1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Trinh thám Trâm - Tác giả: Châu Văn Văn - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 17/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Tiền truyện 2 - Hồ Phù dung in bóng lâu đài
    Chỗ ở của Vương Phù bài trí rất cầu kỳ, xa hoa quá mức thành ra tạo cảm giác ngột ngạt.

    Lúc mới vào vương phủ, Vương Thược luôn mặc quần áo nhạt màu, lục nhạt, vàng tơ, xanh ngọc, nàng biết như vậy sẽ khiến mình trông càng yếu ớt mong manh, pha loãng dung nhan lóa mắt, bản thân cũng giống thiếu nữ hơn.

    Nàng cũng cho người gỡ bỏ phần lớn đồ trang trí trong phòng, gắng bày biện thật đơn sơ mộc mạc.

    Vận vương có hỏi, nàng chỉ ôm lấy cuốn sách Vương Phù để lại, chau mày áy náy cười: “Thiếp ở phòng tỷ tỷ đã là không ổn, nào dám bày đặt hoa lệ nữa.”

    “Tuổi còn nhỏ mà bài trí như vậy cũng ngoan ngoãn quá.” Vận vương đùa nàng.

    Nàng nhoẻn cười cúi đầu đọc sách, giấu vẻ trào phúng thoáng qua đáy mắt.

    Một cánh hoa Ngu mỹ nhân đã khô vàng kẹp trong trang sách chầm chậm rơi xuống theo tay lật.

    Nàng vừa nhặt lên xem, vừa thong thả đọc trang sách nọ.

    Nào mải lòng yêu mới,

    Mà quên ân ái xưa.

    Nhìn hoa nhòa nước mắt,

    Vua Sở hỏi chẳng thưa.

    Là bài “Tức phu nhân”(1) của Vương Duy.

    (1)Tức phu nhân, còn gọi là Đào Hoa phu nhân, dung nhan xinh đẹp như hoa đào, vốn là vợ của vua nước Tức (một nước nhỏ thời Xuân Thu). Năm 680 TCN vua Sở diệt nước Tức, chiếm Tức phu nhân làm vợ. Nàng tuy bị buộc phải lấy vua Sở sinh hai con nhưng trọn đời không nói một câu nào với vua Sở.

    Nàng bỗng thấy ngực như bị kim đâm, tuy chẳng đau buốt, nhưng vẫn từ từ rỉ máu. Song trên khuôn mặt nàng lại hiện ra nụ cười dịu dàng hơn nữa, khiến Vận vương ngồi cạnh bất giác vươn tay ra ôm lấy nàng, hôn nhẹ vào tai, nói: “Đúng là tâm tình thiếu nữ, cánh hoa úa vàng có gì hay mà nhìn.”

    Vương Thược cụp đôi mi dày rợp xuống, cong khóe môi thêm. Nàng đã liếc thấy trong khe giữa hai trang sách, có hai chữ nguệch ngoạc yếu ớt: Cứu ta.

    Nét bút xiêu vẹo như thế, vẫn không giấu được vẻ thanh tú vốn dĩ.

    Là nét chữ của Vương Phù, mấy tháng nay nàng đã quen.

    Vương Thược bình thản tựa vào vai Vận vương, kẹp cánh hoa Ngu mỹ nhân vào chỗ cũ, che đi hai chữ kia.

    Giờ đã cuối thu, lá rụng lả tả, nàng tiện tay nhặt phiến lá phong bên cạnh lên, thong thả lật qua cuốn sách một lượt, tìm nơi kẹp vào.

    Vận vương ôm lấy vai nàng dỗ dành: “Nàng gầy yếu, nên về phòng thì hơn, kẻo trúng gió lại đau đầu.”


    Nàng gật đầu, nắm tay hắn đứng dậy khỏi hàng hiên, nào ngờ đột nhiên choáng váng, cả người mềm nhũn ra, phải dựa vào người hắn.

    Vận vương hối hả đỡ lấy nàng, hỏi han: “Sao thế, trúng gió đau đầu thực rồi ư?”

    Nàng chưa kịp đáp, đã vội vã bưng miệng nôn khan.

    Đứa bé trong bụng nàng đã hơn một tháng, giờ đang là lúc phải dưỡng thai cẩn thận.

    Quách Hoàn tới thăm nàng đầu tiên, đi cùng là nhũ mẫu bế Linh Huy, con gái cô ta. Quách Hoàn ẵm Linh Huy đến bên giường, đặt nó ngồi xuống cạnh nàng, cười nói: “Lúc ta sinh Linh Huy rất thuận lợi, nên hôm nay mới đem nó đến, hy vọng đứa bé trong bụng muội cũng được như Linh Huy, không hành mẹ nó.”

    Vương Thược mỉm cười, với tay ôm lấy Linh Huy: “Đa tạ tỷ tỷ quan tâm.” Tay nàng đè lên đầu gối và vai đứa nhỏ, hết sức chuẩn xác, khiến nó không cách nào chạm được vào bụng mình.

    Linh Huy như cũng thấy đau, tròn xoe mắt nhìn nàng hồi lâu rồi lặng lẽ bò về bên cạnh Quách Hoàn, vùi mặt vào lòng mẹ. Nó đã bốn tuổi, nhưng vẫn không biết nói, thực khiến người ta lo lắng.

    Ba người thiếp còn lại trong vương phủ cũng lần lượt đến thăm, đưa tặng đủ thứ đồ dùng cho trẻ nhỏ, không khí thoắt chốc thắm thiết tình chị em.

    Ngoài vương phi, vương gia bản triều có thể lấy mười hầu thiếp. Giờ đây vương phi duy nhất là Vương Phù đã qua đời, mấy hầu thiếp cũng chẳng qua lại gì, hằng ngày ít khi chạm mặt, rất khách sáo với nhau. Song nàng đã mang thai, sau lưng lại nhà họ Vương Lang Gia, nụ cười của mọi người hiển nhiên khác hẳn lúc trước.

    Đợi họ đi cả, Vương Thược bèn lôi hết mấy thứ họ tặng ra xem, thấy chỉ là vòng vàng khóa bạc, chẳng có gì lạ.

    Xem ra, trong phủ Vận vương này, cho đến giờ nàng vẫn là kẻ to gan nhất.

    Tối hôm ấy nàng ngủ sớm, nhưng nửa đêm lại thức giấc vì nghe thấy tiếng nức nở. Nàng trở dậy gọi Vĩnh Linh, song chẳng thấy đáp. Nghe tiếng khóc nỉ non ngoài cửa sổ, nàng vừa bực bội vừa bất lực, bèn tụt xuống giường, xách một cây đèn lồng căng lụa, mở cửa sổ nhìn ra.

    Giữa đêm đông, gió thổi ngoài hiên khô hanh mà lạnh buốt. Trên mặt hồ đối diện cửa sổ, có một cái bóng trắng phất phơ giữa mặt nước tối đen.

    Vương Thược gỡ chụp đèn bằng lụa ra, khẽ thổi tắt ngọn nến bên trong.

    Trong đêm tối, cái bóng trắng càng thêm nổi bật. Sóng nước dập dềnh ẩn hiện dáng một cô gái áo trắng.

    Khoảng cách khá xa, hơn nữa giữa đêm khuya mặt hồ lờ mờ sóng gợn, chỉ thấy cô ta từ từ lay động, chầm chậm xoay tròn trên mặt nước.

    Gương mặt không trông rõ đường nét, chỉ thấy làn da trắng bệch y như quần áo mặc trên người, nhìn đến phát khiếp.

    Giữa căn phòng vắng lặng, nàng một mình đứng đó, bóng tối bao trùm lấy nàng, xung quanh im phắc như chết.

    Vương Thược hít sâu một hơi rồi la lên, khiến tiếng kêu như bị ép ra từ trong lồng ngực, thê thảm vô cùng: “Người đâu! Người đâu rồi...”

    Không ai đáp lời. Nàng tức giận quăng cây đèn trong tay vào góc phòng, ngẩng lên nhìn, giữa luồng sáng lờ mờ trước mặt, bóng cô gái nọ vẫn chầm chậm xoay tròn, dập dềnh trên mặt nước, múa điệu múa đầy quỷ dị, hồi lâu lại dệp dềnh biến đi.

    Rốt cuộc Vĩnh Linh cùng mấy thị nữ cũng từ phòng bên chạy sang, luôn miệng hỏi: “Phu nhân, sao thế? Mơ thấy ác mộng ư?”

    Vương Thược chỉ mặt hồ phía trước, run lên bần bật, nói không ra lời.

    Vĩnh Linh quay lại nhìn, thấy bóng trắng nọ đang từ từ chìm xuống nước, sợ đến nhũn cả chân ra.

    Vương Thược run rẩy bảo: “Cô... các cô ra xem thử...”

    Mấy ả thị nữ đều hốt hoảng lắc đầu, không dám bước lên. Riêng một ả tên Phương Phi dè dặt vịn lan can đi tới bên hồ, giơ tay ra tóm lấy cái bóng nọ.

    Bóng trắng chìm hẳn xuống, tay ả chỉ tóm vào khoảng không, bàn tay chộp xuống làm nước bắn tóe lên.

    Ả chụp bừa mấy cái, rồi không dám mò mẫm dưới nước quá lâu, cuống quýt bò lên lan can, co rúm người dưới đất.

    Hoạn quan canh đêm bên ngoài cũng xách đèn lồng chạy đến. Dưới ánh đèn, tất cả châu đầu lại nhìn, nước hồ sóng gợn lăn tăn, trong veo thấu đáy, chỉ có mấy con cá chép gấm giật mình hốt hoảng tản ra, ngoài ra đâu còn gì khác.

    Vương Thược quay sang quan sát Phương Phi, nhìn tay áo ướt sũng của ả, rồi chậm rãi quay đầu lại, nhìn đến Vĩnh Linh đang dựa vào tường.

    Sắc mặt ả tái mét, miệng lẩm bẩm gì đó.

    Vương Thược lắng tai nghe kỹ, thấy ả cứ nhắc đi nhắc lại ba chữ “lại đến rồi...”
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Tiền truyện 3 - Mặt ngọc đâu bì sắc quạ đêm
    Vận vương ngay trong đêm vội đến an ủi nàng.

    “Thiếp không sao...” Nàng khẽ nói, nhưng lại nắm chặt tay hắn không buông, vô thức kéo tay hắn che trước bụng mình.

    Vận vương chỉ thấy lòng quặn lên thương xót, ôm chặt lấy Vương Thược, để nàng dựa vào ngực, hạ giọng an ủi: “Yên tâm, ta nhất định sẽ bảo vệ nàng, để xem quỷ quái nào dám giở trò trong phủ này!”

    Nghe vậy, nàng thở hắt ra một hơi dài, tựa vào người hắn cười đầy lo lắng: “Vương gia uy phong lẫm lẫm, trấn thủ vương phủ, sao có thể có ma quỷ gì chứ? Là thiếp ngày mong đêm nhớ đến nỗi thành ra ảo giác đấy thôi...”

    Hắn cũng cười theo, đưa tay vuốt mái tóc buông dài của nàng, khẽ lẩm bẩm: “A Thược, nàng sẽ không như A Phù đâu... Quyết là không!”

    Vương Thược nhắm nghiền mắt, ôm chặt lấy hắn.

    Tiễn Vận vương đi rồi, Vương Thược rảnh rỗi bèn lật giở hết mấy cuốn sách trong thư phòng cạnh đó, lôi cả những cuộn thẻ tre và trang gấp ra xem một lượt, song không tìm thấy thứ muốn tìm.

    Nàng cũng không vội, thầm nghĩ mình đã mang thai, hơn nữa manh mối đã xuất hiện, cái gì phải đến ắt sẽ đến, đâu cần vội vàng chốc nhát làm gì.

    Một mình ngồi tựa trên sập, nàng thong thả lật cuốn thơ trong tay, thuận miệng hỏi Vĩnh Linh: “Trước khi sang chỗ ta, các người hầu hạ ở đâu?”

    Vĩnh Linh đang thêu thùa bên cạnh thẽ thọt thưa: “Trước đây nô tỳ ở trong cung, rồi theo vương gia về phủ. Sau khi vương gia lập vương phi, thì được phái đến đây. Vương phi qua đời, nô tỳ cũng vẫn ở lại đây.”

    Vương Thược bình thản lắng nghe, lại lật cuốn thơ đến đúng trang sách hôm qua kẹp phiến lá phong.

    Giữa hai trang sách, viết chi chít những con chữ nhỏ như đầu ruồi.

    Nửa đêm mưa gió, trằn trọc thao thức. Ngoài song lờ mờ ánh sáng, lại thêm bóng nước dập dềnh, sinh ra ảo ảnh. Đứa bé trong bụng lại đạp, cả người cứng đờ, không thể điều khiển. Đành cầu khẩn cho chuyện này chỉ là ác mộng, không thể nhìn, không thể nghe, không thể tới...

    Viết đến đây, nét bút đã rối càng thêm rối, phía sau không đọc tiếp được nữa.

    Nàng gật đầu, lại hỏi: “Còn bốn thị nữ kia?”

    “Đều từ các nơi trong phủ, có người trước đây lo việc thêu thùa, có kẻ hầu trong thư phòng. Lúc phu nhân gả đến, quan thừa trong vương phủ (1) chọn lấy mấy người đáng tin cậy cử sang đây.”

    (1) Chỉ người lo việc vặt trong các phủ đệ, một dạng như quản gia.

    “Ta thấy Phương Phi làm việc có chừng mực, trước đây từng hầu hạ ai ư?”

    “Thưa không, có điều chị gái cô ta ở bên cạnh Quách phu nhân, chắc cũng dạy dỗ đôi điều.”

    Vương Thược mỉm cười, gập sách lại hỏi tiếp: “Cả ngày nằm duỗi thế này thực chán, chẳng rõ tỷ tỷ ta... Vương phi trước đây khi hoài thai giết thời gian thế nào?”

    Vĩnh Linh thoáng ngập ngừng, thấy nàng vẫn nhìn mình chăm chú, đành thở dài đáp: “Vương phi là mỹ nhân yểu điệu, diễm lệ như phù dung vậy. Tiếc rằng tính ưa thanh tĩnh, sức vóc lại yếu, sau khi mang thai đêm đêm đều gặp ác mộng, còn... còn bị trúng tà...”

    Vương Thược nghiêng đầu gặng: “Trúng tà là sao?”

    “Ài... Có lẽ sau khi mang thai vương phi nghĩ ngợi nhiều, nửa đêm thường tỉnh giấc, lại nói mình trông thấy thứ gì đó không sạch sẽ.”

    Vương Thược giơ tay che bụng: “Giống như ta tối qua ư?”

    Thấy sắc mặt nàng tái đi, Vĩnh Linh vuốt ve mu bàn tay nàng an ủi, đoạn đáp: “Vương phi bấy giờ vừa trông thấy đã ngất lịm đi, đến sáng bọn nô tỳ mới phát hiện vương phi ngã trước cửa sổ, hỏi han mãi mà vương phi không nói được gì. Về sau trong phủ mời cả hòa thượng lẫn đạo sĩ cúng bái mấy lượt, nhưng từ bấy đêm nào vương phi cũng gặp ác mộng, người ngày một yếu đi.”

    “Còn đứa nhỏ?” Nàng chậm rãi hỏi.

    “Đẻ non, hơn nữa sau khi sinh nở, vương phi bị băng huyết mà chết.” Kể đến đây, Vĩnh Linh không nguôi than thở, “Giờ đứa nhỏ cũng đã tròn năm, vẫn bệnh tật rề rề, chỉ bằng trẻ bảy tám tháng tuổi. Ai nấy đều bảo khí huyết không đủ, cũng chẳng biết làm sao.”

    Vương Thược ngước mắt nhìn vào thư phòng: “Cứ xem đống sách bày đầy bốn vách này, chắc hẳn lúc mang thai, vương phi đọc quá nhiều chuyện hoang đường, đâm hao tổn tinh thần quá độ.”

    “Đúng thế, vương gia cũng lo lắng nên đã cho đem hết sách vở trong phòng này đi. Sau khi vương phi qua đời, mới chuyển về lại chỗ cũ.”

    “Mang thai mười tháng, buồn chán thế này, lẽ nào tỷ tỷ không giấu đi một cuốn mà xem?”

    “Có chứ, nô tỳ từng bắt gặp... trông hơi giống cuốn phu nhân đang cầm.” Vĩnh Linh không biết chữ, chỉ cười nói, “Có điều nô tỳ thấy sách nào cũng như sách nào cả.”

    Vương Thược gấp sách lại, nhắm mắt tựa vào thành sập nói khẽ: “Ta biết rồi. Theo ta thấy, là do chỗ này không được sạch sẽ, có lẽ vẫn nên trình vương gia một tiếng, xin chuyển chỗ khác.”

    Chiều hôm ấy, Vận vương liền sắp xếp cho Vương Thược sang chỗ mình, ngày ngày sống chung, như vợ chồng thường dân.

    Bên chỗ Vận vương có sẵn người hầu hạ, nên nàng chỉ đem một mình Vĩnh Linh qua.

    Người bên cạnh hết lòng săn sóc, song Vương Thược vẫn để ý kỹ từng li từng tí, bụng nàng cứ lớn dần lên, cũng coi như suôn sẻ.

    Qua năm mới, đến giữa hè, nàng sắp lâm bồn, thân thể rất nặng nề.

    Tối hôm ấy, trong cung đưa tin, nói hoàng thượng không được khỏe. Vương Thược tiễn Vận vương vào cung rồi nhìn sắc trời, đêm nay hẳn vương sẽ ở lại trong cung.


    Nàng dẫn theo Vĩnh Linh, ngang qua chỗ Quách Hoàn, bắt gặp Linh Huy đứng trong góc tối, cặp mắt to lặng lẽ nhìn nàng. Giữa đêm tối mông lung, đôi mắt bé gái nõn nà trắng trẻo này trông thực giống Tuyết Sắc.

    Nàng bất giác mỉm cười với nó, dịu giọng hỏi: “Sao con lại chơi ở đây một mình? Mẹ con đâu?”

    Linh Huy không biết nói, chỉ quay đầu nhìn ra sau. Quách Hoàn từ trong bóng tối khoan thai bước ra, cười nói: “Muội sắp sinh rồi, sao muộn thế này còn đi lại ở đây?”

    Vương Thược cũng cười đáp: “Đa tạ tỷ tỷ nhắc nhở, muội về liền đây.”

    Quách Hoàn đặt tay lên vai Linh Huy nhỏ nhẹ: “Linh Huy xem kìa, tiểu đệ đệ sắp ra đời, tới chừng đó con sẽ có người chơi cùng rồi...”

    Giọng điệu rất nhẹ nhàng, song lại toát lên vẻ phiêu hốt khiến Vương Thược rợn người.

    Ánh mắt Linh Huy dừng trên bụng Vương Thược, cặp mắt giống hệt Tuyết Sắc dán chặt vào nàng, khiến nàng thấy không thoải mái. Vương Thược vô thức nắm lấy tay Vĩnh Linh, kéo ả lại, lạnh lùng đẩy ra chắn phía trước.

    Vĩnh Linh bị đẩy tới đúng lúc Linh Huy xông đến, hai người đâm sầm vào nhau, vừa khéo đỡ hộ cho nàng cú lao của Linh Huy. Linh Huy ngã lăn ra đất, khóc òa lên.

    Vĩnh Linh cũng giật nảy mình, đang định bế Linh Huy thì Vương Thược gọi: “Vĩnh Linh...”

    Nghe giọng nàng run run hụt hơi, Vĩnh Linh vội quay đầu nhìn.

    Vương Thược nhìn chằm chặp vào Quách Hoàn đứng đó, lạnh lùng bảo: “Chúng ta về thôi.”

    Quách Hoàn đỡ Linh Huy dậy, tiến lại gần nàng: “Xin lỗi muội, trẻ con không hiểu chuyện, làm muội bị kinh hoảng rồi...”

    Vương Thược đặt tay lên cánh tay Vĩnh Linh, thản nhiên lùi lại bảo ả: “Trời tối rồi, về sớm thì hơn.”

    Dọc đường về, Vĩnh Linh mấy lần cảm thấy thân thể nàng run lên bần bật, phải dựa cả người vào ả.

    Vĩnh Linh hỏi nhỏ: “Lẽ nào phu nhân sắp...”

    “Về trước đã.” Nàng đáp, giọng đã hơi hổn hển.
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Tiền truyện 4 - Phù vân biến ảo theo ý người
    Vừa về tới phòng, nàng đã ngồi phịch xuống sập nhịn đau, trước tiên kêu hai hoạn quan đi báo với vương phủ phó (1), lại bảo mấy ả thị nữ chia ra mời trưởng sử (2), gọi bà đỡ, thông báo cho hoạn quan trực hôm nay, và tức tốc vào cung báo tin.

    (1) Chức quan cai quản việc chung trong vương phủ.

    (2) Chức quan mang tính chất trợ tá, hỗ trợ, còn gọi là biệt giá. Tương đương với thư ký hoặc phụ tá thời nay.


    Sắp xếp mọi chuyện đâu đấy thì bụng nàng đã quặn lên, cơn sau đau hơn cơn trước.

    Thị nữ bên ngoài chạy vào bẩm: “Các vị phu nhân tới thăm, giờ đều đang đợi ngoài cửa. Quách phu nhân cũng dắt tiểu quận chúa đến.”

    Vương Thược nghiến răng, nói không nên lời, chỉ xua tay. Thị nữ luống cuống, cứ đứng ngây ra đó, cuối cùng Vương Thược không nhịn nổi, phải gằn từng tiếng: “Ra ngoài!”

    Thị nữ khẽ thưa: “Quách phu nhân khóc lóc nói chuyện này nhất định là do tiểu quận chúa gây ra, nên muốn tạ lỗi với phu nhân...”

    “Cút...” Nàng kiệt sức rặn ra một chữ.

    Vĩnh Linh vội đuổi ả thị nữ đi. Nàng đau đến kịch liệt, bà đỡ vẫn chưa đến, thị nữ bên mình phần nhiều đã cử đi hết, trưởng sử và hoạn quan chạy tới đứng ở gian ngoài lại không biết làm gì, Vĩnh Linh thì chưa từng sinh nở, cứ cuống quýt xoay vòng vòng.

    Đúng lúc ấy, Phương Phi dắt bà đỡ vào: “Bà đỡ đây rồi, mau đun nước đi thôi.”

    Vĩnh Linh hỏi: “Chẳng phải phái Anh Lạc đi ư? Sao lại là cô dắt người đến?”

    “Đây là bà cô tôi, sống ở gần đây, nghe nói Vương phu nhân sắp sinh, tôi lập tức đi mời bà ấy đến.”

    “Phiền cô quá.” Vĩnh Linh vội cảm ơn.

    Vương Thược chống người nhỏm dậy, chưa kịp nói gì thì cơn đau lại quặn lên, nàng biết đứa nhỏ sắp ra, chẳng còn sức đuổi bà đỡ này đi nữa, đành nắm chặt lấy đầu giường hít thở, không thốt nổi nửa lời.

    May sao đứa bé này không giống Tuyết Sắc, có lẽ là con rạ nên cũng đỡ hơn, hành hạ nàng không bao lâu thì oa oa chào đời.

    “Chúc mừng phu nhân, là một công tử.” Bà đỡ vừa ẵm đứa nhỏ, Vương Thược đã thở dốc, tóm lấy tay Vĩnh Linh, nghiến răng rặn ra mấy chữ: “Đi... trông chừng!”

    Vĩnh Linh theo sát bà đỡ đi tắm rửa cho đứa bé. Vương Thược bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, thầm thề với lòng, lần sau, nàng nhất định không để bản thân rơi vào giữa bầy lang sói lom lom rình mò thế này nữa.

    Lúc ấy, bà đỡ Anh Lạc đi mời cuối cùng cũng đến nơi, săn sóc cho nàng.

    Bên ngoài chợt có tiếng xôn xao, ra là Vận vương về tới. Mặc cho mọi người khuyên ngăn, hắn xăm xăm bước vào phòng sinh tanh bành lộn xộn, ngồi xuống trước giường nắm lấy tay nàng lo lắng hỏi: “Nàng... ổn chứ?”

    Bà đỡ bên cạnh cười: “Vương gia yên tâm, mẹ con đều bình an.”

    Vĩnh Linh cũng ẵm đứa nhỏ vào. Bà đỡ Phương Phi mời đến đi sau, ngập ngừng chúc phúc.

    Song Vận vương chẳng hề nhận ra, mặt mày rạng rỡ bảo họ xuống lãnh tiền hỉ.

    Bà đỡ ra đến gian ngoài, Phương Phi vội hỏi han, bà ta do dự đáp: “Phu nhân thực có phúc, sinh con so mà thuận lợi hơn người khác nhiều, lại chẳng mấy đau đớn, so ra người ta sinh con thứ hai còn vất vả hơn.”

    Phương Phi nghe ra ý tứ bên trong, bèn quay lại nhìn Quách Hoàn, thấy Quách Hoàn khẽ hất cằm ra hiệu, lập tức kéo bà đỡ vào một góc căn vặn thật kỹ.

    Quách Hoàn liếc cả hai, đoạn giơ tay ôm lấy Linh Huy, tuy vẫn tươi cười, nhưng lại toát lên vẻ lạnh lùng.

    Vận vương ôm đứa nhỏ mới sinh cười tươi rói, Vương Thược dựa vào đầu giường, chậm rãi nuốt từng thìa canh gà nấu sâm Vĩnh Linh bón. Bỗng nghe bên ngoài ầm ĩ cả lên, sau đó là tiếng phụ nữ kêu khóc.


    Vận vương cau mày, người hầu vội chạy ra nghe ngóng rồi quay lại nhăn nhó bẩm: “Quách phu nhân... đang đánh bà đỡ vừa đỡ đẻ khi nãy.”

    “A Hoàn ư? Đang ngày lành, sao nàng ta lại làm vậy?” Vận vương trao đứa bé cho Vĩnh Linh, đứng dậy định đi ra thì Quách Hoàn đã lôi bà đỡ vào, hầm hầm dúi bà ta xuống đất, lại bắt cả Phương Phi quỳ xuống theo, đoạn quay sang thưa với Vận vương: “Thiếp chính mắt thấy hai kẻ này bôi nhọ muội muội, không nén được cơn giận nên đã lôi chúng vào đây, xin vương gia xử trí!”

    “Chuyện gì vậy? Hai người này đụng chạm gì tới nàng?” Vận vương vỗ nhẹ lên vai Quách Hoàn an ủi.

    “Bọn chúng... Bọn chúng nói toàn chuyện xằng bậy, ám chỉ muội muội...” Nói đến đây, Quách Hoàn ngừng lời, trỏ bà đỡ quát: “Ngươi tự nói đi!”

    Bà đỡ sợ sệt quỳ mọp dưới đất, chỉ ngẩng lên liếc trộm Vương Thược, không dám cất tiếng.

    Trái lại, Phương Phi quỳ thẳng người, nói rành rọt: “Bà cô nô tỳ nói, trông Vương phu nhân sinh nở, hình như không phải là lần đầu!”

    Một lời thốt ra, cả phòng đều kinh sợ. Vận vương hít sâu một hơi, quay sang nhìn Vương Thược.

    Vương Thược tựa vào đầu giường, trừng trừng nhìn Phương Phi, rồi lại nhìn sang bà đỡ, môi run run, mấp máy miệng toan nói, song từng giọt lệ đã tuôn dài trên má, nghẹn ngào nức nở, sắc mặt vốn tái nhợt, lúc này càng tái thêm. Một lúc lâu sau, nàng mới sầu thảm nhìn Vận vương, cất giọng nghèn nghẹn run rẩy: “Vương gia... Thiếp thực không biết... chuyện này từ đâu ra nữa?”

    Vận vương thấy vậy, còn chưa hết nghi hoặc thì lửa giận đã bốc lên. Hắn đứng bên giường quát hỏi bà đỡ: “Ngươi nói vậy có chứng cứ gì không?”

    “Vương gia, lúc phu nhân sinh nở, lão chính mắt trông thấy, phụ nữ sinh con so cửa mình khá hẹp, còn người sinh con rạ cửa mình tương đối rộng. Lão đỡ đẻ bao năm nay, không thể lầm được!”

    “Bấy giờ chỉ có một mình ngươi trông thấy, giờ ta lại đã sinh con, cửa mình đã biến hình, ngươi... ngươi nói gì ta cũng không thể thanh minh được, có phải không?” Vương Thược thở dốc, nước mắt lã chã, nghẹn ngào mãi không nói nên lời: “Ta là người nhà họ Vương Lang Gia, danh gia vọng tộc môn đệ thâm nghiêm, há để cho mấy đứa... mấy đứa dân đen ngoài phố các ngươi bôi nhọ hay sao? Ta biết... Nhất định là các ngươi muốn hãm hại ta... Nhất định không muốn vương gia có con có cái. Chỉ là ta không ngờ, các ngươi lại... lại độc ác như thế, hôm nay ta vừa sinh được con cho vương gia, các ngươi đã không chịu ngơi một khắc, quyết ép ta vào chỗ chết!”

    Thấy nàng nuốt lệ tố cáo, Phương Phi và bà đỡ quỳ dưới đất đều kinh hoảng, Quách Hoàn bèn cúi đầu lườm cả hai, rồi đưa mắt nhìn sang Vận vương.

    Thấy Vương Thược thoi thóp chực ngất, Vận vương không đành lòng, vội bước lên đỡ lấy vai nàng. Nàng nắm chặt lấy tay Vận vương, móng tay ghim vào da thịt hắn, như người chết đuối vớ được cọc.

    Nàng yếu ớt nhìn hắn, run rẩy hỏi: “Vương gia có nhớ... có nhớ khi thiếp mới mang thai, từng trông thấy ảo ảnh ma quái trên mặt hồ trong vườn chăng?”

    Vận vương gật đầu: “May mà nàng được trời phù hộ nên quỷ quái không xâm phạm được.”

    “Không... Đó không phải quỷ quái, đó là... có người cố ý muốn hại thiếp... hại con trai của vương gia!”

    Nằm nắm chặt tay hắn, gắng gượng thưa: “Vương gia... Dưới gối thiếp có một tập thơ, xin vương gia xem... hai chỗ có kẹp lá phong và cánh hoa.”

    Vận vương lần tay xuống dưới gối nàng, quả nhiên sờ thấy một tập sách, bèn mở ra xem, buột miệng hỏi: “Đây là... nét chữ của A Phù ư?”

    “Thưa vâng... Thiếp cũng vô tình phát hiện, mới biết được... Thì ra ban đầu tỷ tỷ cũng giống như thiếp, lúc mới mang thai đã gặp phải kẻ cố ý giả thần giả quỷ, hòng... làm hại đứa bé!” Vương Thược vừa kể, vừa rưng rưng nước mắt nhìn Vận vương, thều thào: “Có điều thiếp trông thấy dòng chữ tỷ tỷ để lại, mới biết nội tình, còn tỷ tỷ thiếp... Tỷ tỷ tính tình yếu đuối, không biết chân tướng, để hung thủ được nước, đến nỗi...”

    Nói đến đây, nàng bưng miệng nức nở, không kể tiếp được nữa.

    Vận vương quay phắt lại, thấy Phương Phi quỳ dưới đất run như dẽ, mặt cắt không còn hột máu. Nghĩ đến Phương Phi từng hầu hạ cả hai chị em họ Vương, ánh mắt hắn lập tức tối sầm lại: “A Thược, nàng có biết kẻ hãm hại hai người là ai không?”

    “Hôm ấy... ả giả thần giả quỷ, song không hại được thiếp. Thiếp nghĩ mình đang mang thai, không tiện xử trí, định gác lại ngày sau mới thưa với vương gia. Nào ngờ ả thấy mưu kế không thành, lại giở kế độc...” Vương Thược quay sang, run rẩy trỏ Phương Phi: “Hôm nay... thiếp thập tử nhất sinh, vậy mà ả hung tàn đến nỗi, thông đồng với bà cô bôi nhọ thiếp ngay trong ngày đại hỉ của vương gia và thiếp... Vương gia, ả muốn ép chết thiếp mà!”

    “Nô tỳ... nô tỳ không có...” Phương Phi hốt hoảng lắc đầu quầy quậy thanh minh, “Nô tỳ không hề giả thần giả quỷ, cũng không thông đồng với bà cô...”

    “Ngươi không giả thần giả quỷ ư?” Vương Thược nghiến răng, vận chút sức tàn nhỏm dậy trong lòng Vận vương, khẽ gọi: “Vĩnh Linh, mang đồ ra đây.”

    Vĩnh Linh vâng dạ, vội vã mở hộc tủ ở phía sau, rút trong ngăn dưới cùng một chiếc hộp, mở ra.

    Bên trong là mấy miếng long não vỡ vụn, mấy thanh nan tre mảnh quấn thành một khối cầu, phía dưới có ba que tre chống lên.

    Vương Thược không nói, chỉ giơ tay ra hiệu cho Vĩnh Linh.

    Vĩnh Linh tức tối ném nắm nan tre xuống trước mặt Phương Phi mắng: “Đêm hôm gặp quỷ, sau khi các người tản đi, phu nhân đã âm thầm bảo ta xuống hồ vớt lên đấy. Bấy giờ phu nhân đoán, nữ quỷ áo trắng vốn là giấy trắng vẽ hình người, căng lên nan tre để hù dọa người ta từ xa giữa đêm khuya! Hôm ấy chúng ta còn đang kinh hoảng, ngươi đã xông ra trước nhất, nhân lúc thò tay xuống nước mò tìm thì giật lớp giấy trắng dán bên ngoài ra, vo viên nhét vào tay áo. Nan tre nhỏ mảnh, ở trong nước rất khó thấy, bởi thế lúc sau hoạn quan giơ đèn soi cũng chẳng phát hiện được.”

    Vận vương giận dữ hỏi: “Vậy còn long não để làm gì?”

    “Thứ này là về sau nô tỳ lén tìm được trong phòng Phương Phi. Long não gặp nước sẽ di động lung tung, bấy giờ nữ quỷ bằng giấy nọ được cắm trên viên long não, nên mới phất phơ lay động, đáng sợ như thế!” Vĩnh Linh lườm Phương Phi, cao giọng kêu lên bi thiết: “Vương gia! Phu nhân vì cái thai trong bụng, không cho nô tỳ tiết lộ, mười tháng nay, nô tỳ đúng là như đi trên băng mỏng, lúc nào cũng nơm nớp lo âu, thiết nghĩ... phu nhân càng đáng thương hơn...”

    Vĩnh Linh và Vương Thược càng khóc nức lên, Quách Hoàn đứng bên giường, gương mặt lạnh lùng như phủ sương.

    Phương Phi sợ đến nỗi quỵ ra đất, bà cô ả như vừa tỉnh mộng, cuống cuồng đẩy ả ra, tự tát bôm bốp vào mặt.

    “Ôi chao, vương gia, phu nhân, chuyện này hỏng rồi, bà lão đâu có biết đứa cháu này lại độc ác đến thế! Lão... lão chỉ hoài nghi mà thôi, thực ra cũng có những người bẩm sinh cửa mình đã rộng rồi, không ngờ... lại ầm ĩ lên thế này!”

    Vận vương ôm chặt lấy Vương Thược đang nức nở, chẳng nói chẳng rằng, chỉ xua tay.

    Phương Phi chẳng biết lấy sức ở đâu, nhào tới ôm cứng chân Quách Hoàn: “Phu nhân, phu nhân cứu nô tỳ với...”

    Quách Hoàn giơ chân đá văng ả ra, ngồi xuống gằn giọng mắng: “Con tiện tỳ này, dám vu khống Vương phu nhân, còn chạm vào làm bẩn cả quần ta!”

    Vương Thược tựa vào lòng Vận vương, nói như để tự mình nghe: “Chẳng rõ tại sao một nô tỳ hèn mọn lại cả gan hãm hại thế tử của vương gia hết lần này sang lần khác?”

    Vận vương lặng lẽ ôm nàng, ánh mắt dừng ở Quách Hoàn, nàng nghe thấy dường như tim hắn đập nhanh hơn, nhưng trước sau vẫn làm thinh, không nói năng gì.

    Vương Thược cũng không nói gì thêm nữa, chỉ thấy Phương Phi và bà đỡ bị lôi ra, luôn miệng kêu gào khóc lóc, nhưng lập tức bị bịt miệng, xung quanh bỗng chốc lặng phắc như chết.
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Tiền truyện 5 - Hoa lê đầy đất cửa cài then
    Sức khỏe Vương Thược khôi phục rất nhanh, mấy hôm sau, nàng đã có thể bế con tản bộ trong sân.

    Có Vận vương và nhà họ Vương Lang Gia, lại thêm đứa con mới chào đời, trong cung chẳng bao lâu đã có chỉ, nàng trở thành vương phi duy nhất của Vận vương, nghiễm nhiên là nữ chủ nhân phủ Vận vương.

    Có điều long thể hoàng thượng ngày càng yếu, hôm nay lại có tin truyền ra, Vận vương đành lưu luyến bỏ con trai mới sinh lại phủ, chạy vào cung thăm hỏi.

    Quách Hoàn nhận lời mời tới gặp Vương Thược, dẫn theo cả Linh Huy.

    Vương Thược tươi cười chào hỏi, rồi trao con cho Vĩnh Linh, sai ả bế vào trong để vú em cho bú.

    Quách Hoàn cười trách: “Tỷ còn chưa được bế đâu đấy, vương phi hẹp hòi quá, chẳng để người ta chạm ngón tay vào.”

    “Trẻ nhỏ yếu ớt, có khi chạm một ngón tay cũng xảy ra chuyện không chừng.” Vương Thược cùng hai mẹ con họ ngồi xuống trước sân, ánh mắt dừng ở Linh Huy, cười nhạt: “Huống hồ, xem ra Linh Huy không thích có thêm đệ đệ.”

    Quách Hoàn rầu rĩ thanh minh: “Tỷ biết vương phi vẫn để bụng chuyện ấy, Linh Huy còn nhỏ, không hiểu chuyện...”

    “Muội hiểu. Tỷ tỷ đợi cho một lát.” Nàng tươi cười đi vào, rồi đích thân bưng ra ba bát chè bơ.

    Trong đó có một bát bên trên rắc trái cây xắt sợi màu xanh đỏ, trông rất ngon mắt, nàng chính tay đưa cho Quách Hoàn. Bát thứ hai rắc vụn bồ đào, nàng đưa cho Linh Huy. Bát thứ ba là chè bơ hạnh nhân, nàng để lại dùng.

    Vương Thược đã dọn về chỗ Vương Phù khi trước, ba người ngồi trước sân giữa chiều hè, sóng nước lăn tăn, thưởng thức điểm tâm, ngắm gió lao xao thổi qua mặt hồ chỉ còn lác đác vài đóa sen tàn.

    Linh Huy ăn hết bát chè bơ hồ đào của mình, rồi nhìn chằm chặp vào bát chè xanh đỏ trong tay Quách Hoàn. Quách Hoàn đã ăn hết chè bơ, nhưng dường như không thích trái cây xắt sợi, nên bỏ lại quá nửa.

    Thấy Linh Huy nhìn chằm chặp, Quách Hoàn liền múc phần trái cây định san cho nó.

    Vương Thược ngồi cạnh thản nhiên lên tiếng: “Muội khuyên tỷ, tốt nhất đừng cho con bé ăn.”

    Quách Hoàn bưng chiếc bát không, ngơ ngác ngẩng lên nhìn nàng.

    Vương Thược ra hiệu cho đám người bên cạnh lui xuống, tiện thể dẫn cả Linh Huy ra phía sau, đoạn chống má ngắm những phiến lá sen xòe to như lọng xanh trước mặt, cười hờ hững: “Bằng không, nếu con gái tỷ cả đời không thể sinh con, thì người làm mẹ như tỷ chắc sẽ ân hận lắm.”

    Quách Hoàn cúi đầu nhìn xuống tay mình, rồi nhìn sang nàng, bấy giờ mới sực hiểu ra, chiếc bát không trong tay tức thì rơi xuống đất vỡ tan tành.

    Thấy lâm râm đau bụng, Quách Hoàn vã mồ hôi lạnh, bất giác cả người bủn rủn nằm gục xuống bàn, giơ tay trỏ nàng nghiến răng hỏi: “Ngươi... ngươi cho ta ăn cái gì vậy...”

    “Đâu có gì, chỉ bỏ thêm chút cốt dung(1) khiến ngươi cả đời không thể sinh nở, khỏi phải lo đẻ con đau đớn nữa.”

    (1) Một loài cỏ thơm trong truyền thuyết. Theo Sơn hải kinh, cốt dung mọc ở núi Ba Trủng, lá dài như cây huệ, thân dài như cát cánh, hoa màu đen, nhưng không kết quả, người ăn vào sẽ tuyệt đường sinh sản.

    Nàng cúi xuống nhìn Quách Hoàn co quắp, giữ nguyên nụ cười ôn hòa, giọng nói khoan thai chẳng khác làn gió mát đang thổi qua lúc này, “Ngươi bầu bạn bên Vận vương bao năm nay, tình cảm sâu đậm nên thấy ta gai mắt, ta có thể thông cảm. Song nếu sau này ngươi sinh con, có lẽ sẽ gây phiền phức cho ta. Suy đi tính lại, ta đành giở hạ sách này, có vậy về sau giữa ta và ngươi mới gỡ bỏ được khúc mắc, ai vui phận nấy.”

    “Ngươi... ngươi tàn độc như vậy... vương gia sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu...” Quách Hoàn ôm bụng, ngã lăn xuống đất, gào lên khàn khàn.

    Đám thị nữ quanh đó đã mất tăm từ lâu, trong sân chỉ còn hai người họ.

    Vương Thược nhấc gấu quần thong dong đứng dậy, lùi đến trước lan can, phớt lờ Quách Hoàn bụng đau như dao cắt, nhăn nhó khổ sở, chỉ mải phóng mắt nhìn ra hồ sen phía trước, dịu giọng: “Quách Hoàn, nếu ngươi ngoan ngoãn nhu thuận như kẻ khác, chẳng phải đã không việc gì ư? Dù năm xưa ngươi sai khiến Phương Phi hãm hại Vương Phù, thì cũng chẳng can gì tới ta. Tiếc rằng ngươi lại động vào ta, ta đành phải dạy cho ngươi biết, ngươi tìm sai người rồi.”

    Quách Hoàn đau đớn khôn xiết, mồ hôi lạnh đầm đìa, không nói nổi một chữ, chỉ rên ư ử trong cổ họng. Vương Thược tựa người vào cây cột sơn son phía sau, thản nhiên ngắm cảnh chiều hè, lại nhớ tới chiều xuân oi bức chực mưa năm ngoái, lần đầu tiên bước vào phủ.

    Bấy giờ Quách Hoàn đứng dưới gốc lựu, vận một chiếc váy đỏ rực, yêu kiều diễm lệ, tươi tắn rạng ngời.

    Bên tai vẫn nghe tiếng Quách Hoàn rên xiết, song nàng lại thấy như tiếng nhạc, bất giác bật cười: “Ta đã nếm đủ mọi tàn nhẫn trên đời, thậm chí chẳng nề chính mình ra tay. Đám đàn bà chưa từng trải gió mưa như các ngươi, đâu biết được ta là hạng người nào...” Ánh mắt nàng dừng ở Quách Hoàn, săm soi thật kỹ, rồi lại mỉm cười khinh miệt, ngẩng mặt nhìn trời, “Không biết mình không biết người, dám khơi khơi trêu vào ta, đúng là ngu ngốc. Ngươi nói xem, nếu hiện giờ ta kể hết mọi chuyện cho vương gia nghe, thì ngươi còn sống được, hay là không?

    Cơn đau quằn quại cuối cùng cũng qua, Quách Hoàn phủ phục dưới đất khóc nức nở, không dám đáp.

    “Sống được...”

    Sau lưng đột nhiên vang lên một giọng non nớt, khó nhọc nặn ra hai chữ.

    Vương Thược ngoái lại, phát hiện Linh Huy đã lẻn đến tự lúc nào, ngẩn ngơ đứng trước cửa hậu đường, miệng há ra, ngắc ngứ lặp lại lần nữa: “Sống được...”

    Đứa bé bốn tuổi, lần đầu tiên mở miệng nói, lại nói ra hai chữ ấy.

    Vương Thược trừng trừng nhìn nó. Đứa bé này mới lên bốn, gương mặt tròn, cặp mắt to, khi ngẩng lên nhìn nàng, trong mắt toát ra vẻ quật cường cố chấp bẩm sinh, không thể xóa được.

    Tại sao có những đứa bé sinh ra đã cố chấp đến thế? Như lúc nàng lìa bỏ Tuyết Sắc, con bé khóc nức nở, rồi cũng nhìn nàng chằm chằm bằng ánh mắt như thể ghi khắc cả đời ấy, không chớp lấy một lần.


    Trong khoảnh khắc ấy, Vương Thược chợt cúi đầu, né tránh ánh mắt con bé.

    Trái tim cứ ngỡ đã rắn đanh lại, không thể nào xao động nữa, lúc này bỗng âm ỉ co thắt, đẩy dòng máu đau đớn chảy khắp toàn thân.

    Nàng giơ tay, ra hiệu cho đám thị nữ vừa chạy đến giữ lấy Linh Huy. Quách Hoàn chẳng biết lấy sức lực từ đâu, lao tới trước chắn cho Linh Huy, như muốn vồ vào nàng.

    “Đừng chạm vào ta!” Vương Thược giận dữ hất tay Quách Hoàn, lạnh lùng nói: “Nếu còn muốn sống thì dắt con gái ngươi về đi!”

    Bụng vẫn âm ỉ đau, lại bị đám thị nữ lôi kéo, Quách Hoàn bi ai tuyệt vọng, đành nghiến răng dẫn Linh Huy chầm chậm đi ra cửa.

    Ra tới cửa, họ gặp ngay Vận vương từ bên ngoài xăm xăm đi vào, Vận vương chỉ nhìn lướt qua hai người rồi quay sang bảo Vương Thược: “Phụ hoàng không khỏe, ta về sắp xếp vài việc, có lẽ lại phải vào cung trông qua đêm...”

    Chưa nói dứt câu, Linh Huy bên cạnh đã nắm lấy tay áo Vận vương, ngẩng đầu nhìn cha.

    Vận vương ngạc nhiên cúi xuống nhìn đứa con gái đến giờ vẫn chưa biết nói.

    “Sống được.” Linh Huy nói rành rõ.

    “Gì cơ?” Vận vương thoạt đầu chưa nghe rõ, bình thản nhìn lướt qua gương mặt tái nhợt của Quách Hoàn, đoạn ngồi thụp xuống quan sát đứa con đầu lòng, ngạc nhiên hỏi: “Linh Huy biết nói rồi ư? Con vừa nói gì đó?”

    “Sống được.” Linh Huy lặp lại lần nữa, nó chẳng hiểu mình nói gì, nhưng vẫn cười rạng rỡ, khoe với cha.

    Vận vương chưa kịp khen ngợi thì bên ngoài có người hối hả chạy vào: “Vương gia! Vương gia! Bệ hạ... băng hà rồi!”

    Vận vương kinh ngạc tròn mắt, đứng phắt dậy, há miệng toan hỏi.

    Chưa kịp nói ra lời, phòng ngoài đã nghe tiếng chân rầm rập, viên hoạn quan chạy vào báo tin mừng đến phát khóc, cuống quýt thưa: “Hiện giờ... đội nghi trượng trong cung đã tới, muốn... rước người vào cung đăng cơ!”

    Mọi người đều “ồ” lên, sững sờ đứng đờ ra, vui mừng cùng kinh ngạc đan xen, một hồi lâu không ai lên tiếng.

    Trong sân thoắt chốc im phăng phắc.

    Chỉ mình Linh Huy vẫn bi bô: “Sống được, sống được!”

    “Lần này... ta đúng là sống được rồi!” Vận vương bế thốc con gái lên, hôn chùn chụt mấy cái, hơn hai mươi năm kìm nén thấp thỏm, một sớm đã tiêu tan, bỗng chốc, hắn ứa cả nước mắt.

    Vương Thược bước đến bên cạnh hắn, yêu kiều bái lạy: “Chúc mừng bệ hạ.”

    “A Thược...” Hắn đặt con gái xuống, hấp tấp nắm chặt tay nàng, “Ta vào cung rồi, mọi việc trong phủ giao cả cho nàng... Về sau, mọi chuyện trong cung cũng phải cậy nàng nhọc lòng...”

    “Xin bệ hạ an tâm.”

    Vận vương chẳng kịp thu xếp gì, lập tức quay mình đi thẳng.

    Quách Hoàn đứng trước cửa, mặt mày tái mét, song chẳng một ai để ý đến. Cả phủ Vận vương chìm trong hoan hỉ, chỉ mình Quách Hoàn rầu rĩ ủ ê.

    Vương Thược nhìn Quách Hoàn, giọng hòa hoãn: “Mau quay về sắp xếp đồ đạc, chuẩn bị tiến cung đi, Quách thục phi.”

    Quách Hoàn thẫn thờ quay lại, khó nhọc nặn ra mấy chữ: “Ngươi gọi ta... là gì?”


    Vương Thược mỉm cười, vẫn vẻ mặt ôn hòa vô hại như thế, song dường như đến tận hôm nay Quách Hoàn mới phát hiện Vương Thược cao hơn mình, mỗi khi nhìn mình, đương nhiên đều trong tư thế nhìn xuống.

    “Ngươi bầu bạn bên bệ hạ lâu nhất, vị trí đó đương nhiên phải dành cho ngươi.”

    “Ngươi... ngươi...” Nhìn vẻ thản nhiên của Vương Thược, Quách Hoàn run bần bật, ánh mắt đầy kinh hãi, “Lẽ nào ngươi thực... cam lòng để ta ở lại cạnh vương gia ư?”

    “Tại sao không?” Vương Thược cười, liếc Quách Hoàn lần cuối, “Dù sao, ta vẫn phải cảm tạ ngươi mà.”

    Nếu không phải Quách Hoàn bày kế dọa người, sao nàng có thể tương kế tựu kế, giữa lúc sống chết khéo léo rũ sạch hiềm nghi về việc sinh con rạ? Nàng nhẫn nhịn mười tháng, đến khi đứa bé chào đời, dĩ nhiên không phải muốn tích đức cho con, mà định để lỡ như có chuyện, thì lôi ra giải nguy.

    Huống hồ, nàng chẳng bận tâm việc để Quách Hoàn ở lại bên Vận vương. Ít nhất, một ả đàn bà đã bị nàng cắt đứt đường lui cũng chẳng thể uy hiếp nàng được nữa.

    Mừng nhất là, nàng không yêu nam nhân ấy. Bởi thế, nàng có thể đặt mình ra ngoài, đùa bỡn tất cả trong lòng bàn tay, chỉ có lợi ích, chứ không thể bị tổn thương.

    Dù làm thiếp trong vương phủ, làm vương phi, hay làm hoàng hậu, đều chỉ là phương thức để nàng tồn tại trên đời.

    Cuộc sống hiện giờ của nàng, chính là diễn một vai phù hợp, sống đời cẩm tú phồn hoa.

    Đời người đến bực này, thực là hạnh phúc viên mãn.

    Cuộc đời nàng đều tuân theo những gì nàng sắp đặt, không lệch một li.

    Nàng trở thành hoàng hậu, mẫu nghi thiên hạ, tung hoành hậu cung bấy nhiêu năm, bất chấp sóng to gió lớn.

    Đế hậu ân ái, hoàn mỹ vô cùng.

    Nhiều năm về sau, một lần, Vận vương năm xưa, hoàng đế hiện thời từng bảo nàng: “A Thược, gảy một khúc tỳ bà cho trẫm nghe đi? Chính là khúc đàn lần đầu gặp nhau đó.”

    Nàng vận áo gấm thêu, ngồi trên tấm thảm trải trong điện, cười cười lắc đầu: “Thần thiếp vốn chẳng thích tỳ bà, huống hồ nhiều năm không đụng tới, đã ngượng tay rồi.”

    Hoàng đế ngạc nhiên: “Ồ, sao lại không thích? Trẫm còn nhớ khúc tỳ bà năm ấy thực như tiên nhạc giáng lâm, nhân gian hiếm thấy!”

    Nàng ngước nhìn hoàng đế cười: “Bệ hạ yêu người yêu cả đường đi đấy thôi, hôm ấy thần thiếp đàn hay thực sao?”

    “Lẽ nào bấy giờ trẫm lại nhạc không mê người người tự mê?” Nghe nàng hỏi vậy, hoàng đế hồi tưởng tình cảnh năm ấy, nhưng chỉ nhớ được hình ảnh nàng ôm tỳ bà nhìn mình nhoẻn cười. Cuối cùng, ngài cũng đâm hồ đồ, đành nói đùa xí xóa: “Tóm lại, trẫm nói hay, thì tức là hay.”

    Nàng cúi đầu nhìn xuống đôi tay, mỉm cười không đáp.

    Từ sau khi lìa bỏ Trình Kính Tu và Tuyết Sắc, nàng không động đến bất kỳ nhạc cụ nào nữa.

    Nàng ra sức xóa sạch những vết tích khổ luyện tỳ bà trên tay. Giờ đây, đôi tay này mịn màng mềm mại, thịt da như ngọc, đã chẳng còn vết chai sần nào nữa.

    Chẳng ai hay, nhiều năm trước, một ngọn đèn trơ trọi dưới trăng, nàng từng gảy những khúc đàn du dương suốt đêm, dốc hết năm tháng thanh xuân tươi đẹp nhất, mới đổi được danh hiệu “một khúc tỳ bà chống được trăm yêu nữ”.

    Chẳng ai hay, từng có một nam nhân lặn lội giữa đêm mưa tìm đến, mang theo cây trâm của nàng, đứng đợi trước bụi tường vi đến sáng. Trong khoảnh khắc trông thấy nàng, cặp mắt đã dầm mưa suốt đêm đột nhiên sáng bừng lên.

    Chẳng ai hay, nàng từng có một đứa con gái tên Tuyết Sắc, hệt như bông tuyết ngậm trong nhụy mai, chỉ sợ ánh nắng rọi tới là tan biến.

    Trừ vầng trăng giữa trời, chẳng ai hay.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 1 - Điện khuya thì thầm
    Trường An.

    Giữa đêm trời bỗng đổ mưa rào.

    Ngọn đèn treo dưới hiên chao đảo trong màn mưa gió, những tua rua vàng óng trên đèn xoắn vào nhau bay phần phật, ánh đèn đỏ đòng đọc lập lòe sau chụp lưu ly, tựa hồ cũng sắp cuốn bay theo gió.

    Đám thị nữ canh đêm vội đứng đậy khép cửa sổ, tiếng chân khẽ khàng lào xào trong đại điện như sóng.

    Nhưng âm thanh se sẽ ấy lại đánh thức Ngạc vương Lý Nhuận đang ngủ trong nội điện. Y bước ra, thấy những bức trướng trắng bay phất phơ dưới ánh đèn leo lét, chẳng khác phù vân giăng trước mắt. Băng qua những khói mây mịt mù ấy, y đi thẳng đến cửa điện nhìn ra ngoài.

    Hết thảy điện gác trong vương phủ đều đứng lặng giữa cơn mưa gió cuồng nộ.

    Trong tiếng mưa ràn rạt, bỗng ré lên một âm thanh thảm thiết, xé toang màn đêm, khiến cổ họng Lý Nhuận nghẹn lại như bị bóp nghẹt, lòng thót lên kinh hãi.

    Dường như không dám tin âm thanh thê thiết kia đến từ người gần gũi với mình nhất, y vô thức hỏi: “Là... giọng mẫu phi ư?”

    “Thưa vâng...” Đám thị nữ sau lưng sợ sệt đáp.

    Bỏ lại đám người phía sau đang giương ô che cho mình, Lý Nhuận lao ra cơn mưa như trút bên ngoài, băng qua màn mưa, chạy thẳng đến tiểu điện phát ra tiếng kêu.

    Trong điện đèn đuốc sáng trưng, tiếng chân các cung nữ khẽ khàng mà gấp gáp, hết đến lại đi, nữ quan Nguyệt Linh hầu hạ bên cạnh mẫu thân y đang từ phòng trong đi ra, trông thấy y vội bước tới hành lễ, sẽ giọng thưa: “Vương gia đừng lo, thái phi gặp ác mộng, đã sai người đi mời Xa thái y rồi, trong phòng giờ đang đốt hương an thần được chế theo phương pháp bí truyền, chẳng bao lâu nữa thái phi sẽ lại yên giấc thôi.”

    Y gật đầu, xăm xăm bước vào nội điện xem thử. Mẹ y đang phát bệnh điên, bị hai bà vú khỏe mạnh giữ chặt, bên cạnh còn bốn ả thị nữ trông chừng nên không thể giãy giụa, chỉ luôn miệng gào thét, trên gương mặt tái mét là đôi môi tím ngắt, tóc tai rũ rượi, cặp mắt trợn trừng đến lồi ra.

    Lý Nhuận thở dài, ngồi xuống cạnh bà gọi khẽ: “Mẫu phi.”

    Bà trợn mắt dữ tợn nhìn y, hồi lâu sau, chừng như nhận ra con mình, mới từ từ dịu xuống, bớt vùng vẫy, khó nhọc rặn trong cổ họng khô khốc ra hai chữ: “Nhuận nhi...”

    Lý Nhuận thở phào, giơ tay sờ nhẹ lên trán bà, vén lại mớ tóc mái rũ rượi: “Mẫu phi, là con đây.”

    Bà khàn khàn hỏi: “Sao quần áo đầu tóc con ướt sũng thế kia?”

    “Bên ngoài có mưa, con băng qua sân chạy sang đây.” Y tiện tay đón lấy chiếc khăn Nguyệt Linh dâng lên lau tóc, khẽ nói: “Nếu mẫu phi gặp ác mộng, hay để con ở lại ngủ cùng người?”


    Thái phi chậm rãi gật đầu, mệt mỏi tựa vào gối, cuộn người lại.

    Lý Nhuận sai người khiêng chiếc sập lại gần giường, dựa vào sập nhắm mắt, nghe tiếng thở gấp của mẹ mình dần chuyển đều đều trong hương an thần thoang thoảng.

    Cho những kẻ khác lui ra, tắt quá nửa số đèn, chỉ để lại dăm ba ngọn màu cam ấm áp từ ngoài rèm hắt sáng vào.

    Cơn mưa vẫn sầm sập đổ xuống, dữ dội như thể không bao giờ ngừng lại.

    Đang lơ mơ sắp thiếp đi, Lý Nhuận chợt nghe mẹ gọi: “Nhuận nhi...”

    Y mở bừng mắt thưa: “Con đây.”

    Đây là lần đầu tiên trong mấy năm nay, y nghe thấy giọng mẹ mình chậm rãi mà bình tĩnh. Bà thong thả hỏi: “Nhuận nhi, phụ hoàng con đâu?”

    Lý Nhuận thận trọng đáp: “Thưa, phụ hoàng đã băng hà mười năm trước rồi.”

    “Ồ...” Giọng bà trầm thấp như mê sảng: “Mười năm rồi ư?”

    Người mẹ chìm trong điên loạn mười năm nay đột nhiên bình tĩnh lại, khiến Lý Nhuận lấy làm lạ. Y nhỏm dậy tới ngồi bên mép giường, cúi người nhìn bà hỏi khẽ: “Mẫu phi... Không ngủ thêm một lát ư?”

    “Ta... có thứ này muốn cho con.” Bà không đáp lời y, chỉ chậm chạp trở dậy, mở ngăn kéo đầu giường, lấy ra một hộp nữ trang nhỏ.

    Chiếc hộp sơn đen, trên nắp khảm đóa hoa xà cừ cũ kỹ xỉn màu, trông chẳng quý báu gì. Lý Nhuận thấy mẫu thân mở nó ra, tấm gương đồng bên trong lâu ngày không lau rửa, đã ố mờ, so vào chỉ thấy lờ mờ thấp thoáng, vô cùng quái dị.


    Thái phi gỡ tấm gương ra, khe gài phía sau gương giấu một mảnh giấy bông gập gọn. Bà đưa cho Lý Nhuận, nhìn y bằng ánh mắt háo hức lạ thường, hệt một đứa bé đang đợi được khen: “Con xem, ta vất vả lắm mới vẽ được, giấu được thứ này, con nhất định phải giữ thật kỹ... Vật này liên quan đến sự tồn vong của thiên hạ, con phải nhớ lấy!”

    Lý Nhuận nín nặng, nhận lấy mở ra xem, là một mảnh giấy bông các thị nữ dùng vẽ mẫu thêu hoa văn quần áo, chẳng biết bà giấu đi từ lúc nào. Bên trên dùng chỉ kẻ mày nguệch ngoạc hai ba mảng đen sì, trông chẳng ra hình thù, đường nét cũng rối loạn, thực không hiểu là ý gì.

    Thấy bức ký họa lạ kỳ, Lý Nhuận cũng không bình phẩm, chỉ gập lại như cũ, nhét vào tay áo nói: “Vâng, con nhớ rồi, nhất định sẽ giữ gìn thật kỹ.”

    Thái phi dựa gối, thấy y cất đi rồi, mới thở phào nhẹ nhõm, khàn giọng dặn: “Nhuận nhi, con phải nhớ lấy, đừng quá gần gũi Quỳ vương...”

    Tiếng mưa ngoài song ào ào như trút, cả đất trời chỉ nghe rào rạt. Ánh đèn lập lòe trong mưa gió từ ngoài song hắt vào như ảo ảnh, cách bức màn sa càng thêm mờ mịt. Gương mặt võ vàng của thái phi vốn trắng bệch như tuyết lại thoáng ửng hồng, tựa hoa đào đã trải gió mưa, khiến người ta vẫn thấy thấp thoáng vẻ diễm lệ năm xưa.

    Lý Nhuận lặng lẽ nhìn bà, nhưng thái phi chỉ thẫn thờ nhìn ra ánh đèn leo lét. Lâu thật lâu, bà bỗng bật cười, thoạt đầu tiếng cười còn rúc rích trong họng như cười vụng, về sau càng cười càng to, không sao nén nổi, biến thành tràng cười điên dại.

    Tiếng cười the thé trong đêm của mẹ khiến Lý Nhuận gai người. Y giơ tay nắm tay bà, nói nhỏ: “Mẫu phi mệt rồi, nên nghỉ ngơi thôi...”

    Chưa dứt lời, tiếng cười điên cuồng của thái phi chợt ngưng bặt, bà nhảy phắt xuống giường, xõa tóc mắt trợn trừng, tóm chặt lấy vai y: “Nhuận nhi! Thiên hạ Đại Đường sắp mất! Giang sơn đổi chủ rồi! Con là người trong hoàng tộc họ Lý, còn không mau ngăn luồng sóng dữ! Giang sơn đổi chủ rồi...”

    Thấy mẹ mình lại lên cơn điên, Lý Nhuận đành đứng dậy mở cửa, mặc cho bà giằng kéo, ra hiệu cho mấy bà vú giữ chặt bà. Y đứng ở điện ngoài, đợi tiếng gào thét ngớt dần.

    Lâu sau, Nguyệt Linh ra báo thái phi đã ngủ, khuyên y quay về, y mới khẽ gật đầu, nhìn ra màn mưa rồi chầm chậm thả bộ trở về, bấy giờ đã tang tảng sáng.

    Mảnh giấy bông trong tay áo mềm mại phất phơ, bên trên vẽ một thứ không rõ có ý gì. Đến chỗ ngoặt, y đã định móc ra ném đi, nhưng ngần ngừ giây lát rồi vẫn giữ trong tay áo, thong thả theo hành lang trở về.

    Cơn mưa ngợp đất trời, bao trùm lên cả thành Trường An Đại Đường. Tòa thành phồn hoa bậc nhất thiên hạ ẩn hiện sau màn mưa mờ mịt, đầy rẫy những đường hướng không thể đoán trước.
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 2 - Trời giáng sấm sét
    Đại Đường, Trường An.

    Thành thị phồn vinh bậc nhất thế gian lúc bấy giờ. Nền nếp thời Trinh Quán, sầm uất thuở Khai Nguyên, đến những năm Hàm Thông đã phát triển tới mức xa hoa tột độ.

    Bên ngoài cung Đại Minh và cung Thái Cực là bảy mươi hai phường trong thành Trường An, sắp hàng ngay ngắn giữa những phố lớn ngõ nhỏ.

    Chính giữa kinh thành là phường Khai Hóa, nơi có chùa Tiến Phúc.

    Chùa Tiến Phúc chính là nhà cũ năm xưa Tùy Dạng đế và Đường Trung tông sống trước khi đăng cơ, đến đời Tắc Thiên hoàng đế đem hiến làm chùa, hòng cầu phúc cho Cao Tông hoàng đế đã băng hà. Những cổ thụ danh hoa, đình đài lầu gác trong chùa vẫn được giữ nguyên như cũ.

    Hiện là mười chín tháng Sáu, ngày Quán Thế Âm đắc đạo. Trong chùa Tiến Phúc nườm nượp người chen vai thích cánh nhau. Chùa này nổi danh về cảnh hồ, chu vi hồ phóng sinh phải đến hai trăm bước, nhưng cũng đủ cho thiện nam tín nữ mua những con cá đủ màu phóng sinh, khiến quanh hồ chật ních.

    Đã lâu không mưa, tiết thời oi bức, cả thành Trường An chìm trong nóng rực. Dòng người mồ hôi nhễ nhại vẫn chen về phía trước, muốn thả cá phóng sinh xuống hồ.

    Giữa biển người đông nghẹt, riêng khúc quanh ngoài hành lang vẫn có một chỗ trống, một cây lựu đương trổ hoa đỏ rực như lửa. Nam tử trẻ tuổi vận áo lụa xanh màu trời nước đứng dưới gốc cây, chắp tay sau lưng quan sát đám người phía trước, trong vẻ lặng lẽ lại toát lên khí chất thanh nhã hào hoa, khiến tiết thời đương nồng nực dường như cũng lạnh hẳn đi.

    Ánh mắt y vượt qua đám đông ồn ã, nhìn về phía dòng người đang đổ xô về hồ phóng sinh. Trong đám chen lấn, có một kẻ nổi bật hẳn lên. Không phải vì dung mạo gã tuấn tú chỉnh tề, mà bởi gã đang mặc một chiếc áo dài màu vàng cam, giữa đám đông trông chói mắt vô cùng, gần như phát quang.

    Gã vừa chen lên vừa quay đầu hét: “Sùng Cổ, nhanh lên, đừng có tụt lại!”

    Theo sau gã là một tiểu hoạn quan vận áo đỏ sẫm, khuôn mặt thon như búp sen, ngũ quan rất thanh tú, thân hình mảnh khảnh. Không đội mũ, chỉ búi tóc thành một búi bên trên gài một cây trâm bạc, đầu trâm bằng ngọc thạch chạm thành hình cỏ lá cuốn.

    Hai người này, đương nhiên là Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà.

    Lúc này, trên tay cả hai đều đang bưng một lá sen to, bên trong đựng cá, chuẩn bị phóng sinh. Nhưng trong tình cảnh chen chúc thế này, Hoàng Tử Hà muốn đứng vững còn khó, cô chỉ có thể cố giữ cho nước trên phiến lá sen không sánh hết ra ngoài.

    Lý Thư Bạch đứng dưới gốc cây thạch lựu, ngắm vẻ chật vật của họ, rồi lẳng lặng ngước mắt nhìn lên bầu trời trên đầu.

    Sắc trời âm u, không khí ngột ngạt, muốn mưa mà không mưa nổi, khiến cả kinh thành chìm trong bí bức.

    Bên kia, Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà cuối cùng cũng bỏ cuộc, ỉu xìu bưng con cá đựng trong lá sen về.

    “Sợ quá đi mất! Mặt hồ đông đặc cá là cá, nhìn đỏ nhung nhúc, xỏ kim còn chẳng lọt, đừng nói phóng sinh!”

    Nghe Chu Tử Tần than vãn, Lý Thư Bạch lạnh lùng liếc Hoàng Tử Hà: “Ta đã bảo đừng đi xem náo nhiệt mà!”

    Hoàng Tử Hà bực bội nhìn sang Chu Tử Tần: “Chẳng phải ai đó cứ khăng khăng kéo tôi đi mua cá sao?”

    “Còn... còn chẳng phải vì đây là đại pháp hội mười năm khó gặp một lần à? Người ta nói sẽ tích được rất nhiều công đức đó.” Chu Tử Tần cúi đầu nhìn con cá đựng trong lá sen chuẩn bị phóng sinh, thở dài bất lực: “Hay là mang về nhà hấp ăn đi.”

    “Được đấy, may mà mua con to.” Hoàng Tử Hà hùa theo, tiện thể đổ luôn con cá đang bưng vào chiếc lá trên tay gã: “Giao cả cho công tử đấy.”

    Chen chúc trên phiến lá, hai con cá quẫy đuôi vật mình, bắn tóe nước lên đầy mặt Chu Tử Tần.

    Gã nhăn mặt hỏi: “Sao vậy?”

    “Công tử sở trường ăn cá mà.” Cô đáp, đoạn quay ngoắt người theo Lý Thư Bạch đi về phía Phật điện.

    “Sùng Cổ, công công đừng làm thế chứ...” Chu Tử Tần ròng ròng nước mắt, nhưng tiếc rẻ hai con cá béo, đành bưng phiến lá lúc cúc chạy theo sau.

    Đằng trước là chính điện thờ Phật, khách dâng hương chen nhau đông nghẹt trước ban thờ. Lư hương cực lớn nghi ngút hương vòng hương bánh của khách cắm, khói xanh vấn vít bốc lên, tụ lại thành những đóa mây mờ ảo trên không, khiến cả đại điện nhìn xiêu vẹo hẳn đi. Hai bên lư đặt hai cây nến thơm cao một trượng, khiến người ta phải xuýt xoa.

    Ánh nến bình thường chỉ có hai màu vàng trắng, giờ được làm thành năm sáu màu, hơn nữa, những màu sắc ấy đều được điều chỉnh cho hợp với hình rồng bay phượng múa trên thân nến, chỉ thấy rồng vàng phượng đỏ bay lượn giữa mây tím cùng hoa đỏ lá xanh, lại được bàn tay thợ khéo khắc nổi, nhìn sống động như thật. Đầu trên cây nến là muôn vàn đóa hoa được thiên nữ cát tường rải rắc, lả tả rơi xuống, phía dưới là hoa thông thảo và sen bảo tướng, muôn hoa rực rỡ bao bọc lấy long phượng tường vân ngũ sắc, huy hoàng lộng lẫy, khiến ai nấy đều trầm trồ.

    “Đôi nến này do chính tay Lữ Chí Nguyên ở tiệm nhang đèn họ Lữ làm ra đấy, nghe nói để tỏ lòng thành, hắn đã tắm gội thắp hương rồi đóng cửa nhốt mình trong phòng làm suốt bảy ngày bảy đêm, quả không tầm thường mà!”

    “Tôi còn nghe nói, sớm nay hắn đích thân đưa đôi nến này đến, sau đó vì quá mệt nhọc mà ngất đi, được người ta khiêng về nhà. Trước đó con gái hắn định sờ thử một cái, bèn bị hắn mắng té tát, sợ đàn bà dây vào làm ô uế, ông cũng biết Lữ lão bá đấy, nổi tiếng khắp kinh thành về mắng mỏ con gái, ngày nào cũng bảo con gái là của nợ, thế nên việc này không mắng mới lạ... ha ha.”

    “Thôi đi, con gái nhà đó trông kháu lắm, ha ha ha...”

    Để giữ gìn cây nến, người ta chăng dây đỏ quanh nó, không cho ai lại gần sờ mó. Bởi thế mọi người chỉ xúm quanh bàn tán về nguồn gốc cặp nến này.

    “Chùa Tiến Phúc rủng rỉnh ghê, còn thắp được đôi nến to thế này chứ.” Chu Tử Tần nhìn những hoa văn trên chân nến, cảm thán, “Nhà tôi hằng ngày tốn nhiều dầu đèn lắm, từng này sáp nến mà đem thắp giữa ban ngày ban mặt, thực là phí phạm.”

    Hoàng Tử hà giải thích: “Nhà chùa đương nhiên có tiền, nghe nói chỉ riêng khoản tiền người trong cung công đức mừng ngày Quán Âm đắc đạo năm nay đã đến cả vạn quan rồi. Công tử bảo đôi nến to thế này phải dùng bao nhiêu sáp? Từ năm ngoái, họ đã đi thu gom sáp ong ở khắp nơi về đúc nến, để dâng lên bệ Phật hôm nay đó.”

    Người càng lúc càng đông, Liễu Chân pháp sư phương trượng chùa Tiến Phúc bước lên pháp đàn mới dựng, chuẩn bị giảng kinh Diệu Pháp Chân Ứng.

    Đương giữa mùa hạ, thời tiết oi bức. Trên trời mây đen cuồn cuộn, tiếng sấm ầm ì, thi thoảng lại thấy tia sét nhoáng lên. Sắp mưa to đến nơi, nhưng người trong chùa vẫn ken chật ních, đứng yên nghe Liễu Chân pháp sư giảng kinh.

    Pháp đàn giảng kinh đặt trước cửa đại điện, sau lư hương và cặp nến lớn chừng năm bước. Bọn Hoàng Tử Hà đứng sau lư hương, nhìn Liễu Chân pháp sư qua màn khói bảng lảng, thấy ngài chừng năm mươi tuổi, thông tuệ quắc thước, nói năng gãy gọn, đường đường phong thái cao tăng đời nay.

    Giọng ngài sang sảng, pháp âm vang khắp trong ngoài chùa Tiến Phúc, mọi người im phăng phắc lắng nghe, âm thanh rành rọt truyền đến từng ngóc ngách trong chùa.


    “Ác quỷ hoành hành, Như Lai dùng pháp lực Vô thượng trấn áp, khiến chúng đầu một nơi thân một nẻo, chính là quả báo; muôn ác phát tác, Bồ tát dùng sấm sét cửu thiên đánh chết, khiến chúng cháy sém bốc mùi, chính là ứng báo. Thế gian trùng trùng, báo ứng không sai, thiên địa linh ứng...”

    Còn chưa dứt lời, sấp chớp đang ì ùng trên trời bỗng rền vang, một luồng sáng chói lòa nổ bùng lên, thì ra, cây nến lớn bên trái đã bị sét đánh trúng, nổ tung.

    Người xung quanh bị sáp cháy bắn vào, tức thì náo loạn cả lên, ai nấy ôm đầu lăn lộn.

    Càng ở gần cây nến càng thê thảm, không ít người bị bén lửa, phải cuống cuồng dập lửa trên người.

    Giữa cả đám người bị vạ lây, đột nhiên có một kẻ gào thảm thiết, nhảy dựng lên cào cấu tóc mình. Chỉ thấy tóc y bén lửa bùng lên trong nháy mắt, quần áo trên người cũng cháy theo. Những người xung quanh thấy kẻ đó bị cháy phừng phừng, đều kinh hoảng cuống cuồng dạt ra, sợ lửa bén vào mình.

    Trong chùa Tiến Phúc vốn đã chật ních người, giờ toàn tiếng gào thét đau đớn, đâu đâu cũng thấy người nháo nhào bỏ chạy. Đám đông giẫm đạp lên nhau, chen lấn xô đẩy, chỉ chừa ra một khoảng trống chừng một trượng, kẻ bị cháy kia đang lăn lộn kêu gào trong đó.

    Bên cạnh y là vô số miếng sáp cháy phừng phừng sau vụ nổ, đến nỗi nhìn như thể y đang ở giữa lửa địa ngục, dù lăn lộn giãy dụa thế nào, cũng bị ngọn lửa xâu xé.

    Người xung quanh nháo nhào chen ra, Hoàng Tử Hà bị đám đông đẩy dần ra phía ngoài, không sao đứng vững nổi. Tình cảnh hỗn loạn đến mức mất kiểm soát, đám nha dịch tới giữ trật tự cũng bị đẩy ngã lăn, rồi bị giẫm đạp lên người.

    Chu Tử Tần bị dòng người cuốn đi, đứng còn không vững, đương lúc luống cuống, chiếc lá sen đang bưng cũng đổ nghiêng, hai con cá thoi thóp rơi cả xuống đất, lập tức bị đám đông cuồng loạn giẫm nát nhừ. Thắt lưng gã vốn đeo lủng lẳng nào là hầu bao màu vàng, túi đựng đá lửa tím, túi bút nghiên xanh, bội đao vỏ bạc... đủ thứ sặc sỡ cũng mất tăm trong dòng người chen chúc.

    “Không... không thể được! Chúng ta đến phóng sinh mà! Thế này lại biến thành sát sinh rồi, thiện tai, thiện tai!” Chu Tử Tần cuống quýt nhảy dựng lên, còn toan ngồi thụp xuống cứu cá, nào ngờ bị dòng người chen lấn cuốn đi, càng chen càng xa.

    Gã đành vẫy tay rối rít: “Sùng Cổ, Sùng Cổ...”

    Hoàng Tử Hà hiện giờ giữ thân còn khó, đang phải liên tục lùi bước giữa đám đông, liêu xiêu không vững. Thình lình cô trượt chân một cái, thân thể mất thăng bằng, tưởng chừng sắp ngã ngửa ra bị người ta giẫm đạp thì một cánh tay kịp thời tóm lấy tay cô kéo lại.

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên, bắt gặp gương mặt Lý Thư Bạch, y vẫn điềm tĩnh khoan thai, vòng một tay qua vai cô, che chắn cô trong lòng.

    Giữa dòng người nháo nhào hỗn loạn, Hoàng Tử Hà đứng lặng trong vòng tay y, tựa con thuyền nhỏ dựa vào bến cảng êm đềm. Tất cả hỗn loạn xung quanh chầm chậm lùi xa, trở thành cảnh nền hư ảo, không còn quấy nhiễu đến cô được nữa.

    Hơi ấm từ từ lan rộng trong tim Hoàng Tử Hà, khiến cơ thịt toàn thân cô cứng đờ, hơi thở cũng trở nên dồn dập.

    Cảm giác này thực là đáng ghét, khiến người ta không thể tĩnh trí quan sát kỹ càng thế gian.

    Giống như lần đó, bị người kia ôm vào lòng.

    Cô bất giác giơ tay đẩy cánh tay Lý Thư Bạch ra.

    Lý Thư Bạch khẽ nhếch đôi môi mỏng, nhìn cô bằng ánh mắt thâm trầm, từ từ hạ cánh tay bị đẩy xuống.

    Hoàng Tử Hà cũng ngây ra, chưa kịp định thần đã lại nghe thấy tiếng gào thảm thiết. Là kẻ bị thiêu sống nọ, tiếng kêu thê thảm mà tuyệt vọng, khiến người ta rung động cả tâm can.

    Cô bèn kéo tay áo Lý Thư Bạch hoảng hốt hỏi: “Chúng ta tới đó cứu người được không?”

    Lý Thư Bạch cau mày nhìn dòng người hỗn loạn ùn lên: “Làm sao được.”

    Bên trong chùa Tiến Phúc, Liễu Chân pháp sư đã ngừng giảng pháp từ lâu, các đệ tử trong chùa đang ra sức duy trì trật tự, đám sai dịch nha môn cũng khản giọng hò hét, nhưng chẳng thấm tháp vào đâu.

    Xung quanh là những tiếng kêu gào hỗn loạn như quỷ khóc sói gào, cả chùa Tiến Phúc đã trở thành Tu La trường, giữa đám chen lấn giẫm đạp, vô số người bị què tay gãy chân, bong gân trật khớp.

    Có người xách thùng nước đến toan dập lửa trên mình kẻ kia, nhưng không cách nào chen qua đám đông để tới chỗ y được. Ai nấy thi nhau giẫm đạp chen ra, đồng thời trơ mắt nhìn kẻ nọ lăn lộn mỗi lúc một yếu dần, tiếng kêu cũng nhỏ dần đi, cuối cùng hắn rít lên một tiếng thê thiết nghe chẳng còn giống tiếng người sống nữa, rồi im bặt.

    Dòng người cuồng loạn trong chùa Tiến Phúc rốt cuộc cũng vãn bớt, nhiều kẻ chạy vào trong đại điện, dưới hành lang, hay bên hồ cá, kẻ thì ôm chân rên rỉ, người ôm cánh tay trật khớp chửi rủa, có người cả đầu và mặt đều bị thương, bưng mặt ngồi một góc, trỏ vào cái xác vẫn âm ỉ cháy, run rẩy nói: “Đây, đây chẳng phải là trời phạt đó sao?”

    Bên cạnh có một kẻ bị gãy răng, mồm đầy máu, tức tối nhổ toẹt một ngụm máu phát biểu: “Theo tôi thấy, chuyện này chính là sự báo ứng mà Liễu Chân pháp sư vừa giảng, bị sét đánh đó!”

    “Chẳng biết người này là ai, hằng ngày làm ra việc ác gì, mà khiến chúng ta vô duyên vô cớ cũng bị vạ lây, rõ là xui xẻo!”

    Cả đám người vẻ mặt ủ ê, xôn xao bàn tán về tai họa bất ngờ.

    “Tôi đi xem người kia thế nào.” Thấy cơn hỗn loạn đã qua, đằng đó cũng đã tách ra một khoảng trống, Hoàng Tử hà bèn quay lưng đi thẳng tới chỗ người chết cháy.

    Thi thể nằm trên mặt đất vẫn còn cháy âm ỉ. Những mẩu sáp nến rơi đầy đất hầu như đã cháy cạn, chỉ có vài vụn nhỏ sót lại, đa phần màu đỏ rực, vương vãi khắp nơi, nhìn chẳng khác gì máu tươi rải rắc.

    Các hòa thượng trong chùa xách nước chạy tới, hắt từng thùng vào đống lửa, nhưng người nọ đã cháy rụi, không còn nhận rõ được mặt mũi, cũng chẳng thấy nhúc nhích nữa.

    Dưới khung trời xám xịt, chỉ còn một cây nến dán hoa thếp vàng đứng đó, bên cạnh một thi thể cháy đen, xung quanh là đống hỗn độn còn lại sau vụ cháy, toát lên vẻ thê lương khôn xiết.

    Chu Tử Tần chẳng biết bị xô đẩy tới tận đâu, giờ mới lếch thếch quay lại, ngồi thụp ngay xuống cạnh cái xác cháy đen ướt sũng, cùng Hoàng Tử Hà nghiên cứu thi thể: “Phán đoán sơ bộ là đàn ông. Cháy đến thế này, chiều cao... không xác định được, tuổi tác... không xác định được..., màu da... không xác định được, đặc điểm... không xác định được.”

    Hoàng Tử Hà cắt lời: “Người chết là nam, thấp bé gầy gò, da khá trắng, tuổi tác không lớn, ước chừng chưa đến ba mươi. Mặc đồ hoạn quan màu đỏ, lưng thắt đai đen, bước đầu phán đoán là hoạn quan.”

    Chu Tử Tần nhìn cái xác cháy đen trước mặt, rồi ngỡ ngàng nhìn sang cô: “Sùng Cổ, công công lợi hại thật đấy! Thi thể cháy đen thui thế này, vậy mà công công vẫn nhìn ra được bao nhiêu thứ? Chuyện khác không nói, riêng quần áo, chẳng phải đều cháy rụi rồi ư?”

    Hoàng Tử Hà nghẹn họng, nhìn Chu Tử Tần: “Lúc lửa mới bén, chẳng phải chúng ta đều tận mắt chứng kiến sao? Công tử không thấy dáng vóc, thể hình, tuổi tác và quần áo của y à?”

    Chu Tử Tần lặng lẽ lắc đầu: “Ta còn mải bưng cá.”

    “Vậy, tuy y gào đến khản cả giọng, nhưng tiếng gào the thé như thế quyết không thể là của đàn ông bình thường, công tử có nghe ra không?”

    Chu Tử Tần tiếp tục lắc đầu: “Xung quanh ồn quá, bị át tiếng cả.”

    Lý Thư Bạch đã đến bên cạnh hai người tự lúc nào, cau mày nói: “Lúc y bén lửa, ta cũng chứng kiến, thân thể tướng mạo quần áo quả như Sùng Cổ nói, không sai đâu.”

    Chu Tử Tần rầu rĩ lẩm bẩm: “Chỉ mỗi mình không thấy ư...”

    Như để an ủi gã, Lý Thu Bạch lại tiếp: “Có điều, trước lúc y bắt cháy, ta cũng không thấy, không để ý bấy giờ y đứng ở đâu.”

    “Giữa muôn ngàn người thế này, thân hình y lại gầy bé, đương nhiên làm sao thấy được.” Chu Tử Tần nói.

    Hoàng Tử Hà cau mày nghĩ ngợi, đoạn vươn tay cầm lệnh bài bên cạnh cái xác lên.

    Tấm lệnh bài này bằng đồng, lỗ xỏ dây vẫn còn dính tro của sợi dây đeo. Lệnh bài bị hun đen sì, nhưng Hoàng Tử Hà vừa cầm lên đã đọc được năm chữ đúc nổi bên trên: phủ Đồng Xương công chúa.

    “Phủ Đồng Xương công chúa ư?”

    Lý Thư Bạch nhìn tấm lệnh bài trong tay Hoàng Tử Hà, nhíu mày: “Lẽ nào là hoạn quan trong phủ Đồng Xương công chúa?”

    Hoàng Tử Hà lật đi lật lại tấm lệnh bài ướt sũng, nhìn những hoa văn tinh tế bên trên, nhận xét: “Trông lệnh bài này, có vẻ là thật đấy.”

    “Đúng thế, tay nghề của nội phủ cùng kiểu chữ mạ bạc thếp vàng, người ngoài không làm nhái được đâu.” Lý Thư Bạch xác nhận.

    Chu Tử Tần vẫn ngồi cạnh thi thể, háo hức nhìn chằm chặp vào quần y, lẩm bẩm: “Làm sao đây...”

    Hoàng Tử Hà gặng hỏi: “Làm sao gì cơ?”

    “Đây là lần đầu tiên ta nghiên cứu thi thể hoạn quan, tự nhiên thấy hơi hồi hộp, làm sao bây giờ?”

    Hoàng Tử Hà câm nín, ngoảnh phắt đi.


    Cuối cùng trời cũng đổ mưa, mới đầu chỉ lắc rắc một hai hạt. Nhưng chẳng mấy chốc, những hạt mưa to như hạt đậu đã tới tấp quất xuống người đau rát.

    Ba người lánh vào dưới hàng hiên của đại điện. Pháp đàn giảng kinh phía trước vẫn nguyên vẹn, song hương án và bồ đoàn đã đổ lổng chổng ngổn ngang. Cách đó không xa là lư hương bị mưa xối tắt, hai cây nến lớn bên cạnh, một cây đã tắt, cây kia chỉ còn sợi bấc bằng lau sậy dài chừng nửa thước, xung quanh tung tóe sáp nến.

    Pháp hội lớn lần này của chùa Tiến Phúc đã tan tành, chẳng khác hoa văn rồng phượng sống động trên đôi nến.

    Có người xăm xăm từ ngoài đi vào, chính là thiếu khanh Đại Lý Tự Thôi Thuần Trạm. Có người đi sau che ô cho hắn, nhưng Thôi Thuần Trạm chẳng quan tâm, rầu rĩ đi thẳng tới trước mặt Lý Thư Bạch, chắp tay hành lễ, rồi gượng cười chào hỏi: “Quỳ vương gia.”

    “Thôi thiếu khanh đến nhanh quá nhỉ.” Lý Thư Bạch đáp.

    “Đâu có, ty chức vừa xong việc, chuẩn bị đến đây nghe Liễu Chân pháp sư giảng pháp, nào ngờ đi chưa được nửa đường, lại được tin đằng này xảy ra chuyện, nghe nói là trời giáng sấm sét, đánh chết một nam nhân hả?” Thôi Thuần Trạm vừa nói vừa ra hiệu cho ngỗ tác bắt tay vào khám nghiệm thi thể cùng Chu Tử Tần.

    Hoàng Tử Hà đáp: “Thưa vâng. Chừng cuối giờ Thìn, lúc Liễu Chân pháp sư giảng đến việc báo ứng thì trời giáng sấm sét, đánh nát cây nến lớn bên trái. Bấy giờ rất nhiều người đứng gần đó bị sáp nến bắn phải ngã lăn ra, sáp nến được nhuộm màu, phẩm nhuộm phần lớn là chu sa, hùng hoàng, hắc du v.v... tẩm vào sáp nến rất dễ bắt lửa. Tiếc rằng chính những nguyên liệu dễ cháy này đã khiến cả cây nến nổ tung, lửa bắn tóe ra, người đó bị bén lửa, lửa lan ra toàn thân mà chết.”

    “Vậy sao? Nghe cứ như gặp báo ứng làm chuyện gì xấu xa nên bị sét đánh chết ấy.” Thôi Thuần Trạm hào hứng nhận xét.

    Hoàng Tử Hà thật hết cách với con người thân là thiếu khanh Đại Lý Tự song không hề để tâm đến vụ án mà chỉ đưa ra toàn phán đoán lung tung này, đành làm thinh ngẩng đầu nhìn những giọt mưa tí tách từ mái hiên nhỏ xuống.

    Chu Tử Tần kéo Thôi Thuần Trạm ra ngoài, hoa tay múa chân thuật lại tình cảnh vừa nãy. Sau lưng Thôi Thuần Trạm có người che ô cho, nhưng Chu Tử Tần chẳng quan tâm, vừa nói vừa đội mưa đi, còn kéo theo mấy ngỗ tác cùng thảo luận rốt cuộc phải khám nghiệm ra sao thi thể cháy đen này, lại còn là thi thể hoạn quan nữa.

    Lý Thư Bạch đứng sóng vai cùng Hoàng Tử Hà dưới mái hiên, chợt ngoái đầu sang, bắt gặp những hạt nước li ti bị gió tạt thấm ướt mấy sợi tóc mai bay bay trước trán cô, tựa những viên ngọc trai long lanh to bằng hạt gạo điểm xuyết trên tóc, lấp lánh giữa vầng trán trắng ngần như ngọc, khiến y bất giác ngẩn ngơ.

    Lý Thư Bạch thong dong giơ tay lên, ống tay áo phớt qua mái tóc cô: “Đừng đứng chìa ra ngoài, mưa có vẻ nặng hạt rồi đấy.”

    Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới hốt hoảng nhận ra mình đang đứng bằng vai với y, thực là thất lễ, vội lùi lại một bước, nhưng ánh mắt vẫn dán vào Chu Tử Tần ngoài mưa.

    Thôi Thuần Trạm đã trở lại, giơ tay che đầu, vẻ thất vọng: “Đúng là thảm không nỡ nhìn mà... sao lại cháy đến nông nỗi này?”

    Lý Thư Bạch góp lời: “Triều đình đã giúp chùa Tiến Phúc chuẩn bị đại pháp hội từ năm ngoái đến giờ, nào ngờ lại xảy ra chuyện như vậy, đến nỗi phải khép lại trong cảnh thảm thương thế này.”

    “Mà vẫn không biết kẻ xui xẻo bị sét đánh kia là ai.”

    Lý Thư Bạch hờ hững đáp: “Hình như là hoạn quan trong phủ Đồng Xương.”

    “Ồ?” Thôi Thuần Trạm kinh ngạc: “Vương gia nói... là Đồng Xương công chúa ư?”

    Lý Thư Bạch khẽ gật đầu.

    Nét mặt Thôi Thuần Trạm càng tối sầm.

    Lý Thư Bạch quay lại ra hiệu cho Hoàng Tử Hà, cô vội trình tấm thẻ bài trong tay lên cho Thôi Thuần Trạm.

    Thoạt trông thấy thẻ bài cháy đen, vẻ mặt Thôi Thuần Trạm buồn như đưa đám: “Đúng là hoạn quan phủ công chúa. Lỡ như còn là người kề cận công chúa thì ty chức phải làm sao?”

    “Ngươi cứ theo phép công mà làm thôi, Đồng Xương công chúa cũng không thể làm khó ngươi được.”

    “Vâng...” Thôi Thuần Trạm miễn cưỡng gật đầu, nhưng vẫn không kìm được vẻ rầu rĩ.

    Mưa nặng hạt dần. Người của Đại Lý Tự đã dựng lều che mưa cho cái xác, song nước mưa trên mặt sân vẫn chảy qua thi thể, họ bất đắc dĩ phải mượn tạm nhà chùa một chiếc chõng tre, đặt thi thể lên, rồi lũ lượt chạy vào hàng hiên tránh mưa.

    Chu Tử Tần cả người ướt sũng, bộ đồ màu vàng cam bị ngấm nước mưa, trông như bông hoa bí ngô héo, lõng thõng dính chặt vào người gã.

    Song Chu Tử Tần chẳng hề để ý, cứ thế sán lại gần Hoàng Tử Hà, hào hứng kể: “Này này, Sùng Cổ, kẻ kia là hoạn quan thật đấy! Ta đã cùng ngỗ tác khám nghiệm rồi.”

    Hoàng Tử Hà sầm mặt: “Chuyện đó còn cần khám nghiệm ư? Nhìn qua là... là biết rồi mà?”

    “Chưa chắc chưa chắc, không có cái đó chắc gì đã là hoạn quan, lỡ là nữ nhân thì sao?”

    Lý Thư Bạch ở bên cạnh thấy gã càng nói càng huyên thuyên, bèn đằng hắng một tiếng.

    Chu Tử Tần rụt cổ le lưỡi, nhưng vẫn cười hì hì.

    Hoàng Tử Hà ngoảnh đi, không muốn tiếp tục chủ đề đó với Chu Tử Tần nữa: “Công tử thấy thân thể người chết có chỗ nào khả nghi không?”

    “Không có, người chết không có râu tóc, da dẻ cháy đen nứt toác, diện mạo méo mó, đích xác là bị thiêu sống. Còn như y bị sét đánh vì làm việc xấu hay chỉ là tai nạn ngẫu nhiên thì ta không rõ. Có điều, nếu là người phủ Đồng Xương, e rằng lần này to chuyện đấy. Ai cũng biết hoàng thượng rất sủng ái vị công chúa này.”

    “Dẫu Đồng Xương công chúa muốn làm to chuyện, cũng liên quan gì đến chúng ta đâu.”

    “Đúng thế, trời muốn mưa, sét muốn giáng xuống, chúng ta làm sao được.” Chu Tử Tần xòe tay nói: “Hơn nữa tháng sau là đến tiệc đốt đuôi của cha ta, chẳng bao lâu nữa ta sẽ theo cha đến Thục. Chà, đất Thục rất tốt, Hoàng Tử Hà mà ta ngưỡng mộ nhất đã lưu lại rất nhiều sự tích phá kỳ án ở đó, tới lúc ấy nếu hai vị có rảnh cứ đến tìm, Tử Tần sẽ dẫn hai vị đi chơi một vòng!”

    Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà, bấy giờ đang vờ như không nghe thấy lời Chu Tử Tần, rồi đáp: “Khỏi phiền ngươi, ta vốn định đi Thục, nói không chừng còn xuất phát trước ngươi đấy.”

    “Ô, thực ư? Vậy chúng ta có thể kết bạn đồng hành rồi!”

    Hoàng Tử Hà bình thản đáp: “Khỏi cần, vương gia và công tử ai có việc nấy, tốt nhất là đừng đi chung, để khỏi làm lỡ việc cả đôi bên.”

    “Ừm... nghe có lý đấy, nhưng Sùng Cổ à, công công lạnh lùng quá! Rõ ràng công công có thể từ chối khéo mà...”

    Hoàng Tử Hà lờ gã đi.

    Người của Đại Lý Tự tới hỏi han họ về tình hình lúc đó, sau khi ghi chép xong xuôi, lại tìm mấy nhà sư cứu hỏa và nha dịch giúp duy trì trật tự tới hỏi han, trông quang cảnh rất tất bật.

    Lý Thư Bạch thấy vậy bèn cáo từ Thôi Thuần Trạm, dẫn Hoàng Tử Hà ra khỏi chùa. Vừa trải qua một trận náo loạn, song xe ngựa phủ Quỳ vương vẫn đỗ ngay ngắn trước cổng chùa. Bác đánh xe A Viễn đã phủ vải dầu lên nóc xe từ trước, tránh nước mưa hắt vào trong xe.

    Cơn mưa khá to, người đi trên phố kẻ ôm đầu chạy, kẻ giương ô thả bộ, cũng có người đứng dưới gốc cây, bên bờ giếng, sốt ruột nhìn trời.

    Xe chạy thong thả. Lúc đến phường Bình Khang, đáng lẽ phải rẽ sang đường Bắc, nào ngờ A Viễn thình lình ghìm cương ngựa, dừng xe.

    Xe dừng đột ngột khiến Hoàng Tử Hà ngồi trên chiếc ghế nhỏ bị mất đà, thân hình chao đi, đập vào vách xe. May sao Lý Thư Bạch phản ứng rất nhanh, đã giơ tay ra nắm lấy vai cô, kịp thời ngăn cô va đầu vào vách.

    Hoàng Tử Hà còn chưa hết sợ, vừa xoa xoa trán cảm tạ Lý Thư Bạch, vừa thò đầu ra ngoài hỏi: “A Viễn bá, sao lại đột nhiên dừng xe?”

    A Viễn vội đáp: “Phía trước có người chắn đường.”

    Hoàng Tử Hà cũng nghe loáng thoáng tiếng huyên náo, bèn cầm ô, bảo Lý Thư Bạch: “Tôi xuống xem thử.” Đoạn giương ô xuống xe.

    Phía trước là giao lộ giữa chợ Đông và phường Bình Khang. Một đứa bé chừng bốn năm tuổi nằm bất động ngay giữa đường, dưới mưa, chẳng biết còn sống hay đã chết. Bên đường có mấy người đứng nhìn ngó.

    Người xem khá đông, nhưng đứa nhỏ kia quần áo xộc xệch, cả người lấm lem, trông như một đứa ăn mày, nên người ta chỉ xúm quanh chỉ trỏ chứ không ai đỡ nó dậy xem tình hình.

    Hoàng Tử Hà thoáng chần chừ, đang định bước đến xem đứa bé, thì thấy đám đông xúm quanh lũ lượt nghển cổ nhìn về phía trước.

    Thì ra, một nam tử trẻ tuổi vừa bước ra khỏi chùa Thắng Nghiệp, thoạt trông thấy đứa bé ăn xin nằm giữa đường bèn rảo bước đi đến, gác chiếc ô đang cầm lên vai rồi giơ hai tay bế xốc nó lên.

    Người nọ mặc áo lụa bạch thêu hoa văn cỏ thông tâm màu bạc thấp thoáng ẩn hiện, cây ô giấy dầu màu xanh càng tôn lên bóng áo trắng, thanh khiết như vầng trăng mới mọc. Đứa nhỏ kia ngã ngất dưới mưa, khắp người lấm lem bùn đất, song hắn chẳng hề để tâm, vẫn nhẹ nhàng ôm nó vào lòng.

    Người xung quanh thấy một nam tử cao khiết nhường ấy lại hết sức dịu dàng với một đứa ăn mày bẩn thỉu, đều nhìn nhau ra chiều thắc mắc.

    Nhưng khi hắn ngẩng đầu lên, bọn họ trông rõ dung mạo, bất giác đều hít vào một hơi.

    Mưa tầm tã khắp Trường An. Gương mặt nam tử ấy trong suốt dưới mưa, tựa hồ nước mưa đổ xuống người chỉ làm hắn thêm thanh khiết. Đường nét tuấn tú đến cực điểm, mày mắt không tì vết, toát lên vẻ lanh lợi pha trộn giữa thiếu niên và thanh niên, như áng mây xanh giữa trời hừng nắng, khiến người ta vui thích.

    Thành Trường An có muôn vạn người, nhưng trong muôn vạn người, chỉ có một vóc dáng nghiêng ngả chúng sinh nhường này, triều Đại Đường trải ba trăm năm, song ba trăm năm nay cũng chỉ kết tinh được một mảnh hồn thanh khiết đến thế thôi.

    Đám đông xung quanh thoắt chốc đều ngẩn ra trước dung mạo và khí chất của hắn, quên cả chạy tới giúp đỡ.

    Nước mưa xóa nhòa cảnh vật xung quanh, chỉ thấy thấp thoáng nhà cửa khuất sau những gốc hòe san sát bên đường, khi xa khi gần. Trần thế ô trọc bỗng trở nên mờ mịt, cả đất trời dường như chỉ tồn tại để làm nền cho hắn.

    Hoàng Tử Hà giương ô, nhìn người nọ qua màn mưa phủ kín đất trời. Cô cứ đứng ngây ra đó bất động, tựa hồ quên cả thế gian.

    Thực không ngờ, lần này gặp lại, lại trong tình cảnh này, giữa cơn mưa to thế này.

    Cánh tay giương ô của cô run bần bật, những hạt mưa lạnh buốt xối khắp cả người. Song thân thể cô còn lạnh hơn cả cơn mưa.

    Nam tử ôm đứa bé đang đi về phía cô. Hắn cố nghiêng đầu để chiếc ô trên vai che kín được đứa bé trong lòng, nước mưa từ tóc nhỏ xuống tong tong, chảy dài theo cần cổ cao mà trắng của hắn lọt vào cổ áo, song nhìn hắn không mảy may nhếch nhác.

    Hắn bế đứa nhỏ đi thẳng tới trước mặt cô, cất tiếng: “Xin hỏi gần đây có hiệu thuốc nào...”

    Mưa như trút nước, tiếng mưa khiến cả thế giới ồn ã vô cùng. Ánh mắt hắn dừng trên mặt cô, nửa câu sau tắc nghẹn.

    Hắn sững sờ nhìn cô.

    Cơn mưa xối xả, tiếng rào rào cơ hồ vùi lấp cả Hoàng Tử Hà. Nhưng, cô vẫn nghe thấy rõ tiếng khóc thầm trong lồng ngực, như át cả trận mưa lớn này.

    Ngỡ ngàng như đã qua một kiếp.

    Song hắn không nhìn cô thêm nữa. Người nọ cúi đầu, mặc cho mưa giội xuống mặt, chỉ lo che cho đứa bé trong lòng, từng bước đi ngang qua cô.

    Trong khoảnh khắc lướt qua, Hoàng Tử Hà nghe thấy hắn nói bằng giọng lạnh như dao: “Tốt nhất là cô biến đi, trước khi ta quay lại từ hiệu thuốc.”

    Cổ họng Hoàng Tử Hà thắt lại, cả người cứng đờ. Cô ra sức thúc giục bản thân khôi phục ý thức, nhưng chẳng ích gì, bởi kẻ trước mặt chính là người nhiều năm trước đã bắt mất hồn cô.

    Song ánh mắt hắn chỉ lạnh lùng lướt qua, rồi dừng trên mặt cô: “Bằng không, nhất định ta sẽ đem tro cốt cô tới trước mộ cha mẹ cô, để an ủi vong hồn họ trên trời.”

    Hoàng Tử Hà cắn môi thật mạnh, tim đập thình thịch, há miệng toan nói, nhưng cố mấy lần àm chẳng rặn ra được tiếng nào. Bởi cô hiểu rõ, hễ lên tiếng, cô sẽ sụp đổ hoàn toàn.

    Chiếc ô trong tay chẳng ngăn nổi cơn mưa lớn, người Hoàng Tử Hà đã ướt sũng, cô cố kìm để không run, thân hình lảo đảo chực ngã, nỗi đau từ đáy lòng lan ra như cào xé, tưởng chừng đã xé toạc cô thành hai nửa.

    Đúng lúc ấy, một cánh tay thong thả đặt lên vai, bảo vệ cô.

    Cánh tay này rất vững vàng, lập tức tiếp thêm sức lực để cô đứng vững. Nguồn sức mạnh ấy từ vai lan xuống toàn thân, như cứu rỗi, giúp cô vùng thoát khỏi đôi tay vô hình bóp nghẹt cổ họng, siết chặt lấy trái tim, thở hắt ra được một hơi dài.

    Lý Thư Bạch, chủ nhân cánh tay ấy đứng sau lưng cô, thản nhiên quan sát thiếu niên đối diện, thong dong nói: “Không cần quay lại, giờ ngươi có thể đi báo với quan phủ, bảo họ tới phủ Quỳ vương mà đòi người.”

    Ánh mắt người nọ cũng từ từ chuyển sang y, tựa hồ đã liên kết được y với lời đồn đại trong kinh thành, gương mặt tuấn mỹ dị thường ấy thoáng tái đi.

    Lý Thư Bạch thản nhiên lách người đứng chắn trước mặt Hoàng Tử Hà.

    Cô rốt cuộc cũng sực tỉnh, nghiến răng khó nhọc rặn ra mấy câu: “Tại hạ Dương Sùng Cổ, hoạn quan phủ Quỳ vương, chẳng hay huynh đài là?”

    Hắn không đáp, đôi mắt trong vắt ấy, lúc dịu dàng, vui vẻ, chiều chuộng cô thì sáng rực như sao, lúc buồn bã lại tối sầm thăm thẳm như nước thu. Song giờ đây, trong đó chỉ còn sự lạnh lùng như hàn băng đáy vực, khiến cả trái tim cô như rơi thẳng xuống khoảng không tăm tối ấy.

    May sao, giọng Lý Thư Bạch lại chậm rãi vang lên bên tai: “Sùng Cổ, chúng ta đi.”


    Thấy thái độ điềm nhiên bảo vệ của Lý Thư Bạch, lại thấy Hoàng Tử Hà bình thản tiếp nhận, ánh mắt nam tử nọ tối sầm.

    Nhưng cũng chỉ trong một thoáng, hắn đã ôm đứa nhỏ ăn mày kia khom lưng hành lễ, thản nhiên nói: “Xin lỗi, tiểu nhân nhầm hoạn quan bên cạnh vương gia với một kẻ thù tội ác tày trời, giờ vương gia đã chứng nhận, hẳn là tiểu nhân lầm rồi.”

    Dứt lời, hắn chẳng buồn nhìn Hoàng Tử Hà, quay ngoắt người ngoặt vào ngõ nhỏ đi thẳng.

    Hoàng Tử Hà vẫn đứng đờ ra dưới mưa, tay nắm chặt cán ô, ớn lạnh từng cơn.

    Lý Thư Bạch lạnh lùng nhắc: “Người đi rồi, ngươi còn định đứng đó bao lâu nữa?”

    Khác hẳn vẻ ôn hòa điềm đạm mọi khi, giọng y lúc này lạnh băng. Cô đang ngơ ngẩn thì sực nhận ra, nửa người trên của y đã bị ướt mấy chỗ.

    Tại sao y lại xuống xe đội mưa chạy ra tìm cô, còn không ngần ngại bao che, giúp đỡ cho cô?

    Cô nghiến răng, giơ cao chiếc ô trong tay, che cho y.

    Cả hai cùng đứng dưới một tán ô, cảm nhận được cả hơi thở của nhau. Lý Thư Bạch lặng lẽ cúi đầu nhìn cô, ánh mắt lạnh băng xuyên qua hàng mi dài rợp.

    Muôn ngàn giọt mưa từ trời quất xuống tán ô ràn rạt. Đường lớn ngõ nhỏ quanh đó nhào đi trong mưa, chỉ còn lại những mảng màu xám xanh hư ảo, cả đất trời đã thành một khoảng mông lung.

    Giữa khunh cảnh mờ mịt ấy, Hoàng Tử Hà nghe thấy giọng Lý Thư Bạch như gần như xa: “Vũ Tuyên ư?”

    Hoàng Tử Hà lặng thinh, đờ đẫn nắm chặt cán ô đứng cạnh y, không nói không rằng. Tuy tán ô khá rộng, nhưng cô chỉ mải che cho y, nửa người sau đã bị mưa tạt ướt sũng. Cô khẽ run, bàn tay cầm ô siết chặt, các đốt ngón tay trắng bệch ra, nhưng vẫn khăng khăng không buông lỏng một ly.

    Lý Thư Bạch giơ tay nắm lấy chiếc ô trong tay Hoàng Tử Hà. Cô hoang mang ngước nhìn y song y chỉ đón lấy chiếc ô, nắm tay cô nói khẽ: “Đi thôi.”

    Dường như vẫn chưa ý thức được chuyện gì vừa xảy ra, Hoàng Tử Hà đã bị Lý Thư Bạch kéo đi, chỉ biết ngơ ngác nghiêng đầu nhìn y.

    Y che ô cho cô, thong thả băng qua con đường tầm tã mưa tuôn, dắt cô đi về phía cỗ xe đậu ở ngã tư.

    Bảy mươi hai phường thành Trường An nằm lặng giữa cơn mưa tầm tã, cả thế giới ồn ào cũng đã trôi xa. Chỉ còn tán ô của Lý Thư Bạch che chở cho cô, ngăn cơn mưa lại phía ngoài, không cho phép xâm nhập.

    Bàn tay cô lạnh buốt mềm nhũn, nằm yên trong tay y bất động.

    Giọng y nhẹ nhàng cất lên giữa tiếng mưa xối xả: “Ba ngày nữa, chúng ta lên đường đi Thục.”

    Cô im lặng. Mưa bỗng dồn dập thêm, tiếng mưa giội xuống tán ô ràn rạt, như đánh thức mạch suy tưởng của cô.

    Chẳng biết bao lâu sau, y mới nghe thấy giọng trầm trầm đứt quãng của cô từ từ cất lên: “Thực ra, khi người nhà qua đời còn tôi bị quy là hung thủ, tôi cũng từng nghi ngờ Vũ Tuyên.”

    Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn cô, trong cơn mưa, dưới tán ô, họ như bị cuốn vào một trời đất khác hẳn thế giới này. Cô gần trong gang tấc, nhưng khoảng cách tưởng chừng chỉ cần y cúi đầu là chạm đến, lại xa tận chân trời, tựa hồ cơn mưa ngập trời đất đổ xuống phía cô hoàn toàn không phải là cơn mưa đang đổ xuống phía y.

    Song y chỉ khẽ gật đầu: “Người ngoài như ta nhìn vào, cũng thấy tên đó khả nghi, nhất là lúc gạt ngươi đi mua tỳ sương.”

    Cô khó nhọc phân bua: “Thực ra... ba năm nay chúng tôi đã làm thế rất nhiều lần, đây không phải là lần đầu, nếu Vũ Tuyên có ý ra tay thì cần gì phải đợi đến lúc đó... Hạ độc lúc năm hết tết đến, chẳng phải họ hàng nhà tôi còn tập trung đông đủ hơn sao?”

    “Còn nữa, ngươi khẳng định hắn không có cơ hội hạ độc ư?”

    “Tôi khẳng định.” Giọng Hoàng Tử Hà tuy trầm, nhưng thốt ra chữ nào rành rọt chữ nấy: “Vũ Tuyên có chứng cứ ngoại phạm rõ ràng. Lần đó Vũ Tuyên đến nhà tôi, chỉ theo tôi ra vườn sau ngắt hoa mai, vốn không có khả năng lại gần nhà bếp, càng không thể động đến bát canh móng dê đó được. Lúc Vũ Tuyên đi khỏi, con dê đó có khi vẫn còn sống nhăn, bị nhốt cạnh nhà bếp.”

    Lý Thư Bạch trầm ngâm giây lát rồi hỏi: “Sau khi hắn rời nhà ngươi thì sao?”

    “Nghe nói là uống trà đàm đạo với bạn bè ở rất xa nhà tôi, hơn nữa cũng không hề bỏ đi giữa chừng.”

    “Bởi thế hắn tuyệt đối không có khả năng đầu độc?”

    “Phải. Không có thời gian, không có cơ hội, không có... động cơ.” Cô gắng kiểm soát hơi thở, hồi lâu mới run rẩy tiếp: “Vương gia cũng thấy rồi đấy, Vũ Tuyên là kẻ lương thiện, thương xót cả đứa ăn mày bên đường mà.”

    Lý Thư Bạch giương ô, hai người đứng lặng dưới mưa. Mưa rào mùa hạ xối xả như trút, gió mưa tạt ướt vạt áo cả hai.

    Nhìn gương mặt cúi gằm của cô, Lý Thư Bạch thình lình hỏi khẽ: “Nếu sau khi đến Thục, tất cả manh mối đều đã tiêu tán, không tìm được chân tướng thì ngươi tính sao?”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ cắn môi, thật lâu mới đáp: “Trên đời này, hễ có kẻ làm chuyện xấu, nhất định sẽ để lại dấu vết. Tôi không tin thời gian có thể chôn vùi tội ác.”

    “Được.” Lý Thư Bạch cũng nói thẳng, không chút ngần ngừ: “Ta sẽ luôn đứng phía sau, ngươi không cần phân vân lo lắng, cứ thẳng tay mà làm.”

    “Vâng...” Cô cúi đầu, hàng mi dài che khuất cặp mắt trong sáng mà quật cường, một ánh nước thoáng qua, gần như không thể nhận thấy.

    “Đa tạ... vương gia.”
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/8/17
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 3 - Có đi có lại
    Phía trước là ánh lửa ngút mắt, lưỡi lửa đỏ rực cuốn tro tàn lên, như một con rồng lửa uốn lượn bay tới, che kín đất trời, đem theo ngọn lửa nóng rãy, lao thẳng về phía Hoàng Tử Hà đang đứng một mình dưới đất.

    Trong khoảnh khắc ngọn lửa bùng lên bao trùm toàn thân, cô không hề sợ hãi nhắm mắt, trái lại còn mở to ra, nhìn chòng chọc vào ánh lửa chói lòa.

    Ngọn lửa hừng hực từ từ dịu đi, nhường chỗ cho người nọ xuất hiện, cả người hắn đỏ rực, một màu đỏ khiến người ta kinh tâm động phách, như mã não đỏ, như san hô máu, như đá máu bồ câu, đẹp đẽ, chói lóa, nhưng đầy sát khí.

    Hắn đứng trên cao nhìn cô đau đớn trong lửa, mỉm cười bình thản như thường, nụ cười tươi tắn như hoa xuân nở rộ ấy, lúc này trông lại tàn nhẫn đáng sợ vô cùng.

    Thân hình dong dỏng của hắn hơi cúi xuống, nhìn cô như đang nhìn một con kiến sắp bị hắn giội cho một ấm nước sôi. Giọng lạnh lùng của hắn cứ văng vẳng bên tai cô như sóng: “Hoàng Tử Hà, ngươi hối hận rồi ư?”

    Hối hận rồi ư?

    Hối hận rồi ư?

    Giọng lạnh băng nọ vọng đi vọng lại trong đầu cô, khiến cô còn đau đớn hơn bị lửa thiêu đốt, mãi tới khi cô không nhịn nổi thét lên, bịt chặt lấy tai, bật dậy thở hồng hộc.

    Mấy con sẻ ríu rít ngoài song giật nảy vì tiếng hét, vội đập cánh phành phạch bay vút lên. Chỉ để lại nhánh cây rung rinh hồi lâu.

    Hoàng Tử Hà ôm chăn ngồi ngẩn ra trên giường, thấy máu cuộn lên trong lồng ngực, cả người như rơi vào bóng đêm thăm thẳm đến choáng váng. Cô há miệng hít thở, đợi bóng tối trước mắt tan đi rồi loạng choạng lần tường dò đến bên bàn, quờ quạng tìm ly trà nguội ngắt đêm qua, uống ừng ực.

    Hơi lạnh theo ngụm trà từ họng trôi xuống, lan ra khắp người, khiến thần trí cô tỉnh táo lại phần nào.

    Cô ngẩn người ngồi bên bàn, hồi lâu mới thẫn thờ quay đầu nhìn ra ngoài song.

    Cơn mưa lớn đã rửa trôi hết thảy bụi bặm, qua đêm nay, lại là một ngày hè nồng nực.

    Cũng giống như ngày cô gặp Vũ Tuyên lần đầu.

    Vừa tảng sáng, trong thành Trường An đã nhộn nhịp huyên náo.

    Nơi đây dân cư đông đúc, hội tụ đủ thứ nghề nghiệp, nhà nhà treo lụa, viện viện kết hoa, dù đặt lệnh giới nghiêm ban đêm cũng không át được không khí phồn hoa tấp nập ngày đêm.

    Mà tại nơi náo nhiệt nhất ấy, đỉnh điểm náo nhiệt không đâu bì được Chuế Cẩm Lâu nằm ở chính giữa chợ Tây Trường An.

    Trên Chuế Cẩm Lâu, thường có một ông già kể chuyện, ngồi giữa đại sảnh đông nghẹt, thuật lại đủ thứ lời đồn ngoài phố đến truyền kỳ trong thiên hạ, chuyện nào chuyện nấy kỳ quái muôn phần.

    “Nghe nói ngày mồng ba tháng Bảy năm Đại Trung thứ mười, trời vốn nóng bức, vạn dặm không một gợn mây, nhưng đến chiều, tại Thập Lục trạch, khi ấy là nơi ở của đương kim hoàng thượng, bỗng có vạn đóa mây lành, ráng hồng ngàn dặm bốc lên, các vị có biết điềm lạ này vì đâu mà có chăng?

    Tiên sinh kẻ chuyện cứ thao thao nói, lại đang kể một câu chuyện hoang đường.

    Hoàng Tử Hà ngồi bên lan can tầng hai, tay trái cầm thìa, tay phải cầm đũa tre, nhìn xuống người kể chuyện kia, song ánh mắt lại mơ màng như đang nghĩ tận đâu đâu.

    ChuTử Tần ngồi đối diện bèn giơ đũa gõ nhẹ lên mu bàn tay cô.

    Hoàng Tử Hà định thần lại, dời mắt nhìn sang gương mặt Chu Tử Tần: “Làm gì thế?”

    Chu Tử Tần bực bội trừng mắt với cô: “Công công làm gì thì có, nói là mời ta ăn cơm, thế mà cứ ngồi thần người ra.”

    Lúc này, trong Chuế Cẩm Lâu hết sức ồn ào, khách khứa thích nhất là hóng hớt mấy chuyện hoang đường, có người hỏi lớn: “Năm Đại Trung thứ mười, há chẳng phải năm sinh Đồng Xương công chúa ư?”

    “Đúng thế!” Người kể chuyện thấy có người lên tiếng, tức thì tiếp lời: “Lại bàn đến Đồng Xương công chúa, sinh ra đúng ngày mây lành rợp trời, song từ ấy không hề nói năng, mãi đến năm lên bốn, mới đột ngột mở miệng nói ‘sống được’. Bấy giờ, hoàng thượng, lúc ấy vẫn là Vận vương, còn đang kinh ngạc, thì đội nghi trượng nghênh tiếp Người đăng cơ đã đến cửa. Hoàng thượng vẫn luôn thấp thỏm không yên vì tiên hoàng mãi không lập thái tử, đến lúc ấy mới dám chắc, lần này quả thật sống được rồi! Từ bấy, hoàng thượng yêu Đồng Xương công chúa như bảo bối, nâng trứng hứng hoa!”

    Hoàng Tử Hà chẳng thích thú gì câu chuyện hoang đường nhảm nhí này, vừa dời mắt khỏi đám đông bên dưới, thì liếc thấy mấy người cách đó không xa đang tựa vào lan can nghe chuyện, không hẹn mà cùng quay sang bảo kẻ bên cạnh: “A Vi, đang nói tới phu nhân công chúa của huynh đó.”

    Người nọ là một thanh niên tuấn tú, chừng ngoài hai mươi, cặp mắt nghiêm trang thấp thoáng nét chán chường ít thấy ở tuổi thanh xuân. Hắn chống trán cau mày cười trừ: “Được rồi, tôi phải đi đây, sắp đến giờ Ngọ mất rồi.”

    Nói đoạn hắn quay lại bàn cầm chén canh dã rượu uống cạn, lại giơ ống tay áo lên ngửi ngửi, rồi hối hả từ biệt mọi người, lật đật xuống tầng.

    Đám thanh niên phía sau chỉ trỏ cười cợt: “Các người xem, cưới vợ công chúa có hay ho gì đâu, như Vi phò mã kia mỗi lần ra ngoài tụ họp, hễ uống thêm mấy chén là nơm nớp lo sợ, nhìn mà thương!”

    Hoàng Tử Hà liền trỏ thanh niên đang chạy xuống tầng, hỏi Chu Tử Tần: “Công tử biết người kia không?”

    Chu Tử Tần liếc qua rồi đáp: “Ai mà không biết chứ, là Vi Bảo Hoành, phò mã của Đồng Xương công chúa đấy mà.”

    Tiên sinh kể chuyện vẫn hăng say kể: “Đồng Xương công chúa năm ngoái đã thành hôn với Vi Bảo Hoành, đỗ tiến sĩ năm Hàm Thông thứ năm, của hồi môn khiêng lũ lượt đến mười dặm, nào trướng Liên Châu, rèm Khước Hàn, màn Sắt Sắt, chăn Thần Ti, đều là trân bảo hiếm thấy, quả là dốc hết của báu trong quốc khố mà! Phủ đệ công chúa ở phố Quảng Hóa, còn ghép vàng bạc làm thành giếng, lấy tơ vàng đan thành rổ rá, pha lê đồi mồi bát bảo xếp thành giường, vật dụng đều làm bằng ngọc ngũ sắc, tường vàng vách ngọc, lộng lẫy hơn cả nhà vàng Hán Vũ Đế xây cho Trần A Kiều năm xưa!”

    Đại Đường hiện giờ đương thịnh thói đua xa hoa, hôn lễ của Đồng Xương công chúa đủ để người trong kinh xôn xao bàn tán đến tận bây giờ. Mọi người hăng say bình phẩm các món hồi môn nghe đồn có giá liên thành, nhất thời, cả Chuế Cẩm Lâu ồn ào như chợ vỡ.

    “Song trong tất cả những món trân bảo ấy, Đồng Xương công chúa thích nhất là cây trâm cửu loan. Cây trâm này đẽo từ một khối ngọc thiên nhiên chín màu, cực kỳ quý hiếm, chín con loan mỗi con một màu, bay lượn xung quanh, rập rờn chói lọi, là báu vật hiếm thấy, bằng trăm vạn lạng vàng trong quốc khố! Công chúa cất kỹ nó trong kho, khóa chặt mấy lớp, trân quý vô cùng, không dễ gì đem ra dùng đâu…”

    Cuối cùng, Hoàng Tử Hà cũng không ngăn nổi tính tò mò, buột miệng hỏi: “Lời này là thật hay giả đây? Của hồi môn của Đồng Xương công chúa đã vét sạch quốc khố rồi à?”

    “Chưa vét sạch, nhưng nghe nói cũng gần gần thế.” Chu Tử Tần vừa cắm cúi ăn vừa than vãn: “Gã Vi Bảo Hoành kia đúng là có phúc ba đời! Năm xưa lúc theo học ở Quốc Tử Giám, hắn toàn cùng ta trốn học đi tìm trứng chim với bắt lươn đấy thôi! Ai ngờ về sau lại đỗ tiến sĩ, còn cưới được công chúa, làm Hàn lâm học sĩ, Trung thư xá nhân, giờ đã là Binh bộ thị lang rồi! Còn ta…”

    Nói đoạn bèn vờ vịt làm bộ đau khổ muốn chết, nhưng Hoàng Tử Hà chẳng thèm đếm xỉa: “Công tử chẳng phải sắp đến Thục, thực hiện lý tưởng cuộc đời ư?”

    “Đúng thế, đó mới là ý nghĩa cuộc đời ta!” Chu Tử Tần lập tức hào hứng vung đũa thao thao: “Ôi chao, có chuyện này muốn bàn bạc với công công một chút, về sau danh vị của ta sẽ là ‘bộ khoái ngự phong, ngỗ tác khâm tứ’, công công thấy thế nào?”

    “Chẳng ra sao cả.” Hoàng Tử Hà không còn gì để nói.

    “Không thì... ‘phụng chỉ mổ thây’?”

    Khóe môi Hoàng Tử Hà hơi giần giật.

    “Bất luận tên gì, nghe cũng hay hơn cả đời khúm na khúm núm đội mấy chữ ‘phò mã gì gì đó’, đúng không?”

    “Công tử không thích, khắc có cả đống người chen nhau vỡ đầu để tranh, lo cái gì?” Hoàng Tử Hà khinh bỉ nhìn gã.

    Bên dưới lại nghe giọng tiên sinh kể chuyện sang sảng: “Các vị, nhắc đến Đồng Xương công chúa, các vị có biết hôm qua ở chùa Tiến Phúc xảy ra một việc báo ứng, trời giáng sấm sét đánh chết người chăng?”

    Mọi người bên dưới nhất loạt ồ lên, có kẻ lớn tiếng hỏi: “Kẻ bị sét đánh chết ở chùa Tiến Phúc hôm qua, có liên quan tới Đồng Xương công chúa ư?”

    “Đúng thế! Thôi thiếu khanh ở Đại Lý Tự đã sai người tra rõ, kẻ nọ chính là Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan trong phủ công chúa. Y là một trong những người hầu hạ bên cạnh công chúa, lần này bị sét đánh chết, Đồng Xương công chúa cũng hết sức kinh ngạc, chẳng rõ tại sao cạnh mình lại xuất hiện một kẻ hung ác đến nỗi bị trời đánh chết như thế nữa.”

    “Tiên sinh kể chuyện cũng nhạy tin gớm nhỉ.” Hoàng Tử Hà lẩm bẩm.

    Chu Tử Tần dương dương tự đắc: “Chứ còn gì, tin tức của họ đều lấy từ bao nhiêu cái miệng khắp phố lớn ngõ nhỏ ấy. Có điều ta cũng thế thôi, từ lâu đã gây dựng được quan hệ tốt với người của Đại Lý Tự rồi. Ta nói cho công công nghe nhé, tối qua ta vừa moi được tin nội bộ về vụ này đấy!”

    Hoàng Tử Hà đang trùng trùng tâm sự, nhưng vẫn hỏi: “Tin mật gì cơ?”

    “Tên Ngụy Hỷ Mẫn này, từ nhỏ đã được phái đến hầu hạ Đồng Xương công chúa, có thể nói là tận tụy trung thành như một con chó, công chúa chỉ đâu thì đánh đấy. Bởi thế, khi biết y bị sét đánh chết, Đồng Xương công chúa nổi giận đùng đùng, nửa đêm còn đích thân đến phủ Thôi thiếu khanh, nói là hỏi rõ nguyên nhân cái chết, thực ra là gia tăng áp lực, buộc thiếu khanh phải giải quyết vụ này thật nhanh.”

    “Giải quyết thế nào? Xét tình hình ở đó hôm qua, cũng có khả năng trời giáng sấm sét ngẫu nhiên làm chết người mà.”


    “Thì thế, nên Đồng Xương công chúa còn một yêu cầu nữa, là hiện giờ cả kinh thành đều nói người bên cạnh công chúa hung ác tột cùng, bị trời đánh chết, bởi vậy Thôi thiếu khanh phải mau đưa ra một đáp án, để khỏi làm hoen ố thanh danh phủ công chúa.”

    “Chẳng trách hôm qua vừa nghe nói có liên quan đến Đồng Xương công chúa, mặt Thôi thiếu khanh xám ngoét như tro tàn.” Hoàng Tử Hà nhíu mày, “Bịt miệng thế gian còn khó hơn bịt đê vỡ, dù là Đồng Xương công chúa được hoàng thượng sủng ái nhất, cũng đâu thể quản được miệng tiếng người đời.”

    “Công công xem, chẳng phải đã nhốn nháo cả kinh thành rồi đấy sao?” Chu Tử Tần nhún vai: “Rõ ràng là một vụ không thể tra xét, lại nảy ra công chúa khăng khăng đòi rửa sạch tội trạng cho tên hoạn quan bên mình, chuyện này rơi vào tay ai cũng là củ khoai nóng rãy thôi.”

    Hoàng Tử Hà chẳng tiếp lời, mà hỏi sang chuyện khác: “Lần trước nhờ công tử việc của Trương Hàng Anh bạn tôi đó, giờ đã có sắp xếp gì chưa?”

    “Ầy… Đừng làm mất hứng thế chứ, ăn xong rồi nói đi mà, bằng không công công mời ta ăn cơm có khác gì là nhờ vả ta đâu.”

    “Lạ thật đấy, tôi là hoạn quan hạng bét, lương bổng một tháng chỉ có hai lạng, nếu không phải nhờ vả công tử, tự dưng bỏ ra mấy lạng mời công tử đến Chuế Cẩm Lâu ăn cơm làm gì?” Hoàng Tử Hà chẳng buồn quanh co, nói thẳng luôn: “Chuyện này phải nhanh lên, hơn nữa, còn phải thật nhanh vào! Vì hai ba ngày nữa tôi phải theo vương gia đến Thục rồi.”

    Đến lúc đó cô sẽ bị cuốn vào vụ án oan của người nhà, làm gì còn thời gian lo cho Trương Hàng Anh nữa?

    Chu Tử Tần hào sảng vỗ ngực: “Được, thế này đi, Binh tào tham quân sự Hứa Tùng Vân thuộc Tả Kim Ngô Vệ là bạn thân của ta, có hẹn ta chiều mai dẫn Trương Hàng Anh đến báo danh. Ta bảo đảm, chỉ cần Trương Hàng Anh đến là được nhận.”

    Hoàng Tử Hà thở phào: “Tốt lắm, nếu việc thành, về sau gặp nhau ở Thục, tôi lại mời công tử ăn cơm.”

    “Nếu không thành thì sao?”

    “Thì nôn bữa hôm nay ra trả tôi.”

    Sân phơi thuốc của Đoan Thụy Đường, tiệm thuốc lừng danh kinh thành, cũng khác hẳn những tiệm bình thường. Trên khoảnh sân rộng bày san sát hết nong này đến nong kia, nhìn như vảy cá. Trên nong xếp đầy những vị thuốc đã thái.

    Trương Hàng Anh đứng giữa đám nong, bưng một chiếc đường kính đến bảy thước lên xóc xóc, để dược liệu được đều nắng. Dáng dấp gã cao lớn, lực tay lại khỏe, mấy chiếc nong tre lần lượt được xóc tung lên, mùi thuốc nồng nồng tỏa ra.

    Thấy gã đi qua đi lại giữa những hàng nong bày đầy sân, xóc từng chiếc một, càng đi càng xa, Hoàng Tử Hà vội lên tiếng gọi : “Trương nhị ca!”

    Trương Hàng Anh ngoảnh lại trông thấy hai người, ngỡ ngàng hỏi: “Hai vị là...”

    Trương Hàng Anh chăm chăm nhìn cô hồi lâu, mới à lên, trỏ cô lắp bắp nói: “Là, là Hoàng...”

    “Đúng thế, tôi tới hoàn trả huynh món nợ ân tình đây.” Hoàng Tử Hà hấp tấp cắt lời Trương Hàng Anh, còn nhấn mạnh vào chữ “hoàn”, đoạn nói tiếp, “Tháng trước nhờ Trương nhị ca giúp tôi vào thành, lại hại huynh sa vào bước đường này. Thế nên hôm nay tôi tới để trả ơn, giới thiệu cho huynh một công việc.”

    Trương Hàng Anh líu cả lưỡi vì kinh ngạc: “Huynh…”

    “Tôi là Dương Sùng Cổ đây mà! Huynh đừng nói huynh vừa giúp xong đã quên béng tôi rồi nhé!” Hoàng Tử Hà ra sức đưa mắt ra hiệu cho gã.

    Bấy giờ Trương Hàng Anh mới sực hiểu, hiện giờ cô là tội phạm bị truy nã toàn quốc, đương nhiên không thể để lộ thân phận thực. Nhưng trong chốc lát gã vẫn chưa tiếp nhận nổi sự thực, cứ ngây ra nhìn cô, máy móc nói theo: “Ồ ồ, là Dương Sùng Cổ à… Hiện giờ huynh ở… ”

    “Giờ tôi đang là thuộc hạ của Quỳ vương, ngạc nhiên không?” Hoàng Tử Hà liền đáp, thấy vẻ sững sờ của gã, cô lập tức chuyển chủ đề sang người khác, chỉ vào Chu Tử Tần bên cạnh: “Vị này là Chu Tử Tần, tiểu công tử nhà Chu thị lang ở bộ Hình.”

    Chu Tử Tần vốn tính niềm nở, vội chắp tay chào Trương Hàng Anh: “Trương nhị ca! Tuy chưa gặp mặt, nhưng ta đã nghe Sùng Cổ kể về huynh rất nhiều. Sùng Cổ kể rằng huynh nghĩa khí ngất trời, trung hiếu gan dạ, thành thực nhiệt tình... ai da!”

    Đang nói dở câu, Chu Tử Tần đã bị Hoàng Tử Hà giẫm cho một cái. Có điều gã là kẻ chẳng nệ tiểu tiết, tiếp tục thao thao: “Huynh yên tâm, việc của Sùng Cổ cũng là việc của ta, chuyện này cứ để ta lo, ta sẽ làm đến nơi đến chốn...”

    Chẳng đợi gã dứt lời, cánh cửa căn nhà nhỏ cạnh sân phơi đã bật mở, một ông già thò đầu ra quát lớn: “Léo nhéo cái gì thế! Trương Hàng Anh, còn không mau đi đảo thuốc? Nếu không phơi kịp thì tiệm thuốc lấy đâu mà dùng?”

    Trương Hàng Anh lật đật vâng dạ rồi cúi xuống bưng một nong tre lên, tiếp tục xóc thuốc.

    Chu Tử Tần nhìn sân nong thuốc mênh mông, nghi hoặc hỏi : “Trương nhị ca, nơi này chỉ có mình huynh à? Một mình huynh phải xóc toàn bộ những nong thuốc này mỗi ngày một lần?”

    Trương Hàng Anh lắc đầu, vừa đặt nong thuốc trong tay xuống, bưng một nong khác lên, vừa đáp: “Không, bốn lần cơ. Sáng hai chiều hai.”

    “Thế thì cả ngày huynh chẳng làm được gì, chỉ đảo thuốc cũng hết ngày!”

    “Chưa hết.” Trương Hàng Anh rụt rè bổ sung, “Còn phải thái thuốc, xay thuốc, giã thuốc, sao thuốc, sấy thuốc, luyện thuốc tễ… Tôi lại lề mề, thường không làm xuể việc sư phụ giao, nên sáng sáng đều phải dậy sớm, tối lại phải thức khuya.”

    “Cha huynh tốt xấu gì cũng là đại phu ngồi quầy, sao không đỡ cho huynh một ít?”

    Trương Hàng Anh buồn bã lắc đầu: “Cha tôi già cả ốm yếu, không đến ngồi bắt mạch chẩn bệnh được nữa, giờ đây Đoan Thụy Đường chịu nhận tôi, cho tôi việc làm là tốt lắm rồi.”

    Miệng nói, tay gã vẫn thoăn thoắt không ngừng, trong lúc trò chuyện đã xóc thêm được ba bốn nong nữa.

    Nhưng Chu Tử Tần khăng khăng kéo tay gã, “Đừng xóc nữa, đi thôi! Đến ta nhìn cũng ngứa mắt nữa là, Đoan Thụy Đường thực bóc lột người ta quá lắm!”

    Trương Hàng Anh vội giật lấy nong thuốc suýt đổ ụp: “Đi… đi đâu cơ?”

    Thấy chẳng ai đếm xỉa đến mình, ông lão cạnh đó nổi cáu: “Trương Hàng Anh! Làm tử tế vào! Không làm xong thì đừng trách ta tống cổ ngươi đi!”

    “Tống cổ cái gì chứ ? Nói cho mà biết, không làm nữa đâu!” Chu Tử Tần kéo Trương Hàng Anh quay ngoắt người đi thẳng: “Tả Kim Ngô Vệ còn đang đợi huynh ấy, ai rảnh mà đứng đây nghe lão lèm bèm?”

    Ông lão vểnh râu trợn mắt: “Tả Kim Ngô Vệ á! Đùa à! Kẻ vào được chỗ đó không giàu cũng sang, thằng nhãi này dựa vào cái gì chứ?”

    “Tả Kim Ngô Vệ cần huynh ấy, lão quản được à?”


    Chu Tử Tần ném lại một câu, chẳng buồn nhìn lão: “Đợi Trương nhị ca làm ở đó hai ba năm rồi chuyển sang quân Thần Sách cho lão tức chết luôn!”

    Ông già quả thật sắp bị chọc cho tức chết: “Đúng là mơ giữa ban ngày! Trương Hàng Anh, ngươi đi thì đừng hòng quay lại!”

    Trương Hàng Anh lộ vẻ do dự, song Hoàng Tử Hà đã thấy mắt gã sáng lên, chiếc nong trên tay cuối cùng cũng bị vứt xuống.

    “Được rồi, nói một câu thôi, đi hay không?” Chu Tử Tần vỗ vai Trương Hàng Anh, nghiễm nhiên coi gã là huynh đệ: “Huynh dáng vóc thế này, khi phách thế ấy, không vào quân Thần Sách đúng là tổn thất của họ!”

    “Đi!”

    Binh tào tham quân sự Hứa Tùng Vân thuộc Tả Kim Ngô Vệ vốn hào sảng phóng khoáng, lại quen Chu Tử Tần từ nhỏ, dĩ nhiên hết sức thân thiết.

    Hắn hỏi han Trương Hàng Anh mấy câu, biết được gã từng ở trong đội nghi trượng của phủ Quỳ vương, bèn hỏi: “Người bên cạnh Quỳ vương đều là ngàn người chọn một, ngươi đã được tuyển, ắt là cực kỳ xuất sắc, sao lại rút ra?”

    Trương Hàng Anh còn đang ngập ngừng thì Hoàng Tử Hà đã cướp lời: “Trương nhị ca xui xẻo, đang theo đoàn hộ tống thì đau bụng, rớt lại phía sau, không may bị phát hiện, nên bị đuổi ra.”

    Hứa Tùng Vân nhìn Hoàng Tử Hà hỏi: “Công công đây là?”

    “Là Dương Sùng Cổ Dương công công của phủ Quỳ vương, người thân tín bên cạnh vương gia.” Chu Tử Tần đáp.

    Hứa Tùng Vân không giấu vẻ kinh ngạc: “ Ô! Lẽ nào chính là Dương công công đã phá được án Bốn phương và án Quỳ vương phi? Đúng là thất lễ, thất lễ rồi!”

    Trương Hàng Anh bên cạnh cũng gật đầu lia lịa, nhìn Hoàng Tử Hà đầy ngưỡng mộ.

    Chu Tử Tần nói như đinh đóng cột: “Đúng thế, Sùng Cổ rất lợi hại, chỉ thua Hoàng Tử Hà thần tượng của tôi thôi!”

    Hoàng Tử Hà thấy rõ nụ cười của Trương Hàng Anh cứng lại, đành khiêm tốn đáp: “Đâu có, đâu có, ăn may thôi mà.”

    Hứa Tùng Vân giơ tay vỗ bồm bộp vào lưng Trương Hàng Anh, khiến họ Trương đang đứng thẳng người bị hắn vỗ cho suýt thì nôn cả phổi ra.

    “Đã có hai vị bảo lãnh, huống hồ ban đầu gã từng vào được đội nghi trượng của phủ Quỳ Vương, chắc sức khỏe và gia cảnh không vấn đề gì. Thế này đi, Tả Kim Ngô Vệ hiếm người nhất, ta tạm xếp ngươi vào bên đó trước, tháng đầu theo mọi người đi lại xem xét, nếu không có vấn đề gì thì tháng sau báo cho Vương đô úy rồi chính thức vào danh sách, thế nhé.”

    Lần này, dù có bị vỗ cho nôn hết cả tim gan phèo phổi, Trương Hàng Anh cũng cam lòng. Gã xúc động đến nỗi nói không nên lời, cứ đứng đờ ra đó cười ngây ngô.

    Hoàng Tử Hà cũng thở phào nhẹ nhõm, xưa nay cô vẫn canh cánh áy náy với Trương Hàng Anh, lần này giúp được gã, cô mới yên lòng về Thục, không cảm thấy mắc nợ người khác nữa.

    Bàn bạc xong xuôi, Chu Tử Tần lại gọi mấy đội trưởng của Tả Kim Ngô Vệ lại, rủ cả bọn đến quán rượu đánh chén, gã mời.

    Hoàng Tử Hà và Trương Hàng Anh đều nghèo rớt mùng tơi, đương nhiên không dám tranh với gã công tử ăn chơi ấy, kẻo bữa rượu này lại phải bán thân trả nợ.

    Cũng chẳng biết là may hay rủi, cả đám vừa kéo ra cửa thì đụng phải Vương Uẩn.

    “Vương huynh!”

    “Vương đô úy!”

    Ai nấy đều nhao nhao chào hỏi, lại thấy phía sau y còn một nam tử tuấn tú, chính là phò mã Vi Bảo Hoành, bèn lũ lượt bước lên tham kiến, kẻ chào phò mã, người chào Vi thị lang, ngoài cửa nha môn bỗng ồn ã hẳn lên.

    Vi Bảo Hoành rất cởi mở, tươi cười gật đầu chào tất cả. Vương Uẩn liếc Hoàng Tử Hà, cười hỏi: “Tử Tần dẫn Dương công công đến có việc gì không?”

    Chu Tử Tần vội kéo Trương Hàng Anh chạy đến: “Tôi nghe nói bên Hứa đại ca thiếu người, bèn tiến cử một vị. Đây là Trương Hàng Anh, gia thế thanh bạch, thân thủ nhanh nhẹn, huynh xem, diện mạo cũng là trăm người chọn một, lại quen biết Sùng Cổ, nhất định làm được. Hứa đại ca nói cứ thử thách một tháng, nếu được sẽ báo lên huynh, đến lúc đó phải nhờ Vương huynh để mắt nhiều rồi!”

    “Là Dương Sùng Cổ giới thiệu ư?” Vương Uẩn nắm ngay được mấu chốt vấn đề.

    Chu Tử Tần nào biết được ân oán giữa hai người, tươi cười gật đầu.

    Trương Hàng Anh cũng hồi hộp hành lễ với Vương Uẩn.

    Nào ngờ, y giơ tay ngăn lại rồi nói: “Tử Tần, vốn dĩ Hứa đội trưởng đã nhận lời giữ gã lại, ta không tiện ý kiến, xưa nay ta cũng không can thiệp vào việc tuyển chọn các huynh đệ. Nhưng chuyện của vị huynh đài này, e rằng không được đâu.”

    Nghe vậy, Chu Tử Tần sững sờ. Những người khác cũng không ngờ Vương Uẩn lại nói ra một câu gây cụt hứng như thế, ai nấy đưa mắt nhìn nhau.

    Thấy vậy, Vương Uẩn thoáng lộ nụ cười: “Không phải cố ý làm khó vị huynh đài này, có điều các vị cũng biết đấy, ta sắp được điều sang Tả Kim Ngô Vệ rồi. Nhân khi nhậm chức, ta định đặt ra một tiêu chuẩn cho Tả Kim Ngô Vệ, vừa có thể khảo nghiệm tố chất tân binh, lại không làm tổn thương hòa khí, tiếc là chưa kịp bàn bạc với các vị.”

    Tả Kim Ngô Vệ đúng là có kẻ chỉ biết lên ngựa, nhưng nhờ lăn lộn mấy năm, lại dựa vào quan hệ và gia nhập. Lúc này, nghe nói Vương Uẩn có biện pháp sàng lọc tân binh, lại không làm tổn thương hòa khí, mọi người đều nhao nhao gặng hỏi.

    Vương Uẩn quan sát Trương Hàng Anh từ trên xuống dưới, để ý kỹ hai bàn tay gã: “Có vết hằn cương, chắc là biết cưỡi ngựa, hẳn cũng biết chơi kích cúc chứ hả?”

    Kích cúc chính là trò mã cầu(*) rất thịnh hành trong hoàng thất Đại Đường, Trương Hàng Anh đương nhiên biết, bèn gật đầu.

    (*) Mã cầu: một trò chơi, tương tự như polo ngày nay, người chơi chia làm hai đội, mỗi bên giữ một cầu môn, các cầu thủ đều cưỡi ngựa, dùng một chiếc gậy cán dài để đánh bóng, ai đánh bóng vào cầu môn đối phương thì ghi điểm.

    “Kẻ giỏi kích cúc, khỏi bàn đến thân thủ trên ngựa dưới đất, tài cưỡi ngựa ắt cũng phải xếp hàng đầu. Chi bằng sáng mai các vị kiếm mấy người hợp lại thành một đội, Tả Kim Ngô Vệ cũng triệu tập mấy tên giỏi kích cúc, tỉ thí một trận, vừa không tổn thương hòa khí, lại có thể khảo nghiệm thân thủ Trương huynh đệ, Tử Tần thấy sao?”

    Vương Uẩn vừa dứt lời, mọi người đều vỗ tay khen hay. Nói cũng bằng thừa, lời thượng cấp nói ra, ai dám không phụ họa? Mấy câu như “Đô úy cao minh”, “nhìn xa trông rộng”, “giải quyết mối lo cho Tả Kim Ngô Vệ” rào rào tuôn ra không biết ngượng.

    Vương Uẩn vẫn cười tươi như gió xuân, nhìn Trương Hàng Anh và Hoàng Tử Hà: “Mọi người đều tán thành, vậy giờ Mão ngày mai, xin chờ các vị.”

    “Đâu ra cái lý đó! Tên khốn Vương Uẩn, hằng ngày xưng huynh gọi đệ, đến lúc cần kíp lại phá hỏng việc của chúng ta!”

    Trên đường về, Chu Tử Tần dẫn bọn họ qua xem bãi kích cúc của Tả Kim Ngô Vệ. Gã đứng chống nạnh ngoài rìa sân, nhìn vào bãi cát bằng phẳng, không giấu vẻ hậm hực.

    “Ai chẳng biết hắn sắp được điều sang Tả Kim Ngô Vệ, quan mới nhậm chức ba ngọn lửa(*) chẳng phải danh chính ngôn thuận, tự dưng lại nảy ra chủ ý vớ vẩn này!”

    (*) Ý nói quan viên mới nhậm chức, ắt phải làm vài ba việc có lợi cho dân chúng trước đã. “Ba ngọn lửa” ở đây ý chỉ ba việc làm đầu tiên, phải rực rỡ, thu hút sự chú ý như ngọn lửa thắp lên vậy.

    Trương Hàng Anh ngập ngừng góp lời: “Nhưng... nhưng tôi thấy Vương đô úy nói cũng có lý, Tả Kim Ngô Vệ chức vụ trọng đại, sát hạch nghiêm ngặt cũng phải thôi...”

    “Huynh còn chưa vào Tả Kim Ngô Vệ, đừng đứng ngay về phe Vương đô úy như thế chứ!” Chu Tử Tần đang tức mà không biết trút vào đâu: “Huynh có biết tài kích cúc của đám Tả Kim Ngô Vệ có thể coi là hàng đầu kinh thành không? Mỗi năm các nha môn trong kinh thi kích cúc, Tả Kim Ngô Vệ luôn giành được quán quân. Huynh nói xem, một thường dân như huynh, đi đâu tìm được người lập đội cùng huynh đánh đây? Trận này thua chắc chứ còn gì nữa!”

    Thua chắc ư?

    Trương Hàng Anh ngẩn người ra.

    “Cũng không bảo là thua thì không cho huynh vào nữa, nhưng nếu chúng ta không đánh được một trận ra hồn để họ xem, thì khả năng làm khó dễ huynh sẽ càng cao.” Chu Tử Tần trỏ tay hỏi: “Một đội kích cúc ít nhất cũng phải năm người. Sùng Cổ biết chơi kích cúc không?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tôi từng chơi rồi.”

    “Hàng Anh, huynh thì sao?”

    Trương Hàng Anh gật đầu: “Tôi cũng chơi rồi.”

    “Còn thiếu hai người...” Chu Tử Tần ngồi thụp xuống gốc liễu cạnh bãi kích cúc, gập ngón tay rầu rĩ tính, “Gọi ai được nhỉ... Để xem xem mấy kẻ giỏi kích cúc có tiếng nhất trong kinh...”

    “Chiêu vương gia.” Hoàng Tử Hà buột miệng.

    Chu Tử Tần gật đầu: “Không sai, Chiêu vương chơi kích cúc rất giỏi, có điều người thường ai mà mời nổi gia? Đừng nói mời, ngay cả gặp mặt còn khó, cả ngày Chiêu vương đâu có ở trong phủ...”

    Chẳng đợi gã nói xong, Hoàng Tử Hà đã vịn lan can, tung người nhảy vào bãi cầu trước mặt.

    Trận cầu trên bãi vừa kết thúc, cát bụi vẫn bay mù mịt. Song cô xăm xăm băng qua màn bụi đất như không thấy, chạy thẳng về chỗ nghỉ ở phía đối diện.

    Nghe tiếng chân chạy đến, hai người đang chọn gậy kích cúc ngoảnh lại.

    Tròng mắt Chu Tử Tần suýt nữa rớt ra ngoài.

    “Chiêu vương? Sao… sao lại khéo thế, còn cả Ngạc vương nữa?”

    Hoàng Tử Hà khom người thi lễ với Chiêu vương Lý Nhuế, Chu Tử Tần đứng đằng xa không nghe được họ nói gì, chỉ thấy Chiêu vương cười cười gật đầu, rồi đưa cây gậy kích cúc trong tay cho cô.

    Hoàng Tử Hà một tay cầm gậy, một tay dắt thớt ngựa cạnh đó, tung người nhảy lên ngựa. Chiêu vương cũng nhảy lên một thớt ngựa khác, hai người nhìn nhau rồi đồng loạt thúc ngựa chạy như bay về phía quả cầu đang nằm trơ trọi giữa sân.

    Chu Tử Tần vội vã từ ngoài vào, đến gần Ngạc vương Lý Nhuận đang đứng một bên cười quan sát, hỏi: “Ngạc vương, bọn họ… làm gì vậy?”

    Lý Nhuận cười đáp: “Dương công công đánh cuộc với Chiêu vương, xem ai đánh được cầu vào trước.”

    Sao tự dưng Dương Sùng Cổ lại đánh cuộc với Chiêu vương? Chu Tử Tần vẫn còn ngơ ngác, lại hỏi: “Cuộc cái gì?”

    “Chưa giao hẹn, chỉ bảo nếu thắng thì Chiêu vương phải nhận lời một việc.”

    Chu Tử Tần phì cười: “Sao Dương công công dám chắc thắng?”

    “Nếu không phải hắn phách lối như thế, đời nào Chiêu vương đáp ứng mau mắn vậy? Ngươi cũng biết Chiêu vương không chịu được lời khích bác mà.”

    Trong khi hai người trò chuyện, hai thớt ngựa một trái một phải đã xông đến bên quả cầu, nhanh nhẹn vô cùng, gần như chạy đến cùng lúc.

    Hai cây gậy kích cúc đồng thời vung lên, gậy của Chiêu vương nhằm thẳng vào bên dưới quả cầu, còn gậy của Hoàng Tử Hà nửa đường lại đổi hướng, đánh thẳng vào gậy của Chiêu vương.

    Hai cây gậy đập vào nhau đánh “cạch”. Hoàng Tử Hà không thể chặn đứng thế đánh của Chiêu vương, song cũng làm giảm lực đánh ít nhiều. Trong khoảnh khắc Chiêu vương mải nhìn theo trái cầu bay ra, cô đã thúc ngựa chạy về phía cầu đang rơi xuống.

    Quả cầu rơi xuống cách cầu môn không xa. Chu Tử Tần thầm than nguy hiểm, suýt nữa là bị Chiêu vương đánh cầu vào rồi.

    Mọi người đều đợi cô đánh cầu về phía cầu môn Chiêu vương, bản thân gã cũng ghìm cương đứng nguyên tại chỗ, giơ gậy trỏ cô cười nói: “Dương công công, thúc ngựa qua đây nào! Ta muốn xem xem ngươi có thể…”

    Lời còn chưa dứt, gã bỗng thấy cô cười với mình, rồi khom người vung cây gậy trong tay lên, đánh thẳng vào trái cầu.

    “Bộp” một tiếng, quả cầu bay vèo vào lưới, rơi xuống cầu môn sau lưng cô

    Những người đứng xem đều tròn mắt kinh ngạc, không hiểu cô phá cầu môn của mình là ý gì.

    Trái lại, Hoàng Tử Hà hớn hở thúc ngựa chạy về phía Chiêu vương cười hỏi: “Chiêu vương gia, vừa rồi chúng ta chỉ nói ai đánh cầu vào trước là thắng, đâu giao hẹn cầu môn nào thuộc về ai đâu?”

    Chiêu vương cứng họng: “Dương công công, đánh cầu vào lưới mình cũng tính ư?”

    “Thứ nhất, khi nãy chúng ta không hề phân định đâu là cầu môn của ai, nên cầu môn sau lưng nô tài cũng không thể tính là của nô tài được, đúng không nào? Thứ hai, ai bảo nô tài kém cỏi, tài nghệ không bằng người, để mời Chiêu vương gia ra tay tương trợ, đành giở hạ sách, lợi dụng sơ hở của gia vậy?” Cô vừa nói vừa cười tươi tắn, dù bày trò xỏ lá, trông vẫn khả ái vô ngần, khiến Chiêu vương vừa buồn cười vừa bực, không nhịn được vung gậy tét nhẹ vào mông con ngựa cô cưỡi, phá lên cười: “Đáng ghét quá, dám lừa cả bản vương.”

    Hai người đã phân thắng bại, Chiêu vương lại đang vui, bèn thúc ngựa chạy ra ngoài sân nghỉ.

    “Tử Tần cũng đến à? Còn tiểu tử kia là ai vậy?”

    Chiêu vương trỏ Trương Hàng Anh hỏi.

    Chu Tử Tần vội thưa: “Là bạn của chúng tôi, lần này muốn xin vào Tả Kim Ngô Vệ, không ngờ lại gặp chút rắc rối.”

    Chiêu vương quay sang cười hỏi Hoàng Tử Hà: “Vậy ra ngươi tìm ta đánh cuộc là vì gã ư?”

    “Xin Chiêu vương gia tha tội!” Hoàng Tử Hà nhất nhất thuật lại mọi chuyện.


    Nghe nói là đấu kích cúc với Tả Kim Ngô Vệ, Chiêu vương nổi hứng: “Hay đấy! Lần này ta phải giúp các người đánh bại đám Tả Kim Ngô Vệ, dạy cho chúng biết, ai mới là cao thủ kích cúc đệ nhất kinh thành! À phải, phe ta còn những ai?”

    Hoàng Tử Hà trỏ mình, Trương Hàng Anh, Chu Tử Tần.

    “Thêm cả ta mới được bốn thôi à?” Ánh mắt Chiêu vương dừng ở Ngạc vương Lý Nhuận.

    Lý Nhuận cười gượng: “Chuyện này...”

    “Chuyện này chuyện kia gì nữa, Thất ca à, còn thiếu một chân thôi, huynh đi hay không?”

    “Thì đi vậy.”

    Hôm sau, vừa tảng sáng, Hoàng Tử Hà đã bị tiếng chim ríu rít ngoài song đánh thức.

    Sực nhớ ra hôm nay có việc quan trọng, cô vội bật dậy, vớ ngay miếng vải bó ngực thật chặt, rồi chọn một bộ áo tay bó chẽn mặc vào, chạy ra sân vận động gân cốt.

    Sáng mùa hạ, dọc hai bên đường nở đầy hoa thủy lạp, những đóa hoa trắng muốt rợp đường, ngát hương thanh mát.

    Ngang qua chuồng ngựa, cô sực nhớ ra gì đó, bèn chạy đến hỏi Vương bá quản lý đàn ngựa: “Vương bá, sáng nay tôi muốn mượn Na Phất Sa một lúc được không?”

    “Được thôi, vương gia nói thớt ngựa đó chịu theo ngươi rồi, muốn cưỡi lúc nào cũng được.”

    “Tốt quá! Đa tạ Vương bá!” Cô mừng rỡ nhảy cẫng lên, chợt nghe thấy Địch Ác bên cạnh khịt mũi rồn rột, bèn ngoảnh sang nhìn nó. Rồi sợ Địch Ác hỉ mũi vào mình, cô lập tức lấy tay bịt mũi nó lại, nhưng khi nhìn vào mắt Địch Ác, cô tức thì nhận ra điểm bất thường. Trong đôi mắt to cồ cộ của Địch Ác, in cả bóng một người cao lớn rắn rỏi.

    Hoàng Tử Hà ngập ngừng quay đầu lại: “Vương gia.”

    Lý Thư Bạch đứng sau cách cô chừng ba bước, bình thản hỏi: “Sáng sớm đã đi đâu thế?”

    “Nô tài đi… đấu kích cúc với Tả Kim Ngô Vệ.” Hoàng Tử Hà xưa nay không dám dối kẻ này. Trận cầu hôm nay vừa mở màn, ắt Lý Thư Bạch sẽ rõ như lòng bàn tay. Cô còn phải nhờ y đưa mình về Thục, nên chẳng thể giấu giếm được y.

    “Tả Kim Ngô Vệ à… Vương Uẩn sao?” Y nhướng mày.

    “Vâng, Chu Tử Tần cũng mời Chiêu vương Ngạc Vương đến, chúng tôi họp thành một đội, đấu với Vương Uẩn.” Hẵng tạm chưa nhắc đến Trương Hàng Anh vội.

    Lý Thư Bạch một mình giữ mấy chức, trong triều lại nhiều việc bận rộn, đâu thừa thời gian để ý tới cô, chỉ “ừm” một tiếng rồi dắt Địch Ác ra, tung mình lên ngựa.

    Hoàng Tử Hà thở phào nhẹ nhõm, đang cởi dây cương của Na Phất Sa thì Lý Thư Bạch lại quay đầu ngựa, ngồi trên yên nhìn xuống bảo cô: “Đám người ở Tả Kim Ngô Vệ xưa nay vốn thô lỗ, chơi kích cúc cũng nổi danh hung tợn trong kinh đấy.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, đương đoán xem y có ý gì, lại nghe thấy y nói thật nhanh, thật khẽ: “Ngươi... nhớ cẩn thận, đừng để bị thương.”

    “Vâng.” Cô gật đầu, ngập ngừng ngẩng nhìn y.

    “Lỡ như bị thương, ngày lên đường lại phải hoãn.” Y buông một câu giải thích rồi kéo cương giục ngựa quay đầu, đi thẳng.

    Chỉ còn lại mình Hoàng Tử Hà dắt Na Phất Sa chầm chậm đi qua con đường lát đá xanh nở đầy hoa thủy lạp, lòng ngập những hoang mang.

    Khi cô cưỡi Na Phất Sa chạy đến sân cầu, Trương Hàng Anh đã đứng một mình ở ngoài rìa.

    “Trương nhị ca.” Cô nhảy xuống ngựa, bấy giờ mới phát hiện mình đã quên bẵng một việc, “Huynh không có ngựa à?”

    “Nhà tôi làm sao mua nổi ngựa?” Trương Hàng Anh ngượng ngùng phân trần, “Thế nên thường ngày tôi cũng chẳng mấy khi chơi kích cúc, tôi đánh kém lắm.”

    “Không sao, lần này chúng ta lôi kéo được cả Chiêu vương và Ngạc vương, người của Tả Kim Ngô Vệ bất luận thế nào cũng phải kiêng dè. Phần thắng của bên ta không nhỏ đâu.” Hoàng Tử Hà an ủi.

    “Ừm, dù sao cũng phải đa tạ huynh và Tử Tần huynh.” Trương Hàng Anh nhìn cô đầy cảm kích.

    Hoàng Tử Hà xua tay: “Không có gì, chúng tôi sẽ không để huynh về Đoan Thụy Đường chịu khổ nữa đâu.”

    “Đúng thế, hôm nay nhất định phải giúp huynh vào được Tả Kim Ngô Vệ, sau đó đến Đoan Thụy Đường chọc lão già kia tức chết luôn.” Giọng Chu Tử Tần vang lên từ phía sau. Gã dắt ngựa đến, vỗ vỗ vào cổ ngựa, “Tiểu Hà, chào hỏi đi.”

    Con ngựa nọ liền ngoan ngoãn gật đầu với hai người.

    Nghe thấy tên con ngựa, Hoàng Tử Hà bỗng có một dự cảm chẳng lành: “Tiểu Hà ư?”

    “Đúng thế, Hà trong Hoàng Tử Hà.” Chu Tử Tần âu yếm xoa đầu ngựa đáp.


    Hoàng Tử Hà và Trương Hàng Anh lẳng lặng nhìn nhau, đều trông thấy biểu cảm câm nín trên mặt nguời kia.

    Mặt trời mùa hạ vừa lên, cả thành Trường An đã bắt đầu nồng nực.

    Bên Tả Kim Ngô Vệ tới hơn trăm người, ngoài đô úy Vương Uẩn, các đội trưởng như Hứa Tùng Vân hầu hết đều có mặt, còn thêm cả phò mã Vi Bảo Hoành.

    Trông thấy bọn họVương Uẩn bước đến cười hỏi: “Có ba người các vị thôi ư? Ô, chỉ có hai thớt ngựa, thế thì làm sao thành một đội được?”

    Y cười hết sức ôn hòa, song Hoàng Tử Hà càng nhìn càng thấy bứt rứt. Cô biết rõ y ghét mình, thậm chí có lẽ còn căm hận, nhưng ngoài mặt vẫn nhẹ nhàng hòa hoãn, hạng người như thế mới là đáng sợ nhất.

    Chu Tử Tần cười đáp: “Vội gì chứ, còn hai người nữa, đợi lát họ đến, chắc chắn huynh sẽ nhận thua ngay.

    “Ồ…” Vương Uẩn liếc Hoàng Tử Hà rồi hỏi; “Lẽ nào là Quỳ vương gia?”

    Chu Tử Tần chớp mắt: “Không phải, nhưng cũng thừa sức đánh bại huynh.”

    “Vậy ta chống mắt chờ xem.” Vương Uẩn cười cười, quay người trở về chỗ. Chu Tử Tần thoáng thấy phò mã Vi Bảo Hoành đang lau cây gậy trong tay, thì buột miệng “ối” lên: “Không phải chứ, Vương Uẩn ác quá!”

    “Sao thế?” Hoàng Tử Hà hỏi.

    “Vi Bảo Hoành cũng ra sân!”

    “Phò mã giỏi kích cúc lắm ư?”

    “Đâu chỉ giỏi! Năm xưa nếu không phải hắn thể hiện xuất sắc trong trận kích cúc mồng Một Tết tại cung Đại Minh, một mình thao túng cả trận đấu, đánh bại năm cao thủ kích cúc của Thổ Phồn thì đâu được hoàng thượng khen ngợi, còn lọt vào mắt xanh Đồng Xương công chúa?”

    “Ác thật...” Hoàng Tử Hà nhìn con “Tiểu Hà” ngoan ngoãn nhu mì của Chu Tử Tần, lại nhìn Trương Hàng Anh không có nổi thớt ngựa, rồi nhìn xuống cổ tay mảnh dẻ của mình, không khỏi lo lắng trước trận cầu sắp tới.

    Đúng lúc cô đang bế tắc thì từ bên ngoài sân rộ lên tiếng hô vạn tuế, ra là hoàng đế dẫn Quách thục phi và Đồng Xương công chúa đến.

    Hoàng đế vận thường phục đen, vừa bước vào vừa cười nói với con gái. Đám cung nhân đã tức tốc kê xong ngự tọa, Quách thục phi còn tự tay bày hoa quả điểm tâm cho hoàng đế, hết mực săn sóc, lại phủ cả gấm đoạn lên ngăn bụi.

    Quách thục phi tuổi tác xấp xỉ hoàng đế, song vì chăm sóc thường xuyên nên vẫn đầy phong vận, mặt hoa da phấn, nõn nà hồng nhuận tựa trân châu.

    Dung mạo Đồng Xương công chúa rất giống Quách thục phi, nhưng đường nét cứng hơn, ngũ quan nhìn cũng mờ nhạt hơn mẹ, tuy đang ríu rít nói cười cùng hoàng đế, mặt mày rạng rỡ, song vẫn không giấu được vẻ sắc sảo mà mong manh, tựa như một lớp băng mỏng, chỉ chực vỡ tan.

    Hoàng đế ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh rồi cười nói: “Nghe nói Thất đệ, Cửu đệ cũng tham gia trận cầu này, trẫm bèn tức tốc đến ngay! Đúng là việc trọng đại hiếm thấy, không thể bỏ lỡ được.”

    Hoàng đế Đại Đường hầu như ai cũng mê kích cúc, năm xưa Mục Tông hoàng đế mới gần ba mươi, trong lúc chơi bị kẻ hầu lỡ tay đập trúng đầu, đến nỗi băng hà. Kính Tông nối ngôi, lại vì mê trò này mà mới mười tám tuổi đã bị hoạn quan mưu hại. Nhưng phong trào kích cúc trong hoàng thất chỉ có tăng không giảm, đương kim hoàng thượng tuy đánh không giỏi nhưng lại rất thích xem, nhất là hôm nay có hoàng thân quốc thích tham dự, ngài bèn bỏ cả triều chính mà đến.

    Mọi người nhất loạt hành lễ tham kiến hoàng đế. Chẳng rõ có phải Hoàng Tử Hà quá nhạy cảm hay không, song cô luôn cảm thấy lúc nhìn lướt qua mình, nụ cười của hoàng đế thoáng đanh lại.

    Có lẽ, trông thấy cô, Người lại nhớ tới Vương hoàng hậu trong cung Thái Cực.

    Đợi hoàng đế ngồi xuống, Chiêu vương và Ngạc vương mới song song cưỡi ngựa tiến vào giữa vòng vây của mọi người. Thấy họ đi về phía Hoàng Tử Hà, Vương Uẩn hiểu ngay trợ thủ mà bọn Hoàng Tử Hà mời đến là ai.

    Song y vẫn thản nhiên như thường, tựa hồ không hề để ý, chỉ mỉm cười tiến lại tham kiến hai vị vương gia, nói mấy lời hàn huyên khách sáo, cử chỉ phóng khoáng tự nhiên, cả vẻ kinh nhạc pha mừng rỡ khi trông thấy hai người cũng đúng độ tuyệt hảo.

    Hoàng Tử Hà đành lẳng lặng cho Na Phất Sa ăn cỏ.

    Chu Tử Tần trơ trẽn nhất, thấy hai vương gia không đem theo ngựa để thay đổi, liền bảo thẳng Vương Uẩn: “Vương huynh, tôi có chuyện này muốn thương lượng, bên chúng tôi thiếu một thớt ngựa, chi bằng huynh cho mượn đi?”

    Người của Tả Kim Ngô Vệ nghe vậy đều cười thầm, vào trận mới mượn ngựa đối phương, quả là chuyện lạ chưa từng có xưa nay.

    Song Vương Uẩn chẳng hề để tâm, vẫn thản nhiên hào sảng như trăng thanh gió mát, giơ tay ra sau làm hiệu:

    “Chúng ta đem tới hơn mười thớt ngựa kia, Tử Tần ưng con nào thì cứ lấy.”

    Chu Tử Tần cũng chẳng khách sáo, trỏ ngay con ngựa nâu cao lớn bên cạnh Vi Bảo Hoành: “Lấy thớt này đi!”

    Vi Bảo Hoành cười: “Tử Tần thực tinh tường quá!”

    “Khỏi phải nói, ngựa được huynh chấm ắt là tốt nhất rồi, tôi vẫn bái phục mắt nhìn của huynh mà.” Dứt lời, Chu Tử Tần ngang nhiên dẫn thớt ngựa nâu lại, nhét cương vào tay Trương Hàng Anh: “Mau lên ngựa đi, phải làm quen một lát.”

    Vi Bảo Hoành tuy là phò mã, nhưng tính tình rất thoải mái dễ chịu. Hắn tiện tay dắt một con ngựa đen khỏe mạnh cạnh đó, cười nói: “Đổi ngựa thì vẫn thắng huynh như thường.”

    Sân đấu đã được cào phẳng, Chiêu vương Lý Nhuế và Vương Uẩn rút thăm, xác định phần sân của đôi bên, rồi hai đội bắt đầu mặc áo đấu. Phe Hoàng Tử Hà áo đỏ, bên kia áo trắng.
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 4 - Như gió như rồng
    Quả cầu to bằng nắm tay được đặt chính giữa sân, hai bên trái phải là hai đội, mỗi đội năm người, ghìm cương đứng trước cầu môn của mình.

    Lá cờ nhỏ màu đỏ trong tay lệnh quan vừa giơ lên, ngựa của hai phe lập tức lao về phía quả cầu. Chín luồng bụi tức thì ùa về giữa sân, chỉ có Na Phất Sa của Hoàng Tử Hà đứng yên, cô bình thản ngồi trên lưng ngựa, ở lại hậu phương quan sát hình thế.

    Ngựa của Chiêu vương là tuấn mã ngày đi ngàn dặm, xông lên trước giành lấy cầu. Con ngựa gã cưỡi sải bước rất dài, khi còn cách cầu hơn hai trượng, gã đã vào thế đánh, rồi trong một nhịp phi, cây gậy trong tay gã cũng vung ra, quả cầu bay vụt về phía cầu môn đối phương.

    Phò mã Vi Bảo Hoành phản ứng cực nhanh, lập tức kéo cương ngựa quay lại phòng thủ, quả cầu đập vào khung cầu môn, bật ngược trở lại, rơi ngay trước ngựa gã. Vi Bảo Hoành vung gậy chuyền cho Vương Uẩn, Vương Uẩn nhân lúc bên phải cầu môn của đối phương bỏ trống, liền xông thẳng tới.

    Hoàng Tử Hà đang ghìm cương đứng trước cầu môn, thấy y lao tới như bay, bèn thúc Na Phất Sa, xông thẳng về phía Vương Uẩn.

    Hai thớt ngựa lướt qua nhau, hai cây gậy cũng đan chéo nhau, rồi trong nháy mắt, mỗi người lại chạy về một hướng.

    Quả cầu Vương Uẩn đang dẫn lăn dưới gậy Hoàng Tử Hà, cô khẽ hất tay phải, quả cầu vẽ nên một đường cong dài giữa không trung, bay vụt về phía Chiêu vương, rơi ngay trước ngựa gã.

    Trước mặt Chiêu vương không ai cản trở, gã thong thả đánh cầu vào cầu môn, ghi điểm đầu tiên.

    “Chiêu vương gia, Sùng Cổ, đánh hay lắm!” Chu Tử Tần đắc ý reo lên, quên cả đề phòng người đối diện.

    Mọi người đều không ngờ một hoạn quan gầy gò thấp bé lại chơi kích cúc hay đến vậy, trong nháy mắt đã cướp được cầu trong tay Vương Uẩn mà ghi điểm. Khán giả xung quanh bỗng lặng phắc, sau đó rộ lên hoan hô.

    Hoàng Tử Hà mắt chẳng trông ngang, giục ngựa quay lại trước cầu môn, cẩn thận đề phòng.

    Vương Uẩn liếc cô, rồi chẳng nói chẳng rằng, quay người chạy về phía sân bên mình.

    Vừa mở màn đã có cao trào, đến hoàng đế cũng luôn miệng tán thưởng: “Giỏi lắm, Thất đệ tiến bộ ghê!”

    Quách thục phi phe phẩy quạt cho ngài ngự, cười rằng: “Thưa phải, cả tên tiểu hoạn quan kia nữa, thân thủ thực nhanh nhẹn.”

    Hoàng đế chăm chăm nhìn Hoàng Tử Hà, gật đầu: “Gã đó tên Dương Sùng Cổ, là người thân tín cạnh Quỳ vương.”

    “Ồ, lẽ nào là kẻ đã phá vụ án Bốn phương?” Quách thục phi đưa quạt che miệng cười: “Thần thiếp nghe nói ban đầu Chiêu vương từng xin Quỳ vương vị tiểu công công này, quả là tướng mạo tuấn tú, thoạt trông đã ưa.”

    Hoàng đế chỉ cười, không nói thêm nữa.

    Đồng Xương công chúa lại như đang nghĩ đâu đâu, tay chống cằm, khuỷu tay tì lên thành sập của phụ hoàng, cau mày nhìn mấy thớt ngựa xông xáo qua lại trên sân.

    Không khí trên sân lúc này hết sức sôi nổi, phò mã Vi Bảo Hoành vừa phá cầu môn, san bằng tỷ số, vung cao gậy về phía hoàng đế.

    Hoàng đế cười: “Linh Huy, phò mã nhìn con kìa.”

    “Người đầy mồ hôi, con không thèm.” Đồng Xương công chúa uể oải đáp.

    Mặt trời đã lên cao, tỏa nắng chói chang.

    Trận đấu vừa mở màn chưa đến một khắc, Hoàng Tử Hà đã thấy ngột ngạt.

    Không chỉ bởi trời nóng, mà cát bụi bay mù mịt đầy sân cũng làm người ta khó thở. Ai nấy đều đầm đìa mồ hôi, nhưng bầu không khí nóng nực này dường như lại làm tăng thêm hưng phấn, vó ngựa xông xáo quyện cùng bụi đất cuộn lên, đến đi như gió, khiến người xem chẳng kịp chớp mắt.

    Dưới nắng gắt, cô đứng chắn trước cầu môn, nhìn chằm chặp kẻ đang phi đến.

    Vương Uẩn.

    Y xông thẳng về phía cô, như cố tình.

    Hoàng Tử Hà nhìn y đầy cảnh giác, nắm chặt gậy kích cúc, thúc ngựa chạy tới nghênh chiến.

    Khi hai thớt ngựa sắp đụng đầu, Vương Uẩn đột ngột giơ tay, vung gậy thật cao, trong lúc đánh cầu về phía phò mã Vi Bảo Hoành, cây gậy cũng đồng thời sượt qua bên tai cô, đập vào cây trâm trên đầu.

    Theo bản năng, Hoàng Tử Hà cúi xuống né, rạp người trên lưng Na Phất Sa.

    Cô nghe thấy gậy sượt qua cây trâm trên đầu, keng một tiếng rất nhỏ.

    Mồ hôi lạnh bỗng túa ra đầy lưng, hòa lẫn mồ hôi vì nóng nực, khiến cô sởn hết gai ốc. Nếu cô né chậm một chút, chỉ một chút thôi, hẳn lúc này tóc tai đã xổ hết ra rồi. Có lẽ, người ta sẽ nhận ra, cô rất giống Hoàng Tử Hà đang bị truy nã.

    Hoàng Tử Hà ngẩng phắt lên, trông thấy Vương Uẩn đang ngồi chễm chệ trên ngựa, nghiêng đầu liếc mình.

    Qua màn bụi đất, cô trông thấy ánh mắt Vương Uẩn lạnh băng, tăm tối.

    Chẳng đợi cô ngồi thẳng dậy, bên sân đã rộ lên tiếng hoan hô. Phò mã Vi Bảo Hoành lại đánh vào một quả.

    Chu Tử Tần cưỡi ngựa chạy đến cạnh cô, hỏi: “Không sao chứ?”

    “Không sao.” Hoàng Tử Hà cau mày đáp.

    “Vương Uẩn đúng là, suýt nữa đánh trúng đầu công công.” Chu Tử Tần càu nhàu, “Xem ra hắn ta ở Tả Kim Ngô Vệ, bị đám thô lỗ đó làm hư rồi.”

    Hoàng Tử Hà không tiếp lời, chỉ nắm lấy cây trâm trên tóc, ghim thật chặt: “Không có gì mà.”

    Chưa dứt câu, lại nghe thấy người xem xôn xao cả lên.

    Đám người trên sân ngoái đầu nhìn, ra là Quỳ vương Lý Thư Bạch từ ngoài đi vào, y không cưỡi ngựa, mà giao Địch Ác cho người bên cạnh dắt.

    Hoàng Tử Hà thoáng ngẩn ra, Trương Hàng Anh lại gần cô, căng thẳng hỏi: “Chuyện đó… Sùng Cổ, vương gia đến kìa.”

    Hoàng Tử Hà liếc Lý Thư Bạch rồi nắm chặt cây gậy trong tay, kéo ngựa quay đầu: “Cứ kệ đi, đánh xong trận này rồi nói.”

    Lý Thư Bạch hành lễ tham kiến hoàng đế, hoàng đế liền sai người kê thêm ghế để y ngồi. Quách thục phi và Đồng Xương công chúa đều lùi lại, nhường y ngồi phía sau cách hoàng đế chừng nửa bước.

    “Tên Dương Sùng Cổ kia đánh hay lắm.” Hoàng đế khen.

    Lý Thư Bạch nhìn mấy thớt ngựa tiếp tục xông xáo trên sân, bình thản đáp: “Hắn sức yếu, xem chừng không cầm cự nổi nửa canh giờ nữa đâu.”

    Hoàng đế cười nói: “Nhưng cũng có thể diện lắm, nghe nói hắn mời được cả Chiêu vương Ngạc vương đến hỗ trợ, để giúp bạn hắn vào Tả Kim Ngô Vệ kia đấy.”

    Ánh mắt Lý Thư Bạch dừng ở Trương Hàng Anh, y nhíu mày, song chỉ đáp: “Đệ nghĩ có lẽ Thất đệ Cửu đệ hôm nay rảnh rỗi đến chơi với bọn họ thôi.”

    Tiểu Hà của Chu Tử Tần vốn nhu mì, sơ ý bị một con ngựa đen của Tả Kim Ngô Vệ đá phải, đau đớn lồng lên chạy ra ngoài sân, suýt nữa làm gã ngã nhào.

    “Đồ hèn! Đâu ra cái thói giở trò với ngựa người ta hả?!” Chu Tử Tần kêu toáng lên.

    Hoàng Tử Hà đang phòng thủ, nghe gã hét, bất giác đưa mắt nhìn sang.

    Vương Uẩn đứng đối diện lại chẳng thèm quan tâm đến đám người đang tranh cầu, thúc ngựa lao thẳng về phía cô.

    Na Phất Sa được huấn luyện kỹ càng, trong khoảnh khắc thớt ngựa kia lao tới, bỗng chồm hai chân trước lên, lấy hai chân sau làm trụ, xoay mình sang trái, tránh cú va chạm đó.

    Song trong khoảnh khắc hai thớt ngựa lướt qua nhau, Vương Uẩn đã áp sát Na Phất Sa.

    Hầu như không ai để ý đến họ. Người xem đang reo hò ầm ĩ, Ngạc vương Lý Nhuận vừa vung gậy đánh ngang, trúng ngay trái cầu trong tay Vi Bảo Hoành, cầu tức thì bay vụt về phía sân bên kia.

    Ánh mắt mọi người dán chặt vào quả cầu, nhìn nó bay qua cả nửa sân đấu, Chu Tử Tần bên đó đang lồm cồm bò lên lưng ngựa, song Trương Hàng Anh đã định thần lại ngay, đuổi theo quả cầu về phía cầu môn bỏ trống.

    Giữa không khí bừng bừng hứng khởi, chỉ mình Lý Thư Bạch nhìn về phía này sân. Hai thớt ngựa của Vương Uẩn và Hoàng Tử Hà, giữa lúc không ai để ý, đang áp sát vào nhau bên ngoài cầu môn.

    Hoàng Tử Hà giục Na Phất Sa, quay đầu ngựa toan lảng ra.

    Song Vương Uẩn lại thúc ngựa đuổi theo sau, chỉ cách cô nửa thân ngựa, gần đến nỗi, giữa tiếng reo hò nhốn nháo, cô vẫn nghe được giọng khẽ khàng của y: “Nghe nói tài kích cúc của Hoàng Tử Hà, vị hôn thê của ta, giỏi nhất đất Thục.”

    Hoàng Tử Hà sững người, vội ghìm cương lại.

    Tiếng hoan hô dậy lên khắp sân, Trương Hàng Anh đã đánh cầu bay thẳng vào cầu môn.

    Nhưng dường như, Vương Uẩn không hề trông thấy thắng bại trên sân đấu. Giọng y vẫn từ phía sau truyền đến, bình tĩnh đến gần như lạnh lùng: “Ngươi xem, trên sân náo loạn thế này, rất dễ xảy ra chuyện gì đó. Chỉ cần ta sơ ý, làm tóc ngươi xổ ra, hoặc là…”

    Ánh mắt y dừng trên mặt Hoàng Tử Hà, tóc cô bết mồ hôi dính vào mặt, lớp phấn vàng cũng loang lổ vì mồ hôi, thoạt nhìn thì lem luốc bụi đất, nhưng lại loáng thoáng thấy được làn da nõn nà bên dưới.

    “… Hoặc không cẩn thận, kéo rách áo ngươi thì sao?”

    Thứ phải đến, rốt cuộc cũng đến rồi.

    Hoàng Tử Hà bất giác cắn môi, ngoái lại nhìn y, miễn cưỡng đáp: “Thứ cho nô tài ngu độn, không hiểu Vương đô úy đang nói gì.”

    Y chẳng để tâm, chỉ nhìn chằm chằm vào cô, hỏi: “Tại sao hả?”

    “Thưa, tại sao gì cơ ạ?”

    “Rốt cuộc nhà họ Vương thiếu cái gì…” Vương Uẩn từ từ hạ cây gậy xuống, dằn từng tiếng, “mà đến nỗi, Hoàng Tử Hà thà giết cả nhà, cũng không chịu gả cho ta?”

    Ba bốn thớt ngựa vượt qua họ, lại bắt đầu một lượt tấn công và phòng thủ mới.

    Chu Tử Tần cao giọng gọi: “Sùng Cổ, mau quay về phòng ngự đi!”

    Chiêu vương Lý Nhuế cười: “Vương Uẩn đừng có uy hiếp dụ dỗ Sùng Cổ thua trận nữa, ngươi xem sắc mặt hắn khó coi chưa kìa.”

    Vương Uẩn quay lại cười lớn với gã: “Đâu có, tôi thấy hắn giỏi kích cúc, nên muốn hẹn nhau so tài đấy chứ.”

    Đoạn y ngoái đầu nhìn cô, hạ giọng thật khẽ, để chỉ mình cô nghe được: “Giờ Dậu đêm nay, xin mời tới phủ.”

    Hoàng Tử Hà bất giác siết chặt tay cầm cương, dây cương hằn lên tay cô thành một vệt trắng bệch.

    Ánh mắt y nhìn cô khiêu khích, cây gậy trong tay chênh chếch trỏ xuống đất.

    Cuối cùng, cô cắn môi, khẽ gật đầu.

    Vương Uẩn hơi nhếch khóe môi lên, thoáng lộ nụ cười, rồi lập tức kéo cương ngựa quay đầu đi thẳng.

    Lý Thư Bạch đứng dậy, ra hiệu cho lệnh quan.

    Mọi người trên sân đang ngơ ngác không hiểu sao lại dừng trận đấu, thì thấy Lý Thư Bạch ngoắc tay gọi Hoàng Tử Hà.

    Cô bèn thúc ngựa chạy về phía y. Giữa ngày hè nóng nực, lại chơi kích cúc đến tận bây giờ, cô đã mồ hôi như tắm, lồng ngực phập phồng gấp gáp. Dù sao cũng là nữ tử, sức lực không bì nổi nam nhân, đấu đến giờ, cô đủ mệt lắm rồi.

    Lý Thư Bạch đã thay trang phục kích cúc đỏ rực, sai người dắt Địch Ác tới, tung mình nhảy lên ngựa hô lớn: “Đổi người.”

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc.

    Lý Thư Bạch chẳng buồn nhìn cô, chỉ liếc Trương Hàng Anh đang căng thẳng ngó sang, lạnh lùng buông một câu: “Sức đã yếu còn làm liều.”

    Hoàng Tử Hà câm nín, ngẩng đầu nhìn lên Lý Thư Bạch trên ngựa, trao gậy kích cúc cho y.

    Y quay lưng về phía ánh dương chói gắt, gương mặt ngược sáng không trông rõ đường nét, chỉ thấy đôi mắt lấp lánh như sao. Cô nghe thấy giọng y bình thản lướt qua bên tai: “Dám giúp đỡ kẻ đã bị ta đuổi, lát nữa ngươi liệu mà ăn nói.”

    Hoàng Tử Hà thót tim, song Địch Ác đã lao vút đi, xông thẳng vào sân.

    Quỳ vương Lý Thư Bạch vừa vào sân, cục diện liền thay đổi hoàn toàn. Điểm số đôi bên vốn ngang ngửa nhau, chỉ trong nháy mắt đã bị kéo dãn, Vương Uẩn cùng phò mã liên thủ cũng không chống đỡ nổi y.

    Địch Ác dũng mãnh vô song, xông pha trên sân như một ánh chớp đen, giữa màn bụi đất mù mịt, chỉ thấy Lý Thư Bạch khoác áo đỏ, vung gậy, đánh cầu chuyền cầu đều tiêu sái linh hoạt, rong ruổi dọc ngang, không chút nương tay.

    Vi Bảo Hoành gượng cười bàn với Vương Uẩn: “Quỳ vương khí thế mạnh quá, bất luận thế nào cũng phải chặn đường cầu của vương, kìm bớt nhuệ khí lại, có vậy phe ta mới có cơ hội.”

    Vương Uẩn gật đầu, hai người bèn chia ra hai phía trái phải giáp công, lại gọi thêm ba kẻ nữa đến, hòng chặn đứng thế công của Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạch bị năm người bao vây, vẫn thản nhiên như không, chỉ ngoảnh lại nhìn Lý Nhuế ra hiệu phối hợp, rồi khẽ gẩy cây gậy, khéo léo hất cầu băng qua mười cặp vó của năm con ngựa đang chạy quanh, lăn thẳng về phía Chiêu vương.

    “Cướp cầu!” Vi Bảo Hoành hét lớn, đang định truy kích thì thấy Lý Thư Bạch lật mình khom người xuống, chỉ móc một chân vào bàn đạp, cả người nhẹ nhàng vươn ra như chim én, cây gậy trong tay vung lên, chặn đứng gậy của phò mã vừa vung được nửa chừng, thuận thế giật lại một cái, gậy của phò mã tức thì bật ngược, đập vào quả cầu, khiến nó chuyển hướng.


    Cầu đổi hướng, bay sượt qua đầu ngựa Vương Uẩn, nhằm thẳng về phía Trương Hàng Anh đang giục ngựa phi tới.

    Trương Hàng Anh điều khiển ngựa rất linh hoạt, ứng biến lại nhanh, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đã giơ gậy chặn cầu lại rồi đánh thẳng vào cầu môn.

    “Hay lắm! Tứ đệ thường ngày không thích chơi kích cúc, ra là giấu nghề! Cả tên nhóc ghi điểm kia nữa, phản ứng nhanh nhẹn lắm, thân thủ cũng không tệ!” Hoàng đế vỗ lên tay ghế tán thưởng.

    Đồng Xương công chúa hừ một tiếng đứng dậy, cao giọng gọi phò mã: “A Vi!”

    Vi Bảo Hoành vội xuống ngựa, rời sân chạy về phía nàng.

    Song khi gã đến nơi, Đồng Xương công chúa đã ngồi xuống, chỉ nhướng mắt hỏi: “Hằng ngày chẳng phải chàng vẫn tự khoe tài đánh kích cúc ư? Hôm nay coi như ta đã được chứng kiến rồi.”

    Vi Bảo Hoành bị mai mỉa, chỉ biết cười trừ: “Công chúa nói phải lắm, hôm nay ta đánh tệ thật…”

    “Linh Huy không nhìn ra đấy thôi, A Vi sợ làm mất mặt chúng ta trước hoàng thượng, nên đâu có dùng hết sức…” Chiêu vương ra uống nước, tươi cười đi đến giảng hòa, “Mà thôi, đàn ông đánh cầu, cháu ngồi xem là được, đừng nói nhiều kẻo cát bụi bay vào miệng, có phải không?”

    Đồng Xương công chúa bực bội liếc gã, giọng điệu đầy khinh mạn: “Thưa phải, cũng xin Cửu thúc nương tay với phò mã.”

    Người trên sân đều xuống ngựa nghỉ ngơi, bỏ đám ngựa lại trong sân. Địch Ác dồi dào sức lực, hung hăng chạy khắp nơi gây sự với mấy con ngựa khác, đến nỗi chúng phải co cụm lại một góc sân. Thấy vậy, mọi người đều cười ồ lên, mấy kẻ vừa bị cướp cầu cũng quên cả bực bội.

    Hoàng Tử Hà lăng xăng bưng trà rót nước cho tất cả, ngoảnh lại thấy phò mã Vi Bảo Hoành đang cúi đầu nhìn xuống đất, dưới ánh nắng chói chang, giữa bụi đất mịt mù, gương mặt hắn tái xanh, răng nghiến chặt khiến quai hàm bạnh ra.

    Mồ hôi lăn dài trên mặt hắn, khiến Hoàng Tử Hà cứ ngỡ hắn sẽ không kiềm chế nổi nữa, nào ngờ khi giọt mồ hôi nhỏ xuống mu bàn tay, hắn vẩy tay giũ đi, đồng thời, dường như cũng rũ sạch nét mặt đáng sợ vừa rồi, lại nở nụ cười tươi tắn thường thấy, đón lấy ly trà từ tay cô: “Đa tạ. Công công đánh hay lắm.”

    “Sùng Cổ quả nhiên lợi hại.” Ngạc vương cũng cười khen.

    Chu Tử Tần góp lời: “Sau này, hằng sáng theo ta chạy bộ một vòng quanh hồ Khúc Giang, bảo đảm sau một năm, công công sẽ vô địch Trường An!”

    Lý Thư Bạch thản nhiên buông một câu: “Hắn không rảnh!”

    Không khí đang sôi nổi, bị câu này của y giội cho một gáo nước lạnh, mọi người đành im lặng, tiếp tục uống trà. Chỉ mình Chu Tử Tần vẫn chưa chịu thôi, còn muốn cứu vãn bầu không khí: “Ha ha, đương nhiên rồi, dù giỏi đến đâu, cũng không bì nổi Quỳ vương…”

    Chẳng ai để ý đến gã.

    Mọi người nghỉ ngơi chừng một tuần trà, Chiêu vương lại giục: “Tiếp tục đi thôi.”

    Ai nấy lục tục lên ngựa. Lệnh quan phất cờ. Trong tiếng hí dài và tiếng vó ngựa giòn giã, mấy thớt ngựa lao về phía sân đối phương, chợt một con hí lên đau đớn, khuỵu chân trước xuống, ngã quỵ.

    Chính là thớt ngựa đen của phò mã, đang phi tự dưng ngã gục. Vi Bảo Hoành ngồi trên lưng ngựa, không kịp đề phòng, bị hất ngã văng xuống đất. May sao hắn thân thủ linh hoạt, phản ứng cực nhanh, trong khoảnh khắc rơi xuống đã cuộn tròn người, lăn mấy vòng dưới đất đến hết đà, mới khỏi bị đập đầu..

    Mọi người nhốn nháo cả lên, Đồng Xương công chúa đứng phắt dậy chạy thẳng xuống sân.

    Ngay cả hoàng đế và Quách thục phi cũng hối hả chạy đến. Hai đội kích cúc đều đã xuống ngựa, xúm quanh Vi Bảo Hoành.

    Lý Thư Bạch sai người gọi ngay thầy thuốc của Tả Kim Ngô Vệ đến. Thầy thuốc giúp phò mã nắn lại cánh tay sai khớp, sờ nắn khắp người kiểm tra một lượt, đoạn tuyên bố: “Vết thương nhẹ thôi, không phạm vào gân cốt.”

    Đồng Xương công chúa trông thấy vết rách trên mặt Vi Bảo Hoành, liền hỏi: “Liệu có để lại sẹo không?”

    “Bẩm công chúa, còn phải xem tĩnh dưỡng thế nào đã, có những người bẩm sinh dễ để sẹo, vậy cũng hơi phiền phức…” Thầy thuốc vội thưa.

    “Nếu không trị khỏi, thì ngươi tự biết thế nào rồi đấy!” Đồng Xương công chúa lạnh lùng, “Ta không cần phò mã mặt sẹo đâu!”

    “Linh Huy!” Quách thục phi nhíu mày, bất lực nạt nàng.

    Song hoàng đế lại nói: “Lời công chúa chính là lời trẫm, nghe chưa hả?”

    “Vâng, vâng.” Cả người thầy thuốc căng lên như dây đàn, run bần bật, tựa hồ không đứng nổi nữa.

    Vi Bảo Hoành ôm đầu nói: “Không sao, bị thương nhẹ thôi mà, trận này đã đấu xong đâu.”

    “Còn muốn đấu nữa? Suýt mất mạng rồi đó!” Đồng Xương công chúa giận dữ mắng.

    “Ty chức thấy không cần thiết nữa, hôm nay đến đây thôi.” Vương Uẩn đưa mắt nhìn Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạch trao quả cầu đang cầm cho Hoàng Tử Hà: “Kết thúc ở đây đi, xong việc là được.”

    Chu Tử Tần vội hỏi Vương Uẩn: “Còn chuyện của Trương huynh đệ…”

    Vương Uẩn nhìn Hoàng Tử Hà. Trông thấy ý tứ trong mắt y, cô thoáng do dự, nhưng cuối cùng cũng gật đầu.

    Vương Uẩn bấy giờ mới quay sang bảo Trương Hàng Anh: “Thân thủ của ngươi, hôm nay mọi người đều chứng kiến rồi, quả thật không tệ. Chúng ta sẽ xem xét bàn bạc hai hôm, ngươi cứ đợi đi.”

    Nghe được câu này, Chu Tử Tần mừng rỡ đập tay với Trương Hàng Anh.

    Mấy người bên này đang ăn mừng, còn bên kia Đồng Xương công chúa lại đang phát cáu, từ xa chỉ nghe tiếng nói lanh lảnh truyền lại. Nàng trỏ thớt ngựa đen quát lớn: “Chẳng ai hề hấn gì, sao phò mã lại trùng hợp như thế, suýt nữa là mất mạng rồi?”

    Mọi người đều biết Đồng Xương công chúa được nuông thành quen, mấy vương gia đành lờ đi coi như không thấy, đám người cùng đánh còn có thể an ủi Vi Bảo Hoành, chỉ tội cho mấy tên nài ngựa và trông nom sân kích cúc, phải cúi đầu nghe mắng.

    Hoàng đế vỗ vai Đồng Xương công chúa dỗ dành: “Linh Huy, con bình tĩnh lại đi.”

    Đồng Xương công chúa nghe vậy thì quay phắt lại, nắm lấy tay áo ngài ngự: “Phụ hoàng…”

    Giọng nàng run rẩy, toát lên nỗi kinh hãi không thể kiềm chế.

    Hoàng đế ngạc nhiên hỏi: “Sao thế?”

    “Phụ hoàng, mấy hôm trước… ở chùa Tiến Phúc, giữa cả đám người đông nghẹt, một tên hoạn quan hầu hạ bên cạnh con cũng tình cờ bị sét đánh chết. Giờ lại đến lượt phò mã… Phụ hoàng, lẽ nào người cho rằng, một loạt những chuyện này xảy ra quanh con, đều là tình cờ sao?” Đồng Xương công chúa kể lể, sắc mặt tái nhợt đi, “Hoạn quan hầu hạ bên cạnh, theo con đã mười mấy năm, lại bị thiêu sống! Giờ phò mã của con đột nhiên xảy ra chuyện này, nếu không phải chàng phản ứng kịp thời, hẳn hậu quả khó mà tưởng tượng!”

    Quách thục phi thở dài, nắm tay nàng trấn an: “Linh Huy đừng nghĩ nhiều, tất cả đều là sự cố ngẫu nhiên thôi…”

    “Thế nào là sự cố ngẫu nhiên? Người thân tín chết, phò mã cũng bị thương, lỡ như… lỡ như lần tới đến lượt con thì sao?” Đồng Xương công chúa nói mà mặt xám ngoét, cây trâm mành mành cài bên mai tóc rung lên, vạch thành một đường cong hoảng loạn.

    Thấy con gái kinh hãi như vậy, hoàng đế cũng động lòng, bèn vỗ về: “Sao lại thế được? Có phụ hoàng ở đây, kẻ nào dám động vào con gái trẫm?”

    Nàng nghiến răng thưa: “Nhưng, mấy ngày trước con có nằm mơ…”

    “Linh Huy, mơ chỉ là mơ thôi mà.” Quách thục phi cắt lời, ôm lấy vai nàng che chở: “Được rồi, nghĩ thoáng ra một chút thì không việc gì đâu.”

    Song Đồng Xương công chúa vùng khỏi tay Quách thục phi, bi ai nhìn hoàng đế rồi thưa: “Con gái muốn xin phụ hoàng một việc!”

    Hoàng đế gật đầu: “Con nói đi.”

    “Con nghe nói, tiểu hoạn quan Dương Sùng Cổ của phủ Quỳ vương rất giỏi phá án. Đám người ở Đại Lý Tự cứ luôn miệng nói là trời phạt, không tìm được chân tướng, nay xin phụ hoàng nhận lời với con, điều Dương Sùng Cổ tới điều tra hai vụ việc của phò mã và Ngụy Hỷ Mẫn.”

    Hoàng Tử Hà không ngờ Đồng Xương công chúa lại đột ngột đưa ra yêu cầu này, không khỏi sững sờ.

    Hoàng đế hiển nhiên cũng rất bất ngờ, nhìn sang Hoàng Tử Hà, trầm ngâm không nói.

    Nhưng Đồng Xương công chúa đã níu ngay lấy tay cha, lắc lắc như trẻ con nài nỉ: “Phụ hoàng! Con gái… con gái lo lắm, lỡ như có chuyện gì bất trắc, về sau phụ hoàng sẽ không thấy mặt con được nữa đâu…”

    “Đừng nói linh tinh!” Hoàng đế cắt lời.

    Đồng Xương công chúa ngước lên, tròng mắt đã ầng ậc nước, chỉ chực lăn xuống.

    Thấy con gái như thế, hoàng đế cũng thở dài bất lực, quay sang hỏi Lý Thư Bạch: “Tứ đệ, công chúa đã nói thế, chi bằng đệ tạm điều tên tiểu hoạn quan kia sang Đại Lý Tự, giúp Thôi Thuần Trạm điều tra vụ án chùa Tiến Phúc được chăng?”

    Lý Thư Bạch thản nhiên đáp: “Xin hoàng thượng thứ cho thần đệ ngu muội, vụ hỗn loạn ở chùa Tiến Phúc chẳng phải là vì trời giáng sấm sét làm nổ cây nến, dẫn tới cảnh náo động chen lấn giẫm đạp lên nhau ư? Cái chết của tên hoạn quan phủ công chúa ắt là vì vô tình bị đẩy đến gần cây nến đúng khi nó phát nổ, nên mới bất hạnh bén lửa.”

    “Nếu chỉ mỗi chuyện đó, thì có thể bảo là ngẫu nhiên, nhưng còn vụ của phò mã thì sao? Tại sao chỉ toàn xảy ra chuyện với người bên cạnh bản cung?”

    Nghe con gái nói năng vô lễ, Quách thục phi vội giật tay nàng. Hoàng đế cũng quở: “Linh Huy, sao lại nói thế với Tứ thúc?”

    Đồng Xương công chúa đành miễn cưỡng cúi đầu: “Tứ thúc, giờ bên cạnh Linh Huy liên tục xảy ra tai nạn, lẽ nào thúc lại tiếc một tiểu hoạn quan ư? Thúc cho Linh Huy mượn tạm hắn vài hôm đi. Vụ án Bốn phương lúc trước động trời như thế, hắn cũng phá được dễ dàng mà, để hắn tra xét rõ động tĩnh bên Linh Huy, rồi lại quay về phủ Quỳ vương, vội gì chứ?”

    Quách thục phi cau mày: “Linh Huy, ta nghe nói mấy hôm nữa Quỳ vương sẽ lên đường đến Thục, Dương công công là thân tín bên cạnh vương, con lại đòi giữ hắn lại giúp mình, có vẻ không ổn đâu.”

    “Người hầu hạ Tứ thúc nhiều như thế, bớt một tên có hề gì?” Đồng Xương công chúa đưa mắt nhìn Hoàng Tử Hà, “Dương công công ngươi nói xem, ngươi đồng ý, hay từ chối?”

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm giây lát, đoạn thưa: “Theo thiển ý của nô tài thì vụ chen lấn ở chùa Tiến Phúc đúng là do trời giáng sấm sét, tình cờ làm nổ cây nến. Căn nguyên vốn ở Thiên Lôi, dù nô tài muốn tìm ra hung thủ, cũng không thể lên trời tìm được.”

    Đồng Xương công chúa chỉ ngay vào Vi Bảo Hoành: “Vậy còn chuyện phò mã?”

    “Ngựa do phò mã tự dắt, lúc trước cũng từng đổi ngựa, theo nô tài thấy, có lẽ cũng là sự cố ngẫu nhiên thôi.”

    “Ngẫu nhiên, ngẫu nhiên cái gì, ta không tin có nhiều cái ngẫu nhiên như thế!” Đồng Xương công chúa đùng đùng nổi giận, gương mặt thanh tú đẹp đẽ toát lên vẻ hùng hổ hung tợn, mắt trợn trừng nhìn Hoàng Tử Hà, quát lớn: “Đã vậy, ta phải tùng xẻo tên nài ngựa suýt nữa hại chết phò mã! Còn nữa, tất cả đám nài ngựa trong nha môn Tả Kim Ngô Vệ, đều phải chịu trách nhiệm!”

    “Linh Huy, con bình tĩnh chút đi!” Lần này, cả Quách thục phi cũng phải cau mày, kéo con gái lại.

    Nào ngờ Đồng Xương công chúa hất tay Quách thục phi ra, nhìn dán vào hoàng đế, sắc mặt tái xanh, khiến người ta chỉ lo nàng giận quá sẽ ngất xỉu.









    Hoàng đế cũng hết cách, đành vỗ vỗ lên tay nàng, ánh mắt đầy thương xót, đoạn bất lực quay sang nhìn Lý Thư Bạch.

    Thấy tình cảnh đó, Lý Thư Bạch đành nói: “Đồng Xương đã chọn Dương Sùng Cổ, vậy tạm điều hắn đến Đại Lý Tự mấy ngày vậy, phụ đám người bên đó tra rõ vụ này. Nếu có thể làm yên lòng Đồng Xương thì tốt nhất. Nếu không tra ra kết quả, là do Dương Sùng Cổ năng lực có hạn, đến lúc ấy, hẳn Đồng Xương cũng có thể lượng thứ.”

    “Tứ đệ chịu lượng thứ, mới là tốt nhất.” Hoàng đế gật đầu.

    Đồng Xương công chúa hành lễ với Lý Thư Bạch, giọng miễn cưỡng: “Đa tạ Tứ thúc.”

    Quách thục phi cũng như trút được gánh nặng, ngài ngự và phi nhìn nhau bất lực. Song Hoàng Tử Hà đứng bên cạnh quan sát, lại thấy Quách thục phi có vẻ lo buồn.

    Đồng Xương công chúa hỏi ngay: “Không biết Dương công công định điều tra từ đâu?”

    Hoàng Tử Hà thoáng trầm ngâm, rồi thưa: “Nô tài định bắt đầu từ con ngựa kia.”

    Phò mã được người hầu phủ công chúa dìu đỡ, còn Đồng Xương công chúa lại lên xe loan của Quách thục phi, chầm chậm lăn bánh về phía phủ công chúa.

    Đồng Xương công chúa tựa vào chiếc sập trên xe, cuộn tròn người lại, bất động nhìn ra tấm rèm xe lay động. Tuy đã dùng rèm gấm dày, nhưng ánh nắng bên ngoài vẫn lấp loáng len vào, rung rinh theo tấm rèm, rọi lên mình hai người. Không khí trong xe đầy căng thẳng.

    Quách thục phi cau mày nhìn con gái hồi lâu, cuối cùng lên tiếng: “Con không nên để tên Dương Sùng Cổ ấy điều tra giúp.”

    Đồng Xương công chúa vẫn nhìn dán vào vệt nắng rọi qua rèm, thẫn thờ hồi lâu mới đáp: “Con cảm thấy, nhất định là Đậu Khấu tác quái.”

    “Dẫu là ả, thì Dương Sùng Cổ có thể thu phục oan hồn hay sao?” Quách thục phi nghiến răng hạ giọng gắt, “Ả sống bản cung còn chẳng sợ, lẽ nào chết đi rồi bản cung lại sợ ư?”

    “Dù Đậu Khấu đã chết, nhưng ai biết được người thân bạn bè của ả có kẻ nào nắm rõ chuyện này hay không? Huống hồ, mẫu phi đừng quên bên cạnh chúng ta vẫn có một người canh cánh việc Đậu Khấu.” Đồng Xương công chúa cắn môi, chậm rãi hỏi, “Mẫu phi có nhìn ra, trong những người bên cạnh chúng ta, kẻ nào ôm lòng khác không?”

    Quách thục phi khẽ thở dài, chau mày nhìn con gái: “Kẻ trong cung Thái Cực kia vẫn chưa nguôi lòng, ngày đêm nghĩ cách trở về cung Đại Minh kìa. Giờ đang là lúc quan trọng, mang tính bước ngoặt, chúng ta không thể để lộ mảy may sơ hở. Con lại cho tên Dương Sùng Cổ ấy ở bên mình điều tra, há chẳng phải dẫn sói vào nhà ư?”

    Đồng Xương công chúa cứng họng, hồi lâu mới hậm hực nói: “Ả Đậu Khấu lúc sống đã đê tiện, chết rồi còn gây họa!”

    “Có điều, Dương Sùng Cổ dính vào vụ này, cũng chưa chắc là chuyện xấu.” Quách thục phi phe phẩy cây quạt tròn trong tay, cười lạnh lùng: “Dù sao hắn cũng là người bên cạnh Quỳ vương, nếu có thể bắc cầu qua hắn, giành lấy sự ủng hộ của Quỳ vương, thì chuyện mẫu phi của con trở thành mẫu hậu chỉ còn tính bằng ngày, dù gì, hiện giờ trong triều cũng chỉ có Quỳ vương đối đầu được với kẻ đó thôi.”

    “Nhưng lỡ phụ hoàng phát giác việc chúng ta làm thì sao?”

    “Con sợ gì chứ, phụ hoàng yêu thương con như vậy, lẽ nào hạch tội được con ư?” Quách thục phi ngồi xuống cạnh con gái, vươn tay ôm lấy nàng, “Linh Huy, mẹ chỉ có mình con thôi, nếu con không đứng về phía mẹ, thì đời này… mẹ biết làm sao được?”

    Đồng Xương mấp máy miệng, nhưng lời muốn nói đã tiêu biến trong cổ họng, hồi lâu mới cúi đầu, miễn cưỡng đáp: “Bất kể thế nào, con cũng cùng mẹ tiến thoái.”

    Hoàng Tử Hà ngồi, Lý Thư Bạch đứng cạnh thớt ngựa đen ngã gục dưới đất, quan sát bốn vó nó.

    Chỉ khổ con ngựa đen cao lớn gãy gập chân phải trước, nằm gục dưới đất thở phì phò.

    Hoàng Tử Hà nhìn kỹ móng chân phải nó, nhận xét: “Móng sắt bị long(*).”

    (*) Tác giả chú thích: Việc đóng móng sắt cho ngựa ở Trung Quốc không rõ đã xuất hiện từ thời nào, ở đây dựa theo bức bích họa Đóng móng ngựa ở Đôn Hoàng trong những năm Khai Hoàng thời Tùy (581-600 SCN), cho rằng dưới thời Đường đã có một số người đóng móng cho ngựa.

    Chiếc móng ngựa này hình bán nguyệt, bằng sắt, mặt trên có gỉ, mặt dưới mài xuống đất đã có dấu hiệu mòn, nhưng nhìn tổng thể vẫn còn khá mới, song bị thiếu mất một chiếc đinh.

    Móng ngựa thiếu một cây đinh, cũng như người đi guốc gỗ không quai, vừa nhấc chân lên thì guốc đã văng ra, nếu rảo chân chạy, đương nhiên sẽ ngã.

    Hoàng Tử Hà ấn lên móng ngựa, nhìn kỹ chỗ lõm trên móng sắt để đóng đinh vào, chau mày: “Có dấu vết này.”

    Lý Thư Bạch liền ngồi xuống xem xét. Thấy trên chỗ lõm có một vết đập rất nhạt, cùng mấy vết xước mảnh như đầu kim, lẫn vào lớp gỉ sắt.

    Lý Thư Bạch nhíu mày: “Rõ ràng cách đây không lâu đã có kẻ nạy đinh ra, để lại dấu vết trên lớp gỉ sắt.”

    “Vấn đề đầu tiên bây giờ là, kẻ ấy có mục tiêu, hay chỉ ra tay bừa như thế, trúng ai thì trúng.” Hoàng Tử Hà giơ tay ấn vào cây trâm trên đầu, rút cây trâm ngọc bên trong ra, vạch trên mặt đất hai vạch. “Nếu có mục tiêu, thì rốt cuộc là nhằm vào phò mã, hay nhằm vào kẻ khác mà phò mã xui xẻo vạ lây? Nếu không nhằm vào ai cả, chỉ muốn có người bị thương trong trận đấu, thì mục đích là gì, kẻ nào được lợi trong việc này?”

    Lý Thư Bạch gật đầu, trầm ngâm.

    Cô lại vạch thêm hai vạch nữa: “Vấn đề thứ hai là, đinh đóng móng ngựa bị nạy, trong thời gian ngắn sẽ xảy ra vấn đề. Nhưng con ngựa này vào sân rất lâu mới sinh chuyện. Như vậy có hai khả năng, một là kẻ ấy đã dùng cách nào đó, khiến con ngựa vào sân hồi lâu mới long móng; hai là hung thủ mới ra tay cách đây không lâu, chính vào lúc phò mã ra ngoài sân nghỉ ngơi, bị Đồng Xương công chúa mỉa mai.”

    Lý Thư Bạch giơ tay trỏ vạch thứ nhất: “Nếu ra tay trước trận kích cúc, chúng ta phải tìm hiểu xem, hung thủ làm thế nào khiến phò mã chọn trúng con ngựa đó.”

    Dứt lời, ngón tay y lại chỉ sang vạch thứ hai, “Nếu ra tay giữa lúc nghỉ ngơi, thì chúng ta phải tra xem, bấy giờ ai đã đến gần con ngựa ấy.”

    Hoàng Tử Hà hồi tưởng lại tình cảnh khi đó, nhíu mày: “Sau khi Đồng Xương công chúa gọi phò mã đến, mọi người trên sân cũng lục tục xuống ngựa nghỉ ngơi. Nếu bấy giờ ai còn quẩn quanh cạnh ngựa người khác, nhất định sẽ bị để ý.”

    “Không ai có hành động gì khác lạ cả.” Lý Thư Bạch khẳng định. Mắt quan sát của y rất sắc sảo, chỉ nhìn qua là nhớ kỹ, không thể quên được.

    “Huống hồ tôi còn nhớ, bấy giờ sai dịch chăm sóc ngựa định cho bầy ngựa nghỉ ngơi dưỡng sức một lát, nhưng Địch Ác lại gây chuyện, khiến cả đám ngựa phải co cụm vào góc sân, sai dịch cũng không vào nữa.” Hoàng Tử Hà gật đầu bổ sung.

    “Vì vậy, xem ra điều thứ nhất có khả năng hơn.” Lý Thư Bạch nhận xét.

    Hoàng Tử Hà khẳng định, “Vậy thì, vấn đề cần lý giải nhất hiện chính là, hung thủ làm thế nào để khiến phò mã chọn đúng con ngựa ấy.”

    “Hơn nữa, còn là sau khi Chu Tử Tần yêu sách, đòi mượn con ngựa đầu tiên Vi Bảo Hoành chọn.”

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm: “Còn khả năng nào khác không, ví như ngay từ đầu hung thủ đã tính đến việc loại trừ thớt ngựa tốt nhất kia? Vương gia đến muộn không biết chứ, trước khi mở màn, vốn dĩ phò mã đã chọn thớt ngựa nâu của Trương Hàng Anh, nhưng Chu Tử Tần lại đòi mượn, nên phò mã mới đổi sang con này. Như vậy thì, phải có nhiều trùng hợp, mới có thể khiến phò mã cưỡi lên con ngựa này.”

    “Hiện giờ phò mã là Quang lộc đại phu, hơn nữa là khách mời đến, theo tình theo lý, đều phải là người đầu tiên được chọn ngựa. Vậy mà hung thủ lại không ra tay với thớt ngựa nâu kia, nên mục tiêu của hắn có lẽ không phải phò mã. Lẽ nào chúng đã tính trước được Trương Hàng Anh không có ngựa, và Chu Tử Tần sẽ mượn ngựa của Tả Kim Ngô Vệ?”

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi lắc đầu: “Thớt ngựa này là do phò mã tiện tay chọn lấy, hơn nữa trông cũng chẳng xuất chúng gì, chẳng ai cho rằng nó có thể xếp vào hàng thứ hai cả.”

    Đến đây, mọi suy luận đều đã rơi vào ngõ cụt, chẳng tìm thấy lối ra.

    Hai người đành tạm thời đứng dậy, rời khỏi sân kích cúc.

    Mọi người đang cởi y phục kích cúc tại chỗ nghỉ cạnh sân đấu, chuẩn bị nghỉ ngơi rồi ra về.

    Chiêu vương đã chuẩn bị sẵn, sai người bày những thứ mình đem đến ra. Một chậu đá lạnh lập tức được đặt lên bàn, hơi lạnh bốc lên nghi ngút như sương khói.

    Người hầu lần lượt bày chén thủy tinh, chuẩn bị rót rượu. Tiếc rằng mấy tên hoạn quan bưng vò rượu không vững tay, mấy lần làm sánh ra ngoài chén.

    “Để tôi.” Trương Hàng Anh nói, rồi đón lấy vò, xách bằng một tay. Thân hình gã cao lớn, lực tay rất mạnh, ôm vò rượu hơn trăm cân, nói rót là rót, nói ngừng là ngừng, nhẹ nhàng như không.

    Chiêu vương vui vẻ đặt chén thủy tinh lên chậu đá cho mát, rồi quay sang hỏi Trương Hàng Anh: “Ngươi tên gì ấy nhỉ, Trương Hàng Anh à? Thân thủ khá lắm, thế này đi, nếu Tả Kim Ngô Vệ không cần ngươi, thì để cho ta! Ngươi cứ theo hầu ta, hằng ngày rót rượu cho ta cũng được!”

    Trương Hàng Anh vốn tính rụt rè, lại không giỏi ăn nói, nên chỉ biết cười ngượng nghịu.

    Ngạc vương bưng cho Lý Thư Bạch một ly rượu bồ đào vừa ướp đá trước tiên: “Tứ ca, đây là rượu bồ đào Cửu đệ lấy từ Thổ Hỏa La Tây Vực đấy, nghe nói phải chưng ba lần, phơi ba lần. Sắc rượu rất đẹp, huynh nếm thử xem.”

    “Khá đấy.” Lý Thư Bạch chỉ nói hai tiếng gọn lỏn, nhưng cũng đủ làm Chiêu vương nở mày nở mặt, quay sang cười bảo Ngạc vương, “Thất ca chỉ thích uống trà, biết thế nào được cái hay của rượu. Nhất là sau khi đánh cầu, lại uống mấy ly rượu ướp lạnh, đời đến thế này, chỉ còn thiếu một chiếc bánh cổ lâu mà thôi, tốt nhất là bánh mới ra lò còn nóng hổi ấy.”

    Cổ lâu là loại bánh thịt dê rất thịnh hành đương thời, được người trong kinh ưa chuộng. Chu Tử Tần đang săm soi cái móng ngựa, nghe thấy liền ngẩng lên nói: “Tôi cũng thích bánh ấy lắm, hay là đến nhà tôi đi, tôi bảo đầu bếp làm.”

    Chiêu vương lắc đầu: “Giờ mới sai làm thì đợi đến bao giờ.”

    Thấy Trương Hàng Anh đứng bên cứ ngập ngừng, Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Trương nhị ca, sắp đến giờ Ngọ rồi, huynh không về trước ư?”

    Trương Hàng Anh vội đáp: “Sáng này lúc đi, tôi… cô em tôi nói hôm nay là ngày trọng đại, muốn làm bánh cổ lâu đợi tôi về nhà ăn. Hay là… giờ tôi về nhà lấy.”

    “Ồ?” Chiêu vương háo hức hỏi, “Em ngươi làm ngon không?”

    “Tiểu nhân ăn thấy rất ngon, có điều thịt dê đắt đỏ, thường ngày cũng không hay làm…”

    “Vậy đừng về lấy nữa, bánh cổ lâu phải lấy từ lò ra ăn ngay lúc còn nóng hổi mới ngon!” Đoạn Chiêu vương chỉ vò rượu bồ đào và bàn ghế, “Đi thôi đi thôi, mau dọn dẹp đồ đạc, tới đó ăn luôn!”

    Hoàng Tử Hà dở khóc dở cười, đành theo ba vị vương gia rời bãi kích cúc.

    Đột nhiên, cô sực nhớ ra một chuyện: “Trương nhị ca, chẳng phải huynh chỉ có một huynh trưởng thôi sao? Lấy đâu ra em gái thế?”

    Trương Hàng Anh đỏ bừng mặt, cúi gằm đầu xuống: “Em… em họ… họ xa… ấy mà.”

    Lý Thư Bạch đương nhiên không muốn đi cùng đám ô hợp này, vừa ra ngoài sân đã buông một câu “có việc bận” rồi chia đường, đi thẳng đến Trung Thư Tỉnh.

    Mấy người còn lại vừa cưỡi ngựa vừa cười đùa, nô nức kéo đến phường Phổ Ninh.

    Chu Tử Tần thì thào với Hoàng Tử Hà và Trương Hàng Anh: “Các người biết không? Đầu năm nay, có lần Chiêu vương nửa đêm tỉnh giấc, đột nhiên nổi hứng muốn nghe Ngọc Chi cô nương ở Giáo Phường Ty thổi sáo, nhưng lúc ấy đang trong giờ giới nghiêm, gia cảm thấy nếu ngang nhiên vi phạm thì không hay lắm, bèn…”

    Kể đến đây, gã cười hinh hích, rồi không nói tiếp nữa.

    Chiêu vương đi trước thính tai nghe thấy hết, bèn ngoái lại cười mắng: “Tên khốn Chu Tử Tần này, chuyện xằng bậy ấy cứ kể đi kể lại mãi, làm mất hết thể diện bản vương! Chẳng phải chỉ là bản vương cải trang thành người điểm canh lẻn ra, sau đó bị đội tuần đêm giữ lại, phải ở trong nha môn một đêm, đến sáng hôm sau Vương Uẩn tới mới thả ra hay sao?”

    Ngạc vương Lý Nhuận nghe vậy cũng phì cười, đôi mày dãn ra, nốt ruồi son nằm giữa càng đẹp đến rúng động lòng người, “Cửu đệ đúng là hoang đường, đệ mặc đồ của người điểm canh rồi bị bắt lại, đời nào người Tả Kim Ngô Vệ chịu tin đệ.”

    “Thì bởi vậy, nên hôm nay đè bẹp được khí thế của chúng, đệ thật hả dạ!” Chiêu vương vung roi cười khanh khách, “Dương Sùng Cổ, lần sau nếu gặp chuyện hay thế này, nhớ gọi ta đấy nhé!”

    Nhìn vị vương gia lêu lổng đằng trước, Hoàng Tử Hà đành lờ đi như không nghe thấy, cười ảo não, quay đầu sang bên.
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 5 - Mực nồng bóng nhạt
    Đám người ngồi lê đôi mách vẫn túm tụm dưới gốc hòe ở phường Phổ Ninh, hăng say buôn chuyện: “Chao ôi, con thứ nhà lão Trương hôm qua bị Đoan Thụy Đường đuổi về rồi, các người có biết không?”

    “Đuổi thì đuổi, giờ người ta đã tự dưng nhặt được một cô dâu xinh đẹp, còn hơn chán vạn cặm cụi làm công ở đó cả đời!”

    “Này này, đừng có nói, ta thấy tiểu cô nương đó hơi không bình thường, nửa đêm hôm qua, ta còn nghe thấy tiếng con gái khóc nỉ non vẳng ra từ sân nhà họ! Đáng thương thật… Có phải bị Trương Hàng Anh đánh không nhỉ?”

    “Nhẽ đâu thế? Thực không nhìn ra gã lại là người như thế mà…”

    Nghe người ta bàn tán, Trương Hàng Anh chỉ biết bất lực ngượng ngùng nhìn họ, ấp úng giải thích: “Thực… thực ra người họ nói tới là A Địch, cô ấy không phải họ hàng xa nhà tôi, chẳng qua tôi thấy cô ấy không cha không mẹ, bị ngã trên núi, rất đáng thương, bèn cứu đem về đây. Chúng tôi… chúng tôi rất khăng khít, chuẩn bị mấy tháng nữa sẽ… sẽ…”

    Thấy gã đỏ bừng mặt, mọi người hiểu ra ngay, Chu Tử Tần vừa chơi cùng gã một trận kích cúc, nghiễm nhiên đã coi như huynh đệ, lập tức cao giọng: “Được rồi, khi nào huynh thành thân, chúng ta sẽ tới uống rượu mừng!”

    “Vẫn chưa định ngày… Chủ yếu là giờ trong nhà tôi không có tiền. Các vị, mời đi bên này.” Trương Hàng Anh ngượng đến nỗi chỉ muốn tìm cái lỗ chui xuống, hối hả dẫn bọn Hoàng Tử Hà về nhà mình.

    Nhà họ Trương không lớn, nhưng được mảnh sân rộng, nhà cửa gọn gàng đâu ra đấy.

    Ngoài sân là hàng rào râm bụt, bên trái một gốc lựu, bên phải một giàn nho, dưới giàn nho bày bộ bàn ghế đá. Cạnh nhà còn đào ao, dẫn nước từ kênh vào, nuôi ba bốn con cá chép đỏ, bên bờ ao trồng một bụi xương bồ, mấy khóm diên vĩ, quang cảnh đẹp đẽ trong lành.

    Một thiếu nữ đang ngồi bên bờ ao rửa mấy bông râm bụt trắng mới hái, nghe tiếng người vào bèn đứng lên ngoảnh lại, tức thì giật nảy mình, sợ sệt nhìn đám người trước mặt, mãi tới khi trông thấy Trương Hàng Anh mới thở phào, lúng túng cất tiếng: “Trương nhị ca.”

    “A Địch, ừm… sáng nay lúc đi, muội có nói sẽ làm bánh cổ lâu cho ta, sau đó họ, họ là…”

    “Là bạn của Trương nhị ca, nghe nói cô nương làm bánh rất ngon, nên tới nếm thử.” Chiêu vương cười cười, nhanh miệng nói tiếp, chẹn họng Trương Hàng Anh.

    Thiếu nữ tên A Địch trông rất thanh tú, chẳng khác đóa râm bụt đẫm nước trong tay, tuy không phải danh hoa diễm lệ, song lại toát lên khí chất thanh tân yểu điệu động lòng người. Nàng có vẻ rất sợ người lạ, chỉ khẽ gật đầu với cả bọn rồi cắm cúi vốc mấy bông râm bụt mới rửa trong tay, quay người đi thẳng vào nhà.

    Trương Hàng Anh vội mời cả bọn vào nhà ngồi, song Chiêu vương xua tay từ chối, sai người bày rượu ngay dưới giàn nho, còn mình thì ngồi xuống ghế đá bảo Ngạc vương: “Căn nhà này đẹp thật đấy, còn thú vị hơn trà thất của Thất ca!”

    Ngạc vương Lý Nhuận cười bất lực, ra hiệu cho cả Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà ngồi xuống.

    Trương Hàng Anh bưng từ trong nhà ra một chiếc bánh cổ lâu đường kính đến một thước, đặt lên bàn. Bánh nướng vàng ruộm giòn tan, thơm nức mũi, nhìn mà thèm rỏ dãi. Ai nấy vội bẻ ngay một miếng nếm thử, thấy mùi thịt dê quyện cùng lớp vỏ bánh giòn rụm, ăn vào ngon vô cùng, khiến người ta chỉ muốn thăng thiên, quả không phải mỹ vị trần gian.

    Cả đám người vừa đánh kích cúc xong, đang đói meo, nên càng thấy bánh ngon. Chiêu vương giành lấy gần một nửa, cầm tay ăn, vừa ăn vừa hỏi: “Trương Hàng Anh, bánh này do cô nương vừa nãy làm đấy à?”

    Trương Hàng Anh gật đầu thưa: “A Địch nói đang nấu thêm canh râm bụt, các vị cứ ăn thong thả, để tiểu nhân đi giúp cô ấy.”

    Dứt lời, gã chạy như bay vào bên trong. Hoàng Tử Hà cầm một miếng bánh, chậm rãi đi đến cửa nhìn vào, thấy A Địch cô nương kia đang đánh trứng cạnh bếp lò, Trương Hàng Anh ngồi bên nhóm lửa.

    Ngọn lửa bập bùng trong bếp, chợt một mảnh tro bay ra, dính vào mặt Trương Hàng Anh. A Địch khẽ gọi gã rồi chỉ chỉ vào má, Trương Hàng Anh ngẩng lên nhìn nàng, quẹt bừa mấy cái trên mặt, từ một mẩu tro, bị gã quệt thành một vệt dài.

    Thấy vậy, A Địch chỉ biết lắc đầu, ngán ngẩm bước đến, cúi xuống, dùng tay áo lau vệt tro cho gã.

    Trương Hàng Anh ngẩng đầu cười ngây ngô với nàng, dưới ánh lửa bập bùng, gương mặt gã thoáng hồng lên.

    Trước cảnh tượng ấy, Hoàng Tử Hà cũng bất giác mỉm cười. Nhớ lại mùa xuân năm nào đó, cũng có một người, khi trèo lên vách núi hái cho cô một đóa hoa đương nở rộ, bên má cũng lấm lem bụi đất.

    Bấy giờ cô cũng dùng tay áo lau cho hắn như thế, rồi đôi bên nhìn nhau cùng cười.

    Có lẽ nữ nhi dưới gầm trời này, đều như vậy cả.

    Nụ cười trên mặt chưa tắt, tim cô đã đau buốt. Nỗi đau như dao cùn cắt thịt, khiến cô phải vịn tường, từ từ ngồi xuống, ôm lấy đầu gối, gắng hít thở, cố giữ bình tĩnh.

    Người đó, đã đoạn tuyệt ân nghĩa với cô rồi.

    Còn cô, lại vì hắn mà trở thành hung thủ sát hại cả nhà, bị truy nã trên toàn quốc.

    Nếu không yêu hắn, có lẽ cha mẹ cô, anh trai cô, bà nội và chú cô vẫn sống vui vẻ ở Thục, những chuyện kinh khủng như ác mộng ấy, đều không xảy ra.

    “… Sùng Cổ, Sùng Cổ?”

    Chợt cô nghe tiếng Chu Tử Tần vang vang bên tai.

    Ngẩng đầu lên, quả nhiên bắt gặp gương mặt lo lắng và căng thẳng của gã: “Sùng Cổ làm sao thế?”

    “Tôi…” Cô từ từ định thần lại, đăm đăm nhìn Chu Tử Tần, hồi lâu mới nặn ra được một câu, “Có lẽ lúc nãy đánh cầu mệt quá.”

    “Ai da, công công thật hiếu thắng quá mà, may có Quỳ vương thay cho, bằng không khéo ngất lăn ra đấy mất.” Chu Tử Tần vừa nói vừa kéo cô ra ghế đá ngồi xuống, “Đến đây nào, uống ít canh đi, canh râm bụt tươi vừa ngọt vừa dễ ăn, nhất định công công sẽ thích!”

    Hoàng Tử Hà đón lấy chén canh từ tay gã, uống một hớp, gật đầu khen: “Ngon thực.”

    Ngạc vương cũng tấm tắc: “Vị còn rất tươi, ngon hơn mấy món canh hâm sẵn trên bếp cả ngày chỉ đợi bọn ta truyền dọn vào nhiều.”

    Chiêu vương hỏi Trương Hàng Anh: “Cô gái ấy tên A Địch đúng không? Ngươi hỏi xem cô ta có muốn vào phủ ta làm công không? Chỉ cần mỗi bữa ta đi đánh kích cúc, cô ta ở nhà làm bánh cổ lâu cho ta về ăn là được.”

    Hoàng Tử Hà bưng chén canh, câm nín.

    Hóa ra bản tính Chiêu vương rất thích phỗng tay trên người ta, hễ vừa mắt cái gì là chăm chắm muốn đem về nhà ngay. Tính cả lần của cô, thì đã ba lần Hoàng Tử Hà chứng kiến gã rắp tâm cướp người rồi.

    Song Trương Hàng Anh chỉ đáp: “Vương gia thứ tội, A Địch quả thật là do tôi nhặt về trong lúc đi hái thuốc trên núi tháng trước. Cô ấy gia thế không rõ, hằng ngày cũng chẳng ra khỏi cửa, tôi nghĩ không thể hầu hạ vương gia được.”

    Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi: “Gì cơ? Nhặt về được thật à?”

    “Đúng thế, bấy giờ cô ấy ngất xỉu trên đường, tôi đi hái thuốc trông thấy, bèn cõng về nhà…”

    Chu Tử Tần tị nạnh: “Tùy tiện nhặt ngoài đường cũng được một người, lại còn là cô nương xinh đẹp đáng yêu, nấu nướng ngon như thế, đúng là vớ bở mà!”

    Hoàng Tử Hà lại trầm tư hỏi: “A Địch cô nương lai lịch thế nào, nhà cửa ở đâu, tại sao lại ngất trên đường núi?”

    Trương Hàng Anh thoáng sửng sốt, rồi đáp: “Cô ấy… cô ấy không nói, nên tôi cũng không hỏi.”

    Hoàng Tử Hà thấy ánh mắt Trương Hàng Anh có vẻ né tránh, tựa hồ đang giấu giếm gì đó. Nhưng nghĩ lại thì cô chỉ là người ngoài, giờ hai người quấn quýt nhau như vậy, cần gì phải hỏi tới những chuyện đó cho thêm ưu phiền, làm rầy rà họ.

    Chu Tử Tần sực nhớ ra gì đó, vội nói: “Phải rồi Trương nhị ca, cuối tháng này cha ta bày tiệc đốt đuôi, mời cả hoàng thượng, đến lúc ấy nhất định phải nhờ cô ấy làm bánh cổ lâu mới được!”

    “Không vấn đề, làm xong tôi sẽ phi ngựa đưa tới ngay, thời tiết thế này, bảo đảm dọn lên mâm vẫn nóng hổi.”

    Mọi người đang tấm tắc ca ngợi tay nghề của A Địch, chợt thấy Ngạc vương Lý Nhuận thẫn thờ nhìn vào nhà, vẻ hoảng hốt.

    Dõi theo ánh mắt y, Hoàng Tử Hà phát hiện y đang dán mắt vào một bức tranh thờ treo trên án.

    Trong phòng khách, vốn có một bức tranh phúc lộc thọ hỉ, nhưng lại treo chồng một bức họa khác dài ba thước, rộng một thước lên trên. Chất liệu tranh rất tốt, là giấy gai vàng của Thục bồi trên lụa trắng, song bên trên lại chỉ vẽ loằng ngoằng mấy mảng mực đen, chẳng có đường nét, cũng chẳng nhìn ra hình thù gì, không giống tranh mà giống vết mực dây ra khi nghiên đổ.

    Nhìn bức họa ấy, gương mặt Ngạc vương Lý Nhuận tái dần đi.

    “Thất ca sao vậy?” Chiêu vương hỏi.

    Song Ngạc vương phớt lờ câu hỏi, run run trỏ bức họa, giọng điệu không giấu được vẻ ngập ngừng: “Bức tranh… bức tranh kia là gì thế?”

    Trương Hàng Anh ngoái lại nhìn, liền đáp: “Là cha tôi năm xưa vâng chỉ vào cung chẩn mạch cho tiên hoàng, được tiên hoàng ngự tứ.”

    Chiêu vương cười nói: “Tiên hoàng vẽ rất đẹp, sao có thể vẽ ra một bức thế này chứ.”

    “Đúng thế, hơn nữa bức tranh này có vết miết vò, tôi từng trộm nghĩ có lẽ chỉ là mảnh giấy lau bút của tiên hoàng, cha tôi nhặt về xem như trân bảo thế thôi, nếu không, mấy hình loằng ngoằng này có ý gì chứ?” Trương Hàng Anh vội góp lời, “Cha tôi xem bức tranh này như tính mạng vậy, chẳng thế ư, hôm nay biết tôi bị Tả Kim Ngô Vệ khảo nghiệm, ông ấy bèn treo tranh lên, bảo tôi thắp hương vái lạy, cầu tiên hoàng trên trời linh thiêng, phù hộ cho tôi được thông qua.”

    Nói rồi, gã quay người đi vào gỡ bức tranh xuống, chuẩn bị bỏ vào hộp cất đi. Ngạc vương Lý Nhuận đứng dậy theo vào, hỏi: “Ta xem qua được không?”

    “Đương nhiên rồi, thưa gia!” Trương Hàng Anh vội cung kính dâng bức họa lên.

    Thấy Ngạc vương Lý Nhuận quan tâm như vậy, mấy người kia cũng xúm lại, săm soi ba mảng mực trên đó.

    Chỉ thấy ba mảng mực lớn nhỏ khác nhau, nhem nhuốc chẳng theo bố cục gì. Hoàng Tử Hà nhìn ngang nhìn dọc hồi lâu vẫn không ra ý nghĩa. Nhưng khi Ngạc vương Lý Nhuận xoay bức vẽ đi, cô thoáng trông thấy một đốm đỏ thẫm chìm giữa màu mực đen, bèn vươn người nhìn thật kỹ. Tiếc rằng, nhìn lâu cũng chỉ thấy một chấm đỏ như mũi kim, còn lại đều loang lổ đen kịt.

    Thình lình, Chiêu vương vỗ tay reo lên: “Bản vương nhìn ra rồi!”

    Chu Tử Tần vội hỏi: “Chiêu vương gia nhìn ra gì vậy?”

    “Đây là ba người!” Chiêu vương trỏ ba mảng mực, hào hứng phân tích: “Các người xem, từ phải sang trái, đầu tiên là một người đang oằn mình giãy giụa trên mặt đất, mấy nét lem nhem bên cạnh, chính là ngọn lửa cháy rực! Nói ngắn gọn thì, đây là vẽ cảnh một kẻ đang bị lửa thiêu!”

    Nghe gã nói vậy, mọi người đều đổ dồn mắt vào mảng mực đó, dần dà cũng nhìn ra. Chu Tử Tần lại trỏ lằn dài ngoằn ngoèo phía trên vết mực hỏi: “Thế cái ngoằn ngoèo này là gì đây?”

    “Là khói…” Chiêu vương ngập ngừng nói được nửa chừng thì sực nhớ ra, bèn vỗ bộp vào vai Chu Tử Tần: “Là sét, sấm sét đó! Kẻ này bị sét đánh chết!”

    Trước mắt Hoàng Tử Hà bỗng hiện ra cảnh tượng ở chùa Tiến Phúc: Ngụy Hỷ Mẫn bị sét đánh trúng, quằn quại trong lửa, cuối cùng chết cháy.

    Chu Tử Tần cũng trầm ngâm: “Ô, tôi nhớ ra rồi, tên Ngụy Hỷ Mẫn ở phủ công chúa chẳng phải hôm trước bị sét đánh trúng mà chết cháy ư? Không ngờ lại giống hệt như trong bức tranh này!”

    “Trùng hợp thật!” Chiêu vương nói.

    Trương Hàng Anh cũng xen vào: “Nhưng bức họa này đã ở nhà tiểu nhân mười năm nay rồi, tiên đế qua đời cũng vừa tròn mười năm, tiểu nhân nghĩ chắc không có liên quan gì đâu.”

    “Đúng thế, tên hoạn quan kia mới chết vài hôm thì liên quan gì đến bức tranh từ mười năm trước chứ? Chỉ là trùng hợp thôi.” Chiêu vương thong thả nhận xét.

    Mọi người đều cho là phải, tức thì gạt Ngụy Hỷ Mẫn ra khỏi câu chuyện.

    Trí tưởng tượng của Chu Tử Tần thật bao la, sau khi được Chiêu vương khơi gợi, gã nhanh nhảu chỉ ngay mảng mực ở giữa, rêu rao: “Nói vậy thì tôi cũng nhìn ra rồi! Hình thứ hai, cũng là một người, các vị xem, những dọc dài này trông như cái lồng, nhốt người này bên trong, có lẽ là một tù nhân. Mấy đốm mực xung quanh, trông giống vết máu, có lẽ ám chỉ người này chết trong lồng.”

    Mọi người đều gật đầu khen phải, lại dồn mắt vào hình thứ ba. Hình này gồm hai vết mực một trên một dưới, vệt bên trên nhìn thế nào cũng không giống người. Mọi người đang chăm chú nhìn thì Trương Hàng Anh đã há hốc miệng ồ lên.

    “Ngươi nhìn ra rồi ư?” Ngạc vương Lý Nhuận hỏi.

    Gã gật đầu lia lịa, rồi căng thẳng đáp, “Tiểu nhân thấy… thấy cái này trông như… một con chim lớn nhào xuống mổ người, mà kẻ bên dưới hình như đang chạy trối chết… Giữa lớp mực đen hình như còn có một đốm đỏ, rất giống một vết thương nhỏ.”

    “Ừm, bản vương cũng nghĩ thế!” Chiêu vương gật đầu tán đồng.

    “Thì ra thế… Thì ra nội dung bức họa này là thế à?”Ngạc vương Lý Nhuận trầm tư lẩm bẩm.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày thắc mắc: “Nhưng nô tài vẫn không hiểu, vì sao tiên đế lại vẽ ra bức tranh này? Rốt cuộc ba hình vẽ này có ngụ ý gì chứ?”

    Vấn đề này đương nhiên không ai trả lời được. Ngạc vương Lý Nhuận cuộn bức tranh lại trả cho Trương Hàng Anh rồi nói: “Bất kể đây có phải ngự bút tiên đế hay không, nó cũng là thứ quan trọng với phụ thân ngươi, nên cất cẩn thận thì hơn.”

    “Vâng.” Trương Hàng Anh ôm cuộn tranh bỏ vào hộp, chuẩn bị bưng lên gác đặt vào chỗ cũ. Vừa quay người, gã bỗng sững sờ bắt gặp A Địch đang đứng thất thần ngay đầu cầu thang tầng trên.

    Hơn nữa, gã còn thấy rõ mồn một, vẻ mặt nàng không chỉ ngỡ ngàng, đau đớn, mà còn méo mó đi vì vui sướng, trông rất đáng sợ.

    Trước cảnh tượng ấy, Trương Hàng Anh chỉ biết ngây ra, vừa kinh hãi vì biểu cảm của nàng, lại sợ nàng đứng không vững sẩy chân ngã xuống, chần chừ một thoáng, gã rảo bước đi lên, chắn trước bậc cầu thang đầu tiên, đoạn hỏi: “A Địch, muội sao thế?”

    Ánh mắt đờ đẫn của A Địch dừng ở Trương Hàng Anh, song tâm trí vẫn đang trôi tận đâu đâu. Mãi tới khi trông rõ mặt gã, nét mặt nàng mới từ từ dãn ra, cúi gằm xuống, nghèn nghẹn đáp: “Muội nghe các vị nói… nói tới cảnh tượng cận kề cái chết trên bức họa, lại nhớ tới kẻ chết cháy trong chùa Tiến Phúc mà chúng ta thấy hôm trước, bỗng sợ quá, đến nỗi… ngây cả người ra.”

    “Ôi chao, không sao đâu, chúng ta chỉ thử hình dung thôi mà. Mọi người tiện miệng nói đấy thôi.” Gã an ủi nàng.

    A Địch gật đầu, từ từ ôm lấy hai vai ngồi xuống, lẩm bẩm nói khẽ: “Khi nào họ đi… Muội phải xuống sao thuốc cho bác trai.”

    “Thuốc của cha cứ để ta. Muội sợ người lạ thì cứ ở trên gác ấy.” Nói rồi, Trương Hàng Anh đặt chiếc hộp vào tủ khóa lại.

    Rời khỏi nhà Trương Hàng Anh, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần về cùng đường, bèn cáo từ Chiêu vương và Ngạc vương.

    Hoàng Tử Hà để ý thấy nét mặt Lý Nhuận rất lạ. Tiểu vương gia phiêu hốt như tiên, giờ đây lại thẫn thờ ngẩn ngơ, tuy vẫn gượng cười từ biệt bọn họ, nhưng ánh mắt cứ nhìn xa xăm, chẳng để thứ gì vào mắt.

    Bức họa kia rốt cuộc có điểm gì kỳ lạ, mà khiến Ngạc vương ngơ ngẩn như thế?

    Hoàng Tử Hà vừa nghĩ ngợi vừa cưỡi Na Phất Sa đi chầm chậm, men theo những tán hòe rợp bóng dọc đường, cùng Chu Tử Tần quay về.

    Đương giữa mùa hè, dưới tán hòe vô cùng mát mẻ. Mấy con chim trên cành thỉnh thoảng lại cất tiếng líu lo.

    Chu Tử Tần đi song song với cô, chợt vươn tay vỗ nhẹ lên đầu Na Phất Sa: “Sùng Cổ, thế này cũng đỡ lắm rồi, đừng lo nghĩ nữa.”

    “Hở?” Hoàng Tử Hà ngước nhìn gã.

    “Tuy tạm thời chưa thể tới Thục, nhưng chẳng phải Quỳ vương vẫn đợi công công ư, giải quyết xong việc của Đồng Xương công chúa, nói không chừng chúng ta có thể cùng lên đường.”

    Hoàng Tử Hà thở dài: “Công tử thấy đấy, cái chết của tên Ngụy Hỷ Mẫn phủ công chúa cũng giống vụ tai nạn của phò mã hôm nay, đều không có manh mối gì cả. Vụ phò mã còn để lại chút dấu vết, chứ vụ ở chùa Tiến Phúc thì trong thời gian ngắn khó mà biết có phải do người gây ra nữa không kia.”

    “Thì thế, nhưng hoàng thượng sủng ái Đồng Xương công chúa, công chúa bảo điều tra thì chúng ta phải tra thôi… Hay cứ điều tra bừa đi, mấy hôm nữa báo cáo đại khái là được.”

    Hoàng Tử Hà ghìm cương, nghĩ ngợi rồi nói: “Vẫn nên đến sớm xem sao.”

    “Xem gì cơ?”

    “Đến chùa Tiến Phúc, xem có chỗ nào cần chú ý không?”

    Dứt lời, cô vội quay đầu ngựa, chạy thẳng về phía chùa Tiến Phúc, Chu Tử Tần lật đật đuổi theo: “Đợi ta với, ta cũng đi!”

    Chùa Tiến Phúc hôm nay vắng ngắt, khác hẳn cảnh nhốn nháo hôm trước. Tuy đống ngổn ngang đã được dọn sạch, nhưng bãi cỏ bị xéo nát cùng những hoa cỏ gãy gập vẫn là minh chứng rành rành của vụ hỗn loạn.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đi qua cửa lớn, trông thấy hai nhà sư đang cầm mấy bao tải không đi về phía hồ phóng sinh, vừa đi vừa lắc đầu than thở.

    Chu Tử Tần liền hỏi: “Xin hỏi hai vị đại sư, hồ phóng sinh xảy ra chuyện gì sao?”

    “Ôi, thảm lắm, đừng nhắc đến thì hơn.” Hai nhà sư đáp.

    Hai người bám theo xem, không khỏi trợn trừng mắt, rúng động đến nỗi không thốt nên lời.

    Trên mặt hồ phóng sinh chu vi chừng hai trăm bước lềnh phềnh đầy cá chết, trời đang nóng nực, cá lại quá nhiều, lớp này chồng lên lớp kia, những con chết trương bên dưới bụng phình to, như muốn đẩy bật con bên trên ra khỏi hồ.

    Mùi cá chết tanh ngòm xộc thẳng tới khiến Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần phải cuống quýt bịt mũi, quay phắt đi, suýt nữa thì nôn ra.

    Hai nhà sư đều lắc đầu than: “Công đức ơi là công đức, người khắp kinh thành đều muốn làm công đức, ngờ đâu bấy nhiêu công đức đều thành dao mổ cả.”

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đứng dưới mái hiên bịt mũi, nhìn hai nhà sư khả kính dùng vải nút mũi lại, rồi lấy xẻng xúc cá đổ vào bao tải.

    Chu Tử Tần đứng từ xa hỏi với sang: “Đại sư định xử lý đống cá chết này thế nào?”

    “Đưa ra ngoài thành, đào hố chôn.” Nhà sư cao giọng đáp.

    “Vậy phải đào sâu lắm nhỉ, vất vả quá!”

    Hai nhà sư khiêng một bao cá chết đi, vừa đi vừa đáp: “A Di Đà Phật, những con cá này độc lắm. Sớm nay có con mèo lẻn vào trộm một con, vừa ăn đã ngã lăn ra. Nếu không chôn sâu, e rằng sẽ gây họa.”

    “Có độc ư?” Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà nhìn nhau, rồi bất chấp mùi tanh thối nồng nặc, dùng tay áo bịt mũi, chạy đến bên hồ nhìn xuống.

    Chỉ thấy hàng loạt cá chết trắng bụng, đã bắt đầu ươn thối, thực chẳng lần ra manh mối gì. Chu Tử Tần bẻ cành cây, xiên vào miệng một con cá, vớt lên nói: “Ta đem về kiểm nghiệm thử.”

    Hoàng Tử Hà liếc qua mặt hồ lềnh phềnh đầy cá chết: “Theo lẽ thường thì, dù hồ phóng sinh chật ních, cũng không thể chết sạch cá chỉ trong một đêm được.”

    “Bởi vậy, có lẽ là bị người ta hạ độc.” Chu Tử Tần căm phẫn nói, “Kẻ nào mà tàn nhẫn đến thế, đi đầu độc tất cả cá trong hồ phóng sinh?”

    Hoàng Tử Hà trầm tư không nói. Chu Tử Tần kết luận: “Nhất định là một tên ác nhân biến thái, không muốn thấy người khác sống yên ổn!”

    Đứng đây nãy giờ, Hoàng Tử Hà cũng không chịu nổi mùi thối, bèn quay người đi về phía chính điện: “Công tử cất cá đi, chúng ta ra hiện trường hôm qua.”

    Trước Đại Hùng bảo điện. Trên mảnh sân rộng nơi Liễu Chân pháp sư giảng kinh, bục giảnh kinh đã được dỡ bỏ, để lại một khoảnh trống không, chỉ còn một cây nến lớn đứng sừng sững bên lò hương khổng lồ.

    Phía bên kia, cạnh sợi bấc sót lại, một nam nhân tuổi ngoại ngũ tuần đang ngồi chồm hổm, dùng xẻng cạo lớp sáp nến trên nền sân.

    Lão cạo rất mạnh, đến nỗi lưng ướt đầm đìa, mồ hôi lăn dài trên gương mặt gầy gò chằng chịt nếp nhăn, tí tách nhỏ xuống nền gạch xanh bỏng giãy vì nắng chiều, chỉ trong nháy mắt đã bốc hơi.

    Hoàng Tử Hà bước đến ngồi xuống cạnh lão: “Lão trượng, sao lại ngồi ở đây một mình cạo nến vậy?”

    Ông lão ngẩng lên nhìn cô, rồi lại cúi đầu tiếp tục cạo, khàn khàn hỏi lại: “Ngươi là ai?”

    “Ta phụng lệnh Đại Lý Tự, đến tra xét vụ hỗn loạn hôm qua.” Hoàng Tử Hà đáp.

    Bấy giờ, ông lão mới rầu rĩ đáp: “Đây là nến do lão làm ra!”


    Hoàng Tử Hà sực hiểu, thì ra ông ta chính là người thợ đã tạo ra đôi nến này, Lữ Chí Nguyên.

    “Đôi nến này là tác phẩm lão tự hào nhất đời. Trừ lão ra, các vị nhìn xem, trong thành Trường An này còn ai làm được đôi nến hoàn mỹ như thế nữa?” Lữ Chí Nguyên quệt mồ hôi, rồi trỏ cây nến còn lại, “Lão sinh ra tại Trường An, lên sáu tuổi bắt đầu theo cha học làm nến, nghề làm nhang đèn của nhà họ Lữ đã truyền được bốn đời, đến lão thì đứt đường hương hỏa! Lão đây đã năm mươi bảy tuổi, lại ốm yếu, lực bất tòng tâm rồi, vốn tưởng đôi nến này là phút huy hoàng cuối cùng của Lữ gia, nào ngờ ông trời quái ác, nỡ hủy hoại cả sản phẩm hoàn mỹ nhất đời này của lão!”

    Hoàng Tử Hà liền an ủi: “Trời giáng sấm sét, sức người không cản được, chuyện này cũng là xui xẻo thôi mà.”

    “Hừm…” Ông lão chẳng màng đến mấy lời an ủi, khó nhọc đứng dậy, tiếp tục cạo một mảng sáp nến khác.

    Chu Tử Tần xách chiếc làn bên cạnh lại giúp lão, đoạn hỏi: “Sáp nến này vẫn dùng được ư?”

    Lữ Chí Nguyên vừa cạo sáp bỏ vào làn, vừa đáp: “Lão đã phát nguyện trước đức Phật rằng, sẽ làm lại một cây nến khác. Giờ sáp ong đắt đỏ, thu thập được chừng nào hay chừng nấy, còn lại lão sẽ bù thêm vào.”

    “Tiếc thật, cây nến lớn như thế mà nổ tung cháy trụi cả, chẳng còn bao nhiêu.” Chu Tử Tần than thở, “Lão có chứng kiến cảnh tượng hôm trước không?”

    “Lão không có mặt.” Lữ Chí Nguyên chăm chú cạo nến, chẳng buồn ngẩng lên: “Vì đôi nến này, lão đã phải làm liên tục bảy ngày bảy đêm cho kịp hoàn công, vừa đưa đến đây, lão cũng ngất xỉu luôn, được người ta khiêng về.”

    “À phải, tối qua ta có nghe nói.” Hoàng Tử Hà gật đầu.

    “Đúng là cái số mà! Ai bảo trời muốn trừng trị ác nhân nên mới giáng sấm sét, đôi nến lão dốc hết tâm huyết cũng vì thế mà bị vạ lây!” Lão Lữ xì một tiếng đầy khinh ghét.

    Chu Tử Tần trầm tư nói: “Ta cũng nghe nói, mọi người đều bảo là trời phạt.”

    “Loại hoạn quan vứt bỏ cả tôn nghiêm của đàn ông để giành lấy vinh hoa phú quý, có việc gì không dám làm đâu? Trên đời này, kẻ tàn ác nhất chính là mấy tên hoạn quan nam không ra nam nữ không ra nữ đó.” Lão Lữ miệt thị.

    Hoàng Tử Hà nhìn bộ đồ hoạn quan trên mình, chẳng biết lão Lữ thực sự không nhận ra y phục hoạn quan, hay cố ý chửi chó mắng mèo, đành cười gượng.

    Chu Tử Tần cãi lại: “Lữ lão bá không thể nói thế được, hoạn quan cũng có người tốt mà.”

    “Người tốt hả? Người tốt mà vứt bỏ cả cái đó ư? Đàn ông đàn ang không làm, lại tự biến mình thành thứ bất nam bất nữ như thế?” Lữ Chí Nguyên khinh khi hừ một tiếng, “Trên đời này, đàn ông chính là trời! Không muốn làm trời, tự chọn lấy phận ti tiện!”

    Hoàng Tử Hà chẳng biết nói gì với lão già này nữa.

    Chu Tử Tần thắc mắc: “Lão bá, vừa nãy bá bá nói nhang đèn nhà mình đứt đường hương hỏa… Lẽ nào bá bá không có con?”

    “Hầy, vợ lão vô tích sự, không sinh được con trai, đã thế còn chết sớm, để lại một đứa con gái, chẳng trông mong được gì cả! Phì!” Lão nhổ toẹt một cái.

    Nghe đến đây, Hoàng Tử Hà đứng dậy, phủi quần áo nói: “Được rồi, tôi đi xem bên hồ phóng sinh kia đã dọn xong cá chưa.”

    Thà ra đó chịu mùi thối, còn hơn ở cạnh lão già coi thường nữ nhân này.

    Sau khi từng bao cá chết được khiêng đi, mùi thối hoắc đặc quánh tưởng chừng muốn nổ tung ra cũng giảm bớt phần nào.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đến giờ mới thở phào, bịt mũi đi đến bên hồ phóng sinh đã trơ đáy, hỏi hai nhà sư: “Hai vị đại sư, cũng hòm hòm rồi nhỉ.”

    “Khiêng nốt hai bao nữa thì cũng hòm hòm.” Nước trong hồ phóng sinh đã tháo hết ra ngoài, hai nhà sư men theo bậc đá đi xuống, vừa dùng gầu và xẻng xúc cá chết vừa than vãn: “Hai người chúng tôi được phân công trông nom hồ này. Hôm trước hay tin sẽ có rất đông thiện nam tín nữ phóng sinh, hai chúng tôi đã xả nước hồ nạo vét dọn dẹp, mất cả ngày trời, mệt đến suýt ngất xỉu, chẳng ngờ hôm nay lại gặp phải chuyện này, thiện tai, thiện tai!”

    Chu Tử Tần tỏ vẻ thông cảm: “Chờ cho việc này qua đi, dọn dẹp xong hồ phóng sinh, hai vị cũng có thể nghỉ ngơi.”

    Hoàng Tử Hà bỗng để ý thấy một đốm sáng lờ mờ. Cô bất chấp mùi thối, lội xuống hồ phóng sinh, đi đến ngồi thụp xuống cạnh đốm sáng nọ, quan sát thật kỹ.

    Ra là một sợi dây sắt mảnh hơn đầu đũa, dài chừng hai thước, đầu trên thẳng tắp, đầu dưới được uốn thành hình móc câu. Một đầu sợi sắt bị gỉ, còn đầu kia dường như đã được tôi rèn, lờ mờ ánh xanh.

    Hoàng Tử Hà bèn nhặt lên, săm soi trên tay một hồi.

    “Một sợi sắt bình thường thôi mà.” Chu Tử Tần ngồi xuống cạnh cô, kết luận.

    Hai nhà sư đang xúc cá cạnh đó nói: “Hôm trước chúng tôi đã nạo vét sạch sẽ lòng hồ, không hề thấy thứ này.”

    “Có lẽ hôm qua trong lúc hỗn loạn, ai đó đã làm rơi xuống.” Nhà sư kia nói.

    Chu Tử Tần gật đầu tán đồng.

    Song Hoàng Tử Hà lại cầm sợi sắt nọ đứng dậy: “Lạ nhất là sợi sắt thế này dùng làm gì chứ? Còn mang đến cả pháp hội, là vì sao?”

    “Nhiều nguyên nhân lắm, ví như để quấn quanh thứ gì đó rất nặng, sợ dây thừng không chịu nổi.”

    “Vậy thứ đó đâu rồi?”

    Chu Tử Tần vắt óc nghĩ mãi không ra, đành chống chế: “Có lẽ người ta dùng để buộc quanh gánh muối chẳng hạn, muối rơi xuống nước tan hết, sợi thép cũng rơi ra, kẻ bán muối chỉ có thể trách mình xui xẻo, vớt quang gánh nổi lềnh phềnh trên mặt nước lên mà đi thôi.”

    “Ai lại gánh muối đến pháp hội chen chúc chứ?” Hoàng Tử Hà cũng chẳng biết làm sao, đành cầm sợi sắt kia đi lên, trao cho Chu Tử Tần, “Phiền công tử đem đến Đại Lý Tự giúp tôi, cứ bảo là vật chứng.”

    Chu Tử Tần kinh hãi hỏi lại: “Công công thực sự định phá vụ này sao?”

    “Phá sao được? Trước mắt xem ra, tất cả chỉ là tai họa ngẫu nhiên thôi.” Dứt lời, Hoàng Tử Hà quay mình đi thẳng, “Tốt xấu gì cũng kiếm lấy một vài thứ, để chứng tỏ không phải chúng ta làm quấy làm quá.”

    “Có lý có lý.” Chu Tử Tần bật ngón cái tán thưởng.

    Sau khi chia tay Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà dẫn Na Phất Sa về phủ Quỳ vương, mệt nhừ người.

    Vừa thấy đại thúc canh cửa, cô hỏi ngay, “Vương gia về chưa?”

    Biết được Lý Thư Bạch vẫn chưa về, Hoàng Tử Hà càng thấy nóng nực thêm. Giờ đang giữa hạ, khí trời oi bức, cô bèn đi múc hai thùng nước tắm rửa.

    Ngâm mình vào nước lạnh, chẳng mấy chốc cô đã bình tĩnh lại. Mùi hương bồ kết cũng giúp cô quét sạch những mệt mỏi lo toan trong tâm trí.

    Đương giờ Mùi, khu nhà dành cho hoạn quan trong vương phủ lặng ngắt như tờ. Cô tắm táp xong bèn ngồi trong phòng vừa lau khô tóc vừa nghĩ tới cuộc hẹn với Vương Uẩn tối nay.

    Giờ Dậu, chỉ còn một hai canh giờ nữa thôi. Vốn định bàn bạc với Lý Thư Bạch, nào ngờ y lại vắng nhà, khiến cô thấy bồn chồn khó tả.

    Nhưng việc phải đến ắt sẽ đến, cô cũng đành đến đâu hay đấy vậy.

    Cô thầm cảnh cáo bản thân, Hoàng Tử Hà, trước đây mọi việc ngươi đều dựa vào chính mình, vậy mà mới được mấy ngày, sao lại bắt đầu muốn dựa dẫm kẻ khác rồi?

    Đợi tóc khô, cô thay sang đồ hoạn quan, chải tóc gọn gàng rồi cắm trâm lên. Soi vào gương đồng, chỉ thấy một tiểu hoạn quan da dẻ nõn nà, đôi mắt đen láy sáng rực như điểm sơn.

    Dù trà trộn giữa đám hoạn quan nam không ra nam nữ không ra nữ, song dường như cô vẫn có vẻ nổi bật. Hoàng Tử Hà lấy phấn vàng ra, toan xoa lên mặt, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng bỏ tay xuống. Việc đã đến nước này, che giấu còn tác dụng gì đâu.

    Mở hộc tủ ra, trong ngăn tủ trống không là cây quạt hôm đó Vương Uẩn tặng cô.

    Cô cầm lấy quạt đi thẳng ra cửa, gặp ngay Lư Vân Trung hớt hải chạy đến, hí hửng gọi: “Sùng Cổ, mau lên mau lên, cơm tối nay có cá lư, món cậu thích nhất ấy. Thím Lỗ bảo đã phần cho cậu một con to rồi!”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu cười với y: “Không cần đâu, cho huynh đấy, tôi phải ra ngoài.”

    Lư Vân Trung ngạc nhiên hỏi: “Đi đâu thế? Theo vương gia ra ngoài ư?”

    Hoàng Tử Hà mỉm cười, đi được mấy bước mới ngoảnh lại, nghiêm trang đáp: “Đến Vương gia, nhà họ Vương Lang Gia. Tối nay Vương đô úy hẹn tôi.”
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 6 - Dư vị mơ xanh
    Đầu giờ Dậu, Hoàng Tử Hà y hẹn đến nhà họ Vương. Vầng trăng vừa nhô lên từ đằng Đông, khóm hoa nghiêng nghiêng đổ bóng xuống mặt đất. Vương Uẩn đang đợi cô ở hiên Tà Nguyệt Nghênh Phong nằm giữa hoa viên nhà họ Vương, nhìn ra hồ.

    Giữa làn gió hây hẩy, cô trông thấy Vương Uẩn chắp tay sau lưng đứng đó một mình, ánh trăng len qua kẽ lá chiếu xuống, như dùng mực nhạt phác họa ngàn vạn chiếc lá lên bộ áo trắng của y. Nét mặt y ẩn sau ánh trăng nhàn nhạt, nhìn về phía Hoàng Tử Hà đang chầm chậm men bờ hồ đi đến, ánh mắt thoáng lóe lên.

    Thoắt nhận ra trong lòng đối phương cũng do dự bất an chẳng kém gì mình, Hoàng Tử Hà bỗng thấy dũng khí trỗi lên.

    Kẻ đối diện quyết không phải đối thủ đáng sợ mà cô thường tưởng tượng.

    Bởi thế, Hoàng Tử Hà bèn rảo nhanh bước chân, khi chỉ còn cách y chừng ba bước, cô chỉnh lại áo xống rồi hành lễ chào hỏi: “Vương công tử.”

    Vương Uẩn thâm trầm nhìn cô, hồi lâu không đáp.

    Hoàng Tử Hà thẳng người dậy, cung kính đưa cây quạt tới trước mặt y: “Lúc trước đa tạ Vương công tử cho mượn quạt, hôm nay tôi xin trả lại.”

    Lúc này y mới mỉm cười, giơ tay cầm lấy cây quạt mân mê, đoạn hỏi: “Sao hôm nay không giấu giếm ta nữa?”

    Cô khẽ đáp: “Giấu đầu thì hở đuôi, có tác dụng gì đâu.”

    Khóe môi Vương Uẩn thoáng lộ nụ cười. Y đúng là con cháu thế gia điển hình, khí độ ung dung nhàn nhã, dù trong lòng không vui, nụ cười cũng chỉ thoáng vẻ giễu cợt: “Nếu mọi chuyện êm thấm, có lẽ hiện giờ chúng ta đã thành vợ chồng rồi. Vậy mà hôm nay lần đầu gặp mặt chính thức, lại thành ra thế này.”

    Nghe ra ý móc máy và trào phúng ẩn trong giọng nói ôn hòa của y, Hoàng Tử Hà né tránh không đáp. Cô cúi gằm mặt, không dám nhìn y, chỉ hỏi khẽ: “Chẳng hay Vương công tử nhận ra thân phận thật của tôi từ bao giờ?”

    Y chăm chú nhìn cô, rồi chậm rãi đáp: “Lần đầu gặp mặt, ta đã thấy cô hình như giống một ai đó ta từng gặp, nhưng bấy giờ không dám khẳng định, vì thân phận cô đường đường là hoạn quan phủ Quỳ vương. Về sau, cô vạch trần hoàng hậu, phá giải vụ án Vương Nhược, ta liền nghĩ ra ngay, cô nhất định là kẻ ta hằng canh cánh trong lòng.”

    Hoàng Tử Hà cắn môi nói nhỏ: “Chuyện ngày trước, đều là tôi không phải với công tử. Hôm nay tôi tới đây tạ lỗi, mong công tử bỏ quá cho những sai quấy lúc xưa của tôi, đời này kiếp này, Hoàng Tử Hà xin dốc hết sức bù đắp cho công tử, không để công tử phải hổ thẹn vì tôi nữa.”

    Vương Uẩn không ngờ cô lại thản nhiên nhận lỗi như thế, khó tránh sững người, gương mặt lạnh băng cũng dịu đi mấy phần. Nhìn khuôn mặt cúi gằm của cô, lâu thật lâu, cuối cùng y thở hắt ra: “Cô việc gì phải vì kẻ ấy mà giết hại người thân của mình?”

    “Không phải tôi.” Lồng ngực buốt lên như có ai xé toang vết thương cũ, Hoàng Tử Hà gắng nén đau, run rẩy đáp: “Tôi phải cải trang nam nhi, lặn lội ngàn dặm đến tận kinh thành, là để mượn sức triều đình, truy bắt hung thủ thực sự, rửa sạch oan khiên cho mình!”

    Vương Uẩn làm thinh hồi lâu mới nói: “Có những chuyện có lẽ là trời muốn trêu người, xin tiểu thư bớt đau buồn.”

    Cô cắn môi, lặng lẽ gật đầu, gắng kìm nén để không rơi nước mắt. Thấy sắc mặt cô tái nhợt, nhưng vẫn quật cường cắn chặt môi, lòng y bỗng dâng lên một cảm giác phức tạp, không kìm được khẽ bảo cô: “Thực ra, trước nay ta vẫn không tin cô là hung thủ. Thoạt đầu ta cho rằng cô sẽ nương nhờ những người bạn cũ của cha mình, nên đã nhiều lần tới nhà người quen của cha cô nghe ngóng, song chẳng thấy tung tích. Chỉ là không sao ngờ được, cô lại lắc mình biến hóa, trở thành một hoạn quan bên cạnh Quỳ vương.”

    “Đây cũng là cơ duyên xảo hợp, dọc đường tôi xảy ra chút chuyện, tình cờ gặp được Quỳ vương. Gia ra điều kiện, nếu tôi có thể giúp gia giải quyết một việc, gia cũng sẽ giúp tôi rửa oan, đưa tôi về Thục lật lại bản án.” Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, rầu rĩ nói: “Có điều tôi cũng không ngờ, việc gia sai tôi giải quyết, lại là hôn sự của gia, còn liên quan tới chuyện cơ mật của quý phủ.”

    “Đây cũng là chuyện không thể tránh, không trách cô được.” Vương Uẩn nói đoạn lại thở dài: “Sáng nay lúc chơi kích cúc, ta nóng nảy quá, mong cô đừng để bụng.”

    Thấy y khoan dung với mình đến độ còn tự nhận lỗi trước, Hoàng Tử Hà bỗng chột dạ.

    Hai người ngồi quỳ xuống hai bên chiếc kỷ thấp dưới hàng hiên, đối diện nhau. Gió lộng bốn bề, hơi nước bốc lên lành lạnh, ánh đèn trong phòng phản chiếu xuống sóng gợn lăn tăn bên ngoài, lấp loáng lung linh.

    Vương Uẩn không tiếp tục chủ đề khi nãy, mà bày điểm tâm ra mời cô: “Lần trước cô đến nhà, ta thấy cô rất thích ăn bánh anh đào. Giờ hết mùa anh đào rồi, cô thử bánh mơ này xem.”

    Bánh mơ xanh đặt trên đĩa sứ trắng, rắc mứt hoa hồng vụn lên, sắc xanh nõn phối cùng đỏ thẫm trông thật đẹp. Vị ngọt của mứt hòa cùng vị chua của mơ, tạo nên một hương vị hoàn hảo, làm món khai vị tinh tế không gì bằng.

    Thấy Hoàng Tử Hà thích món này, Vương Uẩn liền đẩy đĩa bánh tới trước mặt cô rồi nói với vẻ vô tâm: “Con gái hay thích ăn mơ. Nhưng loại quả này thực ra rất chua, phải ướp thật nhiều mật ong mới ăn được.”

    Hoàng Tử Hà thấy y có ẩn ý, liền dừng lại, ngước lên nhìn.

    Y đăm đăm nhìn cô, nhẹ nhàng tiếp: “Nếu không có mật ong, lại cứ khăng khăng đòi hái mơ ăn, há chẳng phải tự chuốc khổ vào thân ư?”

    Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, cắn môi, im lặng một hồi mới đáp: “Cũng như người ta uống nước, ấm lạnh tự hay mà thôi. Người ngoài không uống, có lẽ không thể cảm nhận được.”

    Vương Uẩn hơi mỉm cười, lại đẩy một dĩa cá xắt lát giòn về phía cô.

    Ánh trăng rọi xuống mặt nước, len qua khung cửa mở toang, lấp loáng xung quanh chỗ ngồi. Hoàng Tử Hà ngồi trước mặt y, nhìn nụ cười gần trong gang tấc, lòng ngổn ngang trăm mối, nhưng chẳng biết phải mở lời thế nào. Mấy lần định lên tiếng, song những lời muốn nói đều tan biến trong cổ họng, cuối cùng cô chỉ biết cúi đầu, vờ chăm chú ăn.

    Vương Uẩn ngồi trước mặt, cũng lặng lẽ ngắm gương mặt cúi gằm của cô. Cô vẫn là thiếu nữ y thoáng thấy ba năm trước, chỉ là vẻ bầu bĩnh non nớt đã không còn, bắt đầu lộ ra đường nét quật cường, nét nào ra nét ấy.

    Ba năm trước… Cô mười bốn, y cũng chỉ là một thiếu niên mười sáu tuổi, háo hức muốn xem mặt vị hôn thê kinh tài tuyệt diễm trong truyền thuyết, nhưng lại xấu hổ, phải rủ người khác vào cung cùng, mới dám liếc trộm cô một cái.

    Đó là một buổi chiều xuân, cô mặc áo lụa ba lớp màu ngân hồng, chiếc áo trắng khoác ngoài thêu đầy những bông hoa mây tim tím, đóa đậm đóa nhạt.

    Cô ở cuối hành lang, đi sau một đám cung nữ, song lại thon thả linh hoạt hơn ai hết, như một nhành lan vừa chớm hé. Y cứ chằm chặp nhìn theo cô, không dám chớp mắt, chỉ sợ để lỡ mất cơ hội quý báu này.

    Mãi tới khi cô đi đến đầu mút hành lang, y mới thấy cô ngoái lại. Cuối cùng, gương mặt y từng vô số lần tưởng tượng, cũng hiện ra trước mắt, như pháo hoa thình lình nở rộ giữa trời đêm.

    Gương mặt cô chiều xuân ấy đã in sâu vào tâm khảm y, như được khắc bằng lưỡi dao sắc bén nhất, không cách nào bôi xóa được.

    Vậy mà người con gái y tâm niệm suốt ba năm, lại tặng cho y sự sỉ nhục và tổn thương chí mạng nhất. Thời gian đó, y cứ trằn trọc nghĩ ngợi, ăn không ngon ngủ không yên, chỉ thấy đường nét gương mặt nhìn nghiêng khắc sâu trong tâm khảm ấy rỉ máu, đóng vảy, cuối cùng để lại vết sẹo đến chết cũng không thể xóa mờ. Y trăn trở nghĩ mãi, không hiểu chỗ nào có vấn đề, rốt cuộc là tại sao mà người mình mong đợi ba năm, vị hôn thê đẹp đẽ như nhành lan hé nở kia, lại tặng cho mình một mối nhục lớn như thế, chính tay bóp chết kỳ vọng y ấp ủ bấy lâu.

    Đăm đăm nhìn Hoàng Tử Hà trước mặt, nghĩ đến những mong chờ suốt ba năm nay đã tan thành mây khói, y biết rõ cô là kẻ đầu sỏ khiến mình và cả gia tộc phải mang nhục, song trong chốc lát cũng chẳng biết phải nói tiếp thế nào.

    Cảm nhận được ánh mắt y, Hoàng Tử Hà thấy lồng ngực như bị bóp nghẹt, hết sức khó chịu, cảm giác nghẹt thở ấy khiến lòng cô nặng trĩu.

    Cô chầm chậm đặt chén sứ trên tay xuống bàn, cắn môi nói khẽ: “Xin lỗi… Thực ra tôi, tôi cũng muốn cùng công tử bàn bạc giải quyết êm thấm chuyện này, cố gắng không kinh động đến người ngoài, hai chúng ta tự giải quyết với nhau…”

    “Giải quyết ư… Ý cô muốn nói gì vậy?” Vương Uẩn nhìn cô, chậm rãi hỏi.

    Hoàng Tử Hà mím chặt môi, ngước lên nhìn y, lâu thật lâu, mới nặn ra được mấy chữ: “Ý tôi là, hủy bỏ hôn ước.”

    Cặp mắt phượng tuyệt đẹp của Vương Uẩn nhìn chòng chọc vào cô, như muốn xói thủng một lỗ trên người. Đúng lúc cô nghĩ cơn thịnh nộ của y sắp bộc phát, Vương Uẩn bỗng dời mắt nhìn ra mảnh trăng chênh chếch ngoài song, cất giọng trầm bình tĩnh: “Ta sẽ không hủy hôn với cô đâu.”

    Bàn tay cô đang đặt trên bàn bất giác siết chặt lại thành nắm đấm.

    Y vẫn nhìn ra ngoài song cửa, ngắm gió đêm lùa qua lay bóng hoa dập dờn, gắng khống chế bản thân, cuối cùng, vẻ mặt sa sầm cũng dãn dần ra. Cô nghe thấy giọng y nhẹ nhàng như đang thủ thỉ, thậm chí còn đượm vẻ dịu dàng đến lạ: “Hoàng Tử Hà, tiểu thư là người vợ tôi cưới về, có mai mối lễ lạt đàng hoàng, hôn thư canh thiếp làm chứng. Bất kể cô phạm tội gì, bất luận cô đang ở đâu, chỉ cần tôi không đồng ý hủy hôn, thì đời này kiếp này cô chỉ thuộc về tôi, không thuộc về bất kỳ ai khác.”

    Lời nói ra dịu dàng như thế, song lại khiến lồng ngực Hoàng Tử Hà đau buốt như vừa bị giáng một đòn nặng. Hoàng Tử Hà kinh ngạc ngẩng lên, giữa những gợn sóng lăn tăn cùng ánh đèn chập chờn, gương mặt y vẫn hết sức ôn hòa điềm tĩnh, song cô lại thấy cả thế giới đang dậy sóng, lồng ngực như vừa trào lên một luồng máu nóng, lòng bỗng dưng căng thẳng và lo sợ.

    Cô gắng hít vào một hơi để trấn tĩnh lại, đáp khẽ: “Đa tạ Vương công tử quá yêu. Song chính tôi cũng chẳng rõ đời này còn có ngày được đứng trước mặt người khác nữa hay không, nên… không dám làm lỡ dở công tử, cũng không dám phiền công tử phải chờ đợi. Dẫu sao công tử cũng là đích tôn chi trưởng, có trách nhiệm phải mang. Nếu chỉ vì tôi mà làm lỡ dở việc của dòng họ Vương, thì cả đời Hoàng Tử Hà cũng không yên lòng được.”

    Nghe vậy, y chỉ mỉm cười an ủi: “Cô khỏi lo, nhà họ Vương sẽ ủng hộ cô, dốc sức giúp cô rửa sạch mối oan. Ta cũng sẽ đợi tới ngày cô làm sáng tỏ được chân tướng.”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu khăng khăng khước từ: “Nhưng tôi đã chẳng thể tự chủ, giờ thanh danh nhơ nhuốc, chẳng dám vọng tưởng được may mắn bình yên như những thiếu nữ bình thường nữa. Đời này kiếp này… e rằng tôi và công tử vô duyên rồi. Xin Vương công tử chọn lấy mối lương duyên khác, Hoàng Tử Hà… đành hổ thẹn với công tử thôi…”

    Ánh mắt Vương Uẩn sáng rực, nhìn xói vào cô, như muốn soi thấu cả tâm tư.

    Hoàng Tử Hà cũng nhìn y, lặng lẽ cắn môi.

    Thật lâu, cô nghe thấy y nói rất khẽ, như than thở: “Hoàng Tử Hà, cô viện ra bấy nhiêu lý do hợp tình hợp lý, tưởng ta không nhìn thấy được bụng dạ cô ư?”

    Trước ánh mắt rúng động lòng người của y, Hoàng Tử Hà bỗng sởn cả gai ốc, cảm thấy mình như bị dồn vào chân tường, không trốn đi đâu được. Cô không dám ngẩng lên nhìn y, chỉ biết cúi đầu nín lặng, bóng nước ngoài song được ánh đèn phản chiếu, gợn lên lăn tăn trên hàng mi.

    Giọng y vẫn nhẹ nhàng mà chậm rãi: “Thực ra cô vẫn tơ tưởng tên Vũ Tuyên đó, phải không?”

    Hoàng Tử Hà thõng tay không đáp, chuyện tình cảm của cô người người đều biết, có giấu giếm chối cãi cũng vô dụng, nên đành làm thinh.

    “Có lúc, ta cũng thấy rất bất lực, rất… đau đớn.” Y nhìn cô chằm chằm, một ngọn lửa âm thầm bùng lên trong mắt: “Vợ chưa cưới của ta yêu một người đàn ông, gây ra chuyện động trời như vậy, cả thiên hạ đều biết, song gã đàn ông đó, lại không phải là ta. Xin hỏi cô có từng nghĩ đến cảm nhận của ta không?”

    Hoàng Tử Hà cúi gằm mặt, run rẩy đáp: “Xin lỗi… Việc đến nước này, đều là lầm lỗi của tôi, xin Vương công tử chọn lấy danh môn khuê tú khác, vứt bỏ con người xui xẻo này đi. Hoàng Tử Hà… kiếp sau nguyện đền bù tất cả.”

    “Kiếp sau ư? Ta cần cái kiếp sau hư ảo ấy làm gì?” Giọng nói vốn dịu dàng hòa hoãn, lúc này đây lại nhuốm vẻ lạnh lùng, “Hoàng Tử Hà, cô không cần phí lời nữa. Bất kể cô ở đâu, dù là góc bể chân trời, trên trời dưới đất, kể cả cô có chết rồi, cũng vẫn là người của ta.”

    Giọng y lạnh băng, chẳng chừa chỗ nào để thương lượng.

    Hoàng Tử Hà tự biết lời cầu khẩn của mình coi như vô ích. Nhưng cô cũng chẳng biết làm sao hơn, đành khom người vái y một vái thật dài, khẽ nói: “Thứ cho Hoàng Tử Hà còn mang nặng món nợ máu của cha mẹ, thù lớn chưa trả, không thể bận lòng vì tình cảm nữ nhi, mong Vương công tử hiểu cho.”

    Dứt lời, cô đứng dậy đi thẳng.

    Bên tai thoảng nghe tiếng gió lướt qua, cánh tay cô bị tóm chặt.

    Là Vương Uẩn, y đuổi theo tóm lấy cổ tay cô.

    Cô không kịp đề phòng, theo phản xạ quay lại nhìn y, chỉ thấy cặp mắt rừng rực như lửa, nhìn chòng chọc vào mình.

    Hoàng Tử Hà bỗng thấy tim thót lên, bất giác lùi lại một bước, song vừa lùi lưng đã áp vào tường, chẳng còn đường lui nữa.

    “Kẻ đó… Cô là vợ chưa cưới của ta, mà chỉ tâm niệm một mình kẻ đó thôi ư?” Y nắm lấy vai ấn cô vào tường, gắng hạ giọng hết mức có thể, nhưng không nén nổi cơn giận, gương mặt tươi tắn như gió xuân hằng ngày giờ đây đã thành ra bão lớn, ánh mắt xoáy sâu vào tim gan cô như gió xối mưa tuôn, khiến cô bỗng thấy đau xót và yếu đuối hơn bao giờ hết.

    Nếu không có Vũ Tuyên thì xuân này, họ đã thành vợ chồng.

    Nếu không có thảm kịch đau đớn kia, có lẽ đời này kiếp này, nắm tay cô sẽ là người chồng hoàn mỹ này đây, vừa tuấn tú, dịu dàng, lại là con nhà thế gia. Có lẽ cô cũng có thể cùng y sắt cầm hòa hợp, nâng án ngang mày, bách niên giai lão.

    Song giờ đây, cô chỉ thấy nỗi sợ hãi vụt qua trong ngực, phải cố sức ngoảnh mặt đi, không dám nhìn thẳng vào y. Nhưng y lại cúi xuống, hơi thở nóng rẫy phả vào tai cô, cô nghe thấy y khẽ gọi mình: “Hoàng Tử Hà…”

    Tiếng gọi hơi khàn, hòa cũng tiếng thở se sẽ của y, lan ra trên má cô, toát lên khí vị khiến người ta rúng động.

    Y ấn cô vào tường, cúi đầu, hôn lên môi cô.

    Trong nháy mắt, cô thấy mồ hôi lạnh túa ra khắp người. Hoàng Tử Hà nghiến răng, dùng hết sức giơ tay lên, định đẩy bật y ra.

    Đúng lúc đầu ngón tay cô chạm tới lần áo trước ngực y, bên ngoài chợt có người gõ nhẹ lên cánh cửa mở toang, khẽ bẩm: “Công tử, Quỳ vương phủ đưa thư đến, nói rõ là giao cho Dương Sùng Cổ công công.”

    Dường như, Vương Uẩn sực tỉnh.

    Y buông vai cô ra, lùi lại hai bước, sững người giây lát rồi nhìn ra cửa.

    Trời đã tối sập tự lúc nào.

    Sắp đến giờ giới nghiêm, dù là vương phủ, trừ những việc quan trọng hay bệnh nguy cấp, bình thường cũng không thể tự tiện đi lại.

    Vương Uẩn như vừa tỉnh mộng, thở dài một tiếng rồi ngồi xuống bên chiếc bàn thấp, nói khẽ: “Đưa vào đi.”

    Hoàng Tử Hà dựa vào cửa, lòng bàn tay rịn mồ hôi lạnh, đầu óc choáng váng vì kinh hãi. Cô phải gắng lắm mới giơ được tay đón lấy phong thư, bóc phong bì, rút mảnh giấy hoa tiên vân sóng bên trong ra.

    Bức thư được gấp vuông vắn, nhìn rất dày dặn. Cô giở ra xem, chỉ thấy một tờ giấy trắng.

    Không có một chữ.

    Hoàng Tử Hà liếc qua rồi nhanh nhảu gập lại bỏ vào bao như cũ, đoạn ngẩng lên nhìn Vương Uẩn: “Vương gia có việc gấp triệu tôi về phủ, e rằng tôi phải về rồi, mong công tử lượng thứ.”

    Bàn tay Vương Uẩn đặt trên bàn run lên rất khẽ, gần như không thể nhận ra. Y gắng khống chế bản thân, không nhìn cô nữa, mà ngoảnh đầu hướng ra ngoài song, ngắm trăng trong gió mát, nụ cười dịu dàng thường ngày lại hiện lên môi, cất giọng ôn hòa bình tĩnh, nói rành rọt từng chữ một: “Đêm khuya sương lạnh, đi đường cẩn thận.”

    Đêm hè, bầu trời trong vắt như được gột rửa, từng ngôi sao xanh biếc khảm vào nền trời.

    Hoàng Tử Hà giẫm lên ánh sao quay về vương phủ, quả nhiên Lý Thư Bạch vẫn ở trong thư phòng đọc sách.

    Trên đầu là bốn chiếc đèn lồng treo trên xà nhà bát giác chạm hình cánh phượng, sáng rực như ban ngày. Y đã thay sang áo đơn bằng lụa trắng, sắc trắng tinh thuần mềm mại chảy dài theo người, dưới ánh đèn, càng toát lên vẻ cao khiết, như tuyết đổ non cao.

    Giữa đêm khuya thanh vắng, nhìn tư thái tĩnh tại mà phóng khoáng ấy, trái tim đang loạn nhịp của Hoàng Tử Hà thoắt bình ổn lại.

    Cô băng qua rèm thưa, nhẹ nhàng đi đến trước mặt y, ngồi xuống.

    Lý Thư Bạch chẳng buồn ngẩng lên, chỉ hỏi: “Vương Uẩn nghi ngờ ngươi ư?”

    Cô gật đầu hỏi lại: “Gia biết rồi ạ?”

    “Không biết.” Y gập sách lại đặt qua một bên, “Có điều nghe người trong phủ nói Vương Uẩn hẹn gặp ngươi, để phòng vạn nhất, bèn gửi cho ngươi một phong thư trắng.”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu. Một phong thư trắng, nếu xảy ra chuyện thì có thể cứu nguy cho cô, nếu không sao, cô cũng có thể không quan tâm, tất cả đều do cô quyết định.

    “Vương Uẩn… đã biết tôi là Hoàng Tử Hà rồi.”

    “Dù sao cũng là vợ chưa cưới của mình, lại từng khiến mình mang mối nhục lớn, khó tránh mẫn cảm.” Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên, “Nếu y thấy một tên hoạn quan giống Hoàng Tử Hà mà không hề để ý mới là lạ đấy.”

    “Nhưng về sau có lẽ sẽ phiền phức lắm.”

    “Không đâu, vì ta sẽ giúp ngươi giải quyết.” Lý Thư Bạch nói ra nhẹ như không, nhưng trong lời nói lại toát lên vẻ kiên quyết không thể nghi ngờ.

    Hoàng Tử Hà gật đầu, câu này của y đã xua tan hết hoang mang và sợ hãi Vương Uẩn gieo xuống lòng cô. Những gió táp mưa sa mà cô tưởng sẽ phải đương đầu, lúc này đây, cũng tiêu tan cả.

    Hoàng Tử Hà yên lòng cúi đầu, nhoẻn miệng cười.

    Đêm khuya thanh vắng, hai người ngồi đối diện nhau, Lý Thư Bạch chỉ ngước mắt là thấy gương mặt cúi thấp của Hoàng Tử Hà, ngọn đèn trên bàn đương hắt ánh hồng nhàn nhạt lên dung mạo cô. Đôi má ngọc ửng lên sắc thắm như hoa đào, kiều diễm dịu dàng, tựa hồ mùa xuân đang âm thầm nở rộ ngay cạnh y, chẳng để kẻ khác hay.

    Thấy ánh đèn khẽ lay động trên hàng mi cô như sóng, y vội đưa mắt nhìn ra phía bàn, ngay trước khi cô ngước lên. Ở đó, trong chiếc bình lưu ly, con cá đỏ đang yên lặng ngủ.

    Rồi như để phá vỡ không khí yên tĩnh, Lý Thư Bạch chuyển chủ đề: “Lúc trước đã bảo, ngươi phải giải thích rõ ràng cho ta nhỉ?”

    Hoàng Tử Hà nhớ ngay ra những lời Lý Thư Bạch nói trên sân kích cúc hôm nay. Cô giúp đỡ một kẻ bị y đuổi khỏi đội nghi trượng, cũng có nghĩa là âm thầm chống đối y, không coi chủ nhân như y ra gì nữa.

    Tức thì, cô thấy áp lực mình phải đối mặt còn lớn gấp trăm lần khi nãy, hơi thở cũng dồn dập hẳn lên: “Vương gia là chủ nhân của tôi, tôi phải tận trung với gia; Trương Hàng Anh là bạn tôi, tôi phải tận nghĩa với huynh ấy. Tuy trung nghĩa khó vẹn đôi bề, nhưng Trương Hàng Anh có ơn với tôi, ngoài nghĩa bạn bè, tôi còn phải báo ơn… Suy đi tính lại, tôi đành giúp huynh ấy trước vậy.”

    “Thế nên quan hệ giữa hai người các ngươi thân hơn, mà so ra thì ta lại là sơ hơn, đúng không?” Lý Thư Bạch liếc cô, “Hoàng Tử Hà, ngươi đúng là có tình có nghĩa, phân rõ thân sơ nhỉ.”

    Hoàng Tử Hà bỗng thấy mồ hôi lạnh túa ra đầy lưng, vội phân bua theo phản xạ: “Vương gia đối với tôi ơn nặng như núi, có lẽ đời này kiếp này Hoàng Tử Hà không sao trả nổi… nhưng ơn của Trương Hàng Anh, thì tôi trả được.

    Lý Thư Bạch nhìn cô chằm chằm, thấy cô vẫn cúi đầu ngoan ngoãn, dáng vẻ bứt rứt sợ sệt, ánh đèn rọi lên mặt lấp loáng lay động, như phủ lên dung mạo cô một tấm the mỏng đầy bất an, bấy giờ mới cười khẽ: “Thực ra Trương Hàng Anh thế nào, ta chẳng quan tâm. Ta chỉ không thích ngươi tự ý hành động.”

    Hoàng Tử Hà vội cúi đầu, tỏ ý nhận lỗi. Y bèn đổi chủ đề: “Chuyện ở chùa Tiến Phúc có tiến triển gì chưa?”

    Hoàng Tử Hà liền thuật lại mọi chuyện hôm nay ở chùa Tiến Phúc, rồi giơ tay ước lượng: “Sợi dây sắt đó dài chừng hai thước, một đầu gỉ cong lại như móc câu, đầu thẳng kia dường như đã được tôi rèn, lờ mờ ánh xanh.”

    “Sáng mai ta sẽ đến Đại Lý Tự tìm xem.” Nói đoạn, Lý Thư Bạch lại nhìn sang cô: “Còn nữa, hôm nay ta nhận lời Đồng Xương, để ngươi nhúng tay điều tra những chuyện quái lạ quanh công chúa, nhưng thực ra ngươi không cần quá căng thẳng. Tuy Đồng Xương là công chúa, song ngươi cũng là người phủ Quỳ vương, không nằm dưới quyền cai quản của công chúa, can dự vào chẳng qua là giúp đỡ Đại Lý Tự mà thôi, không liên quan gì tới công chúa cả. Bởi thế, nếu công chúa đòi hỏi điều gì quá đáng, ngươi cứ đẩy sang Thôi Thuần Trạm.”

    Hoàng Tử Hà đau khổ thay cho Thôi Thuần Trạm, nhưng vẫn đáp: “Vâng.”

    “Còn nữa, vấn đề lớn nhất là,” Lý Thư Bạch thản nhiên tiếp, “tai nạn của phò mã và cái chết của tên Ngụy Hỷ Mẫn trong chùa Tiến Phúc, rốt cuộc có quan hệ gì không?”

    “Chuyện xảy ra tại sân kích cúc, ẩn tình bên trong lại khá phức tạp, thế nên…” Ngay từ đầu, cô đã không muốn dính vào. Hoàng Tử Hà nghĩ bụng, đoạn đưa mắt bất lực nhìn Lý Thư Bạch, ánh mắt như hỏi, không phải gia đã muốn nhúng vào từ đầu đấy chứ?

    Lý Thư Bạch thấy rõ câu hỏi của cô, song chẳng nói chẳng rằng, chỉ gõ gõ ngón tay lên bàn như nghĩ ngợi, cuối cùng vươn tay mở ngăn kéo, rút ra một tờ giấy đưa cho cô.

    Hoàng Tử Hà nghi hoặc nhận lấy, rồi chăm chú đọc.

    Vũ Tuyên, cử nhân phủ Thành Đô, tháng trước lên kinh chuẩn bị ứng thí, làm học chính(*) tại Quốc Tử Giám, giảng Chu lễ tạp thuyết. Đồng Xương công chúa nghe tiếng, mời vào phủ giảng Chu lễ, Vũ từ chối nhiều lần không được, năm ngày tới phủ bình giảng một lần.

    (*) Học chính: người quản nội quy và giảng dạy tại Quốc Tử Giám.

    Trên giấy chỉ vẻn vẹn bấy nhiêu hàng. Hoàng Tử Hà đặt tờ giấy xuống, mím môi nhìn Lý Thư Bạch không nói.

    Lý Thư Bạch bình thản lên tiếng: “Ngoài phố đồn đại rất nhiều về chuyện này.”

    Đọc được mấy lời về quan hệ giữa Vũ Tuyên và phủ công chúa, Hoàng Tử Hà vẫn có thể miễn cưỡng trấn tĩnh, nhưng nghe thấy câu này, cô biến sắc.

    Lời đồn về Đồng Xương công chúa và Vũ Tuyên… Đồn đại những gì, đương nhiên khỏi cần phải nói.

    “Không ngờ hắn lại dính dáng đến phủ công chúa.” Lý Thư Bạch không nhìn cô mà thong thả ngạo nghễ bưng ly trà lên nhấp một hớp, ánh mắt dừng ở con cá nhỏ đang ngủ yên trong bình lưu ly, “Nghe nói, tuy hắn còn trẻ nhưng học vấn rất chắc, lại thường có kiến giải độc đáo về trước tác của tiên hiền. Đối nhân xử thế và khảo cứu sách vở rất nghiêm túc, nên các vị học chính, trợ giáo và học lục ở Quốc Tử Giám đền khen nức nở.”

    Hoàng Tử Hà đứng dưới đèn, làm thinh hồi lâu không nói.

    “Ngươi định thế nào với vị…” Y cân nhắc một thoáng rồi tiếp, “nghĩa huynh này đây?”

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Giờ đây Vũ Tuyên khăng khăng cho rằng tôi là hung thủ giết hại cả nhà, nên căm hận thấu xương. Tôi nghĩ… nếu tránh được mặt nhau, thì nên tránh là hơn.”

    “Có một việc, ta vẫn thắc mắc mãi.” Lý Thư Bạch đặt ly trà trong tay xuống, ánh mắt chầm chậm dừng ở cô, như đang ngẫm nghĩ, “Hắn và ngươi quen biết nhiều năm, đôi bên cũng đã thổ lộ tình cảm, ngươi là người thế nào, hắn phải rõ nhất mới phải, sao cứ khăng khăng cho rằng ngươi là hung thủ?”

    Hoàng Tử Hà im lặng nhìn y, hồi lâu mới khẽ khàng kể: “Cha mẹ Vũ Tuyên mất sớm, về sau được cha tôi nhận nuôi. Năm ngoái, huynh ấy đỗ cử nhân ở Thục, theo luật, được triều đình ban cho nhà ở và người hầu. Cha mẹ bèn khuyên huynh ấy dọn ra đó ở. Hôm đầu tiên huynh ấy đi, trời đổ tuyết suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, tôi đang định chạy đến thăm, thì thấy một kẻ khắp người phủ đầy tuyết đứng bên ngoài phủ sứ quân, nhìn kỹ, hóa ra… là Vũ Tuyên, đã bị lạnh đến tím tái mặt mũi.”

    Nói đến đây, giọng cô bất giác run lên, hồi lâu mới kìm nén được, khó nhọc kể tiếp, “Huynh ấy nói ở nhà mới không quen, cứ cảm thấy như từ nay về sau không còn gia đình nữa vậy, nửa đêm không ngủ được, bèn đội tuyết lặn lội đến trước cửa nhà tôi, song lại ngại không dám vào, đành đứng ngoài cửa đợi, gần được chúng tôi chừng nào hay chừng nấy…”

    Lý Thư Bạch thấy cô rưng rưng nước mắt, tưởng như mình vẫn là Hoàng Tử Hà đang sống hạnh phúc yên vui trong phủ sứ quân kia, thẫn thờ nhìn dán vào một điểm hư vô giữa không trung, tựa hồ đang nhìn về những ngày tháng tuổi hoa tươi đẹp nhất, nhìn về thời thiếu nữ xa xôi đã trôi đi mãi mãi, không bao giờ tái hiện.

    Xuyên suốt cả thời thiếu nữ của cô, Vũ Tuyên là phần quan trọng nhất, đẹp đẽ nhất trong hồi ức.

    Y dời mắt nhìn đi chỗ khác, gắng hạ giọng hết mức, nói vẻ bình tĩnh nhất: “Xem ra hắn rất quyến luyến gia đình ngươi.”

    “Vâng… Huynh ấy xem trọng gia đình tôi hơn hết thảy. Bởi thế, càng không thể tha thứ cho tôi, kẻ đã hủy hoại thứ huynh ấy xem trọng nhất.”

    “Ngoài ra?” Lý Thư Bạch gặng hỏi.

    Cô ngập ngừng nhìn y.

    Vẻ mặt y vẫn thản nhiên, mười ngón tay đan vào nhau kê dưới cằm, ánh mắt thâm trầm xoáy vào cô: “Ngoài chuyện đó ra, nhất định còn một điều gì đó, khiến hắn nhận định ngươi là hung thủ.”

    Hoàng Tử Hà khẽ cắn môi, hồi lâu mới run rẩy đáp: “Thư… Tôi đã viết cho huynh ấy một bức thư.”

    “Viết thế nào?”

    Tuy đã lâu ngày, song Hoàng Tử Hà vẫn nhớ rành rọt nội dung thư. Cô bèn chậm rãi đọc lên mấy câu quan trọng nhất.

    “Vụ án mấy hôm trước đến tận Long Châu điều tra đã rõ chân tướng, đúng là do cha mẹ ngăn cản chuyện tình cảm của con gái, hứa gả con cho người khác. Cô con gái nửa đêm bèn bỏ cỏ đoạn trường vào thức ăn, hại chết cả nhà, bản thân cũng uống thuốc độc tự vẫn. Nước mắt như mưa, lòng như lửa đốt, trộm nghĩ nếu chúng ta cũng lâm vào cảnh ấy, liệu muội có vứt bỏ người nhà, bước lên con đường không lối về ấy chăng?”

    Nghe cô rành rọt đọc ra bức thư tình viết cho người khác, ngón tay Lý Thư Bạch đang bưng chiếc bình lưu ly bất giác siết chặt lại. Y gắng kiềm chế cơn sóng ngầm cuộn lên trong lòng, thong thả hỏi: “Viết từ lúc nào?”

    “Bốn ngày trước vụ án của gia đình tôi.”

    “Chính là bức thư Vũ Tuyên trình lên quan phủ sau khi nhà ngươi xảy ra chuyện phải không?”

    “Vâng…”

    “Nếu bấy giờ đọc được bức thư ấy, ta cũng sẽ tin rằng ngươi là hung thủ, chẳng phải thế ư?” Y cười lạnh lùng, ánh mắt sắc hơn dao, “Bức thư chính tay ngươi viết, chính là tội chứng lớn nhất của ngươi.”

    Hoàng Tử Hà nghiến răng không đáp.

    Việc tự mình làm ra, không thể quay ngược thời gian được, cô không muốn phân trần, cũng chẳng cách nào phân trần nổi.

    Đêm muộn canh thâu, bóng cây trùng điệp. Mây đã che khuất mặt trăng, bên ngoài quầng sáng của ngọn đèn bao trùm lên họ là bóng đêm thăm thẳm.

    Lý Thư Bạch vuốt ve chiếc bình lưu ly, trầm ngâm thật lâu mới nhìn cô, thong thả nói: “n oán giữa ngươi và Vũ Tuyên, ta không tiện hỏi tới. Ngươi tự lo liệu đi.”

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch. Dưới ánh đèn, trông y càng rực rỡ hào quang, nên càng thấy lạnh lùng quyết tuyệt.

    Cô im lặng hành lễ, định lui ra.

    “Phải rồi, có một chuyện phải nói với ngươi.” Lý Thư Bạch nói thêm, “So với Đồng Xương công chúa và Vũ Tuyên, còn một người này, ngươi phải lưu tâm hơn nữa, hôm nay có người trong cung Thái Cực đưa tin cho ngươi, bảo ngươi lập tức vào bái kiến.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Ngay bây giờ ư?”

    “Hôm nay muộn rồi, để sáng mai.” Lý Thư Bạch nhìn ra mảnh trăng ngoài song nói, “Bà ta đã có việc tìm ngươi, có lẽ giai đoạn này ngươi cũng không thể rời kinh, hơn nữa việc bà ta định sai ngươi, ắt có liên quan tới Quách thục phi và Đồng Xương công chúa, nên ta muốn ngươi ở lại kinh thành lo vụ này.”

    “Vâng.”

    Y chăm chú nhìn cô, thâm trầm mà bình thản, “Gần đây Quách thục phi hành động dồn dập, người qua đường cũng biết bụng Tư Mã Chiêu(*). Vương hoàng hậu triệu kiến ngươi, chắc cũng vì chuyện này.”

    (*) Tư Mã Chiêu chuyên quyền định cướp ngôi của nhà Ngụy, chuyện này ai ai cũng biết. Ý chỉ một việc rõ ràng, chẳng có gì bí mật.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, lại nghe y nói: “Mong rằng ngươi tự biết mình. Nếu không làm được thì đừng cố, đến lúc đó ta sẽ ra mặt cho.”

    Cô gật đầu, song vẫn quật cường đáp: “Tôi sẽ hoàn thành.”

    Lý Thư Bạch nghe vậy chỉ nhếch môi cười giễu: “Không biết lượng sức.”

    Sáng sớm hôm sau, Hoàng Tử Hà vừa trở dậy đã thấy người của phủ công chúa đợi trước cửa phòng. Viên hoạn quan tên Đặng Xuân Mẫn nhăn nhó nài nỉ: “Dương công công nhanh lên được không, hôm qua công chúa đã bảo tôi phải dẫn ngài tới rồi, xem như ngài cứu tôi đi mà!”

    Hoàng Tử Hà nhìn ra ngoài trời, kinh ngạc hỏi: “Sớm thế này công chúa đã hỏi đến việc ấy rồi ư?”

    “Công chúa còn chưa dậy, nhưng lỡ như vừa tỉnh đã hỏi thì sao? Tôi vẫn nên mau mau vời ngài đến là hơn, công công nói có phải không?”

    Nhìn ánh mắt van nài của Đặng Xuân Mẫn, Hoàng Tử Hà cũng đành rửa mặt thật nhanh, rồi theo hắn tới phủ Đồng Xương công chúa.

    Phủ Đồng Xương công chúa quả là tường ngọc vách vàng, tuy không nguy nga tráng lệ như hoàng cung, nhưng cũng dát vàng trên mái, treo chuông vàng giữa khóm hoa để xua chim, rèm trúc dùng tơ vàng chỉ bạc dệt thành hoa văn trang trí, cả những thứ lặt vặt trong phủ đều nhuốm vẻ xa hoa.

    Hoàng Tử Hà đứng lại trước sân đợi tuyên triệu.

    Sương sớm vẫn chưa tan, trên đầu còn nghe chim chóc líu lo. Cô đương mải nhìn thì nghe thấy bên cạnh vang lên một giọng ngái ngủ thảm thương: “Dương công công cũng đến đấy ư?”

    Hoàng Tử Hà quay lại nhìn, ra là Thôi Thuần Trạm, thiếu khanh Đại Lý Tự. Hắn cúi đầu ủ rũ, dẫn theo bốn nha sai Đại Lý Tự, sau khi chào hỏi xong xuôi, Thôi Thuần Trạm rầu rĩ ngồi ngay xuống chiếc ghế cạnh cô: “Công công ăn sáng chưa?”

    “Thưa, nô tài chưa.” Hoàng Tử Hà liếc năm dấu tay in hằn trên mặt hắn, bình tĩnh đáp.

    “Ta cũng chưa.” Cảm nhận được ánh mắt của cô, hắn nhăn nhó ôm má giải thích, “Sáng nay lúc thức dậy vô ý gây ra tiếng động lớn, kinh động đến con cọp cái ở nhà, kết quả…”

    Nhớ ra danh hiệu thiên hạ đệ nhất sợ vợ của Thôi Thuần Trạm, Hoàng Tử Hà chỉ cười cười không nói.

    Thôi Thuần Trạm cũng lấy làm ngượng nghịu, lại phân bua, “Bà ấy cũng là xót ta sáng sớm tinh mơ đã phải dậy lo công vụ, muốn ở bên ta thêm lúc nữa, tiếc rằng không biết cách thể hiện mà thôi, Dương công công nói có phải không?”

    “Đúng thế.” Hoàng Tử Hà nghiêm trang đáp.

    Thấy Dương Sùng Cổ cũng tán thành với mình, Thôi Thuần Trạm vui vẻ hẳn, quay lại thì thấy thị nữ yểu điệu bưng hộp đồ ăn đi đến, hắn càng thêm mừng rỡ: “Tốt quá rồi, chúng ta ăn sáng trước đã.”

    Ả thị nữ nhoẻn cười, mở hộp bưng mì và cháo ra. Thôi Thuần Trạm bèn gọi tất cả lại dùng bữa.

    Đặng Xuân Mẫn vội múc cho mỗi người một chén cháo nhỏ. Thôi Thuần Trạm thấy ả thị nữ thanh tú, bèn hỏi: “Ngươi là người hầu bên cạnh công chúa ư?”

    “Nô tỳ Thùy Châu, hầu hạ công chúa từ nhỏ, về sau lại theo công chúa xuất cung.” Nói rồi ả nhoẻn cười, cặp mắt cong cong, lại thêm đôi má trắng nõn, tuy đường nét không đẹp lắm, nhưng dáng dấp thùy mị dịu dàng khiến người ta gặp rồi là nhớ mãi không quên, “Công chúa dặn rằng có lẽ Thôi thiếu khanh và Dương công công không nắm rõ tình hình trong phủ, nên nếu cần gì cứ hỏi nô tỳ.”

    “Thật tốt quá! Ta đang lo trong phủ công chúa nhà cửa san sát thế này, chẳng biết phải bắt tay từ đâu đây.” Thôi Thuần Trạm nói, đoạn nhìn sang Đặng Xuân Mẫn.

    Đặng Xuân Mẫn vội thưa: “Nô tài Đặng Xuân Mẫn, cũng như Thùy Châu và Ngụy Hỷ Mẫn, đều hầu hạ công chúa từ nhỏ, năm ngoái lại theo công chúa xuất cung.”

    “Trong phủ các ngươi có bao nhiêu người?” Thôi Thuần Trạm hỏi.

    Đặng Xuân Mẫn còn đang lúng túng thì Thùy Châu đã nhanh nhảu đáp ngay, “Bẩm Thôi thiếu khanh, phủ công chúa hiện giờ kể cả quản gia và phó quản gia cùng hai phòng thu chi lớn nhỏ là bốn mươi hai người, hoạn quan bảy mươi tám người, thị tỳ một trăm hai mươi tám người, đầu bếp và chạy vặt hai trăm bốn mươi bảy người.”

    “Bao nhiêu người theo công chúa xuất cung?”

    “Bấy giờ hoạn quan là bảy mươi tám người, thị tỳ ba mươi sáu người. Những kẽ khác đa phần được tuyển từ dân gian khi thánh thượng ban dụ cho xây phủ công chúa, còn mười mấy người nữa bao gồm người chăn ngựa, quản kho và thợ khéo, đều vào trong vòng một năm nay.”

    Hoàng Tử Hà thấy Thùy Châu liệt kê rành rọt như vậy, liền hỏi: “Ngụy Hỷ Mẫn có ân oán với ai không?”

    Thùy Châu ngẫm nghĩ một thoáng rồi đáp: “Ngụy Hỷ Mẫn và nô tỳ cùng hầu hạ bên công chúa, xưa nay vẫn dốc lòng tận tụy, cần mẫn thận trọng, hết dạ trung thành.”

    Thấy Đặng Xuân Mẫn có vẻ ngập ngừng, muốn nói lại thôi, Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Đặng công công và Ngụy Hỷ Mẫn đều là quan nội, thường ngày có phát hiện gì không?”

    Đặng Xuân Mẫn vội đáp: “Thực ra… Thực ra, hôm trước, nô tài phát hiện y cãi vã với… Xương Bồ ở nhà bếp.”

    “Hả?” Thôi Thuần Trạm nghe vậy buông đũa hỏi ngay, “Sao y lại cãi vã với một đầu bếp?”

    Đặng Xuân Mẫn luống cuống thưa: “Nô tài… nô tài không biết.”

    “Xương Bồ không phải đầu bếp, mà là người cai quản cả bếp lớn và bếp nhỏ, lo cơm nước quanh năm, thường được công chúa khen là làm việc cẩn trọng.” Thùy Châu thấy vậy liền đáp thay, “Xương Bồ là nô tỳ ở nhà phò mã, khi công chúa hạ giá(*), phò mã bèn dẫn theo về. Năm nay cũng hơn ba mươi rồi, vẫn chưa lấy chồng. Còn họ cãi vã về chuyện gì, thì chúng nô tỳ không rõ.”

    (*) Công chúa thành hôn với người có địa vị thấp hơn thì gọi là hạ giá, ý là phải hạ mình lấy người thấp kém hơn.

    “Cãi vã à? Giữa tôi và Ngụy Hỷ Mẫn ấy ư?”

    Xương Bồ đang chọn món ăn ngày mai, thấy họ tới, bèn đặt tờ giấy xuống. Luận về nhan sắc, Xương Bồ cũng tàm tạm, phải cái nét mặt quá nghiêm nghị, hai nếp nhăn hằn sâu bên mép đã tước hết phong vận của chị ta. Xương Bồ nhớ kỹ lại, rồi gật đầu: “Đúng là có chuyện này.”

    Tri sự đứng sau vội lôi giấy bút ra ghi lại.

    Thấy vậy, Xương Bồ biến sắc hỏi, “Chuyện này là thế nào vậy? Lẽ nào các vị cho rằng tôi có liên quan tới cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn ư? Y… y chẳng phải bị trời phạt hay sao?”

    Hoàng Tử Hà vội trấn an: “Xương Bồ cô cô yên tâm, chúng tôi chỉ tìm hiểu những việc hằng ngày của Ngụy Hỷ Mẫn theo lệ thôi, cô cô có sao nói vậy là được.”

    Xương Bồ vẫn nghi hoặc căng thẳng, do dự hỏi: “Chẳng rõ… các vị muốn hỏi chuyện gì?”

    “Vụ cãi vã mấy hôm trước, cô cô thuật lại cho chúng tôi nghe được không?”

    “À, là chuyện đó ư.” Xương Bồ hơi cao giọng, rõ ràng vẫn còn bất mãn, “Hằng ngay tôi lo cai quản việc ăn uống từ trên xuống dưới trong phủ, còn Ngụy Hỷ Mẫn là người hầu cận bên cạnh công chúa, vốn dĩ chẳng giao hảo gì, song cũng không có hiềm khích. Ai ngờ mấy hôm trước y tới tìm tôi, hỏi linh lăng hương, tôi bảo không có, y bèn cao giọng mắng tôi trước mặt bấy nhiêu người của cả bếp lớn bếp nhỏ. Công công nói xem, tôi từ nhà phò mã đến, từ đầu đã cai quản hai mươi mấy người ở nhà bếp, y ngang nhiên bỉ mặt tôi như thế là ý gì? Nghĩ y là người thân tín của công chúa, nên lúc ấy tôi đành nín lặng nghe mắng. Ngờ đâu bây giờ… Ôi, người chết là hết.”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Cô cô cai quản nhà bếp, sao y lại hỏi đến linh lăng hương?”

    “Kể ra thì cũng là tôi xui xẻo. Mấy hôm trước, tôi vừa khéo… tìm được ít linh lăng hương, loại hương liệu này rất quý, theo quy củ trong phủ, nếu người dưới có vật gì quý giá, phải trình lên cho công chúa xem trước. Ai dè công chúa chê thì rơi vào tay Ngụy Hỷ Mẫn, y dùng hết rồi lại nghĩ nhất định tôi vẫn còn nên ngang nhiên tới đòi thêm, đúng là mặt dày hết mức!”

    Hoàng Tử Hà tiếp tục truy hỏi: “Xin hỏi cô cô, linh lăng hương ấy từ đâu mà có vậy?”

    “Là… người quen của tôi cho.” Xương Bồ cúi đầu, tỏ vẻ khó chịu, rõ ràng là không muốn tiếp tục chủ đề này, “Dù sao thì người ấy cũng chỉ cho bấy nhiêu đó thôi. Sau đó, tôi cũng không gặp Ngụy Hỷ Mẫn nữa, đến hôm sau thì nghe nói y đã chết, là… bị sét đánh, tôi lấy làm ngạc nhiên, trộm nghĩ lẽ nào ông trời cũng ngứa mắt thói ngang ngược của y?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn hỏi nốt câu cuối cùng, “Vậy lúc Ngụy Hỷ Mẫn chết, cô cô ở đâu?”

    “Hôm ấy là ngày Quán Thế Âm đắc đạo, trong phủ phải ăn chay. Bởi thế sáng ra tôi đã đến nhà bếp trông coi, để tránh lẫn thức mặn vào. Lỡ như bị công chúa phát hiện, chẳng phải to chuyện ư, công công bảo có đúng không?”


    Thôi Thuần Trạm tiện miệng đáp: “Đúng thế.”

    Đúng lúc ấy, hoạn quan chạy tới thông báo: “Công chúa đã dậy, các vị có thể vào bái kiến rồi.”

    Thôi Thuần Trạm và Hoàng Tử Hà liền bỏ Xương Bồ lại, đi thẳng đến chỗ công chúa. Từ đằng xa đã thấy một đám thị nữ gấm lụa lượt là, thướt tha từ đài cao đi xuống, trên tay ai nấy đều lấp lánh vàng rực. Đến gần mới phát hiện, thì ra những mâm vàng trong tay họ đều là các món ăn sáng Đồng Xương công chúa dùng xong sai dọn đi.

    Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, nếu có Chu Tử Tần ở đây, nhất định gã sẽ nói mâm vàng chẳng có tác dụng gì cả, mâm bạc tốt hơn nhiều, còn có thể nghiệm độc!

    Thôi Thuần Trạm cũng trầm trồ, “Đúng là ‘cá xắt mâm vàng thị nữ bưng’, nghe nói bát đĩa trong phủ công chúa đều bằng vàng bạc, quả không sai.”

    Thùy Châu nhoẻn cười: “Thuở nhỏ công chúa ở trong cung, từng bị mảnh sứ cứa đứt tay. Từ đó thánh thượng hạ lệnh, bên cạnh công chúa không cho phép bất cứ đồ gốm sứ nào xuất hiện nữa, cứ thế đến tận bây giờ.”

    Thôi Thuần Trạm và Hoàng Tử Hà chỉ biết câm nín. Từng nghe ngoài phố đồn rằng hoàng đế nâng niu Đồng Xương công chúa như châu báu, song thật không ngờ, ngài ngự lại chiều con tới mức này.

    Đồng Xương công chúa mặc váy đỏ rực, mái tóc óng ả búi lơi, một mình ngồi trong phòng tiếp kiến bọn họ.

    Nàng ngồi ngay ngắn trên sập, chỉ cài độc một cây trâm. Song cây trâm này hoa lệ tinh xảo khôn cùng, đến nỗi một kẻ không hay để ý đến trang sức như Hoàng Tử Hà và một nam nhâm như Thôi Thuần Trạm, vừa trông thấy đã bị cuốn hút, không dời mắt đi đâu được.

    Cây trâm ấy đẽo ra từ một khối ngọc nguyên, chạm trổ tinh tế, tạo thành hình chín cánh chim loan phượng bay lượn. Quý nhất là, khối ngọc này lại là ngọc chín màu hiếm có khó tìm, cũng chẳng rõ do tay thợ khéo nào chế ra, dựa trên màu sắc vốn có của khối ngọc, đẽo thành chín con loan phượng chín màu, dang cánh bay lượn, sống động vô cùng.

    Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, đây hẳn là trâm Cửu loan trong truyền thuyết, khắp thiên hạ chỉ có một chiếc, được gọi là bảo vật trấn quốc khố. Đương kim hoàng thượng không tặng Vương hoàng hậu, lại ban cho con gái, đủ thấy lòng sủng ái Đồng Xương công chúa.

    Không thấy bóng dáng phò mã. Công chúa ra hiệu cho họ ngồi xuống rồi nói: “Hôm qua phò mã bị thương, thái y dặn phải bó thuốc. Ta không chịu được mùi thuốc nồng nặc, nên đã đuổi phò mã sang phòng bên ngủ rồi.”

    Thôi Thuần Trạm giơ tay lên sờ bên má vừa bị tát theo phản xạ, vẻ mặt phức tạp.

    Xem ra tình cảm giữa công chúa và phò mã khá lạnh nhạt.

    Hoàng Tử Hà sực nghĩ đến lời Lý Thư Bạch.

    Ngoài phố đồn đại rất nhiều về Đồng Xương công chúa và Vũ Tuyên…

    Cô gắng ngăn mình không nghĩ tiếp, định thần lại, cố lấy giọng bình thản hỏi: “Chẳng hay công chúa điện hạ nghĩ thế nào về việc Ngụy Hỷ Mẫn? Có thể thuật lại một lần được chăng?”

    Công chúa bực bội: “Dĩ nhiên ta có nhiều nghi vấn! Thứ nhất, Ngụy Hỷ Mẫn xưa nay không tin quỷ thần, ngươi bảo sao y lại đến chùa Tiến Phúc xem pháp hội chứ?”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Thưa, y không tin quỷ thần ư?”

    “Đúng thế.” Công chúa nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi hỏi thị nữ bên cạnh: “Lạc Bội, ngươi nói có phải không?”

    “Bẩm, đúng thế. Thường ngày Ngụy Hỷ Mẫn hay bị đau đầu, mỗi lần lên cơn là chửi trời mắng đất, còn nói nếu trên đời có Phật Tổ Bồ Tát thật, thì mau làm hai lạng thịt kia của hắn mọc lại đi… Ôi chao, tóm lại toàn nói những lời bẩn thỉu thôi. Hôm qua còn có người bảo, Ngụy Hỷ Mẫn thường phạm tội đại bất kính, nên mới gặp báo ứng đó.”

    “Tối trước hôm xảy ra chuyện, nghe nói y và Xương Bồ ở nhà bếp cãi nhau ầm ĩ, các người cũng biết Xương Bồ là người bên nhà phò mã, đến lượt y mắng mỏ hay sao? Ta đang định dạy bảo y, sai Thùy Châu gọi y đến, nhưng ả hỏi khắp phủ, không ai thấy tăm hơi y cả. Nào ngờ hôm sau lại nghe nói y chết ở chùa Tiến Phúc!” Đồng Xương công chúa cau mày, “Theo ta thấy trong vụ này ắt có điều lạ, ít nhất thì kẻ dẫn y đến chùa Tiến Phúc cũng rất đáng nghi.”

    Thôi Thuần Trạm nhanh nhảu nói ngay, “Công chúa nói có lý lắm, chúng thần nhất định sẽ tra xét rõ ràng, không phụ kỳ vọng của công chúa!”

    Nghe hắn nói một lèo chẳng có chút thành ý nào, Đồng Xương công chúa cũng chẳng thèm đáp, đưa mắt nhìn sang Hoàng Tử Hà: “Dương công công thấy thế nào?”

    “Trước mắt nô tài vẫn chưa biết được gì, có lẽ Thôi thiếu khanh và nô tài phải hỏi han rà soát trong phủ một lượt đã.”

    Đồng Xương công chúa vẫy tay: “Thôi thiếu khanh lui ra trước đi, Dương công công ở lại một lát.”

    Đợi năm người bọn Thôi Thuần Trạm lui ra, Đồng Xương công chúa mới thong thả đứng dậy, đến trước mặt Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà đứng dậy, cung kính cúi đầu hành lễ.

    Dáng người Hoàng Tử Hà dong dỏng cao, còn Đồng Xương công chúa lại nhỏ nhắn, thấp hơn cô nửa cái đầu. Nàng ngước lên nhìn Hoàng Tử Hà một hồi, đoạn cười nói: “Nghe tiếng Dương công công từ lâu, có thể lọt mắt xanh Quỳ vương, quả nhiên phong thái phi phàm.”

    Hoàng Tử Hà cười gượng: “Công chúa quá khen?”

    “Lời ta nói ra, lẽ nào lại sai ư?” Đồng Xương công chúa liếc cô, đoạn tươi cười đi đến trước cửa sổ, uể oải dựa vào song cửa, “Ngươi thấy cây trâm Cửu loan bản cung đang cài chứ?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, “Quả là tinh xảo cực độ, trên tài tạo hóa.”

    “Công công suy cho cùng cũng không hiểu được tâm tư nữ tử. Tuy ta chỉ cần động ngón tay là kỳ trân dị bảo trong thiên hạ sẽ sắp hàng trước mặt, nhưng ta ưa nhất, vẫn là cây trâm Cửu loan này.” Nàng giơ tay vuốt nhẹ cây trâm trên đầu thở dài: “Đúng là chấp niệm của nữ tử, luôn nghĩ rằng thứ mình yêu quý nhất, sẽ có tâm ý tương thông…”

    Hoàng Tử Hà không hiểu công chúa nói những lời này với mình là ý gì, nhưng cũng không tỏ vẻ nôn nóng, chỉ cung kính lắng nghe.

    “Mấy hôm trước… Một đêm, lúc ấy Ngụy Hỷ Mẫn còn chưa chết, ta đã nằm mơ.” Công chúa chống hai tay lên lan can, nhìn xuống biển hoa bên dưới.

    Đang giữa tháng Bảy, tiết trời nóng nực. Nàng đứng trên đài cao đón gió mát, phía dưới là rợp rợp những đóa hợp hoan màu hồng phấn, dập dềnh như sóng, hương thơm ngào ngạt.

    Một đóa hợp hoan mềm như tơ bị gió cuốn bay lên, vương vào mai tóc công chúa, khẽ lay động. Nàng bèn giơ tay gỡ xuống, vân vê giữa ngón tay, lẩm bẩm: “Ta mơ thấy một nữ tử ăn vận hoa lệ, nhưng trên đầu không cài trang sức, mà thả tóc dài chấm đất. Cô ta từ trong bóng tối hiện ra, từng bước tiến về phía ta, dung nhan rạng ngời như ngọc, nói: ‘Bản cung là Phan Ngọc Nhi, thục phi nhà Nam Tề. Có một món đồ ưa thích, để ở chỗ công chúa đã lâu, mong công chúa chuẩn bị trả lại cho ta.’”

    Nói đoạn, Đồng Xương công chúa bỗng quay phắt lại, giọng cũng lạc đi: “Phan thục phi nhà Nam Tề đã là người từ mấy trăm năm trước rồi. Cô ta bảo ta trả lại cho cô ta… có phải, có phải ý nói ta cũng sẽ…”

    “Xin công chúa chớ lo.” Thấy công chúa sợ hãi, Hoàng Tử Hà liền an ủi, “Chẳng qua chỉ là một giấc mộng hư ảo thôi. Theo nô tài thấy, có lẽ gần đây công chúa lo nghĩ nhiều, nên mới tích tụ thành giấc mơ đấy mà.”

    “Thế ư?” Công chúa cau mày nghĩ ngợi hồi lâu, chợt rút cây trâm Cửu loan ra đưa tới trước mặt cô: “Dương công công xem.”

    Hoàng Tử Hà nhận lấy xem kỹ. Đuôi trâm cong cong như vành trăng khuyết, nằm sau chín con loan phượng bay lượn quấn quýt lấy nhau, bên trên khắc hai chữ triện cổ nhỏ xíu: Ngọc Nhi.

    “Cây trâm này đúng là thuộc về Phan thục phi Phan Ngọc Nhi nhà Nam Tề.” Công chúa thở dài hỏi, “Hiện giờ ngươi đã hiểu tại sao ta nóng lòng như lửa đốt hay chưa? Hoạn quan bên cạnh mình xảy ra chuyện, phò mã cũng bị thương, bản thân ta… thì mơ thấy giấc mộng quái gở đó, ngươi nói xem, sao ta có thể không lo chứ?”

    “Xin công chúa đừng quá lo nghĩ. Nô tài nhất định dốc hết sức mình, sớm ngày phá xong án này để giải trình cùng công chúa.” Thấy thái độ của công chúa, Hoàng Tử Hà biết có an ủi mấy cũng vô dụng, đành nói mấy câu này.

    Đồng Xương công chúa nghe vậy mới nhẹ lòng phần nào, “Nếu ngươi bắt được hung thủ sát hại Ngụy Hỷ Mẫn, làm bị thương phò mã về quy án, bản cung nhất định trọng thưởng, dù là trời phạt, ngươi cũng phải tra rõ cho ta, tại sao người bên cạnh bản cung lại bị trời phạt?”

    Nhìn dung mạo thanh mảnh mà sắc sảo quật cường của công chúa, Hoàng Tử Hà bất giác thở dài trong lòng, vội thưa: “Đó là phận sự của nô tài, xin công chúa đừng lo, nô tài nhất định dốc hết sức điều tra vụ này.”

    Cáo từ Đồng Xương công chúa, Hoàng Tử Hà một mình thong thả đi từ trên đài cao xuống.

    Trên cao gió lộng, thổi tung tà áo đỏ khoác ngoài của cô. Ống tay áo rộng bay tung, che khuất cả tầm nhìn, cô phải túm gọn lại để khỏi bay, khi bước xuống bậc thềm cuối cùng, Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn, chợt phát hiện dưới gốc hợp hoan có người đang chậm rãi đi đến.

    Ngày hè nóng nực, hoa nở rợp trời.

    Lớp lớp cây hợp hoan bừng nở như mây như móc, dẫu lặng gió, cánh hoa vẫn lả tả rụng xuống. Dưới ánh mặt trời chói gắt, những đóa hoa như sắp cháy bùng lên ấy đã thả sức nở rộ, rồi cũng hết mình rơi rụng.

    Cánh hoa rợp rợp, diễm lệ vô song. Thân cây ngả xuống dưới mái điện, che khuất một phần bóng người đang đi tới. Dù không trông rõ dáng dấp kẻ đó, chỉ nhìn phong thái, cũng đủ rúng động lòng người.

    Song Hoàng Tử Hà vừa trông thấy bóng dáng, đã thấy lòng bàn tay rịn mồ hôi lạnh.

    Cô vội vã quay ngoắt đi, nấp sau một gốc hợp hoan cao lớn, nén run nhìn về phía hắn.

    Nam tử nọ chậm rãi tiến lại, tuy chẳng nói năng, nhưng lại toát lên phong vận tao nhã thâm trầm như thủy mặc. Chẳng khác ánh trăng đầu tháng nhàn nhạt, không chói lòa, cũng không u ám, vừa đủ soi người.

    Dường như cảm thấy sau gốc cây có người, hắn ngẩng đầu lên giữa muôn hoa, hướng cặp mắt đủ khiến vạn vật trên đời chìm đắm về phía cô.

    Hoàng Tử Hà bất giác áp sát lưng vào thân cây, như sợ hắn trông thấy. Cô gắng nín thở, chỉ sợ hễ mình thở ra, sẽ có thứ gì đó vỡ òa trong lòng.

    Vũ Tuyên.

    Sao hắn lại ở trong phủ công chúa?

    Hơn nữa, còn vào đúng sáng nay, khi công chúa và phò mã đang ngủ riêng.

    Sau lưng vang lên tiếng bước chân nhè nhẹ cùng tiếng cỏ xanh xào xạc.

    Hắn đi đến gốc cây cô nấp, dịu giọng hỏi: “Vị công công này khó ở trong người ư? Có cần giúp gì không?”

    Bấy giờ cô mới phát hiện mình đã để ló ra một chéo áo, cả người đang run lên vì phải kìm nén nên trông giống như không được khỏe.

    Cô vội chỉnh lại y phục, quay lưng về phía hắn, gượng gạo lắc đầu.

    Hắn dường như vẫn chưa thôi lo lắng, lại hỏi tiếp: “Không sao thực chứ?”

    Hoàng Tử Hà nghiến răng rảo bước đi thẳng.

    Vừa thấy cô cử động, nụ cười trên mặt hắn đã cứng đờ ra. Hắn chăm chú nhìn theo bóng cô, thấy bước chân cô hơi loạng choạng, bèn nghẹn ngào gọi khẽ: “A Hà…”

    Hai chữ ấy lọt vào tai cô, mơ màng như mộng

    Giọng hắn như vẳng đến từ một thời không nào xa lắm, vang vọng trong tai cô như sóng, hồi lâu không dứt.

    Bước chân cô bất giác sững lại, đóng đinh tại chỗ. Lâu thật lâu, cô mới ngoái đầu, nhìn về phía Vũ Tuyên.

    Hắn cũng đăm đăm nhìn cô, vẻ mặt không chỉ có oán hận, mà vô cùng phức tạp. Nhìn cô, hắn như thấy lại giấc mộng xưa đã tiêu tan, đóa hoa mình từng nâng niu che chắn từ khi đơm nụ giờ tàn tạ thành bùn đất.

    Cô nhìn hắn, hồi lâu mới gọi khẽ: “Vũ Tuyên.”

    Trong khu vườn vắng, dưới bóng hợp hoan. Cơn gió nồng nực ngày hè lướt qua ngọn cây, hoa rơi như mưa, những đóa hoa hồng phấn vương đầy người cả hai, như tơ như nhụy, không sao phủi hết.

    Hoàng Tử Hà cả người đầy hoa, lặng lẽ nhìn hắn, nhìn về thời thiếu nữ đã vĩnh viễn trôi xa.

    “Công chúa sai muội… điều tra hai vụ án trong phủ.”

    Hắn nhìn cô, ánh mắt đầy vẻ xa cách như gần lại xa, thấp thoáng thấy được cả nét bi ai như không như có. Lặng thinh hồi lâu, cuối cùng hắn nghiến răng cười nhạt, “Khá lắm, sau khi giết sạch cả nhà, giờ còn dựa bóng cây cao, được muôn người ủng hộ nữa.”

    “Muội sẽ về Thục, sau khi… kết thúc vụ việc ở phủ công chúa.” Nén nỗi chua xót chỉ chực trào lên trong lồng ngực, cô phân trần, “Quỳ vương đã nhận lời giúp muội, ít hôm nữa muội sẽ lên đường quay về, lật lại vụ án của gia đình.”

    Hắn kinh ngạc nhìn cô chằm chằm: “Ngươi… sẽ quay về ư?”

    “Sao lại không? Chẳng những muội phải rửa sạch mối oan, mà còn phải tra rõ vụ huyết án của gia đình!” Cô đặt tay lên ngực, cảm nhận được trái tim đang đập liên hồi, gần như không nén nổi kích động, cô thở dồn dập hồi lâu mới rành rọt thốt ra từng lời gan ruột, tiếng nào tiếng nấy đều đong đầy nước mắt, “Muội nhất định sẽ chính tay bắt được tên hung thủ đó, báo thù cho cả nhà!”

    Đứng cách cô một trượng, Vũ Tuyên nhìn chằm chằm Hoàng Tử Hà, nghe cô lập lời thề mà sóng triều dâng đầy trong mắt. Nhưng trong chốc lát, hắn vẫn không sao chấp nhận được lời giải thích của cô, nên chỉ cụp mắt xuống, chậm rãi lùi lại một bước, nói khẽ: “Trước đây ngươi giết hại cả nhà, chứng cứ xác thực, ta… chẳng biết có nên tin ngươi nữa hay không?”

    Trong khoảnh khắc ấy, trái tim Hoàng Tử Hà như ngừng đập. Cảnh đẹp như mơ, hoa đổ như mưa xung quanh, chớp mắt đều thành hư ảo.

    Nhưng đứng trước mặt hắn, nghe những lời tuyệt tình ấy, mặc cho toàn thân run lên vì lạnh, Hoàng Tử Hà bỗng mỉm cười. Hoa hợp hoan nở rồi lại rụng, lả tả như mưa, cô đứng giữa màn mưa hoa nhìn hắn, tươi cười hệt năm ấy.

    Chỉ nghe cô cười nói: “Yên tâm đi Vũ Tuyên. Muội sẽ lôi tên hung thủ phía sau ra cho huynh thấy. Trong những vụ án từng gặp, chưa vụ nào muội không phá được cả, huống hồ lần này, muội đặt cược cả sinh mạng!”

    Đoạn cô quay ngoắt mình sải bước đi thẳng, băng qua lớp lớp những gốc hợp hoan, tựa hồ chẳng hề nhận ra mắt mình đã ầng ậng nước.

    Cô càng đi càng nhanh, về sau gần như đã chạy điên cuồng, chạy thật xa khỏi Vũ Tuyên, không hề ngoảnh lại.

    Mãi tới khi ra khỏi rừng hợp hoan, cô mới ngỡ ngàng dừng chân ngẩng lên. Qua tán lá thưa thớt trên đầu, cô trông thấy hắn chậm rãi bước lên đài cao.

    Gió lay vạt áo, phiêu phất như tiên. Phong thái ung dung phóng khoáng ấy, không thể hình dung, cũng không thể miêu tả.

    Rốt cuộc hắn có mảy may bận lòng vì lần trùng phùng này chăng?

    Cô dời mắt khỏi hắn, ngẩng đầu nhìn trời. Bầu không xanh ngắt lồng lộng trên đầu, sáng đến chói mắt. Lệ nóng vốn đong đầy trong mắt, cuối cùng cũng chảy dài.
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 7 - Đậu khấu thiều hoa
    Hoàng Tử Hà ngước nhìn trời, cắn mạnh vào đầu lưỡi, mượn cơn đau ép mình tập trung tinh thần.

    Cô gắng hít thở để nỗi nhói buốt trong lồng ngực dịu đi.

    Cô nghĩ đi nghĩ lại về cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn, sự cố ngã ngựa của phò mã và giấc mộng của công chúa, gắng tìm điểm chung giữa ba điều này, hòng xua tan những ý nghĩ về Vũ Tuyên.

    Lúc men theo con đường nhỏ dưới gốc hợp hoan đi đến trước khung cửa tròn, cô đã bình tĩnh lại, ít ra nhìn bề ngoài đã thản nhiên như thường.

    Thùy Châu đứng đợi trước cửa, tươi cười bước tới đón cô: “Phòng phò mã ở vườn Túc Vi, để nô tỳ dẫn công công đến.”

    “Đa tạ, phiền tỷ tỷ quá.”

    Thùy Châu nhoẻn cười, đi trước dẫn đường. Đến trước một cánh cổng, ả định giơ tay đẩy ra thì bỗng rụt vội lại, dẫn cô quành sang đường xa hơn. Dù không thông thuộc đường sá trong phủ, Hoàng Tử Hà cũng biết rõ ràng ả đi đường vòng.

    Ngoảnh lại nhìn cánh cổng khóa chặt, cô làm bộ vô tình hỏi: “Bên đó là chỗ nào vậy, sao phải khóa?”

    Thùy Châu chần chừ rồi ngập ngừng đáp: “Đó là vườn Tri Cẩm, bên trong trồng rất nhiều chuối và diên vĩ, tránh nắng hè là tiện nhất. Nhưng từ tháng trước, cứ đến nửa đêm lại nghe có tiếng khóc lóc trong đó, mọi người đều nói... ” Thùy Châu nhìn quanh quất, thấy xung quanh không có ai, mới hạ giọng thật khẽ, “Đều nói có thứ không sạch sẽ. Công chúa bèn sai người mời đạo sĩ đến làm phép, rồi khóa cửa lại, nghe nói phải thanh tẩy oán khí mười năm mới mở ra được.”

    Hoàng Tử Hà đương nhiên không tin quỷ thần, nhưng vẫn ngoái đầu nhìn vườn Tri Cẩm, gắng ghi nhớ lại.

    Vườn Túc Vi, nơi ở của phò mã trồng đầy tử vi. Đang giữa mùa hoa, hoa nở rộ thành từng chùm từng bụi, hết sức vui mắt.

    Phò mã đang trò chuyện với Thôi Thuần Trạm, thấy thị nữ dẫn cô vào thì bảo: “ Dương công công, chúng ta đang thảo luận về trận cầu hôm qua đây! Thân thủ công công nhanh nhẹn thật đấy, hôm nào rảnh ta đấu lại được chăng?”

    Hoàng Tử Hà cười đáp: “Nô tài đâu dám, phò mã mới là xông xáo khắp sân, khiến người kính phục.”

    Thôi Thuần Trạm săm soi cô từ trên xuống dưới, đầy vẻ nghi hoặc: “Gì cơ? Dương công công chơi kích cúc giỏi lắm à? Đúng là ta nhìn không ra đấy.”

    “Đâu thể trông mặt mà bắt hình dong được?” Vi Bảo Hoành cười, “Vốn dĩ lúc Vương Uẩn mời tham gia, ta còn nói, Chu Tử Tần chỉ là tay mơ, tên Trương Hàng Anh to xác kia thì chẳng có ngựa mà cưỡi, chấp thêm cả Dương công công, một mình ta đấu với ba người họ còn e hiếp người quá đáng, huống hồ lại liên thủ với Vương đô úy, đúng là ỷ mạnh hiếp yếu mà! Ha ha, thực không ngờ cuối cùng lại bại trong tay họ.”

    Thôi Thuần Trạm suýt rớt cả hàm dưới: “Trận đấu hôm qua chẳng phải vì ngựa của phò mã gia xảy ra chuyện nên phải ngừng lại ư?”

    “Ôi dào, thua là thua thôi, huống hồ Quỳ vương gia cũng ra trận, ta còn dám đánh nữa sao?” Nói đoạn, hắn cười với Hoàng Tử Hà, “Nhắc đến thì, thể diện Dương công công cũng lớn quá, vời được cả ba vị vương gia so tài thay mình, trong cả kinh thành này, công công là người đầu tiên đấy.”

    “Nô tài nào dám, các vương cũng vì biết đối thủ là phò mã gia, nên mới chịu ra trận đấy thôi, nô tài đâu có cái thể diện ấy.” Hoàng Tử Hà vội đáp.

    “Ài, tiếc rằng lần này ta thực mất mặt quá, giữa chừng lại ngã ngựa, đúng là thanh danh bấy nhiêu năm đều đổ xuống sông cả rồi!” Miệng nói vậy nhưng mặt Vi Bảo Hoành vẫn tươi hơn hớn, còn cười hì hì xắn tay áo lên cho họ xem, “Thấy chưa? Vết thương lớn nhất trên người đấy, dài hai tấc rộng nửa tấc, là vết trầy.”

    Thôi Thuần Trạm vừa bực mình vừa buồn cười, vỗ bộp lên khuỷa tay hắn, “Thôi đi, đường đường nam tử hán, chỉ trầy da chút xíu mà cũng phải bôi thuốc, không biết xấu hổ!”

    “Công chúa nói rồi đấy thôi, trên người có sẹo thì không sao, nhưng nếu mặt bị sẹo, thì không làm phò mã được nữa đâu.” Hắn nghênh ngang nói, đoạn bảo Hoàng Tử Hà, “Hôm qua ta suy nghĩ rất lung mà không sao thông được. Công công bảo con ngựa ta tiện tay dắt bừa đó, đã bị người ta hạ thủ lúc nào vậy? Ta cứ nghĩ đi nghĩ lại mãi, hình như không có cơ hội ra tay đâu.”

    “Nô tài hiện giờ cũng chưa có manh mối gì, có lẽ bọn nô tài phải điều tra thêm đã.” Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Chẳng hay bên cạnh phò mã có việc gì hay người nào đáng chú ý chăng?”

    Vi Bảo Hoành nhíu mày nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp: “Hình như không có.”

    “Ừm...” Hoàng Tử Hà còn đang trầm tư thì hắn thình lình đập bàn thốt lên: “À có! Gần đây ta quen một kẻ, đúng là vô cùng kỳ quái, không thể diễn tả được!”

    “Ai cơ?” Hoàng Tử Hà và Thôi Thuần Trạm vội hỏi dồn.

    “Một tên tiểu hoạn quan, dung mạo thanh tú, dáng người nhỏ nhắn, song tài kích cúc còn cao cường hơn cả đám người ở Tả Kim Ngô Vệ, đó chính là việc lạ lùng nhất mà ta gặp gần đây!”

    “Phò mã gia đừng đùa nữa mà!” Hoàng Tử Hà cười gượng rồi đứng dậy đi lại trong phòng, chợt trông thấy trên tường treo một bức tranh chữ, vẽ một cành đậu khấu đỏ rực, đôi chiếc là xanh như có như không. Bên cạnh bài đề bài thơ của Đỗ Mục:

    Tuổi chớm mười ba dáng thướt tha

    Tháng Hai đậu khấu mới đơm hoa

    Gió xuân mười dặm Dương Châu thổi

    Vén rèm trông, thấy thảy kém xa.(*)

    (*) Đậu khấu là cây họ gừng, thân rễ to bằng ngón tay, gốc bẹt, lá dài, quả hình trứng, dùng làm thuốc và gia vị. Song đậu khấu hay được dùng ẩn dụ để ví người thiếu nữ độ tuổi mười ba mười bốn. Phép ẩn dụ này có xuất xứ từ bài thơ trên.

    Hoàng Tử Hà nhìn dòng lạc khoản, không khỏi trầm trồ: “Phò mã gia quả là thư họa song tuyệt.”

    “Thư họa song tuyệt gì chứ, thời còn ở Quốc Tử Giám, ta toàn cùng Tử Tần trốn học đi trèo cây bắt chim đó.” Vi Bảo Hoành xua tay, “Chẳng phải đều là cha ta ép ta ư.”

    Thôi Thuần Trạm cũng tấm tắc: “Ty chức thích bài thơ này lắm, tiểu cô nương mười ba mười bốn, đậu khấu đầu cành, đúng là trẻ trung thuần khiết, rung động lòng người... ”

    Vi Bảo Hoành trợn mắt: “Chẳng hay tôn phu nhân năm nay…?”

    “Khụ khụ... lớn hơn ty chức ba tuổi cơ. Có điều trong lòng ty chức vẫn mãi mãi là tiểu cô nương thuần khiết trẻ trung.”

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn đếm xỉa đến cả hai, chỉ mãi ngắm nhìn bức họa: “Cành đậu khấu này phò mã gia vẽ đẹp quá, trong cả bài thơ, hai chữ đậu khấu viết cũng đẹp nhất.”

    Nét mặt Vi bảo Hoành bỗng u ám hẳn đi, nhưng chỉ cười cười không nói.

    Thôi Thuần Trạm lại khen ngợi: “Dương công công cũng am hiểu thư họa nhỉ, quan sát tinh tường ghê.”

    “Nô tài cũng bị cha ép học, nhưng mới chỉ học được hai năm thôi.” Trong ba người, Hoàng Tử Hà là kẻ duy nhất giữ vững thái độ với công việc, lại hỏi tiếp: “Xin hỏi phò mã có biết Ngụy Hỷ Mẫn không?”

    “Công công nói kẻ bị trời phạt ấy ư?” Vi Bảo Hoành thuận miệng đáp: “Ta biết chứ, y ngày ngày theo hầu công chúa, người đã lùn lại còn hay khúm núm khom lưng uốn gối, trông như chó vậy. Được mỗi ưu điểm là chủ nhân sai cắn ai liền cắn ngay, rất nghe lời.”

    Nghe giọng điệu miệt thị của hắn, Hoàng Tử Hà bèn gặng: “Xem ra cũng là kẻ xông xáo được việc?”

    “Thì được việc mà, được việc đến nỗi khiến người ta chẳng còn lời nào mà nói.” Vi Bảo Hoành cười nhạt, “Mấy tháng trước xảy ra một chuyện, chắc chắn các vị dò hỏi sẽ biết thôi, nên ta cũng kể luôn. Nếu không phải ta chạy khắp các nha môn dập đi, e rằng công chúa và thanh danh phủ công chúa đều tiêu tan rồi.”

    Hoàng Tử Hà và Thôi Thuần Trạm nhìn nhau, Thôi Thuần Trạm hỏi: “Chuyện gì vậy?”

    “Chuyện này có lẽ chẳng liên quan gì đến vụ án, nhưng dường như lại cũng liên quan đến vụ án. Nếu không cần thiết, xin hai vị đừng lan truyền ra ngoài, bằng không sẽ làm tổn hại thanh danh phủ công chúa.” Vi Bảo Hoành dặn dò, đoạn nhíu mày trầm tư một thoáng rồi kể: “Đèn nến trong phủ xưa nay đều do tiệm nhang đèn nhà họ Lữ cung cấp. Tháng trước, lão Lữ có việc bận, bèn sai con gái đến giao hàng, kết quả cô nương con nhà tiện dân đó không hiểu phép tắc, không kịp tránh mặt công chúa… còn sơ ý giẫm lên làm bẩn gấu quần nàng.”

    Thôi Thuần Trạm buột miệng: “Chuyện nhỏ như vậy, phò mã cần gì phải để tâm?”

    “Vốn là chuyện nhỏ, nhưng nhờ tay Ngụy Hỷ Mẫn lại quạt thành chuyện lớn. Công chúa lệnh cho Ngụy Hỷ Mẫn uốn nắn cô gái ấy, tên Ngụy Hỷ Mẫn này, để làm đẹp lòng công chúa, bèn đánh cho cô ta ngất xỉu, rồi vứt ra góc đường. Kết quả, bị một tên vô lại, tên gì ấy nhỉ... Hình như mọi người đều gọi là Tôn ghẻ, một gã lưu manh hơn bốn mươi rồi, khắp người lở loét, ai thấy cũng ghê tởm. Thấy tiểu cô nương kia bất tỉnh nhân sự, hắn bèn... ”

    Vi Bảo Hoành tỏ vẻ xót xa, Thôi Thuần Trạm thì trợn trừng cả mắt, chỉ mình Hoàng Tử Hà bình thản cau mày: “Tiệm nhang đèn nhà họ Lữ ư?”

    “Đúng thế, nghe nói lão Lữ xưa nay luôn khinh rẻ con gái, chuyện này lại đồn ầm cả lên, lão cho rằng cô ta làm điếm nhục gia môn, bèn đuổi ra khỏi nhà. Nghe nói tiểu cô nương đó đã bỏ xác ngoài đồng hoang, ôi... ”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày hỏi: “Vậy còn lão Lữ thì sao?”

    “Nói ra thì, gặp phải kẻ nhát gan như lão ta là còn may đấy. Ta đã chạy vạy khắp các nha môn để dập chuyện này đi, còn tặng nhà họ Lữ hai trăm lạng bạc, sai người dần cho tên Tôn ghẻ kia một trận, lão Lữ mới cảm kích mà bỏ qua.”

    Thôi Thuần Trạm than thở, “Lão ta... đúng là nhát gan sợ chết, sẽ không báo thù ư? Theo ty chức biết thì Ngụy Hỷ Mẫn hình như bị chính cây nến do lão làm thiêu chết đó.”

    Vi Bảo Hoành xòe tay: “Vậy mới gọi là trời phạt, oan oan tương báo, cuối cùng nến do lão Lữ làm ra thiêu chết Ngụy Hỷ Mẫn, chẳng phải là kết cục rất hay ư?”

    Thôi Thuần Trạm rầu rĩ đáp: “Nếu công chúa cũng nghĩ được như vậy thì tốt quá.”

    Rời khỏi phủ công chúa, Thôi Thuần Trạm hỏi cô: “Tiếp theo đây Dương công công định đi đâu?”

    “Nô tài thấy nhất định phải tới tiệm nhang đèn nhà họ Lữ một chuyến.”

    “Ừm, hai ta cùng đi.”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Thôi thiếu khanh vận quan phục thế kia, nếu đến sẽ bị nhận ra ngay. Chi bằng để nô tài đi nghe ngóng trước, có khả nghi thì truyền lão tới Đại Lý Tự thẩm vấn là được.”

    “Vậy thì hay quá.” Thôi Thuần Trạm nhìn giờ rồi hối hả nói, “Sáng nay lúc ra cửa bà nhà ta nói sẽ đích thân xuống bếp, ta phải mau mau về nhà ăn cơm bà ấy nấu, xem chừng sắp muộn... ”

    “Thôi thiếu khanh đi thong thả.” Hoàng Tử Hà nhìn theo xe ngựa của Thôi Thuần Trạm đi xa dần, rồi lập tức vẫy ngay một cỗ xe khác, may mà trời thương, cô vẫn còn kinh phí tra án moi được của Lý Thư Bạch lần trước, “chưa kịp” trả lại, bằng không lấy đâu tiền thuê xe?

    Chạy thẳng đến nhà Chu Tử Tần, quả nhiên gã đang giam mình trong nhà nghiên cứu xương cốt.

    “Sùng Cổ, mau đến đây!” Chu Tử Tần trỏ chiếc đầu lâu bày trên giá, mừng rỡ gọi: “Mau đến đây chứng kiến thành tựu vĩ đại nhất của ta từ trước đến giờ này!”

    Hoàng Tử Hà thở dài, “Tôi tới tìm công tử có chuyện này cần bàn bạc... ”

    “Ôi dào, mặc kệ mặc kệ, mau đến đây!” Vừa nói, gã vừa túm lấy tay áo kéo cô vào nhà. Cô loạng choạng theo gã vào, thoạt nhìn đã thấy một chiếc đầu bày trên giá, tức thì giật nảy mình.

    “Giống người thật nhỉ? Ha ha, cũng như lần trước khôi phục lại bàn tay thôi, có điều cơ thịt gân mạch trên mặt quá nhiều, đến giờ ta mới lần đầu tiên làm được cái này... Này này, công công có cảm thấy... trông gương mặt này hơi quen quen không?”

    Còn không quen được ư? Khuôn mặt này nhan nhác Vương hoàng hậu. Hoàng Tử Hà thầm nghĩ.

    “Lúc cầm chiếc đầu lâu này, ta đã biết là mỹ nhân rồi, chỉ không ngờ lại đẹp đến thế.” Chu Tử Tần vuốt ve chiếc đầu trên giá, xuýt xoa.

    Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ giây lát, chợt hỏi: “Công tử lấy đâu ra chiếc đầu này thế?”

    “Mua chứ đâu, ta vẫn nhờ người phụ trách chôn cất các thi thể vô danh ở bộ Hộ để ý tìm giùm. Hừm, chuyện này là phạm pháp đấy, công công không được tiết lộ đâu nhé. Có một hôm, trước ngày chúng ta vớt được cái xác không đầu dưới kênh ấy, y lén lút mang cái này tới cho ta, nói là có người tìm được trong bụi cỏ. Ai da, lúc ấy trông nó còn be bét máu me, nhìn rất kinh tởm, có điều sau khi lóc hết da thịt, ta phát hiện cái đầu lâu này rất xinh đẹp, công công bảo có phải không?”

    Hoàng Tử Hà vơ ngay cái túi to, bọc lấy chiếc đầu ôm vào lòng, nói: “Chu công tử, tôi phải đem cái đầu này đi.”

    “Hả? Tại sao?”

    “Đừng hỏi nữa.” Cô nhét vội cái đầu vừa phục chế vào túi, hối hả dặn, “Tôi đem đi đây, sau này công tử tìm cái khác đi”

    “Ôi ôi, Sùng Cổ đừng tuyệt tình thế chứ... Đây là chiếc đầu đẹp nhất ta từng thấy từ khi sinh ra đến giờ đấy... Trong lòng ta chỉ có nó thôi, công công đừng đem đi mà...” Chu Tử Tần túm chặt cái túi, kêu khóc om sòm, “Sùng Cổ không thể đối xử với ta như thế được! Nghĩ mà xem, vụ án vương phi lần trước ta đã chạy đôn chạy đáo vì công công, hết vớt thi thể lại đào huyệt, không có công cũng có sức, còn công công thì sao? Đến giờ vẫn không chịu tiết lộ chân tướng cho ta! Ta biết cái xác trong quan tài ấy không phải Vương Nhược, tại sao nhà họ Vương vẫn đưa về Lang Gia an táng không phàn nàn nửa câu? Còn nữa, hung thủ thật sự trong vụ đó là ai? Rốt cuộc hắn đã ra tay thế nào? Ta chẳng biết gì cả? Sùng Cổ nhẫn tâm vừa vừa thôi chứ... Bất kể thế nào, chuyện khác ta cũng không để bụng, nhưng công công để lại cái đầu này cho ta đi! Xin công công đấy, hay là ta dùng đầu mình đổi cho công công nhé được không... ”

    Hoàng Tử Hà nghe gã khóc lóc kể lể đành thở dài nói khẽ: “Tử Tần, chiếc đầu này có lẽ là... con gái một người quen của tôi. Từ nhỏ cô ấy đã bị mẹ bỏ rơi, thân thế rất đáng thương, chết cũng rất thảm. Một cô gái đẹp như vậy mà phải đầu một nơi mình một nẻo, công tử đành lòng hay sao? Cho tôi đem cô ấy về an táng đi.”

    “Thôi... thôi được” Chu Tử Tần do dự hồi lâu, cuối cùng đành lưu luyến buông tay ra, rầu rĩ nhìn cô, “Này... Sùng Cổ, nghe nói giờ công công đang điều tra vụ án ở phủ công chúa, lần này nhất định phải dẫn ta theo đấy! Ta muốn cùng công công điều tra toàn bộ vụ này, hơn nữa, ta sẽ dựa vào thủ pháp cao siêu và tài năng trời phú để phá án trước công công cho xem!”

    “Hay quá, thực ra tôi tìm công tử cũng vì việc này đây.” Hoàng Tử Hà ra hiệu cho gã, “Trước hết, con cá lần trước đem về, công tử đã xét nghiệm chưa? Kết quả thế nào?”

    Chu Tử Tần nghiêm trang đáp: “Dĩ nhiên là rồi! Ta là ngỗ tác có trách nhiệm nhất trong triều đấy! Lũ cá đó quả nhiên đều trúng độc chết.”

    “Độc gì vậy? Nguồn gốc thế nào?”

    “Vẫn chưa thể khẳng định, nhưng hình như là trúng độc thủy ngân.” Chu Tử Tần gãi đầu bối rối, đoạn nhíu mày, “Lạ thật, ai lại bỏ thủy ngân xuống hồ cá chứ? Thứ này mang đi mang lại không tiện, mà việc gì phải bỏ xuống hồ?”

    Hoàng Tử Hà cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Cứ biết thế đã, giờ công tử tìm cho tôi một bộ đồ, rồi chúng ta đến tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.”

    “Được thôi, thân hình A Bút cũng na ná công công, để ta đi lấy ngay.”

    Trong chốc lát, Hoàng Tử Hà đã lắc mình biến thành người hầu của Chu Tử Tần.

    Hai người tìm thấy tiệm nhang đèn họ Lữ ở chợ Tây. Từ đằng xa trông thấy tấm bảng hiệu lộng lẫy, bên trên viết một chữ Lữ to tướng.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần ghé vào quán trà cạnh đó,Chu Tử Tần xông xênh tiền bạc, vừa vào đã gọi Mông Đỉnh Cam Lộ thượng hảo, còn thêm bốn loại mứt quả tám đĩa điểm tâm, lại thưởng hậu cho kẻ hầu trà, khiến hắn vui đến nỗi bỏ mặc những khách khứa khác, chỉ chăm chăm hâm trà cho bọn họ.

    “Công công nhìn tăm mắt cua này, đẹp chưa.” Chu Tử Tần kéo Hoàng Tử Hà lại nhìn tăm sủi lên từ lò lửa, “Ồ, nhiều tăm quá, Sùng Cổ xem này, lần trước ta từng thấy bọt máu sùi ra từ miệng một người cũng thế này đấy! Công công đoán xem, người đó bị thương chỗ nào trong lục phủ ngũ tạng?”

    Hoàng Tử Hà vội huých khuỷu tay vào thắt lưng Chu Tử Tần, ngăn gã nói tiếp.

    Đun trà xong, tên hầu bèn bưng đến rót cho hai người, cười cười nói: “Công tử tinh mắt quá, chọn trúng ngay tôi. Tôi hầu trà mười mấy năm nay rồi đấy, trong quán này không ai bì nổi tay nghề của tôi đâu.”

    Hoàng Tử Hà cười đáp: “Ngươi chẳng qua mới mười mấy năm thôi, này, có thấy tiệm nhang đèn đối diện kia không? Nghe nói nghề làm nhang đèn nhà họ truyền đến bốn đời rồi đấy, đó mới gọi là nghề tổ truyền.”

    “Nhà đó thì không bì được rồi, bốn đời làm nhang đèn, phải đến hơn trăm năm ấy chứ, nếu không cây nến lớn trong chùa Tiến Phúc sao lại giao cho họ làm?”

    Chu Tử Tần chớp mắt, vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, đành ngoan ngoãn bưng ly trà lên uống.

    “Có điều nghe nói nhà họ cũng chỉ truyền được đến đời thứ tư thôi, lão Lữ đâu có con trai!”

    “Quả vậy, chỉ có độc một đứa con gái, coi như là tuyệt tự rồi. Huống hồ, còn xảy ra chuyện này.” Nhắc đến mấy chuyện ngồi lê đôi mách, tên hầu trà phấn chấn hẳn lên, “Hai vị có nghe nói chưa? Lão ta đuổi con gái đi rồi! Ai da, dù là con gái cũng không nên chà đạp như thế, ngày sau lão ta già khọm, để xem lấy ai phụng dưỡng!”

    Hoàng Tử Hà giả bộ hào hứng hỏi, “Nghe nói lão ta đuổi con gái đi, là vì chuyện tên Tôn ghẻ?”

    “Đúng thế, Tôn ghẻngười chẳng ra người ngợm không ra ngợm, vừa xấu xí vừa bệnh tật, hơn bốn mươi tuổi vẫn chưa lấy được vợ, thấy con gái người ta ở ngoài đường, bèn giở trò vô lại. Đã thế, còn đi khắp nơi khoe khoang, khiến người trong kinh ai ai cũng biết, chẳng phải là ép chết cô ta ư!”

    Chu Tử Tần không dè nội tình thê thảm đến thế, bất ngờ đến nỗi suýt lảm rơi ly trà trong tay. Gã trỏ tiệm nhang đèn đối diện hỏi: “Chính là… lão Lữ làm nến ư?”

    Hoàng Tử Hà vẫn bình thản hỏi: “Sao lão Lữ không báo quan để nghiêm trị tên Tôn ghẻ kia?”

    “Thôi thôi đừng nhắc đến nữa, chẳng phải mọi người đều chửi rủa lão vì chuyện này ư? Lão nhận tiền xong là im như thóc, còn chê con gái nhơ bẩn, đuổi cổ ra khỏi nhà.” Tên hầu trà cũng không nén nỗi cơn giận, giọng cao hẳn lên, “Hôm đó, chúng tôi tận mắt chứng kiến lão đá cô ta ra cửa, rồi ném một con dao một sợi dây thừng trước mặt, bảo cô ta tự chọn lấy cách chết, đừng chết trong nhà làm mất mặt lão!”

    Nghe đến đó, Chu Tử Tần đập bàn giận dữ mắng: “Khốn nạn thật, lão ta không đi liều mạng với kẻ thù, lại chà đạp con gái mình như vậy, có còn là người nữa không?”

    Tên hầu lắc đầu: “Tội nghiệp lắm, Tích Thúy con gái lão quỳ ngay giữa đường, khóc đến ngất xỉu mấy lần song lão kiên quyết không mở cửa! Các vị bảo một cô nương mới mười sáu mười bảy, bị giày vò như thế, còn mang tai mang tiếng khắp nơi, đi đến đâu cũng bị soi mói, đã khốn đốn đến cùng cực rồi, vậy mà cha ruột cô ta còn không dung chứa, thẳng tay đuổi khỏi nhà, có phải là hành động của con người nữa không?”


    Hoàng Tử Hà ngoài mặt vẫn bình tĩnh nhưng cơn giận đã ứ đầy lồng ngực. Cô gắng nén giận hỏi: “Vậy về sau con gái lão ta đi đâu?”

    “Cô ta quỳ giữa đường dưới trời nắng chang chang hơn hai canh giờ mà cửa vẫn không mở. Cuối cùng chúng tôi không đành lòng, định chạy ra vực cô ta vào thì cô ta đã chụp lấy sợi thừng, liêu xiêu chạy ra khỏi chợ Tây, chẳng biết là đi đâu… Ôi, giờ cũng chẳng rõ đã chết ở rừng sâu núi thẳm nào rồi!”

    Chu Tử Tần giận đến nỗi nói không nên lời, hồi lâu mới trỏ tiệm nhang đèn đối diện chửi toáng lên: “Lão già đó nhất định sẽ gặp báo ứng!”

    “Dào ôi, báo ứng gì thì cũng nhanh nhanh lên! Lão ta già khọm mới có con gái, bà vợ cũng lớn tuổi, sau khi sinh bị băng huyết qua đời, chỉ để lại một cô con gái đó thôi. Tích Thúy rất ngoan, mới bốn năm tuổi đã theo phụ việc cha, bảy tám tuổi đã biết kê ghế đứng bếp nấu cơm cho cha! Còn lão già kia thì sao! Hằng ngày mở mồm ra là chửi con gái vô dụng, hễ thấy nhà người ta có con trai là nhìn trừng trừng đến rơi tròng mắt. Các vị bảo, thành Trường An có đến cả trăm vạn người, kẻ trọng nam khinh nữ không ít, nhưng đã thấy ai thèm con trai đến phát điên như lão ta chưa? Nếu hôm trước lão ta bị sét đánh chết thì láng giềng cũng chẳng lấy làm lạ!” Tên hầu trà vừa lắc đầu than thở, vừa ra ngoài múc nước, miệng vẫn không thôi lải nhải, “Xóm giềng bọn tôi chỉ tiếc là trời cao không có mắt! Tôn ghẻ bệnh tật rề rề bao năm nay, nếu lúc hắn giở trò mà Tích Thúy bỏ chạy, chắc chắn hắn không thể đuổi kịp, sao cô ta lại bị hắn bắt được nhỉ?”

    Chu Tử Tần đang giận sôi gan, quay sang Hoàng Tử Hà thì thấy cô bặm môi, tay nắm chặt lấy mép bàn, gân xanh nổi cả lên, gã giật nảy mình, hốt hoảng hỏi: “Sùng Cổ sao thế?”

    Hoàng Tử Hà thở hắt ra mấy hơi, cuối cùng mới thả lỏng tay, gắng hạ giọng đáp: “Tôi không sao… Xưa nay chưa gặp kẻ nào chà đạp đàn bà con gái đến mức này, nên có phần hơi… khó chịu.”

    “Công công nghe tên hầu trà kể rồi chứ? Không thấy lạ ư? Tại sao lúc bị tên ghẻ lở ốm yếu kia bắt, Tích Thúy không bỏ chạy? Ta thấy đáng lẽ cô ta phải ra sức giãy giụa phản kháng, không thì cũng nên hô hoán lên chứ?”

    Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, công tử làm sao biết được, trong chuyện này còn có phần của tên Ngụy Hỷ Mẫn phủ công chúa?

    Thấy thái độ của cô, Chu Tư Tần ngạc nhiên hỏi: “Công công không thấy lạ ư? Không kinh ngạc à?”

    “Lạ lắm, kinh ngạc lắm.” Hoàng Tử Hà thở dài đứng dậy: “Tuy không muốn liên hệ gì với lão già đó, nhưng việc cần hỏi vẫn phải đi hỏi thôi. Công tử chuẩn bị đi, chúng ta cùng sang bên ấy.”

    Nhà họ Lữ bốn đời buôn bán, tiệm nhang đèn ở chợ Tây trải bao năm tháng trông đã cũ kỹ vô cùng. Mặt tiền cửa tiệm rất nhỏ, lối vào cũng hẹp, chỉ đủ quay người. Bên trái xếp một hàng giá nến bằng sắt, cắm đủ loại nến cao thấp khác nhau, bên phải là một quầy gỗ bày các miếng hương thẻ hương, lão Lữ đang rạp người trên mặt quầy, khắc một cây nến long phượng to bằng cánh tay trẻ con.

    Cửa tiệm chỉ chiếm nửa gian trước, nhìn qua cánh cửa hậu mở toang, có thể thấy nửa gian sau trống không, dựng một cái lều chất đầy sáp nến và khuôn nến, lúc này, trên bếp lò đang nấu một nồi sáp đỏ, bốc mùi hăng hắc.

    Cảm giác được có người bước vào, Lữ Chí Nguyên cũng chẳng buồn ngẩng lên, chỉ cất giọng khàn khàn hỏi: “Quý khách muốn mua gì?”

    Hoàng Tử Hà chắp tay vái chào lão rồi nói: “Lão trượng, ta là người của Đại Lý Tự, lần trước từng gặp ở chùa Tiến Phúc, lão còn nhớ không?”

    Bấy giờ Lữ Chí Nguyên mới chịu bỏ dao khắc xuống, nheo mắt nhìn cô, vẻ mặt vẫn trơ trơ: “Ồ, ra là các vị.”

    “Đại Lý Tự có vài câu muốn hỏi lão, liên quan đến cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn, lão có rảnh không?”

    Lão lữ nâng nhẹ cây nến trong tay lên đáp: “Đại nhân đợi cho một lát, trời nóng quá, nến vừa khắc xong mà để trên quầy sẽ bị biến dạng, lão phải nhuộm màu lên đã.”

    “Lão cứ tự nhiên.” Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần ngồi trong tiệm, nhìn lão cầm cây nến đi đến cạnh chiếc nồi đang đun sáp đỏ đằng sau, nắm lấy sợi bấc ở đuôi nến, nhúng vào nồi xoay nhanh một vòng, cây nến trắng tức thì được phủ một lớp sáp đỏ tươi.

    Đoạn, lão vơ lấy một nắm gì đó màu vàng đậm bỏ vào nồi, dùng chổi lông khuấy cho tan, miệng hỏi: “Có chuyện gì?”

    “Lúc Ngụy Hỷ Mẫn chết, lão ở đâu?”

    “Chẳng phải lão đã kể rồi sao? Tại nhà ở phường Phong Ấp!” Lão Lữ dùng chổi lông chỉ về phía phường Phong Ấp đằng sau, “Thế này, sớm hôm ấy sau khi đến giao hàng, vì lao lực quá độ nên lão ngã ngất tại chỗ, không đứng dậy nổi. Mã Lục đánh xe cùng lão đi giao hàng thấy vậy bèn đưa lão về nhà, thím Ngô đằng sau còn gọi thầy thuốc tới xem bệnh cho lão. Gã lang băm khốn kiếp đó không tìm được căn nguyên, chỉ kê mấy thứ thuốc bổ rồi dặn lão nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Hắn vừa đi khỏi thì lão được tin cây nến kia bị sét đánh trúng, đã nổ tung. Lão hốt hoảng toan trở dậy chạy đến xem, nào ngờ vừa đứng lên đã thấy hoa mắt chóng mặt ngã lăn ra!”

    Hoàng Tử Hà cau mày, cảm thấy theo lời lão kể thì quả thật không có thời gian gây án, lại hỏi: “Một ngày trước pháp hội chùa Tiến Phúc, lão ở đâu?”

    “Chùa Tiến Phúc tuy sẵn tiền, nhưng trước một tháng mới gom góp đủ các loại sáp đưa đến. Các vị có biết, làm một đôi nến to như thế phải mất bao nhiêu công sức không? Nhất là tháng trước, con gái lão… bị lão đuổi đi, tay thợ phụ Trương Duyên cũng đau ốm, một mình lão phải bắc giá làm nến, hì hục suốt đêm, không rời nửa bước, đại nhân cứ hỏi láng giềng quanh đây xem, lão lục đục suốt đêm, có lúc nào rời ra được đâu?”

    Vừa nói lão vừa nhìn vào trong nồi, thấy sáp vàng trong nồi đã đủ độ, bèn nhúng chổi vào, thong thả quết lên những hoa văn long phượng và mây lành khắc trên thân nến, chẳng buồn nhìn bọn họ nữa.

    Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Về cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn, lão có thấy…”

    “Được rồi, lão chỉ mong y chết thôi đấy!” Lão Lữ nói toẹt ra luôn, “Đồ hoạn quan chó cậy thế chủ, chết sớm ngày nào hay ngày nấy! Tiếc rằng trời lại giáng sấm sét làm nổ cây nến kia, hủy hoại thanh danh cả đời lão!”

    “Công công thấy lão già đó… có khả nghi không?”

    Thấy Hoàng Tử Hà cứ xăm xăm đi chẳng nói chẳng rằng, Chu Tử Tần dè dặt hỏi.

    Hoàng Tử Hà cau mày, vừa đi vừa đáp: “Không biết, phải hỏi thêm mới rõ.”

    Đến phường Phong Ấp thì vừa tới giờ Thân. Chỉ thấy một đám các bà các chị đang xúm xít dưới gốc cây cạnh giếng vừa giặt giũ vừa chuyện phiếm.

    Hoàng Tử Hà bước đến hành lễ với họ, đoạn hỏi dò: “Xin hỏi các vị nương tử, nhà Lữ Chí Nguyên Lữ lão trượng đi đường nào vậy?”

    Mấy người đàn bà trỏ một căn nhà đầu hồi bò đầy dây leo: “Nhà họ Lữ ở đằng kia kìa, có điều ban ngày lão Lữ ở cửa tiệm trong chợ Tây, nhà không có ai đâu.”

    “Vậy… tối lão có về không?”

    “Đương nhiên về, ôi chao, chúng tôi là hàng xóm láng giềng, có lúc cũng bực mình với lão. Nhất là một tháng trở lại đây, lão chúi đầu làm cây nến đó bất kể ngày đêm, cứ nghe tiếng khuôn đồng rồi khoan sắt loảng xoảng suốt đêm không sao ngủ nổi.”

    Một người khác tiếp lời: “Chẳng thế nữa, đêm trước hôm xảy ra chuyện ở chùa Tiến Phúc, bà con nhớ không? Nửa đêm nửa hôm còn ầm ĩ, làm đồ tể Lưu ở sát vách mất ngủ, cứ thế chửi vống sang, nhưng lão Lữ làm thinh, vẫn mãi miết làm nến, gõ đập choang choang. Đồ tể Lưu bảo, chỉ hận không thể xách rìu sang phá cửa nhà lão ta đấy.”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Vậy Tích Thúy con gái lão bây giờ…”

    “Tích thúy à? Chẳng biết nữa…” Người nọ lộ vẻ xót xa, “Ôi chao, con bé ngoan ngoãn là thế, lại lanh lợi, đám trai trẻ trong phường để ý nó nhiều lắm, ai ngờ lại bị hủy hoại như vậy.”

    “Chẳng thế ư, theo tôi thấy, lẽ ra sét nên đánh chết Tôn ghẻ mới phải, sao lại giáng xuống hoạn quan phủ công chúa cơ chứ?”

    “Lẽ nào sét lại đánh nhầm?”

    “Chưa chừng là vì Tôn ghẻ không dám bước chân ra khỏi nhà ấy?”

    “À, các bà có nhớ chuyện tháng trước không? Vụ Tích Thúy lén giấu giá nến đi tìm Tôn ghẻ liều mạng ấy!”

    “Ai mà quên được! Lão Lữ đúng là quân lòng lang dạ sói! Nhận tiền người ta xong thì giật ngay lấy giá nến, còn tát cho con bé ngã lăn ra đất! Tôi cũng lấy làm lạ, nghe nói Tôn ghẻ đau ốm bao nhiêu năm chẳng có tiền chữa trị, lấy đâu ra chừng ấy tiền đút cho lão?”

    “Số con bé khổ thật! Vừa ra đời đã mồ côi mẹ, đến cuối cùng lại gặp phải chuyện thế này...” Đại nương đa cảm đã bắt đầu kéo một góc tạp dề lau nước mắt, “Thà sớm đi gặp mẹ nó còn hơn, sống trên đời mà thế này chỉ chịu tội thôi!”

    Xem ra, phủ công chúa hành động thật kín kẽ, dân chúng không hề biết tấn thảm kịch của Tích Thúy có bàn tay của Ngụy Hỷ Mẫn nhúng vào.

    Rời khỏi phường Phong Ấp, thấy Hoàng Tử Hà cứ ngẩn ngơ, chân đi như bước trên mây, Chu Tử Tần lo lắng giơ tay đỡ lấy vai cô, ân cần hỏi: “Sùng Cổ sao vậy?”

    “Đặt mình vào hoàn cảnh cô ấy... tôi thấy... sợ quá.”Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, rồi ngồi thụp xuống, cảm thấy cơn buồn nôn cuộn lên trong ngực.

    Cô chống tay vào gốc cây bên cạnh, gắng thở đều để kìm nén niềm căm uất.

    Chu Tử Tần không hiểu tại sao Dương Sùng Cổ là hoạn quan mà lại đặt mình vào bi kịch của một thiếu nữ, nên cũng ngồi xuống bên cạnh, nghi hoặc nhìn cô hồi lâu, thấy sắc mặt cô từ từ hồng hào trở lại, mới dè dặt hỏi: “Công công không sao chứ?”

    “… Tôi không sao, chắc là mệt quá đấy thôi.” Cô dựa vào thân cây, giải thích quấy quá, “Vụ án công chúa giao phó thực không đơn giản chút nào.”

    “Đúng thế, cách giải thích hay nhất là trùng hợp, nhưng công chúa cứ khăng khăng đòi chúng ta phải tìm ra hung thủ, thật là…” Chu Tử Tần càu nhàu, rồi lại ân cần hỏi: “Để ta đưa công công về phủ Quỳ vương nhé?”

    “Không… Tôi muốn đến nhà Trương Hàng Anh, thăm… A Địch.”

    “Được thôi, có điều…” Chu Tử Tần ngập ngừng hỏi: “Công công đói không? Đừng đi tìm A Địch vội, để ta đi mua chút gì cho công công ăn đã nhé, công công muốn ăn gì?”

    Hoàng Tử Hà nhìn gã đầy bất lực: “Tôi nghĩ, A Địch rất có khả năng là Tích Thúy.”

    Nghe vậy, Chu Tử Tần nhảy dựng lên, há hốc miệng, mắt cũng trợn trừng trông còn to hơn miệng: “Gì cơ? Tại sao? Sao công công biết?”

    “Thời điểm Tích Thúy rời khỏi nhà đi tìm cái chết trùng với khoảng thời gian Trương nhị ca cứu được A Địch ở trên núi, A Địch không muốn gặp ai, suốt ngày trốn trong nhà họ Trương, nửa đêm còn lén khóc…” Hoàng Tử Hà thở dài hỏi khẽ, “Chẳng phải rất rõ ràng ư?”

    Chu Tử Tần líu cả lưỡi, hồi lâu mới lắc đầu quầy quậy: “Ta không tin! A Địch… và Trương nhị ca thân mật thế, sao có thể gặp phải chuyện thê thảm như vậy!”

    Hoàng Tử Hà thở dốc, cụp mắt nhìn xuống chân.

    Dưới bóng cây, mấy con kiến đang hối hả tìm đường đi, bò qua bò lại quanh chân cô.

    Thì ra cô đã chắn ngang đường về tổ của chúng.

    Hoàng Tử Hà chậm rãi dịch chân ra, nhìn đám kiến mừng rỡ chạy ra khỏi tổ và đám kiến hào hứng quay về nhà, cũng thấy cả những con kiến bị mình vô ý giẫm chết dưới chân.

    Trời đất vô tình, sức mạnh của thiên nhiên là vô hạn, có thể cuốn phăng tất cả, bàn tay vô hình thúc đẩy vận mệnh mỗi người, buộc chúng ta phải dấn bước. Có lẽ luồng sức mạnh ở phía sau thao túng chúng ta đây cũng không thể tự chủ, cũng có thể chẳng hề hay biết, một cử động nhỏ thôi đối với kẻ khác lại là mối họa hủy diệt.

    Cô nhấc chân bước sang con đường lát đá cạnh đó.

    Chu Tử Tần bỗng ngỡ ngàng nhìn cô, gọi khẽ: “Sùng Cổ...”

    Hoàng Tử Hà từ từ ngước lên: “Gì cơ?”

    “Ừm…” Gã nghi hoặc nhìn gương mặt bình thản của cô, ngập ngừng: “Không có gì…Vừa nãy ta còn tưởng là công công khóc.”

    Hoàng Tử Hà ngẩng đầu nhìn trời, buông một câu gọn lỏn: “Đi thôi.”

    “Đi đâu?”

    “Nhà Trương Hàng Anh.”

    Chu Tử Tần lập tức chạy theo cô: “Này, Sùng Cổ, chúng ta đến với tư cách gì đây? Giúp Đại Lý Tự phá án, hay là…”

    Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Không, chỉ là bạn của Trương Hàng Anh thôi.”

    Hai người xách cân quả khô, men theo hàng rào râm bụt quanh nhà Trương Hàng Anh, đi đến dưới gốc hòe. Vừa ngẩng lên, cô đã thấy Trương Hàng Anh đầu cúi gằm, chầm chậm đi từ trong ngõ ra, vẻ đầy tâm sự.

    Dáng người Trương Hàng Anh cao lớn, kể cả lúc làm chân sai vặt trong Đoan Thụy Đường vẫn bừng bừng anh khí, vậy mà giờ Hoàng Tử Hà lại thấy gã ngơ ngẩn thẫn thờ, tựa hồ không phải đang trên đường về nhà, mà đang đi trên một cây cầu độc mộc vừa hẹp vừa chênh vênh, dài ngút ngát không thấy điểm cuối.

    “Trương nhị ca!” Chu Tử Tần gọi.

    Bấy giờ Trương Hàng Anh mới ngẩng lên, trông thấy bọn họ, gã gắng nặn ra một nụ cười: “Ồ, là … các vị à, hôm nay sao lại rảnh rang tới tìm tôi thế?”

    “Hôm trước nghe huynh nói bá phụ không được khỏe , nên chúng tôi đến thăm.” Chu Tử Tần dúi túi táo khô và long nhãn trong tay vào lòng Trương Hàng Anh. “Cái này biếu bá phụ, may mà Sùng Cổ chu đáo nhắc ta.”


    Hoàng Tử Hà vội phân trần: “Tôi cũng hết cách, mới vào phủ Quỳ vương, còn chưa được nhận lương tháng, đành mặt dày đi tay không vậy.”

    “Đừng khách sáo thế, các vị đến chơi là tôi mừng lắm rồi!” Trương Hàng Anh cắt lời cô, gương mặt cũng tươi lên, “À phải, tôi có tin vui báo với mọi người đây, nhờ phúc hai vị, sáng hôm nay Tả Kim Ngô Vệ đã gửi công văn chính thức tới, từ ngày mai tôi được nhận rồi!”

    “Tốt quá rồi, chúc mừng huynh!”Chu Tử Tần mừng rỡ khoác vai Trương Hàng Anh, “Ta đã bảo mà! Hôm qua Vương Uẩn bị chúng ta đánh cho tâm phục khẩu phục, có lẽ y cũng tự biết, nếu còn không chịu nhận Trương nhị ca, thì chẳng biết ăn nói thế nào với ba vị vương gia!”

    Hoàng Tử Hà cũng vui lây, coi như từ rày không nợ nần gì Trương Hành Anh nữa. Nhìn gươngmặt tươi tắn của Trương Hàng Anh, cô mỉm cười, “Chúc mừng Trương nhị ca!”

    Trương Hàng Anh hào hứng khoe: “Lần này là song hỷ lâm môn, cha tôi liệt giường mấy tháng nay không dậy nổi, vừa nghe tin tôi được vào Tả Kim Ngô Vệ, liền phấn chấn tinh thần, sáng nay đã xuống giường được rồi! Ông còn tự bốc thuốc cho mình, nói rằng tâm bệnh đã trị khỏi, mấy hôm nữa bệnh tình sẽ khá lên thôi!”

    Nói đoạn, gã đẩy cổng dẫn bọn họ vào: “Các vị đến đúng lúc lắm, trời đang nóng nực, A Địch bảo sẽ làm mì lá hòe ăn cho mát, vào ăn cùng chúng tôi đi.”

    Đang nói dở câu bỗng nghe tiếng guốc gỗ lịch kịch, thì ra A Địch đang đứng trong sân, thấy có khách bèn lánh ngay vào nhà.

    Trương Hàng Anh cười gượng: “A Địch sợ người lạ, các vị đừng để bụng nhé.”

    Đoạn gã vào trong bưng ra mì lá hòe và bát đũa, ba người ngồi xuống dưới giàn nho.

    Thấy tô mì xanh mát cả mắt, Chu Tử Tần suýt nữa quên khuấy ý định ban đầu. Gã đón lấy bát, múc ngay một bát mì nhỏ, vừa ăn vừa nắc nỏm: “A Địch nấu ngon thật đấy, giá mà ngày nào ta cũng được đến ăn chực nhỉ.”

    “Huynh muốn đến thì cứ đến, lúc nào chúng tôi cũng chào đón.” Trương Hàng Anh cười.

    Hoàng Tử Hà cũng ăn một miếng, lại hỏi: “Trương nhị ca, vừa rồi huynh đi đâu vậy? Tôi thấy ban nãy hình như huynh hơi rầu rĩ?”

    “À, em trai của chị dâu tôi, vừa tròn bốn tuổi, hôm trước bị lạc trong vụ hỗn loạn ở chùa Tiến Phúc, cả nhà nháo nhào đi tìm. May mà trên đời vẫn còn nhiều người tốt, sáng nay nhận được tin, có người đã đưa thằng bé về nhà, nên tôi đến xem sao.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên: “Chị dâu huynh chẳng phải con gái một ư?”

    “Đúng thế, thằng bé này là em họ, bố mẹ chị ấy nhận làm con thừa tự thôi, dù sao trong nhà cũng phải có người nối dõi chứ. Hôm trước nghe nói họ đang cuống cuồng tìm con, nhưng mấy ngày nay tôi chạy đôn chạy đáo khắp nơi, chẳng đến giúp được, lòng cứ áy náy không yên.” Anh trai Trương Hàng Anh sau khi thành hôn thì ở lại nhà vợ, bấy giờ ở Trường An có tục vợ chồng mới cưới sẽ ở nhà vợ vài năm, không tính là ở rể.

    Chu Tử Tần liền xoa dịu, “Trương nhị ca thật là, thằng bé trở về chẳng phải tốt rồi sao, huynh còn rầu rĩ gì nữa.”

    Nghe nói đến đứa bé bốn tuổi ở chùa Tiến Phúc. Hoàng Tử Hà sực nhớ tới bóng người bồng đứa bé lấm lem bùn đất trong cơn mưa tầm tã hôm ấy, bèn quay sang hỏi Trương Hàng Anh: “Người đưa thằng bé về…trông thế nào?”

    “Tôi đến trễ, chỉ kịp nhìn thoáng qua thôi, quả là một nhân vật… như thần tiên vậy!” Trương Hàng Anh thật thà đặt bát xuống kể, “Huynh ấy đứng trước cửa nhà chị dâu tôi, làm sáng bừng cả nhà lên. Từ khi sinh ra đến giờ, tôi chưa từng thấy ai đẹp đến thế đâu.”

    Chu Tử Tần cười hỏi: “Nhà rách trạch vàng, lồng lộng như ráng chiều(*) à?”

    (*) Chữ dùng trong Thế Thuyết Tân Ngữ, miêu tả dáng người cao ráo đẹp đẽ, như cây ngọc đón gió.

    Hoàng Tử Hà lặng thinh không nói.

    Trương Hàng Anh nghe Chu Tử Tần nói cũng chỉ hiểu lơ mơ, đành đáp: “Ừm, nói chung là rất đẹp.”

    “Vậy…” Tay cầm đũa của Hoàng Tử Hà run lên rất khẽ: “Người đó tên họ là gì?”

    Trương Hàng Anh lắc đầu: “Khõng rõ. Huynh ấy chỉ uống hai hớp trà là đi ngay, không để lại tên họ, cũng chẳng nhận quà cảm tạ, bởi thế mới nói người tốt trên đời còn nhiều lắm. Thằng bé còn nhỏ, cũng không biết tên tuổi và nơi ở của người ta, bây giờ chẳng có cách nào tạ ơn được nữa.”

    Chu Tử Tần hỏi: “Vậy làm sao người đó tìm được nhà chị dâu huynh?”

    “Là thế này, nói ra cũng vất vả lắm, trẻ con không biết địa chỉ nhà, nên người đó đành đem thằng bé đi tìm khắp các phường trong thành Trường An. Nó bé như thế làm sao đi nổi? Đều là người đó ẵm nó đi từng nhà một, đến sáng hôm nay, thằng bé trông thấy nhà mình bèn gọi toáng lên, nhờ thế mới tìm được.”

    “Thế mà không biết tên họ người đó, tiếc thật.” Chu Tử Tần than thở, “Ta còn muốn làm quen với huynh ấy, người ta vừa hào hiệp nhân từ lại đẹp đẽ thế cơ mà.”

    Trương Hàng Anh gật đầu lia lịa: “Đúng thế đúng thế! Xuất chúng lắm!”

    Càng nghe, Hoàng Tử Hà càng thấy lòng đau âm ỉ, không muốn nghe thêm nữa, cô bèn chuyển chủ đề: “Trương nhị ca không gọi A Địch ra ăn luôn?”

    Trương Hàng Anh lưỡng lự: “Cô ấy… sợ người lạ, tôi nghĩ hay là thôi đi.”

    “Sùng Cổ nói phải lắm! Mọi người đều là bạn bè rồi, A Địch nhút nhát như thế không hay đâu, sau này chúng ta còn đến quấy quả nữa mà, cũng muốn chào hỏi cô ấy chứ.” Giờ hễ là lời Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần sẽ lập tức hùa theo, y như vẹt.

    “Ừm…cũng phải, để tôi gọi cô ấy ra chào khách.” Đoạn Trương Hàng Anh đứng dậy đi vào nhà.

    Thấy gã vừa qua cửa, Chu Tử Tần liền rón rén bám theo, áp tai lên tường nghe ngóng.

    Hoàng Tử Hà khinh bỉ nhìn gã, hỏi không ra tiếng: “Công tử định làm gì?”

    Chu Tử Tần cũng mấp máy môi đáp không ra tiếng: “Nghe trộm, xem Trương nhị ca và A Địch có phải kẻ tình nghi gây án không?”

    Hoàng Tử Hà sững người trước ánh mắt tràn đầy chính nghĩa mà cũng vô sỉ tột cùng của gã, tuy biết không hay, nhưng cô bất giác cũng áp tai vào tường theo.

    Chỉ nghe tiếng lửa cháy lép bép bên trong, rồi giọng Trương Hàng Anh vang lên: “ A Địch, họ là bạn ta, tính tình cũng tốt lắm.”

    A Địch lặng thinh không nói, rất lâu sau, Trương Hàng Anh cho rằng nàng đã nhận lời, liền giơ tay nắm lấy tay áo nàng: “ Nào, để ta dắt muội ra làm quen với họ.”

    Nào ngờ A Địch vùng ra, giọng nhỏ nhẹ mà kiên định: “Muội… không đi đâu!”

    Cánh tay Trương Hàng Anh đang giơ ra, ngượng ngùng khựng lại giữa chừng.

    Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà nhìn nhau, còn chưa kịp trao đổi gì, đã lại nghe thấy giọng nói yếu ớt run rẩy của A Địch: “Trương nhị ca, xin huynh đấy… Muội không muốn gặp ai cả! Muội… muội suốt đời này, không thể gặp ai cả…”

    Trương Hàng Anh lặng lẽ nhìn nàng, dịu giọng hỏi: “Lẽ nào muội định nhốt mình trong nhà cả đời hay sao?”

    “Hynh không biết đâu… Huynh không hiểu được đâu…” A địch bưng mặt ngồi thụp xuống đất, gắng nén tiếng khóc: “Trương nhị ca, huynh rất tốt… Muội chỉ muốn sống yên ổn với huynh thôi. Muội chỉ muốn ở trong nhà này, xin huynh… đừng bắt muội ra ngoài gặp người khác mà…”

    Trương Hàng Anh dường như cũng không ngờ nàng lại phản ứng mạnh mẽ đến thế, cứ đứng ngây ra, hồi lâu không động đậy gì.

    Cả trong lẫn ngoài nhà đều im phăng phắc, chỉ có tiếng nức nở của A Địch văng vẳng bên trong: “Trương nhị ca… muội nguyện nấu cơm giặt giũ cho huynh, hầu hạ huynh cả đời…Muội chỉ mong có được một chỗ trú chân như căn nhà nhỏ này, để muội nhốt mình ở đây suốt đời, cho đến khi già nua, mục rữa… Trương nhị ca, xin huynh đừng lôi muội ra ngoài, đừng bắt muội gặp người khác mà!”

    Trương Hàng Anh vừa nín lặng nghe A Địch khóc lóc, vừa ngoái đầu ngóng ra bên ngoài, thấy hai người bên ngoài không động tĩnh gì, bèn nhích lại gần A Địch khẽ dỗ dành: “Được rồi, không gặp thì không gặp, thực ra… thực ra ta cũng không đành lòng để muội ra ngoài.”

    A Địch mở to đôi mắt ngấn lệ, nhìn gã đăm đăm.

    Trước ánh mắt nàng, Trương Hàng Anh cũng gãi đầu, đỏ bừng mặt vì bối rối: “Thực ra hằng ngày muội ở nhà chờ ta về, ta rất vui. Biết được muội nhất định sẽ không rời xa ta, biết muội chỉ có thể ở lại bên ta, giống như sở hữu một bí mật của riêng mình vậy...”

    Nước mắt ầng ậng đầy tròng rốt cuộc cũng lăn dài, A Địch cất tiếng gọi khe khẽ: “Trương nhị ca…”

    Chu Tử Tần nghe đến đây cũng ngượng ngùng, bèn huých Hoàng Tử Hà, ý bảo rút lui.

    Song Hoàng Tử Hà chỉ nhíu mày, đặt ngón trỏ lên môi ra dấu im lặng.

    Chu Tử Tần thấy mặt cô trầm ngâm thì không khỏi ngạc nhiên, thầm nhủ lẽ nào mấy lời vừa rồi của Trương Hàng Anh có gì không ổn ư?

    Bầu không khí trong nhà bỗng nhiên lắng hẳn xuống. A Địch run run nhìn Trương Hàng Anh, hồi lâu mới hỏi: “Huynh… huynh biết chuyện của muội… biết muội không có chốn dung thân… từ lúc nào?”

    Trương Hàng Anh ngẩn ra, vô thức siết chặt nắm tay lại, cúi gằm mặt xuống né tránh ánh mắt nàng.

    Lặng phắc như tờ. Loáng thoáng nghe thấy tiếng cười nói của đám người ngồi hóng mát dưới gốc cây hòe bên ngoài rào râm bụt theo gió đưa đến. Trên cây lựu, một con ve non vừa tỉnh giấc ngủ dài, mới kịp thoát xác đã cất tiếng kêu ran, âm thanh khô khan mà chói tay vắt ngang mảnh sân nhỏ.

    Trương Hàng Anh im lặng hồi lâu, cuối cùng cũng lên tiếng, giọng rất chậm rãi, rất nhẹ nhàng, nhưng cũng hết sức rành rọt: “Hè năm ngoái, ta từng trông thấy muội ở chợ Tây. Lúc ấy, muội ngồi ngay trước cửa tiệm nhang đèn, đang chọn mua bạch lan. Bấy giờ trời đổ mưa, ta đi ngang qua, trông thấy muội tươi cười chọn hoa cũng đâm ngơ ngẩn, không cẩn thận giẫm phải một vũng bùn, làm bắn cả lên mu bàn tay muội…”

    A Địch rưng rưng nước mắt, thẫn thờ nhìn gã, vô thức giơ mu bàn tay trắng muốt lên săm soi.

    “Ta lắp bắp xin lỗi, nhưng muội cũng chẳng để bụng, vô tư rút khăn tay ra lau vết bùn, nhoẻn cười với ta rồi cầm một xâu bạch lan quay vào nhà. Dọc đường về, ta cứ ngơ ngẩn nhớ đến vết bẩn trên tay muội, nhớ đến nụ cười của muội, nhớ đến đờ đẫn, đến nỗi, đến nỗi đi lạc luôn...”

    Hoàng Tử Hà bên ngoài nghe gã thổ lộ cũng thấy vành mắt nóng rực lên, nước mắt đã bắt đầu rân rấn.

    A Địch trong nhà chậm rãi nắm lấy vạt áo mình, áp lên lồng ngực, tựa hồ chỉ có vậy mới ngăn được con sóng triều phức tạp mà dữ dội đang cuộn lên trong lòng khỏi nhấn chìm bản thân.

    Trương Hàng Anh ngồi xuống cạnh A Địch, dưới ánh lửa bập bùng trong căn bếp nhỏ, gã đăm đăm nhìn nàng, dịu giọng kể, “Về sau, ta thường đi ngang qua cửa nhà muội để nhìn lén, chứng kiến cha muội lạnh nhạt với muội, cũng nghe thấy muội hay ngâm nga khúc hát hái dâu, còn biết được có rất nhiều người đã đến ướm hỏi muội, nhưng cha muội đòi sính lễ quá cao, nên đến giờ muội vẫn chưa có nơi có chốn…”

    Nói đến đây, gã ngừng lại, cười khổ não, hồi lâu mới tiếp tục: “Lúc ấy ta đã tuyệt vọng, không dám đi qua nhìn muội nữa. Cho đến khi vào đội nghi trượng ở phủ Quỳ vương, ta lại sinh lòng tơ tưởng muội, nhưng vì gặp chuyện nên cũng không thành. Mãi tới lúc… tới lúc ta thấy muội ngất lịm trên núi, tay còn nắm chặt một sợi dây thừng... Về sau ta mới hay sợi dây đó là cha muội ném cho muội, ép muội tự sát...”

    “Ông ta không phải cha muội.” A Địch nãy giờ cắn môi lắng nghe, thình lình rít qua kẽ răng: ”Muội không có cha... Muội chỉ có mẹ, mẹ muội mất lâu rồi!”

    Trương Hàng Anh gật đầu, không bình luận gì mà tiếp tục kể: “Ta vực muội về nhà, lúc tỉnh lại, muội nói mình tên Tích... Ta cứ ngỡ muội sẽ nói mình là Tích Thúy, nào ngờ muội chữa lại, nói rằng mình tên A Địch, lúc ấy ta thầm nghĩ, nhất định muội đã gặp biến cố rất lớn. Về sau, về sau nghe ngóng được, ta rất ngạc nhiên, rất căm phẫn, muốn đi giết quách tên Tôn ghẻ... nhưng sâu thẳm trong lòng, ta lại nghĩ, ta phải đối tốt với muội hơn nữa... Ta nghĩ tất cả đều là cái sai của ta, nếu ta sớm nhờ người mai mối, biết đâu... biết đâu muội sẽ không gặp phải chuyện đó...”

    “Trương nhị ca...” A Địch run run gọi, nàng đang ngồi trước bếp lửa, thân hình nhỏ nhắn co rúm lại, run rẩy như một đóa hoa trong gió bão.

    Trương Hàng Anh chìa tay ra, như muốn ôm lấy nàng mà vỗ về, nhưng nhìn gương mặt tái nhợt của nàng, lại nghĩ đến việc nàng từng phải chịu ô nhục cùng cực, e rằng không thích người khác đụng chạm, nên đành nén lại.

    Nào ngờ A Địch khẽ kéo tay gã, lặng lẽ áp mặt vào cánh tay.

    Trương Hàn Anh run rẩy giơ tay lên, ôm choàng lấy nàng.

    Hai người dựa vào nhau trong gian bếp nhỏ, ngọn lửa bập bùng hắt ánh lờ mờ lên mình họ.

    Chỉ nghe thấy giọng Trương Hàng Anh thật chậm rãi mà rành rọt từng chữ: “A Địch, muội yên tâm đi, những kẻ từng làm việc xấu, đều gặp phải báo ứng.”

    A Địch nín lặng hồi lâu mới chầm chậm gật đầu, nhẹ giọng nói: “Đúng thế, giống như hôm đó chúng ta thấy Ngụy Hỷ Mẫn bị chết cháy ấy, huynh biết Ngụy Hỷ Mẫn không, nếu không có hắn, muội cũng không rơi vào bước đường cùng thế này.”

    “Ta biết, hắn là hoạn quan phủ công chúa.” Gã không nói tại sao mình biết, nhưng người nghe đều hiểu, thực ra những gì gã biết về A Địch còn vượt xa tưởng tượng của họ.

    Hai người dựa vào nhau bất động, thật lâu.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần cũng lặng lẽ trở lại dưới giàn nho, ngồi xuống ăn mì lá hòe, có điều, chẳng còn thấy ngon lành gì nữa.
     
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 8 - Ngàn trăng vạn núi
    Thật lâu sau, họ mới nghe thấy tiếng guốc gỗ rất khẽ, ngoảnh lại thì thấy Trương Hàng Anh dắt tay Tích Thúy từ trong nhà đi ra. Tích Thúy đi một đôi hài vải xanh đế gỗ, bên trên thêu hai đóa hoa râm bụt hướng vào nhau nở rộ, rõ ràng là nàng tự thêu, trông vô cùng tinh xảo.

    Chiều hè nắng lóa cả mắt. Tích Thúy nhỏ nhắn xinh xẻo, đứng giữa ánh mặt trời chói chang, làn da lâu ngày không ra nắng trắng đến chói mắt.

    Nàng yêu kiều hành lễ với hai kẻ dưới giàn nho: “Chào hai vị đại ca, muội là... A Địch.”

    Hoàng Tử Hà vội đứng dậy chắp tay đáp lễ, “A Địch cô nương nấu ăn ngon quá, lần này tôi và Tử Tần mặt dày đến quấy nhiễu, mong cô nương đừng phật ý.”

    Tích Thúy trả lễ, ngập ngừng định nói gì đó, nhưng cuối cùng chỉ gật đầu chào họ, cúi đầu ngồi xuống dưới giàn nho.

    Chu Tử Tần đứng lên nói: “Trương nhị ca chẳng bảo bá phụ đỡ rồi ư? Huynh dẫn ta vào thăm được không?”

    Trương Hàng Anh nhìn Hoàng Tử Hà, gật đầu với Tích Thúy, rồi dẫn Chu Tử Tần vào trong.

    Chỉ còn lại một mình với Hoàng Tử Hà, Tích Thúy thấp thỏm không yên, cúi gằm mặt, bối rối cắn ngón tay.

    Hoàng Tử Hà dịu giọng hỏi: “A Địch cô nương, tôi hỏi cô chuyện này được không?”

    Tích Thúy cúi đầu, hồi lâu mới khẽ gật.

    “Bánh cổ lâu cô làm có bí quyết gì không vậy?”

    Tích Thúy do dự một thoáng, mới từ từ ngẩng lên.

    Hoàng Tử Hà tươi cười nhìn nàng: “Trước đây tôi không thích ăn bánh cổ lâu vì thấy hơi tanh. Nhưng hôm trước ăn bánh cô làm lại thấy thơm ngon lạ thường, cứ thòm thèm mãi... Không giấu gì cô, tôi cảm thấy tay nghề của cô có thể xếp hàng đầu trong thành Trường An này đấy!”

    Nhìn nụ cười tươi tắn dễ gần của Hoàng Tử Hà, Tích Thúy cũng yên lòng phần nào, khẽ cắn môi lí nhí đáp, giọng nhỏ như tiếng muỗi: “ Muội... muội vừa lọt lòng thì mẹ mất, từ khi bé xíu đã bắt đầu phải nấu cơm, có lẽ… làm nhiều thành quen thôi... ”

    Hoàng Tử Hà khẽ gật đầu, lại hỏi: “Lệnh đường qua đời đã nhiều năm như thế mà lệnh tôn không tục huyền ư, sao bắt cô phải nấu cơm?”

    “Ừm... tính tình cha muội hơi khó chịu.” Nàng lúng búng kể, “Năm muội chừng bảy tám tuổi, cha có đem về một người phụ nữ chạy nạn, bảo rằng bà ta sẽ sinh con trai cho cha. Muội... muội rất sợ người đàn bà đó, bà ta lúc nào cũng đánh mắng muội, nhưng muội biết bà ta là người sinh con trai cho cha, nên không dám than vãn nửa lời... Về sau cha muội uống say, đánh đập bà ta, bà ta chịu không nổi bèn bỏ đi...”

    Hoàng Tử Hà chẳng còn lời nào để bình phẩm về Lữ Chí Nguyên nữa, chỉ nói: “Vậy cũng tốt, bằng không cô lại phải chịu tội.”

    “Ừm... Sau này, tuổi cha muội càng lúc càng cao, cũng... nản lòng rồi.”

    “Sao cô lại bị ngất trên núi vậy?”

    Tích Thúy cắn mạnh vào môi dưới, lồng ngực phập phồng dữ dội. Hoàng Tử Hà cứ ngỡ Tích Thúy sắp òa lên khóc tới nơi thì nàng đột ngột lên tiếng, giọng khàn đặc: “Cha muội... nhận tiền của người ta, toan ép gả muội cho người muội không thích. Muội bèn cầm một sợi thừng đi lên núi định tìm cái chết, cuối cùng thì ngất xỉu... Bởi thế cả ngày muội cứ nhốt mình trong nhà Trương nhị ca, không dám ra ngoài, sợ... bị cha muội bắt gặp.”

    Hoàng Tử Hà không vạch trần lời nói dối này, chỉ khẽ khàng an ủi: “Cô yên tâm đi, Trương nhị ca trung hậu đứng đắn, lại hết lòng đối đãi với cô. Mọi chuyện trước đây đã qua rồi, tôi tin rằng cuộc đời về sau của cô nhất định sẽ được hạnh phúc mỹ mãn, vạn sự như ý.”

    A Địch nuốt lệ gật đầu, hàng mi ươn ướt che rợp đôi mắt, hết sức đáng thương.

    “Nghe nói hôm trước, Trương nhị ca dẫn cô đến chùa Tiến Phúc dâng hương? Bữa đó náo loạn như thế, hai vị có bị kinh hãi không?”

    Nghe thấy câu này, A Địch bỗng siết chặt tay lại, rất lâu mới từ từ buông lỏng, nghèn nghẹn đáp: “Không. Hôm ấy… muội vốn dĩ không định đi, nhưng đại nương bên nhà bảo với Trương nhị ca, trước khi kết hôn nên đến chùa cầu phúc, bởi thế muội đành đội mũ có mạng che mặt đi cùng huynh ấy.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, “Tôi đang giúp Đại Lý Tự điều tra vụ này, nếu tiện, cô nương có thể thuật lại cho tôi tình hình lúc đó được không?”

    Tích Thúy chậm rãi gật đầu, nhưng cứ ngập ngừng mãi không nói tiếp.

    Hoàng Tử Hà cũng không thúc giục. Tích Thúy im lặng một lát rồi kể: “Muội và Trương nhị ca… nghe nói hôm đó có một hoạn quan chết cháy.”

    “Lúc đó hai vị ở đâu?”

    “Bọn muội... lúc ấy thấy mọi người dồn về tiền điện quá đông, nên len ra hậu điện. Vừa đi được mấy bước thì nghe phía sau nhốn nháo cả lên, muội ngoảnh lại thì thấy tất cả xô nhau bỏ chạy về phía mình, cứ như... cứ như một đợt sóng triều cuồn cuộn ập đến vậy. Trương nhị ca vội kéo muội chạy, rồi hai bọn muội nép vào một góc tường, đứng đó...”

    Nàng cúi gằm mặt, đôi má tái nhợt bỗng ửng hồng lên. Nhìn vẻ mặt ấy, Hoàng Tử Hà sực nhớ hôm ấy Lý Thư Bạch cũng đã che chở mình trong vòng tay y.

    Cô chợt nghĩ, chẳng rõ có phải bấy giờ Trương Hàng Anh cũng bảo vệ thiếu nữ yếu ớt mong manh như cây sậy này như thế không?

    “Về sau... về sau đám đông tản đi, bọn muội mới nghe nói phía trước có một người bị sét đánh chết. Trương nhị ca...” Kể đến đây nàng lại ngập ngừng, rồi cắn nhẹ môi nói khẽ, “Huynh ấy nói người bị sét đánh chết, chắc chắn trông rất ghê rợn, đừng đến xem thì hơn... Thế là, thế là bọn muội về nhà.”

    Hoàng Tử Hà nhớ lại những gì nàng và Trương Hàng Anh từng nói lúc trước, giọng hơi trầm xuống: “Hai vị luôn ở cạnh nhau, nên cũng không biết người chết cháy lúc đó là ai ư?”

    “Sau này... muội nghe nói là... hoạn quan phủ công chúa.” Bàn tay nàng siết chặt lại, giọng khàn khàn khó nhọc, “Muội... lúc ấy muội nghĩ, có lẽ y từng làm ác nên gặp quả báo, nếu không sao bao nhiêu người như vậy, mà trời lại chỉ giáng sấm sét thiêu chết y?”

    Nghe giọng kể nghẹn ngào buồn bã của nàng, tuy không muốn, nhưng Hoàng Tử Hà vẫn phải nói toẹt ra: “A Địch cô nương, cô nói dối.”

    Tay Tích Thúy run bắn, nàng mở to mắt, kinh hoàng ngẩng phắt lên nhìn Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà chỉ nói khẽ: “Thực không dám giấu, hôm ấy tôi cũng ở chùa Tiến Phúc. Theo tình hình lúc ấy, tôi không cho rằng các vị có thể dễ dàng lách ra khỏi đám đông, ít nhất thì chiếc mũ cô đội cũng không thể giữ được trong lúc hỗn loạn như thế. Huống hồ, cô vốn không chịu để người khác thấy mặt, nên nhất định sẽ không sơ ý làm mất mũ đâu nhỉ?”

    Tích Thúy làm thinh, gương mặt trắng tái tức thì xám ngoét như tro tàn, bàn tay đang nắm chặt cũng buông rũ trên bàn.

    “A Địch cô nương, tôi khuyên cô đừng nên giấu giếm nữa. Thực ra Chu Tử Tần cũng sẽ hỏi han Trương nhị ca tình cảnh lúc đó, nếu lời nói của cô và huynh ấy không khớp nhau thì phiền đấy.” Dẫu không đành lòng nhưng Hoàng Tử Hà vẫn phải hỏi tiếp, “Theo tôi đoán, có lẽ cô đã chính mắt chứng kiến tên hoạn quan đó đã bị thiêu chết phải không?”

    “Vâng... Bấy giờ bọn muội cũng ở tiền điện.” Tích Thúy biết không thể giấu giếm Hoàng Tử Hà, đành run rẩy đáp: “Lúc đó đông lắm, Trương nhị ca phát hiện thấy khu vực cạnh lư hương và cây nến có vẻ đỡ đông hơn, nên kéo muội lách qua. Quả thật bên cạnh cây nến và lò hương có chỗ trống, nhưng bị chăng thừng đỏ, không cho ai lại gần. Đúng lúc ấy chẳng rõ ai va phải muội từ phía sau, làm mũ đội đầu của muội rơi vào trong vòng dây thừng. Muội… muội kinh hoàng ngồi thụp xuống bưng mặt, chỉ sợ bị người ta trông thấy. Trương nhị ca bèn bảo muội đợi rồi nhanh nhẹn nhảy qua hàng dây thừng, chạy đến bên cạnh cây nến, giúp muội nhặt mũ...”

    Nói đến đây, nàng bất giác ôm đầu, giọng kể cũng vỡ vụn như đang tự nói với mình, “Muội bưng mặt ngồi dưới đất, chợt nghe thấy tiếng nổ rền vang, ra là cây nến bị sét đánh trúng phát nổ. Muội cũng bị sóng khí hất ngã lăn ra, chỉ thấy mọi người xung quanh nhốn nháo kêu gào bỏ chạy. Trương nhị ca hối hả chạy đến ôm chặt lấy muội, cuống quýt dập mấy đốm lửa trên người muội rồi bảo vệ muội chạy ra ngoài. Muội trông thấy huynh ấy cầm mũ, nhưng giữa lúc hỗn loạn như thế cũng chẳng kịp nhận lấy… Bọn muội… bọn muội mới chạy được mấy bước thì nghe thấy tiếng người gào rú, át hết những tiếng la khóc xung quanh, hết sức thê thảm.”

    Tiếng gào tuyệt vọng ấy khiến nàng thấy ruột gan tan nát cả, không nhịn được phải ngoái lại nhìn.

    Giữa vòng người đang tản ra, nàng trông thấy một kẻ toàn thân cháy phừng phừng. Không chỉ quần áo mà cả người y đều đã bén lửa, từ đầu tóc đến ngón tay, đến cả đôi giày dưới chân. Y chẳng còn giống một người bằng máu thịt nữa, mà như một bù nhìn rơm tẩm đầy dầu, cháy rừng rực.

    Nàng cũng trông thấy gương mặt y, dù đã bị lửa đốt phồng rộp cháy sém trông rất đáng sợ, nhưng nàng vẫn nhận rõ rành rành, kẻ đó chính là Ngụy Hỷ Mẫn, tên hoạn quan tàn ác đã đánh nàng đến ngất lịm rồi ném bỏ ngoài đường, khiến nàng rơi vào tình cảnh này.

    Trương Hàng Anh giơ tay che mắt nàng lại, hốt hoảng nói: “Đừng nhìn.”

    Nàng nghiến răng quay người cùng Trương Hàng Anh tràn ra ngoài theo dòng người trong tiếng gào thảm thiết của Ngụy Hỷ Mẫn.

    Cuối cùng, họ cũng lách được vào một góc tường, Trương Hàng Anh che chắn cho nàng, hai người dán sát mình vào tường, để tránh đám đông giẫm đạp lên.

    Bấy giờ nàng mới phát hiện, tay gã vẫn nắm chặt chiếc mũ của nàng.

    Chẳng rõ tại sao, nước mắt nàng cứ trào ra. Tích Thúy lặng lẽ cầm mũ, đội lên đầu.

    Mọi người đã tản đi quá nửa, Ngụy Hỷ Mẫn cũng thôi gào thét, có lẽ đã chết rồi.

    Trương Hàng Anh dắt tay nàng, hòa vào dòng người.

    Bàn tay gã dày dặn mà ấm áp, mỗi lúc nắm tay đều bao bọc trọn vẹn bàn tay nàng, tựa hồ mãi mãi không bao giờ buông ra.

    Tích Thúy thuật lại hầu hết mọi chuyện, chỉ giấu việc mình biết Ngụy Hỷ Mẫn.

    Thấy trong lời kể của nàng không có sơ hở nào đáng kể, Hoàng Tử Hà bèn cảm tạ.

    Lúc này, Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh vào nhà nãy giờ cũng đi ra, Chu Tử Tần cười nói: “Bá phụ gặp việc vui mừng, tinh thần sảng khoái bèn khỏe ra ngay, tốt quá rồi.”

    Bốn người lại ngồi xuống ăn mì. Thấy không còn sớm nữa, Hoàng Tử Hà liền từ biệt Trương Hàng Anh và A Địch.

    Ra khỏi nhà họ Trương, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần bắt đầu khớp lời kể của hai người kia.

    Nghe Hoàng Tử Hà thuật lại lời Tích Thúy, Chu Tử Tần nhận xét: “Ta hỏi Trương nhị ca chuyện ở chùa Tiến Phúc hôm đó, xem chừng lời kể của huynh ấy cũng tương tự. Hôm xảy ra chuyện, đúng là họ có mặt ở chùa Tiến Phúc, hơn nữa khi Ngụy Hỷ Mẫn bị thiêu chết, huynh ấy đang ở ngay bên cạnh cây nến nhặt mũ cho cô ấy. Họ đã chứng kiến cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tích Thúy cũng nói vậy.”

    “Trương nhị ca nói, lúc bấy giờ không biết kẻ đó là Ngụy Hỷ Mẫn, cũng không trông rõ Ngụy Hỷ Mẫn bắt lửa thế nào.”

    “Điểm này vẫn đáng nghi.” Hoàng Tử Hà chau mày, “Nhờ người của Đại Lý Tự đi dò la xem, Trương nhị ca biết chuyện này từ lúc nào, trước khi Ngụy Hỷ Mẫn chết cháy Trương nhị ca đã biết nội tình vụ Tích Thúy hay chưa.”

    Chu Tử Tần gật đầu hăng hái: “Cảm giác sai phái được cả đám người ở Đại Lý Tự hay thật.”

    Hoàng Tử Hà bất lực nhìn gã công tử bộc tuệch trước mặt, nghĩ tới việc gã còn chẳng sai bảo nổi người hầu nhà mình, cô bỗng thấu hiểu sâu sắc niềm hân hoan hiện thời của gã.

    Đến nhà Chu Tử Tần thay lại y phục xong xuôi, Hoàng Tử Hà bèn từ biệt gã, xách chiếc đầu lâu kia chuẩn bị quay về phủ Quỳ vương.

    Lúc tiễn cô ra cửa, Chu Tử Tần còn hỏi: “Công công định thuật lại chuyện của Trương nhị ca và Tích Thúy với Đại Lý Tự ư?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu.

    Chu Tử Tần thở phào: “Phải lắm, Tích Thúy… rất tội nghiệp.”

    “Nếu vì tội nghiệp mà giết người, thì triều đình còn cần luật pháp làm gì nữa?” Hoàng Tử Hà chậm rãi nói, lại nhìn vầng dương đang ngả về Tây, ngừng một lát mới tiếp: “Tuy hiện giờ cô ấy và Trương nhị ca đang bị nghi ngờ, nhưng không có chứng cứ xác thực, nên trước mắt không tiện truyền họ tới thẩm vấn.”

    Chu Tử Tần thở dài, dẩu môi rầu rĩ nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà phớt lờ gã, “Đây là án mạng, đừng hành động theo cảm tính. Tôi sẽ báo cho người Đại Lý Tự theo sát Lữ Chí Nguyên, Tích Thúy và Trương nhị ca, công tử không được bắn tin cho họ đâu đấy!”

    “Ừm…” Chu Tử Tần tiu nghỉu nhìn cô xách chiếc túi đựng cái đầu mới phục nguyên đi xa khuất khỏi tầm mắt mình, lại càng thêm buồn bã.

    Xách túi về đến phủ Quỳ vương, người canh cổng vừa trông thấy cô đã hối hả chạy lại, ân cần đón lấy chiếc túi: “Dương công công về rồi đấy à? Vương gia đợi cậu mãi!”

    “Không cần, cảm ơn huynh, tôi tự xách được.” Hoàng Tử Hà giữ chặt lấy túi – nếu thứ bên trong bị người ta phát hiện, chẳng phải từ nay cô sẽ nổi tiếng khắp phủ là tên biến thái ư?

    “Vương gia đang đợi tôi ư?”


    “Vâng, gia dặn khi nào cậu về thì truyền đến hiên Tịnh Dữu, ai ngờ đợi mãi không được nên gia đã đến thẳng phòng canh cổng ngồi chờ rồi.”

    Hoàng Tử Hà giật thót mình, chẳng hiểu xảy ra chuyện gì mà Lý Thư Bạch phải đến tận phòng canh ngồi đợi. Cô vội xách túi chạy vào, quả nhiên thấy mấy gã lính canh đang nơm nớp đứng hầu, còn Quỳ vương ngồi một mình bên trong đọc công văn, cả chồng giấy tờ dày cộp giờ chỉ còn vài tờ lẻ tẻ.

    Cô hớt hải lao vào hành lễ: “Nô tài tội đáng muôn chết.”

    Y thong thả lật một tờ công văn, thờ ơ hỏi: “Ngươi có tội gì?”

    “Nô tài… quên bẵngviệc tối qua… gia căn dặn.”

    “Việc gì?” Y lại thong thả lật một tờ nữa.

    Hoàng Tử Hà đành đánh liều đáp: “Quý nhân có hẹn.”

    “Ngươi không nói thì bản vương cũng quên mất đấy.” Y xem nốt tờ công văn cuối cùng, gập lại quẳng lên bàn, đoạn nhướng mi nhìn cô. Ánh mắt y cũng lạnh nhạt như thái độ, không thể dò đoán, khiến Hoàng Tử Hà sởn cả gai ốc, dự cảm không lành quặn lên trong lồng ngực.

    Cảnh Dục phía sau giúp Lý Thư Bạch xếp gọn chồng công văn lại. Lý Thư Bạch bưng chồng công văn đi thẳng ra cửa, ngang qua Hoàng Tử Hà cũng chẳng buồn liếc cô nửa mắt.

    Hoàng Tử Hà đánh liều chạy theo y, thấy y bước lên xe ngựa đã chờ sẵn, mới ngạc nhiên hỏi: “Vương gia định… đến cung Thái Cực ư?”

    “Ta đến cung Thái Cực làm gì?” Y lạnh lùng liếc cô, “Bận đến không mở nổi mắt, ngày nào cũng ngập trong công việc, ai rỗi mà quản ngươi.”

    “Dạ…” Cô chột dạ, vội khom lưng cuối đầu, tỏ vẻ hối lỗi.

    “Lên đây.” Y nói lạnh băng.

    Hoàng Tử Hà buột miệng “a” một tiếng.

    “Nha môn lục bộ ở trước cung Thái Cực, tiện đường đem ngươi đi luôn.”

    “Dạ… Đa tạ vương gia.” Cô rầu rĩ đáp, giọng điệu chẳng có vẻ gì là hàm ơn. Chẳng thế ư, lần này bị Lý Thư Bạch tóm được, dọc đường chắc chắn lĩnh đủ.

    Quả nhiên không khí trong xe rất nặng nề.

    Đến con cá trong bình lưu ly cũng biết ý lặn sâu xuống đáy nước, không dám động cựa, chỉ sợ kinh động vị vương gia đáng sợ nhất Đại Đường này.

    Dọc đường đi, ánh nắng chiều cũng len qua khe cửa, lờ mờ rọi vào, rung rinh theo nhịp xốc nẩy của xe. Thỉnh thoảng vài đốm nắng đậu lên gương mặt của Lý Thư Bạch, ánh nắng vàng rực khiến đường nét gương mặt y càng thêm góc cạnh mà xa xăm, toát lên một vẻ xa cách không thể với tới.

    Hoàng Tử Hà đang nhìn trộm Lý Thư Bạch, thình lình nghe y hỏi: “Gặp Vũ Tuyên ở phủ công chúa rồi hả?”

    Tự biết không sao tránh khỏi cuộc thẩm vấn trên xe, nhưng cô thực không ngờ câu hỏi đầu tiên lại thế này. Hoàng Tử Hà ngớ ra một thoáng rồi mới ngập ngừng đáp: “Vâng, sáng nay lúc ở phủ công chúa, tôi thấy huynh ấy đến bái phỏng.”

    Lý Thư Bạch nheo mắt nhìn Hoàng Tử Hà, thấy nét mặt cô chỉ thoáng vẻ cảm thương, thì nhíu mày thật nhẹ. Y chăm chú nhìn cô hồi lâu, giọng trầm hẳn xuống vì phải nói khẽ: “Ngươi thấy sao?”

    Hoàng Tử Hà sực hiểu ra, y đang hỏi về chuyện mập mờ giữa Vũ Tuyên và Đồng Xương công chúa.

    Bỗng chốc, tất thảy bình tĩnh ung dung dường như đều tan biến trong giây phút kích động này, cô cất tiếng mà chẳng hiểu mình đang nói gì: “Đó là việc riêng của cháu gái gia, nô tài đâu dám quan tâm.”

    Lý Thư Bạch liếc cô rồi phì cười, song ánh mắt vẫn lạnh băng, chỉ có khóe miệng nhếch lên, nửa cười nửa không: “Nhớn nhác.”

    Hoàng Tử Hà mấp máy môi toan trả đũa, nhưng lại nhớ ra mình đang đứng dưới mái hiên nhà người, còn phải trông vào lương bổng y phát – tuy ít ỏi đến đáng thương, huống hồ cô phải liều mạng mới bám được vào kẻ này, sao nỡ để bao công sức đổ sông đổ biển?

    Nghĩ thế, cô đành cụp mắt xuống, ngoảnh mặt sang một bên đáp khẽ: “Đa tạ gia nhắc nhở, nô tài rõ rồi… Tôi và huynh ấy đã là quá khứ, có lẽ cả đời này cũng không thể ở bên nhau nữa.”

    “Nếu vụ án cha mẹ ngươi được làm sáng tỏ, hắn biết mình hiểu lầm ngươi thì sao?” Y vặn lại.

    Nghe thấy câu này, Hoàng Tử Hà ngơ ngẩn hồi lâu mới đáp: “Đợi đến ngày ấy rồi nói.”

    Lý Thư Bạch chẳng nói chẳng rằng, giơ tay cầm lấy chiếc bình lưu ly, búng nhẹ vào thành bình. “Tinh” một tiếng, con cá nhỏ giật nảy mình, hết ngoi lên lại lặn xuống, cuống cuồng giữa làn nước. Lý Thư Bạch lạnh lùng nhìn nó, rồi bật ngón tay bảy cái, tức thì, con cá nhỏ yên tĩnh hẳn. Lý Thư Bạch đặt chiếc bình xuống bàn, đưa ngón tay búng vào thành bình lần nữa, khiến nó lại được một phen hốt hoảng.

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc nhìn Lý Thư Bạch, không hiểu y đùa bỡn con cá như vậy là ý gì.

    Nhưng Lý Thư Bạch chẳng hề nhìn cô, thản nhiên nói: “Trước đây từng có kẻ nói với ta, trí nhớ của cá chỉ bằng bảy cái búng tay, bất luận ngươi đối tốt hay không tốt với nó, thì sau bảy cái búng tay, nó cũng quên hết mọi chuyện ngươi làm.”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ dời ánh mắt từ con cá nhỏ sang y, chỉ thấy y vẫn lạnh băng, chẳng tỏ bất cứ thái độ gì.

    Ánh mắt y dừng ở Hoàng Tử Hà, lặng lẽ nhìn cô đăm đăm, giọng lạnh lùng mà chậm rãi: “Bởi vậy, dù ta nuôi một con cá, thì cũng có ý nghĩa gì đâu. Ta dốc lòng dốc sức cho nó thế nào, thì sau bảy cái búng tay, nó cũng quên bẵng. Khi quẫy đuôi bơi về thế giới riêng của mình, nó còn chẳng buồn ngoái đầu.”

    Hoàng Tử Hà nghi hoặc nhìn y, còn đang mơ hồ thì y đã dời mắt đi, hỏi sang chuyện khác: “Hôm nay ngươi chạy đôn chạy đáo cả ngày, có thu hoạch gì không?”

    Hoàng Tử Hà bị tư duy của y xoay như chong chóng, chẳng hiểu sao đang nói chuyện này y lại nhảy sang chuyện khác ngay, cứ như không muốn cô đoán được ý mình vậy. Cô thần ra một thoáng, rồi lần lượt thuật lại những điều mắt thấy tai nghe ở phủ công chúa, tiệm nhang đèn họ Lữ và nhà Trương Hàng Anh, chỉ lược bỏ cuộc gặp gỡ giữa mình và Vũ Tuyên.

    Đợi cô kể hết, xe ngựa đã đến cung Thái Cực.

    Lý Thư Bạch định xuống xe cùng cô, thấy cô xách theo một chiếc túi bèn hỏi: “Cái gì đây?”

    Hoàng Tử Hà liền hé mở miệng túi, để lộ ra chiếc đầu bên trong.

    Lý Thư Bạch mắc bệnh sạch sẽ nên chẳng buồn giơ tay ra sờ, chỉ liếc qua rồi hỏi: “Ngươi cũng mắc phải cái thói của Chu Tử Tần, còn đem thứ này theo người nữa à?”

    Cô cẩn thận nhét cái đầu trở vào túi rồi thưa: “Nô tài đem đến cho Vương hoàng hậu. Hy vọng hoàng hậu nể chút tình này mà khoan dung cho nô tài phần nào.”

    Lý Thư Bạch chau mày: “Trình Tuyết Sắc đó ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Đôi mày y càng cau thêm: “Sao lại rơi vào tay ngươi?”

    “Một lời khó kể hết được… Dù sao nô tài cũng cảm thấy nên đem về giao cho Vương hoàng hậu thì hơn.”

    Lý Thư Bạch chẳng buồn hỏi thêm, chỉ buông một câu: “Nếu muốn sống thì chớ đem vào.”

    Hoàng Tử Hà chớp mắt ngạc nhiên nhìn y.

    “Tính tình hoàng hậu, bản vương rõ hơn ngươi. Ta không nghĩ Vương hoàng hậu sẽ cảm kích ngươi về việc này đâu, trái lại, nếu vì thế mà chạm đến vết thương lòng của hoàng hậu, có lẽ ngươi phải nếm mùi đau khổ đấy.” Nói rồi, y xăm xăm bước xuống xe, “Không tin ngươi cứ thử xem.”

    Nhìn theo bóng y, Hoàng Tử Hà chỉ biết cười khổ não, thắt chặt miệng túi lại, nhét vào hộc tủ bên dưới ghế ngồi, cũng chính là chỗ cô trốn lúc xưa.

    Lý Thư Bạch dẫn cô đi về phía cung Thái Cực, lệnh cho đám thị vệ đi xa xa đằng sau, hai người vừa thả bộ vừa rù rì trò chuyện.

    Nghe cô kể xong, Lý Thư Bạch hỏi ngay: “Nói vậy thì hiện giờ kẻ tình nghi gồm có hai cha con nhà họ Lữ và Trương Hàng Anh?

    “Còn chưa tra rõ, nhưng rành rành là nghi vấn về ba người này đã lộ ra. Có điều theo thủ pháp gây án thì Lữ Chí Nguyên đã có chứng cứ ngoại phạm, còn Trương Hàng Anh và Tích Thúy tuy làm chứng lẫn cho nhau như vậy quả là không ổn, nhưng muốn kết luận rằng họ giết Ngụy Hỷ Mẫn thì không đủ chứng cớ.”

    “Chẳng phải Ngụy Hỷ Mẫn không tin quỷ thần ư?”

    “Thưa phải, người trong phủ công chúa nói, một là y xưa nay không tin quỷ thần, hai là mắc bệnh đau đầu, rất ghét những chỗ đông đúc ồn ào, ba là đêm trước khi chết y đã biến mất, tôi cảm thấy đây rất có thể là manh mối quan trọng trong vụ này. Bởi vậy, bước tiếp theo phải điều tra hành tung của y trong cái đêm trước khi chết ấy.”

    “Ừm.” Lý Thư Bạch gật đầu tỏ vẻ tán đồng.

    Y đưa cô đến tận cửa nội cung. Trời đã ngã chiều, ráng hồng rực rỡ như gấm thêu phủ kín bầu trời phía trên cung Thái Cực và thành Trường An, soi rõ dung mạo hai người, cũng khiến hai chiếc bóng sau lưng họ đổ dài trên đất, đan chéo vào nhau, mông lung hư ảo.

    Giữa vầng sáng lung linh mờ ảo ấy, Lý Thư Bạch hướng mắt về phía điện Lập Chính đằng trước, ra hiệu cho cô: “Vào đi.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, song đi hai bước đã ngoái lại hỏi: “Vương gia chưa tới nha môn ư?”

    Ánh mặt trời từ sau lưng lý Thư Bạch hắt lại, y đứng giữa một trời mây ráng như gấm, nhìn cô bằng cặp mắt trong veo: “Tịch dương xán lạn, ráng chiều lộng lẫy, muốn dừng chân xem thêm một lúc.”

    Hoàng Tử Hà bèn hành lễ với y rồi quay người đi, được mấy bước thì không kìm được, lại ngoái nhìn.

    Y vẫn đứng đó chắp tay sau lưng ngắm ráng chiều, như một ngọn núi ngọc nguy nga sừng sững phía sau cô, hễ quay đầu là trông thấy.

    Cung Thái Cực cũng nhan nhản rường cột chạm trổ, cung khuyết trùng trùng, nhưng vẻ tráng lệ vẫn không bì kịp cung Đại Minh. Có điều, từ sau khi Vương hoàng hậu chuyển đến đây, các cung nhân để ý chăm chút hơn hẳn, đình đài lầu gác và hoa cỏ được quét tước tỉa tót đâu ra đấy, đã không còn vẻ điêu tàn như lúc hoàng hậu mới tới nữa. Tuy chẳng thể vẻ vang như xưa, song ba trăm năm dãi dầu mưa gió đã khiến tòa cung điện này toát lên một vẻ cổ kính mà u nhã không gì sánh nổi.

    Quả nhiên Vương hoàng hậu tìm cô vì chuyện Quách thục phi.

    Trải bao biến cố, bà ta vẫn rỡ ràng nhan sắc nghiêng ngả chúng sinh như thế. Lúc Hoàng Tử Hà đến, Vương hoàng hậu đang đứng giữa bóng hoàng hôn chơi đùa với con anh vũ dưới hiên. Cô dừng trước cửa, ngắm nhìn bà ta từ xa, chỉ thấy mái tóc đen đổ dài như lụa trên nền áo trắng muốt, toát lên phong thái siêu phàm thoát tục, hệt một bức tranh thủy mặc. Đứng ở xa, không trông rõ được dung mạo bà ta, vậy mà Hoàng Tử Hà vẫn ngơ ngẩn trước đường nét trác tuyệt ấy.

    Người như Vương hoàng hậu, chắc chắn có thể sống thật sung sướng. Dù ngày tháng trước mắt vẫn mịt mờ vô vọng, dù đang ngồi trên chiếc thuyền con chênh chao giữa đại dương trong đêm tối, đương đầu với dòng chảy ngấm ngầm mà dữ dội, bà ta vẫn có thể bình tĩnh thản nhiên sống thật tốt.

    Chợt Trường Linh ghé tai nói nhỏ gì đó rồi Vương hoàng hậu ngước nhìn, trông thấy Hoàng Tử Hà, liền khoác lên áo choàng màu ngân hạnh, vịn tay Trường Linh men theo hành lang khúc khuỷu, thong thả đi về phía cô.

    Hoàng Tử Hà quan sát Vương hoàng hậu, thấy nét mặt bà khá tươi tỉnh, miệng mỉm cười, thoạt nhìn chẳng ai ngờ bà ta đã ba lăm ba sáu tuổi, càng không hề có vẻ u oán của người đang ở lãnh cung.

    Vương hoàng hậu không dừng lại trước Hoàng Tử Hà, chỉ ra ý bảo cô theo mình đến hậu hoa viên tản bộ.

    Tuy hoàng hôn đã buông, nhưng không khí vẫn nóng hầm hập. Đứng dưới bóng cây mà thấy gió nóng rát.

    Cho tất cả người hầu không có nhiệm vụ lui ra sau, Vương hoàng hậu ngồi xuống lan can đá dưới bóng cây. Hoàng Tử Hà vội thưa: “Chúc mừng hoàng hậu điện hạ!”

    Vương hoàng hậu liếc cô: “Chúc mừng cái gì?”

    “Nô tài thấy nét mặt hoàng hậu tươi tắn, dung nhan rạng rỡ, chắc hẳn không bao lâu nữa có thể về cung rồi!”

    Vương hoàng hậu mỉm cười: “Chẳng qua mới có chút manh mối thôi, vẫn phải nhờ ngươi giúp một tay.”

    Thấy hoàng hậu có vẻ đã có dự liệu, Hoàng Tử Hà thõng tay lắng nghe.

    “Nghe nói lần này hoàng thượng chỉ đích danh ngươi điều tra vụ án ở phủ công chúa phải không?”

    “Thưa vâng. Nhưng đến giờ vẫn chưa có manh mối.”

    “Dương công công đã ra tay, ta không tin có vụ án nào ngươi không phá được.” Vương hoàng hậu nhoẻn cười nhìn cành tử vi buông rủ, thờ ơ tiếp: “Đương nhiên, nếu vụ này có thể khiến hoàng thượng nhận rõ bộ mặt thật của Quách thục phi, hay vạch trần nội tình giấu kín bên trong, thì càng hay hơn nữa.”

    Nghe bà ta nói vậy, Hoàng Tử Hà không dám đáp ngay mà im lặng ngẫm nghĩ.

    Vương hoàng hậu đưa mắt nhìn cô: “Dương công công thấy sao? Liệu vụ án này có theo chiều hướng đó không?”

    “Giờ vụ án còn chưa sáng tỏ, nô tài… thực không dám đoán bừa.”

    “Có gì mà không dám đoán chứ? Nếu ngươi thấy khó xử, thì để bản cung chỉ cho.” Vương hoàng hậu giơ tay vít nhẹ nhành tử vi xuống ngắm nhìn rồi nói nhỏ, gần như lẩm bẩm một mình: “Từ sau khi công chúa hạ giá, Quách thục phi thường lấy cớ đến thăm con gái, nghe nói phò mã cũng chẳng kiêng kỵ gì, thả sức tiệc tùng với nhau….”

    Hoàng Tử Hà không ngờ hoàng hậu lại cung cấp cho mình một manh mối quan trọng nhường ấy, bất giác kinh ngạc đến nỗi không nói được lời nào.

    “Còn nữa, gần đây chẳng phải Đồng Xương công chúa đang nuôi một gã trai ư? Nếu ngươi hứng thú thì thử điều tra xem, biết đâu cũng thu hoạch được gì đó.”

    Gã trai… Hoàng Tử Hà biết, người mà Vương hoàng hậu nói hẳn là Vũ Tuyên.

    Lời đồn về Vũ Tuyên và Đồng Xương công chúa quả nhiên đã lan khắp kinh thành, lọt đến cả tai Vương hoàng hậu.

    Hoàng Tử Hà im lặng cụp mắt xuống, thấy máu nóng cuộn lên trong lồng ngực. Cô gắng gượng rặn ra mấy tiếng lí nhí: “Nô tài… sẽ lưu ý.”

    “Đương nhiên phải lưu ý, bản cung thấy ngươi giỏi nhất là bới lông tìm vết lần ra chân tướng kia mà?” Hoàng hậu vin cành hoa che mặt, song không giấu được khóe môi khẽ cong lên, “Hoàng Tử Hà, giờ Quách thục phi ngông cuồng đắc ý, chính là thời điểm tốt nhất để bản cung quật khởi, quay về cung Đại Minh. Tới chừng nào về được gác Bồng Lai, bản cung sẽ trọng thưởng ngươi trước nhất.”

    Hoàng Tử Hà vội cúi đầu thưa: “Nô tài không dám, nô tài sẽ dốc hết tâm sức.”

    Dứt lời, cô đứng chắp tay đợi Vương hoàng hậu căn dặn tiếp.

    Nhưng Vương hoàng hậu chỉ xua tay: “Lui xuống đi, bản cung đợi tin tốt lành của ngươi.”

    Hoàng Tử Hà thoáng ngạc nhiên. Nếu chỉ vì mấy câu này, Vương hoàng hậu có thể sai người chuyển lời, cần gì phải truyền gọi cô đến đây?

    Song Hoàng Tử Hà chỉ dám nghi hoặc trong lòng. Cô dập đầu hành lễ với Vương hoàng hậu rồi quay người đi ra.

    Trước mắt cô là bạt ngàn những nhành tử vi buông rũ đang nở rộ, chút ráng chiều cuối cùng còn sót lại nhuộm vàng cả hoa viên.

    Vừa ngẩng lên, cô đã thấy xa xa trên đài cao, giữa những cửa son song ngọc, một nam nhân áo tím đang đứng sau ô cửa sổ, đôi mắt sắc sảo như chim ưng nhìn dán vào mình.

    Dù đứng cách rất xa, không trông rõ mặt kẻ đó, song cô vẫn cảm nhận được ánh mắt y đang săm soi từng tấc da thịt trên mình, từ trán cô nhìn xuống sống mũi, xuống cằm, rồi xuống cổ. Ánh mắt ấy còn sắc hơn dao, nhọn hơn kim, cảm giác rờn rợn như bị rắn độc nhìn chòng chọc khiến cô lạnh buốt sống lưng, giữa ngày hè nóng nực mà sởn cả gai ốc.

    Thấy cô cứng người lại, kẻ kia bật cười. Khoảng cách quá xa nên cô không trông rõ được, chỉ thấy nụ cười như có như không. Y đặt tay lên chiếc chậu lưu ly trong suốt bên cạnh, bấy giờ Hoàng Tử Hà mới nhận ra, cạnh y bày một chậu lưu ly tròn đường kính đến một thước, bên trong thả mấy con cá, đen có trắng có, nhưng nhiều nhất là cá đỏ.

    Nhìn người đó và bầy cá, Hoàng Tử Hà chỉ thấy nghẹt thở vì áp lực. Cô vội quay người rảo bước, đi như chạy khỏi hoa viên nhỏ cạnh điện Lập Chính.

    Vì đi quá nhanh nên cô không kịp trông thấy, chẳng bao lâu sau, Vương hoàng hậu đã xuất hiện bên cạnh nam nhân kia.

    Vương hoàng hậu đứng bên y, cùng nhìn theo Hoàng Tử Hà cắm cúi đi ra, nói khẽ: “Đó là Hoàng Tử Hà, cũng chính là Dương Sùng Cổ bên cạnh Quỳ vương.”

    “Ồ.” Y hời hợt đáp, mắt vẫn không rời cô. Cô đi thật nhanh như đang chạy trốn vậy.

    “Ả có giúp ích được gì cho chúng ta không?” Vương hoàng hậu lại hỏi.

    Y cười cười, bấy giờ mới lên tiếng. Giọng y hơi cao, song ngữ điệu lại trầm thấp, cứ kéo dài ra khiến người ta thấy mâu thuẫn ngột ngạt kinh khủng: “Nương nương vội gì chứ? Đợi khi nào người quay về cung Đại Minh, chẳng phải sẽ biết hay sao?”

    Vương hoàng hậu nhướng mày: “Liệu ả có thành công không?”

    “Dù ả thành công hay không thì nương nương vẫn có ta, còn ả có Quỳ vương, chừng ấy người mà còn không bảo vệ được nương nương hồi cung, thì còn ai làm nổi nữa?”

    Vương hoàng hậu mím môi, bờ môi vốn tươi thắm như hoa đào, nay lại đỏ rực thêm vì mừng rỡ, khiến hoàng hậu càng lộng lẫy, không thể nhìn thẳng.

    Song kẻ kia chẳng buồn liếc hoàng hậu nửa mắt, chỉ cúi đầu quan sát mấy con cá trong chậu, lẩm bẩm: “Ừm… hình như lũ cá đói rồi.”

    Đoạn y đưa ngón trỏ lên miệng cắn mạnh, máu tươi tức thì tứa ra. Y nhúng ngón tay vào chậu, máu vừa loang ra, bầy cá bên trong sôi sục hẳn lên, xúm lại quanh bàn tay y, tranh nhau liếm láp vết thương.

    Vương hoàng hậu đứng bên cạnh thờ ơ quan sát.

    Bầy cá xúm lại quanh ngón tay thon dài trắng muốt của y, màu máu đỏ tươi hòa cùng sắc đỏ rực trên mình cá, thoạt nhìn như những vết máu loang.

    Hoàng hậu bỗng thấy người hơi khó ở, bèn quay mặt đi, dõi mắt nhìn theo bóng Hoàng Tử Hà xa xa.

    Hoàng Tử Hà vận bộ đồ hoạn quan đỏ rực, rảo bước đi đến cuối dãy tường bao. Trời sâm sẩm tối, bóng cô như một chấm son nhỏ vào nghiên mực, nháy mắt đã tan biến không còn dấu vết.
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 9 - Tung tích hoa dương
    Có lúc Hoàng Tử Hà phục Lý Thư Bạch sát đất.

    Chuyện khác không bàn, chỉ riêng chuyện một người có thể quản tất cả mọi việc, lo lắng cho khắp các nha môn, giao thiệp với hết thảy sứ giả ngoại bang, chẳng phải là kỳ tích rồi ư.

    Cô vừa cảm khái vừa khoanh chân trong bộ Hộ cắn hạt dưa, tay cầm hồ sơ lấy từ Đại Lý Tự, ngẫm nghĩ về vụ án, tiện thể phụ Lý Thư Bạch xử lý các loại án kiện.

    “Vương tri sự, trong chú giải về luật lệ hôm trước ông soạn ra, trang ba mươi bảy có một chỗ sai ngày tháng, trang mười sáu và trang năm mươi tư bị sai tên người, ông đối chiếu lại lần nữa đi. Từ tri sự, ông đem ghi chép về quá trình thăng chức của Tưởng Vĩ Húc lại đây cho ta, ở trên giá thứ mười hai gian thứ tư dãy đầu tiên của khu lưu trữ ấy, buổi chầu sớm mai hoàng thượng muốn đề bạt ông ta, đến lúc đó nhớ trình lên hoàng thượng ngự lãm. Trương tri sự, mai ông báo cho Trình thị lang phải bác việc điều Sử Thừa Diệu đến Vân Châu làm thứ sử, vì chú ruột ông ta năm xưa từng phạm tội ở Vân Châu, theo lệ cần phải kiêng kỵ, Lương Đình Phương ba năm trước nhậm chức thứ sử Diễn Châu, giờ sắp mãn tang, có thể thay thế…”

    Nghe y căn dặn người dưới, Hoàng Tử Hà không cắn nổi hạt dưa nữa, cứ miết mãi một hạt trong tay thầm nhủ, với trí nhớ thế này, có phải y còn nhớ cả số lá trên tán cây trước song cửa sổ từ một buổi sáng mười năm trước hay không?

    Chẳng bao lâu sau, Lý Thư Bạch đã giải quyết xong công việc ở bộ Hộ, bèn dắt cô đến bộ Công. Y sắp đi Thục, mà hiện giờ các nha môn đều chồng chất cả đống công việc đợi y xử lý, không xong chỉ e khó rời khỏi kinh thành.

    Người ở bộ Công vừa nhác thấy Lý Thư Bạch đã mừng như bắt được vàng, đừng nói là thượng thư bộ Công Lý Dụng Hòa bình thường chỉ làm việc nửa ngày cũng cố ngồi chờ Quỳ vương đến tối, ngay tên dắt ngựa cũng mừng ra mặt.

    Thoạt trông thấy cả đống sổ sách, bên trên toàn chữ đỏ(*), Hoàng Tử Hà hiểu ngay nỗi khổ của họ - gặp phải một vị hoàng đế thích xây hành cung như đương kim hoàng thượng, quả là bất hạnh lớn cho bộ Công.

    (*) Ý nói là bội chi

    Mỗi lần kê khai một khoản, Lý Dụng Hòa lại khổ sở phân trần: “Năm ngoái Đồng Xương công chúa hạ giá, riêng tiền xây phủ công chúa đã dốc cạn cả quốc khố. Đầu năm nay lại xây cung Kiến Bật, đến giờ đình đài lầu gác vẫn còn chưa xong hết, thực chẳng biết lấy tiền đâu để hoàn thiện. Mà bây giờ bộ ty chức lâm vào tình thế không thể không bỏ tiền ra, hôm trước mưa lớn, mấy phường phía Nam thành nằm ở khu vực trũng thấp đã ngập nặng, cống thoát nước không thoát được, chỗ ngập nặng nhất sâu hơn trượng! Vương gia cũng biết mà, đắp cống nổi còn đỡ, đào cống ngầm chi phí thế nào khó đo đếm, đám thợ đó đào lộn tùng bậy dưới đất một chập, người coi quản chỉ đứng trên quan sát, nhìn bên ngoài ngon nghẻ là kết toán, thực ra bên dưới thế nào ai biết? Cống rãnh mấy tháng trước vừa thông, giờ đã tắc nghẽn, hôm qua Lục tri sự dưới quyền ty chức còn bị ngã xuống nước chết đuối! Giờ trong thành đang bàn tán xôn xao, nói rằng bộ Công tự làm tự chịu, đúng là ép cả bộ này vào đường cùng mà!”

    Lý Thư Bạch chau mày đón lấy đống sổ sách, im lặng ngồi xuống lật xem.

    Người bộ Công ai nấy tất bật bưng trà rót nước cho y như hầu hạ cứu tinh, khiến tiểu hoạn quan thật sự là Hoàng Tử Hà thành ra rảnh rỗi, bèn rút cây trâm trên đầu xuống vạch vẽ lại tình tiết vụ ở chùa Tiến Phúc, đồng thời suy đoán tình hình lúc ấy.

    Khi cây nến bị sét đánh nổ tung, nghi phạm thứ nhất là Lữ Chí Nguyên đang ở nhà, có thầy thuốc và nhiều láng giềng làm chứng, về cơ bản có thể coi là có chứng cứ ngoại phạm. Trừ phi tìm ra thủ đoạn giết hại Ngụy Hỷ Mẫn từ xa của lão ta.

    Nghi phạm thứ hai là Trương Hàng Anh. Khi Ngụy Hỷ Mẫn bén lửa cũng là lúc Trương Hàng Anh lại gần cây nến nhặt mũ cho Tích Thúy. Có khi nào vì báo thù cho Tích Thúy mà Trương Hàng Anh đã đẩy đổ cây nến, thiêu chết Ngụy Hỷ Mẫn hay không?

    Nghi phạm thứ ba, Lữ Tích Thúy. Ngụy Hỷ Mẫn đứng gần cây nến, tất không xa Tích Thúy. Nhà cô ta có nghề làm nến nhiều năm, có lẽ có cách nào đó làm cho cây nến bên cạnh phát nổ trong nháy mắt?

    Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ, rồi vạch ra khả năng thứ tư là Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy liên kết với nhau giết Ngụy Hỷ Mẫn tại chùa Tiến Phúc.

    Chần chừ giây lát, cô bổ sung thêm khả năng thứ năm, Lữ Chí Nguyên và Lữ Tích Thúy phối hợp với nhau diễn kịch lừa người, giết chết Ngụy Hỷ Mẫn.

    Nhưng rồi nhìn lại khả năng vừa viết, cô thở dài, chậm rãi xóa đi.

    Thành ra các khả năng hiện giờ, mới có bốn.

    Cô lại rút tư liệu điều tra của Đại Lý Tự mà Lý Thư Bạch đưa, đối chiếu lần lượt từng người trong danh sách.

    Đây là bản liệt kê tất cả những kẻ liên quan có mặt hoặc không có mặt vào hôm phò mã bị thương, bao gồm cả đám nài ngựa ở Tả Kim Ngô Vệ và những người phụ trách coi sóc sân kích cúc, theo yêu cầu của Hoàng Tử Hà, trong hồ sơ còn kê khai rõ việc những người này đã từng tiếp xúc với phò mã hay chưa.

    Song đọc những dòng “chưa từng gặp phò mã”, “từng gặp ở nha môn một lần”, “từng cho ngựa của phò mã ăn cỏ”, Hoàng Tử Hà chỉ biết chống trán thở dài, thấy đầu đã phình to bằng cái đấu.

    “Sao thế? Xem bộ còn rầu rĩ hơn cả ta?”

    Sau lưng vang lên một giọng lạnh lẽo ơ hờ, hẳn là Lý Thư Bạch.

    Cô ngán ngẩm đáp: “Nếu nô tài được như gia, nắm rõ tất cả người trong kinh như lòng bàn tay có phải tốt không.”

    “Ta đâu nắm rõ được. Kinh thành cả trăm vạn người, dù lang thang suốt ngày trên phố, ta cũng không gặp hết chừng ấy. Huống hồ chẳng ai thật sự hiểu được người khác đâu, dẫu sớm chiều bên nhau, cũng không thể.”

    Đoạn y cầm lấy tập giấy từ tay cô, lật xem.

    Lý Thư Bạch đọc rất nhanh, một lần đọc lướt cả mười hàng, rồi trả lại, trỏ một cái tên trên giấy: “Ngươi có thể tra kỹ kẻ này.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn, là một nam nhân tên Tiền Quan Sách, bốn mươi hai tuổi, ông chủ tiệm ngựa Tiền Ký, con ngựa đen bị long móng từ đây mà ra.

    Khi bị Đại Lý Tự hỏi, hắn đã trả lời thế này:

    Con ngựa này đến từ Trương Dịch, tháng Tư năm ngoái mua ở chợ ngựa Hoắc gia về. Tháng Sáu đến kinh thành, chăm sóc hai tháng, đầu tháng Chín đưa tới Tả Kim Ngô Vệ. Vì béo tốt khỏe khoắn, lại được huấn luyện kỹ càng nên từng được Vương đô úy khen ngợi. Còn việc long móng là do móng ngựa có vấn đề, không liên quan gì đến bầy ngựa hắn đưa đến.

    Lại hỏi hắn có qua lại gì với phò mã không, hắn quả quyết phủ nhận, nói rằng mình chưa được hân hạnh gặp mặt phò mã.

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Ý vương gia là, việc phò mã gặp tai nạn có liên quan đến lai lịch con ngựa kia ư?”

    “Không, ý ta chỉ là…” Y trỏ vào câu sau, “Ông chủ Tiền thực ra đã gặp phò mã một lần.”

    Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Sao gia biết?”

    “Khi bầy ngựa đó được đưa đến, Vương Uẩn có mời ta cùng người của bộ Binh tới thử. Bấy giờ phò mã Vi Bảo Hoành cũng có mặt. Ta đang thử ngựa thì nghe Vi Bảo Hoành phàn nàn rằng người ở biên tái phát âm không chuẩn, ngựa từ đó đưa đến cũng phải nửa năm một năm mới nghe quen khẩu lệnh kinh thành. Người xung quanh nghe vậy đều cười ồ lên, chỉ duy gã đàn ông béo lùn dẫn theo mấy tay dạy ngựa là có vẻ trầm tư. Không lâu sau ta nghe trong kinh đồn rằng, các thầy dạy ngựa ở tiệm xe ngựa Tiền Ký đang tập nói tiếng quan thoại, khổ không kể xiết, có mấy kẻ còn đứng giữa đường chửi ông chủ Tiền là tên lùn chết tiệt, nên ta nghĩ, Tiền Quan Sách ắt là người hôm đó.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Theo ghi chép của Đại Lý Tự thì những người khác ngay việc cho ngựa của phò mã ăn cũng phải kê khai, vậy mà ông ta lại giấu giếm chuyện này, hẳn là có nguyên do khác.”

    Thấy cô đã chú ý hơn, Lý Thư Bạch cũng chẳng nói thêm, quay lại ra hiệu cho người ở bộ Công dọn đống sổ sách đi: “Ta tạm thời giảm bớt mấy khoản chi, gom được hơn hai vạn năm ngàn lạng bạc, cũng đủ tu sửa lại toàn bộ đường thoát nước trong thành Trường An đấy.”

    Thượng thư Lý Dụng Hòa cười gượng: “Đa tạ Vương gia, nhưng… năm nay ắt nhiều mưa, ty chức sợ lần này bỏ tiền khơi thông cống rãnh xong, mấy bữa nữa lại có mưa lớn, rồi chỗ nào đó lại tắc nghẽn, đến lúc đó vương gia xoay giúp chúng ty chức một khoản nữa được không?”

    “Sửa một lần là được rồi, bản vương bảo đảm năm nay Trường An sẽ không tắc nữa đâu.” Đoạn y quay lại ra ý bảo Hoàng Tử Hà theo mình về phủ, “Sáng mai ngươi tập trung thợ thuyền và đốc công lại đây, bản vương sẽ ban bố điều lệnh mới, để chúng khỏi chậm trễ dối trá, bòn rút vật liệu nữa.”

    Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch về phủ.

    Xe ngựa chạy đường êm ru. Lý Thư Bạch thuận miệng hỏi: “Vừa nãy không tiện hỏi han, hôm nay Vương hoàng hậu có làm khó gì ngươi không?”

    Hoàng Tử Hà nhăn mặt đáp: “Dĩ nhiên là có. Nương nương bắt một tiểu hoạn quan như tôi giúp bà ấy quay lại gác Bồng Lai cung Đại Minh.”

    Y tỏ vẽ hờ hững: “Bà ta thông qua ngươi chuyển lời đến ta đấy thôi, ngươi không cần để tâm.”

    “Vâng… ngoài ra cũng không có gì nữa cả.”

    “Cho truyền gọi ngươi đến, chỉ để chuyển lời thế thôi ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Lý Thư Bạch nhíu mày. Nhưng y không nói ra, cô cũng không thể hỏi, chỉ vô thức nhìn lướt qua song. Các phường trong thành Trường An lần lượt trôi qua cửa, có phường tường bao rất cao, có phường tường lại rất thấp, chỗ thấp nhất chưa đến nửa người.

    Bởi thế, khi ngang qua phường Đại Ninh, cô thoáng nhác thấy hai người.

    Nữ tử nọ đứng phía trong tường bao chỉ cao ngang lưng phường Đại Ninh, gương mặt nhìn nghiêng lờ mờ dưới bóng tối nhập nhoạng, song cô vừa nhác thấy đã đứng bật dậy, chẳng kịp gọi A Viễn dừng xe đã nhảy ngay xuống.

    May mà đang đi trên phố nên xe ngựa chạy từ từ. Cô lại rất nhanh nhẹn, nhảy xuống xong chỉ hơi loạng choạng đã đứng vững được ngay.

    Lý Thư Bạch nhìn từ cửa sổ ra, thấy cô đứng vững, bèn ra hiệu cho Cảnh Dục nãy giờ vẫn đi theo cạnh xe.

    Xe ngựa ngoặt vào góc đường rồi từ từ dừng lại, đợi Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà khom người áp sát vào tường, rón rén lại gần hai người kia, nín lặng nghe ngóng.

    Nam nhân nọ quay lưng về phía tường, giọng nói ôn hòa thuần hậu: “Tích Thúy cô nương chẳng buồn che mặt, một mình chạy đến đây, định làm gì vậy?”

    Người con gái khiến Hoàng Tử Hà chỉ thoáng nhác thấy trong bóng xế nhập nhoạng đã phải nhảy ngay xuống xe, chính là Tích Thúy.

    Còn kẻ đối diện nàng có giọng nói rất quen, nhưng hiện giờ Hoàng Tử Hà không có thời gian suy đoán, chỉ nín thở nghe ngóng.

    Tích Thúy luống cuống đứng đó, giọng toát lên vẻ căng thẳng cực độ: “Tìm… tìm tôi làm gì?”

    Người nọ im lặng nhìn nàng, hồi lâu mới mở miệng, song chẳng trả lời mà chỉ hỏi: “Cô định giết Tôn ghẻ chứ gì? Cô không đội mũ có mạng che bởi không định về nữa phải không?”

    Tích Thúy bất động, đờ ra trước mặt y, không nói một lời.

    “Kẻ vừa rời khỏi – Trương Hàng Anh, đến đây cũng vì mục đích gống cô, đúng không?” Nói đến đây, y bật cười khẽ: “Tôn ghẻ dưới đất cũng nên lấy làm vinh hạnh vì trong một ngày có bấy nhiêu người cùng kéo tới đây để giết hắn, hắn tự dưng lại thành món đồ người ta phải tranh giành, đúng là nực cười.”

    Trời tối hẳn, gương mặt và bóng dáng Tích Thúy đã tan nhòa vào màn đêm. Trống đóng cổng thành đang điểm từng tiếng như giục giã, sắp đến giờ giới nghiêm.

    Tích Thúy giơ tay nắm lấy vạt áo trước ngực, run rẩy đáp: “Tôi… tôi không hiểu ngài nói gì cả… Tôi phải đi đây.”

    “Cô sợ gì chứ? Người cô căm hận nhất đã chết trong nhà lao kín bưng như ý cô, chẳng lẽ cô còn không vui?”


    Tích Thúy không nói gì thêm, quay ngoắt người đi thẳng ra cổng phường gần đó.

    “Đợi đã…” Người kia gọi với theo, giọng nhẹ nhàng, chỉ mấy bước đã đuổi kịp.

    Tích Thúy kinh hãi ngoảnh đầu, bất giác lùi lại một bước.

    Song người kia lại ngồi thụp xuống trước mặt, giơ tay phủi vết bụi đất trên quần cho nàng: “Cô không để ý gì cả. Đừng để bẩn quần vẫn hơn.”

    Tích Thúy vô thức kéo vạt quần lùi lại, hốt hoảng: “Tôi… tôi tự lo được mà.”

    Hình như nàng rất sợ người nọ, lùi lại mấy bước rồi quay phắt người chạy thẳng qua cổng phường.

    Nam nhân kia đứng lên nhìn theo bóng nàng tan vào màn đêm, lặng thinh hồi lâu mới lên tiếng, như tự nói với mình: “Người chết cũng chết rồi, tìm đâu được kẻ tương tự, chẳng phải thế ư?”

    Hoàng Tử Hà ngồi dưới chân tường, nghe thấy tiếng bước chân y chầm chậm đi về hướng khác. Cô đương ngồi thừ ra đấy thì nghe sau lưng có tiếng hỏi: “Chưa đi à?”

    Nhận ra giọng Lý Thư Bạch, Hoàng Tử Hà quay lại thì thấy đường đường Quỳ Vương cũng ngồi lê dưới góc tường nghe lén như mình, không khỏi giật nảy mình, lắp bắp: “Vương… vương gia!”

    Y không đáp mà lẳng lặng đi thẳng về phía cỗ xe ngựa đậu trong hẻm.

    Hoàng Tử Hà theo sau hỏi nhỏ: “Vương gia nhận ra người kia không?”

    “Lẽ nào ngươi không nhận ra?” Y vặn lại.

    Hoàng Tử Hà gật đầu, một lúc lâu sau mới nói: “Công chúa… đẹp hơn Tích Thúy nhiều.”

    Lý Thư Bạch mỉm cười, không muốn nói tới chuyện đó, bèn đổi chủ đề: “Theo lời họ nói thì có vẻ Tôn ghẻ đã chết rồi.”

    “Vâng, nô tài sẽ đi nghe ngóng ngay.” Dứt lời, Hoàng Tử Hà định chạy về Đại Lý Tự hỏi thăm.

    Nào ngờ Lý Thư Bạch gọi giật cô lại: “Dương Sùng Cổ.”

    Cô ngạc nhiên ngoái đầu nhìn y.

    “Vội gì chứ?” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Việc lớn bằng trời cũng ăn cơm đã rồi nói. Huống hồ, có kẻ sắp đến bây giờ đấy.”

    Hoàng Tử Hà cũng thấy cả ngày chạy qua chạy lại vừa mệt vừa đói, đành nín lặng theo y lên xe.

    Về đến phủ Quỳ Vương, trời đã tối đen.

    Lý Thư Bạch vừa bước xuống, Cảnh Hữu đã chạy ra đón.

    Lý Thư Bạch vừa đi thẳng vào trong, vừa căn dặn: “Chuẩn bị cho ta hai cái khóa sắt thật to, càng to càng đáng sợ càng tốt.”

    Cảnh Hữu vâng dạ rồi lui xuống chuẩn bị, cũng không hỏi dùng để làm gì.

    Hoàng Tử Hà thoáng nghĩ đã hiểu ra cách làm của y, không khỏi chặc lưỡi: “Vương gia, thế này có ác quá không…”

    “Lúc chúng lười biếng trộm cắp, có nghĩ mình ác quá không?” Lý Thư Bạch liếc cô, “Chừng nào cống rãnh tắc nghẽn làm người ta chết đuối, chúng mới hiểu được đây là việc lớn chết người, không phải cứ cầm tiền rồi làm qua quýt cho xong được.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu thầm nghĩ, vị vương gia ghê gớm này đã để mắt, e rằng từ mai việc coi quản đường thoát nước trong kinh thành đang từ miếng thịt béo sẽ trở thành khúc xương khó nhằn.

    Định cáo lui thì Lý Thư Bạch quay lại liếc một cái sắc lẻm, cô đành ngoan ngoãn theo y đi tiếp – tuy ông chủ này khó hầu hạ, song cùng ăn cơm thì cô rất sẵn lòng, dù sao giờ cô cũng đói meo rồi.

    Tiếc rằng bữa cơm này cũng không được yên ổn mà ăn, cô mới và được mấy miếng thì thấy Cảnh Hữu chạy vào. Quả nhiên, tay y đang cầm hai ổ khóa to tướng, đen sì, nặng trịch, nhìn mà phát khiếp.

    Y dâng khóa lên cho Lý Thư Bạch xem qua, rồi quay sang bảo Hoàng Tử Hà: “Sùng Cổ, tiểu công tử nhà Chu thị lang đến tìm cậu, đang đợi ở cổng đấy.”

    “Chu Tử Tần ư?” Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, đều thấy trong mắt người kia một câu: quả nhiên đến rồi.

    Y vẫy tay: “Bảo Tử Tần vào đây đi, xem có chuyện gì.”

    “Đương nhiên là có chuyện lớn rồi!”

    Chu Tử Tần mặc áo dài màu hồng phấn, thắt lưng xanh biếc, đầu đội mũ màu vàng mỡ gà, phối màu thật rực rỡ chói mắt.

    Gã vốn hay khoe mẽ, lần này lại càng khoa trương tợn, thái độ trống giong cờ mở thế này, có thể miêu tả bằng một câu: chỉ sợ thiên hạ không loạn.

    “Vương gia, Sùng Cổ! Chiều nay tôi đã ở Đại Lý Tự xem xét lời khai của những người có liên quan tới vụ tai nạn của phò mã, công công xem qua chưa?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đại Lý Tự cũng sao lại một bản cho tôi.”

    “Ừm, còn ta ngồi xem trong Đại Lý Tự. Đến hoàng hôn, công công biết đấy, người của Đại Lý Tự ai nấy đều kỳ quái, phòng ốc u ám, nên ta xem hai lượt chẳng tìm được gì có ích, đang định ra về. Đúng lúc ấy thì, công công thử đoán xem, ta nghe bên ngoài nhốn nháo cả lên, nói là có người chết!”

    “Ai chết?” Giữa hàng tràng lời thừa thãi ba hoa của gã, Hoàng Tử Hà vẫn móc ra câu nói có nghĩa duy nhất, liền hỏi.

    “Đúng là không sao ngờ được, đúng là trời long đất lở, đúng là khiến ta trợn mắt há miệng, không dám tin vào tai mình mà.”

    Lý Thư Bạch nghe mãi cũng hết cả kiên nhẫn, nhíu mày nạt: “Kể vắn tắt!”

    “Tôn ghẻ chết rồi!” Chu Tử Tần tức thì thay đổi phong cách.

    Quả nhiên Tôn ghẻ, tên súc sinh nhân lúc Tích Thúy hôn mê giở trò không bằng cầm thú, đã chết.

    Hoàng Tử Hà nghiền ngẫm lời phò mã từng nói, lại hỏi: “Hung thủ là ai?”

    “Nào biết! Manh mối hiện giờ… có thể nói là chưa có gì!” Nói đến đó, Chu Tử Tần mới nhận ra mình chạy một mạch đến đây đã khát khô cổ, vội chụp lấy ấm trà trên bàn tu ừng ực.

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch bất lực nhìn nhau, đều cố nín nhịn, ngồi yên ở hai bên bàn đợi gã kể tiếp.

    Chu Tử Tần tu hết ấm trà mới quẹt miệng nói: “Không ổn, chuyện này tôi không thể vắn tắt được, nhất định phải kể từ đầu.”

    “Thì kể mau đi.” Hoàng Tử Hà cũng hết cách.

    “Đầu đuôi câu chuyện là thế này, các vị đừng trách tôi huyên thuyên, chuyện này không kể kỹ không được, nếu không các vị làm sao hiểu được ai là ai. Chuyện là trong kinh có tiệm ngựa Tiền Ký, làm ăn lớn lắm, ông chủ tên Tiền Quan Sách, có lẽ các vị không biết đâu…”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch im lặng nhìn nhau, cuối cùng Hoàng Tử Hà lên tiếng, giọng điệu lạ lùng mà phức tạp: “Biết rồi, đã từng nghe tên.”

    Chu Tử Tần vẫn không phát hiện ra, tiếp tục kể: “Các vị biết rồi thì tốt. Tiền Quan Sách là tay buôn ngựa nổi tiếng nhất Trường An, rất nhiều ngựa của quan phủ đều do hắn tìm giúp. Tôi cũng từng giáp mặt một lần, hắn vóc người béo lùn, lúc nào cũng tươi cười niềm nở, quả là hòa khí sinh tài. Từ năm ngoái, hắn mở rộng kinh doanh, lôi kéo một toán thợ mộc, thợ nề, thậm chí người của bộ Công phụ trách khơi thông cống rãnh cũng có dăm kẻ ăn lộc của hắn, giờ những việc như tu sửa phòng ốc, đào hồ đắp đê trong kinh đều phải tìm đến hắn. Ai dà, hắn còn hùng hồn nói, trong bốn việc ăn mặc đi ở thì nương tử ở nhà quản hai khoản đầu, còn hắn quản hai khoản sau, vậy chẳng phải…”

    Hoàng Tử Hà nghe mãi cũng phát ngán, vội cắt lời: “Tử Tần, công tử kể từ vụ án mạng kia được không?”

    “Thôi được.” Chu Tử Tần tiu nghỉu, “Chiều nay, lúc sắp hoàng hôn, Tiền Quan Sách cùng một tay thủ hạ làm cai thầu ngồi uống rượu ở chợ Tây, uống say hắn liền chửi bới tay cai thầu kia. Nguyên nhân là gì, người quanh đó đều nghe rõ mồn một, thì ra Tôn ghẻ vốn đã bị người trong phường chửi rủa, sau khi Ngụy Hỷ Mẫn bị sét đánh chết, hắn sợ mình cũng gặp báo ứng nên cả ngày nhốt mình trong nhà, không dám ra ngoài. Có điều nhà lụp xụp rách nát, hắn sợ có kẻ phá cửa xông vào hại mình, nên đi tìm tay cai thầu kia nhờ sửa nhà rồi ghi nợ. Chẳng hiểu sao tay cai thầu cũng gọi mấy người sửa sang lại cửa nẻo cho hắn, mất một buổi chiều. Tiền Quan Sách đang uống rượu, nghe được chuyện đó thì nổi trận lôi đình, mắng rằng tên khốn nạn người người chửi rủa như thế, lại nghèo đến nỗi sửa nhà cũng phải sửa chịu, tay cai thầu đúng là bị bùn lấp óc mới nhận lời. Hắn chửi bới một trận tàn tệ, rồi mượn hơi rượu lôi tay cai thầu đến nhà Tôn ghẻ, luôn miệng nói dù phải dỡ nhà họ Tôn, cũng quyết đòi bằng được khoản tiền kia.”

    Hoàng Tử Hà rất vừa ý với đoạn trần thuật này, gật đầu hỏi: “Tiền Quan Sách tìm thấy Tôn ghẻ rồi đôi bên xung đột ư?”

    “Không! Bấy giờ người trong quán rượu thấy có chuyện náo nhiệt, bèn rồng rắn theo hắn đến nhà Tôn ghẻ. Nghe nói cửa nẻo nhà đó được sửa lại chắc chắn lắm, cửa chính gia cố, cửa sổ cũng gia cố, dùng ván gỗ dày nửa tấc, đóng im ỉm, chẳng khác nào cái thùng sắt. Tiền Quan Sách vừa đạp cửa vừa réo tên Tôn ghẻ ra chửi, song bên trong vẫn im lìm. Có kẻ dúi cho hắn một cây rìu, Tiền Quan Sách sẵn hơi rượu bèn vung rìu chém vào cánh cửa, mọi người sợ hắn xách rìu xông vào chém cả Tôn ghẻ, bèn giật lấy rìu trả lại cho chủ, công công đoán xem là kẻ nào dúi rìu cho Tiền Quan Sách?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu, Chu Tử Tần quay sang thấy Lý Thư Bạch cũng đoán không ra, bèn đắc ý kể: “Người này có mặt ở đó kể cũng lạ, mà cũng không lạ, chính là lão Lữ Chí Nguyên đó!”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên: “Sao lão ta lại ở đó?”

    “Người trong kinh sửa sang nhà cửa, chẳng phải thường gắn giá nến lên tường ư? Lữ Chí Nguyên vẫn hợp tác với tay cai thầu nhận gắn giá nến cho các nhà. Quán rượu mà Tiền Quan Sách ngồi ở chợ Tây ngay cạnh tiệm nhang đèn, nghe họ Tiền nói muốn tìm Tôn ghẻ đòi nợ, Lữ Chí Nguyên cũng gào lên bảo Tôn ghẻ đã hứa đền tiền cho mình mà chưa đưa đủ, giờ sao lại có tiền sửa sang nhà cửa. Lão đùng đùng xách cây rìu nhỏ vẫn dùng chặt sáp nến, đi theo Tiền Quan Sách đòi tiền.”

    Hoàng Tử Hà đã chẳng còn lời nào để bình luận về lão già này nữa, chỉ hỏi: “Sau đó cả đám người ấy chặt Tôn ghẻ ra à?”

    “Không! Tôn ghẻ chết rồi!” Chu Tử Tần kích động đấm xuống mặt bàn, mạnh đến nỗi làm nảy cả ấm trà lên. “Họ đạp tung cửa ra, thấy Tôn ghẻ nẳm trên cái giường nát giữa nhà, đã chết cứng. Trời thì nóng, phòng lại đóng kín, bên trong bắt đầu thoang thoảng mùi thối.”

    Hoàng Tử Hà cau mày: “Tình hình lúc ấy thế nào?”

    “Bấy giờ người xung quanh ngửi mùi thối, đã thấy không ổn, chỉ mình Tiền Quan Sách đang say khướt xông tới tóm lấy áo Tôn ghẻ xách lên định tẩn cho một trận. Lữ Chí Nguyên đằng sau vội chạy theo giữ họ Tiền lại, song thi thể Tôn ghẻ đã bị kéo ra đến mép giường, Tiền Quan Sách bị lão Lữ giữ chặt, hơi lỏng tay ra, cái xác liền rơi bịch xuống đất, đã chết cứng đơ. Lữ Chí Nguyên ngồi thụp xuống lật cái xác lại xem, tức thì sợ đến hồn xiêu phách lạc, vội kéo Tiền Quan Sách lùi lại, Tiền Quan Sách thấy khuôn mặt méo mó của thi thể cũng sợ đến nỗi giật lùi mấy bước. Cả hai ngã ngửa ra đất, chới với mãi không bò dậy được. Mấy người bên cạnh kẻ thì chạy lại đỡ dậy, kẻ thì đi báo quan, rồi đi gọi lý chính(*). Khi đến tai Đại Lý Tự thì trời đã sắp tối. Ta vừa nghe nói Tôn ghẻ chết, bèn tức tốc chạy đến nghiệm thi rồi đến đây tìm công công.”

    (*) Người đứng đầu một phường hoặc một thôn.

    “Tôn ghẻ làm sao mà chết?” Hoàng Tử Hà hỏi.

    “Bị đâm chết! Vết thương nông mà nhỏ, hẳn là một thanh chủy thủ vừa nhỏ vừa sắc, rộng chừng tấc rưỡi, hơn nữa sức hung thủ rất yếu, vết thương không sâu, chắc hung thủ cũng biết mình sức yếu nên đã tẩm thuốc độc vào lưỡi dao, chỉ đâm hai nhát đã bỏ chạy. Hiện trường không có hung khí để lại, chắc hung thủ đem theo rồi.”

    “Có dấu vết vật lộn không?”

    “Không có, chắc hẳn hung thủ thừa lúc Tôn ghẻ ngủ mới xuống tay.”

    “Vết thương ở đâu?”

    “Bấy giờ Tôn ghẻ nằm nghiêng, quay lưng vào tường, mặt hướng ra cửa, thi thể vẫn giữ nguyên tư thế ngủ tự nhiên. Có điều toàn thân đã bốc mùi, lúc nghiệm thi ta cũng buồn nôn gần chết.” Chu Tử Tần vừa nói vừa huơ tay minh họa trên người mình, “Bị thương hai chỗ, một ở dưới xương quai xanh bên vai trái, một ở eo phía bên phải rốn, vết thương đều chéo xuống dưới, rõ ràng là hung thủ ngồi trên giường đâm Tôn ghẻ trong lúc ngủ.”

    “Dấu vết giãy giụa thì sao?”

    “Không có.”

    “Thật không bình thường.” Lý Thư Bạch lạnh lùng buông một câu.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đúng là không bình thường. Không đâm vào chỗ hiểm, vết đâm lại không sâu, ít nhất nạn nhân cũng phải giãy giụa phản kháng chứ.”

    Chu Tử Tần ấm ức nhìn hai người: “Chu mỗ không biết nữa, lúc nghiệm thi thì thi thể đã nằm dưới đất rồi. Nhưng theo những người phá cửa xông vào thì quả đúng Tôn ghẻ nằm trên giường với tư thế ấy, không hề động đậy, nhìn như ngủ vậy.”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày, gạt bỏ nghi vấn này sang một bên, rồi hỏi tiếp: “Thời gian tử vong cụ thể là bao giờ?”

    “Điểm này ta có thể khẳng định, muộn nhất cũng không quá giờ Ngọ hôm nay. Nhất định hắn đã chết vào giờ Ngọ, hoặc trước giờ Ngọ.”

    “Cũng có nghĩa là, Tôn ghẻ đã chết ít nhất hai canh giờ trước khi Tiền Quan Sách và Lữ Chí Nguyên xông vào?”

    “Đúng, mà lại chết ngay trong căn nhà vừa sửa sang, giữa gian phòng như cái thùng sắt vừa gia cố. Cửa đóng chặt, cài then trong, Tiền Quan Sách đạp mấy phát còn không bật ra. Khung cửa sổ duy nhất đóng cả tấm gỗ dày cộp, không có hoa văn gì, cũng cài chốt trong. Tường vách đều bằng đất nện, không có hang chuột.” Trông Chu Tử Tần như sắp phát điên, “Bởi thế, chẳng biết hung thủ vào phòng giết người theo đường nào, rồi lại theo đường nào ra ngoài, còn chốt cả cửa chính cửa sổ, không để lại mảy may dấu vết?”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Hiện giờ không có vật chứng nào ư?”

    “Không có. Nhưng… có nhân chứng.” Nói đến đây, Chu Tử Tần lại nhăn nhó như bị đau răng, “Có điều, có điều…”

    Hoàng Tử Hà tỏ ý bảo gã nói tiếp.

    Chu Tử Tần cau mày hạ giọng: “Theo mấy bà mấy chị trong phường khai thì khoảng giờ Ngọ, họ ngồi dưới bóng cây bên giếng nước khâu đế giày, trông thấy hai người lạ mặt, một nam một nữ lần lượt đến gần nhà Tôn ghẻ, còn lảng vảng nhìn ngó gì đó, nhưng hình như không làm gì cả mà lẳng lặng bỏ đi.”

    “Hai người nam nữ à?” Hoàng Tử Hà chau mày.

    “Đúng thế, một nam một nữ.” Chu Tử Tần rầu rĩ đỡ trán, lẩm bẩm: “Nghe nói người nam đến trước, dáng dấp cao lớn, tướng mạo đường hoàng, lưng thẳng, nhìn rất khôi ngô, các bà các chị tuy đã lớn tuổi, lại ngồi ở chỗ khuất nẻo, song vẫn nhìn không chán mắt. Nhưng từ chỗ họ ngồi không trông thấy nhà họ Tôn, nên cũng chẳng rõ người nọ tới đó làm gì.”

    “Vậy còn người nữ?”

    “Người nữ cứ cúi gằm mặt nên không trông rõ dung mạo, song thân hình mảnh mai, chắc tuổi tác không lớn. Cô ta đến sau khi người nam kia đi khỏi, cũng dạo một vòng quanh những chỗ người kia vừa đi, lảng vảng quanh nhà Tôn ghẻ một lúc lâu.”

    “Những đặc điểm khác thì sao? Không biết à?”

    “Biết...” Chu Tử Tần khó nhọc đáp, “Cô ta đi hài vải xanh đế gỗ, trên hai chiếc hài thêu hai đóa râm bụt nở hướng vào nhau.”

    Hoàng Tử Hà nhớ lại hôm nay lúc gặp tại nhà Trương Hàng Anh, Tích Thúy cũng đi đôi hài như thế, bất giác biến sắc: “Công tử nói với Đại Lý Tự chưa?”

    “Chưa. Nhưng ta nghĩ, Đại Lý Tự tra xét quanh các phường, chẳng bao lâu sẽ tra ra hai người họ thôi, tới lúc đó họ sẽ bị gọi thẩm vấn.”

    Hoàng Tử Hà nín lặng nhìn sang Lý Thư Bạch. Lý Thư Bạch đi đến bên án, lấy giấy viết một tờ công văn rồi dặn: “Tối nay các ngươi mau đi tra xét tình bên đó đi, kẻo chứng cứ lại bị phân tán tan tác.”

    Chu Tử Tần nghe vậy liền tóm ngay tay áo Hoàng Tử Hà, giục giã: “Đi thôi đi thôi, ta đã điều tra rồi, phòng Tôn ghẻ không có chỗ nào ra vào được cả, công công mau tới xác nhận hộ ta đi, xem có cách nào giết người trong một gian phòng kín thế không?”

    “Dương Sùng Cổ.” Hai người vừa ra đến cửa, chợt nghe thấy Lý Thư Bạch ở phía sau gọi khẽ.

    Hoàng Tử Hà quay phắt lại: “Thưa gia.”

    Ánh mắt Lý Thư Bạch dừng ở ống tay áo cô đang nằm trong tay Chu Tử Tần, thong thả dặn: “Sáng mai chúng ta còn có việc, ngươi nhớ về phủ cho sớm, không được đi qua đêm.”

    Hoàng Tử Hà vội giật tay áo ra, cúi đầu hành lễ: “Thưa vâng.”
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 10 - Bụi trần hương đọng
    “Sáng mai hai vị có việc gì thế? Vương gia còn căn dặn kỹ càng nữa chứ.”

    Dọc đường cùng Hoàng Tử Hà đến phường Đại Ninh, Chu Tử Tần nghi hoặc hỏi.

    “À, có chút việc trong triều.” Thực ra tôi không đi cũng chẳng sao. Cô thầm nghĩ.

    Chu Tử Tần tỏ vẻ ngưỡng mộ: “Sùng Cổ lợi hại thật, bên cạnh một người như Quỳ vương, hiếm ai có thể làm việc đắc lực đến thế lắm.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Quỳ vương bẩm sinh tài giỏi, làm việc bên cạnh gia, đương nhiên áp lực rất lớn.”

    “Đúng thế, đầu năm nay vương gia mới đi bái tế mẫu phi nửa tháng mà triều đình loạn lên, các nha môn tìm mấy chục người cũng không gánh vác nổi công việc của gia, cuối cùng hoàng thượng buộc phải hạ chỉ, mời gia mau về kinh.”

    Hoàng Tử Hà từng chứng kiến Lý Thư Bạch xử lý công vụ tại các nha môn nên hết sức thấu hiểu, chỉ nín lặng gật đầu, thầm nghĩ, người ta sống trên đời, ai cũng có sở thích, song xem ra Quỳ vương cái gì cũng có, mà hình như chẳng thích cái gì. Không rõ thứ gì mới khơi gợi được hứng thú của y?

    Nghĩ đi nghĩ lại thì, dường như chỉ có con cá nhỏ kia lúc nào cũng được y đem theo bên mình không rời. Không biết nó có liên quan tới việc hệ trọng gì nữa. Ngay cả đương kim hoàng thượng cũng không thể hỏi tới, ắt là một bí mật đủ làm nghiêng ngả thiên hạ.

    Song một con cá nhỏ nuôi trong bình lưu ly, yếu ớt đến nỗi chỉ cần hai ngón tay là đủ bóp chết, có thể ẩn giấu bí mật gì đây?

    Cô vừa giục ngựa đi theo Chu Tử Tần, vừa nhớ lại nam nhân mình gặp trong cung Thái Cực.

    Cạnh y đặt một bể cá, bên trong là những con cá nhỏ đỏ như máu, tuy cách rất xa, không nhìn rõ hình dạng, nhưng cô vẫn cảm thấy có gì đó là lạ...

    Dường như việc Vương hoàng hậu cố ý triệu cô vào cung gặp mặt, cũng có liên quan tới kẻ đó.

    Nhà họ Vương Lang Gia... Vương Uẩn.

    Nhớ lại cuộc gặp lần trước, cô càng thấy tình cảnh trước mắt càng thêm phức tạp, đúng là căng thẳng đến nghẹt thở.

    Hiện giờ, những gánh nặng trên vai cô gồm có, vụ án oan của cha mẹ, thân phận bị truy nã toàn quốc, trọng trách phải đưa Vương hoàng hậu trở về cung Đại Minh, vụ án bế tắc của Đồng Xương công chúa...

    Còn cả Vũ Tuyên tình cờ gặp lại và Vương Uẩn đã lật tẩy thân phận của cô…

    Đầu cô ong lên cả vì đau, ngồi trên ngựa mà suy nghĩ cứ trôi tận đâu đâu, ngay bàn tay cầm cương cũng bắt đầu không nghe lời.

    Chu Tử Tần đột nhiên dừng ngựa thốt lên: “Vương Uẩn.”

    Cô ừm một tiếng, vô thức buột miệng: “Vương Uẩn cũng khó đối phó lắm...”

    Nói đến đây, cô mới sực tỉnh, thấy Chu Tử Tần gãi đầu bối rối nhìn mình, còn Vương Uẩn đang giục ngựa từ phía bên kia thong dong đi lại.

    Tối mùa hạ trời mát mẻ, một màu xanh thẳm trong suốt bao phủ toàn thành Trường An, Vương Uẩn đi về phía họ, vẻ mặt điềm tĩnh ôn hòa, toát lên phong thái con cháu thế gia, ưu nhã như nhành liễu ngày xuân.

    “Trường An sắp giới nghiêm, hai vị còn định đi đâu thế?”

    Giọng y vẫn ôn hòa như thế, chưa nói đã thấy ý cười. Ánh mắt y lướt qua Chu Tử Tần rồi dừng ở Hoàng Tử Hà, ý cười đã rõ hơn, khóe môi cong lên cũng đẹp hơn hẳn.

    Nhớ lại lần gặp trước cùng những hành động và lời nói của y, lại nhìn nụ cười rạng rỡ như trăng Trường An bây giờ, lòng cô chợt dâng lên cảm giác sợ hãi và chống đối, song chẳng thể nói ra lời, đành im lặng cúi đầu né tránh ánh mắt y.

    Vương Uẩn giục ngựa đi đến bên cạnh cô, cúi đầu hỏi nhỏ: “Lại đi tra án ư?”

    Hoàng Tử Hà cắn môi khẽ gục gặc đầu.

    Chu Tử Tần bên cạnh vội phân bua: “Là Quỳ vương bảo bọn tôi cùng đi, còn cả thủ bút của vương gia đây, huynh xem ...”

    Vương Uẩn liếc qua rồi cười nói: “Phường Đại Ninh xảy ra chuyện như thế, e rằng không được an toàn lắm, để tôi đưa các vị đi.”

    “Tốt quá, tôi vẫn biết Vương huynh nhiệt tình lắm mà.” Chu Tử Tần mừng rỡ, “Sùng Cổ nói có phải không?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Vương Uẩn đi song song hai người, đột nhiên lại buột miệng, vẻ vô ý: “Ngày mai Trương Hàng Anh sẽ đến báo danh.”

    Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới lên tiếng: “Việc này thực phiền Vương công tử quá, hôm khác... nhất định sẽ cảm tạ.”

    Vương Uẩn cười đáp: “Ngày mai các vị đến Tả Kim Ngô Vệ mà xem, Trương Hàng Anh vào đó ắt như cá gặp nước, đầu xuôi đuôi lọt thôi.”

    “Được lắm, tôi thích nhất là đến chỗ các vị ăn chực!” Hễ nhắc đến ăn là Chu Tử Tần mặt mày hớn hở, phấn chấn hẳn lên: “Kể ra thì tôi đã ăn chực khắp các nha môn trong kinh rồi. Ngự Sử Đài ăn một bữa là một đi không trở lại, trước bữa cơm lúc nào cũng phải giảng đạo tuyên dương công giáo hóa của triều đình, các vị coi có khổ hay không? Khó nuốt nhất là cơm của Đại Lý Tự, tường nhà bếp ở đó trắng xóa toàn điều với luật, không chặt đầu thì treo cổ, không nữa thì lưu đày ba ngàn dặm! Tôi thích nhất là ăn cơm ở Tả Kim Ngô Vệ các huynh đấy, nhiều thanh niên, khẩu vị cũng tương đồng, vừa lắm người quen vừa náo nhiệt, vui hơn cả dùng bữa ở nhà. À còn nữa, tôi cũng gặp đầu bếp của các huynh rồi, quả là nữ tử nấu nướng ngon số hai trong thành!”

    Vương Uẩn cười hỏi: “Không biết người số một là ai?”

    “Đương nhiên là cô dâu chưa qua cửa của Trương nhị ca rồi, cô ấy quả là thánh thủ nấu nướng!” Chu Tử Tần khoa trương tán tụng.

    “Thật hay đùa đấy, lẽ nào sư phụ tay nghề mấy chục năm ở quán rượu còn không bằng một tiểu cô nương?”

    “Đâu phải mình tôi nói thế, cả Chiêu vương Ngạc vương cũng tán thành mà. Sùng Cổ thấy sao?”

    “Ừm, ví như hoa râm bụt, A Địch cô nương sẽ ngắt bỏ từng đài, bỏ đi những cánh hoa héo, còn quán rượu thường cho người chuẩn bị sẵn, tới lúc dùng thì bốc một nắm cánh hoa bỏ vào, có thể có rất nhiều cánh không tươi. Nếu xét theo tiêu chuẩn này, đương nhiên canh A Địch cô nương nấu sẽ thơm ngon hơn.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu tỏ vẻ tán đồng, nhưng đúng lúc ấy một suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu, khiến cô ngây người ra.

    Cô sực nhớ hôm đó ở nhà Trương Hàng Anh, cả bọn đang ăn canh râm bụt thì Ngạc vương trông thấy một bức họa quái gở, vẻ mặt kỳ dị của y khi ấy, giờ nhớ lại vẫn còn khiến người ta lấn cấn trong lòng.

    Hồi tưởng lại nội dung bức họa, cô càng rúng động tâm thần.

    Trên giấy vẽ ba hình, thứ nhất là một kẻ bị sét đánh chết cháy; thứ hai là một kẻ chết trong lồng sắt...

    Vừa khéo trùng khớp với thủ pháp gây án của hai vụ gần đây...

    Lẽ nào chỉ là trùng hợp thôi ư?

    Hình thứ ba là một kẻ bị con chim lớn từ trên trời lao xuống mổ chết, chẳng rõ báo hiệu điều gì?

    Chim lớn... Loan phượng...

    Chẳng hiểu sao, trong đầu Hoàng Tử Hà lại hiện lên hình ảnh Đồng Xương công chúa.

    Nàng đứng trên đài cao thuật lại cơn ác mộng của mình. Nàng kể, Phan thục phi nhà Nam Tề Phan Ngọc Nhi, báo mộng đòi lại cây trâm Cửu loan.

    Trâm Cửu loan... Người chết dưới trâm Cửu loan.

    Hoàng Tử Hà ngồi trên lưng ngựa, vừa ngây ra một thoáng đã thấy mồ hôi lạnh túa khắp, khiến cô không sao ngồi thẳng lên được.

    “Sùng Cổ sao thế?” Giọng Vương Uẩn chợt vang lên bên tai. Thấy cô lảo đảo sắp chực ngã, y bèn nắm lấy dây cương, giúp cô ghìm Na Phất Sa lại.

    Hoàng Tử Hà bấy giờ mới định thần, vội vã xua đi những liên tưởng quái gở trong đầu, miệng đáp: “Tôi không sao... Trời tối thật, thoáng cái đã không trông rõ đường rồi.”

    Đoạn cô ngẩng đầu, thấy phía trước là bức tường bao quanh phường thấp tè, trước cổng phường treo hai ngọn đèn lồng đã phai màu, bên trên viết hai chữ Đại Ninh.

    Ba người xuống ngựa trước cổng phường Đại Ninh, Chu Tử Tần thấy Vương Uẩn cũng theo vào thì kinh ngạc hỏi: “Vương huynh... đêm nay không phải đi tuần các phường ư?”

    “Trường An rộng như thế, nếu chỉ mình ta đi tuần chẳng phải mệt chết ư?” Vương Uẩn cười, “Thực ra hằng ngày ta cũng chỉ đi loanh quanh mấy vòng rồi quay về thôi. Hôm nay ta tình cờ gặp các vị, ta cũng chưa được xem người cửa công tra án bao giờ, lần này coi như mở rộng tầm mắt.”

    “Thi thể đã được đưa ra nghĩa trang rồi, còn gì mà mở rộng tầm mắt? Lần sau có dịp, tôi sẽ mời huynh đến xem nghiệm thi.” Chu Tử Tần vừa nói vừa giơ ra tờ giấy Lý Thư Bạch viết cho mấy người lính già gác cổng, rồi dẫn bọn họ đi thẳng tới nhà Tôn ghẻ.

    “Tôn ghẻ tên thật là Tôn Phú Xương, vì khắp người lở loét, đầu lại bị chốc, nên ai ai cũng gọi là Tôn ghẻ. Hắn không có anh chị em, họ hàng cũng hiếm khi qua lại, mấy năm trước cha mẹ theo nhau mất cả, giờ sống một mình trong căn nhà nát ở mé Tây Bắc phường Đại Ninh.”

    Chu Tử Tần dẫn hai người đi dọc theo tường bao, tới một dãy nhà nhỏ ở góc Tây Bắc, trong đó có một gian không khóa, trên cửa dán giấy niêm phong của quan phủ.

    Chu Tử Tần giơ tay nhẹ nhàng bóc giấy niêm phong xuống, rõ ràng gã làm việc này không chỉ một hai lần, tờ giấy gỡ ra rất khéo, không rách mảy may. Đoạn gã đẩy cửa, căn phòng kín đã lâu, vừa mở ra, mùi ẩm mốc, mùi thối, hòa cùng đủ thứ mùi hỗn tạp xộc ra, khiến người ta lợm cả giọng.

    Chu Tử Tần đã chuẩn bị sẵn, rút ngay ra hai miếng vải tẩm nước gừng tỏi giấm cho Hoàng Tử Hà và Vương Uẩn, còn mình thì bịt mũi nói: “Mùi gì thế nhỉ?... Mùi xác thối thì đã đành, còn có một mùi gì ấy rất khó tả, thối hơn cả mùi xác thối nữa?”

    Vương Uẩn dùng vải bịt mũi song vẫn nhăn nhó không thôi, rõ ràng không quen thứ mùi “trừ tà” này. Đành bỏ luôn miếng vải ra, “Ta không dùng tranh đồ của huynh nữa đâu, cái này trả cho... ”

    Chưa nói dứt câu, y bỗng ngưng bặt, do dự một thoáng rồi lại bịt miếng vải lên mũi, lúng búng qua làn vải che: “Tử Tần, Sùng Cổ, hai vị vất vả quá. Mùi thối hòa lẫn mùi thơm, quả thật còn khó ngửi hơn cả mùi thối đơn thuần.”

    Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi: “Mùi thơm gì cơ?”

    “Huynh không ngửi thấy ư?” Vương Uẩn nhíu mày, dù đang bịt vải, y vẫn vô thức phẩy phẩy tay trước mũi mấy cái: “Là hương linh lăng.”

    Hoàng Tử Hà cũng ngạc nhiên không kém: “Trong phòng này có... linh lăng hương ư?” Trước khi bước vào cô đã bịt mũi, nên chẳng ngửi thấy gì cả.

    “Đúng thế, là hương linh lăng.” Vương Uẩn quả quyết khẳng định, “Tuy rất nhạt, lại lẫn với đủ thứ mùi hôi hám, nhưng ta rất nhạy cảm với mùi hương, không nhận lầm đâu.”

    “Mọi người đều ca tụng huynh là cao thủ đệ nhất kinh thành về các loại hương thơm, tôi không thể nghi ngờ huynh được.” Chu Tử Tần nhíu mày, “Nhưng linh lăng hương rất quý, sao có thể xuất hiện trong gian nhà tồi tàn này chứ?”

    “Đúng là rất lạ, nhưng hình như không sai đâu.” Vương Uẩn khẳng định.

    Hoàng Tử Hà gỡ khăn bịt xuống, hít ngửi trong phòng. Có điều cô không có thiên tư về mặt này, chỉ ngửi thấy mùi giấm và tỏi sặc sụa ở chóp mũi. So ra thì Chu Tử Tần lợi hại hơn, vừa bỏ tay bịt mũi ra, gã đã hít hít rồi gật đầu: “Ừm, nghe huynh nói tôi cũng ngửi thấy rồi, đúng là thoang thoảng thật... Ồ, rốt cuộc là từ đâu ra thế nhỉ?”

    Hoàng Tử Hà vừa nghe vừa cầm lồng đèn soi quanh phòng.

    Đúng như Chu Tử Tần nói, đây là một gian nhà bằng đất lụp xụp, có thể gọi là chỉ trơ bốn bức vách. Bước qua cửa, đập vào mắt là chiếc giường thấp ngổn ngang đủ thứ, đối diện cửa vào. Trong nhà không có lấy cái bàn, ở góc trái bắc một cái bếp, ba bốn chiếc bát sành sứt miệng nằm chỏng chơ, bên cạnh là củi khô và lu gạo vỡ lăn lóc. Bên phải có một chiếc ghế nát kê dựa vào tường, đằng trước đặt một chiếc kỷ thấp dài chừng hai thước, trên kỷ cũng bày đầy đồ đồng nát.

    Hoàng Tử Hà bươi móc trong đống tro bếp, không phát hiện thấy tàn tro của linh lăng hương, lại chạy đến săm soi đống đồ trên kỷ, thấy đa phần là những vật dụng hàng ngày như làn hay đá lửa, đều phủ đầy bụi bặm.

    Cô đi đến bên giường, ngồi xuống nhìn ngó. Chiếc giường nhỏ hẹp, xấp xỉ bằng cánh cửa, vậy mà trên giường chất chồng bao nhiêu thứ, nào là mấy manh áo rách, một cây kéo gỉ ngoèn, một viên đá mài, hai cọc vàng mã, một bầu nước.

    Mặt đất cạnh giường cũng lăn lóc nào gối đầu, một mảnh ngói vỡ đen sì, mấy gói bột ngải cứu bọc trong lá sen khô.

    Còn đương xem xét thì lý chính đã từ phía sau tiến lại, ghèn mắt chưa lau hết, khom lưng bẩm với họ: “Ba vị quan gia, chẳng phải quan sai đã tra xét xong vừa đi rồi ư, sao đêm hôm lại phiền các vị đến xem xét nữa?”

    Chu Tử Tần vỗ ngực hùng hồn: “Chúng ta ăn lộc vua thì trung với vua, phải làm hết chức trách, giữ lẽ công bằng, nửa đêm canh ba thì sao? Ở đâu có thi thể... à không, có án oan thì ở đó có chúng ta!”

    Lý chính sinh lòng kính phục, vội hành lễ với gã: “Vâng, vâng!”

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm liếc Chu Tử Tần, rồi trỏ đống lộn xộn trên giường hỏi lý chính: “Lão trượng có biết mấy thứ trên giường này là gì không?”

    Lý chính quay sang nhìn, rầu rĩ đáp: “Biết chứ, còn chẳng phải mấy thứ đó sao?”

    “Mấy thứ gì?” Chu Tử Tần vội gặng.

    “Chẳng phải trước đây Tôn ghẻ làm chuyện xấu xa, tiếng xấu đồn ầm lên ư? Về sau chẳng hiểu sao lại không bị truy cứu, nên hắn nghênh ngang đắc ý, khoe khoang khắp nơi, đúng là làm mất mặt cả phường! Mãi tới mấy hôm trước, chùa Tiến Phúc xảy ra chuyện, một hoạn quan ở phủ công chúa bị sét đánh chết, mọi người đều nói là ác giả ác báo, Tôn ghẻ bấy giờ mới hoảng lên, sợ gặp báo ứng, có bệnh thì vái tứ phương, hắn bèn đi khắp nơi rước về đủ thứ trừ tà. Các vị quan gia nhìn mà xem, đây là ngói tẩm máu chó mực, đây là vàng mã đã phun nước bùa. Còn cái kéo này, là để phòng thân... Trên giường kia nữa kìa, các vị xem!”

    Nói đoạn lý chính giơ cao cây đèn trong tay lên, họ liền trông thấy trên tường dán đủ thứ bùa chú loằng ngoằng cùng tranh chữ, chẳng biết Tôn ghẻ nhặt nhạnh từ đâu về, cái mới cái cũ, cái của nhà Phật, cái theo đạo Lão. Cửa sổ treo biển gỗ từ bi phổ độ, trên cửa ra vào gắn một tấm hoành phi bằng sắt có ghi: “Mục Liên cứu mẹ” ở đầu giường dán tranh Quan Âm ban con.

    Chu Tử Tần kinh ngạc trỏ cái giường hỏi: “Cái giường này bé tí, lại bày bừa bấy nhiêu thứ, Tôn ghẻ nằm ngủ trên đó vẫn trở mình được ư?”

    “Hắn còn cần trở mình à? Nửa người lở loét, lúc ngủ phải nằm nghiêng, thì còn trở mình nỗi gì!” Rõ ràng lý chính rất căm hận Tôn ghẻ, xem như mối nhục của cả phường, vừa nói vừa dè bỉu, “Ba vị à, không phải mình tôi nói đâu, hồi chiều phát hiện ra thi thể Tôn ghẻ, mọi người đều bảo là báo ứng đó! Ngang nhiên chà đạp con gái nhà người ta, còn đi khắp nơi khoe khoang, nghe nói cô gái đó đã phải tự tử rồi! Đúng là báo ứng đến nhanh thật! Dù hắn trốn trong nhà, đóng chặt cửa, cài chốt trong, dán đầy bùa chú xung quanh, không ra ngoài nửa bước, cũng không thoát khỏi cái chết!”

    Chu Tử Tần gật đầu đồng cảm: “Đúng thế! Bởi vậy người sống trên đời không nên làm việc xấu!”

    Thấy có người tán đồng với mình, lý chính tiếp tục thao thao bất tuyệt: “Nghe nói khi đạp cửa xông vào, người ta trông thấy một luồng oán khí từ trong nhà xộc ra, sát khí đen kịt xông thẳng lên trời! Mọi người đều bảo đó là cô nương chết oan kia báo thù xong, hồn phách quy tụ lại, cuối cùng cũng được yên nghỉ!”

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần chỉ biết câm nín nhìn nhau – vì mới trưa nay, họ còn trò chuyện với Tích Thúy “chết oan” kia.

    Rà soát một lượt trong phòng, lại tra xét kỹ then cửa chính và then cửa sổ xong xuôi, Chu Tử Tần bèn dán giấy niêm phong lại, ghi thêm một chữ “Chu” lên trên.

    Vương Uẩn gỡ vải bịt mũi xuống, quay đầu nhìn lại gian nhà lần nữa, rồi đưa mắt sang Hoàng Tử Hà, cảm thán: “Hôm nay mới biết Sùng Cổ thực là vất vả, ta rất khâm phục.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu tránh ánh mắt y, đáp cho qua chuyện: “Cũng bình thường thôi... dù sao không phải ngày nào cũng thế này.”

    Trái lại, Chu Tử Tần dương dương tự đắc: “ Lần này có là gì! Dạo trước lúc tôi và Sùng Cổ đi đào thi thể bị hỏa thiêu, huynh còn chưa được chứng kiến đâu, cả lần vớt xác dưới kênh nữa... ”

    Hoàng Tử Hà đành vờ như không nghe thấy, đi thẳng đến chỗ Na Phất Sa.

    Vương Uẩn theo sát bên cạnh hỏi: “Căn nhà này gần như kín bưng, rốt cuộc hung thủ đã ra tay thế nào vậy? Mà công công... định điều tra theo hướng nào đây?”

    Hoàng Tử Hà tung mình nhảy lên ngựa đáp khẽ: “Cứ từ từ mà tra thôi, tôi luôn cho rằng, nếu đã gây án, ắt không thể giấu giếm được.”

    “Đúng thế, trong mắt Tử Tần này, Sùng Cổ là thiên tài phá án, có thể sánh ngang với ý trung nhân của tôi đấy, trên đời làm gì có vụ án nào làm khó được công công?” Chu Tử Tần tự đắc nói, như thể vinh quang của Hoàng Tử Hà cũng là vinh quang của gã vậy.

    Hoàng Tử Hà chẳng biết có nên cảm tạ gã đã lược bỏ ba chữ đầu trong cụm “Hoàng Tử Hà ý trung nhân của tôi” không – may mà Chu Tử Tần chưa đến nỗi quá ngốc, không nói toẹt ra trước mặt Vương Uẩn rằng ý trung nhân của mình chính là vợ chưa cưới của y.

    Cũng may Vương Uẩn không có hứng hỏi đến ý trung nhân của Chu Tử Tần, thấy sắp đến ngã tư, y chỉ mỉm cười bảo Hoàng Tử Hà: “ Vậy Tử Tần, Sùng Cổ, ngày mai gặp lại nhé.”

    “Được! Ngày mai chúng tôi nhất định sẽ đến chỗ các huynh dùng bữa đúng giờ,” Chu Tử Tần vẫy tay lia lịa.

    Đợi Vương Uẩn đi khỏi, Chu Tử Tần cho ngựa thả bộ trên đường, thảo luận với cô: “Sùng Cổ, vụ này xem chừng khó nhằn đấy, công công thấy thế nào?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Ừm... cửa chính cửa sổ đều đóng chặt, lần này không như vụ ở nghĩa trang, lách miếng đồng vào mà nạy được đâu.”

    “Đúng thế,” Chu Tử Tần rầu rĩ nhận xét, “có thể nói Tôn ghẻ đã chết trong một cái lồng sắt kín bưng!”

    Vừa nói đến đây, Chu Tử Tần bỗng sững ra, rồi buột miệng ồ lên: “Sùng Cổ! Còn nhớ bức họa ở nhà Trương Hàng Anh không? Chính là bức họa kỳ quái, nghe nói được tiên hoàng ngự ban, treo ngay giữa nhà ấy!”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, chậm rãi nói: “Đương nhiên vẫn nhớ!”

    “Ba cái chết quái dị trong đó... Thứ nhất là bị sét đánh chết cháy; thứ hai là chết trong lồng sắt; thứ ba là bị chim lớn mổ chết!” Chu Tử Tần quay sang nhìn cô, vẻ mặt vừa kích động vừa kinh hãi, “Giờ đây, ba cái chết đã có hai xảy ra với kẻ thù của Tích Thúy rồi!”

    Hoàng Tử Hà nặng trĩu tâm sự, chỉ gật đầu: “Ừm.”

    “Công công không kinh ngạc ư? Công công nói xem, lần này là trùng hợp hay có người cố ý giở trò? Công công không thấy việc này quá kì quái ư?”

    “Tử Tần” Hoàng Tử Hà quay sang nhìn gã, dưới ánh đèn leo lét dọc đường, cặp mắt cô toát lên vẻ điềm tĩnh: “Sáng mai chúng ta đến Tả Kim Ngô Vệ gặp Trương nhị ca rồi nói.”

    Chu Tử Tần gật đầu, mặt lại tươi hẳn lên, đầy vẻ tự đắc: “Sùng Cổ xem, cuối cùng cũng có lần suy luận của ta nhanh hơn công công rồi.”

    “Đúng thế... tôi tự thẹn không bằng.” Cô vừa nói vừa nhìn về phía phủ Quỳ vương đã thấp thoáng đằng xa, lòng bất giác nghĩ đến một việc quan trọng nhất...

    Cái chết thứ ba... liệu có xuất hiện không?

    Nếu có thì... người chết sẽ là ai?

    Sáng hôm sau, trời trong gió mát. Trường An có đến cả trăm vạn người, chết một hai người cũng chẳng hề gì, toàn thành vẫn bình yên.

    Lý Thư Bạch dẫn Hoàng Tử Hà đến bộ Công, không xuống xe, chỉ hỏi một câu: hôm nay khơi thông cống nước ở đâu, rồi đi thẳng tới đó.

    Hôm nay người của bộ Công đang sửa sang cống thoát nước tại phường Thông Tế, lúc hai người đến thì thấy cả đám thợ thuyền và phu phen đang nạo vét bùn ở cửa cống, Tưởng chủ sự bộ Công ngồi chồm hổm dòm xuống, cửa cống bên dưới đen ngòm, mùi hôi thối nồng nặc, họ Tưởng chỉ bịt mũi nhăn nhó ngồi nhìn, chẳng có cách nào.

    Lúc Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà xuống xe, một tên phu đang thông báo với Tưởng chủ sự, “Bên dưới thông rồi, chủ sự xem... đã nên tính tiền chưa?”

    Tưởng chủ sự chần chừ: “Vét sạch thật rồi chứ?”

    “Tiểu nhân đã làm thì đại nhân cứ yên tâm!” Tay phu vỗ ngực đảm bảo, “Tốt xấu gì tiểu nhân cũng được bộ Công tín nhiệm cử làm việc này, đâu thể làm láo lếu được! Nếu thấy chưa thông, đại nhân cứ tìm tôi!”

    “Nói vậy là bên dưới đã thông hết rồi ư?” Lý Thư Bạch thong dong cất tiếng hỏi từ phía sau Tưởng chủ sự.

    Gã nọ không biết lai lịch của y, song thoáng nhìn cũng đoán được người này thân phận bất phàm, vội đáp: “Ôi chao, quý nhân cứ yên tâm! Trương Lục Nhi tôi đã làm là không có vấn đề!”

    Tưởng chủ sự ngoái lại thấy Lý Thư Bạch, vội quỳ sụp xuống hành lễ: “Quỳ vương gia, sao gia lại đến chỗ dơ dáy này? Ôi ôi, mời gia ra đứng đầu gió cho thoáng... ”

    “Khỏi cần.” Quỳ vương ưa sạch sẽ nổi tiếng kinh thành đứng ngay cửa cống nhìn xuống hỏi: “Việc này do Trương lục Nhi kia quản ư?”

    “Vâng, đường nước ngầm to nhỏ trong kinh hắn đều nắm rõ cả, mấy năm trước bộ Công tuyển phu làm cống ngầm, hắn trở thành thủ lĩnh, hằng tháng được bộ Công phát lương, ngoài ra mỗi lần khơi thông cống rãnh đều phải cho thêm tiền.”

    Hoàng Tử Hà ở phía sau nghe thấy bèn nhủ bụng, ai định ra cái quy củ vớ vẩn mỗi lần thông cống phải thêm tiền vậy, làm thế chẳng phải đám người này chỉ mong cho cống tắc suốt ngày, ba ngày tắc một chỗ bé, năm ngày tắc một chỗ lớn hay sao, đời nào chịu dốc sức làm việc nữa?

    Lý Thư Bạch cũng chẳng bình phẩm gì, chỉ gọi Trương Lục Nhi lại hỏi: “Bên dưới thông thật chưa?”

    “Thưa gia, thông thật rồi ạ!”

    “Thông theo ý ngươi, là moi lấy một lỗ giữa đống bùn tắc, đủ cho nước chảy lọt qua để đối phó, hay là vét sạch bùn đọng bên dưới, không còn tắc nghẽn?”

    “Ôi, xem gia nói kìa! Đương nhiên là vét sạch sành sanh, không còn một mảy may bùn đất nào nữa rồi!” Trương Lục Nhi đoán Lý Thư Bạch sẽ không xuống xem, nên bù lu bù loa kể lể hết sức cảm động: “Triều đình hằng tháng phát lương cho mấy anh em tiểu nhân, chúng tiểu nhân cũng biết việc này liên quan đến cuộc sống dân chúng, nào dám qua quýt? Ai nấy đều hết lòng hết sức, không dám lơ là mảy may!”

    “Tốt lắm!” Lý Thư Bạch chẳng buồn nhiều lời, ra ý bảo Cảnh Hữu khiêng hai ổ khóa phía sau lên. Quả nhiên, hai ổ khóa to tướng vừa bưng ra, mọi người đã đổ dồn mắt vào.

    “Từ hôm nay, bộ Công ban hành quy định mới về cống rãnh thoát nước, bản vương sẽ triển khai thử lần đầu. Ngươi đã cam kết bên dưới thông suốt không còn bùn lầy, bản vương cũng biết, đường cống triều ta xưa nay đều xây bằng gạch xanh, cao ba thước, rộng năm thước, thừa đủ cho một người lom khom đi lại, chưa nói tới còn có thể bò.” Lý Thư Bạch trỏ một ổ khóa nói: “Vét sạch cống rãnh rồi, ngươi là trưởng nhóm phụ trách việc này, phải xuống dưới đó, bản vương sẽ chính tay khóa đường cống lại, ngươi có thể theo đường cống thông thoáng ấy mà đi, còn bản vương đi trên mặt đất. Ta sẽ theo tuyến đường thông tắc của ngươi, đi đến chỗ lối ra, rồi vòng về đi lại từ đầu. Khi ta đến lối ra lần thứ hai, bất kể ngươi đã thoát ra hay chưa, bản vương cũng dùng ổ khóa còn lại khóa luôn lối ra, cầm chìa khóa đi.”

    Nghe y nói vậy, Trương Lục Nhi mặt tái nhợt, môi xám ngoét, cứ rên rẩm mãi trong cổ họng mãi không thốt nổi lời nào.

    Lý Thư Bạch cầm ổ khóa lên, ra hiệu cho Hoàng Tử Hà mở khóa, chuẩn bị khóa đường cống lại: “Còn nữa, ngươi đã nói bên dưới sạch bong không còn mảy may bùn đất, vậy thì lát nữa ngươi chui ra, nếu trên người bẩn thỉu quá, bản vương sẽ không vui đâu.”

    “Vương... vương gia!” Trương Lục Nhi run như dẽ, quỳ sụp xuống giữa đường: “Xin... xin cho tiểu nhân, xuống, xuống dưới kiểm tra lần nữa... để khỏi... khỏi có sơ suất!”

    Lý Thư Bạch nửa cười nửa không, đặt ổ khóa trong tay xuống mâm: “Đi đi.”

    Cảnh Hữu đằng sau đã bày sẵn ghế dưới tán hòe, Lý Thư Bạch bèn ra đó ngồi, rửa tay hóng mát.

    Cảnh Dục bày trà nước và bốn món điểm tâm ra, rồi mở thùng nước đá bắt đầu pha nước mát.

    Hoàng Tử Hà bưng một chén sữa lạnh nhấm nháp, quan sát Trương Lục Nhi cùng cả đám phu phen cứ lên lên xuống xuống miệt mài quanh miệng cống như người điên, móc ra từng gánh từng gánh bùn, chồng chất như núi, may mà họ ngồi xa nên không ngửi thấy mùi thối.

    Tưởng chủ sự mừng rỡ đi đến cạnh Lý Thư Bạch, hào hứng thưa: “Đạo luật này ban ra, về sau kinh thành không phải lo ngập lụt nữa rồi!”

    “Đạo cao một thước, ma cao một trượng, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ tìm ra cách đối phó thôi, hơn nữa e rằng sẽ bắt đầu từ chính Tưởng chủ sự đấy!”

    Tưởng chủ sự sợ đến toát mồ hôi lạnh, vội thưa, “Tiểu nhân xưa nay giữ đúng phép công, không hề dám mưu lợi gì cho bản thân cả.”

    “Ta không có ý đó, chỉ lo Tưởng chủ sự thấy chúng vất vả lại lơi lỏng kỷ luật thôi. Dù sao, chuyện này cũng từng làm bá tánh trong thành tan nhà nát cửa.”

    “Vâng vâng, tiểu nhân sẽ giữ đúng chức phận, quyết không dám lơi lỏng.”

    Mặt trời lên gần đến đỉnh đầu thì Trương Lục Nhi, giờ đã bê bết bùn sình trông như một con khỉ đất, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, chạy đến lắp bắp thưa: “Vương gia, chắc... chắc là ổn rồi ạ.”

    Lý Thư Bạch gật đầu, đứng dậy đi đến bên miệng cống.

    Trương Lục Nhi đón lấy thùng nước cạnh đó, giội thẳng từ đầu xuống chân, gột sạch bùn đất trên áo xống và mặt mũi, rồi khom lưng chui xuống cống.

    Lần này Trương Lục Nhi hừng hực quyết tâm, Lý Thư Bạch mới thong dong đi được nửa đường thì hắn đã chui ra từ đầu kia, mình mẩy không lấm bùn nhiều.

    “Khá đấy, nếu lúc nào cũng được thế này thì cần gì bản vương phải đích thân đến trông coi nữa.” Lý Thư Bạch tỏ vẻ tán thưởng.

    Dân chúng xúm đông xúm đỏ xung quanh cũng xôn xao bàn tán, ai nấy đều mừng ra mặt. Có người còn hét bảo Trương Lục Nhi: “Lục Nhi chạy nhanh quá nhỉ! Đáng lẽ Quỳ vương nên bắt ngươi chạy khắp các đường cống trong thành một vòng mới phải, ha ha ha!”

    Lại có người chen vào: “Lục nhi chui cống có gì hay, phải bảo ông chủ Tiền chui một chuyến mới thú, phải không nào!”

    Trong tiếng tán thưởng lao nhao, một người mập lùn sa sầm mặt, cúi gầm đầu xuống.

    Lý Thư Bạch liếc qua đã nhận ra hắn, bèn ra hiệu cho Hoàng Tử Hà.

    Tưởng chủ sự gọi mọi người lại lĩnh tiền công. Hoàng Tử Hà để ý thấy Trương Lục Nhi nhận tiền xong liền đi tới cạnh người nọ, đôi bên nhìn nhau cười gượng, cô bèn tới trước mặt hắn, chắp tay hành lễ: “Vị đại ca này, xin hỏi quý tính là gì vậy?”

    Gã béo lùn thấy hoạn quan bên cạnh Quỳ vương đột nhiên hỏi thăm mình, vội cười cười nịnh nọt: “Tham kiến công công! Công công làm tiểu nhân giật cả mình... Chẳng rõ quý nhân tìm tiểu nhân có việc gì thế?”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Đại ca có phải ông chủ Tiền, Tiền Quan Sách nổi tiếng kinh thành chăng?”

    “Ôi chao, không dám không dám! Tiểu nhân chỉ mở mấy cửa tiệm, kiếm ít tiền sống qua ngày thôi mà.” Hắn vừa phân bua vừa cúi đầu khom lưng, bộ dạng khúm núm, thân hình béo lùn như lu nước cũng gập được thấp đến thế, quả là hiếm có.

    Hoàng Tử Hà từng gặp đủ loại người, song kẻ khom lưng uốn gối như hoạn quan thế này thì thực ít thấy. Cô ngán ngẩm nói: “Ông chủ Tiền không cần đa lễ, ta chỉ hỏi mấy câu thôi.”

    “Vâng vâng, xin công công cứ hỏi, tiểu nhân nhất định biết đâu nói đó.”

    Cô bèn trỏ đường cống phía trước hỏi: “Ông chủ Tiền quen Trương Lục Nhi ư?”

    “Thực chẳng dám giấu, công công, tiểu nhân... có một tiệm ngựa, sau lại chiêu mộ một đám thợ mộc thợ nề, chuyên dựng nhà giúp người ta, về sau tiểu nhân còn, còn nhận vài ba việc, rồi bắt tay với mấy anh em chuyên khơi thông đường cống trong kinh cùng làm, nên... ”

    Thấy hắn ấp úng, Trương Lục Nhi bèn đáp thay: “Thực có lỗi quá, là mấy tên phu phen chúng tôi nhận thêm việc bên ngoài, thỉnh thoảng giúp ông chủ Tiền kiếm chút đỉnh thôi.”

    Tuy những kẻ này ăn lương nha môn, song đôi lúc vẫn nhận thêm việc bên ngoài, chuyện này mọi người đều mắt nhắm mắt mở cho qua, nên Hoàng Tử Hà cũng chẳng truy xét. Nhưng Tiền Quan Sách lại sợ đến hồn phi phách tán, luôn miệng phân bua: “Tiểu nhân có tội! Xin công công trách phạt! Xin công công đại từ đại bi tha cho tiểu nhân một con đường sống... ”

    “Ông chủ Tiền, việc này chẳng liên quan gì đến ta, ta cũng không định truy cứu ông đâu mà.” Hoàng Tử Hà nghe hắn van vỉ chẳng biết làm sao, đành ra hiệu cho hắn bước sang một bên nói chuyện.

    Hai người đi đến bên một bức tường thấp tè đổ nát, Hoàng Tử Hà mới hỏi: “Ông chủ Tiền có quen Tôn ghẻ chăng?”

    “Tiểu nhân không... không quen.” Vừa nhắc đến chuyện đó, gương mặt nần nẫn của họ Tiền như chảy nhão cả ra, trông rất khó coi: “Công công, tha cho tiểu nhân đi... Tiểu nhân rượu vào làm càn, lỡ xách rìu phá cửa nhà họ Tôn thôi... Bấy giờ tất cả mọi người ở đó đều có thể làm chứng, khi tiểu nhân xông vào, Tôn ghẻ đã sắp thối rữa rồi mà!”

    Mới chết hai canh giờ, làm gì mà thối rữa được. Song Hoàng Tử Hà chẳng buồn vặn vẹo hắn, chỉ nói: “Việc đó ta biết. Ta chỉ muốn hỏi, giờ Ngọ hôm qua ông ở đâu?”

    “Giờ Ngọ hôm qua... tôi đang ở phường Tĩnh An đòi nợ. Rất nhiều người có thể làm chứng!” Tảng thịt trên mặt họ Tiền rung lên bần bật vì kích động: “Người Đại Lý Tự cũng điều tra rồi, là thật mà! Công công, tiểu nhân thực xui xẻo quá! Hôm qua tiểu nhân còn…còn chạm vào thi thể nữa! Nghe nói vận rủi sẽ đeo đẳng ba năm kia! Việc làm ăn của tiểu nhân phải làm sao đây, cả đêm qua tiểu nhân lo lắng quá, không sao chợp mắt nổi!”

    “Vậy ông đã gặp phò mã Vi Bảo Hoành của Đồng Xương công chúa bao giờ chưa?” Hoàng Tử Hà cắt ngang tràng kể lể thống thiết của hắn.

    Vừa nghe câu này, Tiền Quan Sách sững người ra, vẻ bi ai đông cứng trên gương mặt phì nộn, nhìn chỉ thấy tức cười.

    “Ông đã nói dối người của Đại Lý Tự, thực ra ông từng gặp phò mã, đúng không?”

    Tiền Quan Sách phát hoảng lên, run rẩy móc trong người hai đĩnh bạc dúi vào tay cô, vật nài: “Công công tha mạng... Tiểu nhân quả thật mới gặp phò mã vài lần, còn... còn chưa bao giờ nói chuyện nữa!”

    “Tổng cộng mấy lần?” Hoàng Tử Hà chẳng buồn chớp mắt, đẩy bạc trả lại.

    “Hai... hai lần thôi, thật mà!”

    “Ông chủ Tiền chắc cũng biết dối gạt người làm việc công, nhất là quan sai của Đại Lý Tự, sẽ bị khép tội gì chứ?”

    “Ba... ba lần! Thật đấy, có một lần đứng trước cửa phủ nhìn thấy phò mã từ đằng xa, tiểu nhân vội... vội chạy biến... Thế nên tiểu nhân chỉ tính hai lần!” Tiền Quan Sách chỉ hận không thể chảy nước mắt nước mũi ròng ròng cho thêm thảm thiết, lại nhét một đĩnh bạc vào tay áo cô.

    Hoàng Tử Hà đẩy đĩnh bạc trả lại, cười nói: “Được rồi ông chủ Tiền, ta biết ông giàu có, ra ngoài mà cũng đem nhiều bạc thế này. Một hoạn quan như ta, làm sao dùng nổi chừng ấy? Ông nên kể lại tường tận mấy lần gặp phò mã cho ta nghe thì hơn.”

    Mặt Tiền Quan Sách nhăn như bị, song không dám trái lời, đành xòe ngón tay đếm lượt: “Ôi chao công công à, tiểu nhân nói thật nhé... Là ba lần, thật đấy, chỉ có ba lần thôi!”

    “Nghe nói tổng cộng hắn gặp ba lần.Lần đầu tiên ở bãi thử ngựa của Tả Kim Ngô Vệ, gia đã kể cho tôi; lần thứ hai là trong phủ công chúa, người của hắn đến tu sửa đường nước, hắn cũng tới đôn đốc, vì cả người bọn hắn nồng nặc mùi bùn đất hôi hám nên phò mã bảo họ không được đến gần công chúa; lần thứ ba ở ngoài phủ công chúa, Tiền Quan Sách thấy xe ngựa phò mã đi đến, vội lánh vào góc đường, không dám lại gần.”

    Lý Thư Bạch nghe xong chỉ hỏi: “Ngươi có tin không?”

    “Đương nhiên tôi không tin, hạng lái buôn luồn cúi như hắn, hễ có cơ hội, sẽ tìm trăm phương ngàn kế tiếp cận phò mã, chứ đời nào lại lánh đi?”

    Lý Thư Bạch cũng chẳng phán xét, lại hỏi: “Hắn giải thích thế nào về việc dối gạt Đại Lý Tự?”

    “Nói là biết phò mã xảy ra chuyện, lại liên quan đến con ngựa hắn bán cho Tả Kim Ngô Vệ, rồi trước đây phò mã từng bình phẩm ngựa của Tiền Ký nên hắn sợ chuốc vạ, đành quả quyết rằng chưa gặp bao giờ.”

    “Nghe ra thì cũng xuôi tai đấy.” Lý Thư Bạch đứng dậy nói: “Sắp đến giờ Ngọ rồi, về phủ thôi. Ngươi bảo nhà bếp bày cơm ở đài Chẩm Lưu nhé.”

    Hoàng Tử Hà lưỡng lự mãi, không dám lên tiếng.

    Lý Thư Bạch liếc cô: “Làm sao?”

    “Chu Tử Tần đã hẹn với tôi... trưa nay đến Tả Kim Ngô Vệ.” Cô đánh liều thưa với y, song trong lòng vẫn lo ngay ngáy, còn thòng thêm một câu: “Tiện thể xem... có manh mối gì về vụ phò mã không.”

    Lý Thư Bạch nheo mắt lại, nhìn cô chăm chú.

    Vầng mặt trời chính ngọ cũng chẳng làm cô đổ mồ hôi, nhưng chỉ một cái liếc mắt cùa y, mồ hôi toàn thân cô đã túa ra, mặt không ngẩng nổi lên.

    May sao chỉ lát sau, Lý Thư Bạch đã ngước mắt nhìn lên trời, lạnh lùng buông một câu: “Thân là hoạn quan trong vương phủ mà cứ đi ăn chực khắp nơi.”

    Cô khóc thầm trong dạ, nhủ bụng, chẳng phải vì... vì gia để tôi nghèo kiết xác ư? Đến nha môn ăn chực cũng phải có cửa đấy!

    “Dạ... nô tài biết tội, nô tài sẽ đi bảo Chu Tử Tần... ”

    “Khỏi cần, kẻo ngươi thân ở doanh Tào lòng lại ở Hán, cứ tưởng cơm Tả Kim Ngô Vệ ngon lắm.” Dứt lời y bỏ cô lại, quay ngoắt người đi thẳng.
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 11 - Gió lay áo lụa
    Hình như… mình không làm sai gì cả!

    Hoàng Tử Hà thấy quá oan ức. Tốt xấu gì cô cũng bớt cho Quỳ vương phủ một bữa cơm, chẳng hiểu sao vị vương gia kia lại sưng sỉa với cô.

    “Sùng Cổ đang nghĩ gì thế?”

    Chu Tử Tần cướp lấy một miếng chân giò gắp cho cô, hớn hở phân tích: “Công công xem miếng thịt này, có nạc có mỡ, chính là chỗ hai tấc phía trên móng, tập trung tinh hoa của cả cái móng đấy! Cũng chỉ nhân tài như ta mới giành được miếng thịt ngon nhất trong các miếng chân giò, giữa bấy nhiêu người như thế thôi!”

    “Đang hè thế này…” Mà lại ăn chân giò, Chu Tử Tần còn tranh cướp gắp cho cô.

    Hoàng Tử Hà đưa mắt nhìn chiếc bàn dài trước mặt, tay nghề của đầu bếp Tả Kim Ngô Vệ thực không tệ, đủ cả gà vịt thịt cá, để chào mừng Trương Hàng Anh gia nhập, hôm nay còn có thêm heo sữa quay.

    “Nhưng nói đi cũng phải nói lại, Trương nhị ca cưỡi ngựa giỏi thật, hôm đầu tiên đã điều khiển ngựa thành thạo như thế, làm quen với con ngựa đó thêm vài bữa nữa, bảo đảm sẽ đứng đầu Tả Kim Ngô Vệ!” Chu Tử Tần thì thào bình phẩm cuộc huấn luyện vừa được xem.

    Hoàng Tử Hà gật đầu, mới ăn được mấy miếng thì cả đám người Tả Kim Ngô Vệ đã xếp hàng lũ lượt đến kính rượu.

    “Dương công công, trận kích cúc hôm đó, huynh đệ chúng tôi đúng là được mở rộng tầm mắt!”

    “Đúng thế, quả là kỹ thuật tuyệt vời! Bội phục bội phục!”

    “Nào nào, Dương công công, tôi kính công công một chén!”

    “Lưu tứ ca, đừng tranh với tôi chứ! Tôi đến trước mà! Dương công công, mời!”

    Nhìn cả đám nam nhân rồng rắn đợi kính rượu mình, Hoàng Tử Hà đang luống cuống thì Vương Uẩn bước đến quở: “Trên sân kích cúc không địch nổi Dương công công nên định gỡ lại trên bàn rượu đấy hả? Dương công công bận bịu cả ngày, đến chiều còn phải đi tra án, nếu các người chuốc công công say, để xem Đại Lý Tự có tìm tới tính sổ hay không!”

    Mọi người nghe nói lại càng kính trọng hơn: “Ô, Dương công công còn biết tra án ư?”

    Chu Tử Tần vỗ vai Hoàng Tử Hà khoe khoang, nom còn tự hào hơn là mình phá được án: “Vụ án Bốn phương chấn động kinh thành đầu năm nay, rồi cả vụ hai tỳ nữ nhà họ Vương Lang Gia mưu hại Quỳ vương phi tháng trước, đều do vị Dương công công này phá đấy.”

    “Ôi chao! Thất kính thất kính rồi!” Cả đám nam nhân chất phác sững ra vì kinh ngạc, ánh mắt nhìn cô càng thêm sùng kính, “Chẳng hay lần này là vụ trọng án nào mà cần công công đích thân ra tay vậy?”

    “Nào nào, vì sự tích anh hùng của công công, chúng ta uống thêm chén nữa.”

    “Cút hết cho ta!” Vương Uẩn cười mắng, xua hết đám Tả Kim Ngô Vệ đi, rồi áy náy nhìn sang Hoàng Tử Hà: “Xin lỗi, người của Tả Kim Ngô Vệ thô lỗ, ta cũng hết cách.”

    “Đâu có, ở đây rất vui.” Cô nhớ tới thời còn ở Thục, đám bộ khoái cộng sự cũng đơn thuần chất phác, mỗi lần ăn cơm đều cười nói ầm ĩ thế này.

    Cô quay sang nhìn về phía Trương Hàng Anh, vốn dĩ là nhân vật chính hôm nay. Gã đang cười, nhưng gương mặt không giấu được vẻ thẫn thờ, ánh mắt nhìn mông lung.

    Hoàng Tử Hà bèn đi đến ngồi cạnh gã: “Thế nào, đồ ăn A Địch nấu vẫn thích hơn phải không?”

    Gã vội lắc đầu: “Đâu có, cơm ở đây ngon lắm…” Rồi như để chứng minh, gã cầm ngay lấy một cái đùi gà ăn ngấu nghiến.

    Hoàng Tử Hà cũng vờ như không biết, bưng bát lên vừa ăn miếng thịt chân giò béo ngậy, vừa da diết nhớ thức ăn ở phủ Quỳ vương.

    Đồ ăn phủ Quỳ thanh đạm, rất hợp mùa hạ.

    Đài Chẩm Lưu cũng rất hợp để hóng mát ngày nóng nực. Cửa sổ bốn bề mở toang, ba mặt là hồ sen bát ngát, chỉ có một mặt nối liền với cây cầu, thông thẳng tới con đường quanh co trồng đầy dương liễu.

    Nước xanh biêng biếc, hương sen ngào ngạt, khiến cả căn phòng mát rượi.

    Lý Thư Bạch ngồi một mình trước bàn, nhìn vị trí đối diện bỏ không, rõ ràng muốn phớt lờ, song càng nhìn càng thấy chướng mắt.

    Y lặng lẽ ra hiệu cho người bên cạnh dọn hết đi, rồi đứng dậy bước lên cầu. Đóa sen đang nở rộ cũng không chống được cái nắng hè, rũ xuống trước mặt y, hương thơm man mác khiến y bất giác chăm chú ngắm nhìn nó hồi lâu không rời mắt.

    Cảnh Dục phía sau nghe thấy y lẩm bẩm: “Lần thứ hai”, còn đương ngẫm nghĩ xem y có ý gì, thì trên bờ đã có người hớt hải chạy đến bẩm báo: “Phủ Đồng Xương công chúa sai người đến mời Dương Sùng Cổ Dương công công.”

    Nghe thấy ba chữ Dương Sùng Cổ, Lý Thư Bạch mới ngoảnh lại hỏi: “Có việc gì?”

    “Bẩm gia, nghe nói phủ công chúa xảy ra chuyện lớn, Đồng Xương công chúa bị hoảng loạn, thái y đang chữa trị, song công chúa lại sai người tới mời Dương Sùng Cổ công công qua trước.”

    Lý Thư Bạch chau mày, men theo cây cầu xăm xăm đi ra, miệng bảo Cảnh Dục: “Chuẩn bị xe.”

    “Dương công công, xe ngựa của vương phủ đang đợi ngoài cửa.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngẩng lên nhìn người gác cổng Tả Kim Ngô Vệ vừa chạy vào thông báo: “Xe ngựa ư?”

    “Vâng. Nói rằng phải đưa công công tới phủ công chúa ngay.”

    Ăn bữa cơm cũng không yên, lương bổng hằng tháng thì trừ gần hết. Thế này có thể gọi là chủ nhân tốt được hay không?

    Hoàng Tử Hà gượng cười, uống một chén từ biệt mọi người ở Tả Kim Ngô Vệ rồi hối hả chạy ra cửa nha môn, quả nhiên xe ngựa phủ Quỳ đã lù lù ở đó.

    Cô vội gõ nhẹ vào cửa xe, xin lỗi rối rít: “Để vương gia đợi lâu, nô tài thực đáng chết.”

    Bên trong im phăng phắc, xem ra Quỳ vương không định màng tới cô.

    Hoàng Tử Hà thở phào, đang định vòng ra trước ngồi trên càng xe cùng bác A Viễn, nào ngờ vừa cử động, bên trong đã vang lên giọng lạnh băng của Lý Thư Bạch: “Ngươi thực đáng chết.”

    Hoàng Tử Hà nhăn nhó cười, cả người cứng lại không dám nhúc nhích.

    “Thân là hoạn quan của vương phủ, được thánh thượng đích thân giao phó vụ án phủ công chúa, giờ sóng trước chưa yên sóng sau đã tới, vừa chết người, mà ngươi lại hớn hở tới đây bù khú tiệc rượu. Ngươi thấy mình không đáng chết ư?”

    Hoàng Tử Hà sởn cả tóc gáy, răm rắp vâng dạ không dám phản bác gì.

    Y nhìn cô qua song cửa. Mặt trời quá ngọ chói chang, rọi lên gương mặt ửng hồng của cô, chẳng khác nào hoa đào nở rộ, diễm lệ kinh người.

    Trước nhan sắc rúng động ấy, Lý Thư Bạch chợt thấy một ngọn lửa lạ lùng bùng lên trong lòng.

    Bên cạnh y, cô luôn bình thản an nhiên, tựa hồ trong lòng chỉ có hận thù và vụ án, thậm chí hơi thở cũng không hề rối loạn, từng cái cất tay nhấc chân đều đúng khuôn đúng phép. Song, khi không ở cạnh y, cô lại linh hoạt vui vẻ, lén y theo đám đàn ông đánh mã cầu, còn chén chú chén anh với chúng… Chẳng cần chứng kiến, y cũng thừa sức tưởng tượng ra cảnh tượng cô tươi cười hớn hở, xưng huynh gọi đệ cùng đám người đó…

    Hoàn toàn quên bẵng bản thân là nữ, vứt bỏ hết những bình thản an nhiên lúc ở cạnh y.

    Ngay cả khoảnh khắc xinh đẹp nhất, cô cũng vĩnh viễn không bộc lộ trước mặt y.

    Ngọn lửa lạ lùng trong nháy mắt đã thiêu cháy lồng ngực Lý Thư Bạch, lúc này đây, quên khuấy bản thân là Quỳ vương lạnh lùng lạnh nhạt, y đứng phắt dậy, đá tung cửa xe, nhìn xuống cô, quát bằng giọng trầm trầm hơi khàn: “Lên đi.”

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn y, bắt gặp gương mặt ngược sáng sa sầm, đôi mắt sắc lẹm như chim ưng, cô bỗng dưng phát hoảng, hơi thở cũng chậm hẳn lại, không dám đáp lời.

    “Mọi người trong kinh đều biết Quỳ vương gia xưa nay lạnh nhạt, mừng giận không lộ ra mặt, sao hôm nay lại nổi giận vì một tiểu hoạn quan?”

    Sau lưng vang lên tiếng cười, tựa hồ không nhận ra không khí căng thẳng giữa hai người, Vương Uẩn tươi cười phe phẩy cây quạt Hoàng Tử Hà trả lần trước, bước tới khom lưng hành lễ: “Hôm nay là ngày đầu tiên bạn của Dương công công gia nhập Tả Kim Ngô Vệ của ty chức. Dương công công trọng tình trọng nghĩa, hơn nữa ở Tả Kim Ngô Vệ cũng có rất nhiều huynh đệ bái phục công công, nên ty chức bạo gan mời công công đến, vương gia không trách tội bọn ty chức đã ép công công uống thêm mấy chén chứ?”

    Thấy Vương Uẩn đã đứng ra, Lý Thư Bạch cũng không tiện làm mất mặt y, chỉ nói: “Chuyện riêng của hắn ta không quản, nhưng hôm nay vụ án hắn phụ trách xảy ra vấn đề, phải lập tức đi giải quyết kẻo lỡ việc.”

    Vương Uẩn cười bảo Hoàng Tử Hà: “Mau đi đi, khi nào phá xong án, các huynh đệ Tả Kim Ngô Vệ sẽ lại mời công công ly rượu mừng công.”

    Lý Thư Bạch liếc Vương Uẩn một cái sắc lẹm rồi ra hiệu cho Hoàng Tử Hà đi lên trước ngồi cùng A Viễn.

    Bấy giờ cô mới dám thở phào, đưa mắt ra ý chào Vương Uẩn rồi chạy lên trước, nhảy lên càng xe.

    Vương Uẩn mỉm cười nhìn theo bóng cô. Chu Tử Tần từ phía sau hớt hải chạy ra hỏi: “Sùng Cổ đến phủ công chúa rồi à? Có phải xảy ra chuyện gì không? Sao không đem tôi theo?”

    “Huynh theo làm gì? Ngày nào cũng lẽo đẽo đi theo Sùng Cổ còn chưa chán hay sao.” Y buông một câu rồi quay người đi vào.

    Chu Tử Tần cứng họng: “Đi theo Sùng Cổ có gì không tốt? Theo Sùng Cổ ắt là có án mạng, có thi thể, tài nguyên dồi dào như thế, không theo Sùng Cổ thì theo ai?”

    Vương Uẩn ngán ngẩm nhìn trời: “Đi đi.”

    Giờ Mùi một khắc.

    Người phủ Đồng Xương công chúa răm rắp đứng bên ngoài đợi lệnh, nhưng không một ai dám tiến vào, cả đám người đông như kiến mà không phát ra một tiếng động.

    Lý Thư Bạch dẫn theo Hoàng Tử Hà bước lên đài. Trông thấy y đến, ai nấy thở phào nhẹ nhõm, nhất loạt hành lễ bái kiến y.

    Thấy Thùy Châu đứng đầu đám người, vẻ mặt hoảng loạn, cặp mắt cứ đảo qua đảo lại, Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Công chúa thế nào rồi?”

    Thùy Châu vội cúi đầu đáp: “Cây trâm Cửu loan của công chúa… không thấy đâu nữa.”

    Không thấy đâu nữa. Giấc mộng của Đồng Xương công chúa cuối cùng thành sự thực, cây trâm nàng trân quý nhất đã biến mất.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày, thấy Lý Thư Bạch đã bước vào gác, vội gật đầu với Thùy Châu rồi chạy theo.

    Rèm trúc tương phi bện chỉ vàng buông rủ, bên trong gác hơi tối. Giữa căn phòng tranh tối tranh sáng, họ trông thấy Đồng Xương công chúa ngả người trên sập, Quách thục phi ngồi cạnh phe phẩy quạt cho nàng.

    Đồng Xương công chúa vận một chiếc áo lụa trắng, mái tóc huyền buông xõa như một tấm lụa đen trải dài trên sập, trắng thật trắng, đen rất đen, bệnh tình khiến gương mặt công chúa càng toát lên vẻ mong manh quật cường, nhìn còn động lòng hơn lần trước.


    Song nhìn kẻ ngồi trước mặt nàng, Hoàng Tử Hà bỗng thấy lồng ngực mình thắt lại, sực hiểu ra vì sao công chúa lại kiều mỵ đến thế.

    Vũ Tuyên.

    Ánh sáng bên trong chỉ lờ mờ, song không che giấu được vẻ thanh khiết của hắn. Vũ Tuyên ngồi ngay ngắn trước mặt Đồng Xương công chúa, dáng thẳng tắp mà ung dung. Phong thái hoàn mỹ, dung mạo thanh tú, toát lên một thứ hào quang nhàn nhạt lành lạnh, chẳng khác ánh trăng hạ huyền.

    Hắn đang giảng Lễ ký cho Đồng Xương công chúa nghe: “Xưa kia Thuấn chế ngũ huyền cầm để ca bài Nam phong, bấy giờ đàn có năm âm Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ, năm dây lần lượt tượng trưng cho vua, quan, dân, sự, vật, về sau Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương mỗi người thêm vào một dây, thành thất huyền cầm…”

    Giọng hắn thanh thanh mà ôn hòa, như ngọc vỡ gõ vào băng mỏng, giữa ngày hè nóng nực thế này, tựa hồ có thể xua tan cái nóng. Không chỉ Đồng Xương công chúa, mà cả Quách thục phi cũng buông quạt xuống, chăm chú lắng nghe.

    Lý Thư Bạch đứng trước cửa quan sát Vũ Tuyên. Hồi lâu, y lại quay sang nhìn Hoàng Tử Hà. Thấy cô điềm nhiên đứng cúi đầu, không tỏ vẻ gì, y mới yên lòng, bèn đằng hắng một tiếng.

    Đồng Xương công chúa thấy y liền ngồi thẳng dậy, cúi đầu hành lễ: “Tứ hoàng thúc.”

    Vũ Tuyên đứng dậy tránh sang một bên, không nói không rằng.

    “Công chúa không được khỏe, cần gì đa lễ.” Lý Thư Bạch bảo Đồng Xương. Quách thục phi cũng đỡ vai con gái, nói: “Phiền Quỳ vương đích thân tới thăm thế này, Đồng Xương thật là may mắn.”

    Song Đồng Xương công chúa chỉ nhìn Hoàng Tử Hà: “Dương công công, cây trâm Cửu loan của ta mất rồi! Ngươi… ngươi bảo phải làm sao đây?”

    Rõ ràng nàng còn chưa nguôi kinh sợ, cứ ôm ngực thở dốc, ánh mắt đầy vẻ hoảng loạn.

    Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Chẳng hay trâm Cửu loan làm sao mà mất? Công chúa điện hạ có thể kể lại thật kỹ cho nô tài nghe chăng?”

    Quách thục phi dù sao cũng là phi tần, không tiện ở cùng phòng với vương gia, đành thở dài ra hiệu cho Vũ Tuyên lui xuống. Vũ Tuyên im lặng gập sách lại, theo Quách thục phi ra ngoài.

    Lý Thư Bạch ngồi xuống bên cạnh, tiện tay lật cuốn Chu Lễ đặt trên tủ đầu giường ra xem, thờ ơ nghe Đồng Xương công chúa thuật chuyện.

    Cạnh cuốn Chu Lễ còn đặt một con chó nhỏ bằng sứ cao hai tấc. Vật dụng trong phủ công chúa hết thảy đều đẹp đẽ trau chuốt, song con chó này lại khác hẳn những món vàng bạc châu báu kia, ước chừng chỉ bằng nửa bàn tay, trông rất đáng yêu, rõ ràng là đồ mua ngoài phố, nhưng nhìn rất tinh xảo.

    Lý Thư Bạch vừa ngắm nghía con chó, vừa lắng nghe Đồng Xương công chúa kể: “Mấy hôm trước ta mơ thấy giấc mơ đó, hôm qua công công lại nói sẽ lưu ý tới vụ này, nên sau khi công công ra về, ta đã giao trâm Cửu loan cho đám thị nữ, dặn chúng giữ gìn cẩn thận…”

    Mới nói được mấy câu, tim Đồng Xương công chúa đã đập dồn, thở không ra hơi, nàng ngả người trên sập thở dốc, ôm ngực không thốt nổi nên lời.

    Hoàng Tử Hà vội vỗ lưng cho nàng, rồi quay ra gọi to: “Người đâu!”

    Có tiếng chân dồn dập, rồi Thùy Châu và Lạc Bội cùng mấy ả thị tỳ hầu hạ bên Đồng Xương hớt hải chạy vào, dìu đỡ để công chúa xuôi khí. Thùy Châu móc chiếc lọ nhỏ trong áo, đổ một viên thuốc ra cho công chúa uống, rồi luôn tay vuốt lưng cho nàng, đợi Đồng Xương xuôi xuôi mới dám thở phào nhẹ nhõm.

    Trán Thùy Châu lấm tấm mồ hôi, song ả chẳng buồn lau mà đứng ngay dậy chạy đi rót trà bưng đến. Thấy Hoàng Tử Hà quan sát Thùy Châu, Đồng Xương công chúa yếu ớt trỏ ả nói khẽ: “Công công xem, Ngụy Hỷ Mẫn chết rồi, bấy nhiêu người quanh ta, chỉ được mình ả chu đáo nhất… Tiếc rằng sắp gả đi rồi, về sau ai mà được như thế nữa.”

    Thùy Châu nghe vậy vội quỳ xuống thưa: “Chỉ cần công chúa nói một câu, Thùy Châu nguyện hầu hạ công chúa đến già, không bao giờ lìa xa.”

    “Thôi đi, đến ta còn chẳng biết mình sống được tới ngày nào nữa là.” Nói đoạn, nàng quay lại nhìn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà, cười buồn bã: “Tứ thúc, đành để Lạc Bội dẫn hai người đi xem xét vậy, con mệt quá.”

    “Công chúa cứ nghỉ ngơi đi, bệnh này đã mắc từ bé, kỵ nhất là nghĩ ngợi nhiều đấy.” Lý Thư Bạch đáp.

    Thùy Châu quỳ trước giường công chúa, rút chìa khóa từ hộc tủ đầu giường giao cho Lạc Bội, rồi lê bằng đầu gối đến gần, lấy khăn lau mồ hôi cho công chúa.

    Hoàng Tử Hà theo Lạc Bội bước ra rồi hỏi: “Trâm Cửu loan mất ở đâu?”

    “Thưa, ở ngay trong kho.” Lạc Bội đáp, đoạn dẫn họ sang một gian nhà ngang ngay cạnh đấy, cửa khóa chặt. Trước cửa có hai hoạn quan đứng canh, thấy Lạc Bội đi đến bèn mở cửa để họ vào.

    Đang mùa hè mà cửa sổ trong phòng đóng chặt, chẳng có ngọn gió nào, khiến gian phòng nóng hầm hập. Bên trong bày từng dãy giá đặt đủ thứ hòm xiểng rương tráp, hẳn là kho chứa đồ của công chúa.

    Lạc Bội đi đến trước cái giá kê trong góc, ngồi xuống kéo một chiếc rương ở ngăn dưới cùng ra, rồi dùng chiếc chìa vừa được giao mở khóa.

    Bên trong chỉ có một cái tráp vuông, mỗi bề chừng một thước, Lạc Bội bưng nó lên, mở ra.

    Đáy tráp lót nhung tím, nhưng trên đó không có gì cả.

    “Mấy hôm trước công chúa mơ dữ, nên càng chú trọng giữ trâm Cửu loan. Sau khi cho Dương công công xem, công chúa đích thân cất vào tráp này, rồi lại chứng kiến chúng nô tỳ đặt tráp vào rương, khóa lại, bỏ chìa khóa vào hộc tủ đầu giường, sau đó sai chúng nô tỳ khiêng rương vào kho.” Nhắc đến chuyện này, Lạc Bội vẫn vừa sợ hãi vừa lo lắng: “Rõ ràng đã cẩn thận hết mực, chiếc rương này cũng do bốn người, nô tỳ, Thùy Châu, Trụy Ngọc, Khuynh Bích cùng khiêng, cảm thấy góc dưới cùng này là ổn nhất, bèn đặt nó vào đó. Cất đặt xong xuôi, bọn nô tỳ cùng lui ra, kết quả sáng nay công chúa thấy thấp thỏm không yên, bèn lấy chìa khóa ra giao cho chúng nô tỳ, sai đem cây trâm Cửu loan đến. Nô tỳ cùng bọn Thùy Châu Trụy Ngọc đến đây, Thùy Châu mở rương lấy tráp ra xem, tức thì la lên kinh hãi, thì ra bên trong đã trống không!”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nghe kể đều trầm ngâm suy nghĩ.

    “Các thị vệ tức thì ùa đến, bọn nô tỳ cùng mọi người ở gác Thê Vân đều bị soát người, sau đó họ còn lục soát trong nhà ngang, trong gác và chỗ ở của tất cả người trong phủ, nhưng chẳng thấy cây trâm đâu, cứ như… đã bị Phan thục phi… lấy đi vậy…” Lạc Bội sợ hãi ra mặt, “Chuyện này chẳng phải quá kỳ quái ư? Trâm Cửu loan nào có bé nhỏ gì, một cây trâm to như thế, lại cách một lớp tráp, một lớp rương, ai có thể âm thầm lấy đi được chứ?”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, đều đọc được suy nghĩ tương tự trong mắt người kia – chuyện lần này rất giống lá bùa quỷ dị đó.

    Chính là lá bùa từ Từ Châu, cũng được cất trong hai lần khóa kỹ.

    Lẽ nào trên đời thực sự có cách lấy được đồ vật từ xa, qua mấy lớp rương hòm ư?

    Lạc Bội không để ý ánh mắt hai người, sợ hãi kể tiếp: “Công chúa vừa được tin thì ngã bệnh. Vương gia cũng biết đấy, công chúa từ nhỏ đã không chịu được kinh hãi, không được quá mừng quá giận, bằng không sẽ lên cơn đau tim. Lần trước Ngụy Hỷ Mẫn chết, công chúa đã khó ở, lại thêm phò mã bị thương, công chúa được một phen hoảng sợ, tối qua còn… còn nghe được…”

    Nói đến đây, Lạc Bội mới sực nhớ không nên để lộ chuyện này ra ngoài.

    Thấy ả bắt đầu ấp úng, Hoàng Tử Hà liền hỏi thẳng: “Tối qua ư? Ý ngươi là chuyện Tôn ghẻ chết hả? Việc đó chúng ta biết cả rồi, ngươi khỏi cần giấu giếm.”

    “Vâng… Chính là tin báo Tôn ghẻ đã chết… Hơn nữa, người ngoài phố đều nói, hắn ta bị oan hồn Tích Thúy hại chết.” Lạc Bội nơm nớp kể, “Nô tỳ cũng không biết tại sao, hôm ấy công chúa vừa trông thấy Tích Thúy thì sinh bệnh… Cô ta, ai bảo cô ta không tránh mặt ngay, để công chúa nổi giận, nói cô ta xúi quẩy rồi sai chúng nô tỳ đánh cho một trận đuổi đi, không cho bước chân vào phủ nữa…”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Cô ta đụng phải công chúa đúng không?”

    “Đâu có, bấy giờ chúng nô tỳ đều ở đó, cô ta tham kiến công chúa, song công chúa vừa thấy cô ta thì đột ngột lên cơn đau tim, phải dựa vào người Thùy Châu.” Lạc Bội hồi tưởng lại tình hình khi ấy, cũng không giấu được vẻ cảm thương, “Công chúa chỉ sai người đánh đuổi cô ta đi, nào ngờ Ngụy Hỷ Mẫn lại làm ra chuyện như thế…”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày. Vi phò mã lại kể rằng, vì Tích Thúy giẫm phải gấu váy công chúa, nên công chúa nổi giận…

    Rốt cuộc lời của ai đáng tin hơn?

    Lạc Bội vẫn thao thao kể: “Thực ra chuyện của cô ta chẳng liên quan gì tới công chúa… Nhưng dù sao hai người có liên quan đến cô ả đều chết không rõ nguyên nhân, còn bị đồn đại là trời phạt, có người nói là oan hồn cô ta đòi mạng… Nô tỳ nghĩ, có lẽ công chúa cũng lo lắng không yên, lại thêm cây trâm Cửu loan biến mất, khiến công chúa hoảng loạn, tái phát bệnh cũ. Mà lần này bệnh đến như núi đổ, thục phi đã dẫn tới mấy vị thái y trong cung song vẫn chẳng thấy khá lên, giờ bọn người dưới trong phủ đang vô cùng lo sợ…”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Đã điều tra những kẻ ra vào nhà kho hôm qua chưa?”

    “Hôm qua sau khi đưa trâm Cửu loan vào đó thì không ai ra vào nữa.”

    “Thế đã tra xét hai hoạn quan canh cửa chưa?”

    “Thưa rồi, họ bị khám người và soát phòng trước nhất, nhưng chẳng thu gì hết. Tuy nói chúng có thể thông đồng với nhau để ăn trộm, nhưng gần đây công chúa lo lắng đến mất ngủ, đã phái thêm người trông giữ, hai tên hoạn quan canh nhà ngang đó lúc nào cũng ở trong tầm mắt của các thị vệ, hoạn quan và thị nữ, quả không có cơ hội lẻn vào.”

    Hoàng Tử Hà thoáng trầm tư, rồi ngồi xuống quan sát chiếc rương.

    Đó là một chiếc rương bằng gỗ nhãn thông thường, ngoài quét sơn đỏ, trên vẽ hoa văn cát tường bằng sơn đen. Bên trong là gỗ nguyên khối, cô gõ khắp các ngóc ngách nhưng chẳng thấy có gì khác lạ.


    Sau đó cô lại cầm đến cái tráp, mở ra xem xét một lượt. Tráp làm bằng gỗ đàn hương, điêu khắc tinh xảo, chạm hoa cỏ bốn mùa, thoạt nhìn đã biết vật cất bên trong không phải tầm thường. Xem kỹ khắp trong ngoài, cô cũng chẳng thấy có gì lạ.

    “Chìa khóa thì sao? Công chúa luôn đem theo bên mình ư?”

    “Thưa vâng, lúc nào cũng đặt trong hộc tủ đầu giường công chúa. Công chúa mấy hôm nay ngủ không yên giấc nên chúng nô tỳ phải chầu chực bên ngoài điện hầu hạ, từ nửa đêm đến gần sáng luôn có mấy người trông nom. Nếu có người ra vào phòng công chúa, nhất định phải ngang qua chỗ bọn nô tỳ.”

    “Ngoài cửa sổ thì sao?” Hoàng Tử Hà lại hỏi.

    “Công công xem, gác Thê Vân ở trên đài cao, cửa sổ phòng công chúa và nhà kho đều cao đến mấy trượng, ai có thể bò lên đài cao, trèo qua cửa sổ vào ăn cắp chứ?”

    Hoàng Tử Hà nghe nói liền đi đến bên cửa sổ, mở cửa nhìn ra.

    Đứng trên đài cao chọc trời, cả phủ công chúa đều thu vào tầm mắt, thậm chí còn có thể trông thấy nửa phường Vĩnh Gia đằng xa. Bên dưới là biển hoa hợp hoan màu hồng phấn, chỗ đậm chỗ nhạt, tầng tầng lớp lớp trải dài dập dờn như sóng, còn gác Thê Vân chẳng khác nào ngọn núi tiên nổi lên giữa những đợt sóng hồng, cao vút chạm mây, nguy nga lộng lẫy.

    Lối vào duy nhất là những bậc thềm quanh co bên ngoài, đi lên thân đài cao theo hình chữ chi.

    Lý Thư Bạch hỏi: “Đồng Xương yếu ớt từ bé, sao lại ở trên đài cao thế này? Đi lên chẳng phải mệt lắm ư?”

    “Bẩm gia, công chúa sợ nóng, lại sợ cả lạnh, ở đây mùa hè gió to, mùa đông thì lúc nào cũng có ánh nắng, hơn nữa lại cách xa mặt đất, đỡ bị ẩm ướt, thái y cho rằng có lợi cho thể trạng công chúa. Nếu công chúa mệt thì có thể ngồi kiệu lên mà.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, ra ý bảo Lạc Bội cất đặt mọi thứ lại như cũ rồi cả ba bước ra ngoài.

    Lý Thư Bạch đứng trên khoảnh sân trống trước gác Thê Vân nhìn xuống dưới, còn Hoàng Tử Hà vào thăm Đồng Xương công chúa. Nào ngờ đi vào chỉ thấy nàng đã ngủ trên giường.

    Màn lụa dày buông rủ, treo cả nút thắt như ý tết bằng chỉ vàng tơ bạc, bốn miếng chặn chiếu(*) bằng ngọc hòa điền chạm hình Phi Thiên nhạc kỹ(**) đặt ở bốn góc chiếu ngà.

    (*) Thời cổ dùng miếng chặn chiếu để chèn mép chiếu khỏi quăn, đồng thời cũng có tác dụng trừ tà.

    (**) Phi Thiên nhạc kỹ là hợp thể của nhạc thần Càn Thát Bà và ca thần Khẩn Na La, hai trong tám loài “phi nhân” (không phải người) trong Phật giáo, được gọi chung là Thiên Long bát bộ. Tám loài phi nhân đó là: Thiên thần, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Tám loài này do Thiên thần và Rồng đứng đầu nên gọi là “Thiên Long bát bộ”.

    Giữa cung vàng điện ngọc cẩm tú phồn hoa ấy, lại là một nữ tử đang cuộn tròn người thiêm thiếp, sắc mặt tái nhợt, hơi thở yếu ớt.

    Thùy Châu đứng dậy hành lễ với Hoàng Tử Hà, dẫn cô ra gian ngoài rồi nói nhỏ: “Đêm qua công chúa mất ngủ nên hôm nay rất mệt. Trước lúc ngủ công chúa còn căn dặn, công công cứ thoải mái tra xét trong phủ, nhất định phải tìm cho được cây trâm…”

    Nói đến đây, Thùy Châu cụp mắt xuống, rơm rớm: “Công chúa cả nghĩ quá, dù trâm Cửu loan là bảo vật hiếm thấy, thì cũng chỉ là một cây trâm mà thôi. Song chúng nô tỳ khuyên nhủ thế nào, công chúa cũng khăng khăng cho rằng cây trâm ấy có liên quan đến sự vui buồn của mình, còn nói Phan thục phi đã lấy trâm đi, chắc… chắc mình cũng sắp bị bà ta đưa đi…”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Ta biết rồi. Mấy ngày này các vị phải để ý cẩn thận, dẫu sao…”

    Dẫu sao, cô vẫn nhớ những hình vẽ trong bức họa ở nhà Trương Hàng Anh, trừ hai hình đã ứng nghiệm, chỉ còn lại hình thứ ba.

    Hoàng đế rất sủng ái Đồng Xương công chúa, nếu nàng trở thành nạn nhân bị chim loan bổ xuống mổ chết như hình vẽ cuối cùng, e rằng cả Trường An sẽ dậy sóng, khó mà dẹp yên được.

    Thùy Châu quay trở vào trông nom công chúa, còn Hoàng Tử Hà đi đến bên cạnh Lý Thư Bạch, phát hiện y đang nhìn chằm chằm vào rừng hợp hoan.

    Cô chưa kịp lên tiếng thì Lý Thư Bạch đã quay lưng đi xuống.

    Hoàng Tử Hà liếc mắt trông theo, chỉ thấy Vũ Tuyên đứng bất động dưới tán hợp hoan, tay nắm một thứ gì đó. Có điều khoảng cách quá xa nên cô không trông rõ nét mặt hắn, cũng không thấy được thứ hắn cầm trong tay.

    Thấy Lý Thư Bạch đã bước xuống cầu thang, Hoàng Tử Hà vội ép mình quay đầu lại, theo y xuống khỏi gác Thê Vân.

    Hai người theo các bậc thang đi xuống, thỉnh thoảng ở chỗ ngoặt, cô nhác thấy gương mặt nhìn nghiêng của Lý Thư Bạch, nghiêm nghị mà đăm chiêu.

    Đương không biết thái độ này do đâu mà có, lại ngập ngừng không dám hỏi thì Lý Thư Bạch đột ngột lên tiếng: “Xem ra không có cách nào đột nhập vào kho trộm đồ, rồi mở được rương lẫn tráp, cuỗm món đồ kia đi nguyên vẹn nhỉ?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nhất định có cách, chỉ là chúng ta chưa biết đấy thôi.”

    “Cách đó có lẽ cũng hữu dụng với lá bùa của ta?” Lý Thư Bạch nói đoạn dừng bước, quay đầu nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu: “Có hữu dụng không thì chưa biết, song tôi tin rằng, bất luận lá bùa của vương gia, kẻ gặp báo ứng bị trời giáng sấm sét thiêu chết, hay kẻ chết trong căn phòng như lồng sắt, thì mỗi câu chuyện kỳ quái đều có mánh khóe riêng của nó, chỉ là chúng ta chưa biết mà thôi.”

    Ánh mắt y nhìn xoáy vào cô, gió lồng lộng lướt qua người họ. Quan sát cô hồi lâu, y mới nhận xét: “Vụ này ngươi phản ứng hơi lạ.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nhìn Lý Thư Bạch, không hiểu y ám chỉ cái gì.

    “Ví như cây trâm Cửu loan của Đồng Xương công chúa bị mất cắp, vậy mà hình như ngươi chỉ chăm chắm lo cho an nguy của công chúa, việc gì khiến ngươi cảm thấy linh cảm của Đồng Xương là đúng, cây trâm ấy sẽ liên quan tới tính mạng công chúa hả?”

    Thấy y chỉ hỏi tới việc này, Hoàng Tử Hà thầm thở phào nhẹ nhõm, vội đáp: “Chuyện này nô tài đang định hỏi ý gia xem có cần tới bái phỏng Ngạc vương không?”

    Lý Thư Bạch nhướng mày: “Liên quan gì đến Ngạc vương?”

    “Lần trước sau trận kích cúc, chính là bận Vi phò mã bị thương ấy, Chiêu vương đột nhiên đòi ăn bánh cổ lâu, nên mọi người kéo cả đến nhà Trương Hàng Anh, trông thấy giữa nhà huynh ấy treo một bức họa, nghe nói là năm xưa phụ thân Trương Hàng Anh vào cung chẩn mạch cho tiên hoàng, được ngự ban. Bấy giờ Ngạc vương vừa nhác thấy bức họa, vẻ mặt liền trở nên rất khó hiểu.”

    Lý Thư Bạch thoáng trầm tư, lại hỏi: “Bức tranh đó thì liên quan gì đến vụ án này?”

    “Trên bức họa nghe nói là ngự bút đó, tổng cộng có ba hình vẽ phân bố không đều, hình thứ nhất là một nam nhân bị sét đánh chết cháy; hình thứ hai là một người chết trong lồng sắt; còn hình thứ ba, là một người bị con chim lớn trên trời lao xuống mổ chết.”

    Lý Thư Bạch nhíu mày: “Bởi vậy, căn cứ vào cái chết của hai người trước đây, ngươi cho rằng, Đồng Xương công chúa có thể sẽ là… người thứ ba?”

    “Thưa vâng. Bấy giờ nô tài có xem nhưng không để ý, song giờ nghĩ lại, có lẽ bức họa ấy liên quan mật thiết tới vụ án này.”

    Lý Thư Bạch quay người tiếp tục đi xuống, miệng hỏi: “Bức họa đó là ngự bút thực ư?”

    “Không biết. Song xem chất liệu thì là giấy gai vàng ở Thục, mịn mà bền, nhìn bề ngoài quả là thượng phẩm, song nô tài ít tiếp xúc với đồ vật trong cung nên không dám khẳng định.”

    “Trong cung thường dùng giấy gai vàng của Thục để viết chữ, còn như vẽ tranh thì tiên hoàng lại ưa giấy Tuyên hoặc gai trắng hơn, sao lại dùng giấy gai vàng nhỉ?”

    “Hơn nữa bức họa lại rất nguệch ngoạc, trông cứ như ba mảng mực đen, ai mà biết được là do ai vẽ? Huống hồ hình như người vẽ cũng tiện tay nguệch chơi mà thôi, cái gọi là ba kiểu chết, đều do mấy người bọn tôi tưởng tượng và phỏng đoán ra cả.”

    “Ngươi đi làm việc của mình đi, ta qua chỗ phò mã, tiện thể bảo người Đại Lý Tự đi lấy bức họa ấy về, xem có phải ngự bút của phụ hoàng không.”

    Đoạn Lý Thư Bạch xoay người toan đi. Chợt nghe thấy tiếng hoàng oanh ríu rít bên tai, véo von êm dịu như châu như ngọc, y hơi ngẩng đầu nhìn lên cành cây, bắt gặp hai con hoàng oanh đang hướng về phía nhau mà hót, thỉnh thoảng còn cọ cọ cánh vào nhau. Những đóa hợp hoan rung rinh đầu cành cũng lả tả rơi xuống như nhung như lụa, vô cùng diễm lệ.

    Ánh mắt y dõi theo hoa rơi, dừng ở mặt cô. Một cánh hoa vương vào mai tóc cô, sắc hồng tươi tắn càng tôn lên gương mặt nõn nà, nhan sắc sinh động, khiến ánh mắt y bất giác sững lại.

    Thấy cô giơ tay gỡ đóa hợp hoan ra, vẻ đầy tâm sự, y liền hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm: “Ba vụ án này đều có liên quan hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới phủ công chúa. Giờ đây hai người đã tử vong, phò mã lại bị thương, nhưng cho đến giờ, về cơ bản vẫn chưa có manh mối gì… Tôi lo rằng nếu không sớm phá xong vụ này, lỡ như công chúa xảy ra chuyện, e rằng khó mà thu xếp được cục diện…”

    Lý Thư Bạch thản nhiên nói: “Ta biết rồi. Ngươi đừng nôn nóng, nếu không ổn, sẽ có Thôi Thuần Trạm dọn dẹp tàn cục giúp ngươi.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lòng chợt thương cảm cho Thôi thiếu khanh.
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 12 - Hoài sắc túc vi
    Hoàng Tử Hà được Lạc Bội chỉ đường, tới nhà bếp tìm Xương Bồ.

    Xương Bồ lại đang chọn món cho ngày mai, luôn miệng căn dặn mấy bà nấu bếp và chạy vặt: “Công chúa không được khỏe, phải ăn thanh đạm thôi, bớt gà vịt thịt cá đi, nhất định phải có bốn thức bổ máu ích khí, hôm trước đã bảo công chúa thích cẩu kỷ kia mà, sao không thấy các người mua?”

    Đám chạy vặt vâng dạ rối rít, có kẻ rầu rĩ phân trần: “Cẩu kỷ phải đúng mùa mới ngon, giờ quá mùa rồi, trong chốc lát biết tìm đâu ra?”

    Xương Bồ thở dài đập bàn nói: “Ta không biết, công chúa đòi ăn, nếu các người không mua được, sáng mai ta sẽ lột da đầu từng người một.”

    Lạc Bội thập thò bên ngoài gọi với vào: “Xương Bồ cô cô.”

    Xương Bồ quay lại thấy bọn họ, mới xua tay giải tán đám người kia, đoạn đứng dậy miễn cưỡng cười bước ra: “Dương công công, có việc tìm tôi ư?”

    Hoàng Tử Hà bước vào ngồi đối diện với Xương Bồ, nói: “Lần trước tới hỏi han cô cô mấy chuyện, giờ vẫn còn vài điểm nghi vấn, mong cô cô giải thích cho.”

    Xương Bồ sầm mặt: “Vẫn là chuyện Ngụy Hỷ Mẫn đấy ư? Quả thật tôi cãi vã với y đúng một lần, trong phủ cũng không chỉ mình tôi xích mích với y, tháng trước Trụy Ngọc chẳng phải gây gổ một trận ầm ĩ đấy ư…”

    Hoàng Tử Hà cười: “Không không, tôi không định hỏi việc đó.”

    “Vậy… chẳng hay công công muốn hỏi gì?”

    Hoàng Tử Hà nhìn thẳng Xương Bồ: “Xin hỏi, cô cô có thể kể tường tận cho tôi lai lịch chỗ linh lăng hương lần trước hay không?”

    Xương Bồ ngạc nhiên hỏi: “Liên quan gì… đến linh lăng hương?”

    “Chuyện này tôi không tiện tiết lộ, tôi cũng chỉ phụng lệnh Thôi thiếu khanh của Đại Lý Tự đến hỏi cô cô thôi.” Hoàng Tử Hà đường hoàng đáp.

    Xương Bồ cúi đầu: “Là… là một người ngoài phủ cho tôi.”

    “Không biết người ấy là ai?” Hoàng Tử Hà gặng.

    Xương Bồ cắn môi, xong vẫn đáp: “Là ông chủ tiệm ngựa Tiền Ký, Tiền Quan Sách.”

    Hoàng Tử Hà không ngờ ông chủ Tiền Quan Sách lùn mập kia lại có liên quan tới một người nấu bếp trong phủ công chúa, tức thì nhíu mày lại.

    Ngụy Hỷ Mẫn đòi linh lăng hương, dẫn đến cãi vã với Xương Bồ ở nhà bếp; trong phòng Tôn ghẻ, Vương Uẩn ngửi thấy mùi này; mà Tiền Quan Sách là người phá cửa xông vào nhà Tôn ghẻ, đồng thời cũng là kẻ bán con ngựa đen khiến phò mã bị thương…

    Thứ gì nối liền tất cả những chuyện này? Manh mối chưa hiển lộ trong đó, rốt cuộc là gì đây?

    Cô lại hỏi: “Xương Bồ cô cô, thứ cho tôi tọc mạch, cô cô là người cai quản nhà bếp phủ công chúa còn Tiền Quan Sách lại là chủ tiệm ngựa, có vẻ không dính líu gì tới nhau…”

    “Đúng thế… Chúng tôi cũng mới quen đầu năm nay.” Xương Bồ cúi gằm mặt, đầu ngón tay vẽ vẽ lên bàn, vẻ lúng túng, “Bấy giờ ông ta chỉ huy một đám thợ thuyền tu sửa đường nước trong phủ công chúa, vì đường nước trong bếp là nhiều nhất, nên tôi và ông ta thường bàn bạc về phân bổ đường nước, nhờ thế mà quen nhau. Ông ta… béo thì có béo, lùn thì có lùn, nhưng tính tình rất tốt. Trong lúc họ đang sửa chữa, có lần tôi không cẩn thận rơi xuống hố vữa, chính là ông ta cõng tôi ra, còn múc nước gột sạch giày cho tôi rồi đưa trả lại…”

    Nhìn gương mặt ửng hồng của Xương Bồ, Hoàng Tử Hà bất đắc dĩ phải nhắc nhở: “Ông chủ Tiền đã ngần ấy tuổi, hẳn cũng có vợ con rồi.”

    “Đúng thế, trong nhà ông ta có vợ có thiếp, còn có ba đứa con trai.”

    Hoàng Tử Hà chẳng nói thêm gì nữa, chỉ hỏi: “Ông chủ Tiền tặng cô cô linh lăng hương, sau đó theo quy củ trong phủ, cô cô trình lên công chúa, nào ngờ công chúa lại ban cho Ngụy Hỷ Mẫn phải không?”

    “Đúng vậy, kết quả tên Ngụy Hỷ Mẫn đó tham lam vô độ, tôi chỉ có chừng ấy, xong hắn khăng khăng cho rằng tôi vẫn còn một ít, bèn chạy đến đòi. Tôi bảo không có, hắn liền nằng nặc đòi địa chỉ của ông chủ Tiền, nói… nói rằng đòi tình nhân của tôi thì cũng thế!” Kể đến đây, Xương Bồ đỏ mặt tía tai vì tức giận, “Rõ là nói nhăng nói cuội! Người nào không biết lại nghĩ giữa tôi và ông chủ Tiền có chuyện gì xấu xa!”

    “Xương Bồ cô cô bớt nóng, thực ra… tôi cảm thấy suy đoán của Ngụy công công cũng có lý.” Hoàng Tử Hà giải thích, “Linh lăng hương rất quý, ai mà biết ông chủ Tiền lại rộng rãi, đem tặng cô cô thứ quý giá như thế chứ.”

    “Nhảm nhí, tôi giúp ông ta bao nhiêu lần, mạo hiểm…” Nói đến đó, Xương Bồ bỗng ngưng bặt, như vừa nhận ra mình lỡ miệng, xong lời đã thốt ra không thu lại được, đành ủ rũ ngồi im.

    Hoàng Tử Hà nhìn vào mắt Xương Bồ hồi lâu, chẳng nói năng gì.

    Trước cái nhìn chăm chú của cô, Xương Bồ thở dài, bất đắc dĩ đành tiếp tục, “Có lần ông chủ Tiền kể với tôi, trước đây ông ta có một đứa con gái, nếu còn sống đến giờ thì cũng phải mười bảy mười tám rồi. Tiếc rằng năm ấy ông ta dẫn vợ con chạy nạn đến ngoại ô thành Trường An, nghèo khổ túng quẫn quá, chẳng có cách nào, đành bán con gái lớn mới gần bảy tuổi lấy năm quan tiền. Nhờ năm quan ấy cả nhà ông ta mới sống được, ông ta cũng dựa vào bán cỏ khô mà dựng nghiệp, về sau lại gặp quý nhân, ra quan ngoại móc nối với mấy trại ngựa lớn, làm ăn càng ngày càng phát đạt, ba đứa con trai cũng nối nhau trưởng thành, có điều… ông ta nói đời này nợ con gái là nhiều nhất, chỉ e không tìm lại được nó nữa.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu hỏi: “Việc này nên đến bộ Hộ hỏi han mới phải, sao lại tìm cô cô?”

    “Năm xưa người mua con gái ông ta là một công công, nghe nói là người trong cung đi tìm mua cung nữ. Ông ta đoán có lẽ con gái mình không ở trong cung, mà ở trong phủ đệ các vương. Tiếc rằng ông ta chỉ là thương nhân, sao có thể ra vào cung điện hay vương phủ? Còn tôi dẫu gì cũng là người của phủ công chúa, cũng có tiếng nói với mấy thị nữ hầu cận bên công chúa, thỉnh thoảng họ vào cung hoặc tới nhà các vương làm khách, biết đâu lại nghe ngóng được gì đó. Tuy hy vọng mong manh, nhưng dù sao cũng là một con đường.”

    Hoàng Tử Hà cười hỏi: “Cô cô nhiệt tình giúp người, hẳn đã đi nghe ngóng giúp ông ta phải không?”

    Nghe xong, Xương Bồ chợt lộ vẻ ngượng nghịu rất lạ: “Việc này… cũng thực trùng hợp, đứa con gái mà ông ta muốn tìm… lại ở ngay trong phủ công chúa.”

    Hoàng Tử Hà không khỏi ngạc nhiên. Cung nữ thị nữ trong cung, trong phủ công chúa cũng như phủ đệ các vương nhiều như lông trâu, sơ sơ lên đến vạn người, sao lại trùng hợp đến thế, vừa nhờ người của phủ công chúa tìm, thì người lại ở ngay trong phủ, quả là quá mức trùng hợp.

    “Có lẽ đây cũng là do… ông ta thành tâm thành ý, số mệnh đã định, nên mới trùng hợp như vậy.” Xương Bồ giải thích.

    “Vậy con gái ông ta là ai?”

    Vẻ mặt Xương Bồ càng thêm kỳ lạ, đảo mắt hồi lâu mới đáp: “Tôi nghĩ có lẽ là… Thùy Châu.”

    “Thùy Châu ư? Làm sao mà biết được?”

    “Ừm… Thùy Châu năm nay mười bảy tuổi, năm bảy tuổi bị bán vào cung, nghe nói… trong nhà cũng có hai em trai, hơn nữa trên cổ tay còn có… vết bớt giống hệt như ông chủ Tiền miêu tả.”

    “Hai em trai ư?”

    “Đúng vậy, con út của ông chủ Tiền, khi gia đình phát đạt mới chào đời.”

    “Đúng là quá trùng hợp, chắc ông chủ Tiền vui lắm.”

    “Phải phải, việc này quả là trời ban cho, đến tôi cũng mừng thay cho họ. Nhưng xin Dương công công hẵng giữ kín cho, nếu không cần thiết thì đừng tiết lộ với ai cả.” Xương Bồ thở dài, “Dù sao vẫn là tôi lén nhận tiền của người ta, giúp đỡ người khác sau lưng công chúa, theo lệ sẽ bị đuổi ra khỏi phủ đấy.”

    “Cô cô yên tâm, việc này cũng là hành thiện tích đức mà. Chỉ cần không liên quan tới vụ án, tôi sẽ giữ kín như bưng!” Hoàng Tử Hà bảo đảm.

    Bấy giờ Xương Bồ mới gật đầu, xong nét mặt vẫn đầy vẻ ưu tư.

    Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ giây lát rồi hỏi: “Cô cô là người từ nhà phò mã sang ư?”

    Xương Bồ vội gạt đi: “Ôi dào, giờ chúng ta đều là người phủ công chúa rồi, còn phân ra bên này bên kia gì nữa.”

    “Tôi không có ý ấy.” Hoàng Tử Hà cười nói: “Tôi chỉ thấy tên của cô cô thực thanh nhã, lại nghe nói trong phủ còn có Đậu Khấu, Diên Vỹ… nên đoán chắc các vị là chị em.”

    “Đúng đúng, mấy người chúng tôi tuổi tác xấp xỉ nhau, năm xưa phò mã còn nhỏ tuổi, đều làm việc trong nhà phò mã. Tôi được phu nhân xem trọng, cho quản nhà bếp, Diên Vỹ quản việc sinh hoạt, Ngọc Trúc chăm lo sách vở bút mực… Bấy giờ mấy chị em rất thân thiết.”

    “Thế còn Đậu Khấu?”

    Nhắc đến Đậu Khấu, Xương Bồ rầu rầu thở dài: “Đậu Khấu không mấy thân thiết với chúng tôi, cô ấy là người hầu hạ bên cạnh phò mã sớm nhất, năm ấy phò mã ba bốn tuổi, còn cô ấy mười ba, năm nay cũng phải… ba mươi ba rồi.”

    “Giờ Đậu Khấu ở đâu?”

    “Tháng trước, tại vườn Tri Cẩm, Đậu Khấu sẩy chân rơi xuống nước… chết đuối.”

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngay đến lời Thùy Châu từng nói, nghe đồn trong vườn Tri Cẩm có ma. Cô liền hỏi dò: “Nghe nói vườn Tri Cẩm bị công chúa niêm phong rồi ư?”

    “Đúng thế… Nghe nói sau khi Đậu Khấu chết, nửa đêm trong vườn Tri Cẩm thường có người khóc lóc, đạo sĩ làm phép trừ tà cũng vô dụng, nên công chúa cho người khóa lại.”

    “Tiếng khóc của nam hay nữ?” Hoàng Tử Hà hỏi.

    “Tôi không biết nữa, là công chúa nói có tiếng khóc, công chúa đã nói chẳng lẽ lại sai ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Trước đây Đậu Khấu ở đó à?”

    Xương Bồ lắc đầu: “Không, cô ấy ở vườn Túc Vi. Khi phò mã thành hôn, lão gia phu nhân cũng định tìm một nhà tử tế gả Đậu Khấu, xong phò mã khăng khăng nói từ nhỏ được cô ấy hầu hạ đã quen, nhất định đòi đưa cô ấy theo. Về sau, Đậu Khấu cai quản cả vườn Túc Vi, nơi ở của phò mã, tôi ở nhà bếp thì tối mắt tối mũi, Diên Vỹ có nhàn nhã hơn, xong dưới tay còn hơn mười cô thợ thêu, ngày ngày phải coi sóc việc thêu thùa, Ngọc Trúc cũng bận bịu chăm lo thư phòng. Bốn người chúng tôi ai lo việc nấy, thỉnh thoảng chạm mặt nhau chỉ hàn huyên được mấy câu, sau đó chợt nghe tin Đậu Khấu qua đời, tôi rất xót xa, còn tìm bọn Diên Vỹ hỏi han xong họ chẳng biết gì cả. Nhưng người trong phủ lại đồn rằng, có lẽ Đậu Khấu bị ma quỷ trong vườn Tri Cẩm mê hoặc, đưa lối dẫn đường nên mới rơi xuống giếng. Bằng không vườn Túc Vi cách vườn Tri Cẩm khá xa, sao cô ấy lại chết tại đó được?”

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm: “Nói vậy thì… phò mã rất quý mến Đậu Khấu ư?”

    “Phải rồi, Đậu Khấu lớn hơn phò mã mười tuổi, lại chăm lo cho phò mã từ nhỏ, nên phò mã xưa nay rất kính trọng cô ấy. Có lúc phu nhân cũng đùa rằng, Đậu Khấu ở bên phò mã nhiều năm như thế, còn thân thiết hơn cả mẹ ruột là mình.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Ra thế.”

    Thấy cô không hỏi gì thêm nữa, Xương Bồ liền giở sổ sách ra bắt đầu đối chiếu các khoản thu chi.

    Để ý thấy ngón tay gảy bàn phím của Xương Bồ hơi chậm, Hoàng Tử Hà biết Xương Bồ không thoải mái vì có mình ở đây, bèn đứng dậy chào: “Đã vậy tôi phải cáo từ cô cô thôi.”

    “Công công đi thong thả.” Xương Bồ thở phào, còn thuận miệng mời mọc: “Hay là ở lại dùng cơm tối đã, để tôi bảo người chuẩn bị vài món công công thích.”

    “Thôi thôi, Quỳ vương gia đang đợi tôi ở chỗ phò mã.”

    Hoa tử vi trong vườn Túc Vi vẫn đang nở rộ. Dưới ánh nắng chói chang, từng chùm hoa càng rực lên sắc hè.

    Phò mã Vi Bảo Hoành đang kể khổ với Lý Thư Bạch: “Vương gia cũng biết đấy, không phải con không đi săn sóc công chúa, mà là vì con còn ốm đau nhếch nhác, công chúa không triệu con đến, con làm sao đến được. Con nguyện bưng trà rót nước cho công chúa, nhưng công chúa lại thích nghe Vũ học chính ở Quốc Tử Giám giảng Chu Lễ hơn kia!”

    Nói đến đây, thấy hoạn quan dẫn Hoàng Tử Hà đến, hắn cười ngượng ngập, giơ tay gọi cô: “Dương công công.”

    “Tham kiến phò mã.” Cô hành lễ, đoạn đứng ra sau Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạch thản nhiên gạt chủ đề vừa rồi đi, chỉ nói: “Gần đây trong phủ công chúa hình như có rất nhiều chuyện lạ.”

    “Đúng thế… Ngụy Hỷ Mẫn chết, con đánh kích cúc cũng xảy ra chuyện, giờ thì… cây trâm Cửu loan công chúa yêu thích nhất lại biến mất một cách lạ lùng.” Vi Bảo Hoành bóp trán thở dài, “Chẳng biết có phải là trong phủ có thứ gì đó tác oai tác quái như đám đạo sĩ thối kia nói không…”

    Lý Thư Bạch hỏi: “Thứ gì cơ?”

    “Chính là… chuyện ở vườn Tri Cẩm đó.” Hắn quay sang hỏi Hoàng Tử Hà, “Dương công công có phải cũng nghe được lời đồn trong phủ rồi không?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Có phải phò mã muốn nói tới việc Đậu Khấu, tỳ nữ hầu cận bên mình vô cớ chết đuối trong vườn Tri Cẩm không?”

    “Ừm…” Hắn lẳng lặng gật đầu, ánh mắt thoáng vẻ bi ai rất khó thấy, xong đã kịp quay ngay đầu ra ngoài song, nhìn những chùm tử vi nở rộ dưới nắng, giọng vẫn đều đều bình thản: “Từ đó đêm đêm trong vườn Tri Cẩm cứ nghe tiếng ma khóc nỉ non, nên phải đóng cửa vườn, xong dường như cũng từ đó, trong phủ thường xảy ra những việc kỳ quái… Ví như công chúa mơ thấy cây trâm Cửu loan bị mất, kết quả nó thực sự không cánh mà bay, công công bảo, một thứ quý giá nhường ấy, lại được bấy nhiêu người trông giữ nghiêm ngặt, thế mà vẫn biến mất, chẳng phải quái lạ lắm ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, “Quả có thế, nhìn từ góc độ nào cũng rất vô lý.”

    “Bởi vậy… ta cũng nghĩ, chẳng hiểu có phải oan hồn Đậu Khấu tác oai tác quái không…” Vi Bảo Hoành trầm ngâm nói thêm, “Có lẽ chỉ ma quỷ mới có thể lấy cây trâm đi được.”

    “Đậu Khấu hầu hạ phò mã gần hai mươi năm, nếu biết được sau khi chết đi lại bị phò mã coi là ma quái, chẳng phải sẽ đau lòng lắm ư?” Hoàng Tử Hà hỏi thẳng.

    Vi Bảo Hoành ngẩn ra, rồi đáp khẽ: “Có lẽ… nếu cô ấy chết quá oan uổng, quá đau đớn…”

    Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, lặng thinh.

    Lý Thư Bạch lại nói: “Tạm gác mấy chuyện ma quái sang một bên đã, ta muốn hỏi phò mã một việc, giờ Ngọ hôm qua, phò mã ở đâu?”

    Vi Bảo Hoành thoáng sững sờ: “Giờ Ngọ, con đang ở phường Đại Ninh.”

    “Chẳng hay phò mã đến phường Đại Ninh có việc gì?”

    “Trụ trì Ngộ Nhân ở chùa Hưng Đường phường Đại Ninh là bậc đại đức. Gần đây trong phủ xảy ra chuyện, nên con đi mời ông ta tới tụng kinh siêu độ.” Hắn hồi tưởng lại, rồi kể rành rọt, “Sau khi hẹn trụ trì ngày giờ, con đi dạo loanh quanh trong chùa mấy vòng, không biết là đã muộn. Lúc rời chùa mới nghe nói trong phường xảy ra án mạng, con bèn tới xem, thấy Đại Lý Tự đã cử người đến tra xét nên đi thẳng về phủ.”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Chẳng biết lúc loanh quanh trong chùa, phò mã có gặp ai không?”

    Vi Bảo Hoành lắc đầu: “Chẳng phải ngày rằm mồng một nên vắng khách dâng hương, ta đi lòng vòng ở hậu viện một lát, không gặp ai cả.”

    “Sau đó thì sao?” Lý Thư Bạch chậm rãi hỏi, “Trước khi phò mã rời phường Đại Ninh về phủ đó.”

    Vi Bảo Hoành ngạc nhiên nhìn y: “Ý vương gia là…”

    “Hôm qua khi ta từ nha môn trở về, ngang qua phường Đại Ninh, có trông thấy phò mã.” Lý Thư Bạch chẳng buồn giấu giếm, còn ung dung bồi thêm một câu, “Phò mã và Lữ Tích Thúy, đang trò chuyện.”

    Vi Bảo Hoành biến sắc, không ngờ những lời mình nói với Tích Thúy lại lọt vào tai hai người này, mặt hắn hết đỏ lại tái, cuối cùng vẫn phải gật đầu thừa nhận: “Vâng… Trước đây khi chạy vạy dàn xếp vụ này, con từng gặp cô ta một lần.”

    “Xong lời nói cử chỉ của phò mã với cô ta, dường như không giống chỉ gặp một lần.” Giọng Lý Thư Bạch vẫn lạnh nhạt, không chút nể nang.

    Vi Bảo Hoành thở dài, “Vâng… Dù sao cũng là phủ công chúa nợ cô ta, nên con muốn đối tốt với cô ta chút ít.”

    Lý Thư Bạch lạnh lùng nhìn hắn, chẳng nói chẳng rằng.

    “Lẽ nào chỉ vì con có mặt tại phường Đại Ninh, nói vài ba câu với Lữ Tích Thúy mà vương gia cho rằng con có liên quan tới cái chết của Tôn ghẻ?” Vi Bảo Hoành không còn đủ kiên nhẫn nữa, hớt hải biện bạch, “Vương gia nghĩ con phải đơn thương độc mã đến phường Đại Ninh giết một con ma bệnh ghẻ lở khắp người ư? Con chỉ cần dặn một câu thì tên Tôn ghẻ ấy sẽ chết đủ trăm kiểu, vương gia bảo có phải không?”

    Lý Thư Bạch ngả người ra lưng ghế, ngắm Vi Bảo Hoành đang nhảy dựng lên cuống cuồng phân bua, chẳng buồn chớp mắt: “Vi phò mã cả nghĩ rồi, bản vương chỉ định nói rằng dù sao cũng là phò mã của Đồng Xương công chúa, lại hẹn gặp một cô gái trẻ buổi tối, có phần hơi thiếu suy nghĩ.”

    Vi Bảo Hoành ngẩn người, bấy giờ mới ngồi phịch xuống ghế đáp khẽ: “Thưa vâng… con xin nhớ kỹ lời vương gia dạy bảo.”

    Dùng dằng ở phủ công chúa hồi lâu, đã thấy hoàng hôn ngập trời.

    Phò mã đích thân tiễn họ ra khỏi vườn Túc Vi, còn nơm nớp dặn: “Vương gia đi thong thả, con qua xem công chúa có cần gì con không.”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Đi đi, gần đây trong phủ xảy ra nhiều chuyện như vậy, phò mã phải săn sóc công chúa thật kỹ, tốt nhất là đừng để Đồng Xương ra ngoài gặp gỡ người khác.”

    “Vâng.” Vi Bảo Hoành cung kính vâng dạ.

    Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, men theo con đường nhỏ đi đến cửa ngách.

    Phủ Quỳ vương ở phường Vĩnh Gia, cách phủ công chúa không xa, băng qua phường Hưng Ninh là tới. Phủ công chúa nằm ở khu Thập Lục Vương mé Đông Bắc thành Trường An, từ cửa Tây Nam đi ra là thông thẳng tới các phường trong kinh thành.

    Thấy ráng hồng rực rỡ cuối trời như gấm thêu, hai người bất giác đi chậm lại, mặc xe ngựa phủ Quỳ đang đợi, cứ thế tản bộ trong phủ công chúa.

    Ánh tà dương lan khắp phủ đệ xa hoa nổi tiếng nhất kinh thành, nào đài cao gác nhỏ, nào hành lang lầu hoa, đủ màu vàng xanh đỏ tím giao hòa ánh chiếu lẫn nhau, chẳng khác nào bồng lai tiên cảnh, nơi ở của thần tiên.

    Xong những người sống ở đây, dường như ai cũng ôm đầy đau đớn và nuối tiếc, như vậy chẳng phải những đình đài lầu gác mỹ lệ kia đều uổng phí ư?

    Hoàng Tử Hà đang nghĩ ngợi thì nghe giọng Lý Thư Bạch: “Phường Đại Ninh hôm qua quả là huyên náo, đúng như phò mã nói.”

    Thấy y đột ngột nhắc đến chuyện hôm qua, cô vội quay lại nhìn y, khẽ gật đầu.

    “Lúc Tôn ghẻ chết, những kẻ có liên quan đều tập trung ở phường Đại Ninh – từ Trương Hàng Anh, Lữ Tích Thúy, Lữ Chí Nguyên, Tiền Quan Sách, cho đến… Vi phò mã.”

    “Nhất là mỗi người đều có lý do ra tay.”

    “Ừm, nhưng ta nghĩ chắc ngươi cũng nhận ra, từ đầu phò mã đã mập mờ dẫn dắt chúng ta chú ý đến Đậu Khấu, ngươi nghĩ phò mã có dụng ý gì?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Lần đầu đến phủ công chúa, ngay trước mặt tôi và Thôi thiếu khanh, phò mã cũng cố tình nhìn về phía bức tranh đậu khấu cùng bài thơ treo trên tường, dẫn dắt sự chú ý của tôi, giờ lại khéo léo nhắc tới cái chết của Đậu Khấu.”

    “Ta đã sai người đi nghe ngóng, quả thật bên cạnh phò mã có một thị nữ, lớn hơn mười tuổi tên Đậu Khấu.” Lý Thư Bạch nghỉ chân trên con đường nhỏ lát đá xanh vắng ngắt: “Từ nhỏ tới lớn săn sóc phò mã, hơn nữa phò mã còn khăng khăng không để cô ta lấy chồng, khi dọn đến phủ công chúa cũng đem theo. Tháng trước, cô ta chết đuối trong hồ nước ở vườn Tri Cẩm.”

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm gật đầu: “Xương Bồ cũng kể với tôi như vậy.”

    “Còn một việc, có lẽ ngươi không biết.” Lý Thư Bạch phóng mắt nhìn ra trảng cỏ xanh mượt phía trước, lác đác những bông hoa nhỏ mùa hè đang khoe sắc tươi tắn, rồi từng bông từng bông lại héo tàn dưới cái nắng thiêu đốt, chẳng ai đoái hoài, “Nhà Đậu Khấu có đến mười mấy anh chị em, vì anh trai không có tiền cưới vợ, nên năm mười hai tuổi cô ta đã phải bán mình vào nhà họ Vi. Cô ta thông minh ngoan ngoãn, sau một năm thì được để hầu hạ phò mã, bấy giờ mới ba tuổi. Hai mươi năm qua, cô ta từ một con a đầu hạng bét trở thành người quan trọng nhất bên cạnh phò mã, xong chẳng dành dụm được gì cho mình, bởi trên cô ta còn bảy gã anh trai như đỉa hút máu, nhà nào cũng đòi cô ta cung phụng.”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, lại nghe Lý Thư Bạch kể: “Chị gái cả của Đậu Khấu, lớn hơn cô ta hai mươi mấy tuổi, sau khi cô ta vào nhà họ Vi thì chị gái qua đời vì sinh khó, chỉ để lại một đứa con gái, tên là Lữ Tích Thúy.”

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc ngẩng lên: “Vậy bọn họ có liên lạc không?”

    “Có vẻ rất hiếm. Bấy nhiêu năm nay Đậu Khấu vẫn nuôi các anh em, là bởi cô ta cho rằng, anh em trai mới là người nhà, còn chị gái đã gả đi tức là người ngoài rồi. Huống hồ chị em cách nhau chừng ấy tuổi, lúc cô ta ra đời thì bà chị đã gả cho Lữ Chí Nguyên, hai người cũng chẳng mấy khi gặp mặt. Sau khi mẹ Tích Thúy qua đời, mấy ông cậu đều là hạng ăn no lại nằm, còn bụng dạ nào để ý đến đứa cháu côi cút nữa. Những lúc Lữ Chí Nguyên hoặc Lữ Tích Thúy đến phủ công chúa đưa hương đèn, cũng chưa bao giờ chạm mặt Đậu Khấu, người trong phủ chẳng ai biết Đậu Khấu lại có mấy người họ hàng này. Lữ Chí Nguyên bao thầu tất cả đèn nến trong phủ công chúa, cũng không can hệ gì đến Đậu Khấu. Ngươi nghĩ nếu lão già đó biết chuyện, còn không tới tìm Đậu Khấu vòi vĩnh cái này cái khác ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu trầm tư: “Mẹ Tích Thúy và Đậu Khấu là chị em ruột, có lẽ hai dì cháu cũng giống nhau. Hẳn là vì vậy nên khi trông thấy Tích Thúy, công chúa mới bị hoảng loạn, bèn sai người đánh đuổi đi.”

    “Bởi thế, cái chết của Đậu Khấu, ắt có liên quan tới công chúa.”

    “Đúng vậy, lần đầu tiên nhắc tới Đậu Khấu, Thôi thiếu khanh cũng có mặt ở đó, nên phò mã cố ý bịa ra một câu chuyện rất dễ bị lật tẩy, hòng ám chỉ với tôi.” Hoàng Tử Hà nhíu mày.

    Lý Thư Bạch chăm chú nhìn cô, khóe môi cũng nhếch lên thành một nụ cười như có như không: “Quan hệ giữa người với người thực đáng suy ngẫm, phải không nào?”

    Hoàng Tử Hà lặng thinh gật đầu. Cả hai chẳng nói gì thêm, thong dong rời khỏi phủ công chúa. Cửa ngách đã ở trong tầm mắt, bên ngoài là phủ đệ của các vương và quan lại, vườn rộng sân sâu, vắng ngắt như tờ.

    Lúc đến ngã rẽ ngay sát cửa ngách, họ bắt gặp một kẻ đi ngang qua ngoài cửa.

    Vũ Tuyên.

    Cô cứ ngỡ hắn đã ra về từ lâu, ai ngờ đến giờ mới đi, mà lại xuất hiện ngay trước mắt.

    Bước chân cô bất giác khựng lại, tụt sau Lý Thư Bạch.

    Nhưng Vũ Tuyên không hề nhận ra bọn họ. Nét mặt hắn cứ ngẩn ngơ, bước chân chệnh choạng khiến thân hình thanh thoát như cây ngọc cũng giảm bớt phần nào phong tư.

    Lý Thư Bạch quay đầu nhìn cô, thấy cô đang ngỡ ngàng nhìn Vũ Tuyên, vẻ mặt chẳng rõ là kinh ngạc hay xót xa.

    “Ngươi không tò mò ư?” Lý Thư Bạch ngừng một thoáng, rồi tiếp: “Đi nhìn xem hắn cầm gì trong tay.”

    Hoàng Tử Hà vâng dạ, bấy giờ mới định thần lại, ngạc nhiên ngước nhìn y.

    Xong Lý Thư Bạch đã xăm xăm đi về phía cỗ xe đang đợi ở cửa, buông một câu: “Về phủ báo lại.”

    Hoàng Tử Hà đúng ngây ra tại chỗ, hồi lâu đành nhấc chân bám theo Vũ Tuyên.

    Hồi ở Thục, cô cũng từng theo dấu nghi phạm, tuy giờ bước chân có hơi rối loạn, xong Vũ Tuyên đi đằng trước dường như lòng đang ngổn ngang trăm mối, nên chẳng hơi đâu để ý xung quanh.

    Ở góc phố hoàng hôn, trong thời khắc vắng lặng như tờ, hắn cắm cúi đi trên con đường nối giữa hai phường Đại Ninh và Hưng Ninh, còn cô bám theo sau, trông thấy tay hắn cầm một phong thư.

    Phong thư nọ màu đỏ nhạt, thi thoảng ánh tà dương rọi qua phía trên, có thể thấy thấp thoáng hoa văn kim nhũ lấp lánh ở góc, vô cùng mỹ lệ, thoạt trông đã biết là của nữ tử khuê các. Nhưng trên đó viết gì thì Hoàng Tử Hà không sao nhìn được.

    Đến trước chùa Hưng Đường ở phường Đại Ninh, hắn dừng lại bên lò hương, mở phong thư đang cầm ra. Rồi chỉ nhìn lướt qua một lượt, hắn đã mím đôi môi hoàn mỹ, chậm rãi xé tan bức thư, bỏ tất cả vụn giấy vào lò hương, còn đứng chờ cho chúng cháy hết thành tro mới quay người, men theo phường An Hưng, đi thẳng về phía phường Vụ Bản, nơi đặt Quốc Tử Giám.

    Đợi bóng Vũ Tuyên khuất hẳn ở khúc ngoặt, lại thấy trên đường không có ai qua lại, Hoàng Tử Hà mới hộc tốc chạy đến nhìn vào lò hương. Chất giấy viết thư rất dày, lại có hoa văn kim nhũ, dù đã cháy thành tro vẫn khá dày dặn, phất phơ lay động theo luồng khí bốc lên từ lò hương.

    Hoàng Tử Hà bất giác giơ hai tay ra như bắt bướm, chụp lấy mảnh tro to nhất, giữ khư khư giữa hai lòng bàn tay.

    Mảnh tro vẫn còn ấm, xong cô đã cẩn thận kéo ống tay áo lót trước vào lòng bàn tay để tránh bị mồ hôi thấm ẩm, rồi khum khum hai bàn tay lại, giữ lấy bí mật âm ấm này. Cô không dám cử động hai tay, chỉ sợ làm rách mảnh tro tàn, cứ thế chạy thục mạng về phía phường Sùng Nhân.

    Đám canh cửa phủ Chu đã quá quen Hoàng Tử Hà, mời cô vào luôn.

    Chu Tử Tần như thường lệ đang ngồi trong phòng mân mê mấy khúc xương, thấy Hoàng Tử Hà khum khum hai tay xộc vào thì giật nảy mình: “Sùng Cổ, hai tay làm sao thế kia? Bị người ta đóng đinh vào à?”

    Cô rón rén mở hai tay ra, để lộ mảnh tro: “Công tử xử lý hộ tôi với.”

    “… Tro giấy à?” Chu Tử Tần ngạc nhiên, “Ở đâu ra đấy?”

    “Lò hương chùa Hưng Đường.”

    Chu Tử Tần nghiêm mặt lại, ôn tồn bảo cô: “Sùng Cổ, để ta bảo công công chuyện này. Có bệnh thì phải đi khám thầy thuốc chứ, chẳng phải xưa nay công công không tin quỷ thần ư? Mấy chuyện nhảm nhí như là pha tàn hương vào nước uống cho mau lành bệnh, công công nhất định không được làm đâu đấy! Nếu công công làm thế, từ nay đừng hòng ta kính trọng công công!”

    “Đây là một bức thư.” Hoàng Tử Hà ngán ngẩm chìa mảnh tro ra trước mặt gã, “Bên trong có manh mối quan trọng, tôi cần gấp. Nếu công tử có thể làm chữ trên đó hiện ra, tôi sẽ… mời công tử ăn cơm.”

    “Ai thèm ăn cơm nữa.” Chu Tử Tần khinh khỉnh nói, đoạn nhẹ nhàng dùng một tờ giấy len vào giữa tay cô và mảnh tro, rồi khẽ khàng bứng mảnh tro sang mặt giấy.

    “Vậy công tử muốn gì, nói đi.”

    “Từ nay về sau, công công không được bỏ ta lại, tự mình đi tra án như trưa nay nữa.” Chu Tử Tần ra điều kiện.

    Hoàng Tử Hà liền giải thích: “Trưa nay tôi phải tới phủ công chúa, công chúa không truyền gọi, tôi sao có thể dẫn theo người khác?”

    “Hừm, công công không thể nói ta là trợ thủ của Đại Lý Tự phái đi hỗ trợ công công ư?” Chu Tử Tần trừng mắt nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà đành chịu thua: “Được rồi… Nếu không có tình hình gì đặc biệt, từ nay về sau tôi sẽ gọi công tử theo.”

    “Hay quá!” Chu Tử Tần mừng ra mặt, vỗ bộp vào vai Hoàng Tử Hà, “Ta thích đi theo công công nhất đấy! Cứ theo công công là có thi thể!”

    Hoàng Tử Hà đành vờ như không nghe thấy: “Vậy chữ trên mẩu tro kia…”

    “Yên tâm, cứ giao cho ta!”

    Chu Tử Tần múc một chậu nước, nhẹ nhàng đặt tờ giấy có mẩu tro lên mặt nước, rồi hết sức khẽ khàng rút lớp giấy bên dưới đi, chỉ để lại mảnh tro bập bềnh trên mặt nước.

    Gã lại lục lọi trên cái giá cạnh đó hồi lâu, moi ra một chiếc lọ nhỏ, thận trọng rót dung dịch lục nhạt bên trong thành một vòng khép kín quanh mép mảnh tro, không quên giới thiệu: “Đây là ta làm theo lối cổ, dùng mấy trăm cân cải bó xôi nghiền nhỏ lọc lấy nước mới được chừng này, bình thường cũng tiếc của chẳng dám dùng đâu.”

    Dung dịch từ từ loang ra, thấm vào mảnh tro. Dần dần, những nét chữ bắt đầu hiện lên trên nền tro đen, đó là vết mực còn đọng lại trên mẩu tro đang tan biến nhanh chóng, còn nhanh hơn cả tro tàn, nên màu sắc hiện lên cũng nhạt hơn.
    Nét chữ chỉ nháy mắt là biến mất, như thể màu mực trên nét chữ bị tiêu biến trong tích tắc, tuy không rõ lắm, nhưng cũng vẫn đọc ra được.

    Nguyệt… Hoa… Hoang… Chiếu… Duẫn…

    Chu Tử Tần nhìn chằm chằm mấy chữ vừa hiện lên, gắng nhận mặt từng chữ một: “Thế này có nghĩa gì nhỉ?”

    Hoàng Tử Hà cũng thẫn thờ nhìn năm chữ cái đã trắng nhợt ra, sắp mất hẳn, cuối cùng mảnh tro tàn cũng tan vào nước.

    Cô chậm rãi nói khẽ: “Tôi nghĩ, chữ thứ ba là chữ ‘lưu’ bị mất một nửa, chữ thứ năm chắc là ‘quân’ bị mất một nửa…”

    “Nguyệt hoa lưu chiếu quân…” Chu Tử Tần sực hiểu ra, “Là một câu trong bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư!”

    Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,

    Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.(*)

    (*) Nguyên văn: “Thử thì tương vọng bất tương văn, nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.” Ở đây sử dụng bản dịch của Tản Đà.

    Chu Tử Tần ngẩng lên hỏi: “Là thư tình ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi lại lắc đầu. Cô chẳng biết nói sao, thẫn thờ ngồi xuống nhìn dấu tích mảnh tro tàn.

    Dưới sự ăn mòn của dung dịch lục nhạt kia, mảnh tro đã tan thành bụi, dập dềnh loang ra trong nước.

    Mấy con chữ còn sót lại cũng tan biến vĩnh viễn.

    Chu Tử Tần vẫn chưa hết đắc ý: “Tuyệt lắm đúng không? Ta phát hiện ra nước cải bó xôi có thể tẩy sạch vết mực dây vào áo, sau đó lại đọc được trong sách cổ cách làm này. Sau khi nhỏ thứ nước này lên, nét mực trên giấy sẽ bị nước cải bó xôi tẩy sạch màu trước khi mảnh tro kịp tan ra. Tuy chỉ có một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để chúng ta nhận rõ mặt chữ. Ta lợi hại không nào?”

    Hoàng Tử Hà miễn cưỡng gật đầu: “Lợi hại lắm.”

    Thấy cô có vẻ là lạ, Chu Tử Tần vội hỏi: “Sùng Cổ làm sao thế? Sắc mặt công công hình như… rất khó coi.”

    “Tôi… không sao.” Cô đáp khẽ, lại đưa mắt nhìn chậu nước giờ đã biến thành màu xanh sẫm, hít một hơi thật sâu, gắng bình tĩnh lại.

    Thấy Chu Tử Tần vẫn lo lắng nhìn mình, cô vội né tránh ánh mắt gã, quay ra ngoài nhìn sắc trời rồi đứng dậy: “Đa tạ công tử giúp đỡ, tôi… đi đây.”

    “Ăn cơm đã rồi đi, công công chạy tới chạy lui cả ngày, có được lúc nào ngồi yên ổn ăn bữa cơm đâu.”

    “Không có thời gian đâu, vương gia đang đợi tôi về.”

    Lúc về đến phủ Quỳ vương, thân tâm Hoàng Tử Hà đều rời rã.

    Cô gắng xốc lại tinh thần, theo lệ tới báo cáo với Lý Thư Bạch nội dung phong thư.

    Lý Thư Bạch ung dung vừa nghe vừa mân mê nghịch chiếc bình lưu ly. Nước trong bình dập dềnh, làm con cá nhỏ bên trong phải xòe đuôi gắng giữ thăng bằng.

    “Chứng thực được lời đồn đại ngoài phố, đúng không nào?” Lý Thư Bạch nhìn con cá, giọng nói chỉ hơi gợn lên lăn tăn, như làn nước trong bình.

    “Vâng…” Cô đáp khẽ.

    Cuối cùng y cũng đưa mắt nhìn cô, lần đầu tiên ánh mắt lộ vẻ do dự và suy tính, tựa hồ định nói gì đó, nhưng lâu thật lâu, lại dời mắt nhìn đi chỗ khác, như đang an ủi cô, lại cũng như tự nói với mình: “Lời đồn thông thường chỉ phản ánh một phần sự thật, thậm chí còn có thể là tung hỏa mù thôi.”

    Hoàng Tử Hà không hiểu câu này có ý gì, nghĩ ngợi mãi không ra, đành chuyển chủ đề hỏi: “Chẳng biết Đại Lý Tự có lấy được bức họa kia từ nhà Trương Hàng Anh không?”

    “Không.”

    Cô ngạc nhiên ngẩng lên.

    “Lúc Đại Lý Tự đến, Trương Hàng Anh mở tủ ra thì bức họa đã biến mất.”

    “Mất rồi ư?” Nhớ lại cảnh Trương Hàng Anh cuộn bức tranh lại cất đi, cô nhíu mày: “Cha Trương Hàng Anh rất quý bức họa ấy, có việc quan trọng mới treo lên thắp hương vái lạy, còn thường ngày đều cất trong tủ… Sao tự dưng lại mất được?”

    “Người của Đại Lý Tự cho rằng gã cố ý không chịu giao nộp, cản trở điều tra nên đã lục soát cả nhà, xong cũng không tìm thấy. Vốn dĩ có thể gọi là trùng hợp, nhưng hiện giờ xem ra đúng là có vấn đề.”

    Hoàng Tử Hà thoáng thấy bất an, liền hỏi: “Chẳng hay Đại Lý Tự định xử lý thế nào?”

    Biết Hoàng Tử Hà lo cho Trương Hàng Anh, Lý Thư Bạch liếc cô rồi đáp: “Hôm nay Đại Lý Tự đã đến thẳng Tả Kim Ngô Vệ truyền gọi Trương Hàng Anh, ngày đầu tiên đến báo danh đã bị gọi đi, chắc ở Tả Kim Ngô Vệ cũng nhiều lời ra tiếng vào. Hiện giờ Tả Kim Ngô Vệ đã có lệnh, bảo gã tìm cho ra bức tranh ấy rồi hãy đến nha môn. Theo ta thấy, nếu không có cách nào tìm ra cho mau, chắc gã sẽ bị rầy rà đấy.”

    Hoàng Tử Hà thầm thở dài: “Vâng, nô tài sẽ chú ý việc này.”

    Lý Thư Bạch lại cầm một tập giấy cạnh đó lên đưa cho cô: “Đại Lý Tự gửi ngươi cái này, nghe nói là những việc lần trước ngươi nhờ họ tra xét.”

    Hoàng Tử Hà nhận lấy, chưa cần xem cũng biết là chuyện lần trước cô nói với Chu Tử Tần, Trương Hàng Anh biết việc Tích Thúy có liên quan tới phủ công chúa từ khi nào.

    Lúc trước gã nói rằng không biết chuyện đó, cũng không biết Ngụy Hỷ Mẫn.

    Nhưng biên bản điều tra của Đại Lý Tự, giấy trắng mực đen, lại bác bỏ hoàn toàn những lời ấy.

    Hoàng Tử Hà mím chặt môi, gom xấp biên bản lại: “Đã vậy e rằng tôi lại phải đến nhà họ Trương lần nữa rồi.”

    Lý Thư Bạch vẫy tay: “Đi đi, chắc người của Tả Kim Ngô Vệ cũng biết ngươi cả rồi, không cần giấy giới thiệu của ta nữa.”

    “Nếu không được thì còn lệnh bài của vương phủ mà.” Cô gượng cười đứng dậy định đi, nào ngờ bỗng thấy mắt tối sầm lại, ngã ngồi xuống đất.

    Lý Thư Bạch phản ứng rất nhanh, một tay đẩy phăng chiếc bàn trước mặt ra, tay kia đỡ lấy Hoàng Tử Hà để cô khỏi đập đầu vào bàn rồi dìu cô nửa nằm nửa ngồi xuống thảm.

    Đợi cho quầng đen trước mắt tan đi, Hoàng Tử Hà trông thấy Lý Thư Bạch đang đỡ mình, vội cựa quậy định đứng dậy, xong cả người đã bải hoải chẳng còn sức lực gì, đành nói khẽ: “Đa tạ vương gia… Chắc tôi mệt quá đấy thôi, nghỉ ngơi một lát là ổn.”

    Cúi đầu nhìn gương mặt tái nhợt mà vẫn quật cường trong lòng, Lý Thư Bạch chẳng nói nửa lời, bế xốc cô lên đi thẳng vào giường rồi đặt xuống.

    Thấy cặp mắt sâu thăm thẳm của y nãy giờ cứ chăm chú nhìn mình, cô cũng căng thẳng ngượng nghịu, đành nhìn lảng đi, nói nhỏ: “Thật ngại quá… Nô tài thất lễ rồi…”

    “Là lỗi của ta.” Giọng y trầm trầm cắt ngang lời cô.

    Nghe ra vô vàn điều bản thân không sao phân biệt được trong giọng nói của y, Hoàng Tử Hà kinh ngạc ngẩng lên.

    Giọng y trầm thấp mà chậm rãi: “Ta quên mất… ngươi là nữ.”

    Cô ngạc nhiên nhìn y hồi lâu mới đáp khẽ: “Không có gì, ngay cả tôi cũng quên khuấy từ lâu rồi.”

    Nghe vậy y bỗng ngẩn ngơ, cứ đứng đó nhìn cô hồi lâu, bất động.

    Thân hình nhỏ nhắn của cô nằm ngả trên giường trong bộ đồ hoạn quan áo đỏ đai đen. Mấy lọn tóc đen xõa xuống cổ cô, rồi lọt vào cổ áo, nổi bật trên làn da trắng muốt, rất bắt mắt, khiến người ta bất giác phải đưa mắt nhìn xuống, xuôi theo thân hình yểu điệu của cô.

    Một luồng hơi nóng bỗng cuộn lên xốn xang trong lồng ngực. Y hiểu ra ngay, vội quay phắt đi, chẳng nói chẳng rằng trở về chỗ cũ.

    Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng nhìn y, chẳng hiểu vị vương gia xưa nay vẫn ung dung bình thản sao lại hành động thất thường như thế.

    Cô ngả người nghỉ ngơi một lát, cảm thấy cơn choáng váng đã qua, bèn đứng dậy bảo Lý Thư Bạch: “Nô tài xin cáo lui, không dám quấy rầy vương gia nữa.”

    Nhìn bước chân chệnh choạng của cô, y ngập ngừng mãi, tới khi cô ra đến cửa mới buông một câu: “Tối nay đừng đi tìm Trương Hàng Anh nữa.”

    Cô ngạc nghiên ngoái lại.

    “Ngươi liêu xiêu thế kia mà còn cố đi, chỉ sợ sáng mai lại phải cho người ra đường khiêng về.”

    Hoàng Tử Hà phì cười: “Vậy mai nô tài sẽ dậy sớm đi.”

    “Ừm.” Y đứng dậy, cùng cô rời đài Chẩm Lưu.

    Hoàng Tử Hà chẳng hiểu y định đi đâu, đành thong thả bám theo sau.

    Những cành thùy liễu bên bờ cứ rủ xuống vai và tay họ, sen hồng bát ngát nở rộ dưới trăng, y luôn cách cô nửa bước chân, giữ khoảng cách bất cứ lúc nào cũng có thể giơ tay ra đỡ lấy cô.

    Hoàng Tử Hà sực hiểu ra, là y muốn đưa mình về.

    Giữa màn đêm tĩnh mịch, vầng trăng trên cao cũng gần tròn, sáng rỡ.

    Ánh trăng rờ rỡ ấy chảy dài trên người cô, cũng chảy dài trên người y.

    Nhìn người đi trước, cách nửa bước chân, chỉ giơ tay ra là chạm đến, xong trong lòng cô, trong đầu cô, chỉ đau đáu nhớ đến câu thơ nọ.

    Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.

    Cứ thế cô lại thấy căm ghét bản thân đến tột đỉnh, lồng ngực đau thắt, đành siết chặt nắm tay, hít một hơi thật sâu, ép mình gạt những ký ức ấy ra khỏi đầu, từng chút từng chút một, không ngừng tự nhủ: Hoàng Tử Hà, từ bỏ quá khứ đi. Cha mẹ người thân đều chết cả rồi, nếu ngay cả chút việc cuối cùng cũng không thể làm cho họ, thì đáng bị trời tru đất diệt!
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 13 - Một trời một vực
    Người ta thường nói ráng chiều lan ngàn dặm. Tà dương xán lạn hôm trước khiến trời hôm sau quang đãng không một gợn mây, mặt trời vừa lên, cả thành Trường An đã nóng hầm hập.

    Hoàng Tử Hà mặc áo mỏng, bên ngoài khoác chiếc áo đỏ hoạn quan, người đầm đìa mồ hôi, ngồi yên thì không sao, hễ cử động là mô hôi túa ra.

    Xong vụ án phủ công chúa còn chưa kết thúc, cô vẫn phải ra ngoài tra xét.

    Vừa ra đến cổng đã thấy Chu Tử Tần dắt con Tiểu Hà đợi sẵn, tay còn cầm bốn cái bánh hấp nóng hổi.

    Thấy cô, gã bèn đứng phắt dậy, chìa bốn cái bánh bọc trong lá sen ra: “Này Sùng Cổ, mỗi người hai chiếc.”

    “Tôi vừa ăn rồi.” Nhưng sáng ra tất bật, chỉ kịp ăn mỗi miếng bánh ngọt, nên cô vẫn nhận một chiếc bánh, vừa cưỡi ngựa vừa ăn cùng Chu Tử Tần.

    “Ta biết hôm qua công công chỉ hứa cho qua chuyện thế thôi, nếu hôm nay ta không chặn cửa, nhất định công công sẽ đi điều tra một mình.” Chu Tử Tần bĩu môi trách.

    Hoàng Tử Hà vội an ủi gã: “Đâu có, thực ra tôi đang định đi tìm công tử mà.”

    “Thực ư?” Chu Tử Tần tin ngay, “Đúng là huynh đệ tốt, có nghĩa khí lắm! Công công nói xem, hôm nay chuẩn bị đi đâu đây? Liệu có thi thể cho ta trổ tài không?”

    “Tốt nhất đừng có thì hơn.” Hoàng Tử Hà lườm gã, “Chúng ta phải tới nhà Trương nhị ca.”

    “Hả?” Chu Tử Tần suýt thì ngã ngựa, “Sao lại đến nhà Trương nhị ca?”

    “Hôm qua công tử không tới Đại Lý Tự à? Bức tranh ở nhà họ Trương biến mất rồi.”

    “Tranh nào? Công công nói bức tranh vẽ ba cảnh chết ấy ư?” Chu Tử Tần kích động đến nỗi suýt đánh rơi cái bánh hấp, “Lẽ nào bức tranh đó có liên quan tới những chuyện này thực ư? Liên quan thế nào? Rốt cuộc vì sao các hình vẽ trong tranh lại giống các vụ án đến thế? Trương nhị ca gặp phiền phức rồi ư? Tả Kim Ngô Vệ định xử lý thế nào? Nếu Trương nhị ca xảy ra chuyện thì Tích Thúy làm sao đây?”

    “Công tử cứ ăn bánh đi đã.” Hoàng Tử Hà chặn đứng tràng cật vấn của gã, giơ tay vỗ Na Phất Sa một cái, thúc nó chạy nhanh hơn.

    Đi từ Đông sang Tây, băng qua nửa thành Trường An, cuối cùng họ cũng đến nhà Trương Hàng Anh.

    Giờ vẫn còn sớm, các bà các chị trong phường đang đi xách nước, vừa xách vừa bàn tán: “Này, mấy người hôm qua hình như là người của quan phủ hay sao ấy? Sao tự dưng kéo đến đông thế nhỉ?”

    “Nghe nói con thứ nhà họ Trương lại gây ra chuyện rồi.”

    “Nhẽ đâu thế, thằng bé đó trông thật thà lắm mà, sao dạo này cứ xảy ra chuyện thế nhỉ, hết bị phủ Quỳ vương đuổi, lại bị Tả Kim Ngô Vệ trục xuất, giờ cả quan phủ cũng sờ đến rồi, đúng là… Trước đây thực không nhìn ra nó lại là người như thế đâu!”

    Chu Tử Tần không dám tin vào tai mình, nhảy ngay xuống ngựa túm lấy người kia hỏi: “Gì cơ? Ai bảo Trương nhị ca bị Tả Kim Ngô Vệ trục xuất? Sao lại thế được?”

    Người phụ nữ trung niên nọ thấy gã nhảy phắt xuống ngựa túm lấy mình thì phát hoảng: “Còn chẳng thế ư? Người của quan phủ kéo đến nhà nó lục soát, hôm nay nó cũng không ra ngoài, chẳng phải là bị đuổi rồi à?”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Tử Tần, đôi co với người lạ làm gì?”

    Chu Tử Tần nghe vậy đành hậm hực dắt Tiểu Hà đi về phía nhà Trương Hàng Anh. Hoàng Tử Hà cũng xuống ngựa, hai người vừa đến cổng nhà họ Trương, chưa kịp gõ đã thấy một cô gái từ bên trong xông ra, suýt nữa va vào họ.

    Đằng sau vang lên tiếng Trương Hàng Anh gọi thất thanh: “A Địch! Muội đi đâu thế?”

    Hoàng Tử Hà tức thì giơ tay tóm lấy cánh tay cô gái vừa lao ra, giữ cô ta lại.

    Chỉ thấy cô gái kia mặt mày tái ngắt, búi tóc cài cây trâm gỗ, vận một chiếc áo xanh tay hẹp, chân xỏ đôi hài xanh thêu hoa râm bụt, chính là Tích Thúy.

    Nàng bị Hoàng Tử Hà tóm chặt, không sao giằng ra được, chỉ run rẩy gọi “Dương công công”, nước mắt lã chã.

    Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Cô nương sao thế? Cãi nhau với Trương nhị ca ư?”

    Tích Thúy lắc đầu quầy quậy, nhưng không nói năng gì.

    Trương Hàng Anh đã chạy ra đến nơi, buồn bã nói: “A Địch, muội đừng làm liều, chuyện này… có liên quan gì đến muội đâu.”

    Hoàng Tử Hà đưa mắt ra ý bảo Chu Tử Tần “bình tĩnh”, rồi dẫn Tích Thúy vào, nhỏ nhẹ dỗ dành: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì, cô nương kể cho chúng tôi nghe được không? Nếu giúp gì được cô, chúng tôi sẽ dốc hết sức. Đừng thế này nữa, tốt xấu gì cũng có thêm người nghĩ cách giúp các vị, phải không nào?”

    Xong Tích Thúy cứ ôm mặt khóc rưng rức, chẳng nói chẳng rằng.

    Trương Hàng Anh rầu rĩ kể: “A Địch… chẳng hiểu sao cả đêm qua cứ đứng ngoài sân, sáng nay tôi ngủ dậy trông thấy, gặng hỏi duyên do, cô ấy nói nhăng nói cuội cái gì mà tôi vốn tiền đồ như gấm, đều là bị cô ấy… cô ấy làm hại, còn bảo không thể làm liên lụy đến tôi nữa, đòi… đòi bỏ đi!”

    Hoàng Tử Hà chưa kịp nói gì thì Tích Thúy đã nghẹn ngào tiếp lời: “Trương nhị ca, muội… là người xui xẻo, huynh ở bên muội… sẽ bị vạ lây đấy! Cha muội đã nói mà, muội chính là sao chổi, vừa ra đời đã hại chết mẹ ruột mình, về sau lại… lại rơi vào tình cảnh thế này, đáng lẽ không nên sống trên đời nữa…”

    “Không được nói bậy!” Trương Hàng Anh cất lời, đoạn dáo dác nhìn quanh, thấy không có ai, vội tóm lấy tay kéo nàng vào sân, đóng cổng lại.

    “Muội… muội nói thật đấy!” Tích Thúy khóc lạc cả giọng, gào lên với bọn Hoàng Tử Hà: “Các người có biết tôi là ai không? Là Lữ Tích Thúy! Chính là người bị cả thành Trường An chê cười bàn tán đấy! Cả thiên hạ đều biết tôi bị Tôn ghẻ làm nhục, đáng lẽ phải bỏ xác ngoài đồng hoang rồi! Tôi không nên sống ở đây, càng không nên làm liên lụy Trương nhị ca!”

    “A Địch!” Trương Hàng Anh lao đến ôm chặt lấy nàng, bịt miệng nàng lại không cho nói tiếp nữa.

    Tuy bị Trương Hàng Anh ôm ghì lấy, bịt chặt miệng lại, xong nước mắt Tích Thúy vẫn lăn dài trên má, ánh mắt đầy tuyệt vọng, khiến người ta thấy mà xót xa.

    Hoàng Tử Hà liền đứng dậy bước đến cạnh nàng, nhỏ nhẹ an ủi: “A Địch cô nương, tôi biết việc chúng tôi đến điều tra làm cô lo lắng, nhưng thực ra chúng tôi không có ác ý đâu, xin cô chớ sợ. Trương nhị ca là bạn chúng tôi, trước đây cũng giúp đỡ tôi rất nhiều, tôi biết bản tính huynh ấy thật thà ngay thẳng, bị cuốn vào vụ này chẳng qua vì trong trăm ngàn manh mối có mấy việc liên quan đến huynh ấy nên chúng tôi tới hỏi chuyện theo lệ đấy thôi, cô đừng lo, hỏi xong chúng tôi sẽ đi ngay.”

    Tích Thúy vẫn nhìn cô chằm chằm, chẳng có vẻ gì là đã nghe hiểu.

    Hoàng Tử Hà thở dài nói: “Trương nhị ca, huynh buông A Địch cô nương ra đi, chúng tôi hỏi vài câu rồi đi thôi.”

    Trương Hàng Anh bèn dìu Tích Thúy ngồi xuống bên chiếc bàn đá, dỗ dành: “Muội đợi một lát, lát nữa là ổn thôi.”

    Hoàng Tử Hà ra ý bảo Trương Hàng Anh ngồi xuống rồi hỏi: “Hôm qua người Đại Lý Tự bảo sao? Bên Tả Kim Ngô Vệ nói thế nào?”

    Trương Hàng Anh lo lắng xoa tay đáp: “Chiều qua tôi đang ở Tả Kim Ngô Vệ thì người Đại Lý Tự đến tìm, nói muốn mượn bức tranh nghe đồn là thủ bút của tiên hoàng. Bấy giờ tôi còn thắc mắc, nhà tôi xưa nay cất giữ bức tranh ấy rất kỹ, cũng chẳng bao giờ kể với ai, sao người Đại Lý Tự lại biết. Nhưng họ đã nói thế, tôi cũng đành dẫn họ về nhà, bảo họ đợi bên dưới còn mình lên gác mở tủ lấy tranh… Nào ngờ lấy chìa khóa mở tủ ra, thì không thấy tranh đâu nữa!”

    “Không thấy ư?” Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi.

    “Đúng thế, bức tranh vẫn cất trong tủ mười mấy năm nay, bỗng dưng không cánh mà bay! Tôi phát hoảng, vội chạy đi hỏi cha, cha tôi cũng cuống lên, chúng tôi và A Địch lật tung căn gác lên mà không thấy. Tôi chẳng còn cách nào, đành bảo với người của Đại Lý Tự rằng tranh đã không còn, nhưng họ không tin, nói rằng bức tranh đó rất quan trọng, bề trên đã yêu cầu đích danh, nếu tôi không giao ra thì chẳng ai gánh nổi trách nhiệm đâu. Tôi biết Đại Lý Tự phải ăn nói với bề trên, nhưng quả thật bức tranh đã mất, tôi làm thế nào được? Kết quả người của Đại Lý Tự nói với Tả Kim Ngô Vệ rằng tôi có liên quan tới hai vụ án mạng, kèm cả vụ phò mã trọng thương, huynh bảo còn không đủ to chuyện ư? Tả Kim Ngô Vệ bảo tôi hẵng xử lý cho xong vụ này đã, chưa xong thì không cần tới điểm danh nữa.”

    Chu Tử Tần kinh ngạc quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Công công đoán xem… là tên khốn nào bắt Đại Lý Tự đi lấy bức tranh vậy? Có phải là Đồng Xương công chúa không?”

    Hoàng Tử Hà chống trán, cô đương nhiên biết “tên khốn” ấy là Lý Thư Bạch, có lẽ y chỉ tiện miệng bảo Đại Lý Tự một câu, kết quả Đại Lý Tự lại làm rùm beng, thành ra to chuyện thế này.

    Nhưng nghe Chu Tử Tần hỏi vậy, cô đành đáp: “Tôi nghĩ… cũng không hẳn, Đồng Xương công chúa làm sao biết nhà Trương nhị ca có bức tranh ấy?”

    “Huống hồ, dù có thì liên quan gì? Tranh là tiên hoàng vẽ chứ có phải Trương nhị ca đâu, phải không nào?” Chu Tử Tần hùng hổ đập bàn đứng phắt dậy, “Không được! Ta phải đi nói lý lẽ với Vương Uẩn!”

    Hoàng Tử Hà cơ hồ muốn sụp lạy tư duy nhảy cóc của Chu Tử Tần: “Liên quan gì đến Vương đô úy?”

    “Vương Uẩn cai quản Tả Kim Ngô Vệ chứ sao! Đại Lý Tự làm khó người dưới của hắn, sao hắn không ra mặt che chở? Chẳng phải chỉ mất một bức tranh thôi ư? Lại là tranh của nhà huynh ấy, không phải của Đại Lý Tự, Đại Lý Tự dựa vào điều luật nào mà bắt Trương nhị ca giao ra? Tả Kim Ngô Vệ thì dựa vào quy định gì bắt huynh ấy ở nhà tìm cho được mới được đến?”

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm lườm gã: “Quan phủ tra án, bất luận là vương công đại thần hay thường dân trăm họ đều phải phối hợp. Có lẽ bức tranh của Trương nhị ca quả có liên quan tới vụ án, dù Đại Lý Tự bắt huynh ấy phải lập tức đi tìm, cũng không trách được.”

    Chu Tử Tần tức thì tiu nghỉu, nằm bò ra bàn: “Thực ra ta cũng biết mà… Chẳng qua là bất bình thay cho Trương nhị ca thôi! Khó khăn lắm huynh ấy mới vào được Tả Kim Ngô Vệ, chúng ta còn chưa kịp quay về Đoan Thụy Đường cho lão già phơi thuốc vênh váo kia bẽ mặt, thì lại gặp phải chuyện này! Ta bảo, Trương nhị ca, dạo này có lẽ huynh nên đến chùa miếu nào đó thắp hương đi, sao cứ gặp xui xẻo mãi vậy…”

    Chưa nói hết câu, bắt gặp cái nhìn trừng trừng của Hoàng Tử Hà, trông thấy Tích Thúy đã hơi nguôi nguôi giờ lại lã chã nước mắt, Chu Tử Tần vội giơ tay vả vào miệng, không nói thêm nữa.

    Hoàng Tử Hà đứng dậy đề nghị: “Vào xem ngăn tủ đựng tranh của nhà huynh đã nhé.”

    Trương Hàng Anh vội đáp: “Được thôi.”

    Mấy người đứng dậy đi vào trong, theo cầu thang lên tầng hai.

    Tủ đựng tranh ngay ở đầu cầu thang, cửa tủ móc một ổ khóa gỉ sét, Trương Hàng Anh mở một tủ khác kế bên cạnh ra, chỉ thấy bên trong ngổn ngang đủ thứ, nào hộp gỗ, lồng dế, gạt tàn…

    Gã dốc ngược gạt tàn, moi ra một cái chìa khóa, mở tủ đựng tranh cho họ xem.

    Bên trong đó cũng chứa rất nhiều đồ, mấy súc vải, hơn nửa quan tiền, phía dưới xếp vài loại thuốc. Ngăn trên cùng đặt một chiếc hộp gỗ dài dùng đựng cuốn trục, nhưng bên trong trống rỗng.

    Trương Hàng Anh trỏ chiếc hộp nói: “Lúc người Đại Lý Tự đến, tôi mở tủ ra thì đã thế này rồi.”

    Nhìn những đồ vật xếp ngay ngắn bên trong, Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Bức tranh mất lúc nào thế? Ngoài ra còn mất gì không?”

    “Không biết nữa, hôm ấy cho các vị xem xong tôi đã cất đi rồi, sau đó cũng chẳng mở tủ ra nữa. Mọi thứ trong tủ vẫn y nguyên, thậm chí hộp vẫn đậy kín, chỉ mất mỗi tranh thôi.”

    Hoàng Tử Hà cau mày thở dài, ra ý bảo gã đóng tủ lại rồi nói: “Trương nhị ca, tôi biết rồi.”

    Trương Hàng Anh tròn xoe mắt: “Gì cơ? Huynh đã biết nó đi đâu rồi ư?”

    “Tôi nghĩ, có lẽ đến trưa, hoặc ngày mai, nó sẽ quay lại.” Đoạn cô đưa mắt nhìn Tích Thúy, thấy nàng ta đờ đẫn né tránh ánh mắt mình, bèn nói thêm: “Hơn nữa, người tốt như Trương nhị ca, ngay một cô gái mắc nạn ngất xỉu trong núi còn đưa về nhà cứu chữa; lại thêm bản tính đôn hậu, không so đo quá khứ của người khác; đối đãi ai cũng hết lòng hết dạ, hẳn người bên cạnh huynh cũng cảm động, trời cao ắt cũng thành toàn cho huynh, để bức tranh ấy mau quay trở về. Bằng không, kẻ cắp tranh cũng sẽ đánh mất thứ quý giá nhất của mình, đồng thời phải chịu sự giày vò của lương tâm.”

    Trương Hàng Anh ngỡ ngàng hỏi: “Ý huynh là không cần tìm, bức tranh sẽ tự quay về ư?”

    “Ừm, tôi nghĩ thế.”

    Nói đoạn Hoàng Tử Hà quay mình bước xuống gác: “Trước mắt chuyện bức tranh cứ thế đã, tôi còn phải hỏi huynh mấy việc nữa đây.”

    Chu Tử Tần sốt ruột nhắc: “Sùng Cổ, vậy rắc rối của Trương nhị ca thì sao? Ăn nói thế nào với Đại Lý Tự đây? Cả bên Tả Kim Ngô Vệ nữa, công công đi nói vài lời hay là ta đi? Lẽ nào công công định trơ mắt nhìn Trương nhị ca bị vận rủi quấn thân, lại phải quay về Đoan Thụy Đường cho người ta chèn ép bóc lột hay sao?”

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn nhìn gã: “Tử Tần, bức tranh chỉ là một trong các lý do chúng ta đến đây thôi, tôi còn việc quan trọng hơn phải hỏi Trương nhị ca đây, công tử cầm sổ ra ghi chép lại cho tôi.”

    “Được…” Chu Tử Tần ngoan ngoãn lấy bút mực từ chiếc túi đeo trên mình ngựa ra.

    “Trương nhị ca, hiện giờ trong tay tôi có cả thảy ba vụ án, đều liên quan tới phủ công chúa.”

    Hoàng Tử Hà ngồi xuống đối diện Trương Hàng Anh rồi đi ngay vào đề, phớt lờ vẻ thấp thỏm bất an của gã: “Vụ thứ nhất là Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan phủ công chúa bị chết cháy tại chùa Tiến Phúc, bấy giờ Trương nhị ca đang ở trong chùa, hơn nữa khi ngọn nến phát nổ, lửa bén vào Ngụy Hỷ Mẫn thì huynh đang ở ngay cạnh y.”

    Quai hàm Trương Hàng Anh bạnh ra, gã miễn cưỡng gật đầu.


    “Vụ thứ hai, là tại sân kích cúc của Tả Kim Ngô Vệ, trong buổi tỉ thí hôm trước, phò mã Vi Bảo Hoành ngã ngựa bị thương, huynh cũng có mặt tại hiện trường, đang so tài với phò mã.”

    Trương Hàng Anh lại gật đầu không đáp.

    “Vụ thứ ba, là cái chết của Tôn ghẻ. Thời gian tử vong của hắn ước chừng vào khoảng giờ Ngọ, mà lúc ấy huynh lại ở phường Đại Ninh, bị mấy bà thím ngồi hóng mát trong góc khuất bắt gặp.”

    Chu Tử Tần đang múa bút tốc ký cũng dừng phắt lại, ngỡ ngàng nhìn Trương Hàng Anh.

    Trương Hàng Anh mấp máy môi, cuối cùng lên tiếng phân trần: “Tôi… tôi cũng chẳng hiểu sao lại trùng hợp như vậy nữa… Thực ra hôm ấy tôi đến phường Đại Ninh, nhưng… nhưng chẳng làm gì cả, thật đấy! Tôi nghe người trong kinh đồn rằng Tôn ghẻ đang nhốt mình trong lồng sắt, nên đến xem thử…”

    “Giữa trưa hè nắng chang chang mà huynh đội nắng đi cả nửa thành Trường An, từ Tây sang Đông, chỉ để chứng thực câu chuyện cười về Tôn ghẻ ư?” Hoàng Tử Hà lạnh lùng vặt lại.

    Trước thái độ lạnh nhạt của cô, Trương Hàng Anh lúng túng, không ngờ cô lại đột ngột hỏi vặn lại như thế. Ngập ngừng hồi lâu, gã mới nghiến răng đáp: “Tôi bấy giờ… có mang theo dao.”

    Chu Tử Tần bối rối cầm chặt cây bút thừ người ra, bắt gặp cái lườm của Hoàng Tử Hà, mới cắm cúi chép lại những lời Trương Hàng Anh kể ra giấy.

    “Tôi định đến giết Tôn ghẻ, nhưng khi đến mới phát hiện nhà hắn kiên cố vô cùng, không một khe hở, chẳng khác nào một cái lồng sắt, không sao lẻn vào được… Vì thế, tôi đành quay về.”

    “Sao lại muốn tìm Tôn ghẻ?”

    “Vì trong trận hỗn loạn ở chùa Tiến Phúc hôm ấy… Lúc Tích Thúy bị rơi mũ, tôi che cho cô ấy, rồi bị đám đông đẩy đến sát tường. Bấy giờ tôi giơ tay chống vào tường, chắn cho cô ấy, cả hai đứng đó không thể nhúc nhích… Đúng lúc ấy, Tôn ghẻ cũng có mặt ở chùa, hơn nữa, lại bị dòng người đẩy đến cạnh chúng tôi…” Trương Hàng Anh kể rất khẽ, trong mắt bùng lên một ngọn lửa dữ dội chưa từng thấy, khoảnh khắc ấy, nam nhân chất phác ôn hòa này đã bộc lộ niềm căm hận chôn sâu tận đáy lòng, khiến những người nghe hiểu ra rằng, dù là người thật thà ngay thẳng đến đâu cũng có lúc muốn bất chấp tất cả để giết chết kẻ thù.

    Tích Thúy siết chặt nắm tay lại đặt lên ngực, thở dốc. Vì khóc lóc quá nhiều, mắt nàng đã sưng húp cả lên, giờ chỉ có thể nhắm nghiền mắt lại, gồng hết sức nén tiếng nức nở.

    “Tôn ghẻ… trông thấy A Địch, trông thấy tôi đang che chắn cho cô ấy…” Lồng ngực Trương Hàng Anh phập phồng dữ dội, giọng nghẹn lại vì căm hận: “Ánh mắt hắn nhìn A Địch, cứ như rắn độc vậy… Rồi hắn bỗng bật cười hô hố, dương dương tự đắc nói… nói rằng…”

    Trương Hàng Anh không kể tiếp được nữa, chỉ cúi đầu, nghiến chặt hai hàm răng, nét mặt hung ác.

    “Hắn nói, cái giày ông Tôn mày đi nát rồi, vẫn có thằng nhặt về đi à.”

    Giọng Tích Thúy rất khẽ, nghẹn ngào khản đặc.

    Đôi mắt đỏ ngầu của nàng trợn trừng, như thể Tôn ghẻ đang đứng ngay trước mặt, còn nàng phải xông tới lóc từng miếng xương miếng thịt hắn ra mới cam lòng.

    Hoàng Tử Hà cũng cảm thấy một ngọn lửa hừng hực bốc lên đầu, giữa trời nóng hầm hập, cả người cô như bốc hỏa, chỉ hận hôm ấy ở chùa Tiến Phúc mình không tóm lấy Tôn ghẻ, ném hắn xuống bùn.

    Chu Tử Tần bên cạnh đã quăng bút lên bàn rủa: “Đồ khốn! Để ta băm xác hắn thành trăm mảnh!”

    Hoàng Tử Hà hít sâu một hơi, gắng nén cơn giận trong lòng xuống, nhắc gã: “Tử Tần lo ghi lại đi, đừng phân tâm!”

    Chu Tử Tần hậm hực nhặt bút lên: “Ta phục Sùng Cổ thật đấy, thế mà cũng nhịn được ư.”

    “Lúc tra án, kỵ nhất là để tình cảm chen vào, phải luôn đặt bản thân ra ngoài, thì mới quan sát rõ được cục thế.” Nói rồi, cô lại quay sang bảo Trương Hàng Anh và Tích Thúy: “Hai vị bình tĩnh lại đi… Tôn ghẻ đúng là loại cầm thú, không biết lúc ấy Trương nhị ca phản ứng thế nào?”

    Trương Hàng Anh nghiến răng đáp: “Bấy giờ tôi chỉ muốn xông tới đánh hắn chết tươi! Tiếc rằng trong chùa rất hỗn loạn, chen chúc đông nghẹt, tôi không sao lách tới chỗ hắn được, đành trơ mắt nhìn hắn nhơn nhơn bỏ đi!”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi Tích Thúy: “Thấy Trương nhị ca phẫn nộ như thế, cô nương nghĩ gì?”

    Tích Thúy chầm chậm lắc đầu, giơ tay lên day huyệt Thái dương đang giần giật, khó nhọc đáp: “Bấy giờ tôi… chỉ thấy mình đã chết rồi, không nhìn không nghe được gì nữa cả, Trương nhị ca làm gì… tôi cũng không có cảm giác. Sau đó Trương nhị ca dìu tôi về… Tôi cũng chẳng biết mình về nhà thế nào nữa…”

    “Trương nhị ca, lúc đó huynh đã biết thân phận thực của A Địch cùng những việc cô ấy gặp phải, cũng biết rõ bi kịch của cô ấy không chỉ do Tôn ghẻ gây ra, mà còn có bàn tay Ngụy Hỷ Mẫn, đúng không?”

    Trước câu hỏi của Hoàng Tử Hà, Trương Hàng Anh sững ra, không biết trả lời thế nào.

    Chu Tử Tần liền xen vào: “Lần trước Trương nhị ca kể với ta rằng, trước đó huynh ấy không biết chuyện của Tích Thúy, cũng không biết nội tình lại liên quan tới phủ công chúa.”

    “Trương nhị ca nói dối, đúng không?” Hoàng Tử Hà đứng dậy, đi đến cạnh Na Phất Sa, lấy tập tài liệu của Đại Lý Tự từ chiếc hòm trên lưng nó, rút ra một tờ cho mọi người xem.

    “Trương nhị ca kể với Tử Tần rằng, khi Ngụy Hỷ Mẫn chết cháy, huynh không biết y là Ngụy Hỷ Mẫn, cũng không trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn bắt lửa thế nào, phải không?”

    Trương Hàng Anh lặng lẽ gật đầu.

    “Nhưng người Đại Lý Tự lại điều tra được một chuyện vụn vặt trong phủ công chúa: mấy hôm trước khi xảy ra chuyện ở chùa Tiến Phúc, thuốc công chúa thường uống sắp hết, mà Thái Y Viện lại thiếu một vị thuốc nên chưa chế được. Thế là Ngụy Hỷ Mẫn, kẻ tháo vát nhất bên cạnh công chúa bèn đi khắp mấy tiệm thuốc lớn trong kinh tìm mua. Sau khi về phủ, y còn nói với người khác rằng, hiện giờ trong các tiệm thuốc ở kinh thành, Đoan Thụy Đường có thể xếp hàng đầu, sân phơi thuốc thì rộng mênh mông, tên giúp việc chuyên xóc thuốc ở đó trông cũng khôi ngô đĩnh đạc, hơn hẳn các nhà.”

    Trương Hàng Anh ngồi bất động, ánh mắt nhìn dán vào mặt bàn đá, không chớp.

    “Đại hoạn quan phủ Đồng Xương công chúa đích thân đến tận sân phơi tìm mua thuốc, còn quan sát huynh xóc thuốc, lẽ nào huynh lại quên ư? Dù huynh không biết nghe ngóng, chẳng lẽ không ai nói với huynh người đó là ai?”

    Chu Tử Tần ngạc nhiên nhìn Trương Hàng Anh, mặt nhăn như bị: “Trương nhị ca thành thực như vậy mà… cũng gạt ta ư?”

    “Đâu chỉ có thế.” Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm Trương Hàng Anh, “Trương nhị ca, huynh cũng đã biết Ngụy Hỷ Mẫn là một trong những kẻ đầu sỏ hại Tích Thúy thành ra như thế, đúng không?”

    “Phải… Là tôi gạt các vị.” Trương Hàng Anh cuối cùng cũng lên tiếng, giọng khản đặc, chậm rãi mà khó nhọc trả lời: “Tôi đã biết thân phận thực của A Địch từ lâu rồi. Bởi thế tôi từng đến tiệm nhang đèn nhà họ Lữ xem có nên báo với cha cô ấy rằng cô ấy chưa chết, đang ở nhà tôi hay không…”

    Nào ngờ khi đến, gã lại phát hiện mấy người, trong đó có cả Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan phủ công chúa mà gã từng gặp, đang khiêng một bao tải khá nặng đi vào.

    Người phủ công chúa cứ ở mãi trong nhà không ra, gã loáng thoáng nghe thấy mấy tiếng “Tích Thúy”, bèn lẻn đến dưới song cửa, áp tai vào tường nghe lén.

    Đầu tiên là giọng Ngụy Hỷ Mẫn hống hách: “Lão Lữ à, Tích Thúy mạo phạm công chúa nên ta mới sai người đánh cho một trận. Nào ngờ cô ta không chịu được đòn roi, mới đánh mấy cái đã ngất xỉu. Phủ công chúa không thể giữ người lại dưỡng thương, đương nhiên phải đưa ra ngoài. Về sau gặp phải chuyện đó thì liên quan gì tới chúng ta? Hôm nay ta nói thẳng, xảy ra chuyện như vậy là do con gái lão xui xẻo, chẳng liên quan gì tới phủ công chúa cả! Giờ chẳng qua công chúa và phò mã thương hại các ngươi nên mới ban cho những thứ này, để các ngươi khỏi nói lung tung ra ngoài, bôi nhọ thanh danh phủ công chúa đấy thôi, lão có hiểu không hả?”

    Bên trong vang lên tiếng Lữ Chí Nguyên xóc xóc mấy đĩnh bạc, rồi chậm rãi nói: “Các công công cứ yên tâm, tôi đã cho con gái một sợi dây thừng, để nó tự đi tìm lấy bình yên rồi, sau này sẽ không bao giờ xuất hiện trước mặt các vị nữa đâu.”

    “Lão biết thế là tốt.” Ngụy Hỷ Mẫn ném lại một câu rồi quay lưng dẫn mấy hoạn quan kia đi thẳng.

    Trương Hàng Anh nấp dưới cửa sổ, nghe chúng vừa đi vừa chửi rủa: “Lão già khốn kiếp này, sống chẳng được mấy lâu mà nhận tiền nhanh thế, cũng chẳng tự nhìn lại xem mình có số hưởng hay không?”

    “Đúng thế, lão không con không cái, sau này chết đi để tiền cho ai!”

    “Xời, ngươi còn sợ lão không tiêu hết mấy đồng tiền cỏn con ấy sao!”

    Trương Hàng Anh thuật lại chuyện hôm đó rồi thừ người ra, ánh mắt dừng ở Tích Thúy, dịu giọng: “A Địch, giờ không sao nữa rồi, những kẻ gây ra bi kịch của muội đều đã chết cả… Sau này muội nhất định sẽ hạnh phúc.”

    Tích Thúy mở to đôi mắt sưng húp nhìn gã, không nói một lời.

    Trái lại, Chu Tử Tần ngỡ ngàng run run hỏi: “Trương nhị ca, lẽ nào… hung thủ là huynh thật ư?”

    Trương Hàng Anh lắc đầu phân bua: “Không phải tôi, đúng là tôi muốn giết chúng, nhưng không có cơ hội.”

    Hoàng Tử Hà nhìn hai người trước mặt, một bên là nam tử khôi ngô ngay thẳng, một bên là thiếu nữ thanh tú tháo vát, vốn là một cặp đẹp đôi, nhưng ai mà ngờ được, giữa họ lại có bấy nhiêu mưa sầu gió thảm, long đong trắc trở nhường ấy?

    Nghĩ vậy, cô chỉ biết thở dài, ra ý bảo Chu Tử Tần gấp giấy bút lại rồi nói: “Trương nhị ca, hy vọng lần này huynh không nói dối chúng tôi. Cũng mong rằng chúng tôi sẽ không tìm thấy thêm chứng cứ phạm tội của huynh nữa.”

    Trương Hàng Anh đứng dậy cúi đầu không nói. Thân hình cao lớn của gã lúc này chợt còng xuống, tựa hồ cái gánh trên vai đã quá nặng, khiến gã không thể tự chủ, cũng chẳng lấy lại được lòng hăng hái như xưa nữa.

    Ánh mắt Hoàng Tử Hà lại dừng ở Tích Thúy, cô nói như than thở: “Hy vọng bức tranh kia mau quay trở về. Sớm giao được cho Đại Lý Tự, coi như cũng xong một việc.”

    Ra khỏi nhà họ Trương, Hoàng Tử Hà một mực lặng thinh. Ngay cả Chu Tử Tần hằng ngày vẫn bô lô ba la, giờ cũng im như thóc.

    Gã cưỡi Tiểu Hà theo sau Na Phất Sa, cùng cô đi về phía Đông. Vòng qua phường Lễ Tuyền vào chợ Tây, gã mới hỏi: “Ta đi đâu đây?”

    Hoàng Tử Hà đáp: “Tới tìm ông chủ tiệm ngựa Tiền Ký, Tiền Quan Sách.”


    Mặt tiền tiệm ngựa Tiền Ký chiếm một khoảnh rất rộng ở chợ Tây, vừa vào đã thấy. Nhưng mấy tàu ngựa trong khoảnh sân mênh mông phía sau còn lớn hơn. Ông chủ Tiền Quan Sách đang hả hê đi lại giữa những dãy chuồng, quan sát con này, vỗ về con kia, hài lòng ra mặt.

    “Chào ông chủ Tiền.” Hoàng Tử Hà lên tiếng.

    Vẻ thỏa mãn tắt lịm, nét mặt Tiền Quan Sách chuyển sang bối rối cùng niềm nở đầy khách sáo: “Ai da, Dương công công! Không kịp tiếp đón công công từ xa, tại hạ thật là thất lễ!”

    “Đâu có, là ta không muốn kinh động ông chủ Tiền, nên không đợi được thông báo đã đi thẳng vào xem ngựa.” Nói rồi cô giao cương ngựa cho tay giữ ngựa cạnh đó.

    Vừa trông thấy Na Phất Sa, Tiền Quan Sách đã sáng mắt lên, sán đến sờ nắn vuốt ve nó một lượt rồi tấm tắc: “Ngựa tốt, đúng là ngựa tốt mà… Trong số các thớt ngựa đã qua tay tôi bao năm nay, chẳng con nào bì được con này cả. Công công tìm đâu ra nó vậy?”

    “Ừm… Chủ cũ chê nó quá hiền hòa nên giao cho ta cưỡi tạm.” Đoạn Hoàng Tử Hà vào đề ngay, “Ông chủ Tiền, gác chuyện ngựa qua một bên đi, hôm nay ta đến là có việc muốn thỉnh giáo ông.”

    “Ôi, không dám không dám, công công có gì cứ hỏi đi, tôi nhất định biết đến đâu khai đến đấy, biết hết khai hết!” Tiền Quan Sách nói mà mắt không rời Na Phất Sa, đầy vẻ thèm muốn.

    Chu Tử Tần rầu rĩ dắt con Tiểu Hà của mình vào buộc cạnh Na Phất Sa để hai con cùng ăn cỏ. Vừa trông thấy gã, Tiền Quan Sách vội chắp tay chào: “Chu công tử! Ngưỡng mộ đã lâu, lần này được công tử hạ cố đến thăm, thật là vinh dự cho tôi quá!”

    “Ông biết ta ư?”

    “Công tử khéo đùa, trong thành Trường An này có ai không biết công tử?”

    Hoàng Tử Hà nghe nói liền quay sang xem xét bộ đồ hôm nay Chu Tử Tần mặc. Áo lụa màu xanh cánh trả, thắt lưng vàng cam, đi giày đỏ, đeo đủ thứ dây nhợ trang sức lùng nhùng, hèn chi người trong kinh thành chỉ cần trông thấy một lần, nhất định sẽ có ấn tượng sâu sắc, không thể nào quên.

    Chu Tử Tần cũng chắp tay chào Tiền Quan Sách: “Ông chủ Tiền, ta cũng nghe danh ông đã lâu, nghe nói ông là người làm ăn giỏi nhất kinh thành, trong vòng mười năm mà phát đạt đến thế này, quả là truyền kỳ, truyền kỳ!”

    “Đâu có, đều nhờ phúc mọi người cả thôi.” Tiền Quan Sách cười khà dẫn họ vào trong, ngồi xuống một tấm thảm Ba Tư dày dặn, lại sai người hầu pha trà, rồi hỏi: “Chẳng biết hai vị đến có việc gì? Không rõ phủ Quỳ vương có việc sai bảo, hay là nha môn bộ Hình có gì căn dặn?”

    “Thực không dám giấu, giờ hai chúng ta đều bị Đại Lý Tự phái đi điều tra mấy vụ án liên quan tới phủ công chúa.” Hoàng Tử Hà vào đề ngay.

    Cơ thịt trên gương mặt nung núc của Tiền Quan Sách giần giật, hắn lo lắng phân trần: “Dương công công, lần trước tiểu nhân đã trình bày với ngài rồi đấy thôi, tôi và phò mã quả thật chỉ gặp nhau có đúng ba lần, thật mà! Còn công chúa thì, tôi xin thề rằng mình vô duyên vô phúc, xưa nay chưa từng được gặp!”

    “Lần này ta đến không phải hỏi về việc phò mã.” Hoàng Tử Hà bưng ly trà nóng hổi vừa pha, quan sát hắn qua màn khói: “Ta chỉ muốn hỏi ông chủ Tiền, về việc… con gái ông mười năm trước.”

    Cơ mặt Tiền Quan Sách đang giần giật bỗng cứng đờ, hắn ngây người thật lâu mới thở hắt ra, cả người sụp xuống, như một đống thịt chảy nhão ra trên thảm: “Dương công công, con gái tôi… ôi, bỗng dưng công công hỏi đến chuyện mười năm trước làm gì?”

    “Ta nghe nói năm xưa ông chủ Tiền dắt díu cả nhà từ quê lên đây lánh nạn, đến nơi thì nhẵn túi, phải lang thang ngoài đường kiếm ăn, suýt thì chết đói. Số vốn đầu tiên để khởi nghiệp, là lấy từ…”

    “Là từ tiền bán con gái.” Tiền Quan Sách cắt lời cô, giọng mệt mỏi, “Ài, tuy tôi chẳng còn mặt mũi nào mà nói ra, nhưng công công đã biết thì tôi đành kể vậy. Mười năm trước, Hoàng Hà đổi dòng khiến quê tôi bị lụt, nhà cửa ruộng vườn ngập úng cả. Tôi thấy không còn đường sống, đành dắt díu vợ, con gái, cùng hai đứa con trai lên kinh. Kết quả trên đường đi vợ tôi lâm bệnh qua đời, đành đào hố chôn ngay bên đường. Về sau tôi phát đạt, quay lại tìm kiếm mấy lần mà không sao tìm thấy chỗ chôn bà ấy nữa…”

    Chu Tử Tần rút giấy bút ra, bắt đầu miệt mài ghi chép rất chuyên nghiệp.

    Thấy gã ghi lại, Tiền Quan Sách hơi chần chừ, xong vẫn kể tiếp: “Sau khi dẫn ba đứa nhỏ đến Trường An, tôi quá túng quẫn. Buôn bán thì không có vốn, làm việc nặng thì dọc đường lặn lội đến đây, tôi đã đói đến bải hoải cả người rồi. Thế là tôi đành dắt theo ba đứa con lê lết xin cơm ngoài phố, được ngày nào hay ngày nấy, xong cứ thế mãi thì một người lớn và ba trẻ nhỏ đều phải chết đói. Cho tới một hôm, cha con tôi đang xin cơm thì trông thấy một hoạn quan đi tìm mua cung nữ hoạn quan, một đứa trẻ là năm quan tiền. Tôi bèn nhìn lại ba đứa con, tính rằng nếu bán đi một đứa, kiếm ít tiền vốn làm ăn, không chừng hai đứa kia còn có con đường sống. Thế là, tôi bèn bảo Hạnh nhi, con gái mình: ‘Hạnh nhi, hai em con còn ít tuổi, hơn nữa sau này con trai lớn lên phải nối dõi tông đường, đúng không nào? Chi bằng con đi theo vị công công kia đi.’ Bấy giờ Hạnh nhi khóc lóc thảm thiết, cứ ôm ghì lấy chân tôi không buông. Nhưng tôi cũng chẳng có cách nào, đành ngồi xuống ôm lấy nó mà nước mắt ròng ròng, dỗ dành, ‘Hạnh nhi, lần này con vào cung làm cung nữ, sẽ được ăn ngon mặc đẹp, nhưng nếu hai em vào cung làm hoạn quan thì sẽ phải cắt bỏ bộ phận bên dưới. Con nói xem, con đành lòng để em mình chịu đau đớn như thế ư? Người làm chị như con, sao lại không hiểu chuyện thế?’”

    Kể đến đây Tiền Quan Sách cũng rơi nước mắt. Một người đàn ông ngoại tứ tuần mà còn khóc nức nở, nước mắt lăn dài trên gương mặt phì nộn, ngoằn ngoèo chảy xuống, nhìn hết sức tức cười, nhưng Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần chẳng ai cười nổi, chỉ thấy xót xa.

    “Ôi, đúng là cái khó ló cái khôn… Giờ nghĩ lại hành động bán con gái năm ấy, chẳng phải rất khốn nạn ư? Trong cung cấm mỗi năm có bao nhiêu cung nữ âm thầm chết đi, bị quẳng ra bãi tha ma, ném xuống hố rồi vùi đất lên, thế là xong một kiếp người. Nhưng lúc đó không còn đường sống nữa, chỉ trông vào một mình Hạnh nhi, nên tôi đành…” Tiền Quan Sách cúi gằm mặt, rầu rĩ kể, “Tôi dùng tiền bán Hạnh nhi làm vốn bắt đầu buôn cỏ khô, trong khi buôn bán lại gặp được quý nhân mách tôi ra quan ngoại mua ngựa. Tôi gặp may, từ hai ba thớt ngựa ban đầu, mua đi bán lại thành mười mấy thớt, về sau có chút tiếng tăm, một lần triều đình đặt mua mấy nghìn thớt ngựa, thế là phất lên. Lại cưới một vợ một thiếp, muốn sinh thêm đứa con gái, nào ngờ bấy nhiêu năm nay, tiểu thiếp cũng chỉ sinh được một con trai. Tôi nghĩ có lẽ ông trời trừng phạt, đời này tôi sẽ không có con gái nữa…”

    Hoàng Tử Hà dịu giọng an ủi: “Ông chủ Tiền, cũng còn may, trời xanh đã thương xót để ông tìm thấy con gái tại phủ công chúa rồi còn gì.”

    “Đúng thế, nhưng Hạnh nhi không chịu tha thứ cho tôi…” Tiền Quan Sách than thở, “Tôi lén đến phủ công chúa thăm nó mà nó không cho thấy mặt, chỉ đứng sau bức bình phong, chìa cho tôi xem vết bớt hồi nhỏ. Tôi đưa đồ ăn thức mặc đến cho nó, nó bao giờ cũng biếu quà đáp lễ… Nhưng nó không chịu gặp tôi, nói rằng từ khi bị bán đi đã lập lời thề, không bao giờ nhìn mặt tôi nữa.” Hắn buồn rầu khòm hẳn lưng xuống, lắc đầu, “Kiếp này, biết được con gái vẫn còn sống, nói được với nó mấy câu, tôi thấy cũng đủ lắm rồi.”

    Lần này, Chu Tử Tần cũng buột miệng hỏi: “Sao ông biết được… người đứng cách bình phong ấy là con gái mình?”

    “Đương nhiên là nó rồi. Vết bớt trên tay người đó giống hệt con gái tôi, màu hồng hồng ngả xanh cũng giống hệt! Không phải nó thì còn ai?” Tiền Quan Sách quả quyết lắc đầu, ra sức bảo vệ sự thực đã tìm được con gái, “Huống hồ giả làm con gái tôi thì có lợi lộc gì đâu? Chẳng qua tôi chỉ cho nó mấy thứ đồ ăn, nào có gì đáng tiền. Chỉ độc một lần, nó bảo, chợ ngoài phố có bán loại đồ chơi hồi bé nó thích chơi nhưng bị người ta vứt đi? Tôi liền đi tìm mua ngay, lần sau lại thăm đưa cho nó, nó biếu lại tôi một chiếc hộp. Tôi cũng không để ý, nào ngờ vừa mở ra xem… Ôi, đúng là giật nảy cả mình.”

    Tiền Quan Sách dường như không hề tức giận việc họ hoài nghi con gái mình, vừa nói vừa đứng dậy đi vào trong, lách cách mở khóa đóng khóa hồi lâu, mới bưng một chiếc hộp ra đặt trước mặt họ, vẻ tự hào: “Các vị xem này, là con gái biếu tôi đấy.”

    Chiếc hộp làm từ gỗ tử đàn, trên khắc hoa văn tinh tế, thoạt nhìn đã biết chẳng phải tầm thường. Vừa mở hộp, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần cũng ngây ra.

    Bên trong là một con cóc chừng nửa bàn tay, bằng vàng ròng, ngồi trên một phiến lá sen bằng ngọc phỉ thúy. Những nốt mụn trên mình nó làm bằng đá quý đủ màu, ngay hạt sương trên lá cũng là một viên pha lê được mài tròn, lăn đi lăn lại trên phiến lá xanh biếc, nhìn đẹp vô cùng.

    Tiền Quan Sách tự đắc khoe: “Bấy giờ tôi cũng giật thót mình, lập tức đưa trả lại, bảo nó: ‘Hạnh nhi, thứ quý giá thế này, sao con có thể tiện tay biếu cha được?’ Các vị đoán xem nó nói sao? Nó nói trong phủ công chúa đầy những thứ như thế, cái này là công chúa không thích mới ban cho nó, bảo tôi cứ việc nhận, không sao cả. Thị nữ đi theo nó cũng nói, ‘Đúng thế, đây là vật công chúa ban tặng, ông cứ cầm đi, không việc gì đâu.’”

    Đoạn Tiền Quan Sách đóng nắp hộp lại, ôm vào lòng, tấm tắc, “Biết được bây giờ Hạnh nhi phú quý như thế, công chúa lại đối tốt với nó, tôi cũng yên tâm rồi. Chỉ mong một lúc nào đó nó chịu nhìn mặt, gọi tôi một tiếng cha, ấy là tôi thỏa nguyện.”

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần nhìn nhau, cô nói: “Đúng vậy, thế này là mừng rồi.”

    Tiền Quan Sách cứ ôm khư khư cái hộp, vẻ mặt vừa xót xa lại vừa tự hào.

    Hoàng Tử Hà hỏi tiếp: “Còn chút việc nữa phải thỉnh giáo ông chủ Tiền?”

    “Xin Dương công công cứ nói.”

    “Ta nghe nói, ông đã tặng cho Xương Bồ, người cai quản nhà bếp của công chúa, một ít linh lăng hương?”

    “À, đúng là có chuyện này.” Tiền Quan Sách gật đầu, “Xương Bồ giúp tôi tìm được Hạnh nhi, tôi phải cảm tạ cô ấy chứ?”

    Hoàng Tử Hà cười: “Ông chủ Tiền quả là cao nhã, người bình thường chỉ biết biếu tiền, ai mà nghĩ đến việc tặng linh lăng hương?”

    “Ôi chao, vì Xương Bồ bảo lén lút nhận tiền của người ngoài phủ là tội to. Sau đó lúc rời phủ công chúa, tôi lại gặp Lữ Chí Nguyên. Biết tôi đã tìm được con gái, lão cũng mừng cho tôi.”

    Hoàng Tử Hà rùng mình: “Ông cũng biết Lữ Chí Nguyên ư?”

    “Tôi có biết. Bắt đầu từ năm ngoái, tôi đã thuê một nhóm thợ nề, chuyên nhận xây nhà đảo ngói. Rất nhiều người nhân lúc xây nhà muốn đục luôn hốc tường để đặt nến, hoặc gắn giá nến lên tường, nên tôi hợp tác với lão ta. Lúc con gái lão gặp chuyện, tôi còn kể chuyện con gái tôi cho lão nghe, khuyên lão thương lấy con bé, đừng rủa xả khinh khi nó nữa, tiếc rằng lão già cố chấp đó không nghe…”

    “Vậy Lữ Chí Nguyên bảo gì ông?”

    “Lão ta ấy hả, lão biết tôi cần tìm thứ gì đó để cảm ơn Xương Bồ, bèn gợi ý với tôi rằng, nữ nhân thường thích những thứ như hoa đẹp hay hương thơm, vừa hay tiệm nhang đèn nhà lão mới nhập một lô linh lăng hương thượng hảo để chuẩn bị cho pháp hội ở chùa Tiến Phúc, nếu tôi muốn, lão sẽ san cho tôi một ít. Nghe lão nói cũng có lý nên tôi tán thành. Hôm sau, tôi tới tiệm nhà lão lấy sáu lạng linh lăng hương đem biếu Xương Bồ, còn làm theo lời Lữ Chí Nguyên, chỉ cho cô ấy mỗi ngày trước khi đi ngủ đốt chừng một hai que, sẽ giúp ngủ ngon, an thần.”

    “Sau đó, người ở phủ công chúa có ai tới tìm ông đòi thêm không?”

    “Sao công công lại biết?” Tiền Quan Sách kinh ngạc hỏi, “Sau đó sáu bảy hôm, Ngụy Hỷ Mẫn công công ở phủ công chúa tự dưng đến tìm, nói tôi tư thông với Xương Bồ, nếu không cho y thêm hương liệu, y sẽ làm toáng lên. Tôi nhức đầu quá, đành dẫn y tới chỗ Lữ Chí Nguyên, định mua thêm thí cho y. Nào ngờ Ngụy Hỷ Mẫn vừa trông thấy lão Lữ đã tái mét mặt, luôn miệng giục lão lấy linh lăng hương cho mình, bảo rằng có việc gấp phải đi, xong lão cứ lục đục mãi bên trong không chịu ra. Tôi thấy tên Ngụy Hỷ Mẫn đó thực khó dây, bèn kiếm cớ chuồn thẳng.”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Đó là hôm nào?”

    “Để tôi nhớ xem nào… Có lẽ là…” Tiền Quan Sách gãi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp, “Một ngày trước pháp hội ở chùa Tiến Phúc. Đúng, chính là một ngày trước khi phủ công chúa có người bị chết cháy trong pháp hội.”

    “Tên hoạn quan bị thiêu chết đó chính là Ngụy Hỷ Mẫn, ông chủ Tiền có biết không?”

    “Ôi chao… Đúng là…” Tiền Quan Sách kinh ngạc thốt lên, đôi vai vốn đã thẳng dậy, giờ lại khòm xuống, “Hai quý nhân ơi, tôi nói thực đấy! Chuyện này không liên quan gì đến tôi đâu! Thật mà! Tôi chỉ dẫn y đến chỗ Lữ Chí Nguyên rồi đi thôi! Các vị xem, cửa hàng của lão cách tiệm tôi không xa, tôi và Ngụy công công chỉ gặp nhau chừng một khắc thôi… Nếu, nếu chuyện này có vấn đề gì, thì nhất định là ở Lữ Chí Nguyên!”

    “Vậy lúc Tôn ghẻ chết ở phường Đại Ninh, ông cũng có mặt ở hiện trường thì sao?”

    Tiền Quan Sách buồn rười rượi, gật đầu: “Đại Lý Tự cũng truyền gọi tiểu nhân về việc này rồi. Nhưng lúc tôi bước vào, quả thực Tôn ghẻ đã chết rồi mà! Sắp thối um lên rồi! Đại Lý Tự đã tra rõ, việc này không liên quan gì đến tôi nên mới thả cho về… Công công nói xem, tôi có xui xẻo không…”

    Tiền Quan Sách cứ lải nhải mãi, chung quy chỉ là kêu ca xui xẻo, Chu Tử Tần chán chẳng buồn ghi, bèn gác bút, gập giấy lại, nhìn sang Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà bèn đứng dậy chắp tay hành lễ với hắn: “Ông chủ Tiền, hôm nay quấy rầy lâu quá, mong ông đừng để bụng nhé.”

    “Đâu dám đâu dám! Hoan nghênh các vị tới chơi thường xuyên…” Đoạn hắn nhăn nhó nói thêm, “Dĩ nhiên, nếu lần sau tới không phải vì việc của Đại Lý Tự thì càng tốt.”
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 14 - Phận loan mỏng mảnh
    Rời khỏi tiệm ngựa Tiền Ký, Chu Tử Tần luôn miệng than vãn: “Chán chết đi được… Cứ phải nghe mấy chuyện lải nhải đó mãi, thi thể để ta trổ tài đâu rồi? Giây phút vụ án được vạch trần trong chớp mắt cũng ở đâu rồi?”

    “Tra án vốn nhàm chán mà, giờ việc công tử cần làm là rút từ mớ bòng bong đó những manh mối quan trọng nhất, rồi sắp xếp lại mọi thứ.” Hoàng Tử Hà vừa nói vừa đi trên con đường trong chợ Tây.

    Chu Tử Tần nhăn nhó hỏi: “Đi đâu đây?”

    “Tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.”

    “Gì cơ? Lại tới hỏi han lão khốn đó à?” Chu Tử Tần dắt Tiểu Hà, hậm hực nói: “Có lúc ta thực muốn thay Tích Thúy cho lão một cái tát! Công công bảo, trên đời có hạng người khốn nạn đến thế ư?”

    “Trước khi chân tướng hé lộ, kết luận gì cũng là quá sớm.” Hoàng Tử Hà đáp, đoạn buộc Na Phất Sa vào một gốc cây bên đường, đi thẳng vào tiệm nhang đèn.

    Lữ Chí Nguyên đang làm bấc nến, những thân sậy thô có mảnh có, sau khi tước được xếp đều tăm tắp. Nghe tiếng bước chân người đi đến, lão chẳng buồn ngẩng lên, chỉ hỏi: “Cần gì?”

    “Lữ lão trượng, làm ăn vẫn khá đấy chứ?” Hoàng Tử Hà hỏi.

    Bấy giờ Lữ Chí Nguyên mới từ từ ngẩng lên nhìn cô, rồi lại cúi đầu tiếp tục tước sậy, “Ồ, là ngài.”

    “Làm phiền lão trượng rồi, lần này lại có việc phải hỏi, xin lão chớ giận.” Thấy lão chẳng buồn nhìn đến mình, Hoàng Tử Hà bèn tự kéo ghế cùng Chu Tử Tần ngồi xuống.

    Lữ Chí Nguyên vẫn cắm cúi làm, xong Hoàng Tử Hà cũng chẳng lấy làm điều, thản nhiên hỏi: “Nghe nói trước hôm Ngụy Hỷ Mẫn chết, từng đến tiệm nhà lão mua linh lăng hương?”

    Lữ Chí Nguyên lầm bầm: “Tiệm nhà lão bán cả hương lẫn nến.”

    “Lão có thể thuật lại tình cảnh hôm Ngụy Hỷ Mẫn đến không?”

    “Tên lại cái trước đó từng đến đây đưa tiền đền bù của phủ công chúa cho lão. Lần này là do ông chủ Tiền dẫn đến, y vừa mở miệng đã đòi linh lăng hương, than rằng mình mắc chứng đau đầu, thường hay mất ngủ, dùng linh lăng hương mới đỡ phần nào. Chỗ lão cũng chỉ còn hai miếng, tổng cộng ba lạng bốn tiền, bèn bán cả cho y, lấy sáu trăm tám mươi đồng.”

    “Bán xong thì sao?”

    “Lão để ý đến y làm gì, khách đến nhà thì lão bán hàng, thu tiền xong là thôi, chứ làm gì nữa?”

    Hoàng Tử Hà cũng chẳng tranh cãi, chỉ nói: “Tối hôm ấy, Ngụy Hỷ Mẫn mất tích. Người phủ công chúa tìm không thấy y, đến ngày hôm sau thì y chết cháy ở chùa Tiến Phúc.”

    Lữ Chí Nguyên từ từ ngẩng lên, nhìn chòng chọc vào cô bằng đôi mắt đục ngầu: “Lẽ nào ý công công muốn nói lão có liên quan đến cái chết của y?”

    Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào lão, không đáp.

    “Một người đủ chân đủ tay, biết đi biết chạy, ngày hôm sau còn xuất hiện sờ sờ ở chùa Tiến Phúc, hôm trước đến tiệm nhà lão mua ít hương liệu thì liên quan quái gì đến Đại Lý Tự.” Lữ Chí Nguyên mặc cô ngồi đó, đứng dậy rút mấy sợi sậy dài nhất xoắn chặt vào nhau, bó vải ra ngoài, tạo thành một sợi tim nến khổng lồ.

    Chu Tử Tần hỏi: “Cây nến lớn thế này là để bù vào cây bị cháy ở chùa Tiến Phúc phải không?”

    “Phải, hôm nay làm thân nến, ngày mai sẽ dùng sáp màu quết lên thành hình rồng phượng hoa lá, sau đó rắc kim nhũ lên là xong.”

    Xem ra làm một cây nến to có rất nhiều công đoạn rườm rà vất vả, nhưng vào tay kẻ lão luyện như Lữ Chí Nguyên thì lại rất nhanh. Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ, rồi nhìn sang từng thùng sáp nến la liệt, hỏi: “Lữ lão trượng thành thạo quá, hôm trước lão nói chùa Tiến Phúc gom góp bao lâu mới đủ sáp cho lão làm đôi nến, thế mà mới mấy ngày lão đã tự kiếm đủ rồi.”

    “Lão sống đến từng này tuổi, chẳng dành dụm được bao nhiêu tiền, nhưng sáp nến thì cũng trữ được ít nhiều.” Lữ Chí Nguyên nói đoạn lệt sệt kéo sợi tim nến đi ra sau nhà. Chiếc nồi lớn phía sau đang đun sáp, bốc lên mùi gây gây.

    Lữ Chí Nguyên nhúng sợi tim nến bọc trong lần vải vào nồi để nó ngấm dầu sáp, rồi lôi một khuôn nến cao bằng người ra, đồng thời bưng ra mấy chiếc thùng lớn có nhỏ có.

    Lão trèo lên ghế, dùng cái muôi đồng đường kính đến một thước múc sáp lỏng từ từ đổ đầy khuôn và các thùng.

    Hoàng Tử Hà thuận miệng khen: “Lão trượng khỏe thật đấy, sắp lục tuần rồi mà vẫn một mình làm việc nặng thế này.”

    “Hừm, đám trẻ hiện giờ có đứa nào chịu được khổ đâu, mới học việc được hai hôm đã chạy mất tăm, lão cũng hết cách.” Lữ Chí Nguyên lạnh lùng tiếp, “Dạo còn trẻ, lão tòng quân, ở trong đội cung nỏ, một tay giương được cây cung nặng ba thạch ấy.”

    “Ồ, thì ra lão trượng từng dốc sức cho nước nhà.”

    Nói vậy nhưng Chu Tử Tần cũng chẳng mấy để tâm, lại quay về với chủ đề cũ, “Cái khuôn này hình như nhỏ hơn cây nến thành phẩm?”

    “Tìm đâu ra khuôn cao đến một trượng chứ?” Lữ Chí Nguyên vừa múc sáp lỏng vừa đáp: “Phải đổ vào các thùng này cho sáp đông lại, rồi đổ ra ghép lại với nhau, gọt giũa những phần to nhỏ không đều, phết một lớp sáp ra ngoài để cố định, mới thành một cây nến hoàn chỉnh.”

    Chu Tử Tần ngây ngô hỏi: “Thế làm sao cho được tim nến vào?”

    Lữ Chí Nguyên lườm gã: “Phần sáp ở giữa đông chậm hơn, nên sau khi ghép lại, không gọt giũa vội, mà nhân lúc phần giữa còn mềm, buộc một chiếc kim sắt nung đỏ vào sợi tim nến rồi cắm vào khối sáp, cây kim sẽ xuyên thẳng xuống tận đế.”

    “Ra là thế!” Chu Tử Tần trầm trồ, “Quả nhiên ba trăm sáu mươi nghề, nghề nào cũng có bí quyết.”

    Hoàng Tử Hà đang nghĩ cách hỏi Lữ Chí Nguyên về Tôn ghẻ thì chợt nghe bên ngoài có người gọi toáng lên: “Này lão Lữ! Lữ Chí Nguyên!”

    Lữ Chí Nguyên chẳng buồn để tâm, vẫn mải miết rót sáp.

    Kẻ ngoài cửa xộc thẳng vào, giậm chân hét lớn: “Này lão Lữ! Con bé Tích Thúy nhà lão… sắp chết kìa!”

    Lữ Chí Nguyên sững người, bàn tay đang cầm chắc chiếc muôi đồng chợt run bắn lên: “Gì cơ? Nó vẫn chưa chết à?”

    “Chưa chết! Có điều lần này sắp chết thật rồi!” Nghe thấy câu này, cả Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần cũng ngẩn ra.

    “Con gái lão đến Đại Lý Tự đầu thú rồi, khai rằng mình là hung thủ giết hoạn quan phủ công chúa và Tôn ghẻ!”

    Đại Lý Tự.

    Hễ đến giờ ăn trưa là Thôi thiếu khanh răm rắp về nhà dùng cơm với phu nhân, vậy mà hôm nay vẫn còn ngồi đó. Vừa thấy bọn Hoàng Tử Hà đến, hắn mừng rỡ chạy ra đón: “Tử Tần! Sùng Cổ! Tốt quá rồi, không mất tí hơi sức nào hung thủ đã tự ra đầu thú, mấy hôm chạy đôn chạy đáo cuối cùng cũng kết thúc rồi! Áp lực phủ công chúa đè xuống cũng được giải tỏa hết!”

    Hoàng Tử Hà theo hắn vào trong, miệng hỏi: “Nghi phạm nhận hết rồi ư?”

    “Nhận hết! Ả cầm một bức tranh tới tự thú, còn nói là thủ bút của tiên hoàng gì đó, nhưng ta nhìn mấy đường nét nguệch ngoạc ấy chẳng giống gì cả.”

    Họ vừa đi vừa nói, chẳng mấy chốc đã ra phía sau đại sảnh của Đại Lý Tự. Đại Lý Tự không có nhà lao, chỉ xây vài gian phòng nhỏ đằng sau tạm giam phạm nhân.

    Tích Thúy đang ngồi giữa một trong các gian phòng đó, thẫn thờ nhìn cành lá rung rinh theo gió ngoài cửa sổ.

    Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần cùng người của Đại Lý Tự bước vào, khép cửa lại rồi gọi nàng: “Lữ Tích Thúy.”

    Nghe gọi, Tích Thúy đứng bật dậy theo phản xạ, xong trông thấy mấy nam nhân trước mặt, nàng bất giác co rúm người lùi lại.

    Hoàng Tử Hà biết nàng vẫn bị ám ảnh, vội trấn an: “Lữ cô nương, chúng tôi chỉ tới thẩm vấn theo lệ thôi, cô cứ nói thực là được.”

    Lữ Tích Thúy cắn môi, nhìn cô hồi lâu rồi lặng lẽ gật đầu.

    Hoàng Tử Hà ra hiệu cho nàng ngồi xuống, còn mình đứng một bên, quan sát hai vị tri sự Đại Lý Tự thẩm vấn.

    “Tên họ, tuổi tác, quê quán?”

    “Lữ Tích Thúy… Mười bảy tuổi, người trong kinh.”

    “Tự thú về tội gì?”

    Cặp mắt Tích Thúy vẫn còn sưng húp, nàng ngồi ngây ra đó vẻ hoảng hốt, thật lâu mới chầm chậm cắn môi, nặn ra mấy tiếng lí nhí: “Dân nữ đã giết người. Giết… hai người.”

    Hai viên tri sự từ đầu đã biết nguyên nhân nàng tự thú nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, chỉ nói: “Cứ khai thực ra đi.”

    Giọng Tích Thúy khản đặc, nàng chậm chạp kể đứt quãng: “Dân nữ đã giết… Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan phủ công chúa, và… Tôn ghẻ… người phường Đại Ninh.”

    “Sao lại giết người? Giết bằng cách nào?”

    “Ngụy Hỷ Mẫn làm hại dân nữ, sai người đánh dân nữ đến ngất xỉu rồi vứt ngoài đường, khiến dân nữ bị…” Nói đến đây, gương mặt đờ đẫn của nàng lộ ra vẻ căm hận không giấu giếm, giọng kể cũng đanh hẳn lại: “Hôm ấy ở chùa Tiến Phúc, dân nữ đánh rơi mũ có mạng che, Trương Hàng Anh vừa cúi nhặt giúp thì dân nữ trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn… Y mặc đồ hoạn quan, nhìn rất nổi bật. Đúng lúc ấy sấm sét giáng xuống, cây nến nổ tung, trong sáp nến có trộn nhiều chất tạo màu, rất dễ bắt lửa. Dân nữ… dân nữ cũng chẳng biết mình lấy đâu ra sức lực, cứ như phát điên vậy, khi Ngụy Hỷ Mẫn bị dòng người xô đến gần, dân nữ đột ngột đẩy y một cái, làm y ngã vào đống lửa đang cháy, cả người tức thì bắt lửa…”

    Hoàng Tử Hà đứng bên cạnh, im lặng lắng nghe.

    Tri sự lại hỏi: “Vậy còn cái chết của Tôn ghẻ?”

    “Tôn ghẻ… tên cầm thú đó… Hắn vung tiền mua chuộc được cha dân nữ, nhưng dân nữ nhất quyết không tha cho hắn!” Tích Thúy đã phẫn nộ đến phát cuồng, giọng nói cũng the thé khản đặc, nghe rất đáng sợ, “Trưa hôm ấy dân nữ tới phường Đại Ninh tìm Tôn ghẻ, còn sợ mình là đàn bà con gái, không đủ sức giết hắn nên đã tẩm độc vào dao. Gã cầm thú đó nghe tiếng dân nữ bèn mở cửa, dân nữ lập tức xông vào đâm hắn hai nhát, hắn cuống quýt chạy vào đóng cửa lại. Dân nữ còn định bồi thêm mấy dao nữa, nhưng không đẩy được cửa, đành… bỏ đi.”

    Hoàng Tử Hà quan sát Tích Thúy thật kỹ, rồi chậm rãi nhíu mày: “Vậy thuốc độc cô lấy từ đâu ra?”

    Tích Thúy nghiến răng đáp: “Trong tủ thuốc nhà Trương nhị ca có ô đầu(*), huynh ấy từng dạy dân nữ phân biệt các vị thuốc.”

    (*) Ô đầu là cây thuốc có độc, tất cả các phần của cây đều chứa độc chất, nhiều nhất là ở củ. Củ ô đầu rất độc, lượng độc có thể làm cho người tê cứng chân tay, tắc nghẽn mạch máu, đông máu và chết. Do cực độc nên trước đây một số người đã dùng nước của loại củ này tẩm vào đầu mũi tên khi săn thú rừng. Tuy nhiên, nếu được chế biến và sử dụng đúng cách với liều lượng vừa phải, thì lại là vị thuốc quý.

    “Nhưng Tôn ghẻ chết trên giường mà.”

    “Có lẽ… có lẽ sau khi bị thương, hắn chạy vào nằm trên giường, độc tính phát tác chết ngay tại đó.”

    Thôi Thuần Trạm khẽ hỏi hai tri sự: “Những điều ả khai nhận có khớp với tình tiết vụ án không?”

    Một tri sự gật đầu: “Vết thương khá nông, có thể xác thực là do nữ tử ra tay.”

    Thôi Thuần Trạm gật đầu, quay sang hỏi nàng: “Lữ Tích Thúy, ngươi âm thầm giết chết hai người, vốn không ai hay biết, sao bỗng dưng lại đi đầu thú, tự tìm đường chết?”

    Tích Thúy hít một hơi thật sâu, lấy hết can đảm nhìn thẳng vào Thôi Thuần Trạm: “Hai vụ án này làm náo động cả kinh thành, ắt sẽ khiến người vô tội bị cuốn vào. Dân nữ tuy là phận gái chân yếu tay mềm, nhưng vẫn biết lẽ ai làm nấy chịu. Huống hồ, dân nữ cũng muốn tất cả những kẻ tàn ác dưới gầm trời này hiểu rõ một điều, làm điều ác nhất định sẽ gặp báo ứng!”

    Thôi Thuần Trạm nghe vậy cũng cảm động, gật đầu than thở: “Tình thực đáng thương, nhưng tội không thể tha được!”

    Một viên tri sự hỏi lại: “Ngươi có biết việc phò mã gia bị thương trên sân kích cúc không?”

    Tích Thúy cúp mắt gật đầu: “Dân nữ có nghe nói… Trương Hàng Anh, ân nhân của dân nữ, hôm ấy cũng ở đó.”

    “Chuyện này có liên quan gì tới ngươi không?”

    Tích Thúy lắc đầu, nhưng nghĩ ngợi một lúc lại gật đầu đáp: “Dân nữ tội đáng muôn chết… Nghe nói Trương Hàng Anh phải đấu kích cúc, nên hôm ấy dân nữ đã ở nhà cầu khấn, cầu cho đối thủ của huynh ấy ngã ngựa, để Trương Hàng Anh thắng… Dân nữ nghĩ, có lẽ lời cầu khấn của mình đã lọt đến tai Bồ tát…”

    Trước lời giải thích này, Thôi Thuần Trạm đành bảo hai viên tri sự: “Không cần viết câu này vào nữa, chắc chẳng có liên quan gì đâu.”

    Tri sự lại hỏi: “Ngươi cầm bức tranh kia đến đây là sao?”

    “Đó là bức tranh ở nhà Trương Hàng Anh, hôm trước Đại Lý Tự đòi nhưng huynh ấy không tìm thấy… Thực ra là dân nữ lấy cắp, dân nữ cho rằng thù lớn đã trả, định rời khỏi kinh thành, xong không có lộ phí. Nghe nói bức tranh ấy là ngự bút của tiên hoàng, dân nữ nghĩ ắt là đáng tiền, bèn đánh cắp đem đi cầm, nào ngờ Đại Lý Tự lại tới tìm, làm náo động cả lên, nên dân nữ đành chuộc lại đưa đến đây.”

    “Ngươi có biết trên đó vẽ gì không?”

    Tích Thúy thẫn thờ lắc đầu: “Không biết… Dân nữ nhìn mãi chỉ thấy ba mảng mực đen, bèn… đem cầm lấy mười quan tiền.”

    Tri sự quay lại bẩm Thôi Thuần Trạm: “Chúng thuộc hạ đã đến tiệm cầm đồ điều tra, quả có chuyện này. Người ở tiệm cầm đồ tuy cũng không hiểu tranh vẽ gì, nhưng thấy chất giấy chất mực đều tốt, lớp lụa bồi cũng không tệ, cho rằng lai lịch không phải tầm thường, nên bằng lòng xuất mười quan.”

    Thôi Thuần Trạm vốn là kẻ thương hương tiếc ngọc, chỉ biết nhìn Tích Thúy lắc đầu thở dài rồi hỏi: “Lữ Tích Thúy, ngươi có gì muốn nói nữa không?”

    Tích Thúy thẫn thờ quỳ ở đó, hồi lâu mới ngẩng lên nhìn Hoàng Tử Hà: “Phiền Dương công công giúp dân nữ chuyển lời cho Trương nhị ca, bảo huynh ấy rằng, kiếp này vô duyên, kiếp sau A Địch xin kết cỏ ngậm vành… đền đáp ân tình của huynh ấy.”

    Hoàng Tử Hà xót xa gật đầu: “Được.”

    Mọi người lại kéo vào đại sảnh. Một viên chủ sự trải bức họa ra bàn cho tất cả cùng xem.

    Vẫn là ba mảng mực đen sì trên nền giấy gai vàng bồi lụa trắng, nhìn rất tinh tế trang nhã, nhưng không che đậy được sự thực rành rành: đường nét trong tranh rất vụng về nguệch ngoạc.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần dù sao cũng từng xem rồi, nên chỉ nhìn qua, khẳng định là bức họa lần trước, bèn đưa mắt nhìn nhau.

    Trái lại, Thôi Thuần Trạm gần như dán mặt vào tranh, săm soi hồi lâu rồi cau mày: “Thứ này mà là ngự bút tiên hoàng á? Đúng là đại nghịch bất đạo, phỉ báng tiên hoàng!”

    Các quan viên Đại Lý Tự cũng nhao nhao phụ họa, ra sức bỉ bôi bức tranh. Có điều nói thì nói vậy, nhưng đây vẫn là vật chứng, đợi mọi người lui xuống, Thôi Thuần Trạm bèn đích thân cuộn lại, toan cất vào kho.

    Thấy trong đại sảnh không còn ai khác, Hoàng Tử Hà liền hỏi nhỏ: “Thôi thiếu khanh… có thể cho tôi mượn bức họa này được không?”

    Thôi Thuần Trạm lộ vẻ khó xử: “Ôi, chuyện này à… Dương công công, đây là vật chứng quan trọng đấy. Tuy không biết có tác dụng gì, nhưng thường thì một khi bản án chưa định mà công công đã lấy đi, e là phạm luật…”

    Hoàng Tử Hà bèn rút trong ngực áo ra một tấm lệnh tín, hai tay trình lên: “Thôi thiếu khanh, vậy cho tôi đặt cọc lệnh tín phủ Quỳ lại đây, mượn tạm thiếu khanh nửa ngày, sáng sớm mai nhất định đưa trả.”

    Thôi Thuần Trạm trầm ngâm nhìn tấm lệnh tín, rồi quả quyết đặt cuộn tranh vào tay cô: “Công công phụng mệnh hoàng thượng tra xét vụ này, muốn cầm vật chứng liên quan đi nghiên cứu cũng là danh chính ngôn thuận. Cứ viết một mảnh giấy cho phòng vật chứng thôi.”

    Lấy được cuộn tranh, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần mới thấy bụng sôi ùng ục.

    Cả hai ra cửa từ sáng sớm, chạy đôn chạy đáo gần nửa kinh thành, giờ đã quá bữa, cơm và thức ăn cũng chẳng còn, Thôi Thuần Trạm đành giục nhà bếp Đại Lý Tự làm mấy món đơn giản để họ lót dạ.


    Ăn xong, ra khỏi Đại Lý Tự, Hoàng Tử Hà tiện miệng hỏi thăm người gác cổng Đại Lý Tự về vị Quỳ vương gia ngày lo trăm việc kia. Quả nhiên có người đáp: “Nửa canh giờ trước, xe ngựa của Ngự Sử Đài đi qua đây, đánh xe ghé lại uống trà có nói, Quỳ vương đang ở bên đó.”

    Trong hoàng thành có rất nhiều nha môn, trước mỗi nha môn đều đặt một tấm bảng ghi rõ, hễ dưới thượng thư bao nhiêu phẩm đó đều phải xuống ngựa. Bởi vậy, Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà chẳng buồn cưỡi ngựa nữa, mà gửi lại Đại Lý Tự rồi đi bộ đến Ngự Sử Đài.

    Chu Tử Tần vừa đi vừa nắm tay áo cô, uể oải nói: “Ta thật… bội phục Sùng Cổ đấy.”

    Hoàng Tử Hà giơ tập hồ sơ cầm trong tay lên che nắng, quay lại hỏi: “Gì cơ?”

    “Ta nói là, thật bội phục tinh lực của công công…” Chu Tử Tần nhìn cô đầy kính phục, “Chạy đôn chạy đáo hơn nửa ngày trời, ta mệt gần chết, thế mà công công vẫn thoăn thoắt chẳng cần nghỉ ngơi gì cả.”

    “Sau khi vụ án xảy ra là phải giành giật từng chút thời gian, không thể bỏ lỡ một khắc.” Rồi như sực nhớ ra, cô vội thốt lên, “A phải, thi thể Tôn ghẻ giờ đang ở đâu? Công tử có nhớ hình dạng hai vết thương của hắn không?”

    Nhắc đến thi thể và vết thương, Chu Tử Tần phấn chấn hẳn lên, hệt như được ăn một cục đá mát lạnh giữa ngày hè nóng nực vậy, hai mắt gã sáng rực: “Ta đã xem vết thương rồi, vẫn còn nhớ như in! Công công muốn hỏi gì, ta có thể giải đáp ngay!”

    Hoàng Tử Hà quay lại hỏi: “Tôi muốn biết hình dạng cụ thể của vết thương cùng hướng đâm.”

    “Một vết thương ở dưới xương quai xanh vai trái, một vết ở bên phải rốn, cả hai đều đâm chếch xuống từ trái qua phải…” Nói đến đây, Chu Tử Tần bỗng há hốc miệng ra, rồi đảo mắt nhìn quanh, hạ giọng thì thào: “Nói vậy là… Tích Thúy khai man ư?”

    “Ừm.” Hoàng Tử Hà đáp khẽ, “Nếu Tôn ghẻ đứng trước mặt Tích Thúy, căn cứ vào cách cầm dao của cô ấy thì vết thương phải từ trên xuống, chứ sao có thể đâm xiên từ trái qua phải được? Chỉ khi đối phương đang nằm nghiêng mà ngủ mới có thể tạo thành vết thương như thế thôi.”

    Chu Tử Tần hít vào một hơi, vẻ kinh ngạc pha lẫn nghi hoặc: “Nhưng… nhưng tại sao Tích Thúy phải ra đầu thú, vơ hết tội trạng vào mình? Cô ấy làm thế… là vì sao?”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn Chu Tử Tần hồi lâu, mới hướng ánh mắt ra phía sau lưng gã.

    Họ trông thấy một người đang quỳ dưới chân tường Đại Lý Tự.

    Trương Hàng Anh.

    Chẳng biết gã đã ngồi đó bao lâu. Chỉ thấy gã cứ cúi gằm mặt nhìn xuống đất, bất động, ánh mắt thẫn thờ tan tác.

    Chu Tử Tần trợn tròn mắt há hốc miệng nhìn, mãi mới “ồ” lên một tiếng.

    Bị hai người nhìn chằm chằm thật lâu, cuối cùng Trương Hàng Anh cũng cảm nhận được. Gã từ từ ngẩng đầu lên, nhìn về phía họ. Thật lâu sau, ánh mắt thẫn thờ của gã mới bình thường trở lại, dường như bấy giờ mới nhận ra bọn họ. Gã đứng dậy chào bằng giọng khản đặc: “Dương… huynh đệ…”

    Chưa kịp nói hết câu thì đôi chân tê cứng vì quỳ quá lâu đã không nâng đỡ nổi thân thể nữa, gã loạng choạng ngồi phịch xuống đất.

    Trên đầu là ánh nắng chói chang, dưới chân là mặt đất nóng như rang, cả người gã như bị nướng chín, chẳng còn cảm giác gì nữa, chỉ biết vịn tường run rẩy đứng dậy, tập tễnh đi về phía họ.

    Hoàng Tử Hà đăm đăm nhìn gã, vẻ mặt phức tạp, Chu Tử Tần ân cần chạy đến đỡ gã. Trương Hàng Anh vóc người cao lớn, tuy Chu Tử Tần được coi la cao, xong vẫn thấp hơn hai ba tấc, lúc đỡ lấy họ Trương, Chu công tử cũng bị loạng choạng.

    “Trương nhị ca sao vậy?” Chu Tử Tần vừa đỡ lấy gã vừa an ủi, “Huynh bình tĩnh đi!”

    Trương Hàng Anh dựa vào người Chu Tử Tần, xong ánh mắt lại nhìn dán vào Hoàng Tử Hà, bờ môi nứt nẻ vì nóng mấp máy thốt ra mấy âm thanh khô khát: “Huynh nhất định phải giúp A Địch… Cô ấy không thể… Tôi biết cô ấy không thể giết người được…”

    Hoàng Tử Hà cúi mặt, lặng lẽ gật đầu.

    Thấy phản ứng của cô khá hờ hững, Trương Hàng Anh cuống lên, nhào tới tóm chặt lấy vai cô, vật nài như điên dại: “Cô ấy yếu đuối như thế, làm sao giết người nổi? Tôi, tôi không biết tại sao cô ấy lại đầu thú, nhưng… tôi van huynh, van huynh cứu cô ấy, tôi van huynh mà!”

    Giọng gã khản đặc, mãi mới rặn trong họng ra được mấy tiếng van nài vỡ vụn, cơ hồ không nói nên lời.

    Hoàng Tử Hà thở dài, vỗ vỗ vào tay gã trấn an: “Trương nhị ca yên tâm đi, tôi nhất định sẽ vạch trần chân tướng vụ này. Tới lúc đó, hung thủ không còn cách nào lẩn trốn, ắt sẽ bại lộ.”

    Trương Hàng Anh trừng trừng nhìn cô hồi lâu, rồi như hiểu ra câu nói ấy, gã nặng nề buông cánh tay suýt nữa bóp gãy vai cô xuống, liêu xiêu lùi lại hai bước, đáp khẽ: “Được… tôi tin huynh… sẽ trả lại sự trong sạch cho A Địch.”

    “Trương nhị ca, giờ huynh đã có thể quay về Tả Kim Ngô Vệ, ngày mai huynh đến báo danh được rồi.” Hoàng Tử Hà ngước nhìn gã, dịu giọng nói: “Đừng phụ kỳ vọng của A Địch.”

    Ngự Sử Đài là nha môn nghiêm cẩn nhất, trang trọng nhất trong triều, nhưng khi họ bước vào, lại thấy mấy ông già ngự sử trung thừa, thị ngự sử, giám sát ngự sử ngồi quanh Quỳ vương đang tươi cười, hết kéo lại níu y, tựa hồ không hề nhận ra đã đến giờ tan.

    Thấy Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần bước vào, Lý Thư Bạch bèn ra hiệu bảo họ đợi, rồi đứng dậy nói với mọi người: “Đây là Dương Sùng Cổ, hoạn quan bên cạnh ta, rất giỏi phá án, hiện cũng là một trong những người được thánh thượng chỉ định hợp tác với Đại Lý Tự. Hắn đến đây ắt để bẩm báo về tiến triển vụ án, bản vương đành phải cáo từ các vị thôi.”

    “Cung tiễn Quỳ vương gia.” Người của Ngự Sử Đài niềm nở đứng dậy tiễn y ra đến cửa.

    Rời khỏi Ngự Sử Đài, Chu Tử Tần không nhịn được ta thán: “Đám người ở Ngự Sử Đài này đúng là thiên vị hết sức. Lúc ta đến thì lão nào lão nấy hếch mặt lên trời, cứ như ta là mối nhục của triều đình không bằng, chẳng nỡ lấy thêm cho một đôi đũa nữa. Ấy vậy mà vương gia vừa đến thì, công công xem, một loạt gương mặt già quắm cười tươi như hoa cúc, nếp nhăn dãn hết cả ra!”

    Lý Thư Bạch cũng không khỏi nhếch môi: “Hôm nay tâm trạng họ vui vẻ đấy thôi.”

    “Ô? Người của Ngự Sử Đài cũng có ngày vui à? Chẳng phải ngày nào cũng vênh mặt giáo huấn người ta ư?”

    Lý Thư Bạch quay sang Hoàng Tử Hà: “Vì chuyện cây trâm Cửu loan biến mất, hoàng thượng đã triệu tập mấy vị trọng thần lại, yêu cầu tam pháp ty: bộ Hình, Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài cùng hội thẩm. Hai ty kia còn đỡ, nhưng mấy ông lão ở Ngự Sử Đài thì phản đối gay gắt, nói rằng tam pháp ty chỉ hội thẩm khi gặp phải vụ án lớn, liên can tới quốc gia xã tắc mà thôi, sao có thể vì công chúa mất một cây trâm mà làm rùm beng, kinh động đến cả tam pháp ty? Xong hoàng thượng lại nói vụ này đã có hai người chết một người bị thương, trước mắt có lẽ công chúa cũng gặp nguy hiểm, nhất định phải tra xét thật nhanh, không được thoái thác. Đôi bên đang tranh cãi thì Đại Lý Tự báo tin kẻ tình nghi đã tự ra đầu thú! Ngự Sử Đài thấy việc nhà của hoàng đế không biến thành việc công của cả triều đình, đương nhiên trên dưới đều hân hoan!”

    Chu Tử Tần chau mày: “Nhưng… Tích Thúy không phải hung thủ…”

    “Bất kể có phải hay không, giờ cô ta đã bước ra nhận tội, chẳng phải là cơ hội rất thích hợp ư?” Nói đoạn, Lý Thư Bạch liếc xéo Hoàng Tử Hà, “Ngươi muốn tiếp tục điều tra, hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, hay dừng tay ở đây thôi?”

    “Tích Thúy và nô tài cũng có thể coi là sơ giao, cảnh đời cô ấy đã thê thảm nhường ấy, nô tài không thể để cô ấy chết như thế được.” Hoàng Tử Hà nhíu mày, “Huống hồ, theo nô tài thấy, dù cô ấy đầu thú, chỉ e cây muốn lặng mà gió chẳng dừng.”

    Lý Thư Bạch nhướng mày: “Ý ngươi là, có thể hung thủ vẫn chưa chịu ngừng tay?”

    “Rất có thể. Vì người chết thứ ba theo như bức tranh vẫn chưa xuất hiện.” Hoàng Tử Hà đặt cuộn tranh vào tay y.

    Lý Thư Bạch vừa đi vừa mở ra xem.

    Chỉ liếc qua, bước chân y đã khựng lại.

    Quỳ vương gia xưa nay điềm tĩnh, vậy mà lúc này đứng giữa hoàng thành, dưới bóng tường bao cao ngất quanh các nha môn, nhìn bức tranh nguệch ngoạc vụng về trong tay, thân hình bỗng sững lại một thoáng.

    Trời trong vắt, nắng chói chang, gió lồng lộng cuốn tung ống tay cùng vạt áo ba người bay phần phật.

    Hàng mi rợp bóng của Lý Thư Bạch cuối cùng cũng từ từ nhướng lên, y cuộn bức tranh lại đặt vào tay Hoàng Tử Hà: “Cất đi.”

    Chu Tử Tần vội hỏi: “Vương gia có thấy cái chết thảm của ba người trong đó không?”

    Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, “Miễn cưỡng gán ghép thì cũng láng máng hình dung được. Nhưng chuyện hoang đường thế này, sao lại quy là thủ bút của tiên hoàng?”

    Chu Tử Tần tức thì tiu nghỉu, đành đáp: “Gia nói rất phải.”

    Đoạn gã len lén liếc trộm Hoàng Tử Hà, thấy cô ngày càng giống Lý Thư Bạch, lúc nào cũng ra vẻ bình thản kín đáo, không khỏi than thầm trong lòng rồi nói: “Vương gia, tôi cảm thấy việc Tích Thúy giết Tôn ghẻ còn nhiều nghi vấn, phải đến nghĩa trang xem sao, cáo từ trước vậy.”

    Thấy Chu Tử Tần đã đi xa, Lý Thư Bạch bèn ra hiệu cho Hoàng Tử Hà lên xe.

    Ngang qua cửa Đại Lý Tự, lính gác cổng tháo dây cương cho Na Phất Sa, nó liền cung cúc đi theo, ngoan đến nỗi khiến người ta phải tấm tắc.

    Hoàng Tử Hà lại ngồi xuống chỗ ngồi quen thuộc, chiếc ghế thấp đối diện Lý Thư Bạch.

    Y chìa tay ra, cô hiểu ý ngay, vội rút cuốn trục trong ngực áo trình lên.

    Lý Thư Bạch trải bức tranh ra bàn. Chiếc bàn hơi nhỏ, nên một phần tranh thõng xuống đầu gối y. Cánh tay y chặn lên cuốn trục, ngón tay chầm chậm dò theo hình vẽ thứ nhất, một người bị lửa thiêu chết, “Lần trước ngươi nói, các ngươi cho rằng đây là hình một người bị lửa thiêu chết ư?”

    “Vâng… Chúng tôi còn thấy nét mảnh này giống một tia sét từ trên trời giáng xuống. Nên hình vẽ này giống một người bị sét đánh trúng, lửa bùng lên bao phủ lấy người, đang giãy chết.”

    “Người nhà họ Trương nói đây là ngự bút của tiên hoàng, ngươi có tin không?” Y hơi ngước lên nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ rồi chậm rãi đáp: “Tôi chưa từng thấy ngự bút của tiên hoàng, không dám khẳng định.”

    “Ta thì có thể.”

    Lý Thư Bạch điềm nhiên đặt tay lên bức tranh: “Loại mực này là Tổ Mẫn đặc chế cho tiên hoàng. Những năm cuối đời, tiên hoàng không được khỏe nên không thích mùi mực, nhà họ Tổ phải đổi công thức, ngoài những châu ngọc mài ra, còn phải pha thêm vào thỏi mực một loại hương liệu nước ngoài tiến cống, chỉ làm được mười thỏi, đã dùng bảy thỏi, dư ba thỏi đem tùy táng. Nay đã mười năm, mà vẫn còn thoang thoảng hương thơm.”

    Hoàng Tử Hà cúi xuống ngửi thử, quả thấy một mùi hương cực nhẹ cực nhạt, khác hẳn bình thường.

    Thấy cô ngẩng lên nhìn mình, Lý Thư Bạch lại tiếp: “Tiên hoàng viết chữ hay vẽ tranh, thường ướm thử mấy nét vào bên cạnh trước, đây là thói quen nhiều năm của Người, không phải kẻ thường xuyên cận kề thì không thể biết được. Ngươi xem này…”

    Bên cạnh nét mảnh mà họ cho là tia sét, có một vạch mờ như sợi tóc, gần như không thể nhận ra.

    “Nét này không như nét bên cạnh, rõ ràng không phải vết lông trên bút để lại, mà là phụ hoàng lúc đặt bút vẽ vô ý làm dây ra.”

    “Tôi sẽ đến nhà họ Trương, hỏi cha Trương Hàng Anh về lai lịch bức tranh.”

    “Cũng nên hỏi xem, vì sao phụ hoàng lại vẽ ra bức tranh này, hơn nữa còn ban cho một đại phu dân gian.” Lý Thư Bạch chậm rãi dặn.

    Hoàng Tử Hà nhìn bức vẽ, lại nhớ đến phản ứng lạ lùng của Ngạc vương.

    Quả nhiên, Lý Thư Bạch nói ngay: “Còn bây giờ, chúng ta phải đến phủ Ngạc vương. Chẳng phải ngươi kể, khi trông thấy bức tranh này, Thất đệ phản ứng rất lạ ư.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, đang định nói một tiếng với A Viễn thì nghe thấy tiếng ồn phía trước, xe chạy chậm dần, rồi dừng hẳn ở giao lộ.

    Hoàng Tử Hà hé cửa sổ hỏi nhỏ: “Viễn bá, sao thế?”

    “Đằng trước náo loạn quá, tắc đường mất rồi.” A Viễn nghển cổ nhìn rồi đáp.

    Vừa vén rèm trông ra, cô đã trông thấy Chu Tử Tần đứng ngay cạnh đó, nhăn nhó nhìn sang cô: “Sùng Cổ, ta bị tắc đường.”

    “Để tôi xuống xem đằng kia có chuyện gì.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà nhảy xuống xe, xăm xăm chen lên trước.


    Chu Tử Tần cũng hớt hải chen đến bên cạnh, mở đường giúp cô: “Nhanh lên nào, đằng trước náo nhiệt lắm, để ta dẫn công công đi xem!”

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm: “Tử Tần, tôi không định xem náo nhiệt…”

    “Nhưng đây là việc trọng đại của phường Bình Khang, trong kinh cũng hiếm gặp! Công công không xem thì tiếc lắm!” Dứt lời gã đã kéo cô chen vào đám đông.

    Lý Thư Bạch lạnh lùng nhìn theo, rồi lệnh cho A Viễn: “Đi thôi.”

    “Nhưng giờ không thể đi tiếp được nữa thưa gia.”

    “Quay lại, đến Đại Lý Tự.” Thấy Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần sắp mất hút giữa biển người, y cũng dời mắt nhìn sang chỗ khác.

    Hoàng Tử Hà theo sau Chu Tử Tần, luồn trái lách phải, cuối cùng cũng chen đến chỗ đông nhất.

    Nơi này gần phường Bình Khang, đường sá trong thành Trường An xưa nay rộng rãi, nhưng vì hai bên đường đang nạo vét cống rãnh, lại thêm cây hòe lâu năm mọc chìa ra đường, khiến khúc đường bị choán mất quá nửa, đi lại khó khăn, còn được cả hai phường hát đặt sân khấu đối diện nhau ngay giữa giao lộ, ra sức phô trương thanh thế, tiêu sáo rộn vang, áo xiêm phấp phới, thu hút đám người vô công rồi nghề xúm xít đứng xem, làm tắc nghẽn cả lối đi.

    Trong đám đông nhốn nháo ấy, Hoàng Tử Hà liếc thấy cỗ xe nạm vàng khảm ngọc của Đồng Xương công chúa đang dừng ngay giữa đường, không sao di chuyển được.

    Bọn Thùy Châu, Lạc Bội, Trụy Ngọc, Khuynh Bích đều đi theo xe, mấy tên hoạn quan và thị vệ hộ tống còn bị người xung quanh chen lấn đến nỗi phải liên tục lùi lại, nhưng trước sau vẫn bám sát bên cạnh cỗ xe, không dám rời nửa bước.

    Thấy họ bị vây giữa đám đông, cô bèn đi đến chào hỏi: “Thực khéo quá, công chúa cũng ở đây ư?”

    Giữa đám đông chen chúc đến nỗi cựa mình còn khó, vậy mà Thùy Châu vẫn thi lễ đáp: “Thưa vâng. Công công hôm nay… cũng đi xem náo nhiệt với Chu thiếu gia à?”

    Hoàng Tử Hà vừa gật đầu thì Đồng Xương công chúa đột ngột vén rèm xe lên nhìn cô. Hàng lông mày của công chúa vốn mỏng manh mà sắc sảo, giờ đang nhíu lại buồn bực, càng toát lên vẻ ngạo nghễ lấn lướt: “Dương công công cũng ở đây ư? Người của Đại Lý Tự đâu rồi? Sao không mau giải tán bớt đám đông đi?”

    Nghe giọng điệu công chúa đầy tức giận, rõ ràng đang lạm quyền quá phận, chỉ huy cả người của quan phủ, Hoàng Tử Hà ngán ngẩm thưa: “E rằng công chúa phải thất vọng rồi, nô tài tới đây một mình, không dẫn theo ai cả.”

    “Hừ, sớm không tắc muộn không tắc, đúng lúc xe ngựa của bản cung đi đến đây thì tắc đường! Lại phải hôm đi vội quá, chỉ đem theo mấy đứa vô tích sự này!” Đồng Xương công chúa vừa miệt thị đám tùy tùng, vừa quay sang mắng người đánh xe té tát: “Kể cả vào bằng cửa Phượng Hoàng, động đao động kiếm thì đã sao, lẽ nào bản cung chưa gặp thái tử bao giờ chắc?”

    Tên đánh xe bị mắng sa sả, chỉ biết cúi đầu vâng dạ rối rít.

    Nghe nói đến cửa Phượng Hoàng, Hoàng Tử Hà thoáng ngẩn ra, vội hỏi: “Công chúa mấy hôm nay khó ở, nên tĩnh tâm nghỉ ngơi cho khỏe, sao tự dưng lại muốn đến cung Thái Cực?”

    Thùy Châu khẽ gật đầu, lo lắng nhìn dòng người phía trước rồi thì thào: “Thục phi đang đợi công chúa…”

    Cung Thái Cực hiện nay chỉ có Vương hoàng hậu ở, vậy mà giờ Quách thục phi lại ở đó, còn hẹn Đồng Xương công chúa đến đó gặp, không hiểu là chuyện gì?

    Cô sực nghĩ đến một chuyện, vội gặng: “Hoàng thượng có ở đó không?”

    “Nô tỳ không biết… Thục phi chỉ sai người tới báo cho công chúa thôi.” Thùy Châu lấm lét đáp.

    Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay, hôm nay ắt là thời khắc quan trọng của Vương hoàng hậu, mà Quách thục phi gọi Đồng Xương công chúa đến, là muốn giáng cho hoàng hậu một đòn chí mạng.

    Nhớ lại lần triệu kiến trước, Vương hoàng hậu từng thuận miệng nhắc tới việc hồi cung, hơn nữa có vẻ đã nắm chắc thắng lợi trong tay, ắt hẳn bà ta phải có một con cờ đủ sức đối phó với Quách thục phi, nhưng… liệu hôm nay có dùng được không?

    Còn đang nghĩ ngợi thì tiếng nhạc rộn lên, ra là trận so tài giữa hai phường hát đã đến lúc quyết thắng bại. Nữ tử áo đỏ bên phải đang múa điệu Hồ toàn vũ(*), cứ xoay tròn nhanh như gió, khiến người xem bên dưới luôn miệng hoan hô; còn nữ tử áo xanh bên trái lại cất cao giọng ca bài Xuân giang hoa nguyệt dạ, giữa những tiếng ồn ào huyên náo mà tiếng ca vẫn vang lên lảnh lót, đủ thấy giọng khỏe đến đâu. Lại vừa khéo hát đến hai câu:

    Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,

    Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.

    (*) Một điệu múa được du nhập từ Tân Cương vào triều đại nhà Đường, nhấn mạnh vào chuyển động của cổ. Vũ công đứng trên một tấm thảm lông tròn và nhảy múa, mỗi màn vũ đạo có hàng trăm tư thế khác nhau. Điệu múa này hiện vẫn tồn tại ở các nước Trung Á, Kazakhstan, Pakistan, Tajikistan, cũng như địa khu Tân Cương của Trung Quốc.

    Ánh mắt Hoàng Tử Hà bất giác liếc sang Đồng Xương công chúa.

    Xong công chúa dường như chẳng để tâm, vì còn đang cau có rủa xả: “Đám con hát đáng ghét này, lúc nào ta phải nói với phụ hoàng đuổi cổ tất cả bọn chúng ra khỏi thành Trường An mới được!”

    Đoạn, nàng thả tấm rèm xe xuống đánh xoạch. Đám người ùn ùn chen lấn khiến hai con ngựa kéo xe kinh hãi, bắt đầu rục rịch di chuyển, làm thùng xe lắc lư.

    Thùy Châu vội giữ lấy cửa xe hỏi vọng vào trong: “Công chúa không sao chứ?”

    Chưa nói dứt câu, công chúa đã đẩy bật cửa ra nhảy xuống.

    Nàng đang ốm, tính tình lại nóng nảy, lần này nhảy xuống quá nhanh, hai chân loạng choạng, suýt nữa thì ngã nhào.

    Thùy Châu vội đỡ lấy nàng, mười mấy hoạn quan đi theo cũng xúm lại, rẽ đám đông ra.

    Con phố đã chật cứng, mười mấy người này lại chen vào làm nhốn nháo cả lên, những người đang xem ca múa cạnh đó bị chen đến nỗi ngã dúi dụi, vài kẻ nóng nảy bèn quát: “Làm cái gì thế? Hoạn quan thì to lắm à? Hoàng thượng có đến cũng không thể cấm dân chúng xem ca múa được!”

    Đúng lúc ấy, ánh mắt Đồng Xương công chúa bỗng sững lại giữa đám đông, nàng trợn tròn đôi mắt sắc lẹm, kêu lên thất thanh: “Trâm Cửu loan!”

    Hoàng Tử Hà nhìn theo ánh mắt nàng, xong chỉ thấy đầu người lô nhô, có mấy cô gái làng chơi cài trang sức hoa lệ, nhưng màu sắc và tạo hình đều hết sức dung tục, đâu giống trâm Cửu loan đúc từ nguyên một khối ngọc.

    Mấy ả thị nữ bên cạnh Đồng Xương công chúa cũng nhớn nhác nhìn quanh tìm kiếm, Thùy Châu buột miệng hỏi: “Công chúa thấy trâm Cửu loan ư? Nhưng… nô tỳ không thấy đâu cả…”

    “Ở bên kia kìa, có người đang cầm đấy!” Đồng Xương công chúa trỏ về hướng Tây Nam, chân cũng dợm bước về phía đó.

    Đám đông đang ùn lên, toán thị vệ phía sau chưa chen được đến, mấy tên hoạn quan lại đã bị đẩy ra ngoài rìa, chỉ còn mấy thị nữ ở cạnh công chúa, nhưng chẳng theo kịp.

    Thùy Châu vội vươn tay níu nàng lại: “Công chúa cẩn thận đấy…”

    Chưa nói dứt câu thì Đồng Xương công chúa đã bị tóm lấy cổ tay kéo mạnh, ngã chúi về phía trước. Thân hình nàng nhỏ nhắn, lại đột nhiên bị lôi vào đám đông, dòng người vừa tách ra đã nhanh chóng khép lại, chẳng khác nào một con thú dữ há hoác cái miệng to như chậu máu, tức thì nuốt chửng nàng.

    Trên sân khấu hai bên, mấy chục nữ tử đang đồng ca khúc Xuân giang hoa nguyệt dạ, tiếng ca du dương uyển chuyển khôn xiết, đến cuối cùng thì át hết mọi âm thanh khác, chỉ còn tiếng ngân lảnh lót của ca nữ kia, chuyển âm ở chỗ cực cao chẳng khác nào băng qua vạn núi, quanh co khúc khuỷu, vút tận trời xanh.

    Điệu Hồ toàn vũ đang vào hồi nhanh nhất, cả sân khấu đâu đâu cũng thấp thoáng bóng dáng yêu kiều mềm mại của vũ nữ nọ. Nàng dang hai tay ra, ngửa mặt lên trời, nhoẻn cười tươi tắn mà xoay tròn thật nhanh. Chiếc khăn chít trên đầu nàng, vạt áo nàng, gấu quần nàng, cùng mái tóc được tết thành cả trăm bím nhỏ đều xõa ra xoay tròn, như một dòng suối đủ màu.

    Tiếng hét kinh hoàng của bọn Thùy Châu chìm trong tiếng nhạc rộn rã. Trước con mắt của mấy chục người, công chúa bị lôi vào đám đông, mà tất cả những kẻ bên cạnh nàng đều ngây ra không dám tin là sự thực, cũng không kịp phản ứng gì.

    Hoàng Tử Hà định thần lại trước nhất, lập tức tách đám người chen vào.

    Giữa đám đông chen chúc với đủ màu quần áo, đủ loại người, cô cũng mất phương hướng, cứ ngẩn ra không biết phải chạy về phía nào. May sao, đúng lúc này, có người tóm cổ tay kéo cô ra.

    Hoàng Tử Hà quay lại thì thấy Chu Tử Tần. Gã khá cao, lại ra sức gạt đám đông, cuối cùng cũng tóm được cô.

    Chỉ thấy gã nhìn trái ngó phải rồi hỏi: “Công chúa đâu? Công công thấy công chúa rồi à?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu nhíu mày: “Mau lệnh cho hai đoàn ca múa kia rút đi, e rằng công chúa xảy ra chuyện rồi.”

    “Lẽ nào lại thế, ở đây đông thế này, lại ngay trước mặt mọi người, có thể xảy ra chuyện gì được chứ?” Chu Tử Tần phản bác, nhưng cũng quay đi tập trung các thị vệ hoạn quan, để họ mau chóng giải tán đám đông.

    Tiếc rằng người nhiều như thế, lại đang ầm ĩ hỗn loạn, trong chốc lát không thể giải tán ngay được.

    Thùy Châu lo lắng: “Trước lúc biến mất, công chúa còn kêu lên thất thanh: ‘Trâm Cửu loan’, nên nô tỳ nghĩ nhất định có kẻ dùng trâm Cửu loan dụ công chúa đi. Công công… chúng ta phải đi đâu tìm công chúa đây?”

    Hoàng Tử Hà bất giác đưa mắt tìm Lý Thư Bạch trong đám đông. Trí nhớ của y rất tốt, bốn đường lớn, mười sáu đường nhỏ, một trăm hai mươi ba ngõ ngách trong phường Bình Khang, hẳn y rõ hơn ai hết.

    Nhưng lúc này Lý Thư Bạch không ở cạnh cô.

    Bản thân cô lại không thông thuộc phường Bình Khang, đành bàn bạc với Chu Tử Tần, loại trừ các con đường tập trung nhiều phường nhạc kỹ, các phố có quán rượu đông người lắm tai mắt cùng các ngõ cụt đằng trước, chọn ra hơn mười con đường có khả năng nhất.

    Tiếp đó, lại phân công đám hoạn quan và thị vệ phủ công chúa đang cuống cuồng như nhặng vỡ đàn tỏa ra tìm kiếm từng đường.

    Xong xuôi tất cả, Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy các thị nữ hầu hạ công chúa chỉ còn ba ả, bèn hỏi: “Thùy Châu đâu rồi?”

    “Hồi nãy Thùy Châu đuổi theo công chúa, cũng bị dòng người nuốt chửng rồi…” Trụy Ngọc chưa nói hết câu, chợt nghe thấy tiếng la đằng xa, sau đó là tiếng gọi kinh hoàng, lúc này, khi đám đông đã vãn, không gian yên tĩnh phần nào, nghe càng thêm thê thiết: “Người đâu… người đâu rồi…”

    Là giọng Thùy Châu.

    Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà phản ứng nhanh nhất, lập tức chạy ngay đến.

    Sau bức tường bao, còn thừa ra đến ba bốn thước đất trống. Dây hoa sao tốt tươi bò tràn trên sân lên tường, từng mảng hoa đỏ thắm nổi bật trên nền lá xanh, trông như những vệt máu loang lổ.

    Ở cuối mảng hoa lá dày rậm, thân hình Đồng Xương công chúa đang dựa vào tường, từ từ trượt xuống. Mắt nàng nhắm nghiền, xong thân thể vẫn không ngừng co giật.

    Trên tấm áo đỏ thêu đầy bươm bướm ướt đẫm một mảng đỏ thẫm khác thường, chói chang dưới nắng.

    Phía sau đám dây leo chằng chịt là cỏ dại um tùm, lúc này, chỉ có mấy nhành xác pháo trơ trọi rung rinh.

    Thùy Châu liêu xiêu chạy đến, vấp phải dây leo ngã lăn ra, nhưng chẳng biết ả lấy đâu ra sức lực, vẫn vừa khóc lóc vừa lê đến bên cạnh công chúa, ôm chặt lấy nàng, sợ đến nỗi mặt mày tái ngắt không kêu nổi nữa, chỉ biết bịt chặt vết thương đang chảy máu xối xả trên ngực công chúa, tiếc rằng tay ả sao níu giữ nổi sự sống cho công chúa, đành trơ mắt nhìn sức thanh xuân của nàng trôi đi theo dòng máu tươi ấm nóng, thấm vào lòng đất đang bừng bừng nhựa sống rồi tiêu tan.

    Vẻ mặt Thùy Châu đờ đẫn, như không thể đối diện với sự thực tàn nhẫn đau đớn trước mặt.

    Chân Hoàng Tử Hà cũng ríu cả lại, cô loạng choạng chạy đến thì trông thấy cây trâm Cửu loan vốn đã biết mất đầy bí ẩn giờ đang nằm im lìm trên nền đất thấm đầy máu công chúa, giữa đám dây leo bị giày xéo giẫm đạp.

    Máu tươi nhỏ xuống miếng ngọc chín màu kỳ lạ được chạm thành chín cánh chim loan phượng khoan thai bay lượn, trông càng lộng lẫy ấm áp khôn xiết.

    Mà đuôi trâm được đẽo thành vành trăng khuyết, giờ đã gãy lìa, cắm ngay giữa ngực công chúa.

    Máu tươi loang đỏ, càng làm nổi bật hai chữ triện cổ khắc bên trên.

    Ngọc Nhi.
     
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 15 - Lên tận trời xanh
    Chiều trong cung Thái Cực, cả gió cũng nhẹ nhàng êm dịu.

    Điện Lập Chính nguy nga sừng sững, toát lên vẻ ung dung.

    Quả là một nơi phù hợp với Vương hoàng hậu. Hoàng hậu sống ở đây chẳng khác mẫu đơn nở trong giếng vàng, đã rực rỡ lại thêm lộng lẫy.

    Dọn đến đây hơn một tháng, đột nhiên hoàng thượng lại dắt Quách thục phi đến thăm, hoàng hậu thừa hiểu là ý gì, nhưng vẫn điềm nhiên, tươi cười niềm nở, ung dung thoải mái ra đón hai người vào, như thể mình vẫn đang ở giữa gác Bồng Lai, nắm trong tay tính mạng của mấy vạn người trong cung Đại Minh cho tới muôn vạn người thiên hạ.

    Hoàng đế ân cần hỏi: “Ở đây có quen không? Hình như hoàng hậu rất thích chỗ này.”

    Vương hoàng hậu cười nhìn ngài ngự, đáp khẽ: “Thần thiếp nào dám thích, kẻo hoàng thượng lại ban cho thiếp ở nơi này mãi mãi.”

    Hoàng đế nhìn nữ nhân mình hiểu rõ nhất mà cũng lạ lẫm nhất dưới gầm trời này, bỗng dưng chẳng biết nói gì.

    Quách thục phi giơ quạt che miệng cười nói: “Thì ra hoàng hậu vẫn thích cung Đại Minh ư? Cũng phải thôi, gác Bồng Lai mùa hè là mát nhất. Chỉ sợ không bao lâu nữa vào thu, điện gác bỏ không lại sinh ra lạnh lẽo, phải bày biện thêm nhiều đồ đạc cho ấm cúng.”

    “Dù lạnh lẽo, nhưng luận về cảnh trí thì đó là nơi đẹp nhất trong cung, chỉ thua chỗ bệ hạ mà thôi. Ta thấy nếu có cơ hội, hẳn thục phi cũng thích lắm.”

    Quách thục phi ngạo nghễ đáp: “Thần thiếp nào dám vọng tưởng…” Dứt lời, lại ngóng nhìn ra phía ngoài.

    Hoàng hậu vẫy vùng trong cung bấy nhiêu năm, đã hiểu rõ Quách thục phi như lòng bàn tay, bèn hỏi: “Linh Huy đi đường bị chậm trễ gì ư?”

    Hoàng đế kinh ngạc hỏi: “Linh Huy sắp đến à?”

    “Thưa vâng, công chúa cứ nói muốn đến cung Thái Cực thăm hoàng hậu, nhưng chưa có dịp. Hôm nay nhân cơ hội hoàng thượng đến chơi, thiếp bèn sai người báo cho nó.”

    Hoàng đế tỏ vẻ khó chịu: “Hôm nay chỉ có mấy lời quan trọng định nói với hoàng hậu, việc gì phải gọi Linh Huy đến cho rầy rà?”

    Hoàng hậu cười nhìn hoàng đế: “Thục phi sợ hoàng thượng mềm lòng, nếu có Linh Huy mà hoàng thượng yêu thương nhất ở đây, may ra có thể cảnh tỉnh đôi phần chăng?”

    Hoàng đế biết hoàng hậu đã thừa hiểu mục đích chuyến thăm này, giờ còn nói toạc ra, khiến ngài ngự có phần lúng túng, đành đi thẳng vào đề: “Nếu hoàng hậu ưa thanh tĩnh thì trẫm có thể thành toàn cho nàng.”

    Vương hoàng hậu nhoẻn cười đáp: “Thần thiếp không phải không ưa tĩnh, nhưng mười mấy năm nay đã cùng bệ hạ dõi mắt trông khắp giang sơn gấm vóc, ngắm hết thịnh thế phồn hoa. Nếu trời cao rủ lòng thương, mong rằng hãy để thiếp được bầu bạn bên bệ hạ suốt đời này, răng long tóc bạc.”

    Quách thục phi cười cười, hờ hững chêm vào: “Tấm lòng của hoàng hậu cũng bao la quá, bệ hạ là của chung thiên hạ, há có thể cùng một người đàn bà răng long tóc bạc hay sao?”

    Vương hoàng hậu ngồi ngay ngắn trước mặt Quách thục phi, cười đáp: “Thục phi không hiểu rồi. Bản cung là hoàng hậu, là chính cung của bệ hạ, tuy trời cao vô tình, nhưng vợ chồng kết tóc mười mấy năm, cũng đã chung vai trả vô vàn mưa gió. Dưới gầm trời này, nếu có kẻ nào có thể bạn bầu cùng bệ hạ, thì đương nhiên là bản cung.”

    Tính tình hoàng đế vốn ôn hòa độ lượng, giờ lại nghe hoàng hậu nói vậy, bất giác nhớ đến bao hồi ức xa xưa, lại thấy dung mạo hoàng hậu vẫn hệt như năm ấy, tóc vấn thành ba búi, cài cây trâm mành mành vàng ròng chạm hình sẻ xanh, phục sức lộng lẫy, xong không che lấp được mảy may ánh hào quang hấp dẫn tự thân.

    Đây là nữ tử đã kề cận bên mình mười mấy năm, mỹ nhân trong cung cũng như hoa, hết mùa này sang mùa khác, lần lượt nở rộ rồi tàn lụi, chẳng cách nào khôi phục lại nhan sắc năm xưa, duy chỉ có người này càng ngày càng rực rỡ, càng kiều diễm mê người.

    Vì vậy, dù biết hoàng hậu đã lừa dối mình, dù biết quá khứ của hoàng hậu không thể chấp nhận được, xong hoàng thượng vẫn tự an ủi, trên đời này chỉ có mình là người phù hợp với hoàng hậu nhất, dẫu trước kia hoàng hậu từng qua lại với kẻ nào, thì chỉ khi ở cạnh mình, hoàng hậu mới phơi bày dung mạo mỹ lệ yêu kiều nhất. Có vậy, ngài ngự mới không thấy uổng phí tình cảm mười mấy năm nay.

    Nghĩ đến đây, hoàng đế lại không nén nổi tiếng thở dài. Ngài nhìn sang hoàng hậu, căn dặn: “Hoàng hậu cứ nghỉ ngơi cho khỏe, để trẫm cân nhắc thêm đã.”

    Vương hoàng hậu uyển chuyển vái chào, xong khi ngẩng lên đã rưng rưng nước mắt, gương mặt kiều diễm vẫn cười mà hai mắt thì ầng ậc nước, nhìn đáng thương khôn tả.

    Thấy hoàng đế đứng dậy đi ra, Quách thục phi bất giác buột miệng: “Không phải bệ hạ có chuyện muốn nói với hoàng hậu ư?”

    Hoàng đến chẳng buồn ngoái lại, vừa xăm xăm đi ra vừa đáp: “Vốn chỉ nói tới thăm hoàng hậu thôi mà, đây cũng là trẫm quan tâm hoàng hậu. Phi biết rõ Linh Huy đang ốm, lại bảo nó ra ngoài, còn không nói với trẫm, quả là quá phận.”

    Quách thục phi ấm ức, lỡ miệng cãi lại: “Linh Huy là con gái thần thiếp, bảo nó tới thì có gì là quá phận…”

    Vừa buột miệng, phi liền thấy không ổn, vội im bặt.

    Hoàng đế đã ra khỏi điện Lập Chính, đang xuống thềm.

    Quách thục phi bị bỏ lại chỉ biết đứng ngẩn ra giữa điện, ngoái đầu thì thấy Vương hoàng hậu thong thả tiến lại. Hoàng hậu cười đầy ẩn ý, ghé tai hỏi nhỏ: “Thục phi định dựa vào Đồng Xương chứ gì? Bản cung thực không biết, các triều đại xưa nay có phi tần nào dựa vào con gái mà leo lên được không?”

    Nhìn nụ cười của hoàng hậu, Quách thục phi bỗng thấy kinh hãi vô cớ, vội lùi lại, cãi cố: “Đã có hoàng hậu sinh được con trai bị biếm vào lãnh cung, tất cũng có phi tần sinh được con gái mà thăng tiến.”

    “Chẳng phải vì năm ấy nói được một câu ‘sống được’ đấy ư” Vương hoàng hậu cười cười nhìn Quách thục phi, ánh mắt đầy khinh miệt và giễu cợt, xong giọng điệu vẫn dịu dàng uyển chuyển, điềm đạm khoan thai: “Một người đàn bà không có con trai mà dám vọng tưởng leo lên đỉnh cao nhất của cung Đại Minh, bản cung thật thương hại cho ngươi.”

    Lồng ngực Quách thục phi phập phồng dữ dội, bà ta trừng mắt nhìn hoàng hậu đầy căm hận. Hồi lâu mới cúi gằm mặt xuống, chẳng nói nửa lời, quay ngoắt người đi thẳng ra ngoài điện.

    Đúng lúc Quách thục phi bước xuống thềm thì thấy mấy tên hoạn quan hớt hải chạy tới, ngoài Trường Khánh khi nãy vẫn đợi bên ngoài, còn có Đức Chính, đại hoạn quan trong cung bà ta, cùng đám hoạn quan phủ công chúa và phủ Quỳ vương, những kẻ đáng lẽ không thể xuất hiện.

    Hoàng đế thấy mấy tên hoạn quan hoảng hốt lao tới bèn hỏi: “Có gì mà hớt hơ hớt hải thế?”

    Trường Khánh và Đức Chính tức thì quỳ sụp xuống đất, nước mắt ròng ròng, không dám lên tiếng.

    Hoàng Tử Hà trịnh trọng quỳ xuống bẩm báo: “Khởi bẩm bệ hạ, trên đường đến cung Thái Cực, Đồng Xương công chúa đã bị tập kích.”

    Hoàng đế kinh hoàng hỏi ngay: “Bị tập kích à? Có bị thương không?”

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Thương thế rất nghiêm trọng.”

    Hoàng đế tái mặt: “Đồng Xương đang ở đâu rồi?”

    “Muôn tâu, đã tức tốc đưa về phủ công chúa, cũng vào cung mời thái y rồi.”

    Hoàng đế nghe nói liền phất tay áo đi thẳng ra cửa cung, gọi lớn: “Phùng Hàn!”

    Từ Phùng Hàn theo hầu bên cạnh vội vã chạy theo: “Hoàng thượng đừng lo, công chúa ở hiền gặp lành, nhất định sẽ không việc gì…”

    “Đến phủ Đồng Xương ngay!” Hoàng đế thô bạo ngắt lời.

    Quách thục phi theo sau hoàng đế, mặt mày tái mét, lúc ngang qua Hoàng Tử Hà vẫn quỳ dưới đất, bà ta giận dữ trỏ cô mắng: “Làm hoàng thượng kinh sợ như thế, khi nào công chúa khỏe lại thì ngươi biết tay!”

    Công chúa không khỏe lại được nữa rồi.

    Hoàng Tử Hà nghĩ bụng. Đợi Quách thục phi đi khỏi, cô mới từ từ đứng dậy thở hắt ra.

    Trời xanh lồng lộng, ngày dài đằng đẵng. Linh hồn Đồng Xương công chúa đã về chốn suối vàng trời biếc, chẳng còn dây dướng với thế gian này nữa.

    Sinh thời phồn hoa, lễ tang long trọng, cũng chẳng liên quan gì tới nàng nữa.

    Hoàng Tử Hà giơ tay lên, nhìn vết máu Đồng Xương công chúa trên đó.

    Nàng công chúa được cả thiên hạ ngưỡng mộ, lớn lên giữa lầu son gác tía, bọc trong gấm lụa lượt là, ngọc ngà châu báu, nhưng có ai hay, nàng lại chết đi giữa độ xuân xanh, trong một góc tường hoang phế chỉ có dây leo và cỏ dại, ngay khi vừa rời khỏi các thị nữ vỏn vẹn một khắc.

    Khi phát hiện Đồng Xương công chúa đã chết, các thị nữ hầu hạ nàng đều sợ đến ngã quỵ xuống đất, khóc lóc thảm thiết, Trụy Ngọc vừa khóc vừa gào lên: “Nhất định là Phan thục phi nhà Nam Tề! Bà ta đã lấy trâm Cửu loan đi, giờ lại dùng nó sát hại công chúa!”

    Những kẻ khác không dám lên tiếng, nhưng nhìn vẻ kinh hoàng và khiếp hãi trong mắt họ, Hoàng Tử Hà hiểu, tất cả đều đồng tình với Trụy Ngọc.

    Sau khi gây án, hung thủ hốt hoảng chạy đến khúc ngoặt rồi vượt tường nhảy ra ngoài, vết chân xéo lên cỏ dại vẫn rành rành. Tường bao ở đây sát với con phố vừa tắc nghẽn phải giải tán, ngoài đường người đi lại nườm nượp, không ngừng tỏa ra bốn phía, sai dịch tức thì tóm lấy mấy kẻ lảng vảng phía ngoài hỏi han nhưng họ đều nói mình không để ý thấy ai vượt tưởng nhảy ra cả.

    Xem ra manh mối chủ yếu trong vụ này, ngoại trừ đối chiếu dấu vết hiện trường, thì chỉ còn cách tra xem, rốt cuộc kẻ nào có thể đánh cắp trâm Cửu loan giữa trùng trùng vòng vây canh gác của phủ công chúa, rồi đến hôm nay lại dùng chính nó đâm chết công chúa.

    Kẻ đánh cắp cây trâm ắt có liên quan mật thiết đến hung thủ.

    Hoàng Tử Hà đang mải ngẩm nghĩ, không để ý có người đến gần mình.

    Chợt một giọng thanh thanh có phần hơi the thé cất lên: “Chim trên cành, cá trong nước, người dưới hoa. Cảnh sắc đẹp thế này, chẳng hay Dương công công còn ngẩn ngơ nghĩ ngợi chuyện gì?”

    Thình lình nghe thấy tiếng nói sát bên cạnh, Hoàng Tử Hà giật bắn mình, vội bước lên một bước rồi mới ngoái đầu trông lại.

    Là một nam nhân áo tím, tuổi chừng ba mươi, da dẻ trắng đến lạ thường, xong cặp mắt lại đen thẫm, thân hình gày gò dong dỏng cao đứng tựa vào cội hoa phía sau cô.

    Nhưng dù đang mỉm cười, dù những đóa hoa trên cây lả tả trút xuống người, thì toàn thân y vẫn toát lên vẻ lạnh lẽo. Ánh mắt y dừng trên mặt Hoàng Tử Hà, khiến cô bất giác rùng mình.

    Bỗng chốc, cô nhớ đến gã đàn ông với cặp mắt rắn độc từng nhìn mình chòng chọc ở cung Thái Cực lần trước, bất giác nhìn xuống tay y. Trong chén sứ trắng to bằng cái bát, hai con cá đỏ đang bơi lượn.

    Thấy ánh mắt cô dừng ở hai con cá, y cười hỏi: “Dương công công cũng thích cá ư?”

    Cá. Hai con cá quẫy mạnh chiếc đuôi xòe như sa mỏng, nghe tõm một tiếng.

    Hoàng Tử Hà bỗng định thần lại. Cả triều đình Đại Đường này, chỉ có duy nhất một nội thị được mặc áo tím mà thôi.

    Vừa nghĩ tới người này, cô vội quỳ sụp xuống đất: “Dương Sùng Cổ tham kiến Vương công công.”

    Người kia nhìn xuống, giơ tay ra ý bảo cô đứng dậy. Nhìn vết máu long lổ trên tay cô, y hỏi: “Nghe nói…Đồng Xương công chúa xảy ra chuyện ư?”

    Hoàng Tử Hà thoáng ngần ngừ, rồi gật đầu.

    Vẻ mặt y vẫn điềm nhiên, khóe môi chỉ hơi nhếch lên đầy lạnh nhạt: “Nào, ngươi chìa tay ra đây.”

    Hoàng Tử Hà chần chừ chìa tay ra trước mặt y.

    Người nọ nắm lấy cổ tay cô, ngón tay y chẳng những trắng đến lóa mắt, mà còn mịn màng lành lạnh như ngọc chuốt, ấn mấy ngón tay dính máu của cô vào chén sứ.

    Vết máu đã khô lại loang ra trong nước, mấy cục máu nhỏ cũng tróc ra.

    Hai con cá tức thì bơi về phía mấy đốm máu nhỏ, tham lam mút mát vết máu trên ngón tay, khiến Hoàng Tử Hà sởn cả gai ốc.


    “A Già Thập Niết thích nhất máu người. Nghe nói Quỳ vương cũng nuôi một con, Dương công công nhớ đem bí quyết này mách lại với vương.”

    Nghe giọng nói lạnh lẽo của y, cô bất giác rùng mình, rụt phắt tay lại, làm bắn nước lên cánh tay trái đang cầm chén sứ của y, ướt cả tay áo, mặt y cũng dính vài giọt nước.

    Y giơ tay phải lên nhẹ nhàng lau nước trên mặt, lặng lẽ nhìn cô.

    Lưng Hoàng Tử Hà đầm đìa mồ hôi lạnh, cảm giác kinh hãi như bị rắn độc nhìn chòng chọc lại quặn lên. Cô vội vã hành lễ: “Vương công công thứ tội! E rằng tiểu nhân phải tới phủ công chúa ngay bây giờ.”

    “Đi đi.” Y vẫn điềm nhiên, chỉ hơi nhấc tay làm hiệu.

    Hoàng Tử Hà lập tức đứng dậy, lùi lại mấy bước rồi quay lưng chạy thẳng.

    Phủ công chúa đang náo loạn.

    Phát hiện ra đứa con gái mình yêu thương nhất chết ngoài đường, hoàng đế nổi cơn thịnh nộ. Các ngự y chẩn trị là xui xẻo nhất, vì không cứu được công chúa nên cả ba người đều bị lôi xuống phạt trượng, lúc Hoàng Tử Hà đến thì đã chết mất hai.

    Hoàng Tử Hà hay tin, bèn đứng cùng Chu Tử Tần thì thào trao đổi.

    “Nhưng lúc chúng ta phát hiện thì công chúa đã chết rồi, có là Hoa Đà tái thế cũng không thể cải tử hoàn sinh được…” Chu Tử Tần sợ ra mặt, giọng nói cũng run lên, “Sùng Cổ, giờ làm sao đây? Hoàng thượng cứ trút giận lên người khác thế này, e rằng sẽ có rất nhiều người bị vạ lây!”

    Hoàng Tử Hà nhìn vị ngự y bị lôi xềnh xệch ra, cau mày nói nhỏ: “Công tử lo cho mình trước đi, hoàng thượng đích thân giao phó cho chúng ta phụ trách vụ này, kết quả án chưa phá được thì công chúa đã bị giết, công tử nghĩ hoàng thượng có bỏ qua cho chúng ta không?”

    Mặt Chu Tử Tần càng tái ngắt, mồ hôi trán túa ra đầm đìa: “Sùng Cổ này, chúng ta phải đi tìm Quỳ vương nhờ cậy thôi…”

    “Giờ gia ở đâu? Công tử định đi đâu mà tìm?” Hoàng Tử Hà ngao ngán hỏi.

    Sắc mặt Chu Tử Tần lập tức xám ngoét: “Vậy, vậy làm sao đây?”

    “Lập công chuộc tội thôi.” Hoàng Tử Hà vừa dứt lời đã thấy một người bên trong sải bước đi ra, gầm lên: “Những kẻ nào trong phủ công chúa theo Đồng Xương ra ngoài? Tất cả phải bồi táng theo công chúa hết! Để bọn chúng xuống dưới đó tiếp tục hầu hạ Đồng Xương!”

    Là đương kim hoàng đế, người cha đang cả giận mất khôn.

    Cả đám hoạn quan và cung nữ nơm nớp đợi bên ngoài phủ, chợt nghe thấy tiếng quát như sét đánh giữa trời quang, tức thì đều òa khóc nức nở, bọn Thùy Châu vật vã dưới đất, mặt mày tái nhợt.

    Chu Tử Tần nghe vậy thì cuống cả lên, liều mạng tâu trình: “Bệ hạ, người hầu kẻ hạ của công chúa đều vô tội! Xin bệ hạ nghĩ lại!”

    Ánh mắt hoàng đế dừng ở gã, nhưng dường như cơn giận đã che mờ lý trí, trong chốc lát không hề nhận ra gã: “Ai dám nói nữa, cũng lôi cả xuống!”

    “Tâu bệ hạ, nô tài có lời muốn nói, xin bệ hạ châm chước!” Hoàng Tử Hà quỳ sụp xuống hành lễ, đoạn thưa: “Bệ hạ, nếu công chúa có biết, nhất định không muốn bệ hạ nổi cơn thịnh nộ, làm ra những chuyện hối hận về sau như thế, xin bệ hạ giữ gìn long thể, để công chúa dưới suối vàng được yên lòng.”

    “Dương Sùng Cổ!” Hoàng đế trừng mắt nhìn cô, gầm lên: “Ta lệnh cho ngươi điều tra mấy vụ nghi án ở phủ công chúa, nhưng đến nay ngươi vẫn chưa có tiến triển gì, làm bê trễ vụ án, đến nỗi Đồng Xương… Đồng Xương… đường đường công chúa Đại Đường, mà lại bị… bị kẻ gian giết hại ngoài phố!”

    Nói đến đây hoàng đế cũng nghẹn ngào, gần như nghẹt thở.

    Quách thục phi từ bên trong khóc lóc lao ra, vuốt xuôi giúp hoàng đế, nức nở: “Bệ hạ… Bệ hạ… Con gái độc nhất của thần thiếp… chết rồi! Tên hung thủ… hung thủ đó, nhất định phải bị lăng trì tùng xẻo, thiêu xác đổ tro!”

    Hoàng Tử Hà lại thưa: “Nô tài nhất định sẽ bắt hung thủ về quy án, nên xin bệ hạ giữ lại tính mạng cho những người này, để nô tài thẩm vấn điều tra cho rõ, sớm ngày phá án, bắt giữ hung thủ!”

    Hoàng đế đấm mạnh lên cây cột, nhìn lướt qua đám cung nữ, hoạn quan trước mặt, hằn học nói: “Kẻ hầu người hạ bên cạnh công chúa mà không bảo vệ được chủ nhân chu toàn, tất cả đều đáng chết!”

    Hoàng Tử Hà cụp mắt tâu: “Công chúa long dạ thiện lương, có ơn sâu nghĩa nặng với kẻ hầu người hạ, nếu công chúa biết được, ắt không muốn thấy bệ hạ đại khai sát giới vì mình thế này đâu.”

    Cả đám hoạn quan và cung nữ phủ công chúa đều quỳ rạp dưới đất, gật đầu như bổ củi, luôn miệng van vỉ.

    Máu nóng bốc lên đầu, hoàng đế choáng váng cả người, phải dựa cột nhìn vào bên trong, xong chỉ thấy màn trướng dày che kín giường công chúa.

    Trong đó là đứa con đầu lòng của hoàng đế, khi người còn là Vận vương, tương lai mờ mịt, chẳng biết ngày sau sẽ ra sao, bị tất cả mọi người bên cạnh hoài nghi, chỉ riêng đứa con gái này luôn nũng nịu sà vào long, coi người là chỗ dựa duy nhất. Mỗi lần ôm lấy cổ người, ánh mắt nó lại sang rực lên, dẫu Quách thục phi muốn bế, nó cũng không chịu rời ra.

    Bốn tuổi con bé mới biết nói, câu đầu tiên là “sống được”, chưa kịp hiểu nó có ý gì thì đội nghi trượng đến đón người đăng cơ đã tới cửa. Từ bấy, người tin chắc rằng đứa con gái này là báu vật trời ban cho mình nên trân quý như châu báu, mà nó cũng hết long tin tưởng, xem phụ vương như tấm bình phong vững chãi nhất.

    Vậy mà giờ đây, có kẻ đã cướp đi báu vật người trân quý nhất, chỉ để lại một mình người đau đớn nhìn thi thể lạnh ngắt của con.

    Hoàng đế từ từ gỡ tay Quách thục phi ra, căm hận lườm phi.

    Quách thục phi thoáng ngây người, nhưng rồi hiểu ra ngay, nhất định ngài ngự đã giận lây sang mình. Nếu phi không phải vì chuyện lật đổ hoàng hậu mà gọi Đồng Xương vào cung, thì công chúa cũng không đến nỗi chết ngay giữa phố.

    Nghĩ vậy, Quách thục phi vừa uất ức vừa đau xót, vội quay phắt đi bưng mặt nén tiếng khóc.

    “Cái gì mà Phan Ngọc Nhi, Phan thục phi nhà Nam Tề! Hồn ma mấy trăm năm trước, sao có thể lấy mạng công chúa mà trẫm yêu thương nhất được!” Hoàng đế đứng trước điện quát lớn, tuy giọng nói đã hơi khàn, nhưng vẫn bừng bừng sát khí khiến người ta chẳng rét mà run: “Tra đi! Tra rõ rang cho trẫm! Xem kẻ nào giả thần giả quỷ, kẻ nào đặt điều nhiều chuyện, kẻ nào… giết Linh Huy của trẫm!”

    Tất cả đều quỳ sụp xuống trước mặt ngài ngự, không dám thở mạnh.

    Tiếng quát của hoàng đế văng vẳng trong đại sảnh lặng phắc, càng lộ ra nỗi đau thương.

    Ngài ngự thình lình quay phắt lại, trừng mắt nhìn về thi thể Đồng Xương công chúa, lồng ngực phập phồng dữ dội, đau đớn và phẫn hận như một ngọn lửa hữu hình thiêu đốt thân thể người, khiến người chỉ muốn lật tung cả phủ công chúa, giết sạch những kẻ trước mặt chôn chung theo con gái.

    Nhìn đăm đăm về phía con gái hồi lâu, lửa giận phừng phừng dần dần cũng nguội, đau xót lại như thủy ngân từ đỉnh đầu trút xuống, lan khắp toàn thân. Khi hơi lạnh nuốt chửng lấy ngọn lửa, cuối cùng hoàng đế cũng hiểu ra rằng, đứa con gái yêu kiều người từng ôm vào lòng đã không còn nữa; tiếng gọi phụ hoàng nũng nịu lẫn trong giọng cười lanh lảnh đã không còn nữa; đôi tay từng níu tay người nhõng nhẽo đã không còn nữa; cặp mắt long lanh luôn kính ngưỡng người, cũng không còn nữa.

    “Dương Sùng Cổ, dù có phải lật cả kinh thành này lên…” Hoàng đế chầm chậm giơ tay ngăn dòng nước mắt, nhưng không ngăn nổi cơn run rẩy nghẹn ngào, người nói rất chậm, như thể chỉ cần thả lỏng một khắc thì sẽ khóc òa lên.

    “… Ngươi phải cho trẫm một đáp án trước khi đưa tang công chúa. Trẫm muốn… thiêu xác đổ tro hung thủ trước linh cữu Đồng Xương!”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ quỳ xuống dập đầu, nghiêm trang đáp: “Vâng.”

    “Suýt nữa là mất mạng…”

    Vừa rời khỏi đại sảnh đặt di thể công chúa, Chu Tử Tần đã lau mồ hôi lẩm bẩm: “Quỳ vương đi đâu không biết, không có vương gia ở đó, ta sợ quá đi mất…”

    Hoàng Tử Hà thấy phò mã Vi Bảo Hoành đang đứng lặng ngoài sảnh, bèn ra hiệu cho Chu Tử Tần nín lặng, đi đến trước mặt phò mã hành lễ.

    Vi Bảo Hoành gượng gạo giơ tay ra ý bảo hai người không cần đa lễ, hai mắt hắn ầng ậc nước, tuy ra sức kìm nén, nhưng lệ vẫn lăn dài.

    “Đều tại… tại ta cả.” Hắn lẩm bẩm, giọng thiểu não: “Quỳ vương và công công đã dặn dò… dặn ta phải trông nom công chúa… vậy mà khi nàng muốn ra ngoài, ta lại không can ngăn…”

    Hoàng Tử Hà buồn bã, cũng chẳng biết nói gì, đành khuyên nhủ: “Xin phò mã bớt đau buồn.”

    Vi Bảo Hoành chỉ khẽ gật đầu, nghẹn ngào không thốt nên lời.

    Thấy vậy, Hoàng Tử Hà an ủi thêm vài câu rồi cùng Chu Tử Tần cáo từ.

    Rời khỏi khu Thập Lục trạch, nơi đặt phủ công chúa, Hoàng Tử Hà ngớ ra, Chu Tử Tần cũng ngớ ra.

    Xe ngựa của Lý Thư Bạch đang dừng ngay đó đợi họ. Cạnh xe có một người đang đứng, chính là Trương Hàng Anh.

    Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Hoàng Tử Hà định thần lại trước, vội gật đầu chào Trương Hàng Anh rồi chạy đến cạnh xe hành lễ: “Tham kiến vương gia.”

    Lý Thư Bạch đang ngồi trên xe đọc công văn, chẳng buồn ngẩng lên: “Hạn mấy ngày?”

    “Thưa, trước lúc đưa tang.”


    “Còn may, hoàng thượng coi như cũng rộng lượng với ngươi rồi đấy.” Y nhướng mắt liếc cô rồi gập công văn lại, “Lúc công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang ở trong ngục, rõ ràng không có khả năng gây án.”

    “Mà ba vụ án mạng này rất có thể là cùng một hung thủ, tham khảo bức tranh kia để ra tay.” Hoàng Tử Hà trầm ngâm nhận xét, “Bởi vậy, khả năng Tích Thúy là hung thủ hai vụ trước không nhiều.”

    “Gã Trương Hàng Anh kia,” Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn ra bên ngoài, “Cứ ngồi lì bên ngoài Đại Lý Tự, trông có ra thể thống gì không? Ngươi bảo hắn về nhà yên tâm đợi tin, hoặc là điều quách hắn từ Tả Kim Ngô Vệ sang giúp các ngươi tra án, làm chân chạy vặt cũng được.”

    Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng, “Ý gia là… muốn bỏ qua cho Trương Hàng Anh ư?”

    Lý Thư Bạch nheo mắt nhìn cô, “Còn hỏi nữa, người cứ lén lút qua lại với hắn, ta trông cũng ngứa cả mắt.”

    “Đa tạ vương gia.” Hoàng Tử Hà đuối lý, đành cúi gầm mặt xuống, nhưng rồi lại nhớ ra ngay, “Vậy nô tài dẫn Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự, xem Tích Thúy có cung khai thêm gì không.”

    Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, ra hiệu cho cô lên xe, rồi bảo Chu Tử Tần qua cửa sổ: “Tử Tần, người cùng Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự trước xem tình hình thế nào, chúng ta sẽ đến đó ngay.”

    Nói vậy nhưng xe ngựa lại đi về phía Nam, nhằm hướng phủ Ngạc vương. Hoàng Tử Hà biết ý y, nên chỉ điềm nhiên hỏi: “Gia cũng cảm thấy, đây chính là hình vẽ thứ ba trong bức họa ấy ư?”

    “Chết dưới cánh loan phượng… Trâm Cửu loan chính là con chim bổ xuống giết người, đúng không nào?” Y nghiêng đầu nhìn cô, đoạn giở bức tranh kia ra, nhìn qua cả ba hình vẽ.

    Bị sét đánh chết cháy, là Ngụy Hỷ Mẫn tại chùa Tiến Phúc.

    Chết trong lồng sắt, là Tôn ghẻ giữa căn nhà bít bùng.

    Bị chim phượng bổ xuống mổ chết, là Đồng Xương công chúa bị trâm Cửu loan đâm trúng tim.

    Lý Thư Bạch ngước nhìn cô: “Ngươi thấy thế nào?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nếu một hai người, còn có thể bảo là trùng hợp. Nhưng trùng hợp đến mức này không tìm Ngạc vương không xong.”

    Ngạc vương Lý Nhuận thường ngày chỉ nhàn nhã ở trong phủ, hôm nay Lý Thư Bạch lại sai người đến báo trước, nên khi họ tới nơi, y đã pha sẵn trà ngồi đợi.

    Cạnh tay y là một chiếc hộp dẹt.

    “Tứ ca, nghe nói Đồng Xương xảy ra chuyện ở phường Bình Khang à?” Ngạc vương đích thân rót trà cho hai người, hơi nóng nghi ngút bốc lên rồi lan ra, khiến phòng trà trở nên mờ ảo.

    Lý Thư Bạch gật đầu.

    “Bị thương ư?”

    Lý Thư Bạch lắc đầu: “Đã quy tiên rồi.”

    Lý Nhuận bỗng khựng lại, làm nước tà hơi sánh ra ngoài, xong y chẳng hề để tâm, cứ ngẩn ra nhìn chằm chằm đám bọt xoay tròn trong cốc, giọng nghẹn lại như rặn ra từ cổ họng: “Làm sao… mà mất?”

    “Bị cây trâm Cửu loan mình yêu thích nhất đâm chết.”

    “Ai đâm?”

    Lý Thư Bạch lắc đầu: “Lúc bấy giờ hỗn loạn, không bắt được hung thủ.”

    Lý Nhuận đặt ấm trà xuống, thần người ra giây lát rồi khẽ cảm thán: “Đồng Xương là công chúa, sao có thể chết không minh bạch như thế, đúng là không thể tin nổi…”

    “Khó tin nhất không phải cái chết của công chúa, mà là…” Lý Thư Bạch ra hiệu cho Hoàng Tử Hà đặt cuộn tranh lên bàn, rồi trải ra cho Ngạc vương xem: “Thất đệ đã thấy bức tranh này bao giờ chưa?”

    Lý Nhuận gật đầu: “Đệ từng thấy tại nhà Trương Hàng Anh một lần. Lúc ấy mấy người bọn đệ còn tùy tiện chỉ trỏ bình luận ba hình vẽ trên đó, thực không ngờ… tất cả lại trở thành sự thật.”

    “Ừ, ta cũng có nghe nói.” Lý Thư Bạch than thở, “Trước lúc Đồng Xương gặp nạn, ta từng xem qua bức tranh này, xong không chú ý lắm. Nếu lúc ấy nhận ra được manh mối gì đó, có lẽ hôm nay đã chẳng thành chuyện.”

    “Thực ra… đệ đã thấy nó không bình thường từ lâu rồi.” Lý Nhuận phân vân nói, “Lần đầu tiên trông thấy, đệ đã cảm thấy chuyện này quá đỗi kỳ dị, sau khi về phủ vắt óc nghĩ mãi mấy hôm không thông, e rằng nay phải thỉnh giáo Tứ ca.”

    Đoạn y mở chiếc hộp dẹt bên cạnh ra.

    Trong hộp là một mảnh giấy được gấp vuông vắn, nhìn như mẩu giấy bông cũ vẫn dùng để vẽ mẫu thêu, trên có hai ba hình vẽ nguệch ngoạc đen sì bằng chì kẻ mày, trông cũng rối mắt hệt bức họa ở nhà họ Trương.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Quỳ vương cầm hẳn mẩu giấy lên, vẫy cô lại cùng xem.

    Là một mảnh giấy bông to chừng bàn tay, nét vẽ ngả nghiêng xiêu vẹo, rõ ràng người vẽ không biết gì về hội họa. Về cơ bản có thể thấy đường nét hai bức khá tương đồng. Ở hình thứ nhất, phía trên khối mực đen là một nét mảnh; hình thứ hai có bảy đường ngang tám đường dọc bao quanh một khoanh mực chẳng nhìn ra hình thù gì; hình thứ ba là hai mảng đen ngòm dính liền vào nhau, một trên một dưới.

    Bức tranh ở nhà họ Trương còn có thể gượng coi là miêu tả cái chết của ba người, còn bức vẽ trên giấy bong này tuy đường nét tổng thể tương tự, nhưng chi tiết thì không thể bằng được, nhìn vào không hiểu là gì, chỉ thấy ba mảng mực.

    Lý Thư Bạch ngắm nghía hồi lâu rồi đưa mẩu giấy cho Hoàng Tử Hà, quay sang hỏi Lý Nhuận: “Chẳng hay bức tranh này của Thất đệ từ đâu mà có?”

    Lý Nhuận bưng ly trà thở dài: “Không dám giấu Tứ ca, là mẫu phi đệ vẽ.”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch sững người, không ngờ bức tranh này lại từ mẫu phi Lý Nhuận. Hoàng Tử Hà không biết những chuyện thâm cung bí sử, nhưng Lý Thư Bạch hiểu rõ, mẫu phi Trần Tu Nghi của Lý Nhuận dịu dàng hòa nhã, giỏi lựa ý người, mấy năm tiên hoàng đau ốm, đều do bà ta cận kề chăm sóc.

    Đêm tiên hoàng băng hà, bà ta đau lòng đến suy sụp, từ bấy thành ra dở điên dở dại. Được sự đồng thuận của các thái phi, Lý Nhuận đã đón mẫu phi ra khỏi cung, đưa về phủ phụng dưỡng.

    “Năm ngoái mẫu phi qua đời. Trước ngày mất mấy hôm, bà như được hồi quang phản chiếu, còn nhận ra đệ. Chắc là trời thương, chứ đệ cứ nghĩ, bà chỉ nhớ hình ảnh đệ lúc nhỏ thôi.” Khóe môi Ngạc vương vẫn thấp thoáng nụ cười như mọi khi, xong mắt đã rân rấn nước, “Nhân lúc tỉnh táo, bà đưa cho đệ bức tranh này. Bấy giờ đệ cũng chẳng để tâm, nhưng sau khi bà qua đời, đệ mới nhận ra, đây là thứ duy nhất bà chính tay giao cho đệ. Bởi thế, tuy cho là bức vẽ nhăng cuội của mẫu phi lúc phát bệnh, nhưng đệ vẫn giữ trong thư phòng. Mãi đến mấy hôm trước, đệ trông thấy bức họa ở nhà Trương Hàng Anh…”

    Nói đến đây, y đưa bút nhìn sang ngự bút tiên đế, nghi hoặc hỏi: “Nhưng vì sao phụ hoàng lại để lại bức tranh như vậy, còn mẫu phi đệ, tại sao sau mười năm bệnh tật, còn lén lút vẽ theo, giao tận tay đệ?”

    Hoàng Tử Hà cầm tờ giấy bông lên hỏi: “Thứ cho nô tài mạo muội, chẳng hay đưa bức vẽ này cho vương gia, thái phi có căn dặn gì không?”

    “Mẫu phi nói…” Lý Nhuận im lặng nhíu mày, đưa mắt ra lệnh cho người hầu lui ra. Đợi tất cả lui hết, y mới đáp khẽ, “Mẫu phi lúc ấy không được tỉnh táo, nói rằng, thiên hạ Đại Đường…”

    Thiên hạ Đại Đường sắp mới rồi.

    Xong y không nói nốt nửa câu sau, chỉ kể đại khái: “Mẫu phi nói năng lộn xộn, có lẽ muốn bảo thiên hạ náo động, Đại Đường sắp suy vong… Còn dặn rằng bức vẽ này liên quan đến sự tồn vong của Đại Đường, bắt bản vương cất giữ cẩn thận.”

    Lý Thư Bạch lấy lại mảnh giấy từ tay Hoàng Tử Hà, nghiêm trang đặt vào tay Ngạc vương: “Đa tạ Thất đệ. Xem ra bức tranh này nhất định là thái phi vẽ phỏng lại di bút của tiên hoàng theo trí nhớ.”

    Lý Nhuận nhận lấy bức tranh, ngạc nhiên hỏi: “Bức tranh kia là… di bút tiên hoàng ư?”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Ta đã đến nội phủ tra hồ sơ lưu của cung đình, quả nhiên trong ghi chép về lịch trình sinh hoạt của tiên hoàng có ghi rõ, Trương Vĩ Ích, chính là cha Trương Hàng Anh, đã vào cung thăm bệnh cho phụ hoàng ngày mồng mười tháng Tám năm Đại Trung thứ mười ba.”

    Lý Nhuận hồi tưởng lại: “Lúc ấy đệ còn nhỏ tuổi, nhưng cũng biết phụ hoàng dùng lầm thuốc, dẫn đến thánh thể bất an từ tháng Năm, đến tháng Bảy thì cả ngày hôn mê. Ngự y bó tay hết cách, mấy hoàng tử bọn đệ bấy giờ vẫn ở trong cung, muốn vào thăm phụ hoàng nhưng toàn bị đám hoạn quan ngăn lại bên ngoài. Các đại danh y trong kinh lần lượt được triệu vào cung, nhưng đều chẳng có cách nào…”

    “Trương Vĩ Ích là danh y cuối cùng, vào cung đúng ngày phụ hoàng băng hà. Ta đã sai người đi hỏi ông ta về lần tiến cung ấy, theo ông ta nhớ thì lúc đó ông ta là danh y ở Đoan Thụy Đường, tháng Tám phụng chiếu vào cung chẩn mạch cho phụ hoàng, bấy giờ phụ hoàng đã hôn mê, nhưng sau khi ông ta châm cứu, quả thật người từng tỉnh lại. Có điều cũng như mọi người trong cung, ông ta biết đây chỉ là hiện tượng hồi quang phản chiếu, triệu ông ta vào cung trị bệnh, chẳng qua chỉ mong phụ hoàng tỉnh lại chốc lát, sắp xếp nốt việc lớn trước khi băng hà thôi.”

    Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Khó khăn lắm mới tỉnh táo được một lúc, sao tiên hoàng còn vẽ tranh ban cho Trương Vĩ Ích?”

    Lý Thư Bạch và Lý Nhuận cũng thắc mắc điểm này. Bấy giờ tiên hoàng đã hấp hối, đáng ra phải lo an bài việc lớn của triều đình sau khi mình qua đời, chứ đâu phải vẽ tranh ban cho một thầy thuốc dân gian.

    “Thế nên người ta mới không hiểu nổi. Ngay chính Trương Vĩ Ích cũng chẳng hiểu gì cả. Sau khi tiên hoàng tỉnh lại, ông ta phải lui xuống ngay, một thầy thuốc dân gian sao có thể ngồi nghe việc lớn trong cung được?” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Hồ sơ trong cung cũng ghi như thế. Tiên hoàng tỉnh lại, Trương Vĩ Ích lui ra. Chưa ra đến cửa cung, có người đuổi theo nói hoàng thượng cảm tạ tay nghề của Trương đại phu, ban cho một bức ngự bút. Ông ta mừng quá, vội hướng về phía điện Tử Thần dập đầu bái tạ, rồi nhận lấy cuộn tranh, vừa đi vừa giở ra xem, tức thì sững sờ không nói lên lời.”

    Theo lời kể khe khẽ của hai người kia, ánh mắt Hoàng Tử Hà dừng ở bức tranh nọ. Thật không ngờ bản vẽ nguệch ngoạc này, hóa ra lại là di bút của tiên hoàng từ mười năm trước. Chắc hẳn lần đầu tiên trông thấy nó, Trương Vĩ Ích cũng không sao tin nổi.

    Vậy mà mười năm sau, lại có ba vụ án mô phỏng theo hình vẽ trên đó, quả là không thể tưởng tượng, rất khó truy tra.
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 16 - Đêm vân ngày gấm
    Sau khi từ biệt Ngạc vương, hai người quay về thì trời đã tối.

    “Ngươi về phủ hay đến Đại Lý Tự trước?”

    Hoàng Tử Hà đáp ngay, không chút do dự: “Về phủ, tôi mang chút gì ăn đến Đại Lý Tự. Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh vẫn ở đó mà.”

    Lý Thư Bạch cũng chẳng phản đối: “Sau khi về thì đến đài Chẩm Lưu, ta đợi.”

    Hoàng Tử Hà không màng ăn uống, chỉ chạy xuống bếp lấy hộp cơm rồi lại nhảy lên xe ngựa vương phủ, đến thẳng Đại Lý Tự.

    Thiếu khanh Đại Lý Tự Thôi Thuần Trạm đã tới phủ công chúa. Vừa nghe tin này, Hoàng Tử Hà mường tượng ra ngay vẻ mặt nhăn nhó như bị đau răng của hắn.

    Đại Lý Tự thừa là Phạm Dương đang ở đó, thấy Hoàng Tử Hà đến vội khách khí hành lễ với cô, mặt vẫn tái mét vì sợ: “Công chúa được thánh thượng yêu nhất bị giết ngoài phố, chuyện này làm sao bây giờ, Dương công công?”

    Hoàng Tử Hà thở dài: “Giờ đành đợi ý chỉ của hoàng thượng rồi tính.”

    Phạm Dương giậm chân than vãn một hồi, chẳng buồn để tâm đến những việc khác. Hoàng Tử Hà nói muốn đem hộp cơm cho Lữ Tích Thúy, hắn cũng chẳng hỏi han gì, chỉ xua tay: “Tử Tần và tên Trương Hàng Anh ấy đang ở trong đó, công công cứ vào đi.”

    Trời tối mà cả phòng chỉ có mỗi một ngọn đèn leo lét trong hốc tường. Hoàng Tử Hà đứng trước cửa, trông thấy Tích Thúy và Trương Hàng Anh đang dựa vào nhau dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn lửa lập lòe, cả hai đều bất động, thẫn thờ nhìn chằm chằm vào đốm sáng trong hốc tường.

    Chu Tử Tần ngồi chồm hổm trước cửa, thấy cô đến thì mừng rỡ đứng phắt dậy: “Sùng Cổ đến rồi đấy à? Ồ… hay quá, còn mang cả đồ ăn đến nữa, ta sắp chết đói rồi đây!”

    Đoạn gã đón lấy hộp cơm từ tay Hoàng Tử Hà, vồn vã bảo hai người bên trong: “Trương nhị ca, A Địch, bất kể thế nào thì ăn cơm vẫn là quan trọng nhất, nào nào, đến đây ăn chút gì đi!”

    Chu Tử Tần xăng xái bày chén đĩa ra, đặt hai món mình thấy ngon mắt nhất trước mắt Tích Thúy và Hoàng Tử Hà, rồi chia đũa cho mọi người.

    Thím nấu bếp ở phủ Quỳ rất quý Hoàng Tử Hà, toàn để dành cho cô những món ngon nhất, tiếc rằng cả bốn người không ai nuốt nổi.

    Hoàng Tử Hà nhìn Tích Thúy, nói bằng giọng ôn hòa hết mức: “Lữ cô nương, chắc Tử Tần cũng nói với cô rồi, chúng tôi lại có vài chuyện nhỏ phải hỏi, mong cô trả lời chúng tôi.”

    Tích Thúy nơm nớp đứng dậy đáp khẽ: “Tôi… tôi không còn gì để nói cả, tôi đã nói hết rồi mà…”

    Thấy nàng kinh sợ, Chu Tử Tần vội khoát tay giải thích: “Cô đừng hiểu lầm, đừng hiểu lầm mà, Trương nhị ca là bạn chúng ta, nên cô cũng là bạn chúng ta, cứ coi như đang tán gẫu vậy thôi.”

    Thấy Tích Thúy vẫn ngập ngừng, Hoàng Tử Hà liền vỗ lưng Trương Hàng Anh: “Lữ cô nương tin chúng tôi đi. Tốt xấu gì cũng sẽ đứng về phía cô, bằng không để người của Đại Lý Tự đến hỏi, e rằng cô còn sợ hãi hơn.”

    Nghe vậy, Trương Hàng Anh vội gật đầu, dỗ dành Tích Thúy: “Muội yên tâm đi, Dương công công rất lợi hại, trên đời làm gì có vụ án nào công công không phá được đâu! Ta tin chỉ cần muội nói thực, Dương công công nhất định sẽ rửa oan cho muội.”

    Tích Thúy ngẩng lên, đăm đăm nhìn gã hồi lâu, rồi gượng gạo nhếch môi đáp: “Nhưng… muội không còn gì để nói cả, chính muội đã giết hai người kia.”

    “Nói dối chúng tôi không ích gì đâu.” Hoàng Tử Hà cắt lời nàng rồi đưa mắt sang Chu Tử Tần, Chu Tử Tần hiểu ý nói ngay: “Lữ cô nương, chính tay ta đã khám nghiệm tử thi Tôn ghẻ, nhớ rõ những vết thương trên người hắn.”

    Nói rồi, gã quay ra ngoài bẻ một cành cây đưa cho Tích Thúy: “Lữ cô nương, cô thử coi ta là Tôn ghẻ, diễn lại tình hình lúc đó xem. Cô nói Tôn ghẻ đứng trong khung cửa, nên cô giơ dao đâm hắn hai nhát, đúng không nào?”

    “Đúng…” Tích Thúy nắm chặt cành cây, run rẩy đáp.

    “Vậy lúc đó cô đâm thế nào?”

    Tích Thúy chần chừ nhìn Trương Hàng Anh, lại nhìn cành cây trong tay, cuối cùng vẫn giơ lên đâm xuống ngực Chu Tử Tần.

    Trương Hàng Anh phát hoảng, định ngăn cản thì Chu Tử Tần đã nhanh nhẹn tóm lấy cổ tay Tích Thúy, chặn đứng thế đâm của nàng: “Lữ cô nương, nếu một người đứng đối diện đâm xuống thì vết dao phải đi từ trên xuống dưới. Nhưng vết thương của Tôn ghẻ lại từ trái sang phải, cũng tức là, hắn ta bị đâm khi nằm nghiêng sang phải, vết dao chếch xuống dưới nên chúng ta đoán chắc hung thủ thừa cơ Tôn ghẻ ngủ say thì ngồi trước giường vung dao đâm hắn, chứ không phải như cô nói là đâm khi hắn ra mở cửa.

    “Bởi vậy, nếu cô cứ khăng khăng nhận là mình giết Tôn ghẻ, thì hãy cho chúng tôi biết, cô làm thế nào lẻn được vào căn nhà bít bùng như lồng sắt đó để sát hại Tôn ghẻ khi hắn đang ngủ? Rồi làm sao thoát ra khỏi căn nhà cài chốt trong như thế?”

    Tích Thúy đứng ngây ra, không biết phản bác thế nào.

    Trương Hàng Anh trợn trừng mắt nhìn nàng, run run hỏi: “A Địch? Sao muội phải nói dối? Sao muội phải mạo nhận là hung thủ?”

    “Dĩ nhiên là vì huynh rồi, Trương nhị ca à.” Hoàng Tử Hà bình thản phân tích, “Huynh cho rằng cô ấy là hung thủ giết Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ, còn cô ấy lại tưởng huynh đã giết hai kẻ kia để báo thù thay cô ấy. Bởi thế, khi phát hiện huynh trở thành đối tượng bị tình nghi, thậm chí còn ảnh hưởng đến tiền đồ sau này, cô ấy bèn quả quyết hy sinh thân mình, đến Đại Lý Tự đầu thú, hòng gánh tội thay, bảo vệ cho huynh bình an!”

    Lời này của Hoàng Tử Hà khiến hai người Trương Hàng Anh và Tích Thúy đờ ra.

    “A Địch… muội ngốc quá!” Trương Hàng Anh vội chộp lấy tay nàng, một gã trai chừng ấy tuổi, vậy mà giờ đây mừng rỡ, giận dữ, buồn bã, bao cảm xúc lẫn lộn đều lộ ra ngoài mặt, thật không biết phải miêu tả thế nào: “Muội… muội đấy! Giờ chúng ta làm sao đây?”

    Thấy hai người siết chặt tay nhau, Hoàng Tử Hà vừa vui lại vừa buồn, đành an ủi: “Giờ công chúa đã qua đời, Lữ cô nương lại ở trong phòng tạm giữ của Đại Lý Tự nên không bị tình nghi. Nhưng trước đó cô đã nhận giết hai người kia, nên muốn bảo lãnh ra ngay cũng khó, e rằng phải đợi, bắt được hung thủ thật sự thì mới thả được.”

    Tích Thúy rầu rĩ gật đầu nói khẽ: “Xin lỗi Trương nhị ca, tại muội… tại muội không tin huynh…”

    “Không thể trách muội được, có trách thì trách ta đã giấu muội…” Trương Hàng Anh thở dài.

    “Hai vị thật là, làm ầm ĩ lên thế này, báo hại chúng ta phải lần lại từ đầu.” Chu Tử Tần ngán ngẩm lắc đầu, xách hộp cơm ra ngoài, xếp lại bàn ghế rồi cũng Hoàng Tử Hà ngồi xuống, Trương Hàng Anh và Tích Thúy song song ngồi xuống chiếc giường thấp.

    “Nào, hai vị là một trong những người đứng gần nhất, tận mắt chứng kiến thảm kịch ở chùa Tiến Phúc hôm đó, Lữ cô nương, hy vọng cô tạm thời gỡ bỏ gút mắc trong lòng, thuật lại thật kỹ tình hình lúc ấy cho chúng tôi nghe được không?”

    Tích Thúy lặng lẽ cắn môi nhìn Trương Hàng Anh, thấy gã gật đầu, mới cúi gầm mặt kể: “Nhưng hôm ấy thoạt đầu tôi đội mũ có mạng che nên không thấy rõ lắm cảnh tượng bên ngoài, về sau làm rơi mũ, trong lúc chờ Trương nhị ca nhặt giùm, tôi sợ bị người ta nhận ra, bèn ngồi thụp xuống che mặt lại. Bởi thế, tôi không thấy gì cả, thậm chí… thậm chí cũng không trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn giữa đám đông. Đáng lý bộ đồ hoạn quan đỏ chói như thế nhìn rất nổi bật, nhưng quả thật tôi không trông thấy.”

    Trương Hàng Anh cũng vắt óc nhớ lại: “Đúng thế, chùa Tiến Phúc hôm ấy có cả biển người, Ngụy Hỷ Mẫn lại thấp bé, lọt thỏm giữa đám đông, đến tôi cũng không trông thấy. Mãi tới khi trời giáng sấm sét làm nổ cây nến, thấy Ngụy Hỷ Mẫn lăn lộn trên mặt đất, tôi mới biết hóa ra y cũng đi chùa.”

    “Vậy hai vị nghĩ lúc đó… có thể có kẻ nào thừa cơ ra tay với y không?”

    “Hoàn toàn không thể!” Trương Hàng Anh dứt khoát lắc đầu, “Sét đánh nổ tung cây nến chỉ trong nháy mắt, ai đủ thời gian kéo Ngụy Hỷ Mẫn ra khỏi đám đông rồi xô vào lửa chứ?”

    “Hơn nữa, người y… cả người đều cháy phừng phừng, chứ không chỉ cháy một hai chỗ. Dù y lăn lộn dưới đất, cũng không dập nổi.” Tích Thúy khẽ khàng bổ sung, “Bởi vậy, tôi nghĩ, ắt là trời phạt.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn trầm tư hỏi: “Lúc đó các vị có nhìn rõ Ngụy Hỷ Mẫn không? Thấy y có gì khác lạ không?”

    Trương Hàng Anh gật đầu: “Đương nhiên rồi! Tôi biết y là kẻ hại Tích Thúy, nên ở giữa đám đông chen lẫn vẫn quay đầu nhìn y mấy lần. Thấy hình như y… đờ cả ra vì sợ, bị lửa thiêu như thế hẳn là rất đau đớn, thế mà thoạt đầu y còn ngây ra, nằm bò dưới đất một lát, mới gào lên lăn lộn khắp nơi hòng dập lửa.”

    “Ừm… muội cũng nhớ… trông y cứ như vừa tỉnh mộng ấy.”

    Chu Tử Tần vừa ghi vừa quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Thế nào đây, có phải càng điều tra càng giống trời phạt không?”

    Hoàng Tử Hà lờ gã đi, lại hỏi Tích Thúy: “Sao cô nương lại lấy bức tranh kia đi?”

    Nghe cô nhắc đến chuyện này, Tích Thúy run bắn lên, ngước mắt nhìn Trương Hàng Anh, thấy gã vẫn bình thản, còn dịu dàng nhìn mình đăm đăm, mới cắn môi đáp khẽ: “Tôi… bị cha tìm thấy rồi…”

    Trương Hàng Anh ngạc nhiên hỏi: “Từ lúc nào thế?”

    “Chính là hôm huynh đi đánh mã cầu đó.” Tích Thúy cúi gằm mặt, sợ sệt kể: “Muội muốn làm bánh cổ lâu cho huynh, bèn tới chợ Tây mua thịt dê… lúc ngang qua tiệm của cha, muội không kìm được, ngó vào trong…”

    Tuy nàng đã đội mũ có mạng che, nhưng dù sao cũng là cha con mười mấy năm, Lữ Chí Nguyên vẫn nhận ra ngay. Nàng mua thịt dê xong, về đến của nhà Trương Hàng Anh mới thấy là lạ, vừa quay lại thì trông thấy cha mình đang lẳng lặng đi theo đằng xa.

    Thấy Tích Thúy đã phát hiện, Lữ Chí Nguyên bèn đi thẳng đến trước mặt nàng: “Khá đấy, chẳng những không chết, mà còn tìm được chốn dung thân nữa.”

    Nàng run cầm cập, chỉ sợ người nhà họ Trương phát hiện ra thân phận thật của mình, đành nài nỉ cha đi cho mau, coi như không có đứa con gái này nữa.

    Nào ngờ cha nàng cười nhạt: “Tìm được chồng rồi, lại định rũ tao đấy à? Mày xem đã đền đáp được tí nào ơn dưỡng dục mười mấy năm nay của tao chưa? Tao nói cho mày biết, một là mày cút đi xa xa, đừng ở kinh thành này làm mất mặt tao, hai là mày bảo người nhà này chuẩn bị cho tao mười quan tiền sính lễ, coi như trả công tao nuôi nấng mày bấy nhiêu năm!”

    Chu Tử Tần thở dài hỏi: “Thế nên cô mới đánh cắp bức tranh đi cầm lấy mười quan tiền , trả cho cha cô ư?”

    Tích Thúy nghiến răng gật đầu: “Tôi… thực chẳng còn cách nào nữa, tôi không muốn xa Trương nhị ca, nhưng tôi cũng sợ huynh ấy biết quá khứ của mình… Tôi, tôi cứ ngỡ, dưới gầm trời này, chẳng ai chấp nhận nổi một kẻ nhơ nhuốc như tôi nữa…”

    Đoạn nàng giơ đôi tay run rẩy lên che mặt, giọng càng lúc càng nhỏ đi: “Tôi tuyệt vọng rồi, tôi cứ tưởng có thể nhốt mình trong gian nhà đó suốt đời, đó là nơi nương náu cuối cùng của tôi… Nhưng cha tôi ép tôi, ông ấy muốn cắt đứt tia hy vọng cuối cùng của đời tôi… Về sau nghe thấy Trương nhị ca kể về bức tranh đó, biết được nó có lai lịch không tầm thường, tôi bèn… đánh cắp nó giao cho cha, nói rằng đây là ngự bút của tiên hoàng, rất đáng tiền, bảo ông ấy cầm lấy rồi đừng bao giờ đến tìm tôi nữa. Ông ấy không tin nên tôi đã đem nó đi cầm, quả nhiên được mười quan. Tôi đưa tiền cho cha, còn nói, từ nay về sau nhà họ Lữ không có con gái nữa, tôi là người nhà họ Trương…”

    Đến đây nàng không kể tiếp được nữa, chỉ thổn thức không thôi, lâu thật lâu mới nghẹn ngào nói: “Xin lỗi Trương nhị ca… muội chính là tên trộm đánh cắp đồ gia bảo của nhà huynh…”

    “Không, đừng nói là muội làm vậy vì muốn ở bên ta, dù muội đem tất cả đồ đạc trong nhà đi bán hay đi vứt, cũng chẳng sao cả.” Trương Hàng Anh dịu dàng cầm lấy tay nàng dỗ dành: “Cha ta bệnh nặng vừa đỡ, ta lại phải ra ngoài làm việc, trong nhà chỉ có một tay muội lo liệu, muội đã thành bà chủ từ lâu rồi! Bà chủ đem đồ đi cầm thì có gì sai chứ?”

    Tích Thúy không ngờ Trương Hàng Anh lại nói thế, chỉ biết ngây ra nhìn gã, hai hàng nước mắt cứ thế lăn dài. Trương Hàng Anh nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng, đăm đăm nhìn nàng thật lâu, không giấu được vẻ buồn rầu: “A Địch, muội ngốc quá… giờ phải làm sao đây?”

    “Rõ thật là, giờ thành ra thế này, chẳng phải gay go ư?” Chu Tử Tần thấy xung quanh không có ai khác, mới hạ giọng nói: “Có điều hai người đừng lo, lần này công chúa qua đời, đối với triều đình là bất hạnh, xong với Tích Thúy cô nương lại là may mắn… Thôi thiếu khanh là người sáng suốt, chỉ cần Tích Thúy kể rõ đầu đuôi câu chuyện với huynh ấy, chúng ta sẽ nhờ mấy vị vương gia nói đỡ cho, dẫu sao Chiêu vương và Ngạc vương cũng từng gặp hai vị, nếu chúng ta nài nỉ, chắc họ chẳng ngại ra mặt nói mấy câu đâu. Về phần hoàng thượng, ta thấy giờ đây cả thiên hạ chỉ mình Quỳ vương thuyết phục nổi thánh thượng thôi. Việc này đành nhờ Sùng Cổ vậy…”

    Cả ba người đều đổ dồn mắt vào Hoàng Tử Hà, đầy hy vọng.

    Hoàng Tử Hà thoáng do dự, rồi gật đầu đáp: “Tôi sẽ cố gắng.”

    Trương Hàng Anh về nhà lấy chăn đệm và quần áo cho Tích Thúy, còn Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần rời khỏi Đại Lý Tự, vừa đi vừa thảo luận có phải Đồng Xương công chúa lúc ấy bị khống chế hay không, tại sao không kêu cứu. Chợt thấy Thôi Thuần Trạm cưỡi ngựa quay về, vừa nhảy xuống ngựa đã mừng rỡ reo lên với họ: “Tử Tần! Sùng Cổ! Hai người cũng ở đây à? Tốt quá rồi!”

    Ngoài cổng Đại Lý Tự thắp đèn sáng choang, cây đuốc trong tay tên tùy tùng của Thôi Thuần Trạm cũng cháy rừng rực, càng soi rõ nét mặt hân hoan của Thôi thiếu khanh, khiến hai người đều lấy làm ngạc nhiên, vội đưa mắt nhìn nhau: cứ tưởng Thôi thiếu khanh sẽ phải âu sầu gần chết chứ nhỉ!

    Trông thấy một thân hình béo phì bị lôi ra từ sau lưng Thôi Thuần Trạm, hai người lại càng kinh ngạc: gã trung niên lùn tịt tròn quay đang bị trói nghiến như đòn bánh tét kia chẳng phải Tiền Quan Sách hay sao?

    Vừa trông thấy bọn họ, Tiền Quan Sách tức thì gọi toáng lên: “Chu thiếu gia! Dương công công! Hai vị nhất định phải làm chứng cho tôi! Tôi quả thực không giết người mà! Càng không thể nào giết công chúa được!”

    Chu Tử Tần trợn tròn mắt kinh ngạc hỏi: “Thôi thiếu khanh, ông ta là hung thủ đấy ư?”

    Thôi Thuần Trạm cười tít cả mắt, tự đắc đáp: “Đúng thế, hôm nay ta phụng mệnh hoàng thượng, lục soát phủ công chúa, vừa hay tóm được tên này lén lút lẻn vào gặp một đầu bếp trong phủ. Chúng ta bắt lại hỏi han thì hắn khai rằng mình tới tìm con gái, định lừa ai chứ!”

    Chu Tử Tần nhìn theo Tiền Quan Sách bị lôi vào trong, ngạc nhiên hỏi: “Ô, con gái ông ta không phải thị nữ trong phủ công chúa sao?”

    “Thì đúng, hắn luôn miệng nói con gái mình là thị nữ hầu hạ bên cạnh công chúa, còn nói mình đã gặp nhiều lần, gần đây thấy con gái không có tin tức gì nên mới lén lẻn vào phủ nghe ngóng.” Thôi Thuần Trạm dè bỉu, “Nói dối cũng không nên hồn, bảo hắn chỉ xem đâu là con gái thì hắn không chỉ được, lại kể rằng trên cổ tay con gái có một cái bớt hồng ngả xanh, kết quả chúng ta hỏi khắp người trong phủ từ trên xuống dưới, đừng nói không có thị nữ nào như vậy, mà kể cả hoạn quan, cũng chẳng ai có bớt trên tay.”

    “Ồ, thế mà lần trước chúng tôi đến tiệm của ông ta điều tra, ông ta còn đưa ra vật chứng rõ ràng, con gái ông ta có biếu cha một con cóc vàng, toàn thân nạm đầy châu báu, ngồi trên một phiến lá sen bằng ngọc phỉ thúy, tinh xảo lắm!”

    “Cóc vàng à?” Thôi Thuần Trạm sáng mắt lên, “Có phải trên phiến lá sen ấy còn có một giọt sương bằng pha lê, mỗi lần di động con cóc, giọt sương sẽ lăn tròn trên lá không?”


    Chu Tử Tần gật đầu lia lịa: “Thôi thiếu khanh cũng thấy rồi à?”

    “Dĩ nhiên! Ấy là cống phẩm của một quốc gia Tây Vực nào đó từ hai năm trước! Hôm ấy nhằm đúng mồng một Tết, các quần thần trên điện đều được chiêm ngưỡng, ai nấy trầm trồ không ngớt! Về sau, nó trở thành một trong những món hồi môn của Đồng Xương công chúa!” Nói đến đây, Thôi Thuần Trạm mững rỡ vỗ tay: “Ồ, có rồi, có cả động cơ gây án nữa chứ! Tiền Quan Sách mưu trộm cóc vàng, liên tiếp giết hại hoạn quan phủ công chúa, công chúa và tên Tôn ghẻ sống gần đó, tuy chưa rõ Tôn ghẻ dây dưa đến vụ này thế nào, nhưng ta tin rằng nếu dùng hình tra khảo, gã béo lùn đó ắt phải khai rõ ngọn ngành!”

    Vừa nói, Thôi Thuần Trạm vừa xăm xăm đi thẳng vào đại sảnh Đại Lý Tự, luôn miệng sai bảo thuộc hạ: “Thắp đèn! Thăng đường! Bản quan muốn thẩm vấn trọng phạm ngay bây giờ!”

    Chu Tử Tần líu cả lưỡi, quay lại nhìn Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà vội đuổi theo Thôi Thuần Trạm, không quên ném lại một câu: “Còn đợi gì nữa, mau đi theo xem Thôi thiếu khanh chuẩn bị thẩm vấn thế nào!”

    Công đường Đại Lý Tự đèn đuốc sáng trưng, tam ban nha dịch, quan viên chấp pháp, bình sự, tự chính đứng hai bên, Đại Lý Tự thiếu khanh đích thân thẩm vấn, thanh thế rất rầm rộ.

    Hai người được hoàng thượng khâm điểm tra xét vụ này là Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần ngồi bên cạnh xem thăng đường, thấy Tiền Quan Sách bị lôi ra, quỳ sụp xuống đất run cầm cập.

    Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ Chu Tử Tần: “Đại Lý Tự khanh hiện giờ là ai? Sao chẳng bao giờ thấy xuất hiện ở Đại Lý Tự vậy?”

    Chu Tử Tần kinh ngạc nhìn cô: “Công công không biết ư?”

    “Tôi làm sao biết được, trước đây lúc rời kinh thì Đại Lý Tự khanh là Từ công, xong về sau nghe nói Từ công đã qua đời…”

    “Công công ngày ngày đều ở bên Đại Lý Tự khanh, thế mà không biết Đại Lý Tự khanh là ai à?” Chu Tử Tần hơi cao giọng.

    Hoàng Tử Hà giơ ngón tay lên môi ra hiệu cho gã nhỏ tiếng, nhưng vừa động não, cô cũng buột miệng thốt lên: “Đại Lý Tự khanh là… Quỳ vương ư?”

    “Chứ còn gì nữa! Công công không biết vương gia kiêm nhiệm bao nhiêu chức vị à?”

    Lần này gã nói quá to, bèn bị mấy người bên cạnh liếc xéo, cả hai đành vờ như không biết, cúi đầu giở biên bản ghi chép lúc trước của Chu Tử Tần ra.

    Thôi Thuần Trạm uy phong ngồi xuống ghế, đoạn trang trọng hỏi: “Kẻ quỳ dưới kia là ai?”

    “Tiểu nhân… tiểu nhân Tiền Quan Sách, mở tiệm ngựa Tiền Ký trong kinh, bao năm nay làm ăn lương thiện, tuân thủ pháp luật… Tiểu nhân oan quá! Tiểu nhân không hề…”

    “Bản quan hỏi gì ngươi hẵng đáp nấy!” Thôi Thuần Trạm đập bàn, đoạn cầm lấy bản câu hỏi mà tự chính đã ghi sẵn, lần lượt hỏi từng câu một: “Có phải gần đây tiệm ngựa của ngươi mở thêm dịch vụ nạo vét đường nước, còn qua lại với đám phu phen khơi thông cống rãnh ở bộ Công không?”

    “Vâng…” Tiền Quan Sách chẳng hiểu mô tê gì, đành có sao khai vậy.

    “Theo những gì Đại Lý Tự tra được thì gần nơi Đồng Xương công chúa xảy ra chuyện có một của cống, có phải sau khi ra tay ngươi đã ẩn náu dưới đó, hòng tránh khỏi sự truy lùng của sai nha không?”

    Tiền Quan Sách sợ hết vía, cuống quýt gào toáng lên: “Không phải! Không phải không phải! Tiểu nhân không hề giết người! Tiểu nhân… tiểu nhân còn không biết công chúa đã qua đời nữa mà!”

    “Theo điều tra thì lần đầu tiên ngươi vào phủ công chúa là năm ngoái, nhằm tu sửa đường nước trong phủ. Ngươi không rành về đường nước, sao lại thường xuyên chạy đến đó xem xét công việc?”

    “Tiểu nhân… tiểu nhân nghe nói phủ công chúa xa hoa lộng lẫy, rắp tâm muốn chiêm ngưỡng để mở rộng tầm mắt, lại nghĩ công chúa thân phận tôn quý, chỉ e bọn thuộc hạ phạm sai sót, nên thường tới giám sát, chứ không có ý gì khác cả!” Tiền Quan Sách sợ đến nỗi ngồi bệt dưới đất, nhìn như một miếng mỡ lợn nhũn nhẽo trắng bệch.

    “Nghe nói phủ công chúa xa hoa lộng lẫy ư? Thế nên ngươi mới nhắm tới những kỳ trân dị bảo trong phủ, còn thông đồng với hoạn quan Ngụy Hỷ Mẫn tuồn cóc vàng và trâm Cửu loan trong kho ra ngoài, phải không?”

    “Chuyện này từ đâu ra vậy? Tiểu nhân và Ngụy Hỷ Mẫn mới gặp nhau một lần, con cóc vàng của tiểu nhân là con gái biếu, tiểu nhân chưa bao giờ thấy trâm Cửu loan…”

    “Ngươi mới gặp Ngụy Hỷ Mẫn một lần, sao lại biếu hắn thứ quý giá như linh lăng hương? Về sau Ngụy Hỷ Mẫn từng đến tiệm của ngươi đòi thêm, rồi mất tích ngay trong hôm đó, sáng hôm sau thì chết tại chùa Tiến Phúc. Ngươi nói xem, có phải y tiếp tay cho ngươi lấy trộm cóc vàng rồi bị ngươi giết người diệt khẩu, bày kế thiêu chết không?”

    Tiền Quan Sách lúc này đã ròng ròng nước mắt, rên hừ hừ trong họng, rối rít phân trần: “Không phải, không có… Linh lăng hương đó, là tôi tặng cho một đầu bếp…”

    “Vậy tại sao tất cả đều nói là Ngụy Hỷ Mẫn sử dụng? Ả đầu bếp kia có phải một trong những tai mắt của ngươi tại phủ công chúa không?”

    “Không phải! Không phải thật mà! Xương Bồ ở nhà bếp là người tốt, cô ấy đã giúp tôi tìm thấy con gái…”

    “Ngươi cứ luôn miệng nói con gái mình ở trong phủ công chúa, nhưng tất cả người hầu kẻ hạ trong phủ, không ai có vết bớt trên cổ tay như ngươi miêu tả cả, ngươi làm sao chứng minh được hả?”

    Tiền Quan Sách thẫn thờ quỳ dưới công đường, cơ thịt trên mặt giần giật. Trông dáng vẻ ấy, Hoàng Tử Hà vừa thương xót vừa buồn rầu, bất giác than thầm trong lòng, quay đi không nỡ nhìn thêm nữa.

    “Nhưng…nhưng tiểu nhân đúng là đã gặp con gái mà! Nó đứng sau tấm bình phong, chìa tay cho tiểu nhân xem, trên cánh tay rành rành có một vết bớt màu hồng ngả xanh hình con thỏ, chẳng phải Hạnh nhi thì còn ai nữa? Tiểu nhân đã gặp con gái thực mà…”

    Thôi Thuần Trạm đập bàn, cắt ngang tràng kể lể vừa như phân trần vừa như truy hỏi của họ Tiền: “Tiền Quan Sách! Bản quan hỏi ngươi, ngươi thông đồng với Ngụy Hỷ Mẫn đánh cắp báu vật trong phủ công chúa, sao còn sát hại công chúa? Hôm đó ở giữa đám đông, công chúa trông thấy trâm Cửu loan trong tay ngươi, sau đó ngươi ra tay với công chúa thế nào? Mau khai thực cho bản quan!”

    Tiền Quan Sách sợ bạt vía, chỉ biết lắc đầu quầy quậy: “Không phải đâu! Không phải thật mà! Tiểu nhân không giết người, con gái tiểu nhân ở trong phủ công chúa…”

    Bình sự Đại Lý Tự thở dài: “Chứng cứ rành rành mà phạm nhân vẫn cứng miệng không nhận, thưa thiếu khanh, xem ra không dùng đại hình thì hắn sẽ không nhận đâu!”

    “Ừm, trước tiên lôi xuống đánh hai mươi trượng!” Thôi Thuần Trạm ra lệnh, đoạn rút một thẻ lệnh quăng xuống công đường.

    Chu Tử Tần bật dậy lao đến toan bắt lấy thẻ lệnh. Tiếc rằng vẫn chậm một bước, thẻ lệnh rơi xuống đất, nha dịch tức thì tóm lấy Tiền Quan Sách kéo xuống dưới.

    Chu Tử Tần lao quá nhanh, vô ý vấp phải chiếc ghế, ngã nhào xuống đất, làm ghế cũng đổ theo, các nha dịch đứng quanh đó đều tản ra, công đường bỗng chốc trở nên lộn xộn.

    Thôi Thuần Trạm cau mày: “Tử Tần làm gì thế?”

    “Thôi thiếu khanh.” Hoàng Tử Hà đứng dậy chắp tay hành lễ với hắn: “Tuy thiếu khanh đã xử lý vụ này, nhưng hoàng thượng từng phái nô tài cùng Tử Tần tham gia, nên có vài chuyện muốn bàn bạc qua với thiếu khanh, có thể tìm chỗ nào đó nói vài câu không?”

    Thôi Thuần Trạm nghe thấy tiếng la thảm thiết của Tiền Quan Sách từ bên ngoài vọng vào, lại nhìn đám nha dịch tán loạn trên công đường, đáp: “Được thôi, chúng ta ra phía sau nói chuyện, để chúng nghỉ ngơi chỉnh đốn lại một lát.”

    Ba người ra nhà sau ngồi xuống, đợi kẻ hầu dâng trà nước xong xuôi, Thôi Thuần Trạm liền hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Thôi thiếu khanh thấy Tiền Quan Sách là hung thủ thật ư?”

    Thôi Thuần Trạm nhíu mày: “Theo tình hình trước mắt, chẳng phải hắn là kẻ bị tình nghi nhiều nhất ư? Hắn tặng Ngụy Hỷ Mẫn loại hương liệu quý giá như vậy, Ngụy Hỷ Mẫn tới tìm hắn rồi mất tích ngay trong đêm, đến sáng hôm sau thì bị thiêu chết; tên Tôn ghẻ kia nhất định là đồng phạm, hoặc phát hiện ra tội ác của hắn lên bị giết, sau đó họ Tiền lại canh thời gian, bày ra trò say rượu tình cờ phá cửa xông vào phát hiện thi thể; còn nữa, hắn đã trộm được cóc vàng trong kho của phủ công chúa, ắt cũng có thể trộm trâm Cửu loan, mà cây trâm đó lại chính là hung khí sát hại công chúa, cạnh hiện trường có cửa cống ngầm, rất tiện cho hắn trốn thoát, nghe nói mấy ngày trước hắn còn tới đó đích thân đốc thúc người ta khơi thông dòng…”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Cứ cho là Ngụy Hỷ Mẫn chết vì sự thông đồng cùng Tiền Quan Sách đánh cắp cóc vàng, sau đó bị Tiền Quan Sách giết người diệt khẩu, nhưng khi trâm Cửu loan biến mất, Ngụy Hỷ Mẫn đã chết rồi, Tiền Quan Sách không có nội ứng, làm sao ra tay được nữa?”

    Thôi Thuần Trạm nhíu mày ngẫm nghĩ, hồi lâu mới nói: “Hay là ả đầu bếp mà hắn nhắc tới kia?”

    Hoàng Tử Hà mệt mỏi lắc đầu: “Thôi thiếu khanh à, Ngụy Hỷ Mẫn là người hầu bên cạnh công chúa, may ra còn có cơ hội ăn cắp, chứ đầu bếp cả ngày loay hoay trong nhà bếp, đến lên gác Thê Vẫn còn chẳng có dịp, huống hồ là đánh cắp cây trâm?”

    “Nhưng công công không thể phủ nhận, tên Tiền Quan Sách kia có liên quan mật thiết đến vụ này, hơn nữa còn dính líu rất sâu với cả ba vụ… Ồ, quên mất! Con ngựa xảy ra chuyện của phò mã, cũng là hắn bán cho Tả Kim Ngô Vệ! Công công bảo một người bị tình nghi nhiều như thế, còn có thể trong sạch ư?” Thôi Thuần Trạm thở dài, ghé lại gần bọn họ nói khẽ, “Huống hồ công công cũng biết hoàng thượng yêu nhất Đồng Xương công chúa, nâng niu như báu vật vậy. Giờ công chúa qua đời, đừng nói là tam pháp ty: Đại Lý Tự, Hình bộ và Ngự Sử Đài, ngay kinh thành chư vệ, hai nha môn, mười đạo quân cũng đừng hòng thoát khỏi trách nhiệm. Đã có mấy thái y bị đánh chết ngay tại chỗ, nghe nói hoàng thượng còn định trị tội đến cả dòng tộc nhà bọn họ mấy trăm người, công công bảo, công chúa bị hung thủ đâm một nhát mà chết, các thái y có tội tình gì đâu? Giờ còn không mau bắt lấy thủ phạm giao cho hoàng thượng thì nha môn nào gánh nổi cơn lôi đình này?”

    Hoàng Tử Hà cau mày. Chu Tử Tần vội hỏi: “Vậy thiếu khanh thấy, Lữ Tích Thúy và Tiền Quan Sách ai đáng nghi hơn?”

    “Tử Tần khéo đùa, so với Tiền Quan Sách, chút hiềm nghi của Lữ Tích Thúy thực chẳng đáng nhắc tới. Nếu không phải cô ta tự đến đầu thú, còn ký vào bản án, thì bây giờ có thể phóng thích rồi!”

    Chu Tử Tần cả mừng, lại nói: “Thôi thiếu khanh, thực ra tôi cũng thấy vụ án này của ông chủ Tiền nên thận trọng một chút vẫn hơn, huynh bảo có phải không? Dù gì cũng liên quan đến mạng người mà…”

    Thôi Thuần Trạm lộ vẻ khó xử, nhưng vẫn miễn cưỡng gật đầu: “Công tử yên tâm, ta dẫu sao cũng là thiếu khanh Đại Lý Tự, lúc nào nên thận trọng, ta vẫn sẽ…”

    Chưa dứt câu, đằng sau lại có người chạy vào bẩm: “Thiếu khanh, Thôi thiếu khanh!”

    Thôi Thuần Trạm nhíu mày, nhìn viên quan thừa mừng rỡ chạy vào, hỏi: “Sao thế?”

    “Vừa nhận được tin, bên dưới nhà Tôn ghẻ cũng có một đường cống chạy qua!”

    “Ô? Thật à?” Thôi Thuần Trạm mừng rỡ đứng phắt dậy: “Tiền Quan Sách có biết đường cống này không?”

    “Dạ biết! Mấy hôm trước khi xảy ra vụ án, trong kinh khơi thông cống rãnh, mấy tên phu phen dưới trướng Tiền Quan Sách đã tới tu sửa chỗ này, họ Tiền còn đến tận nơi đốc thúc!”

    “Đúng là lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, lại thêm một chứng cứ nữa rồi!” Thôi Thuần Trạm đắc ý ngoái nhìn Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần, “Các vị xem, tên Tiền Quan Sách kia rõ ràng là hung thủ giết người! Hắn theo đường cống lẻn vào gian phòng kín như bưng của Tôn ghẻ giết người, rồi lẳng lặng theo đường cống chuồn mất. Sau đó lại tụ tập mọi người cùng phá cửa xông vào, ngụy tạo chứng cứ ngoại phạm cho mình!”

    Chu Tử Tần cau mày: “Thôi đại nhân, lúc Tôn ghẻ vừa chết, tôi từng đến hiện trường, thấy nền nhà rất bằng phẳng, không có dấu hiệu đột nhập từ bên dưới…”

    Thôi Thuần Trạm nghe vậy thì nhíu mày, nhưng chỉ thoáng sau đã hăng hái phản bác: “Ồ, thế nên hắn mới lôi kéo bấy nhiêu người cùng tới chứng kiến cái chết của Tôn ghẻ! Người đông như thế, chẳng phải sẽ giẫm phẳng nền nhà vừa bị xới tung, xóa sạch chứng cứ hay sao? Tâm tư kẻ này kín kẽ như thế, đúng là giảo hoạt tột bậc!”

    “Nhưng… vẫn còn nghi vấn mà…” Chu Tử Tần đang định nói tiếp thì Thôi Thuần Trạm giơ tay ngăn lại, đi thẳng ra công đường: “Tử Tuần, Dương công công, vụ này ta đã nắm chắc trong tay, hai người khỏi cần nhọc lòng nữa, cứ giao cho ta là được, sáng mai ta sẽ tra xét tường tận vụ này!”

    Về đến Quỳ phủ thì đã khuya, nhưng Hoàng Tử Hà vẫn tới chỗ Lý Thư Bạch, thuật lại đầu đuôi mọi chuyện hôm nay ở Đại Lý Tự.

    Lý Thư Bạch nghe xong phì cười: “Mai ta sẽ đi hỏi Thôi Thuần Trạm xem, phạm nhân kia giảo hoạt kín kẽ như thế, sao còn đem con cóc vàng đánh cắp ở phủ công chúa ra khoe với người của quan phủ?”

    “Nhưng hoàng thượng rất quan tâm đến vụ này, nếu có thể kết án thật nhanh thì các nha môn mới yên thân được. Theo đó, tìm ngay một kẻ thế tội, hơn nữa còn tập hợp được tất cả những điểm khả nghi, cũng là lựa chọn thường thấy của quan phủ thôi.” Hoàng Tử Hà nhíu mày.

    Lý Thư Bạch trầm ngâm, hồi lâu mới nói: “Hơn nữa, nếu sớm ngày kết án, ngươi cũng có thể sớm lên đường theo ta về Thục, đây cũng là một lựa chọn không tệ đối với ngươi. Suy cho cùng, có những chứng cứ sẽ tiêu tán theo thời gian, ngươi muốn rửa sạch oan khuất cho mình thì nên nhanh nhanh là hơn.”

    “Lẽ nào vương gia cho rằng, đẩy Tiền Quan Sách ra làm kẻ thế tội trong vụ này, là kết quả hay nhất ư?”

    “Đương nhiên là không.” Lý Thư Bạch khẽ búng vào chiếc bình lưu ly đựng con cá nhỏ, “Theo ta thấy, kết quả hay nhất là tìm một kẻ gian ác không cha không mẹ không con không cái. Dưới gầm trời này rất nhiều những kẻ như thế, tiếc rằng hoàng thượng lại không tin, đúng không nào?”

    Hoàng Tử Hà nói khẽ: “Tiền Quan Sách… tuy tham lam hèn nhát, nhưng không phải kẻ ác.”

    “Nhưng biết làm sao được? Dù gì ngươi cũng phải tìm được một người để báo cáo với hoàng thượng. Ta và ngươi đều rõ, trong vụ án này, ba nạn nhân lần lượt là Ngụy Hỷ Mẫn, Tôn ghẻ và công chúa, có nam có nữ, có người sang kẻ hèn, nhưng tất cả đều liên quan đến việc Lữ Tích Thúy bị lăng nhục. Bởi vậy kẻ bị tình nghi nhiều nhất là ba người Lữ Tích Thúy, Trương Hàng Anh và Lưc Chí Nguyên.” Lý Thư Bạch nói thẳng, “Bất kể là lừa mình dối người hay là sẵn có cảm tình, thì ngươi cũng buộc phải thừa nhận, kẻ đáng nghi nhất chính là Trương Hàng Anh.”

    Tâm sự vẫn đè nén trong lòng bị y nói toạc ra, khiến Hoàng Tử Hà không biết phải phản bác thế nào. Hồi lâu, cô mới gật đầu thừa nhận: “Nô tài biết.”

    Lý Thư Bạch dời mắt khỏi con cá nhỏ nhìn sang cô, nheo nheo cặp mắt sắc sảo: “Nếu hung thủ thực sự là gã, ta lại rất tán thưởng. Bất kể kẻ nào ở vào lập trường của gã, đều không thể khoanh tay đứng nhìn được. Khác chăng là có kẻ dám nghĩ mà không dám làm, có kẻ lại làm mà không kín kẽ đấy thôi. Nếu ba vụ này đều do Trương Hàng Anh gây ra thì ta phải nhìn gã bằng con mắt khác rồi.”

    Nhìn vẻ tán thưởng không hề giấu diếm của y, Hoàng Tử Hà khẽ hỏi: “Vậy nếu Trương Hàng Anh thực sự là thủ phạm, gia có giữ được tính mạng cho huynh ấy không?”

    Lý Thư Bạch nhíu mày: “Trước cái chết của Đồng Xương công chúa thì còn có thể. Nhưng với tình hình bây giờ thì cũng khó nói lắm.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Từ xưa đến nay, giết người thì đền mạng.”

    Lý Thư Bạch lại nói: “Nếu vụ này được tiến hành dựa theo ba hình vẽ kia, thì giờ đã đủ ba nạn nhân rồi, ngươi sắp xếp lại tất cả manh mối cho ta xem.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn khoanh chân ngồi xuống chiếc bàn thấp phía sau, nghĩ ngợi giây lát rồi trải giấy cầm bút thong thả viết ra. Cô vốn tập theo thư pháp của Vệ phu nhân(*), nét chữ như thiếu nữ cài hoa, thanh tú tao nhã, tốc độ viết lại nhanh, chẳng bao lâu đã viết xong trình lên.

    (*) Vệ phu nhân tên là Thược, tự Mậu Ỷ, là một nữ thư pháp gia thời Đông Tấn (năm 266-420). Chữ của bà nhàn nhã mỹ lệ, đậm nhạt hài hòa, được Đường nhân thư bình tán tụng rằng: “Như thiếu nữ cài hoa, khuôn mặt khi ngẩng khi nghiêng, như mỹ nữ lên đài, dáng tiên chập chờn biến ảo, sen hồng chiếu nước, mây nổi biển xanh.” Bà từng là thầy dạy Vương Hy Chi, nhà thư pháp nổi tiếng Trung Quốc.

    Một, cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn: Trời giáng sấm sét, sao lại đánh trúng cây nến, rồi thiêu chết một hoạn quan thấp bé giữa cả đám đông? Nếu đúng là do người làm, thì hung thủ điều khiển sấm sét bằng cách nào? Sợi dây sắt và thủy ngân trong hồ cá từ đâu mà ra, có liên quan đến vụ án không?

    Hai, phò mã ngã ngựa tại sân kích cúc: Có phải có người nhúng tay vào hay không? Nếu đúng, thì có phải nhằm vào phò mã không? Làm sao để khiến phò mã chọn đúng con ngựa đó, sau đó ra tay với nó?

    Ba, cái chết của Tôn ghẻ: Lản vào căn nhà kín bưng đó bằng cách nào? Tại sao trong gian nhà nghèo nàn như vậy lại thoang thoảng mùi linh lăng hương? Hung thủ đột nhập và trốn thoát theo đường nào?

    Bốn, cái chết của công chúa: Tại sao giữa vòng vây canh gác nghiêm mật như vậy mà trâm Cửu loan vẫn bị đánh cắp? Công chúa bị lôi ra khỏi đám đông, xong hẳn phải biết mình đang ở rất gần phố xá, tại sao không hét lên gọi người hầu?

    Ghi chú: Cái chết của Đậu Khấu trong phủ công chúa, bức tranh ở nhà họ Trương và phủ Ngạc vương, ắt có liên quan mật thiết đến vụ này.

    Lý Thư Bạch xem xong gật đầu nhận xét: “Viết vội quá, chữ ‘lẻn’ viết nhầm thành ‘lản’ rồi kìa.”

    Hoàng Tử Hà cuống lên, vội săm soi tờ giấy tìm chữ viết sai.

    Lý Thư Bạch chẳng buồn ngẩng lên, thản nhiên nói: “Chữ thứ bảy hàng thứ tám.”

    Hoàng Tử Hà thán phục: “Trí nhớ của gia tốt quá, nhìn thoáng qua cái gì là nhớ mãi không quên.”

    “Cũng tàm tạm.” Y thuận miệng bổ sung, “Hoặc có thể nói, tổng cộng ngươi đã viết hai trăm ba mươi lăm chữ, nhầm mất chữ thứ một trăm mười tám.”

    Hoàng Tử Hà không dám tin vào tai mình, bèn rút nửa nắm que tính cắm trong ống quăng ra bàn hỏi: “Vương gia bảo trong ống còn bao nhiêu que?”

    Y liếc qua, đáp ngay: “Bốn mươi bảy.”

    Hoàng Tử Hà đếm, quả nhiên là bốn mươi bảy.

    Cô ngẩng lên nhìn y: “Nô tài có một câu muốn hỏi?”

    Y không đáp, chỉ ngước nhìn cô.

    “Hôm đó trong chùa Tiến Phúc có cả thảy bao nhiêu người?”

    “Không đếm.” Ánh mắt y hiện rõ hai chữ “nhàm chán”.

    “Nhưng bấy giờ gia cũng ở đó, với con mắt của gia, nhất định sẽ có ấn tượng với tất cả những người xuất hiện trước mặt mình, đúng không nào?”

    “Ừm.”

    “Vậy mà khi Ngụy Hỷ Mẫn chết, gia lại nói lúc trước mình không hề thấy y.”

    Lý Thư Bạch hồi tưởng lại rồi gật đầu: “Có lẽ vì y thấp bé nên bị người bên cạnh che khuất.”

    “Xong hai người chứng kiến tận mắt là Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy đều nói, trước khi ngọn lửa bùng lên, họ cũng không hề thấy Ngụy Hỷ Mẫn.” Hoàng Tử Hà trầm ngâm nghĩ ngợi, ánh mắt sáng dần lên, “Ngụy Hỷ Mẫn là kẻ thù của họ, hơn nữa còn mặc y phục hoạn quan đỏ chói, nhìn rất nổi bật, chí đứng cách họ có mấy thước, đáng lẽ họ phải thấy ngay mới đúng.”

    Thấy mắt cô sáng rực lên, Lý Thư Bạch hỏi lại: “Nói vậy là ngươi đã lần ra manh mối rồi ư?”

    “Vâng, có lẽ nô tài đã tìm ra điểm mấu chốt trong vụ chết thiêu ở chùa Tiến Phúc.” Cô tươi cười gõ ngón tay lên vụ thứ hai, phò mã ngã ngựa: “Nhờ thế, cũng lờ mờ cảm nhận được nguyên do vụ này rồi.”

    Lý Thư Bạch nhìn theo ngón tay cô: “Ngươi biết hung thủ thừa cơ ra tay vào lúc nào rồi ư?”

    “Tôi thấy vụ án này hễ có động cơ thì chẳng cần quan tâm đến phương thức hạ thủ nữa.” Cô nghiêm trang nhìn y, “Gia có nhớ nô tài từng kể, tháng Hai đậu khấu mới đơm hoa không?”

    Lý Thư Bạch hiểu điều cô ám chỉ, trầm ngâm giây lát rồi nhíu mày: “Hoàng gia đối với hắn không bạc, mới ngoài hai mươi đã là Quang Lộc đại phu, nhìn khắp triều đình có ai được vẻ vang như thế.”

    “Nhưng dù ở ngôi cao, lòng vẫn không yên được, phải không nào?” Cô hỏi khẽ.

    Lý Thư Bạch nghĩ ngợi, đoạn đứng dậy.

    “Ngày mai ta với ngươi đến phủ công chúa một chuyến…”

    “Ngày mai xin gia dẫn nô tài đến phủ công chúa…”

    Hai người đồng thời nói cùng một ý.

    Hoàng Tử Hà ngẩn người, rồi bất giác nhoẻn cười. Ánh mắt Lý Thư Bạch dừng trên gương mặt cô giây lát rồi lẳng lặng nhìn lảng đi, không nói một lời.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này