1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Mê Tông Chi Quốc IV !! -Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 27/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Mê Tông Chi Quốc IV: U Minh Cửu tuyền

    Tác giả:Thiên Hạ Bá Xướng

    Thể loại: Phiêu Lưu, Kinh Dị

    Nguồn: bachngocsach

    [​IMG]
    Giới thiệu:

    Đội khảo cổ bắt đầu cuộc hành trình xuống địa ngục, họ sa chân vào vòng xoáy hư vô.

    Vực sâu không đáy thăm thẳm dưới lòng đất liệu có phải vương quốc của những vong hồn vạn kiếp không thể siêu sinh?

    Hàng loạt hiện tượng quái dị liên tiếp xảy ra.

    Tấm bia đá của tộc người Bái Xà trở thành manh mối duy nhất có thể phá giải chuỗi ẩn số thần bí.

    Cái giá phải trả cho việc giải mã nội dung tấm bia là mạng sống.

    Một dãy số ẩn chứa biết bao mầm họa.

    Phải chăng phía sau tấm bia cổ còn che giấu một bí mật kinh thiên động địa hơn thế…
     
    Pisces, kaka, Longngo217 and 9 others like this.
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 1: NHÀ THÁM HIỂM COROT MAAR - HỒI 1: DÃI RỒNG TRƯỜNG SINH


    Phía dưới vòng tròn nham thạch gần như là lò nung cao áp, nhưng mãi đến khi hội Tư Mã Khôi lún dần xuống vực sâu theo vỏ ốc Anh Vũ, rồi rơi xuống thâm cốc nằm chìm hẳn vào quyển Manti, họ mới phát hiện mây gió bao quanh thủy thể tạo thành vòng tròn từ trường nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc đã giúp họ ngăn cách tuyệt đối với dòng dung nham nóng bỏng và địa áp phía ngoài.

    Mọi người không tìm thấy tung tích của Nấm mồ xanh, trước mắt chỉ còn bóng đêm hư vô. Nhờ những đốm sáng yếu ớt do ma sát địa từ ở phía xa phát ra, cả hội nhìn thấy một bóng đen khổng lồ nằm sừng sững trong màn sương mù dày đặc, mọi người liền lấy đó làm vật tham chiếu, di chuyển dần dần từ trên cao xuống rồi tiến về phía trước.

    Trong khe núi sâu nấm dại mọc um tùm, vỏ ốc cúc đá lô nhô trên mặt đất, địa hình nhấp nhô cao thấp, nơi lún xuống có nhiều khe nứt, chỉ cần lại gần một chút sẽ cảm nhận luồng hơi nóng như hơi chạy tàu hỏa phả vào cơ thể, trong đó toàn là những hang động pha lê tự nhiên, động nào cũng chứa đầy nước. Nếu lấy đèn quặng soi kỹ sẽ phát hiện những mỏm pha lê nhọn hoắt, sắc lẻm đâm tua tủa như rừng rậm, thật là một cảnh tưởng kỳ lạ đến nỗi khó ai dám tin là thật.

    Mọi người đều hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ cần lại gần và dừng lại bên cánh rừng pha lê ẩm ướt, oi nóng lâu thêm một chút là cảm thấy tim đập rất nặng nề, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, quần áo giày dép sũng nước, nên ai nấy đều tranh thủ nghỉ ngơi lấy lại sức và liên tục uống nước để duy trì thể lực.

    Tư Mã Khôi thấy pin và cacbua tiêu hao quá nhanh, mà tốc độ di chuyển của cả đội lại quá chậm chạp nên trong lòng lo lắng không yên, nhưng nhất thời anh cũng không nghĩ ra cách gì, chỉ biết than thầm: “Năm xưa Tần Quỳnh gặp nạn phải bán cả ngựa, coi như xui tận mạng, thế mà giờ bọn ta còn không bằng Tần Quỳnh, đừng nói ngựa, ngay cả lạc đà cũng chẳng có nữa là”.

    Hải ngọng cũng sốt ruột như kiến bò chảo lửa, nhưng anh vẫn để bụng chuyện lúc trước, nhìn Nhị Học Sinh mà “ngứa mắt trái, đỏ mắt phải”, nhân lúc nghỉ ngơi và lấy thêm nước, anh bĩu môi nói với Tư Mã Khôi: “Thằng mọt sách kia đáng ghét thế không biết, nhìn loại người như cậu ta, tớ lại liên tưởng đến một chuyện”.

    Tư Mã Khôi thờ ơ hỏi lại: “Cậu liên tưởng đến chuyện gì?”

    Hải ngọng đáp: “Liên tưởng đến nồi cơm to đùng chúng ta vừa nấu chín, sắp được ăn đến nơi thì bị thẳng tiểu tử kia hất cả vốc cát vào. Đúng là đồ thất đức!”.

    Nhị Học Sinh tự cảm thấy xấu hổ, nên mặc Hải ngọng châm biếm, bới móc, cậu ta chẳng dám ho he gì, chỉ lặng thinh cúi đầu không đáp.

    Cao Tư Dương sợ mọi người lại cãi nhau thêm chập nữa, cô bèn lảng sang chuyện khác, hỏi Tư Mã Khôi xem đã có kế hoạch gì chưa?

    Tư Mã Khôi cảm thấy bóng đen trong sương mù rất không lành, nó cao chí ít cũng tới ngàn mét, e rằng tấm bia Vũ Vương không thể cao to dường vậy, có khi nó là dãi rồng từ trong mạch đất chảy xuống cũng chưa biết chừng, bây giờ chỉ còn cách liều mạng đến tận nơi xem rõ trắng đen thế nào thôi.

    Hải ngọng hỏi: “Dãi rồng… là cái gì hả Khôi?”

    Tư Mã Khôi đáp: “Ngay từ thời Hán Đường, thành Lạc Dương xảy ra một cơn địa chấn dữ dội, cả thôn làng bị sụt xuống lòng đất, duy có một người tên là Vương Nguyên thoát khỏi kiếp nạn, bởi ông ta may mắn gặp được “dãi rồng”.

    Nghe nói, Vương Nguyên là người thông thạo huyền cơ, tu đạo, luyện khí, khi mặt đất nứt toác thôn làng sụt xuống, ông ta vẫn đang nằm ngủ trong nhà. Lúc mới bị lún, cả thôn chưa hề hấn gì, người dân trong thôn vẫn gào thét kêu cứu được, nhưng đến lúc sụt xuống tận suối sâu, thì già trẻ gái trai, chó mèo gà lợn trong thôn đều chìm nghỉm trong nước, chỉ mình Vương Nguyên từng luyện huyền thuật mới nổi trên mặt nước và thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, ông ta rơi xuống vực sâu cách mặt đất hàng ngàn trượng, bị dòng nước cuốn trôi vào một hang động rất lớn, đột nhiên ông ta thấy có một con quái xà thò đầu xuống, từ miệng nó chảy ra thứ dịch đen ngòm, thân nằm vắt dọc vách đá, lừng lững như cột đình. Ông ta sợ hãi cuống quýt vòng sang bên tháo chạy, nhưng chưa đi được bao xa thì bụng đói đến nỗi không lê nổi bước chân, đưa tay quờ quạng xung quanh thấy mặt đất toàn là bụi đất rất mịn, mềm nhão, lại còn phảng phất mùi thơm như mùi cám gạo, đang lúc đói vàng mắt, ông bèn nắm một vốc nhét bừa vào miệng, ăn xong thấy quả nhiên giải quyết được cơn đói. Từ đó, ông cứ ăn thứ đó để duy trì sự sống. Ông đi ròng rã suốt ba năm dưới lòng đất mới thoát được ra ngoài. Sau này, ông ta đem chuyện kể cho một vị học giả uyên bác. Vị học giả nghe xong bèn bảo Vương Nguyên, chất dịch dấp dính màu đen là dãi của con rồng già sống trong sông Hoàng Hà nhả ra, nếu uống chất dịch đó sẽ trường sinh bất tử, còn đám bụi đất kia là dãi rồng bị phong hóa biến thành bùn, ăn nhiều đến đâu cũng chỉ có tác dụng no bụng chứ không có hiệu quả siêu việt gì hơn.

    Hải ngọng thần người nghe, rồi chép miệng: “Bọn mình mau qua đó xem sao, uống được dãi rồng có khi lại biến thành thần tiên cũng nên”.

    Cao Tư Dương nói: “Nếu thật có dãi từ miệng con rồng già rớt xuống, thì tôi cũng chẳng dám uống, nghĩ đến đã thấy buồn nôn…”

    Thắng Hương Lân đoán: “Dãi rồng dưới lòng đất mà người xưa nói đến, có lẽ là một loại khoáng quặng dạng lỏng nào đó, ăn vào là mất mạng đấy!”.

    Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã cho rằng câu chuyện này vô căn cứ, nhưng anh vẫn kể để trấn an mọi người. Vì trong vực sâu tràn ngập sương khí mịt mù khắp tứ bề, ngoài chiếc bóng mờ ảo kia, thì không tìm thấy bất cứ vật tham chiếu nào khác, nên giờ chỉ còn cách liều chết xông vào, mới mong tìm thấy chút manh mối. Anh quan sát thấy xung quanh vương vãi đầy vỏ ốc cúc đá, ở đây không hề có dấu tích của sự sống nhưng sương khí dưới lòng đất mù mịt, nóng ẩm thế này kiểu gì chẳng tồn tại những vật thể sống khác, tính mạng của các thành viên trong đội có thể bị uy hiếp bất cứ lúc nào. Anh hiểu rõ, chỉ cần lơ là đôi chút là sẽ đi sai cả ván cờ, chỉ cần thiếu cảnh giác đôi chút, là có thể sẽ xảy ra sự cố. Bởi vậy, tuy ngoài miệng anh vẫn nói điềm nhiên, nhưng trong lòng không dám khinh suất chút nào.

    Cả hội vừa đi vừa nói chuyện, đi được chừng vài mét, khoảng cách giữa họ với chiếc bóng màu đen ngày càng rút ngắn dần. Cuối cùng, mọi người phát hiện thứ đó không phải dãi rồng, cũng không phải bất kỳ vật thể gì, mà là một cột khói đen. Giống như luồng khói đen bốc lên sau khi thiêu cháy cả thảo nguyên, cột khói được tạo thành từ vô số khói bụi đậm đặc ngưng tụ, tổng thể trông giống hình chóp tròn lộn ngược, càng lên cao thì càng to dần ra, nom tựa một vòm nấm khổng lồ sừng sừng nằm bất động giữa tầng không, con người đứng dưới chân nó trông như những con kiến ngẩng đầu nhìn tán lá khổng lồ.

    Hội Tư Mã Khôi cảm thấy nóng bức đến mức không thể chịu được, khói bụi trong bóng tối xộc vào mũi, khiến việc hít thở cũng khó khăn, mỗi người đều tự tìm một mảnh vải ướt che lên mặt, sau đó hạ kính chắn gió xuống, dừng chân quan sát. Mặt đất trước mắt lún xuống tạo thành sườn dốc, cột khói đen được phun ra từ miệng một hang động khá lớn bị sụt xuống, thì ra đó là tàn tích của chiếc tàu ngầm Z-615 bị nguyền rủa. Sau khi rơi khỏi núi từ, nó bị chìm xuống mặt biển mênh mông, xuyên qua thủy thể, rơi xuống lòng vực sâu, đâm thủng cả mặt đất, một nửa cắm trong động, khiến cột khói dày đặc không ngừng bốc cao lên không trung, không khí trên cao khá loãng khiến quầng khói đặc ngưng tụ và lơ lửng giữa bầu trời.

    Tư Mã Khôi quan sát hồi lâu, anh cho rằng cột mây hình nấm đáng sợ kia chỉ là vết tích do địa nhiệt dưới lòng đất trào lên còn sót lại, trông đồ sộ đến khiếp nhưng thực ra không có gì khác thường. Đang lúc đi vòng qua đó, anh chợt nghe thấy một tiếng động nhẹ phát ra từ trong xác con tàu. Tư Mã Khôi rất nhạy cảm, chỉ cần gió lay cỏ động cũng lập tức phát giác ra ngay. Anh bật đèn quặng, soi về phía đó thì thấy có một người đang thò đầu chui ra khỏi xác tàu. Kẻ mới đến phát hiện ánh sáng lay động đang soi vào mình, liền vội vàng lẩn vào màn sương đen đang lan tỏa mịt mù.

    Ban đầu, Tư Mã Khôi cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, nên không định cho phép đối phương chạy thoát khỏi tay mình thêm lần nữa. Anh bất chấp cái nóng như thiêu đốt của cột khói đen, lao như tên bắn xuống sườn dốc. Thấy kẻ đó bị khói bụi che khuất, anh bèn thò tay ra túm lấy, không ngờ thân thủ của đối phương cũng hết sức lanh lẹ, hắn nhanh như một con mèo hoang, quay người rồi lăn xuống đất, thoát khỏi tầm tay của Tư Mã Khôi một cách uyển chuyển đến kinh ngạc.

    Lúc này, hội Hải ngọng cũng lao đến bao vây, chùm sáng đèn quặng và họng súng nhất loạt chiếu vào kẻ mới đến, buộc hắn phải đứng im tại chỗ.

    Khói đen quanh đó khiến tầm nhìn bị giới hạn đến cực độ, Tư Mã Khôi cứ ngỡ mình đã tóm cổ được Nấm mồ xanh, nhưng nhìn kỹ lại qua kính chắn gió, anh thấy kẻ đó đầu đội mũ da, mình khoác tấm áo da dê lộn, cổ đeo chuỗi bánh đả cẩu, hai con mắt gian manh đảo loạn xạ, tuy hắn cũng bịt mặt bằng mảnh vải ướt, nhưng anh vẫn nhận ra, hắn ta không phải cái gã Triệu Lão Biệt mà đáng lẽ phải chết từ nhiều năm trước thì còn ai vào đây?

    Tư Mã Khôi vừa kinh ngạc vừa hãi hùng: “Sao lão quái này lại vẫn sống nhe nhởn sau bao phen tử nạn vậy nhỉ? Lẽ nào hẳn uống dãi rồng và trở nên trường sinh bất tử?”

    Nhân lúc mọi người đang thẫn người chưa biết xử lý thế nào thì Triệu Lão Biệt đã nhanh như cắt đâm bổ vào Nhị Học Sinh, người duy nhất không cầm súng trên tay, để hi vọng mở đường thoát thân.

    Nhưng lần này, Tư Mã Khôi đã đoán trước được hành động của Triệu Lão Biệt, anh lao lên dũng mãnh như con sư tử, quật lão ngã xuống đất, thò tay giật khẩu trang của đối phương.

    Tư Mã Khôi ép báng súng vào cổ Triệu Lão Biệt, lúc này nếu muốn kết liễu mạng sống của lão thì dễ như trở bàn tay, nhưng nghĩ lại anh thấy hội anh và Triệu Lão Biệt cũng chưa xảy ra xung đột gì quá đáng, chưa đến mức phải ép đối phương đến bước đường cùng, huống hồ sự việc đến nước này, có giết Triệu Lão Biệt cũng không cứu vãn được tình thế.

    Mọi người đứng dưới nấm mây, ai cũng thấy khó thở, biết đây không phải nơi tiện bề nói chuyện, họ liền áp giải Triệu Lão Biệt đến nơi khác.

    Hội Tư Mã Khôi vây quanh Triệu Lão Biệt, hai bên đều đang thăm dò đối phương, không ai chịu mở lời trước, cảnh tượng lúc này đúng là “dạ đầy lời mà miệng không nói”.

    Cuối cùng, Triệu Lão Biệt không chống đỡ nổi khí thế của đối phương, bèn lên tiếng hỏi Tư Mã Khôi: “Sông không đổi thì núi phải dời, không ngờ chúng ta lại gặp nhau…”, nói xong lão liếc trộm sắc mặt Tư Mã Khôi, rồi tiếp lời: “Vị thủ lĩnh đây thân thủ thật phi phàm, chắc do bậc tiền bối lục lâm cao thủ nào đó truyền thụ phải không, chúng ta tuy không họ hàng thân thích nhưng cùng là người trong giới, đều ăn bát cơm mà sư tổ để lại, các lão gia đi mòn gót khắp cõi trời đất, kết giao với bao nhiêu bằng hữu, ăn hết cơm của thiên hạ, rõ ràng là nhân vật thượng đẳng kiệt xuất, thân phận tôn quý, hà cớ gì phải chèn ép một kẻ biệt bảo hèn mạt như mỗ?”

    Tư Mã Khôi nói: “Lão chớ múa mép với tôi, ai chẳng biết thủ đoạn lục lâm chia thành hai loại thượng hạ, thượng gọi là “xuyên thiên”, hạ gọi là “nhập địa”, công phu xuyên thiên là bản lĩnh có thể bay như chim, lượn như én, đi trên mái nhà như giẫm trên đất bằng, lẻn vào nhà trộm của mà quỷ không biết, thần không hay; còn nhập địa là đào huyệt động, bới địa đạo, chuyên làm mấy phi vụ đào mồ đổ đấu. Nhưng bất luận là “xuyên thiên” hay “nhập địa” thì đều không chung một đường với mấy dị thuật biệt bảo nhà lão, nên có nói thuật của tôi và thuật của lão là hai lĩnh vực hoàn toàn khác biệt cũng chẳng có gì quá đáng”.

    Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không biết thân phận của Triệu Lão Biệt, hai người cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, họ không ngờ dung nhan hắn lại đầu gián mắt chuột như thế.

    Nhưng Tư Mã Khôi thì rất rõ, Triệu Lão Biệt không phải Nấm mồ xanh, có điều chắc chắn lão ta có liên quan mật thiết với Nấm mồ xanh. Tư Mã Khôi cũng biết rất rõ lão ta gian xảo khó lường, bao quanh lão là vô số những ẩn số không có lời giải, thử hỏi một người rõ ràng đã chết và để lại thi thể ở một nơi, làm sao có thể sống lại và xuất hiện ở một nơi khác?

    Nếu tính cả lần này, thì Tư Mã Khôi đã gặp Triệu Lão Biệt cả thảy ba lần, cũng có thể đó là ba người hoàn toàn khác biệt. Người thứ nhất, anh gặp trong nghĩa địa La Sư ở Trường Sa, lần ấy lão ta đi đào viên Lôi công mặc, rồi bị rơi xuống huyệt mộ, bị lửa ma thiêu chết. Người thứ hai anh gặp là kẻ đã tháo chạy khỏi chiếc hộp thời gian, rồi chết trước di chỉ Hắc Môn ở thành cổ Lâu Lan, còn bây giờ lại xuất hiện một Triệu Lão Biệt khác trong vực sâu dưới lòng đất.

    Hải ngọng gặp phải sự việc kỳ lạ, đầu óc ngây ra, anh cứ cảm thấy Triệu Lão Biệt là yêu quái hóa thành, phải mau chóng trừ khử lão càng sớm càng tốt.

    Tư Mã Khôi đầy dạ ngờ vực, nhưng trong đầu trăm ngàn mối tơ vò, anh không biết bắt đầu hỏi từ đâu, chợt anh nghe Thắng Hương Lân thì thầm bên tai: “Có khi lão ta không phải Triệu Lão Biệt đâu”.

    Tư Mã Khôi chợt tỉnh ngộ: “Ừ nhỉ, xem tình hình thì Triệu Lão Biệt xuất hiện ở Hắc Môn và Triệu Lão Biệt trong vực sâu là cùng một người, bởi vì đối phương vẫn nhớ rõ sự việc xảy ra trong chiếc hộp thời gian, nhưng lão ta chưa bao giờ mở miệng thừa nhận mình là Triệu Lão Biệt. Tất cả chỉ là suy đoán chủ quan của mình mà thôi”.

    Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền hỏi thẳng lão: “Tên họ lão là gì, lão từ đâu tới đây?”

    Ánh mắt gian manh của lão lóe lên tia xảo trá, khuôn mặt cố nặn ra nụ cười ranh mãnh, lão vòng tay thưa: “Người đi qua không để lại họ tên, không biết Trương Tam, Lý Tứ. Nhạn bay qua không để lại tiếng, không biết xuân hạ thu đông. Chư vị đã có lòng hỏi, thì hôm nay mỗ đành để lại họ tên quý tính ở đây vậy”.
     
    sáng ngx, Tún, gaconlonton and 2 others like this.
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 2: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ


    Tư Mã Khôi gặp Triệu Lão Biệt cả thảy ba lần, lần thì gặp lúc lão đã chết, lần thì gặp lúc lão đang sống, lần nọ cách lần kia rất nhiều năm. Nếu dựa vào tử thi của lão trước Hắc Môn ở thành Lâu Lan để suy đoán thì Triệu Lão Biệt mà hội Tư Mã Khôi gặp trong chiếc hộp thời gian cấu kết với đội thám hiểm người Pháp xuống lòng đất ăn trộm bảo vật, có lẽ là những năm Dân quốc, còn Triệu Lão Biệt mà anh gặp ở nghĩa địa La Sư và cùng lão đi đào Lôi công mặc có lẽ là năm 1968 – sau khi Trung Quốc giải phóng, rồi lão chết, hội anh đã chôn thi thể lão trong nghĩa địa hoang. Vậy mà giờ đây, lão lại lần nữa xuất hiện sờ sờ ngay trong vực sâu trước mặt anh, dung mạo không khác gì hai gã Triệu Lão Biệt đã chết trước đây, vẫn cách ăn vận của kẻ lang thang, vẫn bộ dạng lấm la lấm lét của gã biệt bảo tuổi ngoại ngũ tuần, rõ ràng lão là yêu quái trường sinh bất tử.

    Tư Mã Khôi không thể lý giải những ẩn sổ thần bí bao quanh con người này, cho dù lão quả thực trường sinh bất tử đi chăng nữa, thì cũng không thể có chuyện đã bị thiêu cháy thành tro bụi mà vẫn có thể tái thế giữa nhân gian thêm lần nữa. Bởi vậy, anh cho rằng, Triệu Lão Biệt mà anh gặp lần lượt ba lần, thực ra là ba con người hoàn toàn khác nhau.

    Ai ngờ, vừa nghĩ vậy, liền nghe Triệu Lão Biệt nói: “Mỗ quê ở Quan Đông, là con cả, cha mẹ sớm qua đời, nên chẳng ai đặt tên họ đàng hoàng cho cả, sau này theo sư phụ học nghề biệt bảo. Sư phụ mới đặt cho mỗ cái tên Triệu Lão Biệt”.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe xong, liền đánh mắt nhìn nhau, cảm thấy da gà nổi hết toàn thân, sự việc đang diễn tiến theo chiều hướng quái dị nhất – cả ba lần họ gặp, đều chỉ là một người, chính là Triệu Lão Biệt.

    Hải ngọng cứng lưỡi một lúc, mới nhắc Tư Mã Khôi: “Tớ biết rồi, nói không chừng dưới gầm giường nhà lão quái này có chồn tinh ẩn trốn đấy…”

    Những người khác nghe vậy đều ngơ ngác không hiểu, chỉ duy Tư Mã Khôi là hiểu ý Hải ngọng muốn ám chỉ điều gì. Năm đó, khi hai người vẫn lang thang ở khu Hắc Ốc, họ từng nhiều lần nghe người ta kể một câu chuyện quái dị:

    Không ai nhớ rõ câu chuyện xảy ra vào triều đại nào, chỉ đoán có lẽ là thời tiền Thanh, trong thôn có nhà họ Khuyết, hai vợ chồng mưu sinh bằng nghề đốn củi, làm ruộng, cuộc sống tuy đạm bạc nhưng đôi vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau, tính tình nhân hậu, biết giữ trọn đạo trước sau, bởi vậy ngày tháng họ ở bên nhau rất thoải mái, vui vẻ.

    Hai vợ chồng chỉ sinh hạ được một mụn con trai, đứa bé vừa ra đời đã có đôi tai rất lớn, vừa dày lại vừa rủ xuống, hai vợ chồng mừng lắm, luôn miệng khoe với mọi người: “Con trai tôi có tướng Phật, sau này chắc chắn hưởng phúc thọ mãi không hết cho mà xem”. Thế là, họ đặt tên con trai là Phúc Nhĩ.

    Nhưng sau này, có ông thầy tướng số xem xong lại phán: “Đứa trẻ này tai to nhưng vô phúc; hai tai phải dày vuông mới là bậc quý nhân, tai dày phúc dày, tai mỏng phúc mỏng; tai vừa to, vừa tròn là bậc anh minh, hiền tài; hai tai nhọn thì vất vả cả đời; hai tai dính vào đầu, sẽ phú quý đến già; nhìn thấy mặt mà không nhìn thấy tai là tướng đại phú đại quý”.

    Theo tướng pháp mà giang hồ lưu truyền, điều này có nghĩa là vành tai của con người không được thò ra và hướng về phía trước, mà phải ép về hướng sau gáy mới là tướng có phúc. Người ta thường nói: “Hai tai đón gió, bán cả đất chôn thây”, bởi vậy trước đây có nhà mê tín, thường ép vành tai của đứa trẻ sơ sinh về phía sau lúc nó đang ngủ, để đề phòng tai đứa trẻ biến thành tai đón gió bán cả đất đai vườn tược của tổ tông để lại, đợi khi đứa trẻ dần dần luyện được thói quen tự ép tai mình về phía sau, thì họ không cần để ý đến nó nữa.

    Ông thầy bói coi tướng cho Phúc Nhĩ, thấy hai tai cậu bé trên mỏng dưới dày, hai bên thò ra trước, thì phán thằng này có tướng nghịch tử, dẫu muốn thay tướng đổi mạo cũng đã muộn.

    Hai vợ chồng họ Khuyết không những không tin, mà còn bực mình đuổi ông thày tướng số “thối mồm” ra khỏi nhà. Từ đó về sau, họ càng ngày càng cưng chiều Phúc Nhĩ, từ bé đến lớn nó chỉ biết mở miệng thò tay đòi cơm, không cần làm bất cứ việc gì, suốt ngày lêu lổng, lớn lên gã lại học đòi thói lừa tiền, chơi gái, khiến người cha giận quá thổ huyết mà chết.

    Phúc Nhĩ không những không thấy đau lòng và hối hận, mà còn ngỗ ngược hơn trước, gã bán hết cả điền sản của gia đình, lại còn trộm gà cắp chó của thiên hạ. Một lần, Phúc Nhĩ bị người ta kiện lên nha môn, nên đành trốn vào trong núi, giữa đường gã gặp đám người dân tộc Miêu đen chuyên nuôi trùng luyện thuật. Thế là gã theo họ lang thang kiếm cơm ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh Quý Châu và Hồ Nam. Mấy năm sau, tên này lại trở về quê hương bản quán, về đến nhà, gã không những chẳng hồi tâm chuyển ý, biết nghĩ đến chuyện hiếu thuận với mẹ già, mà lại càng tác oai tác quái giết người, cướp của. Con gái nhà ai đen đủi bị gã nhắm trúng, gã sẽ xông thẳng tới cưỡng hiếp ngay lúc ban ngày ban mặt, ai dám kháng cự, gã liền cho một nhát ngay. Tên Phúc Nhĩ còn điên cuồng độc ác hơn cả lũ sơn tặc thảo khấu.

    Trộm nghĩ ngay trước cổng vương pháp, làm gì có đất cho gã lộng hành, quả nhiên chuyện của gã đã kinh động đến quan phủ. Quan phủ sai nha dịch đến bắt Phúc Nhĩ, áp giải lên công đường. Ai ngờ, gã ngang nhiên thừa nhận tội trạng và nhanh chóng bị mang ra xử tội. Người ta áp giải gã đến giữa phố chém bay thủ cấp, dân chúng ai cũng vô tay khen quan phủ hành động mau lẹ. Nào ngờ, ngay ngày thứ hai sau khi bị hành hình, người ta lại thấy gã nhởn nhơ đi trên đường phố và vẫn gây tội ác khắp nơi.

    Quan phủ đương nhiên cũng không thể yên lặng đứng nhìn, ngài lại lần nữa bắt gã về chấp pháp, nhưng bất kể cái đầu của Phúc Nhĩ bị chặt bao nhiêu lần, thì hôm sau người ta lại thấy gã vẫn nghênh ngang đi trên phố, vẫn sống nhe nhởn như chưa từng bị chết. Dân chúng bách tính hoang mang sợ hãi, không hiểu gã là quái vật phương nào, đành để hắn giương oai diễu võ, không ai dám làm gì gã.

    Cuối cùng, người mẹ già của Phúc Nhĩ không cam tâm nhìn con trai mình tiếp tục gây tội ác tày đình nữa, bà đành vì đại nghĩa mà ra tay cắt bỏ máu mủ ruột già. Bà mẹ đau khổ chạy đến nha môn bẩm báo với quan phủ, nói thằng con bất hiếu này trước đây từng luyện yêu thuật trong núi sâu, dưới gầm giường chôn giấu “táng hồn đàn”, tuy thân xác bị hành hình cắt thủ cấp trên pháp trường để thị uy dân chúng, nhưng chẳng bao lâu sau một con người mới sẽ mọc ra từ trong “chiếc hũ giấu hồn”.

    Quan phủ bán tín bán nghi, lập tức sai người đến nhà gã đào bới, quả nhiên thấy một cái hũ đen sì sì, hình dáng giống như chiếc hũ đựng xương cốt, ông bèn cho người đập tan ngay tại chỗ, sau đó ra lệnh bắt Phúc Nhĩ áp giải lên pháp trường, thi hành án lăng trì tùng xèo, rồi nghiền xương thành tro vụn, tung rắc khắp nơi. Từ đó về sau, không thấy sự lạ yêu quái chết đi sống lại tiếp tục xảy ra nữa.

    Chuyện này không được ghi chép trong sử sách, chỉ là người này truyền miệng cho người kia mà thôi. Tư Mã Khôi cũng không biết bên trong “táng hồn đàn” rốt cuộc là thứ quỷ quái gì. Anh thấy Triệu Lão Biệt sau mỗi lần chết đi thì lại sống dậy như chưa bao giờ chết, giống y đúc gã Phúc Nhĩ trong truyền thuyết ly kỳ thời xưa.

    Tư Mã Khôi không tin trên thế giới này có cái gọi là “táng hồn đàn”, nó hoang đường giống như “đỉnh tụ bảo”. Tương truyền cuối thời Nguyên, đầu thời Thanh, có một người vô cùng giàu có, tên là Thẩm Vạn Tam, của cải nhà ông ta chất cao như núi, ăn mãi không hết, ông ta lấy đâu ra lắm tiền thế? Nghe nói, lúc chưa phát tài, trên đường về nhà, Thẩm Vạn Tam vô tình gặp một người dân quê bắt được rất nhiều ếch ở ven hồ, và đang mổ bụng moi ruột tại trận, máu me nhuốm đỏ một khoảng đất. Thẩm Vạn Tam không nỡ nhìn cảnh này, bèn móc hầu bao trả tiền để mua mấy trăm con ếch còn lại, sau đó phóng sinh chúng xuống dưới hồ. Một buổi tối nọ, ông ta lại đi ngang qua cái hồ đó, bỗng nghe thấy bầy ếch kêu ra rả, từ dưới hồ trồi lên một chiếc đỉnh cổ, vứt một đồng vàng vào trong đỉnh, sẽ lập tức biến thành hai đồng. Thẩm Vạn Tam thấy vậy nảy lòng tham nên đã chiếm cái đỉnh này làm của riêng, gia tài khổng lồ của ông ta về sau đều nhờ chiếc đỉnh này mà có. Sau này, toàn bộ gia tài nhà Thẩm gia đều bị Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương tịch thu, Thái Tổ bắt họ Thẩm phải cống nạp chiếc đỉnh thần kỳ này. Chu Nguyên Chương hỏi Lưu Cơ Lưu Bá ôn xem vật này là vật gì, thì được trả lời, đây là đỉnh “tụ bảo”, tức là chiếc đỉnh nhả tiền, hậu thế thường gọi là “chậu nhả tiền”, nếu người sống rơi vào trong đó, sẽ lôi ra được hai người giống nhau như đúc.

    Tư Mã Khôi cũng thầm đoán, chẳng lẽ Triệu Lão Biệt vô tình rơi vào đỉnh “tụ bảo”, vì vậy trên đời này mới có nhiều người giống nhau như đúc đến vậy? Nhưng đỉnh “tụ bảo”, “táng hồn đàn” và “trường sinh bất tử”, ba khái niệm này đều không hoàn toàn giải thích được trường hợp của Triệu Lão Biệt. Những bí mật trên người lão ta e rằng chỉ một mình lão mới biết rõ mà thôi.

    Tư Mã Khôi thầm cân nhắc, thấy khó mà xếp Triệu Lão Biệt vào phe ta hay phe địch, không thể nói rõ lão ta là tà phái hay chính phái, chỉ có thế nói lão ta là “kỳ nhân”, từ đầu đến chân cất giấu bao nhiêu ẩn số, lão đứng giữa hai chiến tuyến “đội khảo cổ” và “Nấm mồ xanh”. Tư Mã Khôi biết rõ Triệu Lão Biệt là người gian xảo, không thể tin hoàn toàn những gì lão nói, nhưng cũng không thể không hỏi cho rõ đầu đuôi. Thế là, anh bảo mọi người đừng nói gì nữa, tránh lỡ miệng tiết lộ cơ mật. Hãy để Triệu Lão Biệt kể rành mạch về gốc gác của lão ta, đợi tới khi làm rõ được chân tướng sự việc sẽ hậu xét.

    Triệu Lão Biệt thấy không thể thoái thác được nữa, bèn múa mép chống chế: “Chư vị anh hùng đã hỏi, thì mỗ đây cũng xin thưa. Cái nghề biệt bảo của mỗ đúng là phải dựa vào bản lĩnh thực sự mới kiếm được miếng ăn, mắt phải nhìn tinh, miệng phải thử chuẩn, năm châu bốn bể chỗ nào cũng nhào vô, sóng gió vạn trượng nơi nào cũng không tha…”

    Hải ngọng ngứa ruột hừ giọng: “Lão còn dám nói thêm một câu thừa nữa, tôi sẽ bẻ từng cái răng một đấy. Không tin tôi và lão cứ thử là biết ngay”.

    Triệu Lão Biệt sợ so vai lại, khúm núm nói: “Tại mỗ không biết trời cao đất dày, mong vị hảo hán lượng thứ… nhưng… các vị muốn lão nói điều gì mới được chứ?”

    Hải ngọng nghiến răng, quắc mắt quát: “Lão có thành tâm muốn nói không thế hả? Muốn lão nói gì, tự bản thân lão cũng không hiểu à? Chẳng lẽ lại đợi tôi phải mở mồm hỏi? Đầu tiên, mau khai ra lão lén lút chạy đến chỗ này làm gì!”

    Triệu Lão Biệt nhăn mặt kể lại chuyện mình vừa trải qua. Lão bảo mình cũng bị nhốt trong vực sâu, thấy trong sương mù có vật gì rơi xuống, bèn chạy đến xem, phát hiện có một con tàu bằng sắt lún xuống đây, khiến khói đen trong lòng đất phun lên cao cả vạn trượng. Lão vẫn nhớ chuyện mình bị nhóm người này truy kích trong sa mạc thành Lâu Lan, chẳng ngờ oan gia ngõ hẹp, đôi bên lại gặp nhau ở chỗ này. Triệu Lão Biệt như chim sẻ sợ cành cong, thấy tình thế có vẻ không ổn bèn quay người định chuồn. Những chuyện xảy ra sau đó thì mọi người đều biết cả rồi.

    Hải ngọng càng nghe càng điên tiết: “Lão chết tiệt này nói thế cũng bằng không, lão định qua mặt Hải ngọng ông như qua mặt một thằng ngốc đấy à? Hôm nay không vặn từng cái răng của lão thì không xong…”

    Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng hỏi không ra đầu ra đũa, bèn giơ tay ngăn lại, rồi quay sang hỏi Triệu Lão Biệt: “Tôi và lão chẳng nuôi thù kết oán gì với nhau, nhưng chuyện của lão vô cùng quan trọng với bọn tôi. Bởi vậy, hôm nay lão phải kể rành rẽ tất cả mọi việc cho bọn tôi nghe. Đừng hòng qua quýt che mắt bọn tôi. Hãy nói hết ra, ví dụ lão từng gặp ai, luyện công phu gì, kiếm được những báu vật gì, trải qua những sự việc gì, đã đi đến những đâu… Lão mau khai báo tuốt tuột ra cho tôi!”.

    Triệu Lão Biệt nói vẻ khó xử: “Vị thủ lĩnh đây cũng là người từng trải giang hồ, chắc cũng hiểu bắt người ta kể chân tướng sự thật khác gì đòi đào mả bố người ta lên. Nom các vị nai nịt thế này, phải chăng là đến đây tìm… tấm bia Vũ Vương? Tuy Triệu Lão Biệt mỗ bất tài, nhưng cũng nguyện giúp các vị một tay”.

    Mọi người nghe lão nói mà lặng cả người. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đồng thanh hỏi: “Lão biết bia Vũ Vương dưới vực sâu thật sao?”

    Triệu Lão Biệt thấy mình nói trúng tim đen, bèn giả bộ vòng vo: “Nói vậy cũng không phải, mỗ chỉ biết tí chút thôi”.

    Hải ngọng sốt ruột hỏi dồn: “Thế lão có biết bia Vũ Vương là cái gì không?”

    Triệu Lão Biệt gật đầu: “Đương nhiên là biết chứ…”

    Hải ngọng tò mò: “Rốt cuộc nó là vật gì?”

    Hội Tư Mã Khôi nín thở tập trung, tất cả mọi người đều chăm chú nhìn Triệu Lão Biệt, ai cũng muốn nghe xem rốt cuộc lão sẽ nói gì.

    Nhưng Triệu Lão Biệt chỉ thủng thẳng:“Tấm bia đó chẳng phải phiến đá khổng lồ hay đặc biệt gì, nó không khác gì các tảng đá bình thường trên núi. Nếu không người ta đã chả gọi nó là bia đá. Bia đá ấy mà, vốn dĩ chỉ là một tảng đá, không phải vàng, cũng không phải ngọc”.

    Hải ngọng nổi giận lôi đình, túm cổ Triệu Lão Biệt mắng: “Tiên sư thằng già, tao thấy mày chán sống rồi thì phải!”

    Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt cố tình nói loanh quanh, thì cũng thấy ghét không chịu được, anh liền ra hiệu bảo những thành viên còn lại cứ cho lão nếm mùi đau khổ, không cần can ngăn, để mặc Hải ngọng dạy lão một bài học.

    Triệu Lão Biệt bị Hải ngọng hành hạ một hồi, quả nhiên nhũn như con chi chi, không dám khoe khoang kiến thức nữa. Lão nói: bia Vũ Vương quả thực chỉ là một hòn đá rất đỗi bình thường, câu lão nói khi nãy hoàn toàn là sự thật. Tuy hòn đá nào cũng giống nhau, nhưng mỗi hòn lại có một số mệnh khác nhau, cũng giống như con người vậy. Nếu ta lột sạch quần áo của gã ăn mày trên đường phố và hoàng đế ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng ra, thì hai người chẳng qua chỉ là hai cơ thể với lớp da bọc lấy khối máu thịt. Bởi vậy mới nói người và người đâu có gì khác biệt. Chết đi cũng chỉ vùi thân dưới ba tấc đất, mục rữa rồi để bọn giun dế làm tổ. Nhưng vì sao hoàng đế lại ngồi trên vạn người, muốn bao nhiêu thê thiếp được bấy nhiêu thê thiếp? Còn ăn mày thì phải sống dưới đáy cùng của xã hội, cả đời chịu cảnh đói rét? Đó là vì số mệnh của hai người đó không giống nhau, họ cùng phận mà không cùng mệnh.
     
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 3: SỐ MỆNH LÀ DÒNG SÔNG THẦN BÍ


    Mọi người nghe Triệu Lão Biệt nói thì đều cảm thấy rất mông lung: “Số mệnh của con người đúng là trăm người trăm vẻ, nhưng hòn đá thì làm sao có số mệnh được?”

    Thắng Hương Lân suy đoán: “Có lẽ Triệu lão sư phụ muốn nói – mọi sự vật trên đời đều có cơ duyên riêng của nó… ”

    Tư Mã Khôi nói: “Cho dù hòn đá có số mệnh, thì nó vẫn chỉ là một hòn đá, tấm bia Vũ Vương chìm xuống vực sâu sao có thể chỉ là một hòn đá bình thường được?”

    Triệu Lão Biệt thấy mọi người vẫn chưa hiểu chuyện, liền bảo: “Thế thì nói thế này vậy, chư vị đều là những người đi nhiều biết rộng, chắc hẳn biết Đường Thái Tông Lý Thế Dân chứ hả? Sau khi chết, Thái Tông hoàng đế được an táng ở Chiêu Lăng, trên mặt đá của điện thờ chạm khắc hình sáu con chiến mã. Đó đều là những con chiến mã ngài từng cưỡi lúc sinh thời, chỉ vỉ sơn lăng của Thái Tông được gọi là Chiêu Lăng, nên bức phù điêu sáu con tuấn mã được đặt tên là ‘Chiêu lăng lục tuấn’, sáu con tuấn mã đó lần lượt là Táp Lộ Tử có công cửu giá, Bạch Đề Ô ngày đi ngàn dặm, Quyền Mao Oa thiên mã hạ phàm, Thanh Truy động tác uyển chuyển như dải lụa trắng, Thập Phạt Xích tuấn mã huyết thống Ba Tư, Đặc Lặc Phiêu phi nhanh như gió.

    Thực ra, phiến đá có khắc ‘Chiêu lăng lục tuấn’ chỉ là một phiến đá bình thường, trong núi có biết bao phiến đá như thế, nhưng vì trên bề mặt nó chạm khắc kiệt tác, nên nó mới trở thành báu vật, người nào nhìn cũng thèm muốn, kết cục nó bị một bọn trộm mộ để mắt tới, chúng đập nát điện, cất nó trong hòm, rồi cho lên tàu vượt biển sang hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.

    Triệu Lão Biệt còn nói thêm. Lúc bọn trộm mộ hủy hoại ‘Chiêu Lăng lục tuấn’, chính mắt lão cũng trông thấy, các cậu nói xem trên đời này có biết bao tảng đá, sao có những tảng đá đứng trơ gan cùng tuế nguyệt hàng ngàn vạn năm, rồi bị phong hóa mủn nát trên núi mà mãi mãi không có ai ngó ngàng tới, trong khi đó có những tảng đá lại được người ta lựa chọn làm tấm bia khắc ‘Chiêu Lăng lục tuấn’? Nói đến cùng chẳng phải đều tại chữ ‘mệnh’ thôi sao? ‘Mệnh’ nói một cách đơn giản thì chỉ mỏng như lớp giấy dán cửa sổ, còn nói sâu hơn thì nó là vực sâu như biển cả không nhìn thấy đáy.

    Hải ngọng bừng bừng lửa giận, ngoạc mồm ra mắng: “Bọn khọm Tây quả là đáng ghét, nẫng hết hàng tốt mà tổ tông chúng ta để lại, trách gì năm đó nổi dậy loạn Nghĩa Hòa Đoàn, thử hỏi không nổi dậy liệu có thành công không? Lúc đó mà ông đuổi kịp thì ông đã đẩy đường sắt, nhổ cột điện hất tung mẹ tàu chúng nó xuống biển cho rồi”.

    Triệu Lão Biệt vội chối bay chối biến: “Nói gì thì nói mỗ đây ít nhiều vẫn là người có thực lực, người ta có câu ‘thà chết cũng không khai, thà đói cũng không làm giặc’, nghề vớ vẩn gì mà chẳng kiểm nổi hai bữa cơm nhạt qua ngày, sao phải đi làm cái việc hạ tiện sớm tối hầu hạ bọn chó đó?”

    Tuy Tư Mã Khôi cũng phản cảm với lối nói chuyện mập mờ của Triệu Lão Biệt nhưng trong lòng anh cũng đôi chút cảm nhận được hàm ý giấu phía sau – số mệnh giống như một dòng sông thần bí, không ai biết nó sẽ đưa ta đến đâu, con đường phía trước của hội anh cũng đầy rẫy những điều chưa biết. Nhưng cuối cùng anh cũng hiểu Triệu Lão Biệt muốn nói gì, bia Vũ Vương chẳng qua chỉ là một phiến đá lớn, bản thân nó không hề có điểm gì đặc biệt, dòng chữ khắc trên tấm bia cổ đó mới là điều then chốt, nhưng trên phiến đá cùng lắm cũng chỉ khắc mấy hàng chữ “long ấn triều Hạ” đã thất truyền từ lâu chứ mấy, thực sự không thể tưởng tượng được mấy ký tự cổ đại đó có thể phát huy được tác dụng gì.

    Tư Mã Khôi đành tiếp tục truy vấn Triệu Lão Biệt: “Lão có biết trên tấm bia Vũ Vương ghi chép bí mật gì không?”

    Triệu Lão Biệt gật đầu đáp: “Vị thủ lĩnh đây nói rất chính xác, trước đây mỗ không biết, nhưng bây giờ thì đã hiểu rồi”.

    Trong khoảnh khắc, tim mọi người như thắt lại, họ đều đợi để nghe Triệu Lão Biệt nói ra bí mật trên tấm bia Vũ Vương.

    Triệu Lão Biệt ra vẻ thần bí nói: “Chúng ta bèo nước tương phùng, duyên phận cũng khá sâu đậm, các vị đã muốn hỏi bí mật khắc trên tấm bia đá kia rốt cuộc là gì, thì mỗ cũng xin nói thật vậy, các vị nghe đây…”

    Cả hội không thể tưởng tượng nổi một phiến đá khổng lồ bị chìm dưới vực sâu từ mấy ngàn năm trước có thể ghi chép lại bí mật kinh thiên động địa gì, giờ phút này, lòng hiếu kỳ của mọi người đã dãn ra đến cực điểm, ai nấy đều nín thở lắng nghe như thể chỉ sợ lọt mất chữ nào.

    Triệu Lão Biệt vốn không muốn tiết lộ bí mật với đối phương, nhưng bị đẩy vào thế bí, lão lên gân lên cốt nói: “Bí mật này đúng là chuyện động trời, các vị nói nó là thế nào thì nó chính là thế ấy… nghĩ nó là thế nào thì nó chính là thế ấy!”

    Hải ngọng ngứa ruột, phăm phăm lao vào lão, rút dao săn ra, định đẽo Triệu Lão Biệt thành “cây gậy người” luôn một thể.

    Tư Mã Khôi thấy tuy xung quanh lai lịch của Triệu Lão Biệt có nhiều điều ly kỳ, nhưng lão ta chẳng qua chỉ là hạng ít học, mở miệng ra là thở toàn khẩu ngữ giang hồ, lời lẽ thô kệch, muốn lão giải thích rõ ràng mọi bí mật cổ xưa ẩn chứa trong tấm bia Vũ Vương còn khó hơn lên trời, dẫu sao mọi người đã xuống tận đáy vực sâu, kiểu gì cũng nghĩ được cách tìm thấy tấm bia cổ, trước mắt phải xác định chính xác lai lịch của lão đã. Nghĩ vậy, anh bảo đối phương trình bày cặn kẽ từ đầu chí cuối xem lão “đã gặp những ai, học những công phu nào, biệt bảo được những báu vật gì, trải qua những sự kiện nào, từng đi đến đâu, vì sao lại xuất hiện ở dưới lòng đất này – nơi mà con người không thể đặt chân tới và biết bí mật của tấm bia Vũ Vương qua nguồn thông tin nào?”

    Triệu Lão Biệt cũng biết tiếc mạng sống, mắt thấy không thể tiếp tục che đậy được nữa, lão đành khai ra thân thế của mình: Triệu Lão Biệt có cuốn bí thuật biệt bảo gia truyền, ngoài cặp mắt tinh như cú vọ phân biệt được mọi báu vật trên đời, lão còn biết chút ít về mấy món công phu “miêu thoán cẩu thiểm”(1). Ngoài ra, lão luyện cả khí công, từ trước đến giờ chưa bao giờ bị ảnh hưởng bởi sự nóng lạnh của thời tiết. Trời nóng bức bao nhiêu, lão vẫn mặc áo da như thường, có điều lão ta quanh năm chỉ quanh quẩn khai hoang trồng cấy ở vùng nông thôn, chưa bao giờ được ra ngoài mở mang tầm mắt, cũng chưa đi đâu xa quá cổng làng.

    1 Miêu thoán cẩu thiểm: nghĩa là “chó chui mèo lủi”.

    Triệu Lão Biệt là hạng người ếch ngồi đáy giếng điển hình, cùng lắm cũng chỉ thấy bầu trời rộng bằng lòng bàn tay, lúc nào cũng nghĩ ta đây tài giỏi lắm. Đến những năm Dân quốc, cả nước lâm vào nạn đói, người dân ở nông thôn chết đói như ngả rạ, lão đành bươn trải ra ngoài tìm kế mưu sinh, nhưng lúc đó thế thời đang loạn lạc, lão không thể tìm thấy báu vật trong thành, trong khi ngoài thành thì nhan nhản bọn ngựa vang(2), giặc đất, chỉ bất cẩn một chút là mất mạng như chơi. Có câu “Hổ đói chặn đường vồ người, người đói ra đường mãi võ”, lão cũng bày đại mấy gánh hàng, diễn thử mấy chiêu, nhưng chuyện đời ăn cần tiền, ở cũng cần tiền, trên có mái nhà, dưới có nền nhà, chi phí cống cho quan viên và giang hồ đều phải nộp đủ, lão lại chỉ biết mấy chiêu nhà quê, chẳng có mấy người cam tâm móc túi bỏ tiền xem lão diễn. Cuối cùng hết cách, lão đành hạ quyết tâm làm giặc đất.

    Những năm đó, tuy cả gầm trời đều loạn thành mớ bòng bong, nhưng giới giang hồ vẫn duy trì giới luật nghiêm ngặt. Người ta vẫn bảo “đất có thổ công sông có hà bá”, thổ công hà bá đã không gật đầu thì đố dám chen chân nhập bọn, mà nếu đánh lẻ thì ngặt nỗi thổ không thông, người không quen. Xưa có câu rất chí lý “ làm ăn không đắc địa, chỉ tổ rước cục tức vào thân”, Triệu Lão Biệt đương nhiên cũng thấu hiểu đạo lý này, lão cảm thấy tốt nhất nên tìm một “bóng tùng” để nương tựa, bởi rốt cuộc lưng có dựa gốc cây thì thân mới mong mát mẻ. Cái gốc cây to nhất lúc ấy tất nhiên là Thường Thắng Sơn. Nghĩ vậy, Triệu Lão Biệt liền đến bái kiến thủ lĩnh, thắp hương xin nhập hội, nào ngờ tên thủ lĩnh đó lại trông mặt mà bắt hình dong, thấy Triệu Lão Biệt quê mùa một cục nên không mấy coi trọng.

    2 Ngựa vang: chỉ dân cướp đường.

    Triệu Lão Biệt thấy mình bị người ta coi thường thì tức nổ ruột, nghĩ thầm: “Bàng Thống thời Tam quốc tuy hình dáng xấu xí bé nhỏ, không đạo mạo cốt cách như Gia Cát Lượng, nhưng tài năng thì chẳng kém cạnh gì, thế mà lúc đầu gặp mặt, Lưu Bị cũng có ý xem thường ông ta. Con người trên cõi đời này đa phần đều là hạng mắt thịt dung tục, chỉ biết coi bì tướng chứ đâu biết coi cốt tướng, sao hiểu được khí chất anh hùng?”

    Triệu Lão Biệt tự ái, lão liền quyết định bỏ đi xa một mạch đến tận Tân Cương. Chặng đường này bám đầy phong trần bụi bặm, lão càng lúc càng đi xa dần về phía tây, càng đi xa bóng người càng thưa thớt. Lão không biết đường đi lối lại, cũng không biết mình đang đến huyện nào, tỉnh nào. Một ngày nọ, lão hành hương đến một nơi, nơi ấy vô cùng hoang vắng lạc hậu. Không biết bao năm rồi chưa có người lạ bước chân vào trong thôn, dân chúng trong vùng không hề biết thế giới bên ngoài đã thay vua đổi chúa từ lâu, họ cứ ngỡ người đang an tọa trên ngai vàng giữa đất kinh thành vẫn là vua Càn Long.

    Triệu Lão Biệt không ngờ ở đây lại có nơi vắng vẻ dường vậy, lão định đi nhanh để kịp tìm nơi tá túc trước khi trời tối, nhưng suốt chặng đường chỉ thấy bãi hoang nối tiếp sa mạc, phía trước không thấy làng bản, phía sau không thấyquán trọ, mây đen che khuất ánh trăng, đêm khuya vô cùng tĩnh mịch, lão thu hểt can đảm bước về phía trước, bỗng lão nghe thấy phía sau văng vẳng “sột soạt”.

    Triệu Lão Biệt dừng bước, chiếu cặp mắt mèo quan sát xung quanh thì phát hiện có một con chó rất lớn đang bám theo mình. Con chó mặt xanh nanh vàng, nó trừng cặp mắt xanh lục, sáng quắc như đèn pha, thè cái lưỡi đỏ au như máu, ngoác mồm nhe răng hướng thẳng về phía Triệu Lão Biệt. Triệu Lão Biệt cuống quýt xua tay, miệng suỵt suỵt, hòng đuổi con chó hoang đi chỗ khác. Nào ngờ, con chó hung dữ lao đến cắn xé điên loạn chiếc áo da của lão. Triệu Lão Biệt cậy mình có tí võ, thò tay rút ra cái tẩu thuốc lớn vẫn giắt ở thắt lưng, gõ mạnh vào đầu con chó dữ. Phía đầu tẩu thuốc của lão bịt nắp đồng rất nặng, gõ vào đầu đảm bảo phải nổi một cục to bằng quả ổi. Con chó đau quá, kêu “ăng ẳng” rồi co mình lại, nhưng vẫn dai dẳng bám theo lão không chịu buông tha. Tiếng kêu của nó như thể tiếng gọi đồng loại. Lát sau, Triệu Lão Biệt thấy càng lúc càng nhiều chó đến hơn.

    Triệu Lão Biệt cuồng loạn chân tay, vừa ra sức gõ loạn xạ đầu tẩu thuốc, vừa co cẳng chạy nhanh về phía trước, nhưng bầy chó hoang quá dữ tợn, chúng xé nát cả chiếc áo da khoác bên ngoài, vai và bắp chân của lão đều bị thương. Đang lúc nghĩ bụng chắc phen này không thể trụ thêm được nữa, bỗng lão thấy phía xa có mấy đống lửa, thế là lão vừa lăn vừa bò đến đó. Mấy con ác cẩu thấy ánh lửa thì không dám đuổi theo nữa.

    Đám lửa đó là điểm hạ trại của một đoàn ngựa, đứng đầu là mấy người Pháp, họ dẫn theo nhóm thổ tặc vào sa mạc khai quật xác khô để vận chuyển ra nước ngoài triển lãm. Lúc ấy, trời đang lúc canh khuya, mấy người Pháp thấy toàn thân Triệu Lão Biệt bê bết máu, chạy gấp đến nỗi thở chẳng ra hơi, họ rất đỗi ngạc nhiên, vội vàng gọi phiên dịch đến hỏi xem đã xảy ra chuyện gì.

    Triệu Lão Biệt thở hồng hộc nói: “Đừng hỏi nữa, đây rốt cuộc là đâu? Sao nhiều chó thế? Mà toàn là chó hoang, chưa bao giờ tôi thấy loài chó dại nào lại hung dữ thế này, lỡ bị nó cắn thì thực không phải chuyện chơi, gõ vỡ đầu mà nó vẫn không chịu nhả mõm ra…”

    Mấy người Pháp và bọn thổ tặc đi cùng, nghe lão nói mà trố mắt nhìn nhau. Ở hoang mạc này lấy đâu ra chó hoang, chắc chắn người này vừa bị một đàn sói bao vây rồi! Lão ta ăn gan hùm mật gấu hay sao mà dám một mình chạy lung tung giữa hoang mạc trong khi thân không găm súng, tay không mang đuốc như vậy?

    Ở rừng già núi sâu vùng Quan Đông cũng có sói, nhưng phần lớn chúng chỉ xuất hiện đơn độc, đặc điểm hình dáng cũng hơi khác với sói sa mạc. Nghe mọi người nói vậy, Triệu Lão Biệt mới hãi hùng nhận ra, không ngờ khi nãy mình gặp phải sói, nghĩ lại vẫn thấy dựng hết tóc gáy.

    Tay cầm đầu đội thám hiểm Pháp thấy Triệu Lão Biệt một mình mở đường máu phá được vòng vây của bầy sói, thì nghĩ thầm người này chắc chắn phải có bản lĩnh xuất chúng. Sau này, cuốn cổ tịch biệt bảo lấy trộm được trong lăng tẩm vua Chăm Pa cũng là của tay đội trưởng người Pháp đó tặng cho lão.

    Năm Dân quốc 15, đội thám hiểm người Pháp nghe nói phía dưới di chỉ Hắc Môn ở thành cổ Lâu Lan có chôn giấu bảo vật. Khi ấy, Triệu Lão Biệt đã lăn lộn khắp vùng sa mạc Gobi ở Tân Cương khá lâu, lão rất rành địa phận vùng này, bởi thế lão dẫn đội thám hiểm Pháp tiến vào Lopnor tìm kiếm di tích cổ Lâu Lan. Giữa đường, bọn họ gặp bão cát, Triệu Lão Biệt bị lạc khỏi đội thám hiểm, bão cát tung bay mịt mù, tối tăm trời đất, giơ tay ra không nhìn thấy ngón. Lão mò mẫm tìm được một cửa động, liền vội vàng ba chân bốn cẳng chui xuống đó lánh nạn.

    Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân ngồi cạnh nghe Triệu Lão Biệt kể, mới biết thì ra đó chính là thời điểm Triệu Lão Biệt chui vào “chiếc hộp thời gian”. Lúc ấy, Triệu Lão Biệt lại ngộ nhận rằng, đội khảo cổ muốn giết lão diệt khẩu, nên tìm mọi cách chạy trốn, cuối cùng bị luồng không khí nhiễu động cuốn đi mất. Lúc tỉnh lại, lão thấy mình đã rơi xuống đất, gần như bị cát vàng chôn sống, may mà trước khi bị cái nóng sa mạc hun thành thịt khô, lão lại được hội người Pháp kịp thời đào lên. Lão cứ ngỡ mình vừa trải qua một cơn ác mộng. Triệu Lão Biệt ngầm ghi nhớ trong đầu mấy bức hình mà đội khảo cổ nhắc đến khi trước. Lão cứ một mực đinh

    ninh đó chính là những gợi ý ngầm về biệt bảo Lâu Lan. Thế là, mấy người bọn họ lại chỉnh đốn đội ngũ, bắt đầu xuất phát, họ chui xuống lòng đất từ cửa Hắc Môn.

    Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Nói như vậy thì sau đó Triệu Lão Biệt và tất cả hội người Pháp đều chết hết trong di chỉ dưới lòng đất Lâu Lan cổ, vậy sao một mình lão lại có thể xuất hiện ở đây để kể lại về cái chết được nhi?”. Nghĩ đến đây, đột nhiên anh nhớ ra, trong truyền thuyết Chăm Pa cổ đại nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, người ta gọi vực sâu bị biển ngầm dưới đất ngăn cách với thế giới bên ngoài là “vương quốc của người chết”.
     
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 4: QUẺ BÓI CỦA TRIỆU LÃO BIỆT


    Mọi người đều cảm thấy hành tung của Triệu Lão Biệt rất quái dị, khó mà biết lão là ma hay yêu quái, bao quanh lão là vô vàn ẩn số, không ai có thể đoán chính xác được rốt cuộc là gì nên đành chờ lão tự kể ra.

    Tư Mã Khôi hỏi Triệu Lão Biệt: “Tự lão thừa nhận mình đã chết trong sa mạc Lâu Lan từ những năm Dân quốc 15, thế bây giờ lão là người hay ma?”

    Triệu Lão Biệt sa sầm nét mặt, lão không muốn bị người khác lật tẩy chân tướng, nhưng lão cũng biết trò đãi bôi ba câu sáu điều khó mà qua mắt được Tư Mã Khôi, nên lão đành khai ra nguyên nhân của sự việc:

    Trước khi Triệu Lão Biệt cùng hội người Pháp xuất phát vào sa mạc Lâu Lan, lão đã về Quan Đông một chuyến, mang đổi tất cả của cải tích cóp bấy lâu thành vàng, rồi đánh thành từng thỏi, tìm một nơi vắng vẻ giấu thật kỹ.

    Khi ấy vừa đúng lúc Quan Nội họp chợ phiên, tuy ở đây không sầm uất như những đô thị lớn, nhưng nơi này là địa bàn xung yếu của các đoàn thương nhân vùng tây bắc, người đi chợ nườm nượp, phiên chợ đông đúc bán ti tỉ thứ, lớn bé đều có cả, lớn thì có gia súc cỡ ngựa, lạc đà; bé thì có gương lược, cây kim, sợi chỉ. Người ta bán đủ thứ từ tạp hóa, thuốc bôi, ống da, sừng bò, cho tới roi ngựa, mã tấu, yên cương ngựa, hơn nữa ở đó người ta còn bày trò diễn ảo thuật mãi võ. Đến các sạp ở ngoài cổng Quan Nội, người ta lại bày bán đủ các loại hàng ăn, quán xá lô xô, san sát nhau. Đúng là náo nhiệt vô cùng!

    Triệu Lão Biệt thấy trời hãy còn sớm, nên lão rẽ vào phiên chợ ngó nghiêng mỗi chỗ một tí. Lão là người xuất thân bần hàn, nên chẳng bao giờ dám móc tiền túi ra tiêu, có đi chơi chợ, lão cũng chỉ ngắm nghía cho thích mắt chứ không dám mua gì. Cứ như vậy, lão loanh quanh hết một ngày mà vẫn chưa chán, hôm sau lão lại ra chợ xem, thấy phía trước người ta xúm đông xúm đỏ, lão cứ tưởng có trò gì hay, nên cũng cố chen chúc vào “giải ngố” cho bằng được.

    “Giải ngố” là tiếng địa phương vùng Quan Đông, ý muốn chỉ việc xúm vào xem hôi, vừa không mất tiền lại vừa giải sầu. Triệu Lão Biệt rất giỏi trò này, lão cố sống cố chết len cho bằng được lên hàng đầu, ngồi xổm trên mặt đất, chăm chú quan sát, thì ra nhân vật chính là một vị thầy bói tuổi ngoại tứ tuần, vẻ ngoài trắng trẻo, sạch sẽ, thân hình khá phốp pháp, trên sống mũi còn gá thêm cặp kính cận, cách ăn vận khá giống giới văn sĩ bụng nhét đầy chữ.

    Thầy bói đó ngồi trên một tảng đá, phía trước là miếng gỗ dài, bày xếp ngay ngắn những giấy bút, ống mực, hộp trốc, phía sau cắm lá cờ hiệu quảng cáo, trên đó vẽ hình bát quái, hai mặt viết hai hàng chữ “Thiết Chủy bán tiên, xem tướng phán mệnh.”

    Vị thầy bói này hành tẩu trên giang hồ cũng đã lâu, lại rất biết cách làm hàng, học rộng biết nhiều và đặc biệt có tài ăn nói. Anh ta không ngồi đờ ra như cá chết, im lìm sau sạp hàng, mà trước tiên anh ta kể chuyện, người qua đường vừa nghe là dính vào luôn, người xúm đến xem càng lúc càng đông, cứ như vậy anh ta chẳng lo không có khách tự nguyện chui đầu vào rọ.

    Vị thầy bói tự xưng mình họ Hồ, quê ở Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, dân giang hồ gọi anh ta là Hồ Thiết Chủy – Thiết Chủy nghĩa là “miệng sắt” – ý muốn ám chỉ anh ta xem tướng đoán số chính xác như thần, chưa bao giờ nói sai nửa lời. Anh ta lấy hết sức đập miếng gỗ trên bàn, rồi lặng thinh tạo khí thế, sau đó mới đằng hắng mở màn: “Chư vị lão gia, đừng thấy cái này trông có vẻ tầm thường mà coi thường, thực ra nó có lai lịch hẳn hoi đấy. Người xưa dạy ‘Một thỏi thước gỗ chia bảy phần, thượng chí quân vương hạ chí thần, quân vương một mảnh trị quan nhân, quan nhân một mảnh trị lê dân, thánh nhân một mảnh truyền Nho giáo, thiên sư một mảnh trấn quỷ tà, sư gia một mảnh tuyên Phật pháp, Đạo gia một mảnh thuyết huyền môn, một mảnh lưu lạc chốn nhân gian, trôi nổi tám phương khuyên dân chúng’.

    Triệu Lão Biệt thấy lời ăn tiếng nói của vị thầy bói này khá mạnh miệng, khiến người ta chỉ muốn nghe tiếp xem anh ta nói gì, thế là lão ngồi xổm xuống đất, không bỏ đi nữa.

    Lão thấy vị thầy bói “miệng sắt” kia tiếp tục sang sảng: “Hồ mỗ đây lần đầu đến nơi đất quý này, theo lệ phải tự báo gia môn trước. Mỗ là hậu duệ đời thứ 72 của Hồ lão chân quân, theo dòng tướng pháp Ma Y, sở trường xem tướng xem tay, xem từ da xuyên thấu đến tận cốt xương, phân biệt nguyên thần, từ đó có thể phán đoán được phúc, thọ, phú, bần và cả mệnh lý sinh tử”.

    Nói xong, vị thầy bói rút ra một tập tranh phác họa chân dung của các nhân vật lịch sử. Anh ta giở đến một trang rồi giơ ra cho mọi người xem, trang đó vẽ Đại Minh Hồng Vũ hoàng đế Chu Nguyên Chương, bản vẽ này phỏng tác theo bức vẽ nguyên mẫu ở Minh Cung, bên cạnh còn chú thích sinh thần bát quái, đôi mắt của hoàng đế trong bức họa có mí trên ngắn, mí dưới dài, lỗ tai to hướng lên trên, lỗ mũi hở và hếch, cằm cũng hướng lên trên. Trong tướng sổ, tướng này gọi là “Ngũ lộ hướng thiên(l), địa cách(2) thoáng rộng”.

    1 Ngũ lộ hướng thiên: chỉ hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng hếch lên trời.

    2 Địa cách: chỉ cằm.

    Hồ Thiết Chủy chỉ tay vào bức họa, miệng thao thao bất tuyệt, khoe sư tổ của mình trước đây từng phán mệnh cho hoàng đế Chu Nguyên Chương, sinh thần bát tự của ngài quá rắn, nếu không gặp thời thì chỉ thành kẻ ăn mày nơi đầu đường xó chợ, nhưng một khi đã gặp thời thì lập tức trở thành thiên tử. Ngài vừa sinh ra đã biết nói, nhưng gọi cha cha chết, gọi mẹ mẹ chết, chỉ tại cha mẹ ngài mệnh mỏng, không chịu đựng được lời vàng tiếng ngọc của bậc chân mệnh thiên tử.

    Hồ Thiết Chủy nói xong về tướng mệnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương, lại tiếp tục bình đến cuộc đời của Đường Thái Tông. Trong lúc kể sự tích của những vĩ nhân thời cổ, anh ta còn chỉ tướng số ngũ quan của đám đông vây quanh, rồi luận sang hèn, hên xui, ví như người này làm nghề gì, người kia nhà có mấy người, có con trai con gái hay không, gần đây có vào vận không. Mà hay một nỗi, tất cả lời phán của anh ta đều chính xác tuyệt đối, ai nấy cứ gọi là gật gù khen chuẩn lia lịa.

    Chuyện đời thường chỉ thích đàm luận những việc kỳ lạ, ở chợ lại toàn hạng người thô lỗ, ít học, thấy Hồ Thiết Chủy nói càng giật gân, khoa trương, mọi người lại càng xúm đông xúm đỏ đến xem.

    Hồ Thiết Chủy thấy đám đông đã kha khá, mới bắt đầu vào chủ đề chính: “Từ trước đến giờ, mỗ thu mỗi quẻ nửa đồng Đại Dương, nhưng hôm nay là lần đầu tiên đến đây, lại được các vị cổ vũ như vậy, thôi thì mỗ cũng học theo Trương thiên sư bán thuốc mắt, buông tay lấy cái tiếng là chính, chỉ thu nửa giá thôi, không những vậy còn mua một quẻ, tặng một quẻ, nếu nói sai một câu, nửa xu mỗ cũng không dám lấy…”

    Nào ngờ, đúng lúc đó một trận cuồng phong chợt nổi lên, cuốn đất cát bay tứ tung, đám đông chạy tán loạn. Hồ Thiết Chủy bán nước bọt suốt nửa ngày trời, đến lúc sắp kiếm được tiền thì chẳng còn mống người nào, anh ta không kìm được tiếng thở dài, đành dọn hàng tránh tạm vào trong quán trọ ngay phía sau. Triệu Lão Biệt cũng ngồi xổm ở ngay cửa quán trọ, rút tẩu thuốc ra hút đợi ngớt bão cát, mới dám đi.

    Hồ Thiết Chủy hụt mất vụ làm ăn, thì không cam tâm, anh ta liếc mắt thấy Triệu Lão Biệt đứng ngay cạnh, liền nảy ra ý dụ Triệu Lão Biệt mở hàng. Anh ta mon men lại gần mời chào: “Mỗ thấy lão nông đây ngũ quan cân đối, chẳng hay có muốn để Hồ mỗ coi cho quẻ bói xem vận may thế nào không?”

    Triệu Lão Biệt thấy Hồ Thiết Chủy còn không tính được trời sắp nổi bão, thì làm sao lão dám tin vào mấy trò giang hồ này của anh ta, huống hồ cho dù anh ta có đạt đến trình độ một nửa thần tiên thật, thì lão cũng không nỡ rút nửa đồng Đại Dương ra để xem tướng, bởi thế lão chỉ tảng lờ lắc đầu.

    Hồ Thiết Chủy giải thích: “Có câu rất hay ‘Trời có lúc nổi gió bất thường, người có lúc họa phúc khôn lường’, Tướng pháp Ma Y của Hồ mỗ chỉ xem được cho con người, chỉ đoán được họa phúc khôn lường của con người, chứ không xem được sắc mặt của ông trời. Nếu lão huynh không tin, thì mỗ đây cứ xem tướng cho lão huynh, luận đàm tam bộ đại vận gồm tiền vận, trung vận và hậu vận, nếu nói chuẩn thì đến lúc đó lão huynh trả tiền sau cũng không muộn, còn như nói sai nửa câu, mỗ sẽ không lấy của lão huynh nửa xu”.

    Triệu Lão Biệt vẫn lắc đầu không chịu, lão thấy bỏ ra nửa đồng để xem tướng quá ư là lãng phí, tướng mạo là do cha mẹ nhào nặn mà thành, có sao dùng vậy, việc gì phải xem, nếu có tiền thừa thãi thà mua đồ đánh chén còn hơn.

    Hồ Thiết Chủy cũng là tay lì lợm, anh ta đã mở miệng mời chào, thì làm gì có chuyện trốn tránh không xem được, bởi xung quanh còn có bao con mắt khác dòm vào, kẻ biết thì hiểu tại thằng cha quê mùa kia ki bo không nỡ móc tiền túi ra xem, nhưng kẻ không biết lại truyền tai nhau bảo anh thầy bói chỉ chuyên mấy chiêu lừa lọc giang hồ. Chính vì vậy, anh ta cố chấp mời mọc Triệu Lão Biệt phải xem bằng được: “Đã vậy thì bận này mỗ không lấy tiền của lão huynh nữa, nếu xem chuẩn thì sau này lão huynh rỉ tai mọi người giúp mỗ là được rồi”.

    Triệu Lão Biệt vừa nghe không cần mất tiền, thấy mình lãi to, bèn hồ hởi đồng ý luôn, nghiêm mặt lại để Hồ Thiết Chủy xem tướng.

    Hồ Thiết Chủy ngắm nghía khuôn mặt Triệu Lão Biệt mấy hồi, anh ta lập tức thấy hối hận bởi khi nãy đã lỡ lời khen đối phương ngũ quan cân đối, cái mặt này phải nói là xấu không còn gì để nói, mày gián mắt chuột, mệnh bạc phúc mỏng, là kiểu khuôn mặt quân thần bất hợp điển hình.

    Triệu Lão Biệt thấy Hồ Thiết Chủy lẳng lặng không nói suốt hồi lâu, bèn sốt ruột hỏi: “Ông anh không cần phải ngại, tốt hay xấu gì cũng cứ nói thẳng cho mỗ biết”.

    Lúc trước, Hồ Thiết Chủy nói không chừa lối thoát cho mình, nên giờ đành phải thành thực phán tuốt tuột: “Lão huynh, mỗ xem tướng lão huynh môi mỏng răng lộ, chứng tỏ là người trong cương ngoài nhu, mắt bé mày dựng, chứng tỏ là người hùng tâm tráng chí. Thiên đình(3) rộng, chứng tỏ có mệnh hành tẩu bốn phương, địa cách hẹp, chứng tỏ ít nhận được sự dạy dỗ của cha mẹ, không có anh chị em ruột, cũng không được học qua đạo Khổng Tử, Mạnh Tử, chỉ kiếm cơm dựa vào chút kỹ nghệ gia truyền mà thôi…”

    3 Thiên đình: chỉ vầng trán.

    Triệu Lão Biệt vừa nghe mấy câu đã thấy nói rất sát với thực tế cuộc đời lão. Cha mẹ đều sớm chầu trời, xung quanh chẳng có ai thân thích, tuy lão cũng biết ít chữ, nhưng quanh năm phiêu bạt chốn giang hồ, nên cũng chưa bao giờ có cơ hội tiếp xúc với sách thánh hiền. Thế là, lão để Hồ Thiết Chủy nói tiếp.

    Hồ Thiết Chủy thầm xét đoán sắc mặt đối phương, rồi tiếp tục nói: “Con người ở đời đều có tam bộ đại vận, lần lượt là tiền vận, trung vận, hậu vận. Mỗ thấy tướng mạo của lão huynh sớm ra đời, sớm vất vả, sớm lao động, tiền vận có ba cái ‘sớm’ ấy, ứng với số ‘tam tảo’. Ngoài ra, lão huynh lập nghiệp muộn, phát tài muộn, hưởng phúc muộn, trung vận có ba cái ‘muộn’ ấy, ứng với phận ‘tam vãn’. Ngày còn trẻ, lão huynh làm nhiều việc bất thành, khó thi triển được tài trí, đến tuổi trung niên thì trước khó sau dễ, thành đạt dần dần, lại được quý nhân cất nhắc và trọng dụng”.

    Triệu Lão Biệt mừng hớn hở ra mặt, giơ ngón cái lên khen ngợi: “Ông anh xem tướng chuẩn lắm, nói thật, cuộc đời mỗ đây đúng là trước khó sau dễ, mấy năm gần đây, lăn lộn mãi mới ngẩng đầu lên được một tí. Ông anh thử coi tiếp xem hậu vận của mỗ thế nào, về sau phúc thọ được hưởng bao nhiêu, dương thọ còn mấy năm nữa?”

    Hồ Thiết Chủy lắc đầu nói: “Lão huynh đã có lời như thế, thì xin lượng thứ cho mỗ được nói thẳng, mỗ thấy khuôn mặt của lão huynh tuy ngũ quan mất cân đối nhưng xếp lại cùng nhau thì vẫn kéo dài được mạng sống, hạn số vẫn hưởng được đến già. Có điều, lão huynh có mấy việc lớn, nếu không làm chu toàn, thì ông trời nhất định sẽ giảm thọ của lão huynh”.

    Triệu Lão Biệt nghe đến đây, lòng cũng thấy gai gai, lão từng kết bè với lũ người Tây đào mồ quật mả, ăn trộm quốc bảo, làm bao việc tổn hại âm đức. Lúc này, lão bị người ta vạch trần chân tướng thì đương nhiên cũng cảm thấy hốt hoảng, lão liền vội vàng hỏi: “Thế … bị mất bao nhiêu năm dương thọ?”

    Hồ Thiết Chủy nói: “Hồ mỗ thấy ấn đường của lão huynh đổ sắc đen, hung sát phản chủ, rõ ràng dương thọ đã tận, bây giờ là lúc ngựa phi đến bờ vực, muốn dừng cương cũng khó, thuyền trôi đến giữa dòng, muốn vá lỗ thủng cũng đã muộn, lão huynh chắc chắn không thể sống qua cuối tháng này đâu. Nếu Hồ Thiết Chủy mỗ phán không chuẩn thì mỗ đây nguyện nhai nát lưỡi của mình luôn”.

    Triệu Lão Biệt là người lòng dạ hẹp hòi, chỉ thích nghe lời hay, không muốn nghe lời dở. Lão thấy đối phương phán hạn số mình đã tận, thì cảm thấy thấy thằng cha Hồ Thiết Chủy này chắc lại kiếm cớ lừa tiền thiên hạ, phải bỏ tiền ra, hắn ta mới chịu chỉ điểm cho cách giúp tai qua nạn khỏi. Triệu Lão Biệt tự thấy mình đã trải qua bao nhiêu sóng to gió lớn, làm gì có chuyện bị mấy trò giang hồ vặt vãnh này che mắt được. Thế là, lão bèn bỏ ngoài tai lời cảnh bảo của thầy bói, lão là hạng người thà mất mạng cũng không chịu mất tiền, bèn đanh giọng bảo Hồ Thiết Chủy: “Thôi, ông anh không cần nói nữa, cho dù bị chết đứng ở đây, mỗ cũng không bỏ tiền túi ra đâu”.

    Nhưng Hồ Thiết Chủy lại rất nghiêm túc, anh ta không hề nhắc đến việc vòi tiền. Anh ta xem xong tướng mạo, còn muốn xem tay tiếp cho Triệu Lão Biệt, người ta có câu “xem tướng không xem tay, tất chưa được truyền thụ”, thế là anh ta kéo ngay tay trái của Triệu Lão Biệt lại trước mặt, vừa xem đã thấy bàn tay lão có sáu ngón, anh ta vừa xem vừa lẩm bẩm trong miệng: “Bàn là hổ, ngón là rồng, thà để rồng nuốt hổ, cũng không được để hổ nuốt rồng. Ngón ngắn, bàn dài là rồng nuốt hổ, bàn dài ngón ngắn là hổ nuốt rồng. Tiếp đến ngón tay, xem nào, ngón cái là vương, ngón út là thần, ngón chỉ là binh, ngón giữa là tướng, ngón chỏ là yêu ma. Các ngón tay của lão huynh sắp xếp lại với nhau sẽ là: hổ ăn rồng, binh át tướng, thần lừa vương, yêu ma làm loạn; xem ra sống đến năm 50 tuổi đã là hạn số của lão huynh rồi. Để mỗ xem tiếp đường chỉ tay của lão huynh nào… á… á… á….”

    Hồ Thiết Chủy thấy các đường chỉ trong lòng bàn tay của Triệu Lão Biệt, thì liên miệng kêu lên ba tiếng hoảng hốt, âm sau cao hơn âm trước, tiếng sau kỳ hơn tiếng trước, sắc mặt từ điềm tĩnh bỗng trở nên kinh ngạc, hai mắt nhìn chằm chằm vào đường các đường chỉ tay đến nỗi không rời nổi tầm nhìn ra chỗ khác, anh ta quan sát chăm chú quá mức làm Triệu Lão Biệt cũng thấy rờn rợn.

    Hồ Thiết Chủy không đếm xỉa gì đến cảm nhận của Triệu Lão Biệt, chỉ mải khen kỳ tích trước mặt: “Từ khi Hồ mỗ thành nghệ xuống núi làm thầy đến nay, xem tay cho không biết bao nhiêu người, cũng đã từng đọc không biết bao nhiêu sách tướng số, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy loại đường chỉ tay như thế này ở chốn nhân gian!”, nói xong, anh ta ngẩng đầu nhìn Triệu Lão Biệt, rồi thảng thốt nói với vẻ mặt tràn đầy kinh ngạc và nghi ngờ: “Sao mỗ cứ thấy lão huynh không phải là người nhỉ?”
     
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 5: PHÂN HỒN


    Triệu Lão Biệt nghe vậy liền sa sầm nét mặt hỏi: “Ông anh nói vậy là ý gì? Đường chỉ tay của mỗ có gì không ổn hả?”

    Anh thầy bói Hồ Thiết Chủy giải thích: “Lòng bàn tay của lão huynh… sao lại có ba đường sống?”

    Triệu Lão Biệt vội rụt phắt tay lại, không chịu cho đối phương xem tiếp, rồi giả bộ ngu dại hỏi: “Ông anh vừa nói linh tinh gì thế hử?”.

    Hồ Thiết Chủy nghiêm nghị trả lời: “Tôi tuyệt đối không thể xem nhầm, trong lòng bàn tay của lão huynh quả thực có ba đường sống đấy!”

    Thì ra, bàn tay con người ẩn chứa mọi bí mật “thái cực, lưỡng nghi, tam tài, tứ tượng ngũ hành”(1), sinh tử hung cát đều nằm trong lòng bàn tay. Hồ Thiết Chủy thông hiểu tướng pháp Ma Y, ngực giấu thiên nhãn, đặc biệt rất giỏi xem tay xem tướng, phán hung cát, đoán vận khí sinh tử như tận mắt chứng kiến, nhưng anh ta thấy lòng bàn tay của mọi người đều chỉ có một đường sống, trong tất cả các điển tích tướng số, khẩu quyết, hình phổ cũng chưa từng có tư liệu nào đề cập đến nhân, vật sở hữu cả ba đường sống, trừ phi đó không phải là người.

    1 Thái cực là cực duy nhất của cõi trời đất; lưỡng nghi chỉ hai cõi âm dương; tam tài chỉ ba đối tượng trong vũ trụ gồm trời, đất và con người; tứ tượng là tứ thánh thú, gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước; ngũ hành là năm hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

    Hồ Thiết Chủy nhìn tay trái của Triệu Lão Biệt, thấy ba đường sống phân bố rất kỳ lạ, có một đường sống chính và hai đường sống phụ, trong hai đường phụ thì có một đường hướng dương, một đường hướng âm. Trên đời này tuyệt đối không thể có người cùng lúc xuất hiện ba đường sống như vậy.

    Hồ Thiết Chủy tin rằng, đường chỉ tay là sự ám thị của số mệnh, bao nhiêu năm nay, chưa bao giờ anh ta bói nhầm, xem tướng số thấy rõ ràng là ngày chết của Triệu Lão Biệt đang đến gần, nhưng sao trong lòng bàn tay lại xuất hiện thêm hai đường sống nữa, rõ ràng là hai tay không giống nhau? Anh ta thấy sự lạ như thể ăn mày bị bỏ đói hàng trăm năm, nay đột nhiên gặp bữa sơn hào hải vị, làm gì có chuyện dễ dàng chịu bỏ qua. Thế là, anh ta bám chặt cánh tay của Triệu Lão Biệt, đòi xem tiếp.

    Điều Triệu Lão Biệt sợ nhất là bị người ta vạch trần chân tướng, lai lịch, lão thấy Hồ Thiết Chủy đoán sự như thần, trong lòng cũng bất giác thấy phát hoảng, liền vội vã đẩy đối phương ra xa, giắt cái tẩu vào thắt lưng, rồi vác bao tiền bằng vải thô lên vai, sau đó xin thất lễ cáo từ, rồi vội vội vàng vàng rời khỏi quán trọ, đội bão cát rợp trời ra khỏi thành, cắm đầu hướng về phía đồng không mông quạnh vắng bóng người.

    Phía tây bắc vốn dĩ là nơi hoang vắng, ra khỏi Quan Đông, đi về hướng tây một đoạn đường là tiến vào vùng sa mạc. Triệu Lão Biệt cứ ngỡ đã cắt đuôi được con đỉa Hồ Thiết Chủy, nào ngờ vẫn bị đối phương bám lẵng nhẵng sau lưng, anh ta cưỡi lừa đuổi theo sau, bỏ cả đồ nghề xem bói ở lại, đòi Triệu Lão Biệt cho xem tiếp đường chỉ tay của bàn tay trái.

    Bất luận thế nào Hồ Thiết Chủy cũng muốn phải làm rõ bí mật của ba đường sống, bây giờ anh ta không cần lấy tiền nữa, mà còn muốn dốc hết mười mấy đồng Đại Dương cho Triệu Lão Biệt, cốt chỉ muốn lão đồng ý cho xem tay tiếp.

    Hồ Thiết Chủy chèo kéo mãi, còn Triệu Lão Biệt thì sống chết không đồng ý, cứ thế kẻ trước người sau tiến dần vào sa mạc. Lúc này, bão cát càng trở nên dữ dội hơn, nếu tiếp tục đi về phía trước e rằng sẽ bị bão cát nuốt chửng mất. Đúng lúc đó, cả hai nhìn thấy một quán ăn ven đường, họ đành tạm thời lánh vào trong nghỉ chân.

    Nơi này vắng vẻ, cách đại lộ một quãng khá xa, thông thường chỉ có đoàn xe ngựa của bọn buôn lậu mới đi qua đây, bởi vậy quán ăn này nom rất sơ sài, trong quán bày mấy cái bàn gỗ, sau quầy ngoại trừ ông chủ quán cao to lỗ mãng ra, thì không thấy có vị khách nào khác.

    Hồ Thiết Chủy vẫn bám riết lấy Triệu Lão Biệt không chịu buông tha. Khi cả hai đã vào trong quán ngồi, anh ta bảo: “Gió cát to quá, mỗ thấy thời tiết này xem ra không đi được nữa đâu, hay chúng ta ngồi đây ăn chút gì đã!”

    Triệu Lão Biệt chối từ: “Mỗ đây tự mang lương khô, ngồi ở cửa gặm hai miếng là no rồi, cần gì phải lãng phí tiền nữa”.

    Hồ Thiết Chủy khuyên: “Lão huynh cứ yên tâm, tiền này để mỗ trả, đợi ăn no uống say rồi, lão huynh chỉ cần đưa mỗ xem tay cho thật thỏa là được. Huynh xem, mỗ đây đã nói khô cả miệng, xin huynh hãy niệm tình Hồ mỗ chân thành như thế mà…”

    Triệu Lão Biệt nhăn mày nhăn mặt nói: “Ông anh đúng là chúa dằn vặt người khác! Đường vân tay của mỗ cũng có gì kỳ lạ đâu, sao ông anh cứ nhất định đòi xem cho bằng được? Chẳng qua tại mỗ lao động vất vả quá, ngoài đường vân chính ra thì da thịt gấp sâu thêm vài nếp nữa mà thôi!”

    Hồ Thiết Chủy cố chấp phản bác: “Không phải, mỗ thấy đường sống của lão huynh rất khác người thường, đúng là vô cùng kỳ lạ, đáng để mỗ đây nghiên cứu cẩn thận”.

    Triệu Lão Biệt bất lực, đành phải ngồi xuống ghế, rồi quay sang hỏi Hồ Thiết Chủy: “Thế… chúng ta ăn gì bây giờ?”

    Hồ Thiết Chủy nói: “Mỗ mới đến đây lần đầu, lão huynh cứ việc chủ động gọi món”.

    Triệu Lão Biệt gật đầu, rồi quay sang quầy hỏi chủ quán: “Này anh bạn, trong tiệm có gì ngon không?”

    Chủ quán đáp: “Có rượu, có mỳ”.

    Triệu Lão Biệt lại nói: “Thế thì cho hai tô mỳ lớn, không cần rượu, cho gấp đôi hải hải mê tự nhé!”

    Chủ quán nghe xong, bèn đằng hắng nhắc lại: “Hai tô mỳ lớn, gấp đôi hải hải mê tự…”

    Hồ Thiết Chủy thấy lạ bèn hỏi: “Hải hải mê tự là thứ gì thế?”

    Triệu Lão Biệt giải thích: “Ông anh lần đầu đến đây nên không hiểu, mỗ vừa bảo chủ quán cho nhiều thịt bò hơn một chút ấy mà”.

    Hồ Thiết Chủy “à” lên một tiếng: “Hóa ra vậy, đúng là đất mỗi phương một hơi, người mỗi nơi một tiếng, mỗi vùng lại sử dụng một tiếng địa phương khác nhau nhỉ”.

    Lát sau, chủ quán đặt hai tô mỳ với sợi to như dải quần, rắc ớt bột, khói bốc nghi ngút, mùi thơm tỏa ra nức mũi.

    Triệu Lão Biệt ngồi xổm trên ghế dài, giả vờ hít hít hà hà hơi nóng, cố tình kéo dài thời gian không vội ăn, mà đợi Hồ Thiết Chủy động đũa trước.

    Lúc này, Hồ Thiết Chủy cũng bắt đầu thấy đói, bèn đánh một lèo cạn cả nước tận đáy bát, anh ta vừa lau miệng vừa hỏi Triệu Lão Biệt: “Lão huynh không đói à?”

    Triệu Lão Biệt cười hì hì, chỉ ngồi cạnh liếc Hồ Thiết Chủy không nói gì, thực ra con đường này lão đã đi mòn gót chân, giao du với đủ hạng người trong giang hồ, ngay cả dân trộm cướp bản địa cũng chẳng xa lạ gì, lão thấy không cắt đuôi được Hồ Thiết Chủy, liền dẫn anh ta đến một quán “đen” của người quen, định bụng đánh thuốc mê cho thằng cha oan gia này gục luôn.

    Nào ngờ, đợi suốt hồi lâu mà Hồ Thiết Chủy vẫn bình an vô sự. Hóa ra, anh ta cũng là người hành tẩu giang hồ nhiều năm, tuy không hiểu ngôn ngữ lục lâm nhưng anh ta vẫn làm một liều thuốc khắc chế trước cho vững dạ, đề phòng bọn quán “đen” hạ thuốc mê, có liều thuốc này vào bụng, uống thuốc mê bất quá cũng chỉ như ăn phải hạt tiêu mà thôi. Nhờ vậy, anh ta chẳng những không lăn ra ngủ mê mệt mà vẫn lằng nhằng đòi Triệu Lão Biệt cho xem tay, giữa lúc đang nhì nhèo, bỗng đâu sau gáy bị phang một gậy thật mạnh.

    Hồ Thiết Chủy kêu “á” một tiếng thất thanh, sờ tay ra sau gáy thấy toàn máu tươi, thoạt nhiên anh ta cảm giác trời đất quay mòng, rồi đổ đánh “rầm” xuống sàn. Thì ra, anh ta vừa bị tên chủ quán dùng gậy sắt hạ gục. Gã chủ quán kéo anh ta ra hiên nhà, lột sạch quần áo, trói vào tấm phản xả thịt, mổ phanh bụng, lọc được một đĩa xương thịt đầy ụ, nấu chín mời khách qua đường ăn.

    Triệu Lão Biệt nói với hội Tư Mã Khôi: “Thằng cha thầy bói này đúng là cũng khá cao tay, không hổ danh “miệng sắt”, nhưng đến lượt mình thì gã lại lú đến mức không xem nổi hạn số của chính mình, gã ăn phải bùa phải bả hay sao mà dám đòi moi móc gốc gác của mỗ, thế khác nào muốn đào mả bố mỗ lên? Không thể trách mỗ đây lòng lang dạ sói, đấy là tự gã muốn chuốc vạ vào thân mà thôi. Đây gọi là “đường quang không đi, lại đâm quàng bụi rậm”, mà cũng trách cái lão chủ quán hồ đồ kia nữa cơ, giết người quen tay rồi, chưa đợi mỗ dặn dò kỹ lưỡng đã vội hạ độc thủ. Hôm nay, chúng ta cũng chỉ nói đến đây thôi, chuyện còn lại không thể nói thêm được nữa”.

    Cả hội nghe xong, ai nấy đều chau mày nhăn mặt, nghĩ đến tâm địa tàn độc của lão ta mà lòng bất giác gai lạnh, mọi người càng nghĩ lại càng thấy không đoán được lai lịch gốc gác của lão.

    Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Nếu những lời Triệu Lão Biệt vừa nói đều là thật, thì hẳn anh thầy bói kia đã phát hiện ra chân tướng của lão nên mới bị lừa vào quán “đen’ và ám toán một cách thê thảm như thế. Chân tướng sự thật này chắc chắn phải liên quan đến những lần sống dậy sau khi chết của lão. Giờ lão nhắc lại chuyện ấy rõ ràng là để ngầm cảnh cáo đội khảo cổ, nếu còn tiếp tục cố truy hỏi, lão sẽ ‘chó cùng dứt dậu’ cho xem, không chuyện gì lão không dám làm cả”.

    Sau đó, Triệu Lão Biệt kiên quyết không chịu tiết lộ nội tình, nhưng Tư Mã Khôi cũng nhận ra được vài manh mối, anh lờ mờ đoán được chân tướng của đối phương.

    Tư Mã Khôi bảo Triệu Lão Biệt giơ tay trái ra cho anh xem, tuy không hiểu mệnh lý, nhưng anh vẫn biết đường chỉ tay nào là đường sống, anh thấy trên lòng bàn tay của lão ta giờ đây chỉ còn một đường sống mà thôi.

    Tư Mã Khôi chợt nhớ lại cuốn cổ tịch mình từng xem lúc ở trong sa mạc, một phần nội dung của nó ghi chép sự việc kẻ biệt bảo thường nuôi một cương thi có hồn mà không có phách, giống như các đạo gia vẫn nuôi ma trong nhà vậy. Tình tiết cụ thể thế nào e rằng ngoại trừ chính kẻ biệt bảo ấy ra, thì không ai có thể biết chính xác. Theo Tư Mã Khôi suy đoán, thứ đó có lẽ là con rối bằng xương thịt với ngoại hình tương tự như kể biệt bảo. Con người có ba hồn bảy vía, có được con rối này rồi, họ sẽ chia hồn ra làm ba phần nhờ thuật biệt bảo và cất giữ ở ba cơ thể khác nhau.

    Có thể thấy, suy đoán này là sự kết hợp của hai suy đoán về “đỉnh tụ bảo” và “táng hồn đàn”. Nghe nói kẻ biệt bảo rất giỏi nuôi ngọc, họ lấy viên hoạt đan được hình thành từ con rùa già ngàn năm, sau đó tự rạch mạch của mình, nhét hoạt đan vào nuôi bên trong. Hoạt đan đó gọi là viên biệt bảo, viên biệt bảo sống lâu năm trong người sẽ hòa nhập thành một thể với cơ thể người đó, tương thông với huyết mạch thần hồn của chủ nhân. Anh đoán, Triệu Lão Biệt xuất hiện dưới vực sâu, đã từng đi qua sa mạc Lâu Lan, móc được viên biệt bảo trong mạch môn của cỗ xác khô đó, nên mới nhớ được những sự việc trước đây. Còn Triệu Lão Biệt kia thì hoàn toàn không nhớ gì về quá khứ, chỉ nhớ phải đi tìm viên Lôi công mặc để rồi cuối cùng tử nạn trong nghĩa địa La Sư ở Trường Sa. Nếu quả thật như vậy, thì đối phương không muốn nói rõ gốc tích của mình cũng là điều hợp tình hợp lý, đôi lúc giữ được bí mật của mình lại là con đường sống duy nhất.

    Do Triệu Lão Biệt nhất quyết không chịu mở miệng, mà kiến thức về thuật biệt bảo của Tư Mã Khôi lại chỉ có hạn, nên anh cũng không thể suy đoán được những cái ảo diệu ẩn chứa bên trong, anh chỉ đoán suông, chứ cũng không có luận chứng khoa học chắc chắn nào. Có điều, anh cho rằng việc cấp bách nhất lúc này là đi tìm tấm bia Vũ Vương, không cần thiết đôi co chuyện này với lão thêm nữa.

    Thắng Hương Lân cũng đồng quan điểm với Tư Mã Khôi, chỉ duy Hải ngọng là cứ khăng khăng cho rằng lai lịch của Triệu Lão Biệt quá là quái dị, anh nhấn mạnh: “Ngay từ đầu, tớ đã nói lão quái này không phải hạng tốt đẹp gì mà lại, nhưng các cậu có tin đâu, xem ra không vấp ngã không rút ra được bài học thật. Hồng vệ binh trong cuộc trường trinh thời kỳ đầu cũng chết quá nửa, bọn thiểu năng đó có dám tin Mao chủ tịch không? Đừng để đến khi chúng ta ngã chổng vó cả lũ, các cậu mới chịu tin tớ!”.

    Sao Tư Mã Khôi không hiểu những lý lẽ mà Hải ngọng vừa nói, nhưng không phải chuyện gì cũng chỉ cần hiểu là có thể giải quyết vấn đề. Giờ anh có mấy việc cần phải hỏi Triệu Lão Biệt ngay, tuy rằng đáp án chưa chắc đã đáng tin, nhưng biết đâu anh lại tìm thấy chút chân tơ kẽ tóc nào trong đó. Việc thứ nhất là, Triệu Lão Biệt đã lấy trộm thứ gì trong máy bay C47 sắp rơi và chạy trốn ra khỏi chiếc hộp thời gian? Việc thứ hai là, lão xuống được lòng đất sâu không đáy này bằng cách nào? Việc thứ ba là, lão biết được bí mật khắc trên tấm bia Vũ Vương qua nguồn thông tin nào? Ngoài ra, còn một vấn đề vô cùng quan trọng, đó là Triệu Lão Biệt đã từng tiếp xúc với Nấm mồ xanh chưa?

    Triệu Lão Biệt quanh co một hồi lâu, chối ràng việc đầu tiên mình không nhớ nữa, nếu lão nói dối sẽ bị chết đứng tại chỗ. Còn về ba việc sau, thực ra chỉ là một chuyện mà thôi, cái này gọi là “trăm trứng cùng một mẹ sinh ra”. Kể từ khi hội của lão thất thủ ở sa mạc Lâu Lan, Triệu Lão Biệt không còn nơi nào nương tựa, lão đành mò đến vùng núi tuyết ở miền đất Tây Tạng tìm kén tằm trời, chẳng ngờ lại bị bọ cạp băng trong hang động núi tuyết cắn một phát, thế là lão bị đông cứng, lăn ra bất tỉnh nhân sự, không biết bao nhiêu thời gian trôi qua, cuối cùng lão cũng được mấy người dân tộc Tạng bản địa phát hiện. May nhờ trong người có viên biệt bảo, nên lão mới thoát nạn không chết. Trong thời gian đó, lão bắt đầu tiếp xúc với tổ chức Nấm mồ xanh, nghe nói nhóm người này muốn đến tâm Trái đất tìm một tấm bia đá, có tên là bia Vũ Vương. Triệu Lão Biệt biết chuyến hành trình này một đi không trở lại, bởi vậy lão không chịu nhận lời và suýt đã bị tổ chức đó ra tay giết người diệt khâu, lão chạy trốn bạt mạng đến một nơi trên đỉnh núi tuyết của dãy Himalaya, tưởng rằng mình sắp lâm vào bước đường cùng, may thay lão lại được “Thợ săn” – một người từng phản bội và rời bỏ tổ chức ra tay cứu giúp.

    Tay “Thợ săn” đó tiết lộ với Triệu Lão Biệt, bia Vũ Vương là một phiến đá rất lớn, bên trên tấm bia khắc chín chữ triện cổ hình rắn, mỗi chữ to như cái đấu đong gạo, khắc lặp đi lặp lại 73 dòng. Còn truyền thuyết Vũ Vương chôn tấm bia chỉ là chuyện hậu thế sau này thêm mắm thêm muối vào mà thôi. Thực ra, tấm bia đó do tổ tiên tộc người Bái Xà để lại, không kẻ nào được phép phá giải bí mật được khắc trên đó, nếu trái phạm ắt sẽ xảy ra sự việc khủng khiếp ngoài sức tưởng tượng.

    Hội Tư Mã Khôi đều bất ngờ, lúc này không ai buồn bận tâm đến những chuyện khác nữa, mọi người vội vàng hỏi Triệu Lão Biệt xem lão có biết thủ lĩnh của tổ chức Nấm mồ xanh là ai không? Triệu Lão Biệt tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi: “Các vị đã từng nhắc đến người này khi còn ở trong sa mạc Lâu Lan, trộm nghĩ chắc hẳn các vị đã tận mắt gặp kẻ đó rồi mới phải, việc đã biết rồi, sao cứ phải vặn vẹo mỗ mãi thế?”.

    Tư Mã Khôi nói: “Gặp thì đúng là gặp rồi, nhưng lần đầu tiên thì mặt hắn bị mặt nạ da người của quốc vương Chăm Pa phủ lên, lần thứ hai thì bị mặt nạ phòng độc che mất, hắn ta chưa bao giờ để lộ khuôn mặt thật ra ngoài”. Triệu Lão Biệt chớp mắt nói đầy ẩn ý: “Việc này mỗ cũng không dám nói toạc hai năm rõ mười, chư vị cứ nghĩ kỹ lại xem, vì sao ‘không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn’(2)”

    2 “Không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn”: là vế trước của một câu thơ được trích trong bài thơ “Đề tây lâm bích” của Tô Thức, nguyên văn là “Bất thức Lô sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung”, nghĩa là: Không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn, cũng bởi thân đang đứng trong núi. Câu thơ này mang hàm ý, nếu muốn biết diện mạo của một sự vật thì phải ra khỏi sự vật đó và nhìn toàn cảnh.
     
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 6: RƠI XUỐNG


    Nghe Triệu Lão Biệt nói vậy, những câu hỏi không lời đáp trong lòng Tư Mã Khôi lại càng lớn hơn, vì sao không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn ư? Lẽ nào ý lão muốn ám chỉ – đội khảo cổ đã từng nhìn thấy khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh, chỉ có điều từ đầu chí cuối mọi người đều không ngờ rằng đó chính là Nấm mồ xanh?

    Hải ngọng vốn nóng nảy, thô lỗ, khi gặp chuyện thường chẳng bao giờ chịu động não, cậu ta liếc xéo Triệu Lão Biệt một cái, rồi hỏi: “Đừng đánh đố tôi! Rốt cuộc khuôn mặt Nấm mồ xanh có gì kỳ quái? Lão nuốt phải gan hùm mật gấu hay sao mà dám ỡm ờ nửa vời với tôi?”

    Tư Mã Khôi xua tay, ra hiệu bảo Hải ngọng đừng gạn hỏi lão ta nữa, anh biết Triệu Lão Biệt là dân giang hồ lõi đời, nếu lão đã không muốn nói thật thì dẫu có vác gậy sắt cậy miệng lão ra cũng vô dụng, bị ép quá lão lại bịa chuyện để ứng phó thì chẳng thà không nói cho xong, hai bên đều để chừa đường lui cho đối phương thì sự việc sẽ kết thúc êm đẹp hơn.

    Hơn nữa, Tư Mã Khôi cũng cảm thấy thực ra những lời Triệu Lão Biệt vừa nói ra tuy khá mập mờ nhưng lại ẩn chứa khá nhiều thông tin, ví dụ: bản thân tấm bia Vũ Vương chỉ là một tảng đá bình thường, tộc người Bái Xà khắc bí mật lên mặt đá bằng chữ triện cổ, mấy hàng chữ ấy dường như vạch ra nguyên lý của vạn vật, đó là một ẩn số đáng sợ không được phép dòm ngó.

    Lúc này, Thắng Hương Lân mới lên tiếng hỏi Triệu Lão Biệt: “Triệu sư phụ, xin hỏi lão đến đây bằng cách nào?”

    Triệu Lão Biệt không hề có ý giấu giếm chuyện này, lão thành thật kể lại mọi việc xảy ra lúc đó. Sau khi đến Tây Tạng, lão cùng hội người Anh đến Ấn Độ tìm cơ hội. Tuy trải qua bao lần thất bại, nhưng nhóm người Anh vẫn không chịu từ bỏ, lại còn bàn tính lôi kéo thêm mấy trợ thủ nữa xâm nhập thành Nhện Vàng. Triệu Lão Biệt khoe khoang mình biết bí mật về long ấn triều Hạ và sóng điện u hồn, nhưng ở đó sương mù dày đặc gây chết người che phủ kín khe cốc, chỉ có loài rắn bay mới có thể xuyên qua đám sương ấy, bởi vậy muốn vào thành buộc phải điều khiển được rắn bay, không những vậy còn phải có được lớp da mặt tựa thần Phật của quốc vương Chăm Pa, thiếu một trong hai điều kiện đều không được.

    Vào thời điểm ấy, tên trùm tổ chức ngầm chuyên không chế việc buôn bán vũ khí và thông tin tình báo đã mua tin này với giá cực đắt, đồng thời yêu cầu Triệu Lão Biệt dẫn nhóm của hắn đến Miến Điện. Triệu Lão Biệt vô tình biết bí mật chôn giấu trong thành Nhện Vàng liên quan đến một thông đạo dẫn xuống vực sâu, vực sâu dưới lòng đất ấy nằm phía dưới cửu tuyền, đó là nơi vạn kiếp không thể siêu sinh. hoatanhoano.wordpress.com

    Triệu Lão Biệt tham sống sợ chết, nhưng cũng vô cùng khiếp sợ Nấm mồ xanh, lão biết rõ sau khi xong việc, chắc chắn bọn chúng sẽ giết mình để diệt khẩu hoặc nếu không sẽ ép mình xuống vực sâu dưới lòng đất, thế là lão đánh bài chuồn, nhờ người chỉ điểm, lão đi một lèo từ Miến Điện sang Ấn Độ, rồi chạy sang biên giới Nepal.

    Tổ chức phái người đuổi theo truy sát, suýt nữa Triệu Lão Biệt đã lâm nạn, cuối cùng lão may mắn được Thợ săn – một thành viên từng đào tẩu khỏi tổ chức – cứu mạng. Thợ săn tên thật là Hunting, có dòng máu Hoa lai Ấn, tầm ngoài hai mươi tuổi, từng là quân nhân Anh gốc Ấn, cậu ta là người rất nhanh nhạy, quả cảm, giỏi leo núi, săn bắn và trinh thám, thân thủ phi phàm, cậu ta dẫn Triệu Lão Biệt đến một căn cứ bí mật.

    Trong căn cứ còn có vị đội trưởng tiền nhiệm của một đội khảo cổ Pháp lưu trú tại Ấn Độ, vị đội trưởng này dành cả cuộc đời để nghiên cứu về tộc người Bái Xà cổ đại, Hunting là trợ lý của ông ta. Lúc đó, ông ta đang khảo sát địa hình của dãy Himalaya để tìm xem cửa động dẫn vào vực sâu nơi tâm Trái đất nằm ở đâu, rồi nghĩ cách phá hủy những bí mật cổ xưa đến mức không thể cổ xưa hơn được khắc trên tấm bia Vũ Vương, để hoàn thành nhiệm vụ này, bọn họ quyết tâm mai danh trốn trong núi.

    Đội trưởng và Thợ săn phát hiện thấy một thông đạo nằm phía dưới dãy Himalaya, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên họ vẫn chưa có cách gì xuống dưới đó được. Lần hành động này bí mật tuyệt đối, người ngoài không một ai hay biết, nay Thợ săn vô tình cứu được Triệu Lão Biệt và đưa lão về đây thì cũng không thể để lão bỏ đi được. Còn Triệu Lão Biệt cũng suýt bị người của tổ chức ngầm ám sát, lão đã sợ mất mật rồi, nên cũng không dám lộ mặt ra ngoài, từ đó đành trốn biệt trong núi sâu, âm thầm giúp đỡ vị cựu đội trưởng đội khảo cổ chuẩn bị mọi việc, đi thu thập tài liệu ở khắp nơi.

    Thời gian thấm thoát thoi đưa, Triệu Lão Biệt trốn trong núi thoáng cái đã mấy năm, nhờ hành sự cẩn trọng nên tung tích của cả nhóm vẫn không bị bại lộ, sau đó căn cứ lại có thêm ba người khác, Triệu Lão Biệt không nhớ rõ tên của họ, chỉ đặt biệt hiệu cho họ theo diện mạo bên ngoài. Gã Râu xồm là phi hành gia của không quân hoàng gia Anh, nay đã xuất ngũ, gã này tính tình cứng nhắc, nghiêm khắc, mặt xồm xoàm toàn râu. Người thứ hai có biệt tài nghĩ ra những phát minh cổ quái, Triệu Lão Biệt gọi gã là Kỹ sư; ngoài ra còn có một nhà khoa học nữ chuyên nghiên cứu về sinh vật cổ, cô em này được Triệu Lão Biệt đặt biệt danh là Mũ trắng. Tính cả đội trưởng, Thợ săn và Triệu Lão Biệt, thì đoàn thám hiểm xuống lòng đất lần đó có cả thảy sáu người.

    Khi thời gian sắp điểm thì trong núi đột nhiên xảy ra cơn địa chấn mức độ vừa phải, kim từ đặt trong bát nước bỗng dưng rối loạn phương hướng. Đội trưởng bảo thời cơ đã chín muồi, mọi người lập tức chuẩn bị xuất phát. Trước lúc khởi hành, đội trưởng còn cẩn thận nói rõ cho mọi người cách sắp xếp bố trí của cả chuyến hành động.

    Đội trưởng nói, căn cứ vào các di tích mà hậu thế phát hiện, ông suy đoán, thời tiền sử đã tồn tại một nền văn minh cổ đại với quy mô khá lớn, nhưng không được đặt tên cụ thể, hậu thế quen gọi cụm từ di tích này là “nước Tây Cực”, người sáng lập ra cổ quốc này là tổ tiên của người Bái Xà. Trong quan niệm tôn sùng bái tô tem nguyên thủy, rắn mang ý nghĩa tượng trưng cho vòng tròn luân hồi hỗn độn sinh sản, đồng thời còn tượng trưng cho một vòng tròn quái dị nằm dưới lòng đất. Mức độ phát triển của nền văn minh này cũng tương đương với nền văn minh Ai Cập cổ hoặc Ấn Độ cổ.

    Sau đó, nạn đại hồng thủy đã hoàn toàn nhấn chìm di tích này dưới lòng nước sâu, những nội dung trong các ghi chép còn sót lại cùng lắm chỉ bằng một phần trăm những gì từng tồn tại. Trước khi xảy ra nạn đại hồng thủy tiền sử, khá nhiều người Bái Xà đã thâm nhập lòng đất và sinh sống tại các hang động sâu hút. Trong khi đó, ở cửu tuyền thăm thẳm có một tảng đá khổng lồ vẫn say ngủ trước miếu thần, trên mặt phiến đá khắc một nội dung vô cùng đáng sợ.

    Thời kỳ Hạ Thương Chu, người ta bắt đầu gắn truyền thuyết về đúc đỉnh Đồ Sơn Vũ Vương và tảng đá ấy liền với nhau, thực ra vương triều nhà Hạ chỉ bắt rất nhiều hậu duệ của người Bái Xà làm tù binh và nô dịch, những nô lệ này vẫn sùng bái tấm bia đang bị vùi chôn dưới lòng đất, họ hi vọng sẽ tìm thấy tấm bia đó, hòng lật đổ ách thống trị của vương triều nhà Hạ. Nghe nói, tuy rằng trên tấm bia khắc hàng trăm chữ triện cổ, nhưng thực ra nội dung viết trên đó không nhiều, chỉ có một hai câu nói. Trong rất nhiều lời tiên đoán cổ xưa, người ta đều cảnh báo tuyệt đối không được thăm dò bí mật khắc trên phiến đá, thậm chí đến sờ cũng không được, nhưng nguyên nhân vì sao thì vẫn là một ẩn số, khó lý giải giống như bản thân tảng đá. Đội thám hiểm do vị cựu đội trưởng đội khảo cổ tổ chức muốn chớp thời cơ, xâm nhập miếu thần, tìm thấy tấm bia, điều tra sự thật về bí mật chôn giấu dưới lòng đất nhanh hơn Nấm mồ xanh một bước. Có điều, họ cũng cho rằng không nên nhìn trộm bí mật khắc trên tấm bia, mà chỉ sử dụng thuốc nổ để phá hủy nó một cách triệt để, nhằm tránh những thảm họa mà nó có thể gây ra. hoatanhoano.wordpress.com

    Khu vực núi không có đường đi, trong khi đội thám hiểm lại phải mang vác rất nhiều trang thiết bị, bao gồm lương thực, vũ khí, dược phẩm, xuồng cao su, thiết bị chiếu sáng, thuốc nổ, thiết bị thám trắc… Vì vậy, đội thám hiểm đành thuê một nhóm phu khuân vác và mấy chục con ngựa để vận chuyển.

    Triệu Lão Biệt nghe nói đội phu khuân vác chỉ đưa mọi người đến điểm xuất phát là sẽ quay về, nên trong lòng rầu rĩ, đội thám hiểm chỉ có sáu người, phải làm cách nào để khuân hết được đống hành lý khổng lồ đấy đây?

    Họ đến một sơn cốc nằm ở sườn tây của dãy Himalaya, ngửa mặt lên chỉ thấy bầy ruồi bay lượn vo ve như máy bay tập kích. Khe núi trong sơn cốc sâu hoắm, vào bên trong là không nhìn thấy mặt trời. Cả đoàn châm đuốc lên, men theo khe cốc không ngừng tiến sâu vào trong, dọc đường, họ gặp mấy vách thành tường sụp đổ, hoang phế, nom như di tích của một ngôi miếu nào đó, đi tiếp vào trong thì tới điểm tận cùng. Đó là một hang động lớn, địa thế gần như dựng đứng, phía dưới đen ngòm, lạnh teo teo, không nhìn thấy đáy.

    Đám phu khuân vác vừa nhìn thấy bức tường còn sót lại liền thành khẩn quỳ mọp xuống, vái lạy liên hồi, sau đó họ dỡ hành lý của đội thám hiểm xuống đất, rồi dắt ngựa trở về theo đường cũ.

    Triệu Lão Biệt nhìn đống thành lý chất cao như núi, lão dò hỏi tay Thợ săn đứng ngay cạnh: “Mấy người chúng ta thì làm sao mà khuân hết nhiều đồ thế này được?”,

    Thợ săn chỉ tay vào bức bích họa còn sót lại trên tường, rồi nói: “Yên tâm, đội trưởng sẽ dùng cách này!”.

    Triệu Lão Biệt tò mò tiến lại gần mấy bức bích họa quan sát cho kỹ, vừa nhìn lão đã sững người, bức họa thứ nhất vẽ hình một cô gái đang thè lưỡi hút dã thú kiểu sư tử, hổ, voi vào trong miệng. Bức họa thứ hai vẽ cô gái ấy nhả một tòa thành trì nguy nga lộng lẫy từ trong miệng ra.

    Cô gái trong bức bích họa không biết là thần thánh phương nào, miệng và bụng của ả ta giống như cái động không đáy, có thể nuốt chửng vạn vật trên đời, rồi lại có thể ọc ra cả một tòa thành trì chỉ trong nháy mắt.

    Triệu Lão Biệt cũng hiểu đôi chút về chuyện kỳ quái này, trước kia lão từng đến Hán Trung và nghe một đồng đạo kể rằng: thời Đường có một thương nhân đi làm ăn xa ở Trường An, sau khi bán hết hàng hóa, ông ta mua một con ngỗng nhốt trong lồng trúc, cõng trên vai, một mình trở về quê. Dọc đường, ông ta gặp một chàng thư sinh đang ngồi nghỉ ngơi dưới gốc cây, thấy người thương nhân nọ đi đến, anh ta vội đứng dậy hành lễ. Chàng thư sinh thanh minh mình không quen đi đường dài, nên bàn chân sùi hết bọng máu, quả thực không thể đi tiếp được nữa, anh ta khẩn cầu vị thương nhân nọ làm ơn để anh ta chui vào trong lồng trúc và mang anh ta đi một đoạn. Vị thương nhân nọ cho rằng chắc anh ta chỉ nói đùa, bèn nói: “Lồng trúc nhỏ thế này, huồng hồ lại nhốt một con ngỗng bên trong, nếu cậu chui vào trong đó được, thì tôi gánh cậu một đoạn cũng chẳng hề gì”. Không ngờ, chàng thư sinh vừa cúi đầu một cái đã chui tọt vào bên trong, chẳng những không phải chen chúc với con ngỗng mà trọng lượng của lồng trúc cũng không hề tăng lên. Vị thương nhân thầm lấy làm kinh ngạc, ngặt nỗi lời đã nói ra thì không thể nuốt lại, nên ông ta đành cõng lồng trúc tiếp tục gấp gáp lên đường. Đến trưa, ông ta dừng lại nghỉ chân, chàng thư sinh trong lồng cũng chui ra, nói: “May được ân nhân giúp đỡ, nếu tiểu sinh không có gì báo đáp, chỉ xin mời ân nhân chén rượu nhạt, rồi ngồi hàn huyên đôi điều tâm sự, coi như tỏ lòng thành ý của tiểu sinh với ân nhân”. Vị thương nhân nọ nghe vậy thì ngạc nhiên hỏi: “Ở đây không có quán hàng, cậu lại tay không, chẳng lẽ ủ rượu ngay tại đây à?”. Chàng thư sinh chỉ cười không đáp, rồi đột nhiên há to miệng, nhả ra một hộp cơm, bên trong hộp toàn cao lương mỹ vị, tiếp đó anh ta lại nhổ ra một bình rượu ngon và hai cái chén. Xong đâu đấy, anh ta ngồi xuống uống rượu cùng vị thương nhân, vừa đánh đàn vừa hát, dường như chưa thỏa hứng, anh ta còn muốn ái thiếp mình yêu quý nhất đến múa phụ họa, thế là anh ta lại há miệng nhả ra một mỹ nữ tuyệt sắc, vóc dáng hết sức yểu điệu, nàng vâng mệnh múa hát và rót rượu phục vụ hai người. Vị thương nhân nọ chưa bao giờ nhìn thấy giai nhân xinh đẹp như vậy nên đờ người ra nhìn, quên cả thưởng thức rượu ngon mỹ vị. Còn chàng thư sinh hứng chí quá uống rượu tì tì, say quá ngã lăn ra đất ngủ luôn, lay thế nào cũng không tỉnh. Mỹ nhân thấy phu quân của mình say bí tỉ, liền quay sang nói với vị thương nhân: “Nô tì vốn có một lang quân tâm đầu ý hợp, nô tì muốn nhân cơ hội này gọi chàng đến, mong đại nhân giơ cao đánh khẽ, kín miệng giùm nô tì, nếu chủ nhân mà biết thì nô tì khó tránh bị người trách phạt”.

    Vị thương nhân ngờ nghệch gật đầu, rồi ông ta thấy mỹ nhân nọ khẽ mở khuôn miệng xinh xắn, nhả ra một đại hán râu xồm. Tên này hi hí cười dâm đãng, chắc chắn không phải hạng người lương thiện, hai người thậm thụt với nhau vài câu, rồi dắt tay nhau ra sau gốc cây mây mưa hoan lạc. Một nam một nữ vừa mới hú hí đến nửa chặng, thì chàng thư sinh đang say nhè, nằm ngủ trên mặt đất đột nhiên vươn vai dường như sắp tỉnh dậy. Ả tì thiếp thất sắc sợ hãi, nuốt vội đại hán râu xồm vào miệng, rồi hốt hoảng chỉnh đốn trang phục, đầu tóc. Lúc này, chàng thư sinh đã ngồi đậy, lấy tay dụi mắt, sau đó quay sang trịnh trọng hành lễ với vị thương nhân: “Tiểu sinh say rượu đã thất lễ trước mặt ân nhân rồi, xin ân nhân đại xá cho, từ đây cách nhà không còn xa, tiểu sinh xin cáo biệt, hẹn ngày tái ngộ”, nói xong, anh ta nuốt mỹ nhân cùng bình rượu và hộp cơm vào miệng, rồi đi vào rừng và mất hút. hoatanhoano.wordpress.com

    Lúc đó, nghe câu chuyện này, Triệu Lão Biệt cảm thấy thật ngoài sức tưởng tượng, bèn hỏi đồng đạo phải chăng trên đời thực sự tồn tại loại dị thuật này?

    Vị đồng đạo kia nói, dị thuật này được gọi là phép ảo thuật dịch chuyển càn khôn, cho dù có tồn tại thật thì nó cũng không phải pháp thuật của đông thổ Đại Đường chúng ta, mà chắc chắn được du nhập từ Ấn Độ, chỉ người Ấn Độ mới nghĩ ra được loại pháp thuật quái dị như vậy.

    Hôm nay, tận mắt nhìn thấy bức bích họa dưới núi Himalaya, Triệu Lão Biệt mới biết truyền kỳ này không phải là giả, quả nhiên thuật ảo hóa di chuyển bắt nguồn từ đây, thế là lão quay sang Thợ săn, rồi bảo: “Không ngờ trong đội ngũ của mình có nhân vật kiệt xuất ngọa hổ tàng long, thông hiểu dị thuật cao siêu tầm cỡ này, hay là truyền lại cho mỗ, có công phu này trong tay lo gì ngày sau không thể tiêu dao bốn bể?”

    Đội trưởng đứng bên cạnh nghe thấy, liền bảo Triệu Lão Biệt đó chỉ là chuyện hoang đường, sao lại coi là thật? Nội dung bức bích họa miêu tả trong chùa chỉ là sự ẩn dụ của cổ nhân, ám thị muốn thâm nhập lòng đất thì phải trượt từ trên trời xuống, chính vì vậy, chúng ta còn cần đến một đồng sự nữa, tôi đặt tên cho đồng sự này là “nhà thám hiểm Corot Maar”.
     
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 8: QUÁI THÚ DƯỚI HỒ SÂU


    Hội Tư Mã Khôi đứng trên đỉnh của khối pha lê, ngẩng đầu nhìn lên miệng động, ánh đèn quặng chiếu đi chỉ thấy một khoảng tối mờ, mọi người đều không ngờ Triệu Lão Biệt bất ngờ lộn cổ ngã xuống đáy động, chỉ thấy lão ta rơi từ miệng động, rồi bị khối khí đối lưu chuyển động vòng tròn không ngừng nhào trộn, cuối cùng lao vun vút và rơi đánh rầm xuống đất, tiếng xương khớp gãy vụn nghe rõ mồn một, lão lăn lông lốc theo sườn dốc trơn nhuồi, cho đến khi thân thể bị một tấm pha lê lồi lên mặt đất chắn lại, miệng lão sùi ùng ục toàn bọt máu, chắc nội tạng đã bị vỡ nát, nhưng nhờ tấm áo da chuột che chắn, cộng thêm xương khớp rắn chắc, nên lão vẫn chưa đoạn khí ngay.

    Thêm nữa, lúc lăn xuống, Triệu Lão Biệt va phải một tảng pha lê, giờ bỗng nghe một tiếng gẫy “rắc”, rồi cả khối tinh thể nặng gần trăm cân ào ào rơi xuống từ độ cao mười mấy mét, đập trúng đầu Triệu Lão Biệt, đầu lão bị đập vỡ tan, tóe lên như ngàn cánh hoa đào, phần thân dưới cổ nát bét đổ rầm xuống đất, chỉ có tứ chi vẫn khe khẽ co giật.

    Từ lúc Triệu Lão Biệt bị rơi xuống cho đến lúc sọ bi đập nát bét, sự việc chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi. Mọi người đều kinh sợ đến mức chấn động tinh thần, tim gan lạnh ngắt, không hiểu chuyện gì đang xảy ra: “Rõ ràng Triệu Lão Biệt đã leo lên được miệng động, sao bỗng dưng lại nhảy xuống tự vẫn? Hay lão gặp phải thứ gì ở trên đó?”

    Tư Mã Khôi xách súng trường đứng đợi hồi lâu, khói đen ngoài động vẫn liên tục phun trào chuyển động, anh không phát hiện có gì khác thường. Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt chết quá thảm thì bảo Thắng Hương Lân, Cao Tư Dương, Nhị Học Sinh đến gần chỗ khinh khí cầu thu thập trang thiết bị vật tư cần thiết, còn mình và Hải ngọng trèo xuống kiểm tra tình trạng của lão.

    Hai người trèo xuống khối pha lê dốc dựng đứng, lại gần thi thể Triệu Lão Biệt. Hải ngọng thấy máu tươi bắn tung tóe khắp mặt đất thì nhăn mày cảm thán: “Chết đen đủi thế này, có biến thành ma xuống âm gian, e rằng đến Diêm Vương cũng chẳng nhận ra lão là ai mất”.

    Tư Mã Khôi bước đến sát xác lão, lục soát kỹ càng khắp người tử thi, anh thấy dưới nách lão ta quả nhiên cỏ một vết sẹo rất sâu, bèn lấy dao rạch ra, rồi moi từ trong ra hai cục thịt to như hai quả nhãn, trông tròn vành vạnh, bề mặt có nhiều tia máu, dường như có cả ngũ quan mặt người, mắt miệng hãy còn khe khẽ khép mở. Hải ngọng nhìn thấy, liền chụp lấy, ném xuống đất, rồi lấy chân giẫm bẹp như giẫm bong bóng cá.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ, chắc Triệu Lão Biệt này là hàng thật, cộng với hai con rối người chết ở sa mạc Lâu Lan và nghĩa địa La Sư ở Trường Sa, lão ta đã chết cả thảy ba lần, giờ đây hai viên biệt bảo cũng đã bị giẫm nát, lão tặc này chắc chắn đã chết hẳn thành tro tàn khói bay rồi. Ngẫm đến tiền nhân hậu quả, Tư Mã Khôi gặp lão ta ba lần, lần lượt ở thành Đom Đóm trong nghĩa địa La Sư, ở chiếc hộp thời gian trong biển cát và ở vực sâu không đáy dưới cửu tuyền này, cả chuỗi sự kiện hoàn toàn là một vòng tuần hoàn nhân quả không thể nào tháo gỡ, nếu không có vòng tuần hoàn sống – chết ấy, số mệnh của tất cả mọi người đều sẽ đổi khác, giờ đây kẻ then chốt nhất của vòng tuần hoàn khép kín ấy đã không còn tồn tại, lão để lại cho hội anh một ẩn số rối nùi như đống tơ vò.

    Lúc này, Hải ngọng đã lục soát khắp tử thi thêm một lần nữa, anh sờ thấy một cuốn sổ ghi chép trong ống quần lão, cuốn sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay, dày tầm một phân, bìa bọc da thật vô cùng tinh tế, bên trong là loại giấy chống ẩm rất bền. Anh liếc mấy cái rồi đưa cho Tư Mã Khôi và bảo: “Trên người lão tặc này chẳng có tí lương khô nào cả, có mỗi cuốn sổ này, cậu xem dùng được không?”

    Tư Mã Khôi cầm cuốn sổ, lật vài trang, bên trong ghi chép dày đặc, tất cả đều là tư liệu về tộc người Bái Xà cổ đại, không những vậy còn có rất nhiều hĩnh vẽ về tượng thần, tô tem, ngoài ra ghim khá nhiều bản đồ và ảnh chụp, thậm chí có cả sơ đồ phác họa về thiết kế của khinh khí cầu xuyên lòng đất. Tất cả những bằng chứng ấy đủ chứng minh đây chính là cuốn nhật ký của vị đội trưởng đội khảo cổ Ấn Độ lưu trú tại Pháp.

    Tư Mã Khôi biết rõ tính quan trọng của cuốn sổ, nên anh lập tức trèo lên khối pha lê cao nhất, tìm Thắng Hương Lân, đưa cho cô xem bên trong viết những gì.

    Thắng Hương Lân đọc lướt qua nội dung cuốn nhật ký, cô không kìm được sự kinh ngạc và kỳ lạ, cô nói người cầm đầu đội thám hiểm xâm nhập tâm Trái đất bằng khí cầu nhiệt từng là giáo sư hướng dẫn cho giáo sư Thắng Thiên Viễn – cha cô, nội dung ghi chép bên trong vô cùng chi tiết. Cô chỉ vào một trang cho Tư Mã Khôi xem, rồi bảo: “Anh xem, đây chính là tấm bia bị chôn dưới lòng đất, vì chữ triện cổ triều Hạ bắt nguồn từ chữ Bái Xà, cho nên hậu thế mới gọi tấm bia đá này là bia Vũ Vương, nói chính xác thì lẽ ra phải gọi nó là bia đá của người Bái Xà mới đúng”.

    Tư Mã Khôi quan sát kỹ hình dạng tấm bia, bốn góc đều khắc hình đầu thú quái dị, bên cạnh có các chú giải, kèm theo những phân tích khó hiểu, những phân tích ấy không những không nói rõ trên phiến đá ghi chép những nội dung gì. Mà ngược lại còn thần thánh hóa khiến nó càng trở nên ảo diệu, thần bí. Trong giây lát, Tư Mã Khôi khó lòng lý giải được ý nghĩa của chúng, anh bèn giao cho Thắng Hương Lân và nhắc cô giữ cuốn sổ cẩn thận và nói trước mắt phải tìm đường thoát thân ra khỏi huyệt động đã.

    Thắng Hương Lân gật đầu đồng tình, cuốn nhật ký là manh mối quan trọng để tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà dưới vực sâu. Tuy đội thám hiểm xâm nhập lòng đất bằng khí cầu nhiệt đã lâm nạn, nhưng cuối cùng cuốn nhật ký lại rơi vào tay đội khảo cổ, nếu họ dưới suối vàng có hay, thì cũng yên lòng nhắm mắt.

    Trong lúc mọi người nói chuyện, Hải ngọng đã thiêu xong thi thể của Triệu Lão Biệt. Mọi người dùng dây thừng kéo thùng gỗ trong vỏ khí cầu lên, cậy nắp ra, rồi thu thập các trang thiết bị vật tư, phát hiện trong đó có pin dự phòng, dầu hỏa, thuốc lá, lương khô và đồ hộp, không những vậy còn có mấy ngọn đèn quặng cường quang chiếu sáng cự ly xa. Mấy ngọn đèn quặng cổ lỗ sĩ của hội Tư Mã Khôi đã bị vùi dập đến nỗi gần tan xác pháo, mà mãi không có phụ kiện thay thế, may lúc này lại tìm thấy số đèn quặng mới, thực chẳng khác nào “mèo mù vớ cá rán”, có điều, cả hội không phát hiện thấy súng ống đạn dược, có lẽ trong lúc va chạm khi khinh khí cầu đáp xuống, vũ khí đã bị văng đi đâu mất.

    Cao Tư Dương tìm thấy hộp y tế cấp cứu liền vác lên vai. Thắng Hương Lân bới được mấy đôi giày đi rừng, loại giày này đi vừa chắc chân lại vừa nhẹ, không những vậy còn tỏa nhiệt thoát khí, lại đóng loại đế giày hiệu Panama trứ danh, tốt hơn các loại đế cao su thông thường nhiều lần. Thắng Hương Lân liền chia giày cho mọi người thay cho đôi cũ.

    Nhị Học Sinh vốn đang tuyệt vọng, giờ tìm thấy nguồn lương thực bổ sung, cậu ta liền cho rằng tình hình có chuyển biến tốt, chưa biết chừng mọi người lại có thể sống sót rời khỏi lòng đất, bởi thế tinh thần cậu ta bất giác phấn chấn hẳn lên, khí sắc cũng hồng hào hơn hẳn.

    Hải ngọng được thể “đâm bị thóc chọc bị gạo”: “Ranh con nhà cậu đúng là ‘người chết đánh rắm thối’, tỉnh lại được rồi đấy à?”

    Nhị Học Sinh phản pháo: “Từ ‘đánh rắm’ không được lịch sự lắm, xét về mặt chuyên môn mà nói… thì phải nói là ‘bom nguyên tử tinh thần đã phát nổ’ mới đúng”.

    Tư Mã Khôi bảo: “Đừng vội mừng, rất có khả năng đây chính là huyệt động chôn xác, xuống dễ lên khó, hơn nữa nhiệt độ nơi này cao quá, nếu bị nhốt ở đây lâu, chúng ta cũng chết vì nóng mất”.

    Hải ngọng nóng ruột như kiến bò chảo lửa: “Tớ thấy chúng ta giống như con tôm trong chõ nước sôi, nếu không mau tìm cách thoát khỏi đây, kiểu gì cũng bị hấp chín!”

    Cao Tư Dương nói: “Hình như dưới đáy rừng rậm pha lê có nước, nhiệt độ ở đó có lẽ không cao như trên này, sao chúng ta không xuống đáy động tìm lối thoát?”

    Tư Mã Khôi cũng cảm thấy cách này khả thi, nhưng anh không biết rõ kết cấu của rừng rậm pha lê, nên quay sang hỏi ý kiến Thắng Hương Lân xem kế hoạch này có thực hiện được không?

    Thắng Hương Lân nói, trong huyệt động này mọc vô số tinh thể pha lê tự nhiên với quy mô khổng lồ, xung quanh đây chắc chắn phân bố rất nhiều ô đá rỗng tích đầy khói đen, có điều trầm tích hàng tỉ năm sẽ khiến một số khu vực bị phong bế nguội dần đi, cũng có thể sẽ tồn tại lòng hồ hình thành do nước tụ, nếu đó không phải hồ nước tù, thì chúng ta có thể sang được huyệt động bên cạnh, nhưng làm như vậy rất nguy hiểm, bởi vì không ai biết tình hình trong huyệt động kia thế nào, đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ chui vào một mê cung thiên nhiên với kết cấu vô cùng phức tạp, chỉ cần bất cẩn một chút là phải đánh đổi cả tính mạng.

    Mọi người ngồi thảo luận mọi đối sách, ngoại trừ đi đến đâu hay đến đấy ra, thì cũng không thể nghĩ ra ý tưởng nào hay hơn. Thế là, cả hội kéo xuồng cao su trên khinh khí cầu xuống, bắt đầu trèo xuống dưới đáy khu rừng. Độ ẩm ở nơi sâu trong huyệt động khá lớn, nước đọng trông có vẻ rất sâu, hình thù của khối tinh thể trông lại càng kỳ dị, có khối trong suốt không màu, có khối trắng xám phản quang.

    Cả hội từ đỉnh khối pha lê cao hơn trăm mét thận trọng lần mò xuống dưới. Nhìn thấy một thùng nhôm trước đó từ khinh khí cầu rơi xuống, Hải ngọng liền nậy ra xem thì thấy bên trong là một ngọn đèn chiếu chuyên dụng có hình dạng khá cổ quái.

    Chiếc đèn chiếu chỉ to cỡ cổ tay, nhưng phát điện bằng ắc quy khoác vai, không có tên nhãn và mã hiệu, kiểu dáng không hề giống các loại đèn chiếu thông thường.

    Hải ngọng xách đèn lên, định nhấn tìm cách bật, nhưng vì chiếc thùng nhôm lăn từ trên cao xuống, tuy vỏ ngoài kiên cố, nhưng đồ đạc đựng bên trong cũng không tránh khỏi vỡ nát, hỏng hóc, bởi vậy khả năng chiếc đèn cũng bị hỏng không biết chập mạch chỗ nào mà không sáng lên nổi.

    Nhị Học Sinh cho rằng, chắc đèn chỉ bị đứt dây, cậu tin mình có thể sửa được, thế là cậu ta liền cầm lấy đèn kiểm tra một hồi.

    Hải ngọng tức khí nói: “Ngay cả anh còn không ‘trị’ nổi nó, con chồn vàng leo cửa sổ như chú mày mà cũng dám thò cái mặt mốc ra à?”

    Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh chĩa thẳng bóng đèn vào mặt mình, anh vội vàng che lại nói: “Tôi đoán cường độ ánh sáng của loại đèn này phải rất lớn, chiếu vào mặt không khéo mù mắt, chú mày đừng có cầm nó khua loạn xạ như thế!”.

    Thắng Hương Lân nói: “Hình như đây là loại đèn cường quang công suất lớn, chúng ta cứ mang xuống dưới động đi, kiểu gì cũng có lúc cần dùng đến nó”.

    Tư Mã Khôi gật đầu tán thành, anh bảo Nhị Học Sinh mang bình điện khoác vai và chiếc đèn chiếu đến chỗ an toàn rồi hãy sửa.

    Sau đó, mọi người khoác ba lô súng ống lên vai, tiếp tục cuộc hành trình dưới ánh đèn quặng, trên đường mọi người lại gặp ít thuốc súng vương vãi, đi được một quãng nữa thì cả đội dần dần tiếp cận mặt nước, nước dưới đáy động trong vắt, đèn quặng có thể soi tới tận đáy, trong làn nước có rất nhiều loài cá thời tiền sử thân mảnh và dài, bọn chúng cực kỳ mẫn cảm với ánh sáng, đầu chúng không có xương trán trên và xương trán dưới, phần miệng giống như một hang động có thể khép mở, chúng tụ tập thành đàn bơi tung tăng trong nước một cách thần tốc và nhẹ nhàng, nước ở đây trong suốt và êm ả, nhìn chỗ nào cũng thấy từng bầy cá bơi lội.

    Không ai biết loài cá này thuộc chi họ nào, có lẽ chúng là loài vật thời tiền sử mà con người chưa từng phát hiện ra, có điều, nước dưới đáy động rõ ràng là dòng nước chảy, thế là mọi người bèn thả xuồng cao su để cho nó trôi theo dòng nước.

    Xuồng cao su có van bơm hơi, hai bên là hai khoang chứa khí bằng da hình bầu dục, loại xuồng này có thể chở sáu người, Thắng Hương Lân kéo dây thừng bơm đầy khí vào xuồng, lúc này cả hội mới phát hiện phần đầu xuồng vẽ hình hàm cá mập mặt xanh nanh nhọn, trông vô cùng đáng sợ.

    Hải ngọng lấy làm lạ nói: “Tiên sư chúng nó, bọn này định làm trò à? Cái xuồng cao su trông ngon lành thế, tự dưng vẽ cái mặt quỷ đầu thần vào đây làm gì?”

    Tư Mã Khôi nói: “Một số chiến đấu cơ cũng vẽ những hình quỷ quái hung dữ để dọa kẻ địch, nhưng tớ cũng chưa bao giờ thấy người ta vẽ lên xuồng cao su thế này, không biết họ định dọa chính mình hay dọa bầy cá dưới nước?”

    Thắng Hương Lân xem bức phác họa vẽ trong cuốn nhật ký, mới biết xuồng cao su và khinh khí cầu nhiệt đều do gã “Kỹ sư” trong đội thám hiểm thiết kế và chế tạo. Môi trường dưới lòng đất hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, ở đây có thủy thể sâu rộng khôn lường và có huyệt động phức tạp, sâu hun hút, lúc nào cũng phải cảnh giác đề phòng sự tấn công của những sinh vật tiền sử tưởng như đã tuyệt chủng. Nghe nói, đội thám hiểm tô vẽ như vậy để dọa lũ cá ăn thịt tránh xa chiếc xuồng.

    Mọi người vừa đi vừa đẩy xuồng xuống nước, thấy bầy cá đều bơi về một hướng, cả hội liền lên xuồng chèo theo, chiếc xuồng trôi vòng qua những trụ pha lê giao thoa ngang dọc, khoảng cách tới vách động càng lúc càng rút ngắn lại.

    Tư Mã Khôi bật đèn quặng, di chuyển về phía đầu xuồng để quan sát, anh lờ mờ thấy phía dưới vách động là một khe nứt lớn, ở đó có hai con vật khổng lồ đen trũi đang bập bềnh trên mặt nước, cổ chúng rất dài, cái đầu hình tam giác bằng và dẹt đang thò lên há miệng hút nước, khóe miệng đỏ au, rộng ngoác có rất nhiều xúc tu chầm chậm ngo ngoe trong làn nước, nom tựa miếng mồi câu, chỉ cần có bầy cá nào bị lừa đến gần, là chúng há cái miệng đỏ lòm như máu nuốt chửng vào bụng, không một tiếng động.
     
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 9: ĐÈN HỎA DIỄM NHIỆT ĐỘ CAO


    Tư Mã Khôi phát hiện dưới chân vách động có khe nứt lớn, nhưng phía trước lại có hai con thủy quái to lớn đồ sộ chắn ngang, trông hai “gã” này phải to cỡ chiếc xe tải, trên lưng có mai cứng giống như mai rùa, chúng nằm phủ phục sát mặt nước, rướn cái cổ mảnh và dài lên cao, cái miệng rộng ngoác tham lam há to đang không ngừng nuốt bầy cá vào bụng. Tư Mã Khôi thấy tình thế không ổn, liền vội vàng giơ tay ra hiệu cho xuồng cao su dừng lại.

    Nước trong động trong vắt, đèn quặng soi tới tận đáy, các thành viên khác đều nhìn thấy sự tồn tại của mối nguy hiểm, nhưng các khối tinh thể ở hai bên lại mọc ngang dọc đan xen lẫn nhau, địa hình vô cùng chật chội, không đủ không gian để xoay mũi xuồng, không những vậy, dòng nước còn tiếp tục đẩy xuồng về phía trước, trong chốc lát, xuồng cao su đã lao đến ngay trước mũi con thủy quái, cả hội nhìn thấy rõ xúc tu hai bên mép nó đang động đậy.

    Mọi người chạm trán thủy quái ngay ngõ hẹp, không có đất để xoay chuyển, nên bất đắc dĩ phải vượt qua nó. Các sinh vật dưới lòng đất thường rất sợ ánh sáng, nhưng hai con thủy quái khổng lồ chắn cửa động lại như chẳng hề nhìn thấy ánh sang, chúng chỉ mải nuốt bầy cá vào bụng.

    Tư Mã Khôi thầm chửi: “Tô tô vẽ vẽ trên xuồng quả nhiên chỉ dọa được trẻ con, gặp thủy quái thật là lập tức ‘tắt điện’, vào thời khắc then chốt chỉ có thể tin tưởng vào súng ống và đuốc, có điều hai con quái vật này mình đồng da sắt, nặng đến mấy tấn, lực sát thương của súng Winchester – M1887 e rằng không đủ sức đe dọa bọn chúng.” Nghĩ đến đây, anh vội vàng quay người lại bảo Cao Tư Dương mang đuốc lên phía trước.

    Lúc này, xuồng cao su sắp lao thẳng vào cái miệng đang há rộng của con thủy quái, Hải ngọng không dám chậm trễ, anh kéo Tư Mã Khôi ra sau lưng, giương khẩu súng săn hai nòng kề vai chĩa thẳng vào thủy quái và nổ súng, tiếng súng vang lên đinh tai nhức óc, nhưng hai phát đạn của họng súng cỡ đại chỉ đủ sức tạo một lỗ nhỏ trên đầu con thủy quái, máu phun ra từ lỗ thủng.

    Hải ngọng thất sắc kinh hãi, cuống quýt mò đạn nạp vào ổ, nhưng chỉ thấy vòng sóng nước vừa gợn một cái, hai con thủy quái đã thò cái đầu bẹt dí lên khỏi mặt hồ, góc xương hàm bất ngờ chẻ ra thành hai mảnh, vươn dài xúc tu bên mép, lao sầm sập vào Hải ngọng, đớp một cái. Hải ngọng không kịp lên nòng, hùng hổ xoay báng súng, hai tay nắm chặt họng súng, xoay vòng đánh trả thủy quái.

    Thắng Hương Lân cũng giơ súng lục liên tiếp ngắm bắn, nhưng đạn ghém hoa cải trong khẩu súng lục PPS chẳng qua chỉ gãi ngứa cho con thủy quái. Hai con vật chen chúc nhau tranh bơi lên trước để chén thịt người, sóng nước xáo động dữ dội, xuồng cao su bị đẩy dựng đứng theo con sóng.

    Lúc này, Tư Mã Khôi đã cầm lấy thanh đuốc Cao Tư Dương đưa cho, anh biết một khi xuồng bị thủy quái lật úp, mọi người mà rơi xuống nước thì khó có thể chạy thoát, bởi vậy anh liều mạng sống mái với chúng. Tư Mã Khôi cố đứng vững, nắm chặt ngọn đuốc đang cháy rực chĩa thẳng vào cái miệng rộng ngoác của con thủy quái.

    Chẳng ngờ, con thủy quái vừa mới ngoi từ dưới hồ lên, toàn thân ướt sũng nước, ngọn đuốc trong tay Tư Mã Khôi vừa chạm vào đã tắt ngóm, trông chẳng khác nào cái tăm đưa vào miệng nó. Anh đành ném cây đuốc xuống nước, rồi rút sao săn định cố “giãy giụa trước lúc chết”. Đúng lúc đó, đột nhiên có luồng gió tanh táp thẳng vào mặt, cái miệng đen ngòm đã gần trong gang tấc, anh và Hải ngọng muốn tránh cũng không tránh kịp.

    Đang lúc nhắm mắt chờ chết, đột nhiên một chùm sáng cực mạnh từ trên đỉnh đầu hai người chợt quét qua, chiếu thẳng vào cái miệng đang ngoác to, một giây sau, hai người đã ngửi thấy mùi khét nhức mũi, đầu của con thủy quái giống như bị ngọn lửa đốt thủng, xuất hiện một lỗ lớn xuyên từ trước ra sau, máu thịt trộn vào nhau bê bết, cơ thể nó uốn éo lăn lộn rồi từ từ chìm xuống đáy nước, con còn lại hình như cũng bị ngọn lửa mạnh đốt bị thương, nó quay người tháo chạy biệt tích.

    Đến lúc ấy, mọi người mới bớt hoảng sợ, cố gắng ghìm chiếc xuồng đang nhấp nhô theo luồng sóng dữ, ai nấy đều kinh ngạc nhìn lại phía sau. Thì ra, Nhị Học Sinh vác cái đèn chiếu cổ quái của đội thám hiểm, suốt dọc đường, cậu ta táy máy thế nào cũng sửa được gần xong, lúc nhìn thấy tình thế cấp bách, mà ngặt nỗi trong tay lại không có vũ khí súng ống, cậu ta cuống quá bèn chiếu ánh sáng của đèn cường quang vào thủy quái, chỉ mong xua nó xuống nước, không ngờ chùm sáng của đèn chiếu còn khủng khiếp hơn cả bình phun lửa, có lẽ nó đủ sức đốt thủng cả tấm sắt cách xa mấy mét.

    Lúc này, xuồng cao xu được dòng nước đẩy đến khe nứt dưới chân vách động, nhìn đâu đâu cũng thấy những khối pha lê khổng lồ nằm nghiêng, con đường phía trước ngoằn ngoèo, gập ghềnh, lúc rộng lúc hẹp, mọi người biết hoàn cảnh lúc này rất nguy hiểm, nên ai nấy đều căng thẳng quan sát động tĩnh tứ phía xung quanh.

    Tư Mã Khôi nghĩ đến lúc suýt bị đèn chiếu soi trúng mặt thì ngạc nhiên hỏi: “Nó là món đồ chơi gì mà lợi hại thế?”

    Hải ngọng cũng lạnh tóc gáy, sờ đầu mình và bảo: “Tớ đoán chắc nó là pháp bảo, nếu không sao có thể phun ra ‘tam muội chân hỏa’?”

    Nhị Học Sinh cũng ngơ ngác không hiểu, cậu ta chẳng ngờ vừa bật đèn chiếu lên thì ánh đèn phụt ra giống như một ngọn lửa mạnh, may mà lúc ấy không soi vào các thành viên trong đội. Nhưng sau đó cũng không biết chạm vào đâu, mà bất luận cậu ta đập lắc thế nào, đèn chiếu cũng không chịu sáng lại nữa.

    Cao Tư Dương nói: “May mà kịp dùng đúng lúc, nếu không chúng ta đều đã chôn thây trong bụng thủy quái rồi!”

    Tư Mã Khôi giao cho Nhị Học Sinh nhiệm vụ kiểu gì cũng phải cố gắng sửa cho đèn có thể hoạt động trở lại.

    Nhị Học Sinh bảo, lần này cậu ta cũng không biết nó hỏng ở đâu, chỉ biết cố hết sức mà thôi, còn chữa được hay không thì cậu ta không dám chắc.

    Tư Mã Khôi nói: “Lúc Hải ngọng còn lăn lộn ở Miến Điện, cậu ta cũng có tài vặt, thường khoe khoang bất kể thứ gì có chữ ‘máy’, thì đều sửa được tuốt. Hay cậu bảo Hải ngọng thử xem, biết đâu lại sửa được cái máy phun lửa này!”

    Hải ngọng mới được lĩnh giáo sự lợi hại của đèn chiếu, nên chỉ lo lỡ bị nó chiếu trúng sọ thì chết, thế là anh vội vàng từ chối: “Ôi thôi, tôi mà sửa thì chỉ cần một nhát búa là xong”.

    Lúc này, Thắng Hương Lân lại giở cuốn nhật ký ra xem, thì ra đèn chiếu cổ quái đó có tên là “đèn hỏa diệm nhiệt độ cao”, phải nạp điện bằng bình ắc quy khoác vai, vì công suất tiêu hao rất lớn, mỗi lần chỉ chiếu sáng được mấy giây, chưa bao giờ sử dụng được quá một phút. Đội thám hiểm mang thiết bị tiên tiến như vậy xuống lòng đất ngoài để phòng thân trong môi trường khắc nghiệt đầy rẫy những nguy hiểm ra, thì mục đích chính là để phá hủy bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà trong trường hợp ngộ nhỡ thuốc nổ mất tác dụng.

    Cao Tư Dương cảm thấy chuyện này rất khó hiểu, vì sao Nấm mồ xanh lại muốn nhìn trộm bí mật khắc trên bia đá của người Bái Xà mà bất chấp hậu quả? Trong cuốn nhật ký, đội thám hiểm cũng không hề nhắc đến bí mật đó, không hiểu rốt cuộc nó là bí mật gì?

    Thắng Hương Lân giở cuốn nhật ký đọc hết một lượt, nhưng cũng không phát hiện được những ghi chép chính xác, tất cả chỉ là những phỏng đoán, trước mắt, cô mới biết tấm bia đá của tộc người Bái Xà chính là cội nguồn của tất cả các ẩn số.

    Văn tự Bái Xà khắc trên đó chính là tiền thân của long triện triều Hạ, sau khi văn tự giáp cốt xuất hiện thì loại chữ này mới dần dần không được sử dụng nữa; có điều, với những manh mối mà đội thám hiểm hiện nắm được trong tay thì việc phá giải nội dung ghi chép trên tấm bia đá không phải là vấn đề lớn nếu mọi người tìm thấy tấm bia của người Bái Xà dưới lòng đất.

    Hải ngọng rầu rĩ nói: “Có chuyện này tôi cứ thắc mãi, có phải tôi muốn biết điều gì thì tấm bia đó đều có thể nói cho tôi biết không? Nhưng nghe Triệu Lão Biệt nói, trên tấm bia của người Bái Xà cũng chỉ khắc chưa tới chục chữ, dùng mấy chữ ấy để ghép thành một câu có khi còn chưa hoàn chỉnh ấy chứ, không hiểu nó có thể ẩn chứa bí mật kinh thiên động địa mẹ gì chứ? Tại sao lại không được phép nhìn? Nếu nhìn thì sẽ làm sao?”

    Tư Mã Khôi bảo: “Mọi người đừng đoán già đoán non nữa, trước khi nhìn thấy tấm bia đá thật, thì mọi suy đoán đều vô nghĩa, thử nghĩ mà xem, trên đời này có bí mật nào mà ngay cả nhìn cũng không được phép nhìn, thậm chí còn không được phép nhắc đến? Chắc chỉ có mỗi bí mật về khuôn mặt của Nấm mồ xanh mà thôi.”

    Thắng Hương Lân hỏi: “Tấm bia của người Bái Xà vùi dưới lòng đất đã mấy ngàn năm, làm sao nó khắc được khuôn mặt của Nấm mồ xanh cơ chứ?”

    Tư Mã Khôi nói: “Thế cũng chưa hẳn, tôi thấy hình như Triệu Lão Biệt biết Nấm mồ xanh là ai, có khả năng lão ta đã vô tình nhìn thấy khuôn mặt thật của hắn, nhưng vì sợ nên không dám nói ra, giống như bí mật trên tấm bia của người Bái Xà vậy, mấy ngàn năm nay có ai dám nhìn, dám nói về nó đâu, bởi vậy giữa hai sự việc này chắc hẳn phải có mối quan hệ không bình thường.”

    Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi: “Nếu anh đoán Triệu Lão Biệt đã biết Nấm mồ xanh là ai, sao lúc đó anh không tiếp tục tra hỏi lão? Bây giờ lão ta ngã xuống đáy động chết rồi, chỉ sợ về sau không còn cơ hội nào tốt như vậy nữa.”

    Tư Mã Khôi cho rằng Triệu Lão Biệt chắc chắn sẽ không dám nói ra sự thật vì quá sợ hãi Nấm mồ xanh, dẫu có ép lão nói, có khi lại bịa láo, ai dám tin lời lão? Có điều, trong lòng anh cũng lờ mờ cảm thấy, việc Triệu Lão Biệt úp mở chuyện đội khảo cổ đã từng nhìn thấy khuôn mặt của Nấm mồ xanh dường như còn có ẩn chứa một ý gì khác, nghĩ kỹ lại câu nói úp mở đấy anh lại lạnh cả người.

    Lúc này, xuồng cao xu đã xuyên qua rừng rậm pha lê khổng lồ, thâm nhập vào một huyệt động hình mái vòm. Ở đây vương toàn bụi núi lửa đông kết, lưu lại vết tích địa chất không thể xóa mờ, mọi khe nứt dưới đáy động đều có hơi nóng bóc lên và bùn đất nóng bỏng, không thể tiếp tục đi sâu vào trong, mọi người đành bỏ xuồng cao su lại, bò ngang lên những khối pha lê, men theo vách đá tìm lối ra.

    Cả hội dùng đuốc soi sáng đường, họ đi được một quãng khá xa trong bóng tối mà không nhìn thấy gì ngoài địa hình trùng lặp đến đơn điệu. Càng vào sâu bên trong càng không thấy bóng dáng của sự sống, hang động này nối tiếp hang động khác, tất cả đều được hình thành do dung nham phun trào từ hàng trăm tỉ năm trước, phía trong bằng phẳng và trơn nhẫy khác thường.

    Trên một số vách đá vẫn còn lưu giữ được những bức tranh đá cổ từ mấy ngàn năm trước, dường như đó là tô tem nguyên thủy của người Bái Xà. Đội khảo cổ lấy những bức tranh đó làm ký hiệu và tiến dần về phía trước, nếu chẳng may đi vào huyệt động không có bích họa thì cả đội quay đầu, tìm đường đi lại, cứ như vậy họ liên tục di chuyển vòng quanh không biết bao nhiêu lần qua các vết nứt địa máng, may mà trong tay còn có cuốn nhật ký ghi chép các tư liệu về người Bái Xà để đối chiểu, họ lần theo những bức tranh đá lúc có lúc không tiến sâu vào lòng núi, đó là lòng núi hoang phế từng xảy ra sụt lún.

    Mọi người bất ngờ chạm trán với dòng nhiệt lưu ở gần đó, nên đành phải tháo chạy vào trong một di chỉ núi, cả hội vô tình nhìn thấy đường nét mờ mờ khắc họa dung nhan thần Vũ Xà trên vách đá. Trong thể hệ thần thoại của người Bái Xà, vị thần cai quản âm gian là con quái xà đầu người, đầy đủ mặt mũi chân tay, lưng mọc lông chim, trên di tích nền văn minh Inca Maya cũng tồn tại hình Vũ Xà tương tự như vậy, nhưng hình thái của nó giống với rồng hơn và ý nghĩa tượng trưng cũng khác.

    Trong bóng tối, Tư Mã Khôi ngẩng đầu và chỉ nhìn được phần cuối của những bức phù điêu, điều đó cho thấy kích thước của bức phù điêu lớn cỡ nào, cái miệng trên gương mặt người của thần Vũ Xà há rộng ngoác, bên trong có cánh cửa đá lõm sâu, muốn thâm nhập vào bên trong huyệt động thì phải mở lối ở đó.

    Phía dưới lòng núi sụt lở không có lối đi, mọi người đành mò mẫm tìm đường một hồi. Thấy phía trước là miếu thần – nơi chôn tấm bia đá của người Bái Xà, thế là cả hội lấy hết thuốc nổ loại mạnh ra, châm ngòi dẫn nổ, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, cánh cửa đá bị phá vỡ, tạo thành một lối đi vào trong.

    Tư Mã Khôi thắp sáng đèn quặng, mặc kệ khói bụi xộc vào mũi rất khó chịu, anh vẫn dẫn đầu đoàn để chui vào quan sát. Tư Mã Khôi phát hiện bên trong là một không động rất lớn hình mái vòm, dường như họ đã ở bên trong dãy núi dưới lòng đất, trên mặt đất lổn nhổn rất nhiều tảng đá lớn, khô nóng, bỏng rát, nơi đây dường như đã là điểm tận cùng của thế giới.

    Những người còn lại lục tục bám theo sau, chẳng ngờ đội khảo cổ chui vào miệng thần Vũ Xà chưa được bao lâu thì cửa động sau lưng đã xảy ra vụ sụt lở thứ hai. Đá vụn trộn lẫn bụi núi lửa sụt xuống bịt kín cửa động đến mức không còn kẽ hở, đồng thời ngăn cản luôn dòng nhiệt lưu ở phía ngoài. Có điều khi đó, trong lòng mọi người chỉ mải nghĩ đến vô số ẩn số trong miếu thần, nên không hề hoảng loạn khi thấy mình bị nhốt lại bên trong, họ mau chóng định thần lại, kiểm tra súng ống đạn dược, châm một bó đuốc lên soi đường, chuẩn bị tiến vào sâu hơn.

    Thắng Hương Lân phát hiện thấy điểm bất ổn, cái động lớn ở phần miệng của thần Vũ Xà giống như một cổng thành, nhưng nhìn địa hình bên trong thì hoàn toàn khác so với những gì miêu tả về miếu thần trong cuốn nhật ký. Có khả năng đây chính là Tử thành mà người Bái Xà để lại dưới lòng đất.
     
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 2: TỬ THÀNH - HỒI 1: THẦN VŨ XÀ


    Mọi người đi vào cái miệng khổng lồ há rộng của thần Vũ Xà, thâm nhập vào trong lòng núi, thì thấy động đạo khoáng đạt, sâu hút, trên mặt đất và vách tường lổn nhổn vô số tảng đá khổng lồ bằng phẳng, bên trên điêu khắc toàn hình đầu thần mặt quỷ, cả hội liếc mắt xem qua thì thấy nội dung chủ yếu là đề tài con người sau khi chết đi sẽ rơi xuống hoàng tuyền.

    Lúc đầu, hội Tư Mã Khôi cứ ngỡ đã bước chân vào miếu thần – nơi đặt tấm bia đá của người Bái Xà, nhưng khi nghe Thắng Hương Lân bảo đây mới chỉ là Tử thành, thì ai nấy đều thất vọng, bước chân bất giác chậm hẳn lại.

    Cao Tư Dương giơ cao ngọn đuốc, chăm chú nhìn những hình vẽ trên bức phù điêu, ở đó vẽ đủ các loại thần tiên yêu ma, cô hỏi Hương Lân: “Tử thành là nơi ở của người chết sao?”

    Tư Mã Khôi nói: “Có lẽ đó là một tòa thành cổ không có lối ra, không biết miếu thần có trong tòa thành này không nhỉ?”

    Thắng Hương Lân nói, người Bái Xà cổ đại sống ở thời văn minh nguyên thủy, mức độ phát triển của họ rực rỡ ngang với nền văn minh Ai Cập cổ đại, họ có quan điểm về sinh tử rất độc đáo. Người Bái Xà tin tưởng sâu sắc vào sự luân hồi chuyển thế, họ cho rằng chỉ cần sau khi chết, hồn phách không bị rơi vào hư vô, thì sẽ có cơ hội hồi sinh. Vậy phải làm sao để hồn phách không bị rơi xuống hư vô? Chỉ có một cách, đó là họ buộc phải chết trong tòa thành cổ được xây dựng ở lòng núi Vũ Xà. Ngay khi còn sống, họ đã vào trong thành để đợi ngày được tử thần rước đi, nếu ai chẳng may chết ngoài thành cổ thì vĩnh viễn khồng có kiếp sau, dẫu đưa xác chết vào trong thành thì cũng vô nghĩa, chính vì vậy, từ vương tử đến thứ dân đều có vị trí huyệt mộ trong Tử thành, họ căn cứ vào địa vị lúc tại thế của người đó để phân chia vị trí huyệt mộ trong thành.

    Mọi người nghĩ, hóa ra Tử thành đúng là nơi ở của người chết, e rằng trong thành này, xương khô và cương thi chất cao như núi, không biết nếu đi sâu vào bên trong sẽ còn gặp những nguy hiểm gì.

    Tư Mã Khôi giục Nhị Học Sinh cố gắng sửa xong đèn hỏa diệm nhiệt độ cao, có vật này trong tay, cả hội sẽ vững dạ hơn.

    Suốt dọc đường đi, Nhị Học Sinh vẫn không ngừng cố gắng, nhưng bất kể cậu ta đập gõ thế nào, đèn vẫn không sáng, xem ra thiết bị tiên tiến này có kết cấu rất phức tạp.

    Trong môi trường khắc nghiệt như vậy, cả hội chỉ biết dựa vào mấy khẩu súng lạc hậu để bảo vệ bản thân, vì trong thời gian ngắn như vậy, họ không hi vọng ngọn đèn có thể phát huy tác dụng.

    Tư Mã Khôi thầm linh cảm thấy điều chẳng lành, chỉ e trong Tử thành có thứ gì đó mà súng Winchester không thể đối phó nổi.

    Anh nghe Thắng Hương Lân tiếp tục giải thích, nội dung cuốn nhật ký còn nhắc đến một chuyện, người Bái Xà cổ đại có thói quen đào huyệt rất sâu dưới lòng đất, hậu quả của việc đó là nơi này đã xảy ra một trận đại hồng thủy, khiến vô số người phải chôn thây trong bụng cá, cầm thú quỷ quái hoành hành khắp cõi nhân gian, dạ xoa ác quỷ cũng mò xuống lòng núi ăn thịt người, những thành trì còn sót lại bị hư hỏng nặng nề, nên không thể ngăn được nước lũ và bọn mãnh thú, những người may mắn sống sót đành trốn vào Tử thành, săn chuột làm thức ăn và làm bạn với núi xương khô chất chồng của tổ tiên, cuối cùng số người sống sót càng lúc càng giảm dần. Đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến sự diệt vong của nền văn minh Bái Xà.

    Hải ngọng nói: “Mặc kệ bọn người Bái Xà chết hết hay chưa, điều tôi quan tâm nhất bây giờ là làm cách nào tìm thấy tấm bia đá trong miếu thần?”

    Thắng Hương Lân lắc đầu nói: “Không ai biết được vị trí chính xác của miếu thần, giờ đây chúng ta chỉ còn cách lục soát từng manh mối trong tòa thành chết này thôi!”

    Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Trong cuốn nhật ký có vẽ bản đồ của Tử thành không? Nơi này sâu hút, tối thui, không có bản đồ thì làm sao tìm thấy lối ra được.”

    Thắng Hương Lân nói: “Không tìm thấy bản đồ, nhưng dãy núi dưới lòng đất được coi là hóa thân của thần Vũ Xà, chỉ cần tham chiếu tô tem thần Vũ Xà là ta có thể nhận biết được địa thế và phương hướng của tòa thành cổ này.”

    Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc, họ đã xuyên qua thông đạo khoáng đạt, nhưng nơi sâu trong lòng núi là bức tường cao dựng đứng, chỗ nào cũng thấy những bức tượng người hoặc tượng thú khổng lồ cao đến mười mấy mét; vách tường không còn bằng phẳng mà lồi lõm, nhấp nhô, trên mặt tường có rất nhiều lỗ hổng giống như hang chuột, rêu khô loang lổ, trong góc tường mọc vô số thân nấm thấp tè với đủ hình dáng cổ quái, cây lớn nhất cũng chỉ to bằng nắm đấm là cùng.

    Mọi người vừa đi vừa không thể ngăn được tiếng tim đập thình thịch như gõ trống. Tòa Tử thành này là nơi chất ngút không biết bao nhiêu thi thể, năm dài tháng rộng qua đi, không chừng những thi thể ấy đã biến thành cương thi rồi cũng nên, nhưng lẽ ra quanh đây ít ra phải gặp mấy bộ xương khô hoặc di hài chứ, sao không hề lưu lại chút vết tích nào? Toàn bộ người chết trong tòa thành đã biến đâu rồi?

    Tư Mã Khôi thấy cuốn nhật ký mà Thắng Hương Lân cầm trên tay có hình tô tem Vũ Xà ở lưng chừng lòng núi, bên trên khảm một vòng tròn biểu thị luân hồi sinh tử, anh phán đoán có lẽ tòa Tử thành lún vào lòng núi này cũng hình tròn, đứng ở ngoài cửa động nhìn vào thì không thấy xác chết nào, còn tình hình bên trong ra sao anh lại hoàn toàn không rõ.

    Nhị Học Sinh thì thầm: “Lẽ ra xác chết trong này phải chất cao như núi mới phải, sao đến nửa cỗ di hài cũng chẳng trông thấy thế nhỉ?”

    Cao Tư Dương nói: “Không chừng người chết đều ở sâu trong thành cổ…”, cô chưa nói hết câu thì bỗng một bầy chuột nhung nhúc kéo đến, con nào con nấy to kềnh càng như mèo rừng, số lượng không dưới ngàn con, chúng giương cặp mắt đỏ lòm như máu chui qua chui lại quanh chân mọi người. Cao Tư Dương là chúa sợ chuột, cô vội vàng vung đuốc xua đuổi.

    Hải ngọng nói: “Chuột ở đây to thật, người chết trong thành cổ chắc chắn đã bị lũ này gặm hết rồi, các cậu có nghe lời đồn, con chuột sau khi ăn con ngươi của người chết sẽ trở thành chuột chúa, nó chính là ‘Nhất lộ tiên gia’ đấy!”

    Cao Tư Dương mặt biến sắc: “Hải ngọng, sao lúc nào anh cũng thích nói quá lên vậy? Làm gì có chuyện đó!”

    Tư Mã Khôi nói: “Trong dân gian, người ta gọi chuột là Khôi bát gia, tương truyên con vật này rất giỏi dự đoán điềm cát hung, nếu cô sống trong ngôi nhà có chuột, ban đêm yên tĩnh, dỏng tai lên có thể nghe thấy tiếng chuột rời tổ đi tìm thức ăn. Trước đó chúng thường thì thầm kêu chít chít trong hang, đó là lúc chúng nhẩm tính xem sau khi ra khỏi hang có gặp phải mèo hay không, bởi vậy dân gian mới có cách nói “chuột gieo quẻ”, nếu bị chuột cắn vào tóc thì là điềm lành, còn nếu bị nó gặm chân hoặc giày tất thì là điềm dữ…”

    Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi nói vậy, hốt hoảng hỏi lại: “Chết rồi, tôi vừa bị con chuột cắn vào giày, nghĩa là tôi sắp gặp vận đen rồi à?”

    Cao Tư Dương nói: “Chỉ có anh mới tin bọn họ nói xằng, không khéo trong thành cổ còn có vô số chuột khổng lồ, nhân cơ hội này thiêu sạch chúng cho sớm!”.

    Tư Mã Khôi nói: “Tôi không nói xằng, có thể chuyện chuột gieo quẻ chỉ là lời đồn, nhưng loài chuột rất gần gũi với con người, chỉ chờ người đi ngủ là chúng bắt đầu hoạt động, bởi vậy chuyện quái dị quanh chúng cũng không ít. Bọn chúng là loài có tinh thần cảnh giác cao độ bậc nhất, rất am tường việc đón cát tránh hung”, nói rồi Tư Mã Khôi lấy đuốc soi khắp bốn phía xung quanh, anh nhìn chằm chằm vào hướng di chuyển của lũ chuột trong Tử thành.

    Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi tập trung tinh thần cao độ mà không hiểu anh đang nhìn gì, cô nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Gã này hơi ấm đầu thì phải, không lẽ anh ta cho rằng người chết trong thành cổ đều biến thành chuột chắc?”

    Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ anh ấy thấy nấm mọc trong Tử thành hơi kỳ quái, tuy chuột ở đây rất nhiều, nhưng dường như chúng luôn tránh những cây nấm, chứ không dám ăn, có lẽ trong nấm chứa chất kịch độc, mọi người cũng tuyệt đối không được chạm vào nó đấy nhé!”

    Tư Mã Khôi gật đầu bảo: “Đó chỉ là một nguyên nhân, ngoài ra, mọi người còn chuẩn bị tâm lý trước, quan sát kỹ những vách tường thành mọc nấm độc”.

    Mọi người không hiểu ý, liền soi lửa đuốc vào bức tường đá, giương mắt nhìn suốt hồi lâu, nhưng không phát hiện ra có điểm gì khác thường.

    Tư Mã Khôi xua tay nói: “Mọi người có nhìn thấy gì cũng đừng sợ hãi, ai nhát gan thì tốt nhất chớ có nhìn!”

    Những thành viên còn lại càng nghe càng ù ù cạc cạc không hiểu, mọi người lui lại mấy bước, bấm đèn quặng chĩa về phía vách tường, khi đã định thần nhìn lại thì ai nấy đều kinh hãi tột độ, mồ hôi vã ra như tắm. Vách tường lồi lõm với vô số hốc lớn nhỏ, chẳng ngờ các vết tích ấy đều là đầu lâu, mọi người giật thót mình, trong thành đắp đống vô số thi hài của người Bái Xà, giờ đây tầng tầng lớp lớp xương khô đã trở thành hóa thạch, điều lạ lùng là làm sao những cây nấm này lại mọc ra từ miệng của đầu lâu?

    Hải ngọng ra vẻ hiểu biểt, kể mình từng đến núi Bạch Sơn đỉnh Hưng An Lĩnh, gặp vô số loại nấm với đủ hình thù kì quái, hình như loại nấm này có tên “nấm thi khẩu”, nghĩa là nấm miệng người chết, sở dĩ có tên này là vì chúng chỉ mọc trong miệng người chết. Nghe mấy tên đi đào nhân sâm kể lại, những người này lúc còn sống thường ăn nhân sâm ngàn năm, nên sau khi chết đi chân khí không tiêu tan mà từ từ cô đọng lại thành cây nấm, loại nấm này vô cùng quý giá, người sống ăn vào có thể kéo dài tuổi thọ, nếu trong quá trình phá quan tài cải táng; hoặc đào huyệt mộ ngẫu nhiên phát hiện thấy một cây nấm thì bọn trộm mộ sẽ thi nhau tranh cướp, nhưng loại nấm này nếu chạm phải tay người là lập tức hóa thành nước đen, có đào lên cũng không cách nào bảo quản, không những vậy bàn tay chạm vào cây nấm lập tức bị tê dại.

    Tư Mã Khôi am hiểu thuật tướng vật, vừa nghe Hải ngọng nói đã biết là bốc phét, con người sau khi chết đi làm gì còn chân khí, những cây nấm này chắc chắn được hình thành do tử khí trong địa động ngưng tụ lại, chất độc của nó thuộc hàng kịch độc, chỉ cần ngắt ra, ngâm vào trong nước sẽ thấy hàng ngàn hàng vạn trùng đầu đỏ mõm đen thi nhau bơi lội, tuy bây giờ chúng đều đã hóa thạch, nhưng lũ chuột vẫn không dám đến gần, điều đó chứng tỏ chất độc vẫn chưa tan hẳn.

    Lúc này, bọn chuột trong khe nứt lòng núi túa ra ngày một nhiều, con nào con nấy da đen trùi trũi, mình không một sợi lông, rồi một con chuột khổng lồ cũng chui ra, nó to gấp mấy lần đồng loại, lông loang lổ khắp toàn thân, trắng như khối tuyết, nó đái són suốt dọc đường đi, mỗi giọt lại biến thành một con chuột.

    Mọi người nhìn cảnh tượng ấy mà dựng tóc gáy, Thắng Hương Lân thì thầm: “Chuột chúa ra rồi kìa!”

    Cao Tư Dương sợ hãi, mặt trắng bệch, giương súng Winchester ngắm vào con chuột khổng lồ, định bóp cò.

    Tư Mã Khôi ấn cánh tay của Cao Tư Dương, rồi nói: “Đừng lãng phí đạn! Lũ này mà bao vây, thì lửa đuốc không đủ sức ngăn cản bọn chúng đâu, bọn chúng sẽ gặm chúng ta thành đống xương ngay tức thì, hơn nữa mùi tanh của máu chuột chết sẽ lôi kéo càng nhiều đồng loại của nó đến, bọn chuột rất sợ nấm độc trong Tử thành, mọi người chỉ cần đi phía trong hàng nấm độc là được”.

    Mọi người lập tức giơ đuốc xua đuổi lũ chuột, bước vào trong, tiến dần vào động đạo. Tuy lũ chuột rất nuối tiếc hơi khí của người sống, nhưng lại bị nấm độc chặn ở ngoài, nên không dám liều chết vượt qua.

    Hải ngọng bật đèn quặng đi trước mở đường. Càng vào sâu bên trong, xương khô trong động đạo càng nhiều, che lấp cả phù điêu khắc trên vách đá và tượng thần, tuy địa thế ở đây khá rộng rãi, nhưng không khí không lưu thông khiến người ta cảm thấy vô cùng khó thở, ánh sáng chỉ có thể soi sáng trong vòng mười bước chân. Lúc này, bên tai vang lên tiếng tim đập thình thịch và tiếng thở nặng nề của mọi người, ngoài ra hoàn toàn không còn bất kỳ âm thanh nào khác. Ai cũng thấp thỏm lo sợ, cố gắng bám sát nhau vì sợ mình bị rớt khỏi đội.

    Vách ngoài của Tử thành hình tròn, nếu căn cứ vào đường nét tô tem trong bụng thần Vũ Xà để phán đoán, thì trong thành cổ có rất nhiều đường hầm bằng đá macma, thông đạo mà mọi người đang đi chỉ là một trong số đó. Giữa đường có các huyệt động lớn, trên vách tường khắc chi chít những bức phù điêu hoa văn uốn lượn, nhưng tuyệt không thấy một bộ xương khô nào. Tư Mã Khôi dừng bước, lại gần một thảm rêu, quan sát kỹ hồi lâu, anh nhận thấy phần lớn trên vách tường đều khắc hình một vị vương gia đầu đội trang sức bằng vàng, người ta cố ý nhào nặn ông ta thành hóa thân nửa người phàm trần, nửa thần tiên, rõ ràng địa vị của ông ta còn kém thần Vũ Xà một bậc.

    Nhị Học Sinh cố gắng lắm mới không bị rớt lại phía sau, nhân lúc Tư Mã Khôi dừng lại xem xét, cậu ta ném ba lô và đèn chiếu nặng trịch xuống đất, ngồi thở hổn hển.

    Hải ngọng càm ràm với Tư Mã Khôi: “Tớ thấy loại hàng phế phẩm kia chỉ tổ vướng chân bọn mình, cậu muốn để chim sẻ bay kịp chim yến thì chí ít ra nó cũng phải là chim đã chứ”.

    Tư Mã Khôi nói: “Cậu đừng cằn nhằn nữa, có sức thì cậu cõng cậu ta đi! Tớ cũng chẳng kỳ vọng cậu ta sửa được cái đèn chiếu”.

    Cao Tư Dương lo bọn chuột đói đuổi theo vào thành cổ, cô nói: “Trong này không có tấm bia của người Bái Xà, cũng không tiện lưu lại lâu, chúng ta mau đi thôi!”.

    Tư Mã Khôi không dám nấn ná ở lại, anh kẻo Nhị Học Sinh đang ngồi bệt trên mặt đất đứng dậy, chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng đúng lúc đó, Thắng Hương Lân ngước nhìn bức phù điêu trên vách tường, rồi nói: “Đợi chút! Tôi đã biết vì sao người ta không được phép nhìn, cũng không được phép nói về bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà rồi!”.
     
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 2: BỘ XƯƠNG KHÔ


    Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói đã phát hiện ra bí mật thì dẫu giờ phút này có mắc chuyện trọng đại cũng phải tạm gác lại, anh cầm lấy bó đuốc giơ về phía trước, thì thấy trên bức phù điêu trước mặt quả nhiên có một chỗ khá tương đồng với hình bia đá vẽ trong cuốn nhật ký của đội trưởng đội thám hiểm, nhưng cảnh tượng trên bức phù điêu trong Tử thành còn hoành tráng hơn. Bức phù điêu vẽ tấm bia đá của người Bái Xà nằm trong một huyệt động rất lớn dưới lòng đất, phía dưới có hình vẽ hao hao giống một cây cổ thụ xum xuê cành lá. Có điều, người ta cố tình đục mất một mảnh, nên không thể nhìn rõ nguyên bản của nó là vật gì, trước tấm bia cổ là đống xương khô chất cao như núi, xung quanh vẽ biển hư vô – tượng trưng cho thế giới sau khi chết, trước mặt biển có một con quái xà đầu người, lưng mọc lông chim, đang chở mấy vị vương gia đầu đội trang sức vàng.

    Tư Mã Khôi chỉ hiểu lờ mờ tình hình được miêu tả trong bức phù điêu, anh không thể chỉ ra đích xác rốt cuộc trên tấm bia đá khắc ẩn số kinh thiên động địa gì, tại sao bí mật đó không được phép nhìn và cũng không được phép nói ra?

    Thắng Hương Lân biết hội Tư Mã Khôi không đủ kiên nhẫn để quan sát kỹ lưỡng, nên cô nói luôn: “Phần lớn nội dung của bức phù điêu ghi chép sự tích về tấm bia đá, có lẽ nó bị chôn vùi ở một nơi cực sâu dưới hoàng tuyền, người Bái Xà cổ đại tin rằng: Bất cứ kẻ nào nhìn thấy tấm bia, kẻ đó sẽ lập tức sợ hãi mà chết đứng ngay trước tấm bia.”

    Tư Mã Khôi bảo: “Tôi chẳng tìm thấy manh mối nào cả. Theo những gì chúng ta đã biết thì tấm bia đá của người Bái Xà chỉ là một tảng đá khổng lồ nằm ở nơi rất sâu dưới cửu tuyền, nó cũng giống như vô vàn những tảng đá khác dưới lòng đất, nếu ai nhìn thấy tấm bia, kẻ đó lập tức mất mạng, vậy thì nguyên nhân cái chết chắc chắn là do bí mật khắc trên tấm bia gây ra, lẽ nào bí mật đó có thể dọa người đang sống sờ sờ bỗng dưng lăn ra chết hay sao? Tôi chả tin chuyện hoang đường này, mười ngón tay xòe ra còn có ngón ngắn ngón dài, huống hồ là con người, trăm kẻ trăm tính trăm nết, ví dụ hạng người phản ứng chậm như sên kiểu Hải ngọng, mặt dày thế kia thì chuyện gì có thể dọa cậu ấy sợ đến nỗi lăn ra chết được chứ?”

    Hải ngọng vội vàng đính chính: “Không phải tớ phản ứng chậm chạp mà là tớ từng trải, có chuyện quái dị nào ông Hải này chưa từng gặp chứ?”

    Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh cũng gật đầu cho là phải, nếu trên bia đá khắc hình yêu ma quỷ quái hung tợn quái dị mà bất ngờ nhìn thấy trong bóng tối, không khéo cũng sợ vãi đái, có khi còn mềm nhũn cả chân, khuỵu xuống đất, nói thế còn có khả năng, chứ bảo ai đứng trước tấm bia đá, người đó sẽ sợ hãi chết bất đắc kỳ tử thì đúng là khó tin, huống hồ nội dung khắc trên tấm bia cũng chỉ là mấy chữ tượng hình cổ tương tự như long ấn triều Hạ, chứ nào phải hình yêu ma quỷ quái gì!

    Thắng Hương Lân không thể trả lời được thắc mắc của mọi người, cô chỉ biết giải thích theo đúng nội dung khắc trên bức phù điêu. Tấm bia Bái Xà vốn do mấy vị vương gia đầu đội trang sức vàng lưu lại, những người này có địa vị thống trị tối cao trong tộc người Bái Xà, họ chia nhau nắm giữ một phần nội dung khắc trên tấm bia đá, nhưng không ai được phép biết toàn bộ nội dung, càng không được phép tiết lộ bí mật mình nắm giữ cho người khác, bởi vậy họ buộc phải cắt lưỡi. Người Bái Xà nghiêm ngặt giữ bí mật – điều cấm kỵ cổ xưa mà thần Vũ Xà đã đặt ra. Huyệt động khắc đầy phù điêu này chẳng qua chỉ là một trong những chỗ chôn xương người, trong Tử thành có lẽ còn có mấy nơi tương tự như vậy.

    Tư Mã Khôi tập trung suy ngẫm, anh cảm thấy tuy nội dung khắc trên tấm phù điêu hoang đường, ly kỳ, nhưng hậu duệ của người Bái Xà vốn sinh sống ở lưu vực sông Hoài Thủy luôn đau đáu thực hiện ý đồ đào tấm bia dưới lòng đất lên, hi vọng có thể nhờ đó để thoát khỏi kiếp nô dịch dưới trướng vương triều nhà Hạ. Điều này hoàn toàn trùng khớp với những ghi chép tổ tiên để lại, nhưng bí mật khắc trên tấm bia khủng khiếp đến mức chỉ cần nhìn một cái là sợ hãi lăn đùng ra chết, thử hỏi sau khi tìm thấy nó ai còn dám xem?

    Hải ngọng nói: “Cẩn tắc vô ưu, đến lúc đó chúng ta để Nhị Học Sinh xem tấm bia khắc bí mật gì, nếu cậu ta không khiếp vía mà chết, thì chúng ta xem sau cũng chưa muộn.”

    Tư Mã Khôi không đếm xỉa đến “ý tưởng đầu bò” của Hải ngọng, trong đầu anh không ngừng lặp đi lặp lại suy nghĩ: Vì sao Nấm mồ xanh muốn tìm tấm bia của người Bái Xà? Trước khi tìm thấy tấm bia đá, có lẽ anh không thể giải đáp được ẩn số đó. Lúc này, Tư Mã Khôi bỗng thấy hơi do dự, hội anh trải qua bao phen thập tử nhất sinh mới đến được đây, nên tuyệt đối không thể biến mình thành tấm bia đỡ đạn cho Nấm mồ xanh được.

    “Kẻ nào dám nhìn bí mật khắc trên tấm bia đá, kẻ đó sẽ lập tức gánh chịu hậu quả chết chóc”, tuy Tư Mã Khôi không tin tà ma, nhưng sau khi trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, anh cảm thấy đôi khi không thể không tin được, lòng anh bất giác bị bao phủ bởi chiếc bóng của điềm dữ. Có điều, sau khi suy đi tính lại, anh vẫn thấy phải tiếp tục tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà, bởi vì, đó là cơ hội duy nhất giúp anh có thể vạch mặt Nấm mồ xanh, còn sau khi tìm thấy tấm bia đá hội anh sẽ xử lý thế nào thì giờ chưa phải lúc nghĩ tới. Việc cần làm trước mắt là xác định chính xác vị trí để tìm ra con đường tiếp cận tấm bia.

    Từ những bức phù điêu trong hốc đá, Thắng Hương Lân suy đoán, người Bái Xà có tập tục lấy các vị thần tượng trưng cho địa hình mạch núi, phần đầu và phần thân dưới của vị thần đó sẽ ngầm chỉ phương hướng. Căn cứ vào điều này thì phía dưới Tử thành có lẽ tồn tại một đường hầm đá macma rất dài, ngoằn ngoèo xuyên qua dãy núi dưới lòng đất và dẫn thẳng đến miếu thần chôn bia đá. Độ dài của hành trình thì khó có thể dự tính trước được, môi trường dưới đó còn nguy hiểm hơn trong sơn cốc ốc cúc đá và rừng rậm pha lê. Chỉ đợi Thắng Hương Lân đánh dấu sơ lược những hình vẽ này trên bản đồ xong là mọi người lập tức khởi hành tìm kiếm đường hầm.

    Địa thế trong động đạo Tử thành lúc rộng lúc hẹp, có nơi còn không chui qua nổi, mọi người đành đi vòng sang đường khác, rồi tiếp tục tiến về phía trước, bước thấp bước cao lần mò trong bóng tối mịt mùng. Địa hình hao hao giống nhau dễ khiến người ta cảm thấy mệt mỏi, mí mắt trên và mí mắt dưới không tự chủ được cứ díp cả lại. Khi cả hội đi tới lối ra của đường hầm thì thấy trước mắt hiện ra một hố sâu gần như dựng đứng, cái hố với đường kính gần trăm mét này có vẻ là khu vực nội thành, đồng thời cũng là đại điện nằm ở vị trí trung tâm của tòa thành. Không gian dưới đại điện vô cùng rộng rãi, những pho tượng các vị thần cổ đại đứng sừng sững khắp nơi, trông uy nghiêm và tĩnh tại, trên vách tường có vô số cửa động dẫn đến các thông đạo.

    Hội Tư Mã Khôi dừng chân ở ngay mép một cửa động, soi đuốc và đèn quặng quan sát tình hình phía bên dưới, chỉ thấy mặt đất dưới đó nhấp nhô lồi lõm, giống như một khuôn mặt quái dị đang ngửa lên nhìn trời, bởi diện tích quá rộng nên từ phía trên, họ không thể nhìn rõ cái gì vào cái gì.

    Xương khô trong Tử thành chất cao ngất ngưởng, đủ các loại hình thái cổ quái và đáng sợ, chỗ nào cũng giăng mắc hơi khí quái dị khó có thể hình dung, ánh lửa đuốc càng lúc càng mờ dần, cảm giác bất an và bức bối đè nặng lên tinh thần mọi người. Dường như quanh họ tồn tại một thứ gi đó không thể nhìn thấy, cũng không thể sờ thấy, nó đang lặng lẽ tiến sát đến gần, cả hội đều thấy chỗ này không thể dừng lại lâu, nên lục tục kéo nhau trèo xuống đáy động, lần từng bước tìm đường.

    Nhị Học Sinh mệt đến nỗi hai chân mất hết cảm giác, cậu ta chỉ ý thức được mỗi việc bám sát Tư Mã Khôi tiến về phía trước, ngặt nỗi mắt lại cận nặng, không nhìn rõ địa hình dưới chân, nên vừa mất tập trung một cái đã bị ngã chổng vó, nấm độc mọc tua tủa trong miệng đầu lâu lổn nhổn khắp mặt đất, mặt cậu ta úp đúng vào đám nấm, nấm chui đầy miệng, Nhị Học Sinh sợ muốn ngất, cậu ta hoảng hốt nôn ọe hết thứ trong miệng ra, khiếp đảm đến mức không thốt nên lời.

    Cả hội lặng người, nấm độc chính là tử khí được ngưng kết lại, chỉ cần sờ một lát là tay đã tê dại suốt hồi lâu, huống hồ là ăn vào miệng?

    Tuy Cao Tư Dương xách theo hộp cứu thương, nhưng cô chưa từng biết đến loại nấm độc mọc trong miệng đầu lâu này, nên cũng lúng túng không biết nên áp dụng biện pháp nào để chữa trị, những thành viên còn lại cũng bó tay bất lực.

    Mọi người thầm nghĩ, Nhị Học Sinh phen này chết chắc, chẳng ngờ chờ một hồi vẫn không thấy cậu ta có triệu chứng gì khác thường ngoài việc hồn vía lên mây.

    Tư Mã Khôi biết loại nấm này chứa chất cực độc, chỉ cần chạm cây nấm vào nước dãi trong miệng là chẳng đầy tích tắc toàn thân đã tím đen, lăn ra chết mà không kịp phản ứng gì. Anh quan sát kỹ thì thấy nấm và những bộ xương khô xung quanh đều đã hoàn toàn biến thành hóa thạch. Nhưng tại sao ngay cả lũ chuột đang đói rã họng cũng không dám bước chân vào Tử thành? Rốt cuộc bọn chúng khiếp sợ điều gì?

    Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Chỗ này làm người ta sởn hết gai ốc, âm khí của người chết nặng nề quá, nói thật tớ cũng hơi chờn đấy!”

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Ngay cả Hải ngọng cũng phát giác thấy điều khác thường, xem ra chỗ này đúng là quái dị thật!”. Anh nắm chắc khẩu súng, đảo mắt nhìn khắp tứ phía, chỉ thấy dưới ánh lửa mờ ảo vô số lỗ hốc trên các đầu lâu trông thật quái đản, những khuôn mặt dị hợm vẹo vọ của người chết nom như những bóng quỷ bập bềnh.

    Hải ngọng thấy Tư Mã Khôi nhìn chằm chằm vào mấy bộ xương khô, anh lập tức lên nòng súng: “Cẩn thận đấy! Không khéo trong Tử thành lại có cương thi của người Bái Xà cổ đại!”

    Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân dìu Nhị Học Sinh đứng lên, rồi quay sang bảo Hải ngọng: “Anh đừng suốt ngày dọa người khác, dọc đường chỉ thấy toàn xương khô, lấy đâu ra cương thi cơ chứ?”

    Hải ngọng cố cãi: “Tôi dọa các cô làm gì, xương khô thành tinh sẽ biến thành cương thi đá, mình đồng da sắt, dao chém không đứt, lửa thiêu không cháy, bọn chúng còn khó đối phó hơn mọi cương thi có da có thịt đấy!”

    Nhị Học Sinh nghe vậy thì run cầm cập, sợ sệt quay đầu lại nhìn, trong bóng tối không hề có bất kỳ động tĩnh nào, cậu ta căng thẳng nói: “Tôi biết trong tòa thành này có một thứ không nhìn thấy, không sờ thấy nhưng vô cùng đáng sợ…”

    Hải ngọng nạt: “Lấy vợ lại đòi cắm phướn à? Văn vẻ lãng xẹt! Chú cứ nói toẹt ra trong này có ma phải hơn không, vòng vo Tam Quốc làm cái mẹ gì?”

    Cao Tư Dương trách Nhị Học sinh: “Anh tận mắt nhìn thấy ma bao giờ chưa? Sao cũng nói xằng giống bọn họ?”

    Nhị Hoc Sinh thề độc: “Cảm giác sởn hết gai ốc này rất chân thực, nếu tôi nói xằng sẽ bị sét đánh chết ngay lập tức.”

    Tư Mã Khôi chửi: “Con mẹ chú, khi không đừng rỗi miệng nói càn, mấy năm nay bao nhiêu người bị sét đánh, thiên lôi cũng mệt chả buồn vung búa, thề thốt làm quái gì. Nhưng đúng là nơi này rất tà mị, rời sớm chừng nào, bớt nguy hiểm chừng ấy”.

    Lúc này, mọi người đều cảm thấy bất an, nhưng không thể nói chính xác điểm nào không ổn, họ chỉ mong mau chóng tìm thấy đường dẫn tới tấm bia đá, mau chóng rời khỏi nơi đây. Thế là, cả hội theo chỉ dẫn khắc trên phù điêu, mò mẫm một hồi trong thạch điện. Dưới đáy tòa thạch điện có hình đầu một vị thần đang ngửa mặt lên trời, thể tích to lớn khác thường, khuôn mặt giống như một ngọn núi nhỏ lồi hẳn lên, miệng mím chặt, có điều nó nằm dưới lòng đất từ thuở xa xưa nên rất khó truy tìm gốc gác, bề mặt nứt nẻ như mai rùa. Ngoài ra còn có mấy pho tượng người bằng đá đứng sừng sững xung quanh, năm tháng qua đi, chúng bị đổ xuống, đập vỡ cả mặt đất, nhờ đó mới lộ ra một hang động đá macma sâu không thấy đáy nằm phía dưới, soi đèn quặng xuống chỉ thấy tối thui.

    Tư Mã Khôi trông thấy vậy, anh đoán đó chính là đường hầm đá macma, miệng của bức tượng khổng lồ là cửa động. Mấy ngàn năm trước, người Bái Xà đã bịt kín cửa động, nếu không có vụ lở đất thì có muốn chui vào đường hầm cũng không dễ dàng, chỉ cần chui qua hang đá cuối cùng của con đường dài dằng dặc này, là cả hội có thể nhìn thấy tấm bia đá ẩn giấu lời giải của mọi ẩn số.

    Thắng Hương Lân khẽ nhắc Tư Mã Khôi: “Chúng ta không biết gì về tình hình trong đường hầm, phải cẩn trọng!”

    Tư Mã Khôi gật đầu đáp: “Chỗ này không thể nấn ná lại lâu, tóm lại chúng ta cứ vào đường hầm trước, chí ít phải cách xa tòa thành chất đống xương người này mới có thể dừng lại nghỉ ngơi được…”, mới nói đến nửa chừng, Tư Mã Khôi thấy có người giật giật cánh tay mình, quay lại nhìn thì thấy mặt Nhị Học Sinh khô quắt như người chết. Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Chú định đóng phim kinh dị à? Sao mặt mũi trông khiếp thế?”

    Nhị Học Sinh chỉ Tư Mã Khôi, lập cập nói: “Thực ra, mặt… mặt của anh trông cũng chẳng khác gì đầu lâu”.
     
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 3: BIẾN THÀNH MA


    Tư Mã Khôi cũng cảm nhận thấy những điềm báo bất thường, nhưng không biết cụ thể là chỗ nào bất thường, mãi khi phát hiện ra thì đã muộn. Tuy không nhìn thấy khuôn mặt mình lúc đó trông thế nào, nhưng Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy gương mặt của tất cả những thành viên còn lại dưới ánh đuốc bập bùng, anh giật thót một cái khi thấy người nào người nấy hốc mắt lõm sâu vào trong, gò má xanh đen, âm u chẳng khác cương thi là mấy, anh đoán chắc mặt mình cũng giống vậy.

    Mọi người đưa mắt nhìn nhau, một cảm giác rùng rợn chạy sượt qua tim, tóc gáy dựng đứng, lúc trước cả hội chỉ mải quan sát tình hình xung quanh mà không để ý những người quanh mình bất giác biến thành hình hài này từ lúc nào. Dẫu ai cũng biết rõ sống trong thế giới tăm tối dưới lòng đất một thời gian dài, sắc mặt sẽ dần dần trở nên nhợt nhạt, nhưng chắc chắn không thể biến thành bộ dạng như thế này được.

    Điều duy nhất có thể khẳng định là sự thay đổi này bắt đầu xuất hiện sau khi cả hội thâm nhập vào Tử thành, nếu không nhanh chóng thoát khỏi nơi đây, chỉ e tất cả sớm muộn sẽ trở thành những bộ xương khô di động dưới lòng đất.

    Mọi người không ai hẹn ai mà lập tức cùng thả dây thừng xuống khe nứt trên mặt đất để tiếp tục trèo xuống sâu hơn, nhưng mới chỉ tụt xuống hơn hai mươi mét, họ đã chạm đáy. Chẳng ai ngờ cái hố lại nông thế, dưới chân là những tảng đá khổng lồ bằng phẳng, trơn nhẵn, tứ phía khoáng đạt tối đen như mực, cứ cách mấy bước chân lại sừng sững một trụ đá hình người to bằng một vòng tay.

    Hội Tư Mã Khôi chỉ biết vị trí đại khái, vừa đi vừa thắc thỏm, không ngờ phần rìa vách đều không có cửa ra, nhìn địa hình thì chỗ cả hội đang đứng có vẻ là một tòa đại điện, phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và đuốc bị giảm xuống đáng kể. Trong lúc cuống cuồng chỉ mong mau chóng tìm thấy đường thoát, cả hội lại càng chẳng tìm thấy lối ra, ai nấy nóng lòng như kiến bò chảo lửa, môi khô nứt nẻ, miệng thở hồng hộc đầy khó nhọc, đống ba lô vũ khí trên lưng bỗng trở nên nặng nề lạ lùng, cơ thể họ dần lạnh ngắt, tê dại, chỉ muốn lăn ra nằm bất động trên mặt đất.

    Muốn là muốn vậy, nhưng lòng ai cũng rõ – chỉ cần dừng lại ở đây thì vĩnh viễn đừng nghĩ đến việc có thể đứng dậy đi tiếp, ngặt nỗi đi mãi mà vẫn không tìm thấy đường hầm rời khỏi Tử thành, cả hội nhẩm tính dẫu có quay trở lại đường cũ thì cũng chẳng kịp, không khéo chưa được nửa đường đã gục ngã. Không còn cách nào khác, mọi người đành liên tục uống nước để bổ sung thể lực, gắng gượng lần mò từng bước, chẳng bao lâu sau, họ đã đến tận cùng của đáy hố.

    Cao Tư Dương đột nhiên phát hiện cây đuốc trên tay bỗng biến thành đốm lửa ma trơi mờ ảo, chiếu vào người không những không nóng mà còn tỏa ra ma khí âm u đến rợn người. Cô giật mình, vội quẳng ngọn đuốc ra xa.

    Không để ngọn đuốc rơi xuống đất, Tư Mã Khôi vội chìa tay đỡ lấy, anh ngạc nhiên hỏi: “Sao lửa đuốc lại biến thành thế này nhỉ?”

    Nhị Học Sinh kinh hãi nói: “Hình như nơi này có một sức mạnh đáng sợ không thể lý giải được, nó có thể lẳng lặng nuốt chửng tất cả mọi sinh mệnh…”

    Hải ngọng mỉa mai: “Anh thấy chú đúng là cái vòi ấm nạm viền vàng, đáng tiền là đáng ở cái miệng vòi. Cái gì mà sức mạnh đáng sợ? Đây chẳng qua chỉ là lửa ma trơi thường thấy ở những ngôi mộ cũ thôi mà”.

    Thắng Hương Lân lại cho rằng lời Nhị Học Sinh nói có phần có lý, trong Tử thành không hề có điều kiện để hình thành hóa thạch, vậy mà những bộ xương khô của người Bái Xà ở dưới lòng đất lại đều biến thành hóa thạch, điều đó chứng tỏ ở đây nhất định tồn tại một vật có thể hút cạn sinh khí của người sống và biến thi hài thành hóa thạch chỉ trong một thời gian ngắn, thậm chí ngay cả nhiệt lượng của lửa đuốc cũng bị nó hút hết ánh sáng.

    Tư Mã Khôi thấy cũng phải, nhìn tình hình quầng lửa ma trơi trước mặt, thì vật nuốt chửng hơi khí của người sống chắc chắn đã đến khá gần nơi này. Phải nhanh chóng tiêu diệt nó thì cả hội mới mong có tia hi vọng sống sót.

    Mọi người gấp gáp như thể đang chạy đua với thần chết, không ai dám nấn ná nửa giây. Họ lập tức khua đuốc lục soát tìm kiếm khắp nơi trong đại điện tối om, không bỏ sót một góc nào. Trong một góc động hõm sâu vào trong có vài cỗ xác khô cổ đại đầu đội trang sức vàng, cỗ nào cũng cúi gục xuống, da thịt khô quắt như vỏ cây, không thể nhìn rõ diện mạo được nữa. Từ cái miệng ngoác rộng của họ liên tục chảy ra thứ nước vàng, trong lòng các xác chết đều ôm một cây nấm lớn, thân nấm đỏ au như máu, tán xòe như cái ô, dịch nhãi chảy ra từ miệng cái xác đều rớt xuống phần đỉnh cây nấm, gốc nấm thì dính chặt thành một thể với cái xác.

    Hội Tư Mã Khôi càng tiến lại gần càng thấy ngạt thở, hai mắt anh díu lại, mọi thứ trước mắt trở nên mơ hồ. Anh biết loại nấm này chính là “nấm thi khẩu”. Lớp sương khí mờ mịt tỏa ra xung quanh thực ra là những con trùng nhỏ miệng đen đầu đỏ, chỉ khi lấy nước tạt vào thì mắt thường mới trông thấy chúng, nom chúng chẳng khác nào sương khí tỏa ra từ xác chết. Lũ côn trùng này tụ tập ở đây, rồi tỏa ra bốn hướng, hút cạn sinh khí tồn tại trong tòa Tử thành này. Sở dĩ những cây nấm mọc ra từ miệng xác khô của người Bái Xà là do cơ thể người chết đã hít phải lũ côn trùng. Trong khi đó, hội Tư Mã Khôi lại xâm nhập nơi này trong trạng thái không hề được phòng bị chút nào.

    Tư Mã Khôi nhớ lại trong điển tịch tướng vật có đoạn chép rằng: thời Tùy Đường có tay thợ săn vào núi săn bắn, anh ta đuổi theo linh dương và rơi xuống một huyệt động. Trong huyệt động, anh ta nhìn thấy một khóm linh chi tươi, biết đây là dị vật, anh ta liền hái xuống và định nuốt ăn, không ngờ một con ma núi bỗng đâu chạy vọt tới cướp lấy khóm nấm, tay thợ săn sống chết tranh cướp lại, cuối cùng cũng xua được con ma núi đi. Ma núi mà người xưa vẫn gọi có khả năng chỉ là một loài khỉ vượn hoặc sơn tiêu thông minh nào đó, nó định chờ cây linh chi lớn lên mới ăn, ai ngờ lại bị gã thợ săn nẫng tay trên. Đuổi được con ma núi, gã thợ săn không đợi thêm được nữa, vội nuốt hết cây nấm linh chi vào miệng, vừa nuốt trôi khỏi miệng, cơ thể anh ta bỗng nhiên không ngừng to ra, chỉ mỗi cái đầu còn chui lọt ra khỏi động, phần thân từ cổ trở xuống không thể nhúc nhích được nữa, kết quả anh ta bị nhốt trong huyệt động cho đến chết. Chuyện này tuy rất hoang đường nhưng lại chứng minh – trên đời tồn tại một loại thực vật có công dụng kỳ lạ như cây nấm linh chi, có lẽ những cái xác cổ của người Bái Xà đầu đội trang sức vàng này lúc còn sống đã từng ăn một loại nấm hiếm gặp nào đó mọc dưới vực sâu, nên sau khi họ chết đi, nước rỉ ra từ miệng những cái xác khiến những khóm nấm độc vốn đã chết khô nay bỗng hồi sinh và bất tử suốt ngàn năm.

    Tư Mà Khôi càng nghĩ lại càng sợ, may mà phát hiện kịp thời, nếu không chắc hội anh đã trở thành những bộ xương khô chôn thây trong tòa thành cổ. Anh nhanh trí ra hiệu cho mọi người mau bịt miệng và mũi lại, không được tới gần thêm, rồi bảo Hải ngọng lấy súng săn bắn nát khóm “nấm thi khẩu” khổng lồ, phần tán nấm giống cái ô của nó lập tức hóa thành nước đen, mùi hôi thối tỏa ra nồng nặc, không thể ngửi nổi.

    Sau đó, mọi người thấy, tuy làn sương mỏng giăng bốn bề vẫn chưa tan hẳn, nhưng ánh đuốc đã tỏa ra quang nhiệt như lúc đầu, cảm giác tê bì trên cơ thể cũng dần dần mất đi, đến lúc này cả hội mới hơi yên lòng một chút, có điều khí huyết bị tổn thương nặng nề, không thể phục hồi ngay được trong chốc lát. Vừa mới ngồi thở hổn hển trên mặt đất chưa được bao lâu, mọi người bỗng thấy mấy cỗ cổ thi bỗng lún dần xuống, thì ra phía dưới khóm nấm khô là một cửa động, trước đây nó mọc che cả lối vào khiến không ai nhìn thấy.

    Tư Mã Khôi soi đèn quặng vào trong, bên trong dường như không có sương khí tử thi, có vẻ hơi khí này chỉ bốc lên trên, những cỗ tử thi cổ đại kia đều là xác chết của những thủ lĩnh có chức vị cao trong tộc người Bái Xà, trước khi chết họ đã bịt kín cửa động lại. Đi tiếp xuống phía dưới mới là đường hầm chính của mạch núi này, Tư Mã Khôi dự đoán con đường hầm dưới lòng núi và các hang động khác đều là những dấu vết địa chất do sự vận động dòng dung nham hàng ngàn tỉ năm về trước để lại, quy mô vô cùng to lớn, hình dạng vô cùng kì dị, đó là những kiến trúc ngoài tầm hiểu biết cùa con người, bởi thế không thể nói người Bái Xà là tác giả tạo ra đường hầm này, cùng lắm họ cũng chỉ là kẻ thừa kế mà thôi.

    Vì tử khí trong đại điện không thể tản hết nên mọi người phải cắn chặt răng tiếp tục cuộc hành trình. Tư Mã Khôi thấy cơ thể Nhị Học Sinh suy nhược, đến giờ cậu ta muốn bò cũng không bò nổi, anh đành đến xốc nách cậu ta kéo đi.

    Ba người còn lại cũng đi gần trợ giúp, chỉ duy Hải ngọng trước giờ luôn ác khẩu, lúc này tuy thở chẳng ra hơi, anh cũng không thể nhẫn nhịn được, bảo Tư Mã Khôi: “Trông bộ dạng thế kia thì trụ sao nổi, hay quẳng mẹ nó đi cho xong. Tớ chẳng tin thiếu quả trứng thối này, chúng ta lại không làm nổi bánh ga tô!”

    Trong khi Hải ngọng cất giọng nói mấy câu hổn hển không rõ lời ấy, mọi người vẫn tiếp tục xuống sâu hơn giữa những trụ đá sụt nghiêng, cả hội đã đi đến phần đáy hố nhưng vẫn nhìn thấy có rất nhiều đoạn tường, vách thành sụp đổ, trên mặt đất vương vãi hằng hà sa số vụn đá, bụi đất tích lại dày đến vài phân, mấy cỗ cương thi của người Bái Xà rơi xuống đáy động đã biến mất không tăm tích.

    Dưới đáy huyệt động có có vô số thành quách, nhà cửa, tuy đã đổ nát không còn hình dạng, nhưng phía dưới lớp đất bụi vẫn còn lờ mờ ẩn hiện hình hài của những thông đạo, cư xá, dường như chỗ nào cũng vùi chôn bí mật cổ xưa của người Bái Xà, cùng với sự trôi chảy của thời gian, chúng dần dần bước đến điểm tận cùng của số mệnh và sắp sửa bị hủy diệt ở dưới lòng đất không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời.

    Tư Mã Khôi giơ đuốc soi sáng bốn phía xung quanh anh thấy không gian chỗ này khoáng đạt, không hề có vật gì cản trở tầm nhìn, vậy mà sao mấy cỗ cương thi kia vừa rơi xuống đã đột nhiên biến mất? Anh thầm linh cảm thấy sự không lành, liền lập tức lên nòng khẩu Winchester 1887.

    Những thành viên còn lại cũng thắc thỏm sợ hãi, thần kinh căng như dây đàn, môi khô nứt nẻ, trong não như có vô số con côn trùng nhỏ đang nhay cắn, năm cơ quan cảm giác trở nên vô cùng chậm chạp, họ kiệt sức đến độ hồn sắp lìa khỏi xác, ngặt nỗi bình nước không còn lấy một giọt, trong tòa Tử thành lại vô cùng khô nóng, nhất thời chưa thể tìm thấy nguồn nước, nên cả hội đành phải tiến vào đường hầm mong tìm được nơi an toàn ngồi thở trong chốc lát, đợi khí huyết dần dần phục hồi mới đi tìm nguồn nước. Nhưng tình hình lại xảy ra ngoài dự liệu, khi mọi người thâm nhập đến tận tầng cuối mới phát hiện, họ vẫn chưa thoát ra khỏi Tử thành. Không hiểu nơi quỷ quái này rốt cuộc sâu bao nhiêu?

    Cao Tư Dương phát hiện, trên bức tường sụp đổ bên cạnh có vật gì đó lồi lõm gồ ghề, bên trên phủ lớp bụi dày. Tới gần cô mới thấy trên vách tường đá lộ rõ bức phù điêu quỷ quái mình trần, phần lớn đều giơ nanh giương vuốt, dáng điệu quái dị, khuôn mặt hướng về một phía, những bức phù điêu này hoàn toàn khác với các bức cô đã từng thấy trước đây. Cao Tư Dương hỏi Thắng Hương Lân: “Cô xem những hình vẽ này có ý nghĩa gì?”

    Thắng Hương Lân quan sát một hồi và mau chóng hiểu ra vấn đề, người Bái Xà tin rằng sau khi chết đi, ngoài một số người được chuyển thế luân hồi trong bụng thần Vũ Xà, thì số còn lại đều biến thành ma quỷ, hài cốt vụn nát, linh hồn phiêu dạt xuống cửu tuyền, cuối cùng trôi về cõi hư vô, đây mới là ý nghĩa đích thực của cái chết. Huyệt động sâu nhất trong Tử thành chính là vùng đất vùi chôn những hài cốt không thể chuyển thế siêu sinh, rất có thể đường hầm đá ở đáy dãy núi sẽ chạy xuyên từ đây đến đó, còn chỗ đặt tấm bia đá lại chính là hắc động chứa đầy hư vô.

    Tư Mã Khôi thấy phương hướng suốt chuyến hành trình của cả hội không bị sai lệch thì trong lòng cũng mừng thầm, nhưng trông sắc mặt mọi người bây giờ dường như đã đến tận cùng sức chịu đựng, mắt người nào người nấy sắp bốc khói đến nơi, trong khi đó điểm cuối của đường hầm là đâu và ở đó có gì thì khó mà đoán được, nếu không bổ sung nước kịp thời, không chừng chưa đầy một ngày nữa, mọi người sẽ chết vì khát. Anh thầm nghĩ, xung quanh đây chắc cũng có vô số hài cốt của người Bái Xà, chỉ có điều hiện giờ trong tầm mắt, họ không nhìn thấy cỗ di hài nào mà thôi. Tứ phía chỉ thấy tường thành đổ nát cùng đá vụn và bụi đất chỗ nào cũng toát lên vẻ cổ quái, không rõ trước đây nơi này từng xảy ra biến cố gì, mấy cỗ cương thi vừa rơi xuống đây thì đều biến mất một cách kỳ lạ. Nhiều khả năng những vị vương gia người Bái Xà đầu đội trang sức vàng lúc sinh thời đã ăn loại nhục chi hiếm có dưới lòng đất, nên trải qua ngàn năm, thể xác họ vẫn không mục ruỗng, móng tay và lông tóc mọc rất dài, móng tay cong vút như móng vuốt quái vật, dài tưởng chừng sắp vươn ra gãi lưng, dịch dãi rỉ ra từ miệng ngưng tụ và kết thành những khóm nấm độc khổng lồ, che phủ cả con đường tăm tối dẫn xuống đáy tòa thành cổ. Trong môi trường đặc biệt thế này, nói không chừng mấy cỗ hài cốt kia đã xảy ra chuyện gì đặc biệt, bây giờ mọi người đã sức cùng lực kiệt, nếu dừng lại ở đây chỉ e lành ít dữ nhiều.

    Ý nghĩ vừa lóe lên trong đầu, đột nhiên Tư Mã Khôi cảm thấy có giọt nước nhỏ xuống cạnh chân, như thể nước thẩm thấu từ vách đá dưới mặt đất ngấm xuống, nhưng cùng lúc ấy anh cũng ngửi thấy một luồng khí hôi thối của tử thi xộc tới. Tư Mã Khôi vội vàng giơ cao cây đuốc lên xem, thì thấy trong bóng tối thấp thoáng ẩn hiện một khuôn mặt của xác chết cổ đại người Bái Xà, nó treo ngược từ trên cao xuống, hai mắt lồi ra như mắt cá, da mặt khô như vỏ cây, dòng nước vàng hôi thối vẫn đang rỏ tong tong từ miệng xuống.
     
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 4: GIẤC MỘNG QUÁI DỊ


    Mọi người dựng đứng tóc gáy, đồng thanh hét lên một tiếng rồi cùng giương súng ngắm bắn, bên tai văng vẳng vang lên âm thanh nghe rào rào, đá vụn và bụi đất rơi lả tả xuống mặt, cỗ cương thi đột nhiên thụt lùi vào trong bóng tối, mất tăm mất dạng.

    Chẳng ai dám đứng lại xem tiếp, Tư Mã Khôi xốc nách Nhị Học Sinh đang dở sống dở chết cùng cả hội loạng choạng chạy trốn vào tít sâu trong thành cổ. Vừa mới chạy được mấy chục bước thì họ bỗng thấy giữa vách tường đổ nát có một quả cầu sắt lớn đen sì sì nằm lõm thụt vào trong, dường như đó là khoáng thạch thiên nhiên trong mạch đất, bề mặt nó lồi lõm, xù xì, đường kính dễ chừng tới chục mét, có lẽ vật thể khổng lồ đó từ trên trời rơi xuống thông đạo trong tòa thành cổ, khiến mặt đất lún sâu, trông giống như một dấu hỏi lớn không thể lý giải mà người cổ đại để lại cho hậu thế.

    Tuy Tư Mã Khôi đi nhiều biết rộng nhưng khi nhìn thấy quả cầu sắt lớn như vậy xuất hiện trong tòa thành cổ, anh vẫn không khỏi hít ngược một hơi lạnh, lòng thầm nghĩ: “Không hiểu thứ quái này từ đâu rơi xuống nhỉ?”

    Mọi người cũng thấy run chân, nhưng đầu không xuôi thì đuôi khó lọt, chạy được đến đây cũng đã gắng gượng lắm rồi, chân ai nấy đều nặng trịch như bị đổ nhựa đường, nhìn thấy vách tường cạnh quả cầu sắt bị ép vỡ thành một khe nứt, phía trong là một hốc đá tuy chật hẹp nhưng vẫn đủ chỗ cho mọi người nương thân, thế là cả hội mặc kệ mọi sự, ra dấu cho nhau lách qua khe nứt, trèo vào trong rồi chen chúc năm vật xuống đất, lấy ba lô bịt kín lối vào lại. Cả hội toàn thân mệt bã như bị ai rút kiệt sức lực, ngay cả ngón tay cũng không thể cử động nổi, lúc này lỡ cương thi có bò đến, thì cũng đành phó mặc số phận, giờ cứ phải ngồi thở giây lát đã rồi mới tính tiếp. Bên ngoài lặng ngắt như tờ, không hề có một tiếng động nhỏ.

    Tư Mã Khôi nghĩ thầm, đợi cơ thể ổn trở lại, cả hội sẽ lập tức đi tìm nguồn nước, nếu không sẽ chết vì khát mất, có điều đã mấy ngày nay Tư Mã Khôi chưa hề chợp mắt, tuy trong đầu biết rõ giờ không phải lúc ngủ nhưng ý chí nào điều khiển nổi bản năng, anh vô thức chìm sâu vào giấc ngủ, rồi một cơn ác mộng khủng khiếp hiện ra…

    Trong lúc chập chờn, Tư Mã Khôi thấy mình trở về Miến Điện, lúc đó quân đội Miến Điện cộng hòa nhân dân đã bị đánh tan tác trong chiến dịch Kunlong, cũng không hiểu các chiến hữu khác như Tuyệt và Hải ngọng đã tử trận hay bị bắt làm tù binh, tóm lại giờ chỉ còn mình anh cô độc. Lòng vừa lo lắng vừa tuyệt vọng, anh liền chạy trốn vào rừng rậm nguyên sinh quanh năm không thấy ánh sáng mặt trời, loạng choạng tiến sâu vào trong núi không biết bao lâu. Giữa đường đi, anh nhìn thấy một ngôi chùa cổ tan hoang đổ nát, anh thắc mắc không hiểu ở tận nơi sâu trong rừng rậm không dấu chân người, cũng chẳng có đường đi lối lại này, sao lại mọc ra một ngôi miếu tự? Tư Mã Khôi lẩm bẩm chắc là mình gặp phải tà ma gì rồi, nhưng anh đã giết bao nhiêu người như thế còn sợ gì ma quỷ, nghĩ vậy anh quyết định trốn trong ngôi chùa cổ một đêm rồi hãy tính. Tư Mã Khôi giương súng chầm chậm bước vào cửa, bên trong có một vị tăng nhân trẻ, mình khoác cà sa, thấy Tư Mã Khôi bước vào, ông ta không hề ngạc nhiên hay hoảng sợ, miệng vừa niệm Phật hiệu vừa chủ động bước tới gần chào hỏi. Tư Mã Khôi đang mặc quân phục quân Miến Điện, nên không cách nào che giấu được lai lịch, anh đành kể rõ sự thật với vị tăng nhân rồi hỏi ông ta xem trong rừng còn con đường nhỏ nào có thể thoát thân được không? Vị tăng nhân không đáp mà chỉ dẫn Tư Mã Khôi đến trước một miệng giếng nằm phía sau chùa. Ông ta nói đây là cái giếng máu, sâu không thấy đáy, mỗi lần có người sắp chết đến viếng thăm chùa, thì nước trong giếng lập tức biến thành màu đỏ máu, chuyện này cứ lặp đi lặp lại hàng ngàn năm nay, chưa bao giờ sai dù chỉ một lần. Nói xong, ông ta lấy dây thừng thả gầu gỗ xuống giếng, múc lên một gầu nước, nước trong gầu quả nhiên đỏ au như máu. Tư Khôi thấy vậy liền hỏi: “Giờ nước trong giếng đã biến thành máu, lẽ nào đó là dấu hiệu sắp có người chết sao?”. Vị tăng nhân nói: “Xem ra đường của anh… đã tận rồi”. Tư Mã Khôi lắc đầu không tin: “Trong chùa có hai người là tôi và hòa thượng, làm sao biết chắc ai là kẻ sắp chết?”. Vị tăng nhân điềm tĩnh nói: “Tôi quanh năm chỉ ở trong ngôi chùa cổ này thờ phụng Phật tổ, chẳng tranh giành gì với thế nhân. Còn anh, anh đã gây ra những nghiệp chướng nào, e rằng trong lòng anh rõ hơn ai hết. Phật tổ từ bi, xét tình xét lý, anh mới là người đáng chết”.

    Tư Mã Khôi nói: “Hay cho một cao tăng thờ phụng Phật tổ, thầy nói thầy quanh năm sống trong ngôi chùa này, vậy sao trong Phật điện bụi đắp dày đến cả đốt ngón tay, cũng chẳng nhìn thấy nửa vết tích hương khói?”. Vị tăng nhân bị hỏi vặn thì ngớ người, lắp bắp không đáp thành lời, thẹn quá hóa giận bèn chỉ mặt Tư Mã Khôi quát tháo: “Cái miệng giếng này bắt ngươi chết thì ngươi phải chết!”. Tư Mã Khôi đã cố nén giận mà đối phương còn không biết đường làm anh lộn tiết lên đầu, trong lòng bất giác nổi tia sát cơ, anh lập tức giương súng xung phong bắn vị tăng nhân lỗ chỗ như tổ ong, rồi đạp xác xuống miệng giếng, sau đó quay đầu bỏ đi, nhưng chưa đi được mấy bước anh bỗng nghe thấy từng tràng cười gian ác vang lên khe khé phía sau lưng.

    Tư Mã Khôi vội vàng quay người lại nhìn, chỉ thấy cổ của vị tăng nhân đột nhiên vươn dài ra mãi, cái đầu be bét máu ở đáy giếng thò cả ra bên ngoài, thần sắc khuôn mặt vô cùng quái đản, cái miệng há rộng ngoác, lộ toàn răng lao tới cắn xé. Tư Mã Khôi vừa kinh hoàng, vừa bấn loạn, ngặt nỗi chân tay anh khi đó đã mềm nhũn không điều khiển nổi, muốn ngăn cản nó cũng không vung tay được, muốn chạy trốn cũng không thể nhấc nổi chân lên, anh đành để mặc nó cắn vào vai, rồi cả người anh bị nó kéo đến sát miệng giếng, cuối cùng lộn cổ rơi tõm xuống giếng máu.

    Tư Mã Khôi giật thót mình bừng tỉnh giấc, thoát khỏi cơn ác mộng, lòng thầm nghĩ cơn ác mộng về cái giếng máu quá sức cổ quái, hơn nữa cảm giác lại thật đến khiếp người, anh đoán, chắc do mình không tìm thấy đường hầm trong tòa thành cổ, cũng chẳng tìm thấy nguồn nước, con đường phía trước vô định không thể tiên liệu trước, trong lòng tràn ngập sự bất an lo lắng, nên anh mới mơ thấy giấc mộng quái đản đến vậy, may mà đó không phải sự thật.

    Lúc này, hội Hải ngọng cũng lần lượt tỉnh giấc, sắc mặt ai cũng toát lên vẻ kinh hoàng, khiếp sợ. Mọi người hỏi thăm nhau, mới biết người nào cũng nằm mơ thấy ác mộng, tuy cảnh trong ác mộng không giống nhau, nhưng đều là những cảnh kinh dị, đáng sợ, cuối cùng đều bị cơn ác mộng của chính mình làm tỉnh giấc, giờ ngồi nghĩ lại ai cũng thấy lạnh gáy.

    Thắng Hương Lân vừa run vừa nói: “Vừa nãy liều quá, sao cả hội dám ngủ ở nơi nguy hiểm thế này cơ chứ…”

    Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh cũng đã đi lại đươc liền bảo: “Tôi cũng cảm thấy tòa thành cổ này tỏa ra toàn mùi tà khí, may mà vẫn chưa xảy ra sơ sẩy gì, giờ mọi người đã hồi phục sức khỏe, phải nhanh chóng rời khỏi đây thôi, mong là có thể tìm ra nguồn nước trong đường hầm này”.

    Hải ngọng nói: “Chỗ này tà mị bỏ mẹ. Cậu nói xem bọn cương thi tộc người Bái Xà đã rơi xuống đây, sao đột nhiên lại chạy mất tiêu được? Rồi cả hội đều nằm mơ thấy ác mộng là sao?”

    Cao Tư Dương cũng thêm vào: “Còn quả cầu sắt khổng lồ nữa chứ? Rốt cuộc nó là vật gì? Sao lại xuất hiện dưới lòng đất?”

    Thắng Hương Lân giải thích: “Người chết đã mấy ngàn năm làm sao còn sống lại được? Theo các ghi chép tôi đọc được trên các bức phù điêu trên vách Tử thành, thì xung quanh đây có lẽ chôn vùi rất nhiều xương cốt của người Bái Xà, tuy chúng vẫn chưa thành hóa thạch, nhưng trong môi trường khô nóng thế này ít nhiều vẫn phải để lại chút tàn tích, kỳ lạ là suốt dọc đường, chúng ta không nhìn thấy nửa khúc xương khô, ở giữa các khe vách trong đoạn tường đổ nát phân bố rất nhiều lỗ lớn, trên mặt đất vương vãi đầy vụn đá, hoàn toàn không có dấu vết nào do địa chấn tạo thành; bởi vậy, tôi đoán dưới lòng đất tồn tại loài động vật ăn xác thối nào đó, bọn chúng đã ăn sạch bách xương cốt trong tòa thành này, mấy cỗ cương thi đầu đội trang sức vàng kia có lẽ cũng bị bọn chúng kéo đi thanh toán gọn rồi!”

    Mọi người đều biết khả năng Thắng Hương Lân vừa nêu ra nhiều phần là sự thật, nhưng vật gì có thể tạo ra nhiều hố lỗ to như vậy, lại còn kéo cả cỗ cương thi di chuyển lên đỉnh động nữa chứ? Hơn nữa, tung tích của quả cầu sắt đường kính trên chục mét kia cũng thật đáng ngờ, họ nghĩ nát óc mà cũng không ra nguồn gốc lai lịch của nó.

    Tư Mã Khôi quyết đoán đưa ra kế hoạch hành động: “Theo kế hoạch, chúng ta sẽ đi xuyên qua tòa Tử thành, hướng về đường hầm dưới lòng đất, rồi bắt tay tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà, đừng đứng núi này trông núi nọ kẻo đêm dài lắm mộng, nhân lúc chân còn lết được thì mau đi thôi!”. Nói xong, anh vác ba lô và súng lên vai, xuyên qua khe nứt của bức tường, vừa định tiếp tục cuộc hành tình, bất giác anh phát hiện, mình chưa hề tỉnh khỏi cơn ác mộng.

    Hội Hải ngọng bám theo sau nhìn thấy cảnh tượng trước mắt thì đều đứng thần người ra, độ sâu của khe nứt hẹp trong vách tường vốn dĩ dài chưa tới chục mét, chỉ cần bước ra là đã đến thông đạo rộng rãi trong tòa thành cổ hoang phế, nhưng cả hội đã lần sờ vách tường đá đi mấy chục bước chân, mà địa hình dài hẹp của khe nứt vẫn chưa thấy điểm tận cùng. Mọi người lại quay lại điểm xuất phát để dò lại đường, nhưng cũng không thấy điểm tận cùng.

    Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, khe nứt của vách tường đâu có sâu đến vậy, rõ ràng chỉ trong ác mộng mới gặp phải tình huống này, anh véo vào cổ tay mình một cái thật mạnh nhưng cảm giác thật mơ hồ, anh không thấy đau, ngoài nỗi hoảng sợ, bất an thì chẳng còn cảm giác gì hết, như thể anh vẫn chìm đắm trong cơn ác mộng, chưa tỉnh dậy được dẫu cho đầu óc đang vô cùng tỉnh táo.

    Những thành viên còn lại cũng có chung cảm giác như vậy, lúc này ngoài ý thức tỉnh táo ra, thì mọi hiện tượng vật lý khác đều hoàn toàn biến mất. Thực ra, giấc mơ được chia ra thành rất nhiều loại, đôi lúc do chịu sự tác động của tiềm thức, nên ngay khi não đang rơi vào cõi mơ ly kỳ khủng khiếp, thì đầu óc vẫn giữ độ tỉnh táo nhất định. Hoàn cảnh hiện tại của đội khảo cổ có lẽ rơi vào trường hợp này.

    Tư Mã Khôi tạm thời yên tâm đôi chút, anh nói với những người còn lại: “Lúc trước, tôi mơ thấy trong giếng máu ở Miến Điện có con yêu tăng, nên giật mình tỉnh dậy, nào ngờ đó lại là con ác mộng kỳ quái đến cực điểm, ác mộng lồng trong ác mộng, bây giờ vẫn chưa tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng tầng thứ hai, có điều may mà đây chỉ là cơn ác mộng đáng sợ, chứ không phải sự thật!”

    Hải ngọng trách móc: “Cả đời chúng ta ngày nào hễ mở mắt là tính mạng lại ngàn cân treo sợi tóc, lên trời xuống đất chịu bao khó khăn nguy hiểm thì thôi cũng đành, nhưng ngay cả mơ cũng mơ phải ác mộng xui xẻo, cậu nói xem sao số chúng ta chó ỉa thế không biết?”

    Tư Mã Khôi hùa theo: “Tớ nghĩ, đầu thai phải có tí kỹ thuật mới được, nói thật sống những ngày tháng thế này tớ cũng ngán đến tận cổ rồi, nếu may mắn sống sót chui ra khỏi lòng đất, tớ nguyện tìm một ngôi chùa xuống tóc đi tu, ngày ngày thành tâm hầu hạ Phật tổ, biết đâu kiếp sau lại giành được suất đầu thai thành địa chủ”.

    Hải ngọng châm chọc: “Cái ngữ cậu có mà tu hú. Thôi! Cậu tuyệt đối đừng đến làm phiền Phật tổ người ta”.

    Tư Mã Khôi đang định nói tiếp thì chợt ý thức, đây chỉ là giấc mơ của mình, Hải ngọng trước mặt cũng đâu phải người thật, việc gì phải lãng phí nước bọt? Hơn nữa, giấc mơ này hình như kéo dài cũng khá lâu rồi, sao mình vẫn chưa tỉnh lại nhỉ?

    Thực ra, không chỉ Tư Mã Khôi, những thành viên còn lại cũng chung ý nghĩ như vậy, nhưng mọi người đều mau chóng phát hiện giấc mơ này không hề giống giấc mơ bình thường, dường như năm người đều đang cùng trải qua một cơn ác mộng quái dị, hơn nữa không ai có thể tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng của chính mình. Thông đạo dài bất tận không điểm đầu không điểm cuối này chỉ là không gian trong cơn ác mộng, do nó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng trong tiềm thức nên nó hoàn toàn không có quy luật logic hay tính chất vật lý nào, dẫu bây giờ có đập đầu vào tường, cả hội cũng không thể nào tỉnh lại được, bởi vì tất cả những hành động ấy không hề xảy ra ngoài đời thực.

    Tư Mã Khôi biết rõ nấm mọc ra trong miệng của đầu lâu chỉ có thể dần dần hút kiệt khí huyết của con người chứ không thể sản sinh ra các ảnh hưởng khác, nói không chừng cơn ác mộng này lại liên quan đến quả cầu sắt khổng lồ trong tòa thành cổ, vì mới nhìn vật thể to lớn đen sì sì đó thôi người ta đã có cảm giác không lành rồi, vì vậy rất có khả năng nó chính là căn nguyên của cơn ác mộng.

    Lúc đầu, mọi người chỉ coi đó là phỏng đoán chưa có căn cứ, nhưng Hải ngọng vừa nghe đã tin chắc chắn là vậy, bởi anh rất hiểu bản thân, dẫu có nằm mơ anh cũng không thể tự mình nghĩ ra giả thiết cao siêu chừng ấy, nên xem ra phán đoán của Tư Mã Khôi không thể sai được – giờ đây mọi người đang bị nhốt trong cùng một cơn ác mộng – việc cần làm bây giờ không phải ngồi nghĩ xem tại sao cơn ác mộng lại xuất hiện, mà phải mau chóng tìm cách tỉnh dậy để thoát khỏi cơn ác mộng, vì nếu cứ tiếp tục chìm sâu vào giấc ngủ trong tòa thành cổ vùi đầy hài cốt người Bái Xà, thì không biết cả hội sẽ phải gánh chịu hậu quả gì?

    Thực ra, không cần Hải ngọng thức tỉnh, Tư Mã Khôi và những người còn lại cũng tự hiểu, nếu bị nhốt mãi trong cơn ác mộng thì chẳng khác nào cận kề cái chết. Không chỉ vậy, thời gian trong giấc mơ còn trôi nhanh hơn cả thời gian thực tế ngoài đời thật, cũng có nghĩa là các thành viên đội khảo cổ đang ngày càng rơi nhanh hơn theo hình xoắn ốc xuống điểm tận cùng của cái chết.
     
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 5: TRÙNG LẶP


    Hội Tư Mã Khôi lánh nạn trong khe nứt hẹp giữa vách tường, rồi bất giác ngủ thiếp đi, không ngờ lại bị nhốt trong giấc mộng chung quái đản kéo dài bất tận, dẫu cả hội đã nghĩ hết mọi cách, nhưng rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi cơn ác mộng ma mị ấy. Nếu chỉ nhờ vào ý thức của bản thân, thì họ không thể nào tỉnh dậy được, mà cần phải có một ngoại lực tác động vào, ngặt nỗi khắp nơi trong tòa thành cổ dưới lòng đất toàn xương khô, đến một bóng ma còn không có nữa là. Xem ra, mọi cách đều rơi vào ngõ cụt, họ chỉ còn biết đợi chờ chiếc bóng của thần chết viếng thăm trong nỗi sợ hãi và dày vò.

    Giữa cái khó, Hải ngọng chợt ló cái khôn: “Lúc trước, mấy cỗ cương thi cũng rơi vào thành cổ rồi đột nhiên biến mất dạng, sau đó lại thình lình xuất hiện ngay trên đỉnh động, nhất định có con vật nào đó đã kéo chúng lên đó, chắc bọn này là loài động vật ăn xác thối dưới lòng đất, chúng đã đục được cái hố to thế trong vách tường, thì không chừng chúng sẽ lần theo mùi hơi, chui vào trong khe tường, chỉ cần chúng chạm vào người một cái là bọn ta có thể tỉnh dậy ngay tức thì”.

    Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Cậu tưởng hễ đeo kính cận là thành bác học được chắc, trí thức dỏm? Cậu nghĩ kỹ xem nếu bọn quỷ ăn xác thối săn mồi dưới lòng đất chui vào trong khe tường, thì mẹ kiếp, chúng nó còn để cho cậu yên chắc? Không khéo lúc cậu tỉnh lại, thì nửa cái sọ của cậu đã chuyển chỗ đến dạ dày chúng nó xong đâu vào đấy rồi!”

    Thắng Hương Lân nói: “Đừng hi vọng xảy ra trường hợp ấy! Vì đề phòng bất trắc nên ngay từ lúc đầu chúng ta đã lấy ba lô bịt chặt miệng khe nứt, dẫu bên ngoài có con gì thì chúng cũng không thể chui vào trong này được đâu”.

    Cao Tư Dương lo lắng nhìn Tư Mã Khôi: “Thường ngày anh nổ ghê lắm cơ mà, sao vào giờ phút then chốt lại tắc tịt thế?”

    Tư Mã Khôi cũng không cam tâm chờ chết, bụng bảo dạ: “Bao gian nan nguy hiểm dọc đường đều đã vượt qua, giờ cái bia đá đã lù lù ngay trước mắt, làm gì có chuyện chịu chết tức tưởi ở đây? Lúc này có lo sợ hay hoảng loạn thì cũng vô ích, chi bằng ta phải tìm hiểu rõ hoàn cảnh trước mắt, xem có cách nào phá giải được cơn ác mộng quái đản này không… nghĩ đến đây, anh bảo mọi người lần lượt kể lại cơn ác mộng xem họ đã mơ thấy gì.

    Xuống đến đáy Tử thành, rồi trốn vào trong khe nứt giữa bức tường để lánh nạn, lúc này cả hội đã mệt nhoài, cổ họng khát cháy, từ lúc bắt đầu rơi vào trạng thái ngủ mê mệt, mỗi người đều mơ thấy một cơn ác mộng vô cùng đáng sợ và kỳ lạ.

    Cơn ác mộng của Nhị Học Sinh xảy ra trong núi Đại Thần Nông Giá, khi ấy cậu ta vẫn đang làm việc trong khu lâm trường Hầu Tử Thạch. Để kiếm thêm chút công điểm, cậu ta đi canh ruộng ngô vào ban đêm cùng một người bản địa họ Trần, biệt danh là Trần “liều”. Lâm trường khai hoang được mấy chục mẫu đất trên núi để trồng ngô, đến đêm mùa hạ, họ phải dựng một gian nhà tranh, rồi tìm người canh ngô hòng tránh dã thú và kẻ trộm. Nhưng nơi đó rừng sâu núi thẳm, bóng người thưa thớt nên khó tránh khỏi những lời đồn đại về hồn ma bóng quế, bình thường chẳng ai dám đi canh đêm, bởi thế người nào trong lâm trường chịu đi sẽ được gấp đôi công điểm.

    Trần liều là người không tin chuyện ma mãnh, càng nghèo lại càng liều, gặp cơ hội tốt thế không tranh đi mới lạ. Hôm đó đến phiên anh ta và Nhị Học Sinh canh đêm, hai người mang theo súng tự chế để tránh thú dữ, rồi vào núi. Ban ngày, hai người đặt bẫy được một con thỏ hoang, liền lột da rửa sạch, đợi đêm xuống mới lấy chiếc nồi gốm trong gian nhà tranh vách đất mang ra hầm thỏ, hai người vừa canh nồi vừa chấm chấm mút mút, thịt thỏ trong nồi càng hầm càng thơm nức mũi. Trần liều không khỏi cảm thán kể, nhà anh ta lít nhít một đống con, đứa nào đứa nấy cứ như là những con ma đói đầu thai, thường ngày nếu anh có săn được lợn hay thỏ rừng thì cũng phải nhường con ăn trước, đợi đến khi kẻ làm cha là anh ta được động đũa thì đến khúc xương cũng chẳng còn, bây giờ ra ngoài canh đêm đúng là tự do, cứ việc ăn no căng bụng thì thôi, nói xong anh ta liền gắp một miếng thịt thỏ to đùng đút vào miệng.

    Bụng Nhị Học Sinh cũng lép kẹp, đói mờ cả mắt nhưng cậu ta nào dám thò đũa ăn tranh với Trần liều, mắt nhìn chằm chằm đối phương đang ngon lành nhét miếng thịt thỏ vào mồm. Đột nhiên, cậu ta nghe thấy tiếng “ầm” vang lên, rồi vách đất bỗng thủng một lỗ lớn, một bàn tay to như cái quạt, lông lá đen sì thò từ ngoài vào, bàn tay xòe rộng khua khoắng khắp nơi, có vẻ như muốn tìm nồi thịt thỏ đang bốc khói nghi ngút. Hai người biết mình không may gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, thì sợ mềm nhũn cả chân tay. Trần liều thường ngày tuy rất liều, nhưng giờ cũng sợ vãi đái ra quần, cuống cuồng đặt nồi thịt thỏ xuống đất, mặc cho cánh tay đen sì toàn lông lá khua khoắng, vớt lên ăn. Nào ngờ, gã người rừng ăn hết thịt trong nồi nhưng vẫn chưa chịu bỏ đi, nó tiếp tục thò cánh tay vào trong gian nhà tranh sục sạo. Nhị Học Sinh và Trần liều đành đâm thủng vách tường phía sau, xách theo khẩu súng tự chế rồi chui ra ngoài chạy trốn. Họ nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp đuổi theo, liền ngoái đầu lại nhìn, vừa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, hai người suýt nữa thì lăn ra ngất xỉu tại trận, cách đó không xa là con quái vật hình người đứng thẳng bằng hai chân, lông dài thượt phủ kín toàn thân, tóc tai rũ rượi, dáng hình cao lớn, trông lừng lững chẳng khác nào người khổng lồ, có điều dưới ánh trăng bàng bạc, họ cũng không nhìn rõ mặt mũi nó ra sao. Trần liều hoảng quá hóa liều, cuống quýt giương súng săn lên bắn, trong lúc hoảng loạn dường như anh ta bắn mù một mắt con dã nhân, nó ôm đầu dừng bước, không đuổi theo hai người nữa.

    Hai người loạng choạng bỏ chạy, chạy đến một khe núi, thì hai chân cứng đơ không thể nhích được nữa, đến lúc sắc trời hửng trắng như bụng cá, đoán chắc giờ đã bình an vô sự, Trần liều mới thở phào nhẹ nhõm, huênh hoang nói với Nhị Học Sinh: “Chắc nó không phải dã nhân đâu, dã nhân làm sao cao to thế được? Không chừng là sơn tiêu hay ma cây gì đấy. May mà chú đi cùng Trần liều anh đấy, chứ nếu là người khác thì lấy đâu ra dũng khí giương súng lên bắn nó?”, anh ta miệng nói tay khua, đang lúc thao thao bất tuyệt thì đột nhiên bên tai vang lên một âm thanh quái lạ, rồi một bàn chân khổng lồ lông rậm rì giẫm xuống khe núi. Trần liều đáng thương bị giẫm nát bét, thân thể bấy máu. Cái đùi to lớn của con vật đó lại nhấc lên chuẩn bị giẫm vào Nhị Học Sinh. Cậu ta sợ hãi trân mắt đứng nhìn, hồn vía bay chín tầng mây, kinh hoàng tỉnh dậy, lúc ấy mới biết đó chỉ là một giấc mơ. Điều quái lạ là cơn ác mộng này lại lồng trong một cơn ác mộng khác, mà tầng thứ hai của cơn ác mộng đến giờ vẫn còn chưa tỉnh.

    Trong thực tế cũng từng diễn ra sự việc này, điều khác biệt duy nhất là, hôm đó lẽ ra Nhị Học Sinh phải đi gác đêm với Trần liều, nhưng cậu ta lại mắc chứng Khắc Sơn, lúc ấy đột nhiên thấy khó chịu trong người, nên phải ở lại lâm trường, một mình Trần liều vác súng tự chế vào bãi canh ngô, kết quả ngày hôm sau người khác đến thay ca thì phát hiện Trần liều đã mất tích, trong gian nhà tranh chỉ còn chiếc nồi gốm vỡ nát, trên vách có nhiều lỗ thủng rất to. Cuối cùng người ta phát hiện thấy Trần liều chết thảm trong khe núi, thi thể nát bét nom rất đáng thương, như thể bị người khổng lồ dùng chân giẫm chết, súng tự chế văng sang một bên, người trong lâm trường nghi thủ phạm là dã nhân, nên tập hợp dân binh mang theo súng săn lùng sục trong núi dọc theo dải Hầu Tử Thạch trong suốt nửa tháng, nhưng từ đầu chí cuối chẳng tìm thấy nửa sợi lông của dã nhân, rồi vụ án cũng khép lại, từ đó trở đi không ai dám canh đêm ở bãi ngô nữa. Nhị Học Sinh tận mắt thấy bộ dạng nằm chết thảm thương của Trần liều, hình ảnh ấy khắc sâu vào trí não cậu ta, nên giờ mắc kẹt dưới lòng đất này cậu lại nằm mơ thấy cảnh tượng đó, nhưng có lẽ vì giấc mơ chịu sự tác động của tiềm thức, nên Nhị Học Sinh mới mơ thấy mình trực tiếp cùng Trần liều trải qua sự kiện bị dã nhân giẫm chết năm ấy.

    Cơn ác mộng của những thành viên còn lại đều liên quan đến những sự kiện bản thân từng trải qua, mỗi cơn ác mộng đều có điểm ly kỳ, đáng sợ riêng, người nào người nấy kể vanh vách giấc mơ của mình như thể vừa mới thực sự trải qua.

    Tư Mã Khôi biết rõ mình có thể mơ thấy giếng máu trong rừng rậm Miến Điện, nhưng không thể mơ thấy chuyện gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, mà dẫu có mơ thấy cũng không thể chi tiết, sống động như vậy được, điều đó đủ để chứng minh giờ đây mọi người đang cùng trải qua một cơn ác mộng trùng lặp. Giải mộng, xem phong thủy, bói toán đều là đạo thuật trong Kim Điển, bởi vậy Tư Mã Khôi cũng thông hiểu ít nhiều. Anh nhớ cổ nhân từng giải thích cặn kẽ từng loại giấc mộng, trên đời ngoài cương thi ra, không người nào không nằm mơ, nếu tỉnh dậy cảm thấy không hề mơ thì chẳng qua là do trí não đã hoàn toàn quên hết. Giấc mơ thường chia ra thành hai loại, giấc mơ nông và giấc mơ sâu. Tầng thứ nhất của giấc mơ là tầng nông nhất, thường gọi là “thân cảnh” tức giấc mơ cõi người, những chuyện xảy ra trong giấc mơ này liên quan đến bản thân người ngủ mơ và nó chịu sự ảnh hưởng của môi trường xung quanh, ví dụ khi cơ thể bị trói thì trong giấc mơ thường thấy rắn xuất hiện, nếu mái nhà bị dột, thì sẽ mơ thấy mình bị rơi xuống nước, cái này gọi là “ngày ra sao, đêm chiêm bao là vậy”. Tầng thứ hai của giấc mơ sâu hơn, gọi là “linh chúc” tức ngọn nến cõi tâm linh, căn nguyên của giấc mơ này xuất phát từ nội tâm, chủ yếu chịu sự tác động của tiềm thức, bởi vậy đôi khi những chuyện ngày thường không làm, đột nhiên lại xuất hiện trong giấc mơ. Tầng thứ ba của giấc mơ là tầng sâu nhất, gọi là “hồn yểm” tức là chỉ hồn rời khỏi xác đi chu du trong cõi mơ, lỡ gặp phải trường hợp này, thì chỉ còn cách đợi người khác đánh thức mình dậy mà thôi.

    Tư Mã Khôi nhớ trong cổ tịch tướng vật có ghi chép rằng, ở núi Côn Lôn có loại sắt huyền thiết, loại sắt này có khả năng nhốt người ta vào cơn ác mộng khó lòng tỉnh giấc. Nghe nói, Hán Vũ Đế cũng từng có một viên. Quả cầu sắt to lớn đen sì nằm lún trong thành cổ có lẽ chính là loại dị vật kiểu này, mọi người nhất thời sơ ý, lăn ra ngủ mê mệt ngay trong khe nứt giữa vách tường, nên đều lần lượt chìm vào ác mộng, khi giật mình bừng tỉnh giấc, thì lại trượt vào một tầng ác mộng khác sâu hơn, không những vậy tiềm thức của tất cả mọi người chồng chéo, trùng lặp tại một điểm. Tuy đã hiểu ra vấn đề, nhưng cả hội nghĩ nát óc vẫn không thể tìm được cách hóa giải nút thắt hóc búa này.

    Lúc này, Hải ngọng lên tiếng bảo đã tìm ra kế sách giúp cả hội thoát khỏi không gian của cơn ác mộng quỷ quái. Thường ngày, ác mộng sẽ kết thúc khi ta sợ hãi quá độ và giật mình tỉnh giấc…

    Thắng Hương Lân không đợi Hải ngọng nói dứt lời, đã hiểu ý anh muốn nói gì, cô vội vàng xua tay gạt đi. Cơn ác mộng quái đản này vô cùng bất thường, hoàn toàn khác với những ác mộng con người từng mơ thấy, nó đã khiến chúng ta sợ hãi đến tột độ, nhưng vẫn không thể đánh thức chúng ta dậy, ngược lại còn kéo chúng ta xuống tầng mộng sâu hơn.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ, com ác mộng quái lạ này quả thực diễn ra quá dài và dường như không có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc, chắc điểm tận cùng là mọi người sẽ dần dần biến mất, từng người từng người một, bởi một khi cơ thể chết đi, thì tiềm thức cũng không thể tồn tại. Để tìm con đường sống, cách gì cũng phải thử mới được, ngay cả ý tưởng ngu ngốc của Hải ngọng cũng phải thử một lần. Đang lúc Tư Mã Khôi còn mải đăm chiêu suy nghĩ, thì anh lờ mờ phát hiện tựa có bóng người thấp thoáng trốn sau lưng Cao Tư Dương, bóng người ấy co rúm, ngồi xổm trong góc tối, án binh bất động, nom bộ dạng khá quen mắt, có điều trong chốc lát anh không thể nhớ ra đã từng gặp ở đâu.

    Tư Mã Khôi bỗng lạnh gáy, trong tòa Tử thành này, ngoại trừ năm thành viên của đội khảo cổ ra, chẳng lẽ còn có người thứ sáu may mắn sống sót? Nghe nói, mộng là hệ quả của quá trình ngủ động mắt nhanh(1) và tiềm thức tầng sâu, chính vì vậy người nào cũng phải ngủ mơ, thậm chí cả chó mèo cũng vậy. Mỗi người, mỗi loài có một giấc mơ riêng biệt, nói theo quan niệm mê tín thì bản thân trong giấc mộng chính là “hồn sống”, còn giấc mộng là không gian hỗn độn giao thoa giữa cõi âm và cõi dương, dương hồn của người sống có thể nằm mơ, âm hồn của người chết cũng có khả năng đi vào giấc mộng, bởi vậy mới xảy ra chuyện người chết thác mộng cho người sống. Chẳng lẽ kẻ mới đến là âm hồn của người đã chết cách đây mấy ngàn năm, đang đi nhầm vào cõi mộng của các thành viên đội khảo cổ? Hay hắn chính là linh hồn của Nấm mồ xanh đang tàng hình ẩn trốn? Nếu là vậy thì chẳng lẽ hồn phách của Nấm mồ xanh cũng bị nhốt trong cơn ác mộng ư?

    1 Ngủ động mắt nhanh: là một trong hai giai đoạn mang tính chu kỳ của giấc ngủ, gồm có: ngủ động mắt nhanh và ngủ không động mắt nhanh.

    Suy nghĩ ấy vừa lóe lên, Tư Mã Khôi đã xách súng, bước nhanh đến gần, thò tay tóm lấy kẻ lạ mặt. Gã đang cúi đầu rất thấp, khi bị tóm mới chầm chậm ngẩng lên, mặt đối mặt với Tư Mã Khôi. Có điều, khuôn mặt đó nhẵn thín như mặt thớt, khồng hề có mắt mũi tai miệng, nom như dán một lớp giấy trắng rất dày lên mặt vậy. Tư Mã Khôi có cứng gan đến đâu, thì trong khoảnh khắc đó, tim gan cũng thấy thấu lạnh. Anh hiểu, đó là âm hồn nhập mộng, nhưng không hiểu âm hồn không có mặt đó là ai?
     
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 6: CHẠY THOÁT KHỎI TỬ THÀNH


    Trong cơn ác mộng, Tư Mã Khôi nhìn thấy một con ma không có mặt, đang lúc lạnh người vì kinh hãi thì không biết ai đó đã đột ngột đẩy anh một cái thật mạnh. Tư Mã Khôi sợ vã mồ hôi và lập tức tỉnh mộng. Trước mắt anh, không gian tối đen như mực, vách tường đá bên cạnh tỏa hơi âm lanh, anh thấy miệng cháy khô, môi nứt nẻ, thân thể cứng đơ, tứ chi mềm nhũn, trong đầu như có hàng ngàn hàng vạn con kiến đang thi nhau bò chạy loạn xạ. Anh gắng sức lắc đầu thật mạnh, vươn tay bật đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet, thấy hội Hải ngọng đều đang ở cạnh, mới biết khi nãy chính Thắng Hương Lân đã lay mình tỉnh dậy.

    Tư Mã Khôi vẫn hoảng loạn tinh thần, lòng tự hỏi không biết có phải vì sợ quá nên lại chìm vào một tầng ác mộng sâu hơn chăng? Nhưng sao mọi giác quan đều phục hồi rồi nhỉ?

    Thì ra, Nhị Học Sinh mắc chứng Khắc Sơn, căn bệnh này thường bị chuột rút khi ngủ, lúc nãy do nằm cứng đơ trong một tư thế suốt thời gian dài, nên bắp chân của cậu ta bắt đầu bị chuột rút, đây là phản ứng tự phát của cơ thể không chịu sự chi phối của ý thức chủ quan, bởi vậy cậu ta đã lập tức tỉnh dậy, những thành viên khác nằm sát gần nhau nên va chạm phải nhau và cùng tỉnh dậy.

    Từ tận đáy lòng, Hải ngọng cảm thấy vô cùng may mắn, anh quay sang bảo Nhị Học Sinh: “Trời mênh mang, đất mênh mang, thế giới rộng lớn thế này mà chẳng ai nói cho ta biết con đường sống ở đâu. Ngạn ngữ có câu: “Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome”, nhưng đó là chân lý cổ xưa, chứ thực ra trên đường còn có vô số vách đá cheo leo, hố sâu cạm bẫy, chỉ cần đi sai một bước, sẽ lập tức ngã lộn cổ, rồi thịt nát xương tan. Sự việc vừa rồi chính là bài học nhớ đời. Anh ngẫm ra một điều, may mà dọc đường anh chưa quẳng chú đi, bắt đầu từ tháp canh ở Đại Thần Nông Giá, rồi đến rừng rậm tiền sử dưới lòng đất ở biển Âm Hải, động tế lễ Sở U Vương, lại xuyên qua thủy thể mênh mông và đảo núi Âm Sơn ở 30 vĩ Bắc, sau đó tiến thẳng tới vùng đất vùi xương của người Bái Xà trong cửu tuyền sâu thăm thẳm, suốt chặng đường dài dặc, chú chả phát huy được tí tác dụng nào, không ngờ đến lúc rơi vào cơn ác mộng quái ác, vì bắp chân đột nhiên bị chuột rút, chú lại cứu được cả hội thoát khỏi tuyệt cảnh. Nếu không nhờ món sở trường đặc biệt nhà chú, thì chắc chúng ta đã bỏ mạng oan uổng ở nơi chết tiệt này rồi, thật không ngờ “áo gấm” lại có lúc “đi ngày”. Chỉ cần riêng điểm này thôi, về sau đợi anh Hải ngọng của chú lên làm lãnh đạo, bất luận thế nào, anh cũng sẽ đề bạt chú vào làm một chân trong đội khảo cổ. Có điều, giỏi mỗi chiêu chuột rút là chưa ổn đâu, xem ra anh còn phải truyền nghề cho chú thêm vài món sở trường khác. Trên đời hàng trăm đường mưu sinh, ngoài mỗi cái sự học là vô bổ ra, còn lại biết nghề nào thì ấm thân nghề nấy, kém thì cũng lo đủ cho mấy khẩu no cơm ấm cật, giỏi giang thì an bang trị quốc. Nếu chú chẳng có sở trường gì, thì không kiếm nổi hạt cơm nhét vào dạ dày đâu, lúc đấy có than trời oán đất thì cũng chẳng tìm thấy lối thoát, nói trắng ra là dẫu chết đói cũng chả ma nào thèm thương…”

    Nhị Học Sinh ngây người ngồi nghe, không hiểu Hải ngọng đang khen hay đang chửi mình, nhưng dù sao cậu ta cũng không khỏi bái phục Hải ngọng đúng là nhân vật phi phàm, mồm khát khô cháy, môi nứt rướm máu mà vẫn có thể thao thao bất tuyệt bài trường ca dài thế.

    Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân vẫn chưa hết sợ, bởi cơn ác mộng quái đản kia thực ngoài sức tưởng tượng của họ, suýt chút nữa cả hội vĩnh viễn không thể tỉnh dậy. Hai người họ giúp Nhị Học Sinh xoa bóp bắp chân bị chuột rút cho đỡ hẳn, rồi nhấc ba lô súng ống, sắp xếp gọn gàng, chuẩn bị khởi hành theo đường hầm đá macma, rời xa tòa Tử thành nặng mùi chết chóc.

    Hải ngọng thấy thần sắc Tư Mã Khôi vẫn ngơ ngác, phản ứng chậm chạp, liền quay sang hỏi: “Cậu sao thế? Tớ nhớ lúc trước cậu đâu có vậy? Hồi xưa…”

    Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà bắt đầu kể “hồi xưa” thì chẳng khác nào cái đài hỏng nút tắt, anh vội vàng chặn lại: “Đừng nhắc hồi xưa nữa, hồi xưa đã xưa như Trái đất rồi”, nói xong anh kể cho mọi người nghe chuyện mình vừa găp trong mơ khi nãy. Anh phát hiện thời điểm mình nhìn thấy con ma không có mặt xảy ra gần như cùng lúc với thời khắc mọi người tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng, chẳng hiểu hai sự kiện đó có liên quan gì với nhau không, cũng chẳng thể tiên liệu được chuyện gì sẽ xảy ra, bởi vậy anh chỉ có thể nhắc nhở mọi người không được sơ ý, đề phòng ma quỷ trà trộn vào trong hàng ngũ.

    Lúc này, mọi người không rõ mình đã ngủ bao lâu dưới lòng đất, nhưng cảm giác tê dại tay chân dần dần biến mất, thể lực cũng đã hồi phục ít nhiều, có điều tình trạng cơ thể mất nước càng lúc càng nghiêm trọng, mình mẩy khô nóng khó chịu, chỉ mong mau chóng tìm thấy nguồn nước. Thế là, cả hồi lần lượt chui ra khỏi khe tường theo ánh đèn quặng.

    Mọi người lồm cồm bò ra khỏi khe tường và thấy quả cầu sắt lún xuống đất chừng một nửa, giơ tay ra là có thể chạm tới, trông nó đen sì sì khiến người ta cảm thấy ngộp thở, có lẽ nó rơi từ trên trời xuống. Quan sát xung quanh, họ thấy rất nhiều nhà cửa, tường thành bị vật thể khổng lồ này đập nát, chứng tỏ thành cổ có trước, khối sắt này có sau, nhưng sao nó lại bị rơi xuống hố động dưới lòng đất này? Và nó rơi xuống từ đâu?

    Tư Mã Khôi nghĩ nát óc vẫn không tìm ra câu trả lời. Anh từng nhìn thấy người sắt đứng sừng sững trong biển cát dưới cực vực, nhưng dường như tọa độ chỉ đường mà người Bái Xà để lại dưới lòng đất cũng không thần bí bằng quả cầu sắt ánh màu đen trong tòa thành cổ này. Đứng gần quả cầu sắt cứ thấy đầu ngâm ngẩm đau, anh nghĩ, nhiều khả năng “món đồ chơi” này tương tự loại sắt huyền thiết ở Côn Lôn, nó có khả năng giam giữ dương hồn trong cơn ác mộng cho đến chết. Mà thôi, mặc kệ nguồn gốc của nó ra sao, tốt nhất là phải tránh nó càng xa càng tốt.

    Tư Mã Khôi liên tiếp ra dấu tay, ý bảo Hải ngọng và mọi người đi vòng qua nó, mau chóng tiến lên phía trước. Đột nhiên, anh cảm thấy có một vật thể khổng lồ trên quả cầu sắt đang bò lại gần mọi người. Cả hội ngẩng đầu, soi đèn quặng lên nhìn và kinh hoàng khi phát hiện thấy một cái đầu cương thi thấp thoáng ẩn hiện trong bóng tối, cái đầu đội trang sức vàng, mặt khô quắt như vỏ cây khô, ngũ quan khó phân biệt rõ ràng, cái cổ dài như con rắn lớn đang thò ra ngoài, nom chẳng khác nào yêu tăng thò đầu ra từ miệng giếng máu trong cơn ác mộng của Tư Mã Khôi.

    Tư Mã Khôi hơi sững người, trong khoảnh khắc, cái đầu cương thi đã vươn đến ngay trước mặt mọi người. Dưới chùm sáng của mấy chiếc đèn quặng, trông cái cổ đen bóng, trơn nhẫy, đeo từng khoang từng khoang vòng đỏ. Nó nuốt bộ xương khô vào trong bụng, nhưng mấy món trang, sức vàng đội trên đầu cương thi lại mắc trong miệng, giờ nuốt thì không trôi, mà nôn thì cũng không nôn ra được, nó đành phải ngậm cái đầu cổ thi trong miệng. Nếu nhìn thoáng qua lại tưởng nó là quái vật mình rắn đầu người. Nó nấp ở nơi sâu trong bóng tối, dài ngoằn ngoèo không biết mấy mét.

    Năm xưa, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cùng đám lính cũ đi khắp nơi bắt rắn ở Miến Điện, nghe nói dưới lòng đất có một loại rắn, gọi là mãng nhân xà. Loài rắn này trông giống rắn, nhưng thực ra không phải rắn, mà chỉ là một loại côn trùng rất dài, tương tự như con giun, nó không chỉ nuốt cả thịt lẫn xương của động vật sống, mà ngay cả cương thi cũng không chừa. Có điều, hôm nay con rắn này gặp vận rủi, chỉ nuốt được nửa người, còn một nửa vẫn phải ngậm trong miệng, nó đang tìm một hang động âm lạnh để nôn cương thi ra, rồi chui vào trong cỗ cương thi để đẻ trứng, từ đó sinh sôi nảy nở, duy trì giống nòi. Những người không rõ lai lịch của nó, thấy cảnh tượng ấy lại tưởng mình tìm thấy huyệt động mai táng cương thi vô chủ, bởi vậy nó mới có tên mãng nhân xà.

    Tư Mã khôi thấy con quái xà ngậm cái đầu của cương thi bò xuống với tốc độ thần tốc, bộ dạng hung hãn, anh thầm nghĩ, chắc hội anh gặp phải mãng nhân xà, hài cốt ở dưới đáy tòa thành cổ có lẽ đều bị nó ăn sạch bách, anh vội vàng rút đuốc ra, định dùng ánh lửa xua đuổi con quái vật, nhưng ánh lửa vừa sáng lên thì các hình dáng các phê tích xung quanh đều chập chờn hiện lên từ bóng tối, quả cầu sắt lún trong thành cổ cũng hiện rõ mồn một, mọi người nhìn mà ngẩn người kinh ngạc.

    Bên cạnh quả cầu là đầu một bức tượng thần đổ nghiêng, to như trái núi, hư hại chẳng còn hình hài gì, phần thân pho tượng không đầu còn lại đứng sừng sững bên cạnh như vốn vậy, mình phủ đầy đất cát và đá vụn, một bên mắt hõm xuống thành hố sâu. Thì ra, quả cầu sắt vốn để khảm thành con ngươi của một bên mắt, có lẽ hàng trăm ngàn năm trước, pho tượng trong tòa thành cổ cao sừng sững như một ngọn tháp khổng lồ này bị gãy đầu, rơi lăn lóc xuống đất và nứt vỡ, quả cầu sắt trong hốc mắt pho tượng cũng bị rụng ra, rơi xuống và lún sâu vào trong thông đạo. Tại sao trong tòa thành mà người Bái Xà vùi xương lại có loại tượng thần khổng lồ này nhỉ?

    Mọi người bị chấn động bởi thần thái đáng sợ của pho tượng, cảm giác tựa bị ma nhập, chân bất giác đứng như trời trồng. Con mãng xà lúc trước đã bị cả hội bắn thủng bụng, máu chảy loang lổ, lúc này nó bò ngoằn ngoèo từ trong khe đá trên đỉnh động xuống, thấy ánh lửa nhưng nó không trốn chạy, mà dũng mãnh lao về phía trước, trong nháy mắt đã cách cả hội chỉ gang tấc.

    Tư Mã Khôi đã từng nhìn thấy hình con Bạch Xà miêu tả trong sơn hải đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương. Nghe nói, Bạch Xà bản tính rất tham ăn, nó có thể nuốt gọn cả một con voi rừng, ba năm sau mới nhả xương. Không rõ thời xưa có loài răn to như vậy thật không, chứ con mãng nhân xà ngay trước mặt đây tuy đã bị thương đến nỗi không khép nổi miệng nhưng vẫn hừng hực khí thế muốn lao tới ăn thịt người, vẻ hung hăng, tham ăn của nó có lẽ không hề thua kém Bạch Xà trong truyền thuyết. Tứ phía trong hang động đá macma vang lên những tiếng sột soạt, mùi máu tanh trên cơ thể con rắn tỏa ra đã lôi kéo càng nhiều đồng bọn của nó bò đến.

    Tư Mã Khôi biết chắc một khi đã bị bọn chúng bao vây thì đừng nghĩ đến chuyện thoát thân, nên anh lập tức dúi ngọn đuốc về phía con rắn, nhân lúc con mãng nhân xà co mình thụt lùi về phía sau, anh vội vã gọi các thành viên còn lại quay người chạy thục mạng, men theo con đường bám đầy rêu giữa các hẻm nhỏ trong thành cổ xông thẳng về phía trước, nơi nào trong bóng tối vang lên tiếng động là cả hội liền giương súng bắn về phía đó để áp chế, may mà kết cấu của tòa thành hoang phế này khá rõ ràng và vẫn còn giữ nguyên hình khối cơ bản trước đây, nên cả hội mới không bị lạc đường trong đêm tối. Điểm tận cùng của con đường là một hang động lớn bị bịt bởi một phiến đá lớn, cao chừng chục mét, pho tượng thần bị đổ gục trong thành cổ lẽ ra nằm ở chính giữa cửa động. Mọi người phỏng đoán con đường hầm thông tới miếu thần chắc cũng nằm trong đó, nên tất cả ngẩng đầu lên soi đèn quặng thì thấy trên vách tường đá có mấy chỗ bị sụt lở sụp xuống, lộ ra một miệng khuyết, cả hội vội vàng dùng cả tay lẫn chân bò lên vách đá, đá vụn bị đạp xuống rơi rào rào như vụn bàng. Sau khi đi xuyên qua khe nứt chật hẹp, mọi người lại khuân đá để chặn miệng khe lại như cũ, đề phòng lũ mãng nhân xà trong thành cổ bám đuổi theo.

    Mọi người hít phải mùi xác thối trong thành cổ, giữa đường lại chạy thục mạng đến kiệt sức, tưởng như chết nửa con người, cầm cự tháo chạy được đến đây đã là hết sức gắng gượng, giờ cả hội thở hổn hển muốn đứt hơi, mắt tóe lửa, mồm bốc khói, khắp người đau nhức như bị hoen rỉ từng đốt xương, các khớp tựa hồ bị đổ bê tông chặt cứng, khẽ cử động đã kêu lách cách, vậy mà họ vẫn chưa tìm ra nguồn nước, chỉ cần dừng bước thì đừng nghĩ đến chuyện có thể tiếp tục đứng dậy đi tiếp, thế là, không còn cách nào khác, hội Tư Mã Khôi đành lôi kéo, xốc nách nhau tiến về phía trước con đường hầm đá rộng rãi. Bề mặt vách đá nhẵn bóng, bằng phẳng, địa hình ở đây gần giống dạng phễu ngược, tầng nọ nối tiếp tầng kia xuyên thẳng vào bóng tối vô biên. Trong hang động đá macma hình vòm cao thấp nhấp nhô xuất hiện những bức rèm đá treo ngược nặng nề, địa nhiệt đã phết một lớp men sứ lên vách đá, bên trên phủ bột mica trắng, bởi vậy những nơi đèn quặng soi đến đều phản chiếu quầng sáng kỳ dị.

    Bước thấp bước cao, đội khảo cổ cũng đi được hai dặm, địa hình càng lúc càng trở nên khoáng đạt, rộng rãi, đỉnh động cao đến mấy trăm mét, nom gống như một hố giếng sâu hình nón, sương mù bay là là từ cửa núi phía trên đáp xuống đáy động, hơi nước nghi ngút, lạnh buốt thấu xương, khiến vách đá đọng hàng ngàn vạn giọt nước, lấp lánh tựa châu sa. Hội Tư Mã Khôi nhìn thấy nước, mừng rỡ như bắt được vàng, ngửa cổ hứng từng giọt trong vắt thẩm thấu rỏ xuống từ huyệt động, nhờ vậy mấy khuôn mặt quắt queo như mặt người chết của cả hội mới dần dần phục hồi thần sắc. Mọi người tìm một phiến đá tương đối khô ráo ngồi nghỉ và giở lương khô, đồ hộp ra ăn cho ấm dạ. Sau khi mắt đã thích nghi được môi trường trong động đá, họ mới kinh ngạc phát hiện, ở nơi sâu trong đường hầm có một điểm sáng xanh u tối.
     
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 7: ĐẦM LẦY DẠ QUANG


    Dưới tầng đáy của núi dưới lòng đất, động lồng trong động này lại có đường hầm đá macma nối liền nhau, tạo thành một hành lang huyệt động ngoằn ngoèo và dài tít tắp. Cái hang thẩm thấu nước này chẳng qua chỉ là một đoạn trong hệ thống đó. Địa hình ở đây sâu hút, khoáng đạt, không khí lưu thông tốt, có thể nhìn thấy một dải sáng mờ ở đằng xa.

    Hội Tư Mã Khôi thầm thấy lạ, liền giơ ống nhòm quan sát hồi lâu, nhưng nhìn mãi vẫn không biết vật thể nào đang phát sáng, cũng không biết con đường hầm trong rốn núi này rốt cuộc sâu bao nhiêu, nhưng cả hội đều biết, chỉ cần xuyên qua đường hầm đá macma này, tiến thẳng về phía trước là sẽ tìm thấy miếu thần – nơi đặt tấm bia đá của người Bái Xà, đến được đó là mọi người có thể tận mắt đọc được đáp án của mọi ẩn số. Có điều, hình vẽ đáng sợ và quái dị khắc trên vách Tử thành đã nói rõ, bất kỳ kẻ nào nhìn thấy bí mật khắc trên phiến đá, kẻ đó sẽ sợ hãi lăn ra chết tại chỗ. Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Có vẻ không phải lời nguyền hoặc lời hù dọa thông thường, chúng ta phải đề phòng mới được.”

    Hải ngọng đứng bên, vỗ vai thân mật bảo Nhị Học Sinh: “Đến lúc ấy, mọi sự trông cả vào chú đó, chú cần chuẩn bi tâm lý trước mới được!”

    Nhị Học Sinh giật thót mình, đây đâu phải chuyện đùa, cậu ta cuống lên, hỏi Hải ngọng bằng giọng đầy căng thẳng: “Chuẩn bị gì cơ?”

    Hải ngọng tưng tửng đáp: “Chú dẹp cái bộ mặt ấy đi, làm như anh bắt nạt chú không bằng. Lúc trước đã thỏa thuận với nhau rồi còn gì, muốn chứng tỏ lòng trung thành phải thể hiện bằng hành động, hành động, chú hiểu chưa?”.

    Tư Mã Khôi nói: “Này! Chỉ mình Hải ngọng nhà cậu mới dám cởi truồng trèo lên giá treo cổ thôi, chứ người khác làm gì có gan mà vừa chịu mất mặt vừa chịu mất mạng như thế! Cậu đừng dọa cậu ta nữa, hứng đầy nước vào bình quân dụng nhanh lên, lát nữa còn đi tiếp!”.

    Hải ngọng nghe vậy không nhịn được cục tức, vờ như không nghe thấy, tiếp tục quay sang thủng thẳng bảo Nhị Học Sinh: “Chú đừng tưởng Tư Mã Khôi là thầy tu ăn chay niệm Phật thật nhé! Tuy cậu ta nói sẽ vào chùa hầu hạ Phật tổ, nhưng anh bảo ‘có chó nó tin!’, chú biết cậu ta giết bao nhiêu người, đốt bao nhiêu nhà rồi không? Bây giờ còn nhẫn tâm không cho cậu thời gian chuẩn bị tâm lý, đến lúc đấy kiểu gì chẳng hối thúc cậu mau lên đoạn đầu đài làm bia đỡ đạn. Anh thì cho rằng, làm như thế mới là vô nhân đạo!”, nói xong, Hải ngọng thản nhiên xách bình đi hứng nước ở cách đó không xa.

    Nhị Học Sinh thì thẫn thờ ngồi phịch xuống đất, lúc này cậu ta chẳng biết nên tin ai, đành tiếp tục chọc chọc ngoáy ngoáy cái đèn hỏa diệm nhiệt độ cao như để chứng tỏ mình vẫn còn giá trị sử dụng.

    Mọi người thay nhau nghỉ ngơi chốc lát trong khi đợi nước chảy đầy bình, tiếp đó tiến hành kiểm tra nhiên liệu và đạn dược còn sót lại, sau cùng, họ bắt đầu lần mò từng bước trong đường hầm tăm tối, ẩm ướt, tiến dần về phía phát ra ánh sáng. Đốm sáng càng lúc càng rõ. Thì ra, ở hố lõm của đường hầm là một đầm lầy màu xanh lấp lánh, được hình thành bởi một loại khoáng vật thiên nhiên, dưới đầm lắng đọng lượng lớn bột dạ quang, trên vòm động và khu vực xung quanh nhấp nháy từng dải đom đóm mang theo dạ quang, có dải hình con sâu minh linh(1), có dải hình chiếc đèn lồng đuôi dài, dải nào cũng ánh lên vệt xanh lục âm u, lay động, lúc sáng lúc tối. Trong đầm lầy khoáng vật có hằng hà sa số loài động thực vật hiếm gặp, chúng sinh sôi nảy nở, với nhiều hình thù kỳ quái, phần lớn nom giống như thực vật thân cỏ, nhưng thực tế, đó là các loài côn trùng ăn hợp chất hóa học. Cả hội đi vào sâu bên trong, cảm giác chẳng khác nào đang lướt trên dải ngân hà giữa trời đêm thanh vắng, khắp không gian lấp lánh, lung linh.

    1 Con sâu minh linh: là một loài sâu trông giống như con nhện. Tục truyền con tò vò bắt thứ nhện này về nuôi trong tổ, khi lớn nó bay đi. Vì thế, dân gian mới có câu “Tò vò mà nuôi con nhện, đến khi nó lớn nó quyện nhau đi”, và cũng vì thế từ “minh linh” thường được dùng để chỉ con nuôi.

    Bất chấp nguy hiểm, mọi người đều tắt đèn quặng, đi xuyên qua đầm lầy dưới ánh sáng dạ quang, ai nấy đều trầm trồ trước sự thần kỳ của tạo hóa, không ngờ dưới đáy vực sâu tối đen, rộng vô biên này, họ lại được chứng kiến cảnh đẹp đến ngỡ ngàng đến vậy!

    Thắng Hương Lân nói: “Khả năng dưới đầm lầy là hồ acid sulfuric, nên kết cấu rất yếu, chỉ cần địa chấn xảy ra gây trào hồ acid, thì tất cả nơi đây sẽ biến mất”. Cô lại nhắc nhở mọi người, nếu hít phải nhiều bụi dạ quang, sẽ dễ bị ho dị ứng, trường hợp nặng thậm chí còn mất mạng, bởi vậy mọi người phải lấy khăn bịt mũi miệng, rồi tìm đường tắt nhanh nhất đi xuyên qua khu đầm.

    Hội Tư Mã Khôi y lời, lấy khăn tay bịt kín mặt, nhưng không tìm thấy đường tắt nào gần cả, vậy là họ đành mò mẫm từng chỗ đặt chân và tiến dần về phía trước.

    Đầm lầy dạ quang kéo dài trên chục cây số trong đường hầm đá macma, trên đường đi, mọi người nhìn thấy vô số loài sinh vật phát sáng mà trước đây chưa ai từng được nhìn thấy hay nghe thấy, trong đó có một loài côn trùng có cánh, chỉ to như ngón tay cái, luôn tìm cách xông thẳng vào con người.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn thấy loại côn trùng này, ban đầu còn tưởng là ong đất thường sống trong huyệt động, nên trong lòng cũng thấy hơi chờn. Trước đây, hai người từng theo anh Thiết Đông xuống vùng Vân Nam tham gia cải tạo lao động, hàng ngày đều phải làm việc vất vả trong lâm trường miền nhiệt đới, công việc chủ yếu là vào núi dùng xèng đào đất trồng cao su, do giới hạn của môi trường khí hậu, nên cây cao su chỉ có thể sinh trưởng trong phạm vi vĩ độ 20 Nam Bắc quanh xích đạo. Khi đó, Trung Quốc là nước nghèo cao su đích thực, ngoại trừ đảo Hải Nam trồng cao su với số lượng khiêm tốn ra, thì nguồn nguyên liệu chủ yếu là ngoại nhập, mà dựa vào việc nhập khẩu đồng nghĩa với việc bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bóp cổ. Để phá vỡ sự phong tỏa kinh tế, các nông trường và binh đoàn sản xuất tỉnh Vân Nam đã phát động phong trào tự lực tự cường với tín điều “nhân định thắng thiên”, họ trồng cao su rộng rãi từ 25 độ vĩ Bắc trở về Nam, toàn bộ cây cao su giống được lấy về từ lưu vực sông Amazon ở Brasil xa xôi. Nhưng trồng mười gốc cũng chỉ sống sót được một gốc, cứ chết rồi lại trồng, trồng rồi lại chết, ngày này qua ngày khác không ngừng lặp đi lặp lại công việc đơn giản đến tẻ nhạt ấy, tỷ lệ sống sót còn chưa đến một phần trăm, gặp phải ngày mưa cầy bão xới thì tất cả đều đi tong.

    Nhiệm vụ của lâm trường mà hội Tư Mã Khôi tham gia cải tạo lao động là mở núi khai hoang, chặt cây và đào hố, những nơi họ phải đặt chân tới toàn là nơi thưa vắng bóng người, lần đầu vào núi, bọn họ chỉ thấy trong rừng rậm có từng đống đất to tổ bố như nấm mồ. Có một người lớ ngớ không hiểu, lấy xẻng xúc lên, thì mặt đất bỗng nhiên lún xuống thành một cái động lớn, bên trong lúc nhúc vô số con ong rừng thân dài trên chục centimet, chúng đông nghìn nghịt, hàng ngàn hàng vạn con, chẳng ai ngờ dưới lòng đất lại có tổ ong, không những thế con nào con nấy to lớn khác thường. Người vác xẻng đào tổ ong ấy cũng là công nhân lâm trường, đã lao động kiệt sức, thêm vào đó, giữa lúc tinh thần bấn loạn, hoảng sợ nên anh này sẩy chân ngã xuống tổ ong, trong chốc lát anh ta đã bị bầy ong đang kinh động cắn chết, những người khác ở gần đó cũng bị ong đốt sưng u đầu, số người bị chết và bị thương lên đến mấy chục. Sau đó, nghe anh Thiết Đông kể, những năm năm mươi từng có hai nhà khoa học người Mỹ thâm nhập rừng rậm châu Phi, trong quá trình thám hiểm, họ phát hiện một loài ong rừng rất lớn, to gấp mấy lần đồng loại của nó, thông thường những con vật đào hang ổ dưới lòng đất đều có hàm răng đặc biệt sắc nhọn, cắn rách thịt như chơi, thậm chí có thể hạ gục cả con bò rừng ngàn cân, dân bản địa gọi giống ong này là “ong sát nhân”. Thực ra, chúng vẫn thường lảng vảng xuất hiện quang khu vực biên giới hoang vu ở Vân Nam, hơn nữa còn được phát hiện từ khá sớm, có điều người Vân Nam quen gọi chúng là ong đất, những đống đất lừng lững tựa nấm mồ kia chính là đám đất vụn tích tụ dần trong quá trình ong đất đào tổ.

    Lúc ấy, Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều từng bị ong đất đốt, tuy hai người thường xuyên vào sinh ra tử, sớm coi nhẹ chuyện sống chết, nhưng nghĩ lại lần bị ong đốt mà vẫn thấy lạnh người. Nhìn đám ong túa ra bay về phía mình, hai người giật nảy người, ba người còn lại cũng sợ hết hồn. Mãi lúc sau, cả hội mới phát hiện, đám ong đất phát sáng này không có miệng, chỉ bay lượn lòng vòng trong bóng đêm, chập chờn giống như những đốm lửa ma trơi u linh, hình như chúng không phải ong đất, mà là loài đom đóm hang động khổng lồ nào đó họ chưa từng gặp bao giờ.

    Tư Mã Khôi thấy hội Thắng Hương Lân có vẻ kinh ngạc, thì xua tay ra hiệu bảo không có gì đáng ngại, rồi chỉ vài con côn trùng khác đang bay gần đó, lại ra hiệu bảo loài côn trùng này anh cũng chưa gặp bao giờ. Trấn an mọi người xong, anh tiếp tục để ý quan sát các cảnh vật dọc hai bên đường. Anh thấy trong đám thực vật đầm lầy vương dính rất nhiều mạng tơ giống như mạng nhện, bức mành đá ở trên đỉnh động cũng giăng mắc đầy loại tơ rủ phát sáng này, bên trên lưới lấm tấm phủ kín ấu trùng của loài đom đóm hang động, chu kỳ sinh mệnh của loài côn trùng phát sáng này rất ngắn ngủi. Sau khi ấu trùng thành bọ cánh cứng thi chúng đã không có miệng và cũng không thể ăn uống, chỉ có thể bay lượn giữa không trung, cuối cùng kiệt sức và rơi xuống đám thực vật đầm lầy, cái xác đã mất đi sự sống vẫn tiếp tục phát sáng, nhưng cái xác ấy cũng nhanh chóng trở thành thức ăn cho ấu trùng. Ấu trùng ăn xác xong sẽ biến thành bọ và đẻ trứng. Cứ thế đời nọ tiếp nối đời kia.

    Đây là lần đầu tiên Tư Mã Khôi nhìn thấy loài côn trùng kỳ lạ như vậy, trong cổ thuật tướng vật cũng chưa bao giờ đề cập đến chúng, còn vì sao chúng có tên là đom đóm hang động, thì anh lại càng không thể giải thích được, quá trình sinh sôi nảy nở không hề tuân theo quy luật sinh lão bệnh tử thông thường, quá trình ấy tàn khốc và bi thương, có điều bởi sinh mệnh quá ngắn ngủi, nên cũng như loài phù du nguyên thủy trong rừng rậm tiền sử ở biển Âm Dụ, chúng vĩnh viễn không thể hiểu được số mệnh mà mình từng trải qua biến động như thế nào, chỉ có những người đứng ở góc độ bàng quan mới nhìn thấy mà thôi.

    Nhìn những sinh vật nhỏ bé trước mắt, mọi người không khỏi dấy lên suy nghĩ: “Giá như chúng ta cũng giống như loài đom đóm kia thì tốt biết bao, chẳng cần nhìn thấu số mệnh của chính mình”, hiềm nỗi cả hội đang bịt kín mặt, nên không thể trò chuyện, cũng không tiện dừng lại ở đây lâu, nên suy nghĩ ấy ai cũng chỉ giữ trong lòng cho riêng mình, rồi lại vội vã tiếp tục cuộc hành trình.

    Trong con đường hầm giữa bụng núi dưới lòng đất có những hố động khổng lồ giống như cánh cửa đá hình vòm, hố động nọ nối tiếp hố động kia, cứ cách mấy cây số lại có một đầm lầy dạ quang, chỗ nông, chỗ sâu, trong đầm mọc từng lùm thực vật chứa đầy chướng khí, còn có hổ phách trầm tích dưới những vũng lưu huỳnh sền sệt, trông chúng như những tòa mê cung khổng lồ muôn hình vạn trạng. Cả hội bước thấp bước cao đi mãi trong môi trường khắc nghiệt dưới lòng đất, mò mẫm lúc đi lúc nghỉ, cứ như vậy trong suốt mấy ngày, lương khô tìm thấy trong quả khí cầu nhiệt Corot Maar đã hết từ lâu, nhưng con đường hầm dài dặc dường như vẫn muốn kéo dài đến vô tận. Tuy Tư Mã Khôi đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng độ sâu của đường hầm vẫn vượt xa dự tính của anh, niềm hi vọng giờ chẳng khác nào mò kim đáy bể.

    Dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ trước đến nay, Tư Mã Khôi cố gắng dẫn đội tránh xa mọi nguy hiểm và chướng ngại có thể gặp phải, đi thẳng một mạch xuyên qua đầm lầy dạ quang. Bởi pin đã tiêu hao cạn kiệt, nên anh phải bắt mấy con đom đóm bay ở dọc đường, ngắt lấy bộ phận phát sáng, rồi thả vào hộp thiếc rỗng để thăm dò chất lượng không khí khi tiếp cận khu vực bị phong bế. Để tiết kiệm nhiên liệu đèn quặng và đuốc, dành đến lúc then chốt mới đem ra sử dụng, mọi người buộc phải nhặt nhạnh những mẩu gỗ đen vẫn chưa cháy hết thành than làm vật chiếu sáng thay thế.

    Mọi người cứ đi như vậy giữa hành lang dài bất tận trong hang động dưới lòng đất, mãi đến khi trước mặt có một vách đá dày chắn ngang ngay trước mặt, vách đá được ghép bằng nhiều phiến đá cổ, xếp khít lại với nhau, không một kẽ hở nhỏ, trên mỗi phiến đá đều khắc hình thần thú, dáng dấp tướng mạo trông cổ xưa và đáng sợ. Do bề mặt đá phủ lớp địa y rất dày, nên mọi người chỉ nhìn thấy hình dáng đại khái của nó, nó khiến người ta có cảm giác như đâu đâu cũng đầy những đôi mắt âm hiểm đang dõi theo mình.

    Trong phút chốc, Tư Mã Khôi không thể đoán được đây là chỗ nào, anh soi đèn quặng lên cao, phía trên tối mịt mùng không thấy điểm tận cùng, anh lại sờ lần tìm kiếm mặt cạnh của vách đá chắn ngang, thì thấy có một động đạo khoáng đạt dẫn vào sâu bên trong, hai mặt khắc đầy hình vẽ tấm bia đá của người Bái Xà. Nhìn thấy mấy hình vẽ này, tim anh chợt đập thình thịch như trống trận: “Chẳng lẽ đây chính là miếu thần?”

    Từ biển Âm Dụ đến đây, mọi người đã trải qua vô số khảo nghiệm tàn khốc, đến giờ này ai nấy đều cạn kiệt sức lực, chỉ mong mau chóng được giải thoát, nhưng khi miếu thần bất thình lình đứng sờ sờ ngay trước mặt, thì trong lòng họ lại bất chợt trào lên cảm giác vừa kích động, vừa lo lắng, bất an.

    Khuôn mặt chưa ai từng nhìn thấy của Nấm mồ xanh rốt cuộc có liên quan gì đến những bí mật kinh thiên động địa không được phép nhìn và cũng không được phép nói khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà? Có thật kẻ nào nhìn thấy tấm bia của người Bái Xà, kẻ đó sẽ lập tức chết bất đắc kỳ tử? Thân phận thực sự của Nấm mồ xanh cuối cùng là gì? Nếu mọi suy đoán đều chính xác, thì chân tướng đang ở ngay trước mắt và đang nằm trong ngôi miếu thần cổ kính kia, nhưng chỉ cần giẫm một chân vào đó là vĩnh viễn không còn đường quay đầu, thứ chờ đợi mọi người ở phía trước chính là số mệnh và những điều chưa biết.
     
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 8: MIẾU THẦN


    Mọi người đang ở dưới hoàng tuyền, trong khi núi từ ở 30 độ vĩ Bắc đã bị phá hủy, hiện tượng dị thường trời đất xâm thực lẫn nhau không còn xuất hiện nữa, bây giờ muốn từ cực vực lên lại mặt đất còn khó hơn bắc thang lên trời, bởi vậy, sau khi suy đi tính lại, đội khảo cổ quyết định, trước tiên phải bắt vài con đom đóm hang động còn sống, nhốt vào hộp thiếc, đục một cái lỗ nhỏ cho lưu thông không khí để chúng phát sáng thay đèn, sau đó tiến thẳng vào thông đạo dẫn đến miếu thần.

    Miếu thần của người Bái Xà cổ đại cao lớn hùng vĩ, bốn mặt có bốn bức tượng khổng lồ, đứng sừng sững và đối xứng nhau. Bên trong thông đạo khoáng đạt, rộng rãi, địa thế hơi dốc xuống, dường như cả ngôi miếu thần chỉ là một cửa động, bích họa bên trong và các vết tích màu sắc của tượng đá còn lưu lại khá rõ, đề tài trong các bức họa và điêu khắc chủ yếu là các loại cầm thú kỳ dị và yêu ma thần tiên.

    Tư Mã Khôi thấy mọi người kiệt sức đến độ bước chân xiêu vẹo, loạng choạng, trong khi miếu thần lại sâu hun hút và rộng mênh mông, nên anh bảo mọi người tìm góc khuất nghỉ ngơi giây lát, nhân tiện nghĩ xem làm cách nào để nhìn được tấm bia đá kỳ bí kia. Anh phân công cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương kiểm đếm lại lương thực và đạn dược, còn mình và hai thành viên còn lại lục tìm mẩu xà phòng nhỏ, chia thành ba phần, lấy dao săn để tranh thủ cạo râu, con đường sắp tới sẽ dẫn đến địa ngục hay thiên đường thật khó đoán, nếu phải chết trong lúc mặt mũi bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm thế này cũng thật khó coi. So với ba đấng nam nhi, Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương sống ở thành phố,, nên được hưởng nền giáo dục văn minh, hai cô bài trừ mọi thói quen và hành vi mất vệ sinh, thiếu văn minh từ tận sinh lý đến tâm lý, tuy ở dưới lòng đất thiếu ánh sáng mặt trời đã bao ngày, còn phải chịu đói chịu khát, kiệt sức đến tiều tụy, bị côn trùng độc cắn chi chít khắp người, khăn áo cũng rách bươm, thân hình gầy guộc, nhưng nom hai người vẫn sạch sẽ, gọn gàng hơn hội Tư Mã Khôi nhiều.

    Mọi người kiểm đếm lương thực, những thứ không cần dùng đến đều nhất loạt vứt bỏ. Tư Mã Khôi lại cho phân chia số pin đèn, đạn dược và đuốc còn lại cho các thành viên, vì thế ba lô nhẹ đi rất nhiều. Tuy lương thực và pin đèn không còn bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để duy trì cuộc sống trong vòng dăm ba ngày, có điều đạn dùng cho khẩu Winchester và khẩu súng săn gấu Canada thì dùng phát nào là hao tổn đạn phát đấy.

    Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân lo lắng vì đạn dược không đủ dùng, anh nhớ lại lúc cả hội còn ở nông trường khai hoang số 34 ở Tân Cương, rồi trải qua bao biến cố sinh tử ở kính viễn vọng Lopnor, không biết bắt đầu từ khi nào, anh không còn nhìn thấy Hương Lân cười nữa, dường như ngay cả trong giấc mộng, gương mặt cô cũng chỉ nhuốm một vẻ u sầu, đó là hệ quả do cô phải chịu đựng áp lực quá lớn trong suốt thời gian dài, mà đúng là những việc đã xảy ra thực sự vượt quá sức chịu đựng của một cô gái liễu yếu đào tơ như Hương Lân, thế là anh bèn bảo mọi người nghỉ ngơi trong thông đạo năm tiếng để lấy lại sức, rồi mới đi tiếp.

    Tư Mã Khôi gác ca đầu tiên, anh ôm súng, châm điếu thuốc, dựa vào vách tường cạnh đó. Trong bóng đêm, dưới ánh sáng le lói của đom đóm, anh nhìn thấy hình người hình thú trên các bức bích họa trong miếu thần hiện ra vô cùng quái dị. Những gì anh biết về tín ngưỡng sùng bái thần bí của tộc người Bái Xà vô cùng có hạn, anh chỉ có cảm giác những truyền thuyết và ghi chép cổ quái ấy quá ư kỳ dị, chi bằng cứ đến thẳng tấm bia đá đó xem một lần có phải đơn giản hơn không. Nhưng khi chăm chú quan sát các bức bích họa trên tường, Tư Mã Khôi phát hiện nội dung của nó cũng khá trực quan, thần hệ của tộc người Bái Xà thuộc về thần hệ tiền sử, hoàn toàn khác biết với hai thần hệ lớn thời Viêm Đế và Hoàng Đế, tô tem thần thị mà họ sùng bái còn nguyên thủy cổ xưa hơn nhiều, đó là các tô tem kiểu như cây cổ thụ và mãng xà. Những dãy bích họa trước mắt đều miêu tả nguồn gốc của bí mật khác trên tấm bia đá. Người đầu tiên nói ra bí mật là một cô gái đầu người mình rắn, cô nằm phủ phục ở một nơi trong hang động, dường như đang mở miệng thầm thì với mấy vị vương gia trong tộc người Bái Xà đứng ở bên cạnh, họ chăm chú lắng nghe từng lời của cô gái.

    Tư Mã Khôi đang tập trung quan sát, đột nhiên anh nghe thấy Cao Tư Dương nhỏ giọng hỏi: “Yêu quái đầu người mình rắn… sao lại biết nói chuyện nhỉ?”. Thì ra trong lòng Cao Tư Dương cũng đang bề bộn những nỗi lo lắng không yên, nên không thể chợp mắt nổi, cô ngồi dậy quan sát các bức bích họa khắc trên vách tường của miếu thần.

    Tư Mã Khôi nói: “Có lẽ người cổ đại có một loài rắn đầu giống đầu người, gọi là nhân xà, nó có thể nói được tiếng người, sau đó bị tuyệt chủng không còn dấu tích gì nữa”.

    Hải ngọng thả lỏng đầu óc, đánh một giấc thật đã. Nhị Học Sinh kiệt sức, hai mí mắt dính chặt vào nhau, không thể cạy ra nổi, còn Thắng Hương Lân không cách nào cố ru mình vào giấc ngủ được, cô nói: “Tôi lại không nghĩ cô gái ấy là quái vật, cô ấy là người rắn”.

    Thắng Hương Lân vừa nhắc, Tư Mã Khôi liên sực tỉnh. Nghe đồn, thời Hạ Thương có truyền thuyết về người rắn, cũng có nơi gọi nó là “xà nữ”, nhưng sau thời Xuân Thu chiến quốc thì bị tuyệt diệt. Thực ra xà nữ cũng là người, đồng thời chỉ thấy có giống cái, không có giống đực. Lúc mới sinh ra, xà nữ cũng bình thường như bao em bé khác, nhưng đến thời kỳ phát dục trưởng thành, thì các khớp xương trên người bắt đầu dần dần thoái hóa, cuối cùng chỉ còn sót lại cột sống và xương cổ, từ đó người con gái ấy chỉ có thể trườn bò giống như loài rắn, lớp da thịt của tứ chi vẫn còn tồn tại, nhưng não thì hoàn toàn biến mất, nó không biết khóc, cũng chẳng biết cười, càng không thể nói được. Có lẽ đó là một căn bệnh thoái hóa trở về thời thủy tổ quái lạ và hiếm gặp, chứ không liên quan gì đến loài rắn. Người xưa thường mê tín thái quá, họ tin rằng đó là dấu hiệu yêu dị của việc người hóa rắn.

    Rất có khả năng, cô gái đầu người mình rắn trên bức họa trong miếu thần chỉ là sản phẩm của sự tô vẽ về bí mật của xà nữ. Trong nhật ký của đội thám hiểm Corot Maar cũng có tài liệu tương tự nói về việc này, nhưng xà nữ trông có vẻ giống cương thi vô tri vô giác, làm sao có thể nói ra bí mật kinh thiên động địa gì được chứ?

    Tư Mã Khôi kể chuyện về xà nữ cho Cao Tư Dương nghe, rồi quay sang nêu thắc mắc của mình với Thắng Hương Lân.

    Thắng Hương Lân xách hộp thiếc có mấy con đom đóm bên trong, giơ lên cao, nửa trên của bức tranh hiện ra trước mắt. Thì ra, phía đỉnh đầu của xà nữ và mấy vị vương gia chính là thần Vũ Xà đang ở trong biển sương.

    Tư Mã Khôi bỗng nhiên sáng tỏ: “Chẳng lẽ vị thần cổ đại mà tộc người Bái Xà tín ngưỡng lại truyền tin thông qua nữ xà? Những chuyện ma quỷ thực ra chỉ là hư cấu, thần Vũ Xà chẳng qua là một tô tem cổ xưa, dường như bức bích họa muốn kể rằng, xà nữ giống như xác chết biết đi kia chính là chiếc cầu nối để giao tiếp giữa thế giới hiện thực và thế giới hư vô, nó đã nói ra một bí mật vô cùng khiếp đảm, bí mật ấy được lần lượt kể cho năm vị vương gia của tộc người Bái Xà nghe, nhưng mỗi người chỉ được nghe một phần khác nhau. Tư Mã Khôi lại nhìn bức bích họa bên cạnh, nội dung đại khái là bí mật này truyền đến hậu thế, cũng lần lượt do chín vị vương gia nắm giữ, cuối cùng toàn bộ bí mật đó được khắc trên tấm bia đặt trong miếu thần. Lúc khắc bia, người ta che kín phần người trước đã khắc, người sau chỉ được phép tiếp tục khắc phần bí mật mà mình nắm giữ, bởi vì bí mật này không được phép nói, cũng không được phép nhìn. Bất kỳ kẻ nào cả gan xem trộm, người đó sẽ sợ hãi đến nỗi lăn ra chểt tức thì. Nội dung bức bích họa ở đây hoàn toàn trùng khớp với nội dung bích họa khắc trong thành cổ, có điều ngôi miếu thần này dường như không hề thờ phụng vị thần nào, tác dụng duy nhất của nó là trở thành nơi đặt tấm bia đá. Bức bích họa này cũng chứng tỏ lời nói của Triệu Lão Biệt hoàn toàn là sự thật, bí mật ghi chép trên tấm bia đá chỉ có mấy chữ, nhưng được khắc lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

    Thắng Hương Lân thầm nghĩ, bích họa trong miếu thần nhiều vô số, những gì tầm mắt họ có thể nhìn thấy chỉ là một bộ phận nhỏ, nhưng cũng có thế thấy người Bái Xà vừa kính cẩn vừa sợ hãi trước bí mật khắc trên tấm bia, có điều tại sao tấm bia ấy lại bị chìm dưới lòng đất trong ngôi miếu thần nhỉ? Chẳng lẽ ngôi miếu thần này chứa đựng điều đặc biệt gì sao? Hơn nữa, Nấm mồ xanh sẵn sàng trả mọi giá để tìm ra tấm bia đá vùi sâu dưới lòng đất, chắc chắn hắn có mưu đồ gì đó mà người thường không thể đoán ra nổi. Chúng ta đều cho rằng bí mật trên tấm bia đá có liên quan đến Nấm mồ xanh, chẳng lẽ bí mật ấy lại chính là thân thế của Nấm mồ xanh? Có điều, nghĩ kỹ lại, khả năng này gần như không thể xảy ra, bời vì tấm bia đá của người Bái Xà đã bị hủy diệt theo khói mây lịch sử. Nếu Nấm mồ xanh không ra tay hành động liên tiếp như vậy, thì chẳng ai ngờ dưới lòng đất sâu lại có cổ vật này. Dường như Nấm mồ xanh nắm rõ tấm bia đá của người Bái Xà như trong lòng bàn tay, thậm chí còn tường tận hơn cả những ghi chép trên bích họa ở nơi này này. Hắn đã biết bí mật khắc trên tấm bia đá, thì hẳn phải biết lời nguyền về cái chết bất đắc kỳ tử với bất cứ kẻ nào có ý đồ nhòm ngó nó, vậy mà tại sạo hắn lại liều mạng lặn lội mò xuống tận lòng đất để kiếm tìm nó? Rốt cuộc, tấm bia cổ chỉ là một tảng đá khổng lồ, mấy chữ khắc trên đó mới là mấu chốt vấn đề. Thực ra, chỉ cần giải được bí mật khắc trên phiến đá, thì mọi ẩn số đan cài chồng chéo lên nhau sẽ tự khắc có đáp án, vấn đề là hễ nhìn vào bí mật đó, là lập tức lăn ra chết, giờ phải làm sao mới vẹn toàn được đây?

    Cao Tư Dương lại nghĩ, đội thông tin của họ vốn có ba người, định đến tháp canh ở Thần Nông Giá để sửa đường dây điện thoại, kết quả bất ngờ bị cuốn vào chuyện của Nấm mồ xanh, bây giờ lại ở dưới vực sâu cách mặt đất cả chục ngàn mét, chỉ sợ phen này vĩnh viễn chẳng còn nhìn thấy hi vọng sống sót trở về nữa. Cao Tư Dương xuất thân trong gia đình quân nhân, từ trước đến giờ luôn hãnh diện với bộ quân phục mặc trên mình, tuy bên ngoài cô luôn tỏ ra kiên cường, dũng cảm, nhưng tận sậu thẳm trong lòng, cô vẫn không thể át chế được nỗi sợ hãi và tuyệt vọng. Cô biết hàng năm vẫn có vài ba trường hợp mất tích trong núi rừng Đại Thần Nông Giá ngút ngàn này mà không rõ nguyên nhân, họ biến mất như một làn khói nhẹ bị gió thổi tan, vĩnh viễn không bao giờ trở lại mà chẳng một ai buồn bận tâm kiếm tìm, bởi không ai và không có cách gì có thể tìm thấy họ giữa cánh rừng già mênh mông. Những sinh mệnh đang ấm hơi thở cuộc sống cuối cùng chỉ lưu lại vỏn vẹn hai chữ “mất tích” khô cứng và lạnh lùng trên bảng thống kê hàng năm. Cao Tư Dương cũng đã chuẩn bị tâm lý từ trước, hơn nữa lại đặt niềm tin tuyệt đối vào hội Tư Mã Khôi, có điều khi tới ngôi miếu này, cô bỗng nảy sinh một dự cảm không lành khó diễn tả thành lời, dường như một trận gió tanh mưa máu khiến người ta rùng rợn đang sắp sửa ập đến, lòng cô cồn cào sóng cuộn, nên nhất thời không thể ngủ được. Thế là Cao Tư Dương bảo sẽ thay Tư Mã Khôi gác ca thứ hai, rồi cứ thế thất thần nhìn chằm chằm vào bích họa vẽ trên vách tường của miếu thần.

    Tư Mã Khôi cũng không thể ngủ ngon, mọi người thay phiên nhau ngả lưng mấy tiếng đồng hồ rồi bắt đầu chuẩn bị lên đường.

    Nhị Học Sinh lo mình bị ép phải nhìn tấm bia đá, nên cậu ta bảo với Tư Mã Khôi, chẳng mấy chốc nữa sẽ sửa xong đèn hỏa diệm nhiệt độ cao thôi, chỉ cần cho cậu thêm chút thời gian nữa là được.

    Tư Mã Khôi nhận ra ngay ý của Nhị Học Sinh. Quả vậy, lúc này không có đạn dược, nếu muốn phá hủy tấm bia đá, thì cần phải dựa vào đèn hỏa diệm nhiệt độ cao.

    Hải ngọng thấy bộ dạng tham sống sợ chết của Nhị Học Sinh thì rất chối mắt, anh hỏi: “Nếu thằng Khôi ép chú phải nhìn tấm bia đá, thì chú tính sao?”

    Nhị Học Sinh im lặng hồi lâu, không biết trả lời thế nào, chỉ run rẩy hỏi lại Hải ngọng: “Thế… thế… tôi nên tính sao?”

    Hải ngọng nói: “Chưa gì đã sợ vãi tè ra quần, miệng lắp ba lắp bắp. Anh thấy, khéo đến lúc ấy chú mày chẳng cần nói gì, mà sẽ khóc như mưa như gió, dù sao bản thân việc khóc cũng là một sự tố cáo không lời, là hình thức biểu hiện cao nhất của sự đau khổ…”

    Lúc này, Tư Mã Khôi đã soi đèn quặng đến điểm tận cùng, dường như thông đạo bị vách đá chắn lại, không rõ có phải vách đá đó chính là tấm bia đá của người Bái xà hay không, anh xua tay bảo Hải ngọng đừng nói năng lung tung nữa.

    Mọi người không dám liều lĩnh tiến lại gần mà dừng quan sát từ xa, họ thấy bên trong thông đạo khoáng đạt chất đầy những tảng đá lớn đen sì sì, bịt kín lối ra, những tảng đá đen này rất to và nặng, lại vô cùng kiên cố, đủ hình đủ dạng nhưng ở các góc đều có khe hở và trên mặt đất họ thấy còn sót lại chút cát đen.

    Cao Tư Dương nói: “Trong thông đạo của miếu thần lấp đầy đá macma thế này, chắc là không muốn để người ngoài xâm nhập vào đây mà”.

    Tư Mã Khôi lại cho rằng chưa hẳn là vậy, những khối đá đen rõ ràng chưa hề được đẽo gọt, nếu không muốn người ngoài xâm nhập vào trong, thì người ta không thể để lại những khe hở to như vậy được. Có lẽ những khối đá này không phải dùng để phòng bị, trông nó giống như ngăn không cho vật bên trong thoát ra ngoài, có lẽ thứ bị nhốt ở bên trong có cái đầu rất to, xem ra trong miếu thần không chỉ có một mình tấm bia đá của người Bái Xà, ở nơi sâu nhất vẫn còn thứ gì khác chăng? Nói rồi, Tư Mã Khôi lấy hết can đảm, chui qua khe hở giữa các khối đá. Thông đạo tiếp tục vươn dài chếch xuống phía dưới, Tư Mã Khôi mới đi được hơn chục bước mà lòng đã thấy rờn rợn, anh tự hỏi rốt cuộc phía dưới miêu thần còn sâu bao nhiêu? Những tảng đá khổng lồ trong thông đạo dùng để ngăn cản vật gì thoát ra ngoài?
     
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 9: TẤM BIA ĐÁ


    Miếu thần giống như một hang động hình ống, thông đạo bên trong bị những khối đá khổng lồ chắn ngang, mọi người đành chui qua mấy khe hở giữa các khối đá, thâm nhập vào bên trong thạch điện, phần thông đạo nằm ở phía đối điện với thạch điện lại tiếp tục vươn dài xuống dưới.

    Mọi người ngẩng đầu, hướng đèn quặng soi lên vách đá, những bức phù điêu của người Bái Xà hiện ra với đủ hình thái quái dị, trong bức phù điêu có vô số hình người xếp thành hàng ngũ nghiêm trang, đứng nghiêng người, mặt hướng theo chiều dốc của thông đạo. Trên mặt đất ngổn ngang toàn chum vò bằng gốm đất, phủ đầy bột đá ráp màu đen, chỉ cần chạm nhẹ là vỡ tan tành, lộ ra cỗ thi thể khô quắt ngồi bên trong và rất nhiều minh khí bằng vàng ngọc, bề mặt chạm khắc các họa tiết cổ phác hình chim bướm, cá rùa…

    Hải ngọng nói: ‘‘Mấy món đồ này khá cổ đây, ai từng nói ấy nhỉ – cướp đồ của người chết thì không tính là ăn cướp – tôi nẫng vài món về kính biếu lão Lưu Hoại Thủy mới được…”, nói xong anh liền thò tay định nhặt.

    Thắng Hương Lân thấy vậy vội ngăn lại: ‘Trên ngọc có vết máu, tốt nhất anh đừng sờ vào, kẻo rước họa vào thân đấy!”

    Tư Mã Khôi ngồi xổm xuống quan sát, phát hiện vân ngọc cổ có sắc hồng tươi, không giống vết máu của tử thi. Thông thường, sau khi ngọc ra khỏi lòng đất, nếu ngâm trong nước thì thường có màu trắng vân sương, nếu chìm trong đất sẽ có màu vàng, nếu ngâm trong thủy ngân sẽ chuyển màu đen, nếu ngâm đồng ngọc sẽ có màu lục, còn nếu nhiễm khí tử thi thì nó sẽ chuyển màu tím đen. Trong thân ngọc có vô số lỗ nhỏ, nếu quanh năm vùi dưới lòng đất hoặc chôn dưới mộ cổ, ngọc sẽ nhiễm sắc theo môi trường xung quanh, đặc biệt là miếng ngọc đeo trên người tử thi. Trong quá trình tử thi rữa nát, tử khí sẽ truyền nhiễm, xâm lấn, khiến ngọc xuất hiện các vết đốm màu tím thẫm, tục gọi là “thi tẩm”. Nếu trên ngọc khí có màu đỏ, điều đó chứng tỏ xác chết đựng trong vò gốm đều bị trói, đút vào trong vò, rồi bị ai đó dùng dao nhẫn tâm chặt nạn nhân ra làm mấy khúc khi người đó vẫn còn sống, máu tươi chảy ra, thấm vào trong ngọc, và biến mảnh ngọc đó thành loại ngọc “huyết tẩm”. Xem ra, rất nhiều bình trong thạch điện này đều là tế phẩm của miếu thần, họ bị giết chết.

    Cao Tư Dương thắc mắc: “Trong ngôi miếu thần này không hề có tượng thần, vậy những đổ tế lễ này dùng để hiến tế cho tấm bia đá sao? Hơn nữa, sao thông đạo trong miếu thần lại sâu thế? Lẽ nào đây là động không đáy?”

    Tư Mã Khôi nói: “Cô hỏi thế làm tôi nhớ lại lúc Triệu Lão Biệt trong biển cát ở cực vực từng nói ở đây có một cái động không đáy. Tất nhiên, khi ấy lão ta cũng không biết tường tận, lão chỉ kể lại lời đồn đại không rõ thực hư thế nào mà thôi”.

    Nhị Học Sinh nói với hội Tư Mã Khôi, trên đời quả thực có tồn tại “động không đáy”, cậu ta từng đọc một tài liệu trong thư viện nói rằng, Hi Lạp có một hang động lớn trong núi ở gần biển, bên trong sâu không thấy đáy, hàng ngày khi triều dâng, nước biển lại chảy ào ào như trút vào trong miệng dộng. Người ta suy đoán, hàng ngày có khoảng ba, bốn vạn tấn nước biển chảy vào huyệt động. Điều kỳ lạ là, nước biến chảy nhiều như thế, nhưng chưa bao giờ có thể làm đầy miệng động, cũng không thấy nước tràn ra ngoài. Người ta đoán, nơi sâu của hang động này có địa mạo Karst được hình thành bởi đá vôi, địa hình tương tự với động thoát nước hình phễu dựng đứng, bất kể bao nhiêu nước biển cũng không thể đổ đầy. Có điều thủy hệ trong địa mạo Karst có phức tạp đến đâu, thì chắc chắn cũng tồn tại một lối thoát nước. Vậy rốt cuộc, lượng nước lớn như vậy đổ vào huyệt động đã chảy đi đâu? Để giải đáp nghi vấn này, có một nhà thám trắc đã tạo ra hàng chục ngàn phao tiêu bằng cao su mang theo những kí hiệu đặc biệt, rồi ném xuống biển theo từng đợt, để chúng bị sóng triều cuốn xuống động, chỉ cần một phao tiêu xuất hiện ở một nơi khác, ông sẽ phát hiện thấy lối thoát nước của động không đáy, nhưng hàng chục ngàn phao tiêu kia đi vào dường như đều đã bị động không đáy nuốt chửng, cho đến ngày nay, người ta vẫn không thể tìm thấy, dẫu chỉ là một cái phao tiêu trong số đó.

    Tư Mã Khôi nói: “Kết cấu địa tầng ở đây vô cùng phức tạp, dù là địa mạo Karst cũng có thể tồn tại những vũng mù không có lối thoát ra ngoài, nói không chừng những phao tiêu kia đã trôi đến nơi đó rồi cũng nên. Tất nhiên, điều này chưa thể chứng minh trên thế giới tồn tại động không đáy. Tôi cảm thấy biển Âm Dụ ở vành đai 30 độ vĩ Bắc cũng là động không đáy không có lối ra, nhưng thực ra nó vẫn không hẳn là không có đáy một cách đúng nghĩa, vị trí hiện tại của đội khảo cổ còn nằm bên dưới xung quyền, nếu còn xuống sâu hơn nữa sẽ không thấy nước ngầm và tầng đá nữa, mà chỉ có đại dương mênh mông được hình thành bởi thể khí nóng bỏng, nó có thể biến vạn vật trên đời tan tành thành mây khói, bởi thế miếu thần chắc chắn không thể là động không đáy, có lẽ chỉ cần đi thêm mấy bước nữa là tới đáy thôi”.

    Cao Tư Dương gật gù bảo: “Thì ra vậy, tấm bia Bái Xà nằm ở điểm tận cùng của thông đạo. Lẽ nào bao nhiêu bộ xương khô được khâm liệm trong vò gốm là dùng để tế lễ tấm bia đó sao?”

    Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ trong miếu còn tồn tại thứ gì khác, chỉ như vậy mới có thể giải thích vì sao họ lại lấy đá chặn thông đạo lại, bởi tấm bia đá không thể tự mình mọc chân chạy mất được”.

    Cao Tư Dương nghe Thắng Hương Lân giải thích thì bỗng thấy rùng mình, không hiểu ở nơi sâu trong miếu thần còn có thứ gì khác được chứ? Lẽ nào là “xà nữ” mà bức bích họa đã vẽ?

    Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chuyện xà nữ của Cao Tư Dương có khả năng xảy ra hay không, vì ngay cả việc miếu thần của người Bái Xà cổ đại đã tồn tại bao nhiêu niên đại cũng nào ai biết? Từ trước khi Vũ Vương đúc đỉnh đồng Đồ Sơn đến nay, tộc người Bái Xà đã trải qua hơn 4700 năm, chưa nói đến xà nữ, mà bất kỳ thể loại yêu quái nào cũng không thể sống lâu như vậy được.

    Tư Mã Khôi lại không lo sẽ gặp phải nguy hiểm trong miếu thần, bắt đầu từ khi đào thoát khỏi khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân, những ngày bất thường đối với anh đã trở nên quá đỗi bình thường. Chỉ có điều, sau khi gặp được chân thân của Triệu Lão Biệt dưới lòng đất, mọi sự việc dường như đều tiến triển thuận lợi ngoài sức tưởng tượng của họ, đầu tiên là việc cả hội tìm thấy trang thiết bị vật tư, lương thực bổ sung của một đội thám hiểm khác trên khinh khí cầu nhiệt bị lâm nạn, sau đó đi xuyên qua mê cung với vô số đụn pha lê giao thoa chằng chịt, rồi lại may mắn thoát thân khỏi Tử thành chôn thây của tộc người Bái Xà, tiến vào đường hầm nằm dưới đáy dãy núi rồi đi một mạch đến đây và tìm thấy miếu thần. Tuy cả hội chịu không ít gian nan vất vả cùng bao phen sợ hãi, hoảng loạn, nhưng so với những gì trải qua trước đây thì như vậy vẫn quá thuận lợi, mà ở nơi đây mọi sự bình thường lại là điều bất thường lớn nhất. Lẽ nào lúc này mọi hành động của đội khảo cổ trong miếu thần đều nằm trong vòng kiểm soát của Nấm mồ xanh? Bởi chẳng ai có thể lường trước được kết quả của định luật Murphy – càng sợ điều gì, điều ấy lại càng dễ xảy ra – trong cuộc đời vĩnh viễn không thể tránh được hai chữ “rủi ro”.

    Hải ngọng phản đối: “Không phải! Chúng ta tuy đói nhưng đầu gối chưa bao giờ chịu bò, cũng chưa từng phản bội nhân dân hay phản bội Đảng, chưa bao giờ làm chuyện gì xấu xa, vậy sao kiếp này chúng ta phải chống nạng mò xuống hố quặng bới mấy viên than ghẻ còn sót lại này? Ông trời còn chẳng nỡ để con sẻ mù đói ăn nữa là, ai quy định chúng ta không có ngày gặp vận may? Theo tớ, nhân lúc vận may đang đến, chúng ta đừng chần chừ nữa, mau phá hủy tảng đá đó đi kẻo đêm dài lại lắm mộng!”

    Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng xách súng định chạy về phía trước, thì lập tức giơ tay giật lại, chửi: “Tiên sư Hải ngọng, cậu vội đi ăn chém thế cơ à? Chốc nữa, tôi chưa đồng ý, cấm ai được động vào tấm bia đá đấy!”

    Tư Mã Khôi biết bí mật khắc trên tấm bia Bái Xà là manh mối duy nhất giải đáp vô số ẩn số, nhưng anh thực sự không thể tưởng tưởng nổi trong đó ẩn chứa mối logic cổ quái kỳ dị như thế nào. Giờ đây, hội anh chỉ có thể đi đến đâu hay đến đó. Đầu tiên, anh đi xuyên qua đường hầm của thạch điện, ở nơi sâu hơn lại là một tòa đại điện tương tự như lúc trước, sau đó họ lại đi khoảng trăm bước, trèo qua vài tảng đá đen chắn đường và tiến vào đại điện ở tầng thứ ba phía dưới cổng miếu thần. Nơi này địa hình lún xuống theo chiều thẳng đứng và chính là hốc macma rỗng sâu nhất trong rốn núi, bên trong đủ sức chứa một sân bóng đá, ở giữa có một thanh xà đá dài chừng trăm mét, có thể đi qua được, ở đầu bên kia là một phiến đá bằng phẳng khổng lồ hình chữ nhật hiện lên sừng sững trên vách, chiều rộng và độ cao đều tầm vài chục mét. Mặt đá xanh thẫm, vân nổi loang lổ, phủ đầy những vết nứt hình mai rùa, nông sâu không đều nhau, xung quanh khắc hình dị thú, đó chính là tấm bia Bái Xà khiến người ta chết khiếp vì sợ.

    Quả nhiên hội Tư Mã Khôi đã nhìn thấy tấm bia đá nằm ở nơi sâu trong miếu thần, bí mật cổ xưa đang gần ngay trước mắt, ngón tay ai nấy đều không tự chủ run rẩy từng hồi, cũng chẳng rõ là do lúc này đang kích động hay căng thẳng. Họ chiếu chùm sáng đèn quặng lên tấm bia Bái Xà, nhưng vẫn giữ khoảng cách nhất định để không nhìn rõ dấu vết của các văn tự trên đó, họ không dám bước lại gần nửa bước, mà chỉ dừng lại quan sát từ xa vị trí và hình dáng đại khái của tấm bia đá.

    Tấm bia đá của người Bái Xà là phiến đá khổng lồ khắc đầy chữ triện cổ, mỗi chữ to như cái đấu, nét chữ tựa con bọ nhậy, cũng không giống với loại bia đá mà con bí hí cõng trên lưng mà hậu thế vẫn thấy, người xưa chỉ tận dụng phiến đá bằng phẳng có sẵn dưới lòng đất để khắc chữ lên mà thôi, tuy xung quanh cũng trang trí phù điêu mặt thú, nhưng vẻ nguyên thủy bề ngoài cùa phiến đá nham thạch tự nhiên thì vẫn chưa được mài giũa hoàn chỉnh nên trông nó vẫn nặng nề và thô sơ. Do văn tự được khắc rất sâu lên tấm bia, nên nhìn từ xa, nom nó giống vô số hố lõm chi chít, thời gian và đất bụi vẫn chưa thể mài mòn và che phủ lên nó. Thạch điện tối om làm người ta có cảm giác đè nén muốn ngộp thở.

    Hải ngọng thấy tấm bia Bái Xà không có điểm gì khác thường, thì soi đèn quặng lên thanh xà đá nhìn ngó, anh phát hiện hài cốt chất đống như núi dưới đáy động đen ngòm, anh rùng mình, hít ngược một hơi lạnh, xem ra phỏng đoán lúc trước của cả hội không sai, tấm bia đá Bái Xà này đúng là tấm bia bị nguyền rủa.

    Tư Mã Khôi cũng nhìn xuống theo, anh không thể hiểu tại sao bí mật trên tấm bia đá lại có khả năng tước đi sinh mạng của con người, nhớ thời kỳ đánh nhau ở Miến Điện, nghe Chu Tử Tài, một chiến hữu từng tham gia lao động thời vụ ở khu quặng Vân Nam nói rằng, ở biên giới Vân Nam có một khe núi gọi là khe Đà Mộc với địa mạo rất kỳ quái. Theo tiếng bản địa thì khe Đà Mộc có nghĩa là khe núi mọc nhiều cỏ dại, sau này người ta cho đào một mỏ quặng trong khe núi. Do đãi ngộ công nhân khai thác mỏ khá tốt, một năm phát hai bộ đồng phục, mỗi tháng cho một túi đường trắng với nửa cân thịt lợn gọi là quà bồi dưỡng, không những vậy, công việc ở đây cũng không nặng nhọc lắm, cho nên các thành viên ở nông trường và binh đoàn tranh nhau đi. Nhưng công việc ở đây không giống với công việc đào than, đối với công việc đào than, bạn chỉ cần nhìn bằng mắt thường là phát hiện thấy tầng than ở dưới giếng quặng, nhưng hố quặng ở khe Đà Mộc thì lại cần dùng một thiết bị hình vuông, đen sì sì đi khắp nơi đo đạc, nghe chiếc hộp phát ra âm thanh cảnh báo tút tút, thì lấy cuốc đào lên, thời gian lâu dần bắt đầu có người xuất hiện hiện tượng buồn nôn, chóng mặt, rồi rụng tóc, rụng từng nắm một. Lúc đó, người ta đề xướng tinh thần “thứ nhất không sợ khổ, thứ hai không sợ chết”, đàn bà ở nông thôn sinh con không cần đi bệnh viện, thì rụng mấy sợi tóc sao có thể coi là bệnh được? May mà trong những thành viên tham gia khai thác quặng ở khe Đà Mộc còn có một thầy giáo từng giảng dạy ở Học viện địa chất Bắc Kinh, bị đẩy về đó cải tạo lao động. Ông khá thân thiết với Chu Tử Tài, thường ngày Tài cũng rất quan tâm đến ông, tình cảm của hai người chẳng khác nào tình thầy trò. Một ngày, thầy dạy địa chất kéo Chu Tử Tài ra một chỗ vắng người, thì thầm bảo: “Chỗ này không ở được lâu đâu, nếu cậu có thể đi, thì mau đi đi!”. Chu Tử Tài cũng sớm cảm thấy nơi đây có gì đó bất thường, nhưng không biết cụ thể là ở điểm nào, anh ta bèn hỏi thầy giáo xem tóm lại có chuyện gì. Thầy giáo nói: “Chúng ta đang ở trong hố quặng Uranium, phóng xạ trong giếng cực kỳ mạnh, cho nên cỏ trên mặt đất không thể mọc được nửa cọng, thiết bị thám trắc lúc thường mình hay dùng gọi là thiết bị đo tia

    gama, tia xạ gama vượt quá năm mươi, sẽ gây ra nguy hiểm cho cơ thể con người. Chưa nói đến độ phóng xạ trong giếng cao bao nhiêu, chỉ riêng ở giường ngủ dưới lòng đất, thì độ phóng xạ đã vượt quá hai trăm, tiếp tục ở lại trong mỏ quặng nhất định sẽ mất mạng”. Thầy giáo địa chất nọ tuổi đã ngoại ngũ tuần, ông chấp nhận số phận, không muốn chạy trốn, bởi vậy chỉ tiết lộ bí mật cho một mình Chu Tử Tài, ông thấy cậu thanh niên này tuy trẻ tuổi, nhưng chắc sẽ có tiền đồ. Sau khi nghe được thông tin ấy, anh ta liền chạy đến Miến Điện tham gia đội du kích quân Cộng hòa nhân dân, sau đó anh cũng không bao giờ gặp lại người thầy giáo tốt bụng ấy nữa.

    Tư Mã Khôi nghĩ đến đây thì nêu nghi vấn với mọi người: Phải chăng tấm bia đá Bái Xà là một loại tầng quặng nằm trong lòng đất giống như mỏ quặng ở khe Đà Mộc? Không những vậy phóng xạ còn cực mạnh, có thể nhanh chóng khiến con người tử vong, đáng tiếc đội khảo cổ không có thiết bị thám trắc đo tia gama ở đây nên không chứng thực được điều này.

    Thắng Hương Lân nói: “Anh không cần lo lắng về chi tiết này, phía dưới tấm bia đá có vết rêu mọc, điều đó cho thấy đây không phải tảng đá hàm chứa tia phóng xạ, riêng điểm này tôi có thể bảo đảm”.

    Tư Mã Khôi nghe vậy liền gật đầu, lòng thầm nghĩ: “Vậy tấm bia mang đến lời nguyền chết chóc này cũng chỉ là ở bí mật khắc trên nó. Nếu nhìn thấy nó mà lập tức lăn ra chết, thì chúng ta phải thăm dò bí mật ấy bằng cách nào đây?”
     
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 3: BÍ MẬT LỚN NHẤT THẾ GIỚI - HỒI 1: BÍ MẬT


    Hội Tư Mã Khôi thấy nơi sâu trong miếu thần không có động tĩnh gì thì liền tắt đèn quặng, mượn ánh sáng yếu ớt của đom đóm nhốt trong hộp thiếc đi vòng qua thanh xà đá để xuống dưới chân tấm bia đá cao sừng sững, đứng đối diện lưng với tấm bia, rồi dừng lại, tim đập thình thịch, không ai dám quay đầu lại nhìn xem bên trên đó khắc chữ gì.

    Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Cuối cùng cũng đi đến cuối con đường, cậu mau nghĩ ra cách gì đi, rốt cuộc có xem tấm bia đá hay không?”

    Tư Mã Khôi nói: “Xem thì chắc chắn là phải xem rồi, nhưng tớ vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để xem”. Anh nói, rồi thò tay ra sờ tấm bia đá nặng nề và lạnh lẽo phía sau lưng, khi đầu ngón tay Tư Mã Khôi chạm vào những vết khắc lõm hẳn xuống, không rõ vì nguyên cớ gì mà tự nhiên da đầu anh lại có cảm giác tê bì.

    Lúc này, Hải ngọng nói: “Sao tớ thấy chuyện này cứ tà mị thế nào ấy nhỉ, có đúng tấm bia đá này khiến người ta lăn quay ra chết vì sợ thật không?”

    Thắng Hương Lân nói: “Tấm bia đá vô cùng cổ quái, càng đến nước này, chúng ta càng phải cẩn thận hơn, đi sai một bước là càn khôn khó xoay chuyển đấy!”.

    Tư Mã Khôi cũng thấy lời Tháng Hương Lân nói rất đúng. Cả hội lúc này chỉ có hai con đường: con đường thứ nhất là không xem bí mật khác trên tấm bia nữa, trực tiếp nghĩ cách xóa những dòng chữ ấy đi, có điều hành động này cũng đồng nghĩa với việc mọi người sẽ mất cơ hội làm rõ chân tướng sự thật, và cũng không thể tưởng tượng được việc làm ấy sẽ dẫn tới những hậu quả gì; con đường thứ hai là chọn ra một thành viên, liều chết nhìn trộm bia đá, nếu lời nguyền chết chóc thực sự tồn tại, thì người này sẽ chết ngay lập tức, những thành viên khác chưa xem tấm bia đá vẫn sẽ không biết bí mật kinh thiên động địa kia rốt cuộc là gì. Có thể thấy, cả hai lựa chọn này đều không phải kế sách vẹn toàn.

    Từ trước tới giờ, Tư Mã Khôi luôn là người hành sự quyết đoán, nhưng lúc này anh cùng không tránh khỏi do dự, tiến thoái lưỡng nan. Trong lúc Tư Mã Khôi đang đau đầu nghĩ cách thì Nhị Học Sinh đứng bên cạnh đột nhiên co người thu lu một đống, run rẩy cầu xin Tư Mã Khôi: “Đừng nhìn tấm bia đá nữa, tôi… tôi có chết cũng không dám quay đầu lại đâu…”

    Cao Tư Dương nghe thấy vậy liền nhớ lại lời Hải ngọng nói lúc trước cho rằng Tư Mã Khôi là hạng người không coi mạng người ra gì, cô ngỡ anh đang ép buộc Nhị Học Sinh phải nhìn vào tấm bia, nên không nhịn được, cô nhướn lông mày, trừng mắt nhìn anh và nói: “Anh đúng là hạng phát xít mất hết nhân tính!”

    Tư Mã Khôi ngớ người chưa hiểu sự tình, anh thấy Hải ngọng và Thắng Hương Lân cũng nhìn mình với ánh mắt quái dị, thì quay sang hỏi Nhị Học Sinh tại sao khi nãy lại nói vậy? Hay sợi thần kinh nào bị chập mạch?

    Thì ra, Nhị Học Sinh đứng ngay cạnh Tư Mã Khôi, cũng quay lưng về phía tấm bia đá, trong khi nơm nớp lo sợ mình bị bắt làm bia đỡ đạn, là kẻ sẽ quay đầu lại xem tấm bia đá giết người kia, thì đột nhiên cậu ta cảm thấy phía sau có một bàn tay to lớn động đậy, trong bóng tối, cậu ta cứ ngỡ là Tư Mã Khôi đang cố ý dọa để lừa cậu ta quay đầu lại nhìn tấm bia, cậu ta sợ hết hồn, toàn thân run lẩy bẩy, nên quay sang van xin Tư Mã Khôi nương tay.

    Hải ngọng nghe xong, bảo Tư Mã Khôi: “Cậu cũng thật là! Lúc nào rồi mà còn bày trò, nghiêm túc một tí cho tớ nhờ! Cậu phải biết nỗi sợ có sức mạnh giết người đấy biết chưa? Cậu nói xem, cậu vừa trêu trọc gì Nhị Học Sinh đấy? Mà trêu cậu ta thì được nước gì cơ chứ?”

    Tư Mã Khôi thầm cảm thấy lạ, anh chửi: “Gà bịt đít thì đẻ thế mẹ nào được! Tớ chạm vào cậu ta lúc nào?”, anh vừa nói xong thì giật mình, trong đầu chợt lóe lên một ý nghĩ, lẽ nào trên tấm bia đá có thứ gì đó đang động đậy?

    Lúc này, dưới ánh sáng đom đóm yếu ớt, Nhị Học sinh có thể nhìn thấy hai tay Tư Mã Khôi vẫn ôm chặt khẩu Winchester, thì biết ngay anh ta không thể sờ vào lưng cậu được, phía sau cậu ta giờ đây chỉ có tấm bia đá, trong khi đó bàn tay quái lạ lạnh lẽo vẫn đang ở sau vai. Nhị Học Sinh sợ hãi đến đỉnh điểm, cậu ta hoảng loạn bật đèn quặng quay ra sau nhìn, vừa quay ra sau, cổ cậu lập tức cứng đơ như hóa đá, không thể cử động được nữa.

    Tư Mã Khôi đang đứng quay lưng về phía tấm bia đá, thấy Nhị Học Sinh đột nhiên ngoảnh đầu lại phía sau nhìn, anh vội vàng hét lên ngăn cản, nhưng Nhị Học Sinh chỉ đứng trơ ra đó, trừng mắt bất động, trên mặt còn vẹn nguyên nét méo mó do quá sợ hãi. Tư Mã Khôi biết cậu ta đã xảy ra chuyện, bèn giơ tay đẩy Nhọc Học Sinh ngã rầm xuống đất, cậu ta câm lặng không nói gì, cổ vẫn ngoẹo ra sau.

    Mọi người kinh hãi, chạy lại gần đỡ Nhị Học sinh lên, lúc ấy họ mới phát hiện không còn thấy hơi thở và nhịp tim. Chẳng ngờ cậu ta lại lăn ra chết ngay trước tấm bia đá.

    Hội Tư Mã Khôi từ rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá xuống cửu tuyền dưới lòng đất, ngoại trừ cậu dân binh Hổ Tử mất mạng trong kho pháo lõi kép ở đinh Thần Nông ra, thì dẫu trên đường gặp nhiều hung hiểm, nhưng vẫn chưa bị tổn thất thêm thành viên nào, không ngờ vừa mới đến được tới tấm bia đá lại đột ngột mất đi một thành viên, nghĩ đến những kỷ niệm đồng cam cộng khổ bao ngày qua, nghĩ đến một người đang sống sờ sờ bỗng dưng biến thành một tử thi lạnh lẽo, mọi người đều thấy đau xót trong lòng.

    Cao Tư Dương nhất thời không thể chấp nhận được sự thực, cô vẫn muốn cố gắng cứu sống Nhị Học Sinh, nên dùng tay liên tiếp ấn vào ngực cậu ta, máu đen từ miệng Nhị Học Sinh bất ngờ ùng ục trào ra ngoài. Cao Tư Dương vừa cuống, vừa buồn, nước mắt thi nhau tuôn rơi.

    Mọi người thấy cảnh tượng ấy thì đều cảm giác lồng ngực mình nặng trịch như có tảng đá đè lên, rồi nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt mà không khỏi lạnh sống lưng: “Xem ra chuyên sợ quá lăn ra chết là hoàn toàn có thật. Lẽ nào tấm bia đá đó có thể giết người thật sao?”

    Hải ngọng cảm thán: “Đúng là đàn gẩy tai trâu, sớm biết không được nhìn tấm bia đó, sao tiểu tử nhà cậu vẫn dám quay đầu lại? Thế chẳng phải tự chui đầu vào chỗ chết hay sao hả Nhị Học Sinh?”

    Thắng Hương Lân nói: “Tuy tính Nhị Học Sinh rất tò mò nhưng lại cũng rất nhát gan. Tôi dám chắc cậu ta không dám tự tiện quay đầu nhìn tấm bia đâu, nhưng sao khi nãy cậu ta lại đột nhiên quay đầu lại nhỉ? Hay là bị trúng tà?”

    Khi trước, Tư Mã Khôi vốn đã quan sát thấy trên tấm bia đá có thứ gì đó khẽ động đậy, nên lúc này anh nín thở nghe ngóng xem quả thật có gì hay không, nhưng chờ hồi lâu mà phía sau vẫn hoàn toàn im ắng, không một tiếng động nhỏ.

    Lúc này, Cao Tư Dương lấy tay áo quệt vệt nước mắt còn đọng cuối mi, cô nói: “Nhị Học Sinh là người rất hay sợ bóng sợ gió, nếu Tư Mã khôi và Hải ngọng không dọa, thì cậu ta cũng không đến nỗi vừa nghe thấy gió lay cỏ động đã vội quay đầu lại nhìn đâu”.

    Thắng Hương Lân phân trần: “Hai người họ tuy hơi độc miệng, nhưng lòng dạ rất tốt, nhiều khi nói chỉ để nói chứ không có ác ý gì đâu”.

    Cao Tư Dương không tin, cô bảo, bí mật khắc trên bia đá có thể giết chết người, không ai có thể phủ nhận chuyện này là sự thật, nhưng chỉ có cách quay đầu lại nhìn mới có thể biết rõ chân tướng của nó mà thôi, giờ đây chúng ta lại cần đi tìm sự thật, ắt phải có người phải hi sinh, chuyện này không cần phải nói ra, nhưng để giải câu đố tấm bia đá, thì nhất định phải thực hiện việc đó.

    Tư Mã Khôi nói: “Ban đầu tôi cũng nghĩ giống cô, nếu không nhìn tấm bia đá thì vĩnh viễn không thể biết người Bái Xà để lại bí mật gì, nhưng nhìn rồi sẽ lăn ra chết ngay lập tức, bí mật khắc trên tấm bia giống như một mối nối không thể tháo gỡ, cũng không thể đi vòng qua, chỉ có người đã chết mới biết rốt cuộc trên tấm đá có gì. Tôi thực sự không tưởng tượng được trên đời này lại tồn tại vật như vậy, nhưng trời cao đất rộng, vật lạ gì mà chẳng có, nếu lỡ liếc nhìn một cái là lập tức phái trả giá bằng tính mạng, thì việc vén bức màn của toàn bộ chuỗi ẩn số này còn có tác dụng gì nữa? Có điều tôi cho rằng, sở dĩ chúng ta bị sa lầy trong ‘mối nối chết’ này là vì chúng ta chưa lý giải được quy tắc của bí mật, hay nói cách khác là chưa hiểu được quy tắc của cái chết”.

    Mọi người chưa hiểu ý Tư Mã Khôi, liền thắc mắc: “Bí mật khắc trên tấm bia đá… còn có quy tắc sao?”

    Để mọi người hiểu được ý mình, Tư Mã Khôi liền nhắc lại rất nhiều manh mối mà mình phái hiện thấy ở dưới cửu tuyền, những manh mối ấy đã giúp anh dần dần hình dung ra được tổng thể của tấm bia đá cổ xưa và quái dị này.

    Bản thân tấm bia đá đứng sừng sững dưới lòng đất này không hề gây hại cho con người, nó chỉ là một khối đá macma khổng lồ mà thôi. Thời đó, có một con quái vật đầu người mình rắn, có lẽ đó chính là “xà nữ” bị mắc chứng thoái hóa trở về thời thủy tổ, bản thân nó chỉ là một cương thi vô tri vô giác, nó đã tiết lộ một bí mật kinh động trời đất, không một ai biết nguồn gốc của bí mật ở đâu, chỉ biết nó đến từ hư không, bởi người Bái Xà tin rằng các vị thần đã truyền đạt bí mật đó tới bộ tộc thông qua xà nữ. Cảnh tượng này được mô tả rất sinh động trong các bức bích họa, nếu dùng sự so sánh trực quan để hình dung, thì quái vật đầu người mình rắn giống như một cỗ máy điện đàm có thể thu được tín hiệu truyền đến từ hư vô.

    Tư Mã Khôi cho rằng, âm thanh mà xà nữ giống như cương thi kia thốt ra, rất có khả năng chỉ là âm hưởng khác thường phát ra từ cổ họng, chứ chưa chắc đã là do thần Vũ Xà nhập thể. Tuy người Bái Xà cổ đại sùng kính thần quỷ, nhưng thần quỷ thực sự trông như thế nào, e rằng chưa ai tận mắt nhìn thấy, còn về hiện tượng xà nữ kia thì giờ đây chẳng ai tìm ra chứng cứ được nữa. Tóm lại, nội dung câu nói thốt ra từ miệng xà nữ trở thành một bí mật có thể giết hại con người, phàm ai biết toàn bộ nội dung bí mật này đều sẽ bị chết tức khắc, bởi vậy người Bái Xà cổ đại mới áp dụng phương pháp phân chia cho chín vị vương giả lưu giữ từng phần của bí mật, cuối cùng chẳng rõ vì nguyên nhân gì, họ khắc nội dung hoàn chỉnh của bí mật đó lên tấm bia đá đặt ở miếu thần, đồng thời để lại lời nguyền khủng khiếp ‘kẻ nào dám nhìn trộm bí mật, kẻ đó sẽ chết ngay tức khắc’.

    Tư Mã Khôi nối những manh mối ấy lại với nhau, anh phát hiện tấm bia đá Bái Xà tồn tại một “quy tắc”, bí mật này đại khái có tám, chín chữ, không ai có thể thông hiểu nội dung của nó từ đầu đến cuối, chỉ cần nắm bắt được toàn bộ bí mật sẽ lập tức lăn ra chết, nhưng nếu chỉ nhìn thấy một phần bí mật thì sẽ không gặp phải nguy hiểm gì, chính người Bái Xà đã sử dụng cách thức này nên mới có thể lưu truyền và giữ gìn bí mật suốt nhiều năm như thế.

    Ngoài ra, mọi người chỉ chăm chăm đoán xem bí mật gì có thể gây chết người, mà bỏ qua một chuyện, đó là tất cả các chữ đều khắc bằng chữ triện cổ long ấn, loại chữ triện cổ trông loằng ngoằng như giun dế kia sớm đã thất truyền từ mấy ngàn năm trước, hội Tư Mã Khôi chỉ căn cứ vào những ghi chép mà đội khảo sát Lopnor để lại dần dần đối chiếu từng chút một và phân biệt, nhưng cuối cùng cũng không thể dám chắc có giải đọc được toàn bộ nội dung hay không, hơn nữa những đường nét vết khắc mà người Bái Xà để lại dẫu có cổ quái thế nào chăng nữa, cũng không đến mức gây nguy hại chết người, bởi thế cho dù bây giờ cả hội có đứng trước tấm bia và nhìn chữ triện cổ, thì chắc chắn cũng không gặp phải nguy hiểm gì.

    Ý niệm đó cứ luẩn quẩn trong đầu Tư Mã Khôi, chỉ có điều anh vẫn chưa hoàn toàn nghĩ thông suốt, bởi vậy trước khi nói ra cho mọi người biết, anh cũng không vội quay lại nhìn dòng chữ tấm bia đá, mà đợi đến khi có đối sách mới ra tay hành động.

    Cao Tư Dương nghe xong, biết là mình đã trách lầm Tư Mã Khôi thì cảm thấy rất áy náy, có điều lời đã nói ra không rút lại được. Nhưng nghĩ cũng thật kỳ lạ, Nhị Học Sinh chắc chắn không biết gì về chữ triện cổ khắc trên tấm bia đá, vậy sao cậu ta lại lăn ra đột tử dưới chân bia?

    Tư Mã Khôi cho rằng cơ thể Nhị Học Sinh yếu ớt, gắng gượng suốt chặng đường từ rừng rậm Thần Nông Giá đến đây thì kiệt sức như ngọn đèn cạn dầu, cậu ta phải chịu áp lực trong môi trường không có ánh sáng dưới lòng đất trong thời gian dài, cộng thêm tinh thần lo sợ, hồi hộp quá độ nên khuỵu xuống chết đột ngột cũng không có gì kỳ lạ. Tư Mã Khôi thầm biết việc lớn đang chờ trước mắt, giờ không phải lúc đau thương trước cái chết thảm của người bạn đồng hành, nên anh cùng ba thành viên còn lại bắt đầu hành động. Anh gỡ huy hiệu và chiếc bút máy mà Nhị Học Sinh vẫn cài trên ngực, cho vào trong túi, rồi dỡ chiếc đèn hỏa diệm nhiệt độ cao xuống, giao cho Hải ngọng vác trên lưng, sau đó anh tưới dầu vào thi thể Nhị Học Sinh, châm lửa hỏa thiêu và đẩy di hài xuống dưới thanh xà đá. Cuối cùng cả hội quay người bước đi, nhìn về phía tấm bia đá đang đứng sừng sững ở điểm tận cùng của dãy núi.
     
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 2: KẺ XUẤT HIỆN Ở PHÍA BÊN KIA


    Căn cứ vào cảnh tượng vẽ trong bức bích họa trên tường Tử thành, Tư Mã Khôi suy đoán tấm bia Bái Xà có một quy luật, quy luật đó là: nếu chỉ biết một phần bí mật, thì sẽ tương đối an toàn, hơn nữa không ai trong hội Tư Mã Khôi biết nửa chữ triện cổ Bái Xà khắc chìm trên tấm bia đá, nên tất nhiên không thể hiểu được nội dung tấm bia đá viết gì, điều đó đồng nghĩa với việc dẫu hội Tư Mã Khôi có đứng gần xem thì cũng không gặp phải nguy hiểm, có điều anh không chắc chắn trăm phần trăm về điều này, bởi rốt cuộc Nhị Học Sinh cũng vẫn đột ngột lăn ra chết đấy thôi, sự việc dường như đang phát triển theo hướng không thể lường trước. Tuy vậy, Tư Mã Khôi vẫn là tay liều mạng, dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận mạo hiểm, anh ra hiệu cho hội Hải ngọng không được manh động, còn mình quay đầu lại và ngẩng lên nhìn tấm bia đá.

    Trên tấm bia đá cao sừng sững như bức tường thành chằng chịt ngang dọc những vết nứt mai rùa chỗ nông, chỗ sâu, trải qua sự mài mòn của tuế nguyệt, những vằn vện trên tấm bia đã trở nên loang lổ đến thảm hại, bề mặt còn mọc thảm rêu khá dày, hàng chữ triện cổ được khắc sâu xuống lòng đá, mỗi chữ to như cái đấu nên dẫu bao năm tháng phôi pha, nhưng các chữ vẫn không bị ảnh hưởng nghiêm trọng lắm.

    Tư Mã Khôi soi chùm sáng đèn quặng lên tấm bia, quầng sáng chiếu đúng vào một chữ cổ, cảm giác ngộp thở bỗng đâu ập đến, anh hít một hơi thật sâu, rồi soi đèn quặng ra xung quanh, chỉ thấy từng hàng từng hàng chữ long triện với hình dạng tương tự nhau hiện ra trước mặt, quả nhiên người Bái Xà đã khắc lặp đi lặp lại một câu duy nhất thành nhiều dòng, chỉ cần tiếp cận tấm bia đá, thì dẫu ờ góc độ nào, đều có thể nhìn thấy hàng chữ cổ ấy.

    Chữ tượng hình của người Bái Xà cổ đại là tiền thân của chữ triện cổ triều Hạ, nó còn xuất hiện sớm hơn cả chữ giáp cốt thời Ân Thương. Tư Mã Khôi từng nhiều lần nhìn thấy loại chữ này trong thành Nhện Vàng ờ Miến Điện và trong biển cát ở cực vực Lopnor. Đội khảo sát liên hợp Trung Xô gặp nạn ở kính viễn vọng Lopnor có một chuyên gia khảo cổ tinh thông các loại văn tự bị thất truyền, trước khi chết, ông đã để lại một cuốn sổ ghi chép dùng biện pháp đối chiếu để giải mã ý nghĩa của chữ long triện triều Hạ. Hội Tư Mã Khôi cũng đọc khá kỹ các ghi chép trong cuốn sổ, nhưng vẫn chưa thành thục đến độ chỉ cần nhìn là biết ý nghĩa, mà phải đối chiếu từng chữ mới hiểu được nội dung.

    Tư Mã Khôi hồi hộp nhìn tấm bia đá, một lúc sau, anh vẫn không phát giác thấy hiện tượng gì khác thường, anh nghĩ có lẽ dự đoán của mình không sai, nên liền bảo ba người còn lại cũng quay đầu lại nhìn.

    Mọi người đứng lặng trước tấm bia hồi lâu, mối nghi ngờ càng lúc càng dâng trào trong lòng, họ không hiểu bí mật ghi chép trên tấm bia đá có thể là gì? Giống như Hải ngọng nói lúc trước, nếu chỉ có mấy chữ thì nói một câu có khi còn chưa rõ nghĩa, chứ làm sao có thể còn ẩn chứa bí mật kinh thiên động địa gì? Hơn nữa, vì sao dòng chữ ấy lại được khắc lặp đi lặp lại nhiều lần? Điểm then chốt nhất ở đây là bí mật này liệu có liên quan gì đến Nấm mồ xanh không?

    Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Tớ có ý kiến thế này, đã xem thì phải xem hết, vậy mới biết mấy cái ký tự quỷ quái đó rốt cuộc có ý nghĩa gì chứ!”

    Tư Mã Khôi nói, nếu xem toàn bộ bí mật chắc chắn sẽ mất mạng, chúng ta không thể không phòng chuyện này được, có điều nếu chỉ xem một phần bí mật chắc sẽ không sao, một phần nghĩa là ít nhất một chữ, nhiều nhất cũng chỉ bốn, năm chữ, tóm lại bí mật khắc trên bia Bái Xà tổng cộng có chín chữ, chúng ta giải được hai, ba chữ là đã có thể tìm ra manh mối để suy đoán rồi, đương nhiên nhìn con cọp qua ống tre, thì cùng lắm cũng chỉ thấy nhúm lông, khác gì chúng ta bây giờ bị bịt kín hai mắt.

    Tuy trong tay Tư Mã Khôi có cuốn sổ giải mã chữ triện cổ, nhưng bảo anh đối chiếu từng chữ một thì còn khó hơn lên trời, thế là anh quay sang hỏi Thắng Hương Lân xem cô có thể giải một hai chữ không?

    Thắng Hương Lân từng nhìn thấy rất nhiều phù hiệu tượng hình chữ triện cổ trong kính viễn vọng Lopnor và Tử thành của người Bái Xà và cũng thử giải mã khá nhiều chữ, bởi vậy cô có thể cầm chắc tám phần là giải được. Thắng Hương Lân móc cuốn sổ ghi chép chăm chú đối chiếu với tấm bia, chẳng bao lâu sau, cô đã giải được một chữ trong đó.

    Hội Tư Mã Khôi thấy sắc mặt Thắng Hương Lân lộ vẻ ngạc nhiên, hồi lâu không nói gì, thì không rõ cô không thể giải mã nổi hay do tình hình xảy ra điều gì ngoài dự kiến, lòng dạ ai nấy đều hồi hộp không yên. Tư Mã Khôi không nhịn được bèn cất tiếng hỏi: “Chữ đó có nghĩa gì?”

    Bí mật ghi chép trên tấm bia Bái Xà liên quan đến sự sống chết và quyết định tiến hay lùi của cả hội, bởi vậy Thắng Hương Lân đâu dám bất cẩn. Nhờ cuốn nhật ký, cô giải được một chữ, rồi xác nhận đi xác nhận lại mấy lấy liền, khi đã chắc chắn không thể xảy ra nhầm lẫn, cô mới nói với hội Tư Mã Khôi: “Chữ đầu tiên trên tấm bia đá là 0”.

    Tư Mã Khôi không hiểu đầu đuôi thế nào, dồn dập hỏi: “Không… nghĩa là gì?”

    Thắng Hương Lân đáp: “Trong hệ chữ triện cổ Bái Xà thì đây là phù hiệu tượng trưng cho hư vô, có thể dùng số 0 trong hệ chữ số Ả Rập để biểu thị”.

    Tư Mã Khôi nhíu mày, anh im lặng suy nghĩ, từ chuyện mô tả trong bức bích họa ở thành cổ thì thấy bí mật này do các vị thần cổ đại tiết lộ thông qua xà nữ, mà những chuyện thần tiên quỷ quái thực ra chỉ là hoang đường. Có lẽ tất cả chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, dù gì nó cũng không có nguồn có gốc, xà nữ nói một câu hoàn chỉnh gồm tất cả chín chữ, không rõ chín chữ đó kinh thiên động địa đến cỡ nào mà người Bái Xà cổ lại phải ghi chép thành nhiều đoạn và giữ gìn suốt nhiều năm cho đến khi họ khắc bí mật đó vào tấm bia đá nặng ngàn cân chìm sâu dưới cửu tuyền thăm thẳm này. Điều kỳ lạ nhất, cũng là điều khó hiểu nhất của bí mật này chính là ‘hễ biết toàn bộ nội dung bí mật sẽ lập tức lăn ra chết’, chính bởi vậy không ai dám nhìn trộm toàn bộ diện mạo của nó, giờ chỉ còn cách giải mã một vài chữ trong dãy chữ, sau đó tìm biện pháp suy đoán nốt phần nội dung còn lại mà thôi, có điều anh không ngờ chữ đầu tiên được giải được lại chẳng mang ý nghĩa gì như thế, nên đành bảo Thắng Hương Lân tiếp tục giải mã thêm vài chữ nữa, xem có thể tìm thấy manh mối gì hữu dụng không.

    Thắng Hương Lân soi đèn quặng vào tấm bia đá, lần lượt tìm từng chữ, rồi đối chiếu với nội dung ghi trong cuốn sổ, cô phát hiện ký tự tiếp theo vẫn là một chữ số – số 9.

    Hải ngọng sốt ruột, giật mũ xuống, vò đầu bứt tai chửi: “Bọn người cổ đại này định giở trò gì không biết, sao lại khắc bao nhiêu chữ số trên tấm bia thế chứ?”.

    Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Ngoại trừ số ra, trên tấm bia chắc chắn phải có nội dung khác, nếu không người Bái Xà đâu cần thiết phải vùi nó xuống nơi còn sâu hơn cả địa ngục này, cô tiếp tục giải mấy chữ nữa xem sao!”

    Ánh mắt Thắng Hương Lân đưa theo chùm sáng, từ từ quét một lượt trên tấm bia đá đầy những vết rạn nứt và rêu khô, thần sắc hoang mang, cô nói: “Không cần tiếp tục giải mã nữa đâu, bí mật trên tấm bia của người Bái Xà chắc chắn là một dãy số”.

    Cao Tư Dương lắc đầu, thử nghĩ xem một dãy số thì sao có thể khiến người đang sống bỗng lăn ra chết được? Dãy số này ẩn chứa tai họa lớn đến chừng nào? Vì sao người Bái Xà lại vừa kinh vừa sợ nó? Hơn nữa, Thắng Hương Lân mất không ít thời gian mới giải được hai chữ, vậy sao bảy chữ còn lại, cô ấy chỉ xem chốc lát, mà đã dám chắc những chữ khắc trên tấm bia là một dãy số?

    Thắng Hương Lân nói: “Ký tự chữ số trong hệ chữ triện cổ Bái Xà có kết cấu tương tự nhau, nắm được quy luật là biết ngay thôi, tuy tôi không biết cụ thể từng số, nhưng dựa vào hình khắc trên tấm bia, tôi có thể phán đoán rằng, tất cả những ký tự này tượng trưng cho các chữ số, đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa”.

    Hải ngọng nghiến răng, trợn mắt: “Từ rừng rậm Miến Điện đến cửu tuyền dưới lòng đất, trên đường chết bao nhiêu mạng người, chịu biết bao khổ cực, lòng vòng vạn lý, chết đi sống lại bao phen, khó khăn lắm mới tìm thấy tấm bia đá của người Bái Xà, vậy mà sao bí mật khắc trên đó chỉ là mấy chữ số? Làm gì có trò đùa ác như thế? Tớ nghĩ chắc bọn mình và Nấm mồ xanh đều mắc lừa rồi, ai từng thấy dãy số nào lại giết chết được người không?”, nói xong, anh phẫn nộ từ đáy lòng, nhặt một viên đá định ném thẳng vào tấm bia.

    Tư Mã Khôi vẫn rất sáng suốt, anh nhướng vai che trước Hải ngọng: “Đừng vội động thủ, nếu đúng như tớ dự liệu, thì dãy số đó chính là lời giải cho tất cả ẩn số đấy, chỉ có điều bản thân lời giải ấy cũng là một ẩn số”.

    Thắng Hương Lân chăm chú nhìn tấm bia đá, nghĩ ngợi một hồi, thấy Tư Mã Khôi nói không sai, cô bèn lần lượt giải từng chữ theo cuốn sổ: 0…9…1…0…

    Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân sắp đọc hết cả dãy số, anh lập tức lấy cuốn sổ che tấm bia lại và nói: “Không nên xem hết bí mật thì hơn!”

    Hải ngọng không hiểu, liền thắc mắc: “Đã đến nước này rồi thì còn sợ bóng sợ gió gì nữa, tốt nhất cứ xem hết xem nó khắc những gì!”

    Tư Mã Khôi nói với hội Hải ngọng: “Bây giờ đã biết bí mật trên tấm bia là một dãy số, thế là đủ, nếu giải toàn bộ dãy số đó, ai mà biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì? Tuy những ghi chép trong bích họa ở Tử thành về tấm bía đá nghe có vẻ hoang đường, nhưng giờ ngẫm lại thấy cũng không hoàn toàn là bịa đặt cả đâu. Nếu con quái vật đầu người mình rắn đúng là xà nữ, thì tôi nghĩ chắc chắn mụ cương thi đó không thể nói điều gì phức tạp, bởi vậy cổ nhân chỉ nghe được ngắt quãng mấy con số từ miệng xà nữ mà thôi, phân tích như vậy sẽ thấy chuỗi sự việc diễn ra khá hợp tình hợp lý. Mọi người có nghĩ xem vì sao người Bái Xà lại tôn kính dãy số đó như tôn kính thần quỷ vậy không? Hơn nữa, còn chôn vùi nó xuống tận nơi sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền và không ngừng cảnh cáo hậu thế rằng tuyệt đối không được nhìn, cũng không được đọc, thậm chí còn không được nghĩ về những chữ khắc trên tấm bia, kẻ nào phá vỡ cấm kỵ, kẻ đó sẽ lập tức chết thảm?”

    Hải ngọng nói: “Người xưa mê tín, chuyên môn giả thần giả quỷ, cậu chưa ngốc đến nỗi tin vào mấy chuyện này đấy chứ?”

    Tư Mã Khôi nói: “Triệu Lão Biệt, Nấm mồ xanh, các thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor và cả đội thám hiểm đi khinh khí cầu nhiệt xuống lòng đất đều ít nhiều biết về bí mật của người Bái Xà, điều đó cho thấy tuy tấm bia bị vùi xuống lòng đất khá lâu, nhưng bí mật này không hẳn đã được bảo mật kín bưng, vì hậu duệ của người Bái Xà vẫn tiếp tục tồn tại mấy ngàn năm sau mới hoàn toàn bị tuyệt diệt, chỉ có điều thánh hiền từ cổ chí kim chưa ai có thể phá được cửa ải này thôi. Nếu bí mật trên tấm bia đá của người Bái Xà đúng là một dãy số, thì dãy số đó nhất định phải ẩn giấu một thứ gì đó rất ghê gớm”.

    Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Điên thật! Các cậu kẻ tung người hứng, nhưng nếu chúng ta không xem hết các chữ trên tấm bia, thì làm sao biết được thứ ghê gớm mà cậu nói rốt cuộc là thứ gì?”

    Tư Mã Khôi nói: “Bí mật trên tấm bia đá không thể suy đoán ra được, tớ thấy chỉ dựa vào mấy cái đầu bọn mình, e là không thể giải được ẩn số này. Ngoài ra, nếu đọc hết nội dung khắc trên tấm bia sẽ dẫn đến hậu quả gì? Liệu dự báo của bức họa trên vách tường ở Tử thành có trở thành sự thật? Mọi chuyện đều rất khó lường, suốt chặng đường đi, chúng ta đã trải qua bao chuyện ly kỳ, quái lạ, ai biết sắp tới sẽ phải đụng độ với lời nguyền quỷ quái thế nào, nếu chưa đến bước đường cùng, chúng ta tuyệt đối không nên mạo hiểm!”

    Thắng Hương Lân gật đầu đồng ý, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Theo anh, chúng ta nên làm gì bây giờ?”

    Tư Mã Khôi nói: “Tôi thấy, trong các di chỉ của người Bái Xà có rất nhiều ghi chép về tấm bia đá, đương nhiên người ta không nhắc đến bí mật khắc trên tấm bia, nhưng còn một chuyện mà không rõ do vô tình hay cố ý mà từ đầu chí cuối người ta cũng giấu nhẹm — đó là vì sao họ lại cất giấu bí mật trong một miếu thần nằm sâu trong động ngầm dưới lòng đất?”

    Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Chẳng lẽ động ngầm này có gì bất thường sao?”

    Điều Tư Mã Khôi đang băn khoăn chính là chuyện này, trong chốc lát không thể giải câu đố trên tấm bia, anh đành phải tìm manh mối từ chỗ khác, thế là anh vừa thì thầm bàn bạc với hai người còn lại, vừa soi đèn quặng quan sát địa hình xung quanh. Bất chợt anh thấy Cao Tư Dương nắm chặt báng súng, mắt nhìn trừng trừng vào tấm bia đá, anh hỏi: “Cô nhìn gì vậy?”.

    Tư Mã Khôi hỏi đến câu thứ hai, Cao Tư Dương mới định thần trở lại, nét mặt cô toát lên vẻ khiếp sợ và kinh ngạc tột độ, cô chỉ lên vết rạn nứt của tấm bia, rồi trả lởi bằng giọng run rẩy: “Tôi nhìn thấy người vừa mới chết… đứng ở phía bên kia… bên kia của tấm bia đá!”
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này