1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Đại Mạc Thương Lang - Tác giả: Nam Phái Tam Thúc - Tình Trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi cục mỡ huyền thoại, 2/4/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 40: Sương giá


    Ảnh hưởng của lớp sương mù khiến ban đầu chúng tôi cứ tưởng không gian bên ngoài phòng sắt rất rộng. Sở dĩ có cảm giác đó là do khoảng cách nhìn không được xa, không thể nhìn thấy điểm cuối của luồng sáng, tôi và Vương Tứ Xuyên run lập cập đi men theo tấm lưới sắt mà chúng tôi đã đi qua lúc trước, đi được một đoạn thì nhìn thấy cánh cửa sắt của căn buồng số hai.

    Vương Tứ Xuyên vừa đến liền tập trung chú ý vào những cái bóng đen sì ở trong những khối băng bên trong cái hố xi măng, cậu ta dừng lại định chiếu đèn để xem cái bóng kia là cái gì, thế nhưng những lớp băng đó khá đục, lại thêm có lớp sương mù che phủ nên chúng tôi không thể nhìn rõ vật bên trong lớp băng là cái gì.

    Tôi vừa đi vừa xem, lần này xem xét kĩ càng hơn lúc mới đến, trong lòng vẫn băn khoăn không hiểu rốt cuộc quân Nhật đã làm gì ở đây. Nhiệt độ ở đây rất lạnh, chắc chắn lạnh hơn nhiệt độ dưới nước, tôi khẳng định ở đây có máy nén khí lạnh. Hồi đó chưa có khái niệm tủ lạnh, máy nén khí lạnh thường được dùng trong kho lạnh chứa hàng, nơi này rất giống một cái kho lạnh bảo quản đồ.

    Vương Tứ Xuyên bảo tôi đi vào phần đường gờ nổi lên thoai thoải trên bức tường của hố xi măng, đường gờ này chạy thẳng vào trong khối sương mù, tôi phải giữ thăng bằng khi đi trên nó nhưng cảm giác dưới chân chân thực hơn đi trên mặt băng nhiều. Lúc mới đi trên đó, tôi phải giữ thăng bằng giống như đi trên tấm lưới sắt, phải đi chậm chậm từng bước, cứ thế tiến sâu vào đám sương mù.

    Việc rời tấm lưới chắn ở bên dưới khiến tôi có cảm giác chông chênh, bởi vật đó giống như là sợi giây sinh mệnh của tôi, rời xa nó khiến tôi có cảm giác bất ổn.

    Thời gian dường như kéo dài đến vô tận, có thể vì lúc đó rất lạnh, hoặc do tôi quá căng thẳng, phải tập trung tinh thần để đi trên đó, chúng tôi đi rất chậm, chúng tôi cũng không biết mình đã đi hết bao lâu, chỉ cảm thấy con đường sao dài quá, sương mù xung quanh đặc quánh, nhiệt độ lại rất lạnh, chúng tôi không thể nói chuyện gì.

    Tôi cứ thế không nói gì với Vương Tứ Xuyên, một lúc sau bỗng cảm thấy hoang mang.

    Cuối cùng Vương Tứ Xuyên dừng lại, kì thực cậu ta đi ngay sau tôi, nghe tiếng gọi tôi cũng dừng lại. Lúc đó, tôi mới phát hiện ra bên trong đám sương mù xuất hiện từng hàng bóng đen rất to, cao tầm nửa thân người. Chúng tôi đi nhanh đến đó, mau chóng nhận ra rằng đây chính là điểm cuối, những chiếc bóng đó là cỗ máy mà tôi cũng không biết là loại máy gì đang dựng ở bức tường, bông tuyết đóng đầy bên ngoài. Nhiều đường ống vươn ra từ thân máy, chọc xuống cả bên dưới đám báng ở trong hố bê tông.

    Phía trên những cỗ máy đặt rất nhiều biển ký hiệu, Vương Tứ Xuyên cầm mấy tấm lên gõ cho lớp băng bám bên ngoài rơi ra thì phát hiện thấy trên đó viết toàn con số, đại loại như: “Lạnh - 03 - A”, biển ký hiệu xếp thành một hàng dài. Trên đường ống cũng in những dãy số khá phức tạp, dường như giải thích rằng đường ống nào có trách nhiệm làm lạnh cái hố này.

    Tôi đoán, nơi này đang dùng máy nén khí lạnh, chúng tôi lại đi tiếp, cảm giác ở đây lạnh không thể chịu nổi, chẳng mấy chốc, hai hàm răng của tôi đã va vào nhau lộp cộp.

    Đi vài bước nữa, chúng tôi lại thấy một cánh cửa lớn ở trên bức tường xi măng, nó cũng có then cài, một thanh sắt dày sụ chèn ở giữa, trên cửa bám đầy bông tuyết. Vương Tứ Xuyên đá vào nó mấy cái, cánh cửa vẫn sừng sững không chuyển, xem ra nó rất dày, tôi nhìn kĩ thấy khá quen thuộc, thế nhưng lúc đó không nhớ ra đã gặp ở đâu. Cho đến lúc Vương Tứ Xuyên cào mấy miếng băng tuyết bên trên nó ra, mấy chữ bên trong lộ ra tôi mới sực nhơ lại.

    Trên cánh cửa có in mấy chữ số rất to: “Chiến lược - 53”

    Nó giống hệt cánh cửa chúng tôi đã đào thấy bên dưới bãi đá ở chỗ dòng sông ngầm mà lúc ấy có người đã đoán phía sau nó là kho chứa đạn dược.

    Tôi nghĩ bụng lẽ nào đằng sau cánh cửa này cũng là kho chứa đạn? Nhưng sau đó lại nghĩ không thể nào có chuyện đó.

    Thật may, cánh cửa mở ra một khe vừa đủ một người lách qua, cánh cửa bị kết đông lại thành một khối với lớp tường bê tông dày bên trên, phần trục bánh xe xoay để mở cửa bị đóng từng tảng băng tuyết dày cộp, có muốn đẩy rộng cánh cửa ra cũng không thể.

    Tôi hít một hơi rồi cùng với Vương Tứ Xuyên lách người qua cửa như cá lách lưới, nhiệt độ phía trong cánh cửa cao hơn ở bên ngoài một chút, nhưng lớp sương mù lại dày đặc hơn, đi vài bước vào trong, tôi cảm thấy mọi thứ có vẻ ổn hơn. Chúng tôi tập trung quan sát, sau cánh cửa là một con đường rất cao được lót bằng thép tấm, bề mặt của nó bằng phẳng hơn nhiều so với bên ngoài cửa, nó rộng khoảng năm mét, chắc đây là con đường chuyên dụng cho việc vận chuyển đồ vật nặng. Chúng tôi đi sâu vào bên trong, mùi hoen rỉ của sắt thép bốc lên nồng nặc, cảm giác dưới chân chông chênh không vững.

    Lối đi không biết dẫn tới đâu, phía trước tối mò mò, ánh đèn chiếu đi mất hút vào bóng đêm khiến tôi cảm thấy rờn rợn, tôi lưỡng lự không biết nên đi tiếp hay quay lại, nhưng đúng lúc đó Vương Tứ Xuyên phát hiện ra điều gì đó, cậu ta gọi tôi và chỉ tay lên tường. Tôi quay lại chiếu đèn lên, thì nhìn thấy rất nhiều vết tay người bám làm mòn lớp rỉ trên tường đi, các dấu vết để lại rất rõ, lớp rỉ sắt rơi xuống đầy mặt sàn. Chúng tôi cũng thấy dấu chân người đầy trên sàn, lại là dấu chân của hai người.

    Vết chân này khá mới, tôi lập tức tỉnh táo hẳn, xem ra chúng tôi đã lần ra dấu vết của Viên Hỷ Lạc và Trần Lạc Hộ.

    Chúng tôi đi thật nhanh theo dấu bước chân để lại, cứ thế đi sâu vào con đường phía trước, đồng thời liên tục soi đèn ra xung quanh đế không bỏ lỡ chi tiết nào, chạy được một lúc bằng thời gian hút hết nửa điếu thuốc, cuối cùng chúng tôi cũng ra khỏi con đường đó, đến một cái bục khá bằng phẳng, rộng rãi.

    Không gian bên dưới bục rất thoáng đãng, thành bục tương đối cao, có thể thấy cả thanh dầm ngang vừa mới dựng. Tôi giật mình khi nhìn xuống bên dưới, hình như có một chiếc cần cẩu rất to đậu trên hai bờ đường ray sắt, nhìn xa trông giống như hai vết sẹo khổng lồ.

    Chúng tôi trèo xuống thang sắt dựng bên cạnh cái bục để xuống chỗ xe cẩu, chui xuống dưới mới thấy rõ chiếc cần cẩu thực sự rất to, máy móc chất đầy hết đống này đến đống khác ở trên sàn, bên trên phủ những tấm bạt cũ nát bám đây bụi, đầu cần trục vẫn còn treo cái móc cẩu hạng nặng. Chiếc cần trục nằm đây đã hơn hai mươi năm, nhưng nhìn vẫn như mới, chí ít là không thấy mùi rỉ sắt xộc lên.

    Sau đó tôi mới phát hiện dưới chân tường cài đặt hệ thống hút khí, rõ ràng một vài cái trong số đó vẫn vận hành tốt trong suốt hai mươi năm qua, khiến cho không khí nơi đây vẫn được duy trì ở mức khô ráo, sạch sẽ.

    Chúng tôi bấm đèn pin, bắt đầu mò mẫm tìm kiếm.

    Ở vùng Đông Bắc này chẳng còn lưu giữ bao nhiêu công trình kiến trúc hoàn chỉnh do người Nhật Bản xây dựng, bởi họ đã phá hủy hầu hết các công trình trước khi rút quân, nhưng ở đây thì khác, toàn bộ kiến trúc còn tồn tại gần như nguyên vẹn. Lẽ nào người Nhật Bản đã rút đi quá vội?

    Chẳng bao lâu sau, tôi phát hiện trên tường dán rất nhiều giấy, thoạt nhìn trông chúng khá giống bản đồ vệ tinh thời kỳ “Đại nhảy vọt”[1] nhưng quan sát kỹ thì thấy đó là những bảng kế hoạch viết bằng chữ Nhật, ngoài ra còn có hàng loạt sơ đồ kết cấu khác mà tôi không hiểu, tấm bìa đã mốc meo, đôi chỗ bị bục, ngả vàng, chạm vào là rơi lả tả.

    [1] Đại nhảy vọt là kế hoạch xã hội và kinh tế của nước CHND Trung Hoa được thực hiện từ 1958 đến 1960 nhằm mục tiêu sử dụng dân số khổng lồ của Trung Quốc để chuyển tiếp nhanh chóng Trung Quốc đại lục từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa vào nông dân là chính sang một xã hội công nghiệp cộng sản hiện đại.

    Tôi không dám mạnh tay, chỉ chiếu đèn vào xem, dõi mắt về phía trước thấy có vài bức tranh cổ động chiến tranh và mấy tẩm ảnh đen trắng kẹp ở giữa.

    Tôi bảo Vương Tứ Xuyên chắc chắn đây là nơi lắp ráp máy bay Shinzan, hồi trước muốn chuyển máy bay xuống nơi này, có lẽ người ta phải tháo rời chúng ta thành các bộ phận nhỏ, công việc lắp ráp lại chiếc máy bay hẳn phải tốn cả mấy tháng trời. Trong điều kiện môi trường thế này, các linh kiện cần được bảo dưỡng thường xuyên, phải tra dầu, sau đó lắp ráp thành các bộ phận lớn hơn như máy khởi động, cánh máy bay...

    Tuy tôi vẫn chưa rõ chỗ sơ đồ kết cấu kia có phải bản vẽ cấu tạo của chiếc Shinzan hay không, thế nhưng diện tích của nơi này cộng thêm số máy móc thiết bị có thể chứng minh cho phán đoán của tôi.

    Vương Tứ Xuyên đáp: “Muốn đưa được chỗ máy móc này lên trên chắc chắn phải cần một chiếc thang máy cực lớn, chúng ta phải đi tìm nó, biết đâu đó chính là đường để thoát khỏi nơi này.”

    Thế là chúng tôi vừa đi vừa tìm kiếm, đến một chỗ khác, trên tường có mắc một thứ khiến chúng tôi phải chú ý, đó là một tấm bảng gỗ, bên trên có dán rất nhiều ảnh đen trắng, to có, nhỏ có, chụp chung hay chụp riêng từng người đều có cả, tất cả đều mặc bộ quân phục của lính Nhật mà chúng tôi hay nhìn thấy trên phim ảnh, khuôn mặt ai cũng nở nụ cười rạng rỡ, số ảnh này dường như được chụp nhân dịp lễ tết nào đó của họ ở dưới lòng đất này. Tôi không hiểu cái bảng gỗ này có ý nghĩa gì với họ, thế nhưng trong số đó có một bức ảnh khiến tôi đặc biệt chú ý.

    Đó là bức ảnh chụp mười mấy công nhân khổ sai Trung Quốc thân hình gầy guộc như que củi, họ đang kéo một vật gì đó từ dưới nước lên, một nửa hãy còn chìm trong làn nước, trông đen sì sì như đàn mực, một tên lính Nhật đứng bên cạnh giám sát, bức ánh rất mờ nên tôi không thể nhận ra mấy người đó đang kéo thứ gì.

    Tôi đang định gọi Vương Tứ Xuyên đến xem, thì đúng lúc ấy cậu ta lại gọi tôi. Vương Tứ Xuyên đã đi trước một đoạn xa, cậu ta đang cố kéo một tấm vải bạt phủ trên đống máy móc ra, thái độ rất khác thường.

    Tôi vội đi đến chỗ đó, Vương Tứ Xuyên đã kéo tấm bạt ra được một nửa, tôi nhìn thấy bên dưới tấm bạt có một cánh tay người xám ngoét.

    Tấm bạt được kéo lên hết, một cảnh tượng vô cùng thảm thương hiện ra trước mắt, bên dưới tấn bạt là những đoạn cọc sắt và các cọc bê tông, một xác người mặc bộ quần áo của lính khảo sát bị kẹt vào giữa hai cái cọc sắt, khi chúng tôi lôi cái xác ra, phát hiện cái xác đã bị đông cứng như một tảng đá lạnh, có lẽ do nhiệt độ ở dưới này quá thấp. Chắc chắn người này đã chết được một thời gian khá lâu.

    Lật ngửa tử thi lên, tôi thấy đó là một gương mặt hoàn toàn xa lạ, nét mặt lúc chết thể hiện nỗi kinh hoàng tột độ, hai mắt trợn tròn cảm giác như con ngươi sắp bật ra đến nơi, đây lại là khuôn mặt của một thanh niên trẻ tuổi. Tôi không nhận ra anh ta liệu có phải một trong bốn đồng đội lạ mặt được đưa vào cùng đợt với chúng tôi hay không, nhưng sau khi quan sát thật kỹ, tôi đoán khả năng tử thi ấy là đồng đội của Viên Hỷ Lạc. Phát hiện thêm cái xác này đồng nghĩa với việc chúng tôi đã tìm được ba thành viên trong đội, hai người đã chết, một người bị điên, còn những người khác, không biết bây giờ họ ở nơi nào?

    Bất luận thế nào, phát hiện thêm một đồng đội hi sinh khiến tâm trạng của tôi trở nên vô cùng buồn bã, điều quan trọng hơn là đồng chí này còn quá trẻ, tôi cảm thấy đó là gương mặt của một người chưa từng được trải qua những giây phút hưởng thụ hạnh phúc của đời người, điều đó thật bất công.

    Trái ngược với tôi, Vương Tứ Xuyên không hề biểu lộ cảm xúc đau thương, người dân tộc Mông Cổ như cậu ta có cái nhìn rất cởi mở với cái chết. Mặc dù cậu ấy luôn nhận định mình là người theo quan điểm duy vật biện chứng, nhưng thực tế chúng tôi thấy cậu ấy là một người Mông Cổ thuần khiết, ngựời Mông Cổ luôn cho rằng cái chết chính là lời vẫy gọi của sự sống trên thiên đàng, chết là được trở về với thảo nguyên bao la của sói xám và hươu trắng.

    Chọn cách siêu thoát như thế không hẳn là không hay, về sau, có lần tôi đã thảo luận với cậu ấy về điều này, tôi bảo với cậu ấy rằng khi con người coi cái chết chính là hình thức siêu thoát, có nghĩa là anh càng phải đối xử vô tình hơn với quân địch. Tướng Thành Cát Tư Hãn trên quê hương cậu cũng chưa từng chùn tay trước cái chết của quân thù, chắc có lẽ trong đầu ông ta nhận thấy phải tự mình ra tay đưa đám người yếu đuối này tới thiên đường. Nhưng nghe tôi nói vậy, cậu ấy lại phản bác, Thành Cát Tư Hãn không hề coi cái chết là siêu thoát, bởi thực tế ông ta là kẻ nhát chết nhưng lại ra tay giết người như rạ, cậu ta bảo quan điểm của tôi không vững, cứ như thế thì siêu thoát chẳng hay ho gì.

    Máu trên thi thể máu đã đông cứng, thấm ra cả nửa người, Vương Tứ Xuyên cảm thấy có gì đó khác thường, chúng tôi liền cời tấm áo cũng cứng đơ của tử thi ra, lúc đó mới phát hiện trên người nạn nhân có hai lỗ thủng đầy máu to cỡ bằng ngón tay cái, da bị lật lên. Là một quân nhân, chúng tôi thấy vết thương kia quá quen thuộc, đó là hai vết đạn.

    Cậu ta bị bắn chết!

    Gương mặt đen sạm của Vương Tứ Xuyên trở nên trắng bệch, sự việc này quá bất thường, nếu là một nguyên nhân bất kì khác dẫn tới cái chết của người này, thì chúng tôi còn cho là bình thường, bởi vì công việc khảo sát hang động cùng với môi trường phức tạp ở đây khó tránh khỏi những tai nạn dẫn đến chết người, đặc biệt là những cậu lính mới chập chững vào nghề, chưa hề có kinh nghiệm. Công việc khảo sát hoàn toàn khác với chiến đấu, sự khác biệt giữa có kinh nghiệm và không có kinh nghiệm, nhiều lúc chính là ranh giới giữa sự sống và cái chết.

    Nhưng bị bắn chết lại hoàn toàn khác, có vết đạn nghĩa là có người bắn, mà đã ra tay bắn tất phải có lý do, thế nhưng ở nơi này, ai dám khai hỏa với chiến hữu của mình?

    Hay ở đây vẫn còn bọn Nhật? Không thể nào! Nhưng cũng không hoàn toàn loại trừ khả năng đó, vì chúng tôi chỉ sống cách thời đại bọn họ tầm hai chục năm, nếu hồi đó lính Quan Đông sung quân lúc chừng mười mấy tuổi, thì đến giờ, họ cũng chỉ ngoài ba mươi tuổi. Có điều, tôi cảm giác nơi này hoàn toàn không giống với nơi có người đang sinh sống, bởi dọc đường không hề thấy dấu vết tồn tại của con người.

    Lẽ nào nơi này còn có kẻ địch?

    Không hẹn mà cả hai chúng tôi đều nghĩ đến điều đó, tự nhiên tim đập thình thịch.

    Vương Tứ Xuyên nghĩ ngợi một hồi rồi đột nhiên kéo cái xác giấu lại vị trí cũ, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao cậu ta lại làm như vậy, Vương Tứ Xuyên giải thích tên nội gián đã giết người ở đây đồng nghĩa hắn đã để lộ hành tung, hắn phủ vải bạt lên cái xác lại là nhằm che giấu sự tồn tại của mình. Nếu để hắn biết chúng ta đã phát hiện ra cái xác, thì chúng ta chắc chắn sẽ bị hắn truy lùng và tiêu diệt. Hắn có súng trong tay nên chúng ta chết là cái chắc, bởi vậy giờ phải đậy cái xác lại như thể chúng ta chưa phát hiện ra và chờ hắn xuất hiện. Nhiều khả năng hắn là người trà trộn lẫn trong đội chúng ta. Chúng ta sẽ theo dõi và nhân cơ hội hắn không chú ý mà bắt sống luôn.

    Tôi nghe thấy có lý, liền vội đến giúp một tay che cái xác lại.

    Phải tốn khá nhiều thời gian chúng tôi mới để được cái xác về nguyên trạng thái ban đầu. Vương Tứ Xuyên dặn từ bây giờ cả hai chúng tôi phải cẩn thận hơn, tôi gật đầu, trong lòng hơi hoảng, nỗi lo lắng này khác hẳn với những lần lo lắng khi phải đối diện với các chướng ngại khác. Cả hai chúng tôi cùng thở dài, rồi quay lưng đi tiếp vào trong.

    Tôi quay người đi, nhưng bỗng cảm thấy sau lưng có điều gì bất thường, nên liền chiếu đèn pin về phía đó. Cảnh tượng trước mắt khiến tôi hốt hoảng hét “Á...” một tiếng rồi ngã ngồi xuổng đất.

    Hóa ra từ phía sau lưng chúng tôi, không biết tự lúc nào có một người đang theo sát, người này có một gương mặt gầy guộc, xanh lét như người chết, hắn cứ nhìn chằm chằm vào chúng tôi.

    Cảm giác giật mình lúc đó, giống hệt cảm giác khi lần đầu tôi thấy Viên Hỷ Lạc trong động tối, bởi họ đứng cách chúng tôi quá gần, như thể sát ngay sau lưng vậy hơn nữa cũng không biết anh ta đứng như thế từ lúc nào, cứ im lặng không một tiếng động. Đặc biệt là động tác bám theo chúng tôi giống hệt với loài thú nào đó.

    Tôi và Vương Tứ Xuyên cùng giật bắn người, tê liệt tại chỗ, lưng va phải thanh sắt khiến tôi đau đớn, suýt nữa thì ngã ngửa về phía sau. Phản ứng của Vương Tứ Xuyên nhanh hơn, cậu ấy cũng sợ, nhưng chỉ thụt lùi mấy bước về đằng sau.

    Vừa hoàn hồn, tôi vội cầm đèn chiếu xem, may là kịp nhìn thấy dung mạo kẻ đó trong giây lát, hắn vội lẩu trốn khỏi ánh đèn, rồi đột nhiên vọt ra, chạy như bay về hướng nhà kho tối om, hành động của hắn lanh lẹ và bất thình lình giống hệt loài dã thú.

    “Bắt lấy hắn!” tôi bỗng tỉnh lại, gấp gáp hét to gọi Vương Tứ Xuyên, bởi khi ấy tôi vẫn chưa kịp đứng dậy, còn Vương Tứ Xuyên thì đang đứng.

    Vương Tứ Xuyên cũng nghĩ giống tôi, cậu ta hét lên một tiếng đáp lại, dặn tôi chiếu sáng cho cậu ấy. Tôi vội lia ánh đèn chiếu theo kẻ kia, còn Vương Tứ Xuyên nhìn chiếc đèn pin do dự giây lát, rồi hét lên một tiếng, quăng mạnh chiếc đèn pin về phía hắn.

    Tôi kịp nhìn thấy chiếc đèn bay một đường cong kinh hồn, rồi đập đánh cộp vào đầu gối của bóng người đang đứng giữa màn đêm đen. Hắn hộc lên một tiếng, ngã khuỵu xuống đất, nhưng ngay lập tức chồm dậy, song rõ ràng hắn vừa bị một cú điếng người, nên vừa đứng lên đã ngã xoài xuống.

    Đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến kĩ nghệ săn thú đặc biệt của người dân tộc như Vương Tứ Xuyên, là một người từng lăn lộn trên đất Nội Mông, tôi đã nghe nhiều về kĩ thuật quăng vũ khí bắt thú của người Mông Cổ, nhưng không ngờ mình lại được chứng kiến màn biểu diễn điêu luyện ấy ngay tại đây, dẫu lúc này không phải buổi đi săn.

    Sau đó, Vương Tứ Xuyên kể với tôi rằng kĩ thuật ném lao là một trong những phương pháp săn thú đặc trưng của người Mông Cổ. Với kiểu dùng lực như vậy, tôi không thể nhìn rõ đường đi của chiếc đèn, mà chỉ nghe thấy tiếng xé gió trong không trung, có lẽ đầu gối của hắn đã bị gãy vụn hoàn toàn.

    Lúc chúng tôi chạy tới nơi thì hắn ta lại tiếp tục chồm dậy, khập khà khập khiễng lao về phía đám đồ đạc chất đống được phủ bạt lên trên, bên trong đó có rất nhiều bạt được gấp thành đống, chằng mấy chổc, tôi không còn thấy bóng dáng hắn đâu nữa.

    Tôi và Vương Tứ Xuyên vội lao theo, nhưng mặt đất lô nhô toàn những đống lưới bạt, rất dễ vấp ngã, Vương Tứ Xuyên vừa đuổi theo, vừa cúi xuống dỡ những vật mắc vào các tấm lưới bạt bên đưòng, xem kẻ đó có nấp phía sau không.

    Bên dưới những tấm vải bạt chất đống vô số đồ hộp và một ít tấm lợp nhựa, có thứ giống như lưới lọc, ngoài ra còn có rất nhiều các thùng đựng dầu. Chỗ đồ quân dụng này đều được chất thành từng đống trên sàn nhà, rồi phủ bạt lên trên, sau đó buộc túm bốn góc bằng dây thừng hoặc dây thép. Vừa nhìn là biết đây đúng kiểu đóng gói thả dù kiểu Đức đậm nét.

    Kỹ thuật thả dù của Trung Quốc trong suốt mười lăm năm đều bắt chước cách của Liên Xô, nhiều lần trong khi chúng tôi nhận đồ viện trợ thả dù ở vùng sa mạc Gobi Mông Cổ, quân ta còn thó được một số gói đồ thả dù mà Đức viện trợ cho quân Nhật, nên tôi biết rất rõ cách đóng gói của chúng, tuy số lượng những gói đồ ấy không nhiều nhưng tốt hơn đồ của Liên Xô về mọi mặt, chắc hẳn đồng chí Mao cũng thủ về không ít.

    Chẳng tốn bao nhiêu thời gian, chứng tôi đã mò vào tận bên trong len lỏi giữa những đống đồ ở nơi sâu nhất, nhìn gần thì thấy từng đống từng đống phủ bạt lùm lùm, cái nào cũng như cái nào, san sát đến mức bước đi còn khăn, nhìn xa thì thấy vô số bóng đen lờ mờ, chằng chịt chẳng khác nào mê cung. Tôi nghĩ thầm: phen này xong rồi, nhiều thế thì tìm sao thấy được. Nhưng lúc đó Vương Tứ Xuyên giơ tay ra hiệu cho tôi đừng lên tiếng.

    Tôi nhìn theo ánh đèn pin của cậu ta đang chiếu, chỉ thấy phía bên trái có một đống đồ trùm vải bạt nhô lên một cách khác thường hơn nữa, lại không ngừng phập phồng run rẩy.

    Chúng tôi rón rén đi về phía đó, Vương Tứ Xuyên hít một hơi dài, rồi dồn hết sức đột ngột lật tung tấm bạt lên, tôi định thần xong cũng lao về phía đó.

    Không ngờ vừa lật tấm bạt lên thì lớp bụi dày trên bề mặt tấm bạt bay tứ tung. Tiếp sau đó, một bóng trắng từ dưới lớp bạt lao vọt ra, xô tôi ngã dúi xuống đất, trong lúc hỗn loạn, tôi bị lớp bụi xộc thẳng vào mặt, đến mắt cũng không mở ra nổi, sau đó thì ho rũ rượi. Tôi không nhìn thấy gì, chỉ nghe thấy tiếng Vương Tứ Xuyên chửi đổng một tiếng, hình như cậu ta đang đuổi theo cái bóng.

    Tôi vừa lẩm bẩm chửi tục vừa dụi mắt cho khỏi dặm, mắt mũi mờ tịt, nhìn theo hướng cậu ta vừa chạy, phút chốc đã chẳng thấy bóng dáng của cả hai người kia đâu. Tôi vừa gọi to: “Vương Tứ Xuyên!”, vừa định tiếp tục đuổi theo họ.

    Nhưng đúng lúc đó, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào tôi lại đưa mắt nhìn quanh khắp lượt, rồi tôi bỗng sững người, mắt trân trân nhìn vào một điểm.

    Tôi nhìn thấy bên dưói lớp vải bạt mà Vương Tứ Xuyên vừa lật lên, hiện ra một thứ khiến tôi vừa kinh ngạc vừa thích thú.

    Ban đầu tôi vẫn chưa chắc chắn lắm, đợi đến lúc phủi xong lóp bụi trên bề mặt và tiến lại kéo hết lớp vài bạt ra, tim tôi mới đập mạnh, thứ tôi nhìn thấy dưới lớp vải bạt là một chiếc sa bàn quân dụng, đó là một mô hình thu nhỏ làm bằng gỗ của con đập nhưng đã bị đè hỏng được gắn trên chiếc sa bàn, ngoài ra còn có mô hình của máy bay Shinzan và biển nước bên dưới con đập. Bốn bề xung quanh là cần cẩu, khung giá súng được trang trí tỉ mỉ, tất cả đều hiện lên rất rõ ràng, chi tiết.

    Sa bàn là mô hình thu nhỏ dựa trên một bản đồ địa hình, ảnh chụp từ máy bay hoặc địa hình thực tế, sau đó người ta dùng các vật liệu như bùn đất, các mô hình trò chơi chiến tranh và các vật liệu khác để dựng khung làm nền tạo thành mô hình đó.

    Mô hình sa bàn này chắc được làm vào giai đoạn cuối khi lắp ráp chiếc máy bay, nó được dùng để mô tả quá trình lắp ráp chiếc máy bay, rõ ràng để hoàn thành việc lắp ráp một chiếc máy bay ở dưới này không thể dễ dàng như lắp ráp trong xưởng được.

    Sa bàn này có thể coi là một hợp thể hoàn mĩ vừa mô tả một cách tổng quan lại rất tỉ mỉ, tinh tế, các mô hình đơn thể đều thô mộc một cách khó tin, toàn bộ được chạm khắc từ các đoạn gỗ hoặc tấm gỗ một cách vô cùng đại khái, nhưng phía trong những nét sơ lược đó lại che đậy những nội dung vô cùng kinh ngạc. Thời gian đã qua khá lâu, có thể kí ức của tôi không thể nhớ hết, tôi chỉ nhớ rõ nhất là hình ảnh con đập đã bị phá hủy và một bên của dãy núi.

    Nhìn toàn bộ địa thế trong sa bàn có thể thấy được diện mạo của dòng sông ngầm bên dưới dãy núi, do có một lượng lớn nước từ khắp rừng già đổ về nên độ rộng của dòng sông thật đáng ngạc nhiên, hơn nữa với nguyên bản của địa hình địa mạo phân chia có nhiều khe suối đã dội một lượng nước lớn vào khiến cho lòng sông nổi lên khá bằng phẳng. Quân Nhật đã đổ lượng lớn sắt thép và bê tông xuống đó, đắp thành một bệ đỡ trên không khổng lồ.

    Bên dưới bệ đỡ có các mương nước, được chắn bởi các màng lưới có chức năng lọc nước, những dòng mương này có thể dẫn nước xuống dòng sông, trên bãi đất đặt rất nhiều trang thiết bị, trong số đó, có một thứ khiến tôi rất kinh ngạc là ba dải đường sắt trên không, chúng nghiêng nghiêng bò hướng lên không trung, tựa một khẩu pháo cao xạ ba nòng, nhắm thẳng về mục tiêu đâu đó trên bầu trời, đó là loại đường ray ba chạc, toàn bộ kết cấu của nó giống như cột điện cao thế đặt ngược, còn chiếc Shinzan đậu ngay phía dưới cùng cùa con đường sắt đó, điểm cuối cùng của đường sắt cũng là điểm cao nhất của đưòng sắt, cao vừa gấp rưỡi con đập.

    Phía trên con đập có rất nhiều chòi canh, công sự tránh đạn, xe cẩu, đường ray cỡ nhỏ. Lúc chúng tôi đến có nhìn thấy dòng nước chảy bên dưới lớp lưới chắn trong vắt, thậm chí tôi còn nhìn thấy rất rõ cả cái bể lắng cặn bên dưới mà Vương Tứ Xuyên đã kể.

    Nhìn những trang thiết bị để nơi đây, tự nhiên tôi toát hết cả mồ hôi, tuy trước đây cũng đoán vậy, nhưng đến lúc này tôi mới thực sự khẳng định, bọn Nhật lùn đích thị muốn cho chiếc Shinzan cất cánh lên trên không gian dưới vòm động đen ngòm kia.

    Trong khoảng thời gian đại chiến thế giới thứ hai, phát xít Nhật đã từng cho bay thử nghiệm loại hàng không mẫu hạm, tuy lúc đó tôi không hiểu tường tận, nhưng từ thiết bị cất cánh với kết cấu phức tạp được lắp đặt tiên sa bàn thì rõ ràng chiếc Shinzan đã cất cánh ở đây, phát xít Nhật cho rằng khả năng này hoàn toàn có thể thực hiện được.

    Tôi nhớ lại xác chiếc máy bay cỡ nhỏ chìm trong nước, lòng dấy lên nghi hoặc, phát xít Nhật đã làm bao nhiêu công tác chuẩn bị như vậy, thì chiếc Shinzan rốt cuộc đã cất cánh bay thử hay chưa? Hơn nữa, tại sao bây giờ tôi vẫn thấy dưới đập nước chất nhiều bao tải giảm xóc đến vậy? Tôi cũng chưa từng nhìn thấy ba đường ray sắt như vậy bao giờ.

    Nghĩ đến đó, đột nhiên một ý nghĩ lóe lên trong đầu, tôi cảm giác như có một luồng điện giật rần rần từ gáy chạy xuống tận chân.

    Tôi nhớ lại hình dạng của cái xác máy bay, đặc biệt là phần đầu của nó, tôi còn nhớ rất rõ ràng, phần đầu của nó hướng về phía con đập.

    Trời!

    Điều đó có nghĩa là tàn tích chìm trong dòng nước của chiếc Shinzan không chỉ đã cất cánh bay đi mà nó còn bay trở lại đây từ vực thẳm sâu hút.
     
  2. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 41: Trở về từ vực thẳm


    Để một chiếc máy bay ném bom hạng nặng cất cánh được dưới vòm động này, tôi không hiểu người ta cần tính toán chuẩn xác thế nào, thực tình là trong đầu tôi không có chút khái niệm nào về vấn đề này, thế nhưng tôi hoàn toàn có thể tưởng tượng được độ khó khi để một chiếc máy bay lớn như vậy bay từ vực sâu quay trở lại, sau đó hạ cánh an toàn.

    Đầu tiên cần phải khống chế chiếc máy bay bay dọc theo triền sông, đó là một thao tác rất khó, để hạ cánh an toàn được trong một không gian nhỏ hẹp như vậy đòi hỏi phi hành đoàn phải có kĩ năng thật sự cao. Độ dài của đường băng không phải là vấn đề lớn, thay vào đó có thể dùng dây cáp kéo, vấn đề chính ở đây là độ cao, không cẩn thận rất dễ phạm sai lầm, có thể va chạm dẫn đến rơi máy bay.

    Có lẽ phát xít Nhật cũng hiểu được điểm này, nên tôi cảm thấy họ đã sớm chuẩn bị cho tình huống máy bay sẽ không thể hạ cánh an toàn, ở đây có rất nhiều bao tải giữ chức năng giảm xóc, rõ ràng chúng được chuẩn bị cho tình huống máy bay rơi vỡ, chắc họ muốn sử dụng biện pháp hạ cánh khẩn cấp để đưa máy bay trở lại mặt đất. Hơn nữa, nhìn bộ dạng chiếc máy bay hiện tại, có thể thấy chính xác họ đã làm như vậy. Sau khi bay xuống vực thẳm dưới vòm động, chiếc máy bay đã bị ép rơi và hoàn toàn bị phá hủy.

    Nghĩ tới không gian rộng lớn tối tăm hư vô trước mặt, tôi bỗng thấy rùng mình, phi hành gia đó hẳn phải rất dũng cảm, còn nữa, chẳng lẽ đội bay đó không nhìn thấy điều gì giữa bóng đêm khủng khiếp kia sao?

    Tôi chưa từng đi máy bay, nhưng cứ nghĩ đến mình đang phải ở trên độ cao một ngàn hai trăm mét, đối diện với một không gian vô biên tăm tối, vô hình vô ảnh, tôi đã thấy thực sự kinh hoàng.

    Đang chìm trong dòng suy nghĩ, bỗng sau lưng có tiếng Vương Tứ Xuyên gọi, tôi quay lại xem, chỉ thấy cậu ta đang kéo một người đen trùi trũi, cậu ta khóa một thế võ khiến người này co quắp khó chịu, Vương Tứ Xuyên vốn là một tay to khỏe, người bình thường bị cậu ta khóa tay thì chỉ có chào thua, người kia rõ ràng là đã buông xuôi tất cả, hắn thả lỏng cơ thể; để mặc Vương Tứ Xuyên kéo như kéo một xác chết.

    Tôi vội chạy lại, Vương Tứ Xuyên ấn người kia vào tay tôi rồi lên tiếng chửi: “Mẹ cái thằng, đúng là khó đối phó, thằng cha này chạy nhanh hơn thỏ, người đen trũi, tí nữa thì ông để mày chạy thoát. Cũng may ông mày mắt mũi hẵng còn tinh”.

    Tôi bấm đèn chiếu vào mặt người vừa bị bắt.

    Đó là một khuôn mặt hoàn toàn xa lạ, mặt cắt không còn giọt máu, toàn thân ướt sũng mồ hôi, không biết là do chạy trốn hay người hắn vốn dĩ đã ướt thế, hắn nhìn chòng chọc vào tôi với con mắt hận thù, các vệt máu vằn vện trong mắt, toàn thân run lẩy bẩy.

    Nhưng một điều khiến tôi bất ngờ, sau khi nhìn kĩ, tôi thấy người này cũng giống như Viên Hỷ Lạc và mấy xác chết chúng tôi đã gặp lúc trước, họ đều mặc một loại quân phục giống nhau, đó là quân phục kiểu Lê-nin, xem ra họ không phải bộ đội, kiểu ăn mặc ấy trông có vẻ giống với cách ăn mặc của chuyên gia trong viện khoa học quân sự dưới thời Lý Tứ Quang, xem ra họ là các chuyên gia được biệt phái đến đây.

    Chúng tôi tìm trong các túi áo quần của kẻ đó, cuối cùng tìm được thẻ công tác, biết được tên hắn là Tô Chấn Hoa, quả nhiên là người của bộ địa chất.

    “Xem ra đội vào trước không giống như đội chúng ta, cấp bậc của họ cao hơn ta nhiều!”, Vương Tứ Xuyên trầm ngâm.

    Sau khi từ Liên Xô trở về, Viên Hỷ Lạc cũng được liệt vào hàng ngũ những nhân vật quan trọng như hội Tô Chấn Hoa, chức vụ đẳng cấp tương đương với Vương Minh, Bác Cổ[1], nhưng người trong bộ địa chất khẳng định rằng cô ấy về đây làm chính trị là chính, tuy không chuyên về ngành địa chất, nhưng cô may mắn được đứng trên cả mấy vị lão làng trong nghề và trở thành đặc phái viên. Giống như Otto Braun[2] năm đó cũng được Liên Xô phái đến Trung Quốc làm đặc phái viên chỉ đạo công nhân, tôi chúa ghét những người được gọi là đặc phái viên, nhưng hồi đó hễ thấy công việc nào quan trọng là y như rằng thấy họ xuất hiện.

    [1] Vương Minh, Bác Cổ: Đại hội VI (1928) Đảng cộng sản Trung Quốc họp từ ngày 18/6 đến ngày 11/7/1928, tại Mátxcơva, Liên Xô.Từ tháng 1/1931, Vương Minh (tức Trần Thiệu Vũ) được Quốc tế Cộng sản phái về, vào Bộ Chính trị và nắm quyền lãnh đạo từ tháng 6 đến 18/10/1931 thì lại đi Liên Xô. Bác Cổ (tức Tân Bang Hiến) thay thế Vương Minh làm Tổng Bí thư.

    [2] Otto Braun hay còn gọi là Lý Đức (1900-1974): là đảng viên Đảng Cộng sản Đức, là người lãnh đạo quân sự cuộc Vạn lý Trường chinh, Trung Quốc trong giai đoạn đầu. Otto Braun tham gia thành lập Đảng Cộng sản Đức (KPD) và được Quốc tế Cộng sản gửi đến Trung Quốc vào năm 1934, để tham mưu cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) về chiến lược quân sự trong Cuộc chiến tranh Quốc - Cộng.

    Tôi gọi Tô Chấn Hoa mấy lần, nhưng người này cứ trợn mắt nhìn tôi, cái nhìn như thể chứa đầy thù hận, tôi tát mấy cái vào mặt anh ta, bỗng nhận ra anh ta cũng giống như Viên Hỷ Lạc, hình như anh ta cũng đang ở trong trạng thái tâm thần phân liệt.

    Hay nhỉ, lại tìm được một người điên nữa, tôi chợt nghĩ, đã xảy ra chuyện gì với đội khảo sát thứ nhất? Tại sao những người chúng tôi tìm được nếu không phải đã chết thì cũng bị điên?

    Vương Tứ Xuyên chán nản nói với tôi: “Bây giờ chúng ta xử lý nó thế nào đây, thằng quỷ này cứng đầu như trâu, tôi chỉ nới tay ra một chút là nó chạy ngay, hay chúng ta trói nó lại?”

    Tôi cũng không biết nên xử trí thế nào, nghĩ bụng hay là đưa anh ta về căn buồng số 2, để Mã Tại Hải trông giữ rồi tính sau.

    Vừa nói xong thì tôi bỗng nghe Tô Chấn Hoa rít qua kẽ răng một câu gì đó, không hiểu anh ta nói bằng tiếng gì mà tôi nghe hoàn toàn không hiểu. Nhưng cùng lúc đó, mặt Vương Tứ Xuyên bỗng biến sắc, dường như cậu ấy hiểu được ý nghĩa những lời đó.

    Tôi hỏi anh ta nói gì, Vương Tứ Xuyên có vẻ hơi ngượng ngùng, cậu hạ giọng bảo: “Đó là tiếng Mông Cổ, nó nói rằng “Ở đây có ma, cẩn thận với cái bóng!””.

    Đây là câu nói duy nhất mà Tô Chấn Hoa nói trước mặt chúng tôi, nhìn cách anh ta nói chúng tôi không biết đó là lời cảnh báo hay là câu chửi, từ lúc đó về sau, anh ta không nói thêm câu nào nữa, chỉ nhìn chằm chằm vào chúng tôi bằng con mắt vô hồn.

    Tôi không thể hiểu nổi câu nói của anh ta - trong cái bóng có ma, câu nói này đúng là rất bất thường, chỉ cần nói có ma thôi, có lẽ tôi còn hiểu được, nhưng trong cái bóng có ma? Bóng ở đâu? Nơi đây có nhiều đèn pin chiếu ra, có nhiều bóng ở khắp nơi, nhiều bóng như vậy lẽ nào trong những cái bóng đó lại có ma? Hơn nữa ma có nghĩa là thế nào?

    Nói đến bóng người, bất giác tôi nhớ lại những bóng đen ẩn bên dưới hố băng bên ngoài hầm lạnh những bóng đen đó thực sự khiến tôi cũng có cảm giác rờn rợn. Tôi nhớ lại, có thể đó chính là những điều Tô Chấn Hoa nhắm tới, nhưng chính xác nó là cái bóng nào?

    Tôi không thể nghĩ ra. Tôi hiểu nơi này chắc chắn có rất nhiều người Nhật đã bỏ mạng, nên hẳn phải có rất nhiều hồn ma, nhưng chúng tôi đều là những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, không được phép tin vào những chuyện ma mãnh.

    Tôi bàn thêm với Vương Tứ Xuyên, Vương Tứ Xuyên nói hay là cứ mang anh ta về buồng số 2, để Mã Tại Hải trông, rồi chúng tôi lại đi tìm tiếp, tình hình ở nơi này xem ra có thể tìm được đường ra, hơn nữa đồ đạc nơi này rất nhiều, chúng tôi nên tìm kiếm kĩ hơn một chút, tình thế của chúng tôi lúc này không có lợi lắm.

    Tôi nói tình thế đã như thế thì chi bằng đừng đưa tên quỷ này về chỗ Mã Tại Hải nữa, để mình tôi quay về đó đưa Mã Tại Hải đến đây hay hơn, còn Vương Tứ Xuyên nhìn xem có thể đốt một đống lửa lên hay không, để lúc chúng tôi quay lại còn có cái mà sưởi, vì nơi này tốt hơn chỗ căn buồng số 2 rất nhiều.

    Vương Tứ Xuyên ngẫm thấy tôi nói có lý, liền đồng ý để tôi đi, những việc ở đây cậu ấy sẽ tự thu xếp, nơi này tìm thấy rất nhiều dầu hỏa, không khó đốt lửa.

    Tôi xốc lại quần áo, bảo Vương Tứ Xuyên phải cẩn thận, nơi này chắc chắn có thuốc nổ, đừng để đến lúc tôi quay lại thì cậu ta đã nổ tan tành xác pháo. Cậu ta cười bảo hồi trước đã từng ngủ trên lò đất nung của các lò lửa ở thảo nguyên rồi, không cần phải nhắc cậu ta.

    Tôi cầm đèn chiếu vào con đường cũ, quay trở lại con đường nẹp sắt lúc trước, sau đó tiếp tục đi ra khỏi cánh cửa sắt, rồi lần theo con đường lúc chúng tôi tìm được Tô Chấn Hoa, mồ hôi tứa ra đầy người, nay nhiệt độ trong hầm xuống thấp, cảm giác người vô cùng khó chịu. Lúc đó trong đầu tôi chỉ có duy nhất một suy nghĩ là mong cho bọn Mã Tại Hải quay trở lại, sau đó uống một ngụm nước nóng cho sảng khoái mà thôi.

    Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì, cứ thế chạy, trong một đoạn ngắn không phát hiện thấy vấn đề gì khác thường, cứ thế chạy theo trí nhớ, thế nhưng sau khi chạy được một đoạn xa, tôi bỗng phát hiện ra xung quanh mình ngày càng lạ lẫm. Ban đầu tôi vẫn chưa ý thức được đang xảy ra chuyện gì, thế nhưng sau khi chạy được mười mấy phút tôi bỗng hiểu ra, mẹ kiếp, lúc trước chúng tôi đã không đánh dấu, thế nên bây giờ tôi đã bị lạc đường mất rồi.

    Lần lạc đường này cũng là một mắt xích quan trọng trong toàn bộ hành trình của tôi, lần lạc đường đó, sau này tôi ngẫm lại thực cũng là tất yếu thôi, bởi vì trong không gian trống trải như thế mắt mũi lại không rõ thứ gì. Lúc chúng tôi vào đây không hề có ý thức ghi nhớ hoặc đánh dấu đường đi lối lại, bây giờ quay lại chỉ dựa theo trực giác, cho nên sau khi đi một lúc, tôi phát hiện mình đã lọt vào giữa lớp sương mù mất hết phương hướng.

    Tuy đây không phải là việc gì to tát lắm, tôi vốn dĩ cũng chẳng thèm để ý, chỉ đến lúc cảm thấy chạy tới chạy lui mệt đến rã rời, tôi mới cảm thấy ân hận, cứ như thế tôi thần người đứng giữa hầm băng lạnh lẽo, ngẩn ngơ một hồi lâu, cảm giác lúc đó thực sự rất bế tắc. Sau đó tôi tặc lưỡi chọn đại một hướng rồi cứ thế đi.

    Lúc đó tôi định thế này, cứ đi thẳng về phía trưóc, kiểu gì cũng đâm phải tường hoặc gờ tấm thép, có vật tham chiếu, tôi sẽ quyết định tiếp tục đi tiếp ra sao.

    Tôi đi được chừng vài phút, quả đúng như dự đoán điếm cuối của con đường là bức tường bê tông cao bám đầy băng tuyết chìm giữa lớp sương mù mà tôi đã gặp lúc trước. Rõ ràng ban nãy tôi đã rẽ quá sớm.

    Tôi đứng đó định hình phương hướng mất một lúc rồi quay lại đi trên gờ xi măng, bắt đầu men theo bức tường để đi xuống, buồng sắt thứ hai chắc là ở phía trước, lúc đó tôi đã lạnh đến mức không thể chịu đựng được nữa, vậy là tôi tăng tốc, chạy mỗi lúc một nhanh hơn.

    Tôi thấy dưới chân tường dựng nhiều máy móc bị phủ những lớp băng trắng dày sụ, có rất nhiều sợi dây cáp điện rất to thò ra từ những cỗ máy ấy, chúng thòng xuống mặt băng, cho nên toàn bộ chỗ đó đùn lên rất nhiều đống băng, tôi không nhìn rõ những thứ bên dưới lớp băng là gì, đám dây cáp to nhỏ lẫn lộn này đều được ép bên dưới đường đi, khiến cho mặt sàn ở đây cao hơn những nơi khác rất nhiều, chúng còn lồi lõm nhấp nhô, khiến cho việc đi lại trở nên khó khăn. Nhiệt độ nơi này rất thấp khiến lớp băng bên trên càng phủ dày hơn.

    Tôi đi giữa bãi ấy, may mà bên trên bề mặt kết nhiều lớp đá băng lạo xạo giúp việc đi lại có phần dễ dàng hơn. Tôi càng đi nhanh hơn, không thèm chú ý dưới chân có băng nữa, cũng không để ý nơi này cố điều gì khác thường hay không.

    Nhưng phương pháp của tôi đã sai, đi về phía trước được chừng mươi phút, chân tôi bỗng nhiên giẫm phải thứ gì đó, đang lúc tôi dừng lại để nhìn thì đột nhiên tôi bị hẫng, cả người cứ thế lăn lông lốc xuống bên dưới.

    Đến lúc cơ thể dừng lại, theo phản xạ tôi ngồi ngay dậy, mông chạm mặt băng, cũng may mà tốc độ lăn xuống không nhanh lắm, nên tôi vẫn còn ngồi vững được.

    Nhìn xuống dưới chân, tôi chi thấy khí lạnh lò mờ bốc lên. Có một bóng đen gì đó rất to ở dưới. Tôi nhìn kĩ lại, phát hiện đó là một hố băng, hố băng đã bị người ta đào nham nhở mấy chỗ sâu hoắm.

    Nhìn lại một lần nữa, tôi thấy cái hố băng thực ra không lớn lắm, nó chỉ to cỡ đầu cái xe tải, nên không thể dùng từ “rất lớn” để miêu tả nó. Cảm giác ban đầu của tôi là nó to, thực ra đó chỉ là ảo giác, thế nhưng cái hố đó quả thực rất sâu, dường như nó sâu đến chạm đáy hố xi măng, phía dưới khí lạnh bốc lên mịt mờ, không biết có gì dưới đó.

    Rõ ràng có người đã cố gắng phá băng, chúng tôi cũng đã từng phá các lớp băng trong động trước đó, khi thời tiết chuyên sang mùa đông, muốn đi câu cá ở vùng Đại Hưng An Lĩnh chúng tôi buộc phải phá băng, nếu như lớp băng đóng dày quá, công việc phá băng sẽ diễn ra khá khó khăn, bây giờ nhìn đống băng chất cao như thế, tôi tưởng tượng khả năng người làm việc này phải tốn rất nhiều sức lực, mà có thế không chỉ có một người thực hiện.

    Tôi sờ thử phần bên trên của lớp băng, phát hiện quả nhiên có người đã cố sức để bổ lớp băng đó, bởi có cả những vết nứt ở đó. Ai đã làm thế nhỉ?

    Lẽ nào là một trong nhóm người đi cùng Tô Chấn Hoa?

    Nghĩ một lúc tôi cảm giác khả năng đó tương đối cao. Sau khi đến đây, không biết Viên Hỷ Lạc và đồng đội đã gặp phải những biến cố gì, nhưng trước khi phát sinh ra biến cố, chắc chắn họ đã đi khảo sát xung quanh một lượt và đã nhìn thấy cái bóng bên dưới lớp băng ở trong kho lạnh, cũng có thể có người đề xuất rằng nên đào lên để xem. Nếu đội chúng tôi không gặp phải quá nhiều biến cố bất ngờ đến vậy và có thể đến nơi này một cách trọn vẹn, thì chắc rằng chúng tôi cũng có những suy nghĩ như thế.

    Bỗng chốc trong lòng tôi dấy lên sự tò mò, không biết bóng đen dưới lớp băng kia rốt cuộc là cái gì? Họ có đào nó lên không?

    Nghĩ vậy, tôi liền quỳ xuống, giơ đèn xuống dưới hào, định bụng soi xem có đoán ra thứ gì không.

    Tính tôi khá thận trọng, nên lúc đó không hề mảy may có suy nghĩ rằng mình nên nhảy xuống xem thế nào, nếu là Vương Tứ Xuyên, có khi cậu ta đã nhảy bổ xuống rồi, đây cũng là một dịp may hiếm có, ban đầu chiếu đèn xuống dưới tôi không nhìn rõ cái bóng màu đen bên dưới, chỉ phát hiện một điều bất thường kì lạ rằng dường như dưới đó đang bị đào dở, rồi sau đó đã dừng lại.

    Điều này có thể phân biệt được khá rõ, bởi vì đào băng không hề giống đào đất, do độ cứng của lớp băng nên bạn phải đục một lỗ, sau đó cứ thế mờ rộng ra xung quanh, cho nên nếu công việc đục lỗ đó ngưng lại nửa chừng, thì bề mặt băng bên dưới cái hào sẽ không thể trở về bằng phẳng như ban đầu được.

    Tôi thấy bề mặt lớp băng bên dưới cái hào lúc này giống y như vậy, tất cả đều lộn xộn, đã có thể nhìn thấy cái bóng đen mờ mờ bên dưới lớp băng, nó đã lộ ra một chút, chắc chắn sau khi đào thấy cái bóng đó, người ta đã dừng lại ngay lập tức.

    Tôi càng xem càng hiếu kì, nghĩ thầm tại sao họ không đào tiếp.

    Lúc đó tôi đang ngần ngừ không biết có nên trèo xuống đó không cái hào đóng băng sâu chừng hai mét xem chừng rất nguy hiểm, xuống đó rồi có khả năng không leo lên được và sẽ chết cóng ở dưới. Vùng Đông Bắc vẫn có loại hố bẫy như vậy, cái vách hố chỉ cao quá đầu một chút, có thể nhảy xuống nhưng không thể trèo lên.

    Tôi đang băn khoăn không biết nên quay về tìm Mã Tại Hải hay là cứ trèo xuống đó trước, bỗng cảm thấy đằng sau mình có một luồng gió thổi tới.

    Trong hoàn cảnh lạnh lẽo lúc bấy giờ, đột nhiên có một luồng gió thổi tới, dù chỉ là một luồng gió nhẹ, cơ thể vô cùng nhạy cảm của tôi cũng có thể nhận ra, cái lạnh khiến tôi rùng mình, tôi định quay đầu lại xem.

    Nhưng tôi chưa kịp quay lại, thì thấy có người đột nhiên đẩy mạnh lưng tôi một cái. Tôi vốn ngồi không vững, bị đẩy một cái liền mất thăng bằng rồi ngã nhào xuống hố.
     
  3. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 42: Ám hại


    Tôi bị ngã bổ chửng, may mà trong giây phút hoảng loạn tôi vẫn kịp co người lại, hai tay ôm đầu bảo vệ, cũng may người tôi không sao, chỉ lăn hai vòng, đập người mấy cái thì rớt xuống dưới hố. Tôi mở mắt ngó nghiêng không biết đây là đâu, liền nhỏm dậy ngó lên trên, bụng thầm rủa thằng chó chết nào chơi đểu mình.

    Không ngờ, tôi vừa ngóc đầu lên thì đột nhiên một trận đá băng nhè thẳng đầu tôi ném tới tấp, mặt tôi lĩnh trọn đám băng răm. Thấy bị tấn công phần trên, tôi vội vàng giơ tay lên đỡ. Những cục băng liên tiếp nhằm thẳng gáy tôi ném xuống, cứ thế chúng ném lia lịa vào đầu và gáy tôi. Tôi đột nhiên thấy tức giận vô cùng, định bụng nhặt mấy cục băng ném trả miếng, nhưng vừa mới cúi xuống nhặt thì lại lãnh trọn một loạt băng răm, lần này thì viên nào viên nấy to hơn, nặng hơn và số lượng nhiều hon, có viên rơi trúng gáy khiến tôi lảo đảo suýt ngã.

    Tôi chợt hiểu vẩn đề, đối phương muốn chôn sống tôi trong đống băng, trong trường hợp này hẳn họ muốn tôi phải chết.

    Nghĩ vậy tôi lập tức sởn gai ốc. Theo nghề khảo sát địa chất, tôi đã không ít lần gặp nguy hiểm, nhưng đây là lần đầu tiên tôi bị người khác cố tình ám hại, lẽ nào quân địch vẫn mai phục ở đây, thấy tôi một mình thì muốn ra tay giết người? Nghĩ đến đây, tôi thấy bừng bừng lửa giận, nghĩ thầm nếu mày không dùng súng mà lại dùng cách thức này để hòng giết tao thì mày nhầm to rồi, dù sao tao cũng là một người lính, những năm tuổi trẻ từng đi bộ đội đâu phải đế phí hoài? Tôi cũng đã từng tập vác những bao cát nặng chừng năm chục cân để chạy đấy chứ.

    Nghĩ đến đây tôi vội chụp lấy mấy cục băng đá vừa mới rớt xuống trước đó rồi dùng hết sức ném lại về phía vừa ném xuống, tôi không cần biết có trúng hay không, nhưng vừa ném trả xong lại cúi xuống nhặt để ném tiếp; tôi thấy nhũng cú ném từ trên xuống giảm hẳn, rõ ràng là người kia đang bận né tránh trận trả đũa của tôi.

    Tôi hiểu lúc này không thể để mất thời cơ, vội vàng bám lấy vách băng leo lên, nhưng mới đạp chân lên vài bước thì tôi bỗng chùng xuống.

    Băng trơn quá, tôi không thể nào leo lên được.

    Tôi đạp chân lên vách băng nhưng không bám vào được, đành phải tuột xuống.

    Mẹ kiếp, tôi bỗng cuống cả lên, buột miệng chửi bậy rồi đạp vào vách băng một đạp, lúc đó tôi bám được lên vách băng, tôi rướn người lên trên, nhìn thấy bên trên một màn đen hỗn độn, bỗng một cú đạp mạnh khiến tôi ngã ụp xuống dưới.

    Cú ngã này nặng hơn lần trước rất nhiều, đau tới nổ đom đóm mắt, cái đèn pin mắc trong tay tôi cũng rơi mất, thế nhưng trong tích tắc ngắn ngủi đó, tôi đã kịp nhận ra trang phục của đối phương, một kiểu quân phục lạ lùng, trời ơi, tim tôi thắt lại vì sợ, đó chính là quân phục của lính Nhật.

    Lính Nhật?

    Phát hiện ấy khiến tôi vô cùng khiếp sợ, lẽ nào người muốn chôn sống tôi lại là một tên lính Nhật?

    Tôi vội nhớ tới những lời của hội Vương Tứ Xuyên đoán trước đây, nơi này tuy hoang phế đã gần hai mươi năm, nhưng nếu còn đầy đủ lương thực thì rất có thể những tên tàn binh Nhật vẫn còn sống sót, tuy nhiên khả năng đó không cao, bởi tiên đường khảo sát chúng tôi thấy hang động này không hề có dấu vết của sự sống con người.

    Suy nghĩ đó lướt qua rất nhanh, tôi lại tiếp tục nhặt những cục đá băng bị ném đầy nửa hố ném chống trả. Ở trên hố, kẻ địch rõ ràng đã thay đổi sách lược, chúng định xô ngã tôi xuống rồi vùi hố chôn sống tôi bằng lớp băng vụn. Chỗ băng vụn dần dần đóng băng thành tảng, tôi nghĩ mình không thể để chúng chôn sống ở đây, nhưng tôi có muốn leo lên khỏi hố băng này cũng không phải chuyện dễ.

    Có lẽ do nhiệt độ ở đây lạnh quá nên đầu óc tôi trở nên rất minh mẫn, lúc đó tôi nghĩ cứ như thế này thì không được, tôi không leo lên trên được thì khác gì con thú đã sập bẫy, bây giờ đối phương dẫu không vùi băng chôn sống được tôi thì cũng thừa thời gian để nghĩ ra cách khác giết tôi, hoàn cảnh này càng kéo dài, tôi càng bất lợi.

    Thế nhưng tôi biết tìm cách nào đây, lẽ nào tôi giả chết?

    Lúc đó, chiếc đèn pin đã rơi của tôi đã bị lớp băng phủ lên trên, thế này càng nguy hiểm, tôi hành động theo phản xạ, vừa lấy chân đạp đống băng ra, vừa ngồi xổm dùng hai tay mò tìm đèn pin trong đống băng vụn.

    Cứ mò mẫm một lúc, tuy không mò thấy đèn pin nhưng không ngờ tôi lại mò được một vật, mà vừa sờ vào đã khiến tôi sợ toát mồ hôi. Thôi chết rồi!

    Tôi không màng nguy hiểm ở bên trên nữa, tay trái ôm đầu bảo vệ, tay kia chùi vào chân cho sạch lớp tuyết, tuy cảm giác lúc trước của tôi không rõ ràng lắm, nhưng tôi vẫn lờ mờ nhận thấy mình đã sờ vào một vật vô cùng nguy hiểm.

    Lúc nãy, tôi sờ thấy phần đầu của vật đó hình trụ chóp tròn, lớp băng xung quanh lạnh cóng và vật đó cũng lạnh không kém; nó chỉ lộ ra một phần nhỏ, giống như mỏm nhọn bằng sắt, nếu là người khác, chưa chắc đã nhận ra sự khác biệt ấy, nhưng tôi lại khác, bởi thời còn đi học, tôi được đi thực tập ở Jiamusi và từng sờ một vật tương tự như vậy ở trong nhà kho lạnh. Lúc đó, tôi sợ gần chết, chỉ muốn mau chóng được ra khỏi cái động này.

    Mò mẫm thêm một lúc, tôi tìm được cái đèn pin, tôi lại dùng chính cái đèn pin đó để đào tiếp, chẳng bao lâu sau tôi đã đào đến bên dưới của lớp băng vụn, một vật đen đen, tròn dài xuất hiện trước mắt tôi.

    Vừa thấy nó tôi đã lạnh toát vì sốc, mãi một lúc sau tôi mới sực tỉnh và ý thức được nó là vật gì.

    Đó là một đầu đạn pháo.

    Vì nó chỉ lộ một phần trên mặt băng, nên tôi không thể phán đoán được đường kính của ngòi đạn pháo ở bên dưới lớp băng, nhưng chắc chắn nó không phải là loại đầu đạn cỡ 92 của pháo bộ binh, loại đạn pháo này to hơn nhiều, chắc nó phải thuộc cỡ đầu pháo hạng nặng.

    Tôi chợt hiểu tại sao nhóm người trước đó đang đào dở thì đột nhiên dừng lại. Nếu là tôi thì tôi cũng không dám đào tiếp, ngòi của đầu đạn này hẳn đã bị tháo kíp, lúc này chỉ bổ thêm một nhát nữa thì chắc toàn bộ chỗ này sẽ nổ tan xác pháo. Vừa nghĩ thế, người tôi đã thấy run, không ngờ bên dưới lớp băng lại bảo vệ vật nguy hiểm này. Bên ngoài hầm lạnh có vô số hố băng và nếu chúng đều được dùng để chứa đầu đạn, thì nơi này cả thảy có bao nhiêu đầu đạn?

    Căn cứ theo diện tích, thì nơi này dễ phải có tới năm ngàn quả đạn pháo.

    Thế nhưng tại sao hồi đó phát xít Nhật lại dùng hố băng để đông lạnh những đầu đạn pháo này?

    Đang mải ngẫm ngợi, bỗng một mảnh băng phía trên đầu bay xuống làm cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi, người ở bên trên tiếp tục ném các cục băng đá xuống khiến tôi không còn có thời giờ mà nghĩ nữa, nhưng trong đầu vẫn thoáng nỗi nghi ngờ, tôi vội cào lớp băng vụn để chôn phần đầu đạn pháo lộ ra ngoài, rồi nghĩ cách thoát thân để báo cáo lại chuyện này cho hội Vương Tứ Xuyên.

    Lúc đó, tôi chưa biết đầu đạn đó là loại đạn pháo gì, nếu như đó chỉ là loại đạn pháo thông thường thì người Nhật chôn chúng ở bên dưới này chắc hẳn là để chuẩn bị phá hủy con đập trên kia.

    Theo lý thuyết về bộc phá cháy nổ, công trình kiên cố như lô cốt của con đập tiên kia rất khó phá hủy, thuốc nổ thông thường chưa chắc đã thổi bay được nó. Hồi trước, khi Quốc dân đảng định dùng bộc phá để đánh giặc Tiểu Mãn Châu, họ cũng gặp phải vấn đề tương tự, muốn phá hủy hoàn toàn một con đập to lớn cỡ này, phải dùng vùi từng này chỗ đầu đạn xuống đáy đập may ra mới có tác dụng. Cho nên chúng tôi lúc này đang đứng ngay trên đống thuốc nổ, quả thực vô cùng nguy hiểm.

    Hoàn cảnh của tôi lúc đó còn nảy sinh thêm một vần đề nan giải: lúc này, tôi buộc phải khom người che chở cho đống đạn không bị băng đá ném trúng, cả người tôi còn bận co ro một chỗ, thì nói gì đến việc thoát thân.

    Đó đúng là trải nghiệm khiến người ta phát điên, thật chẳng khác nào bị nắm trúng thóp, rõ ràng thấy nó đánh mình, mình không thể nện lại, mà lòng cũng bất phục đến cực độ.

    Chừng hơn chục phút sau, người tôi đã lạnh cứng như băng, sắp bị vụn băng vùi kín. Nhưng lúc đó tôi cũng không thể nghĩ ra cách giải quyết nào, lòng thầm nghĩ có khi mình phải bỏ mạng ở nơi này cũng nên. Tôi hít một hơi dài, sợ đếch thằng nào, tôi mò được một cục băng ném trả lại, vừa ném vừa hét lên: “Mẹ mày, dưới này có mìn, mày mà còn ném tiếp thì ông với mày cùng chết.”

    Tôi vừa nói xong thì một tảng băng nữa từ trên lại lia xuống như thay cho lời đáp, tôi cúi đầu tránh được, đang định chửi tiếp, thì thấy bên trên bỗng yên tĩnh hẳn, không có âm thanh nào vọng lại, băng vụn cũng ngừng lăn xuống.

    Tôi ngẩn người một lúc, rồi lại chửi ầm ĩ mấy câu, nhưng không thấy phản ứng gì, lúc này tôi mới chợt hiểu và chiếu đèn lên xem thì quả nhiên không thấy một ai.

    Chúng đi rồi sao? Tôi chợt cảm thấy sờ sợ, nghĩ bụng hay là chúng thấy cách này hơi chậm nên đi lấy hung khí giải quyết cho nhanh. Thế là, tôi vội vàng dùng hết sức kéo chân ra khỏi lớp băng, lúc đó bên dưới toàn là mảnh băng vụn, vừa mới giẫm chân xuống thì cả người chực ngã úp xuống, chỗ đó giống như vùng đất tuyết vậy, tôi giậm chân lấy đà mấy lần nhưng phát hiện không thể dùng lực được, cũng may lúc đó tôi thấy có hai luồng ánh sáng đèn pin chiếu từ trên xuống.

    Tôi ngẩng đầu lên xem nhưng vì ngược sáng nên không nhìn thấy gì, song lại nghe được tiếng Mã Tại Hải gọi: “Kĩ sư Ngô phải không?”

    Bỗng chốc tôi cảm thấy mình được cứu sống thật rồi! Sau phút vui mừng, tôi vội vàng hét to cảnh báo: “Cẩn thận! Ở đây có lính Nhật!”

    Mã Tại Hải không nghe rõ. Lúc này, tôi lại nghe thấy tiếng của đội phó, anh ấy nghe rõ lời của tôi, nhưng dường như không hiểu ý lắm.

    Mã Tại Hải thò tay kéo tôi lên, toàn thân tôi lúc đó đã cứng đơ, cậu ta liền hỏi tôi đã gặp chuyện gì.

    Bên ngoài có gió, tôi bắt đầu lạnh run lập cập, vội chiếu đèn khắp xung quanh, nhưng lúc đó không thấy bóng dáng tên lính Nhật đâu nữa.

    Sau khi đội phó tỉnh lại, anh liền mắng Mã Tại Hải một trận, rồi hai người họ cùng nhau đi tìm chúng tôi, đội phó bảo họ là bộ đội công trình đi theo đội khảo sát với nhiệm vụ bảo vệ mấy kĩ sư khảo sát chúng tôi. Tại sao lại phải bảo vệ? Bởi vì chúng tôi là nhân tài của đất nước, nếu cần xả thân thì những người lính như họ phải xông lên phía trước, chứ lẽ nào lại còn gây thêm phiền cho chúng tôi.

    Thế mà lúc này, việc dò đường lại do hai kỹ sư bọn tôi đảm nhiệm, còn hai anh lính lại nằm một chỗ để ngủ.

    Thật đáng xấu hổ! Vậy nên đội phó mới giục Mã Tại Hải mau đi tìm chúng tôi.

    Nghe anh nói, tôi rất cảm động, nhưng lại thấy suy nghĩ như vậy cũng hơi quan trọng hóa vấn đề, song ngay lúc ấy tôi cũng không giải thích gì thêm.

    Tôi kể những chuyện mình vừa trải qua cho đội phó và Mã Tại Hải nghe, họ đều bất ngờ, Mã Tại Hải nói nếu quả thực bọn Nhật vẫn sống ở đây thì vấn đề phức tạp rồi đây, chúng tôi phải cẩn thận mới được, kháng chiến thành công đã từng ấy năm mà vẫn bị quân Nhật giết chết thì thật lãng xẹt. Còn chuyện cái bóng mờ mờ dưới lớp băng là một đầu đạn pháo thì thực họ cũng không thể ngờ đến.

    Chúng tôi tìm kiếm xung quanh, nhưng không hề thấy dấu vết của tên lính Nhật, đội phó nói thế này thì vô lý quá, khả năng không chỉ có một tên, chắc lúc nãy nhìn thấy ánh đèn của chúng tôi nên đã chạy trốn mất rồi, chưa biết chừng tí nữa chúng có cứu viện đến, ở đây không an toàn, mọi người phải rời khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt.

    Nếu họ đã quay lại tìm chúng ta, thì chúng ta không nên quay trở về chỗ để xuồng nữa, như vậy sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời gian. Tôi xác định hướng chạy, rồi Mã Đại Hải cõng tôi chạy về phía cánh cửa sắt.

    Lần này mọi việc diễn ra khá thuận lợi, lúc về đến gần chỗ chiếc cần cẩu, từ phía xa, tôi đã nhìn thấy ánh lửa của hội Vương Tứ Xuyên, vừa nghĩ đến có lửa, toàn thân tôi bỗng râm ran cả lên, chỉ muốn chạy đến thật nhanh để sưởi ấm.

    Đội phó cũng lạnh cóng cả người, anh run cầm cập, mấy người chúng tôi đi thật nhanh, Mã Đại Hải gọi thật to: “Đồng chí Vương Tứ Xuyên!”

    Chúng tôi lập tức nhìn thấy một người ngồi cạnh đống lửa động đậy, tiếp đó chúng tôi nhìn thấy mười mấy người mặc quân phục lính Nhật ngồi ngay cạnh tấm vải bạt căng phía sau vụt đứng dậy.
     
  4. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 43: Lính Nhật


    Thời khắc đó, tôi, đội phó, Mã Tại Hải, người nào người nấy đều lạnh toát, cứng đờ người, cả ba đứng chết lặng tại chỗ.

    Tôi vốn đang bán tính bán nghi có phải khi nãy đã nhìn thấy lính Nhật thật không, hay chỉ là ảo giác, bởi lúc ấy tôi bị chúng đạp cho một phát, ngã lộn cổ xuống hố, khoảnh khắc đó chỉ diễn ra trong mấy giây, nên tôi cũng không dám chắc điều mình thấy có chính xác hay không.

    Không ngờ chẳng bao lâu sau, tôi lại nhìn thấy một đám lính Nhật rõ mồn một thế này. Tôi thấy mình như thể vừa chui qua đường hầm thời gian. Nhìn bộ quân phục màu vàng đáng ghét của lính Nhật, tôi có cảm giác đang quay trở lại thời kì kháng chiến trước đây.

    Nhưng rồi tôi nhanh chóng phát hiện không phải, mấy người Nhật này nhìn quen lắm, dường như tôi đều biết họ cả.

    Tôi nhìn lại lần nữa, bỗng thấy một sĩ quan Nhật thò đầu ra nhìn tôi, đó rõ ràng là anh Miêu!

    Tôi vẫn đang ngạc nhiên thì Bùi Thanh và Vương Tứ Xuyên đi tới, Vương Tứ Xuyên đỡ lấy tôi, nhìn thấy tôi bị đóng băng, cậu ta rất ngạc nhiên, hỏi đội phó tại sao tôi lại bị như vậy.

    Tôi được đưa đến chỗ đống lửa, họ thay ngay quần áo, rồi đem chỗ quần áo ướt vắt lên cái giá bên cạnh đống lửa. Đống lửa cháy rất to, rất ấm áp, lúc đó nước mắt tôi bỗng trào ra mà không hiểu vì sao.

    Bây giờ ngồi nhớ lại cảm giác an toàn khi gặp lại những người đồng đội, tôi thấy thực sự hạnh phúc!

    Khi đó, quần áo mấy người chúng tôi đều rách tơi tả, trong khi đó hội anh Miêu lại chỉnh chu trong quân phục người Nhật, nhất là anh Miêu. Anh đang mặc bộ quân phục sẫm màu dành cho sĩ quan, kết hợp với vẻ mặt lầm lì không biểu lộ cảm xúc, lúc này trông anh giống hệt một sĩ quan Nhật mà chúng tôi vẫn thường thấy trên phim ảnh. Tôi được khoác một cái túi ngủ trên người, bọn tôi ngồi đối diện nhìn nhau, rồi phì cười. Mọi người cũng cười theo.

    Tôi hỏi họ tại sao lại thành ra thế này, các anh đã trở thành lính Nhật từ khi nào vậy?

    Bùi Thanh nói: “Cậu đừng nghĩ xấu cho người tốt, thực ra bọn tôi là đội quân hóa trang thành địch đấy chứ.”. Cậu ta nói xong thì cả đội đều cười ầm lên.

    Tôi hỏi kĩ thêm mới biết chỗ quần áo này được lấy ra từ một kho quân dụng của quân Nhật để lại. Bùi Thanh kể lúc họ đi vào con đường đó tự nhiên thấy rất lạnh mà không hiểu vì lí do gì. Sau đó, họ tìm ra cái kho này, rồi lôi từng này quần áo từ trong đó ra, ban đầu không ai dám mặc, sau đó lạnh không chịu được mới đành phải khoác lên người, tất cả đều là quân phục dành cho đội quân Quan Đông. Nhìn đống quần áo, ai nấy vui mừng khôn xiết.

    Tôi nhớ lại lúc chia tay họ, liền hỏi thêm vì sao các cậu lại đến được nơi này, có tìm thấy người đã đánh điện báo cho mình không?

    Câu hỏi của tôi khiến sắc mặt mọi người bỗng trầm hẳn xuống, Bùi Thanh thở dài, gật đầu nói có tìm thấy, nhưng họ đã chết hết cả rồi.

    Sau đó, Bùi Thanh liền kể tóm tắt qua cho chúng tôi nghe toàn bộ những họ đã trải qua.

    Đến đây tôi cần phải nhớ lại một chút, những gì Bùi Thanh kể lại lúc đó chỉ là tóm tắt sơ lược, đến nay đã rất lâu rồi, tôi không còn nhớ rõ nữa, tôi đã quên khá nhiều tình tiết. cũng có thể lúc đó Bùi Thanh không kể chi tiết, tóm lại, điều này không còn quan trọng nữa.

    Họ lần theo đường dây cáp xuôi xuống nơi sâu của một con sông – chỗ chúng tôi đang đứng đây được gọi là “nhánh sông số 6”, đây là cách đặt tên của quân Nhật, đợi phần sau tôi sẽ kể rõ hơn. Về mặt địa lý, “nhánh sông số 6” là một nhánh sông được tách ra từ dòng chảy chính có tên là “nhánh số 0” – nơi xây dựng con đập lớn này.

    Kể từ lúc chúng tôi tách thành hai nhóm ở chỗ hố sụt, họ cứ thế xuôi thuyền đi, tình hình giống hệt như anh Đường đã phân tích, họ trôi qua chỗ hố sụt một đoạn thì thấy dây cáp điện và hệ thống đường sắt dưới nước tập trung như mạng nhện, điều đó cho thấy trước đây khu vực này từng là khu hoạt động đông đúc trước khi bị quân Nhật phế bỏ. Địa thế ở nơi này và khu vực xung quanh nhìn chung khá bằng phẳng, nên xuồng đi vào khá thuận lợi, không gặp trở ngại gì. Dấu vết của quân Nhật để lại càng lúc càng nhiều và càng lúc càng đa dạng.

    Xuôi vào bên trong chừng bốn mươi phút, đáy sông bắt đầu xuất hiện hiện tượng đất trồi lên cao ở khu vực giữa sông, dòng nước ngày càng trở nên nông hơn. Chẳng bao lâu sau, họ nhìn thấy một bãi nông xuất hiện ngay giữa dòng sông. Mọi người bơi sát đến để tìm hiểu, càng đi thấy bãi đất càng cao, tạo thành một dải trước mặt, dòng sông đến đây là chấm dứt, thay vào đó là một bãi đất đá sỏi trải dài đặc trưng thường thấy ở các dòng sông.

    Phía rìa bãi đá cũng có nước nhưng do nước nông nên không thể lái thuyền lên phía trên, họ đành phải lội nước, hội Bùi Thanh phát hiện một tấm biển với dòng chữ “Nhánh sông số 6” treo trên mỏm đá, từ chỗ này dòng sông bắt đầu phân nhánh.

    Bờ sông là một bãi đất có độ dốc thoai thoải, mọi người di chuyển lên trên, chẳng mấy chốc đã tới được chỗ khô ráo. Leo đến điểm cao nhất của bãi, chúng tôi mới thấy phía sau bãi đất có một cái hang rất rộng được hình thành do quá trình nước ăn mòn, địa hình trong hang khá bằng phẳng, nhưng đồ đạc lại để rất lộn xộn, trên các nhũ đá mắc đầy các loại dây điện, đủ kiểu lớn nhỏ, trên mặt đất la liệt các đống đồ đạc được phủ bằng vải bạt. Họ kéo thử một tấm bạt ra, thì thấy bên dưới chất đầy các loại bàn giấy và thiết bị điện. Trong đống đổ nát đó, Bùi Thanh ấn tượng nhất đống dây điện, đủ các loại cỡ từ to đến nhỏ; dưới đất, trên bàn chỗ nào cũng có. Ngoài ra, ở đó còn rất nhiều rương gỗ và giường ngủ tiện dụng. Những bộ quân phục của lính Nhật mà họ đang mặc cũng đều lôi ra từ đấy cả.

    Dưới đáy hang còn có vô số các nhánh hang nhỏ ăn sâu vào vách đá, có những hang chất đầy đồ vật, có hang sâu hoắm, không nhìn thấy đáy, không biết nó thông tới đâu, nhưng một lượng lớn dây cáp điện vẫn được mắc về phía các nhánh hang đó, xuyện tận vào bên trong, rõ ràng bên trong cũng có các thiết bị cần dùng điện.

    Bùi Thanh nhận định anh Đường đã phân tích tình hình dựa trên bố cục toàn cảnh của hang động. Đầu nguồn của “nhánh sông số 6” chính là đầu mối thông tin của toàn bộ hệ thống hang động và cũng là trung tâm dây dẫn của toàn bộ hệ thống điện thoại, phòng dây cáp dẫn được cung cấp điện trực tiếp bởi máy phát điện lắp ở chỗ hố sụt chúng tôi đã chui qua lúc trước, nó được giấu khá kĩ, nếu tấn công thì nơi này sẽ an toàn vì rất khó tìm.

    Nhìn tình hình bên trong hang động, có thể thấy quân Nhật không có ý định tiêu hủy các văn kiện, họ dùng vải bạt để che tất cả chỗ văn kiện lại, điều này chứng tỏ lúc rời đi họ vẫn nghĩ sẽ quay trở lại, những gì ở đây so với những gì chúng tôi đã thấy trước đây khá mâu thuẫn nhau, tôi không thể hiểu chuyện gì đã xảy ra với đám lính Nhật ở đây vào thời khắc cuối cùng. Họ đã nhận được mệnh lệnh gì?

    Sau khi quan sát kĩ tất cả mọi nơi bọn họ bắt đầu lần theo đầu mối dây cáp, tìm kiếm điểm nối với máy phát điện của dây cáp điện thoại. Anh Miêu phán đoán có thể có người trong đội khảo sát đã đến trước chúng tôi và đang đợi cứu viện ở nơi này, vì thế anh thổi còi nhằm thu hút sự chú ý.

    Thế nhưng không có bất cứ âm thanh nào đáp lại tiếng còi đinh tai nhức ốc đó, cuối cùng chỉ có anh Đường và một cậu lính thông tin lần theo sợi dây, họ tìm thấy đầu cắm của sợi dây giữa vô vàn các đầu cắm dây điện khác, họ đi theo sợi dây đó để tiếp tục tìm kiếm, thì thấy nó được dẫn đến một hang nhánh nằm rất sâu trong động.

    Anh Đường gọi thêm người chui vào trong, đi sâu chừng hai mươi mét thì ngửi thấy mùi ẩm mốc, tiếp đó họ nhìn thấy một phòng điện báo, bên trong có một cái bàn đặt máy phát điện báo, bên cạnh bước tường là đống gì đó được phủ vải bạt, Bùi Thanh kéo tấm bạt ra thì nhìn thấy ba xác người đã thối rữa ở bên dưới.

    Trong ba thi thể đó có một thi thể phụ nữ và hai thi thể đàn ông – một già, một trẻ. Cả ba cái xác đều khoác trên người trang phục màu vàng đất đặc trưng của quân Nhật, có đều bên trong lại mặc trang phục giống hệt quân phục của giải phóng quân chúng tôi, những cái xác đã bắt đầu thối rữa, cả căn phòng điện báo nồng nặc thứ mùi khủng khiếp đó.

    Bùi Thanh lật mặt họ lên để xem, cậu ta thấy ba gương mặt đều lạ hoắc, nhưng nhìn vào trang phục thì biết đó chính là những người mà anh Miêu đang tìm kiếm, đáng tiếc họ đã chết cả, chắc hi sinh được một thời gian khá lâu rồi.

    Cả hội vô cùng buồn bã trước cái chết của ba người đồng nghiệp, họ đem xác ra ngoài, Bùi Thanh ngắt nguồn điện của chiếc máy điện báo tự động vẫn đang kêu “tút tút”, sau đó họ tiến hành khám nghiệm tử thi để tìm nguyên nhân cái chết của ba người kia, sau khi xem xét cẩn thận, họ phát hiện trên nướu răng của cả ba đều bị thâm đen, giống hệt cái xác chúng tôi đã thấy lúc chui xuống hố sụt, có lẽ họ đều chết do trúng độc.

    Anh Đường phán đoán có thể lúc đó họ trúng phải một loại độc phát tác chậm, nên không chết ngay lập tức, chắc một trong số họ là người phát đi tín hiệu điện báo cấp cứu, rồi họ cứ chờ mãi ở đây, cho đến phút cuối không thể chống chọi được với chất độc thì tắt thở. Nhưng nghe anh Đường suy luận xong, anh Miêu lại lắc đầu bảo khả năng đó không thể xảy ra.

    Ba người này đều được phủ một tấm bạt lên trên, nếu cứ như anh Đường phán đoán thì chắc chắn ngoài ba người này ra phải còn một người nữa may mắn sống sót.

    Hồi đó, thông thường số người được biên chế trong một đội khảo sát tuy không thể xác định cụ thể, nhưng có lẽ là rất nhiều, đặc biệt là những nhóm thực hiện nhiệm vụ khảo sát ở những vùng miền chưa được biết tới, chúng tôi ước đoán số lượng cán bộ trong một đội khảo sát khoảng từ năm đến mười người.

    Như vậy, hội anh Miêu cũng không biết thêm tin gì hơn chúng tôi ngoài số lượng người chết của đội khảo sát thứ nhất. Tổng số người chết tìm thấy cho tới lúc này là ba người, cộng thêm hai người may mắn sống sót là Viên Hỷ Lạc và anh Miêu. Ngoài cậu lính trẻ mà chúng tôi đã tìm thấy ra, thì có lẽ vẫn còn một số đang ở đâu đó vẫn chưa tìm được. Anh Miêu xem ra rất đau đầu, một mặt, anh sai người tiếp tục tìm kiếm khắp nơi, mặt khác ngồi bàn bạc với anh Đường tìm biện pháp giải quyết. Nhưng hai người đó cứ thì thầm bí mật với nhau, thành ra Bùi Thanh không nghe được gì, không biết họ đã quyết định như thế nào.

    Hệ thống hang động ở đây tương đối phức tạp, nên việc tìm kiếm trở nên rất khó khăn, nhóm lính anh Miêu dẫn theo đa phần là tân binh, còn anh Đường lại khá yếu đuối, về mặt chuyên môn thì ai cũng phục anh ấy, anh ấy cũng biết đánh nhau, nhưng hễ có chuyện gì lớn thì anh ấy lại mất đi hẳn sức thuyết phục để cảm hóa mọi người nghe theo anh ấy, cho nên đám lính của anh ấy chạy khắp nơi, khi phát hiện ra hang động sâu không thấy đáy, họ sợ quá rút lui về hết.

    Cuối cùng bọn họ bị kẹt lại ở chỗ đó, có quát mắng bắt đi nữa cũng không chịu, anh Miêu vốn là một người khôn ngoan nhiều mưu mẹo, nhưng trong tình thế đó cũng không tìm được cách gì khả dĩ, đành phải ngồi đợi. Cùng lúc đó, tôi cùng với một đội phó ngoan cường, một Vương Tứ Xuyên bất cần đời đang xông pha vào khu vực “Nhánh số 0”

    Tôi vốn không có nhiều kinh nghiệm trong nghề. Bao nhiêu năm theo nghề, tôi mới biết thế nào là người sĩ quan giỏi có khả năng dẫn dắt cả đoàn quân, có lẽ cuộc đời này tôi chỉ gặp được một quân nhân chấp hành mệnh lệnh đến cùng như đội phó, một kỹ sư dũng mãnh như Vương Tứ Xuyên, một nhà khảo sát mưu trí như anh Miêu, bởi những người như vậy thực sự tồn tại không nhiều.

    Tôi cũng không biết họ ngồi lại dưới này bao lâu rồi, nếu anh Đường không phát hiện ra phòng điện báo thì chắc hội anh Miêu đã tuyên bố cuộc khảo sát thất bại, rồi quay lại bảo chúng tôi rút về. Như vậy, chúng tôi cũng không có cơ hội gặp nhau ở nhà kho dưới này, trong tình huống dở khóc dở cười như bây giờ.

    Thực ra, trong lúc Bùi Thanh kể lại quá trình tìm kiếm của nhóm cậu ta cho tôi nghe, có mấy chỗ tôi vẫn thấy lơ mơ, không thể lý giải hết được, bởi lúc đó Bùi Thanh kể bằng giọng phổ thông rất nặng. Những năm ấy, đất nước vừa mới phổ cập tiếng phổ thông được vài năm, tôi không nhớ rõ lắm, nhưng dù sao thì hiệu quả cũng không cao, Bùi Thanh lại nói rất nhanh, tôi cố căng tai nghe mà vẫn không thể hiểu hết câu chuyện. Nhất là chi tiết họ khâm liệm cái xác mà anh Đường phát hiện ra.

    Vấn đề là nằm ở chỗ phòng điện báo.

    Hệ thống điện thoại trong thời chiến tranh thô sơ và chỉ thực hiện được cuộc điện thoại trong phạm vi gần, còn tín hiệu điện báo không dây lúc đó chủ yếu được dùng để truyền thông tin ở những khoảng cách rất xa, phạm vi sử dụng điện báo được qui định khá nghiêm ngặt, máy phát điện báo phải được đặt trên vị trí cao, cho nên nó thích hợp sử dụng ở những vùng như cao nguyên; còn vùng sơn cước, đặt biệt là những khu vực sông suối thì tín hiệu điện báo tương đối khó khăn, hãy nghĩ xem, khu vực rừng núi còn vậy, huống hồ lại dưới một hệ thống hang động phức tạp như thế này.

    Cho nên tôi thực sự không hiểu tại sao người ta lại xây dựng một hệ thống điện báo trong điểm tận cùng của cái động này, nó được dùng để làm gì?

    Anh Đường nhận định nó thực sự là phòng điện báo. Cuốn sổ giải mã code và một lượng lớn các tư liệu điện báo đều ở trong phòng, ăng ten phát tín hiệu của máy điện báo chắc không nằm dưới này mà được lắp trên mặt đất, có lẽ nó được để đâu đó trong đài điện báo liên lạc ở công trình quân sự.

    Vấn đề nảy sinh ngay bây giờ là, nếu đúng thực sự như vậy (trên thực tế mọi người đều khẳng định như vậy), thì đây chỉ là máy phát điện báo tự động, nó tự động phát tín hiệu đến đường dây điện thoại, phải chăng đó chỉ là ngẫu nhiên? Liệu có chuyện lúc đó người phát điện báo đi cũng phát hiện ra khả năng này, mục đích của anh ta có thể chỉ là phát tín hiệu lên trên mặt đất, và việc chúng tôi tình cờ nghe được bức điện báo trong phòng điện báo bên dưới cái lô cốt chỉ là một sự tình cờ?

    Nếu nói như vậy thì liệu bức điện báo này có bị người nào đó cố tình chặn lại không? Phải chăng bộ chỉ huy công trình 723 trên mặt đất đã biết được bên dưới này rất nguy hiểm?

    Lúc đó, Bùi Thanh báo chuyện này cho hội anh Miêu, rồi hỏi thêm: “Hay trước khi các anh xuống đây đã biết trước nhiều chuyện mà chúng tôi chưa biết?” Bùi Thanh thẳng thừng hỏi anh Miêu, nếu bây giờ dùng cách hỏi này xem ra không được thích hợp cho lắm, thế nhưng tại thời điểm đó, chuyện như vậy khá bình thường.

    Anh Miêu không để ý đến cách hỏi của Bùi Thanh, anh bảo chẳng ai biết việc này cả, giả sử ăng ten của máy điện báo có lắp đặt trên mặt đất thật, thì với tình hình mưa gió bão tuyết thế này thì nó cũng đã hỏng từ lâu rồi.

    Nói thế thì khác gì không nói, trong lúc hai người tranh luận, anh Đường và mấy cậu lính thông tin lôi máy điện báo ra nghiên cứu. Bùi Thanh đang định hỏi tiếp thì thấy anh Đường nhấc ống nghe của máy điện báo lên úp vào tai, rồi bất ngờ giật mình làm nó rơi xuống đất, sau đó anh bảo mọi người nghe thử.

    Hóa ra, ngoài chức năng phát điện báo ra, máy phát điện báo còn có chức năng nhận điện báo. Lúc trước, anh Đường đinh ninh chiếc ăng ten được lắp đâu đó trên mặt đất có khả năng đã bị hỏng như lời anh Miêu nói, nhưng khi anh cầm ống nghe lên, không ngờ lại nghe thấy sóng điện báo phát ra liên hồi từ bên trong.

    Nghe thấy thế, chúng tôi đều giật mình sợ hãi. Tuy việc kết nối được tần số nào đó của một máy điện báo khác không phải là điều không thể xảy ra, nhưng thời kì đó là thời kì cả thế giới đang có xu hướng thực hiện bảo mật tần số, chưa xuất hiện loại máy mã hóa nhảy tần, vì vậy để kết nối được sóng liên lạc nhất định phải có thiết bị điều chỉnh biên độ tần số. Ai ngờ vừa nhấc máy lên thì chúng tôi đã nhận được điện báo, điều này có nghĩa là máy ở đây có cùng tần số với máy đã phát đi tín hiệu, nhưng khả năng như thế xảy ra là rất nhỏ, trừ phi hai máy điện báo này đã cùng được cài đặt mã hóa sẵn cùng tần số từ trước đó.

    Bùi Thanh không ngờ lại xảy ra chuyện này, nên cậu ta đoán rằng chiếc máy này chắc chắn đã bắt được sóng của một chiếc máy điện báo nào đó trên mặt đất của Trung Quốc và điều đó cũng cho thấy ăng ten trên mặt đất của nó vẫn chưa bị hỏng.

    Sau khi anh Đường và mấy cậu lính thông tin sau chứng kiến cảnh ấy, thì một cậu lính lại cố gắng nghe thử chừng hơn một phút, thì phát hiện cách thức sắp xếp tín hiệu này vô cùng khác thường, cậu ta nghe mà không hiểu gì cả. Sau đó cậu ta nhìn quyển giải mã code của quân Nhật để lại, mới thấy tần suất điện mã trong ống đích thị là của người Nhật.

    Cũng cần biết một điều rằng đây là một bức điện báo quân sự, có nghĩa là máy phát điện báo trên đất nước Nhật đã có thể truyền tín hiệu sang tận vùng đất Nội Mông của Trung Quốc, nếu chỉ là một bức điện báo dân dụng thông thường, thì nó không thể trùng hợp với những kí hiệu quân sự của người Nhật viết lại trong bộ giải mã code. Chuyện này lập tức đã trở thành vấn đề lớn: một máy điện báo tự động trong phòng điện báo bên dưới độ sâu một ngàn hai trăm mét có thể nhận một bức điện báo quân sự bằng tiếng Nhật, còn chúng tôi thì không hề biết bức điện báo đó được phát ra từ nơi đâu?

    Tôi thực sự không tin nổi và không thể giải thích được đều này, chiếc máy điện báo nhất định phải có một cái ăng ten phát tín hiệu, nhưng ăng ten phát tín hiệu đó đang được lắp ở đâu?

    Lúc đó, mọi người đều đoán rằng trong khu rừng nguyên sinh rậm rạp ở đất Nội Mông, chắc chắn còn có một căng cứ bí mật nữa của quân Nhật, chắc chắn chiếc máy điện báo này đã thu được điện báo từ nơi đó.

    Cả hội đều đồng tình với cách giải thích này, bởi thực tế chẳng còn cách giải thích nào khác. Thứ nhất, mọi người đều thấy máy điện báo không thể tự phát ra bức điện báo ở hang động dưới lòng đất thế này, vì điều đó không phù hợp với quy luật khách quan, vậy thì nhất định nó phải thu tín hiệu từ một “ăng ten” nào đó. Thứ hai, vào năm 1962, ăng ten trên mặt đất của Trung Quốc không thể thu sóng điện báo quân sự của Nhật, hơn nữa bức điện báo này lại sử dụng loại kí hiệu mật mã của cuốn mật mã năm 1942, bởi thế nó chắc chắn được phát đi vào năm 1942 và từ một nơi hoang vắng, ví như Nội Mông chẳng hạng.

    Vì không ai trong đoàn chúng tôi hiểu tiếng Nhật, nên không thể đọc được bảng mật mã, cũng không có cách nào hiểu được rốt cuộc bức điện kia nói gì, chỉ thấy cậu lính điện báo nghe ngóng hồi lâu, phát hiện nội dung bức điện tương đối dài, hơn nữa lại có tần suất tuần hoàn, dường như nó được gửi đi từ một máy điện báo tự động.

    Đến tận lúc này, anh Miêu mới thở phào nhẹ nhõm đôi chút, tuy chưa cứu được đồng đội, nhưng mọi người lại tìm thấy bức điện báo và nhiều tài liệu khác nữa, có thể nói thu hoạch như thế cũng không tệ. Anh cẩn thận ghi chép lại tất cả tần suất tuần hoàn của bức điện, rồi tháo rời từng bộ phận của máy điện báo ra để mang về cùng toàn bộ bảng mã và bộ phận giải mã tự động tìm thấy trong hang. Anh Miêu muốn nhờ nhân viên chuyên ngành dịch và tìm hiểu xem nội dung bức điện báo nói gì.

    Trong lúc thu dọn tài liệu xung quanh máy điện báo, nhóm anh Miêu lại phát hiện thêm một điều thú vị: họ vô tình tìm thấy một tấm bản đồ chi tiết vẽ các hạng mục ở đây, đáng tiếc là chỉ xem rõ được nửa phần trên, trong đó vẽ lại rõ ràng cấu tạo con đập, kết cấu của chiếc máy bay, thậm chí là thông tin về lưu lượng nước, hướng chảy của dòng sông ngầm.

    Dựa vào tấm bản đồ, hội anh Miêu xuyên qua những nhánh rẽ của hang động, đi sâu vào hệ thống mở rộng ở bên trong, phía dưới hố sụt, rồi men theo đường dẫn của sợi dây cáp điện suốt mười mấy tiếng đồng hồ, cuối cùng mới đến được con đập, đến được bờ vực sâu thăm thẳm của con sông, đó là khởi đầu của khoảng không thăm thẳm. Sau đó, họ đã trải qua một số sự kiện khác nữa, cuối cùng mới gặp được chúng tôi.

    Sự việc đã được làm rõ, tôi cũng đã nắm được mạch câu chuyện, hiển nhiên anh Miêu và hội Bùi Thanh đã vào đây một cách thuận lợi, điều này khiến tôi thấy hơi xót xa, bởi vì thứ đưa chúng tôi lặn lội xuống tận động sâu chỉ là một mẩu giấy, nếu mẩu giấy đó là của một trong số bọn họ nhét vào người tôi, thì tôi cảm giác như người đó là một kẻ vô trách nhiệm đã cố tình đẩy chúng tôi vào hoàn cảnh nguy hiểm.

    Nhưng về sau tôi nghĩ lại, thấy việc lọt xuống dòng sông ngầm rộng lớn đó thực ra lại là một tình huống may mắn ngoài dự kiến, nếu như không phát sinh sự việc ngoài ý muốn này, thì chúng tôi sẽ xuống khu vực bãi bồi bên dòng sông ngầm, rồi đi lạc đến đâu thì thực sự khó mà đoán được.

    Vương Tứ Xuyên cũng kể lại cho hội anh Miêu nghe toàn bộ hành trình của chúng tôi, bao gồm cả việc trong đội ngũ khả năng có gián điệp nữa. Sắc mặt anh Miêu trở nên buồn rầu, bởi lẽ anh biết đội của mình lại mất thêm một người, danh sách những người chết vốn đã rất dài rồi.

    Phòng điện báo – ba người chết.

    Khu vực máy phát điện ở hố sụt – một người chết.

    Khu vực nhà kho để máy cẩu – một người chết – Tô Chấn Hoa phát điên.

    Ngoài ra, Viên Hỷ Lạc đã phát điên từ trước đó và một đồng chí mà chúng tôi không biết tên trong đội khảo sát đã vào đây lần trước, chúng tôi tìm được cả thảy bảy người, trong đó không có ai còn bình thường cả, bọn họ nếu không chết thì cũng phát điên.

    Tôi hỏi anh Miêu, đã đến lúc này rồi thì anh nên kể lại mọi chuyện cho chúng tôi nghe, ít nhất cũng nói cho chúng tôi biết đội khảo sát thứ nhất có tất thảy bao nhiêu người.

    Tôi nói xong thì Bùi Thanh kế bên cũng phụ họa theo, rồi Vương Tứ Xuyên, Mã Tại Hải, đội phó đều nói thêm vào. Bùi Thanh xem ra khá kích động, bởi trước đó cậu ta đã từng cãi nhau kịch liệt với anh Miêu, lần này chúng tôi đều đứng cả dậy, làm cho cậu ta càng sốt ruột, đứng ngồi không yên.

    Anh Miêu và anh Đường đều im lặng, hai cậu lính trước mặt họ chắc cũng không biết gì. Nếu ở đây có người biết sự thật thì có lẽ chỉ có thể là hai người là anh Miêu và anh Đường mà thôi.

    Chúng tôi kiên trì đợi thêm một lúc nữa, mọi người đều không nói gì, cuối cùng anh Miêu không chịu nổi, thở dài nói với chúng tôi: “Thôi được, thế nhưng tôi chỉ có thể tiết lộ với các cậu một chút thôi, các cậu không được hỏi thêm nữa, biết quá nhiều không tốt cho cả các cậu và tôi đâu!”

    Tôi liền bảo: “Anh cứ nói ra, chúng tôi hiểu anh. Từ nay về sau chúng tôi sẽ không nhắc gì đến chuyện này nữa”.

    Anh Miêu cười đau khổ, đành nhượng bộ: “Đội khảo sát này được đưa vào đây từ nửa tháng trước, tất cả có chín người, bốn chuyên gia, bốn lính chuyên ngành và một chuyên gia được đặc phái.”

    “Chín người?”, Mã Tại Hải thở dài bảo: “Vậy là còn hai người nữa chưa được tìm thấy sao?”

    Anh Miêu lắc đầu đáp: “Không, chỉ một người thôi.”

    Mã Tại Hải bấm đầu ngón tay nhẩm tính, rồi bảo không phải, chín trừ đi bảy, còn hai chứ?

    Anh Miêu chậm rãi nói: “Có một người vẫn sống, ra ngoài rồi.”

    Lúc đó chúng tôi đều giật mình, ngẩn người ra, Mã Tại Hải vội hỏi người đó là ai.

    Anh Miêu lim dim mắt, chỉ tay vào chính mình: “Là tôi đây!”
     
  5. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 44: Anh Miêu

    Tôi ngẩn người ra một lúc rồi mới sực hiểu. Những người khác cũng giống tôi, Vương Tứ Xuyên hỏi lại: “Anh đã từng vào đây?”

    Anh Miêu rút thuốc lá ra, châm thuốc rồi chậm rãi gật đầu.

    Chúng tôi đều hoang mang, ai cũng tái mặt, lặng lẽ nhìn nhau.

    Đầu tôi mông lung một lúc, sau đó tôi đột nhiên thấy buồn cười, tôi phát hiện thực ra mọi tình huống đều khá hợp lí, ngay từ đầu đã có nhiều dấu hiệu cho thấy điều đó rồi.

    Đầu tiên, trước khi xuống đây, anh Miêu biết trước nhóm của đại tá đã tìm ra hang động này. Lúc ấy, tôi ngỡ anh đoán đúng bởi anh quen thuộc với cách làm việc của tổ chức, bây giờ nghĩ lại mới thấy, anh ấy đã từng đến đây, đương nhiên phải biết trước chuyện này.

    Sau đó, nước dâng cao, anh bỗng xuất hiện rất kịp thời, lại còn biết cứ đi về phía trước sẽ tới đỉnh hang động. Ban đầu tôi cứ tưởng do anh ấy có kinh nghiệm phong phú, lúc này nghĩ lại thì rõ là anh ấy đã từng trải qua việc này rồi.

    Sự việc hiển nhiên như bày ra trước mắt, nhưng có lẽ chúng tôi đều là những người đầu óc quá đơn giản nên chẳng ai đoán được tình huống này.

    Một lúc sau, Bùi Thanh lên tiếng phá sự yên lặng, cậu ta lạnh lùng nói: “Mao Ngũ Nguyệt, tôi sớm biết anh có vấn đề, nhưng thật không ngờ anh lại liên can sâu đến như vậy, chuyện này rốt cuộc như thế nào, anh phải kể cho rõ ràng, không đừng trách chúng tôi không nể tình giai cấp!”

    Anh Miêu bình chân như vại, lắc đầu đáp: “Lúc nãy đã nói rồi, tôi chỉ kể được tới đây, cấp trên cũng có những cân nhắc riêng. Hơn nữa, tôi không kể ra cũng vì muốn tốt cho mọi người thôi.”

    “Con bà nó, anh còn làm ra vẻ cán bộ mẹ gì nữa?” Vương Tứ Xuyên tức tối, cậu ta bỗng chốc nổi giận đùng đùng, chồm dậy, định lao vào đánh anh Miêu. Vừa mới định xông ra, thì anh Đường ngồi cạnh vội lao tới, ôm lấy Vương Tứ Xuyên, hai người quấn vào nhau. Anh Đường vốn là một tay chuyên nghiệp nên ra tay rất nhanh, Vương Tứ Xuyên to xác nhưng bị đốn ngã chỉ trong chốc lát. Có điều, Vương Tứ Xuyên cũng không phải tay vừa, vừa ngã xuống, cậu ta đã thò chân ra ngáng, khiến anh Đường cũng ngã lăn ra đất, vậy là hai người lại tiếp tục lao vào nhau.

    Tôi vốn không muốn làm to chuyện, bỗng nhìn thấy Bùi Thanh cũng xông tới liền giật mình, cứ tưởng sắp đánh nhau to đến nơi, nhưng không phải, cậu ta chỉ muốn xông vào để can hai người, rồi lôi họ ra. Anh Đường chỉ vào mặt Vương Tứ Xuyên mắng: “Cậu có còn là lính nữa không hả? Định giở trò gì nào? Anh Miêu không nói, là do phải tuân thủ kỉ luật tổ chức, các cậu chỉ là lính quèn, chúng tôi phải nghe cậu hay nghe cấp trên hả?”

    Những lời nói đó xem ra không hiệu quả lắm, thực ra, ý của anh Đường có hai điểm như sau: Thứ nhất, không phải anh Miêu không muốn nói mà là không được phép nói, thứ hai đó là do mệnh lệnh của trung đoàn ban xuống. Ý anh Đường muốn bảo chúng tôi đừng nhiều lời nữa.

    Tất cả anh em lính tráng đều đổ xô lại, tôi biết có đánh chết anh Miêu cũng sẽ không nói, còn Vương Tứ Xuyên lại là người hễ máu nóng bốc lên thì dám đánh chết người. Tôi chỉ sợ cậu ta lại nói lung tung, bị người ta chụp mũ cho cái tội phản cách mạng thì nguy to, thế là tôi vội vàng ngăn cái miệng cậu ta lại, bảo mỗi bên nhường nhau một tí. Mã Tại Hải đứng bên thấy không khí căng thẳng, cũng vội chen vào nói mấy lời can ngăn: “Các lãnh đạo khoan hãy bàn vấn đề này, có một điểm tôi thấy rất đáng ngờ, nếu anh Miêu là người may mắn sống sót, vậy thì trong động chỉ còn một người thôi, liệu đó có phải là người đã đánh lén anh Ngô lúc nãy không?”

    Mã Tại Hải nhắc đến chuyện này, làm mọi người không khỏi ngỡ ngàng. Vừa nghe nói có người định giết tôi, anh Miêu bỗng cảm thấy có gì bất ổn, liền hỏi chuyện ám sát cụ thể như thế nào? Tôi liền đem chuyện lúc trước suýt nữa bị người ta chôn sống dưới hố băng kể lại cho mọi người nghe.

    Anh Miêu nghe xong, chau mày suy nghĩ. Anh Đường hỏi có nên cử người đi kiểm tra không, anh Miêu vội xua tay bảo: “Không cần, tôi thấy chuyện này rất bất thường!”

    Tôi hỏi có vấn đề gì, anh Miêu trả lời: Căn cứ vào những thông tin anh nắm được lúc trước thì đội khảo sát bí mật vào trước chúng tôi có tất cả chín người, trong có đó ba người là nữ. Căn cứ vào số xác chết, thì hiện tại chúng tôi mới tìm được bảy người, thêm anh Miêu là tám, vậy vẫn còn một người nữa chưa tìm được và người đó ắt phải là một phụ nữ. Nhưng theo những gì tôi mô tả về người mặc quân phục lính Nhật lén tấn công lúc nãy, thì đó lại là một người đàn ông.

    Vương Tứ Xuyên hỏi lại tôi có chắc đã nhìn thấy rõ kẻ đó là nam hay nữ không?

    Tôi nhớ lại, rồi kiên quyết khẳng định đó là đàn ông, bởi dáng người hắn ta cao lớn, hơn nữa hồi nhỏ còn ở quê tôi cũng hay tham gia các vụ đánh lộn nên có thể phân biệt rõ ràng đánh nhau với con trai khác đánh nhau với con gái như thế nào.

    Chuyện này đúng là có gì đó rất bất thường, nếu người đánh lén tôi là một gã đàn ông, trong khi người chưa tìm được của đội khảo sát tốp trước lại là một người phụ nữ, vậy có nghĩa là người đánh lén tôi không thuộc đội khảo sát đó, vậy người đó là ai? Nếu không phải người của đội khảo sát thì hắn ở dưới này làm gì?

    Lẽ nào nơi đây thực sự còn tồn tại lính Nhật?

    Mọi người bàn tán ồn ào, nhưng bàn đi tính lại vẫn không lý giải nổi sự việc đó. Cuối cùng, Bùi Thanh hỏi: “Hay kẻ đó là Trần Lạc Hộ? Ở đây chỉ thiếu mỗi anh ta.”

    Vương Tứ Xuyên lắc đầu bảo không thể xảy ra khả năng đó, Trần Lạc Hộ lấy đâu ra gan đánh người.

    Bùi Thanh đáp: “Cậu đừng ngộ nhận, khó mà đoán được lòng dạ thật của con người, biết đâu anh ta ngụy trang, tôi thì thấy sự nhát gan của anh ta giả dối thế nào ấy.”

    Tôi bắt đầu thấy mọi chuyện rối tung cả lên. Anh Đường vội xua tay bảo mọi người yên lặng, anh bảo rằng tôi và đội phó đều bị thương, lại vừa trải qua một chặng đường gian nan mới tới được đây, giờ chắc cũng mệt rồi, cần phải nghỉ ngơi, bây giờ không nói chuyện này nữa, anh sẽ cử người đi tìm kiếm xung quanh xem sao, đợi đến lúc chúng tôi khỏe lại thì sẽ tính tiếp nên làm gì.

    Cơ thể chúng tôi đúng là cũng chịu hết nổi, nghe anh Đường nói vậy, mọi người cũng yên lặng trở lại. Anh Đường nói đúng, lúc đó chúng tôi có bàn tiếp cũng chẳng thu được gì mới, vậy là mọi người tản ra, nhờ vậy không khí cũng loãng ra được một chút.

    Mọi người nấu nước và lương khô ăn cho ấm bụng, mấy cậu lính múc cho tôi một bát. Anh Đường thấy tôi có vẻ lạnh liền cho thêm một ít tương ớt mà anh mang theo vào bát của tôi, tôi ăn xong mồ hôi vã ra đầy người.

    Ăn thì cố mà ăn vậy, chứ tôi cảm thấy mí mắt của mình sắp sụp xuống đến nơi, chỉ muốn lăn ra ngủ.

    Hồi trước, có người kể với tôi rằng người chiến sĩ trên sa trường có thể ngồi ngủ trên lưng ngựa, tất cả những loài thú nuôi bốn chân, trừ chó ra, tôi đều đã cưỡi, nhưng chưa lần nào ngủ được trên lưng chúng, cho nên tôi vẫn không tin lời người xưa kể. Nhưng đến hôm nay thì tôi tin, tôi rất buồn ngủ, lúc này trong đầu tôi chỉ tồn tại một cảm giác duy nhất là chẳng gì trên đời còn quan trọng nữa cả, cứ để nó trôi đi, thậm chí thích giết thì cứ giết, mình cứ ngủ cái đã.

    Có điều, đúng lúc cảm thấy buồn ngủ nhất, tôi lại không thể ngủ được, bởi tôi nhìn thấy hội anh Miêu trải một tấm bản đồ ra bên cạnh đống lửa và đang chuẩn bị kiểm tra cái gì đó.

    Tôi biết ngay đó là tấm bản đồ vẽ địa hình ở dưới này, vậy là tôi cố chống lại cơn buồn ngủ, ngồi dậy và mò sang bên đó, bảo anh Miêu cho xem cùng. Anh Đường muốn tôi nghỉ ngơi nên bảo tôi không cần qua. Nhưng tôi vẫn cứng đầu muốn xem rốt cuộc hang động này cấu tạo như thế nào, cuối cùng anh Miêu đành đưa cho tôi.

    Tấm bản đồ khá cũ kĩ, cầm trong tay, tôi có thể cảm nhận mặt giấy đã rất mềm. Tôi trải tấm bản đồ xuống đất, lúc đó Vương Tứ Xuyên cũng xúm vào xem, rõ ràng cậu ta có hứng thú với thứ này. Xem ra tinh thần của cậu ấy rất tốt, sức lực của dân du mục chảy trong người khiến cậu ta ăn uống tốt hơn tôi rất nhiều. Tôi tập trung nhìn và nhận ra toàn bộ bình điện của hệ thống sông ngầm, một lát sau, tôi đã nhìn thấy kí hiệu “Nhánh số 0” ở chỗ con đập, nơi chúng tôi từng đến.

    Quân Nhật làm bản đồ tỉ mỉ đến mức khiến tôi phải kinh ngạc, những điểm đầu nguồn to nhỏ của con sông ngầm được vẽ rõ ràng trên tấm bản đồ, cửa hang nơi chúng tôi đi vào được tô rất đậm; các cửa hang khác cũng được tô đậm tương tự như vậy. Tất cả có bốn cửa hang, có điều chúng nằm trên những dòng chảy khác.

    Toàn bộ hệ thống hang động rất lớn, những kiến thức trên sách vở có lẽ chẳng có tác dụng gì với hiện thực ở nơi đây, lúc này chúng tôi phải phát huy năng lực quan sát của bản thân mà phán đoán. Mọi người dần dần xúm lại quanh tấm bản đồ, rồi cùng nhau quan sát và phân tích nó.

    Dòng sông ngầm có tất cả bảy nhánh, trong đó các nhánh số 3, số 4, số 5, số 6 đều là những nhánh rẽ của nhánh sông số 2. Cửa hang chúng tôi đi xuống chính là nhánh sông số 2, có thể thấy rõ cửa hang được đánh dấu trên bản đồ, bốn nhánh sông nhỏ bắt nguồn từ nhánh này dần dần chảy vào các khe đá và chấm dứt tại đó, trên thực tế chúng không phải một nhánh sông ngầm thật sự, hơn nữa điểm cuối cùng cũng không có hồ chứa nước. Ngoài điểm cuối của nhánh số 6 được quân Nhật lựa chọn làm trung tâm ra, điểm đầu của ba nhánh còn lại đều không hề thấy dấu hiệu của quân Nhật.

    Đó là một hệ thống độc lập, nó giống như một cây lắm cành nhiều chạc mà nhánh sông số 2 là thân cây, các nhánh sông số 3, số 4, số 5, số 6 là bốn nhánh chính của thân cây đó.

    Hai nhánh sông khác lại là hai hệ thống độc lập, nhánh số 1 và nhánh số 7 hội tụ phía trên thượng lưu, tạo thành bãi bồi số 0, nơi xây con đập.

    Một điều khiến chúng tôi rất kinh ngạc nữa là những nhánh sông này không hẳn hoàn toàn độc lập, có thể thấy chúng được kết nối bởi rất nhiều các khe suối. Quân Nhật đã vẽ chúng rất chi tiết trên tấm bản đồ. Thông qua hệ thống sông ngòi khe rạch giống như mê cung này, quân Nhật có thể đi lại dễ dàng mà không gặp bất cứ trở ngại nào.

    Ngoài ra, trên bản đồ còn đánh dấu những biểu thị của tổ hợp máy phát điện tạm thời giống như loại máy phát điện cỡ nhỏ mà chúng tôi gặp ở chỗ hố sụt, trong đó có mấy kí hiệu chúng tôi không thể đọc ra được, không hiểu đó là kí hiệu cho loại thiết bị gì.

    Nhìn mãi, tôi chợt nảy ra một vấn đề, liền quay sang hỏi anh Miêu: “Bây giờ các anh định thế nào? Có phải các anh không muốn quay trở về mà sẽ tiếp tục chui xuống dưới dựa vào tấm bản đồ này? Các anh làm vậy vì mục đích gì? Lẽ nào để cứu một người còn thất lạc kia?”

    Anh Miêu lắc đầu, chỉ vào một điểm trên tấm bản đồ, rồi nói: “Chính vì cái này!”

    Tôi nhìn theo chỗ tay anh chỉ, ngón tay dừng lại phía trên kí hiệu đập nước. Ban đầu tôi tưởng anh định chỉ chiếc máy bay Shinzan, nhưng sau đó mới phát hiện chỗ anh chỉ là một bên của con đập, chỗ khoảng không sâu hút dưới lòng động.

    Tôi ngạc nhiên không hiểu. Khi nhìn bên ngoài thực tế, khoảng trống thăm thẳm không biên giới đó khiến tôi có cảm giác vô cùng sợ hãi và tuyệt vọng, nhưng trên tấm bản đồ này, nó chỉ là một khoảng trắng trống trơn, không biết anh Miêu có ý gì với không gian này?

    Tôi đem những thắc mắc của mình hỏi anh, nhưng anh Miêu chỉ hút thuốc mà không trả lời, anh Đường đứng cạnh trề môi chỉ vào những đường kẻ dài ngắn cắt nhau trên bản đồ, rồi làm một động tác ra dấu, sau đó thầm thì: “Cậu không phải là dân công trình, nên không lý giải được vấn đề, cậu xem kĩ cái đường này đi, rồi tôi giải thích cho cậu nghe!”

    Tôi gật đầu, anh tiếp tục giải thích: “Những kí hiệu của quân Nhật khác với chúng ta, tuy nhiên, thông qua tần số suất hiện các tuyến đường trên tấm bản đồ này, chúng ta có thể phát hiện ra đó là đường gì. Cậu xem này, những đường kẻ này chính là đường dây cáp điện, chúng xuất hiện rất nhiều trên bản đồ, chỗ nào cũng có, giống như mạng nhện ấy, những đường kẻ đó đều xuất phát từ chỗ máy phát điện, cho nên rất dễ nhận ra. Nhưng cậu xem chỗ đường kẻ mờ hơn này, đầu những đường này đều là kí hiệu hình điện thoại, số lượng đường kẻ kiểu này cũng không nhiều, chứng tỏ nó là dây điện thoại. Trên bản đồ còn có một đường nét đứt, nó đập ngay vào mắt tôi vì trên cả tấm bản đồ chỉ có một đoạn đường kẻ kiểu này. Tôi không thể giải thích được, tôi đang nghĩ đoạn đường kẻ ngắn này thể hiện cái gì ở đây?”

    Nói rồi anh di chuyển ngón tay dọc theo đường kẻ đó, cuối cùng chỉ đến một nơi: “Sau khi kiểm tra kĩ hai đầu của đường kẻ này, tôi chợt hiểu ra vấn đề, cậu có biết đây là đâu không?”

    Tôi nhìn theo ngón tay chỉ dẫn của anh, một đầu của đường kẻ chính là điểm tận cùng của nhánh sông số 6 – phòng điện báo. Tôi lộ rõ vẻ kinh ngạc. Vương Tứ Xuyên đứng bên cũng thốt lên: “Phòng điện báo chính là điểm cuối của con đường này sao?”

    “Đúng vậy, con đường này tượng trưng cho ăng ten thu nhận sóng của máy điện báo đặt trong phòng điện báo. Ban đầu, chúng ta đều ngỡ rằng ăng ten dẫn xuống mặt đất và dùng để liên lạc với các cứ điểm khác của nó, thế nhưng xem lại cẩn thận, tôi thấy không phải vậy, đầu còn lại của ăng ten không chạy trên mặt đất, mà chạy xuống chỗ này!” Anh chỉ tay ra bên ngoài con đập, một đầu của đường kẻ đó chạy đến đây thì chấm dứt, nó biến thành một dấu hoa thị “*”, vừa nhìn đã biết đó là một cột thu phát tín hiệu khổng lồ.

    Đột nhiên tôi cảm giác người nổi đầy gai ốc, mồ hôi vã ra đầm đìa.

    Cha mẹ ơi! Bỗng chốc tôi đã hiểu ý của anh Đường.

    Kí hiệu cho thấy hệ thống thu phát của máy phát điện báo nằm phía trên con đập, chĩa ra ngoài khoảng không hư vô!

    Họ đã nhận được một bức điện mật theo quy cách viết code năm 1942 của Nhật từ máy phát điện báo?

    Tín hiệu không thể đến từ mặt đất!

    Vậy những tín hiệu điện báo chúng tôi nhận được đến từ đâu? Tôi nhìn biểu tượng hoa thị trên tấm bản đồ và biết rằng chỉ có duy nhất một đáp án cho câu hỏi ấy.

    Tín hiệu đó đến từ không gian đen tối vô cùng vô tận dưới kia.

    Hai mươi năm trước, quân Nhật đã xuống nơi này và phát ra tín hiệu đó.
     
  6. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 45: Điện báo


    Anh Đường nói ra những điều này bằng giọng rất đỗi nhẹ nhàng, nhưng tôi và hội Vương Tứ Xuyên vẫn cảm thấy có một luồng sóng lạnh chạy dọc khắp người khiến cho chúng tôi phải sởn gai ốc.

    “Hai mươi năm trước, một chiếc máy bay ném bom có biệt hiệu Shinzan đã cất cánh ở độ cao một ngàn hai trăm mét trên dòng sông ngầm này, nó đã vượt qua đập nước dưới lòng đất, lượn vào vùng không trung rộng lớn đằng sau con đập kia, rồi mất hút trong bóng đêm không bờ bến. Chúng tôi không rõ chiếc máy bay đã gặp phải sự cố gì và phi hành đoàn đã nhìn thấy những gì ở dưới đó.”

    Những sự việc này vượt quá sức chịu đựng của chúng tôi, bây giờ tôi còn phát hiện trong miền bóng tối mênh mông đó, chẳng ngờ lại truyền đến một tín hiệu điện báo. Thật không thể tưởng tượng nổi!

    Ngay sau đó, tôi liền nghĩ ngay đến số lượng lớn hàng hóa vật tư buộc chặt để thả dù chất thành từng đống ở đây, tôi chợt hiểu chỗ vật dụng đó sẽ được chuyển đến nơi nào.

    Tất cả sự bố trí trong căn cứ địa này rõ ràng đều được làm để con người có thể nhảy dù xuống khoảng mênh mông dưới lòng đất ấy. Hơn nữa, nếu quân Nhật không thất bại trong chiến tranh thì hoạt động bay này nhất định sẽ được tiến hành rất nhiều lần, cho đến khi toàn bộ số vật dụng trong kho đều được chuyển đi hết mới thôi.

    Anh Đường nói: Phát hiện này thực sự khiến mọi người kinh ngạc, cho nên các anh cần kiểm chứng lại. Họ xuống dưới con đập này là để tìm kiếm chiếc ăng ten. Nếu quả thực như thế thì sự việc đã hoàn toàn chuyển sang một chiều hướng khác. Tôi liền hỏi các anh đã tìm được cột ăng ten chưa? Anh Đường lắc đầu ngao ngán nói: “Tạm thời vẫn chưa tìm được”. Bởi họ không thể nào xuống được bên dưới con đập, nên bây giờ họ mới đến chỗ này tiếp tục tìm đường đi xuống bên dưới.

    Đi xuống bên dưới, nghĩa là thế nào, thật không thể hiểu nổi.

    Hai mươi năm trước, chắc chắn quân Nhật cũng từng gặp phải vấn đề như chúng tôi hiện tại. Chắc chắn lần đầu tiên đối diện với khoảng không hư vô này, họ cũng sẽ tự hỏi: “Rốt cuộc nơi này là nơi nào, bên trong nó có gì, làm cách nào để xuống được dưới đó?”

    Việc chúng tôi lâm vào hoàn cảnh này, chứng tỏ quân Nhật đã giải quyết được nghi vấn cuối cùng và phát tín hiệu phản hồi.

    Từ lúc này, trong đầu tôi đã có được một khái niệm rất rõ ràng đối với tất cả sự việc đã xảy ra ở nơi này: hai mươi năm trước, quân Nhật đã phát hiện và tiến hành cải tạo phần lớn kiếm trúc ban đầu ở dưới này, đồng thời tiến hành thử nghiệm thành công chuyến bay của chiếc máy bay chiến đấu hạng nặng Shinzan. Tuy rằng trong quá trình hạ cánh, chiếc máy bay đã gặp nạn và bị phá hủy, nhưng cả quá trình đó chỉ có thể hình dung bằng hai chữ “điên cuồng”.

    Thậm chí, tôi có thể đoán ra được rất nhiều các chi tiết cụ thể. Ví dụ như chiếc máy bay Shinzan chắc chắn không phải chiếc máy bay đầu tiên cất cánh bay xuống vực thẳm. Để thử nghiệm tính khả thi, tàn tích của chiếc máy bay chiến đấu cỡ nhỏ mà chúng tôi phát hiện ở dưới nước lúc trước có khả năng là đối tượng thử nghiệm đầu tiên. Nhật Bản là quốc gia có kỹ thuật mẫu hạm hàng không khá phát triển. Trong điều kiện này, cho một chiếc máy bay chiến đấu cỡ nhỏ cất cánh sẽ đơn giản hơn nhiều một chiếc máy bay ném bom cỡ lớn.

    Tôi hỏi anh Đường kế hoạch hoạt động tiếp theo, anh ấy liền chỉ ra mấy điều cần chú ý.

    Công việc bọn tôi khác với nhóm của anh ấy, bộ đội công trình cần phải hành động cẩn thận, chính xác, nên hội của anh phải đi chứng thực một vài điều, để bản báo cáo cho cấp trên được chính xác một trăm phần trăm. Đây là quy tắc làm việc mà Mao Chủ Tịch đã phê chuẩn vào thời kì đó, bộ đội công trình luôn luôn phải đi trước bộ đội chiến đấu để mở núi lắp đường, gặp sông bắc cầu, bất kì sai sót nào cũng có thể dẫn đến việc bại lộ ý đồ chiến thuật chiến tranh, cho nên bất luận làm việc gì cũng phải cẩn thận tỉ mỉ.

    Anh Đường nói với chúng tôi, các anh bắt buộc phải xác định những tín hiệu phát đi từ trong lòng đất này, chỉ khi làm rõ được sự việc thì mới có thể đi đến kết luận, nếu không, bản báo cáo có thể gây cho cấp trên hiểu nhầm tai hại.

    Cho nên công việc tìm kiếm cứu nạn sẽ vẫn tiếp tục, chúng tôi hoàn toàn không biết được tình hình bên ngoài con đập như thế nào, kế hoạch quá chi tiết cũng không có tác dụng gì vào lúc này, thôi thì đành phải lấy bất biến ứng vạn biến. Công việc tìm kiếm con đập để cho nhóm bộ đội công trình đảm nhiệm, còn nhóm cán bộ địa chất chúng tôi thì không được đi tản mát, nhiệm vụ của đội khảo sát đến đây là kết thúc.

    Tôi nghĩ, nhiệm vụ của đội khảo sát chúng tôi đến đây đúng là đã kết thúc, bên dưới khoảng hư vô này chắc chắn không thể là một hố dầu rộng hàng ngàn hecta được. Những hoạt động của quân Nhật ở đây chắc chắn không liên quan nhiều đến hoạt động khảo sát tài nguyên dầu mỏ. Thực ra, ngay từ lúc bắt đầu bước chân vào dòng sông ngầm dưới lòng đất, nhiệm vụ của chúng tôi đã kết thúc. Anh Đường nói vậy không hề sai, bởi thực sự chúng tôi không thể tham gia vào những công việc tiếp theo. Lúc này, chúng tôi không có đường tiến cũng chẳng còn đường lui.

    Mọi người trong đội không ai phản đối gì. Anh Miêu cũng không tỏ thái độ gì, chỉ im lặng uống trà, nghe chúng tôi nói chuyện. Nét mặt anh biểu lộ trạng thái cảm xúc như thể anh thấy những gì chúng tôi đang nói thật nực cười.

    Lúc đó tôi cũng không để ý gì, không nghĩ ngợi gì, nhưng không lâu sau, tôi cũng có cảm giác giống như thế.

    Tôi đem cảm giác hoang mang vô vọng như lạc xuống địa ngục vào trong giấc mộng. Đúng là trong lúc tinh thần hoảng loạn, kích động như vậy, khó tránh khỏi việc gặp ác mộng. Trong mơ, tôi thấy không gian rộng lớn hư vô đó giống như một cái miệng ngoác rộng, còn tôi đang đứng sát mép ngoài của đỉnh đập, mặc kệ cuồng phong táp vào mặt, tôi chỉ biết trơ mắt nhìn nó ngày càng áp sát đến gần. Bốn bề vách đá xung quanh dần dần bị thứ bóng tối nhìn như không thấy điểm tận cùng đó ăn mòn cho đến khi hoàn toàn biến mất. Tôi lại mơ thấy mình ngồi trong chiếc máy bay, cứ bay một cách vô định vào hư không, không nhìn thấy gì xung quanh mình, bay mãi, bay mãi mà không thể tới đích.

    Cảm giác này còn kinh khủng hơn nhiều so với cảm giác lúc trước đó, nhưng tôi vẫn không thể tỉnh lại, cứ thế ngủ gần chục tiếng đồng hồ, mãi tới lúc ăn cơm, Vương Tứ Xuyên mới đánh thức tôi dậy.

    Anh Đường đã dẫn người đi, anh Miêu cũng đi nốt. Tôi cũng sớm dự đoán được rằng cho dù chúng tôi không đi, thì chắc chắn anh Miêu cũng sẽ đi theo anh em công trình, bởi anh có vị trí chức vụ khác với chúng tôi, nếu không làm gì có chuyện anh ép được Ái Quốc Vinh cử đội quân tiên phong đến cứu chúng tôi.

    Trực giác mách bảo tôi, những sự việc phát sinh ở đây đã vượt quá sự hiểu biết hay phạm vi lý giải của tôi, tôi không muốn phải đau đầu suy nghĩ về bất cứ điều gì nữa.

    Tôi vừa ăn vừa nghe Bùi Thanh và Vương Tứ Xuyên kể về những sự kiện xảy ra ở con đập này. Họ đang đoán già đoán non xem bên trong hầm băng rốt cuộc có thứ gì.

    Chúng tôi chỉ hiểu mơ hồ về cấu kết của con đập to lớn này, đặc biệt là con đập với công dụng đặc biệt này. Chúng tôi hoàn toàn không hiểu những trang thiết bị được chất đống bên dưới con đập này được dùng để làm gì và đương nhiên cũng không thể phán đoán được tác dụng của chúng.

    Bây giờ, điều duy nhất chúng tôi biết rõ ràng là hai bên con đập có buồng lặn nằm dưới nước dùng để vận chuyển vật liệu, bên dưới mực nước của con đập là một cái hầm băng khổng lồ lưu giữ đạn dược và một nhà kho rộng lớn chứa rất nhiều các loại đồ quân dụng khác nhau.

    Vương Tứ Xuyên vừa ăn món bột rau nghiền vừa bảo với tôi: “Tôi cảm giác như chỗ chúng ta có lẽ chính là phần đáy của con đập. Bởi nếu chỗ đầu đạn này dùng để phá hủy con đập, thì họ phải bố trí để nó ở phía dưới đáy con đập, chỉ như vậy mới bảo đảm phá hủy được toàn bộ phần kiến trúc phía trên của con đập.”

    Nhưng có một điều chúng tôi không thể lý giải nổi là tại sao phải đóng băng số đầu đạn ấy? Chỉ có chất nitroglycerin[1] mới cần làm lạnh, nhưng chất này lại không dùng để làm đạn được, hơn nữa khi đã lên nòng và ở nhiệt độ cao thì đầu đạn sẽ dễ phát nổ hơn nhiều so với khi đạn còn trong vỏ, và lại rất nguy hiểm trong quá trình vận chuyển.

    [1] Nitroglycerin: là một chất lỏng không màu, được dùng cho các ứng dụng thuốc nổ và một số ứng dụng khác.

    Nói tóm lại, chỉ một thứ duy nhất cần phải bảo vệ dưới nhiệt độ rất lạnh, đó chính là vũ khí hóa sinh.

    Chiến tranh sử dụng vũ khí sinh học của quân Nhật tại Trung Quốc được ghi chép khá nhiều trong các tài liệu lịch sử, thế nhưng đa số người dân Trung Quốc chỉ biết đến đơn vị 731[2] của Nhật.

    [2] Đơn vị 731: là một đơn vị nghiên cứu và phát triển vũ khí hóa-sinh của Quân đội Hoàng gia Nhật Bản, đơn vị này đã tiến hành nhiều thí nghiệm nguy hiểm trên cơ thể người trong chiến tranh Trung – Nhật lần thứ hai (1937-1945) và chiến tranh thế giới thứ hai. Đơn vị được công bố rộng rãi là Cục phòng chống dịch bệnh quân đội Quan Đông.

    Chỉ một bộ phận rất nhỏ như chúng tôi, những cán bộ địa chất suốt ngày vượt suối băng rừng, tiếp cận với các hang động mới biết được dự án 731 thực ra chỉ là một phần nổi rất nhỏ của tảng băng chìm. Trong mười mấy năm làm nghề khảo sát địa chất, tôi đã từng thấy rất nhiều phế tích các công trình kiến trúc bê tông của quân Nhật để lại giữa rừng sâu trong thời kì Chiến tranh Trung Nhật. Những kiến trúc này tuy đã bị phá hủy về cơ bản, nhưng kết cấu của nó vẫn còn, công trình nào cũng có nhà tù ngầm bí mật và phòng giải phẫu xác người. Một đồng nghiệp kể với tôi rằng quy mô chiến tranh sinh học ở Trung Quốc không chỉ dừng lại ở vài điểm nhỏ lẻ như thế.

    Bề ngoài không giống vũ khí sinh học, chúng không thể tình cờ cùng xuất hiện tại nơi này được, mục đích quân Nhật thăm dò khu vực này rất rõ ràng, chúng không thể vô duyên vô cớ chất đống đầu đạn vũ khí sinh học ở đây được. Rốt cuộc, số vũ khí này dùng để làm gì?

    Lúc đó tôi bỗng nghĩ: nếu chẳng may máy bay nén khí ngừng hoạt động thì thế nào? Nhiệt độ nơi này tuy rằng rất thấp, nhưng dần dần lớp băng sẽ tan chảy ra, lúc đó thì những đầu đạn kia sẽ ra sao?

    Hiển nhiên không thể dự đoán được những tình huống có thể xảy ra.

    Anh Đường mang người đi kiểm tra, khu vực xung quanh kho lạnh chắc không rộng lắm, nên tôi có thể nghe thấy tiếng động của họ, không lâu sau, có người quay trở lại chỗ chúng tôi. Cậu lính này lạnh tới mức nước mũi chảy ra ròng ròng, nom như trẻ con.

    Chúng tôi ngồi đợi mãi cũng cảm thấy thật vô vị, Vương Tứ Xuyên đứng ngồi không yên, liền rủ chúng tôi đi ra đó xem sao.

    Chúng tôi cuốn chặt áo vào người, đi ra ngoài hầm lạnh, đi về hướng tiếng gọi vọng đến. Đi được hơn chục phút tôi cảm giác như có điều gì bất ổn, nơi này càng ngày càng lạnh, lông mày tôi đông cứng lại, sương băng đọng từng hạt, ban đầu nhiệt độ đâu có thấp đến mức này?

    Chân tay chúng tôi run lập cập, cảm giác như đang chống chọi với những cơn gió lạnh của ngày đông giá rét trên đỉnh Đại Hưng An Lĩnh. Đi thêm lát nữa, chúng tôi nhìn thấy lác đác mấy bóng người ở phía trước; đi tới gần hơn thì thấy anh Đường vừa đá chân vừa hò hét điều gì đó. Tiếng động phát ra càng lúc càng to, hình như họ đang đào hố thì phải.

    Đây là khu vực trung tâm của hầm lạnh, chúng tôi đi vào sâu thêm, thì lập tức phát hiện họ đang cuốc mặt băng.

    Mấy cậu lính đang giơ loại rìu chuyên dụng, gắng sức bổ xuống mặt băng, nhưng xem ra không mấy hiệu quả, mặt băng không lõm xuống sâu được bao nhiêu, trên đất vương vãi rất nhiều vụn băng.

    Tôi cảm thấy làm thế rất nguy hiểm, bên dưới là đầu đạn, không hiểu anh Đường làm vậy nhằm mục đích gì, tôi liền tới gần, hỏi xem họ định làm gì, rồi dặn dò đào chỗ này phải cẩn thận.

    Anh Đường lạnh tím cả môi, run rẩy chỉ cho tôi xem khối đen mờ mờ to lù lù bên dưới lớp băng, vì phía trên mặt băng bị cuốc nham nhở, từng lớp băng vụn được cào thành đống nên cũng khó nhìn rõ bên dưới là gì, nhưng tôi đoán chắc đó là đầu đạn hoặc địa lôi.

    Tôi đi quanh khối đen đó một vòng, chợt phát hiện hình dáng của cái bóng khổng lồ đó giống hệt một cái ghim giấy, phát hiện ấy khiến tôi hít ngược một hơi lạnh. Sự thật vẫn là sự thật, nhìn kĩ lại lần nữa tôi có thể thấy hình dáng của nó giống như hình chữ U.

    Tôi nhận thấy hình thù này thực giống một cần ăng ten cỡ lớn.

    Tuy rằng rõ ràng nhìn thấy nó tồn tại trước mặt, nhưng lúc đó thực sự tôi vẫn mông lung, không hiểu vì sao người ta lại cho đông lạnh cần ăng ten đó.

    Tôi nhìn kĩ lại thì thấy không chỉ có vật này, ngoài bóng ăng ten ra, còn có một cái bóng khác, rất to nhưng mờ hơn nằm bên cạnh. Chắc đó là một loại máy móc nào đó được chôn sâu hơn bên dưới lớp băng. Cái bóng này to gấp ba lần cần ăng ten, hình dạng tròn tròn trông như cái muỗng canh.

    “Cái quái gì thế này?”, tôi run rẩy hỏi anh Đường: “Sao ăng ten mà các anh cần tìm lại nằm ngay dưới lớp băng thế này?”

    “Đây không phải ăng ten”, anh Đường chỉ vật hình chữ U bên dưới lớp băng giải thích, “Đây là một loại ra-đa có tên gọi Würzburg”[3]

    [3] Würzburg: một loại ra-đa của Đức được dùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

    “Cái gì?”, tôi giật mình ngây người ra, một lúc sau mới lẩm bẩm: “Sao nó to thế?”

    Anh Đường bảo, lúc này thật khó để giải thích cho tôi hiểu, mặc dù anh rất thông thạo loại máy này, nhưng vấn đề là tôi lại không hiểu lắm về mặt kĩ thuật của nó. Có thể nói một cách đơn giản thế này, ra-đa Würzburg là tên riêng của một loại ra-đa định vị mà Nhật nhập khẩu từ Đức, nó có tác dụng tự động khống chế đèn pha rọi trong công tác phòng không ban đêm. Lúc ở Trung Quốc, quân Nhật không cần kĩ thuật định vị tiên tiến như thế, cho nên số lượng loại ra-đa này không nhiều, chủ yếu chỉ được trang bị cho vùng Mông Cổ và chiến trường Thái Bình Dương. Ban đầu, Trung Quốc cũng định chế tạo một loại thiết bị chống lại loại ra-đa này nhưng không thành công, sau đó loại máy móc này cũng bị đào thải luôn.

    Thời điểm đó, loại ra-đa này được xem là loại ra-đa định vị máy bay tân tiến nhất.

    Đây là những kiến thức các anh được phổ cập trong lúc ở trạm ra-đa, sau đó một bộ phận của binh đoàn bộ đội công trình được tách ra và hoạt động độc lập chuyên nghiên cứu về ra-đa, số này được gọi là bộ đội ra-đa.

    Anh Đường kể, trước đó nhóm anh từng tìm kiếm, nhưng bóng đen dưới lớp băng không lớn như lúc này, nó làm anh giật cả mình. Nghe anh nói, tôi mới thấy đúng là ban đầu bóng đen đó không to như bây giờ, có thể cảm giác to nhỏ đó là do độ rộng của lớp băng xung quanh và độ dày mỏng của lớp băng vòng ngoài tạo thành.

    Anh nhận định, chiếc rađa này chắc là ra-đa dẫn đường cho máy bay, quả thực với nhiệm vụ khó khăn đó, đội bay cần được dẫn đường cẩn thận.

    Nghe anh giải thích, tôi cũng hiểu được đại khái vấn đề. Vương Tứ Xuyên hỏi: “Vậy anh định đào nó lên làm gì? Lẽ nào chiếc máy có liên quan đến bức điện báo trước đây?”

    Anh Đường nói, đừng tập trung vào mỗi vấn đề ấy, nói xong anh rút một sập giấy trong túi ra, trong đó có mấy tấm bản đồ được vẽ bằng bút máy rất nhỏ. Anh tiếp tục giải thích: đội của anh được chia thành mấy nhóm để khảo sát khu vực này, một nhóm do anh Miêu phụ trách, nhóm này có nhiệm vụ tìm kiếm xung quanh nhà kho chứa máy cẩu, chỗ đó đủ rộng để lắp ráp một chiếc máy bay cỡ lớn, nên chắc chắn phải có thang máy lên xuống. Còn nhóm của anh được phân công khảo sát khu vực hầm băng, kết quả là các anh đã tìm thấy khoang thang máy bằng sắt mà chúng tôi đã chui vào, đồng thời nắm được địa hình dưới hầm băng.

    Tấm bản đồ vẽ bốn mặt của khu vực hầm băng này do chính tay anh phác thảo, lính chuyên nghiệp ai cũng có khả năng vẽ phác, dù chỉ là vài nét sơ sài, nhưng tôi vẫn có thể đánh giá được năng lực vẽ của anh. Mấy chiếc máy nén khí đặt khắp nơi trong hầm băng đều được anh vẽ cẩn thận trong bản đồ, nhưng điều khiến tôi chú ý là anh phân tích cả những hình thù vũ khí ẩn ngầm bên dưới lớp băng. Anh Đường cầm cái bút máy chỉ vào bản đồ và nói: “Cậu nhìn chỗ đầu đạn này mà xem! Chúng được phân bố khắp bốn phía trong hầm, tạo thành một vòng tròn, số lượng rất nhiều, còn ở chính giữa là máy rađa W&#252. Cậu nhìn mấy đường kẻ mờ này và cả mấy đường vẽ thô sơ giống hình cái thang này nữa, tôi đoán chúng chính là đường ray để vận chuyển ra-đa; đồng thời phía trên chỗ để ra-đa lại có bốn điểm mù[4], chỗ này chắc là nơi lắp hai đèn chiếu phục vụ cho việc vận chuyển máy ra-đa.”

    [4] Điểm mù: hay khoảng mù thường gặp nhất trên ôtô đi trên đường, nó là hai góc phần tư phía sau do bị giới hạn bởi thân xe hoặc vùng quan sát của gương không đủ lớn.

    Tôi gật đầu, anh tiếp tục nói: “Cậu không thấy có vấn đề khác thường ở đây à? Tự nhiên có một hệ thống ra-đa ở giữa đống đầu đạn, điều này có ý nghĩa gì?”. Lúc này, tôi đờ đẫn hết cả người vì lạnh, không thể nghĩ ngợi được gì nữa, Vương Tứ Xuyên run lập cập, trả lời: “Lẽ nào đây là cái bẫy?”

    Sau khi Vương Tứ Xuyên thốt ra câu này, tôi lập tức hiểu ngay ý của anh. Song nếu đúng thực như thế thì sự việc đúng là khó giải thích quá.

    Không cần giải thích thì ai cũng hiểu, bẫy chính là nơi sắp đặt để hấp dẫn con mồi rơi vào. Vương Tứ Xuyên giải thích tiếp, tình huống này chẳng giống như việc chôn sống anh em binh lính mình sao, làm một mục tiêu giả, bốn bề giăng đầy băng tuyết, rồi dụ chúng ta vào tròng.

    Tất cả đầu đạn bị tháo hết phần đuôi của vỏ đạn, chúng đều trong trạng thái dễ bị phát nổ, điều này có vẻ giống như một cái bẫy khá hấp dẫn những con mồi tò mò như chúng tôi; nhưng đặt ra-đa ở đây để làm gì nhỉ? Lẽ nào nó cũng là một dạng “mồi nhử”? Tôi không thể nghĩ ra máy ra-đa để đó rốt cuộc nhằm thu hút cái gì, đây là loại ra-đa hướng dẫn bay, lẽ nào bọn họ lại muốn hướng dẫn máy bay rơi xuống nơi này, phá hủy toàn bộ các công trình đã xây dựng dưới này?

    Cách giải thích này có vẻ không hợp logic lắm, không hiểu vì sao bọn quỷ kia lại làm thế?

    Nơi đây rất lạnh, chúng tôi không muốn ở lại nữa, anh Đường cũng bảo chúng tôi nên quay về, nếu thực sự muốn giúp đỡ thì có thể đến giúp anh Miêu.

    Chúng tôi quay trở về nơi đóng trại, uống mấy ngụm nước nóng xong thì chẳng muốn đi đâu nữa, tôi ngầm dự cảm về những điều chẳng lành sắp xảy ra.

    Tôi chợt nghĩ về nguyên nhân vì sao quân Nhật lại để chỗ này tan hoang, lẽ nào nguyên nhân lại đơn giản như những gì chúng tôi vừa suy đoán?

    Toàn bộ hệ thống xây dựng dưới này không hề thấy dấu tích tàn phá quân sự, rõ ràng họ đã rút lui trong trật tự, quy củ, vũ khí để lại không bị phá hủy đã đành, thậm chí cả giấy tờ sổ sách cũng không hề bị đốt.

    Chúng tôi phát hiện thấy xác phi hành gia trong chiếc Shinzan, máy bay bị hư hỏng nghiêm trọng nhưng còn những thành viên khác của phi hành đoàn ở đâu? Tại sao người lái máy bay đó lại bị chết mắc kẹt trong máy bay như thế?

    Không biết do nhiệt độ ở bên ngoài quá lạnh hay do những suy nghĩ khiến tôi sợ hãi mà người tôi vẫn run lập cập, không thể nào khống chế được.

    Cảm giác ấy tới tận lúc này tôi vẫn còn nhớ rất rõ, đó không hẳn là sợ hãi, mà là sự dồn nén của rất nhiều cảm xúc tích tụ lại trong người tôi và bây giờ mới phát tác ra ngoài.

    Lúc đó, trong đầu tôi lóe lên suy nghĩ, lẽ nào sau khi chiếc Shinzan hạ cánh, thì toàn bộ khu căn cứ này liền bị phá hủy?

    Nghĩ đến đó, sắc mặt tôi tái nhợt, khiến Vương Tứ Xuyên và Bùi Thanh phải quay sang nhìn xem tôi thế nào. Vương Tứ Xuyên nghĩ chắc tôi vẫn còn mệt, liền bảo tôi ngủ đi một lúc, làm bộ đội, sức khỏe phải đặt lên trên hết, không được ép bản thân quá tải.

    Nhưng tôi lắc đầu, rồi hỏi lại: “Cậu thử đoán xem, sau khi cất cánh, chiếc máy bay ấy bay khoảng bao lâu thì quay trở lại?”

    Vương Tứ Xuyên không hiểu, hỏi tôi nói vậy là ý gì? Tôi trả lời: “Có khả năng đã xảy ra tình huống thế này, sau khi chiếc Shinzan cất cánh bay xuống vực sâu, thì ở đây xảy ra tình huống khẩn cấp, mọi người trong doanh trại buộc phải rời khỏi đây ngay lập tức, đến khi chiếc Shinzan quay trở lại, thì doanh trại đã vắng tanh không còn một ai. Vì trên mặt đất không có bộ hướng dẫn bay, nên chiếc Shinzan buộc phải hạ cánh dựa vào năng lực của phi hành đoàn, và bởi thế chiếc máy bay mới bị phá hủy. Người phi công chết và mắc kẹt trong máy bay, còn những thành viên sống sót trong đội thì chui ra khỏi máy bay, rồi đi đâu không rõ.”

    Lúc đó, tôi vẫn chưa hiểu được khả năng tuần tra của loại máy bay Shinzan này, về sau kiểm tra lại, tôi mới biết, nó có thể bay tuần tra từ mười tới mười bốn tiếng với tốc độ tối đa.

    Cả pháo đài ở đây rộng lớn thế này, để toàn đội quân rút đi tối thiểu cũng cần tới cả trăm giờ đồng hồ. Giả sử lúc chiếc máy bay quay trở lại, bọn họ có gấp rút rời đi thì cũng không thể nào rút đi hết, cho nên điều dự đoán của tôi có lẽ không thể xảy ra.

    Thế nhưng, lúc ấy không ai nghĩ tới tình uống này. Vương Tứ Xuyên nói suy đoán của tôi rất có lý. Bùi Thanh quay sang bảo: “Nơi này không giống đã xảy ra tình huống khẩn cấp, đến máy điện báo cũng không bị lấy đi, giấy in mật mã vẫn còn nguyên, xem ra bọn chúng ra đi còn ung dung hơn cả lúc đầu hàng.”

    Những gì đã diễn ra ở đây có vẻ không giống một cuộc rút lui, mà tất cả mọi người trong pháo đài này như thể bỗng nhiên bốc hơi biến mất.

    Anh Đường cũng từng nhắc đến điều này, lúc các anh ấy đi qua đây đã phát hiện rất nhiều các văn kiện được tấp đống, phủ vải bạt lên trên, điều đó chứng tỏ quân Nhật không có ý định rút lui hẳn mà vẫn định ngày trở về, dường như họ chỉ chuẩn bị để chuyển giao tạm thời. Thế nhưng, rõ ràng sau khi đã rút đi khỏi đây, họ không thể quay lại nữa.

    Nơi này nhất định đã xảy ra chuyện gì đó rất khủng khiếp mà chúng tôi không thể tưởng tượng được. Trong mười mấy tiếng cuối cùng đó, cái pháo đài này chắc chắn đã rơi vào tình trạng mà chúng tôi không thể suy đoán nổi, và tất cả điều đó có lẽ xảy ra sau khi chiếc Shinzan thâm nhập xuống vực sâu.

    Tôi càng nghĩ càng thấy mông lung, liền đứng dậy đến bên sa bàn, xem có tìm kiếm được manh mối gì không. Lúc đó, Vương Tứ Xuyên bỗng kêu lên một tiếng, rồi ngẩng đầu nhìn khắp xung quanh. Tôi giật mình, quay lại nhìn cậu ta, phát hiện không phải cậu ta đang tìm kiếm gì, mà là đang lắng nghe, dường như cậu ta đang lắng nghe tiếng gì đó ở một nơi rất xa, tôi để ý nghe theo thì thấy mơ hồ từ một nơi rất xa bỗng nhiên vọng lên tiếng còi cảnh báo kiểu cũ. Trong căn phòng này, hồi còi đó nghe sao rền rĩ, dư âm rất lâu, nhưng lại rất nhẹ, nếu không tập trung nghe thì sẽ bị tiếng quạt thông gió thổi át đi.

    Bùi Thanh nhìn đồng hồ, tiếng còi cảnh báo tiếp tục kéo rất lâu, sau đó lại thêm một hồi dài nữa rồi mới dừng hẳn.

    Bùi Thanh thở dài một hơi: “Ba phút một hồi dài, đây là tần suất cho loại còi cảnh báo giải tán.”

    Tôi cũng thở phào, thầm khấn “Nam mô a di đà Phật”, xem ra trên kia có chuyển biến tốt. Nhưng chưa kịp suy nghĩ xong đã nghe bốn bề xung quanh bức vách tường sắt có tiếng vận hành của một loại máy móc, âm thanh rất lớn, tiếng động ấy lục cục hồi lâu.

    Tôi đang cố tưởng tượng xem chuyện gì đang xảy ra thì hai cậu lính từ trong nhà kho đi ra báo cho tôi một tin vui: Con đập đã ngừng xả nước, toàn bộ lượng nước mưa từ trong trận mưa lớn trên thượng lưu đã hoàn toàn đổ cả vào khu vực hồ ngầm sâu nhất, chắc lớp sương mù sẽ tan đi rất nhanh, xuống dưới mực cảnh báo. Chúng tôi có thể nghĩ đến chuyện chuyển lên trên được rồi.

    Vương Tứ Xuyên vừa định hỏi: Làm sao các anh biết, thì sự việc lại chuyển sang một tình huống khác, mấy cậu lính cấp dưới của anh Đường từ trong hầm băng bước ra, hai tay khệ nệ khênh một vật gì đó, miệng liên hồi gọi chúng tôi đến giúp.

    Vật đó có vẻ rất nặng. Bốn người ra sức khiêng lên cao, nhưng gần như chỉ kéo lê được nó lên mặt đất. Chúng tôi vội vàng chạy đến, thì thấy đó là một tảng băng to bằng cỡ quan tài. Vương Tứ Xuyên gọi tôi tới, rồi mím môi mím lợi cố hết sức mới nâng được nó lên khỏi mặt đất. Tôi và Bùi Thanh liền chạy tới giúp, cậu lính bên cạnh xua tay ý nói không cần, chỉ mình họ làm là đủ rồi, nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn phải chung tay vào mới xử lý được nó.

    Bên trong hầm băng, mấy cậu lính lại tiếp tục đào được một tảng băng khác, tôi gọi mọi người tới rồi hì hục lôi nó lên, tôi cảm thấy nó nặng khác thường. Quan sát thật kĩ, chúng tôi nhìn thấy một vật gì đó nằm bên trong tảng băng vừa cạy lên.

    Kéo xong hai tảng băng, cả người tôi mỏi rã rời. Tôi hỏi mọi người xem vừa đào được vật gì, mấy cậu lính xoay nghiêng xoay ngửa tảng băng để tôi xem. Quan sát một hồi, tôi giật mình nhận ra, giữa lõi băng đông cứng là một xác chết.

    Một cậu lính buông miệng chửi đổng: “Mẹ nó, hóa ra xác bọn Nhật, vừa phát hiện thấy nó chết cứng trong tảng băng.”

    Người chết nằm trong tảng băng vòng hai tay ôm ngực, thân hình khô quắt, hai mắt nhắm nghiền, gương mặt nhăn nhúm, méo xệch bên dưới lớp băng dày. Tư thế tử vong này chứng tỏ nạn nhân bị hôn mê trong hầm băng rồi mới chết. Tuy người đó mặc áo khoác, nhưng vẫn có thể thấy vóc dáng khá bé nhỏ, dường như chỉ ở độ tuổi vị thành niên.
     
  7. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 46: Thây nữ


    Sau chiến tranh, số lượng lính Nhật còn lại không bao nhiêu, những tân binh dồn đến chiến trường Nội Mông trong trận đánh cuối đều có tuổi đời rất trẻ. Vóc dáng của người Nhật lúc đó khá thấp bé, nên người ta mới gọi là “giặc lùn”. Căn cứ vào đó, thì vóc dáng của xác chết này cũng có thể coi là bình thường.

    Một cậu lính đứng cạnh kể: “Bên trong còn mấy cái xác nữa, tấc cả đều bị buộc xung quanh ra-đa, ối mẹ ơi, đang đào lại thấy bên dưới lớp băng thò lên một cái mặt đen sì làm em hết hồn, suýt thì bổ rìu vào đầu mình.”

    Chúng tôi đều bật cười. Đội phó quay lại nhắc nhở: “Nhìn cậu to như gấu thế này mà yếu bóng vía, không mau thu dọn rồi sang kia giúp mọi người đi!”

    Cậu lính này có lẽ là thành viên trong nhóm của đội phó, nên có vẻ hơi sợ đội phó, cậu ta lập tức nín thinh, cào gọn đống vụn băng sang một bên, rồi chạy đi. Tôi cũng muốn giúp họ một tay, nhưng đội phó cản lại, bảo không cần, bên trong đó rất lạnh, đến anh còn không chịu nổi, vừa ra đó đã phải vội vàng chui vào đây ngay.

    Chẳng bao lâu sau, anh Đường cũng quay lại, anh lắc lắc đầu rũ sương trên tóc, từng mảng lớn rơi lả tả theo động tác của anh. Vừa đến nơi, anh lập tức ngồi ngay xuống cạnh đống lửa để sưởi. Mặt anh lạnh cứng. Sau đó, mấy tảng băng to tiếp tục được khênh vào, rồi mấy người lính lục tục quay trở về, đóng cửa hầm băng lại, sau đó chúng tôi mới cảm giác nhiệt độ ở đó ấm lên được một chút. Anh Đường kể, bên trong còn mấy tử thi nữa, không thể đào hết lên được, nếu đào tiếp thì có khi mình cũng bị chết cóng mất.

    Nhiệt độ ở bên ngoài dường như vẫn tiếp tục hạ thấp, chúng tôi không hiểu vì sao lại vậy. Chúng tôi vứt thêm những thứ có thể cháy được vào đống lửa cốt để lửa cháy đượm hơn, mấy cậu lính lúc nãy phải uống mấy cốc trà nóng mới cảm giác người ấm lên được một chút.

    Vài cậu lính công trình vừa uống trà vừa vây quanh xác chết. Bùi Thanh xem ra khá hứng thú với mấy cỗ tử thi, cậu ta đi tới đi lui lật ngửa toàn bộ xác chết lên, để xem khuôn mặt của họ. Làm xong mọi việc, cậu ta cũng mệt đến nỗi thở không ra hơi.

    Tôi đứng cạnh nhìn, không hiểu cậu ta có ý gì, bỗng nhiên tôi thấy cậu ta đứng ngây người ra sau khi lật ngửa một xác chết lên, rồi cậu ta ngồi sụp xuống.

    Tôi vội cầm cả cốc trà chạy lại, hỏi xem cậu ta phát hiện thấy gì. Bùi Thanh trả lời với vẻ ngạc nhiên tột độ: “Xác chết này là một phụ nữ!”

    Vừa dứt lời, mấy cậu lính đang vừa lật xác vừa nói chuyện ầm ĩ bỗng im bặt, họ đều quay lại chỗ chúng tôi.

    Bầu không khí bỗng chốc chùng xuống, mọi người nhìn nhau, biểu cảm trên gương mặt của những người lính công trình rất kì lạ, sau đó một người đứng dậy, đi tới chỗ cái xác, những người khác cũng tới vây quanh.

    Lúc đó, mọi người đều có cảm giác ngượng ngập, nhưng về sau nghĩ lại tôi thấy đó là cảm xúc rất bình thường. Những cậu lính công trình đều đang ở độ tuổi thanh xuân phơi phới, nhưng quanh năm chỉ biết lê bước chân trên những dặm đường rừng sâu núi thẳm dài dằng dặc, hết đồi núi lại khe suối quanh co, công việc của chúng tôi thực sự rất vất vả, gian khổ, và rất hiếm có cơ hội gặp phụ nữ, cho nên mỗi lần được gặp phụ nữ, đều là một sự kiện khiến trái tim họ xôn xao loạn nhịp. Với độ tuổi này, tôi biết tâm trạng họ luôn có một cảm giác mong ngóng được có cơ hội gặp người khác giới, nên dù chỉ là một xác chết, cũng đủ khiến họ lúng túng ngượng ngùng rồi.

    Huống hồ ở thời đại chúng tôi, phụ nữ Nhật duy nhất mà chúng tôi biết là công chúa Ngọc Phương Đông[1], mà đó hình như chỉ là một danh xưng mà thôi. Nên lúc này tôi không hề phóng đại, những cậu lính này tự nhiên bị xao động tâm hồn cũng là điều hết sức bình thường. Chẳng phải có một câu tục ngữ “Tòng quân ba năm, lợn sề không chê” hay sao.

    [1] Công chúa “Ngọc Phương Đông” Kawashima Yoshiko (Xuyên Đảo Phương Tử), (1907-1948): là một nữ điệp viên Nhật, phản Trung Hoa.

    Tôi cũng đến bên cái xác, nhiệt độ ở đây vẫn rất thấp, về cơ bản, không thể làm tan băng, chúng tôi có thể nhìn rõ cơ thể người phụ nữ bên trong lớp băng nhưng cơ thể người phụ nữ đó rất nhỏ, điều giúp chúng tôi nhận biết được đó là nữ giới có lẽ là do mái tóc.

    Nữ quân nhân Trung Quốc đa số đều để kiểu đầu học sinh, hoặc có người xuống tóc cắt luôn kiểu con trai cho gọn, rất hiếm khi gặp người để tóc dài, dường như chỉ có nữ quân nhân Nhật Bản mới để kiểu tóc dài.

    Tất cả những gì lộ ra bên ngoài cũng chỉ có thế, mấy cậu lính xem mãi, bất giác nhận ra người phụ nữ này và hình ảnh Công chúa Ngọc Phương Đông trong đầu của họ là hai hình ảnh hoàn toàn khác nhau, nên họ chẳng nói chẳng rằng, lần lượt bỏ đi. Chỉ còn Bùi Thanh vẫn ngồi trân trân nhìn cái xác. Tôi gọi cậu ta, cậu ta mới ngẩng đầu lên, sắc mặt cậu ta có vẻ hơi khác thường, nhưng sự thay đổi đó rất nhỏ và chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Tôi tò mò hỏi, cậu ta thở dài: “Xác chết này vẫn còn là một cô bé, bọn Nhật thật tàn ác!”

    Vương Tứ Xuyên ngồi cạnh trả lời: “Chiến tranh có chừa ai, kể cả phụ nữ, cậu có biết cô ta đã giết bao nhiêu người Trung Quốc mình không? Thương xót nỗi gì?”

    Bùi Thanh nhếch mép cười, rồi đột nhiên bảo với tôi: “Anh Ngô, giúp tôi lấy một ít nước nóng, chúng ta rã đông cái xác này ra, để tôi kiểm tra xem cô ta có mang theo gì trên người không!”

    Tôi vội hỏi lại: “Cái gì? Cậu định làm gì nữa?”

    Cậu ta liền giải thích, ở nơi này bỗng nhiên xuất hiện một người phụ nữ là điều rất khác thường, bởi nữ quân nhân trong hàng ngũ quân đội Nhật Bản thường làm những nhiệm vụ rất đặc biệt, có thể họ là thư kí của các sĩ quan cao cấp, đôi khi tuổi đời của họ còn trẻ, nhưng lại đảm nhiệm những chức vụ rất cao. Bùi Thanh muốn tìm hiểu xem cô gái này đến từ đâu, trên người có mang theo thứ gì không, biết đâu lại có những tài liệu có giá trị.

    Nhưng anh Đường vội can đừng dùng nước nóng, nhiệt độ của khối băng này rất thấp, đổ nước sôi vào là nứt ngay, đến lúc đó cái xác bên trong sẽ bị phá hủy, đợi đến lúc tan băng thì thứ nước rã ra cũng toàn là máu. Hồi kháng Mỹ viện Triều anh từng gặp những trường hợp thế này nhiều rồi, thi thể của các chiến sĩ tình nguyện bị đông cứng trong tuyết, sau được đào lên, không có cách nào để cạy thân thể họ ra, cuối cùng phải dùng khăn lông hơ nóng, rồi lau từng tí một để rã chỗ băng bao phủ bên ngoài.

    Hồi tôi làm ở Đại Hưng An Lĩnh cũng biết kiểu làm tan băng như vậy, thời tiết vùng đó cũng lạnh giống như ở trên băng vậy, nhưng làm như vậy thì lớp băng bên ngoài tự khắc tan ra.

    Bùi Thanh không còn cách nào khác đành phải nghe theo. Ở nhiệt độ thế này, nếu đợi lớp băng bên ngoài tự tan ra thì không biết phải đợi đến bao lâu. Bùi Thanh đành cầu viện tôi, chúng tôi lăn cái xác đến cạnh đống lửa.

    Thực sự tôi chẳng có hứng thú gì với việc này, nhưng xem ra lý do của cậu ta khá xác đáng, tôi không thể phản đối, đành giúp cậu ta một tay.

    Lớp băng bên ngoài vỡ ra từng miếng một không theo quy luật nào, tôi lăn cái xác một vòng, toàn bộ cái xác liền lộ ra. Bùi Thanh kêu lên: “Cẩn thận, cẩn thận!”, rồi vội vàng lật lại.

    Tôi chau mày, cảm giác lúc đó thật khó tả. Cảm giác lúc đó, đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, tôi thấy cái xác thật kì cục nhưng tiếc là tôi không có thời gian để phân tích kỹ xem rốt cuộc nó kì cục ở điểm nào, bởi khi ấy toàn bộ sự tập trung của tôi đều dồn vào vật nằm giữa đống băng.

    Tôi thấy sau lưng xác nữ quân nhân là một hộp sắt rất to với hình dạng kì lạ, cái hộp này hình tròn, nó cao gần bằng nửa người cô gái. Cảm giác đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là trông nó thật giống một con ốc sên làm bằng sắt.

    Tôi vừa nhìn đã sững người, trực giác mách bảo chiếc hộp này rất không bình thường.

    Tôi có cảm giác đó là một loại máy móc chuyên ngành địa chất hoặc là một loại địa lôi. Tôi gọi anh Đường đến xem, nhưng anh Đường bảo nó không phải là địa lôi, địa lôi thì phải có ngòi nổ. Có điều, anh cũng không biết đây là loại máy móc gì, xem hình thù thì chỉ thấy giống một cái hộp bằng sắt.

    Tôi cảm giác cái hộp này rất khác thường, nhưng cũng không thể lý giải nổi nó khác thường ở điểm nào, dường như tôi đã thấy nó ở đâu đó rồi. Có điều, tôi chỉ láng máng cảm giác vậy, còn cụ thể đã thấy ở nơi nào thì lúc đó tôi không tài nào nhớ được.

    Mấy cậu lính nổi máu tò mò, liền vây lại xem là thứ gì. Tôi cho các cậu ấy xem, rồi bảo động não nghĩ thử xem, rốt cuộc cái hộp tròn tròn đó là gì, bên trong nó chứa gì? Một cậu lính đoán phải chăng nó chứa lương khô, liền bị đội phó mắng cho một trận. Anh Đường can: “Cậu Ngô thì bảo mọi người động não nghĩ xem nó là gì, còn cậu thì mắng người ta như thế thì ai dám nói nữa?”

    Nghe cấp trên khiển trách, đội phó không dám càu nhàu nhưng vẫn thấy bực bội. Tôi cảm giác con người đội phó khá thực tế, nhưng lại quá cứng nhắc nên mới không thể thăng cấp nổi. Tôi vỗ vai bảo đội phó bình tĩnh lại, đừng coi tôi là sếp.

    Mã Tại Hải nói: “Vật này rất giống hộp tròn đựng cuộn dây cáp điện thoại. Anh xem, ở giữa cái hộp có một chỗ lõm xuống, đó chính là dấu vết của lõi quấn, sợi dây cáp quấn xung quanh, vừa đi vừa thả nó ra. Tôi đoán trong hộp chắc chắn là một cuộn dây cáp, bên trong nó chắc là cuộn thứ gì đó.”

    Một cậu lính khác phản đối: “Không phải, dây đạn trong súng tự động cũng có thể cuộn lại như thế này, nếu bảo cái hộp này là hộp đựng dây cáp thì to quá, như vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của con người.”

    Tôi nghe những lời phán đoán của Mã Tại Hãi, cảm thấy khá hợp lý, vật này chắc chắn có cái gì đó cuộn ở bên trong, nhưng chắc chắn không thể là dây cáp điện thoại hoặc là dây đạn của loại súng máy tự động. Những thứ đó quá nặng, những người khác không đeo thứ này mà lại để cho phụ nữ quân nhân đeo thì độ nặng của nó phải hợp lý, vây thứ bên trong của cải hộp này chắc phải không nặng lắm.

    Nhưng nếu vậy thì nó là cái gì?

    Đang lúc cả đội đau đầu suy nghĩ, Vương Tứ Xuyên bỗng đánh tiếng: “Gớm, chỉ thấy các bố đi đi lại lại bàn bạc chuyện cao cấp xa xôi, cần cái quái gì phải khách khí với một cái xác con đàn bà Nhật, cầm cái rìu bổ ra vài nhát là thấy được bên trong có cái gì thôi mà”, nói rồi anh liền chui ra khỏi túi ngủ bước tới.

    Bùi Thanh vội vã bật dậy, đứng chặn ngay trước mặt cậu ta, lạnh lùng gằn giọng: “Vương Tứ Xuyên, anh còn có kỉ luật không hả?”

    Trong đội, Bùi Thanh vốn là một người rất điềm tĩnh, hiếm khi thấy cậu ta cáu gắt, đặc biệt là giận dữ, bình thường khi nghe chúng tôi bàn chuyện cậu ta có gì nói nấy, cho nên thấy cậu ta phản ứng như vậy, Vương Tứ Xuyên cũng thấy chờn.

    Vương Tứ Xuyên không giữ được bình tĩnh, cậu ta ghét nhất cái giọng ra vẻ bề trên của Bùi Thanh, liền trợn trừng mắt như hai mắt trâu quát lại: “Cậu định làm gì? Ai giẫm lên đuôi mà nhảy cẫng lên như thế? Cậu bảo tôi không có kỉ luật? Kỉ luật mẹ gì ở đây?”

    Bùi Thanh quát lại: “Thứ nhất, anh làm thế này là xúc phạm đến tử thi. Thứ hai, tình trạng tử thi trong lớp băng chưa rõ thế nào, nếu có nguy hiểm gì, anh định chịu trách nhiệm như thế nào?”

    Vương Tứ Xuyên ngớ người ra một lúc, rồi cười: “Xúc phạm cái xác? Xúc phạm cái cứt í! Ả này là mẹ cậu hay vợ cậu? Hay giống nòi nhà cậu là từ giống giặc lùn này mà ra?”

    Tôi nghe thế cũng bực, Vương Tứ Xuyên đúng là đồ độc miệng, câu nói đùa này thực sự hơi quá đáng.

    Bình thường dân công trình chúng tôi cũng hay đùa quá trớn, trong lũ chúng tôi thì Vương Tứ Xuyên mồm miệng tía lia nhất, nhưng dù gì cậu ấy cũng là người có học, chưa từng nói những lời quá đáng bao giờ, song câu vừa rồi quả thực đã vượt quá giới hạn đùa cợt của chúng tôi, tôi không hiểu tại sao cậu ấy lại làm vậy.

    Quả nhiên nghe xong điều đó, mặt Bùi Thanh tái đi, cậu ta nhảy chồm lên: “Tổ sư nhà mày!”, rồi thì xông đến đá Vương Tứ Xuyên một cú, thế nhưng cậu ta đâu phải là đối thủ của Vương Tứ Xuyên, Vương Tứ Xuyên giơ chân đạp một phát, cậu ta đã ngã lăn quay ra đất, cậu ta nhanh chóng đứng bật dậy, cầm gậy phá băng dựng bên cạnh hùng hổ xông tới. Tôi thấy sắp đánh nhau to liền vội vàng kéo Bùi Thanh lại, anh Đường cũng lao vào giữa hai người và quát dằn mặt cả hai.

    Tôi kéo Bùi Thanh sang một bên, lúc đó cậu ấy mới dần bình tĩnh trở lại, vứt thanh sắt xuống đất, xô tôi ra rồi đi vào trong phía nhà kho. Mặt Vương Tứ Xuyên càng sạm đi, hai mắt rực lên như hai hòn lửa, cậu ta vẫn còn muốn chửi, nhưng bị anh Đường ngăn lại.

    Tôi ngoảnh lại nhìn anh Đường, bụng thầm than khổ, anh Đường đưa mắt ra hiệu bảo tôi đi xem Bùi Thanh thế nào, không cậu ấy lại bỏ đi đâu mất.

    Tôi đành phải bỏ đó mà đi, chạy theo Bùi Thanh đã đi sâu vào bên trong, tôi nhìn thấy cậu ấy thấp thoáng giữa những đống đồ đạc, rồi ngồi xuống đó. Tôi muốn để cậu ấy bình tĩnh lại, nên không đến gần mà chỉ ngồi xa quan sát cậu ấy. Tôi thấy Bùi Thanh gục đầu lên hai đầu gối, dường như đang khóc nức nở.

    Nhìn thấy Bùi Thanh như vậy, tôi không khỏi động lòng, Bùi Thanh phản ứng quá kích động như vậy có thể vì tuổi thơ của cậu ấy có kỉ niệm đặc biệt nào đó với người Nhật, cũng có thể vì môi trường ở nơi này quá ngột ngạt, bức bối, những nỗi gian khổ trên cả chặng đường dài khảo sát của chúng tôi cứ từng bước tích tụ lại, rồi biến thành sự ức chế và khi đến giới hạn nhất định, nó bùng nổ ra. Tôi không tiện đến gần hỏi han hay khuyên nhủ mà chỉ đứng nhìn.

    Rồi lâu sau, cậu ta dần dần bình tĩnh trở lại, sau đó làm bộ như không có gì, rồi đi ra ngoài.

    Tôi cũng ra theo, đến nơi đúng lúc mọi người đang nghỉ tay, bầu không khí thật gượng gạo, không ai nói với ai câu gì. Bùi Thanh nhặt lấy đồ đạc của mình mang sang chỗ khác. Vốn đĩ cậu ấy nằm cạnh Vương Tứ Xuyên, Vương Tứ Xuyên thấy thế định ngoạc mồm ra chửi tiếp, tôi liền đá cho cậu ta một phát, khẽ quát: “Đủ rồi đó, đồng nghiệp với nhau cả, cậu bớt mồm bớt miệng một tí đi!”

    Vương Tứ Xuyên đành nuốt cục tức, quay lưng về hướng khác rồi lăn ra ngủ, chẳng mấy chốc đã cất tiếng ngáy như kéo gỗ. Mãi tận lúc ấy, bầu không khí mới trở nên ôn hòa được một chút.

    Tôi xem đồng hồ, thời gian chẳng còn sớm nữa, lúc đó mới nghĩ tới anh Miêu, không hiểu sao anh ấy vẫn chưa quay trở lại. Bấy giờ tôi nhớ ra hai cậu lính mới quay trở lại lúc nãy, tôi ngoảnh đầu tìm quanh, tìm một vòng như không thấy hai người đó đâu.

    Tôi rất rầu rĩ, tôi không hề nhìn thấy họ đã đi lúc nào. Chẳng lẽ họ quay trở lại tìm anh Miêu?

    Vậy là, tôi liền lay từng người dậy, hỏi xem ở đây có ai cùng đội với anh Miêu không, nhưng tất cả đều lắc đầu, trả lời không biết gì về anh ấy, ở đây toàn quân của anh Đường cả.

    Thế này thì có vấn đề rồi, tôi lay Vương Tứ Xuyên dậy, kể lại chuyện cho cậu ấy nghe. Vương Tứ Xuyên đưa mắt tìm kiếm số lính nằm đó, nhưng cũng không nhận ra hai người lính đó.

    Tôi nghĩ bụng, lẽ nào lúc nãy chúng tôi nhận nhầm người? Những người lính này đều mặc quân phục Nhật Bản, lẽ nào hai người lúc trước chào hỏi chúng tôi lại không phải là lính anh Miêu đưa tới? Tôi liền hỏi, trong các anh ở đây có ai lúc nãy chạy về thông báo việc con đập đã xả hết nước không? Nhưng mọi người đều lắc đầu.

    Anh Đường nhìn thái độ của chúng tôi, liền nhóm dậy hỏi xem có chuyện gì. Tôi kể lại sự tình cho anh ấy nghe. Mọi người đều thấy ngạc nhiên, tuy sự tình cũng không có gì gọi là quái lạ, nhưng tự nhiên có hai người lính xuất hiện, rồi tự nhiên biến mất, thì cũng không thể coi là bình thường được.

    Đội phó gợi ý đi tìm thử, biết đâu trong lúc chúng tôi đang bận túi bụi thì hai người đó đã trở về chỗ anh Miêu, người đông thường dễ lộn xộn, có khi cả hội không để ý cũng nên.

    Tôi gật đầu đồng ý: “Nhắc đến mới nhớ, sao mãi chẳng thấy tin tức gì của anh Miêu nhỉ? Lẽ ra giờ này nhóm anh Miêu phải quay lại rồi mới đúng. Hay chúng ta qua chỗ anh ấy xem sao?”

    Càng nói, chúng tôi càng thấy sự việc bất thường. Anh Đường giao cho đội phó đi cùng mấy cậu lính vào kho tiến hành tìm kiếm. Đội phó lập tức xuất phát.

    Độ sâu và rộng của cái kho này khá lớn, lại chất đầy các đống vật dụng, chúng tôi vẫn chưa đi xem xét hết phía sâu bên trong. Tôi nhìn vào thấy một màn đêm tăm tối, tự nhiên rợn hết cả người.

    Chẳng bao lâu sau, chúng tôi nghe thấy đội phó cất tiếng gọi, nhưng không nghe thấy tiếng anh Miêu trả lời, tiếng gọi như thể bị bóng tối nuốt chửng, rõ ràng không có hi vọng gì.

    Nói thực, lúc đó chúng tôi ai cũng cảm thấy hơi căng thẳng, anh Đường đưa điếu thuốc “Thiết Ưng” cho tôi, rồi an ủi chắc không có chuyện gì đâu, ở nơi này những chuyện có thể xảy ra thì đã xảy ra rồi, chắc họ đi quá xa thôi.

    “Thiết Ưng” là loại thuốc lá rất lâu đời của nhà máy sản xuất thuốc lá Bộ Quốc phòng thời kì sau giải phóng, tôi hút mãi rồi. Tôi nghĩ bụng, thời đại nào rồi mà vẫn còn người hút loại thuốc này. Tôi rít một hơi, thấy mùi vị khá nặng, nhưng được tỉnh táo trở lại. Tôi lại quay lại nhìn vào trong kho, lúc này không còn nghe thấy tiếng gọi của đội phó nữa.

    Chúng tôi cũng không rõ cái nhà kho này rộng bao nhiêu, bây giờ nhớ lại, thấy kết cấu của nó thực sự rất phức tạp, cũng khó mà mô tả lại được rõ ràng hình thù chi tiết. Cũng không thể lấy thứ khác để so sánh hay tả lại nó rộng bao nhiêu mét, bởi đó là một cấu tạo không gian không theo quy tắc nào cả, trần nhà kho khá cao, trên sát trần còn có rất nhiều đồ vật chất đống trên các tầng lưới sắt, có cả các đường dây sắt kéo dài, bên dưới có nhiều đồ đạc chất lại thành từng đống cao ngất ngưởng. Rõ ràng quân Nhật đã nghiên cứu kĩ hình khối của con đập sao cho có thể tận dụng tối đa không gian ở đây.

    Chúng tôi chờ đợi chừng chục phút, không nghe thấy âm thanh nào khác của đội phó, cũng không thấy anh quay trở lại. Anh Đường vẫn yêu cầu chúng tôi kiên trì chờ đợi, anh bảo đội phó mang theo súng, nếu chẳng may xảy ra chuyện gì thì đã nổ súng rồi.

    Lòng tôi lo lắng không yên, nhưng tôi không muốn để người khác biết, tôi đành đến chỗ đặt mấy cỗ tử thi để quan sát. Bùi Thanh đang ngồi bên cạnh xác nữ, đăm đăm nhìn lớp băng đang dần tan ra.

    Tôi chìa thuốc lá ra trước mặt cậu ta, nhưng cậu ta không động đậy, tôi càng rầu hết cả người, nhìn quanh thấy mấy cậu lính không để ý tới chúng tôi, tôi liền hỏi Bùi Thanh đang có chuyện gì?

    Bùi Thanh không để ý đến lời nói của tôi, cậu ta liếc tôi một cái rồi lại tiếp tục nhìn lớp băng, dường như không muốn nói chuyện với ai vậy. Tôi đẩy người cậu ấy mấy cái, cậu ấy phủi tay tôi ra.

    Không còn cách nào khác, tôi đành đi tìm Vương Tứ Xuyên. Nhưng không rõ cậu ta đang ngủ thật hay ngủ giả vờ mà tôi lay mãi cũng không chịu tỉnh.

    Tôi thực sự hết cách, nghĩ bụng: vua không lo thì thôi sao thái giám phải cuống?, rồi sau đó lại tự an ủi: Anh Đường dạn dày kinh nghiệm, hơn nữa lại rất hiểu nhóm đội phó, anh ấy bảo không sao là không sao, hơn nữa cũng không nghe thấy có tiếng súng nào vọng lại, có khi bọn họ đã gặp chuyện gì đó tạm thời chưa quay lại được cũng nên. Tôi thấy những chuyện xung quanh khiến đầu mình căng lên như dây đàn.

    Tôi đành quay lại chỗ đống lửa, nằm xuống nghỉ ngơi, tôi nhìn lên mớ dây cáp điện giăng chằng chịt như mạng nhiện và rủ xuống như thòng lọng trên trần nhà kho và nghĩ đến những chuyện vừa qua. Ánh lửa chập chờn phản chiếu lên đó, bóng của mớ dây cáp không ngừng chuyển động, một lúc sau tôi liền ngủ thiếp đi, tôi đánh một giấc chừng sáu tiếng đồng hồ. Lúc tỉnh dậy, đội phó vẫn chưa về, anh Đường cũng không thấy đâu, xung quanh chỉ còn Mã Tại Hải và mấy người lính tôi không quen biết.

    Trực giác mách bảo tôi chắc đã xảy ra chuyện chẳng lành.

    Tôi hỏi Mã Tại Hải là mọi người đi đâu hết? Cậu ta đáp: anh Đường không thấy đội phó quay lại nên đã đích thân dẫn người đi tìm, đến bây giờ vẫn không thấy động tĩnh gì. Cậu ta không biết nên làm thế nào, đang định vào đó tìm xem sao.

    Tôi nghĩ bụng: cái nhà kho này nuốt người được người hay sao, nghĩ đến đó tự nhiên tim đập thình thịch, sau đó, tôi liền đánh thức Vương Tứ Xuyên dậy, bảo cậu ta sửa soạn, chúng tôi nhất định phải làm gì đó.

    Lúc tỉnh dậy, Vương Tứ Xuyên hãy còn chưa biết chuyện gì xảy ra, cũng may cậu ta nhanh chóng hiểu ra vấn đề. Vương Tứ Xuyên hút một điếu thuốc rồi đánh giá sự việc chắc đang tiến triển theo chiều hướng xấu. Anh Miêu vốn là người làm việc rất khôn ngoan, đi lâu như thế này, nếu có xảy ra chuyện gì chắc chắn đã cử người về báo rồi. Còn sự tình đã đến mức này thì ắt có vấn đề lớn rồi.

    Tôi bảo cứ ngồi đó đoán mò thì được ích gì, vấn đề là bây giờ phải làm gì?

    Vương Tứ Xuyên vò đầu bứt tai, rồi bảo hay chúng ta đi tìm thử xem? Vấn đề là lương thực và phương tiện vận chuyển các thiết bị của cả đội đều tập trung ở đây, nếu họ không gặp chuyện gì thì chắc chắn sẽ quay lại đây thôi. Nếu không thì cứ ngồi đây đợi, có điều là chẳng biết phải đợi đến bao giờ.

    Điều này có gì đáng phải do dự? Tôi nhìn quanh một lượt, phía xa Bùi Thanh đang say ngủ, ngoài ra còn ba cậu lính công binh khác nữa. Tôi bảo Mã Tại Hải đi cùng chúng tôi, Mã Tại Hải là một tay làm việc khá linh hoạt, còn Bùi Thanh cứ để cậu ta ngủ cho lại sức, ba chúng tôi bật đèn pin đi sâu vào trong nhà kho.

    Tôi vốn không nghĩ rằng nhà kho này lại rộng lớn đến nhường ấy, tôi cứ nghĩ phía trong hốc tối kia là bức tường, thế nhưng đi tiếp vào trong mới thấy không gian bên trong thực sự rất rộng lớn, có thể chứa được lượng lớn các nguyên vật liệu khác nhau.

    Vương Tứ Xuyên cầm theo gậy phá băng, vừa đi vừa gõ vào đống đồ đạc, âm thanh phát ra khá thu hút sự chú ý của người khác. Bởi đồ vật chứa trong kho sắp xếp không theo quy tắc nào, nên chưa đi được bao lâu, chúng tôi đã không còn nhìn thấy ánh lửa phát ra từ điểm nghỉ chân khi nãy, nhiệt độ bắt đầu xuống thấp, mặt đất toàn vụn băng và rất trơn, khiến chúng tôi di chuyển vô cùng khó khan.

    Chúng tôi cẩn thận dò dẫm từng bước tiến về phía trước, trên mặt đất đã thấy dấu vết của nhóm người đi trước. Sau khi ngoặt qua vài ngã rẽ, ba chúng tôi chợt sững người khi thấy phía trước xuất hiện một bức tường bê tông cao lừng lững, bên trên còn treo một tấm biểu ngữ.
     
  8. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 47: Tận cùng nhà kho


    Tấm biển viết chữ gì chúng tôi cũng không rõ, có lẽ là một biểu ngữ đại loại kiểu “An toàn là bạn, tai nạn là thù”, vả lại lúc đó chúng tôi cũng không mấy chú ý đến nó. Tôi giật mình khi thấy đây đã là điểm tận cùng của nhà kho, xem ra nó không rộng như tôi tưởng tượng.

    Điều quan trọng là nếu đây đã đã là điểm cuối của nhà kho thì hội anh Miêu đi đâu? Xung quanh không hề có đường đi tiếp. Diện tích của nhà kho này không rộng đến mức khiến người ta phải tốn tới cả chục tiếng đồng hồ đi khảo sát mà không quay trở lại.

    Bức tường si măng rất dày, trên tường không treo bất cứ vật gì, chúng tôi đi men theo đường, cứ thế đi tới điểm cuối, nhưng vẫn không phát hiện thêm điều gì, cũng không có dấu vết nào của họ, mấy người đó dường như đã bốc hơi trong không khí vậy.

    Mã Tại Hải cảm thấy ngờ vực, còn Vương Tứ Xuyên không tin chuyện ma quỷ, cậu ta quay lại tìm một lượt nữa, vừa tìm cậu ta lẩm bẩm: “Không thể thế được, người còn sống sờ sờ, có làm ảo thuật cũng không thể biến mất mãi mãi như vậy.”

    Tôi biết ở đây chắc chắn còn ẩn chứa nhiều điều uẩn khúc, ngay lúc đó tôi nhìn thấy lớp bạt phủ cộm lên, như đang che giấu thứ gì bên dưới, tôi nghĩ bụng: lẽ nào dưới lớp vải bạt lại là một lối ra khác?

    Nghĩ vậy, tôi liền quay lại chỗ đó, chú ý quan sát xung quanh xem có dấu vết gì không, quả nhiên phát hiện toàn bộ tấm lưới nẹp trên tường đều bị bóc ra hết, đinh cũng bị rút đi, rõ ràng trước đó có người đã tìm thấy nơi này. Chúng tôi vén tấm bạt dần lên, bỗng Mã Tại Hải kêu lên một tiếng, trên nền bê tông phía dưới một trong những tấm bạt phủ có cánh cửa sắt, cánh cửa này khá giống với cánh cửa trước đây chúng tôi đã phát hiện dưới hang động, có điều nó nhỏ hơn, không có dấu vết bị hàn lại, bên trên có một tấm biển hình thù quái dị đã bạt màu.

    Vương Tứ Xuyên định mở cửa nhưng Mã Tại Hải vội vàng ngăn lại, cậu ta bảo: “Hai đồng chí cứ để tôi làm, ở đây có kí hiệu điện cao thế nguy hiểm. Chắc đằng sau có lớp dây cáp điện, đường dây điện ở đây có lẽ đều được chạy ở dưới này”. Nói xong cậu ta bảo chúng tôi lùi ra sau, rồi lấy vải bọc vào tay, sau đó cố hết sức lật cách cửa sắt lên.

    Cánh cửa phải dày cỡ nửa mét, cậu ta kéo được một nửa thì đuối sức, hai chúng tôi phải vào giúp một tay, cánh cửa sắt mới không bị rơi xuống, lật ngược một nửa là đủ rồi. Chúng tôi chiếu đèn xuống dưới, thấy Mã Tại Hải đoán rất đúng, bên dưới toàn những sợi cáp điện to như miệng bát, nhiệt độ dưới đó cũng rất lạnh, dây điện bị lớp băng phủ kín bên ngoài, chúng tôi nhìn thấy băng đọng trên chiếc thang dây bằng sắt đã bị ai đó đập vỡ một bên.

    Mã Tại Hải nói: “Đúng là họ đã xuống đây!”

    Tôi hỏi cậu ta: “Liệu nơi này thông đến đâu?”

    Cậu ta bảo: “Tất cả mọi nơi, hố dây cáp là nơi dùng để rải đặt dây cáp, nó ăn thông với tất cả những nơi cần dùng đến điện, việc này cũng tiện cho quá trình kiểm tra, tu sửa. Chúng thường xuất hiện trong các công trình công sự cố định, với những công trình tạm thời thì người ta chỉ bố trí nó trên tường, chỉ cần một quả lựu đạn là có thể cắt đứt hết cả. Nhưng ở đây không như thế, cái hào dẫn dây cáp này được làm rất bí mật, lúc xây con đập, bọn giặc chắc đã tính tới việc sẽ sử dụng chỗ này từ hai chục năm trở lên.”

    Tôi gật đầu, không ngờ bọn Nhật này còn tinh quái hơn người Liên Xô rất nhiều, nếu không có hai vụ ném bom nguyên tử xuống nước Nhật, thì ít nhất họ cũng chiến đấu thêm được mười năm nữa.

    Có lẽ hội anh Miêu đi xuống dưới này thật rồi. Vương Tứ Xuyên gọi thử mấy tiếng nhưng chỉ nghe thấy tiếng vọng của chính mình. Tôi chợt hiểu ra vấn đề: “Hay họ bị lạc dưới hệ thống đường hầm dây điện chằng chịt này?”

    Nhưng Mã Tại Hải không đồng tình, bởi kết cấu nơi đây không hề phức tạp, hơn nữa các biển kí hiệu chú thích khá rõ. Vương Tứ Xuyên trèo xuống, bảo đi xem thử sẽ biết.

    Chúng tôi lần lượt leo xuống, để tránh bị lạc đường, chúng tôi dùng loại búa chuyên dụng đào thủng một mảng băng trên tường làm dấu mốc, sau đó mò mẫm đi về một hướng. Đường ở đây thực sự khó đi, tuy không bị va đầu vào vật khác nhưng dưới chân toàn là dây điện trơn tuột. Một điều tệ hại nữa là nhiệt độ dưới này lạnh kinh khủng, lại cộng thêm từng đợt gió lạnh thổi thốc tới.

    Rõ ràng nơi đây thông với hầm băng, không những vậy còn có quạt thông gió đẩy luồng khí lạnh tới khu vực này.

    Tôi kéo chặt vạt áo khoác, người run lập cập, luồng gió như những mũi kim cứ thế châm vào người tôi qua khe hở cổ áo. Vương Tứ Xuyên quay sang hỏi: “Rốt cuộc cái hầm băng kia có tác dụng gì? Kiểu gió thổi này sao giống loại gió thổi ra từ máy phát thế?”. Mã Tại Hải bảo cậu ta chỉ đoán có khả năng như thế mà thôi vì cậu ta chỉ là anh lính quèn, mà những kiến thức này chỉ lính kĩ thuật mới hiểu được, còn cậu ta chỉ biết mỗi uốn và đúc mà thôi.

    Vương Tứ Xuyên lẩm bẩm: “Có cái chết tiệt gì ở đây mà người ta lại phải dùng máy làm lạnh thế này?”. Đúng lúc đó, tôi bỗng nghe thấy “rầm” một tiếng, hình như cánh cửa sắt đã bị đóng lại. Tôi liếc nhìn Vương Tứ Xuyên, nghĩ thầm “thôi chết rồi”, hai người vội vàng quay lại, nhanh như cắt lao về phía sau, phát hiện đúng là cánh cửa sắt đã bị đóng sập. Vương Tứ Xuyên cố sức hích mấy cú, nhưng cánh cửa vững chãi không hề lay chuyển, cậu ta nhìn tôi, gương mặt vừa kinh hoàng vừa tức giận, bắt đầu văng tục.

    Tôi sững người trong giây lát, sau đó hiểu ra vấn đề - bên ngoài có người đã đóng cửa lại và còn cài chốt nữa.

    Nội gián! Đúng là có quân nội gián của địch ở nơi này, chúng tôi đang bị ám hại.

    Đột nhiên tôi muốn tát vào mặt mình một cái, mẹ khiếp, sơ suất thế mà không biết, vậy mà lúc nãy không nghĩ ra tại sao cánh cửa sắt này lại được phủ vải bạt lên, rõ ràng có người không muốn chúng tôi phát hiện ra nó.

    Trong đời ai cũng có những giây phút hồ đồ, lâu nay tôi cứ tưởng mình thông minh lắm, nhưng hôm đó không hiểu tại sao ngớ ngẩn vậy, có thể lúc tôi nhìn thấy cánh cửa sắt thì Mã Tại Hải đã lật tấm vải bạt bên ngoài ra rồi, nên tôi không để ý đến vấn đề đó, cũng có lẽ do trong đầu đang bận nghĩ nhiều việc quá.

    Mã Tại Hải đuổi theo sau, Vương Tứ Xuyên cầm súng định bắn vào cánh cửa, tôi và Mã Tại Hải lập tức giằng khẩu súng lại. Cánh cổng này dày tới nửa mét, có lẽ ngang ngửa với cánh cửa sắt chúng tôi gặp dưới hang động, mà bên trong chứa toàn vật liệu chống cháy nổ, đừng nói bắn súng, đến ném lựu đạn không khéo cũng chẳng có tác dụng. Hơn nữa bên ngoài cánh cửa được bọc sắt, có khi viên đạn lại bật ngược trở lại, trong một cự li hẹp thế này chưa biết chừng chính chúng tôi sẽ bị dính đạn cũng nên.

    Cố hết sức đẩy hai cái, lại gọi thêm mấy tiếng, chúng tôi liền đoán ra được hội anh Miêu đã gặp phải chuyện gì. Chắc anh ấy cũng bị người ta đánh lén, nơi này có khả năng phòng cháy nổ rất tốt thì khả năng cách âm cũng tuyệt vời, chúng tôi đứng đây có gọi khản cổ thì chắc cũng chẳng ai nghe thấy được.

    Vương Tứ Xuyên không tin, cậu ta tự trèo lên trên cái thang sắt, dùng vai huých sang hai bên, đến nỗi suýt nữa thì bị trẹo sống lưng. Nhưng cái nắp cổng sắt này rất nặng nên cú hích của Vương Tứ Xuyên không để lại dấu vết gì trên thanh chốt.

    Vương Tứ Xuyên lại trèo xuống, lầm bầm chửi một hồi bằng tiếng Mông Cổ. Một trận gió lạnh thổi tới khiến tôi rét run cầm cập. Tình hình lúc này rất cấp bách, chúng tôi phải mau chóng tìm thấy lối ra, nếu không chắc sẽ chết cóng ở nơi này mất. Lòng tôi nóng như kiến bò chảo lửa, nhóm anh Miêu bị lạc cũng đã mươi tiếng đồng hồ rồi, không biết họ đã tìm được đường ra chưa?

    Lại một trận gió nữa thổi tới, mạnh tới mức khiến tôi lạnh muốn đứt hơi, mũi tôi như bị đóng băng. Ba người chúng tôi hiểu ngay lúc này không còn sự lựa chọn nào khác, liền vội vàng đi ngược về hướng gió thổi, Vương Tứ Xuyên bắt đầu cất giọng gọi anh Miêu và anh Đường.

    Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi không biết nên dung từ nào đặt tên cho địa điểm nơi chúng tôi lâm nạn lúc đó, có lẽ gọi nó là đường hầm cáp điện. Các bạn có thể thấy bây giờ ở thành phố có rất nhiều đường hầm như vậy, mặt đường thường ung úng nước, người ta cho chạy dây cáp quang ở dưới đó, mỗi điểm nút chia dòng cáp có một cái cống sâu, trên miệng cống có nắp đập. Chúng tôi đã trèo xuống một miệng cống như thế, rồi sau đó đi vào sâu bên trong đường hầm.

    Ban đầu, đường chúng tôi đi chưa có điểm nút phân chia dây cáp điện, nên hành trình diễn ra khá thuận lợi, chúng tôi cứ việc tiến thẳng. Có điều, ba người tôi cứ đắn đo mãi chẳng biết có nên đi theo hướng ngược chiều gió hay không, bởi nếu đi theo hướng đó thì rất có thể sẽ đến được hầm băng nhưng chắc chắn chúng tôi không thể chịu nổi hành trình đó, nhiệt độ ở đây còn dễ chịu chán so với nhiệt độ ở hầm băng. Càng đến gần hố băng, thì nhiệt độ sẽ càng xuống thấp và lực gió sẽ càng mạnh, kiểu gì chúng tôi cũng xảy ra chuyện. Chỉ cần là người, thì không một ai ngu ngốc chọn con đường này.

    Bản năng tự nhiên của con người là khi gặp lạnh sẽ tìm cách tăng nhiệt độ cơ thể để đề kháng. Đến bây giờ nhớ lại, tôi mới thấy lúc đó sức khỏe mọi người thật phi thường. Ngay cả người có thể trạng yếu ớt như tôi, mà vẫn kiên trì vượt qua được hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt đó.

    Đi trong đường hầm lạnh lẽo đó chừng nửa tiếng thì chúng tôi gặp điểm nút chia dòng cáp đầu tiên. Vương Tứ Xuyên trèo lên trên đẩy thử tấm chắn bằng sắt phủ trên miệng cống, tất cả nắp cống đều vững chắc và được khóa cẩn thận.

    Mã Tại Hải đoán: “Trong thời gian chiến tranh, người ta sợ nơi này bị địch lợi dụng, nên quy định tất cả các nắp cống đêu phải khóa lại.”

    Vương Tứ Xuyên chửi: “Khóa hết thế này thì toi ông à?”

    Tôi vỗ vai cậu ta an ủi: “Yên tâm đi! Trời không tuyệt đường người đâu mà sợ!”

    Nói thì nói vậy, nhưng lòng tôi không thấy yên tâm chút nào. Chúng tôi tìm một hướng, đập vỡ mấy tấm biển hiệu làm mốc, rồi đi tiếp. Tôi thầm cầu khẩn ông trời phù hộ độ trì, biết đâu hồi ấy có thằng lính Nhật nào lơ đễnh quên không khóa nắp cống.

    Sự thật diễn ra thì chỉ có vậy nhưng kể lại hóa dài dòng, đường hầm dẫn cáp này thực ra không hề phức tạp, nó chỉ rất dài, xem ra toàn bộ hệ thống dây điện ở đập nước đều dẫn hết về nơi này. Mỗi lần tìm được một miệng cống, chúng tôi phải tốn ít nhất ba mươi phút. Đi được khoảng ba tiếng mà chúng tôi chỉ tìm được bốn nắp cống sắt, cái nào cũng được khóa rất kiên cố. Đường đi trước mặt chúng tôi là khoảng không gian tối đen như mực, tôi không biết nó sẽ thông tới nơi nào.

    Lông mày tôi đông cứng thành một dải, trên đầu dính đầy vụn băng, chân tay tê cứng, cái lạnh thực tế kinh khủng hơn nhiều so với những gì chúng tôi tưởng tượng trước đó. Đây không phải chuyện đùa, nếu phải ở nơi này chừng mươi tiếng đồng hồ thì có lẽ thân nhiệt của chúng tôi sẽ bị hạ hết. Cây gậy sắt Vương Tứ Xuyên cầm dính bết vào tay, mỗi lần đổi tay cậu ta lại bóc ra cả một lớp băng.

    Hội anh Miêu chắc cũng gặp cảnh ngộ giống chúng tôi, hi vọng họ mau chóng tìm được đường ra, chứ nếu cứ thế này thì e rằng lành ít dữ nhiều.

    Không tìm được cách nào khả dĩ để cải thiện được tình hình trước mắt, một bên là bức tường xi măng dày cộp, khiến nó sứt ra một miếng còn khó huống hồ là đòi chọc thủng, chúng tôi đành phải tiếp tục cuộc hành trình.

    Đi tiếp vài tiếng nữa, cuối cùng cũng xuất hiện sự thay đổi, tôi thấy trên bức tường dày có mấy lỗ hình tròn, cao đến ngang người, không có dây điện chạy qua.

    “Cửa thông gió!”, Mã Tại Hải reo lên. Chúng tôi ngó vào đó, quả nhiên thấy ánh sáng lóe lên ở đằng xa.
     
  9. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 48: Bên ngoài con đập

    Ánh sáng mờ mờ, giống như ánh sáng của đèn cấp cứu chúng tôi nhìn thấy lúc trước, không biết nơi phát ra ánh sáng là nơi nào.

    Bây giờ đành nhắm mắt làm liều thôi, chỉ cần thoát khỏi nơi này, dù có phải đi qua dầu sôi lửa bỏng, tám tầng địa ngục, chúng tôi cũng phải đi.

    Ba nhánh trong đường hầm rõ ràng đều dẫn tới một địa điểm, khỏi phải do dự nhiều, chúng tôi quyết định tiếp tục đi sâu vào trong, leo lên trên mười mấy mét nữa thì tới đỉnh. Một góc trên đỉnh có cửa thông gió được chắn bằng tấm lưới sắt, nhưng băng đã phủ kín mặt dưới, các mắt cáo đều bị bịt kín, tạo thành một tảng băng, ánh sáng chiếu ra từ sau lớp băng đó, có điều tình hình cụ thể phía sau tấm lưới như thế nào thì chúng tôi không nhìn rõ được.

    Mã Tại Hải bỏ hết đạn trong súng ra, rồi dùng báng súng đập vào tấm lưới, nhưng vị trí chỗ này quá hẹp nên không thể dùng hết sức được, cậu ta đập hồi lâu mới đẩy được lớp lưới sắt ra. Gió lạnh từ đằng sau thổi thốc tới, cường độ mạnh đến nỗi khiến tôi suýt nữa ngạt thở.

    Tôi vội vàng quay đầu hít một hơi sau đó lấy áo khoác bịt mũi. Tôi ngó ra ngoài nhìn, nhưng chỉ thấy một màn không gian mờ ảo tăm tối, không có gì ngoài đó.

    Ba người chúng tôi nhìn nhau rồi bỗng nhiên hiểu ra vấn đề. Bên ngoài kia không phải là căn phòng gì, mà nó chính là khoảng không gian rộng lớn, sâu hút nằm phía ngoài con đập, từ đây nhìn ra, chỉ thấy một không gian vô tận, chỉ có những cơn gió mạnh từ nơi nào thổi tới, táp vào mặt chúng tôi. Ống thông gió này chính là nơi thông ra ngoài phòng. Càng nghĩ tôi càng thấy lý giải này hết sức hợp lý.

    Sương mù bên ngoài cũng đã tan hết, tôi chiếu đèn ra xem nhưng không nhìn thấy gì cả. Mã Tại Hải bảo để cậu ta thò đầu ra nhìn thử, chúng tôi liền túm chặt áo khoác của cậu ấy lại, để cậu ấy thò đầu ra ngoài, nhưng vừa thò ra, thì một cơn gió mạnh bất ngờ ào tới, giận dữ thổi tung áo cậu ta lên, người cậu ta nhoài ra ngoài như thể đang bị ai đó kéo về hướng đó.

    Cậu ta sợ hết hồn, chúng tôi vội vàng giữ chặt lại, cậu ấy mới không bị rơi xuống. Vương Tứ Xuyên gắt: “Mau lên, nhìn xem có cái gì không!”

    Cậu ta nằm rạp trên hốc thông gió, cầm đèn pin chiếu một lượt xem xét tình hình bên ngoài, sau đó chúng tôi kéo cậu ấy vào. Mã Tại Hải nói: “Đây đã là tầng cuối của con đập, cách chỗ chúng ta đang đứng chừng chục mét là đá núi, bên cạnh có một cái cầu thang bằng sắt có thể leo xuống.”

    Tôi hỏi cậu ta có thấy dấu vết gì của nhóm anh Miêu không. Cậu ta đáp không nhìn rõ, bên trên còn thấy chiếc đèn halogen mà lần trước cậu ta đã bật, nhưng chỗ đó dường như cách đây rất xa, rõ ràng nơi này chính là phần đáy của con đập, toàn bộ đều là tầng giao thoa giữa đá nham thạch với bê tông cốt thép, có chiếu đèn cũng không thấy gì.

    Vương Tứ Xuyên hỏi Mã Tại Hải liệu có thể bám theo thang sắt để leo lên trên không. Cậu ta đáp, bên ngoài hơi tối, vả lại gió rất mạnh, còn mạnh hơn cả lúc chúng tôi đứng trên con đập, còn cái thang đã bị gỉ sét hết cả, nhỡ không may đang trèo mà bị gãy một cái thì khỏi phải nói đến chuyện tiếp theo.

    Tuy nhiên, tôi lại thấy nguy hiểm này đáng để liều một phen, chủ yếu bởi vì nhiệt độ ở trong này quá lạnh, gió thổi ở bên ngoài vào còn ấm hơn cả nhiệt độ ở trong này. Nếu chúng tôi cứ tiếp tục lần theo dây cáp điện để đi xuống thì không biết còn chịu đựng được bao lâu nữa. Ít nhất lúc này cũng nhen nhóm được một tia hi vọng sống. Hơn nữa, đâu phải tất cả các thang sắt đều bị hỏng, không chịu được sức nặng, đây là thang sắt dùng loại thép to cỡ bằng ngón tay cái, rất chắc chắn, chuyện của đội phó lúc trước chỉ là sự cố ngẫu nhiên mà thôi. Chỉ cần cẩn thận một chút lúc trèo, chắc sẽ không xảy ra chuyện gì.

    Ba người chúng tôi hội ý, Vương Tứ Xuyên bảo: “Thôi đừng quyết định vội, cứ thở xem sao đã, nếu leo được thì lúc đó chúng ta sẽ leo.”

    Vậy là, Mã Tại Hải xoa hai tay vào nhau cho ấm, sau đó bám vào thanh sắt đu ra bên ngoài, áo khoác của cậu ta bị gió thổi bay phần phật, cậu ta gắng sức nép vào thành bê tông, rồi hét gọi chúng tôi. Khoảng cách ngắn như vậy, mà chúng tôi không hề nghe thấy gì, cậu ta đành dùng tay ra dấu cho chúng tôi leo theo.

    Tôi là người leo thứ hai, lúc vừa chui ra khỏi lỗ thông gió, nói thật, tôi cũng thấy kinh hãi, bên ngoài kia giống như vũ trụ bao la, chẳng có một thứ gì, bên dưới thì sâu thăm thẳm, ngộ nhỡ ngã xuống, cũng chẳng biết có đáy hay không, thứ duy nhất cảm nhận được là tiếng gió. Tôi nắm chắc vào các thanh sắt, người vừa trèo lên thang thì cảm thấy như bị bay lên, nhưng sau đó tôi đã thích ứng kịp thời, vội vàng điều chỉnh động tác, nép sát người vào bức tường, rồi mới bắt đầu leo lên.

    Đến lượt Vương Tứ Xuyên, tôi chiếu đèn pin chiếu xem tình hình cậu ta leo thế nào, cậu ta nặng hơn tôi, nên nhìn động tác khá chắc chắn.

    Sau khi đã đứng vững trên thang, tôi bắt đầu chiếu đèn quan sát xung quanh, một bên là vách tường của con đập, ánh đèn trượt đi trên bức tường. Nó chỉ lóe lên được ở một khoảng cách rất ngắn, rồi bị bóng đêm nuốt chửng ở đầu xa. Mặt bức tường của con đập khá thô ráp, xù xì, phía ngoài phủ một lớp gì đó đen đen, khá giống với màu của lớp sương mù. Thang sắt cũng được phủ lớp nhũ đen ấy, tôi giơ tay nhìn, thấy đó là lớp bụi bàng bạc, vừa giống một dạng dịch lỏng, lại vừa không phải, tôi vội chùi tay vào áo khoác, rồi kéo cánh tay xuống để bảo vệ hai bàn tay, bụng nghĩ có quỷ mới biết thứ này có độc hay không.

    Còn bên kia thì khỏi phải nói, chẳng có gì hết. Tôi cảm giác như mình đang đứng ở giữa lằn ranh của thế giới.

    Lúc đó, tôi hơi hối hận, không biết để leo lên được bên trên kia, tôi còn phải kiên trì trong trạng thái này bao lâu nữa? Trải nghiệm ấy quả thực không phải một kỉ niệm đẹp.

    Loại thang sắt này có thể dùng để leo lên hoặc leo xuống, chiếu đèn xuống bên dưới tôi thấy phía xa cũng có một cái thang nữa, chứ không phải chỉ có một thang ở vị trí mà chúng tôi đang trèo, nhưng vị trí giữa hai thang cách nhau khá xa, giữa chúng có các thanh sắt nhô ra, dùng để đạp chân lên, phía trên gắn móc câu dùng để bám tay vào, rõ ràng các thang dây và những thang sắt gắn trên tường tạo thành hệ thống giá đỡ ở phía ngoài con đập. Có lẽ đây là đường dự phòng được sử dụng trong lúc thi công hoặc tu sửa con đập.

    Nhưng nghĩ lại tôi thấy, nơi này đã là tầng dưới cùng của con đập, chắc họ không cần phải đi kiểm tra gì nữa, vậy “con đường” này dùng để làm gì?

    Sau khi nhìn thấy Vương Tứ Xuyên đứng vững trên thang, Mã Tại Hải liền dùng miệng giữ đèn pin và bắt đầu leo lên trên, tôi và Vương Tứ Xuyên cũng leo ngay theo.

    Những cơn gió mạnh thổi dồn dập khiến chúng tôi không thể suy nghĩ gì thêm, đến cả việc thở cũng phải tìm góc độ hợp lý mà hít thở, trong đầu không có khái niệm phải đếm xem mình đã leo lên được mấy bước hoặc đã đi được bao xa, cảm giác của chúng tôi lúc đó thật khó mà hình dung nổi. Có thể nói, nếu rơi vào hoàn cảnh đó, bạn không biết phải làm gì ngoài im lặng, cũng không thấy hoảng sợ nữa, cảm xúc thật kì lạ. Ngoảnh đầu nhìn ra chỉ thấy bóng tối miên man, tôi chợt cảm thấy cảm giác lúc này có thể gói gọn trong một chữ “ngộ”. Cơ thể tôi, tinh thần tôi dường như đã hiểu ra điều gì đó, một điều đến từ thế giới huyền bí, mơ hồ.

    Đang lúc tôi hoài nghi, nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, có lẽ lòng kiên định của tôi sẽ thay đổi mất, thì cái ủng của Mã Tại Hải đã cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi.

    Tôi ngẩng lên, hóa ra cậu ta dừng lại đột ngột, khiến đầu của tôi đập phải gót ủng của cậu ta.

    Tôi đoán chắc cậu ta đã phát hiện ra điều gì đó, nên liền trèo qua ngó xem, thì ra phía xa xa, bên trái của con đập có một vật gì đó to tướng đang nằm chình ình ở đó.

    Vật đó cách chúng tôi chừng hai chục mét, dường như là một khối bê tông cốt thép, có điều nó được làm rất thô sơ, xung quanh bọc thép, kết cấu phức tạp, quan sát kĩ hơn thì thấy nó giống như một con nhím đầy lông nhọn bám vào thành đập, trong đó những thanh thép cắm xung quanh nó giống như những chiếc lông nhím. Vật thể đó rất to, nom giống như một tòa nhà ba tầng vậy.

    Nếu so với cả con đập thì nó không phải một điểm nổi bật bởi nó không có những lớp đá bắt mắt ở bên ngoài, nhưng từ góc độ dưới này nhìn lên, thì nó là một vật to lớn khác thường.

    Có một con đường làm bằng những thanh sắt bắt từ chỗ chúng tôi đến vật thể ấy, nên chúng tôi hoàn toàn có thể trèo đến chỗ đó nếu muốn.

    Mã Tại Hải quan sát và thầm ước lượng một lát, rồi bắt đầu leo lên các thanh sắt bắc ngang, từ từ treo sang chỗ đó. Tôi vốn là người nhát gan, thần kinh vận động lại kém phát triển nên vừa nhìn thấy cậu ta leo đi thì cuống cả lên, tôi vội vàng trèo đến chỗ cậu ta vừa đứng, cuống quýt hỏi cậu ta xem giờ nên làm gì. Cậu ta quay lại nói to, nhưng âm thanh bị gió bạt đi nghe không rõ, tôi chỉ nghe thấy hình như cậu ta bảo: “Đó chính là cái ăng ten!”

    Tôi gào lên hỏi cậu ta quan tâm tới nó làm gì, bây giờ chúng ta phải tìm cách thoát ra khỏi chỗ này trước đã. Thế nhưng cậu ta dường như có ý đồ gì đó, bảo tôi cứ đứng đợi, cậu ta sẽ ra chỗ đó xem thế nào.

    Vương Tứ Xuyên đứng bên dưới vỗ vào chân tôi, hỏi trên đó có chuyện gì. Tôi nghĩ thầm biết trả lời thế nào đây, cậu lính này đúng là vô tổ chức, vô kỉ luật. Vừa di chuyển vừa ngẫm nghĩ, không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào tự nhiên tôi cũng trèo ra chỗ Mã Tại Hải.

    Từng trận gió mạnh táp vào mặt khi tôi di chuyển về phía đó, khiến tôi cảm giác sắp đứng không vững, tôi thấy Mã Tại Hải khó khăn lắm mới sang được hẳn bên đó, còn tôi mới đi được nửa đường. Bỗng một trận gió mạnh thổi tới, ép sát tôi vào vách đập, tôi vội nhắm mắt nép vào đó để tránh trận gió, sau đó ngoảnh sang nhìn Mã Tại Hải, nhưng phát hiện cậu ta bỗng nhiên biến mất.

    Tôi giật thót mình, cứ ngỡ cậu đã rơi xuống vực, nhưng tôi bỗng nhìn thấy cậu ta đang vắt vẻo trên một thanh thép bên dưới “con nhím” chừng sáu bảy mét, chắc lúc nãy cơn gió mạnh thổi đến bất ngờ, cậu ấy không bám cẩn thận nên bị ngã.

    Tôi giơ tay ra hiệu hỏi xem cậu ấy có bị thương không, nhưng không thấy cậu ta giơ tay vẫy lại, vì tay chân cậu ấy đang bận bám chặt vào thanh thép, có lẽ tay của cậu ấy bị thương, nên không còn sức bám nữa, leo lên được mấy bước lại bị tuột xuống.

    Tôi vội đi qua chỗ đó, miệng liên tục hét gọi Mã Tại Hải dừng lại. Tôi mò đến nơi, định thò tay ra kéo cậu ta lên nhưng nhìn kĩ tôi mới hiểu tại sao khi nãy cậu ta lại bị rơi xuống. Hóa ra vị trí này các chỗ những thanh thép chìa ra trên mình “con nhím” một khoảng cách khá xa, tôi cố hết sức, căng hết cánh tay ra, nhưng để nắm được thanh sắt kia cần phải dũng cảm và thực sự rất khỏe. Tôi vội rút tay về, chỉnh lại tư thế của mình, rồi lại thò tay ra tiếp nhưng vẫn không thể chạm tới. Tôi thầm chửi bọn Nhật đúng là đồ tiết kiệm không phải lối, sao không cắm thêm cọc sắt vào đoạn này.

    Vương Tứ Xuyên leo tới nơi thì cũng kiệt sức. Tôi thu người về, hít một hơi lạnh đầy lòng ngực, rồi cố hết sức lao người xuống một lần nữa, tôi giữ người mình bám chặt vào bức tường, nhưng cánh tay vẫn chỉ chới với giữa không trung.

    Trải nghiệm này đúng là nguy hiểm hết chỗ nói, người đầm đìa mồ hôi, tôi thầm nghĩ, nếu lúc này mà có cơn gió to như lúc nãy thổi tới thì mình nguy là cái chắc.

    Tôi lại tiếp tục giẫm chân vào một thanh sắt, bước sang bên kia, sau khi giữ thăng bằng, tôi leo xuống dưới, túm được Mã Tại Hải. Vừa nắm được tay cậu ta, tôi liền quát to: “Cậu mò ra đây làm gì?”. Cậu ta nắm lấy tay tôi, gồng mình lên, bước mấy bước nữa mới giữ được thăng bằng, rồi thở hổn hển đáp: “Ăng ten, chỗ này có một cái ăng ten.”

    Tôi nhìn những thanh thép chìa ra ngoài, nhận ra những thanh thép ở đây khác hẳn những thanh thép tôi thấy trên đường đi, những thanh thép này mỏng hơn và không bị hoen rỉ. Tôi hơi giật mình, nó to và chia ra nhiều phần thế này, xem ra chức năng thu phát của nó rất mạnh, nhưng dẫu vậy thì cũng đâu đáng để Mã Tại Hải liều mạng bò ra tận ngoài này.

    Tôi quát: “Ăng ten thì mặc xác ăng ten, đâu nhất thiết phải bò ra đây?”

    Nhưng cậu ta nhìn tôi cười rồi lắc đầu, dường như cậu ta không biết phải giải thích thế nào. Không ngờ, cậu ấy kéo khẩu súng đang đeo sau lưng ra, túm lấy báng súng, chìa nó sang phía tôi, rồi nói: “Xin lỗi anh Ngô, lần này tôi đã làm anh giật mình.”
     
  10. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 49: Phòng điều khiển


    Hồi trong quân đội, lúc tập bắn bia, thầy giáo rất nhiều lần nhắc chúng tôi không được chĩa súng về phía người khác. Tôi cũng từng nghe kể rất nhiều người chết vì không may bị cướp cò, thậm chí là súng không có đạn nhưng đầu kim hỏa cũng có thể sát thương như chơi. Cho nên, khi nhìn thấy nòng súng đen ngòm chĩa về phía mình, tôi lập tức sợ hãi, vội vàng giơ tay gạt ra, đồng thời hét lên: “Cậu làm gì thế? Bỏ súng xuống, không cẩn thận lại thổi bay tôi đi bây giờ!”

    Nhưng cậu ta không hề thay đổi: “Không sao, tôi đã lấy hết đạn ra rồi, tôi cũng khóa chốt an toàn rồi”. Nói xong, cậu ta lại giơ súng về phía tôi.

    Tôi tóm lấy đầu súng, nhòm vào, đúng là không thấy băng đạn đâu, nghĩ bụng quái lạ, cậu ta rút đạn ra từ lúc nào mà nhanh thế, động tác thật gọn gàng. Tôi liền hỏi: “Giúp cái gì? Rốt cuộc cậu muốn làm gì? Nhìn thấy cái ăng ten thì không thèm để ý đến tính mạng nữa à? Nó có đưa chúng ta thoát khỏi đây được đâu.”

    Cậu ta tiếp tục cởi dây súng ra, thắt chặt lại trên phần báng súng, rồi đáp: “Anh Đường từng bảo phải đi tìm cái ăng ten này, nếu anh ấy đi cùng đường với chúng ta và tìm thấy cái ăng ten này, các anh ấy chắc chắn sẽ leo lên xem. Nhưng bây giờ các anh ấy không đi cùng đường với chúng ta, nên tôi phải khảo sát trước, sau này tìm thấy nhóm anh ấy, chúng ta có thể cùng ra khỏi đây, khỏi cần phải quay lại kiểm tra.”

    Tôi nghĩ cậu ta nói cũng có lý. Cậu ta lại tiếp tục: “Hơn nữa, chúng ta đều là những người lính, kiến thức về địa chất của các anh tuy có thể rất uyên thâm, nhưng với một số chi tiết máy móc thì chúng tôi mới biết. Thôi, đợi tôi đi xem cấu kết cái cần ăng ten này thế nào, có khi tôi lại đoán ra được chỗ của anh Đường lúc này không biết chừng.”

    Nghe cậu ta ăn nói khá rành mạch, thậm chí là rất tự tin, tôi cũng thấy xuôi xuôi. Lúc đó Vương Tứ Xuyên cũng leo tới ngay sau lưng tôi, hỏi chúng tôi định làm gì? Sao cứ đứng mãi ở đây, chỗ này có gì đáng để chơi đâu?

    Tôi liền kể lại cho Vương Tứ Xuyên, lúc đó Mã Tại Hải đã dùng sợi dây súng thắt ngang lưng, rồi quay sang bảo tôi túm lấy báng súng, sau đó bắt đầu leo lên trên đoạn lồi ra trên bức tường dưới chỗ ăng ten. Vật thể làm bằng bê tông đó giống như một cái bát úp vào vách đập một cách bất quy tắc, những thanh sắt thò ra bên ngoài của cái ăng ten cũng lộn xộn, chọc tứ phía, dài ngắn khác nhau, rất khó để đặt chân xuống, thành thử cậu ta leo đến nơi mà mãi không tìm được chỗ để bám tay vào, có lúc người như bị vắt lơ lửng giữa không trung.

    Cũng may Mã Tại Hải là người nhanh nhẹn, chỉ có mấy chỗ là cậu ta phải cầm khẩu súng móc vào phía trước để nhảy qua. Chẳng bao lâu sau, cậu ta thậm chí đã đi khuất khỏi tầm nhìn của chúng tôi, sau đó nghe tiếng cậu ta gọi, rồi nghe thấy tiếng gõ lộc cộc vào ăng ten văng vẳng vọng ra.

    Gõ một hồi, Mã Tại Hải gọi chúng tôi trèo sang chỗ cậu ta, tôi giật thử mấy cái, một đầu dây hình như đã được cậu ta buộc cố định, vậy là tôi móc khẩu súng vào thanh sắt chìa ra của cái ăng ten, rồi men theo nó sang chỗ Mã Tại Hải. Vương Tứ Xuyên cũng bám ngay theo sau tôi.

    Tôi cúi đầu nhìn xuống, thì thấy dưới chỗ các chúng tôi đứng chừng chục mét có một lớp đá vôi ướt nhẹp, chúng bị bào mòn nhẵn như đánh ráp, tôi chẳng có thời gian quan sát kĩ, chỉ kịp nhìn thấy nơi tiếp giáp giữa bức tường phía ngoài thành đập và khối bê tông giống hình cái bát có một khung cửa sổ vuông rộng chừng một mét. Những sợi dây cáp điện từ trong khối bê tông thò ra, chui qua ô cửa sổ. Dây của khẩu súng đang được buộc vào đám dây cáp đó.

    Mã Tại Hải đang chui trong ô cửa sổ nói vọng ra với chúng tôi: “Phía sau cửa sổ là phòng điện báo đấy!”

    “Ơ! Tôi tưởng phòng điện báo ở trong cái hang anh Đường phát hiện ra cơ mà?”, Vương Tứ Xuyên hỏi.

    Mã Tại Hải giải thích: “Tôi quan sát rồi, máy phát điện báo ở đó rất nhỏ, chắc không phải máy tổng, người ta không bao giờ đặt ăng ten và máy phát điện báo quá xa nhau, bởi lỡ xảy ra chiến tranh, dây cáp điện thoại có thể sẽ bị đứt. Khi thiết kế công sự ngầm dưới lòng đất, ngoài phòng máy điện báo tổng ra, người ta còn lắp thêm các máy điện báo cỡ nhỏ nữa, chúng có tác dụng như những phòng chỉ huy tạm thời, còn chỗ này có lẽ chỉ sử dụng khi “pháo đài” bị tấn công, bên trong chắc chắn là phòng tổng đài”

    “Cậu có chắc không?”, Vương Tứ Xuyên hỏi lại.

    “Nói thật cho anh biết, khi nãy anh Đường bảo đi tìm ăng ten, nhưng thực sự tôi thấy anh ấy muốn tìm phòng tổng đài này thì đúng hơn, kinh nghiệm của anh ấy nhiều hơn chúng ta, nên không nói hết ra cho chúng ta biết đấy thôi”. Mã Tại Hải chui hẳn vào bên trong ô cửa sổ, nhường đường cho chúng tôi chui vào.

    “Đã tìm ra nơi phát điện báo, đồng nghĩa với việc đã chứng minh được bước điện báo đích thực phát ra đi từ nơi này, thế cậu còn tìm kiếm cái gì ở đây nữa?”, tôi hỏi.

    “Nhưng tơi cũng không dám chắc, thông thường phòng điện báo cũng chính là tổng sở chỉ huy”, cậu ta trả lời.

    Trong lúc nói chuyện, chúng tôi đều tập trung cả vào chỗ ô cửa nhỏ, nói là cửa nhỏ, nhưng cũng không nhỏ lắm, chỉ có điều vô số dây điện chen chúc trong không gian chật hẹp đó nên có cảm giác càng tù túng. Mỗi sợi dây điện to cỡ bằng cổ tay, chúng cuốn vào với nhau, nhìn như những chiếc xúc tu của quái vật. Vương Tứ Xuyên đứng ngoài nhắc chúng tôi cẩn thận kẻo bị giật.

    Chúng tôi trèo khoảng năm sáu mét thì tới nơi, điểm tận cùng là một bức tường chắn ngang, trên tường có rất nhiều lỗ để dòng dây điện, những sợi dây điện dòng ra từ chỗ đó, giờ đây đã bị băng tuyết phủ kín. Mã Tại Hải giải thích: “Chúng ta đang đứng ở lớp hành lang bên ngoài, bên trong còn một lớp hành lang nữa, bức tường trước là mặt bức tường bí mật thứ nhất, người ta làm thế này chắc là do không khí bên ngoài có vấn đề.”

    Tôi bảo: “Cậu đừng lên lớp chúng tôi nữa, vấn đề quan trọng bây giờ là bức tường chắn trước mặt, liệu chúng ta có cách gì vượt qua được không?”

    Mã Tại Hải không nói gì, cầm bi đông nước của mình bắt đầu đập vào bức tường, chẳng mấy chốc, tôi đã thấy bức tường bị nứt ra, lúc bấy giờ cậu ta mới giải thích: “Để tiện cho việc sửa chữa bức tường, người ta chỉ trát một lớp vôi ở bên ngoài, thoạt nhìn cứ tưởng là rất dày, nhưng thực tế cấu móng tay vào là đã bong ra, bên trong có một lớp lưới sắt, chỉ cần cắt lớp lưới sắt này đi là xong”. Cậu ta vừa nói vừa làm, bức tường quả nhiên bị gõ rụng hết lớp vôi bên ngoài, Mã Tại Hải lại tiếp lời: “Ở đây thậm chí không đan lưới sắt, chắc dưới hầm không có chuột.”

    Phải mất mười mấy phút, tôi mới đục được một lỗ vừa người chui qua, tiếp tục đi sâu vào trong, chúng tôi lại phá thêm hai bức tường cách ly bằng phương pháp tương tự. Giữa các bức tường cách ly có cửa tản gió dùng để thông gió, đề phòng khí độc và tránh được nước đọng, không gian bên trong vô cùng chật hẹp, không đủ cho người chui vào, trông chẳng khác nào một khoang buồng lặn.

    Cuối cùng, chúng tôi vào đến điểm tận cùng của thông đạo dây điện, tất cả các dây điện tới chỗ đó đều chui vào ống sắt, từng sợi, từng sợi một, sau đó chúng chia thành các sợi dây nhỏ hơn rồi dòng xuống bên dưới. Mã Tại Hải chỉ một nắp cống bằng sắt, túm lấy búi dây bên cạnh nó, cố hết sức đạp nó mấy cái, nắp sắt liền bung ra.

    Sau khi cái nắp bị lật lên, tôi thấy bên dưới là một hố đen ngòm, chiếu đèn pin xuống tôi phát hiện mình đang đứng trên trần của một căn phòng nào đó, bên dưới có mấy cái bàn ghế, đồ đạc chất đầy trên đó.

    Mã Tại Hải nhảy xuống, chiếu đèn một lượt nhưng không phát hiện được gì thêm, tôi và Vương Tứ Xuyên cũng nhảy xuống, ngó nghiêng một vòng, căn phòng này khác hẳn với những phòng tôi đã từng thấy trên đường tới đây.

    Đó là căn phòng hình chữ nhật, rỗng cỡ một sân bóng rổ, bốn phía đều chất đầy đồ đạc.

    Đập vào mắt tôi đầu tiên là mớ máy móc thiết bị cũ kĩ, đó là những tủ sắt cao hơn cả đầu người, được dựng vào bốn vách tường, bên trên toàn là đèn báo cảm cầu dao điện, chúng được chất thành đống, lớp sắt bên ngoài đã hoen gỉ, nhưng so với đống trang thiết bị linh kiện bên ngoài chỗ máy móc trong này ít bị gỉ sét hơn, rõ ràng chúng đã được xử lý chống gỉ.

    Trong phòng có một tấm bảng sắt treo trên tường, bên trên treo một tấm bản đồ màu vẽ sơ lược cấu tạo toàn bộ con đập, dẫu chỉ vẽ khá sơ lược, nhưng lại có chú thích, thậm chí gắn cả đèn báo. Chiếc tủ sắt nằm bên dưới tấm bảng có nhiều nút bấm, khác hẳn những tủ sắt khác, nó giống như một bộ phận chỉ huy vậy.

    Giữa phòng xếp mấy cái bàn giấy dài, bên trên để rất nhiều điện thoại và các tập tài liệu, chúng được phủ bởi một lớp bụi dày.

    Sở dĩ căn phòng này khác với những căn phòng khác chúng tôi đã từng thấy là do đống máy móc thiết bị tinh vi này, chúng không hề giống những văn kiện giấy tờ hay máy móc chúng tôi đã từng thấy trước đó, cũng không giống với hầm băng hoặc nhà kho hay khu vực đầu mối phân phối cáp điện, nơi này giống như là khu vực dành cho nhân viên kĩ thuật.

    Tôi hỏi Mã Tại Hải chỗ đồ đạc này dùng để làm gì, cậu ta liền chỉ từng cái một, rồi giải thích cặn kẽ cho tôi: Các tủ sắt lớn này chắc là tủ kĩ thuật để điều khiển các hệ thống của con đập, bên trên viết toàn chữ Nhật, nên cũng không biết cụ thể nó dùng để làm gì, nhưng chắc chắn có bộ phận giám sát áp suất, bộ phận giám sát mực nước, đường điện áp tổng để điều khiển cửa xả nước, thậm chí là điều khiển từng máy phát điện. Ở hình vẽ mắt cắt phía này của con đập có lẽ bộ phận điều khiển đường ống bên trong con đập, những điốt này đều thể hiện sự đóng mở hệ thống đường ống, có điều hệ thống tổng thể của con đập quá phức tạp, cho nên cụ thể chúng là đường ống gì thì cậu ta không biết.

    Tóm lại, cậu ta biết chỗ máy móc này, nhưng không biết cách sử dụng cụ thể như thế nào, có thể khẳng định đây chính là khu vực điều khiển, hoặc ít nhất là một trong những phòng điều khiển của con đập.

    Suy đoán là vậy, nhưng trên thực tế chúng tôi lại không tìm thấy máy phát điện báo như đã nghĩ, cũng không tìm thấy cánh cửa thông ra ngoài, dường như căn phòng này bị bịt kín vậy.

    Mã Tại Hải cầm đèn pin chiếu lên trần nhà quan sát hướng chạy của đám dây điện, ánh đèn quét từ trần nhà xuống tường, rồi từ tường xuống mắt đất, cuối cùng dừng lại ở một tấm sắt có bốn then cài to bằng cổ tay nằm trên mắt đất, cậu ta lật tấm sắt lên. Không ngờ tấm sắt đó lại là một cánh cửa xoay vô cùng chắc chắn, phía dưới có một cái thang dựng thẳng đứng, hình như đầu bên kia của cái thang còn có một căn phòng nữa.

    “Đây là loại cửa xoay âm tường, cho dù nơi này có bị tấn công thì kẻ địch cũng phải tốn rất nhiều thời gian mới có thể tìm ra phòng chỉ huy này”. Mã Tại Hải hào hứng nói tiếp: “Kiến trúc quân sự của quân Nhật đều như vậy hết đấy!”

    Nhìn thoáng qua, căn phòng bên dưới có vẻ không có gì đặc biệt, tôi còn có những dự định khác, nên giờ chỉ muốn tốc chiến tốc thắng, bởi vậy tôi định trèo luôn xuống, nào ngờ Vương Tứ Xuyên túm lấy tôi: “Đợi tí đã, tôi thấy không ổn!”

    “Gì mà không ổn?”, tôi hỏi.

    Vương Tứ Xuyên chỉ tấm bản đồ vẽ mắt cắt của con đập treo trên bảng sắt với vẻ rất hứng thú, rồi quay sang hỏi tôi: “Cậu xem, hai cái đèn ở trong cái đập này phải chăng biểu thị hai cái thang máy đã dìm chúng ta xuống dưới?”

    Mã Tại Hải nhìn kĩ thấy đúng là hai cái đèn báo này to hơn những chiếc đèn khác, màu sắc của nó cũng khác, cậu ta hít một hơi sâu, rồi gật đầu: “Đúng thế, chắc là thế!”

    “Nếu thế này thì công tắc của thang máy cũng nằm ở đây phải không?”, cậu ta hỏi tiếp.

    Tim tôi tự nhiên đập rộn lên, tôi biết cậu ta đang nghĩ gì.

    Vương Tứ Xuyên lại gần, cầm đèn soi từng cái nút trên hộp máy chi chít nút. Dưới mỗi nút đều được ghi chú bằng chữ Nhật, tôi biết cậu ta cũng chẳng hiểu được chữ nào. Vương Tứ Xuyên sờ tay vào đám nút, rồi vẫy tôi lại, tôi vội chạy tới, vừa nhìn đã thấy dấu vết lau bụi trên bề mặt nút rất rõ ràng, dấu vết còn khá mới, chứng tỏ có người vừa sử dụng nó cách đây không lâu.

    “Cậu nói có lý.”, Vương Tứ Xuyên gật gù, “Lẽ nào vẫn còn lính Nhật sống ở đây?”

    Vương Tứ Xuyên nhớ lại cảnh ngộ chúng tôi đã gặp phải trong thang máy lúc ấy, không thấy bảng điền khiển xung quanh thang máy lúc ấy, vậy sau khi chúng tôi vào bên trong, ai đã khởi động để dìm chúng tôi xuống dưới đáy đập? Tôi không nghĩ, việc này do tên lính Nhật còn sống sót nào đó làm, thứ nhất là bởi vì trên đường đi tới đây chúng ta không nhìn thấy dấu vết gì khác thường; thứ hai là nơi này chỗ nào cũng bám đầy bụi, nhưng bụi trên bảng điều khiển này lại bị ai đó phủi sạch đi, rõ ràng là không có người ở đây thường xuyên.

    Tôi quay lại giải thích: “Xem ra có người nào đó đã đến đây trước chúng ta, sau đó bấm vào cái nút này để làm gì đó.”

    Tôi nhìn xuống, thấy dấu chân để lại trên nền đất rất rõ ràng, nhưng bây giờ chúng tôi đã đi lại, giẫm đạp lung tung lên chúng, nên không thể phân biệt được đó là vết chân của ai nữa.

    Vương Tứ Xuyên suy nghĩ, thấy cũng có lý: “Thế thì ai nhỉ? Người đó chắc chắn là đã đến đây sớm hơn chúng ta, lẽ nào là người phụ nữ của đoàn khảo sát thứ nhất mà chúng ta vẫn chưa tìm thấy?”

    “Tạm thời lúc này cũng chỉ nghĩ ra người ấy, chứ chẳng nghĩ ra được ai khác.” Tôi đáp.

    Mã Tại Hải không đồng tình với suy đoán của chúng tôi: “Không thể có chuyện đó! Chúng ta phải phá tường mới vào được trong này, ngoài cái hốc để dòng dây điện thì chỉ có cánh cửa kia là lối duy nhất có thể đi vào bên trong, có lẽ kẻ đó từ dưới tìm đường trèo lên, mà nếu như vậy thật thì kẻ đó không thể nhờ vận may mà tìm thấy đường, chắc chắn người này phải rất thông thạo kết cấu của con đập này.”

    Quả thực như thế, tôi tiếp tục phân tích: “Sau khi cô ta vào được đây, có thể cô ta đã dựa vào khung lưới thép này để tìm ra thiết bị điều khiển, đồng thời lau lớp bụi bám trên cỗ máy để đọc các kí hiệu trên các nút, từ đó tìm thấy công tắc điều khiển lên xuống của thang máy. Cô ta biết rõ thiết bị nào ở dưới tấm lưới sắt có thể điều khiển được thang máy, cho nên đã không phí công tìm từng máy một, mà chỉ quét sạch lớp bụi bám trên cỗ máy đó để tìm ra nút nào dùng để điều khiển khởi động và đóng tắt thang máy, chi tiết này cho thấy chắc chắn cô ta đã làm theo một sự chỉ dẫn nào đó, mục đích đã rõ ràng, nhưng chi tiết thế nào chúng ta vẫn chưa nắm rõ.”

    “Xem ra, bất kể người này là ai, thì thân phận của kẻ đó chắc chắn có vấn đề, nói không chừng lại là nội gián của quân Nhật”, tôi nói, “Đội khảo sát trước đây có người bị sát hại, chắc cũng do người này làm. Hơn nữa, nhiệm vụ khảo sát nơi này của họ bị thất bại chắc cũng do người này phá đám.”

    Hai người còn lại đều gật đầu đồng tình với suy đoán của tôi, Vương Tứ Xuyên tiếp lời: “Tung tích người phụ nữ này không rõ ràng, nếu bây giờ bị chúng ta phát hiện thì chắc chắn người này sẽ xóa dấu vết, không chừng cô ta đang ở ngay cạnh chúng ta, rất có thể chúng ta sẽ chạm trán cô ta đấy!”

    Súng của Mã Tại Hải vẫn treo ở bên ngoài, tôi bảo hay là lấy vào để còn có cái mà phòng thân. Mã Tại Hải nói, bây giờ vẫn chưa thể biết có thể xuống được bên dưới hay không, chẳng may không thoát ra được, thì vẫn phải quay về đường cũ. Nếu gỡ khẩu súng đem vào thì sẽ rất khó trở lại chỗ xuất phát. Nghe vậy, tôi đành chấp nhận hiện thực. Vương Tứ Xuyên nói: “Thế thì chúng ta càng phải cẩn thận hơn mới được.”

    Chúng tôi tiếp tục đi xuống dưới xem xét tình hình, Mã Tại Hải mò mò mẫm trèo cầu thang thám thính trước, nhận thấy bên dưới không có người nào, chúng tôi mới dám xuống theo.

    Căn phòng ở bên dưới to gần gấp đôi tầng ở bên trên, có sáu cái máy điện báo đặt dựa vào tường, vẫn còn rất nhiều giấy điện báo đùn ra ở mỗi máy, những nơi khác thì toàn là bàn sắt, và có rất nhiều loại giấy tờ, bụi phủ từng lớp dày bên trên.

    Đây có lẽ là trung tâm chỉ huy của con đập, trên bức tường có treo một tấm bản đồ về kết cấu của tầng hầm dưới con đập, so với tấm bản đồ anh Đường phát hiện được thì tấm bản đồ ở đây to hơn rất nhiều. Vương Tứ Xuyên tìm thấy một cái micrô ở trên chiếc bàn dài dựng sát tường, chắc nó dùng để phát thanh thông báo.

    “Có lẽ lời tuyên bố đầu hàng của Hoàng đế Nhật đã được đọc từ đây, sau khi phát đi, thì quân Nhật Bản bắt đầu rút lui.”. Vương Tứ Xuyên bảo, thử xem nó còn dùng được không, Mã Tại Hải liền khởi động micrô, nhưng bấm hồi lâu mà vẫn không thấy nút sáng đèn, xem ra cái micrô này đã bị hỏng hẳn rồi.

    Tôi nhắc mọi người không được đi loạn xạ như thế nữa, quả nhiên tôi thấy trên mặt đất có rất nhiều những dấu chân, những dấu chân này hướng về hai nơi, tôi chiếu đèn xem thì một hướng là cánh cửa sắt, một hướng là cánh cửa gỗ sơn màu xanh lục.

    Cánh cửa sắt rõ ràng là loại cửa chuyên dụng để tránh bom đạn, bên ngoài nó chắc là thông với một nơi nào đó, còn sau cánh cửa gỗ tôi không hiểu là gì? Hay đó là khu vệ sinh?

    Chúng tôi đi về phía đó mở cánh cửa gỗ ra, đằng sau nó là một phòng làm việc.

    Bụi phủ toàn bộ căn phòng, đồ đạc sắp xếp bày biện trong phòng rất mộc mạc, rõ ràng lức trước những người lính ở đây cũng không có thời gian để trang trí phòng làm việc của mình, trên tường còn có dấu vết của một vật được treo trên đó, xem ra đó là một thanh kiếm Nhật. Tại một góc phòng có một cái mắc áo, trên đó có treo một bộ quân phục không hiểu là dành cho cấp bậc gì, bên ngoài phủ đầy bụi.

    Giữa lớp bụi đó là những dấu vết của việc lục soát, còn đầy dấu tay, theo những dấu vết đó để lại, chúng tôi chỉ phát hiện ra một lượng lớn các văn kiện giấy tờ, còn lại không phát hiện được gì thêm.

    Có lẽ nhiều học giả nghiên cứu lịch sử chiến tranh hoặc những người biết tiếng Nhật sẽ tìm được khối thứ ở trong số tư liệu này, tiếc là chúng tôi ở đây lại không thể, nên đành cứ để chúng lại đó. Nhưng căn cứ vào những dấu vết lục soát còn lưu lại, tôi đồ rằng người này cũng đang tìm một thứ gì đó mà họ chưa biết đích xác nó là gì.

    Chúng tôi quay trở về phòng chỉ huy bên ngoài, rồi đi về phía cánh cửa sắt.

    Tôi đẩy hai cánh cửa sắt ra, không thấy có gì bất ngờ, nên ngoài là một hành lang dài và tối om. Tôi bấm đèn xem xét, có dấu chân đi qua, chắc chỗ này có đường đi ra. Lúc đó chúng tôi cũng chẳng kịp nghĩ gì, cứ thế vội vã đi theo dấu chân người đã đi trước đó.

    Đi được một lát, trước mặt chúng tôi xuất hiện mấy ngả đường, và đều có dấu chân trên đó, xem ra chúng tôi phải đi theo từng con đường một rồi. Lần thứ nhất, chúng tôi chọn sai đường, cuối con đường là phòng tổng đài, bên trong toàn là cầu dao điện. Vương Tứ Xuyên gợi ý rút thử vài dây ra xem sao, nhưng tôi ngăn lại, ngộ nhỡ tắt đi một trang thiết bị quan trọng nào đó, ví như máy làm lạnh không khí ở hầm băng chẳng hạn, thì có trời mới biết hậu quả sẽ thế nào.

    Chúng tôi quay lại chỗ chia nhánh các con đường để đi tiếp sang con đường thứ hai, chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã đi tới trước một cánh cửa sắt, nó cũng dày như cánh cửa “ba chống” ở chỗ phòng sắt đặt biệt chúng tôi gặp trước đó. Nếu có chiến tranh, mỗi một không gian nơi này đều biến thành một cứ điểm quân sự rất khó tấn công.

    Vương Tứ Xuyên đẩy cánh cửa ra, bên trong nó chì có duy nhất một phòng rộng. Tôi cầm đèn pin chiếu một lượt, cả ba người đều thở hắt ra đầy kinh ngạc.

    Đến đây, tôi lại kể thêm với các bạn quá trình chúng tôi tìm ra căn phòng. Đến tận bây giờ, khi tổng kết lại sự việc, tôi vẫn còn cảm thấy sợ hãi. Nếu ngày đó, tại ngã ba con đường, chúng tôi chọn đi đường thẳng thay vì con đường này thì có lẽ diện mạo thật của công sự ngầm khổng lồ này có lẽ vẫn mãi mãi bị chôn vùi mà không một ai trên cõi đời này có thể biết được.

    Đôi khi chỉ một sự lựa chọn cũng đủ để thay đổi mọi thứ.

    Phía sau cách cửa sắt là một căn phòng nom rất kì lạ, nhưng không hiểu sao tôi lại cảm giác khá quen thuộc, dường như mình đã từng nhìn thấy nó, nhưng không nhớ cụ thể là nhìn thấy khi nào.

    Bức tường trước mặt treo một tấm vải bạt rộng chừng năm mét, trong phòng có rất nhiều ghế thấp, cuối căn phòng có một chiếc máy kì dị.

    Tới gần cái máy, tôi mới phát hiện đó chính là một chiếc máy chiếu cỡ nhỏ - thì ra nơi này chính là một rạp chiếu phim.

    Lúc được xem thước phim “Số không” chiếu ở khu doanh trại, tôi mới biết trên đời này còn tồn tại loại máy chiếu cỡ nhỏ như thế, lẽ nào lại có một rạp chiếu phim nằm trong lòng đất? Không biết hồi ấy quân Nhật đã tổ chức những hoạt động giải trí gì ở dưới này?

    Bây giờ nhìn lại, mời thấy có thể đúng thư thế thật, nhưng hồi đó trong ý thức của chúng tôi thì không thể có chuyện giải trí một cách chính đáng ở dưới này được, nơi này chắc chắn phải là nơi dùng để tuyên truyền tư tưởng chủ nghĩa phát xít của quân đội Nhật Bản.

    Tôi tò mò nhìn cái máy chiếu, xem kĩ thêm lần nữa thì phát hiện trên nó có vết lõm rất lạ, hình như người đến đây trước chúng tôi đã chú ý đến chiếc máy và đánh dấu lên nó. Tôi lại ngó nghiêng nhìn cái máy khắp lượt, chợt nhận ra hình như phán đoán ban đầu của tôi có vẻ không đúng.

    Phần lõm xuống của máy chiếu dường như để gắn thứ gì đó vào, tôi cảm thấy chỗ lõm đó rất quen thuộc, quen thuộc không phải bởi cảm giác đã nhìn thấy nó ở đâu, mà bởi cảm giác nó khiến tôi liên tưởng đến một tình huống vô cùng quan trọng và căng thẳng nào đó.

    Tôi gọi Vương Tứ Xuyên lại, cậu ta giơ tay vẽ vẽ vào không trung một lúc, ba người chúng tôi củng cố hình dung lại, Mã Tại Hải nhanh trí nhớ ra đầu tiên: “Cái hộp đựng cuộn phim! Chính là cái hộp đựng cuộn phim ta đã phát hiện trên xác của nữ quân nhân Nhật Bản!”

    Sự việc này mới phát sinh không lâu, tôi nhớ phần lồi lên giống như vỏ ốc của cái hộp liền giơ tay vẽ lên không trung tưởng tượng lại, quả nhiên đúng như vậy, mọi chuyện bỗng chốc sáng tỏ như ban ngày.

    Nếu vậy thì cái hộp sắt bị kẹt lại dưới băng lẽ nào chính là một bộ phận không thể tách rời của cái máy chiếu kia? Tôi ngây người, bỗng nhiên nhận ra, trời ơi, đúng rồi, cái hộp sắt kia chính là cuộn phim của máy chiếu này.
     
  11. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 50: Cuộn phim


    Ba chúng tôi ngẩn người suốt hồi lâu, ai nấy đều cảm thấy sự việc có điều bất thường, tôi ngồi xuống, cố ép bản thân phải bình tĩnh suy nghĩ, mọi lời giải đáp có lẽ đều nằm trong hộp sắt này, dần dần tôi hiểu ra vấn đề.

    Lẽ nào sự tình lại như vậy?

    Những sự việc khó hiểu trước đây bỗng chốc trở nên thật rõ ràng, mục đính quân Nhật xây dựng khu vực dưới lòng đất này, đồng thời vận chuyển máy bay ném bom hạng nặng xuống đây chính là vì lòng vực sâu thẳm và rộng mênh mông như hư vô kia.

    Chúng tôi cũng không biết vì sao họ lại tìm được nơi này, có lẽ là khi tìm kiếm nguồn dầu lửa và các mỏ than, họ đã vô tình phát hiện ra không gian rộng lớn nơi đây, cũng có thể do hiếu kì đi khảo sát dòng sông ngầm, thì phát hiện điểm cuối của dòng sông là một khoảng hư không hùng vĩ. Song động cơ nào không quan trọng, rõ ràng họ rất kiên quyết muốn biết rõ, bên dưới vùng đất Trung Hoa, trong khoảng không tối tăm giống như vũ trụ bao la kia có chứa đựng điều gì?

    Và để thực hiện mục đích đó, họ đã chọn sử dụng máy bay Shinzan, nhưng đương nhiên họ không thể dùng mắt thường để ghi lại toàn bộ những kết quả đã quan sát được, chắc chắn trong máy bay có cài đặt thiết bị giám sát, ví dụ như loại máy camera tân tiến chuyên biệt dành cho máy bay chẳng hạn.

    Thế nhưng, sau khi máy bay cất cánh, toàn bộ cơ sở bên dưới mặt đất lại bị vứt bỏ vì một lí do nào đó. Không còn người điều hành, đồng nghĩa với việc không có hoa tiêu chỉ đường nên lúc máy bay quay vòng trở lại, đã bị rơi xuống dòng sông ngầm. Nhưng do dưới lòng sông chất đầy xác công nhân Trung Quốc, cho nên chiếc máy bay đã không bị phá hủy hoàn toàn, có khả năng có người trong tổ bay đã bị thương, nhưng chỉ một mình cơ trưởng bị chết, đó chính là cái xác chết có tư thế kì quái mà chúng tôi đã nhìn thấy ở bên trong máy bay. Những thành viên khác có thể vẫn sống sót.

    Hộp đựng cuộn phim chúng tôi lấy từ cái xác vùi dưới lớp băng, nếu nói vậy thì cái xác đó khả năng chính là xác của một thành viên đội bay. Sau khi máy bay hạ cánh, cô ta may mắn sống sót, lấy cuộn phim mang theo, nhưng sau đó không biết tại sao lại chết cóng bên dưới hầm lạnh này?

    Phải chăng sau khi chiếc máy bay bị phá hủy, ở đó đã xảy ra sự cố gì đó. Nhóm phi công không rời đi mà lại xuống dưới con đập để chôn dấu chỗ đầu đạn gần máy ra-đa. Sau đó vì một lí do nào đó nên đã bị lạnh cóng đến chết ở nơi này.

    Thế nhưng, cách người ta sắp xếp máy ra-đa và chỗ đầu đạn thật giống như cách lý giải của Vương Tứ Xuyên, đúng là chẳng khác nào một hệ thống bẫy.

    Nguyên nhân là gì? Lẽ nào họ đã nhìn thấy thứ gì đó dưới vực sâu, hay họ cho rằng, máy bay Shinzan đã thu hút được thứ gì đó đang ẩn mình dưới vực sâu?

    Nghĩ đến đây, tôi bắt đầu thấy như có luồng điện chạy dọc sống lưng, khắp người chợt nổi gai ốc.

    Những việc sau đó rất đơn giản, toàn bộ thành viên may mắn sống sót của phi hành đoàn đều bị đông cứng. Mấy chục năm sau, nhóm khảo sát địa chất chúng tôi đã phát hiện ra hang động này, cho nên chúng tôi bắt đầu công cuộc khảo sát.

    Chúng tôi không biết điều gì đã xảy ra với nhóm khảo sát thứ nhất, giả thiết rằng nhóm này bị nội gián địch đánh lén, thì rõ ràng tên giặc đó phải là lính Nhật, chỉ hắn ta mới biết được tất cả cấu kết bên dưới này, cũng biết được nơi này đã bị người Trung Quốc phát hiện ra, thế nên hắn mới trà trộn vào đội khảo sát thứ nhất, giết chết các thành viên trong đội, đồng thời phá luôn kế hoạch khảo sát nơi này của họ.

    Nhìn những dấu vết còn sót lại nơi đây, có thể thấy hắn đang tìm kiếm thứ gì đó, khả năng chính là cuộn phim này. Có điều hắn không hề biết, thực ra cuộn phim đã bị đông cứng dưới lớp băng, cho nên mặc dầu đã cất công tìm kiếm bao lâu nay, nhưng vẫn chưa tìm ra được. Để có thêm thời gian hành động, hắn đã đẩy chúng tôi xuống dưới hầm băng này, chắc muốn chúng tôi chết cóng, nhưng hắn đã không ngờ rằng người trong đội khảo sát thứ nhất vẫn còn sống, người đó đã dùng máy điện báo phát ra tín hiệu cấp cứu, khiến nhóm anh Đường đã tìm ra được vị trí của hầm băng nhờ tấm bản đồ.

    Sự việc cứ như thế mà diễn tiến. Tôi nói những suy đoán của mình cho hội Vương Tứ Xuyên nghe, ba người có suy nghĩ đều khá giống nhau.

    “Nếu như vậy thì tên đánh lén này quả thực rất lợi hại, tâm địa hung hiểm khôn lường. Hắn quay chúng ta như quay dế.” – Vương Tứ Xuyên nói – “Sau khi hắn đẩy chúng ta xuống hầm băng, hắn lại còn muốn ra tay giết kẻ bị rớt khỏi đội là cậu dưới cái hố băng. Có điều, rõ ràng người bị lạc của nhóm trước là một phụ nữ, tại sao cậu lại có cảm giác kẻ muốn giết cậu lại là đàn ông nhỉ?”

    Tôi cắn môi suy nghĩ rồi đáp: “Rất rõ ràng, có hai khả năng, thứ nhất là do chúng ta nhận lầm người, thứ hai do người đó cải trang, vóc dáng người Nhật khá thấp bé, cho nên ngay từ ban đầu chúng ta đã lầm tưởng hắn là phụ nữ, kẻ này trà trộn vào đội ngũ của chúng ta ngay từ lúc mới đến đây.” Nói đến đây, tôi chợt nhớ tới mẩu giấy ai đó đã nhét vào túi mình khi ấy.

    Người này, chính là người muốn chôn vùi tôi dưới hố băng, và cũng chính hắn là người đã dập cầu dao để đẩy chúng tôi đi xuống đáy đập, định dìm chết chúng tôi dưới đó.

    “Theo cậu thì đó là ai?”, tôi hỏi Vương Tứ Xuyên.

    Cậu ta lắc đầu, chúng tôi đều không nắm rõ về những người lính ở đây, nên nói thực với tôi ai cũng có khả năng đó.

    “Theo tôi, nếu không phải Trần Lạc Hộ thì là Bùi Thanh, hai người này đáng nghi nhất.” Vương Tứ Xuyên đưa ra phỏng đoán, “Mà xem ra, Bùi Thanh vẫn đáng nghi hơn cả.”

    Vương Tứ Xuyên vốn ác cảm sẵn với Bùi Thanh, nhưng bản thân tôi, tôi cũng thấy hơi nghi ngờ Bùi Thanh, chỉ có điều không dám nói ra thôi.

    Mã Tại Hải trầm ngâm một lúc rồi nói: “Bây giờ biết làm thế nào đây? Địch ở trong bóng tối, còn chúng ta lại ở ngoài sáng.”

    “Chúng ta lại không có kinh nghiệm đối phó phản gián, nhưng cả ba người đều từng bị đánh lén, rõ ràng ba người chúng ta đều không nằm trong danh sách tình nghi”- Tôi đáp – “Nếu lúc này chúng ta cứ ở đây giằng co với hắn thì chưa chắc đã thắng, giờ đã biết cuộn phim chính là mục đính tìm kiếm của hắn, vì vậy chúng ta nên đi tìm cuộn phim trước, sau đó rời khỏi chỗ này, lên mặt đất để tổ chức quyết định nên triển khai hành động gì tiếp theo.”

    Đề nghị này của tôi lúc đó chính là sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tổ chức với lợi ích quốc gia, cho nên nó được thông qua rất nhanh.

    Vương Tứ Xuyên hơi lo ngại: “Có điều, nếu đúng như chúng ta nghĩ thì với số người trong nhà kho ít ỏi như thế, biết đâu cuộn phim đã bị kẻ địch cướp trước một bước rồi?”

    Tôi cũng nghĩ hoàn toàn có thể xảy ra khả năng này, nhưng sự thực thế nào thì không thể ngồi đây mà đoán được, chúng tôi phải nghĩ cách để quay trở lại chỗ nhà kho.

    Ngoài ra, hội anh Đường chắc cũng đang tìm đường quay trở lại nhà kho, mà chúng tôi còn có nhiệm vụ phải ở đây để truyền báo thông tin, báo cáo cho các anh về các lối đi và cả chuyện bị đánh lén nữa, nếu không có thể các anh lại sẽ đi tìm chúng tôi, rồi nảy sinh bao nhiêu rắc rối khác, từ đó có thể dẫn tới việc khiến càng nhiều người bị thương vong, thế thì tội của chúng tôi càng nặng thêm.

    Biện pháp tốt nhất là nên để lại một người ở nơi này, còn hai người sẽ mang cuộn phim đi, người ở lại chịu trách nhiệm báo cáo lại tình hình. Song, lúc này ai ở lại, quả thực là một vấn đề rất nhạy cảm, nên nhất thời tôi cũng chẳng biết phải nói gì.

    Tóm lại, nhiệm vụ thứ nhất là phải về nhà kho trước đã.

    Tất cả có ba con đường, hai con đường đã đi thử, đã biết là sai, vậy chắc chắn đường ra sẽ là con đường còn lại.

    Quá trình tiếp theo diễn ra khá khô khan. Khu vực này có lẽ là khu vực trung tâm của con đập, khu ở của công nhân, quân lính, nhà ăn, kho vũ khí đều tập trung tất ở chỗ này, ngoài ra còn có phòng điều khiển, các văn phòng làm việc, khu vệ sinh, chúng tôi phải đi mất gần hai tiếng đồng hồ qua khu vực đó, phải rẽ, ngoặt qua rất nhiều con đường cuối cùng mới thấy một cầu thang.

    Đó là cầu thang thoát hiểm, chắc được dùng để thoát lên khi thang máy không sử dụng được, cái thang này rất hẹp, chúng tôi leo lên chừng hai chục bật thì đã nghe có tiếng gió thổi, leo thêm chừng chục bật nữa thì đến cánh cửa, đẩy cánh cửa làm bằng lưới sắt ra cuối cùng chúng tôi đã đến được tầng trên của con đập.

    Vừa leo lên trên, một trận gió mạnh lập tức táp vào mặt, ngọn đèn pha trơ trọi vẫn làm nhiệm vụ của mình trên đó, còn một phía nữa chỉ thấy tối om và rất yên tĩnh. Chúng tôi đã trải qua từng ấy sự kiện, bây giờ lại một lần nữa nhìn lại không gian sâu thẳm và rộng mênh mông này, cảm giác hỗn độn, phức tạp lại ùa về.

    Hơn nữa, mực nước lúc này đã hạ, những vật vốn bị chìm hoàn toàn dưới mực nước nay đã nổi cả lên. Chúng tôi nhìn thấy cả đống bao tải chứa xác người chất cao như những ngọn núi nhỏ, chiếc Shinzan bị gãy gập nằm im lìm giữa đám xác, tôi có thể nhìn rất rõ dấu vết va quệt của máy bay khi nó rơi xuống. Bên cạnh đó rất nhiều các kiến trúc ở dưới nước cũng nổi lên, thậm chí vài chỗ còn sáng ánh đèn. Chắc Mã Tại Hải đã bật tất cả những công tắc này cùng lúc bật công tắc đèn pha.

    Dòng sông ngầm đôi chỗ đã cạn khô, mực nước hạ xuống rất thấp, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng nước chảy, cửa xả lũ của con đập đóng lại, chỗ này bắt đầu úng nước, không bao lâu sau, nước sẽ lại dâng lên.

    Mã Tại Hải chỉ về một hướng, nơi đó tối đen như mực: “Đó chính là khu lọc nước của con đập, thuyền của chúng ta ở chỗ đó, chắc giờ này vẫn còn.”

    “Nếu chúng ta có thể thoát ra ngoài nhờ con thuyền này, thì cơ hội thăng chức của cậu chắc chắn sẽ thành hiện thực đấy!”, tôi nói, rồi nghĩ thầm giả sử không có thuyền tôi cũng sẵn sàng lội nước để đi, cho dù có đi vào chỗ chết.

    Chúng tôi không còn thời gian để chú ý đến những điều này nữa, chúng tôi tính toán làm thế nào để tìm ra nhà kho, định sẽ men theo mép ngoài của thành đập để trèo xuống. Nhưng trước hết, chúng tôi phải tìm thấy chỗ lúc trước chúng tôi đã rẽ cái đã. Đang chuẩn bị tiến hành, thì Mã Tại Hải bỗng hốt hoảng kêu lên: “Các anh mau nhìn xem!”

    Tôi quay lại, thấy cậu ta đang nhìn về phía bên trong con đập, tôi lập tức dõi mắt theo: “Gì đó?”

    “Có người!”

    Nhìn theo hướng tay cậu ta chỉ về nơi bóng tối trong con đập, tôi thấy một chiếc đèn pin đang di chuyển rất nhanh, có người đang đi trên tấm lưới sắt.

    “Ai đó?”, Vương Tứ Xuyên hỏi.

    Mã Tại Hải vẫn dõi theo, sắc mặt căng thẳng: “Không biết, nhưng hắn đang đi về phía chiếc xuồng của mình.”

    “Chết rồi!”

    Ba người chúng tôi đều ý thức được chuyện gì sẽ xảy ra, chỉ có một chiếc đèn, lại đi một người, lẽ nào chỉ có một tên địch? Hắn đang chạy về phía chiếc xuồng, lẽ nào hắn đã trộm được cuộn phim và giờ chuẩn bị trốn đi?

    Lúc đó chúng tôi không có thời gian để suy nghĩ cẩn thận, bất kể là bạn hay thù, lúc này chúng tôi phải bắt sống hắn. Không đợi tôi nói ra lời, Mã Tại Hải và Vương Tứ Xuyên đã vội lao đi, chuẩn bị trèo xuống chiếc cầu thang sắt.

    Gió ở mép trong của con đập không mạnh lắm, vả lại bên dưới cũng không sâu, chúng tôi ba chân bốn cẳng trèo xuống, nếu không chặn được tên kia thì rất có thể chúng tôi sẽ mất cơ hội trở về.

    Cũng may, chúng tôi trèo xuống con đập rất nhanh, con đường được làm bằng các tấm lưới sắt rất rộng. Nhưng vì tầm nhìn hạn chế nên chỉ trong phút chốc tôi đã không còn nhìn thấy bóng người kia đâu nữa.

    Mấy anh em đang do dự, bỗng Vương Tứ Xuyên nhìn thấy ánh đèn pin nhấp nháy cách chúng tôi chừng năm sáu trăm mét.

    “Đuổi theo!”, tôi hét to, nhưng cậu ta vội ngăn tôi lại: “Chúng ta không có súng, ngộ nhỡ kinh động đến tên đó, hắn mà giơ súng bắn mình, thì mình không phải đối thủ của hắn đâu!”

    “Thế phải làm sao?”, tôi sốt ruột.

    “Chúng ta phải tấn công thôi”, giọng Vương Tứ Xuyên bỗng trầm xuống, “Đây không phải chuyện đùa, đối phương có thể là kẻ giết người trong chớp mắt. Trong nhóm chúng ta, cậu là cán bộ kĩ thuật, Tiểu Mã là lính công trình, chưa ai từng ra trận, tuyệt đối không được liều lĩnh!”

    Tôi tức giận: “Nói thế thì khác gì cậu phải xung trận!”

    “Tuy tôi chưa từng đi đánh giặt, nhưng đã theo cha cưỡi ngựa từ năm lên năm tuổi, mười lăm tuổi đã cùng bạn đi bẫy sói, bọn trẻ con Mông Cổ chúng tôi chơi trò gì cũng nguy hiểm, chắc chắn giỏi hơn các cậu”, cậu ta nhìn theo ánh đèn pin, rồi nói tiếp: “Bây giờ chúng ta chẳng khác gì đi săn, ưu thế duy nhất là quân số nhiều hơn phe địch, ba chúng ta phải phân công nhiệm vụ rõ ràng, một người chịu trách nhiệm lôi kéo sự chú ý của hắn, một người chịu trách nhiệm tước lấy khẩu súng, còn người cuối cùng trốn trong khe đánh úp hắn. Tôi phụ trách đánh hạ khẩu súng. Ngô, trông cậu gầy còm thế kia, chắc chỉ phù hợp với việc lôi kéo sự chú ý, còn Tiểu Mã sẽ nhân lúc đó xông vào đánh úp.”

    Tôi hỏi: “Trong tay cậu không có súng, lấy gì đòi hạ súng của hắn?”

    Vương Tứ Xuyên đưa mắt nhìn quanh, định tìm một cây gậy nào đó, nhưng đây lại là con đường làm bằng các tấm lưới mắt cáo, rác còn không có thì lấy đâu ra vật gì để làm vũ khí. Cuối cùng, cậu ta móc trong bao tải giảm xóc ra một đoạn xương đùi người chết, cậu ta giơ lên nói: “Trước đây trên thảo nguyên ở Mông Cổ cũng không có vũ khí gì, nhưng vật gì rơi vào tay chúng tôi cũng đều trở thành vũ khí hết.”

    Tôi nhìn tư thế Vương Tứ Xuyên cầm khúc xương đùi liền hiểu ra cậu ta đang chuẩn bị ngón nghề quăng vũ khí, tôi liền hỏi: “Sao cậu không cầm khúc xương phang phẳng một phát vào đầu cho hắn gục luôn?”

    Vương Tứ Xuyên trả lời: “Không thể làm vậy được, cậu tự nhìn sẽ hiểu ngay.”

    Tôi nhìn về phía tên địch, liền hiểu ra ý định của cậu ta, nơi này ánh sáng không đủ, chỉ có cánh tay cầm đèn pin của hắn là nhìn thấy rõ, còn tất cả những bộ phận khác trên người đều chìm lấp trong bóng tối, lúc ẩn lúc hiện.

    “Nếu hắn bỏ đèn lên thuyền, thì đến người hắn ở chỗ nào mình cũng không thể nhìn rõ, vì thế cậu nhất định buộc hắn phải khai hỏa thì mới biết vị trí của khẩu súng.”

    Bình thường tôi khá tin tưởng vào năng lực của Vương Tứ Xuyên, thế nhưng vào thời khắc quan trọng thế này thì tuyệt đối không thể để xảy ra sai sót gì, tôi thắc mắc: “Không được, chỉ mỗi một ‘cây gậy’ đó liệu có đánh trúng hắn không, nếu không đập trúng thì sẽ thế nào?”

    Vương Tứ Xuyên vặc lại, trách sao mà tôi lắm lời thế, cứ ngồi đó mà do dự rồi để tên địch kia chạy mất, lúc đó chúng tôi cứ ngồi đây mà đợi cả đời.

    Tôi ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy ánh đèn đã dừng lại, không biết hắn ta đang làm gì, những lời Vương Tứ Xuyên vừa nó khiến chúng tôi gai lạnh hết cả người, rõ ràng bọn tôi phải đánh cược tính mạng vào ván bài này, vậy là tôi đành gật đầu.

    Ba người chúng tôi tắt đèn pin, mò mẫm đi trong bóng tối tiến về phía trước, lợi dụng rất nhiều thứ bên đường yểm trợ, rồi nhanh chóng đến gần chỗ phát ra ánh đèn. Bóng dáng kẻ địch càng lúc càng hiện rõ trước mắt.

    Cuối cùng, khi cách tên địch khoảng chừng trên mười mét, tôi nhìn thấy một người mặc quân phục lính Nhật, đang rướn người lên chiếc xuồng để chuyển đồ, hai mắt láo liên nhìn xung quanh. Tiếp đó, tôi nhìn thấy cuộn phim đã bị mang đặt lên trên xuồng.

    Tôi trốn đằng sau mấy cái bao tải giảm xóc, chỉ để lộ nửa đầu lên để quan sát, tên địch kia đeo mặt nạ chống độc.

    Mẹ kiếp, đến lúc nào rồi mà không thèm lộ rõ gương mặt thật của mày ra?

    Vương Tứ Xuyên đánh mắt nhìn tôi, khẽ đưa ngón tay ra hiệu, ý bảo tôi hãy thu hút sự chú ý của đối phương. Mã Tại Hải thì lặn xuống dưới nước phục sẵn, chuẩn bị phóng lao bắt mồi.

    Một khi tôi phát ra tín hiệu, đối phương sẽ cảnh giác và lập tức bắn ngay, nhân lúc đối phương đang tập trung vào tôi, Vương Tứ Xuyên sẽ thò gậy ra đập rơi khẩu súng của đối phương. Sau đó Mã Tại Hải sẽ nổi lên dìm hắn xuống nước ngay lập tức, ba chúng tôi vạch kế hoạch hành động như thế để bắt hắn.

    Tôi xem xét lại, thấy không có vấn đề gì liền gật đầu. Vương Tứ Xuyên đang định động thủ, bỗng nhiên tên địch bỗng dừng lại, cảnh giác nhìn khắp xung quanh, dường như hắn phát hiện thấy điều gì bất thường.

    Tôi và Vương Tứ Xuyên rụt cổ lại, nghĩ bụng thằng cha này đúng là nghiệp vụ lâu năm. Đợi một lúc sau, đối phương tiếp tục thò đầu ra, rồi thò tay ra mò mẫm rất nhanh, quả nhiên thằng cha này đang sợ hãi.

    Vương Tứ Xuyên không bàn thêm gì nữa, cậu ta nháy mắt ra hiệu, Mã Tại Hải đã lặn xuống dưới nước, lập tức nổi lên. Chúng tôi hết sức tập trung để phán đoán động thái của địch, mắt không ngừng dõi theo bóng hắn đang di chuyển về phía chiếc xuồng.

    Vương Tứ Xuyên liếc mắt sang tôi, tôi hít một hơi dài, miệng lẩm bẩm thầm cầu khấn “A di đà Phật”, rồi bất ngờ lao lên hét lớn: “Cấm cử động!”

    Ánh đèn lập tức xoay về phía tôi, chạy được chừng hai bước, đối phương lập tức khai hỏa, viên đạn bay vèo vèo sượt qua đầu tôi.

    Tôi cảm giác mình chắc toi rồi, viên đạn vèo đi sau đầu tôi rất gần, thằng cha này bắn súng thành thục thật, có thể hắn không nhìn thấy tôi, chỉ nghe tiếng mà vẫn phán đoán được vị trí của tôi, hơn nữa tốc độ bắn của nó rất nhanh. Dường như đó là bản năng, chỉ trong tích tắc là nổ súng. Tôi quay lại nhìn hai vệt lửa đỏ ngầu xệt qua vị trí đứng lúc nãy của mình, tí nữa thì đi điểm danh với Diêm Vương.

    Cũng may, Vương Tứ Xuyên đứng bên cạnh hành động nhanh như cắt, tôi vừa ngã xuống thì nghe thấy tiếng hộc lên như con thú bị đánh chết giữa không gian, đó chắc chắn là thế võ tàn bạo mà Vương Tứ Xuyên vẫn dùng khi bắt bò rừng ở quê nhà, sau đó là một loạt tiếng lõm bõm của đồ vật rơi xuống nước.

    Tôi biết chúng tôi đã thành công, nên vội đứng dậy, chạy về phía âm thanh vừa phát ra.

    Vương Tứ Xuyên chay nhanh hơn tôi, tôi nhìn thấy những vòng tròn sóng nổi trên mặt nước, đang định nhảy xuống, bỗng tôi nhìn thấy trên xuồng có hộp đựng cuộn phim bọc vỏ da màu đen.

    Tôi vội trèo lên tóm lấy nó, rồi nhặt một khẩu súng trường lên nhắm xuống mặt nước.

    Hai đánh một, hơn nữa lại là Vương Tứ Xuyên và Mã Tại Hải, cho nên tôi không phải tham gia, tôi chú tâm vào việc bảo vệ an toàn cho những tư liệu quan trọng này.

    Mặt nước ùng ục một hồi, tôi thấy Mã Tại Hải nổi lên một tí rồi lại ngụp xuống, tôi chĩa súng xuống nước, hai người cuốn lấy nhau, vật lộn dưới đó, không phân biệt được ai với ai, nên tôi không dám bóp cò.

    Không biết cả hai vật lộn bao lâu, bỗng nhiên tôi thấy im ắng, sau đó Mã Tại Hải nổi lên, bám lấy xuồng leo vào, miệng thở hổn hển.

    Tôi giật mình tí nữa thì thúc khẩu súng xuống, định thần lại thấy đó là cậu ta mới dừng tay, tôi hỏi thế nào, nhưng câu ta không trả lời, chỉ há mồm thở hổn hển, tôi nắm lấy tay cậu ta nhưng cánh tay cứ rũ ra.

    Mấy giây sau, Vương Tứ Xuyên cũng trồi lên, cậu ta vốn là người khỏe mạnh nên không mất sức nhiều lắm, dù dưới nước nhưng mắt vẫn có thể nhìn khắp bốn phía.

    Bốn bề tĩnh mịch yên bình, tôi cầm đèn pin quét qua một lượt nhưng không phát hiện ra điều gì bất thường.

    “Me kiếp, nó chạy mất rồi!”, cuối cùng Vương Tứ Xuyên bật ra tiếng chửi, “Đã lấy được cái hộp chưa?”

    Tôi cầm cái hộp đựng phim giơ lên vẫy vẫy, cậu ta gật đầu rồi trèo lên xuồng. Vương Tứ Xuyên kéo Mã Tại Hải: “Thành công đến phút chót rồi còn để tuột mất, nhưng chúng ta góp công ngang nhau”. Nói rồi, Vương Tứ Xuyên kéo Mã Tại Hải đứng lên.

    Tôi nhìn ra phía mặt nước sông đen ngòm, biết chắc có một đôi mắt ở đâu đang theo dõi chúng tôi, tôi quay sang xem thái độ Mã Tại Hải thế nào, rõ ràng là cậu ta muốn rời khỏi chỗ này lắm rồi, cậu ta nói: “Bây giờ định thế nào? Hay mình đi luôn?”

    Nói thật sau khi nhìn thấy cái xuồng ở đây, trong đầu tôi chỉ tồn tại duy nhất một ý nghĩ là rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt, cho nên không cần suy nghĩ, tôi lập tức gật đầu: “Thôi bỏ đi, vì sự an toàn của cuộn phim, tôi nghĩ mình nên nghe lời Mã Tại Hải, rời khỏi đây càng nhanh càng tốt.”

    Mã Tại Hải hớn hở, bắt đầu thả sợi dây cáp ra, tôi nhìn sang Vương Tứ Xuyên, cứ tưởng cậu ta sẽ đồng ý với quan điểm của chúng tôi.

    Nhưng không thấy cậu ấy động đậy gì.

    Tự nhiên thấy hồi hộp, tôi liếc nhìn, định hỏi cậu ta nghĩ gì? Lẽ nào Vương Tứ Xuyên muốn đợi nhóm anh Đường? Bây giờ tình thế có biến, phải tùy cơ ứng biến chứ!

    Lúc đó, tôi cũng hiểu nếu bỏ đi thế này thì đúng là hơi vô trách nhiệm với nhóm anh Đường, thế nhưng vì một cái cớ to đùng có trong tay đây, tôi hoàn toàn không thể kham nổi nhiều việc một lúc được. Vương Tứ Xuyên là con người rất trượng nghĩa, tôi chỉ sợ lúc này cậu ta lại bị nhấn chìm trong chủ nghĩa anh hùng thì chết.

    Vương Tứ Xuyên nhìn tôi, cảm giác có điều gì bất ổn, cậu ta do dự hồi lâu rồi đáp: “Không, tôi đang nghĩ, hay là chúng ta về phòng chiếu phim trước?”

    “Phòng chiếu?”, Mã Tại Hải kinh ngạc, “Về đó để làm gì?”

    Vương Tứ Xuyên gõ gõ vào cái hộp: “Nếu bây giờ chúng ta giao nộp cuộn phim cho cấp trên thì khả năng cả đời này chúng ta sẽ không thể biết nội dung của nó là gì.”

    Cậu ta nhìn tôi, tôi nhìn lại cậu ta, rồi lập tức hiểu ra vấn đề.

    “Cậu xem, liệu ba bốn mươi năm sau, chúng mình có hối hận sao lúc đó chẳng ở lại đây thêm vài tiếng không? Biết đâu, chỉ vài tiếng thôi, nhưng chúng ta sẽ biết được một điều ý nghĩa nhất của nhân loại thì sao?”
     
  12. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Phần kết


    Vào giây phút đó, tôi gật đầu đồng tình với ý kiến của Vương Tứ Xuyên.

    Hai tiếng sau, chúng tôi đến được phòng chiếu phim. Dưới sự giúp đỡ của Mã Tại Hải, chúng tôi khởi động được máy chiếu phim. Cùng với sự chuyển động của cuộn phim, trên màn hình bắt đầu hiện ra các hình ảnh.

    Kì thực, đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết rằng quyết định lúc đó của mình có đúng hay không nữa. Tôi chỉ biết rằng, rất nhiều năm sau, hễ nghĩ đến những gì chúng tôi đã được xem lúc đó, tôi vẫn còn lạnh sống lưng.
     
  13. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Tập 2: Chuyến bay tuyệt mệnh

    Tặng các cán bộ địa chất lão thành đã phấn đấu gian khổ ở nơi núi sâu rừng thẳm của Tổ quốc!

    Câu chuyện này hoàn toàn hư cấu, nếu có điểm tương đồng thì chỉ là tình tiết trùng hợp ngẫu nhiên.

    Lời dẫn

    Nếu bốn mươi năm trước, tôi mang ngay hộp đựng cuốn băng trở về theo đường cũ, xuôi dòng sông ngầm mà rời khỏi nơi này, thì mọi chuyện về sau có lẽ đã không bao giờ xảy ra.

    Nhưng bên dòng sông ngầm dưới lòng đất tối đen như mực ấy, chúng tôi đã đưa ra một quyết định ngược lại hoàn toàn.

    Đến tận lúc này, tôi vẫn không biết quyết định của mình lúc đó đúng hay sai, nhưng tôi tin dẫu thời gian quay ngược về giây phút ấy, thì tôi vẫn lựa chọn sẽ làm vậy.

    Bởi tính cách quyết định số phận!
     
  14. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 1: Không ảnh


    Khoảnh khắc giao thời giữa năm 1962 và năm 1963, vào mùa đông lạnh giá khác thường ấy, tôi nghĩ hẳn nhiều người hãy còn nhớ, đó là giai đoạn cuối của ba năm liên miên xảy ra thiên tai, công cuộc đại nhảy vọt lặng lẽ kết thúc, cục diện chiến tranh biên giới Trung - Ấn cũng đã phân định rõ ràng, nhiều người cho rằng tình thế hỗn loạn đã qua đi, cả nước chuẩn bị chào đón một kỉ nguyên mới ổn định hơn.

    Khi ánh mắt của tất cả mọi người đều tập trung ở những sự kiện lớn này, thì chẳng ai ngờ dưới lòng đất sâu giữa lằn ranh giới Trung Quốc, chúng tôi lại đang phải đối mặt với một lựa chọn mang tính quyết định.

    Mấy chục năm trước, quân Nhật đã xây dựng một công trình vĩ đại ngoài sức tưởng tượng trong dòng sông ngầm bị vùi sâu 1200 mét dưới lòng đất chỉ để cho một chiếc máy bay có thể cất cánh từ lòng sông ngầm chật hẹp và bay vào vùng hư không dường như vô cùng vô tận. Toàn bộ ghi chép về bí mật của chuyến bay ấy đều được lưu lại trong cuốn băng này. Nếu nộp cuốn băng cho cấp trên, thì với cấp bậc hiện tại của chúng tôi, e là cả đời này chúng tôi sẽ chẳng thể biết được nội dung bên trong nó như thế nào, rốt cuộc người Nhật đã nhìn thấy gì ở vực sâu khổng lồ ấy?

    Nếu mà lập tức rời khỏi đây, thì chí ít phải mất mười mấy tiếng đồng hồ, chúng tôi mới có thể về đến cửa động. Trong khi đó, nếu bật máy chiếu phim đặt ở trong con đập ngay phía sau lưng, thì chúng tôi cũng chỉ tốn một vài giờ là cùng, chỉ cần từng ấy thời gian là chúng tôi có thể biết mục đích mọi hoạt động của quân Nhật ở đây, thậm chí còn biết được bí mật chôn giấu dưới vực sâu.

    Thế là, sau khi trải nghiệm chừng ấy mạo hiểm, đối với những thanh niên xuất thân từ nông thôn như chúng tôi thì chuyện đi hay ở thực ra cũng không có gì khó lựa chọn.

    Bây giờ ngẫm lại, tôi thấy quyết định ấy cũng hơi nguy hiểm, bởi gã đặc vụ nhảy xuống sông hẳn vẫn còn ẩn nấp quanh quẩn đâu đây, nếu tiếp tục nấn ná ở lại, chắc chắn gã đó sẽ là một mối họa tiềm tàng đối với chúng tôi, nhưng lúc đó chúng tôi cũng chẳng suy nghĩ nhiều như thế.

    Có điều, ai ngờ chính suy nghĩ bồng bột ngày ấy lại tạo nên bước ngoặt quan trọng cho cả quãng đời sau này của chúng tôi.

    Quyết định xong, chúng tôi vừa cảnh giác xem có ai theo dõi mình không, vừa men theo đường cũ trở về.

    Cứ lần theo tuyến đường lúc đến, chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã trở lại con đập. Suốt quãng đường đi, lúc nào chúng tôi cũng vô cùng cẩn trọng, có lẽ bởi quãng đường đã trở nên khá quen thuộc, nên cũng chẳng xuất hiện điều gì bất thường, chúng tôi cứ đi một mạch đến phòng chiếu phim.

    Quay lại phòng chiếu phim, chúng tôi quan sát thật kĩ chứ không cưỡi ngựa xem hoa như lần trước, tôi phát hiện căn phòng này không nhỏ như mình từng nghĩ. Có lẽ những băng ghế gỗ dài xếp chật kín căn phòng khiến chúng tôi nảy sinh cảm giác sai lầm, mọi thứ ở đây đều phủ một lớp bụi khá dày. Điều đó khiến tôi lo chẳng rõ máy chiếu phim còn có thể sử dụng được nữa hay không.

    Máy chiếu nằm đằng sau phòng chiếu phim, đó là cỗ máy có vỏ bằng sắt, to cỡ thùng chứa đạn, với hai bánh quay nối liền với đầu cuộn phim, bề mặt bám toàn bụi. Vương Tứ Xuyên lăm lăm cây gậy sắt đứng gác cửa, đề phòng có kẻ tấn công bất ngờ.

    Tôi chưa có kinh nghiệm lắp phim vào máy chiếu, thế là cứ toát hết mồ hôi loay hoay nghiên cứu cỗ máy, chỉ sợ mình vụng tay vụng chân lại làm hỏng mất nó.

    Thực ra, kết cấu máy chiếu phim không hề phức tạp, phần lớn máy móc thời đó đều có kết cấu tổ hợp bánh xe khá đơn giản, nhưng không rõ do căng thẳng hay sao mà tôi chẳng thể nào lắp được cuốn phim vào máy. Hì hục suốt hồi lâu, lòng bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi mà chẳng có kết quả gì. Cuối cùng Mã Tại Hải phải lên lắp giúp tôi, có lẽ vì cậu ta là lính công binh nên quen thuộc các nguyên lý máy móc. Mã Tại Hải chỉ cần liếc mắt một cái là biết ngay quy trình, rồi tìm thấy nút tắt mở, cậu ta liền khởi động máy chiếu.

    Màn hình bằng tấm vải trắng lem lớp bụi phía trước mặt đột nhiên hiện lên hình ảnh đen trắng. Kĩ thuật không ảnh - hay còn gọi là kĩ thuật quay phim trên không - vào thập niên sáu mươi của thế kỉ trước còn rất non nớt, hình ảnh đen trắng lờ mờ và còn hơi rung, chẳng nhìn rõ đó là thứ gì.

    Sau đó, Mã Tại Hải chuyển động trục quay của cuốn phim, trên tấm vải trắng bắt đầu xuất hiện hình ảnh động, tôi đột nhiên thấy hưng phấn kì lạ. Chỉ một lát nữa thôi, tôi sẽ biết rõ đáp án của câu hỏi vì sao năm đó quân Nhật lại phải xây dựng đập nước này và họ đã mang thứ gì từ vực sâu trở về.

    Hình ảnh đầu tiên là màu trắng điểm xuyết những chấm đen, có lẽ là vết ố trên cuốn phim, dẫu sao thế vẫn tốt hơn cuốn phim của máy quay thời kì đầu toàn là màu đen. Mã Tại Hải lại chầm chậm chuyển động trục quay, chấm đen trên màn hình liền chuyển động, chúng tôi biết tấm phim đang quay dần về phía trước.

    Chẳng biết do Mã Tại Hải không dám quay cho phim chạy nhanh hay do máy chiếu có vấn đề mà máy đã chạy chừng một phút nhưng màn hình vẫn chẳng có gì thay đổi. Tôi bắt đầu sốt ruột. Đúng lúc lòng nóng như kiến bò chảo lửa thì một hàng chữ bất chợt chạy lướt qua màn hình.

    Mã Tại Hải ngẩn người trong giây lát, cậu ta dừng tay, rồi chầm chậm quay ngược lại, hàng chữ ấy cũng bị tua lại, nó dừng lại trên màn hình.

    Đó là hàng chữ Nhật viết láu, đan xen một vài chữ Hán. Tuy tôi không hiểu nội dung nó viết gì, nhưng vẫn có thể đoán được đó là một dòng cảnh báo đặc biệt.
     
  15. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 2: Tin tình báo tuyệt mật


    Dòng chữ màu đen nổi lên rất rõ ràng trên lớp vải trắng, mấy chữ Hán mà tôi nhận ra là một lời cảnh báo, bộ phận kí tên là “Bộ đội công trình xây dựng tuyệt mật đặc vụ số 7”.

    Trong sát na, mấy chữ “bộ đội công trình” khiến tôi cứ ngỡ đó chính là cấp trên của mình. Người Nhật cũng dùng tiếng Hán, cụm từ “bộ đội công trình xây dựng” tuy rất giống cấu trúc câu trong tiếng Trung, nhưng thông thường chúng tôi thường gọi những đơn vị này là “binh đoàn xây dựng” hoặc “bộ đội công binh Nội Mông”, chứ tên gọi “bộ đội công trình xây dựng” nghe cứ kì kì làm sao ấy, có lẽ đó là cách người Nhật gọi bộ đội xây dựng các công trình quan trọng ở đây.

    Điều khiến tôi cảm thấy có vấn đề là dòng chữ này không phải chữ in hoa chạy trên màn hình mà là chữ viết tay, giống như thể sau khi họ quay phim xong mới dùng bút viết lên tấm phim vậy.

    Dòng chữ ấy rất dài, tôi đoán chẳng biết nội dung đoạn cảnh báo ấy có phải là “Cuốn phim này thuộc phạm trù tuyệt mật, bạn không được phép xem” hay không? Nhưng chắc chắn nó bao hàm thông tin ấy, bởi vì dòng chữ ấy chỉ được viết trên tấm phim, mà thời gian hiển thị trên màn hình còn chưa tới một giây, khi người khác kịp ý thức được sự xuất hiện của nó, thì nó đã trôi qua rồi.

    Hai chữ “tuyệt mật” khiến tôi cảm thấy khó thở, tôi chợt nhớ đến lời thề mà mình từng phát thệ, chẳng ngờ người Nhật cũng sử dụng hai từ này.

    Tôi ra hiệu cho Mã Tại Hải, cậu ta lại bắt đầu chuyển động trục quay. Vài giây sau, trên màn hình cuối cùng cũng xuất hiện hình ảnh. Chúng tôi lại nín thở theo dõi.

    Những phân cảnh được chiếu liên tiếp có độ dài ngắn khác nhau, lượng tin tức chuyển tải cũng vô cùng ít ỏi, chúng tôi xem toàn bộ cuốn phim cũng chỉ mất một tiếng đồng hồ. Nhưng sau khi chiếu xong, chẳng ai đoái hoài gì đến màn hình đã tắt im ỉm kia, mà chỉ lặng lẽ ngồi, nỗi kinh ngạc tràn đầy trong lòng không thể diễn tả bằng lời.

    Nội dung cuốn phim đại khái có thể chia ra thành hai phần chính. Phần đầu là những mảnh tư liệu vụn vặt, kéo dài chừng mười phút, phần sau là toàn bộ các cảnh ghép quay được từ trên không.

    Thực ra, chất lượng đoạn phim này không cao. Trước giải phóng, các loại không ảnh được tiến hành trong lúc trinh sát trên không thông thường đều sử dụng máy quay hàng không. Vì các loại kĩ thuật của máy quay phim hàng không lúc đó chỉ có hạn, nên độ rung khi quay phim trên không rất lớn, cứ xem cuốn phim đen trắng quay cảnh quân Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Nagasaki của Nhật Bản thì rõ.

    May mắn thay, cuốn phim này vẫn cho chúng tôi thấy các chi tiết cơ bản thể hiện trên màn hình. Tôi cố gắng phân biệt các hình ảnh trên tấm vải trắng, chỉ có điều, đoạn phim này không có âm thanh, chẳng rõ đây vốn là đoạn phim câm, hay máy chiếu phim ở đây không gắn loa.

    Nội dung của bản thân cuốn phim rất ít ỏi, cảm giác còn không đủ lót nền tạo không khí, nó chỉ chú trọng ghi chép một vài thông tin. Đoạn phim chứa đựng khá nhiều chi tiết vụn vặt, mỗi cảnh quay chỉ diễn ra trong thời gian vô cùng ngắn ngủi, vả lại đều liên quan đến những chuyện xảy ra sau này nên tôi không thể giản lược được. Tôi muốn kể lại toàn bộ từng chi tiết một cho độc giả nghe.

    Cuốn phim này có lẽ được một người quay phim hành quân theo đoàn quay lại. Nước Nhật khi ấy là một cỗ máy chiến tranh, người quay phim phụ trách ghi lại mọi thời khắc chiến tranh, một vài nội dung trong số đó sẽ được giữ gìn và trở thành tư liệu chiến tranh, một bộ phận khác được sử dụng trong các hội nghị quân sự. Các tư liệu về cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc của phát xít Nhật, về cơ bản vẫn được họ giữ lại cho đến tận ngày nay. Tôi nghĩ, có lẽ những người quay phim chẳng bao giờ ngờ được chúng tôi là những khán giả Trung Quốc đầu tiên xem đoạn phim này.

    Hình ảnh thứ nhất hiện lên màn hình là cảnh tượng ở mặt đất. Trên màn hình đen trắng xuất hiện một sân bay. Lúc ấy đang là ban ngày, tôi còn có thể nhìn thấy bầu trời rất trong xanh. Thời điểm bấy giờ, chúng tôi vẫn đang đứng ở nơi sâu bên con sông ngầm, ngẩng đầu lên chỉ thấy đá nham thạch đen sì, nên trong sát na màn hình hiện lên hình ảnh bầu trời rộng lớn khoáng đạt và bừng sáng, trong lòng tôi bỗng dưng nhen nhóm một khát vọng mãnh liệt… Một chiếc máy bay đang đậu trên sân bay, bốn phía xung quanh có rất nhiều phi công và bọn giặc Nhật đang vận chuyển đồ đạc. Sau khi ống kính máy quay chĩa vào mấy tên lính Nhật, thì lại chuyển đến góc quay khác, người quay phim quay hình một người vận quân phục, ống kính máy quay liên tục quay đi quay lại hình ảnh của người này. Góc quay liên tục thay đổi, thêm vào đó độ rung lại mạnh, khiến những thước phim đem lại cho người ta cảm giác vô cùng gấp gáp.

    Tôi còn chưa kịp nhìn rõ dung mạo của viên sĩ quan Nhật đó, thì ống kính lại nhanh chóng chuyển sang góc quay hai viên phi công người Nhật đang chuyện trò ở dưới cánh máy bay. Họ vừa nói chuyện vừa vỗ vào giá cất cánh và hạ cánh của máy bay, khuôn mặt tươi cười rạng rỡ. Đoạn phim hoàn toàn không có âm thanh, mà dẫu có thì tôi cũng không hiểu họ nói gì, những hình ảnh này khiến người ta nảy sinh rất nhiều liên tưởng. Tiếp sau đó, ống kính quay cảnh tượng từ trên ô cửa sổ của máy bay nhìn xuống, phía dưới là thôn xóm, rừng già, sông ngòi trên mặt đất. Đó đúng là những cảnh quay ở trên bầu trời, chứ không phải ở dưới dòng sông ngầm. Có lẽ đó là những thước phim quay quá trình trước khi bọn họ đến đây. Khi ấy, ba tỉnh miền đông Trung Quốc vẫn bị quân Nhật chiếm đóng, nên bọn họ có thể ung dung điều động máy bay ở nơi này. Sau đó, ống kính tiếp tục quét ra ngoài ô cửa sổ, rồi lát sau lại quay phía trong khoang máy bay. Tôi đoán, có lẽ đây là một chiếc máy bay vận tải, trong khoang có rất nhiều lính Nhật đang ngồi xổm và từng đống đồ đạc chất cao. Lũ lính Nhật cúi đầu im lặng, thân máy bay cứ không ngừng rung lắc, xem hình ảnh này làm tôi thấy rất mỏi mệt, cảm giác y như lúc chúng tôi ngồi trong thùng xe tải chạy vào rừng vậy.

    Góc quay thay đổi liên tiếp, chẳng bao lâu thì phần nội dung này đã kết thúc. Tuy thoạt nhìn những cảnh quay ấy không hề có ý nghĩa gì, nhưng thực chất nó hàm chứa rất nhiều thông tin. Thứ nhất, vào thời kì kháng chiến chống Nhật, người ta chỉ được phép sử dụng máy bay chở lính trong những trường hợp tương đối khẩn cấp, điều đó chứng tỏ người quay phim phải vội vàng chạy đến đây từ một nơi cách điểm đến rất xa, không những vậy còn vô cùng gấp gáp. Thứ hai, người quay phim đã quay rất nhiều cảnh tượng sinh hoạt bình thường, từ đó có thể suy đoán, lúc quay phim, anh ta vẫn chưa biết nhiệm vụ đích thực mà mình cần chấp hành là gì, nếu không tôi tin anh ta tuyệt đối không có thời gian rỗi để quay linh tinh như thế. Sau đó, góc quay lập tức chuyển đến cánh rừng già. Tôi nhìn thấy khu doanh trại với những căn nhà gỗ của quân Nhật ở trong rừng sâu, giờ đây chúng đã hỏng nát hết cả.

    Nhưng hình ảnh trong thước phim cho thấy, lúc tiến hành quay cảnh này thì việc xây dựng khu doanh trại có lẽ vừa mới hoàn thành, khi ấy, tôi lại trông thấy viên sĩ quan Nhật kia, hình ảnh đen trắng khiến sắc mặt ông ta trông rất nhợt nhạt. Ông ta dõi đôi mắt vô hồn nhìn đám người đang bận rộn phía trước.

    Lần này, ống kính dừng lại lâu hơn một chút, tôi có thể thấy rõ khuôn mặt của ông ta, khuôn mặt ấy khiến tôi gai lạnh.

    Có lẽ tại trong phim người Nhật được đặc tả một cách nực cười, các diễn viên đóng lính Nhật luôn cố tình phơi bày ra điểm xấu của chúng, nhưng lính Nhật ngoài đời trông rất bình thường, quan sát kĩ hơn, tôi phát hiện khuôn mặt ông ta toát ra một khí chất kì quái, khí chất ấy khiến tôi cảm thấy sợ hơn nhiều so với cảm giác khi xem diễn viên phản diện diễn trong phim.

    Tuổi thơ tôi trải qua trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Nhật, thời đó, tôi được nghe kể vô số tin đồn về bọn quỷ phát xít Nhật. Chúng đúng là lũ quái vật tàn bạo và khát máu, hơn nữa khi ấy tôi lại ở ngoài vùng chiến tranh, nên chưa từng gặp chúng ngoài đời thật, bởi vậy lũ lính Nhật có đáng sợ đến đâu thì cũng chỉ nằm trong trí tưởng tượng mà thôi, từ bé đến lớn, tôi chỉ biết đến chúng qua các nhân vật trong phim, qua lời kể của người già và qua những vở kịch của đội tuyên truyền. Mãi đến bây giờ, tôi mới nhìn thấy chân dung của chúng ngoài đời, hóa ra trông chúng như thế này đây.

    Bọn chúng không phải quái vật xấu xí, trông chúng hoàn toàn giống chúng ta, nhưng không hiểu vì sao chính điều đó lại càng khiến tôi cảm thấy căm ghét hơn, thời gian ống kính dừng lại khá dài. Đầu tiên, tôi ngỡ đây là hành động tôn kính của người quay phim dành cho viên sĩ quan, nhưng chẳng bao lâu tôi liền hiểu ra không phải vậy, sỡ dĩ tay quay phim dừng ống kính khá lâu trên người viên sĩ quan vì bên cạnh ông ta có một cô gái, họ bắt đầu nói chuyện với nhau.

    Ống kính lia đến chỗ cô gái. Rõ ràng cô gái ấy cũng phát hiện mình đang bị quay phim, nên liếc mắt nhìn về phía ống kính mấy lần, nhưng cô cũng không để ý lắm, vẫn tiếp tục nói gì đó với viên sĩ quan.

    Dung mạo cô gái không đẹp lắm, thân hình mảnh mai và cũng mặc quân phục, ống kính quay được khuôn mặt của cô. Khoảnh khắc nhìn thấy vẻ mặt của cô gái, tôi đột nhiên cảm thấy rất lạ, trong đầu vụt lóe lên một cảm giác hết sức kì quái.

    Khi tôi còn chưa kịp quan sát kĩ, thì ống kính lại lia đến căn nhà gỗ, viên sĩ quan và cô gái đều biến mất, sau đó màn hình trở về trạng thái đen ngòm.

    Tôi cảm thấy có gì đó bất thường, vừa định bảo Mã Tại Hải tua lại phân cảnh khi nãy, thì màn hình đã sáng trở lại, tôi nhìn thấy những hình thù quái lạ xuất hiện trên màn hình. Hình vẽ ấy tạm thời át đi cảm giác kì lạ nảy sinh trong lòng tôi khi nhìn thấy cô gái qua thước phim.

    Đó là một khối quang cầu, to như chậu rửa mặt, phía trong khối cầu sáng rực ấy hình như có vật gì đang chuyển động.

    Tôi không rõ đó là thứ gì, lẽ nào là mặt trăng? Nhưng nhìn kĩ lại hình thù của nó thì biết là không phải, khối quang cầu này quá tròn, ngay cả trăng đêm rằm trung thu cũng không thể tròn được như thế.

    Lẽ nào đó là cảnh tượng dưới vực sâu? Tôi hồi hộp tự hỏi, không biết đó là thứ gì? Dưới vực sâu làm sao lại tồn tại một khối quang cầu giống như mặt trăng vậy nhỉ?
     
  16. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 3: Kì quan dưới vực sâu


    Đúng là khó tin đến cực điểm, hơn nữa tại sao không hề có bất kì đoạn chuyển cảnh nào ở giữa? Tôi thấy quá kì lạ, chí ít cũng phải quay chút ít cảnh tượng xảy ra lúc máy bay bay vào vực sâu chứ.

    Tiếp theo đó, khối quang cầu bắt đầu chuyển động trên màn hình.

    Tôi thấy hơi lạ, bởi khối quang cầu di chuyển theo phương thức rất khó hiểu, nó di chuyển từ giữa màn hình lên phía trên, sau đó quay trở về vị trí trung tâm, rồi vài giây sau thì hoàn toàn biến mất. Màn hình đen ngòm. Nhưng chẳng bao lâu, khối quang cầu liền xuất hiện trở lại và lặp đi lặp lại quỹ đạo lúc trước mấy lần liền.

    Điều đáng ngạc nhiên là tôi không hề thấy xa lạ khi xem cảnh tượng này, mà cảm giác như thể trước kia mình đã từng gặp ở đâu rồi.

    Tôi cố vắt óc ngẫm nghĩ, đột nhiên hiểu ra khối quang cầu đó là gì, tôi nhớ lại cảnh tượng lúc mình sử dụng đèn pha chiếu lên vòm đỉnh của vực sâu, mẹ kiếp, đó chính là quầng sáng của đèn pha.

    Nhưng tôi vẫn thấy rất khó hiểu, lòng tự hỏi: “Vì sao tay quay phim lại quay quầng sáng này? Lẽ nào máy chiếu quay phải vật gì kì quái hay sao? Nhưng trong quầng sáng đó chẳng có gì cả.”

    “Gì thế nhỉ?” - Vương Tứ Xuyên ngẩn người hỏi.

    Tôi nói cho cậu ta biết suy đoán của mình. Mã Tại Hải liền gật đầu bảo: “Anh Ngô đoán đúng đấy! Đây chính là đèn pha rọi, hình như bọn chúng đang điều chỉnh.”

    “Điều chỉnh?” - Tôi hỏi - “Điều chỉnh cái gì?”

    Cậu ta đáp: “Tôi cảm thấy có lẽ họ đang điều chỉnh máy quay và đèn chiếu cho phù hợp. Trước đây, tôi từng nhìn thấy bộ đội điều chỉnh đạn đạo tầm trung và tầm xa ở quân khu, lúc đó đang diễn tập bắn pháo cao xạ, đèn pha sẽ phóng theo pháo cao xạ. Tôi thấy cảnh tượng này rất giống khi ấy. Lúc lắp máy điện đàm, chúng tôi cũng làm vậy, tháo ra lắp lại, rồi xem hiệu quả và lại tháo ra lắp lại. Đồ điện mà không điều chỉnh chính xác, thì rất dễ xảy ra vấn đề, đại đội trưởng của tôi bảo thế.”

    Mã Tại Hải cố tình dùng từ ngữ thật đơn giản như thể sợ hai gã gà mờ bọn tôi không hiểu, lại ê cả mặt.

    Giờ tôi rõ cả rồi! Quan sát kĩ, tôi phát hiện hình như có gì đó đang lay động trong quầng sáng, chắc là dòng nước đang chảy. Nếu quả vậy thì lúc này máy bay đã dừng lại trên cung đường ray ở phía trong con đập, máy quay cũng được gắn cố định trên máy bay. Sau đó, Mã Tại Hải chuyển động trục quay phim nhanh hơn, các cảnh phim cũng chuyển động nhanh theo, rồi tất cả đều tắt ngóm, chỉ còn lại màn hình đen sì.

    Sát na đó, tim tôi thắt lại, người khẽ run lên, bởi tôi biết thứ sắp xuất hiện tiếp theo đây chính là thứ then chốt nhất. Quả đúng như tôi dự đoán, vài giây sau, màn hình đã sáng trở lại.

    Tôi nín thở, nhìn thấy một dải màu đen hư vô, vồng sáng đèn chiếu khi nãy tôi nhìn thấy trở thành một đốm sáng nhỏ xíu - đó chính là hiệu quả khi đèn pha soi vào khoảng cách rất xa. Từ độ rung của màn hình, tôi có thể thấy máy bay đã cất cánh, màu đen hiện lên trên màn hình lúc này chính là sự thể hiện của dải vực sâu hư vô và quái dị kia.

    Tôi nhìn màn sương mù ẩn hiện bảng lảng phía dưới vực sâu, nó có màu xám sẫm, mang đến cho người ta cảm giác rất kì quái, như thể nó là vật trung gian giữa thể rắn và thể khí vậy. Nhưng bởi hình ảnh quá mờ, khoảng cách lại xa và điều kiện ánh sáng không đầy đủ, nên người ta cũng chẳng cảm nhận được gì nhiều.

    Từ hình ảnh trên màn chiếu, tôi cảm thấy máy bay hình như đang từ từ hạ cánh, dần chạm vào lớp sương mù phía dưới, nhưng đến một độ cao nhất định thì nó đột nhiên dừng lại, tiếp sau đó là quá trình bay là là mặt đất. Mười mấy phút sau, tôi thấy máy bay đang áp sát sương mù, sương mù ở ngay dưới bụng máy bay, nhưng chẳng có hiện tượng khác thường nào xảy ra

    Điều này không ngoài dự đoán, nhưng điều tôi không thể tưởng tượng được là hang vực này quả thực quá rộng lớn, với tốc độ của máy bay mà bay mười mấy phút vẫn chưa đến điểm tận cùng thì không hiểu lòng vực còn rộng bao nhiêu nữa. Trong mười mấy phút này, hình ảnh hiện lên màn hình hầu như không có gì thay đổi, nhưng chúng tôi không dám rời mắt đi dù chỉ nửa giây, bởi sợ mình vừa quay đi là bỏ sót mất hình ảnh nào đó.

    Đúng lúc này, màn hình bỗng nhiên trắng xóa. Lúc ấy, chúng tôi đang mải tập trung toàn bộ tinh thần vào màn hình, nên sự thay đổi đột ngột này khiến cả hội giật nảy người, tiếp sau đó, trên màn hình xuất hiện một hàng chữ chạy lướt qua với tốc độ khá nhanh.

    Mã Tại Hải lập tức dừng tay, tua cuốn phim, để dòng chữ khi nãy quay trở lại.

    Đó là một dãy số viết tay, cách viết ngoáy rất khó đọc giống y như dòng chữ xuất hiện ở đầu phim. Tôi nhận ra mấy kí hiệu này, ấy chính là tổ hợp số liệu chỉ độ cao, thời gian, phương hướng và vị trí.

    Nói cách khác, nó chính là một tọa độ, hình như tổ hợp số này muốn thể hiện rằng ở tọa độ quay đoạn phim dưới đây hình như đã xuất hiện thứ khác thường nào đó.

    Tôi hồi hộp đến nỗi tim đập thình thịch như trống trận, hình ảnh trên màn hình lập tức sáng trở lại, tôi liền phát hiện, tình hình của máy bay lúc này đã hoàn toàn khác với lúc trước, hình ảnh trên màn hình bị rung chuyển một cách kì lạ.

    Cảnh quay bị rung lắc vô cùng mãnh liệt, rõ ràng máy bay lúc ấy đang rơi vào tình trạng hết sức tồi tệ. Hình ảnh bị rung dữ dội như vậy khiến tôi không thể xem được các cảnh quay liên tiếp, chỉ có thể cố gắng nhìn mấy hình ảnh tương đối ổn định với thời gian quay ngắn ngủi mấy giây trong chuỗi hình ảnh liên tục rung lắc, đảo lộn, khiến tôi chóng mặt muốn nôn ọe.

    Suốt chặng đường quay phim, những hình ảnh được quay liên tiếp chỉ kéo dài mười mấy giây, nhưng tôi vẫn có thể phát hiện - lúc này máy bay đang lao vùn vụt xuống dưới với một góc gần như chín mươi độ, đồng thời cùng lúc đó, máy bay còn phải chuyển hướng.

    Tôi hiểu rất rõ tại sao họ phải làm vậy, vì qua màn hình, tôi có thể nhìn thấy họ đang gấp rút áp sát quầng sương, trong quầng sương thấp thoáng hiện ra một chiếc bóng rất lớn, phần tôi có thể nhìn thấy đã cao tầm tòa nhà sáu, bảy tầng.

    Dường như dưới sương mù có vật thể gì đó vô cùng to lớn.

    Máy bay đang chúi đầu xuống bay về phía bóng đen, tôi nín thở cho đến khi máy bay chui hẳn vào trong sương, năm sáu phút sau tôi mới nhìn rõ toàn bộ diện mạo của vật thể lạ.

    Tôi ngẩn người kinh ngạc trong khoảnh khắc.

    Chiếc bóng còn khổng lồ hơn tôi tưởng tượng rất nhiều, bởi đến đây tôi mới phát hiện phần phía dưới của nó hoàn toàn bị chìm lấp trong sương mù, mà điều khiến tôi kinh ngạc nhất không phải độ to lớn của chiếc bóng mà là hình thù quái dị của nó.

    Trông nó chẳng khác gì chiếc bóng của con người.

    Tôi thầm cảm thấy có điều bất ổn, liền gọi Mã Tại Hải bảo cho máy tạm dừng để quan sát kĩ, quả nhiên đó chính là một bóng người. Bóng người ấy có cái đầu rất lớn, thân mình nom như người lùn, hai tay buông thõng trong màn sương mù dày đặc, dường như đang tưởng niệm ai hoặc điều gì đó. Tuy trông nó không rõ ràng, nhưng cũng không đến nỗi mơ hồ lắm.

    Tôi thực sự không dám tin vào mắt mình, lưng túa mồ hôi lạnh, tóc gáy dựng đứng cả lên.

    Tôi không dám khẳng định chắc chắn đó là một con người, nhưng nhìn hình dáng của nó dẫu cho tôi không muốn thừa nhận, thì cũng không thể tự dối lòng là mình đã nhìn lầm.

    Nó đứng thoắt ẩn thoắt hiện trong bức tường sương mù quánh đặc, đèn chiếu không thể xuyên qua bức tường thiên nhiên ấy, nên tôi cũng không thể nhìn rõ nó rốt cuộc là thứ gì, là bức tượng đầu người do tạo hóa nhào nặn hay là tượng đá do một bậc kì nhân nào đó khắc nên? Hình ảnh trên màn hình lại thay đổi, cuối cùng máy bay gần như dính hẳn vào tầng sương mù, ống kính máy quay chĩa thẳng vào quầng sương mờ mịt, rồi kéo lên, hình ảnh trên màn hình đột nhiên dừng lại bất động. Lòng bàn tay tôi đã ướt đẫm mồ hôi lạnh. Đoạn phim dừng lại đột ngột như thể kéo tôi ra khỏi cơn bàng hoàng, Vương Tứ Xuyên chạy lại chỗ đặt máy chiếu, cậu ta phát hiện cuộn phim đã chạy đến tận cùng, rõ ràng lúc họ quay đến đây thì hết phim.

    Cả phòng chiếu phim chìm trong miền im lặng chẳng ai lên tiếng nói câu gì. Chúng tôi cứ chăm chăm nhìn vào màn hình đã đứng im, và chẳng còn nhận ra được thứ gì trên màn hình đã đứng im ấy.

    Tôi không nhớ lúc ấy Vương Tứ Xuyên nói gì, mà bất kể cậu ta có nói gì thì cũng vô nghĩa, bởi bấy giờ đầu óc tôi không thể tư duy được nữa, tôi lần sờ bao thuốc lá, định móc điếu thuốc ra, nhưng tay cứ lẩy bẩy mãi chẳng rút được.
     
  17. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 4: Bóng lạ trong sương mù


    Mãi lúc Mã Tại Hải tắt máy chiếu, màn hình trở lại là mảnh vải trắng cũ rách, thì tinh thần tôi mới dần dần phục hồi và thốt lên hỏi: “Gì thế nhỉ?”

    Không ai trả lời.

    Tôi cố gắng trấn tĩnh, cố gắng kiềm chế cơ thể đang không ngừng run rẩy, châm điếu thuốc rít một hơi, tôi nhìn sang Vương Tứ Xuyên, cậu ta cũng nhìn tôi, sắc mặt còn trắng bệch hơn cả Mã Tại Hải.

    Chúng tôi đã tốt nghiệp đại học, tuy trình độ giáo dục của thời đó không thể sánh với bây giờ, nhưng nếu phải đem ra so sánh, thì giáo dục bậc đại học của Trung Quốc không hề kém cạnh các trường đại học cùng thời kì trên thế giới, đặc biệt là các trường đại học chuyên ngành như chúng tôi, các thầy giáo đều là học giả, chuyên gia lão luyện được đào tạo ở Liên Xô và Mỹ trở về, có thể lấy được bằng tốt nghiệp từ tay họ, thì hội tôi ắt hẳn phải rất tự tin vào năng lực lý giải của bản thân.

    Giáo viên của chúng tôi đều là những nhà chủ nghĩa duy vật kiên định, nên nền giáo dục mà chúng tôi được hưởng đương nhiên cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng này. Thực ra điều đó vô cùng đáng sợ bởi vì kẻ vô thần là kẻ không sợ bất cứ điều gì, nhưng hễ gặp phải việc không thể giải thích, thì tuýp người đó sẽ càng thấy sốc hơn bất cứ người bình thường nào.

    Tôi muốn đưa ra một suy đoán mang tính khả thi nhưng rốt cuộc chẳng nghĩ ra nổi điều gì. Chỉ riêng về chuyện bóng người lờ mờ đó thôi, tôi cũng không thể đưa ra bất kì phân tích hay phỏng đoán nào, nhưng tôi hiểu rất rõ, đó tuyệt đối không phải hình ảnh ảo giác.

    Ở nơi cách mặt đất hơn một ngàn mét, lại tồn tại một không động khổng lồ và sâu hun hút như vậy đã là một điều khó hiểu về mặt địa chất học, vậy mà trong vực sâu thăm thẳm đó lại còn xuất hiện một vật thể, không hiểu đó là kiệt tác của ai?

    Nhìn hình thù của bóng đen ấy, thì chắc chắn nó là vật do bàn tay con người tạo ra, nhưng ai tạo ra được một bức tượng khổng lồ dường vậy ở nơi cách biệt thế giới như thế này?

    Thế giới quan chủ nghĩa duy vật trong tôi không khỏi bị lung lay. Trong đầu chúng tôi chất chứa biết bao nghi vấn, nhưng tôi hiểu rõ chẳng ai có thể giúp mình giải đáp những nghi vấn đó.

    Vương Tứ Xuyên đứng bên cạnh bỗng thở dài, rồi đi đến chỗ tôi xin điếu thuốc, tôi phát hiện tay cậu ta cũng khẽ run.

    Tôi đưa một điếu cho Vương Tứ Xuyên, rồi đưa luôn điếu thuốc đang hút dở của mình để cậu ta châm mồi, sau đó vứt điếu thuốc nữa cho Mã Tại Hải. Ba chúng tôi thẫn thờ hồi lâu, mãi mới định thần lại được. Vương Tứ Xuyên cầm điếu thuốc trong tay nhưng không châm lửa, cậu ta đặt điếu thuốc trên mặt băng ghế gỗ, rồi quỳ xuống hành lễ, miệng lẩm nhẩm mấy câu kì quái bằng ngôn ngữ của dân tộc cậu ta.

    Cách hành lễ của Vương Tứ Xuyên hết sức kì cục, cậu ta lẩm bẩm xong, mới bảo với chúng tôi rằng cậu ta đang cầu xin thần Ekegajar[1] phù hộ, thông thường người ta phải thắp đèn đốt hương, nhưng bây giờ chỉ có mỗi điếu thuốc lá. Cậu ta bảo trước đây mình chẳng bao giờ tin cách giải thích của cha mẹ về “mẹ đất”, bởi nghe mê tín thế nào ấy, đến bây giờ cậu ta vẫn bán tín bán nghi, nhưng tốt nhất cứ nên cúi lạy và dành cho “mẹ đất” sự cung kính tự đáy lòng thì hơn.

    [1] Ekegajar: Là một vị thần có quyền năng tối thượng của dân tộc Mông Cổ, tiếng Mông Cổ nghĩa là “Đất mẹ vĩ đại”.

    Tôi nghĩ, cậu ta đúng là đứa con đích thực của chủ nghĩa mê tín phong kiến, nhưng nhìn thấy thứ hiện lên trên màn hình, tôi lại chẳng thể thốt nên lời chế giễu cậu ta duy tâm. Mã Tại Hải đứng bên cạnh liền hỏi Vương Tứ Xuyên xem phải cầu nguyện thế nào mới phải, Vương Tứ Xuyên nói, mẹ đất chỉ phù hộ cho tộc người của cậu ta mà thôi.

    Nội dung của cả cuốn phim chỉ có từng đó, chúng tôi cũng không xem lại lần nữa, cũng không tiếp tục bàn bạc thêm, vì chẳng biết bàn về cái gì. Câu chuyện này hoàn toàn vượt ra khỏi phạm vi nhận thức của chúng tôi. Mã Tại Hải niệm mấy câu kinh xin Bồ tát phù hộ. Chúng tôi lặng lẽ ngồi đó.

    Mấy phút sau, Vương Tứ Xuyên tháo cuộn phim ra rồi cất cẩn thận vào trong hộp, xong xuôi, cậu ta quay sang nói với chúng tôi: “Mọi chuyện dừng lại ở đây thôi nhé, bây giờ chúng ta phải giao hẹn với nhau.”

    Tôi và Mã Tại Hải nhìn cậu ta, Vương Tứ Xuyên đã phục hồi lại thần sắc, điềm tĩnh bảo: “Giờ chúng ta có vắt óc nghĩ thêm cũng vô dụng, dựa vào sự hiểu biết của chúng ta, thì không thể đoán được vật đó rốt cuộc là thứ gì đâu. Hơn nữa, chúng ta cũng không nên loan tin ra ngoài. Tôi tin, sau khi nộp cuốn phim này lên cấp trên thì nhất định nó sẽ được niêm phong mãi mãi. Bởi vậy không ai trong ba chúng ta được phép tiết lộ rằng mình đã xem cuốn phim, các cậu đồng ý không?”

    Tôi hiểu ý cậu ta, cuốn phim này quá đặc biệt, nếu người khác biết chúng tôi từng xem nó thì chỉ tổ rước vạ vào thân.

    Tôi gật đầu đồng ý, nhưng Mã Tại Hải lại phân vân: “Tôi không biết nói dối đâu, chỉ cần đại đội trưởng trừng mắt một cái là chắc tôi chẳng dám giấu.”

    Vương Tứ Xuyên vừa nạt vừa dỗ: “Đồ đàn bà! Nếu cậu không nói ra, thì chắc chắn sẽ cho cậu thăng chức đội trưởng. Sao hả? Cậu có giữ mồm giữ miệng được không?”

    Mã Tại Hải lập tức mở cờ trong bụng, cậu ta đứng chụm chân nghiêm người chào Vương Tứ Xuyên theo kiểu nhà binh: “Cám ơn đồng chí Vương Tứ Xuyên! Tôi nhất định không hé răng nửa lời!”

    Thực ra, chúng tôi làm gì có quyền quyết định thăng cấp hay giáng cấp quân hàm cho binh sĩ, có điều chuyến này trở về kiểu gì mỗi người ít nhất chẳng được thăng một cấp bậc, Mã Tại Hải dẫu không được thăng cấp đội trưởng thì chí ít cũng phải lên đến chức đội phó.

    “Bây giờ chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức!” - Vương Tứ Xuyên nói - “Tránh đêm dài lắm mộng.”

    Tôi vốn đã rất muốn trở lên mặt đất, giờ đây xem xong cuốn phim, điều kì dị xảy ra dưới vực sâu khiến tôi nổi hết gai ốc, bởi thế tôi càng không muốn lưu lại nơi này, nhưng chân cứ mềm nhũn, nhất thời chẳng làm sao cất nổi bước.

    Vương Tứ Xuyên giục giã mãi, hai chúng tôi mới miễn cưỡng thu xếp hành lý. Lúc khoác ba lô lên vai, tôi bất giác cảm thấy hối hận về quyết định lúc trước, lẽ ra chúng tôi không nên cố tình xem đoạn phim có nội dung như vậy, xem rồi chỉ khiến người ta không thể bình tâm trở lại.

    Vương Tứ Xuyên đi đến cửa, cậu ta cầm luôn cây gậy sắt vốn dùng làm then cửa, rồi gọi chúng tôi mau đi theo mình. Chúng tôi đã mất hai tiếng đồng hồ ở đây, giờ là lúc phải tăng tốc để bù thời gian.

    Chúng tôi kéo nhau ra ngoài, Vương Tứ Xuyên thận trọng đẩy cửa, như thể cậu ta sợ có người đang phục kích bên ngoài, lại như thể cẩn thận để không bị ai đó đột ngột mở cánh cửa ra đập phải. Nhưng Vương Tứ Xuyên đẩy mãi mà cánh cửa vẫn không hề xê dịch.

    Cậu ta hơi ngạc nhiên, lại đẩy mạnh thêm chút nữa, nhưng cánh cửa vẫn ngoan cố đứng im, chỉ nhúc nhích một chút, chứ không bật mở.

    Vương Tứ Xuyên nhìn tôi, sắc mặt rất đỗi khó coi, cậu ta lấy hết sức bình sinh kéo mạnh cánh cửa. Trong phút chốc, tôi ý thức rằng đã có chuyện không hay xảy ra, bởi vì cánh cửa rõ ràng không có vẻ gì là bị kẹt. Vương Tứ Xuyên lại kéo cửa thêm vài lần nữa, bụi rơi xuống lả tả, nhưng cánh cửa vẫn đứng im như bị đổ bê tông.

    Vương Tứ Xuyên quay đầu, lùi lại mấy bước, cậu ta lớn tiếng chửi thề với vẻ không tin nổi: “Gặp ma à? Có người ở ngoài khóa mẹ cửa nó rồi!”
     
  18. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 5: Cảnh khốn cùng


    Nơi đây toàn là thiết bị quân dụng, mọi cánh cửa đều là loại cánh cửa lõi thép có tác dụng ba phòng[1], vỏ ngoài bọc xi măng, bên trong là thép và mút. Loại cửa này mà bị khóa thì cho dù có đánh thuốc nổ cũng khó khiến nó mở ra được, huống hồ chúng tôi làm gì có thuốc nổ. Tôi cũng thử đẩy mấy cái, cảm giác từ tay truyền đến khiến tôi hiểu rõ cánh cửa đã bị khóa ngoài, không hy vọng có thể đẩy được từ bên trong. Xem ra, trong lúc chúng tôi mở máy chiếu, có người đã lén khóa cánh cửa.

    [1] Cửa ba phòng: là loại cửa có chức năng chống trộm, chống cháy và chống lạnh.

    Cảm giác bất an dâng trào trong lòng. Kẻ có thể thực hiện chuyện này trong con đập chỉ có tên đặc vụ khi nãy bị chúng tôi đạp xuống sông. Cảm giác hiện giờ thật chẳng khác nào lao đầu vào bức tường bê tông cốt thép.

    Vương Tứ Xuyên mà nổi cơn thịnh nộ thì vẻ mặt trông rất đáng sợ, sau khi lao rầm rầm vào cánh cửa không thành công, cậu ta giơ chân đạp thật mạnh, có điều, lao đầu không phát huy được hiệu quả gì thì đạp lại càng chẳng tác dụng. Sau một hồi hoài công vô ích, cậu ta ngồi phịch xuống đất thở hồng hộc, cau mày buồn rầu, rồi nhìn cánh cửa chửi toáng lên: “Mụ nội mày! Cái loại chỉ biết nhốt trộm người khác, có giỏi thì mở cửa ra sống mái một phen với ông mày xem nào!”

    Nhưng chẳng thấy ai đứng ngoài cửa chửi lại cậu ta, chất lượng hệ thống cách âm của phòng chiếu phim rất tốt, người ở ngoài không thể nghe thấy mọi âm thanh phát ra từ bên trong. Có lẽ đó chính là nguyên nhân tại sao gã đặc vụ kia khóa cửa mà Vương Tứ Xuyên hoàn toàn không hề hay biết.

    Nhớ lúc ở nhà kho, hắn cũng giở thủ đoạn bỉ ổi này, sau đó bọn tôi “lại quả” cho hắn một cú đáng đời, nhưng mẹ kiếp, giờ hắn chơi bọn tôi keo này thì đúng là điên lộn tiết lên đầu, có điều đứng trước cánh cửa đóng im ỉm thế kia, dẫu có điên nữa cũng vô dụng. Tôi bảo hai người họ: “Nó bám đuôi nhanh thế, xem ra không cướp lại được cuốn phim, nó không buông tha đâu. Chúng ta phải nhanh chóng rời khỏi đây ngay, nếu không, e là nó còn giở trò khác nữa, mà bị nhốt ở đây cũng bị động lắm!”

    “Chờ đã, đừng vội!” - Vương Tứ Xuyên ngăn lại - “Chúng ta nên ngồi xuống tính kế, nóng vội không khéo lại rơi vào bẫy của nó. Cửa đóng rồi, nó muốn giở trò gì cũng bó tay thôi.”

    Vương Tứ Xuyên vừa dứt lời thì mấy ngọn đèn trong phòng đột nhiên chập chờn rồi tắt hẳn, bốn phía bỗng chốc trở nên tối đen như mực. Có người cắt cầu dao!

    Chúng tôi lập tức bật đèn pin, Vương Tứ Xuyên tức tối chửi rống lên “Tiên sư bố mày!”, rồi cậu ta co chân đạp thình thịch vào cửa sắt, cùng lúc ấy, chúng tôi nghe thấy trong bốn bức tường xung quanh vọng ra một âm thanh quái lạ.

    Hình như âm thanh ấy phát ra do hiện tượng cộng hưởng sóng âm, tôi sờ bức tường, phát hiện bức tường hơi rung rung như thể một cỗ máy đang khởi động.

    Thần kinh tôi lập tức căng như dây đàn, tuy không biết chuyện gì sắp xảy ra, nhưng tôi dự cảm đó nhất định không phải chuyện tốt lành. Chuỗi sự việc xảy ra quá nhanh, rõ ràng hắn đã chuẩn bị mọi kế hoạch từ trước.

    “Thử tìm xem có lối ra nào khác không!” - Tôi nêu ý kiến.

    Ba người lập tức chia nhau tìm, chúng tôi lật tung mọi ngóc ngách trong phòng, nhưng phòng chiếu phim vốn chỉ là gian phòng nhỏ, đi quanh một vòng cũng chỉ tìm thấy một lỗ thông gió ở phía sau màn hình vải.

    Lỗ thông gió hình tròn, giống như chiếc chậu rửa chân cỡ lớn, trên miệng lỗ có cánh quạt gió, bụi kết thành mảng bám trên từng cánh quạt, chắc giờ nó không thể hoạt động được nữa. Phía ngoài giăng một mảnh lưới thép, trông còn qua quýt hơn cả lỗ thông gió ở buồng lặn, có lẽ vì nơi này là khu sinh hoạt, chỉ cần xử lý khép kín trong van tổng, đảm bảo cho khí lưu thông tốt là được.

    Tôi thò đầu vào để cảm nhận, một luồng không khí trong lành đang thổi vào lỗ thông gió, nhưng tốc độ gió rất nhẹ, tôi còn nghe thấy rất nhiều tạp âm vọng ra từ nơi sâu trong lỗ thông gió, âm thanh kì quái khi nãy chắc là tiếng khởi động của cỗ máy nào đó nằm bên trong đường ống thông gió.

    Vương Tứ Xuyên định bẻ tấm lưới thép xuống, nhưng cậu ta phát hiện nó đã được cắm sâu vào khối xi măng, mỗi thanh thép to cỡ đầu ngón tay, không thể lay nổi.

    “Đồ của bọn Nhật, mẹ nó, đúng là xịn thật!” - Vương Tứ Xuyên lẩm bẩm, đoạn cậu ta liền lui xuống bảo Mã Tại Hải vào nhìn: “Cậu là lính công binh, thử ngó xem có cách gì không!”

    Mã Tại Hải quan sát suốt hồi lâu, sau đó lấy tay sờ bức tường xi măng, rồi lắc đầu: “Đây là công trình quân sự gia cố, viền lưới thép được đắp thêm lượt xi măng dày mười mấy phân, chỉ dùng búa đập đá mới đập vỡ được, nếu không phải dùng dụng cụ cắt chuyên dụng hoặc bộc phá.”

    Ba thứ cậu ta vừa nhắc đến, chúng tôi đều chẳng có trong tay. Cơ hồ nghĩ ra điều gì, Vương Tứ Xuyên liền cầm cây gậy sắt gõ mấy nhát vào chỗ viền lưới thép. Tôi thấy cậu ta nghiến vỡ cả răng mà chỉ đập vỡ được chút vụn xi măng.

    Các công trình quân sự thường rất đơn sơ, nhưng toàn dùng loại vật liệu xây dựng cực tốt, xây vô cùng kiên cố. Đúng là không thể không thán phục sản phẩm của người Nhật.

    Vương Tứ Xuyên đập gõ một hồi rồi đành từ bỏ, cậu ta chuyển sang lấy gậy sắt thọc vào các mắt lưới, lần này thì có hiệu quả. Các mắt lưới bị gậy sắt bẩy biến dạng, nhưng mắt lưới rất to, sau khi bị biến dạng thì gậy sắt không có điểm tựa, nên không thể bẩy tiếp được nữa.

    Tôi biết cách này không xong, Vương Tứ Xuyên ném gậy sắt, đứng chống nạnh thở dài, trông đến là sến, nhưng tôi không thể cười nổi.

    Tôi đứng giữa phòng, soi đèn pin vào bức tường xi măng được xây kín mít, định tìm xem còn lối ra nào khác không. Đúng lúc ấy, tôi đột nhiên ngửi thấy một mùi rất lạ lan tỏa khắp không gian. Ngay lập tức, tôi hiểu có chuyện chẳng lành, nên liền quay đầu lại xem, tôi phát hiện cánh cửa đã hé ra một khe hở từ khi nào.

    Tôi búng tay ra hiệu để hai người họ chú ý, rồi cả hội bước lại gần xem, càng lại gần, tôi càng ngửi thấy mùi nồng nặc hơn, chỉ lát sau tôi đã nhận ra đó là mùi khói.

    Tôi cố tình đẩy cửa sắt, chẳng ngờ vừa đẩy nhẹ một cái, cánh cửa đã từ từ hé ra theo lực đẩy, dường như có thể mở được. Tôi giật mình, lập tức đẩy mạnh hơn, cánh cửa sắt bung ra một khe hở to hơn, gần như cùng lúc ấy, một cột khói ập vào khiến tôi sặc sụa, nước mắt chảy giàn giụa.

    Vừa lau nước mắt, tôi vừa hét to gọi Vương Tứ Xuyên mau đến giúp đỡ, lúc bấy giờ, cậu ta mới định thần trở lại và nhanh chóng chạy đến. Hai chúng tôi hợp sức đẩy cánh cửa, nhưng dường như cánh cửa bị một vật vô cùng rắn chắc chặn đứng lại từ phía sau, chúng tôi lao sầm sầm vào cánh cửa mấy lần mà khe hở vẫn không hề rộng thêm, ngược lại khói đặc càng lúc càng túa ra nhiều hơn.

    Vừa thấy tình thế bất thường, tôi liền đoán chắc chắn kẻ xấu kia đã tính cả rồi, hắn định dùng khói để hun chết bọn tôi. Tôi lại hét gọi hai người kia cùng mình kéo cánh cửa lại, nhưng kéo mãi mà cánh cửa vẫn đứng im bất động, gắng sức kéo thêm mấy lần nữa, tôi chợt ngộ ra: hỏng rồi, chắc nó kẹt phải vật gì đó, có lẽ bị dây thừng thắt vào móc trên tường, chỉ thế mới khiến chúng tôi không thể kéo vào và cũng không thể đẩy ra được.

    Khói đặc không ngừng cuồn cuộn tuồn vào, chúng tôi sặc khói đến nỗi không thể mở mắt mũi mồm miệng ra được. Vương Tứ Xuyên vừa ho sặc sụa vừa cởi quần áo. Cậu ta hét lớn: “Giúp… một… tay! Nhét khe hở lại!”

    Chúng tôi nhắm mắt xông tới, cởi hết quần áo nhét vào trong khe hở, nhưng khe hở quá rộng, chúng tôi không đủ quần áo để nhét kín, sau đó quần áo của Vương Tứ Xuyên tự nhiên bén cháy, cậu ta đành giật vội về, lấy chân dập lửa, rồi mặc vào người.

    Vương Tứ Xuyên không thể chịu đựng hơn được nữa, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, cậu ta vừa ngoác miệng ra mắng vừa cầm gậy sắt thọc vào khe hở và bẩy ra, nhưng bất kể cậu ta to mồm chửi mắng đến đâu, bất kể cậu ta cố gắng nậy cửa thế nào, thậm chí cây gậy còn bị bẻ cong, thì cánh cửa vẫn đứng trơ trơ ra đó. Lúc này, tôi phát hiện hình như trên cánh cửa sắt có rất nhiều vết nậy, xem ra đã có người khác từng nậy cánh cửa này, không hiểu ở đây đã xảy ra chuyện gì?

    Mà mặc kệ nó, điều quan trọng là bây giờ cả căn phòng đã bị khói đặc xâm chiếm, dù chúng tôi đã lùi sâu về phía sau nhưng vẫn cảm thấy cổ họng đặc sít, không thể nào thở nổi, nếu cứ tiếp tục thế này, chúng tôi sẽ bị sặc khói mà chết mất. Vương Tứ Xuyên chỉ chửi được thêm vài câu nữa rồi im tịt. Chúng tôi tiếp tục lùi về phía sau, xé miếng vải màn chiếu bám đầy bụi, lấy nước trong bình thấm ướt nó, rồi đưa lên mũi bịt chặt. Trong lúc hoảng loạn, tôi nhìn lại lỗ thông gió, chẳng ngờ từ chỗ đó, khói đặc cũng phun ra ầm ầm.

    Tôi nhớ đến tiếng khởi động máy khi nãy, không biết kẻ khốn nạn nào đã khởi động máy phun khí vào đây, có lẽ hắn đã dẫn khói vào phòng qua ống thông gió.

    Vương Tứ Xuyên hoàn toàn mất kiểm soát, cậu ta rống lên như lợn bị chọc tiết, còn tôi túa mồ hôi lạnh khắp người. Ở đây chỉ có hai lối ra, nhưng cả hai lối đều đang phun khói cuồn cuộn, còn những nơi khác đều là tường bê tông, chúng tôi chết chắc ở đây rồi!

    Giờ phút này hoàn toàn không cần thiết phải bình tĩnh suy nghĩ, tôi và Vương Tứ Xuyên nhìn nhau, cậu ta bảo chúng tôi tránh ra một bên, rồi vác gậy sắt đập thật lực vào mảnh lưới thép bịt lỗ thông gió. So với cửa sắt, thì chỗ này rõ ràng vẫn là con đường sống nhiều hy vọng hơn.

    Ba người chúng tôi đập mảnh lưới tóe lửa, gậy sắt giật nảy lên trong tay chúng tôi, chúng tôi cứ đập cho đến khi mệt lử, nhưng mảnh lưới thép dường như chẳng có gì thay đổi. Tôi chỉ biết tuyệt vọng đứng nhìn.

    Mã Tại Hải cũng cuống hết cả lên, lúc này cậu ta chẳng đếm xỉa gì đến khoảng cách thủ trưởng và cấp dưới, liền lấy cây gậy trong tay Vương Tứ Xuyên, rồi đập tới tấp. Sức cậu ta dường như còn mạnh hơn cả Vương Tứ Xuyên, hơn nữa động tác lại chính xác, có lẽ cậu ta được rèn luyện trong những ngày đào hầm khoét núi xây dựng các công trình quân sự, mặc dầu vậy, lưới thép cũng chỉ lõm vào một chút, cuối cùng Mã Tại Hải đập mạnh đến nỗi làm cây gậy sắt tuột cả khỏi tay, nhưng lưới thép hoàn toàn không hề có vết tích nứt gãy, trong khi đó khói đặc đã khiến chúng tôi sặc sụa, không thể hít thở bình thường.

    Tôi bịt miệng, nhìn luồng khói không ngừng phun vào mà đầu óc trống rỗng, tôi tuyệt vọng thầm nghĩ, có lẽ chúng tôi đành ngồi đây chờ đợi thần chết đến đón đi.

    Đúng lúc ấy, sự chú ý của Vương Tứ Xuyên như thể bị hút vào một điểm, đèn pin của cậu ta chiếu xuống phía dưới mấy băng ghế dài, chúng tôi cũng nhìn theo, tôi bỗng phát hiện ra luồng khói đặc này hơi kì lạ.

    Dường như khói bị hút vào một nơi nào đó!
     
  19. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 6: Lối thoát


    Mọi người lập tức nhảy bổ đến gần, chuyển băng ghế sang một bên, tôi phát hiện phía dưới cũng có một lỗ thông gió. Lỗ thông gió này bé hơn bên kia nhiều, phía trên có cánh quạt và lưới thép to như ngón tay, nhưng nó được cố định bằng ốc vít.

    Nhìn thấy cái hố, tôi mừng thầm trong lòng, nhưng lại lo lo, chỉ e mình không chui vừa qua lỗ. Nó quá bé, nhưng lúc này cũng chẳng thể để ý được nhiều điều như thế.

    Vương Tứ Xuyên lập tức lấy gậy sắt kề vào mắt lưới và nậy lên, cậu ta lập tức phát hiện ốc vít đã bị ai đó nạy lỏng. Tôi thầm cảm thấy kì lạ, lẽ nào có người đã từng bẩy được nó ra, sau đó lại lắp vào như cũ? Lúc này, Vương Tứ Xuyên đã nạy được lưới thép, sau đó túm cánh quạt, bẻ quặt ra phía ngoài.

    Chất lượng các công trình quân sự của Nhật Bản rất tốt, tấm thép làm cánh quạt và trục cố định ở giữa đều dày khiếp người, vừa nhìn đã thấy vô cùng chắc khỏe. Vương Tứ Xuyên hí hoáy một hồi, bụi và dầu mỡ dính đầy tay, nhưng cánh quạt vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng, Mã Tại Hải phải lấy mắt lưới của tấm lưới thép chụp lên mũ ốc ở giữa làm cờ lê, cậu ta phát hiện mũ ốc cũng đã bị nạy lỏng, chỉ cần quay vài vòng là tháo nó ra được.

    Vương Tứ Xuyên gỡ lá thép ra, vứt sang một bên, tiếng tấm thép rơi xuống đất nghe rất trầm, đoán chừng dễ nó nặng đến mười cân, chắc chắn là đồ được sản xuất trước chiến tranh, bởi sau chiến tranh, người Nhật không còn nhiều kim loại mà lãng phí như vậy.

    Khói càng lúc càng lan rộng, cho dù đã bật đèn pin nhưng chúng tôi vẫn không nhìn thấy gì, chỉ lờ mờ trông thấy những sợi dây cáp điện to như cổ tay nằm chằng chịt trong thông đạo. Khi quân Nhật xây dựng nơi này, chắc chắn bọn chúng đã hoàn thành công trình dựa trên nguyên tắc thần tốc nhưng tiết kiệm, bởi vậy tất cả các đường thông gió đều được tận dụng làm đường dẫn dây cáp.

    Mã Tại Hải là người gầy nhất, cậu ta thử bò vào trước, cố gắng lắm mới chui lọt vào trong, tôi thấy hơi lo lắng, nhưng không phải lo cho bản thân, Mã Tại Hải có thể chui vừa, người có thể hình như tôi chắc chỉ xây xát da thịt chút thôi, chứ vẫn chui qua được, nhưng vấn đề là Vương Tứ Xuyên…

    May mà sau khi bò qua khúc cua để vào trong miệng ống thông gió thì không gian trở nên rộng rãi hơn nhiều. Mã Tại Hải nhảy xuống, rồi ra hiệu với chúng tôi rằng không có trở ngại gì.

    Tôi và Vương Tứ Xuyên nhìn nhau, cậu ta cười bảo: “Cậu vào trước đi, tôi giãn gân giãn cốt chút đã!”

    Tôi lắc đầu, thầm nghĩ: “Cái ngữ cậu thì chui lọt làm sao được!”, đoạn quay sang bảo: “Cậu cứ chui vào đi, tôi ở trên đạp cho, có đạp gãy xương sườn thì cũng phải đạp cho cậu lọt sang được bên kia mới thôi.”

    Vương Tứ Xuyên không phản đối, bởi rốt cuộc cậu ta cũng đâu muốn chết. Vậy mà dù đã thay đổi mọi tư thế, cậu ta vẫn không chui lọt, cuối cùng Vương Tứ Xuyên quyết định cởi sạch quần áo ra, rồi dốc đầu chui xuống. Nhưng đúng như tôi dự liệu, mới chui được một nửa thì cậu ta bị kẹt cứng ở giữa.

    Tôi nhảy luôn lên người cậu ta, mặc cậu ta kêu gào thảm thiết, tôi cứ thế dùng hết sức nặng của bản thân đạp liền mấy cái cho cậu ta dần dần trôi xuống, vai Vương Tứ Xuyên bị mài sát, để lại trên hai bên thông đạo hai vệt máu dài.

    Lúc này, khói đặc đã lan tỏa đến đỉnh đầu, tôi cũng xuống bằng cách chui đầu xuống trước, rồi được hai người kia kéo tuột xuống.

    Đường ống thông gió này được thiết kế dưới lòng đất, bởi vậy hiện giờ chúng tôi đang ở phía dưới của cả khu vực, phía trái là hành lang ngoài, tôi thấy trên trần ở bên đó cũng có lỗ thông gió và ánh sáng chiếu ra.

    Nơi này cũng toàn là khói, mọi ống thông gió đều phun ra mùi khói cay nồng, tôi thận trọng bò sang đó. Từ sau lỗ thông gió, tôi ngẩng đầu lên nhìn, phía trên có vật cản, khói đặc giăng mù mịt khắp nơi, hơn nữa lại không có công cụ chiếu sáng, nên tôi chỉ nhìn thấy ánh đèn pin lấp lóa của thằng khốn đó, còn lại thì chẳng thấy rõ thứ gì.

    Nếu có khẩu súng trong tay, tôi nhất định sẽ bắn chết hắn, bắn cho não hắn nát như cà bung, nhưng tiếc là giờ không cách nào thực hiện được, may mà tên đó cũng không có vũ khí. Tôi ngồi xổm, nhìn về hướng khác và phán đoán xem nơi nào có thể thoát ra khỏi đường ống, sau đó giết chết hắn, cho hắn nếm mùi sự lợi hại của mình.

    Bởi không gian của cả con đập thoáng đãng và rộng mênh mông nên lại càng hiện rõ sự tĩnh lặng, nếu lối ra mà chúng tôi chọn ở gần hắn quá, thì động tác đạp cánh quạt vừa rồi nhất định sẽ bị hắn nghe thấy, vậy khác gì đánh rắn động cỏ. Tôi quyết định cứ xuôi theo đường ống tiếp tục bò về phía trước một đoạn. Muốn hun chết bọn tôi ư? E là phải đốt một hồi nữa mới được, chắc hắn không thể phát hiện chúng tôi đã trốn thoát một cách nhanh như vậy được.

    Tôi thận trọng men theo đường dây cáp bò về phía trước, hai người kia bám theo sau, chúng tôi đi qua hết lỗ quạt thải khí này đến lỗ quạt khác, đường ống giao thoa chằng chịt phức tạp, phía trên chắc là một gian phòng khác hoặc là hành lang, tiếc là không có điện chiếu sáng, xung quanh tối thui, thoang thoảng mùi ẩm mốc. Ánh đèn pin chiếu ra xa cũng chỉ nhìn thấy vài thứ lộn xộn trông chẳng rõ là thứ gì.

    Bụi tích trong đường ống thông gió nhiều không thể tưởng tượng được, chẳng bao lâu sau, khắp người tôi đã bám một lớp bụi dày, vừa phủi một cái đã quệt phải dầu mỡ màu xám, nhớt nhát phát buồn nôn, tôi liên tục dẫn hai người kia bò qua sáu miệng đường ống thông gió. Khi đã cách phòng chiếu một quãng khá xa, chúng tôi mới quyết định bò lên.

    Nhưng đến đó chúng tôi liền trố mắt, bởi vì bên trong này chẳng có vật gì có thể dùng làm cờ lê để bẻ cánh quạt thông gió. Lẽ nào lại trở về chỗ cũ lấy tấm lưới sắt đã bị gỡ bỏ ở đó? Có điều nếu làm vậy thì không kịp thời gian, mà cũng chẳng làm cách nào cắt nó xuống được. Nhất thời ba người bọn tôi chỉ biết tuyệt vọng nhìn nhau.

    Ngây người nhìn cánh quạt mấy phút, Vương Tứ Xuyên bắt đầu sốt ruột, cậu ta bảo: “Không thể đứng đợi mãi thế này, cứ đạp thẳng vào đó, nếu không cho dù kẻ địch không đến thì chúng ta cũng bị khói hun chết mất!”

    Tôi gật đầu, bây giờ cũng chẳng còn cách nào khác, nên liền gọi Mã Tại Hải bảo cậu ta song phi vài cú, Mã Tại Hải thò chân vào giữa cánh quạt, đạp mạnh một cú, rồi một cú nữa nhưng đạp mãi mà lưới thép vẫn chẳng hề hấn gì.

    Lưới thép hoàn toàn bất động theo đúng nghĩa đen, nó không hề rung rinh chút nào, điều đó khiến tôi hiểu vật này kiên cố đến mức không thể chỉ dùng chân mà đạp đổ được.

    Quả vậy, bất kể chúng tôi chia nhau ra đạp bao lâu mà tấm lưới vẫn cứ trơ ra. Chúng tôi lại trở xuống tìm miệng đường ống tiếp theo xem có may mắn hơn không, nhưng vẫn không xong, lòng tôi rầu rĩ, thầm nghĩ lẽ nào chúng ta bị nhốt trong đường ống thông gió cho đến chết?

    Tiếp tục đi về phía trước, chúng tôi đạp từng miệng lỗ một, chất lượng công trình do bọn Nhật làm thực sự khiến chúng tôi hoàn toàn sụp đổ hy vọng, hầu như miệng lỗ nào cũng vô cùng chắc chắn.

    Chẳng rõ chúng tôi đã bộ hành bao lâu, nhưng đúng lúc tôi tuyệt vọng nhất, thì đột nhiên Mã Tại Hải kêu lên đầy vui mừng: “A! Ở đây lỏng này!”

    Tôi lập tức chạy tới xem, phát hiện lưới thép vừa bị cậu ta đá hình như hơi lệch ra phía ngoài, cậu ta vui mừng hớn hở, quay lại nhìn tôi với vẻ mặt rất hứng khởi, rồi quay người đạp thêm mấy phát nữa, chẳng ngờ lưới thép liền lỏng hẳn ra. Tôi lấy tay sờ, phát hiện lưới thép không hề bị cố định mà chẳng qua chỉ gá vào đó mà thôi.

    Cậu ta đứng bên trong đạp tung tấm lưới, sau đó thò tay vào trong từ khe hở của cánh quạt, vặn ốc vít.

    Ốc vít ở đây cũng rất lỏng lẻo, tôi thầm thấy kì quái, đột nhiên tôi nảy sinh hoài nghi: chẳng lẽ có người từng đi qua đây, nhưng rồi tôi lại cảm thấy khả năng này không lớn lắm.

    Sau đó, chỗ miệng lỗ thông gió không còn thứ gì cản đường nữa, Vương Tứ Xuyên vật vã mãi mới chui được từ trong lỗ ra ngoài, cảm giác chẳng khác gì chui ra khỏi bụng mẹ lần nữa.

    Chúng tôi leo lên xem, phía ngoài là một đường hầm dài hun hút và tối âm u. Tim tôi thoắt trùng xuống, bởi hành lang này lớn quá, cơ hồ có thể đủ chỗ cho hai chiếc xe tải cùng chạy song song, nó cao cỡ ba tầng nhà, mặt tường lộ cả bê tông cốt thép, trông rất đỗi xù xì.

    Xem ra đây có lẽ là trục đường vận chuyển chính trong nội bộ đập nước, chắc nó phải cách khu vực phòng chiếu phim tầm năm sáu mươi mét, nơi này hoàn toàn nằm ngoài khu vực hành chính.

    Tôi cố trấn tĩnh lại, đây quả là nơi khiến người ta cảm thấy sợ hãi, mọi thứ ở đây đều nhuốm màu quái dị đến mức khác thường, mấy chục năm trước nhất định ở nơi này đã xảy ra rất nhiều chuyện không thể tưởng tượng nổi, vì vậy chúng tôi phải thật cẩn trọng, tuyệt đối không được manh động.

    Vương Tứ Xuyên lấy đèn pin soi sáng đường hầm khổng lồ, tôi lập tức phát hiện trên mặt đất có rất nhiều đường ray, có lẽ dùng để vận chuyển, giữa các tuyến đường có phần nối liền với nhau, tôi từng nhìn thấy vật tương tự tại xưởng đóng gạch ở quê nhà.

    Chiếu đèn pin lên tường, tôi phát hiện trên đó gắn một tấm biển bằng sắt, lau sạch lớp bụi là có thể nhìn thấy một hàng chữ Nhật trong đó có vài chữ Hán vốn là đã bị han gỉ loang lổ. Tôi đang định đoán thử nội dung đại khái của nó, nhưng Vương Tứ Xuyên đi đằng trước đã cuống quýt gọi tôi mau lại xem.

    Tôi vội vàng đi đến chỗ cậu ta, phát hiện đường hầm kéo dài mãi về phía trước, hai bên xuất hiện rất nhiều phòng ốc và thông đạo, nhưng bên ngoài của các cửa và lối ra của thông đạo đều đóng một miếng gỗ rất dày.

    Tôi lấy làm lạ, cảm giác ở đây hoàn toàn khác so với những nơi còn lại trong con đập, xem ra chốn này rất tiêu điều và đổ nát, hơn nữa lối vào đều bị niêm phong kín mít, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?

    Nếu chúng làm vậy để bảo vệ thứ cất giữ bên trong, thì phương pháp này chưa hẳn sẽ phát huy tác dụng, mà với thói quen của người Nhật, chúng sẵn sàng hủy luôn những thứ không thể chuyển đi được một cách không hề do dự.

    “Hay chúng làm vậy để nhốt công nhân Trung Quốc?” - Vương Tứ Xuyên lẩm bẩm, tôi lắc đầu, bọn Nhật không dùng cách phức tạp như vậy để đối phó với công nhân Trung Quốc đâu. Sau khi công trình hoàn thành, chúng sẽ thảm sát hết toàn bộ công nhân, lũ người đó chắc chắn sẽ không hao tâm tổn trí vì người Trung Quốc đâu.

    Vương Tứ Xuyên soi đèn pin vào khe hở giữa những tấm gỗ để quan sát thì thấy căn phòng bên trong có bố cục hoàn toàn giống với căn phòng mà chúng tôi gặp khi leo ra từ lỗ thông gió, có điều chúng tôi không nhìn rõ phần lớn không gian trong phòng.

    Chúng tôi tiếp tục đi về phía đầu kia của đường hầm, chẳng bao lâu sau đã tới điểm tận cùng, suốt chặng đường, tôi thấy tất cả các ô cửa đều bị bịt lại chắc chắn, không để lọt chỗ nào.

    “Xem ra cả khu này đều bị niêm phong kín.” - Vương Tứ Xuyên nhận xét - “Có lẽ chúng ta phải trở về đường ống thông gió rồi!”

    “Không cần!” - Tôi khẳng định - “Bọn niêm phong nơi này bằng tấm gỗ chắc chắn phải có đường ra, chắc chắn chúng không tự nhốt sống mình trong này đâu, nhất định ở đây sẽ có thông đạo không bị niêm phong dẫn được đến nơi khác.”

    Chúng tôi đi giữa đường hầm, tôi quan sát phía trái, Vương Tứ Xuyên quan sát phía phải, còn Mã Tại Hải chú ý khu vực trên đầu. Chúng tôi quay đầu đi ngược trở lại, tìm từng lỗ một, nhưng đi mãi đến đầu bên kia của đường hầm, chúng tôi vẫn không tìm thấy lối ra. Có điều ở điểm tận cùng của đường hầm này, tôi nhìn thấy hai cánh cửa sắt vô cùng to lớn, bề mặt han gỉ chẳng còn hình dạng gì, không những vậy còn bị người ta hàn chết từ phía trong, nhìn thấy vậy tôi còn chẳng buồn thử đẩy xem chúng thế nào.

    Tôi là người không tin tà ma, nên lại tìm thêm lượt nữa, nhưng kết quả vẫn không có gì thay đổi, nỗi tuyệt vọng và chán chường bủa vây lấy tôi.

    Chúng tôi ngồi bàn bạc hồi lâu bên cánh cửa sắt, mọi chuyện diễn ra ở đây quả thật không hợp với lẽ thường, mọi cánh cửa đều bị đóng đinh chết từ bên ngoài, mà nếu chúng đều bị niêm phong kín thì những người đóng tấm gỗ cũng chẳng còn lối ra và chúng tôi chắc chắn sẽ nhìn thấy thi thể của họ, nhưng trong đường hầm tuyệt đối không có bộ xương nào ngoài một vài hòm gỗ rỗng.

    Vương Tứ Xuyên không nói thêm gì nữa, rõ ràng cậu ta không thể lý giải nổi điều này, mấy người chúng tôi chỉ biết nhìn nhau. Đột nhiên, Vương Tứ Xuyên đến bên cánh cửa của một căn phòng và nói: “Chúng ta cứ nậy tấm gỗ ra, xem thứ bị niêm phong bên trong rốt cuộc là vật gì, thì lập tức rõ mọi chuyện ngay thôi!”

    Khi đó, cây gậy sắt trong tay cậu ta trở thành công cụ đáng tin cậy nhất của chúng tôi, mấy tấm gỗ này cũng chỉ là gỗ dương thông thường, có lẽ được chặt trong khu rừng gần đây, đó là loại gỗ chưa qua gia công, giờ không còn chắc chắn như năm đó nữa nên dễ dàng bị Vương Tứ Xuyên nậy ra.

    Sau khi bẩy gãy mấy thanh gỗ, thì trước mặt hiện ra một ô nhỏ đủ cho người chui lọt. Tôi vào trước, soi đèn pin thì thấy ở đó có rất nhiều dãy phản dài, khoảnh khắc đó, dưới ánh đèn pin, tôi rất đỗi kinh ngạc khi phát hiện trên mỗi tấm phản đều la liệt người nằm.
     
  20. cục mỡ huyền thoại

    cục mỡ huyền thoại Mã... Thành viên BQT Super Member
    • 768/994

    • Chân Nhân Bất Lộ
    • Chí Cao Vô Thượng
    • Chúa Tể Chi Vương
    • Tầm Hoan Quan Nhân
    • Tầm Hoan Thương Gia
    • Thánh Ngự Hư Không
    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • Uy Trấn Thiên Hạ
    • Đại Phú Hào
    • Độc Tôn Tam Giới
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,443
    Đã được thích:
    24,059
    Chương 7: Căn phòng bị niêm phong


    Ánh sáng đèn pin mờ tối, nhưng chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy cảnh tượng trên tấm phản dài, mỗi dãy phản đều có rất nhiều bóng đen đang nằm, tất cả đều bất động. Da đầu tôi muốn nổ tung, lòng nghĩ thầm lẽ nào đây là nhà xác? Nhưng đồng thời tôi nhìn thấy hành lang tứ phía rộng rãi và cửa thông đạo dài ngút tầm mắt bị ván gỗ bịt kín, nếu là nhà xác, thì trong này có bao nhiêu người chết đây?

    Vương Tứ Xuyên giục tôi bước vào, tôi thuật tóm tắt tình hình bên trong cho cậu ta, tôi và cậu ta hoán đổi vị trí để cậu ta nhìn được cảnh tượng bên trong, cậu ta liền bảo: “Còn kiêng kị gì nữa? Người sống còn không sợ lẽ nào lại sợ người chết?”, nói xong, cậu ta bước ngay vào trong phòng.

    Tôi dặn Mã Tại Hải phải cảnh giác, sau đó cố gắng trấn tĩnh trong giây lát, rồi mới thận trọng trèo qua lỗ hổng vào trong. Khi đã chui vào trong phòng, tôi đứng lên soi đèn pin lần nữa, phát hiện thứ đang nằm trên giường có lẽ đúng như suy đoán của tôi khi nãy.

    Đó là những bao lớn trông như thể túi ngủ, trông rất giống túi chứa thây người, những chiếc túi này đồng màu với quân phục của quân Nhật, thoạt nhìn hao hao như kén sâu màu cỏ úa, nhưng điều khiến người ta nổi gai ốc hơn là trên rất nhiều dãy phản dài chồng thành ba tầng như thế toàn là loại túi bằng vải buồm này, chiếc túi nào cũng có vệt bẩn bám trên bề mặt, nhìn qua là biết đó là vết máu thấm từ trong ra.

    Tôi thấy hơi buồn nôn, may mà mấy kẻ gan dạ như bọn tôi đều không sợ yêu khí, Vương Tứ Xuyên bảo chúng tôi chuẩn bị tâm lý cho vững, rồi cậu ta lấy gậy sắt lật túi vải buồm, phần may khóa lộ ra, cậu ta liền kéo xuống. Tôi lập tức nhìn thấy một cánh tay cứng đơ, đen sì sì thò ra ngoài.

    Ở đây bao nhiêu ngày, chứng kiến quá nhiều chuyện quái dị, nên khi nhìn thấy cánh tay kì lạ này, tôi chẳng có cảm giác gì. Vương Tứ Xuyên tiếp tục mở rộng tấm vải buồm, tôi nhìn thấy nửa cỗ thi thể khô đét bên trong.

    Vương Tứ Xuyên thốt lên: “Đúng là người chết rồi!”

    Mã Tại Hải là lính công binh, cậu ta chưa bao giờ gặp phải tình huống này, nên sợ rúm người lùi mãi về phía sau. Tôi vỗ vai để cậu ta bình tĩnh hơn, làm lính mà chưa bao giờ ngửi thấy mùi xác chết thì trách gì không lên nổi chức tiểu đội trưởng.

    Vương Tứ Xuyên điều chỉnh quầng sáng đèn pin nhỏ lại, rồi soi vào trong túi, nhìn bộ quân phục rách nát trên thi thể, tôi biết những tử thi này là lính Nhật, y phục đều bị dịch cơ thể chảy ra kết thành tảng đông cứng, toàn bộ khoảng da lộ ra ngoài của thi thể đều chuyển thành màu đen, độ phân hủy không đồng đều, có chỗ đã lộ xương trắng, có chỗ thì vẫn còn nguyên vẹn, trông cả cỗ thi thể chẳng khác nào một khối than tổ ong.

    Lúc ở trong chiếc máy bay ném bom Shinzan bị rơi dưới dòng sông ngầm, tôi cũng nhìn thấy một cỗ thi thể ở trong tình trạng phân hủy giống thế này. Từ đó có thể khẳng định, nguyên nhân tử vong là vì trúng độc, rất có khả năng số lính Nhật này và viên phi công đó đều bị trúng độc mà chết.

    Giở một túi khác ra, tôi thấy tình trạng thi thể bên trong cũng tương tự như vậy.

    “Những người này đều chết vì trúng độc, xem ra họ là vật hi sinh của sương độc dưới vực sâu.” - Vương Tứ Xuyên trầm giọng nhận xét - “Những nơi tích tụ chất độc đều bị rữa nát, còn nơi chưa bị rữa nát thì chắc là vi khuẩn đã chết hết vì nhiễm độc, bởi vậy cả cơ thể mới nát đến mức độ này. Có điều, sao tử thi lại chuyển màu đen thế nhỉ?”

    Màu đen trên bề mặt thi thể trông rất bất thường, Vương Tứ Xuyên chọc gậy vào một hố rữa trên cơ thể tử thi, ngoáy đi ngoáy lại, rồi lôi ra một thứ trông nhang nhác giống bông y tế và đưa lên mũi hít ngửi mấy cái.

    Mã Tại Hải đứng phía sau lập tức muốn ói, tôi lắc đầu, thầm nghĩ: “Chú em này kém quá!”, rồi tôi cũng đến gần ngửi thử, thấy mùi vị này thật khó diễn tả bằng lời, nhưng nó không đến nỗi ghê tởm như tôi tưởng.

    “Nếu màu đen này là hậu quả do việc trúng độc, thì chứng tỏ lượng độc tố ở trong cơ thể phải rất lớn, nếu chỉ nhiễm độc qua đường hô hấp thì không thể đến nỗi vậy, có lẽ loại khí độc này phản ứng với da của con người.” - Vương Tứ Xuyên nói - “Nếu một ngày chẳng may gặp phải loại sương độc này, thì chúng ta phải vô cùng thận trọng mới được.”

    Tôi gật đầu, khóa huấn luyện “Ba phòng” mà chúng tôi học trước đây cũng nói về điều này, chẳng ngờ những kiến thức ấy lại hữu dụng đến thế. Vương Tứ Xuyên lau đầu gậy dính chất bẩn vào túi đựng xác, rồi đi xem xét những nơi khác trong phòng.

    Tôi cúi đầu nhìn dãy phản mà tử thi đang nằm la liệt, đột nhiên trong đầu chợt lóe lên một ý nghĩ: “Không đúng, có lẽ nhóm người này chính là đội quân tiên phong của bọn Nhật.”

    “Sao cậu biết?” - Vương Tứ Xuyên trèo lên giường, nhìn lên trần nhà và hỏi.

    “Những túi ngủ này đều là quân trang dành cho bộ đội dã chiến, nếu số người ở đây đều là quân đồn trú chính quy của bọn Nhật thì chắc chắn chúng đều được phát chăn đệm, vì nhiệt độ nơi này rất lạnh.” - Tôi đưa ra phán đoán - “Hơn nữa ở đây có rất nhiều phòng, giả sử bên trong chứa toàn người chết, thì số lượng tử vong thật sự quá lớn. Bọn Nhật xây dựng con đập dưới lòng đất, có lẽ nhóm đầu tiên đến đây đã không hay biết sương khí dưới lòng vực sâu chứa chất kịch độc, trong thời gian xây dựng công trình, thượng nguồn con sông ngầm bắt đầu đổ mưa, lượng nước gia tăng ập vào trong vực khiến sương độc bay lên, nhóm quân Nhật này và một số công nhân lúc đó đã bị trúng độc và tử vong tập thể, chính vì vậy số lượng thương vong mới lớn đến dường này.”

    “Vậy sao bọn Nhật không xử lý những xác chết kia?” - Mã Tại Hải nghe xong liền thắc mắc - “Chẳng phải người Nhật có lò hỏa thiêu sao?”

    Tôi nhìn tư thế kì quặc của những xác chết, trong lòng đại thể đã đoán ra sự tình, nhưng quả thật suy đoán đó khiến tôi cảm thấy toàn thân ớn lạnh, nếu sự thực đúng là vậy, thì mọi chuyện xảy ra ở đây quá mức thảm khốc.

    “Chắc phải có một nguyên nhân bất đắc dĩ nào đó.” - Tôi nói - “Những thi thể ở đây đều nằm trong túi ngủ, mỗi người một ô giường riêng, cách xử lý tử thi kiểu này không hề hiệu quả, nếu đây đúng là nhà xác, thì chỉ cần một phần ba căn phòng đã đủ chứa toàn bộ số xác này rồi. Hơn nữa, sử dụng túi ngủ để đựng xác chết thì quá lãng phí, dẫu trong thời kì hoàng kim nhất, quân Nhật cũng sẽ không lãng phí như thế đâu!”

    Bởi vậy, tôi nghĩ căn phòng mà chúng tôi nhìn thấy không phải nhà xác, sở dĩ các thi thể được đặt như thế này rất có khả năng vì họ đang nằm ngủ trong tư thế ấy thì bị chết mà không hề hay biết.

    Đây là khu trại nghỉ, có lẽ lúc nửa đêm, màn sương gây chết người đã chui vào trong phòng qua đường ống thông gió, trong lúc mơ ngủ, chỉ số ít người may mắn thoát nạn, còn lại tất cả quân lính đều thiệt mạng. Sau khi sương mù tan hết chúng phát hiện cả khu doanh trại lặng phắc như tờ đã trở thành một nghĩa địa la liệt xác chết.

    Đối mặt với tình hình này, những kẻ may mắn sống sót chắc chắn sẽ rất hoảng loạn, chúng không có khả năng xử lý nhiều xác như thế, nên đành đợi quân chi viện đến, nhưng mặt khác sợ thi thể rữa nát sẽ gây ra bệnh dịch, nên chúng liền đóng kín mọi ô cửa ở đây lại, bao gồm cả đường ống thông gió, rồi bỏ hoang khu vực này.

    Trong khoảng thời gian một đêm ngắn ngủi, bao nhiêu người đã chết trong âm thầm, lặng lẽ, chỉ cần nghĩ đến điều đó thôi cũng đủ khiến người ta thấy lạnh người, tuy phương thức tử vong này rất êm đềm, nhưng tôi không thích cách chết này một chút nào, thà tỉnh táo và chủ động biết mình ra đi còn hơn.

    Tôi cảm thấy suy đoán này tương đối hợp lý, nhưng Vương Tứ Xuyên đột nhiên gọi một tiếng, vẫy tay bảo tôi mau lại xem.

    Tôi men theo dãy phản trèo tới chỗ cậu ta đang đứng thì nhìn thấy một túi vải buồm nữa bị cậu ta mở tung ra, Vương Tứ Xuyên soi đèn pin vào sọ của thi thể trong túi ngủ cho tôi xem.

    Tôi trông rất rõ ràng, trên sọ của cỗ thi thể có một lỗ đạn bắn.

    Cậu ta nhìn tôi, bảo: “Tên này bị bắn chết. Cậu xem ở đây nữa này!”

    Cậu ta lại chỉ thân thể của tử thi, tôi phát hiện trên ngực xác chết cũng có mấy lỗ đạn nữa.

    “Đầu tiên là ăn một phát vào phổi, sau đó lại lĩnh thêm phát nữa vào đầu, chắc làm vậy để giúp anh ta giảm bớt đau đớn và chết thoải mái hơn.”

    Nói xong, Vương Tứ Xuyên nhảy xuống giường, tháo tung một mạch mười mấy túi vải buồm ra, chúng tôi phát hiện dễ đến bảy tám xác chết bị súng bắn chết, có xác bị bắn vào đầu, có xác bị bắn trọng thương, thật là kì lạ!

    “Một số tử thi đúng là chết vì trúng độc, nhưng cũng có tử thi bị bắn chết, mọi chuyện xảy ra ở đây chắc chắn phức tạp hơn suy đoán của cậu nhiều!” - Vương Tứ Xuyên nhận xét.

    Tôi không thể giải thích nổi, những tử thi bị súng bắn chết nằm trong túi ngủ chắc chắn là được người ta nhét vào sau khi đã chết. Nói như vậy thì đúng là bọn Nhật đã biến nơi này thành một nhà xác khổng lồ. Nhưng giống như thắc mắc của Mã Tại Hải, đặt nhà xác ở đây sẽ bốc mùi hôi thối, sao họ không dùng lò hỏa táng, mà lại chỉ lấy tấm ván gỗ niêm phong nơi này? Lẽ nào những xác chết này đã xảy ra biến dị đáng sợ nào đó khiến bọn chúng không dám chạm vào.

    Vương Tứ Xuyên lắc đầu bảo: “Khả năng này không thể xảy ra, bọn chúng dùng ván gỗ bịt kín nơi này không phải để thứ bên trong vượt ra ngoài, mà có lẽ là không muốn cho thứ bên ngoài xâm nhập vào trong.”

    Tôi lắc đầu, cho rằng khả năng này càng không thể xảy ra: “Nơi này đâu phải đồng hoang rừng rú gì, lại không có dã thú, việc gì họ phải bảo vệ những cỗ thi thể này?”

    “Đợi chút, cậu thử nghĩ xem!” - Vương Tứ Xuyên đột nhiên nghĩ ra điều gì, cậu ta trầm ngâm nói - “Bao nhiêu xác chết thế này mà không đem hỏa thiêu, lẽ nào điều ấy có liên quan đến việc bọn Nhật đột nhiên phế bỏ nơi này? Có lẽ đám lính Nhật chết quá đột ngột và dày đặc, nên về sau những người còn lại mới quyết định rời đi, chúng không kịp xử lý xác chết mà chỉ lấy ván gỗ niêm phong kín toàn bộ khu vực, tôi nghĩ nguyên nhân khiến chúng phải làm vậy có lẽ cũng chính là nguyên nhân khiến chúng đột ngột rời đi.”

    Nếu là vậy thì càng khó tưởng tượng hơn, các hiện tượng xảy ra trong đập cho thấy, lúc bọn Nhật rời khỏi đây, thì không một tài liệu nào bị thiêu hủy, cũng không một công trình nào bị hủy hoại, bọn chúng rời khỏi đây rất ung dung, thong thả, ung dung đến mức dường như chúng đột nhiên biến mất vậy. Đây cũng là điểm khiến tôi thấy bất thường nhất.

    Các loại máy móc thiết bị trong cả con đập đều rất lạ mắt, không rõ chúng được dùng vào việc gì, đồng thời các hoạt động của quân Nhật ở đây cũng không có tính logic, những thứ mà tôi trông thấy dưới lòng đất đều khiến tôi không thể giải thích nổi, điều ấy khiến người ta vô cùng bất an.

    Trên mặt đất của căn phòng này không có đường ống thông gió, chúng tôi cũng chẳng tìm thấy manh mối nào khác. Vương Tứ Xuyên nói: “Hay là chúng ta nậy luôn mấy ván gỗ ra, xem kết cấu trong phòng này như thế nào! Ngoài lối vào bị tấm ván bịt kín, thì trong căn phòng còn có rất nhiều cửa thông đạo, chẳng biết những thông đạo này dẫn đến nơi nào, nhưng ắt phải tồn tại một con đường thoát được ra ngoài mới phải”

    Tôi thầm nghĩ, nếu vậy chi bằng cứ quay trở lại đường ống thông gió, tuy trèo hơi vất vả một chút, nhưng thế vẫn hợp lý hơn là tìm lối ra trong nhà xác rộng thênh thang này.

    Đang do dự, đột nhiên cậu Mã Tại Hải từ nãy vẫn im lặng lại làm động tác ra hiệu cho chúng tôi hãy nhỏ tiếng.

    Cậu ta đứng sát cánh cửa, từ đầu chí cuối không dám bước vào trong. Chúng tôi đều im lặng, đột nhiên tôi nghe thấy một tiếng động rất nhỏ phát ra từ đường hầm ở phía ngoài. Tiếng động rất lạ, nghe kĩ, tôi phát hiện đó là tiếng người đang đẩy ván gỗ.

    Có ai đang ở ngoài chăng?

    Chúng tôi nhìn nhau, lập tức trèo ra ngoài, soi đèn pin vào đường hầm, nhưng chẳng tìm thấy nơi phát ra âm thanh trong không gian rộng lớn này. Dựa vào cảm giác mơ hồ, chúng tôi đi theo phương hướng phát ra tiếng động, thì phát hiện âm thanh đó vọng đến từ một nơi sâu nào đó phía trên đường hầm.

    “Rắc rắc rắc…”, tiếng động rất khẽ, tôi dựng hết tóc gáy, chợt nghĩ đến những xác chết bị niêm phong sau ván gỗ. Vương Tứ Xuyên vội giơ gậy sắt lên.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này