1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Mê Tông Chi Quốc IV !! -Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 27/2/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 5: CÕI MÊ


    Tư Mã Khôi phát hiện trong huyệt động sâu hút mắt này, ngoại trừ bốn thành viên đội khảo cổ và loài côn trùng phát sáng nơi đầm lầy ra, thì ở đây còn có một cánh cửa bằng đá bị che khuất giữa lùm nấm rậm rạp, đó là vật thể tồn tại ngoài cõi thực.

    Có điều anh không thể đưa ra được bất kỳ chứng cứ gì để trực tiếp xác thực, tất cả chỉ là sự mách bảo của trực giác, cảm giác này tương tự lúc anh gặp Nhị Học Sinh trong động đạo, tuy gã đó có máu, có thịt, còn có cả hơi thở giống như người sống, nhưng Tư Mã Khôi luôn quả quyết rằng, hắn chính là thứ bị tấm bia đá nhốt nơi tận cùng địa mạch biến thành. Cả tòa đại điện đèn đuốc sáng trưng và khảm thần đặt trong đó nữa. Tất cả những thứ đó luôn váng vất hơi thở quái dị đến khó lòng hình dung. Bây giờ nghĩ lại anh mới thấy trăm ngàn ngọn nến trường minh vạn năm không tắt ấy thực ra chính là những con mắt của Entroypy. Trong khi đó, cánh cửa đá này đem đến cho anh cảm giác hoàn toàn khác, nó không thuộc về động không đáy, có lẽ nó là di chỉ mà người Bái Xà cổ đại lưu lại trong Entroypy.

    Mọi người không cam tâm bó gối đợi chết, họ quyết tâm đi vào huyệt động phía sau cánh cửa đá đó thăm dò tình hình, xem bên trong có thứ gì, sau đó mới quyết định bước hành động tiếp theo. Hải ngọng lập tức cõng Thắng Hương Lân lên lưng, Tư Mã Khôi xách hộp thiếc đựng đầy đom đóm đi trước dẫn đường, cả hội xuyên qua khe hở của cánh cửa khổng lồ, đi mãi vào trong.

    Cao Tư Dương nắm chặt cây súng. bám sát sau lưng Tư Mã Khôi, tuy ánh sáng đom đóm yếu ớt và phạm vi chiếu sáng khá hẹp, nhưng cả hội vẫn không khỏi ngạc nhiên trước vẻ cao lớn hùng vĩ của cánh cửa đá, mấy người đi qua khe cửa mà thấy như thể đang xuyên qua một khe cốc hẹp.

    Sau khi vào phía trong cánh cửa, mọi người mới phát hiện nơi mình đang đứng là một gian động thất, vách đá bằng phẳng, mặt đất phủ lớp rêu dày, ngoại trừ phiến đá nằm chỏng trơ, đơn độc ở giữa ra thì xung quanh trống trơn. Không hề có đồ vật gì khác, phía cuối gian còn có một cách cửa hình vòm, nằm chìm trong tường, xem ra từ đó có thể đi vào sâu hơn nữa.

    Hội Tư Mã Khôi phát hiện trên phiến đá trong động có hình vẽ, liền xúm lại xem. Khi bóc lớp rêu khô phủ bề mặt đi, dưới ánh sáng nhờn nhợn của đom đóm, Tư Mã Khôi thấy đó là hình vẽ tô tem vị thần cổ xưa hình cây khổng lồ. toàn thân mọc chi chít con mắt quái dị, có mắt nhưng không thể nhắm lại, có bụng nhưng không có lục phủ ngũ tạng, nó bất tử bất diệt và đang ngơ ngác chào đời giữa hư vô mông muội, giữa hỗn độn vạn vật. Xung quanh đó toàn là thi thể người và dã thú, khắp nơi cỏ lá héo khô tự thủa nào, tuyệt không thấy bong dáng con người, bức họa được điêu khắc vô cùng tinh tế và tỉ mỉ, toát ra vẻ thần bí khó diễn tả bằng lời.

    Cao Tư Dương rất kinh ngạc, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Bức họa này mô tả sự ra đời của Entroypy à?”

    Tư Mã Khôi gật đầu, anh giải thích thêm: “Cổ nhân thường mang những chuyện cũ khắc thành tranh để lưu lại cho hậu thế”, nói xong, anh lại chăm chú quan sát phía trên và phía dưới phiến đá thêm mấy lượt nữa, nhưng không phát hiện điểm gì bất thường. Động thất tuy lớn, nhưng chỉ có phiến đá và những hình vẽ cổ khắc trên nó, ngoài ra, không tìm thấy bất kỳ vật nào khác.

    Hải ngọng nói: “Nếu sớm tìm ra hình vẽ khắc trên phiến đá thì chúng ta đã không mất công chạy xa lắc xa lơ xuống lòng đất, rồi chui đầu vào rọ chịu chết thế này, bây giờ mới xem thì còn tác dụng mẹ gì nữa?”

    Cao Tư Dương đề nghị: “Hình như phia sau động thất này vẫn còn không gian khác nữa, không rõ bên đó có gì, hay chúng ta sang xem rồi bàn sau?”.

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng có ý đó, vậy là cả hội liền sang gian bên cạnh, vừa nhìn đã thấy kết cấu và vẻ ngoài của gian này rất giống gian trước đó, trên mặt đất cũng có phiến đá khắc hình vẽ. Bức họa khắc trên phiến đá thứ hai này vẽ một cảnh tượng khủng khiếp – Entroypy đang nuốt chửng vạn vật, phía dưới có vô số người Bái Xà cổ đại quỳ rạp xuống đất cầu xin.

    Lúc này, mọi người mới biết, các hình vẽ khắc trên phiến đá có nội dung liên quan với nhau, động thất này có lẽ vẫn chưa phải gian cuối cùng, mà còn có thể tiếp tục vào sâu hơn nữa. Bức tranh vẽ trên phiến đá trong gian động thất thứ ba vẽ cảnh người Bái Xà cổ đại tôn Entroypy làm thần sống, mấy vị vương gia đều đội trang sức hình cây cổ thụ khổng lồ trên đầu và liên tục hiến người sống vào trong động làm vật tế thần.

    Những ghi chép liên quan đến Entroypy, hội Tư Mã Khôi đều đã biết từ trước, nên giờ không ai thấy lạ lẫm hay bất ngờ với nội dung này, nhưng cả hội không thể nghĩ ra nguyên do vì sao lại có những phiến đá khắc hình vẽ kia? Rốt cuộc nơi đây còn bao nhiêu phiến đá như thế nữa? Vì sao chúng lại được phân chia và đặt trong các gian động thất khác nhau? Liệu những bức họa phía sau còn ẩn giấu bí mật động trời nào nữa chăng?

    Nghi vấn trong lòng mỗi lúc một nhiêu thêm, nên mọi người chỉ xem lướt qua, rồi vội vàng đi tiếp vào gian trong.

    Dọc đường, Cao Tư Dương vẫn đặc biệt để ý đến kim đồng hồ, cô thấy thời gian chưa hề xuất hiện sự thay đổi khác thường nào.

    Cả đoàn rào bước nhanh hơn vào gian động thất đặt bức tranh thứ tư. Bức họa này vẽ hình người Bái Xả xây miếu thần cho Entroypy, tôn tô tem cây cổ thụ và rắn bay lâm lưỡng thần, đồng thời mô tả Entroypy giống như một hắc động giữa hư vô. Thi thể và linh hồn của người Bái Xà cổ đại sau khi chết đi đều được đưa vào trong động và bị vị thần cổ xưa ăn mất. Kiếp người vốn “sinh tử vô thường”, nhưng ai được Entroypy nuốt chửng sẽ không bao giờ phải chết thêm lần nữa, bởi vì kể từ đó họ đã trở thành một bộ phận của động không đáy, con đường dẫn tới cõi trường sinh thực ra chính là cái chết vĩnh viễn.

    Phiến đá thứ năm ghi lại câu chuyên người Bái Xà cổ đại lừa dị thần Entroypy. Họ dùng tấm bia khắc lời nguyền chết chóc để nhốt Entroypy vào nơi tận cùng của địa mạch.

    Do khắp người con quái vật hình cây cổ thụ khổng lồ này mọc toàn những con mắt không bao giờ khép lại, nên những bộ phận nhìn thấy tấm bia đá của nó sẽ lập tức khô quắt và chết, nhưng phần còn sống tiếp tục tái sinh, thay thế cơ thể bị hoại tử trước đó, nhưng khi vị thần cổ hoàn toàn sống lại thì nó lại nhìn thấy tấm bia đá và chết đi lần nữa. Từ đó, nó chìm sầu vào vòng xoáy sinh tử và không thể tự mình thoát ra nổi.

    Mọi người xem một mạch đến phiến đá thứ sáu. Đó là cảnh tượng xảy ra sau khi người Bái Xà cổ đại dùng tấm bia đá nhốt vị thần cổ trong hắc động, họ cũng không tránh khỏi kiếp nạn của đất trời, đa số người Bái Xà bị hồng hoang nuốt chửng, tàn nhánh ít ỏi sống sót cũng dần dần diệt vong.

    Hải ngọng sốt ruột, anh thấy đội khảo cổ đã biết hết những chuyện này, giờ xem đi xem lại phỏng có ích gì?

    Tư Mã Khôi lại cảm thấy bức họa khắc trên các phiến đá rất bất thường. Sau khi người Bái Xà cổ đại dựng tấm bia đá, thì họ mới bị tổn hao nguyên khí do ảnh hưởng của chiến tranh, rồi lại bị hồng hoang nuốt chửng dẫn đến họa diệt vong, còn những bức họa trong động thất này rõ ràng xuất hiện trước khi người Bái Xà dựng bia đá. Từ bức họa thứ năm trở đi, thì cảnh tượng được vẽ hoàn toàn chưa xảy ra. Vì sao những tiên đoán về chuyện người Bái Xà cổ đại sẽ trải qua lại xuất hiện trước ở đây như vậy?

    Hải ngọng bừng tỉnh ngộ: “Ừ nhỉ! Sao tớ không nhận ra điều này, sao xảy ra chuvện đó được?”

    Cao Tư Dương ngạc nhiên quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Ai có thể biết trước chuyện chưa hề xảy ra? Lẽ nào đây là lời tiên tri mà người Bái Xà cổ đại để lại cho hậu thế?”

    Ngay lúc này, Tư Mã Khôi cũng không thể đoán nổi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, điều quan trọng nhất là anh luôn cảm nhận được một cách vô cùng mạnh mẽ về sự tồn tại của gian động thất này. không giống như lúc cả hội thâm nhập tòa thạch điện đèn đuốc sáng trưng trong hắc động, ở đó từ trong ra ngoài đều bốc mùi tử khí từ hư vô. Không rõ liệu đây có phải là di tích mà người Bái Xà cổ đại để lại trong động không đáy? Sao ở đây lại có các bức họa miêu tả những việc chưa hề xảy ra vào thời điểm đó? Lẽ nào giữa cõi âm gian này lại thực sự tồn tại sức mạnh thấu hiểu mọi tiền nhân hậu quả trên đời? Bức họa trên phiến đá tiếp theo liệu sẽ ám thị những bí mật gì?

    Mọi người bị lòng hiếu kỳ thúc giục, nên tiếp tục rảo nhanh bước chân đi xem các phiến đá tiếp theo. Cả hội хеш hết phiến này đến phiến khác, những bức họa cồ đại càng lúc càng khiến hội Tư Mã Khôi kinh ngạc hơn. Bức họa khắc trên phiến đá thứ bảy vẽ một vật thể hình người khổng lồ đứng sừng sững trong vực sâu thăm thẳm, những con rắn kỳ quái bay lượn xẹt qua xẹt lại, còn con quái vật đáng sợ quanh người toàn mắt thì ẩn nấp dưới vực thẳm lén lút quan sát mọi việc.

    Tư Mã Khôi càng ngạc nhiên hơn khi nhìn thấy nội dung vẽ trên bức họa đá chính là chiếc hộp thời gian. Đó là máy bay Hải Âu C-47 bị rơi giữa chặng đường bay. Không rõ rốt cuộc bức họa cổ quái này xuất xứ từ đâu?

    Mọi người bất giác bị các hình vẽ thần bí và quái dị trên các bức điêu khắc đá thu hút tự bao giờ, ai nấy đều khẩn trương muốn xem điều gì sẽ xuất hiện trong những bức tranh kế tiếp, nên chẳng bận tâm nghĩ ngợi nhiều, lập tức đi tìm phiến đá tiếp theo. Một bức họa trong số đó vẽ cảnh tấm bia đá ở tận cùng địa mạch, bên ngoài tấm bia có bốn người đang đứng và một cỗ thi thể nằm đổ rạp, tuy không nhìn rõ từng đường nét, nhưng chỉ cần không bị mù thì lập tức có thể nhận ra mấy người đó chính là đội khảo cổ đang tìm cách tiếp cận tấm bia đá, còn kẻ đố gục trên mặt đất chính là Nhị Mục Sinh, phía trong tấm bia đá có vô số con mắt vô hồn đang dõi theo từ trong bóng tối. Có lẽ đó chính là cảnh tượng lúc đội khảo cổ chuẩn bị vượt qua tấm bia đá.

    Xem tiếp mấy bức họa trên các phiến đá tiếp theo, lần lượt hiện ra các cảnh tượng đội khảo cố kích nổ cuộn thuốc, khiến tấm bia đá sụp đổ, rồi vị thần cổ bị nhốt trong động nhờ đó đã thoát khỏi trạng thái chết khô, phục hồi nguyên dạng, đội khảo cổ có cơ hội trốn thoát, chạy một mạch đến đầm dạ quang, vị thần hình cây khổng lồ liền đuổi theo, nhưng sau đó bị sa chân vào đầm lầy, từ từ chìm xuống hồ axit. Trong phút giẫy giụa cuối cùng, nó đã nuốt cả bốn kẻ may mắn sống sót cúa đội khảo cổ vào trong bụng, sau đó chính là cảnh đội khảo cổ mò mẫm tìm đường trong động không đáy, cho đến khi phát hiện ra cánh cửa khổng lồ này và bước vào trong xem các hình vẽ.

    Hải ngọng vừa хеm vừa kinh ngạc hỏi: ‘Tớ thấy chẳng phải các cảnh tượng vẽ trong bức họa đều miêu tả chuyện của chúng ta sao? Rốt cuộc kẻ nào đã tiên liệu trước tất cả nhừng việc này và khắc lên phiến đá nhi?”

    Tư Mã Khôi và Cao Tư Dương kinh hãi, ngạc nhiên đến cực điểm. Mọi người xem một mạch, đến lúc này họ không rõ mình đã xem bao nhiêu bức tranh rồi, nhưng xem ra các phiến đá trong động thất dường như vẫn trải dài dến vô cùng vô tận. Điều kỳ lạ nhất là nội dung miêu tả trong các bức họa tính đến thời điểm hiện giờ thì hoàn toàn trùng khớp với hành động của đội khảo cổ. Đây là di tích cổ đã tồn tại trên đời từ hàng ngàn năm trước? Hay chỉ lả sản phẩm tưởng tượng do Entroypy tạo ra?

    Cao Tư Dương nhìn những phiến đá phía trước, cô chỉ muốn mau chóng được xem tiếp nội dung sau đó, nhưng xem đến chỗ nảy, lòng cô không khỏi khiếp đảm, cô lo lắng nóí với Tư Mã Khôi; ‘” Những bức họa tiếp theo khắc trên phiến đá chính là những chuyện sắp xảy ra…”

    Tư Mã Khôi cũng thấy kỳ lạ, anh bảo: “Neu vẫn còn những phiến đá tiếp theo, thì không hiểu chúng sẽ vẽ những cảnh tượng gì? Chỉ cần là những sự việc ghi chép trong tranh, dẫu chưa xảy ra, nhưng sau này nhất định sẽ trở thành sự thực sao?”

    Tư Mã Khôi nói, Entroypy không hề được ghi chép trong sử sách cổ đại, tuy nó được người Bái Xà tôn thờ thành thần thánh, nhưng thực ra nó chẳng qua chỉ là một dị vật bất tử bất diệt trốn dưới cửu tuyền mà thôi, còn lâu mới đạt tới trình độ ‘cưỡi gió đằng vân, đi xuyên qua vật’, chắc không thể nhìn thấy những sự thực chưa xảy ra, bởi nếu nó quà thật có khả năng ấy, thì đã không đến nỗi bị đội khảo cổ dụ xuống đầm lầy. Nhưng nghĩ sâu xa hơn một chút, anh lại thấy bất kể sức mạnh nào cũng không thể thay đổi được sự thực đã được định đoạt là sẽ xảy ra, cho dù ai đó biết trước được tiền nhân hậu quả, thì chắc chắn cũng không thể thay đổi được kết quả tệ hại, nếu không điều nó thấy trước sẽ không còn là sự thực.

    Đồng thời, Tư Мã Khôi cũng suy ngẫm: “Nếu Entroypy muốn ăn thịt mấy người đội khảo cổ, thì nó chẳng cần tốn chút công sức nào, nhưng đội khảo cổ chỉ bị rơi vào động không đáy thêm lần nữa chứ chưa bị Entroypy nuốt chửng. Có lẽ những bức họa được vẽ liên liếp trên các phiến đá chỉ là ảo tưởng do Entroypy tạo ra, không hiểu nó làm vậy nhằm mục đích gì? Ngoài ra, cảm giác gian động thất phía sau cánh cửa đá đang tồn lại vẫn vô cùng mãnh liệt trong tâm thức của cả hội, chính họ cũng không hiểu là vì nguyên cớ gì?

    Hải ngọng nóng ruột không đừng dược, liền hấp tấp nói: “Chưa bao giờ gặp phải việc quái quỷ thế này, tớ nghĩ nát óc mà vẫn chẳng ra kết quả, thôi thì cứ xem tiếp mấy phiến đá phía sau là hiểu ngay chứ gì!”, nói xong anh lại cõng Thắng Hương Lân đang hôn mê lên lưng bước tiếp.

    Tư Mã Khôi thầm linh cảm thấy điềm chẳng lành, anh ra hiệu cho Cao Tư Dương chú ý động tĩnh xung quanh, cùng lúc đó anh giơ cao hộp thiếc chứa dầy đom đóm bên trong, bám sát theo sau Hải ngọng, tiến về phía phiến đá kế tiếp, lấy dao cạo sạch rêu khô trên bề mặt. Nhờ ánh sáng đom đóm yếu ớt, cả hội nhìn thấy hình vẽ khắc trên phiến đá, nhưng mới nhìn vào bức họa, ba người đã bất ngờ kinh ngạc đến nỗi miệng há hồi lâu mà mãi chưa ngậm lại được.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 6: RUNG CHUYỂN


    Hội Tư Mã Khôi sốt ruột muốn biết ngay kết quả, nhưng khi xem phiến đá tiếp theo thì thấy hình vẽ hoàn toàn trùng lặp với hình trước đó, những phiến đá ở các gian động thất phía trong cũng giống hệt nhau, tất cả đều mô tả cảnh tượng đội khảo cổ đang xem bích họa trong động thất, ngay cả động tác cũng không hề thay đổi.

    Ba người sững sờ ngạc nhiên, không hẹn mà cũng thốt lên hỏi đối phương: “Vì sao bích họa trên các phiến đá phía trong lại giống hệt nhau như vậy nhỉ?’’

    Hải ngọng chửi thề: “Con mẹ nó, tà mị quá! Nếu nội dung trên bích họa trở thành sự thực thì tiếp sau đây…”

    Cao Tư Dương nối lời: “Theo như tiên đoán… tiếp sau đó chúng ta cứ xem mãi hay sao?”

    Hải ngọng nói: “Nhưng nếu không xem tiếp, thì không biết phía sau còn vẽ nội dung khác biệt nào không, phải làm sao bây giờ?”

    Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Không đúng, mấy bức họa này đã làm phân tán và chuyển hướng sự chú ý ban đầu của bọn ta, lúc mới vào đây, chắc chắn cả hội đã bỏ qua chuyện gì đó…” Anh lập tức rời mắt khỏi phiến đá, giơ cao hộp thiếc đựng mấy con đom đóm đang tỏa ra thứ ánh sáng yếu ớt, anh soi khắp tứ phía, nhưng trong gian động thất tối om hoàn toàn trống trơn, tất cả những gì anh nhìn thấy ở đây chỉ có những mảng rong rêu âm u bám đầy vách tường.

    Hải ngọng nhìn thấy hành động khác thường cùa Tư Mã Khôi, lại ngỡ xảy ra biến cố gì, anh vội vàng nhẹ nhàng đặt Thắng Hương Lân nằm xuống đất, rồi bật đèn quặng lắp trên mũ liễu, đồng thời giương cao khẩu súng săn gấu Canada lên.

    Thắng Hương Lân chạm lưng vào mặt đất lạnh lẽo, cô dần dần tỉnh lại, nhưng sắc mặt vẫn vô cùng khó coi.

    Hội Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân tỉnh lại, ai nấy đều mừng thầm trong bụng, thi nhau hỏi dồn dập: “Cô thấy thế nào rồi? Đã khỏe hơn chưa?”

    Thắng Hương Lân khe khẽ gật đầu, hỏi lại: “Chúng ta đang ở đâu đây?”

    Cao Tư Dương kể vắn tắt cho Thắng Hương Lân nghe một lượt từ khi tấm bia đá đổ sụp, việc đội khảo cổ vừa tháo chạy vừa dụ Entroypy vào đầm lầy axít, rồi giờ cả hội lại bị rơi vào động không đáy lần nữa…

    Thắng Hương Lân nghe xong, đôi mày thanh tú chau lại, cô nghĩ thầm đội khảo cổ đã phát hiện thấy bích họa khắc trên các phiến đá với nội dung vô cùng ly kỳ trong động thất phía sau cánh cửa khổng lồ, rất có khả năng tất cả sự việc này là do Entroypy đã lợi dụng mấy bức bích họa để dụ đội khảo cổ vào đây.

    Tư Mã Khôi cũng có cảm giác này, bích họa chỉ phát huy tác dụng thu hút sự chú ý của đội khảo cổ, dưới sự thúc giục của lòng hiếu kỳ, cả hội đi xuyên qua hết căn phòng này đến căn phòng khác, mà bỏ qua bản thân gian động thất, vì sao không gian phía sau cánh cửa khổng lồ kia lại tồn tại nhiều căn phòng với kết cấu hao hao giống nhau đến thế? Ngoài ra, Tư Mã Khôi còn lờ mờ nhớ rằng, trước đây, cả hội đã từng có một trải nghiệm tương tự như vậy, vì thế dự cảm bất an trong lòng anh càng lúc càng trở nên mãnh liệt.

    Cao Tư Dương nhớ, dường như cả hội đã đi qua hơn một chục gian phòng. Để tiết kiệm pin đèn, suốt dọc đường, họ chỉ nhờ ánh đom đóm soi sáng, phạm vi tầm nhìn không vượt quá dăm ba bước, hầu như không có vật tham chiếu, chẳng lẽ kết cấu của những gian động thất này lại thực sự giống nhau ư? Vì sao càng đi sâu vào trong, cô càng thấy không gian chật hẹp hơn?

    Tư Mã Khôi lập tức nhận ra, anh liên tục mắng mình quá sơ ý, rồi vội vàng rút dao săn ra, cạo lớp rêu dày phủ trên mặt đất, anh thấy phía dưới là tầng đá với dấu hoa văn hình biển gợn sóng, Tư Mã Khôi thầm than khổ: “Toi rồi! Động thất này chính là hóa thạch của vỏ ốc anh vũ cổ đại!”

    Trước đây, đội khảo cổ cũng từng đi qua cái vỏ rỗng hóa thạch của ốc anh vũ, để đến đại dương sâu khôn lường ở 30° vĩ Bắc, từ đó thâm nhập cửu tuyền, chẳng ngờ trong động không đáy này cũng có một vỏ ốc hóa thạch, xem ra nó là vật mà người Bái Xà cổ đại đã để lại, suốt dọc đường cà hội chỉ mải xem nội dung trên bích họa mà không để ý các gian phòng càng lúc càng nhỏ dần, không hiểu Entroypy dụ đội khảo cổ đến đây rốt cuộc nhằm mục đích gì?

    Tư Mã Khôi đoán, con quái vật hình cây cổ thụ kia không thể chui qua vỏ ốc hóa thạch để nổi lên khỏi cửa tuyền, lẽ nào nó muốn lợi dụng bốn kẻ may mắn sống sót trong đội khảo cổ mang một phần của nó ra khỏi lòng đất? Cũng giống như năm đó, Nấm mồ xanh đã trốn vào trong cỗ di hài để chạy thoát khỏi vực sâu dưới cửu tuyền.

    Bản thân vỏ ốc anh vũ hóa thạch là di vật mà người Bái Xà để lại trong động không đáy, nó cũng giống như đội khảo cổ, đom đóm, chiếc hộp thiếc và súng đạn, đều là những vật vốn tồn tại ở bên ngoài động, bởi vậy Tư Mã Khôi mới cảm thấy sự tồn tại của nơi này hết sức rõ ràng, còn bích họa trên các phiến đá bên trong động chỉ là ảo giác mà Entroypy tạo ra, chiếc vỏ rỗng này có khả năng giúp vật thể sống tránh khỏi sức ép của địa áp, nổi lên mặt thủy thể 30° vĩ Bắc. Vấn đề là con quái vật đã chìm xuống đầm lầy, làm sao nó có thể khiến vỏ ốc anh vũ rời khỏi nơi đây được?

    Hải ngọng cho rằng, bây gíờ biết cũng vẫn chưa muộn, cả hội phải nhanh chóng quay ngược trở lại và chạy ra khỏi vỏ ốc, còn đứng ngây người ở đây chỉ tổ làm lỡ thời gian mà thôi.

    Tư Mã Khôi nói: “Chúng ta đã vào quá sâu, bây giờ quay trở ra chắc chắn không kịp nữa… ”, lời còn chưa dứt thì đèn quặng và hộp thiếc đựng đom đóm đột nhiên tối sầm lại, một màu đen đặc bao trùm khắp động, đến người đối diện, họ cũng không nhìn thấy rõ nữa.

    Tư Mã Khôi biết thời gian lại bắt đầu quay ngược, cái động không đáy Entroypy này giống như một kẽ hở thời gian có thể tự khép mở, trong đó một giây được kéo dài đến vô hạn, quá trình đội khảo cổ đi vào nơi sâu nhất của vỏ ốc hóa thạch chẳng qua chỉ là khoảnh khắc một giây mà Entroypy chìm xuống đầm lầy.

    Sau khi đèn đóm của đội khảo cổ bị tắt hết, chỉ nháy mắt sau tất cả lại khôi phục chức năng chiếu sáng như cũ, toàn bộ bích họa trên các phiến đá và rong rêu trong động thất của vỏ ốc đều biến mất dạng, kim đồng hồ trên tay Cao Tư Dương cũng quay như bay về thời khắc xuất phát.

    Hội Tư Mã Khôi thấy mình vẫn đứng trong vỏ ốc hóa thạch, lòng tự dưng thấy khiếp đảm, bỗng chốc bốn bức tường rung lên ầm ầm, mặt đất rung chuyển dữ dội, mọi vật quay cuồng, cả hội thấy vậy vội vàng đỡ Thắng Hương Lân lên, cố dựa vào vách động để đứng vững.

    Hải ngọng hét lên: “Ối ông địa ơi, trong động không đáy mà cũng động đất cơ à?”

    Cao Tư Dương đính chính: “Không phải động đất, hình như cái vỏ ốc đang bị chìm xuống!”

    Tư Mã Khôi biết rõ sự thực chính xác là vậy, giây phút này, họ không nhìn thấy tình hình bên ngoài động, chỉ cảm thấy đúng là cả hội đang rơi, chắc hẳn Entroypy đã bị chìm xuống đầm. Dưới đáy khu đầm có rất nhiều sinh vật phát sáng này là hồ axit sulftiric với quy mô vô cùng rộng lớn, lượng axit trong hồ đủ khiến vẫn thạch sắt cũng bị ăn mòn. Sau khi Entroypy chìm xuống đáy hồ, dẫu cơ thể nó liên tục tái sinh thay cho phần bị ăn mòn hoại tử, rồi phục hồi nguyên dạng, nhưng axit đậm đặc xung quanh nó cũng sẽ không ngừng tiếp tục ăn mòn nó, huống hồ dưới đáy hồ là thế giới không tồn tại sinh mệnh sống, xuống sâu hơn nữa chính là biển nóng nơi tâm Trái đất, ở đó chỉ có đại dương mênh mông ngày đêm cuồn cuộn dòng sắt nóng chảy, đâu đâu cũng toàn những vòng sáng khổng lồ phát ra từ điện từ, bất cứ vật thể gì bị rơi xuống đó đều không thoát khỏi số phận tan thành mây khói. Giờ con quái vật đã khó lòng thoát thân, vậy sao nó còn dụ mọi người đi vào vỏ ốc hóa thạch? Trong thời khắc cuối cùng, sinh vật cổ xưa hàng vạn năm không chết này còn muốn cố gắng giãy giụa như thế nào nữa?

    Ý nghĩ còn chưa tan trong đầu, thì cả hội thấy mình bị bắn vọt lên cao một cách thần tốc theo chiếc vỏ ốc, chẳng khác nào cưỡi gió đằng vân, cả thân thể như sắp nổ tung đến nơi. Trong chùm sáng chập chờn bất định, cả hội thấy gân trên cánh tay nổi lên cuồn cuộn, chắc chắn huyết quản đang giãn nở theo sự thay đổi đột ngột của địa áp.

    Mọi người nhìn nhau kinh hãi, không rõ vì sao vỏ ốc hóa thạch lại đột nhiên bắn vọt lên không trung, với tốc độ rời khỏi vực sâu nhanh vun vút thế này, dẫu ở trong vỏ ốc hóa thạch giống như khoang giảm áp thiên nhiên thì huyết dịch toàn thân cũng sôi sục mà chết.

    Đầu óc cả hội quay cuồng dữ dội, trong lúc mơ mơ màng màng, mọi người nhanh chóng mất ý thức. Chẳng rõ bao lâu thời gian qua đi, Tư Mã Khôi cảm thấy mình đang nằm rạp trên mặt đất lạnh lẽo, bên tai vang lên tiếng ong ong không ngớt, anh văng vẳng nghe thấy âm thanh sóng biển ầm ầm dội lại. Trong cơn hoảng hốt, anh mới nghĩ ra: Entroypy không thể làm thời gian thực sự bên ngoài quay ngược trở lại, bởi vậy sự thực nó đã bị rơi xuống đầm lầy cũng không cách gì thay đổi được, sau khi đội khảo cổ đi sâu vào trong vỏ ốc hóa thạch, nó bèn vươn dài người xuyên thủng dòng biển nóng ở tâm Trái đất, rồi lập tức nôn chiếc vỏ ốc ra ngay sau đó, dòng khí phun trào từ dòng biển nóng đã đẩy vỏ ốc đi, bắn thẳng lên trên thủy thể thông qua kẽ nứt của địa cốc.

    Giữa thủy thể 30° vĩ Bắc và dãy núi dưới lòng đất bao phủ tầng khí hỗn độn mù mịt, nếu không ẩn mình ở nơi sâu trong chiếc vỏ ốc hóa thạch giống như khoang giảm áp, thì cả đội khảo cổ sớm đã bị địa áp và dòng khí nhiều động xé tan thành mảnh vụn rồi. Lúc này, nghe tiếng sóng biển vỗ bờ, cà hội biết mình đã nồi lên mặt biển ở dưới lòng đất 30° vĩ Bắc. Việc Entroypy để mấy người bọn họ sống sót chắc chắn vì nó muốn các thành viên đội khảo cổ biến thành “gian phòng” đem nó lên mặt đất, có điều cơ thể con quái vật quá to lớn, nên nó không thể mang toàn bộ thân mình bò vào vỏ ốc, nó đành giấu một phần thịt ở đâu đó quanh đây, còn cơ thể nó đã bị dòng biển nóng nơi tâm Trái đất nhấn chìm.

    Tư Mã Khôi suy nghĩ miên man trong trạng thái nừa tỉnh nửa mơ, bao nhiêu ý niệm dồn dập ùa đến. Anh đoán, chắc chắn Entroypy vẫn đang trốn trong vỏ ốc hóa thạch. Nghĩ đến đây, người anh bất giác run lên lập cập, mặc cho thân thể vẫn đang đau nhức như muốn chết, anh cắn chặt răng, gọi hội Hải ngọng dậy. Phát hiện tất cả đom đóm nhốt trong hộp thiếc đều đã chết rụi, cả hội liền nhặt súng lên, rồi liêu xiêu dìu nhau ra ngoài cửa động.

    Bản năng sinh tồn trỗi dậy mãnh liệt khiến cả hội liên tục chạy xuyên qua mười mấy gian động thất, ra đến ngoài cửa động hóa thạch, họ thấy trước mắt sóng biền cuộn trào, mặt biển trải rộng tít tắp, trên cao mây đen bủa vây, sấm chớp ẩn hiện, chiếc vỏ ốc hóa thạch khổng lồ đang trôi nổi tự do trên dòng đại dương mênh mông nơi 30° vĩ Bắc.

    Thoát khỏi kiếp nạn và may mắn sống sót, bốn người ngơ ngác đứng chôn chân tại chỗ, người nọ nhìn người kia, trông ai cũng như ma hiện hồn giữa nhân gian. Trong sát na đó, bao nhiêu cảm xúc đan xen dâng trào, họ chỉ biết câm lặng nhìn nhau, chẳng ai ngờ mình còn giữ được mạng sống thoát ra khỏi cõi cửu tuyền u minh, nhưng giờ đây đạn hết, lương thực cũng cạn kiệt, không tàu không bè, trôi nổi trên biển không điểm tận cùng, thì cũng khác nào sắp chết?

    Hải ngọng động viên mọi người: “Lạc quan lên nào! Chạy được đến đây coi như chúng ta phúc dày mạng lớn rồi, nói gì thì nói vẫn tốt hơn nhiều việc bị cái động không đáy đó nuốt chửng”.

    Cao Tư Dương lẩm bẩm: “Trôi nổi trên đại dương ở dưới lòng đất thế này, nếu không bị chết đói, thì cũng bị núi từ hút chặt mà thôi, rồi tất cả sẽ biến thành con ma biết đi trên hòn đảo cổ cả lượt!”.

    Tư Mã Khôi cảm thấy mọi chuyện vẫn chưa kết thúc ở đó, Entroypy nhất định còn đang trốn trong vỏ ốc hóa thạch, mấy thành viên đội khảo cồ có thể sống sót và nồi lên thủy thể 30° vĩ Bắc chẳng qua là do Entroypy cần người mang nó chạy trốn khỏi nơi này, rồi trở thành một Nấm mồ xanh khác, bởi vậy bây giờ mọi người phải nhanh chóng rời khỏi vỏ ốc hóa thạch mới được. Anh quan sát tứ phía xung quanh, phát hỉện có mấy vỏ ốc cúc đá dính ở ven rìa vách động, bề mặt được tráng lớp nham thạch hóa nguội. Một trong những vỏ ốc đó đã xuất hiện vết nứt vỡ khá lớn ở nơi dính liền với phần vách hóa thạch, vỏ ốc to cỡ hai cái bàn Bát tiên, đủ sức chứa bốn, năm người, vừa vặn có thể biến nó thành chiếc thuyền nhỏ vượt biển. Anh ngẫm nghĩ sóng nước ở thủy thể dưới lòng đất rất hung dữ, kích thước thuyền càng nhỏ thì tốc độ chạy càng nhanh, thế là anh gọi Hải ngọng đến giúp một tay đẩy nó xuống nước.

    Mọi người liên thử đẩy vỏ ốc cúc đá, sau đó lần lượt trèo lên. Trong làn sóng dập dềnh đưa cả hội ra khơi xa, cái cửa động khổng lồ quái dị của vỏ ốc anh vũ hóa thạch kia trong chớp mắt đã biến mất trên mặt biển đen ngòm.

    Lúc này, Thắng Hương Lân đột nhiên nhớ đến một việc vô cùng đáng sợ, cô lo lắng hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có chắc, đến giờ phút này, chúng ta vẫn chưa biến thành… ‘gian phòng’ ăn thịt người chết đấy chứ?”

    Hải ngọng nghe vậy cũng lo lắng, anh hấp tấp nói: “Có lý! Không chừng lúc chúng ta hôn mê bất tỉnh, thứ đó đã chui vào bụng mình lúc nào không hay ấy chứ. Nếu cứ phải sống ngày nào biết ngày đó thế này, tôi thà tự bắn một phát kết liễu cuộc đòi, chứ tuyệt đối không muốn bị biến thành Nấm mồ xanh đâu”.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 7: PHÂN BIỆT


    Lúc này, Tư Mã Khôi cũng cảm thấy bất an, vị thần cổ hàng vạn năm không chết đó đã thả đội khảo cổ ra khỏi động không đáy chẳng qua chỉ vì một mục đích duy nhất. Việc nó đã rơi vào tâm Trái đất là sự thật không thể thay đổi, nên nó đành lựa chọn một con đường khác để tiếp tục được sống, đó chính là khiến một trong bốn thành viên hoặc tất cả các thành viên của đội khảo cổ biến thành Nấm mồ xanh.

    Nếu ai trực tiếp ăn thịt vị thần cổ, thì kẻ đó sẽ trở thành “gian phòng số 0” của tổ chức, ý thức và cơ thể của người đó sẽ dần dần bị nó chiếm lĩnh, tuy nhiên ngay bản thân người đó cũng không thể nhận ra điều này khi mới ăn thịt. Bây giờ chẳng ai nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra lúc mình bị mất ý thức trong vỏ ốc hóa thạch nữa, không biết con quái vật khắp người toàn mắt có nhân cơ hội đó chui vào trong bụng mình chăng?

    Mọi người đưa mắt nhìn nhau mà chẳng biết nói gì. Trong bốn kẻ may mắn sống sót giờ đây, ít nhất có một người đã biến thành “gian phòng”, nhưng làm cách nào để nhận ra người ấy? Điều khó xử hơn là khi nhận ra được, thì buộc phải giết chết kẻ đó. Cả hội đã cùng nhau trải qua bao nhiêu biến cố sinh tử, nguy hiểm, gian nan mới có thể ra khỏi cửu tuyền và sống sót đến giờ phút này, bất kể ai bị biến thành “gian phòng”, thì người ấy cũng chỉ còn con đường chết, vấn đề là người nào có thể đang tâm ra tay giết chết bạn đồng hành của mình?

    Tư Mã Khôi nhớ lại chuyện của Nhị Học Sinh, anh biết không thể nhận ra “gian phòng” nếu chỉ thông qua các biểu hiện bề ngoài, anh rất hối hận vì lúc trước đã không chép dòng chữ khắc trên tấm bia Bái Xà vào cuốn sổ, suy đi tính lại mới thấy chỉ dòng chữ ấy mới có thể xác định được rốt cuộc ai là “gian phòng” mà thôi.

    Thắng Hương Lân nói với giọng đầy lo âu: “Nếu vô tình mang Nấm mồ xanh ra khỏi lòng đất thì đúng là chết trăm lần cũng không chuộc hết tội rồi”.

    Hải ngọng đưa ra ý kiến: “Nếu ai cảm thấy mình đã ăn thịt người chết, thì nhân lúc chưa muộn hãy tự giơ tay lên, ngày xưa các cụ nói câu nghe chí phải ‘núi giấu ngọc, núi xanh non; cát giấu vàng, cát phát sáng; quỷ thai giấu trong phủ tạng, lời ăn tiếng nói đều bất bình thường…”

    Tư Mã Khôi nói: “Không chừng tất cả chúng ta đều đã biến thành ‘gian phòng’ mà không hay ấy chứ, đây đâu phải vấn đề của riêng ai, phải mau chóng nghĩ cách phân biệt chính xác mới được!”

    Hải ngọng bảo: “Nếu quả thực không còn cách nào khác, nếu không thể nhận ra…”, nói đến đây, anh chỉ ngón tay vào huyệt thái dương của mình, rồi tiếp lời: “… Thì chi bằng chúng ta cứ bắn một phát vào đây, thi thể chìm xuống biển, như vậy mới đảm bảo không xảy ra sự cố gì, mọi người đi trước, tôi chặn hậu, chúng ta hẹn gặp lại kiếp sau vậy!”

    Tư Mã Khôi sớm chẳng màng đến chuyện sống chết, anh không hề nghĩ mình có thể thoát khỏi cửu tuyền, huống hồ lần trước bị bom địa chấn mang chất độc màu da cam vấy bỏng khắp người, ngờ rằng có sống cũng chẳng mong được cái kết có hậu, chỉ cần giải quyết triệt để Nấm mồ xanh thì dẫu chết, anh cũng an lòng nhắm mắt; nhưng nếu phải chết một cách vô duyên vô cớ ở đây thì anh cũng không cam tâm, chẳng lẽ không còn cách nào phân biệt được hay sao?

    Giữa cái khó người ta thường ló cái khôn, điều đội khảo cổ đang lo lắng lúc này là chẳng biết khi mình mất ý thức ở trong vỏ ốc hóa thạch liệu có bị biến thành “gian phòng” ăn thịt người chết hay khồng? Con quái vật hình cây khắp người toàn mắt nom từa tựa một miếng thịt, nó được tạo thành từ khối tử khí không ngừng ngưng kết qua hàng vạn năm, bởi vậy mới nói nó chính là miếng thịt người chết, tất cả những “gian phòng” trực tiếp ăn thịt nó, thì mọi vết thương trên người đều tự động liền lại, nếu ai xuất hiện triệu chứng khác thường này, thì trong bụng kẻ ấy chắc chắn có miếng thịt người chết.

    Mọi người phập phồng lo lắng, lần lượt lấy dao rạch một đường trên mu bàn tay, nhưng không ai xảy ra hiện tượng bất thường gì, điều đó chứng tỏ trong đội khảo cổ không có sự tồn tại của “gian phòng”, bấy giờ mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.

    Tư Mã Khôi nghĩ thầm, Entroypy rốt cuộc cũng chỉ là một sinh vật sống, có lẽ trong lúc xuyên qua thủy thể 30° vĩ Bắc, nó đã mất ý thức do chịu ảnh hưởng của địa áp, bốn người đội khảo cổ lại tỉnh dậy và phục hồi tri giác trước nó và nhanh chóng rời khỏi vỏ ốc hóa thạch, chính vì vậy, họ mới may mắn thoát khỏi tai họa. Tuy nhiên tất cả chỉ là suy đoán, mong rằng mọi chuyện xảy ra đúng như suy đoán ấy.

    Lúc này, bốn người vừa lạnh vừa đói, mệt rũ muốn lả. Cao Tư Dương giúp cả đội băng bó lại vết thương trên tay, rồi chui vào trong vỏ ốc, nằm cuộn tròn ngủ thiếp đi, mặc cho vỏ ốc cúc đá trôi nổi bập bềnh theo dòng nước mênh mông, không thấy bờ bến.

    Những chấn động do dòng biển nóng phun trào gây ra đã khiến hàng đàn cá với hình dạng quái dị sống ở nơi sâu trong lòng thủy thể sợ hãi, chúng lũ lượt nổi lên mặt nước. Phần lớn các loài cá sống ở vùng nước sâu đều có bộ phận phát sáng, bộ phận này là mồi nhử giúp chúng săn mồi.

    Mọi người lần lượt tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, họ ra tay bắt mấy con cá, tuy chưa phân biệt được đó là loài cá gì, nhưng vì đang đói đỏ mắt, nên cả hội cũng chẳng buồn bận tâm, họ lập tức lấy dao đánh vảy, rồi ăn sống luôn. Vị cá tươi ngọt, lớp mỡ dày, nhiều nước tứa ra, mùi tanh sực lên không thể chịu nổi. Sau khi ăn xong, sắc mặt Thắng Hương Lân mới hồng hào hơn chút ít.

    Tư Mã Khôi để lại phần xương cá, đồng thời anh gom được chất phát sáng sinh học và cao dầu từ đống cá họ vừa ăn, làm thành mấy cây nến xương cá dùng tạm. Loại nến này có ưu điểm ở chỗ dẫu có thả xuống nước hay bị gió thổi cũng đều không tắt. Trong địa động tối đen như mực, sương từ dày đặc bủa vây mịt mù, thỉnh thoảng mới có tia sét lướt xẹt qua đỉnh đầu. Bây giờ có nến xương cá, lại thêm cả ánh sáng trắng phát ra từ sương từ, nên đội khảo cổ không cần sử dụng đèn quặng nữa.

    Hải ngọng thấy hình dạng mấy con cá này rất quái lạ, phía sau còn có hai cặp vây, trông nhang nhác giống tứ chi của con người, bất giác anh nhớ đến bọn quái vật cương thi sống gần hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn, nói không chừng lũ cá này là do người chết biến thành!

    Cao Tư Dương nghe Hải ngọng nói vậy, rồi lại thấy hình dạng cổ quái của mấy con cá đang bơi trong nước thì càng lúc cô càng thấy ghê cổ, rồi không nhịn được, cô nằm ẹp xuống mạn thuyền nôn ồng ộc.

    Thắng Hương Lân nói, loài cá tiền sử sống trong lòng biền 30° vĩ Bắc cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài này có lẽ là loài cá thuộc kỷ Devon, khi ấy ngay cả cá mập cũng có vảy, phần đa là loài cá có nhiều xương, dần dần chúng biến thành động vật lưỡng cư, bởi vậy một số loài cá mới mọc bốn vây trông giống như bốn chân ngắn nhỏ, nhưng chắc chắn đó không phải lũ quỷ nước trên đảo cổ Âm Sơn.

    Nghe Thắng Hương Lân phân tích, Cao Tư Dương mới cảm thấy yên tâm, có điều ngồi trong vò ốc cúc đá, lênh đênh giữa dòng thủy thể không phân biệt ngày đêm thế này, rồi cuối cùng cả hội sẽ bị núi từ hút chặt mà thôi. Căn cứ vào tình hình thực tại, dẫu hiện tại có giữ được mạng sống, thì vài ngày nữa cũng bị lũ cương thi trên núi lôi đi ăn thịt. Mà nếu đội khảo cổ may mắn không bị chúng ăn thịt đi nữa, thì sau thời gian dài tiếp xúc với núi từ, cả hội cũng sẽ bị mất trí nhớ và thoái hóa thành loài quái vật nửa người nửa cá.

    Hội Tư Mã Khôi biết rõ khó có thể tránh khỏi sự thật này, nhưng giờ đây, ngồi trong vỏ ốc hóa thạch, xung quanh sóng dữ vỗ ầm ầm, nước biển đen ngòm trải rộng bao la, cả hội lại không thể điều khiển được phương hướng, rơi vào tình cảnh này, dẫu bản lĩnh có lớn bằng nào chăng nữa cũng khó lòng thi triển, đến nước này mọi người chỉ biết nghe theo mệnh trời mà thôi.

    Do chịu sự ảnh hưởng của cơn địa chấn dữ dội lúc trước, nên mặt biển ầm ầm dậy sóng, thỉnh thoảng lại đổ một cơn mưa lớn, đôi lúc còn xuất hiện trận mưa đá lạnh thấu xương như băng tuyết, môi trường khắc nghiệt đến cực điểm, vậy mà không ngờ đội khảo cổ vẫn chịu được cái ầm ướt và lạnh lẽo đến khủng khiếp này, có lẽ do lúc trước mọi người đã ăn nhục chi trong địa cốc nên sức chịu đựng mới dẻo dai được như vậy, hơn nữa bây giờ lại lánh nạn trong vỏ ốc cúc đá, chứ nếu không, họ đã chẳng thể bảo toàn nổi tính mạng.

    Bốn người ngồi trong vỏ ốc cúc đá cứ thế bòng bềnh trên mặt biển, họ chẳng còn phân biệt được ngày hay đêm nữa. Vỏ ốc mải miết trôi về phía trước theo dòng nước đục ngầu đang cuồn cuộn chảy. Tuy phải trải qua hoàn cảnh bế tắc, nhưng ý niệm mưu cầu sinh tồn trong mỗi người vẫn rất mãnh liệt, cả hội cố gắng tiết kiệm số đạn dược và pin đèn cacbua còn sót lại, đồng thời thu thập thêm chất phát sáng sinh học để tạo ra nhiều nến xương cá hơn.

    Hôm ấy, Hải ngọng bảo Tư Mã Khôi, từ khi mọi người bước chân vào khe núi Dã Nhân ở Miến Điện và gặp Nấm mồ xanh đến nay cũng mới chỉ nửa năm, nhưng trong nửa năm ấy, họ phải trải qua vô số biến cố, gặp phải bao sự việc mà người thường khó lòng tưởng tượng. Suốt dọc đường, họ phải chứng kiến sự hi sinh của bao nhiêu người thân yêu như giáo sư Nông địa cầu, Tuyệt, Ngọc Phi Yen, Karaweik, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng thông tin Lưu Giang Hà, Nhị Học Sinh… May mà sau khi phá hủy tấm bia đá Bái Xà, cả hội đã kịp thời ngăn không cho con quái vật kinh hoàng kia bò lên khỏi vực sâu. Nếu lần này có thể sống sót thoát thân ra khỏi thủy thể 30° vĩ Bắc thì lúc về Hải ngọng anh nhất định sẽ thắp mấy bó hương chất lượng thượng hạng để cảm tạ Phật tổ đã phù hộ độ trì mới được.

    Tư Mã Khôi cảm thấy Entroypy giống như một cỗ máy điện đàm u hồn khổng lồ, bên trong tồn tại tín hiệu điện sinh học cực mạnh, sau khi người sống bị nó nuốt chửng, thì ý thức sẽ chìm vào một huyệt động vô đáy không có lối ra, mọi thứ mà họ nhìn thấy trong động thực ra chỉ là ảo ảnh do con quái vật Entroypy tạo nên, bởi vậy sau khi các sự vật tồn tại trong động bị phá vỡ, chúng lại có khả năng phục hồi nguyên dạng giống như ban đầu. Con quái vật này đã sống hàng vạn năm mà không chết, chẳng ai làm gì được nó, nên người Bái Xà có tôn nó là thần thì cũng chẳng hề quá đáng, nhưng một khi để nó chạy thoát ra ngoài, thì chắc chắn sẽ dẫn đến đại họa không thể tưởng tượng nổi. Chính vì đội khảo cổ không nghe lời cổ nhân cảnh cáo, luôn muốn tìm lời giải cho những ẩn số mà con người không được phép biết đến, tự tiện tiếp cận tấm bia đá Bái Xà, nên mới bị sa chân vào động không đáy, suýt chút nữa đã kéo rèm mở màn cho một tấn thảm kịch. Giờ này ngồi trên thuyền nghĩ lại cảnh ngộ bị nhốt trong động mà người nào người nấy vẫn tim đập chân run. Xem ra, nếu ngọn nến số mệnh chưa đến lúc tắt, thì không chừng cả hội vẫn còn cơ hội thoát khỏi vòng tròn quái dị không đầu không cuối ở dải Bắc vĩ độ thứ ba mươi này. Bởi vậy, mọi người quyết không được từ bỏ hi vọng.

    Nghĩ là nghĩ vậy, nhưng đại dương bao la dưới lòng đất nom giống hình con rắn cuộn tròn này vào thì dễ chứ ra thì vô cùng khó, ngoại trừ ngọn núi từ nồi trên biển, thì không còn bất cứ vật tham chiếu nào khác, mà nếu tiếp cận núi từ thì cả hội lại gặp phải sự tấn công của lũ thủy quái nửa người nửa cá, không những vậy, họ còn phải đối mặt với nguy cơ mất hết trí nhớ và trở thành những xác chết biết đi.

    Mọi người suy đi tính lại một hồi, ai nấy đều cảm thấy khi đối mặt với sóng biển dữ dội và mênh mông, đối diện với bầu không gian bao la và đen ngòm, thì tiền đồ của cả hội đúng là lành ít dữ nhiều, vậy nên không khí lập tức trâm hẳn xuống

    Tư Mã Khôi nói với ba người còn lại: “Tôi đoán, nỗi sợ của con người đối với đại dương dưới lòng đất ắt hẳn không phải xuất phát một cách ngẫu nhiên, mà nguyên nhân gốc rễ bắt nguồn từ vụ đại hồng thủy do người Bái Xà cổ đại gây nên năm xưa. Trận lũ lụt lịch sử đó đã nhấn chìm rất nhiều lục địa và hủy hoại trên chín mươi phần trăm thành tựu của nền văn minh cổ đại, trong đó có rất nhiều lĩnh vực mà con người không thể khôi phục lại từ đầu. Đến tận ngày nay, con người vẫn cực kỳ nhạy cảm đối với các di chỉ nước ngầm, đồng thời vẫn giữ nguyên nỗi sợ hãi không gì sánh nổi đối với dòng nước sâu. Trên thực tế, tâm lý ấy xuất phát từ ký ức mông lung của loài người về kiếp nạn thời tiền sử. Tuy đại dương dưới lòng đất này rất đáng sợ, nhưng chúng ta đã hiểu sơ qua tình hình của nó, nên chắc chắn sẽ tìm thấy đường thoát thân thôi. Mối nguy hiểm lớn nhất ở đây chính là ngọn núi từ….”

    Anh vừa dứt lời, thì thấy phía xa có lằn sét sáng trắng xẹt qua, trên mặt biển thấp thoáng xuất hiện một dải bóng đen lờ mờ, dường như đó là những dãy núi nhấp nhô.

    Bốn người lặng phắc, mắt nhìn chằm chằm về phía trước, nhưng luồng sét trong sương không xuất hiện lại nữa, mặt biển chỉ còn màn đêm bao la và tiếng sóng ầm ào cuộn trào.

    Khi thủy thể 30° vĩ Bắc tuần hoàn trở lại, đội khảo cổ ngồi trong vỏ ốc, dập dềnh trôi theo dòng nước, sớm muộn cũng sẽ bị núi từ dưới lớp vỏ Trái đất hút chặt, có điều cụ thể khi nào xảy ra điều đó thì họ không thể tiên liệu trước được. Tuy vậy, chẳng ai ngờ cả đội lại tiếp cận núi từ một cách mau chóng đến vậy.

    Gần hòn đảo cô độc ấy có rất nhiều cương thi giống như con ma chết đuối, tổ tiên của chúng đều là những nạn nhân bị hút chặt vào đây, họ dần dần thoái hóa thành loài động vật máu lạnh nửa người nửa cá, rồi trốn biệt trong hang động hoặc dưới nước sâu, tập tính vô cùng hung hãn, tàn ác. Chúng trèo qua vách núi chẳng khác nào đi trên đất bằng, đó chính là những đối thủ khó đối phó nhất.

    Cao Tư Dương dõi mắt nhìn dãy núi nhấp nhô, cô vội vã cầm chắc tay súng, căng thẳng nhìn vùng nước lân cận một cách chăm chú, như thể đang đề phòng bọn ma nước đột ngột trèo lên vỏ ốc.

    Tư Mã Khôi vốn là người điềm tĩnh trước mọi biến cố, anh thắt lại dây mũ cho chắc, mở chốt an toàn của khấu súng Walther P38, sau đó cất hầu hết số nến xương cá dự trữ vừa chế vào trong ba lô sau lưng, chỉ để lại mấy cây đưa cho Thắng Hương Lân soi đường.

    Hải ngọng lập tức giương khẩu súng săn Canada lên kiểm tra, thấy chỉ còn ba viên đạn ghém, tất cả đều chưa bị ẩm ướt, anh liền nạp đạn vào ổ, hai mắt dán chặt vào mặt nước đen ngòm, rồi hỏi: “Khi nãy mọi người có nhìn rõ không? Đó là núi từ thật à? Sao tôi thấy nó to thế nhỉ?”
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 8: NÚI TỪ 30° VĨ BẮC


    Lúc này, lại có một lằn sét khác lóe lên bầu trời, ngoằn ngoèo như rắn lượn. Nhờ ánh sáng tia sét, Tư Mã Khôi nhìn ra xa và thấy bóng dáng nhấp nhô của ngọn núi ẩn hiện mờ mờ phía trước, trông nó chẳng khác nào một vị thần khổng lồ, đen sì, nằm nghiêng mình trên biển với dáng vẻ trầm mặc bất diệt từ thời hằng cổ. Địa hình này hoàn toàn khác so với lần trước hội anh nhìn thấy, có điều lần đó đội khảo cồ từ Đại Thần Nông Giá rơi xuống thủy thể 30° vĩ Bắc, trôi nổi trên mặt biển không biết bao nhiêu ngày đêm, rồi mới phát hiện chiếc tàu ngầm Z-615 bị mất tích và một hang động khổng lồ, thực ra hang động đó chính là vỏ ốc hóa thạch, nó và chiếc tàu ngầm đều bị núi từ hút dính vào xung quanh chân núi. Tuy vậy, đội khảo cổ chưa bao giờ thực sự đặt chân lên ngọn núi đó, hơn nữa khi ấy tứ bề tối thui, không hề có ánh sáng, ngay cả hình dáng đại khái của hòn đảo ấy trông như thế nào, hội anh còn chẳng rõ. Giờ đây nhìn kỹ, thấy quy mô ngọn núi quả thực to lớn ngoài sức tưởng tượng, ai nấy đều bất giác hít ngược một hơi lạnh.

    Giữa lúc sấm rung chớp giật, khoảng cách giữa vỏ ốc và núi từ càng lúc càng rút ngắn dần. Tư Mã Khôi tranh thủ thời gian nói với ba người còn lại: “Sóng biển ở đây rất dữ dội, hơn nữa núi từ lại tồn tại một lực hút vô hình cực mạnh, bởi vậy con thuyền không thể đi vòng sang hai phía. Bây giờ chúng ta chỉ còn cách đi xuyên qua núi từ, chỉ một chốc nữa thôi, vỏ ốc cúc đá sẽ bị núi từ hút vào bờ và mắc kẹt ở đó, nếu chúng ta cứ quanh quẩn ở khu vực gần mặt nước thì rất dễ bị tấn công, vì vậy khi thuyền cập bến, chúng ta phải lập tức trèo lên hòn đảo cổ, sau đó chạy một mạch về phía trước, tuyệt đối không được dừng lại giữa đường, chúng ta mà bị chôn chân ở đó, thì chỉ hai, ba ngày sau chắc chắn sẽ mất trí nhớ, rồi thoái hóa thành bọn ma nước nửa người nửa cá đấy”.

    Mọi người biết rõ, quanh núi Âm Sơn lảng vảng vô số bọn cương thi, dẫu trong tình trạng đầy đủ súng ống đạn dược cũng khó lòng mà xuyên qua nồi vòng vây của chúng, huống hồ bây giờ trang thiết bị lại thiếu thốn chừng ấy, e rằng chưa đi được nửa chặng đường thì đã bị bọn người không ra người, cá không ra cá kéo đi ăn thịt mất rồi, nhưng tình cảnh trước mắt buộc cả hội chỉ được tiến lên chứ chẳng thể lùi lại, vì thế mọi người đành hạ quyết tâm đâm đầu vào con đường mạo hiểm, ai nấy nắm chặt lòng bàn tay đang ướt đầm mồ hôi lạnh.

    Lúc này, đột nhiên vỏ ốc rung lên từng hồi, mọi người ngã chúi về phía trước, thì ra vỏ ốc đã chạm phải bãi nước nông.

    Tư Mã Khôi lấy nến xương cá soi tứ phía xung quanh, anh thấy phía trước là một dãy núi đen sì sì. Tư Mã Khôi nắm chặt súng, nhảy lên bờ trước tiên, hội Hải ngọng cũng lục tục trèo ra khỏi thuyền. Tuy chỉ vừa chạm chân lên mặt đất, nhưng dòng nước ngầm lạnh thấu xương ngập đến gằn đầu gối, thêm vào đó sóng biển dữ dội xô ào ạt vào bờ đây mọi người ngã dạt về phía trước, vì thế bốn người không thề dừng lại ở đây lâu thêm giây phút nào, họ buộc phải lội nước, trèo lên hòn đảo cổ núi Âm Sơn.

    Cả hòn đảo cổ này là một ngọn núi từ to lớn khác thường, bị dòng thủy thể không ngừng đẩy đi, nó cứ không ngừng trôi giữa đại dương ngầm, phần lớn hòn đảo bị chìm dưới nước, phần núi lộ trên mặt nước chỉ cao hơn trăm mét. Hòn đảo là một khối thạch từ đen tuyền khổng lồ, địa thế thoai thoải bằng phăng, bề mặt nhẵn thín, ngay một ngọn cỏ cũng không có, khá nhiều vỏ ốc cúc đá và vỏ ốc anh vũ bị hút chặt vào khu vực xung quanh nó, trông cái nào cũng giống như một hang động bằng đá khổng lồ và quái dị.

    Cả hội hồi hộp lo lắng, trèo lên hòn đạo cổ. Mới đi được vài bước, chân họ đã cảm thấy nặng trịch như đeo chì, họ biết ngọn núi từ này có lực hút sắt, càng lại gần thì lực hút càng mạnh. Chẳng còn cách nào khác, họ bất lực đành bỏ các vật dụng kim loại như dao săn, bình nước đi… Những vật này vừa rời khỏi tay mọi người, đã nghe thấy tiếng “keng” vang lên, rồi bị dính chặt vào mặt đất, muốn nhặt lên cũng khó.

    Mọi người nhìn cảnh tượng ấy mà hãi hùng, giờ trên ngưòi chỉ còn vài vật dụng nhỏ bằng kim loại như nút cúc trên y phục và súng đạn, nên mọi người cũng miễn cường chịu đựng được lực hút, cũng vì phải ứng phó với nguy hiềm có khả năng xuất hiện bất cứ lúc nào, nên miễn còn đi được, là họ sẽ không dám vứt toàn bộ vũ khí phòng thân.

    Cả hội thuận theo thế núi quanh co khúc khuỷu đi về phía trước, nhưng suốt chặng đường chẳng hề có bất kỳ động tĩnh gì, điều này rõ ràng vô cùng bất thường, thấy vậy hội Tư Mã Khôi không khỏi sinh nghi, vì sao toàn bộ lũ quái vật thường lảng vảng gần đó lại bỗng dưng biến mất?

    Ngay từ thời cổ đại, ngọn núi từ 30° vĩ Bắc đã được coi là núi Âm Sơn nhốt giữ vô số ác quỷ. Thời Xuân thu, rất nhiều nô lệ và tù binh bị vứt vào trong núi, không chỉ vậy còn có máy bay và tàu thuyền bị mất tích gặp nạn ở mọi nơi xung quanh vành đai 30° vĩ Bắc. Tất cả những người may mắn sống sót sau vụ tai nạn và cả những người bị nhốt trên hòn đảo cổ núi Âm Sơn đều bị xóa sạch hết ký ức, rồi thoái hóa thành loài sinh vật máu lạnh nửa người nửa cá, sau đó chúng cũng sinh sản thêm khá nhiều. Ngày nay, chúng thường trốn trong hang động trên núi hoặc dưới mặt nước xung quanh chân núi. Khi đội khảo cổ phát hiện thấy chiếc tàu ngầm Z-615 và chui vào hang động hóa thạch ốc anh vũ, mọi người đã từng giao chiến kịch liệt với chúng, suýt nữa thì mất mạng. Giờ khi cả hội đã chuẩn bị sẵn sàng chạm trán với chúng, thì chúng lui biến mất dạng.

    Hải ngọng cảm thấy vô cùng may mắn, anh cảm khái: “Ai bảo suốt đời đen như chấy, đôi khi cuộc sống cũng lên hương đấy chứ!”.

    Tư Mã Khôi cảm thấy có lẽ chuyện này liên quan đến cơn địa chấn xảy ra ở tâm Trái đất, các loài cá lớn sống dưới vùng nước sâu đều nổi lên mặt nước, chắc bọn cương thi quanh núi Âm Sơn cũng sợ quá mà bò đi hết rồi, nhưng chưa biết chừng chúng lại đang đứng đợi cơ hội ở phía trước, dẫu sao không gặp vẫn tốt hơn là gặp, bây giờ anh chẳng thể bận tâm đến nhiều điều thế, mọi người buộc phải nhanh chóng vượt núi, rồi còn phải nghĩ cách tìm phương tiện vượt biển ở đầu bên kia và rời thật xa ngọn núi từ này.

    Cao Tư Dương cho rằng hi vọng sống sót thật mờ mịt, cứ cho lần này cả hội có thể vượt núi an toàn, nhưng ra đến đầu bên kia thì vẫn là mặt biển đen ngòm rộng mênh mông, rồi cả hội lại lênh đênh trôi theo những con sóng cuồn cuộn, cho đến khi lại đâm vào núi từ lần nữa. Sau đó thì sao? Đế tránh bị xóa mất ký ức và biến thành những con quỷ vô hồn, mọi người lại phải cố gắng vượt núi từ lần nữa, vòng chạy trốn khắc nghiệt ấy cứ tuần hoàn hết lần này đến lần khác, bao giờ mới là điểm tận cùng?

    Tư Mã Khôi nói: “Chẳng ngờ chúng ta lại chạm trán núi từ sớm thế, thậm chí còn chưa kịp nghĩ ra kế sách, muốn trốn khỏi đại dương dưới lòng đất này, chúng ta phải nghĩ ra cách trong lúc đi đường, còn nếu cứ ở lại đây thì chỉ còn đường chết, điều có thể làm lúc này là phải tranh thủ từng giờ từng phút đi xuyên qua ngọn núi. Bởi vậy chúng ta tuyệt đối không được phép do dự”.

    Nói là nói vậy, nhưng thực ra trong lòng Tư Mã Khôi cũng thấy gờn gợn, tuy nhiên chân anh vẫn không dám dừng lại nửa bước. Địa thế dần dần cao lên, cả hội đi đến gần sống lưng núi thì thấy trước mặt là tàn tích một chiếc máy bay, thân máy bay đã hư hỏng nghiêm trọng, lại bị nước biển ăn mòn nên lớp vỏ ngoài han gỉ chằng chịt, không thể nhận ra nó mang số hiệu gì nữa, nhưng có lẽ đó là một chiếc máy bay ném bom hạng nặng. Khu vực vòng quanh vành đai 30° vĩ Bắc đều là khu vực dễ xảy ra sự cố tai nạn, số tàu thuyền, máy bay cũng như con người mất tích ở nơi đây nhiều không kẻ xiết, phần lớn nguyên nhân đều liên quan đến núi từ dưới lòng đất.

    Hội Tư Mã Khôi vốn nghĩ rằng, tàu ngầm Z-615 là trường hợp đặc biệt, nhưng lúc này họ mới phát hiện không chỉ một mình nó bị núi từ hút vào đây. Ngoại trừ chiếc máy bay ném bom hạng nặng, gần đó còn có tàn tích của một vài chiếc máy bay khác, có lẽ sau khi bị mất tích ở hải vực tam giác Bermuda, chúng bị dòng khí nhiễu động cuốn xuống lòng đất, rồi dính vào ngọn núi từ này.

    Hải ngọng đang giương tròn mẳt nhìn, thì đột nhiên cảm thấy một lực hút rất mạnh khiến khẩu súng săn gấu hai nòng bị tuột khỏi tay, bay thẳng về phía vách núi trước mặt. Khẩu súng săn gấu Canada có kết cấu với khá nhiều linh kiện thép nên khi tới nơi sâu trong núi có lực hút vô cùng mạnh mẽ, thì nó bị hút đi trước tiên. Tư Mã Khôi và Cao Tư Dương cũng không thể giữ nổi khẩu súng Walther P38 và khẩu súng trường trong tay, nên cả hai đành buông chúng ra.

    Bốn người thấy các nút áo và nắp ba lô đều sắp bị một lực vô hình giật tung, cả hội bất giác nhìn nhau thất sắc, không ngờ núi từ dưới lòng đất lại sở hữu lực hút kinh hồn đến vậy! Bây giờ thấy tình cảnh hai tay trống không, lòng dạ ai nấy càng thêm phát hoảng. Tư Mã Khôi lập tức phân phát nến xương cá cho mọi người chiếu sáng, rồi rảo nhanh bước chân vượt đỉnh núi.

    Lúc này, tầng mây trên cao như bị rạch một đường, rồi từ vết rạch ấy rơi xuống một quả cầu lửa, tiếng động ầm ầm rung chuyển đất trời, nghe như thể tiếng nổ ấy vang lên ngay sát vách tai. Tóc trên đầu dựng ngược, mọi người hốt hoảng nằm rạp xuống đỉnh núi. Bóng dáng ngọn núi đen sì ẩn hiện dưới ánh sáng chói lòa của lằn sét, cả hội thấy địa thế khá gô ghề, phía trước nhô ra một đỉnh núi nữa còn cao hơn cả đỉnh núi này.

    Mọi người không biết hệ thống núi từ này rốt cuộc to lớn đến mức nào, vì họ đã vượt qua một đỉnh núi rồi mà vẫn chưa nhìn thấy điểm tận cùng ở đâu, ngặt nỗi giờ chẳng còn đường lui, đành phải cố đấm ăn xôi tiếp tục tiến về phía trước. Cả hội nghe nói năm đó Sở U Vương từng đúc chín pho tượng người bằng vàng để cố định ngọn núi này, thực không thể tưởng tượng chín pho tượng ấy quy mô hoành tráng cỡ nào, hơn nữa người cổ dại đã dùng phương pháp gì dể đúc ra những bức tượng ấy?

    Bốn người vứt hết các dụng cụ kim loại mang theo người như đèn quặng, pin, la bàn… ngay cả khuy kim loại trên ba lô cũng gỡ bỏ, như vậy, họ mới có thể tiếp tục hành động.

    Cả đội thở hổn hển cố gắng trèo lên đỉnh núi thứ hai, mãi mới trèo lên được đến đỉnh thì lại nhìn thấy đỉnh núi thứ ba, độ cao thấp hơn hai đỉnh còn lại khá nhiều. Khi vừa quan sát rõ địa hình và định tiếp tục cuộc hành trình đầy gian nan, thì đột nhiên Cao Tư Dương giật mạnh áo của Tư Mã Khôi, cô chỉ về phía sau với vẻ mặt đầy nỗi khiếp đảm: “Chết rồi! Con quái vật đó đã đuổi theo tới đây!”

    Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, thì thấy phía sau dải núi nhấp nhô xuất hiện một bóng đen hình cây cổ thụ khổng lồ, nó vươn dài vô số cánh tay trông như rễ cây, khắp người lập lòe những con mắt quái đản, sương đen vởn vũ xung quanh, cái bóng mơ hồ và dị hợm của nó khiến người ta hãi hùng, nhưng vị thần cổ xưa kia đáng lẽ đã rơi xuống tâm trái đất mới đúng, làm sao giờ này nó có thể xuất hiện ở quanh khu vực núi từ?

    Mọi người trông thấy cảnh tượng diễn ra trước mặt ai nấy đều thất sắc, tất cả súng ống đạn dược trên người họ đều bị núi từ hút mất rồi, mà cứ coi trong tay vẫn còn súng, thì cũng hoàn toàn không thể chống lại được con quái vật bất tử bất diệt này. Cơ sự đến nước này thì cũng chẳng còn cách gì để nghĩ nữa, càng chẳng kịp ngẫm ngợi xem rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì, giờ thượng sách nhất là chuồn, thế là tất cả mọi người liền co giò bán sống bán chết chạy lên đỉnh núi.

    Đường núi nhấp nhô, xuống còn dễ chứ lên thì rất khó, lúc bắt đầu trèo lên đỉnh núi thứ ba, tốc độ của cả hội chậm hơn hẳn, mọi người vừa chạy vừa tính kế. Entroypy đã sống cả vạn năm, nó giống như con đường nối liền với động không đáy của cõi hư vô, nó có khả năng không ngừng khôi phục những phần cơ thể bị hủy hoại. Ngoại trừ vỏ ốc hóa thạch mà người Bái Xà cổ đại để lại ra, thì tất cả các sự vật tồn tại trong động không đáy đều chỉ là sự cảm nhận trong ý thức của mọi người, có điều nếu ý thức đã có thể cảm nhận “hư vô” một cách chân thực như vậy, thì cõi hư vô ấy nào khác gì cõi thực?

    Trong khoảnh khắc Entroypy sa vào tâm Trái đất, nó tự biết mình đã rơi xuống cõi vạn kiếp không thề siêu sinh, nên liền hút đội khảo cổ vào động không đáy, định biến cả bốn người họ thành “gian phòng” và giúp nó đem một phần cơ thể lên khỏi mặt đất, trong khi đó bản thân Entroypy vẫn chưa bị dòng axít đậm đặc làm tan chảy, nhờ tấm thân không ngừng tái sinh phục hồi như cũ, nó đã bò ra khỏi nơi sâu dưới cửu tuyền, hội Tư Mã Khôi quả thực không biết phải làm cách nào mới đẩy con quái vật đó vào chỗ chết. Có điều, sau khi đuổi theo đội khảo cổ đến núi Âm Sơn, quầng sóng từ giống như sương đen bao quanh người nó bắt đầu bị ngọn núi hút mất dần, bởi vậy chân tướng của nó mới lờ mờ hiện ra. Nếu nó bị nhốt trong núi từ một thời gian, thì cũng sẽ biến thành vật vô tri vô giác, nhưng quá trình ấy cần ít nhất vài ngày, trong khi đó chỉ cần một tiếng, nó đã có thể nuốt hết những thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ vào bụng, rồi rời khỏi núi từ, tìm nơi nào đó và đợi chờ cơ hội ngoi lên khỏi vực sâu.

    Trong đầu Tư Mã Khôi liên tục nghĩ ra mấy cách, nhưng chẳng cách nào khả thi, chưa bao giờ anh cảm thấy tuyệt vọng như bây giờ, anh chỉ hối hận năm ấy sao mình không chết quách ở Miến Điện cho nhẹ nợ, được thế thì giờ đã không xảy ra kết quả đáng sợ này, đáng tiếc thay trên đời đâu có loại thuốc nào có tên gọi là thuốc hối hận. Trong nỗi kinh hoàng và khiếp đảm tột độ, họ phát hiện con quái vật đã đuổi theo đến đỉnh núi cuối cùng. Bầu trời sấm rung chớp giật, họ quay lại nhìn phía sau, thì thấy bóng cây cổ thụ ẩn hiện trong quầng sương quyện đặc, nó gần như hòa thành một thể với bóng núi đen sì, phía trước là mặt biển đang cuồn cuộn tung sóng cuồng bạo, trải dài tít tắp vô biên. Cả nhóm đã không còn đường thoát thân.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 9: ĐI VÀO LỊCH SỬ


    Hệ thống núi từ nổi trên thủy thể 30° vĩ Bắc có ba đỉnh núi, đội khảo cổ đã trèo lên đỉnh núi thứ ba, phía dưới là mặt biển tung bọt trắng xóa, cuồng loạn cuộn trào, đại dương dưới lòng đất sâu thăm thẳm, nếu lỡ rơi xuống, dẫu bơi giỏi đến đâu thì cũng chẳng khác gì một giọt máu nhỏ xuống đầm lầy, trong thoáng chốc đã mất hút trong sóng nước mênh mông.

    Bốn người thấy trước mắt không còn đường chạy thoát, liền giơ nến xương cá soi tứ phía xung quanh, định tìm một vật nổi nào đó, cho dù chỉ là một khúc cây khô cũng được. Họ phát hiện lòng núi gần đó đều bị nứt toác thành những đường sâu, nên đành chui vào đó trốn tạm trong lúc cấp bách. Chẳng ai kịp nghĩ ngợi gì, họ lũ lượt kéo nhau nhảy xuống.

    Khe núi rất hẹp, hai vách dựng đứng, chỗ rộng nhất cũng chỉ đủ hai người đi sát nhau, cả hội tiến sâu vào bên trong thì thấy có mấy hang động nữa nối liền với nhau, mùi tanh hôi sộc thẳng vào mũi.

    Hải ngọng bình thường mà nổi máu yêng hùng, thì không góc trời nào anh không dám quậy, nhưng cũng có lúc gan anh chẳng bằng lá gan chuột nhắt, giờ đây tay không tấc sắt, lại thấy bên trong tối thui, chẳng nhìn thấy cái gì vào cái gì, tự nhiên đảm khí của anh biến đâu mất sạch, anh lo lắng quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem tiếp theo định làm gì?

    Tư Mã Khôi nói: “Bây giờ thì đừng mong trốn thoát! Chúng ta đã lâm vào đường cùng, đạn hết, lương thực cạn kiệt, rơi vào thủy thể 30° vĩ Bắc, bị nhốt trong núi từ, kiểu gì cũng chết. Nhưng Entroypy vẫn đuổi theo đến đây, chắc vì đội khảo cổ biết quá nhiều bí mật nên nếu nó không ăn thịt được hết các thành viên, thì nó chắc chắn không chịu dừng lại. Bởi vậy, chúng ta phải cố gắng kéo dài cuộc chạy trốn và sống sót càng lâu càng tốt, để Entroypy phải quanh quẩn ở núi từ và dần dần bị núi từ xóa sạch mọi ý thức mới được”.

    Hải ngọng hiểu làm như vậy chẳng khác gì đôi bên cùng chết, đội khảo cổ và Entroypy sẽ cùng bị núi từ xóa sạch trí nhớ, nhưng làm vậy còn tốt hơn là chết một cách vô nghĩa, nên anh chẳng hề do dự lập tức đồng ý.

    Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Anh nói cứ như thánh phán ấy! Làm sao anh biết con quái vật đó đến đây để ăn thịt đội khảo cổ? Biết đâu nó cũng bị núi từ hút đến một nơi mà mình chẳng hay biết thì sao?”

    Thắng Hương Lân từ đầu chí cuối chẳng nói chẳng rằng, giờ đột ngột cất tiếng: “Tư Mã Khôi đoán không sai đâu! Con quái vật mà người Bái Xà coi là dị thần ấy trước đây liên tục ở trong trạng thái ngủ đông do phải đối mặt với tấm bia đá. Khi đội khảo cổ chúng ta chui qua tấm bia vào trong động không đáy, Entroypy chắc chắn nó sẽ dụ được chúng ta phá hủy tấm bia, nhưng trong khoảnh khắc tấm bia bị phá hủy, nó buộc phải thả mấy người chúng ta ra khỏi động không đáy, nếu không mọi sự kiện xảy ra trong động sẽ không thể chạm tới tấm bia đá Bái Xà đang ở ngoài động. Hơn nữa, nó lại lo lắng mình đã chết cứng suốt bao năm, sau khi phục hồi không thể lập tức một đớp nuốt chửng hết cả chúng ta, cho nên nó mới nói ra rất nhiều bí mật, hòng làm pin đèn của chúng ta nhanh chóng bị tiêu hao, như vậy dẫu đội khảo cổ có trốn thoát ra khỏi miếu thần, thì trong tình trạng không có thiết bị chiếu sáng, cũng không thể chạy trốn được bao xa. Nhưng sau đó, mọi sự phát sinh chẳng ai lường trước được, hó bị chúng ta dụ chạy theo đến đầm lầy dạ quang, rồi chết chìm trong hồ axit, nó đành kéo đội ta vào động không đáy, rồi đâm thủng dòng biển nóng gây ra cơn địa chấn dữ dội, khiến vỏ ốc hóa thạch bắn lên dòng thủy thể 30° vĩ Bắc. Mục đích của Entroypy là sẽ có người biến thành “gian phòng” giúp nó mang một phần cơ thể ra khỏi lòng đất, còn bản thân nó thì cũng theo dòng biển nóng trôi nổi đến tận đây. Thực ra, nó cũng hoàn toàn bất ngờ trước mọi sự xảy ra, lúc này nó bơi qua biển, trèo lên núi từ chính là vì muốn nuốt hết toàn bộ các thành viên của đội khảo cổ, bởi vì chúng ta đã biết quá nhiêu bí mật của nó, để bất kỳ ai sống sót cũng đều có khả năng trở thành mầm họa về sau”.

    Cao Tư Dương phản bác: “Cô cũng chỉ đoán mò thôi! Làm sao biết chính xác được?”

    Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói mà lòng đột nhiên len lỏi một nỗi sợ không tên: “Những lời Thắng Hương Lân vừa nói không giống đoán mò, sao cô ấy biết rành mạch thế nhỉ? Chẳng lẽ…”

    Tư Mã Khôi biết trong vỏ ốc hóa thạch trôi nổi trên dòng thủy thể 30° vĩ Bắc nhất định có miếng thịt người chết, ai ăn miếng thịt ấy sẽ biến thành người trực tiếp ăn thịt vị thần cổ và sẽ biến thành một phần của vị thần cổ. Từ đó, thịt trên mình dẫu có bị cắt đi cũng sẽ phục hồi như cũ, người xung quanh ăn thịt kẻ ấy sẽ biến thành “gian phòng” gián tiếp, thành con rối bị khống chế, nhưng ngoại trừ kẻ trực tiếp ăn thịt dị thần ra, thì những “gian phòng” khác không có khả năng tự phục hồi cơ thể, bởi vậy để phân biệt xem ai đã bị ăn miếng thịt người chết, bốn thành viên của đội khảo cổ đều tự rạch mu bàn tay của mình, sau khi xác nhận không ai xuất hiện hiện tượng tự phục hồi vết thương, cả hội mới trút được hòn đá tảng trong lòng. Sau đó, suốt mấy ngày ròng rã trên biển, sức sống vốn mong manh như sợi chỉ mành của Thắng Hương Lân cũng dần dần phục hồi, khí sắc đã hồng hào hơn trước, nhưng cả ngày cô chẳng hề mở miệng nói câu nào, không rõ trong lòng đang trĩu nặng tâm sự gì.

    Không phải Tư Mã Khôi không phát hiện thấy biểu hiện khác thường của Thắng Hương Lân, chỉ là anh hoàn toàn không muốn tin cô đã biến thành “gian phòng” ăn thịt người chét, nhất thời lòng anh rối rắm như trăm mối tơ vò. Tư Mã Khôi đang định mở miệng hỏi cho ra nhẽ, thì đột nhiên từ sâu trong huyệt động vọng lại những tiếng động quái lạ nghe sột soạt, anh liền vội vàng chĩa nến xương cá về phía trước.

    Nến xương cá chính là bó đuốc làm bằng xương cá, phía trước bôi cao dầu cá và chất phát sáng sinh học, ánh sáng lạnh âm u này có thể chiếu sáng trong phạm vi hơn mười bước chân. Đứng trong hang động dưới lòng đất quánh đặc màu đen cũng đủ khiến người ta dựng tóc gáy, giờ đây lòng động được chiếu sáng, hội Tư Mã Khôi nhìn thấy một vật thể nửa người nửa cá đang bò ngược từ trên vách động xuống, trên khuôn mặt quái dị và trắng bợt của nó thè ra cái lưỡi dài, thất khiếu đều tụ máu, con ngươi xám ngoét vô cùng nhạy cảm với ánh sáng, thế mà nhìn thấy ánh nến, nó không những không tránh mà còn hành động vô cùng mau lẹ, thoắt một cái đã bò xẹt qua đỉnh đầu bốn người, động tác cực kỳ thần tốc, nó đáp xuống đất khẽ khàng không một tiếng động nhỏ.

    Tư Mã Khôi ngửi thấy một luồng gió tanh đang áp sát sau lưng, anh biết chắc chắn bọn cương thi ở quanh khu vực núi Âm Sơn đang đến gần họ. Khả năng bọn chúng cảm nhận được Entroypy đang đến gần, nên tất cả đều trốn vào trong hang núi, vừa gặp hơi người sống, thì bản chất khát máu săn

    mồi của chúng lại trỗi dậy, ngặt nỗi hiện giờ súng ống và dao săn của hội Tư Mã Khôi đều bị núi từ hút mất, nên họ chẳng thể giao chiến trực diện với chúng, nghĩ vậy anh đành kéo Thắng Hương Lân né người lẩn trốn.

    Con cương thi nửa người nửa cá vồ hụt mồi, nó lập tức quay đầu, há miệng rộng ngoác, lộ ra hàm răng sắc nhọn, trắng ởn, định lao tới lần nữa, nhưng Tư Mã Khôi đã ra tay nhanh hơn, anh gí mạnh ngọn nến xương cá đang cầm trong tay vào thẳng mặt nó, khiến nó đau đớn lăn lộn trên đất, miệng không ngừng phát ra những âm thanh quái đản.

    Lúc này, không ít cương thi đã bu đến xung quanh chỗ hội Tư Mã Khôi đang đứng. Vì hang động tối om, nên họ chẳng rõ có tất cả bao nhiêu con, Cao Tư Dương phát hiện bên cạnh có một hang động nữa, bên trong tối đen như mực, yên ắng không nghe thấy bất cứ động tĩnh gì, cô vội vàng gọi hội Tư Mã Khôi chạy vào trong lẩn trốn.

    Trong lúc hoảng loạn, Tư Mã Khôi cũng chẳng còn bận tâm lựa chọn đường đi. Khi vào bên trong, anh mới nhìn thấy, cửa động là một cánh cửa đá bằng phẳng và dày nặng, ba người họp sức để đẩy cánh cửa đóng lại, nhưng cánh cửa đá này vốn làm bằng từ thạch trong núi Âm Sơn, nặng không dưới ngàn cân, hơn nữa hơn hai ngàn năm chưa hề bị dịch chuyển, nên chân nó như bén rễ cắm sâu xuống lòng đất.

    Mọi người biết nếu không đóng được cánh cửa đá, thì coi như xong đời, nên ai nấy cũng cố gắng hết sức đẩy. Cánh cửa đá kiên cố phát ra tiếng kêu “kẹt kẹt”, rồi cuối cùng cũng từ từ chuyển động, nhưng đúng trong sát na ấy, một con quái vật nửa người nửa cá đã kịp bò qua khe cửa, hai con khác thò được nửa thân mình vào trong thì bị kẹp chết khi cánh cửa đóng chặt, số còn lại bị chặn cả ở phía ngoài. Con bò được vào bên trong leo lên vách đá, nhảy bổ vào mặt Hải ngọng, há ngoác miệng định cắn anh, Hải ngọng dựa lưng vào cánh cửa, hai chân đang trụ để tạo lực đẩy về phía sau, nên đành lấy hai tay banh hai mảnh hàm của đối phương, anh ra sức xé mạnh, chỉ nghe “roẹt” một tiếng, cái mồm đỏ au của con quái vật bị xé toạc thành hai mảnh.

    Cùng với tiếng hét chói tai của Hải ngọng, cuối cùng cánh cửa đá cũng khép lại hoàn toàn, mọi người thấy hang động phía sau cánh cửa rất khoáng đạt, thông ra tứ phía, có lẽ núi từ là ngọn núi rỗng lòng, rất có khả năng bọn cương thi không ra người chẳng ra cá kia sẽ vào đây bằng các ngả đường khác, bởi vậy cả hội không dám dừng chân, họ lập tức soi nến xương cá, định tiến thẳng về phía trước, tìm một nơi nhỏ và đủ kín đáo để nương náu, nào ngờ càng đi sâu vào trong, hang động lại càng rộng rãi, dường như cả hội đã vào đến rốn núi.

    Từ thời hằng cổ đến nay, ngọn núi từ đã tồn tại phía dưới lóp vỏ Trái đất, trên đỉnh núi không chỉ có khá nhiều tàn tích của máy bay, tàu thuyền, mà ngay Sở U Vương cũng từng xây điện tế quỷ ở đây, bởi vậy trong lòng núi vẫn có chút vết tích của các công trình còn sót lại, nhưng nhiều nơi trong lòng núi đã bị nứt toác, nước ngầm ngấm dần xuống dưới, các di tích lịch sử dường như không thể nhận dạng được nữa. Hải ngọng đi đầu, anh nhặt được một thanh kiếm ngắn trong đống xương khô, thanh kiếm dài chừng nửa cánh tay người, thân kiếm khá dày và rộng bản, đen sì sì. Thanh kiếm được tra vào vỏ bằng da cá mập, không trang trí thêm bất cứ hoa văn, họa tiết gì, trông khá cổ phác và nặng nề.

    Hải ngọng định dùng nó để phòng thân, nhưng khi cầm trong tay mới phát hiện đó chỉ là một thanh gỗ, bởi vậy mới không chịu lực hút của núi từ. Anh chửi một câu: “Vô dụng! ”, rồi tiện tay quẳng luôn xuống đất.

    Tư Mã Khôi nhặt lên, anh phát hiện thanh kiếm cổ này không phải vàng cũng chẳng phải sắt, nhưng nó cứng hơn gỗ rất nhiều, chuôi kiếm có khắc tám chữ triện cổ trông như giun dế. Anh thử cầm kiếm cắt một mẩu dây da, thì thấy “xoẹt” một cái đã đứt mất một mẩu. Anh không ngờ kiếm lại sắc như vậy. Đoán đây là bảo vật của nhà Sở, Tư Mã Khôi liền đưa nó cho Hải ngọng phòng thân, tuy không hữu dụng như khẩu săn gấu hai nòng Canada, nhưng có nó trong tay vẫn hơn là không có gì.

    Cả hội men theo vách đá, vội vàng tiến về phía trước, Tư Mã Khôi thấy bọn cương thi trong hang động không còn bao vây nữa, thì định nhân cơ hội này hỏi Thắng Hương Lân mấy câu, nào ngờ mới đi được vài bước, phía trước đã là mạt lộ. Thì ra, cách chỗ họ đứng không xa đáy động lún xuống

    thành một cái hố to, bên trong toàn bùn lầy đen quánh, bong bóng nổi lên “ùng ục”. Mọi người thấy hai mắt cay xè, ứa nước. Có lẽ đây là bùn lầy dưới đáy hồ chảy vào lòng núi qua một kẽ nứt nào đó và tích tụ dần thành đầm cho đến ngày nay, phía dưới tầng bùn đất nhất định chứa rất nhiều khí metan, gặp phải lửa là lập tức bén cháy. Mọi người cuống quýt lùi lại mấy bước, lòng nghĩ, thì ra trong lòng núi tồn tại lượng khí metan lớn đến vậy, trách gì bọn cương thi trong hang động mới không dám bén mảng lại gần.

    Tư Mã Khôi đang định rút mặt nạ phòng độc ra che mặt, thì đột nhiên anh nhìn thấy trên cao có một ánh sáng lóe lên. Tư Mã Khôi vô thức ngẩng đầu lên, phát hiện chỗ mọi người đang đứng là lòng đỉnh núi thứ hai, tàn tích chiếc máy bay mà cả hội trông thấy lúc trước rơi vào giữa khe núi, nửa thân dưới của nó tụt hẳn vào trong lòng núi. Tư Mã Khôi lại nghe thấy âm thanh di chuy ển của một sinh vật khổng lồ, anh đoán chắc là vị thần cổ hình cây kia đang bò đến. Một kế hoạch táo bạo lập tức hiện ra trong đầu anh, nếu có thể thành công, phen này chắc chắn hội anh có thể giáng một cú chí mạng vào lịch sử.

    Súng ống và dao săn mà bốn người mang theo đều bị núi từ hút mất, khắp nơi trong lòng núi lảng vảng toàn bọn cương thi, mọi người chỉ mải miết lo chạy thoát thân, mệt mỏi rã rời, hoàn toàn không có cơ hội đánh trả, chỉ e chẳng thể trụ được mấy hồi nữa, trong khi đó con quái vật toàn thân chi chít mắt cũng đã bò lên được núi từ, chỉ cần mọi người rời khỏi lòng núi là lập tức bị nó nuốt chửng. Nếu bây giờ có thể dẫn khí metan nơi sâu trong núi này tới để số bom trong chiếc máy bay ném bom hạng nặng kia phát nổ, thì cho dù không phá nát được núi từ, nhưng hoàn toàn có khả năng làm khe nứt trong lòng núi nới rộng ra nhiều lần, khiến Entroypy rơi xuống đây, chỉ cần nó bị nhốt ở nơi này mấy ngày là ổn.

    Tư Mã Khôi không chắc kế hoạch này có thể thành công hay không, vả lại làm như vậy thì mấy mạng người của đội khảo cổ cũng đừng mong sống sót, nhưng giờ phút này, hoàn cảnh chẳng cho phép anh suy nghĩ nhiều đến vậy, con quái vật đã đuổi theo đội khảo cổ tới núi từ, có thể nói tất cả đều là sự an bài của số phận, chỉ là chẳng ai tiên liệu trước được kết quả cuối cùng sẽ diễn biến như thế nào mà thôi.

    Lúc này, trong khe núi trên cao ẩn hiện vô số con mắt quái dị, Tư Mã Khôi nhìn thấy chúng mà da đầu bỗng như tê dại, anh nắm chặt nến xương cá, đang định vứt nó vào đầm lầy trước mặt, chẳng ngờ vừa mới giơ tay thì đã bị Thắng Hương Lân ngăn lại.

    Tận trong sâu thẳm trái tim, điều Tư Mã Khôi không hi vọng xảy ra nhất chính là Thắng Hương Lân trở thành “gian phòng” ăn thịt người chết, anh thầm nghĩ, chỉ cần làm nổ đầm khí metan dưới đáy động, thì tất cả thành viên đội khảo cổ sẽ tan tành xác pháo bất kể là ngọc nát hay ngói lành, chẳng ai còn sống sót để mà phải bận tâm đến việc truy cứu kết quả.

    Thắng Hương Lân cầm lấy cây nến xương cá trong tay Tư Mã Khôi, cô lột bỏ miếng băng dán trên mu bàn tay, vết thương mấy hôm trước đã hoàn toàn biến mất.

    Tuy Tư Mã Khôi đã chuẩn bị tâm lý, nhưng khi thực sự chứng kiến cảnh ấy, anh cảm thấy chẳng khác gì bị sét đánh trúng đỉnh đầu, anh sững người hãi hùng, miệng lắp bắp: “Cô…”

    Thắng Hương Lân đã phát hiện mình đã trở thành một phần của Entroypy, nhưng quá trình này phải mất mấy ngày mới phát tác, nên bây giờ cô vẫn chưa bị Entroypy khống chế, cô rõ hơn ai hết mình không thể sống sót thoát khỏi nơi đây, nên cam tâm tình nguyện trở thành người đi dẫn nổ khí metan, hi vọng có thể nhờ đó thay đổi được tình thế, nhường cơ hội sống sót cho ba người còn lại. Giờ phút này, ý chí cô đã quyết, cô ngẩng đầu đăm đắm nhìn Tư Mã Khôi hồi lâu, rồi quay sang nhìn Hải ngọng và Cao Tư Dương một lượt, sau đó lẳng lặng quay người bỏ đi.

    Hải ngọng và Cao Tư Dương đương nhiên chẳng thể nghĩ ra được biến cố không lời ấy, khi họ còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, thì đã thấy Thắng Hương Lân cầm nến xương cá lao vào nơi sâu trong hang động. Họ đứng ngây người tại chỗ, há hốc miệng mà chẳng biết nên làm gì. Trong chớp mắt, bóng dáng nhanh nhẹn, thanh thoát ấy đã mất hút giữa bóng tối vô biên.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 6: KẾT THÚC CỦA KHỞI ĐẦU - HỒI 1: NHIỄU ĐỘNG KHÍ


    Thắng Hương Lân xả thân lao đi, cô châm nến xương cá đốt đầm lầy tích tụ khí metan dưới đáy động. Vụ nổ của thể khí màu đen tạo thành nấm mây khổng lồ dội ngược lên bầu trời.

    Hội Tư Mã Khôi như đứt lìa từng khúc ruột, lúc này không biết số bom trên tàn tích của chiếc máy bay nằm kẹt ở vát nứt trong khe núi có phát nổ hay không, chỉ thấy trên cao cũng bắn ra một quả cầu lửa khổng lồ.

    Tần suất phóng thích nhiệt và mật độ khói trong huyệt động trong phút chốc đã tăng đến kịch điểm, ba người còn sống sót bị dòng khí đẩy ngã lăn ra phía sau, trong lúc ngạt thở, họ vẫn kịp nhìn khe núi đã bị nứt toác một khoảng rộng, con quái vật khắp người toàn mắt đang bò trên núi, một phần cơ thể giống như râu rễ sa xuống núi từ, nhưng chẳng bao lâu sau nó đã bò lên và rút người ra khỏi khe núi. Lòng núi nứt vỡ chẳng thể nào cầm chân được nó.

    Ba người thấy nhiệt độ trong huyệt động quá cao, không thể tiếp tục dung thân được nữa, họ đều biết giờ không phải lúc buồn thương, nên đành nén nỗi đau, chui qua huyệt động gần đó, rời khỏi lòng núi. Lúc này, mọi người thấy trọng tâm ngọn núi bị nghiêng sang một bên, dường như núi từ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của vụ nổ, nó lệch ra khỏi dòng thủy thể 30° vĩ Bắc, bọn quái vật nửa người nửa cá trong động đều tháo chạy tứ tán.

    Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Cao Tư Dương lồm ngồm dùng cả tay lẫn chân bò ra khỏi lòng núi, họ phát hiện mình đang ở rất gần đỉnh núi thứ ba. Vì cơn chấn động nên núi từ dưới lòng đất nghiêng hẳn sang một bên, nó lệch khỏi vị trí ban đầu trong những con sóng cuồn cuộn điên cuồng. Biên độ nghiêng của ngọn ngúi khá lớn nên mọi người đang nằm rạp trên đỉnh núi cũng khó bề di chuyển. Khoảng cách từ chỗ họ đến vị thần cổ hình cây khổng lồ chỉ khoảng mấy chục mét, nên cả hội thấy rõ vị thần cổ đang thò vô số cánh tay quái dị, dài ngoằng và khô quắt về phía ba người như muốn tóm lấy họ.

    Hội Tư Mã Khôi hãi hùng muốn xỉu, họ biết nếu không bị núi từ hút phần lớn sương đen bao quanh người vị thần cổ, thì họ chẳng bao giờ nhìn thấy chân tướng thật sự của nó. Lúc thường chỉ cần liếc nhìn nó một cái là lập tức bị nhấn chìm vào động không đáy hư vô, vĩnh viễn không thể thoát ra nổi, nếu chỉ dựa vào thân xác phàm trần thì tuyệt đối không thể chống cự được nó, giờ cả hội đành liều chết không ngừng di chuyển trên sườn núi nghiêng.

    Lúc này, ngọn núi đột nhiên rung chuyển dữ dội, hội Tư Mã Khôi quay cuồng đầu óc, không rõ lại sắp xảy ra biến cố gì. Mọi người nhìn xuống dưới núi, nhờ tia lửa điện phát ra tù tầng mây trên cao, họ thấy trên mặt biển đen mênh mông xuất hiện một hố xoáy lớn, có khả năng phía dưới dòng thủy thể 30° vĩ Bắc tồn tại một không động, lượng nước lớn đang không ngừng trút như thác đổ vào trong lòng nó. Sau khi núi từ bị xê dịch vị trí, nó trôi nổi đến đây và cũng bị cuốn vào hố xoáy. Ngọn núi từ rất đồ sộ, tuy không bị hút vào vực sâu, nhưng nó cũng không thể thoát khỏi dòng xoáy mãnh liệt, nó xoay chuyển theo dòng chảy mạnh đến nỗi không thể cưỡng lại.

    Vị thần cổ giống như thân cây khổng lồ chỉ chăm chăm muốn nuốt hết hội Tư Mã Khôi, nên không để ý đến những chấn động trong lòng núi, nó lỡ chân rơi xuống hố xoáy. Tuy sức nó rất mạnh, nhưng cũng bị dòng nước cuốn vào vực sâu, có điều nửa thân của nó vẫn mắc vào núi từ, không thể thoát ra nổi, nó chỉ biết bám lấy núi từ, không ngừng xoay vòng trong cơn tuyệt vọng khôn cùng, vài ngày nữa thôi, nó sẽ hoàn toàn bị xóa mất ký ức và trở thành một khối thịt mục nát vô tri vô giác.

    Hội Tư Mã Khôi nằm rạp trên đỉnh núi chứng kiến toàn bộ cảnh tượng ấy, chẳng ai ngờ kết quả này lại xuất hiện, nếu không phải vụ nổ khiến núi từ xê dịch khỏi vị trí ban đầu và con quái vật toàn thân là mắt kia chỉ mải đuổi theo để nuốt đôi khảo cổ, thì nó đã không rơi vào bước đường cùng này. Giờ đây, con quái vật khác thường bất tử bất diệt dưới cửu tuyền này, tuy thân xác còn tồn tại nhưng toàn bộ ý thức sẽ bị núi từ xóa sạch, có lẽ đó mới là cái chết thực sự đối với nó.

    Ba người tự biết mình cũng chẳng thể trốn thoát, sắc mặt ai cũng xám ngoét, may mà đại sự đã định, coi như sự hi sinh của bao nhiêu con người đã không trở nên vô ích.

    Cao Tư Dương đột nhiên nhớ ra một việc không hay, trên đảo Âm Sơn còn có rất nhiều cương thi nửa người nửa cá, nếu chúng ăn thịt Entroypy, dẫu chỉ một, hai con trốn thoát ra ngoài, cũng đủ gây ra hậu họa khôn cùng.

    Tư Mã Khôi lắc đầu, anh bảo: “Quanh khu vực núi Âm Sơn toàn bọn xác chết biết đi đã thoái hóa, trong khi Entroypy chỉ khống chế được những sinh vật sống, thế nên dẫu chúng có ăn thịt vị thần cổ thì cũng chẳng ảnh hưởng gì, huống hồ chúng cũng không thể rời khỏi núi từ. Chẳng bao lâu nữa, luồng điện sinh học giống như âm hồn tồn tại trong cơ thể vị thần cổ hình cây kia cũng sẽ bị núi từ dưới lòng đất này xóa bỏ triệt để, mà thứ bị xóa bỏ ấy vạn kiếp sẽ không thể phục hồi được nữa. Bởi vậy, chúng ta không cần lo đến hậu họa đó”.

    Ba người nằm phủ phục trên đỉnh núi, nhớ đến chuyện của Thắng Hương Lân mà tim như giỏ từng giọt máu, ai cũng nuối tiếc, đau đớn khôn nguôi.

    Hải ngọng ngậm ngùi bảo Tư Mã Khôi: “Hương Lân chỉ đi trước chúng ta một bước thôi, dẫu sao cũng chẳng thể thoát ra khỏi đây được, nếu phải biến thành lũ cương thi dật dờ trong núi Âm Sơn, thà ta cứ nhảy xuống đây chết cho thống khoái…”

    Lời còn chưa dứt, thì cả hội thấy sương mù dày đặc trên đỉnh đầu cũng xuất hiện hố xoáy. Thì ra, ngọn núi từ cao hơn mặt nước chừng trăm mét, lúc nó chuyển động trong hố xoáy đã tạo ra một luồng khí xoay tròn, khiến màn sương vô biên bao phủ trên cao cũng thay đổi theo. Lúc này, phía dưới là sóng dữ vỗ ầm ầm, phía trên là sương mù vây bủa cuồn cuộn, nước biển và sương mù tạo thành một hố xoáy khổng lồ và đen ngòm, chẳng thể phân biệt ranh giới đâu là nước, đâu là sương, dòng khí nhiễu động mãnh liệt xoáy bay tất cả mọi vật ở những nơi nó đi qua, thổi vạt áo kêu phần phật, chỉ e hễ buông lỏng tay một chút là sẽ bị dòng khí nhiễu động cuốn phăng lên không trung.

    Tư Mã Khôi hạ kính chắn gió trên mũ bấc Pith Helmet xuống, anh thấy trong quầng sương dày đặc trên cao lộ ra một cửa hang lớn, quầng khí khổng lồ đang không ngừng vần vũ theo hướng đi lên trên. Anh bất giác lóe lên một ý tưởng, càng nghĩ càng thấy đây đúng là cơ hội ngàn năm khó gặp, đội khảo cổ chẳng có lý do gì phải chịu chết dưới lòng đất, tuẫn táng theo Entroypy, nếu đã không thể thoát khỏi cái chết, thì sao ta không mạo hiểm thử liều một phen?

    Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi nhìn lên cửa động trong sương mù, cô định nói: “Anh đừng nghĩ hồ đồ, dòng khí nhiễu động tuy mạnh, nhưng cũng không thể cuốn người lên trên cao như thế đâu…”, ngặt nỗi cô chẳng thể thốt thành lời, nên cứ khoa tay múa chân ra hiệu.

    Tư Mã Khôi chỉ tay về phía tàn tích chiếc máy bay ở gần đỉnh núi, ra hiệu cho Hải ngọng và Cao Tư Dương đừng hỏi nhiều, chỉ cần đi theo anh là được.

    Ba người khó nhọc di chuyển trong dòng khí nhiễu loạn, bò lên sườn núi nghiêng nghiêng, lắc lư chao đảo. Cuối cùng, họ cũng tiếp cận được tàn tích một chiếc máy bay mà vẻ ngoài có vẻ còn nguyên vẹn nhất. Đó là một chiếc máy bay trực thăng kiểu cũ bị núi từ hút vào đây.

    Hải ngọng chợt nhớ đến vụ chiếc máy bay tiêm kích của không quân Anh bị mắc kẹt trong đám dây leo ở khe núi Miến Điện, đội thám hiểm đã lái nó trượt xuống vực sâu, anh cứ ngỡ Tư Mã Khôi định thực hiện lại pha ấy, nhưng chiếc tiêm kích vận tải kia là loại máy bay có kết cấu toàn bằng gỗ hiếm, khả năng bảo tồn rất cao, thêm vào đó khe núi Dã Nhân sâu hơn hai ngàn mét, địa hình khoáng đạt, rộng rãi, dễ phát sinh hiệu ứng nhà kính nên họ mới có thể hạ cánh bình an vô sự, còn chiếc máy bay này đã bị núi từ hút chặt, huống hồ toàn bộ khung máy đã han gỉ nghiêm trọng, dẫu trong mơ cũng chẳng dám hi vọng nó có thể chở được người mà bay lên.

    Hải ngọng tự nhận mình là người dám nghĩ dám làm nhưng anh vẫn chưa đủ độ điên khùng như Tư Mã Khôi để nghĩ ra ý tưởng kỳ quặc ấy, rõ ràng Tư Mã Khôi đã bị chủ nghĩa mạo hiểm điển hình và chủ nghĩa liều mạng điều khiển mất rồi. Nghĩ vậy, Hải ngọng vội vàng xua tay can ngăn: “Muốn đi thì các cậu cứ đi, khó khăn lắm mới được chết một lần, sao không chọn cách chết nào bình thường một chút cơ chứ?”

    Cao Tư Dương lại cho rằng, có thể do Tư Mã Khôi quá đau lòng trước cái chết của Thắng Hương Lân, nên đầu óc nhất thời hồ đồ, cô định đến gần ngăn cản anh không nên làm những việc vô nghĩa ấy.

    Tư Mã Khôi biết nếu không nhanh chân thì thời cơ sẽ vụt mất, nên anh không kịp giải thích cho mọi người hiểu, anh bò vào trong khoang máy bay, lật tung đồ đạc như muốn tìm thứ gì đó, tìm mãi không có kết quả, anh lại chui vào trong xác một chiếc máy bay khác, cuối cùng cũng lôi ra được một cái bao khá lớn, sau khi phủi lớp bụi bên trên đi và xác nhận lại lần nữa, anh mới gỡ nó ra.

    Hải ngọng thấy hành động kỳ lạ của Tư Mã Khôi, thì liền lại gần giúp một tay, sau khi cởi hết các nút thắt, anh mới nhận ra và ngạc nhiên kêu lên: “Dù thoát hiểm sao?”

    Tư Mã Khôi chỉ về phía cửa động trong sương mù, rồi bảo: “Có thoát được khỏi đây hay không, còn phải xem cái dù này hữu dụng đến đâu nữa”.

    Tư Mã Khôi tìm thấy dù thoát hiểm trong xác một chiếc máy bay, thực ra đó chỉ là loại dù cứu sinh không quân thông dụng, không phải loại chuyên dụng dành cho lính dù, lỡ không kéo tung được cánh dù chính thì còn có cánh dù dự bị, nó sẽ giống như con diều, nương theo dòng khí nhiễu động đưa cả hội lên cao, chí ít sẽ rời được khỏi núi từ, cơ hội sống còn chỉ nằm trong khoảnh khắc này mà thôi, nếu lỡ xảy ra sai sót gì thì cùng ỉắm là chết, bởi vậy đội khảo cổ cũng chẳng thèm bận tâm xem dù cứu sinh có chịu nổi trọng lượng của ba người hay không. Tư Mã Khôi lập tức gỡ bao dù, ra hiệu cho hai người còn lại quấn dây thật chắc.

    Hải ngọng đã hiểu ý đồ của Tư Mã Khôi, anh biết Tư Mã Khôi muốn thả con “diều người”, nên lập tức ra tay túm lấy dây dù.

    Cao Tư Dương hơi do dự, cô thấy cách này tuy vô cùng nguy hiểm, nhưng rất đáng để liều một phen, nên cô cũng làm theo cách của hai người bạn đồng hành.

    Ba người vừa buộc dây dù vào người xong, thì dù thoát hiểm đã bị dòng khí nhiễu động cuốn lên cao, không khí thổi căng cánh dù, chỉ nghe “bùng” một tiếng, dây dù đã bị kéo thẳng đứng, đưa ba người lắc la lắc lư nâng dần lên cao. Họ cuống quýt bám chặt dây dù, mỗi người tự lấy khán tay che mũi, chỉ nghe dòng khí kêu ù ù bên tai. Dù cứu sinh treo lơ lửng giữa tầng không, xuyên qua hố xoáy khổng lồ, xoay tròn trong màn sương mù dày đặc và bay bồng bềnh lên cao.

    Trong hố xoáy khổng lồ dưới lòng đất, chiếc dù chẳng khác nào phiến lá nhỏ bé và mong manh chao đảo giữa cơn lốc điên cuồng, tứ phía là sóng nước mênh mông và màn sương quánh đặc như vĩnh viễn chẳng thể xua tan.

    Tư Mã Khôi thấy dù thoát hiểm đã bay lên cao, anh cúi đầu nhìn xuống và thấy vô số con mắt tuyệt vọng, vô hồn dưới vực sâu đang trừng mắt dõi theo đội khảo cổ. Nhưng chẳng bao lâu sau, màn sương mù dày đặc đã che khuất tầm nhìn của anh, tất cả đều bị bóng tối hư vô nuốt chửng, vạn vật lại trở về với hỗn độn, mọi chuyện từng trải qua trước đây chỉ giống như một cơn ác mộng kinh hoàng kéo dài đằng đẵng.

    Lúc dù thoát hiểm tiếp cận phần đáy lóp vỏ Trải đất, thì dòng khí nhiễu động trong núi Âm Sơn bắt đầu suy giảm đột ngột, dù cứu sinh không thể nâng đỡ được trọng lượng ba người, nó nghiêng sang một bên, rồi mắc vào các nhũ đá lởm chởm, phía dưới chỗ dù mắc lại là sương mù mênh mang, chỉ cần hội Tư Mã Khôi hơi mạnh tay mạnh chân một chút là dây dù sẽ đứt và rơi xuống. Thân mình cả ba người treo lủng lẳng giữa không trung, chẳng ai dám thở mạnh.

    Tư Mã Khôi biết giờ không phải lúc được phép chậm trễ, anh hít sâu một hơi, thò tay rút thanh kiếm cổ gài sau lưng Hải ngọng, tự cắt dây dù trên người mình, rồi thi triển tuyệt kỹ Bọ cạp đảo đầu leo tường, bò ngược theo sợi dây lên trên, sau đó chui vào khe nứt trên đỉnh động gần đó, kéo dây thừng lại gần và đỡ hai người bạn cùng bò vào trong động.

    Khe nứt ở nơi sâu dưới lớp vỏ Trái đất cũng được hình thành do vụ nổ dữ dội khi nãy, đá vụn quanh đó vẫn không ngừng rơi xuống rào rào, ba người rời khỏi chiếc dù cứu sinh đang mắc vắt vẻo giữa không trung, khe nứt phía sau lưng họ đã bắt khép lại trong cơn rung chuyển mãnh liệt, họ đành tiếp tục di chuyển xuôi theo địa thế hang động, bò sâu vào trong khe đá, lúc ấy chấn động mới dần lắng xuống, mình mẩy ba người bất giác ướt đẫm mồ hôi lạnh tự lúc nào, tay chân không ngừng run rẩy, cả hội nằm rạp trên mặt đá lạnh lẽo, chẳng thể nhúc nhích được nữa.

    Tư Mã Khôi cảm thấy mọi thứ trước mắt tối sầm, trong lúc mê man mơ hồ và niềm tâm sự dâng đầy, anh nhớ đến lúc đội quân Miến Điện Cộng hòa bị tan rã, mình theo đội thám hiểm tiến vào núi Dã Nhân đi tìm tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải, rồi bị bom địa chấn đưa đến tòa thành cổ ở nơi sâu hơn, sau đó bắt đầu chạm trán với Nấm mồ xanh, vì muốn vạch rõ chân tướng của u hồn này, anh đã theo đội khảo cổ do giáo sư Tống Tuyển Nông dẫn đầu thâm nhập kính viễn vọng Lopnor, lần theo manh mối bước chân vào rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, xuyên qua biển Âm Dụ và thủy thể 30° vĩ Bắc, rồi đến miếu thần đặt tấm bia đá Bái Xà ở dưới cửu tuyền. Những ngày tháng bất thường đã trở thành quá đỗi bình thường với anh, suốt dọc đường bao nhiêu người đã chết, cái giá phải trả để tìm ra ẩn số quả thực quá đắt, nhưng mong rằng tất cả những sự hi sinh ấy đều được đáp đền xứng đáng, nghĩ đến đây nỗi buồn từ đâu bất giác ùa đến, nhấn chìm anh xuống bể đau thương, mãi lâu sau anh mới bình tâm trở lại. Hình ảnh Thắng Hương Lân lao mình vào màn đêm mênh mông trong động tối không ngừng hiện lên trong trí não anh, trái tim anh như bị ai bóp nghẹt, đớn đau và thổn thức.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 2: LẠC ĐƯỜNG


    Ba người mê man hồi lâu dưới lòng đất, mãi lâu sau họ mới tỉnh dậy bởi cơn đói cồn cào, dẫu sao cũng đã giữ được cái mạng trở về, giờ đây đi bước nào tính tiếp bước ấy vậy.

    Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Chúng ta đã sống được đến ngày hôm nay thì xem ra trời cao cũng có đức hiếu sinh, ông trời chẳng nỡ để con sẻ mù phải đói khát, bởi vậy bây giờ dẫu gặp khó khăn hơn nữa, thì cũng phải tìm cơ hội trốn thoát, rồi báo cáo hết mọi chuyện với cấp trên, may ra lại được mấy suất liệt sĩ cho những anh em trong đội khảo cổ bị gặp nạn, người xưa có câu ‘vì dân quên mình, tổ quốc ghi công’, chỉ lấy mỗi cái danh hiệu chắc không có gì quá đáng đâu nhỉ?”

    Tư Mã Khôi gạt ngay: “Cậu mau đào thải ngay mấy tư tưởng đó đi, tiết lộ chuyện này ra ngoài chỉ tổ rước vạ vào thân, nhớ rằng sau này chỉ trời biết, đất biết và ba chúng ta biết mà thôi, không được hé môi với bất kỳ ai, nghe chưa?”

    Hải ngọng rầu rĩ: “Không nói thì thôi, nhưng chí ít cũng phải thắp nén nhang, đốt chút tiền giấy cho họ vào tiết Thanh minh chứ, nếu không, còn ai nhớ đến họ nữa?”

    Tư Mã Khôi nghe mà lòng không khỏi ngậm ngùi, anh thấy Hải ngọng nói rất đúng, phải có người nhớ đến đội khảo cổ từng thâm nhập thế giới ngầm dưới lòng đất này chứ!

    Cao Tư Dương đứng cạnh, thở dài: “Hai anh nghĩ đi đâu thế? Bây giờ chỉ còn mấy ngọn nến xương cá, không nước, không lương thực, không súng ống đạn dược, ngay các vật dụng như đồng hồ cũng bị núi từ hút mất rồi, bị nhốt dưới lòng đất tối như hũ nút thế này làm sao mà thoát ra được?”

    Tư Mã Khôi trấn tĩnh, anh ngẩng đầu nhìn ngó tứ phía xung quanh, rồi nói: “Trước tiên phải kiểm tra xem chúng ta còn những vật dụng gì, sau đó sẽ nghĩ cách tiếp!”

    Ba người tự kiểm tra ba lô của mình một lượt, hầu như chằng còn thứ gì, chỉ sót lại mặt nạ phòng độc hình mang cá do Liên Xô chế tạo, nửa hộp diêm chống ẩm, hai túi muối, một chiếc la bàn không thể chỉ hướng nam, ngoài thanh kiếm cổ thời Sở ra, thì chẳng còn vật gì đáng giá.

    Cao Tư Dương vô cùng tuyệt vọng. Khi đội khảo cổ bước chân vào rừng rậm dưới lòng đất đến biển Âm Dụ, tuy trang thiết bị không mấy hiện đại, nhưng chí ít cũng khá đầy đủ, nào là đèn đuốc, đạn dược, lương thực, pin đèn…, nhưng bây giờ đi ra chỉ có hai bàn tay trắng, lại chẳng thể phân biệt nổi phương hướng, thì làm gi còn hi vọng sống sót thoát khỏi đây?

    Tư Mã Khôi từng trải qua bao hành trình gian nan, nguy hiểm, trước đây anh cùng từng vượt cực vực sâu thăm thẳm trở về mặt đất, bởi vậy anh chẳng hề lo lắng trước những khó khăn mà Cao Tư Dương vừa nói. Lòng đất là nơi vào thì khó nhưng ra thì khá dễ dàng, độ dày của lớp vỏ Trái đất áng chừng tám ngàn đến mười ngàn mét, cứ cho nhiều nhất mười kilomet là cùng. Nếu từ mặt đất chui xuống mà không có bản đồ, thì chỉ có cách lần theo các huyệt động bị mạch nước ngầm ăn mòn để đi xuống tầng vỏ, nhưng hệ thống sông ngòi dưới lòng đất phân bố chằng chịt chẳng khác nào mạng nhện, trong quá trình mạch nước ngầm chảy xuống dưới, nó liên tục bị tầng đáy nuốt chửng, nên nếu cứ đi theo mạch nước ngầm thì rất dễ đâm đầu vảo ngõ cụt. Nhưng giờ đây, mọi người đang ở sâu dưới lớp vỏ Trái đất, muốn đi lên lại không đến nỗi khó khăn lắm, bởi dòng thủy thể 30° vĩ Bắc lúc nào cũng cuộn trào chẳng dứt, chắc chắn có rất nhiều dòng sông ngầm ăn thông ra biển, mạch nước ngầm không tự nhiên sinh ra, tất cả đều chảy từ trên mặt đất xuống, chỗ nào có nước thì ắt sẽ thông với các dòng sông ngầm, còn hang động không có nước đa phần cũng đều được hình thành do từng bị nước ngầm ăn mòn dần dần hết năm này qua năm khác, chỉ cần lần theo những dấu vết ngoằn ngoèo lượn sóng giữa địa mạch và các tầng đá, rồi đi ngược lên trên, thì kiểu gì cũng tìm được lối ra.

    Khó khăn lớn nhất bây giờ là thiếu lương thực và dụng cụ chiếu sáng, có điều Tư Mã Khôi lại thông hiểu tướng vật, hơn nữa anh còn đọc khá kỹ cuốn cổ tịch biệt bảo bí mật của Triệu Lão Biệt, nên anh chắc chắn sẽ tìm thấy vài loại nấm dưới lòng đất và đá quặng phát sáng trong lúc đi đường.

    Dẫu vậy, dọc dường đi vẫn tiềm ẩn rất nhiều hiểm nguy, đặc biệt là các loại tai nạn địa chất, tần xuất xảy ra tai nạn địa chất ở đây nhiều gấp mấy lần trên mặt đất, nhưng ý chí mưu cầu sinh tồn của ba người rất mãnh liệt nên họ không hề bận tâm đến những trở ngại và hiểm nguy ấy. Lúc này, cả hội chỉ còn nến xương cá dùng để chiếu sáng, họ đứng dậy lần mò dưới lớp vỏ Trái đất để tìm lối ra.

    Tư Mã Khôi biết việc đầu tiên cần giải quyết chính là dụng cụ chiếu sáng, nếu nến xương cá mà cháy hết thì chẳng thể hi vọng mò mẫm trong bóng tối mà thoát ra khỏi đây được. Nghĩ vậy, anh không dám chậm trễ, đầu tiên anh cố gắng phân biệt hướng nước ngầm, rồi tìm thấy một huyệt động có nước ngầm chảy qua. Khắp nơi trong động toàn là tinh thể đá vôi hình cầu, nom giống như những cây nấm hóa thạch, chỉ cần giẫm chân lên là chúng nát vụn và chảy ra thứ bột mịn phát sáng, nếu bôi nó lên người hoặc lên xương cá thì có thể dùng làm vật chiếu sáng. Đấy chính là “thạch trùng” được ghi chép trong cổ tịch biệt bảo, nó thường xuất hiện ở tận cùng của những dòng sông ngầm đã hình thành từ hàng vạn năm trước. Anh vội bảo mỗi người bốc lấy một ít, cất trong ba lô dự phòng lúc đi đường cần dùng đến.

    Ở sông ngầm, chỉ cần không phải suối nước nóng, thì thông thường đều có từng bầy cá bơi lượn trong làn nước dưới lòng đất, ba người lội xuống lòng sông bắt mấy con lên ăn cho đỡ đói, rồi tiếp tục xuôi theo hang động có sông ngầm chảy qua tiến về phía trước, dọc dường họ hái nấm và bắt cá mù trong hang động làm thức ăn.

    Khoáng vật trong lớp vỏ Trái đất rất ít khi tồn tại đơn độc, chúng thường tập hợp lại một chỗ theo quy luật nhất định, trong đó đá vôi chính là thể tổng hợp của khoáng vật thiên nhiên, nó thường được hình thành do một hoặc nhiều loại khoáng vật tập hợp lại, bởi vậy căn cứ vào độ sâu khác nhau trong lớp vỏ Trái đất, thì sự phân bố của tầng đá vôi cũng tồn tại những điểm khác biệt khá rõ rệt, một phần trong số chúng được cấu thành từ thủy tinh núi lửa, chất kết dính và di thể của các loài sinh vật.

    Hội Tư Mã Khôi men theo hang động có dòng nước ngầm chảy qua, từng bước tiến về phía trước. Suốt dọc đường, họ nhìn thấy gần sông ngầm có rất nhiều loại mỏ quặng như mỏ bạch kim thiên nhiên, mỏ đồng thiên nhiên, mỏ than chì, Aourit, pyrit, corundum, mi ca… Chúng phân bố tầng tầng lớp lớp dưới lòng đất. Sông ngầm thường có nhánh, lúc rộng lúc hẹp, khi êm ả, khi chảy xiết, muốn tìm lối ra trong hệ thống sông ngầm dưới lòng đất giống như mê cung này cũng không phải chuyện dễ.

    Hải ngọng đưa ra ý kiến, cứ men theo nơi tập trung mỏ quặng mà đi, dẫu chết mà có bao nhiêu đá quý làm đồ bồi táng thế này, thì cùng coi như hòa vốn.

    Tư Mã Khôi phát hiện, trong dòng sông ngầm có mấy con cá, nom chúng không giống loài cá mù thân mình dải mành, bé nhỏ trong hang tối, loài cá này thân dài, mình dẹt, đầu nhọn, miệng rộng, đuôi bằng, trên người còn có các vân màu đen bất quy tắc, chất thịt tươi ngon, béo mỡ màng, đó là loài cá nước ngọt sống trong các dòng hạ lưu nơi rừng rậm. Anh đoán, con sông ngầm này chảy tới một cánh rừng nào đó trong khe núi. Bây giờ mọi người cứ ngược theo nhánh sông này lên thượng nguồn, nếu lại gặp loài cá mù hang động ở đó, thì quay lại đây tìm đường khác.

    Đế giảm bớt sự ảnh hưởng của địa áp, ba người không dám đi quá nhanh, họ thong thả lội ngược dòng nước, lúc đi lúc nghỉ. Dưới lòng đất chẳng thể phân biệt được ngày và đêm, cả hội cũng không rõ mình đã đi bao xa, chỉ biết cuối cùng họ phải lặn qua một hang động bị ngập hoàn toàn trong nước. Sau khi lặn sang đến bờ bên kia, sự ảnh hưởng của địa áp đã giảm đi rõ rệt. Địa hình ở đây trở nên vô cùng khoáng đạt, trong tầm mẳt toàn là cây rừng um tùm, cao to sừng sững, khắp nơi mọc đầy hoa thơm cỏ lạ, các phiến lá to bản đến lạ kỳ, độ cao của các loài thực vật ở đây dễ phải trên mấy

    chục mét. Do lượng nước trong rừng vô cùng dồi dào, nên thảm thực vật được chia thành rất nhiều tầng, tầng nọ đan cài và bao trùm lên tầng kia, vô số loài cây rủ chùm rễ hình trụ buông thõng giữa không trung, dây leo đan cài chằng chịt từ gốc cây nọ sang gốc cây kia, tạo thành một bức mành khiến người ta khó lòng xuyên qua nổi. Hai bên bờ sông ngầm đều là loài thực vật tầm gửi hoặc thực vật hủ sinh. Trong bụi cây cách chỗ Tư Mã Khôi đứng không xa bỗng xuất hiện một con rắn lớn, nó thò đầu nhả khí thành mây, khiến lũ chim rừng kinh sợ, chúng vừa kêu inh ỏi vừa túa ra bay tán tác. Tiêng kêu vang vọng mãi bên tai, phá vỡ màn tĩnh lặng vốn có của khu rừng nguyên sinh. hoatanhoano.wordpress.com

    Ba người thấy tình hình quái dị trước mắt, lòng cũng bất giác rờn rợn. Hang động quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời nảy rõ ràng vẫn ở dưới lòng đất, thì làm sao có thể tồn tại cả cánh rừng nguyên sinh rậm rạp dường này được? Chẳng lẽ quanh vành đai 30° vĩ Bắc lại có một nơi như vậy ư?

    Tư Mã Khôi cảm thấy không khí trong rừng ẩm ướt, oi nóng, tuy điều kiện nguồn nước và thổ nhưỡng rất phù hợp để thảm thực vật ở đây phát triển sinh sôi, nhưng trong môi trường không có ánh mặt trời, thì các loài thực vật cũng không thể sinh trưởng, lẽ nào mọi người vẫn chưa thoát khỏi ảo ảnh trong động không đáy do Entroypy tạo ra sao? Anh bám vào các sợi dây leo, trèo lên đỉnh ngọn cây, thấy vách đá dựng đứng bao vây tứ phía, ngửa mặt nhìn lên thì thấy một đường chân trời.

    Chẳng rõ bao lâu rồi, ba người họ chưa được nhìn thấy bầu trời thực sự, bị nhốt ở dưới này khác gì âm dương cách biệt đâu chứ. Họ đứng trân người hồi lâu, mãi mới nghĩ đến việc phải tìm đường rời khỏi khe núi sâu.

    Để tránh côn trùng độc và thú dữ, hội Tư Mã Khôi bện củi khô thành bó đuốc đơn giản, di thể thực vật đã hóa than được chôn ủ ở đầu nguồn con sông ngầm đều là chất dễ cháy, chỉ cần châm lửa là có thể dùng để phòng thân và chiếu sáng. Mọi người mò mẫm đi xuyên qua cánh rừng rậm rạp, họ phát hiện đây là một khe núi sâu bị dòng hà lưu chia cắt, độ sâu của nó phải xấp xỉ ngàn mét, địa hình kiểu thắt cổ chai, trên hẹp dưới rộng. Từ ngàn vạn năm trước, dòng hà lưu ở tầng địa biểu dần dần hạ thấp, rồi trở thành dòng sông ngầm chảy qua khe núi kéo dài ngàn mét như hiện nay. Thêm vào đó, không khí dưới lòng đất nóng ẩm cho phép các loài thực vật từ trên cao rơi xuống tiếp tục sinh sôi nảy nở và hình thành nên cánh rừng rậm rạp um tùm ở nơi này. Do hai vách đá cao vút, chắn sừng sững hai bên, ngay cả chim cùng khó lòng vượt qua, nên các loài dã thú bị dòng khí cuốn vào đây không thể thoát ra ngoài được nữa, chúng buộc phải sinh tồn và sinh sản trong khe núi cách biệt hoàn toàn với thế giới này, cùng nhờ vậy rất nhiều loài động thực vật quý hiếm trong giới tự nhiên được bảo tồn đến tận bây giờ, con người cũng khó lòng mà đặt chân tới đây được.

    Khe núi sâu thăm thẳm giống như một cái bẫy của tự nhiên, dòng sông ngầm chảy xuyên qua lòng nó đến mấy dặm, chẳng thấy điểm tận cùng, tầng lá mục nát phủ trên mặt đất tòa ra mùi ngai ngái khiến người ta muốn ngộp thở, trên cao mây sương che kín bầu trời, hội Tư Mã Khôi đành mạo hiểm bám dây leo, trèo lên vách đá dựng đứng, ban đêm lại trú mình trong khe đá. Suốt một thời gian dài, cả hội đã sống trong bóng tối, nếu lập tức để mắt tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời, thì rất có khả năng sẽ bị mù, bởi vậy bây giờ họ phải sống trong khe núi mấy ngày để làm quen dần với môi trường mới. Tuy coi như đã tìm được con đường sống, nhưng họ vẫn không biết mình đang ở nơi nào, nghĩ đến tiền đồ khó lường trước mắt, lòng dạ ba người lại ngổn ngang những nỗi lo.

    Hôm ấy, cuối cùng mọi người cũng trèo ra khỏi khe núi, bầu trời xanh biêng biếc, ngọn núi tuyết phía xa xa sừng sững nguy nga, trải dài liên miên theo hình nhấp nhô lượn sóng, giữa những dãy núi cao là dòng sông băng nằm vắt vẻo, sương mây quấn quanh, nhìn gần thấy cây cối rậm rạp, biển rừng mênh mông và ngọn núi tuyết chọc trời như hòa quyện thành một thể. Mọi người tròn mắt nhìn, lòng chất chứa bao nghi vấn. Đúng lúc còn ngẩn người ngạc nhiên, thì bỗng đâu một con gấu đen từ trong rừng lao ra, người bê bết máu, kéo theo cả chùm phèo ruột trắng hếu, hai mắt lộ hung quang, nó loạng choạng đứng thẳng bằng hai chân và làm động tác như sắp vồ người.

    Hội Tư Mã Khôi chẳng ngờ lại có dã thú bất ngờ xuất hiện ở đây, ai nấy giật nảy người, chưa kịp phản ứng gì thì đã nghe thấy hai tiếng “pằng pằng” vang lên, con gấu cao gần hai mét đổ vật xuống đất chẳng khác nào cây gỗ bị đốn ngã, nằm im bất động.

    Định thần nhìn lại, thì ra là hai tay thợ săn trong rừng tay cầm súng săn đang đuổi theo con gấu, một người là thanh niên cao to lực lưỡng, còn người kia là lão thợ săn đã có tuổi, gương mặt tiều tụy. Hai người bọn họ đều mặc áo choàng đen, đầu đội mũ da hươu, trước ngực đeo niệm răng và xương thú, cách ăn vận khá đặc biệt. Trước mũi súng còn lắp thêm mũi đinh ba, khi này chính hai người thợ săn này bắn súng đã hạ gục con gấu từ phía sau, xem ra họ đã đuổi theo con gấu một mạch đến tận đây.

    Tư Mã Khôi bước lại gần định đánh tiếng hỏi thăm xem đây rốt cuộc là nơi nào.

    Ai ngờ, hai người thợ săn, một già một trẻ vừa nhìn thấy hội Tư Mã Khôi liền hét lên thất thanh, rồi quay đầu bỏ chạy.

    Hải ngọng cuống quýt gọi lại: “Ấy, các bác dừng sợ, quân hoàng gia không giết người cướp của, quân hoàng gia chỉ đến xây dựng nhà nước lý tưởng thôi…”

    Hai người thợ săn nghe thấy tiếng la hét, thì dần bước chậm lại, rồi dừng hẳn, tay vẫn lăm lăm khẩu súng săn, họ quay đầu lại ngơ ngác nhìn ngó.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 3: VỊ TRÍ


    Hai người thợ săn mặc áo choàng đen, một già, một trẻ sững sờ nhìn hội Tư Mã Khôi cứ như vừa phát hiện thấy vật thể lạ, họ lò dò bước lại gần một cách cẩn trọng, vừa đi vừa thầm xét đoán hội Tư Mã Khôi, miệng không ngừng lẩm nhẩm tụng niệm câu kinh gì đó.

    Tư Mã Khôi bị họ nhìn chăm chú quá cũng thấy lạnh cả người, anh thầm nghĩ: “Hai tay thợ săn này là tín đồ Phật giáo, quanh đây lại toàn núi tuyết cao sừng sững, không hiểu họ là dân Tạng hay dân Nepal nhỉ?”

    Người thợ săn đứng tuổi cũng bập bẹ nói được vài từ phổ thông, sau một hồi vừa nói vừa khoa tay múa chân, cuối cùng Tư Mã Khôi cũng hiểu ra chút ít manh mối. Thì ra, hai người họ đều là thợ săn người dân tộc Monpa, còn nơi đây là một nhánh thuộc lưu vực sông Yarlung Tsangpo(1), tuy mọi người vẫn chưa trở về được Đại Thần Nông Giá, nhưng cũng gần như đã đi một vòng dưới lòng đất xung quanh vành đai 300 vĩ Bắc.

    (1) Sông Yarlung Tsangpo: bắt nguồn ở các bình nguyên băng Jima Yangzong gần núi Kailash ở phía bắc dãy Đó là con sông lớn cao nhất trên thế giới, nó hình thành nên hẻm núi Yarlu Tsangpo, được coi là hẻm núi sâu nhất thế giới.

    Vùng đất này hơi chếch về hướng nam khu tự trị Tây Tạng, xung quanh toàn núi cao và rừng rậm. Vào những năm 1950, bộ đội vẫn thường lui tới nơi đây, hồi ấy bác thợ săn già người Monpa từng là hướng đạo cho bộ đội, nên bác mới hiểu chút tiếng Hán, còn anh thợ săn trẻ hơn là con trai bác. Lúc trước nhìn thấy hội Tư Mã Khôi, hai cha con cứ ngỡ gặp phải ma núi, giờ mới biết ba người họ vừa bò từ trong khe núi ra. Chẳng rõ vì duyên cớ gì mà hai người thợ săn Monpa lại kinh ngạc dường ấy, thậm chí họ còn tỏ thái độ sợ sệt, kính cẩn, rồi đưa hội Tư Mã Khôi về nhà.

    Các hộ dân ở đây vẫn giữ phương thức sinh hoạt nguyên thủy là canh nông và săn bắn. Nhà bác thợ săn này còn một cô con gái, họ đựng rượu ngô và thịt nai trọng chậu đồng, rồi bắc lên bếp hầm nhừ. Bác thợ săn mời ba người hội Tư Mã Khôi ngồi quanh bếp lửa, không ngừng rót rượu, tiếp thức ăn cho ba người.

    Tư Mã Khôi lấy làm lạ, nghĩ bụng: “Mình từng nghe nói thợ săn trong núi rất nhiệt tình, hiếu khách. Trước chỉ được nghe chứ chưa từng được gặp, nay gặp rồi đúng là phục sát đất luôn, họ khoản đãi người không quen biết thật thịnh tình. Thôi thì nhập gia tùy tục, mình cũng chẳng khách sáo làm gì”, nghĩ vậy anh phồng mồm ăn đến no căng bụng mới thôi. Với họ giờ đây, loại rượu ngô bình dân trở nên tuyệt diệu chẳng khác gì nước cam lồ(2).

    (2) Nước cam lồ: Một loại nước bất tử xuất hiện trong thần thoại Ấn Độ.

    Bác thợ săn người dân tộc Monpa chỉ nói được rất ít tiếng Hán, nói mãi Tư Mã Khôi mới hiểu được một đôi câu, nhưng chỉ cần nắm rõ phần cơ bản là có thể lý giải được nội dung đối phương muốn biểu đạt.

    Qua trao đổi, anh được biết lưu vực sông Yarlung Tsangpo chảy qua rất nhiều khe núi, xung quanh đấy toàn núi tuyết, sông băng và rừng rậm nguyên sinh. Khe núi mà hội Tư Mã Khôi vừa mới trèo ra đã xuất hiện ở đây từ thuở khai thiên lập địa, nghe nói bên trong là lãnh địa bí mật của thần linh, chỉ những bậc hiền đức thấm nhuần Pháp thời luân Kim Cang(3) và tu hành mười kiếp thì mới có cơ duyên ra vào vùng đất thánh ấy, cũng bởi lý do đó họ mới có thái độ cung kính như thế với hội Tư Mã Khôi, họ còn gọi hội Tư Mã Khôi là “Hán Tashi” (4), thậm chí họ chẳng bao giờ định hỏi xem rốt cuộc ba người từ đâu đến.

    (3) Pháp thời luân Kim Cang: là một pháp tu thuộc bộ Tối Thượng Du Dà của phái Mật Tông Tây Tạng.

    (4) “Hán Tashi”: Theo tiếng Tạng nghĩa là “người Hán mang lại may mắn”.

    Tư Mã Khôi vô cùng cảm kích trước tấm lòng của người thợ săn già, anh móc mấy thỏi flourit có thể dùng để chiếu sáng mà lúc trước nhặt được dưới lòng đất, đem ra tặng bác ta. Đồng thời mang số còn lại đổi lấy ba bộ quần áo và giày mũ. Giao thông ở khu vực núi cao hẻm sâu này gặp nhiều trở ngại, phần lớn áo mũ đều được làm từ da thú, nên nhất thời không gom đủ bộ, may mà flourit là loại khoáng quặng quý hiếm nên mới đổi được mấy bộ ở những nhà thợ săn khác.

    Hội Tư Mã Khôi ở dưới lòng đất suốt mấy tháng trời, tuy sau khi ăn nấm Vân Chi thì khí huyết trong người cũng được bổ sung đáng kể, nhưng môi trường dưới lòng đất vô cùng khắc nghiệt, lúc oi bức ẩm ướt. khi âm u lạnh giá, thêm vào đó lại thiếu thốn thuốc men lương thực, nên khắp người bò lồm ngồm toàn đĩa vắt và chấy rận, sau lưng và dưới chân bị eczema từng mảng lớn, các vết thương đều lở loét và tấy mủ. Máu mủ và quần áo dính vào nhau, lúc lột quần áo ra, cả mảng da lớn cũng rách toác theo, bởi vậy cả hội chẳng thể gỡ bỏ nổi quần áo.

    Bác thợ săn người Monpa thấy vậy liền bảo cô con gái đắp thuốc chữa trị cho hội Tư Mã Khôi, họ điều trị suốt mười mấy ngày, vết thương mới lành miệng.

    Ba người vô cùng biết ơn bác thợ săn già. Đúng lúc định cáo từ ra đi, thì bác thợ săn lại xua tay, lắc đầu bảo: “Các cậu không thể ra khỏi đây được đâu!”

    Tư Mã Khôi rất đỗi kinh ngạc, anh hỏi kỹ mới biết bây giờ là mùa đóng cửa núi, vì muốn vượt núi buộc phải đi qua mấy con sông băng và vùng dễ xảy ra lở đất, dọc đường toàn núi sâu rừng rậm, vách đá cheo leo dựng đứng, vả lại cũng không thuận đường, nếu muốn đi phải đợi sau khi sang xuân mới được.

    Hội Tư Mã Khôi đành kiên nhẫn chờ đợi. Họ ở lại căn nhà gỗ của người thợ săn để dưỡng thương, đôi lúc rảnh rang họ còn lang thang đến các khe núi gần đó đi săn với dân bản địa. Tuy điều kiện sống giản dị nhưng với họ, đó là những chuỗi ngày bình yên nhất trong cuộc đời mình, cả thân thể và tinh thần đều dần dần phục hồi trở lại.

    Tối hôm đó, nghe tiếng nước chảy ầm ầm cùa dòng Yarlung Tsangpo từ xa vọng lại. Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi và Hải ngọng xem hai người định đi đâu sau khi ra khỏi núi?

    Tư Mã Khôi thấy đây luôn là vấn đề khiến anh đau đáu nhất, bản thân anh và Hải ngọng thì chẳng có gì đáng bàn, nhưng Cao Tư Dương vốn thuộc về quân đoàn 302, cô được cử đến lâm trường Đại Thần Nông Giá, nhận lệnh cùng Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử cùng đến tháp canh trên ngọn núi chính để sửa chữa cỗ máy điện đàm chuyên dùng cấp báo cho công tác phòng cháy chữa cháy, lúc ấy vì bất đắc dĩ nên cô mới phải gia nhập đội khảo cổ thâm nhập lòng đất. Tuy giờ đây cô đã sống sót quay trở về, nhưng hai thành viên còn lại của tổ thông tin thì lại tử nạn. Có lẽ giờ đây trong hồ sơ cùa lâm trường, vụ án Cao Tư Dương đã sớm khép lại bằng hai chữ chú thích “mất tích”, nhưng nói gì thì nói cô vẫn là bộ đội xuất thân từ quân ngũ, nên khi trở về bắt buộc phải giải trình cặn kẽ mọi việc với lãnh đạo. Đến lúc đó, nếu phải giải thích vì sao lại mất tích lâu như thế, suốt thời gian đó cô đi làm gì và đi những đâu, thì thực không phải chuyện dễ, còn nếu bảo cô bị lạc đường trong rừng rậm Đại Thần Nông Giá, thì tại sao đột nhiên xuất hiện trở lại sau nửa năm bặt vô âm tín? Đặc biệt là vấn đề làm sao chứng minh được những điều cô nói xảy ra trong suốt thời gian qua là sự thực? Nếu hai thành viên còn lại của tổ thông tin đều đã chết, thì thi thể của họ giờ ở đâu? Việc nói tròn trịa tất cả những nghi vấn trên lại không phải sở trường của Cao Tư Dương.

    Cao Tư Dương cũng nhiền lần vắt tay lên trán trăn trở vì chuyện này, nhưng giờ sắp phải đối mặt với nó mà cô vẫn chưa nghĩ ra được cách nào, lo lắng quá khiến nước mắt cô bất giác rơi xuống má tự lúc nào.

    Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương, việc anh dặn cô đừng nhắc gì đến chuyện đội khảo cổ tuyệt đối không phải xuất phát từ ý định cá nhân ích kỷ, cả hội chẳng làm gi có lỗi với đất nước, với nhân dân mà cần giấu giếm, có điều, chuyện này can hệ quá sâu đến nhiều người, hơn nữa bây giờ chính anh cũng chẳng rõ các thành viên của tổ chức Nấm mồ xanh còn nằm vùng ở những đâu nữa, lỡ bị chúng phát hiện đội khảo cổ vẫn còn người sống sót, thì mấy cái mạng này củng khó bảo toàn, bởi vậy từ nay về sau mọi người buộc phải mai danh ẩn tích, có chuyện gi ít ra cũng phái đợi đến khi trời yên bể lặng, sóng gió qua đi hoặc khi xác định chắc chắn tuyệt đối an toàn mới xét sau.

    Cao Tư Dương cũng hiểu mức độ nguy hiểm của chuyện này. Có điều cô không muốn ở lại trong núi, cô quệt nước mắt hạ quyết tâm, rồi nói với Tư Mã Khôi: “Tôi nhớ trước đây anh từng nói – giải được ẩn số Nấm mồ xanh không có nghĩa là kết thúc mọi chuyện. Thậm chí không phải sự bắt đầu của kết thúc mà cùng lắm chỉ là sự kết thúc cùa một khởi đầu mới”.

    Tư Mã Khôi thấy không ổn, anh ậm ừ: “Hình như… hình như tôi có nói vậy, thế thì sao?”

    Cao Tu Dương nói: ‘Tốt! Thế thì từ giờ trở đi các anh đi đâu, tôi sẽ theo đấy, cho đến khi nào mọi chuyện hoàn toàn kết thúc mới thôi!”

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ: “Anh em ta còn chẳng biết đi đâu nữa là…”

    Bấy giờ đang là thời kỳ nhà nước bao cấp, nếu không có hộ khẩu hoặc thân thế thì có đi đâu cũng chẳng thể kiếm nổi miếng cơm, ngay cả sống trên mảnh đất quê cha đất tổ cũng không chốn dung thân. Nếu muốn sống sót, ngoại trừ lẩn trốn ở núi rừng Tây Tạng ra, thì ba người buộc phải tìm nơi nào đó kiếm cơm, nhưng đi đâu bây giờ? Huống hồ trên người chẳng còn xu dính túi, muốn nhờ vả, dựa dẫm vào ban bè thân thich cũng không xong. Giờ họ mới thấu thế nào gọi là “Trời đất tuy rộng lớn, nhưng chẳng chốn nào dành cho ta”.

    Cuối cùng thực không biết phải làm sao, sau khi mở cửa núi, Tư Mã Khôi đành nhờ anh con trai của bác thợ săn dẫn cả hội băng núi, vượt mấy chục dặm đường đến huyện thành, mang khoáng thạch lấy về từ lòng đất và đồ da đổi thành tiền làm lộ phí đi đường. Ngày hôm sau, họ lên tàu trở về Trường Sa, tạm thời dừng chân ở Hắc Ốc, định tiếp tục ăn cơm đường sắt, lánh mặt một thời gian. Bây giờ làm ăn khó khăn, Tư Mã Khôi thấy nếu không có thân thế thì không thể tính kế lâu dài, mà chủ yếu là anh không đành lòng để Cao Tư Dương đi theo chịu khổ cùng mình. Anh biết lão Lưu Hoại Thủy của đội khảo cổ là người có quan hệ rộng rãi, nên anh đành dắt Hải ngọng cùng Cao Tư Dương đến Bắc Kinh.

    Bấy giờ đang lúc giữa hạ, thời tiết nắng nóng cực điểm, để tránh tai mắt thiên hạ, Tư Mã Khôi phải đi một mình đến nhà lão Lưu Hoại Thủy trước, anh mang theo thanh kiếm cổ thời Sở tặng cho lão, đồng thời nói rõ hoàn cảnh hiện tại của mình, mong lão giúp đỡ tìm cách tháo gỡ.

    Lão Lưu Hoại Thủy nghe tin Thắng Hương Lân chẳng may nằm lại mãi mãi dưới lòng đất sâu, lão ngậm ngùi suốt hồi lâu, rồi đồng ý nhận lời giúp đỡ, nhưng lão cũng nói trước thời thế này mà muốn an cư lập nghiệp, kiếm miếng cơm quả thật không hề dễ dàng. Sau đó, lão quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Bát lão gia là chân truyẻn Kim Điển, trong đạo tướng vật cũng có pháp tướng kiếm, lão gia thử chiếu cố nhìn xem thanh kiếm này có lai lịch thế nào?”

    Tư Mã Khôi biết tướng của vạn vật trên đời, trong thuật tướng vật đũng là có đề cập đến tướng kiếm.

    Thời Xuân thu chiến quốc có một người tên là Tiết Trùng, sinh thời đọc rất nhiều kiếm phổ, thông hiểu mọi loại kiếm trên đời. Ông ta xem tướng kiếm chẳng khác gì người ta xem tướng số, bất kể thanh kiếm nào vào tay ông ta, ông ta cũng đều xem rất kỹ càng, rồi nói thanh kiếm đó mang vận tốt hay vận hung, ví như ông ta vừa nhìn thanh Ngư trường kiếm đã biết thanh kiếm này không thuận đạo lý, là hung khí khiến quan giết vua. con giết cha… Chỉ có điều, bí thuật cổ này đã thất truyền từ lâu. Lão Lưu Hoại Thủy làm nghề đánh trổng con, làm gì hiểu được mấy chuyện này, chẳng qua chỉ vì lão không rõ thanh kiếm thời Sở này có điểm gì đáng đồng tiền bát gạo nên mới nhờ Tư Mã Khôi giảng giải mà thôi.

    Tư Mã Khôi nhận ra ngay ý tứ của lão, nên đương nhiên anh chỉ nói điểm tốt của nó. Anh khua môi múa mép rằng đây là bảo vật trấn quổc cùa nhà Sở, bị vùi dưới lòng đất hơn hai ngàn năm chưa từng khai quật, ngay cả núi vàng cũng chẳng thể đổi được vật này.

    Lão Lưu Hoại Thủy vừa nghe là biết tỏng ý đồ của Tư Mã Khôi, lão nói thanh kiếm này không thấy nhắc đến trong các thư tịch cổ, cũng chưa bao giờ nghe nói đến lai lịch cùa nó. Nên dẫu có là đồ cổ lưu lạc đến nay thì cũng chẳng đáng mấy tiền, huống hồ nhìn sắc kiếm cũng không được đẹp mắt cho lắm…

    Tư Mã Khôi bực mình nhíu mày, anh thẳng thừng nói: “Cứ theo lời cùa mấy tay đánh trông con nhà lão thì dưới vòm trời này chẳng có thứ gì đáng tiền. Giờ tôi có bê cả Tiền Môn đặt trước mặt lão, thì lão cũng nói đó chỉ là ngôi nhà làm bằng giấy. Lão thích thì lấy, còn như không thích thì để tôi mang về cho rồi!”

    Lão Lưu Hoại Thủy vội vàng cười cầu hòa: “Ấy đừng! Xin lão gia chớ trách! Nếu tôi biết nó tốt thì đã chẳng thể kiếm cơm bằng nghề đánh trống con. Biết làm sao được! Đây là ngón nghề tồ tiên truyền lại mà!”, nói xong lão cất thanh kiếm cổ thời Sở xuống gầm giường, sau đó lúng túng một hồi lão mói nói, thực ra việc Tư Mã Khôi nhờ, bản thân lão không thể giúp nổi. Trong xã hội cũ, nghề đánh trống con làm lớn tới đâu thì cũng chỉ mở được cái sạp là cùng, chứ nào có bản lĩnh gì cao cường. Lão không thể giúp hội Tư Mã Khôi gia nhập đội khảo cổ giống như giáo sư Tống Tuyển Nông được, tuy lão không thể giúp, nhưng có người lại có thể giúp, lão chỉ đặt mối cho thôi, còn việc thành hay bại thì còn phải xem Tư Mã Khôi nói năng với người ta như thế nào đã.

    Ngày hôm sau, theo chỉ điểm cùa Lưu Hoại Thủy, hội Tư Mã Khôi tìm đến nhà hóa thân ở ngoại thành, đây là cách gọi tránh húy kỵ của dân gian, thực tế đó chính là nơi hỏa táng người chết. Tất cả người chết ở phía đông thành đều được đưa đến đây, khu này vô cùng hoang vắng, cỏ dại mọc cao quá nửa người. Khi cả hội tìm đến nơi thì sắc trời đã bảng lãng. Tối đó, thời tiết oi bức, không mưa, mây đen bủa vây bốn phía, bầu không tịnh vắng bóng sao, cũng chẳng có lấy một làn gió, tứ bề tối thui. Tiếng ếch và côn trùng kêu khiến người ta nổi da gà. Xung quanh hoàn toàn quạnh quẻ, chỉ có nguời canh xác đang gác đêm trong phòng để thi thể.

    Hải ngọng cũng thấy hơi rờn rợn, anh vừa đi vừa hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng lẽ tay họ Lưu kia lừa chúng ta hay sao mà xui chúng ta đi tìm gã canh xác làm thời vụ ở nhà hỏa tang Mà cậu cũng cả tin thật, lúc thường cậu đa nghi lắm cơ mà?”
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 4: ÔNG TRÙM


    Thì ra, người canh phòng hóa thân tên là “Lý cóc”, thường ngày lão gác đêm trong nhà hỏa táng, nhưng đây chỉ là công việc làm thêm, thực ra lão là “ông trùm” của cả tứ cửu thành(1) này, tất cả các việc lặt vặt mà các quan bên trên không quản, ví như: thó tiền, cắt tóc, đánh trống con, đồng nát… thì đều do lão cai quản. Thời xưa, những kẻ như vậy được gọi là “trưởng môn cái bang”, những kẻ này được ăn hai mang – cả công lẫn tư. Nghe nói năm xưa Lý cóc từng cứu mạng một viên quan cấp cao, mà người ta thường nói “quan hệ chính” là bát cơm, thêm vào đó, năng lực hoạt động xã hội của lão cũng khá mạnh, các mối quan hệ cứ thế đan xen keo kết với nhau, có điều, Lý cóc rất ít khi lộ mặt ra ngoài xử lý mọi việc, nên chẳng mấy ai gặp được lão.

    (1) Tứ cửu thành: Ám chỉ Bắc Kinh, trong đó “tứ” là chỉ bốn phía tường thành vây quanh, gồm: đông, tây, nam, bắc; còn “cửu” là chỉ chín cửa thành, gồm: cửa Chính Dương, cửa Tuyên Vũ, cửa Phụ Thành, cửa Tây Trực, cửa Đức Thắng, cửa An Định, cửa Đông Trục, cửa Triều Dương và cửa Sùng Ván.

    Lão Lưu Hoại Thủy xui hội Tư Mã Khôi đến bái kiến “ông trùm”, chỉ cần Lý cóc gật đầu một cái thì muốn tìm nơi nào làm ăn đều chẳng thành vấn đề.

    Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe danh Lý cóc, chẳng ngờ đến giờ lão vẫn còn sống, thế là anh liền dẫn Hải ngọng và Cao Tư Dương đến bái kiến. Đừng thấy trong xã hội đặt ra bao nhiêu quy định mà cho là quá ngặt nghèo, thực ra người xưa đã có câu: “Đi đường công không được sai bằng cái kiến, đi đường tư sai bằng con ngựa vẫn cứ thông”, nếu anh không có cửa, không có quan hệ thì cứ thế mà thực hiện theo đúng những quy định cứng nhắc kia, không được phép sai một ly một lai, nhưng nếu tìm đúng cửa, thì chẳng chuyện gì là không hanh thông.

    Bốn phía khu hỏa táng đều có tường rào bao quanh, bên trong có hai tòa nhà, một tòa ở phía trước, một tòa ở phía sau, tòa nhà phía trước có hai tầng, tòa nhà phía sau có ba tầng, bảo vệ ngồi gác ở tầng một tòa nhà phía trước. Tư Mã Khôi gọi cửa, vừa nhìn đã thấy một lão già người thấp lùn một mẩu nhưng khá đô con, đầu lão nhẵn bóng, miệng rộng ngoác tận mang tai, phưỡn cái bụng tròn vo như trống cái, mũi củ tỏi, mí mắt chảy xệ, miệng chẳng khác gì miệng ếch, không cần hỏi cũng biết đó là ai.

    Do đã làm thủ tục chào hỏi từ trước, nên gã Lý cóc cũng biết ý định của ba người mới đến. Lão dẫn ba người vào phòng, dọc hành lang đặt mấy cỗ quan tài đựng xác chết, trong phòng tĩnh lặng đến lạ kỳ, ở đó chỉ kê một cái giường và hai chiếc ghế dài, trên bàn có bát gan xào và một túi thịt dê khá lớn, còn cả nửa bình rượu trắng.

    Lý cóc cười hì hì, hỏi: ‘Thế nào ba vị? Làm một tí chứ hả?”

    Tư Mã Khôi và Hải ngọng chạy lông nhông suốt nửa ngày trời, bụng đang rỗng tuếch, nghe lão mời cũng thấy lạ: “Ái chà! Lão già này cũng hiểu phép tắc đấy chứ…”, thế là hai người chẳng khách sáo gì, ngồi ngay xuống ghế, bốc miếng thịt nhét vào miệng, chỉ riêng Cao Tư Dương sau khi bước chân vào tòa nhà, cô thấy toàn thân không thoải mái, càng chẳng có tâm trạng nào mà ăn uống, nhưng đến thì đã đến rồi, không thể quay ngoắt đi luôn được, cực chẳng đã cũng phải ngồi xuống theo hội Tư Mã Khôi.

    Lý cóc chỉ mải uống rượu, nhắm mắt dưỡng thần, chẳng nói năng gì nữa, trông nét mặt rất ư lạnh lùng.

    Tư Mã Khôi đành phải khơi mào trước, anh cất tiếng: “Từ lâu đã nghe đại danh về ông trùm khét tiếng, rằng tiẽn sinh là bậc cao nhân, bản lĩnh cao cường, trọng nghĩa khinh tài, giao tiếp rộng rãi, tấm lòng quảng đại, chỗ nào trên quả đất cũng là địa bàn của tiên sinh, đúng là một người dẫn cả ngàn người theo sau đấy ạ…”

    Lý cóc nghe đến đây thì đột nhiên há ngoác miệng cười khan mấy tiếng, rồi bảo: “Cái gì mà chùm với không chùm, chẳng qua là việc trời trời làm, việc người người làm mà thôi, chúng ta đừng phí lời sáo rỗng với nhau nữa, bạn bè bốn bể đến tìm tôi, nếu có tài nghệ, thì cứ thử luận gia môn xem thế nào!”

    Tư Mã Khôi vừa nghe đã hiểu ý của đối phương, đại khái lão ta muốn bảo: “Cậu đừng nịnh nọt tôi làm gì, đã nói đến mặt đáy biển giang hồ, thì cứ luận xuất thân gia môn trước đã, xem rốt cuộc cậu có tài nghệ gì kiếm được bát cơm đây?”

    Ý tứ mấy lời này không sâu sa lắm, nên Hải ngọng loáng thoáng hiểu, nói đến tài nghệ thì anh cũng có vải tài nghệ đáng mang ra khoe khoang, nên đang định ba hoa một phen cho đối phương mở rộng tầm mắt.

    Tư Mã Khôi biết không thể làm vậy. Anh vốn là người xuất thân từ giới lục lâm cũ, giỏi tuyệt kỹ Bọ cạp đảo đầu leo tường, đồng thời là chân truyền Kim điển, cũng được đọc cổ tịch biệt bảo, không những vậy lại có kinh nghiệm chiến đấu trong quân đội, trên đời này có chuyện gì anh còn chưa biết cơ chứ? Trộm nghĩ dẫu bản lĩnh của Lý cóc có mạnh hơn nữa, cũng chẳng đáng kể nếu so với anh, nhưng “kẻ mạnh còn có người mạnh hơn”, nếu định lấy bản lĩnh đè người thì hỏi rằng cuối cùng ai sẽ đắc tội với ai? Cứ vậy thì dưới vòm trời này, đi tới đâu cùng chỉ thấy toàn dịch thủ, huống hồ bây giờ mình còn có việc phải nhờ vả người ta, bởi vậy lúc này

    không được phép ba hoa thể hiện, nghĩ vậy, anh chỉ nói qua quýt cho xong phần báo danh, sau đó đề cập thẳng vào vấn đề chính là định nhờ Lý cóc tìm cửa để ba người hội anh có thể thay đổi lý lịch, hòng kiếm miếng cơm manh áo.

    Lý cóc gật đầu bảo: “Cậu đã nói rõ như thế thì chắc cũng hiểu luật hết luật lệ rồi phỏng?“

    Tư Mã Khôi đã có chuẩn bị từ trước, nên đáp luôn: “Đương nhiên rồi! Chúng tôi nào dám tay không đến đây gõ cửa làm phiền”. Nói xong, anh liếc mắt ra hiệu cho Hải ngọng.

    Hải ngọng và Tư Mã Khôi thường ngày vẫn kẻ tung người hứng như vậy, nên rất hiểu ý nhau. Hải ngọng vội móc trong túi ra một hộp giấy, cẩn thận bày lên mặt bàn rồi nói: “Chẳng giấu gì tiên sinh, anh em chúng tôi chỗ nào cũng tốt, dù có điều sinh ra đã bại gia, nên cuộc sống qua ngày rất vất vả, từ trước tới giờ sống ngày nào biết ngày đó, ăn bữa nào biết bữa đó, kiếm được một đồng thì tiêu hai đồng, nên tay nải cứ nhẹ tênh tênh, thật xấu hổ lắm thay! Hôm nay, chúng tôi đến đây định nhờ tiên sinh giúp đỡ mà trong tay lại chẳng có gì đáng giá. Trộm nghĩ tiên sinh đây chắc đã quen tiêu xài tiền to, nên dẫu chúng tôi có mang bạc năm vàng mười ra bày trước mặt, thì chưa chắc tiên sinh đã thèm ngó ngàng đến. Chúng tôi bàn đi tính lại, không biết mang gì đến cho tiên sinh mới thỏa đáng, cổ nhân nói thế nào nhỉ? ‘Nghèo không rời quẻ bói, giàu không rời nồi thuốc’, chúng tôi thấy nhân vật có tiếng tăm giống như tiên sinh đây, trong tay chẳng bao giờ thiếu tiền, chắc chắn không phải mệnh bói toán, còn cơ thể xương cốt tiên sinh nom cũng chẳng có vẻ gì cần đến thuốc thang, vấn đề là phàm con người thì đều phải ăn ngũ cốc mới sống được, nên khó tránh khỏi những lúc nhức đầu sổ mũi. Ông tổ nhà chúng tôi lại đúng là thái y làm việc trong cung, chuyên khám bệnh cho hoàng thượng, trước lúc cưỡi hạc quy tiên, ngài để lại cho con cháu một hộp ‘Cửu chuyến hoàn hồn đơn’, có câu ‘ngoại khoa ngán ghẻ, nội khoa ngán hen’, nghĩa là bệnh ngoại khoa khó chữa nhất chính là các loại viêm da, ghẻ lở hắc lào, còn bệnh nội khoa khó chữa nhất chính là hen xuyễn, khó thở. Đó mới là hai loại bệnh nan y, tức là ‘lưỡng chuyển’, vẫn còn những ‘thất chuyển’ nữa mới thành ‘cửu chuyển’ đó ạ! Thuốc của ông tổ nhà chúng tôi có thể chữa được ‘ngũ lao thất thương’(2) tức là năm loại lao, bảy loại tổn thương cho tất cả các đối tượng già trẻ gái trai, chữa khỏi chứng viêm họng khó thở vào thời kỳ trước xuân sau thu, ngay cả người đã chết uống vào cũng có thể lập tức đánh ngay phát rắm.

    Tiên sinh bảo không tin trẽn đời tồn tại loại thuốc tiên này sao? Đừng nói tiên sinh không tin, nếu đổi ngược lại là tôi, thì tôi cũng không tin, nhưng thực sự phải nói với tiên sinh, cổ nhân bảo rằng ‘thảo dược đánh bại danh y, thuốc dân gian chữa khỏi bệnh nan y’, cái này gọi là ‘trên đời chẳng hiếm chuyện lạ’. Nếu tiên sinh là người có con mắt nhìn hàng, thì lập tức sẽ biết viên thuốc của nhà chúng tôi được làm bằng các dược liệu quý hiếm, như: rết, bọ cạp, hoa kim ngân, đuôi đương quy, xác ve sầu, tằm đông cứng, bột phấn thiên hoa, rồi nấu thành một nồi canh độc, cổ nhân lại nói thế nào nhỉ ‘uống mười thang thuốc, không cần động một mũi kim châm’, lại có câu ‘tám một mũi kim châm, hơn cả mười thang thuốc’, thế mà viên cửu chuyển hoàn hồn đơn gia truyền nhà chúng tôi, uống một viên còn công dụng hơn cả mười mũi kim châm. Tiên sinh xem, nó thần diệu đến nhường nào? Hôm nay, chúng tôi biếu nó cho tiên sinh để tỏ lòng hiếu kính, tiên sinh nhất định phải cất nó thật cẩn thận. Thuốc gia truyền nhà chúng tôi không sợ để lâu, để càng lâu, tác dụng càng linh nghiệm, nếu không thì sao có thể dám xưng danh là thuốc bí truyền cơ chứ? Tiên sinh đừng thấy viên thuốc nhỏ mà nghĩ rằng công dụng chữa bệnh của nó kém. Loại thuốc này, gián chuột đều không dám gặm nhấm, bảo quản trong nhà bao lâu, chất lượng vẫn không suy suyển, cách vài năm mới lôi ra uống tiếp cũng chẳng vấn đề. Nếu trời ban cho tiên sinh sức khỏe hơn người, không cần uống thuốc cũng không hề gì, tiên sinh cứ cất đi dành tặng bạn bè, người thân, nếu tiện thì tiên sinh rỉ tai cho mọi người mua giùm để anh em chúng tôi kiếm chút tiếng tăm, cái này gọi là ‘tiếng không truyền, lợi không đến, nhỏ không truyền, lớn không đến, không truyền được tiếng tăm thì chớ mong phát tài’. Mai này chúng tôi có đi đâu, cũng chẳng bao giờ quên dành phần lộc cho tiên sinh đâu ạ!”

    (2) Ngũ lao là lao tim, lao gan, lao tỳ, lao phổi và lao thận. Thất thương là “chạy quá tổn thương tỳ, giận quá tổn thương gan, bê đỡ nặng hay ngồi lâu quá tổn thương thận, lạnh quá tổn thương phổi, lo lắng quá tổn thương dạ dày, mưa gió dạn dày tổn thương hình thức, sợ hãi quá tổn thương ý chí”.

    Lý cóc ngồi bên cạnh nghe, sắc mặt càng lúc càng sa sầm, cuối cùng lão quát: “Đây toàn là mấy lời khua môi múa mép của bọn bán thuốc dạo giang hồ. Các cậu dám đem nó ra để giỡn mặt ta đấy hả?”

    Tư Mã Khôi cũng biết Lý cóc là tay giang hồ lõi đời, anh đương nhiên chẳng dám mang mấy lời này ra che mắt lão, anh chỉ định báo Hải ngọng thăm dò lão một phen, sau đó mới đến lượt mình trổ tài ăn nói.

    Nào ngờ, Lý cóc xua tay ra hiệu không cần nhiều lời, lão bảo cứ làm theo luật cũ, tôi giúp anh một việc thì anh phải làm một việc khác để giúp lại tôi.

    Lúc lão nói, Tư Mã Khôi thấy một con ngài sà xuống đậu bên tai lão, lão liền thè cái lưỡi trong mồm, “chiu” một cái đã liếm được con ngài và đưa vào miệng, nhai rau ráu rồi tớp thêm ngụm rượu. Tất cả động tác trên chỉ xảy ra trong nháy mắt, nhanh không thể tưởng tượng noổi, thêm vào đó ngọn đèn treo trong phòng tôi mở, khiến người ta nhìn mà hoa cả mắt.

    Tư Mã Khôi lạnh người, anh thầm nghĩ: “Lưỡi người thường sao dài thế được? Chẳng rõ gã Lý cóc này luyện được môn công phu gì, đúng là khác người! Không hiểu lão muốn bọn ta làm việc gì giúp lão đây?”, nghĩ vậy, anh liền hỏi thẳng Lý cóc.

    Kiểu ông trùm như Lý cóc bắt đầu xuất hiện từ giữa hai triều đại Minh – Thanh. Trước đây người ta thường gọi những người này là trưởng môn cái bang, chúng kéo bè kết đảng, lấy hiệu là Lý gia môn. Thực ra ăn mày trên phố không phải tất cả đều là những người cùng khổ, thiếu cơm ăn áo mặc, đâm đầu vào tuyệt lộ. Loại ăn mày rời bỏ quẽ hương bản quán, đói khát, nheo nhóc kéo con cái đi ăn mày nơi đầu đường xó chợ chỉ là nạn dân, còn phần lớn ăn mày chuyên nghiệp đều có hội nhóm riêng cả. Ban ngày, chúng kéo nhau vào thành giúp các thương nhân móc lò, đổ nước, rồi sau đó có khi chúng được chủ quán cho phép xách cả thùng cơm thừa về. Gặp phải ngày lễ ngày tết, đám hiếu đám hỷ, bọn chúng châu đến trước cửa cùng người ta ca hát hoặc than thay khóc mướn cho xôm tụ, thế là có thể xin được cơm nóng rượu ngon và cả chút tiền thưởng. Thường ngày, bọn chúng trộm gà bắt chó, kiếm ít tiền đổi lấy thuốc phiện và thuốc lá, tối đến chúng tụ tập trong hang ổ, ăn thức ăn thừa, bếp lửa cháy rừng rực, ngay cả những ngày tháng chạp rét mướt cũng chẳng bao giờ bị lạnh. Lúc ấy, mỗi người bọn chúng lại châm ngọn đèn con, lấy nha phiến ra hít, rồi nhả khói phì phèo, hai con mắt lim dim phê thuốc. Cái nghề này trời không coi, đất không quản, vương pháp cũng nhắm mắt bỏ qua, những ngày tháng của chúng qua đi vô cùng tự do tự tại, bởi vậy người ta mới bảo “ba năm ăn mày còn hơn làm thầy quan huyện”. Kiểu ăn mày này cũng chia ra thành các bang hội khác nhau, nhưng đều bái hoàng đế khai quốc triều Minh – Chu Nguyên Chương – làm sư tổ, mỗi bang phái lại có gia môn khác nhau, Phạm gia môn là một trong những bang hội khá lớn trong giới ăn mày.

    Bang hội này phát triển đến độ sau đó trở nên rất cặn bã, bẩn thiu, chúng có mối quan hệ vô cùng mật chiết với cả hai phái hắc bạch, ngay bọn trộm vặt, kỹ nữ hay tay sai cùng muốn nương nhờ dưới bóng tùng, rồi mới nghĩ đến chuyện thi triển tài nghệ; không chịu về dưới trướng trưởng môn cái bang thì chớ nghĩ đến chuyện kiếm được miếng cơm mà nhét vào mồm. Nếu ai lỡ đắc tội với các quan bên trên hoặc gây ra phiền phức đại họa, thì sẽ bị phán vào tội tịch thu tài sàn, giết chết cả nhà, san phẳng mồ mả chứ chẳng chơi, nhưng nếu tìm trưởng môn đứng ra điều đình, thì không chừng chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa chẳng có gì, các quan bên trên cũng mắt nhắm mắt mở cho qua.

    Tất cả những ai nhận được sự chiếu cố của trưởng môn thì coi như đang nợ trưởng môn một món, có thể nhất thời ông ta chưa nghĩ ra nên lấy cái gì của anh, nhưng sớm muộn gì anh cũng phải trả đầy đủ cho trưởng môn, lúc trả bằng người, lúc trả bằng sức, đôi khi còn phải trả bằng mạng sống của chính mình. Nếu anh muốn trốn nợ cũng không xong, bởi sẽ cõ người liên tục đến “làm phiền” anh. Trưởng môn sẽ dùng khả năng hoạt động xã hội của anh để đi giúp dỡ người khác, cũng nhờ thế, địa bàn của ông ta càng lúc càng rộng lớn, các mối quan hệ cũng kết giao càng thêm sâu sắc, chẳng mấy chốc đã kết thành một mạng lưới bủa vây khắp xã hội. Lý cóc chính là ké ăn cơm bằng cái bát ấy.

    Lão đồng ý giúp hội Tư Mã Khôi tìm nơi để an cư lập nghiệp, có thể nhờ người giới thiệu vào đội khảo cổ làm chân chuyên xúc đất và trở thành đồ đệ của lão Lưu Hoại Thủy. Họ sẽ phải đến những nơi xa xôi vắng vẻ làm việc, trốn dăm ba năm chắc không thành vân đề, đến khi nào lão nhớ ra cần dùng Tư Mã Khôi vào việc gì, thì lão đương nhiên sẽ không khách sáo.

    Tư Mã Khôi biết sau này Lý cóc sẽ yêu cầu mình làm ba việc, ba việc ấy chắc chắn sẽ rất khó khăn, kẻ làm ông trùm như hắn ấy à, có bắt chó ăn cám thì chó cũng phải ăn, chứ đâu phải loại dễ bỏ qua. Có điều, chuyện Lý cóc đã hứa sẽ giúp, thì lão ta sẽ giúp đến nơi đến chốn, lão đã hứa chí ít sẽ tạm thời sắp xếp cho ba người có chỗ dung thân.

    Hội Tư Mã Khôi cảm ơn Lý cóc rồi cáo từ, rời khỏi khu hỏa táng mà trong lòng như nhấc được hòn đá tảng. Lúc trở về, vì muốn đi tắt, nên cả hội vòng ra con đường đất ở ngoại ô, trên đường không bóng người bộ hành, cánh đồng hoang tối om, chẳng le lói nổi một ánh đèn, ngẩng đầu lên thì thấy mây đen che kín bầu trời, dường như đang thai nghén một cơn giông lớn.

    Hải ngọng bảo Tư Mã Khôi: “Trời vừa oi vừa bức, ngột ngạt quá! Đêm nay kiểu gì cũng mưa lớn cho xem, mưa gột bớt cái nóng đi, oánh một giấc mới ngon!”

    Tư Mã Khôi đột nhiên quay đầu lại, anh đứng giữa đường nhìn chằm chằm vào bầu không giăng kín mây đen, anh cảm thấy ở phía xa có thứ gì đó đang cố gắng xuyên qua tầng mây và từ từ tiến sát đến gần chỗ mọi người.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 5: BIẾN ĐỘNG KINH HOÀNG


    Cao Tư Dương thấy mây đen giăng cuồn cuộn khắp bầu trời, đường vắng tanh, tĩnh mịch lạ thường, tứ bề đều là cánh đồng hoang ngoài ngoại ô, cô không phát hiện thấy có điểm gì bất thường, nên quay lại hỏi: “Có thứ gì đâu?”

    Hải ngọng cũng nói với Tư Mã Khôi: “Đằng kia chỉ có mỗi khu hỏa táng, canh khuya lắt lẻo thế này, cậu đừng tự nhát ma mình nữa!”

    Tư Mã Khôi lắc đầu, ngay bản thân anh cũng không hiểu sao mình lại có cảm giác quái lạ như vậy, anh đành nói: “À, ý tớ bảo cơn dông sắp kéo đến rồi, chúng ta mau về nhà thôi!”

    Hải ngọng lắc đầu: “Biết trước thế này, chúng ta đã mượn xe đạp cho rồi, bây giờ phía trước chẳng thấy quán hàng, phía sau chẳng thấy thôn bản, trời lại sắp đổ mưa to, không khéo lại ướt như chuột lột mất thôi!”

    Cao Tư Dương trách Tư Mã Khôi: “Khi nãy anh bảo hình như phía sau có thứ gì sắp tiến lại gần, làm tôi giật cả mình đấy! Tôi cứ ngỡ trên đường…”

    Tư Mã Khôi bỏ ngoài tai mấy lời Cao Tư Dương vừa nói, anh lại dừng bước chân, quay đầu nhìn phía sau, nhưng vẫn không phát hiện được điểm gì khả nghi.

    Hải ngọng thấy phía sau là khoảng không trống trải, thời tiết oi nồng, chẳng có lấy một cơn gió nhẹ. Trên đường ngoài ba người ra, thì ngay cả chó mèo hoang cũng chẳng thấy con nào, lấy đâu ra thứ gì đuổi theo phía sau? Anh bực mình trách Tư Mã Khôi cứ sợ bóng sợ gió vớ vẩn, có điều nghĩ lại anh cũng thấy phải, suốt cuộc đời này, hai người hội anh chưa bao giờ được trải qua một ngày yên ổn, chính vì vậy nên bây giờ Tư Mã Khôi mới thấy không quen.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ, chắc là vậy thật, mà dẫu không có gió lay cỏ động thì ở cánh đồng hoang ngoài ngoại ô vẫn thường xuất hiện bọn chuột đồng, có lẽ tại thần kinh anh quá căng thẳng cũng nên, thế là anh bắt đầu phiếm chuyện với Hải ngọng và Cao Tư Dương, bảo rằng khi nãy chỉ mải nói chuyện mà quên chưa ăn no, chút nữa về phải nấu ít mỳ ăn đêm mới được.

    Hải ngọng vừa rút đèn pin ra soi, vừa bảo: “Thời tiết nóng thế này ăn mỳ làm gì, nếu ăn thì phải ăn mỳ lạnh Triều Tiên. Nghe nói, trong thành có quán Diên Cát, ngày xưa ngay cả đồng chí Kim Nhật Thành nhân chuyến sang thăm Trung Quốc cũng vào quán này ăn mỳ lạnh đấy, hương vị mỳ ở quán đó rất truyền thống, thời tiết nóng bức thế này mà ăn một bát mỳ lạnh trộn thật nhiều ớt với đồ nhắm lạnh và một chai bia lạnh thì tuyệt cú mèo…”

    Mới nói đến đây, thì anh nhìn thấy đằng trước bỗng xuất hiện một con chó hoang bị trụi hết lông đuôi, thân mình gầy nhom chỉ còn nhúm da bọc xương, nhưng hai con mắt lộ ra hai tia hung quang rất dữ dằn, nó đi về phía ba người.

    Hội Tư Mã Khôi đương nhiên chẳng có gì phải sợ sệt con chó hoang ở vùng ngoại ô này, chỉ cần người không trêu chó thì chó sẽ chẳng bao giờ cắn người, cứ mặc kệ con chó đó đường ai nấy đi thì tự nhiên sẽ bình an vô sự.

    Con chó đi lướt qua ba người. Ở vùng ngoại ô, gặp chó hoang lảng vảng là chuyện rất bình thường, có điều Tư Mã Khôi nhìn thấy trên mình con chó này còn loang ít máu tươi. Anh nghĩ, có lẽ nó chui vào trong hố bắt chuột đồng, lúc chui ra bị thành hang làm xước da nên trên lông vẫn còn vết máu đây mà. Anh cũng chẳng để tâm vào con chó nữa, nhưng lúc này anh lại đột nhiên cảm thấy như phía sau có vật gì đang sắp sửa tiến lại gần, anh vô thức quay đầu lại nhìn, thì phát hiện con chó trụi lông đuôi khi nãy đã biến mất tăm mất dạng.

    Tư Mã Khôi giật đèn pin trong tay Hải ngọng soi kỹ phía sau, con đường đất trải dài xuyên qua cánh đồng hoang, tuy mây đen che kín bầu trời, đường cũng chẳng có đèn, nhưng không có nghĩa là tối thui không nhìn thấy gì. Địa thế ở đây bằng phẳng, khoáng đạt, nhìn ngút tầm mắt, anh không phát hiện xung quanh có lùm cỏ hay hang đất nào, con chó trụi lông đuôi vừa đi qua trước mặt, còn chưa đầy mấy giây mà sao đã biến mất ngay được?

    Hai người bạn đồng hành cũng thấy chuyện này hết sức quái dị. Lúc trước, Tư Mã Khôi đã linh cảm dường như có vật gì xuyên qua tầng mây chuẩn bị tiếp cận đến gần, chẳng biết có phải vật đó đã nuốt mất con chó hoang vừa đi qua hay không? Nó là vật gì mà chẳng hề phát ra tiếng động nhỏ vậy?

    Ba người nghĩ đến đó đã thấy da đầu tê bì, Tư Mã Khôi soi đèn lên không trung, nhưng trên đó tối tù mù, chẳng nhìn thấy bất cứ vật gì.

    Hải ngọng nhặt một viên đá, lấy hết sức ném về phía sau, chẳng biết nó đã rơi xuống nơi nào trong bóng tối. Bên vệ đường có một tấm biển chỉ đường bàng gỗ đứng cô độc, lẻ loi, ngoài ra chẳng còn gì khác.

    Tư Mã Khôi thầm thấy quái lạ, anh nghĩ: “Quanh đây không hề có hang đất, sao con chó đó nói biến là biến mất ngay được? Chẳng lẽ nó hóa thành không khí được sao?”, rồi anh lại nghĩ: “Hay con chó đó đã trốn vào chỗ nào đó, chẳng qua bọn ta không phát hiện ra mà thôi…”

    Cao Tư Dương căng thẳng, cô vội giục Hải ngọng và Tư Mã Khôi: “Đừng tìm kiếm nữa, chúng ta mau đi thôi!”

    Tư Mã Khôi thấy việc này rất bất thường, anh linh cảm sắp tới chắc chắn sẽ xảy ra biến cố lớn, nguy hiểm đang kéo đến gần, nhưng anh lại chẳng lần ra manh mối gì, chỉ biết đề phòng cảnh giác hơn mà thôi, anh gọi Hải ngọng đừng nấn ná ở đây thêm nữa.

    Ba người bật đèn pin, tiếp tục tiến về phía trước trên con đường rộng thênh thang và tối đen như mực vừa đi vừa không kìm được, cả hội lại bàn về chuyện con chó hoang vừa đột nhiên biến mất, chuyện đó đúng là quái dị ngoài sức tưởng tượng.

    Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Địa bàn này nằm trong lòng bàn tay cậu còn gì, trước đây cậu có nghe nói nơi đây từng xảy ra chuyện gì quái lạ không? Cắm đầu cắm cổ đi mãi thế này cũng thấy vô vị, đằng nào cũng rỗi, hay cậu kể vài câu chuyện đi, nghe cho đỡ buồn!”

    Tư Mã Khôi nói: “Nghe nói trước giải phóng, khu vực này toàn là cỏ dại và đầm lầy, nó được sử dụng làm pháp trường chuyên hành hình tử tội. Trước thời nhà Thanh, người ta thường áp giải phạm nhân ra đầu đường cổng chợ để hành quyết, nhằm mục đích thị uy dân chúng, nhưng bắt đầu đến thời Dân quốc và thời kỳ quân Nhật chiếm đóng, thì người ta mới chuyển địa điểm của pháp trường đến đây. Trong cánh đồng hoang có một cái hố rất lớn, trong những tử tội, ngoại trừ kẻ gian thần xiểm nịnh ra, thì không thiếu trung lương nghĩa sĩ hoặc người tốt bị hàm oan. Sau khi hành quyết, tất cả những thi thể không có người nhà đến thu liệm thì đều được cuộn trong chiếu cói, buộc túm hai đầu bằng dây thừng, rồi kéo lê đến miệng hố và đá bay xuống đó, mặc cho xương thịt mục nát và bốc mùi hôi thối, chó tha quạ mổ, cảnh tượng thê thảm khó nói thành lời, bởi vậy nơi ấy chẳng bao giờ thái bình, hễ đến tối là ma hờn quỷ khốc. Nghe nói có người đi qua đây, đột nhiên thấy cái đầu người chết từ trên trời rơi xuống ngay trước mặt, anh ta sợ chết đứng. Thực ra, cái đầu đó bị mấy con quạ đen tranh nhau chí chóe trên trời, rồi không may bị tuột rơi xuống ngay sát anh ta. Những chuyện tương tự như vậy từng xảy ra khá nhiều, tuy nhiên chuyện này vẫn có thể giải thích được, còn nhiều chuyện khác đến nay vẫn là một ẩn số không lời giải. Sau đó, người ta mời thầy phong thủy đến xem đất, phát hiện ở đây có một ngôi miếu cổ bỏ hoang, trong miếu có tòa bảo tháp bảy tầng, tòa bảo tháp này nằm chính giữa giao lộ, nó chắn ngang con đường đi đầu thai của các cô hồn dã quỷ, nên chúng cứ lảng vảng quanh đây, không siêu thoát được. Mãi đến khi người ta dỡ bỏ tòa bảo tháp đi, thì những chuyện quái lạ mới dần dần biến mất, sau giải phóng thì hoàn toàn không thấy xuất hiện bất cứ hiện tượng khác thường nào nữa.

    Có điều, đầu những năm sáu mươi, người ta lại đào được mộ cổ của vị quý phi nào đó, có thể là quý phi thời nhà Nguyên, rất nhiều quý phi nằm trong quan tài lúc sinh thời đã đắc tội với hoàng hậu, nên mới bị nhét vào quan tài chôn sống, lúc khai quật thấy thành quan tài còn lưu dấu vết móng tay cào cấu bấn loạn. Từ đó, con đường này lại không được yên ổn nữa, rất ít người dám qua lại nơi đây vào ban đêm, bởi vì nghe nói nếu một mình đi trên đường, thì sẽ phát hiện phía sau có thứ đang đi theo anh, thậm chí có bàn tay của một người đàn bà tóm lấy anh, lúc ấy bất luận sợ hãi đến độ nào cũng tuyệt đối không được quay đầu lại, bởi vì, nếu anh quay đầu lại…”

    Cao Tư Dương nghe Tư Mã Khôi kể mà rợn hết tóc gáy nhưng cô cũng rất tò mò, nửa đêm đi trên đường không một bóng người, phía sau đột nhiên có cánh tay của người đàn bà lạnh giá, trắng toát đột nhiên thò ra, chẳng lẽ đó là ác ma do vị quý phi kia biến thành hiện lên đòi mạng ư? Vì sao lại không được phép quay đầu lại? Nếu quay đầu lại thì chuyện gì sẽ xảy ra?

    Tư Mã Khôi trả lời: “Điều đó thì làm gì có ai biết bởi vì tất cả những người quay đầu lại nhìn con ma nữ phía sau thì đều không còn cơ hội sống sót mà ngồi kể lại mọi chuyện nữa”.

    Khi cơn mưa rào sắp kéo đến, không khí trong cánh đồng hoang ngoài ngoại ô oi bức đến kỳ lạ, vậy mà nghe xong câu chuyện vẫn khiến người ta cảm thấy ớn lạnh.

    Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi đừng kể nữa, trên đường tối lửa tắt đèn, lại chẳng một bóng người, vậy thôi đã đủ khiến cô sợ hết hồn, sớm biết thế này thì cứ đi đường cái lớn cho xong.

    Hải ngọng không tin mấy chuyện ma mãnh, anh nói: “Tớ thấy những chuyện này chẳng qua là do tự mình sợ bóng sợ gió mà ra thôi, khi nãy chúng ta còn đang nói chuyện về con chó hoang gặp giữa đường cơ mà, sao loanh quanh thế nào lại bàn sang chuyện ma nữ hiện hồn thế? Tớ còn đang muốn xem con ma nữ đấy trông thế nào đây này. Cậu bảo đêm nay cô ta có lượn lờ đến cánh đồng hoang không?”

    Tư Mã Khôi đáp: “Nếu có ma nữ thật, thì cậu định trêu ghẹo người ta chắc? Tớ thấy những câu chuyện liêu trai chí dị kể về ma nữ chuyên đi câu hồn, thực ra không phải chỉ nhằm mục đích dọa cho người ta sợ đâu. Thời xưa, người phụ nữ phải chịu sự trói buộc hà khác nghiệt của các lễ giáo phong kiến, từ nhỏ đã phải học ‘Liệt nữ truyền’, một bước không ra khỏi cửa, nửa bước cũng không được ra khỏi cửa, trước khi hành lễ văn tự, thì ngay cả các khuê nữ con nhà danh giá cũng không được phép lộ mặt, nếu bị người khác chạm phải tay thì cũng nghiêm trọng chẳng khác nào thất tiết, ngay chuyện cưới hỏi cũng phải răm rắp nghe theo cha mẹ và mối lái, lại còn phải giữ gìn tiết hạnh theo đạo lý cổ xưa ‘Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử’. Nhưng trong các cuốn liêu trai chí dị, thì các ma nữ toàn là chủ động đi dụ dỗ đàn ông, giống như con ác ma do vong hồn của quý phi trên con đường này biến thành, âm hồn không thể siêu thoát, nó thò tay túm lấy người đi đường từ phía sau. Vị quý phi đó lúc còn sống dám làm như vậy không? Lại chẳng bị hoàng thượng cho ngũ mã phanh thây ấy chứ! Những chuyện mà lúc sinh thời cô ấy không dám làm, đành phải đợi sau khi chết, biến thành ma mới dám làm. Chính vì vậy, tớ thấy trên thực tế, những chuyện liêu trai chí dị kia muốn thể hiện sự phản kháng của đại đa số phụ nữ đối với sự trói buộc của các lễ giáo phong kiến. Các cậu nghe chuyện mà chỉ thấy phần kinh dị, rùng rợn trong đó, thì xem ra sự kiến giải cũng hơi nông cạn đấy!”

    Hải ngọng lầm bầm: “Điên thật! Nói kiểu gì cũng bị cậu chiếm thế thượng phong, để cho người khác một cơ hội phát ngôn cũng không được sao?”

    Tư Mã Khôi cảm thấy con đường này đúng là bất thường, chắc chắn có thứ gì đó đang theo đuổi phía sau, khi nãy con chó hoang đi ngược chiều, rồi đột nhiên biến mất không tăm tích, chuyện này quá ư kỳ lạ! Anh vừa nói chuyện vừa để ý động tĩnh phía sau, cứ kể mãi chuyện ma, trong lòng anh tự nhiên cũng thấy rờn rợn, anh sợ nếu quay đầu lại nhìn thì sẽ có một ma nữ tóc tai rũ rượi, mặt mày lem vết máu thực sự xuất hiện trước mặt, nên vừa rồi chỉ tìm lý do để tự mình trấn an mình mà thôi.

    Từ trước đến giờ, phía sau vẫn chưa có động tĩnh gì, nhưng trong lúc ba người nói chuyện, đột nhiên anh nghe thấy tiếng bước chân vang lên, trên con đường trước mặt có một người đang bước lại gần.

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Mẹ cha nó, mình đúng là thối mồm, nhắc đến Tào Tháo là Tào Tháo đến liền. Gặp con chó hoang giữa cánh đồng lúc canh khuya cũng chẳng có gì lạ, nhưng ngoại trừ chúng ta ra, sao còn có người nào đi ngang qua đây? Xem phương hướng, thì có vẻ người đó định đến nhà hỏa táng, canh ba nửa đêm một người còn đang sống sờ sờ lại muốn đến nơi đó làm gì nhỉ?”

    Nghĩ đến đây, anh liền đề cao cảnh giác. Khoảng cách giữa hai bên càng lúc càng rút ngắn, rồi anh nhìn thấy bộ dạng người ấy trông có vẻ giống nông dân, cách ăn vận giản dị, tay cầm đèn pin. Đúng là mẫu nông dân điển hình của vùng ngoại ô, nếu gặp lúc ban ngày thì chẳng bao giờ anh buồn để mắt đến.

    Người nông dân đó đi với vẻ vội vàng, khi đối mặt với ba người, anh ta có vẻ không ngờ lại gặp kẻ khác giữa đường, nên bất giác cũng ngước mắt thầm đánh giá hội Tư Mã Khôi.

    Tư Mã Khôi giả bộ hỏi đường, nói là hồi sáng mấy người hội anh đến nhà hỏa táng để thiêu xác, có uống tí rượu để tăng đảm khí nhưng lỡ uống nhiều quá, lúc trời tối định về thì lại chẳng có xe pháo gì cả, nên cả hội đành phải cuốc bộ theo đường tắt xuyên qua cánh đồng.

    Người nông dân tin ngay, anh ta liền chỉ đường cho ba người, bảo cứ đi thẳng con đường này về phía có ánh đèn là được. Vợ người anh em của anh ta mang thai chín tháng, tối nay đột nhiên lâm bồn, nhưng người anh em kia lại đang ở ngoài đồng canh đêm, bởi vậy anh ta phải nhanh chóng đến đó đưa tin, nói xong, anh ta vội vàng bước như chạy trên con đường nhỏ về hướng ngược lại.

    Tư Mã Khôi không nhận thấy anh ta có điểm gì khác thường, nên cũng tạm yên tâm, anh tiếp tục cùng Hải ngọng và Cao Tư Dương đi về phía trước, đột nhiên anh nhớ đến con chó hoang xuất hiện trên đường, thấy người nông dân đi một mình như vậy rất dễ xảy ra nguy hiểm, nên định nhắc người ấy đề phòng, anh quay đầu lại gọi: “Ông anh! Trên đường có chó hoang, tốt nhất nhặt lấy cây gậy mà phòng thân…”, nhưng khi anh quay đầu lại, thì thấy phía sau không hề có ai cả.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 6: TIẾP XÚC


    Tư Mã Khôi và người nông dân đi lướt qua nhau, tiếng bước chân đối phương vẫn còn vang vọng phía sau, nhưng khi anh quay đầu lại thì trên đường vắng ngắt, tiếng bước chân cũng đột nhiên biến mất, con đường đất giữa cánh đòng hoang tuyệt không một bóng người. Tuy Tư Mã Khôi là người can đảm, nhưng lúc này anh cũng nổi hết da gà, làm sao chỉ trong nháy mắt mà người nông dân vừa đi ngang qua đây lại có thể bốc hơi nhanh đến vậy?

    Hải ngọng và Cao Tư Dương cũng vô cùng kinh ngạc. Hải ngọng thắc mắc: “Con chó hoang khi nãy còn có thể bảo nó chui vào trong hang đất, nhưng anh nông dân to như thế thì làm sao mà bỗng dưng biến mất ngay được? Lạ hơn là, cả người và chó đều biến mất trong khoảnh khắc mà không hề để lại bất kỳ tiếng động gì. Chẳng lẽ họ bay lên trời cả sao? Hay nơi này có ma? Họ đã bị con ác ma do oan hồn của quý phi biến thành bắt mất rồi à?”

    Tư Mã Khôi nói: “Lời đồn ở đây có hồn ma của quý phi có lẽ chỉ là chuyện bịa, rồi một đồn năm, năm đồn mười, chứ chưa chắc đã là thật”.

    Hải ngọng nói: “Không có lửa sao có khói, người ta đã đồn đại như vậy thì chứng tỏ cánh đồng này nhất định từng xảy ra những chuyện quái dị. Tớ thấy, chắc chúng ta sa chân vào đường âm dương rồi, tay nông dân và cả con chó trụi lông đuôi đều là ma, nếu không làm sao chúng có thể biến mất chỉ trong tích tắc?”

    Cao Tư Dương phản bác: “Anh đừng nói linh tinh, người đó còn nói chuyện với chúng ta, làm sao là ma được?”

    Hải ngọng nói: “Cô còn non lắm, làm sao phân biệt được người và ma? Người sống ấy à, phải hội đủ ba điều kiện ‘hình, ảnh, hồn’. ‘Hình’ là chỉ thân thể máu thịt, có tay có chân, có hơi thở, ‘ảnh’ là chỉ con người không chỉ có hình hài, mà khi đứng dưới đèn còn phải có bóng để chứng tỏ mình không phải hư vô, còn ‘hồn’ chính là hồn phách, ít nhất phải có ý thức bản ngã. Chỉ khi hội tụ cả ba đặc điểm trên thì mới được coi là người sống đúng nghĩa, bằng không thì tất thảy đều là ma”.

    Cao Tư Dương nghe Hải ngọng nói mà thần kinh của cô càng lúc càng căng như dây đàn, ban đầu cô vốn không tin, nhưng cô không thể giải thích nổi vì sao một người vừa mới đi lướt qua trước mặt lại có thể biến mất chỉ trong một cái đảo mắt. Còn cách lý giải nào hợp lý hơn cách lý giải gặp ma?

    Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Theo kinh nghiệm của tớ, gặp phải chuyện này thì tuyệt đối không được quay trở lại đường cũ, nếu đi về phía đó nghĩa là sẽ cùng đường với những âm hồn đến thành Hàm oan, tốt nhất chúng ta phải đi thẳng về phía trước, càng nhanh càng tốt, bất kể phía sau xảy ra chuyện gì bất thường cũng tuyệt đối không được quay đầu lại”.

    Tư Mã Khôi lấy can đảm, soi đèn pin tứ phía xung quanh, trong đầu thầm nghĩ đến mọi khả năng có thể xảy ra. Tất nhiên anh chẳng bao giờ tin những chuyện như ác ma do quý phi biến thành câu hồn người trên đường, hay vô thức lạc vào đường âm dương hoặc thứ anh gặp trên đường là hồn ma đi đầu thai… nhưng anh thực sự không thể tưởng tượng nổi vì sao con chó trụi lông đuôi và người nông dân qua đường lại có thể vô duyên vô cớ đột nhiên biến mất ngay sau lưng mình? Không những vậy anh còn lờ mờ cảm thấy có thứ gì đó đang tiến sát lại gần, không hiểu nó rốt cuộc là vật thể gì?

    Lúc này, anh chợt phát hiện có dấu vết bất thường, con đường phía sau nối liền với cánh đồng hoang tối om, mây đen vần vũ trên đỉnh đầu, xa xa cuối con đường và không gian đều nhuốm màu đen, đó là vì không có đèn đường, hơn nữa trời lại đang âm u, bởi vậy tầm nhìn chỉ được duy trì trong phạm vi chừng ba mươi mét, con chó hoang và người nông dân đi lướt qua mặt dẫu có nhanh chân thế nào thì cũng không thể vượt khỏi tầm nhìn của hội Tư Mã Khôi chỉ trong thời gian chớp mắt. Nếu dùng hai từ “mất tích” để hình dung hiện tượng quái dị này thì chưa được thỏa đáng cho lắm, có lẽ nên nói là họ đã biến mất trong phạm vi hai mươi mét phía sau lưng Tư Mã Khôi sẽ chuẩn xác hơn.

    Hải ngọng bĩu môi: “Thế mà cũng gọi là phát hiện, tớ cứ tưởng cậu biết con chó và tay nông dân biến đi đâu mới tài chứ”.

    Cao Tư Dương nhìn theo hướng tay Tư Mã Khôi chỉ, mặt cô đột nhiên biến sắc, miệng lúng búng: “Biển… biển chỉ đường ư?”

    Thì ra, lúc ba người đi tới thì giữa đường đã nhìn thấy một tấm biển được làm bằng gỗ, trên biển đề ba chữ “Đường Tiền Tiến”, trước đây ở ngoại ô không có con đường đất này nó chỉ là một con đường nhỏ mọc đầy cỏ dại. Mấy năm trước học sinh, sinh viên trong thành phố đến đây làm nghĩa vụ công ích, tu sửa lại thành con đường đất như thế này. Thời đó, người ta quen đặt tên đường là Tiền Tiến, mang hàm ý “hương đến thắng lợi”, chuyện đó rất bình thường, bản thân tấm biển kia chỉ là ván gỗ sơ sài làm tạm, chẳng có gì đặc biệt cả.

    Vậy mà lúc ba người gặp con chó hoang, phát hiện con chó biến mất sau khi nó vừa đi ngang qua mặt, Hải ngọng còn nhặt viên đá ném ra xa xem con chó có trốn ở chỗ nào sợ quá mà chạy ra không, nhưng viên đá ném đi chẳng một động tĩnh phản hồi trở lại, trên đường vắng tanh vắng ngắt, cách đó chừng ngoài ba mươi mét chỉ có một tấm biển sơ sài đứng chơ vơ một mình bên vệ đường.

    Sau đó, hội Tư Mã Khôi tiếp tục đi về phía trước, đi khoảng hơn hai mươi phút, chân bước liên tục không ngừng nghỉ giây phút nào, mãi đến khi cả hội chạm trán người nông dân đi theo hướng ngược lại, sau khi người này đi lướt qua mặt cả hội, anh ta đột nhiên biến mất, mà nhìn kỹ phía sau, họ thấy tấm biển chỉ đường đơn sơ mà mình thấy cách đây hai mươi phút trước vẫn ở ngoài xa chừng ba mươi mét. Lẽ nào mọi người đi suốt bao lâu như vậy mà vẫn chỉ loanh quanh gần điểm xuất phát thôi sao?

    Cao Tư Dương cố gắng nghĩ theo hướng tích cực, cô lý giải: “Có thể trên con đường này có nhiều biển chỉ đường, chúng ta chỉ mải nói chuyện, có để ý đến quang cảnh xung quanh đâu”.

    Tư Mã Khôi lắc đầu: “Không thể có chuyện đó, mọi vật trên đường làm sao lọt khỏi mắt tôi được? Suốt cả quãng đường này, tôi chỉ nhìn thấy một tấm biển gỗ duy nhất đó thôi”.

    Mặt Cao Tư Dương biến sắc, ba người liên tục bước không ngừng nghỉ về phía trước, từ chỗ người nông dân lướt qua trước mặt đến con chó trụi lông đuôi bỗng dưng biến mất cách nhau khá xa, tại hai địa điểm khác nhau, mọi người đều quay đầu lại xem, nhưng vẫn nhìn thấy cùng một tấm biển chỉ đường ấy, không hiểu chuyện này rốt cuộc là vì nguyên nhân gì?

    Hải ngọng nói: “Chuyện này, mẹ nó, tà mị quá! Chẳng lẽ chúng ta bị cô hồn dã quỷ trên đường thôi miên sao? Hay chúng ta quay lại chỗ tấm biển nhìn xem ở đó có gì quái lạ không!”

    Tư Mã Khôi cảm thấy dường như có vật gì vô hình đang bám theo mọi người, trong tình trạng mọi thứ còn chưa rõ ràng mà liều lĩnh quay đầu lại thì quá nguy hiểm. Anh suy nghĩ một lát, đoạn lấy chiếc khăn mang theo trên người đặt xuống mặt đường, lấy hòn đá chẹn lên làm ký hiệu, sau đó cùng Hải ngọng và Cao Tư Dương tiếp tục đi thêm bảy, tám mét nữa, rồi dừng lại quan sát, anh thấy chiếc khăn màu trắng chỉ còn lấp ló trên đường, trong khi tấm biển ghi ba chữ “Đường Tiền Tiến” thì vẫn cách chỗ mọi người đứng chừng ba mươi mét.

    Cả hội thầm kinh ngạc, khoảng cách giữa tấm biển và chiếc khăn rõ ràng đã được rút ngắn, như thể con đường phía xa đang chạy đến gần, điều đó cũng có nghĩa là khoảnh đất dựng tấm biển đang cùng hội Tư Mã Khôi di chuyển về phía trước, chuyện này có thể xảy ra thật sao? Thế là anh cứng gan bước thêm hai bước nữa, anh hãi hùng phát hiện chiếc khăn mà mình để lại trên đường làm dấu đã biến mất phương nào, còn tấm biến bằng gỗ vẫn ở xa xa cách chỗ anh đứng ngoài ba mươi mét.

    Hội Tư Mã Khôi thất sắc nhìn nhau, có lẽ nói khoảnh đất cắm tấm biển chỉ đường đang di chuyển về phía trước là không chính xác, mà phải nói khoảnh đất ở giữa nơi ba người đang đứng và tấm bia chỉ đường đang dần dần biến mất, có thể hình dung thế này, phía sau ba người xuất hiện một thứ vô hình, đoạn đường mà cả hội đi qua đều bị thứ này nuốt mất, thứ đó đang ở trong phạm vi ba mươi mét giữa hội Tư Mã Khôi và tấm biển chỉ đường, con chó trụi lông đuôi, người nông dân qua đường và chiếc khăn để lại làm dấu, thậm chí cả đoạn đường mà hội anh bước chân qua đều bị nó lặng lẽ nuốt chửng.

    Chuyện lạ khó tin này chẳng ngờ lại xảy ra ngay trước mắt, khiến người nào người nấy tim đập dồn dập như trống trận thu quân, không rõ thứ đó là vật thể đáng sợ đến độ nào? Vì sao nó lại bám theo sau ba người? Sau khi con chó hoang và người nông dân kia bị nó nuốt chửng, thì họ đã đi đâu?

    Hải ngọng nói: “Trên đời này có thứ gì vô hình đến nỗi mắt thường không thể nhìn thấy nhỉ? E là chỉ có ma mà thôi! Chắc chắn chúng ta gặp ma rồi, hay là oan hồn trên đường đang tìm cách tóm cổ kẻ thế thân? Tóm lại kiểu gì cũng chết…”

    Tư Mã Khôi cũng không khỏi nghi ngờ cả hội đang bị trúng phép che mắt của ma quỷ. Còn nhớ năm đó, anh và Hải ngọng từng có một trải nghiệm tương tự trong lần đi tìm bảo vật cùng Triệu Lão Biệt ở khu nghĩa địa La Sư gần Hắc ốc. Khi ấy, nghe Triệu Lão Biệt nói, đi đường ban đêm thường sợ gặp ma, có điều bản thân mình gặp chuyện lạ mà không coi đó là chuyện lạ, thì chuyện lạ sẽ tự khắc biến mất, dẫu gặp phải thứ không sạch sẽ, nhưng chỉ cần hát to mấy câu để tăng đảm khí, rồi cứ thế mà tiến thẳng về phía trước, kiểu gì cũng sẽ đi qua được.

    Nhưng tòa thành ma xuất hiện ở khu nghĩa địa La Sư gần Hắc Ốc chẳng qua chỉ là bầy đom đóm bay lượn giữa cánh đồng bao la, trên thực tế đó không phải ma quỷ yêu quái gì, nhưng hôm nay lại khác, cả hội đã chạm trán với thứ mà mình chưa bao giờ được nghe nói đến, ngay cả trong ác mộng cũng chưa từng xuất hiện tình hình quái dị như vậy. Bằng linh tính bản năng, anh đã cảm thấy thứ xuất hiện sau lưng mình, nó không chỉ bám như hình với bóng theo hội anh mà nó còn đang không ngừng tiến lại gần hơn, có điều tốc độ di chuyển vô cùng chậm chạp. Lòng anh cũng thấy chờn, anh cùng hai người bạn đồng hành dồn nhanh bước chân tiến về phía trước.

    Ngặt nỗi có bước nhanh đến đâu cũng không thể cắt đuôi nó nổi, ba người vừa đi vừa chạy suốt hồi lâu, nhưng dẫu chạy bao xa, chỉ cần quay đầu là lại nhìn thấy tấm biển gỗ sơ sài kia vẫn đứng lẻ loi ở ven đường cách chỗ cả hội mấy chục mét.

    Cao Tư Dương bắt đầu hoảng loạn, cô nghĩ, cứ chạy trốn như vậy cũng vô nghĩa, thứ đó đang không ngừng tiến lại gần hơn, đến khi nó đuổi tới nơi thì chết hết cả lũ, giờ phải nhanh chóng nghĩ ra đối sách mới được.

    Hải ngọng nói: “Việc đó cô không phải lo, sóng to gió lớn cỡ nào cũng trải qua hết rồi, làm gì có chuyện lật thuyền ở cái rãnh nông này. Có điều, chúng ta vẫn chưa rõ thứ đang đuổi theo sau rốt cuộc là quái vật phương nào, nhưng mặc kệ nó, chỉ cần chúng ta chạy thục mạng về phía trước, phía trước có nhà dân rồi, nơi đó dương khí của người sống rất vượng, không chừng nó sẽ sợ mà bỏ chạy cũng nên…”

    Mải nói, Hải ngọng không để ý dưới chân, nên vấp phải hòn đá chắn đường, do đang chạy nhanh, kết quả anh ngã chổng vó xuống đất, máu bắt đầu loang ra khắp mặt.

    Tư Mã Khôi đang định đỡ Hải ngọng đứng dậy, đột nhiên anh cảm thấy thứ đó đã đứng ngay sát sau lưng, gần đến mức không thể gần hơn được nữa, rồi một vật lạnh băng chạm vào vai anh, trong phút chốc đầu anh vang lên một tiếng“ong”, khắp người như có dòng điện chạy qua, từng sợi tóc dựng đứng cả lên. Xuất phát từ phản ứng bản năng, anh vô thức nhìn lên vai mình, thì phát hiện có một bàn tay của phụ nữ, trắng trẻo và mịn màng, anh bất giác nghĩ đến chuyện ác ma do quý phi biến thành tóm người đi đường, nhưng đó chẳng qua chỉ là chuyện liêu trai chí dị, dã sử đâu có ghi chép những sự kiện này? Lẽ nào những chuyện đó thực sự tồn tại sao? Nghe nói tất cả những người đi đường quay đầu nhìn con ma thì đừng nghĩ đến chuyện sống sót, nếu lúc này anh quay đầu lại, liệu sẽ nhìn thấy cảnh tuợng kinh dị đến mức nào?

    Ngoại trừ ba người hội anh, nếu trên đường có thêm tiếng bước chân nào, Tư Mã Khôi sẽ lập tức phát giác ra ngay, huống hồ họ đang chạy điên cuồng, làm sao có người dễ dàng bắp kịp được?

    Tư Mã Khôi cậy mình gan dạ, tài nghệ cao thâm, anh nghĩ thầm: “Để tao xem rốt cuộc mặt mũi con oắt này trông ngang dọc thế nào!”, rồi anh hạ quyết tâm quay đầu lại nhìn, nhưng đúng khoảnh khắc ấy, anh cảm giác cảnh vật xung quanh đột nhiên chìm vào bóng tối, không còn nhìn thấy gì trước mắt nữa, dường như ngoại trừ bàn tay đó vẫn đang tồn tại rất thật trên vai anh ra, thì mọi sự vật khác đều biến mất như mây khói, thời gian đang vùn vụt quay ngược.
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 7: THOÁT THÂN


    Vào khoảnh khắc Tư Mã khôi bị bàn tay đó chạm vào sau lưng, anh đột nhiên thấy trước mắt mình tối sầm lại, anh bay theo thời gian giật lùi về phía sau, đầu óc kêu “ong ong”, miệng sùi toàn bọt máu vừa tanh vừa mặn. Khi anh mở được mắt ra, thì thấy kẻ đang kéo dây ba lô trên vai mình là một cô gái trẻ đội mũ Pith Helmet, trên mũ còn gắn kính chắn gió và đèn quặng, vận bộ quân phục sa mạc, dung mạo thanh tú, xinh xắn, chỉ có điều sắc mặt tái nhợt, lại còn bám ít bùn đất và vết máu.

    Tư Mã Khôi ngồi phịch xuống đất, lòng dạ thảng thốt như kẻ mất hồn, anh thầm nghĩ: “Chẳng lẽ là Ngọc Phi Yến, thủ lĩnh đội thám hiểm đi tìm chiếc tiêm kích vận tải trong rừng rậm Miến Điện ư? Sao cô ấy lại đội mũ Pith Helmet? À đúng rồi, là Thắng Hương Lân của đội khảo cổ, tại sao ma nữ tóm cổ khách bộ hành trên đường lại là cô ấy?”, nhớ đến Thắng Hương Lân, anh lại thấy đau lòng, suýt chút nữa nước mắt đã tuôn trào, rồi anh lại nghĩ: “Chẳng lẽ giờ mình đã chết thật rồi sao?”

    Nhưng khi Tư Mã Khôi nhìn kỹ lại, thì thấy Cao Tư Dương và Hải ngọng cũng ôm súng ngồi xổm ngay cạnh, khắp mặt lem vết máu, ánh sáng đèn quặng gắn trên mũ cứ loang loáng quét qua quét lại khiến anh không mở nổi mắt, bầu không khí đặc quánh đất bụi và khói diêm tiêu sau vụ nổ.

    Tư Mã Khôi lấy tay che ánh sáng đang chiếu vào mặt, anh thấy tai liên tục kêu “ong ong”, rồi thấp thoáng nghe thấy Hải ngọng bảo: “Đừng lo, chỉ bị chấn động thôi!”

    Tư Mã Khôi càng hoài nghi, chẳng lẽ đây là ác mộng sao? Anh chỉ nhớ lúc rời khỏi khu hỏa táng, cả hội đi đường tắt, vòng ra con đường đất chạy xuyên cánh đồng hoang ngoài ngoại ô, hội anh thấy con chó trụi lông đuôi và người nông dân đi ngang qua trước mặt bỗng biến mất một cách kỳ lạ bất kể mọi người cố gắng chạy nhanh về phía trước đến mức nào, thì mặt đất cách đó khoảng mấy chục mét ở phía sau vẫn cứ di chuyển theo, dường như trong đó ẩn nấp vật gì không ngừng tiếp cận lại gần, nó cứ thế nuốt chửng cọn đường mà hội anh đi qua, cho đến khi Tư Mã Khôi bị một bàn tay tóm lấy bả vai, anh liền quay mạnh đầu lại nhìn, rồi chuyện gì xảy ra thế nhỉ?

    Lúc này Tư Mã Khôi vô tình sờ tay lên mặt đất, cảm giác lạnh lẽo, âm u và nặng nề vô tận chạm tới đầu các ngón tay anh, dường như mình đang nằm trên một tảng đá rất lớn. Anh giật thót người, thần trí mơ màng đột ngột trở nên tỉnh táo hơn rất nhiều. Đây là tấm bia đá Bái Xà. Thì ra đội khảo cổ vẫn chưa hề chạy thoát khỏi động không đáy! Tư Mã Khôi bàng hoàng tỉnh lại, lúc đèn hỏa diêm nhiệt độ cao chiếu vào cuộn thuốc nổ, đã xảy ra vụ nổ kịch liệt, bốn người đội khảo cổ vội vàng núp sau đỉnh bia đá lẩn tránh, sóng xung kích khiến các vết rạn hình mai rùa trên tấm bia đá Bái Xà càng nứt toác rộng thêm, mọi người cũng bị chấn động thất điên bát đảo, lục phủ ngũ tạng nhào lộn cả vào nhau, máu mồm máu mũi hộc ra từng ngụm, giây phút ấy, Tư Mã Khôi cảm thấy tấm bia đá Bái Xà sắp vỡ đến nơi, nên anh vội vàng bảo ba người còn lại vội vàng vượt qua tấm bia đá chạy trốn. Lúc ấy, anh liếc mắt quay lại nhìn vào trong hang động tối om, anh lờ mờ thấy một vật thể khổng lồ khắp người toàn là những con mắt, hình dáng nom như cây cổ thụ tán lá rơp trời, nó hiện nguyên hình giữa lớp sương đen dày đặc, cũng chính khoảnh khắc ấy, ý thức anh bị rơi vào động không đáy do Entroypy tạo ra.

    Sau đó, tấm bia đá cửa người Bái Xà sụp đổ, bốn thành viên đội khảo cổ chạy tháo mạng ra khỏi miếu thần, dụ vị thần cổ hình cây đến đầm lầy dạ quang, lúc con quái vật đó rơi xuống vực sâu, nó đã nuốt đội khảo cổ vào bụng, cả hội bị con quái vật dụ bước chân vào vỏ ốc hóa thạch. Trong cơn địa chấn do Entroypy tạo ra, vỏ ốc xuyên qua thủy thể 30° vĩ Bắc, nổi lên gần núi từ, tiếp sau đó toàn bộ trang thiết bị của đội khảo cổ như súng ống, dao săn đều bị núi từ hút mất, may nhờ Thắng Hương Lân tình nguyện đi dẫn nổ đầm lầy khí metan trong sơn động, vụ nổ khiến núi từ lệch khỏi vị trí vốn có của nó, rồi bị cuốn vào dòng xoáy khổng lồ giữa biển sâu dưới lòng đất, cuối cùng vị thần cổ hình cây bị mắc vào núi từ, nó rơi vào dòng xoáy và không ngừng xoay vần trong dòng khí nhiễu động, chẳng mấy ngày nữa, nó sẽ bị núi từ xóa sạch ý thức.

    Trong nỗi tuyệt vọng vô bờ, ba thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ tìm thấy một chiếc dù hạ cánh trong tàn tích của một chiếc máy bay, họ sử dụng dù cứu sinh nương theo dòng khí nhiễu động, bay dần lên không trung, rồi mò mẫm dọc dòng sông ngầm chạy thoát khỏi lòng đất. Sau đó, họ được người thợ săn dân tộc Monpa sống ở lưu vực sông Yarlung Tsangpo cứu mạng. Cả hội mai danh ẩn tích, sau mấy tháng dưỡng thương và hồi phục, họ định tìm một nơi yên ổn để kiếm miếng cơm. Vậy mà tất cả những chuyện này lại không hề xảy ra ngoài đời thật, đó chỉ là ước vọng trong tiềm thức của Tư Mã Khôi khi mắc kẹt trong động không đáy mà thôi. Ngoài hiện thực, thời gian chỉ mới trôi qua hai giây, nhưng trong cảm nhận của Tư Mã Khôi, anh lại thấy mình đã trải qua khoảng thời gian dài đằng đẵng. Nếu Thắng Hương Lân không kéo anh di chuyển ra ngoài tấm bia đá, thì ý thức của anh vẫn còn lưu lại trong động không đáy, thậm chí anh còn mơ đến lúc mình quay về đội khảo cổ, cứ thế sống ngày nọ nối tiếp ngày kia, nơi đó tuy thật bình lặng, yên ổn, nhưng đó chỉ là sự tồn tại hư vô trong ý thức, bây giờ anh phải quay trở lại thực tế nguy hiểm và tàn khốc.

    Tư Mã Khôi đoán việc Entroypy mắc kẹt trong núi từ, Thắng Hương Lân hi sinh, ba người còn lại của đội khảo cổ trốn thoát ra ngoài, tìm cơ hội vào lại đội khảo cổ đều là mong muốn tận đáy lòng mình. Entroypy bị núi từ xóa sạch ý thức chính là kết quả mà anh hi vọng sẽ xảy ra nhất. Thắng Hương Lân vốn đã bị thương trên người, Tư Mã Khôi luôn cảm thấy lo lắng cho cô, nỗi lo đó đã xảy ra trong tiềm thức, tương tự như vậy, việc trở lại đội khảo cổ làm việc cũng là ước nguyện của anh, còn tấm biển gỗ “Đường Tiền Tiến” xuất hiện trên con đường đất chính là lúc Thắng Hương Lân giơ tay định kéo anh ra phía ngoài tấm bia đá, trước khi tay cô chạm vào người anh, anh đã cảm giác thấy. Tất cả chỉ là những hoạt động đặc biệt xuất hiện trong ý thức của Tư Mã Khôi khi anh sa chân vào động không đáy, bởi vậy con chó trụi lông đuôi và người nông dân đi lướt ngang qua mới đều biến mất trên đường.

    Lúc trước, đội khảo cổ gặp “Nhị Học Sinh” trong động không đáy, rồi không ngừng trải qua quá trình thời gian quay ngược, là khi bọn anh đã đi vào hư vô thực sự. Còn những chuyện mà Tư Mã Khôi vừa mới trải qua thì chỉ xảy ra trong trí não của bản thân anh mà thôi. Đó là khoảnh khăc anh bị vị thần cổ hình cây khắp người toàn mắt chiếm mất ý thức, nên anh mới cảm thấy mọi việc xảy ra giống y như thật. Trong khi đó ba thành viên còn lại của đội khảo cổ hoàn toàn không hề hay biết Tư Mã Khôi đã trải qua những gì trong khoảnh khắc ấy bởi họ đều đứng ở vị trí gần sát phía ngoài trên đỉnh tấm bia đá.

    Ý thức của Tư Mã Khôi đã dừng lại một khoảng thời gian khá dài trong hư vô, giờ đầu anh đau như muốn vỡ tung, các ý niệm đan xen cuộn trào, anh nôn liền ra hai ngụm máu đen, mãi hồi lâu mới định thần trở lại. Thấy Thắng Hương Lân vẫn bình an vô sự, lòng anh vừa ngạc nhiên, vừa vui sướng phát điên.

    Hải ngọng thấy thần sắc Tư Mã Khôi lúc vui lúc buồn, lại cho rằng anh vừa bị chấn động bởi vụ nổ, nên túm lấy vai anh ra sức lắc mạnh.

    Tinh thần u ám của Tư Mã Khôi dần dần được xua tan, anh đẩy tay Hải ngọng ra. Tư Mã Khôi ý thức tấm bia đá Bái Xà vẫn chưa bị sụp đổ, luồng sóng xung kích mạnh mẽ do vụ nổ gây ra chỉ khiến vết rạn hình mai rùa trên tấm bia bị kéo rộng ra hơn mà thôi, nhưng vì tấm bia đá ấy quá dày nặng và cao lớn nên nó vẫn bất động đứng sừng sững nơi tận cùng địa mạch, đó cũng có thể coi là may mắn lớn nhất trong vạn điều không may. Vị thần cổ hình cây bị tấm bia chặn lại quả thực quá đáng sợ, nó mà thoát thân ra ngoài được thì e cả thế gian sẽ rơi vào cơn ác mộng bất tận, còn chuyện nó bị dụ đến đầm lầy và mắc kẹt dưới núi từ chẳng qua chỉ là ước mong của bản thân anh mà thôi, hiện thực nào được thuận lợi như thế, không khéo chưa thoát khỏi đại điện đặt tấm bia đá Bái Xà, thì đội khảo cổ đã bị Entroypy nuốt chửng. Với sức người thường như hội anh thì làm sao đối kháng được với nó, may mà tấm bia đá Bái Xà lại vô cùng chắc chắn, sóng xung kích phát ra từ vụ nổ mạnh nhường ấy mà nó vẫn vững như bàn thạch, lúc này không trốn còn đợi đến lúc nào?

    Tư Mã Khôi mặc kệ mình vẫn đang ù tai hoa mắt, không dám quay lại nhìn thứ ẩn đằng sau tấm bia đá Bái Xà, anh vội vàng giơ tay ra hiệu cho ba người mau chóng rời khỏi tấm bia. Rốt cuộc, trời không tuyệt đường người, cuối cùng tấm bia đá vẫn bình an vô sự, nhưng bắt đầu từ giờ phút đội khảo cổ vượt qua tấm bia đá, thì thân thể và ý thức của cả hội đã rơi vào động không đáy, tất cả những sự kiện có thể tưởng tượng và không thể tưởng tượng mà hội anh từng trải qua dường như đã lẫn lộn thành một, hư thực khó phân định rõ ràng, may mà vị thần hình cây toàn mắt kia cũng không nhìn thấy trước những chuyện chưa xảy ra, tuy nó dụ cho đội khảo cổ kích nổ cuộn thuốc, nhưng tấm bia đá vẫn chưa hoàn toàn bị sụp đổ, ngược lại, con quái vật còn tạo cơ hội cho mọi người thoát ra khỏi hang động.

    Hải ngọng cũng hiểu được hoàn cảnh của cả hội hiện giờ nên anh chỉ muốn mau chóng rời khỏi tấm bia đá, chạy được bao xa thì chạy, cả đời không dám tiếp cận động không đáy nữa. Tấm bia đá Bái Xà còn có thể kiên cường đứng nơi tận cùng địa mạch bao nhiêu năm nữa thì mặc kệ nó, còn điều mọi người có thể làm bây giờ chỉ là phải giữ kín bí mật, chuyện sau này thì cứ để cho hậu thế suy nghĩ và giải quyết. Nghĩ vậy, anh lập tức quay người lùi về phía sau, khoác khẩu súng săn gấu hai nòng Canada trên lưng, dùng cả tay lẫn chân bò lồm ngồm ra phía ngoài tấm bia.

    Tư Mã Khôi bám sát phía sau, anh cảm thấy vị thần cổ hình cây trong trạng thái đông cứng kia đang giương mắt dối theo mình, bất giác anh lạnh toát cả người, thế là Tư Mã Khôi nắm chắc khẩu Walther P38 trong tay, đầu không ngoảnh lại, chĩa súng bắn liền mấy phát về phía sau, rồi vội vã chui qua làn khói bụi còn vương lại sau vụ nổ, cùng ba người bạn bò xuống tấm bia, tới tận lúc này mà nỗi sợ hãi vẫn còn đọng lại nguyên vẹn trong anh. Anh cứ cảm thấy cả hội không thể thoát thân một cách dễ dàng như thế, bởi rốt cuộc vị thần cổ hình cây kia đã bị tấm bia đá chặn lại hàng mấy ngàn năm, mãi mới có con người thâm nhập miếu thần dưới cửu tuyền, lẽ nào nó không lường trước được tình huống vụ nổ xảy ra nhưng không thể gây ra tổn hại nghiêm trọng đến tấm bia sao?

    Hội Tư Mã Khôi đều thắc thỏm lo lắng, chưa thoát ra được bên ngoài thì còn chưa yên tâm được. Có lẽ đúng là “ghét của nào trời trao của ấy”, khi đang định bò xuống phía ngoài tấm bia đá, thì đột nhiên cả hội cảm thấy gió xung quanh nổi lên ầm ầm, mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến, bủa vây kín tấm bia đá. Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc không ổn, vội vàng tóm Hải ngọng đang bò đến mặt cạnh tấm bia đá giật ngược trở lại. Khi soi đèn quặng ra bốn phía xung quanh, thì anh thấy phần đáy tấm bia đá Bái Xà đã chìm ngập trong mây đen, không nhìn thấy mặt đất đâu nữa.

    Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Thắng Hương Lân vội vàng lấy mặt nạ phòng độc hình mang cá do Liên Xô chế tạo đeo trước ngực, phòng lúc sương đen ùn lên sẽ đeo vào mặt.

    Cao Tư Dương cũng có mặt nạ phòng độc mà cô tìm thấy trên tàu ngầm Z-615, cô rút ra để sẵn sàng sử dụng khi cần thiết, chỉ vì tầm nhìn trong sương đen quanh tấm bia đá gần như bằng không, nếu đeo mặt nạ phòng độc và nhìn qua lớp kính chắn, thì chẳng trông thấy bất cứ thứ gì nữa, bởi vậy mọi người đều đợi đến giây phút cuối cùng mới sử dụng.

    Bốn người ngồi xổm trên đỉnh tấm bia đá, phát hiện phía trước và phía sau đều bị sương đen nhấn chìm, ngay cả phần trên đỉnh cũng đang bị sương đen bủa vây, vách động vốn chỉ cần giơ tay ra là với tới, thì nay cũng không nhìn thấy đâu nữa.

    Hải ngọng lấy can đảm đưa tay ra sờ phía sau, nhưng thò cả nửa cánh tay, mà anh chỉ chụp được làn sương vô ảnh, anh bật kêu lên: “Thôi toi rồi! Vòm động biến đâu mất nhỉ?”

    Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng đừng động đậy, nếu trong sương đen có vật gì ẩn nấp, thò tay ra là cụt luôn đấy.

    Hải ngọng vội rụt tay lại, thấy trong lòng bàn tay mình toàn là tàn tro và bụi đất màu đen, anh ngạc nhiên hỏi: “Cái gì đây?”

    Thắng Hương Lân ngước nhìn quầng sương đen dày đặc xung quanh, cô kinh ngạc thốt lên: “Chết rồi! Chúng ta lại phải đối mặt với chuyện từng xảy ra ở thông đạo kính viễn vọng Lopnor… ”

    Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, tim anh đập thình thịch, thì ra con quái vật khắp người toàn mắt ở phía sau tấm bia đá đã lôi cả đội khảo cổ lẫn tấm bia đá vào “chiếc hộp thời gian!”
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 8: VA CHẠM

    Cao Tư Dương phát hiện sắc mặt của Tư Mã Khôi đột ngột thay đổi, cô thầm thấy lạ, vì từ trước đến giờ dẫu gặp trở ngại lớn đến đâu, anh luôn điềm tĩnh ứng phó, gương mặt trước giờ không hề toát ra nửa tia sợ hãi, sao lúc này nhìn thấy quầng sương dày đặc giống như khói đen này, anh lại tỏ vẻ tuyệt vọng đến vậy? Ít ra tấm bia Bái Xà bình an vô sự, thì đội khảo cổ vẫn trong vòng an toàn cho phép mới đúng chứ.

    Tư Mã Khôi rõ hơn ai hết, khối sương đen dày đặc này chỉ xuất hiện trong chiếc hộp thời gian, lần trước đội khảo cổ đã gặp Triệu Lão Biệt, máy bay Hải Âu C47 và vô vàn con mắt âm u ở gần chỗ người sắt khổng lồ dẫn đường trong biển cát cực vực, dường như lần trải nghiệm hồn xiêu phách lạc ấy chỉ mới xảy ra ngày hôm qua, vì anh còn nhớ như in từng chi tiết nhỏ nhất.

    Nấm mồ xanh tìm kiếm thông đạo dẫn xuống lòng đất bao nhiêu năm mà không có kết quả, chính trong chiếc hộp thời gian, đội khảo cổ đã tiết lộ cho Triệu Lão Biệt một loạt thông tin như sóng điện u hồn trong mật thất dưới thành cổ, gương mặt giống như thần Phật của quốc vương Chăm Pa, chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù dưới khe núi sâu. Khi tiết lộ những điều ấy, đội khảo cổ đã đẩy chính mình vào vòng tuần hoàn khép kín không lối thoát, có thể nói, nếu không có chiếc hộp thời gian trong biển cát ở cực vực, thì mọi sự việc xảy ra – bắt đầu từ khi hội Tư Mã Khôi bước chân vào khe núi Dã Nhân, Miến Điện đi tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải cho đến bây giờ – đều chẳng bao giờ xảy ra. Có lẽ, nếu sau khi quân nhân dân Miến Điện Cộng hòa tan rã hội Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Tuyệt xuyên thẳng rừng rậm nguyên sinh trở về tổ quốc, thì số phận của tất cả mọi người đã sang một trang khác, nhưng sự thật đã xảy ra thì không bao giờ có thể quay lại được nữa.

    Trong cực vực dưới động đạo kính viễn vọng Lopnor, đội khảo cổ bị cuốn vào chiếc hộp thời gian giữa quầng sương, không một sức mạnh nào có thể thay đổi sự thật đã xảy ra đó, nếu quy kết căn nguyên thì chính chiếc hộp này là gốc rễ của mọi bí mật, vị thần cổ hình cây trong vực sâu cũng lộ nguyên hình trong chiếc hộp thời gian.

    Bởi vậy những người từng bước vào chiếc hộp thời gian như Tư Mã Khôi, Thắng Hương Lân và Hải ngọng đều biết tình hình đang xảy ra đáng sợ đến mức nào. Bây giờ nghĩ lại mới thấy, rất có khả năng lúc ấy vị thần cổ hình cây kia đã bóp méo thời gian, vì muốn thoát khỏi quá trình bị tấm bia đá nhốt trong động và không ngừng lặp đi lặp lại cái chết, nên nó mới tiết lộ chút ít bí mật thông qua chiếc hộp thời gian, để dụ đội khảo cổ thâm nhập cửu tuyền, giúp nó phá hủy tấm bia đá Bái Xà.

    Sau khi đội khảo cổ tiếp xúc với tấm bia đá, con quái vật đã thử mấy lần nhưng không lần nào phá hủy được tấm bia. Có thể nói chắc rằng con quái vật đã sớm tiên liệu được tình huống này, nó biết thuốc nổ chưa đủ sức phá hủy tấm bia đá dày nặng và to lớn chừng kia, nó chỉ cần nguồn năng lượng do vụ nổ mang lại để đẩy tấm bia đá rơi vào chiếc hộp thời gian. Đó mới là ý đồ thực sự của nó.

    Còn vì sao con quái vật lại làm vậy, thì có thể dựa vào những việc đã xảy ra trước đây để dễ dàng đoán ra. Chiếc hộp thời gian giống như chiếc đồng hồ cát đặt ngược, khi thời gian trong đó chảy hết thì chiếc hộp sẽ tan ra và biến mất trong hắc động. Trong khoảnh khắc chiếc hộp tan biến, mọi sự vật bị cuốn vào trong chiếc hộp sẽ trở về tọa độ thời gian của chúng trước đây, những vật không thể trở về thì sẽ cùng tan biến với chiếc hộp, nhưng những vật có thể trở về, trừ phi chúng hội tụ đủ điều kiện đặc biệt, còn nếu không, cũng sẽ không thể trở về vị trí ban đầu.

    Trong chiếc hộp thời gian mà đội khảo cổ rơi vào lần trước tổng cộng xuất hiện bốn sự kiện: đầu tiên là Triệu Lão Biệt vốn đang ở trong động đạo ở hoang mạc để đào bảo vật, sau khi đi qua chiếc hộp thời gian, lão tỉnh dậy trên một sa mạc rộng lớn, suýt chút nữa đã bị mặt trời sấy thành xác khô; tiếp theo là trường hợp của đội khảo cổ vì họ đã kịp thời trở về chỗ người sắt khổng lồ trong sa mạc ở cực vực, nên vị trí không bị thay đổi; sự kiện thứ ba là chiếc máy bay Hải Âu C-47 gặp nạn vào năm 1949, hành trình dự kiến của nó vốn từ hướng nam bay sang tây bắc, nhưng giữa đường, nó bị lạc vào chiếc hộp thời gian, cuối cùng khi rơi ra khỏi chiếc hộp thì nó xuất hiện ở nơi mà nó căn bản không thể bay qua – ven rìa sa mạc Lopnor.

    Sự kiện thứ tư xuất hiện trong chiếc hộp là trăm ngàn con mắt khổng lồ giữa khe nứt dưới vực sâu, có thể nói bản thân chiếc hộp chính là vị thần cổ hình cây, sương đen mênh mông vô bờ tỏa khắp bốn phía trong chiếc hộp cũng do nó phun ra, chỉ cần không có vật gì làm thay đổi vị trí của nó thì sau khi chiếc hộp biến mất, nó sẽ vẫn bất động ở chỗ cũ.

    Trong chiếc máy bay Hải Âu C-47 bị rơi năm ấy còn chở miếng thịt người chết được mang ra khỏi vực sâu theo cỗ di hài Sở U Vương, Triệu Lão Biệt ngỡ đó là báu vật liền đánh cắp và trèo ra khỏi khoang máy bay, bởi sự kiện đó nên miếng thịt người chết đã biến mất vĩnh viễn trong dòng khí nhiễu động bên ngoài chiếc hộp thời gian.

    Hội Tư Mã Khôi không thể xác định làm cách nào vị thần cổ hình cây kia có thể xuất hiện trong chiếc hộp vào lần ấy, họ chỉ suy đoán có thể là do địa chấn dưới cửu tuyên gây nên, còn lần này thì chắc chắn liên quan đến cuộn thuốc nổ mà đội khảo cổ mang theo, nhưng vì sao trước đây nó không để tấm bia đá xuất hiện luôn trong chiếc hộp mà phải lòng vòng qua bao nhiêu trường đoạn như vậy?

    Tuy Tư Mã Khôi là người phản ứng thần tốc, khả năng nhìn nhận sự việc cũng vô cùng nhanh chóng, nhưng anh không thế giải thích nổi chi tiết này, anh đành quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Nếu lần trước tấm bia đá Bái Xà xuất hiện trong chiếc hộp thời gian, thì có phải con quái vật bị nhốt bên trong đã sớm được phóng thích ra ngoài rồi không?”

    Thắng Hương Lân cũng cảm thấy rất lạ, cô đoán: “Chắc là con quái vật đó không dám vào sâu trong chiếc hộp, bởi vì nó đang ở trong trạng thái dở sống dở chết, không thể rời xa tấm bia đá, mà mọi sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp thời gian lại nằm ngoài sự khống chế của nó, lỡ bị một ngoại lực nào đó bất ngờ tác động lên và khiến nó chệch khỏi vị trí ban đầu, thì nó không thể tiên liệu được kết quả cuối cùng sẽ là như thế nào. Bây giờ nó lôi cả tấm bia đá và đội khảo cổ vào trong chiếc hộp cũng đồng nghĩa với việc nó đang đánh cược vào canh bạc này, có lẽ nó hiểu rõ, ngoại trừ mấy kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ ra, thì rất nhiều năm nữa cũng sẽ chẳng có ai bước chân xuống cửu tuyền, vậy là, nó quyết nắm bắt lấy cơ hội cuối cùng, khiến tấm bia đá rời khỏi vị trí ban đầu, đợi khi thời gian trong chiếc hộp trôi chảy đến điểm tận cùng, thì tấm bia đá Bái Xà và đội khảo cổ sẽ phải đối mặt với hai kết cục: Thứ nhất là bị dịch chuyển khỏi vị trí ban dầu; thứ hai là sẽ vĩnh viễn biến mất trong hắc động”.

    Cao Tư Dương đột nhiên chỉ tay về phía đám sương đen, thảng thốt gọi: “Nhìn kìa! Hình như trong sương mù có gì đó!”

    Tư Mã Khôi nghiêng tai nghe ngóng, quả nhiên anh nghe thấy âm thanh ồn ào giống như tiếng máy điện đàm bị nhiễu sóng, không những vậy thể tích truyền âm khá rộng.

    Hải ngọng đứng ngồi không yên, anh không muốn bó tay chịu chết, nên liền xách khẩu súng săn gấu hai nòng đứng bật dậy, lao vào đám sương đen cách đó không xa, định quyết đấu một phen.

    Tư Mã Khôi ngăn lại: “Lấy súng đạn thông thường đối phó với kẻ địch chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, cậu liều mạng xông vào đó chỉ tổ hi sinh vô ích mà thôi. Vị thần cổ hình cây khắp người toàn mắt kia là khối thịt người chết khổng lồ. Trước mặt nó, con người bé nhỏ giống như con kiến. Súng đạn bắn vào người nó cùng lắm chỉ để lại một cái lỗ, rồi trong chớp mắt cái lỗ bé xíu ấy sẽ phục hồi nguyên dạng, đấy là còn chưa nói, nếu cậu tiếp cận nó quá gần thì ý thức của cậu sẽ bị hút vào trong động không đáy, trải nghiệm đó còn đáng sợ hơn cả cái chết đấy!”

    Hải ngọng nghiến răng hỏi: “Thế thì phải làm sao? Vũ khí chúng ta mang theo chỉ có súng và dao săn, tớ thấy dù sao súng săn vẫn tốt hơn, nếu không thể dùng súng đạn để hạ gục nó, chẳng lẽ chúng ta phỉ nước bọt để hạ gục nó sao?”

    Bốn người đang luống cuống vì không có chỗ trốn, thì nghe thấy tạp âm trong sương đen càng lúc càng lớn. Âm thanh này đến từ phía ngoài tấm bia đá, rõ ràng không phải xuất phát từ chỗ vị thần cổ. Con quái vật, đội khảo cổ và tấm bia đá thuộc về cùng một sự kiện, còn sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp thời gian thì chắc chắn không chỉ có một, chẳng rõ thứ gì đang bị cuốn vào đó?

    Cao Tư Dương nghe thấy âm thanh trong sương đen đã vang to đến mức kinh hồn bạt vía, phàm khi người ta càng không nhìn thấy thì càng thấy sợ, cô hoảng hốt thốt lên: “Hình như nó định lao đến chỗ chúng ta thì phải, rốt cuộc là thứ gì thế?”

    Tư Mã Khôi nghe âm thanh này hơi quen, đột nhiên anh chợt hiểu ra, anh trầm giọng nói: “Thứ trong sương đen đang đến gần chúng ta chính là… số mệnh”.

    Hải ngọng bất mãn với cách nói của Tư Mã Khôi, anh cằn nhằn: “Lúc nào rồi mà còn nói bóng nói gió, số mệnh là cái gỉ? Tròn hay méo, ăn được không hả?”

    Lúc này, Tư Mã Khôi đang nghĩ, bốn sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp thời gian lần trước, nguyên nhân và hệ quả của bốn sự kiện ấy cứ đan cài chồng chéo vào nhau và đều liên quan đến vị thần cổ hình cây bị nhốt trong vực sâu dưới lòng đất. Ví dụ như chiếc máy bay Hải Âu C-47, đầu tiên hội Tư Mã Khôi cho rằng nó không hề liên quan đến cả chuỗi sự kiện, nó chỉ chẳng may bị dòng khí nhiễu động cuốn vào chiếc hộp thời gian mà thôi, nhưng thực ra trong khoang máy bay C-47 đó chứa miếng thịt người chết, còn Triệu Lão Biệt và đội khảo cổ thì đương nhiên đều là những kẻ tham gia trực tiếp vào chuỗi sự kiện. Entroypy không thể lựa chọn hoặc quyết định ai hoặc vật gì sẽ bị cuốn vào trong chiếc hộp, nhưng những đối tượng đã rơi vào chiếc hộp thì đều bị số phận ràng buộc lại với nhau. Lấy Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt làm ví dụ, thực ra cả hai người họ đều không muốn nhúng mũi vào vụ này, nhưng vì sao không phải người khác mà lại là chính họ bị cuốn vào đây? Chuyện này chẳng ai có thể giải thích nổi, chỉ có thể nói kết quả đã tạo ra nguyên nhân, bởi vậy nên những sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp đều có quan hệ rất mật thiết với nhau.

    Vậy thì trong chiếc hộp giờ đây, sự kiện thứ nhất mà họ đã biết là đội khảo cổ và tấm bia đá, bất kể sự kiện thứ hai đang từ trong sương mù tiến lại gần là vật gì, thì nó đã được an bài để trở thành một phần trong vòng tuần hoàn khép kín.

    Lúc này, tiếng ồn trong sương đen đã trở nên ầm ầm đinh tai nhức óc, có điều nó vẫn chưa hiện ra khỏi sương mù.

    Tư Mã Khôi nghe động tĩnh này, anh biết mình không đoán nhầm, quả nhiên thứ đó đang lao đến gần.

    Ba người còn lại không hiểu gì, họ thấy âm thanh này có vẻ giống một chiếc máy bay cỡ lớn đang xuyên thủng màn sương đen và đâm thẳng vào tấm bia đá Bái Xà, làm sao Tư Mã Khôi lại biết trước việc này?

    Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Cao Tư Dương đúng là không hề hay biết gì về việc này, Thắng Hương Lân cũng biết chút ít nhưng không thể giải thích tường tận được, chỉ có anh và Hải ngọng là biết rõ ràng nhất, thứ đang bay từ trong sương mù ra, có lẽ chính là chiếc máy bay vận tải chiến thuật Ilyushin-12 đã xảy ra sự cố vào năm 1963”. Lưu Hoại Thủy của đội khảo cổ và giáo sư Thắng Thiên Viễn, cha của Thắng Hương Lân đều ngồi trên chuyến bay ấy, lão Lưu Hoại Thủy từng kể lại cho Tư Mã Khôi nghe trải nghiệm đáng sợ lần ấy một cách tường tận.

    Năm đó, đội khảo cổ do giáo sư Thắng Thiên Viễn dẫn đầu đáp chuyến bay Ilyunshin-12 đến sa mạc để tìm lối vào kính viễn vọng Lopnor, đây là chiếc máy bay vận tải chiến thuật cánh quạt hai động cơ do Liên Xô chế tạo, có thể bay với tốc độ 340km/h, khi bay gần đến ven rìa sa mạc Kumgtag, thì đột nhiên nó gặp phải hiện tượng tương tự như nhiễu động trời trong, sau một hồi rung lắc và chấn động dữ dội, thân máy bay tựa hồ bị một con quái vật khổng lồ nắm chặt, toàn bộ hành khách và phi hành đoàn đều mất hết ý thức. Đến khi mọi người tỉnh lại thì tất cả đồng hồ trên tay họ cũng dừng lại không chạy nữa, động cơ máy bay ngừng quay, động cơ Diesel của cánh quạt và bộ phận cất cánh bên trái bị hỏng, không thể tiếp tục bay lên cao được nữa, độ cao càng lúc càng hạ thấp, may mà vị cơ trưởng chỉ huy phi hành đoàn là viên phi công dày dạn kinh nghiệm, nên ông không hề hoảng loạn trước sự cố và đã cho máy bay hạ cánh thành công xuống vùng rốn sa mạc, tránh khỏi thảm họa bốc cháy phát nổ. Nhưng thông qua thiết bị định vị, người ta phát hiện địa điểm hạ cánh của chiếc Ilyushin-12 lúc đó là 40°52’29” vĩ Bắc và 91° 55’22” kinh Đông, cách xa địa điểm dự kiến mấy chục kilomet. Điều đó đồng nghĩa, trong quá trình toàn bộ hành khách mất ý thức, máy bay đã bay xuyên ngang sa mạc Kumtag theo chiều từ đông sang tây.

    Tư Mã Khôi được chính người trong cuộc kể lại từng chi tiết cụ thể của cả chuỗi sự kiện, nhưng sau đó bao nhiêu biến cố dồn dập xảy ra, khiến anh chẳng còn hơi mà thở, bởi vậy anh cũng quên khuấy mất chuyện này. Bây giờ nghe thấy âm thanh ầm ầm phát ra từ động cơ cánh quạt trong sương mù, anh mới chợt nhớ tới sự cố xảy đến với chiếc máy bay vận tải Ilyushin-12 của không quân Trung Quốc vào năm 1963, thực ra nó đã trải qua một lần ra vào chiếc hộp thời gian và khi ấy nó đã đâm vào một vật…
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HỒI 9: ĐIỀM CUỐI


    Tư Mã Khôi kể tóm tắt với ba người suy nghĩ của mình, sở dĩ con quái vật kéo đội khảo cổ và tấm bia đá vào chiếc hộp thời gian là vì nó định mượn ngoại lực để phá hủy tấm bia đá, có điều nó không hề biết làm vậy sẽ dẫn đến kết quả gì.

    Trong khi đó, Tư Mã Khôi lại biết rõ quá trình chiếc Ilyushin-12 xuyên qua chiếc hộp thời gian và đâm phải một vật, đó chính là sự thực không thể thay đổi trong vòng tuần hoàn khép kín, tựa như cốc nước đã hất đi thì không thể nào lấy lại được nữa.

    Căn cứ vào diễn biến câu chuyện có thể thấy, tám chín mươi phần trăm vật mà chiếc Ilyushin-12 đã đâm phải trong chiếc hộp thời gian tám, chính là con quái vật đang bị tấm bia đá nhốt giữ, cái này người ta gọi là “tằm tự làm kén nhốt mình”, nó đẩy chính mình vào vòng tuần hoàn chết, cuối cùng con quái vật này sẽ bị máy bay đâm và bắn vọt ra khỏi chiếc hộp thời gian, giống hệt miếng thịt người chết bị Triệu Lão Biệt mang đi, vĩnh viễn biến mất trong hư vô, vạn kiếp không thể siêu sinh.

    Hải ngọng thắc mắc: “Cái cõi vạn kiếp không thể siêu sinh mà cậu nói rốt cuộc là nơi nào thế?”

    Tư Mã Khôi bảo: “Ai mà biết được, vì đã người nào đến đó bao giờ đâu, có điều đó chắc chắn đó là nơi con quái vật không muốn đến nhất”.

    Cao Tư Dương cũng chưa hiểu, liền hỏi lại: “Thế chúng ta… cứ đứng đây đợi máy bay đâm vào à?”

    Tư Mã Khôi gật đầu: “Trong quá trình bay qua chiếc hộp thời gian, chiếc Ilyushin-12 sẽ đâm vào một vật thể nào đó, đây chính là kết quả đã tồn tại từ trước, bất cứ ai hoặc bất cứ việc gì cũng không thể thay đổi được kết quả này”.

    Thắng Hương Lân quay theo hướng tiếng ầm ầm vang lên và nhìn vào phía sương mù mênh mông, cô cho rằng sự việc không đơn giản như họ suy đoán, nghe âm thanh vọng lại từ trong sương, có thể thấy chiếc Ilyushin-12 đang từ phía ngoài đâm thẳng vào tấm bia đá. Một khi tấm bia đá Bái Xà bị phá hủy, thì con quái vật đó sẽ lập tức thoát khỏi trậng thái đông cứng và phục hồi nguyên dạng. Đó chẳng phải là kết quả mà con quái vật muốn đạt được nhất sao?

    Tư Mã Khôi cũng thầm lo sẽ xảy ra kết quả này, tuy chiếc Ilyushin-12 do Liên Xô chế tạo nhất định sẽ đâm phải vật gì đó trong chiếc hộp, nhưng chẳng ai nhìn thấy rốt cuộc là nó đâm phải vật gì. Việc nó đâm phải con quái vật hình cây chỉ là giả thiết mà anh mong muốn sẽ diễn ra mà thôi, trong khi đó nghe tiếng động cơ ầm ầm phát ra từ trong sương mù thì đúng là chiếc máy bay đang lao trực diện vào tấm bia đá, đến khi bia đá bị đâm thật thì chẳng ai cứu vãn được nữa.

    Nghĩ đến đây, Tư Mã Khôi bất giác quay ra sau liếc mắt nhìn một cái, phía đầu kia của tấm bia đã vẫn mù mịt sương khí, tối thui chẳng nhìn thấy gì cả, có điều anh cảm thấy trong sương mù tỏa ra hơi khí chết chóc rất nặng nề, điều đó chứng tỏ con quái vật hình cây khắp người toàn mắt kia vẫn đang trốn ở trong đó. Lẽ nào đội khảo cổ cứ thể đứng yên bất động trên đỉnh tấm bia và đợi kết quả giáng xuống đầu sao?

    Tư Mã Khôi càng nghĩ càng thấy không ổn, lỡ đâu kết quả không như mong đợi, thì cả hội phải làm gì đây? Huống hồ nghe âm thanh thì có vẻ là chiếc Ilyushin-12 sẽ đâm vào tấm bia đá, dẫu gan anh có to hơn nữa, thì lúc này cũng không thể bỉnh tĩnh nổi, nhưng anh cũng chẳng có cách gì để thay đổi hướng bay của chiếc Ilyushin-12, nên đành đi tới đầu bên kia của tấm bia, nghe tiếng quạt động cơ ngày càng lớn dần, tim anh đập thùm thụp như muốn trồi lên tận cổ.

    Sự việc đã đến nước này, Tư Mã Khôi và ba thành viên đội khảo cổ chỉ biết cố gắng còn nước còn tát để giành giật sự sống khỏi tay tử thần. Họ lấy cơ thể làm trọng tâm, dốc sức lắc lư trên tấm bia, hòng để tấm bia đổ về phía trước.

    Tấm bia Bái Xà vốn dĩ đứng sừng sững ở tận cùng địa mạch, cao lớn, dày nặng khác thường, với sức của bốn người đội khảo cổ thì hoàn toàn chẳng thể khiến tấm bia nhúc nhích, nhưng bây giờ trên thân tấm bia xuất hiện rất nhiều vết rạn sâu, có lẽ không thể chịu được nữa, nên sau khi bị rung lắc dữ dội, nó đột nhiên nứt ngang thành hai mảnh ở ngay chính giữa, phần bên trên tấm bia từ từ đổ xuống màn sương mù phía trước.

    Hội Tư Mã Khôi chỉ sợ bị rơi vào sương mù theo nửa tấm bia bị gãy, họ vội vàng trèo xuống chân tấm bia trong quá trình nó còn đang nghiêng ngả chuẩn bị gãy đôi, dường như cũng giây phút ấy, trong sương mù thấp thoáng hiện ra một bóng dáng mờ mờ, sau đó nó trở nên rõ ràng chỉ trong nháy mắt, quả nhiên là chiếc máy bay vận tải động cơ hai cánh quạt Ilyushin-12 đang xuyên qua chiếc hộp thời gian với vận tốc không nhanh lắm, nhưng vẫn đủ khiến người ta khiếp đảm. Trong tiếng động cơ ầm ầm long trời lở đất, nó bay sượt qua đầu mọi người, bốn người đều bị luồng khí xoáy tròn cuốn đi, suýt chút nữa rơi từ nửa dưới tấm bia đá xuống đất, họ vội vàng nằm rạp người xuống né tránh.

    Khoang máy bay tối om, chẳng thấy le lói chút ánh sáng nào. Ở khoảng cách gần đến mức không thể gần thêm nữa, nó lướt sát sạt qua nửa còn lại của tấm bia và bay đi. Sau đó, một tiếng “ầm” đột nhiên vang lên, dường như máy bay đã đâm phải một vật thể to lớn nào đó trong sương, chỉ nghe thấy âm thanh phát ra giống như đâm phải một trụ gỗ đã mục.

    Hội Tư Mã Khôi nằm rạp trên phần còn lại của tấm bia đá, ngẩng đầu ngước nhìn lên thì thấy trên nóc khoang máy của chiếc máy bay vận tải chiến thuật Ilyushin-12 có một vật thể khổng lồ, đen thùi lùi đang rạp người nằm đó, hình dáng giống như một cây cổ thụ chết khô, khắp người toàn râu rễ, có mấy sợi còn thò cả vào trong cánh quạt động cơ máy bay. Sương đen phun trào bao vây tấm bia đá, nên cả hội không nhìn thấy rõ lắm, chỉ thấy vật đó đã rời khỏi vị trí ban đầu, phần lớn cơ thể nó vẫn ở trong trạng thái đông cứng, không thế nuốt được cả chiếc máy bay, phần có thể cử động đang vắt kiệt sức giãy giụa, vọng đồ thoát khỏi chiếc Ilyushin-12, phần cơ thể tiếp xúc với nóc máy bay phát ra tiếng kêu quái đản nghe “két két” như đang cào vào vỏ sắt, nhưng mọi cố gắng của nó đều vô ích, nó có muốn khống chế ý thức của các phi công trong khoang máy cũng không được bởi vì khi rơi vào chiếc hộp thời gian, ý thức của họ đã trong trạng thái mơ hồ. Chỉ chớp mắt, nó đã bị chiếc máy bay lao với tốc độ cao đẩy vào nơi sâu trong sương mù mênh mông, chẳng nhìn thấy đâu nữa.

    Mọi người chứng kiến cảnh tượng đó mà trong lòng dâng lên một nỗi khiếp đảm khó nói thành lời. Con quái vật hình cây không chết từ vạn cổ nay đã bị chiếc máy bay vận tải không quân Ilyushin-12 đến từ năm 1963 đâm bắn ra khỏi chiếc hộp thời gian, từ đó hoàn toàn biến mất. Thực ra kết quả này đã sớm xuất hiện từ trước, chỉ có điều chẳng ai có thể tưởng tượng được mà thôi.

    Lúc này, sương đen phun ra càng lúc càng nhiều, hội Tư Mã Khôi buộc phải đeo mặt nạ phòng độc lên mặt, họ biết thời gian trong chiếc hộp đã trôi đến điểm tận cùng và chuẩn bị biến mất cùng với Entroypy. Sau khi chiếc Ilyushin-12 ra khỏi chiếc hộp, bởi vì động cơ cánh quạt bị tắt lửa, nên nó buộc phải hạ cánh xuống sa mạc Kumtag, còn tung tích những người sống sót của đoàn ra sao thì chẳng ai hay biết.

    Lúc này, trong đầu bốn người hội Tư Mã Khôi hoàn toàn trống rỗng, họ chẳng nghĩ gì được nữa, chỉ vùi đầu dán chặt thân thể vào bề mặt bị gãy của tấm bia đá, tầm nhìn và ý thức đều bị bóng đêm nuốt chửng, chẳng biết bao lâu sau, họ mới dần dần tỉnh táo lại.

    Tư Mã Khôi vặn vẹo cái cổ đang cứng đờ, anh nhìn xung quanh, thấy sương đen đã tan hết, bèn gỡ mặt nạ phòng độc hình mang cá xuống, bật đèn quặng trên mũ lên quan sát tình hình. Anh phát hiện một nửa tấm bia vẫn ở dưới chân nhưng nơi họ đứng lại là bên trong một hang động thiên nhiên mà vách động gần như dựng đứng, từ miệng động phía trên đỉnh đầu tỏa ra chút ánh sáng lờ nhờ, dường như có tiếng gió ầm ù đang thổi.

    Hải ngọng bò dậy nhìn bốn bề, anh thấy mình không còn ở trong động đạo nơi tận cùng địa mạch nữa, vỏ não bất giác thấy tê tê, anh nghi hoặc hỏi: “Đây là nơi mẹ nào vậy? Chẳng lẽ chúng ta đã chết, rồi gặp nhau dưới âm gian à?”

    Tư Mã Khôi nói: “Chết đã yên, chỉ sợ lại rơi vào nơi mà chẳng ai biết đấy là đâu thôi”.

    Thắng Hương Lân an ủi: “Lần này chúng ta trải qua hành trình giống như Triệu Lão Biệt, bị rời khỏi vị trí ban đầu rồi. Nhưng biết đâu trong cái họa lại có cái phúc, bây giờ đạn hết lương thực cạn kiệt, pin đèn cũng sắp chẳng còn, bị nhốt ở dưới cửu tuyền cách biệt hoàn toàn với mặt đất, thì có mà chỉ còn đường chết. Có điều, giờ chúng ta không biết mình đang ở nơi nào, hay là cứ ra ngoài trước rồi tính sau!”

    Để đề phòng bất trắc, bốn người lắp hết số đạn thừa vào súng, ngồi nghỉ một lát rồi đi ra phía ngoài.

    Tư Mã Khôi vừa đi vừa nghĩ lại chặng đường cả hội đã trải qua. Cuộc hành trình bắt đầu từ khe cốc núi Dã Nhân và kết thúc ở vực sâu dưới cửu tuyền, cuối cùng cả hội đã giải được toàn bộ chuỗi ẩn số Nấm mồ xanh. Cái giá phải trả để đạt được điều ấy là cái chết của rất nhiều đồng đội, bạn bè, vậy mà kết quả cuối cùng lại hoàn toàn nằm ngoài tưởng tưởng. Trước đây, Tư Mã Khôi từng bị vấy bỏng chất độc hóa học trong quả bom địa chấn, chẳng biết còn sống được mấy năm nữa, nếu trời chưa bắt chết, chẳng lẽ anh lại tìm cơ hội để bắt đầu cuộc hành trình giải mã những ẩn số ở tầng sâu hơn sao? Ví như: nguồn gốc tục sùng bái rắn bay xuất phát từ đâu? Vị thần cổ hình cây khắp người toàn mắt được biến ra từ cái gì? Tín hiệu chết chóc khắc trên tấm bia Bái Xà bắt nguồn từ nơi nào? Nhưng cứ nghĩ đến những người đã khuất, anh lại thấy lo lắng cho ý tưởng của mình. Nếu quá đau đáu với những bí mật bị thất truyền, thì không biết còn phải hi sinh thêm bao nhiêu mạng người nữa. Sau đó, anh lại nghĩ, chẳng biết những gì đang trải qua lúc này có phải sự thật hay không? Hay đó chỉ là di chứng để lại sau khi hội anh sa chân vào động không đáy và di chứng ấy chưa thể biến mất trong một sớm một chiều?

    Tư Mã Khôi mải miên man với những suy nghĩ mông lung, tới khi ra được đến ngoài động, anh và hội Hải ngọng đều bàng hoàng, đứng chôn chân tại chỗ nhìn cảnh tượng trước mắt, cả hội im lặng hồi lâu, chẳng ai thốt được nên lời.

    Thì ra, nơi mọi người đứng là một hòn đảo hoang chỉ rộng chừng mấy dặm, trên đảo là thảm thực vật lúp xúp thưa thớt, bốn phía là đại dương mênh mang vô bờ, sóng đánh ầm ầm dữ dội, trên trời trĩu nặng mây đen, như muốn dự báo một cơn giông bão đang chuẩn bị đổ bộ.

    Ở quá lâu dưới lòng đất tối đen như mực, giờ đây được nhìn thấy biển, không gian khoáng đạt mở ra trước mắt khiến mọi cảm giác tuyệt vọng và đè nén trong lòng mọi người như được quét sạch trơn, nhưng hòn đảo hoang trơ trụi này quá nhỏ bé, có lẽ ngay cả trên những tấm bản đồ kích thước lớn cũng chẳng thể tìm thấy bóng dáng của nó. Trên đảo lại không có thức ăn, không có nước ngọt, dẫu khả năng ứng phó siêu việt đến đâu thì cũng khó có thể sống sót nổi hai ngày ở nơi này, e là cũng chẳng thể hi vọng thấy máy bay hay tàu thuyền bỗng nhiên đi qua đây.

    Cao Tư Dương không ngờ mình có thể sống sót tới cuối cùng, cô ngước nhìn đường chân trời dập dềnh trên mặt biển và bảo: “Cuối cùng cuộc hành trình dài đằng đẵng cũng đến hồi kết thúc, bị nhốt trên đảo không người e là chỉ có đường chết, nhưng dẫu chẳng thề về được và mãi mãi nằm lại nơi này thì tôi cũng có thể nhắm mắt được rồi!”

    Thắng Hương Lân trấn an: “Cô đừng nói vậy, người cũng có lúc đi nghịch lại với ý trời, mà trời cũng chẳng bao giờ tuyệt đường người, nhất định chúng ta sẽ nghĩ được cách rời khỏi nơi này!”

    Hải ngọng nói: “Đúng vậy! Chuyện gì cũng phải nghĩ theo hướng tích cực, khó khăn lắm mới sống sót thoát khỏi lòng đất, chúng ta phải bảo vệ thành quả thắng lợi chứ! Để tôi dạy cô một đạo lý ‘Trải qua đại nạn mà không chết tức là may mắn’, tôi luôn quan niệm rằng, may mắn cũng là một phần của năng lực, không những vậy còn là phần vô cùng quan trọng…”, nói đến đây, anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Tớ nói thế có đúng không? Tuy số tớ hay gặp vận đen, nhưng nhìn xa mà nói thì vận may luôn đứng về phía tớ. Tình cảnh này làm sao mà nhốt nổi chúng ta, Khôi nhỉ?”

    Tư Mã Khôi cũng không biết hội anh đen đủi hay may mắn, nên đành nói: “Tớ vẫn nói câu ấy thôi – Tồn tại là bắt đầu, biến mất mới là kết thúc, bởi vậy bây giờ không thể tính là kết thúc, thậm chí còn không phải sự bắt đầu của kết thúc, mà cùng lắm chỉ là sự kết thúc của bắt đầu mà thôi…”
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    HẬU KÝ: CHUYỆN LẠ ĐÊM HÈ


    “Mê tông chi quốc” có nghĩa là đất nước bị mất tích, bộ truyện này còn có tên gọi khác là “Thế giới dưới lòng đất”, toàn tập 4 cuốn. Sự hình thành của đội khảo cổ đến đây là kết thúc.

    Theo thông lệ, khi tác phẩm kết thúc thì tác giả nên viết một chương hồi ký để báo cáo với mọi người quá trình và cảm giác của mình khi sáng tác tác phẩm này, nhưng thay vì viết hồi ký, đột nhiên tôi lại muốn kể những chuyện trước đây. Tôi không phải người hoài cổ, có điều, đối với tôi, những kỷ niệm trải qua thời niên thiếu thực sự rất khó quên. Khi ấy, bố mẹ tôi đều làm việc trong đội địa chất, thường phải đi xa công tác, mọi gia đình công nhân viên trong cả cơ quan của bố mẹ đều được bố trí chuyển đến sống trong một khu tập thể lớn. Khu tập thể ấy đủ chỗ ở cho mấy trăm hộ dân, ở đó còn có cả các cơ sở hạ tầng như rạp chiếu phim, nhà ăn, trạm xá… Hồi ấy xem phim khồng cần mất tiền, con em cán bộ đều học ở trường của ngành – trường nằm ngay trong khuôn viên của khu tập thể. Những kỳ nghỉ hè hay nghỉ tết âm lịch, vì bố mẹ đều đi vắng nên tồi lại một mình đi tàu về quê với ông bà, bởi vậy ngay từ hồi tôi chưa nhớ gì thì đã bắt đầu quen với việc đi tàu hỏa rồi.

    Lúc ấy, ấn tượng của tôi về tàu hỏa là con tàu chạy chậm rì có vỏ màu xanh lá cây, trong toa rất chật chội, nhân viên phục vụ trên tàu thường mang nước đến cho hành khách, hành khách đến từ mọi miền của đất nước, họ vừa uống trà vừa nói chuyện phiếm, người thì đánh bài, người thì chơi cờ, người thì đọc sách. Việc tôi thích làm nhất chính là ngồi nghe các hành khách kể chuyện.

    Thứ hai nào ở lớp tôi cũng có một tiết kể chuyện, thầy giáo thường bảo học sinh lần lượt đứng lên kể để rèn luyện khả năng biểu đạt ngôn ngữ. Sau khi từ quê trở lại trường học, tôi thường kể lại những câu chuyện mình nghe được trên tàu cho các bạn trong lớp, sau đó lại nghe những câu chuyện mà họ kể, tuy bây giờ tôi không thể nhớ hết mình đã kể những câu chuyện gì và được nghe các bạn kể những câu chuyện gì, nhưng một đứa trẻ tinh nghịch suốt ngày thò lò mũi xanh như tôi lại có thể ngồi yên lắng nghe người khác kể chuyện. Từ đó có thể thấy những câu chuyện có sức hút dối với tôi lớn đến chừng nào.

    Đầu những năm 80, điều kiện cuộc sống ở nông thôn và vùng hẻo lánh còn rất khó khăn, tôi còn nhớ có bác nông dân cả đời chưa bao giờ nhìn thấy hạt dẻ xào đường, nhưng đối với tôi và lũ bạn cùng trang lứa mà nói, quanh khu tập thể của đội địa chất ấy có rất nhiều nơi thú vị, đặc biệt là những đêm hè, không khí ở những cánh đồng rất trong lành, phía ngoài cổng nam của sân là cánh đồng cao lương nhấp nhô, men theo con đường là cây cầu đường sắt bắc qua dòng suối, dòng suối dưới cầu có rất nhiều cá, trong lùm cỏ ngoài cánh đồng cơ man nào là các loại côn trùng. Những đứa trẻ sáu, bảy tuổi chúng tôi chỉ được phép đi đến đây, nếu trèo lên cầu, thì sẽ nhìn thấy những dãy núi sừng sững. Hàng ngày, rất nhiều người trong đội địa chất phải vào trong núi để tiến hành công việc thám trắc.

    Lúc ấy, chúng tôi rất thích nghe các chú các bác kể về những trải nghiệm trong công việc của mình ở nơi thực địa. Trong những câu chuyện này có biển cây mênh mông, có đồi tuyết ngút ngàn, còn có cả gấu đen trong núi sâu, hồ ly dưới mộ địa, côn trùng hút máu người, những thỏi vàng đầu chó to bằng nắm đấm, các mẫu vật lõi đá hiếm gặp, đương nhiên cũng có khi họ gặp nguy hiểm, thậm chí phát hiện thấy vài di tích lịch sử. Trong nhà những nông dân địa phương cố rất nhiều chum vò nhặt được dưới mộ cổ, họ không biết mô tả những vật này cổ xưa đến mức nào, mà chỉ biết nói “Cái bình này có từ lâu lắm rồi, hình cô gái vẽ trên bình chẳng có cảm xúc gì cả”, ý là mấy năm gần đây, người ta thường vẽ hình những cô gái với những nét mặt biểu cảm vô cùng phong phú trên thân bình.

    Mỗi đêm hè, tôi cùng mấy đứa trẻ con khác lại ra cánh đồng dưới chân cầu vui chơi thỏa thích, bám lấy những cô chú nhân viên địa chất trong sân hoặc các bác nông dân trong vườn dưa đòi họ kể những câu chuyện ly kỳ, cổ quái, đến nay trong đầu tôi vẫn còn ấn tượng về mấy câu chuyện không đầu không cuối, nội dung vô cùng kỳ lạ này.

    Trong đó, có câu chuyện kể về một người chuyên đi nhặt đồng nát, trên cổ người ấy đeo chuỗi bánh đả cẩu, bánh đả cẩu là một loại thuốc dạng bánh, chuyên dùng để xua đuối chó dữ, bởi vì mũi chó rất thính, chỉ cần ngửi thấy mùi này, chúng sẽ tránh đi thật xa. Ở nông thôn, người ta thường đeo chuỗi bánh đả cẩu vào cổ người chết, đây chỉ là một hình thức mê tín, vì người xưa tin rằng, trên đường đến âm gian, người chết sẽ đi qua một thôn làng, ở đầu thôn dựng một tấm bia đá, trên tấm bia khắc ba chữ “thôn Chó Dữ”, trong thôn không có người cũng chẳng có ma, mà chỉ toàn là chó dữ, nếu người chết không đeo chuỗi bánh đả cẩu, thì hồn ma sẽ không thể nào đi qua được “thôn Chó Dữ”, đành phải bơ vơ giữa đường xuống hoàng tuyền và trở thành cô hồn dã quỷ.

    Lại có một câu chuyện kể về một bé gái người địa phương, một ngày cô bé vào trong núi chơi, nơi ấy có rất nhiều huyệt mộ, đó đều là những ngôi mộ cổ đã bị phá hoại, sau này tất cả bia mộ đều bị nông dân cậy ra, vác về nhà để quây chuồng lợn, cuối cùng những ngôi mộ chỉ còn lại những hố sâu hoăm hoắm, phía dưới là bùn nhão, cỏ dại mọc um tùm. Cô bé vô ý chạm phải một con bọ lạ trong lùm cỏ dưới hố mộ, con bọ chỉ dài bằng ngón tay, màu sắc nom như vỏ cây khô, khắp người toàn là mắt, hễ động vào là phun nước vàng, bốc mùi tanh hôi. Cô bé giật mình hoảng sợ, vội vàng bò ra khỏi hố. Ban đêm trở về nhà, ngón tay chạm vào con bọ của cô bé bắt dầu ngâm ngẩm đau, đầu ngón tay mọc một cái mụn nước, ngứa không thể chịu nổi, lúc ấy mọi người trong nhà cũng không nghĩ gì đến điều đó, chỉ lấy kim hơ lên ngọn đèn rồi chọc vỡ cái mụn, ai ngờ nước trong cái mụn bị vỡ bắt đầu mưng mủ và lở loét. Nửa tháng sau, một đốt ngón tay của cô bé bị hoại tử, bố mẹ cô bé mới vội đưa con đến bác sĩ, bác sĩ cũng chưa bao giờ gặp phải tình huống này. Sau khi hội chẩn, các bác sĩ quyết định cắt đốt ngót tay bị thối của cô bé đi, nhằm ngăn chặn hiện tượng thịt thối lan rộng, nhưng bất kể cắt bao nhiêu đốt, thì ở đỉnh phần bị cắt lại tiếp tục mọc ra một cái mụn nước khác, rồi phần thịt kế đó nhanh chóng bị hoại tử, bác sĩ tuyến tỉnh cũng bó tay không biết làm gì, bé gái ấy phải trải qua tổng cộng mười mấy lần phẫu thuật tháo khớp xương, cánh tay càng lúc càng bị cắt ngắn, nhưng vẫn không thể ngăn chặn được hiện tượng rữa thịt, nếu phải tháo đến hết cánh tay, thì mạng sống của cô bé sẽ bị đe dọa. Chẳng rõ cuối cùng cô bé ấy có được chữa trị khỏi hay không, còn con bọ khắp người toàn mắt dưới hố mộ cũng trở thành một câu đố không lời giải.

    Có một lần trên chuyến tàu đêm, tôi được nghe một hành khách kể rằng ở vùng núi gần sông Lan Thương, vào những năm 1970 đến 1980, có rất nhiều trẻ em dân tộc Va túm lại chơi trò chơi dưới gốc cây dung già nơi chân núi. Trò chơi của chúng rất đặc biệt, nếu bây giờ e là sẽ khiến người ta liên tưởng đến một trích đoạn trong “phim hoạt hình Ma trận”, đó là cảnh khi đám trẻ phát hiện ra “gian phòng kinh dị”, người ta có thể trải nghiệm hiện tượng mất trọng lượng giống như lơ lửng giữa không trung ở trong “gian phòng” đó. Trò chơi của những đứa trẻ dân tộc Va cũng tương tự vậy. Lũ trẻ lần lượt khoanh chân ngồi dưới gốc cây, chỉ một lát sau cả cơ thể chúng sẽ bắt đầu rời khỏi mặt đất, dần dần được nâng lên cao, sau mấy lần nâng lên hạ xuống như thế, chúng sẽ từ từ được hạ thấp và đưa trở lại mặt đất. Bọn trẻ không biết tại sao lại vậy, nhưng đều rất thích, cảm giác giống như trở thành thân tiên vậy, lúc ấy có người lớn đi qua đường, nhìn thấy cảnh tượng ấy đã sợ khiếp vía, chẳng lẽ ban ngày ban mặt lại nhìn thấy ma sao? Thế là, họ vừa la mắng vừa đánh bọn trẻ, bắt chúng về nhà. Có điều bọn trẻ trong xóm núi rất tinh nghịch, cứ nhằm lúc người lớn không chú ý là lại chạy trộm ra gốc cây dung già chơi trò “lên tiên”, mãi sau này núi lửa hoạt động trở lại, cây dung già bị đốt thành tro, thì trò chơi này mới thực sự chấm dứt. Vì người dân miền núi đa phần đều không được học hành, nên họ mang nặng tư tưởng mê tín, gặp phải chuyện quái lạ cũng chẳng dám tìm hiểu kỹ, sau khi chuyện này qua đi, thì chẳng ai muốn truy cứu ngọn nguồn nữa. Bởi vậy đến tận ngày nay, sự thật về trò chơi này vẫn chưa bị ai phát hiện. Có điều, vị hành khách này còn kể, cây dung già đó rất tà mị, nếu trên trời có con chim rừng nào bay qua, thì con chim đó sẽ tự nhiên gẫy đầu gục cánh và rơi xuống.

    Tôi không dám khẳng định tính xác thực của câu chuyện, bởi rốt cuộc đó chỉ là những lời đồn đại mà thôi, nhưng tôi đoán nguyên nhân có thể là do dải đất đó thường có mãng xà ẩn trú, dưới gốc cây dung già có một cái lỗ – nơi con mãng xà khổng lồ nấp mình, bởi vì bị nhốt trong cây lâu ngày, nên nó không thể thoát ra khỏi cái lỗ ấy, chỉ có thể thò đầu ra thở và bắt chim, chuột làm thức ăn. Con rắn thấy lũ trẻ chơi dưới gốc cây, nó bèn nổi lòng tham muốn ăn thịt người, mới khiến lũ trẻ ngồi dưới gốc cây bật nảy lên cao, nếu không phải tại nó không đủ lực, thì có lẽ một vài đứa trẻ đã bị chui vào bụng nó rồi. Có điều ngay trong phim “Trăn khổng lồ Nam Mỹ” của Hollywood cũng chưa bao giờ xuất hiện một con mãng xà khổng lồ đến mức có thể hút người vào bụng từ giữa không trung. Tôi nghĩ nếu truyền thuyết này là thật, thì trong cây nhất định phải có một thứ vô cùng bí ẩn nào đó, nhưng không phải câu đố nào cũng đều có cơ hội tìm thấy lời giải.

    Chính các câu chuyện trong những đêm hè ấy đã khiến tôi thai nghén ý tưởng viết bộ tiểu thuyết “Mê tông chi quốc”, có điều bối cảnh chính của cuốn sách này lại bắt nguồn từ “kế hoạch kính viễn vọng địa cầu” của Liên Xô.

    Đúng như tên gọi, nhân loại đã thiết kế ra kính viễn vọng thiên văn để con người có thể quan sát tinh không, vũ trụ bằng mắt thường thông qua lăng kính, nhưng mắt con người lại không thể xuyên xuống mặt đất, bởi vì khám phá lòng đất khó hơn khám phá bầu trời rất nhiều. Con người đã đặt chân đến gần Thái dương hệ, nhưng rất khó tạo ra một giếng sâu hơn ba ngàn mét, bởi vậy vực sâu có thể xuyên qua địa tầng này được gọi “kính viễn vọng địa cầu”, ý chỉ đó là địa đạo có thể dẫn thẳng đến tâm Trái đất. I alway miss u, my cat

    Nguyên bản của kế hoạch này được hình thành từ thời kỳ chiến tranh lạnh những năm 60, hai phe Liên xô và Mỹ chịu sự chi phối của tư tưởng chiến tranh lạnh, họ đầu tư vô số tiền của và vật chất vào cuộc chiến tranh kéo dài liên miên này, ngành khoa học quân sự phát triển với tốc độ vũ bão gần như là dị hình, hai bên vắt kiệt sức lực để khai phá các loại nguồn tài nguyên chiến lược. Khi ấy phía nam và phía đông của đất nước Liên Xô là vùng đất rộng lớn, vòng quanh dải núi đồi là vô số các giếng quặng và hang động. Để nắm được các nguồn tài nguyên phong phú nằm ẩn sâu dưới lòng đất sớm hơn Mỹ, đồng thời để chạm tay đến được thế giới bí mật mà loài người chưa từng khám phá, người Liên Xô đã chọn một hòn đảo không người trên hồ Baikal làm căn cứ địa, họ sử dụng các thiết bị khoan thăm dò hạng nặng, bí mật tiến hành công cuộc khoan đào xuống lòng đất với độ sâu chưa từng có. Công trình này mất gần hai mươi năm, địa đạo mà họ đào nằm dựng đứng với độ sâu đạt khoảng mười hai ngàn mét. Đó là huyệt động sâu nhất trên thế giới. Vì sự kiện này liên đới đến nhiều bí mật quân sự tối mật, nên từ đầu chí cuối kế hoạch kính viễn vọng địa cầu đều được tiến hành trong trạng thái phong tỏa tuyệt đối, giới bên ngoài rất ít người biết được nội tình bên trong.

    Về việc các nhà khoa học Liên Xô đã phát hiện thấy gì thông qua kính viễn vọng địa cầu, thì đến nay tồn tại rất nhiều truyền thuyết, nội dung cũng vô cùng ly kỳ và đáng sợ. Có thuyết nói, khi người Liên Xô khoan xuống độ sâu khoảng hơn mười hai ngàn mét, thì không thể khoan thêm được nữa, tuy nhiệt độ nóng chảy của mũi khoan đạt đến độ cao gần bằng nhiệt độ trên bề mặt của mặt trời, nhưng lúc ấy khi đặt mũi khoan xuống và rút ra thì chỉ còn lại sợi dây thép, trong giếng khoan phát ra âm thanh kỳ lạ, máy điện đàm thu được nhiều tạp âm quái dị từ lòng đất, đúng là chẳng khác nào tiếng kêu của ác ma, chẳng ai có thể lý giải những thông tin đến từ vực sâu, cũng không thể giải thích được dưới góc độ khoa học, tất cả nhân viên có mặt tại hiện trường đều cho rằng họ đã khoan thông tới địa ngục, độ sâu càng tăng, thì càng xuất hiện nhiều hiện tượng kỳ quái, cuối cùng vì nhiều yếu tố đã biết và chưa biết, công trình này buộc phải đóng băng.

    Nghe các nhân viên vũ trụ của Mỹ nói, trong không trung cũng nhận được những sóng điện u linh giống như vậy. Mấy năm gần đây, luồng sóng này được các nhà khoa học chứng thực là bức xạ vi sóng vũ trụ, nó giống như hiện tượng nhiễu sóng trên ti vi hoặc tiếng tạp âm trong máy điện đàm. Từ quá khứ xa xôi đến tương lai vô tận, trong giới tự nhiên luôn tồn tại loại sóng điện từ không nhìn thấy cũng chẳng thể sờ thấy này. Hoặc cũng có thể những hiện tượng đáng sợ trong vực sâu dưới lòng đất cũng bị tác dụng bởi điện từ; có điều, điều này đúng hay sai thì còn phải đợi các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và thăm dò.

    Tuy nghe có vẻ khó tin, nhưng tất cả những điều này đều thực sự tồn tại. Trong bộ tiểu thuyết của tôi xuất hiện một vài tình tiết có thật, ví dụ như chiếc máy bay C-47 bị rơi xuống sa mạc Lopnor vào năm 1949 là có thật, việc bia Vũ Vương khắc những chữ triện cổ mà quả thật đến nay người hiện đại đều không thể dịch nổi… hoặc nhiều sự kiện khác cũng đều lấy nguyên mẫu từ thực tế. Bộ tiểu thuyết “Mê tông chi quốc” là câu chuyện được dựa trên bối cảnh thực tế, đồng thời thêm vào các truyền thuyết dân gian, các truyền thuyết lịch sử và các yếu tố thám hiểm.

    Tôi nghĩ nhất định rất nhiều bạn đọc muốn hỏi tôi về vấn đề cái kết của bộ tiểu thuyết. Cả tập bốn “Cửu tuyền u minh” đúng là chỉ dành để viết kết thúc câu chuyện. Nói một cách đơn giản, thì câu chuyện này kể về con quái vật đáng sợ – vị dị thần hình cây – bị tấm bia đá Bái Xà nhốt ở nơi tận cùng của địa mạch. Con quái vật này muốn dụ hội Tư Mã Khôi xuống cửu tuyền để phóng thích nó, cái kết cuối cùng xem thì có vẻ đơn giản, nhưng thực chất lại ẩn chứa rất nhiều điều. Tôi xin mạn phép phân tích đôi chút ở đây. Là tác giả của bộ truyện, tôi cho rằng tồn tại ba cái kết, lần lượt là “cái kết núi từ”, “cái kết chiếc hộp thời gian” và “cái kết động không đáy”.

    “Cái kết núi từ” là chỉ vị thần cổ trong vực sâu bị mắc kẹt trong núi từ, Thắng Hương Lân hi sinh, ba thành viên còn lại của đội khảo cổ sống sót thoát khỏi lòng đất. Sau khi trở về, họ sống cuộc sống mai danh ẩn tích. Còn những chuyện quái dị mà hội Tư Mã Khôi gặp trên đường trở về từ khu hỏa táng chỉ là di chứng nảy sinh do chịu ảnh hưởng của Entroypy khi họ bước vào động không đáy, tất cả tựa như một cơn ác mộng mà thôi.

    “Cái kết chiếc hộp thời gian” thì theo trật tự thời gian. Năm 1963, một chiếc máy bay đã bay vào chiếc hộp thời gian và khiến con quái vật Entroypy hoàn toàn biến mất, tất cả các thành viên đội khảo cổ đều sống sót, nhưng họ lại bị chiếc hộp thời gian đẩy ra một hòn đảo nhỏ ở giữa biển, họ vẫn phải đối mặt với tuyệt cảnh không lối thoát.

    Hai cái kết này tương đối dễ nhận ra, ngoài ra còn cái kết thứ ba “cái kết động không đáy”, tức là tất cả sự việc diễn ra trong “cái kết núi từ” và “cái kết chiếc hộp thời gian” đều chỉ là những trải nghiệm mà đội khảo cổ cảm nhận được khi sa chân vào động không đáy và bị Entroypy nuốt mất ý thức, trên thực tế mọi chuyện đều không hề xảy ra.

    Tôi nghĩ mỗi người đều có liên tưởng của riêng mình, mỗi độc giả đọc “Mê tông chi quốc” sẽ có những cảm nhận khác nhau. Bởi vậy, tôi không nói rõ trong ba cái kết, cái kết nào mới là cái kết đích thực. Có điều, là tác giả của bộ tiểu thuyết, tôi cũng tự chọn ra một cái kết, đồng thời ngầm để lại một vài ám thị trong các chi tiết, nếu độc giả nào tinh ý, có lẽ sẽ phát hiện ra tôi đã chọn cái kết nào cho đội khảo cổ.

    Hết
     
    sáng ngx and Phucminhon like this.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này