ta giận giữ thầm đánh giá hội ba người Tư Mã Khôi một hồi, rồi quay đầu nói với cô gái mặc quân phục: “Chị! Chính bọn họ đốt lửa đấy!” Tư Mã Khôi đưa mắt ra hiệu bảo Hải ngọng nhẹ nhàng thu dao săn lại, sau đó vội vàng giải thích với đối phương: “Xin đừng hiểu lầm! Bọn tôi chỉ là người qua đường, thấy khói trong rừng bốc lên, liền vội vã đến đây dập lửa…” Cô gái mặc quân phục nhìn miệng Hải ngọng vần còn nhét miếng thịt, thì biết ngay nội tình.

    Cô hỏi thẳng Tư Mã Khôi: “Các anh ở đơn vị nào? Có biết đốt lửa trong rừng nguy hiểm lắm không hả?” Tư Mã Khôi đã chuẩn bị sẵn một màn khua môi múa mép để ứng phó. Anh tự nhận mình là người của đội khảo cổ, định đến rừng rậm nguyên sinh ở núi Đại Thần Nông Giá để tìm hóa thạch sinh vật cổ.

    Đồng thời, anh còn giơ thẻ công tác và hai phong thư giới thiệu ra, chứng minh mình có quen biết lãnh đạo ủy ban cách mạng huyện. Cậu thiếu niên thợ săn vẫn không thèm đếm xỉa, còn cô gái mặc quân phục thì xem qua giấy tờ của Tư Mã Khôi, vì không phát hiện thấy điểm khả nghi nên cũng không tiếp tục truy cứu chuyện đốt lửa nữa.

    Cô nói: “Đây là địa phận núi trước của Thần Nông Giá, m Hà Cốc còn gọi là m Hải Cốc, nằm ở phía Tây Bắc của ngọn núi chính. Nghe nói, trong rừng sâu thường xuất hiện bọn sói đầu lừa, nó có thân hình chỉ nhỉnh hơn con lừa một chút, đầu cũng rất giống lừa, nhưng lại có bốn bộ móng vuốt sắc nhọn như loài sói, đuôi to dài, vừa có thể chạy lại vừa có thể bay, bản tính hung hãn, tàn nhẫn, những lúc không kiếm được thức ăn, chúng sát hại cả súc vật và thậm chí ăn thịt người.

    Các anh không mang súng săn phòng thân, lại muốn vượt qua Yến Tử Ô đi tìm hóa thạch ở rừng rậm nguyên sinh, thì đúng là quá sức nguy hiểm. Tư Mã Khôi liên tục gật đầu cho là phải. Anh cũng hơi hiếu kì với lai lịch của hội cô gái mặc quân phục, không biết đối phương đang chấp hành nhiệm vụ gì, mà có cả thợ săn và thanh niên tri thức lâm trường bản địa đồng hành, không chừng lại đang hành động quân sự cơ mật cũng nên.

    Thế là anh liền tiến lại dò hỏi, mới biết nhóm đặc biệt này có nhiệm vụ đến tháp canh ở sườn bắc của đỉnh thần Nông Giá. Tháp canh đó cao tầm 40 mét, bên trên lắp đặt trạm thông tin và quan sát cứu hỏa, đứng ở nơi cao dõi mắt nhìn ra tứ phía, rừng cây cả vạn dặm đều thu vào tầm mắt.

    Đó là trạm cao nhất của cả dãy Thần Nông Giá này, nơi đó cách Yến Tử Ô phía sau núi không còn bao xa, có thể tiện đường dẫn hội Tư Mã Khôi đi cùng. Tư Mã Khôi nằm mơ cũng chẳng ngờ, đang lúc buồn ngủ lại gặp chiếu manh, anh liền bước tới hỏi cô gái mặc quân phục: “Vì sao thị trấn dưới chân núi vắng tanh không một bóng người thế hả cô?”.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 6: NGÔI NHÀ MA TRONG NÚI SÂU


    Cô gái mặc quân phục biết rõ lai lịch hội Tư Mã Khôi, thì đồng ý dẫn hội anh đến tháp canh. Cô bảo: “Chúng tôi phải đến trạm nghỉ trước khi trời tối, nên không thể nấn ná lâu giữa đường, có gì muốn nói thì vừa đi vừa nói”. Thế là, mọi người khởi hành đến trạm quan sát tháp canh ở Đại Thần Nông Giá, hai con chó săn đi trước dẫn đường.

    Cô gái mặc quân phục nói với Tư Mã Khôi, Thần Nông núi cao rừng thẳm, từ cổ chí kim tuy người ít thú nhiều, nhưng thành phần người sống ở đây lại vô cùng phức tạp, vì bản thân Thần Nông Giá là vùng đất tiếp giáp giữa ba tỉnh năm huyện, ở đây người Thiểm Tây, người Hồ Bắc, người Tứ Xuyên đều có cả, chủ yếu mưu sinh bằng nghề săn bắn, hái thuốc và buôn lậu sản vật núi rừng.

    Sau giải phóng, các lâm trường đua nhau mọc lên như nấm, hàng loạt bộ đội chuyển ngành đều chọn nơi đây để an cư lạc nghiệp, ngoài ra còn tuyển dụng rất nhiều công nhân đốn gỗ từ các tỉnh khác đến và cả thanh niên trí thức từ thành thị xuống lâm khu cải tạo tư tưởng nữa.

    Thành phần tạp nham nên cũng dễ xảy ra chuyện, cách đây không lâu, có bốn thanh niên trí thức gác đêm ở lâm trường, vừa mới đặt lưng, bỗng nghe một tiếng sấm từ giữa không trung giáng xuống, khiến thoắt chốc bốn người đều giật mình tỉnh giấc, chỉ thấy có quả cầu lửa từ kẽ hở trên mái nhà luồn vào trong, thoáng cái đã biến mất.

    Dường như lằn sét khi nãy vừa đánh trúng mái nhà vậy, rồi liền sau đó tiếng sấm nổ như tiếng bom, tiếng nọ nối tiếp tiếng kia, âm thanh dội xuống gần mái, sét nhằng nhịt bủa vây ngôi nhà. Bốn người sợ xanh mặt, tất cả đều chui xuống gầm giường, không ai dám chạy ra ngoài. Gặp phải tình huống này, trong lòng khó mà không nghĩ đến những chuyện xấu, nhất là những chuyện ma quỷ, nên có người nói: “Trong bốn người chúng ta, chắc chắn có kẻ đã làm chuyện bại hoại, chỉ sợ ông trời không cho chúng ta qua nổi đêm nay đâu, hảo hán dám làm dám chịu, hãy khẳng khái mà tự mình đi ra ngoài chịu sét đánh, đừng khiến những anh em khác phải chịu liên lụy theo”.

    Lúc đó, một cậu bỗng òa lên khóc, cậu ta nói: “Nhà tôi chỉ có mình tôi là con độc đinh, mẹ già lại đang bệnh nặng, quanh năm lúc nào cũng cần người ở bên chăm sóc, bởi vậy tôi mới giấu mọi người mang tặng cho bí thư chi đoàn hai tút thuốc lá Mẫu Đơn và mấy gói hạt sô cô la do xưởng thực phẩm Nghĩa Lợi sản xuất, để đồng chí ấy viết cho tôi tờ chỉ thị được trở về thành phố, tranh suất của người lẽ ra phải được xét duyệt về thành phố chuyến này”.

    Có người mở đầu, ba người còn lại cũng lần lượt kể ra chuyện xấu của mình, rốt cuộc con người nào có ai hoàn hảo, nào có ai thực sự không làm chuyện áy náy lương tâm? Nhưng cuối cùng, bọn họ vẫn không thể phán đoán ra được người nào mới là kẻ đáng bị trời đánh, thế là cả hội quyết định từng người chạy ra ngoài, khi người cuối cùng vừa bước chân chạy khỏi, thì ngôi nhà bị sét đánh trúng, góc nhà sụp một vạt lớn, gạch ngói cháy đen thui, trên xà nhà có một con mãng xà to như cái chày cán bột đang nằm treo mình vắt vẻo, toàn thân nó trông ánh lên những vằn đỏ.

    Trước đây, các thanh niên trí thức đến lâm trường đều nghe kể truyền thuyết về yêu vật tránh sét, lúc này họ mới hiểu thì ra mình đang gặp chuyện gì. Cả hội liền vội vàng vác xà beng đến gần chặt tới tấp vào mình con mãng xà. Nào ngờ, sau khi nó bị chặt ra thành nhiều khúc, thì lại giống như con giun, khúc nào cũng có tri giác, còn có thể tự mình bò đi, rồi lại tụ hợp thành một thể.

    Bọn họ đành dùng lửa để thiêu, không ngờ gây cháy rừng, lửa gặp gió, càng cháy càng đượm, gần như cả lâm trường số ba đều bị thiêu hủy. Trong bốn thanh niên thì có hai người bị lửa thiêu chết tại chỗ, hai người còn lại bị nhốt vào đồn thẩm vấn, nhưng không ai tin chuyện họ kể.

    Mọi người đều cho ràng họ bịa chuyện để chối đẩy trách nhiệm, bởi vậy hai người kia nhanh chóng bị chuyển lên cấp có thẩm quyền cao hơn, còn cụ thể họ bị ngồi tù hay xử bắn thì cô cũng không rõ. Tư Mã Khôi biết, ở chốn rừng sâu núi thẳm, có một loài gọi là ngàn cước xà, hay còn có tên khác là toái xà, hợp lại là rắn mà tách ra thì biến thành giun, người chưa bao giờ nhìn thấy sẽ không thể tự tưởng tượng ra để bịa đặt được.

    Xem ra, câu chuyện mấy thanh niên trí thức kia nói, có lẽ phần lớn là sự thật, nhưng gây cháy rừng là tội rất nặng, dẫu là lý do gì thì cũng không thể chối bỏ trách nhiệm được. Nghĩ lại mới thấy bộ dạng tức giận của tay thợ săn thiếu niên khi nãy đúng là không phải vô duyên vô cớ.

    Trong rừng rậm, đâu đâu cũng toàn cành khô lá mục, mầm lửa chỉ cần bén lên là không thể nào dập tắp. Người ta đời đời kiếp kiếp kiếm ăn nhờ núi rừng, nên đương nhiên họ rất coi trọng việc phòng cháy chữa cháy. Cô gái mặc quân phục lại kể tiếp tình hình trong núi, sau khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, ngọn lửa lan đến thị trấn Thương Bách, người già, trẻ con và phụ nữ trong thị trấn đều được di dời tạm thời sang nơi khác, còn lại toàn bộ dân binh và công nhân lâm trường thì bị huy động vào núi dập lửa.

    Cô gái mặc quân phục tên là Cao Tư Dương, người Nam Kinh, hiện giờ là học viên trường quân y quân khu Vũ Hán. Học viện này liên tục triển khai các hoạt động bộ đội chi viện địa phương, ở vùng núi Thần Nông Giá trong suốt nhiều năm, mục đích của hoạt động này là ngoài việc đẩy mạnh công tác huấn luyện quân quản, thì còn thâm nhập vào những khu vực mà giao thông bị tắc nghẽn nghiêm trọng để chữa bệnh, tặng thuốc cho người dân miền sơn cước.

    Tháp canh trên Đại Thần Nông Giá được lắp đặt máy điện đàm, có thể tiến hành liên lạc điện đàm không dây đơn giản, chuyên dùng để thông báo tình hình cháy rừng ở khu này; quanh năm ở đây đều có người gác trực, nhưng từ sau khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, thì tháp canh đó hoàn toàn bị mất liên lạc với thế giới bên ngoài.

    Thượng cấp phát lệnh, địa phương phải sử dụng toàn bộ lực lượng đào rãnh phòng lửa, lúc này thực sự không kiếm đâu ra được người rỗi việc, vả lại chiếc bộ đàm không dây trên tháp canh là kiểu đời cũ, thường xuyên hỏng hóc, dăm bữa nửa tháng lại dở chứng, nên cũng không được mọi người coi trọng lắm.

    Khi ấy, đúng lúc ở lâm trường có một thanh niên trí thức, biệt danh là “kính cận”, trước khi bị đẩy lên vùng núi anh ta từng được học chuyên ngành trắc lượng thông tin. Anh ta học hành rất chăm chỉ, nên cũng biết được chút kỹ thuật sửa chữa máy bộ đàm, nhưng khi chưa kịp tốt nghiệp thì vì vấn đề thành phần gia đình, nên bị điều đến vùng núi này đốn gỗ, người trong lâm trường quen gọi “kính cận” là “nhị học sinh”.

    “Nhị học sinh” là tiếng địa phương ở vùng núi này, chỉ những người học thấp hơn sinh viên đại học một cấp, tuy không thể hiện rõ ý coi thường, nhưng ít nhiều vẫn mang hơi hướng chế giễu và động chạm. Lãnh đạo quản lý ở lâm trường thấy Kính cận thân hình yếu ớt, lẻo khẻo, lúc đào rãnh cứu hỏa trông rũ rượi ra như con chó sắp chết, thì phân công cho anh ta việc vác máy bộ đàm đi theo cậu dân binh Hổ Tử lên núi, đến tháp canh tiến hành sửa chữa hoặc thay thế thiết bị liên lạc.

    Lâm trường còn tính đến mức nhân viên gác trực có khả năng bị nhiễm bệnh, hoặc bị thương, mới khiến liên lạc bị ngắt quãng giữa chừng. Thế là, lâm trường liền nhờ Cao Tư Dương ở phân đội Hán Vũ đi cùng, để lúc đó có thể thực hiện những biện pháp cấp cứu kịp thời.

    Cao Tư Dương đã từng vào núi Thần Nông Giá nhiều lần, nên rất thông thuộc môi trường bản địa. Cô là người có kinh nghiệm và năng lực hoàn thành nhiệm vụ độc lập, nên được mọi người bầu làm đội trưởng lâm thời của tiểu đội. Hai con chó săn giữa đường đột nhiên đánh hơi thấy người sống, xem phương hướng thì rõ ràng hội người này bị lạc đường trong rừng rậm.

    Tiểu đội lao đi đuổi theo dấu vết, cuối cùng phát hiện ra hội Tư Mã Khôi đang sử dụng lửa, liền vội vàng chạy đến ngăn cản. Cao Tư Dương nghe người dân bản địa kể, điểm đáng sợ nhất ở Thần Nông Giá chính là cánh rừng rậm nguyên sinh trong m Hải Cốc, vì cho dù có mang theo súng săn và chó săn, thì cũng rất ít người dám mạo hiểm thâm nhập vào trong, bởi vậy cô mới khuyên Tư Mã Khôi phải suy nghĩ thận trọng, chí ít cũng phải trang bị súng săn và đi cùng người dẫn đường giàu kinh nghiệm mới được.

    Tư Mã Khôi biết rõ ý tốt của Cao Tư Dương, nhưng anh không thể thấy khó mà lui, đành nói: “Thực ra, bọn tôi dã chuẩn bị tư tưởng lên hỏa tuyến rồi. Trước khi lâm trận, anh em tôi còn viết sẵn di chúc và đơn xin gia nhập Đảng, nếu lỡ một đi không trở lại thì mong các đồng chí hãy trích lương tháng sau của tôi ra, thay tôi đóng khoản đảng phí đầu tiên và cũng là cuối cùng.

    Cô có biết vì sao lại là lương tháng sau không? Bởi vì lương tháng này tôi đã tiêu hết nhẵn rồi”. Cao Tư Dương thầm lắc đầu, cô cảm thấy loại người như Tư Mã Khôi đai khái thuộc kiểu “chủ nghĩa lạc quan mù quáng” điển hình, trừ phi vấp phải đinh, nếu không còn khuya mới biết quay đầu.

    Tư Mã Khôi hỏi rõ ngọn nguồn, anh thầm tính xem làm cách nào mượn được khẩu súng săn của Hổ Tử để phòng thân. Mọi nguy hiểm trong rừng sâu núi thẳm chủ yếu bắt nguồn từ dã thú, bất kể là sói đầu lừa hay người rừng, cũng đều có nhược điểm sợ lửa; súng săn tuy hơi lạc hậu, tính năng cũng không đáng tin cậy, nhưng nói gì thì nó cũng là thằng cha biết nhả khói, hiệu quả tâm lý mạnh hơn hiệu quả sát thương nhiều.

    Nghĩ vậy, anh liền nhỏ giọng rỉ tai Hải ngọng mấy câu, bảo cậu ta trên đường cố kiếm cơ hội bắt chuyện với Hổ Tử, tránh lúc cần lại không mở nổi miệng. Tuy cái miệng của Hải ngọng không được sạch sẽ lắm, nhưng lại lợi hại hơn cả ngàn quân vạn mã. Anh lên trước vỗ vai Hổ Tử: “Này, người anh em! Anh em mình thương lượng với nhau tí nhá.

    Đợi đến lúc tụi mình vào rừng rậm nguyên sinh m Hải, chú em cho anh mượn súng săn sử dụng mấy ngày, sau này có cơ hội, anh đây sẽ dẫn chú mày đi đây đó mở rộng tầm mắt. ông già nhà anh làm thiếu tướng, anh ở nhà lầu, đi “giải quyết nỗi buồn” cũng chẳng bao giờ cần ra khỏi phòng…” Hổ Tử là đứa con chính hiệu của núi rừng, tuy lớn từng này nhưng chưa bao giờ ra đến huyện thành, nên đầu óc rất đỗi đơn giản, nói dễ nghe hơn thì cậu ta là người yêu ghét phân minh, còn nói khó nghe hơn một chút thì cậu ta là hạng ruột để ngoài da ngốc nghếch.

    Cậu ta vốn dĩ đã vô cùng khó chịu với hành vi đốt lửa trong khu vực rừng của hội Tư Mã Khôi, cho rằng đối phó với loại người này, không cần giải thích dài dòng, chỉ cần tóm cổ đem về là xong. Tư tưởng của cậu ta cũng ấu trĩ như loài vịt mở mắt thấy ai, người đó sẽ là mẹ, cậu ta ban đầu đã nhận định thế nào, thì sau này mãi mãi trung thành với nhận định ấy.

    Chính vì thế, Hổ Tử vừa nghe Hải ngọng nói mấy câu, đã cảm thấy anh bốc phét, trong lòng càng thêm tức giận: “Trên đời này làm gì có ai ‘giải quyết nỗi buồn’ ngay trong nhà, nhà của anh đúng là còn không bằng cái ổ chó”. Hải ngọng cho rằng, mình là người từng tham gia cách mạng thế giới, là người từng trải, đi nhiều hiểu rộng, còn Hổ Tử chỉ là cậu dân binh quê mùa ở miền núi, tầm nhìn hạn hẹp, tư tưởng giác ngộ của hai người căn bản không cùng một tầng lớp, lời nói cũng không tâm đầu ý hợp, càng nghe càng không thể chịu được, nên thà không ai thèm để ý đến ai cho xong.

    Nhóm người chia ra thành hai tổ, men theo con đường vượt núi, đến lúc xế chiều ngày thứ hai, cả hội mới đến được ngọn núi chính là Đại Thần Nông Giá. Trên núi, tùng trúc che khuất bầu trời, biển cây rừng mênh mông, cản trở gió và ánh sáng nguyên thủy của thế giới bên ngoài xâm nhập vào.

    Một tòa tháp canh đứng sừng sững trong rừng rậm ở sườn bắc, phía dưới chân tháp có gian nhà gỗ. Đó chính là trạm thông tin cứu hỏa được lắp đặt máy bộ đàm không dây. Ngoại trừ những ngày đại hàn, tuyết lớn phong tỏa núi, còn bình thường ở đây lúc nào cũng có một nhân viên bảo vệ rừng gác trực.

    Trách nhiệm của nhân viên bảo vệ rừng cũng vô cùng quan trọng, ngày xưa đều do một thợ săn cao tuổi đảm nhiệm, đồng thời người này còn phải phụ trách cả công tác tuần núi. Sau này trạm điện đàm không dây được thiết lập, mới sửa đổi quy định, nông trường cắt cử dân binh lần lượt thực hiện nhiệm vụ.

    Vì giao thông trong núi sâu bị tắc nghẽn, vả lại dân binh đã qua khóa huấn luyện thông tin đơn giản cũng chẳng có mấy người, nên thông thường phải vài tháng mới thay ca một lần, điều kiện công tác và sinh hoạt ở đây còn gian khổ hơn vùng ven rừng nhiều. Lúc mọi người đến trước cửa trạm thông tin, ở nơi sâu trong rừng rậm vẫn vọng lại tiếng gió ào ào như những đợt sóng.

    Phía bên trong gian nhà gỗ tối thui, không có ánh đèn, con chó săn dường như đánh hơi thấy mùi nguy hiểm, nó đột nhiên chĩa mồm về phía trạm thông tin sủa vang mấy tiếng, dường như muốn cảnh cáo chủ nhân không nên đến gần. Cậu dân binh Hổ Tử nổi tiếng liều mạng từ nhỏ, cậu ta không buồn nghĩ ngợi, xông thẳng lên đẩy cửa, nhưng phát hiện cánh cửa đã bị khóa từ bên trong.

    Để phòng dã thú, tránh gió và giữ ấm, toàn bộ vật liệu xây dựng trạm thông tin đều sử dụng gỗ lãnh sam có đường kính thân cây dày nửa mét, tuy là kết cấu bằng chất liệu gỗ nhưng vô cùng kiên cố, hơn nữa phía trước chỉ có một rãnh cửa, cửa sổ đóng ván gỗ, nếu bên trong không có người thì tuyệt đối không thể khóa cửa ở bên trong.

    Hổ Tử lớn tiếng cất giọng gọi tên của nhân viên gác trực, cậu ta lại dùng hết sức gõ vào cửa thật mạnh, nhưng cửa trạm thông tin vẫn đóng chặt, im ỉm lặng ngắt. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Không chừng người gác rừng đột tử trong trạm rồi cùng nên, vì thế điện đàm mới đứt liên lạc như vậy”.

    Anh lập tức ghé sát mặt qua khe cửa sổ nhòm vào, lấy đèn pin soi, định nhìn xem tình hình trong phòng. Bên trong căn nhà gỗ tối om, đèn pin cũng chỉ soi được trong vòng bán kính một mét, phạm vi nhìn thấy vô cùng hạn chế. Tư Mã Khôi vừa tiến sát cửa sổ, bỗng nhiên nhìn thấy trong phòng có một gương mặt quái quỷ toàn lông đen, hai con mắt đỏ lòm lòm chứa đầy tà khí, hắn cũng đang đứng trong cửa sổ lén dòm ra ngoài.

    Tư Mã Khôi giật thót tim, vội vàng nhảy bật ra sau, nhưng khi anh định thần nhìn lại, thì khuôn mặt đó đã biến mất. Hải ngọng thấy thần sắc Tư Mã Khôi quái lạ, liền xông đến trạm thông tin ngó nghiêng mấy cái, bên trong tối mù mù, không có thứ gì, anh hỏi Tư Mã Khôi: “Cậu vừa trông thấy gì thế? Có người bên trong không?” Từ khi Tư Mã Khôi đến núi Thần Nông Giá tới nay, anh từng nghe không ít truyền thuyết bí ẩn có liên quan đến người rừng.

    Thông thường, người ta cho rằng người rừng là những dân phu trốn vào núi sâu tránh nạn vào thời Tần Thủy Hoàng bắt xây Trường Thành; thế nhưng ngay từ thời kì Xuân Thu Chiến Quốc, Khuất Nguyên người nước Sở đã từng làm bài từ, mô tả người rừng trong núi Thần Nông Giá sống động như thật, và có lẽ đó chính là ghi chép sớm nhất về người rừng.

    Thời cận đại, những câu chuyện tận mắt nhìn thấy người rừng càng nhiều vô kể, họ đều mô tả đó là loài sinh vật cao lớn, giống vượn cổ, thường lảng vảng trong rừng rậm nguyên sinh m Hải, và chí ít cũng phải vượt qua Yến Tử Ô mới có cơ hội gặp được, còn ở ngọn núi chính Thần Nông Giá này thì chưa thể có dấu tích của chúng.

    Tư Mã Khôi hoài nghi thứ mình nhìn thấy khi này có khả năng là người rừng, nên anh nhắc nhở mọi người cần tăng cường cảnh giác, người gác rừng có lẽ đã gặp phải điều bất trắc, chúng ta cần phá cửa vào xem rốt cuộc chuyện gì xảy ra. Cao Tư Dương gật đầu đồng ý. Tuy cô biết trong cánh rừng rậm nguyên sinh cách biệt với thế giới bên ngoài này, bất kể chuyện bất ngờ nào cũng có thể xảy ra, nhưng bây giờ hội cô người nhiều thế mạnh, lại có chó săn và hai khẩu súng săn, nên dẫu có đột nhiên gặp phải dã thú nào cũng không đến nỗi mất mạng.

    Mọi người xem xét và đánh giá trạm thông tin, thấy cả kết cấu kiến trúc rất kiên cố, ống khói trên mái nhà lại hẹp, nên không thể chui vào được. Tư Mã Khôi dùng sức đẩy cánh cửa gỗ hé ra một khe hẹp, rồi lấy dao chặt đứt khóa. Cậu dân binh Hổ Tử xách súng định xông vào, nhưng Tư Mã Khôi dầy dạn kinh nghiệm đã kịp nhìn tình hình và cảm thấy có điều gì đó rất bất thường, nên không muốn cậu dân binh quê mùa này hành động hồ đồ thì có thể xảy ra án mạng, thế là anh liền giơ tay túm ngược cậu ta trở lại, sau đó cầm đèn pin thò người vào trong nhìn.

    Trạm thông tin dường như để hoang khá lâu, bốn bức tường lạnh lẽo, thảm nệm vẫn trải trên giường, súng săn cán dài, tù và đựng thuốc súng vẫn treo ở mép tường, rõ ràng chưa hề bị ai động đến, nhưng người gác rừng sống không thấy người, chết không thấy xác. Nếu trạm thông tin không có người, thì căn nhà gỗ khép kín này làm sao có thể bị khóa bên trong? Còn thứ mà anh vừa nhìn thấy khi nhòm qua khe cửa sổ khi nãy, thì rốt cuộc là thứ gì? Tư Mã Khôi còn lờ mờ cảm thấy trong không gian chật hẹp của căn phòng phảng phất một mùi quái dị, khiến người ta rủn lạnh hết chân tóc, nhưng anh lại không tìm thấy mùi đó phát ra từ vật gì.

    Gió núi ùa vào căn nhà gỗ khiến cái mùi quái lạ kia nhanh chóng tan đi, mũi người không còn ngửi thấy gì nữa. Có điều, các thành viên phía sau Tư Mã Khôi cũng đã kịp phát hiện thấy mùi quái dị đó. Cao Tư Dương đột nhiên nói: “Đây hình như là… mùi xác chết!” Hải ngọng nói: “Người chết tôi thấy nhiều rồi, nhưng đâu có mùi gì đặc biệt.

    Cô tìm một giành cá mặn phơi nắng vài giờ đồng hồ, may ra còn giống mùi người chết, vì đó là mùi hôi thối rữa nát. Nó khác hoàn toàn với mùi trong căn phòng này”. Tư Mã khôi cũng cảm thấy không giống với mùi tỏa ra từ tử thi, nhưng không rõ vì sao Cao Tư Dương lại hình dung như vậy? Thắng Hương Lân phán đoán: “Có lẽ là mùi khí hóa học nào đó, rất giống với mùi dung dịch dùng để phòng chống hoại mục”.

    Thực ra, bình thường, làm gì có ai phải thường xuyên tiếp xúc với tử thi rữa nát, những tử thi mà Cao Tư Dương trước đây từng nhìn thấy trong học viện quân y, đều được ngâm trong bồn xi măng chứa đầy dung dị phoóc môn, chuyên dùng cho sinh viên tiến thành luyện tập giải phẫu, bởi vậy cô hình thành phản xạ điều kiện chỉ cần ngửi thấy mùi này, tín hiệu đầu tiên xuất hiện trong óc chính là “người chết”.

    Nếu hình dung một cách chính xác hơn, thì mùi khí kích thích mũi mạnh mẽ xuất hiện trong trạm thông tin khi nãy, gần giống với mùi foman đêhít sản sinh lúc lan tỏa trong không khí, dung dịch foman đêhít chính là dung dịch phoóc môn thường sử dụng để chế tác tiêu bản tử thi. Tư Mã Khôi kể lại tình hình khi nãy anh trông thấy qua khe cửa sổ cho những người còn lại nghe, nếu không phải do anh bị hoa mắt, thì nhất định trong trạm thông tin có thứ gì đó đang lẩn trốn, vả lại nó chắc chắn là vật sống và không rõ vì sao lại xuất hiện mùi khí tiêu bản tử thi.

    Hội Hải ngọng nghe xong chuyện cũng chỉ đề cao cảnh giác hơn một chút, chứ không hề cảm thấy sợ, còn mọi người lại định chuẩn bị xông vào bên trong lục soát. Duy chỉ có anh thanh niên trí thức Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử, ở lâm trường bản địa, là đồng thời lộ nét mặt khiếp sợ.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 7: GÃ HÁI THUỐC


    Đại Thần Nông Giá đất hoang rừng sâu, ngập tràn những truyền thuyết li kì kinh dị, nghe nhiều khiến người ta cũng không khỏi ớn lạnh tim gan, nên thông thường không ai dám kể truyện ma trong rừng thẳm núi sâu. Cao Tư Dương là học viên học viện quân y, những người không dũng cảm không dám học y, cô lại là người duy nhất mặc quân phục, bởi vậy cô không tin những lời lẽ của chủ nghĩa duy tâm: “Tối lửa tắt đèn thế kia, không chừng nhìn lầm cũng nên, trạm thông tin làm sao có ma được?” Thắng Hương Lân cũng hỏi cậu dân binh và Nhị Học Sinh: “Tôi từng đọc một cuốn tư liệu, trong đó nói thời cô, người ta gọi người rừng là ma núi.

    Ma mà các cậu nói, có phải chỉ người rừng không?” Tư Mã Khôi vừa nhìn phản ứng của hai người, thì biết chuyện này hẳn có nguyên nhân gì sâu sa bên trong. Tổ tiên nhiều đời nhà cậu dân binh Hổ Tử đều là thợ săn ở Thần Nông Giá, chưa bao giờ rời khỏi cánh rừng này; anh chàng kính cận Nhị Học Sinh biết sửa máy bộ đàm, cũng ở lâm trường cải tạo mấy năm rồi, nên có thể coi là người lai bản xứ, có lẽ bọn họ biết chuyện gì đó mà người ngoài không biết, nhưng bất luận khuôn mặt khi nãy anh vừa nhìn là ma núi hay người rừng, thì chắc chắn hắn không thể nghiễm nhiên đào thoát ngay trước mắt mọi người được.

    Thế là, anh liền hỏi Nhị Học Sinh xem đầu đuôi câu chuyện thế nào, vì sao lại nhận định rằng trong căn nhà gỗ có ma? Nhị Học Sinh được hỏi, thì đem kể tuốt tuột những gì mình biết cho mọi người nghe. Từ năm 1968, cậu ta đã đến lâm trường cải tạo tư tưởng. Lúc thường, ngoại trừ sách ra, thì cậu ta cũng không có sở thích gì khác.

    Vùng đất nằm ở rốn núi phía tây tỉnh Hồ Bắc này cheo leo hiểm trở, tịnh không bóng người, điều kiện vô cùng gian khổ, lạc hậu. Nhị Học Sinh nhớ lúc mới đến, thứ quý giá nhất trong lâm trường chính là chiếc đài phát thanh hiệu Xuân Phong, nút tắt mở còn bị hỏng, sau đó Nhị Học Sinh sửa được chiếc đài, vì chuyện này mà lâm trường đã mở hội, tổ chức vô cùng long trọng, trải vải đỏ phủ mặt bàn, rồi đặt chiếc đài lên đó, thậm chí phía sau còn treo tranh chân dung Mao chủ tịch và phó thống soái Lâm.

    Rất nhiều dân bản xứ và công nhân lâm trường gần đó nghe tin đều kéo nhau đến xem, ai cũng muốn tận mắt chứng kiến chiếc hộp màu đen biết nói. Lúc đó, tín hiệu phát sóng của chiếc radio rất tệ, mở ra chỉ thấy toàn tiếng rè, ngay cả âm thanh của nữ phát thanh viên cũng nghe không rõ, nhưng mọi người vô cùng vui mừng, nức nở khen ngợi tay nghề của Nhị Học Sinh, thật không ngờ trong đài còn có cô em nào đó, họ còn bàn bạc nhau tìm cách kéo cô ấy ra ngoài xem mặt mũi thế nào.

    Nhị Học Sinh chưa bao giờ được ai xem trọng như thế, nên lòng cảm thấy rất vinh dự. Trong lúc còn đang phấn khởi, bỗng nhiên cậu ta ngửi thấy một mùi rất khác thường tỏa ra từ đám đông, giống hệt mùi trên các tiêu bản tử thi. Nhớ lúc ở phòng sinh học của trường, Nhị Học Sinh từng nhìn thấy tiêu bản của thú rừng, nó cũng có mùi dung dịch hóa học nhức mũi y như vậy, cậu ta đứng dậy nghiêng ngó xung quanh, phát hiện hàng người phía sau có một kẻ đang thò cổ vào xem.

    Hắn choàng một miếng vải rách trên mặt, cố ý che gương mặt, chỉ lộ hai con ngươi lòng đen thì ít mà lòng trắng thì nhiều, trên người hắn toát ra mùi phoóc môn nồng nặc. Lúc đó, đám đông nhốn nháo, Nhị Học Sinh thấy lạ, lòng sinh nghi, nhưng cũng không dám tiếp tục tìm hiểu.

    Ngày hôm sau, cậu ta hỏi thăm mấy công nhân lão thành trong lâm trường, mới biết tường tận. Thì ra, gã đó họ Dư, trước đây hành nghề hái thuốc, còn tên là gì thì không ai biết, người dân bản xứ quen gọi gã là Lão Xà. Gã khoảng 40 tuổi, vóc dáng bẩm sinh vai hùm lưng sói, vào núi săn bắn chưa bao giờ phải ra về tay không, không chỉ vậy hắn còn biết tuyệt kỹ “tiêu lộc”, tức là bắt chước tiếng hươu kêu.

    Những kẻ hái thuốc trong rừng sâu núi thẳm đa số đều biết phân biệt vật tính của dược thảo, có khả năng trèo vách cheo leo dựng đứng hay vực sâu nguy hiểm, nhưng đó chỉ là những kỹ nghệ mạt đẳng nhất, vì muốn tìm thấy dược thảo quý hiếm, ngoại trừ liều mạng ra còn phải gặp vận may nữa.

    Không chỉ vậy, người hái thuốc siêu đẳng phải sở hữu những bí thuật độc môn, mà “tiêu lộc” chỉ là một bản lĩnh đặc biệt đã bị thất truyền trong số đó. Rừng rậm nguyên sinh ở m Hải Cốc, từ xưa đã là nơi đàn hươu kéo đến cư ngụ. Nhu cầu giao phối của con hươu đực đầu đàn vô cùng mạnh mẽ, mỗi tiết cuối xuân đầu hạ, trong một ngày nó phải giao phối với hàng trăm con hươu cái, cuối cùng tinh lực cạn kiệt, nó gục xuống, nằm vật ra đất, dài cổ huýt gọi đồng loại, âm thanh này giống như tín hiệu cầu cứu.

    Khi hươu cái trong núi sâu nghe thấy tiếng gọi, chúng sẽ lập tức ngậm linh chi đến ứng cứu, những loại linh chi ngàn năm ngay cả người hái thuốc không tìm thấy, thì bầy hươu cũng tìm thấy, con hươu đầu đàn nuốt linh chi xong, chẳng bao lâu sau nó đã khôi phục thể lực, chạy nhảy băng băng như lúc đầu.

    Người giả tiếng hươu phải đội cặp sừng hươu, mình mặc áo da hươu để ngụy trang, rồi nấp trong rừng rậm nguyên sinh bắt chước tiếng hú, dẫn dụ hươu cái ngậm linh chi đến, rồi dùng gậy đánh chết hươu cái, xẻ thịt lột da, lấy linh chi trong miệng nó. Có điều, muốn học được âm thanh này phải có thiên phú, trong vạn người chưa chắc đã có một người bắt chước thành công.

    Năm 60, Lão Xà vào núi tiêu lộc, khi vừa cầm cây gậy sắt định đập nát sọ con hươu cái, thì chẳng ngờ con hươu đực đầu đàn, thân mình to hơn cả con bò, từ đằng sau đột nhiên xông ra, nó có cặp sừng nhọn như đinh, chẽ ngang dọc, vô cùng rắn chắc, các con mãnh thú trong núi gặp nó cũng phải nể nang vài phần, Lão Xà bị tấn công bất ngờ, không kịp phản ứng, nên bụng đã bị đâm một lỗ thủng lớn.

    Nhờ kinh nghiệm, gã biết lúc này cần chạy thục mạng ngay vào rừng rậm, vì nghe nói sừng hươu sợ nhất những nơi um tùm rậm rạp, nếu lỡ bị dây leo vướng vào thì chúng không thể động đậy gì nữa, lúc đó số phận chúng sẽ do con người tùy ý định đoạt. Thế nhưng vì chạy trốn quá gấp, không kịp phân biệt phương hướng, nên Lão Xà giẫm vào một thân cây cổ nằm đổ giữa đường, vỏ cây mục nát, bên trong có vô số loài nấm độc sinh sôi nảy nở, gã ngã dúi xuống, mặt dính đầy chất dịch nhầy nhớt nháp.

    Để tránh bị độc tính thâm nhập vào não, gã nén nhịn đau dùng dao lột hết da mặt, nên cuối cùng cũng giữ được tính mạng. Lão Xà rất tinh thông đặc tính dược thảo và các phương thuốc dân gian, nên khi trở về gã đi giết chết một con khỉ lông vàng, lấy da thú đắp lên mặt, nhưng không rõ dùng loại thuốc gì, mà cái da mặt xồm xoàm lông lá đã dần dần trở thành màu đen.

    Cũng từ đó, cơ thể gã lúc nào cũng nồng nặc mùi khí quái lạ, xua đuổi kiểu gì vẫn không hết, và cũng từ bấy giờ trở đi, gã không bao giờ vào rừng “tiêu lộc” nữa. Hội Tư Mã Khôi nghe Nhị Học sinh tóm tắt câu chuyện, đều không khỏi kinh ngạc, chẳng ngờ trên đời này còn có người sói thật; không biết lúc tự mình rạch da mặt cảm giác sẽ thế nào? Từ đặc trưng ngoại hình và mùi khí, Tư Mã Khôi phán đoán, khuôn mặt quái dị mà anh vừa nhìn thấy qua khe cửa sổ khi nãy, chính là gã hái thuốc tiêu lộc trong núi sâu, mà dân địa phương thường gọi bằng cái tên Lão Xà.

    Không rõ gã lén la lén lút ẩn nấp trong trạm thông tin vì mục đích gì, chỉ sợ gã đang che giấu bí mật xấu xa và đáng sợ nào đó, nhưng không gian trong nhà gỗ rất chật hẹp một người còn sống sờ sờ như thế thì trốn vào đâu được chứ? Nhị Học Sinh nói với Tư Mã Khôi: “Kẻ anh nhìn thấy không phải người sống, mà là người đã chết từ lâu rồi”.

    Cậu dân binh Hổ Tử chứng thực chuyện Nhị Học Sinh vừa kể hoàn toàn có thực. Cuối những năm 60, bộ đội tiến hành các hoạt động trong vùng núi Thần Nông Giá, suốt thời gian đó, lâm trường thực thi chế độ quân quản, biên chế và huấn luyện dân binh dần dần chính quy hóa.

    Bộ đội còn cung cấp các thiết bị điện đàm không dây, chi viện cho địa phương xây dựng trạm thông tin phòng cháy rừng, tháp canh cũng được xây dựng vào thời điểm đó; còn căn nhà gỗ kia thì có từ thời trước giải phóng, khi ấy có người mật báo Lão Xà ăn trộm đài truyền thanh trong lâm trường, đêm nào cũng nghe lén đài địch vào lúc canh khuya, không những vậy, còn thường xuyên lảng vảng quanh trạm thông tin, đào bới lung tung, dường như muốn tìm kiếm vật gì.

    Thế nhưng vì thiếu chứng cứ xác thực, nên lâm trường chỉ bắt gã về thẩm tra mấy lần, cuối cùng vẫn không có kết luận gì. Năm ngoái, Lão Xà theo mấy người dân sơn cước vào Yến Tử Ô, thòng dây thừng dài trèo giữa hai vách cheo leo để hái thuốc, chẳng ngờ bị một bầy khỉ lông vàng gặm đứt dây thừng, làm gã bị ngã thẳng cổ xuống vực sâu.

    Những người hái thuốc kia đều nói, dã thú chết bởi tay Lão Xà thực sự quá nhiều, vả lại thủ đoạn của gã lại vô cùng tàn độc, thường ngày thích ăn óc khỉ, bắt được rắn liền lột da lấy mật nuốt chửng vào bụng ngay trong khoảnh khắc con rắn vẫn còn sống; tấm lông thú dán trên mặt gã cũng là của một con khỉ già.

    Loài khỉ lông vàng trong núi đặc biệt thù dai, chuyện khỉ tấn công người từng xảy ra nhiều năm trước đây, giờ nhìn thấy gã, bọn chúng hận đỏ mắt, nhân cơ hội gã chưa kịp phòng bị liền xông lên báo thù. Có thể thấy, sinh vật trong rừng sâu núi thẳm đều có sự linh thiêng nhất định, không nên tùy tiện sát hại chúng.

    Sau này, dân binh vớt được thi thể của gã trong đầm nước dưới vực sâu, rồi chôn cất xác gã qua loa dưới một nấm mồ nông gần lâm trường. Chuyện này rất nhiều người đã tận mắt chứng kiến, bây giờ hài cốt có lẽ đã mục nát cả rồi, đương nhiên không thể xuất hiện trong trạm thông tin được.

    Trước đó, Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết nội tình, nghe cậu dân binh và Nhị Học Sinh kể xong, anh ngẫm nghĩ, gã Lão Xà này không giống những người hái thuốc bình thường, người đã chết thì không thể nào bò ra khỏi mộ mà sống lại được, nhưng khuôn mặt mà anh trông thấy lúc trước và cả mùi khí cổ quái vẫn còn vương vất trong căn phòng thì, thực ra là chuyện gì? Vì sao những chuyện quái lạ này không xảy ra sớm hơn hay muộn hơn, mà lại xảy ra vào đúng thời khắc này? Tư Mã Khôi quyết định phải tìm hiểu chuyện này đến cùng, anh thủng thẳng nói: “Ông đây bình sinh giết người như giết kiến gió, giờ còn sợ ma chắc? Đợi ông lục soát kỹ chỗ này, rồi…”, mới nói đến đây thì Hương Lân nhè nhẹ giật lưng áo anh một cái.

    Tư Mã Khôi biết mình lỡ lời, vội ngậm miệng lại. Cao Tư Dương cảnh giác trừng mắt hỏi Tư Mã Khôi: “Anh vừa nói gì vậy?” Tư Mã Khôi lấp liếm ngay: “À! Tôi sợ gặp phải thứ không sạch sẽ, nên nói vài câu lên gân cho thêm vững dạ ấy mà”. Hải ngọng cũng nói đỡ: “Ấy! Chuyện này để tôi làm chứng.

    Cậu ta nhìn người ta giết gà mà bắp chân còn bị chuột rút, thì làm gì có gan giết người?” Cao Tư Dương nghe Tư Mã Khôi tự nhận mình vừa bốc phét, thì không tra hỏi gì thêm nữa. Cô cũng không nghĩ trạm thông tin trong núi sâu có ma, nhưng người gác rừng vô duyên vô cớ mất tích, rất có khả năng đã gặp phải sự cố gì rồi.

    Đây đâu phải chuyện nhỏ, có điều bây giờ ngoài trời đã tối mịt, không thể vào tháp canh phát tín hiệu cấp cứu được nữa. Cô là quân nhân duy nhất trong đội, đương nhiên phải đứng ra quyết định. Cao Tư Dương bảo Nhị Học Sinh điều chỉnh máy điện đàm, cố gắng liên lạc với lâm trường một cách nhanh nhất, sau đó ra lệnh cho cậu dân binh Hổ Tử dắt chó săn đến trợ giúp lục soát.

    Lai lịch của Nhị Học Sinh có vấn đề nên không được mọi người tôn trọng lắm, cậu ta đã quen bị người ta sai vặt chạy chỗ này chỗ kia. Cỗ máy điện đàm không dây mà cậu ta vác trên lưng, vốn dĩ cũng không thường xuyên hoạt động, lại chỉ được dùng để thay thế linh kiện, nên giờ không sử dụng được.

    Sau khi phân công, cậu ta lập tức bắt tay tất bật sửa chữa một hồi. Cậu dân binh Hổ Tử tuy liều, nhưng chung quy vẫn là dân quê chưa bao giờ bước ra khỏi lũy tre làng, nên không tránh khỏi tâm lý mê tín. Vùng núi phía tây tỉnh Hồ Bắc có phong tục, điều tối kỵ nhất là không để ma nhìn thấy chó đen, nếu không người chết sẽ sống dậy.

    Chính vì vậy mà cậu ta kiên quyết không đồng ý cho chó săn vào trong phòng. Cao Tư Dương thấy không thuyết phục nổi cậu ta, liền để cậu ta tạm thời đứng gác bên ngoài, những người còn lại bật đèn pin, vào trong lục soát kỹ từng ngóc ngách trong trạm thông tin. Tư Mã Khôi đi đầu.

    Anh tinh mắt phát hiện tấm ván lát nền nhà dường như có dấu tích bị xô đẩy, dường như không còn ở đúng vị trí cũ, nên thầm nghĩ: “Chẳng lẽ dưới sàn có đường ngầm?”, rồi lập tức gọi Hải ngọng đến giúp một tay nạy tấm ván lên. Trước mắt, quả nhiên lộ ra một cái hầm hình vuông, sâu như cái giếng, mùi ẩm mốc phả ra từ bên trong, vị trí cửa hầm cũng không được che đậy kín kẽ lắm, nếu không bị ván sàn che phủ, thì chỉ cần bước chân vào trong nhà là lập tức nhìn thấy.

    Xem ra, có lẽ nó là hầm chứa thức ăn. Dân binh gác rừng gác một ca dài cả một, hai tháng, nơi đây lại rất cao so với mực nước biển, nên gặp lúc thời tiết nóng bức thì ở đây cũng hơi nóng một chút, bởi vậy rất cần loại hầm này để dự trữ lương thực và rau cỏ. Lòng hầm đất rất rộng rãi, nhưng độ sâu thẳng đứng chỉ khoảng hai ba mét, bên trong bốc mùi ẩm mốc, lanh lẽo; khi chiếu đèn pin ra góc phía xa, thấy có một thi hài không còn nguyên vẹn da thịt, dường như bị dã thú gặm mất, xương sườn trước lồng ngực lòi cả ra ngoài, thi thể đã bắt đầu biến sắc, nếu không phải không khí dưới hầm đất âm lạnh, thì có lẽ nó đã sớm mục ruỗng, rữa nát từ lâu.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 8: HẦM ĐẤT


    Lòng hầm đất trong trạm thông tin có mùi tanh của đất ẩm thấp, nó lấn át hoàn toàn các mùi khác. Tư Mã Khôi chưa thể phân biệt mùi phoóc môn có bay lẫn trong không khí hay không? Nhưng gương mặt của thi thể kia vẫn còn khá hoàn chỉnh, nó không giống với khuôn mặt Lão Xà mà anh vừa nhìn thấy qua khe cửa sổ lúc trước, có lẽ tử thi đó chính là người gác rừng xấu số.

    Mọi người soi đèn pin, trông thấy thảm cảnh của người gác rừng, ai nấy đều bất giác nhíu mày, chốt cài bên trong cánh cửa sổ vẫn đóng chặt, cũng không còn lối ra nào khác, chính bởi vậy mới dẫn đến cái chết của người gác rừng, còn thứ đã gặm xác tử thi, có lẽ hãy còn lẩn trốn trong hầm đất.

    Cao Tư Dương cảm nhận được tính nghiêm trọng của sự việc, bên mình lại không có vũ khí, cô liền lấy khẩu súng săn mà Nhị Học Sinh mang từ lâm trường đến, định xuống hầm đất xem xét tình hình. Tư Mã Khôi sợ cô lỡ xảy ra chuyện, liền ra hiệu bảo Thắng Hương Lân và Hải ngọng ở lại chỗ cũ tiếp ứng, còn mình đội mũ Pith Helmet, bật đèn quặng trên đầu bám theo cô.

    Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi đi sau, thì cảm thấy vững dạ hơn nhiều. Hai người lần lượt kiểm tra khắp nơi trong hầm đất dưới ánh sáng của đèn pin và đèn quặng. Tư Mã Khôi phát hiện dấu răng lưu trên thi thể người gác rừng rất lớn, không giống như bị chuột bọ gặm nhấm, mà giống như bị con vượn có thân hình rất to vừa cắn vừa rứt.

    Lòng anh chợt dấy lên một dự cảm không lành: “Nghe nói, cương thi thành tinh trong núi sâu không chỉ hút não tủy, ăn nội tạng của con người, mà còn có thể tàng hình, xuất hiện bất thình lình ở khắp nơi. Lẽ nào, cái xác Lão Xà đã nhập thổ từ bao năm nay... giờ lại đội mồ sống dậy?” Tư Mã Khôi cảm thấy gã hái thuốc tên Lão Xà đã chết kia, lúc còn sống nhất định có rất nhiều bí mật che giấu mọi người, nói không chừng, hắn đúng là âm hồn không thể siêu thoát, biến thành cương thi chuyên lảng vảng khắp nơi vào ban đêm cũng nên.

    Vả lại, nếu căn cứ vào mọi dấu vết để lại hiện trường, thì lúc này hắn vẫn chưa rời khỏi gian nhà gỗ. Có điều, nghĩa địa ở gần lâm trường cơ mà, sao hắn lại xuất hiện ở ngọn núi chính Đại Thần Nông Giá cô tịch bóng người này? Tư Mã Khôi nhớ lại lúc nghe Nhị Học Sinh kể chuyện, Lão Xà đó bị người ta nghi ngờ có liên hệ với tổ chức đặc vụ, thường nghe trộm đài địch vào đêm khuya, lại còn lén lút lẻn đến đào bới gì đó ở gần khu vực trạm thông tin, như thể muốn tìm kiếm thứ gì đó.

    Trạm thông tin chẳng qua chỉ là gian nhà gỗ có người gác rừng trực, ngoại trừ cái máy bộ đàm bị hỏng và tòa tháp canh cao hơn bốn chục mét ra, thì còn có thứ gì đặc biệt khác? Cho dù gã có muốn đào mồ quật mả, trộm bảo vật thì cũng không nên ra tay ở đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét so với mặt nước biển này chứ.

    Lúc này, Cao Tư Dương đang lục soát ở rìa hầm đất, cô phát hiện thấy có một cái giành(1) buộc dây thừng, bên trong đựng đầy đất, đẩy cái giành sang một bên, chỗ chân tường lộ ra một cửa động hơi dốc xuống dưới, bên trong tối thui, trông có vẻ sâu hút. Cô ngạc nhiên nói với Tư Mã Khôi: “Anh xem này, phía dưới có địa đạo!”.

    [1] Giành: đồ đựng đan khít bằng tre nứa, đáy phẳng, thành cao. Tư Mã Khôi đi tới xem, phát hiện không khí trong động không lưu thông, liền đứng dậy bảo Hải ngọng thả đèn quặng xuống, sau đó cúi lưng, luồn người chui xuống. Địa huyệt này vừa chật chội lại vừa khúc khuỷu, độ sâu thẳng đứng ước chừng chưa tới mười mét, điểm tận cùng bị đào là một hố đất, khắp nơi còn vương vãi rất nhiều đất vụn cùng một cái xẻng sắt cán ngắn, dường như chủ nhân của nó vẫn chưa đào đến đích.

    Địa huyệt chỉ đến đó, vì không khí không lưu thông, nên ánh sáng đèn quặng trở nên xanh lè và leo lét. Tư Mã Khôi lục soát tứ phía một lượt, nhưng không phát hiện thấy gì. Anh và Cao Tư Dương liền quyết định rút lui khỏi địa đạo, trèo lên chỗ hầm đất, rồi kể lại tường tận mọi chuyện cho những người còn lại cùng nghe: “Xem tình hình thì có lẽ ai đó muốn đào bới vật gì trong hầm đất, cũng bởi vậy nên người gác rừng mới bị sát hại, cái giành kia chính là công cụ vận chuyển đất”.

    Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh vẫn chưa sửa máy điện đàm xong, cô sốt ruột hỏi: “Hay là bọn đặc vụ địch tiến hành hoạt động phá hoại? Nhưng trạm thông tin nằm ở sườn bắc ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá, xung quanh hoang vắng, um tùm rừng rậm, không hiểu ở đây chôn thứ gì chứ? Không hiểu kẻ đào địa huyệt kia trốn ở đâu được nhỉ?” Tư Mã Khôi nói: “Điều kì lạ chính là điểm này, ngoại trừ mấy người chúng ta ra, tôi cảm thấy trong trạm thông tin và dưới hầm đất, vẫn còn có thêm hơi thở của người khác nữa.

    Lúc mới phát hiện ra địa huyệt, tôi từng hoài nghi, tên giặc đất âm mưu quật mả tìm bảo vật, nhưng đỉnh núi cao cách mặt biển xa thế này thì có lẽ không tồn tại mộ cổ, có muốn từ đây đào sâu vào tận lòng núi thì sức người không thể làm nổi, nếu động huyệt sâu quá, trước tiên sẽ không giải quyết được vấn đề cung cấp dưỡng khí, ngoài ra tôi đã quan sát kỹ lớp đất ở bề mặt địa đạo, tất cả là đất tự nhiên, chưa hề bị đào bới bao giờ”.

    Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói xong, cô lấy sổ vẽ hình đỉnh núi, đại diện cho ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá, trên đỉnh núi là tháp canh, sườn bắc là trạm thông tin. Bên dưới trạm thông tin cô còn vẽ hai nét đứt với góc độ hẹp, rồi giải thích: “Kết cấu địa chất trong đỉnh núi chủ yếu là tầng đá nham thạch, ở giữa tầng nham thạch nhất định tồn tại dải đứt gãy.

    Trong hầm đất dưới trạm thông tin toàn là đất, còn có thể đào một địa huyệt sâu mấy chục mét, điều đó chứng tỏ chỗ này vừa vặn giáp ranh với tầng nham thạch, sâu nhất cũng không thể quá trăm mét, nếu đào tiếp xuống dưới sẽ là nham thạch rắn chắc. Giả dụ khu vực tiếp giáp tầng nham thạch tồn tại một vật thể nào đó, thì có lẽ nó cách điểm tận cùng của địa đạo cũng không xa lắm đâu, bởi vậy hắn ta mới đào một cái hố lớn ở dưới đó”.

    Cao Tư Dương thấy hội Tư Mã Khôi đều lập luận rất xác đáng và hiệu quả, lòng thầm nghĩ: may mà gặp được đội khảo cổ đi tìm hóa thạch, bằng không chỉ dựa vào ba người tổ thông tin, gặp phải tình huống này thì thật không biết xử lý thế nào. Xem ra máy điện đàm ở trạm thông tin tạm thời không thể sửa được, còn ngồi đợi lâm trường cắt cử viện binh đến, thì chí ít cũng mất hai ngày, mà thời gian càng kéo dài thì càng dễ đêm dài lắm mộng.

    Cô ngẫm nghĩ giây lát, rồi quyết định nhờ đội khảo cổ tiếp tục trợ giúp, đào địa huyệt thông đêm, thăm dò bí mật dưới trạm thông tin, đồng thời nghĩ cách lùng tìm tông tích của kẻ địch. Đây là lần đầu tiên Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử gặp phải tình huống này, trong lòng hai người không tránh khỏi cảm giác hồi hộp và phấn khích, thấy sắp có cơ hội lập công đến nơi, họ liền lẩm bẩm mấy câu: “Hạ quyết tâm, không sợ hi sinh…” Tư Mã Khôi cảm thấy chuyện này rất có khả năng liên quan đến Nấm mồ xanh, nên đương nhiên anh không thể khoanh tay đứng nhìn, nhưng anh cũng hiểu rõ: nhóm Cao Tư Dương rất thiếu kinh nghiệm tiếp ứng và chuẩn bị tư tưởng cần thiết, bởi vậy anh buộc lòng phải nói trước với bọn họ: “Bất kể cuối cùng tìm thấy cái gì trong địa huyệt, thì tôi chắc chắn nó là thứ vô cùng nguy hiểm và đáng sợ, vì thế mọi người phải lên dây cót tinh thần gấp đôi bình thường, nếu không chỉ cần lơ là một chút sẽ xảy ra chuyện lớn đấy”.

    Cậu dân binh Hổ Tử đinh ninh Tư Mã Khôi là trùm sò của đội khảo cổ, nên cậu ta khăng khăng không chịu tin lời anh, lại còn vặn vẹo: “Cái động này vẫn chưa đào tới đáy, anh cũng chẳng phải thần thánh gì, sao biết trong đó nhất định có thứ nguy hiểm?” Tư Mã Khôi nói: “Dân binh quê mùa nhà cậu chẳng hiểu gì về khoa học cả, thời đại nào rồi mà còn thần với chả thánh.

    Tôi bảo có nguy hiểm thì chắc chắn sẽ có nguy hiểm, vì đó là định luật Murphy”. Cậu dân binh Hổ Tử tức giận phừng phừng nói: “Có khùng mới tin lời anh, chẳng lẽ mớ thùng phuy cũng là khoa học sao?” Nhị Học Sinh giải thích với cậu ta: “Không phải mớ thùng phuy, mà là Murphy, đó là một định luật về sự hỗn độn, cơ bản được chia làm ba phần.

    Quỹ đạo phát triển và vận hành của sự vật là đa nguyên hóa, tồn tại vô số loại tính khả năng, bất kể anh có tiên liệu mọi việc chu đáo đến mức nào, nhưng đến khi nó xảy ra thì luôn xuất hiện những tình huống bất ngờ ngoài dự tính, điều này gọi là kế hoạch không theo kịp sự biến hóa, đó là câu tóm tắt hay nhất về định luật thứ nhất.

    Định luật thứ hai là “sợ cái gì, sẽ xảy ra cái đó”, anh càng không mong muốn nó xảy ra thì xác suất nó sẽ xảy ra càng cao. Tôi lấy ví dụ thế này, có lát bánh mì, một mặt phết bơ, nhưng lại bất cẩn lỡ tay làm nó rơi xuống tấm thảm đắt tiền, kì thực xác suất mặt phết bơ hay không phết bơ sẽ rơi xuống đất là tương đương nhau, nhưng trên thực tế, bất kể lát bánh mỳ rơi bao nhiêu lần, thì mặt phết bơ toàn bị úp xuống đất, bởi vì sự việc luôn luôn phát triển theo chiều hướng mà chúng ta không mong đợi nhất, đây cũng chính là nguyên lý Murphy – trọng lực số mệnh.

    Ngoài ra còn có định luật thứ ba….” Cậu dân binh Hổ Tử nhíu hai đầu mày, ngắt lời hỏi: “Chỉ bọn Nga ngố mới ăn bánh mỳ phết bơ và thịt bò xào giá đỗ, chẳng lẽ anh cũng từng ăn rồi à?” Nhị Học Sinh sợ nói lỡ miệng, liền ngượng ngùng lắc đầu: “Tôi đã ăn bao giờ đâu, vừa rồi chỉ là lấy ví dụ cho cậu dễ hiểu thôi mà…” Khi nãy, Tư Mã Khôi chỉ định đem mấy lời đao to búa lớn ra át thế, nhắc nhở mọi người không nên ôm hi vọng hão huyền, phải làm tốt công tác chuẩn bị để ứng phó với tình huống xấu nhất, nhưng nếu để anh giải thích thế nào là định luật Murphy thì có lẽ anh cũng không thể giải thích tỉ mỉ đến thế, chẳng ngờ Nhị Học Sinh cũng được đấy chứ, đúng là không uổng công chúi mũi đọc sách suốt ngày.

    Cao Tư Dương nghe xong thì căn dặn Hổ Tử: “Tư Mã Khôi nói đúng đấy, em phải nghe lời anh ấy”. Cậu dân binh Hổ Tử vẫn ương ngạnh: “Chị là chị em, em chỉ nghe lời mình chị thôi”. Cao Tư Dương mắng: “Nói lung tung! Chẳng lẽ lời của Trung ương Đảng và Mao chủ tịch em cũng định không nghe nữa sao?” Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Ranh con! Mới tí tuổi đầu mà cũng bày đặt tán gái cơ đấy! Thằng nhãi ranh này tính tình ngang như cành bứa(2), hành sự lại lỗ mãng liều lĩnh, sớm muộn gì cũng tai họa giáng đầu thôi.

    Dù sao những gì cần nói thì mình đều nói cả rồi; nói là việc của mình, còn nghe hay không là việc của cậu ta, cậu ta tự đi mà lo liệu lấy.” [2] Cây bứa: một loại cây to cùng họ với măng cụt, cành mọc xoè ngang, quả màu vàng, quanh hạt có cùi ngọt ăn được. Hải ngọng châm chọc: “Này, người anh em Hổ Tử! Cậu chỉ nghe mỗi lời chị gái thôi à? Thế có định nghe lời anh rể không đấy?” Cậu dân binh Hổ Tử đỏ tía tai mặt mũi, chỉ hận không thể nhào vô vật nhau với Hải ngọng một trận.

    Thắng Hương Lân thấy vậy liền nhắc nhở mọi người còn phải đào địa huyệt. Hiện giờ, hai hội đang cùng chung một con thuyền, đừng vì những chuyện nhỏ nhặt dưa hành mắm muối mà đấu khẩu với nhau nữa. Lúc ấy đã hơn mười giờ khuya, mọi người ăn chút lót dạ, rồi xuống hầm đất bọc thi thể người gác rừng lại, tạm thời đặt trên tấm ván, sau đó Hải ngọng đội đèn quặng chui xuống đào hố.

    Tư Mã Khôi tận dụng chiếc giành còn lại để đựng đất, đẩy về địa đạo, rồi ba người Thắng Hương Lân, Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh dùng dây thừng kéo lên, cuối cùng cậu dân binh Hổ Tử đứng ngoài trạm thông tin phụ trách xúc đất. Vì người đông nên dưỡng khí tiêu hao rất nhanh, cả hội lại không chuẩn bị thiết bị cung cấp dưỡng khí, nên đào một lúc lại phải trèo lên trên để thở.

    Thế nhưng dây chuyền lao động vẫn tiến triển rất nhanh, nên chưa đầy hai tiếng sau, cái hố ở tận cùng địa huyệt đã được nới rộng mấy mét vuông, tiếp tục đào xuống sâu hơn đã là tầng nham thạch, xẻng sắt không thể đào được nữa. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Sao chưa tìm thấy thứ gì mà đã tới tầng nham thạch vậy nhỉ?” Anh lấy tay sờ tầng đá lộ ra bên dưới lớp đất.

    Ngoại trừ cảm giác kiên cố và lành lạnh ra, thì anh còn có cảm giác kết cấu của nó đều tăm tắp, không giống được hình thành do tự nhiên, lần ngang bên mép, ngón tay anh chạm phải mấy cây đinh sắt. Tư Mã Khôi và Hải ngọng càng nhìn càng cảm thấy kinh ngạc, hai người xem xét tỉ mỉ cả nửa tiếng đồng hồ dưới ánh đèn cácbua, trong đầu liên tiếp hiện ra mấy dấu hỏi lớn, vật ở tận cùng địa huyệt thật ngoài sức tưởng tượng, xem ra định luật thứ nhất của Murphy đã phát huy tác dụng.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: NÚI THẦN NÔNG GIÁ - HỒI 9: THÁM HIỂM HANG ĐỘNG


    Dưỡng khí tại nơi sâu trong địa huyệt rất loãng, ánh đèn cácbua còn yếu ớt hơn cả ánh lửa ma trơi trong huyệt mộ, Tư Mã Khôi sờ thấy mấy cây đinh thò ra, mỗi cây to như ngón tay người lớn, chúng rất kiên cố, tựa hồ đã bám rễ trong tầng nham thạch vậy, soi đèn lại gần, thì thấy nó đen sì sì, không có độ bóng.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn chăm chú hồi lâu, cảm thấy vật này rất quen mắt, có lẽ nó không phải là đinh, mà là đầu thép, còn tầng nham thạch bằng phẳng đào được dưới địa huyệt, là phần mái của kiến trúc đổ bê tông cốt thép, do mép tường chịu tác dụng của lực giãn nở nên bị rạn nứt, khiến cốt thép bên trong lòi cả ra ngoài, có điều ở một nơi như đỉnh núi Thần Nông Giá thì làm sao lại có một “căn phòng” như vậy được? “Căn phòng” kiên cố và quái dị kia vừa vặn nằm ngay trong khe nứt chỗ đường giáp ranh của tầng nham thạch, cách đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét so với mặt nước biển này cả mấy chục mét sâu, trên mặt đất lại hoàn toàn không có dấu vết đào bới đất cát, mà thậm chí ngay cả dân binh địa phương cũng không hề hay biết sự tồn tại của nó; thế nhưng công trình kiến trúc bê tông cốt thép này chắc chắn cũng chỉ mới được xây dựng mấy chục năm gần đây là cùng.

    Hải ngọng nói: “Trước đây, vùng Hồ Bắc, Hồ Nam đều là địa bàn chiếm cứ của thổ phỉ, hay đây là sào huyệt mà bọn chúng để lại?” Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Thổ phỉ chỉ tận dụng hang động thiên nhiên có sẵn trong núi để lẩn trốn thôi, đội quân ô hợp như bọn chúng thì làm sao đủ sức tạo ra công trình kiên cố thế này?” Hải ngọng lại nói: “Nhắc đến công trình, tớ mới nhớ ra, công trình này chắc chắn là hầm phòng không đấy.

    Mấy năm đó, đất nước chẳng đề ra khẩu hiệu: “Đào hầm, tích lũy lương thực, không xưng bá đạo, chuẩn bị cho chiến tranh, chuẩn bị chống hoang hóa, vì nhân dân phục vụ” là gì. Lúc đó, bộ đội công trình địa phương đào không biết bao nhiêu hầm lớn nhỏ, nghe nói tổng số khối lượng đất đá đào lên còn nhiều gấp mấy lần Vạn Lý Trường Thành cơ đấy”.

    Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy không giống một căn hầm trú ẩn. Đại Thần Nông Giá dân cư thưa thớt, đi sâu tiếp vào trong đã là cánh rừng rậm nguyên sinh m Hải Cốc, mà trên núi lại có bao nhiêu hang động thiên nhiên kì dị khác nhau, thì đâu cần thiết phải đào hầm trú ẩn phòng không; huống hồ, có lý nào lại xây hầm phòng không ở nơi này, bởi chẳng lẽ hàng ngày mỗi khi còi báo động vang lên, người ta lại rủ nhau chạy hai ngày đường núi đến đây lánh nạn? Hải ngọng lầm bầm: “Thế thì con bà nó quái lạ thật! Thôi, bọn mình cứ chui xuống nhìn xem bên trong nó là cái gì vậy”.

    Tư Mã Khôi thấy chỗ nứt vỡ trên khối bê tông cốt thép, có một lỗ hổng khá lớn, phần bê tông bên trên trống hoác, đủ cho một người chui lọt. Không khí trong khe nứt âm lạnh, khiến hiệu quả chiếu sáng của đèn cácbua được phục hồi, chứng tỏ không gian bên trong rất sâu.

    Anh ngăn không cho Hải ngọng vội vàng chui vào trước, mà đề xuất họ nên quay về để chuẩn bị chu đáo mọi biện pháp an toàn. Hai người kẻ trước người sau chui ra khỏi địa huyệt, rồi kể lại cho bốn thành viên còn lại tình hình vừa mới phát hiện: dưới lòng đất có khối tường kết cấu bê tông cốt thép, bên trong có lẽ rất sâu, nó không giống với công sự đa dụng thường dùng trong thời kì chiến tranh và hòa bình, nên chẳng rõ được sử dụng để làm gì? Tư Mã Khôi dự định, đội khảo cổ hội anh sẽ chui xuống dưới, để đội thông tin ở bên trên tiếp ứng, vì tình hình vẫn chưa rõ thế nào, nên phải mang cả ba lô và đèn quặng xuống theo.

    Cao Tư Dương biết rất rõ trách nhiệm của bản thân, cô đề nghị được đi cùng hội Tư Mã Khôi, cậu dân binh Hổ Tử cũng háo hức muốn lập công, đương nhiên không cam tâm ở lại, Nhị Học Sinh thấy gian nhà gỗ trong núi sâu tối lửa tắt đèn, mà bản thân anh ta đâu có gan ở lại canh cỗ tử thi, thế là cũng vội vàng nài nỉ xin được tham gia hành động cùng cả nhóm.

    Tư Mã Khôi không thể từ khách trở thành chủ để chỉ huy đội thông tin, huống hồ ba người bọn họ cũng không chịu nghe lời anh, vả lại nghĩ đến việc trong địa huyệt và gian nhà gỗ có khả năng vẫn còn tên “cương thi vô hình” đang ẩn nấp, đối phương chưa kịp đào đến điểm tận cùng thì vội vã trốn biệt, tuy anh không phát hiện thấy xung quanh có hơi thở người sống, nhưng cũng không dám lơ là.

    Nếu để hội Cao Tư Dương đi cùng, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, thì hội anh chí ít cũng có thể ứng cứu, bởi vậy anh không ngăn cản nữa. Chẳng ngờ cậu dân binh Hổ Tử bỗng đột nhiên hấp tấp vác súng chui tọt vào địa huyệt, Tư Mã Khôi thấy vậy không nhịn được mắng: “Tiên sư cái thằng quê mùa! Đúng là đồ ngựa non háu đá!” Tuy Tư Mã Khôi bừng lửa giận, nhưng anh vẫn lo lỡ cậu dân binh xảy ra chuyện gì, đành vội vã vác ba lô bám sát theo sau, những người còn lại cũng lần lượt chui xuống địa huyệt, mò mẫm đến chỗ có lỗ thủng ở cuối địa huyệt, rồi cùng chui vào bên trong.

    Tư Mã Khôi đuổi theo Hổ Tử, tóm lấy tay cậu ta, gằn giọng: “Tiểu tử nhà cậu chán sống hay sao mà vội chạy đi đầu thai thế hả?” Cậu dân binh giằng ra khỏi tay Tư Mã Khôi, cố chấp đáp: “Tôi chỉ muốn xem cái ‘mớ thùng phuy’ khoa học nhà anh có chính xác hay không, nhưng bên trong tối thui, có thấy cóc khô gì đâu? Nguy hiểm ở chỗ nào chứ?” Tư Mã Khôi điên tiết: “Mớ thùng phuy cái mẹ gì, là Murphy…”, vừa nói anh vừa soi đèn quặng vào trong, phát hiện phía trên là một tấm trần bê tông cốt thép, dưới nó là một tấm sàn dày nặng y như vậy, chúng nằm song song, tạo thành một tầng lửng, cao tầm mét rưỡi.

    Ánh sáng đèn quặng có thể chiếu xa gần hai mươi mét, trong phạm vi này, anh thấy không gian trống hoác, không có bất cứ thứ gì, khác một trời một vực dự đoán ban đầu của anh. Tư Mã Khôi thầm cảm thấy kì quái, nửa câu sau anh không nói tiếp nữa. Lúc này, bốn người còn lại cũng xách đèn quặng chui vào, thấy phía dưới lại là khối tường bê tông cốt thép nữa, quái dị y như tấm trước.

    Thắng Hương Lân nói: “Chỗ này sâu hút, rộng rãi, nhưng chiều cao lại chỉ có mét rưỡi, chắc không phải phần chính của căn phòng, hay nó có hai tầng mái? Có điều, chiều ngang của chỗ này rộng quá, kết cấu của nó không giống với một căn phòng hay pháo đài bình thường”.

    Tư Mã Khôi nhớ lại lúc ở Miến Điện, anh từng nhìn thấy kho máy bay không quân Hoàng gia Anh, cái nhà kho đó cũng có kết cấu bê tông cốt thép, phần đỉnh hình mái vòm, nhưng kho máy bay cũng không có tường ngoài hai lớp thế này. Lúc này, Nhị Học Sinh quả quyết nói với mọi người, đây không đơn thuần là tường hai lớp, mà là kết cấu lõi kép, giống như bình giữ nhiệt có hai lõi vậy, nó có hiệu quả phòng ngự, chống xung kích rất tuyệt vời.

    Vì thế, đây có lẽ là một tòa công sự nhân tạo, mấy năm phòng chiến tranh chống đói, các đơn vị và bộ đội đều có nhiệm vụ “ba phòng”, không được đào quá nhiều hầm hào phòng không; thế nhưng loại kết cấu đặc biệt này tương đối hiếm gặp, có lẽ chỉ có bộ đội mới đủ khả năng tạo ra, chỉ có điều vì sao nó lại được đào ở ngọn núi cao cách mặt biển chừng này nhỉ? Đây là lần đầu hội Tư Mã Khôi nghe thấy cụm từ “kết cấu lõi kép”, chẳng ngờ một Nhị Học Sinh không hề nổi trội ở lâm trường, lúc lao động cực nhọc thì rệu rã như con chó chết, mà lại biết nhiều thứ đến vậy.

    Tư Mã Khôi hỏi cậu ta: “Tuy cậu là thanh niên tri thức từ thành thị đây lên vùng núi này cải tạo tư tưởng, nhưng nghe nói cậu chưa bao giờ nhập ngũ thì sao có thể hiểu rõ về các thiết bị quân sự như lòng bàn tay thế hả?” Thì ra, thành phần gia đình Nhị Học Sinh không tốt, trước giải phóng là nhà tư bản ở Thượng Hải, đến đời cậu ta thì bất kể đi học hay vào xưởng làm công nhân đều rất khó khăn, chứ đừng nói đến chuyện tòng quân.

    Người anh họ khá khẩm nhất trong gia tộc cậu ta, từng tham gia binh đoàn kiến thiết và sản xuất, đến vùng hoang hóa phía Bắc làm việc, như thế đã cảm thấy vinh dự lắm rồi. Tham gia binh đoàn tuy rất gian khổ, nhưng lại được phân phát vũ khí, còn được mặc quân phục, nên những người xuất thân có vấn đề vốn dĩ đều không được phép tham gia.

    Anh họ Nhị Học Sinh phải nhờ không ít mối quan hệ mới được phân vào binh đoàn, quân phục cũng không có, nhưng quả thực cũng được phát súng phát đạn như những người khác. Do mối quan hệ Trung Xô ngày một xấu đi, nên năm 1969, hai bên đã xảy ra xung đột vũ trang kịch liệt trên đảo Chân Bảo, sông Ussuri, sau đó xung đột tiếp tục diễn tiến dữ dội, phía Liên Xô bày trận, hàng triệu lính dàn trải khắp biên giới tuyến sông, Trung Quốc rơi vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu khẩn cấp một cách toàn diện.

    Đơn vị nông cụ của binh đoàn sản xuất kiến thiết, mà anh họ Nhị Học Sinn đóng quân, cách tuyến biên giới rất gần, họ có thể cảm nhận một cách chân thực đám mây đen chiến tranh đang vần vũ trên đầu. Một buổi tối, sau khi anh ta vừa huấn luyện xong và trở về nhà đi ngủ, chăn chiếu vẫn còn chưa kịp ấm, thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng còi báo động, sau đó điện đài thông báo phía Liên Xô đã xuất binh, thành phố Tề Tề Cáp Nhĩ bên dòng sông Mẫu Đơn bị ném bom dữ dội.

    Nghe thấy tin ấy, ai cũng thấy vô cùng kích động, tinh thần bi tráng tột độ, họ đoán định rằng: “Bọn râu xồm toàn là bộ đội cơ giới hóa, lúc này không chừng đoàn xe tăng của chúng đã đánh đến tận Thẩm Dương rồi cũng nên, chúng ta lại bị cô lập phía sau lưng địch, chỉ có thể rút lui vào núi đánh du kích”.

    Thế là, không quản băng rơi tuyết phủ kín trời kín đất, toàn bộ lực lượng vũ trang đã chạy thục mạng lên núi. Đơn vị nông cụ vượt núi suốt đêm, người nào người nấy kiệt sức mệt lả, nhưng vừa đến nơi thì nhận được thông báo rằng đó chỉ là buổi diễn tập.

    Anh họ Nhị Học Sinh chỉ buông lời lầu bầu mấy câu: sao nỡ đày ải nhau thế! Chẳng ngờ lại bị người ta tóm tại trận và bắt kiểm điểm, may mà tiểu đoàn trưởng thương tình, không tiếp tục làm to chuyện, nhưng cuối cùng anh họ của Nhị Học Sinh cũng bị khai trừ khỏi binh đoàn và bị đuổi về quê nhà.

    Sau khi trở về, anh ta kể cho Nhị Học Sinh tình hình tiến hành công tác “ba phòng”, trong đó có cả chuyện nhà kho hạng nặng kết cấu lõi kép, có thể ngăn chặn bom phá pháo dội. Đương nhiên, những chuyện đó cũng chẳng phải bí mật quân sự gì, bởi vì trong sổ tay huấn luyện dân binh cũng có hình vẽ, chỉ có điều, rất ít người chịu đọc kỹ mà thôi.

    Hội Tư Mã Khôi cũng đều trải qua thời kì đặc biệt ấy, nên nghe những lời Nhị Học Sinh vừa nói cũng thấy đúng là khá có lý. Xem ra kho ngầm lõi kép này có lẽ được xây dựng trong những năm phòng chiến tranh chống đói, do bộ đội công trình đơn vị nào đó bí mật xây dựng trong núi sâu, nhưng vị trí của nó vẫn rất đặc biệt, không thể nghĩ ra công dụng cụ thể của nó, càng không thể đoán được bên trong rốt cuộc chứa đựng thứ gì.

    Cao Tư Dương nhắc nhở mọi người: “Chúng ta chưa được phép, không thể tùy tiện xem trộm thứ bên trong đâu!”. Thắng Hương Lân phỏng đoán, cái nhà kho này có vẻ đã bị bỏ hoang nhiều năm, tuy nó tận dụng hang động tự nhiên ở chỗ tiếp giáp mạch nham thạch để xây dựng nên, nhưng kết cấu tự thân của nó lại tồn tại khiếm khuyêt lớn, cho dù được đúc bằng bê tông cốt thép kiên cố, thì vẫn không thể địch lại được lực giãn nở sản sinh do các khe đá trong lòng núi gây nên, bởi vậy phần ngoài mới xuất hiện vết nứt vỡ, có lẽ bên trong chỉ là cái ruột rỗng mà thôi.

    Nhưng vì sao tên Lão Xà đội mồ sống dậy kia lại nhắm cái nhà kho ngầm bị bỏ hoang dưới lòng đất này nhỉ? Vì sao hắn lại biến mất trong gian nhà gỗ giữa núi sâu bị khóa kín? Chẳng lẽ, dưới lòng đất thực sự cất giấu vật gì quan trọng sao? Tất cả những chuyện này là hoạt động phá hoại của kẻ địch, hay còn có liên quan đến những bí mật cổ xưa nào đó đang chìm lắng dưới Biển Âm Dụ? Mọi người nóng lòng muốn làm rõ sự việc, sau khi bàn bạc vài câu xong, họ lại tiếp tục soi đèn quặng và đèn pin, mò mẫm về hướng vết nứt kéo dài trên mặt đất, di chuyển từng bước giữa tầng lửng thấp lè tè.

    Tư Mã Khôi quay người, khẽ nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân rằng, thành viên đội thông tin không có kinh nghiệm ứng biến, lại chỉ lắp ghép tạm thời, thiếu năng lực hợp sức cần phải có, nếu đột nhiên xảy ra sự cố, chắc chắn đội hình của họ sẽ tan vỡ, bởi vậy mọi người cần để mắt đến bọn họ nhiều hơn, tuyệt đối không được phân tán đội ngũ, chỉ cầu mong sao chuyện này mau chóng kết thúc, đừng xảy ra sai lầm gì trong quá trình hành sự mới được; đến lúc đó hai đội sẽ chia tay, ai đi đường nấy, chúng ta sẽ tiến vào rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá như dự kiến ban đầu.

    Tư Mã Khôi vừa nói vừa bất giác nhớ đến định luật Murphy – bất kể kế hoạch chuẩn bị chu đáo đến đâu, thì khi tiến hành, chắc chắn vẫn xuất hiện những sai lầm và nhân tố bất ngờ; cuối cùng, kế hoạch có thành công hay không, còn phải xem độ nghiêm trọng của sai lầm có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hay không, cái này gọi là “người tính không bằng trời tính”.

    Tư Mã Khôi càng ngẫm càng cảm thấy thế sự khó lường, cho dù tính toán vẹn toàn hết cả, nhưng đến lúc sự việc xảy ra, chưa chắc đã được như ý muốn, nên bây giờ thì chỉ có thể đi đến đâu hay đến đó. Thế là anh lấy lại tinh thần, bám sát theo sau đội thông tin, nghe ngóng sát sao mọi động tĩnh xung quanh.

    Mọi người mò mẫm một hồi, cuối cùng cũng tìm thấy khe nứt ở tầng đáy, Tư Mã Khôi ném hòn đá xuống dưới thám thính, nghe tiếng đá rơi thì biết phía dưới cũng không sâu lắm, anh liền bảo mọi người đừng vội manh động, rồi tung người nhảy xuống trước, nhưng đèn quặng do sử dụng lâu ngày, lại thêm khi nãy bị chấn động và rung lắc nên tiếp xúc kém, nó đột ngột vụt tắt.

    Trước mắt chỉ còn màn đêm đen quánh, ngoại trừ hơi thở và tiếng tim đập của chính mình, thì xung quanh yên ắng đến độ một chiếc kim rơi cũng có thể nghe thấy. Tư Mã Khôi đang kiểm tra đầu đèn lỏng chặt thế nào để vặn lại cho sáng, nhưng vừa giơ tay thì anh sờ thấy một ống thép lớn lạnh tanh, nặng trịch nằm chắn ngang ngay trước mặt, không rõ đó là vật thể gì.
     
    haicfc26, sáng ngx and Phucminhon like this.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này