1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Mê Tông Chi Quốc IV !! -Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 27/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 3: KHE NỨT


    Tư Mã Khôi thấy thần sắc Cao Tư Dương kỳ quái anh thầm nghĩ: “Người vừa mới chết ư? Ngoài cậu thanh niên trí thức đến từ lâm trường tên là Nhị Học Sinh ra thì còn ai nữa chứ?”

    Trước đây, giới lục lâm kết bè đảng với nhau hoạt động ở những nơi hẻo lánh, người nào không may gặp nạn mất mạng, thì đồng bọn sẽ đem tử thi đi hỏa thiêu, chứ không nhập thổ chôn thây, bởi vì những nơi sơn cùng cốc hẻm có rất nhiều côn trùng, rắn rết và dã thú, lại không có quan tài để đặt thi thể, nên chẳng bao lâu sau thi thể sẽ bị dã thú kéo đi ăn thịt hoặc nếu chết ở sa mạc khô nóng, tử thi sẽ khô quắt lại, da thịt không thể tiêu hủy trong suốt nhiều năm, mà sẽ giữ nguyên ở hình dạng cũ, đừng nói nếu âm hồn biết sẽ đau lòng, mà ngay cả người sống cũng không nỡ nhìn, bởi vậy họ mới chọn cách hỏa thiêu người chết.

    Lúc trước, Nhị Học Sinh bất ngờ đột tử trước tấm bia đá, chính tay Tư Mã Khôi đã hỏa thiêu thi thể, rồi thả cái xác đã bị thiêu cháy ấy xuống hố sâu dưới đáy động, vậy sao đột nhiên giờ Nhị Học Sinh lại xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá được?

    Trăm nghe không bằng một thấy, tim Tư Mã Khôi đập thình thình, anh nhìn về phía tay Cao Tư Dương đang chỉ, chính là nơi Nhị Học Sinh vừa đứng. Tấm bia cổ khổng lồ và dày nặng đứng sừng sững cả mấy ngàn năm ở tận cùng địa mạch, do chịu sức nặng không tương xứng, nên chỗ nào cũng chằng chịt những vết nứt hình mai rùa, chỗ nông chỗ sâu; có điều kết cấu tấm bia thì vẫn vô cùng chắc chắn, nếu không xảy ra địa chấn dữ dội thì khả năng nó còn giữ nguyên hình dạng này đến mãi mãi. Thời gian trôi chảy hết năm này qua năm khác, nó vẫn đứng uy nghiêm trong động ngầm, phần phía dưới chân tấm bia có vết nứt ngang, ngoài rộng trong hẹp, Tư Mã Khôi đứng trước vết nứt, chỉ cần khẽ cúi xuống là có thể nhìn xuyên sang phía bên kia của tấm bia.

    Hóa ra vết nứt này khá sâu, anh tháo đèn quặng trên đầu xuống để soi cho rõ, lúc ánh sáng xuyên qua khe nứt hẹp, anh có thể nhìn thấy phía bên kia của bia đá, bên đó tối đen như mực, nhưng dường như thông với một lối đi. Phạm vi chiếu sáng của đèn quặng khá nhỏ, góc chiếu lại bị giới hạn trong phạm vi khe nứt, nên rất khó nhìn thấy tình hình ờ phía bên kia, dù vậy vẫn đủ để anh thấy một bóng đen đứng lù lù trong màn đêm dày đặc, dường như kẻ đó đang đứng quay lưng lại với anh. Nhận thấy ánh đèn soi về phía mình, kẻ đó từ từ quay đầu lại, khuôn mặt méo mó vì sợ hãi rất quen thuộc kia nhìn thẳng vào Tư Mã Khôi qua khe nứt của bia đá, rồi anh thấy khuôn mặt đó đột nhiên rụt về phía sau và biến mất.

    Tư Mã Khôi hết hồn, anh mở to mắt cố nhìn sang phía bên kia của tấm bia, nhưng trước mặt chỉ còn màn đêm đen ngòm, khi hội Hải ngọng và Thắng Hương Lân lại gần tấm bia đá và nhìn sang, thì không còn thấy gì nữa.

    Cao Tư Dương vẫn không dám tin vào những gì mình vừa nhìn thấy, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có nhìn rõ không? Rốt cuộc đó là người hay ma?”

    Tư Mã Khôi kể lại cảnh tượng mình vừa trông thấy cho ba người còn lại nghe, lòng anh biết rõ kẻ xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá chính là Nhị Học Sinh – người vừa mới chết cách đây không lâu, đó là sự thật không thể sai được, có điều người chết giống như ngọn đèn đã tắt, hài cốt của Nhị Học sinh đã bị thiêu cháy thành tro, hơn nữa cậu ta lại không phải dị nhân có khả năng thông hiểu yêu thuật như Triệu Lão Biệt, thì làm sao còn có thể hiện hình sau khi đã chết được?

    Thắng Hương Lân đoán: “Trong mạch đất tồn tại sương đen mang từ tính, có lẽ vừa rồi chỉ là hư ảnh xuất hiện trong sương mà thôi. Lần trước, dưới hố tế lễ Sở Vương ở biển Âm Dụ phía dưới Đại Thần Nông Giá, chẳng phải chúng ta cũng từng gặp phải hiện tượng này rồi sao?”

    Tư Mã Khôi lại cảm thấy lần này dường như không giống lần trước, vì chỉ khi tiếp xúc với sương đen, một vật mới có thể để lại hư ảnh của nó trong sương, nhưng xung quanh tấm bia nào có sương mù dày đặc, hơn nữa khe nứt trên tấm bia rất hẹp, người thường, không thể chui qua được, nên trước khi chết chắc chắn Nhi Học Sinh chưa từng chui qua khe nứt để sang phía bên kia của tấm bia đá.

    Hải ngọng nói: “Thế thì chắc là ma rồi, nghe nói người nào chết bất đắc kỳ tử, thì oan khí lúc sinh thời không thoát ra được, nó khiến cho âm hồn mãi mãi không thể tiêu tan…”

    Tư Mã Khôi nói: “Tớ thấy Nhị Học Sinh ở phía bên kia bia đá rõ ràng là người sống, ít nhất khi cậu ta quay mặt lại thì vẫn còn đang sống, nhưng thoáng một cái sinh khí đó vụt biến mất, rồi bộ dạng cậu ta y hệt như lúc sợ quá mà chết ấy!”

    Cao Tư Dương sợ hãi nói: “Hay những chuyện đã xảy ra ở bên này của tấm bia, sẽ xảy ra lần nữa ở phía bên kia của tấm bia?”

    Lời nói của Cao Tư Dương tuy chỉ vô tình, nhưng hội Tư Mã Khôi nghe mà thấy lạnh hết tóc gáy – những chuyện đã xảy ra sẽ diễn lại một lần nữa ở phía bên kia tấm bia sao?

    Lẽ nào đây chính là bí mật của tấm bia đá? Rốt cuộc phía bên kia của tấm bia tồn tại thứ khủng khiếp gì?

    Thắng Hương Lân nói, người Bái Xà cho rằng thế giới chia ra thành hai phần hư và thực, chúng tồn tại tương ứng, vạn vật vạn sự mà chúng ta biết thuộc về thế giới thực, còn những thứ tồn tại ở thế giới hư thì không ai biết, lẽ nào phía bèn kia của tấm bia chính là thế giới hư?

    Tư Mã Khôi nói: “Trước đây nghe giáo sư Nông địa cầu nói về thuyết âm dương và thái cực đồ, đó là một vòng tròn có hai sắc đen trắng, mỗi màu chiếm một nửa, trong phần đen có một chấm tròn trắng, còn trong phần trắng có một chấm đen, ở giữa là dải phân cách hình chữ S tượng trưng cho hỗn độn giữa hai cõi âm dương, đen trắng, hư thực, dải chữ S cong cong đó gọi là đường gì ấy nhỉ? Tóm lại tấm bia đá của người Bái Xà chính là ranh giới giữa hai cõi hư thực giống như dải phân cách hình chữ S kia.”

    Thắng Hương Lân nói, có lẽ đó là đường cong lưu chuyển thái cực, nếu thực sự tồn tại đường cong này thì phía đối diện của tấm bia chính là thế giới hư.

    Hải ngọng kinh ngạc nói: “Chỗ chúng ta đang đứng đã sâu đến mức không thể sâu hơn nữa, nếu tiếp tục đi xuống dưới sẽ là biển lửa, suối nóng đủ luộc chín người, trách gì phía sau tấm bia đá vẫn còn thông đạo để có thể đi sâu hơn nữa, không những vậy còn thấy hàn khí âm lạnh bốc lên, thì ra nơi đó thông với cái gì mà… “hư”… đó sao?”

    Tư Mã Khôi im lặng, anh vẫn không thể xác định tấm bia đá này rốt cuộc có điểm gì cổ quái, bởi vậy anh lại ngó đầu vào khe nứt nhòm sang phía bên kia sâu hút, nhưng ở đó chỉ có màn đêm mênh mang, không nhìn thấy gì hết, nơi sâu thẳm đó chứa đầy hơi thở của cái chết tuyệt vọng, nó khiến người ta thấy thấu lạnh tim gan. Nhưng nếu theo phương pháp suy đoán này, thì tấm bia đá dường như tồn tại ở đây để ngăn chặn thứ gì đó bò ra từ thế giới hư, có điều tấm bia đá của người Bái Xà cũng chỉ là một tảng nham thạch khổng lồ, bị vùi hàng ngàn năm dưới cửu tuyền, khắp bề mặt lỗ chỗ toàn vết rạn nứt loang lổ, trên tấm bia khắc lặp đi lặp lại một dãy số, nhưng dẫu vậy cũng làm sao có thể ngăn chặn nổi thứ gì? Hơn nữa, nếu suy đoán như vậy thì hoàn toàn không khớp với truyền thuyết về tấm bia đá của người Bái Xà. Vấn đề then chốt của tấm bia chính là không ai được phép nhìn, cũng như không được phép nghĩ về dãy số đó, bí mật này nhất định có liên quan đến tên Nấm mồ xanh không bao giờ dám lộ mặt, mọi suy đoán một chiều dường như chỉ khiến tư duy sa vào ngõ cụt, không biết bây giờ nên tìm manh mối từ đâu? Xem ra chỉ có cách mạo hiểm leo sang phía bên kia của tấm bia mới có cơ hội tìm ra chân tướng sự thật.

    Tư Mã Khôi nghĩ vậy liền vác súng lên vai, bám vào các vết nứt trên tấm bia để trèo lên chỗ cao, rồi soi ánh đèn quặng, đưa mắt tìm kiếm. Anh phát hiện tấm bia đá được đặt như găm sâu vào vách đá, nhưng giữa phần đỉnh của tấm bia đá bị sụt xuống và tầng đá phía trên có một khe hở vừa sâu vừa hẹp, nơi cao nhất trong khe hở cũng gần một mét, chỉ cần khom lưng xuống là có thể chui qua đó để sang mặt bên kia tấm bia, phần phía trên tấm bia dày mấy mét cũng khắc đầy những kỳ tự số cổ quái, nét vẽ cổ xưa, thô cứng, đặc biệt là khắc rất sâu, tuy nó cũng bị đất cát và rong rêu phủ lấp, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy dấu tích văn tự trên mặt bia, Tư Mã Khôi muốn đứng từ nơi cao nhìn xuống phần chân tấm bia, nhưng chùm sáng đèn quặng đã bị bóng tối nuốt chửng, nên tầm nhìn của anh gần bằng không, tuy vậy mũi thoang thoảng ngửi thấy mùi thối của xác chết, luồng âm phong lạnh thấu xương thổi thốc lên làm anh cảm giác như mình đang đứng trước miệng vực dựng đứng và sâu hút.

    Lúc này, hội Hải ngọng cũng lồm cồm bò lên đến phần trên cùng bia, nhìn về phía hang động đen ngòm. Tuy cả hội toàn những người cứng gan, nhưng trèo lên đến đây vẫn thấy tim đập chân run.

    Hải ngọng xách súng săn liếc mắt nhìn xuống dưới mấy lượt, càng không nhìn thấy gì trong lòng anh lại càng thấy rờn rợn, anh bảo Tư Mã khôi: “Sao chỗ này cứ có mùi người chết thế nhỉ? Tớ thấy mặc kệ phía dưới có thứ gì, nhưng đây chắc chắn là nơi có đi mà không có về, chi bằng ta nghĩ cách cạo sạch dãy số mà Nấm mồ xanh đang muốn tìm cho xong, sau đó chạy trốn càng xa càng tốt, có chết cũng đừng chết ở nơi đến ma cũng không thể tìm thấy thế này”.

    Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Bây giờ còn không rõ vì sao Nấm mồ xanh muốn tìm tấm bia đá, cho nên trước khi xác định rõ ý nghĩa của dãy số, không ai được động tay vào tấm bia!”

    Tư Mã Khôi vừa nói vừa chuẩn bị lửa đuốc chiếu sáng, anh đang định chui vào động tối phía bên kia của tấm bia để tìm hiểu cho rõ.

    Thắng Hương Lân vẫn là người chu đáo hơn cả, cô nhắc nhở Tư Mã Khôi, chính vì không đoán được ý đồ của Nấm mồ xanh, nên mỗi hành động trước tấm bia đá đều có thể tạo ra một kết quả không thể cứu vãn được, mà chưa biết chừng mục đích của Nấm mồ xanh chính là… muốn những kẻ may mắn sống sót chúng ta chui xuống cửu tuyền để vén bức màn bí mật này cũng nên.

    Tư Mã Khôi nghe xong, tim chợt hụt đi một nhịp, cách hành xử của Nấm mồ xanh quái dị, khó lường nên khả năng đó cũng chưa hẳn không thể xảy ra, vì sao bí mật khắc trên tấm bia không được phép nhìn, cũng không được phép nói ra? Đằng sau dãy số kia ẩn giấu bí mật khiếp người nào? Vì sao rất nhiều nhà thám hiểm và nhà khảo cổ đều cho rằng nó chính là bí mật lớn nhất thế giới? Nó là mật mã? Tín hiệu? Ám ngữ? Lời nguyền? Hay một loại tần số sóng điện nào đó? Bất kể đáp số là gì, thì làm sao nó có thể giết người được? Hang động ở phía đầu bên kia của tấm bia có phải thế giới hư vô? Khuôn mặt chưa bao giờ dám để người khác trông thấy của Nấm mồ xanh liệu có mối quan hệ gì với chuỗi ẩn số này? Góc chết trong lòng mọi người bây giờ chính là một loạt câu đố không thể né tránh nhưng cũng không thể đáp, nó dày vò, buộc họ phải tìm ra chân tướng, có điều họ đều không biết sau khi làm vậy xong thì hậu quả sẽ ra sao?

    Tuy Tư Mã Khôi có tài ứng biến, nhưng anh chưa bao giờ chiếm được thế thượng phong trong những lần giao đấu với Nấm mồ xanh. Chỉ vì không biết người biết ta, nên một Triệu Lão Biệt có những ba sinh mệnh, một gã hái thuốc quái nhân ở núi Thần Nông Giá, đội thám hiểm Corrot thâm nhập vực sâu bằng khí cầu nhiệt và cả mấy người hội Tư Mã Khôi dường như đều là những quân cờ trong tay Nấm mồ xanh, những quân cờ quay cuồng trong sức mạnh thấu hiểu mọi quy luật nhân quả, và bất luận họ giãy giụa thế nào cũng không thể thay đổi được vận mệnh. Có điều giờ phút này vẫn còn đường lui cho hội Tư Mã Khôi nếu họ lựa chọn cách cuối cùng, đó chính là từ bỏ cơ hội vén tấm màn bí mật, dẫu cho không thể sống sót tháo chạy khỏi lòng đất, thì cũng phải lập tức rời xa tấm bia đá.

    Vì muốn phá giải ẩn số về Nấm mồ xanh và tấm bia đá của người Bái Xà, hội Tư Mã Khôi đã phải trả một giá đắt đến nỗi không thể đắt hơn, giờ trong lòng ai cũng chuẩn bị sẵn tâm lý quyết tử, trước mắt chỉ còn một bước cuối cùng nữa thôi, nếu đột ngột thay đổi quyết định quay đầu trở lại, thì quả cũng không dễ dàng gì.

    Đang lúc do dự, đột nhiên cả hội nghe thấy một tiếng động phát ra từ trong hố sâu phía dưới thanh xà đá. Biết có điều lạ, mọi người liền dùng tay ra hiệu rằng tất cả sẽ bò xuống chân tấm bia theo đường cũ. Cả hội giữ chắc súng, tiến về phía xà đá, rồi cúi đầu xuống quan sát, nhưng ở đó xương khô chất đống cao như núi. Họ giơ đuốc về phía ấy nhưng chỉ thấy một khối sáng nhờ nhờ, bỗng trong góc tối mà chùm sáng đèn quặng không thể chiếu tới vọng ra tiếng người với âm sắc lạnh lùng, giọng nói này không hề xa lạ với hội Tư Mã Khôi, đó chính là gã Nấm mồ xanh thoắt ẩn thoắt hiện như ma quỷ, ngặt nỗi đối phương trốn trong góc chết, không nằm trong tầm ngắm súng ngắn của họ.

    Đầu Hải ngọng muốn bốc hỏa, anh định nhảy ngay xuống tóm cổ Nấm mồ xanh.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ, sao Nấm mồ xanh chẳng xuất hiện sớm hơn hoặc muộn hơn, mà nhằm đúng lúc mình đang một bụng nghi ngờ, do dự không biết nên tránh xa tấm bia đá hay không để xuất hiện? Điều đó chứng tỏ phán đoán của Thắng Hương Lân hoàn toàn chính xác. Xem ra, bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà quả nhiên không được phép tiết lộ, lúc này nếu hành sự lỗ mãng, chưa biết chừng lại trúng kế của đối phương, thế là anh ra hiệu cho Hải ngọng không được rời khỏi xà đá.

    Nấm mồ xanh cười khan mấy tiếng sau đống xương khô, rồi bảo Tư Mã Khôi: “Các ngươi đúng là còn ranh hơn ma, không ngờ lại phát hiện ra ý đồ của ta vào giờ khắc then chốt cuối cùng, đúng là ta muốn bọn mi xóa hết bí mật trên bia đá. Đến nước này thì ta cũng chẳng ngại nói thẳng toẹt ra với các ngươi, nếu ta nói cho bọn mi biết vì sao dãy số kia là bí mật lớn nhất thế giới, chỉ e ngay cả các ngươi cũng không muốn để nó tiếp tục tồn tại trên cõi đời này nữa đâu”.
     
    sáng ngx, Tún and Phucminhon like this.
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 4: HỐ QUẶNG SỐ 111


    Nấm mồ xanh nói ý đồ của hắn là để hội Tư Mã Khôi phá giải câu đố, nhưng khi thấy mọi người nảy lòng nghi ngờ muốn bỏ chạy, thì hắn đành xuất hiện và đích thân tiết lộ bí mật về tấm bia đá.

    Hội Tư Mã Khôi biết rõ chẳng lời nào thốt ra từ miệng Nấm mồ xanh có thể là sự thật, dẫu ép phải nói sự thực thì phía sau chắc chắn cũng phải gài đặt rất nhiều hố bẫy không đáy chết người, bởi vậy không ai dám tin lời hắn. Cả hội nấp trên xà đá, quan sát tình hình, thầm nghĩ phen này bất kể thế nào cũng không được để đối phương chạy thoát lần nữa.

    Có điều, bí mật mà Nấm mồ xanh định tiết lộ lại chính là điều hội mấy người Tư Mã Khôi muốn biết nhất, họ thầm thắc mắc, không hiểu tấm bia Bái Xà có thể giết chết người bằng cách nào? Vì sao không được nhìn cũng không được nói về bí mật đó? Những logic cổ quái tồn tại trong vô vàn ẩn số khiến người ta không thể suy đoán được từ bất kể góc độ nào, giờ không rõ Nấm mồ xanh sẽ giải mã “đáy đại dương” như thế nào đây, nên ai cũng nóng ruột được muốn nghe xem rốt cuộc nguồn cơn là thế nào.

    Nấm mồ xanh trốn trong góc tối dưới đáy hố và nói:

    “Sở dĩ trước đây ta không nói rõ nội tình là vì thời cơ chưa chín muồi, giờ đây dù sao các ngươi cũng đã đến trước tấm bia đá, nên cũng không cần tiếp tục che giấu nữa. Những lời ta nói hôm nay tuyệt đối không có nửa lời giả dối, các ngươi nghe xong tự khắc sẽ hiểu. Dãy số khắc trên tấm bia Bái Xà là do xà nữ nói ra từ mấy ngàn năm trước, bất kể là ai, chỉ cần biết hết nội dung của dãy số, thì sẽ chết ngay tức khắc, ngay cả ta cũng không dám nhìn, do vậy chỉ có thể nói cho các ngươi biết bản chất của bí mật mà thôi, ví như vì sao nó có thể khiến người ta sợ quá mà chết, rồi vì sao nhất định phải hủy bỏ nó? Ta tin hễ các ngươi hiểu được nguồn gốc của nó, thì không cần ta nói nhiều, các ngươi cũng nhất định tìm cách để bí mật khắc trên tấm bia biến mất hoàn toàn, bởi bí mật lớn nhất cõi đất trời này hoàn toàn nằm ngoài khả năng chịu đựng của tâm trí loài người. Muốn hiểu rõ chân tướng bí mật cổ xưa này một cách thực sự, thì phải bắt đầu từ câu chuyện “hố quặng số 111” ở Tân Cương, Trung Quốc.

    Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Cao Tư Dương đều chưa từng nghe nói đến hố quặng số 111 ở Tân Cương bao giờ, chẳng lẽ hắn muốn ám chỉ kính viễn vọng Lopnor?

    Riêng Thắng Hương Lân đã từng nghe nói đến nó khi còn làm việc trong phân đội trắc họa, cô biết hố quặng số 111 nằm ở lưu vực sông Irtysh thuộc dãy núi Altai, phía bắc Tân Cương. Nghe nói, ngay từ thời Sa hoàng, một phần của hố quặng đã được người Nga phát hiện, dưới mỏ quặng có nhiều nguyên tố quý hiếm và nhiều loại đá quý. Hàng chục hố quặng khác nhau phân bố theo hình xoắn ốc trong lòng đất từng bị Nga hoàng cướp trắng trong suốt nhiều năm. Mãi sau giải phóng, mỏ quặng mới được Trung Quốc thu hồi về và đặt tên là “hố quặng số 3”, hố quặng này hoàn toàn không liên quan đến kính viễn vọng Lopnor.

    Thời kỳ quan hệ Trung Xô bước vào giai đoạn đối đầu, đất nước mới thành lập phải gánh một khoản nợ khổng lồ, cộng thêm liên tiếp ba năm thiên tai hoành hành, nhân dân cả nước phải thắt lưng buộc bụng sống qua ngày mới trả được 60% khoản nợ nước ngoài, vậy mà chỉ cần khai thác số đá quặng quý hiếm trong hố quặng này là đủ trả nốt số nợ còn lại. Không những vậy, nó còn có công lao to lớn trong việc thiết lập quốc phòng, từ đó có thể thấy nguồn tài nguyên phong phú tiềm tàng trong hố quặng số 3, nó chính là hố quặng lớn nhất thế giới, những tư liệu về nó trở thành hồ sơ tuyệt mật tầm cỡ quốc gia, người ngoài hiếm ai biết được. Giáo sư Tống Tuyển Nông từng có thời gian làm việc trong hố quặng, bởi vậy Thắng Hương Lân cũng biết sơ sơ về nó, nhưng cô hoàn toàn không biết vị trí chính xác cũng như phân bố các tầng quặng trong hố. Tuy vậy, từng đó thôi cũng đủ để cô hiểu những gì Nấm mồ xanh vừa nói về địa điểm hố quặng là hoàn toàn chính xác, có điều thời Sa hoàng nó có tên là “hố quặng số 111”, chứ không phải “hố quặng số 3”, điều đó chứng tỏ câu chuyện Nấm mồ xanh sắp kể ít nhất phải xảy ra trước năm 1949.

    Quả nhiên, Nấm mồ xanh nói: “Dã tâm của Sa hoàng rất lớn, lãnh địa ông ta thống trị đã vô cùng rộng lớn, nhưng lòng tham xâm chiếm lãnh thổ của ông ta thì mãi mãi không có điểm dừng. Thời kỳ Pyotr đại đế I(1) còn tại vị, ông ta đã coi kế hoạch chinh phục vùng Trung Á và xâm chiếm Tân Cương là quốc sách, ông ta vũ trang cho một đội qụân gồm toàn dân thất nghiệp và tội phạm vượt núi Altai, qua sông Irtysh, không ngừng xâm nhập vào vùng rốn bắc Tân Cương, đồng thời mượn cớ là khảo sát, thám hiểm để tiến hành trắc họa bản đồ và khai thác mỏ vàng ở khắp mọi nơi.

    Tuy quân đội Sa hoàng xâm chiếm Tân Cương suốt nhiều năm và đội thám hiểm của Sa hoàng cũng đã phát hiện thấy hố quặng 111, nhưng khi đó đã là gần cuối thời kỳ thống trị của Sa hoàng, chế độ Sa hoàng ở Nga đang hứng chịu khá nhiều phong ba bão táp, bị thảm bại trong chiến tranh Nga – Nhật, lại chịu đòn nặng nề do cách mạng giai cấp tư sản giáng xuống, có thể nói giai đoạn này chế độ Sa hoàng phải trải qua tình cảnh quốc sự nhiễu nhương, ngoài nạn trong loạn.

    [1] Pyotr đại đế: hay còn gọi là Pie đại đế.

    Khi ấy có một sĩ quan quý tộc Sa hoàng mạt vận tên là Rasputin, ông ta là người học rộng tài cao, có chí hướng, thông hiểu thiên văn địa lý, ngặt nỗi không có đất dụng võ, nên đành theo đội quân đi tìm vàng tiến về dãy Altai ở Tân Cương, mong may mắn trúng quả lớn kiếm món tiền. Đoàn người men theo rừng rậm núi cao thuộc lưu vực sông Irtysh, tìm kiếm suốt mấy tháng ròng, nhưng không phát hiện ra mỏ vàng nào, trong khi đó trời mỗi lúc một lạnh, tuyết sắp rơi và những ngày tháng giá rét khắc nghiệt dài dặc đang đến gần, nếu trời đổ tuyết thì đường vào núi sẽ bị bịt kín, khi đó đừng hi vọng tìm thấy mỏ vàng nữa. Tối đó, mọi người cắm trại nghỉ ngơi trong một hẻm núi, ai nấy đều chán chường mệt mỏi, nhưng vẫn quyết tâm sáng sớm mai sẽ tiến sâu vào trong lòng núi.

    Rasputin sầu não vì tiền đồ mờ mịt của mình, ông cuốn thảm ngồi uống rượu làm ấm cơ thể trước ánh đom đóm. Qua ánh sáng chập chờn nhàn nhạt, ông đột nhiên nhìn thấy nơi lõm vào trên vách đá đối diện dường như có một hình vẽ gì đó, tựa hồ một chuỗi những bức họa bằng đá nguyên thủy, lòng hiếu kỳ thúc giục khiến ông đứng dậy kiểm tra. Ông phát hiện bức hình vẽ một con quái vật mà ông chưa từng nhìn thấy bao giờ, con quái vật đó mình dê, đầu chim, nó ngẩng đầu giơ chân như thể đang bị một luồng sáng trói chặt, treo lơ lửng giữa không trung. Trên thế giới chưa từng phát hiện thấy loài động vật nào có thân hươu đầu chim, lẽ nào con vật được mô tả trên vách đá nguyên thủy từng tồn tại trong khu rừng rậm núi cao này trước thời tiền sử? Rasputin thầm nghĩ, nếu săn được vật sống rồi làm thành tiêu bản hoặc đào được xương hóa thạch của nó thì cũng không uổng công một chuyến lặn lội vào chốn rừng thiêng nước độc.

    Rasputin vội vàng hỏi thăm người hướng đạo của cả đội, người hướng đạo này vốn là dân chăn thả gia súc bản địa, anh ta từng nhìn thấy nhiều bức bích họa bằng đá vẽ những hình họa quái dị trong núi. Nghe người hướng đạo nói, trong ngọn núi này có rất nhiều điều kỳ lạ, vào những ngày thời tiết vô cùng khắc nghiệt, đôi lần có người còn nhìn thấy con quái vật đầu chim mình hươu bay lượn trên bầu trời mây đen vần vũ, sấm rung chớp giật. Đến khi trời trong nắng vàng trở lại, mọi người đổ xô đi tìm thì thấy trên mặt đất có những con ngựa và con hươu mất đầu, có lẽ đã bị yêu quái trên trời ăn mất. Mấy năm trước cũng có người tận mắt nhìn thấy cảnh tượng này, còn về niên đại cụ thể của bức họa đá ấy thì không ai biết rõ, có thể nó đã có ở đó từ thời cổ đại.

    Rasputin nghe vậy, liền nhớ lại câu chuyện “Thiên liệp” mà một vị trí giả từng kể cho nghe.

    Ở vùng sơn khu nọ có người tận mắt chứng kiến cảnh nhiều con vật bị luồng sáng thẳng đứng hút lên không trung, rồi sau đó bị ném xuống chết tươi. Hiện tượng nhiều con vật bị thế lực thần bí săn giết gọi là “Thiên liệp”, nghĩa là “trời săn”. Hình ảnh con quái thú đầu chim mình hươu khả năng là một con hươu, lúc bị hút lên trời thì áp lực của dòng khí đối lưu đã kéo dài phần mõm hươu thành hình mỏ chim, từ xa nhìn lên lại tưởng đó là con quái vật mình hươu đầu chim chăng? Trong mắt của người cổ đại khó tránh khỏi ngộ nhận hiện tượng này là yêu quái trên trời ăn mất đầu hươu trên không trung, thực tế đó chỉ là một hiện tượng tự nhiên. Việc xuất hiện dòng khí đối lưu mạnh như thế chứng tỏ dưới lòng đất có hang động, nghĩ vậy Rasputin bảo người hướng đạo dẫn đường cho đoàn mình vào trong sơn cốc nơi từng xảy ra hiện tượng “Thiên liệp” để tìm hiểu rõ ngọn nguồn.

    Mờ sáng hôm sau, nghe theo chủ kiến của Rasputin, cả đoàn chuyển hướng đi vào sơn cốc. Rasputin tin rằng những khu vực có sương mù và ánh sáng dị thường, thì phía dưới chắc chắn phải tàng trữ mỏ vàng hoặc mỏ pha lê. Mọi người không từ gian khổ, đội trời lạnh giá, lùng sục suốt sáu ngày, cuối cùng họ phát hiện một gò cao trơ đất trụi cỏ trong khi xung quanh nó là rừng rậm um tùm. Cả đội liền khoan một hố sâu, lấy mẫu đá kiểm định thì phát hiện trong núi quả nhiên có đá quý màu sắc vô cùng hiếm có, còn người hướng đạo xấu số kia chẳng bao lâu sau liền bị lũ người Nga giết người diệt khẩu.

    Từ đó, bất kể mùa đông giá rét khắc nghiệt thế nào, Rasputin đều dẫn đoàn người vào núi khai thác đá quặng, ông ta tiến hành bước đầu thám trắc mỏ quặng, đồng thời đặt tên cho mỏ quặng này là “mỏ quặng số 111”. Một lần nọ, sông Irtysh xảy ra lũ lụt, lòng núi gần hố quặng bị sạt lở với quy mô lớn, lộ ra một huyệt động rất sâu, dưới đó có mấy phiến đá bằng phẳng, bên trên khắc đầy kí hiệu kỳ quái tựa hình nòng nọc, khi ghép lại thì dường như nó là một tấm bia đá cổ đại đã bị vỡ nát.

    Rasputin cảm thấy tấm bia đá được người cổ đại vùi trong động, rất có khả năng sẽ ghi chép nhiều dữ liệu về kho báu trong núi, với lòng tham không đáy, ông ta muốn tìm mọi cách để phá giải ý nghĩa những dòng chữ này. Kỳ thực, đây chính là nửa còn lại của tấm bia Bái Xà đã bị hủy hoại, cho dù cố gắng lắm cũng chỉ nhận ra được bốn, năm chữ trên tấm bia là cùng. Thời đó, vẫn còn rất ít người bản địa lai vãng ở vùng núi Altai, tổ tiên của họ chắc có tiếp xúc với người Bái Xà, nên đến ngày nay vẫn giữ gìn được hệ ngôn ngữ và chữ viết tượng hình nguyên thủy của mấy ngàn năm trước, những người này có thể căn cứ vào dòng chữ trên tấm bia đọc được chữ triện cổ, nhưng chẳng ai có thể lý giải được ý nghĩa hàm chứa trong đó. Rasputin như bị ma xui quỷ khiến, trong lòng ông ta không thể quên được tấm bia đá như một ẩn số kia. Vậy là, ông ta ghi lại tỉ mỉ quá trình phát hiện và mày mò tìm hiểu về tấm bia. Nhưng lúc Rasputin chuẩn bị tiến hành bước tiếp theo để kiếm tìm đáp án, thì cách mạng Nga bùng nổ, trong tiếng pháo bắn ầm ầm vào cung điện Mùa đông, chế độ thống trị Sa hoàng hủ bại và chuyên quền cuối cùng cũng bị lật đổ. Rasputin đành phá hủy tấm bia còn sót lại đó, buông tay về nước. Trước lúc về nước ông ta dùng thuốc nổ phá tan tành hố quặng số 111. Suốt nhiều năm sau, không ai còn biết đến sự tồn tại của hố quặng ở bắc Tân Cương nữa, mãi đến năm 1935, cục thám trắc Liên Xô bất ngờ phát hiện thấy tài liệu mà Rasputin để lại, họ phát động cuộc tìm kiếm hố quặng số 111 ở Tân Cương, đồng thời tổ chức khai thác với quy mô lớn, do công nhân khai thác đến đây quá nhiều nên bản địa dần dần hình thành thị trấn khu quặng với nhân khẩu khá đông.

    Người đầu tiên phát hiện ra hố quặng số 111 là sĩ quan Sa hoàng Rusputin cũng đã kiếm được món tiền lớn, nhưng ông ta lại không có phúc hưởng nó, vì một thời gian sau, ông ta bị ép phải về nước tham chiến; sau khi quân Nga thất bại, ông ta phải tháo chạy sang nước khác, tuy trở thành triệu phú dắt lưng vô số tài sản, không cần lo lắng về cuộc sống lưu vong chốn đất khách quê người, nhưng bí mật ghi chép trên tấm bia đá giống như một cơn ác mộng đeo bám ông ta mãi mãi không chịu buông tha.

    Hội Tư Mã Khôi thầm thấy tình hình không ổn, Nấm mồ xanh tiết lộ toàn bộ tiền nhân hậu quả của bí mật này một cách tường tận như vậy, tựa hồ muốn kéo dài thời gian để đợi một điều gì đó sắp xảy ra. Có điều, cả hội không thể kiềm chế được lòng hiếu kỳ, chỉ muốn nghe kết quả. Họ nghĩ rốt cuộc chỉ mình hắn mới nắm được bí mật của tấm bia Bái Xà, nếu bỏ qua cơ hội trước mắt, e rằng vĩnh viễn không bao giờ còn biết được đáp án, mà nếu không hiểu được đáp án của ẩn số, thì sẽ không thể tìm ra cách đối phó với Nấm mồ xanh.

    Lúc này chỉ nghe thấy giọng lạnh lùng, khàn đục của Nấm mồ xanh đang tiếp tục nói: Vì muốn tìm kiếm mỏ quặng lớn hơn dưới lòng đất, viên sĩ quan Sa hoàng Rasputin tìm trăm phương ngàn kế phá giải dòng chữ khắc trên tấm bia đá tìm thấy ở núi Altai, nhưng cuối cùng vẫn không tìm được bất cứ manh mối nào có giá trị, tuy nhiên trên thực tế ông ta đã vô tình giải được bí mật của tấm bia đá Bái Xà, mà cái giá để giải được bí mật ấy chính là cái chết.
     
    sáng ngx, Tún and Phucminhon like this.
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 5: DÃY SỐ


    Tư Mã Khôi im lặng nấp trên thanh xà đá, lòng thầm nghĩ, tuy viên sĩ quan quân đội Sa hoàng kia đã phát hiện thấy phần còn lại của tấm bia trong hố quặng số 111, nhưng thứ nhất chữ viết trên tấm bia là chữ triện cổ, thứ hai nội dung lại khuyết, không còn toàn vẹn, hơn nữa sau khi phá hủy tấm bia, ông ta lại lưu vong ở nước khác, mấy năm sau mới chết, xem ra cái chết của ông ta hoàn toàn không liên quan đến lời nguyền sẽ chết lập tức sau khi nhìn thấy tấm bia, lẽ nào Nấm mồ xanh đang bịa chuyện?

    Nấm mồ xanh cũng biết hội Tư Mã Khôi bắt đầu nghi ngờ, bèn nói: “Các ngươi không cần đa nghi thế, nghe tiếp câu chuyện tự khắc sẽ hiểu thôi. Cựu quý tộc Sa hoàng Rasputin tháo chạy sang một nước khác ở châu Âu, nhưng vẫn còn tâm niệm nghĩ đến kho báu khổng lồ nằm dưới lòng đất trong hố quặng số 111. Năm đó, việc ông ta phá hủy tấm bia cũng là vì không muốn để kho báu này bị bại lộ ra ngoài.

    Cứ khi màn đêm buông xuống, Rasputin lại trốn trong phòng, giở cuốn sổ ghi chép ra xem đi xem lại, hi vọng sẽ giải mã được ẩn số trên tấm bia, ngặt nỗi ông ta chỉ biết mang máng cách đọc mấy chữ tượng hình bí ẩn và cổ quái kia mà thôi, ngay cả thứ tự trước sau của chúng thế nào, ông ta cũng không rõ, nên cứ lộn lên lộn xuống xem không biết bao nhiêu lần, thậm chí ngay cả trong mơ ông ta cũng mơ thấy mình đang giải chữ. Nhưng mãi mà Rasputin vẫn không có thêm bất cứ phát hiện gì, hơn nữa trong lòng ông lại khôn nguôi nỗi nhớ cố hương. Những việc này khiến Rasputin luôn cảm thấy âu sầu, nên cuối đời, ông thường mượn rượu giải buồn.

    Một buổi tối chủ nhật, ông ta đến một nhà hàng gần đó ăn tối, trong nhà hàng có một tay chơi dương cầm thuận tay trái đang tấu nhạc khúc phục vụ khách ăn. Rasputin xuất thân từ tầng lớp cựu quý tộc Sa hoàng, nên được hưởng nền giáo dục khá cao cấp, ông ta không chỉ hiểu về âm luật, mà còn giỏi chơi dương cầm, đặc biệt là các tác phẩm của Tchaikovsky. Rasputin vừa nghe đã phát hiện tay chơi dương cầm thuận tay trái này chỉ là tay chơi hạng thường, không có khả năng thiên phú, thế là ông ta bảo người đánh đàn tránh sang một bên, tự mình lên tấu khúc, chẳng ngờ tiếng đàn xuất phát từ tiếng lòng, trong đầu Rasputin khi đó bất giác lại nghĩ đến các văn tự khắc trên tấm bia cổ, khiến một đoạn âm luật vô cùng quái dị đã hòa vào trong khúc nhạc.

    Lúc ấy, quán ăn đang đầy khách, nhưng suốt thời gian Rasputin tấu khúc, cả gian phòng bỗng chốc im phăng phắc. Tấu xong khúc nhạc, ông ta rời khỏi quán ăn với khuôn mặt cực kỳ u ám, về đến nhà, ông ta lập tức châm lửa tự thiêu. Cả tòa nhà và toàn bộ tài sản của ông đều cháy rụi trong ngọn lửa rừng rực, không ai hiểu vì sao ông ta đột nhiên lại dùng cách tàn khốc như vậy để kết liễu sinh mệnh của chính mình, trong khi trước đó ông ta không hề có dấu hiệu muốn tự tử.

    Không những vậy, những chuyện đáng sợ hơn còn ở phía trước, tất cả thực khách nghe khúc dương cầm trong quán ăn lúc ấy đều bước vào tuyệt lộ một cách kỳ bí. Liên tiếp trong vòng ba ngày, người thì nhảy lầu, kẻ thì treo cổ, cứa cổ tay tự tử, mọi người lần lượt tìm đến cái chết. Nhưng vì những người này ngoại trừ cùng ăn trong quán ăn tối hôm ấy ra, thì không hề có mối liên quan gì với nhau, nên không tạo rạ sự chú ý cho cộng đồng thời bấy giờ.

    Chỉ duy tay chơi dương cầm thuận tay trái nọ may mắn thoát nạn, bởi anh tạ bị Rasputin làm mất mặt, trong lòng bực bội nên nhanh chóng rời khỏi quán ăn. Đi đến nửa đường, anh ta mới phát hiện mình quên mang theo áo khoác, nên đành quay trở lại lấy áo. Lúc quay trở lại quán, anh ta chỉ nghe được một đoạn trong khúc nhạc của Rasputin, nhưng tiếng nhạc với những âm luật kỳ quái đó như khắc sâu trong trí não anh ta, muốn xóa bỏ cũng không thể xóa nhòa được. Trong sát na, anh ta cảm thấy đất trời u tối, không khí tuyệt vọng và sợ hãi bao trùm khắp nơi, tay chơi đàn tay trái kinh sợ, vội vàng bỏ đi khỏi quán.

    Sau đó, tay chơi đàn thuận tay trái soạn ra một khúc dương cầm, đặt tên là “Gloomy Sunday” cũng chính là ca khúc “Chủ nhật buồn”. Mấy ngày sau đó, anh ta tấu khúc nhạc này cho bạn gái nghe, cô bạn gái mới nghe được một nửa thì mặt đã tái đi như xác chết, lập tức chia tay với tay chơi dương cầm, vài tháng sau cô ta tự sát. Hàng trăm người nghe khúc nhạc đã tìm đến cái chết, chuyện này lan truyền khắp đàu đường cuối phố, hễ nhắc đến nó, mọi người lại biến sắc, ngay cả giới cảnh sát phụ trách điều tra vụ án cũng đều thiệt mạng, tay chơi dương cầm thuận tay trái Seress Rezso đương nhiên không thoát khỏi vận đen, anh ta cũng nhảy lầu tự tử không lâu sau đó.

    Do gây ra cái chết bất thường của hàng trăm người, nên “Gloomy Sunday” bị mệnh danh là “Bài hát thần chết” và nghi mang theo lời nguyền, nó bị cấm lưu hành và thu hồi để tiêu hủy trên phạm vi toàn thế giới. Trên thực tế, Seress chỉ dựa vào một đoạn ngắn mà mình nghe được trong quán ăn khi ấy và cải biên lại mà thôi, có thể nói nó chỉ là hợp chất diễn sinh của tam bia đá Bái xà. Viên sĩ quan quân đội Sa hoàng Rasputin căn bản chưa hiểu nhiều về bí mật của tấm bia đá, cùng lắm mới vô tình đọc được một nửa, trong khi đó “Chủ nhật buồn” là diễn sinh gián tiếp từ một nửa bí mật ấy, nó sớm đã mất đi bản chất vốn có, vậy mà vẫn khiến nhiều người phải bỏ mạng đến vậy, từ đó có thể thấy bí mật khắc trên tấm bia đá khủng khiếp và đáng sợ đến mức nào.

    Hội Tư Mã Khôi nghe đến đây thì từng ẩn số xoắn kết trong lòng dần dần được gỡ ra. Thì ra, dãy số trên tấm bia và đáp án của nó không phải là nội dung, mà là âm thanh, chỉ khi dùng hệ ngôn ngữ nguyên thủy để đọc nội dung tấm bia thì nó mới khiến người ta mất mạng.

    Nấm mồ xanh nói, người Bái Xà cổ đại biết đến bí mật này từ miệng một xà nữ giống như cương thi, não của ả đã khô quắt, chỉ có thể phát ra những âm thanh thì thào trong miệng, một vài người Bái Xà thấy xà nữ nói thì ghé tai vào nghe, những người này nghe xong, hai mắt lập tức trợn ngược, não hóa lỏng chảy xuống khoang mũi. Những người Bái Xà khác thấy vậy, trong lòng vô cùng kinh hãi, cho rằng những người này đều bị bí mật thần bí kia giết sống ngay tại chỗ, nên đành áp dụng phương pháp cho mỗi người nghe từng đoạn một, rồi ghi chép lại bí mật vốn không nên tồn tại trên cõi đời và khắc trên bia đá. Ngàn năm dâu bể trôi qua, chỉ duy có phiến đá bị chôn vùi dưới cửu tuyền này là tránh được muôn vàn kiếp nạn và nguyên vẹn tới ngày nay.

    Người Bái Xà cổ đại đào đất quá sâu, dẫn đến nạn lũ lụt và họa diệt vong, may nhờ Vũ Vương khai phá Long môn nên họ mới sống sót, nhưng họ lại bị bắt làm tù bịnh, trở thành nô lệ, chuyên làm việc dưới lòng đất để dẫn nước lũ vào Vũ khư. Đám nô lệ này không cam tâm chịu đựng ách thống trị tàn khốc của vương triều nhà Hạ, bèn nảy sinh ý nghĩ tìm lại tấm bia đá bị chôn sâu dưới cửu tuyền để đối phó với Hạ Vũ nhưng lũ lụt lại bịt kín thông đạo ban đầu, mãi đến khi hậu duệ cuối cùng của tộc người Bái Xà hoàn toàn bị diệt vong, họ vẫn chưa được thỏa nguyện, bí mật cổ đại ghi chép trên tấm bia Bái Xà dần dần bị cát bụi của lịch sử vùi lấp cùng tuế nguyệt.

    “Chủ nhật buồn” sớm thu hút sự chú ý của Liên Xô ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh lạnh, thông qua nhiều con đường, bộ phận gián điệp đã nắm được cội nguồn của tín hiệu chết người này xuất phát từ mảnh vỡ trên tấm bia cổ đại chôn dưới lòng đất Tân Gương, tuy những ghi chép của viên sĩ quan quân đội Sa hoàng Rasputin đã bị tiêu hủy và những mảnh còn lại của tấm bia Bái Xà cũng không còn tồn tại, nhưng người Liên Xô vẫn không từ bỏ ý đồ của mình. Họ hợp tác với Trung Quốc tiến hành khai quật hố quặng số 111 với quy mô lớn, đồng thời bắt dầu thực hiện “kế hoạch kính viễn vọng địa cầu”. Căn cứ vào suy đoán của phía Liên Xô, trong não người tồn tại hơn một trăm tỉ nơron thần kinh, bình thường con người chỉ sử dụng một phần nhỏ trong số đó, phần còn lại sẽ nằm trong trạng thái say ngủ mãi cho đến khi họ chết đi. Chỉ cần hiểu cách đọc ngôn ngữ Bái Xà, bất luận là nhìn hay đọc, thậm chí trong đầu nghĩ đến bí mật của tấm bia Bái Xà, thì tự khắc trong não sẽ sản sinh ra một tín hiệu khiến những tế bào thần kinh ở nơi sâu nhất sẽ bài tiết với tốc độ chóng mặt, chẳng bao lâu quá trình đào thải ấy sẽ vượt quá sức chịu đựng, cuối cùng dẫn đến hậu quả đại não bị tan chảy trong xương sọ.

    Mọi người nghe xong đều sợ hãi đến lạnh người, nếu nói vậy thì dãy mật mã chết người này sẽ khiến não người hóa lỏng. Tư Mã Khôi không tin điều này, anh đâu hiểu thế nào là nơron thần kinh, nhưng nghe nói thời cổ đại cho rằng trong cơ thể con người có “tam thi cửu trùng”, nếu những người trong môn đạo mong muốn trường sinh bất tử, thì trước hết cần phải chém chết tam thi(1), sau đó loại bỏ cửu trùng, trong đó thượng thi có tên gọi là Bành Cư, sống trong não người, lúc thường nó chỉ ẩn thân bất động, thỉnh thoảng mới xuất hiện trong giấc mơ làm loạn thần trí của con người, nhưng một khi nó thực sự tác oai tác quái thì sẽ nuốt chửng tủy não, khiến con người nhanh chóng mất mạng. Bí mật trên tấm bia đá Bái Xà giống như một loại tín hiệu “đánh thức Bành Cư dậy.”

    [1] Tam thi: hay còn gọi là Tam Bành, gồm Bành Cự, Bành Chất, Bành Kiện, ba vị thần này lần lượt cư trú trong đầu, bụng, tim của con người, chuyên xúi giục con người làm điều xấu.

    Tư Mã Khôi không lạ lẫm gì với tam thi, nghe nói tam thi trông giống như sợi thịt, trong đó thượng thi là kẻ tàn độc nhất. Thời Tống có một viên chỉ huy cấm quân tên là Triệu Minh Dương thường hay luyện khí, thông qua các cổ tịch, ông ta biết được có ba vị thần tam thi trốn trong cơ thể con người, làm hạn chế tuổi thọ của con người, thế là ông ta âm thầm uống thuốc, dần dần khống chế được các thi thần, về sau ông ta dẫn binh ra ngoài chinh phạt, đêm xuống khoanh gối ngồi một mình trong màn luyện khí, bỗng thấy một luồng khí thanh trong ngực dội ngược lên, ông không tự chủ, được hét to lên một tiếng. Trong đêm thanh vắng, tiếng hét đó nghe vang như tiếng rồng gầm trong đầm lớn, binh lính khắp doanh trại không ai không run sợ. Tới khi quân lính chạy tới trại của tướng quân xem xét, thì thấy Triệu Minh Dương đã thoát hình mọc cánh. Từ xa xưa đã xuất hiện rất nhiều truyền thuyết kiểu này, đa phần đều nói về một dị sĩ nào đó chặt chém tam thi để giải thoát khỏi sự ràng buộc của kiếp sinh tử, cuối cùng từ thi thể phàm trần hóa thành thánh nhân. Những chuyện như vậy thực ít hư nhiều, nhưng nếu đứng từ góc độ này thì Tư Mã Khôi thấy không khó để lý giải bí mật của bia đá Bái Xà. Nói tóm lại, nội dung khắc trên tấm bia là một chuỗi âm thanh tuyệt đối không thể phát ra từ miệng người bình thường, âm thanh này tựa hồ tín hiệu chết chóc đến từ vực sâu, khi nó xuất hiện trong não người ở bất cứ ý thức nào, thì đều khiến thượng thi ẩn sâu trong não người tỉnh dậy tác quái, khiến con người mất mạng.

    Tư Mã Khôi tin rằng đây chính là đáp án đích thực của tấm bia đá Bái Xà, quả nhiên đó là một bí mật không được phép nói ra, không được phép nhìn, cũng không được phép nghĩ đến. Nấm mồ xanh không hề nói dối mọi người, bởi rốt cuộc chỉ có cách giải thích này mới hợp logic, nếu đối phương không nói thẳng ra, thì với hiểu biết của hội Tư Mã Khôi chắc chắn không thể tìm được đáp án, mọi người nghe xong đều khiếp sợ, không ai thốt được lên lời.

    Nấm mồ xanh thấy bốn người đều im lặng không thốt được câu nào, hắn cười khan một tiếng rồi nói: “Bây giờ các ngươi đã biết bí mật khắc trên tấm bia đá Bái Xà nguy hiểm như thế nào rồi chứ? Ngay cả ta cũng chỉ mới biết về lai lịch của bí mật này, hoàn toàn không biết nội dung của nó, nếu không mạng này làm sao còn tồn tại tới tận bây giờ? Nguyện ước kiếp này của ta rốt cuộc đã trở thành sự thực, có thể hủy hoại bí mật vốn không nên tồn tại trên cõi đời này, bởi vì một khi tấm bia đá Bái Xà bị người khác phát hiện, thì ít nhất nửa dân số trên cõi đời này sẽ bị thiệt mạng, điều lợi hại của nó không nói ra các ngươi tất cũng hiểu, bởi vậy trước đây ta không dám tiết lộ nửa chữ. Từ cổ chí kim những người làm được đại sự đều không câu nệ tiểu tiết, ta khuyên chư vị không nên ghi nhớ thù cũ, chuyện giữa chúng ta ngày sau nói cũng chưa muộn, đây gọi là “quân tử báo thù mười năm chưa muộn, tiểu nhân báo thù chỉ tính hôm nay”, đợi sau khi triệt tiêu được mầm họa động trời từ tấm bia đá, ta hứa sẽ cho các người một… vừa ý. Bây giờ cơ hội hiếm có, bên người các người chẳng phải có thuốc nổ hay sao? Hãy nắm bắt thời gian, mau chóng phá hủy tấm bia đá Bái Xà, hành động này sẽ giúp các người tích được không ít dương đức đâu, nói không chừng lại có cơ hội sống sót thoát ra khỏi lòng đất cũng nên.”

    Tuy Tư Mã Khôi liều mạng và không sợ chết, nhưng sau khi biết bí mật của tấm bia đá, anh cũng không khỏi cảm thấy ớn lạnh, anh không sợ sự nguy hiểm của tấm bia đá mà anh cảm thấy cùng với lời giải dần dần được sáng tỏ, thì ẩn số về lai lịch Nấm mồ xanh càng trở nên đáng sợ hơn. Lúc này, Nấm mồ xanh đã mở lời tiết lộ về chân tướng sự thật và mong muốn hội anh giúp hắn phá hủy tấm bia đá, xóa bỏ triệt để tín hiệu chết người kia khỏi cõi đời. Xem ra, đối phương không hề muốn chiếm hữu bí mật động trời ấy làm của riêng, nhưng cách hành sự của Nấm mồ xanh từ trước đến giờ đều vô cùng nham hiểm, độc ác, tâm địa khó lường, sao bỗng dưng hắn lại sinh lòng thiện như thế? Khuôn mãt thật sự của hắn rốt cuộc là gì? Làm sao hắn biết được tất cả ngọn nguồn của chuyện này? Lẽ nào giống như lời Triệu Lão Biệt từng nói, hắn là một người nào đó mà đội thám hiểm cùa anh từng gặp trước đây?

    Tuy Tư Mã Khôi không thể nhìn thấu lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng có một điểm anh có thể dám chắc, đó là phía sau tấm bia đá ở nơi sâu dưới cửu tuyền này ẩn giấu một ẩn số còn sâu hơn cả cửu tuyền, việc Nấm mồ xanh không dám đọc nội dung của tấm bia, chứng tỏ hắn thông hiểu hệ ngôn ngữ cổ đại đã bị thất truyền từ rất lâu, trên đời làm gì còn tồn tại nhân vật nào như vậy? Nói không chừng bản thân hắn chính là con quỷ bị nhốt trong tấm bia đá. Trước đây hội Tư Mã Khôi đã để lỡ mất hai cơ hội ở thành Nhện Vàng, Miến Điện và trên hòn đảo cổ dưới lòng đất ở 30° vĩ Bắc, không thể quá tam ba bận, bất luận đối phương là người hay ma, phen này anh nhất quyết phải lột mặt nạ của hắn!
     
    sáng ngx, Tún and Phucminhon like this.
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 6: TIỆM CẬN VÔ HẠN


    Tư Mã Khôi biết rõ tầm quan trọng của tấm bia đá, nên trước khi tìm ra được điều cổ quái còn ẩn giấu phía sau hang động, anh tự như mình tuyệt đối không thể manh động, nhưng đồng thời anh cũng không cam tâm để Nấm mồ xanh cứ thế chạy thoát. Tư Mã Khôi cố gắng phân biệt phương hướng và vị trí âm thanh phát ra trong bóng tối, hố sâu phía dưới cách xà đá khoảng hơn chục mét, anh áng chừng có thể thi triển chiêu “Bọ cạp đảo đầu leo tường” bò xuống vách, rồi tóm thẳng cổ Nấm mồ xanh lôi ra khỏi đám xương khô. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi bèn ra hiệu cho ba người còn lại chuẩn bị hành động.

    Hải ngọng đã mất kiên nhẫn từ lâu, anh không thể đợi chờ thêm nữa, đầu nghĩ thầm: “Bất kể Nấm mồ xanh là người hay ma, thì ông đây cũng phải làm lông nó rồi hẵng tính!”, lúc này thấy Tư Mã Khôi phát tín hiệu, anh lập tức bật nút đèn quặng trên đầu, lên nòng kim hỏa khẩu súng săn gấu hai nòng.

    Cao Tư Dương lặng lẽ giơ đuốc lên, sẵn sàng thắp sáng và ném xuống đáy hố bất cứ lúc nào, vị trí cả hội đang đứng là trên cao nhìn xuống, chỉ cần thấy rõ địa hình, cô chắc chắn có thể xuyên vài cái lỗ trên người Nấm mồ xanh.

    Súng lục của Thắng Hương Lân đã lên đạn, thấy Tư Mã Khôi và hai người kia đều chuẩn bị lâm trận, đột nhiên cô cảm thấy có một dự cảm chẳng lành. Mọi người vốn không cách nào đoán được đáp án của ẩn số trên tấm bia đá, nhưng Nấm mồ xanh đã chủ động tiết lộ bí mật ấy, vì thế mọi người mới trực tiếp ý thức được sự nguy hiểm của tấm bia. Việc đã đến nước này, ai cũng có thể thấy rõ, trong hang động bị tấm bia đá chặn ngay phía trước nhất định tồn tại một bí mật còn đáng sợ hơn cả tấm bia đá, bởi vậy bất luận xảy ra chuyện gì, mọi người đều không được động đến tấm bia đá, nếu không sẽ gây ra hậu họa sụp trời khó lòng cứu vãn. Vấn đề là với kẻ tâm địa thâm hiểm như Nấm mồ xanh, thì chắc chắn mỗi bước đi của hắn đều kín kẽ không một khe hở, việc mọi người không định nghe theo lời đối phương phá hủy bia đá chắc cũng không nằm ngoài dự định của hắn, chẳng ai đoán thấu ý đồ thực sự của hắn cả. Thắng Hương Lân suy tính đến đây, liền vội vàng lấy tay ra hiệu cho ba người còn lại không được vội vàng manh động, tình cảnh bây giờ nguy hiểm như đứng ở miệng vực ngó xuống, như đi trên mặt băng mỏng, chỉ cần bước sai một bước sẽ lập tức rơi vào vùng đất vạn kiếp không thể siêu sinh.

    Tư Mã Khôi hiểu vì sao Thắng Hương Lân lại sợ hãi như vậy, cả hội đã đặt cược sinh mệnh mình vào trận đấu này với Nấm mồ xanh, chỉ có điều, một phe ở ngoài ánh sáng, còn một phe lại nấp trong bóng tối, trước mắt mọi người bây giờ chỉ một màu đen, đi bước nào hay bước đấy, trong khi đó Nấm mồ xanh lại thông hiểu tất cả tiền nhân hậu quả, chí ít có thể nhìn trước ba bước. Xưa có câu “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, Nấm mồ xanh cũng không hẳn nắm ưu thế tuyệt đối, bí mật tồn tại trên người hắn chính là nhược điểm lớn nhất, đặc biệt là hắn cần sự trợ giúp của đội thám hiểm mới có thể phá hủy tấm bia đá, mà miếu thần lại nằm ở tận cùng của mạch đất, sâu không thể với tới, những kẻ may mắn sống sót thâm nhập khe cửu tuyền giờ chỉ còn lại bốn người mà thôi, dựa vào những nhân tố có lợi này thì có lẽ hội Tư Mã Khôi vẫn còn cơ hội để xoay chuyển cục diện.

    Nấm mồ xanh thấy hội Tư Mã Khôi không nói cũng không hành động gì, thì cất tiếng cười nham hiểm và lạnh lùng: “Không ngoài dự đoán của ta, chắc các vị đã nghĩ ra vài manh mối rồi chứ gì, không định lại gần bia đá nữa phải không? Nhưng ta có thể khẳng định..”

    Hải ngọng không kìm được cơn tức, lập tức lớn tiếng chửi: “Khẳng cái mẹ mày!”, cùng lúc ấy anh thò người ra khỏi thanh xà đá, chĩa khẩu súng săn hai nòng và ngắm bắn, xương cốt trong hố sâu đen ngòm vỡ vụn, nhưng Hải ngọng chẳng nhìn thấy rõ Nấm mồ xanh nấp ở đâu, anh chỉ dựa vào âm thanh để xác định phương hướng, hai nòng súng của Hải ngọng bắn đi một loạt đạn, không ngờ địa hình dưới đáy hố lại cộng hưởng âm mạnh như vậy, tiếng đạn bắn tạo thành âm thanh ầm ầm rung chuyển, vang hơn lúc thường gấp mấy lần, âm thanh vọng lại giữa hai vách đá tựa nước triều dâng, mãi vẫn còn văng vẳng bên tai.

    Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng ra tay trước, dẫu biết cơ hội chưa chín muồi, nhưng anh vẫn huýt sáo ra hiệu cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương nhất loạt xông lên.

    Cao Tư Dương nhanh chóng vứt bó đuốc xuống hố, quầng lửa xé toang màn đêm quánh đặc, giúp cả hội lờ mờ thấy Nấm mồ xanh đang nấp phía sau đống xương khô.

    Nhờ ánh đuốc, Tư Mã Khôi có thể nhìn rõ địa hình, ba chân bốn cẳng lao lên trên thanh xà đá, bò vèo vèo xuống nhanh như gió cuốn chim bay, trong nháy mắt đã xuống đến đáy hố.

    Hải ngọng đỏ mắt, anh không kịp nạp thêm đạn đã vội xách súng săn rồi trượt xuống vách đá, theo chân Tư Mã Khôi phóng đến nơi ẩn nấp của Nấm mồ xanh.

    Dưới hố, khắp nơi đều là xương vụn, hôi thối nhức mũi, mỗi bước ai người họ giẫm lên đều phát ra tiếng lạo xạo dưới chân, lại gần mới thấy lẫn trong đám xương người chất cao như núi có lẫn cả xương thú, nhiều bộ xương còn dính cả máu thịt, dường như nó bị một hàm răng sắc nhọn gặm xé.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng thầm kinh ngạc, lúc trước họ cứ ngỡ đây là một hố tế lễ vừa sâu vừa rộng, là nơi người Bái Xà cổ đại dùng để giết mổ tuẫn táng vật tế cho tấm bia đá, xương bên dưới đã tích tụ ở đó hàng mấy ngàn năm, dẫu không vụn nát hóa cát bụi thì cũng đã chóng biến thành hóa thạch; nhưng bây giờ xem ra cách đây chưa lâu, không ít bộ hài cốt có lẽ bị xé thịt lột da trong lúc còn sống rồi bị vứt xuống hố này. Hai người vừa ngẩn người trong giây lát thì bóng dáng Nấm mồ xanh đã hoàn toàn biến mất tăm tích.

    Hải ngọng đành nhặt bó đuốc, yểm trợ Tư Mã Khôi lục soát những đống xương cốt gần đó. Hóa ra dưới đáy hố có khá nhiều thông đạo ngang dọc, chúng đều nằm ở đầu bên kia của tấm bia đá, một mé đường hầm gần miếu thần có rất nhiều cửa động bị xương chồng lên bịt kín, phía ngoài còn có cánh cửa đá và những bức tượng thần đã đổ nát, tô tem rắn bay khắc trên đó vẫn lờ mờ nhận ra được, phía trong đường hầm ngoằn ngoèo thâm u, cũng chẳng biết nó dẫn đến nơi nào. Xem ra Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở một trong những thông đạo ấy.

    Việc Tư Mã Khôi vượt bao nhiêu cây số dưới lòng đất để tìm miếu thần cũng chỉ vì muốn lột trần khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh, nên giờ làm gì có chuyện anh chịu buông tay bỏ qua. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương cũng xuống đến đáy hố thì bảo hai người đó ở lại tiếp ứng, còn mình và Hải ngọng thì tiến sâu vào trong lục soát từng thông đạo.

    Cao Tư Dương lo lắng hỏi Tư Mã Khôi: “Dưới đáy hố có nhiều cửa động thế, làm sao anh biết Nấm mồ xanh trốn ở chỗ nào? Ngoài ra, tôi thấy hắn đâu giống người sống…”

    Tư Mã Khôi hiểu ý Cao Tư Dương muốn nói Nấm mồ xanh là ma, hoặc giả hắn là một u hồn có hình mà không có chất.

    Điều này trước đây anh cũng từng nghĩ đến vô số lần, tuy Tư Mã Khôi không nhìn thấu được bí mật trên người Nấm mồ xanh, nhưng lời nói và hành động của gã Triệu Lão Biệt tâm địa hẹp hòi thì không thể che giấu được anh. Triệu Lão Biệt sợ Nấm mồ xanh đến cực điểm, đồng thời bảo với Tư Mã Khôi là ông ta từng nhìn thấy khuôn mặt thực sự của Nấm mồ xanh, chỉ có điều trong lòng Tư Mã Khôi dường như tồn tại một góc chết nên anh không nghĩ ra được lai lịch của hắn mà thôi. Những lời của Triệu Lão Biệt có lẽ là thật, nhưng lạ là ở chỗ Tư Mã Khôi đã điểm danh từng khuôn mặt mình từng gặp trong đời, bất luận là người sống hay người chết, anh đều cố gắng lục lọi trong trí nhớ đến hàng trăm hàng ngàn lần, mà vẫn không tìm thấy người nào trùng hợp với các đặc điểm của Nấm mồ xanh, có thể thấy hắn trốn rất kỹ. Càng nghĩ, anh càng không thể tìm ra lý do vì sao đối phương không dám để lộ khuôn mặt thật của mình.

    Có điều bây giờ, trong đầu Tư Mã Khôi đã bắt đầu thấp thoáng ẩn hiện gương mặt thật của Nấm mồ xanh, bởi cùng lúc đối phương tiết lộ bí mật về tấm bia đá, hắn cũng vô tình để lộ một vài đặc trưng then chốt nhất về lai lịch của mình. Thứ nhất, hắn là người thông hiểu hệ ngôn ngữ cổ đại, nên không dám nhìn thẳng vào tấm bia đá, nhưng đồng thời hắn cũng nắm hết mọi bí mật liên quan đến tấm bia đá của người Bái Xà. Thứ hai, hắn không dám lộ diện trước mọi người, nguyên nhân vì sao thì vẫn còn là một ẩn số. Điểm thứ ba cũng là điểm quan trọng nhất, hắn là người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng đã từng nhìn thấy mặt. Thử hỏi trên đời này có mấy người hoàn toàn phù hợp với những điều kiện trên, bởi vậy phạm vi đối tượng đã thu hẹp lại khá nhiều.

    Khi nãy, Tư Mã Khôi nhất thời hăng máu đuổi theo hắn vào thông đạo, nhưng giờ bình tĩnh nghĩ đi nghĩ lại anh lại thấy hãi hùng, chẳng lẽ Nấm mồ xanh là kẻ đó?

    Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi bảo đã biết thân thế của Nấm mồ xanh, liền vội hỏi: “Rốt cuộc hắn là ai? Tớ từng nhìn thấy bao giờ chưa?”

    Tư Mã Khôi kể lại với mọi người những điều kiện mà anh vừa suy đoán, rồi kết luận gọn gàng với ba người bạn đồng hành: “Trên đời này chỉ có một người duy nhất phù hợp với tất cả những điều kiện trên”.

    Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đều kinh ngạc, nhưng họ không biết kẻ Tư Mã Khôi từng gặp là ai, bởi vậy cũng chẳng thể suy đoán gì hơn, đành hỏi: “Hắn… là ai?”

    Thực ra, bản thân Tư Mã Khôi cũng không dám tin đáp án này, nhưng ngoại trừ quốc vương Chăm Pa Anagaya – kẻ bị lột mất da mặt, thì còn ai vào đây?

    Vị quốc vương Chăm Pa có khuôn mặt như thần Phật, được tôn là “người cận kề Thiên quốc nhất”, ông ta từng phát hiện thấy địa cùng cung di vật kỷ Devon ở sâu trong khe cốc nứt vỡ, vật đó từng là di tích mà người Bái Xà để lại. Thông qua lời của thánh tăng – người sau này bị ông ta giết chết diệt khẩu thì quốc vương Chăm Pa đã giải mã được những cổ văn tượng hình trong mật thất dưới địa cung, bởi vậy ông ta có thể thông hiểu bí mật về tấm bia đá của người Bái Xà, đồng thời cũng có thể đọc được dòng chữ viết trên tấm bia.

    Sau khi chết, quốc vương Chăm Pa được an táng trong lăng tẩm dưới lòng đất, mấy chục năm trước, vương lăng đó đã bị bọn trộm mộ đào xới. Tuy nhiên sau đó, toàn bộ bọn đạo tặc định mở quan tài lấy cắp bảo vật đều chết bất minh, bởi vậy quan tài vẫn được niêm phong kín và chưa hề bị mở ra. Trải qua bao năm vật đổi sao dời, thi thể trong quan tài quốc vương Chăm Pa lại mất tích trong khói lửa chiến tranh. Còn về chuyện lột da mặt của quốc vương để có được may mắn vô song thì chỉ là lời nói một phía từ Nấm mồ xanh, nếu bản thân kẻ đó chính là Nấm mồ xanh, thì những lời nói ấy đương nhiên trở thành bức màn che mắt thiên hạ. Trong khi đó khuôn mặt trông giống như thần Phật của quốc vương Chăm Pa trông quá quái dị, âm u và vô cùng đặc biệt, e rằng từ cổ chí kim dưới vòm trời này không có mấy người sở hữu dung mạo giống như ông ta, điểm then chốt là Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt cùng từng nhìn thấy khuôn mặt ấy.

    Tư Mã Khôi không chỉ nhìn thấy chân dung trên bức bích họa trong thành cổ, mà anh còn tận mắt nhìn thấy khuôn mặt ấy ở cự ly gần dưới địa cung, bây giờ nhớ lại phút giây ấy, anh vẫn thấy toàn thân lạnh ngắt. Còn về Triệu Lão Biệt nhìn thấy quốc vương Chăm Pa vào thời điểm nào, thì e rằng chỉ mình lão tặc ấy mới biết mà thôi, nhưng không có gì phải nghi ngờ về việc Triệu Lão Biệt chắc chắn đã từng nhìn thấy khuôn mặt quái dị ấy, đồng thời lão cũng biết Nấm mồ xanh chính là quốc vương Chăm Pa đã chết từ hàng ngàn năm trước, nếu không, lão đâu đến nỗi vừa mới nhắc đến kẻ đó đã sợ mất mật như thế?

    Vấn đề là quốc vương Chăm Pa đã chết từ ngàn năm trước, sao có thể chạy thoát ra khỏi quan tài? Giờ rốt cuộc hắn ta là ác ma âm hồn không thể siêu thoát hay là con quái vật chết đi sống lại? Và vì sao hắn lại muốn dụ đội khảo cổ phá hủy tấm bia đá Bái Xà dưới lòng đất? Những cụm ẩn số diễn sinh từ kết quả này khiến mọi người không hẹn mà cùng cảm thấy ngộp thở.

    Hải ngọng càng nghĩ lại càng thấy sợ, anh nói trong nỗi hãi hùng: “Hẳn nào trên người Nấm mồ xanh lúc nào cũng nặng mùi tử khí, thì ra hắn vốn không phải người sống. Đúng là chúng ta gặp phải cương thi thành tinh rồi, nhưng vì sao hắn lại muốn tìm tấm bia đá Bái Xà?”

    Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ giây lát, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi: “Căn cứ vào chiều hướng phát triển của sự việc, thì mấy điều kiện anh giả định có lẽ không sai, nhưng Nấm mồ xanh chưa chắc đã phải quốc vương Chăm Pa, thử hỏi trên đời này có ai đã chết rồi mà còn sống lại được không? Hay vẫn còn người nào khác phù hợp với ba điều kiện trên nhưng anh lại không để ý tới?”

    Đến lúc này, Tư Mã Khôi có thể khẳng định lai lịch của Nấm mồ xanh chắc chắn không thể khác xa ba điều kiện mình vừa nêu ra, về điểm này anh có thể lấy mạng sống ra đảm bảo, nhưng ngẫm đi nghĩ lại, anh vẫn thấy quả thực không thể nghĩ ra ai khác ngoài quốc vương Chăm Pa, ngoại trừ con ma ở âm thế này ra thì còn ai khác nữa? Thân phận giống như một ẩn số của Nấm mồ xanh tựa hồ sự tồn tại có thể tiếp cận vô hạn nhưng vĩnh viễn không thể chạm tới.
     
    sáng ngx, Tún and Phucminhon like this.
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 7: HƠI THỞ BỎNG RÁT


    Tư Mã Khôi vốn cho rằng Nấm mồ xanh chín phần chính là quốc vương Chăm Pa, bởi những người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng gặp chỉ đếm trên đầu ngón tay, theo lý mà nói dung mạo giống như thần Phật trên trời giáng phàm của quốc vương Chăm Pa vẫn được lưu giữ đâu đó trên các di tích lịch sử hoặc trên các bức bích họa ở đền chùa miếu mạo. Năm đó, khi ở khe cốc núi Dã Nhân, đội trưởng đội tìm kiếm máy bay tiêm kích Ngọc Phi Yến vừa nhìn một cái đã liền nhận ra, trộm nghĩ, Triệu Lão Biệt xông pha nam bắc chắc đương nhiên cũng biết. Ngoài ra, đội khảo cổ từng kể trải nghiệm ở Miến Điện của đội thám hiểm cho Triệu Lão Biệt nghe lúc trong biển cát dưới cực vực, bởi vậy lão mới biết Tư Mã Khôi từng nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa.

    Trước đây, Cao Tư Dương đã nghe chuyện hội Tư Mã Khôi trải qua ở núi Dã Nhân, Miến Điện. Tuy cô chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa, nhưng chỉ tưởng tượng thôi đã thấy lạnh thấu tim gan, cô hỏi: “Thế kẻ vừa ở dưới hố nói chuyện rốt cuộc là cương thi hay âm hồn vậy?”

    Hải ngọng thêm mắm thêm muối: “Theo tôi, lão quốc vương Chăm Pa kia chính là thây ma tu luyện hàng ngàn năm. Ngày trước ở vùng đông bắc, người ta thường hay nói, phàm con người sau khi chết thi quàn trong quan tài, nếu vì nguyên nhân nào đó không thể hạ táng được thì nhiều năm qua đi, người chết trong quan tài không bị mục rữa, nếu gặp hơi khí của người sống, nó sẽ dễ biến thành cương thi. Tùy vào môi trường thủy thổ ở từng nơi khác nhau, mà xảy ra nhiều loại thi biến khác nhau, nghe nói có cương thi gió, cương thi đá, cương thi huyết và cương thi bột, trong đó ghê gớm nhất là cương thi bột, phần lớn nó là ma nữ. Đặc biệt, loại xác chết cổ đại khắp mình máu huyết trong suốt là đáng sợ nhất. Loại cương thi này có khuôn mặt như phết một lớp bột vôi nên mới bị gọi là cương thi bột, ban ngày chúng ẩn nấp, ban đêm mới ra ngoài lộng hành, bọn này có thể bay vèo vèo trên không trung, chụp được người sống sẽ ôm chặt há mồm hút máu, nếu chưa hút cạn máu chúng sẽ không chịu buông tay, dẫu có vác gậy sắt ra nậy cũng không thể nậy được. Điều đáng sợ hơn là bọn cương thi này còn có ý thức, bắt chước được tiếng người, chắc lúc sinh thời chúng đều tu luyện được chút đạo hành, sau khi chết có thể khiến âm hồn nhập tràng không siêu thoát, xuất ra thì thành ma, nhập vào thì thành cương thi, thời gian tu luyện càng lâu thì đạo hành càng uyên thâm. Tôi đồ rằng lão quốc vương Chăm Pa chính là loại yêu quái này, lúc trước trong mật thất dưới địa cung ở Miến Điện, thi thể của lão đã nổ tan tành rồi cháy rụi, nên chẳng còn thấy mặt mũi gì nữa, sau này Nấm mồ xanh mà chúng ta gặp đều là ác ma lộng hành trong bóng tối”.

    Tư Mã Khôi lắc đầu: “La trại chủ, cậu hiểu nhiều biết rộng thật đấy nhỉ, hóa ra người chết đút trong quan tài lại là yêu quái loại này, không những thế, khi biến thành cương thi rồi mà vẫn còn phân ra thành các chủng loại nữa cơ đấy?”

    Hải ngọng trọn mắt nói: “Chính cậu bảo Nấm mồ xanh là quốc vương Chăm Pa trước còn gì, sao giờ nháy mắt một cái đã đổ vấy sang cho tớ?”

    Thắng Hương Lân giảng hòa: “Các anh đừng đấu khẩu nữa, Nấm mồ xanh chắc chắn không thể là quốc vương Chăm Pa được, tuy quốc vương Chăm Pa phù hợp với ba điều kiện anh nêu, nhưng tiền đề là sau khi con người chết đi phải thực sự biến thành ma, hơn nữa phán đoán này chưa chắc đã vững vàng, các anh nghĩ kỹ mà xem, quốc vương Chăm Pa đã chết cách đây hàng mấy ngàn năm, bất luận hắn là âm hồn không siêu thoát hay là cương thi tác oai tác quái thì rốt cuộc vẫn chỉ là người chết, một người đã chết sao còn sợ nhìn thấy tấm bia đá? Mật mã khắc trên tấm bia là một tổ hợp tín hiệu chết chóc, nếu giải mã nội dung của nó sẽ khiến người đang sống bỗng chốc lăn ra chết, nhưng nó không thể khiến một người đã chết lại chết thêm một làn nữa được”.

    Tư Mã Khôi nói: “Quả thực tôi cũng không dám tin quốc vương Chăm Pa đã chết rồi mà vẫn có thể bò ra khỏi quan tài chạy lông nhông như vậy”.

    Nhưng dưới vòm trời này chỉ có hắn mới phù hợp với ba điều kiện của Nấm mồ xanh, thực ra nói chính xác hơn là hắn phù hợp với hai điều kiện, bởi vì quốc vương Chăm Pa rất coi trọng dung mạo như thần Phật của mình, dẫu hắn đã bị thiêu cháy thành tro trong mật thất của thành Nhện Vàng, thì một cô hồn dạ quỷ như hắn cũng không có lý do gì cần phải giấu khuôn mặt thật sự của mình. Trong khi đó, lý do khiến Nấm mồ xanh không hề đám lộ mặt là vì khuôn mặt thật sẽ làm lộ ra yếu điểm của hắn, còn nguyên nhân vì sao thì có lẽ chỉ có thể tìm thấy đáp án ở phía bên kia của tấm bia đá mà thôi.

    Hải ngọng nói: “Phía bên kia của tấm bia trông giống hệt một cái động không đáy, nói dại miệng, tớ chỉ ngó vào trong đó một cái đã cảm thấy suýt nữa thì rớt mất hồn phách rồi, cậu định vào trong đó thật à?”

    Thắng Hương Lân cũng lo rằng Nấm mồ xanh đang muốn dụ mọi người sang phía bên kia của tấm bia đá, hoàn cảnh lúc này đúng là tiến thoái lưỡng nan. Theo lý mà nói chỉ cần lộ chút dấu vết chân tơ kẽ tóc thì sẽ lần ngược ra được lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng giờ cả hội nắm trong tay bao nhiêu manh mối như thế mà mọi chuyện dường như vẫn nằm trong đám sương mù dày đặc, không hề thấy rõ chân tướng, đây cũng chính là điểm Nấm mồ xanh khiến người khác lạnh gai ốc nhất. Suy đoán theo mấy lời mập mờ của Triệu Lão Biệt thì dường như chỉ một mình quốc vương Chăm Pa mới có thể giải mã được văn tự cổ trên tấm bia, vì cho dù những thành viên đội khảo sát Lopnor năm xưa còn sống, thì cùng lắm họ cũng chỉ nhận biết được phần nội dung mà thôi, nếu không hiểu cách phát âm của hệ ngôn ngữ cổ này, thì dẫu có nhìn thấy bí mật trên tấm bia cũng không bị chết, nhưng nếu là vong hồn hàng ngàn năm của quốc vương Chăm Pa đang tác quái thì quả thực không thể nghĩ ra lý do vì sao hắn phải cố tình giấu kín khuôn mặt thật sự của mình như vậy. Trong những người Tư Mã Khôi từng gặp trước đây, rốt cuộc còn ai phù hợp với những điều kiện giống quốc vương Chăm Pa nữa? Bây giờ hội anh không phải không dám đoán mà là không thể đoán ra, nếu cứ suy luận theo chiều hướng này thì chẳng khác nào chui vào ngõ cụt, trừ phi làm rõ bí mật ở phía đầu kia của bia đá rốt cuộc là gì, nếu không mãi mãi không thể phả giải được vòng tròn quái dị luẩn quẩn kia. Nấm mồ xanh cố tình tiết lộ những thông tin bí mật với ý đồ mượn tay đội khảo cổ để phá hủy tấm bia đá, điểm này rất dễ thấy, mọi việc tiến triển đến đây thì sa vào ngã ba, rốt cuộc hội anh nên phá hủy tấm bia hay từ bỏ cơ hội tìm ra chân tướng sự thật và tháo chạy khỏi miếu thần? Nhưng con đường nên lựa chọn thực ra cũng rất dễ thấy, mọi người chắc chắn sẽ không làm theo lời Nấm mồ xanh ra tay phá hủy tấm bia đá, lạ một điều là tại sao Nấm mồ xanh hành sự vốn kín kẽ và chu đáo là thế mà lại không lường trước được điểm này?

    Tư Mã Khôi biết hội anh chịu thiệt chính là vì không thể mò ra gót chân Asin của Nấm mồ xanh, điều ấy khiến mọi người luôn lâm vào tình thế bị động và chịu khống chế, chẳng khác nào để người ta bịt mắt muốn dắt tay đi đâu thì đi. Khi nãy vì muốn nghe đối phương nói ra bí mật trên tấm bia đá mà cả hội vô tình không biết mình đã để lỡ khá nhiều thòi gian, chi sợ trong miếu thần sắp xảy ra biến cố nguy hiểm nào đó, không khéo giờ đây việc nghĩ xem có nên lại gần bia đá hay không đã trở thành vô nghĩa vì cả hội không còn đường nào để lựa chọn nữa.

    Hải ngọng không tin, anh nghiêng đông ngó tây một hồi, rồi nói: “Biến cố gì cơ? Gã kia chắc chắn nấp trong đường ngầm dưới đáy hô tìm cách chạy thoát thân, nếu còn không đuổi theo thì hắn sẽ chạy xa tít mù khơi cho xem…”, nói xong, anh liền giơ đuốc, rướn người vào trong thông đạo quan sát.

    Tư Mã Khôi thấy xương người vương vãi khắp nơi dưới đáy động, anh đoán trong miếu thần còn ẩn nấp loài sinh vật ăn thịt nào đó, liền vội vàng nhắc Hải ngọng chú ý an toàn.

    Hải ngọng cậy có khẩu súng săn họng lớn hỏa lực mạnh nên không coi lời Tư Mã Khôi vào đâu, nhưng dưới đáy hố toàn là thông đạo trông như những lỗ động, phạm vi chiếu sáng của bó đuốc lại chỉ rộng chừng bốn năm cửa động, thêm vào đó các vết nứt giữa các tầng nham thạch cũng khá lớn, thực không thể biết Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở nơi nào. Hải ngọng sốt ruột, hai mắt muốn tóe lửa, cổ họng khô khốc, anh lập tức lấy bình nước giắt ở hông, mở ra tu ừng ực một mạch đến hết nhẵn.

    Lúc này, Tư Mã khôi phát hiện xung quanh càng lúc càng nóng, không những vậy nhiệt độ tăng cao một cách vô cùng nhanh chóng khiến mồ hôi trên người cả hội toát ra đầm đìa, anh lo thầm: “Chuyện gì thế nhỉ?”, ý nghĩ vừa xẹt qua đầu, đột nhiên trong thông đạo bên cạnh có rất nhiều bóng đen đang nhảy vọt ra, trông như ma núi nửa người nửa sói, tứ chi bò lồm ngồm, trong phút chốc đã ập đến ngay trước mặt, anh vội vàng liệng mình, chộp lấy Hải ngọng kéo giật lại sau né nạn.

    Hội Tư Mã Khôi liên tục thối lui mấy bước, họ còn ngỡ mấy con quái vật từ thông đạo chui ra giống như lũ cương thi trong núi Âm Sơn dưới vực sâu, nhưng dưới ánh lửa bập bùng bất định, anh thấy bọn chúng trông hao hao giống loài sơn tiêu, da mặt đều bị lột mất, đôi mắt chỉ còn lại hai hốc đen ngòm, trên mặt đầy răng sắc lẻm, nhọn hoắt chìa ra ngoài, chúng lũ lượt trèo lên nơi cao trên vách đá.

    Mọi người kinh ngạc tột độ, xem ra sinh vật nửa người nửa quỷ này là những người Bái Xà cổ đại ở lại canh miếu, không ngờ nhánh tộc này có thể nấp trong môi trường khắc nghiệt, thoát khỏi bao kiếp nạn long trời lở đất để tiếp tục sống sót cho đến tận ngày nay. Sử cũ ghi chép, người Bái Xà “xuyên hắc thủy, sống ở địa cùng, mắt sáng như nến, không quen hỏa tính”. Những người Bái Xà ở lại canh miếu này rõ ràng ngay từ lúc mới sinh ra đã bị móc mất mắt, nguyên do có lẽ vì họ không dám nhìn tấm bia đá, nhưng đời này nối tiếp đời khác sống lâu trong địa động sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền, cách biệt với thế giới bên ngoài, nên giờ họ gần như đã bị thoái hóa giống bọn cương thi trong dãy núi Âm Sơn. Có lẽ họ không còn nhớ đến bí mật trên tấm bia đá Bái Xà nữa, thậm chí còn quên hẳn mệnh lệnh của tổ tiên là phải ngăn cản không cho người ngoài lại gần bia đá, chỉ có điều thói quen khoét bỏ đôi mắt đã ăn sâu bén rễ trong trí não, hố sâu dưới tấm bia đá có lẽ chính là mảnh đất vùi thân truyền đới của họ.

    Tư Mã Khôi từng nghe kể thợ săn ở biên giới có lần đã mục kích thấy ma núi, tương truyền bọn chúng vô cùng tà ác, đồn rằng chúng là những người chết trong mộ cũ biến thành. Theo quan điểm hiện đại thì ma núi chỉ là một loài vượn cổ hoặc dã nhân sinh sống trong huyệt động mà thôi, thỉnh thoảng mới tìm thấy bộ xương khô không còn nguyên vẹn. Lần này, bất ngờ gặp được người Bái Xà trong miếu thần dưới lòng đất, hội Tư Mã Khôi mới hiểu truyền thuyết và thông tin ma núi xuất hiện nơi địa đầu hoang vắng là có cơ sở của nó, có điều anh không không thể lý giải được vì sao những con quái vật trông như ma núi này lại đột ngột chui ra khỏi động đạo, cũng may chúng không nhìn thấy gì, nếu không chúng mà nhất tề xông lên thì chỉ dựa vào mấy khẩu sủng lục ắt hội anh chẳng thể cản trở được chúng. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi lập tức ra dấu cho ba người còn lại không được phát ra tiếng động.

    Tư Mã Khôi đang định bảo Hải ngọng lẳng lặng tắt đuốc, ai ngờ mấy người Bái Xà dung mạo như ma núi bò gần đó bỗng quay ngoắt lại, đột nhiên há to mồm lao đến định cắn với tốc độ thần tốc, khả năng phán đoán và định vị phương hướng chính xác đến kỳ lạ.

    Hải ngọng nhanh tay nhanh mắt, giương súng, lên nòng khẩu súng, săn, rồi ngắm thẳng mục tiêu, trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, đạn của khẩu súng săn họng lớn xé tan một con ma núi thành đôi mảnh, máu thịt vương vãi khắp mặt đất. Dưới ánh sáng của đèn quặng, ba người còn lại cũng lần lượt giương súng bắn, đồng thời nép vào những đống xương khô chất đầy dưới đáy động, vội vàng lui về sau.

    Tư Mã Khôi phát hiện cánh tay trái của thắng Hương Lân bị thương trong lúc hỗn loạn, nhưng tình thế cấp bách, không có thời gian ngồi băng bó vết thương cầm máu cho cô, nhìn cảnh này, Tư Mã Khôi không ngăn được nỗi lo lắng dấy lên trong lòng. Trong khi đó, hố sâu dưới tấm bia đá càng lúc càng khô nóng vượt mức chịu đựng, trước mắt giống như có một bức tường thép nung đỏ rực đang dần dần đè xuống, thật chẳng khác nào vầng mặt trời chuẩn bị áp sát họ, ngay cả tóc và lông mày cũng bị sấy khô đến sắp cháy rụi.

    Hải ngọng khản giọng nói: “Không xong rồi! Suối nước nóng dưới lòng đất sắp phun trào, không chạy mau là biến thành gà luộc cả lũ bây giờ!”

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Nơi này nằm ở nơi tận cùng của cửu tuyền, phía dưới làm gì còn suối nước nóng nào nữa, phía dưới miếu thần có lẽ là đại dương mênh mông do thể khí nóng bỏng tụ hợp thành. Vùng biển này không hề tĩnh lặng bất động từ thời hằng cổ, mà thủy triều cũng lên xuống giống như hít vào thở ra vậy, cứ cách một khoảng thời gian nhất định, dòng nhiệt lưu lại chảy ào vào miếu thần, với nhiệt độ này thì người thường không thể nào chịu đựng được. Giờ cả hội mới phát hiện ra điều này, e rằng có muốn chạy trốn cũng không kịp nữa. Sở dĩ Nấm mồ xanh chịu nói ra bí mật của tấm bia đá là vì hắn muốn kéo dài thời gian để đợi dòng nhiệt lưu dâng cao, buộc bọn ta phải chạy sang đầu kia của tấm bia đá tránh nạn, không ngờ hắn còn nắm rõ thời gian cụ thể lên xuống của nước triều như trong lòng bàn tay vậy”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 8: BÊN KIA TẤM BIA ĐÁ


    Khi cả hội tiếp xúc với dòng khí đối lưu được hình thành bởi hải triều của dòng biển nóng thì trên người bắt đầu lấm tấm những mụn phỏng, trong khi đó lũ ma núi ở xung quanh vẫn đang tháo chạy tứ tán, lũ lượt chui vào trong các khe nứt trên cao của huyệt động, nhưng tịnh không một con nào dám bén mảng lại gần tấm bia đá Bái Xà.

    Bức đến bước đường cùng, Tư Mã Khôi đành vứt bó đuốc, dìu Thắng Hương Lân đang bị thương, vừa lăn vừa bò từng bước rút về sau trong đống xương khô, rồi lại theo đường cũ trèo lên đỉnh tấm bia đá Bái Xà. Anh phát hiện phía sau tấm bia đá vẫn lạnh lẽo và vô cùng thâm u, có lẽ do yếu tố địa hình nên dòng khí đối lưu bỏng rát trào lên nhưng không thể chạm đến được nơi này.

    Bốn người lê từng bước cố thoát thân, sau khi trèo lên phía trên tấm bia đá, ai nấy đều mệt bã người, thở hổn hển nặng nhọc, không thể lê chân thêm nổi nữa.

    Tư Mã Khôi lồm cồm bò dậy kiểm tra vết thương của Thắng Hương Lân, thì ra những mành xương vụn trong hố sâu đã rạch đứt một đường trên da Thắng Hương Lân khiến cô mất máu khá nhiều, nhưng may mà vết thương không sâu lắm, thấy vậy anh và Hải ngọng mới yên tâm, quay sang nhờ Cao Tư Dương xử lý vết thương cho Thắng Hương Lân. Sau đó, cả hội chia nhau chút nước ngọt còn lại uống cho đỡ khát, rồi ngồi trên đỉnh tấm bia nghỉ trong giây lát.

    Mọi người đứng ở ven rìa nhìn vào hang động lớn phía sau tấm bia đá, khoảng cách đèn quặng có thể chiếu sáng chỉ đạt khoảng mấy mét, phía dưới tối om, không nhìn thấy gì, nhưng dường như không gian ở đó rất trống trải, khoáng đạt và sâu hun hút, ai nấy đều không tránh khỏi cảm giác nổi gai ốc rùng mình. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, phía dưới ngôi miếu thần đã là vùng hải lưu nóng, vậy sao lối ra vẫn sâu đến thế?

    Lúc đầu, khi nhìn thấy tấm bia đá Bái Xà, Tư Mã Khôi đã cảm thấy bí mật cổ xưa này không nên bị người đời phát hiện, bởi vậy khi ấy anh đã có ý định rút lui, nhưng giờ đường lui đã chẳng còn, cả hội chỉ còn cách quyết tâm sang phía bên kia của tấm bia đá để nhìn rõ xem ở đó rốt cuộc chứa đựng bí mật gì, nhưng nếu làm vậy, hội anh không thể không tính đến khả năng xảy ra điều xấu nhất, bởi rốt cuộc mọi ẩn số đều sinh ra từ đây, kết quả thế nào chẳng ai có thể lường trước được. Sau khi đã chắc chắn với quyết định của mình, anh liền nói tình hình trước mắt cho ba người bạn đồng hành nghe.

    Nhiệt độ dòng biển nóng dưới lòng đất đạt tới 4000°C đến 6000°C, tuy hải triều lên xuống theo quy luật cố định nhưng cụ thể thời gian nước biển dâng hạ thế nào thì anh lại không biết, dẫu có ở trên đỉnh tấm bia đợi đến khi thủy triều rút đi mới chạy ra ngoài qua thông đạo, thì cũng chưa chắc đã may mắn như lúc đến. Chỉ cần bị tấn công, thì với lượng súng đạn ít ỏi còn sót lại, chắc chắn hội anh chẳng thể chống đỡ lại được, đương nhiên sẽ không thoát khỏi số mệnh bị ăn sống nuốt tươi. Vì thế, bây giờ họ chỉ còn cách tiến vào hang động phía sau tấm bia đá mới có cơ hội sống sót, thoát ra khỏi vùng đất tử thần. Trước mắt, tấm bia đá khắc những ký hiệu chết chóc chính là sợi dây cứu mạng duy nhất của họ, bởi vậy bất luận tiếp sau đây có xảy ra tình huống gì, cả hội cũng buộc phải bảo vệ nguyên vẹn tấm bia đá.

    Hải ngọng nói: “Trong hang động toàn là đá hộc lấp kín lối ra cửa động, ở phía ngoài lại bị bia đá chặn lại, hay là ở người Bái Xà cổ muốn ngăn vật gì ở bên trong thoát ra ngoài?”

    Tư Mã Khôi nói: “Hải ngọng, lúc thường gặp chuyện cậu chẳng bao giờ chịu động não, giờ ngay cả cậu cũng nhận ra vấn đề, rõ ràng ở đây chứa nhiều uẩn khúc, nơi này âm khí nặng nề, không biết thời cổ đã tuẫn táng bao nhiêu người? Mà rốt cuộc đối tượng mà người Bái Xà tế lễ là tấm bia đá… hay còn có thứ gì khác nữa?”

    Cao Tư Dương nhớ lại sự việc quái dị xảy ra lúc trước trong khe nứt của tấm bia đá thì rùng mình ớn lạnh, khi nãy rõ ràng cô đã tận mắt nhìn thấy Nhị Học Sinh trợn ngược mắt rồi lăn ra chết, vậy mà cậu ta lại đột ngột xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá, lẽ nào lúc ấy cô nhìn nhầm vì căng thẳng quá độ?

    Nhưng Tư Mã Khôi cũng nhìn thấy tình hình xuất hiện ở mặt bên kia của tấm bia đá, nên có thể khẳng định Cao Tư Dương hoàn toàn không bị hoa mắt. Điều duy nhất có thể chắc chắn là Nhị Học Sinh đi cùng đội thám hiểm xuống cửu tuyền thực sự đã chết, bởi vậy bất luận kẻ xuất hiện phía sau tấm bia đá Bái Xà là ai, thì hắn cũng chỉ trông giống Nhị Học Sinh mà thôi, chắc chắn đó không phải cậu thư sinh đến từ nông trường Đại Thần Nông Giá.

    Hội Hải ngọng lẳng lặng gật đầu. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân tiều tụy, mất sức quá, nên quyết định bảo cả hội ngồi nghỉ trên đỉnh tấm bia đá thêm nửa giờ nữa.

    Mọi người đều bị nước bỏng bắn lên làm phỏng rộp, giờ ngồi nghỉ mới thấy toàn thân đau rát, nhưng ai cũng cố nén đau tắt đèn quặng, họ vừa chỉnh đốn lại vũ khí đạn dược, vừa thì thầm thảo luận bước hành động tiếp theo dưới ánh đom đóm mờ ảo.

    Tư Mã Khôi ngờ rằng tấm bia đá có khả năng chính là đường phân cách ranh giới giữa hư vô và hiện thực, phần lớn bích họa kéo dài đến tận cửa động đều miêu tả cảnh người chết biến thành ma, rồi đi qua đây rơi xuống biển hư vô, bởi vậy phía sau tấm bia đá có lẽ là hư vô.

    Hải ngọng không hiểu vậy nghĩa là gì, bèn hỏi: “Nơi người chết đến… chẳng phải chính là hoàng tuyền dưới âm phủ sao?”

    Tư Mã Khôi nói, anh cũng chỉ suy đoán thôi, sự việc có khi không đơn giản như vậy, còn hư vô là gì thì không thể giải thích rõ bằng dăm ba câu được. Năm đó, giới lục lâm có một tích cũ, nói rằng những năm cuối thời Minh, bọn thảo khấu làm loạn ở Thiểm Tây, triều đình huy động quân binh đi tiễu phỉ. Trước đây, triều đình gọi nhóm người này là “phỉ lưu động”, nhưng người về sau thì gọi là nhân dân khởi nghĩa. Khi ấy nghĩa quân chuyển vùng hoạt động ở nhiều tỉnh, liên tục chiến đấu ác liệt với quan quân triều đình, nên mãi không có cơ hội nghỉ ngơi, chỉnh đốn quân ngũ. Quân khởi nghĩa thương vong rất nhiều, nhưng điều quan trọng nhất là thiếu quân lương trầm trọng, tình hình nguy kịch như thỏ sa hang cọp, lúc nào cũng có khả năng bị tiêu diệt toàn quân.

    Năm đó, cương triều bại hoại, lòng dân bất mãn, nơi nào cũng có người âm thầm giúp đỡ nghĩa quân, đến đâu họ cũng được cung cấp thêm lương thực, quân dụng. Một ngày, có một người con gái giang hồ đến phủ Khai Phong ở Hà Nam hát dạo. Cô nương ấy dung mạo tuyệt sắc, khiến người dân địa phương tranh nhau đến xem. Cô bày một hũ sành cổ trên đường phố, rồi bảo ai có thể thả đầy tiền xu vào hũ sành thì nàng sẽ cam tâm tình nguyện lấy người ấy. Bất kể thời nào thế nào, bất kể năm tháng có nhiều biến động đến đâu thì dưới vòm trời này chưa bao giờ thiếu những kẻ lắm chuyện thích hóng hớt xem vui. Mọi người vừa thấy cái hũ sành chỉ bé bằng bát cơm, thì nghĩ chẳng đựng được bao nhiêu tiền, nếu có thể lấy một tiểu cô nương yêu kiều duyên dáng nhường kia về làm vợ thì đúng là phúc lớn. Nghĩ vậy, mọi người chen chúc nhau ném ba đồng, bảy xu vào trong hũ, có người còn dốc cả chuỗi tiền đồng, chẳng ngờ hũ sành cổ như cái động không đáy, ném vào bao nhiêu cũng không thấy đầy, tiền xu cứ một đi không trở lại nào khác gì ném bánh bao đánh chó. Dân chúng vây quanh lấy làm kinh ngạc, đều nói cô nương nọ đúng là một dị nhân, chắc phải am hiểu dị thuật tà ma gì đó. Thế là chẳng ai dám đâm đầu làm con ma chết oan.

    Vừa lúc ấy, có một quan quân áp giải ngân tiêu đóng thuế, dẫn theo một đội binh sĩ đi ngang vùng, thấy bên cạnh xảy ra sự việc ly kỳ, vị này cũng không tin vào tà ma, mà chủ yếu cũng là thèm mỹ nhân nhỏ dãi. Anh ta cho rằng hũ sành cổ chẳng qua chỉ giống như phép che mắt, quân ngân của quan phủ đều được đóng dấu, dẫu có dùng thuật dịch chuyển thì cũng khó lòng ăn cắp nổi. Thế là, anh ta chen qua đám đông vào gần thả ngân tiêu vào hũ sành, thả một thỏi mất một thỏi, thả hai thỏi mất cả đôi.

    Vị quan quân nọ thẹn quá hóa giận, khăng khăng không tin cái hũ vỡ tầm thường kia có thể đựng được cả xe thuế ngân, anh ta bèn đẩy cả xe đựng đầy bạc tới, cởi dây thừng buộc từng hòm bạc, dốc thẳng vào hũ, vốn nghĩ nhiều bạc như vậy sẽ chôn được cả hũ sành xuống dưới, nào ngờ dưới lòng đất như có một hố lún xuống, cái xe đột nhiên chìm xuống, cả ngựa lẫn ngân tiêu đều rơi vèo một cái vào trong hũ, mất tăm mất dạng. Vị quan quân nọ đứng nghệt mặt tại chỗ, hồi lâu mới định thần trở lại, vội vàng hét quân lính bắt cô nương kia lại. Anh ta bỗng dưng bị mất hết quan ngân, ít ra cùng phải trói yêu nữ lại bắt đền tội. Cô nương khẩn khoản cầu xin: ‘‘”Nếu đã là thuế ngân của triều đình, thì xin hãy cho tiểu nữ dốc hũ đổ ngân tiêu ra trả, đảm bảo không thiếu một xu”. Sau đó, cô ta bước đến trước hũ sành, nhân lúc quan binh không để ý, cô liền thu nhỏ người lại, trong chớp mắt đã chui vào hũ sành cổ. Vị quan quân áp giải xe ngân và quân lính hét to xông lên đập vỡ hũ sành, nhưng trong đó rỗng không, chẳng có gì, người con gái hát dạo và cả ngân sa như trâu đất xuống biển, như diều đứt dây, tất cả đều mất tăm mất dạng.

    Hải ngọng nghe xong cũng tròn mắt ngạc nhiên, anh hỏi: “Có chuyện này thật á? Hay đây là phép che mắt mà chồn thành tinh hay thi triển nhỉ?”

    Tư Mã Khôi nói, dẫu sao đây là tích cũ từ hàng trăm năm trước, bây giờ kể lại chẳng qua chỉ là móc lại chuyện cổ kim, nghe nói người con gái ấy là kỳ nhân trong nghĩa quân, nàng thi triển phép vận chuyển để lấy quan ngân bổ sung quân lương, cái hũ sành giống như động không đáy của nàng giống như bích họa mà Triệu Lão Biệt nhìn thấy ở chân núi Himalaya, một tiên nữ có thể nuốt chửng cả tòa thành lớn vào bụng. Nếu quả thực trước đây xuất hiện phép vận chuyển này, thì nói không chừng, người con gái ấy có thể nắm được phương pháp ra vào hư vô, mà tình hình trong hư vô thì không một ai biết, vì đó là nơi mà ngay cả người sở hữu Phật nhãn nhìn thấu mọi cõi, mọi kiếp cũng không thể nhìn thấy nổi, bởi vậy hội anh rất khó đoán – nếu vào trong đó sẽ gặp phải những tình huống gì.

    Tuy Hải ngọng trong lòng thấy gờn gợn, nhưng vẫn cứng miệng ra vẻ hảo hán: “Thần Phật khắp cõi trời không nhìn thấu cũng chả sao, Hải ngọng tớ nhìn thấu là được. Cứ thử xem vận may của anh em ta lớn đến cỡ nào, nếu mở hàng đóng quan tài thì tớ chắc tám phần là trong thành chẳng ma nào chết. Xuống dưới đó, sợ cái gì gặp cái nấy, thì còn gì đáng phải bất ngờ nữa?”

    Thắng Hương Lân cũng phục hồi tinh thần được mấy phần, nghe Tư Mã Khôi và Hải ngọng toàn nói chuyện rợn người, cô liền đứng dậy nói: “Tấm bia đá của người Bái Xà đã bị lún trong lòng đất hàng mấy ngàn năm, mặt đá nứt nẻ khắp nơi, giữa đường viền và vách động cũng tồn tại rất nhiều khe nứt, hư thực tương giao sao có thể chỉ cách một bức tường vỡ hỏng thế này? Bây giờ, lương thực, nước, đạn dược và pin đèn mà bốn chúng ta mang theo chẳng còn lại bao nhiêu, muốn tìm hiểu bí mật phía đối diện của tấm bia đá, thì không nên chần chừ nữa, phải nhanh tay hành động thôi!”

    Thấy sắc mặt Thắng Hương Lân trắng bệch, Tư Mã Khôi chẳng rõ cô còn gắng gượng được bao lâu, nên trong lòng lại gợn lên nỗi lo âu, ngặt nỗi cứ ở mãi dưới lòng đất cũng chẳng có cách gì chữa trị, anh chỉ biết dặn cô bám sát ngay sau lưng mình, không được rời nửa bước, giả sử có gặp phải hung hiểm gì thì chí ít cũng có thể trợ giúp bất cứ lúc nào.

    Thắng Hương Lân gật đầu đồng ý: “Hang động phía sau tấm bia sâu một cách kì lạ, mọi thứ đều mờ mịt, phạm vi hành động của mấy người chúng ta cố gắng giữ trong khoảng cách có thể nhìn thấy nhé!”

    Hải ngọng lật tung mấy cuộn ống kíp và dây dẫn nổ trong ba lô, bó thành một bó thuốc nổ đơn giản, thuốc nổ hạng nặng tìm thấy trong kho vật tư trên khinh khí cầu nhiệt đã dùng hết lúc phá nổ ở cổng dẫn vào Tử thành, nhưng việc quấn mấy ống kíp thành vật phát nổ cũng đủ giúp anh cứng gan hơn, nếu gặp phải yêu ma quỷ quái, dẫu không giết chết được chúng thì chí ít cũng làm chúng sợ mà bỏ chạy.

    Tư Mã Khôi nói: “Tuy tấm bia rất to và dày, nhưng đã bị vùi lấp nhiều năm dưới lòng đất, chỗ nào cũng toàn khe nứt và vết rạn mai rùa, nếu đứng ở khoảng cách quá gần thì cuộn thuốc nổ này cũng có khả năng làm sụp cả tấm bia, bởi vậy lúc sử dụng thuốc nổ, chúng ta phải thật thận trọng mới được”.

    Bốn người chuẩn bị đâu vào đấy, mới cẩn thận tụt xuống chân mặt sau của tấm bia, phát hiện phía trong là động không đáy vừa cao vừa khoáng đạt, áng chừng đường kính của động đạo và chiều rộng của tấm bia đá tương đương nhau, trong động tối om, che khuất tầm mắt, phạm vi nhìn thấy hẹp hơn ở phía ngoài mấy lần, đèn quặng chỉ có thể chiếu sáng được trong vòng năm, sáu bước. Trong động này, bóng tối như nước triều vô biên không chỉ nuốt ánh sáng, mà dường như còn nuốt chửng tất cả âm thanh trên cõi đời.

    Mọi người không dám liều lĩnh bước vào ngay mà đứng dựa lưng vào tấm bia đảo mắt quan sát xung quanh, họ phát hiện mặt sau tấm bia cũng khắc chữ cổ, hai bên vách động còn có dấu tích khắc vẽ tranh mà người Bái Xà để lại, dường như họ muốn ghi chép những cảnh ngộ mà tổ tiên mình từng gặp phải trong hang động cổ, chỉ mấy chữ triện cổ sót lại là còn có thể nhận dạng được.

    Thấy Thắng Hương Lân lôi cuốn sổ ghi chép ra đối chiếu dưới ánh đèn quặng, lần lượt giải mã nội dung còn sót lại trên bích họa, mọi người liền tranh thủ ngó nghiêng ra phía ngoài qua khe nứt trên tấm bia. Họ lờ mờ cảm thấy dòng nhiệt lưu đang trào lên, ngoài ra không có hiện tượng khác thường nào hết. Thấy vậy, mọi người đều nghĩ, lúc trước có lẽ mình đã quá đa nghi, bèn quay lại hỏi Tháng Hương Lân xem trên vách động khắc những gì?

    Thắng Hương Lân bảo, vách động bị rong rêu xâm thực bào mòn nghiêm trọng, nội dung có thể giải mã được rất ít. Phần có thể dịch ra được có lẽ là “Sẽ nhìn thấy… sự thật… không thể chịu đựng nổi”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 9: SỰ THẬT KHÔNG THỂ CHỊU ĐỰNG


    Vách trong của tấm bia đá khắc mấy chữ cổ không trọn vẹn, Thắng Hương Lân chỉ nhận ra mấy chữ trong số đó, còn phần lớn đã bị rong rêu xâm thực nên đã mờ nhạt không còn rõ nữa.

    Tư Mã Khôi mơ hồ không hiểu “Nhìn thấy sự thật không thể chịu đựng nổi” rốt cuộc muốn ám chỉ điều gì? Tô tem và những chữ tượng hình khắc trên vách đá còn cổ xưa hơn cả tấm bia đá, nội dung ghi chép trên đó rất có khả năng nói về cảnh ngộ gặp phải trong hang động của tổ tiên người Bái Xà, bởi vậy dòng chữ này không phải chỉ tín hiệu chết chóc trên bia đá, mà ám chỉ hang động phía sau tấm bia, nơi ấy đen ngòm, sâu hút không thấy đáy, nào ai thấy được bên trong có thứ gì?

    Thắng Hương Lân cũng băn khoăn không hiểu, cô soi đèn quặng lên vách động, rồi nói với hội Tư Mã Khôi: “Quanh đó còn có những hình vẽ kỳ quái, dường như đây là nghi thức tế lễ trong hang động của tổ tiên người Bái Xà”.

    Tư Mã Khôi hướng mắt về phía tay Thắng Hương Lân chỉ, anh thấy trên vách động khắc hình ảnh một đám người đứng xếp hàng, tất thảy đều lấy tay che mặt, thần sắc đượm vẻ sợ hãi. Cấu tứ bức tranh tuy đơn điệu cổ phác nhưng lại ẩn hiện truyền đạt một hơi thở thần bí và ma quái, một hàm ý mà người hiện đại không thể nào giải mã được.

    Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Trong này còn có thứ khiến người Bái Xà sợ hãi hơn cả tấm bia đá ư?”

    Thắng Hương Lân nói: “Căn cứ vào những chi tiết khắc trên vách đông, xem ra tổ tiên người Bái Xà từng phát hiện thấy một sinh vật vô cùng đáng sợ tồn tại trong hang, đầu tiên do quá khiếp sợ nên họ tế lễ, nhưng sau đó họ lấy bia đá bịt cửa động lại, không hiểu trong động không đáy này tồn tại… thứ gì nhỉ?”

    Mọi người không biết phải suy đoán thế nào, liền quyết định cứ vào trong tìm hiểu trước đã. Thấy xung quanh toàn là vách đá bị rong rêu che phủ, Tư Mã Khôi liền đi trước dẫn dường, Hải ngọng đi sau cùng, bốn chiếc đèn quặng đều bật hết lên, cả hội men theo vách đá mò mẫm đi sâu vào trong hang.

    Trên người Tư Mã Khôi luôn mang theo một hộp thiếc rỗng, bề ngoài đục nhiều lỗ, bên trong đựng mấy con đóm đóm anh bắt được trong huyệt động, tạm thời sử dụng làm đèn trại, nhưng loài đom đóm đuôi dài này đều không có miệng, không thể lấy thức ăn để duy trì sinh mệnh, nên thời gian tồn tại của chúng vô cùng ngắn ngủi, tuổi thọ sớm nở tối tàn chẳng khác nào một đóa phù dung, chỉ khoảng hai mươi tiếng sau khi ra đời, chúng sẽ chết. Từ đầm dạ quang đến tấm bia đá, cả hội đi mất gần hai ngày, mấy con đom đóm đuôi dài bắt ở đầm giờ đã dần mờ ánh sáng, rồi lần lượt chết, còn lại hai con sống sót, nhưng ánh sáng cũng chỉ le lói mờ ảo, không thể phát huy tác dụng chiếu sáng được nữa, cũng chẳng thể tận dụng để đo hàm lượng oxy dưới lòng đất.

    Tư Mã Khôi thấy mang theo cái hộp bên người chỉ tổ phiền phức, anh bèn phóng sinh cho hai con đom đóm, mặc chúng tự sinh tự diệt, chỉ thấy hai con đom đóm sải rộng đôi cánh, quét vệt sáng mờ màu vàng chanh ở đuôi lướt qua đỉnh đầu mọi người, chúng lượn quanh nửa vòng rồi mất hút trong bóng đêm vô biên, chỉ còn lại chiếc hộp rỗng không, Tư Mã Khôi tiện tay quẳng luôn xuống đất.

    Lúc này, Thắng Hương Lân giơ tay nhìn đồng hồ, kim ngắn vừa vặn chỉ mười một giờ đúng. Ở dưới cửu tuyền cách biệt với thế giới bên ngoài, mọi người vốn chẳng cần phân biệt ngày và đêm, chỉ có điều Thắng Hương Lân muốn lấy thời gian làm điểm tham chiếu, lúc tiến sâu vào trong có thể tính toán độ sâu của hang động.

    Bốn người lần theo tấm bia chậm chạp tiến về phía trước, Hải ngọng đi sau cùng, vô tình vấp phải hộp thiếc mà Tư Mã Khôi vừa vứt khi nãy, chân đứng không vững, liền bổ nhào ngã ụp xuống đất, đầu đâm cả vào ba lô Cao Tư Dương đang khoác trên lưng, ba người còn lại được phen hú vía, cùng quay phắt người lại xem chuyện gì xảy ra.

    Hải ngọng lồm ngồm bò dậy, trách Tư Mã Khôi: “Cậu vứt cái hộp sao chả vứt xa một chút. Nơi tối lửa tắt đèn thế này giẫm phải ngã gãy xương chứ chẳng chơi, may mà tớ đã luyện võ…”

    Tư Mã Khôi thấy không có chuyện gì, thì không đếm xỉa đến Hải ngọng nữa, anh quay người đang định tiến về phía trước, thì đột nhiên phát hiện trước chùm sáng đèn quặng thấp thoáng hiện ra khuôn mặt của một người.

    Trong động tối đen như mực, chỉ cần ở cách mấy bước chân đã không nhìn thấy tia sáng cũng như không nghe thấy bất cứ âm thành nào rồi, bởi vậy đến khi cách người trước mặt rất gần, Tư Mã Khôi mới nhận ra. Tuy khuôn mặt kẻ mới đến trông chỉ lờ mờ, nhưng các đường nét vô cùng quen thuộc, rõ ràng đó là Nhị Học Sinh, người mới chết cách đây không lâu lúc ở phía ngoài bia đá. Tư Mã Khôi vốn bạo gan cứng vía nên anh chỉ lặng lẽ quan sát, rồi đột ngột thò tay ra phía trước tóm thật nhanh, lôi cổ kẻ mới đến lại gần nhìn cho rõ.

    Nhị Học Sinh dường như đang hoảng hốt, loạng quạng bước về phía này, do mắt cận nặng nên cậu ta không nhìn thấy người ở trước mặt. Tư Mã Khôi ra tay nhanh như gió, khiến cậu ta không né kịp, Tư Mã Khôi tóm chặt cổ cậu ta chẳng khác nào đại bàng quắp chim sẻ, rồi anh vật mạnh Nhị Học Sinh xuống, khiến mặt cậu ta vàng như nghệ, ngồi co ro thành một đống.

    Ba người còn lại phát hiện động tĩnh bất thường, đều quay đầu lại, lúc đèn quặng soi sáng khoảng không gian trước mặt, mới thấy tay Tư Mã Khôi đang tóm cổ một người, mà người này lại chính là Nhị Học Sinh, cả hội thấy da đầu bỗng dưng tê bì, da gà nổi toàn thân.

    Hải ngọng vừa kinh ngạc vừa tò mò, bước lại gần Nhị Học Sinh nhìn không chớp mắt, tình hình lúc này thật chẳng khác gì đang trải qua một cơn ác mộng, nhưng những vết phỏng trên người do dòng nhiệt lưu bắn lên vẫn đau rát như nhắc anh – rõ ràng không phải đang mơ, anh không kiềm được lẩm bẩm tự hỏi: “Gã này là người hay ma không biết?”, lời vừa thốt ra ngay cả bản thân cũng thấy không đúng. Cậu Nhị Học Sinh kia cơ thể vốn đã mong manh yếu ớt, lại thêm phải chịu bao nỗi vất vả, bao phen sợ hãi dọc đường, cậu ta kiên trì đến được bia đá thì như ngọn đèn hết dầu, chết gục trước tấm bia, ngay cả thủ cấp cũng bị mọi người tẩm dầu, hỏa thiêu thành tro để phòng người chết không bị côn trùng, chuột bọ gặm nhấm, chỉ lưu lại mấy di vật tùy thân như chiếc bút máy, huy hiệu… Nếu cả hội có thể sống sót thoát khỏi lòng đất, thì sẽ mang những di vật này về cố hương lập áo quan, coi như cậu ta không bị chết nơi đất khách quê người, đây cũng là một cách an táng từ thời xưa truyền lại. Cổ nhân có câu “người chết như đèn tắt”, một người đã bị hóa xương cốt thành tro, sao bỗng dưng có thể chạy ra từ động không đáy phía sau tấm bia đá? Nếu không phải yêu quái biến thành, thì hẳn cũng là ma hiện hồn, nghĩ đến đây anh lập tức giương khẩu súng săn hai nòng dí thẳng vào đỉnh đầu Nhị Học Sinh, chuẩn bị bóp cò bắn sọ đối phương nát như tào phớ.

    Nhị Học Sinh sợ vãi đái, hai chân mềm nhũn khuỵu xuống đất, lúng búng van xin: “Đừng… đừng đừng… xin đừng nổ súng, tôi… tôi… tôi…”

    Cao Tư Dương thấy người chết sống lại, trong lòng hãi hùng cực độ, nhưng cô thấy người ấy dung mạo và thần thái, cả động tác, lời nói nữa đều giống y chang cậu thư sinh Nhị Học Sinh đến từ Đại Thần Nông Giá, cô nhớ Tư Mã Khôi từng nói cách phân biệt giữa người và ma, “dưới đèn có bóng, áo mặc có đường may” thì chắc chắn là người chứ không phải ma, nếu xét như vậy thì người trước mặt rõ ràng là người sống sờ sờ không còn nghi ngờ gì nữa. Cô nghĩ chắc có nguyên do, nội tình gì đó ẩn chứa bên trong, nên vội vàng đẩy khẩu súng săn gấu đã lên nòng của Hải ngọng sang một bên.

    Hải ngọng nóng mắt quát lớn: “Nhị Học Sinh có phải Triệu Lão Biệt biết găm biệt bảo trong người đâu mà có thể chết đi sống lại được, hắn không phải ma thì cũng là yêu quái, cô tuyệt đối không được nhất thời mềm lòng mà bị nó làm mờ mắt, tránh ra để tôi ‘bòm’ một phát cho sạch sẽ nào!”

    Thắng Hương Lân đứng bên quan sát, trong lòng cũng thầm kinh ngạc tột độ, tấm bia đá Bái Xà rốt cuộc là vật vô cùng cổ quái, khó lòng dùng các lý thuyết thông thường để xét đoán. Chẳng lẽ người chết ngoài bia đá sẽ xuất hiện phía trong bia đá và ngược lại? Cô lại thấy Nhị Học Sinh vẫn gài bút và huy hiệu trên người, trông không khác gì di vật mà mọi người mang theo, cô bèn khuyên Hải ngọng đừng vội động thủ, cứ hỏi cho rõ rồi xử hắn sau cũng chưa muộn.

    Tư Mã Khôi không nói gì, tóm cổ Nhị Học Sinh lại gần nhìn chăm chú một hồi lâu, nhưng không nhận thấy điểm gì khác thường. Người đã chết lại xuất hiện phía trong tấm bia đá, bản thân chuyện này vốn đã bất thường, anh bèn ra dấu bằng mắt cho Hải ngọng: “Xử đẹp thằng này đi!”

    Hải ngọng vốn đã muốn giết hắn, nên lại giơ họng súng săn chĩa thẳng vào Nhị Học Sinh, trợn mắt nói: “Đừng trách anh lòng lang dạ sói, chú mày nghĩ mà xem, chú mày như ngọn đèn đã tắt, còn lưu luyến gì trên cõi đời này nữa mà phải trở lại nhập tràng? Bây giờ anh Hải ngọng chỉ còn cách tiễn chú một đoạn mà thôi…”

    Nhị Học sinh bị họng súng đèn ngòm chĩa thẳng vào trán, cậu ta sợ run cầm cập, há hốc mồm, không thốt ra được nửa lời.

    Cao Tư Dương chặn trước họng súng, nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng: “Sao các anh cứ động một tý là ra tay giết người, hỏi cho rõ đã rồi tính sau!”

    Thắng Hương Lân cũng nói: “Người này lai lịch bất minh, chúng ta nên làm rõ xem rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì trước đã!”

    Tư Mã Khôi nghĩ thầm: ‘‘Từ sau bia đá bò ra không phải ma mới lạ, làm sao hỏi được cái cóc khô gì, nếu để lại hậu họa sẽ khôn lường”, anh lo phạm vi sát thương của đạn ghém hoa cải trong khẩu súng săn gấu hai nòng quá rộng, nên đẩy Nhị Học Sinh vào vách động, lấy khoảng không cho Hải ngọng tiện ngắm bắn.

    Nhị Học Sinh bị đẩy mạnh đập cả người vào vách đá, mắt thấy hội người này định hạ thủ thật, thì sợ hãi đến nỗi chẳng giãy giụa được gì, cuống cuồng dùng cả tay lẫn chân vừa bò vừa lăn chạy tháo mạng.

    Hải ngọng không chút chậm trễ, giương súng bóp cò, một tiếng “pằng” vang lên, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu lớn bắn trúng vào lưng Nhị Học Sinh. Loại súng săn kiểu cũ của Canada này có thể hạ gục cả loài gấu nâu nặng ngàn cân thường lảng vảng trên dãy Rocky ở khoảng cách gần, nay bắn vào người thì làm gì có chuyện còn sống sót?

    Nhị Học Sinh đứng cách mũi súng có mấy bước, cả cơ thể như chiếc lá bị cuồng phong giật tung lên, đạn xuyên thủng một lỗ lớn, người đập mạnh vào vách động, rồi mới rơi phịch xuống.

    Cả hội lại gần xem, thì thấy Nhị Học sinh nằm thẳng cẳng trên mặt đất, đạn ghém cỡ tám đâm một lỗ từ sau lưng ra đến trước bụng, lòi cả phèo ruột ra ngoài, hai mắt mở trừng trừng vô định và chan chứa nỗi tuyệt vọng, miệng ùng ục nôn ra toàn bọt máu, tay chân co giật một hồi thì đoạn khí.

    Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh rõ ràng có máu có thịt, lại còn mang hơi khí của người sống, chẳng giống ma quỷ chút nào, cô phẫn nộ oán trách Tư Mã Khôi và Hải ngọng chưa hỏi rõ trắng đen đã ra tay hạ độc thủ luôn, rất có thể cả hai đã phạm phải sai lầm không cách nào cứu vãn.

    Thắng Hương Lân cũng muốn khuyên nhủ cũng đã muộn, thấy cảnh tượng này thê thảm quá mức, nên cô không dám lại gần xem, nhưng người chết phía ngoài tấm bia đá lại xuất hiện ở đây, rõ ràng chuyện này có nguyên do của nó, không biết tiếp theo còn xảy ra những biến cố gì nữa?

    Hải ngọng đã quen nhìn bao người chết trên chiến trường Miến Điện với đủ tư thế, anh biết lúc giết gà, con gà bị cắt cổ vẫn có thể nhào lên chạy mấy vòng, người chết chân tay co giật cũng là chuyện bình thường, chỉ một lát nữa thôi sẽ không còn cử động được gì nữa, có điều bộ dạng phèo ruột lòi cả ra ngoài thì đúng là cũng hơi khác so với những cái chết khác, lẽ nào anh thực sự đã ra tay giết người vô tội?

    Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng đừng nghĩ nhiều, anh vẫn kiên định với câu nói trước đây, Nhị Học Sinh đi cùng đội khảo cổ ở rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá thực sự đã chết rồi, bất kể thứ bị nhốt trong hang động phía sau bia đá có giống cậu ta cỡ nào thì cũng không được tin đó là thật, nếu không dẫu có bao nhiêu cái mạng cũng không đủ lấp đầy hang động này đâu.

    Hải ngọng nói: “Cậu đã nói vậy thì tớ yên tâm, chúng ta tiếp tục đi sâu vào trong chứ?”

    Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi không hề đếm xỉa gì đến lời nói của mình, cô chau mày bảo: “Muốn đi thì các anh tự đi. Tôi không hành động với lũ thổ phỉ bọn anh nữa!”

    Lúc này, thấy Nhị Học Sinh đang nằm thẳng cẳng trên mặt đất, chân tay đã dần dần ngừng co giật, chút hơi tàn cũng đã trút hết, đúng lúc này, đèn quặng trên đầu bốn người đột nhiên tối sầm lại, trong nháy mắt tất cả chìm vào bóng đêm sâu thẳm và dày đặc không thể nào xuyên qua.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 4: ĐỘNG KHÔNG ĐÁY - HỒI 1: 11:0


    Tư Mã Khôi thấy đèn tự nhiên vụt tắt, không hiểu do hết pin hay chạm mạch, anh chửi thầm: “Mẹ mày, tà mị đến thế là cùng, sao toàn đợi lúc này mới sinh chuyện?”

    Bóng tối vô biên hòa quyện với hơi khí chết chóc đầy mùi tuyệt vọng, lan tỏa đặc quánh khắp không gian. Bốn người sợ hãi, dựa sát vào nhau, nghe rõ cả hơi thở của người khác, không ai dám tự tiện xê dịch nửa bước, tim họ như đang muốn trồi lên tận cổ.

    Mọi việc chỉ xảy ra trong nháy mắt, chẳng bao lâu sau đèn đã sáng trở lại, chiếu rõ mọi vật xung quanh.

    Thắng Hương Lân căng thẳng hỏi Tư Mã Khôi: “Chuyện gì xảy ra khi nãy ấy nhỉ? Đèn quặng đang bình thường, sao tự nhiên tắt ngóm hết thế?”

    Tim trong lồng ngực Tư Mã Khôi vẫn đập thình thịch, anh lắc đầu ý bảo không biết, lúc cúi xuống xem mới phát hiện cái xác của Nhị Học Sinh vốn nằm ngay trước mặt, nay bỗng không cánh mà bay, ngay cả máu thịt bắn tung tóe trên vách động cũng hoàn toàn bị xóa sạch.

    Cao Tư Dương toát mồ hôi lạnh, cô vô cùng hối hận đã trách lầm hành động khi nãy của cả hội, may mà Tư Mã Khôi không chấp vặt.

    Tư Mã Khôi đâu để bụng mấy chuyện đầu thừa đuôi thẹo, anh cảm thấy sự việc này vô cùng quái dị, nhưng vẫn cố lấy can đảm dò dẫm bước về phía trước tìm kiếm. Đang định di chuyển, thì đột nhiên chân anh đá phải một vật thể bằng kim loại, nhặt lên mới biết chính là hộp thiếc anh vừa quăng đi lúc nãy, trên hộp còn vết dao khoét thành nhiều lỗ thủng, trước đây dùng đựng mấy con đom đóm đuôi dài để đo chất lượng không khí, tuy chỉ là vật không hề bắt mắt, nhưng chắc chắn không thể tìm thấy cái thứ hai giống y chang như vậy.

    Thắng Hương Lân ngạc nhiên hỏi: “Khi nãy anh đã vứt nó đi rồi, giờ còn nhặt lại làm gì?”

    Tư Mã Khôi cầm hộp thiếc quan sát hồi lâu, lòng hãi hùng cực độ, anh nói: “Tôi nhớ rõ ràng lúc men theo vách đá vào sâu bên trong, thì tiện tay vứt cái hộp xuống đất, kết quả hại Hải ngọng đi sau cùng vấp phải ngã lăn quay, sau đó cả hội lại đi vào sâu hơn, mới gặp Nhị Học Sinh ở phía trong tấm bia đá. Cả quãng đường, chúng ta không ngừng đi về phía trước, chẳng hề lùi lại nửa bước, điều đó nghĩa là cái hộp đáng lẽ ra phải bị bỏ lại sau lưng, sao bây giờ nó lại mọc chân chạy đến ngay dưới chân tôi nhỉ?”

    Hải ngọng nói: “Đúng thế, khi ấy tôi giơ chân đá nó về phía sau, tuyệt đối nó không thể lăn ra phía trước được, lí nào chúng ta sa vào hẻm ma ám, quay trở lại đường cũ rồi?”

    Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ rồi nói: “Động đạo này vừa sâu vừa rộng, nhưng chúng ta mới đi được hơn chục bước, đâu dễ gì bị lạc hướng…”, nói xong cô liếc mắt xem đồng hồ, rồi khiếp đảm thốt lên: “Không phải chúng ta đi vòng trở lại, mà là thời gian đang quay ngược trở về lúc mười một giờ đúng!”

    Tư Mã Khôi có dự cảm rất xấu, sao thời gian có thể trôi ngược được? Lúc vứt cái hộp, rồi bắt đầu đi sâu vào trong hang là mười một giờ đúng, sau đó thì gặp Nhị Học Sinh, Hải ngọng giơ súng săn gấu hai nòng bắn chết hắn, đèn quặng vô duyên vô cớ chợt vụt tắt, cả quá trình chí ít cũng kéo dài chừng mười phút, nhưng sau khi đèn quặng chiếu sáng trở lại, thì anh lại giẫm phải hộp thiếc vốn đã bị ném ở phía sau, đồng thời thời gian cũng chạy lùi về khoảnh khắc mười một giờ đúng. Tại sao như vậy được nhỉ?

    Đúng lúc mọi người đang kinh ngạc tột độ, đột nhiên lại nghe thấy tiếng bước chân trong động đang đi tới gần, Tư Mã Khôi bật đèn quặng, thì nhìn thấy Nhị Học Sinh hốt hốt hoảng hoảng, bước thấp bước cao chạy đến. Do động đạo nuốt hết mọi ánh sáng và âm thanh, nên khi họ nghe thấy tiếng bước chân, thì hắn đã đến rất gần.

    Tư Mã Khôi sợ hãi tột cùng, giơ chân ngoắc một cái, khiến kẻ mới đến ngã vật xuống đất, rồi thuận thế lấy báng súng đập mạnh.

    Gáy Nhị Học Sinh bị báng súng đập trúng, chẳng ho he được tiếng nào đã lăn quay bất tỉnh nhân sự, hắn nằm rạp xuống đất trông chẳng khác nào con chó chết.

    Hải ngọng rảo bước đến gần, lật ngửa Nhị Học Sinh lên, soi đèn quặng vào mặt đối phương, trợn mắt nhìn kỹ, càng nhìn càng ngạc nhiên: “Nó đúng là đồ ma quái, khi nãy rõ ràng bị súng bắn chết rồi, sao giờ sống lại được nhỉ?”

    Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc có gì không ổn, sau khi đèn quặng tắt, thời gian trong thông đạo lại trở về lúc mười một giờ đúng, anh giẫm phải hộp thiếc, rồi chạm trán Nhị Học Sinh. Những điểm thời gian này cứ xuất hiện lặp lại một lần, nếu quả đúng như vậy, thì đội khảo cổ khác chi đang bị nhốt trong một không gian chỉ có mười phút, họ sẽ phải trải qua một chuỗi sự kiện trùng lặp hết lần này đến lần khác. Trước mắt, anh chỉ biết hình dung như vậy, nhưng chưa có cách nào giải thích nguyên nhân.

    Cao Tư Dương nói: “May mà chúng ta cách tấm bia Bái Xà không xa, hay ta rút khỏi động đạo trước, sau đó hẵng tính kế?”

    Hải ngọng tóm lấy Nhị Học Sinh hỏi: “Thế con ma chết giẫm này thì xử lý thế nào?”

    Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng kéo hắn theo, nhân lúc vẫn có thể đi thì phải đi mau, có chuyện gì thì đợi sau khi rút ra ngoài tấm bia đá hãy nói tiếp.

    Bốn người lập tức xếp hàng theo thứ tự ngược lại lúc vào, kéo theo Nhị Học Sinh đang hôn mê, lần theo vách động đi ngược trở ra, nhưng cả hội đi hơn chục mét mà vẫn chưa nhìn thấy tấm bia đá chắn trước cửa động đâu.

    Tư Mã Khôi đoán dẫu có đi tiếp chắc cũng không thể thoát ra được, liền ra hiệu cho mọi người dừng lại, nghĩ cách khác. Động không đáy phía trong tấm bia đá còn đáng sợ hơn cả tưởng tượng ban đầu của anh, vì cả hội vừa bước vào đã bị nhốt chặt.

    Hải ngọng vẫn đang cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, giờ còn kéo thêm Nhị Học Sinh sống dở chết dở, mới bước một đoạn, anh đã hổn hà hổn hển, vừa thở vừa hỏi Thắng Hương Lân: “Từ điểm xuất phát đến giờ đã mất bao nhiêu thời gian rồi? Chẳng lẽ đèn quặng lại sắp tắt à?”

    Thắng Hương Lân nhìn đồng hồ, kim dài đã chỉ quá mười hai phút, nhưng thời gian vẫn chưa quay ngược. Cao Tư Dương nghe vậy mới yên tâm đôi chút, cô gạt mồ hôi lạnh trên trán, rồi nói: “Thế thì tốt, nhưng cửa động lúc trước chúng ta vào nằm ở đâu nhỉ?”

    Lúc này, Nhị Học Sinh bị mọi người kéo đi dường như bắt đầu tỉnh khỏi cơn mê, hắn giãy giụa định vùng dậy.

    Hải ngọng tưởng Nhị Học Sinh nhân cơ hội chạy trốn anh lập tức giương súng gí thẳng vào đầu đối phương hét lớn: “Cứ thử động đậy xem, ông khắc cho mày biết tay…”

    Nào ngờ, lời còn chưa dứt thì một tiếng nổ lớn vang lên, khẩu súng săn bị cướp cò, họng súng kề ngay trước trán Nhị Học Sinh, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu hạng thoát ra khỏi rãnh trượt dũng mãnh chẳng khác nào pháo bắn, cả hộp sọ của Nhị Học Sinh bị bắn vỡ tung, não tủy bay tan tác, cỗ thi thể không đầu lắc lư mấy cái, rồi đổ rầm xuống đất như cây chuối.

    Hải ngọng nhìn cái xác dưới chân, ngẩn người tại trận, miệng lắp bắp giải thích: “Tôi chưa nổ súng đâu nhé, cái này… cái này… hoàn toàn là sự cố ngoài ý muốn…”

    Ba người còn lại tuy đứng cách đó không xa, nhưng cũng không thể lường trước sự việc này. Chưa ai kịp nói câu nào, thì đèn quặng trên đầu đột nhiên tối sầm. Trong phút chốc, tầm nhìn của mọi người hạ thấp đến mức chỉ thấy bóng đêm đang dần nhả màu đen trên năm đầu ngón tay. Giữa lúc mù mịt tăm tối chẳng biết làm gì, thì đèn quặng lại phục hồi khả năng chiếu sáng, cỗ thi thể bị bắn vỡ sọ trước mắt không biết đã biến đi đằng nào.

    Trong khi đầu óc còn đang mụ mị, Tư Mã Khôi phát hiện ngón chân lại chạm vào một vật cứng, bấm đèn quặng cúi đầu xuống nhìn, thì ra đó là cái hộp thiếc rỗng không anh từng vứt đi. Một người can đảm như anh đến giờ này cũng phải hít ngược một hơi lạnh thấu tim: “Thời gian trong động đạo lại trở về lúc mười một giờ rồi!”

    Lúc này, cả hội nghe thấy tiếng bước chân, khuôn mặt ngơ ngác, hoảng sợ của Nhị Học Sinh xuất hiện trong phạm vi chiếu sáng của đèn quặng.

    Mọi người đưa mắt nhìn nhau, thì ra chỉ cần Nhị Học Sinh chết ở phía trong tấm bia đá, thì thời gian trong động đạo sẽ quay ngược nhanh như chớp.

    Tư Mã Khôi nhất thời không kịp nghĩ nhiều, đành lấy báng súng đánh ngất Nhị Học Sinh đang quờ quạng bước lại gần, sau đó anh đặt cái hộp về chỗ cũ.

    Thắng Hương Lân đến bên, giơ tay để trước mũi Nhị Học Sinh, hơi thở của hắn giống hệt người còn sống, tuy lai lịch quái dị, nhưng cô không phát hiện ra điểm gì bất thường.

    Cao Tư Dương nói: “Sao không thử hỏi Nhị Học Sinh xem, biết đâu hắn biết gì đó!”

    Tư Mã Khôi nói: “Trước khi xác định được lai lịch của hắn, tuyệt đối không nên nghe lời hắn nói, hắn nói gì cũng không được tin. Chúng ta cứ đi thẳng vào trong hang động trước, xem tên này mọc ra từ chỗ nào!” Thế là, Hải ngọng kéo lê Nhị Học Sinh trên mặt đất, Thắng Hương Lân châm đuốc đi giữa soi sáng cho cả hội. Mọi người dò dẫm từng bước tiến về phía trước.

    Cao Tư Dương bất lực, đành nắm chắc súng đi theo đoàn. Thắng Hương Lân lấy bút dạ quang đưa cho Cao Tư Dương, bảo cô đánh ký hiệu trên vách động.

    Hải ngọng không hiểu móc đâu ra một đống đạo lý, anh vừa đi vừa kể với ba người bạn đồng hành: “Tôi thấy thằng cha kia vẫn thở như người sống, đương nhiên hắn không giống hồn ma bóng quế, chắc chắn là yêu quái thành tinh chứ chẳng sai. Năm đó, tôi ở Hắc Ốc từng được nghe kể một chuyện rất rùng rợn: Ở ngoại thành Trường Sa có mấy ngôi mộ cổ lai lịch hàng trăm năm, chẳng ai khảo chứng chúng xuất hiện từ triều đại nào, tóm lại mấy khu mộ đó cỏ mọc xanh um, phía trước có bia mộ. Tương truyền, ma quỷ lộng hành ở đây rất kinh, nên giữa ban ngày ban mặt cũng rất ít người dám lai vãng đến gần, ngay bọn trộm mộ cũng chẳng bén mảng. Ở ngoại thành có ông chủ họ Chu chuẩn bị gả khuê nữ, gia chủ liền mời anh thợ mộc đóng mấy đồ mộc làm của hồi môn cho con gái. Anh thợ mộc là người ngoại tỉnh, mang theo một đồ đệ trẻ để giúp việc, do thời gian bị hối thúc gấp gáp nên hàng ngày hai thầy trò họ miệt mài lao động bất kể sớm khuya. Bình thường, sau khi làm xong việc, họ sang ngủ ở căn phòng trước vườn. Một hôm, hai thầy trò vô tình phát hiện vài điểm bất thường, mỗi lần tắt đèn, họ đều nghe thấy tiếng kèn kẹt ở cổng vườn, dường như có con gì đang lấy vuốt cào cửa. Họ bạo gan quan sát mấy ngày, mới phát hiện, gia chủ vốn nuôi một con chó mực rất lớn, hàng đêm khi mọi người tắt đèn đi ngủ, thì con chó mới đứng thẳng như người, lẳng lặng dùng vuốt mở then cửa cổng, sau đó thậm thà thậm thụt chuồn ra ngoài, đợi khi trời sáng mới quay về nhà, dùng vuốt đẩy cửa, nhẹ nhàng cài lại then ngang. Hai thầy trò cảm thấy vô cùng kỳ lạ, có câu “gà gáy sáng, chó canh đêm”, đó là đặc tính thiên định của tạo vật. Khi màn đêm buông xuống, con chó đen không gác nhà, mà lẻn ra ngoài, không hiểu rốt cuộc nó đi đâu? Hai thầy trò nhất thời tò mò, liền bám đuôi xem trộm. Sau một thời gian bám theo dấu vết, họ phát hiện hàng đêm con chó đen lại mò đến nghĩa địa hoang ở ngoại thành, ở đó có một nấm mồ rất lớn, không biết là mộ cổ từ thời nào còn sót lại, nấm mồ mọc đầy cỏ dại khỏa lấp một miệng hang ở phía dưới, thông thẳng xuống đáy mộ. Thấy con chó đen chui vào trong hang, hai thầy trò cứ ngỡ con chó đang ăn thịt người chết trong mộ, ngẫm nghĩ một lát thấy không chừng đây là cơ hội kiếm trác được chút kim ngân ngọc ngà bồi táng cũng nên, thế là hai người bò đến cửa động nghe ngóng động tĩnh. Họ nghe thấy dường như có mấy người đang thì thào bàn tán gì đó, nghe kỹ thì thấy họ đang nói xem nhà tài chủ họ Chu tất cả lớn bé già trẻ gái trai có mấy nhân khẩu, đặc điểm cơ thể và dung mạo của từng người ra sao, thích mặc đồ gì, thích ăn cái gì, đồng thời thảo luận tìm cơ hội lọt vào nhà hại chết tất cả mười mấy mạng ngựời, sau đó, bọn chúng sẽ biến hình, giả dạng thành người nhà họ Chu, tới dương gian hưởng phúc mấy chục năm. Hai thầy trò nhà nọ nghe xong mà hồn vía lên mây, không ngờ con chó đen đã câu kết với bọn yêu quái dưới mộ để hại chủ. Họ không dám giấu giếm, sau khi quay về nhà liền kể lại sự việc cho ông chủ họ Chu. Ông chủ họ Chu kinh hãi, vội cho người đánh chết con chó đen, rồi tập hợp dăm ba chục thanh niên can đảm, nhân lúc trời sáng, tìm ra nghĩa địa, lấy cỏ khô hun đen nấm mồ, sau đó bới đống đất lên, thì thấy trong hang nằm ngổn ngang mấy con chồn thành tinh, con to con nhỏ, tính cả con chó đen, thì số lượng vừa vặn trùng khớp với số người nhà họ Chu.

    Hải ngọng nói: “Nếu vô căn vô cứ, sao lại có truyền thuyết này? Điều đó chứng minh chuyện quái dị ấy có từ thời cổ, thì không chừng trong động không đáy tồn tại loài yêu quái nào đấy, nếu người phía ngoài tấm bia đá chết đi, thì nó sẽ giả dạng ngoại hình của người ấy chạy đi tác oai tác quái. Tấm bia đá ở cửa động được đặt ở đó để chặn nó thoát ra ngoài, vì nếu nó thoát được ra, thì tai họa thật không lường hết được”.

    Từ trước đến giờ, Cao Tư Dương chưa từng tin mấy chuyện ma mãnh, giờ nghe Hải ngọng kể, cô sợ hết hồn. Cô vô tình phát hiện bút dạ quang trong tay đã hết mực từ bao giờ, mà động đạo thâm u, đen ngòm vẫn kéo dài như không có điểm tận cùng.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 2: TÁ THI HOÀN HỒN


    Thắng Hương Lân thấy Cao Tư Dương đã dùng hết mực bút dạ quang, trong khi thời gian trên đồng hồ vẫn không ngừng trôi chảy từng giây từng phút. Từ lúc đội khảo cổ xuất phát lần thứ ba đến giờ đã hơn hai mươi phút, nhưng thời gian vẫn chưa quay ngược, quả nhiên vì Nhị Học Sinh vẫn còn sống, điều quan trọng bây giờ là làm sao có thể đi ra khỏi động không đáy không điểm đầu, không điểm cuối này?

    Tư Mã Khôi ngẫm một lát rồi nói: “Nếu cứ đi thế này, e rằng đến chết vẫn chưa đến được điểm tận cùng, chúng ta phải nghĩ cách khác thôi!”. Thế là, cả hội dừng lại bàn bạc kế sách.

    Hải ngọng buông Nhị Học Sinh rơi xuống đất, đột nhiên anh phát hiện khẩu súng săn hết đạn, bèn thốt lên một tiếng “Sơ ý quá!”, rồi vội vàng nạp hai phát đạn vào ổ, lấy bấng súng đè lên người Nhị Học Sinh, đoạn hỏi Tư Mã Khôi: “Khi nãy các cậu có nghe tớ phân tích tình hình không? Có thấy hợp lý không hả?”

    Tư Mã Khôi coi như không nghe thấy gì, chỉ chăm chăm nhìn khẩu súng săn hai nòng, hai lần trước gặp Nhị Học Sinh xuất hiện ở phía trong tấm bia đá, cả hai lần hắn đều bị Hải ngọng dùng súng bắn chết, rồi thời gian chạy như bay về điểm mười một giờ đúng, vết đạn trên vách động và máu tươi bắn lên đều biến mất, có điều cái hộp thiếc rỗng thì vẫn ở điểm xuất phát và khẩu súng săn nạp hai viên đạn cũng bị bắn hết. Nếu thời gian trong cả động đạo đều bị lặp lại, cái hộp thiếc coi như không xét đến nữa, nhưng vì sao đạn trong ổ bắn đi không hề thấy xuất hiện trở lại? Tư Mã Khôi nói với Thắng Hương Lân băn khoăn của mình, hỏi cô xem nên giải thích hiện tượng ấy thế nào?

    Thắng Hương Lân nghĩ một hồi, gật đầu nói: “Tôi thấy bộ dạng của Nhị Học Sinh dường như không hề biết những sự việc đã xảy ra, cũng không hề biết mình từng bị bắn hai lần. Giống như lỗ đạn và vết máu bắn trên vách động, ký ức của hắn không lưu lại chút dấu vết nào, còn đội khảo cổ đương nhiên biết rõ sự kiện này đang xảy ra lặp đi lặp lại, đạn bắn đi đúng là đã bị sử dụng, nó không xuất hiện trở lại cùng với sự quay ngược của thời gian. Nếu so sánh một cách trực quan, thì toàn bộ sự kiện diễn ra trong động không đáy đều bắt đầu từ thời điểm mười một giờ và kết thúc bằng sự kiện Nhị Học Sinh tử vong, nó giống như cuộn phim không ngừng tua đi tua lại nhiều lần”.

    Tư Mã Khôi nghe xong, lòng nghĩ thầm: “Nếu nói phía trong tấm bia đá là ‘hư’ thì đội khảo cổ vẫn đang còn sống xâm nhập vào trong chính là ‘thực’, bản chất của hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau, bởi vậy chỉ những vật cố định trong ‘hư’ mới tuần hoàn, có điều gọi động không đáy là ‘hư’ cũng bởi mãi đến giờ vẫn chẳng ai biết tấm bia đá rốt cuộc đang cản thứ gì, nên chỉ biết tạm thời đặt cho nó là ‘hư’ mà thôi”.

    Hải ngọng chỉ Nhị Học Sinh đang nằm trên mặt đất, hỏi: “Phân tích của tôi có đúng không? Thằng cha này… tóm lại là ai?”

    Thắng Hương Lân nói, đa số bích họa mà người Bái Xà để lại đều mô tả người chết biến thành ma. Họ tin rằng âm hồn bị hút vào trong động không đáy. Đương nhiên, âm hồn không nhất định phải là loài ác ma tóc tai rũ rượi giống như truyền thuyết mê tín, mà đó là một dạng linh hồn nào đó bị động không đáy hút vào.

    Cao Tư Dương cũng không biết liệu có tồn tại khả năng này không, nhưng mọi thứ trước mắt đều chỉ dừng lại ở mức độ giả thuyết. Ngoài ra, cô thấy Nhị Học Sinh trông không hề giống ma quỷ biến thành, hoàn toàn không cần thiết chưa hỏi rõ trắng đen đã lập tức nổ súng giết chết như thế. Làm vậy chẳng khác nào phát xít.

    Bốn người đang nhỏ to bàn bạc, thì Nhị Học Sinh đột nhiên “ư ử” rên lên một tiếng, có lẽ hắn đã tỉnh khỏi cơn mê.

    Hải ngọng thấy vậy bèn hỏi Tư Mã Khôi xem có nên xử lý gã này để tránh lộ bí mật hay không.

    Cao Tư Dương chủ trương phải hỏi rõ ràng trước đã, đội khảo cổ bị nhốt trong động đạo không điểm đầu cũng không điểm cuối, mọi người đều đang bó tay bất lực, ngoài việc hỏi Nhị Học Sinh ra thì làm gì còn cách nào khác. Thế là, cô đẩy Hải ngọng sang một bên, tiến đến để hỏi Nhị Học Sinh xem làm sao hắn đến được đây.

    Hải ngọng thấy Tư Mã Khôi không ngăn lại, chỉ đứng một bên lạnh lùng quan sát. Thắng Hương Lân thấy Nhị Học Sinh như sắp nói ra điều gì, nên cũng im lặng nghe. Thấy vậy, Hải Ngọng cũng đành để mặc Cao Tư Dương đi hỏi Nhị Học Sinh.

    Cao Tư Dương hỏi rất cặn kẽ, cô yêu cầu Nhị Học Sinh kể tỉ mỉ suốt quá trình từ khi bắt đầu xuất phát ở Thần Nông Giá theo đội khảo cổ cho đến tận giờ.

    Khuôn mặt hoảng sợ của Nhị Học Sinh vẫn chưa hết bàng hoàng, hắn không hiểu vì sao Cao Tư Dương lại phải hỏi nhiều như vậy. Hắn đành kể lại nguyên si những gì mình từng trải qua, bắt đầu từ vấn đề xuất thân trong gia đình như thế nào, từ thành phố bị đẩy xuống lâm trường Thần Nông Giá, phía tây Hồ Bắc, thời gian và từng sự kiện cụ thể như bị bắt đi cải tạo lao động, cùng Cao Tư Dương và cậu thợ săn Hổ Tử đi xuyên núi vào tháp canh trên đỉnh Thần Nông Giá đến trạm thông tin sửa máy điện đàm, giữa đường gặp hội Tư Mã Khôi, rồi bị gã thổ tặc hái thuốc Dư Sơn hãm hại, cả hội sa chân vào kho pháo quân sự lõi kép trong lòng núi, nhờ đó mới phát hiện ra di vật của đội thám hiểm Taninth. Vì muốn tìm đường ra, nên cả hội đành phải tiến đến rừng rậm tiền sử ở biển Âm Dụ, kết quả rơi xuống thủy thể 30° vĩ Bắc mênh mang, vô bờ bến, chẳng rõ trôi nổi bao nhiêu ngày đêm, cuối cùng cũng leo lên được hòn đảo cổ Âm Sơn, rồi thâm nhập cửu tuyền dưới lòng đất, cho đến khi cùng đội khảo cổ tìm thấy tấm bia đá đứng sừng sững nơi tận cùng địa mạch. Hắn kể đầu đuôi, lớp lang đầy đủ không thiếu chi tiết nào, mọi sự việc đều hoàn toàn trùng khớp với thực tế.

    Cao Tư Dương nói: “Những điều cậu vừa kể đều chính xác, cậu đã biết trên tấm bia đá khắc bí mật có thể giết chết người, sao lúc đó cậu vẫn quay đầu lại?”

    Nhị Học Sinh nói, điều này đương nhiên đã nghe mọi người nói, bí mật trên tấm bia đá không được nhìn, thậm chí cũng không được nghĩ đến, cơ thể hắn vốn yếu ớt, tuy tò mò, nhưng mạng sống đâu phải tự nhiên nhặt được trên đường, nên dẫu có thêm hai lá gan nữa, hắn cũng nào dám quay lại xem trên bia đá viết gi, ai ngờ lúc đứng quay lưng lại tấm bia đá, đột nhiên hắn thấy phía sau có gì đó động đậy, hắn cứ ngỡ là tay của Tư Mã Khôi ở sau đập vào người, dụ mình quay lại nhìn tấm bia, nhưng đến khi phát hiện không phải Tư Mã Khôi, hắn sợ đứng không vững, càng không biết phía sau có gì lại càng khiếp đảm, tim hắn đập điên cuồng, tưởng không thở nổi, đầu óc trống rỗng, có lẽ xuất phát từ phản ứng bản năng, nên không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào hắn liền quay đầu lại, ánh sáng đèn quặng trên mũ gỗ chiếu vào khe nứt trên bia đá, hắn nhìn thấy phía đối diện tấm bia có những con mắt âm u chứa đầy ma khí.

    Nhị Học Sinh sợ đến ngạt thở, cảm thấy tim muốn ngừng đập, cơ thể giống như rơi vào một hang động lớn, khó khăn lắm mới giãy giụa đứng dậy được, nhưng xung quanh không thấy người nào nữa, hắn đành mò mẫm trong bóng đêm tìm đường ra ngoài, kết quả gặp ngay bốn người hội Tư Mã Khôi, chẳng ngờ, chưa kịp mở lời đã vô duyên vô cớ bị đập một gậy, rồi ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự, sau đó tỉnh dậy thi bị Cao Tư Dương tra hỏi.

    Cao Tư Dương nghe Nhị Học Sinh kể đầu cuối, ngoài ngạc nhiên ra, trong lòng cô tràn đầy nỗi đồng cảm, cô cảm thấy đúng như Thắng Hương Lân nói, Nhị Học Sinh trước mắt giống như một cuộn băng không ngừng tua đi tua lại, rất giống với hoàn cảnh hiện tại của đội khảo cổ, cả hai đều bị nhốt trong động không đáy và không thể nào thoát ra nổi.

    Tư Mã Khôi sa sầm nét mặt, tóm lấy Nhị Học Sinh hỏi: “Lời mày nói đều thật cả chứ?”

    Nhị Học Sinh ra sức gật đầu, thể hiện mình tuyệt đối không nói sai nửa chữ.

    Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi vẫn không tin, cô không nhịn được nói: “Anh đa nghi quá đấy…”

    Tư Mã Khôi phản ứng lại: “Đời tôi bị lừa nhiều vố rồi, không đa nghi không được. Tôi thấy thằng cha trước mặt chúng ta không phải bị nhốt trong động không đáy, mà hắn bị tấm bia đá chặn không cho thoát ra ngoài”. Nói rồi, anh nắm lấy cổ áo của Nhị Học Sinh, quát: “Mày nói dối, sao mày biết được chữ viết trên tấm bia?”

    Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi đằng đằng sát khí, hắn sợ đần mặt, miệng lắp ba lắp bắp nói không nên lời: “Chữ trên tấm bia? Tôi… tôi… làm sao mà… biết… chữ… chữ trên tấm bia!”

    Cao Tư Dương nói: “Tư Mã Khôi, anh đừng nói càn, làm sao cậu ấy nhận ra được chữ cổ Bái Xà viết trên tấm bia cơ chứ?”

    Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã khẳng định một việc, bất luận Nhị Học Sinh xuất hiện phía trong tấm bia là thứ gì, thì chắc chắn hắn không thể là người mà cả hội từng quen thuộc, hắn chẳng qua chỉ là con ma bị nhốt sau tấm bia đá, không những vậy nó đã bị động không đáy nuốt chửng, hoặc nói cách khác, bản thân linh hồn của nó đã trở thành một phần của động không đáy rồi.

    Tư Mã Khôi nhớ lại hình ảnh anh nhìn thấy trong khe nứt lúc trước khi cả hội đi xuyên qua tấm bia, anh phán đoán, thứ mà tấm bia đá không cho thoát ra ngoài chính là một sinh vật sống. Nghe nói trên đời có thuật “Tá thi hoàn hồn”, có thể vật nấp sau tấm bia đá biết món tà thuật này, hắn đã copy lại hình ảnh người chết trước tấm bia đá, còn cụ thể thế nào thì tạm thời anh chưa đoán rõ ràng được. Rất có khả năng thứ đó biến thành Nhị Học Sinh, định chạy trốn ra ngoài động, nhưng khi tiếp cận tấm bia đá thì sợ quá mà chết, không rõ vì nguyên nhân gì mà chuyện này cứ không ngừng lặp đi lặp lại như cuộn băng tua. Sau khi đội khảo cổ đi xuyên qua bia đá, cả hội đều vô tình rơi vào trong cuốn băng đó.

    Cao Tư Dương cảm thấy tất cả những điều đó chỉ là phán đoán một phía của Tư Mã Khôi mà thôi, không hề có căn cứ, rốt cuộc cả hội đều bị nhốt ở đây, bây giờ không thể tìm thấy vị trí của tấm bia đá Bái Xà, sao chứng minh được Nhị Học Sinh biết đọc chữ trên tấm bia?

    Hải ngọng cũng cho rằng, dẫu Nhị Học Sinh có biến thành ma thì cũng không thể đọc được chữ trên bia đá, Tư Mã Khôi đừng đánh giá hắn ta cao quá.

    Thắng Hương Lân lại cảm thấy Tư Mã Khôi nói có lý, có điều muốn chứng thực giả thiết này, thì chỉ còn cách duy nhất là phải tìm thấy tấm bia đá mới xác nhận được.

    Lúc này, Nhị Học Sinh khẩn khoản cầu xin, rồi thề độc rằng mình không hề biết chữ cổ khắc trên tấm bia, bây giờ ngẫm lại mới thấy khi ấy mình thật hồ đồ, sao chẳng nghĩ ra – người không đọc được chữ cổ khi nhìn thấy tấm bia, thì làm sao có thể sợ bí mật trên tấm bia mà chết được?

    Hải ngọng nhanh trí nói, trên đời này chỉ có hai kẻ sợ tấm bia đá, thứ nhất là Nấm mồ xanh ở phía ngoài tấm bia đá, thứ hai là thứ ở phía trong tấm bia đá, hắn là ai cũng khó nói, có điều Nấm mồ xanh hình như không biết chớp mắt, nếu Nhị Học Sinh biết chớp mắt, điều đó chứng tỏ hắn không hiểu chữ cổ trên bia đá.

    Nhị Học Sinh thấy Hải ngọng nói vậy chẳng khác nào chết đuối vớ được cọc, hắn ra sức chớp mắt như để chứng tỏ sự trong sạch, không có ý hại người của mình.

    Tư Mã Khôi chẳng hề động lòng, Nấm mồ xanh không chớp mắt là vì trên mặt bọc lớp da người chết, hơn nữa việc hắn có liên quan gì với thứ bị nhốt trong hang động đến giờ còn chưa rõ, bởi vậy anh vẫn tóm chặt lấy Nhị Học Sinh, rồi bất ngờ giơ tay trái lên, nắm lại thành nắm đấm, nói: “Có thật mày không biết đọc chữ không?”

    Nhị Học Sinh ngỡ Tư Mã Khôi định đấm mình, thì run như cầy sấy lắp bắp van xin: “Thủ trưởng, cho dù anh có bày mấy chữ ngoằn ngoèo như nòng nọc ấy trước mặt tôi, thì tôi cũng không nhận ra được nửa chữ”.

    Tư Mã Khôi cười lạnh lùng: “Câu này tự mày nói đấy nhé, xem xong thì đừng hối hận…”, nói xong anh xòe bàn tay trái ra, giơ thẳng trước mặt Nhị Học Sinh.

    Thì ra, để đề phòng bất trắc, Tư Mã Khôi tiện tay nhìn bầu vẽ dưa, chép lại mấy dòng chữ trên bia đá vào lòng bàn tay.

    Hai mắt Nhị Học Sinh nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay Tư Mã Khôi, sắc mặt trông còn khó coi hơn người chết, nhưng suốt hồi lâu vẫn giữ nguyên bộ dạng ấy.

    Tư Mã Khôi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Sao hắn không có phản ứng gì nhỉ? Hay mình nghi lầm người?”, vừa nghĩ đến đây thì anh lật lòng bàn tay mình lại xem, vừa nhìn một cái lòng anh đã lạnh như vừa bị ai tạt cả xô nước, anh thầm kêu khổ: “Hỏng rồi, chữ bị mồ hôi xóa trôi sạch rồi còn đâu”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 3: BOM HẸN GIỜ


    Bí mật trên tấm bia là một dãy số mang theo lời nguyền chết chóc, cũng bởi sự tồn tại của dãy số này nên thứ sống trong động không đáy mới bị nhốt chặt, không cách nào thoát ra được. Một khi bí mật này bị tiết lộ ra ngoài, không biết sẽ hại chết bao nhiêu người vô tội, bởi vậy Tư Mã Khôi không dám chép nó ra giấy, chỉ lấy bút viết vào lòng bàn tay phòng khi cần dùng đến, nhưng rào dậu trăm mẫu vẫn hở một khe, không ngờ dòng chữ lại bị mồ hôi ngấm vào, bây giờ lòng bàn tay lem mực, chẳng còn sót lại chữ nào.

    Tuy Tư Mã Khôi vốn mưu trí, nhưng lúc này nhất thời cũng không nghĩ ra nổi cách gì, anh đành bảo Hải ngọng trông chừng Nhị Học Sinh.

    Thắng Hương Lân thấy ánh sáng ngọn đuốc trong tay mỗi lúc một yếu hơn, cô nói thầm với Tư Mã Khôi: “Đuốc sắp cháy hết rồi đấy, động đạo tối quá khiến công cụ chiếu sáng tiêu hao nhanh gấp mấy lần, số đuốc còn lại và pin đèn cùng lắm cũng chỉ duy trì được một ngày nữa, đến lúc dùng hết sạch mọi nhiên liệu, hoàn cảnh của chúng ta sẽ khó khăn hơn bây giờ nhiều!”.

    Tư Mã Khôi đành bảo mọi người tắt hết đèn quặng, chỉ thắp đuốc soi sáng, vừa đi vừa ngẫm kế sách. Anh nghĩ kỹ những sự việc đã xảy ra kể từ khi bước chân vào động đạo đến giờ, xâu chuỗi theo thứ tự thời gian và cố gắng phân tích từng hiện tượng, nhưng vẫn có nhiều điểm không thể lý giải nổi, ví dụ như tấm bia đá rốt cuộc đang ngăn không cho thứ gì thoát ra ngoài? Vì sao chỉ cần Nhị Học Sinh chết đi thì thời gian trong động đạo lập tức quay như bay về thời điểm mười một giờ đúng? Anh thực sự không thể tìm ra nguyên nhân, trong lòng lo lắng nghĩ cả hội đã rơi vào một hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo, không biết phải làm cách nào mới vượt qua được nguy hiểm?

    Tư Mã Khôi không lần ra được manh mối, nhưng nếu muốn trốn thoát thì chí ít họ cũng phải biết được thứ đang bị nhốt trong động đạo là sinh vật gì.

    Thắng Hương Lân trầm ngâm suy nghĩ giây lát, rồi nói: “À, mọi người đã nghe kể về truyền thuyết ‘núi Lan Khả’ bao giờ chưa?”

    Hải ngọng và Cao Tư Dương chưa bao giờ nghe, liền hỏi: “Núi Lan Khả là núi gì thế?”

    Tư Mã Khôi thì biết sơ qua về truyền thuyết này, tương truyền ngọn núi ấy từ thời cổ xưa đã là động phủ của Đạo giáo, đó là nơi ở của thần tiên. Vào thời lưỡng Tấn, có một tiều phu hàng ngày lên núi đốn củi, một lần anh ta vào trong núi sâu, tiện tay bổ rìu vào thân một cây cổ thụ, rồi ngồi xuống nghỉ ngơi, uống nước suối, gặm mẩu lương khô mang theo, đột nhiên anh ta phát hiện giữa những dãy núi trùng điệp ẩn hiện một ngôi nhà đá.

    Anh tiều phu nọ không ngờ giữa chốn rừng sâu nước thẳm vẫn có người sinh sống, lòng nghĩ thầm nếu có thể xin chén trà nóng để uống chẳng phải tốt hơn uống nước suối lạnh buốt hay sao, thế là anh ta liền bước lại gần, vừa nhìn vào ngôi nhà đá đã thấy bên trong có hai ông lão râu tóc bạc phơ đang ngồi đánh cờ vây. Anh tiều phu cũng hiểu chút ít về cờ vây, bèn ngâm một đoạn thơ, xin chén trà và mấy quả táo, rồi ngồi xổm xuống bên cạnh xem thế cờ. Hai ông lão một người giữ quân đen, một người giữ quân trắng, thế cờ biến hóa khôn lường, anh ta quan sát say sưa, quên cả thời gian, đến khi ván cờ kết thúc mới nhớ ra mình phải nhanh chóng xuống núi về nhà nhân lúc trời còn sáng. Thế là, anh ta vội vàng cáo từ, ra khỏi gian nhà bằng đá, vừa nhìn cái rìu của mình trên thân cây thì thấy thân cây gỗ vốn xanh tươi bỗng trở nên mục nát từ bao giờ, ngôi nhà đá trong núi cũng biến mất tự lúc nào, lòng nghĩ chắc mình vừa gặp tiên, ngặt nỗi lại lỡ mất cơ duyên, nên đành tìm đường xuống núi, khi về đến nhà mới phát hiện bãi bể xưa, nay đã hóa thành nương dâu, vật đổi sao dời, bao nhiêu triều đại đã thay cũ đổi mới. Người tiều phu không ngờ thời gian chỉ đủ đánh một ván cờ trong ngôi nhà bằng đá ở lòng núi lại bằng mấy chục năm tuế nguyệt dài đằng đẵng ở bên ngoài, ngọn núi mà người tiều phu năm đó ngồi xem đánh cờ được hậu thế gọi là “núi Lan Khả”

    Tư Mã Khôi kể tóm tắt nội dung câu chuyện cho Hải ngọng và Cao Tư Dương nghe, anh biết Thắng Hương Lân nhắc đến chuyện anh tiều phu vào nhầm động tiên là ý muốn ám chỉ quỹ tích thời gian trong và ngoài ngôi nhà đá không giống nhau, thời gian trôi chảy trong động đạo mà đội khảo cổ đang bị nhốt ở đó giống như một hố xoáy khép kín, đến chết cũng không thể thoát ra nổi, hoàn cảnh mọi người đang phải đối mặt lúc này chính là như vậy.

    Thắng Hương Lân nói, lý giải của Tư Mã Khôi cơ bản không hề sai, căn cứ vào cảnh ngộ hiện tại của đội khảo cổ, có thể đưa ra giả thiết: Động không đáy phía trong tấm bia là một kẽ hở thời gian, mọi người đi xuyên qua tấm bia đá vào trong động đạo, bắt đầu từ thời điểm Tư Mã Khôi ném hộp thiếc xuống đất, mọi người không ngừng trải qua những chuỗi sự kiện giống nhau lặp lại hết lần này đến lần khác, những sự kiện này bị chìm sâu vào kẽ hở thời gian.

    Thời gian trong động không đáy giống như một hố nước xoáy tĩnh lặng chảy xuống và không ngừng tuần hoàn, chỉ cần Nhị Học Sinh chết đi, mọi thứ trong động đạo lập tức quay về xuất phát điểm, điều đó đồng nghĩa với việc đội khảo cổ ở trong kẽ hở thời gian sẽ phải xoay chuyển theo vòng tuần hoàn trong động đạo, kẽ hở có thể chỉ cách quỹ tích thời gian thông thường một giây, nhưng hố xoáy giống như động không đáy này lại kéo dài khoảng cách thời gian một giây ấy đến vô hạn.

    Tuy hội Tư Mã Khôi không hoàn toàn hiểu hết những gì Thắng Hương Lân phân tích, nhưng nói một cách đơn giản, muốn tìm được lối ra của động không đáy thì đầu tiên buộc phải bước qua một giây đang bị kéo dài vô hạn, vấn đề là phải thực hiện bước này bằng cách nào?

    Hải ngọng lại lanh trí vỗ đùi đét một cái, rồi nói: “Quá đơn giản, xử đẹp Nhị Học Sinh phát nữa là xong chứ gì!”

    Thắng Hương Lân lắc đầu, cái chết của Nhị Học Sinh chỉ có thể khiến thời gian trong động đạo nhanh chóng quay về thời điểm mười một giờ đúng, sau đó đội khảo cổ sẽ nhìn thấy hộp thiếc bị vứt lại ở điểm xuất phát và rồi gặp Nhị Học Sinh lần nữa, tuy thời gian sau đó vẫn tiếp tục trôi chảy, nhưng vĩnh viễn không bao giờ có thể đến được thời điểm mười một giờ một phút một cách đích thực, bất luận chúng ta ở đây bao lâu, thì cũng chỉ là thời gian trong hố xoáy.

    Hội Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân giải thích, ai nấy đều cảm thấy nỗi tuyệt vọng dâng trào, họ từng nghe Phật pháp dạy rằng: “Một hạt cải có thể đựng được cả núi Tu Di(1)”, nhưng chẳng ngờ một giây lại dài lê thê chừng ấy.

    1 Núi Tu Di hay còn gọi là núi Sumeru, là ngọn núi truyền thuyết, cao hơn một triệu kilomet, là nơi ở của các đấng thần linh tối cao, là trạc đứng của toàn vũ trụ, là trung tâm của thế giới.

    Hải ngọng thở dài, nghĩ bụng phen này chắc hỏng hẳn, nếu đuốc và pin đèn đều dùng hết, thì nửa đời còn lại của họ sẽ mò mẫm trong bóng tối, đợi ngày Diêm Vương gọi về âm tào địa phủ.

    Tư Mã Khôi nói: “Cậu nghĩ gì mà xa thế? Lương khô chẳng đủ ăn mấy bữa, cùng lắm duy trì được ba ngày đã mãn nguyện lắm rồi, làm gì còn những nửa đời người?”

    Hải ngọng chỉ Nhị Học Sinh nói: “Chẳng phải vẫn còn thằng cha này sao? Chết một thằng lại mọc ra một thằng, sợ gì đói”.

    Nhị Học Sinh nghe Hải ngọng nói vậy, mặt vàng như nghệ, nằm bẹp xuống đất, không dám thở mạnh.

    Cao Tư Dương nghe xong cũng sợ hết hồn, không biết Tư Mã Khôi và Hải ngọng có làm thế thật không, không ngờ bọn họ còn tính ăn thịt người, cô âm thầm kêu khổ, quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Nhớ lúc chúng ta ngồi thuyền độc mộc, trôi nổi trên thủy thể 30° vĩ Bắc vô bờ vô bến ở dưới lòng đất mà vẫn tìm thấy lối thoát trong đường tơ kẽ tóc, chẳng lẽ lần này không thể ra được thật sao?”

    Thắng Hương Lân trầm ngâm nói: “Có cách, nhưng không biết khả thi hay không, nếu muốn thời gian trôi một cách bình thường, thì cần phải tạo ra một vụ nổ trong động đạo. Sự biến hóa của nguồn năng lượng cực mạnh có lẽ sẽ đẩy thời gian ra khỏi quỹ đạo một phút”.

    Hải ngọng nói: “May mà tớ chuẩn bị một cuốn thuốc nổ phòng lúc cần dùng, không những vậy còn là loại bom hẹn giờ nữa chứ”, nói xong, anh móc cuộn thuốc nổ đang định ra tay dẫn nổ. Loại ống kíp này không phải nguyên liệu dẫn nổ đơn thuần, mà là loại bom chùm tự chế, có thể trực tiếp dùng để tác nghiệp phá nổ, vì bề ngoài hình ống mang theo kíp nổ, nên gọi chung là ống kíp.

    Tư Mã Khôi vội vàng ngăn lại: “Chớ động thủ, lỡ đánh sập tấm bia đá thì phải tính sao?”

    Hải ngọng nói: “Tớ thấy nơi đây chân không tới đất, cật không tới trời, chơi vơi chỗ nào chả biết, có thấy bia đá ở đâu đâu? Tuy sức công phá của cuộn thuốc nổ khá lớn, nhưng tấm bia đá cũng chẳng phải loại giấy hồ, chỉ cần không kích nổ gần chỗ tấm bia đá, thì chắc không vấn đề gì đâu”.

    Thắng Hương Lân đã sớm nghĩ đến cách dẫn nổ ổng kíp, nhưng do dự mãi không nói ra, vì cô cũng sợ lỡ đâu chấn động do vụ nổ tạo ra sẽ tác động đến tấm bia. Sở dĩ Nấm mồ xanh dụ đội khảo cổ bước vào đây cũng chỉ vì muốn họ giúp hắn phá hủy tấm bia.

    Bốn người không cam tâm ngồi bó gối đợi chết, cả hội đều cảm thấy việc dùng thuốc nổ để thoát thân tuy mạo hiểm nhưng cũng đáng để thử, chỉ khi thời gian khôi phục như bình thường, thì mới có cơ hội thoát khỏi động đạo không điểm đầu, không điểm cuối. Lúc này, mọi người đã hạ quyết tâm và chuẩn bị bắt tay hành động.

    Tư Mã Khôi thấy lai lịch Nhị Học Sinh quái dị, gã này dứt khoát là loại bám dai như đỉa đói, nói không chừng hắn chính là thứ bị tấm bia đá nhốt trong động biến thành, ngặt nỗi, giờ không có tấm bia trước mặt để thử nghiệm, anh chỉ còn cách bảo Hải ngọng trói Nhị Học Sinh lại đề phòng bất trắc.

    Hải ngọng y lời, móc trong ba lô ra một đoạn dây thừng, đặt Nhị Học Sinh quay ngược lại, rồi trói chặt như buộc lạt bánh trưng,

    Nhị Học Sinh không rõ tại sao họ làm vậy, chỉ biết đau khổ cầu xin: “Thủ trưởng, làm ơn làm phúc đừng bỏ rơi tôi ở đây, nếu các anh bỏ tôi lại một mình trong động, tôi biết phải làm sao…”

    Hải ngọng nói: “Sao mày lắm lời thế, còn nói nữa tao nhét tất vào mồm đấy, biết chân ông đây mấy ngày chưa rửa rồi không?’’

    Nhị Học Sinh há hốc mồm, nhưng không dám phát ra tiếng, mắt đăm đăm nhìn Cao Tư Dương, mong cô niệm tình đồng chí, giúp mình chừa lại con đường sống.

    Cao Tư Dương vốn đã không nhìn lọt mắt hành động của hội Tư Mã Khôi, cô nói với anh: “Giết người đâu giỏi giang gì, mà sao lúc nào các anh cũng thích giết thế. Nói gì thì nói Nhị Học Sinh đã cùng đội khảo cổ đi chung quãng đường dài, dẫu không có công lao thì cũng chịu bao nỗi vất vả, bây giờ cậu ấy lâm vào hoàn cảnh người không ra người ma chẳng ra ma, ngay cả mình đã chết mấy lần cũng chẳng biết, làm gì có số phận nào đáng thương và bi thảm hơn thế, bây giờ chúng ta để mặc cậu ấy ở đây là được rồi, sao phải trói ngoéo người ta lại như trói trộm làm gì? Cách các anh hành xử thực khiến người khác ghê tởm đến lanh cả người”.

    Tư Mã Khôi đâu dễ bị mấy lời của Cao Tư Dương thuyết phục, tuy Nhị Học Sinh xuất hiện trong động không đáy này có máu có thịt, còn có cả hơi thở như người sống, mọi lời nói hành động cũng không có điểm gì khác thường, nhưng cả hội vẫn không được nhẹ dạ cả tin, để tránh đêm dài lắm mộng. Anh bảo Cao Tư Dương đừng giải thích dài dòng nữa, rồi lập tức khoác súng lên vai, cầm lấy ống kíp Hải ngọng đưa cho, kiểm tra cẩn thận một lượt, giơ đuốc lại gần chuẩn bị châm ngòi dẫn nổ.

    Căn cứ theo giả thiết của Thắng Hương Lân, năng lượng cực mạnh mà vụ nổ sản sinh trong phút chốc sẽ khiến thời gian trong động đạo khôi phục lại bình thường, như vậy cả hội mới có khả năng trở lại phía ngoài tấm bia đá hoặc sẽ đi đến điểm tận cùng của động đạo, trong khi đó ống kíp là loại phát nổ trong thời gian khá dài, không lo tạo thành mối nguy hiểm cho tấm bia đá.

    Tư Mã Khôi thấy dây dẫn cháy xì xì, thì lập tức bảo mọi người nằm sấp xuống, chuẩn bị vứt cuộn thuốc nổ ra xa, đợi nó phát nổ. Nhưng lúc này cây đuốc bất ngờ trở nên tối mờ, mọi người thấy từ miệng Nhị Học sinh đang bị trói gô trên đất phát ra âm thanh quái đản, chẳng khác nào tiếng củi mục gẫy vụn, ánh lửa yếu ớt khiến khuôn mặt trắng bệch của hắn như biến thành màu xanh, dị hợm nhất là từ hai hốc hai mắt hắn chảy ra hai dòng máu đen.

    Mọi người kinh hãi, hét lên rồi lũ lượt lùi ra sau né tránh, Hải ngọng đứng gần Nhị Học Sinh nhất, cuống cuồng giơ súng săn bóp cò, một tiếng “pằng” vang lên, đạn ghém cỡ tám bắn trúng cánh tay Nhị Học Sinh, tiện luôn thành hai mảnh, cơ thể hắn bắn sang một bên lăn lông lốc, xung quanh lại chùn vào khoảng tối đen ngòm và vô biên.

    Tay chân Tư Mã Khôi không thể động đậy, trước mắt là màn đêm tối đen như mực, nhưng trong lòng anh lại sáng như đèn pha, gã Nhị Học Sinh kia quả nhiên đáng nghi, chỉ bị súng bắn gẫy tay, làm gì đến nỗi chí mạng, thực ra trước khi bị súng bắn, hắn đã chết rồi, hắn làm vậy để thời gian quay ngược trở lại, có điều giây phút đó vẫn bị niêm phong trong vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, đồng nghĩa với việc vụ nổ chưa hề tác động đến tấm bia đá chặn ngoài cửa động, vậy rốt cuộc hắn làm thế nhằm mục đích gì?

    Anh còn chưa kịp nghĩ ra nguyên nhân thì ánh sáng đã trở lại, phạm vi chiếu sáng của ngọn đuốc còn rộng hơn cả đèn quặng. Lúc Tư Mã Khôi mở to mắt thì nhìn thấy làn khói nhả ra từ khẩu súng săn của Hải ngọng vẫn chưa kịp tan hết, dưới chân không còn cái hộp thiếc, trong khi đó tấm bia đá Bái Xà cao lớn vẫn đang đứng sừng sững cách chỗ anh đứng mấy bước chân, nếu vứt thuốc nổ xuống thì đúng là không kịp, lúc này dẫu có kích nổ ở cự ly xa, thì dòng khí đối lưu sản sinh trong động đạo cũng sẽ ảnh hưởng đến tấm bia, tình hình này có lẽ là khoảnh khắc ống kíp sắp phát nổ, khe nứt trước đây đã biến mất, thời gian vùn vụt trở về thời điểm mười một giờ của thực tại.
     
    sáng ngx, Tún and Phucminhon like this.
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 4: RÙNG RỢN


    Tư Mã Khôi vụt hiểu mình đã mắc lừa, giống như truyền thuyết núi Lan Khả, thời gian ở đây tồn tại những quỹ tích khác nhau, khe nứt phía trong bia đá thật sự có tồn tại. Nếu ví thời gian với cuốn băng, ta sẽ thấy nó có khả năng chạy đi, khả năng tua lại và cả khả năng đứng yên tương đối, vậy thứ bị tấm bia đá nhốt trong động là con quái vật có năng lực vận hành cuốn băng theo ý mình, còn thời gian trong động đạo không ngừng lặp đi lặp lại là vì nó muốn ép đội khảo cổ phải nghĩ cách dùng thuốc nổ thoát thân, khoảnh khắc phát nổ sẽ khiến thời gian quay như bay về quỹ đạo thông thường, nhờ đó sẽ phá hủy được tấm bia đá Bái Xà chắn ngoài cổng.

    Ba người còn lại nhìn thấy tấm bia cũng tỉnh ngộ ngay tức khắc, nhưng mọi chuyện đã quá muộn, dây dẫn cháy đến mức không thể dập tắt nổi nữa, vạn niệm trong lòng nguội lạnh, giờ họ chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết.

    Hải ngọng đột nhiên máu bốc lên đầu, thò tay giật lấy cuộn thuốc nổ, nằm đè người lên, định dùng thân thể làm giảm bớt sóng xung kích của vụ nổ, nhưng dây dẫn cháy đến tận cùng mà cuộn thuốc vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, không chịu nổi giày vò, Hải ngọng điên tiết chửi đổng: “Con mẹ nó, xui gì mà xui tận mạng, muốn chết cho thống khoái mà cũng vất vả thế không biết?”

    Thắng Hương Lân thầm ngạc nhiên, thời gian trong động đạo khôi phục bình thường, chính là khoảnh khắc vụ nổ diễn ra, theo lý mà nói lúc cả hội còn chưa kịp hiểu ngô khoai gì, thì đã bị nổ banh xác mới đúng, nhưng sao đến tận giờ vụ nổ mãi chưa xảy ra nhỉ?

    Lúc này, Tư Mã Khôi lại gần, kéo Hải ngọng dậy, thì thào vào tai: “Nãy tớ vừa nghịch cuộn thuốc nổ tí đấy, không nổ nữa đâu mà sợ, nhân lúc nhìn thấy bia đá, mau chạy ra ngoài động thôi!”

    Thì ra, khi bắt tay chuẩn bị cuộn thuốc, Tư Mã Khôi đã lo sợ vụ nổ sẽ ảnh hưởng đến tấm bia đá. Anh nghĩ, từ lúc chạm trán Nấm mồ xanh trong núi Dã Nhân ở Miến Điện đến giờ, chưa bao giờ anh gặp vận may, mà mấy năm trước đó cũng thế, lớn lên giữa thời thế loạn lạc, chọn lối nào đi cũng gập ghềnh khúc khuỷu, có thể nói vận rủi luôn luôn kề vai sát cánh bên anh, tuy nhiều lần may mắn thoát chết, nhưng chẳng thà chết được còn nhẹ nhàng hơn, bây giờ anh cũng nghĩ thông suốt rồi, nếu đã không thể trốn tránh nó, chi bằng hãy nghĩ cách biến nó thành người bạn đồng hành của mình.

    Sự việc toàn phát triển theo chiều hướng xấu, thì có gì khó đoán nữa đâu, bất kể đội khảo cổ tính toán kín kẽ đến độ nào, cuối cùng cũng vẫn dẫn đến kết quả: tấm bia bị phá hủy. Vì muốn đi vòng qua kết quả do vận rủi mang đến, nên lúc nhận cuộn thuốc nổ từ tay Hải ngọng, anh âm thầm gỡ dây dẫn nổ của ống kíp, anh hành động lặng lẽ, thần không biết quỷ không hay, quả nhiên lúc này đã xoay chuyển được cục diện. Anh lại phát hiện thứ bị tấm bia đá nhốt chặt có thể khiến khe nứt giống như động không đáy khép lại và mở ra, một khi rơi vào trong khe nứt, với khả năng người trần mắt thịt của đội khảo cổ, dẫu chết cũng đừng mong thoát nổi ra ngoài. Bất luận sinh vật đáng sợ kia là quái vật phương nào, thì đội khảo cổ vĩnh viễn không thể trờ thành đối thủ của nó, nói cách khác, đội khảo cổ mãi mãi không bao giờ có khả năng giành chiến thắng, điều duy nhất có thể làm bây giờ là nhân cơ hội này chạy thoát ra ngoài tấm bia đá.

    Ba người còn lại thấy hành động của Tư Mã Khôi, lập tức hiểu ra nội tình, tất cả đều co cẳng chạy nhanh về phía tấm bia đá.

    Trên vách đá loang lổ vệt rêu vẫn còn hình vẽ phù điêu mà người Bái Xà để lại, lúc này chúng đều nằm trong phạm vi chiếu sáng của ánh đuốc, cửa động chỉ cách chỗ cả hội đứng vài bước chân, nhưng hội Tư Mã Khôi còn chưa kịp nhấc chân lên chạy, thì cảm thấy sau lưng có một cánh tay khổng lồ, âm u và lạnh lẽo thò ra, tóm lấy cẳng chân và cánh tay của cả bốn người kéo giật ngược trở lại, mặc cho họ giãy giụa thế nào cũng không thể thoát ra được, họ đành bất lực phó mặc cho cánh tay ấy kéo mình vào trong bóng đêm, tấm bia đá càng lúc càng xa dần trước mắt.

    Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng là cả tòa thành địa phủ, nơi đó có vô số con ma đang thò cánh tay quái dị, tóm mấy người còn sống sót kéo xuống cõi âm gian. Cùng với nỗi hãi hùng từ đâu ùa đến, ánh đuốc bỗng vụt tắt, bốn phía bị bóng tối tĩnh mịch nuốt chửng, mọi thứ đều quay trở về trạng thái ban đầu, như thể chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì, không gian chỉ còn tồn tại tiếng thở gấp gáp và tiếng tim đập dữ dội của cả hội.

    Mọi người căng thẳng bật đèn quặng lên quan sát, phát hiện cái hộp thiếc vẫn ở dưới chân, cuộn thuốc nổ mất dây dẫn cũng nằm lăn lóc cạnh đó, hai đầu của con đường vẫn đen kin kịt và sâu hun hút, cả hội biết mình lại bị rơi vào kẽ hở thời gian, bất giác cùng đưa mắt nhìn nhau, mặt cắt không còn giọt máu, trong lòng trào lên nỗi sợ chưa bao giờ từng trải qua.

    Đúng lúc này có tiếng bước chân vọng đến gần, khuôn mặt trắng nhợt, hốt hoảng ngác ngơ của Nhị Học Sinh một lần nữa lại xuất hiện thấp thoáng trong động đạo thăm thẳm.

    Tư Mã Khôi không nói không rằng, giơ tay tung một đấm, nện Nhị Học Sinh không kịp ừ hữ gì đã lăn ra đất mềm như bún. Lúc kích nổ cuộn thuốc súng, Cao Tư Dương đã tận mắt nhìn thấy máu chảy ra từ hai hốc mắt Nhị Học Sinh, trên mặt toát ra quầng tử khí chết chóc, nom không giống người sống chút nào, lúc ấy cô mới biết mình đã trách nhầm Tư Mã Khôi.

    Tư Mã Khôi nói với Cao Tư Dương: “Tôi thấy gã Nhị Học Sinh này lai lịch quái đản, tuy mắt tôi không bằng con mắt biệt bảo của bọn giặc đất, chưa thể nhìn gió xem khí, nhưng tôi có thể nhìn xuyên thấu mọi tướng vật trên đời, trên xuyên thiên đình, dưới thấu địa phủ, giữa thấy vạn dặm nhân gian… ”

    Hải ngọng nói: “Thế cậu thử mở to mắt nghía xem thằng cha kia rốt cuộc do của khỉ gì biến thành?”

    Tư Mã Khôi nói: “Tớ bảo bao lần rồi còn gì, Nhị Học Sinh xuất hiện trong động đạo chẳng qua là thứ quái vật tá thi hoàn hồn, còn chuyện cậu hỏi, tớ cũng không giải thích được, trừ phi hiểu được thứ đang bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là thứ gì”.

    Hải ngọng thở dài: “Cậu nói thế cũng bằng không nói, bôn ba mãi cuối cùng lại trở về điểm xuất phát chỗ cái hộp thiếc, chút nữa chỉ sợ còn phải lòng vòng chán với con quái vật tá thi hoàn hồn, chẳng biết đến lúc nào mọi việc mới kết thúc đây?”.

    Thắng Hương Lân thấy cơ thể Nhị Học Sinh vốn yếu ớt, lại mắc chứng Khắc Sơn, rất dễ căng thẳng dẫn đến chuột rút, điều đó sẽ khiến các bó cơ trở nên co cứng và đột tử. Hai lần trước, hắn bị Hải ngọng cầm súng bắn chết, còn lần thứ ba là bị trói, rồi sắc mặt đột nhiên xanh lè, hai mắt chảy máu rồi lăn ra chết. Đó chính là một loại triệu chứng đột tử, bởi vậy không thể cho rằng hẳn là quái vật tá thi hoàn hồn, có lẽ hắn chỉ là một u hồn bị cuốn băng ghi lại mà thôi.

    Tư Mã Khôi nói: “Trước đây, tôi cũng tán đồng với giả thiết “cuốn băng tua”, thời gian trong kẽ hở không ngừng tuần hoàn lặp đi lặp lại, hễ Nhị Học Sinh lăn ra chết là thời gian lại nhanh chóng quay trở về điểm xuất phát, ngoại trừ hộp thiếc, đạn trong khẩu súng săn và bốn người chúng ta, thì mọi sự vật trong động không đáy bao gồm cả Nhị Học Sinh đều bay vùn vụt ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, chỉ khi hành động của đội khảo cổ có khả năng phá hủy tấm bia đá, thì cuốn băng liên tục tua đi tua lại ấy mới xuất hiện vết khuyết, có điều bây giờ tôi thấy giả thiết này dường như không chính xác, chúng ta đã bị ‘vòng tuần hoàn’ đánh lừa cảm giác”.

    Thắng Hương Lân biết Tư Mã Khôi sẽ không dám mở miệng nói liều trong trường hợp này, nên việc anh khẳng định chắc chắn như vậy, phải chăng đã tìm thấy chứng cứ nào đó?

    Tư Mã Khôi soi đèn quặng về phía Hải ngọng, rồi quả quyết: “Chứng cứ nằm ở đây!”

    Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương hướng mắt theo ánh đèn, cả hai đều lộ vẻ kinh ngạc đến tột độ, dường như họ đã phát hiện thấy hiện tượng rất đỗi dị thường.

    Hải ngọng bị ba người nhìn chằm chằm như vậy, lòng cũng rờn rợn, anh lúng búng phản kháng: “Đúng là chó cắn càn, chứng cứ thì liên quan gì đến tôi cơ chứ?”

    Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng: “Cậu cúi đầu nhìn xem trên người cậu có cái gì!”

    Hải ngọng đưa mắt nhìn xuôi theo chùm sáng đèn quặng, anh thấy trên người mình lấm tấm vệt máu vẫn còn chưa khô. Lúc trước, anh nổ súng làm đứt cánh tay Nhị Học Sinh, vì đứng quá gần, nên không tránh khỏi bị máu bắn lên quần áo, lúc đó tình hình hỗn loạn, anh cũng chẳng để ý đến, lẽ nào mấy vết máu này có gì bất hợp lý sao?

    Thắng Hương Lân lập tức hiểu ra, nếu mọi sự vật trong động đạo đều quay ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, thì máu trên người Nhị Học Sinh bị súng bắn túa ra cũng phải biến mất hết mọi dấu vết mới phải, nhưng bây giờ vết máu vấy lên người Hải ngọng vẫn chưa khô, đồng thời lại có một Nhị Học sinh lành lặn, nguyên vẹn xuất hiện trước mặt đội khảo cổ, điều đó chứng tỏ…

    Tư Mã Khôi tiếp lời: “Điều đó chứng tỏ, mỗi lần xuất hiện lại là một Nhị Học Sinh khác nhau, nếu nói ‘tá thi hoàn hồn’, thì có lẽ cùng một âm hồn, nhưng có nhiều cái xác vô hồn làm vỏ cho âm hồn trú ngụ, vết máu và thi thể ba lần trước của ba Nhị Học Sinh đều bị con quái vật mà cả hội không nhìn thấy che giấu, nó cố ý khiến đội khảo cổ ngỡ rằng mình đang trải qua thời gian tuần hoàn, nguyên nhân cụ thể thì đến bây giờ vẫn chưa nghĩ ra, tóm lại, nó muốn ép chúng ta phải sử dụng thuốc nổ để phá hủy tấm bia đá, điều đó chứng tỏ thứ tồn tại phía sau tấm bia đá không chỉ là sinh vật sống, mà nó còn là sinh vật có ý thức”.

    Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Mẹ nó, rốt cuộc là vật gì được nhỉ? Bị nhốt mấy ngàn năm trong động đạo, mà nó vẫn còn sống sao?”

    Tư Mã Khôi nói: “Điều này tớ cũng không đoán ra nổi, đừng quên câu này – mọi nguyên nhân phức tạp đều xây dựng trên một kết quả – bây giờ chúng ta cố gắng đừng để tâm đến chuyện sống chết, hãy nghĩ cách tìm ra ‘kết quả’ cuối cùng”.

    Hải ngọng nói: “Nhưng hai đầu động đạo đều không thấy điểm tận cùng, đi về phía nào cũng chẳng ra nổi, giờ phải làm sao?”

    Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh vẫn nằm rạp trên mặt đất, bèn bảo: “Hắn chính là manh mối duy nhất, bây giờ trên người hắn có rất nhiều ẩn số không thể lý giải, đúng như Thắng Hương Lân nói, có lẽ hắn chỉ là một âm hồn bị cuốn băng ghi lại, là một vong hồn bị lạc đường trong động đạo, lúc chúng ta kích nổ bom hẹn giờ, vì hắn bị trói, tuyệt vọng quá độ dẫn đến các bó cơ xơ cứng và đột tử. Chân tướng những việc này chỉ có trời biết, đất biết, chứ người thì chịu chết, chúng ta không thể phân biệt được nên tốt nhất là cứ đánh hắn ngất xỉu cho xong”.

    Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Anh đánh ngất hắn thì làm sao hỏi hắn lối ra nằm ở đâu được?”

    Tư Mã Khôi khom lưng cúi xuống, ra hiệu cho ba người ấn đèn quặng lên mặt đất quan sát, trong động đạo có rất nhiều rêu ẩm, vết chân Nhị Học Sinh đi từ đàng xa đến vẫn còn lưu lại rất rõ ràng.

    Thắng Hương Lân mừng rỡ nói: “Đúng vậy, chỉ cần lần theo vết chân khi đến của Nhị Học Sinh, sẽ biết hắn mọc ra từ kẽ hở nào”.

    Tư Mã Khôi không thể xác định liệu có phải một Nhị Học Sinh này chết đi, sẽ mọc ra một Nhị Học Sinh khác hay không, nhưng người xưa nói chí phải ‘cây dịch chuyển thì chết, người dịch chuyển thì sống’, chỉ cần đi theo vết chân, chắc chắn sẽ phát hiện ra điều gì đó, dẫu sao vẫn tốt hơn ngồi một chỗ mà rầu rĩ, đến lúc ấy nếu không có kết quả thì cùng lắm lại tìm cách khác. Thế là, anh bảo Hải ngọng kéo Nhị Học Sinh đang bất tỉnh nhân sự cùng cả hội lần mò về phía trước theo vết chân trong động đạo.

    Bây giờ chỉ còn lại hai cây đuốc, vì vậy chưa đến lúc quan trọng, cả hội tuyệt đối không được sử dụng lãng phí, thể nên mọi người đành bật đèn quặng chiếu sáng, lần mò từng bước tiến về phía trước trong động đạo triền miên đêm đen. Vết chân Nhị Học Sinh để lại không bám sát vào vách động, hắn đi ngoằn ngoèo, ước chừng khoảng hơn ba mươi bước thì không thấy dấu chân trên rêu nữa.

    Cả hội dừng bước, quan sát tỉ mỉ, hóa ra chỗ phiến đá trên mặt đất có một khe hở, Tư Mã Khôi lấy tay chạm vào cảm giác có thể nậy lên được, anh liền nậy lên, vừa mở được thì thấy bên trong là một gian thạch thất tối om.

    Tư Mã Khôi nghĩ thầm, chắc Nhị Học Sinh bò từ gian thạch thất này ra. Chẳng lẽ hắn là củ cải trong lòng đất, nhổ một củ lại mọc lên một củ khác? Bên trong chắc chắn còn có thứ gì đó.

    Bốn người đang định soi đèn quặng nhìn cho rõ, thì Nhị Học Sinh choàng tỉnh dậy, hắn nhìn thấy gian mật thất phía dưới động đạo, cả cơ thể bất giác run rẩy như muốn ngất, hai hàm răng va vào nhau lập cập, hai tay nắm chặt lấy dây ba lô của Hải ngọng không chịu buông.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 5: KÝ HIỆU


    Hải ngọng không nuốt trôi trò này, liền tiện tay vung cú đấm, Nhị Học Sinh lập tức bổ ngửa ra đất ngất xỉu.

    Tư Mã Khôi thầm thấy lạ, nếu suy đoán theo dấu chân thì Nhị Học Sinh bò ra từ dưới lòng đất, nhưng sao vừa mở mắt nhìn thấy gian thạch thất, hắn lại hoảng sợ đến vậy?

    Cao Tư Dương không đồng tình với Hải ngọng, cô trách móc: “Sao anh chưa hỏi đầu cua tai nheo đã đánh hắn ngất xỉu thế?”

    Hải ngọng nói: “Thằng này có lá gan chuột nhắt, tự hắn sợ quá ngất đi đấy chứ, mà hắn chết thì kệ hắn, có điều nếu để hắn chết thì chuyến đi này của chúng ta toi công à?”

    Tư Mã Khôi gật đầu bào: “Chí phải!”, bây giờ định thần ngẫm kỹ lại mới thấy thứ bị tấm bia đá Bái Xà nhốt trong động có thể khống chế việc khép mở của kẽ hở thời gian, nhưng nó không thể thay đổi được chiều thời gian, những sự việc đã xảy ra nghĩa là đã xảy ra, không thể bắt chúng xuất hiện lại được. Giả sử độ rộng của kẽ hở thời gian là một giây, thì nó chỉ có khả năng kéo dài vô tận khoảng thời gian một giây trong kẽ hở mà thôi, khi ấy đội khảo cổ sẽ phải trở về điểm xuất phát và lại gặp Nhị Học Sinh. Hai lần đầu tuy cùng là thời gian một giây, nhưng khoảng cách lần thứ hai gần thời gian một giây hơn lần một, lần thứ ba lại càng gần hơn chút nữa, những lần sau có khi sẽ càng tiệm cận vô hạn hơn, nhưng trong kẽ hở không hề có lối ra, nên họ sẽ vĩnh viễn không thể đến được thời điểm một giây đích thực. Mỗi vòng tuần hoàn mà đội khảo cổ trải qua, trên thực tế là việc động đạo không ngừng trở về trạng thái ban đầu, mà bản chất của trở về trạng thái ban đầu và tuần hoàn thì hoàn toàn khác nhau. Việc trở về trạng thái ban đầu tương tự với khái niệm “tái sinh”, một Nhị Học Sinh chết đi sẽ xuất hiện một Nhị Học Sinh khác theo sự trở về trạng thái ban đầu của động đạo. Đáp án của bí mật này rất có khả năng đang nằm trong gian thạch thất dưới kia, tuy ở đó ẩn giấu vô số nguy hiểm, nhưng đã đến nước này thì cả hội buộc phải xuống đó một chuyến xem sao.

    Thắng Hương Lân tán đồng với phán đoán của Tư Mã Khôi, nhưng phản ứng của Nhị Học Sinh khi nhìn thấy cửa động lại vô cùng quái đản, thứ trong gian thạch thất hẳn không phải tầm thường, có lẽ bốn người nên chia ra thành hai nhóm để hành động sẽ ổn thỏa hơn.

    Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng và Cao Tư Dương một nhóm, ở lại cửa động tiếp ứng, đồng thời trông chừng Nhị Học Sinh, còn anh và Thắng Hương Lân xuống thăm dò tình hình dưới thạch thất, tuy chỉ còn hai cây đuốc, nhưng giờ đành phải thắp sáng một cây, để tránh trường hợp khí độc tồn tại ở dưới gây chết người.

    Cao Tư Dương thấy vết thương trên người Thắng Hương Lân vẫn chưa khép miệng, nên tự nguyên thay cô cùng Tư Mã Khôi xuống dưới, nói xong cô nhanh chóng bỏ ba lô ra để lại, rồi cầm lấy đuốc đi theo Tư Mã Khôi.

    Tư Mã Khôi thấy cũng hợp lý. Để dễ bề hành động, anh đổi vũ khí cho Thắng Hương Lân, sau đó ôm khẩu Walther P38, rồi cùng Cao Tư Dương tụt xuống vách đá dựng đứng, vào trong gian thạch thất.

    Gian mật thất dưới động đạo khá chật chội và bức bối, chắc rộng chưa đầy hai chục mét vuông, xung quanh là bốn vách đá khắc đầy hình vẽ, hai đầu có cánh cửa đá đã bị đổ sụp, vào trong này có cảm giác tựa như chui vào trong một cỗ quách đá khổng lồ, may mà không khí lưu thông tốt, không hề thấy bí bách, ngột ngạt.

    Hai người thò đuốc vào trước, nhờ ánh sáng lúc mờ lúc tỏ, họ nhìn thấy phần lớn các bức phù điêu trên vách vẽ hình đầu thần mặt quỷ, dưới chân có tô tem rắn quấn quanh, đây là những thần thị cổ xưa đến nay đã bị người đời lãng quên, có hình hao hao giống cá, có hình lại hao giống chim, có hình lại nửa người nửa thú, tất cả đều được bảo tồn ở trạng thái nguyên thủy nhất, có điều trong lòng đất âm u, trông chúng hiện lên vẻ vô cùng quái dị.

    Cao Tư Dương thấy xung quanh không có vật gì khác, bốn bức tường bám đầy bụi bặm, cánh cửa đá đổ sụp đã chặn đứng lối ra, có lẽ hàng ngàn năm nay chưa hề có người bước vào đây, thì trong lòng không khỏi cảm thấy kỳ lạ, cô định nói với Tư Mã Khôi, khả năng không phải Nhị Học Sinh bò ra từ gian thạch thất này, nhưng chợt thấy Tư Mã Khôi bất thần nhìn xuống mặt đất một cách chăm chú, cô không nhịn được bèn cất tiếng hỏi: “Anh phát hiện ra điều gì sao?”

    Tư Mã Khôi nghe Cao Tư Dương hỏi, giật mình quay lại, chỉ xuống chân mình, chậm rãi nói: “Đây là ký hiệu của Nấm mồ xanh”.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải chở bom địa chấn dưới đáy khe núi Dã Nhân ở Miến Điện. Nó là vật sở hữu của tổ chức ngầm do Nấm mồ xanh khống chế, chúng âm mưu định dùng chất độc màu da cam chứa trong bom địa chấn để phá hủy thảm thực vật khổng lồ sinh trưởng dưới đáy cốc, giúp đội thám hiểm dễ dàng xâm nhập thành Nhện Vàng của quốc vương Chăm Pa. Trên thân chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó khắc ký hiệu hình con quái xà đang vươn đầu thè lưỡi, đây chính là ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, lúc này, nhìn thấy hình vẽ trên mặt đất trong gian thạch thất, từng hình ảnh đã trải qua trong đáy cốc rừng rậm như lần lượt hiện ra trước mắt anh.

    Trước đây, Tư Mã Khôi từng đoán già đoán non không biết bao nhiêu lần về mối quan hệ giữa Nấm mồ xanh với người Bái Xà cổ đại, nhưng từ đầu chí cuối anh không hề lần ra bất cứ manh mối gì, ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh là con quái xà, người Bái Xà cổ đại cũng tôn rắn làm thần, có điều hai loại rắn này hoàn toàn không giống nhau, ký hiệu cùa Nấm mồ xanh là con rắn toàn thân cuộn lại, vươn đầu thè lưỡi, nom rất tà ác, độc địa, còn tô tem mà người Bái Xà cổ đại sùng bái là thần Vũ Xà, đó là một hình tượng hư vô, nó giống như hình ảnh vòng tròn tượng trưng cho thủy thể ở 30° vĩ Bắc dưới lòng đất đã được người cổ đại thần thánh hóa. Trong các di tích của người Bái Xà, anh cũng chưa từng nhìn thấy tô tem hình rắn giống như ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, còn về chuyện Nấm mồ xanh biết được hệ ngôn ngữ của người Bái Xà cổ đại và nắm được bí mật về tấm bia đá rõ ràng như trong lòng bàn tay, thì có khả năng là hắn đã biết được từ một thông tin đặc biệt nào đó.

    Gian thạch thất nằm sâu nơi tận cùng địa mạch là nơi hàng ngàn năm nay không ai vào được, vậy mà nó lại tồn tại một tô tem hình rắn giống như ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, sự thật không thể chối cãi này chỉ có thể chứng minh – Nấm mồ xanh có mối quan hệ vô cùng sâu sắc với tổ tiên của người Bái Xà, có lẽ nó sâu xa đến mức không thể truy được ngọn nguồn, ngay cả quốc vương Chăm Pa đã chết hàng ngàn năm trước, cũng không thể có mối quan hệ với người Bái Xà sâu xa đến thế, Tư Mã Khôi thực sự không thể tưởng tượng trong những người mình từng gặp mặt trong quá khứ lại tồn tại một nhân vật bí hiểm dường vậy.

    Cao Tư Dương không hiểu vì sao Tư Mã Khôi lại ngạc nhiên đến thế, cô thấy trong thạch thất không có hiện tượng gì khác thường, liền gọi Thắng Hương Lân và Hải ngọng leo xuống.

    Hải ngọng khoác khẩu súng săn trên lưng, một tay kẹp Nhị Học Sinh, theo chân Thắng Hương Lân vào thạch thất, vừa nhìn thấy hình vẽ rắn trên mặt đất, anh cũng ngạc nhiên không kém Tư Mã Khôi.

    Hải ngọng quẳng Nhị Học Sinh xuống đất, hốt hoảng nói: “Đây chẳng phải ký hiệu của Nấm mồ xanh sao? Xem ra, tên quái thai không bao giờ dám lộ diện là nghiệt chủng còn lưu lại hậu thế của tộc người Bái Xà, lẽ nào nó hiểu bí mật khắc trên tấm bia đá?”

    Thắng Hương Lân nghĩ một lát, rồi nói: “Chỉ sợ mọi việc không đơn giản như thế, người Bái Xà có thể hiểu được bí mật khắc trên bia đá, thứ đang bị tấm bia đá chặn trong động kia cũng hiểu được bí mật đó, nếu không tấm bia đá chẳng thể nhốt nổi nó trong động đạo, bởi vậy Nấm mồ xanh chưa chắc đã thuộc nhánh tộc Bái Xà còn sót lại.”

    Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói vậy, liền đột nhiên nhớ tới lúc phát hiện thấy đỉnh đồng đen Vũ Vương ở bồn địa Turpan dưới lòng đất Lopnor, nghe một thành viên của đội khảo sát liên hợp từng nói rằng, theo như ghi chép thời tiền sử, tiên vương cổ thánh tăng cảnh cáo hậu thế không được khai quật kho báu chôn dưới lòng đất, bởi vì ở đó ẩn nấp “kẻ địch cổ đại”, sinh vật nằm trong động mà người Bái Xà dùng tấm bia đá chặn lại phải chăng chính là “kẻ địch cổ đại” đó? Đương nhiên, tên gọi này cũng có thể ám chỉ dãy số khắc trên tấm bia, nhưng bất kể nói thế nào thì dùng danh xưng ấy để hình dung về con quái vật trong động nghe có vẻ rất thỏa đáng, nếu Nấm mồ xanh không phải hậu duệ của người Bái Xà, thì chắc chắn hắn phải liên quan đến “kẻ địch cổ đại”, có điều Triệu Lão Biệt từng nói Tư Mã Khôi đã nhìn thấy mặt kẻ đó, đây chính là nút thắt mà anh không thể nào tháo gỡ nổi.

    Hải ngọng nói, dòng biển nóng dưới lòng đất mà dâng lên, thì ngay cả La Hán mình đồng da sắt cũng không chịu nổi nhiệt, nếu Nấm mồ xanh quả thực là người sống, thì với thân xác máu thịt bình thường chắc đã tan tành mây khói từ lâu rồi, làm gì có chuyện còn sống sót tới tận bây giờ.

    Tư Mã Khôi thẫm nghĩ, không hiểu thứ nấp đàng sau tấm bia đá là sinh vật gì, hơn nữa đến lúc này anh cũng chưa có cách nào biết được Nấm mồ xanh là ai, trước mắt phải xem xem Nhị Học Sinh mọc từ đâu ra, có điều bụi trong thạch thất bám một lớp rất dày, không giống thường xuyên có người ra vào nơi này, anh không hiểu tại sao lại vậy, nên đành giơ cao đuốc quan sát tỉ mỉ từng hình vẽ trên các bức phù điêu khắc trên vách đá trước xem sao.

    Trong phòng không hề khắc chữ triện cổ Bái Xà. Qua các bức phù điêu với nội dung ly kỳ và quái đản, mọi người cũng có thể suy đoán xung quanh động đạo này có rất nhiều gian thạch thất tương tự như vậy, bởi người Bái Xà là tộc sùng bái lưỡng thần, một mặt tôn sùng thần Vũ Xà nắm giữ luân hồi của vạn vật; mặt khác lại vô cùng kính sợ và ra sức tế lễ dị thần, mãi đến khi họ dùng tấm bia đá nhốt được vị thần quái dị đó trong động đạo thì mới ngưng nghi thức tế lễ. Vì trước đây phải thường xuyên vào trong này tế lễ dị thần, nên phần lớn các gian thạch thất ở gần động đạo được đào thông với di chỉ của miếu thần ngày trước, gian thạch thất này chỉ là một trong số đó. Lúc người Bái Xà đặt tấm bia đá, họ đã xóa sạch toàn bộ mọi hình ảnh liên quan đến vị dị thần trên các bức phù điêu, ngay cả danh xưng cũng không lưu lại. Trực quan nhất chính là bốn bức phù điêu tuần hoàn thành hình tròn trên tấm bia, phần đỉnh có con rắn bay mọc cánh chim trên lưng, đó chính là thần Vũ Xà đứng trên tất thảy vạn vật, phía dưới chân là hình người cổ đại đứng xếp hàng trông sống động như thật, hai bên toàn những hình vẽ ma quái, phần chính giữa thì đã bị người xưa cạo mất.

    Bốn người thầm kinh ngạc, thần thánh là thứ mà không thể gọi là có hay không, dẫu có thật thì người trần mắt thịt cũng chẳng thể nào nhìn thấy, chỉ có quỷ mới biết thứ bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là loại quái vật gì. Cả hội xem tiếp thì thấy phía chân bức phù điêu khắc thần đạo và cung điện, trong bức tranh dài này có vẽ cảnh tượng nô lệ bị bắt làm tế phẩm, đi theo hoa văn vân rắn trên mặt đất, xuyên qua động đạo và bị dị thần ăn thịt ở nơi tận cùng của miếu thần.

    Hội Tư Mã Khôi thấy trong thạch thất không có phát hiện gì đáng giá nữa, nên quyết định trước tiên cứ đi theo manh mối này để tìm đường ra. Tư Mã Khôi đổi lại súng cho Thắng Hương Lân, sau đó quay trở lại động đạo, nhổ sạch đám rong rêu bám trên mặt đất, tìm kiếm những viên gạch có vẽ hoa văn rắn, rồi tiến về phía trước. Họ đi mãi đến khi cây đuốc cháy hết, thì phía trước hiện ra một con đường cắt ngang, địa hình khúc khuỷu, sâu hun hút, không gian bỗng chốc trở nên khoáng đạt, chẳng khác nào một bình rượu đặt nằm ngang, sau khi đi xuyên qua phần cổ chai chật hẹp, trước mặt họ bây giờ hiện ra một hố động khổng lồ, đen ngòm và rộng vô bờ bến.

    Lúc này, đuốc cháy đến đoạn cuối cùng và tắt rụi, ánh sáng còn lại vô cùng ảm đạm, Tư Mã Khôi đi đằng trước không nhìn rõ địa thế, chân vừa giẫm xuống một cái, suýt nữa thì ngã nhào xuống động sâu, may nhờ Cao Tư Dương đứng đằng sau giơ tay túm lấy ba lô giữ lại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng đá vụn bị giẫm phải rơi xuống rào rào.

    Tư Mã Khôi thấy đã ra khỏi được động đạo, nhưng vẫn chưa dám yên tâm, thời gian đang không ngừng trôi về phía trước, điều đó chứng tỏ cung điện dưới lòng đất thờ các vị thần cổ xưa cũng đang bị lún vào kẽ hở thời gian, may mà cuộn thuốc nổ đã bị vô hiệu hóa, nên bất kể họ dùng cách nào cũng không thể phá hủy nguyên trạng của tấm bia đá được nữa. Tư Mã Khôi nghĩ đã đến nước này, thì trừ phi chẳng may bị chết, còn nếu không anh phải xem bằng được thứ trong động không đáy rốt cuộc là gì. Anh dập cây đuốc cuối cùng, cùng ba người còn lại bật đèn quặng lên, kéo Nhị Học Sinh tụt xuống vách đá dốc dựng đứng, trượt khoảng mười mấy mét thì địa thế bắt đầu bằng phẳng dần.

    Trên mình bốn người đều mang theo súng và dao săn, mấy bình nước đeo bên mình đập vào vách phát ra tiếng “coong coong”, âm thanh sắc lạnh, không giống tiếng phát ra khi đập vào đá, mà giống như cả hội đang đứng trên một khối sắt khổng lồ.

    Hải ngọng bị ngã, đau khắp mình mẩy. Anh thò tay sờ mặt đất, cảm giác bề mặt nhẵn thín và bằng phẳng, không những vậy xúc giác từ tay cảm nhận thấy sự cứng chắc, lanh lẽo, dày dặn và mịn màng cho thấy phía dưới chân họ không phải một phiến đá thông thường, anh buột miệng chửi đổng: “ Mụ nội nó, chỗ này giống như đáy của cái nồi khổng lồ, không ngờ toàn sắt là sắt!”
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 6: LỚP VỎ NGOÀI


    Không gian dưới hố động như một thế giới hoàn toàn khác biệt, bốn phía tối đen như mực, yên ắng không một tiếng động, sự cô tịch tưởng như kéo dài. Sa chân vào cảnh ngộ này, lòng ai nấy đều bất giác dội lên cảm giác rùng rợn, hãi hùng tột độ, thấy cõi này sao bao la rộng lớn mà bản thân thì quá bé nhỏ, không thể nghĩ ra nổi vì sao đáy động lại là lớp vỏ sắt khổng lồ.

    Tư Mã Khôi lấy ngón tay gõ lên mặt đất, anh phát hiện lớp vỏ sắt này dày không thể tưởng tượng nổi, hơn nữa nó lại là sắt nguyên khối, khối lượng riêng cũng lớn khác thường, chỉ e một cục to bằng nắm tay cũng phải nặng đến cả trăm cân. Trong động khắp nơi đều ẩm thấp, âm u, nhưng chất sắt này vẫn đen sì sì, không hề xuất hiện vết tích han gỉ.

    Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Đáy động là hố quặng sắt hả Khôi?”

    Tư Mã Khôi lắc đầu, chưa bao giờ anh thấy loại sắt nào rắn chừng ấy, cho dù đạn ghém cỡ tám của khẩu súng săn gấu hai nòng bắn vào, e là cũng chẳng thể để lại một vết lõm nông, tuy người Bái Xà cổ đại rất giỏi đào huyệt động, nhưng chắc chắn họ cũng không thể nào đào lên được lớp vỏ sắt to đến thế.

    Hải ngọng soi đèn quặng ra xa, thì thấy mặt đất bằng phẳng, kéo dài tít tắp đến vô tận, đỉnh động cong cong, có chiều hơi chúi xuống, được bao phủ bởi một mành sắt – loại sắt giống với phần đáy, bề mặt phân bố các lỗ dày chi chít, đường kính lỗ rộng nhất chừng hơn một mét, lỗ hẹp nhất chỉ tầm hai đốt ngón tay, các lỗ thưa thớt không đều nhau, lộn xộn chẳng theo quy luật nào, nhưng tất thảy đều nhẵn bóng và bằng phẳng, có lẽ toàn bộ đáy động được bao bọc bởi một khối sắt trọn vẹn như thế, thực không biết nó còn che phủ bao nhiêu cây số nữa?

    Tư Mã Khôi nghe người ta nói, biển nóng ở tâm Trái đất toàn là sắt nóng chảy, anh đoán lớp vỏ sẳt khổng lồ bao phủ cả nơi tận cùng của mạch đất chính là sắt nóng chảy đông kết lại tạo nên, chỉ có khả năng biến hóa vô cùng vô tận của đất trời mới có thể tạo ra kiệt tác xứng danh kỳ tích này.

    Thắng Hương Lân đồng ý với suy luận của Tư Mã Khôi, có điều những lỗ hình tròn to nhỏ khác nhau trên vỏ sắt thì không hiểu từ đâu mà có, soi đèn quặng vào trong thấy tối om, sâu hun hút, lỡ không may sa chân xuống, nhẹ thì đứt gân gãy xương, nặng thì không thể thoát thân ra nổi, nhưng có vẻ nó không giống cạm bẫy trên đường, hơn nữa vì khả năng có hạn, người Bái Xà cổ đại không thể đục khoét được những lỗ to như vậy trên khối vỏ sắt khổng lồ được.

    Hải ngọng nói: “Trong động chẳng phải có thứ bị tấm bia đá nhốt lại sao? Lẽ nào đó là dấu vết nó để lại khi hoạt động? Mà ngẫm lại, mẹ nó chứ vẫn chả hiểu nó rốt cuộc là món đồ chơi gì?”

    Tư Mã Khôi nói: “Thì thứ bị tấm bia đá chặn lại một vị thần thánh cổ xưa nào đó mà người Bái Xà thờ phụng còn gì, nhưng dung mạo và tên của nó đã bị họ xóa mất rồi. Giờ chúng ta không thể đoán nổi mặt mũi thật sự của nó. Thực ra chuyện thần quỷ chỉ là hư vô, nếu nói cái thứ có hình dáng diện mạo kia là thần, chi bằng bảo nó là con quái vật vượt ngoài phạm trù hiểu biết của người Bái Xà cổ đại có khi còn đúng hơn. Chính vì ở tận cùng địa mạch có khối vỏ sắt to chừng này, nên nó mới bị tấm bia đá chặn lại không cho thoát ra ngoài, có thể nếu đi tiếp vào sâu hơn, chúng ta sẽ tậu mắt nhìn thấy hình dạng thật sự của nó; còn về các lỗ thủng trên mặt đất có phải dấu tích nó để lại khi di chuyển hay không thì bây giờ rất khó phán đoán”.

    Lúc trước, cả hội quay đi quay lại mấy vòng trong động đạo phía sau tấm bia đá nhưng vẫn không tìm thấy lối ra. Thế mà sau khi Tư Mã Khôi ngắt bỏ dây dẫn nổ, cả hội lại vào được trong hố động khổng lồ bị vỏ sắt bao phủ xung quanh, chuyện này ắt có lý do, bây giờ Tư Mã Khôi cũng không thể phân biệt việc khép mở của kẽ hở thời gian, chính vì vậy, cả hội cũng không dám mạo hiểm xông lên phía trước, họ đành tìm kiếm lần mò ở quanh đó. Họ nhìn thấy một số bộ khung xương thú khổng lồ thời tiền sử vương vãi trên mặt đất, xương cốt đã hóa thạch từ hàng vạn năm trước, trông nhấp nhô như dãy núi dài triền miên, xương sống hình rắn từ trên dốc thả ngoằn ngoèo xuống phía dưới. Dọc đường từ đáy động thông vào nơi sâu toàn là tượng thú đá nằm đổ nghiêng xiêu vẹo, diện mạo trông lờ mờ, quái dị và đáng sợ, Tư Mã Khôi đoán có lẽ đây là thần đạo, cả hội đang định tiếp tục đi sâu vào trong.

    Lúc này, Nhị Học Sinh tỉnh khỏi cơn hôn mê, mắt nhắm mắt mở nhìn trái nhìn phải, đột nhiên sắc mặt hắn lập tức biến đổi, hắn quay người định trốn về động đạo, nhưng bị Hải ngọng lấy báng súng vạng mạnh vào sau gáy, hắn chỉ kịp kêu “ối” một tiếng, rồi lại ngã lăn ra đất ngất xỉu.

    Tư Mã Khôi thấy trên vẻ tuyệt vọng trên mặt Nhị Học Sinh giống hệt khi hắn nhìn thấy gian thạch thất, anh biết lúc nãy mình đã đoán nhầm, không phải gã này sợ gian thạch thất, mà là hắn sợ đội khảo cổ sẽ thoát ra khỏi động đạo theo manh mối tìm thấy trong gian thạch thất, vì sao hắn không dám bước chân vào nơi này? Phải chăng hắn cố tình làm rối trí bọn ta, hay còn có nguyên nhân nào khác? Có câu “âm dương khó đoán chính là ma, huyền thâm khôn cùng chính là thần”. Bây giờ cảnh ngộ mà cả hội gặp trong động không đáy quả rất ứng với câu nói này, để một kẻ không phải người cũng chẳng phải ma đi cùng mình, sớm muộn gì cũng rước họa vào thân, ngặt nỗi hiện tại Tư Mã Khôi cũng chưa nghĩ ra cách gì thoát khỏi hắn, nên đành đánh ngất hắn rồi tha theo cùng, cái này gọi là “biết rõ không phải bạn, nhưng lúc cấp bách vẫn phải đồng hành”.

    Bốn người kéo Nhị Học Sinh mềm oặt như con chó chết trèo vào thần đạo, đứng ở nơi cao trên xương sống sinh vật cổ nhìn về phía trước, họ thấy ở điểm tận cùng của con đường có ánh đèn sáng mờ mờ, hình như đó là một tòa cung điện nguy nga, hai bên ngổn ngang thú đá và thạch thất đã bị sụp đổ, có thể thấy thời xưa đây là một tòa cung điện cổ dưới lòng đất với quy mô vô cùng bề thế và không khí uy nghiêm, hùng tráng. Điều kỳ lạ là tuy tầm nhìn xung quanh được nâng lên khá nhiều, nhưng cự ly chiếu sáng của đèn quặng cũng chỉ tỏa được chưa đầy hai mươi mét, căng mắt lắm cũng chỉ nhìn thấy vách động dựng đứng trên đỉnh đầu, thế mà không hiểu vì sao cả hội lại có thể nhìn ánh lửa đèn âm u từ tận đằng xa của thần đạo. Ngoài ra, người Bái Xà vốn không quen dùng lửa, trong lịch sử, họ chưa bao giờ phát minh cũng như sử dụng bất kỳ dụng cụ chiếu sáng nào, vậy tại sao trong huyệt động dưới cửu tuyền cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài lại có nến trường minh không bao giờ tắt?

    Mọi người vừa ngạc nhiên vừa hoài nghi, có điều sự việc đã đến nước này thì đương nhiên chỉ tiến chứ không thể lùi, điều đáng ngại lúc này là lương thực và đạn dược cả nhóm mang theo gần như đã cạn kiệt, trong ba lô chỉ còn ít pin đèn và lương khô, ngoài ra không còn thứ gì khác, đuốc cũng chỉ còn lại một cây cuối cùng, trên người họ giờ nhẹ tênh, nhưng lòng lại hoang mang, trĩu nặng.

    Hải ngọng sờ đạn trong bao, mới phát hiện chỉ còn bốn viên đạn ghém cỡ tám của khẩu súng săn gấu Canada, tính cả hai viên đang nằm trong ổ, mới có sáu viên, đạn sắp hết làm lòng can đảm của anh cũng giảm sút trông thấy, thêm vào đó đường đi toàn hố vũng gập ghềnh, anh không thể kéo Nhị Học Sinh di chuyển như lúc trước được nữa, mà đành phải cõng hắn lên lưng. Tuy gã này gầy nhom chỉ toàn da bọc xương, nhưng anh còn phải cõng cả đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, nên oằn người khó nhấc chân nổi.

    Chiếc đèn hỏa diệm nhiệt độ cao này tuy uy lực rất lớn nhưng lại đang bị hỏng, chẳng hiểu chạm mạch ra sao mà sửa mãi vẫn lúc lành lúc què, có điều cả hội không nỡ vứt thứ vũ khí hiện đại này đi, nên bàn đi tính lại, họ đành để Cao Tư Dương cõng thay Hải ngọng.

    Bốn người nhanh chóng chỉnh đốn xong xuôi, men theo xương sống hóa thạch của sinh vật tiền sử bước thấp bước cao vất vả tiến về phía trước. Huyệt động này giống như một đường nứt ngang trong vỏ sắt, trông cục bộ thì có vẻ bằng phẳng, nhưng địa hình của tổng thể thì gập ghềnh khúc khuỷu, chỗ hẹp nhất thậm chí có thể với tay tới vách động trên đỉnh đầu. Mới đi được chưa tới chục bước, Tư Mã Khôi đột nhiên lấy tay ra hiệu cho mọi người dừng lại, anh ngẩng đầu soi đèn quặng lên đỉnh động.

    Cao Tư Dương thấy vậy liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”

    Thắng Hương Lân ra hiệu im lặng: “Hình như trong vỏ sắt có động tĩnh…”

    Hải ngọng vội vàng vứt Nhị Học Sinh xuống đất, giương súng săn lên, cảnh giác nhin phía trên, anh thấy ở nơi sâu trong vách động có tiếng sột soạt rất nhỏ vọng đến.

    Mọi người lần theo âm thanh, điều chỉnh chùm sáng đèn quặng, soi vào một lỗ thủng trên đỉnh động, trong mớ âm thanh sột sà sột soạt đó, cả hội thấy hai con mắt gắn trên đỉnh hai cái xúc tu đang thò vào trong lỗ thủng, phía sau là một cơ thể trơn nhẫy dấp dính dài chừng nửa mét. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy hình ảnh của sinh vật này trong cuốn cổ tịch biệt bảo ở biển cát, nom nó chẳng khác gì con ốc sên khổng lồ không có vỏ, tương tự như loài sên trần chuyên ăn kim loại mà cổ tịch nhắc đến, thì ra các lỗ thủng trên vách động đều do con sên này nhả dịch nhớt làm hoen gỉ rồi gặm nhấm mục ruỗng dần mà ra. Anh biết sên trần gặm kim loại là loài dị chủng, hễ bị nó bám phải thì không dễ thoát thân, thế là anh lập tức gọi mọi người nhanh chóng rời khỏi thông đạo. Bốn người loạng choạng chạy một hồi, cuối cùng, họ cũng thấy ánh đèn lập lòe như đốm lửa ma trơi ở đằng xa dần dần trở nên rõ ràng hơn, nơi sâu nhất của huyệt động là một tòa nhà màu xanh lục.

    Tòa đại điện này nằm trong một ngọn núi đá, ngọn núi đá này lại lún vào nơi sâu của vỏ thép khổng lồ, trong lòng núi người ta đục rất nhiều gian phòng lớn nhỏ, trên vách bám đầy lớp rêu màu xanh sẫm, các hình vẽ thần quỷ khắc xung quanh đều bị thảm rêu che phủ. Phía vách ngoài, cứ cách nửa thước lại đục một khám động nhỏ, bên trong đặt một chiếc đèn bệ đá, số lượng không dưới trăm ngàn cái, chúng tỏa ra thứ ánh sáng mờ tối, khiến người ta cảm thấy âm u, đè nén hơn.

    Hội Tư Mã Khôi liều mạng chạy như bay lại gần, anh mệt đến nỗi không thở ra hơi. Mọi người nhìn thấy cửa núi dưới cung điện cổ được mở rộng, hành lang phía trong ngoằn ngoèo, sâu hút, hai bên toàn khắc tượng mặt người vô hồn, thì lòng không khỏi bật ra suy nghĩ: “Người Bái Xà cổ đại không quen dùng lửa, hai mắt họ có thể nhìn thấy mọi vật dưới lòng đất tối om, vậy vì sao trong cung điện mịt mù ma khí này đèn đuốc lại sáng trưng?”, nghĩ đến đây, ai nấy đều bất giác bước chậm lại.

    Lúc này, từng cơn chấn động từ đâu bỗng truyền đến, rồi một con sên trần khổng lồ mình vằn vện đỏ au đang bò từ đáy động lên thần đạo, nó há ngoác cái miệng nhầy nhụa, lộ ra vô số chiếc răng nhọn hoắt, ào ào như vũ bão trườn tới phía sau lưng mọi người.

    Tư Mã Khôi nhớ trong cuốn cổ tịch biệt bảo có nhắc đến tông tích của loài sên trần gặm kim loại, chúng thường xuất hiện ở Tây Vực. Năm đó, một vị quốc vương Ba Tư đúc thành đồng dưới lòng đất để giấu vàng, ba năm sau ngài cho mở địa khố, phát hiện núi vàng chất cao ngất ngưởng bỗng không cánh mà bay, hóa ra nguyên nhân là do địa khố đó thông với mạch quặng, vàng bị bọn sên trần gặm sạch bách. Loài sinh vật này không chỉ gặm sắt, nhấm vàng, mà chúng còn ăn vật sống có máu có thịt, từng gây ra hiểm họa một thời cho Tây Vực, hậu thế không nhìn thấy loài sinh vật nguy hiểm ấy nữa, chỉ nghe đồn con nào thân mình có vằn đỏ thì là sên chúa, con đang tấn công phía sau lưng mọi người có khả năng chính là sên chúa. Thấy bị tấn công đột ngột, mọi người đành quay người lại rút súng ra bắn trả.

    Hải ngọng một tay giương khẩu súng săn kề lên vai, bóp cò, nhưng đạn ghém bắn trúng người con sên chúa cũng chỉ làm nó giảm tốc độ chậm lại một chút, trên mình thêm vài lỗ thủng chảy nước đen, rồi nó lại lảo đảo trườn đến chỗ mọi người.

    Cao Tư Dương định lấy đuốc xua kẻ địch, nhưng cô lại lỡ tay làm rơi, không biết bao nhiêu con sên trần lớn nhỏ dưới đáy động ngọ nguậy bò lên bao vây tứ phía, nhìn chúng mà da đầu cả hội ớn lạnh.

    Trong chớp mắt, đàn sên trần đã vây kín bốn người đén nỗi không còn đường rút lui, hội Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, nếu cứ tiếp diễn như vậy, nói không chừng họ chưa kịp rút vào địa cung thì đã bị lũ sên trần này nuốt chửng.

    Hải ngọng ném Nhị Học Sinh xuống đất, định bắn chết hắn để thời gian quay ngược về điểm mười một giờ đúng trong động đạo, dẫu phải bắt đầu lại từ đầu cũng còn tốt hơn bó tay chịu chết ở đây.

    Chẳng ngờ, Nhị Học Sinh bị quăng mạnh xuống đất, chợt tỉnh khỏi cơn hôn mê, thấy lũ sên xung quay đang bao vây bốn phía, hắn sợ quá co giò bỏ chạy. Hải ngọng đứng đăng sau giương súng bắn một phát vào lưng, cả cơ thể hắn giật tung lên như chiếc lá bị gió cuốn, rồi lăn vào cánh cửa đá đang rộng mở của tòa thạch điện. Nhưng lạ thay sau đó, lửa đèn trên khắp các vách tường vẫn sáng trưng, thời gian cũng không hề quay ngược trở lại.

    Mọi người thầm kinh sợ, chẳng lẽ thời gian cả hội đang trải qua lúc này là thời gian thực tế sao? Hay chỉ khi Nhị Học Sinh chết ở trong động đạo thì thời gian mới quay ngược?

    Hoàn cảnh giờ đây đúng là ngàn cân treo sợi tóc, trong cái khó Thắng Hương Lân chợt ló cái khôn, cô dốc nửa hộp dầu hỏa còn sót lại ra mặt đất và châm lửa. Lũ sên trần quen sống trong môi trường tối tăm, ẩm ướt, nên vừa gặp ánh lửa, chúng vội vàng co cụm lại. Nhân cơ hội này, bốn người xông lên phía trước, chạy trốn vào trong động đá, hợp lực đẩy cánh cửa khép lại. Đèn nến phía trong và phía ngoài tòa địa cung cổ đại thắp sáng trưng, nên bọn sên trần không dám lại gần, chúng tản ra bốn phía, rồi chui vào các lỗ trong vách động, thoáng chốc đã mất tăm mất dạng.

    Bốn người chạy như bay vào trong thạch điện, không kịp để hơi thở điều hòa trở lại đã vội vàng nạp đạn đẩy ổ, đồng thời soi đèn quặng thăm dò phía trước. Họ phát hiện ngực Nhị Học Sinh bị đạn xuyên thủng một lỗ to, mất mở trừng trừng, miệng há hốc, nằm rạp trên mặt đất, hắn ngừng thở và chết cứng từ bao giờ.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 7: VẾT LÕM


    Tư Mã Khôi đoán, khe đất sâu hút không nhìn thấy đáy là đường nứt do biến động địa chất từ nghìn tỷ năm trước để lại, dòng sắt nóng chảy ở biển nóng nơi tâm Trái đất gặp lạnh liên kết tụ thành lớp vỏ. Sau đó có mấy ngọn núi đá và vài loài sinh vật bò sát tiền sử đã tuyệt chủng từ lâu bị rơi vào đây trong một kiếp nạn long trời lở đất nào đó. Mấy ngọn núi đá chính là đại điện thờ phụng dị thần. Đội khảo cổ thâm nhập lối vào bị tấm bia đá Bái Xà chặn trước cửa, men theo từng cỗ di hài các con thú khổng lồ thời tiền sử và tìm thấy ngọn núi đá ở nơi sâu nhất. Thực tế, cả hội vẫn chưa hề rời khỏi hắc động dưới lòng đất, nhưng Nhị Học Sinh đã bị khẩu súng săn hai nòng bắn trúng, mà thời gian không hề quay trở về thời điểm mười một giờ đúng.

    Tư Mã Khôi lại gần quan sát thi thể Nhị Học Sinh, anh nghĩ thầm: “Chẳng lẽ bọn ta đã vô tình thoát ra khỏi kẽ hở thời gian mà không hề hay biết gì ư? Mọi vật trong động không đáy sẽ không trở về trạng thái ban đầu theo sự quay ngược của thời gian nữa chứ?”

    Bốn người cảm thấy mờ mịt như thể họ đang đứng giữa màn sương mù, không thể xác định nổi điều gì vừa xảy ra, càng không thể tưởng tượng được điều gì sắp xảy ra, có điều gian điện đèn đuốc sáng trưng từ trong ra ngoài này đích xác là nơi mà người Bái Xà cổ đại thờ phụng dị thần, không những vậy, nó còn được bảo tồn vô cùng nguyên vẹn, nói không chừng cả hội lại tìm thấy một vài manh mối ở trong này cũng nên.

    Hành lang trong núi đá vừa sâu vừa rộng, gian thanh điện to lớn, hoành tráng, dáng vẻ cổ xưa, những tượng đá ở đây đều cao gấp đôi người bình thường. Ngoại trừ những ngọn đèn âm u mờ tối trên tường, thì trong này còn có rất nhiều bích họa với nội dung vô cùng kỳ quái, phần đa miêu tả cảnh tượng đáng sợ ma quỷ ăn thịt người, vì ánh nến chỉ phát ánh sáng mờ ảo nên phải có ánh sáng đèn quặng trợ giúp cả hội mới nhìn thấy rõ, khung cảnh này càng làm mọi người cảm thấy rùng mình bất an.

    Hội Tư Mã Khôi không tin trên đời tồn tại thần tiên, hay chí ít thần tiên cũng không thể là loại quái vật mà người Bái Xà cổ đại từng thờ phụng, cúng tế. Con quái vật bị tấm bia đá chặn lại chắc chắn là sinh vật sống có hình dáng, da thịt; không chừng nơi sâu trong đại điện vẫn còn lưu giữ một vài hình vẽ hay tượng đá về nó, có lẽ đó chính là sự mô tả trực quan nhất của người Bái Xà cổ đại về con quái vật này.

    Thắng Hương Lân thì thầm với Tư Mã Khôi: “Vách đá ở thần điện màu xanh rêu, mùi tử khí ở sâu bên trong tỏa ra rất nặng nề, trông nó chẳng khác nào một nấm mồ màu xanh!”

    Tư Mã Khôi gật đầu: “Có lẽ thứ bị tấm bia đá nhốt trong động có gương mặt giống như gương mặt của Nấm mồ xanh, thậm chí nó chính là Nấm mồ xanh, dù gì thì gương mặt của nó chính là điểm then chốt giải đáp mọi ẩn số”.

    Cả hội bàn bạc mấy câu, rồi đi xuyên qua hành lang, vào trong đại điện, họ thấy trên vách đá vẽ một vị thần đang tạo ra vạn vật từ hỗn độn, nhưng cụ thể bức họa vẽ gì thì rất khó phân biệt. Trong điện trống hoác không có bất cứ vật gì, trên mặt đất là một hố dài bị lún sâu xuống, cả hội dùng đèn quặng soi vào trong thì thấy nó khá vuông vức, nhưng nơi này mờ tối nên khi đứng từ trên cao, họ chẳng thể nhìn thấy phía dưới có gì.

    Tư Mã Khôi bảo ba người bạn đồng hành đứng yên tại chỗ, còn mình vác súng, chiếu ánh đèn quặng rồi tụt xuống dưới dò đường. Anh bò theo vách tường dựng đứng, khi hai chân chạm đất, anh giơ tay xua màn sương khí vấn vít quanh mình, thì thấy tứ phía đều có các vách đá khắc hình thần quỷ yêu ma, ở giữa là một bệ đá bằng phẳng, trông giống như một chiếc giường đá, nó cao chừng nửa mét, bên trong lõm xuống theo hình cơ thể người, vừa vặn đủ cho một người vào trong ngửa mặt nằm thẳng.

    Tư Mã Khôi thấy nơi lạ lùng này trông khá quen thuộc, bản thân anh cũng không thể giải thích nổi vì sao mình có cảm giác như vậy. Anh thấy ở đây không còn điểm gì khác thường bèn bò ngược lên miệng động, định gọi hội Thắng Hương Lân xuống theo, nhưng vừa lên anh đã thấy cả ba người họ đều căng thẳng dính mắt về hướng cửa điện, súng trong tay cũng chĩa thẳng về phía đó, anh lập tức khom người, nhỏ giọng hỏi thăm tình hình. Cao Tư Dương chỉ ra hành lang, lắp bắp: “Anh nghe mà xem… phía đó có tiếng bước chân…”

    Tư Mã Khôi lặng người, thầm nghĩ: “Ở hướng đó ngoài cỗ thi thể của Nhị Học Sinh vừa bị súng săn gấu của Hải Ngọng bắn thủng ra, thì làm gì còn thứ gì khác nữa, lẽ nào thứ giống tá thi hoàn hồn đó lại sống dậy?”

    Mọi người cố nín thở, chờ đợi một hồi, tuy nhiên ngoài điện lại không còn động tĩnh gì nữa, chỉ có ánh nến âm u, bập bùng như ánh lửa ma trơi đang lập lòe bất định.

    Hải ngọng bấm đốt ngón tay tính nhẩm một hồi, anh không nhớ mình từng bắn Nhị Học Sinh mấy lần, có điều đạn ghém số tám chỉ còn lại bốn viên, nơi này tà mị quá sức chịu đựng, nhưng giờ không phải lúc tự mình nhát ma mình.

    Cao Tư Dương lo lắng: “Mọi người đều nghe thấy tiếng bước chân, không thể là ảo giác được!”

    Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Mọi chuyện cứ cẩn trọng thì hơn!”, rồi cô quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có phát hiện thấy thứ gì ở dưới đó không?”

    Tư Mã Khôi đáp: “Có thứ rất lạ, hay cô xuống nhìn thử xem thế nào!”

    Cao Tư Dương lại tưởng Tư Mã Khôi định chia cả hội thành hai nhóm, liền vội vàng phản đối, bảo rằng nhiều người vững dạ hơn, cứ cùng nhau hành động là thượng sách.

    Tư Mã Khôi cũng cảm thấy phân tán lực lượng đúng là dễ xảy ra chuyện, nên anh dẫn cả ba người trèo xuống đáy đại điện. Tới nơi, anh soi đèn quặng vào bệ đá, rồi bảo: “Tôi thấy cái này rất quen mắt, nhưng chưa nhớ ra đã gặp nó ở đâu”.

    Hải ngọng bước lại gần, nheo mắt nhìn, nhưng chẳng thấy quen mắt chút nào, anh hỏi: “Người sống hai chân thì dễ tìm chứ tìm đâu ra ếch ba chân, tớ cũng thấy nó quen quen, phần máng lõm xuống trên bệ đá chẳng phải dùng đặt người nằm vào trong hay sao?”

    Tư Mã Khôi bĩu môi: “Nói thừa! Vấn đề là nó dành cho người như thế nào nằm? Kẻ đó chúng ta từng nhìn thấy trước đây hay chưa?”

    Thắng Hương Lân quan sát, ngẫm nghĩ hồi lâu, xung quanh bệ đá khắc rất nhiều hình vẽ mô tả cảnh tế lễ, trông nó hao hao giống một cái khám thờ thần, trên bốn bức tường của đại điện lần lượt vẽ các bức bích họa về thần, quỷ, người, ma, tượng trưng cho sự phân chia đẳng cấp mà người Bái Xà cổ đại tôn thờ. Hoa văn khắc xung quanh khám thần nhuốm cảm giác kính sợ đối với cái chết, nhưng đồng thời cũng mang theo chí hướng sinh tồn vô cùng mạnh mẽ, điều đó ám chỉ con người chết đi sẽ luân hồi sống lại, duy chỉ phần ở giữa là bị khuyết, không biết đó là một cỗ cổ thi hay một pho tượng thần? Giờ nó đã biến đi đâu? Và tại sao Tư Mã Khôi mới nhìn cảnh tượng này thôi đã thấy quen mắt?

    Cao Tư Dương nhận xét: “Anh Khôi rất ít khi nhìn lầm, lẽ nào thứ mất tích trong khám thần lại chính là Nhị Học Sinh”.

    Hải ngọng lắc đầu phủ định: “Khả năng này hoàn toàn không thể xảy ra, thằng oắt con đó người ngắn một mẩu. Kẻ có thể nằm trong bệ đá chí ít phải…”, nói rồi anh thử nằm luôn lên bệ.

    Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng nằm trong bệ đá, hai đầu vẫn còn thừa chỗ, nhưng cơ thể cậu ta đô con nên chiều ngang của cái hố hơi hẹp. Lúc này anh mới để ý đến đặc trưng vô cùng nổi bật của khám thần, nó vừa dài lại vừa hẹp, nên anh trông mới quen mắt, trước đây đúng là mình từng nhìn thấy một thứ có thể đặt vừa trong khám thần, đó chính là cỗ di hài liệm trong quan tài bằng ngọc của Sở U Vương dưới biển Âm Dụ.

    Cỗ di hài này không phải di hài thật, mà chỉ là các loại châu ngọc đá quý ghép lại. Nó được Thần Nông thị gá gỗ làm tổ nhặt được trên đảo cổ Âm Sơn, rồi lưu truyền mãi đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, thì rơi vào tay Vu Sở, Sở Vương coi đó là vũ khí bí mật và bảo vật quốc gia. Xem ra, cỗ di hài đó là do người Bái Xà cổ đại tạo nên để thờ phụng trong ngôi miếu thần nơi tận cùng địa mạch. Sau đó, không rõ vì duyên cớ gì, mà nó theo hóa thạch của ốc anh vũ, trôi nổi trên biển cõi âm, rồi bị núi từ dưới lòng đất hút chặt, cuối cùng mới được con người bất ngờ phát hiện. Tất cả những sự kiện này có lẽ đều xảy ra trước khi người Bái Xà dùng tấm bia đá bịt cửa động lại.

    Tuy mọi chuyện xem ra đều hoàn toàn hợp tình hợp lý, nhưng vẫn khiến cả hội bất ngờ. Tư Mã Khôi đang định nhìn lại xem trong khám thần còn manh mối gì khác không, thì đột nhiên chút đất cát trên đỉnh đầu bỗng rơi xuống lạo xạo. Mọi người giật mình ngẩng đầu lên nhìn thì thấy một khuôn mặt trắng bệch, cứng đơ đang thò xuống, đó chính là gã Nhị Học Sinh vừa chết ở gần cửa điện, lỗ thủng bị súng săn bắn trên người hắn vẫn đang nhỏ máu ròng ròng, hai con mắt hắn nhìn chằm chằm vào Hải ngọng.

    Dẫu bốn người đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để đón nhận mọi điều bất ngờ và khủng khiếp, nhưng đột nhiên thấy cảnh tượng này, cả hội đều bất giác dựng đứng tóc gáy. Họ thấy Nhị Học Sinh chẳng khác nào con ác ma đòi mạng đang bò vào thạch điện.

    Hải ngọng hét to một tiếng: “Đến đúng lúc lắm!”, rồi giương khẩu súng săn hai nòng, ngắm thẳng vào sọ Nhị Học Sinh bóp cò, nào ngờ đối phương há ngoác mồm cắn vào họng súng, chỉ nghe đạn nổ “bụp” một tiếng nhỏ, rồi khói súng bốc ra từ miệng Nhị Học Sinh, nhưng đầu hắn thì vẫn lành lặn như chưa hề có gì xảy ra, không biết viên đạn ghém cỡ tám đã bắn đi phương nào.

    Tư Mã Khôi thấy hắn mang tà ý, liền vội vàng kéo Hải ngọng lùi lại sau, rồi cùng hai người còn lại nhanh chóng lùi thêm mấy bước nữa, lưng dựa vào vách đá, họng súng và đèn chiếu nhất tề chĩa thẳng về phía Nhị Học Sinh, chỉ đợi đối phương lại gần là nhất loạt nổ súng.

    Nhưng Nhị Học Sinh dường như không hề có ý định tiến lên phía trước, hắn bò rạp trên bờ đá, giương mắt nhìn bốn người, ánh mắt vô hồn, toát ra ma khí âm u, đột nhiên mắt hắn chảy máu, rồi cái miệng cứng đơ há ra, run rẩy rặn từng tiếng: “Sao… sao… các người… lại muốn bắn tôi?”

    Hải ngọng rút dao săn ra, quát lên dọa dẫm: “Thằng chó! Mày mà dám lại gần nửa bước, ông sẽ xẻ thịt mày làm nhân bánh!”

    Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đều cảm thấy gã Nhị Học Sinh kia quả là bám dai như đỉa đói, khổ nỗi hội anh lại không có cách nào đối phó lại được, nên đành lặng lẽ quan sát xem sẽ xảy ra biến cố gì, rồi đợi thời cơ hành động. Trong đại điện tĩnh mịch, âm u, cục diện giằng co căng thẳng làm không gian như muốn đông cứng lại.

    Thắng Hương Lân thấy giờ đây đạn dược của cả hội gần như cạn kiệt, pin đèn còn lại cũng chỉ đủ duy trì trong một ngày, tình hình này càng kéo dài, thì đội khảo cổ càng gặp nhiều bất lợi, nghĩ vậy cô liền cất tiếng hỏi: “Sao anh cứ đi theo chúng tôi?”

    Nhị Học Sinh thể hiện vẻ mặt vô cùng tuyệt vọng, hắn nói khi đội khảo cổ phát hiện ra thạch thất, hắn đã muốn cản trở không cho mọi người vào, bởi vì nếu đi theo manh mối vẽ trên bích họa trong thạch thất thì sẽ thoát ra được động đạo, tuy nhiên hậu quả của việc bước chân vào vùng cấm địa này còn đáng sợ hơn hội Tư Mã Khôi có thể tưởng tượng gấp nhiều lần, có điều mọi chuyện giờ đã quá muộn.

    Hải ngọng điên tiết quát: “Mẹ mày, đừng tốn nước bọt nhát ma bọn tao, gian thạch thất đã mấy ngàn năm không có người bước vào. Làm sao mày biết bên trong có gì chứ?”

    Nhị Học Sinh tự nhận bản thân mình giấu đội khảo cổ một số chuyện, có điều nhiều chuyện trong số đó mãi đến khi bước vào động không đáy hắn cũng mới được biết, tất cả đều do thứ bị tấm bia đá nhốt trong hắc động kể cho hắn nghe.

    Mọi người nghe hắn nói vậy, bất giác nhớ đến truyền thuyết có liên quan đến xà nữ, giờ đây gã Nhị Học Sinh tá thi hoàn hồn này sau khi chết đi lại biến thành một cỗ máy điện đàm, thu nhận tín hiệu truyền đến từ hư vô. Không hiểu thứ bị tấm bia đá giam trong động nói với hắn những bí mật gì? Ngoài ra, vì sao thứ đó không trực tiếp lộ diện? Nó có quan hệ gì với cỗ di hài cổ xưa? Phải chăng lúc đầu Nấm mồ xanh đã đào tẩu khỏi lòng đất cùng cỗ di hài ấy?

    Cao Tư Dương không kiềm chế được lòng hiếu kỳ cô lấy can đảm hỏi Nhị Học Sinh: “Anh biết thứ bị tấm bia đá nhốt trong động là gì ư? Vậy Nấm mồ xanh là ai?”

    Nhị Học Sinh lắp bắp thanh minh, từ khi mình cùng đội thông tin gia nhập đội khảo cổ ở rừng rậm nguyên thủy Đại Thần Nông Giá, đến khi đi xuyên qua thủy thể mênh mông ở 30° vĩ Bắc và cả suốt chặng đường xuống cửu tuyền vào sinh ra tử, hắn chưa bao giờ sinh lòng hãm hại ai, chỉ có điều hắn có vài chuyện không dám tiết lộ với mọi người, bởi một khi nói ra thì hắn không còn đường quay đầu trở lại. Kỳ thực, lời Triệu Lão Biệt nói với đội khảo cổ không hề sai, đúng là Tư Mã Khôi đã tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh, nhưng chỉ kẻ nào đã chết mới nhìn thấy khuôn mặt ấy, bởi vậy thay vì cố nhớ xem anh đã từng gặp ai, thì chi bằng hãy nghĩ xem mình đã từng chết một lần vào khi nào? Chẳng lẽ anh không còn nhớ thật ư?
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 8: MÁY ĐIỆN ĐÀM


    Tư Mã Khôi cho rằng gã Nhị Học Sinh trước mặt rất có khả năng chính là thứ đang bị tấm bia đá nhốt lại, lời hắn nói sao nổi, nhưng không hiểu sao anh lại phảng phất nỗi lo đó là sự thật, lẽ nào mình lại thực sự quên mất một chuyện quan trọng như vậy ư?

    Nhị Học Sinh ấp úng nói một hồi, tinh thần mới dần ổn định trở lại. Hắn nói, hắn có chuyện luôn giấu đội khảo cổ, nhưng ngọn nguồn cụ thể của mọi việc thì hắn cũng chỉ mới hiểu rõ chân tơ kẽ tóc cách đây không lâu. Bắt đầu từ hoàn cảnh hắn phải xa quê và bị đẩy đến lâm trường Đại Thần Nông Giá vào cuối những năm sáu mươi. Rừng rậm nguyên sinh nơi đó cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, công việc chính của hắn là đốn gỗ chặt cây, cả ngày chỉ ăn đường nuốt rau, cơ thể thiếu dinh dưỡng trầm trọng nên chẳng bao lâu bị công việc đơn điệu và nặng nhọc quật ngã.

    Vào những ngày nghỉ, công nhân trong lâm trường thường vào rừng hái nấm và săn thú hoang để cải thiện bữa ăn. Nếu hái được chút nấm rơm, linh chi, lại săn được đôi con gà rừng mà nấu canh thì coi như đó là những ngày lên tiên có điều công việc ở lâm trường luôn bận rộn, rất hiếm khi có cơ hội vào núi để chiều cái miệng.

    Khi ấy, vì hiểu chút ít kỹ thuật, nên Nhị Học Sinh đã sửa được chiếc radio bán dẫn hiệu Xuân Phong duy nhất của lâm trường, nhờ đó cấp trên cũng thường nhắm một mắt mở một mắt bỏ qua cho hắn, nên cho dù hắn cùng dân bản địa vào núi săn bắn hoặc đến trạm thông tin trên ngọn núi chính của đỉnh Đại Thần Nông Giá để sửa chữa máy điện đàm, thì cũng đều được tính công như tham gia chặt gỗ.

    Trong thời gian này, hắn phát hiện có gã chuyên hái thuốc, săn hươu tên là Dư Sơn Tử, mặt mũi nom quái dị chẳng khác nào loài vượn cổ trong rừng sâu, khắp người toát ra mùi tử khí, lúc nào cũng che kín khuôn mặt, hành tung lại vô cùng mờ ám, lén lút, gã ta thường lẻn vào căn nhà gỗ của công nhân lâm trường, thậm thà thậm hụt sờ sờ mó mó cái máy radio, miệng lẩm bẩm tự nói chuyện một mình. Ban đầu, Nhị Học Sinh cho rằng gã này đang nghe trộm đài địch, nhưng cái đài rách lẽ ra phải vứt vào thùng rác từ lâu này làm sao mà tiếp sóng được đài địch cơ chứ? Trong dải núi Đại Thần Nông Giá, ngay đến tín hiệu đài của quân mình nó còn lẹt xẹt nhiễu sóng, lúc có lúc không nữa là, mà dẫu bắt được sóng thì cũng chẳng thể nghe rõ nổi, chứ đừng nói là nghe đài địch phát sóng! Bởi vậy, hắn cũng không nghĩ nhiều đến chuyện này. Sau đó, Nhị Học Sinh lại phát hiện gã hái thuốc toàn lởn vởn xung quanh khu vực trạm thông tin, nhân lúc không có người chú ý là gã bắt đầu sờ mó máy điện đàm chuyên dùng cho việc cấp báo phòng cháy chữa cháy của khu.

    Nhị Học Sinh biết chiếc máy điện đàm phòng cháy trong trạm thông tin là thiết bị mà bộ đội thải ra không dùng nữa, hôm nay nó có vấn đề, ngày mai thi hỏng hóc, gã hái thuốc lại cầm cái ống nghe của máy điện đàm lên nghe như thể nghe điện thoại, sự việc này đúng là vô cùng khó hiểu. Nhị Học Sinh nghĩ chắc chắn không phải gã Dư Sơn Tử tư thông với địch, cũng không phải gã bị ma nhập, mà có khi hắn mắc chứng đa nhân cách, chẳng hiểu gã tự mình lẩm bẩm điều gì với chính mình?

    Nhưng người dân miền sơn cước ở Đại Thần Nông Giá thì không hiểu điều này, họ nghe thấy trong đài có tiếng nói, lại cho rằng trong chiếc “hộp đó” quả thực có các cô gái đang nói chuyện, một số người phát hiện Dư Sơn Tử lén lút sờ mó chiếc radio và máy điện đàm thì khăng khăng cho rằng gã là gián điệp của địch. Nhưng chẳng bao lâu sau, gã Dư Sơn Tử vào khe núi Yến Tử Ô vách dựng đứng để hái thuốc, thì bị con khỉ lông vàng gặm đứt sợi dây leo núi, gã rơi thẳng xuống khe sâu và mất tích, thế là từ đó không ai truy cứu tiếp chuyện này nữa.

    Tư Mã Khôi nghe tái đây thì rất lấy làm kinh ngạc. Các thành viên trong tổ chức ngầm Nấm mồ xanh đều được gọi là một gian phòng, gã hái thuốc Dư Sơn Tử cũng coi là một gian phòng trong tổ chức. Hắn tự xưng mình kế thừa bức mật điện từ lão sư phụ làm thổ tặc, có điều cả đời gã chưa bao giờ rời khỏi núi sâu nên chẳng nhận được mấy mặt chữ, có lẽ trước đây gã cũng chưa nhìn thấy máy điện đàm bao giờ, thế mà gã có thể đơn độc liên lạc được với Nấm mồ xanh thì thật là chuyện bất bình thường. Dư Sơn Tử tự nói chuyện một mình với cái máy, phải chẳng hắn đang nói chuyện với ma? Vấn đề là con ma đó đang ở đâu?

    Bất giác trong lòng Tư Mã Khôi dội lên cảm giác chẳng lành, nếu những căn phòng khác đều như vậy thì trong những kẻ may mắn sống sót đi tìm chiếc tiêm kích vận tải ở sơn cốc Miến Điện có lẽ cũng có “gian phòng” nào đó đang giấu mình giống như Lão Xà hái thuốc.

    Nhị Học Sinh nói, lúc đó hắn cũng không biết nhiều về những chuyện liên quan đến Dư Sơn Tử, tuy lờ mờ cảm thấy gã hái thuốc không có khả năng thu sóng nghe đài địch, nhưng vì lời nói của hắn không có trọng lượng, nói ra chẳng đáng mấy lạng, nên hắn đành ngậm miệng làm thinh cho xong. Chẳng bao lâu sau, chính hắn cũng quên bẵng chuyện này. Mãi đến đầu xuân năm nay, hắn phát hiện mình mắc bệnh Khắc Sơn, hắn tuyệt vọng đến tột độ trước tiền đồ và số phận của mình, đến con ong cái kiến còn biết tiếc thương sinh mệnh, huống hồ là con người, nếu nói hắn không quan tâm đến bệnh tình của bản thân thì chắc chắn đó chỉ là lời nói dối, nhưng trong núi thiếu thuốc men, y cụ, ngay cả người bạn để tâm tình chia sẻ cũng không có, cứ nghĩ đến việc mình phải chết ở nơi rừng thiêng nước độc, vắng bước chân người, thi thể cũng chẳng thể trở về với cố hương, lòng hắn lại đau như cắt, nước mắt âm thầm tuôn rơi. Sau đó, hắn biết trong núi sâu ở Đại Thần Nông Giá có rất nhiều loại thảo dược quý hiếm, trong đó có loài hà thủ ô ngàn năm với hình dáng giống một đôi nam nữ dính liền vào nhau. Loại hà thủ ô này có công dụng vô cùng đặc biệt, có thể khiến người đang mắc bệnh nan y vô phương cứu chữa lập tức cải tử hoàn sinh. Không quản loại thảo dược này có công dụng thật hay không, hắn vẫn liều mạng trèo lên vách đá dựng đứng đi tìm, nhưng hà thủ ô ngàn năm đúng là ngàn năm mới gặp, đâu phải loại dễ tìm, ngay cả những tay hái thuốc lão luyện trong núi cũng rất hiếm khi có cơ duyên gặp được, huống hồ một kẻ ngoại đạo như hắn đương nhiên chỉ hoài công vô ích, ngay cả cái lá của hà thủ ô cũng chẳng thấy đâu, mà mấy lần suýt chút nữa thì bị ngã lộn cổ xuống khe sâu, làm mồi cho dã thú.

    Một lần, hắn vô tình nghe thấy chuyện gã hái thuốc săn hươu Dư Sơn Tử từng tìm thấy hà thủ ô ngàn năm, nhưng không rõ gã ấy đã bán đi hay tự mình ăn hết, chỉ biết sau khi gã ta chết, chẳng ai tìm thấy nó trong nhà gã nữa. Năm đó, có tay thợ săn nhìn thấy Dư Sơn Tử ra đào mộ của sư phụ, sau khi bới một cái hố lớn, hắn lại lấp đất lại như cũ, chưa biết chừng gã giấu những thứ đáng giá xuống mộ làm vật bồi táng cho lão sư phụ thổ tặc của mình cũng nên. Thời gian trong lâm trường trôi đi chậm chạp, thêm vào đó núi cao, vua xa, nên lúc rảnh rỗi mọi người toàn ngồi tập trung một chỗ rồi đem những chuyện quái dị ra kể, ngày nào họ không đàm luận về những tin đồn này mới là điều bất bình thường. Kẻ nói thì cứ thao thao bất tuyệt, nước bọt bắn tứ tung, cứ như thể mình tận mắt chứng kiến không bằng, còn người nghe thì há hốc mồm lên hóng, có điều cứ nói xong nghe xong rồi thôi, chứ chẳng ai tin là thật.

    Nhưng Nhị Học Sinh nghe được chuyện này thì lại ghi nhớ trong lòng, không thể nào quên được. Biết được mộ của lão thổ tặc ở bên bờ sông, nơi đó thường vắng người lai vãng, vì muốn cứu lấy mạng sống, Nhị Học Sinh bèn xin nghỉ một ngày, vác quốc xẻng và súng săn đi đào trộm mộ, ngôi mộ hoang còn không có cả tấm bia dựng lên, tìm mãi mới thấy. May cho Nhị Học Sinh là mộ đào khá nông, ngay cả quan tài cũng chẳng có, người chết được bó trong manh chiếu cói, vùi xuống lòng đất, dẫu mộ vùi đơn giản như vậy nhưng cũng đủ hành hạ Nhị Học Sinh suốt một ngày trời, mãi tới khi trời tối hẳn, hắn mới moi được hài cốt trong mộ ra.

    Đêm sâu âm u, mây đen dày đặc, vắng ánh trăng sao, những dãy núi sừng sững vây quanh tứ phía giờ trở nên đen sì sì, chẳng nhìn rõ hình khối của nó nữa, Nhị Hoc Sinh nghe tiếng chim hoang bay lượn trên đầu và kêu xáo xác, hắn vã mồ hôi lạnh, toàn thân run lập cập, nhưng có câu “chẳng gì đáng sợ hơn cái chết”, xuất phát từ bản năng sinh tồn, hắn cố quên đi những lời đồn đại về cô hồn dạ quỷ, hồ ly tinh hay thi biến, hắn quỳ xuống đất dập đầu mấy cái, vái trước thi hài trong mộ, miệng lẩm bẩm dăm câu cho thêm vững dạ: “Xin lão sư phụ chớ trách tội quấy rầy giấc ngủ, âm gian lấy bảo, dương gian lấy nghĩa”, sau đó lẩy bẩy bò ra đất sờ khắp người thi thể một lượt, cuối cùng chỉ tìm thấy một thứ đen thùi lùi hao hao giống miếng thịt, được gói trong mấy tầng giấy dầu, vật đó bốc mùi hôi thối, chẳng rõ đó có phải hà thủ ô hay không, bên cạnh đó còn mấy trang giấy cuộn vào trong ống da. Nhị Học Sinh mở ra xem thì thấy ở đầu thư vẽ ký hiệu hình con quái xà, nét chữ viết trong thư cẩu thả, chi chít, bé tí như đàn kiến. Lúc ấy, hắn không có thời gian xem kỹ, cho rằng đó là bí kíp hái thuốc, nên vội vàng đút vào trong áo, lấp ngôi mộ lại như cũ, rồi mò mẫm trong bóng tối, vội vã trở về lâm trường.

    Nhị Học Sinh tìm chốn không người, mở hai vật tìm thấy trong mộ quan sát tỉ mỉ một lượt, lúc đó hắn mới phát hiện ra bí mật của Nấm mồ xanh, thứ trông hao hao như hà thủ ô đó, càng nhìn lại càng giống miếng thịt trên cơ thể người chết.

    Trong cổ tịch, người ta gọi miếng thịt trên mình cương thi là “muộn hương”, thứ trong mộ lão thổ tặc tương tự với vật này, nhưng nó không hề bị phân hủy, mà chỉ bốc ra mùi thối thum thủm quái đản của người chết. Mấy trang giấy mỏng là bức thư lão thổ tặc để lại cho gã đệ tử Dư Sơn Tử, đại khái nói: Từ thời kỳ Dân quốc, vị sư đã đi theo Nấm mồ xanh, muốn gia nhập tổ chức này, ngoại trừ được tuyển chọn ra, thì còn phải ăn thịt trên người Nấm mồ xanh, như vậy mới trở thành một thể với tổ chức, bởi vậy nên mỗi thành viên trong tổ chức mới được gọi là “gian phòng”. Sau này, Nấm mồ xanh sẽ tìm thấy thông đạo dẫn đến miếu thần. Ta đợi đến ngày ấy để được giải thoát khỏi sự trói buộc của kiếp sinh tử. Ngoại trừ miếng thịt cắt trực tiếp trên người Nấm mồ xanh ra, thì thịt của mỗi gian phòng sau khi đặt vào trong một gian phòng kể nhiệm, và sẽ bị phân hủy khi gian phòng đó chết đi. Ngặt nỗi kiếp này, vi sư chưa có được cơ duyên đó, đợi bao năm như vậy mà vẫn chưa đợi được đến ngày thái lai, nay số đã tận, nên ta móc miếng thịt báu trong bụng mình ra, để lại cho đệ tử và xem sau này đệ tử được tạo hóa ra sao.

    Nhị Học Sinh đọc xong thư, lòng nghĩ ăn thứ này sẽ có cơ hội được trường sinh bất tử thật sao? Mà mình phải đi đâu mới tìm thấy Nấm mồ xanh? Tuy hắn cũng được học hành, nhưng tư tưởng mê tín vẫn chưa được thanh lọc tận gốc, lúc này không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào hắn nhắm mắt nhắm mũi ăn một miếng, chẳng ngờ chỗ bị hắn cắn mất nhanh chóng mọc lại như cũ. Hắn sợ hãi, may mà không ăn nhiều, hắn bèn lập tức tìm chỗ chôn miếng thịt người chết đi, sau đó đốt bức thư thành tro, bởi khi đó, tội đào trộm mộ nhẹ thì ngồi nhà đá, nặng thì ăn đạn. Từ đó trở đi, hắn không dám hé môi tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai.

    Nhị Học Sinh tự phân tích nội tình, hắn đoán, năm đó có người nhìn thấy gã Dư Sơn Tử đào mộ, chính là lúc gã muốn tìm miếng thịt người chết trên mình lão thổ tặc, Dư Sơn Tử cũng không ăn hết miếng thịt người chết nên đem chôn đi, không lâu sau, miếng thịt lại tự động mọc ra như cũ, còn bức thư mà sư phụ để lại gã không hề động đến bởi vì gã không biết chữ. Trước đây, mọi người thường nhìn thấy gã hái thuốc Dư Sơn Tử lén lút sử dụng điện đàm, như thể đang tự nói chuyện một mình, chẳng lẽ là do miếng thịt người chết gã ăn vào người đang phát huy tác dụng? Nhị Học Sinh nghĩ đến đây, trong lòng bỗng thấy hối hận, nhưng dẫu có nôn cũng chẳng thể nôn ra nổi, càng nghĩ hắn lại càng sợ hãi, may mà sau đó không thấy có biểu hiện gì khác thường, chỉ là hàng đêm hắn hay nằm mơ thấy ác mộng mà thôi.

    Mãi đến khi hắn theo tổ thông tin đi sửa máy điện đàm ở tháp canh, rồi gặp đội khảo cổ, sau đó chạm trán với gã hái thuốc trong căn nhà gỗ ở trạm thông tin, hắn mới biết quả thực có tồn tại tổ chức Nấm mồ xanh, hắn cho rằng mình còn cơ hội được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bởi vậy hắn mới không dám lên tiếng. Suốt dọc đường, hắn chỉ dựa vào ý chí mưu cầu sinh tồn mãnh liệt để gắng gượng trải qua mọi gian khổ, hắn muốn cùng đội khảo cổ đến miếu thần để tìm hiểu rõ mọi chuyện, mong tìm thấy bí mật trường sinh bất tử, kết quả rõ ràng hắn đã bị lừa, thực ra sự “trường sinh” đó chính là cái chết. Những người bước chân vào miếu thần sẽ sa xuống hắc động và trải qua vô vàn lần chết.

    Hải ngọng cảm thấy rất bất ngờ, anh khen: “Thằng tiểu tử này được! Không ngờ ý chí, mẹ nó chứ, lại kiên cường thế vì mạng sống mà dám ăn cả thịt người chết ư?”

    Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh kể một hồi, trong lòng anh cảm thấy bội phần bất an, anh từng nghe người ta nói, người ở cõi dương gian mà vào cõi âm, trên đường không được phép ăn bất cứ thứ gì của cõi âm, bởi vì nếu ăn những thứ ở cõi âm thì sẽ biến thành một phần của cõi âm, không bao giờ trở lại dương thế được nữa. Những thành viên gia nhập tổ chức buộc phải ăn thịt của Nấm mồ xanh, rồi trở thành một bộ phận của Nấm mồ xanh, và cũng chỉ những thành viên giống như con rối này mới có thể liên lạc được với Nấm mồ xanh thông qua một cỗ máy điện đàm không hề tồn tại ngoài đời thực, nhưng Nấm mồ xanh là ai? Chẳng lẽ hắn là một bộ phận của thứ bị nhốt trong động này sao?
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 9: MẤT TRÍ 99%


    Nghe Nhị Học Sinh kể, Tư Mã Khôi cũng thấy bán tín bán nghi – ai ăn thịt Nấm mồ xanh, kẻ đó sẽ trở thành một phần của hắn? “Gian phòng” cũng được chia ra thành hai loại: “phòng có đánh số” và “phòng không đánh số”. Gian phòng được đánh số là những người trực tiếp ăn thịt người chết, sẵn sàng cảm tử vì Nấm mồ xanh, nhưng ngay cả những người này cũng không biết gì về lai lịch của hắn. Còn loại “phòng không được đánh số” là những người gián tiếp bị ăn thịt người chết, họ chẳng khác nào đang mang trong mình một mầm quỷ thai mà không hề hay biết, từ đó họ bị âm hồn nhập xác, rồi biến thành “gian phòng” một cách vô thức, những người này đến chết cũng không hiểu rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra với mình.

    Căn cứ vào đó có thể suy đoán, khi cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào Miến Điện, trong đội thám hiểm xâm nhập khe cốc núi Dã Nhân đi tìm chiếc tiêm kích vận tải, ít nhất phải có một “gian phòng” gián tiếp chịu sự khống chế của tổ chức Nấm mồ xanh lẩn vào hàng ngũ. Nếu là vậy, Tư Mã Khôi có thể dễ dàng giải thích được điều kỳ lạ xảy ra với máy thu âm và quả bom địa chấn khi ấy. Gian phòng ấy có thể chính là thủ lĩnh đội thám hiểm Ngọc Phi Yến, có điều giờ đây anh không còn cách nào truy cứu chân tướng sự việc được nữa.

    Ba người còn lại nghe Nhị Học Sinh nói mà thấy như có cơn gió buốt lanh dội thẳng vào óc, ai nấy đều cố vắt óc nhớ xem mình có vô tình ăn phải thịt người chết bao giờ không.

    Tư Mã Khôi ra hiệu bảo mọi người không cần lo lắng về chuyện ấy, Nấm mồ xanh không thể đi xuyên qua tấm bia đá để vào bên trong, thứ trong động lại không thể thoát ra được bên ngoài. Nghĩ đến đây anh chợt giật mình, hỏi Nhị Học Sinh vì sao hắn lại kể cho đội khảo cổ biết bí mật này?

    Nhị Học Sinh nói, bây giờ thì chẳng ai có thể thoát ra khỏi gian đại điện này được nữa, câu chuyện vặt vãnh của hắn cũng đâu cần phải giấu giếm làm gì. Bởi từng ăn thịt người chết, nên giờ hắn giống như một cỗ máy điện đàm, có thể bắt được tín hiệu từ trong động không đáy, bởi vậy hắn mới hiểu hết toàn bộ bí mật.

    Hắn nói, những chuyện mà đội khảo cổ đã trải qua bị quấn tròn giữa nguyên nhân và kết quả, nhưng có một đường thẳng có thể xâu chuỗi tất cả những ẩn số này, đó chính là cỗ di hài trong quan tài ngọc của Sở U Vương, trong đó Nấm mồ xanh, Triệu Lão Biệt, quốc vương Chăm Pa, tấm bia đá Bái Xà, đội khảo cổ và cả núi từ 30° vĩ Bắc đều là một mắt xích quan trọng trong vòng tuần hoàn không lối thoát này.

    Tất cả nguyên nhân đều bắt nguồn từ phong tục thờ lưỡng thần của người Bái Xà cổ đại. Đầu tiên, người Bái Xà cổ đại tin rằng sau khi chết, họ sẽ được thần Vũ Xà dẫn đi, thi thể được đặt trong động không đáy, vì thế họ đã xây mấy tòa thạch điện ở đây, nhưng sau nhiều năm, người Bái Xà mới phát hiện trong động tồn tại một thứ vô cùng đáng sợ. Trên thực tế, những âm hồn của vô số người chết đều bị nó kéo vào cõi vạn kiếp không thể siêu sinh, chỉ trừ những người chết ra, còn lại không ai có thể nhìn thấy chân tướng của nó. Người Bái Xà cổ đại vừa tôn kính vừa khiếp sợ nó, coi nó là thần thánh và không ngừng tế lễ, còn cỗ di hài chính là một pho tượng thần được thờ phụng ở trong tòa đại điện này.

    Cỗ di hài được tạo thành từ đá quặng và mã não ở nơi sâu nhất trong địa mạch. Giữa hộp sọ của cỗ di hài, người Bái Xà đặt một miếng thịt lấy ra từ cơ thể thứ đó, cỗ di hài trở thành vật tượng trưng cho chân thân của vị thần cổ xưa này. Nhưng vị thần cổ trong động không ngừng nổi lòng tham vô độ, càng ngày càng đòi ăn thịt người nhiều hơn, mãi đến khi người Bái Xà cổ đại bất ngờ nghe được bí mật vốn dĩ không nên tồn tại trên thế giới này từ miệng xà nữ, nhân cơ hội vị thần cổ cứ mỗi năm lại ngủ say một thời gian, họ bèn khắc lời nguyền chết chóc kia lên tấm bia đá.

    Lúc đó, nội bộ tộc người Bái Xà chia ra làm hai phe, một phe do quá khiếp sợ dị thần nên họ ra sức ngăn chặn những người tin thờ thần Vũ Xà đặt tấm bia đá trước cửa động, nhưng sau đó nhóm này thất bại, bị tộc Bái Xà đối lập tàn sát giết hại, có điều cỗ di hài không ở trong động nữa mà lại bị mang ra thế giới bên ngoài. Sau đó, dưới lòng đất xảy ra nạn đại hồng thủy, cỗ dĩ hài cùng loài ốc anh vũ cổ đại trôi nổi trên dòng thủy thể mênh mang ở 30° vĩ Bắc, rồi bị hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn hút chặt, ngọn núi từ đó có khả năng xóa sạch trí nhớ của bất kỳ sinh vật sống nào, bởi vậy miếng thịt nằm trong sọ cỗ di hài cũng dần dần quên hết những chuyện liên quan đến người Bái Xà cổ đại, cuối cùng cỗ di hài bất ngờ được con người trên mặt đất nhặt về, thời thế gìn giữ nó đến thời Xuân thu chiến quốc thì bị Sở U Vương niêm phong trong chiếc quan tài bằng ngọc khổng lồ có vẽ hình đầu lâu.

    Hội Tư Mã Khôi phát hiện tình hình hiện tại có điểm bất thường, cả hội đang định đợi cơ hội để ra tay giải quyết Nhị Học Sinh, chẳng ngờ đối phương lại nói ra bao điều quan trọng như thế, dẫu bây giờ trời có sập xuống thì cả hội cũng quyết phải nghe cho được kết quả cuối cùng. Trước đây, hội anh cũng lờ mờ đoán được vài phần nội tình của chuỗi ẩn số, nhưng mãi đến lúc này thì mọi chuyện mới được liên kết thành một mạch thông suốt. Phải chăng Nấm mồ xanh chính là một miếng thịt của vị thần cổ nằm trong động? Vậy chẳng lẽ hắn vốn dĩ đã không có khuôn mặt sao? Tư Mã Khôi tự thấy mình quả thực chưa bao giờ gặp một người kỳ bí như thế, huống hồ chỉ những người đã chết mới có thể nhìn thấy dung nhan của hắn, nhưng lời của Triệu Lão Biệt thì phải giải thích thế nào? Tại sao “không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn”?

    Nhị Học Sinh nói, người Bái Xà gây ra vụ đại hồng thủy, từ đó không thể chấn hưng lại nòi giống, những người còn sống sót đều trở thành nô lệ của vương triều nhà Hạ, họ bị Vũ Vương đẩy xuống lòng đất để đào long môn, dẫn nước lũ vào Vũ khư và trông coi đỉnh Vũ Vương trấn thủy ở trong địa mạch, những chuyện liên quan đến tấm bia đá của người Bái Xà dần dần đi vào quên lãng, tất cả chỉ còn là những truyền thuyết ly kỳ đến khó tin. Những hậu duệ còn sót lại của tộc người Bái Xà vẫn không ngừng đi tìm tấm bia đá, mãi đến khi họ chết hết, thì mọi bí mật về tấm bia đá cũng theo đó tiêu tan trong dòng chảy thời gian.

    Miếng thịt người chết trong sọ cỗ di hài vốn có ký ức, nhưng nó đã bị núi từ xóa sạch đến chín mươi chín phần trăm. Vào thời Sở U Vương, nó bị một tên kiếm khách ăn trộm, hắn chỉ để lại cỗ di hài rỗng, bởi tên đó nhầm tưởng vật này là nhục chi ngàn năm trong lòng đất, nếu ăn vào sẽ trường sinh bất tử. Kết quả, sau khi ăn nó, hắn liền biến thành một phần của con quái vật, tự dưng nhận mình từ lòng đất chui lên, nhưng thông đạo ở đâu, thì không thể nhớ nổi, ngoại trừ ký hiệu hình con quái xà trong miếu thần ra, thì điều duy nhất hắn còn nhớ là huyệt động bị rêu phủ lên màu xanh thẫm.

    Hắn chính là Nấm mồ xanh đời sớm nhất, chỉ có điều khi ấy người ta vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên này. Miếng thịt không bao giờ bị tiêu hóa hay phân hủy trong bụng người sống, nhưng nó có thể ghi lại toàn bộ trí nhớ trong não của người ấy, đồng thời kẻ ăn nó cũng sẽ bị nó nuốt chửng, họ không thể trường sinh bất tử, nhưng toàn bộ trí nhớ sẽ được lưu giữ lại, rồi mang đến não của một người khác khi người đó ăn một miếng thịt trên thi thể họ. Bởi vậy, xét theo trường nghĩa nào đó, thì đúng là Nấm mồ xanh đã sống mấy ngàn năm rồi.

    Nấm mồ xanh từng bước chiêu mộ các kỳ nhân dị sĩ khắp nơi về làm môn đồ dưới trướng mình, hắn tẩy não họ đi để họ tin rằng dưới lòng đất có cánh cửa khổng lồ thông đến thế giới vĩnh hằng, đồng thời tự cắt thịt trên người mình ra cho các môn đồ ăn, bằng cách này hắn có thể khống chế được các môn đò. Ký ức của miếng thịt được hắn cắt ra khỏi cơ thể sẽ nhập vào một thể với chủ thể người ăn miếng thịt đó, nhưng cùng lắm chỉ chuyển đến người thứ hai thì miếng thịt đó sẽ tự động phân hủy. Còn miếng thịt nằm trong bụng của Nấm mồ xanh, sau khi hắn chết đi sẽ do người kế nhiệm được chọn nuốt hết toàn bộ, và trở thành thủ lĩnh đời tiếp theo. Tổ chức kỳ bí và quái dị này lùng sục khắp nơi để tìm ra huyệt động thông xuống lòng đất, do hành tung của tổ chức này vô cùng bí ẩn nên rất ít người trên thế gian biết đến sự tồn tại của nó.

    Do điều kiện thời cổ đại rất hạn chế, nên những huyệt động dưới lòng đất được tìm thấy đa phần đều không đủ sâu. Mãi đến thời kỳ cận đại, trước thềm thế chiến thứ hai, tổ chức này đã phát triển đến một quy mô nhất định, chúng chủ yếu mai phục ở dải Đông Nam Á, bởi hệ thống sông ngòi ở đây giao thoa phức tạp, khắp nơi phân bố toàn động đá vôi với địa mạo Karst đặc trưng, nhất là ở thành cổ Chăm Pa trong khe núi Dã Nhân, Miến Điện. Nghe nói, trong gian mật thất dưới thành cổ ghi chép vị trí của thông đạo và còn ẩn giấu vận may vô hạn trong khuôn mặt như thần Phật của quốc vương Chăm Pa, nhưng khe núi đó quanh năm bị sương mù dày đặc bao phủ, tầng sương mù đó là do thực vật dưới lòng đất trong tòa thành Nhện Vàng tạo ra, con người chỉ cần lại gần sẽ lập tức tử vong, duy loài rắn bay mới vào được trong sương. Thế là tổ chức ngầm liền lợi dụng một chiếc tiêm kích vận tải của không quân hoàng gia Anh, chở trái bom địa chấn chứa đầy chất độc màu da cam, lái vào trong khe núi Dã Nhân phủ kín sương mù, kết quả đội bay đó một đi không trở lại.

    Tư Mã Khôi càng nghe càng thấy quá sức kỳ dị, bây giờ tin cũng không được mà không tin cũng chẳng xong. Trước đêm quân đội Anh rút lui khỏi Miến Điện vào năm 1949, Nấm mồ xanh đã mượn chiếc tiêm kích và lần đầu tiên thâm nhập vào khe cốc. Lần thứ hai, hắn đến đây là vào mùa hè năm 1974, khi cơn bão nhiệt đới tràn vào Miến Điện, trong chuyến đi đó, hắn đã thành công và tìm thấy sóng điện u hồn trong mật thất. Nếu truy ngược về ngọn nguồn, thì manh mói này chính là tin tình báo then chốt mà đội khảo cổ đã lỡ tiết lộ ra khi ở trong chiếc hộp thời gian, nhờ vậy Nấm mồ xanh mới nắm được bí mật về thông đạo. Đây là một vòng tuần hoàn khép kín không lối thoát. Nó không phân định rạch ròi giữa nguyên nhân và kết quả, hành động tiếp theo của hội Tư Mã Khôi ngoài mục đích trả thù cho những người đồng chí đồng đội của mình ra, thì nguyên nhân chủ yếu chính là hi vọng có thể bù đắp lại lỗi lầm đã gây ra trong quá khứ, kịp thời ngăn chặn Nấm mồ xanh đạt được mục đích. Không hiểu Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi đã lần lượt nhìn thấy khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh vào lúc nào và ở đâu? Nấm mồ xanh đã ký gửi trên thân thể một người nào đó, thì vì sao từ đầu chí cuối hắn không dám để lộ khuôn mặt?

    Thắng Hương Lân thì thào nhắc nhở Tư Mã Khôi, nếu Nhị Học Sinh đã ăn thịt của người chết, thì sau khi chết hắn sẽ biến thành một phần của con quái vật trong động, chuyện hắn biết nhiều bí mật không có gì là lạ, nhưng việc hắn chủ động nói ra mọi chuyện thì chắc chắn phải có ý đồ nào đó.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ, đội khảo cổ bọn anh đã sa chân vào động không đáy thì khác nào cá nằm trên thớt, huống hồ thuốc nổ cũng đã hỏng rồi, giờ không có cách nào phá hủy tấm bia đá được nữa, không hiểu đối phương còn muốn thế nào? Hắn định kéo dài thời gian sao? Đợi khi toàn bộ pin đèn còn lại tiêu hao đến cạn kiệt, thì sẽ đẩy họ vào tuyệt cảnh trong bóng tối vô tận ư?

    Nhị Học Sinh giải thích, không có chuyện ấy, bởi vì pin đèn của đội khảo cổ chí ít vẫn còn đủ dùng trong một ngày, còn bí mật dẫu nhiều đến đâu cũng không thể nói mãi tới lúc đó. Thực ra, ngay từ đầu hắn đã biết mình sẽ chết, nhưng khi ở trong động đạo hắn lại chạm trán đội khảo cổ khi họ đi xuyên qua tấm bia đá, lúc ấy hắn không muốn nói rõ chân tướng vì động đạo này là một kẽ hở thời gian, thời gian bên trong đó chỉ là một hai giây bị kéo dài ra vô hạn. Nếu ở bên ngoài thì hoàn toàn không cảm giác thấy, nhưng hễ bước chân vào trong thì chớ nghĩ đến việc có thể thoát được ra ngoài. Hắn cho rằng bất kể thế nào, nếu chỉ ở trong một giây của kẽ hở thời gian, chí ít hắn vẫn còn lưu lại được trí nhớ của bản thân, nhưng nếu đã đi theo ám thị vẽ trên bích họa trong thạch thất mà ra khỏi động đạo, thì chắc chắn hắn sẽ trở thành tế phẩm bị tuẫn táng sống. Thứ bị nhốt trong động không đáy đã ăn thịt quá nhiều người Bái Xà cổ đại, nên đương nhiên nó cũng đọc được bí mật trên tấm bia. Mỗi lần nhìn thấy tấm bia, nó lập tức rơi vào trạng thái khô quắt và chết rũ, nhưng nó không chết hẳn, mà chẳng bao lâu sau sẽ tự mình phục hồi như cũ, để rồi sau đó lại nhìn thấy tấm bia và lại chết. Mãi đến tận ngày nay, nó vẫn không ngừng lặp đi lặp lại quá trình ấy.

    Nếu xuyên qua kẽ hở thời gian và đi vào không gian ở phía sau tấm bia đá, thì quá trình thời gian trôi trong hắc động chính là quá trình con quái vật đó trải qua cái chết trong động. Hội Tư Mã Khôi, bao gồm cả Nhị Học Sinh cũng sẽ biến mất theo cái chết của nó và khi nó hồi sinh, tất cả sẽ lại phục hồi về trạng thái ban đầu, nhưng một khi đội khảo cổ bước chân vào thanh điện thì họ sẽ vĩnh viễn bị xóa sổ, bởi phàm những vật thể có ý thức đến đây đều bị nó nuốt chửng, sau khi chết đi ngay cả ma cũng không làm nổi, đó chính là cái chết toàn diện về cả thể xác và linh hồn.

    Bởi vậy, Nhị Học Sinh mới ra sức ngăn cản mọi người, nhưng cứ mỗi lần định mở miệng thì lại bị Hải ngọng đánh ngất, bây giờ tất cả đã bước chân vào thạch điện trong núi đá, dẫu có nói gì chăng nữa thì cũng không thể cứu vãn nổi tình thế, bởi vậy hắn mới bày hết sự thật ra trước mặt mọi người, để mọi người có thể biết được toàn bộ chuỗi nhân quả trước khi mình chết.

    Hội Tư Mã Khôi nghe xong, ai nấy đều tim đập chân run, Thắng Hương Lân liếc mắt nhìn đồng hồ, từ lúc đồng hồ chỉ mười một giờ đúng đến giờ, đã mấy tiếng trôi qua rồi. Không rõ cả quá trình từ sống đến chết của con quái vật lai lịch bất minh sống trong hắc động này kéo dài trong bao lâu?

    Nhị Học Sinh trả lời với vẻ tuyệt vọng tột độ: “E rằng chỉ người chết đã mất tích trong hắc động không đáy này mới biết rõ thời gian cụ thể mà thôi. Cũng có thể là ngay một giây sau!”
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 5: ENTROYPY - HỒI 1: CĂN PHÒNG ĂN THỊT NGƯỜI


    Mọi người nghe Nhị Học Sinh kể ra điểm đáng sợ của sự việc, ai nấy đều hốt hoảng rùng mình. Xem ra, trên thực tế thứ bị tấm bia đá nhốt chính là cái hắc động không đáy này, thời gian mà đội khảo cổ cảm nhận được chỉ là một trong những quá trình nó chết đi sống lại vô số lần khi nhìn thấy tấm bia đá.

    Hải ngọng cuống quýt giục: “Cảm giác đợi chết khó chịu lắm, phải nghĩ cách gì tìm đường thoát ra khỏi đây trước đã!”

    Tư Mã Khôi níu Hải ngọng lại, bảo: “Đừng vội đi, chưa rõ mọi chuyện, biết trốn đi đằng nào?”. Nói xong, anh quay sang Nhị Học Sinh, lòng thầm nghĩ: thời gian tồn tại của thứ bị nhốt trong lòng đất còn có lịch sử lâu đời hơn cả lịch sử của tộc người Bái Xà cổ đại, trong khi giờ đây người Bái Xà đã diệt vong hàng ngàn năm, mà nó vẫn còn sống, chỉ có điều nó bị tấm bia đá nhốt lại mà thôi, bởi vậy nó mới lún trong vòng tuần hoàn thời gian mà chết đi sống lại vô hạn, không thể thoát ra nổi; nhưng dẫu thứ đó có thật sự tồn tại chăng nữa, thì làm sao nó có thể hiểu được bí mật trên bia đá là gì?

    Nhi Học Sinh bảo: “Dẫu sao bây giờ cả hội cũng đã bước vào ngõ cụt, chi bằng tôi cứ nói hết tất cả những gì mình biết cho mọi người nghe, có điều còn cơ hội nói nốt hay không tôi cũng không dám chắc. Nấm mồ xanh và thứ trong động thực ra là một thể, Nấm mồ xanh là tên của nó ở ngoài động, còn thứ nằm trong động từ xưa đến nay đều không có tên, mấy năm gần đây có người gọi nó là Entroypy, nếu ví tổ chức có kết cấu nhiều gian phòng như một cái ô, Nấm mồ xanh là cánh tay cầm ô, thì Entroypy là phần thịt của cánh tay đó.

    Nguyên nhân hình thành nên Entroypy đại khái là từ đống tử thi cổ đại bị vứt vào trong động và vô số âm hồn đã chết bị sinh vật cổ đại vô tri vô giác nuốt mất, dần dần chúng hợp lại thành một thể. Bởi vậy, nó biết đọc chữ trên tấm bia đá Bái Xà. Trong khi đó, Nấm mồ xanh – khi đó còn ở trạng thái là miếng thịt nằm trong sọ cỗ di hải cổ chôn dưới lòng đất – lại trôi nổi theo cỗ di hài, đến hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn, thì hắn bị núi từ xóa sạch trí nhớ, bởi vậy hắn không thể hiểu được chữ viết trên tấm bia đá, cũng như không hề biết gì về sự tồn tại của người Bái Xà. Qua nhiều năm thăm dò tin tức, tổ chức của Nấm mồ xanh mới dần dần phát hiện ra bí mật về cổ quốc Bái Xà, nhưng những điều chúng biết hãy còn vô cùng ít ỏi, mãi đến khi Nấm mồ xanh cùng đội khảo cổ trở về hòn đảo trên núi từ và trôi nổi trong dòng thủy thể 30° vĩ Bắc, hắn mới nhớ lại tất cả mọi chuyện.

    Nhị Học Sinh ngập ngừng nói ra không ít bí mật, nhưng nhiều bí mật trong sổ đó hội Tư Mã Khôi không thể nào hiểu được.

    Thắng Hương Lân thận trọng thăm dò ý tứ của hắn, rồi ghé sát tai Tư Mã Khôi thì thầm: “Theo mô tả của Nhi Học Sinh, bất kỳ người nào từng ăn thịt Nấm mồ xanh, đều sẽ biến thành một “gian phòng” bị hắn khổng chế, thậm chí ngay cả tên thủ lĩnh của tổ chức cũng là một “gian phòng”, còn Nấm mồ xanh giống như một chiếc máy điện đàm u hồn giấu mặt trong gian phòng đó. Hắn sở hữu nguồn điện trường sinh vật cực mạnh, nếu thoát ly khỏi gian phòng, hắn sẽ lập tức trở thành một u hồn, tương đương với một đoạn tín hiệu phát ra từ máy điện đàm trong “gian phòng”, tín hiệu này mạnh đến nỗi đủ khiến người gần đó cảm nhận trực quan được sự tồn tại của hắn trong phạm vi ít nhất mấy chục mét, có điều u hồn thì không có năng lực thực hiện bất kỳ hành động gì, nó đành phải mượn tay những “gian phòng” để thực hiện mục đích. Tổ chức này có thể sản sinh ra rất nhiều “gian phòng”, nhưng Nấm mồ xanh thì chỉ có một. Nó có thể ẩn nấp trong những “gian phòng” khác nhau, ngoài ra Nấm mồ xanh và miếng thịt người chết trong các “gian phòng” đều tồn tại thông qua nguồn điện trường sinh vật, bởi vậy bất kể có trốn trong các “gian phòng” hay không thì nó và các “gian phòng” đều không thể đi xuyên qua tấm bia đá.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ quả đúng như vậy, mỗi chuyến hành động từ trước đến nay của họ đều diễn ra ở một địa điểm khác nhau, các thành viên của đội cũng có sự thay đổi. Chuyến đi đầu tiên là dưới khe núi Dã Nhân ở Miến Điện, trong đội thám hiểm lúc ấy nhất định có người vô tình ăn phải thịt của Nấm mồ xanh, nhiều khả năng người đó chính là thủ lĩnh đội thám hiểm – Ngọc Phi Yến, bởi vậy cô mới có khả năng nhận lệnh của Nấm mồ xanh thông qua chiếc điện thoại vô hình, có điều ngay cả bản thân cô cũng không hề ý thức được chuyện này. Lần thám hiểm thứ hai, Tư Mã Khôi đi cùng đội khảo cổ của giáo sư Nông địa cầu, thâm nhập kính viễn vọng Lopnor – cách bề mặt Trái đất hơn mười ngàn mét – rồi gặp phải gã quái thai Điền Khắc Cường. Hắn chính là “gian phòng” trung thành tuyệt đối với Nấm mồ xanh, nhưng chính hắn cũng không biết thủ lĩnh đang trốn trong bụng của mình.

    Sau khi Điền Khắc Cường chết, hội Tư Mã Khôi đi xuyên qua kính viễn vọng Lopnor, từ bồn địa Turpan chạy thoát khỏi cực vực. Khoảng thời gian từ đó đến khi cả hội đến lâm trường Đại Thần Nông Giá, Nấm mồ xanh đều không hề xuất hiện, mãi đến khi đội khảo cổ bắt đầu phối hợp hành động với tổ thông tin, truy bắt gã hái thuốc Dư Sơn Tử, thì Nấm mồ xanh mới lại bám đuôi theo đội khảo cổ, bởi vì Dư Sơn Tử và Nhị Học Sinh chính là hai “gian phòng” từng ăn thịt người chết.

    Sau đó, gã hái thuốc Dư Sơn Tử thiệt mạng, đội khảo cổ bị rơi vào thủy thể 30° vĩ Bắc dưới biển Âm Dụ, cuối cùng phát hiện thấy hòn đảo cổ trên núi từ và cỗ tàu ngầm Z-615 bị hút ở gần đó. Lúc ấy, Tư Mã Khôi cảm thấy rằng Nấm mồ xanh dường như hiểu rõ mối quan hệ nhân quả giữa người Bái Xà cổ đại và tấm bia đá như trong lòng bàn tay, điều đó chứng tỏ lúc đó hắn đã nhớ lại phần ký ức năm xưa, và cũng bắt đầu từ khi ấy, thái độ của Nấm mồ xanh với hội Tư Mã Khôi đã quay ngoắt 180°. Ban đầu hắn chỉ muốn nhanh chóng trừ khử hội Tư Mã Khôi, nhưng sau đó, hắn lại muốn lợi dụng đội khảo cổ để họ giúp hắn tìm ra tấm bia đá Bái Xà.

    Bao nhiêu ẩn số làm hội Tư Mã Khôi đau đầu suy nghĩ, giờ đã lần lượt được tháo gỡ, nhưng trong sợi dây này còn thiếu vài mắt xích quan trọng. Đầu tiên là khi đội khảo cổ từ sa mạc Lopnor chạy thoát ra ngoài, suốt dọc đường, hội Tư Mã Khôi đều mai danh ẩn tích, lẳng lặng tiến thẳng vào lâm trường Đại Thần Nông Giá, cả quá trình này ngoại trừ lão Lưu Hoại Thủy ra, họ không hề tiếp xúc với bất kỳ ai có thể làm lộ thông tin, vậy sao Nấm mồ xanh lại biết bước hành động tiếp theo của đội khảo cổ là sẽ đến Đại Thần Nông Giá? Lẽ nào lão Lưu Hoại Thủy cũng là một “gian phòng”?

    Vì Nhị Học Sinh là một “gian phòng” từng ăn thịt người, nên mọi chuyện mà Nấm mồ xanh biết thì Nhị Học Sinh cũng đều biết rõ ngay sau khi chết, bởi vì cả hai cùng là một bộ phận của Entroypy. Sau đó, hắn liền kể tiếp với hội Tư Mã Khôi: Năm 1958, đội khảo sát liên hợp Trung Xô thâm nhập cực vực đã chụp một bức ảnh tập thể trước khi xuất phát, trong đó có một bức ảnh ma, con ma trong ảnh là lính của cục thiết kế UKB Liên Xô, tên này cũng là một “gian phòng” bị tổ chức khống chế, phàm những kẻ nào là “gian phòng” của tổ chức, thì khi chụp ảnh đều không thể nhìn thấy khuôn mặt, chính vì thế tên này bị phía Liên Xô nghi ngờ. Chẳng bao lâu sau, hắn bị xử lý bí mật, sau đó đội khảo sát mới tạm thời bổ sung thêm thành viên mới. Lúc ấy, Nấm mồ xanh không kịp cài cắm gián điệp vào trong đội hình, nên đành cấy bọ ăn xác vào cơ thể cả đoàn người và hại chết tất cả họ, đồng thời hắn cài người thâm nhập lòng đất, nhưng đúng lúc đó tình hình thế giới có nhiều biến động, không lâu sau, đoàn chuyên gia Liên Xô rút khỏi Tân Cương, thông đạo dẫn đến kính viễn vọng Lopnor bị đánh thuốc nổ phá hủy. Toàn bộ kế hoạch của Nấm mồ xanh bị gác lại và đình trệ tại đây. Mãi đến năm 1974, giáo sư Tống Tuyển Nông mới dẫn đoàn khảo cổ thâm nhập Hắc môn ở Lâu Lan, rồi xuống trạm thám trắc dưới lòng đất. Tấm ảnh chụp đội khảo sát mà Tư Mã Khôi phát hiện thấy ở đây cũng là một vật thể tiếp được sóng u hồn của Nấm mồ xanh, tuy rằng rất yếu ớt. Nhưng vì nó luôn được đội khảo cổ mang bên mình cho tới khi đến được chỗ miếu thần của người Bái Xà – nơi dựng tấm bia đá, chính bởi thế nên hành động và tung tích của cả hội suốt dọc đường đều bị Nấm mồ xanh thông qua tín hiệu kết nối với bức ảnh mà nắm như trong lòng bàn tay.

    Mọi người nghe tin này, lòng thấy hối hận tột độ, may mà sau khi đi xuyên qua tấm bia đá, bức ảnh chết tiệt đó không còn phát huy tác dụng được nữa, tảng đá đè nặng trong lòng họ cũng như được nhấc đi.

    Tư Mã Khôi nói với Nhị Học Sinh: “Nút thắt thứ nhất coi như được tháo gỡ, nhưng vẫn còn một nút thắt lớn hơn. Nếu bí mật của Nấm mồ xanh đúng thật như mày nói, thì có bao nhiêu “gian phòng” nghĩa là có bấy nhiêu Nấm mồ xanh, hắn vẫn mang bộ dạng con người, nhưng sao hắn lại không dám để lộ khuôn mặt của mình? Triệu Lão Biệt từng nói ‘không nhìn được cảnh sắc núi Lô Sơn’ nghĩa là sao? Tại sao mày lại bảo chỉ người chết mới nhìn thấy Entroypy? Trước đây, tao từng gặp nó ở đâu? Nếu mày không thể giải đáp được những câu hỏi lớn này, thì bọn tao cũng khó mà tin nổi mấy lời quỷ quái của mày”.

    Nhị Học Sinh từ từ giơ tay ra, chỉ về bức phù điêu vẽ ở đế bệ đá trong đại điện, rồi chậm rãi nói: “Khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh ở đó, anh tự nhìn đi, rồi khắc hiểu!”

    Tuy Tư Mã Khôi đã cố bình tĩnh, nhưng tim vẫn đập liên hồi như trống trận, từ lúc bước chân vào đại điện, anh chỉ mải để ý đến vết lõm hình cơ thể người trên bệ đá, chứ không hề để ý đến mấy bức họa thần quỷ kỳ lạ và quái dị ở gần đó, bởi rất nhiều nội dung vẽ trên đó rất khó lý giải ý nghĩa. Lúc này, anh chỉnh đèn quặng chiếu vào phía dưới bệ đá, vừa nhìn một cái anh đã kinh hãi đến đờ người.

    Hình phù điêu ở đáy bệ đá là trăm ngàn con mắt vô hồn của không động. Trong sát na, Tư Mã Khôi lập tức hiểu ý câu nói của Triệu Lão Biệt. Thì ra, con quái vật bị gọi là Entroypy đã từng xuất hiện trong chiếc hộp thời gian.

    Lúc Tư Mã Khôi túm áo Triệu Lão Biệt, truy hỏi đối phương xem khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh là gì, đôi mắt gian tặc biệt bảo của lão ta đã trở nên vô cùng khác thường, nhất định lão đã nhận ra chân tướng của Nấm mồ xanh, biết rằng con quái vật đó có mặt ở khắp mọi nơi và đang theo dõi nhất cử nhất động của lão, nên lão mới không dám nói thẳng, mà chỉ nói một tràng ám thị, ra hiệu cho Tư Mã Khôi biết – anh từng nhìn thấy khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh.

    Tư Mã Khôi có thể xác định lời của Triệu Lão Biệt hoàn toàn đáng tin, anh thầm điểm mặt những người anh và Triệu Lão Biệt cùng gặp không biết bao nhiêu lần, thực ra những người phù hợp với điều kiện ấy quả không nhiều, vấn đề then chốt là Triệu Lão Biệt chẳng biết được mấy người mà Tư Mã Khôi đã từng gặp mặt, ngoại trừ Thắng Hương Lân, Hải ngọng, đội trưởng đội thông tin Lưu Giang Hà, Nhị Học Sinh và Cao Tư Dương ra, thì chỉ còn quốc vương Chăm Pa Anagaya đã chết từ ngàn năm trước.

    Thậm chí Tư Mã Khôi còn nghĩ đến chiếc máy bay Hải Âu C-47 xuất hiện trong chiếc hộp thời gian. Năm 1949, chiếc máy bay này bị rơi xuống kính viễn vọng Lopnor, trên máy bay không còn người nào sống sót, trong khoảnh khắc trước khi biến mất, chiếc Hải Âu C-47 đã rơi vào chiếc hộp thời gian. Khi ấy, Triệu Lão Biệt cứ tưởng đội khảo cổ định buông tay lão ra, nên sợ hãi chẳng khác nào con chim sợ cành cong, lão bèn liều mạng chui vào khoang máy của chiếc C-47, hội Tư Mã Khôi vội vàng đuổi theo, phát hiện cả chiếc Mải Âu C-47 đang ở trạng thái gần như là tĩnh tại, các hành khách bên trong và cả phi hành đoàn đều chết bất thình lình, trên mặt họ còn vẹn nguyên nỗi khiếp đảm và tuyệt vọng đến cùng cực, cơ thể cứng đờ ngồi bất động tại chỗ. Tất cả những nạn nhân trong sự cố rơi may bay đều có thể coi là những người mà Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt từng cùng gặp mặt, nhưng điều duy nhất mà anh không ngờ tới là những nạn nhân bị rơi vào sự kiện tuần hoàn khép kín trong chiếc hộp thời gian không chỉ có mỗi đội khảo cổ, Triệu Lão Biệt và C-47, mà ngoài ba đối tượng này ra vẫn còn tồn tại một thứ khác. Lúc Tư Mã Khôi đào thoát khỏi chiếc hộp thời gian, anh đã nhìn thấy bóng đêm sâu thẳm bỗng nứt ra một kẽ hở, ở trong đó dường như có vô số con mắt, thì ra khi ấy Entroypy cũng bước vào chiếc hộp thời gian, và không chỉ một mình đội khảo cổ nhìn thấy sát thực cảnh tượng đáng sợ này, mà Triệu Lão Biệt có lẽ cũng nhìn thấy, bởi vậy lão mới bảo Tư Mã Khôi từng nhìn thấy chân tướng của Nấm mồ xanh mà không hề hay biết. Tư Mã Khôi càng không thể ngờ rằng Nấm mồ xanh lại trốn trong một trong cơ thể của những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ để xuống được đến cửu tuyền.

    Còn về việc từ đầu chí cuối Nấm mồ xanh không dám để lộ khuôn mặt thật sự của mình thì đúng như Tư Mã Khôi từng tiên liệu trước đây. Khuôn mặt chính là yếu điểm của hắn, bởi vì một khi bị người ta phát hiện ra chân tướng của mình, đương nhiên, sẽ biết hắn chính là một dị vật khắp thân thể toàn là mắt ở dưới cửu tuyền, nếu vậy ai còn tin lời hắn và sẵn sàng chết vì hắn nữa? Hơn thế, ngoại trừ những kẻ đã chết ra, thì chỉ trong trường hợp vô cùng đặc biệt, người ta mới có thể nhìn thấy tướng mạo thực sự của Entroypy.

    Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi yên lặng hồi lâu, sắc mặt khó coi đến khiếp người, sau đó cô lại được nghe Thắng Hương Lân kể lại vắn tắt đầu đuôi câu chuyện, nên lòng cô càng lúc càng cảm thấy kinh hãi, lẽ nào lời của Nhị Học Sinh nói đều là sự thật?

    Tư Mã Khôi quay sang nhìn chằm chằm vào Nhị Học Sinh, ngẫm nghĩ lại toàn bộ chuỗi sự việc mấy lượt nữa, rồi tự nhủ: “Những việc ác trước kia làm vẫn chưa đủ nhiều ư? Sao giờ ma xui quỷ khiến thế nào mình lại đi tin lời một kẻ đã chết?”
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 2: THI THỂ BIẾN MẤT


    Tư Mã Khôi linh cảm thấy tình hình không ổn, anh thầm nghĩ – những chuyện Nhị Học Sinh kể phù hợp thực tế đến chín mươi chín phần trăm, nhưng dẫu chỉ một phần trăm còn lại là giả dối, thì cũng đủ đẩy đội khảo cổ rơi xuống hố sâu không đáy rồi.

    Lúc này, Thắng Hương Lân lại hỏi Nhị Học Sinh thêm vài chuyện nữa, được biết các “gian phòng” trong tổ chức Nấm mồ xanh đều được đánh số, kẻ cầm đầu gọi là “căn phòng số 0”, sự tồn tại của hắn khiến số lượng các thành viên trong tổ chức không ngừng phát triển để đủ cung cấp phòng cho Nấm mồ xanh trú ngụ và thâm nhập đến mọi ngóc ngách trên thế giới. Tuy nhiên, miếu thần của người Bái Xà nằm dưới cửu tuyền, cách xa lớp vỏ Trái đất, đồng thời còn chịu ảnh hưởng của địa từ trường, nên hắn không thể liên lạc được với Entroypy đang bị tấm bia đá nhốt trong hắc động. Điều không may hơn là “căn phòng số 0” đời cuối cùng đã vô tình làm lộ ra khuôn mặt thật của mình.

    Đó là vào năm 1949, sau khi “căn phòng số 0” đương nhiệm chết đi, thi thể hắn được đặt nằm trong chiếc hòm gỗ hóa thạch, chôn ở khu mộ địa lộn xộn những mộ táng. Trước đây, cái hòm đó dùng để đựng Lôi công mặc trong miếu, vì sự việc xảy ra quá đột ngột, nên tổ chức chưa kịp tìm “căn phòng số 0” kể nhiệm, rồi cỗ thi thể với hình dạng quái dị ấy bị bọn thổ tặc đào trộm mộ móc lên, chẳng bao lâu sau, chuyện này bị quân đội phát hiện và sinh nghi, họ đưa chiếc hòm gỗ hóa thạch lên máy bay vận tải Hải Âu C-47 vận chuyển đến chỗ quân liên minh. Tuyến đường bay được xác định từ hướng nam sang hướng tây bắc, nhưng giữa đường chiếc máy bay đột ngột mất tích, không thấy bóng dáng đâu nữa, mãi mười năm sau người ta mới phát hiện thấy xác máy bay ở sa mạc Lopnor.

    Chiếc máy bay vận tải hàng không Douglas C-47 có biệt danh Hải Âu chính là chiếc máy bay bị mất tích mà đội khảo cổ của Tư Mã Khôi gặp trong chiếc hộp thời gian, bởi vì mọi sự vật bị rơi vào chiếc hộp thời gian sẽ hoàn toàn biến mất trong một khoảng thời gian ngoài đời thực, nên cũng có thể nói hội Tư Mã Khôi đã từng chết một lần, mãi cho đến khi cả hội thoát được ra ngoài. Lúc ấy, Triệu Lão Biệt trốn vào trong khoang máy bay C-47 trước, lão nhìn thấy trên mép hòm dán niêm phong các dải phù chú, nên tưởng nhầm là Lôi công mặc mà mình ngày ước đêm mong, lão vội vàng mở ra xem, chẳng ngờ bên trong là một khối gì đen thù lù, được gói trong túi da lớn, lúc ấy lão bị đội khảo cổ đuổi theo quá gấp nên không có thời gian phân biệt kỹ lưỡng, đành kéo cả bao bò từ khoang trước ra bên ngoài, nào ngờ vừa mới ló mặt ra đã bị cơn cuồng phong cuốn đi. Trong khoanh khắc đó, lão nhìn thấy vị thần cổ xưa khắp thân thể mọc toàn những con mắt đang ẩn hiện trong vực thẳm sâu hút, lão sợ hết hồn vía, đâu còn để ý đến cái tải da đựng thi thể kia nữa. Sau khi lão thoát ra khỏi chiếc hộp thời gian, thi thể của “căn phòng số 0” cũng mất tích kể từ đó, bởi vì một khi thi thể nằm trong chiếc máy bay vận tải C-47 rời khỏi nơi đây, nó sẽ vĩnh viễn biến mất theo dòng khí nhiễu động phía ngoài thời gian. Từ đó, tổ chức Nấm mồ xanh không còn “căn phòng số 0” nữa, số lượng các “gian phòng” càng ngày càng giảm, trên thực tế, tổ chức này đã bước đến mạt lộ. Nào ngờ trong hoàn cảnh tưởng chừng hoàn toàn tuyệt vọng, Nấm mồ xanh lại thâm nhập được xuống cửu tuyền nhờ sự trợ giúp của đội khảo cổ, nghĩ lại tất cả những chuyện đó đều là sự run rủi của số phận.

    Hội Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh kể mà đứng lặng người, đau như thể vừa bị ai đánh một cú vào mặt, những chuyện xảy ra đều đã trở thành sự thật, không thể cứu vãn được nữa, may nhờ Tư Mã Khôi hành sự cẩn trọng, kịp thời gỡ bỏ dây dẫn nổ của cuộn thuốc pháo, nếu không cả hội đã lỡ tay phá hủy mất tấm bia đá, đó mới là tai họa trời giáng, bây giờ cả đội khảo cổ đều bị nhốt đến chết trong động, tuy vậy có thể khiến Entroypy cùng chết với mình, thì cũng coi như không uổng phi.

    Thắng Hương Lân cho rằng sự việc không dễ kết thúc như thế, nhưng cô không thể phân biệt nổi lời nào Nhị Học Sinh nói lời nào là giả, lời nào mới là thật.

    Tư Mã Khôi nói với hội Thắng Hương Lân: “Quá nửa chuyện Nhị Học Sinh kể đều là sự thật, có điều con người này không đáng tin, hắn nói mình là ma, nhưng tôi thấy hắn chính là Entroypy, là thứ tá thi hoàn hồn, nên làm sao hắn có thể mang ý tốt với chúng ta được? Mọi thứ xảy ra trong động tất cả đều nhàm mục đích ép chúng ta ra tay phá hủy tấm bia đá”.

    Hải ngọng thắc mắc: “Nhưng giờ thuốc nổ đã mất tác dụng, nếu chỉ dựa vào sức của mấy người chúng ta, dẫu có muốn xô đổ tấm bia thì khác nào châu chấu đá voi?”.

    Tư Mã Khôi nhất thời không thể đoán được rốt cuộc đối phương muốn gì, đột nhiên anh nhìn thấy đèn hỏa diệm nhiệt độ cao mà Cao Tư Dương đang cõng trên lưng, một suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu, chùm sáng của loại đèn này phát ra còn mạnh hơn lửa cồn, ngay cả quái thú tiền sử khổng lồ nằm săn mồi ở đáy hồ pha lê mà đội khảo cổ gặp phải lúc trước cũng bị chùm sáng của ngọn đèn thiêu rơi mất sọ, nhưng tấm bia đâu phải sinh vật sống, dẫu có dùng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao soi vào, thì cũng chẳng thể xuyên qua nổi tấm bia dày đến thế, huống hồ khắp tấm bia đều khắc chi chít chữ cổ, tấm bia lại cao to sừng sững đến vậy, cho dù đốt được mấy hàng chữ thì vô số chữ còn lại cũng vẫn đủ sức nhốt Entroypy trong động mãi mãi.

    Nét mặt Nhị Học Sinh buồn rầu đến thảm hại, hắn nói với Tư Mã Khôi: “Anh không tin tôi thì thôi, khoảnh khắc các anh vượt qua tấm bia đá, bước vào trong động đạo thì số phận đã định đoạt các anh không thể trở về rồi, dẫu có phá hủy tấm bia đá thì mọi người cũng bị Entroypy nuốt chửng,huống hồ giờ đây đội khảo cổ không còn thuốc nổ, nên càng trở thành vật vô giá trị với Entroypy. Tôi biết cả quá trình nguyên nhân kết quả của chuỗi sự việc nên có ý tốt muốn các anh cũng được biết rõ trước khi chết, như thế lòng tôi sẽ thấy thanh thản hơn, đợi khi thời gian ở đây trôi đến điểm tận cùng, thì cả thể xác và linh hồn chúng ta đều bị tiêu diệt, sao tôi còn phải nói dối để lừa các anh làm gì?”

    Tư Mã Khôi vẫn không thèm đếm xỉa đến lời của hắn, anh khẳng định gã Nhị Học sinh này chính là con yêu quái trong động biến thành, mục đích của nó là dụ đội khảo cổ phá hủy tấm bia đá, nhưng không hiểu rốt cuộc nó sẽ thực hiện điều đó bằng cách nào?

    Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi im lặng, thì quay sang hỏi Cao Tư Dương: “Lẽ nào đến cô cũng không tin tôi sao? Ban đầu tôi ăn thịt người chết ở lâm trường Đại Thần Nông Giá cũng chỉ vì khẩn thiết muốn được sống, thử hỏi trên đời này có người nào không sợ chết cơ chứ? Nhân lúc hãy còn thời gian, tôi muốn nói với mọi người một vài chuyện vô cùng quan trọng…”

    Cao Tư Dương nhất thời không biết phải nói gì, cô nghĩ đi nghĩ lại và thấy rằng mình nên tin lời Tư Mã Khôi thì hơn, vì Tư Mã Khôi chưa bao giờ làm sai điều gì.

    Tư Mã Khôi vẫn không nói gì, anh chỉ nghĩ thầm: “Nếu tôi chưa bao giờ làm sai, thì đã chẳng rơi vào bước đường ngày hôm nay”.

    Hải ngọng nói chen vào: “Ai nói trên đời này không có ai không sợ chết hả? Ông Hải ngọng đây từ khi bỏ nhà ra đi vào khu Hắc ốc, dựa vào nắm đấm để dẹp mọi chuyện bất bình, nói chơi chứ dăm ba thằng nhào vô cũng chẳng động đến được sợi lông chân của ông. Sau đó đến Miến Điện làm bộ đội tác chiến, dao súng cắt tay tiện chân như cơm bữa, trận chiến nào ông chưa từng gặp hả? Thế mà mày có thấy ông nhăn mày kêu đau bao giờ chưa?”

    Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà mở đài thì chẳng bao giờ muốn nhấn nút tắt, thế là anh bèn giơ tay lên ra hiệu bảo cậu ta đừng nói gì nữa, lúc này anh đã tính đến nước xấu nhất, anh dự đoán tấm bia đá Bái Xà trước sau gì cũng sẽ sụp đổ, tuy bây giờ vẫn chưa nghĩ ra được nguyên nhân, nhưng sự việc nhất định sẽ diễn tiến theo chiều hướng để xảy ra kết quả ấy, còn Nhị Học Sinh đứng đây con cà con kê với cả đội chẳng qua vì muốn cố tình kéo dài thời gian, mưu đồ làm tiêu hao toàn bộ pin đèn quặng của đội khảo cổ trước khi tấm bia đá bị phá hủy. Đến lúc đó, thứ nằm cuối động sẽ lập tức từ dưới lòng đất thoát ra ngoài, trong khi mọi người lại đang chìm trong bóng tối. Tới nước ấy thì ngay cả một phần vạn cơ hội thoát thân cũng đừng nghĩ đến. Trong huyệt động dưới lòng đất này, thò tay ra còn chẳng nhìn thấy ngón, môi trường khắc nghiệt khiến tốc độ tiêu hao của pin đèn nhanh gấp mấy lần so với ở điều kiện bình thường, số pin đèn còn sót lại của đội khảo cổ chẳng còn đủ duy trì trong bao lâu nữa, bởi vậy giờ là lúc không được phép nấn ná chần chừ. Ngoài ra, đối phương chủ động tiết lộ những ẩn số này cũng đủ chứng minh hắn không còn e sợ bất cứ điều gì nữa, giờ bốn thành viên của đội khảo cổ chẳng khác nào kiến đang bò trong miệng chén.

    Tư Mã Khôi nghĩ đến đây liền quyết định lựa thời cơ hành động, nhưng nếu cứ không làm gì để phá vỡ cục diện căng thẳng hiện tại, thì cũng sẽ chẳng có cơ hội nào tự dưng rơi xuống, thế là anh lập tức ra hiệu cho mọi người ra tay hành động. Anh bảo Cao Tư Dương chuẩn bị dùng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao soi vào Nhị Học Sinh, chiếc đèn này là phát minh của “Kỹ sư” trong đội thám hiểm Corot Maar. Thời kỳ chiến tranh lạnh, đủ các loại vũ khí trang thiết bị chiến tranh kỳ dị cổ quái xuất hiện nhan nhản trên các chiến trường, Tư Mã Khôi cũng tự cho rằng mình nhìn thấy không ít loại vũ khí lợi hại, nhưng loại đèn phun lửa nhiệt độ cao này thì anh chưa nhìn thấy bao giờ, mà uy lực của nó thì đúng là vô cùng khiếp người. Anh nghĩ bất kể đối phương là loại yêu quái nào, chỉ cần bị chùm sáng nhiệt độ cao này chiếu vào, thì nó cũng lãnh đủ.

    Hải ngọng và Thắng Hương Lân từ trước đến giờ đều sống chết theo Tư Mã Khôi, tiến cùng tiến mà lùi cùng lùi, nên cả hai lập tức theo anh tiến lên, duy có Cao Tư Dương là hơi do dự một chút, nhưng cuối cùng cô cũng vẫn cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao đi theo chân anh.

    Nhị Học Sinh không ngờ Tư Mã Khôi lại chẳng đánh bài như lẽ thường, anh hoàn toàn triệt đường thương thảo giữa đôi bên, trong lúc vội vàng, hắn cuống quýt lui về phía sau khám thần.

    Nào ngờ, Hải ngọng còn ra tay nhanh hơn, anh bước lên bệ đá trước một bước, đảo ngược báng súng, dùng hết sức quất thẳng vào đầu Nhị Học Sinh, xương cổ hắn kêu “rắc” một tiếng, cái đầu bị báng súng đánh trúng liền quay một vòng 360°, trong khi thân dưới vẫn không hề xê dịch nửa bước, lúc khuôn mặt quay trở về vị trí cũ, tử khí trên gương mặt của hắn càng toát ra nặng nề hơn, hai mắt nhìn chòng chọc vào Hải ngọng ánh lên tia độc địa, oán hờn, đột nhiên hắn há ngoác cái miệng đen ngòm ra.

    Hải ngọn giật nảy mình, vội vàng né sang một bên mà quên mất mình đang đứng trên bệ đá của khám thần, lúc lùi về sau, chân anh bước hụt vào khoảng không, Hải ngọng vội hét lên thất thanh: “Ối mẹ ơi”, rồi ngã ngửa xuống mặt đất.

    Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân vội vàng chạy lại hai bên tiếp ứng, lần lượt chĩa họng súng vào Nhị Học Sinh bắn liền mấy phát, đạn bay “chíu chíu” trong gian đại điện tối om, găm thẳng vào người Nhị Học Sinh, nhưng vẫn không thể ngăn được tốc độ của hắn đang nhào về phía Hải ngọng.

    Lúc này, Cao Tư Dương cũng đến gần khám thần, lúc trước cô còn hơi do dự, nhưng khi thấy khuôn mặt Nhị Học Sinh toát ra vẻ độc ác và luồng tử khí nặng nề, thì cô không dám chậm trễ nữa, đầu ngọn đèn hỏa diệm nhiệt đột cao vẫn đang gác trên vai, cô vội vàng mở nắp đèn, chĩa thẳng vào Nhị Học Sinh.

    Nhị Học Sinh dường như ý thức được mức độ lợi hại của vật này, hắn sợ hãi, sắc mặt thay đổi hẳn, miệng không ngừng phát ra những tiếng kêu “khục khục” đầy quái dị.

    Chiếc đèn này bị rơi từ trên khinh khí cầu xuống nên đã bị hỏng khá nặng, hình như chạm mạch thì phải, sửa mãi mà không được, trên đường đi lúc dùng được lúc không. Giờ đây, Cao Tư Dương soi đèn về phía Nhị Học Sinh, nhưng ngọn đèn chẳng hề phát ra chút tia sáng nào, chỉ có đèn quặng gắn trên chiếc mũ liễu là chiếu thắng vào khuôn mặt đối phương ở cự ly gần.

    Dường như Nhị Học Sinh rất sợ bị đèn chiếu vào, hắn không dám để mình lộ ra phạm vi chiếu sáng của ngọn đèn, nên quay người tụt xuống khám thần và lẩn về phía sau.

    Hải ngọng thấy Nhị Học sinh trốn sau khám thần, anh lập tức nhảy lên, gân nổi cuồn cuộn khắp người, gắng sức nâng cả khám thần được đẽo từ tảng đá khổng lồ lên, định đẩy nó đè chết Nhị Học Sinh, song khám thần nặng ngàn cân nên, tuy Hải Ngọng có sức khỏe phi thường, thì cũng chỉ nhấc nó lên được 45° thì đã thấy hai vai tê dại, khí huyết trong lồng ngực như muốn chảy ngược, phun ra khỏi miệng.

    Hội Tư Mã Khôi thấy vậy cũng vội ghé vai hợp sức, hét vang một tiếng như sấm rền, rồi cả hội nhấc được khám thần lên, Nhị Học Sinh không trốn kịp, hắn bị cả tảng đá khổng lồ đổ sập xuống người, thoáng chốc đã biến thành đống thịt nát bấy máu, không thể động đậy nổi nữa.

    Mọi người thấy ngón tay lộ ra phía dưới tảng đá vẫn không ngừng cử động, thì cùng cúi xuống kiểm tra, đột nhiên cái đầu nát bét của Nhị Học Sinh chui ra khỏi khám thần như một con rắn.

    Cao Tư Dương khiếp đảm đến cực độ, trong tay vẫn cầm đèn hỏa diệm nhiệt độ cao, cô vội vàng chiếu thẳng vào Nhị Học Sinh, cuối cùng thì lần này cái đèn cũng không hỏng nữa, chùm sáng còn mạnh hơn lửa chiếu đi, cái đầu bẹp dúm của Nhị Học Sinh tự nhiên biến mất, nhưng cũng trong khoảnh khắc chùm sáng phụt ra, toàn bộ đèn nến trong và ngoài điện, bao gồm cả đèn quặng gắn trên mũ bốn thành viên đội khảo cổ đều nhạt nhòa dần đi, trước mắt tối đen chẳng khác nào đít nồi.

    Mọi người thất kinh, quả nhiên đội khảo cổ vẫn chưa bước ra khỏi kẽ hở trong động không đáy, thời gian đang quay vùn vụt về thời điểm mười một giờ đúng, đồng thời đưa đột khảo cổ đến nơi mà Tư Mã Khôi vứt chiếc hộp thiếc. Entroypy có thể tự do dịch chuyển thời gian trong kẽ hở theo ý muốn, mà không cần đến yếu tố Nhị Học Sinh sống hay chết, và cũng chẳng liên quan gì đến vị trí mà đội khảo cổ đứng trong động không đáy, chỉ cần nó thấy mọi người có hành động nào có khả năng phá hủy được tấm bia, thì sẽ lập tức sẽ khiến cho thời gian trong động không đáy lập tức quay ngược lại, đem theo bốn người trở lại nơi cửa động gần tấm bia đá để việc bia đá bị phá hủy càng dễ dàng trở thành sự thực như ý nó
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 3: BẢN CHẤT SỰ THẬT


    Sở dĩ hội Tư Mã Khôi ý thức được việc thời gian trong động không đáy lại lần nữa quay ngược về điểm xuất phát là vì hành động của đội khảo cổ có khả năng phá hủy tấm bia đá, có điều đèn hỏa diệm nhiệt độ cao chắc không thể gây ra nguy hiểm cho tấm bia, ý nghĩ vừa xẹt qua đầu thì đèn quặng đã vụt sáng, thời gian trở lại lúc mười một giờ đúng trong động đạo, tấm bia đá Bái Xà hiện ra sừng sững ngay trước mặt họ.

    Ngọn lửa dữ dội và nóng rát phun ra từ đèn hỏa diệm nhiệt độ cao chiếu vào chính giữa tấm bia đá, có điều khoảng cách từ chỗ mọi người đứng đến cửa động nơi đặt tấm bia đá còn mấy bước chân, trong khi độ dài của vòi lửa khá ngắn, mà chữ trên tấm bia lại khắc rất sâu, bởi vậy dẫu nó bị vòi lửa hun đốt thì cũng không bị ảnh hưởng nghiêm trọng lắm.

    Cao Tư Dương thất sắc, vội vàng xoay vòi lửa sang hướng khác, cô muốn tắt đèn mà không thể nào tắt được, loại đèn này phun lửa nhờ vào nguồn năng lượng pin đeo trên lưng, thời gian chiếu sáng liên tục rất ngắn, nếu không nhanh chóng tắt đèn, thì chẳng mấy chốc sẽ cạn kiệt năng lượng và hoàn toàn mất công hiệu.

    Tư Mã Khôi thấy kẽ hở thông với tấm bia đá đã mở, thì không nghĩ ngợi gì nữa, anh lập tức giúp Cao Tư Dương gỡ đèn hỏa diệm trên vai, rồi vứt toẹt xuống đất, gọi hai người còn lại mau chóng chạy đến chỗ tấm bia đá. Cả hội chạy như điên, cuống quýt tay chân bò lồm ngồm lên đỉnh tấm bia đá. Bốn người gắng hết sức trèo tới nơi, lòng nghĩ thật may mắn, xem ra đôi khi ông trời vẫn còn rủ lòng thương xót, nhất định con quái vật Entroypy trong động tưởng rằng đèn hỏa diệm có thể đốt cháy hết chữ trên tấm bia, nên trong khoảnh khắc đội khảo cổ sử dụng đèn, nó đã điều khiển thời gian quay vùn vụt về chỗ gần tấm bia đá, nhờ đó đội khảo cổ vẫn còn hi vọng sống sót thoát ra khỏi tuyệt cảnh. Xem ra, vị dị thần cổ xưa này rốt cuộc chỉ là con quái vật không chết nổi mà thôi, chứ không phải thần thánh thực sự thông hiểu mọi kiếp nhân quả trên đời.

    Tuy cảm thấy vô cùng may mắn, nhưng Tư Mã Khôi vẫn rất hoang mang, anh cảm giác sự việc không thể đơn giản như thế, lúc ba người còn lại đều trốn thoát và đứng trên đỉnh tấm bia, anh lấy hết can đảm quay đầu liếc nhìn phía sau, định xem vì sao cả hội chưa bị vô số bàn tay ma quái trong động thò ra túm ngược trở lại động như lần trước, nào ngờ chẳng nhìn thì chẳng sao, nhìn rồi anh thấy như bị một quả bom ném trúng đầu.

    Lúc này, pin dự trữ của đèn hỏa diệm nhiệt độ cao vẫn chưa cạn kiệt hẳn, ánh lửa dữ dội chói lòa chiếu sáng choang cả động đạo, anh thấy cuộn thuốc nổ bị vứt lại lúc trước vụt hiện ra trong quầng sương đen, tuy ngòi nổ đã bị gỡ bỏ, nhưng bột thuốc nổ quân dụng màu vàng đúc đầy bên trong thì vẫn còn nguyên, ngọn lửa chiếu đúng vào vị trí cuộn thuốc và lập tức kích nổ.

    Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, anh cuống quýt thét gọi hội Hải ngọng nằm sấp xuống tránh luồng sóng xung kích. Tuy uy lực của cuộn thuốc nồ rất kinh người, nhưng cũng khó khiến tấm bia đá Bái Xà dày nặng thế kia sụp đổ, có điều trong động đạo âm thanh không hề bị khuếch tán, loại địa hình này càng khiến sóng xung kích của vụ nổ được khuếch đại lên gấp bội, tiếng bom nổ vang lên ầm ầm chẳng khác nào trời long đất lở.

    Hội Tư Mã Khôi nằm rạp người trên đỉnh tấm bia đá tránh vụ nổ, họ nghe thấy tiếng ầm ầm không ngớt vang lên bên tai, thân thể như bị trận cuồng phong quét qua, mỗi tấc da thịt đều đau đớn không thể chịu đựng nổi, hồn gần như lìa khỏi xác, lục phủ ngũ tạng lộn nhào mấy vòng, đầu kêu ong ong, cổ họng trào ngược vị mằn mặn, tai và mũi đều ộc máu tươi, khắp người không ngừng run lên bần bật, dường như tấm bia đá Bái Xà đang rung chuyển dữ dội.

    Khoảnh khắc tấm bia đá sụp xuống, Tư Mã Khôi cảm thấy hồn vía mình cũng nát vụn theo, trong lúc hoảng hốt, anh nhìn thấy một vật thể to lớn tựa như một cây cổ thụ tán lá rợp trời in hiện trong làn khói diêm tiêu, nó vươn dài tua rễ trong hắc động, giãy giụa đòi thoát ra, trên thân thể mọc vô số con mắt quái đản, xanh âm u. Có lẽ đó chính là chân tướng của Entroypy.

    Ngay sau đó, sinh vật hình cây đại thụ quanh mình toàn mắt bị quầng sương đen dày đặc bủa vây xung quanh, còn bốn thành viên đội khảo cổ đang đứng trên đỉnh tấm bia đá cũng bị ngã ụp xuống đất theo luồng đất đá sụp đổ, mặt mũi dính toàn đất bụi trộn máu tươi, khó khăn lắm, họ mới giãy đạp đứng dậy được. Tấm bia đá Bái Xà trước mặt đã biến thành đống đá vụn đổ nát, không thể ráp nổi một dòng chữ cổ nào nữa.

    Đầu óc Tư Mã Khôi vẫn khá tỉnh táo, anh biết phen này đúng là cả hội đã trót lấy gậy chọc rách trời mất rồi, hậu quả thực khôn lường, con quái vật Entroypy giống như loài cây viễn cổ bị mắc kẹt trong hắc động không thể thoát thân, nó liên tục sa vào vòng tuần hoàn chết đi sống lại cũng chỉ vì nhìn thấy dòng chữ cổ mà người Bái Xà khắc trên tấm bia. Bây giờ tấm bia đã hoàn toàn sụp đổ, không thứ gì trên đời có thể cản trở được nó nữa. Từ lúc xuất hiện đến lúc diệt vong, tộc người Bái Xà cổ đại đã tồn tại qua bao tuế nguyệt đằng đẵng, họ sử dụng tất cả các phương pháp mà còn không làm gì nổi Entroypy, huống chi đội khảo cổ giờ đây chỉ có mấy khẩu súng và số lượng đạn dược ít ỏi sót lại, mong gì đối đầu được với nó. Điều đáng nói hơn là, dẫu cả hội bỏ mạng ở đây

    thì cũng không thể bù đắp lỗi lầm mà mình vừa gây ra, bây giờ cả hội chỉ còn một con đường duy nhất, đó là phải liều mạng chạy trốn.

    Tiếng ầm ầm vẫn vang vọng bên tai, máu từ mũi và miệng mọi người cũng chưa ngưng chảy, chẳng ai có thể lên tiếng nói được câu gì, nhân lúc Entroypy chưa ra khỏi động sâu, cả hội gắng gượng bò ra khỏi đống đá ngổn ngang, cuống cuồng chạy thoát thân mặc dòng nhiệt lưu đang ùn ùn chảy đến.

    Địa động nóng như cái nồi hấp, vết thương trên mình Thắng Hương Lân vẫn chưa khép miệng, chẳng chạy được bao xa cô đã gục ngã, gương mặt cắt không còn giọt máu, Thắng Hương Lân đẩy Tư Mã Khôi ra, bảo mọi người đừng lo cho mình, mau mau chạy đi.

    Hội Tư Mã Khôi sao nỡ bỏ Hương Lân lại một mình, anh và Hải ngọng thay nhau cõng cô trên lưng, rồi bảo Cao Tư Dương lấy đèn quặng soi đường, tiếp tục chạy xuyên qua dãy huyệt động trùng trùng điệp điệp.

    Trang thiết bị vật tư mà đội khảo cổ mang theo gần như đều đã dùng hết, ngoại trừ bình nước, súng săn, pin đèn và chút ít lương thực ra, thì trên người chẳng còn mấy thứ. Tư Mã Khôi và Hải ngọng quen chiến đấu nhiều năm ở Miến Điện, việc vác nặng hành quân trong rừng rậm nhiệt đới là chuyện bình thường như cơm bữa, có điều sức người có hạn, chạy được một đoạn, họ phải dừng lại nghỉ một hồi, may nhờ trước đây người Bái Xà đặt rất nhiều khối đá tảng to lớn ở trong đường hầm dẫn vào miếu thần nên chúng cũng khiến tốc độ Entroypy bò từ vực sâu ra ngoài giảm xuống kha khá.

    Mọi người tháo chạy đến gần cổng vào thông đạo, thì thính giác dần dần phục hồi, nhưng chân không thể lết thêm được nữa. Tư Mã Khôi đành bỏ Thắng Hương Lân đang hôn mê xuống bên cạnh, tạm thời dừng bước thở hổn hển. Đúng lúc này, bên tai anh văng vẳng tiếng sinh vật khổng lồ đang di chuyển từ xa lại gần chỗ mọi người, có lẽ Entroypy đang bám đuổi theo sau, trong thông đạo dẫn đến miếu thần có rất nhiều tảng đá to, mới khiến hành động của nó chậm lại đôi chút, nhưng một khi đã ra khỏi miếu thần, thì phía trước sẽ là con đường hầm dài dặc nối liên thông từ ngọn núi này sang ngọn núi kia, địa hình trong đó vô cùng thoáng đãng, bằng phẳng, có chạy trốn được ra ngoài, thì cả hội cũng bị Entroypy đuổi kịp và nuốt chửng mà chẳng tốn mấy thời gian.

    Hải ngọng tuyệt vọng đến tột cùng, anh nắm chặt khẩu súng săn chỉ còn sót lại ba viên đạn ghém, rồi quay sang bảo Tư Mã Khôi: “Tớ ở lại chặn nó, các cậu nhân cơ hội này mau chạy đi, sống được người nào hay người đó!”

    Khi nãy Cao Tư Dương đã thấp thoáng nhìn thấy hình dạng của sinh vật khổng lồ ẩn hiện trong hắc động, cô khiếp đảm nói với với Hải ngọng: “Súng đạn không thể đối phó được thứ này đâu, nó sống hàng vạn năm mà không chết, chỉ e chẳng ai biết nó là loại quái vật gì, mấy người chúng ta khác nào con kiến trước mũi nó, anh có liều mình ở lại cũng chỉ vô nghĩa thôi…”

    Hải ngọng nói: “Hay chúng ta phân tán lực lượng, đột phá vòng vây, chứ chẳng lẽ ngồi đợi nó đến đớp một miếng hết cả lũ sao?”

    Cao Tư Dương nói: “Các anh có nhớ quả cầu sắt khổng lồ trong Tử thành không? Nó có thể đưa người ta vào cơn ác mộng quái dị vô cùng vô tận, chẳng biết nó nhốt được con quái vật này không nhỉ?”

    Tư Mã Khôi trầm ngâm suy nghĩ một hồi, rồi bảo: ‘Tử thành cách đây xa quá, sợ không kịp, chúng ta phải tìm cách dụ nó đến đầm lầy dạ quang. Đó là cơ hội cuối cùng của chúng ta”.

    Lúc trước, khi bị nhốt trong động không đáy, Tư Mã Khôi đã tiên liệu trước việc tấm bia đá sụp đổ nhất định sẽ xảy ra, bởi vậy lòng anh cũng đã trù tính sẵn. Bây giờ nghĩ lại, anh thấy, khối cầu sắt khổng lồ nằm trong tòa Tử thành chất đầy xương khô đúng là có khả năng khiến ý thức của sinh vật sống bị chìm vào ác mộng, nếu không bị tác động của lực bên ngoài, thì kẻ bước chân vào thành sẽ mãi mãi chịu trói trong cơn ác mộng, không cách gì thoát ra nổi, nhưng chắc chắn nó cũng không thể cản trở được Entroypy, nó chỉ có thể nhốt giữ âm hồn, không cho Entroypy nuốt chửng mà thôi, nếu không người Bái Xà cồ đại đã không đặt nó trong Tử thành. Huống hồ, sau khi đội khảo cổ thoát ra khỏi Tử thành, cả hội đã đi không biết bao nhiêu ngày đêm trong đường hầm dưới lòng đất mới tới được miếu thần. Giờ làm sao mà lập tức tới đó được, nước xa đâu cứu được lửa gần.

    Trong khi đó, giữa đường hầm đi xuyên qua dãy núi dưới lòng đất tồn tại một dải đầm lầy dạ quang kéo dài mấy kilomet, lúc đó nghe Thắng Hương Lân nói, đây là đầm lầy được hình thành do sự tích tụ của các vật chất hóa hợp và chịu quá trình xâm thực của hồ axit sulfuric, niên đại hình thành chắc chưa đến hai ngàn năm, nó phân bố ở khá nhiều thực vật phát quang hiếm gặp và loài đom đóm khổng lồ nằm ẩn mình trong hang động, địa chất ở đó rất xốp và yếu, lớp bùn trên bề mặt chỉ cần giẫm nhẹ là lún xuống, người đi lên còn tạm qua được, nhưng nếu Entroypy bò qua đầm lầy, thì nhất định sẽ bị lún sâu xuống hồ axit, nó sẽ bị lượng axit đậm đặc vô cùng vô tận dưới lòng đất ăn mòn đến hoại mục, dẫu nó không ngừng phục hồi nguyên dạng, thì cũng vĩnh viễn không thể ra khỏi đó.

    Hải ngọng và Cao Tư Dương nghe xong liền gật đầu liên tiếp, tuy trước mắt, họ chưa thể giải thích nổi Entroypy rốt cuộc là thứ gì, nhưng một điều có thể chắc chắn, nó là sinh vật sống tồn tại dưới dạng vật chất, nên chỉ cần nó rơi vào đầm lầy dạ quang axit, thì chắc chắc sẽ bị lún sâu xuống đó, không thể thoát ra nổi.

    Thấy có tia hi vọng, tinh thần mọi người phấn chấn hẳn lên. Tư Mã Khôi lập tức cõng Thắng Hương Lân đi xuyên qua tường ngoài của miếu thần, chạy một mạch vào đường hầm dưới các dãy núi, địa thế trước mắt càng lúc càng khoáng đạt, phía xa đã là đầm lầy dập dềnh ánh sáng trải dài thành một dải, uốn lượn như dải ngân hà vô bờ lạc xuống chốn hoang tàn bao la.

    Nhờ ánh sáng đom đóm trôi nổi giữa không trung, Cao Tư Dương nhìn thấy khe hở trong lòng núi, cô không khỏi lo lắng khi nghĩ con quái vật hình cây cổ thụ khổng lồ kia sẽ trèo thẳng lên đó để thoát ra ngoài, sau đó trốn vào nơi sâu dưới lớp vỏ Trái đất nuốt chửng các sinh linh, hậu quả này thực không dám nghĩ tiếp.

    Tư Mã Khôi suy đoán, Entroypy không thể ngờ cả hội có thể trốn chạy xa như thế, mà đội khảo cổ lại biết quá nhiều bí mật, nên chắc chắn nó không cho phép bốn người có thể sống sót, dẫu cả hội cũng chẳng thể thoát khỏi nơi tận cùng lòng đất này, thì nó cũng nhất quyết phải nuốt chửng mọi người bất kể còn sống hay đã chết vào bụng thì mới yên lòng, bởi vậy, chắc chắn nó sẽ đuổi theo mọi người đến đầm lầy dạ quang.

    Mọi người mải miết chạy, họ đã mệt muốn đứt hơi mà vẫn phải cố gắng chạy tiếp. Cuối cùng, cả hội đã tới rất gần đằm lầy dạ quang, ai nấy vội vã lấy khăn che mũi lại, bất chợt phía sau vang lên tiếng động nghe như tiếng gỗ mục bị giẫm gãy, tiếng động nhanh chóng áp sát họ. Đội khảo cổ quay đầu lại thì thấy sương đen giăng kín đến vô tận, bên trong đậm đặc mùi tử khí nặng nề.

    Hội Tư Mã Khôi thầm kinh hãi, lập tức vắt chân lên cổ chạy qua đầm lầy, họ nghe âm thanh như tiếng gỗ mục càng lúc càng gần hơn, dường như chỉ cần quay đầu lại là thấy trăm ngàn con mắt quái dị, nhưng lúc này chẳng ai dám nhìn lại phía sau, ai nấy điên cuồng chạy, chỉ mong vượt qua được đầm lầy. Đột nhiên, họ thấy dưới chân mình bỗng mềm nhũn, rồi cả thân người đồ ụp xuống đất, thì ra không biết tự lúc nào mặt đất bắt đầu nghiêng dần về phía sau và chìm lún, đám thực vật dạ quang gần đó cũng nghiêng ngả theo, bầy đom đóm ẩn mình trong hang động như thể cũng cảm thấy đại nạn sắp ập xuống, chúng cuống cuồng túa ra bay tán loạn khắp nơi.

    Cả hội quay đầu lại, thì thấy đầm lầy dạ quang phía sau đang chìm dần xuống dưới, xem ra tầng bùn đất tích tụ bên trên đầm lầy không thể chịu nổi trọng lượng cơ thể của Entroypy, cả khu đầm dần dần chìm xuống mặt hồ chứa đầy axit sulfuric, từng mảng, từng mảng một. Quầng sương đen trải rộng vô cùng vô tận đó cũng bị chìm sâu, không thể giãy giụa thoát ra nổi, nơi nó lún xuống giống như một hố xoáy nạm đầy dạ quang lấp lánh, ở giữa là hố động đen ngòm không đáy đang ngoác ra nuốt chửng không gian.

    Lúc này, mọi người có chắp cánh cũng khó lòng thoát thân, trước hố xoáy khổng lồ đó, bốn thành viên đội khảo cổ bé nhỏ chẳng khác nào con sâu cái kiến, họ còn biết làm gì hơn ngoài nín thở và nhìn chằm chằm vào cảnh tượng tuyệt vọng đang diễn ra trước mắt. Họ chìm dần vào vực sâu cùng với cả mảng đầm lầy.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 4: NUỐT CHỬNG


    Hội Tư Mã Khôi sức cùng lực kiệt, mắt trừng trừng nhìn mình lún dần vào hắc động cùng với đầm lầy, trong cơn tuyệt vọng tận cùng, anh thầm nghĩ: “Thì ra tất cả chúng ta đều chết ở đây”, có điều nơi sâu nhất dưới lòng hồ của đầm lầy dạ quang chính là vùng đất vạn kiếp không thể siêu sinh, dùng tính mạng của mình mà dụ được Entroypy vào đây, thì anh nhắm mắt cũng an lòng.

    Lúc này, đèn quặng của cả hội đột nhiên tối sầm lại, thảm thực vật phát sáng như thể bị dòng nước triều đen ngòm nuốt chửng, trước mắt họ tối như bưng, đầu óc cũng tự nhiên trở nên trống rỗng, chẳng thể suy nghĩ gì thêm nữa.

    Cả hội mê man không biết bao nhiêu lâu, mãi họ mới dần dần tỉnh lại, thấy trên người như bị đúc đầy bi chì nặng trịch, không thể động cựa nổi.

    Hồi lâu sau, Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Cao Tư Dương mới cắn răng đứng dậy, còn Thắng Hương Lân vẫn mê man bất tỉnh, gương mặt cô trắng bệch, hơi thở vô cùng yếu ớt.

    Ba người rất lo lắng, trong bình quân dụng của Cao Tư Dương vẫn còn chút nước sạch, cô liền mang đến đổ vào miệng Thắng Hương Lân.

    Để tiết kiệm pin đèn khỏi tiêu hao, mọi người chỉ bật một ngọn đèn quặng để quan sát địa hình xung quanh, hình như cả hội đang đứng dưới đáy một động huyệt, xung quanh là những vách đá phủ đầy rêu rong, trên mặt đất mọc nhan nhản loại nấm cỏ, trông rất giống loài nấm cục, trong đó còn có cả địa nhĩ, nấm hoàng sơn… những cụm nấm vân chi giống như những chiếc ô cao quá đầu người, chúng mọc thành tầng tầng lớp lớp đan xen vào nhau. Giữa đám cỏ thi thoảng lại có vài con đom đóm đuôi dài bay túa ra, lượn lờ lởn vởn như những u hồn, hình dạng rất ư kỳ quái.

    Hải ngọng đang đói meo, vừa nhìn thấy nấm anh đã thèm nhỏ dãi, trước đây anh từng ăn loại nấm này, bây giờ trên người chẳng còn bao nhiêu lương khô, nên định hái mấy miếng cho vào miệng để thỏa cơn đói.

    Tư Mã Khôi vội giữ bàn tay đang thò ra của Hải ngọng, cảnh báo: “Đừng sờ mó lung tung, cậu không để ý thấy chỗ này rất kỳ lạ sao? Không biết cái động này ở đâu à?”

    Hải ngọng ngẫm nghĩ hồi lâu, bảo: “Tớ chỉ nhớ chúng ta không ngừng bị lún sâu xuống đàm lầy, lúc mở mắt ra thì đã ở đây, hồi trước chúng ta từng đến nơi này rồi sao?”

    Cao Tư Dương hiểu ý Tư Mã Khôi, cô kinh ngạc thốt lên: “Chẳng lẽ chúng ta bị thứ trong sương đen nuốt vào bụng rồi ư?”

    Tư Mã Khôi gật đầu, lòng nghĩ quá nửa là vậy, đội khảo cổ dụ Entroypy đến đầm lầy, lúc bị lún xuống, nó đã kéo mọi người vào trong quầng sương đen, bụng nó có vẻ giống một huyệt động không đáy, đồng thời nó còn có thể tự do điều chỉnh thời gian trong động theo ý mình, bên ngoài có thể chỉ là một giây, nhưng ở trong động, một giây đó lại biến thành dài rộng đến vô hạn, xét theo khía cạnh nào đó, thì điều ấy đồng nghĩa với việc thời gian đã dừng lại.

    Cao Tư Dương cũng có một chiếc đồng hồ cơ, hàng Thượng Hải, từ lúc lênh đênh trên thủy thể 30° vĩ Bắc, cô vẫn chưa lên giây cót, bởi vì dưới lòng đất không nhìn thấy ánh mặt trời, thời gian cũng đâu có ý nghĩa gì, mãi đến khi đội khảo cổ liên tiếp trải qua bao nhiêu việc quái dị xảy ra phía sau tấm bia đá, thì cô mới biết thời gian chính là điểm tham chiếu vô cùng quan trọng, bấy giờ cô mới lên giây cót, lúc này nhìn lại thấy kim đồng hồ vừa vặn chỉ đến con số 2:30, đồng thời kim vẫn hoạt động bình thường theo nhịp điểm của thời gian.

    Tư Mã Khôi cảm thấy tứ bề yên ắng đến lạ kỳ. Anh đoán, thời gian trong Entroypy ngừng lại ngay sát na nó bị rơi xuống đầm lầy và vẫn chưa bị chìm xuống đáy hồ axit sulfuric. Điều kỳ lạ là sau khi bị Entroypy nuốt chửng vào bụng, đội khảo cổ vẫn không hề chết, vậy sao thứ đó lại không ăn thịt cả hội cơ chứ? Lẽ nào nó còn muốn lợi dụng họ để thoát ra khỏi vùng đầm lầy đang bị lún xuống hồ sâu hay sao? Nhưng thuốc nổ và đèn hỏa diệm nhiệt độ cao của đội khảo cổ đều đã sử dụng hết, dẫu nó có thể khiến mọi thứ trong động không đáy trở về nguyên dạng như ban đầu, thì những vật đã sử dụng cũng không thể xuất hiện lại lần nữa. Bao nhiêu nghi vấn đó chỉ e phải đợi khoảnh khắc thời gian quay ngược mới có thể tìm ra đáp án.

    Mọi người chạy đến đầm lầy đom đóm, thì nghĩ rằng mình phen này chết chắc, nào ngờ cả hội lại lần nữa rơi vào động không đáy. Entroypy bị tấm bia đá nhốt từ ngàn năm trước khó khăn lắm mới thoát thân ra khỏi hắc động, làm gì có chuyện nó cam tâm rơi xuống nơi vạn kiếp không thể siêu sinh ở nơi sâu dưới lòng đầm? Ba người suy đoán mấy khả năng, nhưng vẫn không tìm được manh mối nào, càng không biết tiếp đến mình sẽ gặp phải cảnh ngộ gì. Mọi người chỉ biết chuẩn bị súng ống đạn được để đề phòng bất trắc có thể xảy ra.

    Tư Mã Khôi nhìn Thắng Hương Lân vẫn đang hôn mê, thầm nghĩ: “Tư duy của Thắng Hương Lân lúc nào cũng rành mạch, rõ ràng, giá giờ đây có cô ấy ở bên và giúp cả hội đưa ra một ý kiến thì hội ta cũng đâu đến nỗi lúng túng thế này, chỉ mong người tốt sẽ gặp điều lành, cô ấy không được chết trong động không đáy này”.

    Tư Mã Khôi định thần lại, anh lấy khẩu súng Walther P38 của Thắng Hương Lân khoác lên người mình. Khẩu P38 là khẩu súng còn nhiều đạn nhất lúc này, anh vứt khẩu Winchester 1887 của mình đi, rồi đưa toàn bộ số đạn còn lại cho Cao Tư Dương, đếm thấy còn lại đúng mười viên, đạn ghém cỡ tám trong khẩu súng săn hai nòng Canada của Hải ngọng chỉ còn ba viên, đến khi đạn dược hoàn toàn hết sạch, thì đội khảo cổ chỉ còn cách sử dụng dao săn.

    Ba người chia nốt số lương khô cuối cùng ra ăn cho đỡ đói, không có nước, cả hội đành nhuộm nhoạm nhai và cố nuốt chỗ lương khô ấy, vì họ đều sợ nếu ăn thứ dưới âm gian thì sẽ trở thành một bộ phận của âm gian, nên họ thà chịu chết đói chứ không dám động đến đám thực vật trong động, đề phòng bị Entroypy khống chế trở thành con rối của nó.

    Hải ngọng đã phục hồi thể lực đôi chút, anh vừa ăn vừa hỏi Tư Mã Khôi: “Đèn quặng chỉ duy trì được thêm mấy tiếng nữa, nếu trước mắt hoàn toàn tối như hũ nút, chả nhìn thấy cái gì vào cái gì, thì dẫu chúng ta có cao siêu hơn nữa cũng chẳng thi triển đằng trời được, vì thế bây giờ chúng ta phải mau bàn bạc, tính toán xem bước tiếp theo nên đi thế nào!”

    Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, đội khảo cổ bị Entroypy nuốt chửng vào bụng, nghĩa là họ vẫn còn giá trị để cho nó lợi dụng, nếu hình dung Entroypy là cái động không đáy, thì nó chỉ có thể kéo dài thời gian trong động không đáy ra vô hạn, thậm chí có thể khiến mọi vật trong động khôi phục lại nguyên dạng ban đầu, nhưng nó lại không thể thay đổi được thời gian bên ngoài động, điều đó cũng có nghĩa là việc Entroypy rơi xuống đầm lầy là sự thực đã xảy ra, bất kể sức mạnh nào cũng không thể thay đổi được sự thực ấy, còn việc đội khảo cổ rơi vào trong động không đáy như thế này là do thời gian đã bị dừng lại tại khoảnh khắc Entroypy vừa rơi xuống đầm lầy.

    Dựa vào lý thuyết trong tướng vật và bí kíp biệt bảo, Tư Mã Khôi suy đoán, rất có khả năng con quái vật toàn thân mọc mắt với hình dạng giống như cây đại thụ kia là một loài sinh vật từ thời viễn cổ, nó thoát ly khỏi phạm trù tiến hóa, hay nói cách khác nó đã tiến hóa đến đỉnh điểm, đủ khả năng để không ngừng tự mình tái sinh ra bộ phận mới, thay thế cho cơ thể bị hỏng và chết đi. Phần lớn thi thể và linh hồn người chết mà tộc Bái Xà cổ đại chất đống trong động đều bị nó nuốt chửng, rồi hợp nhất thành một thể, nó khiến khối thịt người khổng lồ đó mang theo dòng điện trường sinh học cực mạnh, giống như một cỗ máy điện đàm công suất cao, có thể kết nối với hắc động của thế giới hư vô. Mọi sự vật trong hắc động chưa hẳn thực sự tồn tại, hoặc giả có thể nói, mọi cảm giác này đều là do ý thức của đội khảo cổ bị cỗ máy đó ảnh hưởng, giống như lúc đội thám hiểm ở thành Nhện Vàng trong khe núi Dã Nhân, Miến Điện, vì trong đội thám hiểm có “gian phòng” của tổ chức Nấm mồ xanh ẩn nấp, mới dẫn tới việc mọi người cứ tưởng Nấm mồ xanh thực sự xuất hiện ngay trước mặt mình, trong khi đó dòng điện trường sinh học của bản thân Entroypy còn mạnh gấp nhiều lần Nấm mồ xanh – một bộ phận cơ thể của nó – bởi vậy mọi sự việc mà đội khảo cổ tiếp xúc trong động không đáy, bao gồm cả tên “Nhị Học Sinh” chết đi sống lại hết lần này đến lần khác, cả đội quân sên trần và cả thần điện, tất cả đều chỉ là sóng điện u hồn, chúng không hề tồn tại trong thực tế, chỉ có hành động của đội khảo cổ là điều đã xảy ra thực sự. Đây chính là năng lực của vị thần cổ xưa này.

    Hải ngọng nghe Tư Mã Khồi nói suy đoán của mình, anh thấy chín mươi phần trăm sự thật chính là như vậy, bây giờ Entroypy đã sa chân vào đầm lầy dạ quang, đợi khi nó rơi xuống tới đáy thì dẫu không thể chết cũng vĩnh viễn chẳng thể thoát ra nổi, chỉ riêng với kết quả ấy thôi, cho dù chúng ta có chết bao nhiêu lần chăng nữa, cũng coi như đã lấy lại được hết vốn, có điều nếu vẫn còn sống thì không thể khoanh tay ngồi đây đợi chết, anh liền bảo với mọi người: “Tôi thấy địa thế hang động này thoai thoải theo chiều đi xuống, nói không chừng cứ xuôi theo sườn dốc sẽ phát hiện thấy manh mối gì cũng nên, các cậu đừng ủ rũ như gà mắc mưa thế nữa, đây đã phải nơi sơn cùng thủy tận đâu, trước đây đội khảo cổ từng khốn đốn mắc kẹt trong vòng tròn quái dị ở 30° vĩ Bắc, nơi đó hung hiểm đến chừng nào mà bọn ta vẫn thoát thân ra như thường đấy thôi!”

    Tư Mã Khôi cho rằng, không bao giờ thay đổi được những chuyện đã xảy ra, việc đội khảo cổ có thể sống sót thoát khỏi kiếp nạn này thật chẳng khác gì nằm mơ, vòng tròn quái dị ở 30° vĩ Bắc làm sao có thể so sánh được với huyệt động không đáy này, có điều cả hội cũng phải cố hết sức để tự cứu lấy mình, người xưa có câu “sống chết tại trời”, nhưng còn có câu “phúc lớn tránh đại nạn”, đừng lúc nào cũng đau đáu nghĩ tới hai chữ “rủi ro”, cả hội sống được đến ngày hôm nay chẳng phải phúc dày mạng lớn lắm hay sao? Anh thực sự không muốn chết ở nơi mà ngay thi thể và linh hồn mình đều bị Entroypy nuốt chửng, lúc này mà cứ ngồi đây suy nghĩ linh tinh, rồi đoán già đoán non thì cũng chẳng gặt hái được kết quả gì, chi bằng thử làm theo lời Hải ngọng, đi tiếp về phía trước xem sao, nghĩ vậy anh quay sang hỏi Cao Tư Dương xem cô có thể gắng gượng đi tiếp hay không?

    Cao Tư Dương gật đầu thật mạnh, biểu thị mình vẫn có thể tiếp tục hành động. Tuy cô cũng cảm thấy tuyệt vọng, nhưng nhìn Tư Mã Khôi và Hải ngọng dường như không hề lo lắng trước hoàn cảnh trước mắt, lòng cô cũng vững vàng hơn ít nhiều. Cô cúi xuống kiểm tra tình hình sức khỏe của Thắng Hương Lân, sau đó nai nịt phần ống quần thật chắc chắn, rồi lên đạn khẩu MP3 8.

    Tư Mã Khôi phân công Hải ngọng cõng Thắng Hương Lân, rồi dặn dò mọi người không được đi cách nhau quá một cánh tay, ngoài ra cần phải tiết kiệm đạn dược, nếu chưa đến bước đường cùng thì tuyệt đối không được nổ súng, sắp xếp xong xuôi, anh đi sau cùng đề phòng bất trắc, cả hội rẽ bụi nấm cỏ và linh chi rậm rịt, lần mò từng bước hướng về phía sâu trong huyệt động. Dọc đường đi, mọi người lại bắt thêm mấy con đom đóm đuôi dài để làm vật chiếu sáng.

    Loài côn trùng phát sáng ẩn nấp dưới lòng đất này cũng bị Entroypy nuốt vào trong bụng, nó biến mất rồi phục hồi theo quá trình quay ngược của thời gian trong động không đáy, có lẽ chỉ vài tiếng sau, chúng sẽ lần lượt chết đi, nhưng cho chúng vào hộp thiếc rỗng thì cũng có thể thay thế được đèn quặng một thời gian, chỉ có điều ánh sáng của nó khá yếu ớt, phạm vi chiếu sáng hẹp hơn đèn quặng rất nhiều.

    Mọi người xuôi theo địa thế của hang động, đi xuyên qua rừng nấm muôn hình vạn trạng, ngoại trừ mấy con đom đóm lác đác, thì cả hội không nhìn thấy bất kỳ sinh vật nào khác tồn tại ở đây, tứ phía tối thui và đặc biệt yên ắng, cảm giác như không khí nơi đây cũng đông đặc bất động, thấy vậy mọi người càng cảm thấy bất an. Hội Tư Mã Khôi không dám bất cẩn, tay nắm chặt khẩu súng, từng bước tiến sâu hơn, vì ở trong bóng tối nên cả hội chẳng hiểu mình đã đi được bao xa. Cao Tư Dương đi trước dẫn đường, đột nhiên cô phát hiện một cánh cửa đá rất to lộ ra trong lùm nấm, ánh sáng yếu ớt chỉ chiếu được phạm vi cách xa vài bước, hơn nữa lại bị lùm nấm Vân Chi gần đó che khuất tầm mắt, nên mọi người không nhìn thấy gì nhiều. Cả hội đứng trước khe hở của cánh cửa đá đang rộng mở, hai bên và trên đầu tối om, nhưng mọi người vẫn có thể cảm nhận được quy mô của cánh cửa đá to lớn vượt quá sức tưởng tượng.

    Hải ngọng đặt Thắng Hương Lân xuống, anh xách súng săn, bật đèn quặng lên, nơi ánh sáng có thể soi đến chỉ thấy bóng tối trải dài đến vô tận, không gian phía sau cánh cửa đá sâu hun hút, trên vách đá phủ lớp rêu khô rất dày, chẳng ai biết đây là đâu.

    Tư Mã Khôi giơ tay sờ vách đá ở cửa động, anh giật thót người, không hiểu vì nguyên nhân gì mà anh cảm thấy sự tồn tại của huyệt động này vô cùng chân thực. Ban đầu, đội khảo cổ đi xuyên qua tấm bia đá Bái Xà, lần đầu bị nhốt trong động không đáy, rồi gặp hàng loạt chuyện kỳ bí tuy rằng cũng giống như thật, nhưng chúng đều vô cùng quái dị và sặc mùi tử khí, không thể che đậy cũng chẳng thể xua tan. Nhưng sao cánh cửa đá mà mọi người vừa phát hiện lúc nãy lại đem đến cảm giác “chân thực” một cách mạnh mẽ đến vậy? Rốt cuộc nó dẫn đến nơi nào?
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này