1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Xuyên không Hoàng Phi Sở Đặc Công Số 11 - Tác Giả : Tiêu Tương Đông Nhi - Tình Trạng : Full

Discussion in 'Truyện dịch' started by Băng Băng, Aug 14, 2017.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)

Thread Status:
Not open for further replies.
  1. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 178: Lấy giang sơn làm vật cược
    Tin tức Tú Lệ tướng quân được phong làm hoàng phi chỉ trong một đêm đã lan truyền khắp lãnh thổ Biện Đường. Thận Nam, Điền Tây, Việt Lâm và Vân Mạc đồng loạt tỏ ý phản đối, nhất là khu vực phía nam Biện Đường, Tĩnh An vương, Đoan Khánh vương và Hoa Dương đại công đều lần lượt khởi binh.

    Lúc Lạc vương làm phản hay lúc huynh muội Chiêm thị tự ý chuyên chính, những nhóm thân thích hoàng tộc này không hề lộ mặt, nhưng nay lại rối rít giương cao khẩu hiệu trừ yêu nữ bảo vệ vua, tập hợp mười tám vạn Nam quân rầm rập chạy về phía Đường Kinh. Quan phủ các quận thành dọc đường đều không mở cửa cho bọn họ vào cũng không dám cho người ra mặt ngăn cản.

    Tôn Đệ sớm dự liệu được chuyện này nên trước đó đã điều hai mươi vạn Đông quân do tướng quân Từ Tố dẫn dắt bày rào cản ở Hàm Thủy Quan, để mười vạn Sói binh bảo vệ đế đô, các nẻo đường núi đều có đặt trạm kiểm soát nghiêm ngặt. Đế đô chân chính trở thành khối sắt mưa bắn không thủng, kiếm chém không xuyên, tựa như mãnh hổ đang lẳng lặng nằm chờ kẻ địch muốn xâm phạm lãnh thổ của mình.

    Tất cả đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, chỉ còn chờ đại điển phong phi ba ngày sau nữa thôi.

    Gió thu đìu hiu, để bảo đảm an ninh cho lễ sắc phong cử hành trên đài Phượng Du, mấy ngày nay Đường Kinh đã thực hành lệnh cấm đi lại vào ban đêm. Vì vậy phố đêm trống trải không một bóng người, gió thu thổi lá rụng cuốn quanh gốc ngô đồng rồi bay lên cao, trong đêm tối nhìn tựa như vô số bướm vàng vỗ cánh.

    Phủ Tư không*, nam tử mặc y phục thị vệ trong cung quỳ trên mặt đất, cao giọng báo cáo: “Tối qua Sở đại nhân và Mai Hương cô nương to tiếng với nhau, kinh động đến cả tiểu hoàng đế và Tiêu công chúa, sau đó nô tài chính tai nghe Sở đại nhân hứa với hoàng thượng sẽ không rời khỏi Đại Đường.”

    *Tam tư xuất phát từ thời hậu Hán (Đông Hán), bao gồm:

    – Ðại Tư Mã: Chức quan tổng chỉ huy binh mã.

    – Ðại Tư Ðồ: Chức quan coi về lễ giáo học hành.

    – Ðại Tư Không: Chức quan coi về việc điều luật, dân chúng.

    Tôn Đệ khẽ nhướng mày, cười hỏi: “Chính tai ngươi nghe rõ ràng?”



    “Thưa phải, Mai Hương khóc rất to, tiểu hoàng đế thậm chí rút cả kiếm ra, Sở đại nhân còn đốt luôn thư của Tư mã Đại Hạ nữa.”



    “Sáng nay Mai Hương đi lúc nào thế?”



    “Trời còn chưa sáng đã gọi người tên Đa Cát đưa đi rồi, Sở đại nhân nói nàng muốn trở về thành Học Phủ.”



    Tôn Đệ gật đầu, hồi lâu sau mới trầm giọng nói: “Đi rồi cũng tốt, ở lại sẽ trở thành vật cản trở.”



    Nam tử đứng dậy lấy ra hai thanh vàng đặt trên bàn, lạnh lùng nói: “Trở về làm tốt nhiệm vụ của ngươi, ta sẽ không bạc đãi.”



    “Đa tạ Tôn đại nhân!”

    Sau khi thị vệ lui ra, Tôn Đệ gọi một người hầu thân cận đến, cân nhắc một lúc mới từ tốn nói: “Ngươi hãy lập tức dẫn người ra khỏi thành tìm kiếm tung tích thị nữ thiếp thân của Sở đại nhân, nếu nàng ấy thật sự trở về thành Học Phủ thì âm thầm đi theo hộ tống. Còn nếu nàng ấy đổi đầu đi hướng khác thì ngươi biết phải làm gì rồi đấy.”

    Người nọ thấp giọng đáp: “Thuộc hạ tuân lệnh.” Nói xong lập tức đi ra ngoài, một lát sau liền có tiếng ngựa hí xa dần ở cuối con phố dài.

    Tôn Đệ đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài, vầng trăng trên trời cong cong tựa như hàng mày của thiếu nữ.

    “Mong rằng… mọi chuyện đều thuận lợi.”



    Hai ngày bình yên trôi qua, ngoại trừ ban đầu có mấy học giả ở Hàn lâm viện và vài ngự sử ở Ngự sử đài lên tiếng phản đối kịch liệt chuyện sắc phong thì văn võ trên triều đều im lặng không nói gì. Mà cũng chẳng phải vì khuất phục uy quyền của Tôn Đệ, bọn họ chỉ là e ngại binh quyền trong tay Sở Kiều. Tôn Đệ còn chưa kịp đích thân bắt giữ mấy lão cựu thần cổ hủ kia thì không ngờ Tú lệ quân đã đi trước một bước tống toàn bộ vào đại lao rồi.

    Lúc biết tin Tôn Đệ cũng có hơi lo lắng, những người này tuy cố chấp nhưng dù sao cũng là thần tử thực sự trung thành với Đại Đường. Tú lệ quân coi Sở Kiều như thần, không biết sẽ trị tội bọn họ thế nào.

    Hắn từng vì chuyện này tiến cung, hy vọng có thể khuyên nhủ vị thái hoàng phi giám quốc này mấy câu, kết quả lại ngậm bồ hòn trở về. Hắn đoán mấy chuyện mình làm lúc trước có lẽ đã bị Sở Kiều biết rồi nên cũng không dám quá nóng nảy, chỉ đành âm thầm căn dặn người để ý mấy cựu thần kia.

    Tối nay nhất định sẽ là một đêm không yên giấc, bởi vì ngày mai sẽ là đại điển sắc phong của Sở Kiều, cũng là lần đầu tiên từ khi lập quốc Biện Đường tiến hành lễ rước dâu mà hoàng đế không còn sống. Lễ bộ làm việc sáng đêm cố gắng hoàn thiện đài Phượng Du, còn chúng quan lại thì đều biết thân biết phận ngồi yên trong nhà. Không ai đoán được sau ngày mai Đại Đường sẽ như thế nào, không biết cô gái có quan hệ mật thiết với mấy người đứng đầu các quốc gia còn lại này sẽ dẫn đắt tương lai Biện Đường về đâu. Nàng đến cùng là trung thần hay là đạo tặc cướp quyền, nàng muốn giữ nguyên chế độ vốn có hay thành lập chính quyền Đại Đồng như Bắc Yến khi xưa? Chẳng ai biết.

    Sau ngày mai, chủ nhân Đại Đường còn có thể mang họ Lý sao?

    Tối nay, vô số người đều đang tự hỏi như thế.

    ………………………………………………………………………………………………………………..

    Quân doanh của Tú lệ quân vô cùng yên tĩnh, các chiến sĩ không hề có chút mảy may dao động đối với sự xôn xao bên ngoài. Ánh trăng trong trẻo bao trùm doanh trại rộng lớn, trường thao luyện vắng vẻ không một bóng người.

    Rèm trướng của Hạ Tiêu khẽ động, một người khoác áo choàng đen, đầu đội mũ trùm bước vào.

    Hạ Tiêu đang ngồi trước án uống rượu, trên người mặc áo vải nâu, tóc thả không búi, vạt áo mở rộng lộ ra da thịt rắn chắc màu đồng, dáng vẻ tùy tiện phóng khoáng ngày thường khó gặp. Nhìn thấy người đi vào, hắn khẽ cau mày, cũng không lên tiếng.

    Người vừa đi vào giở mũ trùm ra để lộ khuôn mặt xinh đẹp, mỉm cười nói: “Ta nhớ đêm khuya uống rượu trong doanh trại là phạm quân quy mà nhỉ.”

    Hạ Tiêu nhìn thấy nàng cũng không nói gì, chỉ cúi đầu tiếp tục uống rượu.

    Sở Kiều tiến lên khoanh chân ngồi xuống đối diện với hắn, ngước lên hỏi: “Không mời ta một chén sao?”



    Hạ Tiêu tiện tay ném một cái chén không sang, Sở Kiều cũng không giận, thản nhiên rót rượu vào chén, ngửa cổ uống cạn, chất rượu cay nồng tựa lửa nóng xộc vào óc.

    Nàng khẽ nhíu mày, nói: “Rượu mạnh thật.”



    Thấy Hạ Tiêu vẫn không nói lời nào, nàng ra giả vờ hơi nghiêm nghị, hỏi: “Ta không tự mình đến thì huynh sẽ vĩnh viễn không đến gặp ta có phải không?”



    Hạ Tiêu nhướng mày, đảo mắt một vòng lên mặt nàng rồi chợt trầm giọng hỏi: “Sao bây giờ người vẫn còn cười được thế?”



    “Cớ gì không thể? So với lúc chúng ta phòng thủ Bắc Sóc, tình hình bây giờ chẳng phải tốt hơn nhiều sao?”



    Hạ Tiêu nhìn nàng chằm chằm một lúc, cuồi cùng thở dài quay đầu đi, nói: “Phải, tốt hơn nhiều. Đại quyền trong tay, chuẩn bị thượng vị, đúng là tốt hơn rất nhiều.”



    Sở Kiều hơi nghiêng người về phía trước, ánh mắt lấp lánh như sao, bực bội hỏi: “Hạ Tiêu, huynh cũng nghĩ ta như thế à?”



    Mặc dù đáy lòng hiểu rõ nhưng làm sao cũng không tiêu trừ được chút lửa giận này, Hạ Tiêu quay lại nhìn thẳng vào mắt nàng, thần sắc lạnh như băng, ẩn chứa sự tức giận cũng như đau lòng.

    Sở Kiều chồm người qua mặt bàn, nhẹ giọng thì thầm bên tai người đối diện mình.

    Mới đầu Hạ Tiêu còn chưa chú tâm, thoáng sau liền lập tức biến sắc, ngẩng phắt đầu lên, khiếp sợ nhìn cô gái gan to bằng trời trước mặt.

    “Hạ Tiêu.” Sở Kiều mỉm cười nhìn hắn, ngữ khí mang theo sự trịnh trọng cùng bĩnh tĩnh hơn hẳn những lần trước đây, “Huynh có chịu giúp ta không?”



    Vị tướng quân trẻ tuổi im lặng hồi lâu, cuối cùng khóe miệng dần cong lên, vươn tay ra. Tựa như rất nhiều lần suốt mấy năm qua, hai người đột nhiên đập tay vào nhau, sau đó giơ cao nắm đấm.

    ………………………………………………………………………………………………………………..

    Trong bóng đêm thanh lãnh, một đội nhân mã đang phi hối hả trên con đường núi hoang vu bên ngoài Đường Kinh. Phía trước đột nhiên xuất hiện một bóng người thúc ngựa chạy về phía họ, nam tử áo tím đi đầu kìm cương ngựa lại.

    Người đối diện vốn đang chạy như điên, chợt liếc thấy hắn thì nhất thời biến sắc, đủ loại cảm xúc, kinh ngạc, vui sướng rồi không thể tin, lần lượt lướt qua trên mặt, cuối cùng nhảy *phóc* xuống khỏi lưng ngựa, quỳ xuống trên mặt đất khóc to: “Tứ thiếu gia!”



    Tối nay đúng là một đêm không thích hợp để an giấc, khi mà đủ loại mưu tính đang được bày ra chờ đón buổi lễ long trọng ngày mai.

    Đêm nay thật dài.

    ………………………………………………………………………………………………………………..

    Hừng đông, chân trời đỏ ửng, mặt trời dần nhô lên chiếu sáng thế gian.

    Đại điện Quốc Tử.

    Nhữ Nam vương tóc bạc phơ run rẩy tuyên đọc di chiếu của tiên hoàng rồi run rẩy quỳ xuống trên thềm ngọc trước đại điện. Sở Kiều mặc cát phục bằng gấm Thái Vân thêu hoa văn loan phượng cưỡi mây, vạt váy kết vàng điểm ngọc thành mười tám con chim phượng, eo mang đai lưng nạm ngọc tím, là hôn lễ với người đã khuất nên cát phục dùng màu tối làm sắc chủ đạo, hoa văn thêu nổi cũng là màu xanh đen, tím than, đỏ thẫm, đen bóng, lam sẫm và nâu đậm, viền áo bằng chỉ bạc, hoa văn loan phượng tường vân tuyền một màu đen, trang sức chủ yếu bằng trân châu đen, đá nguyệt quang và điền ngọc. Nhìn thoáng qua, vẻ trang trọng cùng khí tức lạnh lẽo từ trên người nàng đều khiến người khác không dám nhìn thẳng.

    Từ đại điện Quốc Tử, loan giá bắt đầu lăn bánh qua quảng trường Chương Ngự, đài Bích Thụ Thiên, quảng trường Tường Vi, cổng Quỳnh Hoa, cổng Thái Khanh, cổng Thái An rồi ra khỏi cung Kim Ngô, tiến vào đường cái Thanh Vân chủ yếu dành cho hào môn thế gia trong kinh sinh sống, sau đó vòng qua đường Thiên Khải, trực chỉ đến đài Phượng Du phía trước thái miếu.

    Trên đường đi, dân chúng quỳ đầy hai bên, nhìn thấy loan giá đều hô to ‘thiên tuế’ rồi cúi đầu sát đất. Bụi đất tung lên tựa như cơn gió lốc màu vàng.

    Cuối thu cây trụi lá, kinh đô Biện Đường chìm trong sắc cờ đen, bầu trời trong xanh lồng lộng, vầng thái dương tỏa sáng khắp nơi. Quang cảnh tựa một bức tranh sơn thủy mỹ lệ, vẻ phồn hoa thịnh vượng như bụi mờ chất lớp che phủ tàn dư của mấy trận máu tanh trên thành trì này.

    Loan giá dừng lại, đài Phượng Du được xây trên ba trăm sáu mươi sáu bậc thang bằng bạch ngọc, cao gần trăm trượng. Đứng trên đài nhìn xuống có thể bao quát toàn bộ Đường Kinh, kể cả cung Kim Ngô nguy nga tựa như cũng bị nó giẫm dưới chân.

    “Sở thị xuất thân danh môn, đức độ lễ nghĩa, tài cao học rộng, khiêm tốn hiền lành, thục huệ thiện lương, nay đặc biệt sắc phong làm hoàng quý phi, toàn quyền phụ chính giám quốc, vĩnh phúc dài lâu.”



    Âm thanh tuyên chỉ trang nghiêm quanh quẩn trên không trung, mũ phượng bằng vàng ròng nằm ngay ngắn trên chiếc bàn trước tổ miếu, phượng ấn, bút son, ngọc tỷ lần lượt được đặt bên cạnh. Chúng tượng trưng cho quyền hành mà người cả thiên hạ đang dõi mắt nhìn vào, chỉ cần tiến lên một bước cầm chúng trong tay, thì thế gian sẽ không còn ai có thể dễ dàng động đến nàng.

    Sở Kiều đứng trên đài Phượng Du cao cao, phía dưới là hàng vạn hàng ngàn thân ảnh quỳ san sát với đủ loại ánh mắt đang nhìn nàng, có ghen ghét, có oán độc, có sợ hãi, có e dè, có bàng hoàng, cũng có chút kỳ vọng tha thiết, nhưng hoàn toàn không có chút ấm áp nào. Thềm ngọc dưới chân lạnh buốt, trên đầu mặt trời sáng rực nhưng nàng vẫn thấy toàn thân như chìm trong băng hàn.

    Lễ bộ thượng thư quỳ gối trước mặt nàng, tay bưng khay đựng ấn tín hoàng kim. Đầu lão cựu thần thất tuần cúi thật thấp, đầu gối khẽ run run vì tuổi già.

    Một cơn gió lớn chợt thổi qua, chân trời chợt xuất hiện hùng ưng kết thành đàn bay xẹt ngang. Sở Kiều ngẩng đầu lên, trước mắt nàng là cổng thành sừng sững, tường sắt đỏ thắm, thành lâu cao vút, tòa thành trì có tuổi đời hơn ngàn năm này như đang chăm chú nhìn nàng, chờ đợi một khoảnh khắc mang tính lịch sử.

    Chỉ cần đưa tay ra, nàng chỉ cần đưa tay ra nhận lấy thì một phần tư thiên hạ này sẽ nằm trong tay nàng.

    Trong một khắc, nàng như chợt nhìn thấy đôi mắt kia, trong trẻo lạnh lùng nhưng cũng cực nóng, cùng nét chữ rồng phượng viết: Hết thảy đều phải đợi ta!

    Hết . thảy . đều . phải . đợi . ta!

    Kèn hiệu sắc phong đột nhiên đồng loạt vang lên, hùng tráng như có ngàn vạn đàn thú cùng lúc rống to.

    ………………………………………………………………………………………………………………..

    Hướng bắc bên ngoài Đường Kinh, một con chiến mã đứng ở đầu cầu, cỏ thu khô vàng bị gió thổi tung lên không trung, mặt trời buổi sớm rải vàng lên khắp bình nguyên rộng lớn.

    Nam tử mặc y phục tím toàn thân, ngọc quan búi tóc, ngũ quan tuấn tú, ánh mắt thăm thẳm như hồ sâu, trầm tĩnh không chút gợn sóng.

    Gió chợt nổi lớn hơn, chiếc chuông gió be bé đeo trên cổ nam tử khẽ lay động, một giọng nữ uyển chuyển vang lên: “Nhớ kỹ, ta đang chờ đấy.”



    Ta đang chờ… ta đang chờ…



    Nắng sớm xuyên qua tầng mây mở ra vô số con đường ánh sáng từ trên cao, vạn vật như được đổi mới, đẹp đến ngây ngất.

    Cổng thành phía nam Đường Kinh đột vang lên một tiếng *ầm* thật lớn, chấn động đến tận chỗ thái miếu.

    Chân trời phía nam bốc lên bụi mù dữ dội, che khuất cả nắng sớm vừa rọi xuống, có tiếng binh lính hoảng hốt kêu to: “Tĩnh An vương tập kích kinh thành! Đại tướng quân Từ Tố phản bội theo địch! Quân của Tĩnh An vương đã chuẩn bị vào thành! Đại tướng quân Từ Tố phản bội theo địch rồi!”



    Trong nháy mắt, toàn thành lập tức náo loạn, mặt ai cũng xám ngoét. Tôn Đệ đứng dưới đài, sắc mặt biến trắng bệch.

    Lễ bộ thượng thư ngã ngồi ra trên đất, phượng ấn trong khay rơi xuống trên thềm bạch ngọc, sắc vàng lấp lánh dưới nắng.

    Sở Kiều đi từng bước xuống đài, đến đứng trước mặt Tôn Đệ. Tôn Đệ ngẩng đầu lên nhìn nàng chằm chằm, ánh mắt vừa kinh hãi vừa bàng hoàng không nói nên lời.

    “Tôn đại nhân.” Sở Kiều móc ra một tờ giấy, trên giấy liệt kê một dãy dài tên tuổi của các đại quan trong triều, “Đây là danh sách các đại thần trong kinh bí mật liên lạc với Tĩnh An vương chuẩn bị tạo phản trong khoảng thời gian này, phiền ngươi nhanh chóng đi xử lý.”



    Sở Kiều vừa dứt lời, vô số đại thần quỳ trước đài lập tức tái mặt. Tôn Đệ sững sờ nhận lấy, nghi hoặc nhìn nàng, dường như đến giờ hắn mới nhìn rõ cô gái trước mặt.

    “Ta phải lập tức lĩnh binh ra nghênh chiến với Tĩnh An vương, an nguy của hoàng thượng và dân chúng trong thành xin phó thác cho ngươi.”



    “Nhưng trong kinh và mấy vùng lân cận chỉ có khoảng mười lăm vạn quân, còn quân số bên địch…”



    Sở Kiều ngắt lời hắn, “Chúng ta còn có Từ đại tướng quân.”



    “Từ đại tướng quân không phải đã…”



    “Đây cũng chẳng phải lần đầu Từ đại tướng quân diễn màn kịch này.”



    Tôn Đệ nhất thời ngây người, sững sờ nhìn Sở Kiều tiện tay xé toạc bộ cát phục tráng lệ trên người, lộ ra khôi giáp màu bạc bên trong, châu ngọc cài trên đầu cũng bị rút ra ném xuống đất. Nàng dùng một dải vải xanh đen cột gọn tóc, phóng lên lưng chiến mã vừa được Hạ Tiêu dắt đến rồi dẫn tướng sĩ Tú lệ quân rầm rập rời đi.

    Mười lăm vạn quân thủ thành đã sớm dàn trận đón địch bên ngoài hoàng thành, cô gái mặc giáp bạc, vẻ lạnh lùng băng giá trên mặt được thay bằng anh khí ngất trời, khiến toàn thân nàng rực rỡ sáng chói như phượng hoàng vừa dục hỏa trùng sinh. Nàng vung trường kiếm, ngẩng đầu nhìn lên thành, quát to: “Mở cổng thành!”



    Khoảnh khắc đó, trời đất như chào đón ánh sáng đầu tiên, chói lóa rực rỡ đến mức khiến người nhìn xúc động phải rơi lệ.

    Cổng thành sừng sững chậm rãi mở rộng, hàng vạn vó ngựa hất tung bụi rầm rập chạy về phía chiến trướng cách đó mười dặm.

    Thế gian là lò tôi luyện, vạn vật là than trong lò, thời loạn thế sinh minh chủ, và nàng chính là thanh kiếm sắc mà mọi minh chủ đều mơ ước.

    Gió không ngừng tạt qua bên tai, Sở Kiều lại một lần nữa nhớ lại lời Lý Sách nói với mình trước khi chết:

    Sau khi ta chết, triều đình chắc chắn đại loạn, huynh muội Chiêm thị chỉ là hổ giấy mà thôi, thân thích hoàng thất mới chính là sói dữ thật sự. Tôn Đệ hành sự thường hay quá khích, nếu có dị động thì chớ nghe theo hắn. Cầm ban chỉ ta đưa nàng lúc trước đến Hàm Thủy, Từ Tố nhìn thấy nó sẽ nghe theo hiệu lệnh của nàng, Sói binh của Thiết Do cũng sẽ nghe nàng chỉ huy.



    Kiều Kiều, nàng đã sống nửa đời trong ràng buộc rồi, nếu cái chết của ta lại khiến nàng bị quẩn chân thì ta ở dưới cửu tuyền cũng nhắm mắt không yên.



    Không được để ta thất vọng đấy…



    Khóe mắt lại cay xè, Sở Kiều mím chặt môi, ra sức quất roi thúc ngựa. Trên bình nguyên ở phía trước, binh lính hai phe đã bắt đầu giao chiến. Từ Tố khoác giáp toàn thân, oai vũ tựa chiến thần, tay cầm đại đao, sau lưng đeo khẩu hiện ‘giết phản tặc, giết gian thần’, tiến lên trước làm gương cho binh sĩ.

    Sói binh hét to một tiếng ‘Giết’ đinh tai nhức óc. Trên bình nguyên bao la rộng lớn, trận chiến giành quyền trị vì Đại Đường cuối cùng cũng nổ ra.

    ………………………………………………………………………………………………………………..

    Ngày 8 tháng 10 năm Vĩnh Quân, Vương vờ đăng vị, dụ Tĩnh An vương, Đoan Khánh vương và Hoa Dương đại công dẫn mười tám vạn binh sĩ chạy đến Hàm Thủy Quan chuẩn bị làm phản. Trên đường đi lần lượt thu được phó tướng Cấm tắc doanh ở Thận Nam là Phương Hoài Hải, thượng tướng Tây quân ở Điền Tây là Điền Nhữ Cổ, phó thống lĩnh Lưu Mộ Bạch ở Tịch Chiếu, tham tướng Chu Cảnh ở Hoài Thành và đại tướng Từ Tố ở Hàm Thủy về dưới trướng, thế như chẻ tre thẳng tiến đến kinh đô. Vương được tin liền cởi cát phục, khoác giáp trụ, mở cổng Nam Xương, dẫn quân nghênh đón địch.



    Phương Hoài Hải, Điền Nhữ Cổ, Lưu Mộ Bạch, Chu Cảnh và Từ Tố nhìn thấy chiến kỳ của Vương liền đồng loạt giơ cao cờ chống phản loạn, quay sang tấn công phản quân. Vương lĩnh binh tham chiến, giết chết hơn ba vạn kẻ địch, còn lại đều bắt sống. Tĩnh An vương Chu Doãn chết dưới kiếm của Từ tướng quân, thọ năm mươi bảy tuổi.



    Hai ngày sau, Vương đưa trả phượng ấn, dùng lý do thân phận nữ nhi không dám cầm quyền, quỳ trước thái miếu xin tiên hoàng thu hồi mệnh lệnh đã ban. Hôm sau Vĩnh Quân đế đến, cảm kích ơn nghĩa của Vương đối với Lý thị, đặc biệt chuẩn tấu bỏ phẩm vị hoàng quý phi, đổi lại tước vương nhất đẳng, vương vị đời trước truyền cho đời sau, ban tặng sách ngọc, mãng bào nhất phẩm và phong hào Tú Lệ.



    —Trích ‘Sử thi Biện Đường · Tú Lệ vương truyền kỳ’, cuốn 127 —

    ………………………………………………………………………………………………………………..

    Sở Kiều mặc y phục trắng ngà, lẳng lặng đứng trước cửa cung. Sắc trời ngả vàng, chim bay về rừng, cả người nàng như được bao trong ánh hoàng hôn, thoạt nhìn vô cùng bình thản nhẹ nhàng, không còn bóng dáng gì của vẻ sắc bén cùng anh khí khi rong ruổi trên chiến trường.



    Xe ngựa dành cho Đại tư không vừa ra khỏi cung, nhìn thấy Sở Kiều liền dừng lại. Tôn Đệ chậm rãi xuống xe, nhìn nàng thì có hơi ngắc ngứ, nhất thời không biết nên mở lời thế nào. Hắn đắn đo vấn đề xưng hô một lúc, lại nhìn bộ dạng cười thong dong của nàng, cuối cùng vẫn phải cúi đầu gọi: “Sở đại nhân.”



    “Tú lệ quân đều đã ở lại Biện Đường an cư lạc nghiệp, sinh con dưỡng cái, không còn là quân đội riêng của ta nữa. Ta đã phó thác Tú lệ quân cho Tôn đại nhân thì bản thân ta đã không còn là thống soái của bọn họ, không dám tiếp tục nhận danh xưng ‘đại nhân’.”



    Sở Kiều mỉm cười nói tiếp: “Cũng đến lúc thả mấy vị đại nhân hôm đó công khai phản đối sắc phong ra rồi. Hoàng thượng đăng vị lúc còn bé, phải nhân cơ hội thu mua lòng thần tử, cho nên ta sẽ không thay hoàng thượng viết chiếu thư thả người đâu. Sau khi ta đi, Tôn đại nhân cũng chớ bận việc mà quên mất mấy trung thần còn bị giam trong Thượng lý viện đấy.”



    Tôn Đệ đáp: “Thần sẽ ghi nhớ lời dạy của đại nhân.”



    “Tôn đại nhân, mấy lời vừa rồi là do Tú Lệ vương của Đại Đường nói với ngươi, còn bây giờ là Sở Kiều ta có mấy lời muốn nói.”



    Tôn Đệ thoáng sửng sốt, từ từ ngẩng đầu lên, nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của cô gái đứng đối diện mình thì trên mặt lộ thần sắc khó tả, không tự chủ gật đầu, “Xin lắng nghe.”



    “Ngươi cũng biết, đi trên con đường của đế vương, vĩnh viễn không thể mang lòng dạ đàn bà. Vì vậy, ta là hoàng phi hay thân vương của Đại Đường cũng sẽ không có ảnh hưởng gì đến khuynh hướng chính trị ở Bắc Yến và Đại Hạ. Thời cơ chín muồi thì đại chiến tất xảy ra, tuyệt đối sẽ không vì quan hệ cá nhân mà bị trì hoãn. Tuy các thế lực phản đối ở Biện Đường hiện giờ đều đã bị tiêu diệt, nhưng các ngươi cũng không thể khinh suất. Chiến tranh giữa Đại Hạ và Bắc Yến là chuyện đã định, tương lai thiên hạ đi về phía nào, cả ta và ngươi đều không thể phỏng đoán cũng không thể thay đổi cục diện. Chúng ta chỉ có thể tự mình toàn lực bảo vệ huyết mạch của Lý Sách và cơ nghiệp thiên cổ của Đại Đường mà thôi.”



    Tôn Đệ nhìn Sở Kiều, mi tâm khẽ chau, mặt lộ chút áy náy, thấp giọng hỏi: “Sở đại nhân, ta từng tính toán người như thế, vì sao còn giao trọng trách giám quốc vào tay ta?”



    Sở Kiều mỉm cười, thản nhiên nói: “Có ba nguyên nhân. Một, kinh thành và ngoại thành có Thiết Do canh giữ, xa hơn có binh mã của tướng quân Từ Tố trông coi, bọn họ đều là thần tử trung thành. Ngươi chỉ là quan văn, nắm quyền phụ chính cũng không có nghĩa là có thể thể điều binh, ngươi lại không có thân phận hoàng thất, muốn tạo phản thì hoàn toàn không danh chính ngôn thuận, không có binh quyền lẫn hoàng quyền, tất sẽ không thành công.”



    Ánh hoàng hôn chiếu xuống tựa như đang phủ bụi hồng lấp lánh lên mặt Sở Kiều, nàng tiếp tục nói: “Hai, Đường Kinh vừa mới trải qua mấy trận đại chiến, người dân cần nghỉ ngơi dưỡng sức. Lạc vương và Tĩnh An vương lần lượt rơi đài, uy danh hoàng thất hiện đang thịnh vượng, ngươi không được lòng dân thì sẽ không cách nào phát động người dân theo mình binh biến, cả thời cơ và dư luận đều không có.”



    “Và nguyên nhân thứ ba là…” Sở Kiều cong môi, ánh mắt chợt trở nên ranh mãnh như hồ ly, lấp lánh tựa sao trời, khúc khích cười nói: “Ta tin ngươi.”



    Tim đột nhiên lỗi nhịp, Tôn Đệ nhìn Sở Kiều trân trân, tựa như không tin vào lỗ tai mình.

    “Ta tin ngươi, Lý Sách cũng tin ngươi. Tuy ngươi hành sự đôi khi quái gở cực đoan, nhưng lại là thần tử trung thành với Lý gia nhất Đại Đường. Lý Sách trước khi chết đã chọn ngươi là ứng viên phụ chính đầu tiên, ta cũng hoàn toàn tán thành.”



    Nàng móc từ trong ngực ra hai phong thư giao cho Tôn Đệ, nói: “Đây là thư do Thất hoàng tử Triệu Triệt của Đại Hạ và Thanh Hải vương Gia Cát Nguyệt tự tay viết, bày tỏ nguyện ý kết đồng minh với Biện Đường. Vị thế chính trị của ngươi được thế lực hai bên ủng hộ tuyệt đối, không cần phải cố kỵ kẻ khác làm áp lực với mình. Ta cũng sẽ toàn lực ủng hộ ngươi, tin tưởng ngươi nhất định sẽ có thể nuôi dưỡng hoàng đế trưởng thành nên người.”



    Tôn Đệ run run nhận lấy hai phong thư kia mà cảm thấy chúng nặng như núi. Hắn đột nhiên quỳ xuống trước mặt Sở Kiều, trầm giọng nói: “Xin đại nhân yên tâm, Tôn Đệ xin thề tận hiến với Lý gia và Đại Đường, nếu Đại Đường có gì bất trắc, ta nguyện lấy cái chết tạ tội.”



    “Tôn đại nhân chớ nói vậy.” Sở Kiều đỡ Tôn Đệ dậy, lẳng lặng nhìn hắn rồi thành khẩn nói: “Bằng hữu của Lý Sách cũng chính là bằng hữu của ta, Lý Sách tin tưởng ngươi, ta cũng sẽ tin tưởng ngươi.”



    Hoàng hôn đỏ rực như máu, Tôn Đệ đứng trên tường thành lộng gió nhìn theo Sở Kiều được đám người Hạ Tiêu và Bình An hộ tống rời đi, để lại cái bóng thật dài trên bình nguyên rợp cỏ vàng. Thiếu nữ xinh đẹp vung cao roi, tựa như một chú ưng đứng trước cửa lồng giam, vạt áo bào trắng phần phật trong gió như đôi cánh chim khổng lồ.

    Nàng chính là một hùng ưng không ai có thể chặt cánh, trừ chính bản thân nàng thì không người nào có thể buộc nàng ngừng sải cánh bay trên bầu trời cao.

    Đến đây thì Tôn Đệ chợt hiểu được vì sao người nọ lại cố chấp nhiều năm đến vậy. Thế gian có người này, quả thật như mặt trời rọi sáng trời đất.

    Hắn ngẩng đầu lên, hít một hơi thật sâu, bất chợt như lại thấy được người bạn thân thiết mỉm một nụ cười cà rỡn, mặt gian tà đến gần bên tai mình, he he thì thầm: “Ngươi đoán thử xem da thịt trên người Tam tiểu thư nhà Hồ đại nhân trắng trẻo nõn nà đến cỡ nào?”



    Gió thu lồng lộng, lá vàng tung bay, trời thu tiêu điều nhưng cũng là mùa thu hoạch.

    ………………………………………………………………………………………………………………..

    Trên đầu cầu, Gia Cát Nguyệt một thân cẩm bào ngồi trên lưng ngựa.

    Phương Chử trầm giọng báo: “Chủ nhân, Sở cô nương đến.”



    Lời vừa dứt, đường chân trời liền xuất hiện một đội nhân mã, thiếu nữ đi đầu mặc y phục tuyền trắng, mỉm cười thúc ngựa chạy đến.

    “Tiểu thư!” Mai Hương vốn đang ngồi trên một tảng đá bên cạnh, nhìn thấy Sở Kiều thì lập tức mừng rỡ nhỏm dậy, Đa Cát cũng vui vẻ tiến lên đón. Nhóm người thoáng cái đã chạy đến trước mặt bọn họ, Sở Kiều nhảy xuống khỏi lưng ngựa. Mai Hương nhào đến ôm lấy nàng, vừa khóc vừa nói: “Tiểu thư, em cứ tưởng người lại gạt em, em cứ tưởng người sẽ không tới.”



    Đám người Bình An và Thanh Thanh cũng vui vẻ chạy đến tụ họp với Đa Cát, hỏi han đủ chuyện. Bình An tường thuật lại trận đại chiến ngày đó, lời lẽ vô cùng sinh động, dáng vẻ như rất đắc ý. Hạ Tiêu không có gia quyến và cũng không muốn ở lại Biện Đường nên chọn đi theo Sở Kiều. Hắn và mấy người Nguyệt Thất tuy chưa từng gặp nhau nhưng đã sớm nghe thấy đại danh của đối phương, nên chỉ chốc lát đã trở nên thân quen.

    Chỉ có Gia Cát Nguyệt vẫn xanh mặt đứng yên tại chỗ, lạnh lùng nhìn Sở Kiều và Mai Hương nắm tay nắm chân, răng nghiến đến sắp nát vụn.

    Rốt cuộc nhận ra ánh mắt dữ tợn của người nào đó đã lâu không gặp, Sở Kiều mới tươi cười đi về phía hắn. Gia Cát Nguyệt vừa mới động thì nàng đã lập tức biết điều giơ cao hai tay, hét to: “Đầu hàng! Đây là lần cuối cùng! Ta bảo đảm!”



    Gia Cát Nguyệt muốn giáo huấn người nào đó một chút, nhưng giơ tay một hồi vẫn không biết xuống tay vào đâu, nhìn bộ dáng rụt đầu rụt cổ mắt nhắm tịt của nàng thì lại có hơi không tự nhiên, cả giận nói: “Làm gì vậy, sao không đỡ?”



    Sở Kiều mở mắt ra, chu môi ra vẻ đáng thương, “Thì đang nhận lỗi chứ sao nữa.”



    “Còn biết mình sai?” Gia Cát Nguyệt lườm một cái, mặc kệ ánh mắt hóng chuyện của đám thuộc hạ xung quanh, đưa tay nhéo nhéo hai má bầu bĩnh của Sở Kiều, trầm giọng hỏi: “Dám không trả lời thư của ta, gan to ra rồi phải không?”



    “Ta có rảnh đâu!” Sở Kiều đau khổ biện minh cho bản thân.

    “Không rảnh trả lời thư mà có thời gian đốt thư của ta?”



    Sở Kiều ngước mặt lên, tiếp tục biện hộ cho mình: “Nếu không làm ra bộ dạng khổ sở âu sầu như vậy, sao có thể khiến Tôn Đệ tin là thật. Hắn không tin thì đám người Tĩnh An vương sẽ càng không tin.”



    “Cho nên ngay cả Mai Hương nàng cũng gạt?” Gia Cát Nguyệt nhìn Sở Kiều chằm chằm, tiếp tục truy tới cùng: “Nàng khẳng định mình lúc đó thật sự không có ý định kia? Khẳng định không phải ngay phút cuối phát hiện lương tâm hổ thẹn mới đổi ý?”



    “Sao có thể chứ?” Sở Kiều uất ức kêu to: “Ta là người không có lập trường kiên định như vậy sao?” Nói xong liền quay sang xung quanh tìm kiếm sự ủng hộ, nhưng lại phát hiện toàn bộ người phe mình đều rất thức thời quay lưng với nàng, còn liên tục gật đầu như đang muốn nói: Chính xác không sai!

    Sở Kiều trắng mắt liếc bọn họ một cái rồi vội vàng hướng về vị đại gia tương lai sẽ cho nàng cơm ăn áo mặc, phân trần: “Chớ tin bọn họ, ý chí cách mạng của ta năm đó đứng đầu toàn quân đấy.”



    Gia Cát Nguyệt lườm nàng, hừ mũi nói: “Coi như nàng thức thời, bằng không ta liền kéo binh đánh sập hang ổ của Lý Sách để xem nàng còn có thể làm hoàng phi của ai nữa.”



    Khoác lác hay lắm, làm được thì hẵng nói.

    Sở Kiều nhủ thầm trong bụng như vậy, nhưng ngoài mặt vẫn biết điều nói: “Đã bảo là không có rồi mà. Ta nói thì sẽ giữ lời, tuyệt đối không đổi ý.”



    Gia Cát Nguyệt rất không có tiền đồ nhớ lại lời nàng nói hôm đó thì lòng tự tôn của nam nhân liền được xoa dịu.

    Trong cỗ xe ngựa đi theo đám Sở Kiều đột nhiên vang ra một tiếng *Oa!* thật lớn khiến nhóm người Gia Cát Nguyệt sửng sốt. Sở Kiều vội vàng chạy tới vén rèm xe lên, nhũ mẫu ôm một đứa bé khoảng bốn năm tháng tuổi bước ra. Đứa bé kia dĩ nhiên vừa mới tỉnh dậy, bắt đầu công tác thường ngày phải làm là: Khóc.

    Sở Kiều nhanh chóng đón lấy đứa bé từ tay nhũ mẫu vào lòng, dỗ dành vô cùng chuyên nghiệp.

    “Cái gì đây?” Sắc mặt Gia Cát Nguyệt lập tức trở nên âm trầm, lạnh lùng hỏi.

    Sở Kiều ngạc nhiên nhìn hắn một cái rồi trả lời với giọng đương nhiên: “Con nít.”



    “Ta biết.” Ngữ khí của Gia Cát Nguyệt càng lúc càng nghe không thuận, hỏi như sắp bùng nổ: “Là con ai?”



    Chợt nhớ ra vẫn chưa giải thích với mọi người, Sở Kiều liền nói: “Đây là con thứ ba của Lý Sách, tên thằng bé là Lý Thanh Vinh, nhưng sau này chắc chúng ta phải đổi tên khác cho bé rồi. Mẹ thằng bé là Chiêm Tử Minh, trước khi Lý Sách qua đời có gửi gắm bé cho ta, nói rằng sau này sợ bé sẽ bị người trong cung hãm hại, bảo ta dẫn thằng bé xuất cung.”



    “Con trai của Lý Sách?” Gia Cát Nguyệt chau mày tiến lên xem xét, đứa bé môi hồng răng trắng, tròng mắt đen láy, đang cau có bĩu môi níu chặt vạt áo của Sở Kiều, quả nhiên rất giống vị cố nhân đã qua đời kia.

    Nhìn thằng bé xong, hắn cũng chợt thấy hơi xúc động, vừa định lên tiếng nói chuyện thì đứa bé kia đột nhiên liếc thấy hắn, đôi con ngươi be bé đảo một vòng rồi cuối cùng buông ra một tiếng khóc kinh thiên động địa đến quỷ thần cũng phải khiếp vía, tay chân khua loạn xạ, dáng vẻ vô cùng khó chịu.

    “Sao vậy? Sao lại khóc dữ đến vậy?” Sở Kiều bối rối hỏi.

    Mai Hương cũng chạy lại, hỏi nhũ mẫu đứng cạnh: “Hay tại bé đói bụng?”



    Nhũ mẫu vội vàng lắc đầu, nói chỉ mới vừa cho bé bú xong cách đây không lâu. Mai Hương sờ sờ tã bé, vẫn còn khô ráo.

    Sở Kiều như đột nhiên có thần giao cách cảm, quay lại nói với Gia Cát Nguyệt: “Hình như thằng bé ghét chàng.”



    Gia Cát Nguyệt giận xanh mặt, tức tối nói: “Tại sao lại ghét ta?”



    “Chàng thử đi ra xa một chút xem.”

    Người nào đó vô cùng không thể tiếp nhận sự thật, nhíu mày kiếm, nói: “Tại sao? Ta có đụng chạm gì nó đâu?”



    “Người có nhân duyên không tốt thường bị trẻ con ghét, không chừng chàng chính là vậy.”



    “Đúng đó tỷ phu, mau đứng xa ra một chút, hình như Vinh Nhi thấy tỷ phu đáng sợ nên mới khóc.” Thanh Thanh ở một bên thêm dầu vào lửa.

    “Sao có thể chứ?” Nguyệt Thất yếu ớt phản bác, một lòng ủng hộ chủ tử của mình, “Thật ra thì thiếu gia nhìn cũng rất bình dị dễ gần mà…” Chỉ tiếc lá gan quá bé nên càng nói giọng càng nhỏ dần.



    Cuối cùng Gia Cát Nguyệt vẫn bị mọi người đuổi ra xa. Quả nhiên hắn vừa khuất dạng thì Lý Thanh Vinh đang khóc rống liền ngưng bặt, tuy vẫn còn thút thít nhưng mặt đã tươi tắn hơn nhiều, một chốc sau tiếng khóc liền bị thay bằng tiếng cười khanh khách. Thì ra là thằng bé với tay nắm chuôi kiếm của Nguyệt Thất không được liền phẫn hận ra sức cắn vai hắn.

    Gia Cát Nguyệt ngồi trên một tảng đá ở xa nhìn đám người, oán thầm trong bụng: Tiểu tử chết bầm, cùng một giuộc với cha ngươi.

    Một lát sau, Sở Kiều vui vẻ chạy đến ngồi xuống cạnh hắn.

    Phía bên kia, đám người Nguyệt Thất đầu đội trời chân đạp đất nhưng lại luống cuống tay chân vì một đứa con nít. Lát sau đã nghe Mai Hương chỉ vào Phương Chử còn đang ngơ ngơ, kêu lên: “Thằng bé té bây giờ, đặt tay ở đây này, trời ơi, ta bảo ngươi đỡ ở chỗ này, ngươi lại đỡ đi đâu vậy!”



    Sở Kiều ôm tay Gia Cát Nguyệt, nghiêng đầu tựa vào vai hắn, thở ra một hơi thật dài rồi nói: “Cuối cùng cũng kết thúc.”



    “Mệt không?”



    “Vẫn ổn.” Sở Kiều nhắm mắt lại, nắng chiều rọi xuống khiến mặt nàng thêm hồng nhuận, “Có điều sợ chàng lo lắng nên luôn một mực đốc thúc bản thân phải nhanh lên.”



    Gia Cát Nguyệt vẫn còn oán giận nên tiếp tục truy hỏi: “Tại sao không đọc thư của ta?”



    “Ta cũng không biết mình có thể thành công hay không?” Nàng dịu dàng ngẩng đầu lên nhìn Gia Cát Nguyệt, cười nói: “Lúc đó bản thân ta cũng không có lòng tin, sợ sẽ thất bại, sợ sẽ chết, sợ xem thư của chàng rồi sẽ không còn dũng khí tiếp tục nữa.”



    Nụ cười trên mặt Sở Kiều tươi tắn như hoa, nàng trước giờ rất ít khi cười thoải mái như vậy, không vướng mắc, không khắc khoải, “Chàng là chỗ yếu trong tim ta, sẽ làm ta không thể tiếp tục kiên cường.”



    Gia Cát Nguyệt nhìn nàng, sắc mặt dần trở nên nhu hòa. Hắn vươn tay ra ôm eo nàng, nhẹ giọng nói: “Ở bên cạnh ta nàng không cần phải kiên cường.” Dứt lời thì cúi xuống hôn lên môi nàng.

    “Ối! Ngượng chết đi được!” Thanh Thanh chợt hét lên chói tai.

    Trời đất mênh mông, thu cuối mùa nhuộm vàng khắp nơi. Gió từ đằng xa thổi đến, chiếc chuông nhỏ lay động, phát ra tiếng nói dịu dàng: Nhớ kỹ, ta đang chờ đấy.

    Ta đang chờ chàng, ta đang chờ chàng, vĩnh viễn sẽ chờ chàng…

    “Gia Cát Nguyệt, sao chàng không vào thành vậy? Lúc sắc phong ta mặc cát phục đẹp cực kỳ đấy!”



    “Chờ đi, tương lai sẽ cho nàng bộ khác còn đẹp hơn.”



    “Nói phải giữ lời đó.”



    “Nhất định.”



    “Thành giao!”
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  2. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 179: Thẳng thắn bộc lộ

    Sở Kiều chưa bao giờ nhìn thấy Gia Cát Nguyệt ngủ nhiều như vậy, ở Thương Châu vừa lên thuyền thì hắn liền ngủ suốt một ngày một đêm, nàng vào phòng cũng không biết. Nguyệt Thất nói, từ lúc rời khỏi thành Chân Hoàng đến giờ, hắn chưa ngủ trọn đêm nào, đến Hiền Dương chuyển sang đi đường bộ thậm chí còn không chợp mắt, nên hiện giờ có lẽ đã mệt mỏi đến cùng cực.

    Thêm vào đó, dường như thân thể Gia Cát Nguyệt cũng không được tốt lắm, đi đường mấy ngày, nàng từng tìm được ít thuốc viên đen thui trong phòng riêng của hắn, cầm ra ngoài hỏi Nguyệt Thất thì cũng chỉ nhận được câu trả lời qua loa. Đi hỏi Đa Cát có chút hiểu biết về dược liệu thì lại nghe cậu đoán là do Gia Cát Nguyệt vất vả quá độ, máu huyết thiếu hụt, hàn khí xâm nhập.

    Vất vả quá độ, hàn khí xâm nhập…

    Sở Kiều ngồi trên chiếc ghế ở cạnh cửa sổ suy tư. Con thuyền này được đóng rất chắc, thời tiết lại đẹp nên lướt đi rất êm. Có đóng cửa sổ lại thì vẫn có thể qua khe cửa nhìn thấy trời trong nước xanh lướt qua bên ngoài.

    Nàng chợt nhớ đến đoạn thời gian bị Triệu Thuần truy đuổi phải chạy đến Biện Đường, nàng và Lương mọt sách bị người Chiêm gia mua về làm nô lệ. Lúc đó nàng đang bị thương, Lương mọt sách chạy ra ngoài lấy cơm cho nàng nên trong khoang thuyền thường xuyên chỉ có một mình nàng, ngày ngày xuyên qua khung cửa sổ duy nhất nhìn phong cảnh bên ngoài. Có một hôm trời mưa rất to, như mơ hồ nghe thấy tiếng hí của Lưu Tinh, nàng hoảng hốt mở tung cửa sổ nhìn ra ngoài thì nhận ra thuyền đã rời bến, càng lúc càng xa bờ.

    Lúc ấy huynh muội Chiêm Tử Du và Chiêm Tử Minh vẫn còn là người của một gia tộc sa sút, Lý Sách vẫn còn là thái tử tùy tiện náo động Đường Kinh, đám người Ô tiên sinh và Vũ cô nương vẫn đang ra sức phấn đấu vì lý tưởng của mình, Yến Tuân vẫn là người bạn và người yêu cùng nàng lớn lên từ nhỏ. Lúc ấy, cả nàng cũng tràn đầy lòng tin đối với tương lai, tự tin cho rằng có thể dựa vào sức của bản thân, cùng với sự giúp đỡ của nhóm bạn bè cùng chí hướng, sẽ có thể thay đổi tình trạng hoang tàn loạn lạc của thế gian.

    Đáng tiếc, thời gian quả thực vẫn là vũ khí giết người vô tình nhất trên đời. Lý Sách không còn, Ô tiên sinh bị bắn chết, Vũ cô nương ra đi trong lòng nàng, Chiêm Tử Du hại chết tất cả người thân chỉ vì dã tâm của bản thân. Bằng hữu cùng chí hướng thực ra cũng không trung trinh một lòng như nàng đã tưởng, trước cám dỗ của hoàng quyền, rất nhiều người dần rời bỏ nàng, ngay cả Yến Tuân cũng ngày càng xa cách, cuối cùng trở thành người dưng không quen biết.

    Đứng trước giang sơn, trước bá nghiệp, lý tưởng đều biến thành tro bay theo gió, mọi thề nguyền cũng như lá cuối thu, gió thổi liền bay sạch.

    Đúng vậy, ai có thể vĩnh viễn không thay đổi chứ? Ngay cả nàng hôm nay, chẳng phải cũng đã khác xưa sao?

    Nàng nhẹ quay đầu lại, Gia Cát Nguyệt vẫn đang ngủ. Nam nhân cố chấp này khi ngủ cũng nổi bật như vậy, mày vẫn nhíu, đôi con ngươi sâu thẳm đã bị mí mắt che phủ, thế nhưng lại càng làm nổi bật ngũ quan tinh tế, sống mũi cao thẳng, môi rất mỏng, đường nét rõ ràng.

    Nghe nói nam nhân có tướng mạo như vậy trước giờ luôn là người bạc tình, hay suy tính thiệt hơn. Nhưng chỉ có người này là lại chấp nhất như vậy, để tâm đến từng chuyện nhỏ nhặt nhất, cố chấp đến mức khiến người khác đau lòng.

    Trước đó Gia Cát Nguyệt có hỏi nàng từ đầu đã có ý định kia hay là phút cuối lương tâm cắn rứt mới đổi ý. Thật ra thì đến bây giờ chính nàng cũng không biết đáp án, lòng người là một mê cung thay đổi khó lường, khi đối mặt với vấn đề, ngươi có thể suy tính đến mấy trăm phương án, lúc này định thế nàynhưng một khắc sau cũng có thể đổi khác.

    Nàng cảm thấy được, dường như bản thân cũng đã thay đổi. Nếu là Sở Kiều trước kia thì chắc chắn sẽ ở lại Đường Kinh, cho dù không thật sự trở thành hoàng phi của Lý Sách thì cũng sẽ lấy thân phận khách khanh* ở lại trong cung che chở cho con cái của Lý Sách bình an lớn lên.

    *Khách khanh = từ cổ dùng để chỉ những người ở các nước chư hầu làm quan ở bổn quốc

    Thế nhưng, trải qua nhiều năm như vậy, nàng đúng là vẫn còn chấp niệm không buông tay được.

    Triều đình Biện Đường nhiều sóng gió, nhưng là loại sóng gió không dồn dập dữ dội ngoài mặt như ở Đại Hạ hay Bắc Yến, đó là loại sóng ngầm vô hình, được ẩn giấu dưới tầng tầng mưu kế cùng gió nam ấm áp, có thể giết người bất cứ lúc nào.

    Nàng từng được chính miệng một lão thái y trong cung cho biết, phụ thân Lý Sách chết cũng là do mẫu thân hắn.

    Đã rất nhiều năm, bà luôn cố gắng hại chết Đường hoàng, dùng đủ mọi loại thủ đoạn tồi tệ nhất: đầu độc, ám sát… Cũng có mấy lần suýt thành công nhưng lão hoàng đế luôn che giấu cho bà, không để lộ ra ngoài. Ông đã từng tức giận dùng Lý Lạc để uy hiếp bà, bắt mẫu tộc của bà làm con tin, trắng trợn sủng ái phi tần khác, cấm túc bà, thậm chí còn ba lần đày bà vào lãnh cung. Nhưng ông vẫn không thắng được trái tim mình, về già ông giải tán toàn bộ cung phi, chỉ chừa lại một mình bà, yêu thương chăm sóc bà có thừa, mà bà cũng hình như dần được cảm hóa, đó là những năm ông thấy mình hạnh phúc nhất.

    Nhưng cuối cùng ông vẫn chết trên tay của bà. Ăn phải độc khi mớm thuốc cho bà, phát độc mà chết.

    Lúc đó ông mới biết được, thì ra bà đã sớm có ý chết. Nhiều năm qua, mỗi ngày bà luôn nuốt một ít độc khiến thân thể suy yếu. Lúc ngã bệnh, trước khi ông vào phòng, bã đã uống sẵn thuốc giải rồi ngậm đủ loại kỳ độc trong miệng, chờ đợi ông sơ ý để hạ thủ.

    Đường hoàng cuối cùng vẫn chết, chết trong tay nữ nhân ông yêu cả đời. Mặc dù ông đề phòng cả đời nhưng cuối cùng vẫn không thắng được sự kiên nhẫn của bà. Song ông vẫn không đành lòng giết bà, chỉ lưu lại di chiếu buộc bà xuất cung đến An Ẩn tự lễ Phật, cả đời không được bước vào cung nửa bước. Người ngoài chỉ nói hoàng đế và hoàng hậu phu thê tình thâm, không hề biết hoàng đế làm vậy chỉ vì muốn bảo vệ đứa con trai duy nhất của mình.

    Nhưng bí ẩn cung đình này vẫn bị Chiêm Tử Du biết được thông qua Chiêm quý phi. Sau khi ám sát Lý Sách bất thành, Chiêm Tử Du đã tự mình mang thái hậu ra khỏi An Ẩn tự, âm thầm đưa vào cung, mượn tay người phụ nữ không ai có thể đề phòng này giết chết Lý Sách.

    Diêu thái hậu biết tin Lý Sách chết liền lập tức tự sát. Sở Kiều không rõ tâm tình của bà khi ấy là như thế nào, là sung sướng vì đã báo được thù hay là cảm giác hối hận bất đắc dĩ sau khi giết chính con mình? Người này cố chấp đến mức cực đoan, vì nợ máu năm đó mà bất chấp tất cả, đích thân giết chết hai nam nhân yêu thương mình nhất đời. Không rõ ở khoảnh khắc cuối cùng, bà có cười thành tiếng vì đã được toại nguyện hay không?

    Có lẽ là không, dù sao thì trả được thù cho trượng phu và con trai, bà cũng đồng thời giết chết một trượng phu và đứa con khác. Một đoạn ân oán tình thù này đã chôn vùi cuộc sống của biết bao người.

    Sau khi Diêu hoàng hậu chết, bà được mang đến hợp táng cùng Hi Tông hoàng đế. Bọn họ khi còn sống không ngừng tranh đấu, ám toán, mưu sát, căm hận, ân oán dây đưa suốt cả đời, cuối cùng lại làm bạn với nhau trong hoàng lăng vắng lặng, không người nào, không thế lực nào có thể tách hai người ra nữa.

    Sở Kiều không rõ năm đó đã xảy ra chuyện gì, cũng không hiểu vì sao Diêu hoàng hậu lại có hận ý đang sợ như vậy. Nhưng đôi lúc nàng vẫn cảm thấy, có lẽ tận đáy lòng Diêu hoàng hậu vẫn có tình mẫu tử đối với Lý Sách. Nàng vẫn còn nhớ rõ hôm đó, sau giờ Ngọ nắng chói chang, người phụ nữ có diện mạo ôn hòa khẽ chau mày nói với nàng: “Hắn nói muốn thờ phật Hoan Hỉ, haiz, ta thật sự… Ngươi có rảnh thì lựa lời khuyên nhủ hắn, hắn dù sao cũng là thái tử, không thể càn quấy như vậy được.”



    Chẳng qua, cái chết của Lạc vương cuối cùng đã tiêu hủy chút tình thương này. Lý trí bà rốt cuộc vẫn bị tâm ma của bản thân cắn nuốt, cuối cùng táng thân trong chốn hoàng cung ăn thịt người này.

    Sau khi Lý Sách chết, triều chính không yên, trong có quyền thần làm loạn, ngoài có hoàng thân thèm thuồng. Sở Kiều lúc đó, bằng binh lực trong kinh và Tú lệ quân cũng có thể áp chế Trung ương quân và tiêu diệt huynh muội Chiêm Tử Du.

    Nhưng như vậy đám người Tĩnh An vương sẽ tuyệt đối không khởi binh. Đối với tiểu hoàng đế, giữ lại đám phiên vương này sớm muộn gì cũng như nuôi hổ trong nhà. Nhưng tân đế vừa lên ngôi, tối kỵ nhất là giết chóc vô tội vạ. Cho nên Sở Kiều mới tương kế tựu kế, trước để Chiêm Tử Du tự ý chiếm quyền rồi nhanh chóng trừ bỏ, mượn công bình loạn cộng thêm kích thích Tôn Đệ ủng hộ nàng được phong phi, khiến đám người Tĩnh An vương rục rịch dấy binh, sau đó mới thông qua sắp đặt của Lý Sách trước khi chết một lần giải quyết nguy cơ nội loạn tiềm ẩn trong hai mươi năm tới của Biệt Đường. Hai mươi năm nữa thì Nghi Nhi đã trưởng thành, sẽ đủ năng lực ứng phó mưa gió rồi.

    Có điều khi ấy nàng cũng không hẳn không có ý định ở lại bảo vệ Biện Đường sau khi bình loạn.

    Tối hôm đó, Thanh Thanh lấy ra hai quả dưa đất Gia Cát Nguyệt phái người đưa tới đem nướng. Hương vị rất thơm, thơm đến mức khiến tim nàng mềm nhũn.

    Thanh Thanh ngồi trên băng ghế ngoài sân lột vỏ dưa, vừa cẩn thận lột vừa lầm bầm: “Thanh Hải nhất định rất lạnh, bằng không vỏ dưa này đâu có dày như vậy.”



    Nghe thấy, tim nàng chợt nhói đau, trong đầu lại nhớ đến cảnh ở hồ băng ngày đó, khuôn mặt trắng bệch của Gia Cát Nguyệt, hắn liên tục viết lên tay nàng dòng chữ: Phải sống… phải sống…

    Lòng người như mê cung thay đổi khó lường, nhưng dẫu trong đầu ngươi có mấy trăm ngàn suy tính thì cuối cùng cũng chỉ đưa ra duy nhất một quyết định. Bất kể tương lai sẽ hối hận hay không, ít nhất nàng đã một lần chiều theo con tim mình.

    Sau lưng chợt vang lên tiếng *sột soạt*, cửa sổ cùng lúc bị gió thổi mở rộng, kéo màn cửa tung lên, cắt đứt dòng suy tư của Sở Kiều. Nàng quay đầu lại, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt đã tỉnh dậy từ bao giờ, đang nghiêng người tựa lên đầu giường nhìn nàng, trên người hắn mặc trường sam trắng tuyết, thần thái tươi tỉnh, vẻ lạnh lẽo thường ngày đã được thay bằng vẻ ôn hòa ấm áp.

    Thấy nàng quay lại, hắn nhẹ nhàng vẫy vẫy, ra hiệu bảo nàng đi qua.

    Sở Kiều đi đến rót cho hắn một chén trà, thuận miệng hỏi: “Ngủ ngon chứ?”



    “Ừ.” Hắn uống một hớp trà, đáp: “Nếu không có ai đó lén vào phòng ta than dài thở ngắn thì còn ngủ ngon hơn nữa.”



    Sở Kiều đỏ mặt, lườm hắn một cái rồi hỏi: “Có đói không?”



    Hắn gật đầu, nói: “Lúc mới tỉnh có hơi đói, giờ đỡ hơn rồi.”



    Sở Kiều đứng dậy, nói: “Chàng đã ngủ một ngày một đêm rồi, không ăn không uống thì dĩ nhiên là đói. Để ta đi dặn phòng bếp chuẩn bị cho chàng ít thức ăn.”



    “Không cần.” Gia Cát Nguyệt đột nhiên nắm tay nàng kéo ngồi xuống giường, nói: “Ngồi với ta một lúc đã.”



    Sở Kiều mỉm cười, ngoan ngoãn ngồi xuống cạnh hắn.

    “Thấy nàng ngây người một lúc lâu, nghĩ gì thế?” Gia Cát Nguyệt tự nhiên giữ tay nàng, cũng không buông ra.

    Sở Kiều lắc đầu, “Chút chuyện cũ mà thôi.”



    Khóe môi hàm chứa ý cười, Gia Cát Nguyệt thong thả tựa vào đầu giường giương mắt nhìn nàng, thản nhiên nói: “Hiếm khi rãnh rỗi không có gì làm, có thể nghe chút chuyện xưa của nàng.”



    Sở Kiều nhìn hắn, bất giác nảy sinh một ý định tinh quái. Nàng hơi chau mày, nhìn thẳng vào mắt hắn, từ tốn nói: “Ta từng làm rất nhiều chuyện sai, hết lần này đến lần khác có lỗi với một người, bây giờ nhớ lại, cảm thấy rất hối hận.”



    Gia Cát Nguyệt sửng sốt, không ngờ nàng lại nói đến chuyện này bây giờ, lập tức nhìn nàng chằm chằm, sắc mặt cũng trở nên trịnh trọng hơn.

    Sở Kiều nói tiếp: “Người đó luôn đối xử với ta rất tốt, nhưng ta lại cho rằng đó là chuyện hiển nhiên, cứ thế mà ích kỷ dựa dẫm vào sự ấm áp và giúp đỡ của hắn. Nhiều năm qua, hắn mấy lần vào sinh ra tử vì ta, bất kể trong hoàn cảnh khốn cùng đến đâu cũng không bao giờ bỏ rơi ta, luôn cho ta hy vọng trong lúc tuyệt vọng nhất, giúp đỡ ta vượt qua mọi khó khăn mà không đòi hỏi bất kỳ điều kiện gì. Trong khi đó ta lại không đền đáp gì được cho hắn, hơn nữa còn hết lần này đến lần khác mặc kệ hắn.”



    Gia Cát Nguyệt nhìn nàng, khóe miệng dần cong lên nở một nụ cười, vết chai trong lòng bàn tay hắn nhẹ cọ cọ ngón tay nàng, “Bây giờ biết hối hận thì đền đáp vẫn còn kịp.”

    Sở Kiều nhìn hắn, mắt long lanh như chực khóc, rầu rĩ nói: “Nhưng ta lại sợ người đó oán trách ta.”



    Ánh mắt từ từ dâng lên chút cảm động cùng yêu thương, Gia Cát Nguyệt buông tay nàng ta, chậm rãi giơ lên vuốt ve mặt nàng, cười nói: “Ai nỡ trách nàng chứ?”



    “Thật sao?” Sở Kiều mở to hai mắt, ranh mãnh hỏi: “Chàng cảm thấy Hạ Tiêu thật sự sẽ không trách ta sao? Huynh ấy đi theo ta nhiều năm như vậy, ta thậm chí còn từng bỏ rơi huynh ấy nữa, huynh ấy sắp ba mươi rồi mà ngay cả một thê thiếp cũng không có…” Lúc nói mấy chữ cuối, nàng rốt cuộc không nhịn được nữa, phì cười thành tiếng.

    Lúc này Gia Cát Nguyệt mới biết mình bị mắc lừa, lập tức kéo nàng vào lòng, siết cằm nàng, hung dữ nói:“Dám đùa giỡn ta?”



    Sở Kiều cười nói: “Ai bảo chàng tự mình đa tình.”



    Gia Cát Nguyệt lườm nàng, một tia sáng chợt xẹt qua trong mắt hắn, khí tức trở nên nguy hiểm như lang sói, gian tà cười nói: “Nhà ai dạy dỗ ra một nữ nhân không có quy củ vậy hả?”



    “Nhà ai à? Còn ai nữa ngoài Gia Cát thiếu gia ở Thanh Sơn viện?” Sở Kiều nói: “Chàng quên ban đầu chính chàng xung phong dạy ta viết chữ rồi sao?”



    “Ồ?” Gia Cát Nguyệt cố ý kéo dài giọng, gật gù, “Ta quả thật đã quên rồi, xem ra phải dạy dỗ lại một lần, tránh cho về sau nàng lại không biết lớn nhỏ.”



    Vừa dứt lời, Gia Cát Nguyệt đột nhiên cúi người ngậm lấy môi Sở Kiều. Hơi thở nóng hổi không chút lưu tình quấn quít môi nàng, cánh tay giữ eo nàng càng lúc càng siết chặt. Bờ môi lạnh như băng ấm dần lên, đôi môi bị mở ra mà nàng không hề có chút sức lực nào để kháng cự. Đầu lưỡi quấn quít, vừa mát lạnh như suối ngọt vừa nóng bỏng như lửa than.



    Gia Cát Nguyệt híp mắt nhìn người trong lòng, che giấu vẻ thâm trầm nơi đáy mắt, rồi đột nhiên dùng sức đẩy nàng nằm xuống trên giường. Sở Kiều chỉ kịp kinh ngạc *á* một tiếng, âm cuối đều bị ai đó nuốt mất.

    “Giờ đã hiểu chưa?”



    Sở Kiều nhìn người nào đó chằm chằm, chà chà đôi môi đã hơi sưng, tức tối nói: “Gia pháp nhà chàng đó à?”



    “Chưa hẳn.” Gia Cát Nguyệt cười nhạt, ngạo nghễ hất hàm nói: “Còn gia pháp kịch liệt hơn nữa, có muốn thử không?”



    Sở Kiều nheo mắt nhìn nam nhân xấu xa không chịu nổi trước mặt, đột nhiên vùng lên đè hắn xuống, thè lưỡi liếm môi hắn một cái. Gia Cát Nguyệt thoáng sửng sốt, còn chưa kịp phản ứng thì cằm đã bị người trên ngực hung hăng cắn một cái thật mạnh.

    Gia Cát Nguyệt nhất thời *oái* to, lập tức lấy tay sờ cằm, chưa chảy máu nhưng đã lưu lại dấu răng sâu hoắm.

    “Hừ, đừng tưởng ta sẽ sợ chàng!” Sở Kiều dứ dứ quả đấm thị uy, trịch trượng nói.

    Gia Cát Nguyệt bật dậy nói: “Nha đầu chết tiệt, mới mấy năm mà đã phách lối như vậy, phải tử tế dạy dỗ một trận mới được.”



    Nhưng hắn còn chưa túm được Sở Kiều thì nàng đã nhanh hơn một bước, nhảy phắt xuống khỏi giường, chạy bay ra tới cửa, cười nói: “Cho ta là đồ ngốc sao? Bye bye, không cần tiễn!” Nói xong liền mở cửa phòng ra.

    Cửa phòng bị mở ra đột ngột nên bọn Thanh Thanh và Bình An đang tựa vào cửa hóng chuyện bị mất đà, lập tức ngã nhào vào trong. Cả một đám lăn lê bò càng trên mặt đất, suýt xoa luôn miệng, mặt hết đỏ rồi trắng, lúng túng lên tiếng chào hỏi hai người.

    Sở Kiều làm tướng quân chỉ huy hơn trăm vạn đại quân đánh đâu thắng đó nhưng lại chưa bao giờ xấu hổ như bây giờ, nàng đỏ bừng mặt nhìn Thanh Thanh và Bình An, không ngờ trong đám còn có cả Nguyệt Thất, tức giận nói: “Nguyệt Thất, ngươi mà cũng theo hai đứa này làm trò à?”

    “Ha ha, ta… ta chỉ vô tình đi ngang qua, tiện đường nên ghé vào định gọi hai người ra ăn cơm mà thôi, ha ha…” Nguyệt Thất đứng dậy, ra vẻ ta đây là người đàng hoàng, vừa gật đầu vừa đi ra ngoài, ha ha cười nói:“Các người cứ tiếp tục, tiếp tục đi.”



    Dứt lời, hắn liền chạy ra ngoài, trước khi đi còn quay ngoắt lại giơ nắm đấm với Gia Cát Nguyệt, nói to:“Thiếu gia cố lên!” Nói xong lập tức bỏ chạy.



    Thanh Thanh tí tởn chạy tới, ngọt ngào gọi hai tiếng ‘tỷ phu’, khiến Gia Cát Nguyệt phởn chí, tiện tay rút ra một thanh chủy thủ tinh xảo nạm hồng ngọc, sảng khoái thưởng cho cô em vợ rất thức thời này.

    Bình An vừa liếc thấy cũng lập tức học theo, bên cạnh Gia Cát Nguyệt không còn thứ gì khác nên đành đáp ứng sau khi về lại thành Chân Hoàng sẽ cho hắn tùy thích chọn bất kỳ bảo mã nào trong chuồng.

    Cả hai lập tức vui vẻ tung hô: “Tỷ phu vạn tuế.”



    Sở Kiều nhìn mà phát cáu, đến cùng là ai nói Gia Cát Nguyệt là người cứng nhắc không biết uyển chuyển vậy hả? Không nói đến bản lĩnh trên quan trường, chuyện mua chuộc lòng người hắn cũng có kém ai đâu?

    Bữa tối nhanh chóng được làm xong, hiện tại đang ở ngoài, lại có cả trẻ con nên bọn họ liền tùy ý cho dọn một bàn lớn, tất cả cùng nhau dùng cơm. Đám người Nguyệt Thất chỉ còn hơi e dè, Thanh Thanh và Bình An thì khỏi nói, hoạt bát luôn cả phần người khác, Hạ Tiêu cũng rất thoải mái nói chuyện với mấy người Nguyệt Thất. Chỉ có Đa Cát là vẫn mang dáng vẻ trầm lặng như cũ, Thanh Thanh nói với cậu mười câu, cậu cũng chỉ đáp không hơn một câu.

    Cơm nước xong thì trời đã sập tối, Nguyệt Thất nói bọn họ đã đến Thương Lĩnh, hai ngày nữa sẽ cập bến huyện Hộ. Sở Kiều nghe nói thì thoáng sững sờ, huyện Hộ, nói vậy bọn họ đã rất gần thành Chân Hoàng rồi.

    Buổi chiều gió trở lớn hơn, nàng ngồi ở đuôi thuyền nhìn mặt trời lặn, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ mặt sông.

    Thời gian qua thật nhanh, mới đó mà nàng đã trải qua mười bốn mùa đông ở thế giới này rồi. Nhiều lúc nhớ đến kiếp trước, nàng cũng không rõ bản thân rốt cuộc là người hiện đại xuyên không hay là người cổ đại có trí nhớ thời hiện đại nữa. Chuyện trước kia cứ như một giấc mộng, thoắt đến rồi lại thoắt đi.

    Nàng nhớ tới bản thân kiếp trước chết rồi được sống lại ở đây, như vậy sau khi Lý Sách chết, có khi nào cũng đến nơi khác tiếp tục sống hay không? Ô tiên sinh và Vũ cô nương, Hoàn Hoàn và Tiểu Hòa, sau khi chết bọn họ có còn gặp lại nhau không, có còn nhớ ra đối phương không? Cả Kinh Tử Tô nữa, thật hy vọng tỷ ấy có thể đến thời hiện đại, vui vẻ mà sống.

    Sở Kiều ngồi một chỗ nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, trong lòng dần trở nên trống trải. Nàng ngẩng đầu lên nhìn trời chiều, tựa như có thể nhìn thấy Lý Sách đang nheo mắt nhìn nàng, cười nói: “Ăn nhiều thịt một chút, vóc người quá kém.”

    “Đang nghĩ gì thế?” Sau lưng đột nhiên vang lên giọng của Gia Cát Nguyệt.

    Sở Kiều quay đầu lại, chỉ thấy hắn ung dung đi đến gần, trên người mặc trường bào tím thêu chìm hoa văn chữ ‘Phúc’*, y phục mặc nhà rất bình thường nhưng khoác vào người hắn vẫn tô lên khí chất đặc biệt hơn người, vô cùng tuấn tú.

    *Chữ ‘phúc’: 福



    Thấy Sở Kiều tròn mắt nhìn mình trân trân, Gia Cát Nguyệt bất giác nhíu mày, hơi không tự nhiên nói: “Nhìn cái gì đấy, y hệt đồ ngốc.” Dứt lời thì ngồi xuống bên cạnh nàng.

    Bọt sóng trắng như tuyết quấn quít quanh đuôi thuyền, chim bay từng đàn về phía chân trời, không trung tràn ngập mây hồng, gió sông thổi ống tay áo hai người bay phần phật, tựa như cánh bướm.

    “Tinh Nhi, vì sao lại đổi tên thành Sở Kiều?” Gia Cát Nguyệt đột nhiên lên tiếng hỏi.

    Sở Kiều xoay đầu lại, cười nói: “Bởi vì ta không phải là Kinh Nguyệt Nhi, ta vốn tên là Sở Kiều, sau chết đi, sau đó, ừm, phải nói sao nhỉ, nói theo cách của người ở đây là hồn ta nhập vào thân xác của Kinh Nguyệt Nhi, cho nên sau khi bỏ chạy ra ngoài, ta muốn lấy lại tên cũ.”



    Gia Cát Nguyệt không ngờ nàng sẽ trả lời như vậy nên ngây người một lúc lâu, vẻ mặt vô cùng kinh ngạc. Lát sau hắn mới lẩm bẩm hỏi: “Vậy lúc ta nhìn thấy nàng lần đầu tiên…”



    “Lúc đó ta chỉ vừa nhập thân được mấy ngày, đang định bỏ trốn.”



    Gia Cát Nguyệt gật đầu, sau đó cúi đầu suy tư, tựa như đang toàn lực xem xét độ chân thật của chuyện vừa nghe.

    “Này, đừng nói chàng thật sự tin lời ta vừa nói đấy?” Đến phiên Sở Kiều sững sờ.

    Chuyện quỷ quái không thực như vậy, làm gì có ai tin được chứ? Còn nhớ lúc nhỏ nàng cũng từng kể cho Yến Tuân nghe một lần, khi ấy Yến Tuân cũng chỉ là một cậu nhóc chưa trưởng thành, nghe xong liền cho rằng nàng bị sốt nên đầu óc hồ đồ, lập tức đi sắc thuốc bắt nàng uống cạn. Từ đó về sau, nàng chưa bao giờ lặp lại chuyện này nữa.



    “Ta tin.”



    “Hả?”

    Gia Cát Nguyệt khó hiểu nhìn nàng, mi tâm khẽ nhíu, “Tại sao không thể tin? Ta từng cho người điều tra nàng, đám hạ nhân đều nói sau khi nàng trở về từ trò săn người kia, tính tình liền thay đổi hoàn toàn. Lúc ấy ta còn tưởng rằng nàng bị sợ hãi quá độ nên mới đổi tính, bây giờ xét lại, giải thích của nàng nghe hợp lý hơn nhiều.”



    Gia Cát thiếu gia vốn bí hiểm khó dò vô cùng sảng khoái chấp nhận cái nguyên nhân còn bí hiểm hơn mình, gật gù nói: “Thì ra là như vậy, lúc đó ta còn cảm thấy hết sức kỳ quái, ngay cả ta lúc bảy tám tuổi cũng không thể có tâm cơ và thủ đoạn như vậy, thì ra khi ấy nàng vốn không phải là một đứa trẻ tám tuổi. Phải rồi, đừng nói trước khi chết nàng vốn là một bà lão bảy tám chục tuổi đấy nhé?”



    Sở Kiều có chút không theo kịp tư duy của người bên cạnh, ngờ nghệch đáp: “Lúc đó ta hai… hai mươi bảy tuổi.”



    “Hai mươi bảy?” Gia Cát Nguyệt nhíu mày, có hơi không vui hỏi tiếp: “Lớn như vậy hẳn đã thành thân, sinh con rồi?”



    “Không có.” Sở Kiều thành thật trả lời: “Ở chỗ của ta, hai mươi bảy tuổi cũng không tính là lớn, ở đó thịnh hành chuyện kết hôn muộn.”



    “Quê hương của nàng ở đâu? Biện Đường? Đại Hạ? Nàng quan tâm Bắc Yến như vậy, là người Bắc Yến sao?”Nói đến đây, Gia Cát Nguyệt đột nhiên biến sắc, khẩn trương nói: “Chẳng lẽ là mẹ của Yến Tuân? À, không thể nào, thời gian không khớp, phải là người lớn tuổi hơn nữa.”



    Sở Kiều khóc không ra nước mắt, “Quê hương ta là một thế giới khác, không cùng thời không với nơi này, là hai không gian song song, không có tương giao, không những cách biệt không gian mà còn cách biệt cả thời gian, không liên quan đến nhau, ừm, chàng hiểu chưa?”



    Nàng cố gắng giải thích, khoa tay múa chân muốn tìm một ví dụ tương đương nhưng vẫn không tìm được từ ngữ thích hợp. Có điều, nàng đã đánh giá thấp năng lực tư duy của Gia Cát thiếu gia rồi.

    Gia Cát Nguyệt khẽ nhíu mày, hỏi: “Nàng muốn nói, giống như một cây táo, ở chỗ chúng ta là mùa xuân trổ lá, còn ở chỗ của nàng là mùa thu kết trái?”



    Sở Kiều sửng sốt, không ngờ hắn có thể hiểu được đến đây, vội vàng vui vẻ nói: “Đúng phân nửa, bởi vì không chỉ có khác biệt thời gian mà còn cả không gian nữa, chàng hiểu không? Không gian chính là…”



    “Ừm.” Gia Cát Nguyệt gật đầu, thuận miệng nói: “Chỗ chúng ta là cây táo mùa xuân, còn chỗ của nàng là cây quýt mùa thu, đúng không?”



    Sở Kiều nghệt mặt ra hồi lâu, cuối cùng mới ngây ngốc gật đầu, “Đúng.”



    Gia Cát Nguyệt quay đầu ra nhìn nước sông chảy cuồn cuộn, im lặng không nói nữa. Hoàng hôn phản chiếu lên mặt hắn, lấp lánh ánh hồng.



    Sở Kiều không khỏi cảm khái trong bụng, đúng là định lực thật lớn, không hổ là người có trí tuệ lớn quen tính đại sự, trầm tĩnh biết bao nhiêu, không hề tò mò hỏi lung tung. Chẳng giống mấy tên quê mùa trong tiểu thuyết xuyên không, biết chuyện đều hỏi ‘Người chỗ các ngươi hình dạng ra sao?’, ‘Người chỗ các ngươi có mấy con mắt?”, hay là ‘Người chỗ các ngươi có phải giống dã thú không, trên người có rất nhiều lông?’.Giống như chỉ có người thế giới bọn họ mới xứng có hai con mắt cùng một lỗ mũi, còn người bên ngoài nhất định phải lông lá đầy người, miệng đầy răng. Chỉ có bọn họ mới ưu việt, người thế giới khác đều là dã thú hết ráo.

    Thần thái như vậy mới thực sự là bình tĩnh ung dung, như vậy mới thực sự là núi thái sơn sụp đổ mà mặt cũng không đổi sắc, như vậy mới thực sự là được không hỉ mất không bi, như vậy mới thực sự là không quan tâm thiệt hơn, tâm tư như trăng sáng…



    “Người chỗ nàng có hình dạng ra sao?”

    Sở Kiều: “……”



    “Người chỗ nàng có mấy con mắt?” Người nào đó sau một lúc im lặng, cuối cùng hồi hồn, bắt đầu hứng thú hỏi: “Người chỗ nàng có phải giống dã thú không, trên người có rất nhiều lông*? Ta từng gặp được một người như vậy ở Nam Cương, hành vi cử chỉ rất kỳ quặc, chẳng lẽ là họ hàng xa của các nàng?”

    *Anh đang ám chỉ còn khỉ / dã nhân

    Sở Kiều hít một hơi thật sâu lên tinh thần rồi bắt đầu bài học giáo dục kiến thức vỡ lòng về thế giới mới.

    Nói đến miệng đắng lưỡi khô, tận khi mặt trời khuất bóng, trăng treo tít trên cao, vẩy ánh sáng dìu dịu xuống trên mặt sông. Gió đêm thổi hây hây, Sở Kiều bất chợt tức cảnh sinh tình, thì thầm: “Trên biển sinh trăng sáng, soi sáng khắp muôn phương*.”

    *Trích bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn của Trương Cửu Linh (bản dịch của Khương Hữu Dụng:

    Trên biển sinh trăng sáng

    Soi sáng khắp muôn phương

    Đêm dài ai sầu mong

    Thâu canh dấy tương tư

    Nến tắt, ánh trăng tỏ

    Khoát áo thấm hơi sương

    Chẳng thể vốc trăng tặng

    Thôi đành hẹn trong mơ.



    Nhưng Gia Cát Nguyệt lại tạt xô nước lạnh, “Ngữ cảnh không đúng, đây là sông chứ không phải biển.”



    Sở Kiều cau mày, sửa lại: “Vậy thì trên sông sinh trăng sáng.”



    Gia Cát Nguyệt nghi ngờ nhìn nàng, hỏi: “Nhất định không phải nàng sáng tác mà là của người bên thế giới kia có đúng không, nàng lấy trộm à?”



    Sở Kiều lại một lần nữa khóc không ra nước mắt, mặt mũi đỏ ửng, đúng là không nên nói ra chuyện này mà. Nhìn đi, chẳng có gì tốt cả, chỉ thêm xấu mặt…

    “Tinh Nhi.” Hai người im lặng một lúc thì Gia Cát Nguyệt đột nhiên lên tiếng gọi, nàng ‘ừ’ một tiếng đáp lời, hắn lại nói thêm một câu không đầu không đuôi: “Ta bất kể nàng là ai.”



    Mới đầu Sở Kiều còn lơ mơ không rõ, cẩn thận ngẫm lại thì chợt hiểu ra, gật đầu cười nói: “Biết rồi, sao đi nữa thì ta vẫn là Tinh Nhi của chàng.”



    Gia Cát Nguyệt chợt khựng lại, cúi đầu dùng ánh mắt sáng quắc nhìn nàng. Sở Kiều tự nói xong cũng hối hận đã lỡ miệng, gò má lập tức đỏ ửng, vừa định cúi đầu che giấu sự ngượng ngùng thì Gia Cát Nguyệt đã vươn tay nâng cằm nàng lên, đáy mắt lấp lánh ý cười, nói: “Nói lại lần nữa.”



    Sở Kiều lảng tránh ánh mắt của hắn, ậm ờ trả lời: “Nói cái gì?”



    “Lặp lại câu nàng vừa nói khi nãy.” Gia Cát Nguyệt quả quyết nói, trong mắt như có lửa, không quá nóng bỏng nhưng lại cực kỳ lấp lánh.

    “Ta là của chàng, chàng cũng phải là của ta.” Sở Kiều thu hết dũng khí, bình tĩnh nói: “Cả đời này của ta, cái gì cũng có thể hy sinh, nhưng chỉ có hai thứ, bất kể là dưới tình huống nào cũng không thể tùy tiện buông thả. Một là tín ngưỡng và nguyên tắc sống, hai là hôn nhân và thân thể. Chàng muốn toàn bộ con người ta thì cũng phải giao toàn bộ bản thân chàng cho ta.”



    Gia Cát Nguyệt nhướng mày, nhìn nàng bằng ánh mắt mập mờ, gian manh hỏi lại: “Toàn bộ?”



    “Đi chết đi.” Sở Kiều đẩy vai hắn, quay đầu sang chỗ khác, “Không đứng đắn chút nào.”



    “Tinh Nhi.” Gia Cát Nguyệt giang rộng tay ôm Sở Kiều vào lòng, bao phủ nàng trong hơi thở nam tính ấm áp của mình, thì thầm: “Ta rất vui, thực sự rất vui.”



    Sở Kiều tựa vào ngực Gia Cát Nguyệt, trong lòng dâng lên cảm giác yên bình trước giờ chưa từng có, cũng quay lại ôm lấy hắn, nhẹ giọng nói: “Chúng ta đừng xa nhau nữa.”



    Gia Cát Nguyệt hỏi: “Cùng ta đến thành Chân Hoàng, nàng không sợ sao?”



    “So với chuyện đó, ta sợ xa chàng hơn. Lần nào chúng ta xa nhau cũng đều xảy ra chuyện lớn, giống như lần vừa rồi, ta từng tưởng không còn được gặp lại chàng nữa.”



    Khi ấy tình hình hỗn loạn ở Đường Kinh buộc nàng phải quyết chiến đến cùng, tựa như đang đi trên lớp băng mỏng, chỉ cần một phút không cẩn thận thì sẽ rơi vào tay kẻ địch. Chiêm Tử Du ngang nhiên nắm giữ trọng quyền nên trận chiến trước cổng Thái An ngập trong máu tanh. Sau khi thánh chỉ phong phi được truyền ra, hằng đêm đều có sát thủ xâm nhập hoàng cung hòng giết chết nàng, sau đó lại tử chiến với hơn mười vạn quân địch. Lúc ấy chẳng cảm nhận được gì, nhưng giờ nghĩ lại thì không khỏi đổ mồ hôi lạnh.

    Gia Cát Nguyệt siết chặt vòng tay, trầm giọng nói: “Sau này không phải sợ nữa.”



    Trăng sáng rực rỡ, hai người lẳng lặng ngồi đó một lúc lâu.

    Sau khi trở về phòng, Gia Cát Nguyệt lại ngồi trên giường cau mày ngẫm nghĩ thêm một hồi, cảm thấy Sở Kiều nói rất đúng, thấy mình cũng nên tìm thời gian thích hợp để cả hai có thể hoàn toàn thuộc về đối phương.

    Không sai, đi đêm lắm có ngày gặp ma, ngủ nhiều khó tránh việc nằm mộng, hành sự nên nhanh gọn lẹ, giải quyết vấn đề cũng nên một lần dứt khoát. Phải tìm cơ hội nấu gạo thành cơm… triệt để để hắn thuộc về nàng… toàn bộ…

    Đến hơn nửa đêm, hắn đột nhiên đứng dậy, đi hai vòng trong phòng rồi quyết định: khỏi cần tìm nữa, hôm nay chính là thời điểm tốt nhất rồi.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  3. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 180: Động phòng hoa chúc

    Gia Cát Nguyệt từ trước đến giờ là người làm việc theo kế hoạch, một khi quyết định chuyện gì thì sẽ cẩn thận đề ra phương án hành động thiết thực, sau đó mới bắt đầu áp dụng từng bước một, bất kể xảy ra chuyện gì thì cũng không thay đổi ý định.

    Cho nên sau khi quyết định, hắn tắm rửa sạch sẽ, thay y phục mới đến trước gương ngắm nghía, nhìn thấy trong gương phản chiếu một nam nhân mày kiếm mắt sáng, tuấn tú bất phàm, oai hùng lẫm liệt thì hết sức hài lòng. Nhưng sau đó hắn lại cảm thấy hơi căng thẳng, cho nên đành ngồi xuống uống hớp trà lấy lại tinh thần. Nước trà đã nguội, ngón tay thon dài xoay xoay chén trà bằng sứ Thanh Hoa trong tay, ánh nến trong phòng xuyên qua lớp sứ mỏng manh khiến mặt sứ tựa như lớp băng mỏng vừa được đông kết lúc đầu đông.

    Gia Cát Nguyệt tựa người lên lưng ghế, cẩn thận sắp xếp ngôn từ và hành động, rõ ràng từng câu một, vô cùng kỹ lưỡng, sau đó lại vạch ra đủ loại tình huống đối phương sẽ trả lời thế nào và mình sẽ đối đáp ra sao. Tóm lại, mục tiêu chính là từng chút một chuyển đề tài, tạo không khí ám muội, tuyệt đối nắm lấy quyền chủ động trong tay, sau đó không dấu vết để mọi chuyện diễn ra một cách tự nhiên.

    Ổn rồi, không còn vấn để gì nữa.

    Gia Cát Nguyệt đặt chén trà xuống bàn rồi đứng dậy, chẳng ngờ vừa đến cửa thì cửa phòng đã bị đẩy ra.

    Sở Kiều đứng trước cửa phòng, vẫn là y phục trắng ngà lúc nãy. Ánh đèn ấm áp trong hành lang phản chiếu lên khuôn mặt nhỏ bé khiến mặt nàng như bừng sáng.

    Trong tay cầm một cái bát còn bốc khói, nàng ngẩng mặt lên, dùng ánh mắt trắng đen rõ ràng nhìn hắn từ trên xuống dưới một lượt, hơi nhíu mày tỏ vẻ hơi ngạc nhiên, hỏi: “Nửa đêm rồi mà chàng còn ăn mặc như vậy, định đi đâu thế?”



    Gia Cát Nguyệt hơi sững sờ, tình huống này hình như nằm ngoài dự tính của hắn.

    Có điều năng lực ứng biến của Gia Cát thiếu gia vốn không tệ, lập tức nghiêm nghị đáp: “Ban ngày ngủ nhiều nên giờ không ngủ được, muốn ra ngoài đi dạo một lát.”



    “Càng gần phương bắc thì thời tiết càng lúc càng lạnh, ban đêm gió lớn, chàng lại ăn mặc phong phanh như vậy, chớ nên đi lung tung thì hơn.” Sở Kiều đi thẳng vào trong phòng, để cái bát xuống trên bàn rồi nói: “Lúc nãy thấy chàng ăn không được bao nhiêu, ta mang ít đồ ăn khuya để chàng lót dạ này.”



    Gia Cát Nguyệt đi đến, nhìn thấy là một bát cháo trắng rất bình thường thì liếc nàng một cái, “Chỉ có vậy?”



    Sở Kiều trừng mắt nhìn hắn, “Có ăn là may rồi, còn kén chọn cái gì.” Dứt lời thì đi đến vỗ vỗ đầu hắn như đang dỗ dành cún con, vô cùng chân thành nói: “Ăn xong thì nghỉ ngơi sớm đi, đừng đi lung tung nữa.” Nói xong liền xoay người rời đi.

    Gia Cát Nguyệt ngẩn người. Chuyện quái gì thế này? Kế hoạch bị đảo lộn, con mồi đã tự mình đến cửa mà mình lại để nàng ung dung đi mất sao?

    Còn ăn uống gì nữa chứ?

    Hắn đứng dậy ra khỏi phòng.

    Vốn phải che giấu hành tung nên lần này bọn họ chọn thuyền cũng không quá lớn, hành lang hẹp chỉ đủ cho một người đi lại. Ánh đèn trên hành lang lúc mờ lúc tỏ, trường sam xanh nhạt thêu hoa văn tường vân bắt ánh sáng ấm áp khiến vóc dáng cao ráo của Gia Cát Nguyệt càng thêm tuấn tú xuất trần.

    Hắn chậm rãi đi từng bước một. Con thuyền nhỏ lênh đênh giữa cảnh sông nước mênh mông, tựa như buổi sáng mưa xuân rất nhiều năm trước kia, hắn đứng bên bờ sông nhìn con thuyền càng lúc càng xa bờ. Khi ấy trời đất cũng mờ ảo lạnh lẽo như hiện giờ, chỉ có ngọn lửa trong lòng hắn là vẫn cháy hừng hực như chưa bao giờ tắt, mắt hắn vĩnh viễn dõi theo nàng, từ lúc bé, dần lớn lên, rồi cho đến ngày hôm nay.

    Phía trước đột nhiên truyền đến tiếng hát khiến bước chân Gia Cát Nguyệt vừa tới trước phòng Sở Kiều thoáng khựng lại. Cửa phòng không khóa, từ bên trong le lói hắt ra ánh sáng ấm áp. Hắn đứng trước cửa, lặng lẽ lắng nghe giọng nữ hát dịu dàng hòa lẫn tiếng ê a của trẻ con.

    Bên dưới hai ngọn nến sáng trưng, Sở Kiều ngồi xổm cạnh một chiếc bồn nhỏ bằng gỗ mun, vạt váy trắng tinh quết trên mặt đất, tay áo xắn cao, đang tắm cho con trai nhỏ của Lý Sách.

    Vinh Nhi vô cùng mũm mĩm, tuy bé còn nhỏ nhưng vẫn nhìn ra ngũ quan y hệt cha mình, hai mắt cong cong hơi xếch như mắt hồ ly, khi cười liền không nhìn thấy tròng trắng.

    Cậu bé đang ngồi trong bồn gỗ, tay cầm một chuỗi lục lạc huơ huơ kêu *leng keng* rất vui tai, tay còn lại ra sức vỗ nước theo tiết tấu khiến nước bắn ướt gần hết y phục của Sở Kiều. Mỗi lần nàng suýt xoa tránh né, cậu bé đều thích chí vỗ tay, cười khanh khách.



    “Vinh Nhi, không được phá nữa.” Sở Kiều vờ răn đe nhưng cậu bé vẫn không ngừng khua tay múa chân, khiến nước trong bồn bị văng ra ngoài hết hơn nửa.

    “Đừng nghịch ngợm thế chứ, đến cha con cũng không có đáng ghét như vậy.” Nửa người Sở Kiều đã ướt sũng, nhỏ nước *tỏng tỏng*. Vinh Nhi ngước lên kêu *a a* mấy tiếng, tựa như đang phản bác lời nàng vừa nói.

    “Con nhìn con xem có chút dáng vẻ nào của một thân vương không hả?”



    “A nha nha nha…”



    “Mới nói một câu mà đã có ý kiến rồi?”



    “A nha nha nha…”



    “Thôi được rồi, cô cô hát cho con nghe một bài nhé?”

    Cậu bé chớp chớp mắt, ngước lên nhìn nàng, đưa cánh tay mập ú níu chặt vạt áo của Sở Kiều lấy đà, chết sống đòi leo ra khỏi bồn, dùng hành động thực tế biểu thị việc ghét bỏ tắm rửa, cũng như không chút hứng thú với chuyện nghe nàng ca hát gì đó.

    Nhưng Sở Kiều đang có hứng nên làm như không nhìn thấy, vỗ vỗ đầu cậu bé rồi nói: “Cô cô sắp hát đấy, lắng nghe cho kỹ.”



    “A nha nha nha…”



    “You are my sunshine, my only sunshine

    You make me happy when skies are grey

    You never know, dear, how much I love you

    Please don’t take my sunshine away.*”

    *Từ bài ‘You are my sunshine’ của Johnny Cash, có thể nghe từ đây:http://musicpleer.cc/#!b7841e87a8fbb8684f0fec1bc50da0b6

    Tiếng hát trong trẻo lẳng lặng phiêu đãng trong không gian ấm áp ánh nến, dịu dàng như thôi miên người nghe. Cô gái váy trắng ngồi xổm trên mặt đất, mái tóc dài xõa kín bờ vai thon gầy, tay giữ lấy một đứa trẻ mũm mĩm trong chiếc bồn gỗ đen như mun.

    Cô gái hát vô cùng nhập tâm nhưng đứa bé trong bồn lại không chút để ý, tay chân hai người cuốn lấy nhau, một liều chết muốn trèo ra ngoài, một mạnh bạo giữ chặt tay chân người kia nhưng miệng vẫn thốt ra âm điệu du dương. Không ai hiểu được nàng đang hát cái gì, chỉ cảm thấy hơi tương tự mấy tiếng *ê a* của Vinh Nhi, nghe vô cùng kỳ quái. Nhưng âm thanh dịu dàng kia vẫn khiến người nghe cảm nhận được tình cảm thân thiết chân thành, như của một người mẹ đang âu yếm con trẻ.

    *Ào* một tiếng, chiếc bồn gỗ rốt cuộc bị lật nhào, Vinh Nhi bò ra ngoài, đắc ý cười khanh khách, hai mắt cong cong y hệt cha mình.

    Trong phòng vô cùng bừa bộn, y phục Sở Kiều giờ đã hoàn toàn ướt sũng. Nàng hơi thất thần nhìn Vinh Nhi, tựa như xuyên qua bé thấy được Lý Sách, nên trừng mắt hậm hực nói: “Đã đi rồi mà còn để lại thằng nhóc này ức hiếp ta.”

    Vinh Nhi vừa cười khanh khách vừa lúc lắc cái mông trắng mập bò ra ngoài cửa. Sở Kiều định đưa tay kéo bé lại thì nhìn thấy nam nhân đang đứng tựa lên khung cửa.

    Nam nhân có lẽ đã đứng đó một lúc lâu, ánh đèn từ hành lang hắt lên khuôn mặt tuấn tú, ánh mắt sâu thẳm, da rất sáng nhưng không phải loại trắng nhợt của thư sinh yếu ớt mà là loại trắng trẻo của quý tộc giàu sang, tinh khiết như bạch ngọc thượng hạng. Hắn đứng tựa vào cửa, hứng thú nhìn nàng, khóe miệng không cười nhưng đầu mày cuối mắt lại đầy ý cười.



    Trong thoáng chốc, Sở Kiều chợt có hơi quẫn bách, hình như nàng vừa bị soái ca mê hoặc rồi.

    Vinh Nhi lúc lắc cặp mông trắng múp mấy cái đã bò đến cạnh cửa, thấy khách không mời mà đến thì ngẩng đầu một góc chín mươi độ nhìn lên, cũng chẳng rõ có phải vì phát hiện bản thân còn không cao tới ống giày của đối phương hay không mà vốn định chó cậy thế chủ gào lên hai tiếng thị uy, nhưng rồi liền đổi thành thức thời im lặng. Bé ngẫm nghĩ, ngoái đầu nhìn nhìn Sở Kiều rồi lại quay sang nhìn Gia Cát Nguyệt, sau tiếp tục nhìn đến cái nôi nhỏ trong góc phòng của mình, nội tâm đấu tranh kịch liệt một lúc. Cuối cùng bé phát ra một âm thanh tương tự như tiếng thở dài, đưa tay kéo kéo vạt áo của Gia Cát Nguyệt. Gia Cát Nguyệt cúi đầu nhìn bé, thấy bé đang chỉ đoản kiếm đính ngọc bích hắn giắt bên hông, liên tục *ê a*.

    Đoản kiếm này là trang sức người nào đó cố tình giắt theo để phối hợp với y phục trên người tối nay, dưới ánh đèn ngọc bích khảm trên vỏ kiếm lấp lánh dị thường. Gia Cát Nguyệt tháo đoản kiếm xuống đưa cho cậu bé.

    Vinh Nhi cầm đoản kiếm đưa lên miệng ngậm, chưa mọc răng nên cũng chẳng gặm được gì. Nhưng bé vẫn nắm chặt nó trong tay, tiếp tục bò ra khỏi cửa, bò thẳng đến trước gian phòng sát bên phòng của Sở Kiều, sau đó dùng cẳng chân nhỏ mũm mĩm đạp cửa *bình bịch*.

    Mai Hương ngái ngủ mở cửa ra, nhìn thấy Vinh Nhi thì vui vẻ kêu lên, nhanh chóng cúi xuống bế bé lên, vì cảm thấy kỳ quái nên bước sang phòng Sở Kiều định hỏi thăm thì chợt nhìn thấy Gia Cát Nguyệt. Khuôn mặt đang tươi cười của Mai Hương đột ngột đỏ ửng, cô nàng nhẹ gật đầu với Gia Cát Nguyệt ra vẻ hiểu rõ rồi lập tức ôm Vinh Nhi vào phòng đóng cửa lại.

    Chướng ngại đã bị đẩy đi như thế.

    Gia Cát Nguyệt thầm nghĩ, tiểu tử kia tuy có hơi đáng ghét nhưng dưới loại tình huống này thì cũng biết điều y như cha nó vậy.

    Gia Cát thiếu gia đường hoàng bước vào trong cứ như đây là phòng của mình, còn vô cùng thản nhiên đóng cửa phòng lại, sau đó mới từ tốn đi đến trước mặt Sở Kiều, từ trên cao nhìn xuống nàng, giơ tay ra, nói: “Vẫn chưa chịu đứng dậy à?”



    Sở Kiều hơi ngượng ngùng, ảo não nhíu mày, bản thân rốt cuộc sao thế này? Thật sự là bị sắc đẹp mê hoặc à?

    Nàng cũng không vươn tay ra mà muốn tự mình đứng lên, ai ngờ vừa mới nhỏm dậy thì chợt trượt chân bởi sàn nhà ướt nước, lập tức *á* một tiếng, chưa kịp đứng vững thì đã chuẩn bị ngã nhào.

    Đau đớn trong dự đoán không thấy đâu, thì ra Gia Cát Nguyệt đã nhanh tay đỡ lấy nàng, bàn tay ấm áp của hắn áp lên phần eo bị lộ ra vì y phục xộc xệch của nàng. Chỗ được y phục che thì cũng đã bị thấm nước, vải ướt dán sát vào da thịt để lộ đường cong uyển chuyển, vô cùng mị hoặc.

    Ngồi xổm một thời gian nên hai chân Sở Kiều hiện đã tê rần, Gia Cát Nguyệt bế nàng lên đi đến đặt xuống trên giường. Tóc và y phục nàng đều ướt sũng, nhỏ nước *tí tách*, tựa như người vừa bị nhét vào bồn gỗ tắm rửa là nàng mới đúng.

    Gia Cát Nguyệt cầm chăn trên giường trùm kín người Sở Kiều, nói: “Chớ để bị cảm lạnh.”



    Ánh nến mờ ảo trong phòng khiến khuôn mặt nam nhân trở nên mông lung không thật. Gia Cát Nguyệt với lấy một chiếc khăn đi đến trước mặt Sở Kiều, không nói tiếng nào bắt đầu cẩn thận lau tóc cho nàng, động tác vô cùng nhẹ nhàng.

    Lòng bàn tay Sở Kiều hơi rịn mồ hôi, bị bọc trong tấm chăn dày cộm khiến nàng cảm thấy không khí trong phòng dường như trở nên hơi nóng, mặc dù người nàng vẫn đang ướt sũng. Vài sợi tóc lòa xòa trước trán che bớt tầm nhìn, nàng chỉ có thể thấy vạt trường bào xanh nhạt, từng cụm hoa văn hình mây thêu trên vạt áo khiến người nhìn hoa mắt.

    “Vừa rồi hát bài gì thế?” Gia Cát Nguyệt đột nhiên lên tiếng hỏi, ngữ khí ôn nhu mang theo chất giọng khàn khàn nam tính quanh quẩn bên tai Sở Kiều.

    Nàng ngẩng đầu lên nhìn khuôn mặt cực kỳ anh tuấn của người đối diện, mùi hương dễ chịu trên người hắn khiến nàng thoải mái đến mức muốn thiếp đi.

    Gia Cát Nguyệt thấy nàng không đáp lời thì hơi nhíu mày gọi: “Tinh Nhi?”

    “You are my sunshine.”



    Gia Cát Nguyệt sửng sốt, hỏi lại: “Là ngôn ngữ của quê hương nàng?”



    “Ừ.” Sở Kiều thành thật gật đầu.

    “Hát lại một lần nữa cho ta nghe.”

    Giọng nói của Gia Cát Nguyệt tối nay tựa như có ma lực, khiến Sở Kiều không hề muốn đấu khẩu với chàng như bình thường. Nàng từ từ hít sâu hai hơi, chậm rãi cất chất giọng dịu dàng trong trẻo, tựa như âm thanh của hạt mưa đầu xuân rơi xuống hồ sen, dấy lên từng đợt sóng nhẹ.

    “You are my sunshine, my only sunshine,

    You make me happy when skies are grey.”



    Giọng hát tựa như được chắp cánh, chậm rãi lướt qua năm tháng trong quá khứ. Từ lần đầu gặp nhau rồi day dứt trong hận thù chém giết, cuộc sống tựa như một đồng cỏ dại chôn giấu vô số cạm bẫy, không biết đâu mới là nơi cất giữ hy vọng.

    Chàng đứng trước mặt nàng, tỉ mỉ lau tóc cho nàng, ngón tay thon dài chậm rãi luồn qua mái tóc đen óng mượt như rẽ nước, tạo nên vô số gợn sóng thời gian. Chất liệu trường sam của chàng rất mềm mại, nàng tựa đầu ngang hông chàng, nhỏ giọng thì thầm bài hát mình thích nhất ở kiếp trước.

    “You’ll never know, dear, how much I love you,

    Please don’t take my sunshine away.”



    Không khí ấm áp trong phòng khiến nàng nhớ lại khoảng thời gian sống trong cô nhi viện Thánh Lạc An rất nhiều năm trước.

    Viện trưởng là một lão binh kỳ cựu sống sót sau tám năm kháng chiến trên chiến trường Triều Tiên, ông bị mất một chân nhưng vẫn có thể phá hủy phi cơ của người Mỹ. Sau khi giải ngũ, ông cầm tiền lương trở về cố hương xây dựng cô nhi viện, nhận nuôi những đứa trẻ không cha không mẹ.

    Sở Kiều không giống những cô nhi khác, nàng may mắn được viện trưởng coi như cháu gái ruột thịt, tốt bụng tảo tần nuôi nàng ăn học, ông còn nhờ cậy bạn bè để nàng vào học trường quân đội, nhập ngũ với ước mơ bảo vệ quốc gia.

    Nàng cũng không phụ kỳ vọng của ông, dần dần trưởng thành một cách vững vàng, có thành tích ưu việt, không những thông minh linh hoạt mà còn hết sức lương thiện chính trực. Sau khi tốt nhiệp nàng gia nhập quân đội, đi lên vị trí chỉ huy rồi tiến vào sở tình báo. Con đường tương lai thênh thang cứ thế mở rộng chờ nàng ung dung bước đi.

    Từ lúc nàng còn rất nhỏ, ông đã luôn dặn dò nàng , làm một quân nhân thì phải biết trung quân ái quốc, phải bảo vệ quốc gia, bảo vệ người dân, bảo vệ kẻ yếu. Ông còn kể nàng nghe rất nhiều chuyện xưa khi còn ở trong quân đội, chỉ dạy nàng làm sao lấy được lòng tin của người khác và tác phong sinh hoạt ngày thường cần có. Tựa như một mầm cây, nàng dần dần lớn lên dưới sự chăm bẵm tưới táp của ông. Nàng thậm chí còn nhớ rõ bộ mặt vui vẻ của ông lúc nàng hoàn thành nhiệm vụ lần đầu tiên, cầm khen thưởng trở về. Khuôn mặt đầy nếp nhăn sáng bừng dưới ánh mặt trời, ông cười đến không khép miệng được, ôm nàng vào lòng, vỗ đầu gọi cháu gái ngoan.

    Đó là giai đoạn vui vẻ nhất đời nàng, có người thân yêu thương ở bên cạnh, một lòng ủng hộ hoài bão ước mơ của nàng.

    Lúc còn trẻ ông nàng từng đi du học ở Anh nên rất giỏi ngoại ngữ. Ông dạy nàng Anh văn, dạy nàng lễ nghi của phương Tây, còn dạy nàng nhảy điệu waltz nữa.

    Trái, phải, trái, phải, chụm chân, đi ba bước. Lặp lại…

    Ông cũng dạy nàng hát.

    “The other night, dear, as I lay sleeping,

    I dreamed I held you in my arms.

    When I awoke, dear, I was mistaken,

    Please don’t take my sunshine away.”



    Sở Kiều đột nhiên giơ tay ôm lấy hông Gia Cát Nguyệt. Ánh nến mờ ảo tựa như từng vầng sáng lan rộng, nhảy múa khắp gian phòng. Bầu trời ngoài cửa sổ lấp lánh muôn vàn tinh tú, con thuyền nhẹ trôi trên mặt nước, cảnh sắc núi non hai bên bờ chậm rãi lướt qua, thấp thoáng tiếng gió.

    “Tinh Nhi.” Gia Cát Nguyệt cúi đầu hỏi: “Bài hát này có nghĩa gì vậy?”



    Chẳng rõ vì sao, Sở Kiều chợt hơi đỏ mặt, cúi đầu không đáp.

    Trên đầu có hơi thở ấm áp phả xuống, lồng ngực nam nhân hơi run run, Sở Kiều biết, chàng đang cười, không phát ra tiếng nhưng nàng vẫn biết được.

    “Âm điệu rất hay.” Gia Cát Nguyệt ngồi xổm xuống nhìn thẳng vào mặt nàng, cười nói: “Ta rất thích.”



    Sở Kiều không dám nhìn vào mắt Gia Cát Nguyệt nên tìm cách đổi chủ đề: “Trễ thế này sao còn tới đây?”



    “Ta nhớ một người nên không ngủ được.” Gia Cát Nguyệt đột nhiên nói như vậy khiến Sở Kiều hơi sững sờ, nhất thời không biết nói sao.

    “Người đó rất đáng yêu, nhưng có điều hơi ngốc, ta hơi sơ sẩy không trông chừng thì liền tự tổn thương bản thân, hơn nữa còn dễ bị lạc đường, dễ bị người khác cướp đi. Thế nên cho dù ta ở rất gần người đó thì vẫn không an tâm, không nhìn thấy liền thấp thỏm ngủ chẳng yên.”



    Sở Kiều đỏ mặt tới tận mang tai, rụt rè ngẩng lên nhìn Gia Cát Nguyệt một cái rồi nhỏ giọng phản bác: “Làm gì có chuyện ngốc như chàng nói chứ?””



    “Còn ngốc hơn cả lời ta nói.” Đáy mắt Gia Cát Nguyệt lấp láp ánh sáng, chợt cất tiếng cười vang: “Thật sự không biết tên Lý Sách kia làm sao sinh được một tiểu tử được hoan nghênh như vậy nữa, ngay cả ta cũng bị cho ra rìa.”



    Sở Kiều sửng sốt, nhận ra mình vừa bị chơi xỏ thì lập tức vung quả đấm lên muốn đánh, nhưng lại bị Gia Cát Nguyệt bắt được. Bàn tay của chàng vừa to vừa ấm áp, bao trọn lấy nắm tay nhỏ nhắn của nàng, mạnh mẽ đến mức tay nàng không nhúc nhích được chút nào.

    Gia Cát Nguyệt chậm rãi áp sát, ánh mắt thăm thẳm như đầm sâu, che giấu vô số gợn sóng bên trong. Giọng nói trầm khàn của hắn phả lên một bên tai Sở Kiều, “Trừng phạt tội dám đùa bỡn ta lúc sáng.” Dứt lời liền cúi xuống tiến gần môi nàng.

    Sở Kiều chợt căng thẳng đến mức toàn thân cứng đờ, tuy đã sống qua hai kiếp người, cũng không hẳn là không có kinh nghiệm hôn, song chẳng rõ vì sao mà mỗi lần đối mặt với Gia Cát Nguyệt, nàng luôn vô cùng khẩn trương, luống cuống tới độ tay chân để đâu cũng không biết.

    Nhưng nhắm mắt chờ hồi lâu cũng không thấy động tĩnh gì, nàng dè dặt hé mắt ra, lập tức phát hiện người nào đó đang nheo mắt nhìn, thấy nàng mở mắt ra thì sáp lại gần, gần đến mức hơi thở ấm áp đều phả lên mặt nàng, “Đang chờ ta hôn nàng đó à?”



    “Gia Cát Nguyệt!” Sở Kiều tức giận xô mạnh, “Chàng ức hiếp người quá đáng!”



    Gia Cát Nguyệt đột nhiên ôm lấy Sở Kiều, bằng tốc độ nhanh và dứt khoát đến đáng kinh ngạc kéo chăn bông cùng khăn mặt phủ trên người và đầu nàng sang một bên rồi dùng một tay giữ lấy mặt nàng, mạnh mẽ hôn xuống, tay còn lại siết chặt nàng, tựa như muốn khảm cả người nàng vào người mình. Nụ hôn của chàng lạnh như băng trong khi mặt nàng thì nóng bừng bừng, hô hấp của chàng vừa nhanh vừa nặng, tay chàng siết chặt bên eo nàng, thân thể hai người dán sát vào nhau, đến mức có thể nghe được nhịp tim của đối phương.

    Một lần, hai lần rồi ba lần…

    “Sở Kiều.” Gia Cát Nguyệt mở mắt ra, đột nhiên gọi tên nàng, trong mắt như có lửa cháy dữ dội, đều giọng nói từng chữ một: “Thành thân với ta nhé.”



    Sở Kiều nhất thời ngây người, ánh nến chiếu lên mặt Gia Cát Nguyệt khiến mặt chàng nửa sáng nửa tối, thoạt nhìn mơ hồ không thực. Hình như tai vừa nghe nhầm gì thì phải, nàng chợt có hơi luống cuống, hé môi muốn nói nhưng lại không biết nên trả lời thế nào.

    “Tinh Nhi.” Chàng vẫn nhìn nàng chăm chú, đổi lại gọi bằng cái tên chỉ dành riêng cho chàng gọi.

    Tâm trí đã bắt đầu trở nên mơ hồ, nàng vô thức đáp lời: “Dạ?”



    “Ta yêu nàng.”

    Đỉnh đầu như vừa bị một quả bom oanh tạc, Sở Kiều cảm giác được mặt mình nóng rực, nhiệt độ nhanh chóng lan ra toàn thân, tư duy như vừa bị rơi vào vũng bùn, thoáng cái đã chìm nghỉm. Nàng ngơ ngác nhìn chàng, trong ngực nảy sinh một cảm giác sung sướng pha lẫn bối rối không thể diễn tả chực nhảy ra, khiến nàng phải đưa tay lên ngực, như thể nếu không chắn lại thì những cảm giác đó sẽ bùng nổ.

    “Đã yêu từ rất lâu rồi, nàng có biết không?” Gia Cát Nguyệt đều giọng hỏi nàng, bình thản giống như hai người họ đang bàn chuyện của người khác vậy, không hề có chút bối rối nào.

    Sở Kiều gật đầu, “Biết.”



    “Vậy còn nàng?” Ánh mắt sáng quắc của Gia Cát Nguyệt khiến Sở Kiều cảm thấy như sắp chết ngạt đến nơi.

    Nàng lấy hết dũng khí, lí nhí đáp: “Ta cũng vậy.”



    Người nào đó vẫn không hài lòng, cười hỏi tiếp: “Nàng cũng cái gì?”



    Sở Kiều bất giác oán trách sao con thuyền này lại nhỏ như vậy, sao gian phòng này lại chật chội như vậy, nóng đến mức nàng hít thở không thông.



    “Nói.” Người nào đó bá đạo nâng cằm nàng lên, hỏi lại: “Nàng cũng thế nào?”



    “Ta cũng vậy…” Sở Kiều khẽ siết nắm tay, nói một hơi: “Ta cũng yêu chàng.”



    Ta cũng yêu chàng…

    Âm thanh rất nhỏ, rất nhẹ nhưng nhanh chóng xuyên qua bóng tối thắp sáng nụ cười trên mặt Gia Cát Nguyệt, chàng dịu dàng cúi xuống hôn lên trán nàng, hỏi: “Từ lúc nào?”



    Lúc nào?

    Cũng chẳng rõ, có lẽ là lần gặp lại dưới chân núi Tịch Chiếu, có lẽ là lần trùng phùng trong đêm hoa đăng ở Hiền Dương, có lẽ là khoảnh khắc dưới hồ băng Thiên Trượng, khi chàng thì thầm nhắn nhủ nàng phải ‘sống sót’…

    Mà cũng có thể là lâu hơn nữa, là từ cái ôm trong hoàng lăng trên Mi Sơn, là lúc hai người quần ẩu ám muội trong thành Ổ Bành, là đoạn thời gian sóng vai chiến đấu chung đường đến Biện Đường, là lần cứu nàng khỏi tay Triệu Thuần ở Đường Kinh.

    Hay là ngược dòng thời gian đến mười năm trước, trong gian phòng tràn ngập hương hoa lan, thiếu niên dùng chiếc khăn tay trắng tinh lau nước mắt nước mũi cho nàng. Từng khoảnh khắc, từng bước một, chàng và sự tùy tiện, cố chấp của mình đã ngang ngược tiến vào chiếm giữ tim nàng.

    Chẳng báo trước, cũng chẳng hỏi nàng có đồng ý hay không.

    “Không biết.” Sở Kiều đưa tay nhẹ xoa xoa mi tâm hơi nhíu vì không hài lòng của chàng, “Hình như là từ rất lâu rồi, lâu đến mức bản thân ta cũng không nhớ rõ là lúc nào.”



    Nàng nép vào ngực chàng, dịu dàng nói: “Có lẽ là rất nhiều lần, mỗi lần một chút, nhớ không hết.”



    “Đúng là đồ ngốc.” Gia Cát Nguyệt ôm nàng, đột nhiên cười nói: “Thật ra thì chính ta cũng không biết.”



    Đúng vậy, tình yêu luôn đến một cách âm thầm, đến khi ngươi phát hiện thì nó đã ghim sâu trong tim rồi.

    Gia Cát Nguyệt cúi đầu hôn nàng, từ trán, xuống môi, đến mặt, vành tai, cổ, xương quai xanh thanh mảnh…

    Người Sở Kiều càng lúc càng mềm đi, cuối cùng dựa hẳn vào thân thể nóng rực của Gia Cát Nguyệt. Cánh tay bên hông nhẹ nhàng di động, chậm rãi thắp lửa đốt cháy chút lý trí còn sót lại của nàng.

    Sở Kiều chợt *Á* một tiếng kinh ngạc, cả người đột nhiên bị bế bổng lên đặt xuống trên giường.

    Y phục đã ướt hết nửa, mặc cũng chẳng khác không mặc là bao.

    Chàng chăm chú nhìn nàng, mi tâm khẽ chau như đang suy tư gì đó, nhưng ánh mắt vẫn hết sức nóng bỏng.

    Hơi thở nặng nề cúi xuống sát bên tai, vành tai nhẹ nhàng bị mút lấy khiến toàn thân nàng như có dòng điện chạy qua. Dây lưng trên chiếc eo thon bị kéo nhẹ khiến vạt áo mở rộng, để lộ chiếc yếm trắng xinh xắn có thêu một chú chim nhỏ màu vàng.

    Bờ vai mịn màng hở ra, lành lạnh. Ngón tay thon dài nhẹ nhàng lướt qua sau cổ nàng, run rẩy rút dây buộc khiến chiếc yếm trượt xuống. Sở Kiều hốt hoảng, theo bản năng kéo lại thì nghe thấy đỉnh đầu vang lên một tiếng cười khẽ, “Ngượng sao?”

    Sở Kiều muốn tránh nhưng chỉ hoài công, đành ngây ngốc chỉ vào ngọn nến ở chân giường, ấp úng nói một cách đáng thương: “Thổi nến đi có được không?”



    Gia Cát Nguyệt vẫn như cũ, cười không nghe tiếng, nhưng vẫn có thể thấy được khóe miệng đang cong lên rõ ràng.

    Không gian yên tĩnh không tiếng động, chỉ có thể thỉnh thoảng nghe được tiếng chim đêm nhào xuống mặt sông bắt mồi.

    Chàng đỡ eo Sở Kiều, thì thầm bên tai nàng: “Đừng sợ.”



    Nụ hôn của chàng lại rơi xuống trên da thịt lụa mịn khiến nàng hoảng hốt, toàn thân dần tê dại rồi trở nên nóng hổi. Từng lớp y phục chậm rãi bị cởi ra, để lộ thân thể duyên dáng yêu kiều bên trong. Mịn màng, trắng nõn tựa ngọc lưu ly, như một pho tượng điêu khắc tinh xảo, toát ra sức sống trẻ trung bất tận. Chàng dịu dàng hôn từng tấc một trên thân thể nàng, thân thể hai người áp vào nhau, nóng bỏng như lửa.

    Sở Kiều thẹn thùng muốn vùi mặt vào ngực Gia Cát Nguyệt thì đột ngột nhìn thấy vết sẹo dữ tợn trước ngực và phía vai hắn, cả người nàng chợt lạnh đi, bất giác rùng mình một cái.

    Gia Cát Nguyệt cảm nhận được liền vội vàng đưa tay che mắt nàng, thấp giọng nói: “Đừng nhìn.”



    Sở Kiều kéo tay Gia Cát Nguyệt ra, run rẩy sờ lên mấy vết sẹo rồi áp mặt vào ngực chàng, nước mắt chảy ra thấm ướt phần da thịt không lành lặn.

    Gia Cát Nguyệt nhẹ nhàng ôm Sở Kiều vào lòng, không nói gì mà chỉ lẳng lặng nhìn nàng khóc.

    Ngày Lý Sách được hạ táng, nàng từng thề sẽ không bao giờ rơi lệ nữa. Nhưng giờ phút này nhìn thấy vết thương trên người chàng, nhìn vết tích của thương thế mà chàng phải chịu vì mình, lòng nàng đau đớn đến tột cùng. Nàng ôm chàng thật chặt, giống như sợ rằng chỉ cần buông lỏng tay thì chàng sẽ biến mất vậy. Giống như lúc ở hồ băng khi trước, nàng vừa buông tay thì lập tức không còn nhìn thấy chàng nữa.

    “Gia Cát Nguyệt, thật xin lỗi.” Nàng vừa khóc vừa nói.

    “Ngốc.” Gia Cát Nguyệt hôn lên tóc nàng, cười nói: “Ta vì nàng mà bị hủy dung, nàng phải chịu trách nhiệm với ta đấy.”



    Sở Kiều vừa nức nở vừa cãi lại: “Bị thương ở vai với trên ngực mà, không tính… không tính là bị hủy dung.”



    Gia Cát Nguyệt phì cười, đáy mắt đen thăm thẳm phản chiếu bóng hình yêu kiều như hoa sen, dịu dàng hôn lên khuôn mặt đầy nước mắt của nàng, thấp giọng thì thầm: “Mặc kệ, nàng vẫn phải chịu trách nhiệm.”



    Vòng tay ôm của chàng mạnh đến mức khiến nàng hơi đau, nhưng cảm giác đau đớn đã sớm bị dung hòa bởi hạnh phúc mênh mông như đại dương.

    Thật tốt quá, hai người bọn họ vẫn còn có thể đi đến ngày hôm nay. Trước đó không lâu nàng từng cho rằng ánh sáng của nàng đã bị chôn vùi dưới hồ băng lạnh lẽo rồi, làm sao cũng không thể tìm lại nữa.

    Quấn quýt càng lúc càng sâu, mồ hôi rịn ướt trán, không còn tiếng người nào khác bốn bề chỉ có tiếng sóng nước rì rào. Thời gian ngưng đọng, gió cũng ngừng lại, tựa như tô điểm thêm cho sự hiện hữu của hai người bọn họ.

    Cảm giác đau nhói chợt ập đến, Sở Kiều cong người lên, không kìm được *ưm* khẽ, một dòng máu nóng chảy ra giữa hai chân, đỏ tươi như chu sa.

    Gia Cát Nguyệt khựng người lại, trên mặt lộ vẻ không thể tin. Chàng chăm chú nhìn nàng, tựa như muốn xuyên qua tầng tầng sương mù chứng thực chuyện gì đó, sững sờ không nói nên lời. Mặt Sở Kiều hồng rực, môi cũng sưng đỏ, bị nhìn như vậy thì bất giác kéo áo che ngực.

    Gia Cát Nguyệt đột nhiên nở nụ cười, Sở Kiều chưa từng thấy chàng cười vui vẻ như vậy bao giờ, bắt đầu chỉ là một cái nhếch môi khẽ, nhưng dần chuyển sang cười thành tiếng, âm thanh càng lúc càng lớn, lớn đến mức khiến nàng phải vội vàng giơ tay ra cố bịt miệng chàng lại.

    Chàng vùi đầu vào hõm vai nàng, thấp giọng nói: “Tinh Nhi, ta rất vui, rất rất vui.”



    Sở Kiều vòng cánh tay mảnh khảnh qua hông Gia Cát Nguyệt, trong ánh nến yếu ớt sắp tắt, nàng sung sướng mỉm cười, thầm nghĩ, đây có lẽ chính là đêm động phòng hoa chúc của mình.

    Giữa bọn họ có nhiều cách trở không kể xiết, nhưng sau khi trải qua bao nhiêu chuyện, qua nhiều năm như vậy, hận nước thù nhà, sinh tử biệt ly, thời gian và không gian, kiếp này và kiếp trước, hai người lại có thể từng bước một đi đến ngày hôm nay.

    *Chú thích chữ Nguyệt trong tên của nam chính: Nguyệt ở đây không phải là “月” Nguyệt trong ánh trăng mà Nguyệt trong chữ ”玥”. 玥 là tên một loại thần châu trong truyền thuyết Trung Quốc thời cổ đại được ghép từ 2 chữ “王” (vương) và “月” (trăng). Có 2 truyền thuyết:

    1: mắt phải của thần Bàn Cổ. Thần Bàn Cổ (còn được gọi là Bàn Cổ Vương) sau khi chết hóa thân: hơi thở biến thành cơn gió, âm thanh biến thành sấm sét, mắt trái biến thành mặt trời, mắt phải biến thành mặt trăng…

    2: truyền thuyết Thiếu Hạo (1 vị vua huyền thoại của trung quốc) ra đời, có phượng hoàng ngũ sắc dẫn theo trăm điểu đến trước sân, lúc ấy phượng hoàng ngậm một quả hạch thả vào trong tay Thiếu Hạo. Đột nhiên mặt đất chấn động, Cùng Tang (tên đô thành) ngả nghiêng, quả hạch nứt ra, một viên thần châu tỏa sáng rực rỡ xuất hiện. Mọi người dân vô cùng vui mừng, ánh sáng sao Thái Bạch – tượng chưng cho điềm lành phản chiếu từ hạt châu trong sáng như ánh trăng, được cho là vật mà trời ban cho quân vương, lấy tên cho thần châu là “玥” , tên hiệu của Thiếu Hạo là “phượng điểu thị” (chim phượng hoàng)
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  4. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 181: Kim phong ngọc lộ
    Gần sáng thì trời đột ngột đổ mưa, hạt mưa rơi trên ván thuyền kêu *tí tách*, con thuyền hơi chao đảo nhưng vẫn chậm rãi lướt qua núi non trùng điệp ở hai bên. Không trung văng vẳng tiếng gió tới lui, cơn mưa cuối thu lành lạnh trút nước xuống dòng sông thanh tịch.

    Sở Kiều chợt giật mình tỉnh giấc, tóc đen rơi tán loạn trên cổ, mặt hồng hồng hơi ngái ngủ, da thịt như lụa vùi trong chăn ấm, cánh tay mảnh khảnh trắng trẻo vươn ra sờ soạng, bên cạnh trống không, lạnh như băng. Cảm giác mơ màng lập tức biến mất, nàng ngồi bật dậy, trong phòng không còn ai ngoài nàng.

    Nàng đột nhiên thấy hơi hoảng hốt, vội vã lật chăn xuống giường, nhưng vừa đặt chân xuống đất thì đầu gối chợt nhũn ra, cảm giác đau đớn mơ hồ ở hạ thân nhanh chóng truyền khắp cơ thể, tựa như đang nhắc nhở nàng về đêm qua.

    Sở Kiều vơ lấy trường bào màu lam bên giường khoác vào người, buộc hờ dây lưng ngang vòng eo mảnh khảnh, cầm theo một chiếc dù trúc rồi mở cửa phòng đi ra ngoài. Bên ngoài hơi lạnh, mưa phùn phủ kín trời, bị gió thổi bay lất phất, nghịch ngợm vương lên tà áo nàng. Nàng hối hả chạy trên boong tàu trống trải, bốn bề tối tăm, hai bên bờ núi non cao vút, thỉnh thoảng nghe được tiếng vượn kêu nỉ non.

    Gia Cát Nguyệt đang đứng ở mũi thuyền, và dường như đã đứng đó rất lâu, thân ảnh khoác trường bào tuyền trắng cao ngất, đón gió khiến vạt váo bay phần phật. Nghe được tiếng chân, hắn quay đầu lại, nhìn thấy Sở Kiều thì cũng không kinh ngạc, chỉ đưa tay về phía nàng, lẳng lặng nói: “Tới đây.”



    Sở Kiều vội vã chạy đến che dù cho hắn, tuy mưa phùn rất nhẹ nhưng đứng lâu dưới mưa cũng sẽ ướt. Nhìn y phục hắn đã sớm ướt sũng, nàng khẽ chau mày, trách: “Không thấy trời đang mưa sao?”



    Gió thổi qua dãy núi phát ra âm thanh nỉ non, ống tay áo bồng bềnh nhảy múa, Gia Cát Nguyệt nắm tay Sở Kiều, các ngón tay thon dài nhưng mạnh mẽ rồi đột nhiên ôm nàng vào lòng, cứ thế lẳng lặng ôm mà không nói tiếng nào. Lực ôm không lớn nhưng lại khiến nàng thấy mình như bị vây trong lồng thép, không dám mảy may động đậy dù chỉ một chút.

    “Gia Cát Nguyệt?” Thời gian lặng lẽ trôi qua, nàng nhỏ giọng gọi: “Chàng sao vậy?”



    “Không có gì.” Giọng nói rất bình tĩnh, dịu dàng như một mặt hồ yên ả. Vài năm không gặp, nam tử cứng nhắc ương ngạnh ngày xưa dường như trưởng thành hơn, ánh mắt càng thêm trầm lắng, loại trầm lắng chỉ xuất hiện ở người từng trải qua nhiều tang thương. Giọng nói dịu dàng nhưng luôn ẩn chứa vô số lớp băng ngầm cùng gợn sóng bên dưới, ngoài mặt vui buồn không lộ, khiến người khác nhìn không ra là đang nghĩ gì.

    “Tinh Nhi, thiệt thòi cho nàng rồi.” Hắn đột nhiên nói một câu không đầu không đuôi như vậy.

    Sở Kiều nghi ngờ nhíu mày, hỏi lại: “Chàng đang nói cái gì vậy?”



    “Là ta không phải.” Gia Cát Nguyệt lẳng lặng cong môi cười, nụ cười trong trẻo như của một đứa trẻ, nhẹ vỗ vỗ mặt nàng, nói: “Sau này nhất định sẽ bù đắp lại cho nàng.”



    “Gia Cát Nguyệt, chàng rốt cuộc làm sao vậy?” Sở Kiều chợt hơi căng thẳng, vội vàng túm tay áo của Gia Cát Nguyệt, ngước lên nói: “Thiệt thòi gì chứ, là ta nguyện ý mà.”



    Gia Cát Nguyệt khẽ cười một tiếng, ưu nhã vòng tay ôm Sở Kiều vào lòng, tựa cằm lên đỉnh đầu nàng, dịu dàng tựa như đang ôm một món đồ bằng sứ.

    Có mấy lời không nói ra cứ thế mà theo gió hòa tan trong màn mưa phùn.

    Hắn vẫn cho mình tốt hơn Yến Tuân nhiều, nàng ở cạnh mình mới được hạnh phúc, mới được che chở đúng nghĩa.

    Nhưng qua đêm nay, hắn mới nhận ra bản thân thật ra không bằng người kia. Mười năm bên nhau, Yến Tuân đích thật là quân tử, trong khi đó hắn lại ôm ấp tư tâm như vậy.

    Nhưng biết phải làm sao bây giờ?

    Đối với chuyện của nàng, cho tới giờ hắn vẫn chưa từng thấy tự tin. Hạnh phúc càng gần hắn càng sợ hãi, cho nên mới bất giác nổi tư tâm, tham lam muốn nhiều hơn, nhiều hơn nữa, bao nhiêu cũng không đủ.

    Có lúc hắn từng cười nhạo bản thân, không ngờ Gia Cát Nguyệt hắn mà cũng có ngày hôm nay?

    Hắn vốn là một người biết suy tính thiệt hơn, trong mắt hắn, nghiệp bá, giang sơn và tài phú gì đó chẳng qua chỉ là một canh bạc, tính toán đặt để chỉ trong nháy mắt. Chỉ có nàng là hắn không cách nào dám đánh cược.



    Sở Kiều tựa vào lòng hắn, vẫn còn nhỏ giọng lẩm bẩm tựa như muốn an ủi hắn, “Ta không sao, là bản thân ta nguyện ý mà.”



    Gia Cát Nguyệt giơ tay bịt miệng nàng lại, sau đó bế bổng nàng lên trở về phòng.

    Sở Kiều *a* một tiếng nhỏ, dù trúc rơi trên mặt đất, mưa phùn tạt vào mặt lạnh buốt. Nàng nằm trong vòng tay của hắn, thấp giọng kháng nghị: “Thả ta xuống đi, bị bọn Mai Hương nhìn thấy thì hỏng bét!”



    Gia Cát Nguyệt cúi xuống, bá đạo nói: “Câm miệng.”



    Sở Kiều nhướng mày, ương bướng cãi lại: “Còn lâu.”



    Gia Cát Nguyệt khẽ cười, vẫn là kiểu cười không thành tiếng như cũ, sau đó cúi xuống ngậm lấy môi nàng, triền miên quấn quýt không ngừng. Hắn cứ như vậy đứng trước cửa phòng, bên dưới bầu trời đêm công khai hôn nàng, mãi đến khi Sở Kiều toàn thân vô lực, thở hổn hển thì mới dời môi.

    Hắn nhìn nàng, mỉm nụ cười mơ hồ mang theo vẻ đắc ý, khiêu khích: “Ta có biện pháp khiến nàng im lặng.”



    Sở Kiều vội vàng đưa tay che đôi môi nhỏ xinh đã sưng đỏ, hậm hực mở to đôi mắt đen tròn, im lặng tỏ ý phản kháng.

    Gia Cát Nguyệt khẽ cười, ôm nàng đi vào phòng. Cũng may trời chưa sáng nên tất cả mọi người vẫn còn ngủ, dọc đường không đụng phải ai.

    Vừa vào phòng, Sở Kiều lập tức nhảy xuống, bày tư thế phòng vệ nhìn Gia Cát Nguyệt chằm chằm, thấy hắn thản nhiên cởi áo nới dây lưng thì không khỏi mặt đỏ tới mang tai.

    Gia Cát Nguyệt đột nhiên khẽ cười, chậm rãi tiến tới thì thầm bên tai nàng: “Còn đau không?”



    Mặt Sở Kiều đã đỏ đến sắp bật máu, nàng rõ ràng có thể chỉ huy trăm vạn đại quân ra trận giết địch, nhưng lúc đối diện với loại chuyện này thì liền trở thành tiểu cô nương da mặt mỏng hơn giấy, chỉ một câu cũng có thể khiến nàng luống cuống tay chân.

    Gia Cát Nguyệt ôm lấy nàng từ phía sau, gian xảo trượt tay xuống phía dưới. Sở Kiều luống cuống vội vàng giữ chặt bàn tay không an phận kia, khiến nó dừng lại trên phần bụng mềm mại của mình.

    “Thế nào rồi?” Gia Cát Nguyệt lại hỏi: “Ta đang hỏi nàng đấy? Còn đau không?”



    Sở Kiều quẫn bách, lắc đầu lia lịa như một chú thỏ đang hoảng hốt.

    Gia Cát Nguyệt mỉm cười, trên mặt xẹt qua vẻ gian tà, cố ý cúi xuống thấp giọng thì thầm bên tai nàng: “Thật sự không còn đau?”



    Nàng cuống quít gật đầu.

    “Vậy chúng ta tiếp tục.”



    “Hả?” Sở Kiều kinh ngạc, miệng há to đủ nhét được một quả trứng gà.

    Gia Cát Nguyệt bật cười thành tiếng, cúi xuống ôm nàng lên đặt xuống trên giường. Sở Kiều cũng không rõ bản thân mình rốt cuộc là thế nào nữa? Thân thủ linh hoạt hay võ nghệ của nàng đâu cả rồi? Tại sao chàng vừa áp đến gần là cả người nàng liền mềm nhũn không chút khí lực thế này?

    Sở Kiều ngẩn ngơ nhìn khuôn mặt chàng dần phóng đại ở trước mắt, sống mũi cao thẳng, môi mỏng khẽ nhếch, ánh mắt tà mị, làn da nhẵn mịn, đẹp đến điên đảo chúng sinh. Cứ như thế, nàng ngây người mặc cho chàng chiếm lĩnh đôi môi anh đào của mình, cảm giác tê dại tận xương tủy ập đến, hàm răng bị trêu chọc phải hé ra, mở lối cho đầu lưỡi tiến vào thăm dò. Nụ hôn từ dịu dàng dần trở nên kịch liệt, nàng cũng từ ngây ngô thụ động bắt đầu thử nghênh đón. Toàn thân run rẩy, hô hấp rối loạn, cuối cùng nàng vẫn bại trận trước thủ đoạn trêu đùa của đối phương, nhũn người tựa vào lòng chàng, cảm thấy cả người như đang tan ra thành nước, không thể khống chế.

    Áo ngoài bị cởi ra chẳng biết từ khi nào, chỉ còn lại tiểu y be bé, để lộ hai chân thon dài cùng cánh tay trắng mịn màng.

    Song hắn lại đột ngột kéo chăn phủ lên người nàng, hôn lên trán nàng, ôm nàng vào lòng, khàn giọng cười nói: “Được rồi, ngủ đi.”



    Sở Kiều sửng sốt, ngơ ngác hỏi lại: “Ngủ?”



    “Sao hả?” Gia Cát Nguyệt dùng một tay đỡ đầu, nghiêng người nhìn khuôn mặt ửng hồng của nàng, cười trêu: “Nàng không muốn?”



    “Muốn!” Sở Kiều lập tức lớn tiếng đáp, còn khoa trương ngáp một cái rõ to, tỏ vẻ bản thân cũng đang rất buồn ngủ.

    Gia Cát Nguyệt nằm xuống ôm lấy nàng. Hắn vốn cũng chẳng định làm gì, nàng dù sao cũng là lần đầu tiên, không thể nhanh như vậy liền có thể tiếp nhận trận mây mưa thứ hai. Vừa nãy hắn suýt nữa đã không thể dừng lại, còn tiếp tục nữa thì nguy, đành phải nhắm mắt lại, nói: “Vậy thì ngủ đi.”



    Nhưng người nào đó trong ngực lại không biết an phận, một hồi thì động động cánh tay, một hồi thì đổi tư thế, như một chú cún con hiếu động ngọ nguậy loạn xị.

    Gia Cát Nguyệt khẽ nhíu mày, trong bụng lại nhen nhúm phát hỏa làm sao cũng không dập tắt được, đành lên tiếng hỏi: “Sao vậy?”



    “Chàng… chàng không trở về phòng mình sao?” Sở Kiều ngẩng lên, đưa ánh mắt đáng thương nhìn Gia Cát Nguyệt, mặt hồng hồng, “Rủi sáng mai bị bọn Mai Hương bắt gặp thì làm sao? Bình An và Thanh Thanh vẫn còn là trẻ con đấy.”



    Gia Cát Nguyệt vẫn cau mày, “Bọn chúng bao tuổi rồi, còn là trẻ con gì nữa? Quên rồi à, lúc ở thành Ổ Bành, nàng bằng tuổi bọn chúng nhưng suýt nữa đã cường bạo ta.”



    “Ta nào có?” Liên quan đến danh dự cá nhân, Sở Kiều lập tức phản bác, “Chàng ngậm máu phun người!”



    “Còn chối?” Gia Cát Nguyệt hừ mũi, “Nàng giả trang thành vũ cơ Điền đại nhân dâng cho ta, cố tình ăn mặc hở hang xuất hiện trước mặt ta, không phải muốn lợi dụng ta thì còn gì nữa?”



    “Gia Cát Nguyệt, chàng….”



    “Nàng có thể lớn tiếng thêm chút nữa, khỏi đợi đến ngày mai, bây giờ để bọn họ biết luôn cũng được.”



    Sở Kiều vội vàng hạ giọng, hung dữ lườm đối phương, nghiến răng trèo trẹo, “Khi đó ta phải cứu người, ai biết được đó là phòng của chàng chứ? Chàng rõ ràng tường tận tiền căn hậu quả, đừng có giả ngơ với ta.”



    “Hừ!” Gia Cát Nguyệt không nhịn được liếc nàng một cái, vẻ mặt như đang nói: Biết ngay nàng sẽ chối bay chối biến mà!

    Sở Kiều thấy Gia Cát Nguyệt không nói lời nào thì tức đến thở hổn hển, đẩy đẩy hắn mấy cái, nói: “Này! Chàng về phòng ngủ đi, cái giường này nhỏ như vậy, bị chàng chiếm chỗ, ta ngủ không ngon.”



    Cái giường đủ cho bốn người nằm mà còn chê nhỏ? Gia Cát Nguyệt mặc kệ nàng lải nhải, tiếp tục nhắm mắt ngủ.

    “Này! Mau trở về phòng mình đi, có thể nào cứ nằm lỳ trên giường người ta vậy hả?” Thấy Gia Cát Nguyệt vẫn bất động như núi, Sở Kiều tức tối ngồi dậy, ôm quần áo định rời giường. Nhưng vừa bò qua khỏi thân hình của ai đó đang nằm ngoài thì eo chợt bị kéo lại, nàng mất đà ngã nằm lên trên ngực của Gia Cát Nguyệt.

    Đáy mắt lóe lên vài tia lửa, người nào đó âm trầm nheo mắt nhìn nàng, lạnh lùng nói: “Hình như nàng còn rất sung sức, không muốn ngủ có đúng không?”



    “Làm gì có chuyện đó! Không hề!”



    Đến cậu nhóc Lý Thanh Vinh mà còn biết nhìn sắc mặt người khác, lớn đầu như Sở Kiều dĩ nhiên cũng biết tiến lùi lúc nào. Nàng nhanh chóng nhận ra tất cả mọi kháng nghị hay chạy trốn gì đó bây giờ là nỗ lực không thực tế, cho nên vội vàng ngoan ngoãn nằm xuống, đưa lưng về phía Gia Cát Nguyệt, không dám nói thêm tiếng nào, cố gắng bình ổn hơi thở lại như chuẩn bị thiếp đi.

    Trong phòng tĩnh lặng không một tiếng động, bốn bề tối mịt, chỉ có tiếng mưa rơi trên ván thuyền kêu *tí tách*.

    Một cánh tay nhẹ nhàng đưa qua ôm ngang eo nàng, hơi thở nam tính phả đến gần, dịu dàng hôn lên vành tai nàng, trầm giọng nói: “Tinh Nhi, ta muốn từ nay về sau, tối nào cũng có thể ôm nàng ngủ như vậy, đừng đuổi ta đi nữa.”



    Tim nàng chợt tan ra thành một vũng nước ấm. Thật khó tưởng tượng người như hắn lại có thể nói ra những lời như vậy. Nàng cảm thấy lòng hơi chua xót, đưa tay ra nắm lấy tay chàng, cảm thấy đầu ngón tay chàng hơi lạnh thì kéo lên môi, nhẹ nhàng cúi xuống hôn.

    Đêm vẫn còn dài, Sở Kiều cứ thế ngủ thiếp đi trong vòng tay của Gia Cát Nguyệt. Trong giấc ngủ, nàng dường như mơ thấy một khoảng trời bao la rộng lớn, hồ nước trong xanh, thảo nguyên tươi tốt, một nhóm trẻ con mặc đồ trắng đang nắm tay nhau nhảy múa, vui vẻ hát vang:

    “You are my sunshine, my only sunshine,

    You make me happy when skies are grey.

    You’ll never know, dear, how much I love you,

    Please don’t take my sunshine away.”



    Gia Cát Nguyệt, chàng chính là ánh sáng của ta, là vầng thái dương không bao giờ có thể thay thế của ta.

    …………………………………………………………………………………………………………………

    Ngủ muộn thì tất nhiên sẽ dậy muộn.

    Nghe thấy cửa phòng bị đập mạnh, Sở Kiều hoảng hốt mở mắt ra. Gia Cát Nguyệt y trang chỉnh tề đứng trước cửa sổ, trong tay cầm một bộ y phục màu lam nhạt, cười nói: “Mai Hương đã đến gọi cửa mấy lần rồi, còn không ngồi dậy thì cô nàng sẽ đạp cửa xông vào đấy.”

    Sở Kiều cuống quít mặc quần áo vào, sau đó rón rén đi đến hé cửa chỉ đủ để thò đầu ra, cười ngây ngô: “Ha ha, Mai Hương đó à? Chào buổi sáng.”



    “Tiểu thư, sắp trưa rồi còn chào buổi sáng gì nữa, chúng ta chuẩn bị cập bờ đấy.” Trước cửa, Mai Hương hùng hổ đứng chống nạnh, Thanh Thanh ôm con trai của Lý Sách đứng bên cạnh đảo mắt cố nhìn vào trong, như đột nhiên trở nên vô cùng hứng thú với phòng của Sở Kiều. Vinh Nhi giơ bàn tay múp míp bấu véo mặt của Thanh Thanh, miệng kêu *ê a*, cũng không biết là muốn nói gì.

    “Hở? Vậy à?” Sở Kiều cười ha ha, “Ờ, gần đây không được khỏe lắm, không ngờ lại mệt đến mức ngủ quên, thật kỳ quái, ha ha.”



    “Phải đó, thật là kỳ quái.” Thanh Thanh ở một bên nhe răng cười he he, vẻ mặt vô cùng tinh quái.

    “Tiểu thư đứng đây làm gì vậy, em mang nước đến đây, người không định rửa mặt à?”



    Sở Kiều đưa tay nhấc lấy thùng nước dưới chân Mai Hương, cố ra vẻ thản nhiên nói: “Ta tự mình mang vào.”



    Mai Hương chau mày, “Tiểu thư, người sao vậy?”



    “Ta chẳng sao cả, em bận bịu nhiều việc nên chắc cũng mệt rồi, mau đi nghỉ đi.”



    Mai Hương tận tụy với công tác của mình vẫn không chịu buông tha: “Em còn phải dọn phòng cho tiểu thư nữa.”



    “Không cần, không cần. Hôm nay ta thấy tinh thần rất sảng khoái, ta tự mình thu dọn là được.” Dứt lời liền không chờ Mai Hương nói thêm câu nào nữa, Sở Kiều lập tức rụt đầu lại đóng chặt cửa phòng, sau đó rón rén dán tai lên cửa sổ, cẩn thận lắng nghe động tĩnh bên ngoài. Chờ cho Mai Hương và Thanh Thanh đi xa, nàng mới thở phào một hơi thật dài.

    Gia Cát Nguyệt nằm trên giường, bộ dáng vô cùng thong dong, “Nhìn nàng xem, lén lút rón rén như ăn trộm.”



    Sở Kiều trừng mắt liếc sang một cái rồi đi nhanh đến kéo tay hắn, “Thừa dịp không có ai, chàng mau về phòng mình đi.”



    “Không đi.” Gia Cát Nguyệt dứt khoát cự tuyệt, “Trừ khi nàng hầu hạ ta rửa mặt.”



    Sở Kiều suy sụp ra mặt, “Làm ơn đi có được không?”



    “Không làm thì ta không đi.”



    “Gia Cát Nguyệt, chàng…” Sở Kiều nghiến răng nghiến lợi một lúc, cuối cùng vẫn phải đi tới chậu nước, lấy khăn nhúng nước, hùng hổ xắn cao ống tay như chuẩn bị ra trận rồi hùng hổ quay lại đứng trước mặt Gia Cát Nguyệt, dùng sức lau loạn xạ trên mặt hắn.

    Gia Cát Nguyệt hơi nhăn mặt nhưng cũng không nói gì, vẫn giữ dáng vẻ cười cười mị hoặc như cũ. Thấy vậy Sở Kiều chợt có chút không nỡ, cuối cùng thì thở dài một hơi, động tác cũng trở nên dịu dàng hơn.

    Nắng ấm xuyên qua cửa sổ chiếu lên người cả hai, thời gian tựa như lùi lại hơn mười năm trước, trong Thanh Sơn viện, nàng mỗi ngày đều phải dậy rất sớm, bưng chậu nước đã được ủ trầm hương từ sớm vào phòng hầu hạ người này rời giường, hầu hạ hắn rửa mặt, hầu hạ hắn mặc y phục mang giày, còn phải hầu hạ hắn ăn cơm uống trà nữa.

    “Nhìn đi, khó khăn lắm mới đi được một vòng lớn, cuối cùng vẫn trở về kiếp nô tỳ này.” Sở Kiều ủ rũ nói.

    Gia Cát Nguyệt phì cười, nói: “Có câu lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, đã vốn là người của ta thì có chạy trời cũng không thoát.”



    Sở Kiều nhìn hắn chằm chằm, mắng: “Ở đâu ra loại lập luận giẻ rách đó chứ.”



    Đánh răng súc miệng xong, y phục cũng chỉnh trang tử tế, Sở Kiều kéo tay Gia Cát Nguyệt đẩy tới cửa, “Mau đi đi, nhanh lên!”



    Gia Cát Nguyệt quay lại liếc nàng, “Nha đầu vô lương tâm, một đêm phu thê ân nghĩa trăm ngày, còn nàng mới sang hôm sau đã trở mặt rồi!”



    “Đi nhanh giùm! Mau trở trở về phòng mình đi!”



    “Thiếu gia!” Một tiếng kêu khoái trá đột nhiên vang lên khiến Sở Kiều sợ bay mất hồn vía, quay ngoắt lại thì thấy Nguyệt Thất đứng ở ngoài cửa sổ, tươi cười chào nàng: “Sáng sớm có tới phòng thiếu gia, không thấy thiếu gia trong phòng liền đoán được tối qua thiếu gia nghỉ trong phòng của cô nương.”



    Bình An đứng sau lưng Nguyệt Thất, đằng sau hình như còn rất nhiều người khác, khoảng cách khá xa nên cũng không biết cậu đang nói chuyện với ai, nhưng vẫn loáng thoáng nghe được mấy câu như: “Tỷ tỷ xem như đã gả ra ngoài rồi, sau này không cần phải nghe lải nhải nữa.”

    Cùng lúc đó, cửa phòng *kẽo kẹt* bị đẩy ra, Mai Hương dẫn Thanh Thanh tiến vào, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt thì thi lễ một cái, quy củ gọi Tứ thiếu gia rồi đi về phía giường Sở Kiều, chuẩn bị thu dọn chăn gối.

    Sở Kiều nhất thời nhớ ra trên giường còn có vết máu không thể để người khác nhìn thấy, đang định đi ngăn cản thì Thanh Thanh lại bưng một chén canh đến, nói nhỏ bên tai nàng: “Mai Hương tỷ cố ý dặn phòng bếp hầm canh này, nói là để bổ sung khí huyết, tỷ tỷ mau uống đi.”



    Sở Kiều choáng váng, mặt đỏ như muốn bật máu.

    Gia Cát Nguyệt thản nhiên đi tới nhận lấy chén canh kia đưa đến môi Sở Kiều, cười nói: “Quả nhiên là đồ tốt, Tinh Nhi, mau uống đi.”



    …………………………………………………………………………………………………………………

    Xế chiều ngày hôm đó, con thuyền cập bến quận Lan Lăng mua thêm ít thức ăn vật dụng rồi tiếp tục rời bến đi thêm hai ngày, cuối cùng đến được huyện Hộ. Mọi người lục đục lên bờ, tuy đã vào cảnh nội Đại Hạ nhưng dường như hành sự của đám người Nguyệt Thất càng thêm cẩn thận. Vừa tới cửa khẩu thì đã có khoảng hơn năm trăm hộ vệ chờ sẵn, tất cả phụ nữ đều đổi nam trang, đi lẫn vào trong đội ngũ lên xe ngựa, mọi cử động đều hết sức âm thầm lặng lẽ.

    Sở Kiều nhìn thấy trong đội hộ vệ của Gia Cát Nguyệt có khá nhiều người có hình xăm trên mặt, biết phần lớn bọn họ đều là tội dân lưu vong ở Thanh Hải thì cũng hơi yên lòng phần nào. Những người này đa phần đều thân mang tội của tổ tiên, không quá trung thành với đại lục, hơn nữa hằng năm bươn chải nơi Thanh Hải khắc nghiệt nên thân thủ rất mạnh mẽ, lại nhất nhất trung thành với Gia Cát Nguyệt, có bọn họ thì không phải lo về vấn đề an toàn nữa.

    Đoàn xe ngựa đi đến quận Bảo Lâm, ba nghìn binh sĩ Thanh Hải đóng giáp trấn giữ trước cổng, trong đó có một ngàn người mặc giáp da màu xanh đen, dáng vẻ hùng hổ sắc bén, bền bỉ phong trần, vừa nhìn liền biết đều là người luyện võ.

    Nguyệt Thất đắc ý nói bọn họ đều là thuộc hạ dưới trướng của mình, là sư đoàn số 7 tinh nhuệ nhất Thanh Hải. Đây chỉ mới là một nhóm nhỏ, đa số đội ngũ hiện đang ở Thùy Vi Quan và bên trong thành Chân Hoàng.

    Bọn họ ngủ lại tại quận Bảo Lâm một đêm, hôm sau bắt đầu lên đường trở về thành Chân Hoàng, xế chiều thì thấy được thành trì nguy nga tráng lệ kia.

    Một khoảng trời đất mênh mông lộng gió, cỏ khô bay cuồn cuộn trên không trung.

    Đây chính là khí trời Đại Hạ, là gió Đại Hạ, là tiết thu lành lạnh của Đại Hạ, tất cả vẫn như cũ. Sở Kiều vén rèm xe lên nhìn cổng thành sừng sững phía trước, dưới ánh hoàng hôn, tường thành ánh lên một màu đỏ thê lương như máu.

    Nàng lại thoáng nhớ đến khoảng thời gian trước, thời gian nàng và Yến Tuân nương tựa lẫn nhau sống trong cái lồng giam to lớn này, căm thù tất cả mọi thứ, hận không xuất hiện một cơn đại hồng thủy ập đến cuốn sạch toàn bộ phồn hoa nơi này. Bọn họ đã dồn hết tâm huyết, liều chết mở đường máu, một lòng mong mỏi được thoát khỏi cái lồng chim giam cầm mình suốt tám năm.

    Nhưng hôm nay nàng lại một lần nữa cam tâm tình nguyện quay trở về, bước chân qua cánh cổng thành sừng sững đến mức khiến người khác hít thở không thông này.

    Sáu năm trước, nàng vì một nam nhân rời khỏi đây, sáu năm sau, nàng lại vì một nam nhân khác trở về đây.

    Vận mệnh thật kỳ diệu, biến đổi khó lường, mỗi bước đi đều không thể đoán được cái gì đang chờ đợi phía trước, việc duy nhất ngươi có thể làm là tiếp tục đi, mãi khi đến đích thì thôi.

    Đầu ngón tay chợt hơi lạnh, bên tai gió thổi kêu *vù vù*.

    Một cánh tay đột nhiên vòng qua sau lưng ôm lấy nàng, tiếng của Gia Cát Nguyệt vang lên, giọng vô cùng nhẹ, nhẹ đến mức khiến người nghe cảm thấy bình an, “Đừng sợ, có ta đây.”



    Sở Kiều mỉm cười, trước khi đương đầu với bất cứ chuyện gì, chàng hình như luôn nói ra câu này. Nàng tựa vào lòng chàng, hít thật sâu mùi hương trên người chàng rồi chậm rãi nhắm mắt lại.

    Nàng chỉ cần nắm chặt tay chàng, nắm thật chặt, vĩnh viễn không buông ra nữa.

    Hoàng thành đã không còn phồn hoa như xưa, trời chưa tối mà đường phố đã vắng người. Vài người đi đường nhìn thấy đoàn xe của Gia Cát Nguyệt đều nhanh chóng dạt ra né tránh, hình ảnh dòng người tấp nập trong đêm hoa đăng năm đó đã không còn.

    Xe ngựa vòng qua phố Hiên Hoa, quẹo vào ngõ Bạch Vi rồi đi thẳng đến phía tây thành. Sở Kiều ngạc nhiên hỏi: “Không trở về phủ Gia Cát sao?”



    Gia Cát Nguyệt phì cười, “Ta hiện giờ là Đại tư mã chấp chưởng Binh bộ của Đại Hạ, dĩ nhiên là phải ở trong phủ Tư mã của mình rồi.”



    Sở Kiều nghe nói thì nhất thời thả lỏng, không tự chủ lộ ra một nụ cười.

    Gia Cát Nguyệt cười trêu nàng, “Vui buồn gì đều lộ ra hết trên mặt, sao xứng với danh hiệu Tú Lệ vương chứ?”



    “Ở trước mặt chàng thì sao còn phải giả vờ che giấu?” Sở Kiều thản nhiên đáp.

    Gia Cát Nguyệt thoáng sững ra, ngay sau đó liền ôm nàng, khen ngợi: “Nói rất hay.”



    Đường vắng nên xe ngựa đi khá nhanh, chỉ chốc lát sau đã đến phủ Tư mã tọa lạc ở bên hồ Bích Liễu. Trước kia Sở Kiều từng đi ngang tòa nhà này, nó vốn là biệt viện của hoàng gia, hết sức tráng lệ. Đến phủ xe ngựa cũng không dừng lại, cứ thế mà chạy thẳng vào sâu bên trong, mãi đến khi chúng binh lính lần lượt rời đi thì Sở Kiều mới theo Gia Cát Nguyệt xuống xe.

    Liếc mắt Sở Kiều liền thấy được Hoàn Nhi đang đỏ mắt đứng ở đằng xa. Hoàn Nhi nhìn thấy nàng thì nước mắt lập tức rơi ào ạt. Mặc dù không còn là sân viện của ngày xưa nhưng người trong sân đều là người cũ. Sở Kiều cũng có chút bùi ngùi, Hoàn Nhi nhanh chóng chạy tới, vén váy chuẩn bị dập đầu thỉnh an.

    Sở Kiều cuống quít giơ tay ra muốn đỡ thì Gia Cát Nguyệt đã ngăn lại, nói: “Sau này nàng chính là chủ mẫu trong phủ, bọn họ dập đầu với nàng cũng là chuyện phải đạo.”



    Nghe hắn nói thế, toàn bộ nha hoàn hạ nhân trên dưới đều quy củ dập đầu với Sở Kiều, nói to: “Thỉnh an thiếu phu nhân.”



    Sở Kiều đỡ Hoàn Nhi dậy. Nhiều năm không gặp, Hoàn Nhi đã lớn lên thành một cô nương thanh tú lanh lợi, hiện giờ cô nàng chính là đại nha hoàn trong phủ, cai quản một trăm tám mươi tiểu nha hoàn.

    Hoàn Nhi vừa lau nước mắt vừa nói: “Nô tỳ biết ngay phu nhân sớm muộn gì cũng sẽ trở lại nên đã thu dọn xong phòng của phu nhân từ sớm, mấy năm nay vẫn giữ nguyên dạng.”



    Sở Kiều bị gọi ‘phu nhân’ thì cũng hơi xấu hổ. Nhưng Gia Cát Nguyệt ở một bên lại thản nhiên đáp lời: “Gian phòng kia cứ để trống, trực tiếp mang đồ đạc của nàng đến phòng ta.”



    Tất cả nghe nói thì đồng thời hiểu ra. Hoàn Nhi vội vàng chỉ huy bọn nha hoàn dỡ hành lý của Sở Kiều xuống xe. Mai Hương và Thanh Thanh cũng phụ giúp một tay, một đám cô nương vừa làm vừa ríu rít luôn miệng.

    “Đi với ta.” Gia Cát Nguyệt cúi xuống nói nhỏ bên tai Sở Kiều rồi dắt tay nàng đi về phía trước.

    Hoàng hôn tắt dần nhường chỗ cho bóng đêm khôn cùng, vầng trăng lưỡi liềm treo ở chân trời xa xa, tỏa ra ánh sáng xanh nhàn nhạt. Ánh đèn lồng treo hai bên đường hắt lên trường bào xanh đen của Gia Cát Nguyệt, bàn tay đang nắm tay nàng rất ấm áp. Hai người không ai nói gì, chỉ lẳng lặng mà đi. Gió thổi đến mang theo hơi nước lành lạnh từ hồ Bích Liễu, tươi mát vô cùng dễ chịu. Ống tay áo của hắn thỉnh thoảng lại cọ vào ống tay áo tuyền trắng của Sở Kiều, phát ra tiếng *sột xoạt* rất khẽ.

    Không gian tràn ngập hương hoa, không quá nồng nàn nhưng nơi nào cũng có. Là mùi hương lan thảo pha lẫn hương đỗ quyên.

    Gia Cát Nguyệt từ trước đến giờ luôn là người biết hưởng thụ. Tài phú tích lũy mấy trăm năm khiến gia tộc Gia Cát không hề giống như bọn nhà giàu mới nổi, tư chất phú quý như từ trong xương đi ra. Mỗi một góc sân một bụi cây đều là quý giá khó nhận ra.

    Cánh cổng bằng gỗ lim chạm rỗng khắc hoa ra, đập vào mắt chính là một tẩm điện trang nhã, không tráng lệ chói mắt nhưng lại tinh tế cực độ, khiến người khó tính mấy cũng không tìm được điểm nào để chê trách. Trên sàn lót thảm mềm thật dày, bước lên hệt như đi trên mây, án thư, bàn trà, tranh chữ, bình cổ trang trí theo phong cách cổ xưa đều rất tao nhã thoát tục. Màn lụa trắng quấn quanh hàng cột gỗ khắc thần điểu cưỡi mây kéo dài đến tận nội phòng.

    “Mệt không?” Gia Cát Nguyệt cúi đầu nhìn nàng, nhẹ giọng hỏi.

    Sở Kiều lắc đầu, ôm bụng nói: “Chỉ thấy đói thôi.”



    Tiểu nha hoàn mặc váy hồng ở một bên vội vàng thưa: “Thức ăn đã chuẩn bị xong, thiếu gia và phu nhân có muốn đến phòng ăn ngay bây giờ không?”



    Gia Cát Nguyệt lắc đầu, nói với Sở Kiều: “Ta còn có việc, không thể ăn cùng nàng.”



    Sở Kiều gật đầu, “Chàng bận thì cứ đi làm việc đi.”



    “Hạ nhân đang chuẩn bị ngựa, một lát nữa mới đi.” Dứt lời chàng liền ôm lấy Sở Kiều, hoa văn thêu trên áo cọ cọ lên mặt nàng, hơi ngứa.

    Bên tai nàng chợt vang lên giọng nói pha lẫn chút ảo não của ai đó, “Tinh Nhi, nàng cuối cùng cũng đến đây.”



    Sở Kiều cười cười, cũng quay lại ôm lấy Gia Cát Nguyệt, đáy lòng dâng lên cảm giác thỏa mãn nói không nên lời. Mùi huân hương thượng hạng trong phòng dễ chịu đến mức khiến người ta muốn nhắm mắt ngủ một giấc thật thỏa thích.

    “Tối nay ở đây chờ ta về.”



    Sở Kiều thoáng đỏ mặt, ngẩng lên nhìn Gia Cát Nguyệt, cười nói: “Vậy chàng nhớ trở về sớm một chút.”



    Gia Cát Nguyệt gật đầu, nghe hạ nhân vào thông báo ngựa đã được chuẩn bị xong thì quay sang nói với nàng: “Ta đến chỗ của Thất điện hạ một chuyến, nàng cứ dùng bữa tối trước, lên giường nghỉ ngơi sớm một chút.”



    “Ừ.” Sở Kiều nhón mũi chân hôn nhẹ lên môi chàng một cái, ngượng ngùng nói: “Đi đường cẩn thận.”



    Một tia vui mừng hiện ra nơi đáy mắt, Gia Cát Nguyệt dùng sức ôm siết lấy nàng một cái rồi buông tay, xoay người đi ra ngoài.

    Sở Kiều đi theo Gia Cát Nguyệt ra cửa, gió chợt nổi lớn hất tung vạt áo trắng tinh của nàng. Nàng tựa lên khung cửa, mỉm cười nhìn chàng dần khuất dạng trong bóng tối.

    Thật ra thì thành Chân Hoàng cũng không đáng sợ như nàng đã tưởng.

    Xa xa truyền đến tiếng hô hoán ngạc nhiên của Thanh Thanh và Bình An, cũng không rõ là xảy ra chuyện gì mà bọn họ phá lên cười vui vẻ khiến khóe miệng nàng cũng bất giác cong lên.

    Ừ, rất tốt, nơi này thật sự rất tốt.

    Dùng bữa tối xong, Sở Kiều được thị nữ hầu hạ tắm rửa sạch sẽ. Bọn Mai Hương đi đường mệt mỏi nhưng vẫn còn Vinh Nhi nên Mai Hương phải mang hai nhũ mẫu đi xem bé. Chúng hạ nhân không biết nên cứ tưởng bé là con của Gia Cát Nguyệt và Sở Kiều sinh ra ở ngoài, cho nên chăm sóc vô cùng chu đáo.

    Phòng tắm của Gia Cát Nguyệt lớn đến không tưởng, toàn bộ xây bằng bạch ngọc, trên trần có đính hơn trăm viên trân châu, chỉ một ngọn nến cũng đủ khiến cả gian phòng sáng trưng như ban ngày. Nước tắm là ôn tuyền dẫn xuống từ Thương Sơn, được rắc hoa cùng thảo dược ngự dụng, thơm nức mũi. Để đề phòng trơn trượt, đáy bể tắm còn được chạm trổ hoa tường vi cỡ lớn, xa hoa đến cực hạn.

    Hoàn Nhi kể lại, sau khi được hoàng đế ban thưởng cho nơi này làm phủ đệ, Gia Cát Nguyệt có đến xem trước, đi tham quan xong một vòng liền nói: “Về sau rời đi, nơi này có thể bán được với giá rất tốt.”



    Sở Kiều nghe nói thì buột miệng phì cười, xem ra tin đồn Đại tư mã là quỷ hút máu thật sự không phải giả.

    Tắm rửa xong, nàng khoác một chiếc áo lụa trắng tinh, đi chân trần trở về phòng ngủ.

    Ban đầu Hoàn Nhi còn hơi mất tự nhiên, sau thấy Sở Kiều dễ gần thì cũng dần buông lỏng, bạo dạn gọi nàng Tinh Nhi luôn miệng. Hoàn Nhi cũng đem hết chuyện vặt vãnh của Gia Cát Nguyệt mấy năm nay kể lại một lượt. Có điều nói đến chuyện nào cũng chỉ quy về một chuyện, đó chính là may mắn nàng biết quay đầu trở lại, kịp thời trở về bên cạnh thiếu gia quả thực là quyết định sáng suốt, thần phật trên trời cũng phải ganh tỵ với nàng.

    Sở Kiều cười cười, lẳng lặng lắng nghe Hoàn Nhi huyên thuyên liên tục, chuyện Gia Cát Nguyệt mấy năm nay thủ thân như ngọc, không gần nữ sắc thế nào, chuyện đám tiểu thư kia hối hận xanh ruột ra sao, Gia Cát Nguyệt mỗi ngày đều nhớ nhung nàng thế nào, mỗi lần nghe được tin tức của nàng, nhận được thư nàng thì vui vẻ đến đâu, thậm chí còn ngủ không ngon vì quá hưng phấn, công hiệu hơn thuốc bổ mấy chục lần. Rồi đến chuyện Gia Cát Nguyệt lúc trước thê thảm đến cỡ nào, bị người khác xa lánh, thân thể đầy thương tích, địa vị bị chà đạp ra sao.

    Dần dần, cô nàng liền chuyển thành vừa kể vừa khóc, lại bắt đầu lải nhải cái gì thiếu gia rất tốt, nàng tuyệt đối đừng rời khỏi thiếu gia nữa, thiếu gia thật sự thích nàng…

    Bên trong gian phòng nồng nàn hương lan thảo, Sở Kiều ngồi trên chiếc giường mềm mại, im lặng lắng nghe từng câu chuyện, chỉ cảm thấy quá khứ như lại trôi qua trước mắt.

    Nhìn xem, chàng thích nàng, cả thiên hạ đều biết, ngay cả một nha hoàn cũng thấy rõ ràng như vậy. Chỉ có nàng, hết lần này đến lần khác, phải qua nhiều năm như vậy mới có thể nhận ra.

    Lát sau, bên ngoài có người nhẹ gõ cửa, hạ nhân báo rằng có phu nhân của Thất tướng quân tới.

    Hoàn Nhi vội vàng nhỏm dậy đứng sang một bên, chốc lát sau, một cô gái mi thanh mục tú, người mặc chiếc váy màu vàng nhạt trang nhã đi đến, khi cười sẽ lộ ra hai lúm đồng tiền, tay cô gái có dắt một đứa trẻ khoảng hơn mười tuổi, nhìn thấy Sở Kiều thì cúi người chuẩn bị hành lễ.

    Sở Kiều vội vàng nâng nàng dậy, cười nói: “Không ngờ vận khí của Nguyệt Thất lại tốt như vậy, có thể cưới được một người vợ xinh đẹp thế này.”



    Tiểu Phi khẽ cười, lộ ra hai cái răng thỏ đáng yêu, quay sang nói với đứa bé bên cạnh: “Mặc Nhi, mau gọi mẫu thân.”



    Đứa bé kia ngước lên nhìn Sở Kiều, ngây ra một thoáng rồi đột nhiên giang tay ra ôm chân nàng, lớn tiếng gọi: “Tỷ tỷ cuối cùng cũng đến thăm đệ.”



    Sở Kiều sửng sốt, cúi đầu nhìn kỹ thì thấy đứa trẻ này rất đáng yêu, người mặc một chiếc áo ngắn rộng rãi màu xanh biếc, đôi mắt trong veo nhìn thấy nàng thì lấp lánh vui mừng.

    Cậu bé nói to: “Tỷ tỷ không nhận ra đệ à, đệ là Mặc Nhi đây.”



    Bây giờ Sở Kiều mới chợt nhớ ra, đây chính là cậu bé Âu Dương Mặc mà nàng và Gia Cát Nguyệt cứu thoát khi trên đường đến Đường Kinh. Thoáng cái đã hơn sáu năm, đứa bé nhỏ xíu ngày xưa nay đã lớn như vậy rồi.

    Nàng vội vàng ôm lấy cậu bé, mừng rỡ nói: “Mặc Nhi đã cao như vậy rồi, thật sự là nhận không ra.”



    Mặc Nhi thân thiết ôm nàng, nói: “Tỷ tỷ đã đi đâu vậy? Nhiều năm như vậy cũng không chịu đến thăm đệ. Nếu không phải phụ thân thường xuyên nhắc đến thì không chừng Mặc Nhi đã quên mất tỷ tỷ rồi.”



    “Phụ thân?” Sở Kiều nhướng mày, nghi ngờ nhìn sang hai người bên cạnh.

    Tiểu Phi vội vàng nói với cậu bé: “Không được kêu bậy, phải gọi là mẫu thân.”

    Mặc Nhi nhìn Sở Kiều, hỏi: “Tỷ tỷ gả cho phụ thân ta rồi sao?”



    “”Phụ thân đệ là ai?”



    “Phụ thân đệ là Đại tư mã của Đại Hạ, tỷ tỷ không biết sao?”



    Hoàn Nhi nhanh nhảu giải thích: “Sau khi thiếu gia trở về đã nhận tiểu chủ tử làm nghĩa tử.”



    Sở Kiều lúc này mới vỡ lẽ. Nàng hàn huyên với Mặc Nhi và Tiểu Phi thêm một hồi mới biết được Tiểu Phi đã sinh cho Nguyệt Thất hai đứa con. Tính cách hai vợ chồng nhà này quả thực hoàn toàn trái ngược nhau, Tiểu Phi rất dễ xấu hổ, nói vài câu sẽ đỏ mặt, thật sự rất đáng yêu.

    Hôm nay Sở Kiều mới trở về nên bọn họ không tiện ngồi lâu, trò chuyện thêm chút nữa thì Tiểu Phi dẫn Mặc Nhi trở về. Trước khi đi Mặc Nhi nằng nặc bắt Sở Kiều phải hứa đến thăm cậu, giống như sợ vừa quay người đi thì nàng sẽ bỏ đi vậy.

    Ba người đi rồi mà Gia Cát Nguyệt vẫn chưa về, Sở Kiều thấy hơi mệt nên dứt khoát cho thị nữ lui xuống, lên giường nghỉ ngơi. Mấy năm nay thân thể nàng vẫn không tốt, đi đường mấy ngày qua đã rút cạn sức lực của nàng.

    Nằm trên nệm giường mềm mại, Sở Kiều chậm rãi nhắm mắt lại ngủ thiếp đi.

    Không biết đã qua bao lâu, nàng mơ màng cảm giác được có người đang hôn mình nhưng vẫn cố chấp không muốn tỉnh lại, chỉ *ừm* một tiếng rồi lăn vào bên trong. Một cánh tay lành lạnh ôm lấy nàng, hơi thở ấm áp phả bên tai mang theo tiếng cười rất khẽ.

    Trên cổ càng lúc càng ngứa khiến nàng không nhịn được chau mày mở mắt ra. Gia Cát Nguyệt mặc y phục ngủ màu tím nhạt đang nằm nghiêng trên giường, đôi mắt đen như mực nhìn nàng chằm chằm, cười nói:“Tính cảnh giác đâu cả rồi, bị người khác sờ soạn cũng không biết, còn là Tinh Nhi mà ta biết sao?”



    Sở Kiều mỉm cười, vòng tay qua cổ hắn, nói: “Đều tại thân thủ của tiểu tặc này quá tốt, luôn tới vô ảnh đi vô tung nên ta không bắt được chút dấu vết nào.”



    Gia Cát Nguyệt khẽ cười một tiếng, cúi xuống hôn trán nàng rồi hỏi: “Ngủ ngon không?”



    “Cũng được.” Sở Kiều tựa vào ngực hắn, ranh mãnh nói: “Chàng không trở lại làm phiền thì còn ngủ ngon hơn.”



    Gia Cát Nguyệt cười mắng: “Mấy ngày không dạy dỗ liền muốn nhảy lên đầu ta ngồi rồi à, xem ra phải cho nàng nếm chút gia pháp mới được.” Nói xong liền vung tay lên.

    Sở Kiều bị động tác đột ngột của hắn dọa sợ nên nhắm tịt hai mắt lại, nhưng đợi một hồi cũng không thấy cái gọi là gia pháp rơi xuống người, mở mắt ra thì thấy Gia Cát Nguyệt vẫn đang ung dung nhìn mình, không khỏi thắc mắc: “Chẳng phải muốn thi hành gia pháp à? Sao không động thủ?”



    Gia Cát Nguyệt ôm lấy Sở Kiều, cúi đầu hôn lên cổ nàng, tay đồng thời bận rộn kéo thắt lưng nàng, vạt áo rơi xuống để lộ bả vai trắng như tuyết. Hắn chậm rãi áp lên người nàng, thấp giọng nói: “Ta nào nỡ.”



    Trên giá cắm hình đôi hạc trên bàn có một đôi nến đỏ đang lẳng lặng cháy, ngọn nến được giấy mỏng bao phủ, khiến ánh sáng thêm phần dịu dàng mờ ảo.

    Sở Kiều đã trải qua đêm đầu tiên trở lại thành Chân Hoàng trong vòng tay ấm áp triền miên như vậy.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  5. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 182: Lần lượt gặp lại cố nhân

    *Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

    Đối với Sở Kiều, mùa thu năm nay như trôi qua trong mật ngọt, phủ Tư mã thưa thớt lá thu nhưng lại chìm trong biển cúc vàng nở rộ, khiến quang cảnh trong phủ càng thêm tráng lệ. Ngày tháng chậm rãi trôi qua, hương vị ngọt ngào ấm áp như mùa xuân tháng ba luôn vương vấn trong không trung, mãi cũng không tan đi.

    Nhân dịp lễ hội mùa thu, Sở Kiều theo Gia Cát Nguyệt rời phủ lên núi Hương Chi cách đó ba mươi dặm du ngoạn, thuận tiện ghé vào An Nguyên tự lễ bái.

    Tuy từng sống ở thành Chân Hoàng bảy tám năm nhưng Sở Kiều chưa từng có cơ hội đi thăm các di tích hay thắng cảnh nội ngoại hoàng thành. Một là do thân phận không tiện, hai là cũng không có tâm trạng đi chơi. Song hôm nay nàng đã bỏ lại mọi tang thương lại sau lưng, cũng đã không còn ôm ấp chuyện cũ trong lòng, thế là bắt đầu muốn đi nhìn ngó đây đó.

    Hôm nay thời tiết cực kỳ đẹp, trời trong xanh, gió mát phe phẩy, vô cùng khoan khoái lòng người. Sở Kiều mặc y phục gấm màu xanh nhạt thêu bách điệp, khoác áo choàng nhung, dẫn theo một đám người hớn hở vì được ra ngoài chơi, thong thả lên đường.

    Núi Hương Chi tọa lạc ở phía nam thành Chân Hoàng, đứng sừng sững giữa một bình nguyên trống trải, đỉnh núi quanh năm không đổi luôn trắng toát, như một con rồng vươn đầu lên mây. Con đường lên núi được vây trong rừng phong rậm rạp, từ trên nhìn xuống, khung cảnh như chìm trong biển lá đỏ như lửa, đẹp không sao tả xiết. Hôm nay là lễ hội mùa thu nên nhà giàu trong thành đều lũ lượt lên núi ngắm cảnh, tiếng cười đùa vui vẻ theo suốt đường đi, vô cùng náo nhiệt.



    Thanh Thanh và Bình An dẫn Mặc Nhi chạy trước, luôn miệng hò hét xem ai chạy nhanh hơn. Hạ Tiêu, Đa Cát và nhóm Nguyệt vệ đi ở hai bên trái phải. Nguyệt Thất nhân dịp lễ hội, muốn bù đắp cho vợ hiền nhà mình nên cũng dẫn Tiểu Phi theo.

    Gia Cát Nguyệt dắt tay Sở Kiều, thỉnh thoảng kể vài chuyện xưa, không khí hết sức vui vẻ. Hiếm khi vị thiếu gia đại nhân này có được tâm trạng tốt nên mọi người cũng thoải mái tham gia nói chuyện. Nhóm người đi quanh hai người tựa như tinh tú vây quanh mặt trăng. Du khách đi ngang đều không khỏi nhìn sang, thắc mắc không biết là quý nhân nhà ai xuất hành.

    Gia Cát Nguyệt luôn rất bận rộn, vừa là Tư mã bộ binh của Đại Hạ vừa là phiên vương Thanh Hải, hiện giờ chàng cơ hồ đã trở thành người có tiếng nói nhất Gia Cát gia, chức vụ cao thì trách nhiệm nhiều, ngoài sự vụ trong triều thì còn phải thời thời khắc khắc đề phòng Triệu Dương và Bắc Yến trong ngoài tập kích. Mấy ngày nay, tuy ngày nào chàng cũng đúng giờ trở về ăn cơm cùng Sở Kiều, cùng nàng đi nghỉ ngơi, nhưng đêm khuya tỉnh giấc đều không thấy chàng bên cạnh, đẩy cửa sổ ra liền có thể nhìn thấy thư phòng sáng đèn trắng đêm.

    Mấy chuyện này nàng luôn làm ra vẻ không biết, tiếp tục trở về giường ngủ, sáng hôm sau chỉ cười hỏi chàng ngủ ngon không, nhìn chàng mắt thâm quầng cười đáp lời rằng ngủ rất ngon.

    Thân thể Gia Cát Nguyệt cũng không tốt như bề ngoài, năm đó bị thương nặng như vậy còn ngâm mình trong hồ băng thật lâu, có thể sống sót thì phải cảm tạ ông trời thương tình, chuyện này đã để lại di chứng, mỗi khi trời trở lạnh thì bệnh tình càng rõ rệt hơn.

    Mưa mùa thu rất lạnh, mỗi khi trời giăng đầy mây đen thì sắc mặt chàng sẽ rất tệ. Có một lần tỉnh giấc vào nửa đêm, nàng nghe được tiếng thở khó nhọc của chàng, cổ rịn mồ hôi lạnh, sống lưng ướt đẫm khiến y phục dán chặt vào da thịt.

    Lúc đó, Sở Kiều vẫn im lặng không nói gì, trong bóng tối nàng mở to mắt nhìn dạ minh châu đính trên trần, siết chặt nắm tay, môi mím đến trắng bệch, chậm rãi đếm đồng hồ nước lẳng lặng chờ trời sáng. Sáng hôm sau, nàng liền lập tức cho người mang thêm chậu than vào phòng, thậm chí còn dụng tâm chỉ huy một đám thợ chỉnh sửa gian phòng để giữ khí ấm, sau mười ngày thì biến phòng ngủ thành như hỏa lò vậy.

    Sáng hôm qua lúc ăn điểm tâm, Thanh Thanh và Bình An có nhắn đến lễ hội mùa thu trên núi náo nhiệt đến thế nào, nàng cũng chỉ thuận miệng phụ họa hai câu. Vậy mà Gia Cát Nguyệt lại ghi nhớ, lúc đó không nói gì nhưng hôm sau lại viện cớ có chuyện phải lên núi bái Phật, sẵn tiện dẫn nàng theo du ngoạn.

    Qua nhiều năm như vậy, Gia Cát Nguyệt vốn là một người kiêu ngạo cố chấp, chưa bao giờ tin thần tin phật. Bị nàng cười nhạo, chàng lại quay sang cười cười, thần bí nói cái gì Phật khác có thể không vái lạy, nhưng có một Phật nhất định phải lễ bái.

    Lúc đoàn người Sở Kiều tiến vào thiên điện của An Nguyên tự, mặt nàng lập tức đỏ ửng. Bọn Thanh Thanh cười ha hả, chỉ có Tiểu Phi là thành kính dập đầu, hơn nữa còn quay lại nhìn chằm chằm một đám tiểu bối bất kính không mời mà đến này.

    Hương nhang lượn lờ trong đại điện trang nghiêm, tượng Quan Âm Tống Tử* được đặt ngay ngắn trên Phật đường rực rỡ ánh nắng. Gia Cát Nguyệt cúi xuống thì thầm bên tai nàng, ngữ khí ẩn chứa ý cười ấm áp, “Bái Phật phải thành tâm.”

    *Quan Âm Tống Tử tượng trưng cho con cái thịnh vượng.

    Sở Kiều quay đầu lại, nhìn thấy hai mắt hắn sáng ngời, môi điểm nụ cười, pha lẫn chút thật tình rồi lại có chút nghịch nghợm của trẻ con.

    Nàng xoay người lại, thản nhiên quỳ xuống, chắp tay trước ngực, trong lòng mặc niệm lời khấn mà ngàn vạn phụ nữ từng đến đây cầu xin, sau đó chống tay lên bồ đoàn*, thành tâm vái lạy.

    *Bồ đoàn: tấm đệm lót trên mặt đất dùng để thiền, quỳ lạy.



    Lạy lần một, cầu bồ tát phù hộ chàng khỏe mạnh, gặp dữ hóa lành.

    Lạy lần hai, cầu bồ tát phù hộ hai chúng con được bình an ở cùng nhau, không phải cách xa nữa.

    Lạy lần ba, cầu bồ tát ban phước cho chúng con sinh được một đứa trẻ khỏe mạnh.

    Sở Kiều thành kính dập đầu từng cái một, trên mặt mang vẻ thỏa mãn cùng bình yên trước nay chưa từng có.

    Bồ tát, ngài đã phù hộ cho nhiều người như vậy, hôm nay mong ngài có thể nghe được ước nguyện của con.

    Thanh Thanh và Mặc Nhi ở đằng sau cười giỡn không ngừng, Tiểu Phi thì đang tận tình khuyên bảo bọn họ tôn trọng Phật đường. Ở một góc, Hạ Tiêu và đám người Nguyệt Thất đang nhàn nhã đứng nói chuyện phiếm, nói đến chuyện một thiếu úy trong doanh trại đi hoa lâu bị vợ bắt quả tang, bị rượt chạy trên đường thì đồng loạt cười ha hả.

    Cuối thu trời hơi lạnh, bầu trời cao vời vợi, Sở Kiều quỳ trong thiên điện, ngẩng lên nhìn tượng Quan Âm, cảm thấy lòng vô cùng yên bình. Tất cả gió tanh mưa máu trong trí nhớ như đã là dĩ vãng rất xa, tâm trí nàng chưa bao giờ tĩnh lặng như ngày hôm nay.

    Gia Cát Nguyệt đỡ Sở Kiều dậy, hai tay ôm ngang eo nàng, đôi môi lành lạnh hôn nhẹ lên mi tâm nàng, dịu dàng nở nụ cười.

    Thanh Thanh tinh mắt, lập tức kéo Tiểu Phi, miệng tía lia: “Thất tẩu, Thất tẩu, tẩu mau nhìn kìa, tỷ tỷ với tỷ phu mới đang thất kính với Phật!”



    Tất cả nghe được đều thấp giọng cười trộm. Gia Cát Nguyệt vẫn trơ mặt làm lơ, còn Sở Kiều thì đỏ mặt, nhẹ đẩy hắn ra, nhưng tay vẫn nắm chặt tay hắn.

    “Có muốn ở lại ăn đồ chay không?” Gia Cát Nguyệt hỏi nàng.

    Sở Kiều còn chưa kịp đáp thì nhìn thấy Bình An ở một bên đang ra sức nháy mắt với mình, lập tức hiểu ý nói:“Xuống núi thôi, đám người chúng ta dẫn theo đều là động vật ăn thịt, vẫn không nên miễn cưỡng bọn họ học đòi văn vẻ thì hơn.”

    Mặc Nhi nhe răng cười he he, Bình An lập tức hớn hở chạy đến ca ngợi đồ ăn ở Đắc Nguyệt lâu mỹ vị ra sao, Thanh Thanh ở bên cạnh cũng ra sức phụ họa. Gia Cát Nguyệt gõ lên đầu Bình An một cái, cười mắng một câu ’tiểu tử thối’ rồi dẫn mọi người rời khỏi Phật đường nghiêm trang.

    Sau khi bỏ ra một số lớn tiền hương hỏa, tăng nhân trong tự chuẩn bị cho bọn họ một khuôn viện yên tĩnh nghỉ ngơi tạm. Bọn Nguyệt Thất đi chuẩn bị xe ngựa, để lại Gia Cát Nguyệt và mấy người Sở Kiều ngồi giữa khung cảnh đầy lá phong, nhàn nhã thưởng trà.

    Mới ngồi một lát thì Tiểu Phi đã thấp thỏm không yên. Sở Kiều tưởng Tiểu Phi có chuyện khó nói thì kéo nàng ấy đến thiên viện. Chẳng ngờ cô nàng ngượng ngùng hồi lâu, cuối cùng mới đỏ mặt nói cho Sở Kiều biết rằng trong miếu Quan Âm Tống Tử có một thầy tướng số xem bói vô cùng chính xác, còn bán dược rất linh nghiệm. Nàng hai lần sinh được con trai đều nhờ uống thuốc của ông thầy nọ. Nhưng nói sao thì Nguyệt Thất và thiếu gia cũng không tin nên chỉ có thể lén đi mua.

    Sở Kiều dĩ nhiên không tin mấy chuyện tướng số linh dược gì đó, thầm nhủ trong bụng, sinh được con trai là công lao của Nguyệt Thất, liên quan gì tới ông thầy kia chứ? Nhưng thấy Tiểu Phi khẩn khoản như thế thì cũng không nỡ cự tuyệt, nàng đành viện cớ nói với Gia Cát Nguyệt một tiếng rồi cùng Tiểu Phi đi đến gian hàng của ông thầy tướng số bên bìa rừng thông.

    Ông thầy tướng số kia râu tóc bạc trắng, vóc dáng cao gầy thong dong, nhìn cũng có mấy phần tiên phong đạo cốt.

    Ông thầy nhìn thấy Sở Kiều liền lập tức nói nàng là người đại phú đại quý, chỉ là cuộc sống có nhiều ràng buộc vướng mắc, chỉ cần nàng thành tâm hướng Phật thì tự nhiên sẽ có phương pháp hóa giải. Tiểu Phi liên tục gật gù, không ngừng nháy mắt với Sở Kiều như muốn nói: Thấy chưa, lời của tiên sinh nói thật chính xác.

    Nhưng Sở Kiều thì biết tỏng mánh khóe của mấy người hành nghề này, ai sống trên đời mà chẳng có vài chuyện phiền lòng, còn về phần đại phú đại quý, chỉ cần nhìn quần áo trên người bọn họ cũng có thể dễ dàng đoán ra được.

    Tiểu Phi ngồi xổm xuống trước quầy hàng, say sưa rút thăm bói vận may vận rủi. Sở Kiều đang buồn chán đứng cạnh chờ thì chợt thoáng thấy một thân ảnh quen thuộc, khiến nàng sững sờ đứng chết trân tại chỗ.

    Ngẫm nghĩ một lúc, nàng cúi đầu dặn dò Tiểu Phi mấy câu rồi lặng lẽ đi về hướng người nọ.

    Chớp mắt đã sáu năm không gặp.

    Giữa rừng thông đỏ lửa, người nọ một thân áo trắng đơn giản, thần thái tươi sáng phóng khoáng năm xưa đã không còn. Gió thu thổi qua lay động ống tay áo trống rỗng, phe phẩy như nhành liễu trước gió.

    “Điện hạ, có khát nước không?” Một thị tùng khoảng mười tám mười chín tuổi đi đến, người mặc nam trang nhưng qua giọng nói trong trẻo liền có thể nhận ra là một thiếu nữ, nàng đưa lưng về phía Sở Kiều nên không nhìn rõ mặt.

    Triệu Tung xoay người lại, khuôn mặt từng phúng phính không buồn không lo hiện tại đã trở nên xương xương, vóc dáng vẫn cao ráo nhưng lộ ra vẻ mệt mỏi cùng cô đơn, vẻ tinh nghịch liến thoắng đã được thay bằng vẻ điềm tĩnh như giếng cổ trăm năm. Mới hơn hai mươi tuổi mà tóc mai hai bên thái dương đã hoa râm.

    Hắn lắc đầu, bình thản nói: “Ta muốn đi dạo một mình.”



    Thiếu nữ kia vẫn không nhúc nhích, chỉ hơi cúi đầu, nắm chặt túi nước trong tay. Gió thổi qua sườn mặt nghiêng nghiêng của nàng, mơ hồ có hơi quen thuộc. Nàng đột nhiên ngẩng đầu lên nhìn Triệu Tung, nhẹ giọng hỏi: “Điện hạ đang chờ ai vậy?”



    Một thoáng dao động xẹt qua trên mặt Triệu Tung, hắn cau mày nói: “Nàng muốn nói gì?”



    “Điện hạ đã rất lâu không xuất phủ, vì sao hôm nay lại đột nhiên có hứng như vậy?”



    Mi tâm Triệu Tung nhíu chặt hơn, hắn nhìn thẳng vào mắt cô thiếu nữ một lúc, cuối cùng xoay người rời đi.

    Thiếu nữ hoảng hốt, vội vàng đuổi theo kéo tay áo Triệu Tung, bi thương nói: “Điện hạ quên lời của Thập tứ điện hạ rồi sao?”



    Triệu Tung bị nàng lôi kéo, chậm rãi xoay đầu lại dùng ánh mắt như đầm sâu nhìn cô thiếu nữ mặc nam trang kia, trầm giọng nói: “Vô Tâm, cũng chẳng phải trên đời này tất cả mọi người đều nợ nàng, có cần nung nấu nỗi hận lâu đến như vậy không?” Dứt lời liền xoay người đi vào rừng phong.

    Thiếu nữ đứng xoay lưng về phía Sở Kiều ngây người tại chỗ, thân hình mảnh khảnh như có thể bị gió cuốn đi bất cứ lúc nào dần dần bị bao phủ trong vẻ cô đơn tĩnh mịch. Nàng cứ đứng yên như vậy một lúc thật lâu, cuối cùng nhẹ nâng tay áo chà lên má như đang lau gì đó rồi nhấc chân đuổi theo hướng Triệu Tung vừa rời đi.

    Chim tước trong rừng cất tiếng hót réo rắt, Sở Kiều như mơ hồ nhìn thấy hình ảnh của rất nhiều năm trước, thiếu niên mặc y phục xanh ngọc thêu chim tước ngũ sắc, trong tay cầm một cái roi ngựa nhỏ, đắc ý nói với nàng: “Trong tất cả hạ nhân ở đây, ta thấy ngươi thuận mắt nhất, ta sẽ phong cho ngươi làm đại tướng giữ cửa chỗ ta, thế nào hả?”



    Một cơn gió thổi qua, nàng đột nhiên thấy lạnh lẽo.

    Đâu đó vang lên tiếng Tiểu Phi gọi tên nàng, Sở Kiều phục hồi tinh thần, nắm tay bà mẹ tốt sinh hai con trai vẫn chưa thấy đủ, chậm rãi quay trở về.

    Đi dạo hơn nửa ngày tất cả đều đã thấm mệt, trên đường xuống núi mọi người đều ngồi yên trong xe ngựa. Gia Cát Nguyệt thấy nàng ủ rũ thì cau mày hỏi nàng có phải bị mệt không. Sở Kiều gật đầu *ừm* một tiếng rồi tựa đầu lên vai hắn, cố gắng nhắm mắt lại nhưng làm sao cũng không ngủ được.

    Gia Cát Nguyệt nắm tay nàng, thấy tay nàng lạnh như băng thì thoáng lo lắng, dặn Nguyệt Thất cho xe chạy nhanh hơn một chút.

    “Triệu Triệt sắp thành thân rồi.”



    Sở Kiều sửng sốt ngẩng đầu lên. Gia Cát Nguyệt cười cười, nói tiếp: “Mấy năm nay vận số hắn luôn không tốt, sắp sửa già đến nơi mới rước được người về nhà. Nàng không quen biết tân nương nhưng gặp rồi chắc sẽ thích. Nàng ấy là con gái út của thủ lĩnh Đông Hồ, tên Hoàn Nhan Nhu. Mặc dù tên có chữ ’nhu’ nhưng tính tình tuyệt đối không dính dáng đến gì đến hai chữ ’ôn nhu’, ngược lại là một nha đầu ngang ngược lớn lối, có điều tâm địa lương thiện đơn thuần. Người vào kinh rồi thì ta sẽ dẫn nàng đi gặp.”

    Sở Kiều gật đầu, chợt nhớ tới chuyện gì đó, nhưng cuối cùng vẫn không nói ra.

    Sau lễ hội mùa thu, thời tiết bắt đầu lạnh đi, mặt hồ dần đóng băng, sau một trận bão tuyết, trời đất liền bị bao phủ bởi một màu trắng xóa. Ai cũng lười ra ngoài, chỉ muốn ở trong phòng vùi mình vào chăn ấm.

    Mấy ngày nay, phủ Tư mã người đến người đi không ngừng, Gia Cát Nguyệt dường như càng bận rộn hơn, ngay cả Nguyệt Thất cũng mất dạng không thấy. Nghe Tiểu Phi nói là bị Gia Cát Nguyệt phái ra làm việc đã bảy tám ngày rồi.



    Tối hôm đó Sở Kiều lơ đãng hỏi thăm một câu, Gia Cát Nguyệt lại làm ra vẻ huyền bí, nói là sắp sửa cho nàng một bất ngờ lớn.

    Bất ngờ rất nhanh được hé lộ, ba ngày sau, Tôn Đệ ở Biện Đường phái người đến thành Chân Hoàng đưa cho nàng một phong thư riêng cùng công văn chính thức của triều đình.

    Thì ra là Đại tư mã của Đại Hạ cho người đến Biện Đường cầu hôn Tú Lệ vương, sính lễ cũng được đưa vào cung Kim Ngô luôn rồi.

    Lúc Sở Kiều nhận được tin thì Gia Cát Nguyệt đang nhàn nhã nằm trên giường, một tay chống đầu, như cười như không liếc nhìn nàng.

    Sở Kiều đi đến trước mặt hắn, chìa lá thư ra hỏi: “Thế này là thế nào?”



    Gia Cát Nguyệt thản nhiên đáp: “Còn thế nào nữa? Trai lớn lấy vợ gái lớn gả chồng là chuyện theo lẽ thường nhất trên đời.”



    Sở Kiều cau mày, “Nhưng thân phận ta khó xử như vậy, với địa vị của chàng hiện giờ, chẳng lẽ triều đình không chỉ trích?”



    Gia Cát Nguyệt cười một tiếng, khinh thường nói: “Gia Cát Nguyệt ta thành thân thì liên quan gì đến bọn họ mà chỉ trích với không chỉ trích?”



    Trong lòng như có dòng nước ấm chảy qua, nụ cười không kìm được tràn ra khỏi khóe môi, Sở Kiều ngồi xổm xuống tựa đầu lên đùi Gia Cát Nguyệt, hồi lâu cũng không nhúc nhích.

    Gia Cát Nguyệt ngồi dậy ôm nàng vào lòng, cúi đầu dùng cằm cọ cọ tóc nàng, nhẹ giọng nói: “Ta mong ước đã nhiều năm như vậy, làm sao có thể để nàng lặng yên không tiếng động mà vào cửa nhà ta chứ? Nhất định phải chiêu cáo toàn thiên hạ, để cho mọi người biết nàng là người của ta.”



    Sau đó trong phủ chợt trở nên vô cùng bận rộn. Sở Kiều không rõ Gia Cát Nguyệt đã dùng thủ đoạn cùng phương pháp gì, chỉ trong một đêm mà giai cấp thượng tầng ở thành Chân Hoàng tựa như đã bị mất sạch trí nhớ vậy, chẳng ai nhớ được nàng từng hỗ trợ Yến Tuân đánh đốt thành Chân Hoàng trước khi rời khỏi đây, chẳng ai nhớ được nàng đã hai lần đập tan quân Bắc Phạt của Đại Hạ, thậm chí còn không nhớ nàng từng đích thân giết chết Tam hoàng tử Triệu Tề.

    Mấy ngày liên tiếp đều có quý phu nhân của các thế gia lần lượt tới bái phỏng, đủ loại quà cáp như nước chảy vào trong phủ Tư mã. Ngay cả đám đại thần không về phe Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt cũng thi nhau tặng lễ vật lấy lòng.

    Đầu tháng 12, cung Thịnh Kim đột nhiên truyền ra tin tức Hạ hoàng nguy kịch, muốn Gia Cát Nguyệt tiến cung hầu hạ.

    Theo lý thì khi hoàng đế bệnh nặng, có gọi thì phải gọi hoàng tử và thân vương vào hầu hạ chứ chẳng ai gọi đại thần bao giờ. Nhưng hoàng đế đang hấp hối, không biết sẽ đi lúc nào nên chẳng ai đoán được sẽ xảy ra chuyện gì. Cảnh tiểu vương gia, Mộc tiểu công gia ở Lĩnh Nam và thế tử phiên vương các nơi thi nhau xin vào cung, lúc này mà để Triệu Triệt một mình trong cung đúng là không khôn ngoan. Bất đắc dĩ Gia Cát Nguyệt đành phải đồng ý vào cung. Thật ra thì hoàng đế đang hấp hối, làm gì có hơi sức ý kiến muốn ai hầu hạ, chỉ là đám người Triệu Dương không yên tâm để Gia Cát Nguyệt thong dong bên ngoài vào lúc này mà thôi. Vì vậy, cung Thịnh Kim đột nhiên trở nên náo nhiệt phi thường, tất cả thế lực cầm quyền ở Đại Hạ đều tụ tập cùng một chỗ.

    Vào cái đêm mà tất cả đầu lĩnh quốc gia tiến cung, quân Đông Hồ đóng ở tây thành lại nảy sinh xung đột với thân vệ của Cảnh tiểu vương gia, cụ thể là vì nguyên nhân gì thì chẳng ai rõ. Khi Sở Kiều bị tiếng ồn ào đánh thức thì bầu trời phía tây đã đỏ rực, tiếng kêu thét rung trời. Binh sĩ xin vào cung báo tin đều bị ngăn ở cửa cung, hiển nhiên là có người cố ý dung túng.

    Nửa canh giờ sau, xung đột càng lúc càng lan rộng, thân binh của Mộc tiểu công gia cũng gia nhập vòng chiến. Vậy mà đội duy trì trật tự ở thành Chân Hoàng vẫn bình chân như vại, bất kể cho dân chúng ở tây thành có khóc than đến đâu thị bọn họ vẫn án binh bất động, khoanh tay đứng nhìn binh mã hai bên sống mái với nhau.

    Nhân cơ hội này, vô số bang phái lưu manh lớn nhỏ trong thành liền thừa nước đục thả câu, cướp phá một hồi vẫn không thấy ai để ý thì càng thêm hung hãn. Tiếng kêu khóc vang dậy khắp thành, người dân đều run rẩy trốn trong nhà, không biết khi nào thì đến phiên mình.

    Sở Kiều dặn dò thị vệ trong phủ cẩn thận canh phòng, đóng chặt cửa phủ, tuyệt đối không ra ngoài nửa bước. Hạ Tiêu và nhóm thân vệ Nguyệt Lục của Gia Cát Nguyệt cùng nhau chịu trách nhiệm phòng ngự trong phủ.

    Không đầy một chốc sau, trước cửa đột nhiên sáng rực ánh đuốc, tựa như đang có đông đảo binh mã bao vây bên ngoài. Nhóm người Nguyệt Lục nghiến răng nghiến lợi, xắn tay áo rút đao ra, dáng vẻ như chuẩn bị liều mạng. Nhưng Sở Kiều cảm thấy kỳ quái nên lập tức ngăn bọn họ lại, chỉ để Hạ Tiêu ra ngoài thám thính tin tức.

    Hạ Tiêu nhanh chóng trở về, cười báo lại với Sở Kiều là Đốc sát quân của quan phủ nhận mật lệnh đến bảo vệ phủ Tư mã. Thoáng sau thì tiếng động ầm ĩ ở bốn phía đã nhỏ hơn nhiều, có lẽ là tác dụng của đội quân này. Có điều khi nàng hỏi Nguyệt Lục thì viên thị vệ lại gãi đầu, nghi ngờ nói rằng hắn chưa bao giờ nghe nói đến Đốc sát quân gì đó.

    Khoảng canh hai thì ở cửa chính đột nhiên nổi lên một trận xôn xao, Sở Kiều vừa mới ra khỏi phòng thì nhìn thấy Gia Cát Nguyệt khoác áo lông tím thẫm vội vã đi đến, hỏi han: “Không làm nàng sợ chứ?”



    Sở Kiều cười nói: “Chàng cho rằng ta bằng giấy hay sao? Lúc ta ở ngoài giết người phóng hỏa thì chàng còn chưa đầu thai làm người đấy.”



    Gia Cát Nguyệt nâng chén trà lên uống một hớp, gượng cười cười rồi ngồi xuống.

    Sở Kiều hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”



    Sở Kiều từ trước đến giờ rất hiếm khi hỏi thăm Gia Cát Nguyệt chính sự của Đại Hạ. Một là thân phận của nàng thật sự không nên biết quá nhiều, hai là nàng cũng không có tinh lực xen vào chuyện của người khác. Nhưng chuyện xảy ra tối nay quả thực có khiến nàng hơi bận tâm.

    Gia Cát Nguyệt ngẩng đầu lên, nhìn thấy vẻ mặt lo lắng của nàng thì thoáng áy náy, nắm lấy bàn tay lạnh như băng của nàng rồi nói: “Là đám người Cảnh Hàm gây rối, cổng nam cũng bị người của Triệu Dương khống chế, ta phải thoát ra từ cổng bắc nên hơi chậm trễ.”



    “Gây rối có ích lợi gì cho bọn họ chứ? Vạn nhất lớn chuyện, hội trưởng lão nhất định sẽ đuổi biên quân trở về biên giới, khi ấy chẳng phải bọn họ sẽ trắng tay ra về sao?”



    Gia Cát Nguyệt cười lạnh, “Bọn chúng chính là muốn như vậy.”



    Sở Kiều nhíu mày, nghĩ thông liên hệ trong chuyện này thì không khỏi thở dài, nói: “Nguy hiểm thật, may mà chàng nhanh chóng ra ngoài.”



    Gia Cát Nguyệt vỗ vỗ mặt nàng, an ủi: “Đừng sợ, ta vẫn chưa đến mức mắc bẫy bởi loại thủ đoạn này.”



    Cuộc tranh giành hoàng vị giữa Triệu Triệt và Triệu Dương, cơ bản cũng chính là trận đối đầu của Tây nam quân và quân Đông Hồ. Triệu Dương được Cảnh Hàm và Mộc tiểu công gia trợ giúp thì Triệu Triệt cũng có Gia Cát Nguyệt là cánh tay phải. Hiện tại Hạ hoàng đang nguy kịch, biên quân các nơi đều theo chủ đến trấn giữ kinh đô, biên quân đóng trại ở đế đô vốn đã không hợp quy củ, nếu còn xảy ra hỗn loạn thì chắc chắn sẽ bị xua trở về lãnh thổ của mình. Bất kể là Triệu Triệt, Gia Cát Nguyệt hay Cảnh Hàm, thực lực chính đều nằm ở biên quân, chỉ có Triệu Dương là nắm trong tay Kiêu kỵ binh chính thức đóng ở trong kinh. Ba vạn Kiêu kỵ binh này trên chiến trường có thể là ít ỏi không đáng kể, nhưng nếu toàn bộ biên quân đều bị xua về thuộc địa, Kiêu kỵ binh sẽ trở thành binh lực mạnh nhất đế đô. Lúc đó, nếu Triệu Triệt không theo quân Đông Hồ trở về phương Bắc, chắc chắn sẽ rơi vào tay Triệu Dương, còn nếu hắn trở về thuộc địa thì vị trí kế nhiệm Hạ hoàng khẳng định nằm gọn trong túi của Triệu Dương.

    Hạ hoàng bệnh nguy kịch kéo dài một năm thì suốt một năm này, hầu như là ngày nào thành Chân Hoàng cũng diễn ra tiết mục tương tự như hôm nay. Sở Kiều cũng là người dụng binh, dĩ nhiên hiểu được lợi hại trong chuyện này.

    Nàng bước tới trấn an Gia Cát Nguyệt, “Chàng phải hết sức cẩn thận, không cần lo cho ta. Trong phủ nhiều thị vệ, cho dù bị một vạn người tấn công thì cũng có thể cầm cự hơn hai canh giờ, lần sau đừng chia quân tới bảo vệ ta nữa.”



    Gia Cát Nguyệt nghe vậy thì kinh ngạc hỏi lại: “Ta chia quân về phủ hồi nào?”



    Sở Kiều sững sờ, “Vừa rồi quan phủ có điều Đốc sát quân tới bảo vệ phủ chúng ta suốt hơn hai canh giờ.”



    Gia Cát Nguyệt nhíu chặt mi tâm, suy nghĩ hồi lâu mới lắc đầu, nói: “Đó không phải là người của ta.”

    Sở Kiều nghi hoặc nhìn hắn, vẻ mặt hết sức nghiêm trọng.

    Gia Cát Nguyệt mỉm cười, nắm tay nàng, nói: “Không sao, bọn họ hẳn không có ác ý.”



    “Là người của Ngụy Thư Diệp sao?”



    “Nếu ta đoán không sai thì có lẽ là người của Triệu Thập Tam.”



    Trong ngực Sở Kiều như bị tuyết bám vào, thoáng cái đã lạnh như băng. Gia Cát Nguyệt trầm giọng nói tiếp:“Hoàng đế đang nguy kịch, người có thế lực trong thành đều đang ở trong cung, người lúc này không ở trong cung mà có năng lực điều động quan phủ cũng chỉ có hắn.”



    Ánh mắt Gia Cát Nguyệt lộ ra một tia ngưng trọng, chậm rãi nói: “Đã lâu như vậy, ta đúng là đã quên mất người này.”



    Trong phòng lượn lờ huân hương, nơi này được sửa lại giữ nhiệt rất tốt nên mặc một lớp áo mỏng cũng đủ ấm. Thế nhưng Sở Kiều lại cảm thấy cảm giác lạnh lẽo từ sống lưng lan tràn đến tứ chi rồi xông thẳng lên đại não.

    Triệu Tung, Thập tam hoàng tử, bị Yến Tuân chặt đứt một tay, huynh trưởng của hắn chết dưới tay nàng, mẫu tộc bị nàng và Yến Tuân bày kế lật đổ. Vị hoàng tử từng có tiếng tăm nhất đế đô hiện tại đã bị người khác quên lãng đến độ này? Ngay cả vào cung hầu hạ hoàng đế hấp hối cũng không có phần của hắn?

    Gia Cát Nguyệt ôm Sở Kiều vào lòng, nhìn thấy dáng vẻ thất thần của nàng thì đau lòng, nhẹ giọng bảo:“Tinh Nhi, hay là ta đưa nàng đến Thanh Hải trước nhé?”



    Sở Kiều vẫn còn thẫn thờ như không nghe thấy, đến khi Gia Cát Nguyệt lặp lại lần nữa thì nàng mới vội vàng lắc đầu, cuống quít nắm ống tay áo hắn, nói to: “Ta không đi đâu hết!” Nói xong thì ngước lên nhìn hắn chằm chằm, dáng vẻ quật cường cố chấp như một chú sư tử con.

    Gia Cát Nguyệt thở dài bất đắc dĩ, vòng tay ôm lấy nàng, thấp giọng nói: “Không lâu nữa đâu.”



    Đúng vậy, không lâu nữa đâu. Lần nào chư vị đại thần và các hoàng tử diện kiến hoàng đế xong đều trở về nói với người thân cùng thuộc hạ nhà mình: Không lâu nữa đâu, hoàng thượng chẳng còn được bao nhiêu thời gian, bây giờ chỉ đếm được từng ngày thôi.

    Nhưng ngày qua ngày, hết hoàng đế bị méo miệng, hoàng đế không còn tỉnh táo, không nhận biết người khác rồi đến hoàng đế ăn uống không được…

    Nghe qua thì Hạ hoàng giống như chỉ còn một hơi thở, khoảnh khắc sau sẽ lập tức xuôi tay rời khỏi nhân gian về trời vậy. Nhưng trời càng lúc càng rét, bão tuyết đổ xuống trắng xóa bốn bề, mùa xuân cận kề mà hoàng đế vẫn còn sống, chẳng những chưa chết mà nghe nói thi thoảng còn có thể nói trọn mấy câu, thi thoảng còn mở mắt ra, uống vài muỗng canh.

    Không ai biết tấm thân già nua kia đang cầm cự vì cái gì. Hạ hoàng tựa như còn tâm nguyện gì chưa tròn, như đang chờ đợi ai đó, cứ như vậy sống lay lắt, không chịu chết đi, không chịu nhắm mắt.

    Không khí trong kinh cũng vì vậy mà luôn trong tình trạng căng thẳng cực độ. Bởi vì không nắm chắc mọi thứ nên chẳng ai dám có gan khởi binh hành thích vua. Thành Chân Hoàng như một cây cung kéo căng, chỉ cần một tiếng động sẽ dẫn đến mưa tên ngập trời. Ngay cả trẻ con mới sinh cũng không dám khóc to trong đêm.

    Sáng hôm nay, Gia Cát Nguyệt vừa vào triều thì chợt có người tới gõ cửa phủ.

    Thiếu nữ toàn thân phủ áo choàng lông chồn trắng muốt đứng giữa trời tuyết, con ngươi đen nhánh, môi đỏ tươi, thanh lệ thoát tục như một bức họa.

    Mặt trời mùa đông treo rất cao, ánh nắng tựa như rọi đến từ một thế giới khác, yếu ớt không chút độ ấm. Sở Kiều khoác áo choàng xanh nhạt đứng ngược gió, ngây người nhìn thiếu nữ trước mặt, thật lâu cũng không nhúc nhích.

    Thiếu nữ mỉm một nụ cười rất nhạt, chậm rãi đi đến trước mặt Sở Kiều, thản nhiên nói: “Lục tỷ, không nhận ra ta sao? Tiểu Bát đây.”



    Đứa bé gái từng quỳ bên cạnh nàng dưới ánh trăng trong trẻo lạnh lùng, thân thể bé xíu gầy gò như chú sói con thiếu sữa không ngừng dập đầu, thề trước thi thể của các tỷ tỷ ca ca mình, bảo bọn họ chờ, chờ cô bé lớn lên nhất định báo thù cho bọn họ.

    Thời gian trôi qua như trận gió, chớp mắt đã không còn bóng dáng. Thoáng cái mà đã mười bốn năm.

    Sở Kiều nhớ tối hôm đó, nàng trốn trong đám đông, nghe tiếng cô bé gào khóc gọi tên nàng, gọi nàng đến cứu cô bé. Nhưng đến cuối cùng nàng vẫn không bước ra, để rồi sau đó chỉ có thể lặng lẽ mượn lúc mây đen che kín ánh trăng, đoạt lại từng mẩu thi thể từ trong miệng chó hoang, ngay cả một tấm chiếu an táng cũng không có, chỉ có thể thả từng mẩu thi thể xuống lòng hồ lạnh lẽo.

    Mười bốn năm, mười bốn năm, nàng cho rằng Tiểu Bát đã chết, từng vô số lần mơ thấy dáng vẻ quật cường của cô bé, nàng tự trách bản thân suốt mười bốn năm, và cũng vì vậy mà hận Gia Cát Nguyệt lâu đến như vậy.

    Hốc mắt nóng lên chực rơi lệ, Sở Kiều vươn tay ra, khóe môi nhẹ nở nụ cười, nhưng nụ cười ấy, ngoài vui mừng còn có lẫn theo sự khổ sở chua xót.

    Tiểu Bát cầm tay nàng, thản nhiên cười nói: “Ta lợi hại nhỉ, vẫn còn sống, không ngờ có phải không?”

    Hai người cùng nhau vào phòng, Tiểu Bát dường như rất quen thuộc nơi này, tự nhiên đi một vòng rồi ngồi xuống trên góc giường, hít một hơi thật sâu, cười nói: “Gia Cát Tứ vẫn có thói quen thích dùng hương trầm thủy như vậy.”



    Nàng nhìn quanh, thuận miệng nói thêm mấy câu, đều là thói quen sinh hoạt của Gia Cát Nguyệt, sau đó còn cầm một quả lựu lên mân mê trong tay.

    Sở Kiều nhìn nàng, thiên ngôn vạn ngữ đều đọng trong miệng, không biết bắt đầu hỏi từ đâu.

    Tiểu Bát cười với nàng, nói: “Lục tỷ không cần kinh ngạc, ngày đó người bị chó hoang cắn chết không phải là ta, trước lúc hành hình phu quân của tỷ đã đổi ta với người khác, hơn nữa còn nuôi dưỡng ta nhiều năm. Ta và hắn có ân có oán, hôm nay ta đến đây cũng không phải để ép tỷ thực hiện lời hứa ngày đó, bởi vì chính ta cũng đã sớm buông bỏ ý niệm báo thù rồi.”



    Trong phòng đột nhiên có gió luồn vào, khiến màn lụa góc tường khẽ lay động, ánh mặt trời xuyên qua chợt trở nên chói chang khiến Sở Kiều bất giác phải nheo mắt lại, không nhìn rõ mặt của người đối diện.

    Sở Kiều nhìn Tiểu Bát, trong lòng chợt dâng một cảm giác xa lạ không thể diễn tả. Nàng suy nghĩ một lúc, cuối cùng vẫn nhẹ giọng hỏi: “Tiểu Bát, mấy năm nay muội sống tốt không?”



    “Cũng tạm được.” Tiểu Bát lơ đãng nói: “Gia Cát Tứ đối với ta cũng không tệ lắm, có lẽ là nhờ dính hào quang của tỷ. Lúc hắn đến chỗ Ngọa Long tiên sinh bái sư, cũng có dẫn ta theo, cho phép ta học chữ, có điều luôn hạn chế tự do của ta, ta bỏ trốn mấy lần đều bị hắn bắt lại. Cứ như vậy qua nhiều năm, mãi đến khi…”



    Nói đến đây, Tiểu Bát nhướng mắt nhìn Sở Kiều một cái rồi bật cười, nói: “Mãi đến khi bên ngoài truyền về tin hắn chết ở Bắc Yến, hắn bị Gia Cát gia trục xuất, hạ nhân trong Thanh Sơn viện đều bị đuổi ra khỏi nhà thì ta mới được tự do. Sau đó ta lang thang ở bên ngoài, thân nữ đơn côi, lại chẳng có tay nghề gì để kiếm sống, ta liền lưu lạc chốn phong trần. Bươn chải trong thanh lâu hơn một năm thì gặp được Thập tam điện hạ, vẫn là nhờ phúc của Lục tỷ, bởi vì diện mạo giống tỷ nên thoáng cái đã được điện hạ chú ý, bây giờ thân phận của ta là gia nô trong vương phủ. Ha ha, lăn lộn nhiều năm như vậy mà vẫn chỉ là một đứa nô lệ, có điều đãi ngộ được nâng cao hơn chút.”



    Sở Kiều lẳng lặng nghe Tiểu Bát nói chuyện cũ bằng ngữ khí thờ ơ, nghe nàng nhắc đến Triệu Tung, nhớ đến cô gái mặc nam trang trên núi Hương Chi nhìn thấy mấy ngày trước thì không khỏi khẽ nhíu mày, trầm giọng hỏi: “Muội đã sớm biết ta ở thành Chân Hoàng, vì sao không đến tìm ta?”



    “Tìm tỷ để làm gì?” Tiểu Bát ném sang một cái nhìn sắc lẹm, lạnh lùng nở một nụ cười giễu cợt, từ tốn nói:“Lục tỷ hôm nay có thân phận cao quý, vừa là Tú Lệ tướng quân của Bắc Yến, vừa là Tú Lệ vương của Biện Đường, lại sắp sửa trở thành Tư mã phu nhân của Đại Hạ. Ta chỉ là một nô lệ bé nhỏ, tùy tiện chạy tới làm thân chẳng phải sẽ khiến Lục tỷ mất mặt sao?”



    Ánh mắt của Tiểu Bát cực kỳ lạnh lùng, hơn nữa khi nói đến bốn chữ ‘Tư mã phu nhân’ thì trong mắt tựa như tóe lửa.

    Lư hương trong góc nhẹ nhàng tỏa ra làn khói lượn lờ, hòa lẫn với ánh nắng tạo thành một dải lụa vàng mềm mại như nước trên không trung. Gian phòng yên tĩnh như tờ, Sở Kiều lặng lẽ nhìn Tiểu Bát, ngọn lửa trong lòng dần nguội đi từng chút một, lời đã đến khóe môi nhưng cuối cùng đều bị nuốt xuống bụng. Trong đầu như có bão tuyết bao phủ, mịt mù và giá lạnh.



    Sở Kiều nghe được mình cất giọng bình tĩnh hỏi: “Vậy vì sao hôm nay lại đến?”



    “Điện hạ sắp phải đi, ta muốn cầu tỷ xin cho ta văn thư giải trừ nô tịch, để ta có thể đi theo điện hạ.”



    Sở Kiều thoáng kinh ngạc, “Triệu Tung sắp phải đi đâu?”



    “Còn có thể đi đâu? Đi Yến Tắc trông trường ngựa, đường đường là thân vương Đại Hạ, hoàng tử do hoàng hậu thân sinh mà lại bị biếm đi coi sóc trường ngựa.” Biểu tình trên mặt Tiểu Bát chợt trở nên tối tăm, nàng lạnh lùng nói, từng câu chữ như chen qua khẽ răng, ngữ khí chứa đựng sự tức giận không thể áp chế.

    “Tại sao?”



    “Còn có thể tại sao ngoài vì tỷ?” Tiểu Bát quay đầu lại, lạnh lùng nói: “Sau khi bị chó Bắc Yến chặt đứt một cánh tay, điện hạ luôn giấu mình trong phủ, không còn màng đến phân tranh trong triều hay cuộc chiến đoạt hoàng vị. Các hoàng tử khác bận rộn tranh quyền đoạt lợi nên cũng chẳng ai chú ý đến ngài. Nhưng mấy hôm trước ngài lại điều động binh mã của quan phủ, hơn nữa còn rõ ràng công khai là để bảo vệ các người. Tỷ cho rằng Thập tứ điện hạ còn có thể để ngài tiếp tục giữ thân phận như vậy ở lại kinh thành sao?”



    Tay Sở Kiều lạnh lẽo tột độ, đầu kêu ong ong, giọng nói sắc lạnh và giận dữ của Tiểu Bát vang ở bên tai, “Ta không cầu tỷ nghĩ cách để điện hạ được ở lại kinh, chỉ cầu tỷ giúp ta xin một tờ văn thư. Điện hạ không chịu mang ta theo thì ta sẽ tự mình đi theo, ít nhất cũng có thể sớm hôm hầu hạ cơm nước, để ngài không phải cô đơn một mình trên đường. Điện hạ có ơn với ta, ta tuyệt đối sẽ không như hạng người vong ân phụ nghĩa, lấy oán trả ơn.”



    Một lúc lâu sau Sở Kiều mới ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn khuôn mặt xinh đẹp của Tiểu Bát, điềm tĩnh nói:“Tiểu Bát, muội nhất định phải rạch ròi xa cách với ta như vậy?”



    “Lục tỷ nói gì vậy, người có thân phận gì, còn Tiểu Bát có thân phận gì, sao dám trèo cao? Huống chi…”



    “Nếu muội còn nói những lời này thì mời rời khỏi đây ngay lập tức cho ta, khỏi cầu xin gì nữa, coi như ta không có người muội muội này!” Sở Kiều đột nhiên tức giận nói to.

    Tiểu Bát sững người, ngơ ngác nhìn Sở Kiều, nhất thời một câu cũng không nói nên lời.

    “Muội đang oán cái gì? Đang giận cái gì? Oán ta ban đầu không thể bảo vệ muội, không thể dẫn muội đi? Hay là giận ta không báo thù cho Hiệp Tương và Lâm Tích, hơn nữa còn nhận kẻ thù làm chồng?” Sở Kiều nén giận nói tiếp: “Những năm qua, muội cực khổ, ta chưa chắc đã sung sướng. Ta tưởng muội đã chết, tự trách bản thân suốt mười bốn năm, bây giờ muội tìm đến tận cửa nói những lời chế giễu trào phúng để biểu đạt tình tỷ muội đó à?”



    Nắng trưa chiếu qua cửa sổ để lại vô số cái bóng loang lổ trên mặt đất, Sở Kiều đứng dậy, lạnh lùng nhìn Tiểu Bát: “Đã mười bốn năm, thời gian này xảy ra bao nhiêu chuyện? Trong đầu muội chỉ toàn nghĩ đến bất hạnh cùng bi ai của bản thân, sau đó đều đổ tội hết lên đầu người khác. Ta thật nghi ngờ, muội có thật sự là người muội muội dũng cảm kiên cường của ta năm đó không vậy? Muội tự lấy tên Vô Tâm, chẳng lẽ cũng thật sự không có tâm luôn sao?”



    Tiểu Bát đứng chết trân tại chỗ, mặt tái nhợt. Sở Kiều đột nhiên cảm thấy mệt mỏi vô cùng, sức lực như thoáng cái liền bị rút cạn.

    Nàng chậm rãi xoay người sang chỗ khác, lạnh nhạt nói: “Muội đi đi, chuyện của Triệu Tung ta sẽ tìm cách xử lý.” Dứt lời thì đi về phòng.

    Một lúc lâu sau Tiểu Bát mới rời đi, Sở Kiều xuyên qua khe cửa sổ nhìn nàng được mấy người Mai Hương đưa ra khỏi phủ Tư mã. Bóng lưng rất gầy, y phục truyền trắng khiến nàng như hòa làm một với màn tuyết mịt mù.

    Nhớ đến lời Tiểu Bát vừa nói, bị giam lỏng, một mình lang thang, lưu lạc chốn phong trần…

    Sở Kiều cắn chặt môi, cảm giác thống khổ dần lấp đầy tim. Nàng cứ thế một mình ngồi bên cửa sổ, mãi đến khi hoàng hôn buông xuống.

    Gia Cát Nguyệt ôm lấy nàng từ phía sau, thấp giọng nói, ngữ khí mang theo chút trách cứ, “Tối rồi sao còn chưa dùng bữa?”



    Sở Kiều thuận thế tựa vào trong ngực Gia Cát Nguyệt, cả người đột nhiên buông lỏng, tựa như chú cá mắc cạn vừa được thả vào trong nước. Nàng cầm tay hắn, bàn tay thật lớn, có thể bao trọn bàn tay nhỏ bé của nàng. Nàng ũ rũ không muốn nói chuyện, cứ như vậy lật xem lòng bàn tay hắn, tỉ mỉ đếm từng vết chai.

    “Tiểu Bát đến có phải không?”



    “Ừ.” Sở Kiều gật đầu, “Chàng đã biết từ sớm, vì sao không nói ta biết?”



    “Có định nói, nhưng vẫn không tìm được cơ hội.” Gia Cát Nguyệt cười cười, hơi bất đắc dĩ nói: “Bất kể nàng có tin hay không, trong lòng ta vẫn luôn canh cánh chuyện này, tựa như một loại tâm bệnh vậy. Dù sao thì những năm đó, ta đối xử với muội ấy cũng không thể nói là quá tốt, muội ấy bỏ trốn mấy lần, ta bắt về đều đánh một trận. Ta năm đó tính tình vẫn còn cổ quái, cứu xong lại không muốn thả đi, một mực giam lỏng muội ấy. Lúc tâm trạng tốt thì dạy muội ấy học chữ, tập võ. Lúc tâm trạng không tốt, nhìn thấy muội ấy lớn lên giống nàng thì càng mặt nặng mặt nhẹ. Mấy năm sống trên núi, ta không mang theo thị nữ, chỉ để muội ấy hầu hạ bên người. Bây giờ nghĩ lại, tính tình muội ấy cổ quái như vậy, có lẽ đa phần là tại ta.”



    “Tiểu Bát đã ở cạnh Triệu Tung bao lâu rồi?”



    “Có lẽ khoảng hai ba năm.” Gia Cát Nguyệt nhớ lại, “Nghe nói rất được Triệu Tung yêu chiều, muội ấy từng hại chết một sủng cơ trong phủ nhưng Triệu Tung cũng không trách tội.”



    Sở Kiều im lặng một hồi mới chậm rãi nói: “Tiểu Bát hình như có ý với Triệu Tung.”



    Gia Cát Nguyệt cười nói: “Bất kể muội ấy có ý với ai, chỉ cần nàng không tức giận với ta là được.”



    “Còn chuyện Triệu Tung là thế nào vậy?”



    “Nàng yên tâm, Triệu Dương muốn một tay che trời còn phải hỏi xem chúng ta có cho phép hay không. Chỉ là ta cảm thấy Triệu Tung rời khỏi kinh cũng không có gì không tốt. Hoàng thành sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra đại loạn, hắn rời khỏi đây sẽ an toàn hơn là ở lại.”



    Sở Kiều cũng từng nghĩ đến vấn đề này, nên cau mày hỏi: “Vậy làm sao bây giờ?”



    “Ta dự định để hắn đến Khương Hồ, thứ nhất, ở đó gần phía Bắc, thuộc phạm vi thế lực của Triệu Triệt. Thứ hai, ở đó tụ tập đông đảo người Khương, kinh tế sung túc, đời sống người dân khá cao, khí hậu gần biển nên rất ôn hòa.”



    Sở Kiều gật đầu, “Vậy cứ làm theo lời chàng đi.”



    “Ừ, ngày mai ta sẽ sắp xếp chuyện này. Nàng có muốn đưa tiễn, gặp mặt hắn một lần không?”



    Sở Kiều im lặng suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng lắc đầu, “Không cần, hắn có lẽ cũng chẳng muốn gặp ta đâu.”



    Gia Cát Nguyệt vẫn nói: “Nhưng ta cảm thấy nàng vẫn nên đi gặp hắn một lần.”



    Thấy Sở Kiều ngẩng đầu lên, cau mày nhìn mình, Gia Cát Nguyệt bật cười, nói: “Đừng nhìn ta như vậy, ta không có ý gì khác, chỉ không muốn nàng mãi tự oán trách bản thân như vậy. Chuyện năm đó không thể trách nàng.”



    Năm đó?

    Ánh mắt Sở Kiều dần trở nên mông lung, trong đầu lại thoáng hiện lên hình ảnh trên núi Hương Chi ngày ấy, nam tử lẳng lặng đứng giữa bốn bề ngập lá phong, một ống tay áo trống rỗng, bay phần phật trong gió.

    Ký ức phủ bụi lại bị đào lên, cảnh còn người mất, chỉ có rừng lá phong là vẫn vĩnh viễn không đổi.

    Tiếng lòng của Nâu: gần hết truyện rồi, phát biểu cảm nghĩ về nam 9 cái, Nâu không ghét nhưng cũng không thích bạn Nguyệt (ít khi thích dạng dại gái, khiến nhiều người bị chết lắm). Nâu không đọc nhiều ngôn tình, nhưng buồn cái là chả mấy khi gặp được type mình thích, or thích ai thì người đó đều là con ghẻ của tác giả. Rầu ghê. (Sách ơiiiiiiiiiiii!)

    P/S của người dịch: còn 9 chương nữa. Hồi xưa lúc chưa đọc hết truyện, hình nhớ có bản xếp hạng nào đó xếp bạn Ngụy Thư Diệp lên top, nhưng giờ đọc kỹ lại, hình như để nhầm, vì bạn Diệp xuất hiện có bao nhiêu đâu (gần cuối có ló mặt thêm lần nữa), chắc vị trí của bạn Diệp phải để cho Lý Sách mới đúng.

    Chuyện mục feature cảm nhận của độc giả có nick là Xôi Xéo xin được bắt đầu (rất hay, rất thực tế, khen chê có đủ):

    Truyện này tác giả xây dựng nhân vật nam diễn biến nội tâm các anh đều rất tinh tế hợp lý. Nhưng mình vừa thích nữ chính, lại vừa không thích nữ chính lắm. Nói chung tuy truyện nhiều sạn, cảm giác tác giả viết hơi non tay, nữ chính hoàn hảo quá, cảm giác nó ảo diệu không thật, nhiều chỗ điêu điêu, nội tâm nhân vật sâu sắc nhưng nó vẫn không thực tế lắm. Nhưng phải khâm phục chị tác giả này, hiểu biết rộng, cốt truyện tình tiết đặc sắc phong phú, văn phong không mượt nhưng viết rất cụ thể chi li có phần tiểu tiết, đặc biệt là cảnh hành động nghe miêu tả mà đã đôi mắt, kể đến đâu hình dung rõ ràng đến đấy. Các anh nam trong truyện anh nào cũng tuyệt vời, anh nào cũng thích nữ chính nhưng xây dựng đoạn đó không phi lý như mấy chuyện xuyên không khác, rất hợp tình hợp lý, rất thích. Xây dựng rất nhiều nhân vật, nhưng mà không hề bị loãng, mà nhân vật phụ cũng rất cụ thể. Cá nhân mình mong chờ phim hơn, vì đạo diễn bộ bộ kinh tâm làm bộ phim xuyên không ấy nó mang cảm giác chân thật thực tế đến không tưởng, mong lên phim nữ chính cũng không quá phi phàm hoàn hảo quá, giỏi nhưng mang cảm giác thật. Ngay cả cảm xúc nữ chính trong truyện mình cũng cảm giác nó không mượt. Nội tâm tác giả viết cảm giác nó dựa vào hiểu biết, sách vở nhiều nên cảm tưởng chưa đi sâu làm thổn thức người đọc. Nhưng tóm lại, là một bộ truyện hay, không uổng để cày, nghĩ đi nghĩ lại cũng khâm phục xây dựng tình huống truyện thật, nếu được viết bởi một người già dặn, từng trải, kinh nghiệm hơn thì có thể nói là tuyệt vời.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  6. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 183: Sống chết không rời

    Sau một đêm tuyết rơi, hoàng thành như chìm trong khoảng trời trắng mênh mông. Sáng sớm đẩy cửa phòng ra, tuyết đã dày gần đến gối mà gió vẫn thổi rất gắt, khiến người đi bên ngoài đều mở mắt không ra. Mặt trời còn chưa lên, binh sĩ thủ thành ngáp dài ngáp ngắn, cửa thành nặng nề chậm rãi được mở hé ra, dân chúng chờ bên ngoài và bên trong liền ùa đến.

    Một cỗ xe ngựa bằng gỗ mun, *lộc cộc* lăn bánh trên nền tuyết trắng, để lại hai đường rãnh sâu hoắm. Cổ xe ngựa bọc vải xanh đơn giản an phận xếp hàng sau dân chúng, binh lính giữ cổng cho rằng chẳng phải xe của người quyền quý trong thành, cho nên cũng thu phí qua cổng theo lẽ thường, còn bỡn cợt nói mấy câu ra oai với phu xe.

    Khoảng hơn một canh giờ sau cỗ xe mới ra khỏi hoàng thành. Mặt trời lười biếng nhú lên khỏi đường chân trời, nắng sớm xua tan màn sương mù dày đặc. Chim muông đã di trú về phía nam từ lâu, chỉ còn lại ít giống tuyết ưng chịu rét giỏi, thỉnh thoảng bay qua, kêu lên một tiếng rồi mất hút trong tầng mây, âm thanh kéo dài văng vẳng trên đồng tuyết mênh mông.

    Xe ngựa chạy đến dãy Yết Mã bên ngoài thành thì nhìn thấy một thiếu nữ đang lẳng lặng đứng chờ trên cầu Dương Quan. Nàng mặc áo lông trắng muốt, giày cưỡi ngựa màu xanh ngọc, mi mục như họa, có lẽ đã đứng ngoài trời tuyết khá lâu nên khuôn mặt đỏ ửng vì lạnh, khiến vẻ lạnh lùng sắc sảo thường ngày nhiều hơn một phần dịu dàng. Thấy cỗ xe ngựa, nàng mỉm cười tiến lên một bước, chú ngựa sau lưng nàng cũng ngoan ngoãn đi theo chủ nhân.

    Phu xe là một thiếu niên trẻ tuổi, nhiều lắm cũng chỉ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, nhìn thấy nàng thì dường như hơi kinh ngạc, lập tức quay đầu nói gì đó với người trong xe. Một cánh tay gầy gò nhẹ vén màn xe lên, để lộ khuôn mặt tuấn tú của nam tử cùng đôi mày đang nhíu chặt.

    “Tại sao lại đến đây?” Giọng nói của Triệu Tung đã không còn vẻ tươi sáng của năm đó mà trở nên trầm thấp, điềm tĩnh như mặt nước không chút gợn sóng.

    Còn nhớ lần đầu tiên nàng gặp chàng, chàng đã có dáng vẻ này, luôn bình tĩnh, ôn hòa, hờ hững với tất cả mọi chuyện. Chàng dần dần lui khỏi vũ đài chính trị của Đại Hạ, từ một đích tử* phong hoa vô hạn lại biến thành một người bị đày đi xa mà không một ai đưa tiễn như ngày hôm nay.

    *Đích tử = con trai do vợ chính sinh ra, trong trường hợp này là hoàng hậu.

    Trừ nàng ra, có lẽ toàn bộ hoàng thành cũng không còn ai nhớ đến chàng.

    Tiểu Bát lẳng lặng cười, khóe miệng luôn mang theo vẻ cay đắng thành thói quen. Nàng đi lại gần xe ngựa, rất tự nhiên giao cương ngựa cho cậu phu xe trẻ tuổi, nói: “A Giang, buộc thêm ngựa vào xe đi.”



    Triệu Tung khẽ cau mày, trầm giọng hỏi: “Nàng làm gì vậy?”



    Tiểu Bát quay sang cười với Triệu Tung, ánh mắt trong trẻo không chút gợn sóng, thản nhiên nói: “Dĩ nhiên là muốn đi với ngài.”



    Mi tâm vẫn nhíu chặt, sắc mặt của Triệu Tung đã sầm xuống, lộ ra vẻ không kiên nhẫn hiếm thấy, “Vô Tâm, chớ càn quấy.”



    Tiểu Bát hiện giờ lấy tên Vô Tâm, Vô Tâm đồng nghĩa với không có trái tim.



    Cuộc đời này của nàng, đã vô số lần bị gọi bằng những cái tên khác nhau. Thời gian ở Kinh gia nàng đã không còn nhớ rõ, thân nhân trong ấn tượng chỉ có mấy người Hiệp Tương và Lâm Tích mà thôi. Khi đó vì còn quá bé, lại không phải là con của phu nhân chính thất cho nên chẳng ai nhớ được tên nàng là gì, sau khi Kinh gia bị diệt vong, người ta dựa theo độ tuổi của nàng và các ca ca tỷ tỷ khác mà gọi Tiểu Thất, Tiểu Bát, Tiểu Cửu, theo thứ tự số như gia súc trong chuồng, còn không bằng cả chiến mã thuần chủng có tên riêng.

    Sau đó nàng được Gia Cát Nguyệt cứu, theo hắn đi bái Ngọa Long tiên sinh làm thầy, sống trên núi gần bảy năm tròn. Trong mấy năm đó, nàng có một cái tên khác, nhưng Gia Cát Nguyệt dùng tên này gọi nàng chỉ vì sợ người khác biết được thân phận của nàng, nói đi nói lại, chủ yếu cũng là bởi muốn bảo vệ cho vị tỷ tỷ đang ở trong cung Thịnh Kim của nàng,

    Khoảnh khắc được tin Gia Cát Nguyệt chết, nàng đã khóc. Và qua nhiều năm như vậy, đó vẫn là việc làm khiến nàng không thể tha thứ cho bản thân nhất, vì nàng đã rơi lệ vì nam nhân đã hại chết huynh đệ tỷ muội của nàng, hơn nữa còn giam cầm nàng hơn mười năm.

    Đến bây giờ nàng vẫn còn nhớ rõ buổi sáng hôm tin dữ truyền đến phủ Gia Cát, Nguyệt Thập Tam người đầy bụi đất ào qua cổng chính Thanh Sơn viện, đuổi theo sau là hạ nhân của chủ viện, trước con mắt kinh ngạc của bọn họ, nhanh chóng lục soát trên dưới Thanh Sơn viện một lượt. Sau đó lần lượt có quan sai từ Thượng luật viện, bộ khoái từ nha môn, quan viên của hội trưởng lão thi nhau trút tội lên đầu người nam nhân vốn kiêu ngạo kia, dùng đủ lời chỉ trích hắn không làm tròn trách nhiệm, tư thông với địch, làm chậm trễ tin tình báo, khinh thường quân kỷ, hại quân đội tổn thất nặng nề, thậm chí có cả tội phản quốc.

    Thanh Sơn viện từ địa vị cao nhất trong phủ Gia Cát thoáng cái đã rớt thẳng xuống vực sâu không đáy. Các Nguyệt vệ tản ra khắp nơi tìm đến bằng hữu môn phiệt và huynh đệ tỷ muội của Gia Cát Nguyệt, cầu xin bọn họ giúp đỡ rửa oan cho hắn, cầu xin bọn họ dẫn binh đến Bắc Yến tiếp tục tìm kiếm hắn, bất kể thứ tìm được có thể chỉ là một thi thể không sự sống. Thế nhưng, đối mặt với sự thất bại trên chiến trường, đối mặt với sự chỉ trích cùng phản đối của cả nước, ngoại trừ Thất hoàng tử Triệu Triệt cũng thất thế vì chiến dịch này thì không còn ai nguyện ý vươn tay tương trợ. Đến thiếu chủ Ngụy phiệt là Ngụy Thư Diệp cũng treo lệnh từ chối tiếp khách, không muốn gặp bộ hạ cũ trung thành của Gia Cát Nguyệt.

    Cuối cùng, ngay cả Triệu Triệt cũng bị đày đi phương Bắc, thi thể Gia Cát Nguyệt được bọn người ở Bắc Yến vớt lên, Gia Cát gia tuy nguyện ý trả tiền chuộc thi thể về nhưng lại trục xuất hắn ra khỏi gia phả ngay sau đó. Gia Cát Mục Thanh tự mình thi hành phán xét của hội trưởng lão, dùng roi quất nát thi thể con mình để bày tỏ quyết tâm và lòng trung trinh. Thi thể đầy vết roi của Gia Cát Nguyệt cũng không được an táng trong phần mộ tổ tiên mà bị vứt ra bãi tha ma. Tên tuổi hắn bị hàng vạn hàng nghìn người đời lôi ra để phỉ báng, bị khai trừ quân doanh. Trước khi thi thể hắn được mang về Đại Hạ, nữ hạ nhân trong Thanh Sơn viện các nàng đã sớm bị đuổi ra khỏi phủ, qua nhiều lần mua đi bán lại, cuối cùng phải lưu lạc chốn phong trần.

    Cho dù đã nhiều năm như vậy, nhưng mỗi lần đêm xuống, nàng vẫn có thể nghe được tiếng cười đùa của nơi buôn son bán phấn kia. Khi đó, vì nàng khăng khăng chết cũng không chịu tiếp khách, bà chủ kỹ viện đã tìm hai gã tráng đinh tới phá thân nàng. Trong gian phòng chứa củi tồi tàn, hai gã đàn ông kia vừa vào phòng đã hối hả cởi quần để lộ hạ thân xấu xí, nhe răng cười hềnh hệch lao tới xé quần áo nàng, khoảng cách gần đến nỗi nàng có thể nhìn rõ hàm răng ố vàng của hai gã, có thể ngửi được hơi thở đầy mùi rượu từ miệng hai gã.

    Sức của hai gã rất lớn, lớn đến mức mọi giãy giụa đều hoài công, tuy nàng từng theo Gia Cát Nguyệt luyện võ học cưỡi ngựa, nhưng mọi chiêu thức đều vô hiệu dưới tác dụng của thuốc mê. Cuối cùng nàng chỉ có thể đờ đẫn nhìn bọn chúng xé nát quần áo mình, nhìn bộ mặt ghê tởm của bọn chúng càng lúc càng gần. Trong gian phòng kế bên chính là Lan Nhi – một nha hoàn trong Thanh Sơn viện, kế bên nữa là Tri Hiểu – con gái của nhũ mẫu Gia Cát Nguyệt, tiếng gào khóc của các nàng hòa lẫn với tiếng cười thô bỉ của đám đàn ông. Nàng vốn cho rằng trải qua bấy nhiêu biến cố, tim nàng đã sớm chai sạn, lòng đã đủ kiên cường, nàng vốn cho rằng mình có đủ dũng khí cùng tự tôn không cần phải cầu xin bọn người vô sỉ kia. Nhưng khoảnh khắc hạ thân bị đâm rách, cảm giác đau đớn truyền ra toàn thân, nước mắt tủi nhục vẫn trào ra khỏi hốc mắt nàng, và cũng giống như những thiếu nữ khác trong Thanh Sơn viện, nàng cũng khóc gọi tên của nam nhân kia.

    Nàng khóc gào gọi Gia Cát Nguyệt đến cứu mình, điên cuồng mắng chửi hai gã đàn ông kia, nói thiếu gia nàng sẽ báo thù cho nàng, tất cả chúng sẽ chết không tử tế.

    Nhưng hai gã kia chỉ cười khẩy, tàn nhẫn nói cho nàng biết, Gia Cát Nguyệt đã chết ở Bắc Yến rồi, bây giờ thi thể hắn đã nằm trong bụng chó hoang rồi.

    Khoảnh khắc nghe tin, nàng đã khóc vô cùng tuyệt vọng. Nàng đột nhiên nhớ lại rất nhiều chuyện trong quá khứ, hắn dạy nàng viết chữ, dạy nàng cưỡi ngựa, dạy nàng binh pháp, dạy nàng võ nghệ phòng thân. Cũng có lúc, nàng chẳng cần phải làm gì, hắn chỉ gọi nàng đến ngồi cạnh, nàng mỉa mai khiêu khích thế nào hắn cũng mặc kệ, chỉ lẳng lặng uống rượu, thỉnh thoảng không nhịn được trừng mắt nhìn nàng một cái.

    Hắn giết chết Lâm Tích, hắn hại chết Tiểu Thất, hắn giam cầm nàng mười năm, tra tấn nàng, mắng nàng, hắn và nàng có mối thù không đội trời chung. Nhưng hắn lại chưa từng làm nhục nàng, còn mấy lần cứu nàng khỏi cái chết cận kề, cho nàng chỗ ở, cho nàng cái ăn cái mặc, bất kể thân phận của nàng khó xử đến thế nào. Dù nàng biết tất cả những chăm sóc này vốn nên thuộc về ai, nhưng cũng không thể chối bỏ sự thật rằng hắn đang bảo vệ nàng. Từ lúc nàng còn là một đứa bé với hai bàn tay trắng lưu lạc ở chốn dầu sôi lửa bỏng, hắn đã luôn bảo vệ nàng, đã bảo vệ nhiều năm như vậy.

    Và ở thời điểm nhục nhã nhất trong đời, nàng đã theo bản năng gọi tên hắn, vứt bỏ cốt khí mà mong đợi hắn có thể đến cứu nàng.

    Nhưng cuối cùng hắn vẫn không đến, nam nhân đó đã chết, vì tỷ tỷ nàng mà chết, táng thân trong băng thiên tuyết địa ở Bắc Yến, chết dưới móng sắt của đại quân Bắc Yến.

    Tối hôm đó, nàng đã tuyệt vọng gào khóc tựa như chú sói con bị mất mẹ, nằm vùi trên mặt đất bẩn thỉu mà khóc, khóc cho đến khi giọng bể nát.

    Thế nhưng nàng chỉ khóc một đêm, sau đêm đó, không giống như Tri Hiểu quyết liệt tự kết liễu mạng sống, không giống như Lan Nhi sầu khổ rồi bệnh chết, nàng dường như chợt được khai sáng, bắt đầu học cầm kỳ thư họa, học làm sao để quyến rũ nam nhân, học tất cả mọi kỹ xảo cùng kiến thức cần có để tồn tại được ở nơi này. Đã không thể trông cậy vào người khác thì chỉ có thể dựa vào chính mình, nếu số mệnh đã định phải ở lại đây thì phải nghĩ cách làm sao để cuộc sống được tốt hơn, nếu đã làm thì nàng phải làm cô nương đầu bảng.

    Hai tháng sau, nàng đích thân bày mưu hãm hại hai gã tráng đinh từng xâm phạm mình. Nàng đứng nhìn hai gã chết ngay trước mặt mà trong lòng dâng lên cảm giác khoan khoái điên cuồng đến mức không thể diễn tả bằng lời.

    Nàng vốn cho rằng cuộc đời này của mình sẽ tiếp tục như thế, tựa như một vũng nước tù, càng lúc càng hôi thối.

    Thế nhưng, nàng lại gặp gỡ người đó.

    Hôm đó nàng cùng một gã phú thương đi du hồ, lão già hơn năm mươi bụng béo ị kia quả thực là một đồ điên, trên thuyền hoa, trước mặt con mắt của bao người mà lão một mực đòi cởi quần áo của nàng. Trong lúc hoảng hốt, nàng bất cẩn cào trầy mặt lão, thế là lão giận dữ, lập tức kêu người ném nàng xuống hồ.

    Thành Chân Hoàng tháng năm vẫn rất lạnh, băng chỉ vừa mới tan nên nước hồ cực kỳ lạnh. Nàng mặc áo xống nặng nề, tay chân cứng nhắc vì lạnh nên không bơi lên được, cứ như vậy từ từ chìm xuống, cảm thấy xung quanh từ từ tối đi. Mặt trời dần rời xa, nàng không nhìn thấy trời, không nhìn thấy mây, xung quanh chỉ có làn nước lạnh lẽo như băng, hô hấp càng ngày càng chậm đi. Trước khi ngất đi, nàng đột nhiên nghĩ đến một chuyện, lúc Gia Cát Nguyệt chết có phải cũng cảm thấy như nàng hiện giờ? Xung quanh rất lạnh, chỉ có trong ngực là còn chút hơi ấm, nhưng lại rõ ràng cảm nhận được nhiệt độ kia cũng đang tắt dần.

    Nhưng ngay khoảnh khắc chuẩn bị mất đi ý thức, có ai đó chợt ôm lấy eo nàng, kéo nàng về phía ánh sáng, không biết qua bao lâu thì nàng được đẩy lên khỏi mặt nước. Ánh mặt trời sáng chói mắt, nàng ho khan từng hồi một, thoát chết trong gang tấc khiến nàng xúc động đến ứa lệ. Triệu Tung đứng bên cạnh, đang nói chuyện với tiểu thư đồng cả người ướt sũng. Thấy nàng nhìn sang thì cũng quay đầu lại, đôi mắt điềm tĩnh khi nhìn rõ mặt nàng dường như thoáng hơi giật mình, nhưng chàng cũng chỉ hơi cau mày, cười nói: “Thật khéo quá, cô nương rất giống một vị cố nhân của ta.”



    Lúc ấy chàng rõ ràng là đang cười, nhưng nàng lại cảm nhận được sự đơn độc và thống khổ trong lời chàng, tựa như chú chim nhạn không thể bay đến phương nam tránh rét trước khi đông về bởi vì bệnh tật, chỉ có thể nhìn theo đồng loại rời bỏ mình. Ánh mắt điềm tĩnh nhưng lại thê lương như một đồng cỏ hoang vu, khiến người khác bất giác dấy lên lòng thương cảm.

    Thế là nàng được chàng mang đi. Tuy là một thân vương thất thế nhưng chàng dù sao vẫn là hoàng thân quốc thích, nếu muốn nàng vẫn có thể có thân phận mới, có tự do mình đã mơ ước hơn mười năm, nhưng đến cuối cùng nàng vẫn tự nguyện dùng nô tịch tiến vào vương phủ của chàng. Chàng biết rồi cũng không ngăn cản nàng, chỉ điềm tĩnh nhìn nàng, tôn trọng lựa chọn của nàng.

    Thoáng cái mà đã nhiều năm như vậy.

    Nàng nói không rõ tình cảm đối với Gia Cát Nguyệt là gì, nhưng qua chừng đó thời gian cùng chuyển biến, mọi hận thù và quyến luyến như đã không còn ranh giới, cuối cùng biến thành một loại tình cảm vô cùng phức tạp, nàng không hiểu được mà cũng không muốn tìm hiểu. Nhưng nàng biết rõ cảm xúc của mình dành cho Triệu Tung, không phải báo ân cũng không phải cảm kích, chỉ đơn giản là muốn ở chùng chàng, hy vọng ánh mắt của chàng có thể nhìn về phía mình, hy vọng trong lòng chàng có mình. Nhưng cả tâm nguyện nhỏ nhoi này dường như cũng khó lòng được thỏa mãn.

    Cuộc đời này của nàng từng yêu hai nam nhân, nhưng cả hai người đều yêu cùng một nữ nhân khác, mà cô gái đó lại chính là vị tỷ tỷ từng có đại ân với nàng.

    Vận mệnh, thật sự có rất nhiều chuyện khôi hài.

    Vì vậy mà suốt những năm tháng dài đằng đẵng, trong trí nhớ của nàng luôn hằn sâu một bóng dáng kiên cường dũng cảm, luôn có nhiều cảm xúc phức tạp đối với người tỷ tỷ kia. Cho nên, lúc nhìn thấy tỷ tỷ, nàng đã gần như không thể khống chế được lý trí của mình.

    Có điều, những chuyện đó đã không còn đáng kể nữa. Tất cả đều đã qua rồi, nàng bây giờ muốn đi theo chàng, những thứ khác cứ để chúng tan thành mây khói đi.

    Thân phận khác biệt thì sao? Tàn hoa bại liễu thì sao? Lòng chàng có người khác thì sao? Nàng muốn đi theo chàng, dù trở ngại có thể ngăn trở nàng, nhưng tuyệt đối không thể khiến nàng từ bỏ quyết tâm.

    Nàng ngẩng đầu lên, suốt bốn năm, đây là lần đầu tiên nàng mặc y phục nữ đứng trước mặt chàng, lần đầu tiên tỉ mỉ điểm trang đến đối mặt với vị hoàng tử thân phận cao quý nhưng thất thế này. Ánh mắt sáng ngời trên khuôn mặt xinh đẹp, nàng nhoẻn môi cười rạng rỡ, nói: “Không phải ta càn quấy, ta chỉ muốn đi cùng ngài mà thôi.”



    Triệu Tung lạnh lùng cự tuyệt, “Đi theo ta làm gì? Mau trở về đi!”



    Tiểu Bát cũng không buồn nhìn, trực tiếp rút đoản đao ra đưa cho hắn, thản nhiên nói: “Ngài cứ một đao giết chết ta đi.”



    Triệu Tung nhăn mặt, quay sang nói với thư đồng: “A Giang, đuổi nàng ấy xuống xe.”



    “Mời tự nhiên.” Tiểu Bát ung dung phe phẩy văn tự trong tay, thoải mái nói: “Dù sao ta cũng có giấy phép rời thành, lại có văn tự chứng minh thân phận, đã không còn là nô lệ bị hạn chế đi lại nữa. Có lộ phí và ngựa trong tay, ngài đuổi thì ta đi, nhưng không thể cấm ta đi theo sau. Ta có thể cứ vậy mà cùng đường đến Khương Hồ, ngài mặc kệ ta thì ta có thể tìm chỗ nào gần gần nghỉ ngơi. Tuy ngài là hoàng tử Đại Hạ, nhưng không có nghĩa là được quyền cấm cản một thường dân tuân thủ kỷ cương như ta ra ngoài du ngoạn.”

    Tiểu Bát thản nhiên nhìn Triệu Tung, vẻ mặt vô cùng tự tại, không chút khó chịu bất an, cũng không hề có điểm kinh hoảng luống cuống nào. Nàng cứ như vậy ngước nhìn hắn, ánh mắt trong trẻo không dao động, chiếc cằm thon thon khẽ hất lên, dáng vẻ bướng bỉnh vừa giống như một đứa trẻ đang giận dỗi lại vừa như con bạc bốc đồng.

    Triệu Tung nhìn nàng, đột nhiên cảm thấy chua xót. Qua nhiều năm như vậy, dường như đây là lần đầu tiên hắn không qua nàng nhìn thấy bóng dáng của người nọ mà chân thật nhìn thẳng vào dáng vẻ kiên quyết quật cường của thiếu nữ trước mặt. Hắn lẳng lặng nói, ngữ khí trầm khàn như gió thu quét qua đống lá khô, mang theo vẻ tiêu điều thê lương, “Nàng rốt cuộc có biết hay không, bước chân ra khỏi thành Chân Hoàng, ta đã không còn là thân vương Đại Hạ nữa.”

    Tim Tiểu Bát chợt như bị đao nhẹ cứa, nhoi nhói đau. Nàng nhìn vẻ mặt cô đơn của Triệu Tung, trong ngực dần dấy lên một ngọn lửa. Thần sắc vẫn không biểu hiện điều gì, nàng hừ lạnh một tiếng, thờ ơ nói: “Là ai thì liên quan gì đến ta? Không cho ngồi chung xe thì thôi, ta tự mình đi đằng sau.” Dứt lời lập tức nhỏm người định nhảy xuống xe.

    Ngay lúc đó, cổ tay nhỏ nhắn của nàng chợt bị ai đó bắt lấy, các ngón tay dài xương xương dùng lực nên hơi trắng, lòng bàn tay đầy vết chai, tuy là tai trái nhưng lại linh hoạt dị thường.

    “Coi như ta chưa nói gì.” Một giọng nói trầm khàn lẳng lặng vang lên, Triệu Tung bất đắc dĩ phẩy tay, “A Giang, đi thôi.”



    A Giang sửng sốt, còn đang cứng mồm cứng lưỡi thì Tiểu Bát tiến lên cốc một cái lên trán cậu, khẽ quát:“Còn không mau đi? Chờ chủ tử ngươi đổi ý đuổi ta đi sao?”



    A Giang thật thà cười mấy tiếng rồi vung roi lên. Cỗ xe ngựa chậm rãi lăn bánh, ánh sớm lấp lánh phủ xuống bốn phía.

    Rời khỏi thành Chân Hoàng, rời khỏi Đại Hạ, chàng không còn là thân vương Đại Hạ, nàng cũng không còn là danh kỹ đứng đầu kinh thành một thời. Cát thuộc về cát, đất về với đất, cảm tạ ông trời đã trả cho bọn họ một cơ hội tìm lại cuộc đời mới trước khi bão táp đến.

    Từ trong rừng hồ dương rậm rạp, một cô gái khoác áo choàng xanh đen thúc ngựa đi ra, Hạ Tiêu đi không xa phía sau. Lần lượt có mấy tiêu đội đi qua trên đường, bụi đất dấy lên mù mịt nhưng nàng vẫn như không nhìn thấy, chỉ một mực dõi mắt nhìn theo cỗ xe ngựa bọc vải xanh dần đi xa, thật lâu cũng không nói gì.

    Tạm biệt, người bạn từ thuở bé của nàng. Tạm biệt, muội muội của nàng. Tạm biệt, hai con người nàng có lỗi nhất cuộc đời này.

    Mặt trời dần lên cao, gió Bắc vẫn rít gào bốn phía. Sở Kiều chậm rãi thu hồi tầm mắt, lẳng lặng ngẩng đầu lên.

    Đây là Đại Hạ, là mùi vị của Đại Hạ, là gió Đại Hạ, là quá khứ và tương lại của nàng, người nên đi đã đi rồi, người ở lại phải tiếp tục đối mặt với cuộc sống. Bất kể là khốn cảnh hay nghịch cảnh, bất kể con đường trước mắt có gập ghềnh chông gai đến thế nào, mỗi người bọn họ đều có trách nhiệm phải gánh vác, có người luôn chờ đợi mình, cũng có người mình muốn bảo vệ.

    Nàng xoay người lại đối mặt với thành trì nguy nga sừng sững ở nơi xa, ở đó có vô số đình đài thủy tạ, có vô số cung điện tráng lệ, có hằng hà quyền lợi cùng dã tâm, cũng có hằng hà mưu kế cũng ám chiêu.

    Trước đó không lâu, nàng từng chán ghét tất cả những gì thuộc về nơi này, nhưng bây giờ nàng lại cam tâm tình nguyện bước vào cái lồng giam khổng lồ này, cũng giống như muội muội nàng tự nguyện làm nô lệ, đây đều là con đường các nàng chọn cho mình. Đó là chiến trường của nàng, nhưng nàng không hề cô đơn một mình, bởi vì trong chiếc lồng giam đó, luôn luôn có một người vĩnh viễn chờ đợi nàng.

    Như đôi chim liền cánh, sống chết không rời.

    “Hây!” Sở Kiều quát to một tiếng rồi thúc ngựa phi nước đại. Gió lạnh thổi qua bên tai hóa thành sương khói rồi lặng lẽ biến mất.

    Lời của Nâu: Nâu mà là em gái này thì sẽ ghét Sở Kiều kinh khủng (có lý do ghét đàng hoàng, không phải như Triệu Thuần). Bà tác giả hình như căm thù nữ giới, ngoài Kiều ra hình như nhân vật nữ nào cũng thê thảm dễ sợ (Triệu Thuần, Vũ cô nương, Hoàn Hoàn rồi giờ đến em này nữa.)

    P/S của người dịch: thật đáng tiếc là cả Triệu Tung và Tiểu Bát đều có thể có nhiều đất diễn hơn nhưng trùm Kiều đã ngốn hết câu chữ rồi, nên thôi, sự xuất hiện của Tiểu Bát chỉ để giúp kết cuộc của Triệu Tung không phải cô đơn một mình mà thôi. 4 người yêu Kiều, hình như chẳng ai không bị ngược hết, chỉ là cấp độ khác nhau mà thôi. Tính ra truyện này không ngược kiểu cẩu huyết, nhưng cũng dằn vặt quá trời.

    Còn 9 chương nữa.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  7. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 184: Không sợ khi có chàng

    Chớp mắt liền đến cuối năm, tuy một năm này cũng không được tính là mưa thuận gió hòa, nhưng trong ngoài thành Chân Hoàng vẫn tràn ngập không khí tưng bừng đón năm mới. Nửa tháng nữa là xuân yến nên phủ doãn đã dỡ bỏ lệnh cấm đi lại ban đêm ở hoàng thành, hội trưởng lão còn hạ lệnh giảm miễn thuế năm sau cho thương nhân để khuyến khích mua bán, thúc đẩy kinh tế phát triển, đồng thời lấy danh nghĩa của hoàng đế truyền chỉ lệnh cho chúng quan viện ở các tỉnh thành khác vào kinh triều bái, cũng ban thưởng khen ngợi rất hậu hĩnh cho các quan viên có thành tích xuất chúng.

    Cứ như thế, chưa quá ba ngày thì thành Chân Hoàng đã khôi phục vẻ náo nhiệt của ngày xưa. Được quan phủ khích lệ, lễ hội tất niên năm nay vô cùng xa hoa, phú hộ các nơi lần lượt vào kinh, tạo thành khung cảnh phồn hoa cẩm tú, ca múa tưng bừng. Bất kể thế cục bên ngoài hỗn loạn đến đâu, chiến sự ở biên quan căng thẳng đến thế nào thì người dân đế đô vẫn đắm chìm trong mộng ảo do thiên triều dệt nên.

    Gió lạnh xuyên qua màn cửa mang theo hương vị ấm áp của phương nam rồi bay về phía bắc xa xôi.

    Cùng với tình hình chiến sự với Bắc Yến ở biên giới Tây Bắc càng ngày càng căng thẳng thì Gia Cát Nguyệt cũng ngủ càng lúc càng muộn, có nhiều hôm còn thức trắng đêm. Nến trong thư phòng chảy xuống chất đầy trên giá, rọi lên khuôn mặt càng lúc càng đăm chiêu của chàng, sống lưng cao ngất, thẳng tắp như một ngọn trường thương.

    Ba ngày trước, Sở Kiều rốt cuộc gặp lại Triệu Triệt.

    Lúc đó có bão tuyết liên tục bốn ngày nên lớp tuyết trên mặt đất đã dày gần hai thước, hầu như không thể đi lại. Mấy năm nay thân thể Sở Kiều vẫn luôn không tốt mỗi khi trời trở rét, nên nàng càng không muốn ra khỏi cửa, cả ngày giấu mình trong phòng ngủ.

    Tối hôm đó, từ xa đã nghe được tiếng cười của Gia Cát Nguyệt, Sở Kiều trở mình trên giường, khẽ nhíu mày, vừa hé mắt ra thì cảm giác được khí lạnh ập đến phải rùng mình một cái, kéo chăn bọc quanh người rồi nhỏm người dậy. Ngay sau đó, Gia Cát Nguyệt vén màn lên, cười nói với nàng: “Tinh Nhi, nhìn xem ai đến này?”

    Triệu Triệt ngược sáng đi vào, người mặc trường bào tuyền đen, không có bất kỳ hoa văn hay vật phẩm trang sức gì, toàn thân như được bao phủ trong khí tức điềm tĩnh. Hắn vẫn như xưa, ngoài việc hình như cao hơn một chút, gầy đi một tí thì khuôn mặt không hề thay đổi, nhưng sự cao ngạo cùng ngông nghênh trong mắt năm đó đã được thay bằng vẻ điềm tĩnh trầm lắng, cho dù là đang cười thì nụ cười kia vẫn ẩn chứa ba phần xa cách phòng bị. Hắn bình thản chào hỏi nàng, vẫn cùng một kiểu, khẽ gật đầu rồi cười nhạt:“Cuối cùng cũng gặp lại.”

    Phòng bếp liên tục đưa thức ăn lên, Triệu Triệt có mang theo rượu của người Khương từ phương bắc, vị rất cay, vừa mở nắp ra thì mùi rượu thơm nồng đã xộc vào mũi.

    Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt cùng nhau uống rượu trò chuyện, ngoại trừ vài chuyện chính sự thì cũng thỉnh thoảng chọc ghẹo chế giễu nhau mấy bận, nhưng không khí vô cùng vui vẻ ôn hòa.

    Gia Cát Nguyệt có rất ít bạn bè, trên đời này, có thể ngồi nói chuyện với chàng như vậy, có lẽ trừ người này ra thì không còn ai khác nữa. Sở Kiều im lặng ngồi một bên, thi thoảng nhấp ngụm rượu, nghe bọn họ nói về những chuyện xưa, chuyện lúc còn trẻ ở Giảng Vũ Đường nhìn nhau không thuận mắt thế nào, lớn lên thì ai cũng mắt đặt trên đầu, mãi đến khi xảy ra chiến sự, triều đình rung chuyển, đế quốc lung lay thì bọn họ mới dần tiến gần nhau hơn.

    Xuất thân cao quý như nhau, thân phận bất phàm như nhau, lòng đều mang hoài bão, bụng đều có tài thao vĩ lược. Hai thiếu niên hào hùng, hết lần này đến lần khác bị đất nước bị gia tộc ruồng rẫy vì chối bỏ thế tục. Cùng cao ngạo cực đoan, tùy hứng cố chấp như nhau, đều là kẻ phản bội trong mắt gia tộc vì nâng đỡ người ngoại tộc. Cùng chào đời và lớn lên trong nhung lụa, cùng bò dậy từ vũng bùn, từng bước trở về trung tâm quyền lực. Chẳng qua, lòng dạ dù cứng rắn như sắt thì vẫn ôm ấp nhiệt huyết nam nhân, tình bạn giữa nam nhân, rất nhiều lúc không cần nói ra cũng hiểu được.

    Sở Kiều lẳng lặng ngồi nhìn hai người, Gia Cát Nguyệt hiếm khi hào hứng như vậy, nàng cũng chưa từng thấy bộ dạng phóng khoáng bất kham này của Triệu Triệt.

    Trong một thoáng, nàng tựa như nhìn thấy hai gốc bạch dương dầm mưa dãi nắng, vai kề vai từ từ trở thành cổ thụ cao chọc trời.

    Trong đầu bất giác xuất hiện một bóng dáng khác, trong những năm tháng tăm tối đó, khi Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt còn chưa sánh vai chìm nổi trong thế sự vô lường thì nàng cũng từng cùng một người sánh vai vượt qua mọi chông gai. Chỉ có điều bọn họ cuối cùng lại không thể cùng đến một đích.

    Tối hôm đó Gia Cát Nguyệt đã uống đến say mèm, tửu lượng của chàng trước giờ không quá tốt, luôn tự biết giới hạn của bản thân mà dừng lại đúng lúc. Chỉ là hôm nay gặp lại bằng hữu nên chàng mới có hơi buông thả.

    Nhưng Sở Kiều lại biết, là vì chàng đã quá mệt mỏi rồi.

    Mấy ngày nay, khu vực Tây Bắc bão tuyết hoành hành không ngừng, mùa màng ở Tây Nam bị thất thu, một phần ba đế quốc chìm trong lũ lụt, lương thực vật dụng triều đình đưa đến tiếp tế cho nạn dân đều bị quan lại địa phương và thế gia đại tộc bòn rút không còn gì. Triệu Dương là người nắm quyền ở phía tây nhưng lại dung túng thuộc hạ công khai tham ô nhằm lấy lòng giai cấp thượng tầng, tranh thủ sự ủng hộ của bọn họ. Không đến nửa tháng mà phía tây đã chết hơn hai mươi vạn dân, hơn trăm vạn dân chúng ngàn dặm xa xôi chạy nạn đến phía nam, phía đông, thậm chí còn có người chạy đến Tây Bắc. Rất đông dân chúng kéo đến tụ tập ở trước Nhạn Minh Quan, Đường Hộ Quan và Diệu Quan, mỗi ngày đều có hàng trăm hàng ngàn người chết vì đói và rét. Nhưng đế đô tình nguyện tổn hao vàng bạc sửa chữa cung điện chuẩn bị cho xuân yến chứ không nguyện ý phân phát lương thực, tranh thủ cho người dân một con đường sống.

    Gia Cát Nguyệt đã viết hơn mười tấu chương can gián, nhưng trừ ít quan lại không có thực quyền thì văn võ cả triều không một ai nguyện ý ủng hộ hắn. Tấu chương của hắn bị xếp xó, bị dẹp sang một bên, quan lại triều đình chạy theo tiếng gọi hưởng lạc, hội trưởng lão như bị sâu mọt đục mắt, chỉ có thể nhìn đến mảnh đất lớn cỡ một bàn tay, thoải mái nhận lấy lời ca tụng công đức của quan viên địa phương, còn lại đều làm như không thấy thực trạng thiên tai.

    Gia Cát Nguyệt nói ở địa phương bị thiên tai nghiêm trọng, dân chúng phía tây đã chết hai mươi vạn. Bọn họ lại nói Đại Hạ bốn bề thái bình, người dân vui vẻ an hưởng, cuộc sống sung túc, chỉ trích hắn xàm ngôn.

    Gia Cát Nguyệt nói số dân chúng tụ tập ở Nhạn Minh Quan, Đường Hộ Quan và Diệu Quan đã lên đến vài chục vạn, một khi người dân cùng đường nổi dậy, chắc chắn sẽ trở thành đại họa. Bọn họ lại nói phòng thủ ở ba nơi đó kiên cố cỡ nào, ngoài quan ngoại là hoang nguyên rộng ngàn dặm, người dân biên thành đêm ngủ không cần đóng cửa, một bóng trộm cướp cũng không thấy.

    Gia Cát Nguyệt nói tồn vong của Đại Hạ ở ngay trước mắt, hội trưởng lão lừa mình dối người, triều đình vô lương, quan viên địa phương tham ô vô tội vạ, nếu không trừng phạt thì ắt xảy ra đại loạn. Bọn họ lại vu ngược rằng hắn vô liêm sỉ, cố tình nhiễu loạn triều đình, muốn tự mình chuyên quyền.

    Trên triều ngày nào cũng có khẩu chiến, nước miếng văng tứ tung, trong khi đó ở dân gian người chết càng lúc càng nhiều. Bọn họ tùy tiện lấy ra một bức thư do đô đốc Lũng Tây gửi đến, trong thư toàn lời lẽ khen ngợi công đức của triều đình, hoàng đế nhân từ bác ái, Đại Hạ phồn vinh lớn mạnh, sau đó trách cứ hắn không có chứng cứ mà dám phỉ báng trọng thần trong triều.

    Chứng cứ? Còn cần chứng cứ?

    Nàng từng nghe thấy Gia Cát Nguyệt ở trong thư phòng giận dữ mắng chửi bọn tướng lĩnh biên quan, tức đến mặt xanh mét, hai mắt lộ hung quang.

    Dân chúng chạy nạn tụ tập đông nghịt trước ba cửa khẩu bọn họ làm như không thấy, khu vực phía tây la liệt xác người bọn họ làm như không thấy, tiếng gào khóc chấn động trời đất bọn họ làm như không nghe. Hôm nay bọn họ dùng một bức thư ca tụng công đức tùy tiện lấy được ở một địa phương nào đó tự lừa mình dối người, vậy mà còn mặt dày hướng hắn đòi chứng cứ?

    Tối hôm đó, trước khi ngủ Gia Cát Nguyệt đã trầm mặc hồi lâu, sau đó nghiến răng nghiến lợi nói bên tai nàng rằng chàng chỉ hận không thể dùng một đao chém chết hết đám sâu mọt kia.

    Lúc nói câu đó, ngữ khí của chàng trầm khàn, đè nén đến mức Sở Kiều đột nhiên cảm thấy sống lưng ớn lạnh. Nàng đưa tay ôm ngang hông chàng, sờ lên tay chàng, cảm thấy cả người chàng đang căng lên vì giận, nắm tay siết chặt, lạnh lẽo như băng.

    Nhưng Sở Kiều cũng biết, chàng chỉ có thể nhất thời nói ra miệng vậy thôi. Ngay cả quyền thế nghiêng trời như chàng, địa vị bất phàm như chàng, tay nắm binh quyền như chàng, ngay cả khi bản thân và gia tộc đã ngoảnh mặt làm người dưng thì vẫn có chút chuyện, có mấy người, có những trách nhiệm cả chàng vẫn bất đắc dĩ không thể bỏ mặc.

    Hạ hoàng trước đó vẫn luôn trầm lặng, tuy vậy mấy ngày nay sức khỏe hoàng đế đã dần tốt hơn, thỉnh thoảng còn có thể vào triều để ý chính sự. Đối với vị hoàng đế thâm tàng bất lộ nhiều năm này, không ai dám có nửa điểm khinh thường. Bao nhiêu năm qua, Hạ hoàng dường như luôn giữ dáng vẻ như vậy, lúc nào cũng thờ ơ không quan tâm, nhưng chỉ cần có người hơi bước qua giới hạn thì chắc chắn sẽ có kết cuộc diệt vong. Sự kiện vua sư tử Bắc Yến bị chém cả nhà, bị tịch thu gia sản mười bốn năm trước chính là một ví dụ đẫm máu.

    Thế nhưng bây giờ ai cũng có cùng một ý nghĩ, hoàng đế dù sao cũng đã già, ông ta không phải thần tiên, không thể sống mãi mà không chết. Hiện tại cuộc chiến tranh giành hoàng vị chỉ còn lại Triệu Triệt và Triệu Dương, ai có thể lấy lòng hoàng đế, ai làm hoàng đế vui lòng thì sẽ có nhiều phần thắng hơn. Cho nên, hoàng đế khó khăn lắm mới vui vẻ được một chút nhờ bức thư ca tụng công đức kia, có ai dám sát phong cảnh mang tình hình thiên tai ở phía tây chạy đến phá hoại tâm tình của hoàng đế chứ? Cả Triệu Triệt cũng không khỏi e dè miệng lưỡi của đám thế gia đại tộc ở khu vực phía tây.

    Lúc đó Triệu Triệt không có mặt trong thành, Gia Cát Nguyệt đành phải tự mình chống đỡ, không ngừng vận động từ Hộ bộ, bộ lương thực đến thương nhân giàu có trong thành tích chút bạc ít ỏi và lương thực chuyển đến ba cửa khẩu, nhưng thế nào thì cũng như muối bỏ biển.

    Có một lần, lúc binh tướng ở Diệu Quan đang phân phát lương thực thì xảy ra chuyện, không đủ gạo nên cháo nấu rất loãng, một binh sĩ nhất thời nặng lời với dân chúng oán trách bọn họ phát cháo như nước lã nên dẫn đến xung đột. Cuộc ẩu đả khiến binh sĩ tử vong hơn ba mươi người, dân chúng cũng mất mạng hơn năm mươi, bị thương gần trăm người.

    Lúc Nguyệt Thất đến báo tin thì Gia Cát Nguyệt đang ở trong thư phòng, trùng hợp Sở Kiều cũng ở đó. Nàng từ trước đến giờ không hỏi đến chính sự của Gia Cát Nguyệt, nhưng thỉnh thoảng có nghe được chút ít, mà Gia Cát Nguyệt cũng chưa bao giờ giấu nàng. Đám quan lại nhân chuyện này đã chỉ trích công kích Gia Cát Nguyệt hết lời, dân chúng ở Diệu Quan mắng chửi cùng oán hận Gia Cát Nguyệt ra sao, tất cả đều được Nguyệt Thất báo lại đầu đuôi. Những người đó mắng hắn tham ô lương thảo tiếp tế, mắng hắn cẩu quan, quỷ hút máu, lòng dạ hiểm độc, mắng hắn tàn sát dân chúng, mắng hắn lòng dạ lang sói, rủa hắn đoạn tử tuyệt tôn.

    Gia Cát Nguyệt lắng nghe mà mặt không đổi sắc, chỉ hơi liếc mắt ra hiệu không được giấu giếm mỗi khi Nguyệt Thất chần chừ không muốn nói tiếp.

    Nguyệt Thất đi rồi mà Sở Kiều vẫn không dám đến gần Gia Cát Nguyệt. Chiều hôm đó nắng rất chói mắt, chàng ngồi trên ghế, im lặng uống trà, tựa như chưa từng xảy ra chuyện gì. Nhưng Sở Kiều nhìn thấy được phía đáy chén trà hơi nhỏ nước, chén trà trong tay Gia Cát Nguyệt đã bị chàng bóp mạnh đến mức rạn nứt.

    Đúng vậy, bọn họ sắp chết rồi, bọn họ đói quá rồi, thiên tai nhân họa lần lượt ập xuống, bọn họ đã không còn đường sống mà quan phủ còn tham ô, còn vơ vét của cải, bọn họ dĩ nhiên sẽ mắng. Nhưng bọn họ lại không biết, triều đình đã ngầm mắt nhắm mắt mở cho qua chuyện này, không ai buồn phái người đến địa phương tra xét, mọi sự kiện hỗn loạn ẩu đả đều bị mạnh mẽ ém nhẹm. Lý do được đưa ra là, chuyện gì cũng phải chờ đến sau xuân yến mới có thể thượng tấu.

    Bọn họ không biết, mỗi hạt gạo mỗi chén cháo bọn họ có được hiện giờ đều là do Gia Cát Nguyệt bán sạch sản nghiệp ở nơi khác mới gom góp được. Chàng là người kiêu hãnh như vậy nhưng lại hạ mình đi nhờ cậy đám thương nhân trong kinh thành, cầu xin họ chung tay giúp đỡ người dân vượt qua một năm mất mùa này.

    Chàng mệt mỏi quá rồi, mệt đến mức muốn buông xuôi tất cả, thế nên mới mượn rượu tìm quên, mắng hoàng đế ngu xuẩn, triều đình bất lương, mắng Triệu Dương là đồ ngu, còn tuyên bố tối nay phải chặt đầu Triệu Dương xuống.

    Gia Cát Nguyệt uống đến say khướt.

    Tối đó, Sở Kiều tự mình đưa Triệu Triệt cũng đã lúy túy xuất phủ. Nhưng vừa ra khỏi cổng chính, vị hoàng tử vốn chân nọ xọ chân kia lại chợt đứng thẳng người lên, đáy mắt không còn chút men say, tỉnh táo nói với nàng: “Trở vào đi, chăm sóc hắn cho tốt.”



    Sở Kiều lẳng lặng nhìn Triệu Triệt, không nói một lời.

    Sắc mặt Triệu Triệt vô cùng thanh tỉnh, bọn họ cứ thế đứng đối diện nhau, mơ hồ như trở lại rất nhiều năm trước, khi Đại Hạ vẫn còn hùng mạnh, có thể nói là đứng đầu tam quốc. Hắn là đứa con tâm đắc nhất của hoàng đế, còn nàng là nữ giáo đầu vừa được hoàng đế tự mình bổ nhiệm. Khi đó, nàng đứng dưới màn đêm đen nhánh, đối mặt với tiếng chém giết rền vang ngoài doanh trại, lãnh đạm nói với hắn: “Bây giờ ngươi ra khỏi đại doanh chính là tự tìm đường chết.”

    Thế sự ly kỳ, lúc đó bọn họ một lòng ám toán nhau, phòng bị lẫn nhau, sao có thể ngờ sẽ có một ngày cùng chung chiến tuyến, trở thành chiến hữu của nhau?

    “Tình thế đã đến nước này, cả ta cũng không thể nhúng tay, nếu cứ tiếp tục thì sẽ phải đối nghịch với toàn bộ giai cấp thượng tầng của Đại Hạ. Chúng ta bây giờ vẫn chưa đủ thực lực làm vậy.” Triệu Triệt trầm giọng nói, trên mặt vẫn không chút gợn sóng.

    Sở Kiều cũng không nhìn hắn, nhưng vừa xoay người định đi thì Triệu Triệt đột nhiên gọi tên nàng. Nàng quay đầu lại, nhìn thấy hắn rất chân thành nói với mình: “Lão Tứ là người tốt, chớ phụ lòng hắn.”

    Hai mắt Sở Kiều dần nheo lại thành một đường, che giấu cái nhìn sắc bén như gươm bên trong, nàng nhẹ giọng đáp lời: “Ngươi cũng vậy.”



    Một câu mơ hồ không rõ.

    Ngươi cũng vậy? Cũng vậy cái gì? Cũng là người tốt?

    Dĩ nhiên không phải, Triệu Triệt biết Sở Kiều muốn nói gì, nhưng trước khi hắn trả lời thì nàng đã xoay người rời đi, bóng lưng nàng mảnh mai, yếu ớt tựa như một cơn gió cũng có thể thổi bay.

    Chàng là người tốt, ngươi cũng đừng phụ lòng chàng.

    Bầu trời đen nhánh trải đầy tinh tú lấp lánh, gió từ xa thổi tới, Triệu Triệt hít một hơi thật sâu, như thậm chí có thể ngửi được mùi vị đói khổ từ phía tây truyền đến.

    …………………………………………………………………………………………………………………

    Lúc Sở Kiều trở về phòng thì hạ nhân đã lui xuống hết, cả Gia Cát Nguyệt vốn say mềm trên giường cũng không thấy bóng dáng. Nàng đi thẳng đến thư phòng, quả nhiên vừa mở cửa ra thì đã thấy chàng ngồi ngay ngắn trước thư án, ánh mắt thanh tỉnh, tay múa bút thành văn.

    Nàng im lặng đứng đó thật lâu, chờ chàng viết xong, bỏ thư vào niêm kín thì mới chậm rãi đi tới, kéo tay chàng ra, sau đó lẳng lặng ngồi xuống gối đầu lên đùi chàng, không nói tiếng nào.

    Nến trong phòng lặng lẽ cháy, thỉnh thoảng xẹt ra tia lửa kêu *tí tách*. Lò hương tỏa khói lượn lờ, những ngón tay thon dài của Gia Cát Nguyệt nhẹ nhàng luồn qua mái tóc dài mượt của Sở Kiều.

    “Tinh Nhi.” Chàng thấp giọng gọi tên nàng, giọng nói đượm vẻ mệt mỏi đến cùng cực. Chàng chỉ gọi một tiếng như thế rồi không nói gì nữa.

    Sở Kiều nghiêng mặt nằm lên đùi Gia Cát Nguyệt, chóp mũi đều là mùi hương quen thuộc của chàng, nhỏ nhẹ nói với hắn, giọng nói dịu dàng của của nàng tựa như con sóng nhỏ, lẳng lặng quanh quẩn bên trong phòng, “Ta đều hiểu mà.”



    Đầu gối của chàng thoáng run nhẹ, sau đó, bàn tay đang nắm tay nàng càng siết chặt hơn.

    Đúng vậy, nàng hiểu hết. Hiểu hết mọi vất vả của chàng, hiểu hết mọi mệt mỏi của chàng, hiểu chàng đã thất vọng thế nào đối với đất nước này, hiểu chàng chán ghét tất cả những người xung quanh nhiều đến đâu.

    Hoàng đế u mê, các hoàng tử chỉ mải mê tranh đấu, quan lại vô năng, cơ cấu quốc gia gần như mục ruỗng toàn bộ. Trải qua bao chiến tranh khổ nạn, tận mắt nhìn thấy sự khổ sở của dân chúng hạ tầng, trở về từ vùng đất hoang dã cằn cỗi, Gia Cát Nguyệt càng thấy rõ bộ mặt ghê tởm của đám quan lại, nhận ra đất nước này đã hủ bại đến thế nào.

    Hắn vẫn khăng khăng là một phần tử trong cuộc chiến đoạt vị này, chẳng qua là vì còn ôm ấp hy vọng sau khi Triệu Triệt thượng vị sẽ thay đổi tất cả những cách nghĩ của hoàng tộc. Nhưng trước khi làm được chuyện đó, người dân phải làm sao mới có thể vượt qua mùa đông giá rét này đây? Hắn thậm chí còn không biết, lúc bọn họ đứng trên đống xương trắng của kẻ địch, đánh bại hết cả chướng ngại, đất nước này sẽ còn sót lại những gì?

    Kinh tế bị phá hủy, dân chúng lầm than, quân đội tổn thất, còn sót lại có lẽ chỉ có bọn họ, nguy cơ tứ phía, quang cảnh hoang tàn và thiên thiên vạn vạn thi thể chôn cùng với đất nước này.

    Quyền mưu, cái gọi là quyền mưu chính là sau khi tranh đoạt xong, tất cả đều bị hủy diệt. Cái giá nặng nề như vậy, bọn họ gánh nổi không?

    “Tinh Nhi, ta thật sự không phải là một người tốt.” Trước lúc bình minh, Gia Cát Nguyệt đã nhẹ giọng nói một câu như vậy.

    …………………………………………………………………………………………………………………

    Năm ngày sau đó là những chuỗi ngày u ám chấn động cả Đại Hạ và đại lục Tây Mông.

    Dân chúng tụ tập ở ba cửa khẩu rốt cuộc cũng nổi dậy làm loạn, bọn họ công phá cửa chính của các thế gia phía tây, đoạt lấy lương thực. Vì đói, bọn họ phải ăn xin, ăn xin không được thì ăn cắp, ăn cáp không được thì cướp bóc, cướp bóc không được, bọn họ cuối cùng cũng tạo phản.

    Quan bức dân, dân không thể không phản.

    Mấy chục vạn dân đen tay không tấc sắt, chỉ dùng gậy gộc và đá cuội ném vỡ cửa nhà các thế gia, khu vực Lũng Tây bốc khói đen mù trời, vô số người đã chết trong trận hỗn loạn này. Quan binh ở Lũng Tây trước sự công phá của nạn dân tựa như hình nhân giấy, yếu ớt như cọng lúa. Bất kể quan binh địa phương dâng tấu kêu gào nói loạn dân hung hãn cỡ nào, bên trong có cao nhân chỉ đạo ra sao thì cũng chẳng ai tin tưởng, tất cả chỉ cho rằng đó đều là ngụy biện cho sự vô năng của bọn họ.

    Ngay cả gã đô đốc mới dâng tấu ca tụng công đức triều đình lúc trước cũng kinh hoảng rối rít cầu cứu. Nhưng đám quan lại ở đế đô làm sao dám để hoàng đế biết được việc này, mới ca ngợi dân thái an sinh giờ bảo dân làm loạn? Đùa à? Cho nên bọn họ cũng chỉ có thể bí mật điều động quân đội đi bình loạn mà thôi.

    Nhưng Đại tư mã Gia Cát Nguyệt lại nói: “Đế quốc bốn bề yên bình, dân chúng Lũng Tây vừa mới dâng thư ca ngợi triều đình sao có thể nào đại nghịch bất đạo làm phản chứ? Chuyện này cần tra xét thêm.”



    Thế là chuyện điều binh bị kéo dài, mặc cho tình hình ở Lũng Tây càng lúc càng cấp bách. Ngày 24 tháng 12, một con khoái mã chạy vào kinh, gã binh sĩ người đầy máu tươi, tay cầm thư cầu cứu của đô đốc Lũng Tây là Tào Trường Thanh, hộc máu ngã xuống ngay trước điện Vinh Hoa.

    Thành Chân Hoàng như rung chuyển, hoàng đế tức giận mắng chửi Trung thư lệnh và đủ loại quan lại, cũng cắt bỏ phong hào Tây nam hầu của Triệu Dương ngay tại chỗ. Nhưng Triệu Triệt cũng không chiếm được lợi ích nào từ chuyện này, ngược lại là do Thập thất hoàng tử Triệu Nghĩa trước giờ vẫn thân tàng bất lộ thống lĩnh Tây nam quân rời kinh đi dẹp loạn. Gia Cát Nguyệt vì không nhanh chóng xuất binh bình loạn nên cũng bị hoàng đế phạt ở trong nhà tự kiểm điểm. Triệu Triệt mấy lần đến cầu xin cho hắn cũng bị hoàng đế đuổi đi.

    Song Sở Kiều lại biết trận náo loạn này từ đâu đến, lúc Triệu Triệt tìm đến phủ Tư mã, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt thì lập tức giận dữ mắng hắn là người điên. Gia Cát Nguyệt chỉ bật cười, nói như đinh đóng cột rằng mình chỉ muốn lưu lại chút vốn liếng để sau này Triệu Triệt đăng vị còn có cái để trị vì. Bằng không tất cả đều chết hết thì hắn làm hoàng đế để cai trị ai?

    Trận nổi loạn ở Lũng Tây đã khiến vô số người chết lẫn bị thương, thế gia phú hộ ở nơi này bị tiêu diệt hết bảy tám phần, thường dân chết gần tám vạn. Nhưng theo lời Gia Cát Nguyệt nói thì chết tám vạn còn hơn là mấy trăm vạn, ván cược này tính ra vẫn đáng giá.

    Đúng vậy, đúng thật là đáng giá. Thế gia ở phía tây nam diệt vong gần hết, thế lực của Mộc tiểu công gia bị tổn hại nghiêm trọng, Cảnh Hàm cũng bị ảnh hưởng, Triệu Dương bị hoàng đế khiển trách, tịch thu binh quyền. Triệu Triệt tuy không được lợi gì nhưng cũng không tổn hao gì. Chỉ có Gia Cát Nguyệt là bị cấm cửa trong nhà, tạm thời thối lui khỏi võ đài chính trị của Đại Hạ.

    Tất cả đều diễn ra theo trình tự kế hoạch của Gia Cát Nguyệt. Nhưng Sở Kiều vẫn nhớ được rõ ràng, mấy ngày đó, mỗi lần nghe đến tin tức dân chúng bị tàn sát, những gia tộc chính trực bị vạ lây chết cả nhà, binh lính thủ thành bị tiêu diệt, dân chúng vào rừng làm giặc… thì đêm đó chàng đều không ngủ được, trong lòng như có lửa đốt. Mấy ngày đó, chỉ cần có chút sơ sẩy gì, nếu số nhân mã chàng bí mật phái ra bình ổn loạn dân không thể thành công tránh né binh lính địa phương, không thể phát động ít quân lính địa phương tạo phản, số người chết nhất định không chỉ dừng lại ở tám vạn, toàn bộ khu vực tây nam nhất định sẽ chìm trong khỏi lửa chiến tranh, hậu quả sẽ không tưởng.

    Bọn họ nói đúng, chàng thật sự là một người điên.

    Sở Kiều lo lắng chàng bị biếm quyền mà mất ý chí, chàng lại an ủi nàng rằng: rốt cuộc cũng có thể ở nhà nghỉ ngơi chơi với nàng một thời gian.

    Xuân yến rốt cuộc cũng đến, cổng chính và khoảng sân trước phủ Tư mã từng quyền thế nhất triều hiện hết sức vắng vẻ, nhưng không khí bên trong lại đầy ắp tiếng cười.

    Tuy khu vực tây nam có chiến loạn nhưng vẫn không ảnh hưởng gì đến sự náo nhiệt phồn hoa ở đế đô khi xuân yến cận kề. Phố lớn phố nhỏ đều tấp nập người đi, quan phủ tổ chức đốt pháo hoa trên quảng trường Tử Vi, tiếng cười của người dân xuyên qua tường ngói dày nặng, theo gió nhẹ nhàng truyền vào trong tòa phủ đệ canh phòng cẩn mật của Đại tư mã.

    Từ ba ngày trước Gia Cát Nguyệt đã ra lệnh cho hạ nhân trong phủ bắt đầu trang hoàng đón năm mới, đèn lồng đỏ được treo quanh hành lang gấp khúc, song cửa được sơn đỏ, đám nha hoàn khéo tay tỉ mỉ cắt đủ loại hình giấy dán lên cửa sổ, có Đông Hải Thọ Tinh, Tây Lăng Lộc Thọ, Bát Tiên Quá Hải, Quan Âm Tống Tử, tất cả đều rất tinh xảo tỉ mỉ. Hoa được mang ra khỏi nhà kính bày biện khắp phủ, đủ sắc đủ loại, thơm ngát không gian. Các hạ nhân cũng đổi xiêm y mới, hồng đỏ rực rỡ, nhìn rất vui mắt.

    Gia Cát Nguyệt khôi phục cuộc sống ở Thanh Sơn viện rất nhiều năm trước. Hắn luôn là người biết tự ràng buộc bản thân, sinh hoạt rất điều độ, không như đám con cháu thế gia hễ có thời gian thì đi thả ưng, cưỡi ngựa, luyện võ. Hiện tại không bị bó buộc chính sự, cuộc sống trở nên nhàn hạ hơn rất nhiều, đều đặn điều dưỡng thân thể, rảnh rỗi thì đi chăm hoa, ngoài ra còn bị Sở Kiều bắt dậy sớm rèn luyện. Hai người mỗi sáng cùng nhau tỷ thí, vũ khí là đao thương gậy gộc đủ cả, lần nào cũng dẫn đến toàn bộ hạ nhân trong phủ kéo tới nhìn trộm. Lâu dần không thấy Gia Cát Nguyệt có phản ứng, gan của bọn hạ nhân cũng to hơn, thỉnh thoảng thấy hai người thi triển mấy chiêu đặc sắc thì còn rối rít vỗ tay trầm trồ tán thưởng.

    Cuộc sống cứ thế nhẹ nhàng trôi qua, tựa như trung tâm cơn bão, luôn tĩnh lặng đến mức đáng sợ.

    Năm mới đã đến trong bầu không khí lặng lẽ như vậy, Sở Kiều thay một bộ y phục mới rồi ngồi xuống trước gương chải tóc, sắc đỏ rực rỡ khiến người mặc nó như bừng sáng tựa bình minh mùa xuân vậy. Gia Cát Nguyệt đứng sau lưng nàng, bộ trường sam màu xanh khói trên người tô thêm vẻ tuấn tú bức người. Chàng tiện tay cầm lên một chiếc trâm ngọc trai, thuần thục búi gọn mái tóc đen mượt của nàng lại rồi cắm trâm vào.

    Sở Kiều nhìn mình trong gương, nhất thời có hơi hoảng hốt khó tin. Hình như nàng chưa bao giờ nhìn thấy mình như vậy, từ lúc còn rất nhỏ, nàng luôn cố chấp cho rằng phụ nữ mặc đồ đỏ nhìn rất thô tục. Sau này lại thường xuyên bôn ba chiến trường, nàng càng không có tâm trạng sửa soạn điểm trang. Nhưng hôm nay nàng ăn mặc như vậy, hai má hồng hồng như hoa đào, sóng mắt như hồ thu, ngay cả đầu mày khóe môi cũng không che giấu được vẻ hạnh phúc và thoải mái.

    Thì ra nói mặc đồ đỏ là thô tục, chẳng qua chỉ do lúc đó không có tâm trạng mà thôi.

    Mai Hương đứng một bên cười tít mắt nhìn nàng, mặt tràn đầy ý cười. Nhưng Gia Cát Nguyệt lại thủng thỉnh đi ra phía trước, nhìn vào gương cười một tiếng rồi nói: “Thật là nghiêng nước nghiêng thành.”



    Sở Kiều xấu hổ đẩy chàng ra, lỗ tai cũng đã đỏ ửng, nói: “Làm gì khoa trương đến vậy, chớ nói nhảm.”



    Gia Cát Nguyệt nhướng mắt nhìn nàng, cười nói: “Ta đang nói chính mình, hình như nàng nghĩ nhiều quá rồi.”

    Sở Kiều giận dữ muốn đưa tay cấu chàng. Gia Cát Nguyệt nhanh lẹ tránh được, quay sang nói với Mai Hương: “Nhìn tiểu thư của các ngươi kìa, ta không khen nàng đẹp nàng liền thẹn quá hóa giận.”



    Mai Hương cười toe toét, cũng không phản bác. Nắng sớm bên ngoài vô cùng ấm áp, xa xa văng vẳng tiếng pháo đì đùng.

    Nhiều năm như vậy, đây là năm mới thư thái nhất của Sở Kiều. Nàng tự mình xuống bếp dạy hạ nhân gói sủi cảo, thậm chí còn muốn lôi kéo Gia Cát Nguyệt cùng làm. Nhưng người nào đó theo chủ nghĩa đàn ông trịnh trọng khinh bỉ nhìn nàng một cái rồi phủi tay bỏ đi.

    Ăn bữa cơm tất niên xong, đốt pháo trúc rồi thắp sáng hoa đăng, Gia Cát Nguyệt ăn được miếng sủi cảo có nhân táo đỏ, đám hạ nhân liền rối rít tới chúc mừng hắn năm mới đại cát. Hắn vui vẻ liền hào phóng thưởng to, khiến khắp phủ đều là tiếng tạ ơn hớn hở. Cửa phủ vẫn đóng chặt, bất kỳ ai đến đều bị chặn bên ngoài. Đến nửa đêm, Triệu Triệt phái người đưa đến hai vò rượu ngon, Sở Kiều và Gia Cát Nguyệt cùng nhau đối ẩm. Sở Kiều uống đến đầu óc mơ hồ, loạng choạng ngã vào lòng Gia Cát Nguyệt.

    Bọn hạ nhân ở ngoài sân đốt pháo tưng bừng, cười nói vô cùng vui vẻ. Sở Kiều như mơ màng nhìn thấy khuôn mặt cười như hồ ly của Lý Sách, nàng với tay ra nhưng lại bắt hụt.

    Nàng thật sự đã say nhưng đầu óc vẫn còn rất tỉnh táo. Nàng bất giác lại nhớ đến những năm gần đây, nhớ đến Tiểu Thi, nhớ đến Miêu Nhi, nhớ đến Tiểu Hoàng, nhớ đến Lý Dương, nhớ đến các đồng nghiệp ở sở tình báo, nhớ đến người ông tóc bạc của mình, nhớ lại khoảng thời gian bôn ba gian khổ mấy năm nay, nhớ lại mấy lần lẩn quẩn giữa sống chết, nhớ đến Ô tiên sinh, nhớ đến Vũ cô nương, nhớ đến Kinh Tử Tô, nhớ đến rất nhiều người đã chết cũng như còn sống, nhớ đến Lý Sách, thậm chí nhớ đến cả Yến Tuân…

    Hạnh phúc đến quá đột ngột khiến nàng cảm thấy mình như đang nằm mơ.

    Nàng rúc trong lòng Gia Cát Nguyệt, chóp mũi đều là mùi đỗ quyên dễ chịu trên người chàng. Hốc mắt chợt cay cay, nàng ngẩng đầu lên nhìn sườn mặt nghiêng nghiêng của chàng, nói mà hai mắt đột nhiên sáng ngời: “Gia Cát Nguyệt, ta yêu chàng.”



    Gia Cát Nguyệt sửng sốt, cúi xuống nhìn nàng. Xung quanh hai người đều là hạ nhân, tiếng của nàng rất lớn, áp đảo cả tiếng pháo *đì đùng*. Tất cả mọi người kinh ngạc quay lại nhìn nàng nhưng nàng hoàn toàn không để ý, vẫn to giọng lặp lại: “Gia Cát Nguyệt, ta yêu chàng.”



    Một cơn gió thổi qua, có người thấp giọng cười trộm, tiếng cười đùa của Thanh Thanh và Mặc Nhi ở xa xa truyền lại. Mặt nàng đỏ hồng, hai mắt long lanh như có nước, ánh mắt nhìn thẳng vào mắt chàng. Điều dưỡng hơn nửa năm, nàng tựa như trở lại kiều diễm như lúc mười bảy mười tám. Nàng cứ như vậy nhìn chàng chằm chằm, cười híp mắt, trên mặt chỉ thiếu viết thêm hai chữ ‘hạnh phúc’ thật to mà thôi.

    Nàng đột ngột *A* một tiếng, cả người đã bị bế bổng lên. Trong ánh mắt trợn tròn của mọi người, Gia Cát Nguyệt bỏ mặc bàn thức ăn chỉ mới đụng vài miếng, ôm Sở Kiều trở về phòng ngủ.

    Áo ngủ gấm trên giường cũng là đồ mới tinh, toàn bộ đều mang sắc đỏ rực rỡ, mặt vải thêu thùa tinh xảo, có uyên ương nghịch nước, có Ngưu Lang Chức Nữ, có hỉ thước bắc thành cầu, có Quan Âm Tống Tử, khắp gian phòng đều là không khí ngọt ngào.

    Ánh mắt đen như mực hiện lên một tia dục hỏa, Gia Cát Nguyệt nới cổ áo, hung hăng nhìn Sở Kiều, nghiến răng nói: “Tiểu yêu tinh, không bao giờ cho nàng uống rượu nữa.” Dứt lời liền cúi đầu hôn mạnh lên môi nàng.

    Hô hấp của chàng càng lúc càng trở nên dồn dập, tựa như một ngọn lửa bốc cháy hừng hực khiến nàng tan chảy.

    Khóe mắt lộ ý cười, nàng vòng tay ôm lấy chàng, nồng nhiệt đáp lại.

    Màn lụa buông xuống, trước mắt Sở Kiều hiện lên muôn màu muôn sắc. Bên tai vẫn văng vẳng tiếng cười nói náo nhiệt ở ngoài sân.

    Sinh mạng vốn khúc khuỷu khó dò, ngươi không biết lúc nào sóng gió sẽ đến, sóng to bao nhiêu, liệu có thể vùi dập những điều trước mắt hay không. Tất cả tình cảm phải khổ sở đè nén khi trước, tất cả những lời nói chôn giấu bao năm, tất cả cảm xúc ẩn sâu trong lòng, cuối cùng cũng có cơ hội bộc lộ rồi.

    Thế sự khó lường, điều nàng có thể làm chính là quý trọng những gì đang có.

    Phía sau màn lụa tung bay, nàng nằm trên nệm mềm, bấu chặt lấy thân thể chàng, mồ hôi rịn khắp người, toàn thân mệt mỏi một cách thỏa mãn. Nàng nép vào lòng chàng, vuốt ve bờ vai của chàng, nhìn ra cửa sổ cách đó không xa, như mơ hồ thấy được phía sau màn pháo hoa đẹp đẽ chính là một bầu trời u ám, đẫm máu đầy chết chóc.



    Bất kể tương lai có ra sao, nàng đều không sợ hãi.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  8. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 185-1: Nghĩa trang Yến thị (1)


    Lại đến tết Nguyên Tiêu, cung Thịnh Kim chuẩn bị tiệc rượu linh đình, có lẽ vì muốn xoa dịu cảm giác buồn bực do trận bạo loạn hồi cuối năm mang tới mà dạ tiệc tối nay càng thêm phô trương, ngay cả tội thần bị phạt bế môn như Gia Cát Nguyệt cũng nhận được thiệp mời. Nếu là bình thường thì hắn có thể tùy tiện tìm lý do cáo ốm, nhưng nếu bây giờ làm thế thì sẽ khó tránh bị người có dụng ý xấu nhân đó vu hại. Vì vậy đêm xuống, Gia Cát Nguyệt đành khoác triều phục vào cung, phục sức và xe cộ cũng hết sức đơn giản, cố không để quá nổi bật.


    Sở Kiều ngây ngốc ở trong phòng, dạo gần đây trời lạnh nên nàng hay buồn ngủ, dễ mệt mỏi, cả ngày chỉ ăn rồi ngủ, người cũng đầy đặn hơn.


    Ngoài cửa đột nhiên truyền vào tiếng nói líu ríu, cửa phòng bị đẩy ra, Mặc Nhi e dè bước vào đi tới cạnh Sở Kiều, sắc mặt có hơi căng thẳng, cái mũi nhỏ đỏ ửng vì lạnh.


    “Mặc Nhi, có chuyện gì sao?”



    Mặc Nhi do dự một lúc, quay đầu nhìn ra cửa, hồi lâu sau mới nhỏ giọng hỏi: “Mẫu thân, hôm nay chúng ta không ra ngoài sao?”



    Tính ra thì Sở Kiều cũng chỉ lớn hơn Mặc Nhi có mười tuổi, ban đầu nàng nghe cậu bé luôn miệng ‘mẫu thân’ này ‘mẫu thân’ nọ với mình còn thấy hơi không tự nhiên, nhưng sau cũng dần quen.


    Nàng ngồi thẳng người lên, nhíu mày hỏi: “Ra ngoài? Đi đâu mới được?”



    “Hôm nay là tết Nguyên Tiêu mà, bên ngoài có hội miếu, có cả hội hoa đăng nữa.” Trong mắt Mặc Nhi thoáng lộ ra một tia hưng phấn.


    Sở Kiều quay đầu nhìn thì thấy ngoài cửa còn có vài thân ảnh đang thập thò ngó vào trong này. Mấy ngày nay Gia Cát Nguyệt bị phạt bế môn nên người trong phủ cũng rất ít khi ra ngoài. Nàng bẹo má Mặc Nhi một cái rồi cười nói: “Được, chúng ta ra ngoài chơi.”



    Đại lục Tây Mông rất rộng lớn, dựa theo cách tính ở hiện đại thì chắc khoảng hơn bốn mươi triệu km2 *, tương đương với năm nước Trung Quốc gộp lại. Vùng đất này có lịch sử nhiều năm, tuy nhiều lần xảy ra chiến loạn nhưng nhân khẩu vẫn rất đông đúc. Thành Chân Hoàng là kinh đô của Đại Hạ nên mật độ dân cư hết sức dày đặc.


    Sở Kiều và đám người cùng đi trên đường, bốn phía rực rỡ ánh đèn, đủ loại hoa đăng đua nhau khoe sắc, thu hút ánh mắt của người đi đường. Người dân trong thành từ nam đến nữ, từ già đến trẻ đều túa ra đường tham gia lễ hội. Các gánh biểu diễn tạp kỹ hò hét, người bán hàng rong chào mời, cảnh tượng vô cùng náo nhiệt.


    Tết Nguyên Tiêu năm nay náo nhiệt hơn so với năm trước, tiếng người cười nói cộng thêm tiếng chiêng trống ồn ào cả một khoảng trời.


    Bọn nhỏ chơi đùa đến quên trời quên đất, nhưng mới qua hơn một canh giờ thì bão tuyết đột ngột ập đến. Gió bắc gào rú xé rách hàng hoa đăng treo bên đường. Thanh Thanh hét to mấy tiếng giục mọi người lên xe ngựa, các thị vệ vung roi nhanh chóng đánh xe trở về phủ. Nhưng gió càng lúc càng lớn, đi đến một đoạn đường vắng vẻ thì một con ngựa kéo xe bị tuột dây cương, chạy sổng mất.


    Nguyệt Thập Tam chạy đến nói rằng gió tuyết quá mạnh, trước nên tìm chỗ tránh tạm đã.


    Sở Kiều gật đầu đồng ý. Vừa dịp nhìn thấy bên đường có một ngôi nhà lớn, đoàn người lập tức chạy đến gõ cửa, nhưng đến gần thì mới phát hiện đây chính là miếu an thần của vua sư tử Bắc Yến.


    Yến Thế Thành tuy xuất thân vương tộc nhưng vì bị đế quốc gán tội danh phản tặc nên không được an táng trong tông miếu. Nơi này trên danh nghĩa là miếu an thần, trên thực tế thì chính là một cái nghĩa trang, không chỉ có quan tài của Yến Thế Thành và gia quyến, còn có cả quan tài của thường dân ở gần đây. Lúc đầu triều đình còn phái binh sĩ nghiêm cẩn canh phòng ở đây, nhưng sau khi Yến Tuân trở lại Bắc Yến thì không còn thấy tử sĩ Đại Đồng Hành đến cướp lại thi thể nữa. Vì vậy nơi này càng lúc càng vắng vẻ, triều đình cũng không nguyện ý hao tốn binh lực vì một đống xương trắng nữa.


    Đoàn người đi vào sảnh chính, bọn hộ vệ đốt nến cùng đuốc tìm được, nhanh chóng rọi sáng gian phòng. Trong đại sảnh bày chi chít linh vị và hơn hai mươi cỗ quan tài, ánh nến tù mù tô thêm vẻ âm u của nơi này.


    Thanh Thanh sợ đến mặt trắng bệch, trốn sau lưng Đa Cát, níu chặt tay áo cậu, không còn hoạt bát như ngày thường.


    Mai Hương cười trêu cô nàng: “Không ngờ tiểu thư Thanh Thanh của chúng ta cũng biết sợ hãi, ta cứ tưởng muội là hỗn thế ma vương, không sợ trời không sợ đất đấy.”



    Mọi người nghe nói đều đồng loạt cười to, khiến không khí nhất thời dễ chịu hơn nhiều.


    Vinh Nhi đã sắp tròn một tuổi, cả ngày bi bô tập nói, chập chững đi tới đi lui như một chú vịt con vừa nở. Hôm nay bé mặc một chiếc áo bông đỏ chót có thêu chữ ‘phúc’, huơ huơ cánh tay mũm mĩm, ngáp một cái thật to rồi rúc vào trong lòng Sở Kiều tìm tư thế thoải mái nhắm mắt ngủ.


    Sở Kiều đứng dậy giao Vinh Nhi cho Mai Hương, khẽ nói: “Ta ra ngoài một chuyến.”



    “Tiểu thư, bên ngoài rất lạnh, người muốn đi đâu vậy?”



    Sở Kiều bảo Mai Hương đưa đến một hộp thức ăn, cầm lấy đèn lồng rồi nói: “Ta sang bên cạnh nhìn một chút thôi, không cần đi theo ta.” Dứt lời thì đi ra ngoài.


    Bên ngoài gió lớn kinh người, Sở Kiều sống trên đại lục Tây Mông gần mười lăm năm nhưng cũng chưa từng nhìn thấy gió mạnh như vậy. Đèn lồng trong tay tắt phụt, áo lông trên người cũng bị gió tốc cao, tuyết lạnh tạt vào mặt đau rát. Sở Kiều giữ chặt cổ áo, khó khăn đi từng bước một, đi hồi lâu thì đến trước một gian phòng tan hoang, chậm rãi đẩy cánh cửa ra.


    Gió thổi vào trong khiến lớp bụi dày trên sàn bị thổi tung, Sở Kiều ho khan mấy tiếng, nhanh chóng đóng cửa phòng lại, cũng tiện tay kéo một chiếc ghế đến chắn cửa.


    Căn phòng chìm trong vẻ tĩnh lặng chết chóc, dường như bên trong còn lạnh lẽo hơn cả bên ngoài, mái ngói trên trần bị thủng lỗ chỗ, gió thổi vào kêu *vù vù*. Bốn phía tối đen như mực nhưng Sở Kiều dường như rất quen thuộc với nơi này. Nàng móc từ trong góc ra một cái đánh lửa, chậm rãi thắp sáng toàn bộ nến ở đây.


    Trong phòng có bốn cỗ quan tài, không có linh vị, không có nhan đèn, không có cả bài vị. Xung quanh đầy cỏ dại và rác rưởi, vài cái bánh bao lạnh cứng, có thể thấy được nơi này đã bị biến thành chỗ dừng chân của ăn mày.


    Sở Kiều đặt hộp thức ăn xuống một bên rồi xắn tay áo bắt đầu quét dọn. Động tác của nàng rất nhanh nhẹn, không có dụng cụ nên nàng nhặt ít rơm rạ bó lại thành chổi, nhanh chóng quét hết rác bẩn ra ngoài, quét cả mạng nhện, khiến gian phòng nhìn sạch sẽ hơn rất nhiều. Nàng chậm rãi lấy từng đĩa đồ ăn trong hộp ra bày trên mặt đất, sau đó quỳ xuống vái lạy vài cái.


    Đúng vậy, bốn cỗ quan tài này thuộc về phụ thân, hai vị huynh trưởng và một vị tỷ tỷ của Yến Tuân. Những năm đó, mỗi lần đến ngày giỗ của Yến vương, nàng và Yến Tuân luôn trốn đến đây tế bái, khi đó nơi này vẫn còn có quan binh canh chừng chặt chẽ, bọn họ muốn lẻn vào phải tốn rất nhiều công sức. Vậy mà bây giờ nó lại trở nên hoang tàn đến vậy.


    Kể từ khi trở lại thành Chân Hoàng, nàng chưa từng có ý định đến đây bái tế, không ngờ hôm nay trời lại run rủi, đây có lẽ cũng là một loại duyên phận.


    Không có nhang đèn thì dùng huân hương thay thế, không có giấy tiền vàng thì dùng lụa đốt thay, không có rượu ngon thì dùng một bình sữa dê và hai bình trà.


    Yến vương điện hạ, ta lại đến thăm ngài đây.


    Nàng đứng dậy, hai đầu gối bám đầy bụi đất. Bông tuyết qua lỗ thủng trên nóc rơi vào phòng, phủ lên nắp quan tài. Nàng lẳng lặng nhìn bốn cỗ quan tài, cố gắng hồi tưởng lại những cái đầu đầy máu nhìn thấy khi xưa, lòng thoáng thấy thê lương.


    Trước khi bão tuyết tàn phá xuống Lũng Tây thì đã càn quét qua Bắc Yến. Nhà cửa của dân chúng bị gió thổi sập, Lạc thành bị ảnh hưởng còn nặng hơn, hàng vạn dê bò ở Thượng Thận đều bị chết rét, người dân đói ăn, Bắc Yến tràn ngập nguy cơ.


    Vậy mà trong lúc quan viên ở Đại Hạ vỗ tay ăn mừng thì Bắc Yến lại âm thầm triệu tập mười vạn binh tướng ở Long Ngâm Quan, băng qua cao nguyên Lan Hà, vượt qua dãy Mộ Lang cao hơn sáu ngàn thước so với mặt nước biển, vòng qua Đường Hộ Quan, tiến thẳng vào cảnh nội Biện Đường, đột ngột tập kích cửa khẩu, cướp đoạt hơn hai mươi vạn đấu lương thực rồi trở về Bắc Yến bằng khí thế sét đánh không kịp bưng tai, cả chiến dịch không tốn hơn bốn ngày. Đến khi chiến báo ở biên giới đến được Đường Kinh thì số binh tướng kia đã trở về đến Long Ngâm Quan, còn đánh xong hai trận với quân Hạ muốn nhân lúc Bắc Yến cháy nhà vào hôi của.


    Sự kiện này giống như một giọt dầu nhỏ vào chảo nước đang sôi, nổi lên sóng gió kịch liệt.


    Đại Hạ và Biện Đường cùng giận dữ nhưng lại chẳng làm gì được Yến Tuân, đám Ngự sử của Đại Hạ múa bút thành văn, mắng Bắc Yến quả nhiên xuất thân thổ phỉ, trời sinh quen thói đốt giết cướp bóc, không phải là người. Chúng học sĩ ở Biện Đường cũng lửa hận hừng hực, xối máu chó lên đầu tám đời tổ tông của Yến Tuân mà mắng, kích động đến mức suýt sùi bọt mép.


    Có điều bọn họ cũng chỉ có thể làm thế mà thôi. Long Ngâm Quan phòng thủ kiên cố, binh tướng lại hung hãn như hổ sói, dưới tình hình hiện giờ, bọn họ không bị tiến đánh đã làmừng lắm rồi, ai dám tới tận cửa khiêu khích Bắc Yến chứ?


    Lúc nghe được tin này, Sở Kiều không khỏi cười lạnh, có lẽ câu nói mềm sợ cứng, cứng sợ liều, chính là có ý này.


    Gia Cát Nguyệt thì vẫn giữ bộ dạng thờ ơ như cũ, không thèm để ý đến mấy lời hô hào đòi đánh của đám quan lại trên triều. Người nào chả biết Đại Hạ bây giờ còn chưa lo xong thân mình, tranh giành giữa các vị hoàng tử đã đến giai đoạn cao trào, ai có thời gian đi đánh đánh chém chém với bên ngoài chứ? Nói thì rất mạnh miệng, nhưng nếu hắn thật sự điều động binh mã kéo ra Nhạn Minh Quan, e mấy lão già kia mới giống như trong tấu chương của bọn họ, lấy cái chết để can gián.


    Lúc biết tin hắn cũng chỉ hơi kinh ngạc, nói không ngờ Yến Tuân lại có thể làm như vậy.


    Thật ra thì đâu chỉ có Gia Cát Nguyệt, e toàn bộ đại lục cũng chẳng ai ngờ được.


    Dù sao thì trước đó Yến Tuân cũng từng đem cả Bắc Yến làm vật cược, lấy trăm vạn quân dân là mồi nhử dẫn dụ quân Hạ vào lãnh thổ của mình rồi xua binh đánh phía đông. Không lâu sau đó còn thẳng tay đàn áp mọi thế lực chống đối, hoàn toàn tiêu diệt Đại Đồng Hành từng che chở bồi dưỡng mình, không nhân nhượng giết cả người từng là thầy mình.


    Vì vậy, chẳng ai ngờ được hắn sẽ vì dân chúng Bắc Yến mà mạo hiểm lớn như vậy.


    Ngay cả Sở Kiều cũng nghĩ không ra vì sao.


    Có điều, cũng may thống lĩnh ở Đường Hộ Quan vốn là nghĩa tử của Tĩnh An vương, tuy sau khi Tĩnh An vương bị đánh bại, hắn kịp thời vào kinh bày tỏ lòng trung, nhưng người này nắm giữ binh quyền, lại canh giữ vị trí quan trọng với Biện Đường như vậy, quả thật vẫn không thể khiến người khác hoàn toàn yên lòng. Lần này Yến Tuân dẫn quân trừ khử hắn, tính ra với Biện Đường cũng chẳng phải là tổn thất một tướng tài.


    Về phần chút ít lương thảo bị cướp đi kia…


    Sở Kiều khẽ nhíu mi tâm, trong đầu lại hồi tưởng đến cao nguyên Thượng Thân nàng từng sinh sống nhiều năm, và cả những người dân hiền lành chất phác kia…


    Thủ đoạn của Yến Tuân càng ngày càng lợi hại, che giấu thâm sâu, hành động nhanh nhẹn dứt khoát, điều động hơn vạn binh tướng mà không để lọt một tiếng gió, đánh bất ngờ, một kích trúng hồng tâm. Bàn về thủ đoạn, tầm nhìn, lòng can đảm, có thể nói là đứng đầu đương thời. Chỉ cần hắn còn ở Bắc Yến, Đại Hạ đừng mơ công phá được Long Ngâm Quan, cho dù là Triệu Triệt tự mình xuất quân thì cũng chưa chắc nắm được phần thắng hoàn toàn. Triệu Triệt có thể hơn ở phương diện chiến thuật, binh lực, tình báo, vũ khí hay tiếp tế hậu cần, nhưng nếu nói đến thủ đoạn tàn nhẫn, sự nhẫn nại kiên trì, hắn tuyệt đối không bì kịp Yến Tuân.


    Sự đáng sợ của Yến Tuân trên chiến trường là ở chỗ hắn có thể hoàn hảo lợi dụng tất cả yếu tố xung quanh làm điểm hỗ trợ giành lấy chiến thắng. Và khả năng kích động lòng người của hắn cũng đã hơn hẳn người khác một bậc.


    Hiện giờ, người có thể đánh ngang với Yến Tuân, có lẽ cũng chỉ có Gia Cát Nguyệt mà thôi. Yến Tuân hơn ở phần tàn nhẫn ngoan độc còn Gia Cát Nguyệt thắng ở phần thâm sâu lắm kế. Nếu hai người này có thể thẳng thắn đánh một trận mà không phải vướng bận phiền hà ở hậu phương bổn quốc, ắt hẳn sẽ tạo thành một cuộc chiến truyền kỳ trên sách sử.


    Nàng nhẹ lắc đầu, tuy chán ghét những ngày tháng chìm đắm trong chiến tranh, nhưng thỉnh thoảng vẫn không tự chủ được, nghe được ít tin tức thì liền vạch ra tình huống đại khái, sau đó diễn giải, tính toán, bố trí đường hướng. Tựa như một người yêu cờ tha thiết, tuy đã bỏ cờ nhưng trong đầu vẫn còn mường tượng các thế đánh.



    Chẳng qua ván cờ này, nàng thật sự không biết mình rốt cuộc hy vọng ai sẽ chiến thắng.


    Sâu trong thâm thâm, cho dù không còn hòa hảo với Yến Tuân thì nàng cũng không hy vọng nhìn thấy hắn từ thịnh thành suy.


    Vì vậy khi biết Yến Tuân thành công tập kích Đường Hộ Quan, nàng vẫn có chút mừng thầm, hoàn toàn không để ý mình chính là Tú Lệ vương của Biện Đường.


    Sở Kiều tự giễu cười một tiếng, ngay cả nàng cũng không phải ngoại lệ. Mọi ân oán tình thù gì đó, qua thời gian đều chỉ còn là một bóng lưng mơ hồ, một đôi mắt âm lãnh và một cánh tay cầm kiếm.


    Là ai phụ bạc ai, ai thiếu nợ ai, thật sự có thể nói rõ sao?


    Hai người bọn họ, tuy không thể tay chung tay thì cũng không nhất định phải ngươi chết ta sống.


    Gió bên ngoài đột nhiên trở lớn, đập vào cửa kêu *kẽo kẹt*, đẩy cái ghế chắn ngang cửa ra. Nàng tưởng là gió, vừa quay đầu định đi chắn chặt lại thì cửa phòng chợt bị mở ra, một bóng người khoác áo choàng đen đứng trước cửa, phía sau chỉ có một tùy tùng áo xanh.


    Người nọ đứng ngược sáng không rõ mặt, chỉ thấy được một đôi mắt đen thẳm như vực sâu đang nhìn thẳng vào nàng
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  9. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 185-2: Nghĩa trang Yến thị (2)

    Ánh mắt như vậy, Sở Kiều thậm chí còn tưởng rằng mình vừa nhìn thấy Yến Tuân.

    Bên ngoài tối mịt không chút ánh trăng, chỉ có gió tuyết đầy trời, phả vào mặt lạnh buốt như mũi đao. Người nọ đứng đó, áo choàng phủ kín người, chỉ để lộ đôi mắt thâm thúy nhìn nàng chằm chằm. Vài ngọn nến thưa thớt trong phòng đều bị gió thổi tắt, chỉ có ánh sáng xanh nhàn nhạt phản chiếu từ nền tuyết, tô thêm áp lực nặng nề tỏa ra từ thân ảnh kia.

    Như rất lâu, nhưng cũng vừa như chỉ một thoáng qua, người nọ chậm rãi nhấc chân bước vào, đầu hơi cúi, dáng vẻ mơ hồ lộ ra vẻ mệt mỏi, bàn tay gầy gò xương xẩu đưa lên che miệng, ho khan một tiếng.

    Cửa phòng bị đóng lại, ba người cùng đứng khiến linh đường hơi chật chội. Người tùy tùng lưng còng mặc áo xanh nhanh chóng thắp lại nến, ánh sáng nhờ nhờ chiếu lên tóc mai hoa râm cùng bàn tay nhăn nheo bên dưới áo choàng.

    Băng ghế nhỏ Sở Kiều dùng để chắn cửa khi nãy được người tùy tùng lau sạch sẽ, người nọ vừa ho khan vừa ngồi xuống, lưng hơi khòm, thấp thoáng nhận ra được bên dưới lớp áo kia là thân thể suy nhược đến cỡ nào.

    Sở Kiều vẫn đứng yên tại chỗ, từ lúc bọn họ bước vào vẫn không nói gì. Nàng có hơi hoài nghi, một người bệnh gầy gò ốm yếu như vậy sao lại có thể khiến nàng thoáng chấn kinh, thậm chí còn cho là Yến Tuân đích thân đến nữa.

    Viên tùy tùng lui ra đứng cạnh cửa, cả người như ẩn trong một góc tối, cúi đầu im lìm như một tảng đá.

    Trong phòng nhờ nhờ ánh nến, gió luồn qua chỗ hổng trên trần kêu *vù vù* khiến ngọn nến chập chờn như muốn tắt. Người nọ chợt ngẩng đầu lên, đưa con ngươi sâu thẳm nhìn nàng, đột ngột lên tiếng: “Tối nay gió tuyết thật dữ dội.”



    Sở Kiều sửng sốt, chẳng rõ vì sao mà khi đối mặt với người này, nàng cảm giác có chút căng thẳng không nói nên lời. Tựa như từ trên người đối phương tỏa ra một áp lực vô hình, dần dần tràn ngập khắp phòng, khiến hô hấp cũng khó khăn hơn.

    “Vâng, đúng là rất lớn.” Nàng gật đầu, lẳng lặng đáp lời.

    “Đã nhiều năm không có gió tuyết mạnh như vậy rồi.” Người nọ hẳn đã rất nhiều tuổi, giọng nói lộ ra vẻ già nua cùng mệt mỏi không cách nào che giấu, “Ngay cả mùa đông mười lăm năm trước cũng không có gió tuyết lớn như thế, đốn ngã cả cây hòe già trước cổng phủ doãn.”



    Mười lăm năm trước…

    Chính là cái năm Yến Tuân tan cửa nát nhà, mùa đông rét lạnh đến cùng cực, bọn họ co ro trong dịch quán tồi tàn ở nam thành, đốt rụi toàn bộ đồ đạc trong phòng vẫn bị lạnh đến nứt da nứt thịt.

    “Hội hoa đăng năm nay có náo nhiệt không?” Người nọ tự nhiên hỏi, tựa như bọn họ là bằng hữu đã lâu không gặp vậy.

    Sở Kiều hơi nghiêng đầu đáp: “Ông trời không phối hợp nên hội hoa đăng bị gián đoạn. Lão tiên sinh cũng đến ngắm hoa đăng rồi bị gió tuyết níu chân ở đây sao?”



    Người nọ thấp giọng cười một tiếng rồi nói: “Thân thể ta thế này thì còn đi ngắm hoa đăng gì chứ?”



    Sở Kiều chớp mi, trầm giọng hỏi: “Nói vậy tiên sinh đặc biệt đến đây là để tế bái Yến lão vương gia sao?”



    Tuy không nhìn rõ mặt của ngươi nọ, nhưng Sở Kiều vẫn có thể nhận ra ông lẳng lặng mỉm một nụ cười.

    Xa xa chợt vọng đến một hồi chuông ngân dài, đó là mười tám tiếng chuông báo hiệu giờ lành. Lúc này trên đài Thiên Trình trong cung Thịnh Kim, Khâm thiên giám sẽ chủ trì cho các cao tăng dâng hương lễ bái Phật, tụng kinh cầu bình an, xin cho sang năm được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

    Nghe thấy hồi chuông, Sở Kiều nhẹ nhàng quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng chuông, thoáng hơi thất thần.

    “Nghĩa trang này hoang vắng như vậy, ngươi thân nữ một mình ở đây không sợ sao?”



    Sở Kiều quay đầu nhìn người nọ, biết rõ có thể ngang nhiên tiến vào đây mà không bị đám Nguyệt Thập Tam phát giác thì tuyệt đối không phải người bình thường. Tuy đã lần lượt loại bỏ hết những người có thể tới đây vào lúc này, nhưng Sở Kiều vẫn không tìm được nhân vật nào có khả năng này, nàng không khỏi càng lúc càng nghi hoặc nhưng trên mặt vẫn không biểu hiện gì, chỉ thản nhiên cười nói: “Trong lòng ngay thẳng thì không có gì phải sợ, so với lòng dạ con người thì mấy thứ gọi là du hồn dã quỷ hiền lành hơn không biết bao nhiêu lần.”



    “Trong lòng ngay thẳng?” Ngươi nọ hơi cao giọng, cười nói: “Trên đời này, người có thể chân chính gánh được bốn chữ này, còn được mấy người?”



    “Tự mình cảm thấy gánh được là đủ.” Sở Kiều vẫn đứng nguyên tại chỗ, áo choàng lông trên người bên dưới ánh nến càng thêm tinh khôi, khuôn mặt như bừng lên trong ánh sáng nhờ nhờ, lẳng lặng tiếp lời: “Là người cả đời làm thanh quan, trung với xã tắc, liêm chính ngay thẳng. Là người xuất thân tầm thường bé mọn, vất vả kiếm sống nhưng không bao giờ phạm pháp. Chỉ cần trong lòng không có vướng mắc thì sẽ gánh được hai chữ ‘ngay thẳng’ này. Chỉ cần lòng hướng về bình yên, tự mình quyết tâm thì không phải là không thể.”



    Người nọ khẽ nhướng mày, một cơn gió chợt ào vào thổi bụi đất bay lên, nhẹ bám vào vạt áo hai người. Ông trầm tư một thoáng, sau đó mỉm cười nói: “Nói có đạo lý.”



    “Bên ngoài gió tuyết lớn như vậy, lão tiên sinh đêm tối tìm đến, là vì lòng có vướng mắc sao?”



    “Người đã già, khó tránh khỏi dễ nhớ đến chuyện vặt lúc trẻ.”



    Một cơn cuồng phong mở bật cửa ra, thổi tắt toàn bộ nến trong phòng. Viên tùy tùng hoảng hốt, tuy tuổi đã lớn nhưng thân thủ vẫn rất linh hoạt, nhanh chóng đóng cửa rồi định đi thắp lại đèn. Người nọ giương mắt nhìn về phía cỗ quan tài ẩn mình trong bóng tối thăm thẳm, thu lại nụ cười, khoát tay nói: “Cứ để vậy đi.”



    Trong phòng rất yên tĩnh, nghe được rõ ràng tiếng gió gào rú bên ngoài. Hai mắt dần thích ứng với bóng tối, dựa vào ánh sáng phản chiếu trên nền tuyết cũng mơ hồ thấy được bóng dáng người đối diện.

    Người nọ cởi áo khoác ra, nói: “Chắc hắn không muốn nhìn thấy ta.”

    “Ta có mang rượu đến, uống với ta một chén đi.”



    Không đợi Sở Kiều trả lời thì lão tùy tùng phía sau đã tiến lên, trải một tấm lụa xuống trên mặt đất, bày ra hai chén rượu, một chiếc bình ngọc trắng muốt, chất ngọc ánh lên trong bóng tối. Bình khẽ nghiêng, hai chén nhỏ được rót đầy, hương rượu tỏa ra bốn phía. Lão tùy tùng dùng hai tay dâng một chén đưa cho Sở Kiều.

    Sở Kiều ngửi qua, liền nói: “Là Thanh Nữ Kiều ở Thanh Khâu.”



    Người nọ cười tán thưởng, “Khứu giác tốt.”



    Sở Kiều mỉm cười, “Tiểu bối tửu lượng không cao nhưng ngửi mùi đoán tên thì khá lành nghề.” Nói xong nàng rút từ trên đầu một chiếc trâm bạc nhúng vào trong chén, nhẹ ngửi đầu trâm rồi mới yên tâm uống cạn, “Quả nhiên là rượu ngon.”



    Người nọ cũng không bận tâm chuyện nàng công khai nghiệm độc ngay ở trước mặt mình, ngược lại còn thích thú nói: “Đưa trâm của ngươi cho ta mượn dùng chút.”



    Sở Kiều thoáng ngạc nhiên, hỏi lại: “Rượu do mình mang đến mà tiền bối còn không yên tâm?”



    “Cẩn thận một chút không bao giờ thừa.”



    Người nọ học theo Sở Kiều nhúng đầu trâm vào chén rượu, lấy ra bật lửa đốt rồi nhìn hồi lâu mới ngửa đầu uống rượu.

    Sở Kiều bật cười, “Tiền bối làm như vậy, ngược lại càng thêm không an toàn.”



    Người nọ hơi kinh ngạc hỏi: “Tại sao?”



    “Không phải loại độc nào cũng có thể dùng bạc nghiệm ra, huống chi trong quá trình đưa trâm cho tiền bối, ta có rất nhiều biện pháp hạ độc vào trâm. Mà cho dù là không dùng độc, tiền bối ở gần ta như vậy, chẳng lẽ không sợ ta là thích khách sao?”



    Người nọ nhìn nàng, không hề có chút sợ hãi, ngược lại rất bình thản hỏi: “Vậy ngươi là thích khách à?”



    “Ta nói không phải, tiền bối tin sao?”



    Người nọ nhướng mày, tựa như đang cố ngẫm nghĩ, hồi lâu sau mới nói: “Không tin lắm.”



    Sở Kiều bật cười, “Đúng đó, hôm nay nông dân muốn ăn gà nên sẽ không giết heo, nhưng cũng không có nghĩa là ngày mai cũng không giết heo.”



    “Ngươi so sánh ta với heo?”



    “Không dám.” Sở Kiều lắc đầu, “Người như tiền bối, ba phần giống sói, ba phần giống rắn, bốn phần còn lại thì nhìn không ra, nói chung không phải là người dễ đùa.”



    Người nọ quay sang lão tùy tùng đứng ở cửa, cười nói: “Nhìn miệng lưỡi của nha đầu này đi, còn độc địa hơn mấy trăm lần so với ngòi bút của Ngự sử đài nữa.”



    Người nọ dường như rất vui vẻ, thoải mái bảo Sở Kiều ngồi xuống uống rượu với mình. Gió tuyết bên ngoài càng lúc càng lớn, Sở Kiều kéo thêm một cái ghế nhỏ sang, lau sạch rồi ngồi xuống, từ tốn uống rượu với ông.

    Không gian tối mịt mù, chỉ có trên nóc nhà nhờ nhờ ánh sáng phản chiếu khi gió tuyết thổi qua.

    Rượu này thơm mê người, chỉ cần uống một chén thì sẽ muốn uống chén thứ hai. Cho dù không có độc thì uống nhiều sẽ say. Không biết qua bao lâu, Sở Kiều dần thấy mơ hồ, nàng tựa người ra phía sau, tay chống lên thành ghế, chậm rãi nhắm mắt lại, nói chuyện với người nọ mà câu được câu không. Dường như bọn họ đã nói rất nhiều, rất rất nhiều, nhưng nàng đều không nhớ rõ. Trong lòng vô cùng tĩnh lặng, như có dòng nước nhẹ nhàng quét qua tay, qua mặt nàng.

    Nàng như nhìn thấy hình ảnh lúc còn bé, ông nàng ôm nàng, tỉ mỉ dạy nàng Thái tổ trường quyền*, dạy nàng chiêu Cầm nã thủ**, dạy nàng nhận thức vị trí huyệt đạo quan trọng, dạy nàng sử dụng đủ loại vũ khí. Mỗi sáng nàng phải đứng dưới cờ lặp lại lời tuyên thệ ông bắt nàng thuộc nằm lòng. Lúc đó nàng chỉ mới mấy tuổi nhưng vẫn hết sức nghiêm túc, thẳng người đứng sau lưng người ông đã già nhưng vẫn hết sức cường tráng, lớn tiếng nói từng chữ một: “Một lòng trung với nước nhà, trung với nhân dân, lúc cần phải tự nguyện hy sinh vì tổ quốc, vì nhân dân…”

    *Thái tổ trường quyền = Thái Tổ Trường Quyền là Thiếu Lâm tuyệt học, bộ quyền pháp này, phong cách đặc biệt, không có quy tắc nhất định, chiêu thức rõ ràng dứt khoát, nhịp chân linh hoạt, hành quyền quá bộ, đánh mạnh, trong cận chiến, có thể bùng nổ uy lực cực mạnh.

    *Cầm nã thủ = cách ra quyền bằng mười ngón tay. Khác với chỉ công khi đánh phải giương thẳng ngón tay ra, trong phép đánh cầm nã thủ, ngón tay phải khum lại. Bí quyết của cầm nã thủ thu gọn trong tám chữ: câu, giật, buông, bắt, chộp, điểm, khóa, đẩy. Ba chữ cầm nã thủ có nghĩa đơn giản là thủ pháp sử dụng mười ngón tay để bắt giữ, vô hiệu hóa đối thủ.



    Hình ảnh thay đổi, chuyển thành khung cảnh thâm cung lạnh lẽo, trăng trên đỉnh đầu rất tròn rất sáng, thiếu niên đứng trước mặt nàng, nhìn thấy chiếc trâm trên tóc nàng thì mím môi, giận dỗi quay đi. Nàng thấy vậy liền vội vàng lấy trâm xuống, khẩn trương chạy đến dỗ dành hắn, nói là do Triệu Thập Tam nằng nặc bắt nàng cầm, nàng không hề thích nó. Hồi lâu, thiếu niên mới ngượng ngùng đưa ra một chiếc trâm gỗ thô sơ, hình như là dùng mẩu đồng gọt thành, chỉ là một thanh gỗ trơ trụi, không có bất kỳ hình thù trang trí gì. Ngón tay của thiếu niên cũng hơi bị rách da, vài chỗ còn ứa máu, dùng vải băng lại sơ sài.

    Sau đó, một đôi mắt như mắt hồ ly hiện ra, nam nhân mặc y phục đỏ thẫm ngồi trong thủy các đón gió, tiêu sái thổi trường tiêu. Một bầy thiếu nữ y phục rực rỡ vây quanh hắn, ánh mắt si mê như vừa uống hết hai vò nữ nhi hồng. Nhìn thấy nàng từ xa, hắn đột ngột đứng dậy, ra sức vẫy tay với nàng, kêu to: “Kiều Kiều! Kiều Kiều! Mau qua đây~!”



    Hình ảnh lại thay đổi, không trung phủ đầy sương khói và ánh sáng, quang ảnh xoay tròn rồi tụ lại thành hình dáng một nam nhân cao ngạo tuấn tú, khung cảnh giống như trong đêm hội hoa đăng ba năm trước, hắn đang giận dỗi vì nàng không chịu cùng hắn đến Thanh Hải. Hắn hậm hực đi trước, không thèm nghe nàng giải thích, trước khi đi còn to tiếng mắng nàng ngốc, mắng nàng hết thuốc chữa. Trong lúc tức giận, nàng nhặt một hòn đá lên ném về phía hắn, vừa hay trúng ngay đầu hắn, khiến hắn mặt xanh mét, quay phắt lại hung dữ nhìn nàng chằm chằm.

    Sau đó, trên con thuyền êm đềm trôi theo dòng nước, hai người ôm nhau đứng trong màn mưa bụi lất phất, hắn thì thầm bên tai nàng: “Ta rất vui, chưa từng vui như vậy bao giờ…”



    Ngay lúc đó, bên tai chợt văng vẳng một tiếng trẻ con trong trẻo, “Sau cùng, hắn chết, hắn cũng chết, nàng thương tâm rời đi, sau đó nàng cũng chết, chỉ còn lại một mình hắn.”



    Phải rồi, nàng đang nằm mơ, Lý Sách đã chết, đã bị mẹ mình tự tay giết chết, đã chết trong lòng nàng, trước ngực hắn ướt đẫm máu tươi. Nàng còn chạm vào thân thể và bờ mi lạnh lẽo như băng của hắn, hắn tựa vào vai nàng mà chết, không bao giờ có thể gọi tên nàng nữa, không bao giờ có thể đưa tay nhéo mặt nàng nữa, không bao giờ có thể nửa đêm trèo cửa sổ nhảy vào phòng nàng nữa, không bao giờ có thể lén đọc thư Gia Cát Nguyệt viết cho nàng nữa, khi nàng khổ sở không bao giờ có thể dịu dàng nhìn nàng, ôm nàng vào lòng rồi nói: Đừng sợ, đừng sợ. Còn có ta ở đây, còn có cả Gia Cát Tứ nữa. Cho dù là tiểu tử Yến Tuân kia cũng không thể tổn thương đến nàng.

    Trời đất mịt mù gió bắc, tuyết đỏ như máu không ngừng đổ xuống, nàng nhìn thấy Gia Cát Nguyệt và Yến Tuân đối đầu với nhau trên chiến trường, nàng nhìn thấy hàng vạn hàng ngàn người hồn lìa khỏi xác, nàng nghe được tiếng gió rít gào thê lương, nhìn thấy bầu trời bị rách toạc, máu tươi trào ra từ khe rách, tuôn xối xả xuống chiến trường. Nàng nhìn thấy Gia Cát Nguyệt ngã xuống, da thịt trên lưng nứt ra, chính là vết thương do nàng đâm rất nhiều năm trước, một thanh kiếm lạnh lẽo đâm vào giữa ngực. Nàng nhìn thấy Yến Tuân cầm lưỡi kiếm dài ba thước đứng trên đống thi thể, mưa tên bắn đến đen kịt trời. Hắn đứng ở nơi cao nhất, dưới chân không ngừng chảy xuống chất lỏng đỏ lòm, trên người cắm đầy tên nhọn nhưng vẫn không ngã xuống.

    Thiên quân vạn mã ập đến, tất cả mọi hình ảnh chợt tan vỡ, đao gươm Khuyển Nhung chém vụn bản đồ Tây Mông. Nàng quỳ gối bên hồ băng Thiên Trượng, nhìn trời đất sụp đổ chỉ trong nháy mắt, bên tai vang vọng từng lời từng chữ của hắn: Phải sống, phải sống, sống tiếp…

    …………………………………………………………………………………………………………………

    Nước mắt ào ra khỏi khóe mi, chảy xuống cằm, rơi trên áo lông trắng tinh khôi của Sở Kiều.

    Người nọ đứng trước mặt nàng, trên mặt không còn nụ cười khi nãy, thay vào đó là vẻ lãnh đạm xa cách. Ông quay sang hỏi lão tùy tùng: “Là nàng sao?”



    Lão tùy tùng khom người, vẫn là bộ dáng khúm núm muôn thuở, thấp giọng đáp: “Thưa phải, chính là nàng.”



    Người nọ mỉm cười nhưng đáy mắt không hề có chút ý cười, “Không ngờ lại gặp được ở đây.”



    Lão tùy tùng vẫn khom người, cũng không đáp lời. Người nọ trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên đưa đầu ngón tay quẹt qua má Sở Kiều, cảm nhận được chất lỏng lạnh như băng trên mặt nàng thì nhất thời sửng sốt.

    “An Phúc, có ai uống rượu Hoàng Lương rồi mà vẫn còn có thể khóc sao?”



    Trong gian phòng tối mịt, lão tùy tùng dường như cũng không nhận ra cô gái ngồi trên ghế kia đang khóc. Lão vội vàng thắp một ngọn nến rồi cầm nến đến trước người Sở Kiều, cẩn thận nhìn qua thì cũng ngây người.

    Từng giọt nước mắt lặng lẽ lăn dài trên má, cứ như vậy không tiếng động rơi xuống, tựa như chuỗi trân châu bị dứt.

    An Phúc thoáng chấn kinh, hồi lâu sau mới chậm rãi nói: “Nô tài cho tới nay chưa từng nghe nói có người uống rượu Hoàng Lương rồi mà vẫn khóc được, trong lòng cô gái này có lẽ chôn giấu rất nhiều đau khổ.” Nói xong câu này, lão hơi nhíu mày, tựa như có điều gì khó hiểu, “Thân phận tôn quý như vậy mà cũng có điều khổ sở sao?”



    Người nọ nghe hỏi thì mỉm cười, thản nhiên nói: “Càng hạnh phúc thì sẽ càng sợ có ngày mất đi nó. Trong lòng đứa trẻ này, e rằng có nỗi sợ hãi mà ngay cả nàng ta cũng không khống chế được.”



    “Bệ hạ, thời gian không còn sớm nữa, chúng ta nên trở về rồi.”



    Người nọ gật đầu, khoác áo choàng lên đi ra ngoài, ra tới cửa thì đột nhiên quay đầu lại, nhìn cỗ quan tài bên trong chằm chằm, “Thế Thành, ngươi nói xem, Đại Hạ còn tồn tại được mấy năm nữa?”



    Gió bên ngoài vẫn thổi rất mạnh, bóng dáng của ông chợt lộ ra vẻ cô đơn khó tả. Ông đột nhiên ho khan mấy tiếng, vừa mỉm cười vừa mở cửa phòng đi ra ngoài.

    Ngọn nến sắp tàn thoáng chao đảo trong gió, nhưng vẫn không tắt.

    Cô gái mặc y phục trắng ngồi tựa lưng vào ghế, đầu hơi nghiêng sang một bên, nước mắt lặng lẽ chảy hết giọt này đến giọt khác.

    …………………………………………………………………………………………………………………

    Không biết đã qua bao lâu, bên cạnh tựa như có người đang nói chuyện, Sở Kiều khẽ chau mày, ánh đèn hơi chói mắt, tiếng hô mừng rỡ của Mai Hương vang lên: “Tỉnh rồi, tỉnh rồi, thật tốt quá.”



    Sở Kiều chớp mắt, nhìn thấy Mai Hương đang đứng bên cạnh, Hoàn Nhi cầm một chiếc đèn lồng cũng đứng sát một bên, khẩn trương nhìn nàng.

    “Tiểu thư, người làm sao vậy?”



    Sở Kiều nhìn quanh một vòng, nhận ra bóng dáng người nọ đã sớm không thấy, không khỏi có hơi thất thần, nói qua loa: “Không có gì, chỉ không cẩn thận ngủ quên mà thôi.”



    Mai Hương không kìm được trách móc: “Ở đây lạnh như vậy mà tiểu thư còn ngủ gục được?”



    “Xem phu nhân có vẻ quá mệt rồi, gió tuyết bên ngoài cũng dịu bớt nhiều, chúng ta nhanh chóng về phủ đi.”



    Đoàn người lên xe trở về, Vinh Nhi vẫn ngủ ngon lành, Mặc Nhi cũng nép vào lòng Thanh Thanh, mở mắt không lên.

    Trận bão tuyết đã phá tan hội hoa đăng vốn náo nhiệt, trên đường trở về, khắp nơi đều có xác đèn bị gió xé rách tơi tả, đường phố trống trải đến thê lương. Sở Kiều vén màn xe lên nhìn lại nghĩa trang ở xa xa, chỉ thấy một mảnh tối tăm mịt mù, không một ngọn đèn, chỉ còn chiếc đèn lồng trắng nhờ nhờ treo trước cửa là còn nguyên, cũng không rõ nó làm sao sống sót qua khỏi trận bão tuyết kia.



    Trở về đến phủ thì trời đã khuya, Nguyệt Lục chờ ở trước cửa, nhìn thấy mấy người bọn họ thì nhất thời thở phào một hơi thật dài, lập tức tiến lên nói Gia Cát Nguyệt đã trở về từ sớm, đã ra ngoài tìm nàng mấy bận rồi.

    Sở Kiều vội vàng đi vào phủ, đến chính sảnh cởi áo choàng lông giao cho hạ nhân rồi rón rén đi tới phòng ngủ.

    Trở về từ bên ngoài lạnh lẽo, sự ấm áp trong nhà càng thêm rõ rệt. Trong phòng rất yên tĩnh, hương trầm thủy lượn lờ trên lò hương, nàng lẳng lặng đi đến bên giường, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt mặt hơi ửng hồng, để nguyên quần áo nằm trên giường, ngủ mà vẫn nhíu chặt mày, tựa như đang tức giận chuyện gì đó.

    Hô hấp của hắn hơi nặng nề, có thể ngửi được mùi rượu nồng nặc. Tửu lượng của Gia Cát Nguyệt từ trước đến giờ không quá tốt, tối nay có lẽ đã uống rất nhiều rượu nên mới ngủ quên như thế này.

    Trên cột giường bằng gỗ lim có treo một chiếc đèn lồng chế tác khéo léo, hai mắt đỏ son, đôi tai thật dài, là một cái đèn hình thỏ xinh xắn.

    Sở Kiều cởi giày ra, nghiêng người nằm xuống cạnh Gia Cát Nguyệt, hít thở mùi hương trên người hắn, lắng nghe hơi thở trầm thấp của hắn, cõi lòng lạnh lẽo dần ấm lại.

    Nàng vòng tay qua hông hắn, gạt đi hình ảnh tuyệt vọng trong mơ.

    Sẽ không, tuyệt đối sẽ không.

    Bọn họ sẽ mãi ở bên nhau, sẽ vui vẻ mà sống. Bọn họ sẽ có con, một nhà sẽ cùng nhau rời khỏi nơi này, bắt đầu cuộc sống cho riêng mình.

    Nhất định như vậy, nhất định…

    …………………………………………………………………………………………………………………

    Sau xuân yến, Đại Hạ càng lúc càng xuống dốc, loạn Lũng Tây lan rộng, đi lại trên đường bất kỳ lúc nào cũng thấy được cảnh buôn bán vợ con đổi lương thực mà sống. Triều đình đành ban bố công văn trợ giúp thiên tai ra ngoài, Hạ hoàng cũng đã vét cạn quốc khố. Nhưng Đại Hạ hiện tại như cường quốc có tiếng mà không có miếng, chiến tranh tựa như mãnh thú háu ăn không ngừng há to cái miệng khổng lồ, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà đã rúc rỉa một cường quốc chỉ còn cái vỏ không.

    Có điều Bắc Yến cũng không hơn gì, tuy nhờ có lương thảo cướp về từ Biện Đường tạm thời qua được mùa đông giá rét này, nhưng hiện tại vẫn khó khăn trùng trùng. Dưới tình hình này, đầu năm biên quan cũng chẳng xảy ra chiến sự quy mô lớn nào. Bất kể là Bắc Yến muốn đông tiến hay Đại Hạ muốn phạt bắc cũng đều bị trận thiên tai này cầm chân.

    Đầu tháng ba, một tin tức từ Bắc Yến được đưa đến kinh thành, khiến Sở Kiều lại bắt đầu lo lắng.

    Thật ra tin tức cũng chẳng có gì đáng nói, chỉ nói đến chuyện Yến Tuân muốn tiến hành buôn bán với Đại Hạ ở biên cương, dùng ngựa cùng quặng sắt đổi lấy lương thực, trà, muối và vải vóc của Đại Hạ.

    Chuyện này tất nhiên đã khiến triều đình Đại Hạ cười to một trận, bọn họ cười nhạo Bắc Yến nghèo đến phát điên rồi, lại muốn buôn bán thông thương với Đại Hạ. Bọn họ thiếu hụt chiến mã và quặng sắt thì vẫn có thể mua bán với Biện Đường và Hoài Tống. Bắc Yến thì khác, Biện Đường đóng cửa khẩu thì chỉ có thể tìm tới Đại Hạ mà thôi.

    Đại Hạ dĩ nhiên cự tuyệt thông thương với Bắc Yến, Ngự sử đài và Trung thư lệnh lần đầu liên thủ, nhanh chóng viết thành một bài diễn văn dài thườn thượt châm biếm chuyện này, chế giễu Yến Tuân suy nghĩ viển vông, không biết trời cao đất rộng.

    Sự kiện này đối với hai nước Hạ – Yến mà nói cũng chẳng phải đại sự gì, nhưng lại chỉ rõ tình cảnh xuống dốc và điêu tàn của Bắc Yến. Mặc dù Đại Hạ cũng chẳng khá hơn, nhưng nhìn dáng vẻ kẻ thù còn bất lực túng quẫn hơn mình, ý chí của đám quan lại Đại Hạ liền được nâng cao, một đám học sĩ suốt ngày điên cuồng hô hào tiêu diệt Bắc Yến, làm như chỉ cần bọn họ phất tay một cái thì Bắc Yến sẽ biến mất vậy. Ngay cả vài hoàng thân quốc thích ở xa cũng viết thư gửi cho Gia Cát Nguyệt, yêu cầu hắn lập tức điều binh tấn công Bắc Yến, nhanh chóng tiêu trừ tận gốc mối họa này.

    Gia Cát Nguyệt lạnh lùng nhìn đám quan tướng trên triều vung tay múa chân, không khỏi cười giễu cợt: “Thủ đoạn của Yến Tuân không hẳn là quá cao minh, nhưng thật sự là hốt thuốc đúng bệnh, chỉ nói mấy câu mà đã khiến trên dưới toàn thành Chân Hoàng điên cuồng như vậy.”



    Lúc hắn nói lời này, Sở Kiều chỉ cảm thấy hãi hùng khiếp vía. Suy nghĩ của Gia Cát Nguyệt đã cao hơn hẳn một bậc so với người thường, biết Yến Tuân là cố ý tỏ ra yếu thế, muốn dẫn dụ Đại Hạ xuất quân tấn công. Nhưng Sở Kiều và Yến Tuân qua lại nhiều năm, nàng rõ bản tính của Yến Tuân hơn ai hết, người này cho dù phải bỏ mạng nơi sa trường cũng tuyệt đối không tỏ ra yếu thế trước kẻ thù bao giờ. Chỉ vì muốn khiến kẻ địch lơ là mất cảnh giác, đáng để người nọ hy sinh nhiều như vậy sao?

    Đông qua xuân đến, hoa đã nở rộ nhưng gió lạnh vẫn chậm rãi không tan. Mở cửa sổ ra vẫn có thể nhìn thấy băng tuyết bao trùm.

    Năm nay mùa đông hình như đặc biệt rất dài.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  10. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 186: Gặp mặt tình địch

    Gia Cát Nguyệt có việc đến Nghiệp Thành đã gần nửa tháng nay. Ba ngày trước Sở Kiều nhận được tin báo rằng bên ngoài Nhạn Minh Quan xảy ra xung đột, có điều chỉ là hơn ba mươi binh sĩ say rượu lao ra khỏi cửa khẩu, chạy đến trước Long Ngâm Quan của Bắc Yến khiêu khích, bắn ra mấy mũi tên khiến đối phương có một người chết ba người bị thương, nhưng bên Bắc Yến cũng không đánh trả.


    Lúc tin tức truyền về đến hoàng thành thì đó đã là chuyện của mười ngày trước, thống soái trấn giữ ở Nhạn Minh Quan cũng dâng tấu thỉnh cầu triều đình phát lệnh tấn công Bắc Yến, hết lời thề thốt rằng theo tình báo nhận được thì Bắc Yến bây giờ như người kiệt sức, ngựa hết hơi, lương thảo cạn kiệt, trang bị thiếu hụt, trong nội cảnh còn xảy ra loạn dân quy mô lớn, và hiện chính là thời cơ phạt bắc tốt nhất, nếu bỏ lỡ thì tương lai đối phó với Bắc Yến sẽ khó khăn muôn trùng.


    Trước đó phe chủ chiến đã ồn ào náo động, tấu chương này lại càng như đổ thêm dầu vào lửa, trong nháy mắt đã khiến chiến ý của Đại Hạ sôi trào. Từ trong triều đến dân gian, khắp nơi đều dậy sóng hưởng ứng chiến tranh. Người Đại Hạ xuất thân từ quan ngoại, vốn là một dân tộc hiếu chiến, hiện tại bị người cố ý kích động nên càng thêm hừng hực muốn đánh. Đêm xuống thì nhà nhà trong thành Chân Hoàng đều vang lên tiếng mài đao, đám quan văn của Ngự sử đài cho dựng chiến đài trên quảng trường Tử Vi, đặc biệt thu nhận thường dân tự nguyện nhập ngũ. Một bảng danh sách ký tên xin đánh dài ngoằng được dán trên bảng vàng dựng ở quảng trường, sau mỗi cái tên đều có một dấu tay bằng máu, nhìn vô cùng rợn người.


    Nhiệt tình muốn đánh của dân chúng dâng cao chưa từng có nhưng cung Thịnh Kim lại chậm chạp không hạ chỉ, Hạ hoàng mấy hôm nay lại phát bệnh, bảy tám ngày nay đã không vào triều. Được hội trưởng lão cố ý dung túng, đủ loại vận động tự phát trong nước diễn ra càng thêm rầm rộ, thậm chí còn có nơi huy động hợp thành đội quân tự phát, một đường vác gươm đao chạy thẳng đến kinh đô.


    Sở Kiều đã gửi cho Gia Cát Nguyệt bốn lá thư thông báo tình hình, nhưng hắn còn chưa hồi âm thì Gia Cát Hoài đã lâu không gặp lại đột nhiên đến phủ bái phỏng, khiến Sở Kiều trong thời gian ngắn có hơi lúng túng.


    Gia Cát Hoài lần này đặc biệt trở về từ đất thuộc của Gia Cát gia, tuy ban đầu Gia Cát Mục Thanh từng trục xuất Gia Cát Nguyệt khi hắn gặp nạn, nhưng sau khi thấy con trai vinh quang trở về, trên dưới Gia Cát gia đều như vừa mắc bệnh dễ quên, lập tức phủi sạch mọi bất hòa hiềm khích từng có đối với Gia Cát Nguyệt. Vị huynh trưởng từng nhiều lần đối đầu với Gia Cát Nguyệt này cũng bị gia tộc ruồng rẫy vì thất bại trên chiến trường, bị đẩy đến một vùng đất thuộc xa tít tắp cũng đã ba năm rồi, bây giờ mới trở về.


    Lần này hắn trở lại, dĩ nhiên là để tham dự hôn lễ của Gia Cát Nguyệt và Sở Kiều.


    Một tháng trước, đoàn xe chở hồi môn của Sở Kiều đã hùng dũng qua cửa thành Chân Hoàng, một hàng dài thượt nhìn không thấy điểm cuối. Binh lính giữ cổng thành nhẩm tính sơ sơ thì đếm được khoảng hơn bốn trăm cỗ xe, binh lính hộ tống lên đến hơn năm vạn người. Chúng lễ quan của Biện Đường ăn vận trang trọng, lễ nghi hoàn toàn theo nghi thức hoàng gia.


    Tiếng nhạc mừng tưng bừng náo động tận trời, lụa đỏ trải thẳng đến tận cửa phủ Tư mã, hoa tươi ngập trời, tráp vàng tráp bạc đầy ắp xe, ba ngàn cung nhân diễm lệ đi trước dẫn đường, hai vạn Tú lệ quân giáp trụ chỉnh tề cùng hai vạn Sói binh đi theo hộ vệ, khí thế vô cùng hiển hách, đến cả thiên tử lấy vợ, sắc phong hoàng hậu cũng không xa hoa long trọng như vậy.


    Dân chúng thành Chân Hoàng nhìn mà choáng váng, ngay cả đám quan Hạ cũng trợn mắt há hốc mồm. Lý Sách mất hết hai năm chuẩn bị hồi môn cho nàng, khỏi nói cũng biết xa xỉ hoành tráng đến mức nào. Người không còn nhưng vẫn an bài mọi chuyện cho nàng, cho nàng vinh hoa vô thượng, không để nàng bị coi thường.


    Gia Cát gia cũng nhất thời dựa vào quan hệ thông gia với Biện Đường mà nước lên thuyền lên theo, cả Gia Cát Mục Thanh bệnh tật lâu năm cũng trở về từ đất thuộc, ra sức hàn huyên với chúng lễ quan Biện Đường đến đưa dâu. Cũng chẳng biết Lý Sách đã dùng biện pháp gì mà lần tìm được vài thân thích xa lắc xa lơ của Kinh gia ngày xưa, đều dẫn đến hết. Mặc dù Sở Kiều chưa từng gặp mặt bọn họ, nhưng mấy lão gia phu nhân tóc bạc vừa nhìn thấy mặt nàng liền thất thanh khóc rống, thống thiết biểu lộ lòng thương nhớ dành cho nàng.


    Mấy vị lão phu nhân của Kinh gia rồng rắn tiến vào phủ Tư mã, tuy Sở Kiều không có ấn tượng gì tốt với những người này nhưng Gia Cát Nguyệt vẫn dặn dò hạ nhân chiêu đãi khách thật tốt. Liên tiếp mấy ngày sau đó, Sở Kiều không thể đi đâu cả, mỗi ngày đều phải nghiêm chỉnh ngồi trong phòng lắng nghe bọn họ dạy dỗ lễ nghi phong tục sau khi tân hôn, dạy nàng trách nhiệm làm vợ, dạy nàng nên làm gì, không nên làm gì.


    Tân hôn sắp đến nhưng nàng càng lúc càng trở nên bồn chồn không yên, dường như mọi ánh mắt trên thế gian đều hướng về phía này, chỉ có nàng là không cách nào bình tâm, cứ cảm thấy bên dưới sự xa hoa luôn ẩn giấu cơn sóng ngầm nào đó, khiến nàng luôn thấp thỏm.


    Gia Cát Nguyệt trước khi đi có nói nàng bị chứng u sầu tiền hôn nhân. Nàng cũng chỉ có thể tự an ủi bản thân, chỉ mong thật sự là như vậy chứ không phải giác quan thứ sáu cảm thấy điềm không may gì đó.


    Gia Cát Nguyệt đi rồi thì cảm giác bất an kia lại càng rõ rệt hơn. Chiến báo kỳ quái từ Bắc Yến kia, hành vi kích động của phe tham chiến trên triều càng khiến nàng như ngồi trên đống lửa. Nhưng nàng lại chẳng được cho biết gì cả, chỉ có thể cẩn thận phòng bị, lặng lẽ chờ Gia Cát Nguyệt, chờ ngày hôn lễ long trọng của bọn họ.


    Gia Cát Hoài đến phủ được nàng tiếp đãi rất khách khí, hai người ngồi ở chính sảnh nói vài chuyện nhà cửa. Sở Kiều nghiêm chỉnh lắng nghe hắn nói chuyện sông núi dọc đường, kể lại mấy chuyện lý thú của Gia Cát Nguyệt hồi còn bé với dáng vẻ như một người huynh trưởng hiền từ.


    Ngay sau hôm Gia Cát Hoài đến thăm thì chúng thiên kim tiểu thư của Gia Cát gia đồng loạt tới bái phỏng. Tam tiểu thư Gia Cát Tình vốn do đại phu nhân sinh ra, từ trước đến giờ cũng có chút địa vị trong phủ, hiện tại đã là thê tử của Hộ bộ thị lang Lưu Văn Sính. Lưu thị dòng dõi thư hương, cũng có địa vị khá cao trong chúng thế gia. Hôm nay nàng ta mang theo mấy muội muội còn chưa lấy chồng đến phủ Tư mã thăm hỏi, nhân tiện mời Sở Kiều đến tối cùng trở về phủ Gia Cát gặp gỡ các tỷ muội di nương còn lại.


    Sở Kiều chưa bao giờ nghĩ đến mình sẽ có ngày lấy thân phận như hôm nay trở lại Gia Cát gia. Kiệu của nàng và mấy người Gia Cát Tình hạ xuống trước đại môn trang nghiêm cao vút của phủ Gia Cát, các vị phu nhân và di nương Gia Cát gia xếp thành hàng, nhìn thấy nàng thì đồng loạt hành lễ.


    Dù sao đi nữa, thân phận hiện giờ của nàng không chỉ là thê tử chưa qua cửa của Gia Cát Nguyệt mà còn là Tú Lệ vương của Biện Đường, hưởng đãi ngộ dành cho thân vương, có đất phong riêng, tay nắm binh quyền. Trong mắt người ngoài, nàng gần như là chủ nhân thứ hai của Biện Đường vậy. Từ cổ chí kim, tuy những thế gia đại tộc như Gia Cát gia cũng từng kết thân với công chúa hoàng tộc, nhưng lại chưa người nào có thể cưới về nhà một thân vương của nước khác. Thế nên cũng khó trách vì sao người phủ Gia Cát lại muốn rầm rộ lo liệu chuyện hôn lễ đến như vậy.


    Toàn bộ nữ quyến ở đây, ai cũng y phục lụa là, trang sức châu ngọc đầy người, mặt tươi cười nhìn Sở Kiều, tựa như chuyện xảy ra hơn mười năm trước chỉ là một giấc mộng, chưa từng xảy ra vậy.


    Hôm nay trời trong nắng đẹp nên Sở Kiều chỉ mặc một chiếc váy màu xanh nhạt thêu hoa văn chìm, tóc búi thấp cài một chiếc trâm ngọc bích, nhìn đơn giản nhưng vẫn không hề mất đi quý khí.


    Gặp mặt, hỏi thăm, hàn huyên rồi dùng bữa, như đều theo một trình tự được vạch sẵn, nên nói gì, nên có vẻ mặt như thế nào, tất cả đều được Sở Kiều biểu hiện không có gì để chê trách. Người đông nên không khí trên bàn tiệc hết sức vui vẻ náo nhiệt. Đi theo Sở Kiều cũng có mấy thiếu nữ của Kinh gia, những người này vốn không phải họ Kinh, chỉ là có người nhà kết hôn với họ hàng xa thật xa của người Kinh gia nên cũng được cho là thân thích của Kinh gia. Hiện tại bọn họ đi theo Sở Kiều với tư cách là người thân nhà mẹ đẻ, phần lớn rượu mời nàng đều được mấy ‘thân nhân nhà mẹ đẻ’ này đỡ hộ.


    Dùng tiệc xong, tất cả cùng nhau đến nhà kính trồng hoa uống trà. Những tiểu thư thế gia ngày thường hay tìm mấy chuyện như thêu thùa thưởng hoa làm vui, giờ ngồi yên một chỗ thì không khỏi có hơi buồn chán, chỉ một lúc đã có người đề nghị lấy cảnh làm thơ.


    Sở Kiều tất nhiên hiểu được mấy tiểu thư Gia Cát gia này đề nghị như vậy là muốn ra oai với mình. Người bên ngoài đều cho rằng nàng xuất thân nô lệ, gia tộc suy tàn từ sớm, nhờ có cơ duyên quen biết được mấy đại nhân vật nên mới được như bây giờ. Bảo một thường dân xuất thân nhà binh như nàng ngâm thơ, còn gì khác ngoài muốn nàng xấu mặt chứ?


    Quả nhiên, ngoài một người có phụ thân là huyện lệnh nhỏ có thể miễn cưỡng làm một bài, phần lớn các tiểu thư Kinh gia đều không thông thạo văn thi. Đám tiểu thư của Gia Cát gia che miệng cười, trong mắt đầy vẻ hả hê.


    Nếu là lúc mới đến thế giới này, có lẽ Sở Kiều còn có tâm tình háo thắng so kè với bọn họ, nhưng sau khi trải qua đủ loại sinh tử, nàng chỉ cảm thấy thủ đoạn của những thiên kim nhà cao cửa rộng này vụng về vô vị đến tận cùng. Có điều, đây dù sao cũng là lần đầu tiên lấy thân phận này đến nhà của Gia Cát Nguyệt, nàng quả thật không muốn khiến chàng bị mất mặt, tránh trở về lại bị người nào đó cười nhạo. Thế là nàng đành chọn đại vài bài thơ bình thường không quá đặc sắc trong ấn tượng đọc một hơi, qua loa cho xong chuyện.


    Một tiểu thư của Gia Cát gia cười cười nhìn Sở Kiều, nói: “Đã sớm nghe nói Tứ tẩu tương lai của chúng là một tài nữ văn võ song toàn, hôm nay mới được gặp, quả nhiên không hề tầm thường.”



    Sở Kiều hờ hững đáp lấy lệ: “Quá khen.”


    Một vị khác mắt lúng liếng, cười nói: “Chỉ có điều tên húy của Tứ tẩu tương lai thật khó gọi, mấy người chúng ta thương lượng hồi lâu cũng không biết nên gọi là Kinh tiểu thư hay Sở tiểu thư. Hơn nữa, Tứ tẩu tương lai từng là gia thần của Bắc Yến vương, nay lại là thân vương của Biện Đường, không biết có phải cũng mang họ Yến hay họ Đường?”



    Nàng ta vừa nói xong, sắc mặt của chúng tiểu thư Kinh gia đều trở nên khó coi. Hiện giờ thiên hạ đều biết Sở Kiều đã đổi họ sau khi rời khỏi phủ Gia Cát, bản thân nàng dĩ nhiên thấy không sao, nhưng đối với người Kinh gia thì đây coi như là chuyện rất mất mặt. Nhóm tiểu thư Gia Cát cố tình nhắc đến chuyện này bây giờ, thậm chí còn khơi gợi lại chuyện Sở Kiều từng là gia nô của Yến Tuân, rõ ràng là muốn đẩy nàng vào thế kẹt.


    Sở Kiều cũng không bực bội, chỉ thản nhiên mỉm cười rồi từ tốn nói: “Nếu tiểu thư không biết nên xưng hô thế nào thì có thể gọi ta Tú Lệ vương điện hạ.”



    Nụ cười trên mặt vị tiểu thư kia lập tức tắt hẳn, nàng ta hơi nhướng mày, vừa định đáp trả thì Gia Cát Tình đã vội vàng cướp lời, “Ngày đại hôn cũng không còn xa, chúng ta cứ gọi điện hạ là Tứ tẩu đi, nghe thân tình hơn.”



    Cùng lúc có thị nữ tiến đến châm thêm trà, nhờ đó cũng khiến không khí bớt ngượng ngập hơn. Thế là chư vị thiên kim lại bắt đầu đổi sang nói chuyện phiếm, ví như tiểu thư nhà ai gả cho hào môn đại tộc, vốn tưởng là một mối nhân duyên tốt, không ngờ chỉ mới hai tháng mà nam nhân kia đã nạp tới ba tiểu thiếp. Rồi ví như một vị tiểu thư nhà nào đó bị điên đi coi trọng nam tử nhà nghèo, cha mẹ không đồng ý liền không biết liêm sỉ bỏ nhà theo người ta, đến nay sống chết không rõ.


    Sở Kiều chẳng chút hứng thú với mấy đề tài này của bọn họ, nhưng lại không thể không lắng nghe. Đột nhiên có ai đó nhắc đến chuyện Triệu Triệt thích một cô gái người Hồ ở phương bắc, chính là con gái của tộc trưởng Đông Hồ.


    Chư vị tiểu thư hết sức bất bình, tức tối nói nhất định là hồ ly tinh kia giở thủ đoạn mê hoặc Thất điện hạ, bằng thân phận của nàng ta mà muốn gả cho hoàng thất, quả thực là si tâm vọng tưởng.


    Triệu Triệt lên lên xuống xuống nhiều năm, giờ rốt cuộc nắm lại quyền thế, hơn nữa lại quan hệ mật thiết với Gia Cát gia, nên cũng khó trách vì sao mấy vị tiểu thư này có chút ảo tưởng với hắn. Sở Kiều nghe nói cũng chẳng mở miệng hưởng ứng hay phản bác, dù sao thì người ở thời đại này một khi đã có thành kiến thì rất khó thay đổi, không đáng vì chút chuyện vặt này mà đi đôi co với các nàng.


    Thế nhưng cô tiểu thư bị Sở Kiều nói cho cứng họng khi nãy lại khó chịu nói: “Thất điện hạ giết chóc thành tính, không chút phúc hậu. Nghe nói thời gian mới đến phương bắc hắn ta từng ăn sống uống máu, đích thực là một gã điên, hơn nữa còn có mẫu tộc mang tội, thật sự không hiểu vì sao các tỷ tỷ lại sùng bái như vậy?”



    Người ở Đại Hạ đều biết Gia Cát Nguyệt và Triệu Triệt có quan hệ mật thiết, người ở đây chẳng phải ai cũng có ấn tượng tốt với Triệu Triệt, nói tốt cho hắn cũng chỉ vì có mặt Sở Kiều. Cô tiểu thư kia lại nhảy ra phán một câu như vậy, rõ ràng là muốn vạch lá tìm sâu.


    Sở Kiều còn chưa lên tiếng thì cô tiểu thư có tên Gia Cát Tú ngồi bên cạnh đã tiếp lời: “Bát muội nói rất đúng, phụ thân thường dạy chúng ta làm người phải lương thiện. Chẳng trách vì sao lúc Bắc Yến khởi binh, đại ca thà lui về thuộc địa chứ cũng không muốn để tay nhuốm máu, chìm trong giết chóc.”



    “Chỉ có bọn nhà nghèo vũ phu mới suốt ngày đánh đánh giết giết, Thất điện hạ có thân phận cao quý mà lại làm chuyện ngược với điều thánh nhân dạy như thế, thật khiến người ta lạnh tâm.”



    Sở Kiều thoáng nhíu mày, ánh mắt lạnh đi, liếc nhìn cô Bát tiểu thư kia, hờ hững hỏi: “Ồ? Không ngờ Bát tiểu thư thông hiểu đạo thánh nhân như vậy. Nhân tiện xin hỏi luôn, nếu cả nước đều nghĩ như tiểu thư, lúc kẻ địch xông vào kinh thành kề đao lên cổ tiểu thư, tiểu thư sẽ làm gì?”



    Bát tiểu thư sững ra, hơi biến sắc nhưng cũng lập tức nói: “Đại Hạ ta binh hùng tướng mạnh, phòng thủ như sắt thì bọn chúng làm sao vào được tới kinh thành?”



    “Chẳng phải Bát tiểu thư nói làm người phải biết lương thiện, không nên giết chóc sao? Nếu binh sĩ biên quan ai cũng giác ngộ như tiểu thư, vậy ngày Đại Hạ mất nước sẽ không còn xa nữa.”



    Bát tiểu thư trợn mắt, tức giận nói: “Đám con cháu hàn môn đó sao có thể thông hiểu chỉ dạy của thánh nhân chứ?”



    “Nếu nói như lời của tiểu thư, vậy thế gia cao quý am hiểu lời dạy của thánh nhân tồn tại được đều nhờ vào sự bảo vệ của bọn con cháu hàn môn thất phu vô văn hóa kia?” Một giọng nói lạnh lẽo như băng đột nhiên vang lên, tất cả quay đầu sang nhìn thì thấy là tiếng của vị tiểu thư có cha làm huyện lệnh kia, nàng hờ hững tiếp lời: “Lương thiện nhân hậu gì chứ? Thế cục hiện tại hỗn loạn thế nào, chiến tranh ở Tây Bắc đã kéo dài mấy năm, binh lính biên quan chết vô số mà còn ở đây nói chuyện giáo hóa của thánh nhân? Nếu năm đó không nhờ có Thất điện hạ tử thủ thành Chân Hoàng, chúng ta bây giờ còn được yên ôn hưởng thụ sự thanh bình này sao?”



    Nàng kia tuổi còn trẻ nhưng miệng lưỡi lại vô cùng sắc bén, mới nói mấy câu đã khiến đám thiên kim của Gia Cát gia á khẩu, không ai dám nói tiếng nào.


    Ngay lúc đó, bên ngoài chợt có hạ nhân gõ cửa bẩm báo: “Bẩm Tam tiểu thư, có biểu tiểu thư đến ạ.”



    Gia Cát Tình sửng sốt, sắc mặt lập tức biến chuyển rõ rệt, vừa lật đật đứng dậy định đi ra ngoài thì lại bị Bát tiểu thư cản lại. Bát tiểu thư đắc ý đứng lên tự mình ra mở cửa, sau đó dắt tay một cô gái khác từ tốn đi vào.


    Cô gái vừa đến mặc váy màu xanh nhạt, phong thái cực kỳ tao nhã. Nàng đưa tay ra vuốt nhẹ tóc mai bị gió thổi rối rồi thi lễ với chư vị tiểu thư, hành động kính cẩn nhưng dáng vẻ lại hoàn toàn không hề có chút nhún nhường.


    Gia Cát Tình lộ ra mấy phần không vui, thấy cô gái kia hành lễ xong thì lập tức phất tay bảo nàng lui ra. Không ngờ Bát tiểu thư lại kéo tay nàng kia đi đến cạnh Sở Kiều, ha ha cười nói: “Tô tỷ tỷ, tỷ còn chưa bái kiến vị này đấy. Đây chính là Tú Lệ tướng quân lừng danh thiên hạ của Bắc Yến, Tú Lệ vương của Biện Đường, Tứ thiếu phu nhân của Gia Cát gia chúng ta đấy.”



    Thân thể cô gái họ Tô kia đột nhiên run lên, lập tức ngẩng đầu lên, đầu gối hơi khuỵu chuẩn bị hành lễ khựng lại, không hạ xuống nữa.


    Chúng thiên kim bên cạnh đều lộ sắc mặt khác thường, có lo lắng, có sợ hãi, cũng có chút hả hê.


    Sở Kiều không biết người này là ai nhưng cũng cảm thấy hơi kỳ quái, có điều vẫn đứng dậy định đỡ nàng lên, nói: “Không cần đa lễ.”



    Nàng kia theo bản năng lùi về phía sau một bước, không để Sở Kiều đụng đến tay mình, ánh mắt cũng dần bình ổn lại, nhẹ giọng nói với Sở Kiều: “Dân phụ Tô Loan Loan bái kiến điện hạ.”



    “Tô tỷ tỷ, tuy Hách Liên gia suy tàn, nhưng Tứ đã giúp tỷ trừ bỏ tội tịch từ lâu, còn xưng dân phụ gì nữa, nói không chừng…” Bát tiểu thư liếc sang Sở Kiều một cái rồi cười cười, nói tiếp: “Về sau sẽ có ngày Tô tỷ tỷ trở thành tỷ muội với Tứ tẩu đấy.”



    “Thấm Nhi, không được ăn nói lung tung!” Gia Cát Tình nhăn trán, tức giận quát Gia Cát Thấm một câu rồi nói: “Biểu tiểu thư khó khăn mới có thể vào phủ một chuyến, đường sá xa xôi nên nhất định đã mệt rồi. Đào Thư, đưa biểu tiểu thư đi nghỉ ngơi.”



    “Chậm đã!” Bát tiểu thư kéo tay Tô Loan Loan, trầm giọng nói: “Tam tỷ, Tô tỷ tỷ từ nhỏ cùng chúng ta lớn lên, hơn nữa còn có giao tình mật thiết với Tứ ca. Đại hôn của Tứ ca sắp đến, chúng ta ở đây gặp mặt chào hỏi Tứ tẩu, có lẽ nào Tô tỷ tỷ lại không có tư cách tham gia chứ?”



    Gia Cát Tình giận siết khăn đến mức đốt ngón tay trắng bệch.


    “Tứ tẩu, tẩu vẫn chưa quen biết Tô tỷ tỷ. Tô tỷ tỷ là cháu ruột của Nhị di nương, từ nhỏ lớn lên cùng với Tứ ca. Nếu trước đó Tô tỷ tỷ không gả cho Hách Liên gia thì Tứ ca đã không độc thân nhiều năm như vậy. Năm đó lúc Tô tỷ tỷ xuất giá, Tứ ca còn dẫn người đi cản kiệu hoa, đánh tân lang một trận bầm dập nữa đấy. Chuyện này đã sớm thành giai thoại trong khắp thành, ai cũng biết Tứ ca từ nhỏ đã là người chung tình hiếm thấy.”



    “Bát tiểu thư, Tam tiểu thư, ta còn việc bận, không tiện quấy rầy mọi người nữa.” Tô Loan Loan đột nhiên lớn tiếng nói rồi xoay người định đi.


    Thế nhưng Bát tiểu thư kia lại giữ người lại, khó chịu nói: “Ta còn chưa nói xong, đã cho phép ngươi đi chưa?”



    Tô Loan Loan cắn chặt môi dưới, vành mắt ngậm nước, nói như cầu xin: “Bát tiểu thư…”



    “Đồ vô dụng, thảo nào mà Hách Liên gia lại suy tàn nhanh như vậy.”



    Một tiếng *bốp* vang dội đột nhiên vang lên, lập tức khiến tất cả mọi người chấn động. Bát tiểu thư ôm một bên mặt sưng đỏ in rõ năm dấu tay, không thể tin nhìn Sở Kiều, run rẩy chỉ về phía nàng, gào lên: “Ngươi dám đánh ta?”



    “Có gì không dám?” Sở Kiều dạy dỗ người khác xong thì ung dung ngồi xuống bưng chén trà lên, dùng nắp chén gẩy lá trà trên mặt, nhướng mày bình thản nói: “Về công, ta là thân vương Biện Đường, là khách của Đại Hạ, ngươi ở trước mặt ta hô to gọi nhỏ, ta trị ngươi tội bất kính thì có gì không được? Về tư, ta là Tứ tẩu tương lai của ngươi, ngươi tự tung tự tác trước một phòng tỷ muội, xấc xược với biểu tỷ của mình, nếu là Gia Cát lão gia ở đây, e rằng ngươi cũng không tránh khỏi bị ăn tát.”



    Bát tiểu thư tức giận chỉ ngón tay vào mặt Sở Kiều, hét to: “Kinh Nguyệt Nhi, ngươi đừng khinh người quá đáng!”



    “Có tin ta sẽ bẻ gãy ngón tay của ngươi không?” Sở Kiều xoay đầu lại nhìn Gia Cát Thấm, ngữ khí vô cùng bình thản nhưng ánh mắt lại sắc bén tựa như mũi đao.


    Gia Cát Tình vội vã tiến lên ngăn ở giữa, “Xin điện hạ chớ nóng giận, Thấm Nhi còn nhỏ tuổi nên không hiểu chuyện.”


    Sở Kiều đứng dậy, hờ hững quét mắt về phía Gia Cát Thấm, nhìn thấy nàng ta tuy ngoài mặt không phục nhưng cũng không dám nói nữa, mới quay sang nói với Gia Cát Tình: “Nếu đã biết nàng ta không hiểu chuyện thì chớ tùy tiện thả ra ngoài để chịu mất mặt, tránh để lại tiếng xấu cho gia phong của Gia Cát gia.”


    Dứt lời, Sở Kiều kéo tay Tô Loan Loan, dẫn tùy tùng rời khỏi phòng. Chúng phu nhân của Gia Cát gia được tin Tô Loan Loan vào phủ đã biết không ổn, lập tức chạy tới thì cũng chỉ kịp nhìn thấy bóng lưng của Sở Kiều, đành rối rít đi theo luôn miệng xin tội ra đến tận cửa. Sở Kiều để Tô Loan Loan ngồi xe, còn mình thì nhảy lên lưng ngựa, đường hoàng thúc ngựa rời đi trong đủ loại ánh mắt khác nhau của đám người.


    Lúc trở lại phủ Tư mã thì trời đã tối đen, Sở Kiều ngồi cạnh ngọn nến, khuôn mặt như tắm trong ánh sáng vàng nhàn nhạt, hai mắt nhìn đăm đăm vào một chỗ.


    Mai Hương e dè đi vào, thấp giọng hỏi: “Tiểu thư, chúng em nên sắp xếp thế nào cho vị Tô tiểu thư kia ạ?”



    Sở Kiều không đáp lời, chỉ lẳng lặng nhìn ngọn đèn trên bàn tựa như không hề nghe thấy.


    Mai Hương biết tâm trạng của nàng đang không tốt lắm, chỉ có điều không rõ là có phải vì vị tiểu thư họ Tô hay không mà thôi, đang định lui ra thì đột nhiên nghe Sở Kiều nói: “Tối nay cứ để nàng ấy ở lại trong phủ, ngày mai thì đưa trở về nơi ở của nàng ấy. Em nhớ phái người trông chừng, đừng để người phủ bên kia đến làm khó dễ nàng ấy.””


    Mai Hương gật đầu đáp: “”Vâng, em nhớ rồi.”



    “Mai Hương, có phải ta đã nhiều chuyện rồi không?”



    Mai Hương sửng sốt hỏi lại: “Tiểu thư vừa nói gì ạ?”



    “Vị Tô tiểu thư này là một người vô cùng quan trọng với chàng. Đám người Gia Cát gia kia thi nhau dằn mặt ta, bản thân ta thì chẳng cảm giác gì, nhưng nhìn thấy nàng ấy bị ức hiếp thì lại không nhịn được.” Trong phòng tràn ngập ánh nến vàng mượt mà, hương trầm thủy nhẹ nhàng lan tỏa bốn phía, Sở Kiều đưa tay chống cằm, nhẹ giọng nói: “Bọn họ đưa nàng ấy ra chính là muốn làm cho ta ghen.”



    Mai Hương chỉ cảm thấy Sở Kiều nói câu này xọ câu kia, chẳng theo đầu đuôi gì cả, thế nên thử hỏi: “Tiểu thư, vậy người có ghen không vậy?”



    Sở Kiều nhướng mày, “Ta giống loại người đó sao?”



    Mai Hương vội vàng cười xòa, “Dạ, em cũng thấy tiểu thư không phải loại người sẽ tức giận vì mấy chuyện cỏn con này.”



    Sở Kiều chăm chú nhìn Mai Hương hồi lâu khiến cô nàng cũng bắt đầu thấy da đầu tê dại. Cuối cùng nàng lại nói: “Ta mệt rồi, em lui ra nghỉ đi.”



    Mai Hương vội vàng ra ngoài, Sở Kiều vẫn ngồi bên cửa sổ, không hề có ý định lên giường ngủ.


    Không ghen? Làm sao có thể chứ?


    Cũng không hẳn là thương tâm khổ sở gì, chẳng qua chỉ có chút không thoải mái trong lòng.


    Dịu dàng yếu đuối tựa một chú chim nhỏ, cả nàng nhìn cũng thấy thương tiếc chứ đừng nói chi đến nam nhân. Đứng trước mặt người như vậy, e rằng bất kỳ ai cũng sẽ nảy sinh dục vọng bảo vệ nàng ta.


    Làn da của người nọ bóng loáng nhẵn mịn như vậy, không như nàng, qua nhiều năm chinh chiến xông pha mưa gió, da dẻ đã sớm thô ráp từ lâu. Nhìn bàn tay người nọ, e cả đời cũng chưa từng làm việc nặng gì, trắng nõn nà như củ sen, không như nàng, từ nhỏ đã mang số nô lệ, sau đó không ngừng luyện thương luyện kiếm, vết chai đếm không hết rồi. Còn ngực của người nọ…


    Nghĩ tới đây, Sở Kiều đột nhiên đứng dậy đi đến đứng trước gương đồng.


    Ừ, nhìn được, mấy năm nay ngực của nàng phát triển rất tốt, tuy không đáng kiêu ngạo như lúc ở hiện đại nhưng cỡ 34C như giờ chắc cũng đủ xài chứ? Phần eo? Không mảnh mai như người nọ, gần đây hình như ăn khá nhiều, hơi mập ra thì phải. Có điều chân người nọ chắc chắn không dài bằng nàng. Sở Kiều hài lòng gật gù, nàng rất tự tin về phần cơ thể này. Kinh Nguyệt Nhi không tệ, để lại cho nàng một đôi chân vừa dài vừa thon. Hơn nữa vận động nhiều năm như vậy, thân hình của nàng hẳn là săn chắc hơn người nào đó nhiều.


    Sở Kiều bắt đầu nhìn lên tới khuôn mặt, mắt không tính là rất to, nhưng cũng không quá nhỏ. Mũi đẹp, khá đẹp nữa là khác. Còn môi? Hình như hơi mỏng, không đủ gợi cảm. Còn răng? Ừ, răng cũng không tệ, vừa đều vừa trắng. Nhìn chung thì khuôn mặt miễn cưỡng xem như qua cửa, từ trên xuống dưới cho tám trên mười điểm hẳn không có vấn đề.


    Ngay lúc đó ngoài cửa sổ đột nhiên vang lên âm thanh *sột soạt* rất nhỏ. Sở Kiều khẽ cau mày, cẩn thận đi đến vén rèm cửa sổ lên. Đứng bên ngoài chính là cô gái con huyện lệnh từng đứng ra bênh vực nàng hôm nay.


    “Ngươi đứng ở đây làm gì?”


    Vị Kinh tiểu thư nọ hơi thoáng hoảng hốt, nhưng ngay sau đó liền hồi thần, quỳ *phịch* xuống trên mặt đất, nói: “Xin tỷ tỷ cứu phụ thân muội, phụ thân muội bị cấp trên vu tội tham ô lương thực cứu tế thiên tai nên hiện giờ đã bị nhốt vào thiên lao rồi.”



    Sở Kiều nhíu mày, trầm giọng nói: “Ta không quản chính sự của Đại Hạ, nếu như lời ngươi nói là sự thật thì chờ Gia Cát Nguyệt trở lại, ta sẽ giúp ngươi nói với chàng.”



    Thiếu nữ mừng rỡ nói: “Đa tạ tỷ tỷ.”



    “Đứng lên đi, ngươi tên gì?”



    “Muội gọi Vu Tiêu Hòa.”


    “Họ Vu? Vậy ngươi có quan hệ thế nào với Kinh gia?”



    Vu Tiêu Hòa vội vàng đáp: “Tiểu thiếp thứ hai của huynh trưởng gia gia muội vốn là dì họ của biểu đệ dòng xa của Kinh tiên sinh.”



    Sở Kiều nghe nói mà choáng váng, họ hàng quái gì thế này, đừng nói là xa tám đời, xa mười tám đời cũng không chừng. Thật sự không biết Lý Sách mất bao nhiêu công sức mới lần mò ra được mấy người này.


    Nghĩ đến đây, nàng lại không khỏi có phần mất mát. Đến giờ nàng mới hiểu được ý nghĩa của tất cả những điều Lý Sách làm cho nàng. Nếu không có thân phận này, không có số hồi môn hùng hậu kia, hôm nay nàng sẽ không thể ngẩng cao đầu tiến vào cửa phủ Gia Cát. Cho dù nàng chưa bao giờ xem trọng những thứ vật chất kia, nhưng lại không thể thừa nhận, bất kể là đối với Gia Cát Nguyệt hay đối với chính nàng, chúng đã giúp giảm bớt rất nhiều áp lực.


    Không ngờ Lý Sách thường ngày luôn cười đùa bỡn cợt lại có thể nhìn xa đến như vậy.


    “Ngươi về trước đi, ta đã nhớ kỹ rồi.”



    “Đa tạ tỷ tỷ.” Vu Tiêu Hòa thi lễ một cái rồi nhanh chóng chạy đi.


    Sở Kiều vừa định đóng cửa sổ lại thì chợt nhìn thấy bên dưới tàng cây cách đó không xa có một cô gái áo trắng đang im lặng đứng đó, ánh mắt trong suốt như vầng trăng trên cao.


    Trong lòng hơi dao động, nàng cười khẽ: “Tô cô nương, bên ngoài gió rất lớn, có muốn vào trong ngồi một lát không?”



    Tô Loan Loan đi đến ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, phong thái nhã nhặn trầm tĩnh. Hiện tại nhìn ở khoảng cách gần, nàng không hề giống một người hai bảy hai tám tuổi, dung nhan vẫn hết sức mỹ lệ, vài nếp nhăn rất nhạt ở đuôi mắt chỉ tô điểm thêm cho phong vận của nàng.


    Tô Loan Loan chỉ ngồi đó mà không nói gì. Sở Kiều rót trà cho nàng ta rồi mỉm cười ngồi xuống vị trí của mình. Nàng ta không nói lời nào thì nàng cũng chẳng cần mở miệng.


    Có điều công phu tu dưỡng của Tô Loan Loan làm sao bì được với Sở Kiều, rốt cuộc nàng ta vẫn là người lên tiếng trước: “Tú Lệ vương điện hạ…”



    “Tô cô nương gọi ta Sở Kiều là được, không cần xưng điện hạ gì đó.”



    Tô Loan Loan gật đầu, tiếp lời: “Sở Kiều cô nương, hy vọng cô nương không để bụng chuyện ngày hôm nay.”



    Sở Kiều nhướng mày, hỏi: “Chuyện gì cơ?”



    Tô Loan Loan hơi đỏ mặt, nói: “Chính là… chính là theo lời Bát tiểu thư nói, chuyện giữa ta và Tiểu Tứ.”



    Sở Kiều cười cười, thản nhiên lắc đầu, “Ta không hề để ý đến lời của bọn họ.”


    Nghe Sở Kiều nói vậy, mặt Tô Loan Loan càng đỏ hơn. Nàng ta suy nghĩ một chút rồi mở miệng nói: “Ta và Tiểu Tứ từ nhỏ lớn lên cùng nhau, cậu ấy là người tốt hiếm thấy, xuất thân cao quý nhưng trọng tình trọng nghĩa. Ta bất đắc dĩ phải gả cho Hách Liên gia, khi đó cậu ấy còn nhỏ tuổi, tính tình lại cố chấp, nên khó tránh khỏi hành sự vọng động. Những năm gần đây, ta cũng loáng thoáng nghe được chút chuyện của hai người, Tiểu Tứ chính là người như vậy, chỉ cần là người cậy ấy coi trọng thì sẽ đối đãi hết sức chân thành. Hách Liên thị suy tàn, cậu ấy giúp ta chuộc thân, sắp xếp cho ta ở lại biệt viện của mình, tất cả đều chỉ vì nhớ tình nghĩa cũ, Sở Kiều cô nương chớ để trong lòng.”


    Sở Kiều đột nhiên phì cười, nhướng mày nói ra vẻ ngạc nhiên: “Tô cô nương có hơi không giống trong tưởng tượng của ta. Cô nương vừa mới khuyên ta không nên để trong lòng, nhưng nghe những lời cô nương nói, sao ta lại cảm thấy cô nương thật ra hy vọng ta để bụng nhiều một chút vậy nhỉ?”


    Tô Loan Loan kinh hoảng, vội vàng lắc đầu phủ nhận, “Không, không phải thế.”



    “Được rồi, không cần phải nói nữa.” Sở Kiều ngắt lời nàng ta, “Thật ra thì cô nương không cần phải giải thích. Ta và Gia Cát Nguyệt trải qua chừng ấy sóng gió, nếu ta không tin chàng thì bây giờ đã không ngồi đây nói chuyện với cô. Ta hiểu tâm trạng của cô, vì vậy cũng phiền cô hiểu cho ta. Thân phận của cô và ta khó tránh khỏi khó xử khi gặp nhau, nhưng đó dù sao cũng là chuyện đã qua, sẽ không ảnh hưởng gì đến tương lai của ta và Gia Cát Nguyệt. Cô cũng không cần lo lắng cho ta, và ta cũng có một câu muốn nói với cô, tên đã bắn ra thì không thể quay đầu lại, thế sự chuyển biến không ngừng, không phải ai cũng sẽ vĩnh viễn đứng ở chỗ cũ chờ cô.”



    Tô Loan Loan nhất thời trầm mặc, thật lâu sau mới chậm rãi gật đầu nói: “Ta hiểu rồi.”



    “Tô cô nương, thứ cho ta nói thẳng như thế, ta chẳng qua cảm thấy như vậy sẽ tốt cho cô hơn.”



    Tô Loan Loan gật đầu, “Không sao, thật ra ta cũng hiểu, chỉ là thỉnh thoảng vẫn ôm chút hy vọng xa vời. Có lẽ đây chính là báo ứng, ban đầu ta vì quyền thế mà rời bỏ cậu ấy, cho nên hôm nay mới rơi vào kết cục tay trắng như thế này.”



    Sở Kiều cười nói: “Nhân sinh như một ván cờ, đi sai nước sẽ mất một vùng lãnh thổ, nhưng cũng không nhất định sẽ không bao giờ thắng ở những vị trí khác. Ta từng chán nản thất vọng hơn cô, từng sa sút tinh thần đến mức muốn chết, thế nhưng ta vẫn kiên trì đến giờ này. Tô cô nương, cô còn trẻ, không cần phải vì một chuyện cũ mà tự phán tử cho chung thân của mình.”



    Tô Loan Loan đứng dậy, khẽ cười nói: “Đa tạ, không cần lo cho ta. Cô và Tiểu Tứ sắp thành hôn rồi, sau này mong cô sẽ chăm sóc cậu ấy thật tốt.”



    Sở Kiều gật đầu, “Nhất định.”



    Sau đó Tô Loan Loan đi ra khỏi phòng, tấm lưng mảnh khảnh dưới ánh nến kéo thành một cái bóng thật dài trên mặt đất. Bên ngoài lất phất mưa xuân đổ xuống không biết từ bao giờ, hạt mưa như nhuộm sương khắp vườn liễu, dần dần che khuất thân ảnh nàng ta.


    Sở Kiều đột nhiên nhớ lại bức tranh nàng từng nhìn thấy trong Thanh Sơn viện rất nhiều năm trước, đứa bé gái mặc y phục vàng nhạt, môi nở nụ cười tươi tắn như một đóa thược dược nở rộ.


    Nàng nói người khác, nhưng thật ra thì cũng chính là nói với bản thân mình.


    Tên đã bắn ra sẽ không còn cơ hội quay đầu lại.


    Nhưng đoạn đường này, Gia Cát Nguyệt đã cho nàng bao nhiêu cơ hội quay đầu rồi?


    Tô Loan Loan không may mắn, nhưng nàng thì lại rất rất rất may mắn.


    Sở Kiều tựa người bên cửa sổ, đưa mắt nhìn ra bầu trời đen thăm thẳm ở phía đông.


    Nguyệt, chừng nào chàng mới trở về vậy?


    Nàng bất đắc dĩ thở dài, gió đêm thổi tung tóc mai bên thái dương mang theo hơi nước ẩm ướt.


    Sau khi trở về phòng ngủ, Sở Kiều thả tóc ra, thay áo ngủ trắng rồi đi chân trần lên giường, vừa chui vào trong tấm chăn đậm mùi hương của chàng thì đột nhiên nhìn thấy bức thư cạnh gối, trên thư viết cặn kẽ suy nghĩ của nàng đối với tình hình chiến sự ở Bắc Yến, dài đầy cả trang giấy.


    Đây là thư nàng muốn gửi cho Gia Cát Nguyệt, chẳng qua vẫn chưa viết xong.


    Yến Tuân không phải là người dễ dàng tỏ ra yếu thế, nếu như Bắc Yến biểu hiện vô cùng cứng rắn kiên quyết, có lẽ nội bộ thật sự có vấn đề. Còn nếu nhìn như yếu ớt bất lực thì nhất định phải lưu ý, bọn họ ắt hẳn đang mưu đồ kế hoạch lớn nào đó.


    Sở Kiều chau mày thở dài một tiếng. Hy vọng Bắc Yến thật sự là đang yếu thế, mong chiến tranh chỉ xảy ra sau khi Triệu Triệt đăng vị.


    Nhớ đến lão nhân kỳ lạ gặp đêm hôm đó, cùng với giấc mộng đáng sợ kia, nàng lại thấy đau đầu.


    Sẽ không xảy ra chuyện gì chứ?


    Thâm tâm bảo không có, nhưng nàng lại cảm thấy càng lúc càng không chắc chắn.


    Chỉ mong thật sự là không có.
     
    Tu Di and Vân Yên like this.
  11. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 187: Thiên tử băng hà
    Hành lang đỏ son, mái ngói xanh biếc, ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá xuống trên đất, tô điểm thêm cho không gian cổ kính. Hoa nở rộ, hương vị ngày xuân treo hững hờ trên đầu ngọn liễu bên ngoài cửa sổ, lặng lẽ theo gió luồn qua song cửa vào phòng, ve vuốt nơi đáy mắt của cô gái trong phòng.


    Bức thư trong tay nàng như mơ hồ thấm đượm mùi vũ khí và máu lửa, trên mặt giấy là nét bút cứng cáp, chỉ mấy dòng tựa như mặt nước gợn vài con sóng nhẹ, lẳng lặng lan tỏa trong tẩm điện ấm áp.


    Sở Kiều mặc y phục xanh nhạt tựa người lên nệm lưng mềm mại, trước cửa sổ có treo một cái lồng chim, cửa lồng được mở rộng. Một chú chim trắng như tuyết đang lười nhác ngủ gà gật trong lồng, ba chiếc lông đuôi đỏ rực rũ xuống, nhìn không còn chút gì của vẻ uy phong ngày thường.


    Nguyệt Thất nói con tuyết quyên được Gia Cát Nguyệt nuôi này vốn là giống chim hung dữ nhất ở Thanh Hải, bay cực nhanh, vuốt cũng cực sắc, hơn nữa còn hết sức thông minh.


    Sở Kiều dùng đũa gắp một miếng thịt tươi đưa vào lồng, chú tuyết quyên không buồn mở mắt, chìa mỏ ngoạm lấy miếng thịt, chóp chép hai cái rồi nuốt chửng, sau đó nghiêng đầu ngủ tiếp.


    Đúng là một con chim lười, cả ngày cũng không thèm kêu một tiếng.


    Sở Kiều ngước lên nhìn nó, đầu ngón tay vuốt ve lá thư trong tay, trong lòng dâng lên cảm giác ấm áp.


    Tuy lười nhưng rất hữu dụng.


    Bức thư này từng là giấy báo tin, nhưng hôm nay đã xem như là thư nhà rồi.


    Hôn kỳ gần kề, hai ngày nữa chàng sẽ trở về.


    Nàng sẽ mặc hỷ phục, đội mũ phượng, ngồi lên kiệu tám người khiêng, đường hoàng bước qua cửa nhà chàng trong tiếng nhạc tưng bừng. Sau đó nàng sẽ là thê tử danh chính ngôn thuận của chàng. Nàng lấy tờ canh thiếp* luôn được đặt dưới gối ra, trên bao thiếp vẽ uyên ương nghịch nước và bỉ dực song phi bao phủ bởi trăm hoa, bên trong là tên của hai người bọn họ, một trái một phải.

    *Canh thiếp: Lá thiếp biên tên, tuổi (nhân trong thiếp có biên tuổi, tức niên canh, nên gọi là canh thiếp). Theo hôn lễ xưa, khi bắt đầu dạm hỏi, nhà trai, nhà gái trao đổi canh thiếp của trai gái để đính ước với nhau.


    Sở Kiều cảm thấy bản thân hiện giờ giống như loài tuyết quyên ở Thanh Hải này vậy, sau khi cởi bỏ lốt ngoài sắc bén sát phạt vốn có thì sẽ chỉ muốn yên ổn ở trong lồng son, dù cửa lồng mở rộng cũng chẳng chịu bay ra ngoài.


    Trên đời có muôn vàn loại cửa, nhưng chỉ loại cửa vô hình mới có thể chân chính ngăn cản bước chân người khác một cách vĩnh viễn.


    Chàng là Tư mã của Đại Hạ, nhưng lại có tước vị phiên vương, nàng cũng xuất giá theo lễ nghi dành cho công chúa, hồi môn và sính lễ chất đầy một sân. Các loại châu ngọc kỳ trân chất như núi, triều phục do Thượng y cục chuẩn bị cho nàng và vật phẩm ban thưởng từ trong cung xếp thành dãy dài, lễ vật do các thế gia hào môn đưa đến cũng đã chiếm trọn một gian điện vốn trống trải.


    Nàng cũng hiếm khi hăng hái như hiện giờ, thỉnh thoảng còn dẫn Thanh Thanh, Mai Hương và Hoàn Nhi đi xem đống lễ vật kia, mấy tiểu cô nương chưa từng nhìn thấy nhiều đồ quý giá như vậy nên ai cũng tròn mắt kêu to vô cùng khoa trương, hệt như một đám người nhà quê mới lên kinh lần đầu.


    Tối nay Sở Kiều sẽ phải đến ở tại chính phủ Gia Cát, để chủ mẫu Gia Cát gia chuẩn bị tiến hành các nghi lễ trước ngày cưới dành cho tân nương. Nàng không có nhà mẹ đẻ, cho nên trước ngày cưới chỉ có thể ở tại phủ Gia Cát, sau đó xuất giá từ khuôn viện mình ở lúc nhỏ là Thanh Sơn viện, gả vào phủ Tư mã tráng lệ.


    Hoàng hôn phủ xuống, thời gian như gợn sóng trên mặt hồ, từng chút một mở rộng, bao trùm bốn phía.


    Sau khi tiến vào phủ Gia Cát, Sở Kiều cũng chưa nhìn thấy chủ mẫu, chỉ có nhóm người Kinh gia là vẫn luôn theo bên cạnh. Nàng bảo Vu Tiêu Hòa đến bầu bạn cạnh mình. Cô thiếu nữ xuất thân không cao này nhìn thấy nàng thỉnh thoảng sẽ thất thần thì lẳng lặng lấy ra một nắm hương Tô Hà. Mùi hương rất quen thuộc, dường như rất lâu về trước, nàng từng học được phương pháp điều phối nó ở ngự dược phòng thì phải.


    Một nhúm hạt tía tô, một nhúm bách hợp, một nhúm quế, một nhúm mẫu đơn, hai nhúm nhụy sen, hai phần dầu hoa hồng, hai phần dầu chuối, hai phần…


    Cũng chẳng phải dược liệu quý giá gì nhưng có thể tạo ra mùi hương giúp an thần dưỡng khí, hiệu quả nhất trong việc giúp người hay bị ác mộng quấy nhiễu an giấc.


    Hai ngày sau, hạ nhân đi vào nói Gia Cát Nguyệt đã trở về, có đến bái kiến phụ mẫu ở chủ phòng nhưng theo lễ nghi không thể tới gặp nàng.


    Sở Kiều được tin vào lúc đang tắm, cả người chìm trong nước ấm, vô cùng thư thái. Hạ nhân đưa thư đến, nước từ đầu ngón tay nàng thấm ướt giấy khiến nét mực hơi nhòe, trên thư chỉ có một dòng chữ thanh mảnh nhưng cứng cáp: “Ta đã về, năm ngày sau sẽ đến đón nàng.”



    Năm ngày sau chính là đại hôn của bọn họ.


    Đến đêm, Sở Kiều đưa tay sờ vào hàng dây leo đã hơi héo vì ánh nắng ban ngày, đầu ngón tay dính chút bụi li ti. Suy nghĩ trong đầu tràn ra như tầng tầng dây leo. Hình bóng bức thư chi chít chữ vương vấn lượn lờ, trên thư là những câu chữ chân thành vẫn đang viết dở.


    Đầu ngón tay Sở Kiều trắng bệch, tiếng binh giáp đao kiếm ngày xưa như quanh quẩn bên tai, tựa một khúc nhạc đều đặn không ngừng.


    “Đại nhân, người có đi cùng ta không?”



    Sở Kiều lắc đầu, khẽ cười: “Ta phải ở lại đây.”



    Hạ Tiêu gật đầu, cúi mình hành lễ, “Đại nhân bảo trọng.”



    Thành cửa sổ hơi ẩm ướt, trăng trên cao vừa sáng lại vừa tròn, Sở Kiều ngước lên nhìn vầng trăng trong trẻo, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Gió sắp nổi lên rồi.”



    Gia Cát gia phái ba vị phu nhân đến chải tóc cho tân nương đều bị Sở Kiều đuổi đi, vài vị phu nhân lớn tuổi của Kinh gia chủ động yêu cầu cũng không được nàng đáp ứng. Đêm trước ngày cưới, cuối cùng vẫn là Mai Hương bị đẩy vào phòng ngủ.


    Mai Hương luôn kiên cường nhưng bây giờ lại tay run run giúp nàng mặc hỷ phục bằng gấm tơ vàng dệt chìm hoa văn hải đường tinh xảo, viền áo thêu hình chim loan, hoa văn mẫu đơn tám màu trên tà váy điểm xuyến ngọc bát bảo, ngọc thiên thương, điền ngọc bạch ngọc và cả huyết ngọc. Bên dưới ánh nến, châu ngọc và trang sức vàng trên tóc càng thêm rực rỡ lộng lẫy.


    Mai Hương chảy nước mắt lã chã nhưng khóe miệng lại nhoẻn cười vô cùng vui vẻ. Sở Kiều đưa tay lau nước mắt trên mặt cô gái nhiều năm qua vẫn ở cạnh mình rồi ôm nàng vào lòng.


    “Tiểu thư.” Mai Hương cũng ôm lấy nàng, đã nói không ra lời, chỉ có thể không ngừng nức nở gọi: “Tiểu thư, tiểu thư…”



    Sáng hôm sau, ngày đại hôn cuối cùng cũng đến.


    Lễ quan Biện Đường dàn hàng ở hai bên, toàn bộ đều dựa theo nghi thức xuất giá của công chúa. Loan giá khởi hành ra khỏi phủ Gia Cát, trước đến biệt viện của Biện Đường ở kinh thành nhận thánh chỉ của tiên hoàng Lý Sách và chúc phúc của Đường hoàng Lý Tu Nghi rồi lần lượt đi qua công Trang Nghị, cổng Càn Khôn. Tiếng nhạc rộn ràng trỗi lên, lụa đỏ giăng khắp nơi, tiền vàng được ném ra suốt dọc đường đi. Đại Hạ cũng phái ra rất nhiều lễ quan đi theo xa giá, đều theo nghi thức hòa thân mà làm.


    Dân chúng tụ tập chiêm ngưỡng đông như biển, tám mươi hỉ nương ngồi xe đi theo loan giá đều là tỷ muội và phu nhân của Gia Cát gia. Sở Kiều căng thẳng đến mức lòng bàn tay rịn đầy mồ hôi, hô hấp cũng khó khăn. Khăn hỉ che kín tầm mắt khiến nàng không nhìn thấy gì, chỉ có thể nghe được tiếng trống nhạc tưng bừng.


    Đoàn xe càng đến gần phủ Tư Mã thì Sở Kiều càng khẩn trương. Nàng đã nhớ kỹ lộ trình, biết rằng nếu không có gì bất ngờ xảy ra, đến cầu Khổng Tước lễ quan Biện Đường sẽ chuyển giao kiệu hoa cho lễ quan Đại Hạ, Gia Cát Nguyệt sẽ đón dâu trên cầu Khổng Tước.


    Song, đoàn xe vừa mới đến bờ hồ thì đột nhiên giảm tốc độ, sau đó ngừng hẳn lại.


    Tim Sở Kiều giật thót, cùng lúc đó, từ hướng cung Thịnh Kim truyền đến một tràng chuông cổ ngân nga, mười bốn hồi chuông trang nghiêm văng vẳng lan khắp mọi nẻo đường, là năm hồi dài chín hồi ngắn chứ không phải là chín hồi dài năm hồi ngắn khi hoàng đế lên ngôi. Âm thanh thê lương tiêu điều như tiếng gió rít bao trùm đế đô Chân Hoàng phồn hoa.


    Tất cả người đi lại trên đường đều dừng chân nhìn ra xa, mọi âm thanh đều im bặt, trời đất không một tiếng động, ngay cả chim trên trời như cũng ngừng bay. Không biết là ai phản ứng trước tiên nhưng ngay sau đó, tất cả mọi người đều đồng loạt quỳ rạp xuống đất, hướng về phía cung Thịnh Kim dập đầu.


    Tiếng gào khóc vang vọng truyền đến quảng trường Tử Vi.


    Sở Kiều giật hỉ khăn xuống, vén rèm xe nhìn ra ngoài, gió nhẹ phả lên mặt khiến tóc mai nàng bay bay.


    Nàng chợt đột nhiên hiểu được…


    Hạ hoàng đã băng hà.


    Lễ quan Đại Hạ lập tức bi thương khóc to, còn lễ quan Biện Đường thì trợn mắt há hốc mồm, không biết nên ứng phó thế nào.


    Gia Cát Hoài dẫn dắt đội đón dâu nghiêm nghị chỉ huy đội ngũ theo đường cũ trở về.


    Gió nhẹ thổi đến, Sở Kiều lướt qua mặt hồ yên ả, dõi nhìn trên cầu Khổng Tước, lòng hỗn loạn như mặt biển dậy sóng. Đoàn xe dần đi xa, bóng dáng cầu Khổng Tước cũng nhỏ dần.


    Sở Kiều chợt hoảng hốt, đột nhiên không biết mình đang ở đâu, cảm giác giống như ngày đông trên hồ Thiên Trượng năm đó, bão tuyết bao trùm trắng xóa bốn bề, hai người càng lúc càng xa, cuối cùng không nhìn thấy nhau nữa.


    Nàng nhấc váy lên, đẩy cửa loan giá ra.


    “Điện hạ!” Vu Tiêu Hòa giữ tay Sở Kiều, kinh hoảng kêu lên: “Điện hạ định làm gì vậy?”



    Người phía trước đột nhiên xoay đầu lại, mắt phượng thăm trầm như đầm sâu, có ba phần tương tự Gia Cát Nguyệt. Người nọ chính là Gia Cát Hoài, huynh trưởng của Gia Cát Nguyệt.


    Động tác của Sở Kiều chậm lại, đối mặt với hơn ngàn giáp binh đi theo đón dâu, nàng từ tốn đóng cửa xe rồi ngồi xuống, im lặng không nói.


    Sở Kiều bị mang về biệt viện của Biện Đường. Nàng ngồi trong phòng cả ngày không ra ngoài nửa bước. Trời sập tối, Bình An đến báo rằng binh mã bên ngoài bị điều động tới tấp, nội cung Thịnh Kim đến giờ vẫn chưa công bố tin hoàng đế băng hà, dân chúng cũng trốn tịt trong nhà, ai cũng thấp thỏm không yên.


    Sau khi trời tối hẳn thì biệt viện của Biện Đường đã bị bao vây hoàn toàn, ngay cả Bình An và Đa Cát cũng không cách nào ra ngoài thám thính tin tức.


    Lúc trăng lên đến đầu cành thì bên ngoài biệt viện đột nhiên vang lên tiếng bước chân huyên náo tựa như có rất đông binh mã kéo đến. Đa Cát chạy ra xem, một lúc sau thì dẫn theo một nam tử cao lớn đi vào.


    Gia Cát Hoài đứng ở bậc cửa, trên môi vẫn treo nụ cười khiêm tốn nhã nhặn, chẳng qua thái độ đã không còn lớn lối như trước, “Trong thành đang rất hỗn loạn, mời Tú Lệ vương điện hạ ở yên trong này, chớ tùy tiện đi lại bên ngoài.”



    Sở Kiều gật đầu, điềm đạm trả lời: “Ta hiểu, đại ca yên tâm.”



    Gia Cát Hoài cười nhạt, không nói gì thêm liền xoay người rời đi.


    Đến nửa đêm, hướng cung Thịnh Kim đột nhiên vang lên tiếng chém giết rung trời. Tiếng tên bắn rít gió, tiếng gào thảm thiết cùng tiếng chiêng trống hòa lẫn với nhau thành một tổ hợp âm thanh vô cùng hỗn độn.


    Bình An lo lắng chạy vào nói to: “Tỷ tỷ, chúng ta bị bao vây rồi!”



    Sở Kiều ngồi ở chủ vị, trên người vẫn còn mặc hỉ phục, tay cầm chén trà, nghe nói cũng không nhúc nhích, chỉ có mày hơi nhíu chứng tỏ mình đã nghe thấy.


    “Tỷ tỷ! Chúng ta sẽ bảo vệ tỷ mở đường thoát ra ngoài!” Thanh Thanh mặc giáp, vai đeo cung tên đi vào, khiến đám lễ quan tuổi tác đã cao của Biện Đường bị dọa sợ đến mặt trắng bệch.


    Sở Kiều lắc đầu, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa, hơi siết nắm tay. Dưới ánh nến, hỉ phục trên người nàng đỏ rực tựa máu.


    “Tiểu thư, gã Gia Cát Hoài kia không phải người tốt, hắn rõ ràng đang giam lỏng chúng ta.” Mai Hương cũng tiến lên nói.


    Canh hai (từ 21 giờ đến 23 giờ khuya), tiếng động huyên náo bên ngoài đã dịu dần, Gia Cát Hoài lại tìm đến, lần này đã không còn buồn che giấu, chỉ thản nhiên nói: “Mời đi theo ta một chuyến.”



    “Vinh Nhi sao rồi?”



    “Yên tâm, ta và Lý Sách không thù không oán, chỉ cần ngươi chịu hợp tác, ta có thể bảo đảm tiểu tử kia vẫn an toàn.”



    Sở Kiều đứng dậy, sảng khoái đáp ứng: “Được, ta đi với ngươi.”



    Gia Cát Hoài nhìn nàng bằng ánh mắt thưởng thức rồi buông thêm một câu: “Ánh mắt lão Tứ thật sự không tệ.”



    “Ngươi phản bội gia tộc như vậy, không sợ gặp báo ứng sao?”



    Gia Cát Hoài bật cười, sự ngạo nghễ nhiều năm ẩn nhẫn hôm nay mới được bộc phát, cười nhạt hỏi lại:“Phản bội gia tộc? Ngươi làm sao biết không phải là gia tộc từ bỏ hắn?”



    Sở Kiều thu lại vẻ sắc bén trong mắt, im lặng suy nghĩ trong chốc lát, cuối cùng gật đầu, “Ta hiểu rồi.”



    “Quả nhiên là người thông minh, nhanh như vậy đã hiểu.”



    Sở Kiều hỏi thêm: “Triệu Dương có thể hứa hẹn gì với Gia Cát gia mà đáng để các ngươi mạo hiểm như vậy?”



    “Cũng chẳng có gì.” Gia Cát Hoài thản nhiên đáp: “Chỉ có điều, nếu là Triệu Dương thượng vị, Đại Hạ vẫn là Đại Hạ, thế gia vẫn là thế gia. Còn nếu là Triệu Triệt thượng vị, Đại Hạ sẽ trở thành Thanh Hải, Đông Hồ. Tương lai thế gia sẽ đi về đâu, ta không dám xác định.”



    Quả nhiên là thế.


    Sở Kiều gật đầu, không nói gì nữa.


    “Lão Tứ đã bị bao vây ở quảng trường Tử Vi, thủ hạ chỉ có ba ngàn thân binh, còn lại đều ở ngoài thành. Kiêu kỵ binh, Lục doanh quân và Kinh kỳ quân bây giờ đều là người của chúng ta, quân Đông Hồ của Triệu Triệt đã ra khỏi thành, chạy về hướng đông rồi. Lão Tứ có ba đầu sáu tay cũng tránh không khỏi đường chết, nếu bây giờ ngươi có thể khuyên hắn đầu hàng thì ta còn giúp được hắn giữ lại mạng.”



    Sở Kiều nhướng mày, bình tĩnh nhìn Gia Cát Hoài, “Ngươi nói thật chứ?”



    Gia Cát Hoài cười cười, “Tuyệt không giả dối.”



    “Được, thắng làm vua thua làm giặc, ta không còn lời nào để nói, dẫn đường đi.”



    Gia Cát Hoài lại nói: “Vẫn phải làm khó ngươi một chút.”



    Sở Kiều đưa tay ra, nói gọn lỏn: “Đến đi.”



    Hai gã thị vệ cầm dây thừng đi đến chuẩn bị trói hai tay Sở Kiều lại.


    Trong phòng sáng rực ánh nến, tiếng chém giết bên ngoài đã ngừng hẳn, Sở Kiều vẫn mặc hỉ phục, trên mặt treo vẻ thản nhiên. Hai gã thị vệ vạm vỡ đứng ở hai bên, một gã giữ tay nàng, gã còn lại vòng dây thừng quanh tay nàng, Gia Cát Hoài đứng ở đối diện, phía sau còn có bốn cận vệ.


    Nến cháy *lách tách*, tiếng gió rít gào, Sở Kiều như loáng thoáng nghe thấy lời căn dặn tận tình của thầy huấn luyện ngày xưa: Ra tay phải nhanh, định vị phải chuẩn xác, đầu phải tĩnh, lực phải mạnh…


    Khoảnh khắc dây thừng chuẩn bị siết lại, Sở Kiều chợt thụp người xuống thoát khỏi sự bắt giữ của gã thị vệ, bằng động tác cực nhanh rút bội đao ở hông hai gã ra rồi mạnh mẽ chém ngang, máu tươi bắn tung tóe.


    Tiếng kêu của hai gã thị vệ trói tay nàng còn chưa kịp truyền đến màng nhĩ thì hai thanh bội đao đã bị ném cắm vào ngực hai cận vệ sau lưng Gia Cát Hoài. Sở Kiều thuận thế lao đến túm lấy tay một gã cận vệ khác, tay còn lại kẹp ngang cổ gã, xoay lưng ném mạnh gã qua vai, lực tay siết chặt, hai tiếng *rắc* giòn tan vang lên, gã cận vệ bị quẳng nằm sóng xoài trên mặt đất, xương cổ và xương vai đều bị bẻ gãy.


    Mắt nhìn thấy gã cận vệ còn lại xoay người muốn chạy, Sở Kiều rút xuống một chiếc trâm ném trúng ót khiến gã nhã nhào, sau đó lao đến túm tóc nhấc đầu gã lên, tay vòng qua cổ giật mạnh. Gã cận vệ giãy giụa hai cái rồi trợn tròn hai mắt, người xụi lơ.


    Tất cả đều xảy ra chỉ trong một khoảnh khắc, sau khi giải quyết xong gã hộ vệ cuối cùng, Sở Kiều cúi xuống rút chiếc trâm khỏi ót gã cận vệ, đi đến trước mặt Gia Cát Hoài, móc ra một thanh chủy thủ từ trong gót giày, điềm tĩnh nói: “Thắng làm vua thua làm giặc, ngươi còn lời gì muốn nói?”


    Gia Cát Hoài trừng to hai mắt, liều mạng phản kháng. Sở Kiều lẳng lặng vung chủy thủ lên, máu tươi lại bắn ra.



    Cửa chính bị đẩy ra đột ngột khiến gió thổi tung lớp lá vàng rụng đầy trên mặt đất.


    Đám binh sĩ đồng loạt ngẩng đầu lên, chỉ thấy cô gái thân mặc hỷ phục đỏ thẫm đứng trước cửa, lạnh lùng giơ cao đầu của Gia Cát Hoài lên rồi tùy tiện ném xuống đất. Cùng lúc đó, bên ngoài biệt viện xuất hiện ánh đuốc sáng rực, soi rõ ràng chiến kỳ trắng hình mây đỏ in hai chữ ‘Tú Lệ’ thật to bay phấp phới đầy trời. Hạ Tiêu ôm một đứa trẻ trong lòng, thúc ngựa tiến lên phía trước, cao giọng nói to: “Đại nhân, may mắn không phụ lòng tin của đại nhân.”



    Sở Kiều không chút e dè bước ra, một gã tướng lĩnh cấp cao phía đối diện bây giờ mới sực tỉnh hồn, lập tức hô to: “Các huynh đệ! Chúng ta phải báo thù cho Hoài thiếu gia! Giết bọn…”



    Chữ ‘chúng’ còn chưa ra khỏi miệng thì một mũi tên nhọn đã chuẩn xác xuyên thủng cổ họng của gã. Hạ Tiêu mặt không thay đổi hạ cung xuống, phía sau là hàng hà sa số quân sĩ mặc giáp đen, ai cũng lăm lăm cung tên trong tay, im lặng như đá tảng, lạnh lùng nhìn đám binh sĩ trước biệt viện.


    Trong bầu không khí đè nén căng thẳng đến tột cùng kia, thân ảnh mặc hỷ phục đỏ thẫm thêu hoa văn chỉ dành cho vương phi của Sở Kiều thong dong bước đi, nàng tiện tay nhặt một thanh đao từ trên mặt đất, tung mình nhảy lên chiến mã được Hạ Tiêu dẫn đến, quét mắt qua đám cận vệ của Gia Cát Hoài, ánh mắt lạnh lẽo như băng khiến bọn chúng hít thở không thông.


    “Đại nhân, chúng ta đi đâu bây giờ?”



    Sở Kiều ghìm chặt cương ngựa, chậm rãi xoay người lại đáp: “Đi quân doanh của Kiêu kỵ binh ở phía bắc thành.”



    Hạ Tiêu hơi sững sờ, kinh ngạc hỏi lại: “Không đến quảng trường Tử Vi cứu Tứ thiếu gia sao?”



    Sở Kiều phì cười, tự tin nói: “Yên tâm, chàng sẽ tụ hợp với chúng ta sau.” Nói xong liền lập tức thúc ngựa rời khỏi biệt viện.


    Cổng thành bắc được Kiêu kỵ binh trấn giữ, tổng cộng có hơn bốn vạn người, ai cũng vũ trang đầy đủ tận răng. Đội quân vốn do Triệu Triệt thống lĩnh giờ đã hoàn toàn trở thành thân binh của Triệu Dương, theo hắn chinh nam thảo bắc nhiều năm nên trung thành không kém Tú lệ quân của Sở Kiều.


    Hiện tại, bọn họ đang khinh thường nhìn đội ngũ chưa đầy ngàn người của đối phương, thủ lĩnh Hà Khiêm đứng trên cổng thành, lạnh lùng cười một tiếng rồi ra lệnh cho thuộc hạ: “Giết sạch bọn chúng cho ta.”



    Tường thành vừa cao vừa dày, lại có đầy đủ vũ khí phòng thủ hạng nặng, không dùng binh số cao gấp năm lần quân thủ thành thì đừng mơ phá thành. Sở Kiều hiện tại chỉ mang theo chưa đầy một ngàn người mà dám khiêu khích đối phương gần ba vạn (30,000), quả thật chẳng khác gì tự tìm chỗ chết.


    Kiêu kỵ binh phái ra một gã binh sĩ có giọng khỏe, đầu tiên là chiêu hàng Sở Kiều, nói một hồi vẫn không thấy nàng có phản ứng thì bắt đầu chuyển sang mắng Gia Cát Nguyệt là loạn thần tặc tử, vu hắn thông đồng với Thất vương gia Triệu Triệt mưu hại Hạ hoàng, nói hắn bây giờ đã bị bao vây trong thành, chạy đằng trời cũng không thoát, nhất định sẽ chết không chỗ chôn.


    Sở Kiều thản nhiên nghe mà không hề có bất kỳ phản ứng gì, nhưng nghe thấy gã binh sĩ kia càng nói càng bậy bạ, hết nói Gia Cát Nguyệt cấu kết với Triệu Triệt rồi lại nói bọn họ đồng tính dâm loạn gì đó thì không khỏi tức giận, phẩy tay bảo Hạ Tiêu: “Đưa cung.”



    Hạ Tiêu chẳng nói chẳng rằng lập tức đưa cung tên cho nàng.


    Sở Kiều giương cung lắp tên, mũi tên rời dây xé gió lao vùn vụt. Gã binh sĩ kia đánh võ mồm nhiều năm, kinh nghiệm nhiều nên đã đề phòng từ sớm, thấy Sở Kiều giương cung thì lập tức tung mình nhảy khỏi lưng ngựa. Ai ngờ chân gã vừa chưa chạm đất thì một một mũi tên khác còn nhanh hơn lao đến, nhắm ngay miệng gã xuyên thẳng ra sau ót.


    Hà Khiêm giận dữ hạ lệnh tấn công, cung thủ lập tức xếp thành hành nã tên trong tiếng xung phong rung trời.


    So với quân Hạ đánh trống khua chiêng, phía Tú lệ quân lại hết sức yên tĩnh. Bọn họ không đứng trong tầm bắn nên chẳng phải lo, thỉnh thoảng tên của mấy binh sĩ sức to cũng bắn được đến đây nhưng lực bắn đã kiệt quệ, các chiến sĩ của Tú lệ quân chỉ tùy tiện dùng đao gạt nhẹ cũng tránh được.


    Hà Khiêm là tướng thủ thành, theo lý nên trấn thủ cổng thành khi có địch tập kích. Nhưng bây giờ đám người Sở Kiều chỉ đứng từ xa nhìn mà không tấn công, như vậy thì đánh thế nào đây? Chẳng lẽ muốn lính của ông ta chạy xuống dùng giáo đâm bọn kỵ binh kia? Đồng liêu hiện tại đều đang anh dũng đánh đánh chém chém giúp Thập Tứ điện hạ giành giang sơn, ông ta lại chỉ có thể trấn thủ ở đây, khó khăn lắm mới có một nhóm kẻ địch mò đến, vậy mà bọn họ lại đứng đực ra đó không chịu động thủ. Hà Khiêm đang giận sôi gan thì chợt nhìn thấy đối diện có một kỵ binh tiến lên, cao giọng nói gì đó với ông ta.


    Hà Khiêm sửng sốt, ra lệnh cho toàn quân yên ắng lại. Đành chịu, tuổi đã lớn nên tai cũng không còn tốt nữa, ông ta quay sang hỏi thị vệ bên cạnh: “Hắn ta nói gì vậy?”



    Sắc mặt của viên thị vệ rất khó coi, ấp úng nửa ngày mới nhỏ giọng nói: “Tướng quân, hắn hỏi chúng ta có chịu đầu hàng hay không? Hắn nói nếu chúng ta còn khăng khăng không hàng thì bọn họ sẽ phải tiêu diệt chúng ta.”



    Hà Khiêm lập tức bùng nổ, tiêu diệt ông ta?


    Ông ta có bốn vạn đại quân, đối phương chỉ có không tới một ngàn. Tuy có nghe nói vị Tú Lệ vương này dụng binh như thần, thường có thể lấy ít thắng nhiều, nhưng đó đều là lúc nàng thủ thành, dựa vào lợi thế thành trì kiên cố vững chắc nên mới miễn cưỡng cầm cự được. Hôm nay nàng dẫn một ngàn kỵ binh muốn công phá thành trì cho ông ta trấn thủ, quả thực là si tâm vọng tưởng.


    Trong lúc Hà Khiêm tướng quân còn đang gào thét giận dữ thì bầu trời phía đông đột nhiên xuất hiện một loạt pháo sáng.


    Sở Kiều ngước nhìn phía đông, một lúc sau mới bình tĩnh nói: “Được rồi, chúng ta mở cửa thành thôi.”



    Bình An ở bên cạnh thoáng sửng sốt, vừa định lên tiếng thắc mắc thì đã nghe thấy Hạ Tiêu nghiêm nghị hỏi:“Có cần phải tiêu diệt toàn bộ kẻ địch không ạ?”



    Sở Kiều hơi nhíu mày, cân nhắc một lúc mới nói: “Chờ xem bọn họ có dám phản kháng không đã.”


    Bình An trợn tròn mắt, còn đang định hỏi hai người họ có phải điên rồi không thì chợt nghe Hạ Tiêu quát to, một nhóm binh sĩ thúc ngựa tiến lên xếp thành hai hàng trước sau, mỗi hàng có tổng cộng bốn mươi người, đồng loạt giương cung, đầu mũi tên của hàng đầu có treo một bao dầu, còn tên của hàng thứ hai là hỏa tiễn.


    “Mục tiêu là cổng thành Bắc, tổ 1 nhắm góc trái, tổ 2 nhắm góc phải, tổ 3 nhắm góc trên, tổ 4 nhắm góc dưới, tổ 5 nhắm chính giữa. Chuẩn bị, một, hai, bắn!”



    Một loạt tên cột bao dầu rời cung bắn thẳng về phía cổng thành nặng nề, loạt tên thứ hai theo sát phía sau, cắm thẳng vào vị trí bao dầu vừa bắn lên cổng thành. Lửa bùng lên.


    Hà Khiêm thoáng sửng sốt, nhưng liền cười to: “Tú Lệ vương định đốt cổng thành của ta đó à? Ha ha, nhiêu đó lửa chưa đủ đâu!”



    Nhưng ông ta chỉ mới vừa lời thì đã nghe một tiếng *oành* vang dội nổ ra, tường thành rung chuyển dữ dội tựa như có động đất, khói đen bốc cuồn cuộn, cổng thành bị nổ thủng lỗ chỗ, bụi đất mù mịt.


    Hà Khiêm trợn mắt há hốc mồm nhìn một góc cổng thành Chân Hoàng kiên cố mình đã canh gác hơn hai mươi năm chưa từng suy suyển, *ầm ầm* nứt toác rồi hóa thành một bãi phế tích. Cổng phòng thủ mà Đại Hạ luôn tự hào, trăm vạn đại quân cũng khó công phá được trong khoảnh khắc đã bị xóa bỏ thành tích ba trăm năm bất bại trên sách sử của mình.


    “Tổ 6 đến tổ 10 chuẩn bị, mục tiêu chính là tường thành phía đông, tổ 6…” Tiếng của Hạ Tiêu lại vang lên, theo sau đó vẫn là âm thanh thuốc nổ oanh tạc phía đông cổng thành bắc. Sau ba lần như thế, toàn bộ cổng thành bắc đã bị sụp hơn phân nửa.


    “Phía đối diện nghe đây!” Mười binh sĩ liên lạc thúc ngựa tiến lên, mỗi người cầm một chiếc loa tự chế đơn giản, cao giọng hô to: “Lập tức bỏ vũ khí xuống, lập tức bỏ vũ khí xuống, hai tay ôm đầu ngồi xuống đất. Đầu hàng chúng ta sẽ tha mạng. Phía đối diện nghe đây, lập tức bỏ vũ khí xuống…”



    Mặt dính đầy khói bụi, Hà Khiêm trợn to mắt, làm sao cũng không ngờ mình lại thua dễ dàng như vậy, bốn vạn người của ông ta còn chưa kịp đánh một đao nữa là. Tại sao đối phương mới bắn mấy cái mà cổng thành của ông ta đã mở toang hoác rồi? Trên đời có loại pháo nổ đáng sợ như vậy sao? Sao ông ta chưa từng nghe thấy?


    Một lát sau, Sở Kiều thúc ngựa đến, từ trên cao nhìn xuống Hà tướng quân đang ngồi xổm trên mặt đất, hờ hững gật đầu một cái rồi thản nhiên nói: “Hà tướng quân, cảm ơn vì đã nương tay.”



    Khoảnh khắc đó, Hà Khiêm quả thật tức đến hộc máu.


    Ngay lúc ấy, phía đông đột nhiên dấy lên một trận cát bụi, Gia Cát Nguyệt dẫn ba ngàn thuộc hạ ập đến, nhìn tràng diện trước mặt cũng thoáng hơi chấn kinh, nhưng thấy Sở Kiều bình yên vô sự thì mới thở phào nhẹ nhõm.


    Bên dưới bầu trời đêm không trăng không sao, giữa chiến trường bụi đất hỗn độn, hai người ngồi trên lưng ngựa cách nhau thật xa, xuyên qua tầng tầng binh sĩ lẳng lặng nhìn nhau.


    Sở Kiều nhoẻn môi mỉm cười, hiện tại nàng vẫn mặc bộ hỷ phục hoàng gia kia, tóc búi cao cài đầy châu ngọc, mi tâm đeo một miếng ngọc đỏ thẫm như máu. Đứng giữa khung cảnh lửa cháy này, toàn thân nàng toát ra vẻ cao quý sắc bén không thể tả bằng lời.


    Gia Cát Nguyệt thúc ngựa đến gần, hỏi: “Nàng sao rồi?”



    Sở Kiều mỉm cười, “Vẫn ổn.”



    Đúng vậy, vẫn ổn. Nhận được thư của chàng, nàng biết sẽ có người nhân ngày cưới manh động, chỉ là không ngờ bọn họ lại to gan như vậy, may mà mọi chuyện vẫn ổn. Nàng lo lắng cho chàng nhưng vẫn phải kiên trì ẩn nhẫn. Chỉ lo lắng một chút thôi, không bị thương, không bị làm nhục, tất cả đều ổn.


    Gia Cát Nguyệt quay đầu sang nói với bốn vạn Lục doanh quân và Kiêu kỵ binh, “Hoàng thượng không phải do ta và Thất điện hạ làm hại, kẻ mưu phản chính là người các ngươi tận hiến. Hiện giờ địch bên ngoài nhòm ngó mà Đại Hạ lại nội loạn không yên, các ngươi hãy trở về nói với Triệu Dương, chúng ta không cần tòa thành này, hắn muốn thì cứ thoải mái lấy.” Dứt lời lập tức vươn tay ôm Sở Kiều sang ngựa mình, dẫn toàn bộ thuộc hạ *rầm rập* ra khỏi thành.


    Gia Cát Nguyệt nói không sai, thành Chân Hoàng quả thật là do hắn và Triệu Triệt phủi tay đưa cho Triệu Dương.


    Trước đó bọn họ đã nhận thấy Triệu Dương có dị động, Gia Cát Nguyệt cố tình kích động binh sĩ ở Nhạn Minh Quan đến quấy nhiễu Yến Tuân, cũng loan tin Bắc Yến không còn sức đánh trả ra khắp nơi, cỗ vũ hội trưởng lão và quan lại trong triều náo loạn đòi đánh. Sau đó, mượn cớ chuẩn bị đánh Bắc Yến, Gia Cát gia thông qua hội trưởng lão đoạt lấy binh quyền trong tay Gia Cát Nguyệt, làm đủ hứa hẹn xin về một phe với Ngụy phiệt, tranh thủ sự ủng hộ của các thế gia, dùng cớ rèn luyện đẩy quân đội của Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt ra khỏi thành, tạm thời phân tán binh lực của bọn họ.


    Đến ngày Gia Cát Nguyệt phải trở về kinh thành thân, công tác luyện binh ở Nghiệp Thành vẫn chưa xong nên Triệu Triệt phải ở lại đó giữ thành. Kế hoạch của Triệu Dương chính là nhân dịp này diệt trừ Gia Cát Nguyệt, sau đó chụp mũ phản tặc lên đầu Triệu Triệt. Đến lúc đó Triệu Triệt thân cô thế cô, dĩ nhiên sẽ mặc Triệu Dương tùy ý tàn sát.


    Nhưng hắn không ngờ, dựa vào thực lực của ba đại quân là Lục doanh quân, Kiêu kỵ binh và Kinh kỳ quân, cộng thêm tư binh của Gia Cát Hoài, âm mưu bắt Sở Kiều làm con tin lừa Gia Cát Nguyệt vào tròng để tiêu diệt, cuối cùng lại thất bại thảm hại.


    Toàn bộ quân đội Thanh Hải trong thành Chân Hoàng, khoảng hơn mười một vạn, đều chạy đến thành Đông Ngu, cộng thêm quân Hạ trung thành với Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt trong thành đã lên đến con số hai mươi lăm vạn.


    Mà hiện tại, mười bảy vạn quân Đông Hồ của Triệu Triệt cũng đã tụ hợp lại ở Nghiệp Thành. Một đầu bắc một đầu nam kẹp thành Chân Hoàng ở ngay giữa.


    Không quá ba ngày, chư hầu các nơi bắt đầu thi nhau manh động, Nghi Thành, Tuyên Hóa, Đại Liêu, Thanh Thành dẫn bốn đại quân treo cờ giết phản nghịch tiến vào thành Chân Hoàng, đánh chém kịch liệt với quân đội của Triệu Dương. Những người này cũng chẳng phải trung thành với Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt gì cho cam, chỉ là muốn nhân nội loạn chiếm một phần lợi mà thôi, kinh đô chỉ có mình Triệu Dương chiếm cứ dĩ nhiên biến thành một khối thịt béo trong mắt bọn họ. Vì vậy mấy chư hầu không có đầu óc đều không kiềm được bắt đầu mơ mộng ngôi vị hoàng đế.


    Đây cũng chính là nguyên nhân vì sao Gia Cát Nguyệt quyết định buông bỏ thành Chân Hoàng. Nếu đã không thể tránh khỏi nội loạn, vậy cứ xây võ đài cho bọn họ đánh một trận thỏa thích. Dù sao thì bây giờ ai chiếm được thành Chân Hoàng cũng sẽ trở thành mục tiêu bị chỉ trích của thế gian.


    Vì thế, chỉ trong một thoáng, dấu hiệu bất ổn lần lượt xảy ra trên khắp mọi miền lãnh thổ của Đại Hạ.


    Gia Cát Nguyệt và Triệu Triệt nhân cơ hội mở rộng cửa khẩu ở Thanh Hải và Đông Hồ, phái đại quân canh phòng cẩn mật. Những dân chúng ở những địa phương bị ảnh hướng bởi chiến loạn nghe truyền miệng đều đồng loạt chạy về hai phía tây và bắc. Chưa tới ba ngày mà nội khẩu Thanh Hải đã có gần bốn mươi vạn dân chúng qua cửa. Quan binh Thanh Hải đã chuẩn bị trước hơn ba tháng nhưng vẫn bận rộn cuống cuồng vì đợt sóng dân chạy nạn.


    Trong thành Chân Hoàng, bốn đạo quân chư hầu đánh chém hơn mười ngày cuối cùng cũng bại trận trước Triệu Dương. Rất nhiều chư hầu khác nhụt chí, bắt đầu chuyển sang mong chờ Triệu Triệt xuất binh, nhân tiện lượm lấy danh tiếng trung quân ái quốc tỏ vẻ một chút trước tân chủ nhân.


    Đầu tháng 4, Triệu Triệt tuyên bố xuất binh chinh phạt tội thần Triệu Dương. Xế chiều cùng ngày, Gia Cát Nguyệt cũng mang hơn hai mươi vạn quân tiến về phía thành Chân Hoàng.


    Cũng ngay hôm đó, Tây nam quân vốn thuộc quyền Triệu Dương rời thành dẹp loạn trước đó cũng trở về thành Chân Hoàng. Thập thất hoàng tử Triệu Nghĩa những tưởng được cầm quyền lại bị cho ăn dưa bở, mười lăm vạn quân lại trở về trong tay Triệu Dương.


    Sau đó, cuộc chiến song long đoạt đích rốt cục cũng rầm rộ nổ ra trong thời điểm băng tuyết vừa tan.


    Sự tàn khốc của chiến tranh vẫn chưa bao giờ giảm bớt. Để đề phòng Sở Kiều lại dùng phương pháp phá thành kinh khủng kia, Triệu Dương không còn trấn thủ cổng thành mà phái rất đông binh sĩ bày trận mai phục trải dài gần ba mươi dặm quanh thành Chân Hoàng, bất đắc dĩ phải áp dụng phương pháp cận chiến với đại quân đông đảo hơn mình của Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt.


    Có điều Triệu Dương lại không biết, trên thực tế, mấy năm gần đây Sở Kiều đều tự mình nghiên cứu cách chế tạo thuốc nổ, có làm thì cũng chỉ làm một ít. Vì không muốn loại vũ khí vượt thời đại này bị truyền ra ngoài rồi gây thương vong quy mô lớn, nàng chưa từng dạy cho bất kỳ ai khác phương pháp chế tạo.


    Thi thể binh lính nằm la liệt như lá rụng cuối thu, trải dài khắp thảo nguyên xanh màu cỏ mới, tiếng kèn lệnh thê lương quanh quẩn trên bầu trời Đại Hạ cả ngày, khung cảnh tựa như địa ngục, khắp nơi đều là máu tươi tanh tưởi. Mỗi ngày đều có quân y khiêng băng ca chạy ra chiến trường, việc bọn họ làm nhiều nhất không phải là cứu người mà là cho những người bị trọng thương còn sống sót một đao, giải thoát họ khỏi cái chết đau đớn đến tột cùng.


    Sở Kiều cũng là người kinh qua vô số chiến trường, nhưng nhìn thấy tràng diện như vậy vẫn không khỏi chạnh lòng.


    Nàng từng hỏi Gia Cát Nguyệt, nhất định phải làm thế sao? Nhất định phải khiến binh sĩ Đại Hạ tàn sát lẫn nhau sao?


    Gia Cát Nguyệt chăm chú nhìn nàng, khuôn mặt tuấn tú dị thường lộ vẻ kiên nghị không ai bằng, đáp rằng đây là chuyện không thể tránh, Triệu Dương cầm quyền trong một thời gian dài, thế lực trên triều đã cắm rễ rất sâu, trong quân đội lại hết sức có danh tiếng. Muốn Triệu Dương cam tâm tình nguyện để Triệu Triệt làm chủ nhân là chuyện không thể nào. Hắn và Triệu Triệt chỉ mới trở về Đại Hạ, rất khó trong thời gian ngắn tiêu trừ thế lực của Triệu Dương, cho nên nhất định phải đánh trận này. Khiến Triệu Dương vọng động, gán cái chết của Hạ hoàng lên đầu hắn, cũng như kích thích các chư hầu kéo binh mài mòn thế lực của hắn, nếu bây giờ không đánh thì sẽ không còn cơ hội tốt hơn nữa.


    Sở Kiều rất muốn hỏi Hạ hoàng thật sự đã chết rồi sao? Đến cùng là ai ra tay? Là Triệu Dương sao? Là Triệu Triệt? Hay là chính bản thân Gia Cát Nguyệt?


    Nhưng cuối cùng nàng vẫn không thể hỏi thành lời, mà ngược lại là do Gia Cát Nguyệt chủ động nói cho nàng biết.


    Nhắc đến chuyện này, quả thật cũng là ý trời. Trong Ngự dược phòng có một gã ngự y tham ô, thường tự mình lén đổi vài loại thuốc tốt thành thuốc bị mốc. Mấy ngày đó lại đúng dịp bệnh tình trở nặng, Hạ hoàng sợ quan lại trong triều biết nên chỉ âm thầm bảo ngự y đổi thuốc chứ không báo ra ngoài. Trùng hợp là trong đám thuốc bị mốc có loại Hạ hoàng cần uống. Lúc trước Triệu Dương đảm nhiệm chức vị thống lĩnh Kinh kỳ quân nên từng sắp xếp vài người thân tín trong Ngự dược phòng cho nên biết được tin này trước tiên. Nhưng hắn lại không biết Triệu Triệt đã cài thân tín vào đội ngũ hầu cận của mình, cho nên thời điểm hắn được tin thì tin tức đó cũng đã được chuyển đến cho Triệu Triệt.


    Cứ như thế, Hạ hoàng mỗi ngày uống thuốc theo đơn mới do ngự y thân cận kê đơn, thái giám thử thuốc khỏe mạnh nên uống thuốc mốc cũng chẳng hề gì, chỉ có Hạ hoàng tuổi già sức yếu bị thuốc mốc ăn mòn, cuối cùng lăn ra chết ngay ngày cưới của Gia Cát Nguyệt và Sở Kiều.


    Hạ hoàng cẩn thận cả đời chẳng bao giờ ngờ rằng mình sẽ chết dưới tay một gã ngự y tham ô vô danh tiểu tốt. Hai đứa con trai của ông ta đều biết rõ chuyện này, nhưng lại không người nào muốn cứu ông ta.


    Sau khi biết được, Sở Kiều im lặng hồi lâu, bất giác nhớ đến Yến Tuân thì chợt cảm thấy vô cùng bi thương.


    Cả đời của Yến Tuân, tâm nguyện lớn nhất chính là giết chết Hạ hoàng báo thù cho cha mẹ và thân nhân mình, trải qua bao gian khổ mới nắm đại quyền trong tay, có được binh cường tướng mạnh nhưng kẻ thù lại bệnh chết trên giường. Không biết lúc được tin, Yến Tuân sẽ có cảm tưởng thế nào? Là vui sướng cười to hay bi phẫn gào lên? Có lẽ đều không phải, có lẽ hắn chỉ im lặng ngồi yên, dằn tất cả cảm xúc xuống tận đáy lòng, sang hôm sau vẫn tiếp tục làm chuyện nên làm.


    Tiếng kèn hiệu vang lên, Triệu Dương vừa phái ba đoàn kỵ binh tấn công cánh hông, Gia Cát Nguyệt liền hạ lệnh cho bốn đội quân đến cánh hông tiếp sức, rồi từ đó tập kích Triệu Dương.


    Cuộc chiến đã kéo dài hai ngày hai đêm không ngừng, đủ loại chiến thuật đều được thi triển. Triệu Dương và Gia Cát Nguyệt đều là kỳ tài hạng nhất, thế cục hiện vẫn ngang ngửa, không ai được phần thắng.


    Tú lệ quân cũng đã ba lần phối hợp với quân Thanh Hải tấn công cánh phải phe Triệu Dương, Hạ Tiêu từng dẫn người xé toạc hàng phòng thủ của địch, nhưng chỗ hổng lại nhanh chóng bị địch lấp lại.


    Ai cũng biết đây chính là cuộc chiến tranh đoạt hoàng vị. Người thắng sẽ ngồi lên đỉnh cao, người thua sẽ nhất định chết không chỗ chôn. Vì vậy thuộc hạ của bọn họ cũng mang tâm trạng liều mạng mà đánh, không có bất kỳ ai lùi bước, tựa như dù chỉ còn một giọt máu cuối cùng thì cũng phải đổ ra trên chiến trường.


    Sáng ngày thứ ba, Gia Cát Nguyệt khoác quân trang, không hề dài dòng, chỉ rút chiến đao, cao giọng nói với các binh sĩ dưới quyền: “Hôm nay là ngày cuối cùng, sau trận chiến này, tên tuổi chúng ta chắc chắn sẽ được ghi vào sử sách.”



    “Giết địch! Giết địch!” Hàng vạn hàng ngàn người đồng loạt hô to.


    Sở Kiều đứng lẫn trong đội quân, ngước nhìn nam tử được vây giữa thiên quân vạn mã, bất giác khẽ mỉm cười.


    Đánh một trận cuối vậy!


    Trên thảo nguyên trống trải, chân trời xuất hiện một bóng đen dần lan ra. Quân đội của Gia Cát Nguyệt rốt cuộc cũng chính thức đụng độ quân chủ lực của Triệu Dương. Sau hai ngày khổ chiến, hai bên đều tổn thất nghiêm trọng nhưng không một ai có định lui bước.


    Bóng đen trên thảo nguyên nhanh chóng trải rộng, không thấy đầu cũng không thấy đuôi, ào ạt tiến về phía đội quân của Gia Cát Nguyệt.


    Hai trăm trượng, một trăm trượng, năm mươi trượng…

    *1 trượng = 4 mét


    Càng lúc càng gần, gần đến mức hai bên tựa hồ có thể cảm nhận hô hấp nóng hổi từ mũi ngựa của đối phương.


    Chiến trường tràn ngập tử khí, quạ đen bay thành đàn trên không trung, thi thoảng phát ra tiếng kêu lạnh gáy.


    Trống trận dồn dập không ngừng, hàng vạn hàng ngàn vó ngựa giẫm đạp khiến mặt đất chấn động. Ác chiến ở ngay trước mặt, tất cả mọi người như ngừng thở, tay siết chặt cán đao.


    “Tấn công.” Gia Cát Nguyệt ngẩng đầu lên, lạnh lùng phát lệnh tiến công. Cùng một lúc, phía quân Triệu Dương cũng lan truyền mệnh lệnh như vậy.


    Kỵ binh tuốt chiến đao ra, tiếng tuốt đao như đánh động cả một vùng. Thảo nguyên chợt nổi gió mạnh, lướt qua từng đầu mũi đao sắc, chờ đợi một cuộc chiến sinh tử.


    Ngay lúc đó, từ xa đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa hối hả, không gian tựa như có gió bắc lùa vào, lạnh buốt đến tận xương.


    “Chiến báo khẩn cấp từ ba ngàn dặm! Chúc tướng quân ở biên giới Tây Nam gởi thư cầu cứu đế đô! Chiến báo khẩn cấp từ ba ngàn dặm! Chúc tướng quân ở biên giới Tây Nam gửi thư cầu cứu đế đô!” Viên lính đưa tin người đầy bụi đất nhanh như chớp lao đến giữa chiến trường trong ánh mắt kinh hãi của mọi người rồi nhảy xuống khỏi lưng ngựa, nói to: “Tướng quân! Điện hạ! Xin đừng đánh nữa! Có chiến báo từ Tây Nam! Biên giới xảy ra chuyện rồi!”



    Toàn trường im lặng như tờ, không một ai đáp lời gã tiểu binh to gan chạy đến giữa cuộc ác chiến này.


    “Ngươi nói gì?” Một giọng nói trầm thấp đột nhiên vang lên, thân là tổng thống lĩnh ở Tây Nam, binh lính ở đó đều xuất thân từ Tây nam quân, Triệu Dương tiến lên hỏi.


    “Điện hạ! Xin điện hạ cứu mạng!” Gã tiểu binh nhìn thấy Triệu Dương thì mừng rỡ, vội vàng bẩm báo: “Yến Tuân dẫn bốn mươi vạn đại quân công phá cửa khẩu, đánh vào nội cảnh nước ta rồi. Trong vòng hai ngày đã càn quét mười chín tỉnh thành, khu vực Tây Nam đã biến thành một vùng đất khô cằn rồi.”



    “Nói bậy!” Nguyệt Thất tay vẫn lăm lăm chiến đao, nghe vậy liền lạnh lùng nói: “Nhạn Minh Quan có hơn ba mươi vạn binh trấn giữ, sao có thể để Yến Tuân lặng yên không tiến động tiến vào nội cảnh Tây Nam?”



    Tất cả nghe nói đều luôn miệng tán thành. Sở Kiều cố áp chế cảm xúc vọng động trong lòng, cũng cảm thấy chuyện này không hợp lý. Dẫu đang có nội chiến thì ai cũng biết tầm quan trọng của Nhạn Minh Quan trước sự uy hiếp của Bắc Yến. Bất kể là Triệu Dương hay Triệu Triệt đều không hề điều người từ Nhạn Minh Quan về. Quân binh đầy đủ, Yến Tuân làm sao có thể công phá Nhạn Minh Quan mà đánh thẳng vào nội cảnh Đại Hạ?


    “Tư mã đại nhân, cửa khẩu bị Bắc Yến công phá không phải là Nhạn Minh Quan mà là Bạch Chỉ Quan!” Gã lính truyền tin bi thương tiếp lời: “Nội cảnh Biện Đường xảy ra đại loạn, Tĩnh An vương phi giơ cờ tạo phản, tự mình mở cửa khẩu Đường Hộ Quan để quân Bắc Yến tiến vào Biện Đường. Toàn bộ lãnh thổ phía đông nam của Biện Đường đều đã bị san bằng, Đường Kinh hiện tại đang hết sức nguy ngập. Bắc Yến hợp lực với đại quân của Hoài Tống đi xuyên qua Biện Đường tấn công Bạch Chỉ Quan. Tây nam quân đóng ở Bạch Chỉ Quan đều đã bị điều đi, hiện chỉ còn không đến một vạn quân đánh thuê, tin tức lại bị người của Phong tứ gia* phong tỏa. Chưa đến hai ngày mà khu vực Tây Nam của chúng ta đã bị chiếm trọn.”

    *Phong tứ gia là biệt hiệu của Phong Miên (thư đồng hồi xưa của Yến Tuân) đóng ở thành Hiền Dương, biên thành giáp với Bạch Chỉ Quan (cửa khẩu ngăn cách Biện Đường và Đại Hạ)


    Toàn trường thoáng cái tĩnh lặng đến mức kim rơi cũng nghe được, gió bắc lẳng lặng thổi qua chiến trường đã hóa đá.


    Ngày 8 tháng 4 năm 882 theo lịch Bạch Thương, một tin tức như đùa đã chấn động tất cả mọi người:


    Đầu tháng 4, Yến Tuân dẫn dắt bốn mươi vạn quân Bắc Yến, vòng qua Biện Đường đánh thẳng vào Đại Hạ, càn quét toàn bộ lãnh thổ phía Tây Nam, gần bốn trăm vạn dân chúng bị biến thành nô lệ mất nước.
     
    Tu Di and Vân Yên like this.
  12. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 188: Quân Yến tựa sóng triều

    Ngụy Thư Diệp ngẩng đầu lên, ánh mặt trời đỏ như máu đập vào mắt, vạt cỏ khô xơ xác bị gió quét kêu xào xạc. Bên tai dồn dập tiếng trống trận, quân đội đông ngàn vạn đang kéo đến tựa như một con sóng triều màu đen khổng lồ chuẩn bị bao trùm mọi thứ.


    Toàn thân hắn đã đẫm máu, khuôn mặt thanh tú cũng dính đầy máu đen, bết cả hai bên tóc mai, lưỡi đao sứt mẻ, hai chân chiến mã run run vì mệt mỏi.


    Tử địch công phá cửa khẩu, dẫn dắt cường binh tràn vào, khu vực Tây Nam bị móng ngựa của kẻ thù giày xéo. Nhưng ngoài trừ số ít binh lính trấn thủ Tây Nam thì toàn bộ thế gia ở Đại Hạ, chỉ có mình hắn là mang binh xuôi nam chống lại quân địch.


    Dọc theo đường đi, hắn đã thấy vô số thế gia đại tộc mặc y phục hoa lệ, chất vàng bạc châu báu đầy xe, cuống cuồng dẫn tư binh chạy về phía bắc. Ngay cả quan viên địa phương cũng hoảng hốt trốn đến thành Chân Hoàng, trên đường đi liên tục vung roi xua dân chúng để tranh đường, không còn chút dáng vẻ cao quý ngày thường.


    Ngụy Thư Diệp từng cố huy động những nhóm binh lính này, thậm chí còn hạ lệnh phong tỏa đường, rút đao khiêu chiến những quan viên thế gia muốn bỏ trốn kia. Nhưng những người đó đều cho hắn một lý do, chính là bọn họ muốn bảo vệ đế đô, muốn đến ngăn cản nội chiến để quân chủ lực còn sức mà đánh với quân địch một trận, vân vân… Nói tóm lại, bọn họ tình nguyện động thủ với quân bên mình chứ không muốn trở về đánh nhau với quân Bắc Yến.


    Có người còn hùng hổ nói to cái gì thậm chí Tây nam quân giữ cửa khẩu cũng bị mấy hoàng tử triệu đi đánh nội chiến, cả hoàng thất cũng không thèm đất nước này rồi, sao còn muốn bọn họ đi đánh giặc ngoại xâm chứ?


    Đối mặt với những câu chất vấn này, Ngụy Thư Diệp á khẩu không nói được lời nào.


    Chỉ trong hai ngày ngắn ngủi, trên con đường nối liền Tây Nam và đế đô đã tụ tập hơn hai mươi vạn người chạy nạn. Trong đó, có quý tộc, có thế gia, có quân nhân, có thường dân. Phía Tây Nam đã rơi vào tay Bắc Yến, bọn họ đi vạn dặm mới trốn được đến đây, cho nên ai cũng như sói đói, nhìn chằm chằm đội quân đang cản đường mình.


    Chướng ngại trên đường thoáng cái liền bị đạp đổ, cả hai vạn quân đội chính quy cũng không cách nào ngăn cản con sóng người như triều dâng đó. Một viên phó tướng tiếp tục khàn giọng động viên tất cả trở về chiến đấu chống giặc, nhưng không một ai để ý. Ngụy Thư Diệp ngồi trên lưng ngựa nhìn những con người đang thẫn thờ đi ngang qua mình tựa như người trôi sông vừa đánh mất cọng rơm cứu mạng cuối cùng vậy.


    Tất cả đều rời đi, chỉ khoảng hơn mười thiếu niên khoảng mười bốn mười lăm tuổi là đứng nguyên tại chỗ. Bọn họ rụt rè đi đến trước mặt viên phó tướng giơ tay nói nguyện ý nhập ngũ. Viên phó tướng vô cùng xúc động, còn tưởng mình nỗ lực thuyết phục cuối cùng cũng có kết quả, vội vàng hỏi các thiếu niên vì sao muốn nhập ngũ, có ý thức được tương lai sẽ phải hiến thân vì nước không? Nhưng những thiếu niên kia lại nói lương khô của bọn họ đã bị mấy quân nhân kia đoạt mất, chưa chạy đến đế đô đã chết đói rồi, không bằng nhập ngũ may ra còn cơ hội sống.


    Lý do của những thiếu niên gầy gò này khiến tập thể hai vạn quân nhân đều im lặng. Ngụy Thư Diệp bảo người đưa cho bọn họ lương khô và nước rồi nhìn họ hớn hở rời đi, dưới bóng chiều tà, họ thoáng như những mầm non vừa bị nhổ ra khỏi đất mẹ.


    Sau khi tiến vào khu vực Tây Nam, tình hình càng thêm hỗn loạn. Lúc bọn họ đi ngang qua một trấn nhỏ, trong trấn không một bóng người, đội ngũ như có thể nghe được từng bước chân của mình trong không gian vắng lặng chết chóc ấy, nặng nề đến cực độ. Đi đến quảng trường giữa trấn, hình ảnh trước mặt khiến tất cả như bị đóng đinh ngay tại chỗ. Như chốn địa ngục tu la có đủ loại hình phạt kỳ quái, trên một gốc cây cao vút có treo mấy chục thi thể nam tử lõa thể, trên mặt đất nằm la liệt xác người bị đốt cháy đen, cạnh đó còn có rất nhiều xác phụ nữ trần truồng, vừa nhìn cũng biết bọn họ đã chết bởi thủ đoạn tàn nhẫn đến thế nào.


    Tất cả lặng người, bọn họ đều là quân nhân lão luyện sa trường, lưỡi đao đã nếm máu của vô số người. Nhưng trong giờ khắc này, những ai có mặt đều không khỏi lệ chảy ròng ròng.


    Thân là quân nhân lại không thể bảo vệ quốc gia, không thể bảo vệ con dân của mình, bọn họ còn xứng sống trên đời sao?


    Nhà cửa bị phá hủy, phòng ốc bị san bằng, ruộng tốt biến thành đất cằn, phồn hoa biến thành phế tích, thành trấn phồn vinh ngày xưa nay trở thành thành chết, sinh mạng từng vui sống nay biến thành thi thể thối rữa. Mùi tanh hôi xộc vào mũi, diều hâu bay lượn thành đàn. Đây chính là hiện thực, không phải là cảnh mộng.


    Ngụy Thư Diệp không thể tưởng tượng được vì sao quân Bắc Yến lại có thể tàn bạo đến như vậy? Cảm giác bi phẫn dâng trào trong ngực, hắn siết chặt cán đao, sống lưng thẳng như trường thương.


    Nhưng qua những trận giao chiến liên tục sau đó, thủ pháp điều binh khoa trương và lộn xộn kia đã khiến Ngụy Thư Diệp hiểu rõ.


    Thì ra đội quân tiên phong tràn vào nội cảnh Đại Hạ không phải là quân Bắc Yến. Sau khi mở toang Bạch Chỉ Quan, tiêu diệt toàn bộ doanh trại phòng thủ ở dọc đường, Yến Tuân đã lập tức lui về chiếm lĩnh cửa khẩu, không để bất kỳ ai tiến vào nội cảnh Đại Hạ nhưng lại loan truyền tin tức mời gọi toàn cường đạo và mã tặc trên cao nguyên Bắc Yến, ở đất hoang cực Nam, trên núi Hạ Lan và đại mạc Tây Bắc đến cùng chung hưởng tài nguyên ở Đại Hạ.


    Hết nhóm này đến nhóm khác tràn vào lãnh thổ Đại Hạ, hành vi tàn bạo, tốc độ cuồng dã. Bọn họ không hề có chút lưu luyến gì với đất nước này, chẳng cầu danh lợi cũng chẳng cầu quyền thế, mỗi nơi đi qua chỉ có cướp và giết. Đốt giết, cướp bóc hay cưỡng bức phụ nữ, tất cả những chuyện mà quân nhân chân chính không bao giờ làm, bọn họ đều làm không chớp mắt. Tin tức về kẻ địch tàn nhẫn khát máu đã khiến những thế lực muốn phản kháng chùn chân. Khói lửa nhanh chóng bao trùm toàn bộ khu vực Lũng Tây. Và cuối cùng, binh lính và thế gia đều bỏ của chạy lấy người, dân chúng cũng cuốn gói chạy theo. Chỉ sau mấy ngày ngắn ngủi, toàn bộ lãnh thổ ở Tây Nam đều rơi vào tay địch, đến khi quân Bắc Yến tiến vào tiếp nhận thì chẳng hề gặp phải bất kỳ thế lực quân đội chính quy nào.


    Yến Tuân quả thực là một gã điên!


    Ngụy Thư Diệp đưa tay bịt mũi để không phải ngửi thấy mùi xác người tanh tưởi kia, thầm nói trong lòng.


    Yến Tuân xé rách biên giới Đại Hạ chỉ để mở đường cho bọn người ma quỷ kia, biến lãnh thổ Đại Hạ thành trường săn và dân chúng Đại Hạ thành con mồi của bọn chúng.


    Không phải là xâm chiếm, Yến Tuân đến Đại Hạ chỉ để hủy diệt, dùng ngàn vạn sinh linh Đại Hạ để làm tế phẩm cho thân nhân đã qua đời của mình.


    Hai vạn quân Hạ bi phẫn lần đầu tiên đụng độ với quân chính quy của Bắc Yến là ở thành Nguyệt Lượng. Hai vạn kỵ binh đối đầu với ba vạn giáp binh hạng nặng, cục diện đẫm máu và ác liệt không từ ngữ nào có thể diễn tả. Đội quân của Ngụy Thư Diệp, sau khi đánh bại quân Bắc Yến đã giết sạch toàn bộ người bị thương và tù binh. Ngụy Thư Diệp không hề ngăn cản, bởi vì chính hắn cũng muốn làm thế.


    Ngụy Thư Diệp hận, hận bọn người xâm lược kia, hận Bắc Yến, hận Yến Tuân, hận đám mã tặc thảo khấu hung tàn kia.


    Nhưng hắn hận hơn cả chính là hoàng thất, hận đám thế gia làm mưa làm gió kia, hận đám binh sĩ chìm đắm hưởng lạc nhưng lại chạy trước tiên khi nước nhà lâm nguy, hận Triệu Dương đã điều toàn bộ Tây nam quân để mưu quyền cho bản thân, hận quý tộc môn phiệt, thậm chí hận cả chính bản thân mình.


    Thư của thúc thúc đã bị hắn xé nát, các trưởng bối mắng chửi hắn điên khi lại dẫn quân đội của gia tộc chạy đến Tây Nam, mắng hắn là kẻ phản nghịch, là tội đồ của Ngụy phiệt.


    Thế nhưng hắn bất chấp tất cả, bất kể gia tộc trách cứ thế nào hắn cũng sẽ không quay đầu lại.


    Đất nước đang lâm nguy, dân chúng đang lầm than.


    Quý tộc có thể trốn chạy, nhưng hắn là chiến sĩ của đế quốc, hắn không thể thối lui.


    Trận đánh ở thành Nguyệt Lượng đã dẫn đến sự chú ý của Bắc Yến, không đầy hai ngày sau thì bọn họ đã bị bao vây bởi bảy vạn đại quân. Trải qua một ngày một đêm chống trả, bọn họ rốt cuộc cũng kiệt sức.


    Tên đã hết, thuốc trị thương cạn kiệt, lương thảo cũng chẳng còn được bao nhiêu, đao thương đều đã sứt mẻ, binh sĩ đã lâu không được ngủ, lâu đến mức nhiều khi ngủ gục trên chiến trường, bị chém bị thương mới bừng tỉnh, phát giác bản thân đang ở đâu.


    Nắng sớm lại một lần nữa bao phủ bốn phía, Ngụy Thư Diệp ngẩng lên nhìn mặt trời giữa không trung. Ánh sáng chói lòa khiến hắn phải hơi nheo mắt lại. Hắn tự nói với bản thân, đây có lẽ là lần cuối cùng hắn chứng kiến cảnh mặt trời mọc.


    Có người tiến đến gần, trên mặt viên phó tướng còn mang một vết đao sâu hoắm, thoạt nhìn vô cùng dữ tợn, giọng đã khản đặc nhưng vẫn cố nói to với Ngụy Thư Diệp: “Tướng quân! Chúng ta không trụ được nữa rồi, kẻ địch vừa phái ra thêm ba đoàn quân, nên rút lui thôi!”



    Ngụy Thư Diệp không nói gì, lẳng lặng nhìn nam tử chỉ lớn hơn mình vài tuổi. Người chiến hữu này đã cùng hắn chinh nam thảo bắc vô số lần, thành thạo binh pháp hơn hắn, trên chiến trường cũng dũng mãnh hơn hắn, được lòng binh sĩ hơn hắn, nhưng bởi vì xuất thân thường dân, vô luận lập được bao nhiêu chiến công cũng không cách nào được tấn chức, nếu không đầu nhập dưới trướng của hắn thì đến nay vẫn chỉ là một đội trưởng cỏn con.

    Nhưng người này lại vì chút ân huệ đó mà nhất mực trung thành với hắn, lần nào tác chiến đều đi trước đỡ tên chắn đao cho hắn mà không hề biết rằng, trước đó rất lâu, hắn cũng từng xem nhẹ con cháu thường dân, theo lẽ thường hưởng thụ cung phụng của bọn họ, theo lẽ thường đứng sau lưng bọn họ chờ kết quả chiến tranh. Khi đó hắn và đám quý tộc lâm trận bỏ chạy kia có khác gì nhau? Bọn họ bỏ chạy vì tính mạng của mình, còn hắn thì tước đoạt mạng sống của người khác chỉ vì danh tiếng.


    Một thoáng ngắn ngủi, trong đầu chợt xuất hiện vô vàn suy nghĩ.


    Ngụy Thư Diệp biết hôm nay sẽ là trận đánh cuối cùng của hắn, sẽ không có viện binh, sẽ không có cơ hội lật ngược tình thế, Triệu Dương đang đánh với Gia Cát Nguyệt, sẽ không thể đến cứu hắn. Và hắn cũng biết, cho dù không bận tranh đấu thì Triệu Dương cũng sẽ không chạy đến đây trong tình hình này. Bọn họ nhất định sẽ như một con tốt thí, bỏ mình trong khói lửa chiến loạn như bao người khác mà thôi.


    Ngụy Thư Diệp rút chiến đao, mặt lộ vẻ kiên cường chưa từng có, thúc ngựa đi đến trước mặt đám binh sĩ thương tích đầy người, khàn giọng nói to: “Các chiến sĩ, ngày hôm nay chính là trận đánh cuối cùng của chúng ta.”


    Tiếng nói quanh quẩn trên chiến trường, mấy ngàn khuôn mặt lấm lem máu đen đều ngước lên nhìn chủ soái của mình.


    “Các chiến sĩ, trong lúc kẻ địch xâm lấn, đất nước lâm nguy, tất cả mọi người đều lui lại phía sau, chỉ có các ngươi là vẫn anh dũng tiến về phía trước. Chỉ trong mười ngày ngắn ngủi, các ngươi đã mười ba lần chặn đánh đồng bạn đào tẩu, dã chiến mười một lần, hai lần đụng độ quân chính quy của địch, đi hết gần nửa bản đồ của đất nước. Các ngươi đã không thẹn với danh hiệu quân nhân, không thẹn với bộ quân trang trên người, con dân đời sau của Đại Hạ đều sẽ tự hào vì hành động ngày hôm nay của các ngươi!

    Hôm nay chúng ta có lẽ sẽ ngã xuống, có lẽ sẽ thất bại. Nhưng chúng ta vẫn muốn dùng chiến đao trong tay nói cho bè lũ xâm lược kia biết rằng, Đại Hạ sẽ không bao giờ khuất phục, nhiệt huyết của chúng ta sẽ không bao giờ tắt. Bất kỳ ai muốn chà đạp tôn nghiêm của chúng ta đều phải trả giá thật đắt!”



    Vị tướng quân trước giờ luôn ôn hòa đột ngột cao giọng, chỉ tay về phía quân địch đông nghìn nghịt đang tiến về phía mình, tức giận quát to: “Đế quốc vạn tuế!”



    “Đại Hạ vạn tuế!” Mấy ngàn mũi đao đồng loạt giơ cao, chúng binh sĩ sôi trào nhiệt huyết hét to.


    Ngụy Thư Diệp thúc ngựa vọt ra khỏi quân doanh, lao thẳng về phía quân địch, hàng loạt binh sĩ cũng điên cuồng lao theo, vó ngựa giẫm *rầm rập* như có đàn trâu rừng chạy ngang.


    Bên tai sàn sạt tiếng gió rít, hai mắt Ngụy Thư Diệp bị gió tạt cay xè, hắn không nhìn thấy gì cả, chỉ có thể theo bản năng vung chiến đao quần quật.


    Giờ phút sinh tử ở ngay trước mắt, hắn chợt nhớ lại rất nhiều chuyện, thời gian thấp thỏm e dè trưởng thành trong ánh mắt nhòm ngó của gia tộc, bắt đầu bán mạng cho gia tộc dưới sự dạy bảo của thúc thúc, giàu sang nhung lụa dần che mờ ánh mắt.


    “Ta không muốn tiếp tục làm loại người hèn yếu, theo quy luật dần trưởng thành, dần già yếu rồi chết đi như những quý tộc thế gia khác. Ta muốn có thể một lần phá vỡ mọi xiềng xích, vứt bỏ tất cả những thứ môn phiệt đắp lên người, có thể dùng thứ duy nhất ta sở hữu là sinh mạng hoàn thành nghiệp lớn, bất kể người khác nói gì, ta chỉ muốn có thể trước khi chết tự nói với bản thân, ta cuối cùng cũng từng dũng cảm tác chiến một lần.” Khóe miệng nở một nụ cười lạnh, Ngụy Thư Diệp dẫn dắt quân đội điên cuồng chém giết, vẩy tầng tầng bọt máu trên tầng không xám xịt tiêu điều.


    Tại bờ sông cách đó không xa, một vị tướng mặc giáp đen tuyền đứng trên đê chăm chú nhìn trận chiến bên dưới, đột ngột hạ lệnh: “Toàn quân chuẩn bị.”



    “Điện hạ!” Viên phụ tá chau mày nói: “Đó là quân của Ngụy Thư Diệp, bọn họ là tư quân của Ngụy phiệt, là người về phe của Thập Tứ điện hạ.”



    Vị tướng thống lĩnh nhướng mày, quay đầu lại, trầm giọng nói gằn từng chữ một: “Không cần biết là môn phiệt gì, ta chỉ biết đó là đồng bào chiến hữu của chúng ta, và bọn họ đang bảo vệ quốc gia của ta.”


    Viên phụ tá thoáng sửng sốt nhưng liền đáp lời: “Thuộc hạ đã rõ.”



    Vị tướng thống lĩnh rút đao ra giơ lên cao, “Toàn quân nghe lệnh! Theo ta xung phong!”


    “Giết!!!” Tiếng xung phong vang dội lập tức nổ ra, rung chuyển cả một vùng.


    “Báo cáo! Phía bắc xuất hiện số lượng lớn kỵ binh!”



    “Tốc độ cực nhanh! Đang lao về phía chúng ta!”



    “Địch ta khó phân! Đối phương rất đông, nhìn qua khoảng mười mấy vạn nhân mã!”



    Không rõ là ai lên tiếng trước tiên, nhưng cũng đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của mọi người đến đông bắc.


    Đội quân khoác áo choàng màu xanh đen ào ạt băng qua thảo nguyên, tốc độc nhanh đến mức không đếm được số lượng. Vó ngựa mãnh liệt hất tung bụi mù khiến bờ đê chợt nhìn như một dãy núi sừng sững.


    “Cờ chiến này… Là quân Đông Hồ!” Một tiếng hô mừng rỡ đột nhiên vang lên khiến tất cả đều kinh ngạc nhìn sang, mặt đỏ bừng phấn khích.


    “Là quân Đông Hồ! Là quân Đông Hồ!”



    “Là quân của Thất điện hạ! Là người phe chúng ta!”



    “Vạn tuế! Thất điện hạ vạn tuế! Đại Hạ vạn tuế!”



    Ngụy Thư Diệp làm sao cũng không thể ngờ, Triệu Triệt, người vốn phải đang tấn công hoàng thành lại đột nhiên xuất hiện ở đây.


    Vì phải tuân theo an bài của gia tộc, hắn đã xa lánh bằng hữu cũ, ủng hộ Triệu Dương đăng vị. Nhưng khi hắn lâm vào tình huống nguy nan như hiện giờ, gia tộc ruồng rẫy hắn, Triệu Dương bỏ mặc hắn, thì người bằng hữu từng bị hắn bỏ rơi kia lại từ vạn dặm xa xôi chạy đến cứu hắn khỏi tuyệt địa.


    Ngụy Thư Diệp cắn chặt răng, điên cuồng hét lên một tiếng rồi vung đao chém đứt đầu một gã địch.


    “Giết!!!!!” Âm thanh xung phong lại vang lên một lần nữa, kéo theo nhiệt huyết nam nhi sôi trào.


    …………………………………………………………………………………………………………………


    Hoàng hôn buông xuống thì tiếng chém giết đã tắt hẳn. Gió thổi qua khoảng trời mênh mông, mang theo mùi máu tanh tưởi.


    Triệu Triệt khoác quân trang xanh đen, đứng trên bờ đê nhìn xuống chiến trường hỗn độn. Cách đó không xa, Ngụy Thư Diệp đứng phía sau nhìn bóng lưng của Triệu Triệt, bất giác nhớ đến nhiều năm trước, sau khi thua trận, vị hoàng tử này đã từng phải chật vật trở về quỳ trước quảng trường Tử Vi xin tội. Hắn cũng từng đứng ở khoảng cách xa như hiện giờ nhìn bóng lưng kiên quyết và quả đấm siết chặt của người nọ.


    Đã nhiều năm như vậy, trải qua bao sinh tử, có lên có xuống, trải qua bao khó khăn gian khổ, kinh qua trung thành cũng như phản bội, dường như ánh mắt và tâm tư của bọn họ đều trưởng thành hơn. Triệu Dương nuôi dã tâm ngày càng lớn, Triệu Tung trở nên mệt mỏi nản lòng, Triệu Tề chết ở Bắc Yến, Yến Tuân trở thành cỗ máy giết chóc sát phạt, Gia Cát Nguyệt cũng thôi cố chấp mà mở mắt ra. Tuy nhiên chỉ có người này, từ đầu đến cuối vẫn giữ nguyên dáng vẻ bền bỉ quả cảm như vậy, chưa từng thay đổi, chưa từng mềm yếu, thậm chí cũng chưa từng do dự không cương quyết.


    Người này quả thực chính là quân nhân trời sinh, được sinh ra để bảo vệ người khác.


    Ngụy Thư Diệp chậm rãi bước đến đứng sau lưng Triệu Triệt, lên tiếng nói: “Đa tạ đã đến cứu.”



    Triệu Triệt cũng không quay đầu lại như đã sớm biết là Ngụy Thư Diệp, chỉ bình thản đáp lời: “Ta chỉ không muốn phụ cái họ mình đang mang mà thôi.”



    Đúng vậy, hắn là cháu của Bồi La đại đế, trong người chảy dòng máu hoàng thất cao quý. Hắn chỉ đang bảo vệ con dân cùng lãnh thổ của mình mà thôi, không liên quan đến lập trường cá nhân, càng chớ nói đến ơn nghĩa.


    “Ngươi nhìn đi, đẹp biết bao.” Triệu Triệt đột nhiên dùng vỏ đao chỉ ra bình nguyên mênh mông bên dưới. Mặt trời đã ngả về phía tây, rải ánh hồng lên vạt cỏ trải dài tận chân trời, thảm cỏ lay động theo từng cơn gió, khung cảnh kỳ vỹ đẹp đến nao lòng.


    “Người đời chưa từng nhìn thấy được thế giới bao la theo đúng nghĩa, là bởi vì nó còn chưa được tạo ra. Một ngày nào đó, từ cao nguyên Thượng Thận ở Bắc Yến đến biển Đông Nhai ở Hoài Tống, từ hoang nguyên A Đồ ở Tây Mạc đến dãy Cửu Uy ở Nam Cương, tất cả đều phải thần phục dưới chân đế quốc. Và công cuộc thành lập thế giới đó, tất sẽ được chiến đao của ta mở màn.” Triệu Triệt xoay người lại, mắt rực sáng nhìn Ngụy Thư Diệp, tự tin cười một tiếng, sau đó giơ quyền lên, kiên định nói: “Đạ Hạ sẽ không vong.”



    Ngụy Thư Diệp nhìn Triệu Triệt, im lặng một lúc rồi cũng nở nụ cười, ý cười từ từ lan rộng khắp đáy mắt.


    “Đại Hạ sẽ không vong.” Hắn vung nắm tay lên chạm mạnh vào nắm tay của Triệu Triệt.


    …………………………………………………………………………………………………………………


    Mặt trời chậm rãi lặn xuống chân trời phía Tây Bắc.


    Quyết định đình chiến được đưa ra trong nháy mắt, quân lính được phép tạm thời nghỉ ngơi hồi sức, trên dưới quân doanh bắt đầu nổi lửa nấu cơm rồi tranh thủ ngủ bù. Bởi vì bọn họ chỉ có hai canh giờ, sau hai canh giờ, bọn họ sẽ phải tiếp tục hành quân đến Tây Nam.


    Gia Cát Nguyệt xem xét tình hình quân số xong, vừa mới trở lại doanh trướng thì nhìn thấy Sở Kiều đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng, dáng vẻ như đang chờ hắn.


    Gia Cát Nguyệt đứng yên ở cửa, trầm mặc nhìn nàng, thật lâu cũng không lên tiếng.


    Gió xuân lùa vào lều, hất tung rèm trướng khiến ánh hoàng hôn hắt lên người bọn bọ, khiến hai người như được dát bởi một lớp màu đỏ rực như máu.


    “Nàng đã quyết?” Nam nhân bình tĩnh hỏi, ngữ khí nghe không rõ buồn vui.


    Sở Kiều gật đầu, chân thành nói: “Ừ, ta quyết định rồi.”



    Gia Cát Nguyệt vừa xoay người đi ra vừa nói: “Ta đi chuẩn bị ngựa cho nàng.”



    “Nguyệt!” Sở Kiều chạy đến kéo tay Gia Cát Nguyệt lại, ngữ khí mang theo vẻ khổ sở.

    Không khí trong lều chợt trở nên vô cùng nặng nề, Sở Kiều cúi đầu, mi tâm nhíu chặt, lòng bàn tay lạnh lẽo như băng.


    Nam nhân phía trước rốt cuộc cũng quay đầu lại, nghiêm túc nhìn nàng. Thật lâu sau hắn mới bất đắc dĩ thở dài một hơi, tháo bảo kiếm bên hông nàng ra, lấy kiếm của mình thế vào, ngồi xổm xuống nhét một thanh chủy thủ sắc bén vào sau tấm bảo vệ bắp chân của nàng, sau đó đi vào trong mang ra một tấm nhuyễn giáp chắc chắn, cởi áo choàng của nàng ra mặc nhuyễn giáp vào. Hắn im lìm làm mà không nói lời nào, sau đó tiếp tục lẳng lặng mài kiếm cho nàng, kiểm tra hành trang xem nàng đã mang đủ thuốc trị thương chưa…


    Sở Kiều cảm thấy hốc mắt cay cay, nàng mím chặt môi, cúi đầu mặc cho chàng bận rộn đi tới đi lui.


    “Được rồi.” Gia Cát Nguyệt sắp xếp toàn bộ đâu vào đó rồi thì đến đứng trước mặt Sở Kiều, nói: “Chuẩn bị dùng bữa thôi, một canh giờ nữa chúng ta sẽ phải mỗi người một ngả rồi, ta chỉ có thể đưa nàng đến đây thôi.”



    Sở Kiều nhẹ gật đầu, vừa thấy áy náy vừa bất đắc dĩ, thậm chí có cả hơi sợ hãi.


    Nàng đã lâu không sợ hãi như vậy, quả nhiên con người không thể được quá nhiều, một khi thấy quá hạnh phúc sẽ bắt đầu lo sợ mất đi.


    “Tinh Nhi, hứa với ta, nhất định phải bình an trở về gặp ta.”



    Sở Kiều vội vàng gật đầu rồi ngước lên hỏi: “Chàng không giận sao?”



    Gia Cát Nguyệt cười khổ, “Ta tức giận thì nàng sẽ không đi sao?”



    Sở Kiều nhất thời cúi đầu. Vì chuyện này mà bọn họ đã cãi nhau không ít lần rồi. Hôm nay sắp phải chia tay, nàng không muốn tiếp tục chủ đề nhạy cảm này nữa.


    “Nếu đã không thể ngăn cản, chi bằng cứ chuẩn bị chu toàn đưa nàng đi thì hơn.” Gia Cát Nguyệt đột nhiên giang tay ra ôm lấy Sở Kiều, tựa cằm lên trán nàng, nhẹ giọng nói: “Tinh Nhi, Triệu Triệt dẫn binh đến Tây Nam, tình hình đang rất nguy cấp, ta phải đến đó tiếp ứng. Hiện giờ toàn bộ Tây Nam đã bị quân Bắc Yến đóng chiếm, thông lộ giữa Đại Hạ và Biện Đường bị gián đoạn, nếu xảy ra chuyện, ta sẽ không thể kịp thời đến giúp nàng. Tình hình Biện Đường giờ ra sao, cả ta và nàng đều không rõ. Nàng nhất định phải hành sự có chừng mực, nếu thấy không ổn thì phải lập tức trở về, không được phép mạo hiểm.”



    Sở Kiều vùi mặt trong lòng Gia Cát Nguyệt, liên tục gật đầu, không nói tiếng nào.


    Gia Cát Nguyệt thở dài, tiếp tục nói: “Nếu Biện Đường trở nên nguy ngập không thể thay đổi tình thế thì nàng hãy dẫn người đến Thanh Hải. Ta đã lệnh cho Nguyệt Thất trở về trấn giữ Thùy Vi Quan, hắn sẽ sắp xếp người có thể tùy thời tiếp ứng cho nàng.”



    Khóe mắt Sở Kiều đã hơi ẩm ướt, nàng khịt mũi một cái rồi nhẹ gật đầu.


    “Được rồi, nếu đã quyết định phải đi thì đừng trưng ra bộ mặt như vậy nữa. Thống lĩnh binh sĩ tác chiến quan trọng nhất là khí thế, nàng cứ thế này thì làm sao ta yên tâm được.”



    Sở Kiều ngẩng đầu lên cười với hắn, hơi nghẹn ngào nói: “Chàng yên tâm, ta nhất định sẽ không sao.”



    Gia Cát Nguyệt đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt nhỏ nhắn của Sở Kiều, dịu dàng cúi xuống hôn lên môi nàng rồi mới cười nói: “Đây mới là khí thế mà nữ nhân của Gia Cát Nguyệt ta nên có chứ.”



    Sở Kiều bị chọc phải phì cười, ngước lên nói: “Chàng cũng phải cẩn thận, tình thế hiện giờ rất nguy cấp, không chỉ có đại quân Bắc Yến, chàng phải cẩn thận với cả Triệu Dương và các chư hầu. Giang sơn Đại Hạ bị cắt năm xẻ bảy, ngoài có địch xâm lấn, trong có nội chiến, hành sự phải vô cùng thận trọng.”



    “Ta biết.” Gia Cát Nguyệt gật đầu, “Ta hành quân tác chiến nhiều năm như vậy mà rất ít khi chịu thiệt, nàng phải tin tưởng phu quân của mình chứ.”



    Sở Kiều hơi đỏ mặt, cười mắng: “Phu quân của ai chứ? Ta và chàng đã bái thiên địa rồi sao?”



    Gia Cát Nguyệt khẽ hừ một tiếng xem thường, “Đã vào cửa nhà ta từ đời nào mà bây giờ còn cố khăng khăng không chịu thừa nhận?” Dứt lời ánh mắt hắn đột nhiên trở nên vô cùng nhu hòa, dịu dàng nói: “Tinh Nhi, ta còn thiếu nàng một hôn lễ long trọng.”



    Đáy mắt lấp lánh, Sở Kiều nhẹ giọng nói: “Ta không cần hôn lễ gì hết, chỉ cần có chàng bên cạnh là ta đã mãn nguyện rồi.”



    Bên ngoài chợt vang lên tiếng kèn triệu tập, văng vẳng khắp bốn phía. Sở Kiều nhắm mắt lại, nhón chân hôn lên môi Gia Cát Nguyệt, dịu dàng quất quít.


    “Nguyệt, chúng ta nhất định sẽ không sao.”



    “Ừ.” Gia Cát vòng tay siết chặt hông Sở Kiều.


    “Ta vẫn chờ chàng quang minh chính đại cưới ta vào nhà đấy.”



    …………………………………………………………………………………………………………………


    Trên con đường hoang vu vắng vẻ, Sở Kiều và đám người Hạ Tiêu ngồi trên lưng ngựa, nàng đưa mắt chăm chú nhìn thân ảnh tuấn tú cao lớn đứng trước biển quân kỳ Thanh Hải trước mặt, “Nguyệt, ta đi đây!”


    Gió chợt nổi lên hất tung bụi đất trên mặt đường, khiến vạt áo choàng của Sở Kiều bay phần phật, lộ ra giáp bạc sáng loáng bên dưới.


    Gia Cát Nguyệt cũng nhìn nàng, ánh mắt trầm tĩnh nhưng vô cùng nồng nàn, cuối cùng cao giọng nói to: “Mã đáo thành công!”



    Sở Kiều vung roi ngựa lên, cũng cao giọng đáp lời: “Mã đáo thành công!”



    Tiếng trống trận dồn dập nhất thời vang lên, Sở Kiều quất roi vào đùi ngựa, quay đầu ngựa đi rồi lớn tiếng quát: “Hây!”



    Vó ngựa cất cao, cô gái đầu đội mũ giáp màu bạc, chùm tua đỏ trên mũ rực rỡ như lửa*, nổi bần bật giữa khoảng trời mênh mông rộng lớn.

    *Là phần tua rua màu đỏ trên mũ giáp thời xưa.


    Không an ủi căn dặn dỗ dành, cũng không bịn rịn quyến luyến, chỉ có bốn chữ ‘mã đáo thành công’, không hơn không kém. Bọn họ đều biết đối phương cần gì, sinh mạng trong thời loạn bấp bênh tựa lục bình, chỉ có lòng tin là vĩnh viễn không tắt.


    “Thiếu gia.” Nguyệt Lục cau mày, đắn đo hỏi: “Thật sự cứ để cô nương đi như vậy sao? Biện Đường bây giờ đang rất nguy hiểm, tại sao thiếu gia không ngăn cô nương lại?”



    Gia Cát Nguyệt xoay đầu lại, nhướng mày cười khẽ: “Nếu như không đi, nàng vẫn còn là nàng sao?”



    Tiếng vó ngựa xa dần, Gia Cát Nguyệt nhìn theo hướng Sở Kiều vừa đi, trong lòng vẫn quanh quẩn một câu không nói ra miệng.


    Chính vì nàng như thế nên hắn mới yêu, chẳng phải sao? Hắn làm sao nỡ giam cầm người mình yêu sau khi có được nàng chứ?


    Gia Cát Nguyệt bật cười một tiếng rồi quay người hướng về phía các thuộc hạ đang chờ lệnh nói to: “Xuất phát!”



    …………………………………………………………………………………………………………………


    Thượng tuần tháng 4 năm 882, Bắc Yến triển khai tấn công toàn diện đối với Đại Hạ. Sau khi bắt tay liên thủ với Bắc Yến, Tĩnh An vương phi Thù thị mở toang Đường Hộ Quan, đại quân Bắc Yến tràn vào, bằng tốc độ sét đánh chiếm lấy Mi Sơn, tiêu diệt quân đội Biện Đường đóng ở đây mở đường cho quân của Tĩnh An vương phi tiến thẳng đến Đường Kinh, ngay sau đó liền lập tức rút binh trước khi nội chiến ở Biện Đường bùng nổ trên diện rộng, vòng lại tấn công Đại Hạ qua hướng Bạch Chỉ Quan.


    Để có thể đối kháng được với quân Thanh Hải và quân Đông Hồ của Gia Cát Nguyệt và Triệu Triệt, Thập Tứ hoàng tử Triệu Dương đã điều động gần như toàn bộ Tây nam quân đóng ở biên giới phía Tây, đa phần cũng vì Bạch Chỉ Quan đã nhiều năm không có chiến tranh. Thế nên khi đoàn quân mạnh mẽ như hổ báo của Bắc Yến ập đến, khắp cửa khẩu rộng lớn chỉ còn vài lão binh trông chừng, Bạch Chỉ Quan liền trở thành tấm chắn bằng giấy yếu ớt đối với Bắc Yến.


    Sau khi tiêu diệt sạch sẽ số quân ít ỏi ở Bạch Chỉ Quan, Yến Tuân đã mở toang cửa khẩu để mã tặc cường đạo ở quan ngoại tiến vào, dẫn đến cơn ác mộng giết chóc khủng khiếp chưa từng có cho dân chúng khu vực Tây Nam.


    Đại lục Tây Mông rộng lớn, vô số nước lớn nhỏ, các thành trì ở biên giới cùng các phe phái bè lũ thường diễn ra buôn bán tấp nập nên ở đây tụ tập rất nhiều đạo tặc hung hãn, có tổ chức đông đến mức đủ sức giằng co với quân đội quốc gia của một nước nhỏ.


    Thủ đoạn tàn bạo và sự máu lạnh của bọn người này đã khiến các thế gia đại tộc ở Tây Nam cuống cuồng bỏ chạy, quân đội cũng không lòng dạ ứng chiến, hơn mười vạn quân địa phương không đánh mà chạy trối chết, chắp tay tặng không khu vực Tây Nam cho đại quân Bắc Yến. Cứ như thế, Yến Tuân chỉ bỏ ra chút sức lực nhưng lại thu về lợi ích khổng lồ.


    Trung tuần tháng 4, Triệu Triệt dẫn binh tiến vào Tây Nam, tụ hội với quân của Ngụy Thư Diệp đã đến đây trước tiên. Từ lúc chiến tranh nổ ra, đây là lần đầu tiên Đại Hạ tụ tập binh lực lớn nhường này, năm vạn kỵ binh, sáu vạn bộ binh, tám vạn giáp binh, cộng thêm một vạn khinh kỵ binh của Ngụy Thư Diệp, tổng cộng hai mươi vạn. Ba ngày sau, tuyến quân tiếp tế hậu cần nối liền khu vực Tây Nam và đế đô được thành lập bởi Gia Cát Nguyệt. Đồng thời, Gia Cát Nguyệt cũng dẫn binh đến Thịnh Kinh tự mình trấn giữ đại doanh ở kinh đô, cùng lúc trợ giúp Triệu Triệt canh gác ở phía Nam, Triệu Dương ở hướng bắc, và cả Nhạn Minh Quan ở phía đông.


    Ngày 15 tháng 4, ở cạnh sông Du Hoành, quân đội Bắc Yến lần đầu tiên tụ tập với quy mô lớn, bao gồm quân đoàn thứ 2, thứ 6, thứ 9, thứ 13, và Hắc ưng quân do Trình Viễn làm thống soái. Phía sau vẫn còn những đội quân khác chưa đến kịp mà nhân số đã lên đến gần hai mươi vạn.


    Song xung đột chính diện giữa hai nước lại không hề xảy ra. Lúc Triệu Triệt chuẩn bị hợp binh tử chiến một trận với Bắc Yến thì Yến Tuân lại đột nhiên truyền lệnh cho các quân đoàn chia ra, theo dấu chân của bọn mã tặc tiến thẳng về phía bắc Đại Hạ.


    Tin tức nhanh chóng được báo cho tiền tuyến, Bắc Yến chia quân thành mười đường, tản ra đến bốn phương tám hướng. Bộ tham mưu bị đủ loại chiến báo làm cho hoa mắt, tin dữ không ngừng đổ xuống tựa như tuyết rơi, hết ‘bị tập kích, ‘tổn thất nghiêm trọng’ rồi đến ‘bị bao vây’, ‘không thể liên lạc’…


    Nữ đại tướng đắc lực của Gia Cát Nguyệt là Mông Phong rời khỏi Thanh Hải trở về cố quốc, nhìn thấy khắp nơi đều là khói lửa chiến tranh thì trợn mắt há hốc mồm, cuối cùng thì chỉ có thể kinh ngạc thốt lên: “Yến Tuân điên rồi sao? Hắn muốn đồng quy vu tận với chúng ta à?”



    Gia Cát Nguyệt nhìn bản đồ bị đánh dấu chi chít, trầm tư một lúc thật lâu, cuối cùng thì đi đến bộ tham mưu, trải rộng bản đồ ra trên bàn, thấp giọng nói: “Ta biết Yến Tuân đang muốn làm gì.”



    …………………………………………………………………………………………………………………


    “Ta biết Yến Tuân đang muốn làm gì.”



    Trong một khu rừng rậm rạp ở biên giới Đại Hạ, Sở Kiều và Hạ Tiêu vừa mới gặp lại đội quân được Biện Đường cử đi đưa dâu. Vì bị chiến loạn ngán đường nên bọn họ vẫn chưa trở về đến Biện Đường, nhờ thế mới có thể bảo tồn quân số trong thời điểm hỗn loạn như hiện giờ.


    Hai vạn Sói binh cộng thêm hai vạn Tú lệ quân, trước mắt Sở Kiều đã có bốn vạn quân tinh nhuệ trong tay. Có bọn họ, Sở Kiều tự tin có thể đối mặt với kẻ địch đông gấp ba lần mình.


    Dưới ánh nến vàng nhạt trong lều, Sở Kiều mặc nhuyễn giáp, một tay cầm mũ giáp, tay còn lại chỉ vào bản đồ, nói: “Hắn muốn tấn công Nhạn Minh Quan.”



    “Tấn công Nhạn Minh Quan?” Đệ đệ của Hạ Tiêu là Hạ Kỳ nhíu mày thắc mắc, “Đại nhân, bọn họ đã chiếm được Bạch Chỉ Quan, sao còn phải phí sức đi tấn công Nhạn Minh Quan?”



    “Các ngươi không hiểu Yến Tuân.” Sở Kiều lắc đầu, “Yến Tuân làm sao chấp nhận để người khác khống chế? Hiện giờ y đang mượn đường Biện Đường, đường lui đều nằm trong tay Tĩnh An vương phi, nếu Tĩnh An vương phi trở mặt hoặc hoàng thất Biện Đường phản kích thành công, quân Bắc Yến chắc chắn sẽ rơi vào hiểm cảnh hai đầu thọ địch. Ngoài ra, nếu biết được không còn đường lui, binh sĩ sẽ bị áp lực rất lớn. Vì lẽ đó, Yến Tuân không thể không công phá Nhạn Minh Quan, trước phải đả thông phía Bắc thì mới có thể tiếp tục quyết chiến với Đại Hạ được.”



    Mi tâm nhíu chặt, Sở Kiều hít sâu một hơi rồi ngồi xuống ghế. Nàng đúng ra phải sớm nghĩ đến điều này mới phải, Yến Tuân luôn ẩn nhẫn che giấu, thậm còn cố tình ra vẻ yếu thế mấy lần, trước để kẻ địch khinh thường, sau lại mạo hiểm tấn công Biện Đường cướp lương thảo. Có điều cướp lương thảo chỉ là cái cớ, mục đích thật chính là bắt giữ thống lĩnh của Đường Hộ Quan để thông qua người này liên lạc với Tĩnh An vương phi đã sớm có âm mưu tạo phản, cuối cùng nhân dịp Đại Hạ xảy ra nội chiến mới lặng lẽ không tiếng động lẻn vào Tây Nam. Thế trận này hẳn đã được Yến Tuân mưu tính từ lâu.


    “”Thực lực hiện giờ của Bắc Yến tuyệt đối không chỉ như biểu hiện mặt ngoài, số nhân mã ẩn núp bên ngoài Nhạn Minh Quan mới chính là quân chủ đạo.”



    “Đại nhân, chúng ta có cần báo lại chuyện này cho Gia Cát đại tư mã không?”



    Sở Kiều lắc đầu, “Nếu ta có thể nghĩ tới điểm này thì sao chàng lại không?”



    Nàng cuộn bản đồ Đại Hạ rồi mở bản đồ Biện Đường ra, trầm giọng nói: “Đại chiến giữa Bắc Yến và Đại Hạ vốn là chuyện một sớm một chiều từ lâu, chúng ta có muốn cũng vô lực ngăn cản. Trước mắt nhiệm vụ quan trọng nhất chính là nhanh chóng trở về Biện Đường, nhận biết tình hình cụ thể để xem phải làm sao chi viện cho hoàng thượng.”



    Phó thống lĩnh Sói binh là Quản Tùng nghe vậy liền vội vàng nói: “Đại nhân, thám báo của chúng ta đã ra ngoài thăm dò từ hai ngày trước, theo phán đoán thì chậm nhất là sáng mai sẽ trở lại.”



    Sở Kiều vừa định lên tiếng thì bên ngoài chợt vang lên tiếng binh sĩ báo cáo: “Đại nhân, thám báo đã trở lại.”



    Hạ Tiêu đứng gần cửa lập tức vén rèm lên, ba binh sĩ người đầy bụi đất và máu đen loạng choạng nhảy xuống khỏi lưng ngựa, một người lên tiếng trước: “Bẩm đại nhân, tình hình ở nội cảnh Biện Đường hiện hết sức nguy ngập, phản quân đã chọc thủng Hàm Thủy Quan, phó tướng Cấm tắc doanh Phương Hoài Hải ở Thận Nam và thượng tướng Tây quân Điền Nhữ Cổ ở Điền Tây đều bị bắt, đại tướng quân Từ Tố bị phản đồ bán đứng đã chết trận ở khu vực sông Mục Lăng, quân Hàm Thủy hoàn toàn bị tiêu diệt. Binh lực của phản quân ngày càng mạnh, lên đến hơn hai mươi vạn, hiện giờ đã bao vây toàn bộ Đường Kinh.”



    Tất cả người có mặt trong trướng đều kinh hãi, Sở Kiều nhíu chặt mi tâm, nắm tay liên tục buông ra rồi lại nắm chặt, “Chủ soái của địch là ai?”



    “Thưa là Tĩnh An vương phi.”



    “Đã từng điều tra thân phận của người này?”



    “Thưa có, bốn năm trước, người này chỉ là một vũ cơ bị môi giới bán vào phủ Tĩnh An vương, nhưng mới được Tĩnh An vương sủng ái vài lần đã hoài thai, thuận lợi sinh được một đứa con trai. Tĩnh An vương đã già mới có con trai nên càng thêm yêu thích, liền nâng nàng ta lên thành thiếp. Chưa tới một năm sau, nàng ta lại sinh thêm được một đứa con trai. Tĩnh An vương sung sướng, trực tiếp lập nàng ta làm chính phi.”



    Hạ Tiêu hỏi: “Nô lệ cũng có thể làm chính phi sao?”



    “Chuyện này thuộc hạ cũng không rõ, có điều sau đó phủ Tĩnh An vương liên tục xảy ra chuyện, lão vương phi và hai vị thế tử lần lượt qua đời, nàng ta chân chính trở thành nữ chủ nhân trong phủ. Sau khi Tĩnh An vương dấy binh thất bại, gia sản và người thân đều bị bắt giết, nàng ta được vây cánh trung thành với Tĩnh An vương bảo vệ chạy thoát, không ngờ lại lẻn vào Đường Hộ quan, được thống lĩnh canh giữ Đường Hộ quan che chở nên sống sót đến giờ. Nghe nói giữa vương phi và nghĩa tử của Tĩnh An vương vốn đã có gian tình từ trước.”



    Sở Kiều âm trầm hỏi: “Nàng ta tên gì?”



    “Thuộc hạ cũng không rõ, chỉ nghe được rằng nhà mẹ nàng ta vốn họ Thù.”



    “Họ Thù?” Sở Kiều lẩm bẩm lặp lại.


    Quản Tùng lo lắng tình hình ở kinh đô nên lên tiếng: “Đại nhân, Đường Kinh đang bị vây hãm, chúng ta phải nhanh chóng trở về chi viện cho hoàng thượng.”



    Sở Kiều thâm trầm nhìn ra Bạch Chỉ Quan bị Bắc Yến đóng chiếm ở xa xa, sau cửa khẩu chính là lãnh thổ Biện Đường.


    Nàng gật đầu, ngữ khí nhẹ nhưng vô cùng quả quyết, “Ừ, chúng ta cần phải trở về.”
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  13. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 189: Sinh mạng mới giữa thời loạn
    Cả đời này, Nạp Lan Hồng Diệp chưa từng nhìn thấy bão tuyết thực sự bao giờ.


    Bầu trời đêm thưa thớt sao khiến mặt trăng càng thêm sáng lóa, tuyết rơi ào ào như thác đổ, phản chiếu ánh trăng lấp lánh dị thường.


    Nàng đứng trên đỉnh Bạch Đài lộng gió, vạt áo bào bị gió thổi *phần phật* tựa chú ưng đập cánh muốn bay lên, mái tóc dài bay tán loạn sau lưng như lưới nhện phủ tung. Ở xa xa là một tòa cung điện nguy nga kỳ vĩ ẩn mình bên dưới màn đêm mịt mù, cạnh song cửa bằng đá đen như thấp thoáng thấy được một thân ảnh cao ngất, khoảng cách quá xa nên nhìn không rõ mặt mũi, nhưng từ sống lưng thẳng tắp kia liền có thể đoán được là một quân nhân, hơn nữa còn rất trẻ tuổi.


    Nàng đã đứng như vậy rất lâu rồi.


    Huyền Mặc ở phía sau vẫn không lên tiếng, chỉ lẳng lặng nhìn nàng đứng đó, nhìn ánh trăng dần bao phủ toàn thân nàng. Màn đêm thực yên tĩnh, xung quanh im lìm không một tiếng động, chỉ có tiếng gió thổi vạt áo nàng kêu *phần phật*, mang theo hương bạch lan chậm rãi quanh quẩn nơi chóp mũi của hắn.


    Huyền Mặc chợt nhớ đến rất nhiều năm trước khi bản thân vẫn còn là một đứa trẻ, hắn đi theo phụ thân tham gia hội săn, nhờ vào tài bắn cung mà nổi bật trong đám con cháu của hoàng thân quốc thích, được tất cả mọi người tán dương. Nhưng một thân ảnh mặc cung trang vàng óng bất chợt thúc ngựa ào vào trong sân, thiếu nữ bắn ra liên tiếp ba tiễn trúng giữa hồng tâm rồi quay đầu lại kiêu ngạo nhìn hắn, nói: “Không phục thì đến tỉ thí một trận?”



    Hoàng đế ngồi trên vương vị cười to, nói: “Nữ nhi của trẫm quả thực không hề thua kém nam nhi!”


    Những vương công quý tộc khác luôn miệng khen ngợi công chúa lợi hại, chỉ có hắn vẫn lẳng lặng đứng yên, ngẩng đầu nhìn bóng dáng bé nhỏ ngồi trên lưng ngựa. Hôm đó trời nắng đẹp, gió mát dìu dịu, ánh mặt trời chiếu lên khuôn mặt xinh xắn khiến hai mắt nàng như thêm rạng rỡ, trong ngực hắn như có lửa, ống tay áo bay bay trong gió, vuốt ve da thịt hơi ngứa ngáy. Hắn cứ thế đứng ngây ra trước mặt cô bé kia, tựa như đã mất khả năng nói chuyện.


    Chớp mắt mà đã nhiều năm như vậy, hắn luôn nhìn lên thân ảnh rực rỡ chói mắt của nàng như đã thành thói quen, luôn đứng từ xa nhìn nàng dần lớn lên, nhìn nàng càng lúc càng kiên cường hơn, nhìn nàng ngã quỵ rồi lại gượng dậy, nhìn nàng từng bước đi lên đỉnh quyền lực.


    Thời gian trôi qua nhanh như nước chảy qua kẽ tay, dễ dàng mài mòn mọi cố chấp cùng bướng bỉnh thời niên thiếu, những ý niệm viển vông chôn giấu tận đáy lòng qua nhiều năm, tất cả cơ hội đều bị bão cát mang tên vận mệnh chôn vùi, biến mất trong phong trần cuồn cuộn.



    “Huyền Mặc.” Nạp Lan Hồng Diệp đột nhiên khẽ gọi, trong không gian trống trải mịt mù tuyết, tiếng nói nghe thật xa xăm. Nàng không hề quay đầu lại mà vẫn nhìn đăm đăm về phía cung điện rực rỡ ánh đèn kia, thì thầm hỏi: “Ta sai lầm rồi sao?”



    “Điện hạ không hề làm sai.”



    Nạp Lan Hồng Diệp khẽ cười, lắc đầu nói: “Chỉ e ta thực sự đã sai rồi. Tào thái phó nói đúng, ta cõng rắn cắn gà nhà, giang sơn Hoài Tống sớm muộn gì cũng sẽ diệt vong.”



    “Hoàng đế bị bệnh như vậy, huyết mạch Nạp Lan thị đã không còn ai khác có thể cáng đáng giang sơn.”



    “Ai nói không có?” Khóe môi Nạp Lan Hồng Diệp nở một nụ cười lạnh lùng, bình tĩnh nói như trần thuật: “Tấn Giang vương, An Lập vương, Giang Hoài vương chẳng phải cũng có tư cách thừa kế sao?”



    Nàng nói không sai, khi hương khói hoàng thất không thể tiếp tục thì đế vị sẽ do thân thích hoàng gia kế thừa, chẳng qua…


    Huyền Mặc không nói gì nữa, không gian trên Bạch Đài vô cùng tĩnh mịch, gió theo hành lang luồn vào mang theo hơi nước ẩm ướt, cho dù là mùa hè vẫn hết sức lạnh lẽo.


    “Nói cho cùng thì đều do tư tâm quá nặng mà thôi, trong lòng ta vĩnh viễn luôn là nhà trước rồi mới đến nước.” Nạp Lan Hồng Diệp rơi vào trầm tư, ánh mắt trở nên xa xăm. Nhiều năm trên địa vị cao đã khiến vẻ ngây thơ thuần khiết vốn có sớm biến mất, tuy tỉnh thoảng nàng cũng có hành động hơi tùy hứng, nhưng tất cả đều không bì kịp sự cố chấp hằn sâu trong lòng.


    Nhớ đến thời gian gần đây, nhớ đến những hành vi và sắc mặt của đám thân thích hoàng thất kia, ánh mắt nàng chợt không tự chủ hiện ra vẻ lạnh lùng sắc bén đến cực độ.


    Nạp Lan thị lập quốc đã mấy trăm năm, tổ tiên bọn họ đã đổ bao nhiêu máu và mồ hôi cho giang sơn vạn dặm này. Hoài Tống là do Nạp Lan thị của nàng dùng xương và máu đắp thành, là do nàng hơn mười năm dốc hết tâm huyết bảo vệ. Đám người đó chẳng qua chỉ là lũ sâu mọt ngồi mát ăn bát vàng, có tư cách gì ngồi lên đế vị chứ?


    “Quốc gia này là do Nạp Lan thị một tay lập nên, là do tổ tiên ta dùng máu gìn giữ, cho dù phải mất thì cũng chỉ có thể mất trong tay con cháu Nạp Lan thị. Người khác không xứng.” Nạp Lan Hồng Diệp lẳng lặng nói, ánh trăng loang loáng chiếu lên người nàng, thoạt nhìn lạnh lẽo như băng, “Gửi thông cáo chính thức cho Yến Tuân, nói ta đồng ý đề nghị của y, chỉ xin y tuân thủ lời hứa, đối xử tử tế với con dân Hoài Tống, người thừa kế sự nghiệp thống nhất thiên hạ nhất định phải là con do ta sinh ra, ngoài ra, ta cũng muốn đầu của Thái Bình vương.”



    Một đám mây bay đến che khuất mặt trăng khiến không gian chợt tối đi, trong bóng đêm dường như có gì đó vừa vỡ vụn, các mảnh vỡ nhanh chóng bị gió thổi bay, phiêu tán đến chân trời góc biển.


    Huyền Mặc gật đầu, lặng lẽ đáp: “Thuộc hạ tuân lệnh.”



    Nạp Lan Hồng Diệp trầm mặc một lúc rồi đột nhiên mở miệng nói: “Lệnh cho Tư mã chỉnh đốn tam quân, chuẩn bị để có thể xuất binh đến Đại Hạ chi viện Bắc Yến bất cứ lúc nào.”


    Trong bóng tối, Huyền Mặc ngẩng phắt đầu lên, hai mắt nhìn nàng chăm chăm hiện ra vài tia khiếp sợ cũng như vẻ không dám tin.


    Nạp Lan Hồng Diệp như không hề để ý đến sự chấn động của Huyền Mặc, ngược lại vẫn vô cùng bình tĩnh nói: “Huyền Mặc, Đông Hải lại có thổ phỉ xâm phạm, lần này phải phiền huynh đi bảo vệ biên cương phía Đông rồi.”



    Trong khoảnh khắc, Bạch Đài trở nên im ắng không một tiếng động, sống lưng Huyền Mặc cao thẳng vững chãi tựa như một gốc hồ dương. Hắn nhìn nàng chăm chăm, ánh mắt như xuyên qua thời gian dài mười mấy năm, cuối cũng đọng lại trong khoảnh khắc tĩnh lặng này.


    Là bằng hữu thời niên thiếu, thân là thế tử của một thân vương nhưng hắn lại nguyện làm cận vệ của nàng, để có thể ngày ngày nhìn thấy bóng dáng ngây thơ yêu kiều kia.


    Hoàng đế băng hà, hắn quỳ ba ngày ba đêm trước cửa phòng phụ thân, khổ sở khuyên nhủ phụ thân từ bỏ ý định mưu phản, một lòng phò tá ấu đế và Trưởng công chúa là nàng.


    Đã nhiều năm như vậy, hắn luôn đứng sau lưng nàng, nghe theo mọi mệnh lệnh của nàng, là thủ hạ, là thần tử trung thành đáng tin nhất của nàng. Thậm chí khi nàng ban hôn cho hắn với con gái của đại thần quyền thế, hắn cũng chưa từng nửa lời phản bác.


    Mà hiện tại, đế vị bấp bênh, giang sơn Đại Tống nguy ngập, thiết kỵ Bắc Yến sắp tràn vào, nàng lại muốn hắn đến biên cương diệt trừ thổ phỉ.


    Nhưng chỉ nháy mắt đã nghĩ thông suốt mọi khúc mắc trong mệnh lệnh này, ánh mắt dần bình tĩnh lại, Huyền Mặc khôi phục dáng vẻ tĩnh lặng trước đó, quỳ xuống trầm giọng đáp: “Vi thần tuân lệnh.”



    Cứ như vậy, cảm giác căng thẳng đến tột cùng trong lòng Nạp Lan Hồng Diệp chợt tan biến ngay khoảnh khắc Huyền Mặc quỳ xuống nói câu ‘Vi thần tuân lệnh’ kia, nàng xoay người lại, dung mạo thanh tú, mày ngài khéo léo như vẽ, đoan trang diễm lệ đến mức khiến người khác không dám nhìn thẳng.


    Cảm thấy cần phải giải thích thêm, nàng nói: “Giữa Bắc Yến và Đại Hạ nhất định sẽ xảy ra một trận ác chiến, chiến trường không có mắt, huynh là người duy nhất ta có thể tin tưởng, ta không muốn huynh xảy ra bất trắc gì.”



    Huyền Mặc vẫn cúi đầu, bình tĩnh nói: “Vi thần hiểu.”



    Nạp Lan Hồng Diệp hít sâu một hơi rồi khẽ cười, “Được rồi, huynh đứng lên đi, giữa ta và huynh không cần câu nệ lễ tiết.”



    Huyền Mặc vẫn không nhúc nhích, trên đầu là vầng trăng bàng bạc, thi thoảng có cánh chim đêm bay xẹt qua, gió đêm thổi tay áo phồng căng, hoa văn mãng long chín ngón sống động chập chờn. Cấp bậc quân thần tựa như lưỡi đao sắc lạnh không ngừng cứa vào da thịt khiến máu chảy đầm đìa.


    Hắn từ tốn móc từ trong ngực ra hai tấm lệnh bài để xuống trên thềm đá của Bạch Đài. Nạp Lan Hồng Diệp nhìn thấy thì chau mày, vừa định lên tiếng thì giọng nói đều đều của Huyền Mặc đã vang lên: “Vi thần đi chuyến này không biết khi nào mới có thể trở về, xin giao lại binh phù điều động Kinh Kỳ quân và Huyền Tự quân cho điện hạ.”



    Nạp Lan Hồng Diệp định từ chối, nhưng vừa chạm mắt đến hai tấm lệnh bài kia thì chợt ngẩn người. Kinh kỳ quân vốn thuộc về Binh bộ, năm đó nàng và Huyền Mặc liên thủ đánh bại Binh bộ thượng thư, thu quyền điều động Kinh kỳ quân vào trong tay, mấy năm nay vẫn luôn do Huyền Mặc chỉ huy, còn Huyền Tự quân thì chính là thân binh do Huyền Mặc đích thân bồi dưỡng, lực chiến đấu cực kỳ mạnh mẽ, cũng được coi là đội quân lợi hại nhất Hoài Tống.


    Như có quỷ thần xui khiến, nàng tiến đến đỡ Huyền Mặc dậy, cười nói: “Được, ta sẽ cất giùm huynh, chờ huynh trở lại sẽ hoàn trả.”



    Vóc dáng Huyền Mặc vốn cao ráo, đứng cạnh Nạp Lan Hồng Diệp thì cao hơn hẳn một cái đầu, ánh mắt tựa hồ sâu của hắn lẳng lặng nhìn nàng, không bất kính nhưng lại hơi lớn mật.


    Nạp Lan Hồng Diệp ngước lên, môi nhoẻn một nụ cười ôn hòa, ánh mắt lấp lánh rạng rỡ.


    “Tuy Thái Bình vương đã bỏ trốn, nhưng đám người Tấn Giang vương cũng không dễ đối phó, sau khi vi thần đi, điện hạ một mình phải bảo trọng.”



    Nạp Lan Hồng Diệp mỉm cười nói: “Huyền Mặc, huynh đã biết ta bao nhiêu năm rồi mà vẫn không yên tâm về cách hành sự của ta?”



    Huyền Mặc cúi đầu nói: “Điện hạ là bậc kỳ tài, vi thần đã lỡ lời.”



    “Được rồi, không cần ăn nói khách sáo như vậy nữa, ta và huynh quen biết nhiều năm, vẫn luôn giúp đỡ tương trợ nhau, quan hệ quân thần đã sớm chuyển thành bạn thân từ lâu rồi. Ta hứa với huynh, bất kể tương lai Hoài Tống đi về đâu, chỉ cần ngày nào ta còn nắm quyền trong tay, thì ngày đó phủ Huyền vương sẽ vinh sủng không ngừng.”



    Đầu ngón tay thoáng lạnh đi, sương đêm chậm rãi thấm qua làn áo, Huyền Mặc khom người nói: “Đa tạ điện hạ, đêm đã khuya, nếu không còn chuyện gì khác thì vi thần xin cáo lui.”



    Nạp Lan Hồng Diệp vốn còn muốn dặn dò thêm mấy câu nhưng lại không biết nên mở lời thế nào, đành gật đầu nói: “Ban đêm trời tối, bảo hạ nhân cầm đèn lồng dẫn đường cho huynh.”



    “Vâng, vi thần đã rõ.” Dứt lời, Huyền Mặc hành lễ với Nạp Lan Hồng Diệp rồi xoay người đi ra hành lang dẫn đến Bạch Đài.


    Ánh trăng xuyên qua từng ô vuông dọc theo thông đạo chiếu lên bóng lưng cao thẳng dần xa, Huyền Mặc vững vàng đi từng bước một trên hành lang thoắt tối thoắt sáng. Một lúc lâu sau, hắn rời khỏi Bạch Đài, chậm rãi hòa mình trong bóng đêm mênh mông của quảng trường rộng lớn. Từ trên đài cao, Nạp Lan Hồng Diệp chỉ có thể thấy được một cái bóng mơ hồ.


    Gió đêm thổi lên tóc mai của Nạp Lan Hồng Diệp, nàng lẳng lặng đứng yên, thật lâu vẫn không động, tựa như một pho tương bạch ngọc.


    Nàng đang nhớ lại lúc còn rất nhỏ, Đông Hải bị hải tặc quấy nhiễu, phụ hoàng tự mình lĩnh binh xuất chinh, khi đó Hoài Tống binh lực cường thịnh, đất nước giàu có phồn vinh. Không rõ vì sao có nhiều tướng tài như vậy mà phụ hoàng vẫn muốn đích thân ra trận, nàng đã níu ống tay áo của phụ hoàng, ngơ ngác hỏi: “Phụ hoàng, sao người phải đích thân xuất chinh vậy?”



    Nghe nàng hỏi câu đó, ánh mắt phụ hoàng chợt trở nên xa xăm như đại dương không bến bờ, khiến người khác nhìn không thấy điểm dừng. Phụ hoàng yêu thương vỗ vỗ đầu nàng, nhẹ giọng nói: “Không vì sao cả, chỉ là có một số chuyện, con không tự mình gánh thì sẽ chẳng có ai gánh giùm cả.”



    Lúc ấy, nàng nghe mà không hề hiểu, nhưng hiện tại, nàng đột nhiên hiểu ra.


    Sống trên đời, mỗi người đều có chỗ bắc đất dĩ của riêng mình, mỗi người đều có cái khó không thể vượt qua.


    Nàng sơ ý để vây cánh của Bình An vương thành công hạ độc tiểu hoàng đế, đứa trẻ đáng thương này chẳng những bị điếc từ khi mới sinh mà thời giờ cũng không còn được bao nhiêu vì bị trúng độc. Sau khi hoàng đế băng hà, Hoài Tống nhất định xảy ra đại loạn, đám người Tấn Giang vương và Hoài An vương ắt hẳn sẽ rục rịch ngóc đầu dậy. Đến lúc đó, huyết mạch của Nạp Lan thị suy tàn là chuyện không thể nghi ngờ.


    Nàng không cam lòng, mấy năm này nàng đã dốc hết tâm huyết xử lý chính sự, hết lòng phụ tá ấu đế. Trong khi đó, những thân thích hoàng tộc kia đều mong đợi nàng chết đi. Tổ tiên nàng đổ máu gìn giữ giang sơn, chẳng lẽ chỉ để dâng không cho bọn họ? Nhiều năm tâm huyết của nàng, sao có thể để giang sơn của dòng họ nàng rơi vào trong tay bọn họ?


    Trong tình cảnh Biện Đường nội loạn, Hoài Tống nội loạn, Đại Hạ càng tồi tệ hơn, Bắc Yến xưng bá thiên hạ đã là chuyện không thể tránh khỏi. Thay vì đợi Thanh Nhi qua đời, chờ nhìn đất nước rơi vào tay đám thân thích bụng dạ khó lường kia, không bằng dùng giang sơn này làm lễ vật đổi lấy bình an cho con dân Hoài Tống và huyết mạch của Nạp Lan thị nàng. Dù sao nàng vẫn còn mẫu thân đang bệnh nặng, Dục Nhi vẫn còn ba nữ nhi còn bé bỏng, và cả những cựu thần một mực trung thành với hoàng thất kia…


    Không bằng cứ đáp ứng đề nghị của y, như thế tôn nghiêm của Nạp Lan thị sẽ được bảo toàn. Hai nước kết đồng minh mưu đồ bá nghiệp, huống hồ, đây chẳng phải là nguyện vọng nàng đã chời đợi nhiều năm đấy sao?


    Cửa cung mở rộng, bóng lưng của Huyền Mặc dần dần biến mất trong bóng tối khôn cùng.


    Nàng đột nhiên cảm thấy hoảng hốt, tựa như vừa mất đi vật gì đó rất quý giá.


    Bảo Huyền Mặc đi bình loạn biên giới phía đông cũng là cách làm bất đắc dĩ. Trước mắt binh lính đều đang phản đối Hoài Tống đánh trận này, nếu không dùng vũ lực cứng rắn sẽ chẳng thể khiến cấp dưới theo lệnh. Huyền Mặc từ trước đến nay chưởng binh khoan hồng độ lượng, rất khó hoàn thành nhiệm vụ này. Hắn ở lại chỉ là vật cản, không thể đốc thúc toàn quân phối hợp với Bắc Yến.


    Huống chi, sự kiện Thái Bình vương làm phản lần này cũng đã khiến nàng hiểu được tầm quan trọng của binh quyền. Uy tín của Huyền Mặc trong quân đội là thứ nàng không bao giờ có thể bì kịp, thời bình nàng còn có thể dựa vào hoàng quyền nắm giữ hắn trong tay, nhưng trong tình hình hỗn loạn như giờ, nàng không thể không đề phòng.


    Chỉ mong hắn sẽ không trách nàng.


    …………………………………………………………………………………………………………………


    Huyền Mặc lẳng lặng bước đi trên con đường trống trải, thị vệ thân cận Khương Ngô cẩn trọng đi theo bên cạnh, xe ngựa lăn bánh *lọc cọc* theo ở phía sau.


    Trưởng công chúa tín nhiệm Huyền vương nên phủ Huyền vương rất gần hoàng cung. Chưa đến phủ nhưng từ xa đã nhìn thấy ánh đèn lồng sáng sủa trước cửa, tất cả đều là đèn lồng đỏ tỏa ra ánh sáng vô cùng ấm áp.


    “Vương gia về rồi.” Vương phi Ngọc Thụ bước ra, y phục xanh nhạt toàn thân bên dưới ánh đèn tô thêm khí chất trang nhã điềm tĩnh, nàng nhận lấy đèn lồng trong tay Huyền Mặc, kinh ngạc hỏi nhỏ: “Vương gia cầm đèn lồng mà lại không đốt sao?”



    Huyền Mặc thoáng ngẩn ra, nhìn lại thì mới nhận ra chiếc đèn lồng màu trắng không hề được đốt lên, ánh sáng từ những ngọn đèn khác chiếu lên khiến chất giấy trắng chợt trở nên mỏng manh dễ vỡ như thủy tinh, chỉ cần chạm nhẹ liền sẽ vỡ tan.


    Hắn nhẹ giọng đáp một câu ‘quên mất’ rồi đi vào phủ.


    Ngọc Thụ cầm áo choàng định khoác lên vai Huyền Mặc thì không cẩn thận chạm vào tay hắn, không khỏi hoảng hốt kêu to: “Sao tay vương gia lại lạnh như băng vậy?”



    Huyền Mặc hờ hững nói: “Không việc gì.” Dứt lời liền trực tiếp đi đến thư phòng.


    Ngọc Thụ đứng nguyên tại chỗ nhìn nhìn theo bóng lưng Huyền Mặc thoáng cái đã biến mất sau vườn hoa, chiếc áo choàng trong tay bị gió thổi tung bay như một con diều.


    “Vương phi?” Nha hoàn thiếp thân đứng bên cạnh thoáng hơi lúng túng, nhỏ giọng gọi: “Ban đêm gió lớn, xin vương phi mau về phòng kẻo bệnh.”



    Ngọc Thụ chậm rãi gật đầu, khi xoay người lại thì vẫn mang dáng vẻ dịu dàng muôn thuở, mỉm cười ra lệnh:“Vương gia trễ như vậy mới trở về, nhất định là đang đói, em đến phòng bếp dặn đầu bếp làm ít thức ăn khuya cho vương gia lót dạ đi.”



    Nha hoàn bất đắc dĩ gật đầu, “Dạ, nô tỳ đi liền. Vương phi cũng nên đi nghỉ sớm, thân thể người không tốt, không nên cố thức quá khuya.”



    Ngọc Thụ cũng không đáp lời mà vẫn giục: “Em mau đi đi.”



    Nha hoàn rời đi, Ngọc Thụ quay đầu nhìn qua hành lang gấp khúc, hướng về phía thư phòng sáng ánh nến, trước cửa sổ là một thân ảnh tuấn tú xuất trần. Nàng đứng nhìn một lúc lâu, cuối cùng thì chợt nhoẻn cười, dẫn những nha hoàn còn lại đến phòng trà. Ở đó vừa có được mấy hộp trà ngon, nàng muốn đi pha một ít cho chàng nếm thử.


    Trong thư phòng, Huyền Mặc trải rộng một tờ giấy tuyên thành thượng hạng, chấm đầu bút lông vào nghiên mực, giơ cao bút nhưng hồi lâu vẫn chưa hạ xuống. Một giọt mực rơi xuống điểm một chấm thật đen trên mặt giấy trắng tinh nhưng hắn vẫn không hề phát giác, tựa như đang miên man nghĩ gì đó.


    Khương Ngô đứng bên cạnh cẩn thận lên tiếng hỏi: “Vương gia, thuộc hạ đổi một tờ giấy khác cho người nhé?”



    Huyền Mặc cúi đầu nhìn, sau đó bình tĩnh vo tròn tờ giấy rồi tùy ý ném xuống đất.


    Khương Ngô không khỏi rụt cổ lại, hắn hầu hạ Huyền Mặc đã bảy tám năm, vô cùng hiểu tính tình của vị chủ tử vui buồn cũng không lộ này. Theo dáng vẻ như giờ, chắc chắn là đang vô cùng khó chịu.


    Huyền Mặc ném tờ giấy cũ đi liền lấy ra một tờ khác, nhìn mặt giấy trống không hồi lâu rồi mới cúi đầu bắt đầu viết, viết cực nhanh, chỉ một chốc mà đã viết đầy tấm giấy. Sau khi viết xong, hắn cuộn lại giao cho Khương Ngô, dặn: “Sáng sớm ngày mai đến lễ bộ đưa cho Vu đại nhân, bảo ông ấy phái người gửi đến Bạch Chỉ Quan, đích thân giao cho Yến Tuân.”



    Khương Ngô sửng sốt, trong bụng đánh thót một cái, nhưng vẫn gật đầu đáp: “Thuộc hạ tuân lệnh.” Nói xong thấy chủ tử không nói gì thêm thì lặng lẽ lui ra ngoài.


    Phong thư đã được niêm kỹ, Khương Ngô dĩ nhiên không dám tự tiện mở ra xem. Hắn vừa đi vừa thắc mắc, nghe đồn hoàng thất cố ý liên hôn với Bắc Yến, đừng nói là thật chứ? Nếu là thật, vậy sau này vua Hoài Tống sẽ là họ Nạp Lan hay họ Yến đây? Chẳng lẽ mấy ngày trước Thái Bình vương đã hành thích thành công, giết được tiểu hoàng đế sao?


    Tâm tư của những đại nhân vật kia dĩ nhiên không tới phiên hắn tùy ý phỏng đoán. Khương Ngô ngẫm nghĩ một hồi liền thôi không nghĩ nữa, sau đó bị mùi thơm ở phòng bếp hấp dẫn liền chạy đến đó.


    Huyền Mặc ngồi trong thư phòng, tựa lưng vào lưng ghế khắc hình cửu long, chậm rãi nhắm hai mắt lại.


    Tin Bắc Yến kết thân với Hoài Tống nhanh chóng truyền ra khắp đại lục Tây Mông. Trong thời điểm hỗn loạn như hiện tại, hôn sự này đã nói rõ quan hệ đồng minh giữa Bắc Yến và Hoài Tống. Rất nhanh sau đó, thủy quân của Hoài Tống lần lượt tụ tập ở cửa biển Hoàng Phủ, chăm chăm dõi mắt nhìn Đại Hạ tựa như sẵn sàng cùng Bắc Yến tiến quân bất cứ lúc nào.


    Tối hôm đó, Bạch Chỉ Quan chìm trong vẻ tĩnh mịch lạnh lẽo như băng. Kể từ khi quân Bắc Yến chiếm đóng cửa khẩu, vẻ phồn hoa vốn có ở nơi này đã mất dạng không còn tung tích.


    Khoảng canh hai, một nhóm người giả dạng quân lính mặc giáp đen lặng lẽ áp sát cửa khẩu.


    Sở Kiều đi lẫn trong đội ngũ, lại một lần nữa lặp lại kế hoạch hành động lần này.


    Đầu tiên, chuẩn xác đánh lén, nhất định phải gọn gàng hạ gục bất kỳ người nào có khả năng phát ra báo động hay uy hiếp bọn họ. Thứ hai, sau khi nhóm 1 tạo ra hỗn loạn, nhóm 2 ở hướng đông bắc xua ngựa ra khỏi chuồng đánh lạc hướng binh lính canh phòng, dàn cảnh quân Hạ bất ngờ đột kích. Thứ ba, những người còn lại chờ ngoài thành, vừa sẵn sàng tiếp ứng cho chiến hữu, vừa nhân dịp hỗn loạn chạy qua cửa khẩu.


    Thời gian trôi qua từng giây, khoảnh khắc tiếng trống canh ba vang lên, Hạ Kỳ dẫn nhóm 1 nhanh chóng áp sát Bạch Chỉ Quan. Cùng lúc đó, nhóm 2 cũng tiến thẳng về phía đông bắc, nơi tất cả ngựa chiến được nhốt giữ.

    Trong bóng tối, Hạ Kỳ mang theo các chiến sĩ Tú lệ quân tinh nhuệ nhất nhanh chóng khuất dạng. Sở Kiều và các thân vệ chờ trong rừng, nàng lẳng lặng cân nhắc toàn bộ kế hoạch lại một lần nữa, cố tìm xem còn điểm sơ hở nào không.


    Một lần, hai lần, ba lần.


    Tốt rồi, không còn vấn đề gì nữa.


    Sở Kiều hít sâu một hơi rồi lẳng lặng chờ đợi tín hiệu.


    Khoảng hơn nửa canh giờ sau, hướng đông bắc đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa tung trời xen lẫn tiếng binh sĩ gào thét như sấm, đuôi đàn ngựa đều bị buộc thêm nhánh cây khiến bụi mù tung tứ tán che khuất ánh trăng, nhìn qua như có vài chục vạn nhân mã đang ập đến. Trên tường thành Bạch Chỉ Quan lập tức vang lên tiếng trống báo hiệu, sự chú ý của tất cả binh lính đều hướng về phía đông bắc. Rất nhanh sau đó cửa thành hướng đông bắc của Bạch Chỉ Quan hé mở, hai đội thám báo lặng lẽ vọt ra, nhưng bọn họ còn chưa kịp chạy xa thì đã bị Tú lệ quân mai phục bên ngoài tiêu diệt gọn.


    Lại thêm nửa canh giờ nữa trôi qua, khi nhìn thấy bên trong lóe lên ánh lửa, Sở Kiều đứng bật dậy, trầm giọng nói: “Đã đến giờ, đi thôi!”



    Sở Kiều dẫn nhóm thuộc hạ lên chiếc bè đã được chuẩn bị trước bên bờ sông Xích Thủy, theo thủy lộ chèo hết tốc lực về phía Biện Đường.


    Quân Bắc Yến đều do kỵ binh và giáp binh hợp thành, không hề có thủy quân. Bọn họ chỉ mới tiếp quản Bạch Chỉ Quan, dĩ nhiên không thể canh phòng toàn bộ thủy vực rộng lớn trong thời gian ngắn như vậy, nói chi đến hiện giờ trong ngoài đều có kẻ địch tập kích. Trong tình hình như vậy, đi đường thủy chính là lối vào Biện Đường tốt nhất.


    Nhưng mới vừa đi được khoảng thời gian không đến một nén nhang thì phía trước chợt vang lên tiếng nước xao động mạnh mẽ. Sở Kiều giương cung, thả tên trong nháy mắt, mũi tên bay ra kéo theo một tiếng hét thảm trong bóng tối. Ngay sau đó, mấy trăm ngọn đuốc nhất thời bùng sáng, chiếu rõ hơn năm chiếc thuyền chiến.


    Trường thương phóng đến từ bốn phương tám hướng, một gã binh sĩ Bắc Yến đứng ở đầu thuyền, liên tục huơ đao hô to: “Phản tặc chịu chết đi!”



    Tên nhọn của mười mấy chiến thuyền đi đầu đều chĩa vào đám người Sở Kiều, gã thống lĩnh phất mạnh chiến đao, mưa tên lập tức rời cung lao đến.


    “Nhảy!” Hạ Tiêu rống to.


    Một giây sau, Tú lệ quân đồng loạt bỏ bè nhảy xuống sông Xích Thủy, bè bị tên cắm chi chít nhưng không hề vương giọt máu nào.


    “Thống lĩnh, bọn chúng nhảy xuống sông rồi!” Một người kêu to, nhưng rất nhanh sau đó liền có người cuống cuồng hét lên: “Tướng quân! Thuyền bị rỉ nước!”



    Ngay sau đó, vô số tiếng kêu hoảng hốt liên tiếp vang lên, rất nhiều chiến thuyền bị thủng đáy khiến nước sông tràn vào. Thoáng cái đã có ba chiến thuyền loại nhỏ bị chìm, binh lính trên thuyền lóp ngóp ôm lấy ít nhành cây thân gỗ trôi trên sông, ánh đuốc chập chờn, tiếng kêu gào tán loạn, cảnh tượng vô cùng hỗn loạn.


    “Bọn chúng ở dưới nước!” Gã tướng quân kia giận dữ quát to: “Dùng nỏ đá, dùng trường mâu đâm chết bọn chúng! Mau đâm chết bọn chúng!”



    “Tướng quân, không được đâu, dưới sông còn có người của chúng ta.”



    “Cút!”



    Gã thân binh bị mắng nhưng vẫn không từ bỏ, vừa định hô to thì lại bị chiến hữu kéo sang một bên cho nên hết sức bất bình nói: “Nhưng bệ hạ đã nói phải bắt sống!”



    Những người khác gấp gáp nói: “Bắt sống? Người chết rồi chưa chắc bắt được, giờ còn muốn bắt sống?”



    Mặt sông sáng rực ánh đuốc, nỏ đá xếp thành hàng.


    Gã tướng quân phẫn nộ quát to một tiếng ra hiệu, nỏ đá và trường thương liên tục bắn ra như mưa xuống sông, khiến mặt sông nhất thời nổ lên vô số bọt sóng màu đỏ quạch. Hết đợt công kích này đến đợt công kích khác, mãi đến khi mặt nước dần yên tĩnh trở lại. Chiếc bè gỗ của nhóm người Sở Kiều đã bị bắn tan nát, mảnh gỗ vụn dập dềnh tụ lại dưới đáy thuyền quân Bắc Yến.


    Sau khi được lệnh dừng bắn, đám thủy quân Bắc Yến nghi ngờ nhìn mặt sông tĩnh lặng, cau mày hỏi: “Bọn chúng chết hết rồi sao? Sao vẫn chưa thấy xác nổi lên?”



    “Nhìn kìa!” Không rõ là ai đột nhiên la lên, tất cả quay đầu nhìn thì thấy rất xa phía sau thuyền của mình lần lượt xuất hiện chi chít đầu người. Những người đó nổi lềnh bềnh trên mặt nước, vừa cởi áo ra vừa tụ lại một chỗ, chỉ một chốc sau đã theo dòng nước trôi đi càng lúc càng xa.



    Gã tướng quân kinh ngạc mở to mắt nhìn, tức giận hỏi: “Đó là cái gì?”



    Một lão binh nhiều kinh nghiệm nghi ngờ phỏng đoán: “Hình như là bè da dê.”



    “Mau đuổi theo!”



    “Tướng quân, thuyền chúng ta bị bè gỗ vỡ cản đường, tạm thời không thể di chuyển.”



    Gã tướng quân đứng chết trân tại chỗ, gã có ưu thế thuyền cao người đông và vũ khí lợi hại nhưng cuối cùng vẫn để kẻ địch nghênh ngang thoát khỏi tay. Gần sáu vạn thủy quân Bắc Yến đứng trên chiến thuyền khổng lồ nhìn theo bóng đối phương dần biến mất trong bóng đêm mịt mù, hồi lâu vẫn chưa thôi thẫn thờ.


    Sau khi hợp lại với nhóm Hạ Kỳ, Sở Kiều thống kê sơ qua nhân số thì phát hiện bên mình tổn thất hơn ba ngàn chiến sĩ. Trong đó có hai ngàn người là mất mạng dưới nỏ đá và trường thương của quân Bắc Yến. Đổi bằng cái giá này chính là toàn bộ Tú lệ quân và Sói binh đều thuận lợi vượt qua Bạch Chỉ Quan, quả thực là thắng lợi không thể ngờ. Có điều đây chưa phải là điểm cuối, bọn họ thành công vượt qua Bạch Chỉ Quan nhưng cũng đồng thời thu hút sự chú ý của quân Bắc Yến, trong khi đó, đại đa phần lãnh thổ lân cận Bạch Chỉ Quan hiện giờ đều do kẻ địch khống chế.


    Sở Kiều quả quyết dẫn quân vào rừng, chọn đường núi mà đi. Đi được hai ngày, bọn họ lần đầu tiên đụng độ quân phe địch, trong ba ngày, hai bên giằng co giao chiến hơn hai mươi lần, phần lớn đều kết thúc bằng thắng lợi của Tú lệ quân. Dù sao đi nữa, so với quân Bắc Yến sở trường tấn công bằng kỵ binh, Tú lệ quân thông thạo nhất là dã chiến và tập kích cự ly gần. Dưới sự lãnh đạo của Sở Kiều, đoàn người vừa đánh vừa chạy, nhanh chóng tiến gần đến khu vực do hoàng thất Biện Đường cai quản.


    Thế nhưng, ngay lúc bọn họ chuẩn bị rời khỏi sơn lộ áp sát địa phận Hàm Thủy thì Bắc Yến lại đột nhiên phóng hỏa đốt núi. Lửa cháy suốt bốn ngày, lan khắp các khu vực lân cận, liên lụy cả thôn trang gần đó, tử thương vô số. Sở Kiều bất đắc dĩ đành phải dẫn binh rời khỏi sơn lộ, vì phải tránh lửa cháy nên bọn họ đã đi chệch khỏi lộ trình hơn ba trăm dặm. Tuy Sói binh quen thuộc địa hình nhưng sáng sớm ngày thứ hai bọn họ lại chạm trán với truy binh của Bắc Yến.


    Đến địa phận thành Lập Khang, đôi bên trực diện đánh một trận, đều thương vong nặng nề. Sở Kiều dẫn ba ngàn tinh binh đánh sâu vào doanh trại địch, trong lúc giằng co chủ soái địch không may bị tên lạc bắn trúng, sinh tử không rõ. Nhưng quân Bắc Yến quả không hổ là đội quân hạng nhất đại lục, chủ soái bị thương nhưng đội hình quân không hề hỗn loạn, vừa đánh vừa lui, vô cùng kiên cường.


    Quân số cồng kềnh sẽ mất đi tính cơ động, đánh xong trận ở thành Lập Khang, Sở Kiều quyết đoán chia quân thành mười phân đội nhỏ, mỗi đội bốn ngàn người, cách nhau không đến bốn ngàn dặm thành hình cánh quạt*, dùng ngựa chiếm được trong mấy trận đánh trước đó, phi thẳng đến Hàm Thủy Quan.

    *Dàn thế hình cánh quạt:


    Nhưng vừa đến quận Nam Ly thì Sở Kiều lại đột ngột ngã bệnh. Trên thực tế, từ năm ngày trước nàng đã cảm thấy thân thể không ổn, bụng liên tục đau quặn, cả người hầm hập như phát sốt, đầu choáng váng, nôn khan không ngừng, tay chân rã rời không sức lực. Nhưng vì chiến sự khẩn cấp, nàng vẫn ngoan cường cầm cự cho đến giờ. Sau khi thoát khỏi tầm đuổi bắt của quân Bắc Yến, nàng cuối cùng cũng ngã quỵ.


    Hạ Tiêu mặc kệ mọi phản đối của Sở Kiều, để tất cả binh sĩ chờ ngoài thành, mang nàng vào thành Nam Ly.


    Tuy Biện Đường xảy ra nội chiến, Bắc Yến cũng mượn đường quét qua, nhưng độ hư hại vẫn kém xa so với Đại Hạ. Mấy thành trì lớn vẫn hết sức phồn vinh, ngoại trừ hàng hóa tăng giá khá cao vì chiến tranh thì không bị ảnh hưởng gì khác.


    Hạ Tiêu đã ra ngoài tìm đại phu, Sở Kiều vốn luôn buồn ngủ hiện tại lại không ngủ được. Nàng nằm trên một chiếc giường sạch sẽ, thất thần nhìn lên màn giường trên đầu, suy nghĩ lẳng lặng bay xa.


    Lúc quân Bắc Yến đuổi giết bọn họ, miệng không ngừng gọi ‘phản tặc’, có lẽ đã biết thân phận của nàng. Không sai, dựa vào trí khôn của Yến Tuân, hẳn đã sớm đoán được người có thể liều chết vượt qua cửa khẩu bây giờ, chỉ có Tú Lệ vương nàng mà thôi.


    Nói cách khác, Yến Tuân đã hạ sát tâm đối với nàng.


    Cũng đúng, Yến Tuân bây giờ đã kết thành đồng minh với Tĩnh An vương phi, nàng lại muốn dẫn binh trợ giúp Lý Tu Nghi, thân là thủ lĩnh ở Bạch Chỉ Quan, y dĩ nhiên sẽ phải giúp đỡ đồng minh cản đường nàng. Nơi chiến trường thậm chí còn không tính đến quan hệ cha con, nói chi là bọn họ?


    Nàng hiểu rất rõ đạo lý này.


    Yến Tuân càng lúc càng có phong phạm của một bá chủ, không những sát phạt quyết đoán mà còn hết sức can đảm cẩn trọng, thủ đoạn lại kinh người. Y bây giờ đã không còn là thiếu niên ẩn nhẫn co mình trong cung Thịnh Kim mười mấy năm trước, không cần nhìn sắc mặt của bất kỳ ai nữa.


    Đại phu nhanh chóng được dẫn đến, Hạ Tiêu đứng phía sau, mặt căng thẳng nhìn đại phu thăm mạch cho Sở Kiều.


    Lão đại phu râu bạc phơ trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên cười nói: “Chúc mừng, chúc mừng, phu nhân của ngài đã có tin vui.”



    Hạ Tiêu thoáng sửng sốt, ngay sau đó lập tức đỏ bừng mặt, cuống cuồng phân bua với lão đại phu: “Chớ nói bậy, đây là phu nhân nhà ta, ta chỉ là hộ vệ.”



    Lão đại phu nghe nói liền vội vàng xin lỗi, cười nói rằng thấy Hạ Tiêu khẩn trương như vậy nên mới tưởng lầm hắn là cha của đứa trẻ.


    Trong lúc Hạ Tiêu và lão đại phu đối đáp qua lại thì Sở Kiều vẫn còn ngây người tựa như vừa bị một đao bổ trúng đầu, miệng há to, thật lâu cũng chẳng nói được câu nào.


    Lão đại phu vừa nói gì? Có tin vui? Nàng mang thai?


    Sở Kiều không thể tin nhìn lão đại phu, hỏi lại: “Ông vừa nói gì? Có thể nói lại một lần nữa không?”



    “Phu nhân thật sự quá sơ ý rồi, sao lại không cảm nhận được gì cả khi cái thai đã ba tháng rồi? Ngoài ra, thể chất phu nhân đang rất yếu, mạch tượng hỗn loạn, nếu không tịnh dưỡng thì thai nhi sẽ bị nguy hiểm đấy.”



    Ba tháng?


    Sở Kiều cúi đầu nhìn phần bụng vẫn bằng phẳng của mình. Nàng làm sao có thể mang thai được? Thời gian qua nàng liên tục chiến đấu, ngâm nước sông, cưỡi ngựa xông pha mưa tên biển đao, làm sao trong bụng nàng có thể có một đứa trẻ chứ?


    “Ta sẽ viết cho phu nhân một phương thuốc dưỡng thai, phu nhân nhớ uống đều đặn, sau đó phải an tâm tịnh dưỡng, tuyệt đối không thể lặn lội đường xa, để bản thân mệt nhọc.” Lão đại phu an ủi thêm mấy câu rồi cùng Hạ Tiêu đi ra ngoài.


    Sở Kiều vẫn thất thần ngồi trên giường. Mấy tháng nay liên tục có tin dữ, không ngừng phải đối đầu với chiến sự căng thẳng, không ngờ nàng lại có thể mang thai trong hoàn cảnh như vậy.


    Sở Kiều run rẩy đưa tay lên bụng, tựa như có thể cảm nhận được một sinh mạng đang lớn dần ở đó. Khóe mắt đột nhiên ươn ướt, nàng nhẹ cắn môi dưới, tiếng nức nở dừng ở cổ họng, lặng lẽ rơi lệ.


    Nguyệt, ta đã mang thai con của chàng.


    Chúng ta có con rồi.


    Màn đêm dần phủ xuống, Hạ Tiêu đi vào thắp nến lên, mua ít thức ăn và canh bổ khí huyết mang đến bên giường Sở Kiều, lẳng lặng hỏi: “Đại nhân, chúng ta vẫn đi Đường Kinh sao? Hay là trực tiếp đổi hướng trở về Thanh Hải đi?”



    Sở Kiều ngẩng lên nhìn hắn đăm đăm, không nói gì.


    “Đại nhân, thân thể người bây giờ không thích hợp xông pha mặt trận nữa, người không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho Tứ thiếu gia và đứa trẻ trong bụng.”



    Sở Kiều nghe đến đó thì chấn động, cúi nhìn bụng mình, vẫn im lặng không nói. Thật lâu sau, nàng mới ngẩng đầu lên, nhẹ giọng nói: “Hạ Tiêu, ta đã lừa thằng bé một lần rồi.”



    Hạ Tiêu sửng sốt, không biết nàng đang nói ai nên hỏi lại: “Đại nhân nói gì cơ?”



    “Ta đã lừa thắng bé một lần rồi.” Sở Kiều đưa ánh mắt mông lung nhìn ngọn nến trên bàn, “Ta từng hứa sẽ ở lại bảo vệ thằng bé, không để người khác ức hiếp thằng bé, nhưng cuối cùng ta lại không làm được. Thằng bé đã không còn cha còn mẹ, ta nghĩ cho con mình, nhưng ai sẽ nghĩ cho thằng bé?”



    Đến đây Hạ Tiêu mới hiểu Sở Kiều là đang nói đến Lý Tu Nghi – tiểu hoàng đế của Biện Đường, hắn cau mày nói: “Đại nhân, cục diện hiện giờ đã không còn như trước, sức lực của một mình người sẽ chẳng thể thay đổi được gì. Cho dù lúc trước người không rời khỏi Biện Đường thì cũng chưa hẳn có thể ngăn được chuyện xảy ra ngày hôm này. Thân thể người không tốt, chớ nên suy nghĩ quá nhiều, đừng ôm đồm mọi chuyện lên người mình nữa.”



    Sở Kiều ngẩng đầu lên, hít một hơi thật sâu, “Hạ Tiêu, trên đời này, ai cũng có những trách nhiệm không thể trốn tránh.”



    Nàng lẳng lặng nói tiếp: “Ta đã nhận quá nhiều ân nghĩa từ Lý Sách và Biện Đường, hiện tại đã đến lúc hoàn trả. Nếu ta để mặc đứa trẻ kia rơi vào hiểm cảnh, có lẽ cả đứa con trong bụng cũng sẽ xem thường ta.”



    Nàng ngồi dậy mang giày vào, đi đến bàn bắt đầu ăn cơm, ăn xong liền tự giác uống cạn chén thuốc. Bên dưới ánh nến, vóc dáng nàng vẫn hết sức gầy gò, không hề nhìn ra là người đã mang thai ba tháng.


    “Yên tâm đi, sẽ không sao đâu.”



    Hạ Tiêu nhìn nàng, nhất thời không rõ nàng đang nói ai, là chính nàng, là đứa bé trong bụng nàng hay là Đường hoàng Lý Tu Nghi.


    Gió đêm lành lạnh lay động cành liễu ngoài cửa sổ. Cảnh sắc Biện Đường vẫn như cũ, nhưng hơi thở của chiến tranh đã rất gần.


    Cùng lúc đó, bên trong đại trướng ở Bạch Chỉ Quan, Yến Tuân mặc trường bào tuyền đen ngồi trên giường, phía dưới là hơn mười mỹ nhân trẻ tuổi vừa được phú thương địa phương đưa đến. Tất cả đều mặc xiêm y lụa mỏng, nửa hở nửa kín vô cùng mê người. Thỉnh thoảng cũng có thiếu nữ bạo dạn ngước lên lén nhìn nam tử quyền khuynh thiên hạ kia. Chỉ tiếc ánh mắt của hắn chưa bao giờ liếc về phía bọn họ dù chỉ một lần.


    “Bệ hạ, chúng ta đã bố trí binh lực ổn thỏa, nhất định sẽ một mẻ diệt gọn Tú lệ quân ngay tại Hàm Thủy Quan.”



    “Người đâu!” Yến Tuân đột nhiên ngẩng đầu lên, vẫy tay với thân binh bên ngoài, “Lôi xuống đánh hai mươi côn!”



    Thân binh lập tức kéo gã quan tham mưu lôi ra ngoài. Gã nọ không biết bản thân đã nói gì sai, cuống quít xưng tội nhưng không hề dám cầu xin tha thứ. Một lát sau, bên ngoài vang lên tiếng la hét thảm thiết, đám thiếu nữ quỳ trên mặt đất sợ hãi đến mặt trắng bệch, không ai dám ngẩng đầu lên nữa.


    “Một mẻ diệt gọn…” Yến Tuân hờ hững lặp lại bốn chữ này, ngữ khí không nghe rõ buồn vui. Ánh nến chiếu lên khuôn mặt tuấn tú, mông lung như có tầng giấy vàng che phủ.


    Bắc Yến vương cứ thế nghiêng mình nằm trên giường nhắm mắt lại, mặc kệ đám giai nhân yêu kiều quỳ phía dưới, nhanh chóng chìm vào giấc mộng.


    Một đêm này, hai con người cách nhau mấy ngàn dặm nhưng đều thì thầm cùng một câu nói: “Chỉ mong không phải gặp lại.”



    Trong giấc ngủ chập chờn, khung cảnh rất nhiều năm trước như được tái hiện, bên dưới mái hiên rách nát, đứa bé gái mặc y phục hồng nhạt ngồi bên ngọn nến tù mù, xoa xoa bàn tay rồi áp lên khuôn mặt đỏ ửng, vừa vá quần áo vừa nói với thiếu niên ngồi bên cạnh: “Sa trường không có phụ tử, tất cả đều vì lợi ích của quốc gia, cho dù đối phương là huynh đệ ruột thịt cũng không thể lùi bước. Cái này không phải trong Tùy Đường Diễn Nghĩa, ta đang nói đến lịch sử nhà Đường, là chính sử đấy, huynh nghe rõ chưa?”



    “Chính sử của ai? Sao ta chưa từng nghe nói đến?”



    “Nghe hiểu là được rồi, chỉ cần học hỏi cái hay thôi, không cần biết là sử của ai.”



    “Nếu muội là Lý Thế Dân, muội cũng giết đại ca của mình sao?*”



    “Dĩ nhiên, tha hắn sống để hắn đến giết ta à? Chẳng phải vừa kể huynh nghe rồi sao, về sau bọn họ không còn tình nghĩa gì cả. Phải rồi, huynh thì sao, chẳng lẽ sẽ không xuống tay?”



    Thiếu niên im lặng suy nghĩ một chốc rồi đột nhiên nói: “Nếu là ta, lúc tấn công Lưu Chu Vũ** đã ra tay giết luôn rồi.”

    *Sự biến cửa Huyền Vũ (玄武門之變, Huyền Vũ môn chi biến) là sự kiện tranh giành quyền lực diễn ra vào ngày 2 tháng 7 năm 626 khi Tần vương Lý Thế Dân, một người con trai của Đường Cao Tổ (vị hoàng đế sáng lập nhà Đường), trong cuộc đua giành ngôi vị với anh mình là Thái tử Lý Kiến Thành đã tổ chức một cuộc phục kích trước cửa Huyền Vũ, trên con đường tới cung của Đường Cao Tổ, giết chết Lý Kiến Thành cùng em là Tề vương Lý Nguyên Cát. Sau khi biết chuyện, Đường Cao Tổ đã truyền ngôi cho Lý Thế Dân, tức Đường Thái Tông, còn mình làm Thái thượng hoàng cho đến hết đời.

    **Lưu Chu Vũ là Định Dương khả hãn của Đông Đột Quyết nổi dậy năm 616. Sau trận này, cha của Lý Thế dân mới khởi binh lập ra đời Đường, và lập anh trai của Lý Thế Dân là Lý Kiến Thành làm thái tử. Ý Yến Tuân là giết mối hại từ trong trứng nước.


    Đứa bé gái thoáng sửng sốt rồi giơ ngón tay cái lên nói: “Huynh lợi hại.”



    Ký ức cứ thế dần chìm vào trong màn đêm thăm thẳm, tất cả cảm xúc và tình cảm còn sót lại cũng vô thanh vô thức bị cuốn theo…


    Sang ngày thứ hai, một người bí mật rồi khỏi Bạch Chỉ Quan, thúc ngựa đi thẳng đến Hàm Chỉ Quan, nơi hiện giờ có mười vạn tinh binh Bắc Yến đóng giữ, một là để trợ giúp Tĩnh An vương phi, hai cũng là phòng ngừa, bảo vệ đường lui cho quân chủ lực.


    Cùng một ngày, Sở Kiều tụ hợp với Tú lệ quân và Sói binh bên ngoài quận Nam Ly. Bốn vạn người cùng giơ cao chiến đao nhìn như rừng gươm sắc.


    “Hàm Thủy Quan cắt ngang thông lộ duy nhất dẫn đến tây bắc, chúng ta không công phá được Hàm Thủy thì sẽ không cách nào đến Đường Kinh chi viện cho hoàng thượng.” Sở Kiều chỉ vào địa đồ, khoanh một vòng tròn quanh Hàm Thủy Quan, trầm giọng nói: “Đây chính là trận đánh sinh tử quyết định thế cục.”
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  14. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 190: Trùng phùng
    Bầu trời u ám, mưa không ngừng trút xuống.


    Lân cận Hàm Thủy Quan có một đồng cỏ cao hơn đầu người, vô số tiếng sấm *đì đùng* lướt qua mặt sông, rồi đột ngột giáng sét *ầm ầm*, đốn gãy gốc cây du hơn trăm tuổi, khiến, làm bị thương hai binh sĩ Bắc Yến trong phiên gác. Một hộ dân ở phía đông thành bị sét đánh gãy xà ngang, bảy nhân khẩu trong nhà đều bị trần nhà sập xuống đè chết, thi thể nát như tương.


    Đó chính là sự kiện đổ máu đầu tiên trong cuộc chiến ở Hàm Thủy Quan, không có chém giết nhưng lại đủ khiến bầu không khí vốn đã căng thẳng càng thêm khó thở. Dân chúng Hàm Thủy trốn rịt trong nhà, cho dù là ban ngày cũng không ai dám ra khỏi cửa. Mưa to đổ xuống con đường trống trải không một bóng người, chỉ có ít cỏ vàng bay *lạo xạo* trên mặt đất. Cỏ bị nước mưa làm ướt nên cũng bay không xa, vừa mới nương theo gió ngóc đầu lên đã bị hạt mưa đè xuống.


    Trời đã mưa to liên tiếp mười một ngày, mực nước sông ở Hàm Thủy dâng cao, thời tiết dị thường, chim chóc cuống cuồng bay về phương bắc, mỗi đêm trên hoang nguyên đều văng vẳng nghe được tiếng sói hoang tru dài, thê lương tựa tiếng chuông tang. Người có tuổi trong thành nói rằng một mùa hè thời Hiếu Tông hoàng đế cũng xảy ra mưa to sấm sét không ngừng như bây giờ. Năm đó đại tướng quân Tiết Lệ của Biện Đường dẫn bốn mươi vạn quân tấn công Đại Hạ, vượt qua Hàm Thủy Quan trong thời tiết dị thường như thế rồi thẳng hướng bắc, bằng khí thế như chẻ tre công phá Bạch Chỉ Quan, đánh sâu vào nội cảnh Đại Hạ. Nhưng trong lúc Biện Đường háo hức chờ đợi chiến thắng, rửa sạch nỗi nhục bị Đại Hạ chiếm đoạt lãnh thổ thì vua sư tử Bắc Yến lại đột ngột xuất binh đập tan quân Đường, đích thân giết chết tướng quân Tiết Lệ vốn có danh bách chiến bách thắng, lại một lần nữa phá hủy hùng tâm xưng bá của Biện Đường.


    Năm đó sông Xích Thủy nhuộm đỏ máu tươi, mặt sông ở Hàm Thủy lềnh bềnh thi thể kéo dài đến vài chục dặm. Sói hoang thi nhau nhảy xuống chỗ nước cạn kéo xác người lên bờ, đánh chén đến no say.


    Đã mấy chục năm nhưng trận thảm chiến kia vẫn còn in rõ trong đầu những người có tuổi. Hiện tại, vua sư tử Bắc Yến đã chết từ lâu, mộ tướng quân Tiết Lệ đã sớm xanh cỏ, Biện Đường dần xuống dốc, nội bộ Đại Hạ phân tranh không ngừng, cảnh còn người mất, nhưng ưng kỳ Bắc Yến lại một lẫn nữa tung bay trên bầu trời Bạch Chỉ Quan, trải dài một đường quanh co, bay phần phật trên đầu thành Hàm Thủy.


    Đầu tháng 5, Yến Tuân đáp ứng thỉnh cầu của Tĩnh An vương phi, tự mình dẫn binh đến Hàm Thủy đối kháng với số ít Tú lệ quân vẫn còn kiên cường trấn giữ ở đây, giành thấy ưu thế cho phản quân ở phía đông Biện Đường. Nhưng một ngày sau, Tú lệ quân do Sở Kiều chỉ huy đã xuất hiện ở quận Ngụy Liêu nằm ở phía tây Hàm Thủy, khiến thành trì nhỏ bé vốn không ai chú ý này chợt trở thành điểm nóng, thu hút ánh mắt của cả Biện Đường và toàn bộ đại lục Tây Mông. Chiến kỳ trắng hình mây đỏ bay phấp phới trên cổng thành thấp bé, Sở Kiều khoác giáp tự mình duyệt binh. Binh sĩ Biện Đường từng bị đánh bại ở Hàm Thủy được tin liền rối rít chạy tới Ngụy Liêu, chư hầu trung thành với hoàng thất ở nơi khác cũng nhanh chóng áp tải lương thảo đến chi viện. Chưa đến ba ngày mà binh số của Tú lệ quân đã lên đến chín vạn, và vẫn tiếp tục tăng không ngừng.


    Sau khi Tĩnh An vương phi đột ngột dấy binh làm phản, đây là lần đầu tiên hoàng gia Biện Đường chính thức giương cao chiến kỳ chinh phạt phản đồ, cũng như tỏ rõ thái độ quyết liệt với đồng minh hùng mạnh của Tĩnh An vương phi là Bắc Yến.


    Trước cục diện đối đầu căng thẳng đó, tất cả mọi người như ngừng thở, im lặng chờ đợi cơn bão chiến tranh tanh mùi máu kéo đến.


    Ngày 14 tháng 5, mưa dầm đột nhiên ngừng lại nhưng mực nước sông Hàm Thủy vẫn còn cao đến kinh người và giữ nguyên như vậy suốt sáu ngày sau đó, khiến cho sự nhẫn nại của hai phe dần bị đẩy đến giới hạn cuối cùng. Tuy thống soái hai bên đều rõ không thể tránh khỏi việc đối đầu, nhưng vẫn một mực án binh bất động. Kiềm giữ mấy chục vạn quân trong khoảng cách gần như vậy, bọn họ hiểu đó là hành vi nguy hiểm đến cỡ nào. Bầu không khí căng thẳng cực độ bao phủ khắp địa phận Hàm Thủy, chỉ một sơ sẩy cũng có thể khiến người ta trở tay không kịp.


    Bất kể Sở Kiều và Yến Tuân cẩn thận canh phòng đến đâu thì vẫn bị thám báo của đối phương thăm dò được, vì vậy mà phương pháp tác chiến cũng bị chỉnh sửa liên tục. Cuối cùng, bọn họ lại không hẹn mà cùng quyết định phương hướng và thời điểm hành động. Nhưng chẳng ai ngờ, lần đụng độ đầu tiên lại xảy ra vì một nguyên nhân khiến cả hai người bối rối không kịp trở tay.


    Trưa mười bốn ngày sau, thái thú Mạc Húc của quận Võ Lăng vượt núi băng đèo, thận trọng tránh thoát tầng tầng chốt canh phòng của địch, áp tải năm vạn đấu lương thảo xuyên qua bình nguyên Hà Nguyên tìm đến đại bản doanh của Sở Kiều ở Ngụy Liêu.


    Thái thú Mạc Húc sinh ra và lớn lên ở Biện Đường, tổ tiên từng theo Đường hoàng đời đầu chinh chiến khắp nơi, đời trước cũng có nhiều người được phong hầu bái tướng, có điều truyền qua nhiều đời, Mạc gia hiện giờ đã không còn phong quang như xưa. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng nước nhà lâm nguy, vị thái thú tuổi đã hơn thất tuần lại tự mình dẫn binh mang theo lương thảo đến giúp Sở Kiều, muốn cống hiến một phần công sức cho đất nước.


    Song mới đến bờ sông Thiết Tuyến, bọn họ lại bất ngờ đụng độ số ít quân binh đắp đê của Bắc Yến. Sông Thiết Tuyến là một nhánh nhỏ của sông Hàm Thủy, ba ngàn quân binh này là do Yến Tuân phái đi tu sửa bờ đê ở bờ sông phòng lũ ập vào đại bản doanh ở hạ du. Mạc thái thú dè dặt trong từng bước chân lại sơ ý bị số quân binh này phát hiện, đành phải động đao thương. Tiếng đánh chém ồn ào đã kinh động đến các thám báo đi trinh sát xa gần. Không đến nửa canh giờ sau, quân đội hai bên lần lượt kéo đến, chính thức triển khai thế trận.


    Sở Kiều nhận được tin lúc đang ở trong đại doanh cùng các tướng soái bàn bạc đường đi cho chiến lược ngày mai, tin tức đến đột ngột khiến người luôn bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh như nàng cũng không tránh khỏi ngẩn người một lúc.


    Một viên tướng Biện Đường cau mày nói: “Điện hạ, chúng ta nên lập tức phái người tiếp ứng bảo bọn họ rút lui. Công tác chuẩn bị bên ta vẫn chưa xong, sông Thiết Tuyến lại rất gần đại bản doanh quân Bắc Yến, không thể mạo hiểm.”



    Nhưng Sở Kiều lại lắc đầu, trầm giọng nói: “Chúng ta chưa kịp chuẩn bị thì Bắc Yến có đủ thời gian chuẩn bị sao? Theo tin nhận được từ thám báo thì chuyện xảy ra rất đột ngột, hoàn toàn ngoài dự đoán của hai bên, bất kể là chúng ta hay Bắc Yến đều không hề có chuẩn bị trước.”



    “Nhưng…”



    “Hạ Kỳ, ngươi lập tức mang hai vạn bộ binh đến sông Thiết Tuyến, trận chiến đầu tiên của quân ta phải nhờ ngươi mở màn rồi.”



    Hạ Kỳ sửng sốt hỏi lại: “Hai vạn bộ binh?”



    Sở Kiều gật đầu, “Phải.”



    “Nhưng nhân số bên ta phần lớn là kỵ binh và giáp binh, bộ binh chỉ có chưa đến tám ngàn.”



    “Vậy thì bỏ lại ngựa, nhớ kỹ, mỗi người phải mang theo ít nhất ba thanh đao, không thể mang giáp sắt, giáp da là được.”



    Hạ Kỳ vẫn còn cau mày khó hiểu, nhưng thấy Sở Kiều không hề có ý nói đùa thì gật đầu tỏ vẻ đã rõ, vác chiến đao nhanh chóng ra ngoài.


    Viên tướng Biện Đường lên tiếng đầu tiên nhìn theo Hạ Kỳ ra ngoài, hỏi: “Điện hạ, chỉ hai vạn có đủ không? Tại sao không phái thêm nữa? Sông Thiết Tuyến dù sao cũng rất gần với đại bản doanh của Bắc Yến, tốc độ điều binh tiếp viện sẽ nhanh hơn chúng ta nhiều.”



    Sở Kiều lắc đầu, ánh mắt sắc bén trở nên thâm trầm, lẳng lặng nói: “Không cần, hai vạn là đủ rồi.”



    …………………………………………………………………………………………………………………


    Tiếng bước chân rầm rập khiến mặt đất rúng động không ngừng. Trong nháy mắt, trận địa đã đông nghìn nghịt người, binh sĩ không đợi nhìn thấy rõ mặt đối phương đã rút đao ra xông đến.


    Mưa lớn liên tục mấy ngày đã khiến mặt đất bị xói mòn lồi lõm đầy bùn, gây ra cản trở không nhỏ, thế nhưng nhân mã hai bên vẫn điên cuồng lao vào nhau, tiếng đao kiếm va chạm ù tai như sấm.



    Mạc thái thú tuổi đã hơn thất tuần ngồi trên lưng ngựa, mặt đỏ bừng, tay lăm lăm chiến đao. Thân binh kéo cương ngựa van nài kêu ông mau chạy đều bị hất ngã. Lão thái thú giơ cao đại đao, hô to một câu ‘giết địch phục quốc’ rồi thúc ngựa xông lên làm gương cho binh sĩ, người đã trúng hơn mười mũi tên nhưng ông vẫn không lùi bước. Thuộc hạ của ông theo sát sau lưng, bao gồm con trai, cháu trai hơn ba mươi tuổi, thậm chí có cả chắt trai chưa tròn mười sáu.


    Lúc Hạ Kỳ dẫn người chạy đến thì cuộc chiến đã gần kết thúc, binh sĩ quận Võ Lăng tuy được sự anh dũng của tướng soái phe mình khích lệ, chỉ bằng thực lực của vài ngàn người vẫn kiên cường đối chọi với mấy vạn kỵ binh của địch, nhưng đến giờ cũng đã như nỏ hết đà. Hạ Kỳ không nói hai lời lập tức dẫn binh xông vào trận địa. Trải qua trận giày xéo trước đó, lớp bùn đất dưới chân càng thêm đặc quánh, biến toàn bộ khu vực sông Thiết Tuyến thành bãi đầm lầy. Vó ngựa bị lún sâu nên kỵ binh Bắc Yến đành phải bất đắc dĩ bỏ ngựa ứng chiến với bộ binh của Hạ Kỳ. Nhưng ưu thế của kỵ binh mang giáp là thúc ngựa xung phong trên thảo nguyên, còn đánh đánh chém chém trên mặt đất lún bùn như hiện giờ, bộ giáp trên người đã trở thành cản trở, khiến bọn họ không thể cử động linh hoạt.


    Người ngã ngựa đổ, tiếng chém giết cùng tiếng kêu thảm thiết hòa lẫn với nhau khiến tràng diện trở nên hỗn loạn đến cùng cực. Máu thịt nát vụn, ánh đao loang loáng, sát khí hừng hực, mặt trời bị mây đen che khuất, diều hâu gào thét trên bầu trời đỏ quạch.


    Quân Bắc Yến rốt cuộc cũng nhận ra điểm yếu của phe mình, có binh sĩ nhanh trí cũng muốn cởi giáp trên người xuống, nhưng tình huống nguy cấp như hiện tại sao có thể cho phép bất kỳ giây phút phân tâm nào, binh sĩ kia còn chưa kịp cởi giáp thì đã đầu lìa khỏi cổ.


    Bên trong chủ trướng của Yến Tuân…


    Sông Thiết Tuyến rất gần đại bản doanh của Bắc Yến nên tất cả tin tức chiến sự ở đó đều được cập nhật với tốc độ nhanh nhất. Nhưng cũng chính vì vậy mà khi Yến Tuân nhận được chiến báo, đám tướng soái bên ngoài nghe được tiếng chém giết, tưởng rằng có người tập kích nên chưa kịp bẩm báo lên cấp trên đã nhanh chóng phái kỵ binh đi trợ giúp. Đến khi Yến Tuân muốn thu hồi nhóm kỵ binh kia thì đã không còn kịp, nhân mã hai bên đã bắt đầu hỗn chiến.


    Ban đầu tướng soái trong doanh trại còn chế giễu Tú lệ quân không biết tự lượng sức mình, song rất nhanh sau đó, theo từng chiến báo được truyền về, sắc mặt bọn họ càng ngày càng xấu đi. Có người chủ động xin được dẫn dắt bộ binh ra trợ giúp nhưng Yến Tuân đều lạnh lùng lắc đầu.


    Đã quá muộn, bờ sông Thiết Tuyến là một dải đất bồi nhỏ hẹp, tụ tập gần năm vạn nhân mã đã là quá nhiều, bây giờ có tăng thêm viện binh cũng chỉ để hy sinh vô ích.

    Nhưng cũng thể vô cớ để mặc hao binh tổn tướng như vậy, đây là trận đánh đầu tiên, nếu thua sẽ gây ảnh hưởng cực nghiêm trọng đến sĩ khí, đối với chiến cuộc sau này cũng tiêu cực không ít.


    Vì vậy, Yến Tuân nhanh chóng ra lệnh cho toàn quân chuẩn bị trực diện tấn công Ngụy Liêu.


    Đêm xuống, vầng trăng nhô lên, tỏa sáng xuống sườn núi trơ trụi, hơi sương mông lung bao phủ toàn bộ Hàm Thủy. Một gã tham mưu đã vào can gián mấy lần, nói rằng Hàm Thủy có lợi thế phòng thủ cực kỳ tốt, bọn họ chỉ cần giữ chặt nơi này là đủ, chớ nên chủ động tấn công để hao phí binh lực.


    Ban đầu Yến Tuân còn không để ý đến gã tham mưu nọ, về sau không chịu được phiền nhiễu liền trực tiếp lệnh cho thân vệ trói gã lại nhốt vào hầm ngục. Bên tai không còn tiếng lải nhải, hắn cuối cùng mới có thể bình tâm đánh giá vị trí của cửa khẩu không tính là rất hùng vĩ này.


    Gã tham mưu vừa rồi không rõ, rất nhiều người khác cũng không rõ, thậm chí cả đông đảo tướng soái theo hắn vào nam ra bắc có lẽ cũng không rõ ý định hiện giờ của hắn.


    Tú lệ quân tấn công đích xác là để giải vây đế đô khỏi sự vây hãm của Tĩnh An vương phi, bọn họ muốn đến Đường Kinh thì nhất định phải vượt qua Hàm Thủy Quan. Vì vậy, chỉ cần tiếp tục trấn thủ Hàm Thủy Quan, tất sẽ không tránh khỏi phải đánh một trận với Tú lệ quân. Và so với phòng thủ, tấn công dĩ nhiên sẽ tổn thất nhiều hơn.


    Bây giờ hắn chủ động hạ lệnh tấn công đối phương, tất có rất nhiều người cảm thấy khó hiểu.


    Đó là bởi vì chỉ có mình hắn hiểu rõ thế cục trước mắt, Hàm Thủy Quan chính là cửa khẩu quan trọng nhất của Biện Đường, đây cũng là thành trì có nhiều nhân khẩu nhất đại lục Tây Mông, đạt đến con số hơn trăm vạn. Bắc Yến có thể dễ dàng chiếm lĩnh nơi này không gặp bất kỳ phản kháng nào, một là vì danh tiếng tàn nhẫn lạm sát lúc bọn họ đánh vào Đại Hạ khi trước, hai là vì cho đến giờ, quân Bắc Yến chưa từng thua trận nào, cứ thế chiếm giữ từng thành trấn một. Vì hai nguyên nhân này mà người dân ở Hàm Thủy Quan mới sợ hãi không dám vùng lên.


    Nhưng hắn biết, chỉ bằng binh lực của hắn và Tĩnh An vương phi, sẽ không thể nào hoàn toàn đập tan lực lượng vũ trang của Biện Đường. Lạc vương bày mưu lập kế hơn mười năm còn bị đánh bại, hôm nay chỉ mình hắn cùng chừng này binh lực, làm sao tiêu diệt được được đất nước với hơn ngàn năm lịch sử này. Hắn hiểu rất rõ, hiện tại ở phía tây Hàm Thủy Quan đang có mười mấy tuyến quân binh Đại Đường đang im lìm nhìn về phía này chờ đợi, khi hắn và Tú lệ quân đánh nhau tới mỏi mệt, bọn họ chắc hắn sẽ ào đến.


    Chính vì vậy, kết quả của trận chiến ở sông Thiết Tuyến vô cùng quan trọng, quy mô không lớn nhưng lại chính là thất bại không thể ngụy biện. Bây giờ cũng chỉ có thể dùng một chiến dịch lớn hơn che giấu thất bại này, thêm vào đó, hắn chủ động xuất quân công kích cũng có thể để kẻ địch đang rình rập thấy rõ thực lực của Bắc Yến.


    “A Sở, trận đánh ở sông Thiết Tuyến, bất kể có phải là vô tâm cắm liễu hay không, nhưng chính muội là người tưới nước khiến liễu mọc cao*.”

    *Trích từ thành ngữ ‘Hữu ý tài hoa hoa bất phát, Vô tâm sáp liễu liễu thành âm’ – 有意栽花花不发,无心插柳柳成阴 – có ý trồng hoa hoa không nở, vô tâm cắm cành liễu xuống đất liễu mọc rợp thành bóng râm. Dùng để ám chỉ không chuyện gì được như mong đợi, lên kế hoạch thì thất bại, thành công lại đến từ thứ không ngờ.


    ……………………………………………………………………………………


    Bên dưới bầu trời đêm thăm thẳm, Yến Tuân ngồi trên vương liễn*, chiến xa được kéo với tám chiến mã Bắc Yến thuần chủng lông đen nhánh, người mặc mãng bào tuyền đen như mực. Hắn hơi nâng cằm, nheo mắt nhìn thành trì ẩn trong bóng tối ở xa xa.

    *Chiến xa dành cho vua


    Một vũ cơ quyến rũ quỳ cạnh vương liễn, lưng áo hở hoàn toàn để lộ da thịt óng mịn như mật ong, nàng ta ngẩng đầu lên, giơ cao chén rượu nho thượng hạng trong tay, yêu kiều cười nói: “Cầu chúc đại vương kỳ khai đắc thắng*, thành công bằm thây ả tiện nhân trong thành, nâng cao uy danh của Bắc Yến ta.”

    *Vừa xuất quân đã chiến thắng giòn giã



    Yến Tuân thản nhiên liếc nhìn nàng ta một cái, khẽ cong khóe môi nở một nụ cười nhạt rồi hỡ hững hỏi: “Ngươi là con dân của Bắc Yến ta?”



    Vũ cơ kia thoáng sửng sốt, nhưng cũng lập tức đáp lời: “Thiếp vốn là dân Hàm Thủy, nhưng đã kính ngưỡng uy danh của đại vương đã lâu. Hôm nay thiếp may mắn được trở thành người của đại vương, dĩ nhiên cũng chính là người dân Yến Bắc.”


    Ý cười ở đáy mắt Yến Tuân càng thêm rõ rệt, hắn cười nói: “Đất nước của ngươi bị ta đánh chiếm, đồng bào của ngươi bị ta tàn sát mà ngươi vẫn nói ngươi là người của ta, xem ra ngươi quả thật rất trung thành.”



    Vũ cơ kia được khen thì vô cùng hớn hở, vội vàng tranh thủ bồi thêm: “Thiếp dĩ nhiên là người của đại vương, chỉ cần đại vương muốn, thiếp nguyện ý vì đại vương làm bất cứ chuyện gì.”


    “”Bất cứ chuyện gì?” Yến Tuân khẽ nhướng mày.


    “Vâng.” Vũ cơ mở to đôi mắt long lanh như nước, chúm chím cánh môi đầy đặn như có thể bấm ra mật, nghiêng eo thon áp ngực lên đùi Yến Tuân, thẽ thọt: “Bất cứ chuyện gì.”



    Yến Tuân cười to rồi nói với thị vệ ở hai bên: “Nàng ta bảo sẽ vì ta làm bất cứ chuyện gì, sao có thể không thành toàn cho nàng ta chứ? Lúc tấn công Ngụy Liêu, để nàng ta xông lên trước tiên đi.”



    Hắn vừa dứt lời, thị vệ hai bên lập tức tiến đến nhấc vũ cơ nọ lên. Vũ cơ tái mặt, cuống quít hét to: “Đại vương! Đại vương tha mạng! Thiếp thân nữ yếu đuối, sao có thể ra trận giết địch được! Đại vương tha mạng!”



    Ả vũ cơ cứ thế bị lôi đi, Yến Tuân tựa người vào lưng ghế, lẳng lặng xoay xoay chén rượu nho trong tay, lẩm bẩm lặp lại: “Bất cứ chuyện gì?”



    Hắn chợt bật ra một tiếng cười lạnh.


    Cùng lúc đó, bên trong thành Ngụy Liêu, một bóng dáng mảnh khảnh yếu ớt mặc chiến giáp đứng trên cổng thành cao ngất, dõi mắt nhìn ra xa. Ánh đuốc chiếu rọi khiến đường chân trời sáng rõ như ban ngày.


    Nàng biết, Yến Tuân đang ở đâu đó giữa hàng vạn hàng nghìn ánh đuốc kia. Từ khi nàng dứt áo ra đi mấy năm trước, hôm nay chính là lần đầu bọn họ gặp lại nhau.


    Nàng vốn nên nghĩ tới sẽ có ngày hôm nay. Vận mệnh luôn như một đứa trẻ bướng bỉnh khó chiều, luôn thích bày ra những trò chơi oái ăm.


    Sở Kiều chậm rãi ngẩng đầu lên, gió đêm thổi lên thân thể nàng, hất tung lọn tóc hai bên thái dương. Ánh đuốc khiến bầu trời trở nên đỏ rực lửa, tựa như rất nhiều năm trước, bọn họ từng vai kề vai, nắm chặt chiến đao chém nát cửa lồng giam, mở đường máu thoát ra ngoài.


    Nếu sớm đoán được sẽ có ngày hôm nay, khi đó liệu bọn họ còn có thể nắm tay nhau vào sinh ra tử không?


    Nàng chậm rãi nhắm mắt lại, vẻ kiên định hằn rõ trên khuôn mặt xinh đẹp. Thế sự như con sóng to trong biển rộng, chẳng ai ngờ khi nào nó sẽ ập đến.


    Sở Kiều siết chặt cán đao, trước mắt dần hiện lên hình ảnh của nam nhân có đôi mắt sáng rực như mắt sói. Vẫn là cuồng phong gào rít bên tai, bóng đêm thâm trầm vô tận, vẫn khung cảnh máu lửa cùng mưa tên dày đặc như lúc đó…


    Một tiếng *ầm* đột nhiên vang lên, đuốc đỏ ngập trời, tiếng trống trận dội vào trước ngực, cả vùng đất như cũng chấn động theo từng nhịp trống.


    Hạ Tiêu giương cao cự nỏ, kéo căng dây nỏ rồi chợt buông tay, mũi tên rời nỏ lao đi tựa một ngôi sao băng. Cùng lúc đó, trong đội ngũ của đối phương cũng có một mũi tên bén nhọn bắn ra với tốc độ nhanh hơn tên của Hạ Tiêu. Sau khi đụng độ, tên của Hạ Tiêu bị gãy nát nhưng mũi tên kia vẫn không giảm tốc độ, rít gió lao vùn vụt.


    Sở Kiều nhìn thấy thì lập tức móc phi đao ra ném mạnh về phía mũi tên, phi đao và mũi tên chạm nhau, cùng lúc rơi xuống.


    Quân đội hai bên đồng thời vang lên tiếng hoan hô tung trời.


    Đứng giữa đội quân đông đảo, Yến Tuân thả cung xuống, chậm rãi ngẩng đầu lên.
     
    Tu Di and Vân Yên like this.
  15. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 191: Thiên hạ
    Hương hoa tường vi phiêu đãng trong gió đêm, không trung tĩnh lặng như tờ, Sở Kiều đứng trên tường thành cao, ánh mắt xuyên qua rừng đao lạnh lẽo, cuối cùng dừng lại trên người Yến Tuân. Năm tháng trôi qua bên tai *ào ào* tựa nước lũ, nghe như tiếng hùng ưng rít gào giữa hoang nguyên mênh mông.


    Hắc kỳ trên đầu Yến Tuân đón gió bay phần phật, như hòa làm một với nền trời thăm thẳm không một ánh sao, không gian nóng rực ánh đuốc, đỏ hồng như màu máu. Yến Tuân đứng trên vương liễn vàng chói lọi, tay cầm cánh cung khổng lồ cũng bằng vàng, khiến mãng bào đen tuyền trên người càng thêm nổi bật, hai hàng mày dài tận tóc mai. Hắn ngẩng đầu lên, mắt phượng hơi nheo, lẳng lặng nhìn chăm chăm vào hình bóng quen thuộc trong trí nhớ.


    Chiến trường đầy gươm đao tĩnh lặng đến mức đáng sợ, tất cả như ngừng hô hấp, cảm nhận từng hồi trống trận nện vào sống lưng, khuấy đảo máu trong người sôi trào.


    Thời gian như ngưng đọng, hai vị chủ soái lẳng lặng nhìn đối phương, tầm mắt không hề dao động.


    Và rồi, đại quân hai bên đột ngột ào đến như thủy triều, chính thức khai trận. Kỵ binh đồng loạt giương cao cung, tên nhọn xé gió lao *vun vút* về phía đối phương. Ngay từ lúc bắt đầu, thế trận đã bộc lộ toàn bộ mặt tàn nhẫn khốc liệt nhất của chiến tranh. Tiếng gào thảm thiết cùng tiếng rên rỉ đau đớn hòa quyện thành một chuỗi âm thanh hỗn tạp.


    Chiến mã rít chói tai, đá lăn ào ạo xuống từ sườn núi, chiến đao loang loáng, mây đen che phủ mặt trăng, tựa như cả trời đất cũng nhắm chặt mắt, không nguyện chứng kiến cảnh tượng tàn khốc phía dưới.


    ……………………………………………………………………………………


    Trải qua một ngày một đêm chém giết, cửa thành phía đông Ngụy Liêu đột nhiên mở rộng, Tú lệ quân nhân dịp quân Bắc Yến đổi phiên tác chiến giục ngựa vọt ra khỏi thành, chạy thẳng đến bờ sông Thiết Tuyến. Đường đến bờ sông chật hẹp, mặt đất lại lún bùn nên quân Bắc Yến trên đường truy đuổi đành phải bỏ ngựa mà đi, nhưng khi bọn họ đuổi đến nơi thì Tú lệ quân đã lên bè da dê rời bờ, mượn dòng nước chảy xiết nhanh chóng rời đi.


    “Đại nhân cẩn thận!”



    “Bệ hạ cẩn thận!”



    Hầu như là đồng thời, cả Yến Tuân và Sở Kiều đều nâng cung lên, tên nhọn cùng lúc rời cung lao vút về phía đối phương, chạm nhau rơi thẳng xuống nước, khiến thân vệ bên cạnh hai người hốt hoảng hô to.


    Giữa con sông rộng lớn, Sở Kiều đứng trên bè nhìn thẳng về phía Yến Tuân.


    Nàng biết, trận chiến vừa rồi chỉ là đánh cho ra vẻ, Yến Tuân hiểu rõ sẽ không thể nào ngăn cản nàng.


    Yến Tuân chọn kết đồng minh với Tĩnh An vương phi nên phải giúp phản quân trấn thủ Hàm Thủy, nhưng nếu Tĩnh An vương phi thật sự đánh hạ Đường Kinh, thành công để hậu duệ của Tĩnh An vương ngồi lên đế vị thì đường lui của quân Bắc Yến tất sẽ bị bịt kín. Vì thế, trận đánh này hắn không thể thắng, nhưng cũng không thể để thua quá dễ dàng.


    Yến Tuân vẫn cần nàng kéo dài nội chiến ở Biện Đường, cần nàng đến giữ cho Đường Hộ Quan vẫn mở rộng.


    Ánh đuốc rọi sáng bừng mặt sông, hừng đông ở phía chân trời như một bảng màu pha trộn giữa đen đỏ và cam, nhìn vô cùng dữ tợn và ma mị. Bờ sông lộng gió khiến muôn vàn ngọn lửa như đang nhảy múa trong không trung.


    Yến Tuân ngồi vững vàng trên lưng ngựa trong khi chiến mã bất an không ngừng giẫm đạp vó xuống mặt bùn. Sống lưng hắn vẫn thẳng tắp như xưa, toàn thân tỏa ra loại khí tức đế vương, tựa như một vị lãnh chúa bóng đêm uy quyền. Ánh mắt sắc bén lướt qua mặt sông nhìn ra xa xa, dừng trên thân ảnh mảnh khảnh nhưng vĩnh viễn luôn kiên cường ở đối diện. Gió đêm thổi tung mái tóc đen dài hai bên thái dương của nàng, bộ giáp bạc vấy máu như lấp lánh dưới ánh lửa hồng, nàng đứng đó, cách mặt sông hừng hực ánh lửa, cũng đang lẳng lặng nhìn hắn.


    Tại khoảnh khắc ánh mắt hai người chạm nhau, hồi ức trong đầu Yến Tuân chợt như mặt băng xuất hiện một vết nứt, hắn thậm chí có thể nghe được tiếng *rắc* rất khẽ đó. Và từ chỗ nứt, dòng nước lạnh giá không ngừng rỉ ra.


    Đã bao lâu rồi? Dường như đã lâu lắm rồi, lâu đến mức hắn hầu như đã không còn nhớ rõ nữa.


    Cũng là một đêm tối mịt như hiện giờ, cũng là sau một trận chiến khốc liệt, nàng cũng dùng đôi mắt đó, cũng cách một khoảng sông mênh mông lẳng lặng nhìn hắn. Ánh lửa trong thành Chân Hoàng hừng hực ở chân trời, tiếng hét sung sướng của quân Bắc Yến ngân dài trên hoang nguyên rộng lớn, bọn họ từng quyết liệt quay đầu đi về hai hướng ngược lại, quyết tâm làm theo những gì con tim mách bảo là đúng.

    *Xem lại chương 078, khi Sở Kiều quyết định quay trở về cứu quân Tây Nam trấn phủ sứ, để Yến Tuân qua sông một mình.


    Có lẽ từ rất lâu về trước, ông trời đã sớm định bọn họ là hai ngôi sao băng thuộc hai quỹ tích ngược đầu, ban đầu xuất phát cùng một điểm, nhưng lại dần đổi hướng, càng lúc càng xa vì những điểm giao thoa tưởng chừng vô thưởng vô phạt với các số mệnh khác, cuối cùng đi theo quỹ đạo riêng của mình.


    Bên kia sông, Sở Kiều cầm đao đứng trên lưng ngựa, lẳng lặng nhìn dòng nước chảy xiết. Sông Hàm Thủy đã chôn vùi ngàn vạn sinh mạng trong con nước mênh mông. Thế gian như lò luyện, còn vạt vật chính là củi than. Thứ bị ngọn lửa cắn nuốt đốt trụi chính là máu tươi và hy vọng của dân chúng, và cả những tín ngưỡng trái ngược nhau.


    Nàng nhìn Yến Tuân, trăm ngàn ý niệm bỗng chốc như cát bụi trở về với đất. Mười vạn binh giáp như tan biến khỏi tầm mắt, chỉ còn lại hình ảnh cao ngạo của nam tử áo đen với ánh mắt tựa sói đứng giữ khoảng trời rộng lớn. Giống như rất nhiều năm trước trên đài Cửu U, nam tử từng bước bò dậy khỏi vũng máu, phía sau không có một ai nhưng lại tỏa ra khí thế đủ để hủy diệt bầu không khí thê lương trên đài.


    “Đại nhân!” Bình An chạy đến, cả người xộc xệch, hai mắt đỏ ửng, nói bằng giọng mũi nghèn nghẹn: “Chúng ta đã mất hơn sáu ngàn huynh đệ trong trận chiến này.”



    Sở Kiều cúi đầu xuống nhìn, trên mặt cậu thiếu niên còn vương vết máu chưa khô, nàng cảm nhận được Bình An đã trưởng thành. Trải qua mấy trận chinh chiến đầy máu tanh, ánh mắt của cậu đã không còn trong trẻo nữa.


    “Bình An, muốn đạt thành mục đích thì phải trả giá rất đắt.” Tú Lệ tướng quân lẳng lặng nhìn ra rừng đuốc ở xa xa, hồi lâu sau mới thấp giọng nói: “Hòa bình chân chính chỉ có thể được đổi bằng chiến tranh.”



    Bình An nửa hiểu nửa không, lẩm nhẩm hỏi lại: “Hòa bình chân chính?”



    “Phải, ta nhìn không ra, em có lẽ cũng nhìn không ra, nhưng cuối cùng sẽ có người nhận ra.”



    Sở Kiều ngẩng đầu lên, nhìn lần cuối về phía Hàm Thủy Quan. Lửa trên sông đã tắt dần, để lại tầng khói lượn lờ như sương. Chân trời phía đông thấp thoáng ánh vàng, người nọ mặc chiến giáp đen tuyền, vạt áo choàng bay phần phật trong gió đêm. Khoảng xách xa nhìn không rõ dung mạo nhưng nàng vẫn có thể tưởng tượng rõ ràng từng đường nét. Là dáng vẻ cùng dung mạo của người từng ngồi trên lưng ngựa bắn một mũi tên thẳng về phía nàng trong một buổi trưa trên trường săn rất nhiều năm trước. Khi đó, người nọ cứu nàng một mạng, và nàng đã đi theo y hơn mười năm.


    Sở Kiều nắm chặt cổ tay phải, nơi đó có một miếng bảo vệ tay bằng sắt, tên nhọn hay đao sắc đều không thể bắn thủng. Đây chính là quà Triệu Tung tặng nàng, có một cặp, nàng đã đưa cho Yến Tuân một miếng.


    Cuối cùng, nàng dứt khoát quay đầu đi, giơ cao roi thúc ngựa chạy nước đại, không hề ngoái lại nhìn về phía sau thêm lần nào nữa.


    Bên bờ kia của sông Hàm Thủy, Yến Tuân cũng quay đầu ngựa đi. Một tướng lĩnh tiến đến hỏi: “Bệ hạ, chúng ta không đuổi theo sao?”



    Yến Tuân không nói lời nào, trực tiếp lướt qua người hắn, đi xa rồi mới hờ hững buông một câu: “Lui binh.”



    Đại quân kéo đi nhanh như thủy triều rút, mặt trời nhú lên khỏi đường chân trời, lẳng lặng rải ánh sáng khắp thế gian. Hai đại quân đi ngược đầu, càng lúc càng xa.


    ……………………………………………………………………………………


    Quỳ bên trong đại trướng trống trải là một vị tướng quân mặc giáp. Ông đã quỳ ở đây như vậy rất lâu rồi. Mặt trời lên cao rồi lại đi xuống, đêm tối buông mình khiến bên trong đại trướng trở nên tối mịt, qua ánh sáng thỉnh thoảng lóe lên từ ngọc đông châu đính trên áo lông mơ hồ thấy được nét mặt nam tử ngồi trước mặt.


    Sau khi trở về từ sông Thiết Tuyến, người nọ vẫn không nói gì, chỉ lẳng lặng ngồi như vậy, tựa như quên hết mọi chuyện xung quanh mình. Thảm cỏ xanh ngoài trướng dập dền lay động đưa mùi cỏ thanh mát lẫn vào trong gió đêm. Tháng 5, Biện Đường đang vào mùa hè nên ban đêm văng vẳng tiếng ve kêu trong trẻo, cỏ trên hoang nguyên mọc cao hơn nửa người, đom đóm đậu trên đầu ngọn cỏ tỏa ra ánh sáng yếu ớt, lập lòe trong đêm.


    Trong đại trướng tĩnh lặng như tờ, người mặc giáp tướng quân không dám động đậy, không dám thở mạnh, thậm chí cũng không dám đi thắp đèn. Ông không phải là nguyên lão trong quân đội Bắc Yến, lại càng không phải là bộ hạ kỳ cựu. Kỳ thực, những người đi theo Yến Bắc vương từ những ngày mới khởi binh đến nay đã không còn được mấy người, hiện giờ binh tướng trong quân đội đều là những người kiếm sống vì nghiệp cầm đao thương. Bệ hạ tuy thâm trầm khó dò nhưng lại thưởng phạt rõ ràng, đặt nặng công lao trên chiến trường. Chỉ cần ngươi dám đánh dám giết, không sợ không có cơ hội thăng tiến.


    Vị tướng quân quỳ trong trướng họ Mục, tổ tiên cũng được coi là dòng dõi thư hương, tuy gia tộc đến thời này đã xuống dốc nhưng ông ta cũng là người hiểu biết chữ nghĩa, khá thông thạo binh pháp. Nhờ vậy nên ông ta mới có thể từng bước thăng cấp, chỉ trong vài năm ngắn ngủi đã trở thành một trong những vị tướng chủ chốt của quân Bắc Yến.


    Chẳng giống những người khác, Mục tướng quân cảm thấy bệ hạ không phải là người tàn nhẫn như trong truyền thuyết. Đúng là bệ hạ từng giết thầy, giết muội muội, giết toàn bộ Đại Đồng Hành từng nâng đỡ mình nhiều năm, nhưng thế thì sao? Người có liên quan tới những người đó sẽ cảm thấy bệ hạ vong ân phụ nghĩa, mắng bệ hạ lòng đầy dã tâm, nhưng người ngoài như ông lại thấy rất rõ, Đại Đồng Hành không thông quân sự cũng không am hiểu chính sự, cơ cấu nội bộ phức tạp, chỉ biết tranh đoạt quyền lợi, tình trạng nội đấu kết bè kết đảng vô cùng nghiêm trọng. Bọn họ chiếm cứ Bắc Yến bao nhiêu năm nhưng chẳng làm được gì nhiều, phía bắc có Khuyển Nhưng quấy nhiễu, phía đông bị Đại Hạ quản chế, bọn họ không thể bảo vệ dân chúng nhưng lại muốn nắm giữ chính quyền. Đối với đám người như vậy, nếu bệ hạ không dùng vũ lực và thủ đoạn cứng rắn, e chỉ tiếp tục khiến tổ chức hỗn loạn và tiêu cực này ngày càng nhiều.


    Người làm đại sự, giết mấy người thì tính là gì chứ?


    Từ xưa đến nay, tranh giành quyền thế có khi nào không máu chảy thành sông?


    Cùng một sự việc, đế vương luôn phải có cách nhìn nhận khác với dân thường, luôn phải chọn lựa giữa đại cục và tư tình.


    Vì vậy mà Mục tướng quân thật sự chẳng có hảo cảm gì với Tú Lệ tướng quân. Theo cách nghĩ của ông, nữ nhân thì có bổn sự gì thành được nghiệp lớn chứ?


    “Mục Lãng.” Một giọng nói trầm khàn đột nhiên vang lên trong đại trướng trống trải. Mục Lãng vừa nhanh nhảu thẳng sống lưng lên thì đã nghe người kia tiếp lời: “Truyền tin cho Trình Viễn, bảo hắn thả lỏng canh gác ở cửa khẩu Nguyên Độ. Tú lệ quân muốn qua cửa khẩu thì cứ cho bọn họ đi qua. Để quân của Tĩnh An vương phi giải quyết.”



    “Dạ.”



    “Ngoài ra, bảo hắn không nên tấn công quân của Triệu Dương, hãy toàn lực công kích Triệu Triệt, bằng mọi giá phải tiêu hủy lương thảo của quân Triệu Triệt.”



    “Dạ.” Mục Lãng nhanh chóng đáp lời: “Thuộc hạ sẽ lập tức phái người truyền tin đến Bạch Chỉ Quan.”



    Yến Tuân lắc đầu, trong bóng tối không nhìn rõ sắc mặt, “Không cần, sáng mai đi cũng được, không phải vội.”



    Mục Lãng hơi ngẩn ra, chiến sự khẩn cấp, sao lại không vội? Có điều Yến Tuân đã nói vậy, ông cũng không dám phản bác, chỉ lẳng lặng quỳ tại chỗ, không nói thêm lời nào.


    “Đến đây, cùng ta uống một chén.” Yến Tuân hơi khom người rót rượu, dưới ánh sáng yếu ớt của dạ minh châu, thần sắc Bắc Yến vương có mấy phần uể oải. Mục Lãng kinh sợ vì đột ngột được ưu ái, vội vàng tiến lên đỡ lấy chén rượu rồi đứng yên tại chỗ.


    Yến Tuân tiện tay chỉ vào chỗ ghế bên cạnh, nói: “Ngồi đi, chớ đứng ngây ra đó nữa.”



    Mục Lãng dè dặt ngồi xuống, uống một hơi cạn sạch rồi nói: “Đa tạ bệ hạ ban rượu.”



    Yến Tuân cũng ngửa đầu uống cạn, Mục Lãng vội vàng rót thêm rượu thì lại nghe Yến Tuân cười nhạt, “Đã lâu không có người uống rượu cùng rồi, trước kia là vì hoàn cảnh nên không thể uống rượu, hiện tại không còn gì ngăn trở nhưng người ta muốn cùng đối ẩm đã không còn.”



    Cánh tay nâng bình rượu của Mục Lãng khẽ run lên, ông ta là người thông minh, từ lúc Yến Tuân hạ lệnh ngừng truy đuổi Tú lệ quân, ông ta đã cảm thấy có gì không đúng, bây giờ nghe vậy thì càng cảm thấy hình như bản thân vừa nghe thấy những lời không nên nghe.


    “Nào.” Yến Tuân tùy ý nói, nâng chén rượu chạm nhẹ vào chén của Mục Lãng, chất rượu nho đỏ sánh ra dính vào ngón tay cũng không để ý, một hơi uống cạn. Chỉ chốc sau, một bình rượu lớn đã vơi hơn phân nửa.


    Tối nay Yến Tuân đã nói rất nhiều, tựa như tất cả lời của mấy tháng qua gộp lại cũng không nhiều bằng. Hắn hỏi Mục Lãng từ tình hình lương thảo đến trong nhà ông có mấy người, cha mẹ vẫn khỏe mạnh chứ, có mấy đứa con, có từng đi học không, cưới bao nhiêu thê thiếp, thậm chí còn hỏi quân kỹ trong doanh trại có xinh đẹp hay không.


    Mục Lãng đêm nay cũng hết sức chấn động, trước kia không có cơ hội tiếp cận Yến Tuân, những gì biết về vị Bắc Yến vương uy quyền này đều là nghe lại được từ người khác. Hôm nay chứng kiến được dáng vẻ bình dị gần gũi như thế này của bệ hạ, ông càng cảm thấy bản thân lúc đầu không hề chọn sai, càng cảm thấy nữ nhân có gan phản bội bệ hạ đầu nhập Biện Đường kia đúng là không đồ biết tốt xấu.


    Hai người cứ thế hàn huyên đến tận khuya. Ba tiếng trống canh đều đặn vang lên, Yến Tuân đã ngà ngà say, tựa lên đầu giường tiếp tục nói mấy chuyện vặt vãnh, tiếng nói càng lúc càng nhỏ dần rồi ngưng hẳn. Mục Lãng tưởng rằng Yến Tuân đã ngủ, cầm áo ngủ gấm bên giường đắp lên người hắn rồi cẩn thận lui ra khỏi đại trướng.


    Bên trong đại trướng rất yên tĩnh, tiếng ngâm nga văng vẳng của binh sĩ từ rất xa vọng lại, quanh quẩn trong không trung, chất chứa cảm giác thê lương lạnh lẽo. Nam tử trên giường chợt mở mắt ra, đôi con ngươi đen nhánh thanh tĩnh như nước, không hề có chút men say.


    Hắn lại chỉ có một mình rồi.


    Bốn phía vô cùng trống trải, không một bóng người, bên ngoài gió thổi *vù vù*, rõ ràng là gió hè ấm áp, nhưng chẳng hiểu vì sao, khi luồn vào trong trướng lại mang theo chút lành lạnh. Hắn nằm trên chiếc giường rộng rãi, áo ngủ bằng gấm, màn châu lay động phát ra âm thanh réo rắt, lư hương chầm chậm tỏa ra mùi hương dễ chịu có tác dụng an thần.


    Giường chăn hoa lệ, đêm hè ấm áp, nhưng cuối cùng hắn lại chỉ có một mình. Hệt như buổi tối của rất nhiều năm trước, nàng ngồi thuyền xuôi nam trong khi hắn đứng trên cổng thành Bắc Sóc nhìn ra giang sơn rộng lớn phủ đầy tuyết mà bản thân đã dày công xây đắp. Nàng cuối cùng đã thoát khỏi vòng tay của hắn, rời bỏ hắn mà đi.


    Thật ra thì từ lúc còn rất nhỏ, hắn đã dự liệu được kết cục này.


    Nàng luôn là một người thiện lương chính nghĩa, bất kể rơi vào khốn cảnh ngặt nghèo đến cỡ nào, dẫu người có đầy thương tích thì nàng vẫn giữ chặt hy vọng và hoài bão đối với tương lai. Ban đầu là hắn không ngừng động viên nàng, nhưng dần dần lại biến thành là nàng khích lệ hắn. Nàng miêu tả tương lai của hai người, nói cho hắn biết lý tưởng và hoài bão của nàng, chia sẻ chính kiến của nàng cho hắn nghe. Nàng luôn bình tĩnh, kiên cường tìm biện pháp giải quyết trong mọi hoàn cảnh. Nàng dạy hắn đao pháp và tiễn kỹ, dạy hắn binh pháp mưu lược, Ô Đạo Nhai trên danh nghĩa là thầy nhưng những gì hắn học được từ nàng còn nhiều hơn.


    Nàng chính là thầy, là bạn, là người thân, là chỗ dựa của hắn, cũng chính là người phụ nữ duy nhất hắn yêu cả đời này.


    Thế nhưng, càng gần gũi, càng hiểu rõ nàng thì hắn càng bất an. Không biết bắt đầu từ khi nào, hắn đột nhiên ý thức được, dường như cuối cùng sẽ có một ngày bọn họ mỗi người một ngả, cuối cùng sẽ có ngày nàng rời khỏi hắn.


    Là từ lúc nào cảm nhận được?


    Có lẽ là lúc thấy nàng tỏ vẻ thương cảm cho nô lệ, có lẽ là lúc thấy nàng và Triệu Tung càng lúc càng thân thiết, có lẽ là lúc nàng giảng giải cho hắn nghe thế nào mới là một xã hội phồn vinh an bình, cũng có lẽ là sớm hơn, hắn nhớ không rõ nữa rồi. Hắn chẳng qua chỉ mơ hồ nhận ra, tương lai cuối cùng sẽ có ngày hắn làm nàng thất vọng, hắn sẽ khiến nàng tổn thương, sẽ phá hủy phần tin tưởng và dựa dẫm quý giá mà nàng dành cho mình.


    Chính vì thế, hắn đã tìm cách gạt nàng ra khỏi con đường mình chuẩn bị đi lên, muốn nàng rời khỏi quân doanh, không muốn để nàng nhìn thấy hai tay hắn nhuốm đầy máu, không muốn để nàng thấy hắn vì đạt được mục đích mà không từ bất kỳ thủ đoạn tàn nhẫn nào.


    Hắn không phải là người thợ săn tìm cách bẽ gãy đôi cánh trắng của chú ưng oai hùng, hắn chỉ là một con cú quen với mỗi bóng đêm, sau khi đêm dài qua đi, trời hừng sáng thì hắn sẽ bắt đầu sợ hãi.


    Trong bóng tối, Yến Tuân chợt cất một tiếng cười trầm thấp, ánh mắt trở nên mông lung.


    Nhớ lại khi còn bé, cậu thiếu niên vì cảm thấy bất an nên từng hỏi cô bé: “Muội sẽ vĩnh viễn ở cùng ta, phải không?”



    Cô bé ngẩng lên nhìn hắn, nở nụ cười tươi tắn, “Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ?”


    Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ? Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ? Sẽ không, có đúng không…


    Yến Tuân nhắm mắt lại, câu hỏi kia văng vẳng trong đầu, dư âm kéo dài mãi không nguôi.


    Ta muốn dành cho muội những gì tốt nhất.


    Nhưng thứ ta cho là tốt nhất lại không phải là điều muội mong muốn.


    Yến Tuân lẳng lặng cởi sợi dây buộc ở cổ tay, miếng bảo vệ bằng sắt rơi *cạch* xuống mặt đất, dưới ánh sáng yếu ớt của dạ minh châu, ánh kim loại chợt lóe lên rồi tắt hẳn.


    Đó là vật Triệu Tung tặng nàng, vốn là một cặp, nàng đưa cho hắn một cái, và hắn đã đeo nó mười mấy năm rồi.


    “Lúc quyết định bước lên con đường này, ta cũng biết đời này muội nhất định sẽ không thể nào thuộc về ta. Muội là người của ánh sáng, còn ta lại có mục tiêu cần đổi bằng máu tanh, thế nên ta mới làm mọi cách muốn muội thần phục ta, nghe lệnh ta, đi theo sau lưng ta. Đáng tiếc, ta vẫn thất bại.”



    Trong bóng tối, nam tử lặng lẽ nở một nụ cười.


    Để đạt được mục đích thì cần phải trả giá. Hắn đã bỏ ra cái giá mình phải trả rồi.


    “Chẳng ai hy vọng sống một đời bình thường cả, vấn đề là khi cơ hội ở ngay trước mắt, ngươi có dám bắt lấy hay không mà thôi.” Trong bóng tối, nam tử khàn giọng thì thầm. Tựa như một lão nhân đã trải qua mấy kiếp luân hồi, hắn uể oải nằm trên chiếc giường hoa lệ phủ đầy chăn gấm và áo lông quý giá, bình rượu trên chiếc bàn gần đó đổ ngả nghiêng, rượu chảy ra ướt mặt bàn, tỏa ra mùi thơm làm say lòng người.


    ……………………………………………………………………………………



    “Gia Cát Nguyệt, ngươi có dám hay không?”



    “Ta không làm được.” Gia Cát Nguyệt nhìn thẳng vào mặt người đối diện, trầm tĩnh đáp.


    Gia Cát Mục Thanh đầu đầy tóc bạc, da dẻ nhăn nheo, mấy năm ngắn ngủi như đã cuốn sạch tuổi xuân của một nam tử trung niên, ông ta hiện tại như một đầm nước tĩnh mịch, không chút sự sống. Duy chỉ có đôi mắt vẫn còn vẻ điên cuồng, nhìn chằm chằm con trai mình.


    “Triệu Triệt đã thất bại, Triệu Dương sẽ không cầm cự thêm được bao lâu nữa, khắp Đại Hạ hiện giờ chỉ một mình ngươi có thể thay đổi cục diện. Nếu bây giờ chúng ta loại bỏ Triệu Dương, khiến hắn suy sụp vì thất bại, sau đó ngươi chỉ cần vung tay hô hào thì thiên hạ sẽ rào rào hưởng ứng, khi ấy ngươi sẽ chính là người đứng đầu Đại Hạ. Chỉ cần đồng lòng, Gia Cát gia chúng ta sẽ có thể đập tan Bắc Yến trong vòng mười năm tới, thống nhất thiên hạ, đi lên địa vị chí tôn.”



    Hai mắt Gia Cát Mục Thanh long lên, đỏ ửng như mắt dã thú, ông ta nhìn thẳng vào mặt Gia Cát Nguyệt, nắm lấy vai hắn, lớn tiếng nói: “Tứ Nhi, số phận của Đại Hạ, tương lai của Gia Cát gia chúng ta, tất cả đều dựa vào quyết định của ngươi!”



    Gia Cát Nguyệt lẳng lặng nhìn phụ thân mình, thật lâu vẫn không nói.


    Phụ thân đã già, không còn là người đứng đầu gia tộc khiến kẻ khác thèm thuồng nữa. Ông trở nên mê hư danh, trở nên ngu xuẩn, cũng trở nên điên cuồng rồi.


    Cả đời này, Gia Cát Nguyệt hình như chưa bao giờ thân cận với phụ thân mình. Mất mẹ từ lúc nhỏ, hắn đã sớm một thân một mình tự tìm chỗ đứng trong gia tộc Gia Cát, lặng lẽ như một cái bóng. Đến khi lớn lên, dựa vào sự nỗ lực của bản thân, hắn dần trở nên nổi bật giữa đám huynh đệ cùng thế hệ, mới được người cha đông đảo con cái này liếc nhìn nhiều thêm mấy lần.


    Nhưng khi hắn thất thế, bị thương, bị đẩy vào cảnh thập tử nhất sinh, gia tộc lại không chút dung tình vứt bỏ hắn.


    Khi hắn lại nắm quyền, mang lại vinh quang cho gia tộc thì bọn họ lại chọn huynh trưởng của hắn, muốn đẩy hắn vào chỗ chết.


    Nhưng hắn lại không thể nào vì oán hận mà hoàn toàn cắt đứt với bọn họ.


    Đúng như lời Ngụy Thư Diệp nói, dẫu chán ghét thân phận đến đâu thì bọn họ vẫn không thể chối bỏ sự thật rằng mình là con cháu thế gia, từ nhỏ đã hưởng thụ vinh quang do gia tộc mang đến thì bọn họ phải gánh vác trách nhiệm của con cháu thế gia.


    Người này cuối cùng vẫn là phụ thân của hắn, là người sinh ra hắn, dạy dỗ hắn, từng vui vẻ vì hắn được thành tích cao, từng phấn khởi khi hắn thăng tiến. Tuy ông từng tàn nhẫn tuyệt tình nhưng vẫn là người cho hắn cuộc sống nhung lụa yên bình thời niên thiếu. Khi hắn còn nhỏ không thể bảo vệ bản thân, thì ông chính là người cáng đáng mọi chuyện, bảo vệ tất cả mọi người trong gia tộc, bao gồm cả hắn.


    “Phụ thân, ta không làm được.” Gia Cát Nguyệt lui về phía sau một bước, cúi đầu thật thấp hành lễ với phụ thân mình, “Bàn tay con người cũng chỉ lớn được đến vậy, không thể nắm giữ hết mọi thứ.”


    Ngọn nến dao động khiến ánh sáng như nhảy múa trên khuôn mặt tuấn tú, Gia Cát Nguyệt bình tĩnh nhìn Gia Cát Mục Thanh, lẳng lặng nói: “Ta cảm kích công ơn nuôi dưỡng của phụ thân, nhưng ta không làm được chuyện này.”



    “Đại Hạ không có ta thì vẫn còn những tướng soái khác, phụ thân không có ta thì vẫn còn những người con khác, nhưng Tinh Nhi không có ta thì không còn ai khác cả.”



    Hắn lại khom mình cúi chào người phụ thân có công sinh thành, nuôi dưỡng hắn, cũng như từng bỏ rơi hắn và muốn giết hắn, bình tĩnh nói: “Xin phụ thân bảo trọng.”



    Gia Cát Nguyệt dứt lời liền xoay người rời đi, ánh nến hắt lên bóng lưng hắn, tô thêm dáng vóc cao lớn cùng kiên định. Gia Cát Mục Thanh ngơ ngác nhìn con trai mình, ánh mắt ảm đạm, môi hé ra, hai tay vẫn giữ tư thế đặt lên vai người khác.


    Ông ta đột nhiên ý thức được, dường như bắt đầu từ lúc này, ông đã vĩnh viễn mất đứa con trai này. Đứa con trai từng được ông ta coi trọng, được ông ta gửi gắm kỳ vọng nhưng lại khiến ông ta thất vọng, bị ông ta quất roi, bị ông ta vứt bỏ, bị ông ta trục xuất, bị ông ta cho người ám sát.


    Gió bên ngoài lùa vào phòng, thổi lên thái dương tóc hoa râm, lướt qua sống lưng đã hơi còng của Gia Cát Mục Thanh, ông ta chợt cảm thấy cả người như lại già thêm mấy tuổi, khó nhọc nâng tay nhưng vẫn không thể níu kéo dòng thời gian vô tình chỉ có đi tiếp chứ không có quay lại kia.


    Gia Cát Nguyệt chậm rãi đi từng bước một, hắn biết, một khi đã quay lưng rời đi, hắn sẽ không thể quay lại, ra khỏi cánh cửa này, tất cả tình thân máu mủ đều sẽ cạn khô, bá nghiệp tan tành. Nhưng hắn đều không màng, dù phải chọn một lần nữa, hắn cũng sẽ không thay đổi quyết định. Hắn muốn dùng giang sơn và thiên hạ này để nói cho nàng biết, đến tột cùng cái gì mới là thứ hắn quan tâm.


    Không phải là bá nghiệp, không phải là lưu tên sử sách, cũng không phải là bước lên ngôi cửu đỉnh rồi một mình nhìn xuống trăm họ.


    Thứ hắn muốn chỉ là sự bình an của nàng, chỉ là đặt nàng ở nơi hắn có thể nhìn thấy, nhìn nàng sống thật tốt.


    Bởi vì có người muốn bảo vệ nên hắn mới liên tục nỗ lực làm bản thân mạnh mẽ hơn. Nếu người đó không còn, vậy làm tất cả những chuyện này còn ý nghĩa gì nữa chứ?


    Cả đời hắn, tuyệt đối không làm chuyện sẽ khiến bản thân hối hận.


    Gia Cát Nguyệt bước đi giữa doanh trại tràn ngập ánh trăng, gió lạnh thổi lên mặt khiến hắn thấy thanh tỉnh kỳ lạ.


    Thiên hạ vẫn còn đó, chẳng đi đâu mà phải vội giành đoạt. Quân đội tan rã vẫn có thể gầy dựng lại. Nhưng người chết rồi thì sẽ thẳng thể nào sống lại.


    Lời Triệu Triệt nói trước khi đi lại một lần nữa quanh quẩn bên tai hắn: “Nhận rõ điều mình muốn, sống cho bản thân một lần.”



    Bằng hữu của hắn sau khi bị huynh đệ bán đứng, hai mặt thụ địch, quân đội tan rã nhưng vẫn ngàn dặm xa xôi chạy đến gặp hắn, chỉ để nói một câu không liên quan gì đến đại cục như vậy.


    Binh sĩ đã tụ tập sẵn sàng bên ngoài doanh trại, đang chờ lệnh xuất phát. Gia Cát Nguyệt hít một hơi thật sâu, nhanh chân tiến tới, tung mình nhảy lên lưng ngựa, hô to: “Lên đường!”



    Cỏ khô và bụi đất bay mù mịt, tiếng vó ngựa *rầm rập* thẳng tiến về phía kinh đô cổ kính của Biện Đường.



    Giang sơn vạn dặm, hoàng quyền vinh hiển ở ngay trước mắt.


    Không phải hắn không dám, chỉ là không muốn đánh đổi.


    ……………………………………………………………………………………


    Tại trạm kiểm soát cuối cùng ở cực bắc, tuy đã là tháng 5 nhưng nơi này vẫn chìm trong bão tuyết, gió thổi ập vào mặt, rét buốt như bị đao cứa.


    “Đi thôi.” Triệu Triệt quay lại, mỉm cười nói với Ngụy Thư Diệp. Tuy đang trong quẫn cảnh nhưng nụ cười vẫn chứa đầy vẻ tự tin.


    Ngụy Thư Diệp mặt đầy phong trần mệt mỏi, nhưng khi ngẩng lên nhìn Triệu Triệt thì cũng mang vẻ tự tin không chút nghi ngờ.


    Dưới sự tấn công điên cuồng của quân Bắc Yến bằng chiến thuật biển người không ngừng rút rỉa quân số đối phương, lại bị quân đội không mấy tiêu hao của Triệu Dương công kích hậu quân áp tải lương, cả viện quân của Gia Cát Nguyệt cũng bị cản trở, Triệu Triệt lâm vào tình thế nguy hiểm, quân số giảm sút không ngừng, cuối cùng đành phải lui quân, bỏ lại mười ba tỉnh thành.


    Khi bọn họ tụ tập đủ binh số, chuẩn bị phản công thì lại bị thuộc hạ phản bội, bán tin tình báo cho địch, nhận ra thì quân phe mình đã lâm vào tình trạng bốn bề thọ địch, không đường thoát.


    Hôm đó, vị hoàng tử bách chiến bách thắng đứng trên ngọn đồi hoang tàn im lặng hồi lâu, cuối cùng chán nản buông chiến đao, quay lại nói với Ngụy Thư Diệp: “Chúng ta thua rồi.”



    Lúc ấy, tất cả tướng soái đi theo sau đều bật khóc, ngay cả Ngụy thiếu chủ từ trước đến nay luôn cao ngạo cũng chẳng kìm được nước mắt không cam lòng.


    Không phải là không có phần thắng, không phải là không có cơ hội khôi phục thực lực phản công. Bọn họ can trường chiến đấu trên mọi mặt trận của tổ quốc, có quyết tâm cùng dũng khí sẵn sàng hy sinh bất cứ lúc nào.


    Thế nhưng, bọn họ vẫn thất bại.


    Không phải thua bởi tay địch trên chiến trường, mà là thua bởi sự ám toán của người cùng phe.


    Cùng một lúc, bọn họ phải đối đầu với kẻ địch mạch mẽ nhất lịch sử, và cả tình cảnh suy tàn tồi tệ nhất mấy trăm năm qua của đất nước.


    Vị hoàng tử trẻ tuổi ngẩng cao đầu, chiến mã bồn chồn gõ móng lên mặt đất phủ tuyết của phương bắc. Bước qua cửa khẩu sẽ không còn là lãnh thổ Đại Hạ nữa, lẫn trong bão tuyết mù mịt sẽ không còn bóng dáng cờ hiệu của Đại Hạ nữa.


    Triệu Triệt nhìn lên bầu trời cao vời vợi, lẳng lặng nói: “Triệu thị sẽ không vong, chỉ cần là nơi có mặt trời mọc thì sẽ có con cháu của Triệu thị.”



    Dứt lời, hắn liền giương cao roi, thúc ngựa phi thẳng về phía trước. Quân đội cũng *rầm rập* theo sau, lần lượt qua khỏi biên giới, xông thẳng về phía bão tuyết cuồn cuộn.


    Triệt Triệt siết chặt nắm tay, ánh mắt sắc bén tựa đao, môi khẽ mấp máy mấy chữ, không thành tiếng nhưng hết sức kiên định: Ta sẽ còn trở lại…


    ……………………………………………………………………………………


    Tại cổng thành Đường Kinh.



    “Đại nhân!” Hạ Tiêu hét to, hai mắt đỏ bừng: “Thuộc hạ không đồng ý!”



    “Hạ thống lĩnh, đây là mệnh lệnh.”, Sở Kiều nhìn người thuộc hạ bản thân tin tưởng nhất, gằn giọng nói từng chữ một.


    “Đại nhân, người hãy hộ tống Đường hoàng rời thành, để thuộc hạ ở lại cản đường địch.”


    Phía sau là tiếng vó ngựa *rầm rập* như sấm, Tĩnh An vương phi thống lĩnh đội quân đông gấp mười lần bọn họ đang tiến đến, khí thế mạnh mẽ như lũ lớn, không gì có thể ngăn cản.


    Sở Kiều lạnh giọng hỏi: “Huynh làm được sao?”



    Hạ Tiêu cau mày một thoáng rồi nói to: “Thuộc hạ thề chết sẽ…”



    “Huynh có chết cũng không thế ngăn được.” Sở Kiều đột nhiên cao giọng ngắt lời.


    Hạ Tiêu nghe vậy, sắc mặt chợt trở nên tái nhợt, vừa định lên tiếng thì Sở Kiều lại cướp lời: “Hiện tại Đường Kinh đã bị bao vây bốn phía, bên ngoài có mấy chục vạn quân Bắc Yến phong tỏa, khí thế đủ khiến quân đội Biện Đường đóng ở các nơi chùn tay, sẽ không có ai chi viện cho chúng ta. Quân cả nước bây giờ do ta chỉ huy, ánh mắt kẻ địch dĩ nhiên sẽ đều ở trên người ta, chỉ cần ta còn đứng trên cổng thành thì bọn họ sẽ không dám chia binh truy kích. Nhưng nếu ta rời đi, bọn họ nhất định sẽ ngừng tấn công kinh thành, chuyển sang toàn lực truy kích theo sau. Đến lúc đó, chúng ta sẽ lâm vào tình trạng không có thành trì cố thủ, trước có quân Bắc Yến, sau có quân của Tĩnh An vương phi, sẽ chết còn thảm hơn!”



    Hạ Tiêu không nghĩ tới điều này nên chỉ có thể cau mày nghe mà chẳng nói được tiếng nào.


    “Hạ Tiêu, cầu xin huynh mang bọn trẻ chạy trước. Cả đời này của ta nhận đại ân từ Lý Sách, không bao giờ có thể trả hết. Hiện giờ ta đã không thể giúp hắn giữ nước thì ít nhất phải bảo vệ được hậu nhân của hắn.”



    Hạ Tiêu bi thương nhìn Sở Kiều chằm chằm một lúc rồi chợt mở miệng khẩn khoản: “Đại nhân, xin cho người khác đi đi, để ta có thể ở lại bên cạnh bảo vệ người được không?”



    Sở Kiều lắc đầu, nhẹ giọng nói: “Ta không tin tưởng người nào khác cả.”



    Ánh mắt Hạ Tiêu nhìn Sở Kiều nóng rực tựa dung nham. Bao nhiêu năm cùng vào sinh ra tử, bao nhiêu năm sánh vai đồng hành, hắn ở cạnh nàng nhiều hơn ai hết, phần tình cảm nam nữ từng nảy mầm, theo dòng thời gian, đã dần thay đổi thành tình thân.


    Cô gái trước mắt kiên cường, dũng cảm, thiện lương, chân thành nhưng cũng có lúc e dè sợ hãi, cũng có lúc mờ mịt không biết đi đường nào, cũng có lúc yếu ớt vùi mặt vào lòng hắn khóc to. Hai người bọn họ là chiến hữu, là bằng hữu, là thân thân, nàng vừa là chủ tử vừa là muội muội của hắn.


    Trong ánh đuốc nóng hừng hực, Hạ Tiêu đột nhiên giơ tay ôm lấy Sở Kiều, nghiến răng nói: “Bảo trọng!”



    “Huynh cũng bảo trọng!”



    Hạ Tiêu tung mình nhảy lên chiến mã, Lý Tu Nghi ngồi trong ngực hắn nhoài người ra gọi to: “Cô cô! Cô cô!”


    Hạ Tiêu kéo cậu bé lại, dùng áo choàng trùm kín cả người cậu rồi quả quyết dẫn đội tinh binh xông thẳng ra khỏi cửa thành phía nam, không hề quay đầu lại nhìn Sở Kiều thêm cái nào. Cũng cùng một lúc, cửa thành hai phía đông tây mở rộng, quân đội Biện Đường ùa ra giao chiến với kẻ địch.


    “Cung thủ chuẩn bị!” Hạ Kỳ hét to: “Bắn!”



    Hoang nguyên rộng lớn tựa như cối xay khổng lồ không ngừng cắn nuốt sinh mạng của binh sĩ hai bên. Trường thương và lưỡi đao loang loáng, vó ngựa cuồn cuộn như sấm.


    Sở Kiều đứng trên cổng thành nhìn trận chiến, những hình ảnh trong ký ức lần lượt lướt qua trong đầu.


    Nàng là người của hai thế giới, đã làm rất nhiều chuyện, gặp rất nhiều người, có chuyện làm đúng nhưng cũng có chuyện làm sai, từng bỏ lỡ cũng từng cô phụ người khác. Nhưng vô luận thế nào, bất kể là trong tình thế gì, nàng chưa bao giờ làm trái với tín niệm của bản thân.


    Trong thời điểm sinh mạng bấp bênh như hiện giờ, nàng nhắm mắt lại, vô số bóng người lần lượt lướt qua, người nàng yêu, người nàng hận, người nàng phụ lòng, người nàng tổn thương, cuối cùng tụ lại thành một thân ảnh tuấn tú đang đứng trên đầu mũi thuyền lộng gió. Chàng quay đầu lại, dùng ánh mắt chan chứa thâm tình nhìn nàng.


    “Nguyệt, ta yêu chàng.” Sở Kiều thì thầm. Gió chợt nổi lớn thổi qua hai bên tóc mai, trời chiều đỏ như máu, âm thanh chiến trận lẫn trong tiếng gió ào ạt như thủy triều, rúng động cả cổng thành cổ kính, đinh tai nhức óc.


    Nàng đặt tay lên phần bụng đã hơi nhô lên. Đây chính là hy vọng của nàng, khiến nàng có dũng khí đứng ở đây, giúp nàng kiên cường chống chọi với mọi thứ.


    Khoảng cách xa như vậy, chàng chắc hẳn nghe không thấy.


    Nảng mỉm cười ngẩng lên nhìn bầu trời bao la, “Nguyệt, ta yêu chàng ~!”



    Nhưng ta cuối cùng cũng không thể ở bên chàng đến già.


    Khóe mắt chợt cay cay, một dòng nước mắt trượt ra, thấm vào hai bên tóc mai.


    Sở Kiều rút chiến đao ra, tất cả quân địch đang tập trung lao về phía cổng thành nàng đứng. Hạ Tiêu đã mở đường máu thoát đi rồi, bên tai vang dội tiếng la hét, đỉnh đầu là chiến kỳ trắng hình mây đỏ bay phần phật, sắc đỏ vô cùng nổi bật giữa hoang nguyên cuồn cuộn cát vàng, đỏ như ánh sáng hy vọng từ mặt trời.


    Nàng quay đầu lại, lần lượt lướt mắt qua những chiến sĩ trẻ tuổi trước mặt.


    Các chiến sĩ của Tú lệ quân nổi tiếng khắp thiên hạ, qua nhiều năm như vậy, những con người kiên cường này đã theo nàng liên tục chiến đấu trên đủ loại chiến trường từ nam đến bắc, chưa từng sợ hãi lùi bước.


    Cuộc chiến ở thành Chân Hoàng, ở Tây Bắc, ở thành Xích Độ, ở thành Bắc Sóc, ở hồ Thiên Trượng, ở bình nguyên Hỏa Lôi, ở Long Ngâm Quan, ở Đường Kinh, ở Bạch Chỉ Quan, ở sông Thiết Tuyến…


    Bảy năm, đội quân này đã dùng chiến tính anh dũng chứng minh lòng trung thành cho cả đại lục Tây Mông nhìn thấy, không phân biệt quốc gia, không phân biệt phe phái, không chiến đấu vì lệnh của bất kỳ ai, bọn họ chỉ chiến đấu vì nàng, vì lương tâm của mình.


    Từng nhóm một ngã xuống rồi lại có nhiều người hơn xông lên, bất kể bọn họ có bao nhiêu nặng tình đối với quốc gia mà mình đang xả thân bảo vệ, bất kể cố quốc của bọn họ chỉ cách đây khoảng vạn dặm, bất kể chờ đợi phía trước là cái gì, bọn họ chỉ cần một lý do, chỉ cần mệnh lệnh của một người, chỉ cần có người nọ đứng trước mặt thì sự trung thành của bọn họ sẽ như băng ngầm dưới hồ sâu vạn trượng, dù núi lở sông cạn, xương thịt hóa thành tro cũng sẽ không dao động.


    Không cần diễn thuyết rung động lòng người, không cần diễn văn cổ vũ tinh thần, cô gái trẻ tuổi cởi mũ giáp xuống để lộ mái tóc dài đen nhánh, hai mắt sáng như sao trời nhìn về phía binh sĩ, nàng mỉm cười với binh sĩ của mình, vung cao chiến đao trong tay.


    “Chiến đấu vì tự do!” Hai ngàn tinh binh của Tú lệ quân hô cao khẩu hiệu xung phong.


    Ngay sau đó, một tiếng *ầm* vang lên, cổng thành Đường Kinh cổ kính cuối cùng cũng đổ. Kẻ địch ào vào như thủy triều kèm theo tiếng hô hào điên cuồng.


    Cuồng phong nổi lên, Sở Kiều cao giọng nói to: “Chư vị đi trước, ta sẽ theo sau.”



    “Đại nhân! Mạt tướng xin đi trước!” Một viên tướng cười lớn rồi nhảy lên lưng ngựa, giơ cao chiến đao, quát to: “Chiến đấu vì tự do!”


    Các chiến sĩ Tú lệ quân cũng vung đao chạy theo viên tướng nọ, miệng hô to: “Giết!!!!!”



    Trời chiều phủ xuống hoang nguyên, thiết kỵ tung hoành khắp nơi, đao kiếm như rừng. Gió thổi qua chiến trường khốc liệt, các chiến sĩ can trường múa đao, người trước ngã xuống người sau tiến lên, liên tục như sóng triều.


    Toàn Đường Kinh ngập trong lửa chiến tranh, trăm năm trước, chiến kỳ hình hoa tường vi của Biện Đường từng bao trùm khắp đại lục, đứng đầu bốn phương, tính về diện tích lãnh thổ hay ý chí chiến đầu, Biện Đường từng không thua ai. Nhưng hôm nay nhìn xuống trên chiến trường, giáp trụ vỡ nát, chiến kỳ rách tả tơi, trên đỉnh cung điện bốc đầy khói đen, chết chóc bao phủ khắp đường phố hoa lệ, bên tai đều là tiếng ngựa hí thê lương cùng tiếng gào khóc của dân chúng…


    Sở Kiều ngẩng đầu nhìn về phía tây, mặt trời đỏ au đang dần chìm xuống.


    Đây là mảnh đất chôn cất những chiến sĩ khảng khái không sợ chết, chiến đấu bằng tất cả nhiệt huyết. Đời sau của bọn họ, dù đã dùng toàn lực vẫn không thể ngăn cản sự suy tàn của đế quốc.


    Lịch sử huy hoàng, vinh quang cùng mộng tưởng trăm ngàn năm qua, hôm nay nàng tận mắt chứng kiến đế quốc vĩ đại này đi đến hồi kết.


    Ráng chiều chiếu lên khuôn mặt tái nhợt, Sở Kiều hít một hơi thật sâu rồi nhắm mắt lại, trong đầu lại hiện lên một đôi mắt như mắt hồ ly kia.


    Lý Sách, ta đã làm hết sức rồi.


    Trên đời này không phải tất cả mọi thứ ngươi suy tính đều tuyệt đối chính xác, nhưng có lẽ lúc ấy, ngươi đã không còn lựa chọn nào khác.


    Nguyệt, hẹn gặp lại ở kiếp sau.


    Lại thêm một chiếc thang dây được ném tới, quân địch không ngừng bò lên, Sở Kiều vứt vỏ đao, xông về phía trước.


    “Bảo vệ đại nhân!” Các chiến sĩ Tú lệ quân xông đến chắn ở trước người Sở Kiều.


    Chiến sĩ Tú lệ quân dưới thành đều lăm lăm chiến đao, dàn trận ngay ngắn, không chút sợ hãi đánh sâu vào hàng ngũ của địch. Mặt trời đã khuất núi, sắc trời đỏ rực bao phủ bốn phía, chiếu lên những khuôn mặt lấm máu của các chiến sĩ càng thêm yêu dị, khiến con ngươi bọn họ càng thêm hồng. Bọn họ là một đội quân chứng kiến nhiều kỳ tích, bọn họ lấy ít thắng nhiều, thành công tử thủ thành Bắc Sóc khỏi liên quân đông gần trăm vạn người của Đại Hạ. Ở Long Ngâm Quan, bọn họ từng sóng vai đứng thành hàng, ngăn cản được thiết kỵ hùng mạnh của Triệu Dương.


    Tiếng ‘Giết’ rung trời át mọi âm thanh. Tiếng ngựa kêu, tiếng đao kiếm vao chạm, tiếng giáp trụ xộc xệch cùng với khói đen mịt trời, tứ chi và máu văng tứ tung, thi thể ngã xuống bị vó ngựa chà đạp tạo nên khung cảnh chiến tranh tàn khốc đến cùng cực.


    Mưa tên che phủ tia sáng ban ngày cuối cùng trên bầu trời, binh sĩ địch không kịp kêu một tiếng đã bị tên xuyên thủng. Chết chóc hiện hữu ở khắp mọi nơi. Các chiến sĩ giơ cao lưỡi đao đầy máu, quên hết mọi thứ, chỉ nhớ một động tác, đó là chém giết. Người bị thương ngã xuống, chưa kịp bò dậy đã bị ngựa từ phía sau ập đến giẫm đến nát đầu, óc văng tung tóe.


    Đây quả thực là một cơn ác mộng đáng sợ vây hãm tất cả người có mặt nơi này, không ai có thể thoát ra được.


    Cổng thành bị phá nhưng quân địch vẫn không thể tiến vào do thi thể chồng chất ngán ngang đường vào. Sở Kiều cầm đao đứng giữa đám đông, máu tươi nhuộm đỏ áo giáp, hô hấp dần trở nên dồn dập nhưng đao pháp càng lúc càng sắc bén.


    Cầm cự thêm được khắc nào thì Hạ Tiêu sẽ có thể chạy xa hơn khắc ấy.


    Sắc trời càng lúc càng thẫm lại, màn đêm chậm rãi buông xuống. Bốn phía đều là tiếng kêu thét, Sở Kiều càng lúc càng mệt mỏi, động tác không còn linh hoạt nữa, ngay cả lực công kích cũng yếu nhiều, nhưng khi bị tấn công vẫn toàn lực bảo vệ phần bụng.


    Một gã quân địch nhân lúc len lén nhích đến gần, bên dưới ánh đuốc, đột nhiên nhìn rõ khuôn mặt thanh tú cùng chiến giáp khác biệt trên người Sở Kiều thì sửng sốt, lập tức nhận ra thân phận của nàng, liền há to miệng định thông báo cho người khác.


    Tựa như là cùng một lúc, gã nọ không kịp nói tiếng nào đã *Á* một tiếng thảm thiết. Ánh đao bổ xuống với tốc độ nhanh không tưởng, máu bắn ra, gã nọ nặng nề ngã xuống, phía vai đứt lìa, thi thể góp phần xây thêm cho bức tường bằng xác chết kia.


    Quân địch ngoài cửa thành kinh sợ đứng ngây ra tại chỗ nhìn thân ảnh mảnh khảnh trước mắt.


    Sở Kiều đứng đó, một tay giơ cao chiến đao. Thính lực của nàng hiện tại nhạy bén đến kinh người, tựa như có thể nghe được tiếng gió thổi, nghe được tiếng máu nhỏ giọt, nghe được tiếng hít thở vì sợ hãi của đối phương, nghe được cả tiếng tim đập *thình thịch* của bản thân.


    Không ai nhận ra, nàng đã mệt mỏi, mệt đến mức chỉ muốn nhắm mắt lại, mặc cho bóng tối bao phủ mình.


    Ngã xuống đi, không cần gắng gượng nữa.


    Hạ Tiêu có lẽ đã chạy xa rồi, đã mang tiểu hoàng đế rời thành tập hợp với viện binh của Tôn Đệ rồi, huyết mạch của Lý Sách sẽ được an toàn.


    Gắng gượng nữa cũng chẳng ích gì, ngủ một lát đi, nàng làm đủ rồi.


    Dưới chân dần nhũn ra, trước mắt bắt đầu choáng váng.


    Ngay lúc đó, thế công của địch đột nhiên khựng lại rồi lần lượt thối lui. Phía đối diện vang lên tiếng la hét hối hả của gã lính truyền tin, khoảng cách quá xa nghe không rõ, chỉ thấy hắn rối rít múa ngọn đuốc như đang muốn ra hiệu chuyện gì đó.


    Trận thế của địch bắt đầu hỗn loạn.


    “Đại nhân?” Một tiểu binh còn sống sót bên cạnh Sở Kiều hoài nghi nhìn về phía nàng.


    Sở Kiều ngây người một giây rồi như chợt hiểu ra, không nói tiếng nào liền lập tức chạy lên đầu thành.


    “Đại nhân! Có viện quân!” Sở Kiều còn chưa lên được đầu thành thì một viên lính truyền tin lảo đảo chạy đến quỳ xuống trước mặt nàng, mặt đỏ ửng vì kích động, nói to: “Có viện quân!”



    Sở Kiều cũng chẳng quan tâm đến lời của cậu lính truyền tin, vẫn nhanh chân chạy lên đầu thành, trước cổng thành vang lên tiếng ồn như sấm, tất cả chiến sĩ Biện Đường và Tú lệ quân đều đang vỗ tay hoan hô.


    Phía đường chân trời xuất hiện một đường đen, ban đầu chỉ như một dòng suối mỏng manh, nhưng chỉ thoáng sau đã mở rộng thành một đại dương bao la. Vô số binh sĩ tay cầm đao, thân mặc giáp da màu xanh, ào ạt xông đến bằng khí thế tựa con lốc.


    “Giết!!!!!!!!!”



    “Là Thanh hải quân!”



    Không rõ là ai hô lên trước tiên, ngay sau đó tất cả đều rối rít kêu to. Chúng binh sĩ vừa tìm được đường sống trong chỗ chết ôm nhau rơi lệ, vui sướng hoan hô. Tiếng hô xung phong đinh tai nhức óc của Thanh hải quân như lời đáp lại.


    “Đại nhân! Chúng ta được cứu rồi! Đại Đường được cứu rồi!” Thống lĩnh của Sói binh người đầy máu xông đến, hưng phấn nói to với Sở Kiều: “Thanh Hải vương đang dẫn binh đến đây!”



    Nhưng Sở Kiều không hề lên tiếng trả lời, nàng đứng im không nhúc nhích trên cổng thành đầy khói lửa, chiến đao buông rơi bên người, lẳng lặng rơi lệ.


    ……………………………………………………………………………………


    Bên bờ sông Hàm Thủy.


    Dẫu cách rất xa nhưng quân Bắc Yến vẫn nghe được tiếng chém giết từ phía đông.


    Mục Lãng tiến lên nói với Yến Tuân đang ngồi trên lưng ngựa: “Bệ hạ, chúng ta nên lên đường rồi.”



    Yến Tuân nhẹ gật đầu nhưng lại không hề động đậy, mắt vẫn chăm chú nhìn về phía đông hừng hực ánh lửa, vẻ mặt rối rắm khó dò.


    Người nọ cuối cùng vẫn đến.


    Chẳng rõ vì sao, cảm giác căng thẳng trong đáy lòng chợt biến mất, đổi lại thành sự trống rỗng đến cùng cực.


    Trong tiềm thức, hắn không hy vọng nàng chết.


    Nhưng lại không hy vọng người nọ sẽ đến.


    Giang sơn hay mỹ nhân, từ xưa đến giờ luôn là lựa chọn nan giải.


    Thứ hắn không thể buông tay, nhưng người khác lại có thể.


    “Bệ hạ, sau khi Gia Cát Nguyệt rời khỏi Đại Hạ, quân ta liền lập tức tấn công Nhạn Minh Quan, hiện giờ Lục tướng quân đã công phá được cửa khẩu rồi.”


    “Bệ hạ, Triệu Triệt đã mang tàn binh bại tướng rời khỏi cửa khẩu phương bắc, Trình Viễn tướng quân thừa thắng xông lên, hiện đã chiếm lĩnh toàn bộ mười tám thành tỉnh khu vực đông bắc Đại Hạ.”



    “Bệ hạ, nội cảnh Đại Hạ bây giờ chỉ còn mỗi quân đội của Triệu Dương, hiện đang trấn giữ ở lân cận núi Phương Thốn.”



    “Bệ hạ…”



    Trong thoáng chốc, Yến Tuân không hề nghe thấy lời nào, bên tai chỉ văng vẳng tiếng nói trong trẻo của rất nhiều năm trước. Đứa bé gái nở nụ cười tươi như hoa, hơi nhón chân giơ ngón tay chỉ chỉ vào lồng ngực hắn, cười hỏi: “Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ?”


    Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ?


    Sẽ không, có đúng không…


    Cuồng phong nổi lên, hai chú chiến ưng quanh quẩn trên đầu, phát ra tiếng rít chói tai.


    Yến Tuân quay đầu lại, chợt thoáng ngơ ngẩn.


    Người khác đã chọn lựa xong, hắn cũng nên tiếp tục lộ trình mình đã xác định từ trước. Bất kể chờ đón trước mắt là gì thì đó cũng chính là con đường hắn chọn cho bản thân.


    Đời người ngắn ngủi, thời gian trôi qua không chờ ai, không được phép để nữ nhi tình trường quấn chân, không được phép do dự, không được phép xao lãng, không được phép hối hận quay đầu…


    Trong lòng lại lẩm nhẩm tổ huấn của Yến thị, nghĩ đến cảnh tượng phụ mẫu bị Triệu thị trục xuất khỏi gia phả rất nhiều năm trước, cảnh bọn họ bị giết hại một cách tàn nhẫn trên cao nguyên Bắc Yến…


    Từ nay về sau, lãnh thổ Đại Hạ sẽ do ưng kỳ Bắc Yến làm chủ, con dân Đại Hạ sẽ quỳ dưới chân hắn, sẽ tuân theo mệnh lệnh của hắn, tôn hắn làm vua. Cảnh tượng hiển hách đó, chỉ một người phụ nữ sao có thể sánh bằng, hắn không hối hận, tuyệt đối không hối hận.


    Yến Tuân thúc ngựa tiến lên đi đầu, sau lưng là thiên quân vạn mã tựa như một đại dương trùng điệp.


    Mục Lãng ở phía sau nhìn theo thân ảnh dần đi xa của Bắc Yến vương, chợt cảm thấy nam nhân này thật đơn độc.


    Bóng tối dần nuốt chửng mọi hình ảnh xung quanh Yến Tuân, chỉ lộ ra sống lưng kiên định, thẳng tắp như trường thương.


    ……………………………………………………………………………………


    Bên trong Đường Kinh vang dậy tiếng hoan hô.


    Sở Kiều đứng trước cổng thành, phía sau là vô số dân chúng cùng binh lính.


    Gia Cát Nguyệt nhảy xuống khỏi lưng ngựa, cả người đầy gió bụi, vạt áo choàng xanh nhuộm máu khô biến thành màu đen thẫm.


    “Chàng tới làm gì vậy?”



    “Tới thu hồi vật thuộc về mình.”



    Hai mắt lại ửng đỏ, Sở Kiều mím chặt môi cố nén cảm giác cay cay nơi khóe mắt, tiến lên đấm nhẹ lên ngực Gia Cát Nguyệt, nhỏ giọng nói: “Ngốc.”



    Gia Cát Nguyệt giơ tay ôm nàng vào lòng, cười nói: “Tinh Nhi, theo ta về Thanh Hải đi.”



    Sở Kiều nằm trong lòng Gia Cát Nguyệt, nước mắt không kiềm được ào ra, thấm ướt áo hắn.


    Nắng sớm rọi xuống bao phủ lấy hai người bọn họ, hắn nắm tay nàng, lòng bàn tay ấm áp mạnh mẽ, tựa như cả đời cũng không buông ra.


    Nước mắt vẫn tuôn rơi không ngừng, Sở Kiều gật đầu thật mạnh.


    Sau đó, nàng nhón chân nói bên tai hắn, giọng rất nhỏ nhưng chất chứa sự vui sướng không gì sánh được, “Nguyệt, ta có mang rồi.”



    ……………………………………………………………………………………


    Trời đất rộng lớn, thời gian trôi qua như nước chảy, những gì nên kết thúc đều đã kết thúc, tương lai vẫn là một con đường không điểm kết.


    Nhưng dẫu cho phía trước có khó lường bao nhiêu thì mùa xuân vẫn đến, gió vẫn trở nên ấm áp và vạn vật vẫn sinh sôi.

    ở trước mắt, nắm hay buông? (Đại kết cục)

    HOÀN CHÍNH VĂN
     
    Tu Di and PhươngThảo like this.
  16. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 192: Phiên Ngoại 1: Ý thu
    Bên ngoài mưa phùn rơi liên tục, hiện đã là cuối thu. Màn xe bị nước mưa làm ướt đẫm, tiếng bánh xe lăn *lộp cộp* hòa lẫn tiếng hạt mưa rơi *tí tách* lên thành xe. Từ xa nhìn lại, cung điện nguy nga trước mắt tựa như một bức tranh thủy mặc.


    Màn xe được vén lên, một bàn tay thon dài đưa ra, các ngón tay trắng nõn như ngọc, đầu móng tay màu hồng nhạt, cổ tay có đeo một chiếc vòng ngọc tím, càng tôn thêm nước da mịn màng.


    “Vương phi.” Một lão cung nhân quỳ bên đường, nhỏ giọng nói với người trong xe: “Tôn thái y đang thăm mạch ở bên trong.”



    Màn xe được kéo ra, một người phụ nữ mặc cung trang màu lam nhạt chậm rãi xuống xe, mi mục thanh tú, thần sắc thản nhiên.


    Phía sau xuất hiện hai nha hoàn tiến lên bung dù che cho nàng. Một cung nhân khoảng ba mươi tay dắt một đứa trẻ khoảng sáu bảy tuổi tiến đến, cậu bé này tuy còn nhỏ nhưng lại hết sức tuấn tú, cậu bé nhìn thấy người phụ nữ liền nhoẻn miệng cười, nói: “Mẫu phi, ta tan học rồi.”



    Ngọc Thụ mỉm cười, đưa tay nhẹ vuốt phần tóc mái trên trán cậu bé, “Cùng mẫu phi đi gặp hoàng hậu nương nương nào.”



    Cậu bé hơi cau mày như có hơi không nguyện ý, phụng phịu hỏi: “Vĩnh Nhi có thể ở đây chờ mẫu phi không?”



    “Không được.” Ngọc Thụ nghiêm nghị lắc đầu, “Vĩnh Nhi là một đứa trẻ hiểu chuyện mà, hoàng hậu không khỏe nên chúng ta phải đến thăm hỏi.”



    Cậu bé im lặng nghĩ ngợi một chốc, cuối cùng bất đắc dĩ gật đầu, “Vâng ạ.” Có điều vẻ mặt vẫn lộ ra mấy phần không muốn.


    Bốn năm trước, Trưởng công chúa dùng giang sơn làm hồi môn, tám mươi vạn đại quân chờ đợi ở quan ngoại tranh thủ thời cơ, giành được một thân phận chư hầu cho Hoài Tống sau nhiều năm nội loạn. Sau đó, nàng rời khỏi quê hương ấm ấp, đi thuyền dọc sông Xích Thủy tiến lên phương bắc, cuối cùng đặt chân vào thành Chân Hoàng. Toàn bộ hoàng thân quốc thích đều theo công chúa rời khỏi cố thổ, an cư tại thành trì này.


    Đại Hạ diệt vong đã mấy năm, hiện tại đất nước gồm mười tám châu quận thuộc hạ du sông Hồng Xuyên đã đổi tên thành ‘Yến’. Tân hoàng đế dựa trên cơ sở hạ tầng vốn có, mở rộng cung Thịnh Kim về phía đông nam xây dựng cung điện dành riêng cho Trưởng công chúa của Hoài Tống, đặt tên là điện Đông Nam, cũng đồng ý cho hoàng hậu tham chính, giải quyết các chính vụ liên quan đến Hoài Tống. Quan viên Hoài Tống tam phẩm trở xuống thì không được can dự chuyện triều chính. Bên ngoài đều coi điện Đông Nam là triều đình Hoài Tống thu nhỏ.


    Chỉ có điều, hai năm gần đây, thân thể của Trưởng công chúa càng ngày càng sa sút, điện Đông Nam cũng vì vậy mà thêm lạnh lẽo.


    Cha của Ngọc Thụ từng là trọng thần của Hoài Tống, ban đầu vốn là thần tử trụ cột ở điện Đông Nam, nhưng mấy năm gần đây, cựu thần Hoài Tống ngày xưa đều dần nghiêng về phía triều đình. Chính sách sát nhập phóng khoáng của tân hoàng đã từ từ tiêu trừ hết sự đề phòng của những thần tử dị quốc này. Điện Đông Nam hiện giờ đã yên tĩnh đến mức có thể nghe được tiếng ve đầu thu kêu văng vẳng.


    “Huyền vương phi đến đấy à?” Vân cô cô năm nay đã hơn sáu mươi, tóc bạc gần hết, da đầy đồi mồi. Bà vui vẻ đi đến, cúi xuống nựng Vĩnh vương, cười nói: “Vĩnh vương điện hạ càng lúc càng tuấn tú, lớn lên nhất định cũng là một mỹ nam như Huyền vương gia cho mà xem.”



    Vân cô cô đi theo hoàng hậu nhiều năm nên có địa vị rất cao trong cung, ngay cả Ngọc Thụ cũng luôn kính trọng bà, nàng cười nói: “Vân cô cô gần đây có khỏe không?”



    “Khỏe, khỏe, cảm ơn vương phi hỏi thăm.”



    “Hoàng hậu bệnh thế nào rồi?”



    “Haiz, vẫn là bệnh cũ.” Vân cô cô thở dài, người lớn tuổi thường hay ca thán, nên lại bắt đầu kể lể với Ngọc Thụ: “Đã ăn rất ít lại không chịu uống thuốc. Bằng tuổi này rồi mà tính tình vẫn hệt như trẻ con.”



    “Cả Vĩnh Nhi còn không sợ uống thuốc!” Vĩnh vương ở một bên nghe vậy thì đột nhiên lên tiếng.


    Vân cô cô vui vẻ vuốt đầu Vĩnh vương, cười nói: “Vĩnh vương điện hạ quả đúng là một nam tử hán, lát nữa vào trong nhớ khuyên nhủ hoàng hậu nương nương nhé?”



    “Hoàng hậu nương nương đã tỉnh, vừa hỏi là ai đến ạ.” Một cung nô đi ra thông báo.


    Ngọc Thụ nghe nói liền vội vã gật đầu với Vân cô cô, nhanh chóng dẫn Vĩnh vương vào cung Chiêu Dương.


    Cung Chiêu Dương vẫn tráng lệ như cũ, nhưng Ngọc Thụ luôn cảm thấy nơi này quá mức trống trải, đến mức đi trên sàn có thể nghe được tiếng vang.


    Hoàng hậu thích yên tĩnh nên bên cạnh có rất ít người. Tẩm cung rộng lớn nhường này mà cũng chỉ có vài cung nhân hầu hạ.


    Hai cung nô nhị đẳng vén rèm châu mở đường cho Ngọc Thụ, hạt châu va vào nhau phát ra âm thanh trong trẻo. Ngọc Thụ dẫn Vĩnh vương tiến vào, quỳ xuống ở phòng sưởi bên ngoài, nhẹ nhàng nói: “Thần thiếp tham kiến hoàng hậu nương nương.”



    Hồi lâu sau mới có một giọng nói điềm tĩnh vang lên, nghe kỹ thì dường như có hơi nặng nề, “Là Ngọc Thụ đó à, vào đi.”



    Bên trong điện hơi lạnh, bình phong bằng đá cẩm thạch điêu khắc tranh sơn thủy khiến tẩm điện vốn trống trải thêm phần tĩnh mịch. Hoàng hậu mặc loan phục màu vàng sáng, nằm nghiêng người trên giường, tóc được chải búi tỉ mỉ, không có trang sức gì khác ngoài một một cây trâm ngọc lam điền xanh biếc, mi tâm đính một viên đá đỏ lớn cỡ đầu ngón tay.


    “Văn Viên, ban thưởng ghế ngồi.”



    Một cung nhân nhất đẳng lập tức tiến lên chuẩn bị ghế cho Ngọc Thụ. Ngọc Thụ nói tạ ơn, vừa mới ngồi xuống thì đã nghe hoàng hậu hỏi: “Gần đây trong nhà vẫn ổn chứ?”



    Ngọc Thụ cung kính đáp lời: “Thưa, tất cả đều ổn.”



    “Nghe nói các hoàng tử vừa mới đổi thầy dạy, Vĩnh Nhi theo kịp bài vở chứ?”



    “Vĩnh Nhi tuổi còn nhỏ, thiên tư dĩ nhiên không sánh bằng chư vị hoàng tử. Nhưng thần thiếp có mời hai vị tiên sinh đến phủ phụ đạo thêm cho Vinh Nhi nên vẫn miễn cưỡng theo kịp ạ.”



    Hoàng hậu đột nhiên ho khan mấy tiếng, sắc mặt càng thêm tái nhợt, “Ngươi vốn xuất thân dòng dõi thư hương, dĩ nhiên biết được nên dạy dỗ con cái thế nào, chỉ là chớ nên quá nóng vội, Vĩnh Nhi còn nhỏ, chớ quản thúc thằng bé sớm như vậy.”



    Sau đó hai người lại bắt đầu nói sang chuyện nhà. Quan hệ giữa Ngọc Thụ và hoàng hậu trước giờ khá kỳ quái, tuy ngoài mặt hoàng hậu luôn đối với vương phủ vinh sủng có thừa, nhưng mỗi khi nói chuyện với nàng luôn xa cách mấy phần. Ngay cả mỗi lần nàng mang con trai đến thỉnh an, nói tới nói lui luôn chỉ có mấy chuyện vặt vãnh này.


    Hàn huyên thêm một lúc, bên ngoài đột nhiên truyền vào tiếng động. Ngọc Thụ hoảng hốt, vội vàng kéo con trai đứng dậy. Rèm châu được vén lên, thân ảnh mặc long bào sáng chói của hoàng đế chậm rãi tiến vào.


    “Thần thiếp thỉnh an hoàng thượng, hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế.”



    “Vĩnh Nhi thỉnh an hoàng thượng, hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế.”



    Hoàng đế khẽ phất tay rồi trầm giọng nói: “Bình thân.”



    “Tạ ơn hoàng thượng.”


    Hoàng đế tùy ý ngồi xuống một bên giường, hoàng hậu người mang bệnh nên vẫn nằm trên giường, chỉ cúi đầu thi lễ rồi mỉm cười hỏi: “Hôm nay sao hoàng thượng lại có thời gian rảnh rỗi đến đây thế?”



    Hoàng đế nói: “Nghe Tôn thái y nói gần đây nàng không được khỏe nên mới đến xem nàng một chút.”



    “Hoàng thượng ngày nào cũng có cả núi sự vụ còn phải bận tâm đến sức khỏe của thần thiếp, thần thiếp thấy thật có lỗi.”



    Ngọc Thụ cúi đầu ngồi một bên, nghe hoàng đế và hoàng hậu khách sáo qua lại thì không khỏi có hơi mất tự nhiên, nên cũng im lặng không nói tiếng nào, chỉ kéo con trai đến gần mình hơn, tựa như đang thành tâm lắng nghe.


    Hoàng đế nói qua nói lại mấy câu với hoàng hậu rồi quay lại hỏi Ngọc Thụ: “Gần đây trong nhà thế nào?”



    “Thưa nhờ phúc của hoàng thượng, mọi thứ đều tốt.”



    “Các hoàng tử vừa mới đổi thầy, Vĩnh Nhi còn nhỏ như vậy, có theo kịp bài vở không?”



    Ngọc Thụ thoáng ngây người, thầm nghĩ quả nhiên là vợ chồng, nhưng ngoài mặt vẫn nhanh nhảu gật đầu, “Đa tạ hoàng thượng quan tâm, vẫn miễn cưỡng theo được ạ.”



    Hoàng đế gật đầu, đang hỏi thêm ít chuyện vặt vãnh khác thì lại đột nhiên quay sang nói với nội thị Tào Thu đứng bên cạnh: “Mang bộ cung tên do Pháp Lương tiến cống đến đây, Vĩnh Nhi đã sắp tám tuổi, cũng đến lúc học binh pháp rồi. Huyền Mặc thích múa đao khua thương nhưng vẫn thành thạo nhất là bắn tên, hổ phụ sinh hổ tử, chắc chắn Vĩnh Nhi cũng sẽ không làm trẫm thất vọng.”



    Tào Thu nhanh chóng cúi người đưa ra một cái hộp dài. Ngọc Thụ vội vàng đứng dậy tạ ơn, trong lòng thoáng hơi lo lắng. Hoàng đế nói là đến thăm hoàng hậu, sao lại mang theo sẵn cung tên? Chẳng lẽ đã sớm biết nàng dẫn Vĩnh Nhi tiến cung sao?


    Những năm này, hoàng đế quả thực đối xử với Huyền vương phủ rất tốt, ban thưởng các loại không ngừng đưa đến, chẳng hề vì vương phủ không có nam chủ nhân mà có chút chậm trễ nào. Vấn đề này đã khiến rất nhiều người âm thầm đoán già đoán non, hơn nữa mỗi lần hoàng đế nhắc đến Huyền vương đều như rất quen thuộc. Có điều theo Ngọc Thụ được biết, hoàng đế và vương gia nhà nàng chưa từng gặp nhau bao giờ.


    Trong đầu nhất thời có rất nhiều câu hỏi nhưng Ngọc Thụ vẫn nhận lấy cái hộp. Vĩnh Nhi bên cạnh cũng tỏ vẻ vui sướng, đĩnh đạc dập đầu hai cái rồi cười nói: “Hoàng thượng đối với Vĩnh Nhi thật tốt.”



    Hoàng đế nở một nụ cười hiếm thấy, đứng lên nói: “Trẫm còn vài chính sự cần xử lý, tạm thời đi trước. Các người cứ ở lại trò chuyện với hoàng hậu.” Dứt lời liền rời đi trong tiếng cung tiễn của mọi người.


    Hoàng đế vừa đi thì hoàng hậu lại bắt đầu ho khan, tinh thần cũng như kém đi rất nhiều.


    Văn Viện thấp giọng hỏi han gì đó, hoàng hậu nghe hỏi xong thì cởi bộ cung trang nặng nề trên người ra, thay bằng một bộ y phục đơn giản dùng khi ngủ. Trò chuyện thêm vài câu vô thưởng vô phạt, Ngọc Thụ nhìn thấy hoàng hậu lộ vẻ mệt mỏi thì đứng dậy xin cáo lui. Hoàng hậu cũng không giữ bọn họ lại, chỉ bảo cung nô đưa đồ ban thưởng đã chuẩn bị sẵn ra rồi cho thị nữ đưa hai mẹ con xuất cung.


    Ngọc Thụ ôm Vĩnh Nhi ngồi trên xe ngựa chậm rãi đi qua con ngõ hẹp dài, gió thu thổi lên thành xe khiến màn cửa sổ nhẹ lay động. Ngọc Thụ vẫn còn mấy phần hoang mang, nghĩ kỹ lại thì dường như lần nào hai mẹ con nàng tiến cung cũng đều gặp được hoàng thượng, nói cách khác, mỗi lần bọn họ đến vấn an hoàng hậu đều trùng hợp lúc hoàng đến thăm hoàng hậu. Trong khi theo lý thì một vương phi ở góa thủ tiết như nàng không được diện kiến hoàng đế.


    Trong lòng đột nhiên dâng lên cảm giác bất an, nhớ đến vẻ mặt của hoàng đế lúc nói đến trượng phu, Ngọc Thụ không khỏi nghi hoặc, mở cửa xe ra hỏi Khương Ngô: “Khương Ngô, vương gia bắn cung rất giỏi sao?”



    Khương Ngô thoáng sửng sốt vì bị hỏi bất chợt, nhưng cũng mau chóng đáp lời: “Đó là dĩ nhiên ạ, nhưng kiếm pháp của vương gia mới là hạng nhất, kinh thành năm đó không ai không biết. Có điều nếu bàn đến khả năng bắn cung thì hoàng hậu nương nương cũng không kém cạnh đâu.”


    Ngọc Thụ chau mày, trong đầu xuất hiện một ý niệm không tên, nhưng cũng chỉ là thoáng qua, khiến nàng không thể làm rõ đó là gì.


    Thế nên nàng cũng chỉ có thể gật đầu rồi rồi đóng cửa xe lại.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  17. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 193: Phiên ngoại 2: Âm dương
    Ngọc Thụ vừa đi thì Nạp Lan Hồng Diệp càng ho dữ dội hơn. Nhóm thái y trực ở thái y viện vội vàng chạy đến cung Chiêu Dương, lúi húi bắt mạch rồi nấu thuốc cho hoàng hậu, kéo dài khoảng hơn hai canh giờ.


    Trong đại điện nồng nặc mùi thuốc, Nạp Lan Hồng Diệp nằm trên giường thở dốc không ngừng, bị giày vò gần nửa ngày đã khiến mặt nàng càng thêm tái nhợt.


    “Hoàng hậu nương nương, đã hỏi thăm được rồi, tối nay hoàng thượng nghỉ lại ở điện Thanh Lộ, không có phi tần nào hầu hạ cả.”



    Nạp Lan Hồng Diệp đưa tay lên chặn ngực, yếu ớt hỏi: “Cả Trình phi cũng không?”



    “Thưa không. Trình phi đang có nguyệt sự nên vẫn còn ở Hồng phường ạ.”



    Nạp Lan Hồng Diệp gật đầu, im lặng suy nghĩ trong chốc lát mới nói: “Trời càng lúc càng lạnh, ngươi đi bảo Tào Thu căn dặn bọn nô tài hầu hạ cẩn thận một chút, chớ để bệ hạ bị cảm lạnh.”



    Văn Viện ‘dạ’ một tiếng, định ra ngoài thì Nạp Lan Hồng Diệp lại chợt lên tiếng: “Thôi đi, không cần đi nữa.”Dứt lời liền xoay lưng nằm quay mặt vào trong, nhẹ giọng nói: “Chưa cần dọn bữa tối lên đâu, bổn cung muốn ngủ một lát.”



    “Vâng thưa nương nương.”



    Yến Tuân lập nước đã gần năm năm, và cũng giống như rất nhiều đời hoàng đế khác, mỗi năm hậu cung đều có thêm vô số mỹ nhân trẻ tuổi, càng lúc càng náo nhiệt. Dung mạo xinh đẹp, phong thái trang nhã, bụng đầy thi thư, ngây thơ đáng yêu, mỗi người mỗi vẻ, tựa như tất cả hoa thắm trên thế gian đều tụ hợp lại đây, cùng lúc nở rộ khiến chốn thâm cung vốn tịch mịch này biến thành vườn hoa rực rỡ sắc màu.


    Trong khi các phi tần khác lần lượt có thai, Nạp Lan Hồng Diệp đã vào cung bốn năm nhưng vẫn chưa sinh hạ được một đứa con nào. Trình phi, biểu muội của đại tướng quân Trình Viễn thậm chí còn cùng lúc sinh được một đôi lân nhi, địa vị ở hậu cung đã có phần lấn lướt vị hoàng hậu nhiều bệnh như nàng.


    Mà người nọ cũng đã rất lâu chưa từng đặt chân đến cung Chiêu Dương. Nếu hôm nay không có Ngọc Thụ dẫn Vĩnh Nhi đến đây thì e chàng cũng sẽ không tìm đến.


    Mặt trời dần xuống núi, vầng trăng treo ngang ngọn cây, tỏa ra ánh sáng bàng bạc bao phủ bốn phía. Nạp Lan Hồng Diệp hiện tại rất gầy, trong bộ y phục ngủ bằng gấm càng giống một chú hạc mong manh yếu ớt, thỉnh thoảng lại thấp giọng ho khan.


    Nàng có lẽ đã sớm biết được kết cục này…


    Sáu năm trước, sau khi cửa khẩu cuối cùng ở Đại Hạ bị quân Bắc Yến đánh hạ, tin tiểu thế tử của Thanh Hải vừa ra đời đã truyền ra khắp đại lục. Bởi vì lúc mang thai người mẹ chịu nhiều xóc nảy, thân thể không tốt nên đứa bé đã suýt bị chết non. Thanh Hải vương phi sinh con xong cũng trong tình trạng nguy ngập. Thanh Hải vương yêu vợ con nổi tiếng thiên hạ, năm đó có thể vì Tú Lệ vương mà bỏ qua cơ hội tranh thiên hạ với Yến Tuân thì đừng nói chi đến bây giờ.


    Phía Thanh Hải lập tức phát ra thông báo đến toàn đại lục, treo giải thưởng vạn lượng vàng tìm kiếm danh y. Năm đó, Bắc Yến kết đồng minh với Hoài Tống vừa thành công giành được chiến thắng toàn diện. Nghe nói Thanh Trúc tiên sinh ở Mậu Lăng có y thuật cao minh, nhưng vì tuổi già lại thêm Thanh Hải là chỗ man di xa xôi nên không chịu dời bước, Thanh Hải vương chỉ với ba ngàn kỵ binh tinh nhuệ lại dám ra khỏi Thùy Vi Quan, liều mạng chạy một mạch đến thẳng Mậu Lăng bắt Thanh Trúc tiên sinh trở về, nhờ vậy mới cứu được mạng của tiểu thế tử và Tú Lệ vương.


    Hôm tin tức được truyền đến chính là ngày nàng và Yến Tuân trao đổi canh thiếp, đôi uyên ương đỏ thẫm trên lá thiếp đã biến tâm nguyện nhiều năm của nàng thành sự thật.


    Nạp Lan Hồng Diệp đưa tay xuống dưới gối lấy ra một tờ thiếp màu vàng, trên thiếp viết tên của hai người. Hai cái tên ‘Yến Tuân’ và ‘Nạp Lan Hồng Diệp’ được viết lồng vào nhau, nét bút dài tựa như đã họa ra nửa đời nàng.


    Nàng đưa tay sờ lên hoa văn đôi uyên ương, đến chữ hỉ đỏ thắm, cuối cùng dừng lại trên tám chữ triện thếp vàng: Vĩnh viễn nắm tay, gắn bó trọn đời.


    Chỉ bốn chữ đơn giản nhưng khóe mắt nàng lại ươn ướt khi nhìn thấy chúng.


    Hôm đó đôi vợ chồng vừa cưới ngồi trên điện Hợp Hoan đón nhận sự chúc tụng của tất cả mọi người, hoa hạnh bên ngoài nở đầy cành, rực rỡ cả một khoảng trời, gió thổi qua kéo theo mưa cánh hoa tràn ngập không gian, đẹp một cách mộng ảo.


    Yến Tuân bình thản ngồi trước mặt Nạp Lan Hồng Diệp, mở miệng đều toàn là những lời lẽ khách khí, nói không nhiều nhưng cũng không ít, vừa không thất lễ vừa không quá thân cận.


    Nạp Lan Hồng Diệp đã mấy lần muốn nói ra bí mật cất giấu nhiều năm qua nhưng đều bị vẻ mặt lãnh đạm của Yến Tuân cản lại. Mắt thấy trời đã bắt đầu tối, Yến Tuân tỏ ý định rời đi khiến Nạp Lan Hồng Diệp không khỏi có hơi nóng nảy, định mở miệng nói toạc ra thì thị vệ thân cận đột nhiên bẩm báo rằng có tình báo khẩn.


    Thì ra là tin Thanh Hải vương đã gần đến Mậu Lăng.


    Vẻ điềm tĩnh và lãnh đạm trừ trước đến nay của Yến Tuân chợt thay đổi, hắn lập tức bảo thị vệ truyền lệnh tập hợp quân đội đóng ở lân cận Mậu Lăng, bằng mọi giá phải cầm chân Thanh Hải vương ở cửa khẩu.


    Có điều thị vệ còn chưa ra khỏi cửa thì đã bị gọi giật lại. Trên mặt Yến Tuân như bị bao phủ bởi một màn sương mông lung, cánh tay vẫn duy trì tư thế đang đưa ra, môi khẽ hé như muốn nói nhưng lại không ra lời. Cánh hoa hạnh bên ngoài bị gió thổi tung lên cao, sau đó rơi ào ạt xuống trên mặt đất.


    “Thôi đi.” Yến Tuân thả tay xuống, khôi phục vẻ bình tĩnh trước sau không đổi vốn có.


    “Thôi ạ?” Thị vệ sửng sốt, không tự chủ hỏi ngược lại.


    Yến Tuân nghe hỏi thì khẽ nhướng mày, không nói tiếng nào mà chỉ đảo mắt một vòng nhìn thẳng vào mặt thị vệ nọ. Hàn khí từ ánh mắt đó khiến thị vệ rợn sống lưng, lập tức quỳ sụp xuống ‘dạ’ một tiếng thật to rồi lui ra ngoài.


    Bên ngoài sắc trời dần tối, Yến Tuân quay đầu lại thản nhiên cười với Nạp Lan Hồng Diệp, cầm đũa gắp cho nàng một ít đọt măng tây xanh mướt, nói: “Ăn nhiều măng tây rất tốt cho sức khỏe.”



    Lăn lộn chốn quan trường gần nửa đời, Nạp Lan Hồng Diệp dĩ nhiên đã sớm học được cách kiềm chế bản thân cùng sắc mặt, nàng khẽ gật đầu, cười đáp: “Đa tạ bệ hạ.”


    Đây chẳng qua chỉ là một nốt nhạc đệm rất nhỏ, tất cả hạ nhân hầu bên cạnh đều đã quên câu chuyện vô thưởng vô phạt này, chỉ có nàng là nhớ rất rõ.


    Tối hôm đó, trong dư âm hoàng hôn, nàng bất chợt hoảng hốt nhận rõ một chuyện mà nhiều năm qua mình vẫn một mực không chịu thừa nhận.


    Bên trong tẩm điện truyền ra tiếng ho khan, Văn Viện ở ngoài vốc thêm một nắm huân hương bỏ vào lư hương, khẽ nhíu mày.


    Ngoài cửa sổ, ánh trăng lả lướt, bóng cây lay động trong gió, mùa đông ở thành Chân Hoàng lại sắp đến.


    ……………………………………………………………………………………


    Đêm nay Ngọc Thụ khó ngủ do ban ngày đã ngủ khá nhiều.


    Cuối cùng nàng khoác một tấm áo lông chồn bạc lên người, cầm đèn lồng đi đến phòng con trai. Vĩnh Nhi ngủ rất ngoan, không hề đá chăn lung tung, cái miệng nhỏ hơi chu chu như đang nằm mơ được ăn thứ gì rất ngon.


    Ngọc Thụ ngồi xuống bên giường con trai, gió đêm thật tĩnh lặng, lò hương trong góc chầm chậm tỏa ra mùi hương có tác dụng an thần, từng vòng khói nhạt như khói bếp lượn lờ trên mái nhà ở nông thôn. Nàng muốn đưa tay sờ mặt con nhưng lại sợ trên tay có hơi lạnh bên ngoài làm cậu bé tỉnh giấc, nên cuối cùng chỉ vuốt nhẹ phần tóc lòa xoà trên trán cậu bé, khẽ mỉm cười.


    Xa xa chợt truyền đến ba tiếng chiêng báo canh giờ, tiếng hô của phu canh kéo dài theo tiếng chiêng. Ngọc Thụ thấy lòng an bình đến lạ thường, ngay cả mấy câu như ‘cẩn thận củi lửa’ cũng nghe thật êm tai.


    Một lát sau nàng đứng lên ra khỏi phòng, trước đó còn cẩn thận đóng kín cửa phòng, vừa xoay người định trở về phòng mình thì chợt nhìn thấy một đàn đom đóm.


    Trong một khắc ngắn ngủi, nàng chợt ngây người.


    Và tựa như trăm ngàn lần suốt mấy năm qua, nàng đứng chôn chân một chỗ, lẳng lặng ngắm nhìn đàn đom đóm bay lượn lờ trong không trung.


    Năm năm rồi, tượng chàng ở Đông Hải có lẽ đã phủ đầy tro bụi, chúng ngôn quan địa phương có lẽ đã quên mất tên húy của chàng từ lâu, ngay cả người dân từng ngày đêm cầu phúc cho chàng có lẽ cũng đã lấy bài vị của chàng xuống, thay bằng bài vị của phụ mẫu và thân nhân.


    Tất cả mọi người đã dần quên đi chàng, quên chiến công của chàng, quên mất giọng nói và nụ cười của chàng, quên những gì chàng từng làm cho đất nước, cái giá nặng nề chàng đã bỏ ra vì tổ quốc.


    Chỉ có nàng, người phụ nữ khờ khạo như trong lời người khác là vẫn còn đến thư phòng chàng thắp nến mỗi khi trời tối.


    Nàng rất ít khi đến gần thư phòng, ngay cả khi chàng còn sống, nấu canh xong cũng chỉ dám để thị nữ mang đi.


    Chàng nói mình bận rộn chính sự, không thích bị quấy rầy. Nàng tin.


    Chàng nói thư phòng có nhiều tin tức quân sự quan trọng, hạ nhân không được đến gần. Nàng tin.


    Chàng nói tối nay bận xử lý chính sự đến khuya nên sẽ ngủ lại trong thư phòng, không phải chờ cửa. Nàng cũng tin.


    Nàng khờ khạo như vậy đấy, vô luận nam nhân của nàng nói gì, nàng đều tin tưởng. Nhưng có những lúc nàng cũng muốn nói mấy câu đơn giản, ví dụ như, nàng không giống hạ nhân, nàng chỉ muốn vào đưa canh cho chàng, sẽ không quấy rầy đến chàng. Ví dụ như, nàng là vợ chàng, không phải là hạ nhân. Ví dụ như, thật ra thì đêm nào nàng cũng ngủ rất muộn, chàng có về trễ đến đâu cũng không sao, không phải sợ làm nàng thức giấc.


    Song nàng vẫn không dám nói ra, cũng có lẽ là vì xấu hổ…


    Cho nên, mỗi đêm nàng đều tựa đầu bên cửa sổ đau đáu nhìn ngọn đèn ở thư phòng, chờ đến khi đèn tắt thì mới lên giường, yên tâm nhắm mắt lại.


    Thỉnh thoảng nàng cũng trộm nghĩ, như vậy có tính là cùng ngủ chung không nhỉ?


    Nhưng chỉ vừa nghĩ thoáng qua thì nàng đã đỏ bừng mặt vì xấu hổ.


    Mỗi lần về nhà mẹ đẻ, các tỷ tỷ đôi khi sẽ hỏi nhỏ mấy chuyện như vương gia nhà nàng có người bên ngoài phải không, vân vân. Và lần nào nghe được nàng cũng sẽ vô cùng tức giận. Vương gia là người thế nào, bọn họ sao có thể nói về chàng như vậy?


    Nhưng nàng không khéo ăn nói nên lần nào cũng nói không lại các tỷ tỷ. Dần dần, ngay cả nhà mẹ đẻ nàng cũng ít về thăm.


    Nàng biết mình có một vị phu quân tốt nhất trên đời, chàng chính trực, lương thiện, tài hoa hơn người, chàng là tấm gương được cả triều tán dương. Chữ của chàng đẹp nhất kinh thành, thi từ của chàng được lưu truyền rộng rãi bên ngoài, chàng không thích uống rượu, khi cần thì cũng chỉ uống xã giao, chưa hề để bản thân say bét nhè, không nạp thiếp cũng không lưu luyến bướm hoa chốn phong trần, trên triều được xưng tụng là Hiền vương, địa vị trong quân doanh lại cao hơn bất kỳ ai khác.


    Tuy chàng thỉnh thoảng vì bận bịu chính sự nên lạnh nhạt với nàng, nhưng thế thì sao? So với mẫu thân và các tỷ tỷ phải cả ngày tranh thủ tình cảm của phu quân và chống đỡ với đủ loại chiêu trò của thiếp thất, nàng may mắn hơn rất nhiều.


    Chàng là phu quân của nàng, là trời, là toàn bộ thế giới của nàng. Dĩ nhiên nàng phải tin tưởng, phải chăm sóc và chờ đợi chàng.


    Nàng làm sao có thế hoài nghi, có thể nghi kỵ, có thể buồn giận hay oán trách chàng chứ?


    Huống hồ, dẫu cho chàng đã qua đời thì nàng vẫn hưởng thụ thành quả từ chiến công của chàng. Và hơn hết cả, chàng còn để lại cho nàng thứ quý giá nhất, chính là con trai của hai người.


    Như thế còn chưa đủ sao?


    Ngọc Thụ mỉm cười, đưa tay khép chặt vạt áo choàng, thì thầm: “Ngày mai phải đi mua ít thêm giấy mới được, trời trở lạnh rồi, phải thay mới giấy dán cửa sổ thư phòng thôi.”
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  18. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 194: Phiên ngoại 3: Người đã khuất
    Bên dưới khoảng trời xanh thăm thẳm, Nạp Lan Hồng Diệp dường như lại nhìn thấy bóng dáng người nọ.


    Hoa lê nở rộ tô điểm thêm cho sắc xuân miên man, thiếu niên đứng dưới gốc hoa lê, người mặc áo choàng màu xanh ngọc, thắt lưng màu tím. Ánh mặt trời xuyên qua ngọn cây hắt lên mặt thiếu niên, hàng mi lưu lại bóng râm hình quạt trên sống mũi. Thiếu niên nhìn nàng từ xa chạy đến, cao giọng cười nói: “Này! Bắt ta chờ nửa ngày rồi đấy!”



    Ánh sáng trước mặt chợt vỡ vụn, nàng thoáng thấy được vẻ mặt khẩn trương của Văn Viện, môi Văn Viện hé ra rồi lại khép nhưng nàng không hề nghe thấy được gì.


    Nàng biết mình lại ngã bệnh. Xung quanh có rất nhiều người, ai đó đang cuống quít kéo tay nàng, lực mạnh đến mức khiến nàng hơi đau.


    Nàng chau mày, hơi tức giận muốn khiển trách đám hạ nhân không biết nặng nhẹ này, nhưng giọng nói lại dường như không theo lệnh, nàng cố hé môi nhưng chỉ có thể hớp không khí như một chú cá bị mắc cạn, không chút sức sống.


    Văn Viện nóng nảy quát tiểu thái giám đứng bên cạnh: “Sao hoàng thượng vẫn chưa tới? Đã đi thông báo chưa?”



    Tiểu thái giám mặt trắng bệch, quỳ *phịch* xuống đất, khóc nức nở, “Nô tài đã đi mấy lượt, nhưng Trình phi nương nương lại nói rằng hoàng thượng đang ngủ trưa, có chuyện gì thì chờ hoàng thượng tỉnh lại rồi hẵng nói.”



    “Có lý nào lại như vậy!” Văn Viện phẫn nộ nói: “Trình phi thật to gan, từ khi nào thì đến phiên nàng ta quyết định những chuyện này chứ?”


    Văn Viện theo hầu Nạp Lan Hồng Diệp đã lâu nên có địa vị khá cao, đám hạ nhân bên cạnh thấy nàng nổi giận thì đều quỳ rạp xuống đất, không dám hé môi nói lời nào.


    Nhưng Nạp Lan Hồng Diệp lại nghĩ, Văn Viện đúng là càng lúc càng to gan, lời như vậy mà cũng dám nói ra, nếu truyền đến tai Trình phi thì e lại có một hồi sóng gió nữa rồi.


    Nghĩ thế nhưng vẫn không nói tiếng nào, Nạp Lạp Hồng Diệp tiếp tục nhắm mắt dưỡng thần, mặc cho đám cung nhân đang cuống cuồng như kiến bò trên chảo nóng.


    Mà Trình phi quả thật có hơi quá đáng, ỷ vào mẫu tộc và hai hoàng tử thân sinh, hành sự càng lúc càng không coi ai ra gì, ngang bướng tùy tiện, không buồn xem xét hậu quả. Sau khi khỏe lại, có lẽ nàng nên điều chỉnh lại một chút, không thể tiếp tục mặc cho nàng ta khuấy động cho hậu cung đầy chướng khí như vậy nữa.


    Nạp Lan Hồng Diệp mệt mỏi thở dài, tiếng nói ầm ĩ bên tai dần rời xa, nàng chậm rãi chìm vào giấc ngủ đầy mộng mị.


    ……………………………………………………………………………………


    Trình phi Trình Dung Dung vốn là biểu muội của đại tướng quân Trình Viễn. Sau khi hoàng đế Đại Yến chọn đóng đô ở thành Chân Hoàng, vừa để bổ sung hậu cung vừa để lung lạc triều thần, Trình phi và chúng tiểu thư của đại thần trong triều lần lượt tiến cung. Nhờ thế lực của biểu ca và dáng vẻ xinh đẹp thông minh của bản thân, Trình phi nhanh chóng được hoàng thượng yêu thích. Mà nàng cũng không thua kém, thoáng cái đã sinh cho hoàng đế một đôi song nam, nhảy lên đứng đầu ba phi, địa vị chỉ sau mỗi hoàng hậu.


    Trình phi vốn là một nữ tử thông minh biết tiến biết lùi, đáng tiếc vì liên tục được vinh sủng, quyền lực đến quá nhanh nên hành sự càng lúc càng không kiêng nể ai, nói chuyện cũng không hề dè chừng.


    Yến Tuân chợp mắt khá lâu. Mãi đến xế chiều, khi mùi thức ăn thơm lừng ở ngự thiện phòng tỏa ra từng ngõ ngách của cung Thịnh Kim thì hắn mới chậm rãi tỉnh lại.


    Đêm qua biên quan có tin khẩn, Yến Tuân thức cả đêm nên bây giơ vẫn hơi choáng váng.


    Trình phi mặc y phục lụa màu vàng nhạt quỳ dưới chân giường, yểu điệu dâng một chén trà nhài lên cho Yến Tuân, thuận miệng kể ra vài chuyện lý thú trong cung.


    Yến Tuân hờ hững nghe, thỉnh thoảng mới nói mấy câu ứng phó, một câu than phiền bay vào tai khiến hắn hơi ngẩn người, lập tức cúi đầu hỏi: “Vừa rồi mới nói gì?”



    Trình phi giật thót trong bụng, cố gắng trấn tĩnh, nói mà vẫn giữ nụ cười: “Lúc trưa Tiểu Thuận Tử ở điện Đông Nam có đến báo hoàng hậu nương nương không khỏe, thần thiếp thấy hoàng thượng ngủ say nên không nỡ đánh thức. Thần thiếp cũng đoán là bọn hạ nhân không hiểu chuyện, chỉ thích xé chuyện nhỏ thành chuyện to mà thôi. Thân thể hoàng hậu nương nương trước giờ không tốt là chuyện ai cũng biết, nương nương thường không muốn vì chút chuyện nhỏ này mà phiền đến hoàng thượng. Lần này nương nương nhất định là không biết nên bọn hạ nhân mới được dịp làm bậy, biết rồi thì chắc chắn sẽ xử phạt bọn họ thật nặng vì dám đến quấy rầy hoàng thượng.”



    Yến Tuân ngồi trên giường, không nói không rằng rửa tay, lau mặt, uống trà rồi mang giày vào, ánh mắt thâm trầm cùng vẻ bình thản khiến người khác không nhìn ra hắn đang nghĩ gì.


    Trình phi mừng thầm trong lòng, rối rít hầu hạ Yến Tuân rửa mặt thay quần áo. Chẳng ngờ Yến Tuân chỉnh trang xong y phục liền dợm chân đi ra ngoài. Trình phi cuống quýt hỏi: “Hoàng thượng không ở lại dùng bữa tối sao?”


    Yến Tuân chậm rãi xoay người lại, ráng chiếu chiếu lên khuôn mặt tuấn tú càng làm nổi bật đôi mắt sâu thăm thẳm. Hắn lẳng lặng nhìn Trình phi, không lộ ra chút tức giận gì nhưng ánh mắt lại khiến người khác lạnh sống lưng, không tự chủ phải rùng mình.


    Trình phi lập tức quỳ *phịch* xuống, mặt trắng bệch. Kết cục của sủng phi Viên Thế Lan năm đó hiện lên trước mắt khiến nàng sợ đến run cầm cập.


    Tẩm điện yên tĩnh như tờ, không biết qua bao lâu Trình phi mới nghe thấy thị nữ nhỏ giọng nói bên tai: “Nương nương, hoàng thượng đi rồi.”



    Trình phi chậm rãi ngẩng đầu lên, cảm nhận được hai bên thái dương đã đầy mồ hôi lạnh, cố đứng dậy nhưng lại loạng choạng suýt ngã. Thị nữ hoảng hốt đỡ lấy rồi dìu nàng đến ngồi xuống giường.


    Trình phi đưa tay lên ngực, mặt trắng bệch, hồi lâu vẫn không nói gì.


    Nàng biết, tuy hoàng thượng không nói gì, nhưng tại khoảng khắc vừa rồi, bản thân đã ở rất gần cái chết.


    Bên ngoài càng lúc càng tối, Trình phi im lặng cân nhắc, cuối cùng thở ra một hơi thật dài, lệnh cho thị nữ: “Cho người kéo Tiểu Đặng Tử xuống đánh ba mươi bản, sau đó chuẩn bị hậu lễ, ngày mai chúng ta đến trước cửa cung Chiêu Dương xin tội với hoàng hậu nương nương, nói là do thái giám gác cổng lười biếng nên báo tin sai.”


    Thị nữ ‘dạ’ nhỏ một tiếng rồi lui ra, tuy sợ hãi nhưng cũng không dám chất vấn. Lát sau bên ngoài liền truyền vào tiếng hét thảm thiết của Tiểu Đặng Tử.


    Nói cho cùng thì có thể leo đến vị trí này đều tuyệt đối không phải là nữ tử đơn thuần không hiểu chuyện. Trình phi biết tiến biết lùi, hiểu được nặng nhẹ thế nào, tuy thỉnh thoảng sẽ hành xử ương ngạnh, nhưng chỉ cần có gió động cỏ thì sẽ nhanh chóng tỉnh ngộ.


    Ánh mắt lạnh lùng đó chính là hồi chuông cảnh tỉnh.


    “Như Liễu, chuẩn bị nhang đèn và kinh văn, bắt đầu từ ngày mai, bổn cung sẽ mỗi ngày đến Phật đường chép kinh cầu phúc cho Đại Yến.”



    “Dạ.”



    Thăm dò một lần là đã quá đủ.


    Trình Dung Dung thở dài, đưa tay chạm lên y phục ngủ bằng gấm Yến Tuân mặc khi nãy, chỉ cảm thấy lạnh lẽo như băng.


    ……………………………………………………………………………………


    Lúc Yến Tuân đến điện Đông Nam thì trời đã tối mịt.


    Bên trong điện nến cháy leo lét, chúng thái y đã lui ra từ lâu, nội thị nhìn thấy hoàng đế giá lâm đều đồng loạt quỳ xuống, vừa định cao giọng thông báo thì bị ngăn lại. Yến Tuân đi thẳng vào trong tẩm cung vắng vẻ, cung nhân đều quỳ xuống hành lễ, đầu cúi thật thấp.


    Nạp Lan Hồng Diệp đã ngủ thiếp đi, thân hình vùi trong tầng tầng chăn gấm càng thêm gầy gò, sắc mặt tái nhợt.


    Văn Viện mừng rỡ trải thêm nệm ở một bên giường nhưng Yến Tuân lại tự mình kéo ghế đến ngồi xuống đối diện với Nạp Lan Hồng Diệp.


    Toàn bộ cung nhân đều đã lui xuống, chỉ còn lại hắn lẳng lặng ngồi nhìn và nàng ngủ li bì.


    Hắn dường như chưa bao giờ nhìn thấy nàng như thế này. Nạp Lan Hồng Diệp trong trí nhớ luôn mang dáng vẻ đoan trang, y phục lộng lẫy xa hoa, dung mạo trang nhã, lời lẽ đúng mực, trên mặt vĩnh viễn treo nụ cười mỉm xa cách, toàn thân luôn toát ra khí tức hoàng gia cao quý. Cả trong đêm tân hôn, lúc cùng giường cũng không mất đi phong thái công chúa một nước.


    Nhưng nàng hiện giờ lại tiều tụy, gầy gò đến mức khi nhìn nàng, Yến Tuân thật sự không cách nào nhận ra cô gái trước mặt và vị Trưởng công chúa cơ trí trước kia là cùng một người.


    Năm tháng trôi qua như dòng nước, mới chớp mắt mà đã nhiều năm như vậy.


    Yến Tuân không nói tiếng nào, chỉ lẳng lặng ngồi một lúc rồi rời đi, nhưng như thế cũng đủ khiến hạ nhân trong điện Đông Nam mừng đến nói không nên lời. Văn Viện ở bên ngoài mừng rỡ đi tới đi lui sắp đặt mọi chuyện, bởi vì trước khi rời đi hoàng thượng đã nói ngày mai sẽ lại đến thăm hoàng hậu.


    Cửa điện Đông Nam được khép lại, Nạp Lan Hồng Diệp mở mắt ra.


    Nàng hiện đã gầy đến mức hốc mắt hõm sâu, nhưng ánh mắt vẫn sắc bén trầm tĩnh như cũ, vẻ cơ trí và từng trải không hề suy giảm.


    Chiếc ghế bằng gỗ lim cạnh giường không còn bóng người ngồi, nhìn được hoa văn song long hí châu khắc tỉ mỉ trên lưng ghế, rõ ràng đến từng chi tiết.


    Đã nhiều năm như vậy, Nạp Lan Hồng Diệp, mi có từng hối hận không?


    Dưới ánh nến yếu ớt, nàng thì thầm tự hỏi bản thân.


    Nhưng cuối cùng nàng chỉ cười nhạt rồi nhắm mắt lại.


    ……………………………………………………………………………………


    Cuộc sống trong cung vẫn trôi qua đều đều như thường lệ, thời tiết càng lúc càng lạnh khiến trong phòng có thêm nhiều chậu than hơn. Sức khỏe của hoàng hậu vẫn không khá thêm được chút nào. Chúng thái y tựa như đã dọn nhà đến đóng đô ở điện Đông Nam, cả ngày ra ra vào vào, liên tục không ngừng.


    Hôm nay chính là ngày các tiểu hoàng tử phải lên lớp, Ngọc Thụ lại nhân dịp mang theo ít tổ yến nhân sâm, dẫn Vĩnh Nhi đến thăm hoàng hậu. Hai mẹ con ngồi trong tẩm điện ấm áp trò chuyện với hoàng hậu.


    Nói chuyện phiếm một lát, thấy Nạp Lan Hồng Diệp tỏ vẻ mệt mỏi, Ngọc Thụ định cáo từ thì lại chợt nghe thấy nàng nhỏ giọng hỏi: “Mai là ngày giỗ của Huyền vương có đúng không?”



    Ngọc Thụ hơi sững sờ, đáy lòng chợt dâng lên cảm giác căng thẳng, thấp giọng đáp: “Dạ đúng ạ.”



    Nạp Lan Hồng Diệp gật đầu ra hiệu, Văn Viện ở một bên tươi cười trình lên một chiếc hộp gấm nhỏ, Nạp Lan Hồng Diệp lặng lẽ nói: “Vương gia có đại công với đất nước, thân thể bổn cung không tốt, không tiện đi tế bái, đành nhờ vương phi mang giùm một chút tâm ý của bổn cung đi cầu phúc cho vương gia.”



    Tẩm điện ấm áp nhưng Ngọc Thụ lại cảm thấy đầu ngón tay lạnh buốt, nàng nhẹ cắn môi dưới, máy móc nhận lấy chiếc hộp gấm, cung kính cúi đầu, “Thần thiếp thay mặt phu quân đã khuất tạ ơn hoàng hậu ban thưởng.”



    Nạp Lan Hồng Diệp lắc đầu, vừa định nói gì thì bên ngoài chợt có thị nữ chạy vào thì thầm gì đó bên tai Văn Viện. Văn Viện vừa nghe thì thoáng khựng người, nhanh chóng quay sang nhìn Nạp Lan Hồng Diệp.


    Ngọc Thụ lập tức đứng dậy cáo từ, Nạp Lan Hồng Diệp cũng không giữ lại.


    Ngoài điện ánh nắng chan hòa nhưng lòng bàn tay Ngọc Thụ đều là mồ hôi lạnh. Nàng siết chặt góc vạt áo, tựa như làm vậy là có thể bóp chết chút ý niệm vừa lóe lên trong đầu.


    Chợt có một nhóm thái giám hối hả chạy về phía tây hoàng cung đã thu hút sự chú ý của nàng, Ngọc Thụ thuận miệng hỏi thị nữ thân cận: “Đã xảy ra chuyện gì vậy? Bọn họ đang làm gì thế?”



    Tiểu nha hoàn ra vào hoàng cung nhiều lần nên cũng lanh trí chạy tới nghe ngóng mấy câu, nhưng lúc trở về lại lộ vẻ hoang mang, “Vương phi, là Viên mỹ nhân ở lãnh cung phía tây hoàng cung treo cổ tự tử.”



    “Viên mỹ nhân?” Ngọc Thụ sửng sốt hỏi lại.


    Tiểu nha hoàn liếm môi dưới, đáp lời: “Chính là Sở phi nương nương lúc trước.”



    “Viên Thế Lan?” Ngọc Thụ thực sự kinh hãi.


    Sở phi, nguyên danh Viên Thế Lan, từ khi Đại Yến lập quốc đến nay, nàng chính là vị sủng phi truyền kỳ có một không hai chốn hậu cung đông đúc này.


    Viên Thế Lan vốn là một cung nữ vô danh tiểu tốt ở hoán y cục, một lần phạm lỗi liền bị lôi vào phòng dụng hình. Chẳng ngờ cô cung nữ mảnh khảnh này lại biết chút võ nghệ phòng thân, đến nửa đêm đả thương ma ma canh gác ở phòng dụng hình rồi trốn ra ngoài. Trong lúc hoảng hốt chạy trốn, nàng lại đụng phải kiệu của hoàng đế vừa hồi cung từ Thượng thư phòng. Trên người đã bị trúng một mũi tên, nàng cùng đường nên đập đầu vào cửa điện Sở Lam, thà chết cũng không chịu trói.


    Hoàng thế yêu thích khí phách của nàng, sau khi cho người cứu chữa thì phong nàng làm quý nhân ngũ phẩm, độc sủng suốt nửa năm. Viên Thế Lan liên tục được tấn phong như diều gặp gió, cuối cùng được phong làm Sở thục phi. Quan viên trên triều được tin thì bất mãn dâng tấu nói bóng nói gió nhưng hoàng đế vẫn không hề mảy may dao động. Nhất thời, trong hậu cung không một ai có địa vị sánh bằng Sở phi.


    Mãi đến một đêm mưa của ba tháng trước, điện Sở Lam vọng ra một trận náo loạn, Sở phi nương nương được sủng ái nhất hậu cung đột nhiên bị giáng chức, trong vòng ba ngày từ Thục phi nhị phẩm bị giáng liền bốn cấp xuống thành mỹ nhân thất phẩm, phải sống một mình tại lãnh cung ở phía tây hoàng cung.


    Không ai biết đêm đó đã xảy ra chuyện gì, chỉ nghe người khác kể rằng Sở phi cãi nhau với hoàng thượng, trong lúc vọng động tự hủy dung mạo, trở thành người không ra người, quỷ không ra quỷ, chọc cho long nhan phẫn nộ nên mới bị giáng chức.


    Chúng cung nhân nghe nói vậy thì đều giễu cợt hết lời, trước là lúc được sủng ái, Viên Thế Lan hết sức kiêu kỳ, không hề giao hảo qua lại với các phi tần khác, sau nữa là phụ nữ từ trước đến nay đều dựa vào nhan sắc lấy tâm quân vương, nàng ngu xuẩn tự hủy dung, dĩ nhiên sẽ chẳng ai thèm thương cảm lấy nửa phần.


    “Vương phi? Vương phi?” Tiểu nha hoàn e dè gọi mấy lượt.


    Ngọc Thụ hồi thần, vội vàng nói: “Lập tức xuất cung.”



    Xe ngựa hối hả lăn bánh rời khỏi hoàng cung. Chân trời phía tây chợt có đàn quạ bay lên, vài cọng lông vũ đen nhánh chậm rãi theo gió lạnh rơi xuống chốn cung đình tĩnh mịch.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  19. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 195: Phiên ngoại 4: Huyền Mặc


    Nạp Lan Hồng Diệp nghe được tin Viên Thế Lan tự vẫn thì trầm mặc hồi lâu. Văn Viện dẫn bọn cung nhân lùi xuống, trả lại vẻ tĩnh lặng cho tẩm điện.


    Nạp Lan Hồng Diệp nhớ đến lần cuối cùng nhìn thấy cô gái lạnh lùng như băng tuyết kia, trên đầu được băng kín mít, tuy không nhìn thấy vết thương nhưng qua vết máu thấm qua tầng băng dày vẫn có thể tưởng tượng được là nghiêm trọng đến cỡ nào.


    Viên Thế Lan bình thản nhìn Nạp Lan Hồng Diệp, nói bằng ngữ khí nhẹ bẫng như sương: “Không phải là ta thì cũng tuyệt đối không phải là ngươi.”



    Nạp Lan Hồng Diệp nở nụ cười lãnh đạm, thật ra thì với thân phận hoàng hậu, nàng không nên đi gặp một phi tử đã bị đày đến lãnh cung, nhưng đã quyết định đến đây thì tất nhiên sẽ không để bản thân bị khích tướng bởi mấy lời này. Nàng lẳng lặng nhìn cô gái trước mặt, hỏi một câu vẫn luôn cất giấu tận đáy lòng: “Tuy không phải là ngươi nhưng ngươi hà tất phải làm như vậy. Chẳng lẽ ngươi không biết trên dưới hậu cung này đều mong chờ ngươi có ngày này sao?”



    “Ai rảnh rỗi tranh đấu với lũ đàn bà ăn không ngồi rồi đó chứ?” Viên Thế Lan lạnh lùng cười một tiếng, khóe miệng có vết dao cứa nhìn vô cùng đáng sợ, “Ta chỉ không muốn lãng phí thời gian với một nam nhân vô tâm.”



    Nạp Lan Hồng Diệp hỏi tiếp: “Vậy ngươi đối với hoàng thượng thì sao? Ngươi cũng vô tâm với hoàng thượng sao?”



    Vẻ mặt Viên Thế Lan đột nhiên trở nên dữ tợn, nàng quay ngoắt đi, gằn giọng nói từng chữ một: “Đồ không thuộc về ta, ta không cần.”



    Bên trong điện Đông Nam rực rỡ ánh đèn, Nạp Lan Hồng Diệp tựa người vào lưng ghế, bất giác cười khẽ.


    Thật sự không cần? Thật sự là vô tâm? Nếu quả thật như lời ngoài miệng thì sao lại tự hủy dung vì một người bản thân không cần? Sao lại hối hận rồi quyết liệt tìm chết trong cô đơn tận cùng như vậy?


    Cuối cùng là do tuổi trẻ cương liệt hay là ngây thơ tùy hứng mới có thể hành xử theo cảm tính, mới có thể làm không cần nghĩ? Nếu nàng cũng vô trách nhiệm tìm cái chết như vậy, người thân cùng con dân của nàng sẽ ra sao?


    Chỗ đáng sợ của hậu cung chính là nó có thể khiến một người phát điên, có thể khiến một thiếu nữ thanh xuân tự cầm dao cứa lên mặt mình, sau đó thẳng thừng nói chết là chết.


    Nàng cũng từng có ý định khiến người nọ áy náy tự trách, khiến người nọ phải vĩnh viễn nhớ đến nàng. Nhưng trong chốn cung đình rộng lớn này, sống chết của nàng bất quá chỉ là một đốm lửa nhỏ lóe lên rồi chợt tắt, ngoại trừ trở thành đề tài nói chuyện phiếm của chúng cung phi thì sẽ chẳng gây nên bất kỳ chấn động gì.


    Hoàng cung này, thứ không thiếu nhất chính là oan hồn. Theo thời gian, một tháng, hai tháng, một năm rồi hai năm, có ai còn nhớ được từng có một vị Sở phi độc chiếm mọi sủng ái chứ?


    “Đúng là ngu ngốc!” Nạp Lan Hồng Diệp thở dài.


    Đã leo đến được vị trí Thục phi, chưa kể đến dung mạo và tính tình giống nhường ấy, muốn được sủng ái cả đời cũng không phải là chuyện khó. Đáng tiếc, nàng ta lại một mực phủi sạch tất cả.


    “Nương nương?” Văn Viện đứng ở cửa, tay bưng một chén thuốc vừa mới sắc, nhỏ giọng gọi.


    Nạp Lan Hồng Diệp tùy ý vẫy tay ra hiệu cho Văn Viện đi vào, nhận lấy chén thuốc uống từng muỗng một. Chất thuốc đắng chát nhưng nàng lại như đang uống canh, chân mày không hề nhíu dù chỉ một chút. Văn Viện đứng một bên nhìn chén đường viên nhỏ trên khay, đã mấy lần mấp máy môi định lên tiếng nhưng cuối cùng vẫn không nói lời nào.


    “Truyền ý chỉ của ta, Viên mỹ nhân hiền lương thục huệ, không may qua đời vì bệnh hiểm, nay tấn phong làm huệ nhân lục phẩm, được phép chôn cất ở lăng Tây Phi, thưởng cho mẫu tộc một ngàn lượng vàng, ban cho huynh trưởng của nàng một chức quan, bảo Hộ bộ thu xếp công việc.”



    Văn Viện hơi sững người, khó hiểu nhìn Nạp Lan Hồng Diệp.


    Không sai, Trưởng công chúa có quyền bàn chính sự, cũng được phép bổ nhiệm chức quan tứ phẩm trở xuống cho đất thuộc Hoài Tống. Nhưng sau khi bị bệnh, đã hai năm nàng không dùng đến quyền này, hôm nay lại làm vậy chỉ vì một phi tần mắc tội, đáng giá sao?


    Nhưng Nạp Lan Hồng Diệp cũng không giải thích lời nào, chỉ tiếp tục nói: “Gần đây hoàng thượng bận rộn chính sự, không cần báo tin Viên mỹ nhân qua đời cho hoàng thượng biết. Truyền lên đến các cung, bảo bọn họ giữ mồm giữ miệng cho tốt.”



    Văn Viện vội vàng gật đầu xác nhận đã rõ rồi đi ra ngoài.


    Tẩm điện yên tĩnh trở lại, nghĩ ngợi một hồi dường như đã khiến Nạp Lan Hồng Diệp mệt mỏi. Nàng nằm xuống giường, dùng đầu ngón tay nhẹ day day huyệt thái dương, khẽ nhíu mày.


    Dù tức giận nên giáng chức nàng ấy, nhưng tình cảm có lẽ vẫn còn đó. Biết được nàng ấy tự vẫn chàng hẳn sẽ không khỏi có mấy phần đau buồn. Hiện tại tình hình biên cảnh Tây Bắc đang gay gắt, trên triều lại tranh đấu không ngừng, chàng đã có quá nhiều thứ để lo rồi.


    Uống thuốc xong lại bắt đầu buồn ngủ, Nạp Lan Hồng Diệp mơ màng nghĩ, phi tần bị đày đến lãnh cung sẽ không được phép diện kiến long nhan cả phần đời còn lại. Qua hai ba năm nữa có lẽ sẽ quên thôi. Mà cho dù bất chợt nhớ đến thì hẳn sẽ không quá thương tâm vì một người đã qua đời vì bệnh.


    Nến vẫn cháy *lách tách*, đêm khuya vô cùng vắng lặng.


    Ý chỉ từ điện Đông Nam được truyền ra ngoài, chủ nhân các cung tần khác nhanh chóng lĩnh hội tâm tư của hoàng hậu. Tuy có người thấy tức giận vì việc hoàng hậu đối xử tử tế như vậy với người nhà của Viên Thế Lan, nhưng cũng chẳng ai có gan nói gì. Mấy hôm trước tin Trình phi tự mình tới xin tội với hoàng hậu rồi ở rịt trong Phật đường đã khiến bọn họ hiểu được một chuyện, trọng quyền vẫn còn nằm trong tay hoàng hậu, không thể coi thường.


    Hậu cung trở lại bình lặng như trước, tựa như mặt hồ mùa thu, không một gợn sóng. Mỗi ngày vẫn có đàn sáo du dương, xóa sạch mọi u ám vì tin một tần phi vừa tự vẫn, tất cả mọi hòa thuận êm ấm ngoài mặt và mưu tính ngầm đều bị tuyết lạnh của mùa đông bao phủ. Giữa hoàng cung rộng lớn, cô gái có trái tim tựa băng và đôi mắt sắc bén kia đã hóa thành bông tuyết, lặng lẽ rơi xuống đất mà không phát ra tiếng động nào.


    “So với cái chết, sống vĩnh viễn luôn cần nhiều dũng khí hơn.” Nụ cười trên môi Nạp Lan Hồng Diệp bao giờ cũng rất nhẹ.


    Nàng nhìn ra khoảng trời đang dần sáng lên bên ngoài cửa sổ, như lại thoáng thấy được một bóng dáng cao gầy đang lẳng lặng nhìn mình. Trường kiếm bên hông nằm ngoan ngoãn trong vỏ, che giấu sự sắc bén vốn có.


    Người nọ cứ đứng như vậy, trên đỉnh đầu là một khoảng không đen mù mịt, tựa như một cánh bướm đang gượng hơi tàn cố bay lên. Hôm phụ hoàng hạ táng, người nọ đứng sau cô công chúa đang khóc bi thương là nàng, nói ra một câu như vậy.



    Ngoài cửa sổ đột nhiên nổi gió, bông tuyết đầu đông theo gió hết bay múa khắp không trung rồi lại la đà trên mặt đất, nhìn như một đàn cá trắng đang uốn lượn dưới đáy biển sâu.


    “Thế thì sao huynh lại đột nhiên mất đi dũng khí vậy?”



    ……………………………………………………………………………………


    Ngọc Thụ còn nhớ rất rõ ngày Huyền Mặc qua đời, hôm đó trời mưa rất to, *ào ạt* như thác đổ. Chúng thái y chạy đến vương phủ đều bị mưa làm ướt sũng như chuột lột.


    Ban sáng rõ ràng trời còn trong xanh không một bóng mây, nàng còn bảo hạ nhân chuyển sách trong thư phòng của chàng ra sân phơi nắng, nắng ấm chiếu rọi bốn phía, vô cùng dễ chịu.


    Nhưng đến đêm thì thủy quân ở khu vực đông nam lại đột nhiên hộ tống một cỗ xe ngựa ào vào thành, đi thẳng đến cửa chính của phủ Huyền vương.


    Chàng được đỡ xuống khỏi xe ngựa rồi đưa đến thư phòng, sắc mặt trắng bệch, sau khi thay đổi triều phục thì quả quyết muốn vào cung, nhưng còn chưa ra khỏi cửa chính thì đã ngã xuống, máu tươi túa ra ướt đẫm áo. Nàng luống cuống đứng bên cạnh, sợ hãi đến bật khóc. Bọn gia đinh cuống cuồng đưa chàng vào nhà rồi hối hả chạy ra ngoài tìm đại phu.


    Trời bắt đầu đổ mưa ngay từ lúc đó.


    Liên tiếp bảy ngày không hề ngưng.


    Dân chúng đều nói rằng là ông trời khóc thương Huyền vương gia, là nước mắt tiễn đưa một bậc trung lương.


    Chúng thái y vào phòng rồi lại đầy mồ hôi đi ra, nói cái gì thương thế quá nặng, mất máu quá nhiều, cái gì chinh chiến liên tục nên sức khỏe suy yếu, thương thế chưa lành mà đã lao lực, cái gì vết thương sâu đến tận tim phổi. Nhưng nàng đều không nghe vào tai, chỉ đăm đăm nhìn một đám lão nhân râu tóc bạc trắng đi qua đi lại trước mặt mình, người nào cũng mang sắc mặt nặng nề, miệng hé ra đóng vào như bầy cá đang thở dưới biển sâu.

    Nàng tự hỏi, bọn họ đang nói gì vậy? Sao còn đứng đây nói mà không vào chữa bệnh? Chàng khỏe như vậy, nhấc được cả đại đao nặng hơn tám mươi cân, có thể múa trường thương bằng sắt nặng hơn trăm cân thì chảy chút máu như này có là gì? Tại sao chàng còn nằm đó, sao vẫn không đứng dậy? Lễ nạp thái* của Trưởng công chúa đã qua, ngày mai Yến hoàng sẽ trở về nước, chàng là trọng thần của Hoài Tống, sao có thể không đi đưa tiễn?

    *Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.


    Nàng tự động loại bỏ tất cả những âm thanh bên tai, cố chấp chạy đến cạnh chàng, khẽ lay lay tay chàng, nhỏ nhẹ thỏ thẻ bên tai chàng như đã làm rất nhiều năm: Vương gia, ngài dậy đi. Vương gia, tỉnh dậy đi…


    Những chàng vẫn không động, hai mắt vẫn nhắm nghiền, mi tâm nhíu chặt, như đang ngủ mà vẫn canh cánh tâm sự gì đó, cánh tay lạnh như băng.


    Nàng rốt cuộc bắt đầu thấy sợ, nhưng vẫn không dám dùng sức, chỉ nhẹ nhàng đẩy đẩy tay chàng, liên tục gọi chàng tỉnh dậy…


    Xung quanh dần dần vang lên tiếng nghẹn ngào, đám nha hoàn len lén rút khăn tay lau nước mắt. Nàng nghe được thì đột nhiên tức giận, xoay người lại quát đuổi tất cả đi.


    Bên ngoài mưa rất lớn, cửa vừa hé ra thì gió tạt nước mưa lạnh như băng vào phòng, khiến y phục trên người nàng thoáng cái đã bị thấm ướt.


    Có thái y tiến lên nhỏ giọng khuyên nhủ: “Vương phi, vương gia đã không thể cứu nữa rồi, xin vương phi nén bi thương.”



    Nàng tự nhận mình cả đời hiền lương, lúc còn ở nhà thì hiếu thuận với cha mẹ, nghe lời huynh trưởng và tỷ tỷ, sau khi xuất giá thì coi phu quân như trời, chưa từng dám có nửa lần vọng động tùy hứng nào. Nhưng khoảnh khắc nghe thái y nói như vậy, nàng đã lập tức quay lại tát mạnh vào mặt vị thái y già cấp bậc tam phẩm kia, phẫn nộ nói: “Ngươi nói bậy!”



    Nhưng vị thái y già không hề nói gì, chỉ lẳng lặng nhìn nàng, ánh mắt vẫn vô cùng bình tĩnh, đầy vẻ cảm thông và thương cảm.


    Ánh mắt đó đã khiến nàng sụp đổ, dưới chân chợt mềm nhũn, trước mắt tối sầm đi.


    Khi nàng tỉnh lại thì vương gia cũng đã tỉnh, tất cả thuộc hạ cũ đều tụ tập trong sân, lần lượt từng người một tiến vào nghe chàng dặn dò. Nhìn thấy nàng ôm con trai đến, những người đó liền tự động nhường đường cho nàng.


    Nàng đứng dưới gốc anh đào trước cửa phòng, lẳng lặng nhìn ánh nến lập lòe bên cửa sổ. Khung cảnh hệt như rất nhiều năm trước, khi bọn họ gặp nhau lần đầu tiên. Khi đó nàng còn rất trẻ, ngoan ngoãn đi theo sau phụ thân, bên cạnh có cả huynh trưởng và chúng tỷ muội, còn có rất nhiều thiên kim tiểu thư và con cháu thế gia. Khi đó nàng mặc một bộ y phục bằng gấm trắng thêu hoa văn chìm đơn giản, nhìn như một chú nhạn không có lông, còn chàng đứng trên hàng lang gấp khúc, môi nở nụ cười ôn hòa khiến khuôn mặt anh tuấn bừng sáng, ấm áp như gió đầu xuân.


    Hạ nhân đứng sau lưng che dù cho hai mẹ con, Vĩnh Nhi còn rất nhỏ, khuôn mặt mũm mĩm dúi chặt vào ngực nàng, thỉnh thoảng còn ngáp thật to như đang rất buồn ngủ.


    Nhóm quan lại ngoài sân nói rất nhiều, vì nàng là thê tử của chàng nên chẳng ai kiêng kỵ. Phần lớn chủ đề nghị luận đều là về chuyện sau khi Trưởng công chúa hòa thân đến Bắc Yến, những cựu thần Hoài Tống như bọn họ sẽ ra sao, phải làm thế nào mới có chỗ đứng ở tân triều, phải làm thế nào hòa nhập với triều đình Đại Yến để có thể trợ giúp công chúa, xem có nên xin chàng viết thư để bọn họ đưa đến tay Yến hoàng hay không.


    Cuối cùng thì đám đông cũng thưa dần, khoảng sân trở nên yên tĩnh, ngoài tiếng mưa thì không còn âm thanh nào khác.


    Quản gia đi đến che dù cho nàng, đưa nàng vào phòng.


    Chàng đang ngồi tựa người vào đầu giường, trên người mặc bộ trường sam rộng thoải mái. Nhìn thấy nàng, chàng nở một nụ cười dịu dàng muôn thuở, giơ tay chỉ vào chiếc ghế cạnh mình, bảo: “Ngồi đi.”



    Nàng máy móc ngồi xuống ghế, hai mắt nhìn chàng chằm chằm, hốc mắt đã đong đầy lệ nhưng nàng vẫn cắn chặt môi, không chế không để bản thân khóc thành tiếng.


    “Ngọc Thụ, về sau nàng phải chịu khổ rồi.” Chàng bình tĩnh nhìn nàng, không nhanh không chậm nói ra những lời này.


    Hai củ sâm già cắt lát trong chiếc khay trên bàn đầu giường đã vơi đi hơn nửa, chàng hơi thở dốc, âu yếm nhìn thoáng qua Vĩnh Nhi rồi nhẹ giọng nói: “Ta quả thật không phải là một người cha tốt.”



    Một cảm giác sợ hãi chưa từng có xâm chiếm đại não, nàng đột ngột nắm lấy tay chàng, ngu ngơ nói: “Vương gia, đừng mà, đừng như vậy.”



    Chàng khẽ cười nhưng mặt đã không còn chút máu, hốc mắt lõm sâu, gầy gò đến cực hạn.


    “Vương gia, đừng như vậy.” Không biết có thể nói gì khác, nàng chỉ ra sức lắc đầu, nắm chặt cổ tay phu quân mình, liên tục lặp đi lặp lại câu: “Đừng mà, đừng như vậy.”


    Gió đêm đẩy cửa sổ ra luồn vào phòng, mấy bận đã suýt thổi tắt nến, mang theo hơi lạnh từ phương bắc, thoang thoảng hương cúc thơm ngát.


    Nàng mơ hồ nhớ lại lúc còn trẻ từng ngồi vui đùa với các tỷ tỷ, mấy tỷ muội cùng chia sẻ tưởng tượng về vị hôn phu tương lai, có trạng nguyên thi văn không ai sánh bằng, có đại tướng quân võ nghệ bất phàm, có con cháu thế gia xuất thân cao quý. Chỉ mình nàng là sau một hồi ngẫm nghĩ rất lâu, bị các tỷ tỷ dồn ép mới ấp úng nói: “Chỉ cần… chỉ cần đối tốt với muội là được.”



    Chỉ cần tốt với nàng là được.


    Nàng vẫn luôn như thế, ngay cả tỷ tỷ ruột cũng ghét bỏ vì nàng không có chí lớn. Nhưng an phận như thế thì sao, nàng sẽ không phải khó chịu sầu khổ, không phải than trời trách đất vì ý nguyện chẳng thành. Nguyện vọng của nàng đơn giản nên sẽ dễ thực hiện, cuộc sống của nàng đơn điệu nhưng sẽ bình yên.


    Nhưng trong khoảnh khắc đó, nàng chợt không muốn tiếp tục an phận, không muốn tiếp tục cuộc sống như thế nữa.


    Nàng nắm chặt tay chàng, run rẩy nói: “Vương gia, lão vương gia đã qua đời rồi, vương gia hãy bỏ thiếp đi. Thiếp biết vương gia không thích thiếp, trong lòng vương gia có người khác. Thiếp bây giờ không cần gì khác, thiếp chỉ cần vương gia sống, chỉ cần vương gia sống, vương gia có bỏ thiếp cũng không sao.”



    Khoảnh khắc đó, mưa gió bên ngoài như chợt ngừng hẳn, vị tướng quân kinh qua vô số sa trường sững người trước ánh mắt vô cùng kiên định của cô gái luôn lặng lẽ ít nói trước mặt. Đáy lòng dâng lên cảm giác chua xót, sự cố chấp nhiều năm chợt hóa thành bụi bay theo gió. Năm tháng tựa dòng nước chảy xiết, đủ cuốn phăng mọi chấp niệm cứng đầu nhất.


    Ngay ở thời điểm cuối cùng của cuộc sống, tất cả áy náy đều dồn nén thành một tiếng thở dài. Thành thân đã nhiều năm, nhưng lần đầu tiên chàng ôm lấy nàng, nhỏ giọng xin lỗi: “Ngọc Thụ, là ta đã phụ nàng.”



    Nằm trong lòng chàng, cảm giác ấm áp xa lạ khiến nàng thoáng ngây người.


    Nhiều năm sống lặng lẽ, nhiều năm tự kiềm nén, nhiều năm tự an ủi, nhiều năm tự lừa mình dối người, nàng vẫn cho rằng mình đã đủ hiền thục, vẫn cho rằng mình là một người vợ tuân thủ phép tắc, vẫn cho rằng thật ra nàng cũng không thương tâm cho lắm.


    Nhưng cuối cùng tất cả ý niệm đó đều hoàn toàn sụp đổ chỉ bởi một câu nói đơn giản này, chỉ bởi một cái ôm đơn giản như vậy.


    Thì ra không phải nàng không cảm thấy uất ức, thì ra không phải nàng không thất vọng, thì ra không phải nàng không có ước vọng cùng ảo tưởng.


    Nàng chỉ che giấu và đè nén chúng quá kỹ mà thôi.


    Trong vòng tay của chàng, nàng đã bật khóc nức nở, khóc đến khàn giọng.


    Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nàng vùi mặt vào lòng phu quân khóc ròng.


    Sau khi nói ra câu kia, chàng qua đời, vô cùng nhẹ nhàng, vẻ mặt bình thản như một bức tranh thủy mặc.


    Sang ngày thứ hai, được tin Huyền vương gia qua đời, Yến hoàng vốn đã chuẩn bị rời đi lập tức đổi hướng, chạy thẳng đến Huyền vương phủ. Vị đế vương trẻ tuổi lạnh lùng mặc hoàng bào đen tuyền, đứng sững ra như tượng đá một lúc lâu trước linh cữu của chàng. Tất cả mọi người quanh bàn lễ tế đều bị dọa đến không dám phát ra tiếng động nào.


    Sau khi chàng mất, chiếu chỉ sắc phong và ban thưởng liên tiếp tràn vào phủ. Nhưng những thứ đó đã không còn quan hệ gì đến nàng, tim nàng đã chết, cho dù toàn bộ hoa hồng trên thế gian nở rộ thì trong mắt nàng cũng chỉ là một khoảng đất trống hoang vu mà thôi.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
  20. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Messages:
    9,567
    Likes Received:
    56,008
    Quyển 5 - Chương 196: Phiên ngoại 5: Lễ tế
    Cỗ xe ngựa chậm rãi lăn bánh trên con phố phồn hoa, xuyên qua đám đông náo nhiệt, ra khỏi cổng thành Chân Hoàng, tiến về phía đông nam. Tiếng phố xá ồn ào dần xa, chỉ còn lại khung cảnh trời rộng núi cao, cỏ xanh lay động, thỉnh thoảng có đàn nhạn bay ngang phát ra tiếng kêu não lòng.

    Vĩnh Nhi tựa người trong lòng Ngọc Thụ ngủ gà gật, nhờ có rèm cửa bằng bông dày nên trong xe rất ấm. Ngọc Thụ ôm con trai, nhè nhẹ vỗ vỗ lưng cậu bé, miệng khẽ ngâm nga mấy câu đồng dao. Thời gian trôi qua rất chậm, khiến con đường dường như dài hẳn ra.

    “Vương phi, phía trước có một quán trà, có cần xuống nghỉ chân một hồi không?” Khương Ngô mặc y phục da chồn nâu dẫn dắt nhóm hộ vệ đi theo cạnh xe ngựa, vừa xoa xoa hai bàn tay với nhau, vừa đi đến hỏi.

    Rèm cửa sổ hơi lay động khiến gió lạnh ùa vào mặt, Ngọc Thụ hơi nhíu mày, ngước lên nhìn trời rồi nói: “Vẫn tiếp tục lên đường thì hơn, ta thấy trời dường như sắp đổ tuyết rồi, tránh để bị tuyết làm lỡ lộ trình.”



    Khương Ngô ‘dạ’ một tiếng rồi lại nói ngay: “Nơi này đúng là lạnh thật, nếu là ở Hoài Tống thì bây giờ hoa sen vẫn còn chưa tàn hết nữa là.”



    “Mẫu phi?” Vĩnh Nhi dụi dụi mắt, mặt hồng hồng vì ngái ngủ, gió lạnh khiến cậu bé tỉnh táo đôi chút, khịt mũi hỏi nhỏ: “Đã đến chưa ạ?”



    Ngọc Thủ thoáng nhìn ra bên ngoài rồi gật đầu nói với cậu bé: “Cũng sắp rồi, con trai.”



    Cả đời này của Ngọc Thụ cũng chẳng đi được mấy nơi, chuyến đi đầu tiên chính là từ Hoài Tống băng qua quãng đường vạn dặm đến thẳng thành Chân Hoàng, rời khỏi quê hương đi đến nơi lạnh lẽo xa lạ như này.



    Tình cảnh khi ấy, nói dễ nghe thì là Hoài Tống theo thiên mệnh quy thuận Đại Yến, trở thành chư hầu. Nhưng ai cũng biết, hoàng tộc Hoài Tống ngoại trừ Trưởng công chúa Nạp Lan Hồng Diệp thì cũng chỉ còn lại vài phi tần của tiên hoàng và một tiểu hoàng đế sống dở chết dở, hương khói dòng họ vốn đã không thể tiếp tục kéo dài. Chức vị chư hầu này cũng chỉ là ngoài mặt mà thôi. Sau khi Trưởng công chúa trăm tuổi, chủ nhân Hoài Tống sẽ không tránh khỏi đổi thành họ ‘Yến’.

    Nhưng có được kết quả thế này cũng đã rất tốt rồi.

    Năm đó, trong ba cường quốc trên đại lục, Hoài Tống là nước có diện tích nhỏ nhất, thậm chí còn không bằng một phần mười Đại Hạ. Tuy có lợi thế gần biển và giao thương phát triển, nhưng Hoài Tống lại không có mỏ sắt, thiếu thốn ngựa chiến và trang bị vũ khí, so về thực lực quân sự thì thua kém hai nước còn lại. Nhờ Biện Đường và Đại Hạ luôn cầm chân lẫn nhau nên Hoài Tống mới có thể đứng vững không đổ suốt cả trăm năm qua như vậy. Nhưng một khi cán cân giữa Đại Hạ và Biện Đường xuất hiện chênh lệch, bên chiến thắng chắc chắn sẽ khai đao với Hoài Tống trước tiên.

    Năm ấy, Hoài Tống xảy ra lục đục nội bộ, lãnh thổ Biện Đường phân hai, Đại Hạ cũng chia năm xẻ bảy, ba cường quốc không ngừng xảy ra nội chiến. Thiết kỵ Bắc Yến đã nhân cơ hội ra khỏi biên giới, càn quét khắp đại lục. Đứng trước tình hình đó, một là hoàn toàn không có khả năng duy trì thế chân vạc, hai là không có binh lực đánh thắng quân đội của nước khác, ba là không thể ổn định chính quyền nội bộ, ngoại trừ dựa vào Bắc Yến, Hoài Tống thật sự không có lựa chọn thứ hai.

    Thực tế cũng đã chứng minh sách lược của Trưởng công chúa là đúng đắn. Tuy nói là trở thành thuộc quốc, nhưng người dân và quan viên Hoài Tống không hề bị liên lụy bởi chiến tranh, hoàng thất cũng không bị sát hại, trọng thần của Hoài Tống lại được tân triều trọng dụng, không hề bị đối xử giống tầng lớp di dân thấp kém như thời Đại Hạ.

    Dân chúng lại càng chẳng kể ai làm hoàng đế, chỉ cần có cơm ăn áo mặc, có đất trồng trọt thì sẽ không ai rỗi hơi để bụng chuyện thiên tử của mình họ Yến hay họ Nạp Lan.

    Song cũng vẫn có vài người không thể tiếp nhận chuyện này.

    Ngọc Thụ còn nhớ ngày bọn họ rời khỏi Hoài Tống có rất nhiều thư sinh học giả chạy đến ngán đường đoàn xe, bất kể binh lính quát đuổi thế nào cũng không sợ hãi. Thậm chí còn có người tưới dầu lên mình rồi tự thiêu.

    Tình cảnh hỗn loạn khủng khiếp khi ấy đến giờ vẫn còn in rõ trong đầu Ngọc Thụ, trong ánh lửa bùng lên, người nọ vừa la hét vừa hô tên Huyền vương. Những người khác cũng quỳ rạp trên đất gào khóc nức nở, nói rằng nếu Huyền vương còn sống thì tuyệt sẽ không để phụ nữ và trẻ con không hiểu chuyện chắp tay dâng giang sơn cho kẻ khác như vậy.

    Chớp mắt mà đã qua nhiều năm như vậy, dưới sự cai trị của Đại Yến, những âm thanh ca thán kia hiện giờ đã dần mất đi, và nam nhân từng được dân chúng Đại Tống coi là cứu tinh cũng càng ngày càng ít được nhắc đến. Ngay cả ngày giỗ của chàng, bây giờ cũng chỉ còn cô nhi quả phụ như mẹ con nàng nhớ đến, mới có thể sớm tinh mơ đã rời thành đi quãng đường vài chục dặm cúng tế.

    Sau nửa ngày ngồi xe cuối cùng cũng tới được núi Yến Tây. Ngọn núi này có địa thế dốc đứng nên xe ngựa không thể lên được, Ngọc Thụ dắt Vĩnh Nhi xuống xe, ngồi kiệu êm do hạ nhân khiêng, chậm rãi băng qua từng bậc thềm đá lên núi.

    Vì tuyết đọng rất dày nên hạ nhân khiêng kiệu đi vô cùng chậm. Vĩnh Nhi hiện tại đã tỉnh ngủ, nên rất hăng hái vén màn kiệu thò đầu nhìn ra ngoài.

    Giữa sườn núi tọa lạc một ngôi chùa nhỏ thoạt nhìn rất cổ xưa, lần trước lên núi Ngọc Thụ từng dừng lại đây nghỉ chân một lát, biết được bên trong chỉ có hơn mười vị hòa thượng, và phần lớn đều đã rất già. Bởi nằm ở vị trí hẻo lánh nên ngôi chùa này có rất ít khách hành hương, cổng và sân chùa đóng đầy tuyết cũng không ai quét dọn.

    Nàng ghé mắt qua cửa sổ nhìn ra ngoài, quang cảnh rừng thông xanh ngắt khiến trong lòng nàng dấy lên một nỗi bi thương khó tả.

    Lại một năm nữa trôi qua.

    “Vương phi, chúng ta đến rồi. Phía trước đường rất hẹp nên không thể dùng kiệu.”



    Ngọc Thụ gật đầu, dắt Vĩnh Nhi xuống kiệu, dặn các hộ vệ khác chờ ở đây, chỉ dẫn theo Khương Ngô mang tiền vàng giấy bạc cùng Vĩnh Nhi tiếp tục đi lên núi.

    Càng lên cao gió càng lớn, thổi lên mặt cảm giác ran rát, nàng ở phía trước cản gió cho Vĩnh Nhi, chậm rãi đi từng bước một. Bỗng nhiên, bên tai chợt xẹt qua luồng gió cực mạnh, từ trong rừng xuất một bóng đen lao đến nhanh như tia chớp. Khương Ngô lập tức rút kiếm đứng chắn trước người Ngọc Thụ, nhưng kiếm còn chưa rời khỏi vỏ thì trên cổ đã bị hai lưỡi kiếm khác kề ngang.

    “Là ai?” Đối phương quát khẽ.

    Ngọc Thụ tái mặt, vội vàng đưa tay che mắt Vĩnh Nhi, nhưng không ngờ Vĩnh Nhi lại hết sức can đảm, vừa kéo tay mẫu thân ra, vừa thẳng thắng đường hoàng nói to: “Ta là thế tử Huyền phương phủ, đây là mẫu phi của ta, hai người chúng ta đang trên đường đi bái tế phụ vương. Các ngươi là ai? Cường đạo? Không sợ bị chém đầu sao?”



    Tiếng trẻ con trong trẻo như tiếng ngọc châu rơi trên khay, hòa lẫn trong tiếng gió vù vù trên núi cao. Ngọc Thụ sợ hãi kéo Vĩnh Nhi sát vào lòng mình, ôm cậu bé thật chặt.

    Những người kia nhìn nhau một cái rồi lập tức thu kiếm, người cầm đầu tiến lên một bước, cung kính cúi đầu nói: “Thì ra là Huyền vương phi và thế tử điện hạ. Đã thất lễ, kính xin vương phi chờ ở đây một lát.” Nói xong liền rời đi.

    Rất nhanh sau đó, người nọ đã trở lại, lễ phép nói với Ngọc Thụ: “Mời vương phi.”



    Ngọc Thụ nghi ngờ nhìn bọn họ, Khương Ngô dường như hiểu ra gì đó nhưng lại không dám nhiều lời, chỉ nhẹ gật đầu với Ngọc Thụ trấn an nàng.

    Khoảng sân trong lăng được lót bằng đá cẩm thạch bóng nhẵn, từ xa nhìn lại tựa như một mặt gương khổng lồ. Hôm nay bầu trời như gần đến mức đưa tay liền có thể chạm vào mây, không gian lộng gió khiến vạt áo tung bay phần phật, gió cuộn tuyết như bao phủ không trung bằng một màn sương dày dặc.

    Ngọc Thụ nheo mắt nhìn ra phía trước, đứng lẫn trong gió tuyết là một thân ảnh mặc y phục tuyền đen, mũ trùm kín đầu. Gió tuyết thổi qua khe núi phát ra tiếng vọng *u u*, tuyết trắng quấn quít trên thân người nọ như ngăn cách y với vạn vật xung quanh. Bóng lưng đơn độc nhưng cao lớn thẳng tắp, tựa như một cột trụ vững chãi có thể chống đỡ cả trời đất.

    Tuy không nhìn rõ mặt nhưng Ngọc Thụ vẫn kéo Vĩnh Nhi quỳ xuống trước tiên, nói bằng giọng không cao không thấp: “Tham kiến hoàng thượng.”



    Yến Tuân xoay đầu lại, ánh mắt vốn lạnh lùng như băng tuyết nhìn thấy Ngọc Thụ thì thoáng hơi dịu lại, môi nhẹ mỉm cười, nụ cười hơi cứng ngắc, không rõ là vì trời quá lạnh hay bởi vì đã quá lâu không cười nên không nhớ được phải làm thế nào.

    Hắn lẳng lặng gật đầu, nói: “Đã đến rồi à?”



    Không được cho phép đứng dậy nên Ngọc Thụ vẫn quỳ đó, tim đập *thình thịch* vì căng thẳng, chỉ dám ‘vâng’ một tiếng hồi đáp.

    “Đứng lên đi, trước mặt Huyền Mặc, đừng để hắn trách trẫm ức hiếp vợ hắn.”



    Lời lẽ hết sức tùy ý nhưng Ngọc Thụ nghe thấy lại nhũn chân. Nàng cuống quít gật đầu rồi đứng dậy, kéo Vĩnh Nhi lên cùng đứng sau lưng Yến Tuân cách khoảng mười bước chân. Hàng nhang đèn trước linh án của Huyền Mặc lặng lẽ cháy, mùi hương trầm quanh quẩn, tro giấy tiền vàng bạc bay lả tả trong không trung như một đàn phù du đen.

    Yến Tuân không nói gì, chỉ lẳng lặng thối lui nhường lại một khoảng trống trước linh án. Ngọc Thụ thấp thỏm dẫn con trai tiến lên, nhang thơm cùng tiền giấy vàng chận rãi bị ngọn lửa cắn nuốt rồi biến thành tro xám. Ánh lửa khiến gò má tái nhợt dần hồng lên, các ngón tay lạnh cóng từ từ ấm lại nhưng Ngọc Thụ vẫn duy trì tư thế cứng ngắc, từng tờ tiền giấy chậm rãi được bỏ vào trong chậu lửa.

    “Phụ vương, Vĩnh Nhi đến thăm người đây.” Vĩnh Nhi ngoan ngoãn quỳ trên mặt đất, nghiêm chỉnh dập đầu ba cái rồi nói: “Năm nay kết quả học tập của Vĩnh Nhi rất tốt, được Lục tiên sinh khen ngợi những ba lần. Vĩnh Nhi học được rất nhiều chữ, cũng bắt đầu học cưỡi ngựa nữa rồi rồi, Khương thúc tặng con một con ngựa nhỏ màu đen trên mũi có nhúm lông trắng, nhìn rất đẹp.”

    Cậu bé nói liên tục một hơi, lời lẽ ngây thơ, giọng điệu non nớt nhưng sắc mặt lại hết sức nghiêm túc, đôi lông mày nhỏ thậm chí còn hơi nhíu, nhìn vô cùng đáng yêu.

    “Phụ vương, trời trở lạnh rồi, người nhớ mặc nhiều vào, Vĩnh Nhi và mẫu phi có đốt cho người áo bông đấy. Người ở đây có một mình thì phải biết tự chăm sóc bản thân, đừng để ngã bệnh. Vĩnh Nhi sẽ thay phụ vương chăm sóc mẫu phi, người cứ yên tâm.”



    Gió núi chợt thổi mạnh hơn, Ngọc Thụ quay đầu đi, hốc mắt cay xè.

    “Mẫu phi? Người sao vậy?”



    Ngọc Thụ gượng cười, đáp lời: “Không có gì, bị gió thổi rát mắt thôi.”



    Vừa dứt lời thì chợt thấy gió đã dịu đi rất nhiều, Ngọc Thụ khó hiểu ngước lên nhìn thì thấy một bóng lưng cao ngất đang đứng ở đầu ngọn gió, vừa vặn chắn trước người hai mẹ con họ. Phía trước là vách đá cheo leo, vạt áo người nọ bị gió thổi tung, bay phấp phới cùng với bông tuyết. Người nọ tuy đứng rất gần nhưng lại như xa ngàn dặm, vĩnh viễn khiến người khác không dám đến gần.

    “Mẫu phi? Mẫu phi? Người sao vậy?” Vĩnh Nhi thấy nàng ngây người thì sốt ruột hỏi.

    Ngọc Thụ tự biết bản thân đã thất thố, nhanh chóng quay đầu lại nói: “Không có gì, Vĩnh Nhi, mau dập đầu với phụ vương đi.”



    Cậu bé mở to mắt, phụng phịu đáp: “Đã dập đầu xong từ lâu rồi ạ.”

    Ngọc Thụ gật đầu, bỏ nốt xấp tiền vàng cuối cùng vào chậu lửa, sau đó cũng xá ba lạy rồi đứng dậy.

    “Xong chưa?” Một giọng nói trầm thấp vang lên, Ngọc Thụ cụp mi, vội vàng gật đầu, người nọ lại nói tiếp: “Vậy thì cùng đi đi.”



    Ngọc Thụ nào dám phản đối, lại thành thật gật đầu đồng ý.

    Yến Tuân tiến lên dắt tay Vĩnh Nhi, mỉm cười hỏi: “Vĩnh Nhi đã biết cưỡi ngựa rồi à?”



    Hơn mười hộ vệ tiến đến, người thì thu dọn vật dụng lễ tế, người thì đứng hai bên trái phải canh phòng.

    Vĩnh Nhi mỗi ngày đều ra vào hoàng cung, cộng thêm trước giờ được Yến Tuân đối xử rất hòa nhã nên cậu bé không hề sợ hãi nắm tay nam nhân quyền thế nhất thiên hạ này, ngước lên tươi cười đáp lời: “Vâng ạ, là được Khương thúc dạy, nhưng bây giờ Vĩnh Nhi còn quá nhỏ nên không được cưỡi ngựa lớn, chỉ có thể cưỡi ngựa con thôi ạ.”



    Yến Tuân bật cười, “Phụ vương ngươi lúc bằng tuổi ngươi không hề biết cưỡi ngựa, xem như ngươi lợi hại hơn phụ vương rồi.”



    “Thật thế ạ?” Vĩnh Nhi sửng sốt, tròn mắt hỏi: “Phụ vương ngốc vậy sao?”



    Yến Tuân nghe vậy thì càng cười to hơn, “Phụ vương của ngươi thứ khác đều giỏi, tinh thông thi từ, tri thức uyên thâm, chỉ mỗi cái là không biết cưỡi ngựa, về sau cưỡi được là do do trẫm dạy đấy.”



    “Woah, vậy hoàng thượng chẳng phải coi như là thầy của phụ vương rồi sao? Hoàng thượng có thể dạy Vĩnh Nhi không? Vĩnh Nhi muốn cưỡi ngựa to cơ, không muốn cưỡi ngựa nhỏ nữa. Con ngựa nhỏ Khương thúc tặng lười lắm, chạy cũng không thèm chạy, chỉ biết đi từng bước thôi.”



    “Ngươi còn quá nhỏ, chưa thể học cưỡi ngựa to được. Có điều trẫm có thể dạy ngươi thứ khác.”

    “Hoàng thượng còn biết gì nữa? Có biết đá dế không?”



    Yến Tuân thản nhiên cười đáp: “Trẫm biết còn nhiều hơn thế.”



    “Hoàng thượng chớ nói khoác, con đại tướng quân đầu đỏ Vĩnh Nhi nuôi là vô địch khắp hoàng cung đấy, ngay cả con vương đô đầu xanh rất khỏe của Nhị hoàng tử cũng bị nó vặt gãy chân.”



    Trên con đường nhỏ hẹp, hai người một thấp một cao đi trước, vừa đi vừa vui vẻ nói chuyện. Gió tuyết may mịt mù xung quanh như không thể tiến vào thế giới của bọn họ.

    Ngọc Thụ đi theo sau, thất thần nhìn bóng lưng hai người, mơ màng thầm nghĩ, nếu vương gia của nàng vẫn còn sống, có lẽ sẽ cũng như thế này, khi rảnh rỗi có lẽ sẽ dẫn Vĩnh Nhi ra ngoài dạo chơi, kể lại chuyện lúc còn bé, sau đó không biết ngượng khoác loác rằng bản thân hồi trẻ thông minh quảng đại thế nào.

    Nàng đột nhiên cảm thấy hơi thương tâm, tuy bản thân vốn đơn thuần, chỉ tâm tâm niệm niệm việc chăm sóc phu quân và nuôi dạy con, nhưng không có nghĩa là nàng hoàn toàn vô tri vô giác đối với chuyện bên ngoài.

    Mấy năm này, nhất là hai năm vừa qua, các hoàng tử lần lượt ra đời, nhưng đến nay vẫn chưa từng nghe nói hoàng thượng đặc biệt yêu thương người nào. Trong tiềm thức, Ngọc Thụ cũng hiểu được, Đại Yến chỉ mới được thành lập, chính quyền vẫn còn chưa vững, phía bắc vẫn còn rải rác các cuộc chiến quy mô nhỏ, hơn nữa trước khi hoàng hậu nhập cung, hoàng đế đã hứa rằng người thừa kế Đại Yến nhất định phải là con do hoàng hậu sinh. Vì vậy, một khi hoàng hậu vẫn chưa hoài thai thì hoàng thượng sẽ không thân cận quá mức với bất kỳ đứa con nào, tránh khiến cho triều đình xào xáo không yên. Dù sao đi nữa thì hiện giờ cựu thần Hoài Tống cũng đã có một thế lực nhất định trên triều.

    Nét mặt ôn hòa đó của hoàng thượng, e ngay cả con trai ruột cũng chưa từng thấy qua.

    Ngọc Thụ thở ra một hơi thật dài. Một đàn chim bay ra từ rừng cây, đập cánh kêu *phành phạch*, nàng ngẩng đầu nhìn lên trời, gió thổi lên mặt, lạnh lẽo như băng.

    Phía trước vọng lại tiếng cười, âm thanh nghe vô cùng vui vẻ.

    Cách đó rất xa, sâu bên trong hoàng cung tĩnh mịch, Nạp Lan Hồng Diệp thả từng dải lụa trắng vào trong chậu lửa, lẳng lặng nhìn dải lụa bị ngọn lửa cắn nuốt rồi hóa thành tro đen. Trong một thoáng, nàng như nghe được phía đông nam có gió thổi đến, lẫn trong tiếng gió là âm thanh quen thuộc, quanh quẩn bên tai mãi không đi.

    Thâm cung vắng vẻ, nàng mặc bộ cung trang hoa lệ, từng tầng vải gấm ôm lấy người nàng, như cũng bao lấy mọi hỉ nộ ai lạc, biến chúng thành những hoa văn không sự sống trên lớp vải cứng ngắc. Sống lưng thẳng thắp, trang dung tỉ mỉ, tất cả cung nhân đều đứng ở xa, không một ai dám ngẩng đầu lên nhìn nàng dù chỉ một cái. Nàng vẫn là người phụ nữ cao quý kia, là người nắm giữ thực quyền của Hoài Tống, là hoàng hậu của Đại Yến, là vị công chúa cuối cùng của Nạp Lan thị, song chẳng ai biết, hai vai nàng đã mệt mỏi lắm rồi.

    Ánh mặt trời chiếu lên người nàng, trong không trung mơ hồ lộ ra bụi tro rất nhỏ. Tất cả đều đổi khác, nhưng nàng vẫn chỉ có một mình, trong không gian tĩnh mịch này, thời gian dường như kéo dài đến vô tận.

    “Lại một năm nữa trôi qua.” Nàng khẽ cười, nụ cười mơ hồ như sương khói, nhẹ nhàng tan biến trong bầu không gian cuối thu lất phất tuyết.
     
    Tu Di, PhươngThảo and Vân Yên like this.
Thread Status:
Not open for further replies.

Share This Page