1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Mê Tông Chi Quốc III !! - Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 27/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 1: KHO PHÁO QUÂN SỰ LÕI KÉP


    Tư Mã Khôi sờ thấy ống thép lạnh băng trong bóng tối, dựa vào xúc giác thì dường như đó là một cỗ pháo tăng. Trong đầu anh phút chốc vụt hiện lên hình ảnh dòng máu đen chảy ra ùng ục từ thất khiếu của người chết, đó đều là thảm cảnh của những chiến hữu bị quân chính phủ bắn pháo hạng nặng gây chấn động lục phủ ngũ tạng đã ngã xuống trên đất Miến Điện.

    Nghĩ đến chuyện này, tim anh lại như bị ai bóp nghẹt, nhưng nếu là pháo hạng nặng thì nòng pháo có vẻ hơi dài thì phải? Tư Mã Khôi nóng lòng muốn xem rốt cuộc là thứ gì, anh lấy tay vặn chặt thân đèn bị lỏng, chùm sáng phóng vụt ra phía trước. Tư Mã Khôi bất giác khẽ thốt lên kinh hãi: “Ối Phật tổ ơi!”, bốn phía là bốn khẩu pháo tăng to tổ bố.

    Lúc này, hội Hải ngọng đợi Tư Mã Khôi ở ngoài hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, liền lục tục theo chân nhau chui vào khe nứt, nhờ ánh sáng đèn cácbua, mọi người nhìn thấy vật thể nằm chắn ngang trước mắt, khiến ai nấy đều lập tức ngẩn người ra nhìn. Thực ra, cảm giác lúc trước của Tư Mã Khôi không hề sai, đó là khẩu pháo hạng nặng họng ngoại cỡ, chỉ có điều thể tích của nó rất lớn, hình dạng cũng vô cùng đặc biệt, nhất là nòng pháo, đúng là dài khiếp người, vả lai góc độ nòng pháo gần như song song với mặt đất, trông hoàn toàn khác với những khẩu pháo dùng trên địa hình núi thường thấy.

    Trong không gian hạn hẹp, chật chội, nó khiến người ta cảm thấy bị đè nén đến ngộp thở. Khẩu pháo với hình thù kì lạ này rất giống với khẩu đại bác D-20 bắn đạn trái phá 152mm do Liên Xô sản xuất mà Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy ở Việt Nam. Nó vừa có đặc tính của pháo bắn đạn trái phá và pháo bắn lựu đạn, vừa có khả năng tiến hành áp chế hỏa lực đường dài, lại vừa có khả năng trực tiếp ngắm bắn; có điều, khẩu pháo vừa phát hiện, chắc là loại D-66 của Trung Quốc nhái hàng Liên Xô, với quy cách đường kính họng pháo giống y đúc với hàng Liên Xô, thật không ngờ, nó lại được cất giấu trong kho pháo quân sự lõi kép trên ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá.

    Tuy là sinh viên học viện quân y, nhưng Cao Tư Dương lại không phải bộ đội dã chiến, hơn nữa, ngay cả lính tráng cũng chưa hẳn đã nhận biết được tất cả các loại súng pháo, nên cô chưa bao giờ nhìn thấy khẩu đại bác bắn đạn trái phá 152mm đời D-66, thậm chí còn chưa bao giờ nghe thấy tên nó.

    Lúc này, cô bất giác nảy sinh đôi chút hoài nghi về lai lịch của hội Tư Mã Khôi, vì người bình thường làm sao có thể phân biệt chính xác loại hình và họng súng các khẩu pháo một cách cụ thể như vậy được? May mà lúc trước khua môi múa mép, hội Tư Mã Khôi đã nói từng tham gia đánh du kích, Hải ngọng còn thanh minh bảo ông già nhà anh là thiếu tướng, cả gia đình ở nhà lầu trong quân khu, đi vệ sinh cũng không cần ra khỏi cửa, nên có hiểu biết tí chút về trang bị pháo binh thì cũng có gì đáng nói đâu.

    Mọi người đưa mắt nhìn, phát hiện ngoài bốn khẩu pháo đó ra, xung quanh còn chất đầy hàng thùng đạn pháo, trên tường còn sơn khẩu hiệu “Xây dựng pháo binh nhân dân vững mạnh”. Quan sát kỹ kết cấu của kho pháo quân sự lỗi kép, thì thấy có vẻ như tổng thể kiến trúc của nó đều được nằm trong huyệt động ẩn giữa lòng núi, được đổ hai lớp bê tông cốt thép trong lòng động để che đậy tung tích, và lõi kép còn có hiệu quả phòng chống xung kích do bom mìn dội xuống.

    Ở giữa có thông đạo nối liền, hai đầu nam bắc rộng rãi, lần lượt đặt bốn khẩu pháo đại bác D-66 án ngữ bốn cửa, nên nó có thể bắn dội từ trên cao xuống, từ cửa động hai sườn nam băc, bắn thúc ra ngoài; tầm bắn ở đây lại khoáng đạt, vị trí rất kín đáo, từ góc độ chiến thuật mà nói, thì đặt đại bác ở địa điểm này là cực kì lý tưởng.

    Cuối những năm 60, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm nhận được sự uy hiếp của chiến tranh, nên bắt đầu tiến hành điều chỉnh chiến lược quy mô lớn, các vùng như Hồ Bắc, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu v.v… đều được coi là khu vực chiến lược trọng điểm. Các đơn vị và bộ đội đồn trú tại cơ sở nhận nhiệm vụ thi công những công trình và tham gia những hạng mục huấn luyện mang tính đối ứng, trong đó có rất nhiều công trình quân sự chuyên môn được bảo mật nghiêm ngặt, kho pháo quân sự lõi kép này cũng nằm trong phạm trù đó.

    Có lẽ, công trình được triển khai từ lưng núi, còn mấy khẩu đại bác D-66 được tháo dỡ từng linh kiện vận chuyển vào đây, sau đó mới được lắp ghép lại, bởi vậy dân binh bản địa mới không hay biết trong núi còn có một nơi như thế này. Chính vì vậy, cửa động sườn bắc và sườn nam đều bị chặn lại, khiến kho pháo quân sự lõi kép hoàn toàn bị niêm phong trong lòng núi.

    Trộm nghĩ, có lẽ do thời cuộc thay đổi, kết cấu của nó không hợp lý, đã dẫn đến tường kho rạn vỡ, nó mới bị bỏ hoang vào phút chót, nhưng khẩu đại bác lại không tiện di dời, nên khi ấy vẫn chưa dỡ ra vận chuyển, tạm thời để lại trong núi, đề phòng mai sau cần dùng. Đó là cách giải thích hợp lý duy nhất mà Tư Mã Khôi có thể nghĩ ra.

    Có điều bây giờ lại nảy sinh một nghi vấn khó hiểu hơn, vì sao gã hái thuốc tên Lão Xà lại biết trong đây có công trình quân sự này? Nếu hắn muốn thực hiện hành vi phá hoại, phá nổ kho pháo, thì ở lòng núi sâu cô tịch bóng người này cũng không thể tạo ra hiệu quả lớn lắm, còn nếu như không phải vì nguyên nhân này, thì có lẽ nó có liên quan đến bản thân “sơn động”.

    Mọi người đoán, kho pháo quân sự lõi kép cũng chỉ bị bỏ hoang mấy năm nay thôi, còn động huyệt bên ngoài lại có niên đại cổ xưa đến nỗi không thể truy tìÂm nguồn ngọn, mà rìa công sự lại xuất hiện nhiều vết nứt vỡ, có thể đi thông thẳng vào nơi sâu trong lòng núi.

    Cả hội đang định tiếp tục lần tìm manh mối, thì bỗng nhiên ngửi thấy mùi phoóc môn lan tỏa trong làn không khí âm lạnh. Tư Mã Khôi mò theo mùi khí, ngẩng đầu lên nhìn, thì thấy ở khe nứt phía sau mấy thùng đạn có nửa thân người đang thò ra. Kẻ đó có thân hình vạm vỡ, vai rộng eo thon, gương mặt giống như loài vươn cổ bị tuyệt chủng từ thuở nào, hai con ngươi nhiều lòng trắng ít lòng đen, toàn thân lấm lem bùn đất.

    Hắn ta trông như xác chết mới chui từ mộ lên vậy. Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy khuôn mặt và thân hình gã đó, liền biết đó chính là Lão Xà hành nghề hái thuốc mà cậu dân binh vừa kể. Lúc trước, có lẽ đối phương đã vùi mình dưới lớp đất trong địa huyệt, mới che giấu đưọc mùi khí quái dị toát ra từ cơ thể, đồng thời trốn thoát thành công khỏi sự truy lùng của mọi người.

    Thế nhưng kẻ đó thì đã chết từ năm ngoái, vả lại người còn đang sống sờ sờ làm sao có thể tự chôn mình dưới bùn đất trong địa huyệt được? Với khứu giác nhạy cảm của Tư Mã Khôi, đối phương chỉ cần khẽ thở ra một chút, là anh sẽ lập tức phát hiện thấy, vậy mà lúc này cự li giữa hai người gần như mặt đối mặt, mà anh vẫn không cảm nhận được chút sinh khí nào tồn tại trên cơ thể gã, có điều cảm giác này lại hoàn toàn không giống với u hồn Nấm mồ xanh kia.

    Những người còn lại hoàn toàn bất ngờ với sự xuất hiện đột ngột của đối phương, vả lại khi trông thấy tay Lão Xà khua khua một ngọn đèn dầu đang thắp sáng và một cuộn thuốc nổ tự chế dùng để phá núi, thì ai nấy đều giật thót mình, vì chỉ cần ngọn đèn rớt xuống đất một cái là sẽ dẫn đến hỏa hoạn cháy nổ.

    Đây không phài là chuyện chỉ nổ “đoàng” một cái là xong, mà là khối lượng thuốc nổ khổng lồ trong kho quân sự cũng đủ sức biến cả ngọn núi này thành bình địa trong nháy mắt, bởi vậy mọi người đều yên lặng đứng im tại chỗ, không ai dám manh động, chỉ duy cậu dân binh Hổ Tử điếc không sợ súng là hăm hăm hở hở vác súng chĩa thẳng vào đối phương.

    Lão Xà khàn giọng hăm dọa: “Thằng nhãi dân binh! Mày vác súng thì vác cho chắc đi, kẻo lỡ cướp cò bắn nhầm sang chỗ khác, thì đừng mong chạy thoát khỏi chỗ này”. Cao Tư Dương không chịu kém miếng, cô cũng giương súng lên hỏi: “Làm sao ông chạy đến được đây?” Tư Mã Khôi biết đối phương đã chuẩn bị chu đáo mới dám mò tới nơi này, liền ra hiệu bằng mắt cho Thắng Hương Lân và Hải ngọng, ý bảo: “Tùy cơ ứng biến, không được mạo hiểm hành động”.

    Lúc này, Lão Xà nói với Cao Tư Dương: “Một đấu sáu, thì cũng chẳng sao! Có điều chúng ta việc gì phải đánh nhau để cả hai đều chịu tổn thất?” Lão Xà nói, chuyện của gã thực ra cũng không có bí mật gì đáng giấu. Trước đây, dựa vào những tuyệt kỹ đầy mình, gã hành nghề tiêu lộc săn bắn ở cánh rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, và bất kể chim quý thú lạ hay linh chi ngàn năm, hà thủ ô hiếm có thế nào, chỉ cần gã ra tay là chưa bao giờ phải trở về tay không.

    Nhưng từ khi gặp nạn, dung mạo bị hủy hoại, gã không cách nào tìm được mảnh da người, nên đành lột da khỉ đắp lên, rồi buộc phải bôi thuốc chống rữa nát. Từ đó, trên người gã lúc nào cũng mang theo mùi quái di. Ngày qua ngày, gã sống cuộc sống người không ra người, quỷ không ra quỷ, ai ai cũng sợ hãi tránh xa, còn bản thân gã cũng cảm thấy mình sống không bằng chết, đầu óc bất giác nảy sinh tà niệm, nên lúc nào cũng ngậm mối hận trong lòng với mọi người xung quanh.

    Gã định tìm cơ hội giết chết vài người, rồi làm vài chuyến hàng lớn, vượt biên trốn xuống Nam Dương(1). [1] Nam Dương: cách nói xưa của người Trung Quốc chỉ khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân của cả chuỗi sự kiện phải bắt đầu kể từ đầu những năm Dân Quốc. Khi đó, có một nhà khoa học sinh vật địa chất người Mỹ, tên là Taninth.

    Ông ta từng nhiều lần đến núi Thần Nông Giá để tiến hành khảo sát, và phát hiện m Hải Cốc là cánh rừng nguyên sinh hiếm có trong khu vực trung vĩ độ, là nơi ẩn mình của rất nhiều loài cổ sinh vật đã bị tuyệt diệt từ hàng trăm triệu năm trước. Ông ta tổ chức một đội thám hiểm săn bắn, vây bắt những loài dã thú quý hiếm trong núi cao rừng rậm, đồng thời sưu tầm lượng lớn tiêu bản thực vật và côn trùng.

    Hồi trước giải phóng, sư phụ năm xưa của Lão Xà là lên giặc đất chuyên đi đào mộ đổ đấu, từng làm hướng đạo cho ông Taninth. Lão thổ tặc miền sơn cước là kẻ có tầm nhìn hạn hẹp, nhận thức nông cạn, thấy trên người ông Taninth có nhiều dây chuyền vàng, nên đã hạ độc thủ vào lúc cả đoàn thám hiểm vừa phát hiện ra địa huyệt dưới lòng đất, đang định trở về chuẩn bị tiến hành bước kế tiếp.

    Lão ta đã giết chết tất cả thành viên trong đoàn, chiếm đoạt tổng cộng ba sợi dây chuyền to như ba ngón tay. Cuối cùng, sư phụ Lão Xà mắc bệnh nặng. Trước lúc lâm chung, lão kể hết cho đồ đệ nghe chuyện mình đã ra tay hạ độc thủ cả đoàn thám hiểm Taninth như thế nào và cả chuyện thi thể họ cùng các trang thiết bị vẫn đang được cất giấu trong lòng núi.

    Có điều, lão kể những chuyện đó không phải bởi lương tâm cảm thấy hối lỗi mà bởi lão hối hận, hối hận vì khi đó tầm nhìn quá nhỏ hẹp, cứ nghĩ bạc trắng, tiền đồng mới là tiền, vả lại lúc đó ăn cắp run tay, chẳng kịp để ý đến những thứ khác mà đào bới. Lão sư phụ nói với đồ đệ: “Vi sư ta cả đời làm thổ tặc, lại biết tuyệt kỹ tiêu lộc hái thuốc, nhưng cuối cùng vẫn là tên nhà quê chưa bao giờ được trông thấy thế giới bên ngoài.

    Động huyệt dưới lòng đất mà ông Taninth tìm kiếm ở ngay dưới cánh rừng nguyên sinh m Hải Cốc, nơi sâu nhất có khe thông với mạch núi Âm Sơn. Trước đây, nghe các cụ nói, người chết thành ma, nếu lúc sinh thời đức hạnh bại hoại, thì sau khi chết, vong hồn người đó sẽ bị nhốt dưới núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh, nơi nhốt âm hồn quá nửa chính là chỗ này.

    Ông Taninth không tin chuyện ma quỷ. Trước khi hành sự, ông ta còn chuẩn bị rất chu toàn, từ bản đồ đến vũ khí, không thiếu một thứ gì, các thành viên trong đội thám hiểm cũng là những tay cừ khôi hạng nhất. Tiếc là, lúc đó vị sư thấy mấy sợi dây vàng, nên nhất thời nổi lòng sát sinh, không át chế được tà niệm, còn nếu đợi đến khi đội thám hiểm Taninth đào được mấy món hàng ngon dưới lòng đất lên mới ra tay giết người, rồi sau đó mang hàng đến Nam Dương tiêu thụ, thì bây giờ thử hỏi cuộc đời ta còn huy hoàng đến độ nào?” Sư phụ nói xong thì uất ức tắt thở.

    Lúc đó, Lão Xà bắt đầu ghi nhớ chuyện này, nhưng mãi không tìm được cơ hội ra tay. Sau đó, gã phát hiện thấy bộ đội công trình bí mật xây dựng kho pháo quân sự lõi kép trong lòng núi, thì thấy càng khó tiếp cận hơn. Mãi đến khi gã “tiêu lộc” thất thủ, cũng không thể tiếp tục làm ăn trong lâm trường, gã liền hạ quyết tâm phải tìm mấy món hàng lớn trốn đi Nam Dương, nên lập tức bắt tay chuẩn bị.

    Đầu tiên, nhờ vào các mối quan hệ, gã mò mẫm được kết cấu kho pháo quân sự lõi kép, biết vỏ ngoài nhà kho đã bị nứt vỡ, gã liền đục lỗ chui vào đó từ chỗ giáp ranh với mạch nham thạch trên núi. Ngoài ra, gã còn dò hỏi được một số tin tức từ các thanh niên trí thức trong lâm trường.

    Trong đám thanh niên, không ít người từng đến vùng duyên hải Quảng Đông, khi tham gia phong trào hồng vệ binh do học sinh sinh viên phát động. Nghe mấy người đó kể: “Vượt biển trốn sang Hồng Kông là phương thức thường thấy nhất, không cần lo lắng sóng to gió lớn gì, càng không sợ tàu nhanh của bộ đội biên phòng tuần tra đâm chết, anh chỉ cần cho ngư dân tí lợi, là họ dám đưa anh vượt biển thông đêm.

    Nếu gặp thời tiết thuận lợi, dù không biết bơi cũng cứ việc ôm gối hơi mà bồng bềnh một mạch đến Hồng Kông. Mặt biển ở đó bao la, làm gì có chuyện đen đủi đến mức đụng độ với cảnh sát tuần trên biển được? Rất nhiều gia đình con em phần tử cánh hữu, không chịu nổi sự xung kích của xã hội, đều trốn sang Hồng Kông theo con đường này, họ còn nói dự định sẽ sang bên đó tổ chức vũ trang khởi nghĩa lật đổ ách thống trị thực dân, nhưng người ra đi cũng không ít mà vẫn bặt vô âm tín, tuyệt không thấy động tĩnh gì, có lẽ họ đều lẩn trốn, lặng lẽ ngồi chờ cao trào của cách mạng thế giới”.

    Lão Xà đâu dám cả tin, bảo chạy sang Hồng Kông không phải chuyện khó, sao ngư dân bản địa lại không đi? Trong lâm trường, núi thì cao mà hoàng đế lại ở xa, những thanh niên trí thức đó không cần húy kỵ gì cả, nói toẹt tình hình thực tế cho hắn nghe: “Marx đã chỉ ra – bản chất của chủ nghĩa tư bản là người ăn thịt người, anh là ngư dân, qua bên đó anh vẫn chỉ là thằng ngư dân, ăn no vác nặng thì qua bên đó cũng vẫn là ăn no vác nặng, người không tiền không quyền sống ở đâu mà chẳng khó khăn; điểm khác biệt duy nhất chính là một số người qua bên đó, vận may cũng khởi phát hơn một chút, nhưng nhân dân bách tính phổ thông đi đâu mà chẳng phải kiếm cơm qua ngày? Bởi vậy, trừ khi không còn con đường nào khác, phần đông người ta vẫn chọn lựa cuộc sống an phận thủ thường”.

    Lão Xà rốt cuộc vẫn là kẻ chưa bao giờ bước chân ra khỏi ngọn núi, nên lòng hoang mang vô kể. Gã nghe đồn lúc đêm khuya có thể thu sóng đài địch, nên định trước khi hành sự sẽ thử nghe ngóng tình hình bên đó, chẳng ngờ lại bị người ta phát hiện và báo cáo tổ chức, rồi tuy không có bằng chứng trực tiếp, nhưng vẫn chịu sự quản chế nghiêm ngặt.

    Thế là gã giả chết để trốn vào trong núi, mãi đến khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, mọi người đều bị điều đi đào rãnh phòng hỏa, gã mới nhân cơ hội này lần mò đến trạm thông tin. Tên dân binh gác rừng trong đó trước đây từng chơi xấu gã, mối hận ấy gã ôm trong lòng đã lâu, nay hạ thủ không thương xót chút nào.

    Sau đó, gã lập tức bắt tay đào địa huyệt, nhưng một người làm công việc nặng nhọc như vậy quả thực có chút lực bất tòng tâm, thời gian không tránh khỏi bị kéo dài thêm đôi chút, rồi mắt thấy sắp thành công đến nơi mà đội thông tin đến sửa máy điện đàm lại kéo đến đứng ngay trước cửa.

    Gã ghé nhìn qua cửa sổ, trông thấy có người đến, nên đành tạm thời trốn trong địa huyệt, không ngờ nhóm người này đầu óc tỉnh táo, hành sự thận trọng khác thường. Thấy rằng nếu đội này còn tiếp tục lục soát, không chừng sẽ phát hiện thấy địa huyệt chôn xương cốt của đội thám hiểm Taninth bất cứ lúc nào, nên không nhịn được, gã liền thử thương lượng với đội thông tin.

    Lão Xà nói rõ ràng: nếu đội thông tin không bỏ qua cho gã thì lập tức gã sẽ kích nổ đạn pháo để mọi người cùng xuống hoàng tuyền, còn nếu chịu nhắm một mắt, mở một mắt, để gã mang bản đồ của đội thám hiểm Taninth đi, còn đội thông tin lập tức rút lui theo đường cũ, thì hai bên coi như chưa ai nhìn thấy ai… Mấy lời của Lão Xà làm cậu dân binh Hổ Tử điên ruột, cậu ta ỷ thế mình xuất thân là thợ săn, kỹ thuật bắn súng cừ khôi, hạ gục không biết bao nhiêu hổ báo, nên không đợi đối phương nói hết câu, liền bất ngờ bóp cò.

    Lão Xà vừa vặn đứng trong phạm vi phát nổ của khẩu súng săn, rồi chỉ nghe “đoàng” một tiếng, trong thời gian chớp giật như thế, gã làm gì có cơ hội trốn thoát. Lúc đó, Lão Xà bị đạn bay xuyên qua ngực, chiếc đèn dầu rơi chỏng chơ trên mặt thùng đạn, vỡ vụn. Mồi lửa liếm đất bùng cao đến ngang thắt lưng.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 2: ĐỘI THÁM HIỂM TANINTH



    Tư Mã Khôi lúc này không hiểu tại sao Lão Xà có thể cải tử hoàn sinh, đã thành thây ma vùi dưới đáy mộ trước mắt bao nhiêu người, mà giờ lại xuất hiện trong trạm thông tin giữa núi sâu, đồng thời còn có khả năng giấu mình trong bùn đất địa huyệt, hoàn toàn không cần thở.

    Những điều này đều cho thấy, gã không phải người sống. Tư Mã Khôi cũng nhận ra: Lão Xà chẳng qua chỉ là tên giặc đất cả đời sống trong núi hoang, tuy cũng nham hiểm, tàn nhẫn như sư phụ của gã, lúc sinh thời đã giết bao nhiêu mạng người, lòng dạ hẹp hòi, nhưng lại là kẻ hữu dũng vô mưu, nên hoàn toàn có thể lựa lời trấn an, rồi sau đó ra tay khống chế cũng chưa muộn.

    Nhưng Tư Mã Khôi lại chưa tính đến còn có một nhân tố không xác định nữa ở ngay bên mình. Cậu dân binh Hổ Tử là người tính tình nóng vội, giống như một quả cầu lửa rực cháy, chỉ cần một câu nói không vừa tai cũng khiến cậu ta nổi giận lôi đình, hận không thể lập tức nhào tới cắn xé đối phương cho hả giận.

    Lúc này, cậu ta không nhịn được, đột nhiên giương súng bắn, Lão Xà đổ nhào xuống đất ngay tức thì, cái đèn dầu rơi vỡ tan tành, lửa bén theo dầu đang chảy tràn ra mặt đất, dẫn cháy tới thùng đạn, bên trong đựng toàn đạn pháo đại bác loại D-66, đường kính 152mm; tuy dầu trong đèn không nhiều lắm, nhưng chỉ cần bấy nhiêu đó thôi cũng đủ cấy mầm lửa khắp tứ phía xung quanh.

    Cùng lúc đó, cuốn thuốc nổ tự chế trên người Lão Xà cũng rơi xuống đất, kíp nổ vừa bắt lửa thì đã lập tức bén cháy thần tốc, phát ra âm thanh nghe “xì xì” rồi tỏa ra màn khói trắng mù mịt. Tư Mã Khôi thấy tình hình trước mắt nguy cấp, vội lao người chạy tới, ôm cuộn thuốc nổ tự chế, lăn một vòng trên mặt đất tránh hướng lửa, rồi mau chóng dập tắt sợi dẫn nổ, nhìn lại thấy kíp nổ chỉ còn sót lại đúng nửa phân, trán anh bất giác đổ mồ hôi lạnh.

    Nếu nơi này xảy ra cháy nổ, thì mấy trăm quả đạn pháo sẽ san phẳng quả núi này. Hội Hải ngọng vội vàng chạy ra các hướng khác nhau dập lửa, còn cậu dân binh Hổ Tử thì vẫn đang đỏ mắt bám riết Lão Xà, vừa nhìn ngực lão bị đạn bắn nát, cậu ta liền lấy chân giẫm mạnh lên cái xác, giọng khinh niiệt: “Có khùng mới tin mày…”, nhưng cùng lúc đó bỗng nhiên cậu ta cảm thấy cổ chân mình bị xiết chặt, như thể có gọng kìm sắt bóp thật mạnh, đau buốt tận xương tủy.

    Không ngờ chân cậu ta đã bị cái xác năm bẹp trên đất thò tay ra nắm. Hổ Tử biết tay Lão Xà toàn chai vừa dày vừa cứng, lớp chai sần dày cả đốt ngón tay, đó là kết quả rèn rũa của núi sâu rừng già, nó rất đắc dụng trong việc giúp Lão Xà leo cây trèo núi hàng ngày; móng tay dài nhọn với lực xiết khỏe kinh hồn ấy, đủ sức bóc tuốt cả da hươu.

    Hổ Tử thấy đối phương bị súng bắn gục dưới đất mới dám đến gần, nào ngờ Lão Xà đột ngột sống dậy, cậu ta sợ tái mặt, lúc này cổ chân đã bị bóp nát, cậu dân binh đau đớn gào thét thảm thiết, rồi ngã vật xuống đất. Đối phương không để Hổ Tử gục hẳn xuống đất đã chụm năm đầu ngón tay thành hình đầu rắn, nhắm thẳng vào tim cậu ta, xuyên mạnh vào trong.

    Lão ra tay vun vút như gió cuốn sương lan, động tác nhanh đến khó lòng tưởng tượng, cậu dân binh Hổ Tử thoắt chốc thấy ngực như bị búa tạ đánh trúng, mặt mũi tối sầm, tiếng gào thảm thiết do bị vặn cổ chân khi nãy, giờ vụt tắc nghẹn trong cổ họng. Lão Xà thuận thế xông lên cắn một miếng vào má cậu ta, xé cả miếng thịt to như lòng bàn tay, nhầy nhụa cả da lẫn thịt, đút vào miệng nhai rau ráu, hai mép rớt ròng ròng máu tươi.

    Cả chuỗi sự việc đó xảy ra đồng thời cùng lúc Tư Mã Khôi nhào tới dập tắt ngòi nổ và những người còn lại xông lên dập lửa tứ phía xung quanh, khi mọi người phát hiện ra sự việc, thì Lão Xà đã kéo lê thân hình bê bét máu của Hổ Tử, mau chóng rút lui vào trong khe nứt trên mặt đất của kho pháo quân sự.

    Mọi người thấy Lão Xà không có sinh khí của người sống, sau khi bị súng bắn, vẫn có thể hành động như không hề hấn gì, thì ai nấy đều kinh hãi, không hiểu hắn là người hay yêu ma. Chuyện đã đến nước này, cũng không còn cách nào khác, cả hội đành bạo gan xông lên cứu cậu dân binh.

    Ai ngờ, cậu dân binh Hổ Tử vốn dĩ đang hôn mê thì bật tỉnh lại do cơn đau dữ dội khi bị xé má, cảm giác mặt mình nhớp nháp, trước mắt tối thui, thân sau bị ai đó không ngừng lôi kéo, cậu ta sợ hãi tột độ, nhưng hoàn toàn mất khả năng kháng cự, chỉ còn biết giơ hai tay quờ quạng loạn xạ tứ phía, chẳng ngờ lại nắm được kíp hỏa của khẩu đại bác D-66 ngay bên mình.

    Mọi chuyện trên đời, khi ta càng sợ thì nó lại càng dễ xảy ra, không ngờ ổ đạn khẩu đại bác D-66 lại lắp đạn thật và lên nòng sẵn sàng. Kho pháo quân sự lõi kép dưới lòng đất này được xây dựng từ cuối những năm 60, khi đó bộ đội hoàn toàn thực hiện theo yêu cầu nhiệm vụ trực ban, hàng ngày đều phải luyện tập tháo lắp đạn thật nhiều lần, có lẽ lúc nội bộ công sự xảy ra sụt vỡ, các nhân viên rút lui quá vội vã, nên sơ xuất không kiểm tra lại lòng đại bác, dẫn đến việc khẩu đại bác luôn túc trực trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

    Hội Tư Mã Khôi đuổi theo trong bóng tối, không ai phát hiện cậu dân binh giật kíp hỏa, bỗng nhiên một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, khẩu đại bác ở phía sau bị cướp cò. Cũng may, đạn pháo lâu ngày nằm trong không gian âm lạnh, khó tránh khỏi ẩm ướt, nên không thể phát huy tối đa sức nổ, tuy nhiên uy lực thì vẫn vô cùng kinh khủng, trong kho pháo quân sự lõi kép gần như khép kín, âm thanh nghe ầm ầm rung chuyển, chẳng khác nào động đất, mọi người không kịp phòng bị, nên ngã vật ra đất do lực đẩy của làn sóng khí, mắt nổ đom đóm, đầu óc ong ong, tê rần.

    Mọi người lảo đảo bò dậy, soi đèn quặng và đèn pin về phía trước, chỉ thấy khẩu đại bác nặng ngàn cân bị vụ nổ khi nãy xoay vần, nằm đổ rạp vào tường, phía sau nổ trống hoác, xung quanh không trông thấy bóng dáng của Lão Xà và Hổ Tử đâu cả, có lẽ lúc phát nổ, cả hai đã lăn xuống khe sâu bên dưới.

    Tuy kho pháo quân sự được làm bằng bê tông cốt thép, nhưng vị trí thiết kế không hợp lý, lực dãn nở tự nhiên ở chỗ tiếp giáp với mạch nham thạch không ngừng ép vào khiến lòng kho pháo phát sinh rất nhiều vết rạn vỡ, khi nãy lại bị khẩu đại bác nặng hơn năm ngàn cân đổ vào, thân bức tường vốn đã nứt liền sụp vỡ.

    Hai tai Tư Mã Khôi ù đặc, nhưng vẫn nghe thấy âm thanh khác thường như thể khối bê tông cốt thép nứt vỡ, lòng thầm nghĩ: “Toi rồi! Không mau rút thì sẽ bị chôn sống trong lòng núi mất thôi”. Ý nghĩ vừa hiện lên trong đầu Tư Mã Khôi, thì bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng rung chuyển ầm ầm, động tĩnh đó không khác suy đoán của anh bao nhiêu, cả khối bê tông bắt đầu sụt lún.

    Anh vội ra hiệu cho bốn người còn lại chui vào khe nứt cạnh khẩu đại bác trốn tạm. Một lượng lớn vôi vữa bê tông rào rào đổ xuống, trong chớp mắt, bụi tung mù mịt, lấp kín mọi khe nứt trên mặt đất. Từ lúc Hổ Tử bắn ngã Lão Xà, gây cháy cuộn thuốc nổ, cho đến lúc cậu ta vô tình giật kíp hỏa khẩu đại bác, khiến nó cướp cò, kho pháo quân sự sụp đổ, tất cả chỉ xảy ra trong vòng vài phút ngắn ngủi.

    Trong khoảnh khắc đó, mọi người đã phải trải qua bao phen chết đi sống lại, khói bụi dày đặc che khuất tầm nhìn, nhưng cũng không thể dừng lại để thở, cả hội đành mò mẫm theo hai vách tường đá tiếp tục di chuyển xuống sâu hơn. Mọi người phát hiện, phía dưới kho pháo quân sự là một không gian nằm giữa tầng nham thạch, đó chính là khe sâu trong lòng núi, càng xuống dưới lại càng khoáng đạt, trong đó trầm tích rất nhiều bùn đất, thảm rêu xanh ẩm ướt phủ một tầng dày, tạo thành bệ đất nằm nằm cheo leo giữa không trung, che lấp mọi động huyệt nằm dọc hai bên đường.

    Tư Mã Khôi nghe có tiếng động phát ra cách đấy không xa, liền soi đèn quặng tới đó, đúng lúc trông thấy Lão Xà đang lôi xềnh xệch cậu dân binh Hổ Tử, chưa biết sống chết thế nào, vào trong một hang động, chỉ cách chỗ mọi người đứng tầm hơn chục mét. Cao Tư Dương nóng lòng muốn cứu người, liền giương súng bắn chỉ thiên lên trời một phát, Lão Xà không ngờ hội Tư Mã Khôi đuổi kịp nhanh đến vậy, nghe tiếng súng lòng cũng hơi hoang mang, liền vội vã nấp sang một bên, chẳng ngờ chân lại đạp trúng vỏ đất rỗng nằm giữa khe đá.

    Hắn và Hổ Tử cùng rơi xuống vực sâu trong lòng núi. Cả hội lặng người, cùng nhìn xuống khe nứt, chỉ nghe tiếng gió lạnh thê thiết gầm gào, vực sâu tối thẳm không nhìn thấy đáy. Ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá cách mặt biển hơn hai ngàn mét. Nếu khe nứt trong lòng núi dẫn thẳng xuống tận đáy, thì dẫu có mình đồng da sắt cũng nát vụn thành đống bùn.

    Năm đó đội thám hiểm Taninth chọn địa điểm xuất phát ở đây, có lẽ nơi này thông với huyệt động dưới lòng đất cánh rừng nguyên sinh. Cao Tư Dương lòng nóng như lửa đốt, lúc đó cô định tìm đường mò xuống dưới, nhưng bốn phía xung quanh tối đen như đáy nồi, nên ngay cả phương hướng còn không phân biệt nổi.

    Tư Mã Khôi thấy địa thế hiểm yếu, vội cản Cao Tư Dương: “Không phải tôi tạt gáo nước lạnh đâu, nhưng cô thử nghĩ xem, người rơi xuống đó còn sống được nữa không hả?” Hải ngọng cũng khuyên can: “Tôi thấy vậy đấy, cậu ta chắc hết cách cứu rồi…” Thắng Hương Lân nói: “Nhưng cũng không thể trố mắt nhìn được, phải nghĩ ra cách gì xuống đó tìm kiếm chứ.

    Sống phải thấy người, chết phải thấy xác”. Nói xong, cô liền quay sang bàn bạc với Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh, bây giờ cửa động bên trên đã bị bịt kín bưng, không biết bao giờ lâm trường mới cắt cử người đến cứu viện? Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh cố gắng bình tĩnh suy nghĩ.

    Trước mắt, cả hai phải đối mặt với thực tế vô cùng tàn khốc nhưng lại không thể né tránh, liên lạc điện đàm trong núi cho đến giờ phút này vẫn chưa thể sửa được, đợi khi lâm trường phát hiện đội thông tin bị mất tích, rồi cử người đến điều tra, cả đi lẫn về chí ít phải mất năm ngày; mà cho dù có huy động bộ đội đến cứu viện, rồi đào được đến nơi này thì cũng mất một hai tháng.

    Đó là cố gắng nghĩ theo chiều hướng tốt. Thời kì Cách mạng văn hóa, các ban ngành hành chính chỉ là hữu danh vô thực, và khả năng lớn nhất là họ nghĩ luôn rằng đội thông tin đã gặp nạn trong núi, nên không áp dụng bất cứ biện pháp nào nữa. Nếu ở lại đây chờ cứu viện thì cũng chẳng khác gì ngồi đợi chết, còn khả năng tự mình tìm cách đào thoát cũng gần bằng không.

    Thắng Hương Lân không muốn nhìn hai thành viên sống sót của đội thông tin phải bỏ mạng ở đây, liền bàn bạc với Tư Mã Khôi xem có thể đem hai người này cùng đội anh hành động không? Tư Mã Khôi thấy Cao Tư Dương là học viên học viện quân y, chắc chắn có thể đảm nhiệm vai trò nhân viên y tế cho đội, bản thân cô cũng là người dũng cảm, chu đáo, hành sự quyết đoán, rất đáng tin cậy.

    Anh chàng Nhị Học Sinh, tuy thể hình gầy guộc, nhưng lại hiểu biết kỹ thuật thông tin, chịu khó đọc nhiều sách, xét về trình độ lý luận sách vở thì vô cùng phong phú, nói không chừng có lúc phải dùng đến cậu ta. Cho hai người này đi cùng cũng không có gì phiền phức cả, chỉ ngặt nỗi, lượng lương thực và trang thiết bị mà ba người mang theo không nhiều lắm, chỉ đủ duy trì nhu cầu sinh tồn trong thời gian ngắn, nên có thể nói là, cho họ đi theo có cả mặt lợi và mặt hại.

    Thế là, Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương: “Cô và Nhị Học Sinh ngoài việc ở lại đây chờ cứu viện, thì còn có lựa chọn khác, chính là đi cùng đội khảo cổ bọn tôi; nhưng bọn tôi, ngoài việc tiếp tục nghĩ cách tìm kiếm Lão Xà và thi thể của Hổ Tử, còn có một nhiệm vụ quan trọng hơn.

    Bọn tôi phải nghĩ cách xuyên qua lòng núi, thâm nhập thế giới dưới lòng đất nằm bên dưới rừng rậm nguyên sinh m Hải Cốc. Có điều, tình hình cụ thể ở đó thế nào thì ngay cả bọn tôi cũng không rõ, hi vọng sống sót trở về cũng rất mong manh; bởi vậy, tôi phải nói rõ với cô, nếu lựa chọn con đường này, thì hai người hội cô buộc phải vứt bỏ hết mọi cảm xúc như nghi kỵ, sợ hãi ra khỏi đầu, mọi việc phải nhất nhất nghe theo sự chỉ huy của tôi, cố gắng đừng gây ra phiền phức gì.

    Chỗ tôi cái gì cũng thiếu, chỉ duy phiền phức là lúc nào cũng dư thừa”. Cao Tư Dương hiểu rõ tình cảnh trước mắt, cô không thể hi vọng gì ở đội cứu viện, cậu dân binh Hổ Tử lại chín phần chết một phần sống, trong khi đó, cái gã Lão Xà kia thì thật khó dùng hai từ “sinh tử” để hình dung, nếu chỉ dựa vào sức lực của mình và Nhị Học Sinh thì chưa chắc đã đối phó được.

    Nếu phải sống mòn đến lúc bó gối chịu chết trong núi, thì chi bằng cứ mạo hiểm đi theo đội khảo cổ, nhân tiện còn có thể truy lùng tung tích của tên Lão Xà. Nghĩ vậy, Cao Tư Dương liền gật đầu đồng ý, có điều cô vẫn không thích giọng điệu lạnh lùng của Tư Mã Khôi, nghe rõ vô tình vô nghĩa, cô thầm nghĩ: “Còn chưa biết ai liên lụy đến ai đâu mà đã ráo trước!” Nhị Học Sinh lại càng bạo gan hơn.

    Cậu ta sớm đã không còn ôm hi vọng gì về tiền đồ của mình, giờ cảm thấy chuyện này kích thích hơn cuộc sống lao động cực nhọc trong lâm trường nhiều, huống hồ tổ trưởng đã quyết định như vậy, thì cậu ta đâu dám ho he ý kiến gì? Trong lúc mọi người nói chuyện, Hải ngọng đã bò vào hang động khi nãy Lão Xà bới ra, thám thính một chuyến, lát sau anh bò ra báo cáo tình hình: “Chẳng ngờ ngoài mười mấy cỗ xương khô của đội thám hiểm Taninth ra, trong ấy còn có một món hàng ngon lắm!”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 3: CHIẾC HỘP PANDORA


    Pandora: Chiếc hộp trong thần thoại Hy Lạp, chứa đựng tất cả thói hư tật xấu và các tai họa, được đậy nắp kín. Sau này, do tính hiếu kỳ mà một người đàn bà đã mở nó ra, nên từ đó loài người đã phải chịu tất cả những điều xấu xa tệ hại. Tư Mã Khôi thầm nghĩ, đội thám hiểm Taninth vừa mới tập kết ở địa điểm xuất phát thì đã bị sát hại, làm sao có món hàng khủng gì được chứ? Nhưng, bản đồ mà Lão Xà muốn tìm thì có lẽ vẫn còn giắt trong một thi thể nào đó.

    Anh liền theo Hải ngọng vào trong xem xét. Không gian trong huyệt động rất chật chội, có khá nhiều chuột đá trốn chui lủi trong các khe hốc, thấy bóng người, chúng kinh động chạy tán loạn, trên mặt đất nằm ngả nghiêng hơn chục bộ xương khô, trên đầu còn đội mũ bấc mềm giống như kiểu mũ Pith Helmet.

    Tư Mã Khôi biết vào những năm Dân quốc, các nhà thám hiểm từ khắp nơi trên thế giới như Anh, Mỹ, Nga v.v… thường lấy danh nghĩa khảo sát địa lý để đến Trung Quốc tìm kiếm cổ vật, và săn bắt các loại thú quý chim lạ ở khắp nơi, trong đó cũng có vô số kẻ đen đủi phải mất mạng nơi đất khách quê người.

    Trong cánh rừng nguyên sinh Thần Nông Giá ẩn giấu vô số các loài động thực vật hoang dã quý hiếm, nếu may mắn bắt được người rừng, sói đầu lừa, rắn mào gà hay thú quan tài còn sống mà đem về đất nước họ, thì danh vọng phú quý song hỉ lâm môn, huy hoàng khỏi phải bàn, mà cho dù chỉ lấy vật đã chết, chế thành tiêu bản rồi bán cho viện bảo tàng, thì cũng đủ cho họ phát tài.

    Chắc hội Taninth cũng là hạng người đó, chẳng ngờ lại bị tên thổ tặc dẫn đường hãm hại, bỏ mạng oan uổng trong lòng núi sâu. Hải ngọng dốc một túi vải buồm nặng trịch đặt bên cạnh một bộ xương khô xuống, thì ra “hàng khủng” mà anh nói chính là thứ này. Tư Mã Khôi thấy hình dạng và trọng lượng của túi vải buồm thì biết bên trong nó đựng súng máy.

    Anh giở ra xem thì quà nhiên là một khẩu súng được bọc bằng vải dầu, ngoài ra còn có một hộp sắt lớn đựng đầy đạn. Hai người vội vã lục soát tiếp xem còn món hàng ngoại nào không, liền hấp tấp cởi sợi dây thừng buộc chống ẩm, chỉ thấy bên trong có mấy khẩu súng, hình thù rất kì quái, báng súng nom giống như súng săn, hoặc súng trường thông thường, nhưng thân súng chỉ ngắn bằng một phần ba loại đó, phía dưới chốt an toàn còn có một vòng tròn có tay cầm hình cây kéo.

    Tư Mã Khôi từng bôn ba nhiều năm ở Miến Điện, đất nước được mệnh danh là “bảo tàng vũ khí mọi nhãn hiệu”, nên anh biết đây là loại súng liên thanh Winchester M-1887, bắn đạn đường kính số 12. Niên đại sản xuất loại súng này tương đối cổ, nhưng rất tiện mang theo, cấu tạo đơn giản, dễ tháo lắp, đủ khả năng thích nghi với những môi trường khắc nghiệt nhất, nó lợi dụng nguyên lý đòn bẩy để đẩy đạn lên nòng, có thể lắp đầy sáu phát đạn ghém cho súng săn nòng cỡ 12, tốc độ bắn và lực sắt thương đều rất lý tưởng.

    Trong túi còn có một khẩu súng săn hai nòng cỡ lớn dùng để bắn gấu, sử dụng loại đạn cỡ 8, đây là loại súng săn hạng nặng, sản xuất ở Canada, ngoài ra còn một khẩu súng ngắn Maschinenpistole MP-38 của Đức. Tư Mã Khôi thấy thật may mắn, đúng là trời xanh có mắt. Nếu như Lão Xà tìm thấy đống xương cốt của đội thám hiểm Taninth trước, thì bây giờ có lẽ cả hội đã trở thành những oan hồn dưới họng súng của gã rồi.

    Anh nhặt hai chiếc mũ bấc, đưa cho Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh đội lên đầu, bảo mọi người tự nhặt súng đạn phòng thân cho mình và nói: “Thực ra đội thám hiểm Taninth chẳng qua chỉ rặt một phường trộm cắp, chẳng khác gì bọn thổ tặc trên núi, thấy của bỏ rơi tội gì mà không nhặt đút túi, sao phải khách sáo với lũ khọm này.” Hải ngọng chọn khẩu súng săn gấu, đồng thời lấy thêm khẩu súng ngắn P38 dự bị phòng thân.

    Tư Mã Khôi, Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân chỉ chọn ba khẩu súng liên thanh M-1887 gọn nhẹ. Nhị Học Sinh cũng định chọn khẩu liên thanh, Tư Mã Khôi thấy cậu ta cận nặng, cầm súng lại non tay, không khéo lúc bắn lại văng cả người đi cũng nên, liền bảo cậu ta tốt nhất cứ sử dụng khẩu súng săn mang ở lâm trường đến: “Súng chỉ để cậu vững dạ là chính, nồi bé thì bốc ít gạo thôi, phải biết tự lượng sức mình chứ, đừng bon chen với bọn tôi làm gì”.

    Bên cạnh đống xương của đội thám hiểm của Taninth còn có mấy chiếc ba lô, đồ bên trong đa số đã hết hạn sử dụng. Tư Mã Khôi bới tìm một hồi, rồi bảo Cao Tư Dương xem có vật phẩm cấp cứu nào còn dùng được, thì cất vào túi khoác quân dụng của cô. Tư Mã Khôi tìm thấy mấy bó đuốc, đó đều là những thanh gỗ đã róc sẵn, chiều dài xấp xỉ bằng nhau, đầu mỗi thanh buộc giẻ tẩm sáp dầu cá, phía ngoài cố định bằng nắp cao su, lúc sử dụng chỉ cần bỏ nắp ra là có thể thắp sáng, thời gian cháy duy trì khá lâu, đồng thời cũng không cần lo đuốc bị ẩm ướt.

    Nó không chỉ phát huy công dụng chiếu sáng trong huyệt động, mà còn có thể dùng để phòng thân. Nghĩ vậy, anh liền nhặt một chiếc ba lô rách, đút hết số đuốc vào, đồng thời nhét thêm mấy hộp đạn, rồi quăng cho Nhị Học Sinh, bảo cậu ta đeo. Thắng Hương Lân thấy Cao Tư Dương chỉ có một chiếc đèn pin, hơn nữa lại không có pin dự trữ, liền đưa cho cô ta thêm một ngọn đèn cácbua để chiếu sáng.

    Cao Tư Dương cảm ơn, đón lấy, rồi quay sang sốt ruột hỏi Tư Mã Khôi: “Bây giờ đã có súng và đuốc, chúng ta có nên xuống khe lùng bắt Lão Xà luôn không?” Tư Mã Khôi nói: “Khoan đã! Tôi thấy gã thổ tặc đó đúng là loại cương thi thành tinh, súng liên thanh chắc gì hạ gục nổi hắn”.

    Cao Tư Dương nói: “Rốt cuộc anh có phải đang làm công tác khảo cổ không thế hả? Sao đầu óc lúc nào cũng chứa toàn tư tưởng mê tín dị đoan vậy? Trên đời này làm gì có xác chết biết nói tiếng người chứ?” Tư Mã Khôi nói: “Tôi vừa mới nhớ ra, thời xưa bọn thổ tặc chuyên đào mồ quật mả có một tuyệt kỹ, gọi là công phu cương thi(2), sau khi luyện được, chúng sẽ biến thành nửa người nửa thây, có khả năng vùi mình dưới lòng đất nhiều ngày mà không cần thở, bị chôn sống cũng có thể tự mình đội mồ bò ra, có điều, chúng chỉ được lộ diện lúc ban đêm, còn ban ngày thì phải trốn biệt.

    Nghe nói, môn công phu này đã thất truyền từ hàng trăm năm trước, cũng không rõ nó có thật hay giả. Tôi ngẫm thấy cái gà Lão Xà kia trên người chứa toàn yêu thuật, vả lại tính tình gã này quái đản, thủ đoạn tàn độc, bị súng đốn ngã mà vẫn tỉnh bơ như không, nói chung là rất khác thường.

    Nếu gã rơi xuống khe sâu mà không chết, thì chắc chắn sẽ tìm nơi nào đó ẩn nấp. Khe núi này sâu không thấy đáy, chúng ta tổng cộng chỉ có năm người, căn bản không có cơ hội tìm thấy tung tích của gã, huống hồ nếu chia nhau đi kiếm khắp lượt thì quá mạo hiểm, lỡ gặp phải tai họa lúc một mình tác chiến, chỉ sợ chẳng ai nhón tay được tí lợi nào.

    Có điều, quyền chủ động vẫn nằm trong tay chúng ta. Lão Xà định tìm tấm bản đồ mà đội thám hiểm để lại, rồi xuống lòng đất móc món hàng lớn và trốn ra nước ngoài, nếu không gã cũng chỉ còn duy nhất một đường chết. Chỉ cần tấm bản đồ lọt vào tay chúng ta trước, thì cũng đồng nghĩa với việc cắt đứt con đường sống của gã, lúc đó còn lo gì gã thổ tặc không tự mình chui vào lưới.” [2] Cương thi: được biết đến như một xác chết biết đi trong văn hóa dân gian Trung Quốc, giống như ma cà rồng ở phương Tây.

    Theo như truyền thuyết, ban ngày cương thi nằm trong quan tài hoặc ẩn nấp tại những nơi tối tăm như hang động, đến đêm cương thi đi lại lang thang với hai cánh tay duỗi thẳng về phía trước. Nó giết chết mọi sinh vật sống để hấp thụ khí – cái cốt lõi tạo nên sự sống. Mọi người đều cảm thấy Tư Mã Khôi phân tích có lý, vả lại trên người Lão Xà lúc nào cũng nồng nặc mùi quái dị giống như phoóc môn, đây chính là nhược điểm lớn nhất của gã, trừ phi gã vùi mình trong đất, nếu không khó mà che đậy được tung tích.

    Nếu đối phương chủ động tiếp cận, sẽ càng dễ bại lộ chân tướng, đến lúc đó cả hội sẽ đồng loạt nổ súng, dẫu gã có mình đồng da sắt thì cũng phải bắn gã tơi tả thành chiếu rách. Thế là, cả hội hăng hái bới lật từng xác chết, cuối, cùng cũng tìm thấy một cuốn sổ bọc da dê to bằng hai hộp thuốc lá, sắc giấy đã ố vàng, chắc lịch sử của nó cũng khá lâu đời, trong đó vẽ đầy các hình thù sinh vật, thực vật, còn có các ký hiệu mạch núi, rừng rậm.

    Hội Tư Mã Khôi xem kỹ cuốn sổ. Họ không hiểu những chú thích dài loằng ngoằng bằng tiếng Anh, nhưng xem hình vẽ có thể đoán nội dung, nên cũng hiểu được một nửa. Các hình phác họa trong cuốn sổ phần lớn là các loại dã thú và thực vật, mà đội thám hiểm phát hiện trong núi sâu, trang cuối là tấm bản đồ đơn giản, còn kẹp thêm mấy tấm ảnh đen trắng không rõ nét, có lẽ chụp mấy bức bích họa trong mộ cổ.

    Bích họa trong tấm ảnh chính là căn cứ quan trọng để vẽ ra tấm bản đồ. Tấm bản đồ bắt đầu tại một ngọn núi, đường vẽ xuyên qua khe núi khúc khuỷu, sâu hun hút, cách một đoạn lại đánh dấu một chấm đen, điểm tận cùng là bồn địa được hình thành bởi các mạch đất giao nhau.

    Nơi đó có lẽ chính là địa huyệt dưới lòng đất mà đội thám hiểm Taninth muốn tìm. Địa hình ở đây được mô tả hoàn toàn trùng khớp với những ghi chép trên Sơn Hải Đồ, chỉ có điều nó đã bị gột rửa bớt đi màu sắc thần bí, thay vào đó là các tọa độ thám trắc ngoại vi, khiến tấm bản đồ này càng tăng thêm tính thực dụng.

    Có điều, trong tấm bản đồ có một số ký hiệu rất khó lý giải, ví như hình vẽ cái hộp đầu lâu xương chéo rất lớn, tuy chỉ phác họa đơn giản, nhưng gợi cảm giác rất ma quái, khiến người xem cũng thấy bất an. Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Ký hiệu này trong bản đồ ám chỉ gì nhỉ?” Tư Mã Khôi cũng mù tịt, nhưng cứ phán bừa: “Tám phần là quan tài đựng xác chết cổ đại chứ gì”.

    Thắng Hương Lân lắc đầu: “Không giống quan tài, người phương Tây thường dùng ký hiệu này để chỉ “chiếc hộp đen”, hay còn gọi “chiếc hộp Pandora”, nó ám chỉ, hễ kẻ nào mở nắp bí mật ra, tai họa và cái chết sẽ giáng xuống đầu kẻ ấy.” Tư Mã Khôi cảm thấy giả thiết về chiếc hộp Pandora khá hợp lý, các manh mối trong cuốn sổ tổng hợp cho thấy, dường như đội thám hiểm Taninth đã phát hiện thấy bích họa mà nước Sở cổ xưa để lại, sau khi chụp ảnh họ liền mang đi phân tích khảo chứng, rồi vẽ lại thành một phần bản đồ, đồng thời lấy đó làm căn cứ, để đi tìm lãnh đia thần bí chưa ai trên thế giới biết đến.

    Dân gian truyền rằng nơi đó là núi Âm Sơn nhốt giữ ma quỷ, đồng thời cũng là kho báu mà Sở U Vương chôn giấu năm xưa, mà chí ít là đã hai ngàn năm không một ai bước chân xuống đó. Đội thám hiểm Taninth tự cho rằng, mình đã chuẩn bị mọi thứ rất chu toàn, nhưng vẫn cảm thấy chuyến đi này lành dữ khó lường, trong lòng khó tránh khỏi cảm giác sợ hãi, chiếc hộp Pandora đánh dấu trên bản đồ có lẽ chính là một hình thức đánh giá về một nguy hiểm chưa biết nào đó.

    Tư Mã Khôi vốn dĩ định vượt qua Yến Tử Ô đến m Hải Cốc, sau đó đi từ đường hầm xuyên thẳng xuống lòng đất, tìm kiếm nhật quỹ được ghi chép trên Sơn Hải Đồ, nhưng giữa đường lại xảy ra quá nhiều tình hình đột biến, cuối cùng lại bị kìm chân trong khe núi. Anh buộc phải tạm thời điều chỉnh kế hoạch, cả hội sẽ đi theo hành trình trên bản đồ của đội thám hiểm Taninth, chưa biết chừng, nhật quỹ nằm trong chiếc hộp Pandora cũng nên.

    Tư Mã Khôi cất mấy tấm ảnh và cuốn sổ vào túi chống thấm, rồi đặt cùng chỗ với cuốn sổ mang từ kính viễn vọng Lopnor về. Anh suy đoán, việc Taninth có khả năng vẽ được tấm bản đồ này, đồng thời tổ chức đội thám hiểm đến Thần Nông Giá, chắc chắn không phải một sự kiện cô lập.

    Có lẽ, không ít kẻ liều mạng đã tham gia cùng hội này, chỉ có điều, cuối cùng đội thám hiểm không thành công, hoặc giả trong chiếc hộp Pandora thực sự tồn tại lời nguyền, hung hiểm dọc đường không cần nghĩ cũng biết, chỉ sợ lần này hội anh lại phải lượn vòng quanh Quỷ Môn Quan một chuyến nữa rồi.

    Mọi người thấy không còn gì thu hoạch nữa, mới lần mò theo khe nứt giữa tầng nham thạch chầm chậm di chuyển xuống dưới. Khe núi này sâu hút, đường đi lại bội phần hiểm trở, sương mây giăng mắc sương mây, không gian lúc chật hẹp khi khoáng đạt, tối thui, ẩm ướt, không biết nông sâu thế nào, ngay cả chỗ đặt chân xuống cũng khó tìm thấy.

    Phần đáy lòng núi là một khe cốc chạy theo hướng tây bắc. Hội Tư Mã Khôi đi đến nơi này đã trọn một ngày một đêm chưa được chợp mắt, mọi người tìm kiếm suốt nửa ngày ở khu vực lân cận, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Lão Xà và thi thể Hổ Tử rơi xuống chỗ nào. Tư Mã Khôi đành bảo cả hội tạm thời tìm nơi thích hợp hạ trại, nhưng chẳng một ai ngủ yên giấc.

    Lát sau, Tư Mã Khôi xác định phương hướng bằng la bàn và các vị trí vạch trên bản đồ, rồi cả hội bắt đầu lên đường. Lại một ngày đằng đẵng trôi qua. Cuối cùng, mọi người tìm thấy một khe nứt hình tam giác chật hẹp ở giữa hai vách đá nơi rìa khe núi. Không gian bên trong bị dương xỉ, rêu xanh và bùn đất lấp kín, trên mặt đất có một trụ đá nứt gãy, nằm đổ rạp, nếu không có ký hiệu trên bản đồ, thì không ai chú ý tới trong lòng núi tối như đêm ba mươi lại có một con đường thế này.

    Hải ngọng đi trước phạt dương xỉ mở đường, năm người còn lại nối tiếp nhau đi xuyên qua khe nứt sâu chừng mấy trăm mét, địa thế càng đi càng thấp, sau cùng mở ra một không gian vô cùng khoáng đạt. Càng đi về phía trước, khí ẩm trong không khí càng tăng mạnh, tầng lá khô mục nát trên mặt đất vùi sâu đến bắp chân, những cành mục to như thắt lưng, nhưng chỉ cần giẫm một cái là hoàn toàn vụn nát, xung quanh um tùm rậm rạp những cây đại thụ to mười mấy, hai mấy mét, chúng thẳng tắp như mũi tên, hoàn toàn khác biệt với bất kì loại cây nào trong rừng già núi sâu, nếu đo theo đường kính, ít ra cũng cao đến gần trăm mét.

    Bề ngoài, chúng rất giống với cây thông Noel ở phương Tây, lá cây hình giáo dài vừa to vừa rộng, thân cây bám đầy vết dương xỉ, trong phạm vi mười mét đổ xuôi xuống gốc cây, có rất ít cành nhánh và lá, chỉ thấy rất nhiều dây leo bám chằng chịt mọc mãi lên cao. Một vài cây đại thụ bị đổ rạp, cộng thêm rễ cây ngoằn ngoèo xù xì chạy trên mặt đất, nhấp nhô như gò đồi, một số cây vẫn um tùm lá, một số thì đã chết khô, trên thân cây mọc đầy rong rêu và các loại nấm, khiến tầng biểu bì hình thành tầng chất hữu cơ vừa dày vừa sâu, giẫm chân lên tựa hồ như đang bước trên tấm bọt biển vậy.

    thỉnh thoảng lại tỏa ra ánh sáng thứ ánh sáng xanh leo lét. Cao Tư Dương kinh ngạc thốt lên: “Nơi sâu trong lòng núi đào đâu ra lắm cây cổ to lớn dường này nhỉ? Nhị Học Sinh cũng mắt tròn mắt dẹt, đờ người ra nhìn, cậu ta ở trong lâm trường suốt ngày chặt gỗ, chặt không ít cây cổ thụ sống hàng trăm ngàn năm, nhưng nếu so sánh với những gốc cây cổ đại, thì đúng là không đáng nói đến.

    Đây mới đúng là bách cổ Thần Nông đích thực, thân cây to không thể tưởng tượng nổi, đứng trước nó, con người có cảm giác mình nhỏ bé tựa con ong cái kiến. Trong phạm vi soi sáng của đèn quặng, những gì nhìn thấy trước mắt chẳng qua cũng chỉ như là phần nổi của tảng băng trôi mà thôi.

    Thắng Hương Lân lấy dao săn tách một miếng vỏ cây ra quan sát, cô suy đoán: “Hàng trăm triệu năm trước, Đại Thần Nông Giá vẫn chìm sâu dưới đáy biển, sau đó thạch quyển Trái đất nâng lên mới trở thành núi cao; bởi vậy hóa thạch cổ sinh vật chôn giấu trong lòng đất vô cùng phong phú.

    Từ tình hình này tôi đoán, có vẻ như quần đảo rừng rậm này từng xảy ra quá trình chìm lún, khi đó khí hậu ấm áp, nên địa mạo và hệ thực vật cũng không giống như bây giờ. Các loại cây cổ thụ thời viễn cổ, đã bị tuyệt chủng hàng trăm triệu năm trước, có mật độ rất lớn, cho dù bị vùi dưới đất lâu như vậy và đã hoàn toàn ngưng trệ quá trình sinh trưởng, nhưng trong thân cây vẫn còn tồn tại hàm lượng dưỡng chất nhất định, nhờ thế mà chúng mới không khô héo, vẫn duy trì được nguyên dạng giống như xác chết vậy”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 4: HÓA THẠCH SỐNG THỜI TIỀN SỬ


    Cánh rừng rậm thời tiền sử được che phủ hàng trăm triệu năm dưới lòng đất, khi ấy phần lớn hệ động vật và thực vật bị tuyệt chủng vì có hình thể quá lớn, tất cả như thể đều được phóng to hàng mấy chục lần dưới kính hiển vi vậy.

    Đây là lần đầu tiên Nhị Học Sinh đến một nơi như thế này, hai mắt anh chàng tựa hồ không đủ dùng nữa, lòng bất giác vừa hưng phấn vừa căng thẳng cực độ. Nghe tiếng Hải ngọng hét lớn, cậu ta cứ nghĩ sắp xảy ra tình hình nguy hiểm nào đó, thế là lập tức giương súng tỉa một vòng quanh mình.

    Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy Nhị Học Sinh chĩa họng súng đen ngòm về phía mình, liền vội vàng xua tay ngăn cản, rồi chỉ nghe “đoàng” một tiếng, và khói diêm tiêu bay mù mịt, viên đạn sắt đà bắn sát sạt ngay trên đỉnh mũ Pith Helmet của anh. Mọi người thấy Tư Mã Khôi xém chút thì bị đạn lạc lấy mất mạng, nên ai nấy tim đập thình thịch.

    Cũng may mà tốc độ đạn bay của khẩu súng săn khá chậm, trong khi Tư Mã Khôi lại phản ứng cực kì nhanh nhạy, nếu không thì bây giờ đầu óc đã nở hoa tóe loe cả rồi. Nhị Học Sinh thấy vậy sợ xanh mặt, anh chàng ngượng nghịu xin lỗi: “Xin lỗi! Xin lỗi! Chỗ này tối quả, cái mắt này đúng là đáng chết….” Tư Mã Khôi đánh nhau ở Miến Điện đã quen tay, thoạt nhìn là biết Nhị Học Sinh không phải nòi cầm súng, lúc này có trách cứ cậu ta cũng vô nghĩa, nên anh chỉ nói: “May mà khi nãy không cho cậu mang khẩu liên thanh M-1887, nếu không bây giờ tôi đã xuống đất làm bạn với giun rồi.

    Mắt mũi kèm nhèm thì làm ơn chụp cái vòng bảo hiểm lên đầu giùm tôi, sau khi phát hiện mục tiêu, nhất định phải đếm một, hai, ba trước đã, chưa đếm đến ba thì tuyệt đối không được bóp cò, nghe chưa hả?”. Hải ngọng trêu chọc Tư Mã Khôi: “Thôi! Thôi! Đội ngũ chúng ta toàn là quần chúng nhân dân với nhau cả ấy mà, cậu chết vào tay ai mà chẳng là chết, dù sao cũng đâu lợi người ngoài”.

    Tư Mã Khôi mắng: “Tiên sư Hải ngọng! Cái mồm cậu mà không toang toác ra, thì vừa nãy ông đây cũng đâu đến nồi suýt thành ma mất đầu. Mà cậu nhìn thấy cái mẹ gì vậy? Hải ngọng trợn mắt: “Đúng là chó nhà cắn chủ! Tớ có lòng tốt mới khuyên cậu mấy câu, thế mà cậu còn há miệng trách tớ.

    Tớ nhìn thấy cái gì ấy à…. tớ vừa nhìn thấy cái gáy của mình đấy, sao hả?” Thắng Hương Lân soi đèn quặng về phía lưng Hải ngọng, nhỏ giọng nhắc nhở: “Đừng đấu võ mồm nữa! Quanh đây đúng là có thứ gì đó….” Mọi người đổ dồn mắt về phía ánh đèn, thấy xung quanh có một phiến lá to như cái giường, gân lá lừng lững như cánh tay.

    Trong đám lá khô và các loại nấm kì dị đua nhau mọc trên lá, lờ mờ ẩn hiện một vật thể đen sì sì, hao hao giống người, mà dường như lại không phải, nó cũng có mắt, có mày, có cánh, phần thân dưới còn có một con cóc to kềnh càng nằm phủ phục. Cao Tư Dương không biết vật này là thứ gì, liền hỏi: “Nó là người hay ma núi thế nhỉ?” Nhị Học Sinh cũng kinh ngạc nói: “Chưa bao giờ thấy dị vật kì lạ như vậy xuất hiện trong rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá cả”.

    Hải ngọng giương súng săn, thủng thẳng bảo: “Chuyện này phải hỏi thằng Khôi, cậu ta là chuyên gia sinh vật đấy, chim thú nào mà chẳng biết, ngay cả trong côn trùng nghĩ gì cậu ta còn hiểu rõ nữa là”. Tư Mã Khôi lại gần, phủi lớp đất bùn bên ngoài đi, phát hiện đó là một pho tượng ngọc, chất ngọc giờ đã gần giống với xương khô, vẻ lung linh bên ngoài đã không còn, đường vân cũng nhạt nhòa, có lẽ nó tồn tại trên đời chí ít cũng hơn hai ngàn năm.

    Anh bảo mọi người: Tôi quần quật trong đội khảo cổ suốt bao nhiêu năm, bùn đất đào dưới lưỡi xẻng đủ chất thành núi, đương nhiên phải biết vật này chứ. Nó chẳng qua là ngõa gia, tức là tượng nung ấy mà, tượng nung có nhiều loại, và cũng có thể được làm bàng ngọc, vàng, đá, đồng hoặc gỗ.

    Có điều, pho tượng này hình thù cổ quái quá, không thể phân biệt được nó là người hay chim thú, nhưng có thể chắc chắn lai lịch của nó tuyệt đối không bình thường. Nghe nói, nước Sở thời Xuân Thu là nơi sùng tín mấy chuyện thầy mo và ma quỷ nhất, họ cho rằng, mọi vị thần cõi âm gian đều có hình hài đầu chim mặt người, có nhiệm vụ dẫn linh hồn của người chết xuống âm gian, những vị thần này chuyên ăn não người chết.

    Thời cổ tương truyền, đáy m Hải Cốc nhốt giữ ác quỷ, bởi vậy người nước Sở mới đặt tượng ngọc xung quanh để trấn tà, không cho các âm hồn trốn thoát. Vì vậy, chúng ta phát hiện thấy tượng ngọc ở quanh đây cũng không có gì kì lạ. Càng tiến gần khu vực chiếc hộp Pandora mà đội thám hiểm Taninth đánh dấu trên bản đồ, sẽ xuất hiện càng nhiều vật này, chúng ta không cần hốt hoảng làm gì, dẫu sao nó cũng chỉ là vật chết.

    Lúc này, Hải ngọng cũng đã nhìn kỹ, anh ngạc nhiên: “Ớ… Sao khi nãy tớ thấy pho tượng này… động đậy nhỉ?” Tư Mã Khôi không tin: “Cậu định viện cớ cho khỏi bẽ mặt đấy à! Khi nãy vừa mới làm cả hội sợ hết hồn một phen, giờ còn dám báo cáo láo tình hình quân cơ nữa hả?” Hải ngọng oan ức kêu lên: “Ối giời ơi! Ối lương tâm ơi! Cậu thử hỏi cả hội xem, Hải ngọng tớ là hạng người thế nào? Tớ nhìn thấy thứ đó động đậy thật mà…”, anh vừa nói vừa lấy súng săn chọc loạn xạ vào đám lá cây, thì thấy trong đám rêu mốc, lộ ra một loài thực vật hình dạng rất giống cây bồ kết, Hải ngọng nói: “Chắc tám phần nó là cây ăn thịt đấy!” Nhị Học Sinh lại gần quan sát, đoạn nói: “Đây là loài thực vật hóa thạch sống, xuất hiện từ thời tiền sử, nửa dạng nấm, nửa dạng quả, chuyên sinh trưởng trên mặt đất, trong hang núi gần lâm trường cũng có, nhưng nhỏ hơn nhiều.

    Bóc vỏ ngoài đi là có thể ăn phần thịt quả bên trong, có quả hơi tanh mùi dầu cá, có quả ruột bên trong mềm mịn thanh ngọt, giống vị dưa chuột. Nhị Học Sinh nói xong thì vặt luôn một quả xuống nếm thử. Hải ngọng vừa nghe nói thứ này ăn được, liền vội vàng cướp lấy nhét vào miệng, nhai ngấu nghiến, nước quả tứa ra nhoe nhoét, đã vậy còn phê bình Nhị Học Sinh: “Chú đừng nói năng lung tung, đừng quên thời kì bài trừ “tứ cựu”, vì dưa chuột dính chữ “chuột”, nên người ta đổi thành dưa leo đấy nhé.

    Anh mày nom bộ dạng chú ngô nghê thế kia, chắc chẳng bao giờ nghĩ tới việc chỉ vì một quả dưa bé tí teo thế này mà gây ra đấu tranh giai cấp đâu nhỉ. Từ nay về sau, chú tuyệt đối không được tự tiện điều chỉnh lại từ này đâu nhá, chúng ta nhất thời hồ đồ làm phản, giờ biết sai quay đầu vẫn chưa muộn, còn nếu ngoan cổ chống đối đến cùng, thì chỉ có con đường chết thôi, nghe chưa?” Lúc này, Tư Mã Khôi cùng Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương bắt đầu soi đèn quặng vào bản đồ để phân biệt vị trí.

    Ba người suy đoán, các chấm đen trong bản đồ là tuyến đường khúc khuỷu thần bí, còn điểm họ đang đứng chính là lòng đất dưới m Hải Cốc. Những cây cổ thụ cổ đại cao trăm mét, phần lớn là tổ tiên các loài thực vật hóa thạch sống thời tiền sử như thủy sam, hồng đồng, thủy tùng, ngân hạnh, thông đỏ, xuyên khung, cây áo cộc v.

    v… Tán lá đan cài vào nhau tạo thành bức tường chắn trước huyệt động, không gian bên trong rộng lớn mênh mông, chỗ nào cũng bốc mùi ẩm mốc, lạnh lẽo, phía dưới những lớp lá mục tầng nọ che phủ tầng kia là những vũng nước tù, người nào lỡ chân thụt xuống thì đừng mong trèo lên.

    Trong rừng rậm m Hải Cốc đến nay vẫn còn ẩn nấp rất nhiều loài sinh vật cổ đại to lớn tưởng như đã tuyệt chủng; lòng đất xem chừng im lìm, nhưng mai phục không biết bao hiểm nguy, nói không chừng giữa đường lại gặp phải thứ gì đó không ngờ cũng nên. Nếu thiếu sự chỉ dẫn của tuyến đường biểu thị bằng các chấm đen trên bản đồ, thì cả hội căn bản không thể đi xuyên qua quần thể thực vật tiền sử với quy mô khiếp người thế này.

    Có điều, tấm bản đồ vẫn chưa qua kiểm nghiệm thực tế, bởi vậy cũng thiếu tính chính xác tuyệt đối, chỉ có thể dùng nó để tham khảo mà thôi. Cao Tư Dương sốt ruột hỏi Tư Mã Khôi: “Sao anh chỉ mải lo xuống sâu hơn! Thế không định truy bắt Lão Xà nữa hả?” Tư Mã Khôi nói: “Gã thổ tặc rơi xuống lòng núi, như chim lặn vào mây, mất tăm mất tích, sống không thấy người, chết không thấy xác, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Có điều nếu đối phương còn có thể hành động, thì nhất định sẽ bám riết đội khảo cổ không buông, nên sớm muộn gì cũng lộ cái đuôi chồn ra thôi, chúng ta chỉ cần đề cao cảnh giác, tùy cơ ứng biến là được”.

    Tư Mã Khôi thấy đường đi gian nan, hiểm trở, càng không biết hành trình xuống lòng đất còn kéo dài bao lâu nữa mới có thể mở được chiếc hộp Pandora ra, nên trong lòng thắc thỏm bất an, anh liền gọi Hải ngọng và Nhi Học Sinh chuẩn bị khởi hành. Nhị Học Sinh liên tiếp tìm thấy mấy trái quả mọng trong đám lá khô, nhưng đều bị Hải ngọng cướp trắng.

    Anh chàng không cam tâm, còn định tiếp tục tìm kiếm, bỗng nhiên nghe thấy bên cạnh có âm thanh khe khẽ, nghe như thể pho tượng ngọc đang động đậy. Nhị Học Sinh bồn chồn, đẩy gọng kính trên sống mũi, đứng dậy nhìn kỹ pho tượng ngọc. Lúc này, Tư Mã Khôi cũng phát hiện ra động tĩnh khác thường, anh thấy Nhị Học Sinh đứng mặt đối mặt ngay trước pho tượng, lòng biết thế là tiêu rồi, nhưng chưa kịp lên tiếng nhắc nhở, thì đã thấy dưới ánh đèn quặng, cái miệng pho tượng ngọc bỗng nhiên phun ra một luồng khí đen.

    Nhị Học Sinh kinh hãi, hét “Á” một tiếng thất thanh, luồng khí đen chui tuột vào miệng cậu ta, nhanh như một hồn ma. Không ai kịp nhìn rõ thứ xuất hiện trong pho tượng ngọc là thứ gì. Nhị Học Sinh sợ lịm người tại chỗ, hồi lâu vẫn chưa hoàn hồn, cảm thấy mùi ẩm mốc sực lên khó chịu, liền ho liên tiếp mấy cái.

    Cao Tư Dương thấy vậy, liền kéo vội anh ta tránh xa pho tượng ngọc, rồi hỏi: “Anh không sao chứ?” Nhị Học Sinh xua tay, biểu thị không thấy cơ thể có thay đổi gì khác thường. Thắng Hương Lân cũng hỏi Nhị Học Sinh: “Hình như tôi thấy có thứ gì đó chui vào miệng anh, anh có sao không? Nhị Học Sinh hơi hoảng: “Mọi người đừng dọa tôi nữa! Tôi không sao thật mà, chỉ bị sặc khói bụi của pho tượng ngọc kia tí thôi…”, nói chưa dứt câu thì anh ta thấy hai chân mềm nhũn, toàn thân run lạnh không thể chịu nổi, không tự chủ được ngã khuỵu xuống đất.

    Tư Mã Khôi thấy sắc mặt Nhị Học Sinh càng lúc càng trắng bệch, gân xanh nổi lên cuồn cuộn, hơi thở thoi thóp, thì biết anh ta chắc chắn đã bị dị vật chui vào bụng. Khi nãy Hải ngọng phát hiện người tượng ngọc động đậy, có lẽ là do vật này, có điều nó rốt cuộc là thứ gì thì rất khó nói, nếu không mau nghĩ cách lôi nó ra, thì tính mạng Nhị Học Sinh coi như xong.

    Hải ngọng hình dung lại cảnh tượng lúc đẩy đỉa Campuchia ăn thịt người ra khỏi cơ thể, nhưng dưới lòng đất m Hải Cốc hình như không có mãng xà, vả lại Nhị Học Sinh nói ngoẻo một cái là ngoẻo luôn, không giống với tình trạng mà mọi người gặp phải lúc tại núi Dã Nhân ở Miến Điện.

    Anh nói: “Tôi thấy rõ ràng có vật gì đen thùi lùi chui vào miệng cậu ta, nhớ lúc ở Đông Bắc nơi đó có một loại côn trùng, gọi là rết nhà, trông nó hơi giống rết núi nhưng nhỏ hơn, ban đêm, đợi người ngủ say là chui vào tai ăn não, có lẽ con rết trong tượng ngọc đã chui vào bụng cậu ta rồi, bây giờ phải lập tức cho cậu ta uống nước đái mèo, muốn mau lấy được nước đái mèo thì phải chà xát gừng tươi vào tai nó mới được.” Tư Mã Khôi nói, chỗ này kiếm đâu ra mèo? Huống hồ, luồng khí đen trong tượng ngọc hình như có hình có chất hẳn hoi, mà lại có khả năng xuyên ngũ quan, thông thất khiếu, nhìn không giống con rết, nhưng trong khoảng thời gian ngắn sau khi dị vật chui vào cơ thể, mà kịp thời cấp cứu, thì may ra còn giữ được mạng sống.

    Anh nhíu mày nghĩ cách, đoạn chẳng nói chẳng rằng, kéo Nhị Học Sinh như kéo lê một con chó chết, đi về khu vực có địa thế tương đối trũng. Cao Tư Dương không kịp ngăn cản, đành nhặt ba lô vải buồm của Nhị Học Sinh đánh rơi, nhanh chân đuổi theo phía sau. Tư Mã Khôi thấy cây cổ thụ tán rợp trời trước mặt đan cài vào nhau, mấy sợi dây leo thả mình từ thân cây xuống, liền bảo Thắng Hương Lân soi đèn giúp, rồi anh và Hải ngọng lấy dây thừng treo ngược Nhị Học Sinh lên, nút chặt tất cả cảc lỗ trên người, chỉ để hở miệng.

    Cao Tư Dương thấy vậy, định chạy lại cởi dây thừng: “Ba người tổ thông tin đã mất một, các anh còn định hanh hạ người ta tiếp nữa là xảy ra án mạng đấy”. Tư Mã Khôi cản Cao Tư Dương lại, anh nói: “Mấy năm trước, tôi bị lạc đường trong nghĩa địa, nghe thấy trong ngôi mộ cũ có động tĩnh, liền bạo gan qua đó xem thử, cô thử đoán xem tôi trông thấy thứ gì? Thì ra đó một con hồ ly đang đào huyệt trên mộ.

    Nó móc ra một cuốn cổ thư trong quan tài, sau đó, giở từng trang ra xem dưới ánh trăng, vừa xem nó vừa nhíu mày cười hì hì. Lúc đó, tóc tôi dựng đứng cả lên, thầm nghĩ, chẳng lẽ mình đang gặp yêu quái thật à? Nhưng thanh niên bọn ta ngủ trên lò lửa lạnh, tất cả trông cậy vào sức lửa, lửa mạnh thì gan cũng bạo, làm gì có chuyện để nó qua mặt? Thể là tôi cầm hòn đá ném con hồ ly, nó sợ chạy mất dạng, tôi nhặt cuốn sách lên, bên trong viết toàn các phương thuật kim thạch cải tử hoàn sinh, từ đó về sau tôi dùi mài tự học, rồi thành tài đấy…” Cao Tư Dương biết Tư Mã Khôi chỉ huyên thuyên, hòng kéo dài thời gian và giữ chân mình, liền hét lớn: “Bây giờ mà anh vẫn còn lòng dạ nói linh tinh nữa à? Mau thả người xuống cho tôi!”

    Lúc này, Thắng Hương Lân gỡ đèn quặng trên mũ xuống, cầm trong tay, soi vào mặt Nhị Học Sinh và quan sát kỹ động tĩnh, cô gọi mọi người: “Mau lại xem! Có thứ gì đó sắp chui ra này…” Hội Tư Mã Khôi chăm chú nhìn, chỉ thấy anh chàng Nhị Học Sinh bị buộc chân tay, treo ngược trên cây, máu toàn thân dốc xuống đầu, gương mặt vốn trắng bệch giờ đỏ au au, ngực tức thở đành mở to miệng ra thở, có một vật không rõ hình thù thế nào đang chậm chạp thò ra từ cổ họng, trông nó đỏ au au đến khiếp người.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 5: THẾ GIỚI VI MÔ


    Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng trượt tay, thì thầm nghĩ hỏng to, xem ra anh chàng Nhị Học Sinh này quả thực đã hít phải dị vật vào bụng, hơn nữa nó vẫn chưa chết và tiếp tục được máu người nuôi dưỡng, còn cơ thể Nhị Học Sinh sẽ dần khô kiệt vì bị hút cạn máu.

    Vả lại, cậu ta cũng bị treo ngược khá lâu rồi, vật đó một khi đã thụt vào, thì chắc chắn sẽ không chịu ra nữa, trừ khi mổ bụng, rạch ruột mới mong lấy nó ra được. Tư Mã Khôi ứng biến thần tốc, giơ tay thọc thẳng vào xương sườn Nhị Học Sinh, chỗ giữa hai sương xườn là phần da không có thịt, đồng thời cũng là khu vực nhạy cảm nhất.

    Nhị Học Sinh bị bịt mắt, lại treo ngược cành cây, rồi bỗng nhiên bị ngón tay chọc vào thì quả nhiên hét to một tiếng, nôn thốc thứ vừa thụt vào cổ họng ra ngoài. Lần này Hải ngọng lấy tay kẹp chặt, nhanh tay quăng vật đó xuống đất. Tư Mã Khôi bật đèn theo bóng nó, chỉ thấy vật đó dài chừng một ngón tay, to chừng nửa đốt, thân người dẹt mỏng, hai bên có sáu cái chân ngắn, đầu các chi có giác hút, khắp người toàn máu, miệng nhả khói đen, phát ra tiếng kêu “lách tách” như tiếng cánh quạt gỗ quay, động tác vô cùng linh hoạt, luồn lách nhanh thoăn thoắt.

    Sau khi rơi xuống đất, nó chạy như bay, vụt một cái đã luồn vào các kẽ lá khô, rồi biến mất dạng. Hải ngọng tưởng khi nãy đã bóp nó chết, ai dè nó vẫn còn sống, đang định lấy chân di, thì vật đó đã chuồn đi từ bao giờ. Anh thầm kinh ngạc, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Con gì thế Khôi? Tắc kè hoa à?” Tư Mã Khôi thấy không giống tắc kè hoa, vì loài này chỉ có bốn chân, thường ẩn nấp trong rừng nhiệt đới, lại không biết bay giữa không trung; còn sinh vật trong pho tượng ngọc nom hao hao giống hoàn long, một sinh vật nguyên thủy sống ở vùng đại hoang, nó có thể bay ở khoảng cách ngắn, quen sống kí sinh ở nơi ẩm ướt, âm u, con lớn nhất chỉ to bằng cái kim, nghe nói đã tuyệt chủng từ lâu, sau thời Tấn không thấy ghi chép nào liên quan đến nó nữa.

    Thế nhưng con khi nãy lại to bằng cả ngón tay, có lẽ là giống cổ đại, vì thế giới dưới lòng đất ở m Hải Cốc hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, môi trường đặc biệt ấy vẫn hoàn toàn không thay đổi từ thời hằng cổ, nên không biết trong lòng nó còn ẩn chứa bao nhiêu loài sinh vật ít nghe hiếm gặp và đáng sợ khác nữa.

    Cao Tư Dương thấy ngón nghề của Tư Mã Khôi tinh tuyệt, lòng cũng thầm thấy kinh ngạc, cô và Thắng Hương Lân chạy lại cởi dây trói, đỡ Nhị Học Sinh trên cây xuống cho mạch máu lưu thông trở lại. Tư Mã Khôi biết Nhị Học Sinh may mắn lắm mới giữ lại được tính mạng, tuy nguyên khí bị tổn thương nhưng không đến nỗi để lại hậu họa gì, cũng may dị vật khi nãy là con đực, chứ nếu là con cái, nó phát tán trứng trong máu, thì cho dù Hoa Đà, Biển Thước có tái thế cũng không thể tìm ra phương thuốc giải cứu.

    Anh thấy Nhị Học Sinh mềm nhũn chân tay, khẩu súng săn cũng văng đâu mất, liền nhặt một cành cây tùng khá chắc chắn, lấy dao săn vót nhọn một đầu, rồi buộc dây thừng vào, giao cho Nhị Học Sinh dò đường và phòng thân, đồng thời nhắc cậu ta phải bám sát đội hình, lần sau chưa chắc đã may mắn được như vậy.

    Nhìn bản đồ, cả hội không thể biết còn cách chiếc hộp Pandora bao xa, cũng không dám dừng lại lâu trong môi trường hiểm nguy mai phục tứ bề, chỉ dám chỉnh đốn hành lý trong giây lát, rồi tiếp tục tiến về phía trước theo phương hướng được đánh dấu trên bản đồ. Nhưng đi không bao xa, thì con đường phía trước lại bị chắn ngang bởi mấy cây cổ thụ quấn quýt vào nhau, xung quanh là những chiếc rễ quái dị, trông như xúc tu của những con bạch tuộc luồn xuyên qua những gốc cây khác.

    Các thực vật dạng nấm với muôn hình đủ sắc tựa những chiếc ô xòe to, đan cài tầng tầng lớp lớp, chúng kéo dài triền miên từ thân cây xuống tận mặt đất, kín mít không một khe hở. Đường kính thân cây ở m Hải Cốc chí ít cũng tới hai mươi mấy mét, người đi bên dưới chẳng khác nào con kiến lơ ngơ tham quan thế giới vi mô.

    Nếu cả hội đi vòng qua hai đầu, thì sẽ lệch khỏi tuyến đường, không biết sẽ dịch chuyển ra nơi nào, vả lại như vậy rất dễ rơi xuống hố bùn nằm dưới lớp lá mục. Tư Mã Khôi đành lấy tay ra hiệu, bảo mọi người dừng bước, rồi lấy la bàn đối chiếu nhiều lần với bản đồ.

    Lúc này, Cao Tư Dương vội vàng gỡ khẩu súng liên thanh M-1887 trên vai xuống, cảnh báo Tư Mã Khôi: “Gần đây có người… rất nhiều người là khác…” Tư Mã Khôi không nghe thấy xung quanh có động tĩnh gì, lòng thầm nghĩ, cô nhìn thấy ma chắc? Dưới lòng đất hàng ngàn tỉ năm không nhìn thấy mặt trời, bới đâu ra nhiều người cơ chứ? Nhị Học Sinh đang bám ngay phía sau Cao Tư Dương hỏi: “Lại phát hiện thấy tượng ngọc à? Tốt nhất là tránh xa bọn ấy ra một chút, an toàn là số một mà!” Cao Tư Dương không trả lời, một tay cô giương súng, tay kia xách đèn quặng soi về phía măt đất bên cạnh mình, ý muốn bảo mọi người mau qua xem.

    Hội Tư Mã Khôi xúm lại đằng trước, dõi mắt về phía ánh đèn Cao Tư Dương chiếu vào, quả nhiên họ thấy một dấu chân rất rõ ràng, đó là dấu chân trần để lại trên thảm rêu. Lòng đất trong m Hải Cốc thấm nước nghiêm trọng, hệ thực vật ký sinh trên thân cây vô cùng dày đặc, không khí oi bức, ẩm ướt và hoàn toàn không có gió, chỗ nào cũng mù mịt sương khí, trong khi đó dưới tầng lá ẩm ướt toàn là bùn đất vừa mềm vừa trơn và gỗ mục, bất luận xảy ra chuyện gì, rừng rậm cũng mau chóng phủ lâp và che đậy mọi dấu vết, bởi vậy những dấu chân này có lẽ chỉ vừa mới lưu lại mà thôi.

    Mọi người biết, phát hiện thấy dấu chân dưới lòng đất cũng không phải chuyện kì quái, vì ở đây ngoài đội khảo cổ ra thì vẫn còn sự tồn tại của Lão Xà với lai lịch bất minh như xác chết; có điều, vết chân trên thảm rêu mục không chỉ có một hai dấu, giơ cao đèn quặng chiếu sáng phạm vi rộng, sẽ phát hiện xung quanh còn nhiều dấu chân hơn.

    Tất cả những dấu chân đó sắp thành từng chuỗi, chuỗi thì toàn dấu chân trái, chuỗi thì toàn dấu chân phải, dấu chân nọ bám sát dấu chân kia, dường như biên độ giữa các bước chân rất nhỏ, trong khi người bình thường lúc bước đi, dấu chân để lại phải so le trái phải mới đúng.

    Hải ngọng cúi đầu nhìn hai cẳng chân mình, anh thực sự ngẫm mãi không ra là rốt cuộc phải bước đi như thế nào thì mới để lại được những dấu chân như vậy. Cao Tư Dương càng không dám lơi lỏng cảnh giác: “Chắc lâm trường không thể biết chuyện xảy ra với đội thông tin nhanh như vậy, sao đột nhiên dưới lòng đất Ầm Hải Cốc lại xuất hiện nhiều dấu chân thế được nhỉ?” Thắng Hương Lân nói với các thành viên còn lại: “Mọi người xem!” – nói xong, cô liền thọc báng súng xuống đất, thảm rêu lưu dấu chân trên mặt đất kêu “kịch” một cái, rồi lập tức thụt xuống thành một cái lỗ, thì ra phía dưới lớp rêu là đoạn gỗ mục, không đủ sức chịu lực, điều đó chứng tỏ: nếu có người giẫm chân lên trên, thì trọng lượng của người đó sẽ khiến họ giẫm xuyên qua thân gỗ, chứ tuyệt đối không thể để lại dấu chân trên bề mặt.

    Tư Mã Khôi quỳ trên mặt đất, quan sát kỹ: từ các ngón đến độ cong, lòng chân trước, lòng chân sau của dấu chân đều rất rõ rệt, nhưng cách phân bố lại quá quái dị, có lẽ chúng vốn dĩ không phải dấu chân của con người. Mọi người nghĩ mà ớn lạnh, không ai dám thở mạnh, chỉ mong nhân lúc sự cố chưa xảy ra, mau chóng rút lui khỏi đây càng nhanh càng tốt.

    Tư Mã Khôi giở tấm bản đồ của đội thám hiểm Taninth ra, tiếp tục tìm kiếm vật tham chiếu gần đó, đồng thời cầu mong có thể nhanh chóng tìm đường rời khỏi chỗ này. Có điều, bản đồ này được vẽ căn cứ theo bích họa cổ mộ thời kì Sở U Vương, trong khi hàng trăm triệu năm trước, Thần Nông Giá đã từng là đại dương, quần thể thực vật thời tiền sử ở cánh rừng rậm rạp dưới m Hải Cốc lại từng là quần đảo bị chìm lún.

    Một nơi nào đó trên đảo được ký hiệu là chiếc hộp Pandora, hội anh dự đoán, đó cũng là nơi đặt nhật quỹ, còn lịch sử cụ thể thế nào thì không thể khảo chứng được, vì bây giờ công cụ chỉ dẫn duy nhất có mỗi tấm bản đồ cổ xưa này thôi. Ngặt nỗi, môi trường dưới lòng đất phức tạp và khắc nghiệt, nếu không đi đúng tuyến đường, chỉ sợ cuối cùng sẽ bị lạc trong vực sâu chết chóc này mất, nhưng thời gian vật đổi sao dời, nấm mốc, rong rêu phát triển, đã khiến địa mạo vốn có của vùng này bị thay đổi.

    Tư Mã Khôi vô cùng lo lắng, nhưng nhất thời cũng không biết phải làm thế nào, anh đành dẫn mọi người giẫm lên vòm nấm vân chi vừa to vừa mềm để trèo lên trên, giật đám dây leo và thực vật họ nho mọc loạn xạ xung quanh, cả hội cố gắng tiếp cận các địa điểm đánh dấu trên bản đồ.

    Tư Mã Khôi vừa tiếp ứng cho các thành viên khác trèo lên một đoạn dây leo, bỗng nhiên anh cảm thấy từng luồng âm phong ào tới. Tư Mã Khôi bất giác rùng mình, toàn thân nổi hết da gà, lòng nghĩ thầm: không khí dưới lòng đất vừa ẩm ướt vừa oi nồng, làm gì có gió nhỉ? Anh vừa nghĩ đã biết: có lẽ một thứ gì đó trên trời đang bay xuống tìm cách tiếp cận hội anh.

    Tư Mã Khôi lập tức điều chỉnh góc chiếu sáng của đèn quặng trên mũ Pith Helmet lên cao. Lòng đất tuy ẩm ướt, ngột ngạt, nhiều nơi còn có sương mù, nhưng vẫn le lói chút ánh sáng yếu ớt do tảo lục phát ra, nhờ vậy không gian cũng không đến nỗi tối đen như mực, chất lượng tia sáng cũng tạm coi là lý tưởng, phạm vi chiếu sáng của đèn quặng lên tới hơn hai mươi mét.

    Tư Mã Khôi chĩa vòng sáng vào khoảng không phía sau mình, anh thấp thoáng thấy mấy phiến lá khô chao liệng. Anh thầm nghĩ, con bà nó, ma quái quá, ở đây toàn là cây cổ thụ khổng lồ, bề rộng của lá cây cũng lên tới gần một mét, luồng khí phải mạnh đến mức nào thì mới đủ sức cuốn nó lên trời? Anh phát hiện thấy tình hình bất ổn, liền nhỏ giọng cảnh báo mọi người: “Chú ý!”.

    Hải ngọng cũng phát hiện ra cơn gió lạ, rồi trong khoảnh khắc anh ngước mắt nhìn lên, thì mấy phiến lá đó đã bay tới chỉ cách chỗ mọi người đứng chừng mấy mét. Hải ngọng vội giương khẩu súng bắn đạn hoa cải họng ngoại cỡ lên, tay xách nách mang, cuống quýt chĩa súng vào phiến lá khô ở gần nhất và bóp cò.

    Loai súng này dùng đạn cỡ 8, đạn cỡ 8 có nghĩa là viên bi sắt chế thành đạn sẽ phân tách thành tám mảnh khi đươc bắn ra, còn đạn cỡ 12 sẽ phân tách thành mười hai mảnh, cỡ đạn càng nhỏ thì lực sát thương càng lớn. Thông thường đạn cỡ 8 thuộc loại dành cho súng săn hạng nặng, lực sát thương rất ghê gớm.

    Nó là dòng súng do Canada sản xuất, trên báng súng còn khắc hình đầu con gấu gườm gườm, có lẽ nó được thiết kế chuyên để săn gấu khổng lồ ở dãy núi Rockey. Lúc này, chỉ nghe súng bắn “đoàng” một tiếng, phiến lá khô thoắt chốc rơi xuống, chao đảo ngay trước mặt mọi người.

    Hội Tư Mã Khôi quỳ gối xuống quan sát và phát hiện thì ra đó là loài bướm lá khô, có chiều dài hơn một mét, có lẽ là một giống bướm ma, thân mình như được choàng tấm áo khoác màu trầm tối, loang lổ, giống hệt với các khúc gỗ mục ngang dọc hỗn loạn, ngay cả màu mắt cũng hoàn toàn tương đồng, cách ngụy trang này khiến nó hoàn toàn hòa lẫn với môi trường xung quanh, chỉ khi quan sát kỹ ở cự li gần, mới có thể nhìn ra đám lá khô kia hóa ra là vật thể sống.

    Con bướm rơi xuống đất khi nãy bị đạn số 8 xé tan thành hai mảnh, cơ thể nó chảy ra dịch màu vàng, nhưng vẫn ngoan cố chưa chịu chết hẳn, đôi cánh không ngừng vẫy đập, trên mình nó mọc chi chít những sợi lông mao còn sắc hơn cả đinh sắt, chỉ cần chạm nhẹ cũng đủ khiến con người toi mạng.

    Hải ngọng lại vừa nổ súng giết thêm một con bướm ma nữa, những con còn lại đậu trên lùm nấm vân chi rậm rạp nên không nhìn thấy, nhưng luồng âm phong từ trên cao dội xuống, cho thấy đồng loại của chúng đang bay tới đây càng lúc càng nhiều. Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương tắt đèn quặng: “Người ta bảo ‘thiêu thân như bướm đâm đầu vào lửa’.

    Tôi đoán, lũ bướm ma này chắc lao vào đây vì ánh đèn…” Nhị Học Sinh nhìn mà gai lạnh cả người, anh chàng hỏi Tư Mã Khôi: “Đồng chí tổ trưởng ơi! Anh bảo lũ quái vật này có tấn công người không?” Tư Mã Khôi cũng không dám chắc, Đại Thần Nông Giá nổi tiếng là nơi có “huyệt động kì bí, sinh vật bạch tạng, kì hoa dị thảo, chim lạ thú hiếm”, nó là cánh rừng rậm nguyên sinh còn sót lại duy nhất ở dải đất 30 độ vĩ Bắc.

    Lớp phủ thực vật um tùm và dày đặc, giúp nó dự trữ được lượng nước rất đầy đủ, cánh rừng giống như một khoang cung cấp dưỡng khí nhiều tầng cỡ lớn, chính vì vậy, hàm lượng ô xi trong không khí rất cao, quần thể thực vật tiền sử trong hang động dưới lòng đất m Hải Cốc tuy đã chết thực sự, nhưng do sự ảnh hưởng của môi trường, nên chúng vẫn giữ nguyên diện mạo ban đầu giống như xác chết vậy.

    Điều đó khiến vô số loài nấm gỗ và nấm vân chi sinh trưởng tua tủa trong tầng chất mục nằm phủ trên bề mặt thân cây; ngoài ra, còn có một số loài sinh vật máu lạnh vẫn chưa bị tuyệt chủng, chúng trốn thoát khỏi kiếp nạn rung trời chuyển đất, rồi dần dần thích ứng với môi trường sinh tồn dưới lòng đất, đồng thời thông qua phương thức đặc biệt và thần bí nào đó, chúng vẫn duy trì được sự cân bằng yếu ớt ấy.

    Tư Mã Khôi nói với mọi người: “Các chủng loại thực vật cổ xưa dưới lòng đất phần lớn chưa ai từng nhìn thấy, cho dù có biết thì nó cũng chỉ là một chi hoặc một nhánh tương tự như vậy mà thôi, không thể dùng kinh nghiệm từng có để phán đoán về chúng được. Để đảm bảo an toàn, đương nhiên chúng ta thà tin là nó có, còn hơn tin là nó không có, phải cố gắng tránh tiếp xúc với nó mới được”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 6: VÂY BẮT


    Mặt Tư Mã Khôi biến sắc, tiếng bước chân rầm rập, như thể mấy ngàn mấy vạn đôi chân đang hành quân thần tốc, mà lòng đất dưới m Hải Cốc cơ hồ cách tuyệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, thì đương nhiên không thể đột nhiên xuất hiện nhiều người như vậy.

    Thứ gì có nhiều chân dường ấy được nhỉ? Chẳng lẽ là con rết khổng lồ nằm mai phục dưới lòng đất? Trong đầu Tư Mã Khôi bồng bềnh thoáng hiện lên hình ảnh một con rết mọc toàn chân người, nhưng anh liền mau chóng xua tan ý nghĩ gớm ghiếc đó, bởi vì sinh vật để lại dấu chân trên thảm rêu không phải chỉ có một con, có lẽ là một chủng loại nào đó thường xuất hiện theo hình thái bầy đàn.

    Nếu nhìn dấu chân để phỏng đoán, thì cơ thể sinh vật này ắt hẳn không nhỏ; không chỉ vậy, mà nó còn có khả năng di chuyển nhẹ nhàng như bay, bởi vậy mới không giẫm nát khúc gỗ mục, bây giờ nghe động tĩnh vẫn còn ở xa, nhưng kẻ sắp đến chắc chắn không mang ý đồ gì tốt đẹp.

    Anh đoán, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ áp sát hội anh. Mấy người còn lại cũng lần lượt nhận ra tiếng động lạ, lòng người nào người nấy đều trỗi dậy cảm giác ngộp thở đến khó hiểu. Hải ngọng sốt ruột, lấy báng súng hất con bướm ma nằm phơi xác trên vòm nấm vân chi xuống.

    Anh vừa nạp đầy đạn cho khẩu súng săn hai nòng, vừa nói với Tư Mã Khôi: “Lũ bướm chết tiệt này có gì đáng xem đâu, nhìn mà phát tởm, bọn mình mau rút thôi…” Tư Mã Khôi thấy bụi nấm gỗ gần đó có hình dạng gần giống với nấm linh chi trên núi, chỉ có điều chúng mọc trên thân gỗ mục, từng quầng từng quầng nối liền san sát, trải dài mãi xa, cao thấp đan xen lẫn nhau, cây thấp nhất cũng chừng nửa mét, cây cao nhất có khi lên tới ba đến năm mét.

    Quầng nấm vân chi to dày, màu sắc sặc sỡ, đủ sức cho mấy người giẫm lên cùng lúc. Tuyến đường đánh dấu trên bản đồ có lẽ cũng nằm trong thân cây cổ đại bị thảm nấm che phủ, nhưng vị trí cụ thể thế nào thì anh cũng không rõ. Nếu từ từ tìm kiếm trong đám nấm gỗ và dây leo quấn quýt chằng chịt, thì có lẽ không thể một sớm một chiều tìm thấy ngay được, huống hồ bây giờ tình thế nguy cấp, chỉ có thể tìm tạm một hốc cây nào đó ẩn nấp trước, sau đó mới nghĩ cách hành động.

    Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền dẫn mọi người tìm cách trốn lũ bướm ma đang không ngừng nhào xuống, cố gắng di chuyển vào những lùm nấm rậm rạp. Độ cao giữa các cây nấm vân chi trước mặt chênh lệch rất lớn, mọi người lại đều khoác nặng trên vai, nên khó mà đi xuyên qua bụi nấm theo đường thẳng.

    Tư Mã Khôi đành trèo lên trước, Hải ngọng đứng dưới làm thang, đẩy từng người lên trên. Tư Mã Khôi kéo Nhị Học Sinh lên đỉnh cây nấm, đang định cúi xuống kéo Hải ngọng lên, chẳng ngờ một con bướm ma lẳng lặng sà xuống, định đậu trên lưng Hải ngọng, mọi người ở trên cao đồng thanh hét lớn: “Cẩn thận!” Hải ngọng cảm thấy xúc tu của con bướm ma cứ muốn xuyên thẳng vào cổ mình, xua thế nào cũng không được, nên đâu dám quay đầu, mà khổ nỗi anh lại không thể gỡ khẩu súng săn xuống.

    Trong lúc cấp bách, anh đành rút khẩu súng lục dự phòng P38, mở hộp trên đùi, rồi ngắm chuẩn phía sau lưng, bắn mấy phát liền, đạn như bắn vào tấm da mục vậy. Con bướm ma bị kinh động, vội vã định vẫy cánh bay, nhưng gai xúc tu dưới bụng nó lại mắc vào ba lô Hải ngọng, nên thân hình to lớn như Hải ngọng mà bị nó giật ngược ra sau, hai bên cuộn thành một đống, lăn ra rìa vành nấm.

    Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng lâm vào tình thế cấp, không kịp bò dậy rút súng, liền ngã rạp xuống theo, định ra tay hỗ trợ bạn, nhưng bỗng nhiên nghe thấy sung nổ “đoàng” một tiếng, con bướm ma sau lưng Hải ngọng bị khẩu liên thanh M1887 bắn lăn lông lốc xuống đất. Hải ngọng hết hồn, rụt cổ, vội thò tay ra sờ “gáo dừa”, may mà không bị đạn cỡ 12 xuyên thủng một lỗ.

    Tư Mã Khôi không kìm được cất tiếng khen ngợi. Anh biết trong tình thế khẩn cấp và hỗn loạn như vậy mà một phát bắn trúng mục tiêu, nói thì dễ chứ làm rất khó, ngoại trừ cần có kỹ thuật bắn đỉnh cao, thần kinh phản xạ nhạy bén, thì còn cần có tố chất tâm lý cực kì vững vàng.

    Từ trước đến nay, Thắng Hương Lân không giỏi bắn súng, Nhị Học Sinh càng dở tệ, vậy ai có bản lĩnh này? Tư Mã Khôi ngoái đầu nhìn, anh thấy Cao Tư Dương đang lên nòng súng liên thanh, hai mắt chăm chăm bám riết mục tiêu, khẩu M-1887 là loại súng săn hạng nhẹ, thân hình con bướm lá khô lại quá to, để tránh Hải ngọng, phát đầu cô không bắn vào điểm yếu huyệt của con bướm, nên nó vẫn chưa đến nỗi mất mạng.

    Trong chớp mắt, nó lại bay vút lên, lúc này Cao Tư Dương đã thần tốc lên đạn, rồi cô bóp cò cùng lúc với hành động giương súng ngắm bắn. Bụng con bướm ma bị xuyên thủng một lỗ to, nó lăn xuống chân cây nấm. Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Thắng Hương Lân kinh ngạc khôn xiết, tận mắt chứng kiến Cao Tư Dương từ lúc lên nòng, giương súng, ngắm bắn đến bóp cò, hoàn toàn không hề có động tác nào thừa thãi, hoặc chậm trễ, không những vậy kỹ thuật bắn cực kì chuẩn xác.

    Mọi người thầm nghĩ, học viện quân y đâu phải bộ đội dã chiến, sao cô nàng lại có kỹ thuật bắn mau lẹ và chắc chắn được như vậy nhỉ? Thắng Hương Lân chìa tay ra kéo Hải ngọng lên, Cao Tư Dương thu súng, quay sang bảo Tư Mã Khôi: “Còn không mau trèo lên, thần người ra đó làm gì? Nếu anh mà dám cả gan lừa tôi, thì phát tiếp theo tôi sẽ bắn nát cái sọ của anh đấy!” Tư Mã Khôi trèo lên vòm nấm, nghĩ thầm: “Tôi lừa cô hồi nào?”, nghĩ xong mới nhớ ra, chuyến vào núi lần này bị ảnh hưởng bởi những chuyện đột xuất xảy ra với đội thông tin, hội anh đành thay đổi lộ trình, chui xuống lòng đất vượt m Hải Cốc.

    Lúc trước giữa đường gặp gã hái thuốc Lão Xà cải tử hoàn sinh, tiếp đến là kho pháo quân sự lõi kép sụp đổ, rồi phát hiện thấy di cốt của đội thám hiểm Taninth, đồng thời tìm thấy bản đồ đánh dấu ký hiệu chiếc hộp Pandora. Toàn bộ chuỗi sự kiện này đều là những biến cố ngoài ý muốn, sau đó Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh của đội thông tin bị mắc kẹt trong núi, bất luận ở lại chờ cứu viện hay tự mình tìm lối ra, thì xác suất sống sót trở về vô cùng mong manh.

    Tư Mã Khôi ngẫm thấy có thể mang hai người này đồng hành cùng hội anh. Bởi vì khu vực gần huyệt động dưới lòng đất, nơi đánh ký hiệu chiếc hộp Pandora, có lẽ còn có một đường hầm ăn thông ra rừng rậm Thần Nông Giá, tuyến đường này tuy nguy hiểm, nhưng chỉ còn biết gắng gượng vượt qua, nói không chừng, đó cùng là một con đường sống.

    Có điều, Cao Tư Dương thân là quân nhân, phải chịu sự ràng buộc của kỷ luật tổ chức, nếu nói thật tuốt tuột tất cả với cô nàng, thì cô nàng chắc chắn sẽ không bao giờ chịu đồng hành cùng hội Tư Mã Khôi, bởi vậy anh đành thanh minh, mình gánh vác một sứ mạng rất đặc biệt, đó là được tổ chức trực tiếp đặc phái đến rừng rậm Thân Nông Giá tìm chiếc hộp Pandora để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng gian nan và vinh quang.

    Ngay từ đầu, Cao Tư Dương đã thấy nghi ngờ chuyện này, cho nên khi nãy mới buột miệng nói ra câu ấy. Lúc này, tiếng bước chân dồn dập và dày đặc ở phía xa đã mỗi lúc một gần. Tư Mã Khôi không còn thời gian giải thích với Cao Tư Dương, nên khi Hải ngọng vừa trèo lên, anh liền vội vàng dẫn cả đội tiến về phía trước.

    Nhị Học Sinh bám gót Tư Mã Khôi, anh chàng thở không ra hơi, hổn hển nói: “Cao Tư Dưong xuất thân trong gia đình quân nhân gia thế, bố cô ây được phong hàm đại tá lúc 55 tuổi. Đừng thấy cô ấy là con gái mà coi thường, cô ấy là tay súng thiên tài đấy, thường ngày vẫn ra thao trường tập bắn súng, lúc theo đoàn bộ đội đến vùng núi này, cô ấy luôn tìm cơ hội mượn súng săn vào núi săn bắn, các thợ săn quanh lâm trường, không ai bắn giỏi bằng cô ấy đâu.

    Hễ nhắc đến cô ấy, là người ta lại giơ ngón tay cái ra khen ngợi đấy! Còn tôi ấy à, tôi không quen dùng súng, nhưng hai năm trước, khi tham gia khóa huấn luyện dân binh, tôi cũng từng sờ vào khẩu K-63. Anh xem, tôi còn chụp ảnh kỷ niệm đây này. Hay là anh cho tôi mượn một khẩu nhé. Tôi cũng biết tác chiến mà, không làm liên lụy đến anh đâu…”.

    Nói xong, anh chàng móc tấm ảnh 4×6 trong túi áo ra. Đó là lần anh chàng về thành phố thăm gia đình, anh ta đã tìm người quen mượn một bộ quân phục, tay lăm lăm nắm khẩu súng thép, chụp ảnh lưu niệm bên bờ sông. Anh chàng giữ khư khư tấm ảnh đó bên mình, như thể nó quý giá lắm. Tư Mã Khôi không ngờ Cao Tư Dương lại có lí lịch đáng nể thế.

    Anh liếc mắt nhìn bức ảnh một cái, rồi giả bộ khó xử bảo Nhị Học Sinh: “Đồng chí Nhị Học Sinh! Đồng chí nghĩ đến an toàn bản thân, đương nhiên là không sai, nhưng đồng chí cũng phải nghĩ đến an toàn của cả hội nữa chứ! Tôi thấy, đồng chí cứ dùng tạm khẩu… giáo này đi.

    Sau khi La Đại Hải luyện thành La hán trở về, tôi sẽ bảo cậu ta truyền thụ mấy chiêu bắn súng phòng thân cho đồng chí nhé!”. Hải ngọng hỏi Nhị Học Sinh: “Thời Tùy Đường có cả thảy mười tám vị hảo hán, chú có biết họ La xếp thứ mấy không?” Nhị Học Sinh chưa kịp trả lời, thì nghe tiếng bước chân dồn dập đạp củi mục vang lên nghe “bục bục”, với tần suất càng lúc càng mau, gần như không có khoảng ngắt quãng, khi nãy còn thấy âm thanh cách đây chừng mấy trăm mét, thế mà loáng một cái đã bám sát gót.

    Lúc này, nơi mọi người đứng chỉ còn cách mấy thân cây cổ đại bị nấm vân chi che phủ một đoạn rất gần, tầm ba đến năm bước là cùng, bỗng nhiên thấy động tĩnh không ổn, cả hội liền lập tức giương súng quay người, thì thấy một con nhện hình dáng kì dị xuất hiện trong lùm nấm vân chi.

    Thân nhện to như cái chậu rửa mặt, người dẹt, trên lưng có vô số cặp mắt đơn, sáu đôi chân phụ và hàm răng không ngừng chuyển động, tám cái chân ở hai bên sườn mọc dài đến khiếp người, trông không cân đối chút nào so với thân mình, phần dưới chân dường như có bàn hẳn hoi, mọc tua tủa gai ngược và nệm thịt, giúp nó có thể mặc sức treo ngược trên không.

    Nó bò nhanh như bay, cẳng chân và ngón chân dài nhỏ khiến nó dễ dàng chống đỡ cơ thể, tuy không đến mức đăng bình độ thủy vèo vèo như giống đỉa, nhưng cũng đủ giúp nó di chuyển thần tốc trên đầm trạch. Lúc này, nó đang giẫm lên cây nấm gỗ, dưới chân không ngừng phát ra âm thanh rất khẽ “lách cách lách cách”, nghe mà rùng mình theo.

    Con nhện chân dài bò càng lúc càng nhanh. Nó bò trên lùm nấm gỗ cao thấp đan xen mà như bò trên đất bằng, lao ầm ầm đến chỗ mọi người đang đứng tựa mũi tên bay. Hội Tư Mã Khôi hoảng hồn, hét nhau nhất loạt giương súng bắn, khẩu súng liên thanh M1887 không thực sự có khả năng bắn liên thanh như tên gọi của nó, mà mỗi khi nhả một viên đạn đều cần sử dụng lực giật lùi để kéo búa kim hỏa lại và xoay ổ đạn một nấc, rồi sau đó mới bắn phát tiếp theo, tốc độ bắn tương đương với tốc độ các loại súng thông thường khác, nên dẫu là những tay súng thiện xạ điều khiển, thì cũng vẫn xuất hiện khoảng thời gian ngắt quãng.

    Thế nhưng ba khẩu M 1887, cộng với khẩu súng bắn gấu hai nòng của Hải ngọng hỗ trợ lẫn nhau, thì có thể tạo thành tấm lưới lửa, lấp đầy khoảng trống nguy hiểm đó. Con nhện chân dài bị bắn tan nát trong phút chốc, nhưng cà cuống chết đến đít mà vẫn còn cay, bụng nó ngửa lên trời, mấy cái chân thi nhau quẫy đạp, càng răng vẫn không ngừng thò ra.

    Thắng Hương Lân soi đèn quặng vào hình thù kì dưới chân con nhện, cô kinh hoàng, khẽ kêu lên: “Là nhện chân quỷ!” Hải ngọng hỏi Thắng Hương Lân: “Tôi biết trong rừng rậm có một loài nhện chuyên bắt chim, món này còn cắn chết được nguyên con bò đực đấy, nhưng nhện chân quỷ là … là giống gì vậy?” Tư Mã Khôi cũng nhớ đến từng nhìn thấy một loại nhện chân dài trên Sơn Hải Đồ, bên cạnh hình vẽ còn chú thích hai chữ “chân quỷ” bằng chữ triện cổ triều Hạ, có lẽ đó là một giống quái dị nào đó, nhưng lúc đó anh không rõ nghĩa của nó, mà cứ nghĩ đó là tên gọi cổ xưa của loài nhện.

    Nhìn hình vẽ thấy ngoại hình nó thân tròn mình dài, trông khá giống với loài nhện bắt chim thường xuất hiện trong rừng rậm ở Miến Điện và Việt Nam. Loài nhện bắt chim, giống như tên gọi, nó có thân hình rất to lớn, chân dài, thân ngắn, tốc độ bò nhanh tuyệt luân, có thể giăng tơ bắt chim làm thức ăn, độc tính mạnh vô cùng.

    Không những vậy bản tính nó lại hung hãn, hiếu chiến, nên ngay cả những con mãng xà bá đạo chốn rừng xanh cũng phải kiêng nể nó vài phần, nhìn thấy nó là vội vàng chuồn mất dạng. Loài nhện chân quỷ dưới m Hải Cốc có lẽ là một dị chủng của loài nhện bắt chim, có điều loài này không biêt nhả tơ, cung không hành động đơn thương độc mã, nên nghe tiếng bước chân sầm sập như nước triều dâng, thì biết chúng tụ tập thành bầy đàn để dàn trận vây bắt con mồi.

    Tuy trong tay mọi người đều có súng, nhưng cũng chỉ tạm thời đối phó với một, hai con là cùng, tai nghe âm thanh giẫm lên gỗ mục lách tách lách tách ở phía xa rất dồn dập, thì biết phía sau còn không biết bao nhiêu con đang ập đến bủa vây con mồi. Hội Tư Mã Khôi đâu dám dừng bước, lập tức trèo lên lùm nấm vân chi mọc trên thân cây khô, gắng trèo càng cao càng tốt, bây giờ chạy thoát được bước nào hay bước ấy.

    Đúng như Tư Mã Khôi dự đoán, hàng trăm hàng ngàn con nhện chân quỷ đang bò nhanh như cắt dưới gốc nấm gỗ và tìm cách áp sát. Chúng gặp bọn bướm lá khô rơi đậu trên mặt đất thì nhào vào dùng hai càng châm tê liệt con mồi, rồi sau đó từ từ hút hết chất dịch bên trong, cho đến khi con bướm chỉ còn cái xác mỏng dính như phiến lá khô, chúng mới chịu buông tha.

    Những con bướm ma bị dồn đuổi đến đây, đã sớm sức cùng lực kiệt, nên chỉ một số ít còn đủ sức giãy giụa đôi chút, còn phần lớn là hết khả năng phản kháng, để mặc cho bọn nhện tùy ý sát sinh. Điều này cũng khiến tốc độ vây bắt từ tứ phía của bọn nhện có chút giảm chậm.

    Mọi người cũng nhân cơ hội này trèo lên một đài nấm tương đối cao, đó là mấy chùm nấm vân chi mọc ngang thân cây thẳng đứng. Lúc này, chỉ nghe trên dưới trái phải, chỗ nào cũng là tiếng bước chân gấp gáp như muốn đòi mạng đang áp sát đến gần. Bốn phía xung quanh đã bị nhện chân quỷ bao vây kín mít.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng thấy không còn đường thoát, họ vừa nạp đầy ổ đạn, vừa nghiến răng ken két lầu bầu oán thán: “Hai cái chân người thì địch làm sao được với tám cái chân nhện? Biết trước thế này, lúc ra khỏi cửa đã… gắn mẹ cái động cơ sau mông cho rồi”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 7: QUAY CUỒNG


    Hội Tư Mã Khôi nghe tiếng bước chân luồn lách giẫm đạp trên đất, thì biết bọn nhện chân quỷ đã thanh toán xong lũ bướm ma. Loài sinh vật này hung hãn, máu lạnh, một khi chưa tuyệt diệt được con mồi thì chúng sẽ không bao giờ chịu bỏ cuộc. Vì sự sinh tồn của chính bản thân và duy trì số lượng bầy đàn, chúng còn tàn sát cả đồng loại.

    Không những vậy, chất độc trong hàm răng của chúng có thể coi là chất kịch độc, nên ngay cả những loài thú lớn như: hổ, báo, sư tử, gấu đen mà bị chúng cắt một nhát, là toàn thân sẽ lập tức tê dại. Đáng sợ hơn, sự tê dại này chỉ khiến cho da thịt tê cứng, còn hệ thần kinh trong cơ thể con vật trúng độc thì vẫn hoạt động bình thường, thậm chí còn trở nên mẫn cảm hơn bội phần, điều đó có nghĩa là, trong lúc đầu óc con mồi hoàn toàn tỉnh táo, thì nó phải chứng kiến cảnh mình bị nhện chân quỷ giết sống.

    Nhện chân quỷ hút hết huyết dịch của con mồi, khiến cơ thể chúng dần trở thành bộ xác khô, con mồi phải chịu dày vò, đau đớn đến cùng cực trước khi chết. Nếu rơi vào bước đường này, chắc chắn con mồi khi đó sẽ rất hối hận vì đã không kịp tự kết liễu đời mình bằng một cách dễ chịu hơn.

    Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ hối hận cũng ích gì, ngồi đó than ngắn thở dài chi bằng tìm cách đột phá vòng vây cho xong”. Nhị Học Sinh nghe vậy, liền gật đầu liên tục, tỏ vẻ rất đồng ý, anh chàng còn đang định mở miệng nói gì đó, bỗng nhiên bị Tư Mã Khôi túm cổ áo đẩy mạnh khiến anh chàng ngã sấp mặt tại chỗ.

    Nhị Học Sinh sợ khiếp vía, cứ ngỡ Tư Mã Khôi định đẩy mình xuống đài nấm, làm mồi nhử lũ nhện, giúp cả hội giải phá vòng vây, anh chàng run lập cập, gào lên oán trách Tư Mã Khôi: “Anh… anh đúng là đồ mất hết nhân tính!”. Đúng lúc này, một tiếng súng vang lên, một con nhện chân quỷ lẳng lặng tiến sát ngay sau lưng Nhị Học Sinh vừa bị đạn bắn trúng chân, làm nó mất trọng tâm, ngã lăn xuống gốc cây.

    Khi đó, anh chàng mới biết Tư Mã Khôi vừa cứu sống mình trong gang tấc, lúc định ngoi dậy và trèo lên, chẳng ngờ lại bước hụt, chân tay lấn bấn thế nào mãi không bò dậy được. Lúc này, mấy con nhện chân quỷ còn lại đồng loạt bao vây tấn công, mọi người hét lớn, nghe tiếng chân nhện tiếp cận ở hướng nào, là lập tức chĩa súng về hướng đó nhả đạn.

    Tiếng súng đanh giòn, nổ liên tiếp một tràng dài. Lũ nhện chân quỷ tuy bò trên thân cây gần như thẳng đứng, nhưng vẫn nhẹ nhàng như bay, tốc độ di chuyển không hề chầm lại. Mọi người đành soi đèn quặng, độc lập tác chiến, nhưng trong bóng tối, cả hội bắn trượt không ít đạn.

    Khuyết điểm dung lượng ổ đạn nhỏ của loại súng liên thanh M-1887 lúc này cũng lộ rõ. Trong giờ phút giành giật lại sự sống, mạnh ai người nấy nhả đạn không ngừng, chẳng kịp suy tính gì hơn. Tư Mã Khôi áp sát lưng vào thân cây, nửa ngồi nửa quỳ, một tay lên đạn ngắm bắn, một tay túm lấy anh chàng Nhị Học Sinh vẫn bò chưa dậy được, kéo anh ta từ rìa nấm vào bên trong.

    Tư Mã Khôi vô tình chạm phải ba lô đeo sau lưng Nhị Học Sinh, anh bỗng nhiên nhớ ra ngoài hai hộp đạn cỡ 12 ra, thì trong đó còn cất rất nhiều đuốc phòng bị lúc cấp thiết. Mấy bó đuốc đó là loại đặc chế của đội thám hiểm Taninth, phần đầu quết lớp diêm tiêu, chỉ cần chà xát mạnh là bùng cháy, nhiệt độ bốc cháy của dầu cá rất thấp, khả năng duy trì thời gian chiếu sáng khá lâu, lúc không cần thiết chỉ cần lấy nắp chế sẵn dập lửa, cất đi là lần sau có thể sử dụng tiếp.

    Tư Mã Khôi vội vàng rút một cây ra, lấy chân đạp nắp cao su, rồi dùng hết sức chà xát đầu bó đuốc vào mũ bấc của Nhị Học Sinh, ánh lửa lập tức bùng lên, khu vực phía trước được soi sáng như ban ngày. Lúc này, một vài con nhện chân quỷ đang định bò đến gần, Tư Mã Khôi huơ tay, giơ cao bó đuốc, lao mạnh vào mắt nhện.

    Trong ngũ hành, hỏa là vô tình nhất, cũng là thứ mà vạn vật có sự sống trên đời khiếp sợ nhất. Ngọn lửa ngùn ngụt, đỏ rực ấy, trên có thể đốt cháy cổng trời, dưới có thể thiêu cháy địa phủ, huống hồ lũ sinh vật máu lạnh dưới lòng đất chưa bao giời nhìn thấy ánh lửa này, chúng thoắt chốc co cụm thành một đám, rơi xuống gôc cây, mấy con nhện chân quỷ gần đó cũng tháo lui, lẩn vào bóng tối không có ánh lửa, chờ thời cơ hành động.

    Tư Mã Khôi nhận thấy, tuy rằng đuốc đã tạm thời ngăn lũ nhện chân quỷ tiến gần, nhưng chúng vẫn ngoan cố bao vây, không chịu giải tán, dường như chỉ đợi thế lửa dần suy yếu là sẽ lần nữa ào lên tấn công. Anh nghĩ đến kết cục cả hội phải đối mặt sau khi lửa đuốc vụt tắt, thì dù cho có là hảo hán hào kiệt hay tên đồ tể giết người không chớp mắt, nhưng chỉ cần nghĩ đến cảnh tượng đó, người ta cũng bất giác lạnh gan tái mặt.

    Tư Ma Khôi rút thêm thanh đuốc nữa, châm lửa, rồi đưa cho Thắng Hương Lân để đảm bảo ánh lửa đủ duy trì an toàn cho mọi người, số còn lại anh không dám sử dụng nhiều. Thắng Hương Lân nói: “Bây giờ chúng ta đã có lửa phòng thân, nhưng cũng không thể cất lương khô chịu đói được, chúng ta phải tìm cơ hội thoát hiểm.

    Nếu bản đồ đội thám hiểm Taninth để lại chính xác tuyệt đối, thì có lẽ con đường bí mật dẫn đến chiếc hộp Pandora, đang nằm ngay trong cái cây cổ đại này thôi”. Mọi người gật đầu tán thành, họ lập tức soi đèn quặng và đuốc quan sát xung quanh, tìm kiếm con đường bí mật căn cứ vào các đặc trưng đánh dấu trên bản đồ.

    Đường kính các cây khô dưới lòng đất đều trên hai mươi mét, cây nào cây nấy thẳng đứng như vách tường. Nấm gỗ mọc trên thân cây tạo thành một sạn đạo(1) ngoằn ngoèo, giao thoa. Tư Mã Khôi giơ đuốc lên trước trán, phát hiện trên cao có một bóng đen, thân cây mọc đầy rêu xanh, khiến nó trông càng thâm u, khác biệt hoàn toàn với cảnh vật xung quanh, hình như đó là một vết lõm lớn, đen ngòm.

    Anh leo lên cây, thì thấy đó là một hang động nằm trong thân cây, bên trong sừng sững hai pho tượng ngọc đầu chim, mình người. Anh vỡ lẽ, thì ra lúc trước cả hội tìm nhầm phương hướng, con đường mà bản đồ chỉ không nằm dưới gốc cây cổ đại, mà nằm ngay trên thân cây. [1] Sạn đạo: đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ, xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua những khu vực núi non hiểm trở.

    Tư Mã Khôi kéo mấy người còn lại trèo lên hốc cây, sau đó giơ đuốc chui vào trong. Anh lấy một hộp dầu thông trong ba lô ra, đổ tất cả ngoài cửa động, rồi châm lửa đốt, hòng ngăn chặn bọn nhện chân quỷ bám theo. Khổ nỗi, môi trường trong hốc cây ẩm ướt, mục nát, dầu thông khó lòng cháy bùng lên được, nên ngọn lửa yếu ớt, mờ nhạt; có điều không gian chật hẹp, u tối và dồn nén trong hốc cây lại càng có lợi cho mọi người làm thế dựa, nên ba hồn chín vía của cả hội đang treo lơ lửng giữa tầng không, cuối cùng cũng chịu nhập trở lại xác.

    Nếu họ tận dụng được môi trường ẩm ướt phức tạp trong lòng đất, tìm thấy lối ra trước khi dầu thông cháy cạn, thì có lẽ sẽ chạy thoát khỏi lũ nhện chân quỷ chuyên bắt mồi thông qua cảm nhận về sự chuyển động kia. Nhưng Nhị Học Sinh vừa đi vừa nói với Tư Mã Khôi: “Cho dù chúng ta có xuyên qua được hốc cây này, chỉ sợ cũng khó lòng giữ được mạng sống.

    Trước đây, tôi từng làm tiêu bản côn trùng, cũng đọc qua về học thuyêt tiến hóa của loài vật, nên khá hiểu tập tính của mấy con vật này. Khi nãy, tôi quan sát thấy xác con nhện bị súng bắn, phát hiện trên đầu bầy nhện đều có vệt trắng, thứ này có lẽ là túi vị, chức năng của nó tương đương với thiết bị cảm ứng thông tin hóa học.

    Hải ngọng thấy vô lý, anh chỉ nghe trên thế giới có thông tin vật lý, chứ làm gì có thông tin hóa học? Anh giễu: “Xem thằng quỷ con nhà cậu mắt lồi như mắt ếch, trông bộ dạng ngốc nghếch thế kia, làm sao phân biệt rõ được hai khái niệm này chứ?” Cao Tư Dương phẫn nộ, cô định chỉ trích Hải ngọng phát ngôn vô độ, nhưng cô cũng hiểu, cô mà mở miệng thì với bản lĩnh mồm mép như Hải ngọng đời nào chịu để cô yên; anh chàng này là chúa hay lải nhải mấy chuyện dưa cà mắm muối, chỉ thích công kích, chụp mũ người khác và nâng cao quan điểm.

    Ai dây với anh ta thì ngang dây với đỉa đói, huống hồ bây giờ là thời khắc then chốt của sống còn, cô làm gì còn lòng dạ nào đôi co nữa, thôi thì bớt gây sự với anh ta cho xong chuyện. Nghĩ vậy, cô liền giả vờ như không nghe thấy mấy lời vừa rồi, chỉ nói: “Hẵng đừng quan tâm đến chuyện nó hợp lý hay không, cứ để Nhị Học Sinh nói hết đã nào!” Được Cao Tư Dương bật đèn xanh, Nhị Học Sinh tiếp tục giải thích với mọi người cái gọi là thông tin hóa học, thực ra là chỉ tín hiệu mùi vị, thông qua không khí để truyền dẫn, tiếp nhận, giống như sợi râu trên đầu loài kiến dùng để giao lưu với nhau vậy.

    Bọn nhện chân quỷ hành động theo bầy đàn, trên đầu chúng đều có túi khí, cho phép chúng thông qua mùi khí bài tiết của bản thân tiến hành liên lạc với đồng loại, đồng thời nó cũng rất mẫn cảm với những mùi khí của các loài sinh vật khác, bởi vậy chúng mới đủ khả năng thích ứng trong môi trường sinh tồn khắc nghiệt thế này.

    Trừ phi chúng ta có thể chạy mấy ki lô mét trong thời gian nháy mắt, nếu không thì sẽ vĩnh viễn không thể nào thoát khỏi sự truy kích của chúng. Đương nhiên, tôi nói mấy ki lô mét chỉ là suy đoán, còn phạm vi cảm ứng mùi vị thực sự của chúng có khả năng kéo dài bao xa, thì rất khó nói, đường kính có thể một hai cây số, cũng có thể còn xa hơn.

    Có điều, với tốc độ di chuyển như hiện nay của chúng ta, bất luận cự li của nó là bao nhiêu thì xét về mặt lý luận, chúng ta vẫn không thể cắt đuôi được lũ nhện này, đợi khi đuốc cháy hết, thì ngày tận thế của chúng ta cũng tới. Thắng Hương Lân hỏi: “Có cách gì tiêu hủy hoặc tạo mùi giả được không?” Nhị Học Sinh bất lực lắc đầu: “Độ cảm ứng của côn trùng nhạy cảm hơn con người gấp trăm ngàn lần, làm sao mà thoát được?” Tư Mã Khôi vừa nhìn pho tượng ngọc dựng ở đầu hốc cây, ngẫm thấy lời của Nhị Học Sinh chắc không phải là giả, tượng ngọc mà người Sở quốc để lại dưới m Hải Cốc hoàn toàn tương ứng với tuyến đường được đánh dấu trên bản đồ.

    Pho tượng ngọc trấn ma có dạng đầu chim mình người này, ngoại trừ hàm chứa ý nghĩa thần bí khó lòng giải thích nào đó, thì trong ruột tượng khả năng còn cất giữ một loại dược thạch đặc trị, có công dụng xua đuổi bọn nhện chân quỷ, khiến chúng không phá hoại con đường bí mật này, nhưng trải qua hơn hai ngàn năm, mùi khí của dược thạch đã sớm tiêu tan, tượng ngọc cũng lưu lạc trở thành huyệt động cho lũ hoàn long trú ngụ.

    Chiều sâu của hốc cây chỉ tầm mấy mét, sau khi đi xuyên qua, vẫn không thể chạy thoát khỏi sự vây bắt của lũ nhện. Mạng lưới đầm trạch khó lòng vượt qua, cũng không phải là chướng ngại đối với chúng, trong khi số lượng súng đạn và đuốc mà năm người mang theo cũng chỉ có hạn, tất có lúc sẽ dùng hết.

    Lúc này, Hải ngọng thấy đám lửa cháy sau lưng đang càng lúc càng yếu dần, anh liền nhắc Tư Mã Khôi mau mau di chuyển đi chỗ khác. Thắng Hương Lân giơ đuốc soi về phía trước, cô hoảng hồn nhìn thấy ở đầu hốc cây có một bóng đen đang bò với tốc độ khiếp đảm, chỉ là do sợ ánh sáng nên nó chưa dám tiếp cận mà thôi.

    Mọi người biết chỉ cần rời khỏi không gian chật chội trong hốc cây, là sẽ lập tức bị bọn nhện chân quỷ bao vây, nhưng cũng không thể hi vọng đuốc phát huy công dụng mãi được, bởi đợi khi bọn chúng đã quen với ánh lửa, thì bất cứ lúc nào cũng có khả năng nhào tới xé từng người thành mảnh vụn; vậy nên trước mắt chỉ nghĩ ra được con đường là leo lên ngọn cây cổ đại.

    Tư Mã Khôi sờ trên đỉnh đầu, thấy có giọt nước rớt xuống, anh dẫn bốn người còn lại, chui ra khỏi thân cây từ khe nứt nhỏ, tiếp tục trèo lên cao. Cây cổ đại này cao gần trăm mét, tán lá chồng chất tầng tầng lớp lớp, đan cài vào nhau như tấm lưới, độ chênh lệch nhấp nhô khá rõ rệt, cành nhỏ nhất chỉ khoảng vài cen ti mét, trong khi cành to có khi phải bằng cột nhà, bề mặt phủ đầy rêu xanh và nấm gỗ, khi bước đi trên đó, có cảm giác gỗ mục dưới chân đang rung rinh chực gãy, đi một bước, trơn một bước, lúc nào cũng như sắp ngã xuống đất.

    Nơi cao lại có cỏ nước ngầm thấm từ đỉnh động xuống, khiến không khí càng ẩm ướt nặng nề; ánh lửa cũng trở nên yếu ớt hơn, nhìn xuống phía dưới tối om như đêm ba mươi, sương rừng kéo đến cuồn cuộn. Tuy Tư Mã Khôi là người gan dạ, thân thủ cao cường, nhưng lúc này vẫn cảm thấy chóng hết cả mặt.

    Anh biết rõ, nếu trượt chân rơi xuống thì chỉ còn nước chết. Cái cây này trơn nhớp, cành lá lằng nhằng, rêu mọc dày sâu, rậm rịt, nên leo lên thậm chí còn nguy hiểm hơn cả vượt đường núi. Lúc này, hội anh lại chỉ có phương hướng đại khái, không có gì chỉ đường chính xác, không dùng dao săn phát quang thì nửa bước cũng khó tiến, nhưng điều đó lại khiến bọn nhện chân quỷ bò dọc thân cây cũng không thể tiếp cận mọi người.

    Tất cả lũ nhện đang treo mình vắt vẻo ở tầng tán thấp, vẫn không chịu bỏ cuộc. Mọi người bây giờ đã ở trong tình cảnh “đói không kén ăn, hoảng không kén đường”, nên tất cả chỉ cắm đầu mạo hiểm tiến từng bước gian nan, nhưng một mặt vẫn phải đề phòng lũ nhện chân quỷ chui ra từ khe nứt bất cứ lúc nào.

    Bản đồ của đội thám hiểm Taninth lấy tuyến đường xuyên qua m Hải Cốc làm trung tâm, mà hòn đảo cổ đại này vốn nằm dưới Biển Âm Dụ, từ khi địa tầng dãy Thần Nông Giá đội lên, thì hòn đảo này không còn tồn tại nữa, khi đó hệ thống biển hồ ở đây chi chít như bàn cờ, rừng rậm um tùm, là nơi cư ngụ của không biết bao loài sinh vật cổ đại.

    Hàng ngàn tỉ năm đã trải qua chìm nổi, địa hình của nó vẫn duy trì diện mạo ban đầu, nhưng phần lớn khu vực ngoài tuyến đường trên bản đồ, từ cổ chí kim vẫn chưa hề được thám trắc thực tế, bởi vậy không ai có thể dự tính được bước tiếp theo họ sẽ gặp phải thứ gì.

    Mọi người trèo lên cao trong tâm trạng căng thẳng lo sợ, cảm giác ấy khiến thể lực cả hội bị tiêu hao rất nhanh chóng, nên chẳng bao lâu, ai nấy đều cảm thấy hai chân mềm nhũn, tê dại, dần dần không thể chống đỡ thêm được nữa. Cả hội buộc phải dừng lại nghỉ. Tư Mã Khôi giơ cao ngọn đuốc tìm đường, thấy tán cây cổ đại này rủ xuống, cây rừng xung quanh rậm rịt ngang dọc, dây leo chằng chịt, nấm gỗ phân bố khắp rừng với đủ hình thù kì dị, ở nơi sâu giăng mắc màn sương dày nặng, âm u, phía dưới không rõ là khí mục rữa của thứ gì mà cứ xộc thẳng vào tận não.

    Anh ngờ rằng, chỗ này lành ít dữ nhiều, không nên mạo hiểm dừng lại, thế là, Tư Mã Khôi liền bảo mọi người cố cắn răng kiên trì đi tiếp, đợi khi tìm thấy nơi nào ổn thỏa hãy tính. Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh đã mệt rũ cả người, đi trên cành cây mà lảo đảo như say rượu, anh liền dịch người lại gàn giúp sức.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 8: VÀNH ĐAI 30° VĨ BẮC


    Tư Mã Khôi cứ nghĩ mình nghe nhầm, anh ngạc nhiên liếc mắt thầm đánh giá Nhị Học Sinh. Chiếc hộp Pandora bắt nguồn từ thần thoại Hi Lạp, đại ý ám chỉ “loài người quá hiếu kì, không kiềm chế được đã mở chiếc hộp mà các vị thần để lại, kết quả đã vô tình phóng thích vô số thứ tà ác ở bên trong”. Chính vì vậy, người phương Tây dùng nó để ẩn dụ những bí mật bị nguyền rủa, còn ký hiệu được đánh dấu trong bản đồ, thì chẳng qua chỉ là tên gọi thay thế nào đó mà đội thám hiểm Taninth đã đặt cho mục tiêu. Theo những gì Tư Mã Khôi biết thì chiếc hộp Pandora không chỉ là huyệt động nằm dưới rừng rậm nguyên sinh biển Âm Dụ, mà còn là núi Âm Sơn mà Sở U Vương nhốt giữ ma quỷ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Các ghi chép trên Sơn Hải Đồ cho thấy, trong huyệt động dưới lòng đất này còn ẩn giấu một bí mật kinh người nào đó, tìm thấy nó cũng có nghĩa là tìm thấy lời giải đáp cuối cùng của cả chuỗi ẩn số. Bởi vậy, việc tìm kiếm chiếc hộp Pandora rất phù hợp với chuyến hành động này của hội Tư Mã Khôi, nhưng Nhị Học Sinh chẳng qua chỉ là anh chàng thanh niên trí thức bị đẩy vào lâm trường Thần Nông Giá cải tạo lao động, thì làm sao biết được thứ cất giữ bên trong chiếc hộp Pandora là gì?

    Nhị Học Sinh có vẻ hơi kích động, cậu ta thở hồng hộc nói với hội Tư Mã Khôi: “Chiếc hộp Pandora nhất định có liên quan đến ẩn số 30° vĩ Bắc…”. Trước đây, cậu ta từng đọc mấy cuốn sách về địa lý ở thư viện, nên biết vành đai 30° vĩ Bắc được gọi là đường quỹ đạo thần bí nhất trên thế giới. Phạm vi chênh lệch trong vòng 5° bao quanh 30° vĩ Bắc thường xuyên xảy ra những hiện tượng quái lạ, ở đó tồn tại rất nhiều kì quan địa hình địa mạo: từ đỉnh Chomolungma – đỉnh núi cao nhất so với mặt nước biển, đến rãnh đại dương Mariana, rồi tam giác quỷ Bermuda với hố xoáy tử thần, dãy núi Thần Nông Giá, khe Hắc Trúc v.v… Vĩ độ này cũng là khu vực động đất xảy ra tập trung và liên tục nhất, là khu vực máy bay, tàu thuyền bị mất tích nhiều nhất, ngoài ra còn có rất nhiều di tích lịch sử kì bí, huyền thoại. Tất cả những chuyện lạ này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là định mệnh đến từ cõi u minh? Dường như trong vĩ độ này, thấp thoáng ẩn hiện một thế lực vô hình, nhưng vô cùng thần bí và mạnh mẽ nào đó. Trên thế giới có biết bao nhà thần học, nhà triết học, nhà khoa học, nhưng chưa một ai có thể giải đáp triệt để câu đố về 30° vĩ Bắc, tuy họ đã đưa ra vô số giả thiết nhưng giả thiết đâu phải là chân tướng hiện thực.

    Tuy Nhị Học Sinh mới chỉ đi theo hội Tư Mã Khôi một thời gian, nhưng cậu ta đã cảm nhận một cách sâu sắc rằng, những gì mình gặp dọc đường sẽ là những điều kì lạ nhất trong cuộc đời. Vĩ độ thần bí như một câu đố này tuy tồn tại rất nhiều điều kì quái và được nhiều người quan tâm, nhưng khi liệt kê danh sách các địa danh thần bí trong vĩ độ, người ta không hề nêu tên huyệt động dưới lòng đất ở Thần Nông Giá, điều đó chứng tỏ, nơi này chính là tọa độ bị thất lạc trên vành đai 30° vĩ Bắc, và nhất định trong lòng nó còn chứa đựng vô số bí mật mà người đời chưa ai từng biết đến. Cậu ta cứ đinh ninh, hội Tư Mã Khôi đến Thần Nông Giá là để tìm kiếm lời giải cho loạt ẩn số 30° vĩ Bắc, và nếu quả thực là vậy, thì những người phát hiện nhất định sẽ mãi mãi lưu tên trong sử sách, rạng danh với tô tông. Nếu được như vậy thì dẫu có phải thịt nát xương tan, cậu ta cũng thấy đáng, còn hơn là phải im hơi lặng tiếng đốn gỗ cả đời trong lâm trường, Nhị Học Sinh thà chọn lựa con đường mạo hiểm, quyết cùng Tư Mã Khôi làm việc lớn, cam tâm dẫu chết cũng không quay đầu.

    Thắng Hương Lân cảm thấy lời của Nhị Học Sinh cũng khá có lý. Đại Thần Nông Giá đúng là nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc thường xảy ra nhiều sự kiện lạ lùng, ỏ đây có quá nhiều nhân tố đã biết và chưa biết, vì vậy mọi người cần chuẩn bị tốt tâm lý để đón nhận mọi việc.

    Trước đây, khi Tư Mã Khôi còn ở Miến Điện, anh từng nghe vô tuyến truyền phát một dòng tin: Theo thống kê của Mỹ, trong tổng sổ tàu ngầm quân Mỹ đi xuyên qua vành đai 30° vĩ Bắc thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, cứ năm chiếc tàu lại có hai chiếc bị mất tích do nhân tố phi chiến tranh, nguyên nhân cụ thể không ai nắm rõ, cũng không có người nào sống sót trở về để kể lại với thế giới những cảnh ngộ mà họ đã gặp phải, số liệu và tin đồn khiến người ta rùng rợn vẫn còn rất nhiều, có điều phạm vi 30° vĩ Bắc quá rộng lớn, bây giờ không thể dự đoán trước sẽ phát hiện thấy gì trong chiếc hộp Pandora. Anh bảo Nhị Học Sinh đừng đoán mò nữa, mà mau bám sát đội ngũ tiến về phía trước, bởi bây giờ cố gắng sống sót thoát khỏi đây mới là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, chứ con người đã thổi đèn, tắt nến thì lưu danh sử sách liệu còn tác dụng gì nữa? Đang nói, bỗng nhiên anh phát hiện ở nơi sâu giữa các khe trên hàng rào cây cổ thụ bỗng lóe lên một luồng sáng trắng rất chói mắt. Đó là quầng sáng vô cùng kì dị. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

    Tư Mã Khôi không biêt ánh sáng ấy bắt nguồn từ đâu, nhưng nó âm u, trắng bệch, không giống với ánh lửa. Anh lập tức ấn lưng Nhị Học Sinh cúi xuống thấp, đồng thời nhắc nhở hội Hải ngọng chú ý.

    Mọi người thấy có biến, người nào cũng giương súng đợi địch, nhưng chưa kịp ngắm chuẩn, thì quầng sáng bập bùng bất định như ánh lửa ma trơi đó đã bay đến trước mặt. Trong vầng quang sương là một loài côn trùng có cánh nguyên thủy, trông nó hao hao giống chuồn chuồn, thân dài và mảnh, gần như trong suốt, cánh trước lớn, cánh sau nhỏ, kéo theo ba cái tua đuôi hình sợi tơ, từ đôi mắt kép trên đỉnh đầu đến phần cuối tua đuôi chỉ dài khoảng nửa gang tay, nó lặng lẽ liệng qua người hội Tư Mã Khôi.

    Lúc này, xung quanh đã xuất hiện vô số vầng quang sương, nó bay qua bay lại, xuyên giữa kẽ cây, tất cả đều im lìm như những tinh linh. Cả hội chưa bao giờ nhìn thấy loài chuồn chuồn cổ đại nào to như thế, vả lại số lượng lại nhiều vô kể, mọi người đều bất giác im lặng, chăm chú ngắm nhìn, tay vẫn nắm chặt cò súng, không dám nới lỏng.

    Tư Mã Khôi quan sát giây lát, rồi nói: “Đừng lo, đây chỉ là phù du rừng phát sáng nguyên thủy nhất, chúng không cần ăn uống, sớm nở tối tàn.”

    Cao Tư Dương chưa hiểu, hỏi lại: “Sớm nở tối tàn… là ý gì?”

    Tư Mã Khôi nói: “Trên đời vốn có ngũ trùng, lần lượt là “luy, lân, mao, vũ, côn”, “luy” là loài người, “lân” là loài cá, “mao” là loài thú, “vũ” là loài chim và “côn” nghĩa là côn trùng. Phù du là sinh vật cổ đại nhất thuộc nhóm côn trùng, từ lúc sinh ra cho đến khi chết chỉ có vài giờ đồng hồ, chúng căn bản không hề hay biết trong cõi trời đất còn có biến hóa ngày đêm, bốn mùa, cũng không cần nạp năng lượng để duy trì sự sống. Có câu: “Cá bơi vui dưới nước, chim líu lo trên trời”, mỗi sinh vật tồn tại trên đời đều có mục đích sống của riêng mình, còn không biết trong sinh mệnh ngắn ngủi của mình, phù du theo đuổi thứ gì?”

    Cao Tư Dương nghe xong, lòng bỗng nhiên cảm thấy buồn bã, cô ngước mắt nhìn vầng quang sương thoắt ẩn thoát hiện trong bóng tối và buông tiếng thở dài.

    Tư Mã Khôi khuyên nhủ: “Cô không cần thương thay khóc mướn cho bọn phù du làm gì. Nếu chúng ta còn muốn sống lâu hơn chúng một chút, thì phải cố gắng mau chóng vượt qua quần thể thực vật tiền sử này”. Nói xong, anh phát dây leo tìm đường.

    Cao Tư Dương gọi Tư Mã Khôi: “Tôi thấy cơ thể Hương Lân gầy guộc, khí sắc cũng không tốt lắm. Nhị Học Sinh lúc trước cũng bị thương, không biết có ảnh hưởng đến phủ tạng không, lưng lại cõng thuốc súng, lửa đuốc. Anh ấy cũng đã kiên trì đi bộ trong nơi nguy hiểm này khá lâu rồi, tinh thần và thể lực cũng đến cực hạn, chỗ này tuy không thể so với đất bằng, nhưng nếu không dừng chân, tôi e sẽ xảy ra chuyện mất, huống hồ ở đây tán cây rậm rạp, nhện chân quỷ cũng không đến được, cũng khá tốt để chúng ta ẩn nấp. Anh xem có thể để cả hội dừng lại nghỉ ngơi chốc lát được không?”

    Tư Mã Khôi kiên quyết: “Không được! Phù du là sinh vật chết sớm, trông thấy nó là điềm gở, trước khi trở lại tuyến đường đánh dấu trên bản đồ, không ai được phép dừng chân”.

    Hải ngọng cũng cảm thấy chỗ này âm khí nặng nề, tuyệt đối không nên nấn ná lâu. Những nơi có phù du tụ tập ở Miến Điện hay Campuchia, phần lớn là ao hồ, đầm trạch; những nơi đó cũng thường xuyên xuất hiện mãng xà khổng lồ, dưới nước thậm chí còn xuất hiện cá hô, những con cá hô có khi phải nặng đến bốn năm trăm ki lô gam, nghe nói, nó có thể một hơi nuốt chửng đứa trẻ bảy tám tuổi. Nhưng dưới nước làm gì có nhiều thức ăn đến thế để phục vụ cho cái dạ dày của nó? Nó đành phải bắt vô số phù du lót dạ, bởi vậy thân hình chúng mới phát triển to lớn dường vậy, phù du rừng tuy không sống ở những khu vực có nước, nhưng thân hình lại to hơn phù du nước rất nhiều, nên cũng rất khó đoán dưới lòng đất có thứ gì chuyên ăn xác bọn chúng không.

    Cao Tư Dương không tán thành với luận điệu mê tín kiểu điềm này điềm kia của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, cô cũng biết hai người này rất ăn rơ với nhau, chuyên nghĩ ra những ý tưởng điên rồ, chỉ thích loan tin bóng gió, không đủ sức thuyết phục người khác, nhưng Cao Tư Dương lúc này đang trong tình trạng một con gà khó cất tiếng gáy, nên cô đành ấm ức tiếp tục cuộc hành trình vào rừng sâu cùng cả hội. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

    Lúc này đã có hàng trăm hàng ngàn con phù du, chúng bay lượn qua các kẽ cây nơi mọi người đứng, thỉnh thoảng một quầng sáng rực bỗng trở nên mờ tối, xác phù du rơi lả tả trên cành lá khô mục, rất nhanh sau đó trải thành một lớp thảm trên đất.

    Tư Mã Khôi vừa trông thấy phù du đã có dự cảm không lành, anh bảo Thắng Hương Lân lấy la bàn hiệu chỉnh phương vị, giơ cao đuốc soi về phía trước tìm đường.

    Cao Tư Dương nghĩ, phù du xung quanh không thể trở thành sự uy hiếp cho cả hội, cô không hiểu vì lẽ gì mà Tư Mã Khôi lại lo lắng đến thế.

    Thắng Hương Lân giải thích với cô: “Khi nãy, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nói rất đúng, phù du nguyên thủy sớm nở tối tàn, thuộc tầng thấp nhất của chuỗi sinh vật, có trời mới biết sau khi chết đi, xác chúng để lại sẽ dẫn dụ con vật nào đến ăn thịt”.

    Bấy giờ Cao Tư Dương mới hiểu thì ra là vậy. Lúc này, dưới chân mọi người bỗng nhiên rung chuyển rùng rùng, lớp rêu và nấm phủ dày trên bề mặt gỗ mục vừa trơn vừa ướt. Cô đứng không vững, định nhoài người vịn một nhành dây leo để giữ thăng bằng, nào ngờ sợi dây leo đó lại mủn như mùn, bị Cao Tư Dương níu một cái là đứt luôn xuống.

    Thắng Hương Lân trông thấy vậy, cuống quýt đưa tay ra cứu. Tuy tốc độ phản ứng nhanh, nhưng sức cô không đủ, kết quả không những chẳng thể kéo được Cao Tư Dương trở lại, mà bản thân cô cũng theo đà rơi xuống nơi sâu trong kẽ cây.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng cùng hét lên thất thanh: “Chết rồi!”, cả hai cúi rạp người xuống nhìn. Nhờ ánh sáng phát ra từ bầy phù du, có thể thấy Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân rơi trúng và làm gãy hai tầng cành khô, rồi được níu lại bởi mây sợi dây leo kết bện vào

    nhau, treo lơ lửng giữa không trung cách chỗ mọi người đang đứng tầm hơn mười mét. May nhờ lớp rong rêu sâu dày, nên không ai bị bong gân, trật khớp. Hai người vã mồ hôi lạnh, tim đập thình thịch như trống trận, định giãy giụa đứng lên, leo về chỗ cũ, nhưng ngặt nỗi chân không tới đất, cật không tới trời, chỉ cần khẽ động đậy là sợi dây leo đã lắc la lắc lư, phát ra âm thanh “rắc rắc” như thể sắp đứt. Tình hình bây giờ nguy hiểm chẳng khác nào ngàn cân treo sợi tóc.

    Nhị Học Sinh còn hoảng loạn hơn, thêm vào đó đường đi vừa hiểm trở vừa trơn ướt, nên cậu ta cũng không biết làm cách nào để cứu người. Cậu ta liền quăng sợi dây thừng xuống, nhưng cành lá ngang dọc chằng chịt, dây thừng bị mắc vào một cành nhánh chìa ra, trong lúc hấp tấp, cậu ta không sao giật lại được.

    Tư Mã Khôi thấy vậy, liền đưa đuốc cho Nhị Học Sinh cầm, rồi bảo anh chàng và Hải ngọng đứng trên tiếp ứng, còn mình đeo súng bắn đạn hoa cải, rồi chúc đầu leo xuống thân cây thẳng đứng nhờ vào thân thủ nhanh nhẹn. Anh bóc lớp nấm gỗ cạnh người, tiếp cận sợi dây leo, ra hiệu cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đừng động đậy, tránh để dây đứt, rồi ngẩng đầu huýt sáo gọi Hải ngọng mau thả dây thừng xuống.

    Hải ngọng và Tư Mã Khôi là bạn nối khố lâu năm, không cần nói nhiều cũng biết đối phương cần gì, ngặt nỗi sợi dây thừng đã vướng vào các nhánh cây. Anh không dám giật bạt mạng, mà nếu cắt đôi sợi dây ra thì chiều dài lại không đủ. Hải ngọng cuống đến nỗi mồ hôi trán vã ra đầm đìa.

    Tư Mã Khôi đang định giục Hải ngọng, thì từ nơi sâu trong lùm cây lại rung rung lên từng hồi. Anh cúi đầu xuống xem, cảm thấy từng sợi tóc trên đầu mình dường như đều dựng ngược cả lên, có vật thể gì đó vô cùng to lớn, màu sắc hòa cùng màu lá khô, đang thò người nhảy ra, cái đầu ba sừng vừa dẹt vừa bằng, hai mắt tròn đục, lồi hẳn ra ngoài, to như đèn pha ô tô, nhưng trắng xám, không phát sáng. Trông hình dáng nó hơi giống cóc, hai chi trước mọc giác hút, chống chân giữa đám gỗ mục, nhảy cóc từng bước, cái miệng há rộng ngoác như chậu máu không ngừng phun sương nhả khí, bất kể xác phù du rơi trên mặt đất hay những con còn sống đang bay lượn giữa không trung, thậm chí là những con nhện chân quỷ chui ra từ khe gỗ, đều nhất loạt bị cái lưỡi dài của nó cuốn cả vào bụng.

    Tư Mã Khôi thấy trên lưng nó có nhựa mủ, anh phỏng đoán có lẽ đây là con thụ thiềm, tức một loại cóc khổng lồ chuyên sống trong các hốc cây, nhựa của nó là chất bài tiết của cơ thể, mang độc tố cực mạnh, có mùi hôi thối xộc tận não, tanh không thể ngửi nổi, mà chỉ những loài động vật lưỡng cư như cóc mới có. Theo thuyết tướng vật, những con cóc dài gần hai gang tay được gọi là thiềm vương, thế mà con này đâu phải chỉ hai gang tay, nó còn dài gấp mấy ấy chứ; bụi cây rậm rạp căn bản không thể cản được bước tiến của nó, còn tục truyền: “thiềm vương có nhựa, chuyên khắc chế ngũ trùng”, xem ra lời đồn này không phải là giả. Càng răng của nhện chân quỷ không chỉ mất tác dụng với cóc cây, mà ngược lại con nhện còn bị dính độc nhựa cóc lăn ra chết; thụ thiềm chỉ chờ có thế là cuốn con mồi vào trong cái bụng không đáy của nó, những con chưa chết sợ hãi, liền tháo chạy tứ tán.

    Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương thấy con thụ thiềm đang nhảy trên gỗ mục về phía mình, thì nghĩ không khéo nó chẳng cần đến gần mấy sợi dây leo này, chỉ dùng cái lưỡi cuốn một cái cũng đủ khiến hai cô trôi tuột vào trong bụng. Hai cô định giương súng bắn, nhưng chỉ sợ giãy giụa sẽ làm sợi dây leo già bị đứt hoặc bị nhựa cóc phun vào người, vì nếu lỡ dính thứ mủ nhựa gớm ghiếc kia thì toàn bộ da thịt sẽ bị ăn mòn đến tận xương. Hai người trừng mắt nhìn con thụ thiềm tiến lại gần, họ không còn đường nào tránh né, đành nhắm mắt chờ chết.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 9: KẺ SĂN MỒI Ở TÂM TRÁI ĐẤT


    Lúc này, Tư Mã Khôi ngồi ngay ở cành cây phía trên con thụ thiềm, anh đã thấy rõ nó lợi hại thế nào, nên không dám nổ súng giải vây, chỉ giục Hải ngọng mau chóng thả dây thừng xuống. Hải ngọng cuống cuồng trèo lên cao, định dùng dao chặt nhánh cây làm vướng sợi dây thừng, đồng thời cúi đầu nói vọng xuống: “Sắp xong rồi! Cậu cố gắng kiên trì thêm một phút nữa thôi!” Tư Mã Khôi đỏ mắt, điên tiết hét lại: “Tiên sư Hải ngọng! Cậu đang tất bật cái chết tiệt gì thế hả? Thêm mấy giây nữa thì liệu xuống đây mà lượm xác!” Lúc này, Nhị Học Sinh cũng ép sát người nhìn xuống, thấy tình cảnh của Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân quá sức nguy cấp, anh chàng cùng cuống quýt như kiến bò chảo lửa, bỗng nhiên nhớ ra đa số sinh vật dưới lòng đất đều sợ lửa và ánh sáng, thế là anh chàng định bài cũ áp dụng lại, rút một thanh đuốc trong ba lô ra, ném về phía Tư Mã Khôi.

    Tư Mã Khôi đưa tay ra đỡ, chà sát đầu bó đuốc vào đế giày thật mạnh, ngọn lửa bùng tên rừng rực. Anh thấy thân hình to lớn của con thụ thiềm đang bò ngay phía dưới mình, liền nắm chắc ngọn đuốc, cắm thẳng xuống. Ai ngờ, con thiềm vương quanh năm ẩn náu dưới lòng đất, khắp thân mình nhầy nhụa toàn mủ nhựa, khí ẩm mốc nặng nề, vì vậy lửa đuốc vừa chạm phải đã tắt rụi, châm lại cũng không bén nổi nữa.

    Con thụ thiềm khi nãy còn đang mải nuốt phù du treo mình giữa các dây leo, có lẽ đối với nó, phù du và con người chẳng khác gì nhau, lúc này mới phát hiện, sau lưng có điều khác lạ, nó liền chầm chậm quay đầu lại nhìn Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi không ngờ lửa đuốc lại bị tắt, thấy con thụ thiềm đột nhiên quay đầu lại phía mình, tim anh bất giác ớn lạnh, anh còn chưa kịp phản ứng gì thì đã thấy cái miệng đỏ lòm lòm của con cóc ngoác rộng hoang hoác.

    Con vật này tuy đần độn, chậm chạp, nhưng cái lưỡi quái dị đỏ au au và tanh tưởi của nó thì biến hóa khôn lường, đoạn đầu lưỡi chẻ đôi, gốc lưỡi ở ngay trước miệng, khiến tốc độ đảo ngược vào trong miệng, hay thè ra cuốn con mồi đều nhanh như chớp giật, mắt người căn bản không thể nhìn rõ nó hành động thế nào.

    Tư Mã Khôi chỉ thấy vèo một cái, cơn gió tanh tưởi quét qua tai, mấy con phù du cạnh anh đều bị cuốn vào bụng con thụ thiềm. Tư Mã Khôi thấy nó lại bắt đầu há cái miệng quái dị, tim anh thót lên như bị ai bóp chặt, trước mắt chỉ còn cách gắng gượng liều mình đỡ đòn. Anh hít sâu một hơi, giở tuyệt chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường”, phi thân lao đi nhẹ nhàng hơn cả khỉ, nhờ thân thủ nhanh nhẹn, anh mau chóng ép sát người vòng qua các khe dây leo trên cây cao.

    Tuy tốc độ thè lưỡi cuốn con mồi của thụ thiềm cực nhanh, nhưng nó lại không quay người lại được. Cú vồ hụt khi nãy khiến nó vô cùng tức giận, cổ họng phát ra tiếng “cục cục”, nó vừa há rộng miệng nhả sương khí, vừa chầm chậm quay người ra sau truy sát. Con thụ thiềm vừa động đậy thân thể một cái, cả thân cây đã rung chuyển theo.

    Tư Mã Khôi cảm thấy gió độc bám riết sau lưng, lại nghe tiếng dây leo, gỗ mục rào rào đứt gãy, nhưng anh đâu dám quay đầu lại nhìn, chỉ hít mạnh một hơi, rồi liên tục di chuyển qua các cành cây khô né tránh. Khi gặp phải những vật cản như dây leo cỡ lớn, cành cây to, anh vẫn lắc người vượt qua một cách uyển chuyển, những người còn lại ở quanh đó đều hồn xiêu phách lạc, mặt mày tái mét, toát mồ hôi hột lo thay cho Tư Mã Khôi.

    Chỉ duy Hải ngọng lăn lộn nhiều năm cũng Tư Mã Khôi mới biết chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường” là lấy hai đầu gối vả khuỷu tay làm trọng tâm, người luyện chiêu thức này chí ít phải mất mười năm khổ công, chính vì môn này rất khó học, nên trong hàng ngàn người chưa chắc đã có một người luyện được; nhưng sau khi đã luyện thành công, tuy chưa đạt đến trình độ khinh công én liệng tầng không hay chuồn chuồn chấm nước, thì chuyện vượt rào leo tường đối với họ cũng chỉ là chuyện nhỏ.

    Có điều địa thế chỗ này hiểm trở quá, lỡ bị rơi xuống thì đúng là lặn không sủi bọt, Hải ngọng không dám chậm trễ, nhân lúc Tư Mã Khôi nhử con thụ thiểm ra xa, anh liền giật lấy giật để sợi dây thừng mắc kẹt, rồi ném xuống cho Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân đang treo mình lơ lửng trên dây leo và ra sức kéo hai người lên.

    Lúc này, Tư Mã Khôi đã tránh được con thụ thiềm, anh vòng qua thân cây, bò sang chỗ khác. Bỗng nhiên anh thấy phía sau yên ắng kì lạ, liền ngoái đầu nhìn lại, thì thấy con thụ thiềm há miệng đảo lưỡi, nhắm thẳng vào hai nguời đang treo lơ lửng giữa không trung, tư thế như định nuốt.

    Thân mình con thụ thiềm to lớn, da tựa vỏ cây khô, khẩu súng bắn đạn hoa cải seri M-1887 không thể hạ gục nổi nó, vả lại trên thân mình nó còn có nhựa độc, chỉ cần dính một tí vào người là cũng đủ tiêu đời, còn cái lưỡi dài ngoằng kia mà liếm được, thì hai người chắc chắn sẽ bị nó ăn tươi nuốt sống vào bụng, dễ dàng chẳng khác nào hút con phù du.

    Khi nãy, Tư Mã Khôi đã vận hết công lực mới né tránh được con thụ thiềm. Liên tục di chuyển, trốn chạy khiến anh lúc này như súng hết đạn, nhưng khi thấy tình hình Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương nguy cấp như đang treo trên sợi chỉ mảnh, thì anh liền vận hết sức bình sinh, hai chân nhảy bật lên cây, uyển chuyển như chim ưng cất cánh bay cao, ôm chặt hai người họ, rồi mượn lực quán tính, lượn vèo về phía trước, chỉ cảm thấy một sức mạnh khủng khiếp đang ào đến từ phía sau.

    Thì ra, lưỡi con thụ thiềm lại tóm hụt con mồi, nó liền bị trượt về phía trước, mấy sợi dây leo không tải được sức nặng của nó, liền đứt đánh phựt, cả thân thể con thụ thiềm đổ dốc ra trước, thấy mình mất trọng tâm, nhưng muốn thối lui cũng không kịp nữa, nên chỉ nghe nó rơi “bụp” một cái xuống đất, rồi mãi hồi lâu mới nghe tiếng vọng nặng nề, âm thanh như thể bóng đái lợn bị vỡ vậy.

    Tuy Hải ngọng sức khỏe trâu bò, sợi dây thừng lại vô cùng chắc chắn, nhưng kéo một lúc ba người, lại cộng thêm ba lô, súng ống, còn ba người tựa ba qua chuông đồng hồ rung lắc điên đảo giữa không trung, nên sức nặng này đâu phải chuyện nhỏ! Vì vậy, hai tay anh rách toác, rướm máu, anh nghiến chặt răng nghe “ken két”, rồi vận hết sức mạnh, may nhờ Nhị Học Sinh chạy lại giúp sức mới chật vật kéo được cả hội lên.

    Tư Mã Khôi sợ cành cây khô bị gãy, anh liền thò tay túm một sợi dây leo khác buông mình gần đó, nắm chặt lấy để giữ vững trọng tâm. Lúc này, anh mới cảm thấy mồ hôi lạnh đã thấm đẫm lưng áo. Lúc Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân rơi xuống mấy sợi dây leo, cả hai đều bị xây xát ngoài da, Cao Tư Dương chưa kịp hoàn hồn đã bắt tay xử lý băng bó vết thương cho mọi người.

    Trước đây, Nhị Học Sinh rất thích đọc tiểu thuyêt phiêu lưu mạo hiểm của nhà văn Mỹ Burroughs, khi nãy nhìn Tư Mã Khôi hành động mạo hiểm y như trong truyện, lòng anh chàng đã ngập tràn sự thán phục xen lẫn kinh ngạc, cảm thấy Tư Mã Khôi còn nhanh nhẹn hơn cả người vượn Thái Sơn.

    Hải ngọng hỏi: “Sao tôi chưa bao giờ nghe thấy… ở Thái Sơn có hảo hán như vậy nhỉ?” Tư Mã Khôi giải thích, thực ra anh ta chỉ là nhân vật trong tiểu thuyết “Thủy Hử”. Truyện có một hồi kể về tráng sĩ giỏi môn đấu vật, họ Nhậm, tên Nguyên, bình sinh khỏe mạnh vô song, thân cao hơn trượng hai, mắt xếch trợn tròn, từng lập đài đấu võ dưới chân núi Thái Sơn.

    Ông ta được mệnh danh là Thái Sơn Nhậm Nguyên, thế mà không ngờ có ngày lại bị Yến Thanh dùng một chưởng hạ đo ván tại chỗ, rồi bị Hắc Toàn Phong Lý Quỳ tiện tay vung luôn một búa chẻ ra làm đôi. Hắc Toàn Phong vẻ ngoài dã man thế thôi chứ đồng chí này sợ Yến Thanh một phép, trình đấu vật của Yến Thanh khiến Lý Quỳ cũng phải ngán, chứ nói gì gã Nhậm Nguyên? Đấy, chuyện chỉ vỏn vẹn có vậy, mà không ngờ mấy đồng chí này nổi danh ở Mỹ như cồn, lại còn có người chuyển thể thành sách và phong cho danh hiệu “người vượn Thái Sơn” nữa.

    Nhưng tí ánh sáng lập lòe ở đít đom đóm như đồng chí ấy, thì làm sao sánh được với ánh trăng vằng vặc như tớ đây, so với Hải ngọng còn tạm”. Hải ngọng tưng tửng: “Úi xời! Khi nãy nếu không có tí sức của Hải ngọng tớ đây, thì vầng trăng vàng vặc trên trời nhà cậu đã nát bét mẹ dưới âm ti rồi”.

    Nhị Học Sinh tự biết khi nãy mình lỡ miệng. Trước Cách mạng văn hóa, xem trộm tiểu thuyết Mỹ là vấn đề chính trị vô cùng nghiêm trọng, lòng anh chàng hơi hối hận, giờ nghe Tư Mã Khôi và Hải ngọng đôi co vớ vẩn, anh chàng đành ngậm tịt miệng, không ho he tham gia tiếng nào. Lúc này, Thắng Hương Lân nhắc nhở mọi nguôi, cô nói: “Xung quanh đây vô cùng nguy hiểm, bọn nhện chân quỷ tụ tập thành bầy đàn đã đủ khiến chúng ta đau đầu, chẳng ngờ bọn chúng gặp phải thụ thiềm thì không còn tấc đất phản kháng, giãy giụa.

    Mấy năm trước, có đội địa chất phát hiện thấy hóa thạch của thụ thiềm vương ở Nội Mông, lúc ấy thế giới mới biết từng có một loài sinh vật đáng sợ nằm ẩn mình trong hốc cây hóa thạch dưóí lòng đất, liền đặt tên cho nó cái tên: ‘kẻ săn mồi ở tâm Trái đất’. Chúng ta đã gặp nó mà vẫn có thể sống sót rời khỏi đây, thì quả thực là vô cùng may mắn.

    Nhưng nơi sâu dưới lòng đất có lẽ còn tồn tại nhiều thứ đáng sợ hơn, mọi người phải đồng tâm hiệp lực, mưu cầu sinh tồn, đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà ngồi cãi vã với nhau nữa.” Tư Mã Khôi biết điều Thắng Hương Lân nói là sự thực, anh liền ngậm tịt miệng, đợi Cao Tư Dương băng bó vết thương cho Nhị Học Sinh xong, là đứng dậy dò đường.

    Lúc Nhị Học Sinh kéo dây thừng cùng Hải ngọng, tay cũng bị rách toạc một miếng, nhưng vết thương không quá sâu. Mắt Tư Mã Khôi rất sắc bén, anh thấy lúc Cao Tư Dương nhìn lòng bàn tay của Nhị Học Sinh thì thần sắc cô có chút hốt hoảng. Tư Mã Khôi thấy rất kì lạ. Cao Tư Dương từng giải phẫu cả thi thể trong học viện quân y, lại rất gan dạ, nên chút vết thương ngoài da của Nhị Học Sinh thì có đáng kể gì, thế mà vì sao cô ấy lại thể hiện nét mặt sợ hãi và tuyệt vọng như vậy? Tư Mã Khôi đứng cạnh quan sát một hồi, nhưng vẫn không phát hiện cánh tay Nhị Học Sinh có điểm gì khác thường, anh liền hỏi Cao Tư Dương xem có chuyện gì? Nhị Học Sinh thấy Cao Tư Dương trầm ngâm không đáp, cậu ta thở dài: “Không sao đâu, tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi… Đây là chứng Khắc Sơn”.

    Lúc này, hội Tư Mã Khôi mới nhìn thấy các khớp xương trên ngón tay Nhị Học Sinh đều bị lồi ra, đúng là khác với người bình thường, liền hỏi: “Đó là chứng bệnh gì vậy?” Cao Tư Dương quay người, nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Trong vùng núi này có hai loại bệnh hiểm nghèo nhất, đó là chứng Khắc Sơn và bệnh hoa liễu.

    Bệnh này xuất hiện sớm nhất ở huyện Khắc Sơn, tỉnh Hắc Long Giang, bởi vậy người ta đặt cho nó cái tên này, về sau, bệnh này còn được phát hiện ở cả Hồ Nam, Hồ Bắc nữa. Chứng bệnh này khiến các khớp xương người ta bị sưng to, thậm chí còng lưng, hai năm sau sẽ cảm thấy tim đập đuối sức, toàn thân toát mồ hôi, nôn ra mấy ngụm nước vàng, coi như là xong.

    Trong đám thanh niên trí thức ở lâm trường cũng có vài người xuất hiện dấu hiệu của bệnh này, về căn bản, chứng bệnh này không có thuốc chữa, đưa tới bệnh viện cũng vô ích, sớm muộn gì cũng chết”. Nửa năm trước, Nhị Học Sinh đã phát hiện mình mắc chứng Khắc Sơn, tuy trong lòng cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực, nhưng anh vốn không ôm hi vọng gì về tiền đồ tương lai, còn điều kiện cuộc sống trong lâm trường lại gian khổ khó lòng tưởng tượng.

    Việc dân bản địa sống lâu đời ở đây hãnh diện nhất là hút thuốc lá cuốn. Họ ngồi trên gốc cây, vê thuốc, thư thái lấy bật lửa bật “lách cách”, loại bật lửa này hạn chế hơn cách khoan gỗ lấy lửa nhiều, nhưng người nào có thể cả ngày ngồi hút điếu thuốc tự vê, là kẻ đó coi như có số hưởng phúc.

    Nhị Học Sinh bi quan cho rằng, khe núi này quả thực quá sức nghèo khổ, nếu phải dìm cả cuộc đời trong cái ổ này, thì chi bằng chết sớm cũng là một cách giải thoát. Nghĩ đến đây, anh cảm thấy bình thản hơn nhiều, bởi vậy không còn sợ sệt cái chết, cũng không định sống sót trở về lâm trường, mà chỉ muốn cùng hội Tư Mã Khôi đi tìm chiếc hộp Pandora, tận mắt nhìn xem rốt cuộc phía dưới 30° vĩ Bắc ẩn giấu những bí mật gì? Mọi người biết việc này, lòng chợt tháy nặng trĩu, nhưng lúc này tất thảy các thành viên đầu đang nằm trong vòng nguy hiểm, nên chẳng ai nói thêm câu gì.

    Bọn họ chỉ có kỹ thuật và trang thiết bị cơ bản nhất, còn bắt buộc phải di chuyển nhờ vào bản đồ và la bàn, nên không được phép đi chệch khỏi tuyến đường đã định quá xa. Thế là, mọi người quyết định leo từ cây cổ đại cao trên trăm mét xuống đường. Dưới mật đất, chỗ nào cũng lép nhép nước tù và bùn lầy, đôi lúc lại lóe lên quầng sáng yếu ớt của những con phù du bay vụt qua trước mặt.

    Phạm vi hòn đảo cổ bị vùi chôn dưới lòng đất hàng trăm triệu năm thực sự vô cũng rộng lớn, nó phân bố khá nhiều chủng loại thực vật cổ đại đã tuyệt chủng từ rất lâu về trước, địa hình phức tạp, biến đổi đa dạng, quẩn thể thực vật tiền sử đổ rạp xuống, che lấp rất nhiều khe núi và huyệt động.

    Những huyệt động ở đây phần lớn đều được hình thành do quá trình nước ngầm không ngừng xâm thực, bào mòn, địa hinh Krast(1), không gian trong huyệt động vô cùng rộng rãi, kết cấu kì dị, tầng tầng lớp lớp, động nọ lồng vào động kia, có cái uốn nếp như đường nước lượn sóng, sâu hun hút, có cái như trụ đá chống trời, thần bí kì ảo, ai lỡ chân rơi xuống đó thì đừng nghĩ đến chuyện trèo lên.

    [1] Địa hình Krast: là hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn. Sự xói mòn không phải do cơ chế lực cơ học, mà chủ yếu là do khí cacbon điôxít (CO2) trong không khí hòa tan vào nước, cộng với các ion dương của hyđrô (H+) tạo thành axít cacbonic ăn mòn đá vôi.

    Sản phẩm tự nhiên của quá trình phong hóa karst là các hang động với các nhũ đá, mãng đá, sông suối ngầm… Mọi người có liều mạng đến đâu chăng nữa, thì cũng không ai dám đi lại lung tung ở nơi sâu thăm thẳm thế này. Thắng Hương Lân lấy đuốc, soi sáng la bàn để xác định phương hướng, rồi cô dẫn mọi người xuống trước một đoạn sông ngầm nước chảy êm đềm.

    Nếu lấy bản đồ của đội thám hiểm Taninth làm vật tham chiếu mà suy đoán, thì chỉ cần vượt qua khu vực bị nước nhấn chìm này, là có thể trở lại tuyến đường dẫn đến chiếc hộp Pandora. Hội Tư Mã Khôi không có phương tiện vượt sông, lại không rõ mức nước nông sâu thế nào, chỉ mắt thấy mặt nước trải rộng mênh mông, xung quanh đó cũng không có đường vòng, nên mọi người đành tự đội ba lô và súng ống đạn dược lên đầu, rồi người nọ bám sát người kia lội sông.

    Mọi người lội trong dòng nước ngầm lạnh buốt tận xương tủy chừng mười mét, nơi nông nhất tới đầu gối, nơi sâu nhất cũng chỉ chạm ngực. Cả hội cố gắng vượt sông, rồi tiến vào một hang cốc sâu, mọc đầy nấm gồ và nấm vân chi. Mọi người tìm một hốc cây khô ráo để ẩn trốn, bít chặt cửa hang lại, vun đống lửa hong khô quần áo, Thắng Hương Lân lấy lương khô cho mọi người ăn xong, thì lần lượt gác trực thay cho nhau ngủ.

    Mọi việc diễn ra khá yên ổn. Sau khi dậy, cả hội lai tiếp tục cuộc hành trình vào nơi sâu trong hang cốc theo sự chỉ dẫn của bản đồ. Rút kinh nghiệm lần trước, hội Tư Mã Khôi cố gắng lựa chọn tuyến đường an toàn để che giấu tung tích. Hang cốc này từng là đỉnh núi trên hòn đảo cổ đại, rồi hoạt động địa chất và mưa gió xâm thực đã khiến nó biến thành vô số hòn đá cỡ lớn, vừa độc lập vừa liên kết, phân nhánh chồng chất lên nhau, nhấp nhô đan xen.

    Nấm gỗ hình ống mọc ở đây còn rậm rạp hơn trong rừng, nước ngầm chảy róc rách bởi rất nhiều thác nước lớn nhỏ đổ từ trên đỉnh vách đá trong lòng núi xuống, tựa dải lụa trắng ngoằn ngoèo, trải dài vô cùng vô tận. Môi trường ẩm ướt và khép kín khiến người ta lơ mơ muốn ngủ.

    Sâu trong hang cốc, sương mây vờn quanh quấn quýt, nếu không có bản đồ thì chắc chắn phải chuyển hướng khi lỡ bước chân vào đó. Mọi người cố gắng lên giây cót tinh thần, lấy dao săn mở đường. Dọc đường, Nhị Học Sinh lại hỏi Tư Mã Khôi chuyện khi nãy. Mấy tháng trước, Tư Mã Khôi từng bị bỏng chất độc màu da cam trong rừng rậm Miến Điện, bởi vậy anh hoàn toàn hiểu được suy nghĩ của Nhị Học Sinh.

    Anh bảo: “Dầu sao bầu trời này là bầu trời của Xã hội chủ nghĩa, mặt đất này cũng là mặt đất của Xã hội chủ nghĩa, chết ở đâu mà chẳng giống nhau? Nếu chú em quả thật bất cần đời như thế, thì tạm thời tính thêm cho chú em nữa cũng chẳng hề gì, có điều, chú em sống được đến ngày nhìn thấy vật trong chiếc hộp Pandora hay không, bây giờ anh cũng không thể đảm bảo, tất cả còn phải chờ xem con tạo của chú em xoay vần thế nào đã.” Cao Tư Dương chưa hề giảm sự hoài nghi về lại lịch Tư Mã Khôi, thấy anh nói năng lạnh lùng như thể coi mạng người tựa cỏ rác, cô không nhịn được liền nói: “Tư Mã Khôi! Anh đúng là kẻ máu lạnh!” Tư Mã Khôi bỗng nhiên dừng bước, trầm giọng xuống: “Bây giờ không có thời gian để bàn luận ưu điểm của tôi đâu.

    Ở đây dường như có thứ gì đó…”. Mọi người nghe vậy, đều đổ dồn mắt nhìn về phía trước, phát hiện trong lùm nấm có hai con rùa đá không đầu nằm vắt ngang, mỗi con nặng tới ngàn cân – nói nó là rùa đá, là vì thấy thể hình tương tự vậy thôi, chứ nó mất đầu nên cả hội cùng không rõ rốt cuộc đó là con vật gì.

    Trên lưng rùa không có bia, trần trụi, mọc đầy rêu xanh, khi phạt đám nấm mọc trước mặt, thì thấy một hố sâu hình tròn dựng đứng, chạy thẳng từ lòng núi xuống, có quy mô rộng lớn khiếp người, địa thế cũng vô cùng đặc biệt và quái dị. Duới ánh sáng yếu ớt, cả hội dùng la bàn quan sát đường kính của nó, chí ít cũng phải trăm mét trở lên, bên trong mù mịt sương khí, nên không nhìn rõ tình hình dưới đáy động, còn hình trạng xung quanh rất đỗi ngăn nắp, mỗi gian phòng đều có vô số huyệt động liên thông, giống như tổ yến bám sát nhau trên vách núi vậy, vết đục đẽo chạm khắc trên cửa động vẫn còn thấp thoáng loang lổ.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 1: CHIẾC HỘP MA

    Mọi người đối chiếu bản đồ một hồi, suy đoán, chỗ này chính là chiếc hộp Pandora, nhưng tình hình bên trong thì vẫn chưa ai hình dung được, phải vào trong quan sát mới biết rõ. Tư Mã Khôi bảo mọi người tạm thời nghỉ ngơi chốc lát, sau đó anh nói với Cao Tư Dương: “Từ khu vực gần cây cổ đại trèo ngược lên trên, có lẽ sẽ tìm thấy một đường hầm thông với mặt đất, nếu trong đó chưa xảy ra sụt lở, thì cô và Nhị Học Sinh có lẽ vẫn còn cơ hội trở về.” Nhị Học Sinh nguây nguẩy lắc đầu, thể hiện ý chí kiên quyết theo chân hội Tư Mã Khôi đi đến cùng, chỉ có điều trong tay cậu có mỗi cây gậy gỗ, nên cậu ta cảm thấy không vững dạ lắm.

    Hải ngọng khen Nhị Học Sinh: “Chú mày trông lẻo khoẻo vậy mà có chất ra phết, nói cho chú biết, theo anh đảm bảo không thiệt đâu mà sợ. Mà chú cũng đừng coi thường cái gậy gỗ này, trước giải phóng, ở Quan Đông có hội hiệp khách sơn cước, nói trắng ra đó là bọn chuyên đào nhân sâm trên núi.

    Hội này thường xuyên chui và những nơi rừng sâu núi thẳm, không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bọn chúng thà không có cuốc xẻng, chứ trong tay kiểu gì cũng phải nắm chắc một cây gậy gỗ. Bọn chúng gọi nó là ‘tố bảo côn’, bên trên tố bảo côn lại treo một đồng tiền cũ, năm tháng càng cát tường càng tốt – ví dụ như năm Khang Hy hay Càn Long lên ngôi, chỉ khi có cây ‘tố bảo côn’ trong tay, thì mọi chuyện tự khắc dữ hóa lành, nạn hóa yên ngay tức thì.” Tư Mã Khôi không rảnh ngồi nghe Hải ngọng khua môi múa mép, anh lại bảo Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh: “Nơi được đánh dấu bởi ký hiệu chiếc hộp Pandora này, rất có thể là một huyệt động nằm rất sâu dưới lòng đất, tôi cũng không biết bên trong tiềm ẩn những hiểm nguy gì, hai người may mắn sống sót trong đội thông tin bọn cô có thể sống đến ngày hôm nay là cũng coi mạng lớn lắm rồi, nhưng mỗi người chỉ có duy nhất một mạng sống, hai người phải tính toán kỹ càng rồi hãy quyết định.” Lòng Cao Tư Dương sớm đã dự tính trước, vị trí đường hầm thông lên mặt đất nằm ở đâu, trong lòng nó có xảy ra sụt lở hay không, tất cả cô đều không biết, nếu không có nhân viên trắc họa chuyên môn như Thắng Hương Lân, thì cho dù trong tay nắm la bàn và bản đồ, cô cũng không thể tìm thấy đường.

    Vả lại, dẫu có quay lên được mặt đất, thì họ cũng vẫn phải loanh quanh trong cánh rừng nguyên thủy rộng vô biên bát ngát, nơi đó chim ác thú dữ gì cũng có, ai có thể sống sót thoát ra khỏi đó được? Giờ đây, hi vọng sinh tồn duy nhất chính là cùng hành động với hội Tư Mã Khôi, chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ lẫn nhau, thì cho dù có thật là sa chân xuống vực sâu vạn trượng, cũng không hẳn là không có đường về.

    Tư Mã Khôi thấy Cao Tư Dương thể hiện rõ lòng quyết tâm, đã đến bước này thì không cần giấu giếm nội tình nữa. Thế là, anh liền kể rõ sự tình cho cô nghe, từ khi anh và Hải ngọng chạy đến Miến Điện tham gia phong trào cách mạng thế giới, sau khi đội du kích tan rã, hội anh chạy trốn vào khe cốc núi Dã Nhân thì gặp Nấm mồ xanh, những người bạn đồng hành xung quanh, kẻ thì tử nạn, người bị hại chết.

    Sau khi về nước, để vạch trần bộ mặt thật của Nấm mồ xanh, các anh lại cùng giáo sư Tống Tuyển Nông tham gia vào đội khảo cổ, tiến vào kính viễn vọng Lopnor mà người Liên Xô khoan đào năm xưa, đồng thời dưới cực vực, hội anh đã biết được một số thông tin về tổ chức ngầm liên quốc gia Nấm mồ xanh.

    Tổ chức này có tham vọng thâm nhập vào tâm Trái đất để tìm kiếm một bí mật khủng khiếp nào đó. Liên quan đến bí mật này, hàng ngàn năm trước đã tồn tại vô số giả thuyết khác nhau, có thuyết nói nó là miếu thần, có thuyết nói nó là hắc động, lại có thuyết nói nó là một kẻ địch thời cổ đại.

    Nó giống như căn nguyên gây ra mọi tai nạn và sự khủng bố. Bất luận ý đồ của Nấm mồ xanh là gì, nhưng suy xét tận gốc rễ thì mọi tai họa này đều do hội Tư Mã Khôi gây nên, mạng sống của hội anh sớm đã bám riết lấy những ẩn số này, ý nghĩa duy nhất để hội anh tiếp tục sinh tồn, chính là đi tìm đáp án cuối cùng.

    Lúc này, chiếc hộp Pandora nối liền với những ẩn số đang ở ngay trước mặt, nhưng đây chỉ là sự khởi đầu, bởi con đường phía trước còn đầy rẫy bí ẩn và chết chóc. Tư Mã Khôi kể vắn tắt toàn bộ ngọn nguồn câu chuyện cho hội Cao Tư Dương nghe, nhưng những nội tình có liên quan đến sóng điện u linh trong mật thất thành cổ, tàu ngầm hải quân Liên Xô bị mất tích, chiếc hộp thời gian trong cực vực và Triệu Lão Biệt với hành tung bí ẩn v.

    v… thì anh không hề nhắc đến nửa chữ, vì dù sao đi nữa những chuyện này quá sức li kì, cổ quái, sự việc lại liên quan tới nó lại nghiêm trọng, nên anh không muốn dễ dàng để lộ cho người ngoài biết. Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không ngờ sự việc này lại liên lụy sâu sắc như vậy, đối phương có ý giấu giếm thì cũng hợp tình hợp lý, nhưng Cao Tư Dương vẫn không dám cả tin, Nấm mồ xanh và chiếc hộp Pandora thì có liên quan gì đến nhau chứ? Tư Mã Khôi biết việc này không nên quanh co giấu giếm thêm nữa, liền kể cho cô nghe câu chuyện bắt đầu từ trận lũ lụt lịch sử vào thời Hạ, Vũ Vương đào kênh dẫn nước lũ trong lục địa ra Vũ Khư, rồi ném tảng đá mà tộc người Bái Xà coi như thần vật xuống vực sâu nơi tâm Trái đất, hậu thế gọi vật này là bia Vũ Vương.

    Người Bái Xà vọng tưởng sẽ đào được tấm bia đá đó, để thoát khỏi số mệnh nô dịch, bị vương triều nhà Hạ sai khiến, bởi vậy trong Vũ Khư mới tồn tại một lượng lớn những ghi chép thần bí và quái dị. Sau khi đội khảo cổ giải mã được long ấn triều Hạ, họ biết được trong động huyệt nơi núi sâu tồn tại một vật gọi là nhật quỹ, vật đó xuất hiện từ thời thị tộc Thần Nông gá gỗ làm ổ.

    Tìm thấy nó, họ mới tiến xuống được vực sâu, vì họ biết nhật quỹ có khả năng nằm trong động huyệt dưới Biển Âm Dụ. Người Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc rất sùng tín chuyện cúng bái, ma quỷ, họ cho rằng, huyệt động thông với mạch đất, dưới lòng đất là núi Bội m, chuyên giam giữ ma quỷ.

    Chuỗi huyệt động trùng điệp có tường bao quanh này, có lẽ đều được chạm khắc từ thời kì Sở U Vương cai trị. Những chuyện u minh kia tuy rằng khó phân biệt thực hư, nhưng chỉ cần lựa chọn đi vào chiếc hộp Pandora, thì dẫu cho không có âm hồn ác quỷ, cũng chắc chắn sẽ gặp nhiều hiểm nguy khó lường, điểm cuối của sinh mệnh là cái chết, nhưng con đường này lại chưa chắc đã có điểm tận cùng.

    Cao Tư Dương không hiểu những chuyện như bia Vũ Vương lắm, lúc này không cần hỏi cũng biết Tư Mã Khôi sẽ tự mình hành động, cô trầm ngâm giây lát, rồi vẫn quyết định theo mọi người thâm nhập lòng đất. Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi: “Bây giờ tôi không còn đường quay về, huống hồ mạng sống của tôi cũng do anh cứu, vì vậy bất luận con đường phía trước chông gai thế nào, tôi cũng nguyện giúp anh một tay, mong rằng tất cả những gì anh vừa nói đều là sự thật”.

    Mọi người thấy Cao Tư Dương đồng ý đi cùng, thì đều cảm thấy vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khôi lập tức bắt tay bố trí mọi việc, dặn dò các thành viên phải tự kiểm tra súng ống đạn dược, những thành viên được phân phát súng liên thanh M-1887 lúc trước mang sáu phát đạn cỡ 12, dọc đường đã sử dụng mất một nửa.

    Anh liền lấy đạn dược phòng bị trong ba lô của Nhị Học Sinh ra bổ sung. Khẩu súng săn gấu của Hải ngọng nòng lớn nhưng tốc độ bắn lại chậm, lượng đạn tiêu hao ít, bốn loạt đạn cỡ 8 anh mang theo vẫn còn đủ dùng, có điều, đuốc chỉ còn hai phần ba. Tư Mã Khôi cảm thấy lượng dự trữ tiêu hao quá nhanh, liền bảo Nhị Học Sinh phụ trách gom những thanh đuốc đã cháy hết lại, nếu dọc đường phát hiện vật chất dễ cháy, thì có thể tái sử dụng, đồng thời đưa cho Nhị Học Sinh con dao săn của Thắng Hương Lân để phòng thân.

    Thắng Hương Lân kiểm tra trang thiết bị vật tư một lượt, cô có vẻ lo lắng nói với Tư Mã Khôi: “Pin đèn quặng vẫn còn đủ dùng, vả lại thời gian chiếu sáng của đèn quặng lâu hơn đuốc, không những vậy, còn có thể đo được chất lượng không khí. Tôi dự đoán, số cácbua còn lại đủ duy trì chiếu sáng trong hai mươi ngày, chăn giữ ấm chỉ có ba chiếc, nếu thay phiên nhau sử dụng thì vẫn có thể tạm thời đối phó được, những chuyện này đều không thành vấn đề, vấn đề ở chỗ lượng lương thực chúng ta mang đi có hạn, chỉ đủ duy trì mấy ngày nữa thôi”.

    Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện này không sao, lúc cần thiết có thể hái nấm vân chi ăn tạm cũng được. Phiền phức lớn nhất bây giờ là đi đến chỗ này, thì không sử dụng bản đồ tiếp được nữa…”, nói đoạn, anh bám lấy sợi rễ cây có đường kính tới nửa mét, nhoài người ngó vào trong, bỗng nhiên anh nghe thấy dưới lòng đất vọng lên một âm thanh quái lạ, như thể tiếng rồng gầm gào.

    Tư Mã Khôi nghe thấy vậy, toàn thân bỗng nổi da gà, những người còn lại còn đang bận chỉnh đốn súng đạn, khi nghe thấy tiếng ma hờn quỷ khóc, ai nấy ớn lạnh hết cả người. Hải ngọng hít ngược một hơi lạnh: “Tớ thấy tình hình này…. tám phần là ác ma bị giam cầm dưới núi Bội m rồi!” Tư Mã Khôi muốn nghe rõ hơn, nhưng cả không gian lại chìm vào im lặng vô biên.

    Anh bất giác nói: “Sao tôi cảm thấy giống tiếng mèo đêm thế nhỉ?” Hải ngọng nói: “Nghe nói tiếng mèo kêu đêm và tiếng quỷ khóc giống nhau lắm! Có điều dưới lòng đất thì khả năng cỏ quỷ vượt xa khả năng có mèo nhiều, huống hồ nghe thấy tiếng mèo kêu đêm cũng không phải điềm báo tốt lành gì.

    Nó đang ẩn nấp trong bóng tối để đêm lông mày của con người, đếm xong thì âm hồn sẽ nhào đến đòi mạng…” Tư Mã Khôi nói: “Cậu không dọa mọi người thì ngứa miệng à? Từ giờ trở đi, chúng ta phải kiên trì tuân theo một nguyên tắc, bất kể gặp phải sự việc quái dị nào, cũng tuyệt đối không được lấy cái mình đã biết để luận bàn thứ mình chưa biết, mọi việc phải mắt thấy tay sờ thực tế mới được”.

    Thắng Hương Lân nói: “Lịch sử của huyệt động dưới lòng đất này đâu chỉ mấy vạn năm, ngay từ thời mạch núi Thần Nông Giá vẫn chưa đội từ lòng đại dương dậy nó đã tồn tại dưới hòn đảo cổ rồi. Khi ấy, đừng nói đến ma quỷ, ngay cả con người còn chưa có nữa là, bởi vậy truyền thuyết nhốt giữ ma quỷ trong núi Âm Sơn chỉ là tin đồn nhảm, có điều, những sinh vật không rõ nguồn gốc dưới lòng đất nhiều vô kể, hay là chúng ta cứ đốt lửa châm đuốc đi cho an toàn?” Mọi người nghe xong đều gật đầu tán thành.

    Hải ngọng nói lái đi cho khỏi tẽn tò, anh bảo: “Nửa đời Hải ngọng tôi đã đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của toàn nhân loại, điều tôi theo đuổi toàn là chân lý, chuyện tôi đàm luận cũng đều là chủ nghĩa, chết còn không sợ, thì sợ gì ma?”. Nói xong, anh đưa tay nhấp ít nước bọt, quệt lên lông mày, sau đó khoác súng săn lên vai, bật đèn quặng, đi trước dẫn đường.

    Tư Mã Khôi thấy vậy, liền bảo Nhị Học Sinh châm đuốc, đứng ở vị trí an toàn nhất phía giữa đội. Huyệt động này vốn dĩ là hang đá trong núi, đường kính khoảng hơn trăm mét, thế chạy hiểm trở, gần như dốc đứng, lỗ huyệt chi chít, trông giống như vách tường ngoài của đấu trường La Mã cổ.

    Không những vậy, rễ của những loài thực vật tiền sử vừa dài lại vừa to, đoạn nhỏ nhất cũng phải bằng một vòng ôm, chúng thò ra từ các kẽ đá, dính thành một thể với vách tường động, quấn quanh lùm nấm gỗ mọc gân đó, tạo thành một mạng lưới trải dài miên man. Mọi người giẫm lên những rễ cây mọc xiên, chậm chạp tiến từng bước vào bên trong.

    Tư Mã Khôi đi qua cửa động, dùng dao phát bớt đám nấm vân chi che chắn trước mặt, thò người vào trong quan sát. Mấy hang động này không sâu lắm, nhưng dưới lòng đất không có gió, không khí trong động cũng khó lưu thông, bởi vậy mấy bức bích họa cổ màu sắc loang lổ khắc trên vách, tuy vẫn còn có thể nhận diện một cách mờ nhạt, nhưng đa số đều thiếu mắt thiếu mũi, què chân cụt tay, không còn hình hài nguyên vẹn.

    Trong động, xương trắng chất chồng, không rõ đó là xương người hay xương thú. Có một bức bích họa khắc trong lỗ huyệt đá vẫn còn bảo tồn được khá toàn diện, nó mô tả cảnh tượng ác quỷ xé thịt người ăn trong sương mù dày đặc, nạn nhân nửa thân dưới vẫn còn nguyên thân máu thịt, nhưng nửa thân trên đa bị gặm trơ xương, màu sắc bức tranh tươi rói, trông y như thật.

    Tư Mã Khôi biết mấy bức tranh thời Chiến Quốc này đều lưu giữ rất nhiều thông tin quý giá, nhưng nội dung khủng khiếp, tàn nhẫn, máu me be bét trong bức tranh lại thực sự khiến người ta gai lanh sống lưng. Anh nghi hoặc trong lòng, bất giác nhìn thêm lát nữa, chợt phát hiện trong bưc tranh vẽ một chiếc hộp rất lớn, nắp hộp hé mở, bên trong lộ ra một bộ hài cốt, bốn phía quanh thân hộp chạm khắc hoa văn rồng phục, há miệng nhe răng.

    Tim Tư Mã Khôi đập thình thịch, đây liệu có phải là chiếc hộp Pandora không? Những người còn lại cũng dừng chân xem xét bức tranh. Chiếc hộp Pandora là truyền thuyết phương Tây, ngầm ẩn dụ nguy hiểm gây ra do lòng hiếu kì của con người, có lẽ trên đời căn bản không hề tồn tại vật thực, càng không thể xuất hiện trong huyệt động dưới lòng đất được.

    Lúc trước, mọi người còn cho rằng đội thám hiểm Taninth đánh dấu ký hiệu này trên bản đồ, chỉ là lấy chiếc hộp Pandora làm cái tên thay thế cho hành động, nhưng không ngờ rằng, trong bức tranh của cổ quốc Sở từ hơn hai ngàn năm trước, lại thực sự tồn tại một chiếc hộp thần bí thế này.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 2: ĐẦU LÂU


    Mọi người vô cùng kinh ngạc, ngặt nỗi âm khí trong huyệt động mạnh quá, khiến ánh sáng đèn cácbua cứ lập lòe ánh sáng xanh yếu ớt. Cả hội đành đứng ngoài cửa động thò đầu vào trong ngó nghiêng. Mấy bức bích họa cổ sặc sỡ tiếp xúc đột ngột với không khí lưu thông bên ngoài, nên màu sắc tươi tắn bắt đầu trở nên mờ nhạt, nhưng may mà vẫn giữ được những đường nét, hình khối cơ bản, nên hội Tư Mã Khôi vẫn có thể nhận dạng được những nét chủ yếu của nội dung bên trong.

    Nội dung bích họa tương tự với một câu chuyện. Bên cạnh chiếc hộp khắc họa hình một người, mình khoác áo bào đai ngọc, phía sau lưng rồng bay phượng múa, rõ ràng là tư thế của bậc đế vương. Phía đối diện ông ta là một người khác, đầu đeo mặt nạ ba mắt. Hai người dường như đang thì thầm mật ngữ ngay trước bộ hài cốt trong chiếc hộp.

    Phía trên họ chính là cảnh tượng rùng rợn: ác ma ăn thịt người. Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có hiểu nội dung bích họa nói gì không?” Tư Mã Khôi tự nhận mình là thành viên đội khảo cổ, nhưng thực chất kiến thức về lịch sử của anh chỉ dừng lại ở trình độ vỡ lòng, thấy nội dung bích họa li kì, âm u, anh cũng không biết nội dung chính xác của nó là gì, liền phịa đại ra một câu chuyện để lấp liếm với Cao Tư Dương: “Tôi nghĩ, chắc tay Sở Vương này đang đàm luận chuyện cõi u minh với đại thần của lão ta, xem làm cách nào để mình trường sinh bất tử.

    Có điều, nhân thế tan nhanh như mây khói, tuy lão ta xuất thân là bậc vương hầu cao quý, nhưng cuối cùng cũng khó tránh khỏi bánh xe của số mệnh mà hóa thành đống xương trắng.” Hải ngọng cũng thêm lời cho xôm chuyện: “Chắc chú Sở này lo sau khi chết đi xuống âm ti, sẽ bị ác ma ăn tươi nuốt sống đây mà”.

    Nhị Học Sinh thắc mắc: “Sao trên mặt vị đại thần lại đeo mặt nạ? Còn bộ hài cốt trong chiếc hộp là hài cốt của ai thế nhỉ?” Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều im thin thít như bị bịt miệng, không biết phải trả lời thế nào, bức bích họa có từ thời cổ xưa, cách đây những hơn hai ngàn năm, ai mà biết được trong đầu con người cổ đại khi đó nghĩ cái quái quỷ gì.

    Thắng Hương Lân nói: “Sở U Vương cuồng tín Vu thuật, ông ta thường mang theo một vị chủ tế thông thiên đeo mặt nạ đồng xanh bên mình. Vì vậy, nhân vật mặc áo bào đai ngọc kia có lẽ là Sở U Vương, nhưng câu chuyện khắc vẽ trên bích họa thì tôi chưa từng thấy ghi chép trong sử sách.

    Với những gì chúng ta đã biết, đã nhìn, thì không thể suy đoán ra nổi nội dung của nó đâu”. Tư Mã Khôi cũng hiểu đôi chút về sự tích Sở U Vương. Nghe nói năm đó, Vũ Vương thảo phạt, chiến công hiển hách lừng lẫy bốn cõi trời đất, lập ra cơ nghiệp hơn tám trăm năm của nhà Chu.

    Khi đó, xã hội vẫn chưa có khái niệm chế độ trung ương tập quyền, mà chia đất phong hầu cho mỗi nước nhỏ tự cai quản, cả thảy phong 72 nước, trong đó có Sở quốc. Chế độ này truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc thì các chư hầu chia rẽ, nước Sở là vùng lãnh địa rộng trên năm ngàn lý(1), bái huyền điêu làm thần, thế lực vô cùng hùng hậu, còn thời điểm Sở U Vương chấp chính đã là thời kì cuối, bởi chẳng mấy năm sau khi ông ta chết đi thì nước Sở bị Đại Tần tiêu diệt.

    Mộ phần của U Vương bị bọn quân phiệt cấu kết với lũ người Tây khai quật, hủy hoại vào những năm Dân quốc, một lượng lớn cổ vật lưu truyền vào dân gian. Khả năng đội thám hiểm Taninth cũng từng tham gia phi vụ đào mồ quật mả này, bởi vậy họ mới phát hiện ra huyệt động dưới khe m Hải thông qua các bức bích họa trong mộ U Vương.

    Nhưng còn việc chiếc hộp đựng bộ hài cốt kia xuất hiện khá nhiều lần trong bích họa của Sở quốc, thì rất không bình thường, nhưng nhất thời, hội Tư Mã Khôi cũng không phát hiện ra manh mối gì, đành quan sát thêm các huyệt động còn lại. [1] Lý: Đơn vị độ dài thời xưa của Trung Hoa, bằng khoảng 0,5 km.

    Bích họa trong động đá bị bong tróc, hủy hoại nghiêm trọng, chỉ nhận dạng được non nửa; có điều, nội dung dường như đều liên quan đến nhau, xem hai đầu mút cũng không khó đoán ra phần nội dung ở giữa, chỉ có sự kiện được ghi chép trong đó thì vô cùng quái dị, khó hiểu. Ngoài Sở U Vương ra, còn có một cô gái trẻ phong thái thướt tha, yểu điệu, rất bắt mắt.

    Cô gái đó eo thon, tóc búi cao, mình mặc áo tay rộng, váy dài, mấy bức bích họa khác đều vẽ thi thể và quan tài của cô ấy. Nội dung mấy bức bích họa này rất đỗi li kì, bí ẩn. Theo Tư Mã Khôi lý giải, nó hình như ghi chép lại sự việc Sở U Vương xin bộ hài cốt đựng trong chiếc hộp một quẻ bói, và được vị vu sư đeo mặt nạ đồng xanh phán rằng, đại họa sắp giáng xuống đầu ông ta, bởi sẽ có vô số âm hồn đến đòi mạng, điều này khiến Sở U Vương khiếp sợ, cả năm không dám ra khỏi cửa.

    Một ngày, có người bắt được một con bạch ngư hiếm gặp trên sông, mang đến dâng vua. U Vương nghe nói bạch ngư là do long xà biến hóa thành, ăn vào có thể trường sinh bất tử, liền lệnh cho người hầu đem nấu chín con cá, rồi bản thân ăn một nửa, nửa còn lại để phần con gái.

    Con gái Sở U Vương thấy nửa con cá trắng, vừa xấu hổ lại vừa tủi giận, phẫn nộ quát: “Thụ vương để cho ta con cá đã ăn mất một nửa, là hạ nhục ta. Ta còn mặt mũi nào sống trên đời nữa?”. Thế là, nàng treo cổ tự vẫn. Sở U Vương mất con gái, trong lòng vô cùng đau khổ, táng thi thể con gái ở cổng tây ngoài thành, quan tài bằng đá khảm vàng ngọc, còn chôn theo rất nhiều kì châu dị bảo như bình bạc, yếm ngọc làm đồ bồi táng, nhưng chuyện này luôn được giữ bí mật, không truyền ra ngoài.

    Lão ta lại ra lệnh thả chim ưng trắng ở trong thành, mời bách tính đến chiêm ngưỡng, sau đó cho người dụ chim ưng và vô số nam thanh nữ tú cùng xuống mộ đạo công chúa, rồi đột ngột đóng cánh cửa đá ngàn cân. Tất cả mọi người bất phân thiện ác đều bị chôn vùi trong mộ. Lão ta đã dùng cách này để tuẫn táng người sống theo người chết.

    Sau đó, hàng đêm Sở U Vương chỉ cần chợp mắt, là thấy những oan hồn tức tưởi tìm đến. Lão ta hoảng hốt ăn không ngon, ngủ không yên. Vu thuật cho rằng: “Người chết thì cương, cương thì huyết mạch kiệt, kiệt thì tinh lực diệt, diệt thì hình hài ruỗng, ruỗng thì hóa cát bụi.

    Duy chỉ âm hồn không siêu thoát mới hóa thành dị vật, ngụp lặn trong vực sâu cửu tuyền”. Vì sao nói sau khi con người chết, âm hồn sẽ ngụp lặn dưới vực sâu cửu tuyền? Bởi vì thời xưa cho ràng, dưới đất có hoàng tuyền, đó chính là dòng nước ngầm phân bố theo tầng thứ, nơi sâu nhất phải xuyên qua chín dòng suối.

    Lăng mộ Tần Thủy Hoàng được xây dựng ở địa điểm rất sâu, mà căn cứ theo sử sách ghi chép thì “xuyên qua tam tuyền mới đặt quan tài”. Điều đó có nghĩa, chỗ đặt quan tài đã sâu xuyên thấu ba tầng nước ngầm dưới đất. Vực sâu cửu tuyền cũng không hẳn có chín tàng nước ngầm thực sự, mà chín chỉ là con số ám chỉ sự cực điểm, ý muốn nói nơi đó là sâu nhất, không thể sâu thêm nữa, đấy là cõi u minh mà người sống không thể đặt chân đến, chỉ có vong hồn mới tới được mà thôi.

    Trước đây, người ta thường nói: “Nhắm mắt xuôi tay xuống cửu tuyền”, cửu tuyền ở đây chính là vực sâu cửu tuyền. Tương truyền, phía dưới Biển Âm Dụ có một huyệt động, nơi sâu nhất thông trực tiếp với mạch đất. Sở U Vương tin rằng, đó chính là vực sâu cửu tuyền, giờ đây mộng thấy điềm gở, khả năng là ác quỷ từ lòng đất ngoi lên đòi mạng.

    Lão ta ngẫm lại việc ngày trước, trong lòng không khỏi day dứt nỗi ân hận muộn màng, nên ra lệnh cho người mang tất cả những bảo vật quý giá nhất ném xuống lòng động để trấn tà. Nhưng chẳng bao lâu sau, vị Sở U Vương kia vẫn phải về âm ti nộp mạng. Tư Mã Khôi nói với mọi người phân tích của mình: “Nếu lão Sở U Vương kia không quá mê tín những chuyện ma quỷ ấy, thì chưa biết chừng cũng không chóng chết đến vậy, kì thực trên đời làm gì có dị thuật tiên tri? Đó chẳng qua là sợ cái gì thì gặp cái đó, càng lo lắng thì càng dễ xảy ra chuyện, đon giản là ứng với định luật Murphy mà thôi.” Hải ngọng nghiến răng ken két: “Lừa bao nhiêu người xuống mộ đạo, rồi chôn sống làm đồ tuẫn táng.

    Đúng là tàn độc và thất đức hết chỗ nói! Hải ngọng tớ chưa bao giờ gặp thằng cha nào mất nhân tính như lão ta!” Cao Tư Dương nghi rằng, Tư Mã Khôi chỉ xuyên tạc bậy bạ hoặc thêm mắm thêm muối cho thêm phần sinh động chứ chuyện này không thể xảy ra ở ngoài đời thật, bởi cô thấy nhiều tình tiết không hợp tình hợp lý cho lắm.

    Sở U Vương không nỡ ăn cá một mình, mới nhường một nửa cho con gái, đây là tấm lòng thương yêu của người cha đối với con, vậy tại sao con gái lão ta lại tự sát? Trên thế giới này làm gì có người nào ngu đần, khờ dại như thế chứ? Hải ngọng nghe Cao Tư Dương nói, cũng thấy có lý, bỗng nhiên nhớ tới người bố La Vạn Sơn từng phải ngồi tù của mình, anh bất giác thở dài: “Nếu ông già nhà tớ còn sống, thì chắc chắn sẽ đánh sạch bách cả con cá cho mà xem, may ra để phần tớ bộ xương chỏng chơ.

    Nhưng dẫu thế tớ vẫn thấy rất vui…” Thắng Hương Lân lại cảm giác lời Tư Mã Khôi nói không sai, cho dù không trùng khớp toàn bộ, thì cũng không chênh với sự thật là bao. Câu chuyện vẽ trong bích họa đã xảy ra từ hơn hai ngàn năm trước, chế độ và cách nhìn nhận đánh giá sự việc của người cổ đại không giống với người hiện đại chúng ta.

    Thời Xuân Thu Chiến Quốc, người ta rất coi trọng phẩm giá, coi nhẹ sinh tử. Giới quý tộc làm sao chịu ăn thức ăn thừa giống như kẻ nô lệ được? Tư Mã Khôi nói: “Đúng thật mỗi em gái là hiểu ý anh. Thời nhà Thanh cũng cách đây chỉ mấy chục năm thôi, thế mà người phụ nữ vẫn còn phải giữ đạo tam tòng tứ đức, không được ra ngoài nửa bước nữa kìa! Nhưng các cậu xem, bây giờ đại diện đa số phụ nữ cách mạng như cô Khánh(2), chị Giang(3), có bao giờ phải lo lắng vì mấy chuyện nội trợ dưa cà mắm muối vặt vãnh đâu?” [2] Cô Khánh: hình tượng nhân vật phụ nữ hiện đại trong tiểu thuyết “Đấu trí”.

    [3] Chị Giang: là tên gọi thân mật của liệt sĩ cách mạng Giang Trúc Quân. Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi càng lúc càng xa đề, liền nói: “Thực ra, chuyện bích họa có liên qua đến Sở U Vương ăn bạch ngư, tuẫn táng người sống hay không, thì cũng không quan trọng, mà câu đố thực sự nằm ở chiếc hộp đựng hài cốt đằng kia cơ.

    Tôi cảm thấy bộ hài cốt này không phải hài cốt người”. Mọi người vừa thì thầm bàn tán, vừa dò đường xuống sâu hơn, phát hiện nội dung những bức bích họa ở nhiều nơi trong huyệt động, còn sót lại đến tận ngày nay, ngắt quãng lúc có lúc không, đề cập đến nhiều sự vật như “thần linh ma quái, chim trời cá bể, hoa cỏ muông thú” v.

    v.... Mỗi bức đều thể hiện trạng thái thiện ác, số lượng bích họa nhiều không đếm xuể, trong khi đó những bức bích họa có vẽ hình chiếc hộp thì lại vô cùng ít ỏi. Chiếc hộp thần bí dường như là một bảo vật của nước Sở, đồng thời cũng là đồ tế lễ vô cùng quan trọng, mà ngay cả bích họa trong địa cung mộ Sở U Vương cũng có bóng dáng của nó, nhưng lịch sử thì lại không để lại bất kì ghi chép nào.

    Điều này càng khiến nó trở nên quái dị, thần bí hơn. Bên trong chiếc hộp đựng một bộ hài cốt, nếu dựng đứng dậy có lẽ cao gấp rưỡi Sở U Vương. Đúng như lời Thắng Hương Lân nói, bộ hài cốt đó nhìn thế nào cũng không giống hài cốt loài người, xương sọ và hốc mắt rất nổi bật, trên trán mọc thêm một con mắt nằm ngang.

    Chiếc hộp đựng hài cốt cũng không giống hình quan tài, mà dường như từ trong ra ngoài đều ẩn chứa một ý nghĩa nào đó không thể giải đáp. Nhưng nếu bảo bộ hài cốt đó không phải của loài người, thì lúc còn sống, nó là thần thánh phương nào? Vì sao hài cốt của nó lại trở thành vũ khí bí mật của nước Sở? Trong đầu mọi người liên tiếp đặt ra vô số câu hỏi.

    Những nghi vấn này lại không thể tìm thấy lời đáp qua các bức bích họa, mà phong cách bích họa thời Sở vô cùng kì quái, đề tài lại thần bí, nên nhiều nội dung khiến người thời nay không thể lý giải được; có điều, chiếc hộp của Sở U Vương vẫn rất có khả năng thực sự chứa đựng vật này, không chỉ vậy, nó vẫn đang nằm ở nơi sâu trong lòng đất phía dưới Biển Âm Dụ.

    Nhị Học Sinh cho rằng, các chủng loại thực vật cổ đại sinh tồn trên hòn đảo này phần lớn đã chết khô, chỉ giữ nguyên diện mạo ban đầu giống như cái xác, còn các loài thực vật như nấm gỗ hay nấm vân chi, mọc ký sinh trên bề mặt sinh trưởng um tùm rậm rạp khác thường, hiện tượng này thực sự rất khó giải thích.

    Nhưng chẳng lẽ trong chiếc hộp kia tồn tại một thứ sức mạnh thần bí nào đó có thể duy trì sinh mệnh? Càng nghĩ, anh chàng càng phấn khích, cộng thêm mắt mũi tèm nhèm sẵn, Nhị Học Sinh đâm sầm vào một sợi dây leo treo vắt vẻo giữa không trung, khiến suýt nữa ngã lộn cổ khỏi vách đá dựng đứng.

    Anh chàng vội vàng tóm lấy rễ cây bên cạnh, lỡ tay đánh rơi thanh đuốc. Nơi sâu trong địa động bao phủ sương khí dày đặc, lửa đuốc vừa rơi vào màn sương thì lập tức mất ánh sáng chỉ nghe “tõm” một tiếng, như thể bị rơi xuống nước rồi vụt tắt vậy. Tư Mã Khôi nghe động tĩnh, phát hiện mặt nước cách chỗ mọi người đang đứng rất gần, nhiều nhất cũng chỉ mười mấy mét.

    Anh ngạc nhiên tự hỏi: “Phía dưới là đầm nước sao?” Mọi người mò mẫm theo dây leo, đi xuống dưới, xuyên qua màn sương mỏng, họ tiến lại gần đáy hố. Địa thế ở đây lồi lõm, trong rãnh nước trũng đọng lại nhiều vũng tù ngấm nước từ trên cao xuống, có một pho tượng thú đeo khuyên tai vàng nằm nghiêng trong nước, thể tích rất lớn, bề mặt han rỉ và mọc đầy rêu xanh.

    Hai tai giống tai hổ, bị chìm dưới nước một nửa. Trên một gốc cây to nổi xù xì gần đó, vương vãi vô số những cổ vật như đao kiếm, chum đĩa v.v… còn có minh khí đồng xanh đủ các hình thù như chim muông, rồng phượng. Màn sương khí bay là là ở nơi sâu, ánh đèn quặng không thể chiếu sáng đến tận đó được.

    Tư Mã Khôi tránh mặt nước, tung người đáp xuống một cái rễ cây, anh nhớ lúc trước nghe thấy ở đây phát ra âm thanh quái lạ, liền nhắc nhở Cao Tư Dương đang đi ngay phía sau phải thật thận trọng. Cao Tư Dương gật đầu. Để tiện hành động, cô treo đèn cácbua lên cạnh ba lô, vác súng liên thanh M-1887 quan sát địa hình xung quanh, khi vừa mới quay người lại, cũng không biết đã nhìn thấy thứ gì, nhưng suýt nữa thì cô đã thốt lên thành tiếng nên vội vàng giơ tay tự bịt miệng mình lại.

    Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng có sự lạ, liền quay đầu lại nhìn, rồi cũng thấy vô cùng kinh ngạc. Thì ra, phía sau đám dây leo khô thò ra một khuôn mặt người hình vuông, cao chừng ba bốn mét, gương mặt đó vừa hao hao giống người, lại hao hao giống thú, trang trí hoa văn quỳ long với vảy và lông vũ, nét mặt phẫn nộ, đáng sợ, chứa đầy vẻ đe dọa.

    Tư Mã Khôi thấy nó hung dữ nhưng bất quá cũng chỉ là pho tượng mặt quỷ, không phải vật sống thì đâu có gì đáng sợ? Lúc này, Cao Tư Dương mới giơ tay chỉ qua đó, thầm thì: “Anh có nhìn thấy…. cái kia không?” Tư Mã Khôi nhìn theo hướng tay cô chỉ, nhích bên trên pho tượng ma, trong khe giữa tầng nham thạch và đám dây leo, anh thấy có một thứ trắng ởn, hình giống như đầu người, trên mặt cũng có mắt mũi tai miệng, không rõ có tứ chi hay không, nhưng dường như chỉ có mỗi cái đầu nổi bập bềnh giữa không trung.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 3: ĐÈN CHIẾU U


    Toàn thân Tư Mã Khôi nổi da gà, khi anh định thần nhìn lại thì không thấy nó đâu nữa. Cái đầu đột nhiên chìm vào màn sương dày đặc. Anh đuổi theo cái đầu, phạt những sợi dây leo vướng víu trước mặt, phát hiện thấy phía sau bức tường dây leo và cây cổ thụ là một đầm nước tù đen ngòm và lạnh lẽo, mặt nước phẳng lặng, trải rộng mênh mông, căn bản không tìm được chỗ đặt chân.

    Anh thầm nghĩ, chẳng lẽ là “phi đầu man” chăng? Năm xưa, trong rừng rậm Miến Điện, nhiều dân địa phương đã cắt thủ cấp của tù binh, rồi cắm sọ người chết lên một cọc nhọn để nó phong hóa. Nghe nói, những chiếc sọ người này thường bay đi cắn người vào ban đêm, nên ngay cả bọn thực dân Anh Pháp nghe nhắc đến nó cũng phải tái mặt, thế nhưng thời kì Sở quốc cổ vẫn chưa tồn tại truyền thuyết về phi đầu man.

    Cao Tư Dương chưa xác định rõ mục tiêu thì không bao giờ tùy tiện nổ súng. Từ trước đến giờ cô không tin những chuyện ma quỷ, nhưng vật vừa xuất hiện rõ mồn một khi nãy đã khiến cô không biết giải thích thế nào. Lúc này, ba người còn lại cũng lần lượt tụt dây trèo xuống, sau khi nghe kể, ai nấy đều kinh ngạc tột độ.

    Tư Mã Khôi vẫn chưa nhìn kỹ vật đó trông thế nào, liền bảo Nhị Học Sinh châm lửa thắp sáng ngọn đuốc, đoạn quay sang dặn mọi người, nơi đây không có người, vì vậy chỉ cần phát hiện tình hình bất ổn là có thể lập tức nổ súng. Bây giờ, chúng ta đã có súng và lửa phòng thân, nếu quả thực có thứ gì không sạch sẽ, thì nó cũng phải biết điều lùi lại ba bước.

    Mọi người không dám lơ là, dò dẫm từng bước xuống đáy huyệt động, nơi có pho tượng điêu khắc mặt quỷ, để soi đèn cácbua thám thính. Huyệt động này dường như là hố tế lễ, đường kính rộng cả trăm mét, độ sâu cũng tầm trên dưới trăm mét, quy mô khá rộng lớn. Có điều, màn sương mỏng trong động giăng mắc mênh mông, không khí tràn ngập cảm giác âm u, tà mị.

    Đáy hố vô cùng rộng rãi, dây leo quấn quýt bám chặt vách động, ven rìa toàn là vũng tù sâu hút, pho tượng điêu khắc cao lớn sừng sững nhìn xa xăm về phía đối diện, tựa như thể nó đang âm thầm lặng lẽ bảo vệ một vật gì đó trong bóng tối quánh đặc. Các đồ vật bằng vàng, ngọc hoặc đồng xanh đủ mọi hình thù vương vãi khắp nơi, dưới chân cũng có những phiến đá khắc hoa văn mây cuốn, nhưng bọn Tư Mã khôi không thể nhận dạng nó rốt cuộc là vật gì.

    Nhị Học Sinh thấy hai mắt như không đủ dùng, bởi dường như sau mỗi vết tích vô cùng nhỏ bé lại đều ẩn chứa một bí mật ảo diệu vô cùng tận, anh chàng bất giác than: “Sở quốc đã diệt vong hơn hai ngàn năm, những cổ vật này đều bị ngủ quên dưới lòng đất, đúng là trách mình mau thịnh, trách người chóng suy mà….” Hải ngọng cũng cảm khái: “Cánh tay có to khỏe đến đâu cũng chẳng thể ngăn được bánh xe lịch sử lăn về phía trước.

    Chú đừng ngồi đấy lo bò trắng răng nữa”. Đoạn anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng phải cậu bảo huyệt động này thông thẳng xuống mạch đất à? Sao… sao chưa gì đã thấy đến đáy thế này?” Tư Mã Khôi nhướn mắt nhìn tứ phía, xung quanh tuy vẫn có chút ánh sáng yếu ớt phát ra từ những hợp chất hữu cơ, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng hạn chế, còn đèn quặng chỉ đủ soi sáng một một vạt, nếu lờ dờ dò dẫm tìm kiếm, thì không biết bao lâu mới biết rõ tình hình phải đối mặt lúc này, nhưng ngay bây giờ anh cũng không có cách gì khác, đành bảo Hải ngọng: “Chắc còn có huyệt động khác thông tới nơi sâu hơn.

    Chúng ta thà nghi lầm chứ không thể bỏ sót, trước tiên phải nắm rõ địa hình đã “ Mọi người thấy ven rìa đáy động phần lớn đã ngập trong nước tù, bởi vậy cả hội chỉ có thể giẫm lên cây, đi vào giữa. Chưa đi được mấy bước, họ đã thấy trong mặt nước trước mắt lộ ra những vật hình trụ vô cùng kì dị.

    Trụ đá trên nhọn, dưới to, dài ngắn, cao thấp khác nhau, nhưng mỗi trụ đều to bằng cả một vòng tay, bề mặt khắc hoa văn vảy giáp, trình độ điêu khắc vô cùng tinh tế, các trụ đá bao quanh một bệ đá, ngoài ra còn có hai con kì lân nét mặt hung ác men cột bò xuống. Tư Mã Khôi vừa soi đèn quặng vừa nghĩ thầm: “Mấy trụ đá này hình thù rất kì quái, như thể đó là móng vuốt của một pho tượng thú khổng lồ nào đó.

    Pho tượng lại chìm quá nửa dưới nước, thể tích to lớn kinh người, nên phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và lửa đuốc đứng trước nó cũng nhỏ bé chẳng khác nào ánh sáng đom đóm….” Lúc này, trên mặt nước im lìm bỗng nhiên khuấy động một làn sóng nhẹ. Anh lập tức cúi sát đầu nhìn, chỉ thấy dưới đáy nước có một người đang ngẩng mặt nhìn anh chằm chằm.

    Nước ngầm dưới lòng đất trong vắt, nhưng vì nằm trong địa động không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày nên nó trông càng u tối và sâu thẳm hơn. Tư Mã Khôi biết, cái bóng bập bềnh dưới nước chắc chắn không phải bóng mình. Anh bất giác cúi thấp người, chậm chạp tiến gần mặt nước, định bụng quan sát cho rõ hơn.

    Hình dạng cái đầu càng lúc càng rõ nét hơn nó giống như một người lùn màu trắng, nhưng chỉ thấy phần đầu chứ không thấy tứ chi, trông rất giống với cái đầu mà anh thấy trôi dập dềnh sau rặng dây leo khi nãy. Cái đầu bỗng nhiên há ngoác miệng, rồi nhảy vọt từ đáy nước lên không trung, lao bổ vào mặt Tư Mã Khôi.

    Tư Mã Khôi không ngờ vật dưới nước lại biết bay, anh kinh hãi thất sắc, bởi tình thế cấp bách, trong lúc vội vã không kịp nghiêng người né tránh, Tư Mã Khôi đành giương khẩu súng M-1887, cuống quýt giơ báng súng ra đỡ trước mặt, và chỉ nghe “sột” một tiếng, như thể hàm răng sắc nhọn đang liên tiếp cắn vào báng súng gỗ.

    Mọi người nghe động tĩnh, mới phát hiện có một thứ màu trắng bám trên báng súng của Tư Mã Khôi. Vật thể đó hao hao giống sọ người chết, từa tựa như cá, phần đầu giống sọ của người lùn, miệng rộng mang ngắn, trong mồm có vô số răng nhỏ ngọn hoắt xếp mau rít, phần thân sau thuôn dài, mình không có vảy, da giống cá giáp(1), sau mang mọc hai cặp vây cánh giúp chúng rời khỏi mặt nước bay lên không trung.

    Lúc này, “con cá” đang cắn báng súng gỗ của Tư Mã Khôi, hàm răng sắc nhọn cắn ngập sâu vào trong, nó cố giơ vây giương cánh định bay, nhưng do cắn sâu quá nên chịu chết không thoát ra được. Dù vậy, sức mạnh của nó vẫn rất khủng khiếp, khẩu M-l 887 trong tay Tư Mã Khôi suýt chút nữa đã bị nó lôi xuống nước.

    [1] Cá giáp (tên khoa học: Ostracodermi, nghĩa là ‘‘bọc da giáp, bọc da vỏ”, là tên gọi chung để chỉ bất kỳ nhóm cá không hàm (thời nguyên thủy, đã tuyệt chủng) với một số phần nào đó của cơ thể được che phủ bằng một lớp giáp có cấu tạo từ chất xương. Tư Mã Khôi từng xeÂm Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương, cũng thấy loài cá quái dị với hai cặp vây giống như cánh, thì đoán có lẽ nó là giống cá Lycoptera, một loài thuộc bộ cá rồng, đã tuyệt chủng từ cuối kỷ Phấn trắng, chúng chuyên ẩn mình ở những vùng nước tĩnh dưới lòng đất, có khả năng nhảy vọt khỏi mặt nước săn mồi, tập tính hung tàn khát máu.

    Lúc này, anh bỗng nhiên gặp phải một một con cá rồng sờ sờ ngay trước mắt, thì mới biết loài cá này hung hãn, đáng sợ đến thế. Nếu khi nãy anh không kịp thời giơ súng che chắn thì đã bị nó cắn rách một mảng thịt lớn rồi. Tư Mã Khôi gí báng súng xuống đất, gọi Nhị Học Sinh lấy mũi giáo gỗ đâm thủng con cá rồng, rồi dùng hết sức gỡ nó ra.

    Thắng Hương Lân thấy cảnh ấy, cô lập tức nảy sinh một dự cảm không lành: “Dưới đáy huyệt động này có loài cá ăn thịt người sinh sống, chứng tỏ nó không phải là vùng nước chết….” Lời còn chưa dứt thì một loạt cá vảy rồng từ vùng nước xa đã “chiu” một cái nhảy vọt lên không trung.

    Lúc này, mọi người đã có sự phòng bị trước, nên Hải ngọng lập tức giương súng bóp cò, phạm vi sát thương của đạn số 8 rất lớn, con cá rồng đâm vào họng súng liền tan xác thành mảnh nhỏ ngay tức thì. Lúc này, vô số cá rồng từ đáy nước bơi lên. Những con cá Lycoptera bị dòng nước cuốn trôi xuống đây, chúng bắt phù du làm thức ăn.

    Loài cá này đẻ trứng rất nhanh, không ngừng sinh sôi nảy nở thần tốc, trong khi đó số lượng phù du lại có hạn, nên tất cả sinh linh khác trong động đều đã bị chúng tiêu diệt sạch, bởi vậy lúc nào chúng cũng trong trạng thái đói khát cực độ. Giờ đây, chúng tụ tập thành bầy thành đàn bơi trên mặt nước, rồi lao bổ vào hội Tư Mã Khôi tấn công như vũ bão.

    Mọi người đang đứng trên gốc cây ẩm ướt, chật chội, tứ bề trống trải, chỉ thấy bọn cá Lycoptera bay vù vù đến từ bốn phía. Sự cố xảy ra quá bất ngờ, cả hội chỉ còn biết gắng sức phòng ngự, con ở xa thì bắn, con ở gần thì chặn lại bằng báng súng. Cao Tư Dương không hổ danh là xạ thủ bách phát bách trúng, cô liên tiếp hạ gục mấy con cá bay ăn thịt người.

    Cao Tư Dương đang chuẩn bị nạp thêm đạn, thì phát hiện có thứ gì đâm sầm sau lưng, trọng lượng ba lô tăng lên đột biến. Cô đổ nhào người về phía trước, suýt chút trượt chân xuống nước, quay đầu lại nhìn thì thấy hai con cá đang giằng xé ba lô của cô, thân mình chúng ngoáy loạn xạ, nhất quyết không chịu nhả ra, trong mồm chúng liên tục phát ra những hỗn âm đáng sợ.

    Tư Mã Khôi phát hiện Cao Tư Dương gặp nguy cấp, anh tiện tay rút dao săn chém mạnh xuống, lập tức phanh thây hai con cá ăn thịt người thành bốn mảnh, nhưng cũng lúc này anh lại bị lộ sơ hở. Tư Mã Khôi chỉ cảm thấy cánh tay nhói một cái; tuy anh tránh né rất mau lẹ, nhưng con cá rồng thần tốc liệng bên cạnh vẫn kịp xé rách một miếng thịt, máu chảy ra không ngớt.

    Tư Mã Khôi đang bận giao chiến với lũ cá rồng, không còn thời gian để ý vết thương. Máu tươi của cá Lycoptera và máu người hòa trộn vào nhau, phút chốc đã nhuốm đỏ nửa quãng mặt nước. Mọi người còn định dùng lại cách cũ, dùng lửa đuốc giải vây, ngặt nỗi không khí trong động vô cùng ẩm ướt, vả lại sinh vật sống dưới nước chưa bao giờ sợ lửa, nếu chỉ dựa vào lửa và súng thì không thể ngăn cản được thế tấn công của chúng.

    Đúng lúc này, Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy mắt mình tối sầm lại, không rõ đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet bị thứ gì che mất ánh sáng. Anh lấy tay lau, thấy tay mình dính một thứ dịch ẩm ướt, dấp dính, đỏ tươi như máu. Anh thầm nghĩ chắc phải có một lượng máu rất lớn rơi từ trên cao xuống đây.

    Càng nghĩ Tư Mã Khôi càng kinh hãi: “Sao trên đó có nhiều máu thế nhỉ?”. Anh nghiêng người né tránh một con cá bay ăn thịt người đang nhào tới trước mặt, thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy trong bóng tối hun hút có một vật thể khổng lồ nằm vắt ngang thân mình ở trên cao.

    Nó thò cái đầu hình tam giác, nom vừa giống đầu mãng xà lại vừa giống đầu kì nhông, đầu to đuôi nhỏ, mình dẹt, bốn chân thô ráp lực lưỡng. Nó sở hữu tất cả đặc điểm nổi bật của động vật bò sát, có điều Tư Mã Khôi vẫn chưa nhận ra nó thuộc nhóm nào trong nhóm thằn lằn giun, thằn lằn Eryops hay nhóm giáp đầu cá, vì tuy nó vẫn còn sống nhưng khắp người nhầy nhụa máu tươi, già nửa xương hàm và bộ răng sắc nhọn lởm chởm.

    Thâin hình đồ sộ của nó trông có vẻ giống với loài giáp đầu cá hơn. Con giáp đầu cá có bộ răng cấu tạo hình mê lộ này có lẽ đã trườn qua khe đá, lớ ngớ thế nào chui ngay xuống đáy động, rồi không may bị bọn cá bay Lycoptera tấn công. May nhờ lớp da cứng như thép nguội, nên nó mới không bị ăn tươi nuốt sống thành bộ xương trắng, đồng thời còn kịp trèo lên cây cao lánh nạn.

    Tuy nó tạm thời thoát khỏi vòng truy đuổi, nhưng vết thương quá nặng, nên có lẽ không sống nổi mấy khắc nữa. Có điều, bọn cổ sinh vật toàn một lũ đầu óc ngu si, tứ chi phát triển. Nó đang đói đỏ mắt, lúc này lại trông thấy có người ngang qua, liền bám bốn chân vào dây leo, thò người xuống dưới.

    Máu tươi chảy ròng ròng từ cái đầu hình tam giác chỉ còn sót lại một nửa, xuống mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi, nên trong chốc lát, cả chiếc mũ đã bị nhuốm đỏ. Tư Mã Khôi đột nhiên mặt đối mặt với con cá giáp đầu, chỗ vòng sáng ánh đèn quặng rọi đến chính là đám xương hàm nhoe nhoét máu, còn bộ răng sắc nhọn kết cấu mê lộ cách anh chưa đầy nửa mét.

    Trong lúc hốt hoảng, Tư Mã Khôi không kịp suy nghĩ gì, lập tức rút khẩu M-1887 trong tay ra bắn liên thanh mấy phát. Bóng tối mịt mùng bủa vây, dây leo che chắn chằng chịt, anh cũng không rõ mình bắn trúng chỗ nào trên người nó, chỉ thấy cả cơ thể khổng lồ của con giáp đầu cá lật nhào xuống đất, giãy giụa rồi chìm nhanh xuống nước.

    Cái đuôi to dài và đầy sức mạnh quét ngang qua gốc cây, khiến Tư Mã Khôi ngã lộn đầu xuống. Cả gốc cây to một người ôm không xuể bị nó quật đứt đôi. Bầy cá Lycoptera gần đó cũng hoảng sợ tản ra tứ phía. Nhân cơ hội này, Hải ngọng lần sờ sợi dây thừng gắn móc câu dắt sau người, quăng lên trụ đá.

    Nhờ mọi người yểm trợ, anh gắng giật dây thừng, khiến gốc cây bị gãy dưới chân di chuyển dần về phía bệ đá. Mọi người vượt sông lên mặt đất. Lúc này, cả hội đã có trụ đá sừng sững làm điểm tựa, thêm vào đó, dẫu bọn cá Lycoptera biết bay, nhưng chướng ngại vật với kết cấu phức tạp xung quanh cũng khiến khả năng tấn công của chúng bi hạn chế đi rất nhiều.

    Bởi vậy, mọi người cũng tạm thời an toàn hơn đôi chút. Mọi người tựa vào cột đá thở hổn hển, nghe văng vẳng bên tai tiếng giãy giụa đạp nước trong bóng tối, con cá giáp đầu dài năm, sáu mét, nặng chừng nửa tấn nhanh chóng bị bầy cá gặm thành bộ xương, chắc chẳng còn lấy nửa miếng thịt, cứ nghĩ đến cảnh tượng đó mà mặt mày ai nấy tái mét như sắp chết.

    Không ai dám thò đầu nhìn xuống. Vết thương trên cánh tay Tư Mã Khôi tuy chảy máu khá nhiều nhưng chưa sâu đến tận xương, coi như số anh vẫn còn may chán. Anh để Cao Tư Dương băng bó sơ cứu, rồi sau đó có thể cử động như bình thường. Hải ngọng nói: “Vết thương bé tí thế kia thì ăn thua gì, chẳng qua giống muỗi cắn ấy mà.

    Nếu khi nãy cậu rơi xuống nước thật thì bây giờ đã thành chồn quay, trụi mẹ cả lông lẫn tóc rồi!” Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự thì thở phào nhẹ nhõm. Cô vặn nắp bình nước quân dụng, rửa vết máu dính trên cổ áo và mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi. Trong lúc đó, Tư Mã Khôi vẫn để ý quan sát bệ đá, anh phát hiện, bên cạnh bệ đá có một vật thể cấu tạo hình cây bằng đồng, trông có vẻ loang lổ, cũ kỹ.

    Trên mỗi cành lại cắm một vật trông to như cái chum lớn, trên thân chum đúc lỗ mẫu tử, trang trí họa tiết rồng phượng. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy vật này trong bích họa, anh biết đây chính là đèn đồng chuyên dùng soi sáng dưới lòng đất, thời cổ gọi là “đèn chiếu u”. Tư Mã Khôi lập tức đứng dậy, rút nắp đồng trên lỗ mẫu tử, gí đuốc vào thử xem đèn còn phát sáng được nữa hay không.

    Nghe nói, thời Xuân Thu Chiến Quốc có một loại nhiên liệu thắp sáng quanh năm không tắt, gọi là “long tùy”, loại dầu này được đổ vào đèn đồng chiếu u, loại đèn chuyên dùng cho các vương hầu xây dựng lăng tẩm dưới lòng đất, nó còn hiếm hơn cả nước mắt người cá rơi xuống đất kết thành ngọc, có điều nguồn gốc và thành phần thực sự thì từ lâu đã không còn ai biết nữa.

    Có lẽ, trong chiếc đèn đồng hình cây chứa loại dầu long tủy này. Lúc này, sau khi được mồi lửa, nó lập tức bốc cháy phừng phừng, ánh sáng rực rỡ khác thường, soi rõ phạm vi hơn mấy chục bước. Khung cảnh trước mắt bỗng dưng vụt sáng, cả hội thấy mấy trụ đá ngay bên cạnh đúng là bàn tay xòe ra và hướng lên cao của con thú đá nào đó, ngọn đèn đồng hình cây, cao chừng sáu bảy mét, cũng chỉ là vật nằm trong tay nó.

    Thật khó tưởng tượng nổi thân mình con thú khổng lồ này to đến mức nào. Tư Mã Khôi đứng cạnh cây đèn đồng, anh thò tay ra sờ vách đá lạnh lẽo, rồi chăm chú quan sát và phát hiện: đó chính là chiếc hộp đá chữ nhật khắc đầy những hình thù ma quái, nó như quả núi đè nặng trên thân con thú đá ôm cây đèn đồng.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 4: QUÁI VẬT THỜI GIAN


    Người xưa lợi dụng đá trầm tích dưới địa tầng, gia công đục đẽo thành chiếc hộp đá, nó hòa thành một thể với tượng linh thú. Bề mặt hộp nổi chi chít vết rạn nứt và bị rêu xanh, dây leo che phủ, khiến nó mang một màu xanh thẫm u uất. Cả hội đứng tại chỗ nên chỉ có thể quan sát một phần nhỏ của hộp từ một góc độ nhất định, vậy mà vẫn thấy ở đó toát ra vẻ thần bí đáng kinh ngạc.

    Nhị Học Sinh lau lớp bụi trên cặp kính, mở to hai mắt nhìn thật kỹ. Anh chàng ngơ ngẩn lẩm bẩm: “Đây là chiếc hộp của Sở U Vương sao?” Tư Mã Khôi cũng cảm thấy rất đỗi ngạc nhiên. Chiếc hộp đá trông có vẻ rỗng ruột, bên trong chắc dùng để chứa đồ, nhưng trên thế giới làm gì có chiếc hộp nào lại khổng lồ dường vậy? Vả lại, nó cũng không giống với quan tài đá chứa xác chết.

    Anh bỗng nhiên nhớ lại bức bích họa khi trước từng xem qua trong huyệt động. Trong bức bích họa cổ mà tiền nhân để lại từ hơn hai ngàn năm trước thường xuất hiện một con vật kì dị trông hao hao con rùa đầu rồng, có đầu nhưng không có mặt, tay cầm nến đứng giữa cõi hỗn độn, lưng cõng bánh xe.

    Nó có dáng dấp tương tự với con rùa cõng bia, có lẽ nó chính là con thú kì dị nằm bên dưới chiếc hộp đá. Chỉ có điều, anh không ngờ nó lại to lớn đến vậy. Thắng Hương Lân nói: “Thời cổ đại có truyền thuyết ‘hàm tải’. Con quái vật bò trong cõi hỗn độn tên là ‘tài’, chiếc hộp nó cõng trên lưng là ‘hàm’.” Hải ngọng chưa hiểu ý cô, ngẩn người hỏi: “Tải gì? Tải vải hay tải bã mía?”, Thắng Hương Lân giải thích: “Là tải trọng chứ không phải tải bã mía hay tải vải.

    Nó chỉ là con quái vật tồn tại trong truyền thuyết, hoặc có thể nói nó là một loài linh thú, hình dạng tương tự con rùa đầu rồng, lưng cõng thiên địa vạn vật, di chuyển từ quá khứ đến tương lai. Giải thích theo quan điểm hiện tại, thì ‘tải’ đại diện cho sự lý giải của người cổ đại về thời gian.

    Một ‘tải’ tương đương với một năm. Người cổ đại rất sùng tín chuyện thần quỷ, họ cho rằng, sở dĩ thời gian không ngừng trôi chảy về phía trước, và không thể quay ngược trở lại, là vì có một con quái vật cõng thiên địa càn khôn trên lưng, không ngừng bò về phía trước giữa cõi hỗn độn, chính bởi vậy, thời gian quá khứ vĩnh viễn chỉ là quá khứ.” Nhị Học Sinh gật gù như thể vừa giác ngộ ra chân lý: “Trước đây, tôi vẫn thường nghe người ta nói cái gì mà ‘ngàn năm vạn tải’, nhưng chỉ nghe thế thì biết thế thôi, chứ chưa bao giờ ngẫm nghĩ xem câu đó có ý nghĩa gì.

    Thì ra, nó còn ẩn chứa một điển cố như vậy….” Tư Mã Khôi nghĩ, quái vật “tải” không hề tồn tại trong cõi đời, đó chỉ là sản phẩm do người cổ đại tưởng tượng ra, nhưng nó tượng trưng cho sức mạnh vô hình vận hành vạn vật, còn chiếc hộp đá nó cõng trên lưng khắc đầy hình vẽ ma quái, lại được giấu kín bên dưới huyệt động thông xuống mạch đất núi Âm Sơn, bởi vậy, nó chắc chắn phải là vật vô cùng quan trọng.

    Có lẽ chiếc hộp của Sở U Vương cũng nằm trong này. Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Đội khảo cổ các anh muốn tìm nhật quỹ dưới lòng đất thì liên quan gì đến chiếc hộp đá âm khí mù mịt đó?” Hiện giờ, Tư Mã Khôi vẫn chưa thể suy đoán trong hộp đá có gì, mà chỉ tạm thời nhận định: thứ bên trong ẩn giấu con đường tiếp tục thâm nhập xuống lòng đất.

    Tư Mã Khôi lập tức bảo Nhị Học Sinh gom hết số long tủy trong đèn, đổ vào mấy chiếc hộp trước đây đựng dầu thông để làm nhiên liệu bổ sung cho đầu đuốc, sau đó lợi dụng đám dây leo và gốc cây rậm rạp làm vật yểm trợ, cả hội dò dẫm ra rìa vách hộp ở gần đó. Tư Mã Khôi phán đoán, chắc chắn còn nhiều cụm đèn cây khác nữa nằm rải rác dưới đáy huyệt động có điều phạm vi hành động có hạn, nên anh không thể thắp sáng tất cả các ngọn đèn.

    Mọi người chỉ trang bị những thiết bị cơ bản nhất như súng săn, đuốc, la bàn mà thôi nhưng trong huyệt động dưới lòng đất tàn khốc, phức tạp điều kiện khắc nghiệt, thì những vật đó lại phát huy tác dụng thực tế lớn hơn nhiều so với các máy móc tiên tiến khác. Lúc này, cả hội đã có vách tường làm điểm tựa, nên cũng không sợ lũ cá Lycoptera dưới nước đột ngột bay lên tấn công nữa.

    Có điều, không hiểu sao mặt nước dưới vách đá lại im ắng lạ lùng. Tư Mã Khôi đi sau cùng, lòng thấy hơi băn khoăn, bỗng nhiên một cơn gió độc thổi thốc đến từ phía sau, anh chưa kịp phản ứng gì thì nó đã áp sát ngay sau lưng, rồi trong tích tắc hai chân anh nhấc khỏi mặt đất và bất ngờ bị một sức mạnh khủng khiếp kéo lên không trung.

    Tư Mã Khôi biết dưới lòng đất có rất nhiều sinh vật săn mồi bị giam hãm, nên bất kể thứ anh đang phải đối đầu là gì, thì chỉ riêng sức mạnh nhấc bổng một người sống lên hẳn mặt đất, cũng đủ biết thân hình nó đồ sộ cỡ nào. May mà anh còn có ba lô che chắn, nhưng đã bị nó kéo đi thì đừng mong sống sót.

    Lúc này, tuy đang bị kẻ địch khống chế, nhưng anh không hề bấn loạn; khi thấy mình không thể quay người được nữa, anh liền chuyển họng súng chĩa về phía sau và bóp cò. Không rõ viên đạn có ngắm trúng mục tiêu hay không, nhưng anh chỉ nghe thấy hình như vật đang quắp ba lô của mình cất tiếng kêu the thé, âm thanh như thể tiếng rồng gầm, rõ ràng nó đã bị kinh động không nhỏ.

    Tư Mã Khôi chưa kịp lên nòng lần nữa, thì đã thấy cơ thể mình bỗng nhiên chìm xuống. Thì ra anh bị rơi từ không trung xuống. Tư Mã Khôi vội vàng lấy hai tay ôm đầu, hai khuỷu tay kẹp chặt đầu gối đề phòng gãy xương khi ngã xuống đất. Đây chính là điểm khác biệt giữa người biết ngã và người không biết ngã.

    Sau khi chạm đất, anh thuận thế lăn mấy vòng rồi mới đứng dậy, vì vậy ngoại trừ chịu đau đớn ngoài da, anh không bị vết thương nặng nào. Do sự việc xảy ra quá đột ngột, nên những người còn lại nghe thấy tiếng súng mới phát hiện được tình hình bất thường. Khu vực phía dưới chiếc hộp đá hoàn toàn nằm trong phạm vi chiếu sáng của đèn đồng.

    Cả hội chỉ nhìn thấy có một vật thể hao hao giống loài thằn lằn bay vừa xẹt qua. Con vật này dài chừng nửa mét, móng rồng, mỏ chim, cánh ngắn, đuôi dài. Nó sải cánh không một tiếng động, nháy mắt đã mất dạng trong bóng đêm. Mọi người sợ hãi thất sắc, vội vàng kéo Tư Mã Khôi nấp vào vách hộp.

    Nhị Học Sinh lại châm thêm hai ngọn đuốc nữa đề phòng có biến. Tư Mã Khôi đau đến mức phải há miệng kêu, thấy ba lô vải buồm đeo sau lưng bị đục thủng mấy chỗ, anh bất giác ớn lạnh. Tư Mã Khôi lục ba lô lấy băng dính, bịt các chỗ vừa bị rách lại. Cao Tư Dương nói: “Con vật này xuất quỷ nhập thần, chúng ta rất khó phòng bị.

    Hình như nó là một con mãnh điểu thì phải?” Nhị Học Sinh phân tích cho Cao Tư Dương nghe: “Về mặt cấu tạo sinh học mà nói thì… con vật này cánh ngắn, đuôi dài, nên nó không thể bay một cách đúng nghĩa, nên khi nãy nó chỉ trượt giữa không trung nhờ lực quán tính thúc đẩy sau khi chạy nhanh mà thôi.

    Móng vuốt của nó rất sắc và cứng, chắc nó có thể leo trèo giữa các vách động dựng đứng. Vì vậy, chúng ta không thể gọi nó là chim được”. Hải ngọng phát biểu: “Tôi đoán, quá nửa là vịt tuyết núi Himalaya, nghe nói giống này có thể quắp nguyên một con bò đực bay vèo lên trời cơ đấy!” Thắng Hương Lân nói: “Nhưng đây là rốn núi sâu phía tây Hồ Nam, cách dãy Himalaya bao xa anh có biết không? Vả lại trong huyệt động dưới lòng đất thì lấy ra sinh vật sống trong tuyết chứ?” Tư Mã Khôi đón lấy bó đuốc từ tay Nhị Học Sinh nói: “Nhận định của Nhị Học Sinh nghe còn có vẻ đáng tin cậy.

    Con vật đó nửa giống rồng, nửa giống chim, có lẽ là một chi của loài chim cổ, sở dĩ nó có thể bay mà không hề phát ra tiếng động là nhờ vào khung xương rỗng. Loài này quanh năm cư ngụ dưới lòng đất, hai mắt bị thoái hóa nên không sợ ánh lửa. Khu vực gần đây không có nơi nào an toàn, nguy hiểm và những nhân tố bất ngờ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.

    Tốt nhất chúng ta nên tìm đường chui vào hộp đá rồi tiếp tục bàn bạc sau”. Mọi người không dám chậm trễ, lập tức dò dẫm theo chân tường tiến về phía trước. Hiềm nỗi, tuy các vết nứt trên vách đá rất nhiều nhưng lại vô cùng chật hẹp, những nơi đủ rộng cho người chui lọt thì toàn là đường cụt, mãi khi mò đến chỗ ánh sáng đèn đồng không chiếu tới được, cả hội mới phát hiện được vách đá có phần lõm vào trong.

    Tư Mã Khôi mừng rỡ soi đuốc vào nhìn cho rõ, chỉ thấy ở đó có một huyệt động, phần bao quanh phía ngoài là bức phù điêu nổi, trông như thể một khuôn mặt thú, cái miệng chính là cửa động rộng lớn khiếp người, nó xuyên thẳng vào vách hộp dày và nặng trịch, nhưng hướng chạy dích dắc không theo quy tắc, hơn nữa lại đen ngòm, sâu hoắm, như thể bị đầu con giao long đâm sầm vào, vỡ thành cái hang vậy.

    Thế nhưng không ai nhìn thấy chỗ giao long chui ra ở đâu, còn vách đá hai bên thì chạm khắc vô số hình vẽ các con thú vừa giống rồng lại vừa giống hổ, cao gấp rưỡi người thường. Dưới sự phản chiếu của ánh đèn chúng như những chiếc bóng thần bí. Tư Mã khôi bảo Hải ngọng cầm súng đi sau cùng, còn mình ném đá thăm dò.

    Anh thấy phía trong im phăng phắc không một tiếng động, liền bắt đầu đi vào cửa động trên hộp đá, những người còn lại cũng lục tục chui theo. Những vết tích cổ xưa giữa các vách đá không hề bị tuế nguyệt xóa nhòa, ngược lại còn là một mắt xích bị thất lạc trong lịch sử.

    Chỗ nào cũng nhuốm đầy màu sắc âm u, thần bí. Luồng gió âm lạnh lẽo thổi từ nơi sâu trong động đá ùa tới, khiến mọi người ớn lạnh tim gan. Cả hội không biết huyệt động sâu đến mức nào, nên sau khi bước vào, ai nấy đều bất giác đi chậm lại. Tư Mã Khôi lấy dao xén một mảng rêu dính trên tường, anh nhận thấy trên bức tượng đá, ngoại trừ chạm hình mãnh thú, ác điểu ra, thì còn khắc rất nhiều cảnh tượng tế lễ thần quỷ của Sở U Vương, bên cạnh có chú thích bằng chữ triện cổ hình chân chim.

    Tuy trong tay Tư Mã Khôi có cuốn sổ giải mã chữ triện cổ triều Hạ, nhưng đối với chữ triện thời Xuân Thu Chiến Quốc thì anh hoàn toàn mù tịt, vả lại cũng không thể kiên nhẫn mày mò từng chữ. Chỉ có điều, Tư Mã Khôi thấy huyệt động này thông thẳng vào trong hộp đá mà không hề bị bất cứ vật gì che chắn, nên trong long cũng cảm thấy hơi bất ngờ.

    Có thể nói, cái hộp khổng lồ chở “tải” bên trên, chính là hạt nhân mọi bí mật của vu sư nước Sở, trong đó chắc hẳn phải có rất nhiều báu vật vô giá chưa hề được công bố trên thế giới, nên sao lại có thể dễ dàng để người đời ra vào như vậy được? Chẳng lẽ bên trong chiếc hộp này lại cài bẫy gì sao? Nhị Học Sinh nhớ lại chuyện Sở U Vương tuẫn táng người sống, liền nhắc mọi người: “Liệu trong hộp đá có hệ thống ngầm gì không nhỉ? Ngộ nhỡ chạm vào nút kích hoạt, thì đá đoạn long sẽ hạ xuống, nhốt sống chúng ta ở trong này mất thôi!” Thắng Hương Lân nói: “Nơi này bị phong bế hơn hai ngàn năm dưới Biển Âm Dụ, cho dù thực sự tồn tại hệ thống kiểu như đá đoạn long, thì nó cũng mất tác dụng từ lâu rồi.

    Có điều, người Sở rất tin tưởng vào sức mạnh của ma quỷ. Tương truyền, khi quân Tần nam tiến tấn công nước Sở, chỉ một trận đã đánh cho quân Sở tan tác. Sở Vương lúc đó chỉ mải chạm đục rất nhiều tượng đá, vì ông ta muốn chiêu hồn các tướng sĩ đã tử trận dưới âm gian trở về chống Tần, bởi vậy so với lo sợ các cơ quan mai phục, có lẽ chúng ta nên đề phòng thứ khác còn hon”.

    Nhị Học Sinh kinh ngạc hỏi: “Thứ khác…. là thứ gì vậy? Chẳng lẽ có âm hồn ngàn năm không siêu thoát thật sao?”. Nhị Học Sinh không sợ ma quỷ, vì không ai có thể xác thực chuyện ma quỷ, nhưng anh chàng rất tò mò về chuyện mà Tư Mã Khôi vừa nhắc đến. Từ cổ chí kim đã có vô số nhà khảo cổ học, địa chất học và các tổ chức nghiên cứu hiện tượng thần bí, họ đều vắt nát óc tìm cách thăm dò chân tướng ẩn giấu bên trong, nhưng dường như tất cả đều bất lực.

    Hết tốp thám hiểm này đến đoàn thám hiểm khác đã bị thu hút bởi những ẩn số nặng mùi chết chóc, nhưng không một ai đủ sức chạm vào bí mật của nó. Loài người là loài động vật đầy máu hiếu kì bẩm sinh, càng đối diện với những sự vật không thể giải thích, thì con người lại càng muốn làm sáng tỏ.

    Giờ đây, đội khảo cổ của Tư Mã Khôi, gồm hai kẻ liều mạng từng tham gia chiến tranh du kích ở Miến Điện, một cô nhân viên trắc họa địa chất, một cô sinh viên trường quấn y, thêm một anh thanh niên trí thức nữa, họ có cơ hội tiếp cận nơi mà vĩnh viễn không bao giờ đến được hay không? Tư Mã Khôi thấy trạng thái tâm lý của Nhị Học Sinh có vẻ bất ổn, liền nói: “Đừng nghĩ nhiều thế! Chú chỉ cần nghĩ là: ‘trên vai đang gánh mỗi hai hạt vừng’ thì chẳng có gì đáng để ý nữa cả”.

    Vách hộp dày đến mức khiến người ta ngỡ bên trong không tồn tại không gian. Hai bên đều có một cây trụ đá, chạm khắc hình thần linh trấn ma trừ quỷ, mình người mặt thú, nhuốm đầy màu sắc phù thủy đậm nét, còn đi vào sâu hơn thì thấy bên trong là không gian tối tăm nhưng rộng rãi.

    Tư Mã Khôi lấy tay ra hiệu cho mọi người dừng lại. Anh bước lên trước giơ cao đuốc soi sáng xung quanh, thì thấy phía dưới trụ đá có mấy thi thể cổ đại đeo mặt nạ bàng đồng xanh, mũ cao áo dài đã bám đầy đất bụi. Tuy bảo đó là thi thể, nhưng thực tế chỉ còn sót lại hài cốt mà thôi, nhưng trên chiếc mặt nạ quái dị bằng đồng xanh có hai quầng mắt lõm sâu vào trong, trong khi con ngươi lại lồi hẳn ra ngoài, phần môi mỏng và khẽ hé mở, còn hằn cả vết khâu, khiến người ta có cảm giác họ có thể đột nhiên đứng dậy bất cứ lúc nào, rồi gỡ mặt nạ xuống, kể cho người sống nghe những câu chuyện khó tin bằng thứ ngôn ngữ không ai hiểu.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 5: BẦU TRỜI TRONG LÒNG ĐẤT


    Tư Mã Khôi thấy mấy thi thể trước mắt, hầu như đều là các vu sư của Sở quốc. Căn cứ theo tình hình mô tả trên bích họa vẽ trong động, khi Sở U Vương gieo quẻ hỏi hung cát, thì vị vu sư đeo mặt nạ đồng xanh sẽ nói cho Sở U Vương biết những chuyện xuất hiện trong ảo giác của mình, Sở U Vương sẽ lấy đó làm cơ sở để đưa ra phán quyết cuối cùng.

    Thời kì Xuân Thu Chiến Quốc sùng tín quỷ thần, các vu sư không chỉ hiểu người, mà còn phải thấu hiểu ma quỷ, và chỉ họ mới có khả năng giao tiếp với những sức mạnh thần bí vô hình, bởi vậy, họ có đia vị tối cao trong xã hội. Chỉ cần một vài lời nói của họ cũng đủ ảnh hưởng đến sự hưng suy cửa cả một vương triều.

    Những cái xác cổ này đã xuất hiện trong hộp đá, chứng tỏ chiếc hộp của Sở U Vương chắc chắn ở trong này. Hải ngọng lẩm bẩm một mình: “Chết thì đã chết rồi, còn bày đặt đeo mặt nạ làm chó gì, nhìn phát ớn cả người…”. Nói xong, anh định thò tay gỡ mặt nạ ra, nhưng mấy thi thể đó đã mục nát từ bao giờ, nên vừa chạm tay một cái đã tan thành cát bụi.

    Chiếc mặt nạ bằng đồng xanh rơi “keng” một cái xuống đất, âm thanh vang lên đột ngột khiến anh giật nảy mình, vội vàng nhảy giật lùi ra sau tránh. Cao Tư Dương suýt chút bị anh xô phải, cô bực mình mắng: “Tay chân lóng nga lóng ngóng thế kia mà cũng tự xưng thành viên đội khảo cổ cơ đấy!” Hải ngọng không chịu kém miếng, đáp trả: “Đội khảo cổ là cái miếu nào mà dám chứa Hải ngọng tôi hả? Sao cô không tìm hiểu trước rồi hẵng phát biểu…” Tư Mã Khôi biết Hảì ngọng lại định khua môi múa mép thổi phồng tiểu sử bản thân, dốc hết những sự tích anh hùng vớ vẩn từ đời tám hoánh nào ra kể lể.

    Trước khi Hải ngọng kịp bật đài, anh phải nhanh chóng dập tắt ngay cơ hội đó, nếu không, anh chàng sẽ huyên thuyên đến tận sáng mai vẫn chưa muốn dừng, Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền cắt ngang câu chuyện của hai người: “Tôi thấy gió lạnh thổi từ sâu trong hộp đá ra, tình hình trong ấy chưa xác đinh rõ thế nào.

    Mọi người phải chú ý hơn mới được, đừng để âm hồn ác quỷ kéo tuột đi đấy”. Nói xong, anh dò đẫm vách đá, đi sâu dần vào phía trong. Xuyên qua huyệt động giữa các vách hộp, địa thế đột nhiên trở nên rộng rãi, địa hình trên lõm dưới lún. Phần giữa tầng nham thạch chạm khắc thành hình vòng cung, với nhiều “chữ tranh”, khắc chi chít khắp không gian trên đầu và dưới chân.

    “Chữ tranh” là hình thức dùng các hình vẽ liên tiếp nối với nhau để ghi chép một nội dung sự việc nào đó thay thế cho chữ viết, thường được sử dụng để giao lưu với cõi u minh, bởi văn bản soạn ra không phải để cho người sống đọc, nên người cổ đại mới viết bằng “chữ tranh” chứ không viết bằng chữ triện.

    Hải ngọng khi nãy chưa nói sướng mồm, anh lững thững đi đằng sau định tìm lời quay về chủ đề khi nãy, nhưng nhìn thấy địa hình kì quái, thì liền quên khuấy mất chuyện lúc trước. Anh ngạc nhiên hỏi: “Ớ… tớ thấy bọn người Sở có vẻ rất tinh thông mấy món này nhỉ! Thiết kế hình dạng theo kiểu ngoài vuông trong tròn thế này là trò quái gì không biết?” Tư Mã Khôi nói: “Thời xưa, người ta quan niệm trời tròn đất vuông.

    Chiếc hộp này trong tròn ngoài vuông, chắc muốn ám chỉ bầu trời nằm trong lòng đất, nhưng bầu trời làm sao có thể nằm trong lòng đất được chứ?” Thắng Hương Lân giải thích: “Phần lớn chiếc hộp ‘hàm’ mà con quái vật ‘tải’ cõng trên lưng đều có hình dạng bánh xe tròn, vì trời nằm trong đất.

    Nhưng hình vuông nằm ngoài, hình tròn nằm trong thì đúng là hiếm gặp, có lẽ người xưa muốn ẩn dụ về thế giới dưới lòng đất thì phải”. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, anh thấy phân tích của cô rất hợp lý: dưới lớp vỏ Trái đất tồn tại một noi gọi là “không động” sâu thăm thẳm và rộng vô biên, nếu so sánh với nó thì kính viễn vọng Lopnor mà đội khảo cổ từng thâm nhập, quả thực chỉ là hạt cát nhỏ bé trong biển cát bao la.

    Nếu dùng hình ảnh “trời” để hình dung về nó thì cũng không ngoa. Nhị Học Sinh hỏi: “Không rõ cái hộp đá mà Sở U Vương để lại có ý nghĩa cụ thể gì nhỉ?” Tư Mã Khôi đáp: “Chỗ này toàn là tượng điêu khắc bằng đá hoặc bích họa khắc trên vách tường, hầu hết nội dung mô tả những thông tin mà Sở U Vương muốn truyền đạt đến thần quỷ.

    Có điều chúng ta như thằng mù đọc chữ, chẳng hiểu nội dung nó nói gì, chi bằng thắp thêm ít đuốc nữa đi loanh quanh xem có tìm thấy gì khác không”. Mọi người tiết kiệm pin nên châm thêm ba cây đuốc nữa, không dám thắp thêm đèn quặng. Dưới ánh lửa chập chòm lúc sáng lúc tối, cả hội tiếp tục đi về phía trước tìm kiếm.

    Mỗi hướng trong hộp đá đều có cửa động. Bên trong động, ngoại trừ những bức tường đá được chạm khắc, còn đặt la liệt tượng đồng, có điều vẫn không thấy chiếc hộp của Sở U Vương đâu cả. Mọi người vừa đi vừa nhìn, xuyên qua rìa vách hộp là bước vào khu vực đáy hộp với những sợi dây leo rủ xuống như rèm che, dưới chân có cây cầu đá rất rộng, họa tiết vảy rồng to như viên ngói đó, chính là chiếc đầu của thần thú “tải”.

    Con quái vật thời Sở cõng càn khôn trên lưng, có hình dáng gần giống với con rùa khổng lồ với cái đầu rồng, nhưng màu sắc thần bí đậm nét hơn, hai đầu gắn trên hai cổ, nhưng không có mặt, thân mọc nhiều chi, một nửa vươn lên trời nâng cây đèn chiếu u khổng lồ, một nửa chống xuống đất để di chuyển, trên đầu phủ phục hai con mãnh hổ, miệng ngậm vòng đồng to như cổ tay, khóa chiếc hộp bằng dồng xanh, thể tích đủ chứa hai người chui vừa.

    Đội khảo cổ thấy chiếc hộp thần bí quả nhiên là vật có thật, lòng bất giác hồi hộp muốn nghẹt thở, vội vàng chạy lên trước, định mở ngay ra xem bên trong có gì. Nhưng Tư Mã Khôi và Hải ngọng vừa định thò tay ra thì Thắng Hương Lân đột nhiên ngăn lại: “Không được xem thứ trong hộp! Ai xem, người đó sẽ chết”.

    Hải ngọng tròn mắt hỏi: “Bên trong chắc có mấy khúc xương của người chết là cùng chứ gì? Mà cho dù chứa bom địa chấn thì cũng đâu đến nỗi vừa nhìn một cái là lăn ra chết tươi ngay được.” Thắng Hương Lân giơ đuốc soi vào chiếc hộp: “Các anh cứ xem hình vẽ trên này sẽ biết…” Tư Mã Khôi phát hiện, nơi này tuy địa thế khá cao nhưng khoảng không gian giữa các rễ cây xung quanh lại đen quánh, chỉ e sẽ xảy ra bất trắc, bởi vậy anh luôn luôn giữ tình thần cảnh giác cao độ.

    Chưa kịp nhìn rõ chiếc hộp đồng thì chợt nghe Thắng Hương Lân nói vậy, ánh lập tức đưa mắt quan sát, thấy thân hộp đồng han gỉ loang lổ, chạm khắc rất nhiều hình vẽ. Anh thoáng nhìn qua, thấy trong đó có vẽ hình ác quỷ bắt người, như thể kẻ nào dám cả gan nhìn trộm vật trong hộp, kẻ đó sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống địa ngục, không rõ đó là lời nguyên hay chỉ định dọa tinh thần hậu thế.

    Mọi người phát hiện, trên hộp đồng còn khắc hình vẽ lột da người sống, trông vô cùng tàn nhẫn và quái dị. Cả hội bất giác chau mày ghê sợ. Nhị Học Sinh kể với mọi người: “Trước đây, ở châu u có một nghi thức tà giáo vô cùng cổ xưa, đó là dùng cực hình để dày vò trinh nữ.

    Sự tàn nhẫn của cực hình đó vượt xa sức tưởng tượng thông thường của con người. Trong tình trạng trải qua cảm giác khiếp sợ và đau đớn đến cùng cực, họ sẽ nhìn thấy những cảnh tượng mà chỉ người chết mới có thể nhìn thấy, sự giày vò tột cùng dành cho họ chính là lột da trong địa động khi họ vẫn còn sống.

    Sau khi lột da, cô gái đó vẫn chưa đoạn khí hẳn, miệng sẽ đứt đoạn nói ra những sự việc mà mình nhìn thấy trước mắt, chỉ có tông chủ mới đủ tư cách ghé sát tai nghe. Toàn bộ nội dung tông chủ nghe được, đều thuộc phạm trù cơ mật, tuyệt đối không để người bình thường biết.

    Cách thức này có vẻ khá giống với phương pháp ‘Sở U Vương hỏi ma’ mà mọi người đang chứng kiến lúc này”. Cao Tư Dương hỏi: “Anh bảo cực hình tà giáo cổ xưa của phương Tây có điểm gì giống với vu thuật trên chiếc hộp của Sở U Vương?” Nhị Học Sinh đoán: “Có lẽ là vì cả hai đều tiếp nhận thông tin từ… dưới vực thẳm” Tư Mã Khôi cũng nghĩ như vậy: “Con người luôn thiếu sức sáng tạo với phương thức ra đời của chính mình, nhưng vô cùng giàu sức sáng tạo để nghĩ ra các phương thức chết.

    Có điều, chúng ta biết quá ít ỏi về chiếc hộp của Sở U Vương, nên tốt nhất cứ thận trọng là hơn!”. Nói xong, anh tiếp tục quan sát kỹ những hình vẽ còn lại trên hộp đồng. Tư Mã Khôi phát hiện nội dung ghi chép trên đó rối rắm, nhiều không kể xiết. Thật đúng là nhìn mà phái hãi.

    Căn cứ vào các hình vẽ trên hộp, mọi người suy đoán, ngay từ những năm Sở quốc chưa ra đời, có lẽ vào thời kì Thần Nông gá gỗ làm ổ, một bầy người thượng cổ có sừng trên đầu đã vô tình phát hiện ra huyệt động này trong một lần rượt đuổi bầy hươu, nơi sâu nhất ăn sâu vào mạch núi, sau núi có vật thể hình khum tròn thần bí với phần bụng phình to.

    Họ phát hiện bên trong chứa bộ thi hài, nhưng thi hài này không giống vật ở nhân gian. Bọn họ cảm thấy rất kì lạ, liền lôi nó ra khỏi lòng đất, nhưng lúc định xuống thăm dò lần nữa, thì mạch núi khi trước đã mất tích, chỉ còn lại một hố vực, sâu không thấy đáy và đen thăm thẳm.

    Câu truyện truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, Sở U Vương xem vật này là di hài báu ở dưới Âm Sơn. Lão ta thường ra lệnh cho vu sư gieo quẻ để hỏi chuyện ma quỷ dưới cõi âm. Mãi đến khi Sở U Vương mai táng con gái, dẫn đến việc bị các oan hồn đòi mạng, lão ta mới thả chiếc hộp chứa di hài báu xuống lòng đất để trấn núi Âm Sơn.

    Họ tin rằng, dưới đáy động có ác ma trấn giữ, kẻ ngoại đạo nào dám mở chiếc hộp này, sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống vực sâu, nhốt sau núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh. Hội Tư Mã Khôi cảm thấy rất khó hiểu, nơi đào thấy di hài rõ ràng chính là nhật quỹ, nhưng vì sao mạch núi trong vực sâu lại đột nhiên mất tích? Nếu di hài trong hộp đồng không phải của con người, thì là của loài sinh vật nào? Hóa thạch sinh vật tiền sử trong rừng rậm nguyên sinh dưới khe m Hải nhiều vô số kể, nếu nó là hóa thạch xương của loài động vật nào đó, thì trừ khi nó quá đặc biệt, không thể tìm thấy cái thứ hai nên đời, còn không thì làm sao người thượng cổ lại xem trọng nó đến mức ấy? Ngoài ra, sau khi mở chiếc hộp của Sở U Vương ra, có thật sẽ xuất hiện ác ma không? Mọi người không thể suy đoán được gì từ những ẩn số đó, nhưng vẫn bắt buộc phải suy đoán.

    Những hình họa chạm khắc trên hộp đồng trông rất thần bí, ảo diệu và mang đậm màu sắc vu thuật thời Sở, hư hư thực thực. Nỗi nghi hoặc trong lòng mọi người càng lúc càng dâng cao; mà nghi hoặc càng dâng cao thì họ lại càng nóng lòng muốn tìm chân tướng sự thật – Cỗ di hài mà người cổ đại tìm thấy dưới lòng đất rốt cuộc của loài sinh vật nào? Lai lịch của nó kì dị đến mức nào? Giờ đây, đã đến lúc phải quyết định, nhưng cả hội lại không thể nhắm mắt bỏ qua lời nguyền của Sở U Vương để lại trong chiếc hộp, bởi không ai có con mắt nhìn thấu quá khứ và tương lai, nên không thể dự tính được tình hình gì sẽ xảy ra sau khi chiếc hộp được mở.

    Cao Tư Dương phẩy tay vẻ coi thường: “Theo lời các anh, thì xung quanh chiếc hộp có ma, nhưng chỗ này yên ắng thế này, đâu có dấu hiệu gì khác thường đâu chứ? Thắng Hương Lân nói: “Hình vẽ trên chiếc hộp cho thấy, sau khi người ta nhìn thấy di hài, mới bị ác quỷ lôi đi. Tôi thấy nơi này ma quái thế nào ấy.

    Nói chung, mọi việc đều phải đề phòng cẩn thận mới được”. Cao Tư Dương nói: “Cô đừng tin mấy trò ma quỷ của Sở U Vương, chúng ta mau mở chiếc hộp ra xem thì chẳng phải tất cả sự việc sẽ rõ như ban ngày hay sao?” Nhị Học Sinh cũng gật đầu đồng tình: “Hình vẽ ác quỷ ăn thịt người trên chiếc hộp, chắc chắn không thể linh nghiệm như dự báo thời tiết được.

    Tôi cảm thấy đó chỉ là sự chiêm nghiệm đối với số mệnh, cũng có thể nói đó là suy nghĩ vô tri ngu muội của người cổ đại mà thôi”. Tuy Tư Mã Khôi đã sớm đặt mình ra khỏi vòng sinh tử thông thường, nhưng anh cũng không phải hạng chán sống đến mức muốn tự mình đâm đầu tìm cái chết.

    Tư Mã Khôi quan sát địa hình xung quanh, thấy khu vực gần pho tượng đầu thú quái vật “tải” thời Sở tối đen như mực, nó chỉ cách vùng nước tù dưới đáy động chừng hơn chục mét là cùng, bọn cá bay ăn thịt người rất khó tiêp cận, những rặng dây leo rủ xuống tứ phía, im lìm và trầm mặc.

    Anh quyết định bảo những người còn lại rút lui về phía sau pho tượng thú bằng đồng chờ đợi để yểm trợ cho mình, còn anh, sẽ mở chiếc hộp của Sở U Vương ra xem, ngộ nhỡ xảy ra bất trắc thì cũng không đến nỗi chết hết cả đám. Lòng Thắng Hương Lân dấy lên một dự cảm không lành, cô nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Hay để tôi mở cho, tôi chết vẫn hơn là anh chết”.

    Hải ngọng nói chen ngang: “Hương Lân! Cô nói bậy bạ gì thế? Mấy chuyện lăn xả đầu súng ngọn giáo đã có anh Hải ngọng gánh, làm gì phải đến lượt cô hả? Có điều ngộ nhỡ tôi vinh quang thật, thì đừng rắc tro cốt tôi dưới đáy động tối om om như hũ nút này nhé, mà nhớ mang tro cốt tôi về nhà, chôn cất dưới đất cho tử tế.

    Đừng để tôi trở thành cô hồn dạ quỷ dưới núi Bối m giống như ông bác Nông địa cầu, quê tôi là coi trọng mấy chuyện đó lắm đấy….” Cao Tư Dương không tin là vừa nhìn thấy cỗ di hài trong hộp thì sẽ lăn ra chết ngay lập tức, lại nghe Hải ngọng diễn bài kịch dài lê thê, dặn dò chuyện hậu sự mãi không hết, cô ngán ngẩm định một mình đi lên cậy nắp hộp.

    Tư Mã Khôi khuyên ngăn: “Mọi người đừng tranh nhau nữa, chúng ta cứ hành động theo kế hoạch cũ. Tôi đây sống hơn hai mươi năm, có chuyện liều mạng nào chưa từng làm, mà có ngắn mất sợi lông nào đâu, chắc do mệnh tôi cứng. Hôm nay, tôi cũng không tin bọn ác ma ăn nổi thịt tôi, nếu lỡ gặp phải nguy hiểm thì tôi vẫn có thể nhanh chân chạy thoát thân”.

    Rồi không để cho mọi người có cơ hội nói chen vào, anh xua tay bảo mọi người tránh sang một bên, sau đó cắm đuốc vào trong miệng con hổ đồng, lần sờ tìm kẽ hở trên thân hộp. Mọi người đành rút lui về phía sau, thấy hai cánh tay quái dị ở hai phía của cái đầu thú nâng hai cây đèn khổng lồ, mỗi cây lại nối liền với cây cầu đá, mọi người lần lượt lấy đuốc châm lửa, nên phút chốc cả khu vực xung quanh sáng rực như ban ngày; sau đó cả hội nằm mai phục bên cạnh đèn đồng ôm súng chờ yểm trợ cho Tư Mã Khôi.

    Lúc này, Tư Mã Khôi đã sờ thấy kết cấu của hộp đồng, bề mặt bị ôxy hóa nghiêm trọng, độ rắn chắc của đồng đã bị tiêu giảm, chỉ cần lấy dao săn nậy một lúc là mở được nắp hộp. Anh thầm nghĩ: “Di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương lai lịch rất bất mịnh, nghe nói khu vực giữa tầng nham thạch trong mạch đất thường tồn tại nguyên tố mang tính phóng xạ tự nhiên, không những vậy, dưới vực sâu còn có rất nhiều loại nấm siêu nhỏ mà con người chưa từng biết.

    Chỉ riêng gặp những thứ này cũng thừa sức mất mạng rồi”. Thế là, anh đeo súng sau lưng, sờ ba lô lấy mặt nạ phòng độc hình mang cá đeo lên mặt, rồi xỏ găng tay, xong đâu đấy mới bắt đầu dùng dao nậy nắp hộp đồng. Ai ngờ bên trong hộp đồng là một chiếc hộp ngọc, bên trên trang trí họa tiết màu vàng kim, nhưng nó đã bị niêm phong hơn hai ngàn năm, nên khi vừa mới tiếp xúc với không khí bên ngoài, đã nhanh chóng mờ nhạt.

    Tư Mã Khôi chưa kịp nhìn rõ các Hình vẽ bên trên, đã thấy chúng tan biến ngay trước mắt. Anh thầm mắng chết tiệt, rồi lấy mũi dao cạo phần sáp nến giữa kẽ hộp, nhẹ nhàng khía sâu dao vào khe hẹp. Đầu Tư Mã Khôi căng như dây đàn, anh chăm chú nhìn vào bên trong, thấy bên trong chiếc hộp quả nhiên có một cỗ di hài đang nằm, nhưng cùng lúc nắp hộp được mở ra, thì cỗ di hài đột ngột mở trừng hai mắt.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 6: DI HÀI


    Tư Mã Khôi mở nắp hộp dưới ánh sáng ngọn đèn đồng chiếu u, vừa ngó mắt nhìn vào trong một cái, anh liền biết cỗ di hài bên trong tuyệt đối không phải xương người, vì thoáng nhìn khung xương đã thấy không giống; nhưng anh chưa kịp nhìn kĩ thì đã thấy trong hốc mắt lõm sâu thành hai cái hố đen ngòm ngòm trên chiếc đầu lâu đột nhiên phóng ra hai luồng ánh sáng lạnh.

    Tư Mã Khôi giật mình, vội vàng dùng hết sức đóng sập nắp hộp lại. Hộp đồng có chứa cái tráp ngọc bên trong, tuy không phải quan tài nhưng đồng đã bị han gỉ ăn mòn nghiêm trọng, dù không hề có vết tích từng bị nạy mở trước đây. Di hài nằm trong hộp chí ít cũng bị phong bế hai ngàn năm, vậy sao vẫn còn tồn tại dấu tích của sinh mệnh sống được nhỉ? Trong bích họa mà mọi người phát hiện lúc trước, tuy cũng chạm khắc hình dáng cỗ di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương, nhưng tranh vẽ thời Xuân Thu Chiến Quốc thường mang đậm màu sắc thần dị, rất ít tranh vận dụng kỹ thuật tả thực, khiến người xem không thể cảm nhận được cái ảo diệu ẩn chứa bên trong.

    Ngoài ra, những hình vẽ chạm khắc trên bề mặt hộp đồng cũng ghi chép lai lịch của di hài trong chiếc hộp. Theo dòng lịch sử của những năm tháng cổ xưa đã sớm phôi pha, người cổ đại yểm một lời nguyền tất phải chết trên chiếc hộp, giống như lời tiên tri vậy, lời nguyền ấy khiến lai lịch cỗ di hài càng trở nên li kì và mơ hồ hơn.

    Những người còn lại thấy Tư Mã Khôi giật thót mình như thể chạm phải bọ cạp, nắp hộp vừa mới mở ra đã vội đóng sập xuống, nên không ai biết trong khoảnh khắc đó, anh đã nhìn thấy gì. Cả hội thấp thỏm bất an, không kiềm chế được liền xúm lại xem rốt cuộc thế nào. Tư Mã Khôi đưa tay ra hiệu cho mọi người không được manh động, sau đó ghé sát người vào chiếc hộp nghe ngóng một hồi, nhưng anh không phát hiện ra bất kì âm thanh gì.

    Tuy Tư Mã Khôi là người gan to hơn trời, nhưng hành sự lại không hề vội vàng, bất cẩn, nay thấy sự việc trước mắt chưa rõ thế nào, anh đâu dám coi thường. Tư Mã Khôi hít sâu một hơi, nhẹ tay cậy nắp hộp lần nữa. Lần này đã chuẩn bị tâm lý trước, nên anh chăm chú quan sát vật đựng trong hộp dưới sáng của ngọn đèn đồng; có điều tuy mắt anh nhìn thấy nó rõ ràng, mà đầu vẫn mờ mịt như chìm giữa biển sương, bởi vì thứ trong hộp quả thực vượt xa sức tưởng tượng của con người.

    Cỗ thi hài trong hộp dài chừng hơn hai mét, dung mạo vừa giống người lại vừa không giống, tứ chi đều đầy đủ nhưng lại không phải xương người, cũng không phải xương của bất kì loài động vật nào, mà từ xương sọ đến xương bàn chân đều làm bằng vàng ròng, nội tạng làm bằng các loại đá quý như mã não, hổ phách, pha lê, phần trước xương sọ có hai hốc mắt lõm xuống, mỗi hõm đặt hai viên ngọc màu đen tuyền, loại ngọc này do tinh thể than đá hóa thành, gần giống với loại ngọc huyền lê thời cổ đại, dưới ánh sáng đèn chiếu u, trông nó ánh lên thứ ánh sáng sắc lạnh, tỏa ra bốn phía xung quanh.

    Điều đáng ngạc nhiên là, cả cỗ thi hài hoàn toàn do thiên nhiên tạo ra, không hề thấy bất cứ dấu tích đục đẽo, chạm khắc nào. Cung A Phòng và cung Vị Ương thời Tần Hán nổi tiếng thâu tóm hết mọi báu vật của thiên hạ, nhưng e rằng, gom tất cả số báu vật đó lại cũng không địch nổi cỗ thi hài vô giá đang nằm ở trước mặt mọi người.

    Tư Mã Khôi đã hiểu ra, có lẽ, người cổ đại đã tìm thấy số vàng và pha lê này trong mạch núi dưới lòng đất. Khi đó, loài người còn chưa hiểu thế giới tự nhiên cũng là vị thần điêu khắc kì tài, cỗ di hài lưu truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc thì được Sở U Vương xem là di hài báu, nên lão ta bí mật cất giấu trong cung để chuyên phục vụ cho chuyện vu thuật gieo quẻ dự đoán họa phúc, hung cát.

    Nhưng chẳng bao lâu sau, Sở quốc suy vong, Sở U Vương cho rằng mình đã đắc tội với hung thần ác quỷ, nên muốn lấy vật này để trấn núi Âm Sơn. Điều đó đủ để chứng minh, dưới Biển Âm Dụ còn có huyệt động sâu hơn. Nơi đó chính núi Bối m nhốt giữ vô số ác ma trong truyền thuyết, cỗ thi hài làm bằng vàng ròng và pha lê, có lẽ được mang về từ nơi ấy, nhưng căn cứ theo ghi chép trên hộp đồng, thì trong núi Âm Sơn không hề tồn tại mỏ vàng, cỗ di hài này được người cổ đại phát hiện trong nhật quỹ có hình khum tròn, phình bụng.

    Vậy nhật quỹ rốt cuộc là vật gì? Lai lịch của nó như thế nào? Vì sao mạch núi trong vực sâu lại lúc ẩn lúc hiện như vậy? Vô số nghi vấn ùa đến như thác lũ, tuy điều đáng mừng là đến bây giờ, các manh mối vẫn chưa bị đứt quãng, nhưng đầu óc chỉ cần lơ đễnh một chút là cả hội đã quên khuấy mất lời nguyền kẻ nào chạm vào di hài kẻ ấy sẽ chết, bởi từ lúc mọi người chạm vào nó đến nay vẫn chưa thấy xảy ra điều gì bất thường.

    Tư Mã Khôi phỏng đoán, lời nguyền kia có lẽ chỉ là lời hù dọa nhằm đối phó với bọn trộm mộ mà thôi, nên trái tim đang treo giữa lưng chừng trời của mọi người đến lúc này tạm thời đã chạm đất. Tư Mã Khôi liền mở hết nắp hộp ra, đúng lúc anh định gọi hội Hải ngọng đến xem thì bỗng nhiên thấy một luồng âm phong quét ngang sau lưng, rồi một bàn tay lạnh như băng đặt trên vai anh, khiến trong phút chốc cả cơ thể anh bị khí lạnh bao phủ, gai ốc nổi khắp mình mẩy, toàn thân run lên lẩy bẩy.

    Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, tựa hồ có âm hồn xuất hiện ngay sau lưng, lòng thầm hiểu chỉ cần quay đầu lại là mất mạng ngay, nên lập tức, anh vội vàng nắm hai tay vào vách hộp, hít sâu rồi tung người nhảy qua cỗ di hài bàng vàng và pha lê; khi chân vừa chạm đất, anh lại thuận thế lăn một vòng về phía trước.

    Chỉ trong khoảnh khắc nhanh như điện xẹt, Tư Mã Khôi đã nhảy ra khỏi chỗ cũ chừng hơn chục mét, rồi lập tức giương súng ngắm thẳng vào người đứng đằng sau, chỉ thấy nơi họng súng chĩa tới có một người đang đứng im lìm, đầu của kẻ đó đội mũ Pith Helmet gắn đèn quặng, mặt đeo mặt nạ phòng độc kiểu mang cá, trông giống hệt với cách ăn vận của Tư Mã Khôi.

    Tư Mã Khôi thấy kẻ đó giống hệt với chiếc bóng của chính mình, từ đầu đến chân đều không có điểm nào khác biệt. Hắn chắc chắn không phải tên gián điệp khác của tổ chức Nấm mồ xanh, vì mọi trang bị trên người Tư Mã Khôi toàn là đồ hiếm có khó tìm, nhặt nhạnh cóp nhặt mỗi chỗ một tí.

    Nếu không vào kính viễn vọng Lopnor và rừng nguyên sinh Biển Âm Dụ dưới núi Thần Nông Giá, thì làm sao có thể tập hợp được tất cả những đồ dùng như: mặt nạ phòng độc kiểu mang cá mập của Liên Xô sản xuất, mũ bấc Pith Helmet, và cả khẩu súng liên thanh M-1887 của đội thám hiểm Taninth để lại được? Cả thảy chỉ có ba người tham gia cả hai lần hành động của đội, ngay cả loại đèn quặng cácbua chuyên dùng để săn đêm hoặc tác nghiệp dưới lòng đất, tuy là loại thường thấy, nhưng vì muốn phòng tránh va đập trong khi hành động, nên cả ba đã bọc tấm lưới mỏng trước đầu đèn, đặc điểm này không thể bắt chước được.

    Bởi vậy, cho dù kẻ đó đeo mặt nạ phòng độc trên mặt, nhưng Tư Mã Khôi chỉ cần thoáng nhìn một cái đã có thể nhận ra đặc trưng vóc dáng của hai người bạn đồng hành, có điều kẻ xuất hiện trước mắt anh lúc này chắc chắn không thể là Thắng Hương Lân hoặc Hải ngọng được, vậy thì ngoài mình ra còn có thể là ai chứ? Tư Mã Khôi đương nhiên biết rõ mình không thể nhìn thấy chính mình, trừ khi chịu ảnh hưởng của tác động quang học theo kiểu bóng trăng dưới nước, bóng hoa trong gương; nhưng ảnh phản chiếu đó lại không có sự tương phản trái phải với vật thật, cảm giác lạnh như băng chạy sát sau lưng khi nãy cũng bỗng nhiên ùa đến, như thể ba hồn bảy vía bị kéo ra khỏi thể xác vậy.

    Tư Mã Khôi bình sinh nhiều lần gặp phải sự cố kì lạ, nhưng chưa bao giờ thấy mình gặp phải tình huống nào tà mị đến thế, nên bất giác nhớ đến lời nguyền “ác ma sẽ xuất hiện ngay sau khi mở chiếc hộp đồng”. Ác ma chính là ma thiêng, nghe nói người chết đi sẽ hóa thành ma, nếu người nào chết phải năm âm, tháng âm, giờ âm thì sẽ hóa thành ma thiêng, ma thiêng tu luyện lâu sẽ thành hình, rồi oan hóa thành người.

    Tư Mã Khôi vốn không tin mấy thuyết pháp tà ma kiểu này lắm, vì anh là chân truyền Kim Điển, nên hiểu rõ bí quyết Kim Bất Hoán là gốc rễ của cổ thuật tướng vật, mà chân lý của bí quyết này là: không có vật gì trên thế giới không thể nhận diện phân biệt, nhưng trong đó cũng có một câu nói rất hay thế này: “Thần quỷ vô hình, chỉ có con người là hiện hữu, một con chó sủa bóng mình, trăm con chó khác cũng đua nhau sủa theo, ngàn lời đồn đủ sức tan chảy sắt đá, giết chết mạng người, ngay cả trí sĩ thánh hiền cũng phải hoài nghỉ”.

    Ý câu này muốn ám chỉ: mọi sự việc ở cõi u minh chỉ là hư vô, không ai xác định được trên đời có ma quỷ thật không, phần lớn chuyện thần thoại hay ma quỷ đều do con người nhào nặn nên, có điều cũng không thể khẳng định rằng chúng không tồn tại trên đời, bởi vì âm hồn không phải thực thể, không thể lấy cái thực để luận cái hư, bởi vậy rất khó dùng thuật tướng vật để nhận diện chúng.

    Chuyện anh vừa gặp khi nãy thật quá sức quái dị. Tư Mã Khôi cũng không biết cái bóng đối diện với anh thực ra là do ma quỷ hóa thành, hay hồn vía mình đã lìa khỏi thể xác. Trong thoáng chốc, anh vừa kinh hãi vừa hồ nghi như thể đúng là bị rơi mất hồn thật. Trong nháy mắt, hai ngọn đèn chiếu u bên cạnh cũng tối sầm theo, cái bóng đeo mặt nạ phòng độc kiểu mang cá giống như một đám sương mù tan dần ra, uốn éo vươn dài rồi dần dần biến mất vào nơi sâu trong bóng tối mênh mông.

    Cùng lúc này, những thành viên còn lại cũng phát hiện thấy tình hình bất ổn, liền lập tức lao lên tiếp ứng, nhưng bị Tư Mã Khôi che khuất tầm nhìn, nên không ai trông thấy cảnh tượng quái dị vừa xảy ra cạnh chiếc hộp đồng. Tư Mã Khôi thực sự không biết nên lý giải thế nào, nhưng anh cũng hiểu rõ, nếu khi nãy mình không nhanh chân chạy trốn thì giờ đã nằm lăn quay ra đất rồi.

    Anh chỉ cảm thấy khi luồng âm phong quét qua, ánh nến xoay vòng rồi tắt lịm, luồng gió thổi khiến da thịt khắp người gai lạnh. Thấy bóng tối sắp nuốt chửng chiếc hộp của Sở U Vương, anh hấp tấp gỡ mặt nạ phòng độc ra, đang định bảo hội Thắng Hương Lân mau chóng rút lui, nào ngờ đám dây leo trên cao bỗng lắc lư từng hồi, rồi một người tụt tò dây leo xuống, động tác nhanh nhẹn như bay, lao vụt đến canh chiếc hộp đồng.

    Kẻ mới đến lưng hổ, eo sói, mặt vượn, toàn thân tỏa ra mùi tử khí nồng nặc, đó chính là gã hái thuốc ở lâm trường. Thì ra, đúng như Tư Mã Khôi tiên liệu, gã giặc đất Lão Xà quái dị khác người, quanh năm tiêu lộc hái thuốc trong rừng rậm, không biết gã nuốt bao nhiêu hà thủ ô thành hình và linh chi ngàn năm, lại còn luyện được cả món công phu cương thi và bí thuật nhịn thở của tên sư phụ chuyên đào mồ quật mả.

    Năm đó, nhất cử nhất động của gã ở lâm trường hàng ngày đều bị mọi người giám sát, nên gã đành giả chết. Sau khi bị chôn xuống đất, gã mới lấy tay đào đất chạy thoát, rồi lặn một hơi trong rừng sâu núi thẳm, khát thì uống nước suối, đói thì ăn quả rừng, khó khăn lắm mới lặn lội đến được trạm thông tin ở Đại Thần Nông Giá để đào đường hầm.

    Gã hy vọng sẽ tìm thấy tấm bản đồ và đồ nghề đội thám hiểm Taninth để lại năm xưa, rồi ra tay tìm kiếm cổ vật của Sở quốc nằm dưới Biển Âm Dụ. Nào ngờ, giữa đường vỏ quýt dày lại gặp móng tay nhọn, gã bị hội Tư Mã Khôi nẫng tay trên, phá hỏng đại sự mà gã đã âm thầm dày công lên kế hoạch từ bao năm nay.

    Lão Xà tự biết nắm đấm khó địch nổi súng đạn, nên sau khi bị rơi xuống khe núi, gã tìm chỗ trốn tạm, định mấy hôm sau sẽ nghĩ cách chôn sống hội Tư Mã Khôi trong núi, còn mình năm ba ngày không ăn không uống cũng chẳng hề gì, nếu đói quá thì vẫn có thể cắt thịt tên dân binh Hổ Tử ra xơi dần, kiểu gì mà chẳng đợi được đến lúc bọn khảo cổ chết mòn.

    Nào ngờ, hội Tư Mã Khôi lại quyết định thâm nhập lòng đất phía dưới Biển Âm Dụ theo chỉ dẫn của tấm bản đồ, rồi lại tìm thấy hố tế lễ trấn ma của người Sở cổ đại. Gã quan sát và nhận thấy rằng, hội người này dường đã chuẩn bị chu toàn mọi thứ trước khi đến đây, có vẻ bọn họ muốn tìm vật gì đó.

    Lão Xà cho rằng, hội Tư Mã Khôi cùng một giuộc giống mình, đều là dân quật mả đổ đấu, nên lặng lẽ bám theo. Gã ngậm đắng nuốt cay đã lâu, dọc đường chỉ muốn hạ thủ ám sát, ngặt nỗi không có cơ hội ra tay, vả lại gã chỉ sợ mùi tử khí trên thân thể mình làm bại lộ tung tích, nên không dám đến gần.

    Mãi khi Tư Mã Khôi mở nắp chiếc hộp của Sở U Vương, gã đã đứng nấp giữa rặng dây leo thấy di hài bằng vàng ròng và pha lê cực kì quý hiếm bày ngay trước mặt, liền nổi lòng tham. Sau đó, gã lại phát hiện luồng âm phong sương thảm mây sầu thổi thốc ra từ phía dưới con quái vật “tải”, ngoài ra còn có bóng ma hiện hình trong làn sương đen, rồi cùng lúc đó gã lại trông chiếc hộp đồng sắp bị chìm vào bóng tối, nói không chừng sẽ bị âm hôn ác ma đem đi mất, nên lòng tham trỗi dậy, Lão Xà định liều mạng cướp lại cỗ di hài.

    Tuy hội Tư Mã Khôi đã dự tính trước Lão Xà là tay có thủ đoạn rất quái dị, nhưng sự quái dị của gã đã vượt xa tưởng tượng của người thường. Nếu gã chưa thảm bại thịt nát xương tan, thì tuyệt đối không chịu bỏ cuộc, bởi vậy cả hội luôn trong trạng thái đề cao cảnh giác, nhưng lúc này tất cả mọi người đang tập trung chú ý đến chiếc hộp đồng, không ngờ Lão Xà lại từ đâu đột ngột xuất hiện.

    Tư Mã Khôi cũng biết Lão Xà không đơn giản, chuyến vào núi này nếu không có bản đồ của đội thám hiểm Taninth, không biết cả hội còn gặp bao nhiêu trắc trở và hiểm nguy, mà đối phương lại chọn đúng thời điểm này xuất hiện ở trạm thông tin, chẳng lẽ tất cả chuỗi sự kiện đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Tư Mã Khôị lờ mờ cảm nhận bên trong chắc hẳn phải có uẩn khúc.

    Anh bất giác nhớ đến câu danh ngôn mà mình từng nghe trong hẻm núi Dã Nhân ở Miến Điện: “Càng nghiên cứu sâu về lô gích, càng nên trân trọng sự ngẫu nhiên”. Tuy khẩu súng thợ săn mà Hổ Tử dùng có vẻ nguyên thủy lạc hậu, tầm bắn và lực sát thương đều kém xa khẩu M-1887 trong tay anh, nhưng ở tầm bắn gần thì vẫn đủ sức quật đổ con báo.

    Tên giặc đất này tuy đã luyện qua công phu cương thi, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là da thịt con người, sao gã đã bị súng săn bắn trúng mà vẫn hành động thoăn thoắt như thường? Ngoài ra, chẳng lẽ ý đồ của gã lại đơn giản như gã nói – chẳng qua chỉ là lâm vào cảnh đường cùng nên muốn đánh một quả rồi vượt biên trốn ra nước ngoài? Trên người gã dường như ẩn giấu rất nhiều bí mật.

    Liệu gã có liên quan đến tổ chức Nấm Mồ Xanh không? Đương nhiên, ngay từ đầu Tư Mã Khôi đã nảy sinh những suy nghĩ đó trong đầu, nhưng do không tìm được manh mối gì nên anh chưa nói cho ai biết. Giờ đây, anh thấy đối phương xuất hiện ngay trước mặt, nên không cần ngẫm nghĩ gì nữa, lập tức giương súng bắn.

    Tuy Tư Mã Khôi rất nhanh tay nhanh mắt, nhưng thân thủ của Lão Xà cũng cực kì mau lẹ, gã chui vào góc chết mà mũi súng không chĩa tới được và nằm ngay cạnh chiếc hộp đồng, thò tay nắm lấy cỗ thi hài. Lại thêm hai ngọn nến thắp trên đèn chiếu u bị luồng âm phong thổi tắt ngóm, nên trong chớp mắt, bóng dáng tên giặc đất bị màn sương đen nuốt chửng hoàn toàn.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 7: HỒ NGHI


    Tư Mã Khôi thấy sương đen tỏa ra từ phía dưới tượng thần thú “tải” đã che lấp hết chiếc hộp đồng, cả Lão Xà và cỗ thi hài bảo vật đều bị sương khí nuốt chửng, một nửa số nến trên đèn chiếu u cắm giữa vách tường và hộp đồng đã bị gió thổi tắt.

    Anh không biết thứ xuất hiện trong luồng âm phong rốt cuộc là vật gì, liền hét lớn, ra lệnh cho mọi người đang chạy đến gần lập tức lui về sau. Cao Tư Dương thấy Lão Xà xuất hiện, cô vốn chỉ một lòng muốn báo thù, nên giờ không muốn lùi lại chút nào. Thấy đèn nến trước mắt đen thui, bóng tối bủa vây tứ phía, lại nghe văng vẳng đâu đây như tiếng cổ họng ai đó kêu khục khục, nên cô liền kề khẩu M-1887 lên vai, ngắm thẳng về hướng phát ra âm thanh và bóp cò.

    Nhưng đúng lúc tiếng súng vang lên, thì một trận âm phong bỗng nhiên ào tới, toàn thân Cao Tư Dương ớn lạnh, cảm giác như thể có ác ma đứng ngay trước mặt há mồm phả luồng khí lạnh vào người mình. Cao Tư Dương phát hiện tình hình không ổn, bèn cuống quýt quay người rút lui. Nào ngờ, Nhị Học Sinh cũng nóng lòng muốn chạy lên giúp sức, hai người đứng gần nhau quá nên khi Cao Tư Dương lùi lại, cả hai đâm sầm vào nhau, ngã sóng xoài xuống đất.

    Lúc này, khu vực xung quanh chiếc đầu linh thú “tải” càng lúc càng tối. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân không nhìn thấy các thành viên khác ở đâu, chỉ có Hải ngọng phát hiện thấy có người ngã ngay bên cạnh mình, anh nhất thời nổi máu anh hùng, vội vàng khoác súng săn ra sau lưng, đưa tay ra tóm mỗi bên một người.

    Trên mình hai người bạn đồng hành đều có ba lô và súng ống, nặng trĩu cả tay. Hải ngọng phát hiện ngọn đèn cácbua gắn trên mũ nhấp nha nhấp nháy như bị chập điện rồi vụt tắt. Mọi thứ trước mắt trở nên tối thui, không một tia sáng, dù chỉ le lói. Hải ngọng chửi thầm: “Chết tiệt!”.

    Dựa vào kinh nghiệm từng băng rừng vượt núi khắp vùng Miến Điện, thì giờ anh chỉ cần chạy thẳng một mạch về phía trước là có thể thoát thân; nhưng trong khoảnh khắc sinh tử ấy, trong đầu anh lại bồng bềnh hiện lên khuôn mặt của những đồng đội đã chết thảm trong núi Dã Nhân và dưới kính viễn vọng Lopnor, bởi vậy anh không muốn vứt hai người bạn này lại để chạy trốn một mình.

    Anh gồng mình lên, hét to một tiếng, gắng gượng vung hai tay lần lượt ném mạnh hai người về phía trước, sau đó định co cẳng chạy trốn ra ngoài. Bỗng nhiên, trên lưng Hải ngọng cỏ luồng khí lạnh buốt, anh khiếp sợ đến mức hồn lìa khỏi xác, rồi vô thức quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng phía sau chỉ là khoảng không mênh mang và bóng đêm đen ngòm, ngoài ra không còn thứ gì khác….

    Lúc này, Tư Mã Khôi phát hiện có người bị rớt lại phía sau, đang định nghĩ cách ứng cứu thì nhìn thấy Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh rơi phịch xuống ngay gần chân mình, đầu gối và khuỷu tay của họ sây sát, lem nhem, chứng tỏ cú ngã có vẻ khá nặng. Tư Mã Khôi nghe động tĩnh thì biết Hải ngọng chưa kịp thoát thân, còn già nửa cây cầu đá trên đầu con linh thú “tải” đã chìm vào bóng đêm.

    Lòng nóng như lửa đốt, anh lập tức nhào qua đó định tìm Hải ngọng. Nào ngờ, giữa lúc nước sôi lửa bỏng đột nhiên lại có một người lao ra, đó chính là Lão Xà, tay vẫn ôm cỗ di hài. Tư Mã Khôi thấy lúc trước Lão Xà rõ ràng đứng phía sau Hải ngọng, sao giờ tên giặc đất này lại thoát ra khỏi chiếc hộp bóng đêm đó trước được, mà không bị âm hồn ác ma cuốn đi.

    Vậy gã ta rốt cuộc là người hay ma? Hai bên ngẩn người nhìn nhau, dường như trong đầu cùng lóe lên suy nghĩ: đúng là oan gia ngõ hẹp, tao không chết thì mày phải chết, tuyệt đối không thể nương tay, cả hai đỏ mắt gườm gườm nhìn nhau. Tư Mã Khôi định giương súng nghênh chiến, nào ngờ tuy thân thủ anh đã rất mau lẹ, nhưng động tác của đối phương còn nhanh hơn nhiều, anh thấy cánh tay phải bỗng nhiên tê rần, rồi đau thấu tận tim phổi, thì ra đối phương đã bóp mạnh vào huyệt thốn quan xích ở khuỷu tay anh.

    Sức mạnh của Lão Xà thật khiếp người. Thợ săn ở vùng núi Thần Nông Giá từ xưa đến nay đều là những tay võ nghệ cao cường. Lão Xà cũng luyện thành thục “ngũ cầm chiêu” mô phỏng động tác tấn công của năm loài: hổ, rắn, gấu, vượn và chim. Cánh tay rắn chắc như hổ báo của gã lúc này đang xiết chặt mạch môn của đối phương, tay kia vẫn ôm chặt cỗ di hài.

    Gã chỉ mong thêm chút công lực nữa để bóp nát cổ tay Tư Mã Khôi, sau đó giẫm chân đạp vỡ lồng ngực anh. Tư Mã Khôi là người dạn dày kinh nghiệm chiến đấu, nên lúc lâm nguy anh vẫn không hề hoảng loạn.Thấy mạch môn của mình đã bị đối phương bóp chặt, anh thuận thế lộn người lại để giảm bớt lực xiết, đồng thời kéo khuỷu tay đối phương lại, giơ chân tung liên hoàn cước.

    Lão Xà không ngờ Tư Mã Khôi lại ứng biến thần tốc như vậy, gã bị đá liên tiếp hai cú vào lồng ngực, nên buộc phải buông tay và lùi về sau tránh né. Tư Mã Khôi đau đến mức phải hít một hơi lạnh vào, vì ngoài cổ tay ra, hai xương ngón chân của anh cũng suýt chút gãy lìa, và lúc này anh mới biết tên giặc đất Lão Xà còn mặc giáp da và đeo gương đồng bảo vệ tim.

    Không biết mấy món đồ cổ đó gã moi ra từ ngôi mộ nào, chẳng trách sau khi bị súng bắn, gã vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Hai người đều không thể đẩy đối phương vào được chỗ chết, nhưng xương cốt Tư Mã Khôi đều bị Lão Xà bóp sắp gãy vụn, nên rõ ràng anh đang ở thế hạ phong; nhưng cuối cùng anh cũng xác định được, Lão Xà tuy đã luyện công phu cương thi, biết bí thuật ngưng thở, nhưng rốt cuộc gã vẫn chỉ là người bình thường.

    Thế nhưng nếu lời nguyền là sự thật, nghĩa là chỉ cần lại gần cỗ di hài trong chiếc hộp sẽ bị âm hồn đòi mạng, thì sao gã giặc đất này lại bình an vô sự? Trong khi đó, chính bản thân anh cũng suýt bị thứ gì đó kéo mất hồn vía ra khỏi thể xác? Từ lúc Tư Mã Khôi mở chiếc hộp đồng, nhìn thấy cỗ di hài thần bí bên trong, rồi phát hiện phía sau lưng mình có ma, anh vội vã tháo chạy khỏi chiếc hộp; sau đó luồng âm phong thổi tắt đèn chiếu u, khoảng không gian xung quanh chiếc hộp đồng càng trở nên ma quái, mãi đến khi đụng độ Lão Xà, cả hai lao vào trận quyết chiến sống mái, thì những biến cố này liên tiếp xảy ra chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi chừng mười phút.

    Tư Mã Khôi không hề có thời gian ngẫm nghĩ, thấy mình và tên giặc đất đã nới rộng khoảng cách, súng vẫn trong tay, anh định bắn chết gã để thanh toán nhanh gọn mối hiểm họa lớn trong lòng, nhưng cánh tay phải của anh đang đau như muốn gãy lìa, không nhấc lên nổi nên anh không thể bóp được cò súng.

    Lão Xà thấy họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào mình, lòng cũng thấy hơi chờn, gã lập tức kẹp cỗ di hài, rút lui vào cạnh cầu đá, rồi tụt xuống, nấp trong huyệt động phía trên linh thú “tải”. Tư Mã Khôi thấy đối phương chuồn mất ngay trước mắt, nhưng vẫn không làm gì được.

    Anh liếc mắt sang, thấy ba người còn lại đang hợp lực kéo sợi dây thừng lôi Hải ngọng đang mềm oặt như dải khoai héo lại gần. Xem tình hình, có vẻ như trong lúc Hải ngọng lâm nguy, hội Thắng Hương Lân đã quăng móc câu vội vàng chạy lại tiếp ứng, không còn tâm trí nào truy bắt Lão Xà.

    Tư Mã Khôi cũng lập tức đến trợ giúp, rồi mọi người gắng hết sức mới kéo được Hải ngọng đến bên cạnh, nhưng thấy sắc mặt Hải ngọng trắng bệnh như giấy, hai mắt nhắm nghiền, cơ thể cứng đờ, từ đầu đến chân đều bất động, thì không rõ sống chết thế nào. Đúng lúc này, hai ngọn nến cuối cùng trên đèn chiêu u cũng bị âm phong thổi tắt, tứ bề tối đen như mực.

    Mọi người hoảng hốt, đành khiêng Hải ngọng lui vào huyệt động giữa vách hộp, rồi tiện tay đẩy ngã một tượng đá chặn một cửa động lại, có điều huyệt động trên con quái vật “tải” thông với khắp mọi hướng, bịt một cửa cũng chẳng ăn thua gì, nếu quả thực có âm hồn đuổi sau lưng, thì cho dù tường đá có kiên cố hơn nữa, e cũng không có tác dụng.

    Việc đã đến nước này, cũng đành bó tay tuân theo mệnh trời. Mọi người thấy Hải ngọng vẫn không có động tĩnh gì, thì một dự cảm không lành trào lên, lạnh buốt cả tim. Cả hội đoán chừng hơi thở của Hải ngọng đã ngừng từ lâu, vì giống như anh đã chết được mấy tiếng rồi, giờ chỉ còn lại cái xác không còn sự sống.

    Chẳng ai ngờ cái chết lại đến với Hải ngọng đột ngột như vậy, cả hội đứng chôn chân lặng người không nói gì, bầu không khí tang tóc im lìm, có lẽ khi ta càng hiểu rõ sự đáng sợ của cái chết thì càng không biết khi nào nó thình lình ập đến. Có điều, Tư Mã Khôi lại có linh cảm rất lạ, không biết vì nguyên nhân gì mà anh vẫn cảm thấy thi thể trước mắt không phải là Hải ngọng, hoặc có thể nói, nó không phải là một tử thi thực sự của người chết, mà chỉ là thứ gì đó xuất hiện sau khi mở chiếc hộp của Sở U Vương mà thôi.

    Tư Mã Khôi lắng tai nghe ngóng, thấy bốn bề xung quanh yên ắng không một tiếng động, anh mới kể cho mọi người nghe tình cảnh mình gặp phải sau khi mở nắp hộp đồng: đầu tiên, anh bỗng nhiên phát hiện có một bàn tay đặt trên vai mình, rồi anh mau lẹ nhảy phắt qua chiếc hộp trốn thoát, lúc quay đầu lại thì chỉ nhìn thấy luồng âm phong lạnh lẽo, ngoài ra còn có một cột khí đen, hai ngọn nến trên đèn chiếu u đột ngột tắt ngóm, đồng thời anh còn thấy phía sau chiếc hộp thấp thoáng bóng người đối phương cũng đeo mặt nạ chống động kiểu mang cá, nên không rõ mặt mũi cụ thể trông thế nào, có điều vóc dáng và trang phục thì giống hệt anh.

    Tư Mã Khôi tin chắc chắn “một người tuyệt đối không thể gặp một bản sao của chính mình trong thế giới thực”, nhưng hiện tượng quái dị này quả thực đã xảy ra, chính vì vậy, thi thể trước mắt mọi người chưa chắc đã phải Hải ngọng thật. Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh đều lắc đầu không tin, họ khuyên Tư Mã Khôi nên chấp nhận sự thật, người chết giống như ngọn đèn đã tắt, nghĩ ngợi xa xôi cũng đâu cứu vãn được gì.

    Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi miêu tả những gì anh vừa gặp lúc trước thì nhận định, bóng người xuất hiện canh hộp đồng chắc không phải thực thể, mà là một hình thức di ảnh nào đó, giống như sương khói, vì vậy nó mới nhanh chóng biến mất. Nếu lúc trước Tư Mã Khôi không nhanh chân chạy trốn, thì bây giờ cũng đã trở thành một thi thể lạnh ngắt rồi.

    Tư Mã Khôi đương nhiên cũng hiểu những lý lẽ này, chỉ có điều, trong lòng anh vẫn ôm một tia hi vọng nhỏ nhoi. Anh nhớ lại những người bạn của mình: Karaweik, Ngọc Phi Yến, giáo sư Nông địa cầu, Tuyệt, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng Lưu Giang Hà… họ đều dần dần bỏ mạng trong quá trình đi tìm ẩn số về Nấm mồ xanh.

    Tất cả những ai từng có liên quan, dính líu đến bí mật này, dường như đều phải chịu lời nguyền của số mệnh. Các bạn anh, kẻ chết trước, người chết sau, mọi ngưòi đều chết cả, chẳng qua chỉ là sớm hay muộn mà thôi, mà cái chết lại không hề được báo trước, mọi người vừa không có sự lựa chọn chạy trốn định mệnh, vừa không kịp chuẩn bị tinh thần để đón nhận cái chết.

    Thế nhưng Hải ngọng lại chết quá đột ngột, trên người cũng không có vết thương nào rõ rệt, trong khoảnh khắc trước khi chết, cậu ấy đã gặp phải chuyện gì? Nghĩ đến đây, những thời khắc oanh liệt quá khứ cứ hiển hiện trước mắt, anh thầm oán: “Hải ngọng ơi là Hải ngọng, mưa bom bão đạn, trời sập đất lún, bao nhiêu kiếp nạn mà cậu còn chả chết, thế mà bây giờ lại chết khuất tất ngay ở Thần Nông Giá.

    Cậu đúng là đồ thiếu nghĩa khí, bỏ đi vội vàng, chẳng từ biệt thằng bạn thần lấy một tiếng. Mà thôi, nếu cậu hiển linh, thì cứ xuống cửu tuyền đợi tớ trước, mấy hôm nữa tớ sẽ xuống đó bù khú với cậu sau…” Lúc này, ở nơi sâu gần cái đầu thú chợt phát ra tiếng động nhỏ, rồi Tư Mã Khôi ngửi thấy mùi dung dịch phoóc môn dùng để chống xác chết thối rữa.

    Anh biết, Lão Xà lúc trước chui vào huyệt động vẫn chưa chạy đi xa được liền xách đèn chui tuột vào trong, quả nhiên thấy gã vẫn ôm cỗ di hài lò dò tiến lại gần. Khi còn cách anh chừng mười bước thì gã dừng lại bất động, nấp sau cái đầu thú, chỉ lộ cặp mắt vằn sọc tia máu chăm chú nhìn mọi người.

    Lão Xà “e hèm” cất giọng khàn đục hỏi: “Không biểt tôi nên… xưng hô như thế nào với thủ lĩnh đây nhỉ?”. Gã vốn vẫn cho rằng hội Tư Mã Khôi cùng một giuộc thổ tặc với mình, cũng vào rừng trộm báu vật, nhưng theo quy tắc giang hồ, cho dù hai bên đều là phường giặc đất, cũng không được hỏi quý tính đại danh của đối phương, vì hễ hỏi, đối phương sẽ sinh lòng nghi kỵ: “Mày muốn làm gì tao?” bởi vậy phải hỏi “xưng hô thế nào”, và thông thường người được hỏi chỉ cần nói tên hiệu là xong mục khai báo họ tên.

    Mắt Tư Mã Khôi lộ tia sát cơ, tuy anh còn rất nhiều nghi hoặc về lai lịch tên này, nhưng bây giờ chẳng còn tâm trí nào mà truy hỏi, bởi vậy anh không thèm trả lời đối phương. Lão Xà lại hỏi: “Bọn mày đừng ép người quá đáng, lúc đầu nếu không phải thằng oắt con Hổ Tử nổ súng bắn tao trước, thì tao cũng không giết nó.

    Bây giờ tao lâm vào đường cùng, chỉ muốn hỏi mày một câu thôi, vì sao mày lại lừa tao đến chỗ này tìm di hài?” Chẳng phải gã định xuống Biển Âm Dụ hy vọng kiếm món hàng khủng rồi chạy trốn ra nước ngoài sao? Lúc trước, Tư Mã Khôi đã lờ mờ nhận ra gã còn có âm mưu gì khác, vì thời gian Lão Xà đào địa động ở trạm thông tin rất kì quái, và sự trùng hợp này khiến người ta cảm thấy bất an.

    Từ khi gặp nạn đến nay, đội thám hiểm Taninth đã vùi xương trong rừng sâu suốt mấy chục năm, sao gã không đến sớm hơn hay muộn hơn, mà mãi mấy ngày gần đây mới ra tay hành động, để kết quả là gã không những không thành công, mà tất cả bản đồ và vũ khí của đội thám hiểm để lại đều rơi vào tay hội Tư Mã Khôi.

    Tuy Tư Mã Khôi không nhìn thấu được chân tướng đằng sau những vụ việc này, nhưng anh có thể khẳng định rằng: trước lúc đến đây, gã tuyệt đối không có lý do gì phải tự mình mò đến huyệt động tế lễ để tìm di hài; thậm chí trước đây gã còn không biết dưới Biển Âm Dụ có chiếc hộp của Sở U Vương, có điều tên giặc đất này cũng không phải vô duyên vô cớ vọt ra câu nói đó.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 8: ÁM HIỆU


    Nếu sự việc có thể trở nên tồi tệ hơn, thì nó chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn, chỉ là tạm thời vẫn chưa xảy ra mà thôi!” – Tư Mã Khôi không thể không gật gù với định luật lạnh lùng của Murphy. Anh lo những dự cảm không lành sẽ trở thành sự thực, có điều, cả chuỗi sự kiện như bị mây đen bao phủ, nên nhất thời anh cũng không rõ rốt cuộc mình đang sợ điều gì.

    Cao Tư Dương thì thầm bảo Tư Mã Khôi: “Anh đừng bị mắc lừa. Nhất định hắn ta đang cố tình kéo dài thời gian, chứ làm gì có chuyện anh sai khiến được hắn xuống Biển Âm Dụ tìm di hài chứ?” Tư Mã Khôi đưa mắt nhìn Cao Tư Dương, ra hiệu bảo cô đừng lên tiếng vội, hãy nghe xem Lão Xà định nói gì trước đã, vì sự việc này rất quan trọng, bất kể đối phương nói thật hay giả vờ, thì mình cũng phải nghe hết mới được.

    Tai Lão Xà thính như tai dơi, chỉ cần nghe loáng thoáng cũng đoán được tình hình. Gã đã nghe Cao Tư Dương nói, và cũng hiểu dụng ý mọi người không muốn trả lời, thế là liền kể tất cả đầu đuôi câu chuyện: Thì ra, gã vốn họ Dư, được dân địa phương đặt cho biệt danh là Lão Xà, vì tất cả thợ săn trong núi chỉ có họ chứ không có tên; vả lại bởi cha mẹ gã sớm qua đời, nên từ nhỏ đã không có tự hiệu gì cả, sau đó, hắn theo chân sư phụ chuyên làm nghề hái thuốc vào rừng tiêu lộc và hái thuốc quý, đồng thời cũng thường làm những phi vụ tổn hại âm đức.

    Sư phụ quen gọi gã là Xà Sơn Tử. Cuối cùng, lúc sư phụ sắp đoạn khí, Lão Xà biết sư phụ đã gia nhập tổ chức ngầm từ rất lâu, còn được huấn luyện nghiệp vụ điện mật, ông ta là đặc vụ nằm vùng ở vùng núi Thần Nông Giá. Tổ chức này ra đời từ rất sớm, còn thủ lĩnh cầm đầu tên là Nấm Mồ Xanh.

    Trước lúc lâm chung, sư phụ của Lão Xà đã kể cho gã nghe tình hình đội thám hiểm Taninth, và còn nói với gã một chuyện vô cùng trọng đại khác: tổ chức phải tìm con đường hầm dẫn xuống vực sâu gần tâm Trái đất, còn nguyên nhân vì sao thì chỉ thủ lĩnh mới biết. Không một ai biết đường hầm đó nằm ở đâu, thậm chí còn không có mục tiêu cụ thể.

    Trong khi đó, việc thám hiểm dưới lòng đất vô cùng khó khăn, vì vậy, ngoài việc cần tổ chức những đợt hành động tìm kiếm độc lập, hễ khu vực nào được biết có khả năng thâm nhập huyệt động dưới lòng đất, thì khu vực quanh đó nhất định có các thành viên của Nấm Mồ Xanh đang ngầm theo dõi.

    Huyệt động ở rừng nguyên sinh Biển Âm Dụ trong khu vực Đại Thần Nông Giá cũng là một trong số đó. Nghe nói, Sở U Vương từng chôn bảo vật để trấn ma quỷ ở đây, nơi sâu nhất là mạch núi Âm Sơn, nhưng không biết thực hư thế nào. Năm đó, đội thám hiểm Taninth trang bị vũ khí tinh nhuệ, có ý đồ vào núi tìm bảo vật quý giá thất lạc, kết quả họ đã bị sư phụ Lão Xà trà trộn vào hàng ngũ làm người dẫn đường, rồi ra tay giết sạch cả đoàn.

    Tuy nhiên, sự việc này cũng không giúp sư phụ của gã dành được sự chú ý của thủ lĩnh, vì lúc bấy giờ ai cũng nghĩ huyệt động sâu nhất là kính viễn vọng Lopnor. Sư phụ Lão Xà giao lại cho gã quyển điện mật, dặn gã thay lão ta tiếp tục đợi mệnh lệnh, nói đến đây thì sư phụ thở hắt ra một hơi rồi hồn dạt về âm.

    Bấy giờ, Lão Xà mới biết, thì ra những ký hiệu, ám hiệu mà sư phụ truyền thụ cho mình trước đây, và cả phương pháp liên lạc điện mật nữa, tất cả đều để phục vụ việc liên lạc với tổ chức ngầm ở nước ngoài kia. Tuy nhiên, gã hoàn toàn không chú tâm tới việc này, mà không hiểu vì sao sư phụ lại phải tận trung như thế với thủ lĩnh, vì tay làm sao mà dài bằng chân, bây giờ đã giải phóng bao lâu rồi, thì cho dù vẫn còn vài đặc vụ chưa bị tóm cổ, nhưng thế cũng làm được trò trống gì, mà tổ chức đó còn tồn tại hay không, thì còn khó nói nữa là.

    Gã nghĩ, chắc sư phụ bị ma nhập cũng nên, cả đời chui rúc trong rừng sâu núi thẳm, chưa bao giờ được hưởng thụ thứ gì, giờ âm quang thoáng chốc, tuế nguyệt trôi chảy, sư phụ việc gì mà phải khổ sở thế? Lão Xà thầm ngẫm nghĩ: “Bây giờ thế thời thay đổi, những ngày tháng vô thiên vô pháp như trước đây đã hoàn toàn kết thúc, dân tình ngoài núi lại luôn tổ chức rầm rộ hết đợt hoạt động bài trừ phản động này đến đợt hoạt động bài trừ phản động khác; hai thầy trò ta đã làm biết bao vụ giết người cướp của, quật mồ đổ đấu, huống hồ sư phụ lại là đặc vụ của tổ chức ngầm, mà bất kể vụ nào bị người ta phanh phui ra ngoài ánh sáng, thì cũng đủ lĩnh đạn, vậy thì cứ cúp đuôi làm người cho lành”.

    Thế là, gã đã tìm việc ở lâm trường, đôi lúc vẫn vào rừng hái thuốc, tiêu lộc, cho mãi đến khi dung mạo bị nấm độc hủy hoại, gã buộc phải lột da mặt mình, nên đi đến đâu cũng bị mọi người coi là quái vật. Gã vốn là người tâm địa hẹp hòi, nghe ai bàn luận chuyện của mình là lập tức nghĩ cách lấy mạng đối phương, rồi tiêu hủy tang chứng, nên dân trong núi càng lúc càng có nhiều người bị mất tích đã khiến công an bắt đầu chú ý.

    Gã cũng biêt cái kim trong bọc lâu ngày thế nào cũng lòi ra, sự việc của gã kiểu gì cũng bị người ta điều tra ra và xử tội nặng. Trong lúc tuyệt vọng, gã đã thử dùng ám hiệu liên lạc mà sư phụ để lại trước lúc chết, vì nếu tìm được cơ hội chạy trốn, biết đâu tổ chức sẽ kịp đến ứng cứu.

    Lão Xà đã lên kế hoạch, nhưng mãi vẫn không nhận được hồi âm nào từ phía tổ chức. Gã còn cho rằng, không khéo tổ chức ngầm đã tan rã từ đời nào, giờ không còn tồn tại nữa, ai ngờ lúc thu tín hiệu đài địch, gã đã bị người ta phát hiện, khiến lâm trường sinh nghi. Đến bước đường cùng, gã đành giả chết, để đánh lạc hướng mối hoài nghi của địa phương, thoát khỏi sự theo dõi của mọi người, rồi lẩn vào núi tránh né.

    Từ đó, gã không dám thò mặt ra nữa, nhưng vẫn không nản lòng, mà thỉnh thoảng lại lẻn vào trạm liên lạc thông tin, dùng máy điện báo phát sóng ngắn bên trong thử liên lạc với tổ chức. Mãi đến mùa thu năm 1974, cuối cùng gã cũng nhận được mệnh lệnh trực tiếp của thủ lĩnh: hãy đi tìm tấm bản đồ mà đội thám hiểm Taninth để lại.

    Đừng nói hai thành viên của đội thông tin, mà ngay cả Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân khi nghe Lão Xà nói cũng phải đưa mắt nhìn nhau, nhưng ai nấy im lặng không lên tiếng bởi xem ra việc này quả nhiên có liên quan đến Nấm Mồ Xanh. Những lời tiết lộ vừa rồi còn liên quan đến nhiều tình tiết bí mật, chứ không thể bịa đặt ra được, nhưng nếu gã nói thật, thì cuối cùng sẽ rút ra kết luận gì? Suy đoán theo quãng thời gian mà Lão Xà vừa nói, thì cũng là từ khi Tư Mã Khôi gặp cơn bão Buddha ở Miến Điện vào mùa hè, rồi gia nhập đội thám hiểm đến hẻm nủi Dã Nhân tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải, sau đó vượt biên trở về tổ quốc, bị áp giải trong xưởng đóng gạch ngói, rồi theo chân giáo sư Nông địa cầu chui xuống biển cát dưới vực sâu cách mặt đất cả mấy chục nghìn mét, bây giờ anh lại đến rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá.

    Lúc này đã là giữa thu, thế có nghĩa là: sau khi những kẻ sống sót của đội khảo cổ thoát khỏi kính viễn vọng Lopnor, Lão Xà mới biết đường hầm thông tới vực sâu dưới lòng đất nằm dưới Biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá, lẽ nào Nấm Mồ Xanh chưa thu được sóng điện u linh ở thành Nhện Vàng? Vậy thì ai đã tiết lộ những tin tình báo tối mật này? Hội Tư Mã Khôi vì tìm thấy cuốn sổ giải mã long ấn triều Hạ ở tận cùng cực vực, thì mới chỉ biết về bí mật Sơn Hải Đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương, và suy đoán dưới Biển Âm Dụ tồn tại một vật thể, được gọi là “nhật quỹ”, đó là cánh cửa thông tới vực sâu nơi tâm Trái đất, còn mọi điều khác đều là những ẩn số mơ hồ.

    Thế nhưng tất cả chỉ có ba người sống sót thoát ra khỏi kính viễn vọng Lopnor mà thôi. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: “Trước khi tiến vào Thần Nông Giá, ngoài lão Lưu Hoại Thủy lo kinh phí cho cả hội biết chút ít, thì không còn người thứ năm biết tình hình cụ thể. Mà nếu lão Lưu Hoại Thủy tư thông với địch, thì cả hội đã mất mạng trên tàu hỏa từ lâu rồi, bởi vậy khả năng này có thể loại trừ.

    Với khả năng đoán vật nhìn người của mình, tuy chưa đến mức phân rõ vàng thau, rồng rắn, nhưng nếu những người xung quanh có dấu hiệu khác thường thì mình chắc chắn không thể không phát hiện thấy. Mà sao gã thổ tặc đó lại bảo mình bắt gã đến đây tìm di hài, vì bản thân mình từng làm gì, chẳng lẽ mình lại không rõ sao? Trước khi mở chiếc hộp của Sở U Vương ra, thậm chí bên trong đựng thứ gì mình còn không xác định được nữa là…” Ngay từ lần đầu tiên Tư Mã Khôi gặp Nấm mồ xanh đến giờ, đã trải qua biết bao nhiêu biến cố bất ngờ, anh cảm thấy ẩn số quanh mình càng lúc càng nhiều, giống như bị lớp sương mù dày đặc che khuất tầm mắt, khiến anh không thể nhìn thấy tia sáng nào.

    Lúc này, vừa nghe Lão Xà tiếp tục kể, đầu óc Tư Mã Khôi lại xoay chuyên nhanh chóng, anh cố gắng phân biệt những manh mối mơ hồ ẩn nấp đằng sau những sự việc này. Lăo Xà nói, sau khi nhận được mệnh lệnh của thủ lĩnh, gã cho rằng, chỉ cần hành sự theo lệnh là sẽ có cơ hội trốn ra nưởc ngoài.

    Thế là gã lén phỏng hỏa đốt lâm trường, thu hút sự chú ý của lực lượng dân binh, khiến cả vùng núi này bị bỏ trống. Sau đó, gã mò vào trạm thông tin ở tháp canh giết chết nhân viên kiểm lâm, lần tìm phương hướng đào địa huyệt, không ngờ đúng lúc này hội Tư Mã Khôi đột ngột xuất hiện.

    Ban đầu, Lão Xà cho rằng hội người này có lẽ là nhóm thông tin đến để sửa máy bộ đàm liên lạc, khi thấy hành tung của mình sắp bị phát hiện, gã đành nghĩ cách cản trở, nhưng không thành, rồi sau đó gã lại chậm chân, để nhóm thông tin tìm thấy nơi gặp nạn của đội thám hiểm Taninth trước.

    Lúc đầu, Lão Xà còn “ăn cắp run tay”, thấy đội thông tin có năm, sáu người, lại có hai người thân thủ nhanh nhẹn, cho dù gã có ra đòn bất ngờ, thì cũng không thể cùng lúc hạ gục mấy người. Bởi vậy, gã đã không mạo hiểm động thủ, nên kết quả đầu không xuôi nên đuôi không lọt, không những mất đi cơ hội “tiên hạ thủ vi cường” mà còn trừng mắt ngậm đắng nhìn súng ống và bản đồ rơi vào tay người khác.

    Gã lại càng không ngờ, sau khi có được bản đồ, đội thông tin lại đi một mạch xuống huyệt động dưới Biển Âm Dụ. Lúc bấy giờ, gã mới bừng tỉnh, thì ra hội người này cũng là thổ tặc. Quả đúng kẻ cắp gặp bà già, gã đành nhờ vào kinh nghiệm phong phú tích lũy sau nhiều năm hái thuốc tiêu lộc trong rừng sâu, mà bám theo đội thông tin đến đây.

    Có nói gì thì Lão Xà cũng là tay thổ tặc lọc lõi, thấy trong hộp đồng của Sở U Vương đựng cỗ di hài với lai lịch thần bí khó lường. Đoán vật này là bảo khí hiếm có khó tìm, trong lòng gã chợt nổi tà niệm tham thú vật chất, đang lúc không kiềm chế nổi, thì bỗng nhiên thấy luồng âm phong từ sau dội đến, rồi một cột sương đen từ đáy động trào ra, nến quanh hộp đồng đột ngột tắt lịm.

    Khi Tư Mã Khôi vội vàng rút lui, thấy cơ hội đến, Lão Xà lập tức xông lên cướp di hài, có điều lão cũng phát hiện có thứ gì đó đang áp sát ngay sau lưng. Dân trộm mộ đổ đấu vốn không bao giờ tin có ma quỷ, nhưng cảm giác rùng rợn chưa từng có từ trước đến nay đã bao trùm lấy gã, dường như trong màn đêm có vô số bàn tay lực lưỡng tóm lấy.

    Tuy trước giờ Lão Xà giết người không ghê tay, thủ đoạn lại vô cùng tàn độc, nhưng đến lúc này gã cũng thấy bủn rủn hết cả người. Gã nghĩ, chết vinh không bằng sống nhục, không thể vì cỗ di hài này mà đền cả mạng sống được. Gã ỷ mình giỏi món công phu cương thi ngưng thở, đang định chuồn, thì chợt nghe phía trước có người nói khẽ, nội dung vô cùng ngắn gọn, bảo Lão Xà hãy mang cô di hài vào trong khám động.

    Ngoài ra, người đó còn nói một ám hiệu. Năm đó, Lão Xà biết được ám hiệu liên lạc điện mật thông qua lão sư phụ thổ tặc quá cố của mình. Kết cấu của tổ chức dưới sự khống chế của Nấm Mồ Xanh tỏa ra giống như một chiếc ô. Mỗi người đều có mã số, tuy ám hiệu đơn giản, nhưng nội dung chỉ có thủ lĩnh và chính thành viên đó mới biết, và bọn chúng chỉ sử dụng phương thức liên lạc đơn tuyến.

    Thủ lĩnh ra lệnh trực tiếp cho thuộc hạ, còn các thành viên không thể liên lạc với nhau. Lúc này, người có thể nói ra ám hiệu, thì ngoài thủ lĩnh còn ai khác được nữa? Lão Xà thực không thể ngờ thủ lĩnh lại ở quanh đây, gã ta không dám trái lời, vội vàng ôm cỗ di hài cùng người đó chạy sâu vào trong, kết quả lại đón ngay họng súng của Tư Mã Khôi.

    Lão Xà thấy đội phương muốn giương súng giết mình, cảm giác phẫn uất, căm hận xáo trộn, sa cơ, bừng bừng sôi trào. Tư Mã Khôi càng nghe càng thấy kì lạ, những chuyện về sau thì anh đã rõ, hai bên đều chưa thể dồn đối phương vào chỗ chết, cuối cùng lại gặp nhau trong khám động, nhưng người nói ra ám hiệu với gã thổ tặc rốt cuộc là ai vậy?.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: BIỂN ÂM DỤ - HỒI 9: TIÊN NỮ TRONG HỘP


    Theo miệng Lão Xà, tình hình khi nãy là đèn chiếu u chập chờn sắp tắt, đáy động dội lên một cột khí đen xoay vần cùng luồng âm phong, không gian xung quanh hộp động bỗng dưng trở nên đen kịt, thò tay ra không nhìn thấy ngón, nhưng ngọn nến cắm phía trước hộp đồng thì vẫn sáng.

    Lão Xà đã gặp một người nói ám hiệu với mình trong bóng tối, gã đành liều mạng cướp cỗ di hài, nhưng từ vùng bóng tối thoát ra ngoài ánh sáng, người cách gã gần nhất lúc bấy giờ lại là Tư Mã Khôi, ngoài ra tuyệt đối không còn ai khác. Lão Xà cho rằng mình bị tổ chức lợi dụng, sau đó giết người diệt khẩu, nên trong lòng bất giác phẫn uất quá hóa giận; nhưng gã cũng phát hiện, sau khi mở hộp đồng của Sở U Vương, thì chắc chắn đã xuất hiện thứ gì đó rất đáng sợ.

    Vậy nên gã đành nén giận, trốn vào trong khám động lánh nạn trước. Lão Xà nói đến đây thì im lặng, chỉ nấp sau tượng thú nhìn Tư Mã Khôi chằm chằm, dường như đang đợi anh trả lời. Không khí trong động thất tối đen như mực phút chốc trở nên tĩnh lặng. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ lại toàn bộ đầu đuôi sự việc.

    Anh nhận thấy, nếu lời Lão Xà nói là thật, thì kẻ phát ra ám hiệu gần chiếc hộp chắc chắn là Nấm mồ xanh, bởi vì tình hình quái dị lúc đó anh cũng từng gặp một lần ở thành Nhện Vàng. Thật không ngờ, từ rừng rậm Miến Điện đến tận huyệt động Thần Nông Giá, anh vẫn không thể thoát khỏi sự truy đuổi của vong hồn đó.

    Có điều, cỗ di hài trong chiếc hộp Sở U Vương, thực ra chỉ là chút pha lê và vàng ròng chôn giấu ở nơi sâu trong mạch đất mà thôi, nhưng vì sao Nấm mồ xanh lại dẫn tên thổ tặc mang cỗ di hài đi về hướng đó? Lời nguyền khắc trên chiếc hộp đã nói rõ, kẻ nào nhìn trộm di hài, kẻ đó sẽ lập tức phải chết.

    Sau khi mở chiếc hộp, quả nhiên có thứ đúng như âm hồn xuất hiện và Hải ngọng cũng đột nhiên lăn ra chết vì nó. Thế nhưng sao lúc này trong khám động lại yên lặng kì lạ đến vậy, chẳng lẽ quái vật thời Sở kia thực sự có khả năng trấn giữ ma quỷ thật? Sau khi mở chiếc hộp, các sự việc quái dị cứ liên tục xảy ra mà Tư Mã Khôi không tìm ra manh mối nào, cứ như là đang đứng giữa màn sương dày đặc.

    Điều duy nhất mà anh có thể xác định được bây giờ là phương hướng cơ bản có lẽ không bị nhầm. Người cổ đại đã khai quật vật thể thần bí từ lòng đất lên, thì chắc chắn họ đã chạm tới cánh cửa của lời giải, bây giờ chỉ có nghĩ cách cướp lại cỗ di hài, mới mong tìm được chốn thoát thân trong khám động có quái vật “tải” này, rồi sau đó tiếp tục tìm đường tắt thâm nhập mạch dưới đất núi Âm Sơn.

    Thế nhưng việc cần làm trước mắt là phải giải quyết tên thổ tặc như xác chết di động này trước đã. Tư Mã Khôi biết rõ đối thủ là tay thủ đoạn cao cường, lúc này hắn đang ở ngay trước mắt nên anh không dám lơ là. Anh nhìn chằm chằm vào thân hình đối phương. Nhị Học Sinh thấy tình thế đang chuyển biến, sợ mọi người hành động trong bóng tối không tiện, liền vội vàng đốt đuốc, đèn đồng trong động thất cũng được thắp sáng.

    Lão Xà tuy biết nhiều bí thuật dị thường, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là gã hái thuốc, cả đời chưa bao giờ bước chân ra khỏi rừng sâu núi thẳm, tầm nhìn hạn hẹp, nông cạn, vì vậy, gã tưởng rằng, kẻ phát ra ám hiệu là Tư Mã Khôi, lại thấy đối phương im ỉm không trả lời, thì càng cho rằng mình nhận là đúng.

    Gã nghiến răng kèn kẹt, tuy lòng biết rõ phen này có chắp cánh cũng không bay thoát, nhưng cho dù tất cả mọi người đều bị nhốt dưới lòng đất, thì gã cũng phải tận tay bóp chết từng người mới yên lòng nhắm mắt. Thế là, gã vận khí, rồi đầu, ngực, eo, vai, cánh tay, khuỷu tay, đầu gối, ngón chân phát ra tiếng “cách cách” nhè nhẹ, từ trên xuống dưới lan khắp toàn thân.

    Tư Mã Khôi biết một trận quyết đấu sống mái sắp diễn ra trong tích tắc. Lúc trước, anh đã nếm mùi lợi hại của gã thổ tặc này. Gã có thân hình lực lưỡng, hành động uyển chuyển như vượn, nhanh thoăn thoắt như chim ưng, nếu không thể dùng súng hạ gục gã ở khoảng cách xa, thì e rằng rất khó dồn đối phương đến chỗ chết.

    Người nào người nấy thần kinh căng như dây đàn, cùng lùi mấy bước, lấy vách khám làm chỗ dựa. Tư Mã Khôi lùi đến rìa khám động, đang định giương súng, thì bỗng nhiên anh cảm thấy từng sợi lông tơ trên cổ mình dựng đứng lên, bởi một luồng âm hàn phía sau thổi buốt tận xương tủy.

    Anh biết có biến cố, liền quay nhanh lại nhìn. Chùm sáng đèn quặng chiếu sáng khám động bỗng tối lại, rồi xuất hiện một người đội mũ Pith Helmet. Lúc này, đối phương cũng đang ngẩng đầu nhìn anh, và khoảng cách hai khuôn mặt đối diện nhau chỉ tầm chục mét. Tư Mã Khôi lờ mờ thấy gương mặt của kẻ đó.

    Anh giật nảy mình: “Người kia là… mình sao?” Khám động tối đen như mực, tuy Tư Mã Khôi có đèn quặng, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng mơ hồ, anh và kẻ đó lại đứng cách nhau bởi pho tượng thú đổ ngang cản đường, bởi vậy không hoàn toàn nhìn rõ khuôn mặt đối phương, mà chỉ có thể nhận ra đối phương cũng đội mũ Pith Helmet trên đầu.

    Loại mũ bấc của người Pháp này làm bằng loại gỗ mềm, hình dáng rất đặc biệt, trừ ba thành viên may mắn sống sót trong đội khảo cổ ra, thì cả vùng núi này không thể có người thứ tư đội nó được. Kẻ xuất hiện trong khám động khi nãy là ai? Tư Mã Khôi nhớ đến lúc linh hồn vọt ra khỏi chiếc hộp đồng, mà lòng vẫn khiếp sợ.

    Anh nhớ, có lần giáo sư Nông Địa cầu từng kể một chuyện về bác sĩ tâm lý người Áo, Sigmund Freud, lừng danh thế giới trong lĩnh vực phân tích thần kinh, mà theo lý thuyết của ông thì thần kinh là cụm từ để chỉ “cảm giác, tri giác và ý thức”, mà trong thần kinh của con người, ngoại trừ “cái tôi” ra, thì trong tiềm thức còn có sự tồn tại của “bản ngã” và “siêu bản ngã”.

    Lúc đó, Tư Mã Khôi chỉ nghe tai nọ lọt tai kia, nên đến tận giờ anh vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Anh cho rằng, quan điểm này gần tương tự như quan niệm truyền thống ba hồn bảy vía của Trung Quốc, có câu “hồn vía tụ hợp thành tinh thần”, một khi tinh thần tiêu tan thì sẽ trở thành “siêu bản ngã”, cũng có nghĩa là sẽ xuất hiện một bản thân khác ở trạng thái đặc biệt.

    Có lẽ, sau khi chiếc hộp mở ra, một phần linh hồn đã bị rời khỏi thể xác, rồi dần dần trở thành thực thể? Hay chẳng lẽ kẻ đang đứng trong khám động lúc này… lại chính là Hải ngọng vừa nằm đứ đừ trên đất khi nãy? Nếu không, chẳng lẽ là yêu quái biến thành người sao? Nhưng bất kể là khả năng nào, thì đều khiến người ta cảm thấy dựng hết tóc gáy.

    Tư Mã Khôi biết thế thái biến hóa vô thường, trước khi nhìn rõ mặt kẻ đó, tuyệt đối không được võ đoán, anh lầm bầm: “Bố mày phải xem mày rốt cuộc là đứa nào mới được?”, rồi anh bạo gan lấy tay xoay luồng sáng đèn quặng, quầng sáng chiếu thẳng vào mặt đối phương, nhưng cự li chùm sáng vươn tới chỉ tầm mấy mét, chiếu tới khám động thì như thể bị luồng khí đen chặn lại, nên anh không nhìn thấy gì trước mắt nữa.

    Tư Mã Khôi cảm, thấy có vật gì ở trong đó đang động đậy, nhưng vì bị vách khám cản trở, nên không thể vào được. Lão Xà thấy Tư Mã Khôi ngoảnh đầu nhìn khám động, thì sự chú ý của gã cũng bị phân tán, liền định nhỏm dậy sau tượng đá, lao thẳng vào trong đó, nhưng ngặt nỗi trong “hàm tải” lại đặt mấy ngọn đèn chiếu u.

    Nhị Học Sinh cầm đuốc, làn lượt thắp sáng hết mấy cây nến cỡ lớn trong thạch thất. Không gian phút chốc sáng bừng như ban ngày. Lão Xà vừa thò người ra đã trở thành tấm bia đỡ đạn sống, vừa vặn nằm trong tầm ngắm bắn của khẩu M-1887, dẫu Lão Xà mình đầy bí kíp nhưng bây giờ cũng không kịp thi triển.

    Gã điên cuồng như con thú bị chọc tiết, thấy Nhị Học Sinh đang vươn người châm đèn, liền mò mẫm trong bóng tối rồi lấy ra một đoạn mác đồng bị gãy, nhắm vào Nhị Học Sinh, ném thật mạnh. Tư Mã Khôi nghe thấy tiếng “vù vù” rạch không gian ngay sau lưng, liền quay ngoắt đầu lại.

    Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương vẫn dính mắt bám sát Lão Xà nhưng vẫn không ngờ gã đột nhiên ra tay nhanh như vậy Cả hai chưa kịp hét lên kinh hoàng, thì đoạn mác đồng đã bay đến trước mặt Nhị Học Sinh. Nhị Học Sinh sợ tái mặt, hai chân nhũn xuống đất, đoạn mác bay sát sạt qua vai anh chàng, đập vào tường một mảnh áo và da thịt bị xén khuyết.

    Nếu không phải vi Lão Xà sợ nên không thò cả người ra khỏi tượng thú, thì cái mác đồng đã xuyên thủng ngực Nhị Học Sinh rồi. Mác đồng lao tới, đập mạnh vào vách đá khiến vụn đá văng ra tứ tung. Tượng đá vỡ thành mấy mảnh, vụn đá và mác đồng cùng rơi rào rào xuống đất.

    Tuy Tư Mã Khôi và hai thành viên còn lại đứng cách đó khá xa, nhưng cũng bị bụi đá văng vào mặt, cảm thấy ran rát. Không ngờ, tên giặc đất này lại có sức mạnh kinh hồn đến thế, lòng anh cũng không khỏi thầm kinh hãi. Tư Mã Khôi sợ đối phương giở lại bài cũ, anh vẫy tay bảo hội Hương Lân trốn sau đèn chiếu u.

    Mọi người vừa nấp xuống, thì một quầng màu sắc cổ xưa, loang lổ ở chỗ đá vỡ trên vách đã đập ngay vào mắt, thì ra phía dưới bức tường đá khắc họa tiết còn có một lớp bích họa nữa, miêu tả những chuyện quái lạ sẽ xảy ra sau khi mở hộp đồng Sở U Vương. Người Sở cổ đại thích hành lễ vu thuật hỏi ma, nên nội dung bích họa vẽ trên cuộn tranh lụa của áo quan cũng rất kì bí.

    Trong những bài từ thời Sở, có một bài rất nổi tiếng, tên là “Thiên vấn”, tức là sau khi Khuất Nguyên tận mắt nhìn thấy bức bích họa tráng lệ, huy hoàng của Sở quốc, ông đã quay mặt vào tường để hỏi trời. Những nghi vấn ông đưa ra để hỏi, bao gồm thiên địa vạn tượng âm hòa, thần kì quỷ quái, gọi chung là “thiên cổ vạn cổ chí kĩ”, qua đó cũng đủ thấy bích họa thời Sở bí hiểm đến mức nào.

    Bức tranh đầy màu sắc lộ ra sau lớp đất đá trên khám động là hình vẽ con thú mình rùa đầu rồng, tên gọi là “tải”, cỗ di hài trong huyệt động được đặt trên lưng nó, vây quanh phía ngoài có rất nhiều thiếu nữ với dáng hình thướt tha, không rõ là người hay ma, có lẽ giống với dáng dấp tiên nữ trong bức bích họa “phi thiên” thời Đôn Hoàng.

    Họ sống trong chiếc hộp có hình dáng đặc biệt, ẩn ẩn hiện hiện giữa màn sương mù, không khí quanh họ nhuốm đầy màu sắc cổ quái, yêu ma. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đưa mắt nhìn nhau, hai người đều cảm thấy nội dung bích họa trong khám động vô cùng kì bí, có khả năng liên quan đến những ẩn số bí mật như di hài, quái vật thời Sở, núi Âm Sơn… Nhưng phần lớn bức họa đã bị tường đá chạm trổ phía trên niêm phong kín, chỗ lộ ra chỉ là một phần rất nhỏ còn sự kiện mô tả trong bức họạ lại rất cổ xưa và li kì, khiến mọi người nhất thời không thể lý giải nổi ý nghĩa sâu xa ẩn chứa bên trong.

    Tư Mã Khôi cũng hiểu rõ kẻ địch vẫn quanh quẩn đâu đây, anh không có thời gian quan sát thêm mấy bức bích họa, liền lấy tay ra hiệu cho mọi người xách súng đi vòng qua đèn chiếu u, chầm chậm bao vây chỗ Lão Xà đang ẩn nấp. Nhị Học Sinh nhặt khẩu súng săn trên cái xác cứng đơ của Hải ngọng, bám sát ngay sau lưng Tư Mã Khôi, chuẩn bị cuộc chiến sống mái với Lão Xà.

    Thủ đoạn của gã đã rất tàn độc, không những vậy, gã còn là tay thợ săn cừ khôi, chuyên hái thuốc trong rừng sâu. Nhưng suy cho cùng, Lão Xà cũng vẫn chỉ là hạng hữu dũng vô mưu, đối phó với hung cầm mãnh thú thì còn tạm ổn, chứ hội Tư Mã Khôi đều có súng, chỉ cần ổn định thế trận là có thể triển khai theo chiến lược, sử dụng chiến thuật chính xác, hợp sức tấn công, cố gắng thì sẽ dồn được đối phương vào góc chết trong động thất chật chội.

    Lão Xà thấy không còn đường thoát, xem ra có muốn tóm hai đứa làm đệm lưng cũng còn khó, nên gã càng nóng lòng như kiến bò chảo lửa. Lão Xà nghĩ, nếu để cho bọn này giết chết hoặc tóm sống mình rồi hạ nhục, thì chi bằng cứ liều mạng chui ra khỏi động, cùng lắm là chết.

    Nghĩ đoạn, gã liền ôm di hài, thụt lùi dần ra cửa động. Tư Mã Khôi biết cỗ di hài vô cùng quan trọng, nói không chừng, có thể là kết nối cả chuỗi ẩn số xuất hiện dưới biển m Hải, vì thế anh có muốn vuốt mặt cũng phải nể mũi vài phần. Vậy là, Tư Mã Khôi cố gắng nổ súng để không chạm tới cỗ di hài.

    Đạn bắn trúng vách tường, đá vụn rơi xuống rào rào, một mảng bích họa nữa lại lộ ra. Lão Xà lui về chỗ cạnh vách hộp mà gã bò vào lúc trước. Gã nghĩ, tuy mình không thể trực tiếp giết chết mấy người này, nhưng có thể mang bí mật về cỗ thi hài chôn vùi mãi mãi. Cảm giác báo được thù đã khiến gã cảm thấy hơi phấn khích, nhưng bỗng nhiên, hắn cảm thấy sau lưng dường như có người; quay đầu lại nhìn, gã giật thót mình, chỉ thấy Hải ngọng khi nãy còn chết cứng đơ trên đất, giờ đang gườm mặt nhìn, giống như tòa tháp bằng thép đứng sừng sững sau lưng từ bao giờ.

    Lão Xà làm nghề đào mồ bới mả bao năm nay, nhưng chưa bao giờ gặp phải tình huống yêu mị đến thế, gã bất giác rùng mình kinh sợ, nhỏ giọng thảng thốt: “Xác chết sống dậy?”. Hải ngọng không nói không ràng, vung con dao săn trong tay bổ xuống nhanh như chớp giật. Lão Xà không kịp đề phòng, liền ăn một dao, cả đầu lẫn vai đều trọng thương, lớp da vượn trên má cũng bị lột một mảng lớn.

    Gã đâu dám dừng lại, vội buông tay vứt di hài, rồi lộn một vòng tránh né, cuối cùng chui tọt vào trong động, và chớp mắt đã mất dạng. Gã thổ tặc sợ chết khiếp, còn hội Tư Mã Khôi cũng kinh ngạc không thốt nên lời, tất cả đứng chôn chân tại chỗ nhìn Hải ngọng và bức họa phía sau anh, cảm giác như thể mình vừa sa chân vào vòng luân hồi sinh tử không lối thoát và đối diện với vòng tròn kinh dị vĩnh viễn không có lời giải.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 5: VÀNH ĐAI 300 VĨ BẮC BỊ MẤT TÍCH - HỒI 1: VÒNG TRÒN MA QUÁI


    Lúc trước, mọi người thấy Hải ngọng nằm cứng đơ trên đất, tất cả đều kinh ngạc và đau buồn, nhưng bấy giờ quá nhiều biến cố đột ngột xảy ra, nên không ai dám lơ là, cố gắng kiềm chế cảm xúc để đối phó với Lão Xà, không ngờ đúng lúc này Hải ngọng đột nhiên vùng dậy, cử chỉ và hơi thở hoàn toàn giống với người bình thường, lẽ nào trên đời này quả thật có chuyện hoàn hồn sau khi chết hay sao? Tư Mã Khôi bước lên trước hỏi dò Hải ngọng: “Khi nãy cậu rõ ràng còn nằm thẳng cẳng, sao giờ đã thành vịt giời nhập tràng thế hả?” Vẻ mặt Hải ngọng như thể bị đông cứng, chừng nửa phút sau mới hồi người, liên tiếp nôn ra mấy ngụm nước đen, sắc mặt khó coi đến dễ sợ.

    Anh chỉ nhớ sau khi ra tay cứu người, hình như anh bị thứ gì đó tóm chặt, không thể giãy giụa ra nổi, trong lúc hốt hoảng anh vội quăng móc câu ra, đợi khi hoàn hồn thì đã thấy Lão Xà đang trốn ngay kế bên. Anh liền rút dao săn chém xuống, còn trước đó xảy ra chuyện gì, anh không tài nào nhớ lại được.

    Tư Mã Khôi thầm thấy việc này rất quái dị, từ sau khi mở chiếc hộp Sở U Vương, thì một luồng âm phong chợt nổi lên, rồi mọi nguồn sáng như đèn quặng và đèn chiếu u đều lập tức tắt lịm, và biển m Hải liên tiếp xảy ra nhiều sự việc lạ. Trước khi làm sáng tỏ chân tướng, toàn bộ sự việc này vẫn không thể giải thích rõ được, nhưng bất kể Hải ngọng vừa gặp phải chuyện gì, thì anh sống lại bằng da bằng thịt như bây giờ vẫn tốt hơn là xác chết lạnh ngắt lúc trước.

    Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương thấy chỉ cần người còn sống là tốt rồi, mũi vẫn thở, tim vẫn đập thì chắc không thể là ma nhập tràng. Nhị Học Sinh vẫn tỏ ra đầy ngờ vực, rõ ràng Hải ngọng đã ngừng nhịp tim từ lâu, sao đột nhiên lại sống dậy được? Người ta thường nói “núi cao ít người, động sâu lắm quỷ”, trong huyệt động nơi sơn cùng thủy tận, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, ai chứng minh được Hải ngọng bây giờ vẫn là Hải ngọng lúc trước.

    Phàm người hiểu chút cơ bản về chủ nghĩa duy vật sơ khai, cũng đều cảm thấy việc này quá đỗi bất thường! Hải ngọng thấy Nhị Học Sinh đang lăm lăm cầm khẩu súng săn đạn cỡ 8 của mình, thì bực bội hỏi: “Ranh con nhà chú gộp cả hai mắt lại cũng cận hơn 18 độ, biết sử dụng món này không mà rờ rẫm?” Nhị Học Sinh ấp úng: “Khẩu này… đúng là cũng hơi nặng, tôi chỉ mới trong giai đoạn thích nghi thôi...” Hải ngọng giơ tay giật súng lại, trợn mắt mắng: “Thích nghi cái con bà! Anh thấy chú có mà đang ở giai đoạn thích ăn đấm thì có!” Nhị Học Sinh không dám nhiều lời với Hải ngọng, vội tránh sang chỗ Cao Tư Dương, nhờ cô băng bó vết thương, nhưng lòng vẫn nguyên nỗi sợ hãi khó hiểu.

    Tư Mã Khôi nhìn Hải ngọng chăm chú một hồi, nhưng vẫn không phát hiện ra điểm gì khác thường, liền bảo Nhị Học Sinh: “Chỉ cần còn hình còn bóng thì chắc chắn không phải là ma. Huynh đệ của anh, anh là người hiểu nhất, chú mày không cần nghi ngờ làm gì”. Tư Mã Khôi thấy phía ngoài động sương đen bao phủ mờ mịt, không rõ gã thổ tặc khi nãy đã trốn vào hốc nào, còn cỗ di hài trong hộp gấm vẫn nằm chỏng chơ trên đất.

    Anh thấy Thắng Hương Lân đang lấy đèn quặng soi bích họa trong động đá, liền hỏi xem cô có phát hiện thấy gì không. Thắng Hương Lân lắc đầu, phần bích họa lộ ra chủ yếu ghi chép những câu chuyện trấn ma của Sở U Vương, ngoài ra, trong bích họa dường như còn vẽ rất nhiều vòng tròn quái dị, mà đại bộ phận bức họa hãy còn ẩn phía trong tường, còn chỉ dựa vào phần lộ ra thì không thể giải thích được gì nhiều.

    Tư Mã Khôi nghe vậy, liền dùng báng súng đập cho đá rơi xuống; lớp tường bao ngoài tương đối mỏng như chỉ cố tình đắp lên để che lấp, sau khi nứt vỡ rơi xuống lả tả, bức bích họa lộ ra mỗi lúc một rõ hơn, rồi cảnh tượng hiển hiện trước mắt càng lúc càng khiến người ta chấn động.

    Dù Tư Mã Khôi biết trong bích họa của Sở U Vương nhất định còn ẩn chứa bí mật gì đó rất trọng đại, nhưng anh không mò ra được manh mối. Anh liền quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Bích họa không ghi chép chuyện chết đi sống lại sao?” Thắng Hương Lân nhíu mày, trầm giọng nói: “Hình như không có, nhưng tôi biết khi nãy anh gặp thứ gì ở trong hộp đồng rồi…” Tư Mã Khôi nghĩ đến sự việc lúc đó mà lạnh sống lưng: “Cái người đội mặt nạ phòng độc á? Hắn ta là ai?” Lúc này, Thắng Hương Lân rời ánh mắt khỏi bức bích họa, ngẩng đầu nhìn Tư Mã Khôi: “Tôi nghĩ, nó là u hồn, không những thế, u hồn đó thực ra… chính là bản thân anh”.

    Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói, anh bất giác rùng mình: “Kẻ xuất hiện trong đám sương mù và luồng âm phong là một u hồn ư? Tôi vẫn còn sống, sao lại nhìn thấy vong hồn của chính mình được? Chẳng lẽ đúng là sau khi tôi chết đi, tôi đã phát ám hiệu với gã thổ tặc kia? Không! Chuyện này không thể xảy ra được.” Thắng Hương Lân nói: “Chuyện về Nấm mồ xanh tôi không thể giải thích được, nhưng căn cứ vào những sự kiện mô tả trên bích họa, thì tôi tin rằng, kẻ khi nãy anh gặp đúng là u hồn của chính anh.” Ba người còn lại đứng cạnh nghe cũng bị chấn động, Hải ngọng kinh ngạc kêu lên: “Thì ra người bị chết là Tư Mã Khôi chứ không phải tớ à?”.

    Tư Mã Khôi điên tiết: “Ông mày chết lúc nào hả? Chuyện quan trọng thế làm sao tôi không nhớ được?” Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Cô là người có đầu óc tỉnh táo nhất đội khảo cổ, mà cũng tin mấy chuyện quỷ quái đó à? Chuyện này rốt cuộc là sao?” Bức họa vu Sở thần bí li kì, thường siêu nhiên hóa những hiện tượng tự nhiên, đề cập đến nhiều truyền thuyết cổ quái không thể lý giải, nhưng từ khi Thắng Hương Lân bước chân vào Thần Nông Giá, tiếp xúc với rất nhiều ẩn số khó hiểu, cô cũng dần dần mò ra quy luật bên trong.

    Cô phát hiện ra bích họa ẩn chứa trong khám động đúng là ghi chép rất nhiều sự kiện quái dị, thêm vào đó, chuyên ngành của Thắng Hương Lân là thám trắc, trắc họa, nên cô cũng biết thêm một số điển cố lịch sử và kiến thức về sơn kinh thủy pháp, nhờ thế, cô có thể hiểu được vài nội dung thần bí trong bích họa.

    Thắng Hương Lân soi đèn lên tường, nói với hội Tư Mã Khôi suy đoán của mình: “Bích họa trong tượng thần thú này là do Sở U Vương sai người cho vẽ ở đây từ hai ngàn năm trước, lấy thời gian làm kinh tuyến và sự kiện làm vĩ tuyến, thì nó giống như cuốn sử thi hoành tráng và diễm lệ: phần đáy mỗi họa cảnh đều có lực sĩ mình trần đứng trên lưng cá voi khổng lồ dang hai tay chống đỡ; mãng xà, rùa, chim muông và các loại quái vật được bố trí xung quanh.

    Bắt đầu từ thuở hồng hoang sơ khai, trong tám trụ chống trời có hai cột trụ bị sụp đổ khiến thủy khí và đại khí hợp thành một thể, khắp nơi sương mù mịt mùng giăng mắc, mờ mờ ảo ảo, không phân biệt được sáng tối. Sau đó, cuồng phong sấm sét bắt đầu kéo đến, mưa đổ như trút nước, kéo dài không biết bao nhiêu ngày, nước càng lúc càng dâng cao, đổ vào muôn khe ngàn hẻm, hình thành đại dương nguyên thủy.

    Lúc ấy, khu vực Thần Nông Giá vẫn còn là biển lớn mênh mông, phía dưới dòng nước lại là núi cao hùng vĩ, các hẻm và rãnh biển sâu hun hút, mãi đến khi địa môn rộng mở nuốt chửng nước biển, đồi núi đội đất vươn lên, thì các bình nguyên và một số núi lửa nằm cô lập dưới lòng biển cả mới trở thành vùng Thần Nông Giá, với những dãy núi trùng điệp như ngày nay.

    Trong lúc bãi bể biến thành nương dâu, có một hòn đảo bị lún chìm vào khe đất nứt, mang theo quần thể thực vật tiền sử trên đảo vẫn giữa nguyên diện mạo, sau đó đã xuất hiện người cổ đại với thân hình cao lớn và chiếc sừng mọc trên đầu. Họ gá gỗ trên núi thành ổ, săn thú bắn chim.

    Nhóm người đó khả năng chính là thị tộc Thần Nông thượng cổ. Do trên hòn đảo cổ đại dưới lòng đất có rất nhiều thú quý cây lạ, nên con người cũng theo dấu vết lần tìm đến đây, đồng thời cũng phát hiện các huyệt động trên đảo ăn thông xuống nơi sâu hơn về tâm Trái đất, còn phía dưới nó có một khe lớn, chẳng khác nào vực sâu không đáy.

    Trong vực sâu có chỗ núi khuyết vào, giống như cửa núi, đó chính là nơi mà người ta gọi là Âm Sơn. Ngọn núi này lúc có lúc không, xuất quỷ nhập thần, tứ bề toàn là bóng tối âm u, không thể đặt chân tới được, và người cổ đại đã tìm thấy “di hài” ở đây. Cỗ di hài được vẽ trong bích họa, thực ra chính là tập hợp của một số khoáng quặng nằm sâu nhất dưới mạch đất, tuy giống như bộ xương người, nhưng trên thực tế chỉ là khối pha lê lẫn vàng có khung hình con người, cỗ di hài đã lưu truyền từ bấy giờ cho đến tận thời Xuân Thu Chiến Quốc.

    Theo truyền thuyết, địa điểm phát hiện thấy di hài rất đặc biệt. Dựa theo mô tả của bức bích họa, thì đó là vật thể hình tròn với nhiều hình thù cổ quái to nhỏ không đều nhau, có đường vân loang lổ. Ngoài Sơn Hải Đồ khắc trên đỉnh Vũ Vương ra, thì không một cuốn văn hiến cổ đại hoặc bách khoa địa lý nào ghi chép về nó.

    Vật thể đó trông rất thần bí, trên bích họa vu Sở trong khám động nó cũng là vòng tuần hoàn hình tròn, dường như là hình tròn quái dị biểu thị luân hồi sinh tử không có điểm đầu và điểm cuối. Theo tôi suy đoán, bố cục tuần hoàn của bích họa thể hiện quan niệm về sinh tử của người Sở.

    Ngoài ra, trong bức tranh còn đề cấp đến chuyện tế ma vẫn thường diễn ra vào thời xưa, bởi vì người xưa cho rằng: ‘Tất cả sinh vật có mạng sống và hình dạng của vật thể chỉ là hư vô, vật chất sinh ra là do sự biến đổi âm dương, bởi vậy mới có sinh và có tử’. Sau khi người chết đi sẽ hóa thành ma, chỉ khi tế lễ thật nhiều, bậc đế vương mới biến thành rồng thăng thiên, chứ không rơi vào hư vô, cỗ di hài chính là đồ tế lễ quan trọng nhất.” Những tình tiết này hoàn toàn trùng khớp với manh mối mà đội khảo cổ nắm được từ trước.

    Sau khi Sở U Vương mất con gái, vô số người dân đã bị tuẫn táng theo, rồi cơn ác mộng quấn chặt hàng đêm khiến ông ta không thể ngủ yên. Ông ta lo sợ âm hồn trốn thoát khỏi lòng đất, nên định tế tiếp hàng loạt người sống, nhưng vu sư gieo phải quẻ hung, nên đành đặt báu vật này xuống đây để trấn ma, đục đẽo nham thạch trong động thành tượng thú “tải”, che lấp cửa động thông xuống Âm Sơn; sau đó ông ta lại gieo thêm quẻ nữa, và lại là một quẻ hung.

    Sở U Vương nghi ngờ cỗ di hài có xuất xứ dưới vực sâu kia không phải vật chốn nhân gian, có thể là vật bị ma ám trên trần thế và là căn nguyên của mọi tai họa, nên ông ta đã thả nó xuống núi Âm Sơn. Nghe nói, thời Sở có con rùa thần, sống ba ngàn năm cuối cùng vẫn không tránh khỏi cái chết, điều đó chứng tỏ tất cả những vật có sinh mệnh và hình dạng trên thế gian đều có một ngày phải bước tới hạn số của mình.

    Sở U Vương suy cho cùng cũng chỉ là người trần, lần này chưa kịp ra lệnh cho vu sư gieo tiếp quẻ cát hung thì đã thẳng đuội người tắt thở, hồn cưỡi rồng bay đi. Thắng Hương Lân nói: “Bức bích họa gần cửa động mô tả quá trình tế ma mà Sở U Vương vẫn chưa kịp tiến hành, và chỉ cần mở chiếc tráp ngọc đựng trong hộp đồng, khiến cỗ di hài lộ ra ngoài, thì âm phong sẽ tràn vào trong huyệt động, mây mù sương đặc ùn ùn phun ra, lúc ấy chỉ có khám động này là nơi duy nhất có thể dung thân.

    Cảnh tượng vẽ trong bức họa sau khi Sở U Vương cưỡi rồng bay về trời, là mười mấy vị vu sư mặt đeo mặt nạ, đặt cỗ di hài vào một vị trị đặc biệt trong động, cho tải mang nó xuống lòng đất. Những vị thần vu thông thiên trong bích họa đứng phân bố thành mấy điểm, ngoài vài người đứng canh di hài trong động, thì còn có vài vị khác đứng bên ngoài khám động, nét mặt người nào cũng toát lên vẻ khiếp đảm, hoảng sợ cùng cực.

    Bất luận hình dạng họ thế nào, thì trong sương đều xuất hiện cái bóng của họ và những hình ảnh trùng lặp, còn có không ít người đã chết đứng tại chỗ. Bích họa dường như muốn ám chỉ, trên đường vận chuyển cỗ di hài xuống Âm Sơn, nếu kẻ nào có ý đồ làm phản lệnh vua mà trốn chạy, thì kẻ đó sẽ bị chết thảm.

    Trong khi đó, ở nơi sâu trong luồng âm phong và màn sương ma quái, còn có rất nhiều tiên nữ với thân hình mảnh mai yêu dị, bay lượn chập chờn, vây quanh thần thú, đây là điểm duy nhất mà tôi không thể lý giải được.” Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân phân tích rất hợp tình hợp lý.

    Mấy vị vu sư của Sở quốc đeo mặt nạ quỷ trong bích họa đều chết ở khu vực gần đó, xương cốt sớm đã hóa thành tro bụi, nhưng cỗ di hài vẫn nằm y nguyên trong tráp ngọc hộp đồng, không hề suy suyển. Rõ ràng là, sau khi Sở U Vương chết, các vu sư đã không hành sự theo lệnh vua.

    Vì huyệt động dưới Biển Âm Dụ đã bị lấp kín, trong khi con đường bí mật đi xuyên qua đảo thông ra lòng núi thi chỉ có một mình Sở U Vương biết, bởi vậy, các vu sư cũng không còn đường tháo thân; tuy nhiên họ thà chết tại chỗ, chứ không dám mang di hài đi tìm mạch đất dưới núi Âm Sơn.

    Có điều, căn cứ vào nội dung bích họa “bất kể ai bước vào sương mù, đều sẽ gặp vong hồn chính mình” thì rốt cuộc là chuyện gì? Lẽ nào, nó quả thực có thể dự báo trước cảnh tượng của mình sau khi chết đi? Vì sao khi chiếc hộp được mở ra thì sương đen mới xuất hiện? Lẽ nào tất cả đều liên quan đến cỗ di hài? Rốt cuộc, chuyện gì đã xảy ra với Hải ngọng? Và ai là người đã ra lệnh cho Lão Xà lúc đó? Mọi người đều muốn nhanh chóng giải đáp những thắc mắc này, nhưng Thắng Hương Lân không tìm được nhiều manh mối từ bức bích họa, giờ đây cô chỉ có thể nói với Tư Mã Khôi: “Thứ xuất hiện trong sương mù không phải vong hồn của anh sau khi chết, mà có lẽ dùng từ u hồn thì hình dung sẽ chính xác hơn, hoặc có thể nói, đó chính là một linh thể”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 5: VÀNH ĐAI 300 VĨ BẮC BỊ MẤT TÍCH - HỒI 2: XUẤT VÍA


    Nhị Học Sinh có người chị ruột làm quản lý ký túc xá trường học trong thời kì cách mạng Văn hóa. Chị thường lấy sách bị niêm phong ở thư viện mang về cho Nhị Học Sinh đọc, đọc xong lại lẳng lặng cất lại chỗ cũ. Hồi Nhị Học Sinh phải tới lâm trường Thần Nông Giá, chị gái tiễn cậu em ra bến tàu, dặn dò: “Con nhà người ta đi cải tạo, bố mẹ mua tặng đồng hồ, rồi ra cả bách hóa mua áo rét phòng thời tiết lạnh, chị chẳng làm được thế cho em, chẳng tặng em nổi món gì, biết em thích đọc sách, sau này chị sẽ thường xuyên gửi sách cho em”.

    Bởi vậy, trong mấy năm cải tạo ở đây, Nhị Học Sinh đã đọc rất nhiều sách, trong điều kiện hoàn cảnh ấy có sách để đọc đã là khá lắm rồi, làm gì có chuyện lại còn kén cá chọn canh, chỉ cần thứ gì có chữ, bất kể nội dung thế nào, bất luận là thể loại gì, Nhị Học Sinh đều say mê xem tất.

    Vì xem nhiều sách, nên lúc này anh chàng là người đầu tiên lĩnh hội được ý của Thắng Hương Lân: “Tạm thời chưa xét đến tính hợp lý và xác thực của thuyết pháp, tóm lại sau khi con người chết đi mới có hồn ma, nhưng lúc còn sống thì trong cơ thể con người vẫn tồn tại linh thể, hiện tượng vừa rồi của Tư Mã Khôi có thể gọi là ‘hiện tượng xuất vía sinh học’, linh thể là cái bóng mà mắt thường căn bản không thể nào nhìn thấy.” Hải ngọng mất kiên nhẫn, chen ngang: “Anh nghe mà điên cái đầu, chú mày nói nhảm thế, bố ai hiểu được”.

    Khác với Hải ngọng, Tư Mã Khôi nghe xong cũng hiểu chút ít manh mối. Nói theo cách giải thích của cổ lý tướng vật thì: hình, thần, khí, chất là biểu hiện từ trong ra ngoài của người sống, dựa theo thuyết ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ, thì nó tương đương với năm thứ là: ngôn (lời nói), mạo (tướng mạo), thị (nhìn), thính (nghe) và tư (suy nghĩ), những thứ này lúc tăng lúc giảm, khi lên khi xuống, biến hóa khôn lường, nói toẹt ra là: “người còn sống thì còn thở”, nên kẻ mà anh nhìn thấy cạnh hộp đồng chỉ là hơi khí mà bản thân anh lưu lại trong sương mù mà thôi.

    Thắng Hương Lân gật đầu nói: “Một số nơi giữa các địa mạch phân bố mây từ dày đặc, cổ nhân cho rằng, đây chính là gốc rễ của sương mù. Mấy năm trước, thành viên của một đại đội trắc địa tiến vào khe Hắc Trúc trong núi Nga Mi, Tứ Xuyên, cũng gặp phải sương mù hình thành do mây từ.

    Loại sương mù này giống như có sinh mệnh hẳn hỏi, hễ gặp gió thổi mạnh là lập tức xuất hiện, tuy không đến nỗi gây chết người nhưng nó khiến tầm nhìn bị che khuất tối đa, không thể xác định được phương hướng. Tôi thấy sự kiện quái dị miêu tả trong bích họa vu Sở thể hiện rõ lòng đất bên dưới Thần Nông Giá cũng có mây từ.

    Thứ xuất hiện trong sương mù, chỉ là linh thể bị hút ra sau khi anh tiếp xúc với mây từ, đó là một linh thể không có sinh mệnh, bởi vậy, nó tiêu tan rất nhanh ngay sau đó. Có điều, luồng âm phong cùng sương độc xuất hiện rất bất thường, hoàn toàn khác với hiện tượng trong khe núi Hắc Trúc, có lẽ chính cỗ di hài đã thu hút sương mù đến.” Nhị Học Sinh nói: “Khe núi Hắc Trúc ở Tứ Xuyên và rừng nguyên sinh Thần Nông Giá đều nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc, điểm này mọi người cũng không được bỏ qua đấy!” Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ giây lát, thấy Hương Lân phân tích dựa vào tình hình thực tế như thế cũng có lý nhất định, bản thân 30° vĩ Bắc cũng là vành đai thường xuyên xảy ra nhiều sự cố quái lạ.

    Điều này cũng có thể giải thích về các hiện tượng mà anh nhìn thấy cạnh chiếc hộp lúc trước, nhưng điều kiện tiền đề là: người sống đã bị sương mù nuốt chửng, trong khoảng khắc sau khi thần tốc thoát khỏi nó, thì chủ thể sẽ nhìn thấy linh thể tàn lưu của bản thân ngay trên bề mặt sương mù.

    Vậy lúc anh đối mặt với tên thổ tặc, thì thứ xuất hiện trong khám động là gì? Tuy cái bóng đó mơ hồ không rõ, nhưng vóc dáng đội mũ Pith Helmet thì vẫn lờ mờ nhìn thấy. Lúc ấy mọi người nấp trong động cũng khá lâu, và trong suốt quá trình diễn ra sự việc, cả hội đều không hề tiếp xúc với sương mù, mà dẫu có thì họ cũng không thể nhìn thấy mỗi chiếc bóng của mình.

    Tất cả những điều này là vì nguyên nhân gì? Lúc này, Thắng Hương Lân mới biết Tư Mã Khôi gặp chiếc bóng của mình những hai lần. Kể từ khi bắt đầu nhìn thấy cỗ di hài, rất nhiều biến cố quái dị đã xảy ra chỉ trong thời gian ngắn ngủi, rồi mỗi người đều tự trải nghiệm một phần trong chuỗi sự kiện đó, khiến cả chuỗi biến cố trở nên vô cùng li kì.

    Có điều, tư duy của Thắng Hương Lân rất mẫn cảm, cô có tài tìm ra những manh mối từ những dãy sự kiện phức tạp chứa đầy yếu tố nguy hiểm, mâu thuẫn và bí ẩn. Lúc này, Hương Lân nhíu mày, ngẩng đầu nhìn bức bích họa vu Sở và nói: “Vì trong sương mù còn có thứ khác, có lẽ nó liên quan đến tất cả những ẩn số khác…” Tư Mã Khôi nhớ lại lúc anh đứng cạnh hộp đồng Sở U Vương, bỗng nhiên có luồng âm phong thổi tới, rồi dường như có bàn tay người đột ngột đặt sau lưng mình, hơi lạnh ngấm vào tận xương tủy.

    Anh không dám quay đầu lại nhìn, mà lập tức bật dậy vọt ra xa. Cảm giác lạnh rợn người đó chắc chắn không thể là giả, xem ra trong màn khí đen quả thực tồn tại thứ gì đó vô cùng khủng khiếp, chẳng lẽ nó là tiên nữ vẽ trên bích họa vu Sở? Tư Mã Khôi không đoán ra được, vì rốt cuộc chỉ có Hải ngọng bị nhốt trong sương mù lâu nhất, mà sau khi Hải ngọng bị lôi ra khỏi động thì đã trở thành cỗ tử thi lạnh ngắt cứng đơ, bây giờ bỗng dưng cậu ta lại sống dậy, miệng vẫn nói tiếng người nhưng không biết có còn tim người trong ngực hay không? Tư Mã Khôi không phải người hay nghi thần ngờ quỷ, nhưng vì chuyện này quá khác thường, bây giờ thì sương đen đã bao trùm khắp ngoài động, e rằng chỉ cần thò đầu ra nhìn một cái cũng đủ mất mạng.

    Anh đành ngồi nọc Hải ngọng ra truy hỏi, bảo Hải ngọng thử nhớ kỹ lại xem lúc đó có nhìn thấy gì không, trong sương mù có xuất hiện thứ gì giống trên bích họa không? Hải ngọng nghe nhắc đến bích họa vu Sở trên tường, thì bỗng nhiên có cảm giác lanh rùng mình, anh hít một hơi hỏi: “Mấy ả trên bích họa đó là ma hay yêu quái thế nhỉ?”, sau đó anh lắc đầu, biểu thị như mình không nhìn thấy gì.

    Đúng lúc này, mây mờ sương tối, âm phong lại ùa tới, thổi tắt hết nến trong động. Trong lúc hoảng hốt, cả hội vẫn cảm thấy một cột khí đen xộc thẳng tới, trong chớp mắt, ngay cả đèn cácbua gắn trên mũ cũng không sáng nữa. Trong tình trạng hoàn toàn không có nguồn sáng, trước mắt tối đen như đít nồi, mọi người lại không có mắt lửa ngươi vàng nên tất thảy như mù, không nhìn thấy gì hết.

    Thắng Hương Lân nói: “Yêu quái trong bích họa là thứ gì nhỉ? May mà chúng đều bị chặn phía ngoài tượng thần thú, nhưng chúng ta cũng không thể trốn ở trong này mãi được”. Tư Mã Khôi định thần ngẫm nghĩ, lúc trước, anh hoàn toàn không ngờ Nấm mồ xanh sẽ xuất hiện dưới Biển Âm Dụ, càng không biết bóng ma u linh đó ẩn nấp phương nào.

    Đầu tiên, Lão Xà nhận được mệnh lệnh từ bộ điện đàm không dây trong trạm thông tin, sau đó nghe thấy thủ lĩnh phát tín hiệu trong màn sương đen, vì dưới Biển Âm Dụ Thần Nông Giá, ngoài bản thân kẻ đó và gã thổ tặc ra, thì có lẽ không còn tồn tại người nào khác. Thêm vào đó Lão Xà không hề hay biết gốc gác lai lịch của thủ lĩnh, nên mới ngộ nhận Tư Mã Khôi chính là Nấm mồ xanh.

    Nhưng những sự kiện này cũng vô tình khiến những đặc trưng của Nấm mồ xanh ngày càng lộ rõ. Đầu tiên, hắn vẫn không dám xuất đầu lộ diện; thứ hai là năng lực hành động của hắn rất có hạn, hắn chỉ có thể lợi dụng người khác để hoàn thành nhiệm vụ; ngoài ra, mục tiêu và thời gian hành động của tên thủ lĩnh rất có khả năng hoàn toàn trùng khớp với đội khảo cổ.

    Điều này chứng tỏ mọi manh mối ở thành Nhện Vàng và kính viễn vọng Lopnor đều tập trung ở Biển Âm Dụ, dưới Đại Thần Nông Giá. Xem ra, cỗ di hài đến từ vực sâu nhất định là kim chỉ nam giúp mọi người tìm ra đáp án của ẩn số. Ngoài ra, từ đầu chí cuối, Tư Mã Khôi đều cho rằng, Nấm mồ xanh không phải là một u hồn đúng nghĩa, vì u hồn không có thể xác cụ thể.

    Hắn có thể có khả năng thay hình đổi dạng, hoặc thậm chí là tàng hình, nhưng hoàn toàn không cần thiết phải che giấu khuôn mặt thật của mình. Tình hình đã đến nước này, cả hội cũng không còn đường lui, mà chỉ còn cách tiếp tục đi tìm lời giải cho ẩn số “di hài”, thì mới mong tìm được đường đi xuống tiếp mạch đất núi Âm Sơn.

    Nghĩ xong, Tư Mã Khôi liền khoác súng sau lưng, cùng Hải ngọng đến chỗ di hài, kẻ ôm đầu, người khiêng chân nhấc bổng lên, rồi vác lên tay mới cảm thấy nó rất nặng, xương cốt di hài đều làm bằng vàng ròng, khắp người bị mấy con rắn đồng quấn chặt, viên ngọc đen trong hốc mắt giống như đầu lâu vượn cổ rừng sâu, lại chuyển động một cách quái dị, khiến người ta không dám nhìn gần.

    Mọi người tham chiếu theo cảnh tượng vẽ trong bích họa để lần tìm lối đi, họ thấy trong động thất có hai pho tượng thú bằng đồng, quy mô rất hoành tráng, một pho mặt người mình hổ, sau mọc chín đuôi, còn pho kia mặt người mình chim. Trong bích họa vẽ cảnh mọi người tiến vào mạch đất núi Âm Sơn, vị vu sư của Sở quốc đang chuẩn bị đặt di hài xuống đây.

    Tư Mã Khôi đang định đặt di hài xuống giống như bức họa miêu tả, thì Cao Tư Dương bỗng nhiên ngăn lại: “Khoan đã, tôi thấy có điều gì đó không đúng lắm”. Nhị Học Sinh nhỏ giọng nhắc nhở Cao Tư Dương: “Định luật Murphy nói, mọi thứ trông đều có vẻ bình thường, chính là điều bất thường nhất”.

    Cao Tư Dương không đếm xỉa gì đến Nhị Học Sinh, cô tiếp tục nói với Tư Mã Khôi: “Lẽ ra tôi không nên nhiều chuyện, nhưng anh đừng quên rằng, chính thủ lĩnh của Nấm mồ xanh ra lệnh cho gã thổ tặc mang di hài vào trong động, mà anh lại nói tên thủ lĩnh không phải vong hồn, và kẻ đó chỉ trốn đâu đó trong động ở nơi mà mọi người không thể nghĩ ra được, rồi có lẽ nhất cử nhất động của chúng ta đều bị hắn theo dõi.

    Vậy thì chưa biết chừng mang di hài xuống vực sâu cũng chính là điều mà hắn đang muốn đạt được, nên chí ít anh cũng không được bỏ qua khả năng này”. Tư Mã Khôi cũng thấy hội Thắng Hương Lân đều rất bất an về điểm này, anh liền bảo:.“Tôi đã nghĩ tới khả năng này, chúng ta buộc phải đi xuyên qua màn sương dày đặc, rồi cố gắng nhìn rõ bản chất của cả chuỗi sự kiện, tôi đoán Nấm mồ xanh và đội khảo cổ chúng ta đều sẽ có được kết quả mà mình muốn tìm kiếm.

    Nhưng tôi nghĩ, Nấm mồ xanh cũng không thể tiên đoán được mọi việc sẽ như thế nào, nếu không, hắn đã sớm phái đội thám hiểm băng qua Biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, xuống vực sâu dưới lòng đất, chứ không việc gì phải đợi tới tận bây giờ mới đến. Nước ta giải phóng đã hơn hai mươi năm, vùng núi Đại Thần Nông Giá ngày nay không giống Miến Điện chiến tranh loạn lạc, cũng không giống với thời kì những năm 50, 60, đặc vụ nằm vùng khắp mọi nơi nữa.

    Cùng với thời gian, cục diện chính trị dần trở nên ổn định, các thành viên của tổ chức ngầm đã dần dần bị tóm sạch. Bây giờ, ngay cả tên thổ tặc chưa được tẩy não như Lão Xà cũng được trưng dụng, thì xem chừng năng lực hành động của tổ chức này ở phạm vi trong nước đã bị suy yếu đến cực hạn.

    Lúc mới bắt đầu, tất cả những gì liên quan đến Nấm mồ xanh đều là những ẩn số to đùng, mà đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ không ra Nấm mồ xanh làm cách nào để biết được thông tin đội khảo cổ thâm nhập kính viễn vọng Lopnor và tìm được manh mối. Có điều, sau khi trải qua cả chuỗi sự kiện từ hẻm núi Dã Nhân, kính viễn vọng Lopnor, Biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, thì bí mật của tên thủ lĩnh cũng dần dần lộ ra.

    Lịch sử tồn tại của tổ chức ngầm này đã có từ rất lâu đời, nhưng mãi đến thời Dân Quốc, khi Triệu Lão Biệt trốn thoát khỏi chiếc hộp thời gian, mang theo tin tình báo về thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa, từ đó kẻ mà chúng ta vẫn coi là thủ lĩnh Nấm mồ xanh, mới chính thức bắt đầu khống chế tổ chức ngầm này, đồng thời bắt tay tìm kiếm đường xuống vực sâu.

    Căn cứ vào hài cốt của các thành viên đội thám hiểm Pháp tử mạng ở Lâu Lan, có thể suy đoán, thời gian lúc đó đại khái là những năm hai ba mươi. Nếu Nấm mồ xanh thực sự tiên liệu được mọi việc, thì không thể mãi đến năm 1974 hắn mới bắt tay hành động. Tôi cảm thấy, kế hoạch ban đầu về Biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá của tên đầu lĩnh là, dự định để gã thổ tặc đoạt được tấm bản đồ mà đội thám hiểm Taninth để lại trước đội khảo cổ một bước.

    Bởi trước giải phóng, hắn biết tấm bản đồ ghi chép nơi cất giấu kho báu của Sở quốc, chỉ có điều hắn hoàn toàn không ngờ mạch đất núi Âm Sơn trong truyền thuyết của Sở U Vương, lại là cánh cửa thông xuống vực sâu, và tấm bản đồ cuối cùng lại rơi vào tay đội khảo cổ chúng ta.

    Vậy là, hắn ta đành ra lệnh cho Lão Xà mang di hài vào trong động. Tôi nghĩ, có lẽ hắn đã phát hiện ra bí mật của cỗ di hài khắc trên lớp điêu khắc ngoài của bức bích họa, mà trước đó hắn đã hoàn toàn không biết. Bởi vậy, tôi có thể dám chắc, hắn đã biết đáp án của ẩn số; nhưng vẫn chưa biết cả quá trình và kết quả sẽ xuất hiện sau khi tìm thấy ẩn số, không những thế, hắn cũng chịu sự quấy nhiễu của định luật Murphy giống như chúng ta.

    Nếu chúng ta bỏ cuộc giữa chừng, thì tất cả những gì chúng ta đã nỗ lực từ trước đên giờ, đều hóa công cốc, không chỉ vậy, mà còn khó bảo toàn tính mạng. Chúng ta sẽ vĩnh viễn mất cơ hội vạch trần bộ mặt thật của Nấm mồ xanh.” Mọi người nghe Tư Mã Khôi phân tích đều thấy rất phải, Nhị Học Sinh bất ngờ nói: “Tôi nghĩ, Nấm mồ xanh không những không biết kết quả đáp án của ẩn số, mà còn không biết cả bản thân đáp án của ẩn số nữa”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này