1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Đại Mạc Thương Lang - Tác giả: Nam Phái Tam Thúc - Tình Trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 2/4/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Đại Mạc Thương Lang - Thám hiểm cực địa

    Tác giả:Nam Phái Tam Thúc
    Thể loại: Phiêu Lưu, Huyền Bí

    Tình Trạng: Full
    nguồn: bachngocsach


    [​IMG]

    Giới thiệu:

    Những năm sáu mươi của thế kỉ trước, nhân vật “tôi” cùng các thành viên ưu tú trong ngành thăm dò địa chất của khắp Trung Quốc bất ngờ bị điều vào đại đội công trình địa chất bí mật. Với tờ mật lệnh trong tay, họ không hề biết đích đến, không hề biết địa điểm cũng như nguyên nhân, họ bắt đầu bước chân vào cánh rừng rậm nguyên sinh ở biên giới Trung Quốc - Mông Cổ, nơi ngay cả những kĩ sư địa chất dày dạn kinh nghiệm nhất cũng chưa từng biết đến.

    Cuốn tiểu thuyết là cuộc hành trình quái dị và rùng rợn vào chiếc hộp thời gian nơi đáy vực sâu. Và chiếc máy bay mà họ phát hiện, sau đó dùng để bay xuống vực sâu cũng chính là chiếc máy bay mà mấy chục năm trước quân Nhật đã từng dùng để bay xuống đó… Chiếc máy bay không ngừng lặp đi lặp lại nhiệm vụ đưa những con người tham vọng và tò mò đi gặp tử thần…

    Vậy “tôi” có thể tác động được diễn tiến của quá trình và kết thúc tấn bi kịch này không hay anh càng gỡ càng rối, càng sa chân vào mớ bòng bong vô cùng vô tận của thời gian?

    Cuốn sách mang nhiều điều bí ẩn lôi cuốn

    Đó là cuộc hành trình mà nhân vật chính suốt đời không thể nào quên, từng tầng bí mật nơi lòng đất sâu thẳm được hé lộ khiến người ta ngộp thở, nó thử thách lý trí của độc giả đến cực hạn.

    Điều hấp dẫn nhất trong Đại mạc thương lang chính là trí tưởng tượng tiệm cận đến điên cuồng và những cuộc thám hiểm tưởng chừng vô cùng điên rồ của các nhân vật trong tác phẩm, hai yếu tố đó liên tục kích thích hệ thần kinh độc giả, đặc biệt là những độc giả thích tìm hiểu những sự vật mới lạ và thần bí.
     
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 1: Công Trình 723


    Cuộc đời thám hiểm địa chất của tôi kéo dài hai mươi năm, trải qua không dưới vài trăm lần cận kể ranh giới sinh tử.

    Nhưng trong kí ức những năm đầu tiên của tôi thì điều đáng sợ nhất không phải những dòng sông ngầm chảy xiết kinh hoàng, mà là sự đơn điệu tột cùng không gì diễn tả nổi. Đã từng có giai đoạn, tôi chỉ nhìn thấy những dải núi xanh nối liền rừng rậm trải dài đến bất tận, và vô cùng ngột ngạt. Cứ nghĩ tới việc phải hành quân trong đó mười mấy năm trời, tôi lại thấy đau khổ, quả thật nếu như không tự mình nếm trải cảm giác đó, thì bạn khó lòng hình dung hết được.

    Nhưng sau sự kiện xảy ra năm 1962, thì cảm giác này trong tôi liền biến mất như thể nó chưa từng tồn tại. Đến khi ấy, tôi mới biết rằng, trong những dãy núi hùng vĩ, khô khan kia, còn tồn tại vô số điều thần bí, mà dẫu bạn sở hữu một trí tưởng tượng tuyệt vời đến đâu đi chăng nữa, thì có những việc bạn vẫn không thể nào lí giải nổi. Đồng thời, tôi cũng đã thấm thía những lời kiềng nể mà các bậc tiền bối trong đội khảo sát của chúng tôi nói về rừng xanh núi thẳm, quả đúng là họ không cố ý phóng đại hay chỉ dọa nạt đơn thuần.

    Khởi nguồn của sự việc năm 1962, có thể rất nhiều đồng chí từng làm công tác khảo sát thời điểm ấy đều biết, các bạn đọc trẻ có cha mẹ từng công tác trong ngành này, cũng có thể thử hỏi họ. Thời đó, có một công trình địa chất nổi tiếng, gọi là công trình Nội Mông 723, đó là tên gọi hành động chung của đội công tác tìm kiếm mỏ quặng trong khu vực núi vùng Nội Mông. Khi ấy, tổng cộng có ba đội khảo sát địa chất được cử đến khu vực rừng rậm nguyên sinh này để thực hiện nhiệm vụ khảo sát theo từng địa bàn. Quá trình khảo sát mới bắt đầu được hai tháng, thì công trình 723 đột ngột bị dừng lại. Đồng thời, bộ chỉ huy công trình bắt đầu điều động một số nhân viên kĩ thuật từ các đội khảo sát khác đến. Chỉ trong một thời gian ngắn, hầu hết cán bộ chủ chốt có tiếng của các đội khảo sát khắp nơi đều được triệu tập, người thì lập bảng biểu, kẻ thì viết hồ sơ, nhưng không có ai biết được, những bảng biểu, hồ sơ đó cuối cùng gửi tới đâu và do ai quản lí.

    Năm ấy, quả thực có một nhóm cán bộ kĩ thuật được tuyển chọn và điều động đến đại đội trắc địa công trình 723.

    Có điều, sau này sự việc đó lại được đồn thổi rất sôi nổi. Người ta truyền nhau rằng, 723 đã đào được ở Nội Mông vật gì ghê gớm lắm, còn cụ thể đào được vật gì thì có đến mấy chục dị bản, chẳng ai có thể nói chính xác. Còn những người nằm ngoài sự kiện năm 1962 thì hiểu rằng sự việc sẽ chỉ dừng lại ở đây. Những việc diễn ra sau đó đã bị “cơn cuồng phong” Cách mạng đại văn hóa cuốn trôi, nên không còn ai tìm hiểu thêm nữa. Và đoàn cán bộ kĩ thuật được chở đến vùng rừng núi trên chiếc xe tải năm ấy nhanh chóng bị mọi người lãng quên.

    Lúc đó, tôi là một trong số các thành viên của đội cán bộ kĩ thuật địa chất bị người ta lãng quên ấy. Sau này tôi mới biết, tổng cộng có hai mươi tư người được tuyển chọn và điều động đến 723. Chúng tôi đều tuân thủ lệnh điều chuyển của quân khu, xuất phát từ khu địa chất mà mỗi người đang làm việc, lên tàu hỏa tập trung tại Jiamusi[1], một số ít người khác thì đi thẳng đến Qiqihar. Sau khi tập trung tại hai nơi đó, chúng tôi được đưa lên xe quân dụng, chòng chành chạy từ Hắc Long Giang đến Nội Mông.

    [1] Jiamusi, Qiqihar: là hai thành phố thuộc tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc.

    Lúc đầu, xe còn chạy trên đường quốc lộ, vài ngày sau, xe dường như chỉ chạy trên những đoạn đường quanh co ven sườn núi. Trước lúc xuất phát, tôi không hề biết ở nơi đó đã xảy ra chuyện gì, nhưng qua vài lần hàn huyên cùng các anh em trên xe, tôi dần dần cảm nhận, chuyện xảy ra ở vùng núi đó quả thật không bình thường chút nào.

    Nhưng những phỏng đoán của chúng tôi hồi đó cũng chỉ nằm trong phạm vi chuyên môn, đa số mọi người đều cho rằng ở đó có một mỏ dầu quy mô lớn. Để tăng thêm phần sinh động, một vài đồng chí tiền bối từng tham gia khai thác mỏ dầu Đại Khánh còn nói: lúc phát hiện ra mỏ dầu Đại Khánh, mọi việc cũng giống y như bây giờ, những nhà địa chất phát hiện ra mỏ dầu đều là những chuyên gia được điều từ khắp nơi trong cả nước tới, mọi người thảo luận, nghiên cứu suốt mấy tháng trời, cuối cùng mới xác định đúng là có mỏ dầu tồn tại.

    Nghe họ nói vậy, chúng tôi đều thầm cười mà cho rằng việc nghi ngờ của mình thật thừa thãi, không những thế trong lòng ai nấy đều trỗi dậy một cảm giác tự hào vì mình đã được lựa chọn.

    Nhưng khi xe quân dụng đưa chúng tôi đến bộ chỉ huy của đại đội công trình địa chất 723, tôi mới lập tức ý thức được rằng, sự việc không hề đơn giản như chúng tôi nghĩ. Khi xe dừng lại tại điểm đến, điều đầu tiên chúng tôi nhìn thấy khi bước xuống xe là cảnh những lều trại dã chiến phủ khắp một triền núi, cái to cái nhỏ trông như vô số nấm mộ, quang cảnh không giống một đại đội công trình chút nào, mà có phần giống căn cứ quân sự dã chiến hơn. Trong doanh trại lúc này đang rất bận rộn, tất cả những người đi qua đi lại kia đều là lính công trình lục quân, chúng tôi ngây người, nghĩ thầm: “Hay là phen này quân ta khùng lên quyết định đánh Liên Xô rồi đây?”

    Nhưng sau đó, chúng tôi phát hiện, những lều trại kia không phải lều trại phục vụ cho việc hành quân, mà chủ yếu dùng để che hàng, vài đồng chí “có thâm niên” lén lút vén lều lên nhìn trộm mấy lượt, lúc quay về kể với chúng tôi rằng trong đó toàn thiết bị nhập từ Liên Xô, trên viết toàn chữ tiếng Nga, nên chẳng rõ là thiết bị gì.

    Thời bấy giờ, thiết bị khảo sát địa chất của chúng tôi hết sức lạc hậu, những phương pháp thăm dò mà chúng tôi áp dụng cũng không hơn gì thời mới giải phóng, quốc gia chỉ có một số ít “thiết bị hiện đại hóa”, phần lớn đều nhập từ Liên Xô với giá cắt cổ. Lính kĩ thuật cơ sở như chúng tôi từ trước tới giờ có nằm mơ cũng không có cơ hội nhìn thấy.

    Vấn đề là ở chỗ, những thiết bị loại này đều được dùng để thăm dò vỉa quặng nằm rất sâu dưới lòng đất, độ sâu thăm dò đều từ một nghìn đến một nghìn năm trăm mét, xét khả năng lúc bấy giờ của nước nhà thì hoàn toàn không thể khai thác vỉa quặng sâu như vậy, kể cả cho có kiên trì làm, cũng phải mất dăm bảy năm đầu tư xây dựng thiết bị hạ tầng, như thế khác gì “nước xa không cứu được lửa gần”. Bởi vậy, đối với những vỉa quặng như thế này, chính sách nhất quán của nhà nước là bảo mật tuyệt đối, đồng thời không tiến hành thăm dò địa chất thêm nữa, mà để lại cho con cháu đời sau sử dụng. Độ sâu khảo sát địa chất mà thời bấy giờ chúng tôi có thể thực hiện được chỉ vào khoảng trên dưới năm trăm mét mà thôi.

    Vậy mà giờ đây những loại thiết bị này lại xuất hiện ở đây, điều này khiến chúng tôi cảm thấy vô cùng khó hiểu. Một cảm giác kì lạ bỗng dưng xuất hiện, len lỏi trong lòng mọi người.

    Đêm đó cũng không thấy lãnh đạo dặn dò gì, chúng tôi được bố trí ở trong mấy chiếc lều, cứ ba người vào một lều. Đêm trên núi lạnh cắt da cắt thịt, dù chiếc lò nhỏ trong lều vẫn đỏ lửa nhưng tôi chẳng tài nào ngủ nổi. Nửa đêm, đồng chí hậu cần lại vào lều để bỏ thêm ít củi, tấm bạt che cửa lều vừa được vén lên, gió lạnh liền ào ào ập tới, khiến người đang say giấc cũng bị cơn rét buốt đột ngột đánh thức, thế là chỉ còn nước thức chong chong chờ tới khi trời sáng.

    Hai đồng chí ở cùng lều với tôi, một người khá nhiều tuổi, sinh cuối những năm 1920, đến từ Nội Mông, có vẻ cũng có chút tiếng tăm, mọi người đều gọi anh ấy là anh Miêu, tên thật hình như là Mao Ngũ Nguyệt. Tôi khen cái tên này hay, vì cùng họ với Mao Chủ tịch[2]. Người còn lại trạc tuổi tôi, dáng cao, vai rộng, lưng bằng chằn chặn, người dân tộc Mông Cổ, quê ở Hắc Long Giang, tên là Vương Tứ Xuyên. Cậu ta có nước da đen bóng như than, nên các anh em khác vẫn gọi là Gấu.

    [2] Mao Chủ tịch: chỉ Mao Trạch Đông (1893 - 1976), là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1943 đến năm 1976.
    CHECK THIS OUT
    by Mgid

    Từ 85kg giảm còn 54kg trong 2 tuần! Cách giảm cân đơn giản ...

    Lời Khuyên Cho Những Người Muốn Giảm Cân Như Tôi

    Mẹo phi thường này sẽ khôi phục thị lực 20/20 nhanh!
    optimaskproasia.com

    Anh Miêu là người lớn tuổi nhất, tính kiệm lời, còn tôi và Vương Tứ Xuyên thì người chuyện này, kẻ chuyện nọ, cứ thao thao bất tuyệt. Anh Miêu chỉ ngồi bên cạnh hút thuốc, thi thoảng cười cười, cũng không phát biểu ý kiến quan điểm, chẳng rõ anh ấy đang nghĩ gì nữa.

    Vương Tứ Xuyên là mẫu người miền bắc điển hình, cậu ta nhiệt tình như thể sinh ra đã vậy, nên chẳng mấy chốc, chúng tôi đã xưng hô anh em thân thiết. Cậu ta kể với tôi rằng, ông nội cậu lấy bà nội cậu là người Hán, rồi cả nhà đi Tây Khẩu[3] đến Quan Nội, làm nghề lái ngựa. Sau đó kháng chiến bùng nổ, ông già cậu ta xung phong vào đội hậu cần cho quân đội dã chiến Hoa Bắc, đã từng chăm ngựa cho tướng La Thụy Khanh, sau giải phóng, ông trở về quê Hắc Long Giang, làm quản lí ở một khu mỏ.

    [3] Tây Khẩu: là một trong ba cuộc di dân nổi tiếng trong lịch sử cận đại Trung Quốc, đối tượng di dân chủ yếu là người khu vực tỉnh Sơn Tây lên khai hoang, làm kinh tế mới ở vùng thảo nguyên Nội Mông Cổ.

    Chính vì mối quan hệ này nên cậu ta mới theo nghề địa chất, nhưng quá trình để vào được ngành của cậu ta thì chẳng hề suôn sẻ. Thời điểm đó, các ngành công nghiệp cơ sở của quốc gia đều cần đến năng lượng, than đá lại là năng lượng quan trọng nhất. Suốt nửa sau của đời người, cha của Vương Tứ Xuyên lăn lộn với đống than quặng, thi thoảng mới về nhà, mà hễ ông mở miệng kể chuyện là chỉ có than và mỏ than, đến ngủ mê cũng nhắc đến than, vì chuyện này mà ông bà già cậu ta đã cãi vã không biết bao lần. Bởi lẽ ấy, ngay từ nhỏ, Vương Tứ Xuyên đã cực kì căm ghét cái hòn than đen sì sì đó. Khi nhận phân công công tác, ông già cậu ta nhất nhất muốn cậu ta vào ngành than, nhưng cậu ta kịch liệt phản đối. Lúc đó, mơ ước của cậu ta là trở thành lính lái xe, sau này mới biết con em ngoài ngành không có cửa vào làm lính lái xe được, thế là cậu ta ngồi nhà chờ nửa năm, rồi cuối cùng đành thỏa hiệp với ông già. Nhưng cậu ta đưa ra điều kiện: muốn được bố trí làm công việc nào ít tiếp xúc với than nhất, thế nên được xếp vào đội khảo sát bên trên mỏ. Không ngờ, do năng lực làm việc của cậu ta cũng khá, lại thêm chính sách ưu tiên đối với người dân tộc thiểu số, nên sau đó cậu ta được cử đi học đại học, cuối cùng thì được điều đến đây.

    Tôi nghe mà thấy buồn cười, thật vậy, dẫu người ta vẫn nói rằng chúng tôi là đầu nguồn của ngành than quặng, nhưng thực tế, cơ hội tiếp cận với các vỉa quặng của chúng tôi không nhiều, nếu tính theo tần suất chung, thì cơ hội chúng tôi được tiếp xúc với than quặng là thấp nhất.

    Vương Tứ Xuyên kể xong thì quay sang hỏi về hoàn cảnh của tôi.

    Thành phần gia đình tôi không tốt lắm, thậm chí vào thời điểm đó có thể nói là chẳng vẻ vang gì, nên tôi chỉ nói đại khái với cậu ta rằng gia đình tôi là thành phần bần nông.

    Thực ra, đời ông nội tôi thì đúng là nông dân chính công, quê gốc tôi ở huyện Hồng Động, tỉnh Sơn Tây. Tổ tiên tôi xuất thân bần nông, nhưng nghe nói ông nội tôi đã từng theo làm thổ phỉ một thời gian và cũng có chút của ăn của để. Tới thời cải cách ruộng đất, ông bị người ta đấu tố, trở thành gia đình phú nông phản động. Ông nội tôi biết mình bị coi là “phần tử phải chết”, đã lập tức đưa bà nội, cha tôi và chú tôi chạy trốn xuống phía nam, rồi cho cha tôi nhận một vị hòa thượng làm cậu, sau đó cha và chú tôi cũng được tính là thành phần bần nông theo vị hòa thượng kia. Do vậy, tuy nói thành phần của tôi là bần nông, nhưng ông nội tôi thực ra lại là phần tử phản động, chuyện đó lúc ấy muốn bảo to thì nó là to, mà thích bảo nhỏ thì nó là nhỏ.

    Kể hết chuyện hoàn cảnh gia đình xong, chúng tôi lại bàn đến chuyện nhân tình thế thái, rồi luận cả những chuyện xảy ra ở đây. Hai chúng tôi người nam, kẻ bắc, người dân tộc Hán, kẻ dân tộc Mông Cổ, nên có rất nhiều chuyện để nói, may mà chúng tôi đều từng chịu khổ cực, nên dẫu có thức trắng một đêm cũng chẳng ai thấy nhằm nhò gì. Thế là, đêm thứ nhất trôi qua một cách nhanh chóng.

    Ngày thứ hai, doanh trại cử một đồng chí đến chỗ chúng tôi, nói là dẫn chúng tôi đi tìm hiểu tình hình.

    Tôi không mấy ấn tượng với người đó, hình như anh ta tên là Vinh Ái Quốc, khoảng tầm ba mươi, bốn mươi tuổi gì đó. Dân địa chất dầm mưa dãi nắng, đa phần là già hơn tuổi, nên nhìn mặt khó mà đoán đúng tuổi thật. Anh ta cứ làm ra vẻ bí hiểm. Anh đưa chúng tôi đi xem khắp lượt địa bàn từ đầu chí cuối, nhưng chúng tôi hỏi gì anh cũng chẳng nói, đúng là một người vô vị.

    Chúng tôi chỉ nghe được từ miệng anh ta mấy vấn đề cơ bản, ví dụ như 723 thực chất là công trình đã được triển khai từ ba năm trước, nhưng vì lí do điều động nhân lực nên mãi tới đầu năm nay mới chính thức tiến hành, những điều còn lại thì toàn là chuyện ăn ở sinh hoạt, kiểu như nhà ăn nằm ở đâu, đi vệ sinh như thế nào v.v...

    Một tháng trôi qua, tình hình vẫn không có gì tiến triển, chúng tôi nhàn công rỗi việc ngồi chờ từng ngày trong doanh trại, cũng chẳng ai buồn để ý gì đến chúng tôi. Đúng là hết sức khó hiểu! Cuối cùng, mấy đồng chí “thâm niên” cũng không thể chịu nổi, dưới sự cổ súy của chúng tôi, họ năm lần bảy lượt đi tìm gặp Vinh Ái Quốc, nhưng đều bị từ chối bởi đủ loại lí do.

    Lúc này, chúng tôi thực sự cảm nhận một cách nghiêm túc tính chất đặc biệt của sự việc, ai nấy đều hoang mang, lo sợ. Vài người còn ngờ rằng, chúng tôi phạm phải tội nào đó, nên phải bị thủ tiêu bí mật. Những tình tiết kiểu này thì trên phim nhan nhản, nghe người nọ kháo người kia, trong lòng chúng tôi không tránh khỏi sự bồn chồn, bứt rứt. Tất nhiên, hầu hết những phỏng đoán đó chẳng mang chút ý nghĩa nào.

    Mới mùa thu mà ở Nội Mông, gió đã lạnh như chích vào tận xương tủy, dân từ phía nam lên quả là khó thích nghi với cuộc sống ở đây, mọi người liên tục bị chảy máu cam. Trong trí nhớ của tôi, suốt một tháng trời đó, chúng tôi ngồi trên giường sưởi[4], gặm bánh ngô tán chuyện, chốc chốc lại lấy tất rách chùi máu cam, cứ thế, ngày qua ngày.

    [4] Giường sưởi: loại giường xây bằng đất sét, phía dưới có khoang rỗng và có một cửa nhỏ để đặt bếp lò sưởi ấm. Đây là loại giường phổ biến ở vùng phía Bắc Trung Quốc.

    Một tháng sau, cuối cùng mọi việc cũng thay đổi, vào một buổi sớm ngày thứ Tư, chúng tôi được dồn lên xe tải trong sự ngơ ngác, mơ hồ, rồi cùng hai xe chở lính công trình khác nối đuôi nhau chạy vào sâu trong núi.

    Lúc đó, lòng tôi chuyển từ cảm giác hưng phấn, hồ nghi ban đầu sang hoang mang, lo lắng. Tôi nhìn qua lớp vải dù trên xe quân giải phóng, bên ngoài dãy hàng rào được lắp tạm lên xe, là núi xanh và rừng nguyên sinh ngút ngàn tưởng như bất tận, nhìn lại trong xe là những người lính công trình với khuôn mặt không chút biểu cảm, không khí trở nên vô cùng nặng nề. Mọi người không ai nói với ai câu gì, tất cả đều lặng lẽ dựa lưng vào thành xe, chòng chành lắc lư theo mỗi khúc vòng, chờ cho đến điểm cuối của chặng đường.
     
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 2: Đích Đến


    Những con đường trong núi đều do bộ đội mới mở. Dọc đường, chỗ nào cũng có thể thấy những cây cầu mới dựng, những khúc gỗ mới hạ, dù vậy thì quả thật, những con đường được mở trong núi này còn thua xa khái niệm đường đích thực. Phần lớn thời gian, chúng tôi di chuyển men theo các sườn núi, có rất nhiều chỗ, đường đi chỉ là một khe hẹp giữa những cái cây bị đốn vội, chặng đường gập ghềnh, trắc trở thật khó có từ ngữ nào diễn tả nổi.

    Lúc ở trên xe, chúng tôi còn thử vẽ sơ đồ để tính xem mình đang ở vị trí nào và nơi sẽ đến là chỗ nào. Dựa vào thông tin trước đây chúng tôi nghe được thì khả năng bộ công trình 723 đóng ở khu vực dãy Đại Hưng An Lĩnh, thế nhưng xét theo cung đường này thì tôi lại cảm thấy không giống lắm. Mấy người đã từng tới Đại Hưng An Lĩnh nói với chúng tôi rằng, những cánh rừng xanh thẳm triền miên ở đây cũng không có gì khác biệt lắm, nhưng địa hình địa mạo thì rõ ràng không giống, khí hậu cũng không khắc nghiệt như ở Đại Hưng An Lĩnh, càng nghĩ thì càng thấy có vẻ như cả đội đang ở một vùng núi nào đó ở Nội Mông. Giờ đây, rõ ràng là họ đang đưa chúng tôi vào sâu trong rừng.

    Đương nhiên, tất cả cũng chỉ là những phỏng đoán, kì thực cho đến tận bây giờ, chúng tôi cũng không biết được khu vực đó thực ra là nơi nào. Theo cách nói của anh Miêu sau này thì căn cứ vào độ rộng lớn của khu vực đó mà tính, có thể chúng tôi đã bị đưa đến biên giới giữa Trung Quốc và Mông Cổ, thậm chí là đã sang hẳn đất Mông Cổ.

    Hành trình của chúng tôi vô cùng gian khổ, vì xe chở chúng tôi cứ chạy men theo triền núi, mà triền núi lại chạy theo hướng uốn lượn của mạch núi, nên chiếc xe chạy giữa lưng chừng núi cứ thoắt vòng sang trái rồi lại rẽ sang phải, chẳng mấy chốc chúng tôi đã bị mất phương hướng, chỉ còn biết phó mặc cho xe đi đến đâu thì tới đó. Hơn nữa xe lại chạy chậm rì rì, trên đường đi thường xuyên gặp sự cố phải dừng lại, bánh xe thường hay bị mắc lầy trong những đám lá mục đen ngòm, bết đặc lại với đất. Tôi vẫn nhớ không biết bao nhiêu lần đang ngủ thì bị đánh thức dậy để đẩy xe. Cuối cùng, sau năm ngày bốn đêm ròng rã, chúng tôi cũng tới nơi.

    Tới tận bây giờ, tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh nơi đến hiện lên trước những gương mặt sức cùng lực kiệt của chúng tôi. Đó là một sơn cốc, có vẻ là khu vực trung tâm của vùng rừng rậm nguyên sinh, nhưng thấp thoáng trong những lùm cỏ um tùm, rậm rạp, chúng tôi lại thấy những mảng lưới sắt đã hoen gỉ xen với tầng tầng cỏ dại và dây leo mọc chằng chịt xung quanh, người mắt tinh còn nhìn thấy trên những chiếc cọc gỗ bị quấn bởi đám lưới sắt kia có sơn những dòng chữ tiếng Nhật đã mờ vì rêu phủ.

    Những năm tháng đó, sự việc này đối với nhiều người không có gì là lạ. Nơi đây là vùng giáp ranh giữa ba tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang, sau khi Nhật Bản thành lập nước Mãn Châu, người Nhật đã lén lút làm vô số chuyện ở mảnh đất này. Khi chúng tôi khảo sát khai thác mỏ trong núi cũng thường xuyên phát hiện phần sót lại của những thứ mà người Nhật chôn hay kiến trúc bí mật mà người Nhật bỏ lại, đại bộ phận chúng đều được bọn họ tiêu hủy bằng cách tưới xăng dầu lên rồi đốt trước khi rời đi. Có một số tòa nhà rất kì lạ, hồi ở vùng Đông Bắc, tôi từng nhìn thấy một tòa nhà ba tầng, nhưng những gian phòng bên trong đó chỉ cao bằng nửa chiều cao của người trưởng thành, chẳng hiểu họ xây nó để dùng vào việc gì.

    Đằng sau lớp lưới sắt mắt cáo và sau đám cây xuất hiện rất nhiều những căn nhà gỗ đơn sơ, mục nát. Đám cỏ dại mọc dày đặc trên vách, trên mái đầy những lớp lá cây rụng, nhìn kiểu nhà này thì đoán nó được dựng vào khoảng những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ trước. Bên cạnh những căn nhà là những chiếc xe tải của quân giải phóng và mười mấy chiếc lều quân dụng. Mấy người lính nhìn thấy xe tới liền chạy lại giúp chúng tôi dỡ hành lí xuống.

    Tại nơi này, chúng tôi lại nhìn thấy Vinh Ái Quốc, thế nhưng anh ta chẳng chào hỏi gì chúng tôi, mà chỉ đứng từ xa nhìn chúng tôi, vẫn giữ thái độ nghiêm túc cứng nhắc như cũ.

    Sau này nhớ lại, đó là lần cuối chúng tôi nhìn thấy anh ta, thực ra tên anh ta có phải là Vinh Ái Quốc không thì giờ tôi cũng không chắc nữa. Khi sự việc kết thúc, đa số mọi người chúng tôi đều gặp lại nhau một vài lần trong những dịp làm việc khác, nhưng duy nhất người này thì không. Về sau tôi cũng không nghe ai nói tới anh ta nữa. Hồi đó, tôi cũng hỏi nhiều vị lãnh đạo trong quân đội, trong số đó, vài người có quan hệ rộng rãi, đi nhiều biết nhiều, gặp gỡ không ít các chính ủy quân đội, nhưng họ đều nói là không biết người tên là Vinh Ái Quốc này. Cho nên sau này tôi mới nghĩ, có lẽ thân phận của Vinh Ái Quốc không hề đơn giản, chắc chắn không phải là một người bình thường trong hệ thống cán bộ của công trình. Đương nhiên, đây chỉ việc tôi nói thêm chứ không liên quan gì tới câu chuyện này cả.

    Sau khi xuống xe, chúng tôi được sắp xếp vào ở trong những nhà gỗ đơn sơ. Những gian nhà này trước đây là nơi ở của quân Nhật, vật dụng trong nhà rất ngăn nắp, chỉ có điều là đã mục nát lắm rồi. Đồ gỗ vừa đụng vào đã ọp ẹp. Lúc vào trong, chúng tôi phát hiện ra gian nhà đã được dọn dẹp qua, có rắc vôi bột khử côn trùng, dù vậy cũng không thể dọn sạch những dấu vết mục nát, hoang phế của mấy chục năm được. Thành giường chỉ lắc một cái là đã rơi ra cả đống côn trùng mà tôi cũng chẳng biết chúng là loại côn trùng sâu bọ gì, thanh giát giường nào cũng ẩm ướt, nói chung không thể ngủ trên đó được, nhìn cảnh tượng ấy, chúng tôi đành ngán ngẩm lôi túi ngủ ra dùng tạm.

    Quả thật khó lòng mà có thiện cảm nổi với những gian nhà gỗ này, cảm giác không khí nơi này rất kì quái, tôi tin là những người đi cùng năm đó cũng đều có chung cảm giác này. Hễ đứng ở nơi có liên quan đến người Nhật, chúng tôi lại có cảm thấy một cảm giác nặng nề chi phối, rất khó có thể thoát ra được. Nhưng khổ ở chỗ, lúc đó chúng tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác.

    Chúng tôi nhận chỗ ở xong xuôi thì một cậu lính đến dẫn chúng tôi đi ăn cơm.

    Đám mấy người hội tôi đã từng quen nhau trong mấy lần làm việc chung từ trước đều nhất nhất đi theo anh Miêu, vì có lẽ ở đây anh ấy là người có tiếng nói hơn cả. Lúc chúng tôi xuống xe, tôi có để ý thái độ anh Miêu. Khi nhìn thấy đám lều trại ở đây, miệng anh Miêu thoáng nhoẻn một nụ cười, vẻ mặt ấy giữ rất lâu, dường như anh ấy biết chuyện gì sắp xảy ra. Anh Miêu là người thâm trầm, ở bên cạnh anh ấy, tôi luôn có cảm giác an toàn.
    Cả buổi chiều chẳng có chuyện gì xảy ra, đến chập tối, chúng tôi được đưa vào trong một chiếc lều bạt to. Hơn hai chục con người ồn ào, nhao nhao tìm chỗ ngồi trên chiếu. Trước mặt chúng tôi căng một tấm vải bạt, đằng sau là một cái máy có gắn đèn, chúng tôi đoán chắc nó là một cái máy chiếu phim la dương[1]. Chỉ nhìn qua cách bố trí này đã biết tối nay chúng tôi sắp có một cuộc họp.

    [1] Phim la dương: Là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của Trung Quốc. Dụng cụ “chiếu phim” là một chiếc hòm gỗ, trên thành hòm có các lỗ tròn gắn kính để người xem quan sát. Trong hòm có xếp nhiều bức tranh với nội dung một câu chuyện. Phía sau tranh có bóng đèn chiếu sáng làm nổi hình ảnh. Người điều khiển sẽ kéo sợi dây nối với tranh để tranh chuyển động khiến người xem thấy hình ảnh thay đổi liên tục như một bộ phim.

    Chủ trì cuộc họp là một vị đại tá, hình như trước đây tôi đã từng gặp ông ấy, nhưng không nhớ được là đã gặp ở đâu. Ông ta nói nhiệt liệt hoan nghênh chúng tôi đến với công trình 723, sau đó gửi lời xin lỗi tới chúng tôi vì những bất tiện xảy ra trong hành trình bí mật vừa rồi, chỉ có điều là trên mặt ông ta chẳng có tí biểu hiện nào là tỏ vẻ áy náy có lỗi cả. Sau đó, để không mất thời gian, ông ta cất chất giọng mà mới nghe đã biết ngay là khẩu âm của người vùng Lang Phường[2] để đi thẳng vào vấn đề chính: “Nội dung tiếp theo của cuộc họp hôm nay là điều tuyệt mật của quốc gia, nên đề nghị các đồng chí cùng tôi giơ tay tuyên thệ, thề suốt đời mình sẽ không bao giờ tiết lộ bí mật này, kể cả với cha mẹ, vợ con, chiến hữu.”

    [2] Lang Phường: Một địa danh thuộc tỉnh Hà Bắc, cách Bắc Kinh khoảng 40 km.

    Đối với chuyện thề bồi thì chúng tôi chẳng lạ lẫm gì, vì rất nhiều hạng mục khảo sát đều thuộc diện cơ mật quốc gia, nên một khi gia nhập vào tổ công tác thì nhất định phải tuyên thệ tuyệt đối giữ bí mật. Thời đó, nghi thức tuyên thệ này rất được coi trọng, việc này đại diện cho “tinh thần cách mạng”, không giống như bây giờ, thề thốt còn dễ hơn cả ăn cơm.

    Hồi đó, những bí mật quốc gia được phân thành ba loại: bí mật, cơ mật và tuyệt mật. Những hạng mục khảo sát bình thường, ví dụ như khảo sát mỏ dầu Đại Khánh, tuy rằng vẫn là việc cơ mật quốc gia, nhưng vẫn được chụp ảnh hoặc lên báo. Còn những hạng mục khai thác cỡ tuyệt mật quốc gia thì chúng tôi chưa từng được tiếp xúc, nên không biết được nơi này rốt cuộc đã xảy ra việc kinh thiên động địa gì, có đoán chắc cũng chẳng ra.

    Mọi người đều tuyên thệ một cách trang trọng, rất nhiều người còn quay hẳn sang đứng đối diện với nhau để thề, có thể thấy rõ là những lo lắng bủa vây suy nghĩ bấy lâu nay của chúng tôi giờ đã được hóa giải, thay vào đó là sự chờ đợi, hi vọng. Đương nhiên, khi đó cũng có một số người không nghĩ như vậy, vì thời đó cũng có nhiều sự việc lúc đầu thì họ làm rùm beng, lên gân lên cốt như là tuyệt mật quốc gia quan trọng lắm, nhưng cuối cùng hóa ra chỉ là họ quan trọng hóa vấn đề, vì nó có liên quan đến một nhân vật “cỡ bự” nào đó, hoặc đơn thuần đó chỉ là thói quen thích quan trọng hóa mọi vấn đề của thời đó mà thôi.

    Cuối cùng, một người đứng ra tổng kết tính chất của sự việc, nếu liên quan đến dân sinh thì gọi là bí mật, nếu ảnh hưởng đến những lợi ích kinh tế, quân sự thì xếp vào hàng cơ mật, còn nếu ảnh hưởng tới “một nhân vật cỡ bự” nào đó hoặc những việc không giải thích được, hoặc đi ngược với thế giới quan thông thường thì gọi là tuyệt mật.

    Nhưng dù ở thời nào cũng có những phần tử đặc biệt. Anh Miêu đứng ngay trước mặt tôi, lúc tuyên thệ, tôi thấy anh ấy lấy ngón tay vẽ một chữ X trên đùi, ý là lần thề thốt này coi như không tính. Hành động này thường bị người ta coi là trò mà chỉ dân giang hồ mới làm, nhưng tôi thì không nghĩ nghiêm trọng đến như vậy. Có lẽ do chút liên hệ về hoàn cảnh xuất thân của tôi, việc gia đình tôi làm trước giải phóng còn bị xem là “nặng tội” hơn nhiều so với hành động chống lại lời thề kia, nhưng tôi cũng chưa bao giờ thấy cha mình bị ám ảnh trong lòng, chắc anh Miêu làm vậy có có lí do của anh ấy, mỗi người đều có suy nghĩ riêng mà.

    Sau khi nghi thức tuyên thệ kết thúc, vị đại tá tắt đèn, đằng sau có người bắt đầu bật một bóng đèn mờ lên, lúc đó kiến thức của tôi còn khá hạn hẹp - giờ thì tôi biết vật mà chúng tôi đang thấy thực chất là một chiếc máy chiếu phim cỡ nhỏ.

    Đó là một cái máy rất kì lạ, màn hình chiếu phim chúng tôi từng xem thường rất lớn, thế nhưng cái màn hình hôm nay sao lại nhỏ thế nhỉ, thật kì lạ! Chúng tôi vừa mới thì thào bàn tán thì đã bị ông đại tá giơ tay ra hiệu trật tự. Vậy là, cả đội đành ngồi im thin thít để tập trung xem đoạn phim đen trắng chỉ kéo dài chừng hai mươi phút.

    Mới xem chừng mười phút, tôi đã cảm thấy khó thở trong lồng ngực. Tôi bắt đầu ý thức được rằng nhiệm vụ bí mật lần này quả thực vô cùng quan trọng, tuyệt đối không phải là kiểu khoa trương thanh thế đơn thuần như tôi nghĩ ban đầu. Bộ phim chúng tôi đang xem là một đoạn phim tuyệt mật, có tên là “Bộ phim số không”.
     
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 3: Thước phim số không


    Cái tên “Bộ phim số không” vốn là một tên gọi tắt, nguồn gốc của nó là một bộ phim làm về mỏ dầu Đại Khánh được Hãng phim Cáp Nhĩ Tân sản xuất vào đầu mùa xuân năm 1959, bộ phim này được đặt tên là “Phim số không”, chỉ có những vị quan chức tầm cỡ trung ương mới được xem, nội dung của phim đề cập đủ những chi tiết nhỏ nhất đến những sự kiên quan trọng của những ngày đầu thăm dò, tìm kiếm, định vị, tổ chức kế hoạch khai thác mỏ dầu Đại Khánh. Về sau, chúng tôi quen gọi những bộ phim cơ mật cho các vị quan chức cấp trung ương xem là “Phim số không”. Sự thực bộ “phim số không” ấy đi đâu, về đâu chúng tôi cũng không ai rõ, có người trong số những người thông hiểu tình hình của đơn vị tôi bảo rằng vì bộ phim đó có liên quan đến sự việc của Hoàng Cấp Thanh[1] và Lý Tứ Quang[2], nên nó đã bị tiêu hủy, rồi sự việc cuối cùng cũng chỉ là một trong vô số những sự kiện bị chìm xuống của đợt Cách mạng văn hóa.

    [1] Hoàng Cấp Thanh (1904 - 1995): Viện sĩ, Kĩ sư trưởng của Cục Địa chất, dầu khí Trung Quốc.

    [2] Lý Tứ Quang (1889 - 1971): Nhà địa chất học nổi tiếng của Trung Quốc.

    Bộ phim chúng tôi được xem giới thiệu rất tóm tắt nhưng cũng rất rõ ràng về mục đích của đợt điều động tạm thời này. Lúc này tôi chỉ có thể kể tóm tắt một chút về nội dung của đoạn phim đó, nhưng cũng xin nói luôn là, trong hoàn cảnh đó, chúng tôi đều chẳng mảy may nghi ngờ gì về tính chân thực của những thước phim đó, nhưng giờ nghĩ lại, có một số chỗ thật khó để khiến người ta tin tưởng hoàn toàn.

    Sự việc đại thể như thế này:

    Mùa đông năm 1959, trong một lần dập đám cháy rừng tại khu Nam Lộc ở dãy Đại Hưng An Lĩnh, những người công nhân chặt cây đã tìm thấy một xác máy bay của quân Nhật trong một vũng bùn lầy. Nghe nói hồi đó lửa đã đốt khô cạn cả đầm nước, khi nước trong đầm khô hết, hiện ra lớp bùn bên dưới, chỗ đó lộ ra một cái cánh máy bay đã gãy.

    Những người công nhân chặt cây không hề biết đó là một xác máy bay nên họ đã chui vào trong đó, lấy ra rất nhiều linh kiện, rồi sau đó những linh kiện ấy được chuyển tới chỗ một vị cán bộ cấp trên của nhóm công nhân cứu hỏa, tiếp đó, nó được chuyển về huyện, một quan chức quân đội về hưu nhìn thấy, cuối cùng sự việc này mới được thông báo rộng rãi khắp nơi.

    Hồi đó, giới lãnh đạo cấp cao đương nhiên rất quan tâm tới những tàn tích máy móc quân sự, vì một mặt, nó có khá nhiều giá trị cho việc nghiên cứu quân sự, mặt khác có khả năng trong nó còn sót lại cả đạn dược sát thương, cho nên các vị lãnh đạo trung ương đã lập tức phái người về địa phương để xử lý việc này.

    Những bên liên quan đã đưa xác máy bay lên khỏi vũng bùn, lúc kiểm tra trong khoang máy bay, họ mới kinh ngạc phát hiện ra toàn bộ những gì chứa bên trong đó đều là những văn kiện thăm dò khảo sát địa chất của đạo quân Quan Đông[3] đối với ba tỉnh miền đông Trung Quốc và khu vực Mông Cổ.

    [3] Đạo quân Quan Đông: là một trong các tổng quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của lục quân Nhật, được xây dựng từ lính tuyển chọn của các đơn vị lục quân.

    Chúng ta đều biết, sau khi người Nhật chiếm lĩnh được vùng Quan Đông, họ đã bỏ rất nhiều sức lực để thăm dò khoáng sản ở khu vực Mông Cổ, chủ yếu trong các hoạt động đó là tìm kiếm mỏ dầu, thế nhưng không hiểu vì sao, những mũi khoan thăm dò của đạo quân Quan Đông hồi đó vẫn chưa đủ sâu, tìm tới tìm lui vẫn không phát hiện được dấu hiệu nào của dầu mỏ. Những đội quân khai khoáng của họ thậm chí cũng đã nhiều lần tìm kiếm ở khu vực mỏ dầu Đại Khánh, nhưng họ vẫn không phát hiện được mỏ dầu quý hiếm nằm bên dưới. Về sau, người Nhật vẫn cho rằng, Trung Quốc là đất nước nghèo về dầu mỏ. Mãi sau này, khi Hoàng Cấp Thanh phát hiện ra mỏ dầu Đại Khánh, người Nhật mới thay đổi quan niệm này. Kì thực, trước khi người Nhật chiếm lĩnh vùng Quan Đông, người Mỹ cũng đã từng tìm kiếm tại nơi này, nhưng không phát hiện được gì. Bây giờ chúng tôi nghĩ lại, thực sự cũng không hiểu vì sao lại có chuyện lạ lùng đến thế.

    Công việc tìm kiếm thăm dò của người Nhật cũng không hề sơ sài, qua loa hay đơn giản. Hồi Hồng quân Liên Xô tấn công đạo quân Quan Đông Nhật Bản, những người làm việc dưới lòng đất như chúng tôi đã từng mơ ước giá mà quân mình tìm được tài liệu đó thì tốt biết mấy. Nhưng việc tìm kiếm thất bại. Về sau, những tài liệu này cũng bị mất tích, người Trung Quốc đoán chắc rằng chúng đã rơi vào tay quân Liên Xô, người Liên Xô thì lại nghĩ chắc chúng đã bị người Nhật đã tiêu hủy, còn người Nhật lại cho rằng chắc người Trung Quốc và quân Nhật Bản thua cuộc đầu hàng đã kí một hiệp ước ngầm rồi mang chúng đi. Cả ba bên đều không thể tưởng tượng được rằng, số tài liệu đó lại nằm trong khu đầm lầy của dãy Đại Hưng An Lĩnh này đã chẵn hai chục năm.

    Những tư liệu này đáng giá như một kho báu, chúng rất có giá trị tham khảo trong những trình độ khai thác nhất định về sau, đặc biệt là những cuộc khai thác mỏ lộ thiên ở khu Nội Mông.

    Qua những tư liệu này, chúng tôi nhận thấy người Nhật đã làm việc một cách nghiêm túc, tất cả các tài liệu khảo sát đều được phân loại và cất trong các va li bằng da bò thuộc, các tài liệu khác nhau lại được bọc trong những túi da có màu sắc khác nhau, chỗ tài liệu này được Cục lưu trữ ở Bắc Kinh tiếp nhận, họ lại tiếp tục phân loại cẩn thận.

    Vốn dĩ chuyện này được xem là chuyện bình thường, thế nhưng có một việc xảy ra khiến cho việc ngoài ý muốn này trở thành cực kì đặc biệt.

    Vì những tài liệu này đều được viết bằng tiếng Nhật, lại chứa nhiều số liệu, chứng cứ về việc thăm dò khoáng sản, nên phải cần một biên dịch và một nhân viên thăm dò, khai thác khoáng sản phối hợp làm việc, công việc chỉnh lý hết sức chậm chạp. Một trong những nhân viên lưu trữ trong lúc phân loại chiếc va li số 0-34 đã phát hiện ra một chiếc hộp sắt có mật mã màu đen hết sức kì quái dưới đáy va li.

    Chiếc hộp kì quái đó được gắn sát với đáy va li, trông nó không có gì nổi bật, nhưng những chữ số mật mã được khắc trên hộp lại hết sức tinh vi, vừa nhìn cũng có thể đoán đó là một vật dụng được dùng cho quân đội.

    Vậy trong chiếc hộp chứa gì cái gì? Sau khi tin tức về chiếc hộp được đăng báo, đã có rất nhiều người hứng thú với tin tức này, họ mời các chuyên gia về đánh giá, nghiên cứu, tốn nhiều nhân lực lẫn thời gian, rồi dùng cả dung dịch hóa học mới phá được chiếc hộp, sau đó mới lấy ra được một tài liệu tóm tắt về thăm dò khoáng sản viết bằng mật mã.

    Lúc đó, mọi người rất ngạc nhiên, tại sao một phần tài liệu lại phải cất giấu cẩn thận như vậy, chỗ tài liệu về quá trình thăm dò khai khoáng và cả những khu vực khai thác này lẽ nào lại khác với tài liệu về những khu vực khác?

    Trung ương nghi ngờ trong chỗ tài liệu này sẽ có những manh mối liên quan tới việc tìm kiếm dầu mỏ của người Nhật những năm trước. Thế nhưng tất cả những thông tin quan trọng trong số tài liệu này lại đều được mã hóa, mà mật mã của người Nhật đều rất khó, hồi đó người ta không có cách nào giải mã được. Những người hiểu được mật mã của người Nhật lại là người Mỹ. Thời điểm đó, cuộc chiến kháng Mỹ viện Triều[4] mới kết thúc được vài năm, nên không thể nhờ người Mỹ đến dịch giúp mật mã được. Cho nên, chúng tôi chẳng có cách nào hiểu được nội dung cụ thể, chỉ có thể xem được địa điểm và phạm vi của việc thăm dò khảo sát.

    [4] Kháng Mỹ viện Triều: Chiến tranh Triều Tiên, còn gọi là chiến tranh Bắc Hàn 1950 - 1953; người Trung Quốc giúp đỡ quân Triều Tiên đánh Mỹ.

    Vậy là dựa theo những ghi chép trong tài liệu, một tổ nhóm trong ba tổ đặc biệt đang thực hiện công việc xây dựng Công trình 723, với nhiệm vụ chuyên thăm dò khoáng sản đã bí mật mang chỗ tài liệu này vào khu vực rừng sâu, tìm kiếm những manh mối và dấu vết được ghi chép trong số tài liệu đó. Sau đó, giữa núi rừng thăm thẳm, quả nhiên họ đã phát hiện ra căn cứ địa tạm thời của quân Nhật, chính là chỗ chúng tôi đang ở hiện nay.

    Thế nhưng, người đã bỏ đi hết, nơi này chỉ còn vườn không nhà trống, tất cả đồ đạc đều bị đốt cháy cả, đến một mẩu giấy cũng chẳng còn. Chúng tôi đành phải thông qua những tàn tích, dấu vết còn sót lại ở gần đó, phán đoán là hồi đó người Nhật chắc đã có hẳn một đội kĩ sư thăm dò, khảo sát khoáng sản, họ đã từng tiến hành khảo sát cả một vùng chiếm tới tám mươi phần trăm diện tích khu rừng núi này.

    Sau đó, chúng tôi cũng tiến hành thăm dò một lượt những vùng đất xung quanh, nhưng không thu được kết quả gì, chẳng có phát hiện gì đặc biệt trên bề mặt của khu rừng. Tiến hành đào xuống tầng dưới cũng không tìm được gì, nơi này dường như không có chút giá trị nào cho việc khảo sát địa chất.

    Những gì người Nhật cho là vô cùng quan trọng lại đối lập hoàn toàn với kết quả thăm dò “không có gì khác thường” của đội khảo sát chúng tôi. Hồi đó, trực giác của người đứng đầu công trình 723 mách bảo rằng hẳn phải có điều gì đặc biệt trong sự việc này, vậy nên họ rất tin tưởng vào những cứ liệu thăm dò của người Nhật, thậm chí căn cứ vào độ sâu của những khu vực địa chất chứa mỏ dầu, trên Trung ương đã ra quyết định sẽ dùng hẳn “thiết bị thăm dò địa chấn” nhập từ Liên Xô để tiến hành thăm dò khu vực này.

    Đó là kĩ thuật tương đối tân tiến vào thời đó, đến đây lại cần thêm một phần giải thích về nguyên lý hoạt động của thiết bị này:

    Trên mặt đất người ta sẽ dùng những phương pháp tác động tạo nên những chấn động xuống lòng đất, những chấn động này sẽ truyền sóng xuống dưới lòng đất, mỗi vỉa tầng khác nhau sẽ có những môi trường truyền sóng âm khác nhau, sóng địa chấn sẽ sản sinh ra những tín hiệu phản hồi và tín hiệu khúc xạ, dùng địa chấn kế để đo trên mặt đất hoặc dưới giếng sẽ thu được loại sóng này. Tín hiệu của sóng địa chấn thu được cùng với đặc tính riêng biệt của tâm chấn, vị trí đo sóng, kết cấu và tính chất của vỉa tầng mà sóng địa chấn truyền qua đều có mối liên hệ với nhau. Sau đó, người ta tiến hành xử l‎ý và đọc những dữ liệu đã ghi chép được của sóng địa chấn thông qua đồ thị địa chấn, qua đó có thể phán đoán được hình thái và tính chất của những vỉa tầng dưới đất. Việc thăm dò địa chất với cách đo đạc chính xác và độ chia vỉa tầng tỉ mỉ này rõ ràng là tốt hơn nhiều những phương pháp thăm dò vật lý địa cầu khác. Độ sâu thăm dò địa chấn có thể từ một mét đến mười ngàn mét.

    Từ năm 1951, Trung Quốc đã bắt đầu nhập khẩu loại thiết bị này, cho đến nay cũng đã có những kinh nghiệm sử dụng nhất định, loại thiết bị này thường được dùng cho việc thăm dò khoáng sản ở tầng sâu, các dữ liệu phản hồi của việc thăm dò đều là những dữ liệu ba chiều, vô cùng đáng giá, dĩ nhiên với những người bình thường mà nói thì những tài liệu này chỉ là một mớ bong bong với những đường ngoằn ngoèo trên mặt giấy.

    Sau đó, thông qua việc giải mã đồ thị địa chấn, người ta có thể khôi phục lại những đường sóng kia thành phim âm bản đen trắng để đọc. Bây giờ, hoạt động thăm dò của chúng ta đã có những máy móc phần mềm tiên tiến, có thể ngay lập tức trực tiếp xem được hình ảnh, hồi đó, phải có một người chuyên bê máy móc đi theo để ghi chép lại. Những việc ngày đều do các nhà khoa học làm, còn đối với dân kĩ thuật cơ sở như chúng tôi, việc đọc những tài liệu này chẳng khác gì như đọc sách do người ngoài hành tinh viết. Trình độ như chúng tôi thì chỉ có thể hiểu được những kí hiệu sau khi chúng đã được khôi phục lại trên tấm phim âm bản mà thôi.

    Thời gian cho lần khảo sát dư chấn mất khoảng năm tháng, sau khi tổng hợp các dữ liệu xong, quả thật đã có phát hiện mới, tuy nhiên những phát hiện đó khiến người ta lúng túng, khó mà miêu tả rõ ràng nó là cái gì được.

    Khảo sát cho thấy, dưới độ sâu một ngàn hai trăm mét tại khu vực này xuất hiện những tín hiệu khúc xạ khác thường của dư chấn. Trên dải phim bỗng dần hiện lên một hình ảnh trăng trắng bất thường, không rõ hình thù, trông giống hình cây thánh giá, kích thước đo được khiến chúng tôi bỗng chốc giật nảy mình, nó dài bốn mươi chín mét, rộng ba mươi tư mét, giống như một thỏi kim loại được đóng sâu vào lòng đất, dưới độ sâu một ngàn hai trăm mét.

    Xem tới đoạn này, chúng tôi thì nhau bàn luận râm ran, cảm giác không thể tin nổi vào mắt mình, đến lúc người phụ trách chiếu bóng phóng to hình ảnh lên, bốn bề bỗng đột ngột im lặng.

    Cái bóng trắng hình cây thánh giá ấy sau khi được phóng to lên gấp hai trăm lần mới hiện rõ thêm ra các đường nét khác, tất cả chúng tôi đều nhận đó là hình ảnh của một chiếc máy bay!

    Phải mất khá nhiều thời gian tôi mới hiểu ra vấn đề, có thể giải thích về chuyện này như sau: tại khu vực người Nhật đã từng tiến hành thăm dò trước đây, ở độ sâu một ngàn hai trăm mét dưới tần vỏ núi rõ ràng hiện lên hình một chiếc máy bay chiến đấu!
     
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 4: Máy bay Shinzan


    Viết đến đây, rất nhiều người sẽ cho rằng tôi đang khoác lác.

    Đây thực sự không phải là những chuyện khoác lác viển vông, vì ở thời đại của tôi, những gì chúng tôi nhận được là một nền giáo dục tương đối cụ thể, đó là thời đại mà người ta đề cao chủ nghĩa duy vật, có rất nhiều sự việc vốn không thể giải thích nhưng người ta vẫn cố tìm ra những lý do vô cùng khiên cưỡng để nói cho người khác hiểu về nó. Chính vì vậy, khi tiếp xúc với những tình huống như thế này thì phản ứng đầu tiên của tôi cũng theo hướng cho rằng đây là một sự bịa đặt thiếu căn cứ, chẳng đáng tin chút nào.

    Thế nhưng, về sau ngẫm nghĩ lại, vấn đề này kì thực không khó giải thích. Bởi trên thực tế, nếu như một sự việc nào đó đã trở thành hiện thực rồi thì kiểu gì cũng có cách giải thích hợp lý về nó.

    Đến đây tôi xin được thêm vào câu này, bộ phim “Số không” tới đó thì kết thúc, vì lúc đó tôi thực sự cảm thấy kinh hãi, nên không thể cảm nhận được bộ phim kết thúc lúc này có gì bất ngờ. Sau này tôi mới biết, đằng sau những gì đã chiếu vẫn còn một đoạn nội dung rất dài. Đương nhiên, đến khi tôi hiểu ra mọi chuyện thì những nội dung bị giấu kín đã chẳng còn ý nghĩa gì nữa, và lý do để che giấu nội dung của bộ phim mà tôi được biết khi đó cũng rất khó hiểu. Sau này, khi tôi đã lên làm cấp quản lý rồi, tôi mới hiểu được suy nghĩ của những người lãnh đạo lúc đó. Sự trưởng thành của mỗi người bao giờ cũng có giá của nó, suy nghĩ mãi về cuộc đời này, mỗi sự trưởng thành của tôi dường như bao giờ cũng dính vào sự hi sinh hay dối trá, lừa gạt, thực sự không còn cách nào khác.

    Sau đó, đại tá và chúng tôi tiến hành thảo luận sôi nổi. Rất nhiều người mới đầu cho đó là sự trùng hợp, biết đâu hình ảnh phía dưới lòng đất đó chỉ là sự dồn tụ của những nguyên tố sắt do bị nung chảy bởi núi lửa tạo thành. Thế nhưng đồng chí đại tá đó lại nói: Căn cứ vào việc phân tích rất kĩ lưỡng hình ảnh đó thì đích thị đây là một chiếc máy bay Nakajima G5N Shinzan[1]. Nó là một loại máy bay ném bom hạng nặng của Nhật Bản, người Nhật chuyên dùng nó để chở vũ khí, được đưa vào sử dụng từ những năm đầu của thế chiến thứ hai, số lượng được sản xuất rất ít, cho nên nói khả năng đó là sự trùng hợp thì không đúng.

    [1] Máy bay Nakajima G5N Shinzan: còn gọi là “Thâm Sơn”, là một kiểu máy bay ném bom hạng nặng của Nhật Bản trong thế chiến II. Nó là kiểu máy bay bốn động cơ, bộ càng ba cánh và cánh đuôi kép. Chuyến bay đầu tiên được thực hiện vào ngày 10 tháng 4 năm 1941. Chỉ có bảy chiếc Shinzan được chế tạo, và chúng chỉ được Hải quân đế quốc Nhật Bản sử dụng như máy bay vận tải tầm xa.

    Đã không phải là sự trùng hợp, vậy bây giờ phải căn cứ vào thực tế để đưa ra những suy đoán. Vị đại tá giải thích cho chúng tôi những kết luận được đưa ra của các chuyên gia và nhóm khảo sát, đại thể những phán đoán của họ là thế này:

    Giả thiết thứ nhất là họ đã xác định rằng đúng là có một chiếc máy bay ném bom hạng nặng của Nhật Bản được chôn vùi dưới độ sâu một ngàn hai trăm mét. Họ không phủ nhận sự tồn tại của chiếc máy bay này, nhưng điều đặt ra là làm thế nào mà nó lại có thể chui xuống được độ sâu như thế?

    Thực tế này chỉ có duy nhất một cách giải thích dựa trên thuyết duy vật là: nếu như chiếc máy bay không tự mình chui xuống dưới đó thì nhất định là do người Nhật đã mang nó xuống.

    Như vậy, để đến được nơi đó nhất định phải có một con đường, nhưng không thể nào mang nguyên cả một chiếc máy bay đó xuống được, vậy nên chắc chắn người ta đã tháo rời nó ra trước đó rồi mới mang xuống.

    Chuyện đó có thể dùng giả thiết như thế này để giải thích:

    Hồi đó, tại nơi này, không biết người Nhật đã dùng cách gì để đào hoặc tìm được một con đường đi sâu xuống dưới lòng đất, sau đó, họ đã tháo rời từng linh kiện của chiếc máy bay Shinzan rồi chuyển chúng xuống bên dưới. Đến cuối đường hầm, ở độ sâu một ngàn hai trăm mét, họ lại lắp ráp nó thành chiếc máy bay hoàn chỉnh như cũ.

    Giả thiết này được xem là rất phi thực tế, nhưng nó là giả thiết hợp lý nhất mà họ có thể nghĩ ra lúc đó.

    Để chứng minh được giả thiết này cần làm được hai điều: thứ nhất là tìm được cửa hầm dẫn xuống dưới lòng đất, thứ hai là tìm được những dấu vết của việc tháo dỡ và cất giữ số lượng lớn linh kiện của máy bay.

    Vị đại tá nói, người của họ đã tìm được ở xung quanh đây có rất nhiều dấu vết của loại dầu máy chống đông, vậy nên xem ra căn cứ để chứng minh điều thứ hai đã được giải quyết xong. Bây giờ các kĩ sư quân đội đang tìm kiếm ở phạm vi rộng hơn, hi vọng sẽ tìm được lời giải đáp cho điều kiện thứ nhất. Nếu tìm được cửa đường hầm dẫn xuống lòng đất thì phải lập tức cử người xuống thăm dò tình hình ở dưới đó.

    Đây chính là nguyên nhân khiến chúng tôi được đưa đến nơi này.

    Cuộc thảo luận đến đây là kết thúc. Đồng chí đại tá lại yêu cầu chúng tôi tuyên thệ một lần nữa, sau đó để chúng tôi được tự do thảo luận. Đồng chí đại tá vừa đi khỏi, cả căn lều liền ào lên như chợ vỡ. Chúng tôi chẳng còn phải giữ ý giữ tứ nữa, ai nấy đều hăng hái bàn luận về chuyện thăm dò hang động. Những người được cử đến đây đều là những người dày dặn kinh nghiệm, không ai ngại khó, ngại khổ gì. Lúc đó chúng tôi rất phấn chấn, so với công việc thăm dò khai thác khô khan và đơn điệu thì công việc này thật hấp dẫn và thú vị biết bao!

    Sau khi trở về lều, tất cả chúng tôi đều háo hức đến mức không tài nào chợp mắt được. Thực tình là hôm đó chúng tôi đều rất mệt, vậy mà chẳng ai chịu nằm yên, chốc chốc lại trở mình vì sự nôn nóng, hứng khởi cứ lan tỏa trong lòng. Đêm đó, tôi nhớ, chỉ có duy nhất anh Miêu là ngủ được, còn tất cả chúng tôi đều thức trắng đêm, chìm trong niềm hưng phấn khó tả.

    Nhưng đến hôm nay nhớ lại, tôi không khỏi cảm thấy kì lạ là tại sao hồi đó chúng tôi bàn bạc nhiều như thế, suy nghĩ lâu như thế mà chẳng có một ai đặt câu hỏi rằng: người Nhật bỏ bao công sức mang chiếc máy bay xuống dưới lòng đất sâu vì mục đích gì?

    Những ghi chép về khảo sát nơi này đều được giấu trong chiếc hộp sắt kia, chắc chắn nó là việc đặc biệt bảo mật, bảo mật đến nỗi đến những người trực tiếp vận chuyển nó cũng không được phép xem nữa là chúng tôi. Đứng từ góc độ nghề nghiệp mà đánh giá thì người Nhật là những kẻ đầu tiên tiến hành khảo sát thăm dò khoáng sản ở khu vực này. Trong lúc thăm dò, chắc chắn bọn họ đã tìm ra được điều gì đó, vì vậy họ mới thực hiện điều không tưởng này.

    Tại sao vậy? Tôi đoán, có lẽ hồi đó trong đầu ai trong số chúng tôi cũng đều đặt ra câu hỏi này, nhưng có thể mọi người đều biết, trong hoàn cảnh đó nếu có đưa vấn đề này ra thảo luận thì trong cũng chẳng ích gì, thế nên tất cả mọi người đều chọn cách im lặng, vờ như không hay biết.
     
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 5: Hang động


    Khoảng thời gian sau đó có thể coi như là thời kì quá độ giữa chờ đợi, trông ngóng và hồi hộp, lo âu. Tất cả những kĩ sư, công nhân liên quan đều được huy động bắt đầu công việc tìm kiếm. Chúng tôi cũng đề nghị được tham gia giúp đỡ tìm kiếm, nhưng đồng chí đại tá kiên quyết từ chối mà không đưa ra lý do cụ thể nào. Hồi đó, chúng tôi không hiểu được ẩn ý đằng sau lời từ chối đó, chỉ ngây thơ tin rằng đó là cách người ta bảo mật thông tin. Dân kĩ thuật cơ sở như chúng tôi mà hưởng được đãi ngộ như thế này quả thật đã là một sự ưu ái rồi, vậy nên chúng tôi đành chấp nhận hoàn cảnh, giết thời gian bằng việc bàn tán thảo luận, rồi ngóng đợi những tin tức từ rừng sâu chuyển về.

    Sự thắng lợi của chủ nghĩa duy vật cuối cùng đã xuất hiện sau mười hai ngày chờ đợi. Đội kĩ sư khảo sát được phân công đi tìm kiếm ở khu vực cách chỗ chúng tôi đang dựng trại khoảng năm cây số đã phát hiện ra dấu vết của một con đường lớn. Họ lần theo con đường này đi thêm ba cây số nữa thì phát hiện ra một hõm núi, ở đó họ tìm được một hang động ngầm quy mô lớn, có kiến tạo của một khe nứt, rộng khoảng ba mươi mét. Miệng hang được một tấm bạt lớn che phủ, phía trên phủ toàn lá mục. Ban đầu cả đội không phát hiện ra nó, chỉ khi có một đồng chí trong đội vô ý bị thụt xuống đó thì cả đội mới biết.

    Miệng hang tương đối lớn, đi sâu vào trong tầm hai ba mươi mét, đội kĩ sư phát hiện ra đây là một đường hầm thẳng. Vì không mang đủ trang thiết bị cần thiết, nên họ không dám đi sâu vào bên trong. Có lẽ, đây chính là lối vào đường hầm dẫn xuống lòng đất.

    Buổi trưa, đại tá thông báo kết quả thăm dò của đội khảo sát được phái đi gần như đã chắc chắn, hôm sau cả đoàn sẽ đi vào hang. Đại tá còn nhắc mọi người phải chuẩn bị kĩ càng trang thiết bị đem theo.

    Đa số mọi người đều lập tức trở nên phấn chấn khác thường, có vài người lại bắt đầu thấy căng thẳng. Hang động được xem là tầng thứ năm của Trái đất, nghề thăm dò khai thác địa chất thường xuyên phải ra vào hang động, chúng tôi đều hiểu công việc này nguy hiểm thế nào, nên nhận được mệnh lệnh của cấp trên là lập tức triển khai công việc, ai vào việc nấy, không có bất cứ lời phàn nàn nào. Không khí trong doanh trại bỗng chốc đầy vẻ căng thẳng, nhưng vẫn hết sức trật tự.

    Nhìn vẻ điềm nhiên của anh Miêu mấy ngày vừa rồi, tôi thực sự thấy nể phục anh. Việc gấp gáp nhường này mà trên mặt anh ấy vẫn chẳng hề có chút biến đổi nào. Anh vẫn giữ vẻ mặt bình thản như trước, cứ như thể chẳng quan tâm gì đến những chuyện xung quanh. Người khác thì hăng hái, sốt sắng chuẩn bị như sắp ra trận, nhưng anh Miêu thì tuyệt nhiên không chuẩn bị gì, chỉ đứng ở bậc thềm quan sát chúng tôi.

    Tôi cảm thấy thật khó hiểu trước thái độ của anh Miêu. Dường như anh ấy biết điều gì mà chúng tôi không biết, ánh mắt anh nhìn chúng tôi lúc này, rõ ràng không giống thường ngày chút nào.

    Kì thực, mỗi thời kì đều có mẫu người điển hình của thời đại đó, mà anh Miêu chính là mẫu người điển hình của thời kì này. Anh là người rất thông minh, trong thời kì đầu của cuộc đấu tranh, anh đã từng chứng kiến rất nhiều sự việc mà lẽ ra không nên chứng kiến, nên anh biết rõ đằng sau mỗi sự việc, ắt hẳn sẽ có một sự thật bị che giấu, và anh cũng hiểu rằng cho dù mình có muốn cũng không thể nào thay đổi được tình hình. Tuýp người này vừa nhanh nhạy lại rất khá khôn lanh, rất hứng thú với kiểu “mọi người mê muội hết, chỉ mình tôi tỉnh” và luôn hãnh diện vì nghĩ mình giỏi hơn người khác.

    Những điều này đương nhiên là sự tổng kết sau rất nhiều năm của tôi. Sự thực thì hồi đó, tôi luôn tò mò muốn tìm hiểu hơn về những người như anh Miêu giống như cảm giác hâm mộ, thích làm quen của giới trẻ bây giờ dành cho những thần tượng tuổi trẻ tài cao vậy. Chúng ta thường thích gần những người tài giỏi đó, để được lĩnh hội chút gì đó từ họ.

    Cho nên, sau bữa tối hôm đó, tôi liền viện cớ để đi dò hỏi anh ấy, xem phải chăng là có chuyện gì.

    Ban đầu anh Miêu cứ cười cười, tôi hỏi gì anh cũng không nói, lúc sau tôi mời đến mấy điếu thuốc, anh ấy mới mở lời. Anh hút một hơi thuốc, thở ra một cuộn khói dài rồi nhìn tôi và bảo: “Tôi thấy trong chuyện gì có gì đó giả dối, bất thường lắm!”

    Anh Miêu nói rằng hang động ấy nhất định đã được tìm thấy trước khi chúng tôi đến, nếu không, cấp trên không thể tự nhiên điều động từng này người đến đây được. Họ đã đóng quân ở đây trước khi chúng tôi tới khá lâu rồi, tại sao trong phạm vi chỉ có năm cây số, mà tới tận bây giờ họ mới tìm ra cửa hang?

    Bên dưới cái hang động đó chắc chắn phải có nhiều nhánh hang động phức tạp, nếu không thì đâu cần điều nhiều người đi như vậy.

    Anh Miêu còn nói, anh không hiểu đội quân của Công trình 723 đến đây ôm súng ngồi chơi làm gì. Anh nghĩ, những sự việc như thế này đáng ra lãnh đạo phải nói thẳng với chúng tôi, chắc chắn họ đã nhận được công văn chỉ thị hay văn kiện gì đó. Tóm lại, rất nhiều chuyện xảy ra ở nơi này rất kì quái, đặc biệt là chuyện về chiếc máy bay, chắc chắn là có điều gì mà họ cố tình giấu giếm, nhưng giấu kiểu đó thì chẳng khéo chút nào.

    Nói xong anh Miêu vỗ vai tôi, bảo khi đi nhất định phải cẩn thận.

    Tôi không tranh luận gì với anh Miêu, nhưng ấn tượng tốt đẹp ban đầu về anh có giảm đi đôi chút, vì tôi cho rằng anh ấy quan trọng hóa vấn đề quá. Trong suy nghĩ của tôi, việc xảy ra ở đây hiển nhiên là không đơn giản rồi, nếu không thì lãnh đạo đâu cần điều đến nhiều người như vậy, còn nếu như sự thực là có vấn đề gì đó phía sau cần che giấu, thì chắc họ cũng có lí do sâu xa nào đó.

    Lúc đó, tôi cũng không nghĩ nhiều, những lời anh Miêu nói sau đó cũng tôi cũng chẳng nhập tâm nghe. Hôm đó, chúng tôi đã chuẩn bị xong những vật dụng cần thiết. Mọi người được nghỉ ngơi trọn một ngày, rồi xem xét lại súng ống. Đến ngày thứ ba, đội tôi cùng với một đội quân nữa nhằm hướng cửa hang xuất phát.

    Vì không có la hay ngựa chuyên dụng, nên chúng tôi đều đi bộ, mỗi người vác theo không ít đồ dùng, lại dắt cả chó nghiệp vụ theo, dự tính chắc phải đi bộ mất một ngày.

    Có điều tôi cũng hơi băn khoăn là trong chặng đường hành quân hôm đó tôi không hề nhìn thấy anh Miêu đâu, hỏi ra mới biết sáng ra không biết anh ấy phải ăn gì mà bị đau bụng quằn quại nên không đi được.

    Khi đó tôi bất giác ý thức rằng, những gì anh Miêu đã nói với tôi không phải là chuyện đùa, rõ ràng anh ấy có ý muốn trốn chuyến đi này, nhớ đến lời anh, tôi lại cảm thấy hoang mang, lo lắng.

    Lần này được hành quân nên cảm nhận của chúng tôi về khung cảnh xung quanh có phần rõ ràng, cụ thể hơn khi đến bằng ô tô trước đó. Mọi người đều đeo súng sau lưng. Vương Tứ Xuyên thì thầm với tôi rằng, việc chúng tôi được mang theo súng thế này thì nhiều khả năng là đang ở khu vực biên giới Trung Quốc - Mông Cổ rồi. Nếu là ở biên giới Trung Quốc - Liên Xô thì việc mang theo súng sẽ phiền phức to, vì người Liên Xô thấy vậy sẽ cho người bắn tỉa chúng ta, nên thông thường khi đi tới đó quân ta không vũ trang gì. Còn ở biên giới giáp ranh Mông Cổ thì thường xuyên có cướp hoặc thổ phỉ, nên luôn cần phải mang súng phòng thân.

    Vì đường đi ngoằn ngoèo, lại nhiều khúc quanh, ngã rẽ nên chúng tôi cũng không hình dung được diện mạo của khu vực đó. Ban đầu, tôi định bụng vừa đi vừa đoán xem mình đang ở đâu, nhưng quả thực rất khó. Hơn nữa việc đi bộ tốn rất nhiều sức, nên chúng tôi cũng không nói chuyện nhiều. Vì hành quân thành đoàn dài nối tiếp, nên tôi cũng chỉ nhìn thấy mỗi lưng của người đi trước, chẳng còn mấy sức mà nghĩ đến việc ngẩng đầu lên nhìn ra xung quanh.

    Cứ như vậy, nhẫn nại bước từng bước, chúng tôi đã đi bộ được một ngày rưỡi, đến trưa ngày hôm sau, cả đoàn mới đến được cửa hang mà người ta đã phát hiện, muộn nửa ngày so với kế hoạch.

    Nguyên nhân không phải do chúng tôi đi chậm mà vì thực tế đường đi vô cùng hiểm trở, những con đường trước đây chúng tôi từng đi qua chưa đường nào dẫn vào nơi thâm sâu cùng cốc như thế này. Dưới đế giày chúng tôi, từng lớp lá mục dày bết quánh lại, chỉ nhấc chân lên thôi cũng vô cùng khó khăn, bên dưới lẹp nhẹp thứ nước màu nâu đen bẩn thỉu, cảm giác như đang đi giữa vũng bùn lầy, đoàn đi nhiều người, lại liên tục có người bị ngã, nên tốc độ di chuyển rất chậm.

    Đến được cửa động, tôi mới giật mình khi nghĩ tới lời anh Miêu đã nói trước đó. Quả thật chắc chắn cái động này đã được tìm thấy từ trước, vì gần đó có mấy chiếc lều bằng bạt, và hàng đống cuộn dây thừng ở xung quanh, mà rõ ràng mười mấy ngày trước những vật dụng này chưa được chuyển tới.

    Thế nhưng hầu hết mọi người đều không phát hiện ra điều này, chúng tôi vốn đã quen với cảnh dựng trại trên núi cao rừng rậm, nên không hề để ý những việc như vậy. Nếu tôi không được anh Miêu dặn trước thì chắc chắn cũng không để ý.

    Cây cối nơi đây mọc rất rậm rạp, những tán cây rộng lớn, vươn cao che hết ánh sáng mặt trời, bên dưới có một lớp cây dại mọc lúp xúp, miệng hang nằm ngay bên dưới một gốc cây cây cổ thụ rất to và đã khô mục, vô số rễ cây ngoằn ngoèo vươn ra từ gốc cây đó, bao phủ lấy miệng hang.

    Đây là một kiểu cấu tạo hang động khá điển hình, nó là loại hang động được hình thành do sự vận động địa chất trong những trận động đất, nó không giống như những loại hang đá vôi thông thường trên vách núi mà là khe nứt cực lớn được hình thành trên bề mặt vách đá cứng, chỗ rộng nhất khoảng hơn ba mươi mét, đứng từ trên nhìn xuống thấy vách đá dựng đứng, phía dưới là một cái hồ tối om, đen ngòm, gió thổi bên dưới lồng lộng, ầm ào, hun hút, không biết phía dưới sâu chừng nào.

    Những chỗ ánh sáng có thể chiếu tới ở trên vách hang mọc rất nhiều rêu và cây dương xỉ. Xem ra, đây đúng là kiểu cấu tạo của loại hang động dạng ống dung nham, phía dưới chắc sẽ rộng hơn miệng hang rất nhiều. Trên miệng hang, những kĩ sư đang bắt đầu giăng dây thừng. Họ kéo những ròng rọc máy đến và tra dầu vào các mô tơ, rồi lần lượt bọc các vật dụng lại bằng những tấm vải bạt màu xanh và thả xuống, rõ ràng là đã có sẵn người chờ ở phía dưới.

    Đại tá nói với chúng tôi rằng những người thăm dò đã hoàn thành xong công tác thăm dò ban đầu. Hang động này sâu hai trăm mười bốn mét, dưới đáy động có nước, đó là một dòng suối ngầm, chúng tôi sẽ đi xuống vào đó. Khi đi theo dòng nước vào trong chừng sáu mươi mét, chúng tôi tới một đoạn có bốn đường hang động rẽ nhánh, nên cả đoàn đành phải tách nhóm để đi.

    Tôi nghe đến đây thì toát mồ hôi hột, những gì anh Miêu đã nói với tôi lại dồn dập hiện về, trời ạ, ông này đúng là liệu sự như thần!
     
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 6: CHIA NHÓM


    Lúc đó, đội thăm dò có tất cả hai mươi ba người, cứ bốn người thành một nhóm, vì có bốn hướng nên sẽ chọn ra bốn nhóm, những người còn lại làm hậu bị chi viện, mỗi nhóm thăm dò sẽ đi cùng với một nửa tiểu đội công binh gồm năm chiến sĩ, làm công tác yểm trợ và mang vác trang thiết bị cho nhóm đó.

    Hồi đó, cách phân chia số người trong một tiểu đội thường không cố định.

    Đến đây tôi lại phải giải thích thêm một chút, thực ra đội cán bộ kĩ thuật khảo sát trực thuộc binh chủng kĩ thuật đặc biệt, thuộc công trình khai thác địa chất, còn lính công binh lại thuộc binh chủng lục quân, hai đối tượng này được quản lí theo hai hệ thống riêng biệt.

    So với lính công binh, chúng tôi hiển nhiên được thoải mái hơn, bình thường chúng tôi không phải chịu những quy chế nghiêm ngặt, hà khắc của quân đội, mà lại vẫn có quân hàm quân hiệu đàng hoàng.

    Binh chủng kĩ thuật khi đó vẫn thuộc biên chế chính thức. Khi chúng tôi nhập ngũ cũng phải trải qua khóa huấn luyện khắc nghiệt.

    Tuy là được rèn luyện như thế, nhưng trải qua bao năm làm việc với cường độ cao, chúng tôi hầu như không còn giữ được thể chất như khi mới làm nghề, cho nên việc có tiểu đội công binh ở bên cạnh hỗ trợ quả là cần thiết, đặc biệt là với việc khảo sát kiểu hang ống thế này.

    Dây thừng mang theo rất nhiều và nặng, đường vào lại có nhiều vách đá cheo leo hoặc các khe nứt nguy hiểm, chắc chắn sẽ rất tốn sức, nên có thêm vài người mang đỡ các vật dụng, chúng tôi càng có khả năng đi vào sâu hơn.

    Ngoài dây thừng ra, họ còn phải mag thêm một số đồ dùng vật dụng khác.

    Trước đây, khi tập luyện họ thường phải đeo khoảng hai mươi ki lô gam đồ và hành quân trên đoạn đường ba mươi cây số, cho nên, dù bây giờ không biết họ đang đeo những thứ gì ở trên lưng, nhưng xem cách thể hiện của họ thì xem ra vẫn nhẹ nhàng hơn chúng tôi.

    Lúc đó tôi mải suy nghĩ về những gì anh Miêu nói, nên rất muốn gia nhập vào đội chi viện để đi, mục đích là lén xem tình hình thế nào, nhưng tiếc là người ta dựa vào tuổi tác để phân chia chúng tôi vào các nhóm.

    Trong đoàn, tôi thuộc diện ít tuổi nhất nên được phân vào nhóm thứ hai, cùng nhóm với Vương Tứ Xuyên và hai người đến từ Thiểm Tây, một người tên là Bùi Thanh, người kia tên là Trần Lạc Hộ.

    Hai người này thực ra tôi cũng không lạ. Hồi trước, chúng tôi từng là đại biểu Đại hội về dầu mỏ Karamay[1], sau này cũng thường xuyên gặp nhau, có điều tôi không biết đơn vị của họ vì lần nào gặp cũng vội vã, họ đến thì tôi lại đi, cho nên ngoài việc chào nhau thì tôi không có ấn tượng gì với họ.

    Lần này được xem như là dịp để chúng tôi giao lưu kĩ hơn.

    [1] Karamay: Một thành phố thuộc khu tự trị Tân Cương, phía bắc Trung Quốc.

    Bùi Thanh là một thanh niên tóc bạc sớm, nhìn mặt cậu ta thì rõ ràng còn rất trẻ, nhưng tóc trên đầu thì đã bạc gần hết, dáng vẻ vừa già dặn vừa khổ sở.

    Cậu ta cũng khá kiêu ngạo, nghe nói cậu ta có học vấn rất cao, được coi là cán bộ cốt cán của đơn vị. Bình thường, cậu ta rất ít nói, nghe đâu cậu ta còn là một tay sát gái nữa.

    Trần Lạc Hộ lại có bề ngoài đối lập với Bùi Thanh, mới nhìn đã thấy dáng vẻ của một người cấp dưới.

    Cậu ta nói tiếng phổ thông còn chưa sõi, có lúc chúng tôi kể chuyện cười với nhau, mà cậu ta đần mặt ra không cười, cả ngày chỉ “ừa, tui hỉu rồi” “ủa ra là thía” “bùn cười thiệt” v.v... nghe rất ngộ. Tiếc là người này có chút gian gian, nhìn qua đã thấy lòng dạ hẹp hòi, cần phải đề phòng, đây là kiểu tiểu nhân mà cơ quan nào cũng có, nên chúng tôi cũng không thèm chấp cậu ta.

    Hồi đó, năm người bên tiểu đội công binh giống chúng tôi ở chỗ tất cả cùng thuộc tiểu đội 4, đại đội 6, binh đoàn quân sự Nội Mông Cổ. Đội phó hình như có tên là Kháng Mỹ thì phải, bốn cậu lính còn lại đều là những người lạ mặt, vẻ ngoài còn rất trẻ, hồi đó chúng tôi cũng không giới thiệu với nhau nhiều, khi gặp nhau thì chỉ gật đầu một cái, nhận mặt cho quen là được rồi.

    Về phần vũ khí, đội phó đeo khẩu K56, bốn người khác đeo khẩu K54, dây đạn đeo đầy quanh ngực. Vương Tứ Xuyên khoác lác với bọn họ là khả năng phía nam của động có thể có thú dữ, còn chỗ này, nhiều nhất vẫn là dơi. Nhiệt độ trong động rất thấp, nên những loại động vật máu lạnh cũng không chọn nơi này để trú chân, những loài như gấu cũng không thể trèo nổi vào chỗ này.

    Điều cần phải lo lắng nhất là giữ được nhiệt độ và có không khí để thở, song về phương diện này, mấy anh lính công binh chẳng hề tỏ ra lo lắng gì

    Dĩ nhiên, có thể những cậu lính kia không tin lời chúng tôi. Mọi người trong nhóm của tôi đều từ chối mang súng, chỉ đeo những túi vũ trang.

    Các vật dụng được chia thành từng phần, mỗi người mang một thứ, tôi được phân công mang xẻng và rìu khai thác chuyên dụng. Tôi thấy thật may, vì những vật dụng này đều có thể dùng để phòng thân, lại khá nhẹ. Vương Tứ Xuyên thì phải đeo trên người những vật dụng cho nhà bếp, nhất cử nhất động của cậu lại kéo theo một loạt tiếng lẻng xẻng, nên cậu ta có phần bất mãn với tổ chức.

    Sau khi đã chuẩn bị xong vật dụng, từng người chúng tôi được ngồi lên ròng rọc để thả xuống đáy động. Sự việc này đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ như in, hơn hai trăm mét ngồi ròng rọc, cứ hạ dần từng chút từng chút một, ngồi trên đó giống như ngồi xích đu vậy, cảm giác như mình có thể thình lình mất mạng bất cứ lúc nào.

    Tôi thì cho rằng nếu dùng dây thừng để tụt xuống dưới, như vậy sẽ tiện hơn ngồi ròng rọc rất nhiều vì việc leo trèo vách đá hay xuống hang động đối với chúng tôi thường xuyên như ăn cơm bữa, hơn hai trăm mét xem ra cũng không phải là sâu, hồi còn ở Sơn Tây, chúng tôi còn leo trèo trong địa hình gian khổ hơn nhiều ấy chứ.

    Vì nơi này thế động phức tạp, có chỗ khúc khuỷu, có chỗ bị uốn cong, nên ban đầu còn có ánh sáng, xuống khoảng ba mươi mét thì đã tối hơn, hướng đi cũng thay đổi, đi xuống tiếp khoảng năm sáu mươi mét nữa thì rơi vào trạng thái đen như mực, thêm một đoạn nữa thì lại có thể nhìn thấy ánh đèn ở bên dưới phản chiếu lên.

    Ngồi trên ròng rọc, tôi cố gắng quan sát thật kĩ vách động xung quanh, những dấu vết trên động rõ ràng cho thấy hang động này được hình thành từ kỉ Cambri[2] và kỉ Ordovic[3], rõ ràng đây là một hang động kép, chắc chắn có đặc điểm cấu tạo động của loại hang ống dung nham[4].

    [2] Kỉ Cambri: là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, bắt đầu vào khoảng 542 triệu năm trước, vào cuối thời kì liên đại Nguyên Sinh và kết thúc vào khoảng 488,3 triệu năm trước, với sự khởi đầu của kỉ Ordovic.

    [3] Kỉ Ordovic: là kỉ thứ hai trong số sáu kỉ (tại Bắc Mỹ là bảy kỉ) của đại Cổ Sinh.

    Nó diễn ra sau kỉ Cambri và ngay sau nó là kỉ Silur. Kỉ Ordovic, được đặt tên theo tên gọi của một bộ lạc người đã từng sinh sống tại vùng đất thuộc xứ Wales. Ngày nay, có tên gọi là Ordovices.

    [4] Hang ống dung nham: là loại hang được hình thành do dung nham của núi lửa khi phun trào bao phủ lên mặt đất, có những chỗ địa hình không bằng phẳng, hay bao phủ lên những dòng suối, sông, sau đó dung nham nguội đi tạo nên những khoảng trống trong lòng nó.

    Cuối cùng, tôi đã xuống được vị trí có thể nhìn ngắm được toàn cảnh động. Đáy động rộng ngang một sân vận động tiêu chuẩn, dưới đó toàn là nước, nước chảy lững lờ, đây rõ ràng là một dòng sông ngầm, song những cảnh bên dưới động cũng không mấy xa lạ nên tôi cũng không có cảm giác kinh ngạc gì.

    Tôi còn thấy bên dưới có nhiều giá sắt vừa ghép lại, không biết đó là của người Nhật bỏ lại hay của đội chúng tôi mang xuống, ngoài ra còn có mấy cái đèn bão rất to và những vật dụng vừa được chuyển xuống, tất cả đều chất đống trên các giá. Các kĩ sư đang lấy những vật dụng vừa mang xuống ra, đó là những chiếc xuồng cao su chuyên dụng đã được gấp cẩn thận.

    Mấy chiếc vẫn còn không khí bên trong, vừa mở ra đã nổi dập dềnh trên mặt nước.

    Nước có vẻ không sâu, rất nhiều người đi ủng đang đứng giữa dòng nước, Vương Tứ Xuyên xuống trước tôi, cậu ta đã kịp châm thuốc lá lên hút, vừa hút vừa cầm đèn pin soi bốn bề vách động.

    Tôi đáp xuống chỗ cái giá sắt ở đáy động một cách ổn thỏa, theo thói quen nghề nghiệp, tôi lập tức bị hấp dẫn bởi những bí ẩn của hang động này, nên liền bật đèn pin cùng xem xét vách động xung quanh với những đồng nghiệp khác.

    Mấy năm trước, khi mới vào nghề, tôi luôn cảm thấy hang động có sức hấp dẫn vô cùng đặc biệt với mình, đặc biệt là cảm giác thần bí, cần khám phá.

    Mỗi lần khám phá một hang động, tôi cảm thấy như mình đang được đứng ở một chốn bên ngoài cõi nhân gian vậy. Người làm nghề khảo sát như chúng tôi thường coi hang động là huyết quản của các dãy núi, xuyên qua những hang động đó, bạn sẽ có cảm giác như mình đang được hít thở trong một bầu không khí đặc biệt khác lạ, và rồi bỗng nhiên bạn nhận ra rằng núi non cũng giống một cơ thể sống.

    Nhưng bây giờ tôi chỉ quan sát địa hình nơi đây như một vị bác sĩ phụ khoa khám bệnh cho bệnh nhân, chỉ để ý những chỗ cần thiết mà thôi.

    Trước đây khi ở Sơn Tây, tôi cũng từng gặp kiểu hang động này một lần, rất nhiều người gọi kiểu hang động này là “hố địa ngục”.

    Họ nói những hang này do thiên nhiên tạo thành nên đa số đều rất sâu, nhưng hang động này thậm chí còn phức tạp hơn rất nhiều những “hố địa ngục” thường gặp khác.

    Động dung nham kép được hình thành bởi tác động đồng thời của địa chất và nước chảy ăn mòn, bởi vậy, cấu tạo của nó vô cùng phức tạp.

    Nó vừa có vô số các khe suối, khe đá nứt, vô số những nhũ đá, những mũ đá gồ ghề, lại có rất nhiều hang nhánh chằng chịt. Với những hang động đơn giản thì nước ở trong động chảy tương đối ổn định, nếu ngồi trên xuồng để xuôi theo dòng nước xuống hạ lưu thì cũng không xảy ra vấn đề gì nguy hiểm.

    Tuy nhiên, với cấu tạo địa chất của loại hang động này, rất có khả năng sẽ khác nhiều với các vùng địa tầng phổ thông khác. Nếu cứ để xuồng trôi xuôi theo dòng nước có thể bạn sẽ tới một thác nước cao trăm mét dốc thẳng từ trên xuống, lúc đó thì coi như xong đời, chẳng còn mảy may một hi vọng để sống sót trở về nào cho bạn.

    Vì vậy, khi thám hiểm loại hang động này, chúng tôi thường tránh việc đi vào sâu trong hang.

    Nhưng lần này muốn tránh cũng không được, tôi quay lại định lên tiếng nhắc mấy cậu lính hãy buộc thêm đá vào đầu mỏ neo để tăng thêm trọng lượng thì đã thấy Trần Lạc Hộ đang làm việc đó.

    Tôi lội xuống suối, nước ngập tới đầu gối, lạnh thấu xương, hai bên bờ có vô số những hang hốc nhỏ, nước từ bên này tuôn ra rồi lại chảy vào phía bên kia, tôi cứ nhìn mãi, rồi lại gần chỗ Vương Tứ Xuyên, thấy cậu ta đang chăm chú xem xét một vách đá bên bờ suối ngầm.

    Vương Tứ Xuyên thấy tôi tới gần thì chỉ tay, ra hiệu cho tôi nhìn về phía đó, tôi cầm đèn pin chiếu tới chỗ cậu ta chỉ thì phát hiện vách đá mà Vương Tứ Xuyên đang quan sát nhẵn bóng, dường như nó bị phủ bởi một lớp sáp.

    Tiếp đó, Vương Tứ Xuyên lấy đèn pin soi tới vài chỗ khác cho tôi xem, chỗ nào cũng có dấu vết tương tự như vậy.
     
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 7: MANH MỐI


    Quá trình thủy tinh hóa nham thạch thường xảy ra sau sự phát sinh phản ứng giữa nham thạch và dòng dung nham phun trào, vì phải cần một nhiệt độ rất cao. Ngoài ra, những trận cháy nổ lớn cũng có thể tạo ra hiện tượng này. Suy đoán của Vương Tứ Xuyên về cơ bản là đúng, nhưng rốt cuộc nó được tạo nên bởi quá trình phun nổ hay là cháy nổ thì cần phải được khảo chứng cụ thể.

    Theo phán đoán ban đầu của Vương Tứ Xuyên thì quá trình thủy tinh hóa nham thạch này được tạo nên bởi một trận cháy nổ hoặc thiêu đốt lớn, bởi rất có khả năng trước khi bỏ đi, người Nhật đã cố tình vùi lấp cái động này. Cách làm phổ biến của quân đội sẽ là cho nổ mìn trong lòng núi.

    Có thể thấy, để phá hủy một hang động cỡ này thì chắc hẳn hồi đó người ta sẽ phải dùng một lượng thuốc nổ rất lớn, họ mà cho nổ mìn thì nửa ngọn núi sẽ bị thổi bay tức khắc. Vì vậy tôi cho rằng khả năng là do quá trình thiêu đốt lâu ngày, vì nếu nơi đây đã từng bị nổ mìn thì cái động này chắc chắn sẽ không còn hình dạng như bây giờ nữa.

    Còn nếu như đó là quá trình thiêu đốt thì khả năng cái động này đã phải trải qua chừng bốn mươi tiếng bị thiêu đốt liên tục, không hiểu hồi đó để duy trì đám lửa lớn trong thời gian lâu như vậy, người ta đã đốt đi những gì nhỉ?

    Chúng tôi mò mẫm đi qua đi lại trong động, mực nước ở dòng suối này không đều nhau, chỗ sâu chỗ nông, phía dưới có sỏi.

    Chúng tôi soi đèn pin xuống nước có thể thấy từng đàn cá con đang bơi lội. Nếu như là đất phương nam thì nơi đây hẳn là địa điểm rất tốt cho việc nghỉ ngơi, thư giãn. Tiếc rằng đây là miền Bắc lạnh lẽo, nên dù đã đi ủng rồi mà chúng tôi vẫn cảm thấy lạnh buốt như bị kim nhọn chích vào tận xương tủy.

    Người ở phía trên lại lần lượt được đưa xuống động, họ dần dần cũng quen với không khí ở đây. Mọi người cùng ngồi lại hút thuốc, bàn bạc về tình hình nơi này. Những công việc cụ thể đã có đội lính công binh thực hiện, chúng tôi cũng không phải đụng tay vào việc gì, từng món đồ được chuyển dần lên các giá sắt.

    Trong lúc này, chúng tôi bắt đầu bàn đến những câu chuyện của quân Nhật. Khi đó, chúng tôi thường nghe nói, ở trong rừng, người ta hay bắt được những tàn binh Nhật chưa kịp rút hết, có những binh lính đã trở thành người rừng. Họ không biết rằng thế chiến thứ hai đã kết thúc, nên vẫn ra sức lẩn trốn.

    Không biết liệu trong hang động này có sót lại người nào không. Nếu gặp họ dưới hang, chắc sẽ có nhiều chuyện hay ho để kể đây.

    Hai tiếng sau, toàn bộ mọi thành viên đều đã xuống được đáy động, tám chiếc xuồng cao su cũng đã được bơm đầy khí, nổi lềnh bềnh trên mặt nước.

    Mọi người ai nấy đều tỏ ra khá hồi hộp, một số người thần kinh vững hơn thì liên tục bàn tán, khắp động vang lên tiếng ồn ào râm ran. Một đồng chí đại tá cũng đã xuống động, lúc đồng chí ấy thay trang phục dã chiến xong tôi mới nhận ra, đây chính là vị thủ trưởng đã từng huấn luyện quân sự cho tôi trước đây, nhưng hình như đồng chí ấy không nhận ra tôi.

    Đầu tiên, đồng chí đại tá nhắc nhở tôi sơ qua về việc anh em phải chú ý an toàn, sau đó bất luận là có niềm tin vào việc sẽ hoàn thành nhiệm vụ hay không, chúng tôi cũng theo phản xạ tự nhiên, đồng thanh hô rất to “Có! Có!”. Tiếp sau đó, đại tá tuyên bố xuất phát. Chúng tôi hít sâu lấy đà, mặc áo mưa vào và nhanh chóng leo lên xuồng cao su, chính thức khởi hành.

    Dựa vào việc phân tích những tấm ảnh chụp từ máy thăm dò địa chất, nơi chiếc máy bay nằm sẽ cách con sông ngầm này một đoạn. Tuy nhiên khi thăm dò thực tế, chúng tôi nhận thấy khoảng cách tính theo đường thẳng mà máy thăm dò đo được trước đó khác xa với số liệu khảo sát thực tế, vì dòng sông ngầm dưới đất uốn lượn quanh co, chiều dài của nó khó lòng đoán được, chắc chắn sẽ dài hơn con số một nghìn hai trăm mét ước tính ban đầu.

    Chúng tôi thuộc nhóm thứ hai, hai chiếc xuồng chở lương thực của nhóm một trôi về phía hạ lưu của động chừng được một phút thì chúng tôi cũng xuất phát. Mấy cậu lính ngồi phía trước bật đèn chuyên dụng của xuồng lên để coi đường đi. Chúng tôi cứ thế tiến lên, cố gắng chèo cả hai phía để chiếc xuống không chạm vào hai bên vách động.

    Vì lòng động ngày càng thu hẹp lại nên chỉ một lúc sau, âm thanh từ bốn phía bỗng hội tụ rào rào lại với nhau, ánh sáng cũng tập trung lại quanh mấy chiếc xuồng, lúc này chỉ cần dùng đèn pin soi xuống nước cũng có thể thấy dòng nước khá sâu, đây là một kiểu cấu tạo hang động đặc thù, hướng chảy của con sông biến hóa khôn lường, vừa đột ngột lại vừa mạnh mẽ.

    Hóa ra động không rộng lắm, tới chỗ này lòng động chỉ rộng chừng mười mét, nhưng lại rất cao, nhìn khe nứt hun hút không thấy tận cùng phía trên, người ta có cảm giác ngột ngạt như bị mắc kẹt giữa hai vách núi hẹp cao ngất, chiếu đèn pin lên có thể nhìn thấy thảm thực vật rậm rạp phủ đầy bên trên.

    Khung cảnh ở đây thật hùng vĩ, chúng tôi đều ngây người ngắm nhìn, Trần Lạc Hộ còn lấy máy ảnh ra bật đèn chụp lại mấy kiểu.

    Xuồng trôi về phía trước chừng ba mươi mét thì đến chỗ động rẽ nhánh, chúng tôi tập trung tại nơi này rồi chia nhau cho xuồng trôi vào từng nhánh động, lúc này mới chính thức đi vào chỗ nguy hiểm.

    Đối với nghề thăm dò hang động thì một đội thăm dò năm mươi người và một đội thăm dò chỉ vẻn vẹn chỉ năm người quả thật là hoàn toàn khác nhau.

    Chúng tôi thả mấy cái phao báo hiệu không dây xuống nước, làm vậy để nếu phía trước có xảy ra vấn đề gì, chỉ cần nhìn tình trạng phao tín hiệu, chúng tôi có thể cảnh giác trước.

    Cũng may dòng nước khá hiền hòa, nhìn đèn tín hiệu nhấp nháy trên chiếc phao báo hiệu vẫn đang trôi đằng trước, chúng tôi yên tâm chèo theo.

    Nói đến sự nguy hiểm của nghề thăm dò hang động thì những gì người ta kể trong văn chương chỉ là khuếch đại, kì thực, chỉ cần đi đúng đường, chú ý cẩn thận từng bước một thì công việc cũng khá an toàn, điều nguy hiểm nhất là cấu tạo đá trong hang không ổn định, khi đi vào có thể bị các nhũ đá rơi xuống làm bị thương, vậy nên nhìn cảnh mấy cậu lính công binh đi trước cứ lăm lăm khẩu súng trong tay khiến chúng tôi thấy thật buồn cười.

    Nói vậy, nhưng quả thật những người chưa có kinh nghiệm thăm dò địa chất khi nhìn thấy một màu đen kịt của hốc tối trước mặt cũng khó mà bình tĩnh được, điều này âu cũng dễ hiểu.

    Trong bốn tiếng thăm dò đầu tiên, mọi việc đều thuận lợi. Chúng tôi đã đi được khoảng hai cây số, lúc này nước bắt đầu chảy xiết hơn, đã xuất hiện những đoạn khúc khuỷu, uốn lượn, bắt đầu có những thác nước ngắn.

    Dưới nước bắt đầu có những mỏm đá nhô lên, xung quanh đã thấy một vài dấu tích của người Nhật mắc lại ở trên những mỏm đá, hầu hết đều là những chiếc rương gỗ hoặc những lon đồ hộp đã bật nắp, những dòng chữ in trên đó đã mờ, chúng tôi không biết tiếng Nhật, nên cũng không biết chữ đó nghĩa là gì.

    Trong lúc chúng tôi đang dồn sự chú ý tới mấy đồ dùng quân Nhật bỏ lại, thì cả nhóm gặp phải chướng ngại vật đầu tiên. Chiếc xuồng đi đầu đột nhiên dừng lại, dường như nó mắc phải cái gì đó, sau đó, xuồng của chúng tôi đồng loạt va đập vào nhau khiến những người trên xuồng chới với, suýt nữa ngã nhào xuống nước.

    Rồi xuồng của nhóm tôi bỗng nhiên bị quay đuôi theo dòng nước, và cũng tụ lại một chỗ với họ.

    Chúng tôi cảm thấy thật kì lạ, trên mặt nước không thấy điều gì khác biệt, nhưng rõ ràng là hai chiếc xuồng đã bị mắc lại ở chỗ này, phải chăng bên dưới có vật gì đó?

    Chúng tôi dùng mái chèo khua khoắng bên dưới, quả nhiên đụng phải một vật, chúng tôi cố sức lay lay chướng ngại vật và nhận ra đó là một một tấm thép gai bùng nhùng.

    “Bọn Nhật khốn kiếp, rõ ràng là muỗn bẫy chúng ta đây mà!”, anh đội phó buông câu chửi, rồi lệnh cho hai cậu lính nhảy xuống nước nhổ nó lên.

    Hai cậu lính răm rắp nghe theo, ngậm đèn pin thả mình lặn ùm xuống nước, những giọt nước lạnh như đá bắn lên, khiến chúng tôi run cầm cập.
     
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 8: MỘT XÁC CHẾT


    Đội phó cũng cởi quần áo nhảy xuống nước, ba người lặn qua lặn lại khiến mặt nước bị khuấy động liên tục, Vương Tứ Xuyên tính tình nóng vội, cậu ta cũng sốt sắng cởi phăng áo, để lộ ra thân hình đen bóng tráng kiện để định nhảy xuống giúp. Nhưng tôi đã ngăn cậu ta anh lại, ba người là đủ rồi, lại có đội phó đích thân xuống thì chắc sẽ giải quyết xong thôi.

    Bên dưới dòng nước bị khuấy động dữ dội, tấm lưới mắc vào xuồng của chúng tôi liên tục bị giật khiến chiếc xuồng không ngừng chòng chành, chúng tôi ở trên đều cố gắng bám thật chắc để giữ thăng bằng. Lát sau, đội phó ngoi lên, tay kéo một vật màu xanh, tiếp đó, hai cậu lính kia cũng ngoi lên, ba người dùng sức vừa rung vừa lắc khiến mặt nước bị khuấy động thành hình vòng tròn xoáy, rồi một vật có hình thù giống như cái bao tải từ dưới nước nổi lên.

    Vì xuồng chúng tôi ở gần chỗ của đội phó nhất nên vật này được quẳng ngay lên xuồng của chúng tôi, những tia nước cũng theo đó bắn tung tóe đầy mặt chúng tôi.

    Chúng tôi đều giật mình kinh hãi, ban đầu ai cũng tưởng đó là một xác chết, nhưng khi bình tĩnh xem xét cẩn thận mới thấy là không phải, hóa ra đó chỉ là một chiếc bao tải có màu xanh thẫm đã bị phân hủy, vỏ ngoài bị những chiếc đinh móc của tấm lưới sắt móc thủng mấy chỗ, bên trong nó toàn là các cuộn lưới sắt, khi căng ra thì mặt sau của nó rất giống một cái xác chết trương, có lẽ vì thế mà mới có sự nhầm lẫn vừa rồi.

    Cái bao tải nhìn đáng sợ, thò tay sờ thử, thấy nước đục rỉ sét chảy ra thì có thể đoán được nó đã nằm dưới đó rất lâu rồi. Trọng lượng của nó rất nặng, vừa bỏ lên xuồng đã làm đuôi xuồng bị bẩy ngược lên.

    Trần Lạc Hộ nhát gan, cậu ta sợ đến mức giật nảy người về đằng sau, suýt chút nữa thì rơi ra khỏi xuồng, may mà có Vương Tứ Xuyên nhanh tay kéo lại.

    Ba người vừa nhảy xuống nước leo lên thuyền thở hồng hộc, đội phó chau mày nhìn cái tải, rồi phát vào hai cậu lính vừa nhảy xuống mỗi người một phát, mắng: “Mắt với mũi các cậu để đi đâu hả? Xác chết, xác chết mà như thế này sao?”

    Hai cậu lính kia ngượng nghịu, chỉ biết lắc đầu.

    Sau đó, hai cậu lại bị giục xuống nước tiếp tục nhổ lưới sắt. Lúc này, đội phó cảm thấy xấu hổ, anh ta quay sang chúng tôi giãi bày: “Hai cậu ấy là lính mới vào, nhát gan quá!”

    Kì thực, chúng tôi cũng sợ đến co hết cả người lại, bỗng đâu có một vật rơi “bịch” vào giữa xuồng, mới nhìn ai chẳng chết khiếp.

    Lúc sau, tôi lại nghĩ có thể là mấy cậu lính kia nhìn cán bộ chuyên ngành bọn tôi thấy ngứa mắt, nên muốn dọa một tí cho sợ chăng.

    Vương Tứ Xuyên cầm đèn pin chiếu vào chiếc bao tải, rồi hỏi tôi: “Thứ này có phải do người Nhật vứt lại không nhỉ?”

    Tôi trả lời tất nhiên là thế, tôi còn nhận ra kiểu bao tải này được gọi là tải tránh đạn, được dùng để phòng thân lúc có bom rơi đạn nổ.

    Trước đây, chắc chắn trong những chiếc tải thế này sẽ có cát, nhưng giờ nó bị ngâm dưới nước quá lâu nên cát không còn nữa, có thể hồi đó trong quá trình vận chuyển lính Nhật không may để cái bao tải rơi xuống nước. Xem chừng nơi này trước đây từng xảy ra một vụ nổ lớn.

    Mọi người đều thấy đúng, tôi đang định tiếp tục giải thích thì Vương Tứ Xuyên bỗng nhiên cắt ngang, không biết cậu ấy đã nhìn thấy cái gì. Cậu ta lôi cái bao tải lại nói với tôi: “Cậu Ngô này, tôi thấy không đúng, đây rõ ràng là một cái xác.”

    Nói xong, cậu ta xé cái vỏ bao tải đã mủn nát như xơ mướp ra, trước mặt chúng tôi, giữa những lớp lưới sắt là một bộ xương người bị buộc trong đó.

    Tấm lưới cuốn chặt bộ xương ở giữa, khiến người đó bị bọc như một cái kén. Nhìn tình trạng bộ xương có thể đoán định trước khi chết con người đáng thương này đã trải qua một trận giãy giụa kịch liệt, bởi vậy cái bao tải bên ngoài mới có hình dạng kì quái như thế này.

    Cơ thể của người này đã bị phân hủy hết, rõ ràng trước khi chết người này rất gầy, nên không có gì để mà phân hủy nữa, đến tận bây giờ lớp lưới sắt vẫn cuốn rất chặt bộ xương. Nhìn hình dạng bộ xương người cong queo dị dạng trước mặt, chúng tôi không khỏi rùng mình ghê sợ.

    Đã bốn mươi năm trôi qua rồi, vậy mà những sự việc đó vẫn hiện lên rõ mồn một trước mắt tôi. Đó là sự thật, tôi không dám bịa đặt điều gì, tôi đã ở nơi đó, nhìn thấy bộ xương khô dị dạng ấy. Cảm giác toàn thân ớn lạnh, mồ hôi túa ra như tắm khi ấy, cho đến giờ tôi vẫn không tài nào quên được.

    Đương nhiên, những người không được trực tiếp chứng kiến cảnh tượng đó thì sẽ khó lòng lý giải tại sao người Nhật lại có thể nghĩ ra trò nhét một người Trung Quốc đang sống sờ sờ vào bao tải để làm vật tránh bom nổ một cách điên rồ, tàn bạo đến như vậy.

    Tất cả chúng tôi đều lặng đi rất lâu, trong số chúng tôi, Vương Tứ Xuyên là người đăm chiêu nhất, mặt cậu ta sầm xuống, còn đen hơn cả mặt Bao Công.

    Không khí lúc đó bỗng trở nên vô cùng trang nghiêm, hai cậu lính lặn xuống dưới nhổ được lưới sắt ngoi lên tới nơi, nhìn thấy cảnh tượng ấy thì ngơ ngơ ngác ngác không hiểu chúng tôi bị làm sao. Lát sau, chúng tôi đành thả bộ xương xuống dòng nước và tiếp tục hành trình.

    Cả chặng đường sau đó không ai nói lời nào, mọi người đều cảm thấy việc trêu đùa, trò chuyện lúc này thật không thích hợp, vậy là chúng tôi chuyển sang tập trung nhìn ngắm hai bên thành hang động.

    Càng đi xuống tầng ngầm sâu, cấu tạo dòng chảy càng thay đổi, nhiều cảnh kì thú, khác lạ xuất hiện. Đặc điểm cấu tạo của động dung nham núi lửa bắt đầu có sự thay đổi, trên cao xuất hiện hiện tượng các nhũ đã rỉ nước xuống, nên chúng tôi phải đội mũ, mặc áo bạt vào.

    Nếu chỉ nhìn những dấu hiệu bên ngoài thì khó để đoán được sự sản sinh cấu tạo địa chất ban đầu của hệ thống hang động này, thông thường sẽ xảy ra trường hợp thế này, tuổi cấu tạo địa chất của hang động thường khoảng hàng trăm triệu năm, thế nhưng tuổi của hệ thống hang động lại dao động từ một trăm nghìn cho tới hai trăm triệu năm, độ dao động rất lớn, không có gì làm chuẩn để so sánh.

    Có điều, thông thường địa hình địa mạo của hệ thống sông ngầm trong hang đá vôi dưới đất kiểu này sẽ giống như một mạng lưới những túi rỗng, từng tầng từng tầng một, bốn bề thông nhau rộng rãi, khoáng đạt, không theo tuần tự nào, tuyệt đối không giống cấu tạo địa hình của một dòng sông chảy xuôi thông thường mà chúng ta biết.

    Có ý kiến cho rằng có lẽ trước đây cả trăm triệu năm, nơi đây là biển, khi đó do có sự vận động và cấu tạo địa hình, các dãy núi trồi lên và hình thành nên hệ thống hang động như thế này, sau đó các dòng sông ngầm tiếp tục hình thành, những dòng nước ngầm đã liên tục ăn mòn hang đá, hình thành nên những đặc điểm hang động như hiện nay.

    Càng đi sâu xuống dưới, do tác dụng của nước ngấm nên bề mặt của lớp đá vôi đều có một lớp rỗ, càng xuống sâu, sự ăn mòn càng mạnh. Thế nhưng, đến một độ sâu nhất định, hang động lại trở về hình thái cấu tạo địa chất ban đầu, vì áp lực ở sâu bên dưới rất lớn, nên những hang ngầm được hình thành trong địa mạo Karst căn bản không thể chịu được áp lực lớn như vậy.

    Đây chính là kết quả khảo sát nghiên cứu của chúng tôi hồi đó, chúng tôi rất muốn biết điểm tận cùng của dòng sông ngầm này là ở đâu? Với một lượng nước lớn như vậy, nếu tận cùng dòng sông không có hồ ngầm để chứa nước, lẽ nào toàn bộ lượng nước đều ngấm qua lớp đá vôi thấm xuống lòng đất hết?

    Chúng tôi cũng nhẩm tính thời gian cần thiết để tới đích, căn cứ vào vị trí dốc thoải đang đứng hiện nay, không tính việc phải đi đường vòng, thì chúng tôi còn cách vị trí ở độ sâu một ngàn hai trăm mét một khoảng tính theo đường thẳng chừng mười sáu cây số, nếu không xảy ra tình huống nào bất thường, ban đêm vẫn được nghỉ ngơi bình thường, thì khoảng mười giờ sáng mai chúng tôi sẽ tới đích.

    Đương nhiên, điều kiện đặt ra là chúng tôi phải đi đúng đường, và dòng sông này không có những đoạn khúc khuỷu bất thường, còn nếu có những ngã rẽ thì cũng không biết chúng tôi sẽ tới đâu nữa.

    Những dự đoán của chúng tôi đã được thực tế chứng minh một cách hoàn hảo, nhìn vào khí áp kế, thì hiện chúng tôi đang ở độ sâu khoảng ba trăm hai mươi mét so với mặt đất, đến đây đã xuất hiện rất nhiều những dấu tích của các vụ nổ trong quá trình hình thành hang động.

    Tôi cảm thấy hai bên vách đá của dòng sông ngầm giống như bức bích họa phức tạp, kì quái, đâu đâu cũng thấy các măng đá từ bên dưới chĩa lên, hoặc nhũ đá bên trên trần thả xuống, giống như một rừng răng nanh. Trên đỉnh động xuất hiện những chiếc cầu đá vắt từ bên này sang bên kia, hoặc có chỗ, những phiến đã hướng thẳng xuống sát đầu, khiến chúng tôi phải khom người mới chui qua được.

    Cảnh sắc được kiến tạo qua hàng triệu năm mà không có một chứng nhân cứ dần dần hiện ra trước mắt chúng tôi, tôi thấy mình như đang đi trong lòng một bộ hai cốt của một con quái thú khổng lồ, vừa sợ hãi lại vừa thích thú. Năm 1962, trong nước có xuất bản một cuốn tiểu thuyết tên là “Thám hiểm lòng đất”, cũng từng miêu ta những cảnh như thế này.

    Thế nhưng, chỉ một lúc sau, những suy luận của chúng tôi bất ngờ gặp phải một “chướng ngại vật”. Sau khi chèo qua một bãi đá ngầm rộng lớn, chúng tôi bỗng thấy trước mặt hiện lên một khối đá sừng sững chặn ngay giữa dòng nước, nước sông bị khối đá này chặn lại nên không thể xuôi dòng, dòng nước lúc này đang chảy quanh khối đá, còn thuyền của chúng tôi thì bị mắc kẹt ngay ở khe nứt của khối đá.

    “Do các nhũ đá sụp xuống đây mà”, Bùi Thành cầm đèn pin soi lên, “Chỗ đá này là nhũ thạch ở trên đỉnh rơi xuống.”

    “Ai mà chẳng biết”, Vương Tứ Xuyên trả lời, “Bà nó chứ, ai khỏe leo lên xem thử cái!”

    Khi chúng tôi leo lên một tảng đá để xem xét thì trông thấy một cảnh không thể tưởng tượng nổi, phía trước mặt chúng tôi là một bãi đá hỗn loạn, làm tắc dòng sông này, dòng nước phải chảy lượn quanh bãi đá hỗn tạp này rồi mới xuôi đi.

    Bãi đã rất lộn xộn, không theo quy tắc nào, hòn to thì bằng cả khoang lái của xe tải, hòn bé thì chỉ bằng nắm tay, nằm lổn nhổn, lộn xộn. Nhưng ở giữa là thứ mà chúng tôi vừa mới vớt lên khi trước, chúng ở khắp mọi nơi, có nhiều bao tải đã bị mủn rách, giữa đám dây kẽm gai là những bộ xương bị bó chặt, đủ mọi tư thế cong queo, cảnh tượng trước mắt khiến chúng tôi có cảm giác như mình đang rơi xuống chín tầng địa ngục.
     
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 9: BÃI ĐÁ NGẦM


    Đống bao tải được xếp chồng lên nhau chừng năm, sáu tầng, còn có thể thấy dưới sông còn có mấy tầng nữa. Vì xếp đặt lộn xộn nên nhiều xương tay, xương chân người chìa cả ra ngoài, tất cả họ không thể thoát khỏi lớp lưới sắt mắt cáo quấn chặt bên ngoài, nên đều bỏ mạng ở nơi này.

    Rất nhiều bộ xương cho thấy họ dường như đã bị chết khô, nhìn bộ dạng vô cùng đau đớn, đáng thương, vì vậy chúng tôi chỉ đứng từ xa nhìn mà không dám lại gần xem kĩ.

    Chúng tôi thử đụng vào một cái tải, định đẩy nó xem sao, cả lớp lưới sắt bỗng xoắn chặt lại với nhau, Trần Lạc Hộ thấy thế sợ quá, giật mình kinh hãi, khác hẳn ngày thường, có khi cậu ta tè ra quần rồi cũng nên, ấy là tôi đoán vậy.

    Chỉ có Bùi Thanh là không nói câu nào, cậu ta tỏ ra khá bình tĩnh.

    Chúng tôi thả mỏ neo xuống, đội phó nhảy lên mấy tảng đá, rồi trèo lên xem thử đằng sau, phát hiện một cảnh tượng hãi hùng, la liệt trước mặt anh là những bộ xương bị cuốn chặt bằng lưới sắt, nếu không tới cả ngàn thì cũng phải tới bảy tám trăm bộ.

    Dường như đây là cảnh tượng của một trận diệt chủng dã man.

    Những người làm nghề thăm dò khoáng sản như chúng tôi không phải là người nhát gan, thực ra trước đây chúng tôi cũng từng nhìn thấy người chết, nhưng chứng kiến từng đống xác xương khô một lúc thế này thì ai nấy đều thấy ớn lạnh tới tận xương tủy.

    Chúng tôi đoán có lẽ những người này đều là lao dịch trước đây bị bọn Nhật bắt xuống, có thể hồi đó chúng phải vận chuyển linh kiện máy móc gì đó to nặng lắm nên mới phải cần tới một lượng nhân lực lớn như vậy, với địa hình này, thì không dụng cụ máy móc vận chuyển nào tốt bằng sức người.

    Chắc sự việc đó thuộc loại cơ mật, nên cuối cùng, sau khi làm xong việc, họ đã phải chịu hình thức giết người diệt khẩu dã man này.

    Kiểu bạo hành này thật khiến người ta khiếp sợ, nhưng đối với quân phát xít Nhật có lẽ cũng chỉ là chuyện thường. Dù vậy, điều chúng tôi thắc mắc là tại sao những bộ xương này lại bị chất đống ở đây, phải chăng những bao tải xương này còn có một tác dụng khác? Có thể hồi đó, những con người đáng thương này đã bị sử dụng như những bao bố chắn bom đạn mà người ta thường dùng tại những bãi chiến trường, lẽ nào quân Nhật đã từng tiến hành nổ bom mìn tại nơi này?

    Tôi chợt nhớ đến tảng đá to bị rơi chắn giữa dòng nước, lẽ nào việc tảng đá to bị đánh sập từ trên đỉnh hang xuống là do ngươi Nhật tạo nên?

    Chúng tôi liền xem lại một vòng quanh hòn đá, bốn phía không hề có dấu tích của việc bị bom mìn tác động.

    Bùi Thanh nói có thể nhìn thấy vết mòn nhẵn bóng của bề mặt thành những khe nứt dưới tảng đá là do tác động bào mòn của dòng nước, phải mất hàng ngàn, hàng vạn năm, nước mới có thể bào mòn được như thế, nên hòn đá này chắc chắn đã nằm ở đây từ rất lâu rồi.

    Hơn nữa, nơi này cũng không có dấu tích gì cho thấy đã từng trải qua một trận nổ lớn, nếu không, đã thấy có những phản ứng cộng hưởng với vỏ lớp đá vôi bên ngoài.

    Một điều nữa là đống xương người kia được xếp rất lộn xộn, cứ như nó bị vứt ở đây vậy. Lẽ nào đống xương đó không có tác dụng gì?

    Không ở vào hoàn cảnh đó, quả khó lòng tưởng tượng ra được suy nghĩ của lũ giặc Nhật. Chuyện này khiến chúng tôi hết sức hiếu kì, rốt cuộc, chúng đã làm gì ở nơi hang cùng động hiểm này?

    Những chiếc xuồng cao su không có cách nào di chuyển tiếp khiến chúng tôi càng thêm hỗn loạn.

    Đội phó lệnh cho mấy cậu lính đi thu dọn đồ đạc mang theo, chúng tôi cũng phải hỗ trợ một phần. Không ngờ, những chiếc xuồng cao su đã bơm khí hiện giờ đều rất nặng, vì vậy mà sau khi thu dọn hành trang, chúng tôi nhận thấy trọng lượng mình phải khiêng vác nặng hơn sự tưởng tượng ban đầu rất nhiều.

    Chúng tôi bắt đầu dò dẫm bám vào từng tảng đá để bước lên từng bước một, dường như càng đi càng khó hơn. Đi được một đoạn, chúng tôi nhận ra rằng, người Nhật tấp đống những cái xác ở kia là để lấp đường. Chỗ bao tải xương người bị chèn vào giữa khe của các tảng đá lớn sẽ giúp người phía sau có chỗ để giẫm lên và di chuyển dễ dàng hơn.

    Tôi không giấu nổi sự kinh hãi, toàn thân bất giác run rẩy, cảm giác những chiếc xương hoặc gai sắt nhọn dưới chân mình có thể chọc lên bất cứ lúc nào, vì vậy tôi cắn răng bước, chỉ mong mau mau chóng chóng qua khỏi chỗ này.

    Thế nhưng thực tế khác xa điều tôi mong muốn, nơi này dường như không có cách nào qua nổi, sức lực bỏ ra khi di chuyển từ hòn đá sang hòn đá khác, chẳng khác nào việc phải vượt qua một thử thách kĩ thuật đặc biệt, vì chỉ cần bước chân vào chỗ mấy cái bao tải, chắc chắn sẽ bị lún chân vào đó, mắc kẹt giữa đống lưới sắt, lúc đó thì chỉ có nước cắt tấm lưới mới rút chân ra được.

    Chúng tôi cắn môi thận trọng di chuyển, đi được chừng một cây số đã mất gần ba tiếng đồng hồ, đội phó xem chừng ai nấy đều đã quá mệt nên ra hiệu dừng lại. Chỉ chờ có vậy, chúng tôi buông người đánh “phịch” ra đất. Vương Tứ Xuyên vừa thở hổn hển vừa nói: “Cậu Ngô này, cứ kiểu đi thế này thì khả năng chúng ta phải ngủ qua đêm ở cái bãi tha ma này mất.”

    Vương Tứ Xuyên nói đúng, trước mặt là một màn đen kịt như hũ nút, không biết đường còn dài bao nhiêu nữa, mà chúng tôi cũng không thể quay trở về chỗ cũ chỉ trong ba tiếng.

    Đội phó và tôi đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ giờ cũng chẳng còn cách nào khác, dù không muốn chút nào nhưng cả đội cũng phải cắn răng chấp nhận nghỉ lại nơi này thôi.

    Vậy là tôi liền đáp: “Ngủ thì ngủ, đây toàn là đồng bào của mình, họ chết đã lâu nhưng cũng chẳng ai được yên lành, chúng ta ở lại đây canh giữ cho họ ngủ một đêm thì có gì không được chứ?”

    Không ngờ, nói chưa dứt lời, Trần Lạc Hộ lập tức nói to: “Tôi phản đối!”

    Tôi có chút ngạc nhiên, hỏi cậu ta: “Vậy cậu định tính thế nào?”

    Cậu ta đáp: “Tôi thấy hay ta cứ nên đi tiếp, qua khỏi chỗ này hãy nghỉ, vì... vì... nghỉ ngơi ở chỗ này thì ai mà chợp mắt nổi cơ chứ!”

    Tôi không biết trả lời thế nào, Vương Tứ Xuyên nhăn nhó nói: “Ai không chợp mắt nổi hả? Ở đây chỉ có mỗi cậu không chợp mắt được thôi.

    Chà, Lạc Hộ à, cậu sợ nơi này có ma à?”

    Mặt Trần Lạc Hộ bỗng chốc đỏ dừ lên, cậu ta vội vàng đáp: “Ừa, tôi sợ đấy, thì đã sao nào, mẹ tôi mang thai chỉ được hơn sáu tháng đã sinh ra tôi rồi, nằm trong bụng mẹ không đủ ngày nên sinh ra đã nhát gan đấy, như thế có trách được tôi không? Hơn nữa nhát gan cũng không cản được tôi cống hiến sức mình cho đất nước, ai cười là mắc tội xem thường đồng chí đồng đội đó.”

    Vương Tứ Xuyên và tôi đưa mắt nhìn nhau, cũng chẳng còn cách nào khác, tôi nói: “Chỉ những kẻ mê tín dị đoan mới tin có ma quỷ, các hòn đá đây là vật chất, xác người ở đây cũng là một dạng vật chất, cậu cứ xem nó như những hòn đá kia là được, không có gì phải sợ.

    Hơn nữa, tôi tính rồi, có đi một ngày nữa cũng không ra khỏi chỗ này đâu, chúng ta không thể phí sức thêm được nữa.”

    Trần Lạc Hộ đáp: “Phía trước tối mò mò, làm sao cậu biết được, chưa biết chừng mươi phút nữa lại thoát được khỏi chỗ này thì sao?”

    Tôi nghĩ bụng, cậu ta nói cũng có lí, nếu như không phải ngủ lại nơi này, thì tôi tội gì phải ra vẻ mình dũng cảm.

    Nhưng lúc đó, Bùi Thanh bỗng lên tiếng: “Đừng tranh cãi nữa, các cậu nghe tiếng nước chảy đi, phía trước ta rất yên tĩnh, điều đó cho thấy thế nước chảy không có gì thay đổi, tôi đoán dù cho chúng ta có đến được vùng giáp ranh rồi thì cũng phải tốn hai ba tiếng như trước mới qua được.

    Huống hồ, nhìn vào cảnh sức cùng lực kiệt của chúng ta hiện nay thì ta khó mà duy trì được tốc độ như lúc nãy, với đoạn đường phía trước, ta sẽ ngày càng lực bất tòng tâm, có đi tiếp cũng lãng phí sức thôi.” Ngữ điệu của cậu ta bình bình, không nhanh không chậm nhưng rất có sức thuyết phục, “Ngủ lại nơi này là khả dĩ nhất, tôi tán thành việc ngủ lại nơi này, có điều chúng ta cần phải rút ngắn thời gian nghỉ đi!”

    Vương Tứ Xuyên đã mệt rũ ra rồi, chẳng để ý gì nữa, lập tức nói: “Ba đánh một chẳng chột cùng què, đa số đánh bại thiểu số.”

    Tôi tự nhủ Bùi Thanh thật có con mắt nhìn xa trông rộng, chính tôi cũng không nghĩ tới điều này, tôi lập tức đồng ý với ý kiến của cậu ta: “Bùi Thanh đúng là tuổi trẻ tài cao, cậu ấy có cách nhìn vấn đề tốt hơn anh em nông dân chúng mình rất nhiều, tôi đồng ý với cậu ấy.”

    Trần Lạc Hộ định cãi lại, nhưng Vương Tứ Xuyên đã nhanh tay ra hiệu, mấy cậu lính thấy vậy nhanh chóng dỡ quân trang xuống, Trần Lạc Hộ rất tức giận, tỏ vẻ khó chịu ra mặt, nhưng cũng không còn cách nào khác.

    Chẳng ai thèm để ý đến cậu ta, chúng tôi bắt đầu tìm kiếm xung quanh xem nơi nào có thể cắm trại được chỉ một lúc sau, chúng tôi đã tìm được một tảng đá khá bằng phằng và khô ráo.

    Mấy cậu lính leo lên trên, bắt đầu dọn dẹp tảng đá, chúng tôi cũng leo lên sửa soạn, vừa trút bỏ được đám đồ đeo trên người, ai nấy đều thấy nhẹ hẳn.

    Bùi Thanh rủ một cậu lính khoác chiếc ba lô xem ra khá nhẹ cùng đi lên trước thăm dò xem phía trước tình hình như thế nào, nếu cứ thế này thì có lẽ chúng tôi bắt buộc phải bỏ bớt đồ đạc quân trang ở lại, nếu không mấy người có tuổi một chút không thể đến đích được.

    Lúc đó tôi cũng không chú ý nhiều, chỉ nhắc họ phải cẩn thận, đội phó khi ấy còn nói với cậu lính một loạt câu giống y như trên phim: “Nhớ chăm sóc Bùi Thanh nhé!”.

    Cậu lính đứng nghiêm đáp “rõ”. Chúng tôi giao hẹn nếu như có việc gì đột ngột thì sẽ bắn một phát súng cảnh giới, sau đó hai người họ lên đường.

    Chúng tôi ai cũng có việc phải làm, sau khi sắp xếp xong đồ đạc, cả đội bắt đầu đốt lửa chuẩn bị nấu ăn. Tuy tất cả mọi người đều mặc áo mưa nhưng người đều đã bị ướt hết.

    Chúng tôi cởi quần áo đem đi hong khô. Túi ngủ tôi mang theo được lấy của bộ đội, nghe nói đó là vật phẩm thu được của lính Mỹ từ thời kháng Mỹ viện Triều, trên mặt áo còn in chữ US. Tôi vừa hong cái túi ngủ cho khô thì mùi ẩm mốc bốc lên, Vương Tứ Xuyên thấy vậy đã vội vàng bịt mũi, giục tôi mang cái túi tránh xa cậu ta càng xa càng tốt.

    Trần Lạc Hộ thì thở dài thườn thượt, cậu ta mặc kệ chúng tôi làm gì thì làm, chúng tôi cũng không buồn để ý đến cậu ta, tôi với Vương Tứ Xuyên cứ vừa làm vừa cười nói, ba hoa. Hồi đó chúng tôi đều như thế, vì đội ngũ làm việc của chúng tôi thường xuyên thay đổi, nên mọi người cũng không quá để ý cách cư xử của từng cá nhân, anh tốt thì tôi mến, anh cư xử không ra gì tôi cũng chẳng kêu ca, vì kết thúc công trình, ai lại về đơn vị của người ấy mà, nhưng cũng không biết chừng một lúc nào đó lại đụng nhau, nên nể mặt nhau đôi chút âu cũng là điều nên làm.

    Cơm của bộ đội khi hành quân là một dạng lương khô được ép đặc biệt, trong có đủ cả đường lẫn muối, chỉ một mẩu nhỏ bằng ngón tay nhưng nấu lên lại nở ra hẳn một nồi, mùi vị rất khó nuốt, hơi có mùi giống vị thuốc, nhưng cũng phải cố mà ăn thôi. Vương Tứ Xuyên đi lấy nước nấu, nhưng khi nhìn xuống thấy có mấy bao tải chứa xác người, dây thép gai chìa cả ra, cậu ta liền quay lại, bảo mọi người lấy nước mang theo nấu, sau đó có hai người xung phong đưa bi đông nước của mình ra trước, cuối cùng chúng tôi đã có một nồi cháo đặc biệt to đùng.

    Trong lúc ăn, tôi thầm nghĩ, tình trạng này mà cứ kéo dài mãi thì cũng không được, giả dụ hết nước uống thì sẽ thế nào, đến lúc chết khát rồi thì đến nước tiểu cũng phải uống, không còn cách nào khác được, cuối cùng tôi quyết tâm không nghĩ linh tinh nữa.

    Chúng tôi ăn xong, Bùi Thanh và cậu lính vẫn chưa quay trở lại, mọi người đều lấy thuốc ra hút, lúc đó tôi hút loại thuốc tự cuốn trộn từ hai loại thuốc Cáp Nhĩ Tân và Hằng Đại, đó là do tôi nhờ quan hệ nên kiếm được.

    Vương Tứ Xuyên không được hưởng chế độ như tôi hoặc do quan hệ của cậu ta không tốt bằng tôi nên chỉ hút loại thuốc Anbania, một hào tám một gói. Tôi thấy bộ đội thường hút loại thuốc không ngon, đều là loại cuốn từ cây vân sam, liền ái ngại đưa cho đội phó một bao Hằng Đại.

    Không nói khoác chứ thật sự lúc đó anh ta mừng đến mức đỏ bừng mặt lên.

    Rít mấy hơi thuốc, chúng tôi vẫn thấy không được thoải mái, chẳng ai nói gì, cứ thế im lặng suy nghĩ và hút thuốc.

    Thực ra tôi cũng rất hiểu Trần Lạc Hộ, trong mọi tình huống cậu ta luôn tỏ ra là người dũng cảm hơn tất cả chúng tôi, cậu ta dám biểu lộ sự hiên ngang, can đảm của mình trong mọi lúc, những người khác tuy không nhát gan, nhưng cũng không thể nói họ không có cảm giác sợ hãi gì trong lúc này.

    Đặc biệt là lúc ăn cơm giữa nơi đó, cảm giác thật khó chịu, tôi thấy mọi người đều làm ra vẻ không có gì, nhưng kì thực tất cả đều như đang có gai nhọn đâm vào lưng mình, ai cũng có cảm giác như xung quanh có rất nhiều người nhìn chăm chăm vào mình, chỉ muốn ngoái lại để xem, nhưng gáy và vai bỗng nhiên lại cứng đơ.

    Để thay đổi không khí, Vương Tứ Xuyên giục tôi kể mấy câu chuyện cười cho mọi người nghe, trước đây trong đội khai thác của chúng tôi cũng có một cậu lính thường phối hợp cùng tôi, cậu lính đó thường hay gợi chuyện để tôi kể chuyện cười. Tôi sáng tác rất nhiều truyện, hồi tôi và Vương Tứ Xuyên ở cùng nhau, cậu ta cũng được nghe và biết tôi có năng khiếu sáng tác truyện.

    Nhưng giờ tự nhiên lôi chuyện cười ra kể, tôi cứ cảm thấy ngớ ngẩn thế nào ấy, thường thì đầu tiên người ta hay nói về một chuyện cụ thể, đến một sự việc nào đó, khi mọi người đã bị lôi cuốn vào thì mới liên hệ sang câu chuyên cười. Mà tình hình lúc này cũng không thể lôi chuyện ma ra kể được.

    Hồi đó tôi có một câu chuyện bí mật, nói về tình huống hài hước giữa một cán bộ địa chất và một cô gái dân tộc thiểu số ở vùng Vân Nam, rất buồn cười, có cả tình cảm lãng mạn xen lẫn ngụ ý đặc biệt, tôi nghĩ kể chuyện này chắc sẽ thích hợp, vì mấy cậu lính ở đây chắc đến mấy năm không được gặp cô gái nào rồi, nên họ mà nghe thì chắc chắn sẽ tập trung lắm.

    Tôi đang trầm tư nghĩ cách vào đề như thế nào cho hợp lý thì bỗng từ xa vọng tới một loạt tiếng súng “pằng pằng pằng”.

    ©STE.NT

    Tiếng súng vừa vang lên, tất cả chúng tôi nhất loạt bật dậy, đội phó đúng là bộ đội chuyên nghiệp, anh ta lập tức dập điếu thuốc, chộp lấy khẩu súng đứng lên lao về phía phát ra tiếng súng, mấy cậu lính khác cũng vội vã chạy theo anh.

    Lúc đó, sức của tôi không được tốt như họ, chẳng mấy chốc tôi đã bị bỏ lại đằng sau mấy chục mét. Vương Tứ Xuyên còn thê thảm hơn, chạy được một lúc thì cậu ta bị trượt chân khỏi tảng đá, chân bị mắc vào bao tải đựng xác người, cố rút ra mấy lần mà không được, cậu ta hốt hoảng gào lên gọi người giúp.
     
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 10: HI SINH


    Chúng tôi cứ chạy như thế trong đêm tối, chỉ nhìn thấy ánh sáng từ đèn pin của những người chạy trước loang loáng, nhưng khi chạy qua phạm vi chiếu sáng của đống lửa mà chúng tôi vừa đốt thì tôi đã không theo kịp tốp chạy nữa, lúc đó, tôi đành phải bật đèn pin của mình để nhìn đường, sau đó cứ nhảy từng bước từ hòn đá này tới hòn đá kia mà đi.

    Nhưng kiểu nhảy này cũng không ổn, người chứ có phải kangaroo đâu, mỗi bước nhảy của tôi đều tốn khá nhiều sức lực. Có lúc chỉ chậm một tí thì sẽ bước hụt và trượt chân rồi. Tôi chỉ biết cố hết sức để đuổi cho kịp tốp của đội phó.

    Phía trước vẫn có tiếng súng nổ, tôi đã có thể thấy ánh sáng của đường đạn vút đi đỏ lừ, có lẽ còn cách khoảng sáu trăm mét nữa.

    Bùi Thanh và cậu lính đi cũng chưa lâu, vậy nên khoảng cách thế này cũng được xem là khá xa rồi.

    Đuổi được nửa đường thì tôi không còn sức lực nữa, kiểu chạy này tốn rất nhiều sức, tôi dừng lại nghỉ, cảm giác thở không ra hơi nữa, nhưng mới chỉ dừng lại vài giây tôi đã phát hiện ra xung quanh bốn phía tối om, mấy cậu lính chạy phía trước rất nhanh, càng lúc càng bỏ xa tôi.

    Những đám xương người thò ra từ trong những chiếc bao tải đã mục nát khiến tôi dựng tóc gáy, tôi đành cắn răng cố hết sức chạy tiếp.

    Đến lúc chúng tôi chạy tới nơi thì tiếng súng cũng ngừng, tôi thấy người cầm súng là Bùi Thanh, không thấy cậu lính đi cùng với cậu ấy đâu.

    Còn đội phó thì mặt mày trắng bệch đang cùng một cậu lính khác chạy về chỗ tôi. Tôi hỏi họ là đã xảy ra chuyện gì, nhưng họ không để ý gì đến tôi, cứ thế cắm đầu chạy sượt qua tôi, hướng về chỗ đang đóng trại.

    Tôi đành trèo lên chỗ Bùi Thanh đứng, hỏi cậu ấy có chuyện gì, Bùi Thanh mặt mày tái mét lắp bắp điều gì không rõ.

    Cậu lính đứng bên định giải thích, nhưng cũng không nói nên lời, chỉ thấy miệng cậu ta mấp máy. Tôi cố nghe mãi mới hiểu được, hóa ra có người đã bị rơi xuống, đội phó thì đang chạy về lấy thêm đạn.

    Mãi lúc đó tôi mới nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, bước lại gần để nhìn, hóa ra nơi này địa thế đột nhiên bị đứt gãy, giữa dòng nước bỗng xuất hiện một tầng mới, dòng nước đến chỗ này đổ thẳng xuống, hình thành nên một cái thác.

    Cái thác cũng không cao lắm, cùng lắm chừng hai mươi mét, chiếu đèn xuống dưới thấy toàn là đá, bỗng nhiên tôi nhìn thấy cậu lính đi cùng Bùi Thanh lúc nãy đang bị kẹt giữa hai tảng đá, mặt mũi đầy máu, không biết còn sống hay đã chết, chắc cậu ấy bị trượt chân rơi xuống đó.

    Trong đầu tôi chợt nghĩ “to chuyện rồi”, thấy vậy, tôi vội vàng hỏi Bùi Thanh cụ thể sự việc như thế nào. Bùi Thanh kể vốn dĩ hai người chỉ định đi đến đây thì quay về, thế nhưng cậu lính ấy thấy thác nước có vẻ không quá cao, nên nghĩ “thôi cũng không dễ dàng gì mới đến được đây, chi bằng cứ thử xuống xem thế nào.” Thế nhưng cậu lính lại bảo vì đội trưởng đã dặn là phải bảo vệ Bùi Thanh, việc nguy hiểm thế này phải để cậu ta làm, thế là cậu ấy đưa súng cho Bùi Thanh giữ, rồi tự mình trèo xuống.

    Nhưng không biết vì sao mà mới trèo được vài bước thì bỗng nhiên bị ngã xuống đó. Bùi Thanh vội quay lại kêu cứu, nhưng gọi mãi vẫn không thấy chúng tôi có động tĩnh gì, đành phải bắn súng ra tín hiệu.

    Tôi đã từng trải qua những chuyện như thế này, mất tích là một tình trạng rất phổ biến mà dân theo nghề khảo sát, thám hiểm thường phải đối mặt.

    Tôi vội giục mấy cậu lính vẫn chưa quay về ra chỗ thác nước gọi tên cậu lính đang bị mất tích, nếu như cậu ấy chưa chết thì làm thế sẽ giúp cậu ta tỉnh lại, vì không thể để cậu ta hôn mê được. Thế nhưng hai cậu lính kia gọi mãi mà không thấy tiếng đáp lại, hình như tên cậu lính mất tích là Chung Hồ Tử thì phải.

    Càng lúc tôi càng cảm thấy nặng nề, kiểu này xem ra cậu lính đó lành ít dữ nhiều rồi.

    Mãi sau Vương Tứ Xuyên mới đuổi kịp chúng tôi, dường như cậu ta đã mệt đứt hơi, nhưng khi vừa nghe tin có người rơi xuống thác, cậu ta liền vội vàng đòi nhảy xuống cứu, tôi và mấy cậu lính khác phải ra sức cản mới ngăn được cậu ấy.

    Sau khi đứng tập trung lo lắng chờ đợi bên chỗ thác nước được chừng hai mươi phút thì dây thừng cũng được kéo lên, đội phó đích thân gỡ dây ở lưng cho cậu lính đã trèo xuống đó. Lúc đó tay cậu ấy đầy máu, ban đầu tôi cứ tưởng máu chảy trên người cậu lính, sau mới phát hiện ra là có cả máu trên người đội phó, rõ ràng dưới màn nước đổ xuống thác đó chất đầy những tấm lưới thép, chúng ẩn dưới dòng nước nên từ trên không thể nhìn thấy được, có lẽ vì vậy mà cậu lính kia mới bị trượt chân.

    Tôi tới gần xem, rồi đau lòng nhắm chặt mắt lại, cậu lính ấy đã hi sinh rồi, vậy mà chúng tôi vẫn chưa kịp biết tên cậu ấy là gì. Lúc đó, đội chúng tôi đều lặng đi, không ai nói được câu gì, ai nấy đều khuỵu chân gục xuống, nước mắt trào ra.

    Bởi vì mấy cậu lính đều đội mũ bảo vệ, nên tôi cũng chưa có dịp ngắm kĩ họ, bây giờ nhìn lại mới thấy cậu nhiều tuổi nhất xem ra cũng chỉ chừng mười chín tuổi, có lẽ vẫn còn trẻ lắm, vậy mà họ chấp nhận để những năm tháng thanh xuân trôi qua như thế này, không hề ca thán nửa lời, có người còn chưa được nếm vị ngọt của tính yêu bao giờ thì đã hi sinh.

    Đội phó là người từng trải, lúc đó anh chỉ im lặng hút thuốc, còn những người khác thì thút thít khóc, Vương Tứ Xuyên cũng khóc, còn trách Bùi Thanh rằng cậu lính kia chỉ là một đứa trẻ, sao Bùi Thanh lại đẩy cậu ta làm việc nguy hiểm đó. Bùi Thanh không nói gì, cũng không phản ứng gì, nhưng trên mặt lộ rõ vẻ đau khổ.

    Tôi định đi an ủi mấy cậu lính kia đừng khóc, nhưng đội phó ngăn lại, bảo cho các cậu ấy khóc thêm hai mươi phút nữa, đúng hai mươi phút rồi thôi.

    Sự kiện này làm chấn động chúng tôi, từ trước tới nay, chúng tôi hiểu rất rõ sự nguy hiểm của nghề khảo sát địa chất, tuy đại đa số công việc đã qua của chúng tôi khá nhẹ nhàng, nhưng với những việc quan trọng, chúng tôi đều rất cẩn thận.

    Tiếc rằng, thói quen trong công việc lâu ngày đã tạo thành cho chúng tôi một cái nếp là chỉ biết lo tốt cho bản thân mình, mà không nghĩ tới người khác. Lần này chúng tôi không ngờ rằng mấy cậu lính trẻ kia chưa hề có kinh nghiệm trong nghề khảo sát địa chất, mấy cậu ấy ngoài sức khỏe tốt ra, những tố chất khác cũng chỉ giống như người thường, có thể nói lần này là do sơ suất của chúng tôi nên cậu lính kia mới thiệt mạng.

    Cảm giác này đeo bám chúng tôi rất khó chịu, vì chuyện đã xảy ra rồi thì không thể nào lấy lại được nữa. Tôi nghĩ nếu như chính mình là người đưa cậu ta đến nơi này, liệu tôi có biết mà nhắc nhở cậu ta không? Chắc là không. Trong chuyên môn có thể chúng tôi rất giỏi, nhưng trong những lĩnh vực khác, chúng tôi đều là những kẻ chậm chạp, cũng đừng nên trách Bùi Thanh làm gì.

    Nghĩ đến đây tôi thấy vô cùng áy náy.

    Ngay giữa đêm đó, chúng tôi đưa xác cậu ta về chỗ cắm trại, phủ túi ngủ lên, có lẽ không thể đưa thi hài cậu ta về quê, nhưng khi nào xong nhiệm vụ nhất định chúng tôi sẽ quay lại làm các thủ tục an táng cho cậu ấy. Đội phó bảo mọi người nghỉ sớm đi, nhưng trong tình huống đau buồn như thế chẳng ai có thể chợp mắt được.

    Ngày thứ hai, thực ra cũng không rõ là buổi sáng hay buổi tối nữa, chúng tôi lần lượt thức dậy, thu dọn đồ đạc xong xuôi, vái lạy trước thi hài người đồng chí anh em, rồi lại tiếp tục tiến lên phía trước.

    Năm 1962, toàn quốc đều rất coi trọng nhiệm vụ, hồi đó, chúng tôi không hề có ý nghĩ rằng nhiệm vụ khó thì chùn bước, hoặc có ý định thoái lui, chúng tôi chỉ suy nghĩ làm sao để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

    Có thể ngày nay, nếu gặp tình huống như thế này, chắc hẳn người ta sẽ bỏ cuộc.

    Chúng tôi ngồi ăn trưa ngay dưới chân thác nước, chỗ này ít những bao tải chứa xương người hơn lúc trước, những tảng đá ở đằng sau cũng nhỏ dần, khoảng cách giữa các tảng đá cũng thu hẹp lại, nên việc di chuyển có phần dễ dàng hơn.

    Lúc đó, Vương Tứ Xuyên có ý muốn đi thăm dò hai bên, nhưng chúng tôi phản đối ngay, chẳng phải vì một lý do cụ thể gì, mà chỉ thấy rằng phí sức đi thám hiểm xung quanh lúc này thì thật không thỏa đáng.

    Ăn trưa xong, chúng tôi được nghỉ ngơi chừng hai mươi phút, lúc này bỗng xảy ra một việc khiến tôi cảm thấy rất bất ngờ, đó là khi tôi thò tay vào túi quần định lấy thuốc hút, thì bất giác chạm phải một mẩu giấy.
     
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 11: MẨU GIẤY


    Tôi không biết mẩu giấy này do ai nhét vào. Tôi thận trọng nhìn sang mấy người xung quanh thì không thấy ai đặc biệt chú ý gì đến mình.

    Tôi lại đưa mắt nhìn sang Bùi Thanh, cậu ta đang lau súng, sau khi cậu lính kia hi sinh, thì khẩu súng ấy đều do một mình Bùi Thanh đeo, ban đầu tôi không để ý lắm, nhưng bây giờ đột nhiên cảm thấy có chút gờn gợn.

    Chuyện này phút chốc đã biến thành việc bắt “đặc vụ Mỹ - Tưởng” nhàm chán. Những năm tháng đất nước cực kì gian khổ, ba năm liên tục, năm nào cũng bị thiên tai, bọn Quốc dân đảng thì luôn miệng tuyên truyền là sẽ tấn công vào lục địa, nên tôi đoán lần hành động này người ta sẽ sử dụng các biện pháp bảo mật vô cùng nghiêm ngặt và quy mô.

    Và việc tuyên truyền mạnh mẽ của chúng cũng có tính hai mặt. Những năm đó cụm từ “đặc vụ Quốc dân đảng” ở đại lục xem ra khá nhạy cảm, giờ thì chúng chỉ là những chuyện gián điệp trên phim, nhưng hồi đó, việc bắt giữ những người được coi là gián điệp đặc vụ Mỹ - Tưởng không phải là chuyện hiếm, bắt cảnh sát, bắt công nhân, bắt nông dân, ai cũng có thể bị bắt, động một tí là có người đến bắt “đặc vụ Mỹ - Tưởng”.

    Vương Tứ Xuyên sau đó tổng kết một câu rất hay rằng: “Nói theo cách dễ nghe thì khái niệm an toàn quốc gia đã đi sâu vào lòng nhân dân, còn nói theo cách khó nghe thì năm 1962 đó, các giai cấp trong nước đấu đá lẫn nhau, văn hóa văn nghệ thì nghèo nàn, chỉ nhăm nhăm ai hở ra là bắt và gán cho cái tội gián điệp đặc vụ Mỹ - Tưởng.”

    Tất cả chúng tôi hồi đó đều rất nhạy cảm với tin tức, sự nhảy cảm này có hai tác dụng, một mặt rõ ràng là hoạt động gián điệp của bọn Quốc dân đảng tại Trung Quốc vô cùng hỗn loạn, mặt khác lại có nhiều xì căng đan “nghe hơi nồi chõ”, có những chuyện khiến người ta khiếp sợ chỉ vì một lý do nhỏ nhặt nhưng cũng bị thổi phồng, hoặc những lý do rất hoang đường, vớ vẩn.

    Xem xong mảnh giấy, cảm giác đầu tiên của tôi là nơi này có kẻ đã mẫn cảm quá rồi. Loại người này trong thời điểm đó khá nhiều, toàn là bọn âm mưu luận giả, có khi lại suy luận vống lên, rằng do nhiệm vụ đặc biệt của mình mà cậu lính kia không phải tự rơi xuống mà là do Bùi Thanh đẩy cậu ta xuống

    “Kẻ chết tiệt nào đã nhét mảnh giấy này vào túi mình nhỉ?”, tôi đăm chiêu suy nghĩ.

    Xem ra Vương Tứ Xuyên không phải là loại người này, mấy cậu lính kia cũng không phải, tóm lại chỉ có một kẻ mệt mỏi lờ đờ ở đằng kia - Trần Lạc Hộ, thằng cha này đáng nghi lắm. Từ lúc xảy ra chuyện cậu ta không nói gì nữa, dường như bởi lúc trước cậu ta đã bảo cứ tiếp tục tiến về phía trước, khiến Bùi Thanh nghĩ muốn đi thám hiểm thử xung quanh.

    Sự việc thế này, sợ chúng tôi sẽ đổ mọi liên lụy lên đầu mình nên cậu ta mới rút lại đằng sau và không nói gì nữa.

    Tuy nhiên, không vì chuyện này mà tôi lại phải vướng bận hoài nghi, tôi rất rõ hoàn cảnh của Bùi Thanh, có thể xem như chúng tôi từng là bạn bè, tôi học cùng một khoa và trước cậu ấy một khóa tại trường Đại học Địa chất, mọi chuyện của cậu ấy trong trường tôi đều biết hết, làm sao có thể là gián điệp được.

    Tôi cảm thấy Trần Lạc Hộ đúng là người không tử tế, tôi bắt đầu thấy khinh hắn ta, thế nên tôi vứt luôn mẩu giấy vào đống lửa, rồi thản nhiên rút thuốc ra hút.

    Sự việc này chỉ như một cái bớt nhỏ, chẳng bao lâu sau tôi đã quên ngay, chúng tôi lại tiếp tục đi, đến đêm thì chúng tôi đi thêm được khoảng gần một cây số nữa.

    Chỗ này không còn bao tải đựng xương người. Bởi vì đầu hôm ngủ không đủ giấc, nên chưa kịp ăn tối, chúng tôi đã lăn ra ngủ hết, lúc đó chắc vẫn còn chưa tới năm giờ chiều.

    Kết quả là lúc tỉnh dậy mới khoảng mười một giờ đêm, lúc nãy ngủ say như chết, bây giờ lại không thể ngủ lại được nữa, nhìn sang bên cạnh thấy một cậu lính đang đứng canh cho chúng tôi ngủ, tôi thấy xấu hổ quá, tôi bảo cậu ấy đi ngủ, nhưng cậu ta nhất định không chịu.

    Tôi cũng không ép nữa, tôi cũng đã từng gặp những chiến sĩ bộ đội chính quy làm nhiệm vụ kiểu như thế, nên tôi hiểu tâm lý của họ.

    Tỉnh dậy, tôi cảm thấy bụng dạ gào réo, liền lật đật đi nấu đồ ăn. Mùi thơm của thức ăn tỏa ra, khiến Vương Tứ Xuyên và đám người khác cũng lục tục dậy.

    Mấy người ngồi dậy, túm tụm lại ăn cơm, chúng tôi hành quân cả ngày, lại ngủ với cái bụng rỗng không, nên lúc này vô cùng đói, tôi thấy nấu một nồi không đủ, lại nấu thêm nửa nồi nữa.

    Cũng may mà lúc trước những gì chúng tôi dự đoán về thời gian cho cuộc thăm dò này khá chuẩn nên số lương thực thực phẩm và thiết bị cần dùng dự trữ cũng duy trì được khoảng một tuần, tuy vậy chẳng ai biết chắc mình sẽ ở dưới này bao lâu nữa.

    Lương khô dành cho bộ đội tuy rằng trong thành phần cũng có cả rau xanh nghiền nhỏ, nhưng chắc chắn nếu ăn thứ này lâu ngày sẽ không tốt cho sức khỏe, cũng do lượng bột rau xanh trong lương khô quá ít, nên mùi vị vô cùng khó ăn.

    Dẫu vậy, ăn uống xong, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên, tôi lại phì phèo một điếu thuốc, bộ dạng thảnh thơi của tôi lúc này chả khác gì các bậc thần tiên.

    Chúng tôi giục cậu lính kia đi ngủ, nhưng cậu ấy vẫn không chịu ngủ, Vương Tứ Xuyên đành mời cậu ta một điếu thuốc gọi là cảm ơn, lần này thì cậu ta mới không từ chối.

    Toàn thân chúng tôi mỏi nhừ, lưng vai đau buốt, chúng tôi vừa thò tay đấm lưng thùm thụp, vừa đoán xem ngày mai sẽ gặp những chuyện gì.

    Không biết là đường đi ngày mai sẽ thế nào, nếu cứ giống như vừa qua, chi bằng cứ bỏ quách mấy cái xuồng cao su lại đây. Nếu theo tốc độ đi của ngày hôm nay thì có lẽ nên quay lại, nếu không mấy hôm nữa chúng tôi sẽ cạn sạch lương thực.

    Bùi Thanh cho rằng nên phái người đi thám hiểm trước, những người còn lại ở đây nghỉ ngơi một ngày, nhóm thám hiểm sẽ đi chừng sáu bảy tiếng cũng có thể đi được một đoạn khá xa, sau đó một người quay trở lại báo cáo thì sẽ biết được tình hình thế nào.

    Tôi thì cảm thấy cách này không ổn lắm, sau khi xảy ra sự việc ngày hôm nay, tôi cho rằng bất cứ ai rời khỏi đội cũng đều không an toàn. Nhưng Vương Tứ Xuyên lại đồng quan điểm với Bùi Thanh. Lý do chủ yếu là vì nếu chúng tôi cứ di chuyển chậm chạp thế này thì chẳng mấy chốc nhiên liệu và năng lượng nạp đèn pin sẽ hết sạch, nơi này lại tối tăm, không có thứ anh sáng này coi như chết chắc; nếu có người đi thám hiểm trước, biết được đường đi lối lại, lúc đó cả đội sẽ giảm bớt tần suất dùng đèn, như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều nhiên liệu và năng lượng.

    Vương Tứ Xuyên bảo nếu sợ nguy hiểm thì chúng tôi có thể chia một nửa đi trước thám hiểm và phải chuẩn bị mọi công tác ứng cứu trước, sự việc ngoài ý muốn hôm qua chỉ là do quá liều lĩnh, có cậu ta đi cùng thì cậu ta đã sớm nhắc nhở rồi.

    Bùi Thanh nghe thế thì nhìn trừng trừng vào Vương Tứ Xuyên, vì Vương Tứ Xuyên có ý đá xéo Bùi Thanh, không những vậy Vương Tứ Xuyên lại còn thẳng thừng đụng chạm đến cậu ta, tôi vội vàng chặn họ lại, để bớt lời qua tiếng lại.

    Con người Vương Tứ Xuyên mặt nào cũng tốt, chỉ có điều sự chính trực là được thể hiện hơi quá đà. Tôi thì cho rằng những việc gì đã xảy ra rồi thì hãy biết chấp nhận nó, đổ mọi trách nhiệm lên đầu một người thì có vẻ không công bằng cho lắm. Tôi nghĩ bản thân Bùi Thanh cũng rất buồn, hơn nữa, lúc đó, Bùi Thanh cũng đã hết sức khuyên can cậu lính kia, định tự mình xuống đó, cậu ta cũng đâu thể biết trước sẽ xảy ra sự thể đó, không thể nói Bùi Thanh có kinh nghiệm leo núi thì sẽ phát hiện ra được chỗ lưới sắt kia, biết đâu kết cục cuối cùng cũng giống như cậu lính kia.

    Thế nhưng, những lời của tôi chẳng hề làm Vương Tứ Xuyên lay động.

    Trong lúc bầu không khí đang căng thẳng thì một tiếng va chạm “loảng xoảng” từ đâu vang lên kiến chúng tôi giật nảy mình. Thứ âm thanh chói tai của tiếng va đập kim loại ở tần số cao thật kinh khủng, khiến chúng tôi không khỏi giật mình thót tim.

    Chúng tôi lập tức quay ngoắt đầu lại nhìn thì thấy chiếc bát tô đựng cơm của Trần Lạc Hộ đang lăn lông lóc trên mặt đá, hạt cơm rơi vãi khắp nơi, đồng thời, hai mắt của cậu ta nhìn chằm chằm về phía sau lưng chúng tôi, toàn thân run rẩy.

    Vương Tứ Xuyên nhìn cậu ta chăm chú, hỏi có làm sao không? Lúc đó, cậu lính canh gác sau lưng Trần Lạc Hộ quay lại, tức thì mặt cậu ta biến sắc, miệng ú ớ mấy tiếng rồi ngay lập tức giương khẩu súng lên, hai môi lắp bắp: “Đội phó... đội phó!”

    Ngay lập tức chúng tôi hiểu là tình hình có vấn đề, toàn bộ đều quay lại, nhìn về hướng cái nhìn của Trần Lạc Hộ, ngay lập tức, cả bọn đều toát mồ hôi hột.
     
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 12: NGƯỜI MỚI ĐẾN


    Chúng tôi đang nghỉ trên một tảng đá tương đối lớn, phiến đá bên cạnh cách chúng tôi chừng năm mét, bên dưới là dòng nước chảy, ánh lửa bập bùng chiếu qua bên đó, ngoại trừ gương mặt, toàn thân người đó chúng tôi đều thấy rất rõ ràng.

    Chúng tôi túm tụm lại một chỗ, người kia rõ ràng không phải là một trong chúng tôi, hơn nữa, ở nơi giữa con sông ngầm thế này, cách mặt đất gần nhất cũng tới hơn bốn trăm mét, còn cách một thôn xóm nào đó bao xa thì chỉ có quỷ mới biết được, vậy tại sao ở nơi này lại có một người nào khác ngoài bọn tôi ra?

    Chẳng mấy chốc mồ hôi thấm ướt lưng áo, tôi vội lùi về sau vài bước.

    Đội phó và mấy người kia rất thính ngủ, vừa nghe có người gọi đến liền tỉnh ngay, nhìn thấy bộ dạng của chúng tôi liền quay ra nhìn về phía phiến đá đối diện, đội phó buột ra một tiếng chửi, rồi vội vàng chộp lấy khẩu súng và lên đạn. Trong chốc lát, năm khẩu súng lên nòng đồng loạt chĩa vào người nọ.

    Đội phó hét lớn: “Ai?”

    Đối phương không hề đáp lời, vẫn kiên cường đứng nguyên tại chỗ, cũng không hề động đậy gì.

    Chúng tôi đều nuốt nước bọt chờ đợi, Vương Tứ Xuyên dũng cảm nhất lại tiếp tục hét lên: “Bùi Thanh, đèn pin, bật đèn pin, chiếu sang đó!”

    Bùi Thanh gan thỏ đế lập cập bật đèn pin, rồi chiếu từ chân lên trên người lạ.

    Đèn vừa chiếu tới, chúng tôi đều đờ người ra, người đó mặc một bộ quân phục giải phóng quân y chang chúng tôi, đến ba lô đựng vũ khí cũng giống y hệt, ánh đèn tiếp tục chiếu lên phía trên, tôi thấy áo anh ta toàn là máu, trên đầu đội mũ bảo hiểm sùm sụp, nhìn không rõ mặt, nhưng cũng biết trên mặt người đó rất nhiều máu.

    Mặt tôi tái xám đi, tôi lập tức nghĩ ra người này là ai, có vẻ như chính là cậu lính đã rơi xuống cái thác nước lạnh như băng hôm trước, tôi sợ hãi đến đờ cả người.

    Bỗng nghe tiếng Vương Tứ Xuyên chửi thề bằng tiếng Mông Cổ, một cậu lính reo lên: “Là Chung Hồ Tử! Chung Hồ Tử chưa chết!”, vừa nói cậu ta vừa vứt súng chạy tới.

    “Đừng qua đó!” - đội phó thét lên, đôi mắt vằn lên những tia máu, “Cậu nhìn lại đi! Nhìn cho rõ vào!”

    Chúng tôi chợt hiểu ý của đội phó, nếu đúng là Chung Hồ Tử chưa chết, thì khi nhìn thấy chúng tôi chắc chắn cậu ấy đã reo lên rồi, làm gì có chuyện cứ đứng im bất động mãi thế, giống như là một bức tượng, đến lúc này cũng không nhúc nhích.

    Cậu lính kia không dám chạy qua nữa. Chúng tôi đứng đó, căng óc suy nghĩ, tôi thấy cả những đường gân xanh hiện lên trên trán đội phó, dường như anh cũng không thể tìm ra lời giải cho chuyện này.

    Bùi Thanh xách súng lên, nuốt nước bọt, hỏi tôi: “Giờ làm thế nào?”

    Tôi nghĩ người này nếu như là Chung Hồ Tử thì rõ ràng đã chết rồi, sáng hôm nay chúng tôi còn làm lễ cho cậu ta, cái chết của cậu ta coi như đã rõ, thế nhưng tình hình bây giờ cho thấy dường nhứ đó chỉ còn là cậu ta mà thôi, lẽ nào lại có chuyện xác chết sống lại?

    Tôi cố nghĩ ra mấy cách để thám thính, bỗng nhiên nhìn thấy cái bát ô tô, tôi liền nhặt đưa cho Bùi Thanh, bảo: “Ném cái này sang đó, xem họ phản ứng thế nào!”

    Bùi Thanh nói mình ném không chuẩn, Vương Tứ Xuyên là người Mông Cổ, có kĩ nghệ phóng lao bắt thú rất điêu nghệ, hồi còn ở tổng doanh trại của công trình 723, cậu ta đã từng đi ném gà lôi ở gần doanh trại, ném rất chuẩn, nên để cậu ta ném.

    Tôi nghĩ cũng đúng, liền quay ra Vương Tứ Xuyên, vừa nhìn đã phát sốt rồi, thằng cha ấy biến đâu mất, nhìn sang thấy cậu ta đã bơi tới sát gần hòn đá chỗ người kia đứng, đang chuẩn bị leo lên.

    Tôi há miệng định ngăn cậu ta lại, nhưng đã muộn, cậu ta đang cong người, bám lấy vách đã nhảy lên phía trên, rồi chồm tới ôm lấy người kia.

    Chúng tôi nghe một tiếng hét lớn, mấy người chúng tôi đều ngây người ra, âm thanh đó không phải của Vương Tứ Xuyên, mà là tiếng của một người con gái.

    Tiếp đó, Vương Tứ Xuyên dùng một thế võ, vật người kia xuống, định trực tiếp ghìm họ xuống, không ngờ người kia cũng loạng choạng, khom người xoay lại, thế là cả hai bị ngã nhào xuống, lăn ra khỏi hòn đá, rơi ùm xuống nước.

    Đội phó thấy thế vội vàng cởi áo, nhảy xuống định ứng cứu. Nước phía bên dưới hòn đá khá sâu, nếu như chẳng may bị kẹp giữa khe đá mà không ngóc đầu lên được thì chỉ trong ít phút là mất mạng rồi. Chúng tôi cũng nhảy xuống hỗ trợ, đầu tiên là đưa Vương Tứ Xuyên lên khỏi mặt nước, người kia sau đó cũng chịu để chúng tôi lôi lên.

    Chiếc mũ trên đầu của người đó bị rơi xuống, người này cắt tóc ngắn, những vết máu trên mặt cũng được rửa sạch, chúng tôi vừa nhìn đã biết ngay không phải là Chung Hồ Tử, vì người này là phụ nữ, quần áo bị ướt sũng nên những đường cong, chỗ lồi lõm trên cơ thể đều hiện lên rất rõ.

    Vương Tứ Xuyên nhổ ra một mồm đầy nước, người run lập cập, vội vàng cởi quần áo đem đi hong, vừa hỏi tôi người kia sống hay chết.

    Tôi vuốt tóc của cô gái ra khỏi mặt, rồi kiểm tra mạch, vừa làm vừa nhìn vào mặt cô ấy, tôi sững người, người này tôi biết.

    Bùi Thanh vừa nhìn thấy mặt cô gái, cũng giật mình kêu lên: “Trời ơi, là Viên Hỷ Lạc mà!”.
     
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    CHƯƠNG 13: VIÊN HỶ LẠC


    Viết đến đây hẳn nhiều độc giả sẽ ngạc nhiên không hiểu gì, kì thực, lúc đó tôi cũng không biết sự việc thế nào. Những gì bước vào tiểu thuyết và ngoài đời thực khác nhau một trời một vực. Tiểu thuyết còn có thể rào trước đón sau được, nhưng nếu là ghi chép thì phải tôn trọng sự thật.

    Tại nơi này, tôi gặp Viên Hỷ Lạc, đây là một sự thật, tôi có nằm mơ cũng không nghĩ mình có thể gặp cô ấy ở nơi này.

    Ban đầu tôi không tin, nhìn lại cẩn thận một lượt, đúng là cô ấy, tôi tự nhiên run lên, nghĩ bụng làm sao cô ta lại có mặt ở đây?

    Viên Hỷ Lạc cũng là kĩ sư khảo sát, tuy rằng tuổi tác cũng tương đương chúng tôi, nhưng về cấp bậc thì hơn hẳn.

    Đó là vì cô ấy được cử đi học ở Liên Xô về, nhận được nhiều ưu đãi hơn chúng tôi. Tôi với cô ấy từng làm chung một lần ở một đội khảo sát. Hồi đó cô ấy là đội phó, ngoài kiến thức được học khi du học ở Liên Xô về, cô ấy còn thực sự là người rất chăm chỉ.

    Tôi thì làm việc cứ ào ào, nên thường xuyên bị khiển trách, có điều xử lý công tư của cô ấy rất thoáng nên chúng tôi làm việc với nhau tương đối thoải mái. Cô ấy luôn là người dẫn đầu trong mọi việc, Bùi Thanh biết cô ta, có lẽ cùng vì lý do ấy.

    Nhóm chúng tôi có cả thảy hai mươi tư người, đương nhiên không có phụ nữ, bây giờ có cô ấy xuất hiện ở nơi này, tất nhiên sẽ khiến chúng tôi bối rối.

    Tôi xem những vết thương trên mặt và trên người cô ấy, thấy tình hình rất kì lạ, không hiểu sự việc gì đã xảy ra.

    Thân nhiệt cơ thể Viên Hỷ Lạc hạ xuống rất thấp, lúc đó chúng tôi không còn thời giờ để tìm hiểu xem làm sao cô ta lại xuất hiện ở nơi này nữa. Mấy người đành rút thăm, cuối cùng Vương Tứ Xuyên nhận nhiệm vụ thay quần áo cho cô ấy.

    Người cô ấy đầy vết thương, chỗ nào cũng thấy vết bầm tím hay máu tụ, nhìn vào thật khủng khiếp. Hai đầu gối và hai cánh tay bầm dập đầy thương tích, nếu như không được tận mắt chứng kiến bãi đá và bãi lưới sắt ở nơi này thì lại tưởng cô ấy vừa trải qua một trận cực hình mới tới được đây.

    Thế nhưng chuyện này lại không ảnh hưởng tới tính mạng, điều nghiêm trọng là thân nhiệt của cô ấy. Bộ trang phục trước khi gặp Vương Tứ Xuyên nay đã bị ướt hết, có lẽ cơ thể của cô ấy đã chịu lạnh từ lâu trước đó, môi của cô ấy đã tím ngắt rồi.

    Vương Tứ Xuyên vừa run lập cập vừa tiến hanh lau người cho Hỷ Lạc, rồi đặt cô ấy vào túi ngủ, sau đó nấu nước nóng bón cho cô ấy uống, hơ lửa ấm cho cô, cứ thế làm mãi tới nửa đêm thân nhiệt của cô ấy cũng tăng lên dần, thế nhưng đầu óc vẫn còn lơ mơ, gọi mãi mà cô ấy vẫn không tỉnh.

    Tuy nhiên, tình hình như vậy cũng khiến chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, có thể yên tâm đi ngủ rồi.

    Bùi Thanh bên cạnh vẫn lẩm bẩm: “Tại sao chị ta lại ở đây nhỉ?”

    Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng, lại nhớ đến những lời anh Miêu dặn trước khi đi, càng ngày càng cảm thấy tình hình tệ đi.

    “Tình hình ở đây không ổn rồi!” Tôi quay sang mấy đồng chí nói: “Chúng ta không nên đi sâu nữa.”

    “Có chuyện gì?”, Vương Tứ Xuyên hỏi.

    “Xem ra chúng ta không phải là những người đầu tiên vào đây.”, tôi đáp, “Nơi đây chắc chắn đã có trong hồ sơ rồi, ông đại tá đó đã không nói thật với chúng ta.”

    Lúc đó, tinh thần tôi khá hỗn loạn, sự việc nhỏ nhặt thì không nắm rõ, nhưng những việc chính vẫn hoàn toàn tỉnh táo nắm bắt được.

    Bùi Thanh lập tức gật đầu, đôi lông mày của cậu ta cau lại, xem ra cậu ta cũng đã dự đoán được tình hình.

    Nhìn những vật dụng của Viên Hỷ Lạc, rõ ràng cô ấy cũng đã được phái đi làm công tác khảo sát giống chúng tôi, thế nhưng trong bốn nhóm tới đây của chúng tôi không hề có cô ta, chứng tỏ cô ấy đã được phái đến từ một nhóm thứ năm nào đó.

    Căn cứ vào tình hình và vị trí khảo sát hiện giờ, có thể đoán nhóm thứ năm đó đã vào đây trước bốn nhóm chúng tôi. Chúng tôi mới vào đây được hơn một ngày, nếu có đi sau chúng tôi, thì không thể đi nhanh thế này được.

    Cũng có thể nói, trước khi chúng tôi vào trong động đã có một đợt khảo sát ở đây, tuy không biết cụ thể như thế nào, nhưng dự đoán đó khá chính xác.

    Viên Hỷ Lạc chính là bằng chứng xác đáng cho chuyện ấy.

    Sự việc này bắt đầu phức tạp rồi đây, tự nhiên xảy ra bao nhiêu rắc rối, họ đã vào trong này bao lâu rồi? Tại sao đại tá lại không nói với chúng tôi chuyện này trước? Cấp trên không thể để một nữ kĩ sư khảo sát vào động một mình, vậy còn ai đi cùng nữa?

    Đội phó và mấy cậu lính ngồi im lặng một góc, không ái nói câu gì, tôi hỏi họ có biết gì về vấn đề này không, nhưng đội phó lắc đầu bảo cũng mù mờ như chúng tôi mà thôi, anh nói: “Tôi và các anh vào đây cùng một thời điểm, trước khi đi, các anh còn được tham gia cuộc họp, bọn tôi còn chẳng có họp hành, tiệc tùng gì, cấp trên bảo bọn tôi phải đi cùng các anh, không hỏi han, không nghe ngóng, không nghi ngờ, chỉ một yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ.”

    Mấy người chúng tôi đều im lặng, chuyện này đúng là vượt ngoài dự đoán.

    Vương Tứ Xuyên đề xuất: “Hay là đợi đến lúc cô ấy tỉnh để hỏi cho ra nhẽ?”

    Tôi lắc đầu, sự kiện vừa rồi của Viên Hỷ Lạc thật kì lạ, điều khiến người khác kinh sợ nhất là cô ấy không hề có thiết bị chiếu sáng, cũng có nghĩa là người con gái đáng thương ấy không biết đã phải chờ đợi trong cái động tối tăm này bao lâu rồi.

    Hãy thử tưởng tượng nếu bạn bị rơi vào tình cảnh đó thì sẽ khủng hoảng đến chừng nào, đứng một mình trong một hang động tối tăm mù mịt, mênh mông không bờ bến và lạnh giá với bao nhiêu âm thanh thầm thì kì bí, người nào trải qua chuyện này xong mà không phát điên mới là lạ.

    Bùi Thanh cũng nghĩ ra một giải pháp, nhưng có điều rất khác với ý chúng tôi: “Chẳng ích gì đâu, giả sử chị ấy có tỉnh lại, tôi cũng chắc chắn là chị ấy sẽ không kể nhiều, đó là nguyên tắc nghề nghiệp ở tầm chức vụ như chị ấy. Hơn nữa chị ấy lại có cấp bậc cao hơn chúng ta, đố mà dám kể ra hết đấy!”

    “Vậy thì làm thế nào đây?”, Vương Tứ Xuyên nghĩ ngợi, miệng buột ra câu chửi tục: “Bà nội nó chứ, cấp trên rốt cuộc muốn gì đây? Trước đây chúng ta đâu có gặp chuyện rắc rối thế này, cũng chỉ có khảo sát vài cái động, chẳng lẽ những gì trong này lại quái dị đến thế sao?”

    “Lúc lên xe chắc cậu cũng đoán được rồi còn gì, lần đi này của chúng ta đâu có giống những lần trước.” Bùi Thanh không thèm nhìn Vương Tứ Xuyên mà đưa mắt về phía trước, dường như trong đôi mắt ấy ánh lên niềm hi vọng chờ đợi.

    Tôi biết anh chàng này có nhiều nét đặc biệt, xem ra cậu ta không thèm để ý đến những sự việc vừa xảy ra. Tôi chợt nhớ đến mẩu giấy lúc trước, kì thực tôi cũng có chút tò mò, liệu tận cùng của dòng sông sẽ là vật gì chờ đợi chúng tôi? Tại sao ngày càng khó đoán con đường trước mặt của chúng tôi đến vậy?

    “Tôi bảo này, các cậu đừng tranh cãi nữa, không lại khiến mấy cậu lính nghe được thì toi, còn cái chuyện chúng ta nghi ngờ cấp trên nữa, bị nói ra ngoài là không hay đâu.”, Trần Lạc Hộ thu mình ngồi bên cạnh khẽ nói, “Dù sao cũng xuống tới đây rồi, đâu còn cách nào khác, thôi đành cứ thế mà tiến thôi!”

    Vương Tứ Xuyên trợn trừng mắt, tôi vội ngăn cậu ta lại, lần này thì Trần Lạc Hộ nói đúng, suy nghĩ của anh em quân lính khác hẳn chúng tôi, chúng tôi không nên nói trước mặt họ những lời khiến họ dao động.
     
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 14: Một người điên


    Nằm ngủ trong bóng tối, ai cũng có những suy nghĩ của riêng mình, ở nơi này chúng tôi chưa từng gặp người phụ nữ nào, nay có một người con gái ngủ ngay bên cạnh, đồ lót của cô ta còn hong cạnh đống lửa, điều đó thật khiến chúng tôi khó mà ngủ yên được. Thế nhưng tôi thực sự quá mệt, những suy nghĩ trở nên hỗn loạn trong đầu, nghĩ mãi chẳng thông, cuối cùng tôi cũng ngủ thiếp đi.

    Tôi ngủ chưa được bao lâu bỗng cảm giác dường như có ai đó đang đẩy mình, tôi ngẩng đầu nhìn lên, bốn phía một màu đen kịt, lửa cũng đã tàn. Tôi liền ngồi hẳn dậy, cầm đèn pin chiếu ra xung quanh một lượt, hóa ra cậu lính trực đêm mệt quá đã ngủ gục mất, không ai tiếp củi nên đống lửa đã tắt hẳn.

    Tôi quay lại xem ai đã đẩy mình thì nhìn thấy Viên Hỷ Lạc không một mảnh vải che thân, đang ở ngay bên cạnh tôi, tôi giật mình, hỏi cô ấy: “Cô tỉnh rồi à?”

    Cô ta không trả lời tôi, mà nhích lại chỗ tôi, áp sát thân thể vào người tôi, tôi ngửi thấy một mùi hương kì lạ, khiến đầu óc choáng váng. Viên Hỷ Lạc là người Đông Bắc, giống như đại đa số các thiếu nữ đông bắc khác, cô có thân hình nảy nở, ở cô toát lên sức hấp dẫn mê hoặc của một cơ thể đang hừng hực sức sống. Tôi định đẩy cô ấy ra, nhưng tay tôi bất giác lại ôm chầm lấy cơ thể đó, vòng tay chạm vào phần cơ thể mềm mại, êm ái, khiến tôi như điện giật, tóc tai bỗng dựng đứng.

    Tuy vậy, tôi không dám động đậy gì thêm, không tiến cũng không lùi, đang lúc tôi không biết xoay sở ra sao thì bỗng nhiên cô ấy há miệng ra, tôi nhìn thấy từ miệng cô ấy đầy sợi dây thép thò ra ngoài.

    Tôi hét lên một tiếng rồi nhảy dậy, mắt tôi lòa một màu sáng chói rồi trong phút chốc tất cả biến mất.

    Tôi vẫn nằm nguyên trong túi ngủ, ánh sáng từ đống lửa chiếu ra rất rõ, Trần Lạc Hộ, Bùi Thanh và hai cậu lính khác đã tỉnh ngủ, Vương Tứ Xuyên vẫn ngáy đều đều. Viên Hỷ Lạc đã tỉnh ngủ, cũng đã mặc quần áo và đang ngồi một góc ăn như người chết đói, tóc tai của cô ta bù xù, chân tay vẫn còn run lập cập.

    Tôi dụi dụi mắt rồi đứng dậy, lấy nước lạnh rửa mặt, đưa mắt hỏi Bùi Thanh, xem tình hình Viên Hỷ Lạc thế nào.

    Bùi Thanh lắc đầu nói: “Hình như lâu lắm rồi cô ấy không được ăn gì.”

    “Đã kể gì chưa?”, tôi hỏi.

    Cậu ấy thở dài, hất hất cằm: “Anh tự đi mà hỏi!”

    Tôi vốn dĩ là người rất lạc quan, nên nhìn thấy Bùi Thanh thở dài ra vẻ vậy, tôi biết cũng chẳng có gì là khủng khiếp cho lắm. Thế nhưng đến lúc tôi qua hỏi han cô ta vài câu thì sự tình lại khác hẳn với những gì tôi nghĩ ban đầu.

    Sắc thái của cô ấy không có vẻ gì tươi tỉnh, toàn thân lộ vẻ thất thần, bất kể tôi có hỏi gì đi nữa cô ấy cũng không trả lời. Tôi cứ nói, còn cô ấy cứ nhìn tôi chằm chằm, nhưng ánh mắt thì đờ đẫn, dài dại, và cũng không có vẻ gì là tập trung tới lời tôi nói. Hinh như cô ấy đã chờ đợi quá lâu ở trong bóng tối, nên không quen với ánh sáng ở đây. Đường nét trên gương mặt cô vốn dĩ rất xinh đẹp, thế nhưng nhìn vào hiện tại thì chỉ khiến người khác thêm quặn lòng, đó chỉ còn là một hình nhân đáng thương mà thôi.

    Cuối cùng tôi cũng phải đầu hàng. Bùi Thanh làm bữa sáng cho tôi xong thì ngồi ngay bên tôi thở ngắn than dài, cậu ta nói nào là cô ấy mới đáng thương làm sao, nào là chắc là hôm qua do thấy ánh sáng chúng tôi đốt mà lần mò tới. Cậu ấy đã lục soát ba lô và áo quần của Viên Hỷ Lạc, đồ ăn đã hết nhẵn, không biết cô ấy mắc kẹt ở đây được bao lâu, nếu như chúng tôi không đến kịp, chắc gì cô ấy đã sống được.

    Tôi định bảo Bùi Thanh rằng tình hình này thì chắc chắn về sau sẽ nảy sinh nhiều chuyện, cho nên, giờ nghĩ đến cảnh chúng tôi không biết tí gì về tình hình nơi này, phải chẳng chúng tôi nên rút lui?

    Lý do tôi đề xuất ý kiến này là vì tính chất khảo sát ban đầu đã có sự thay đổi. Một mặt, tình hình phía trước rất có thể sẽ nảy sinh nguy hiểm, hơn nữa lại phát hiện một người mắc kẹt ở nơi đây, mặt khác chúng tôi cũng phát hiện ra cấp trên đã giấu chúng tôi quá nhiều vấn đề. Nếu cứ như thế này mà đi tiếp thì không biết thế nào, chẳng khác nào hăng say công việc một cách vô lối.

    Bùi Thanh gật đầu đồng tình: “Nói thực, tôi rất tò mò muốn biết phía trước mặt có gì, thế nhưng, tôi đồng ý là nhìn tổng quát thì bây giờ chúng ta quay lại là rất đúng, có điều không thể cứ thế này mà quay lại, nếu như có người khác đang mắc kẹt lại trong đây, chúng ta cứ thế này quay về thì họ chỉ có nước chết, theo tôi, mấy người có quân trang nhẹ cứ nên đi sâu vào xem sao, tìm kiếm thêm một chút, biết đâu lại có kết quả gì!”

    Tôi suy nghĩ, thấy Bùi Thanh nói cũng có lý, thằng cha này đúng là có máu làm lãnh đạo, nghe cậu ta nói thế tôi lại thấy hơi ngượng.

    Ngay lập tức chúng tôi quyết định sẽ hành động theo phương án mà Bùi Thanh đưa ra. Lúc Vương Tứ Xuyên và những người khác tỉnh dậy, tôi nói lại tinh thần với họ, họ cũng không phản đối gì, đội phó bảo dù gì cũng đã quyết rồi, nên sẽ nghe theo chúng tôi.

    Ăn sáng xong, chúng tôi phân chia đội hình, Viên Hỷ Lạc chắc chắn không thể lên đường được, nên chúng tôi đành phải để người lại chăm sóc cô ấy.

    Trần Lạc Hộ ngay lập tức xin ở lại: “Tôi cảm thấy không được khỏe lắm, cho tôi ở lại!”. Vậy là cậu ta ở đây đợi chúng tôi quay trở lại, mọi người nghe vậy không ai có ý kiến gì. Nói thẳng ra, cậu ta có đi theo thì cũng chỉ gây phiền toái mà thôi. Đội phó sợ một mình cậu ấy không ổn, bèn cử một chiến sĩ ở lại cùng; còn tôi, Vương Tứ Xuyên, Bùi Thanh, đội phó và hai chiến sĩ khác khoác những chiếc ba lô đã nhẹ bớt so với lúc đầu khởi hành trình rồi cứ thế thẳng tiến về phía trước.

    Vì có suy nghĩ là thăm dò xong sẽ quay về luôn, nên chúng tôi không để ý đến việc phải tiết kiệm năng lượng nữa, cứ thẳng tay bật đèn pin, ánh đèn đã chiếu sáng choang cả động.

    Cảnh sắc ở đây rất đẹp, nhưng chúng tôi cũng chẳng có thời gian mà nghiên cứu cấu tạo địa chất, không phải mang vác gì nặng, chúng tôi đi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã không còn thấy ánh lửa phía sau nữa.

    Càng đi sâu vào bên trong, do có đèn chiếu đủ sáng nên chúng tôi càng cảm thấy cái động to ra, đi tiếp càng thấy phong cảnh cũng hấp dẫn, dường như nó đã giúp chúng tôi vứt bỏ hết những mệt mỏi của cả hành trình dài vừa qua. Càng đi, chúng tôi càng phát hiện phía trong này các hòn đá ngày càng nhỏ đi, rồi một lúc sau, chúng tôi đã phát hiện dấu hiệu chuyển hướng của dòng nước.

    Đi sâu vào trong chừng bảy tám trăm mét, địa thế ngày càng dốc xuống dưới, khiến chúng tôi trở tay không kịp, đoạn dốc dài khoảng ba trăm mét xuất hiện, phía bên trên chừng vài mét có giăng một tấm lưới sắt, chúng tôi cẩn thận mò mẫm lần theo con dốc để đi. Đi mãi vẫn chưa tới chân dốc, Vương Tứ Xuyên bực bội văng tục.

    Đến cuối chân dốc dòng nước bỗng trở nên đen ngòm, thế nhưng đoạn nước chảy như vậy không dài, chúng tôi chiếu đèn khoảng mấy chục mét về phía trước, thấy lại xuất hiện bãi đá ngầm.

    “Làm sao bây giờ? Lẽ nào lại quay về lấy xuồng?”, Bùi Thanh hỏi, đương nhiên ai cũng biết lúc này không thể làm thế.

    Đội phó chiếu đèn xuống dưới và nhìn thấy đáy nước: “Có thể lội qua được”, anh nói xong liền lội đi trước. Vương Tứ Xuyên vội túm lấy anh ta nói: “Đợi đã!”

    Nói xong cậu ta cầm đèn rọi xuống một góc, chúng tôi nhìn thấy dưới chỗ nước sâu nhất có mấy cái chiếc lồng sắt. Bên trong những chiếc lồng ấy vật vờ những bóng đen, không biết cụ thể chúng là gì.
     
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 15: Lồng sắt


    Loại lồng sắt này được gọi là “nhà tù dưới nước”, đây là một thiết kế của người Nhật thường thấy ở vùng ba tỉnh Đông Bắc, phần trên của loại lồng này chỉ nhô lên khỏi mặt nước một chút, người bị nhốt trong đó chỉ thò được mặt qua những thanh chắn, thò được mũi lên để thở. Trong cái lạnh của dòng nước ngầm này, cùng lắm họ chỉ duy trì được tư thế thở đó chừng vài ngày, rồi sẽ bị tự ngạt thở mà chết.

    Trên đoạn sông này, dập dềnh trong nước không biết bao nhiêu là những chiếc lồng kiểu đó, đầy sông một màu đen kịt, nếu không nhìn kĩ thì khó có thể phát hiện ra. Chúng tôi chụm mấy cái đèn lại chiếu xuống mới thấy dường như giữa những chiếc lồng còn phập phù hình thù gì đó, không biết cụ thể là gì, nhưng chỉ thấy lạnh sống lưng.

    Vương Tứ Xuyên kể đã từng nghe những người già trước đây kể lại, người Nhật từng nhốt người dưới những chiếc lồng này, người bị nhốt không đơn thuần chết bởi ngạt nước mà rất dễ chết chìm ở đây. Trong nước chắc chắn có nhiều đỉa, mọi người đi đứng phải rất cẩn thận không được tùy tiện nhảy xuống.

    Chúng tôi nghe thấy thế thì chân tay rụng rời, tim đập thình thịch. Đội phó bảo nơi đây lạnh thế này, lấy đâu ra đỉa? Vương Tứ Xuyên nói đỉa với lạnh không liên quan gì nhau, ở những vùng thảo nguyên mà còn có đỉa nữa là, bình thường sau mỗi trận mưa, những con đỉa đói lại nổi lên lềnh phềnh.

    Chúng tôi là những người chuyên vượt suối băng rừng, đều hiểu sự nguy hiểm của loài vật hút máu này, đỉa hay vắt tuy không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng luôn khiến người ta cảm thấy gớm ghiếc, kinh tởm, nếu bị nó đốt, có khi còn nhiễm bệnh sốt rét, nên nó đã trở thành một trong những đối tượng đề phòng hàng đầu trong công việc khảo sát ở những nơi rừng rú thế này.

    Nghe Vương Tứ Xuyên nói vậy, chúng tôi đều thấy không thể xem nhẹ chuyện này, vậy là người nào người nấy vội vàng túm chặt gấu quần lại, nhét vào trong ủng. Bình thường đỉa chưa được hút máu có kích thước rất nhỏ, những khe nhỏ trên quần cũng không thể cản được nó, cho nên chúng tôi phải lót thêm vào trong quần những lớp vải xô.

    Sau khi chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi kiểm tra kĩ lại một lần nữa, rồi mới tiếp tục xuống nước. Đội phó đội quân trang trên đầu, là người xuống nước đầu tiên. Chúng tôi giống như một đội quân thất trận, cứ thế lội dưới dòng nước.

    Đất đá dưới chân chúng tôi gồ ghề rất khó đi, chỗ nước sâu nhất ngập tới ngang ngực, cái lạnh cực độ xuyên qua lớp quần áo, như hút hết nhiệt độ trong cơ thể chúng tôi, bất giác người nào cũng cắn chặt răng lại chiến đấu với dòng nước lạnh. Vương Tứ Xuyên đi ngay sau cứ luôn miệng giục chúng tôi đi cho nhanh.

    Thế nhưng, cứ đi như thế này thì có muốn nhanh cũng không nhanh được, với cái giá lạnh, lại thêm lực cản của dòng nước khiến mỗi bước chân chúng tôi đều trở nên khó khăn, chúng tôi chỉ có thể cố gắng đi từng bước một, mỗi bước đi lại phải cố thêm một chút sức lực nữa.

    Mấy cậu lính công binh có khả năng chịu lạnh tốt hơn chúng tôi nhiều, họ vừa đi còn vừa cầm đèn chiếu xuống mặt nước. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã tới chỗ đám lồng sắt. Vì ở dưới nước nên chúng tôi nhìn thấy rõ hơn trên bờ khá nhiều. Nhìn những lớp rào thép lởm chởm nhô lên, chúng tôi đều bất giác rùng mình run sợ. Điều kinh khủng nhất là rất nhiều lồng còn lập lờ từng mảng tóc và xác người trong đó.

    Chúng tôi càng nhìn càng thấy sợ, Vương Tứ Xuyên nghiến răng nói: “Thật tội nghiệp, cứ thế mà bị dìm chết ở nơi này sao, chết cũng không được chết tử tế.”

    Bùi Thanh nói: “Nơi này quả nhiên có trang bị sẵn những nhà tù dưới nước, thế nghĩa là bọn Nhật đã dùng thủ đoạn này để tra tấn công nhân Trung Quốc mình, có xác người trong này, có cả những lồng sắt thế này cơ mà, chứng tỏ bọn Nhật ở trong này rất lâu, có lẽ ở đâu đó sâu bên trong sẽ có căn cứ điểm.

    Chúng tôi không nói gì, Vương Tứ Xuyên trả lời với giọng đều đều: “Nếu bọn Nhật thích kiểu này, thì chắc chắn chẳng có gì hay cả.”

    Chúng tôi lại tiếp tục đi về phía trước, cả chẳng đường không nói không rằng, xung quanh chỉ nghe tiếng lội nước bì bõm và tiếng thở dài của đồng đội.

    Đoạn nước ngầm thế này không dài, chúng tôi nhanh chóng đi được nửa đường, lúc đó, tôi lạnh tới mức không còn cảm nhận được đôi chân của mình nữa, đầu óc hỗn loạn, không còn tỉnh táo, những ánh đèn loang loáng đằng trước đã nhòe đi hết cả. Lúc đó, tôi đơn thuần chỉ lao về phía trước theo quán tính, cũng không thèm để ý tới khúc sông có đỉa hay không nữa.

    Bất chợt, tôi nghe thấy mấy âm thanh bì bõm của tiếng nước, dường như có ai đó vừa dừng lại.

    Tôi ngước mắt nhìn lên trước, thấy đội phó đi đầu đang dừng lại, anh cầm đèn pin chiếu xuống dưới chân, cúi đầu tìm cái gì đó.

    Tôi hỏi anh ấy làm sao, anh ngẩng lên, khuôn mặt trắng bệch, bảo tôi: “Lúc nãy hình như có gì đó... đã túm lấy chân tôi...”

    “Vớ vẩn!”, mặt Vương Tứ Xuyên cũng biến sắc, “Nói những chuyện đó ở nơi thế này, sợ chết đi được!”

    Mấy cậu lính đang bị nước lạnh làm cho mụ mị hết đầu óc vừa nghe thấy thế, lập tức tỉnh hẳn ra, đội phó thấy vậy vội nói: “Thật đấy, dưới nước chắc chắn có vật gì đó.”

    Chúng tôi nhìn vẻ mặt của đội phó cũng cảm thấy anh ấy không thể nào lừa chúng tôi. Đội phó có vẻ bề ngoài mà vừa nhìn người ta đã biết đó là người đứng đắn, đến nói vòng vèo anh còn không biết huống hồ là trêu đùa. Trong chốc lát tất cả mọi người xung quanh đều chĩa đèn pin vào vùng nước trước mặt.

    “Hay là có cá mù[1] ở đây nhỉ?” - Bùi Thanh đoán, “Con sông ngầm này thực ra chính là dòng chảy từ bãi đá ngầm lúc nãy chảy tới, có nhiều khe bên dưới các tảng đá, dòng nước rộng thế này thì chắc chắn có cá bơi trong đó.”

    [1] Cá mù: Loại cá sống trong hang hàng triệu năm, do tách biệt với ngày và đêm, chúng dần bị biến hóa thành không có mắt và không có sắc tố da.

    “Cậu tìm được nó thì tôi mới tin lời cậu!”, Vương Tứ Xuyên nói, giọng trầm hẳn xuống. Tất cả chúng tôi đều nhìn thấy dưới ánh sáng chiếu tập trung của mấy cái đèn, dưới nước có một bóng dài dài sáng lóa lao qua.

    Tất cả đều đờ người ra, tiếp đó, Vương Tứ Xuyên phát hoảng, quay người lao đến cái lồng sắt gần đó leo lên, mọi người thấy thế, lập tức làm theo, ai nấy chân tay run rẩy tập trung leo lên cùng một chiếc lồng. Đội phó khởi xướng cầm súng bắn ra mấy phát, rồi một loạt âm thanh “pằng, pằng, pằng” vang lên.

    Mấy người khác run rẩy hoảng loạn, khi họ leo lên được khỏi mặt nước thì dường như toàn thân không còn trọng lượng nữa, Bùi Thanh có dáng người nhỏ nhất, cậu ta vừa leo lên đã đứng không vững, ngã phịch một cái về phía sau, ngay trên mặt lồng, mặt cậu ta càng tái dại đi, hai mắt nhìn chằm chằm xuống mặt nước.

    Mấy người lại chiếu đèn xuống một lần nữa để nhìn xem cái gì ở bên dưới, nhưng chẳng ai nhìn được gì dưới nước, mặt nước đã bị chúng tôi khuấy động làm cho sủi bọt, trong lúc hoảng hốt cũng không chắc được cái bóng chớp xẹt ngang chúng tôi đã nhìn lúc nãy là do chúng tôi tự tưởng tượng ra hay là cái gì. Tuy vậy, cũng không ai dám lội xuống nước nữa.

    Cả bọn chần chừ một lúc, Vương Tứ Xuyên quát lên bảo mọi người không xem nữa, bây giờ cứ lên bờ đã rồi hẵng nói, vừa dứt lời, cậu ta đã nhảy phắt lên mấy cái lồng sắt bên cạnh để lên bờ. Chúng tôi thấy vậy, thì cũng hoảng hốt không kém, chẳng ai kịp nghĩ gì, vội vàng nhảy theo Vương Tứ Xuyên.

    Các lồng sắt được xếp cạnh nhau rất gần, lại cách mặt nước chỉ có một đoạn, chạy trên đó giống như là trên đất bằng vậy, lúc nãy tôi còn cố nghĩ vì sao hồi đó người Nhật lại nhốt người dưới những cái lồng này, hóa ra đó là một cách để họ đi trên mặt nước, thật không thể tưởng tượng nổi. Nếu đã sớm phát hiện ra thế này, chúng tôi đã chẳng phải lội nước, thật là nếu không gặp cái khó thì chẳng thể ló ra được cái khôn.

    Mấy người chạy rất nhanh, vì ai cũng sợ mình là người bị tụt lại cuối cùng, chẳng mấy chốc chúng tôi đã tới bờ bên kia, cách bờ một đoạn không có chiếc lồng sắt nào, Vương Tứ Xuyên nhảy kiểu chân gấu, lao tùm xuống dòng nước, đập loạn xạ cả lên, chẳng mấy chốc đã vào đến bờ.

    Mọi người sau đó vội vàng theo sát cậu ta, trong đó, Bùi Thanh là người thứ hai, liếc mắt cứ tưởng là sắp lên đến bờ rồi, bỗng nhiên tôi thấy toàn bộ người cậu ta bỗng bị thụt xuống nước, trong chốc lát đã bị chìm nghỉm xuống dưới, chẳng thấy tăm hơi đâu.

    Tôi chạy ngay sát sau cậu ta, vừa thấy thế đã nhủ thầm: “Thôi chết rồi”. Nghĩ tới đó, tôi vội nhảy mấy bước lại đó xem thế nào, chỉ thấy một cái vòng xoáy ở nơi Bùi Thanh rơi, mặt nước vẫn còn sủi bọt, không biết có chuyện gì đã xảy ra.

    Trong lúc cấp bách, tôi chắng kịp nghĩ ngợi thêm, vội nhảy ùm xuống, lặn sâu xuống dòng nước, chỗ đang sủi bọt, mò xem có cậu ấy không.

    Bên dưới chỗ nào cũng sủi bọt, căng mắt ra cũng không nhìn thấy gì, dường như có hai vật gì lớn lắm đang vật lộn dưới đó, tôi bỗng chốc căng cứng người lại, một mặt vừa muốn nhanh nhanh thoát khỏi chỗ đó, mặt khác lại muốn soi đèn xem rốt cuộc nó là gì.

    Nhưng tình hình khác với những gì tôi dự đoán, đến lúc mắt quen với ánh sáng dưới nước, tôi mới phát hiện ra trước mặt mình không phải là quái vật gì, mà chỉ là một cảnh tượng dở khóc dở cười.

    Tôi thấy Bùi Thanh không hiểu vì lý do gì mà đã bị mắc kẹt trong một cái lồng, cậu ấy vốn không thạo việc bơi lội, hai mắt cứ nhắm tịt lại dưới nước, đang đạp loạn xạ trong cái lồng, có lẽ vì quá căng thẳng, sự việc lúc đó cũng không có gì ghê gớm lắm, chỉ là cậu ta đang đạp liên hồi nên khiến mặt nước sủi đầy một đám bọt lớn.

    Tôi vừa nhìn đã hiểu ngay vấn đề, hóa ra ở chỗ này có một cái lồng sắt đã bị gỉ nát, bị Vương Tứ Xuyên nhảy một bước lên trên, rồi Bùi Thanh lại giẫm thêm một phát nữa, vì vậy phần thanh giằng phía trên đã bị gỉ không chịu nổi và sụt xuống. Vì Bùi Thanh dáng người nhỏ gầy, nên bị lọt thỏm vào bên trong lồng luôn. Sau đó tinh thần vừa hoảng, nghĩ chắc mình không có cơ hội thoát ra ngoài nữa, lại thêm mắt không nhìn thấy gì, nên chân tay cậu ta cứ vùng vẫy loạn xạ.

    Việc này nhìn có vẻ nghiêm trọng, nhưng cũng chỉ là chuyện nhỏ, đối với người nào dạn nước thì sẽ biết cách thoát ngay, người nào sợ nước thì có thể chết đuối. Tôi vội vàng bơi lại đó, thò tay vào trong lồng, định giúp cậu ấy trấn tĩnh.

    Không ngờ tôi vừa thò tay túm lấy tay cậu ta, thì cậu ấy lập tức đập loạn lên, tinh thần càng thêm náo loạn, lúc thì đạp hai chân, lúc thì thúc đầu vào mặt trên của lưới sắt.

    Kiểu này không ổn tí nào, tôi vội vàng nổi lên trên, leo lên trên mặt lồng sắt, thò tay qua chỗ mảng lưới bị thủng để kéo cậu ấy. Lúc ấy, đội phó và Vương Tứ Xuyên cũng đã đến nơi, chúng tôi vội vàng phá cái lồng, lôi Bùi Thanh đang sống dở chết dở ra ngoài.

    Thằng cha ấy lúc đó lãnh đủ, vừa thò mặt lên khỏi mặt nước thì bắt đầu ộc hết nước ở trong mồm ra, rồi bắt đầu ho liên tục, người mềm oặt như cọng bún, từ thắt lưng trở xuống vẫn còn đầm nước, chúng tôi cố hết cũng chỉ lôi được nửa người cậu ta lên khỏi mặt nước, chân cậu ta vẫn bị kẹt ở dưới.

    Vương Tứ Xuyên đoán có lẽ chân cậu ta bị mắc vào cái gì bên dưới rồi, phải có người xuống gỡ. Mọi người bỗng nhìn về phía tôi, vì lúc đó chỉ mình tôi là bị ướt cả người, tôi thầm ngán ngẩm: “Thôi đành lại lặn xuống xem vậy!”

    Không bị Bủi Thanh đạp nữa nên dòng nước đã trong hơn rất nhiều, tôi dán chặt vào thành lồng để xem, quả nhiên phát hiện bên trong chiếc lồng có những tấm móc sắt cuốn chặt lại với nhau, có lẽ người Nhật sợ tù nhân sẽ dùng hết sức phá chiếc lồng để trốn thoát nên mới làm thế này. Lúc này gấu quần của Bùi Thanh đang bị mắc vào lưới sắt.

    Điều này thật tệ, tôi hít một hơi, nín thở lặn xuống, thò tay vào lồng, dùng hết sức để kéo rách gấu quần của Bùi Thanh, mấy người bên trên cũng trợ giúp. Bên dưới vừa giải thoát được cho cậu ta thì ngay lập tức mấy người bên trên đã kéo vội cậu ta lên.

    Tôi thở hết hơi trong ngực ra, rút tay ra khỏi lồng sắt, định đạp chân nổi lên, bỗng nhiên một ánh đèn pin lóe lên, tôi chợt thấy ngay bên trái mình hiện lên một khuôn mặt hung tợn.
     
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 16: Quỷ nước


    Đến khi nghĩ lại, tôi mới thấy cuộc đời mình đã trải qua biết bao nhiêu chuyện, có những lúc nguy hiểm đến tính mạng, không ít lần đối diện với chín phần chết một phần sống, thế nhưng, những chuyện khiến tôi sợ hãi đến tận hôm nay, ám ảnh sâu trong tâm trí tôi có lẽ chỉ có vài lần.

    Sở dĩ nó khiến tôi bị ám ảnh có lẽ vì hồi đó tôi còn quá trẻ, chưa có kinh nghiệm đối đầu với chuyện sinh tử.

    Gương mặt ghê sợ đó cụ thể thế nào, thực ra lúc ấy tôi cũng không nhìn rõ, vẻ “hung ác” đó chỉ là một ấn tượng chớp nhoáng ban đầu, dưới dòng nước đen như mực, đằng sau ánh sáng vàng vọt của chiếc đèn pin, ngay sát bên tôi bỗng hiện ra một khuôn mặt lạ hoắc, bất luận là gì, chỉ điều này cũng khiến người ta sợ chết khiếp rồi; đằng này, tôi lại không có cơ hội để nhìn cho kĩ nó là gì. Sau cú giật mình đó, tôi vội giật người về phía sau, bị uống nguyên một ngụm nước lạnh, tôi sặc nước và ho rũ rượi, rồi không giữ được bình tĩnh nữa, tôi lấy hết sức bình sinh vẫy đạp để nổi lên trên, cuối cùng tôi được đồng đội túm tay, kéo lên.

    Tôi bị uống rất nhiều nước, ho mãi, nói không ra lời, hai mắt không nhìn thấy gì, được mọi người dìu rồi chạy đi luôn, sau đó lại lội xuống nước, rồi lên đến bờ mới hoàn hồn.

    Lúc đó trông ai cũng nhếch nhác, thảm hại, người nào người nấy ướt như chuột lội, chúng tôi vội vàng tìm chỗ khô để đốt lửa hong quần áo. Mọi người đều cởi hết, tất cả trần như nhộng, ngồi túm với nhau lại một chỗ.

    Vương Tứ Xuyên có mang theo rượu, cậu ta đưa cho chúng tôi uống mỗi người một ngụm, sau đó mọi người mới dần ấm lại. Lúc đó Vương Tứ Xuyên mới bắt đầu hỏi tại sao đột nhiên tôi lại bị sặc nước, đã có chuyện gì xảy ra ở dưới đó.

    Tôi kể lại toàn bộ những gì mình thấy cho mọi người nghe, có mấy người tỏ ra nghi ngờ. Bùi Thanh đoán là có xác người chìm dưới nước, bị cậu ta đạp chân loạn xạ nên xác đó mới nổi lên, hoặc chắc là do tôi bị tác động tâm lý nên mới nhìn nhầm.

    Tôi cũng không biết trả lời thế nào, tất cả những gì vừa trải qua đối với tôi chỉ là một ấn tượng mơ hồ, kì thực, bây giờ nghĩ lại, những gì Bùi Thanh nói cũng khá hợp lý, thế nhưng trong màn đêm tối mò bên dưới, hình thù bất động đột ngột xuất hiện ngay cạnh tôi lúc đó đã thực sự khiến tôi hốt hoảng.

    Giây phút kinh hoàng và bất ngờ đó khiến tôi nhớ mãi. Điều ấy thậm chí còn ảnh hưởng đến cả cuộc sống sau đó của chúng tôi. Mỗi khi nhìn thấy màn đêm đen kịt xung quanh, trong tôi lại dấy lên một nỗi lo sợ mơ hồ, rằng không biết màn đen kia đang chứa đựng những bí mật gì.

    Đương nhiên đây chỉ là những lời thuật lại, còn hồi đó, sau khi nghe tôi kể, mặc dù nói không tin, nhưng mọi người vẫn không tránh khỏi nghi ngại, lo lắng khi nhìn vùng nước ấy. Những nỗi lo không thể tránh được. Tôi nghĩ lúc quay trở về, bắt buộc phải đi qua chỗ đó, chỉ nghĩ đến tóc gáy đã dựng lên rồi.

    Quần áo đã khô, chúng tôi lại mặc vào, bộ quần áo được hong khô và ấm áp khiến tôi bỗng nhớ đến ánh nắng mặt trời ngoài kia. Bùi Thanh giục mọi người không được lãng phí thời gian nữa, vậy là sau khi thu dọn quân trang, chúng tôi vội vã tiến lên phía trước.

    Thời gian khảo sát lúc này đã vượt quá một phần ba kế hoạch chúng tôi đã lên trước đó, chúng tôi bảo nhau nếu trước mặt tiếp tục gặp phải những thác nước thế này thì nên quay về, không nên cố gắng vượt qua nữa, nếu không sẽ chỉ lãng phí thời gian.

    Thế nhưng đi tiếp một đoạn, trong động bỗng nhiên có ánh sáng, hai bên mép dòng nước đã rộng hơn khá nhiều, khắp nơi đều có dấu tích của người Nhật để lại, càng đi càng nhiều. Dọc đường, hai bên vách có nhiều biển chỉ dẫn viết bằng tiếng Nhật, trong những khe đá, có rất nhiều những chiếc rương gỗ màu xanh đã mục ruỗng, bên trong chứa đầy ruột bông màu đen, đội phó lấy khẩu súng gẩy gẩy thì thấy chúng đều sũng nước.

    Chúng tôi cứ thế đi sâu vào bên trong, hành trình rất thuận lợi, đường đi cũng không khó. Khoảng hai tiếng sau, chúng tôi mới gặp thêm một tình huống. Tình huống này trước nay chúng tôi chưa từng nghĩ tới, nó khiến cả hội đều ngớ người ra.

    Hóa ra, sau khi đã đi qua một đoạn vừa dài vừa hẹp, chúng tôi leo lên một tảng đá rất lớn, từ đó nhìn ra phía sau, trong cái hang rộng lớn này, không phải là một mảng đen tối ngòm, mà là một vách đá cực lớn.

    Phải mất khá lâu chúng tôi mới hiểu ra, hóa ra, cái động này, đến đây là kết thúc.

    Cả mấy chiếc đèn đều tập trung chiếu vào bức vách, đó là một bức vách đá đen bóng to lớn, xuất hiện đột ngột, chắc do vách đá hai bên lâu ngày bị nước chảy đọng lại rồi tạo thành phiến đá lớn này, đường đi đến đây đột ngột kết thúc, đích thực đây đã là đáy động.

    Nhớ lại đoạn đường chúng tôi đi vào cũng chỉ tầm bốn năm cây số là đến đây, so với chiều dài của các dòng sông ngầm thì động này thuộc loại nhỏ, chúng tôi vẫn thường gặp những trường hợp sông ngầm dài từ mười tới mười hai cây số. Nếu so với những phán đoán ban đầu từ chỗ gặp dòng sông ngầm thì chúng tôi không nghĩ rằng mình lại đến điểm cuối của cái hang nhanh như vậy.

    Mấy cậu lính không có ý kiến gì, chỉ lắng nghe hội có kinh nghiệm khảo sát chúng tôi tranh luận, nghe xong bọn họ đều cảm thấy bất ngờ. Theo những gì đọc trong sách vở và dựa trên kinh nghiệm của mình, chúng tôi đoán có lẽ dòng sông ngầm còn dài nữa, nếu đây là điểm cuối, thì chắc phải có cái hồ chứa lượng nước chảy từ ngoài vào đây.

    Thế nhưng vấn đề là khi chúng tôi leo tới chỗ bằng phẳng của tảng đá nhìn xuống thì thấy dòng nước chảy xuống các khe rất mạnh, sâu tới mức không thấy đáy, cho thấy lượng nước phía dưới tảng đá này không thể ít hơn những gì chúng tôi nhìn thấy lúc vừa mới vào động. Đến đây, dòng nước vẫn giữ tốc độ chảy xuống y như cũ, điều đó cho thấy chắc chắn vẫn còn đường đi.

    Vậy mà chúng tôi tìm mãi vẫn không thấy bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy có đường để đi.

    Chúng tôi đều không biết phải xử lý thế nào, đành ngồi cả xuống nghỉ ngơi, đồng thời xem xét, phân tích tình hình.

    Trong số chúng tôi, xem ra Bùi Thanh vẫn là người có kinh nghiệm khảo sát phong phú nhất, cậu ta từng đi qua Vân Nam, nơi đó có rất nhiều động nước, cậu ta bảo thường thì tình trạng này cho thấy trước đây đã có một trận lở đá lớn. Có lẽ do lực nước chảy mạng và lâu nên kết cấu đá trên trần bị xói mòn dần rồi đổ sập xuống, bịt kín nơi này, chắc chắn phía dưới tảng đá chân chúng tôi đang giẫm chính là con đường vào tiếp bên trong.

    Tôi và Vương Tứ Xuyên đều không đồng ý với cậu ta, nếu thực sự như thế thì hồi đó người Nhật làm sao vào được trong này. Vương Tứ Xuyên đoán chắc chúng tôi đã đi nhầm đường, đội kia mới là đội đi đúng đường, thôi thế cũng tốt, chúng tôi càng có cớ để quay về sớm.

    Tôi xua tay, cách giải thích này cũng không đúng, đừng nói chúng tôi đã tìm thấy những dấu tích của người Nhật để lại, chỉ cần nói chuyện Viên Hỷ Lạc tự nhiên xuất hiện tại đây cũng cho thấy chắc chắn nơi này vẫn còn đường đi tiếp.

    Vương Tứ Xuyên nhượng bộ, bảo chúng tôi đừng tranh luận nữa, nghe thử xem, nếu như bên dưới có kẽ đá ngầm nào đó thì tiếng nước sẽ khác.

    Chúng tôi thấy chẳng còn cách nào khác, vậy là tất cả tản ra, nín thở, áp sát vào mặt đá lắng nghe thật kĩ xem có sự khác biệt nào của tiếng nước không.

    Nói thật, làm sao có thể nghe ra sự khác biệt của dòng nước lúc này, tất cả các âm thanh lớn nhỏ bạn cảm thấy giống hệt như trong môi trường yên tĩnh, dù đứng gần hay đứng xa, tiếng nước róc rách bốn bề trong động vẫn ảnh hưởng đến phán đoán của bạn.

    Tôi vô cùng cẩn thận, cố lắng nghe cả những âm thanh cách đó mười mấy mét nhưng vẫn thấy không ổn, hoàn toàn không có kết quả gì, tôi thở dài vẫy tay ra hiệu cho mấy người khác phủ quyết biện pháp Vương Tứ Xuyên đề xuất. Bỗng một cậu lính đứng lên xua tay ra hiệu chúng tôi đừng làm ồn nữa.

    Chúng tôi đều tỉnh hẳn người, bụng nghĩ lẽ nào lại nghe thấy gì? Vậy là cả nhóm rón rén đi đến bên cậu ta, rồi áp sát người vào đó để nghe.

    Âm thanh ở nơi này khiến chúng tôi đều cảm thấy vô cùng ngạc nhiên, hóa ra bên dưới mặt đá vọng lên không phải là tiếng nước chảy mà là một âm thanh rất quen thuộc, giống như tiếng móng tay người gõ vào mặt đá.

    Mọi người đều nín thở tập trung nghe hồi lâu, nhưng cuối cùng vẫn không nghe ra đó là tiếng gì, chỉ cảm thấy tiếng rào rào đó nghe thật buồn bã, giống như tiếng móng tay cào trên da bụng, cảm giác như da bị ngứa sắp điên lên nên cào sồn sột cho đã vậy.

    Tôi không nhớ rõ ai là người cào những hòn đá bên trên mặt tảng đá ra trước, chỉ nhớ sau đó, tất cả chúng tôi đều dùng cả hai tay để cào đá ra, đá to thì bê đi trước, rồi đến lớp đá nhỏ.

    Chuyển đá đi một lúc tôi mới phát hiện ra có điều khác thường, đó là đá nơi này rất dễ rời ra, đống đá vụn ở xung quanh có to có nhỏ, những hòn đá to tường người tưởng chừng không thể dào lên mà không ngờ chúng tôi lại có thể đào lên dễ dàng.

    Tất cả đá từ to đến nhỏ, chúng tôi đều có thể tách ra khiêng được, việc này nói lên điều gì?

    Bất giác tôi đẩy nhanh tốc độ, mọi người thấy vậy, cũng như được truyền năng lượng, ai nấy đều đẩy nhanh tốc độ đào.

    “Keng”, tay tôi chạm phải một vật gì đó.

    Tất cả mọi người bất giác dừng lại, nhìn sang phía tôi. Bên dưới hòn đá tôi vừa đào lên lộ ra một cánh cửa sắt hoen gỉ, loang lổ.

    Mọi người nhìn chằm chằm, ai cũng ngạc nhiên không hiểu điều gì đang xảy ra, họ đều túm tụm lại quanh chỗ tôi, rồi lại tiếp tục đào bới ở chỗ vừa lộ ra cánh cửa sắt.

    Chỉ một lúc sau, cánh cửa sắt được chôn giấu dưới đống đá đã lộ ra trước mắt chúng tôi, cánh cửa khổng lồ dài hơn năm mét, bên ngoài được sơn màu xanh lòe loẹt, có thể nhìn thấy loáng thoáng mấy chữ bằng tiếng Nhật màu trắng, trong đó chỉ có thể hiểu được con số 53, một chữ là kế hoạch, những chữ còn lại không thể hiểu được đó là gì.

    Khi cánh cửa lộ ra gần hết, chúng tôi bắt đầu im lặng lắng nghe xem phía sau cánh cửa có âm thanh gì. Lúc đó, ngoài tiếng ùng oàng vang động không cụ thể là âm thanh gì ra, chúng tôi không nghe thêm được bất cứ tiếng gì nữa.
     
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 17: Cửa sắt

    Có thể dễ dàng nhận ra, đây là một cánh cửa được ghép và hàn lại bởi nhiều tấm thép. Cánh cửa có độ dày đáng kinh ngạc, bên trên được đóng bởi những chiếc đinh tán to bằng ngón tay cái, nó được gia cố bằng khung thép và xi măng ở bên ngoài, khó có thể ước lượng được người ta đã phải đổ bao nhiêu xi măng sắt thép vào đây. Ở chỗ then cửa, bốn phía đều chèn các thanh sắt, toàn bộ cánh cửa bị ép trong các khung sắt dày dặn và nặng nề. Chúng tôi trèo cả lên trên mà nó không hề rung lắc hay ọp xuống.

    Đây là loại cửa có hai cánh, ở giữa có ba thanh sắt xoay chèn ngang, nhưng nó đã được hàn chết vào đó, ngay cả đến khe cửa cũng bị hàn chặt không lộ ra kẽ hở nào, lay thử cũng không hề động đậy.

    Đội phó đưa mắt nhìn cậu lính bên cạnh, chẳng hiểu có ý gì, cậu lính nọ thử ấn mạnh vào cánh cửa một cái, sau đó nói thì thầm: “Cửa chuyên dụng chống bom mìn, phía sau cánh cửa sắt có chèn các lớp bông và lò xo cơ khí.”

    “Xem ra những người Nhật này không có ý định quay trở lại đây”, Vương Tứ Xuyên đứng bên nói một cách nhát gừng.

    Chúng tôi đều gật đầu, điều này là hiển nhiên rồi.

    Căn cứ vào tình hình lúc này có thể thấy đường đi tiếp theo của chúng tôi chắc đã bị chặn ngay sau cánh cửa sắt này, với kiểu chặn chắc chắn và kiên cố này thì không có cách nào để mở được nó.

    Thế nhưng nếu cứ như thế này thì đến đây chúng tôi không còn đường nào khác, vậy chuyện của Viên Hỷ Lạc sẽ giải thích thế nào đây? Những người đã đi cùng cô ấy đang ở nơi đâu? Giả sử chết rồi thì cũng phải thấy xác chứ, hoặc cũng phải có tí dấu vết nào chứ, thế nhưng trên suốt chặng đường đi, tại sao chúng tôi không phát hiện ra bất cứ điều gì?

    Lẽ nào chỉ mình cô ấy vào đây? Điều này tuyệt đối không thể xảy ra được.

    Thế nhưng không biết có phải do nghĩ ngợi nhiều không mà lúc đó tôi lại có một cảm giác chắc chắn rằng người Nhật làm chiếc cửa sắt chặn ở đây không phải có mục đích ngăn chúng tôi đi vào mà là họ không muốn những vật giấu trong đó bị trôi ra ngoài.

    Dựa vào kinh nghiệm khảo sát của chúng tôi lúc trước ở vùng núi Nội Mông, nếu người Nhật muốn bịt chặt chỗ này thì cách làm của họ sẽ quyết liệt hơn nhiều. Họ sẽ không chỉ phá hủy con đường dẫn vào khu vực này mà sẽ dùi một lỗ trên vách đá để đánh sập vòm đá xuống, nhằm phá sạch hoàn toàn khu vực này. Làm thế mới ngăn ngừa tư liệu và vật dụng của họ lọt vào tay đối phương, mới hủy bỏ hết giá trị của các đồ vật để đối phương không còn cơ hội sử dụng được.

    Còn đây chỉ là bịt đường bằng một cánh cửa sắt, bên trên nó phủ lấp sơ sài một lớp đá mỏng, xem ra không giống cách làm thông thường của họ.

    Tuy nhiên, trong lúc ấy có nghĩ nhiều cũng chẳng ích gì, bởi vì dựa vào những dụng cụ chúng tôi mang theo, thì không có cách nào có thể mở nổi cánh cửa này. Tin tôi đi, không chỉ chúng tôi mà cả những người lính kĩ thuật công trình địa chất chắc cũng phải bó tay, muốn mở được chiếc cổng này phải cần đến đèn khò chuyên dụng.

    Ban đầu chúng tôi không quá bi quan, vẫn nghĩ rằng kiểu gì cũng có cách để mở chiếc cổng này. Nhưng đến lúc ngồi trên cánh cửa, gõ gõ dò thử và biết không thể nào mở được nó ra, thì mấy người hội tôi đưa mắt nhìn nhau, thất vọng không nói nên lời.

    Cuối cùng, Bùi Thanh là người lên tiếng trước: “Giờ biết làm thế nào? Lẽ nào cứ thế này mà quay về ư?”

    Chúng tôi cười cay đắng, không về thì phải làm sao? Cái vật chình ình này không có cách nào để xoay chuyển, chúng tôi không thể tiến lên trước được nữa, coi như nhiệm vụ khảo sát lần này đến đây là kết thúc.

    Vậy là chúng tôi làm các thủ tục kết thúc giống như mọi cuộc khảo sát trước đó, sưu tập mẫu đất và mẫu nước, rồi vẽ lại cánh cửa sắt để chuẩn bị quay về.

    Mấy cậu lính chắc đã phát ngán với công việc thăm dò ở nơi này nên đến lúc về thấy tích cực hẳn lên, các cậu ấy còn giúp chúng tôi đeo ba lô, rồi quay trở lại đường cũ.

    Thế nhưng mới đi được vài bước thì đột nhiên một người trong đoàn bỗng cảm thấy dưới chân mình khang khác, lúc đó chúng tôi vẫn chưa kịp phản ứng gì, nhưng đội phó đã kịp nhận ra, tôi thấy cậu ấy cúi xuống chân rồi kêu lên: “Chết rồi!”

    Chúng tôi đều cúi xuống nhìn, cùng lúc phát hiện ra mực nước từ dưới những kẽ đá bên dưới lòng sông bỗng chốc dâng cao dần lên, tới ngang các hòn đá, dần dần tới gót chân chúng tôi.

    Mấy người cùng nhìn xuống dưới chân, mặt ai cũng trở nên trắng bệch, vì đều là những người làm nghề khảo sát địa chất và lính chuyên dụng nên chúng tôi rất hiểu sự việc phát sinh những lúc khẩn cấp – nước dưới con sông đang dâng cao.

    “Chạy!”, không biết người nào đó đã hét lên, tất cả chúng tôi vội vàng vứt hết những gì đeo trên người xuống, bắt đầu chạy thục mạng lên phía trên cao. Tôi sợ đến lạnh cả sống lưng, ngay từ đầu, tôi đã dự cảm một điều chẳng lành là vị trí chúng tôi đang đứng quá thấp.

    Bất kì ai làm nghề khảo sát địa chất hay thám hiểm, thậm chí bất kì những chuyện có liên quan đến hệ thống sông ngòi hay hệ thống thoát nước cũng đều được cảnh báo phải chú ý đến việc lũ dâng, đặc biệt là ở vùng cao nguyên Vân Nam và cao nguyên Quý Châu. Đây là vùng có lượng mưa rất cao hàng năm, hễ mưa là lượng nước ở trong lòng các hang động lập tức thay đổi ngay, tất cả các luồng nước tập trung chảy vào các khe đá, lượng nước ngầm trong động dâng cao rất nhanh, lúc này nó trở nên cực kì nguy hiểm.

    Chỉ có điều là tại nơi này, tôi thực sự không thể ngờ rằng lại gặp phải chuyện này, tại mảnh đất Nội Mông, ngày chúng tôi bước chân vào trong động, là một trong những ngày khô ráo cực điểm của những năm 60 thế kỉ 20, bầu trời xanh cao lồng lộng, ai ngờ chúng tôi đi được mười mấy tiếng đồng hồ thì đột nhiên trời đổ mưa. Có lẽ nước đã tràn qua các khe đá để chảy vào đây, nên lượng nước trong dòng sông ngầm này đột ngột dâng cao mà không báo trước, điều này thật khủng khiếp.

    Nghĩ đến đây, bỗng nhiên tôi nhớ lại âm thanh như ai đó gõ ngón tay xuống mặt đá phía sau cánh cửa sắt nghe được lúc nãy, tôi liền vội nắm chặt bàn tay lại, trời ạ, đó không phải là âm thanh lạ lùng gì, đó đơn giản chính là tiếng nước dâng lên trong động khô! Lúc trước sao tôi lại không nhận ra điều đó cơ chứ?

    Lượng nước ở trong động bỗng dâng lên rất nhanh, khiến cả bãi đá rộng lớn bỗng chốc bị thu hẹp dần, tiếng đá va vào nhau khi bị nước đẩy đã sinh ra âm thanh quái dị đó, điều này trên thực tế chúng tôi đã từng được nghe, thế nhưng từ trước tới nay chưa được tận mắt thấy trường hợp này, nên lúc ấy không kịp nghĩ đến cách chạy trốn.

    Lúc đó thực sự chúng tôi đều rất hoảng loạn, những ai từng sống ở ven biển, đều biết thủy triều dâng nhanh đến mức nào, nhưng ở đây, nước trong con sông ngầm này còn dâng nhanh hơn gấp bội. Ban đầu, vừa chạy được mười mấy bước vừa tưởng tượng rằng mình sẽ thoát khỏi được tình thế hiểm nguy này, nhưng lúc sau, chúng tôi bắt đầu có thể thấy mực nước đã dâng lên giữa các khe đá.

    “Chạy về phía mấy cái lồng sắt!”, Vương Tứ Xuyên tăng tốc chạy về phía trước, hét lên với chúng tôi, “Nước không thể dâng qua được phía ấy!”

    Trong đầu tôi bỗng lóe lên một ý nghĩ, chắc chắn bây giờ không kịp nữa rồi, chỗ này đường rất khó đi, chúng tôi không thể chạy kịp tới chỗ ấy. Một khi hai chân của chúng tôi không còn chạm xuống đáy nước được nữa thì sức lực của chúng tôi lúc đó sẽ không thể đấu tranh nổi với tốc độ của dòng nước.

    Thế nhưng tôi vẫn lao về phía trước, bất chấp mọi thứ xung quanh, giá như lúc đó tôi đứng lại giở áo phao ra, chuẩn bị đối phó với dòng nước, đó là cách hay nhất, thế nhưng lúc đó trong đầu tôi chỉ có duy nhất một từ “chạy”.

    Tôi chỉ biết điên cuồng chạy, cũng không biết mình đã chạy được bao xa, nước lúc này đã dâng tới mắt cá chân. Đây là điểm đầu nguồn cao nhất nên không thể nhìn thấy đá dưới nước. Vương Tứ Xuyên bị ngã cú đầu tiên, đó không phải là cú ngã bình thường, lúc đứng dậy đầu cậu ta đầy máu, vậy mà cậu ấy vẫn không dừng lại, vội vàng lao về phía trước, sau đó trong nhóm chúng tôi tiếp tục có vài người bị ngã, nhưng họ lại đứng dậy chạy tiếp.

    Bây giờ tôi nhớ lại dường như lúc đó sau mỗi cú ngã, đứng dậy được chúng tôi lại càng hang hái hơn, dù đầu gối, hai bàn tay đầy máu nhưng cảm giác không biết đau là gì.

    Tuy vậy, với tình cảnh lúc đó, tốc độ của chúng tôi cũng không ăn thua gì, vì tốc độ nước dâng bắt đầu nhanh dần lên, chúng tôi không đứng vững được nữa, chỉ biết cứ lao đi, bỏ lại dòng nước dâng ở phía sau. Song hoàn toàn không có viễn cảnh sáng sủa nào chờ đón chúng tôi ở phía trước.

    Cuối cùng, kẻ đi đầu đầy nhiệt huyết là Vương Tứ Xuyên cũng phải bám lấy vách đá bên cạnh, men theo đó mà đi, chúng tôi hiểu được cách của cậu ấy, cũng hiểu luôn thời khắc vô vọng đã bắt đầu tới, vậy là cả bọn cứ thế lần theo vách đá mà đi.

    Đi được tới chỗ đó có tảng đá, lúc này mực nước đã dâng tới ngang lưng, mỗi bước đi trở nên vô cùng khó khan, bên tai chỉ độc mỗi tiếng nước rào rào, bì bõm, giữa không gian nhỏ hẹp đó, giữa tiếng ồn ào bì bõm của dòng nước, chúng tôi phải hét to lên mới nghe được tiếng của nhau, đầu tiên phải đẩy được Vương Tứ Xuyên lên trên hòn đá trước, sau đó cậu ấy mới kéo từng người chúng tôi leo lên được.

    Cuối cùng chúng tôi cũng leo được lên chỗ cao hơn, nhìn xuống con đường lúc nãy cả bọn chạy qua, toàn bộ đã trở thành vùng nước mênh mông.
     
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 18: Lũ dâng


    Tảng đá đó cao chừng năm mét, tính theo tốc độ dâng của mực nước, thì chúng tôi cùng lắm chỉ cầm cự được chừng mười phút, thế nhưng chúng tôi e rằng thực tế chắc không được đến như vậy. Nhìn tốc độ dâng của mực nước, mặt nước càng lúc càng gần tới chân, chúng tôi ai nấy đều tim đập chân run. Cảm giác không thể tìm ra cách giải thoát khiến chúng tôi bất lực như rơi vào chốn địa ngục không đường ra.

    Đội phó là người bình tĩnh nhất trong nhóm, từ lúc xảy ra sự việc, dường như anh đã rũ bỏ hết sự nghiêm nghị ban đầu, anh tìm đến một mỏm đá cao bắt đầu rút thuốc ra hút, tiếc là các điếu thuốc vừa ướt vừa bị mủn nát nên không tài nào bắt lửa được. Vương Tứ Xuyên là người không tin vào ma quỷ, cậu ta cầm đèn pin đi xem xét mấy cái ngấn nước quanh vách đá, như vậy có thể đoán được mực nước cao đến đâu. Chúng tôi cũng vội vàng chuẩn bị, cuống quýt, lộn xộn đi theo cậu ta để soi, kết quả tuy có tìm thấy, nhưng là ở tít trên đỉnh trần cao.

    Chúng tôi đang đứng ở điểm thấp nhất của dòng sông, tôi cảm giác tầng đá cao phía trên như đang cười nhạo mình.

    Cuối cùng, một cậu lính bật khóc, những cậu lính này thực sự còn quá trẻ, tôi nghĩ có khuyên nhủ họ cũng chẳng có tác dụng gì, huống hồ lúc này chính mình cũng đang rất sốt ruột, kiểu sốt ruột khi chờ đợi khoảnh khắc cái chết ập đến.

    Thế nhưng cảm giác bức bối ấy cũng không kéo dài lâu, nước dâng lên đến chân chúng tôi rất nhanh, cảm giác như sắp dâng qua mặt chúng tôi đến nơi rồi, cả đội đều nín thở, người nào người nấy mặt mày trắng bệch, sợ hãi chờ đợi giây phút mình bị chìm xuống nước.

    Nhưng lúc ấy, một người vẫn kiên cường không đầu hàng số phận là Vương Tứ Xuyên bỗng hét lớn, cậu ta chỉ tay lên phía bên của vách hang, chúng tôi vội ngoái lại nhìn theo, hóa ra phía đó có một tảng đá nhũ thò ra.

    Vương Tứ Xuyên bảo chỉ còn cách bơi đến chỗ đó, rồi bám lấy cái nhũ đá ấy trèo lên trên, như vậy may ra chúng tôi mới có một đường sống. Nói xong, cậu ta bảo chúng tôi chiếu đèn, rồi không nói thêm lời nào, cậu ta đã lao mình xuống dòng nước xiết, hụp sâu xuống rồi lại trồi lên, cứ thế bơi thẳng đến chỗ mõm đá.

    Dòng nước chảy xuôi về phía đó khiến khoảng cách dường như ngắn lại, Vương Tứ Xuyên trèo rất nhanh lên mỏm đá, tiếp đó, cậu ta dùng đèn pin ra hiệu bảo chúng tôi mau bơi sang chỗ mình.

    Trong lúc nước sôi lửa bỏng, tất cả đều không dám chần chừ, đội phó nhảy xuống bơi cùng một cậu lính khác, rất nhanh và thuận lợi, chẳng mấy chốc họ đã tới nơi, lúc đó tôi cũng bị tác động, tôi vỗ vai Bùi Thanh ý bảo cùng làm theo, nói rồi tôi định lao xuống bơi về phía ấy.

    Không ngờ Bùi Thanh mặt mày trắng bệch, cậu ta túm chặt lấy tay tôi rồi bảo: “Không được đi!”

    Tôi ngạc nhiên, vội hỏi: “Tại sao?”

    Cậu ấy chỉ xuống chân chúng tôi dưới dòng nước xiết: “Cậu nhìn xem, dưới nước có cái gì đó…”

    Tôi chiếu đèn xuống dưới thì thấy cạnh chỗ chúng tôi tự nhiên xuất hiện vật gì đen đen, nổi lập lờ trong nước, không hề động đậy.

    Lúc đó, tình hình vô cùng hỗn loạn, khó mà có thể diễn tả thành lời, một bên là dòng nước xiết đã dâng đến mắt cá chân, một bên là những lời hô hoán của Vương Tứ Xuyên, bên kia là Bùi Thanh đang túm chặt tay tôi, nhất định không chịu thả, và dưới dòng nước là một bóng đen lập lờ không rõ là vật gì.

    Tôi không biết nên xử trí ra sao, trong tình huống khẩn cấp này, tôi không thể tập trung tinh thần để nghĩ đến việc khác nữa, mà có đợi thì cũng bị dòng nước đẩy đi, vậy là tôi hét to: “Đến lúc nào rồi mà còn nghĩ tới ma quỷ nữa, dù dưới nước có cá mập cũng phải nhảy!”

    Bùi Thanh ngoan cố, dường như đoán được ý của tôi, cậu ta vẫn sống chết túm chặt lấy tôi, đồng thời vén ống quần lên, nói to: “Anh nhìn xem!”

    Tôi cúi nhìn, thấy trên cẳng chân nhỏ của cậu ta rõ ràng có một vết thâm, dường như va phải vật gì đó. Cậu ấy gào lên: “Lúc ở trong lồng sắt, không phải tôi bị thụt ngã xuống cái lồng đó, mà là có cái gì đó đã kéo tôi xuống! Chắc chắn nó ở dưới đó mà!”

    Tôi định quát cậu ta vớ vẩn, nhưng chợt nhớ ra lúc trước tôi cũng nhìn thấy vật gì đó dưới nước, nên liền rút câu đó lại.

    Vương Tứ Xuyên vẫn tiếp tục gọi, giọng cậu ta đã lạc hẳn đi, chắc là không hiểu chúng tôi còn làm gì mà chần chừ không sang, hình như cậu ta cáu tiết lắm rồi.

    Thực sự tôi chỉ chần chừ vài giây cũng đã hiểu, cho dù dưới kia có vật gì cũng chẳng khác biệt gì nữa, bởi lúc này chúng tôi đang chìm dưới dòng nước rồi, nếu cứ ngoan cố không rời đi thì chỉ vài phút nữa thôi, nước sẽ dâng đến ngang lưng chúng tôi. Thế là mặc kệ Bùi Thanh muốn thế nào, tôi cũng không thể chờ đợi thêm nữa. Tôi nhún mình nhảy xuống nước.

    Tôi bị hút vào chỗ xoáy nước mạnh. Trong chốc lát, tôi bị dồi đi mấy vòng, sau đó mới lấy lại được cân bằng, từ dưới đó chỉ nhìn thấy được ánh đèn phía xa của Vương Tứ Xuyên, song như vậy cũng đã đủ, tôi tập trung hết sức lực hít sâu một hơi, sau đó sải rộng hai tay bơi về hướng ấy.

    Thực ra lúc đó đâu có đích mà bơi đến, tôi chỉ nhìn thấy thoáng có ánh đèn thì dồn hết sức để đập tay, cũng không biết tôi đã bơi bao nhiêu lâu, vì trong đầu tôi hoàn toàn trống rỗng, tai cũng không nghe được gì, mãi đến khi Vương Tứ Xuyên tóm chặt được tay tôi, rồi được cậu ta kéo lên, tôi mới tỉnh người lại, tai tôi mới cảm nhận được các tiếng động lớn bên ngoài.

    Tảng đá này cao hơn tảng đá lúc nãy một chút, tôi vuốt khuôn mặt ướt nhẹp, mở to mắt tìm kiếm Bùi Thanh. Tôi thấy cậu ta chậm hơn tôi rất nhiều, động tác cứ như là một ông già, đang bơi về phía chúng tôi, nhưng xem tình hình cũng không có gì đáng lo.

    Lúc đó tôi bỗng nghĩ tới vật thể đen lúc nãy, thế là vội vàng nhìn kĩ tìm nó, nhưng nhìn mãi cũng không thấy gì, tôi nghĩ phải chăng vật lúc nãy chúng tôi nhìn thấy chỉ là ảo giác hay là bóng của vật nào đó bình thường thôi.

    Nghĩ đến đây, tôi bất giác thở phào một hơi. Sau đó Bùi Thanh cũng được kéo lên an toàn, cậu ta đứng dựa vào vách nhũ đá, đờ mặt ra thở hồng hộc, cảm giác như mệt sắp chết tới nơi.

    Tôi nhìn thấy mình thật buồn cười, tự trách sao lúc nãy một người theo chủ nghĩa duy vật như mình lại có thể tin lời Bùi Thanh cơ chứ.

    Vương Tứ Xuyên thấy chúng tôi đều đã sang tới nơi an toàn, liền hỏi tôi làm sao, tôi thở đứt đoạn bảo cậu ta đợi sau hãy nói. Thực tình lúc đó tôi không còn chút sức lực nào mà trình bày nữa. Vương Tứ Xuyên vỗ vai tôi, rồi nói mọi người tiếp tục leo lên phía trên, xem có thể lên được phía trên ngấn nước không. Nước dâng quá nhanh, chỗ này chẳng mấy chốc sẽ bị chìm thôi.

    Chúng tôi gật đầu đồng ý. Đội phó lúc đó trở nên hăng hái nhất, anh là người leo lên đầu tiên, tiếp đó là những người khác. Thể lực tôi khá ổn nên tôi định đi sau cùng, nhưng xem ra Bùi Thanh còn tệ hơn tôi. Tôi vỗ lưng bảo cậu ta leo trước đi, lỡ may có bị trượt thì còn tôi đỡ bên dưới.

    Bùi Thanh vẫn nhìn chăm chăm xuống dòng nước, dường như vẫn bị ám ảnh bởi vật lúc nãy, phải đợi tôi vỗ về một lúc, cậu ta mới quay lên nhìn tôi, nhệch mồm ra cười cười rồi bắt đầu leo lên.

    Tôi nhìn nụ cười của cậu ta, bỗng nhiên cảm thấy có gì đó quái lạ, từ trước tới giờ cậu ấy có cười đâu, sao tự nhiên lại cười, có gì khác thường ở đây nhỉ? Hơn nữa sao cậu ta lại cười vào lúc này, lẽ nào do xấu hổ bởi sự cố lúc nãy? Ngay lúc đó Vương Tứ Xuyên ở bên trên nói lớn giục chúng tôi mau lên. Vậy là, tôi đành vội vàng leo lên theo.

    Các nhũ đá đa phần hình thành ở vị trí các khe đá trên trần hang, do cặn của nước nhỏ giọt đọng lại mà thành. Được sinh ra đồng thời với quá trình tạo nhũ đá là các măng đá hoặc các loại cột đá, chúng có hình dạng giống như những cẳng chân của chúng ta. Có điều, độ cứng của cột đá ở đây không cao, giẫm chân vào rất dễ bị nứt vỡ, nói chung chúng rất nguy hiểm, ai cũng phải dè chừng. Khó khăn lắm chúng tôi mới leo lên được chỗ cao nhất, quay lại nhìn xuống dưới, chỗ chúng tôi vừa mới đứng nhưng thấy chỗ này cũng chẳng cao hơn là mấy.

    Cảm giác lo âu dần dần tan đi, suy nghĩ của mọi người trở nên thông suốt hơn, chúng tôi đều tìm được cho mình một chỗ đứng ổn định, sau đó cầm đèn chiếu sang vách đối diện nhằm tìm một chỗ khả dĩ có thể tránh dòng nước lũ.

    Thật tệ là vận may không tiếp tục mỉm cười với chúng tôi, vách đá trươc mặt nhẵn bóng, nơi duy nhất có thể đặt chân lại là vùng thượng lưu của dòng nước, nhưng nhìn tốc độ dòng nước đang ào ào đổ xuống, chúng tôi biết không cách nào có thể bơi đến được chỗ đó.

    Sau khi có chút hi vọng, lần này đến cả Vương Tứ Xuyên cũng bất lực, mấy người chúng tôi im lặng nhìn dòng nước chảy xiết đang không ngừng dâng lên.

    Trong lúc dòng nước đang dâng đến gót chân của chúng tôi, bỗng nhiên, Vương Tứ Xuyên cất vang lời hát:

    Ngọn gió từ khe núi nào thổi tới, làm tung bay phất phới ngọn cờ hồng

    Cơn mưa rào rào đổ xuống, rửa sạch trơn những mái bạt lều.

    Lòng ta được lửa nhiệt tình hun đúc, chiến thắng mọi gian lao và giá lạnh

    Lưng đeo ba lô, tay nắm chắc tầng tầng vách núi,

    Lòng ta dâng tràn niềm hi vọng, tìm kiếm những kho báu cho Tổ quốc

    Ngôi sao nào giữa trời đêm, thắp sáng trong ta những ngọn đèn.

    Tiếng chim nào trong rừng lảnh lót, báo cho ta sắp tới bình minh.

    Lòng ta được lửa nhiệt tình hun đúc, chiến thắng mọi gian lao và giá lạnh

    Lưng đeo ba lô, tay bám chắc tầng tầng vách núi,

    Lòng ta dâng tràn niềm hi vọng, tìm kiếm những kho báu cho Tổ quốc.

    Từng con sông muôn nẻo chảy về, tụ lại thành biển lớn bao la

    Chúng ta nguyện đem tài năng, trí tuệ, cống hiến cho Tổ quốc, nhân dân

    Lòng ta được lửa nhiệt tình hun đúc, chiến thắng mọi gian lao và giá lạnh

    Đeo trên lưng hành trang và hi vọng, quyết với tay tới đỉnh vinh quang

    Tim ta dâng tràn niềm hi vọng, vì Tổ quốc kiếm tìm những nguồn quặng thiên nhiên.

    Đây là bài hát truyền thống của ngành địa chất. Chính bởi bài hát này, cộng với suy nghĩ tràn đầy lý tưởng lãng mạn chủ nghĩa của thời thanh xuân phơi phới, mà tôi đã quyết tâm đi theo nghề khảo sát địa chất. Những năm tháng vất vả khô cằn của nghề đã thiêu héo đi lý tưởng thanh xuân của tôi thuở xưa ấy. Không ngờ, giờ đây tôi lại được nghe Vương Tứ Xuyên cất cao giọng, hát vang bài hát này.

    Tình huống đối diện với cái chết lúc này thực sự không hề làm tôi cảm thấy sợ hãi, vậy mà giọng ca oang oang như thanh la của Vương Tứ Xuyên cất lên lại khiến tôi vô cùng xúc động. Bất giác, chúng tôi đồng thanh cất lời, cùng hát vang bài ca quen thuộc bấy lâu nay, từ lúc đó, dòng nước xiết dường như không còn đánh sợ với chúng tôi nữa.

    Thế nhưng sự thực lại rất phũ phàng, bất kể chúng tôi hát hay như thế nào, hay Vương Tứ Xuyên hát dở ra sao mực nước vẫn rất nhanh chóng dâng lên đến ngang bắp chân chúng tôi. Chúng tôi đều nhắm chặt mắt lại, dùng chút sức lực cuối cùng để hát.

    Trước lúc biết mình sắp chết, thường thì Phật tử sẽ lầm rầm niệm Phật, nếu là môn đồ của Kitô giáo thì hay đọc kinh để cầu xin Thượng đế giảm bớt nỗi đau đớn và sợ hãi, còn chúng tôi, một lũ vô thần vô thánh lúc ấy chỉ biết dựa vào mỗi bài hát đó để làm át đi nỗi sợ hãi cái chết đang tới gần, như thế làm sao đủ tránh được nỗi sợ hãi?

    Cả lũ chúng tôi xúm xít bám lấy vách đá, chờ đợi giây phút cuối cùng trong đời đang đến gần, nước dâng đến ngang đầu gối, ngang lưng, rồi đến ngang ngực, lúc đó, áp lực của dòng nước khiến chúng tôi muốn hát cũng không thể cất nổi giọng.

    Đúng lúc đó, chúng tôi bỗng nghe thấy từ cổ họng đã khản đặc của Vương Tứ Xuyên vang lên một tiếng hét lớn, không ai nghe rõ cậu ấy hét điều gì, chỉ thấy từ phía xa xa, trong bóng tối mịt mùng xuất hiện những luồng đèn chiếu sáng rực trên chiếc xuồng cấp cứu. Tiếp đó, chúng tôi nhìn thấy bốn chiếc xuồng cao su xuất hiện trước mắt mình.

    Tôi tưởng mình bị ảo giác, thế nhưng, mấy chiếc xuồng chạy đến gần chúng tôi với tốc độ rất nhanh, tôi nhìn thấy anh Miêu đang ngồi xổm ở mũi xuồng, anh ấy đang hút thuốc, gương mặt không cười mà như đang cười nhìn về đám người đang hồn xiêu phách lạc chúng tôi.
     
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 19: Cứu viện


    Từng người một được kéo lên trên xuồng, Vương Tứ Xuyên cúi mặt hôn vào thành chiếc xuồng cũ kĩ, giống như là cúi xuống hôn thảo nguyên bao la rộng lớn quê cha đất tổ của cậu ta mỗi khi trở về. Còn lũ chúng tôi khi lên được trên xuồng, người nào cũng như đã tê liệt, kiệt quệ, chỉ biết sụp xuống gối đầu lên thành xuồng, trước mắt như có màn đêm đen che phủ. Những gì vừa trải qua lúc nãy, âm thanh gầm gào, hối thúc của dòng nước xiết, cái lạnh thấu xương, sự khủng hoảng, tiếng hát, tất cả biến thành xoáy nước xoay tròn, càng lúc càng trôi xa phía chúng tôi.

    Ranh giới sống chết sao mà gần nhau đến thế, tất cả cứ như trong một giấc mơ.

    Lúc tôi sắp hôn mê đi thì một người bên cạnh xốc tôi dậy, cởi trang phục của tôi ra, lúc đó, cái lạnh xộc tới mới khiến cho tôi có cảm giác khó chịu.

    Chúng tôi cởi hết quần áo, khoác lên người tấm chăn chiên, lúc đó mới cảm giác ấm trở lại. Chúng tôi run lẩy bẩy nhìn nghững người vừa đến cứu, đa số đều là những người lạ, có hai người cùng cấp bậc với tôi, nhưng tôi chưa từng gặp trước đây, chỉ có duy nhất anh Miêu đang ngồi ở đầu xuồng là quen mặt.

    Vương Tứ Xuyên lau khô người xong thì bắt đầu hỏi chuyện xem tại sao mấy người lại tới đây được. Một người lính trong nhóm bảo với cậu ta rằng sáng hôm nay trên doanh trại điện báo về: cách thượng lưu sông Khachaer chừng hai chục dặm có mưa lớn, bảo chúng tôi cẩn thận không bị lũ quét. Lúc đó anh Miêu trong doanh trại nhận lệnh, vừa nghe được thông tin, mặt mày biến sắc, vội vàng đi tìm đại tá báo cáo việc sông ngầm sắp có lũ dâng. Ban đầu, vị đại tá kia còn không tin, nhưng bị anh Miêu thúc giục dữ quá nên mới tập họp bọn họ thành một đội cứu viện. May tới được đây kịp thời, nếu như chậm chân chút nữa, e rằng lúc đó, họ không phải đội cứu viện nữa mà là đội lo hậu sự cho chúng tôi rồi.

    Vương Tứ Xuyên cảm tạ trời đất, ông bà tổ tiên phù hộ, còn xin nhận anh Miêu là bố nuôi của cậu ta và đòi ôm hôn anh Miêu thắm thiết nữa.

    Nhưng anh Miêu chỉ nhìn rồi cười mà không nói gì, anh ta nhìn tôi, rồi lại nhìn Bùi Thanh, rõ rang là có ẩn ý sâu xa gì đó.

    Lúc đó tôi mới nhận ra chiếc xuồng cứu bọn tôi không phải quay đầu xuôi trở lại mà tiếp tục đi theo dòng nước xiết hướng về phía trước. Tôi hoảng sợ nói: “Anh Miêu, chúng ta đang đi đâu đây? Phía trước mặt là hết đường rồi.”

    Nghe tôi hỏi, Vương Tứ Xuyên lúc đó cũng giật mình nhận ra vấn đề, mấy người khác mặt cũng biến sắc, tất cả hét lên: “Đúng đấy! Bên trong không có đường đâu.” Vương Tứ Xuyên sợ hãi: “Chỗ này địa thế rất thấp, ta mau đi lên thượng nguồn, nếu không chỗ này biến thành cái hồ chứa, ta sẽ bị nhốt lại ở đây, có khi nước sẽ ngập tới trần hang.”

    Tất cả chỗ lính đều nhìn về phía anh Miêu, tỏ ra đồng tình với Vương Tứ Xuyên, song anh Miêu không thèm chú ý tới bọn họ, anh rít một hơi thuốc rồi quay sang cậu lính ngồi đầu xuồng ra lệnh: “Tiến lên trước!”

    Bốn chiếc xuồng cao su xung quanh giống như cây lao, lập tức tiến về phía trước. Chúng tôi không hiểu được ý tứ của anh Miêu, cả bọn nhất loạt chồm dậy. Mặt mày Vương Tứ Xuyên tái nhợt đi, chúng tôi vừa chui lên từ ranh giới giữa sự sống và cái chết, lúc này không muốn lại tiếp tục rơi vào cảnh đó nữa.

    Thế nhưng tốc độ của mấy chiếc xuồng quá lớn, chúng tôi đang tranh cãi thì dường như nó đã tới đến cuối động rồi.

    Lúc đó anh Miêu mới giơ tay làm hiệu, chỉ chỗ trước mặt, ra dấu cho mọi người im lặng.

    Do nước dâng rất cao, nên chỗ chúng tôi bây giờ cao hơn rất nhiều so với vị trí cũ. So với chỗ chúng tôi phát hiện ra cánh cửa sắt thì chỗ này ít nhất cũng phải cao hơn ba chục mét, cũng vì cách nhau xa quá nên lúc chúng tôi đứng dưới cánh cửa bấm đèn chiếu lên đỉnh, ánh sáng không thể chiếu tới nơi này, nên chúng tôi chưa nhìn được thấy đỉnh động, vì khi đó ngước lên cũng chỉ thấy một màu đen sì.

    Giờ thì chúng tôi đang ở trên độ cao có thể nhìn rõ mọi thứ từ phía trên đỉnh động, tôi có thể nhìn thấy vách động nối với nóc động tạo thành một góc nhọn, từ trên đó rủ xuống rất nhiều các nhũ đá khổng lồ, trông giống như những chiếc nanh thúc, mờ mờ, ảo ảo, nhiều không thể đếm xuể. Khung cảnh đó mờ ảo, huyền bí, giữa dòng nước xiết, nhưng khi ấy chúng tôi không có nhiều thời gian để nhìn kĩ chúng, nên bây giờ không còn lưu giữ được mấy hình ảnh về chúng.

    Mãi cho đến khi nhìn thấy một nơi trên đỉnh động thì chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm, vì tại điểm cao nhất của trần động, chỗ chụm lại của các đỉnh vách đá có một khe nứt rộng khoảng chục mét, từ trên đó, dòng nước giội xuống như tuấn mã truy phong làm tung bọt mặt nước dưới chân chúng tôi.

    Tôi vừa nhìn thấy đã hiểu ngay, có thể lý giải thế này, năm xưa khi cấu tạo địa chất vận động không hề bịt kín hang động này, vì vậy nơi này chỉ là một nếp gấp, con đường thông với phần tiếp theo của động chính là phía trên đỉnh động.

    Tôi không biết miêu tả như vậy liệu có giúp các bạn hiểu được kết cấu của hang động này không. Có thể nói thế này, chỗ chúng tôi vừa đi qua lúc nãy, chính là chỗ phát hiện chiếc cửa sắt ấy, chỉ giống như một cái túi chứa nước của dòng sông ngầm dưới đất, bởi vì diện tích của nó nhỏ nên không thể gọi là hồ ngầm được, nhưng nó lại có tác dụng giống như một cái hồ ngầm dưới lòng đất để điều chỉnh dung lượng nước của dòng sông ngầm. Do đã khô cạn nhiều năm, nên lúc chúng tôi đi tới mực nước dưới dòng sông ngầm đã cạn tới đáy rồi, vì thế cái túi nước vẫn chưa kịp phát triển thành hồ này đã bị trơ đáy. Chỗ chúng tôi đến khảo sát chính là đáy hồ, là chỗ thấp nhất nên đương nhiên không thể tìm được đường đi tiếp xuống dưới.

    Đây thực sự là một việc nhầm lẫn, với quan điểm “nước chảy chỗ trũng” chúng ta thường cảm giác như đường đi nằm ngay phía dưới chân mình, nên không nghĩ tới và cũng không tìm kiếm phía trên đỉnh động.

    Tôi định hỏi anh Miêu làm sao anh ấy biết được điều này, nhưng thời gian lúc đó không cho phép, tốc độ dòng nước chảy rất xiết, khi con thuyền của chúng tôi leo đến chỗ miệng khe thì đột nhiên bị xoay tròn, mọi người mất thăng bằng bị ngã sấp xuống. Vừa dứt lời, chúng tôi đã bị xoay vòng xuống cái khe, cứ thế va đập ầm ầm vào hai bên vách động, một cậu lính bị văng nửa người ra ngoài, may có Bùi Thanh hét lên, nhanh tay kéo lại nên cậu ta mới thoát chết, sau đó thì trời đất quay cuồng, tối om om, chúng tôi chẳng biết gì nữa.

    Tôi cũng không biết con xuồng đang đâm ngang hay chọc dọc nữa, vừa trải qua cực điểm của mệt mỏi và kinh hoàng, lại tiếp tục phải chiến đấu với hoàn cảnh khủng khiếp này, tôi đành nhắm mắt phó mặc cho số phận. Cứ thế cắn răng chịu đựng mấy phút, cuối cùng đầu tôi mụ mị dần đi…
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này