1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Hậu cung Chân Hoàn truyện - Tác giả: Lưu Liễm Tử - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 28/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 29: Chiếu nhỏ thuyền con lòng lạnh giá
    Việc tuyển tú đến nay đã hoàn toàn ngã ngũ, các cung tần mới cũng đã được an bài cho cô cô dạy lễ nghi xuất cung ản giáo. Tôi một mặt tranh thủ những lúc rảnh rỗi hiếm hoi để nghỉ ngơi, một mặt dặn dò Cận Tịch sai người đi dọn dẹp các cung điện còn trống, sắp xếp sẵn các cung nhân chuẩn bị tới đó hầu hạ. Lần này mọi công việc Hoàng hậu đều buông tay không ản, tôi cũng không tiện đi thỉnh giáo nàng ta, chỉ cùng ý phi, Đức phi thương lượng mọi việc. Chính trong lúc bận rộn này thì vừa khéo Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu vào cung thỉnh an rồi ở lại giúp đỡ tôi luôn. Ngọc Nhiêu chỉ là nhất thời ham chơi, còn Ngọc Ẩn thì vốn en xử lý mọi việc trong vương phủ, có muội ấy trợ giúp, tôi cũng được thanh nhàn hơn rất nhiều. Suốt mấy ngày liền Ngọc Nhiêu đều vào cung từ sáng sớm, chiều tối thì đi thỉnh an mẹ ruột và mẹ nuôi của Huyền Phần rồi về phủ. Không lâu sau, thấy Huyền Phần vào cung, tôi bèn cười, nói với y: “Ngọc Nhiêu suốt ngày tới chỗ ta thế này thực đã làm phiền Vương gia phải phân tâm trông coi việc trong vương phủ rồi.”

    Y chỉ mỉm cười điềm đạm. “Nàng ấy thích thế nào thì cứ mặc nàng ấy thôi. Lúc thần đệ không ở trong phủ chắc nàng ấy thấy nhạt nhẽo lắm, cứ tới chỗ tẩu tẩu mà nói cười trò chuyện như vậy cũng hay.”

    Ngọc Nhiêu sau khi biết chuyện thì lộ vẻ tức cười, về sau liền ít tới hơn. Nhưng Ngọc Ẩn thì vẫn ở trong chái điện của Nhu Nghi điện để tiện giúp tôi lo liệu công việc, còn ở liền một mạch mấy ngày. Hôm ấy Cận Tịch mang một cuốn tranh vẽ bố cục các cung điện trong cung tới cho tôi xem, nói là có mấy chỗ đã cũ không kịp tu sửa, không tiện để các cung tần mới vào ở. Ngọc Ẩn vốn đang giúp tôi chọn mẫu thêu hoa, nghe thấy thế bèn bước tới xem xét một hồi rồi trầm ngâm nói: “Trưởng tỷ từng nói là trong hôm tuyển tú, Hoàng thượng đã rất xem trọng vị Khương Mỹ nhân kia, vậy thì cần chọn cho cô ta một chỗ ở gần Nghi Nguyên điện của Hoàng thượng mới được. Nhưng cũng không thể không đề phòng cô ta tranh sủng với trưởng tỷ, do đó Nhu Nghi điện cần là nơi cô ta ắt phải đi ngang nếu muốn tới Nghi Nguyên điện, như thế trưởng tỷ mới tiện khống chế tình hình. Theo muội thấy Vạn Kim các kia không tệ, địa thế khá tốt mà phong cảnh cũng đẹp, nếu chọn nơi đó chắc sau này Hoàng thượng và Khương Mỹ nhân đều sẽ cảm kích sự tinh tế của trưởng tỷ. Ngoài ra Khương Mỹ nhân đi lại gần gũi với Hoàng hậu là việc mà ai cũng biết, có thể thuận nước dong thuyền cho họ ở gần nhau, do đó Khởi Vọng hiên cũng không tệ, vừa gần Chiêu Dương điện lại vừa có rất nhiều giả sơn ở xung anh, khi nào trưởng tỷ không muốn thấy bọn họ đi lại với nhau nữa, Khương Mỹ nhân sẽ bị ngã ở đâu đó cũng chưa biết chừng.” Dứt lời, đến bản thân Ngọc Ẩn cũng không kìm được bật cười khúc khích một tiếng.

    Tôi nhìn Ngọc Ẩn chăm chú. “Muội tâm tư cẩn mật, chịu vì ta mà suy tính chu toàn, cũng chịu an bài chỗ ở cho người khác, tại sao lại không suy nghĩ cho bản thân như thế chứ? Suốt mấy ngày nay muội đều ở lại Nhu Nghi điện không về phủ, Vương gia ắt sẽ lo lắng lắm đấy!”

    Ngọc Ẩn nắm chặt bàn tay, nhẹ nhàng cất tiếng: “Vương gia đối xử với muội không giống như cửu Vương gia đối xử với Ngọc Nhiêu. Trưởng tỷ, điều này tỷ không phải là không biết.” Khẽ thở ra một hơi, muội ấy nói tiếp: “Người đó ỷ vào sự sủng ái của Thái hậu nên cũng làm cao lắm. Muội tiếng là nắm yền ản lý việc nhà nhưng bây giờ cô ta đã khỏe lại rồi, không ngờ mọi người trong phủ đã bắt đầu nhìn ý của cả hai bên rồi mới chịu làm việc.”

    Tôi ôn tồn an ủi: “Trong phủ không phải chỉ có mình muội là trắc phi, bây giờ cô ta đã khỏe lại, đám nô tài tất nhiên phải cân nhắc rồi. Do đó ta mới từng dặn muội là nhất định phải nắm chắc yền ản lý mọi việc trong tay.”

    Ngọc Ẩn thoáng ngẩn ra, khẽ thở dài. “Cô ta là tiểu thư thiên kim, mọi việc kỳ thực chỉ đả động a một chút mà thôi. Có điều muội tuy nắm yền ản lý nhưng việc gì cũng phải nghe ý cô ta rồi mới đi làm, cứ như là thấp hơn cô ta một bậc vậy, chẳng khác gì thị thiếp cả.”

    “Hư danh và thực yền, thứ nào an trọng hơn hẳn muội cũng rõ. Muội với cô ta vốn ngang hàng, tất nhiên là phải nghe ý kiến của cô ta rồi, nhưng làm hay không làm, làm như thế nào, rốt cuộc đều do muội quyết định.” Tôi khẽ vỗ mu bàn tay Ngọc Ẩn, tỏ ý an ủi. “Người ở vị trí nào thì phải lo việc ở vị trí đó. Muội bây giờ là trắc phi của phủ Thanh Hà Vương, vị trí này là do muội tự chọn, hãy cứ làm tốt công việc của mình là được rồi.” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Tuy thoạt nhìn Vưu Tĩnh Nhàn hình như không có tâm cơ gì nhưng nhất định phải có lòng đề phòng mới được, điều này muội phải nhớ lấy.”

    “Sao cô ta lại không có tâm cơ chứ, cô ta là người có tâm cơ nhất đấy, cô ta đã có thai rồi!” Mấy ngày nay Ngọc Ẩn thỉnh thoảng lại thẫn thờ, tôi kỳ thực đã nhìn thấy hết nhưng chỉ nghĩ là vì ghen bóng ghen gió với Vưu Tĩnh Nhàn, không ngờ... Sau một thoáng ngẩn ngơ, tôi vội hỏi: “Là chuyện từ bao giờ vậy?”

    Móng tay cắm ngập vào lòng bàn tay làm tứa máu tươi, Ngọc Ẩn gằn giọng nói: “Muội không biết! Không ngờ muội lại không biết gì cả! Muội thật ngốc nghếch... Muội chỉ biết là sau khi khỏi bệnh, cô ta thường xuyên cùng Vương gia bình phẩm thư họa, cũng hay cùng Vương gia vào cung thỉnh an Thái hậu, nhưng đột nhiên lại có tin tức truyền ra, nói là Vưu Tĩnh Nhàn đã có thai được hai tháng rồi. Không ngờ muội lại chẳng biết gì cả!” Ngọc Ẩn á kích động, đôi bờ vai không ngừng run rẩy, hệt như một con chim bị nhốt trong lồng không ngừng đập cánh muốn thoát ra.

    Tin tức này tới á đột ngột, cho dù từng nhìn thấy sự dịu dàng của Huyền Thanh với Vưu Tĩnh Nhàn, nhưng tự nơi đáy lòng tôi vẫn có một tia chua xót trào lên khóe mắt. Y rốt cuộc đã sắp có đứa con của riêng mình rồi, đứa bé đó là do một nữ nhân yêu y sinh cho y, sau này sẽ có thể ang minh chính đại gọi y là “phụ thân”. Tôi khẽ mỉm cười, đây không phải là điều tôi vẫn hằng mong muốn ư? Thế nhưng khóe môi tôi lại vẫn chua xót, nụ cười trên mặt chẳng soi gương cũng biết là vô cùng gượng gạo. Đúng lúc này, Cận Tịch đưa cho tôi một chén trà nóng, cầm chén trà ấy trong tay, tôi như cảm nhận được có một sợi dây nóng bỏng chạy thẳng từ lòng bàn tay vào trong mạch máu, phần nào làm giảm bớt cơn giá lạnh trong tim. Tôi khẽ nói: “Đừng nôn nóng. Dù cô ta đã mang thai thì cũng có sao đâu, chờ một thời gian nữa chắc muội cũng sẽ được như vậy thôi mà.”

    “Muội làm sao mà mang thai được đây?” Ngọc Ẩn đột nhiên ngẩng lên, cặp mắt chiếu ra những tia sáng rực như muốn xuyên thấu trái tim người đối diện. “Tính từ lúc muội được gả cho Vương gia, đến bây giờ đã được mười tháng mười hai ngày rồi...” Sau phút chốc ngẩn ngơ, Ngọc Ẩn đờ đẫn nói tiếp: “Để né tránh sự si tình của Vưu Tĩnh Nhàn, y gần như mỗi đêm đều nghỉ lại trong Tích Trân các của muội. Nhưng, ngoài đêm tân hôn y mặc áo lót nằm bên cạnh muội ra, những đêm còn lại y thậm chí chưa từng cởi áo ngoài ra lần nào.” Ánh mắt muội ấy sắc lẹm như dao, liên tục cứa lên mặt tôi hết nhát này tới nhát khác. “Tỷ yên tâm, Vương gia chưa từng đụng tới muội. Cho dù lúc ban ngày y thường xuyên ở bên muội, đối xử với muội rất tốt, nhưng lại chẳng đụng vào muội bao giờ, thậm chí cả ôm muội mà ngủ cũng chưa, như thế muội làm sao mang thai được đây? Lần muội và y thân mật với nhau nhất chẳng a chỉ là ngồi cùng một chỗ bàn luận về tỷ. Trưởng tỷ, tỷ hãy nói xem muội có phải là rất đáng thương không?”

    Nơi đáy lòng tôi như vang lên những tiếng trống trận rầm trời, tôi chưa từng ngờ rằng đằng sau bức màn hạnh phúc bên ngoài cuộc hôn nhân của bọn họ lại là như vậy.

    “Trưởng tỷ, muội sớm đã không sợ gì nữa rồi! Ngay từ khi được gả cho y, muội đã biết là trong lòng y chỉ có tỷ. Bởi vì vẫn luôn biết rõ, cũng biết là không thể thay đổi được, do đó muội đành cam chịu, trong lòng thầm nghĩ muội như vậy, Vưu Tĩnh Nhàn cũng chỉ vậy mà thôi. Nhưng bây giờ Vưu Tĩnh Nhàn đã có thai rồi, chỉ có muội là không hay biết gì hết, chỉ có muội là không thể có đứa con của riêng mình...” Ngọc Ẩn gào lên một tiếng thê lương, thân thể đột nhiên trở nên mềm oặt mà ngã sụp xuống đất.

    Tiếng khóc của muội ấy vang lên nghe ngợp nỗi ai oán, tựa như cái lưỡi đỏ tươi của một con rắn nhỏ không ngừng thò ra thụt vào, chậm rãi chui vào trong đầu người ta. Muội ấy cứ khóc, khóc mãi, giống như đã phát cuồng phát điên. “Khương Mỹ nhân sau này cũng sẽ có thai, cô ta sẽ đến Chiêu Dương điện của Hoàng hậu, cô ta sẽ vì ham ngắm cảnh mà vô tình giẫm phải một đám rêu xanh dưới chân, và rồi sau khi ngã một cái, đứa con của cô ta sẽ không còn nữa, nói không còn là không còn luôn.”

    Tôi càng nghe lại càng kinh hãi, không kìm được khẽ át một tiếng: “Ngọc Ẩn, trẻ con không có lỗi gì cả!”

    Ngọc Ẩn dần ngưng khóc, chậm rãi đứng dậy, thần sắc sau nháy mắt đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh như thường. Muội ấy lặng lẽ đưa tay lên lau nước mắt, hờ hững nói: “Trưởng tỷ, muội chỉ nói tới Khương Mỹ nhân thôi, con của cô ta sau này cũng giống như con của tỷ tỷ vậy, đều là của Hoàng thượng. Muội nói như vậy là muốn nhắc nhở trưởng tỷ rằng con đường đó không dễ đi, sau này nếu Khương Mỹ nhân thật sự có thai thì cũng phải cẩn thận. Hơn nữa...” Muội ấy nhìn vẻ âu lo trên mặt tôi bằng một ánh mắt mang đầy ý vị sâu xa, một hồi lâu sau chợt khẽ nở nụ cười, đưa tay vỗ trán, cất giọng ung dung: “Trưởng tỷ đừng lo, Vưu Tĩnh Nhàn chưa có thai đâu, vừa rồi muội hồ đồ nên nói nhầm.”

    Sau một thoáng sững người, tôi lập tức hiểu ra, chậm rãi nói: “Muội đúng là nên đi diễn kịch đấy, tài diễn thế này chẳng ai so sánh nổi đâu.”

    Ngọc Ẩn hơi nhếch khóe môi, đôi bông tai vàng ròng đính ngọc bích ánh lên những tia lấp lánh. “Xem kịch không chỉ có tác dụng tiêu khiển, còn có thể giúp người ta nhìn ra được rất nhiều điều. Muội với trưởng tỷ đều là con gái của nhà họ Chân, tất nhiên phải nhắc nhở trưởng tỷ rồi. Vưu Tĩnh Nhàn không phải là kẻ ngốc, khi xưa cô ta ốm thật cũng được, ốm giả cũng được, đến cuối cùng cô ta vẫn vì thế mà được gả vào phủ Thanh Hà Vương, chỉ từ đó thôi cũng đủ thấy rằng cô ta là một người dám đánh cược, cũng dám mạnh tay. Bây giờ cô ta được Thái hậu yêu thích, số lần vào cung thỉnh an ngày một nhiều lên, nếu trưởng tỷ vô ý để lộ ra chút sơ hở nào, người bị liên lụy sẽ không chỉ là Vương gia thôi đâu... Tất nhiên, muội hoàn toàn tin rằng trưởng tỷ tự có chừng mực.”

    Tâm tư tôi biến chuyển liên hồi, cơn chấn động sục sôi trong lòng dần bị cái lạnh làm cho đông cứng, thật không ngờ muội muội ruột thịt của tôi lại dùng cách như thế này để thử tôi. Dù nơi đáy lòng đã lạnh tựa băng sương nhưng tôi vẫn không thể không cố hết sức giữ bình tĩnh mà nở nụ cười mỉm. “Nói năng, làm việc hà tất phải hao tâm tổn sức như vậy, ý tốt của muội ta tất nhiên hiểu rõ.” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Vương gia là phu ân của muội, là muội phu của ta.”

    “Trưởng tỷ xưa nay vẫn luôn thông minh rất mực, chẳng trách lại được cha thương yêu nhất như thế. Có điều...” Ngọc Ẩn đưa mắt liếc tôi. “Có một số việc nói ra thì rất dễ, nhưng để làm được lại khó khăn vô cùng. Muội muội chỉ lo rằng tỷ tỷ là ý nhân nhiều công nhiều việc, nhất thời lại không thể yết đoán, do đó mới lắm miệng mà nhắc nhở một câu như vậy thôi.” Nói rồi lại khẽ thở dài buồn bã. “Cục diện ba người trong vương phủ là việc đã rồi, muội chẳng thể nào thay đổi, chỉ là đôi lúc ngồi riêng một chỗ với Vương gia, muội luôn cảm thấy có trưởng tỷ ngăn cách ở giữa. Muội cũng chẳng cần giấu trưởng tỷ làm gì, từ khi thành thân tới giờ, Vương gia ả thực chưa từng đụng vào muội, có lẽ cũng chưa từng đụng vào Vưu Tĩnh Nhàn. Muội cũng thế, mà Vưu Tĩnh Nhàn cũng vậy, chỉ là phu thê ngoài mặt với Vương gia thôi. Từ đầu chí cuối, người mà y thật sự coi là thê tử chỉ có mình tỷ.”

    Ngọc Ẩn chậm rãi bước tới, đầy lòng ấm ức. Tôi nhẹ nhàng cất tiếng: “Muội nói đi, muốn ta làm thế nào đây?”

    Sau một hồi thu ba ai oán, muốn nói lại thôi, Ngọc Ẩn đột ngột quỳ xuống bên chân tôi, khóc nức nở, nói: “Muội đâu biết phải làm thế nào chứ, muội xưa nay chỉ đưa ra được những chủ ý hồ đồ mà thôi, mong trưởng tỷ hãy thương lấy muội.” Sau đó lại cất giọng u buồn: “Trưởng tỷ hẳn còn rõ hơn muội, nếu Vương gia cứ nhớ tới trưởng tỷ mãi như thế, có lẽ cả đời sẽ không thể vui vẻ!”

    Tôi chấn động toàn thân, nơi đáy lòng dâng lên một cơn chua xót khó nói bằng lời, tựa như vết thương cũ bị người ta giội lên vô số chậu nước muối, đau đớn tột cùng. “Muội muốn ta chính miệng nói với Vương gia điều gì ư?”

    Ngọc Ẩn bất giác tuôn trào lệ nóng. “Muội đâu dám làm Vương gia thương tâm chứ! Có điều dám hỏi trưởng tỷ một câu, vừa rồi khi muội nói dối là Vưu Tĩnh Nhàn đã có thai, chẳng lẽ trong lòng tỷ không có chút khó chịu nào ư? Muội không có suy nghĩ gì khác, chỉ hy vọng trưởng tỷ đừng á để tâm tới Vương gia như thế nữa, hãy cho muội và Vương gia một con đường để đi, mà cũng chỉ có như thế nhà họ Chân chúng ta mới còn đường sống.”

    Từng câu từng từ lạnh lùng vọng vào trong tai, tôi không kìm được hít một hơi khí lạnh. “Muội đã được gả cho Vương gia rồi, vậy thì cần hiểu rõ ta đã không còn vương vấn gì y nữa, cũng không hề muốn làm ảnh hưởng đến tình cảm phu thê giữa muội và y. Nếu ta thật sự còn buồn thương, lo nghĩ vì chuyện của Vương gia, vậy thì cũng chỉ là vì chúng ta là tỷ muội ruột thịt nên cần đồng tâm hiệp lực giúp đỡ lẫn nhau. Do đó, muội kỳ thực không cần hao tổn tâm tư như thế làm gì.” Tôi cố kìm nén những cơn sục sôi nơi đáy lòng, sợ rằng mình lại để lộ ra chút sơ hở nào khiến Ngọc Ẩn cả nghĩ, thế là đành xoay người lại, giả bộ ngắm nghía xem xét chỗ vải vóc mà phủ Nội vụ vừa đưa tới. Tôi tiện tay lật một sấp vải gấm lên, cảm thấy như đang lật tung những mối tâm tư rối loạn trong lòng, vô số cơn sóng ngầm dữ dội không ngớt trào dâng. Tỷ muội chí thân, hóa ra, chẳng a cũng chỉ vậy! Cố kìm nén cơn giá lạnh tột cùng, khó khăn lắm tôi mới chọn được một sấp gấm thêu hoa màu tím, hờ hững nói: “Hoàng thượng thích ta mặc đồ màu tím, dùng sấp vải này may áo mùa xuân hẳn là tốt nhất rồi. Muội cũng chọn cho mình một sấp vải để may áo mới đi.” Tôi ngoảnh đầu lại, gượng nở nụ cười. “Muội với Vương gia có phải chỉ là phu thê ngoài mặt hay không ta không rõ, ta chỉ biết rằng muội bây giờ đã là trắc phi của y rồi, nhớ đừng bỏ bê phận sự của bản thân. Kỳ thực những thứ ở bên cạnh mới cần nắm chắc trong tay nhất, ngày tháng ở vương phủ còn dài, muội phải nhớ lấy điều này đấy.”

    Ngọc Ẩn chậm rãi đứng dậy, bên khóe miệng thoáng ngậm nét cười, ngay đến sắc mặt cũng trở nên mông lung như sương khói. “Lời dạy của trưởng tỷ hôm nay, Ngọc Ẩn xin ghi nhớ kĩ vào lòng, nhưng cũng mong trưởng tỷ đừng ên những lời van cầu của muội, để muội có được một cuộc sống yên ổn. Đợi lát nữa muội sẽ đi thăm Hủ Tần, có một số lời trưởng tỷ không tiện nói với Vương gia, Hủ Tần hoàn toàn có thể giúp được.”

    Tôi đưa mắt liếc nhìn cuốn tranh trên bàn, cất giọng hờ hững: “Nhìn bộ dạng bày mưu tính kế rất mực chu toàn của muội vừa rồi, xem ra cuộc sống của muội trong phủ Thanh Hà Vương cũng không phải là á tệ.”

    Ngọc Ẩn khẽ mỉm cười một tiếng, thoáng lộ vẻ đắc ý. “Cũng còn may, tạm thời chưa rơi vào thế hạ phong.”

    Lời của Ngọc Ẩn còn chưa dứt thì Hoa Nghi đã đi vào bẩm báo: “Nương nương, Tĩnh phi của phủ Thanh Hà Vương tới rồi, nói là muốn thỉnh an nương nương.”

    Tôi cười, nói: “Đúng là nhắc Tào Tháo, Tào Tháo tới liền, a đó đủ thấy không thể nói xấu sau lưng người khác được.”

    Ngọc Ẩn hơi cau mày lại, bông hoa đính giữa trán vì thế mà trở nên nhăn nhúm như hoa tàn. “Muội không muốn gặp cô ta, ở trong vương phủ nhìn cô ta ấn lấy Vương gia đã đủ lắm rồi, trốn đến chỗ trưởng tỷ chính là mong được thanh tịnh, chẳng ngờ vẫn không được như ý.”

    Tôi cố hết sức giữ bình tĩnh, ra hiệu cho muội ấy tránh vào sau bức bình phong. “Mắt không thấy thì lòng thanh tịnh, để ta kiếm cớ đuổi cô ta đi là được rồi.”

    Ngọc Ẩn khẽ gật đầu, đứng dậy tránh vào gian phòng nhỏ phía sau bức bình phong. Tôi chỉnh lại xiêm y một chút rồi nói với Hoa Nghi: “Ra mời cô ta vào đây đi!”

    Vưu Tĩnh Nhàn hôm nay mặc một bộ đồ màu hồng khá mỏng, áo váy đều là loại rộng rãi, dây áo không hề đính hay nạm châu ngọc, khi đứng im thì lẳng lặng buông lơi, khi đi lại thì lả lướt tung bay tựa như cánh bướm, thực là trang nhã vô cùng. Tôi tươi cười, nói: “Hôm nay sao Tĩnh phi lại có thời gian rảnh mà tới đây ngồi chơi thế?”

    Nàng ta mỉm cười điềm đạm, nhẹ nhàng cất tiếng: “Thiếp thân vừa đi thỉnh an Thái hậu xong. Lần trước vào cung vội á, còn chưa kịp a đây thỉnh an nương nương.”

    Tôi khẽ cười khách sáo. “Tĩnh phi hà tất phải câu nệ mấy thứ lễ nghi đó làm gì, chúng ta đều là người một nhà cả mà.”

    Nàng ta cúi đầu, nói: “Người nhà là một nhẽ, nhưng y củ thì vẫn cần giữ mới được.” Sau đó lại ngoảnh đầu ngó nhìn xung anh. “Nghe nói mấy hôm nay Ngọc Ẩn tỷ tỷ đều nghỉ lại chỗ nương nương, sao lại không thấy đâu vậy?”

    “Thật là không khéo, Ngọc Ẩn vừa mới a chỗ Đức phi, nói là muốn may cho Lung Nguyệt mấy bộ ần áo mới.”

    Nàng ta mỉm cười điềm đạm. “Ngọc Ẩn tỷ tỷ ả đúng là rất thích trẻ con.”

    Hoa Nghi bưng một chén trà ế My tới, tôi cười, nói: “Bản cung cũng không rõ Tĩnh phi thích uống loại trà nào, thứ trà ế My này không phải danh trà gì cả, nhưng điều hiếm có là trong lá trà có hương hoa ế, Tĩnh phi hãy cứ coi như nếm thử một chút cho biết đi.”

    Nàng ta bưng chén trà lên khẽ ngửi, không kìm được tấm tắc khen: “Thơm á, ả đúng là có hương hoa ế thật.” Thế nhưng ngay sau đó lại tiện tay buông xuống, áy náy nói: “Mong nương nương đừng giận, hiện giờ thiếp thân không tiện uống trà, bằng không thực sự rất muốn nếm thử thứ trà ngon này một chút.”

    Tôi vội hỏi: “Thân thể Tĩnh phi không thoải mái hay sao? Đã truyền gọi thái y chưa vậy?”

    Nàng ta đỏ bừng hai má, thẹn thùng ngoảnh mặt a một bên. “Cũng không có gì, thái y nói là thiếp thân đã có thai được một tháng, thai khí còn chưa ổn định, do đó tạm thời không thể uống trà.”

    Lời còn chưa dứt, trong gian phòng nhỏ phía sau bức bình phong đã vang lên một tiếng “xoảng” rất lớn, hình như có thứ gì đó vừa rơi xuống đất. Tôi thầm kinh hãi, thấy Vưu Tĩnh Nhàn đã dõi ánh mắt nghi hoặc về hướng đó rồi.

    Cận Tịch nghe thấy tiếng động ấy liền vội vàng chạy qua, vừa chạy còn vừa cười, mắng: “Con bé Lạc Anh này mới vào cung, không ngờ tay chân lại vụng về đến thế, có lau cái giá áo thôi mà cũng chẳng ra hồn, còn làm kinh động tới nương nương nữa.” Sau khi chạy vào sau bức bình phong, tiếng quát của nàng ta còn loáng thoáng vọng ra ngoài: “Làm đổ giá áo rồi thì mau mau dựng lên, hai vị nương nương còn đang ở bên ngoài đấy, đừng có khóc kẻo lại quấy nhiễu hai vị nương nương.”

    Tôi thầm cảm thấy nghi hoặc, nhưng ngoài miệng vẫn cười nói như thường với Vưu Tĩnh Nhàn: “Úi chao, đúng là một chuyện rất đáng mừng đấy!” Rồi tôi gọi Hoa Nghi lại: “Mau mang canh tổ yến lên đây.” Sau đó lại cười, nói: “Bản cung là người đã từng sinh nở vậy mà lại chẳng phát hiện ra, đúng là đáng trách.”Cận Tịch bình thản bước ra ngoài, khẽ vuốt tóc mai một chút, ân cần đón lấy canh tổ yến, tự tay dâng lên cho Vưu Tĩnh Nhàn, cười trừ, nói: “Tiểu nha đầu đó đúng là không hiểu chuyện, cũng tại nô tỳ không biết cách quản giáo nữa, mong Tĩnh phi thứ tội.”

    Vưu Tĩnh Nhàn mỉm cười, nói: “Đám nha đầu mới đều có chút vụng về như thế cả, may mà trong phủ nhà ta có Ngọc Ẩn tỷ tỷ tháo vát chứ nếu đổi lại là ta thì cũng chẳng thể trông coi người dưới được.”

    Tôi cũng khẽ cười. “Ngọc Ẩn dù tháo vát đến mấy thì cũng không thể so sánh với Tĩnh phi có công giúp Vương gia sinh con đẻ cái. Đợi lát nữa Ngọc Ẩn về rồi ta phải dặn dò muội ấy để tâm chiếu cố Tĩnh phi cho tốt mới được. Thái hậu đã biết tin này chưa? Nếu biết rồi chắc sẽ vui mừng lắm đấy!”

    Vưu Tĩnh Nhàn hơi nghiêng đầu một chút, chậm rãi đứng dậy. “Dạ, vẫn chưa. Thiếp thân hôm nay tới kỳ thực là để thỉnh tội với Ngọc Ẩn tỷ tỷ. Ngọc Ẩn tỷ tỷ là người mà Vương gia yêu thương, lại cùng được gả vào vương phủ với thiếp thân, thiếp thân vốn đã không phải với Ngọc Ẩn tỷ tỷ rồi, thế mà bây giờ lại mang thai trước nữa, chắc hẳn Ngọc Ẩn tỷ tỷ sẽ rất thương tâm, vậy nên hôm nay thiếp thân mới đặc biệt tới đây cáo lỗi.”

    Tôi vội nói: “Tĩnh phi cả nghĩ quá rồi, con của Vương gia với Tĩnh phi cũng là con của Ngọc Ẩn, muội ấy ắt sẽ không nghĩ như vậy đâu.”

    Vưu Tĩnh Nhàn thở phào một hơi, ngồi xuống trở lại, đặt tay trái lên ngực, nói: “Nếu thật sự được vậy thì tốt quá!” Nàng ta chậm rãi nhìn lướt qua khuôn mặt tôi, bỗng dưng khiến tôi cảm thấy lạnh toát từ trong xương tủy. Nàng ta nhìn tôi, khẽ nói: “Kỳ thực, nương nương chính là người đầu tiên biết tin thiếp thân có thai đấy!”

    Tôi khẽ gật đầu. “Bản cung cảm thấy vô cùng vinh hạnh.”

    “Tuy nói lần này thiếp thân đến đây là để cáo lỗi với Ngọc Ẩn tỷ tỷ, nhưng kỳ thực còn có một nỗi nghi hoặc rất lớn mong được nương nương giải đáp.”

    Tôi mỉm cười điềm đạm. “Tĩnh phi giờ đang có thai, tôn quý vô cùng, để cho muội muội có thể yên tâm dưỡng thai, bản cung ắt sẽ biết gì nói nấy, quyết không giấu giếm.”

    Nàng ta chậm rãi bước tới gần tôi, nhẹ nhàng ngồi xuống, chiếc áo màu hồng trên người ngợp đầy sắc xuân ấm áp, hoàn toàn không lạnh lẽo như giọng nói của nàng ta lúc này: “Sau khi được gả vào phủ Thanh Hà Vương, thiếp thân vẫn luôn nghe nói Vương gia vì yêu thương Ngọc Ẩn tỷ tỷ nhiều năm nên mới nạp vào vương phủ, Ngọc Ẩn tỷ tỷ cũng nhờ thế mà thoáng cái đã bay lên cành cao, trở thành trắc phi. Vương gia làm vậy quả có thể nói là tình sâu nghĩa nặng.”

    Tôi hờ hững tiếp lời: “Ngọc Ẩn cũng ôm mối tình sâu nặng với Vương gia, đương nhiên, Tĩnh phi cũng là như thế.”

    “Tình cảm của Ngọc Ẩn tỷ tỷ với Vương gia, thiếp thân tự nhiên thấy rõ. Nhưng... thiếp thân được gả vào vương phủ tới nay đã gần một năm, sau khi để ý quan sát liền có chút nghi hoặc.” Nàng ta hơi nghiêng đầu lộ vẻ trầm tư. “Dường như... Vương gia đối xử với Ngọc Ẩn tỷ tỷ rất tốt, mọi việc trong phủ đều để tỷ ấy quản lý, cũng thường xuyên nghỉ lại ở chỗ tỷ ấy, nhưng... tình cảm của Vương gia với Ngọc Ẩn tỷ tỷ rõ ràng không phải là tình cảm nam nữ, mà có phần giống như là... thương hại... Thiếp thân cũng không rõ nữa, dù sao đó cũng không phải là tình cảm nam nữ.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, ôn tồn nói: “Thai phụ thường hay cả nghĩ, bản cung năm xưa cũng vậy. Có lẽ bây giờ Vương gia dành nhiều tình cảm cho Tĩnh phi hơn nên Tĩnh phi mới thấy như vậy, đây kỳ thực là chuyện đáng mừng.”

    Vưu Tĩnh Nhàn khẽ lắc đầu, bên khóe miệng thoáng hiện một nụ cười gượng chan chứa nỗi thê lương. “Tình cảm mà Vương gia dành cho thiếp thân cũng chỉ là thương hại mà thôi, không có gì khác cả. Do đó chỉ thiếp thân mới biết đứa bé trong bụng này là từ đâu mà có, và thiếp thân cũng chỉ có duy nhất một cơ hội ấy thôi, may mà trời cao thương xót. Có điều khi đó y vốn đã không tình nguyện lắm rồi, sợ rằng bây giờ biết tin cũng sẽ chẳng vui.”

    “Vương gia bây giờ còn chưa có con cái, sao có thể không coi trọng đứa bé trong bụng Tĩnh phi chứ? Huống chi đối với Tĩnh phi mà nói, điều quan trọng nhất là mục đích đã đạt được rồi, đứa bé trong bụng Tĩnh phi xét cho cùng vẫn là máu mủ của Vương gia.”

    Nàng ta cụp mắt xuống, thấp giọng nói: “Đó là bởi thiếp thân không thể không có đứa bé này. Chỉ khi có đứa bé này, thiếp thân mới có thể hy vọng Vương gia sẽ chú ý đến mình. Thiếp thân giờ đã được gả cho Vương gia, tất nhiên không thể trơ mắt nhìn Vương gia chẳng để tâm gì tới mình. Thiếp thân đã dùng đủ mọi biện pháp để lấy lòng Vương gia, lại cùng Vương gia bàn luận về thi từ ca phú, vậy nhưng Vương gia lại luôn hờ hững chẳng chịu nhắc gì tới tư tình nhi nữ. Về sau thiếp thân còn phát hiện, hóa ra Ngọc Ẩn tỷ tỷ cũng đang cố gắng lấy lòng Vương gia như thế. Nếu Vương gia và Ngọc Ẩn tỷ tỷ thật sự tâm đầu ý hợp như lời đồn bên ngoài, tỷ ấy cớ gì mà phải hao tổn tâm tư như vậy? Vì thế thiếp thân bắt đầu nổi lòng nghi ngờ.”

    Tôi cười tủm tỉm, nhìn nàng ta chăm chú. “Tĩnh phi nghi ngờ điều gì vậy? Hãy nói cho bản cung nghe đi nào, bản cung cũng đang tò mò lắm đây.”

    Nàng ta thoáng trầm ngâm rồi bình tĩnh nói: “Thiếp thân bắt đầu nghi ngờ mối hôn sự của Ngọc Ẩn tỷ tỷ là một cái bẫy được bố trí hết sức tinh vi. Có lẽ Ngọc Ẩn tỷ tỷ tự mình muốn bay lên cành cao biến thành phượng hoàng nên đã tìm mọi biện pháp để có thể được gả cho Vương gia, nhưng nếu thật sự là như thế, Vương gia hoàn toàn có thể không để tâm tới tỷ ấy, càng không cần hao tâm tổn sức nâng cao địa vị của tỷ ấy. Do đó, Vương gia làm như vậy có lẽ là muốn mượn Ngọc Ẩn tỷ tỷ để nâng một người khác lên, mà nguyên nhân y tiếp nhận mối hôn sự ấy là vì một bức tranh cắt...” Nàng ta chợt đổi giọng: “Thiếp thân thoạt tiên cho rằng đó là tranh cắt của cửu Vương phi, dù sao khi đó Hoàng thượng cũng xem trọng cửu Vương phi vô cùng, nhưng cửu Vương phi đã có thể được gả cho cửu Vương gia thì tại sao lại không thể gả cho lục Vương gia chứ, hơn nữa bây giờ nàng ta với cửu Vương gia cũng ân ái vô cùng, vậy nên khả năng này có thể loại bỏ. Nghe nói Thục phi còn một người muội muội khác ngày ngày đóng cửa tu hành, chắc hẳn đã chẳng còn để tâm gì tới chốn hồng trần nữa, vậy thì...” Nàng ta lẳng lặng nhìn tôi, nơi đáy mắt bừng lên những tia nghi hoặc. Tôi chợt cười tươi rạng rỡ. “Sao Tĩnh phi không nói tiếp thế? Bản cung đang chờ nghe đây.”

    Nàng ta chăm chú quan sát từng tia thần sắc trên khuôn mặt tôi, muốn tìm ra sơ hở. Còn tôi thì chỉ đáp lại bằng một nụ cười thoáng mang theo vẻ tò mò. Một hồi lâu sau, nàng ta khẽ thở dài một hơi. “Thiếp thân thực không dám nghi ngờ thêm nữa, nếu còn nghi ngờ thì chỉ làm hại tới Vương gia mà thôi.” Tôi không kìm được kêu “a” lên một tiếng, vội vàng đưa tay bụm miệng. “Đã như vậy rồi thì Tĩnh phi muội muội đừng nghĩ ngợi lung tung gì nữa, thực khiến người ta nghe mà kinh sợ.” Rồi tôi bước tới đứng bên cửa sổ, đưa tay ngắt lấy một phiến lá trúc từ ngoài cửa sổ thò vào, nói tiếp: “Tĩnh phi đã được gả vào hoàng tộc, vậy bản cung không ngại kể cho muội muội nghe những kinh nghiệm mà bản thân đúc rút ra được sau nhiều năm sống trong Tử Áo Thành. Đa nghi quá dễ sinh ra ám ảnh, có rất nhiều việc muội càng nghĩ nhiều thì sẽ càng sợ, mà càng sợ thì lại càng dễ bị người ta phát giác rồi xảy ra vấn đề. Chẳng hạn như Quý phi vậy, tỷ ấy là người đứng đầu trong số các phi tần, quyền cao chức trọng, nhưng nếu ngày nào cũng để ý tới mọi việc trong Tử Áo Thành, truy rõ nguồn cơn, vậy thì ắt không thể bình an hưởng phúc đến bây giờ được. Do đó, người nào không nghĩ nhiều thì mới là bậc trí giả.”

    Nàng ta hơi cau mày lại, lộ rõ vẻ sợ hãi. “Chỉ mong là vậy. Nhưng nếu việc này là thật thì ắt sẽ mang tới họa sát thân cho Vương gia, hậu quả thực khó lường.”

    Tôi cúi đầu mân mê chiếc nhẫn ngọc phỉ thúy xanh biếc trên tay, hờ hững nói: “Vô bằng vô cớ, tất nhiên không thể coi là thật rồi. Như bản cung vừa nói đấy, Tĩnh phi muội muội đang mang thai nên cả nghĩ đó thôi.”

    Nàng ta đứng dậy cáo từ: “Được rồi, việc này cứ coi như là thiếp thân cả nghĩ đi. Thiếp thân bây giờ là người bên gối của Vương gia, có rất nhiều việc thiếp thân nhìn ra được nhưng người ngoài thì không thể. Vương gia là phu quân của thiếp thân, bất kể có việc gì thiếp thân cũng sẽ đặt y lên trên nhất, quyết không để y phải lâm vào hiểm cảnh.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Làm phu thê với nhau thì vốn nên như vậy.”

    Nàng ta đưa mắt nhìn tôi chăm chú, dường như còn muốn nhìn ra điều gì đó từ trên khuôn mặt tôi, thế nhưng rốt cuộc chẳng thu được gì, vẻ yếu đuối dần lộ rõ, cuối cùng đành cáo từ rời đi.

    Thấy bóng dáng nàng ta đã biến mất bên ngoài Nhu Nghi điện, bàn tay trái vốn một mực giấu kín trong tay áo của tôi mới từ từ buông lỏng, không ngờ đã tuôn đầy mồ hôi lạnh tự lúc nào. Vưu Tĩnh Nhàn chưa chắc đã không nghe lọt tai lời của tôi, thế nhưng nàng ta đã phát hiện ra sự khác thường rồi, tiếp theo sẽ là ai nữa đây? Bí mật này một khi bị người ta vạch ra một góc nào đó, tất thảy chân tướng đều sẽ khó mà giữ kín được.

    Đang lúc tôi trầm tư thì Ngọc Ẩn bất ngờ bước ra từ phía sau bức bình phong, chăm chú nhìn theo hướng Vưu Tĩnh Nhàn rời đi, một hồi lâu sau chợt cất giọng lạnh lùng: “Trưởng tỷ, người này không thể giữ lại được.”

    Tôi nhìn lại Ngọc Ẩn, lặng lẽ lau đi những giọt mồ hôi tuôn đầy trong lòng bàn tay, ôn tồn nói: “Muội chớ làm bừa, cô ta bây giờ đang mang thai con của Vương gia, hơn nữa trong lòng cô ta chỉ có một mình Vương gia thôi, sẽ không làm ra việc gì gây hại tới Vương gia đâu.”

    Trong mắt Ngọc Ẩn lúc này bừng lên những tia sát khí lạnh lùng khiến người ta không rét mà run. “Vưu Tĩnh Nhàn thông minh quá mức, mà nữ nhân thì lại rất dễ sinh lòng đố kỵ, muội không thể mạo hiểm được.”

    “Là cô ta đố kỵ hay là muội đố kỵ? Mặc kệ đứa bé đó từ đâu mà ra thì nó cũng là con của Vương gia, vậy nên muội không thể động tới Vưu Tĩnh Nhàn được! Hơn nữa muội thử nghĩ mà xem, dù Vương gia có dễ tính đến mấy thì sau khi biết việc này cũng sẽ trở mặt với muội, không lưu lại chút dư địa nào. Muội chẳng dễ gì mới có được vị trí ngày hôm nay, lẽ nào lại chịu vì Vưu Tĩnh Nhàn mà mất tất cả ư?” Tôi nhìn Ngọc Ẩn chăm chú. “Ném chuột thì cũng cần tránh làm vỡ bình mới được.”

    Ngọc Ẩn vừa mở lời liền giống như phun ra vô số hạt băng lạnh lẽo: “Muội tự có cách để không làm vỡ bình.”

    Đó dù sao cũng là con của Thanh! Không! Không! Tôi thầm cảm thấy nôn nóng, chẳng nghĩ ngợi gì nhiều đã nói luôn: “Nếu muội thật sự ra tay với con của y, đừng trách ta không nể tình tỷ muội! Muội chớ nên quên khi xưa muội đã trở thành trắc phi của Thanh Hà Vương như thế nào!”

    Ngọc Ẩn ngẩn ra, lập tức nhìn tôi chăm chú. “Muội đã trở thành trắc phi của Thanh Hà Vương như thế nào?” Tròng mắt Ngọc Ẩn không ngừng co rút, ngay sau đó liền nở nụ cười. “Tất nhiên là nhờ nhân duyên trời ban, cũng là do trưởng tỷ một lòng giúp đỡ rồi.”

    Tôi nhìn bộ đồ xa hoa cao quý trên người Ngọc Ẩn, khẽ thở dài than: “Ngọc Ẩn, là tự muội giúp đỡ muội đó thôi. Bằng không, bức tranh cắt đó cớ gì lại rơi ra ngoài đúng lúc như thế?”

    Đôi bờ mi của Ngọc Ẩn run rẩy liên hồi, muội ấy né tránh ánh mắt sắc bén của tôi. “Trưởng tỷ đang đùa với muội đó ư?”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Ta không đùa với muội, cũng không hề có lòng so đo tính toán. Có điều việc này đến Vưu Tĩnh Nhàn còn sinh lòng nghi ngờ, lẽ nào ta lại chưa từng nghi ngờ gì ư? Ta chỉ nghĩ muội là muội muội của ta, lại một dạ si tình với Vương gia, do đó mới thành tâm chúc phúc cho muội. Nhưng nếu muội thật sự có ý ra tay với cốt nhục của Vương gia, ta ắt sẽ nói việc này cho Vương gia biết. Muội thử nghĩ xem, liệu Vương gia có thể dung thứ cho một người từng đem tình cảm giữa ta và y ra để bày mưu tính kế không? Có thể dung thứ cho một người âm mưu hãm hại cốt nhục của y không?”

    Ngọc Ẩn buột miệng nói: “Trưởng tỷ, tỷ biết rõ mà, muội xưa nay vẫn luôn thương yêu Hàm Nhi và Linh Tê nhất!”

    “Hàm Nhi và Linh Tê đều là cháu của muội, muội thương yêu chúng là lẽ đương nhiên.” Tôi hít sâu một hơi, chậm rãi nói tiếp: “Trong bụng Vưu Tĩnh Nhàn là đứa con danh chính ngôn thuận của Vương gia, mà về danh nghĩa muội cũng là mẹ của đứa bé ấy, lại càng nên thương yêu nó mới phải.” Tôi đưa tay tới nắm chặt lấy bàn tay Ngọc Ẩn, vừa như an ủi vừa như khuyên răn: “Muội là nhị tiểu thư của nhà họ Chân, trắc phi của Thanh Hà Vương, cần phải hiền lương thục đức mới được.”

    Sát ý trong mắt Ngọc Ẩn không ngừng co rút, cuối cùng ngưng tụ thành một điểm nhỏ như đầu mũi kim, từ từ ẩn vào phía sau đôi hàng lông mi dài cong vút, thế vào đó là mấy tia sợ hãi, hoang mang. Hai hàng lệ nóng chầm chậm tuôn rơi, Ngọc Ẩn thổn thức nói: “Trưởng tỷ, tỷ cũng biết là muội vẫn luôn ôm một dạ tình si với Vương gia mà. Khi đó muội cũng hồ đồ, thấy Vương gia đang ốm mà lúc nào cũng nhớ tới trưởng tỷ, sợ cứ tiếp tục thế này thì cuối cùng cũng sẽ xảy ra chuyện, nên mới nảy ra chủ ý đó nhằm lấy mận thay đào. Vương gia dù gì cũng không thể vì trưởng tỷ mà bơ vơ cả đời được, đúng thế không?” Hơi dừng một chút muội ấy lại nói tiếp: “Vừa rồi muội giận quá nên hồ đồ đấy thôi. Muội đã yêu Vương gia như thế, tất nhiên cũng không nỡ lòng hại đứa bé kia rồi.”

    Tôi thở phào một hơi, khẽ xua tay, thành khẩn nói: “Những việc trước đây đều không quan trọng, ta cũng không muốn truy cứu làm gì. Vừa rồi ta nôn nóng quá nên có hơi nặng lời, nhưng suy nghĩ cho Vương gia cũng được, suy nghĩ cho nhà họ Chân cũng được, vì kiêng dè Thái hậu cũng được, muội hãy nhớ kĩ lời ta nói. Thái hậu xem trọng Vưu Tĩnh Nhàn, mà đó lại là đứa bé đầu tiên của phủ Thanh Hà Vương, quyết không thể có điều gì sơ sảy. Muội nhớ chăm sóc Vưu Tĩnh Nhàn cho tốt, cũng cần biết cách tránh mối hiềm nghi nữa.”

    Ngọc Ẩn khẽ gật đầu coi như đồng ý, sau đó lại cười gượng gạo. “Muội thật hồ đồ, không ngờ lại chẳng biết gì cả!”

    Tôi đưa mắt nhìn Ngọc Ẩn, bình tĩnh nói: “Hồi nãy muội đã nói câu này với ta rất nhiều lần rồi.”

    Ngọc Ẩn chăm chú nhìn vô định vào một thứ gì đó ở phía xa, ánh mắt đầy vẻ bàng hoàng, bối rối, lại như có điều suy tư. Dần dần, từ trong cổ họng Ngọc Ẩn vang ra những tiếng nghẹn ngào khe khẽ: “Nói bừa nói bậy mà cuối cùng lại thành sự thật, muội thật hối hận vì đã nói ra những lời vừa rồi.” Rồi muội ấy lại ngơ ngẩn nhìn tôi. “Trưởng tỷ, vừa rồi nếu muội không thăm dò tỷ như thế, chuyện này sẽ không trở thành sự thật đúng không?”

    Thấy Ngọc Ẩn như vậy, tự nơi đáy lòng tôi bất giác nảy sinh mấy tia thương xót. “Bất kể muội vô tình hay hữu ý thì việc cũng đã xảy ra rồi, bây giờ cứ nên đặt hết tâm tư vào tương lai đi thì hơn.”

    Chẳng bao lâu sau, tin tức Vưu Tĩnh Nhàn có thai đã lan truyền ra khắp Tử Áo Thành, trong cung ngoài cung không có ai là không hay biết. Khi tôi tới thỉnh an thấyThái hậu cũng cười tươi vui vẻ. “Quả là chuyện mừng hiếm có, mối hôn sự với Ẩn phi cố nhiên là một đoạn giai thoại, nhưng rốt cuộc vẫn là Tĩnh Nhàn có phúc hơn.” Lúc này cả Ngọc Ẩn, Vưu Tĩnh Nhàn và Huyền Thanh đều đang có mặt, Huyền Thanh thoáng lộ vẻ lúng túng ngoảnh đầu qua nhìn Ngọc Ẩn một chút, khóe mắt thì lại nhìn lướt qua khuôn mặt tôi, khiến tôi cảm thấy như có một cơn gió mát thổi qua vậy.

    Rốt cuộc vẫn là tôi đứng dậy chúc mừng y trước: “Chúc mừng lục Vương gia, chúc mừng Tĩnh phi!” Sau đó lại cười, nói với Thái hậu: “Thái hậu vốn lo nghĩ về bề con cái của lục Vương gia nhiều năm nay, bây giờ rốt cuộc đã có thể yên tâm được rồi.”

    Thái hậu mỉm cười gật đầu, muốn giữ mấy người Huyền Thanh ở lại trong cung dùng bữa, nhưng Tĩnh phi lại nói là thân thể đang mỏi mệt, xin phép được về phủ nghỉ ngơi. Ba người bọn họ sánh vai nhau rời đi, nhưng đi được mười mấy bước thì Ngọc Ẩn dần bị tụt lại phía sau, phải nhìn Huyền Thanh và Vưu Tĩnh Nhàn đi cùng nhau phía trước. Nhìn thấy cảnh này, tôi không kìm được khẽ thở dài một hơi, không nói năng gì.
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 30: Cành quỳnh cây ngọc nối mây xa
    [38] Trích Phá trận tử, Lý Dục. Dịch thơ: Cao Tự Thanh. Nguyên văn Hán Việt: Ngọc thụ quỳnh chi tác yên la - ND.

    Bất kể tôi có lo lắng hay không thì ngày tháng vẫn cứ trôi qua trong lặng lẽ, hoàn toàn không có chuyện bất thường nào xảy ra.

    Việc Vệ thị vào cung giống như một tảng đá lớn được ném xuống mặt hồ bình lặng trong hậu cung. Trong số các tú nữ được chọn vào cung lần này, sự ưu ái Huyền Lăng dành cho nàng ta có thể nói là hết sức rõ ràng, đầu tiên là chưa vào cung đã được phong làm quý nhân chính lục phẩm, phong hiệu cũng là chữ “Quỳnh” có ngụ ý rất đẹp, thậm chí Huyền Lăng còn đích thân dặn dò hãy dọn dẹp Kháp Xuân đường ở cạnh hồ Thái Dịch cẩn thận để làm chỗ ở cho nàng ta. Các tú nữ vào cung lần này địa vị đa phần đều thấp kém, chỉ có nàng ta là nổi bật, một mình chiếm hết phong quang.

    Hoàng hậu tuy đã không còn quản việc trong cung nữa nhưng khi nghe tin này vẫn không kìm được thở dài, than: “Sự ưu ái thế này e rằng chỉ có Thục phi năm xưa mới so sánh được thôi.”

    Hoàng hậu vốn là một người hết sức cẩn thận trong việc nói năng, phen thở than này quả là có phần đột ngột. Hơn nữa, nàng ta so sánh Quỳnh Quý nhân với tôi năm xưa lại càng khiến người ta tò mò, rốt cuộc ngay tới Hồ Uẩn Dung vốn tâm cao khí ngạo cũng biết việc này, bèn nói: “Nói vậy thì xem ra cô ta đúng là đẹp thật rồi, mà ta nghe các cung nhân trong đợt tuyển tú đó kể lại, Vệ thị đẹp như là hồ ly vậy.”

    Đẹp như hồ ly là một vẻ đẹp như thế nào? Mọi người đều chưa từng được thấy, thế là lại càng tò mò hơn. Cuối cùng khi tới thỉnh an tôi, Vận Quý tần đã không kìm được mà thử thăm dò: “Nghe nói vị Quỳnh Quý nhân đó xinh đẹp vô song, nương nương không sợ ư?”

    “Sợ cái gì chứ?” Tôi chậm rãi thổi chén trà trong tay cho nguội bớt, ngước mắt nhìn nàng ta. “Quý tần có gì thì cứ nói thẳng ra đi!”

    Vận Quý tần cười hì hì, mân mê viên ngọc đính trên chiếc hộ giáp. “Quỳnh Quý nhân chưa vào cung mà đã có thanh thế ghê gớm như vậy rồi, chẳng hề thua kém nương nương năm xưa, lẽ nào nương nương không sợ sau khi vào cung, cô ta sẽ mê hoặc Hoàng thượng, đoạt mất sự sủng ái mà Hoàng thượng dành cho nương nương sao?”

    Tôi đưa mắt liếc nàng ta, cười nhạt, nói: “Sao Vận Quý tần lại cho rằng Hoàng thượng là một người dễ bị người ta mê hoặc như thế nhỉ?”

    Nàng ta vội nói: “Không dám.” Nhưng bên khóe môi lại lộ ra một nụ cười lạnh lùng. “Ta chỉ lo cho nương nương thôi mà. Nương nương bây giờ đã là mẹ của ba đứa con rồi... Tất nhiên, trông nương nương chỉ như người vừa mới đôi mươi, thật sự không thể nhìn ra chỉ mấy năm nữa là sẽ tròn ba chục.”

    Sao tôi không nghe ra được cái ý giễu cợt trong lời của nàng ta, lập tức nháy mắt ra hiệu cho Hoa Nghi tạm thời đừng phát tác vội, cười tủm tỉm, nói: “Đa tạ Vận Quý tần. Nói ra thì Quý tần vào cung đã lâu, tuy địa vị không so được với bản cung nhưng xét về tuổi tác thì bản cung kỳ thực vẫn phải gọi một tiếng tỷ tỷ. Nhưng nếu không nói rõ ra, ai mà biết Quý tần còn lớn tuổi hơn ta chứ! Có lẽ nữ tử nào chưa từng sinh nở sẽ lâu già hơn một chút, bản cung thực là ngưỡng mộ tỷ tỷ lắm thay.” Rồi tôi bèn gọi Hoa Nghi lại: “Khóe mắt tỷ tỷ đã có nếp nhăn rồi kìa, vừa hay Thái y viện mới đưa tới đây mấy hộp Châu dung dưỡng nhan cao, ta đang chuẩn bị mang đi tặng cho các vị thái phi, bây giờ để cho tỷ tỷ dùng thử luôn cũng tốt.”

    Hoa Nghi tươi cười bưng thuốc tới, nói: “Quý tần nương nương đúng là có phúc, nghe nói các vị thái phi trong cung đều dùng thứ này, nương nương mà dùng rồi nhất định sẽ có thể trẻ ra mười tuổi, thoạt nhìn chỉ giống như người mới ngoài bốn mươi thôi.”

    Vận Quý tần cười lạnh, nói: “Nương nương khách sáo quá rồi, bụng dạ ta không được rộng rãi như nương nương, ngay đến sự sủng ái của Hoàng thượng cũng chẳng để vào lòng.” Dứt lời bèn hậm hực chạy thẳng ra ngoài, thậm chí còn không phát hiện ra Xuân Tần đang đứng chờ tới lượt thỉnh an ngoài cửa.

    Xuân Tần vốn mau mồm mau miệng, chưa đầy nửa ngày, tin tức Vận Quý tần vô lễ, mạo phạm tôi đã lan khắp hậu cung. Cuối cùng ngay cả Huyền Lăng cũng biết tin này, sau khi dùng bữa tối xong liền đặc biệt tới thăm tôi, dịu dàng an ủi: “Vận Quý tần không hiểu chuyện, nàng đừng tính toán với nàng ta làm gì.”

    Tôi vừa dỗ lũ trẻ ngủ xong, đang gỡ các món đồ trang sức trên người xuống, nghe vậy liền không kìm được bật cười. “Có phải chuyện gì ghê gớm đâu, Hoàng thượng đừng lo.”

    Huyền Lăng hồ nghi nói: “Bên ngoài đang đồn ầm lên rằng Vận Quý tần đã tới chỗ nàng la lối, quậy phá om sòm một phen, nhưng nàng vẫn không tức giận. Rốt cuộc nàng ta đã nói những gì với nàng vậy?”

    “Bên ngoài đang đồn ầm lên mà Hoàng thượng lại không biết là nàng ta đã tới đây quậy phá như thế nào ư?” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Kỳ thực cũng không có gì ghê gớm cả, không đáng để tức giận.”

    Huyền Lăng cầm một lọn tóc của tôi lên mà dịu dàng vuốt ve. “Thật chẳng rõ tại sao nàng ta lại nhộn lên như thế nữa, thôi bỏ đi, chẳng qua là nàng ta không hiểu lễ nghi đấy thôi!”

    Cả buổi đêm dài cứ thế lặng lẽ trôi qua, sáng sớm hôm sau, Cận Tịch vừa chải chuốt, trang điểm cho tôi vừa trầm ngâm nói: “Vận Quý tần vốn không phải là người dễ bị kích động như thế, hôm qua hình như là cố tình làm bộ làm tịch. Hơn nữa đây chỉ là một chuyện nhỏ, tại sao lại lan truyền nhanh như vậy chứ?”

    Tôi đưa tay chỉnh lại búi tóc được búi theo kiểu Trường lạc kế, hững hờ cất tiếng: “Chuyện đó là như thế nào tạm thời chưa cần truy cứu vội, hiện giờ, điều cần để tâm nhất là các cung tần mới sẽ vào cung trong ngày hôm nay.”

    Trước buổi trưa, các cung tần được chọn lần này đều đã có mặt trong cung điện của mình. Vì sự xem trọng của Huyền Lăng, cũng vì sự tò mò và kiêng dè của mọi người, quà tặng của các phi tần như một dòng nước lũ không ngừng đổ tới Kháp Xuân đường của Quỳnh Quý nhân. Thế nhưng Quỳnh Quý nhân lại nói là thân thể không được khỏe, mọi việc đều giao cho thị tỳ ứng phó, đến một tiếng cảm ơn cũng chưa nói ra lần nào. Thế là mọi người trong cung lại càng bàn luận xôn xao, nói Quý nhân mới vào này thực là kiêu căng quá.

    Hoa Nghi bước đến, khẽ nói với tôi: “Vị Quỳnh Quý nhân đó đúng là chẳng được lòng người, vừa mới vào cung mà đã gây ra nhiều chuyện thị phi như vậy, lại còn kiêu ngạo nữa, các vị nương nương đều không ưa cô ta chút nào.”

    Tôi vừa lần tràng hạt trong tay vừa chậm rãi nói: “Không ưa thì sao chứ, chỉ cần là người được Hoàng thượng sủng hạnh, có mấy ai mà bọn họ ưa đây? Kỳ thực cô ta cứ không qua lại với ai ngay từ đầu thế này cũng tốt, đỡ phải mất công giả vờ giả vịt thân mật với người ta. Huống chi chỉ cần được Hoàng thượng thích, tạm thời không có ai dám động đến cô ta đâu.”

    Thế nhưng tối đến, khi tôi đang tẩy trang, Tiểu Doãn Tử lại đi vào bẩm báo: “Hân Phi nương nương mới sai người đưa tặng mấy sấp vải qua cho Quỳnh Quý nhân, ai ngờ Quỳnh Quý nhân lại không biết cảm kích, còn nói là hoa văn trên mấy sấp vải ấy quá tầm thường, làm Hân Phi tức phát điên lên.”

    Hoa Nghi “hừ” lạnh, nói: “Còn chưa được ân sủng mà đã ngang ngược như thế rồi, đắc tội với toàn thể lục cung thì có gì là tốt chứ? Cô ta cứ chỗ này không vừa lòng, chỗ kia không hợp ý, chẳng biết đồ mà nương nương đưa tặng sẽ bị nói thế nào đây?”

    Tôi chậm rãi chải đầu, đồng thời hờ hững nói: “Bản cung chẳng qua chỉ ban thưởng chút đồ theo quy củ, ai ai cũng như nhau. Vả lại dù sao thì đồ cũng đã tặng cho cô ta rồi, cô ta muốn nói gì thì cứ mặc kệ cô ta, chớ nên tức giận làm gì cho uổng sức.”

    Thế nhưng lời còn chưa dứt thì đã có một cung nữ bước nhanh vào, cung kính bẩm: “Quỳnh Quý nhân ở Kháp Xuân đường tới bái kiến nương nương, nương nương có gặp không ạ?”

    Tôi cảm thấy khá bất ngờ, cung tần mới vào cung còn chưa gặp Hoàng hậu mà đã đi bái kiến phi tần trước, điều này vốn không hợp với quy củ, hơn nữa bây giờ đang là nửa đêm, nàng ta lại là nhân vật nơi đầu sóng ngọn gió được bao người để ý, tốt nhất vẫn nên cẩn thận thì hơn. Tôi hơi trầm ngâm một chút rồi nói: “Nói với cô ta là bản cung đã lên giường nghỉ ngơi rồi, ba ngày sau tự nhiên sẽ có thể gặp mặt thôi, không cần phải nôn nóng nhất thời.”

    Cung nữ đó vâng lời rời đi. Sang ngày hôm sau, Huyền Lăng tới dùng bữa với tôi, giữa bữa ăn y buông đũa xuống, hỏi: “Quỳnh Quý nhân có hài lòng với nơi ở mới không thế?”

    Tôi mím môi cười, nói: “Những thứ khác nàng ta đều không thích, duy có Kháp Xuân đường Hoàng thượng chọn cho là không có dị nghị gì.”

    Huyền Lăng cười khì một tiếng. “Trẫm chẳng qua chỉ nói miệng một tiếng là ban Kháp Xuân đường cho nàng ta, còn về đồ đạc với mọi sự bố trí ở đó đều do nàng phụ trách, chẳng ngờ cuối cùng người được cảm kích lại là trẫm.” Dứt lời lại hỏi tôi: “Nghe nói tính khí Quỳnh Quý nhân không được tốt lắm thì phải?” Tôi đang định kể cho y hay nỗi căm phẫn của mọi người trong hậu cung thì y đã mỉm cười, nói tiếp: “Phàm là mỹ nhân thường đều như vậy cả. Quỳnh Quý nhân hãy còn trẻ tuổi, có hơi huênh hoang một chút cũng là lẽ thường, không sao hết. Nàng hãy dạy dỗ nàng ta cho cẩn thận, nhân tiện nhớ khuyên nhủ mọi người trong cung một chút, đừng vì trẫm thích nàng ta mà gây chuyện lung tung.”

    Tôi thầm ngạc nhiên về sự thiên vị của y, song cũng chỉ đành khẽ mỉm cười. “Xét về nhan sắc thì Quỳnh Quý nhân quả thực rất xinh đẹp, nhưng Hoàng thượng không phải chưa từng thấy mỹ nhân, cớ gì lại thích Quỳnh Quý nhân như thế?”

    Tôi chỉ buột miệng hỏi vậy mà không ngờ y lại lộ vẻ trầm tư. “Xét về dịu dàng, nàng ta không so được với nàng, xét về lạnh lùng, nàng ta không so được với Lan Y, xét về xinh đẹp, nàng ta cũng không thể so với Thế Lan ngày trước. Có điều, trong vẻ đẹp của nàng ta có mấy phần kiêu ngạo, lại có đôi nét u sầu, từ đó hình thành nên một thứ khí chất vô cùng đặc biệt.”

    Tôi gắp một miếng thịt ngỗng lên bỏ vào trong đĩa của y, cười, nói: “Mỹ nhân dù đẹp đến mấy cũng chẳng thể thay cơm, Hoàng thượng vẫn nên ăn nhiều một chút. Mà Hoàng thượng đã thích Quỳnh Quý nhân như vậy, chắc hẳn lần này người thị tẩm đầu tiên sẽ là nàng ta rồi.”

    Y khẽ gật đầu, chậm rãi thu lại nụ cười. “Hoàn Hoàn, trẫm khen nàng ta như vậy mà nàng không ghen chút nào ư?”

    Tôi thầm ngạc nhiên, tôi thật sự không ghen chút nào ư? Hóa ra tôi đã trở nên rộng lượng như vậy rồi, hoặc có lẽ tôi đã không còn yêu nữa, có điều, như thế thì y lại không vui. Thế là tôi liền cố ý cau mày lại, buông đũa xuống, khẽ nói: “Dù thần thiếp có ghen thì Hoàng thượng cũng vẫn thích nàng ta, thần thiếp và nàng ta kiểu gì cũng có ngày phải cùng hầu hạ Hoàng thượng, hà tất phải thù ghét nhau làm gì. Nhưng nghe Hoàng thượng nói thế thì hóa ra thần thiếp bây giờ không được rộng lượng, ghen thì lại mắc tội đố kỵ, thực là khó xử lắm thay.”

    Y thấy tôi lộ vẻ buồn bã không vui thì vội vàng nắm chặt lấy bàn tay tôi, dịu dàng nói: “Trẫm cũng biết là nàng bây giờ không vui. Thật ra trẫm rất mâu thuẫn, vừa mong nàng không để ý lại vừa sợ rằng nàng vì không yêu trẫm nên mới không để ý.”

    Đôi hàng lông mày như bị sương mù bao phủ, tôi thấp giọng nói: “Hoàn Hoàn tin rằng trong lòng tứ lang sẽ mãi mãi có Hoàn Hoàn, không người nào có thể thay thế được.”

    Y đưa tay khẽ vuốt ve bờ má tôi, cười vang vui vẻ, nói: “Tất nhiên là vậy rồi.”

    Nào ngờ đêm hôm ấy, Quỳnh Quý nhân lại tới bái kiến tôi sớm hơn một canh giờ, tôi đang định cự tuyệt thì Tiểu Doãn Tử khẽ khuyên: “Quỳnh Quý nhân chẳng để ai vào mắt, chỉ tôn kính một mình nương nương, tâm tư như thế vốn đã hiếm có rồi, huống chi cô ta lại là người được Hoàng thượng yêu thích, nương nương hà tất phải né tránh như vậy? Có lẽ cô ta có việc quan trọng gì đó cũng chưa biết chừng.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi lắc đầu, nói: “Hoàng hậu tuy đã mất hết quyền thế nhưng dù sao cũng vẫn là Hoàng hậu, bây giờ bản cung mà gặp Quỳnh Quý nhân ắt sẽ bị người ta nói ra nói vào, cứ nên không gặp thì hơn.”

    Tiểu Doãn Tử hơi cau mày lại. “Nương nương cũng biết đấy, Hoàng thượng rất xem trọng cô ta, lỡ như ngày sau Hoàng thượng vì việc này mà tức giận thì thực là không hay chút nào...”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi chậm rãi đứng dậy. “Gặp!”

    Ngày thứ ba sau khi các cung tần mới vào cung, theo lệ tất thảy các phi tần cả cũ lẫn mới trong cung đều phải tới Chiêu Dương điện tụ họp. Lần này, số cung tần mới không nhiều, đứng chung một chỗ cũng chỉ có một hàng mà thôi, tất thảy đồng loạt quỳ xuống hành đại lễ với Hoàng hậu theo quy củ. Tiễn Thu đứng kế bên đã được dặn dò, bèn bước lên phía trước, nói: “Hoàng hậu nương nương có chỉ, miễn lễ bình thân.” Sau khi đứng lên, mấy cung tần mới lại lần lượt đi bái kiến các phi tần có địa vị cao rồi mới ngồi vào chỗ của mình. Bọn họ mới vào cung còn bỡ ngỡ nên khó tránh khỏi có chút rụt rè, không ai nói năng gì cả, Chiêu Dương điện nhất thời chìm trong tĩnh lặng.

    Hoàng hậu ngồi ngay ngắn trên ghế Cửu phượng triều dương ở chính giữa, mặt mày hòa nhã ra lệnh thưởng cho các cung tần mới ở phía dưới những món quà đã được chuẩn bị sẵn, kế đó nở nụ cười tươi. “Các vị muội muội đều là người thông minh, sau này nhớ phải dốc hết sức mình hầu hạ Hoàng thượng, nối dài dòng dõi cho hoàng tộc. Ngoài ra, các vị muội muội cũng cần đồng sức đồng lòng, chung sống hòa thuận bên nhau.”

    Lời còn chưa dứt thì Vinh Tần đã gõ hộ giáp xuống bàn nghe “cộp” một tiếng, Hoàng hậu không kìm được đưa mắt liếc qua, ý nhắc nàng ta phải chú ý hành vi của mình. Vinh Tần vội đứng dậy cười, nói: “Dạ bẩm Hoàng hậu nương nương, không phải thần thiếp cố ý thất lễ đâu, nhưng lần này vốn có sáu vị muội muội được chọn vào cung, tại sao bây giờ lại chỉ có năm? Vừa rồi thần thiếp để ý lắng nghe, hình như Quỳnh Quý nhân không có ở đây.”

    Nỗi nghi hoặc của Vinh Tần vừa hay cũng là nỗi nghi hoặc của mọi người ở đây, nhất thời những tiếng rì rầm trò chuyện vang lên không ngớt. Hồ Uẩn Dung khẽ “hừ” một tiếng, đôi hàng lông mày hình núi xa hơi nhướng lên, lạnh lùng nói: “Từ lâu đã nghe nói Quỳnh Quý nhân kiêu căng, ngạo mạn, chẳng lẽ hôm nay cô ta định không tới để ra oai phủ đầu với chúng ta?”

    Hoàng hậu khẽ mỉm cười. “Cái gì mà ra oai phủ đầu chứ, Uẩn Dung, muội nặng lời quá rồi đấy. Thục phi đã báo với bản cung rồi, Quỳnh Quý nhân đêm qua từng kể rằng bản thân bị nhiễm phong hàn, do đó hôm nay có thể sẽ đến muộn một chút.”

    Tôi khom người, nói: “Chính thế, sáng sớm hôm nay, gã tiểu thái giám hầu hạ Quỳnh Quý nhân lại tới bẩm báo việc này lần nữa.”

    Vinh Tần khẽ cười hờ hững. “Chắc tại thần thiếp không phải tú nữ cho nên không biết là còn có quy củ như vậy, thì ra bị nhiễm phong hàn thì có thể không tới thỉnh an. Không biết bệnh phong hàn ấy phải nặng tới mức nào đây? Mà chưa biết chừng Quỳnh Quý nhân không tới là do mặt mũi của các phi tần chúng ta không đủ nặng ấy chứ.”

    Lời của Vinh Tần tuy rằng cay nghiệt nhưng Quỳnh Quý nhân mới vào cung đã không được lòng người, do đó không ai nói giúp, Hân Phi vốn mau mồm mau miệng còn tiếp lời: “Cô ta thích tới thì tới, thích không tới thì không tới, bản cung biết là mình chẳng đáng kể gì, nhưng lẽ nào đến Hoàng hậu và Thục phi mà cô ta cũng không để vào trong mắt? Dù cô ta được Hoàng thượng sủng ái thì cũng không tới mức không có quy củ như vậy chứ nhỉ?”

    Hồ Uẩn Dung lấy từ vạt áo trước ngực ra chiếc gương nhỏ có cán làm bằng ngà voi chạm rỗng, vừa soi gương vừa cười tủm tỉm, nói: “Thôi bỏ đi, ai mà chẳng biết cô ta là một mỹ nhân hiếm có, tâm cao khí ngạo, lại được Hoàng hậu đích thân lựa chọn nữa, thân phận tất nhiên là không tầm thường chút nào. Nhưng ai ngờ được ngay đến Hoàng hậu mà cô ta cũng chẳng thèm nể mặt, vào lúc thế này lại thoái thác không tới.”

    Vinh Tần cười vang khanh khách. “Ai nói vậy chứ? Ta thấy Quỳnh Quý nhân rất biết làm người đấy, có điều còn phải xem là nể mặt ai nữa cơ. Ta từng nhìn thấy Quỳnh Quý nhân ở bên ngoài Vị Ương cung trong hai đêm liền, ai dám nói người ta tâm cao khí ngạo nào, chẳng qua là người ta không để chúng ta vào mắt đấy thôi.”

    Vinh Tần nói xong liền ném về phía tôi một nụ cười khiêu khích. Các phi tần trong cung đều có mặt ở đây, tôi đương nhiên không thể cho phép nàng ta cố tình gây chia rẽ, lập tức hơi nhếch khóe môi, đứng lên đáp lại: “Quỳnh Quý nhân đúng là từng tới Nhu Nghi điện trong hai đêm liền, một lần thì thần thiếp đã ngủ nên không gặp, còn hôm qua Quỳnh Quý nhân đặc biệt tới để xin phép với thần thiếp, nói là thân thể không khỏe cho nên hôm nay có thể sẽ tới hơi muộn.”

    Hoàng hậu liếc nhìn tôi bằng ánh mắt sắc lẹm như dao, nhưng ngay sau đó đã khôi phục lại vẻ ôn tồn, hiền dịu. “Thục phi muội muội nắm quyền hiệp trợ quản lý lục cung, Quỳnh Quý nhân đến Nhu Nghi điện xin phép cũng là lẽ thường tình. Có điều, dù là đến muộn thì bây giờ thời gian cũng tương đối rồi thì phải.” Dứt lời, nàng ta bèn ngoảnh đầu qua lệnh cho Tú Hạ: “Đến Kháp Xuân đường mời Quỳnh Quý nhân tới đây.”

    Vinh Tần còn chưa thấy đủ, bèn nói thêm một câu: “Hãy nói với Quỳnh Quý nhân là nếu còn không tới thì đến giờ dùng bữa trưa rồi đấy.”

    Hồ Uẩn Dung cười hì hì quay qua hỏi Hân Phi: “Nghe nói Quỳnh Quý nhân từng đắc tội với tỷ tỷ đúng không?”

    Hân Phi hơi nhướng mày lên, thản nhiên nói: “Chẳng qua là không vừa mắt quà tặng của ta mà thôi, cũng không có gì ghê gớm cả. Huống chi cô ta mới vào cung mấy ngày mà đã đắc tội với không biết bao nhiêu người rồi, ta cũng chẳng muốn tính toán với cô ta làm gì.”

    Hồ Uẩn Dung chợt lộ vẻ nghiêm túc, nói: “Tỷ tỷ không tính toán là vì tỷ tỷ rộng lượng, nhưng quy củ thì không thể thiếu được.” Sau đó liền cười tủm tỉm, nhìn Hoàng hậu. “Quỳnh Quý nhân là người mà Hoàng hậu tiến cử, không thể để người khác bàn tán sau lưng là nương nương rộng lượng quá độ được, như thế thì danh dự của nương nương hỏng mất.” Tròng mắt đảo qua đảo lại một chút, Hồ Uẩn Dung nói tiếp: “Quỳnh Quý nhân đã không được khỏe, vậy thì việc thị tẩm trong tháng đầu tiên hãy miễn đi thôi, vậy có được chăng?”

    Các phi tần đều thấy lời này hợp với ý mình, không kìm được lộ ra mấy tia mừng rỡ, có điều không ai dám nói gì, chỉ lén đưa mắt liếc nhìn thần sắc Hoàng hậu.

    Hoàng hậu thì vẫn giữ nguyên vẻ ung dung, đưa tay cầm chén trà lên, khẽ nhấp một ngụm, nói: “Muội muội đã có ý này thì cứ dạy cho cô ta một bài học cũng không sao.” Sau đó lại ôn tồn nói: “Đợi lát nữa bản cung sẽ nói việc này với Quỳnh Quý nhân, còn về năm vị muội muội còn lại thì lục đầu bài đều đã được làm xong, bắt đầu từ đêm nay là có tư cách thị tẩm rồi.”

    Năm người đó dù sao cũng còn trẻ, thẹn tới nỗi mặt mũi đỏ bừng, đồng thanh nói: “Chúng thần thiếp đa tạ Hoàng hậu nương nương quan tâm!”

    Thế nhưng Quỳnh Quý nhân mãi vẫn chẳng tới. Nàng ta cũng không bao giờ xuất hiện trở lại trong Tử Áo Thành.

    Khi quay trở lại bẩm báo, Tú Hạ đã sợ đến nỗi mặt mày tái mét. “Dạ bẩm Hoàng hậu nương nương, trong Kháp Xuân đường không hề có bóng dáng của Quỳnh Quý nhân. Nô tỳ đã tới kiểm tra phòng ngủ của nàng ta, thấy giường đệm chỉnh tề, rõ ràng đêm qua không có người nào ngủ ở đó.”

    Hoàng hậu nghe xong liền ngẩn ra, nôn nóng hỏi: “Vậy Quỳnh Quý nhân đã đi đâu rồi?”

    Tú Hạ kinh hãi quỳ sụp xuống. “Kỳ thực kể từ đêm qua, sau khi Quỳnh Quý nhân trở lại Kháp Xuân đường thì không có người nào nhìn thấy nàng ta ra ngoài nữa cả. Nhưng, nàng ta cứ như vậy mà biến mất chẳng còn tăm tích.”

    Các phi tần kinh hãi đưa mắt nhìn nhau, Hoàng hậu thì bừng bừng nổi giận, đưa tay vỗ mạnh một cái xuống bàn. “Nói bậy! Sống phải thấy người, chết phải thấy xác, hậu cung Đại Chu sao có thể xuất hiện tình trạng nói không thấy là không thấy như thế được! Hoàng thượng từng nói với bản cung là muốn Quỳnh Quý nhân thị tẩm đêm nay, bản cung có thể bẩm lại là Quỳnh Quý nhân vì thân thể không khỏe nên không tiện thị tẩm, nhưng làm sao có thể nói với Hoàng thượng là Quỳnh Quý nhân mà ngài yêu quý chỉ trong một đêm đã sống không thấy người, chết không thấy xác được!” Hoàng hậu rất ít khi tức giận, mà Anh Tần vốn nhát gan, nghe thế bèn sợ hãi nép vào bên cạnh Trinh Phi. Từ ngày đặt chân vào Tử Áo Thành tới nay, tôi chưa từng thấy chuyện lạ như vậy bao giờ, nhất thời cũng không nghĩ nhiều, chỉ để mặc Hoàng hậu hạ lệnh cho Vũ lâm quân lục soát toàn bộ Tử Áo Thành.

    Thế nhưng rốt cuộc vẫn chẳng có thu hoạch gì, đúng như lời Hoàng hậu đã nói, “sống không thấy người, chết chẳng thấy xác”. Dường như chỉ sau một đêm, Quỳnh Quý nhân - người được Huyền Lăng cực kỳ yêu mến - đã hoàn toàn biến mất khỏi nhân gian.

    Kể từ khi Quỳnh Quý nhân được chọn tới giờ, Huyền Lăng vẫn luôn rất mực vấn vương, vậy mà còn chưa có được thì đã mất đi rồi. Tôi hoàn toàn có thể tưởng tượng được Huyền Lăng sẽ giận dữ tới mức nào.

    “Kỳ thực cũng không thể tính là chết không thấy người.” Khương Mỹ nhân vốn một mực rụt rè không nói năng gì nhẹ nhàng cất tiếng, vừa nói lại vừa sợ hãi đưa mắt nhìn tôi. “Đêm qua có lẽ Thục phi nương nương là người gặp Quỳnh Quý nhân sau cùng.”

    “Bản cung?” Tôi không khỏi có chút ngạc nhiên, thế nhưng tỉ mỉ ngẫm lại, nếu Quỳnh Quý nhân thật sự biến mất sau khi gặp tôi, vậy thì tôi đúng là người gặp nàng ta sau cùng.

    “Chuyện này đúng là lạ thật, Quỳnh Quý nhân chỉ chịu gặp một mình Thục phi nương nương, mà Thục phi cũng đối xử với Quỳnh Quý nhân không tệ chút nào. Thục phi làm thế chẳng lẽ chỉ là vì Hoàng thượng thương yêu Quỳnh Quý nhân? Chắc không phải vậy đâu, Thục phi đối xử với Khương Mỹ nhân cũng bình thường thôi mà.”

    Khương Mỹ nhân đưa tay vuốt nhẹ dải tua bạc buông lơi bên chỗ tóc mai, cúi đầu, khẽ nói: “Được Thục phi nương nương thương yêu là cái phúc phải tu mấy kiếp mới có, thần thiếp tự thấy mình còn thua kém Quỳnh Quý nhân rất nhiều.”

    “Còn chẳng phải thế sao? Mấy hôm trước Thục phi còn từng vì Quỳnh Quý nhân mà trách cứ thần thiếp một phen đấy!” Vận Quý tần cười lạnh không ngớt. “Thần thiếp khi đó ấm ức vô cùng, nhủ thầm không biết Quỳnh Quý nhân có lai lịch thế nào mà Thục phi lại bao che cho cô ta như vậy.”

    Vận Quý tần hiển nhiên chỉ ăn nói lung tung, trong cuộc tranh cãi ở cung của tôi hôm đó, Quỳnh Quý nhân chỉ là cái cớ, đâu phải căn nguyên thực sự. Thế nhưng việc này vốn cũng rắc rối, khó có thể phân bua cho rõ ràng được.

    “Không biết có phải là thật hay không, nhưng thần thiếp mới nghe được một chuyện này mới mẻ vô cùng.” Vinh Tần vừa mân mê hộ giáp vừa hững hờ cất tiếng. “Quỳnh Quý nhân họ Vệ, mà thái y tâm phúc của Thục phi nương nương hình như cũng họ Vệ thì phải?”

    Đức phi đưa mắt liếc nàng ta, ôn tồn hỏi: “Thế nào? Chẳng lẽ không thể có hai người cùng mang họ Vệ ư?”

    Đức phi vốn tính ôn hòa, không tranh đua với ai, thế nhưng rất có uy tín, lời của nàng ta mọi người trong cung đều phải nể nang mấy phần.

    Chợt nghe Đức phi cất tiếng hỏi vậy, Vinh Tần cũng không dám cố làm ra vẻ huyền bí thêm, lập tức nói: “Tất nhiên là có thể rồi.” Sau đó lại phất nhẹ khăn tay một cái, chậm rãi nói tiếp: “Thái y tâm phúc Vệ Lâm của Thục phi nương nương kỳ thực là họ hàng xa của Quỳnh Quý nhân Vệ thị, xét về bối phận thì Quỳnh Quý nhân còn phải gọi Vệ thái y một tiếng “cậu họ” đấy. Chỉ vì mối quan hệ này thôi, Thục phi đã không thể bạc đãi Quỳnh Quý nhân rồi.”

    Đức phi đưa mắt nhìn tôi, dò hỏi. Tôi khẽ lắc đầu, hai mắt nhìn chằm chằm vào Vinh Tần, cười tủm tỉm, nói: “Tin tức của Vinh Tần đúng là nhanh nhạy, đến bản cung còn chưa biết gì về mối quan hệ này cơ đấy. Chắc vì Vinh Tần muội muội và Quỳnh Quý nhân gần gũi với nhau nên nàng ta mới chịu nói cho muội muội hay việc này.”
    Vinh Tần cười lạnh một tiếng, ngước mắt lên nhìn tôi. “Dù có gần gũi đến mấy thì cũng chẳng thể so được với việc Quỳnh Quý nhân đến thăm Thục phi lúc nửa đêm.

    “Được rồi!” Hoàng hậu trầm giọng cất tiếng vẻ hết sức uy nghiêm. “Việc này vô cùng nghiêm trọng, lại có nhiều mối liên quan, bản cung không thể không bẩm lên Hoàng thượng. Các ngươi hãy về cả đi, nhớ không được lén lút bàn luận lung tung để tránh cho những tin đồn tam sao thất bản lan truyền ra ngoài.”

    Mọi người đồng loạt đứng dậy đáp “vâng” một tiếng, kế đó lặng lẽ cáo từ rời đi.

    Đêm ấy hẳn nhiên sẽ là một đêm không ngủ.

    Hồi trưa, tôi từng gọi Vệ Lâm đến hỏi về việc này, Vệ Lâm nghe xong không kìm được hơi biến sắc mặt. “Vi thần với Quỳnh Quý nhân quả thực có quan hệ họ hàng, có điều chỉ là họ hàng xa, hơn nữa đã nhiều năm không qua lại rồi, nói nương nương vì vi thần mà đối tốt với Quỳnh Quý nhân thì thực là nhảm nhí quá!”

    Tôi khẽ gật đầu một cái, chậm rãi đứng dậy. “Nếu thực sự là vậy thì tốt. Có điều hôm nay có kẻ cố tình nhắc tới đại nhân, hơn nữa ngay cả mối quan hệ thân thích này cũng điều tra ra hết sức rõ ràng, chỉ e chuyện mà bọn họ đang mưu tính không đơn giản như chúng ta tưởng tượng đâu. Trước đây Ôn Thực Sơ là cánh tay đắc lực của bản cung, bây giờ thì tới lượt Vệ đại nhân, nhưng ngồi vào vị trí này thực khó tránh khỏi bị người ta bày mưu hãm hại.”

    Vệ Lâm bình thản nói: “Nếu sợ bị người ta bày mưu hãm hại thì vi thần sớm đã về quê làm một thầy lang cho nhàn hạ rồi, đâu còn ở lại chốn cung đình này làm gì nữa!”

    Tôi khẽ trở mình, mái tóc cọ vào chiếc gối ngọc dưới đầu làm phát ra những tiếng sột soạt nhè nhẹ. Nửa đêm, có làn gió nhẹ thổi tới mang theo hương hoa ngọt ngào đầu hạ, tựa như cơn sóng nhẹ vỗ lên người tôi, rất nhanh đã lan ra tứ phía, ngấm dần vào màn đêm tịch mịch trong điện. Tôi không thể ngủ được, bèn chăm chú lắng nghe những âm thanh nhốn nháo ở phía xa. Hình như Vũ lâm quân đã đưa các cung nhân ở Kháp Xuân đường đi thẩm vấn. Hình như các cung nhân bị thẩm vấn đang gào khóc ầm ĩ. Những âm thanh ấy thực hỗn tạp biết bao, giữa màn đêm tịch mịch này, càng nghe tôi lại càng thấy chúng chất chứa những nỗi thê lương, tuyệt vọng.

    Cận Tịch nghe thấy tiếng tôi trở mình trằn trọc thì dịu dàng nói: “Nương nương nên nghỉ ngơi cho sớm, chuyện ngày mai thì cứ để ngày mai tính.” Nàng ta kéo góc chăn cho tôi, hơi dừng một chút rồi lại nói tiếp: “Hoàng thượng hôm nay tuy nổi trận lôi đình nhưng lúc này vẫn nghỉ lại ở chỗ Khương Mỹ nhân, e là chẳng có tâm trạng đâu mà để ý tới việc của Quỳnh Quý nhân, nương nương đâu cần nhọc lòng lo lắng làm gì.”

    Dưới ánh trăng dìu dịu phủ khắp đất trời, tôi khẽ “ừm” một tiếng, chậm rãi nhắm mắt lại, trái tim thì dần trở nên lạnh lẽo như thể bị ngâm vào một chậu nước băng. Tôi lờ mờ cảm thấy hình như mình đang rơi vào một chiếc lưới được đan bện cẩn thận vô cùng, hệt như mạng nhện vậy, cứ thế bao bọc quanh tôi, dính chặt lấy tôi khiến tôi không cách nào thoát ra được.

    Đêm ấy tôi tất nhiên không thể ngủ ngon, trời vừa tờ mờ sáng đã trở mình xuống giường. Sau khi rửa ráy qua loa, tôi chọn lấy một chiếc áo dài thêu hoa màu trắng khoác lên người, lại tới ngồi trước gương để Hoa Nghi trang điểm cho.

    Vì tôi phải tránh mối hiềm nghi nên Huyền Lăng đã giao việc của Quỳnh Quý nhân cho Hoàng hậu và Đoan Quý phi xử trí, tôi cũng nhờ thế mà được thanh nhàn, sau khi cho ba đứa nhỏ ăn cơm xong thì chơi đùa cùng bọn chúng suốt cả buổi sáng.

    Đến chừng giờ Thìn ba khắc, tôi định đi thỉnh an Thái hậu theo lệ thường, bèn gọi Cận Tịch vào, kêu nàng ta giúp tôi thay xiêm y nhưng lại chẳng thấy bóng dáng nàng ta đâu.

    Bên ngoài ô cửa sổ trổ hoa có những bóng người lấp ló, hình như Lý Trường đang ghé đến bên tai Cận Tịch mà rủ rỉ nói khẽ điều gì, còn Cận Tịch thì chỉ cau mày, lặng im. Lòng tôi bất giác hơi trầm xuống, lại gọi to lần nữa: “Cận Tịch...”

    Cận Tịch mang theo nụ cười đi vào, nhưng tôi để ý nhìn kĩ thì thấy trên đôi hàng lông mày của nàng ta còn có những nét âu lo chưa tan hết. Tôi ôn tồn hỏi: “Có phải Lý Trường tới rồi không?”

    “Dạ!” Trong khi Cận Tịch còn đang do dự thì Lý Trường đã khom người đi vào, thấp giọng nói: “Hoàng thượng mời nương nương tới Chiêu Dương điện một chuyến.”

    Tôi mỉm cười nhìn y chăm chú. “Hoàng thượng chẳng qua chỉ kêu ta tới Chiêu Dương điện thỉnh an mà thôi, cớ gì mà lại khó mở miệng như vậy? Cận Tịch, mau giúp ta thay xiêm y nào!”

    Lý Trường ngẩn ra, vội vàng quỳ xuống, nói: “Nô tài không dám giấu nương nương, theo tin tức mà người được phái đi điều tra chuyện của Quỳnh Quý nhân báo về thì vị biểu ca vốn ở trong nhà của Quỳnh Quý nhân cũng đã biến mất, mà theo như lời đồn thì Quỳnh Quý nhân và biểu ca của nàng ta kỳ thực sớm đã có tư tình...” Giọng của Lý Trường nhỏ dần đi: “Hoàng thượng... mời nương nương tới Chiêu Dương điện một chuyến.”

    Lòng tôi trầm hẳn xuống, nhưng rốt cuộc vẫn giữ được bình tĩnh mà thay xiêm y rồi đi tới Chiêu Dương điện. Đang dịp tháng Năm đầu hạ, cây cối bên ngoài đều biêng biếc xanh tươi, chim chóc vui hót tưng bừng làm lòng người say đắm. Vậy nhưng lúc này, tôi lại chỉ cảm thấy vĩnh hạng thật dài biết mấy, hai bức tường đỏ hai bên tựa như kéo dài vô tận. Dõi mắt nhìn về nơi chân trời xa tắp, loáng thoáng có thể nhìn thấy một góc của Phượng Nghi cung, dưới bầu trời xanh ngắt không một gợn mây lúc này, nơi ấy lại ngợp đầy vẻ âm trầm, quỷ dị.

    Người trong Chiêu Dương điện lúc này không nhiều, Huyền Lăng và Đoan Quý phi đều trầm ngâm im lặng, Hoàng hậu ngồi dưới cửa sổ chép Thái Thượng cảm ứng thiên, Vận Quý tần và Khương Mỹ nhân mỗi người ôm tâm sự riêng, còn Vinh Tần thì mỉm cười tươi tắn. Bầu không khí vốn đã rất gượng gạo, sau khi tôi tới lại càng vi diệu thêm mấy phần.

    Tôi vừa bước vào trong điện thì Vinh Tần đã đi tới, ân cần kéo tay tôi, cười tươi, nói: “Thục phi nương nương tới muộn rồi, hãy còn chưa chúc mừng Khương muội muội đấy. Sáng nay Hoàng thượng đã phong Khương muội muội làm quý nhân rồi.”

    Tôi mỉm cười, gật đầu với Khương thị. “Chúc mừng muội muội.” Dứt lời bèn rút một chiếc bộ dao đính trân châu xuống, định cài lên búi tóc được bới theo kiểu Đào tâm kế của nàng ta. “Ta tới vội quá nên không kịp chuẩn bị quà gì cho muội muội, chút tâm ý này mong muội muội nhận cho.”

    Khương thị hơi nghiêng đầu né tránh, lại đưa mắt liếc qua phía Huyền Lăng một chút, cười gượng gạo, nói: “Đa tạ Thục phi nương nương nhưng thần thiếp thực không dám nhận ý tốt của nương nương.” Hơi dừng một chút, dường như nàng ta đang nghĩ xem có nên nói ra những lời tiếp theo hay không, rồi cuối cùng vẫn cất tiếng: “Thần thiếp sợ lỡ nhận ý tốt của nương nương rồi, đêm nay cũng sẽ bị đưa ra khỏi cung.”

    Bàn tay của tôi như cứng đờ giữa không trung, mấy dải tua trên chiếc bộ dao va vào nhau phát ra những tiếng tinh tang không ngớt, tựa như vô số lưỡi dao đâm vào lòng tôi. Tôi ngoảnh đầu qua, thấy Huyền Lăng lúc này vẫn lặng im không nói, bèn khẽ gọi: “Hoàng thượng...”

    Sắc mặt y lúc này sáng tối bất định, chẳng hề giống như bầu trời xanh biếc không một gợn mây bên ngoài. Trái tim dần sinh ra những tia giá lạnh, tôi nói khẽ: “Không phải thần thiếp.”

    “Không phải Thục phi, vậy còn có thể là ai?” Hoàng hậu buông cây bút trong tay xuống, cất giọng lanh lảnh. “Vũ lâm quân đã điều tra ra rồi, đêm đó sau khi Quỳnh Quý nhân rời khỏi Nhu Nghi điện, từ trong cung của Thục phi liền có một chiếc thùng gỗ lớn dùng để đựng nước được đưa ra ngoài, mà loại thùng đó hoàn toàn đủ để chứa một người bên trong.”

    Tôi đưa mắt nhìn Hoàng hậu. “Việc vận chuyển nước trong cung vốn đều là vào nửa đêm, ngày nào cũng như vậy, có gì là lạ đâu.”

    “Xe vận chuyển nước xuất cung ngày nào cũng có người kiểm tra, tất nhiên không có gì lạ, nhưng đêm đó trong tay gã thái giám Tiểu Hồi Tử phụ trách việc áp tải nước lại có thẻ bài của Vị Ương cung, thế là liền được miễn kiểm tra. Trong chốn hậu cung này, Thục phi quả là có quyền thế nghiêng trời, đến một gã thái giám nhỏ bé mà cũng được ban cho quyền hạn như vậy, thực là không ai sánh bằng.” Hoàng hậu nói xong bèn lấy từ trong tay áo ra một tấm thẻ bài mạ vàng to bằng cỡ lòng bàn tay, bên trên có ba chữ “Vị Ương Cung” ngay ngắn được viết bằng lối chữ Lệ, xung quanh khắc hoa văn tinh xảo, quả thực là thẻ bài chấp sự của Vị Ương cung.

    Hoàng hậu vứt tấm thẻ bài ấy tới trước mặt tôi. Hội Xuân bưng một chậu nước đã được chuẩn bị sẵn tới, cung kính nói: “Mời nương nương rửa tay!”

    Hoàng hậu thở dài than: “Chuyện ghen tuông, đấu đá trong cung xưa nay vẫn thường xảy ra, nhưng chỉ cần không quá đáng thì bản cung đều mắt nhắm mắt mở cho qua, ai ngờ Thục phi ngươi lại thiếu dạ dung người tới mức này. Người mà Hoàng thượng thích vừa mới vào cung, thế mà ngươi đã dám lén đưa ra khỏi cung rồi. Ngươi cho rằng Hoàng thượng và bản cung đều không tồn tại hay sao mà lại dám một tay che trời trong chốn hậu cung này như thế?”

    Hoàng hậu làm ra vẻ vô cùng đau đớn. Tiễn Thu vội vàng bước tới bôi một ít dầu bạc hà lên đầu ngón tay rồi day trán cho nàng ta, miệng thì nói: “Thục phi nương nương vào cung không phải mới ngày một ngày hai, sao vẫn còn suy nghĩ nông cạn như thế chứ? Quỳnh Quý nhân dù đắc sủng tới mấy thì rốt cuộc vẫn không thể so sánh với nương nương, nương nương thực không nên thiếu dạ dung người như vậy.”

    “E rằng không phải chỉ là thiếu dạ dung người thôi đâu, có khi là Thục phi nương nương bỗng nổi thiện tâm muốn làm người tốt đấy.” Vinh Tần bật cười khúc khích rồi lại cúi đầu mân mê móng tay, cất giọng uể oải. “Cậu họ của Quỳnh Quý nhân là Vệ Lâm, thái y tâm phúc của Thục phi nương nương, mà Quỳnh Quý nhân thì lại có người trong lòng từ sớm, Vệ Lâm thân là cậu họ chắc cũng đã biết việc này, thế là Quỳnh Quý nhân mới tới bái kiến Thục phi nương nương vào lúc nửa đêm. Thục phi nương nương vừa muốn lấy lòng Vệ thái y lại vừa muốn trừ bỏ một mối họa ngầm trong việc tranh sủng sau này, trong khi đó việc cho người vào thùng nước rồi đưa ra ngoài thì hết sức đơn giản, tội gì mà không làm đây?”

    Câu chuyện ấy nghe có vẻ vô cùng xa xôi, chẳng hề chân thực, nhưng dường như tất thảy lại đều là sự thật, hơn nữa mỗi một lời đều nhắm vào tôi. Đúng thế, chính là tôi, bởi vì sợ Quỳnh Quý nhân tranh sủng, cũng muốn thành toàn cho một đoạn tình duyên của nàng ta, thế là liền để nàng ta xuất cung. Thật giống một câu chuyện cười biết mấy, thế nhưng nó lại được người ta bịa ra như thật ngay trước mặt tôi, khiến tôi nhất thời khó lòng biện bạch.

    Vinh Tần chậm rãi đứng dậy, đi tới bên cạnh Huyền Lăng, nở nụ cười tươi. “Tính ra thì Thục phi nương nương năm nay cũng đã hai mươi bảy tuổi rồi... Không phải là tuổi xuân đôi bảy trẻ trung mà là hai mươi bảy, chẳng bao lâu nữa sẽ tròn ba mươi. Nếu thần thiếp là nương nương, dù dung nhan chưa già thì trong lòng cũng sẽ sợ tuổi già vô hạn. Chốn hậu cung có nhiều mỹ nhân như thế, mà bản thân lại không ngừng già đi, phải làm sao đây? Huống chi lần này thanh thế của Quỳnh Quý nhân còn chẳng kém gì nương nương năm xưa nữa.”

    Tôi lạnh lùng nhìn nàng ta. “Đó là Vinh Tần ngươi sợ mà thôi, chớ có suy bụng ta ra bụng người. Vinh Tần ngươi còn chưa thông minh đến mức có thể nhìn thấu được trái tim của người khác đâu, bằng không...” Tôi liếc qua phía Hoàng hậu. “Ngươi đã chẳng bị người ta đùa bỡn trong lòng bàn tay như thế rồi.”

    Vinh Tần thản nhiên cười, nói: “Thần thiếp có bị ai đó đùa bỡn trong lòng bàn tay hay không thì cứ xét sau. Thần thiếp tất nhiên cũng rất sợ tuổi già, nhưng còn sợ bị người ta đưa ra ngoài cung lúc nửa đêm hơn nhiều.”

    “Hoàng thượng.” Tôi bước tới, quỳ xuống trước mặt Huyền Lăng, ngước mắt lên nhìn khuôn mặt từ đầu tới giờ vẫn luôn trầm lặng của y. “Đúng sai phải trái thế nào, thần thiếp bây giờ không cách nào biện bạch, nhưng xin Hoàng thượng hãy cho triệu gã Tiểu Hồi Tử phụ trách việc áp tải nước đêm đó tới đây hỏi han rõ ràng một phen, thần thiếp nguyện lòng đối chất trực tiếp với hắn.”

    Y lặng lẽ gật đầu, lệnh cho Hội Xuân: “Đưa Tiểu Hồi Tử tới đây, trẫm không muốn đổ oan cho Thục phi.”

    Hội Xuân lập tức rời đi, rất nhanh sau đó đã dẫn theo một gã tiểu thái giám đi vào từ ngoài điện. Tiểu thái giám này tuổi chỉ chừng trên dưới hai chục, mặt mày trắng trẻo, nhìn có vẻ rất thật thà. Số thái giám hầu hạ trong Vị Ương cung phải lên tới mấy chục người, tôi không có nhiều ấn tượng về gã Tiểu Hồi Tử này cho lắm, chỉ thấy hơi quen mắt mà thôi.

    Tôi cười lạnh một tiếng, hờ hững nói: “Hoàng hậu không cho rằng việc này quan trọng, thần thiếp nên phái Tiểu Doãn Tử hoặc là Tiểu Liên Tử đi làm ư? Chứ phái một gã thái giám bình thường thế này đi thì thực là chẳng ổn thỏa chút nào.”

    Hoàng hậu hơi hé mắt, chẳng buồn để tâm tới tôi, chỉ dặn dò Tiễn Thu: “Bóp thêm chút nữa đi, đầu ta tự dưng lại đau quá!”

    Tiễn Thu đáp “vâng” một tiếng, động tác lại càng nhẹ nhàng hơn. Vận Quý tần cất tiếng cười lạnh, khóe miệng hơi nhếch lên, hai mắt nhìn tôi chằm chằm. “Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử đều là tâm phúc của nương nương, địa vị không hề tầm thường, phái bọn họ đi há lại chẳng bắt mắt quá ư?” Nàng ta dùng mũi bàn chân đá nhẹ vào người Tiểu Hồi Tử. “Gã tiểu thái giám này vừa không nổi bật lại vừa có thẻ bài của Vị Ương cung, thực là thích hợp nhất rồi.”

    Huyền Lăng khẽ hít một hơi, thoáng lộ ra mấy tia thương xót. “Hãy nói lại những lời mà ngươi mới nói hồi nãy cho Thục phi nghe đi.”

    Tiểu Hồi Tử ngẩng đầu nhìn tôi, không kìm được hơi rùng mình một cái, lộ vẻ sợ hãi dập đầu thật mạnh. “Đêm đó Quỳnh Quý nhân tới bái phỏng, Thục phi nương nương vốn định không gặp như đêm hôm trước, nhưng về sau không biết vì sao lại gặp. Hai người nói chuyện được một lát rồi Thục phi nương nương sai người đưa Quý nhân về, mà người đó chính là nô tài. Sau khi trở về, nô tài đã định đi ngủ rồi, ai ngờ nương nương lại gọi nô tài vào nội điện, nói là có một cơ hội rèn rũa, hỏi nô tài xem có chịu đi không. Nô tài nghĩ bụng thường ngày có việc gì nương nương đều chỉ giao cho Doãn Tổng quản và Liên công công, hiếm khi nào nghĩ tới mình thế này, thế là lập tức đồng ý. Nương nương bèn dặn nô tài là hãy tới bên ngoài Kháp Xuân đường giả làm mèo mà kêu lên hai tiếng, kêu xong rồi Quỳnh Quý nhân sẽ tự khắc ra ngoài.”

    Vận Quý tần cười lạnh một tiếng, cất giọng ẽo ợt: “Quả nhiên là thế mà. Với tính tình của Quỳnh Quý nhân, nếu không phải cô ta tự mình ra ngoài, ai mà trói cô ta đưa đi được chứ!”

    Huyền Lăng đưa mắt lườm một cái, Vận Quý tần vội vàng cúi đầu. Tiểu Hồi Tử lại nói tiếp: “Sau đó nô tài thấy Quỳnh Quý nhân mặc đồ của cung nữ đi ra ngoài. Nô tài liền dựa theo lời dặn dò của nương nương, dẫn Quỳnh Quý nhân lúc này đã đóng giả làm cung nữ đến chỗ xe chở nước dừng bên ngoài Vị Ương cung, để Quý nhân trốn vào trong thùng rỗng rồi đưa ra ngoài cung. Những việc khác nô tài đều không biết gì nữa.” Hắn làm bộ cố hết sức suy nghĩ. “Đúng rồi, đêm đó khi Quỳnh Quý nhân tới bái phỏng thì nô tài đang hầu hạ bên ngoài, loáng thoáng nghe được mấy câu, cái gì mà bên đó tự có người tiếp ứng, muội muội được tự tại rồi, bản cung cũng sẽ được tự tại.”

    Vinh Tần hơi nhếch khóe môi, nở một nụ cười khinh miệt. “Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, cái gì mà tự tại với không tự tại chứ, rốt cuộc vẫn không thể nào thoát khỏi cặp mắt thánh minh của Hoàng thượng.”

    Huyền Lăng nhìn tôi chăm chú, nơi đáy mắt ngợp đầy một mảng đen sâu thăm thẳm. “Nàng hãy tự nói với trẫm đi, đang lúc nửa đêm như thế, nàng ta tới tìm nàng làm gì?”

    Tôi không hề thu ánh mắt về, thản nhiên nhìn lại y. “Quả thực chỉ là để xin phép với thần thiếp thôi, nàng ta nói thân thể không khỏe, trong cuộc tụ họp ngày hôm sau có thể sẽ tới muộn một chút.”

    “Nhưng nếu nàng ta thật sự không khỏe thì hoàn toàn có thể sai người đến báo, không cần phải tự đi tìm nàng.”

    Tôi khẽ lắc đầu, nói: “Chuyện này khi đó thần thiếp không hề nghĩ kĩ, nhưng mọi người ở Nhu Nghi điện đều có thể làm chứng cho thần thiếp. Thần thiếp không hề nói ra những lời như vậy.”

    “Mọi người ở Nhu Nghi điện...” Vinh Tần lạnh lùng nói: “Bọn họ có ai mà không phải là tâm phúc của nương nương, chẳng lẽ lại chịu khai ra chân tướng? Cũng chỉ có mình gã Tiểu Hồi Tử này là dám nói thật thôi.”

    Tôi đưa mắt nhìn Tiểu Hồi Tử, bình tĩnh nói: “Tiểu Hồi Tử, bọn họ rốt cuộc đã cho ngươi chỗ tốt nào mà ngươi lại vu cáo bản cung như thế? Nếu ngươi là người thông minh thì nên hiểu rõ, bọn họ hôm nay có thể lợi dụng ngươi, ngày mai cũng có thể giết ngươi để diệt khẩu.”

    “Thục phi muốn ám chỉ bản cung ư?” Hoàng hậu ưỡn thẳng lưng lên, hơi ngả đầu về phía sau một chút, dõi mắt nhìn tôi chăm chú. “Bản cung quả thực cũng có lỗi, đó là không điều tra cẩn thận khi chọn giai lệ cho Hoàng thượng, không biết rằng trong lòng cô ta đã có người khác.” Sau đó nàng ta lại liếc nhìn Huyền Lăng. “Thần thiếp đúng là có trách nhiệm trong việc này, mong Hoàng thượng trách phạt.”

    Huyền Lăng không ngừng gõ ngón tay xuống bàn làm vang lên những tiếng “cộp cộp” nặng nề. “Bỏ đi, những việc đó Hoàng hậu có muốn điều tra cũng chẳng dễ dàng gì.”

    Hoàng hậu dịu dàng tạ ơn, sau đó mới lại đưa mắt nhìn tôi. “Nhưng Quỳnh Quý nhân đã là người do bản cung tiến cử vào cung, bản cung có lý gì mà lại đưa cô ta ra ngoài lúc nửa đêm đây? Việc này chỉ có những ai không vừa mắt cô ta mới làm ra được thôi.”

    Tôi cụp mắt xuống, nói: “Thần thiếp không hề ám chỉ gì Hoàng hậu, nhưng có việc này thần thiếp không sao hiểu được, nếu Quỳnh Quý nhân thật sự đã có người trong lòng rồi thì hoàn toàn có thể rời đi trước lúc vào cung, chẳng việc gì phải vào cung rồi hao tâm tổn sức tìm cách xuất cung như vậy.”

    Vinh Tần đảo mắt liên hồi, chợt kêu “a” lên một tiếng, nói: “Theo như thần thiếp nghĩ, khi ở nhà cô ta không dám bỏ đi là vì sợ làm liên lụy đến người nhà, thêm nữa ở trong cung lại có người có quyền có thế giúp đỡ cô ta, do đó cứ vào cung trước thì sẽ ổn thỏa hơn.”

    “Bản cung còn chưa ngốc đến mức như Vinh Tần nói.” Tôi đưa mắt lườm nàng ta một cái. “Quỳnh Quý nhân sau khi vào cung thì rất ngang tàng, chỉ tôn kính một mình bản cung, trước lúc rời cung, cô ta cũng gặp bản cung cuối cùng, chẳng lẽ bản cung lại không sợ khi Hoàng thượng điều tra thì mình sẽ là người đầu tiên bị nghi ngờ ư?”

    “Việc này...” Vinh Tần nhất thời cứng họng. “Có lẽ việc xảy ra gấp rút quá, Thục phi còn chưa kịp suy nghĩ chu toàn.”

    “Hoàng thượng.” Đoan Quý phi vốn một mực không nói năng gì bất ngờ đứng dậy. “Việc này mỗi người giữ một ý kiến riêng, cứ bàn thêm cũng chẳng ích gì, thần thiếp cho rằng nên đợi tìm được Vệ thị và biểu ca của cô ta về rồi đưa ra kết luận thì hơn.”

    Huyền Lăng hết sức tán đồng, đang định cất tiếng thì lại thấy Tiểu Hạ Tử cứ thập thò ngoài cửa, bèn quát hỏi: “Có chuyện gì mà cứ lén lén lút lút như thế?”

    Tiểu Hạ Tử hoảng hốt chạy thẳng vào trong, quỳ xuống bẩm báo: “Dạ bẩm Hoàng thượng, vừa mới có tin tức báo về, các thị vệ phát hiện ra trên ngọn núi ở cách kinh thành bảy mươi dặm có thi thể của một đôi nam nữ, trên người cả hai đều có rất nhiều vết đao chém, tiền bạc thì bị cướp sạch, hình như là do sơn tặc làm ra.”

    Vận Quý tần vỗ tay cười, nói: “Bây giờ thì hay rồi, chết không đối chứng.”

    Vinh Tần hơi nheo mắt lại, thoáng nở nụ cười, nhìn qua phía tôi. “Rốt cuộc là do sơn tặc cướp bóc hay là do có kẻ giết người diệt khẩu đây, thực khó có ai biết được.”

    Tôi chẳng buồn nhìn nàng ta. “Vinh Tần đúng là tâm tư nhanh nhạy, đây cũng chính là lời mà bản cung muốn hỏi đấy.”

    Nàng ta cười, nói: “Hai người đó bây giờ đã biến thành một đôi uyên ương xấu số rồi, có nói thế nào cũng là do nương nương cả thôi.”

    Tới nước này rồi tôi gần như đã rơi vào cảnh không còn con đường nào để đi nữa, thế nhưng tâm trạng thì lại dần bình tĩnh trở lại, nhẹ nhàng cất tiếng: “Thần thiếp không có lời nào để biện bạch, nhưng việc này quả thực không phải là do thần thiếp làm.”

    Huyền Lăng chắp tay sau lưng đứng trước cửa sổ, để mặc cho những ánh dương tháng Năm rực rỡ chiếu lên người. “Hoàn Hoàn, kỳ thực nàng cũng biết ghen, đúng vậy không?”

    Tôi bất giác nhớ đến cuộc đối đáp với y hôm đó, biết rõ là y đã nổi lòng nghi ngờ, bèn ôn tồn nói: “Hoàn Hoàn chỉ là người phàm, lại rất để tâm tới Hoàng thượng, tất nhiên cũng biết ghen rồi. Nhưng Hoàng thượng cũng từng nói địa vị của Hoàn Hoàn trong lòng Hoàng thượng là không thể thay thế được, do đó Hoàn Hoàn chưa từng sợ hãi bao giờ.” Tôi nói bằng giọng rất thản nhiên, chẳng hề để tâm tới việc mí mắt Hoàng hậu lúc này đang giật liên hồi. “Do đó lúc này Hoàn Hoàn chỉ để tâm tới việc Hoàng thượng có tin Hoàn Hoàn hay không, kỳ dư đều không quan trọng.”

    “Thục phi.” Y xoay người lại, đưa tay khẽ vuốt ve mái tóc tôi. “Quỳnh Quý nhân thực ra chẳng đáng kể gì, nếu trẫm mà biết trong lòng nàng ta đã có người khác thì ắt chẳng để nàng ta ở lại trong cung. Giống như năm xưa vậy, bởi vì có nàng nên dù Như Kim có giống nàng đến mấy thì bây giờ cũng đã đi rồi. Trẫm chỉ để tâm nữ nhân của trẫm có lén giở trò sau lưng trẫm hay không, có lợi dụng sự sủng ái của trẫm để làm mưa làm gió ở chốn hậu cung hay không thôi.”

    “Hoàng thượng, người mà Hoàng thượng nói tới kia không phải là thần thiếp.”

    “Hoàn Hoàn, trẫm cũng mong là như vậy.” Y khẽ mỉm cười, trong giọng nói bỗng lộ ra mấy tia buồn thương trống trải. “Lòng trẫm đang rất phiền muộn, nàng bây giờ nhất định cũng phiền muộn vô cùng. Gần đây trong cung có quá nhiều việc vụn vặt, nàng chắc hẳn đã mệt rồi, có việc gì thì hãy để Quý phi và Đức phi xử lý đi, Uẩn Dung và Trinh Phi cũng có thể giúp đỡ được một phần.”

    Trái tim bất giác co lại, tôi đưa mắt nhìn y chăm chú. “Hoàng thượng nói như vậy tức là không tin thần thiếp đúng không?”

    Vinh Tần nôn nóng nói: “Hoàng thượng, việc này chứng cứ xác thực, rõ ràng là Thục phi...”

    “Được rồi!” Huyền Lăng khẽ xua tay một cái, cất tiếng cắt ngang lời nàng ta. “Xích Thược, nàng phải biết là tại sao trẫm lại đối tốt với nàng như thế, đừng phụ lòng trẫm!”

    Vinh Tần ngẩn ra trong khoảnh khắc, cuối cùng đành hậm hực cúi đầu, không nói gì thêm.

    Huyền Lăng đưa tay nắm lấy bàn tay Quý phi. “Thục phi cần phải chăm sóc lũ nhỏ, sau này mọi việc đành phiền nàng vậy.”

    Quý phi nhún người hành lễ: “Hoàng thượng khách sáo quá rồi. Thần thiếp ắt sẽ dốc hết sức mình, có điều sợ là có chút lực bất tòng tâm.”

    Hoàng hậu lặng im một lát, khi ngẩng lên bên khóe miệng đã lại để lộ một nụ cười hiền hòa. “Hoàng thượng có việc gì xin cứ dặn dò, bọn thần thiếp nhất định sẽ hết lòng hết sức.”
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 31: Một bức rèm châu hờ hững rủ [39]
    39] Trích Lãng đào sa - Vãng sự chỉ kham ai, Lý Dục. Dịch thơ: Nam Long. Nguyên văn Hán Việt: Nhất nhiệm châu liêm nhàn bất quyển - ND.Chuyện về Quỳnh Quý nhân cứ thế trôi qua, dần dần không còn ai coi đó là chủ để đáng nhắc đến trong những cuộc chuyện trò. Bởi lẽ gần đây, Khương thị và Lý thị có thể nói là kẻ tám lạng người nửa cân, gần như giành hết toàn bộ sự sủng ái của Huyền Lăng. Nếu nhất định phải đặt lên bàn cân so sánh thì Khương thị dịu dàng, quyến rũ dường như đắc sủng hơn so với Lý thị sảng khoái, cởi mở một chút.

    Sau chuyện của Quỳnh Quý nhân, Huyền Lăng chẳng mấy khi tới Nhu Nghi điện nữa, Nhu Nghi điện tất nhiên cũng dần trở nên vắng vẻ, hiu quạnh, hiếm có người nào tới bái phỏng. Ngoài ra Vệ Lâm cũng bị điều đi hầu hạ một số phi tần có địa vị thấp kém trong vĩnh hạng, đối với một người vốn tâm cao hơn trời như y mà nói thì sự hụt hẫng mà phen biến cố này mang lại quả thực to lớn vô cùng, khiến y hết sức khó chịu.

    Thế nhưng dù y có khó chịu đến mấy thì thời gian vẫn cứ lặng lẽ trôi, mới thoắt đó đã lại tới tháng Bảy rồi.

    Tháng Bảy chính là mùa hoa phượng hoàng nở, trong điện lúc này tĩnh lặng vô cùng, từng làn gió chiều man mác thổi qua gốc hoa phượng hoàng ngoài cửa sổ, vô số bông hoa không ngừng rơi xuống làm phát ra những tiếng lộp bộp nhẹ nhàng.

    Sự trống trải sau khi thất sủng chính là như vậy.

    Ngay đến Lung Nguyệt khi theo Đức phi tới thăm tôi cũng nói: “Chỗ Thục mẫu phi thực hiếm có khi nào yên tĩnh thế này, đến tiếng hoa rơi cũng có thể nghe rõ.”

    Đức phi sợ tôi thương tâm, vội bịt miệng Lung Nguyệt lại nhưng suy nghĩ một chút rồi lại buông tay ra, thở dài than: “Năm xưa khi sinh con, cảnh ngộ của mẫu phi con còn đáng thương hơn thế này nhiều.”

    Nghe nhắc tới việc thương tâm năm xưa, tôi chỉ khẽ cười một tiếng, vẫn ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh mặt trời lặn bên ngoài. Thời gian lúc này thật dài biết bao nhiêu, như thể bị những tiếng ve sầu ra rả kéo dãn ra vô tận.

    Giữa những ngày dài tịch mịch, Trinh Phi khi tới thăm tôi không kìm được để lộ ra mấy tia cảm khái. “Không ngờ ngay đến tỷ tỷ mà cũng có lúc rơi vào cảnh ngộ thế này.”

    Nghe thấy thế, tôi vẫn vô cùng bình thản, dịu dàng vỗ về Dư Hàm đang ngủ say trong lòng mình, lại cúi đầu khẽ hôn lên trán thằng bé một cái, mỉm cười, nói: “So với phen thất sủng năm xưa, lần này kỳ thực đã tốt hơn rất nhiều rồi, ít nhất thì cũng đủ ăn đủ mặc, lại không bị cấm túc đến nỗi mất tự do, cũng không mất quyền nuôi dưỡng mấy đứa bé. Còn về sự ân sủng, ơn vua vốn như dòng nước chảy về đông, sớm muộn gì cũng sẽ có ngày như vậy, đâu cần lo nghĩ làm gì.” Ngoài cửa sổ, ánh dương rạng rỡ phủ khắp trời, trong phòng vương vất những làn khói mỏng thơm mùi Tô hợp hương không ngớt tỏa ra từ trong lò hương. Trinh Phi cúi đầu, ngồi trước mặt tôi, vừa thêu bức hình “Uyên ương vờn nước” vừa nhẹ nhàng cất tiếng: “Muội vào cung muộn, có lúc nhìn thấy tỷ tỷ đắc sủng như vậy thì không kìm được thầm nghĩ, liệu tỷ tỷ có khi nào thất sủng không? Quãng thời gian tịch mịch đó, tỷ tỷ rốt cuộc đã trải qua như thế nào vậy?” Nàng ta lén đưa mắt nhìn tôi, khẽ hỏi: “Tỷ tỷ có trách muội không? Đến muội cũng không ngờ được trong lòng mình lại từng có những suy nghĩ ác độc như thế.”

    “Tất nhiên là không rồi.” Tôi đưa tay hái một bông hồng vàng cài lên búi tóc cho nàng ta, cất giọng dịu dàng. “Trong chốn hậu cung này, chẳng người nào có thể đắc sủng cả đời, chỉ cần suy nghĩ được thông suốt thì sẽ không còn sợ gì nữa cả. Khi thất sủng, nếu muội thấy đau buồn thì cuộc sống tất nhiên sẽ chẳng được thảnh thơi, còn nếu muội thản nhiên rồi, vậy thì ngày tháng sẽ cứ thế trôi qua trong bình lặng. Thực ra tất cả đều là ở tâm cảnh mà thôi, không liên quan gì tới những thứ khác.”

    Trinh Phi mỉm cười hờ hững. “Hoàng thượng bây giờ đã có Khương thị rồi. Tỷ biết chưa, gần đây ngài lại phong cho cô ta làm tiểu viện rồi đấy, đến cả Anh Tần đang mang thai mà cũng chẳng mấy khi qua thăm, tự dưng lại khiến muội nhớ đến bản thân thuở trước.”

    Tôi khẽ cười uể oải. “Bây giờ ta rất ít ra ngoài, cô ta có đắc sủng hay được tấn phong thì cũng chẳng liên quan gì tới ta. Anh Tần thì phiền muội để tâm tới nhiều một chút, trong cung đã có quá nhiều người không thể sinh nở thuận lợi rồi, thật khiến người ta lo sợ.”

    Trinh Phi cười, nói: “Cho dù chỉ vì nghĩ tới cảnh ngộ của bản thân trước kia thôi thì muội cũng sẽ chăm lo cho nàng ta cẩn thận, hơn nữa còn có Đức phi chú ý tới việc ăn uống của nàng ta, mà bản thân nàng ta thì chẳng ra ngoài bao giờ, do đó chắc sẽ không có vấn đề gì đâu.”

    Phía đằng xa bỗng có tiếng nhạc tưng bừng vọng lại, tôi nghiêng tai lắng nghe rồi hỏi: “Là âm thanh gì vậy nhỉ?”

    Trinh Phi cũng sinh lòng tò mò, khẽ cười, nói: “Chẳng rõ nữa, lẽ nào lại có chuyện mừng gì ư?” Rồi nàng ta vẫy tay gọi Hoa Nghi lại: “Ngươi ra ngoài xem thử xem là có chuyện gì đi!”

    Hoa Nghi trề môi, hậm hực nói: “Còn có thể có việc gì được, mới sáng sớm mà đã làm ầm ĩ cả lên.” Hơi dừng một chút, nàng ta rốt cuộc vẫn không dám không nói: “Khương Tiểu viện có thai rồi.”

    Trinh Phi dừng động tác trên tay lại, đưa mắt liếc nhìn tôi, khẽ “ồ” lên một tiếng. Tôi thản nhiên nói: “Cô ta đúng là người có phúc, đang lúc đắc sủng thế này mà lại có thai, tiền đồ sau này ắt sẽ rộng mở vô cùng.”

    Hoa Nghi không dám tiếp lời, chạy đi bưng mấy món điểm tâm lên, gồm có Lũ kim hương dược, Tử tô nại hương, Tùng tử nhương, Phục linh cao, Chu sa viên tử và hai chén canh hạt sen, đều là những thứ mà tôi và Trinh Phi thường ngày thích ăn. Trinh Phi nhấm nháp thử mỗi loại một chút rồi cất giọng nghi hoặc: “Sao tỷ tỷ không ăn vậy?”

    Tôi đưa mắt nhìn qua một lượt, quả thực chẳng thấy muốn ăn chút nào, đành cười, nói: “Có lẽ thường ngày ăn nhiều quá rồi nên thành ra bây giờ không thích nữa.” Sau đó lại nói với Hoa Nghi: “Mang một bát canh mơ chua tới đây đi!”

    Trinh Phi ngạc nhiên hỏi: “Tỷ tỷ thích đồ chua ư?”

    “Cũng không hẳn là thích, chẳng qua là uống trong ngày hè cho bớt nóng mà thôi.”

    Trinh Phi gật đầu cười, nói: “Cũng đúng, đợi lát nữa muội về cung rồi sẽ sai người làm một ít rồi đưa qua cho Anh Tần. Chuyện hôm nay nàng ta mà biết được có lẽ sẽ không vui, muội phải về sớm một chút để bầu bạn với nàng ta mới được.”

    Tôi cũng khẽ cười. “Được, vậy thì làm phiền muội rồi.” Tôi trầm ngâm một lát rồi gọi Cận Tịch lại. “Khương thị giờ đã có thai, lại làm náo nhiệt như vậy, chúng ta không thể giả bộ như không biết được. Ngươi hãy đem bức hình “Quan Âm tống tử” mà lần trước Đô đốc Đê Châu tặng tặng lại cho cô ta, coi như là thể hiện một chút tâm ý.”

    Cận Tịch vâng lời rời đi. Trinh Phi dùng xong điểm tâm rồi cũng đứng dậy cáo từ.

    Độ này thời tiết nóng nực, thế nhưng tôi lại rất thích khung cảnh rực rỡ lúc chiều tà, thường nhìn đắm đuối, những khi rảnh rỗi thì lại tới Không Thúy điện của Trinh Phi giúp nàng ta sắp xếp thư tịch, mang những quyển nào đã ố vàng ra phơi dưới nắng để tránh bị ẩm mốc.

    Hôm ấy tôi đang vùi đầu giữa đống sách thì chợt nghe Cận Tịch khẽ cất tiếng gọi: “Nương nương.”

    Tôi chậm rãi bước ra, hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

    Nàng ta cau mày, nói: “Cả buổi chiều nay Khương Tiểu viện cứ kêu đau bụng mãi, cuối cùng thì sẩy thai rồi.”

    “Sẩy thai?” Tôi không kìm được hơi nhướng mày lên.

    “Dạ!” Cận Tịch khẽ đáp. “Khương thị đúng là không có phúc, mới có thai được hai tháng thì đã sẩy rồi. Thái y nghi ngờ chuyện lần này là do xạ hương mà ra, do đó Hoàng thượng đã nổi trận lôi đình, hạ lệnh tra xét kĩ càng.”

    “Đúng là nên tra xét kĩ càng.” Tôi vừa rửa tay vừa chậm rãi nói. “Trong cung đã có quá nhiều đứa bé chết không rõ ràng, Hoàng thượng lẽ ra nên hạ lệnh như vậy từ sớm mới phải.” “Nhưng...”

    Ánh chiều tà chiếu lên khuôn mặt thanh tú của Cận Tịch, vô cớ làm toát ra mấy nét âu lo, khi nàng ta còn chưa nói xong thì Tiễn Thu đã rảo bước đi vào, bên khóe miệng là một tia cười thấp thoáng.“Lại phải làm phiền nương nương một chuyến nữa rồi.”

    Trinh Phi vốn đang ở phòng trong, nghe thấy bên ngoài có động tĩnh liền vội vàng chạy ra hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

    Tiễn Thu cười tủm tỉm, nhún người thỉnh an: “Hóa ra Trinh Phi nương nương cũng ở đây. Thục phi nương nương độ này thời vận không tốt, luôn vướng vào những việc chẳng lành. Nô tỳ cũng chỉ vâng lệnh hành sự, đưa Thục phi nương nương đi hỏi chuyện thôi.”

    Trong mắt thoáng qua mấy nét âu lo, Trinh Phi chỉnh trang xiêm y một chút rồi nói: “Vừa hay bản cung đang có thời gian rảnh, phiền Tiễn Thu cô cô đợi một lát, bản cung sẽ đi cùng với Thục phi luôn.” Nàng ta hơi nhếch khóe môi, nở một nụ cười khách sáo nhưng kiên định. “Kẻo không lại như lần trước, để Thục phi nương nương bị hạng người hèn mọn như Vinh Tần chất vấn.”

    Tiễn Thu vẫn khẽ cười bình thản. “Nô tỳ xin khuyên một câu thực lòng, trong trường hợp này Trinh Phi nương nương đừng đi thì hơn.”

    Trinh Phi khoác tay tôi, hờ hững nói: “Bây giờ trời đã về chiều đi lại khó khăn, ta phải đi cùng Thục phi nương nương thì mới yên tâm được.”

    Trinh Phi rất ít khi kiên quyết như vậy, Tiễn Thu cũng không dám ngăn, đành để cho nàng ta đi cùng. Tôi không biết là lại có cơn phong ba gì nổi lên, nhưng vì không làm gì thẹn với lòng nên chẳng hề sợ hãi, sau khi trang điểm xong xuôi liền theo Tiễn Thu rời đi.

    Khởi Vọng hiên của Khương Tiểu viện tọa lạc tại phía nam Thượng Lâm uyển, đông ấm hè mát, lúc này đang là giữa hạ nên cây cối xung quanh đều xanh biếc um tùm, những tia nóng nực từ trên cao chiếu xuống đa phần đều bị ngăn lại. Giữa những lùm cây còn lấp ló mấy ngọn giả sơn dựng thành từ đá Thái Hồ, phía dưới là dòng nước chảy dài róc rách, khung cảnh thực chẳng giống chốn hoàng cung lộng lẫy, xa hoa mà có mấy phần vận vị trang nhã của vùng Giang Nam êm đềm.

    Vừa mới bước vào, Trinh Phi đã lộ vẻ hài lòng, khẽ gật đầu, nói: “Nơi này quả là trang nhã, xem ra Khương Tiểu viện cũng không phải hạng người dung tục.”

    Tôi cười, nói: “Nếu là người dung tục thì sao có thể được Hoàng thượng sủng ái như thế chứ.”

    Trinh Phi bất giác lộ ra mấy tia chán ghét. “Xét ra Xích Thược đúng là một ngoại lệ, nghe nói Ủng Thúy các của cô ta lát sàn toàn bằng vàng ngọc, tục tĩu vô cùng.”

    Tôi thầm thở dài, nàng ta ham thích sự phú quý như thế chưa chắc đã là vì chưa từng có bao giờ, có lẽ bởi sợ mất đi cho nên mới đắm đuối mê say.

    Lý Trường nghe thấy động tĩnh liền vén rèm chạy ra ngoài, nói: “Thục phi nương nương tới rồi, Hoàng thượng đang ở bên trong chờ nương nương đấy.”

    Chỉ sau mấy tháng mà trên mặt Lý Trường đã có thêm rất nhiều nét u sầu. Tuy y vẫn là thái giám hầu cận bên Hoàng đế, lại là đại tổng quản của Tử Áo Thành, nhưng vì quan hệ với Nhu Nghi điện nên thời gian gần đây đã phải chịu không ít nỗi ấm ức cả trong tối lẫn ngoài sáng. Y đón tôi vào trong, lén ra dấu tay “hãy tự bảo trọng”, sau đó liền đi tới thõng tay đứng hầu bên cạnh Huyền Lăng.

    Bầu không khí trong phòng có chút nặng nề, có lẽ một phần là do lúc này trời đã sâm sẩm tối. Khương Tiểu viện nằm nơi góc phòng, hai bờ má vàng vọt, cặp mắt ửng đỏ, chẳng tô điểm chút son phấn nào, mái tóc dài buông xõa, trên người chỉ mặc một chiếc áo ngủ mỏng manh màu trắng, bộ dạng thực là đáng thương vô cùng. Huyền Lăng thì ngồi cạnh giường mà rủ rỉ chuyện trò với nàng ta, cố gắng an ủi.

    Tôi nhún gối hành lễ thỉnh an: “Hoàng thượng vạn phúc kim an!”

    Huyền Lăng buột miệng kêu tôi đứng dậy, hỏi: “Trước đây cứ đến mùa hè là nàng lại mắc chứng chán ăn, người cũng gầy guộc đi nhiều, năm nay vẫn thế ư?”

    Không ngờ sau khi gọi tôi đến đây mà y vẫn nói năng với giọng dịu dàng như thế, sau một thoáng ngẩn ngơ, tôi vẫn thành thực trả lời: “Dạ phải, có điều quen dần rồi sẽ ổn thôi.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu. “Trẫm thấy nàng đúng là đã gầy đi rồi.”

    Trinh Phi hành lễ xong liền mỉm cười, nói: “Thần thiếp ngày ngày đều gặp Thục phi nên không phát hiện ra điều gì khác thường, có lẽ tại Hoàng thượng lâu rồi không gặp nên mới thấy tỷ ấy gầy đi như vậy đấy.”

    Huyền Lăng không tỏ thái độ gì, song Khương Tiểu viện đang nằm trên giường chợt bật khóc nức nở. “Hoàng thượng, con của thần thiếp mất rồi, thần thiếp không cam tâm, không cam tâm!”

    Tiếng khóc thê lương ấy vang vọng trong gian phòng nhỏ, chan chứa một nỗi đau xé ruột xé gan. Tôi cảm thấy đau đầu và nóng bức vô cùng, sống lưng không ngớt rỉ mồ hôi, trong lòng bất giác ngẩn ngơ thầm nghĩ, những ngày tháng nóng nực thế này rốt cuộc đến bao giờ mới hết đây?

    Huyền Lăng lộ rõ vẻ xót xa, vừa vỗ lưng nàng ta vừa dịu dàng nói: “Trẫm nhất định sẽ trả lại công đạo cho nàng.”

    Khương thị ngưng tiếng khóc xé ruột xé gan, đổi sang thút thít nghẹn ngào. Những tiếng thút thít ấy hệt như vô số mũi kim nhỏ đâm vào da thịt người ta, ngay đến tôi cũng không kìm được có chút chua xót. Tôi nghiêm túc nói: “Tiểu viện thương tâm như thế xem ra việc mất đứa bé đúng là điều không ngờ tới, thần thiếp cũng mong Hoàng thượng hãy trả lại công đạo cho Tiểu viện.”

    “Thục phi đã nói như vậy rồi thì...” Huyền Lăng thu vẻ dịu dàng vừa rồi lại, lạnh lùng ra lệnh cho Tiễn Thu: “Ngươi hãy cho Thục phi nương nương xem đi.”

    Tiễn Thu đáp “vâng” một tiếng, chậm rãi trải một cuộn tranh ra trên bàn. Cuộn tranh đó có trục làm bằng gỗ tử đàn, bút pháp trong tranh thì cực kỳ tinh diệu, từng đường nét đều sống động như thật, chính là bức tranh Quan Âm tống tử mà tôi đã tặng cho Khương Tiểu viện.

    “Bức tranh này có chỗ nào không ổn ư?” Tôi hỏi.Một nữ tử bất ngờ bước ra từ phía sau lớp rèm châu xanh biếc, chậm rãi nói: “Bức tranh này vừa nhìn đã biết là tác phẩm của bậc danh gia, hình như là do họa sư tiền triều Thẩm Tần vẽ nên. Thẩm Tần vốn sở trường vẽ tranh Quan Âm, tất nhiên không có gì là không ổn.” Nữ tử này không phải ai khác mà chính là Vinh Tần Xích Thược, nàng ta khẽ vỗ tay Khương thị tỏ ý an ủi, sau đó liền đưa mắt liếc nhìn tôi. “Tiểu viện vừa mới mất con, vậy mà nương nương còn ăn mặc lộng lẫy thế này, không sợ người ta thương tâm ư?”

    Tôi thản nhiên cười, nói: “Chẳng qua chỉ là việc ăn mặc mà thôi, không ngờ những người khác nhau nhìn vào lại thật sự có những sự kiến giải khác nhau như vậy. Bản cung ăn mặc lộng lẫy tới đây chính là vì không muốn Khương Tiểu viện thương tâm, lẽ nào Vinh Tần cho rằng bản cung phải mặc đồ tang tới đây thì mới có thể xoa dịu nỗi lòng của Khương Tiểu viện? Vinh Tần không sợ Khương Tiểu viện tức cảnh sinh tình càng thêm thương tâm ư?”

    Vinh Tần nhất thời cứng họng, chỉ đành nói: “Thục phi cơ trí hơn người, tâm sư sâu sắc, thần thiếp làm sao mà sánh được.”

    “Đã biết là không sánh được thì phải chịu sự quản giáo. Xích Thược, năm xưa khi ngươi còn ở bên cạnh bản cung, bản cung đã dạy dỗ ngươi như thế nào?” Trong ánh nến đỏ lập lòe, Trinh Phi ngồi cạnh cửa sổ khẽ phe phẩy chiếc quạt lụa, ung dung cất tiếng. “Nói chuyện với bề trên không được dùng giọng điệu khiêu khích gây hấn, không được mở lời tùy tiện, không được xấc xược vô lễ, đặc biệt là không được nói ra những lời ngông cuồng ngạo mạn, ngươi có còn nhớ không?”

    Vinh Tần vốn là thị nữ của Trinh Phi, bây giờ chủ cũ hỏi chuyện nên nàng ta nhất thời không dám cự cãi, chỉ hậm hực đứng đó không nói năng gì. Thế nhưng Trinh Phi bấy lâu nay vốn hiền hòa lại không đắc sủng, Xích Thược thì tâm cao khí ngạo, thế là cuối cùng không kìm được mà bật ra một câu: “Tần thiếp bây giờ đã không còn là phận con hầu, xét ra không cần phải nghe theo lời dạy của Trinh Phi nương nương khi trước nữa rồi.”

    Trinh Phi khẽ lắc đầu, mấy dải tua đính trên chiếc bộ dao hình bông hải đường không ngớt đung đưa nhè nhẹ. “Bây giờ ngươi đã không còn là cung nhân chuyên việc vẩy nước quét nhà nữa, còn đắc sủng mà trở thành cung tần, đó là phúc phận của ngươi. Thế nhưng bất kể ngươi là gì đi chăng nữa thì cũng cần phải giữ lễ mới được, bằng không dù ngôi vị của ngươi có cao đến mấy thì người khác cũng chẳng bao giờ chịu tâm phục khẩu phục ngươi đâu.”

    Vinh Tần vốn ghét nhất là bị người ta nhắc đến việc mình từng là người hầu bên cạnh Trinh Phi, lúc này bị Trinh Phi nói ra những lời răn dạy như thế trước mặt mọi người thì tức tối vô cùng, nhưng nhất thời lại không thể phát tác, chỉ biết nắm chặt khăn tay mà đỏ mặt tía tai.

    Trong phòng có mùi thảo dược vô cùng nồng đậm, đã thế căn phòng lại nhỏ và đang có nhiều người, nên khó tránh khỏi có chút ngột ngạt. Một tiểu cung nữ bước tới bỏ một thìa hương liệu vào trong chiếc lò hương nhỏ ở góc phòng, nhưng vừa mới đốt hương liệu lên thì đã bị một cô cô lớn tuổi rảo bước đi tới vỗ mạnh một cái vào sau gáy. “Ngươi không muốn sống nữa à? Vào lúc nào rồi mà còn dám dùng hương liệu? Không sợ làm tổn hại đến ngọc thể của tiểu chủ hay sao?” Thị còn chưa hết giận, tuy không dám nhìn qua phía tôi nhưng miệng thì vẫn làu bàu mắng mỏ: “Cái thứ đồ đoản mệnh chết tiệt, không sợ người ta trộn lẫn xạ hương vào để hại tiểu chủ ư?”

    Tôi không nói gì, chỉ đưa mắt liếc Lý Trường. Lý Trường hiểu ý, bèn bước tới nắm lấy cổ tay cung nữ đó kéo ra ngoài, miệng thì quát bảo: “Tuy Hà Hương ngươi là thị nữ tùy giá của tiểu chủ, nhưng quy củ trong cung sao có thể bỏ qua được. Dù ngươi có muốn quản giáo lũ người dưới không hiểu chuyện thì cũng không được quản giáo trước mặt Hoàng thượng và nương nương, như thế thì còn ra thể thống gì, đã thế nói năng còn bậy bạ nữa.” Rồi y lại dặn dò Tiểu Hạ Tử: “Đưa đi vả miệng ba mươi cái để thị nhớ lấy bài học này.”

    Khương Tiểu viện vốn một mực không nói năng gì, tới khi nghe nói Hà Hương sắp bị vả miệng thì mới lộ vẻ hoang mang, nhưng đang định cầu xin thì lại thấy Huyền Lăng mặt mày hờ hững, thế là đành nuốt những lời định nói vào trong bụng.

    Vinh Tần “hừ” lạnh một tiếng, chỉ tay vào bức tranh trên bàn. “Bức tranh này đúng là do Thục phi nương nương đưa tặng chứ?”

    Tôi đưa mắt liếc qua, ung dung nói: “Phải.”

    “Vậy thì tâm tư của nương nương thật là tàn độc quá.” Khi nói những lời này, trong mắt nàng ta lộ rõ những tia đắc ý và oán hận. “Tiểu viện sẩy thai là vì xạ hương, nhưng thái y đã kiểm tra kĩ càng rồi, trong những thứ hương liệu hay đồ đạc mà Tiểu viện vẫn dùng không hề có xạ hương. Nguyên nhân thật sự khiến Tiểu viện mất con lần này chính là quá xem trọng bức tranh mà nương nương tặng.”

    Khương thị đưa tay lên che mặt, nhào vào lòng Huyền Lăng, bật khóc rống lên, đôi bờ vai run rẩy không ngừng. “Thần thiếp vô cùng cảm kích tâm ý của Thục phi nương nương khi đưa tặng bức tranh Quan Âm tống tử này, trong lòng cũng thầm mong mình sớm ngày sinh nở thuận lợi, thế là ngày nào cũng thành tâm cầu phúc trước tranh, ai ngờ...” Vừa nói, nàng ta vừa run rẩy đưa tay tới cậy trục bức tranh ra, cất giọng phẫn nộ: “Ai ngờ bên trong này lại nhét đầy xạ hương...”

    Nàng ta vừa buông tay, từ bên trong trục bức tranh vốn rỗng lõi lập tức có rất nhiều khối xạ hương màu nâu rơi xuống. Ngửi thấy thứ mùi nồng đậm tỏa ra từ đó, tôi không kìm được có chút buồn nôn, vội vàng nín thở ngoảnh đầu qua một bên.

    “Bức tranh này là do Thục phi sai người đưa tặng, sau đó vẫn luôn được treo một chỗ không có ai đụng vào, ngoài Thục phi nương nương ra thì còn ai có thể động chân động tay vào được nữa?” Khương thị cắn chặt môi, ánh mắt dữ dằn như muốn ăn thịt người. “Hoàng thượng, Hoàng thượng, thần thiếp sợ quá, Quỳnh Quý nhân cùng vào cung với thần thiếp đã chết không rõ ràng rồi, đến bây giờ thần thiếp vẫn thường xuyên gặp ác mộng. Thần thiếp bấy lâu nay vẫn luôn tôn kính Thục phi, chưa từng dám đắc tội, việc gì cũng đều cẩn thận, tại sao nàng ta còn muốn hại đứa bé trong bụng thần thiếp chứ?” Nàng ta đột nhiên ngẩng đầu lên, trong mắt vằn đầy tia máu, định tung người lao thẳng về phía tôi. “Thục phi nương nương, nếu nương nương không thích tần thiếp thì cứ đầy tần thiếp vào lãnh cung, nhưng không thể hại con của tần thiếp như vậy được, không thể như vậy được.”

    Tôi lùi về phía sau một bước, muốn né tránh con người gần như đã trở nên điên cuồng kia. Thế nhưng Huyền Lăng lại bước lên trước một bước, nắm chặt lấy cổ tay tôi. Lòng bàn tay đã rỉ đầy mồ hôi lạnh toát, y nhìn chằm chằm vào tôi, một giọng nói khàn khàn vang ra từ trong cổ họng: “Thục phi, nàng có làm vậy không?”

    “Không đâu, Thục phi quyết không làm vậy đâu.” Trinh Phi bước lên trước hai bước, dịu dàng khuyên nhủ: “Hoàng thượng quên rồi ư? Khi xưa thần thiếp đang có thai thì bị cấm túc, chính Thục phi đã nghĩ đủ mọi cách chiếu cố cho thần thiếp. Thục phi đã chịu giúp đỡ thần thiếp như vậy, sao lại đi hại con của Khương Tiểu viện được chứ? Thục phi không phải là người như vậy đâu.”

    “Nương nương, không có việc gì là vĩnh viễn không thay đổi, hơn nữa người và Tiểu viện không giống nhau.” Vinh Tần cười tủm tỉm, cất giọng lạnh lùng, tựa như một con rắn nhỏ đang không ngừng thè lưỡi về phía Trinh Phi. “Nương nương khi đó tuy mang thai nhưng không đắc sủng, có thể gây ra sự uy hiếp gì với Thục phi đây? Còn Tiểu viện thì khác, bây giờ đang lúc được sủng ái vô cùng, nếu sau này mà sinh được hoàng tử thì có thể nói là tiền đồ vô hạn lượng, Thục phi có thể không đề phòng được sao?”

    Lời của Vinh Tần có thể nói là vô cùng sắc bén, mà có lẽ mọi người trong cung cũng đều có suy nghĩ như vậy.

    Trinh Phi nhất thời cứng họng, chỉ biết lẩm bẩm nói: “Thục phi ắt không làm như vậy đâu.”

    Huyền Lăng đưa mắt liếc nhìn nàng ta. “Yến Nghi, có lẽ Xích Thược đã cả nghĩ, nhưng quả thực, có lúc suy nghĩ của nàng có phần đơn giản quá.”

    Trinh Phi nghe thế liền ngây người, lẳng lặng cúi đầu xuống. “Hoàng thượng có cái nhìn như vậy về thần thiếp ư?” Nàng ta cười gượng, cuối cùng chỉ đành khẽ nói: “Nhưng thần thiếp vẫn luôn tin là Thục phi không làm như vậy đâu.”

    Huyền Lăng không để ý đến nàng ta nữa, chỉ nhìn chằm chằm vào tôi. “Trẫm chỉ cần nàng trả lời một câu này thôi, có hay không?”

    Gian phòng tức thì trở nên vô cùng tĩnh lặng, chỉ còn những tiếng ve sầu kêu không ngớt từ rặng dương liễu đằng xa vọng lại. Bên ngoài, vầng trăng đang chiếu rọi trời đông, còn trong phòng, ngọn nến đỏ cắm trên chiếc giá nến làm bằng đồng hình con hạc vẫn cháy bừng rực rỡ, những giọt sáp nến không ngớt tuôn rơi, chẳng khác gì lệ máu.

    “Thần thiếp trả lời rồi thì Hoàng thượng sẽ tin ư? Hay là Hoàng thượng sớm đã cho rằng việc này là do thần thiếp làm? Như thế thần thiếp có trả lời hay không kỳ thực cũng đâu có khác gì nhau.”

    Huyền Lăng đưa tay tới, dùng hai ngón tay nâng cằm tôi lên, ánh mắt như muốn nhìn thấu vào nơi sâu nhất trong mắt tôi. Ngón tay y lúc này lạnh toát, chạm vào làn da dưới cằm tôi khiến tôi không kìm được rùng mình. “Thục phi, trẫm chỉ cần một câu trả lời của nàng thôi.”

    Tình cảnh lạnh lùng nhìn nhau thế này có lẽ cả tôi và y đều chưa từng ngờ tới. Tôi vô ý đưa mắt liếc thấy Trinh Phi lúc này đang đứng dựa vào tường, thần sắc ngợp nỗi xót thương, là thương cho tôi, cũng là thương cho chính bản thân mình.

    “Thần thiếp cho rằng Hoàng thượng và thần thiếp đã rất hiểu nhau, Hoàng thượng ắt sẽ không hỏi thần thiếp một câu như thế, hóa ra thần thiếp nhìn người nhìn việc vẫn còn quá lạc quan.” Nói rồi tôi không kìm được mà trào lệ nóng, trong cổ họng, cảm giác chua chát không ngớt trào dâng.

    Bóng cây xuyên qua bức rèm mỏng như cánh ve mà chiếu vào phòng, cành lá ngang dọc đan xen, tựa như đời người đầy nỗi mịt mùng cùng những sự biến hóa khó mà lường trước. Cặp mắt y vốn lạnh lẽo như một đầm nước sâu không thấy đáy, bất chợt có một tia nóng bỏng không ngừng lan tỏa ra khắp xung quanh.

    Vinh Tần nôn nóng nói: “Hoàng thượng quyết không thể mềm lòng thêm nữa. Chuyện của Quỳnh Quý nhân lần trước đã bỏ qua cho cô ta một cách không rõ ràng rồi, nếu như còn không hạ quyết tâm, chỉ e sau này những việc rắc rối trong cung sẽ không bao giờ dứt.”

    Tôi ngoảnh đầu qua nhìn Khương Tiểu viện. “Bức tranh này bản cung đã sai Cận Tịch đích thân đưa tặng từ nửa tháng trước đúng không?”

    Khương thị đã khóc đến đỏ hoe hai mắt, nghe vậy liền trừng mắt nhìn tôi mà nghẹn ngào nói: “Đúng vậy, nếu không phải nửa tháng nay ta ngày ngày tiếp xúc với bức tranh này, con của ta đã không có kết cục như vậy.”

    “Bức tranh này là do Đô đốc Đê Châu tặng cho bản cung, trước khi tặng lại cho Tiểu viện, bản cung đã treo nó trong cung của mình mấy tháng rồi, do đó ắt không thể có vấn đề gì được.”

    Vinh Tần không ngừng cười lạnh. “Có vấn đề gì hay không không phải chỉ nghe cô nói là xong. Khương Tiểu viện đã sẩy thai rồi, cô còn gì để mà biện bạch nữa?”

    Một làn gió thổi qua bụi trúc làm vang lên những tiếng xào xạc nhè nhẹ, nghe hệt như tiếng mưa rơi. Tôi ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy trên trời lấp lánh vô số vì sao, dòng Ngân Hà trải dài muôn vạn dặm. Tôi chợt nở nụ cười, quay sang nhìn Huyền Lăng chăm chú. “Thần thiếp đã có thai được hai tháng rồi, nếu trong bức họa này mà có xạ hương, người bị hại đầu tiên sẽ là thần thiếp.”

    Tôi đưa mắt nhìn Vinh Tần lúc này còn chưa kịp giấu đi thần sắc kinh hãi. “Tất nhiên Vinh Tần cũng có thể hoài nghi bức họa này vốn không có xạ hương, bản cung vì muốn hại Tiểu viện nên mới cố ý cho vào. Nhưng bản cung làm sao biết được Tiểu viện sẽ ngày ngày tiếp xúc với bức họa này hay là bỏ nó vào kho rồi không thèm để ý đến. Bản cung không có tài tiên tri, mà sau khi Tiểu viện có thai thì chưa từng đặt chân tới đây nửa bước, do đó nếu dùng chiêu này thì thực là mạo hiểm quá chừng.”

    Tôi còn chưa dứt lời thì trong mắt Huyền Lăng đã bừng lên những tia sáng vô cùng rực rỡ, giọng nói vang lên ngợp nỗi mừng vui: “Thật sao? Nàng thật sự đã có thai rồi sao?” Nói xong y liền đưa tay tới định đỡ tôi ngồi xuống.

    Tôi làm bộ vô ý tránh qua bên cạnh một chút, thoáng ném qua phía y một ánh mắt hờ hững, lạnh lùng, ngay sau đó lại lẳng lặng cụp mắt xuống. “Thần thiếp không có Vệ thái y ở bên chăm sóc cho nên không dám nói chuyện này ra ngoài.”

    Y mừng rỡ nói: “Hoàn Hoàn, nàng ngồi xuống đi đã, cẩn thận kẻo làm động đến thai khí.”

    Tôi vẫn lặng im đứng đó. “Thần thiếp đã bị đổ oan hai lần rồi, quả thực không muốn có thêm lần nữa. Hoàng thượng liệu có nên cho thần thiếp một câu trả lời không đây?”

    Vinh Tần vẫn chưa chịu bỏ cuộc, vội vàng nói: “Dù không phải do Thục phi tự tay làm thì cũng có thể là kẻ khác, bức họa đó không phải là được Cận Tịch đưa tới sao? Có lẽ Thục phi đã sai khiến Cận Tịch cũng chưa biết chừng.”

    “Cận Tịch?” Tôi nở một nụ cười hờ hững như mây như khói, bước tới gần, nhìn chằm chằm vào nàng ta. “Nếu không phải là Cận Tịch, liệu có khi nào là Lý Trường vốn vẫn giao hảo với thị không? Mà nếu không phải là Lý Trường, liệu có khi nào là Hoàng thượng - chủ nhân của y không? Nếu cứ như ngươi nói thế này thì chuyện bao giờ mới kết thúc? Ngươi chỉ là một cung tần nho nhỏ mà không biết thân biết phận, cố tình gây chuyện thị phi, nhưng bản cung sẽ không trừng phạt ngươi, mọi việc đều xin chờ Hoàng thượng định đoạt.”

    “Hoàng thượng...” Vinh Tần ấm ức vô cùng, nắm chặt khăn tay, khẽ kêu lên.

    “Xích Thược, đêm nay nàng cứ bám riết lấy Thục phi không buông, làm nhộn lên như thế đã đủ rồi đấy. Thục phi nói không sai, ít sinh chuyện thị phi thôi, nàng nên học theo chủ cũ Trinh Phi của nàng ấy.”

    Trinh Phi vốn lặng im nãy giờ chợt nhẹ nhàng cất tiếng: “Hoàng thượng nên kêu Xích Thược tĩnh tâm lại đi. Khi xưa thần thiếp đã không thể dạy dỗ muội ấy cho tốt, việc này xét cho cùng vẫn là lỗi của thần thiếp.”

    Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Tiểu Hạ Tử, ngươi đưa Vinh Tần về đi, bảo nàng ta mỗi ngày hãy chép Nữ huấn ba mươi lần, khi nào còn chưa biết tĩnh tâm an phận thì trẫm sẽ không để nàng ta ra ngoài đâu.”

    Vinh Tần còn muốn nói thêm nhưng lại bị ánh mắt của Huyền Lăng làm cho kinh sợ, đành hậm hực trừng mắt nhìn tôi một cái rồi vén rèm đi ra ngoài.

    Tôi đảo mắt nhìn qua mọi người ở đây một lượt, Khương thị sợ đến nỗi không dám khóc thêm, trong phòng chỉ còn lại những tiếng thút thít khe khẽ vang lên ngắc ngứ.

    Tôi gọi tiểu cung nữ từng đốt hương liệu vừa nãy lại: “Ngươi lại đây.”

    Tiểu cung nữ đó nép sát vào tường, run rẩy đi tới, đột ngột quỳ sụp xuống trước mặt tôi. Tôi chẳng buồn nhìn thị, chỉ hỏi: “Hương liệu trong cung của Tiểu viện đều là do ngươi đốt đúng không?”

    “Dạ!” Thị không dám ngẩng đầu lên, chỉ rụt rè đáp.

    “Ngươi đưa tay ra đây.”

    Thị rụt tay ra sau lưng, suốt một hồi lâu không dám động đậy. Khương thị nhìn tôi vẻ nghi hoặc. “Thục phi định làm gì vậy?”

    Tôi hờ hững nói: “Mùi của xạ hương rất nồng, sau khi sờ tay vào rất dễ bị người ta phát hiện. Người muốn hại Tiểu viện khá mưu mô, đã mượn mùi của gỗ tử đàn để giấu mùi xạ hương đi, nhưng người đó nhất định từng sờ tay vào xạ hương. Gian phòng này không lớn, lại có không ít người, trừ phi người đó thường xuyên sờ tay vào các loại hương liệu khác nhau, bằng không nhất định sẽ bị phát hiện.” Rồi tôi gọi Lý Trường lại: “Ngươi hãy ngửi kĩ tay của thị xem có mùi xạ hương không đi. Nếu không có thì coi như bản cung cả nghĩ, còn nếu có thì hãy thẩm vấn thị kĩ càng xem ai là kẻ chủ mưu sau lưng.”

    Lý Trường vạch bàn tay tiểu cung nữ đó ra, ngửi kĩ một hồi, không kìm được biến hẳn sắc mặt. “Khởi bẩm nương nương, quả thực có mùi xạ hương.”

    Khương thị gào lên một tiếng thê lương rồi nhào thẳng tới, tiện tay chụp lấy một cây thước vụt vào người tiểu cung nữ kia không ngừng, Khởi Vọng hiên tức thì trở nên hỗn loạn.

    Nhìn thấy cảnh này, tôi không kìm được cảm thấy có chút mỏi mệt, liền nắm tay Trinh Phi, nói: “Ta mệt rồi, chúng ta về đi thôi.”
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 32: Phượng tiêu thổi dứt nước mây vang [40]
    [40] Trích Ngọc lâu xuân, Lý Dục. Dịch thơ: Nguyễn Chí Viễn. Nguyên văn Hán Việt: Phượng tiêu xuy đoạn thủy vân nhàn - ND.

    Sáng sớm hôm sau, tôi vừa tỉnh dậy thì đã thấy Vệ Lâm đang cung kính chờ sẵn bên ngoài điện rồi, sau khi rửa ráy, chải chuốt qua loa liền ra ngoài gặp y, khẽ cười, nói: “Bản cung biết là đại nhân sẽ quay về rất nhanh thôi, có điều quả thực không ngờ được là lại nhanh đến như thế.”

    Y khom người hành lễ thỉnh an: “Đêm qua vi thần nhận được thánh chỉ sai đến hầu hạ nương nương an thai, thế là hôm nay vừa sáng sớm đã tới đây thỉnh an nương nương ngay.”

    Tôi khẽ gật đầu, đi tới ngồi trước gương vừa trang điểm vừa trầm giọng nói: “Những ngày ở vĩnh hạng, đại nhân quả là đã phải chịu ấm ức rồi.”

    Y cười, nói: “Vi thần không sợ. Vi thần biết là nương nương ắt có đủ bản lĩnh để xoay chuyển tình hình, ban phúc cho vi thần.”

    “Không phải bản cung có bản lĩnh mà là bây giờ Ôn Thực Sơ tự lo cho mình còn chẳng xong, bản cung cần có đại nhân ở bên cạnh.”

    Lần này tôi chỉ trang điểm theo lối đơn giản nhất, mái tóc búi gọn ghẽ lên đầu rồi cố định bằng một cây trâm bạch ngọc, lại đánh một lớp phấn mỏng, sau khi xong xuôi thì khoác một chiếc áo dài màu xanh ngọc thêu hoa văn hình những chiếc lá trúc lên người.

    Vệ Lâm sau khi thăm mạch cho tôi liền cười, nói: “Khí sắc của nương nương rất tốt, bất kể là khi đắc thế hay thất thế, phong thái đều không hề suy giảm.”

    Tôi mỉm cười hờ hững. “Làm gì có phong thái gì đâu, con người sống trên đời kỳ thực chỉ cần có một hơi thở là đã đủ rồi.”

    Hoa Nghi mím môi cười, nói: “Nương nương ăn mặc thế này chắc là không định gặp khách rồi.”

    “Hôm nay khách khứa chắc đông lắm nhỉ?”

    “Lại náo nhiệt như xưa rồi. Các cung đều cho người tới thỉnh an chúc mừng nương nương, ngay đến Thái hậu cũng phái Tôn cô cô qua đây thăm hỏi.”

    “Hoa Nghi, ngươi vào cung cũng được mấy năm rồi, kiến thức đã tăng thêm không ít, hẳn biết rõ nên ứng phó thế nào.”

    Hoa Nghi xoay người đi ra ngoài, tôi nhìn Vệ Lâm, hỏi: “Thai nhi vẫn ổn chứ?”

    “Vẫn ổn. Có điều nương nương mang thai khi người đang yếu, cần phải uống nhiều thuốc bổ mới được. Việc này vi thần sẽ tự có an bài.”

    Tôi dịu dàng đưa tay xoa bụng. “Đứa bé này đến rất kịp thời, chính là cứu tinh của bản cung. Không có nó, chúng ta bây giờ đã chẳng được thế này rồi. Bản thân đại nhân cũng phải cẩn thận đấy, sau việc này chắc đại nhân cũng đã rõ là làm việc bên cạnh bản cung không hề đơn giản, chỉ cần sơ sảy một chút thôi là có khả năng bị người ta ám hại.”

    Y mỉm cười, nói: “Muốn có phú quý thì phải vào nơi nguy hiểm, từ xưa vốn đã vậy rồi.”

    Tôi cũng khẽ nở nụ cười. “Bản cung rất tán thưởng cái tính tình thẳng thắn này của đại nhân.” Suy nghĩ một chút tôi lại dặn dò thêm: “Khi nào rảnh rỗi hãy giúp bản cung qua thăm khám cho Anh Tần một chút.”

    Khi trời chạng vạng tối, Trinh Phi tới thăm tôi, tôi đang rảnh rỗi không có việc gì làm thế là liền cùng nàng ta đánh cờ vây. Những làn gió mát mẻ mang theo mùi hoa sen thoang thoảng không ngừng thổi vào từ ngoài cửa sổ, phía đằng xa vẫn văng vẳng tiếng ve sầu. Tôi cầm một quân cờ trắng mà trầm ngâm do dự, đưa tay day trán, nói: “Cũng không phải mới lần đầu có thai, nhưng chẳng rõ tại sao, lần này ta cứ luôn cảm thấy phiền muộn khó tả, đầu óc thì hiếm khi nào tập trung được.”

    Trinh Phi hôm nay vận một bộ đồ trắng muốt, trang nhã vô cùng. “Sau khi có thai, tỷ tỷ đã liên tiếp phải chịu mấy phen ấm ức, có lẽ vì thế mà nguyên khí đã bị tổn hại phần nào.” Rồi nàng ta hơi cau mày lại. “Tỷ tỷ biết gì chưa, tiểu cung nữ phụ trách việc đốt hương liệu bên cạnh Khương thị chết rồi đấy.”

    Tôi đặt quân cờ trong tay xuống bàn, khẽ hỏi: “Thị chết như thế nào vậy?”

    “Hoàng thượng hạ chỉ dùng hình tra khảo, tiểu cung nữ đó liền khai rằng Khương thị thường ngày đối xử với mình rất tệ, động một chút là lại cùng Hà Hương đánh mắng, thế là thị mới nảy ra ý dùng xạ hương để hại Khương thị.”

    “Đúng là nói bừa.” Tôi trầm giọng nói: “Thị chỉ là một cung nữ nho nhỏ, kiếm đâu ra một thứ quý giá như xạ hương được, hơn nữa là ai cho thị lá gan hãm hại sủng phi của Hoàng thượng như thế? Chẳng lẽ thị thật sự chán sống rồi sao?”

    “Hoàng thượng cũng không tin, khi tái thẩm còn cho tra tấn bằng những biện pháp mạnh nhất, kết quả là tiểu cung nữ đó không chịu nổi, liền cắn lưỡi tự vẫn. Sau khi điều tra tiếp nữa, có kẻ phát hiện ra ở chỗ Tài nữ Lưu thị vốn vào cung cùng thời điểm với Khương thị có loại xạ hương giống hệt như xạ hương trong bức họa kia, mà Lưu thị bấy lâu nay lại có nhiều lời oán thán về việc Khương thị đắc sủng nhất, gia đình cũng thuộc vào hàng giàu có, thế là phủ Nội vụ liền kết luận cô ta là kẻ chủ mưu.”

    Trinh Phi vốn mềm lòng, trên mặt lộ rõ vẻ xót thương. Tôi cúi đầu, khẽ búng móng tay mấy cái. “Muội muội cũng không tin việc này là do Lưu thị làm đúng không?”

    “Biến giả thành thật, thay đen đổi trắng, đây vốn là sở trường của các phi tần trong chốn cung đình mà.”

    “Đáng thương thay cho Lưu thị, một khi phải vào Hình phòng trong Thận hình ty, dù sau này có ra được thì thân thể cũng khó mà còn nguyên vẹn.”

    Trong mắt lộ rõ những tia không đành lòng, nàng ta ghé lại gần tôi. “Nửa ngày qua muội cứ thầm suy đoán, người đó là do Hoàng hậu tiến cử vào cung, liệu có khi nào cô ta... Cô ta lại có thể độc ác đến vậy sao?”

    Tôi cười tươi khen ngợi: “Muội muội đúng là rất thông minh.”

    Hoa Nghi và Phẩm Nhi lúc này mỗi người cầm một cây quạt dài chừng một thước đứng bên quạt cho chúng tôi, Hoa Nghi nghe vậy liền trề môi làu bàu: “Kỳ Tần đi theo Hoàng hậu cả nửa đời người, thế mà đến lúc chết vẫn chẳng sinh nở gì được. Nương nương còn nhớ chuỗi hồng xạ mà Hoàng hậu thưởng cho cô ta không, chính vì nó nên cô ta mới không thể có thai đấy.”

    Trinh Phi biến hẳn sắc mặt, đầu ngón tay buông ra, một quân cờ đen cứ thế rơi xuống. Tôi cười, nói: “Muội muội đánh nhầm chỗ rồi kia.”

    Nàng ta thở dài buồn bã. “Những năm nay muội luôn đứng một bên quan sát, nhiều lúc cứ ngỡ là mình đã đoán nhầm.”

    “Muội muội vốn tâm tư tinh tế, đầu óc lại tỉnh táo, sáng suốt, ắt là không đoán nhầm đâu. Do đó muội muội phải trông chừng nhị Hoàng tử cẩn thận đấy, ngoài ra ta cũng mong muội muội hãy giúp đỡ, chiếu cố cho Anh Tần.”

    Nàng ta thở dài than: “Muội chỉ biết dốc hết sức mình thôi.” Nàng ta đưa tay chống cằm, chợt chuyển chủ đề: “Tỷ tỷ vẫn không chịu để ý tới Hoàng thượng ư? Chiều nay khi ngồi ở chỗ muội, Hoàng thượng có vẻ buồn rầu lắm đấy. Kỳ thực mấy việc này cũng không thể trách Hoàng thượng được.”

    “Đúng là không thể trách Hoàng thượng, nhưng ta là người trong cuộc, phải tự mình trải qua tất cả, thành ra muốn không trách cũng khó.” Tôi mỉm cười, nói: “Muội muội chớ nên nghĩ nhiều làm gì, ta tự có chừng mực.”

    Đưa mắt tiễn Trinh Phi rời đi, tôi cầm một cây quạt tròn lên nhẹ nhàng phe phẩy, nói: “Cận Tịch, cùng ta đi thỉnh an Hoàng hậu nào.”

    Cận Tịch ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm đầy sao, cười, nói: “Nương nương chớ nên đi thì hơn, lúc này chỉ e Hoàng hậu đã ngủ rồi.”

    “Ngươi cho rằng lúc này nàng ta ngủ được sao?” Tôi chăm chú nhìn những tòa cung điện nguy nga dưới màn đêm mông lung, mờ mịt, khẽ cất tiếng thở dài.

    Khi chúng tôi đến Phượng Nghi cung thì trong Chiêu Dương điện vẫn còn ánh đèn lấp ló chiếu ra ngoài qua song cửa sổ, hệt như một chút tâm tư loáng thoáng lộ ra khiến người ta không kìm được sinh lòng muốn tra xét, tìm tòi.

    Người bước ra nghênh đón tôi là Hội Xuân, nhìn thấy tôi, thị bất giác nhướng mày lộ rõ vẻ kinh ngạc. “Là Thục phi nương nương đó ư? Muộn thế này rồi cơ mà.”

    Tôi cười, nói: “Không phải Hoàng hậu nương nương vẫn chưa ngủ sao? Đang độ đêm hè trời nóng nực, bản cung tới đây để nói chuyện với nương nương.”

    Hội Xuân biết rằng tôi đang có thai, không dám ngăn cản, chỉ đành cung kính dẫn tôi vào trong, đồng thời cẩn thận nhìn đường giúp tôi, trong lòng thầm lo tôi sẽ thừa cơ gây ra chuyện gì đó ở Chiêu Dương điện.

    Chiêu Dương điện rộng lớn vô cùng, cửa sổ hai đầu nam bắc đều mở rộng, gió mát không ngớt thổi vào, những bức rèm sa nhè nhẹ đung đưa khiến nơi đây chẳng khác gì tiên cảnh. Hoàng hậu lúc này mặc một bộ đồ màu vàng trà ngồi trên chiếc sạp quý phi bên dưới cửa sổ đằng bắc hóng mát, mặt quay vào trong, Tiễn Thu thì đứng một bên vừa phe phẩy quạt cho nàng ta vừa rì rầm nói khẽ những lời gì đó.

    Nghe thấy tiếng bước chân của tôi, Hoàng hậu còn chưa xoay người thì Tiễn Thu đã toàn thân chấn động, vội vàng hành lễ thỉnh an. Tôi bảo Tiễn Thu đứng dậy rồi cười, nói: “Suốt hai ngày liền đều gặp Tiễn Thu cô cô, có vậy mới biết được thế nào là trước kiêu ngạo sau cung kính, hệt như hai người khác biệt.”

    Tiễn Thu thoáng lộ vẻ lúng túng, ngay sau đó lập tức mỉm cười bình thản. “Nô tỳ làm việc gì cũng đều phải xem là với ai và vào lúc nào. Khi đó Thục phi đang vướng mối hiềm nghi, nô tỳ thì cũng thân bất do kỷ, mong Thục phi khoan hồng đại lượng chớ trách nô tỳ.”

    Thị cung kính đỡ Hoàng hậu ngồi dậy. Hoàng hậu cũng không nhìn thị, chỉ vừa vuốt tóc vừa hờ hững nói với tôi: “Lời nói và việc làm đều phải tùy người mà định, nhờ có Thục phi làm gương nên Tiễn Thu đã học được rất nhiều. Hiếm khi có cơ hội như vậy, thị cũng nên vận dụng vào thực tế một chút thì mới không uổng cái công dạy dỗ thường ngày của Thục phi.”

    “Hoàng hậu nương nương khách sáo quá rồi!” Tôi cười tươi rạng rỡ. “Tiễn Thu mỗi ngày đều hầu hạ bên cạnh Hoàng hậu, tất nhiên là được Hoàng hậu dạy dỗ nhiều nhất, thần thiếp đâu có giúp đỡ được gì, quả thực không dám cậy công bừa bãi.”

    Cho dù là nửa đêm hóng mát một mình trong cung nhưng Hoàng hậu vẫn ăn mặc chỉnh tề, trên đầu tuy không cài trâm thoa nhưng mái tóc vẫn được búi lại gọn ghẽ, còn bôi dầu bóng mượt, hoàn toàn không có một sợi tóc rối nào.

    Hoàng hậu đưa mắt chậm rãi quan sát bụng tôi. “Thục phi đã có thai rồi, tại sao nửa đêm vẫn còn ra ngoài đi lại như thế? Vẫn nên cẩn thận một chút thì hơn.”

    “Đã làm phiền Hoàng hậu quan tâm rồi. Thần thiếp nhớ ra sau khi mang thai mình vẫn chưa tới thỉnh an Hoàng hậu lần nào, nên dù đã đêm khuya sương nặng nhưng vẫn lập tức tới đây. Hoàng hậu là chủ của trung cung, thần thiếp không thể thất lễ kẻo khiến các phi tần khác trong cung lại học theo.” Tôi đưa mắt nhìn Hoàng hậu, cười nhạt, nói: “Huống chi từ khi tuyển tú tới giờ, Hoàng hậu đã liên tiếp tổn thất hai viên đại tướng, thần thiếp lo là Hoàng hậu đau lòng quá không ngủ được cho nên đặc biệt tới đây an ủi.”

    Hoàng hậu hơi ngả người về phía sau, tựa lưng vào một chiếc gối tơ tằm nhồi đầy lá cúc và hạt ngô bên trong, chỉ cần hơi động đậy một chút là liền có những tiếng sột soạt vang lên nhè nhẹ. Nàng ta ôn tồn cười, nói: “Lời của Thục phi đúng là ngày càng ảo diệu, chắc chỉ có người nào tâm cơ thâm trầm mới nói ra được những lời như thế, bản cung căn bản không hiểu nổi. Hy vọng không phải là Thục phi đang có thai nên thích ăn nói lung tung.”

    “Hoàng hậu thánh minh, nếu Hoàng hậu đã coi lời của thần thiếp là ăn nói lung tung, vậy thần thiếp xin phép được ăn nói lung tung một phen xem sao.” Tôi nhón lấy mấy hạt lựu đã được bóc sẵn để trong chiếc đĩa mã não lên ăn, chậm rãi nói: “Trước kỳ tuyển tú, Hoàng hậu nương nương hẳn đã phải dốc hết tâm cơ thì mới tìm được Quỳnh Quý nhân có vài phần giống Thuần Nguyên Hoàng hậu và Khương thị dịu dàng, quyến rũ như thế. Hoàng hậu kỳ thực hiểu rất rõ Hoàng thượng thích loại mỹ nhân như thế nào, vậy nên mới có thể gãi đúng chỗ ngứa, một nhát trúng ngay. Thế rồi về sau, Hoàng thượng quả thực đã vô cùng xem trọng Quỳnh Quý nhân, do đó khi đột ngột mất đi mới bừng bừng nổi giận. Thần thiếp vô cùng khâm phục nương nương ở khả năng hiểu thấu lòng người, thần thiếp đúng là không thể nào sánh bằng.”

    “Thục phi khách sáo quá rồi. Bản cung cũng tự thẹn không có khả năng ứng biến khéo léo cùng phúc trạch sâu dày như Thục phi. Ngày đó, khi Khương thị sẩy thai, không ngờ muội muội lại có thể chối sạch trách nhiệm của mình trước mặt Hoàng thượng, bản cung tuy không được tận mắt nhìn thấy nhưng nghe Tiễn Thu về bẩm lại thì cũng có thể tưởng tượng ra được bản lĩnh mồm mép tép nhảy đó ghê gớm cỡ nào.”

    “Hoàng hậu nghĩ được như vậy quả là cái phúc của thần thiếp, hóa ra thần thiếp mồm mép tép nhảy cũng có thể phần nào an ủi nương nương, đã thế lại còn giúp nương nương không phải hao tổn tâm tư vì việc Tiểu viện sẩy thai nữa. Có điều, lần này nương nương tổn thất mất hai vị muội muội chẳng dễ gì tìm được, thần thiếp thì may mắn không bị kẻ gian hãm hại, suy đi nghĩ lại, cuối cùng chỉ biết cảm tạ cái ơn bảo bọc của nương nương thôi, đồng thời cũng thấy xót ruột thay cho nương nương nữa. Tính kĩ ra, trong phen làm ăn này, chỉ e nương nương đã phải chịu thua thiệt rồi.”

    Hoàng hậu mỉm cười hờ hững, đưa tay chỉnh lại vạt áo một chút. “Bản cung không phải là người làm ăn, không biết cách buôn bán, do đó cũng không rõ thế nào là thua thiệt, thế nào là có lời. Nhưng Thục phi cần phải hiểu rõ, sống trên đời chớ nên vì mấy việc nhất thời mà đắc ý quá, bởi biến số luôn tồn tại ở khắp nơi, đặc là biệt là trong chốn hậu cung này, mà thời gian về sau thì vẫn còn dài lắm.”

    Tôi cười tươi, khom người hành lễ. “Hoàng hậu dạy dỗ rất phải, do đó không gặp gỡ Hoàng hậu một phen thì thần thiếp làm sao mà yên tâm đi ngủ được. Đúng như nương nương đã nói, thời gian về sau vẫn còn rất dài, vậy thần thiếp hôm nay xin được cáo lui trước, sau này sẽ lại tới thỉnh an nương nương.” Dứt lời, tôi liền ung dung cất bước rời đi.

    Nhưng vừa đi được mấy bước, tôi chợt nghe sau lưng vang lên một tiếng gọi nặng nề: “Hoàn Hoàn.” Tiếng gọi ấy lạnh lùng vô hạn, dường như chất chứa rất nhiều nỗi oán hận bên trong, tất cả đều tập trung vào hai chữ ngắn ngủi.

    Tuy bây giờ đang là mùa hè nhưng tôi vẫn bị sự lạnh lùng trong tiếng gọi ấy làm cho phải rùng mình một cái, tuy biết rõ người nàng ta gọi chưa chắc đã là mình nhưng vẫn không kìm được dừng chân lại, lộ vẻ trù trừ.

    Hoàng hậu cất tiếng cười sắc như dao, nói gằn từng từ: “Bao nhiêu năm nay, cô cho rằng hai tiếng “Hoàn Hoàn” ấy là gọi cô sao?”

    Tôi chẳng hề động đậy, chỉ cụp mắt nhìn những đường hoa văn nơi váy của mình, thấy những sợi chỉ trên đó dày đặc biết bao. Chúng tựa như đang quấn chặt lấy trái tim tôi, càng lúc càng chặt, cuối cùng khiến tim tôi trở nên tê dại, trong sự tê dại lại sinh ra những tia lạnh lẽo tột cùng.

    Tôi xoay người lại, đột ngột ngẩng đầu lên nhìn Hoàng hậu chăm chú, bên khóe môi dần xuất hiện một nụ cười ngọt ngào và dịu dàng vô hạn. “Ta biết chứ!”

    Nàng ta khẽ cười lạnh lùng. “Cô quả nhiên biết rõ.”

    “Đó không phải là ta, cũng không phải là cô. Trong chốn hậu cung này, trước giờ chưa từng có ai khác, chỉ có một mình cô ta thôi. Trong lòng y cũng là như thế, và mãi mãi sẽ là như thế, không bao giờ thay đổi.” Giọng của tôi không lớn, thế nhưng lại đủ để Hoàng hậu có thể nghe thấy rõ ràng từng lời. Hoàng hậu không kìm được rùng mình một cái, cố giữ bình tĩnh, nói: “Bản cung không giống với các cô, bản cung là hoàng hậu, là mẫu nghi thiên hạ!”

    “Hoàng hậu thì sao chứ? Mẫu nghi thiên hạ thì sao chứ? Trong chốn hậu cung này, tất cả nữ nhân đều phải tranh đấu với nhau, dùng tâm cơ để tranh đấu, dùng thời gian để tranh đấu, thậm chí là dùng tính mạng để tranh đấu, không có ai là ngoại lệ. Cô cho rằng chúng ta có thể thắng được sao? Nhầm rồi, tất cả mọi người đều sẽ thua thôi, chẳng có chút cơ hội thắng nào cả. Dù chúng ta có tranh đấu quyết liệt đến thế nào đi chăng nữa thì cũng chỉ thắng được những người sống mà thôi, làm sao mà đấu lại người đã chết, do đó chúng ta vĩnh viễn không phải là đối thủ của Thuần Nguyên Hoàng hậu.” Nụ cười bên khóe môi tôi trở nên cứng đờ, hệt như một bông hoa úa tàn giữa gió thu. “Kỳ thực đạo lý này Hoàng hậu còn hiểu rõ hơn ta, tội gì phải dối mình dối người thêm nữa.”

    Hoàng hậu giống như đã bị rút cạn sức lực toàn thân, cơ thể trở nên mềm nhũn, cứ thế ngồi đờ đẫn trên chiếc sạp quý phi.

    Tôi nhìn chằm chằm vào Hoàng hậu. “Ta rất giống cô ta sao?”

    Ánh mắt nàng ta tức thì trở nên lạnh giá như băng sương tháng Chạp, dường như muốn khiến tôi đông cứng lại. Tôi và nàng ta, hai nữ nhân hiển hách nhất trong hậu cung Đại Chu rộng lớn, cứ thế nhìn vào nhau suốt một hồi lâu, cuối cùng nàng ta khẽ lắc đầu. “Hai người không hề giống nhau, có điều chỉ cần cô đứng đó là liền khiến người ta liên tưởng đến cô ta.”

    Tôi gượng cười buồn bã. “Nhưng, ta không phải là cô ta.”

    Hoàng hậu khẽ gật đầu, chiếc vòng vàng đeo trên cổ tay phản chiếu ra muôn vàn tia lạnh lẽo dưới ánh trăng. Nàng ta thoáng lộ vẻ mỏi mệt, xoay người quay lưng về phía tôi, hờ hững nói: “Bản cung phải ngủ rồi, nếu không ngủ đủ giấc mỗi đêm thì làm gì có tinh thần mà ngày ngày nhìn Thục phi cười tươi như hoa nở chứ!”

    Suốt mấy ngày liền, Huyền Lăng thưởng cho tôi rất nhiều thứ kỳ trân dị bảo để lấy lòng, đã thế hôm nào cũng bảy, tám bận phái Lý Trường tới hỏi thăm tình hình sức khỏe của tôi. Tôi lần nào cũng chỉ hờ hững ứng phó, chẳng để tâm tới y lắm. Lý Trường rốt cuộc không chịu được phải cất tiếng van nài: “Nương nương hãy coi như thương lấy nô tài đi mà! Nô tài còn có việc khác phải làm, thế mà hôm nào cũng liên tục bị Hoàng thượng phái tới đây, quả thực là không chịu nổi nữa rồi.”

    Tôi chậm rãi xúc từng thìa tổ yến lên ăn, tới khi ăn xong mới cười, nói: “Lời này ngươi nên về nói với Hoàng thượng ấy. Bản cung cũng đâu muốn một ngày bảy, tám bận nhìn cái bộ dạng cau có, sầu khổ này của ngươi.”

    “Nô tài đâu dám chứ!” Lý Trường khẩn khoản van nài. “Nương nương cứ né tránh không chịu gặp Hoàng thượng, thế là mỗi lần nhìn thấy nô tài, Hoàng thượng đều hỏi han đủ điều.”

    “Vậy ngươi hãy đi bẩm với Hoàng thượng là không cần phải tốn công ban thưởng nhiều đồ như thế làm gì, bản cung chẳng thích thứ nào cả, đang định đem trả lại hết đây.”

    Lý Trường nhăn mặt, nói: “Vậy thì lại càng không ổn. Nếu ngay đến chút việc nhỏ này mà nô tài cũng không làm cho ra hồn được, Hoàng thượng nhất định sẽ giết nô tài mất.”

    Tôi không kìm được bật cười khúc khích, nói: “Hoàng thượng xem trọng bản cung như thế không có gì là sai, nhưng Anh Tần cũng đang có thai, chỉ e nàng ta sẽ khó chịu đấy.”

    Ngay ngày hôm sau, ý chỉ tấn phong cho Anh Tần đã được truyền khắp lục cung. Vì có thai nên theo lệ, Giang Thấm Thủy được thăng lên một cấp, trở thành uyển nghi tòng tứ phẩm đứng đầu trong ngũ nghi, ngoài ra còn được dọn khỏi Ngọc Bình cung đến ở riêng tại Phương Tâm viện để dưỡng thai.

    Hôm ấy ngủ trưa dậy, tôi đi tắm với nước hoa hồng, hương thơm lưu lại trên người mãi không tan, sau đó lại tranh thủ lúc rảnh rỗi mà tới Phương Tâm viện thăm Giang Uyển nghi một chút. Phương Tâm viện và Không Thúy điện của Trinh Phi chỉ cách nhau chừng trăm bước chân, cách chỗ của Hân Phi cũng gần, là một nơi cực kỳ trang nhã, thanh tịnh.

    Khi tôi tới Phương Tâm viện thì vẫn là buổi chiều, cái nóng nực của mùa hè đã bị giàn tử đằng phương chỉ bát ngát bên trong ngăn hết lại, nơi này như biến thành một vùng trời đất riêng mang tới cho người ta cảm giác cực kỳ thư thái, đến mấy tia nắng hiếm hoi xuyên qua kẽ lá chiếu xuống cũng chứa chan vẻ dịu dàng vô hạn. Tôi cười, nói: “Chẳng trách lại được gọi là Phương Tâm viện, hóa ra những chỗ tốt đều ở cả trên giàn tử đằng phương chỉ này.”

    Người ra ngoài nghênh đón tôi là Bích Hy, thị nữ hầu cận của Thấm Thủy. Thị vốn từng hầu hạ các vị thái phi nên được việc vô cùng, nghe tôi nói thế bèn tươi cười tiếp lời ngay: “Dạ phải đấy. Trước khi dọn tới đây nô tỳ từng hỏi thái y rồi, thái y nói giống tử đằng này có công hiệu ngưng thần tĩnh khí, rất có ích cho việc dưỡng thai, xét ra lần này thực sự phải cảm tạ Hoàng thượng và nương nương rất nhiều.”

    Tôi bám tay thị đi vào, ôn tồn hỏi: “Tiểu chủ nhà ngươi đâu?”

    Thị thoáng lộ vẻ âu lo. “Sau khi có thai, tiểu chủ nhà nô tỳ vẫn luôn buồn bã không vui, bây giờ đang chơi đùa với con vẹt ở trong kia. Nương nương hãy khuyên tiểu chủ một chút đi, cứ tiếp tục thế này, chỉ e thai nhi sẽ bị ảnh hưởng mất.”

    Tôi cất giọng nghi hoặc: “Có phải là vì nhớ nhà không?”

    “Nô tỳ không rõ, nhưng hình như không giống lắm.” Bích Hy rầu rĩ nói.

    “Được rồi!” Tôi ôn tồn an ủi. “Trong cung vốn có nhiều chuyện thị phi, tiểu chủ nhà ngươi khó tránh khỏi có chỗ nào đó không vừa ý, đợi lát nữa bản cung sẽ khuyên nhủ nàng ta.”

    Thế rồi Bích Hy bèn lẳng lặng dẫn tôi đi vào. Trong sân lúc này vô cùng tĩnh lặng, một con hạc đầu đỏ đang đứng co chân ngủ say dưới bụi chuối xanh um. Dưới hành lang có đặt những chậu hoa đúng mùa, đa phần đều trắng ngần, tao nhã và tỏa hương thơm nức. Trong chiếc vại sứ hoa xanh có mấy bông sen hồng vừa nở, phía dưới là mấy chú cá vàng mắt đỏ, đuôi to bơi lội tung tăng, trông vô cùng vui mắt. Giang Uyển nghi hôm nay vận một bộ đồ gấm thêu hoa, mái tóc búi cao trên đầu, đang ngồi tựa vào hàng lan can mà ngẩng đầu ủ dột chơi đùa với con vẹt lông vàng mỏ đỏ hoạt bát trên chiếc giá mạ vàng.

    “Uyển nghi.” Tôi khẽ cất tiếng gọi.

    Nàng ta không ngờ tôi lại tới đây, hoang mang ngoảnh đầu nhìn qua, bên má vẫn còn vương dấu lệ chưa kịp lau. Tôi bất giác thầm sinh lòng nghi hoặc nhưng vẫn mỉm cười, đi tới ngồi xuống bên cạnh nàng ta. “Nỗi riêng muốn ngỏ sự tình, thấy con anh vũ bên mình lại thôi[41]. Muội muội sau này đừng như vậy nữa. May mà là bản cung, chứ nếu để người khác nhìn thấy thì ắt sẽ sinh ra rất nhiều chuyện thị phi đấy.”

    [41] Trích Cung trung từ, Chu Khánh Dư. Dịch thơ: Nguyễn Hữu Bông. Nguyên văn Hán Việt: Hàm tình dục thuyết cung trung sự, anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn - ND.
    Nàng ta vội đưa tay lau khô nước mắt, gượng cười, nói: “Đa tạ nương nương quan tâm, tần thiếp đúng là bất cẩn quá!”

    Tôi vừa đưa mắt quan sát nơi ở mới của nàng ta vừa khẽ hỏi: “Muội ở nơi này thấy quen chứ? Các cung nhân hầu hạ có chu đáo không? Phía phủ Nội vụ thì thế nào?”

    Nàng ta cúi đầu, dè dặt đáp: “Có nương nương chiếu cố, lại được Hoàng thượng quan tâm, mọi việc đều ổn cả.”

    “Nếu mọi việc đều ổn, tại sao muội muội còn thương tâm như thế?”

    “Đâu có!” Nàng ta cười trừ che đậy. “Tần thiếp chỉ nhớ người thân đấy thôi.”

    “Vậy sao?” Tôi nhìn nàng ta chăm chú, làm bộ vô ý nói: “Sáng nay ta vừa đi thỉnh an Trang Hòa Đức thái phi, vốn định mời người nhà của muội muội vào cung bầu bạn, ai ngờ thái phi lại nói cho ta hay muội muội là trẻ mồ côi vào phủ từ nhỏ, trong nhà không còn ai thân thích, chẳng rõ người thân mà muội muội nhớ là ai vậy?”

    Nàng ta cả kinh, sắc mặt tức thì tái nhợt chẳng còn chút huyết sắc. “Bởi vì người thân mất sớm, do đó... do đó tần thiếp mới càng thêm nhớ.”

    Tôi đưa tay xoa nhẹ trán nàng ta, dịu dàng nói: “Chắc muội muội sợ quá nên thần chí có chút hồ đồ rồi, ăn nói thực là bừa bãi, lung tung quá!” Hơi dừng một chút, tôi nhìn nàng ta bằng ánh mắt thăm dò. “Việc này kỳ thực phải trách cái đám Vũ lâm lang kia, đến bảo vệ chu toàn cho muội muội thôi mà cũng không làm được, khiến muội muội chẳng thể yên tâm.”

    “Nương nương nói gì vậy?” Nàng ta đột ngột đứng dậy, sợ hãi mở to đôi mắt, cố sức rặn ra một nụ cười. “Nương nương nói cái gì mà Vũ lâm lang thế, tần thiếp nghe mà chẳng hiểu gì cả.”

    Tôi ngó thấy xung quanh không có ai, bèn thu lại nụ cười, nói: “Mấy hôm trước ta có nghe Xuân Tần kể lại, rằng sau khi muội muội có thai thì Vũ lâm lang trong cung tỏ ra tận tâm vô cùng, thường xuyên đi tuần bên ngoài Ngọc Bình cung. Xuân Tần nói mình hẹp dạ, còn ngỡ là Hoàng thượng đặc biệt dặn dò, do đó vô cùng ngưỡng mộ. May mà nàng ta không đem lời này đi hỏi Hoàng thượng, bằng không chưa biết chừng Hoàng thượng lại sinh lòng nghi hoặc, bởi ngài nào có từng ban ra ý chỉ như thế. Do đó bản cung đành nhận lấy việc này về mình, nói với Xuân Tần là bản cung đã dặn dò bọn họ. Tất nhiên xét kĩ ra, bản cung kỳ thực đã gánh nỗi oan ức vào người, muội muội nói xem có đúng vậy không?”

    Giang Uyển nghi tím tái mặt mày, một lát sau thì lại trở nên tái nhợt, thấp giọng nói: “Tần thiếp không rõ.”

    “Muội tất nhiên là không rõ rồi.” Tôi vừa nói vừa đưa tay giúp nàng ta gạt mấy sợi tóc rối ra sau tai. “Nếu muội mà biết việc này thì hôm đó đã chẳng cần tới Thượng Lâm uyển đưa mắt ngó nghiêng khắp nơi để tìm người như thế, cứ ra ngoài cung của mình là sẽ nhìn thấy y ngay chứ có gì đâu.”

    Giang Uyển nghi kinh hãi lùi về phía sau liền hai bước. “Làm sao nương nương biết được?”

    Tôi đặt tay lên đầu gối, cất giọng ung dung: “Một người nếu đã phát hiện ra manh mối rồi nảy lòng nghi ngờ và quyết tâm đi điều tra thì sẽ chẳng quá khó khăn để tìm ra chân tướng, huống chi đôi mắt của con người ta thường dễ bán đứng tâm tư thật sự của mình. Muội còn nhớ hôm lục Vương gia đưa Tĩnh phi vào cung thỉnh an không, vị Vũ lâm lang nấp phía sau cây sồi xanh mà muội cứ ngẩn ngơ nhìn đó rốt cuộc là ai vậy?”

    Giờ đang là cuối tháng Bảy, thời tiết nóng nực vô cùng, bầu trời trên Tử Áo Thành cũng vô cùng tịch mịch, đến lũ bồ câu trắng cũng uể oải chẳng muốn bay lượn. Lúc này đây, bên dưới bầu trời xanh biếc muôn dặm không một gợn mây, mồ hôi lạnh trên người Giang Uyển nghi cứ thế tuôn ra không ngừng.

    “Phương Tâm viện mà Hoàng thượng chọn cho muội muội vốn mát mẻ, sảng khoái, muội muội không đến mức ra nhiều mồ hôi như vậy chứ? Còn về việc người đó là ai, không cần muội muội phải nói với bản cung thì bản cung cũng biết rồi, và bản cung còn biết là nên xử lý việc này như thế nào nữa.” Tôi phất tay áo rời đi. “Muội muội hãy trông chừng đôi mắt cùng cái miệng của mình cho tốt rồi yên tâm dưỡng thai, những việc khác đừng để ý đến làm gì.”

    Vì Giang Uyển nghi vốn ưa yên tĩnh nên có rất ít cung nhân hầu hạ xung quanh, thậm chí ngay đến lũ ve sầu ở gần đó cũng đều đã bị cung nhân dùng gậy dính keo bắt đi hết sạch. Quang cảnh tĩnh lặng lúc này quả thực là kỳ lạ vô cùng, chẳng giống như đang ở trong Tử Áo Thành náo nhiệt chút nào.

    “Nương nương, nương nương!” Nàng ta nhoài người tới nắm chặt lấy áo tôi, hai hàng lệ nóng bất giác chảy dài. “Tần thiếp cầu xin người, cầu xin người đừng giết Lục Ly, đừng! Đừng mà! Tần thiếp nhất định sẽ trông chừng đôi mắt và cái miệng của mình thật tốt, nương nương yên tâm! Nhưng xin nương nương đừng giết y, tần thiếp biết sai rồi mà!” Nàng ta đau khổ khóc rống lên, ánh mắt ngợp nỗi đau thương như một con hươu nhỏ sắp chết. “Tần thiếp biết là mình vô dụng, có lúc không kìm được muốn đi thăm y, nhưng tần thiếp thật sự không cố ý đâu, tần thiếp sợ lắm, sợ lắm... Bấy lâu nay tần thiếp đã phải một mình giữ kín bí mật này, vô cùng vất vả! Nương nương...” Nàng ta đột nhiên sợ hãi cúi đầu xuống, hai mắt nhìn chằm chằm vào bụng mình, không nói gì thêm nữa, chỉ rơi nước mắt không thôi.

    Tôi vốn còn ôm lòng nghi hoặc, nhưng nhìn thấy nàng ta như vậy thì đột ngột hiểu rõ nguồn cơn. Tôi hoàn toàn không dám tin vào sự thực này, tức thì không chút do dự kéo nàng ta đứng dậy, đi vào nội đường.

    Nội đường của Phương Tâm viện được bài trí hết sức trang nhã, trên chiếc bàn dài bên dưới cửa sổ có đặt đầy những thứ đồ châu ngọc quý báu do Huyền Lăng ban tặng, đột ngột nhìn thấy ắt sẽ làm người ta lóa mắt. Nhưng những món đồ đó đều nằm yên một chỗ, không có vẻ gì là từng được động đến cả.

    Trong nội đường vương vất mùi trầm hương, bức rèm thêu hoa buông thấp, đồ vàng đồ bạc bày khắp xung quanh, nhưng trái tim của Giang Thấm Thủy lại chẳng ở nơi này.

    Tôi vừa an tọa thì nàng ta đã quỳ sụp xuống trước mặt tôi mà bật khóc. Tôi không nén nổi nỗi kinh ngạc và sợ hãi trong lòng, nắm lấy cổ tay nàng ta, run giọng hỏi: “Đứa bé trong bụng muội...”

    Giang Uyển nghi thút thít nói: “Tần thiếp thật sự không cố ý đâu. Lục Ly và tần thiếp từ nhỏ đã lớn lên bên nhau trong cửu vương phủ, y là tùy tùng theo hầu việc bắn tên, tần thiếp thì là vũ cơ trong phủ. Tuy trước đây bọn tần thiếp chưa nói gì với nhau nhưng trong lòng cả hai đều hiểu rõ, chỉ cần không rời khỏi cửu vương phủ thì cuối cùng bọn tần thiếp ắt sẽ đến với nhau. Ai ngờ hai năm trước, y lại được giáo quan đưa vào trong cung làm Vũ lâm lang, từ đó tần thiếp liền biết rằng mình và y đã hết cơ hội rồi, bởi Vũ lâm lang vốn không thể qua lại với người trong vương phủ, càng đừng nói gì tới việc cưới vũ cơ trong vương phủ làm vợ. Không lâu sau thì Trắc phi của lục Vương gia tới các phủ bàn bạc việc chọn giai lệ đưa vào cung, cuối cùng tần thiếp đã được Đức thái phi chọn trúng. Mới vào cung chưa bao lâu thì tần thiếp đã gặp lại Lục Ly, khi đó y đã là Vũ lâm lang được Hoàng thượng nhìn trúng, phụ trách việc canh phòng trong nội thành của Tử Áo Thành. Tần thiếp không muốn làm ảnh hưởng tới tiền đồ của y, do đó chỉ đành một mực nhẫn nhịn, không trò chuyện gì với y. Thế rồi đêm đó tần thiếp vâng chỉ đến Nghi Nguyên điện thị tẩm, ai ngờ khi kiệu đi ngang qua vĩnh hạng thì nước đọng trong vĩnh hạng đã đóng thành băng rất dày, cả mấy gã thái giám khiêng kiệu cùng Bích Hy đều trượt ngã bị thương, ngay đến tần thiếp cũng bị trẹo chân, thành ra chẳng thể đi tìm ai nhờ giúp đỡ. Khi đó trời đông giá lạnh, tần thiếp lo Hoàng thượng mà không nhận được tin tức sẽ trách tội, lại sợ dù mình có tới được Nghi Nguyên điện thì cũng không thể thị tẩm, đang lúc nôn nóng thì chợt thấy Lục Ly đi tuần ngang qua. Y giúp tần thiếp nhờ người tới Nghi Nguyên điện bẩm báo với Hoàng thượng, mà thực ra khi đó Hủ Tần và Xuân Tần đã được triệu đến Nghi Nguyên điện thị tẩm rồi. Y lại nhờ thái giám trực đêm ở vĩnh hạng trông nom Bích Hy và mấy gã thái giám khiêng kiệu, sau đó thì cõng tần thiếp về Ngọc Bình cung để tìm thái y chữa trị. Lẽ ra thái y phải tới rất nhanh mới đúng, nhưng...”

    Tôi tiếp lời: “Ta nhớ là khi đó bệnh tình của Thái hậu đang tái phát, các thái y trong cung đều phải tới Di Ninh cung hầu hạ, không có ai rảnh rỗi cả.”

    “Dạ phải. Tần thiếp không dám tới Di Ninh cung quấy rầy Thái hậu, lại... thực sự lưu luyến quãng thời gian ngắn ngủi được ở bên y, do đó... do đó...” Nàng ta cụp mắt xuống, đôi bờ má vốn trắng nõn bất giác ửng đỏ như những bông hoa lựu bên ngoài cửa sổ kia, bên khóe môi thì thấp thoáng một nét cười như hối hận mà không hối hận, như thẹn nhưng lại hết sức mừng vui.

    “Muội điên rồi!” Lòng tôi thầm ủ rũ, khẽ cất tiếng thở dài.

    “Chỉ có duy nhất một lần thôi, duy nhất một lần đó thôi.” Nàng ta khẽ lẩm bẩm như đang nói mơ. “Nhưng lần đó tần thiếp không thể không điên được.”

    Chỉ có một lần thôi? Tôi cũng chỉ có một lần. My Trang, có lẽ cũng là như thế. Nhưng nếu không có lần đó, cuộc đời của tôi sẽ thành ra như thế nào? Một cái giếng khô? Một ao nước tù? Hay là những sự dằn vặt và hối hận vô cùng vô tận sau bao phen kiềm chế?

    Nhưng một lần đó, cũng có thể lấy đi tính mạng của người ta.

    Dõi mắt nhìn ra phía ngoài qua ô cửa sổ, vô số bông hoa lựu đỏ tươi như màu máu cùng lọt vào tầm mắt, tôi bất giác giật mình tỉnh táo trở lại.

    Nàng ta vẫn thấp giọng lẩm bẩm: “Tần thiếp cũng không ngờ được rằng sau lần đó mình lại có thai như thế.”

    Lòng tôi lúc này vô cùng hỗn loạn. “Muội có chắc không? Quãng thời gian đó muội thường xuyên được sủng hạnh, đứa bé này chưa biết chừng lại là của Hoàng thượng đấy.”

    “Tần thiếp không rõ nữa.” Nàng ta lúc này mơ mơ màng màng, ánh mắt ngợp vẻ ngơ ngẩn và mê ly. “Có lẽ là của Hoàng thượng, có lẽ là của Lục Ly, nhưng tần thiếp nghĩ là của Lục Ly.”

    “Y có biết gì về đứa bé này không?”

    Giang Thấm Thủy mở to hai mắt, không ngớt lắc đầu. “Y không biết! Y không biết gì hết cả!”

    Đứa bé này không thể giữ lại được. Lỡ như nó thật sự là của Lục Ly, vậy thì Ngọc Nhiêu, Huyền Phần, Đức thái phi, tôi, Lục Ly cùng Giang Thấm Thủy, tất cả chúng tôi đều sẽ bị nó hại chết. Tôi quyết không thể mạo hiểm được.

    “Muội mau ngậm miệng lại, đừng nhắc tới việc này với bất kỳ ai khác, cũng đừng gặp lại Lục Ly nữa.” Thấy nàng ta ngoan ngoãn gật đầu, tôi nói tiếp: “Chuyện của muội, thái phi cũng chỉ vô tâm thôi, bà ấy không hề biết nội tình. Bằng không thái phi vốn nhân hậu như thế, quyết không bao giờ đi chia rẽ uyên ương đâu.”

    Nàng ta cười gượng, lộ vẻ tột độ thê lương. “Đều tại tần thiếp và y không có duyên, tần thiếp không oán trách ai cả.” Tôi thở dài than: “Muội giờ đang có thai, chớ nên nghĩ nhiều nữa. Bản cung tự có tính toán.” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Muội yên tâm, ta sẽ không giết Lục Ly đâu.”

    Giang Thấm Thủy hai mắt đẫm lệ, rụt rè đáp “vâng” một tiếng.

    Nửa đêm trời nóng nực vô cùng, tôi ngồi dưới ánh nến mân mê mấy quân bài cửu, trong lòng tâm sự trùng trùng. Cận Tịch bưng một bát canh tổ yến nấu táo đỏ vẫn còn nóng hổi đi tới, ôn tồn nói: “Nương nương dù phiền lòng đến mấy thì cũng nên nghĩ tới thân thể của mình. Bữa tối người đã không ăn gì rồi, bây giờ hãy ăn một ít canh tổ yến lót dạ đi.”

    Mái tóc dài của tôi lúc này buông xõa, trên người chỉ mặc một chiếc áo ngủ mỏng manh, ruột gan đều như rối bời. “Ta không định nói chuyện này với Ngọc Nhiêu.”

    “Nương nương làm vậy là rất đúng, chuyện trong cung hãy giải quyết ở trong cung, không nên để cửu Vương gia và Vương phi lo lắng. Đức thái phi tuổi cũng lớn rồi, không cần phải biết mấy việc này làm gì.” Cận Tịch cầm thìa khuấy nhẹ bát canh tổ yến. “Mặc kệ thế nào đi chăng nữa thì đứa bé đó cũng có khả năng là của Lục Ly, lỡ như sau này lớn lên giống hệt Lục Ly thì thực là hỏng bét. Vả lại Hoàng thượng không phải là kẻ ngốc, rồi sẽ có một ngày biết được chân tướng thôi.”

    Tôi khẽ thở dài một tiếng, không nói năng gì. Cận Tịch hỏi: “Nương nương vẫn chưa thể hạ quyết tâm ư?”

    Tôi đưa tay khẽ xoa bụng mình. “Ta bỗng dưng lại nhớ tới đứa bé không thể chào đời khi trước, lũ trẻ con trong cung đều chẳng dễ gì sống được.”

    “Lũ trẻ bạc mệnh cũng được, mà bị người ta hãm hại thì cũng thế thôi.” Cận Tịch thở dài than. “Việc Khương Tiểu viện mất con đã bị cho qua một cách không rõ ràng rồi, nếu như điều tra cẩn thận, bên phía Hoàng hậu...”

    Tôi thầm cảm thấy căm hận, trầm giọng nói: “Kỳ thực dù không phải Hoàng hậu làm thì cũng có thể nói là Hoàng hậu làm được, chẳng qua chỉ thiếu một cơ hội mà thôi.” Rồi tôi thấp giọng dặn dò Cận Tịch: “Hãy chuẩn bị sẵn một ít thuốc trụy thai đi, tuyệt đối không thể lưu hậu hoạ lại nữa rồi.”

    Mí mắt Cận Tịch bất giác nảy lên một cái, cúi đầu đáp “vâng”. Tôi chậm rãi ăn tổ yến, kỳ thực chẳng thể cảm nhận được chút mùi vị nào.

    Đêm dần khuya, cơn lạnh tựa như dòng nước từ từ phủ lên thân thể, nhưng tôi vẫn chẳng cảm thấy buồn ngủ chút nào, Cận Tịch thì ngồi bên cạnh nhẹ nhàng phe phẩy quạt cho tôi. Ngoài cửa sổ, vầng trăng thanh khiết đang chiếu xuống những tia sáng êm đềm, gốc cây to gần đó lẳng lặng đổ bóng lên chiếc màn gấm thêu hoa tạo ra vô số đường cong uốn lượn, giống hệt như nỗi ưu phiền trong lòng tôi lúc này.

    Đột nhiên, một tiếng trẻ con khóc vang lên giữa màn đêm tĩnh lặng. Tôi giật mình trở dậy, nhìn thấy một đứa bé mặc áo ngủ màu trắng, đi chân trần chạy vào trong điện. Nó nhanh chóng nhào vào lòng tôi, để lộ mấy chiếc răng sữa mà khóc lớn. “Mẫu phi! Mẫu phi!”

    Là Dư Nhuận. Tôi xót xa quàng tay ôm thằng bé vào lòng, ôm thật chặt. Nhũ mẫu đi theo sát phía sau, trên mặt đầy vẻ lo lắng. “Bẩm nương nương, tiểu điện hạ lại vừa gặp ác mộng.”

    Tôi gật đầu, để Nhuận Nhi nằm xuống bên cạnh mình mà dịu dàng ru nó ngủ. Thằng bé vẫn còn nhỏ, quyến luyến tôi vô cùng, đầu gối lên khuỷu tay tôi, bàn tay nhỏ nhắn nắm chặt lấy ngón tay tôi. Tôi bất giác lại càng xót thương, cúi đầu khẽ hôn lên trán thằng bé một cái, đưa tay với lấy một chiếc khăn, giúp nó lau sạch mồ hôi.

    Sinh mệnh nhỏ nhắn này chính là hiện thân của My Trang, người tỷ muội thân thiết nhất của tôi trên cõi đời này.

    Suốt cả đêm ấy tôi không ngủ, lặng im để thằng bé nằm trong lòng mình.

    Sáng sớm hôm sau, hai mắt tôi đều đã thâm quầng, Hoa Nghi vừa trang điểm cho tôi vừa xót xa nói: “Nương nương giờ đang có thai, sao có thể không để ý tới thân thể của mình như vậy được chứ!”

    Trang điểm xong xuôi, tôi liền đi thỉnh an Thái hậu, sau đó lại tới Phương Tâm viện lần nữa.

    Giang Thấm Thủy lúc này đang thấp thỏm bất an, được Bích Hy cố gắng kéo đi chải chuốt trang điểm. Nhìn thấy tôi, nàng ta lộ rõ vẻ hoang mang, thiếu chút nữa thì đánh rơi chiếc lược trong tay xuống đất. Bích Hy cười, nói: “Tiểu chủ đã sắp làm mẹ rồi, thế mà tay chân vẫn còn lóng ngóng quá chừng.”

    Giang Thấm Thủy xua tay đuổi tất cả người dưới ra ngoài: “Các ngươi ra ngoài đi, ta với Thục phi nương nương nói chuyện một lát.”

    Tôi đi vào nội đường rồi ngồi xuống, không nói một lời. Giang Thấm Thủy vô cùng thấp thỏm, chỉ biết vô thức đưa tay tới giữ trước bụng, rụt rè gọi khẽ: “Nương nương.”

    Tôi dằn lòng lại, đi thẳng vào vấn đề, lấy một gói thuốc trụy thai đã được chuẩn bị sẵn ra đưa tới trước mặt nàng ta. Hôm nay móng tay của tôi được sơn màu đỏ sậm, nhìn hệt như màu máu khô, xung quanh dường như còn có mùi máu tanh thấp thoáng.

    Tôi trầm giọng nói: “Uống thứ này vào rồi, muội sẽ vĩnh viễn không còn phải phiền não gì nữa.” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Còn về đứa bé, chờ sau này muội sẽ có thai lại thôi.”

    Nàng ta cả kinh thất sắc. “Tại sao?”

    Tôi không muốn nhiều lời với nàng ta, chỉ nói ngắn gọn: “Nếu đứa bé này là của Hoàng thượng thì không sao, nhưng muội hãy nhìn xem, trong chốn hậu cung này có bao nhiêu đứa bé có thể sống sót? Vả lại lỡ như đứa bé này là của Lục Ly, sau này lớn lên lại giống y như đúc, muội thử đoán xem, liệu sẽ có bao nhiêu người phải bỏ mạng vì nó đây?”

    Nàng ta bất giác run lên lẩy bẩy, không dám đưa tay tới cầm, thậm chí còn không dám mở mắt ra nhìn gói bột đó. Tôi cau mày lại, nói: “Đây là hồng hoa thượng hạng, uống vào rồi chỉ đau một lát là sẽ ổn thôi. Đau dài không bằng đau ngắn.”

    Giang Thấm Thủy khóc lóc bi thương tột độ, đau khổ van nài: “Nương nương, xin đừng giết đứa bé này.”

    Lồng ngực tôi tràn ngập cảm giác bức bối khó tả, đầu óc rối bời từng cơn. Tôi ngoảnh đầu qua một bên, trầm giọng nói: “Bây giờ muội còn khóc được thế này, nhưng chờ đến khi đứa bé được sinh ra, chỉ e muội chẳng còn sức mà khóc nữa đâu.” Khẽ thở hắt ra mấy hơi, tôi nói tiếp: “Cửu vương phủ đối xử với muội không tệ, muội thật sự muốn khiến tất cả mọi người ở đó bị liên lụy đến chết ư?”

    Giang Thấm Thủy kinh hãi ngừng khóc, yếu ớt gục đầu xuống, bàn tay nắm chặt lấy gói bột kia, dường như muốn dùng hết sức lực toàn thân để bóp nát nó. Suốt một hồi lâu, thời gian như ngừng lại, bầu không khí trở nên ngột ngạt vô cùng khiến người ta không sao thở nổi.

    Tôi bình tĩnh nói: “Chỉ cần bỏ đứa bé này đi, bản cung có thể đảm bảo rằng muội sẽ không việc gì, Lục Ly cũng sẽ không việc gì. Y sẽ vẫn là Vũ lâm lang tiền đồ vô lượng, còn muội thì vẫn là sủng phi của Hoàng thượng, là mẹ của những vị hoàng tử, công chúa sau này.”

    Giang Thấm Thủy đau khổ suy nghĩ, gân xanh trên huyệt thái dương nổi rần rần không ngớt, cuối cùng run rẩy cúi đầu mở gói giấy kia ra, bên trong là một thứ bột rất mịn được nghiền thành từ những cánh hoa khô màu nâu vàng, chính là hồng hoa thượng hạng của Tây Vực. Nàng ta đột ngột nhắm mắt lại, đưa gói giấy đó lên bên miệng chuẩn bị dốc cả vào, thế nhưng chỉ sau khoảnh khắc lại bất ngờ vứt nó xuống đất, tạo thành một mảng loang lổ.

    Giang Thấm Thủy cố nén khóc, sắc mặt lộ rõ vẻ kiên nghị. “Thục phi, tần thiếp sẽ không bao giờ gặp lại Lục Ly nữa, cũng sẽ không bao giờ mềm yếu khóc lóc để người khác nghi ngờ nữa. Tần thiếp sẽ thật cẩn thận, xin người hãy để tần thiếp được sinh đứa bé này ra. Tần thiếp thật sự nguyện không gặp lại Lục Ly nữa, cũng nguyện phải sống những tháng ngày còn tịch mịch, hiu quạnh hơn Trinh Phi, dù bắt tần thiếp phải tới lãnh cung cũng được, nhưng xin người hãy cho tần thiếp được giữ đứa bé này lại. Nó là con của Hoàng thượng cũng tốt, là con của Lục Ly cũng tốt, tần thiếp không thể mất nó được.”

    Tôi đưa giày tới giẫm lên gói bột rơi vung vãi dưới đất kia, nhẹ nhàng cất tiếng hỏi: “Muội thật sự làm được chứ?” Nàng ta gật đầu, một cái gật đầu nặng nề vô hạn, thế nhưng ẩn bên trong đó là một sự kiên định không gì lay chuyển được.

    “Coi như muội đã hiểu phải sống thế nào trong cung, vậy bản cung cũng không làm khó muội nữa.” Tôi đặt ngón tay trỏ lên môi nàng ta mà ấn nhẹ. “Cho đến khi muội chết già trong cung, bí mật này nhất quyết đừng để cho người thứ ba nào biết.”

    Hai hàng lệ nóng lặng lẽ tuôn rơi, nàng ta lại gật đầu lần nữa.

    Tôi bất giác thở phào một hơi nhẹ nhõm, chậm rãi nói tiếp: “Người đó không thể ở lại trong cung làm Vũ lâm lang nữa, bằng không hôm nào đó hai người mà không nén được tình cảm, e là không chỉ bản cung mà đến Đức thái phi và tất cả người trong cửu vương phủ cũng sẽ bị liên lụy. Muội yên tâm, bản cung đã nói là sẽ không lấy tính mạng y thì ắt sẽ không lấy tính mạng y, nhưng muội cũng phải nhớ lấy lời đã hứa với bản cung đấy. Muội nên biết nơi này là Tử Áo Thành, chớ để chuyện tình cảm trai gái làm ảnh hưởng tới bản thân và người khác.”

    Nàng ta im lặng, bên khóe mắt còn vương một giọt lệ long lanh.

    Cận Tịch đứng chờ tôi bên ngoài Phương Tâm viện, thấy tôi đi ra mà phía trong kia lại không có động tĩnh gì thì thầm thở phào một hơi.

    “Nương nương đã xử lý ổn thỏa chuyện này chưa?” Nàng ta lén cất tiếng hỏi tôi.

    Tôi biết là nàng ta không yên tâm, bèn đáp: “Có ổn thỏa hay không thì phải chờ xem số phận của nàng ta sau này.” “Vậy gói hồng hoa đó...” Nàng ta hỏi dò.

    Tôi tiện tay hái một bông sơn chi trắng muốt bên đường đưa lên mũi ngửi. “Thực đáng tiếc cho gói hồng hoa thượng hạng mà ngươi tìm cho ta, kỳ thực trước khi ra khỏi cửa, ta đã đổi nó thành một gói bột hoa nhài rồi, cho dù nàng ta có dằn lòng ăn sạch thì cũng sẽ chỉ làm cho da dẻ mịn màng hơn thôi.”

    Cận Tịch tò mò hỏi: “Tại sao nương nương lại đột nhiên không đành lòng như thế vậy?”

    Tôi chỉ khẽ mỉm cười. “Cả đêm qua ta ôm Nhuận Nhi trong lòng, bỗng dưng rất nhớ mẹ nó.”

    “Nhưng Giang Thấm Thủy không phải là Thẩm My Trang.”

    “Ta biết chứ, có điều xét cho cùng nàng ta và ta cũng là những người có chung cảnh ngộ, ta thực có chút không đành lòng.”

    Cận Tịch vẫn chưa hết âu lo. “Nhưng vì việc của Quỳnh Quý nhân lần trước mà nương nương đã bị hoài nghi suốt mấy tháng rồi, lần này làm vậy e là có chút mạo hiểm.”

    “Việc này kỳ thực còn phải cảm ơn Hoàng hậu một phen.” Tôi cười lạnh, nói: “Cứ coi như là ta giận dỗi cũng được, không đành lòng cũng được. Nếu không vì cô ta vừa gài bẫy ta như thế, ta làm sao dám làm ra một việc còn đáng tội hơn lời cô ta nói gấp cả chục lần thế này.” Rồi tôi lại dặn dò Cận Tịch: “Hãy nghĩ cách điều Lục Ly đi khỏi Tử Áo Thành, còn về việc điều đi đâu thì chỉ có hai chúng ta biết với nhau là được rồi.”

    Cận Tịch đáp “vâng” một tiếng, cùng tôi chậm rãi về cung. Vừa khéo lúc này Huyền Lăng tan buổi chầu sớm trở về, thấy tôi và Cận Tịch dắt tay nhau bước đi thì không kìm được vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. “Độ này nàng cứ né tránh trẫm suốt, trẫm thật sợ nàng vừa nhìn thấy trẫm là lại tức giận.”

    Tôi đưa mắt lườm y một cái. “Ai thèm giận tứ lang chứ, làm như thế thật chẳng đáng chút nào.”

    Y cười tươi, ôm chặt tôi vào lòng. Tôi dõi mắt nhìn về phía Phương Tâm viện lúc này đã bị vô số cây cối che khuất, khẽ thở dài một tiếng, lẳng lặng nhắm hai mắt lại.

    Năm tháng sau, Giang Thấm Thủy thuận lợi sinh hạ một bé gái, được ban cho phong hiệu Hoài Thục Công chúa, tính ra đây chính là cô con gái thứ sáu của Huyền Lăng. Lúc này tuyết trắng bay khắp trời, nàng ta ôm con gái trong lòng mừng đến phát khóc, còn Lục Ly thì đang canh phòng ở Quán Lâm hành cung cách đó mấy trăm dặm, hai bên không còn qua lại gì với nhau. Tất nhiên, đó là chuyện về sau.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 33: Oanh hót mộng kinh hồn [42]
    [42] Trích Trường Môn oán kỳ 1, Vương Trinh Bạch. Nguyên văn Hán Việt: Oanh đề kinh mộng hồn - ND.

    Sau khi sang tháng Tám, trời rốt cuộc đã không còn nắng chói chang nữa, bắt đầu có những cơn mưa rả rích, thời tiết trở nên mát mẻ, dễ chịu vô cùng. Không ngờ mùa thu mới thoắt đó đã lại đến, thực khiến người ta không kìm được có chút cảm khái vì thời gian chẳng chịu đợi ai.

    Lúc này tôi đang nằm nghiêng người trên chiếc sạp được kê ra ngoài sân mà tán gẫu với Đức phi và Đoan Quý phi vừa tới viếng thăm, còn Cận Tịch thì đứng phía ngoài giúp tôi ngăn các phi tần khác lại, không để ai đi vào quấy rầy chúng tôi. “Thục phi nương nương rất mệt, giờ đang nghỉ ngơi trong nội điện, sợ là trong thời gian ngắn không thể gặp các vị nương nương, tiểu chủ được đâu.”

    Hoa Nghi ngồi trên ghế, cầm búa đập vỏ quả hạch đào, Đức phi mỉm cười cầm một quả lên cậy vỏ ăn, nói: “Muội thì được thoải mái rồi, chỉ khổ cho Cận Tịch phải ở bên ngoài ứng phó thay muội thôi.”

    Tôi ngả người tựa vào chiếc gối mềm sau lưng, uể oải nói: “Muội thật sự rất sợ phải nhìn thấy những người đó, rõ ràng là vô cùng ghen tị, thế mà lại cứ chúi đến tươi cười hỏi nọ hỏi kia, quá là giả dối.”

    Đức phi đưa tay tới giúp tôi gài lại góc chăn, dịu giọng nói: “Chẳng trách muội lại cảm thấy không thoải mái, nếu gặp phải những chuyện như muội trong thời gian vừa qua, bất kể là ai cũng sẽ đều như vậy cả thôi. Hoàng thượng quả thực đã khiến muội phải chịu ấm ức rồi.”

    Tôi giữ bàn tay nàng ta lại, bật cười, nói: “Muội đâu có yếu đuối đến mức độ ấy, đã phiền tỷ tỷ phải nhọc lòng rồi.”

    Đoan Quý phi cũng khẽ cười. “Ngẫm lại muội đúng là có phúc thật đấy, vốn đã là mẹ của ba đứa con rồi, bây giờ lại có thêm cái thai này nữa, cho dù sau khi sinh ra, nó không phải hoàng tử mà chỉ là công chúa thôi thì địa vị của muội cũng vẫn sẽ như mặt trời chính ngọ, không ai có thể lay động được. Muội ngẫm lại mà xem, việc của hai vị cung tần kia đều có dính dáng đến muội, nếu không vì muội đã sinh được ba người con cho Hoàng thượng, chuyện này có thể dễ dàng gác qua một bên như vậy sao?” Giọng nàng ta thấp thoáng vẻ bi thương. “Nói gì thì nói, có con rồi thì việc gì cũng có chỗ mà nương tựa, cũng khó trách Hoàng hậu lại căm hận muội đến thế.”

    Chợt có tiếng cười trong trẻo từ chỗ không xa vọng lại, tôi đưa mắt nhìn đi, thấy Ôn Nghi đang cùng Lung Nguyệt chơi trò xếp hình, Dư Hàm thì tò mò ngồi xổm một bên nhìn hai vị tỷ tỷ loay hoay với những miếng gỗ, chỉ có Linh Tê là lẳng lặng ngồi trên đùi Đức phi, nghe chúng tôi trò chuyện, như hiểu mà lại như chẳng hiểu gì.

    Một làn gió nhẹ thổi qua, những bông hoa bên ngoài đều đã rụng, chỉ còn lại một rừng phong đỏ rực như đang thiêu đốt cả trời thu. Tôi mỉm cười nhìn cảnh những đứa nhỏ chơi đùa vui vẻ với nhau, cảm thấy thư thái vô cùng. Chợt trong lồng ngực cuộn lên cảm giác buồn nôn, tôi vội cầm một viên mứt hải đường lên bỏ vào trong miệng, hơi cau mày, nói: “Tay nghề của Hoa Nghi rốt cuộc vẫn không so được với Ngọc Ẩn, mứt hải đường này chẳng chua chút nào.”

    Hoa Nghi dừng tay lại, ngẩng đầu ấm ức nói: “Sao có thể như vậy được, vì nương nương chê không chua nên đây đã là lần ướp thứ ba rồi, nô tỳ thấy nó chua đến nỗi chẳng thể ăn nổi rồi đấy.”

    Đức phi cười tủm tỉm, nói: “Nữ nhân mang thai khẩu vị nặng cũng là chuyện bình thường thôi mà.” Dứt lời bèn cầm một viên lên ăn thử, vừa mới bỏ vào miệng đã không kìm được nhíu chặt đôi mày, vội vàng nhổ nó ra, lại cầm chén trà lên súc miệng, làu bàu nói: “Chua quá, chua quá!” Đức phi vốn là người đoan trang, nền nã, lúc này thất thố như vậy đủ thấy viên mứt hải đường đó chua đến mức nào. Tôi vội sai cung nữ mang mứt ngọt tới cho Đức phi, áy náy nói: “Thì ra là tại khẩu vị của muội nặng, thế mà lại trách nhầm Hoa Nghi, còn khiến tỷ tỷ phải khó chịu nữa.”

    Đức phi lúc này vẫn còn nhíu mày thật chặt, cứ xua tay không ngớt mà chẳng thể nói năng gì. Đoan Quý phi bật cười khúc khích, nói: “Nghe nói người nào mang thai hoàng tử khẩu vị mới nặng, mà khẩu vị của muội lại nặng như thế này, lẽ nào lần trước mang thai rồng phượng còn chưa thấy đủ, lần này định sinh luôn một cặp hoàng tử hay sao?”

    Đoan Quý phi là người vốn nghiêm túc ít khi nói cười, lúc này cười tươi như vậy liền giống như hoa xuân nở rộ khiến người ta bất giác đắm say. Tôi đặt tay lên ngực, nói: “Lần này mang thai muội thấy lạ lắm, dạ dày rất dễ nhộn nhạo sục sôi, lồng ngực thì thường xuyên bức bối khó chịu, khẩu vị cũng nặng lạ thường. Năm xưa khi mang thai Lung Nguyệt, muội đâu có bị như vậy đâu.”

    Đoan Quý phi trầm ngâm nói: “Nếu vậy muội nên gọi Vệ Lâm tới kiểm tra kĩ càng một phen xem sao. Tuy muội đã từng sinh nở nhưng hãy cứ cẩn thận một chút thì hơn.”

    Đức phi lúc này đã khôi phục lại phần nào, nghe thấy vậy bèn nói: “Ta nhớ khi xưa An Ly Dung mang thai tình hình cũng là như thế. Có điều muội muội nhiều phúc nhiều thọ, hạng người bạc mệnh như cô ta tất nhiên không thể so sánh được rồi.”

    Đoan Quý phi suy nghĩ một chút rồi thấp giọng nói: “Năm xưa khi mang thai lần đầu, Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng thường xuyên cảm thấy khó chịu. Nữ nhân sinh nở giống như phải đi dạo một vòng qua Quỷ môn quan vậy, Thuần Nguyên Hoàng hậu khi đó dù hết sức cẩn thận nhưng đến cuối cùng vẫn không giữ được cả mẹ lẫn con, có lẽ tại trong cung xảy ra quá nhiều việc thất đức cho nên trẻ con mới khó nuôi như thế. Quãng thời gian trước muội lại phải trải qua nhiều chuyện không vui, vẫn cứ nên chú ý giữ gìn một chút thì hơn.”

    Tôi đang định hỏi Đoan Quý phi xem năm xưa Thuần Nguyên Hoàng hậu đã dưỡng thai thế nào, chợt thấy Linh Tê trượt từ trên đùi Đức phi xuống, kéo tay tôi, cất tiếng cười vang trong trẻo: “Tỷ tỷ, tỷ tỷ đuổi theo tỷ tỷ kìa!”

    Mọi người cùng nhìn theo hướng ngón tay con bé chỉ, chỉ thấy Lung Nguyệt đang cầm trong tay một miếng hình xếp màu đỏ chạy phía trước, đồng thời không quên đắc ý cười, nói: “Mất miếng này rồi thì con thỏ của Ôn Nghi tỷ tỷ sẽ là con thỏ không tai.”

    Ôn Nghi một mặt nôn nóng muốn giành lại miếng hình xếp, một mặt lại lo Lung Nguyệt bị ngã, chỉ đành xách váy đuổi theo phía sau. “Oản Oản, muội chạy chậm thôi...”

    Linh Tê thấy hai vị tỷ tỷ đuổi theo nhau như thế thì cảm thấy hết sức náo nhiệt, không ngớt cười vang vui vẻ, nói: “Tỷ tỷ đuổi theo tỷ tỷ, tỷ tỷ đuổi theo tỷ tỷ.”

    Nghe thấy những tiếng nói cười ấy của Linh Tê, trong đầu tôi như lóe lên một tia chớp sáng lòa, làm tôi đầu choáng mắt hoa. Ca ca từng nói lại với tôi câu nói cuối cùng lúc sinh tiền của An Ly Dung, “Hoàng hậu, giết chết Hoàng hậu”. Rốt cuộc là An Ly Dung căm hận Hoàng hậu tới tột cùng hay là nàng ta muốn thông qua ca ca để nói với tôi một bí mật kinh người đây?

    Tôi nhất thời chẳng thể đoán được ý tứ thật sự của nàng ta, chỉ khẽ lẩm bẩm: “Hoàng hậu, giết chết Hoàng hậu.”

    Lúc này chỉ có Đoan Quý phi và Đức phi ở bên cạnh tôi, Đức phi nghe thế liền vội vàng đưa tay bịt miệng tôi lại, khẽ nói: “Cho dù muội có căm hận Hoàng hậu đến mấy thì cũng đừng nói những lời này ra ngoài miệng chứ, không muốn sống nữa sao?”
    Đoan Quý phi ở xa hơn một chút, nghe không rõ lắm, bèn ngoảnh đầu qua hỏi bằng giọng nghi hoặc: “Muội nói là ai giết chết ai cơ?”

    Nghe Đoan Quý phi hỏi vậy, làn sương dày đặc trong lòng tôi bất giác tan bớt mấy phần, rồi tôi khẽ nói: “Hoàng hậu giết chết Hoàng hậu.”

    Đoan Quý phi vốn vào cung sớm nhất, bụng dạ rất sâu, mừng giận không bao giờ để lộ ra ngoài mặt, thế nhưng lúc này nghe thấy thế, hai bờ má đều không kìm được trở nên trắng bệch, đột ngột đứng dậy nói: “Hoàng hậu?” Đoan Quý phi đứng dậy vội quá, chiếc bộ dao đính trân châu trên đầu không ngớt đung đưa làm phát ra những tiếng tinh tang nhè nhẹ. “Muội đã biết được điều gì đó rồi phải không?”

    Màn đêm dần buông xuống, tôi khoác áo đứng dậy, cùng Đoan Quý phi sánh vai đi vào nội điện. Đức phi rất ít khi thấy tôi và Đoan Quý phi lộ ra thần sắc kỳ dị như vậy, vội vàng dặn dò Bình Nương và Chung Nương trông chừng mấy đứa bé cẩn thận, sau đó lặng lẽ đi vào theo. Tôi bước tới bên chiếc bàn tròn đóng bằng gỗ sưa, thắp một ngọn nến Hà Dương lên, những tia sáng màu vàng cam dìu dịu tức thì tỏa ra tứ phía. Tôi và Đoan Quý phi đưa mắt nhìn nhau một lát, rồi tôi khẽ thở dài than: “Không phải muội ăn nói bừa bãi đâu, câu nói vừa rồi là lời cuối cùng của An Ly Dung lúc sinh tiền.” Tôi không muốn để Đoan Quý phi biết về cuộc gặp gỡ giữa ca ca và An Ly Dung, bèn nói: “Trước khi tự vẫn, An Ly Dung từng nhờ người nói lại lời này với muội. Trước đây muội cứ luôn cho là cô ta căm hận Hoàng hậu quá, muốn nhờ muội giết Hoàng hậu giúp cô ta.”

    Hai mắt Đoan Quý phi sáng rực, nàng ta chậm rãi nói: “Với tâm cơ của cô ta, nếu thật sự căm hận thì hoàn toàn có thể tự mình ra tay, chẳng cần đợi tới lúc sắp chết mới nhờ cậy muội như thế.”

    “Muội lúc trước vốn không để tâm tới câu nói đó lắm, mãi tới vừa rồi khi nghe thấy mấy lời kia của Linh Tê mới đột nhiên nghĩ ra điều mấu chốt... Hóa ra bên trong đó còn có một tầng ý tứ khác.” Tôi nhìn Đoan Quý phi chăm chú. “Nhìn vẻ mặt của tỷ tỷ vừa nãy, hình như đã có phán đoán này từ sớm rồi.”

    Tôi tuy không biết về mối quan hệ giữa Đoan Quý phi và Thuần Nguyên Hoàng hậu khi xưa, thế nhưng tài gảy tỳ bà của Đoan Quý phi hoàn toàn là do Thuần Nguyên Hoàng hậu truyền dạy, chắc hẳn tình cảm giữa họ không tệ chút nào. Đoan Quý phi hình như đang đắm chìm vào dòng hồi ức xưa cũ, không nghe thấy câu hỏi của tôi, chỉ khẽ lẩm bẩm: “Khi đó ta vẫn còn trẻ, thành ra có chút ngây thơ. Từ hồi mười mấy tuổi ta đã được Thái hậu nuôi dưỡng bên cạnh rồi, chính là phi tần vào cung hầu hạ Hoàng thượng sớm nhất. Tuy là con nhà tướng nhưng ta vẫn luôn hiểu rõ, cả đời này ta chỉ có thể làm phi tần của Hoàng thượng mà thôi, tuyệt đối không có cơ hội ngồi lên ngôi hậu, do đó ta không suy nghĩ gì nhiều, sau khi được sắc phong làm Đoan Quý tần thì chỉ một lòng hầu hạ Hoàng thượng và Thái hậu. Trong gia tộc của Thái hậu có hai nữ tử tuổi tác xấp xỉ với ta, một người là Chu Nhu Tắc con dòng đích, một người là Chu Nghi Tu con dòng thứ. Trước khi vào cung thì Thuần Nguyên Hoàng hậu đã nổi danh thiên hạ rồi, còn được hứa gả cho con trai của Phủ Viễn tướng quân từ sớm, chỉ chờ ngày thành thân mà thôi. Bản thân Thái hậu cũng là con dòng thứ, cảm thấy con dòng đích khó tránh khỏi có chút yếu đuối, mỏng manh, do đó liền quyết định để Chu Nghi Tu vào cung. Vì khi đó Hoàng thượng còn trẻ, Chu Nghi Tu thì lại là con dòng thứ, không tiện sắc phong làm hoàng hậu ngay, đành lập làm Nhàn Phi trước, chờ sinh được hoàng tử thì sẽ sắc phong làm hậu. Kỳ thực ngay từ khi Chu Nghi Tu mới vào cung thì mọi người đều đã biết rõ việc này rồi, mà lúc đó Hoàng thượng đối xử với cô ta cũng không tệ, trong cung lại chỉ có ta với cô ta, do đó cuộc sống coi như cũng ổn. Không lâu sau thì Chu Nghi Tu có thai, mọi việc dường như đều phát triển đúng như dự tính, cho đến một ngày...” Đoan Quý phi lộ vẻ thổn thức, dường như chẳng muốn nhớ lại việc xưa. “Ngày đó Thuần Nguyên Hoàng hậu vâng chỉ vào cung bầu bạn với muội muội vừa có thai, ai ngờ lại gặp Hoàng thượng bên hồ Thái Dịch. Có lẽ tất thảy đều là duyên phận do ông trời sắp đặt, Hoàng thượng vừa gặp Thuần Nguyên Hoàng hậu đã yêu ngay, lập tức chạy đi năn nỉ Thái hậu đón nàng ta vào cung làm hậu. Thấy Hoàng thượng khăng khăng như vậy, Thái hậu cũng chẳng thể làm gì khác hơn ngoài đồng ý. Kỳ thực Thái hậu năm xưa hứa gả Thuần Nguyên Hoàng hậu cho con trai của Phủ Viễn tướng quân chỉ là để tăng thêm một phần trợ lực giúp Hoàng thượng đăng cơ mà thôi, lúc ấy Nhiếp chính vương lại đã chết rồi, dưới bàn tay sắt của Thái hậu có ai mà dám trái ý, thế là Phủ Viễn tướng quân chỉ đành mượn cớ “ấu tử bất tài” để xin thoái hôn, Thái hậu thì có ý muốn an ủi nên đã gả một vị quận chúa vào nhà ông ta, nhờ vậy mới giữ được thể diện cho hoàng tộc.”

    Đức phi hỏi: “Hoàng thượng trước đó chưa từng gặp Thuần Nguyên Hoàng hậu ư?”

    Đoan Quý phi nói: “Thuần Nguyên Hoàng hậu đã được hứa gả cho người khác từ sớm rồi, tất nhiên không tiện diện thánh, do đó hai người trước đó chưa từng gặp mặt.” Dừng một chút nàng ta lại kể tiếp: “Chu Nghi Tu thấy Hoàng thượng và Thái hậu đều như vậy thì tất nhiên không dám trái ý, liền tự mình đứng ra nói rằng đích thứ có sự khác biệt, trưởng tỷ sau khi vào cung nên được ở ngôi trên, Hoàng thượng và Thái hậu đều bất giác thở phào. Rồi sau đó Chu Nghi Tắc trở thành chủ nhân của trung cung, Chu Nghi Tu thì được phong làm quý phi, lời hứa sau khi sinh con sẽ được phong hậu tất nhiên chẳng còn hiệu lực nữa. Không lâu sau, Chu Nghi Tu sinh hạ một vị Hoàng tử, tiếc rằng vị Hoàng tử đó mang bệnh từ trong bụng mẹ, chưa đầy ba tuổi thì đã qua đời. Mà trong thời gian đó Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng có thai. Thuần Nguyên Hoàng hậu sau khi vào cung thì đắc sủng vô cùng, cùng Hoàng thượng có thể nói là phu thê ân ái, thành ra tiên Đức phi và tiên Hiền phi vào cung muộn hơn đều đầy bụng oán khí, thường xuyên khiêu khích, Hoàng hậu chẳng qua là không buồn tính toán với bọn họ mà thôi. Hôm đó có lẽ vì đang mang thai nên dễ tức giận, tiên Hiền phi lại nói ra mấy câu hết sức mạo phạm, thế là Hoàng hậu nhất thời giận dữ phạt hai người bọn họ phải quỳ ngoài điện mà suy nghĩ lỗi lầm, kết quả là tiên Hiền phi đã bị sẩy thai. Kỳ thực khi đó còn chưa ai hay tiên Hiền phi đã có thai, Hoàng hậu cũng chỉ vô tình mà thôi, nhưng Hoàng hậu lại vì thế mà vô cùng hối hận, thường xuyên tự trách bản thân. Chu Nghi Tu có biết một chút y thuật, trước giờ lại luôn tôn kính Hoàng hậu, Hoàng thượng không yên tâm về người khác nên kêu cô ta hầu hạ kề bên. Hoàng hậu khi có thai thường xuyên khó ở, lúc lâm bồn lại đau đớn lạ thường, cuối cùng thì sinh ra một cái thai lưu rồi buông tay về trời, trước khi chết còn cầu xin Hoàng thượng đừng trút giận lên thái y, đồng thời phải chăm sóc người muội muội duy nhất của mình cho tốt. Khi đó không chỉ có mình Hoàng thượng đau xót tột cùng, ngay đến bọn ta cũng hết sức thương tâm. Hoàng hậu đối xử mọi người trong cung đều rất tốt, ai ngờ vẫn bị ông trời bắt tội, mà ngay cả đứa bé đó cũng thế, còn chưa ra đời thì đã tắt thở rồi, trên người còn có mấy vết bớt màu xanh nữa.”

    “Vết bớt màu xanh? Tại sao lại như vậy? Hoàng thượng có biết không?”

    “Biết chứ. Thái y nói vì thai nhi từng phải chịu cơn kinh hãi nào đó và thai khí không đủ cho nên mới xuất hiện hiện tượng này.”

    “Vì có lời trăng trối của Hoàng hậu, Thái hậu thì cũng không muốn Hoàng thượng đưa nữ tử khác lên làm chủ trung cung, thế là bèn đồng ý cho Chu Nghi Tu ngồi vào vị trí đó. Còn về những chuyện sau này thì bọn muội đều đã biết cả rồi.” Đoan Quý phi chợt đưa tay nắm chặt lấy chiếc khăn lụa trải bàn, trầm giọng nói: “Khi Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời, Chu Nghi Tu đã khóc đến suýt ngất đi, tình tỷ muội như thế thực khiến người ta cảm động. Khi đó ta còn trẻ nên không hiểu chuyện, nhưng về sau dần phát hiện Chu Nghi Tu xem trọng ngôi hoàng hậu kia vô cùng, chẳng lẽ năm xưa lại không oán hận một chút nào ư? Thế là ta âm thầm để ý, rồi càng nghĩ lại càng sợ hãi, chỉ khổ một nỗi là không có chứng cứ gì thôi.”

    Đoan Quý phi bấy lâu nay vẫn luôn trầm lặng ít nói, lần này bộc bạch tâm can như vậy thực có thể nói là hiếm có vô cùng. Đức phi chăm chú lắng nghe, hơi thở dần trở nên dồn dập. “Khi Thuần Nguyên Hoàng hậu mang thai thì cô ta hầu hạ kề bên, muốn mua chuộc thái y và những người bên cạnh Hoàng hậu không có gì là khó cả. Nhớ năm xưa muội rất mực cung kính như thế mà cô ta còn chẳng buông tha, càng đừng nói gì tới một người đã đoạt mất vị trí vốn phải thuộc về cô ta như Thuần Nguyên Hoàng hậu. Hơn nữa khi cô ta mất con thì Thuần Nguyên Hoàng hậu lại có thai, có khác nào đổ thêm dầu vào lửa đâu!” Nói tới đây, Đức phi đã lộ rõ vẻ sợ hãi, thế nhưng trong mắt lại dần bừng lên những tia nóng bỏng. “Nếu chuyện này thật sự là do cô ta làm, Thuần Nguyên Hoàng hậu và Hoàng tử thật sự là do cô ta hại chết...”

    Đoan Quý phi cắt ngang lời nàng ta, bình tĩnh nói: “Chúng ta không có chứng cứ gì cả.”

    Đức phi nắm chặt hai tay, nói giọng như chém đinh chặt sắt: “Nhất định sẽ có thôi. An Ly Dung vốn ở bên Hoàng hậu nhiều năm, tâm tư lại cẩn mật, cô ta nhất định đã phát hiện ra điều gì đó rồi, bằng không sẽ chẳng nói ra những lời như vậy đâu.”

    Tôi cúi đầu suy nghĩ một lát rồi chậm rãi nói: “Chưa chắc. Có lẽ chúng ta đã cả nghĩ cũng chưa biết chừng.”

    Đoan Quý phi đưa tay xoa nhẹ vai Đức phi, ôn tồn nói: “Ta biết là muội hận, hận cô ta hại muội không thể có con. Thế nhưng dù hận đến mấy thì cũng phải bình tĩnh, trước khi có thể đánh đổ kẻ địch thì đừng nôn nóng quá mà tự hại mình.” Hơi dừng một chút, nàng ta nói bằng giọng tự giễu: “Kỳ thực, xét kĩ ra chúng ta cũng có khác gì một đám con hát đâu.”

    Tôi ngoảnh đầu lại, chợt nhìn thấy có một bóng dáng nhỏ nhắn đang đứng bên dưới bức rèm, thế là không kìm được kinh hãi kêu lên: “Lung Nguyệt, sao con lại vào đây vậy?”

    Hóa ra Lung Nguyệt đã lẳng lặng đi vào đây từ lúc nào chẳng hay. Tôi không biết nó đã nghe được bao nhiêu, cũng không biết nó có hiểu hay không, chỉ thấy nó nhẹ nhàng đi tới bên cạnh Đức phi, cầm tay nàng ta, khẽ nói: “Mẫu phi, con buồn ngủ rồi.”

    Đức phi đưa mắt nhìn sắc trời nặng trĩu bên ngoài cửa sổ, dịu dàng xoa đầu Lung Nguyệt. “Được, vậy mẫu phi đưa con về ngay đây.”

    Đoan Quý phi bình tĩnh nói: “Chúng ta hãy giải tán đi thôi, việc này còn phải tính toán lâu dài, nhất định đừng ai sơ suất đấy.”

    Tôi khẽ gật đầu, nơi đáy lòng bất giác nảy sinh mấy tia lạnh lẽo.

    Giữa màn đêm tĩnh lặng trong Tử Áo Thành, mấy bận tôi trằn trọc trở mình nửa tỉnh nửa mơ, loáng thoáng nghe thấy từ phía Phi Hương điện vọng lại những tiếng đàn tì bà réo rắt, nghe hệt như tiếng mưa rơi bên ngoài cửa sổ.
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Quyển 8

    [​IMG]

    Chương 1: Đài hoa lay động rụng bờ tường
    Có lẽ vì mang quá nhiều tâm tư, cũng có thể là vì khi mang thai đứa bé này, thân thể tôi vốn đã không được khỏe, do đó số lần nôn ọe lúc sáng sớm ngủ dậy ngày một nhiều hơn, kèm theo đó là cảm giác lạnh toát truyền ra từ trong bụng.

    Mỗi lần tôi hỏi Vệ Lâm về việc này, y đều nhíu chặt đôi mày, sau đó trịnh trọng nói: “Nương nương bây giờ cần phải chú tâm tĩnh dưỡng, quyết không được hao tổn tâm tư vì những việc khác nữa.”

    Có thể chú tâm tĩnh dưỡng được sao? Tôi lẩm bẩm tự hỏi mình.

    Những việc trong quá khứ đã làm tâm tư tôi hao tổn hoàn toàn, còn những việc chưa kết thúc thì dù tôi không muốn nghĩ tới cũng khó mà quên được. Hằng đêm, tôi đều mơ thấy An Ly Dung trong bộ dạng thoi thóp chút hơn tàn, nhưng miệng thì vẫn khẽ lẩm bẩm: “Hoàng hậu, giết chết Hoàng hậu.”

    Chuyện trong mộng dĩ nhiên khó có cách nào giải quyết, mà Thái Cát khi tới thăm tôi thì không giấu được vẻ âu lo. “Sau khi Tĩnh phi có thai, phủ Bái Quốc công liền trở nên kiêu căng vô cùng, Quốc công phu nhân thường xuyên vào ở trong phủ để chăm sóc cho con gái, dù Vương gia không quên để ý tới Ẩn phi nhưng địa vị của Ẩn phi đã kém hơn hẳn so với trước kia rồi.”

    Chuyện như thế, Ngọc Ẩn tất nhiên không chịu nói với tôi, mỗi lần tới gặp tôi, muội ấy vẫn ăn mặc hoa lệ, tươi cười điềm đạm như trước, không hề để lộ ra chút khác thường nào. Nếu tôi có ý thăm dò thì muội ấy thường rất nhạy cảm, lập tức cười tủm tỉm, nói: “Tỷ tỷ giờ đang có thai, phải giữ lòng bình tĩnh mới được, giống như Tĩnh Nhàn vậy. Muội có thể thông cảm cho tỷ tỷ, tất nhiên cũng có thể thông cảm cho nàng ta.” Sau đó lại thoáng lộ vẻ trầm ngâm. “Dù sao đứa bé trong bụng nàng ta cũng là của Vương gia.”

    Tôi thầm ngạc nhiên về sự thay đổi này của Ngọc Ẩn, đồng thời lại càng xót thương muội ấy hơn. “Nếu muội có điều gì ấm ức thì đừng để trong lòng, cứ nói với trưởng tỷ là được.”

    Ngọc Ẩn lập tức nở một nụ cười dịu dàng như bông hoa cúc ngậm sương hé nở vào tháng Chín. “Vương gia không hề nhất bên trọng nhất bên khinh, muội kỳ thực đã rất thỏa mãn rồi.”

    Thái hậu dù đang trong cơn bệnh nhưng cũng có nghe nói về việc Ngọc Ẩn vừa an phận vừa ngoan ngoãn, không kìm được cất tiếng khen: “Bụng dạ rộng rãi lắm, đúng là một đứa bé ngoan.”

    Những cơn lạnh toát trong bụng ngày càng thường xuyên làm tôi ăn ngủ không yên, dù có muốn để ý tới chuyện của Ngọc Ẩn cũng chẳng còn hơi sức nữa, đành nhờ Thái Cát chuyển lời tới Huyền Thanh là nhất định phải đối xử với Ngọc Ẩn thật tốt.

    Vệ Lâm dạo này một ngày năm, sáu lần tới Nhu Nghi điện thăm mạch bình an cho tôi, nhưng tôi ngày càng cảm thấy sợ hãi trước câu nói “chỉ cần an tâm dưỡng thai là được” của y. Khi mà thuốc an thai phải uống mỗi ngày càng lúc càng đắng chát, tôi có thể cảm nhận rõ ràng một điều, cái thai này của tôi nhất định có vấn đề gì đó không ổn.

    Trong một buổi đêm sương nặng phủ dày trên đất, tôi rốt cuộc đã không thể không mời Ôn Thực Sơ vốn đang gác lăng cho My Trang tới. Không tới lúc vạn bất đắc dĩ, tôi quả thực không muốn quấy rầy y như vậy.

    Sau một thời gian dài xa cách, y dường như đã già nua, tiều tụy hơn lần trước tôi gặp đôi phần. Kỳ thực tính kĩ ra, năm nay y cũng chỉ ba mươi mấy tuổi mà thôi. Trong khi tôi đang thầm cảm khái về sự tiều tụy, suy nhược của y, y cũng tỏ ra hết sức kinh ngạc vì sắc mặt của tôi lúc này.

    “Sắc mặt nương nương cớ sao lại nhợt nhạt thế này?”

    “Vậy ư?” Tôi cầm một chiếc gương nhỏ lên cẩn thận soi mình vào đó, thấy lời y nói quả thực không sai chút nào, khuôn mặt tôi lúc này đầy vẻ nhợt nhạt, yếu ớt, ngay cả khi bôi lên những thứ son phấn thượng hạng cũng chẳng thể nào che bớt được. Tôi buồn bã thở dài. “Không đến lúc vạn bất đắc dĩ, ta quả thực không muốn làm phiền đến huynh thế này.”

    Y nói: “Dựa vào quan hệ của chúng ta, muội khách sáo như thế làm gì?” Y khẽ đặt ngón tay lên cổ tay tôi, mang tới cho tôi một thứ cảm giác vững vàng và thô ráp. Ngọn nến chừng như cũng bị cái lạnh đầu thu ngấm vào, ánh lửa lập lòe không ngớt.

    Một hồi lâu sau, Ôn Thực Sơ khẽ cất tiếng thở dài, trong mắt ngợp đầy một nỗi ưu thương và bất lực không cách nào xua tan đi được. “Ta tin là Vệ Lâm đã cố hết sức rồi. Nhìn mạch tượng của muội bây giờ mà xét, Vệ Lâm từ lâu đã phát hiện ra cái thai này của muội có phần yếu ớt, do đó vẫn luôn dùng những thứ thuốc ôn hòa như hoàng kỳ, bạch truật để tẩm bổ cho muội. Chỉ đáng tiếc...”

    “Chỉ đáng tiếc cái gì?” Tôi truy hỏi.

    “Muội sau khi có thai thì tâm tư không ngừng xao động, nỗi u uất tích đầy trong lòng, do đó thai tượng mới không yên thế này. Xét kĩ hơn nữa, khi muội mang thai thì sự hư tổn do lần sinh đôi năm xưa vẫn chưa được bù đắp hoàn toàn, về mặt thời gian có thể nói là không thích hợp, vậy nên trong thời gian qua dù Vệ Lâm đã dốc lòng bổ cứu, cho muội uống rất nhiều loại thuốc bổ để dưỡng thai nhưng tình hình bây giờ vẫn chẳng khả quan chút nào. Nói thực lòng, ta và Vệ Lâm đều chẳng thể làm gì hơn, chỉ có thể cố gắng giữ cái thai này thêm một thời gian nữa thôi.”

    Trái tim tôi như đông cứng thành một khối băng lạnh giá, sau đó nứt toạc ra, không cách nào lành lặn trở lại được. Trong sự đau đớn tột cùng, tôi vô thức đưa tay ôm lấy bụng mình, cảm nhận từng sự lay động vô cùng yếu ớt của thai nhi trong bụng, lẳng lặng tuôn rơi những giọt nước mắt thê lương.

    Y nhìn không đành lòng, ôn tồn nói: “Hoàn Nhi, muội hãy chú ý giữ gìn sức khỏe.”

    Tôi cố kìm nén sự run rẩy nơi đầu ngón tay, khẽ nói: “Huynh hãy nói thực cho ta hay đi, đứa bé này còn có thể giữ được bao lâu nữa?”

    Y trầm ngâm một lát rồi mới cất tiếng trả lời: “Muội đã mang thai được bốn tháng rồi, dù ta và Vệ Lâm có cố gắng hết sức thì cũng không thể giữ đứa bé này quá năm tháng, bằng không sau này dù đứa bé có được sinh ra thì cũng sẽ chết thôi, đã thế còn có khả năng khiến muội mất mạng nữa.”

    “Năm tháng? Vậy tức là mẹ con ta chỉ còn lại một tháng bên nhau thôi ư?”

    “Đúng vậy.” Ôn Thực Sơ lộ vẻ xót xa, ôn tồn khuyên nhủ: “Hoàn Nhi, muội vẫn còn trẻ, sau này sẽ lại có con nữa, muội đừng quá thương tâm.”

    Ngoài cửa sổ, bóng trúc đầy vẻ nặng nề, một làn gió đêm bất chợt thổi qua, cây cối khắp vườn đều lay động, phát ra những tiếng xào xạc nhẹ nhàng. Chuyện đời vốn thường chẳng chiều lòng người như thế, tôi thương tâm thì có ích gì đây? Hai hàng nước mắt trên bờ má chảy chậm dần rồi ngưng hẳn, tôi đưa tay lên lau khô những vệt nước mắt đắng chát còn sót lại, trầm giọng nói: “Việc này huynh đừng nói với bất kỳ ai, ngay cả Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu cũng thế. Huynh và Vệ Lâm chỉ cần cố hết sức giữ đứa bé này cho muội trong thời gian lâu nhất có thể là được rồi.”

    Y lẳng lặng gật đầu. “Chỉ cần không làm tổn hại tới thân thể muội, ta sẽ dốc hết sức mình.”

    Tôi gật đầu, nói: “Ta mệt rồi, không thể tiễn huynh được, huynh nhớ ra về cẩn thận đấy.”

    Ôn Thực Sơ nhìn tôi bằng ánh mắt xót thương rồi đứng dậy rời đi.

    Ngày hôm sau, khi Huyền Lăng tới thăm tôi thì tôi đang uống canh tổ yến nấu hạt ý dĩ mà Cận Tịch hầm trong một thời gian dài, vị ngọt của bát canh khiến nỗi bức bối trong lòng tôi phần nào giảm bớt. Huyền Lăng trìu mến đưa tay xoa má tôi, nhẹ nhàng cất tiếng hỏi: “Trẫm dạo này bận rộn việc triều chính, sao mới hai ngày không gặp mà nàng đã tiều tụy thế này?”

    “Khởi bẩm Hoàng thượng!” Ôn Thực Sơ chậm rãi bước vào từ ngoài điện, trong tay bưng một bát thuốc vẫn còn nóng hổi, khẽ mỉm cười, nói. “Hoàng thượng không cần lo lắng, thai nhi trong bụng nương nương vẫn ổn.”

    Tôi kéo tay Huyền Lăng đặt lên cái bụng đã hơi nhô lên của mình. “Thần thiếp tiều tụy là do con quỷ nghịch ngợm này quậy phá đấy. Hoàng thượng không biết đó thôi, hôm qua nó đã làm nhộn nên trong bụng thần thiếp suốt cả đêm, khiến thần thiếp không cách nào ngủ được.”

    Huyền Lăng mừng rỡ áp má lên bụng tôi, cười nói: “Đứa bé này hoạt bát, hiếu động như thế, sau này ắt sẽ là một vị hoàng tử cường tráng, khỏe mạnh.”

    Rồi y lại nói với đứa bé trong bụng tôi bằng giọng dịu dàng và trìu mến vô hạn: “Con hãy ngoan ngoãn một chút, chỉ sáu tháng nữa thôi là có thể ra ngoài gặp phụ hoàng và mẫu phi rồi, bây giờ con mà cứ quấy thế này thì mẫu phi của con sẽ mệt đấy. Chờ con ra đời rồi phụ hoàng nhất định sẽ ngày ngày chơi với con, vậy có được không nào?”

    Thừa lúc y không chú ý, tôi lén ngoảnh đầu qua một bên, đưa tay lau đi giọt lệ bên khóe mắt. Ôn Thực Sơ thấy vậy bèn nói: “Hoàng thượng, nương nương tới giờ uống thuốc an thai rồi.”Huyền Lăng cười, nói: “Có ngươi đến chăm sóc cho Thục phi thế này trẫm cũng yên tâm hơn nhiều. Vừa rồi nhìn thấy ngươi ở đây trẫm sợ đến giật nảy mình, cứ tưởng là cái thai này của Thục phi có vấn đề gì không ổn.”

    Ôn Thực Sơ cười, nói: “Chính vì tiểu Hoàng tử khỏe mạnh quá nên vi thần mới không thể không tới, bằng không nương nương thực khó có thể ngủ ngon được.”

    Huyền Lăng đón lấy bát thuốc đen ngòm từ trong tay y, xúc từng thìa bón cho tôi uống, còn không quên dặn dò đủ điều. Tôi khẽ cất lời thỉnh cầu: “Thần thiếp sau khi có thai thì ít khi ra ngoài đi lại, thái y cũng nói là phải cẩn thận tĩnh dưỡng, thật là bức bối quá chừng.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Việc này có gì là khó đâu, nếu trẫm không có thời gian rảnh, nàng có thể mời mấy người Đức phi tới chơi mà, dù nàng có muốn mời Hoàng hậu thì trẫm cũng có thể bảo nàng ấy tới đây.”

    Tôi mỉm cười đưa mắt liếc y. “Hoàng hậu có thân phận thế nào chứ, thần thiếp làm sao mà mời được. Hoàng thượng có muốn nói đùa thì cũng nên vừa phải thôi.”

    Huyền Lăng cẩn thận giúp tôi lau đi vệt thuốc dính bên khóe miệng. “Chỉ cần nàng thích thì không có chuyện gì là không thể.”

    Khi những làn gió thu tháng Mười nổi lên, cảm giác khó chịu nơi bụng tôi càng lúc càng nặng nề. Để che giấu khí sắc khá tệ của tôi bây giờ, Cận Tịch mỗi ngày đều phải bỏ ra hai, ba canh giờ để giúp tôi trang điểm, như vậy mới có thể chứng tỏ rằng bản thân tôi và thai nhi trong bụng đều khỏe mạnh như lời thái y nói.

    Hôm ấy trời trong gió mát, vừa khéo nước Tây Việt sai người tiến cống một gốc san hô cao tới ba mươi thước, Huyền Lăng trong cơn mừng rỡ liền đem tới Nhu Nghi điện tặng cho tôi. Tôi nhìn thấy cũng ngạc nhiên vô cùng. “Trong cung không thiếu gì san hô, nhưng đa phần chỉ cao chừng năm, sáu thước, cao trên mười thước đã là cực kỳ hiếm có rồi, huống chi đây còn là một gốc san hô hoàn chỉnh như thế nữa chứ!”

    Huyền Lăng tỏ ra rất đắc ý. “Chính bởi vì hiếm có nên trẫm mới thấy đặt ở Nhu Nghi điện của nàng là thích hợp nhất, vừa hay tô điểm cho những bố trí sắp đặt của trẫm ở đây, bằng không, dù đặt ở cung của ai trẫm cũng thấy không ổn.”

    Tôi cười tủm tỉm, tựa người vào lồng ngực y. “Một gốc san hô đẹp thế này, nếu chỉ có mình thần thiếp được ngắm thì đáng tiếc quá, các phi tần trong cung mà hay tin, chỉ e ai cũng muốn ngắm nghía một phen.”

    Y cúi đầu khẽ hôn lên trán tôi, cười nói: “Trẫm biết là nàng thích náo nhiệt, chi bằng hãy mời toàn thể phi tần trong cung tới Nhu Nghi điện cùng ngắm gốc san hô này đi.”

    Tôi đưa tay vuốt ve những cành san hô bóng bẩy, cất tiếng thở dài. “Vốn là một việc tốt như thế mà lại bị Hoàng thượng nói thành không ra sao cả. Nếu thần thiếp gửi thiệp mời đi, người khác chưa biết chừng lại cho rằng thần thiếp ỷ được sủng ái mà kiêu ngạo, có ý khoe khoang ân điển mà Hoàng thượng ban cho mình. Hơn nữa bây giờ Hoàng hậu rất ít ra ngoài, người khác có mời thì cũng đều thoái thác, mà nếu Hoàng hậu không tới thì quả thực là không thích hợp.” Tôi xua tay, nói tiếp: “Thôi bỏ đi, hà tất phải vì hứng thú nhất thời của thần thiếp mà làm phát sinh lắm việc rắc rối như thế chứ!”

    Huyền Lăng sợ tôi tức giận, vội vàng ôm tôi vào lòng. “Nếu nàng thích thì trẫm mời bọn họ tới là được rồi. Có trẫm ở đây, Hoàng hậu nhất định sẽ tới, vậy là không còn vấn đề gì không ổn nữa rồi.”

    Tôi khẽ mỉm cười, ngay sau đó lại thở dài, than: “Thần thiếp lại khiến Hoàng thượng phải hao tâm tổn sức rồi.” Tôi quàng hai tay qua cổ y, những chiếc móng tay sơn màu đỏ tươi nhìn hệt như vô số ngọn lửa đang rực cháy, dù có nhắm mắt lại cũng vẫn có thể cảm nhận được rõ ràng.

    Ba ngày sau, khi ánh chiều tà buông xuống, Huyền Lăng bày tiệc lớn ở Nhu Nghi điện mời mọi người cùng tới ngắm san hô. Từ Hoàng hậu trở xuống, tất thảy các phi tần từng được sủng hạnh trong hai năm qua đều có mặt, ngay đến Vinh Tần vốn bị Huyền Lăng yêu cầu phải tĩnh tâm suy nghĩ lỗi lầm cũng vận cung trang rực rỡ tới tham dự bữa tiệc này.

    Tôi vốn là chủ nhà, tất nhiên phải ăn mặc chỉn chu đứng ra tiếp khách, bên ngoài là một chiếc áo lụa màu đỏ tươi thêu hình hoa hải đường nở rộ, lại kết hợp với một chiếc áo yếm màu trắng thêu hình “Điệp vũ song cúc”, bên dưới là tà váy màu hồng nhạt có những đường hoa văn rồng phượng bằng chỉ vàng, nhìn rực rỡ như bước ra từ trong tranh. Đôi hàng lông mày của tôi hôm nay được vẽ thành hình núi xa, lại càng làm tôn lên đôi mắt long lanh say đắm lòng người, giữa trán có dán một bông hoa cúc làm bằng hồng ngọc cực kỳ bắt mắt, khuôn mặt thì trang điểm theo lối Đào hoa trang mười phần diễm lệ, son phấn bôi đầy, khó có thể nhìn ra bộ dạng yếu ớt hư nhược ẩn phía sau.

    Ngoài sân, những bông hoa cúc mùa thu đã bắt đầu nở rộ, đủ những sắc màu từ đỏ tươi, trắng hồng, vàng nhạt, vàng cam cho tới đỏ tía khiến khung cảnh như ngợp đầy sắc xuân, tươi đẹp vô cùng. Bên ngoài Nhu Nghi điện, những gốc tùng xanh và phong đỏ như đang đan xen tô điểm cho nhau, trong sự đẹp đẽ lại toát ra mấy phần tráng lệ, thực dễ làm lòng người chấn động hơn cảnh sắc mùa xuân rất nhiều.

    Các phi tần cùng vây quanh gốc san hô không ngừng bình phẩm, tấm tắc khen thầm, ngay đến Hồ Uẩn Dung xưa nay vốn luôn kiêu ngạo mà cũng không kìm được cười, nói: “Nhớ khi trước ta theo phụ thân đi xem gốc san hô do ngư dân Đông Hải tiến cống, thấy nó chỉ cao hơn mười thước thôi mà đã được rất nhiều người khen lạ và đổ ra đường ngắm nhìn rồi.”

    Hoàng hậu cầm chén rượu lên khẽ nhấp một ngụm, cười nói: “Đó hình như là việc từ hai mươi năm trước thì phải, khi đó phụ thân của Uẩn Dung còn là sủng thần của tiên đế.”

    Hồ Uẩn Dung vốn đang rạng rỡ tươi cười, nghe thấy thế liền bất giác trầm mặt. Năm xưa dù còn ít tuổi nhưng Hồ Uẩn Dung chưa chắc đã không biết gì về biến cố của gia đình khi mà phụ thân bị mất chức quan, dù có thân phận cao quý nhưng cái gọi là sự đời nóng lạnh đó, nàng ta hẳn đã phải nếm trải đủ. Lúc này nàng ta khẽ cười lạnh một tiếng, hơi hất hàm, nói: “Một gốc san hô hoàn chỉnh thế này thực là hiếm có, còn quý giá hơn gốc san hô năm xưa nhiều, huống hồ còn cao tới hơn ba mươi thước nữa, đúng là vật báu trên đời. Rốt cuộc vẫn là Thục phi được ân sủng nhất, người khác không thể nào sánh được.”

    Nàng ta lạnh lùng đưa mắt liếc nhìn khuôn mặt Hoàng hậu, sau đó quay trở lại ngồi xuống bên cạnh Huyền Lăng. Rượu được dùng đêm ấy đa phần đều do Hoàng hậu mang tới, nàng ta được Huyền Lăng mời, không muốn làm y mất hứng, bèn lấy ra hai vò Thủy Tiên Trần vốn cất kĩ nhiều năm, màu sắc trong veo không một gợn đục, mùi thơm thì ngọt ngào như hương hoa thủy tiên, sau khi uống vào vị rượu rất nồng, nếu uống cùng với Mai Tử Nhưỡng do tôi ủ lại càng dễ say hơn.

    Đoan Quý phi vốn sức yếu nên không tiện uống rượu. Đức phi uống được mấy ngụm rồi hỏi Hoàng hậu về cách chế rượu, lại coi đó như một chủ đề thú vị mà trò chuyện không ngơi. Vinh Tần vừa được xóa lệnh cấm túc, bèn bám lấy Huyền Lăng chuốc rượu không ngừng.

    Bụng tôi bỗng truyền tới những cơn đau ngắt quãng, khó có thể chịu đựng thêm được nữa. Cẩn thận để ý, Huyền Lăng lúc này đã say mèm, Hồ Uẩn Dung và Vinh Tần cũng đã có chút chếnh choáng, một người gục đầu lên cánh tay y, một người thì tựa vào bờ vai y. Đoan Quý phi sớm đã lấy lý do thân thể không khỏe để cùng Giang Uyển nghi đang có thai và Trinh Phi vốn cũng sức yếu đứng dậy ra về, các phi tần khác đa phần đều đã hơi say, một số người còn tỉnh táo thì chỉ để ý xem ca múa, duy có Lung Nguyệt là mười phần vui vẻ, cứ tươi cười mà chạy đi chạy lại không ngừng.

    Giữa khung cảnh ca múa tưng bừng, tôi để mặc cho ánh mắt mình trôi dạt đi khắp xung quanh, cuối cùng bắt gặp một đôi mắt trầm lặng tựa như đầm nước sâu thăm thẳm, bên trong đó dường như ẩn chứa những mũi tên lạnh lùng và sắc bén tột cùng.

    Tôi cố nén cảm giác đau đớn và lạnh giá không ngớt truyền ra từ trong bụng, làm bộ như đã hơi say, khẽ cất tiếng gọi: “Cận Tịch...” Cận Tịch lúc này đang cùng các cung nhân khác ở bên ngoài điện chuẩn bị rượu và đồ ăn cho bữa tiệc, do đó không nghe thấy. Tôi đành khẩn cầu chủ nhân của đôi mắt kia: “Hoàng hậu...”

    Nàng ta đứng dậy chậm rãi bước tới, ôn tồn hỏi: “Thục phi sao vậy?”

    “Có lẽ vừa nãy đã ăn nhiều đồ ăn lạnh, bụng thần thiếp có chút không thoải mái.”

    Nàng ta thoáng trầm ngâm rồi lớn tiếng gọi Cận Tịch lại: “Mau đỡ chủ tử của ngươi vào trong nghỉ ngơi đi.”

    Lúc này mọi người đều đã say, Hoàng hậu không thể không vào trong cùng tôi, kẻo không lại mang tiếng là không làm hết chức trách của hoàng hậu. Chân tôi lúc này đã mềm nhũn chẳng còn chút sức lực, Cận Tịch phải khó khăn lắm mới đỡ được tôi vào nội điện, sau đó liền thở hồng hộc không ngừng, mồ hôi tuôn ra như tắm. Tôi bám một tay vào thành giường, một tay đỡ bụng, yếu ớt nói: “Cận Tịch, bụng ta khó chịu quá!”

    Cận Tịch luống cuống chân tay, mới rót được một nửa chén trà thì đã lại chạy vội tới giúp tôi xoa bụng. Lúc này mồ hôi lạnh trên mặt tôi tuôn ra không ngớt làm lớp son phấn trôi đi, để lộ ra sắc mặt trắng bệch như tờ giấy. Cận Tịch sợ đến giật nảy mình, lo lắng kêu lên: “Nương nương, nương nương!”

    Tôi gắng gượng xua tay, nói: “Mau đi gọi thái y tới đây.”

    Cận Tịch không kịp gọi người khác tới hầu hạ tôi, hoang mang chạy thẳng ra ngoài. Bụng tôi lúc này đau như bị muôn vàn mũi tên bắn vào, đồng thời còn lạnh toát như phải ngâm trong làn nước băng lạnh giá. “Hoàng hậu...” Tôi ra sức bám chặt lấy bàn tay nàng ta không chịu buông. “Thần thiếp đau quá...”

    Hoàng hậu thấy tôi đau đến chết đi sống lại như vậy thì vội vàng giằng tay ra khỏi tay tôi, lùi về phía sau mấy bước. “Thục phi cứ nằm xuống trước đi, bản cung đi lấy nước cho ngươi.”

    Bàn tay tôi lúc này đầm đìa mồ hôi lạnh ngắt, bất chợt trượt xuống dưới, trong đầu như có vô số cơn sóng ngợp trời đồng thời trào dâng nuốt chửng tôi.

    Khi tôi mơ màng tỉnh dậy thì chẳng rõ là mình đã bất tỉnh nhân sự bao lâu rồi, chỉ cảm thấy trong người vừa đau đớn vừa trống rỗng khó tả, dường như lục phủ ngũ tạng đều đã biến đi đâu mất. Bàn tay tôi yếu ớt buông thõng một bên, dường như đang được một bàn tay ấm áp nắm chặt lấy. Tôi gắng gượng hé mắt ra, định cựa người một chút nhưng thân thể tựa hồ đã không còn là của mình nữa, nặng nề tới nỗi chẳng thể động đậy.

    Khi hé mắt ra, tôi thấy trước mặt có những bóng người lay động, hình như có người mừng rỡ kêu lên: “Thục phi nương nương tỉnh rồi!”

    Một dòng canh sâm âm ấm chảy vào miệng tôi rồi từ từ xuống đến cổ họng, lồng ngực, dường như đang truyền cho tôi từng chút sức lực. Tôi cố gắng mở hẳn mắt ra, có lẽ là do đã nhắm mắt quá lâu nên lúc này tôi thấy ánh sáng chói lóa vô cùng, cơ hồ như muốn xuyên thấu mắt tôi. Giọng nói vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ của Huyền Lăng vang lên bên tai tôi: “Hoàn Hoàn, rốt cuộc nàng đã tỉnh rồi.”

    Tôi rốt cuộc đã tỉnh rồi ư? Tôi nhìn thấy khuôn mặt đầy vẻ nôn nóng và mỏi mệt của Huyền Lăng, Cận Tịch thì khóc đến nỗi hai mắt sưng húp, ngoài ra bên cạnh giường còn có rất nhiều người khác nữa. Trong không khí vẫn thoang thoảng mùi máu tanh chưa tan, tôi cất giọng khàn khàn: “Hoàng thượng, đứa bé thế nào rồi?”

    Huyền Lăng bất giác ngẩn người, khi y còn chưa trả lời thì Đức phi đã lén xoay người đi, đưa tay lên lau nước mắt. Tôi thấy thế thì sợ hãi vô cùng, giọng nói trở nên thê lương tột độ: “Hoàng thượng, đứa bé thế nào rồi?”

    Huyền Lăng đau khổ cúi gằm mặt xuống, thấp giọng nói: “Hoàn Hoàn, chúng ta sau này sẽ lại có những đứa con khác.”

    Tôi hoang mang rướn người ngồi dậy, đưa tay mò mẫm trên bụng mà lẩm bẩm: “Đứa bé đâu rồi? Đứa bé đâu rồi? Đêm qua nó còn cựa chân quẫy đạp trong bụng thần thiếp cơ mà, nó ngủ rồi đúng không? Sao nó lại không động đậy nữa?” Tôi gần như phát điên, nước mắt không ngừng tuôn rơi lã chã.

    Huyền Lăng ôm chặt tôi vào lòng không cho tôi động đậy nữa. Đức phi cũng giữ chặt lấy tay tôi, trầm giọng nói: “Thục phi, Thục phi, đứa bé đã mất rồi, muội hãy bớt đau thương.” Sau đó nàng ta lại chạy đi bế Linh Tê và Hàm Nhi tới trước mặt tôi, nói tiếp: “Muội nhìn này, muội hãy còn có Uẩn Hoan và Hàm Nhi nữa cơ mà!”

    Hàm Nhi không biết là đã xảy ra chuyện gì, hai mắt đều mở to vì sợ hãi, cứ cố rúc vào lòng tôi. Linh Tê thì có lẽ chưa từng nhìn thấy tôi như vậy, sợ đến nỗi bật khóc nức nở. Đức phi vội vàng bế Linh Tê lên dỗ dành, Nhu Nghi điện nhất thời trở nên vô cùng hỗn loạn.

    Huyền Lăng ôm tôi rất chặt, chặt vô cùng, làm xương cốt toàn thân tôi như sắp vỡ ra đến nơi. Y dường như muốn thông qua hành động đó để phát tiết nỗi thương tâm vì mất đi đứa bé này, rồi lại ghé đến bên tai tôi thì thầm: “Hoàn Hoàn, là trẫm không tốt. Trẫm không nên tổ chức yến tiệc ở Nhu Nghi điện như thế, chính bởi vì mệt mỏi quá độ cho nên nàng mới mất đứa bé này.”

    Tôi mơ màng ngẩng đầu lên, nhẹ nhàng đưa tay đẩy y ra. “Hoàng thượng, thần thiếp không hề mệt mỏi quá độ. Khi đó thần thiếp chỉ cảm thấy hơi đau bụng mà thôi, có lẽ là vì quá chén một chút.” Tôi không kìm được khóc rống lên. “Sớm biết vậy thần thiếp đã không uống thứ rượu đó rồi. Đều tại thần thiếp không tốt. Thần thiếp làm sao mà ngờ được lại như thế chứ! Thần thiếp chỉ uống một chén rượu thôi, không dám uống nhiều, ai ngờ... ai ngờ...”

    Hoàng hậu trong bộ cung trang màu đỏ tươi rực rỡ ngồi xuống gần sát tôi, đưa tay khẽ vuốt ve bờ vai tôi an ủi: “Thục phi, hãy bớt đau thương, sau này nhớ đừng quá chén mà hỏng việc. Muội có biết vì chuyện muội sẩy thai lần này mà Hoàng thượng đã đau buồn đến mức nào không? Trong hai ngày muội hôn mê, Hoàng thượng đều ở bên muội đấy.” Rồi Hoàng hậu lại ôn tồn khuyên nhủ: “Hoàng thượng, hai mắt người đã thâm quầng rồi kìa, nên về Nghi Nguyên điện nghỉ ngơi đi thôi.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu, nói: “Hoàng hậu đã có lòng rồi, trẫm muốn ở lại đây với Hoàn Hoàn thêm lát nữa.”

    Nước mắt lặng lẽ tuôn rơi, tôi không nói năng gì, những nỗi thương tâm vô cùng vô tận dường như đều nghẹn lại nơi cổ họng, thân thể thì chìm trong một nỗi thê lương và lạnh giá tột cùng.

    Ôn Thực Sơ bưng một bát thuốc rẽ đám đông đi tới, ôn tồn nói: “Nương nương phải uống thuốc rồi.”

    Tôi vung tay gạt mạnh một cái, bát thuốc trong tay y “choang” một tiếng vỡ tan thành từng mảnh nhỏ, nước thuốc đen ngòm bắn đi tung tóe. Tôi ngẩn ngơ lẩm bẩm: “Là ta không tốt, không thể giữ được đứa bé.”

    Ôn Thực Sơ vẫn lẳng lặng chắp tay đứng đó. “Nương nương, chén rượu đó không thể làm tổn thương tới thai nhi được, bữa tiệc đêm đó cũng không thể gây hại tới ngọc thể của nương nương. Nương nương quên rồi ư, thai khí khi ấy vẫn rất bình thường, đứa bé thì mười phần khỏe mạnh, có lý nào lại không chịu nổi một chén rượu và một bữa tiệc chứ?” Ôn Thực Sơ lộ vẻ vô cùng đau xót. “Nương nương khi đó bị đau bụng chỉ là do thai nhi quẫy đạp mà thôi, lẽ ra sẽ qua đi rất nhanh, nhưng nương nương chắc đã đau quá nên mới đập mạnh vào bụng mình, vì thế mới dẫn đến sảy thai.”

    Tôi bất giác ngây người, trong đầu như lóe lên vô số tia chớp sáng lòa. Tôi đột ngột ngẩng đầu nhìn chằm chằm vào Ôn Thực Sơ. “Sao có thể chứ? Bản cung khi đó chỉ đau đớn quá độ rồi ngất đi thôi, sau khi tỉnh lại thì đứa bé đã chẳng còn nữa rồi.” Tôi lộ vẻ vừa ngẩn ngơ vừa đau xót tột cùng. “Hoàng thượng, chuyện này rốt cuộc là như thế nào? Thần thiếp thật sự không tự đập vào bụng mình mà.”

    Ôn Thực Sơ cả kinh nói: “Hoàng thượng, thần không dám suy đoán bừa bãi, bụng của nương nương quả thực có dấu hiệu bị đập mạnh vào, các thái y ở Thái y viện đều có thể làm chứng. Hơn nữa, thai nhi trong bụng nương nương xưa nay vẫn luôn khỏe mạnh, Hoàng thượng cũng thường xuyên nghe thấy tiếng cựa quậy của thai nhi mà, nếu không vì bị đập mạnh vào thì nương nương làm sao lại sẩy thai được chứ?”

    Huyền Lăng không nói năng gì, sắc mặt càng lúc càng khó coi, hai bàn tay nắm chặt lại đến nỗi trắng nhợt. “Là ai? Khi đó ai đã ở bên cạnh Thục phi?”

    Cận Tịch vội vàng quỳ xuống, thưa: “Khi nô tỳ đi mời thái y thì chỉ có một mình Hoàng hậu nương nương ở bên Thục phi nương nương, về sau khi nô tỳ quay lại thì đã có thêm rất nhiều người khác nữa.”

    Sắc mặt Đức phi lúc xanh lúc trắng, mười phần bất an. “Thần thiếp khi đó vốn không say, định đi tìm Lung Nguyệt rồi cùng về cung, nào ngờ Lung Nguyệt lại đứng ngẩn ngơ bên ngoài điện của Thục phi, thần thiếp đang muốn đưa nó đi thì vừa khéo Hoàng hậu ra ngoài tìm người giúp đỡ, nói là Thục phi đã đau đến ngất đi rồi.”

    Huyền Lăng trầm mặt, hỏi lại lần nữa: “Vậy khi đó là ai ở bên cạnh Thục phi?”

    Đức phi ngẩn ra, không chút nghĩ ngợi đáp ngay: “Khi thần thiếp nhìn vào chỉ thấy có mình Hoàng hậu thôi.”

    “Thời điểm Cận Tịch rời đi và lúc nàng nhìn vào hẳn là cách nhau không lâu, đều chỉ có một mình Hoàng hậu thôi sao?” Huyền Lăng hờ hững cất tiếng hỏi, ánh mắt thì lại lướt qua khuôn mặt lúc này đang sáng tối bất định của Hoàng hậu.

    “Quả thực là chỉ có mình thần thiếp.” Hoàng hậu tỏ ra bình tĩnh vô cùng, cất giọng sang sảng nói. “Vậy thì sao chứ? Thần thiếp cũng không rõ tại sao Thục phi lại tự đánh vào bụng mình để đến nỗi mất đi đứa bé.”

    Đức phi ngẫm nghĩ một lát rồi không kìm được lộ vẻ nghi hoặc. “Nhưng khi đó Hoàng hậu rõ ràng có nói với thần thiếp là Thục phi đã đau đến ngất đi, làm sao mà tự đánh vào bụng mình được?”

    Hoàng hậu cũng không hiểu được duyên cớ bên trong, thế nhưng ánh mắt sắc lẹm như dao của Huyền Lăng vẫn chẳng chịu rời khỏi khuôn mặt nàng ta, nàng ta đành thản nhiên nói: “Thần thiếp khi đó quả thực chỉ ở lại chăm sóc Thục phi mà thôi, nếu việc này có liên quan tới thần thiếp thì ắt là do người khác cố tình bày mưu hãm hại.”

    “Hoàng hậu vất vả rồi.” Huyền Lăng hờ hững nói. “Có điều tại sao khi đó Hoàng hậu không gọi người khác vào cùng chăm sóc Thục phi?”

    Hoàng hậu ngẩn ra. “Thục phi khi đó đau quá nên cứ nắm chặt lấy tay thần thiếp, thần thiếp thực sự không thể phân thân được.”

    “Vậy ư?” Huyền Lăng vẫn giữ nguyên giọng hờ hững. “Thục phi chỉ kéo tay Hoàng hậu thôi mà, đâu có bịt miệng Hoàng hậu lại đâu.”

    Sắc mặt Hoàng hậu bất giác tái dần đi, chiếc mũ phượng làm bằng vàng ròng lấp lánh trên đầu lại càng khiến khuôn mặt nàng ta trông nhợt nhạt như tờ giấy. “Hoàng thượng hoài nghi thần thiếp ư?”

    “Trẫm không muốn hoài nghi Hoàng hậu, nhưng Hoàng hậu có thể nói với trẫm không, là ai đã đánh vào bụng Thục phi khiến nàng ấy sẩy thai?”

    Hoàng hậu loạng choạng lùi về phía sau một bước, bên khóe miệng thoáng hiện một nụ cười đau khổ, sau một thoáng trầm ngâm bèn nói: “Có lẽ cái thai của Thục phi vốn đã dị thường, bằng không đêm đó cớ gì lại đột nhiên bị đau như thế chứ?”

    “Trẫm ngày ngày đều ở bên Thục phi, thường xuyên cảm nhận được động tĩnh của thai nhi trong bụng nàng ấy, làm sao mà có vấn đề gì được?” Y suy nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Ôn Thực Sơ, mang các đơn thuốc ngươi kê cho Thục phi hằng ngày tới đây!”

    Ôn Thực Sơ xoay người rời đi, một lát sau liền mang tới một sấp đơn thuốc. “Mời Hoàng hậu ghé mắt!”

    Huyền Lăng hơi cau mày. “Hoàng hậu vốn thông hiểu y thuật, chẳng cần phiền thái y chắc cũng tự biết xem rồi.”

    Trên đơn thuốc ghi toàn những vị thuốc an thai bổ khí như hoàng kỳ, bạch truật, a giao, đương sâm, lộc giác sương... hoàn toàn không có gì lạ cả.

    Hoàng hậu chẳng thể tìm ra chút sơ hở nào, bèn lẩm bẩm: “Nhỡ trong khi hôn mê, Thục phi không cẩn thận tự đánh vào bụng mình thì sao?”

    Huyền Lăng cười lạnh, cười đến nỗi có giọt lệ từ bên khóe mắt rỉ ra. Trên khuôn mặt y lúc này đã tràn đầy vẻ giận dữ. “Hoàng hậu cho rằng dùng những lời này có thể tự bào chữa cho mình được ư?”

    Hoàng hậu lộ rõ vẻ lạnh lùng mà kiên nghị, phất tay áo một cái, hoàn toàn chẳng còn bộ dạng hiền từ, hòa nhã thường ngày, ngạo nghễ đứng đó. “Thần thiếp có lý do gì để hại Thục phi đây? Những năm nay thần thiếp quản lý hậu cung, Hoàng thượng có từng thấy thần thiếp cố tình hại ai bao giờ chưa?”

    Giọng nói trong trẻo của Đoan Quý phi bất chợt vang lên: “Lúc này vẫn chưa có ai nói là Hoàng hậu hại người cả, Hoàng hậu chớ nên cả nghĩ.”

    Thần sắc Hoàng hậu thoáng buông lỏng hơn một chút. “Đa tạ Quý phi trượng nghĩa nói giúp.”

    “Hoàng hậu quá khen rồi!” Chỉ sau nháy mắt Đoan Quý phi đã lại tiếp lời. “Nhưng Thục phi bây giờ đã sinh được một con trai hai con gái, lại có con nuôi là tứ điện hạ, còn nắm quyền hiệp trợ quản lý lục cung, nếu Thục phi lần này sinh thêm được một hoàng tử nữa, ai sẽ là người bị uy hiếp nhiều nhất đây?”

    Huyền Lăng hít sâu một hơi, lộ rõ vẻ thất vọng và khinh miệt. “Quả nhiên là thế!”

    Nghe thấy lời này, Hoàng hậu đứng bật dậy, sắc mặt tức thì trở nên lạnh tựa băng sương, chiếc bộ dao nạm ngọc hình phượng hoàng tung cánh trên đầu đung đưa không ngớt. “Quý phi, ngươi xưa nay vốn không ganh đua với đời, cớ sao lại muốn hãm hại bản cung như thế?”“Không phải là Quý phi muốn hãm hại nàng.” Huyền Lăng lạnh lùng nói. “Hoàng hậu mà không giải thích cho rõ ràng, mọi người đều sẽ nghi ngờ như vậy.”

    Hai bàn tay Hoàng hậu nắm chặt lại đến nỗi trắng bệch, những món đồ trang sức châu ngọc lóng lánh cài trên búi tóc chẳng thể che giấu được sắc mặt tái nhợt của nàng ta lúc này. “Thần thiếp có lời này không thể không nói.” Hoàng hậu đột ngột ngẩng đầu nhìn chằm chằm vào tôi vốn đang cúi đầu khóc rấm rứt, gằn giọng nói: “Thời Đường Cao Tông, Chiêu nghi Võ Mỵ Nương đắc sủng, vì muốn trừ bỏ Vương Hoàng hậu mà Võ Mỵ Nương đã tự tay bóp chết đứa con gái còn ở trong nôi của mình rồi rời đi, sau đó Vương Hoàng hậu tới thăm đứa bé, nhưng lại không phát hiện ra là nó đã chết. Thế rồi Võ Mỵ Nương đi tố cáo với Đường Cao Tông là con gái của mình đã bị Vương Hoàng hậu bóp chết. Khi đó chỉ có một mình Vương Hoàng hậu tới thăm đứa bé mà thôi, thành ra chẳng thể biện bạch được gì, cuối cùng bị phế. Tình cảnh của thần thiếp hôm nay thật giống với Vương Hoàng hậu khi xưa.”

    Tôi không hề tức giận, chỉ khẽ cất tiếng cười, nhưng trong sự tĩnh lặng lúc này tiếng cười ấy thực chẳng khác gì tiếng khóc. “Thần thiếp là Võ Mỵ Nương tự tay giết con mình ư?” Tôi cười lạnh, nói tiếp: “Hoàng hậu vừa rồi còn chính miệng nói rằng thần thiếp đã đau đến ngất đi cơ mà, thử hỏi trong khi hôn mê thần thiếp giết con của mình bằng cách nào?”

    Lúc này, tất cả mọi người đều im lặng, tôi và nàng ta thì giận dữ nhìn nhau, trong mắt cả hai đều chứa đầy những tia căm hận và tàn độc như rắn rết. Sau nhiều năm đối đầu, hai bên trò gì cũng đã từng giở ra, chuyện giữa tôi và nàng ta nên có một hồi kết vào hôm nay rồi.

    Một tiếng trẻ con khóc đột ngột vang lên phá tan sự tĩnh lặng lúc này. Mọi người nhìn về hướng phát ra âm thanh, thấy thì ra là Lung Nguyệt vốn vẫn nấp sau lưng Đức phi. Lung Nguyệt nhỏ nhắn lúc này đang rúc người vào dưới giá hoa đóng bằng gỗ tử đàn, bàn tay nắm chặt góc váy Đức phi, gào khóc nói: “Con không nhìn thấy gì cả! Không nhìn thấy gì cả!”

    Huyền Lăng bấy lâu nay vốn thương Lung Nguyệt nhất, thấy nó khóc lóc thương tâm như thế thì vội vàng tới ôm nó vào lòng, dịu dàng dỗ dành: “Oản Oản, con nhìn thấy gì vậy? Mau nói cho phụ hoàng biết đi! Phụ hoàng ở đây rồi mà, con đừng sợ gì cả!”

    Lung Nguyệt vẫn khóc mãi không ngừng, hai mắt đều nhòe lệ, ánh mắt nhìn lướt qua khuôn mặt tôi và Hoàng hậu vẻ sợ hãi vô cùng. Huyền Lăng hỏi đi hỏi lại mấy lần nhưng nó chỉ ra sức bám chặt vào người y, còn cố gắng rúc sâu vào lòng y.

    Hoàng hậu nghe ra một tia sinh cơ, bèn đưa tay tới, cất tiếng dỗ dành: “Lung Nguyệt, mau nói cho mẫu hậu nghe nào, con nhìn thấy gì vậy?”

    Đầu óc như chìm trong một mảng bàng hoàng thảng thốt, tôi kinh hãi nhớ ra, ngày đó cửa điện còn chưa đóng hẳn, mà Lung Nguyệt thì lại đứng ngay bên ngoài cửa.

    Nó đã nhìn thấy gì rồi?

    Lung Nguyệt từ nhỏ đã lớn lên bên cạnh Đức phi, thời gian ở bên Hoàng hậu cũng nhiều hơn ở bên tôi rất nhiều, hơn nữa, đứa bé này từ nhỏ đã không gần gũi với tôi.

    Tựa như giữa trời đông tháng rét bị người ta dội xuống đầu vô số mảnh băng vụn, cái lạnh rất nhanh đã lan tỏa khắp toàn thân và thấm sâu vào tận trong xương tủy của tôi.

    Tất cả mọi người đều ngẩn ngơ nhìn Lung Nguyệt. Con bé giống như phải chịu một cơn kinh hãi rất lớn, đột ngột đưa tay đẩy tay Hoàng hậu ra, lớn tiếng kêu ré lên: “Mẫu hậu đã đánh vào bụng Thục mẫu phi! Mẫu hậu đã đánh vào bụng Thục mẫu phi!”

    Đức phi sợ đến nỗi mặt mày tái mét, vội vàng ôm chặt Lung Nguyệt vào lòng, hô lớn: “Mau đem canh an thần lại đây! Mau đem canh an thần lại đây!”

    Hoàng hậu cười lạnh không ngớt, chỉ tay vào tôi, gằn giọng nói: “Là ngươi đã dạy nó nói thế, đúng vậy không?”

    Trong cơn giận dữ, Huyền Lăng đưa tay gạt tay Hoàng hậu ra, lại lật tay đẩy nàng ta lùi về phía sau mấy bước. “Lung Nguyệt chỉ là một đứa bé tám tuổi, nó mà lại có thể nói dối được sao? Huống chi từ sau đêm đó, nó chưa từng nói chuyện với Thục phi câu nào, từ nhỏ lại không do Thục phi nuôi dưỡng, ai có thể dạy nó nói gì được!” Huyền Lăng nhíu chặt đôi mày, trong mắt ngợp đầy vẻ giận dữ. “Hoàng hậu, ngẩng đầu ba thước có thần linh, nàng còn gì để nói nữa không?”

    Mặt mày Hoàng hậu tái mét như tro tàn. “Thần thiếp sớm đã nói rồi, trong việc này thần thiếp giống như Vương Hoàng hậu vậy, bị người ta đưa vào tròng nên chẳng có cách nào biện bạch!”

    “Hoang đường!” Trên huyệt thái dương của Huyền Lăng nổi rõ gân xanh, hiển nhiên cơn giận của y lúc này chỉ tăng mà không giảm. “Nàng cho là trẫm dễ bị lừa gạt như Đường Cao Tông ư? Theo trẫm thấy, nàng sớm đã coi Hoàn Hoàn như tử địch và sinh lòng muốn diệt trừ nàng ấy từ lâu rồi!”

    Hoàng hậu đột nhiên quỳ xuống, lớn tiếng nói: “Thần thiếp xin lấy tổ tiên của nhà họ Chu ra để thề, thần thiếp chưa từng làm việc gì gây hại tới thai nhi trong bụng Thục phi.”

    Huyền Lăng xoay người đi, để lại cho Hoàng hậu một bóng lưng lạnh lẽo. “Lời thề độc này nàng nên đi nói cho Thái hậu nghe ấy”, rồi y ra lệnh: “Hoàng hậu lòng dạ tàn độc, hại chết thai nhi trong bụng Thục phi, kể từ hôm nay không được bước chân ra khỏi Phượng Nghi cung nửa bước. Còn về phía Thái hậu, trẫm sẽ tự đi bẩm báo.” Hoàng hậu còn muốn nói gì nữa nhưng Huyền Lăng đã lộ vẻ chán ghét tột cùng, nói: “Lý Trường, đưa nàng ta đi!”

    Tôi không sao kìm nén được nữa, nhào vào lòng Huyền Lăng mà khóc lóc đau thương.

    Mấy ngày sau tôi đã có thể xuống giường đi lại. Thái hậu nghe nói việc này thì kinh hãi vô cùng, thế nhưng sau khi tỉ mỉ điều tra, Hoàng hậu vẫn không thể thoát khỏi mối hiềm nghi, mà Lung Nguyệt thì rõ ràng không có cơ hội để bị người khác mớm lời.

    Thái hậu không thể phản bác, đành để mặc Huyền Lăng cấm túc Hoàng hậu, trao cho tôi quyền chấp chưởng hậu cung.

    Trong cung bắt đầu nổi lên vô số tin đồn, rằng hóa ra có rất nhiều đứa bé đã chết trong tay Hoàng hậu.

    Thế nhưng ý chỉ phế hậu mãi vẫn không được ban xuống, mà Huyền Lăng cũng không trừng phạt Chu Nghi Tu nặng thêm nữa.

    Trong Thông Minh điện, người ta đang siêu độ cầu phúc cho đứa bé không may chết yểu từ khi còn ở trong bụng tôi, tiếng tụng kinh rền vang như sấm. Giữa đêm khuya tĩnh lặng, ngay đến mây trên trời cũng ngừng trôi, lẳng lặng che khuất vầng trăng sáng. Tôi quỳ một mình trên chiếc bồ đoàn, phía trước là bức tượng Quan Âm từ bi ngồi nghiêm trang trên đài sen mà cúi đầu nhìn chúng sinh giữa cõi tạm.

    Những làn khói đàn hương nhẹ nhàng vương vất trước tượng Quan Âm, tựa như vô số u hồn đang du đãng. Đèn đuốc trong cung lúc này đã tắt, ánh trăng chẳng chiếu được tới chốn sâu thẳm này, giữa đêm thu sương nặng, trái tim sắt đá của tôi dường như đã bị nước sương làm mềm đi.

    Tôi lẳng lặng tụng niệm “Vãng sinh chú”, hết lượt này tới lượt khác, vậy mà vẫn chẳng ngăn được nỗi áy náy và đau khổ trong lòng. Suốt đời suốt kiếp này, tôi sẽ chẳng có cách nào quên được cảnh tượng như ác mộng đêm đó.

    Bàn tay tôi lúc này đầm đìa mồ hôi lạnh ngắt, bất chợt trượt xuống dưới, trong đầu như có vô số cơn sóng ngợp trời cùng trào dâng nuốt chửng tôi.

    Hoàng hậu thấy thế liền vội vàng lay nhẹ tôi. “Thục phi, Thục phi.”

    Tôi không có phản ứng gì, Hoàng hậu vội vàng đẩy cửa chạy ra ngoài... Cửa lúc ấy còn chưa hoàn toàn đóng lại, vừa hay Lung Nguyệt đang đứng bên ngoài mà chơi đùa với chiếc túi thơm trong tay. Kế đó Đức phi đi tới, Hoàng hậu liền kéo nàng ta lại, nói: “Thục phi đau đến ngất đi rồi, thái y thì còn chưa tới, muội muội mau vào trong xem thế nào đi.”

    Khi nói ra những lời này, Hoàng hậu quay lưng về phía tôi, ngăn cản tầm mắt của Đức phi.

    Tất thảy mọi việc chỉ xảy ra trong nháy mắt, tôi tập trung toàn bộ sức lực còn sót lại trong cơ thể mình vào cánh tay phải, bàn tay nắm chặt hết cỡ, vung lên đấm mạnh vào bụng mình.

    Sau đó tôi không còn biết gì nữa, bị một cơn đau vô cùng vô tận nhấn chìm.

    Mọi ký ức về việc đó dường như đã bị nghiền nát và trở nên mơ hồ, chỉ còn lại một điều rõ ràng duy nhất, đó là tôi đã tự tay giết chết con mình! Hoàng hậu nói không sai, tôi kỳ thực có khác gì Võ Chiếu giết con đâu, đứa bé đó cho dù không thể sống được đến lúc chào đời thì cũng không thể phủ nhận được rằng chính tôi đã tự tay giết chết nó.

    Tôi là một người mẹ tàn độc.

    Tôi xoay người lại, trong ký ức đột nhiên lóe hiện đôi mắt trong veo đầy vẻ sợ hãi của Lung Nguyệt, con bé giống như một con hươu nhỏ bị rơi vào bẫy, hoang mang chẳng biết phải làm sao.

    Con bé đã nhìn thấy tất cả, mọi tội lỗi của tôi đều lọt vào trong mắt nó. Đây có lẽ chính là sự trừng phạt mà ông trời dành cho tôi.

    Thế nhưng, Lung Nguyệt cũng đã cứu tôi. Tôi bây giờ lại càng thêm áy náy, chính tôi đã kéo nó vào vũng bùn lầy tranh đấu vô tận trong hậu cung. Sau khi sức khỏe hồi phục một phần, tôi từng đi thăm nó, lúc đó nó đang ở trong phòng của mình, lẳng lặng ngồi bên cửa sổ ngơ ngẩn nhìn lá rụng. Tôi khẽ cất tiếng hỏi nó: “Nguyệt Nhi, là ai đã dạy con nói những lời đó vậy?”

    Nó đờ đẫn lắc đầu, không nói một lời. Tôi thực sự nghĩ mãi mà không sao hiểu nổi, rõ ràng là không có ai dạy nó nói những lời đó cơ mà, tại sao đứa bé ngây thơ này lại biết là phải giúp mẹ ruột của mình như thế?

    Một hồi lâu sau, Lung Nguyệt lấy ra một chiếc lồng vàng đựng những hạt đậu tương tư màu đỏ tươi mà lắc nhẹ, thần sắc lộ rõ vẻ mơ màng, nhưng đồng thời lại vô cùng nghiêm túc: “Mẫu phi từng dạy con là bất kể mẫu hậu phát sinh tranh chấp với ai thì cũng không được giúp mẫu hậu.”

    Tôi giật mình bừng tỉnh, lòng thầm cảm kích Đức phi, nhưng cũng vô cùng hụt hẫng, con gái của tôi có lẽ đã mất đi trái tim hồn nhiên, ngây thơ rồi.

    Là tôi đã hại nó ư? Hay là người khác? Có lẽ nó chỉ là một đứa bé lớn lên giữa chốn thâm cung tịch mịch, giống với mọi cung nữ khác ở nơi đây, căn bản không có cơ hội trốn thoát ra ngoài.

    Hai hàng lệ nóng chậm rãi chảy ra làm tầm mắt trở nên mơ hồ, tôi không kìm được quàng tay ôm thật chặt lấy Lung Nguyệt.

    Gió thu phơ phất, lá thu rụng hết xuống trần ai. Thế là mùa đông đã lại tới rồi...
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/9/17
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 2: Xuân đến người đi lòng thổn thức
    Suốt cả mùa thu và mùa đông năm ấy, những làn gió lạnh đều như ấm lên vì vô số những lời rì rầm bàn luận sục sôi, đó là những bóng đao bóng kiếm thấp thoáng trong từng câu nói, bên trên thì vương vất mùi thơm của phấn son. Trong thời gian này, dường như mỗi làn gió thổi qua đều mang theo vô số lời đồn đoán về ngôi hoàng hậu, mà Hồ Uẩn Dung vốn xuất thân cao quý lại rất được ân sủng nên nhiều người đã bắt đầu ngầm cho rằng nàng ta sẽ được ngồi lên vị trí kia.

    Để xua tan những lời đoán mò vô căn cứ, Hồ Uẩn Dung từng lấy miếng ngọc bích kia ra cho mọi người cùng ngắm nghía, lại cẩn thận giải thích: “Bức hình trên miếng ngọc bích này là thần điểu Phát Minh ở phương Đông, có ý nói rằng bản cung dù có phúc đến mấy thì cùng lắm cũng chỉ ngồi được tới ngôi quý phi thôi, quả thực không có duyên với ngôi hậu.”

    Xuân Tần cầm miếng ngọc trên tay ngắm nghía cẩn thận một hồi, tỏ vẻ chân thành nói: “Nương nương nói đùa rồi, tần thiếp thấy đây rõ ràng là phượng hoàng chứ đâu phải thần điểu Phát Minh. Phượng vốn ứng vào nữ tử tôn quý nhất trên đời, phúc phận của nương nương sao có thể chỉ dừng ở ngôi quý phi được chứ!”

    Nghe Xuân Tần nói ra lời kinh người này, Vận Quý tần vội ghé tới xem, ngạc nhiên nói: “Quả đúng thế thật, ai bảo đây là thần điểu Phát Minh, rõ ràng là phượng hoàng mà. Nương nương nghe ai nói bức hình trên miếng ngọc bích này là thần điểu Phát Minh vậy?”

    Hồ Uẩn Dung cũng hết sức bất ngờ, vội vàng nói: “Là một vị đạo sĩ mà bản cung quen hồi nhỏ. Ông ta nói đây là thần điểu Phát Minh ở phương Đông, ứng vào nữ tử cực kỳ tôn quý giữa chốn nhân gian.”

    “Lão đạo sĩ đó chắc bị ngớ ngẩn rồi, đã là nữ tử cực kỳ tôn quý thì một con thần điểu Phát Minh làm sao so sánh được, nhất định là ông ta đã già nên lẩm cẩm nhìn nhầm, đây ắt là phượng hoàng không sai được.” Vận Quý tần vừa nói vừa lộ rõ vẻ xem thường.

    Xuân Tần vội vàng đưa tay bịt miệng nàng ta lại, nói: “Các đạo sĩ đều tiên phong đạo cốt, ăn nói cực kỳ có thâm ý, ắt không bao giờ lẩm cẩm đâu. Hồi phu nhân còn nhỏ thì Thuần Nguyên Hoàng hậu đang làm chủ trung cung, như thế tức là phượng hoàng đã chỉ người khác rồi, bức hình trên miếng ngọc bích của phu nhân chỉ có thể được nói thành thần điểu Phát Minh thôi. Có điều vị tiên sư đó nhất định có tài tiên tri, biết là nương nương sau này phú quý, do vậy mới nói là ứng vào nữ tử cực kỳ tôn quý giữa chốn nhân gian, còn về việc lời nói trước sau mâu thuẫn thì ắt là thiên cơ bất khả lộ. Về sau Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời, Quý phi lên làm chủ trung cung, bây giờ hậu cung lại xao động, có lẽ sau khi phế hậu thì thần điểu Phát Minh cũng sẽ trở nên tôn quý như phượng hoàng thôi.”

    Mọi người đều nửa tin nửa ngờ, thế nhưng bức hình trên miếng ngọc bích đó rõ ràng càng nhìn càng thấy giống phượng hoàng, có người khẽ cười, nói: “Xuân Tần xuất thân từ vương phủ, đúng là có chút kiến thức.”

    Hồ Uẩn Dung mỉm cười không nói gì, Xuân Tần thoáng lộ vẻ đắc ý. “Khi tần thiếp còn ở trong vương phủ cũng thường xuyên thấy Kỳ Sơn Vương trò chuyện với các vị tiên sư, thoạt tiên nghe lời họ nói thì câu trước câu sau chẳng liên quan gì tới nhau cả, ấy vậy mà chờ đến sau này không ngờ lại đều ứng nghiệm, qua đó đủ thấy hạng người phàm tục như chúng ta kiến thức đều nông cạn vô cùng, những lời đó phải là nhân vật có đạo hạnh thì mới hiểu được.”

    Khi Hoa Nghi kể lại những lời này cho tôi thì tôi đang thành tâm kính Phật một nén nhang thơm, trong lòng thầm tưởng niệm thai nhi còn chưa ra đời đã phải chết thảm trong bụng mình. Chờ Hoa Nghi kể xong tôi liền đi rửa sạch hai tay, sau đó mới chậm rãi nói: “Hoa Nghi, khi còn ở dân gian, chắc muội đã từng nghe câu chuyện chim sẻ bay lên cành cao biến thành phượng hoàng rồi đúng không? Ngay đến chim sẻ mà còn có thể biến được như thế, việc này đối với thần điểu Phát Minh mà nói thực sự là quá dễ dàng.”

    Hoa Nghi đưa tay chống cằm, nói: “Nô tỳ chỉ không phục Vận Quý tần thôi, khi Hoàng hậu đắc thế thì đi theo Hoàng hậu, bây giờ Hoàng hậu thất thế lại lập tức chạy qua bợ đỡ Trang Mẫn Phu nhân.”

    Vừa khéo lúc này Cận Tịch đi vào thay hoa quả cúng trên ban thờ, nghe thấy thế thì bất giác cười thành tiếng, chỉ tay về phía những ngọn cỏ héo úa đang không ngừng đung đưa theo gió bên ngoài cửa sổ, nói: “Nếu trên đời không có loại người như nàng ta thì câu nói “cỏ đầu tường gió chiều nào theo chiều đó” biết phải dùng với ai bây giờ?”

    Hoa Nghi không kìm được bật cười khúc khích, không nói gì thêm.

    Sau khi Hoàng hậu bị cấm túc, Vinh Tần xưa nay vốn chăm chỉ lui tới Chiêu Dương điện bỗng trở nên an phận hơn rất nhiều. Hôm ấy, Khánh Quý tần Chu Bội khi tới thỉnh an tôi đã cười, nói: “Khi xưa nhìn nàng ta cưỡi ngựa xông vào Minh uyển thì xem chừng là một người rất gan dạ, thế mà bây giờ Hoàng hậu bị cấm túc, không ngờ nàng ta lại không nói một lời.”

    Khi nói những lời này, Chu Bội thoáng lộ vẻ đắc ý, hiển nhiên sau khi Vinh Tần đắc sủng, sự sủng ái Huyền Lăng dành cho nàng ta đã giảm đi khá nhiều. Bây giờ Vinh Tần an phận, số lần Chu Bội được thị tẩm tăng hẳn lên, nàng ta đắc ý hay sung sướng kỳ thực cũng là lẽ thường tình. Tôi đưa mắt quan sát nàng ta một chút, vì trong Nhu Nghi điện ấm áp như mùa xuân nên lúc này nàng ta đã cởi áo ngoài, chỉ mặc một chiếc áo dài thêu hình những bông hoa muôn màu muôn vẻ, trông diễm lệ vô cùng, mái tóc được búi theo kiểu Nghênh xuân kế, bên trên cài xéo một cây thoa bằng vàng đính mấy dải tua hồng ngọc không ngớt đung đưa, xung quanh lại được tô điểm bằng không ít món đồ châu ngọc khác, quý phái mười phần.

    Kỳ thực, đối với những nữ tử trong chốn thâm cung mà nói, chỉ khi nào nhận được sự sủng ái của bậc đế vương thì dung nhan mới có thể rạng rỡ nhường này.

    Tôi khẽ nở nụ cười mỉm, ôn tồn cất tiếng dặn dò: “Bất kể là khi hả dạ hay là khi ngã lòng, cứ phải yên phận mà sống qua ngày thì sự ân sủng mới có thể giữ vững lâu dài được. Kỳ thực Hoàng thượng cũng không thích những người hay gây chuyện thị phi đâu.”

    Chu Bội ngoan ngoãn đáp “vâng” một tiếng, cụp mắt xuống, dường như có điều suy tư. Một lát sau nàng ta lại cười tươi, nói: “Nương nương nên đi thay y phục rồi, trong bữa tiệc toàn cung tụ họp đêm nay, nghe nói mấy vị vương gia cũng vào cung đấy.”

    Phải rồi, hôm nay là gia yến nhân dịp tết Nguyên Tiêu. Tôi ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy sắc trời âm u nặng nề, bèn khẽ nói: “Hình như tuyết sắp rơi rồi, nếu Tĩnh phi vào cung thì phải cẩn thận mới được.”

    Chu Bội nghe thấy thế liền cười, nói: “Dạ phải, tính ra thì Tĩnh phi cũng sắp sinh đến nơi rồi.”

    Đêm Nguyên Tiêu trong Tử Áo Thánh vô cùng náo nhiệt, khắp nơi đều treo đèn hoa rực rỡ, trùng trùng lầu các sáng rực như sao, thực chẳng khác gì một dải Ngân Hà treo ngược vô cùng bắt mắt, ngay đến bầu không khí cũng như ngợp đầy một nỗi mừng vui khó diễn tả bằng lời.

    Dịp Nguyên Tiêu hằng năm vốn chính là ngày cát tường viên mãn, các phi tần trong cung trên đến quý phi, dưới đến canh y, cung nhân... không có ai là không trang điểm cẩn thận, khắp nơi đều ngợp đầy lụa là gấm vóc, rực rỡ muôn màu, khung cảnh thực tươi đẹp khiến lòng người say đắm. Sau khi mọi người yên vị, các cung nhân nối đuôi nhau đi vào, dâng lên đủ sơn hào hải vị, ngọc lộ quỳnh tương, kèm theo đó là những điệu ca múa tưng bừng, cả Trọng Hoa điện chìm trong một bầu không khí tột độ vui tươi.

    Trong điện có đặt mấy chậu thủy tiên cùng sơn trà, một loại thì trắng như tuyết xuân, một loại thì đỏ tựa vầng dương thắm, được hơi ấm thổi vào thì lại càng ngát hương thơm, thấm vào lòng người. Lúc này, cùng ngồi bên dưới chậu sơn trà Bảo Châu nở rộ nhất trong điện chính là ba phu thê Thanh Hà Vương. Ngọc Ẩn và Vưu Tĩnh Nhàn một trái một phải ngồi bên cạnh Huyền Thanh. Y là một nam tử hào hoa xuất chúng, tài năng phi phàm, bọn họ thì là hai nàng trắc phi dịu dàng xinh đẹp, nhìn từ xa giống hệt hai bông hoa cùng nở trên một cành, vô cùng hòa hợp. Lúc này Vưu Tĩnh Nhàn đã sắp tới ngày sinh nở, bụng nhô cao hẳn lên, bộ cung trang màu đỏ thêu hình hoa mẫu đơn lại càng làm tôn lên làn da trắng ngần cùng thân hình hơi đẫy đà của nàng ta, còn Ngọc Ẩn ở phía bên kia thì diện một chiếc áo gấm màu tím thêu hình bướm vờn hoa, rõ ràng là thua kém rất nhiều. Mỗi khi các thị nữ mang rượu hay đồ ăn tới thì đều cung kính dâng lên Tĩnh phi trước. Lòng tôi bất giác giá lạnh, chỉ từ cảnh này là đủ biết địa vị của Ngọc Ẩn và Vưu Tĩnh Nhàn ở phủ Thanh Hà Vương hơn kém nhau thế nào rồi, với tâm tính của Ngọc Ẩn thì cuộc sống ắt chẳng thể nào dễ chịu.

    Khi tôi đang trầm ngâm suy nghĩ thì Dư Hàm trong lòng bỗng ghé đến bên tai tôi khẽ nói: “Tĩnh Nhàn thẩm mẫu hôm nay đẹp quá!” Sự đắc ý và thất ý ngay đến trẻ con cũng có thể phân biệt rõ ràng như thế, đám người vốn quen thói nịnh nọt bợ đỡ trong cung tất nhiên khỏi cần phải nói làm gì. Tôi đưa tay khẽ xoa má Dư Hàm, nói: “Nhị di mẫu hôm nay cũng rất đẹp mà.”

    Dư Hàm bật cười khúc khích, cất giọng non nớt nói: “Thẩm mẫu cười trông rất đẹp, di mẫu thì ít cười lắm.” Rồi nó đột nhiên trượt xuống khỏi đùi tôi, chạy đến bên cạnh Vưu Tĩnh Nhàn kéo tay nàng ta nói nói cười cười không ngớt, còn tò mò đưa tay lên sờ bụng nàng ta.

    Huyền Lăng thấy vậy thì bật cười, ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “Dư Hàm còn nhỏ mà đã thích đứa bé trong bụng Vưu thị như thế rồi, xem ra hai đứa rất có duyên với nhau đấy.”

    Nghe thấy lời này, hai tai tôi bất giác nóng lên, nhưng miệng thì vẫn cười hờ hững. “Bọn chúng là đường huynh đường đệ với nhau, tất nhiên là có duyên rồi.” Lời còn chưa dứt, chợt nghe mấy tiếng “tưng tưng” vang lên không ngớt, tôi nhìn đi theo hướng phát ra âm thanh thì thấy Dư Hàm đang nghịch một chiếc đàn không[1] của nhạc sư, hết sức vui vẻ.

    [1] Tên một loại đàn cổ, có nhiều dây, loại ít thì có năm dây, loại nhiều nhất là có hai mươi lăm dây - ND.

    “Cẩn thận kẻo đứt tay đấy.” Huyền Thanh vội bế Dư Hàm vào lòng, cẩn thận nhìn kĩ, thấy thằng bé không sao thì mới cười, nói: “Nếu cháu thích đàn không, cứ bảo nhạc sư gảy đàn cho nghe là được rồi.”Tĩnh phi mỉm cười điềm đạm, đưa tay tới nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Dư Hàm. “Hàm Nhi thích đàn không đúng không, thẩm mẫu gảy cho con nghe nhé?”

    Dư Hàm vốn còn nhỏ, lại rất thích Vưu Tĩnh Nhàn, lập tức vui mừng vỗ tay đồng ý ngay.

    Vưu Tĩnh Nhàn thướt tha đứng dậy, chiếc váy dài màu đỏ đung đưa theo từng bước chân, khuôn mặt tròn xoe tựa như vầng trăng ngày rằm toát ra một vẻ đẹp thuần khiết khó mà dùng lời miêu tả.

    Nàng ta dùng tay trái đỡ lấy chiếc đàn không màu đen nạm vàng hai mươi lăm dây, tay phải thì đưa tới thử dây đàn một chút, sau đó khẽ xốc tay áo lên, bắt đầu gảy đàn. Khi tiếng đàn đầu tiên vang lên, lập tức như có một làn gió mát thổi tới dưới ánh trăng miên man dìu dịu, lại một tiếng đàn nữa vang lên, đâu đây như có một nhành ngọc lan đang chậm rãi nở hoa trong gió đêm, hứng sương đêm lành lạnh, lẳng lặng khoe sắc dưới ánh trăng heo hắt. Có lúc những sợi dây đàn được gảy dồn dập, hệt như những làn gió xuân ấm áp không ngớt thổi về, trong vườn trăm hoa đua sắc ngợp đầy sắc xuân, dường như còn có thể nghe thấy tiếng chim ca ríu rít, oanh yến hót mừng. Một hồi lâu sau, âm thanh bắt đầu trùng thoáng, để lộ ra những nét tiêu điều, rồi thì mưa lạnh đổ về, ngấm sâu vào tận trong xương tủy, trăm hoa đều rụng hết, cảnh sắc trở nên úa tàn. Sau mấy phen lặp lại, đến trái tim người nghe cũng như chùng hẳn xuống, ngợp trong một nỗi cô quạnh tịch liêu. Chờ khi tiếng đàn lại một lần nữa trở nên sôi nổi, ánh dương ấm áp tức thì quay trở lại nhân gian, nhành ngọc lan kia cũng mừng vui khoe sắc, phong thái phi phàm. Những người đang có mặt chừng như đều ngửi thấy hương hoa ngọc lan vương vất đâu đó, tâm trạng bất giác đắm say, vô cùng thư thái, không ai ngờ được giữa khung cảnh úa tàn hiện tại, nhành hoa kia vẫn có thể nở đẹp như thế, còn tỏa hương thầm đi khắp nơi. Khi mọi người còn đang đắm chìm trong sự ngọt ngào và thư thái ấy, tiếng đàn không hóa ra đã dừng lại tự lúc nào, chỉ còn lại chút dư âm vảng vất nhưng vẫn đủ khiến người ta mê say.

    Vưu Tĩnh Nhàn hơi khom người, thần thái đầy vẻ yên bình và thỏa mãn, hai mắt thì dịu dàng nhìn về phía Huyền Thanh, dung mạo dường như lại xinh đẹp hơn trước mấy phần.

    Huyền Thanh gật đầu, nói: “So với trước đây đã tiến bộ thêm một chút, nhưng ta dặn nàng rồi cơ mà, thường ngày phải chú ý dưỡng thai, đừng chăm chăm để tâm luyện đàn như thế.”

    Vưu Tĩnh Nhàn bất giác ửng hồng hai má. “Thiếp thân biết là vương gia thích nghe, mà luyện tập một chút cũng đâu có tốn bao nhiêu sức lực.” Nàng ta cúi đầu khẽ vuốt ve cái bụng đã nhô cao của mình, dịu dàng cười nói. “Đứa bé hình như cũng rất thích nghe đấy.”

    Huyền Thanh dịu dàng nhìn cái bụng của nàng ta, ôn tồn nói: “Nàng cũng mệt rồi, mau ngồi xuống nghỉ ngơi đi.”

    Vưu Tĩnh Nhàn khẽ mỉm cười, đưa mắt nhìn qua phía Ngọc Ẩn ở bên cạnh. “Tỷ tỷ xin hãy tránh đường một chút.”

    Ngọc Ẩn vốn đang cầm chén rượu ngơ ngẩn, bỗng phát hiện mình bây giờ đang chắn đường đi của Vưu Tĩnh Nhàn, đành đứng dậy, nói: “Tĩnh phi nhớ cẩn thận...” Giọng nói ấy nghe yếu ớt vô cùng, rất nhanh đã bị tiếng nhạc xung quanh nhấn chìm, chẳng thể nghe thấy rõ.

    Sau khi cơm no rượu say, các cung nhân lại lần lượt dâng lên các thức điểm tâm, tất thảy đều là thứ mà các phi tần thường ngày thích ăn, chẳng hạn như canh tổ yến kim ti của Đoan Quý phi, rượu anh đào của Đức phi, canh tổ yến táo đỏ của Hồ Uẩn Dung, của tôi với Dư Hàm thì đều là canh hoa toàn phúc thường ngày hay uống.

    Trong sách Kim quỹ yếu lược của Trương Trọng Cảnh thời Hán có ghi lại, canh hoa toàn phúc được dùng hoa toàn phúc, mật ong và tân giáng để nấu thành, chủ trị chứng khí huyết ứ đọng ở gan, chẳng những thơm mát mà còn rất có ích cho thân thể. Khi My Trang còn tại thế, Ôn Thực Sơ thường xuyên dùng canh này để tẩm bổ cho tỷ ấy. Đức phi vừa nhìn thấy liền không kìm được khẽ thở dài. “Vừa nhìn thấy canh này ta liền nhớ đến tình cảnh khi Huệ Nghi Quý phi còn tại thế, Thục phi thực đã có lòng rồi.”

    Tôi cầm thìa khuấy nhẹ bát canh, đồng thời đưa tay xoa nhẹ mái tóc mềm mại trên đầu Dư Nhuận. “Nhuận Nhi giờ còn nhỏ, chờ nó lớn thêm chút nữa muội sẽ dặn dò nó phải ăn những thứ mà mẹ ruột nó thích nhiều một chút.” Hơi dừng lại, tôi khẽ cười, nói tiếp: “Tỷ tỷ còn chưa quen với thứ mùi này đấy thôi, đến khi ăn quen rồi sẽ rất có lợi cho thân thể đấy.”

    Đức phi cười, nói: “Y thuật của Ôn thái y, ta tất nhiên là vô cùng tin tưởng rồi.”

    Tôi đang định uống canh, chợt nhìn thấy Dư Hàm nấp sau cây cột nạm hình rồng cuộn không chịu ra ngoài, vội vàng vẫy tay gọi nó: “Hàm Nhi, con nấp ở đó làm gì đấy?”

    Bình Nương nôn nóng đến nỗi trên mũi tuôn đầy mồ hôi, cười gượng, nói: “Dạ, bẩm nương nương, điện hạ nghịch ngợm, nhất quyết không chịu uống canh.”

    Dư Hàm thò nửa cái đầu ra từ sau cây cột, lè lưỡi, nói: “Nhi thần không uống đâu, canh này ngán lắm, nhi thần không thích.”

    Bình Nương không ngừng dỗ dành: “Điện hạ mau uống đi mà, để nguội mới uống sẽ có hại cho dạ dày đấy.”

    Dư Hàm một mực lắc đầu không chịu, còn chạy lòng vòng phía sau cây cột. Bình Nương nôn nóng đến nỗi luống cuống chân tay, gọi váng lên “tiểu tổ tông” không ngớt lời. Thấy Dư Hàm nghịch ngợm như thế, Dư Nhuận vô cùng thích thú, cặp mắt đen láy mở to nhìn chằm chằm vào ca ca, miệng thì cười khúc khích không ngừng. Các phi tần cũng đều thấy thú vị, chỉ duy có Vinh Tần vốn ngồi bên cạnh Xuân Tần là không nói năng gì, còn nhìn chăm chăm về hướng đó như Dư Nhuận, sắc mặt nhợt nhạt đối lập với bộ cung trang thêu hình hoa thược dược trên người nàng ta lúc này.

    Dư Hàm cứ thế chạy một hồi, trong điện lại ấm áp, trên trán thằng bé chẳng mấy chốc đã toát đầy mồ hôi. Tĩnh phi đang ngồi phía xa vẫy tay, cười nói với nó: “Hàm Nhi, để thẩm mẫu múc canh cho con uống nhé?”

    Dư Hàm hôm nay vốn thích Vưu Tĩnh Nhàn nhất, nghe thấy thế liền lập tức chạy vụt tới bên cạnh nàng ta, chu môi lên nói: “Con muốn thẩm mẫu múc cho con uống, con muốn thẩm mẫu múc cho con uống.”

    Vưu Tĩnh Nhàn cầm khăn tay cẩn thận lau mồ hôi cho Dư Hàm, đồng thời dịu dàng dặn dò: “Chạy nhanh như thế lỡ bị ngã thì phải làm sao? Con ngồi xuống bên cạnh thẩm mẫu đi nào!”

    Dư Hàm hết sức nghe lời, vội vàng ngồi xuống thật ngay ngắn, bàn tay thì cầm mép váy Vưu Tĩnh Nhàn mà tươi cười rạng rỡ nhìn nàng ta. Vưu Tĩnh Nhàn đón lấy chiếc bát bạch ngọc từ trong tay Bình Nương, dùng chiếc thìa nhỏ làm bằng vàng ròng múc một thìa canh lên thổi nhẹ mấy lần, dường như còn chưa yên tâm, bèn đưa vào miệng nếm thử, cảm thấy không hài lòng lắm, lại múc một thìa khác lên thổi cẩn thận rồi mới đưa tới bên miệng Dư Hàm. “Hàm Nhi, có thể uống được rồi.” Nàng ta mỉm cười cất tiếng, thế nhưng còn chưa nói xong thì đôi hàng lông mày đã nhíu chặt lại, dường như vô cùng đau đớn, bất chợt một dòng máu từ bên khóe miệng rỉ ra, từng giọt từng giọt chảy xuống bộ cung trang màu đỏ tươi, sau nháy mắt đã biến mất chẳng còn tăm tích.

    Dư Hàm sợ đến nỗi sắc mặt trắng bệch, vội vàng nắm chặt lấy tay nàng ta khóc lớn. “Thẩm mẫu! Thẩm mẫu! Người làm sao vậy?”

    Vưu Tĩnh Nhàn chẳng thể nói được gì, máu tươi vẫn không ngừng rỉ ra từ bên khóe miệng, sắc mặt nhanh chóng trở nên nhợt nhạt, thân thể mềm nhũn ngã vào lòng Huyền Thanh, chiếc bát bạch ngọc trong tay theo đó rơi xuống đất. Huyền Thanh còn chưa rõ là có chuyện gì xảy ra, bất giác nôn nóng đến nỗi mặt mày tím tái, vừa ôm Vưu Tĩnh Nhàn vừa quát gọi: “Thái y! Thái y đâu rồi?”

    Ngọc Ẩn vội đứng bật dậy, không may bị trượt chân, thiếu chút nữa thì ngã nhào xuống đất. Phân Nhi nhanh tay đỡ lấy Ngọc Ẩn, khi đưa mắt nhìn xuống đất thì không kìm được kinh hãi kêu lên: “Không hay rồi, Tĩnh phi chảy máu rồi!”

    Các vị thái y của Thái y viện vốn đang chờ bên ngoài điện, nghe thấy có động tĩnh liền vội vã chạy vào. Huyền Thanh không kịp đưa Vưu Tĩnh Nhàn tới nơi yên tĩnh, đành tạm thời bế nàng ta vào hậu điện của Trọng Hoa điện. Việc xảy ra quá đột ngột, các cung nhân và phi tần đều bị tôi yêu cầu phải ở lại trong Trọng Hoa điện không được đi lại bừa bãi, để tránh mối hiềm nghi, tôi và Đoan Quý phi cũng đều ở lại chờ kết quả, chỉ để mình Đức phi vào trong chăm sóc cho Vưu Tĩnh Nhàn.

    Huyền Lăng mặt mày âm u bất định ngồi trên ngự tọa, các phi tần ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám động đậy. Trọng Hoa điện vốn đang ca múa tưng bừng lúc này trở nên vô cùng tĩnh lặng, bầu không khí ngợp trong một vẻ nặng nề.

    Một lát sau, Vệ Lâm đã trở ra, mặt đầy vẻ sợ hãi. “Khởi bẩm Hoàng thượng, Tĩnh phi vì ăn phải đồ ăn có chứa chất kịch độc Hạc Đỉnh Hồng cho nên đã bị động thai, từ đó mới xuất hiện tình trạng vỡ ối và chảy máu. May mà Tĩnh phi trúng độc không sâu, sau khi được các vị thái y nhất tề cứu trị nên đã đỡ hơn, vẫn còn sức để sinh nở.”

    “Hạc Đỉnh Hồng?” Huyền Lăng biến hẳn sắc mặt, gằn giọng hỏi. “Trong một cung yến thế này sao lại có Hạc Đỉnh Hồng?”

    Lời vừa mới dứt, lập tức có một thái giám cầm kim bạc đi kiểm tra những thứ mà Vưu Tĩnh Nhàn vừa ăn. Kim bạc từ đầu chí cuối đều sáng bóng, đủ thấy tất thảy đều không có vấn đề gì. Vệ Lâm hỏi: “Tĩnh phi đã ăn gì vào lúc cuối cùng?”

    Một cung nữ chỉ tay vào đĩa chân giò hun khói trên bàn, run rẩy nói: “Là món này.”

    Tôi thầm chấn động, đưa mắt nhìn hết một lượt những thứ đồ ăn thức uống trên bàn của nàng ta, cuối cùng chỉ tay vào chiếc bát bạch ngọc rơi dưới đất. “Tĩnh phi từng uống một ít canh hoa toàn phúc của Hàm Nhi.”

    Vệ Lâm không dám chậm trễ, đích thâm cầm kim bạc đi tới chỗ bát canh còn sót lại một nửa để kiểm tra, mũi kim bạc bóng loáng vừa mới đưa vào đã lập tức biến thành màu đen thui đáng sợ. Tôi nhìn thấy thế, trái tim không kìm được trở nên tê dại, lại chỉ tay vào bát canh hoa toàn phúc mà mình vừa rồi còn chưa kịp uống trên bàn, gằn giọng nói: “Hãy kiểm tra thử bát này nữa đi.”

    Vệ Lâm hiểu ý tôi, lập tức đổi một cây kim bạc khác đi tới nhúng vào trong bát, cây kim bạc sau nháy mắt cũng đã biến thành màu đen. Tôi biến hẳn sắc mặt, run rẩy nhìn qua phía Huyền Lăng. “Hoàng thượng, có người muốn giết thần thiếp và Hàm Nhi, vì thế đã làm liên lụy tới Tĩnh phi.”

    Tôi vội vàng ôm Hàm Nhi lúc này còn chưa hết kinh hồn vào lòng, Huyền Lăng thì dùng sức ôm chặt lấy tôi và Hàm Nhi, trầm giọng nói: “Trẫm ở đây.”

    Lúc này, những tiếng kêu đau xé gan xé ruột của Vưu Tĩnh Nhàn vang lên không ngớt, tiếng này nối tiếp tiếng kia, dường như muốn xé nát bầu trời đêm đen kịt. Huyền Thanh mặt mày tái nhợt như tờ giấy, đột ngột đứng bật dậy, ánh mắt sáng quắc. “Là ai? Là ai hạ độc hãm hại nàng ấy?”

    Ngọc Ẩn vội vàng nắm chặt lấy bàn tay Huyền Thanh, dịu dàng cất lời an ủi: “Vương gia, thái y bây giờ còn đang cứu chữa cho Tĩnh phi và đứa bé, vương gia đừng nên lo lắng quá.” Kế đó, muội ấy lạnh lùng đưa mắt nhìn khắp mọi người một lượt. “Kẻ nào hạ độc hại người, Hoàng thượng ắt sẽ không tha. Có Hoàng thượng ở đây cơ mà.”

    Giọng của Huyền Lăng vang lên lạnh tựa băng sương: “Lập tức điều tra cho trẫm, những thứ bẩn thỉu đó cớ gì lại xuất hiện trong canh của Thục phi và Hàm Nhi?”

    Thận hình ty vốn có sở trường điều tra những việc thế này, do có nghiêm lệnh từ Huyền Lăng nên mọi việc lại càng được tiến hành với tốc độ như sấm rền gió cuốn. Trong điện vô cùng tĩnh lặng, một sự tĩnh lặng tẻ nhạt, bất ngờ có mấy tiếng lộp bộp vang lên, tôi không ngờ lại có thể nghe thấy tiếng tuyết rơi bên ngoài điện, đúng thế, tuyết đã rơi rồi.

    Mọi người lúc này đều ngơ ngẩn, người đứng người ngồi, ngay đến thở mạnh cũng không dám. Chừng hai tuần trà sau, Lý Trường cầm phất trần quay trở lại bẩm báo: “Khởi bẩm Hoàng thượng, đồ điểm tâm sau bữa ăn đều do ngự thiện phòng làm rồi được cung nhân đưa tới. Cung nhân đưa canh cho Thục phi và tam điện hạ nói là trên đường tới đây chỉ gặp Vinh Tần tiểu chủ ra ngoài thay y phục, Vinh Tần tiểu chủ còn mở nắp hai bát canh ra hỏi đó là thứ gì, ngoài ra không còn người nào khác nữa.”

    Sắc mặt Huyền Lăng bất giác trở nên tím tái, hệt như màu sắc của những ngọn cỏ héo úa ngày thu. “Vinh Tần!” Y thấp giọng quát. “Nàng qua đây!”

    Nơi ánh mắt mọi người cùng đổ dồn tới, Vinh Tần cầm một chén rượu nhẹ nhàng đứng dậy, lẳng lặng cất bước đi lên phía trước. Những chiếc móng tay dài hơn ba tấc của nàng ta đều sơn màu đỏ tươi, kết hợp với màu hổ phách của chén rượu làm toát ra một vẻ đẹp rợn người. Nàng ta cười tủm tỉm, đi tới trước mặt Huyền Lăng, móng tay vô tình quệt nhẹ qua rượu trong chén. “Hoàng thượng chớ nên tức giận, thần thiếp xin kính Hoàng thượng một chén này trước rồi giải thích sau có được chăng?”

    Huyền Lăng lạnh lùng nhìn dung nhan xinh đẹp của nàng ta, chỉ lặng im không nói năng gì. Vinh Tần cầm chén rượu một hồi lâu, sắc mặt dần trở nên cứng đờ, trong mắt thoáng qua một tia bất lực và tuyệt vọng, cuối cùng đành thu tay về. Nàng ta đặt ngón tay lên trên chén rượu, bàn tay hơi run rẩy, cuối cùng đưa chén rượu tới bên miệng định uống.

    “Nàng ta muốn tự vẫn!” Trong khoảnh khắc ấy, Diễm Tần đột ngột hô lớn. Huyền Thanh nhanh tay nhanh mắt, lập tức đưa tay vỗ một cái vào chén rượu đã tới bên miệng Vinh Tần. “Choang” một tiếng, chén rượu vỡ tan dưới đất. Huyền Thanh lật tay chụp lấy tay Vinh Tần, Diễm Tần bước lên trước mấy bước, dùng sức vạch bàn tay đang nắm chặt của nàng ta ra, bên dưới móng tay của nàng ta thình lình vẫn còn sót lại một ít bột màu nâu chưa bị bỏ vào chén rượu.

    Huyền Lăng bừng bừng nổi giận, vung tay tát mạnh một cái vào mặt Vinh Tần. “Tại sao ngươi muốn hại Thục phi?”

    “Tại sao?” Nàng ta không thể giãy giụa, bèn cười lạnh, nói. “Hoàng thượng không phải vẫn luôn biết rõ ư?”

    Thần sắc Huyền Lăng lạnh lùng vô hạn, duy có đôi mắt là như bập bùng hai ngọn lửa âm u. “Trẫm dung thứ cho nàng tới tận bây giờ, còn rất mực sủng hạnh, vậy mà nàng vẫn không thể buông bỏ quá khứ được ư?”

    Tôi tức giận vô cùng, lập tức gọi Tiểu Doãn Tử lại, cất giọng lạnh lùng tựa băng sương: “Ả sợ tội tự vẫn thì cứ mặc kệ ả, ngươi mau đi quật mộ của Mộ Dung Thế Lan lên cho bản cung, nhân tiện đi quất xác đốt xương những người khác của nhà họ Mộ Dung luôn.”

    “Chân Hoàn, ngươi dám?” Trên trán nổi rõ gân xanh, Vinh Tần không sao kìm nén được cơn tức giận, quay qua phía tôi gầm giọng quát lớn.

    “Bản cung có gì mà không dám?” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Bản cung nên gọi ngươi là Xích Thược hay Mộ Dung Thế Thược đây?”

    Nàng ta ngước mắt, sững sờ, nói: “Chẳng lẽ ngươi sớm đã biết rồi?”

    “Nhà họ Mộ Dung có bốn người con gái, Mộ Dung Thế Lan vào cung, một tỷ tỷ một muội muội của ả thì đã xuất giá gả cho con em nhà quyền quý, duy có tứ tiểu thư là còn ít tuổi chưa xuất giá. Trong bốn tỷ muội thì Mộ Dung Thế Lan và ấu muội Thế Thược cùng chung một mẹ, rất thương yêu nhau, vì trong tên của tiểu muội có chữ “thược” cho nên ả mới thích hoa thược dược. Khi nhà họ Mộ Dung suy bại thì vị tứ tiểu thư ấy còn ít tuổi, không cần theo các nữ quyến đã trưởng thành trong nhà đi làm quan kỹ, theo lệ được đưa vào vĩnh hạng làm nô tỳ cả đời. Tính ra, nếu vị tứ tiểu thư ấy còn sống thì tuổi tác cũng tương đương với Vinh Tần bây giờ, chẳng biết ngày xưa khi hầu hạ trong cung ngươi có từng gặp nàng ta không? Vốn là một thiên kim lá ngọc cành vàng, thế mà chỉ sau một ngày đã trở thành nô tỳ cho người ta sai bảo, vị tứ tiểu thư ấy thật đáng thương!”

    “Ngươi không cần phải giả vờ như thế!” Nàng ta nhìn tôi, cất giọng khinh thường.

    “Bản cung vốn không muốn đuổi tận giết tuyệt, do đó bấy lâu nay chẳng hề trút giận lên ngươi, nhưng ngươi đã vì bọn họ mà muốn lấy mạng của bản cung và Hàm Nhi, vậy thì bản cung sẽ đào mồ quật mả bọn họ lên, không cần nhẫn nhịn nữa!” Rồi tôi ngoảnh đầu qua nhìn Hoàng thượng. “Hoàng thượng dung thứ cho Vinh Xích Thược tới bây giờ là để đẩy thần thiếp và Hàm Nhi vào chỗ chết ư? Câu lòng lang dạ sói được dùng để nói về những người như thế này đấy.”

    “Nàng ta là người nhà họ Mộ Dung sao?” Trinh Phi lộ vẻ chấn động tột cùng, sắc mặt sau nháy mắt đã trở nên tái nhợt. “Hôm nay Xích Thược vì nhà họ Mộ Dung mà trút giận lên Thục phi, sau này lỡ trút giận lên người Hoàng thượng thì biết phải làm thế nào? Hoàng thượng, người này quyết không thể giữ lại được!” Nhìn người mà nghĩ đến thân, Trinh Phi không kìm được ôm chặt Dư Bái vào lòng, lạnh lùng đưa mắt nhìn Xích Thược.

    Xích Thược quỳ xuống bái lạy. “Cho dù không biết tâm ý của nhị tỷ với Hoàng thượng thì thần thiếp cũng quyết không bao giờ hại Hoàng thượng. Xin tạ ơn Hoàng thượng đã thương yêu nhiều năm nay, nhưng nhị tỷ bị Chân Hoàn hại chết, nhà họ Mộ Dung thì bị nhà họ Chân làm cho suy bại, thần thiếp không thể không báo mối thù này!”

    Tôi cười lạnh, nói: “Ngu xuẩn, ngươi thật sự cho rằng Mộ Dung Thế Lan chết trong tay ta ư?”

    Huyền Lăng ngoảnh mặt qua một bên, thần sắc âm tình bất định, trong đầu như lóe hiện lại vô số chuyện đẹp đẽ năm xưa. Một lát sau y khôi phục lại vẻ lạnh lùng, ôm tôi và Hàm Nhi thật chặt, hờ hững nói: “Ban cái chết cho Vinh Tần.”Nàng ta khẽ cười một tiếng, trên mặt đầy vẻ thê lương. “Thần thiếp đã sớm biết là sẽ có ngày này, có điều thực không ngờ Hoàng thượng lại chính miệng ban cái chết cho thần thiếp như thế.”

    “Xích Thược, năm xưa cũng chính là trẫm đã đích thân hạ chỉ ban cái chết cho Thế Lan.” Huyền Lăng chậm rãi hít sâu một hơi, cất giọng ôn tồn. “Trẫm vẫn luôn nghĩ, nếu nàng có thể thay thế Thế Lan mà ở bên trẫm thì thật tốt biết bao.”

    Xích Thược giận dữ nhìn tôi, sắc mặt đầy vẻ thê lương và dữ dằn, hệt như một u hồn đang chới với giữa cơn gió dữ dội. “Thần thiếp biết chứ, chính Chân Hoàn đã xúi giục Hoàng thượng giết nhị tỷ.”

    “Đúng là ngoan cố! Cho dù ngươi đã nảy sinh tình cảm với Hoàng thượng thì cũng không cần phải trút giận lên Thục phi như thế!” Đoan Quý phi khẽ hất hàm một cái, Lý Trường hiểu ý, bèn sai thị vệ kéo Xích Thược ra ngoài.

    Dường như có mấy tiếng “cạch cạch” vang lên, tôi cúi xuống nhìn, thấy từ trong lòng bàn tay Vinh Tần rơi ra mấy chiếc móng tay dài sơn màu đỏ tươi. Nàng ta dốc hết sức lực toàn thân, tựa như một con thú dữ bị nhốt trong lồng đang hướng về phía tôi mà nhe nanh múa vuốt. “Chân Hoàn, ngươi nhất định sẽ bị báo ứng.”

    Nỗi căm hận không gì xua tan được, đó là thứ duy nhất mà Vinh Tần để lại trên thế gian.

    Báo ứng ư? Tôi căn bản chẳng buồn để tâm tới. Tôi chỉ ôm chặt tấm thân bé bỏng của Hàm Nhi vào lòng, nó là máu thịt của tôi, cũng là của y, dù có phải liều tính mạng này tôi cũng quyết không để cho thằng bé phải chịu một chút tổn thương nào.

    Trái tim tôi lúc này như bị ngâm trong nước băng, lạnh giá tột cùng. Ngoảnh đầu qua, tôi bắt gặp ánh mắt đầy vẻ quan tâm và thương xót của y, nỗi niềm cảm khái bất giác trào dâng tự đáy lòng. Tôi phải bảo vệ con của chúng tôi, còn y vốn không biết rõ nội tình từ nay cũng phải bảo vệ con của y với Vưu Tĩnh Nhàn. Tôi bất giác thầm cảm thấy may mắn, trong phen kinh tâm động phách hôm nay, y từ đầu chí cuối vẫn luôn ở bên tôi, không để tôi phải cô quạnh.

    Từ trong lò hương, từng làn khói mỏng mang mùi bách hợp bay ra vương vất, vừa gặp gió từ ngoài điện thổi vào là nhanh chóng tan đi. Tính mạng của con người kỳ thực cũng giống như những làn khói kia, nói tan là tan ngay được.

    Trong lúc đầu óc còn đang ngơ ngẩn, tôi chợt nghe thấy một tiếng trẻ con khóc rất khẽ vang lên, như thể có một ánh dương rực rỡ bất chợt soi sáng trái tim tôi. Bàn tay đang giữ vai tôi bất giác hơi run rẩy, Huyền Lăng ngoảnh đầu lại, hỏi: “Có phải là sinh rồi không?”

    Bà đỡ bế một đứa bé nhỏ xíu ra ngoài, mừng rỡ nói: “Chúc mừng vương gia, là một vị tiểu vương tử đấy.”

    Tôi ngẩng đầu nhìn nụ cười mừng rỡ khi lần đầu được làm cha của y, lòng thầm cảm thấy chua chát vô cùng, hệt như ăn một quả quýt còn chưa chín vậy, ngay đến đầu lưỡi cũng trở nên tê dại. Sau cơn tê dại, tôi bất giác cũng cảm nhận được một tia vui vẻ hiếm hoi, bèn gượng nở nụ cười, bình tĩnh nói: “Chúc mừng vương gia!”

    Y nhìn tôi chăm chú, trong nụ cười mừng rỡ chừng như thấp thoáng một tia chua chát và sầu khổ. “Đa tạ Thục phi!” Y bế đứa bé trong lòng vô cùng cẩn thận, nhưng cũng có chút lúng túng.

    Tôi bất giác thầm buồn bã, Hàm Nhi và Linh Tê hồi còn quấn tã lại chưa từng được y bế thế này.

    Huyền Thanh ngoảnh đầu qua, hỏi: “Tĩnh phi vẫn ổn chứ?”

    Bà đỡ tươi cười rạng rỡ, đáp: “Vẫn ổn, chỉ bị mỏi mệt quá độ mà thôi.” Sau đó lại cười hì hì, nói: “Vương gia sau này phải đối tốt với vương phi đấy, vương phi lần này sinh nở thực là vất vả vô cùng.”

    Huyền Thanh khẽ gật đầu. “Ta biết rồi.” Hơi dừng một lát, y lại nói thêm: “Tĩnh phi không phải là chính phi.”

    Bà đỡ cười trừ, nói: “Giống nhau cả thôi mà, là mẹ ruột của tiểu vương tử.”

    Đứa bé vừa mới tới nhân gian, chỉ biết khóc mãi không ngừng, tiếng khóc rất nhỏ hệt như một mũi kim sắc bén kề vào trái tim người ta, khiến mỗi người đều thấy xót xa và hoảng loạn. Ngọc Ẩn đưa tay tới đỡ khuỷu tay Huyền Thanh, đồng thời chăm chú nhìn tướng mạo đứa bé, không kìm được để lộ một tia ngưỡng mộ cùng mấy nét thê lương. Vừa khéo lúc này có cung nhân đưa canh sâm tới hậu điện, Ngọc Ẩn vốn không có việc gì làm bèn đưa tay đón lấy, nói: “Tĩnh phi bây giờ e là đã ngủ, những người không liên quan chớ nên đi vào thì hơn, cứ để ta là được rồi.”

    Tà váy dài màu tím lê đi trên mặt đất, giống hệt như một bông hoa đồ my vừa nở, diễm lệ vô cùng. Sau khi đi vào nội điện, chừng một tuần trà sau, Ngọc Ẩn bưng chiếc bát rỗng trở ra, đưa nó cho cung nhân vừa nãy. “Tĩnh phi uống xong rồi.” Sau đó lại cười nói với Huyền Thanh: “Canh sâm có công hiệu an thần tốt lắm, Tĩnh phi chắc sẽ khỏe lại nhanh thôi.”

    Huyền Thanh khẽ gật đầu, sau đó lại tiếp tục cưng nựng đứa bé, vẻ mặt chăm chú vô cùng. Ngọc Ẩn bất giác ngây ra, chiếc bát đưa được nửa chừng thì tuột tay rơi xuống đất vỡ tan thành từng mảnh vụn. Huyền Lăng dường như không vừa ý lắm, liền khẽ “ừm” một tiếng vẻ không vui. Cung nhân đón bát sợ đến nỗi hồn bay phách tán, lập tức quỳ xuống van nài: “Ẩn phi tha mạng, Hoàng thượng tha mạng, nô tỳ không cố ý đâu.”

    Trong điện khó khăn lắm mới có việc mừng, Lý Trường vốn là người nhanh nhạy, lập tức tươi cười, nói: “Toái toái bình an, tuế tuế bình an[2]! Sau này tiểu vương tử nhất định sẽ phúc trạch sâu dày, năm nào cũng bình an như ý.”

    [2] Toái là vỡ, tuế là năm, trong tiếng Hán, hai từ này đồng âm - ND.

    Huyền Thanh vốn ôn hòa nho nhã, tất nhiên không quá để bụng, chỉ mỉm cười tiếp nhận lời chúc phúc của Lý Trường. Lý Trường thấy Huyền Thanh không trách móc, vội nháy mắt ra hiệu một cái, cung nhân kia lập tức quét dọn các mảnh vỡ rồi rời đi. Ngọc Ẩn khẽ thở phào một hơi, sắc mặt dần hồng hào trở lại, đi tới bên cạnh Huyền Thanh đón lấy đứa bé một cách thuần thục, cười tủm tỉm, nói: “Vương gia bế không đúng nên thằng bé mới khóc đấy, phải nâng đầu nó cao lên một chút mới được.”

    Bà đỡ tươi cười nịnh nọt: “Ẩn phi còn chưa sinh quý tử nhưng đã ra dáng làm mẹ quá rồi.”

    Huyền Thanh cũng khen: “Nàng từng giúp Thục phi chăm sóc lũ nhỏ, sau này Tĩnh Nhàn còn cần nhờ nàng giúp đỡ nhiều mới được.”

    Ngọc Ẩn hơi sững ra, rất nhanh sau đó đã cười, nói: “Việc này là đương nhiên, vương gia khách sáo quá rồi.”

    Đang khi mọi người vây quanh đứa bé, trong nội điện chợt có một tiếng kêu kinh hãi vang lên, nhưng rất nhanh đã chẳng còn động tĩnh gì nữa, tôi vội ngoảnh đầu lại xem có chuyện gì, thấy bức rèm được vén lên, Vệ Lâm thần sắc hoang mang rảo bước ra ngoài, liền vội hỏi: “Đang yên đang lành sao lại có chuyện gì nữa thế?”

    Vệ Lâm quỳ sụp xuống đất, ủ rũ nói: “Tĩnh phi vừa sinh xong thì chất độc trong người tái phát, đã qua đời rồi.”

    Giữa bầu trời đêm, những bông tuyết trắng lất phất tung bay, để mặc cho gió lạnh thổi bay đi tứ tán, thỉnh thoảng lại có một bông tuyết bay vào qua cửa sổ, sau nháy mắt liền bị hơi ấm trong điện làm tan ra thành nước. Trên đời này, sự sống và cái chết nhiều khi chỉ cách nhau một lằn ranh, khó ai lường trước được. Những bông tuyết tan chảy kia hình như đã ngấm vào mắt Huyền Thanh, dần dần biến thành hai hàng lệ lạnh giá. Ngọc Ẩn đang ôm đứa bé trong lòng cũng không kìm được mà thút thít nghẹn ngào.
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 3: Đường dài bóng nguyệt đượm nét sầu
    Từ sau bữa tiệc hôm Nguyên Tiêu tới giờ, tuyết vẫn rơi mãi không ngừng, kéo dài suốt nửa tháng trời, làm không khí vừa ẩm ướt vừa nhớp nháp.

    Bởi vì đang dịp đầu năm mới, tang lễ của Vưu Tĩnh Nhàn được tổ chức hết sức đơn giản, gọn nhẹ. Giữa thời tiết lạnh giá, màu trắng của áo tang như hòa lẫn vào trong màu tuyết mênh mang, khiến người ta không kìm được sinh ra những tia xúc cảm.

    Tôi cũng thầm cảm khái, còn có chút xót thương. Sau một thời gian dài chờ đợi và ái mộ, mới được gả vào phủ Thanh Hà Vương chưa đầy hai năm thì Vưu Tĩnh Nhàn đã buông tay đi rồi, vậy mới thấy sinh mệnh của con người thật yếu ớt biết bao nhiêu, hệt như một bông tuyết mùa xuân bất cứ lúc nào cũng có thể bị ánh dương làm tan chảy.

    Ngoài cửa sổ, những bông tuyết phất phơ rơi xuống, như đang nhẹ nhàng múa lượn giữa trời, mang theo cái lạnh vô cùng vô tận. Tôi đưa tay cầm lấy chiếc que cời than bằng đồng chọc nhẹ vào than trong lò, tiện tay vứt mấy phiến lá trúc xanh biếc vào trong. Lá trúc vừa gặp lửa lập tức phát ra những tiếng lèo xèo, ngay sau đó liền tỏa ra một làn hương thoang thoảng.

    Bức rèm gấm thêu hình những chữ phúc ngoài cửa được vén lên, ngay sau đó, giọng nói của Tiểu Doãn Tử theo một làn gió lạnh bay vào: “Ẩn phi tới.”

    Tôi vẫn ngồi ngay ngắn ở đó, tiện tay khoác một chiếc áo dài thêu hình dây thường xuân lên vai, mái tóc được búi lại gọn gàng, trong lòng ôm một chiếc lò sưởi cầm tay, lẳng lặng chờ Ngọc Ẩn đi vào.

    Độ này tuyết rơi nhiều nên đường xá khó đi, Ngọc Ẩn mặc một chiếc áo khoác lông cáo màu đỏ rất dày, bên trên còn dính mấy bông tuyết vừa tan thành nước, nhìn long lanh hệt như những viên trân châu.

    Hoa Nghi đi tới giúp Ngọc Ẩn cởi áo khoác ra, chỉ thấy muội ấy mặc một chiếc áo chẽn màu xanh bên trong, phía dưới là váy dài màu trắng, đứa bé nhỏ nhắn được ôm trong lòng chỉ lộ ra khuôn mặt bụ bẫm, hồng hào, lúc này vẫn còn đang ngủ say.

    Tôi không đứng dậy, chỉ hờ hững nói: “Vừa rồi thấy muội vén rèm đi vào, ta còn ngỡ là Chiêu Quân xuất tái quay về đấy.”

    Ngọc Ẩn biết tôi có ý chỉ việc gì, bèn gượng cười, nói: “Chiêu Quân xuất tái mặc áo khoác màu đỏ tươi, còn của muội chẳng qua là màu đỏ pha xanh thôi mà. Dù sao cũng là năm mới tới bái kiến Thái hậu, ăn mặc đơn giản quá thì không hay chút nào.”

    “Muội đúng là rất hiểu lòng người đấy.” Tôi chỉ tay vào chiếc ghế gỗ lê bên cạnh bảo Ngọc Ẩn ngồi xuống, hỏi: “Vậy Thái hậu đã nói thế nào?”

    Ngọc Ẩn thoáng nở nụ cười, đưa tay khẽ chỉnh lại chiếc tã cho đứa bé trong lòng một chút. “Thái hậu nói là muội cứ chăm sóc đứa bé này đi, nhất định phải yêu thương nó như con ruột của mình.” Nghĩ một lát, muội ấy lại đưa đứa bé tới trước mặt tôi, cười tươi, nói: “Vương gia đã đặt tên cho đứa bé này rồi, là Dư Triệt. Cha tên Thanh, con tên Triệt, trưởng tỷ thấy có hay không?”

    “Rất hay.” Tôi đưa tay vuốt ve khuôn mặt non nớt của đứa bé lúc này còn đang ngủ say. “Đứa bé này dù sao cũng là con của Vưu Tĩnh Nhàn, sau này nuôi dưỡng nó, muội ngày ngày phải thấy mặt nó, nhủ thầm trong người nó chảy dòng máu của Vưu Tĩnh Nhàn, muội có sợ không?”

    “Sợ? Muội sợ gì chứ?” Ngọc Ẩn thoáng ngẩn ra, ngay sau đó liền thản nhiên cười, nói: “Sau này, trong lòng nó sẽ chỉ có muội là mẹ thôi, muội sẽ thương yêu nó hết lòng, và nó cũng sẽ hiếu thảo với muội, muội có gì phải sợ đây?” Dứt lời, Ngọc Ẩn liền hôn nhẹ lên trán đứa bé một cái, chẳng khác nào một người mẹ hiền đang cưng nựng đứa con của mình.

    Trong lò, lửa đỏ hồng rực cháy thỉnh thoảng lại có một vài đốm lửa bắn lên, âm thanh phát ra rất khẽ, lại càng làm tôn lên sự tĩnh lặng trong điện lúc này, ngay đến tiếng tuyết rơi lộp bộp bên ngoài cửa sổ cũng có thể nghe thấy rõ.

    Tôi cất giọng nhẹ nhàng, thế nhưng mỗi một chữ đều rõ ràng như dấu chân hằn trên tuyết: “Ai ai cũng biết Vưu Tĩnh Nhàn chết vì Hạc Đỉnh Hồng, cũng biết là vì bị Mộ Dung Thế Thược hại, nhưng ta nghĩ mãi mà không sao hiểu nổi, cô ta đã có sức để sinh đứa bé ra, tại sao còn chết vì độc tính tái phát như thế? Tính ra Vưu Tĩnh Nhàn chỉ uống có một ngụm canh, không thể bị trúng độc sâu như thế.”

    Ngọc Ẩn không đổi sắc mặt, cất giọng hờ hững: “Trưởng tỷ từng sinh nở mấy lần, hẳn biết rõ nữ nhân sinh con giống như phải đi dạo một vòng qua Quỷ môn quan vậy, xuất hiện tình huống bất ngờ là điều khó tránh. Vưu Tĩnh Nhàn trước khi sinh đã trúng chất kịch độc Hạc Đỉnh Hồng rồi, sau khi sinh thì thân thể yếu ớt chẳng còn chút sức lực, qua đời vì chất độc tái phát cũng là lẽ thường tình thôi.” Hai mắt muội ấy không chớp lấy một lần, chỉ bình tĩnh nhìn tôi: “Vì Hoàng hậu bị cấm túc nên Xích Thược mới chó cùng rứt giậu, dùng cách hạ độc để hại trưởng tỷ, không ngờ lại làm liên lụy tới Vưu Tĩnh Nhàn vô tội. Ai ai cũng cho là như thế cả, đúng không?”

    “Ai ai cũng cho rằng như thế nhưng chân tướng chưa chắc đã là như thế, rốt cuộc là Vưu Tĩnh Nhàn thân thể yếu ớt hay là có người cố tình hãm hại thì chỉ có người gây ra việc đó mới biết rõ thôi.” Tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt sâu thẳm của Ngọc Ẩn, chừng như muốn nhìn thấu trái tim muội ấy. “Ta chỉ muốn hỏi muội một câu này, làm xong việc đó rồi lương tâm của muội có được yên ổn không?”

    “Lương tâm?” Ngọc Ẩn cười nhạt một tiếng, thiếu chút nữa thì làm đổ chén trà trong tay. “Muội vẫn luôn ghi nhớ mấy lời phế phủ mà Cận Tịch từng nói với tỷ tỷ, ấy là sống trong chốn hoàng cung thì không thể có trái tim.” Nụ cười trên mặt dần dần ẩn đi, Ngọc Ẩn để lộ một vẻ dữ dằn mà quyết liệt. “Kể từ khi Vưu Tĩnh Nhàn có thai, ở trong vương phủ việc gì cũng vượt lên muội, muội đã chẳng còn trái tim nữa rồi.”

    Tôi khẽ hít vào một hơi, chậm rãi nói: “Ngày đó, Xích Thược vì muốn hạ độc hại chết ta với Hàm Nhi nên đã giấu Hạc Đỉnh Hồng vào trong móng tay, về sau ả căm hận quá mà nắm chặt bàn tay đến nỗi móng tay gãy rơi lả tả, ta nhớ rõ là tổng cộng có bốn cái móng tay rơi xuống đất. Ngọc Ẩn, muội hãy tự mình đếm xem đi, ở chỗ này có mấy cái?”

    Tôi xòe bàn tay ra, trong lòng bàn tay trắng ngần thình lình có ba chiếc móng tay sơn màu đỏ tươi dài chừng một tấc. Không cho Ngọc Ẩn né tránh, tôi nói tiếp: “Muội đếm đi, đếm cho cẩn thận vào!”

    Sắc mặt Ngọc Ẩn vẫn bình lặng như mặt nước hồ thu, duy có khóe môi hơi tím tái là để lộ ra mấy tia sợ hãi trong lòng muội ấy lúc này. Sau khi khẽ thở dốc vài hơi, Ngọc Ẩn cất tiếng gọi tôi: “Trưởng tỷ...”

    Tôi nhìn chằm chằm vào Ngọc Ẩn, lạnh lùng nói: “Muội nói ta biết đi, chiếc móng tay chứa Hạc Đỉnh Hồng cuối cùng đã đi đâu mất rồi?”

    Ngọc Ẩn biến hẳn sắc mặt, đột ngột đứng dậy, thấp giọng nói: “Trưởng tỷ, tỷ điên rồi!”“Người bị điên không phải là ta, mà là muội.” Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt xinh đẹp kia, thực khó mà tưởng tượng được ẩn đằng sau đó lại là một trái tim độc ác đến như thế. “Giết mẹ đoạt con, muội làm thật gọn gàng biết mấy, không để lộ chút sơ hở nào! Chẳng ai có thể ngờ được việc này lại là do muội làm!”

    Ngọc Ẩn ủ rũ ngồi sụp xuống ghế, ôm chặt đứa bé nhỏ xíu kia vào lòng. “Trưởng tỷ, tất cả mọi thứ vốn đều là của muội, chính Vưu Tĩnh Nhàn đã đoạt chúng đi mất, muội chẳng qua chỉ đòi về mà thôi.” Ánh mắt Ngọc Ẩn lúc này lạnh tựa băng sương, không hề có lấy một tia xao động, còn chiếu ra những tia sáng sắc lạnh như có thể xuyên thấu trái tim người ta. “Trưởng tỷ, muội đã phải kìm nén hết sức mới có thể chấp nhận để Vưu Tĩnh Nhàn vào phủ Thanh Hà Vương làm trắc phi ngang hàng với muội. Muội đã chờ biết bao năm nay, muội biết rõ là trong lòng Vương gia chỉ có một mình tỷ, nhưng muội đã nhẫn nhịn đủ rồi. Muội vốn hy vọng trong phủ Thanh Hà Vương chỉ có muội và Vương gia, ai ngờ trước khi muội thành thân lại có Vưu Tĩnh Nhàn đột ngột nhảy vào. Muội phải dựa vào tình cảm với Vương gia suốt bao năm mới có được vị trí như hôm nay, nhưng Vưu Tĩnh Nhàn thì dựa vào cái gì? Chỉ dựa vào mấy lần nôn ra máu cùng tin đồn mà ả cố tình truyền ra ngoài đó ư? Đúng là đồ tiện nhân không biết liêm sỉ! Trong vương phủ, mỗi lần nghĩ đến việc tại nơi muội và Vương gia cùng chung sống còn có hơi thở của một nữ nhân khác, còn có ánh mắt chan chứa tình cảm nhìn về phía y của một nữ nhân khác, muội liền cảm thấy buồn nôn.” Ngọc Ẩn nắm chặt nắm tay, hai bàn tay đều trở nên trắng bệch. “Đã rất nhiều lần muội phải nghiến chặt răng nhẫn nhịn mới có thể chấp nhận một sự thực rằng Vương gia không chỉ thuộc về một mình muội mà thôi... Nhưng, không ngờ ả lại lén cám dỗ vương gia rồi còn mang thai với Vương gia nữa.” Trong mắt bùng lên những tia dữ dằn, Ngọc Ẩn gằn giọng nói tiếp: “Mắt nhìn Vương gia vì đứa bé này mà ngày càng thương yêu ả, mắt nhìn ả ngày một vượt lên trên muội, nghĩ tới việc sau này ả sẽ dựa vào đứa bé này để đoạt lấy tất cả tình yêu của Vương gia, sẽ giẫm đạp lên mọi thứ mà muội phải vất vả lắm mới giành được, muội làm sao mà nhẫn nhịn nổi chứ!”

    “Ngọc Ẩn.” Tôi lạnh lùng nói. “Ta biết là muội chẳng dễ chịu gì khi phải cùng thờ một chồng với Vưu Tĩnh Nhàn, nhưng bất kể thế nào thì muội cũng không nên lấy tính mạng của nàng ta. Xét cho cùng thì nàng ta cũng không có tội lỗi gì cả.”

    “Ả không có tội lỗi gì cả?” Ngọc Ẩn cười lạnh không ngớt, để lộ hai hàm răng trắng nhởn như sắp ăn thịt người. “Chẳng lẽ muội có tội lỗi gì ư? Trưởng tỷ, ngay từ khi được gả cho lục Vương gia, muội đã biết là mình phải sống với một nam nhân không dành tình cảm cho mình rồi. Chúng ta là tỷ muội ruột thịt với nhau, muội không có cách nào cả. Muội chỉ còn có thân xác của y thôi, thế mà còn phải chia sẻ với người khác, còn phải trơ mắt nhìn người khác có con với y, muội làm sao mà nhịn được đây!” Muội ấy nhìn tôi bằng ánh mắt thê lương, bên trong còn lộ mấy tia oán độc. “Trưởng tỷ, cuộc hôn nhân của muội vốn đã không công bằng rồi, lẽ nào tỷ còn muốn muội phải chấp nhận những sự không công bằng khác nữa ư?”

    Tôi thầm sinh lòng trắc ẩn, nhưng vẫn khẽ nói: “Cuộc hôn nhân ấy là do muội tự lựa chọn, không có ai ép muội cả.”

    “Trưởng tỷ!” Ngọc Ẩn gần như đã gào lên. “Nếu tỷ thực sự thấy không vừa mắt, vậy thì cứ cầm chiếc móng tay đó đi bẩm rõ việc này với Hoàng thượng, cùng lắm là mạng đền mạng rồi muội đi gặp mẹ muội là được rồi! Muội sớm đã biết trưởng tỷ bất mãn với muội vì muội được gả cho vương gia, đoạt mất tình yêu của tỷ, bây giờ có cơ hội tốt như thế, trưởng tỷ chớ nên bỏ lỡ!”

    Giọng nói ấy mang đầy nỗi thê lương thảm thiết, đứa bé trong lòng Ngọc Ẩn bất giác giật mình tỉnh dậy rồi khóc váng lên. Ngọc Ẩn toàn thân chấn động, vội vàng ôm chặt đứa bé rồi dịu dàng dỗ dành, những giọt nước mắt bất giác lã chã tuôn rơi.

    Tôi thầm hận muội ấy vì đã hãm hại Vưu Tĩnh Nhàn, còn cưỡng từ đoạt lý, bèn giận dữ nói: “Nếu ta hận muội thì đã đi nói với Vương gia về việc muội gài bẫy y từ lâu rồi!”

    Ngọc Ẩn chẳng buồn nhìn tôi, chỉ cúi đầu khóc thút thít. “Muội không sợ trưởng tỷ nói việc này với Hoàng thượng, muội sớm đã nên đi bầu bạn với mẹ muội rồi, bà ấy cô khổ nhiều năm, sau khi chết mới nhận được danh phận đáng có. Có thể danh chính ngôn thuận mà bầu bạn với Vương gia thế này muội kỳ thực đã may mắn hơn mẹ muội rất nhiều, muội chỉ mong trưởng tỷ đừng nói việc này với Vương gia, Vương gia vốn đã ngày đêm áy náy vì cái chết của Vưu Tĩnh Nhàn rồi, nếu lại biết được những hành vi của muội nữa, chắc sẽ thương tâm tột độ. Nếu trưởng tỷ thật lòng nghĩ cho Vương gia, vậy thì ngàn vạn lần đừng để y thương tâm thêm nữa. Ngọc Ẩn đã phạm phải lỗi lầm lớn, quả thực không xứng để Vương gia phải thương tâm vì muội.” Ngọc Ẩn ngước lên, để lộ vẻ xót xa vô hạn. “Dù trưởng tỷ không thương muội thì cũng xin thương lấy Vương gia, cũng mong trưởng tỷ sau khi muội đi rồi hãy chăm lo cho Triệt Nhi thật tốt, sau này nó coi như không còn mẹ nữa rồi.” Muội ấy khom người vái một cái thật sâu. “Ngoài ra hy vọng trưởng tỷ có thể thay muội tận hiếu với cha, cha tuổi đã cao, không nên biết những việc này để rồi lại thương tâm.”

    Dứt lời, Ngọc Ẩn dịu dàng cúi đầu hôn lên trán đứa bé, vẫn khóc rấm rứt không thôi. Tiếng khóc ấy nghe ngợp đầy nỗi buồn thương, thời gian như trở về năm Ngọc Ẩn mười một tuổi, sau khi biết được thân thế của mình, muội ấy đã đau buồn khóc lóc suốt cả đêm trong ngày giỗ của Hà di nương. Tôi vẫn nhớ rõ đó là một đêm trăng tròn, ánh trăng tựa như những chiếc lông vũ trắng muốt đậu trên tấm thân nhỏ nhắn của muội ấy, bên ngoài cửa sổ hoa lê nở đầy, thỉnh thoảng lại có một vài bông bị gió đêm thổi rụng, nhưng muội ấy chỉ khóc lóc buồn đau, chẳng chịu ngoảnh đầu qua nhìn.

    Từ nhỏ, Ngọc Ẩn đã là một đứa bé không được mẹ thương yêu rồi. Dù rằng Hà di nương đã trao cho muội ấy vô vàn tình cảm nhưng đó không phải là tình mẹ mà muội ấy mong có được.

    Có lẽ Ngọc Ẩn thật sự thương yêu đứa bé trong lòng muội ấy, tôi bất giác có chút không đành lòng. Từ nhỏ Ngọc Ẩn đã bầu bạn bên tôi, cũng trong một ngày giá rét thế này, muội ấy ngồi bên lò sưởi cời lửa, vậy nhưng vẫn lạnh đến nỗi rúm ró chân tay. Tôi lén gọi muội ấy lên giường nằm, dùng đôi tay đôi chân ấm áp của mình để sưởi ấm cho tay chân muội ấy. Hai chúng tôi tiếng là chủ tớ nhưng Ngọc Ẩn kỳ thực là muội muội ruột của tôi. Bao nhiêu năm nay tôi đã nợ muội ấy quá nhiều, mà món nợ của cha tôi với Hà Miên Miên rõ ràng cũng không hề ít.

    Ngọc Ẩn là muội muội ruột của tôi, lẽ nào tôi thật sự phải tự tay đẩy muội ấy vào chỗ chết ư? Người chết trên tay tôi đã quá nhiều rồi, lẽ nào tôi còn phải để tay mình nhuốm máu của muội muội ruột? Cha nay tuổi đã cao, nếu tôi làm như vậy há chẳng phải sẽ khiến trái tim ông bị tổn thương ư?

    Vô số suy nghĩ không ngừng lóe hiện trong đầu, toàn thân tôi run lên lẩy bẩy, cuối cùng hỏi khẽ: “Muội thật sự sẽ coi Dư Triệt như con ruột của mình chứ?”

    “Tại sao lại không chứ?” Ngọc Ẩn nước mắt giàn giụa, ngẩng lên hỏi ngược lại tôi. “Có lẽ cả đời này muội sẽ không thể có đứa con của riêng mình, Triệt Nhi sẽ là đứa con duy nhất của muội, và nó cũng chỉ nhận muội làm mẹ thôi, cả nhà ba người bọn muội sẽ sống bên nhau hạnh phúc.” Rồi sau đó muội ấy đưa mắt nhìn tôi chăm chú. “Bí mật này sẽ chỉ có mình tỷ biết thôi, đúng vậy không?”

    Ngoài cửa sổ tuyết rơi lả tả, có lẽ, tôi nên cho bí mật này bị tuyết chôn vùi. Nếu thật sự vạch trần chân tướng của việc này ra, Huyền Thanh sẽ lại mất đi một người vợ yêu y nữa, Triệt Nhi còn quá nhỏ sẽ chẳng còn người mẹ nào yêu thương nó nữa. Lúc này lòng tôi nặng như chì, bất giác đưa tay tới khẽ xoa đầu Triệt Nhi, trầm giọng nói: “Chuyện này ai ai cũng cho rằng do Xích Thược gây ra, vậy hãy cứ coi như thủ phạm là ả đi.”

    Ngọc Ẩn nhìn tôi chăm chú, trong mắt thoáng lộ ra một tia thư thái, cũng có mấy phần hổ thẹn. Triệt Nhi lại chợt khóc váng lên lần nữa, tôi thò tay vào trong tã kiểm tra thử thì thấy âm ấm và ươn ướt, bèn vội nói: “Đừng bế mãi như thế nữa, thằng bé tiểu ra tã rồi kìa.”

    Ngọc Ẩn vội vàng đưa tay lên lau nước mắt, sau đó gọi nhũ mẫu vào trong giúp thay tã lót cho thằng bé. Tôi đứng một bên quan sát, thấy trên lưng Triệt Nhi có hai, ba mảng da màu xanh rất nhạt, không kìm được hỏi: “Đây là vết bớt ư?”

    Nhũ mẫu là một nữ nhân đã lớn tuổi, nghe tôi hỏi vậy bèn lắc đầu, đáp: “Bẩm nương nương, đây không phải vết bớt. Mẹ ruột của tiểu vương tử trước khi sinh nở đã trúng độc, do đó tiểu vương tử vừa ra đời thì trên người đã có những đốm màu xanh như vậy rồi.”

    Lòng tôi bất giác như sáng lên, dường như có vô số tia chớp sáng lòa cùng xuất hiện giữa bầu trời đêm tối đen như mực, soi rọi rõ ràng mọi thứ. Trong lòng vẫn còn một mối nghi hoặc rất lớn, tôi vội hỏi: “Nghe nói đứa bé khi còn ở trong bụng mẹ nếu phải chịu cơn kinh hãi nào đó thì sau khi sinh ra sẽ thành thai chết và trên người cũng có đốm xanh thì phải?”

    Nhũ mẫu gật đầu, đáp: “Cũng có trường hợp như vậy. Nhưng nô tỳ nghe nói có những nhà giàu có thê thiếp vì tranh sủng mà dùng độc hãm hại những người có thai, đứa bé được sinh ra dù không phải thai chết thì tâm trí cũng bị ảnh hưởng, hơn nữa trên người còn có đốm xanh.” Đoạn thị cười gượng, nói tiếp: “Những việc này thực là bẩn thỉu lắm, nô tỳ đáng lẽ không nên nói ra mới phải.”

    Ngọc Ẩn lộ vẻ không vui, trầm giọng thúc giục: “Chớ nhiều lời nữa, mau thay tã cho tiểu vương tử đi, đừng để tiểu vương tử bị lạnh.” Nhũ mẫu vội vàng đáp “vâng” một tiếng, không dám nói gì thêm.

    Lòng tôi xoay chuyển liên hồi, vô số suy nghĩ đồng thời lóe hiện, cuối cùng tôi gọi Cận Tịch vào, nói: “Nghe nói hôm nay Tấn Khang Quận chúa vào cung, ngươi hãy đi mời Trang Mẫn Phu nhân và Quận chúa tới đây trò chuyện, cứ nói là Ẩn phi hôm nay đưa tiểu vương tử tới chơi.” Rồi tôi lại trầm giọng dặn dò nhũ mẫu: “Trang Mẫn Phu nhân trước giờ vốn rất thích nghe chuyện, ngươi hãy cứ kể lại câu chuyện vừa rồi cho phu nhân và Quận chúa nghe, họ nhất định sẽ thích lắm đấy.”
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 4: Ai nói chuyện xưa như mây khói
    Thời tiết năm nay vô cùng lạnh giá, mãi tới ngày mùng Năm tháng Hai tuyết mới bắt đầu có dấu hiệu ngừng rơi, nhưng sớm tối mỗi ngày lại có mưa rơi rả rích, sự giá buốt vẫn không hề giảm bớt lấy nửa phần.

    Tổng quản phủ Nội vụ Lương Đa Thụy tới gặp tôi bẩm báo về tình hình chi tiêu một tháng vừa qua trong cung của Hoàng hậu, tuy nàng ta đang bị cấm túc nhưng mọi sự cung ứng vẫn không hề suy giảm, bởi Hoàng hậu dù sao cũng vẫn là Hoàng hậu.

    Tôi tỉ mỉ lật xem sổ sách, thỉnh thoảng lại hỏi vài câu, y đều đối đáp trôi trảy. Đến khi xem được quá nửa, tôi chỉ tay vào một chỗ trên cuốn sổ, hỏi: “Lượng bạc cấp cho cung của Hoàng hậu mỗi tháng tổng cộng là một ngàn sáu trăm lượng, việc này do ai quản vậy?”

    “Phần của cung nhân đều do Hội Xuân cô cô lĩnh, phần của Hoàng hậu thì được Tiễn Thu cô cô bảo quản, còn việc ghi chép thu chi tất thảy do Tú Hạ cô cô phụ trách.”

    Tôi cười khẩy, nói: “Nói như vậy là bản cung có hỏi ngươi cũng bằng không rồi. Hôm qua ta mới trò chuyện với Quý phi về việc lượng bạc chi tiêu trong cung tháng sau nhiều hơn tháng trước, ngươi thử nói xem duyên cớ là tại sao?”

    Lương Đa Thụy cười trừ, nói: “Nô tài nghĩ chắc là do vừa sang năm mới, các vị chủ tử phải chi tiêu, ban thưởng nhiều hơn, thành ra tốn kém hơn bình thường một chút.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Vậy thì cũng đành, nhưng Hoàng hậu bây giờ đang bị cấm túc, có dùng bạc vào việc gì thì cũng chỉ là ở trong Phượng Nghi cung thôi, sao tiền bạc lại không đủ đến nỗi phải yêu cầu phủ Nội vụ chi nhiều thêm một ngàn lượng như thế?”

    Lương Đa Thụy nhất thời nghẹn họng, ấp úng mãi vẫn chẳng thể nói được gì, chỉ biết lén lút đưa tay áo lên lau mồ hôi lạnh. “Nô tài thực sự không rõ là tại sao.”

    Tôi đưa mắt liếc y mấy cái, cuối cùng vứt cuốn sổ kia xuống bàn, cười tủm tỉm, nói: “Bản cung trước đây còn chưa biết là cái chức tổng quản phủ Nội vụ này hóa ra lại dễ làm như thế đấy, chỉ cần biết chiều lòng người là được. Tháng này cung này thấu chi năm trăm lạng, tháng sau cung kia thấu chi một ngàn lạng, ngươi cứ ung dung làm Bồ Tát sống mà vung tiền, sau đó lại tới tìm bản cung than nghèo kể khổ, thật khiến bản cung khó xử quá.”

    Lương Đa Thụy vội vàng quỳ sụp xuống, cất tiếng van nài: “Nô tài thực sự không dám! Chỉ vì đó là cung của Hoàng hậu nương nương, thêm nữa mỗi lần đều là Hội Xuân cô cô, thân tín của Hoàng hậu tới lĩnh bạc, nô tài đâu dám không chi!”

    Hoa Nghi đứng kế bên bật cười khúc khích, cầm một chiếc dùi gỗ nhỏ lên gõ đùi cho tôi, miệng thì ung dung nói: “Dù dám hay không thì cũng đã làm rồi, thế mà Lương công công còn dám lý sự với nương nương nữa! Ai mà không rõ Lương công công với Hoàng hậu là họ hàng xa vừa vừa, rộng rãi với Phượng Nghi cung một chút cũng là điều khó tránh. Rốt cuộc nương nương nhà ta vẫn phải chịu thiệt vì thiếu mất một người thân như vậy, bằng không mỗi dịp cuối tháng đã chẳng phải chi tiêu dè sẻn rồi.”

    Lương Đa Thụy mặt mày tái mét, vội vàng dập đầu lia lịa, nói: “Đều tại nô tài suy nghĩ không chu toàn...”

    Tôi khẽ xua tay một cái, chậm rãi cắt ngang lời y: “Bản cung cũng chẳng dám yêu cầu công công suy nghĩ chu toàn, nhưng hôm qua Hoàng thượng có nói với bản cung là từ nay hậu cung chi tiêu nên tiết kiệm một chút, bản cung cũng chỉ đành làm theo thôi. Có điều bạc ở cung của Hoàng hậu ngươi chỉ biết đưa mà không biết là dùng để làm gì, vậy bản cung không hỏi ngươi nữa, ngươi cứ việc về đi.”

    Lương Đa Thụy không ngờ tôi lại dễ dàng bỏ qua việc này như thế, vội vàng cảm tạ rồi cáo từ rời đi. Tôi ra hiệu cho Hoa Nghi nhặt cuốn sổ lên, uể oải nhắm mắt lại. “Hãy đi bẩm việc này với Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng đòi điều tra thì cứ nói là gần đây thân thể ta không được khỏe lắm, để Đoan Quý phi chủ trì là được rồi.” Hoa Nghi khẽ đáp vâng một tiếng rồi lập tức tới Nghi Nguyên điện.

    Chiều tối hôm ấy tôi dẫn Vệ Lâm tới cung của Huyền Lăng thăm mạch bình an cho y, nhân tiện chọn những việc quan trọng trong buổi lễ trăm ngày sắp tới của Hoài Thục Công chúa nói cho y biết. Huyền Lăng lúc này vừa phê duyệt tấu chương xong, ung dung đưa tay tới cho Vệ Lâm thăm mạch, đồng thời nhắm mắt lẳng lặng nghe tôi nói. Chờ tôi nói xong, y bèn dặn dò: “Những việc khác thì không có gì, nhưng Thấm Thủy mới được phong làm dung hoa, mấy ngày nữa hãy nhân việc mừng của Hoài Thục mà tấn phong nàng ta lên làm tiệp dư đi.”

    Việc sinh nở trong cung vốn chẳng dễ dàng gì, nhưng điều hiếm có là lần này Hoài Thục Công chúa được sinh ra rất thuận lợi, hơn nữa mặt mũi cũng mười phần thanh tú, rất được Huyền Lăng yêu thích, do đó y đối xử với Giang Thấm Thủy cũng tốt hơn mấy phần. Tôi tươi cười đáp “vâng” một tiếng rồi lại tiếp: “Chờ Công chúa tròn một tuổi thì có thể tấn phong Thấm Thủy làm quý tần, tới lúc đó muội ấy cũng chính thức được đứng vào hàng chủ tử rồi.”

    Huyền Lăng dù khẽ nở nụ cười nhưng vẫn không sao giấu được vẻ mỏi mệt trên mặt. “Trẫm cũng đang có dự tính như vậy.”

    Mùa xuân năm nay trời lạnh giá vô cùng, đã thế so với mùa đông còn có thêm mấy phần ẩm ướt, ngay đến quãng thời gian tĩnh lặng lúc hoàng hôn dường như cũng trở nên nhớp nháp khó chịu. Đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, những hạt mưa lạnh giá vẫn chậm rãi buông rơi, hệt như vô số hạt băng bay múa đầy trời. Có mấy hạt mưa rơi vào cửa sổ phát ra những tiếng “xào xào”, nghe hệt như tiếng tằm ăn lá dâu.

    Huyền Lăng lắng tai nghe hồi lâu rồi khẽ nói: “Buổi lễ Thân Tàm[3] dịp tháng Ba này, nàng hãy đứng ra chủ trì đi.”

    [3] Một buổi lễ thường niên ở Trung Quốc thời cổ, do hoàng hậu chủ trì, đích thân nuôi tằm để phụ nữ trong thiên hạ noi theo, đi kèm với đó là lễ Thân Canh của hoàng đế - ND.

    Tôi khom người, nói: “Thần thiếp chỉ là phi tần mà thôi, trong khi đó lễ Thân Tàm vốn phải do Hoàng hậu chủ trì, thần thiếp không dám tiếm việt.” Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, không nói năng gì. Tôi suy nghĩ một lát rồi lại nói: “Hay là để Trang Mẫn Phu nhân thay thế cũng được, dù sao nàng ta cũng có xuất thân cao quý.”

    Huyền Lăng đang định nói gì thì ngoài hành lang chợt vang lên tiếng bước chân khe khẽ, kèm theo đó là những tiếng châu ngọc va vào nhau không ngừng đang lại gần Nghi Nguyên điện. Huyền Lăng hơi cau mày, hỏi: “Là ai đó?”Tôi đi tới vén bức rèm gấm thêu hình linh thú lên, thấy Hồ Uẩn Dung đang chậm rãi bước đi trên hành lang, bước chân nghe có vẻ nặng nề vô hạn. Khuôn mặt thường ngày vốn kiều diễm vô song của nàng ta lúc này lạnh tựa băng sương, không hề có lấy một tia ấm áp, cặp mắt phượng thì ngạo nghễ nhướng cao, khóe mắt được trang điểm thành màu tím nhạt thoáng mang theo mấy tia vàng, nhìn hệt như chiếc đuôi xòe rộng của một con công, theo những bước đi của nàng ta, từ đó như tỏa ra ngoài không khí vô số tia sắc bén, các cung nhân bên đường nhìn thấy vậy đều không kìm được sợ hãi quỳ rạp xuống hết thảy.

    Tôi đưa rèm cho ả cung nữ bên cạnh giữ lấy, đoạn ngoảnh đầu lại, mím môi cười, nói: “Đúng là không thể nói xấu sau lưng người khác được, vừa nói Tào Tháo, Tào Tháo đã đến ngay rồi.”

    Hồ Uẩn Dung bám tay thị nữ đi vào thỉnh an, vẻ buồn bực không vui lộ ra rất rõ. Huyền Lăng không kìm được hỏi: “Có chuyện gì mà nàng giận dữ như vậy? Ai đã chọc giận gì nàng hay sao?”

    Hồ Uẩn Dung khẽ thở dài một tiếng, sau đó liền oán trách: “Cũng không có gì, chỉ tại lũ nô tài không được việc thôi, mấy thứ thần thiếp yêu cầu bọn chúng đều chẳng thể đưa tới.”

    Huyền Lăng tò mò, cười hỏi: “Còn có thứ gì nàng yêu cầu mà bọn nô tài dám không đưa tới? Chỉ cần có thứ gì tốt trẫm đều ban cho Yến Hy điện trước, về khoản này đến Thục phi cũng chưa chắc đã so được với nàng đâu.”

    Hồ Uẩn Dung bật cười khúc khích, ngay sau đó đã nghiêm mặt. “Cũng không phải thứ gì mới mẻ cả, có điều thần thiếp vừa kiếm được một công thức nấu ăn mới. Hoàng thượng biết đấy, Quỳnh Chi đang theo hầu bên thần thiếp vốn là người hầu của Vũ Dương Đại trưởng công chúa, mà muội muội của thị là Quỳnh La có tài nấu ăn rất giỏi, từng hầu hạ Thuần Nguyên Hoàng hậu khi mang thai, sau khi Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời liền bị đuổi khỏi cung. Hai ngày trước Quỳnh Chi về quê thăm người thân, nghe Quỳnh La nói Thuần Nguyên Hoàng hậu khi còn tại thế ăn gì cũng rất cầu kỳ, phàm là đồ chưng hấp thì đều dùng lá tre, lá trúc hoặc lá chuối để lót dưới đáy lồng hấp, thần thiếp nghĩ bụng như thế thực là phong nhã, do đó bèn muốn học theo.”

    Huyền Lăng vốn chỉ uể oải ngồi nghe nhưng vừa nghe thấy hai chữ “Thuần Nguyên” liền bất giác nở một nụ cười cực kỳ ấm áp, ngay tới những đường nét trên khuôn mặt cũng trở nên dịu dàng hơn mấy phần. “Trẫm cũng không rõ là nàng ấy lại thích dùng những thứ lá như vậy đấy, có điều đồ ăn trong cung của nàng ấy đều mang mùi thơm của cây cỏ, đúng là tuyệt vời và đặc sắc vô cùng.”

    “Dạ phải.” Hồ Uẩn Dung thấy Huyền Lăng cũng nói như vậy liền bất giác nở nụ cười tươi. “Thần thiếp thấy lá tre thì nhỏ quá, lá trúc thì phải dùng để gói bánh chưng[4] mới hợp, nghĩ đi nghĩ lại thấy chỉ có dùng lá chuối tây là thích hợp nhất. Ai ngờ lũ nô tài lại nói năm nay trời lạnh, ngay đến nõn chuối cũng không mọc ra được, thật sự không có cách nào đưa lá chuối tây tới. Thần thiếp khó khăn lắm mới có được một chủ ý hay, thế mà cuối cùng lại không thể thực hiện, do đó mới giận dữ.”

    [4] Bánh chưng của Trung Quốc thường chỉ to bằng nắm tay, không có nhân và gói bằng lá trúc - ND.

    Huyền Lăng cười, nói: “Việc này thì có gì là khó đâu, chỉ là chuyện ăn uống nhất thời thôi mà. Chờ trời ấm lên rồi trẫm sẽ ban cho nàng tất cả lá chuối tây ở Thượng Lâm uyển, nàng muốn bao nhiêu là có bấy nhiêu, nhưng đến lúc đó nàng có hấp gì thì cũng đừng quên để lại cho trẫm một ít đấy nhé!”

    Hồ Uẩn Dung cười, nói: “Đây vốn là sáng kiến của Thuần Nguyên Hoàng hậu, Dung Nhi làm sao mà quên biểu ca được.”

    Vệ Lâm lúc này đã bắt mạch cho Huyền Lăng xong, bèn bẩm: “Hoàng thượng vẫn rất an khang, có điều không nên lao lực quá, năm nay trời lạnh, nếu thức khuya nhiều sẽ rất không tốt cho sức khỏe. Vi thần bây giờ sẽ kê cho Hoàng thượng mấy đơn thuốc tẩm bổ, Hoàng thượng cứ uống đúng giờ là được.”

    Huyền Lăng gật đầu, nói: “Ôn Thực Sơ không thường xuyên ở trong cung, y thuật của ngươi cũng coi như là không tệ.”

    Vệ Lâm khom người, cung kính nói: “Đa tạ Hoàng thượng khen ngợi.” Sau đó lại ngoảnh đầu qua cười tủm tỉm nói với Hồ Uẩn Dung. “Vi thần có mấy lời này muốn nói, chẳng biết nương nương có muốn nghe không?”

    Hồ Uẩn Dung mặt đầy nét cười, tay thì mân mê viên bảo thạch màu đỏ tươi đính trên hộ giáp, vừa nhìn y vừa nói: “Biểu ca cũng vừa khen là y thuật của ngươi không tệ rồi, ngươi muốn nói gì thì cứ việc nói đi.”

    Vệ Lâm cung tay nói: “Vừa rồi nương nương nói tới việc dùng lá chuối tây để lót lồng hấp, vi thần chợt nhớ tới việc này, ai ai cũng cho rằng lá chuối tây chỉ dùng để ngắm được thôi, kỳ thực dùng làm thuốc cũng rất tốt. Lá chuối tây có vị ngọt, mát, tính hàn, trong sách Bản thảo có ghi lại rằng dùng lá chuối tây có thể thanh nhiệt giải độc, chữa bệnh nóng trong tim, gan, ngoài ra nó còn rất hữu hiệu với những chứng bệnh phù nề nữa.”

    Huyền Lăng lộ vẻ trầm tư. “Thuần Nguyên vốn thuộc tạng người nóng, chứng tỏ sáng kiến độc đáo kia còn có thể giúp cho việc dưỡng sinh nữa, đúng là rất tốt.”

    Vệ Lâm cười trừ, nói: “Hoàng thượng nói rất phải, có điều lá chuối tây vốn tính hàn, thường ngày dùng một ít thì không sao, nhưng thai phụ thì không thể tùy tiện đụng vào được, bởi vì lá chuối tây cũng có công hiệu phá ứ tiêu thũng tương tự như đào nhân, hồng hoa, tuy hiệu quả không rõ rệt như hồng hoa nhưng nếu đem đi lót lồng hấp thì các chất nó tiết ra sẽ ngấm từ từ vào đồ ăn, thời gian lâu dần ắt sẽ làm hại đến thân thể.”

    Hồ Uẩn Dung bất giác cả kinh, lập tức nghiêm mặt quát: “Hoàng thượng mới khen ngươi có một câu thôi mà ngươi đã nói lời dọa dẫm rồi. Chỉ là lá chuối tây mà thôi, nếu thật sự có độc thì Thuần Nguyên Hoàng hậu làm sao dám ăn chứ?”

    Vệ Lâm vội vàng khom người, nói: “Phu nhân xin chớ nên tức giận, vi thần chỉ nói là thai phụ không nên tùy tiện dùng mà thôi. Kinh sư vốn là vùng lạnh, mọi người ít khi đụng tới lá chuối tây, do đó bình thường ngay cả thầy thuốc cũng không biết tới dược tính của nó. Còn vi thần hồi trẻ từng đi du ngoạn miền Nam nóng bức, thấy cư dân đương địa đa phần đều biết việc này, quả thực không phải là nói lời dọa dẫm đâu.”

    Hồ Uẩn Dung hơi sững người, trên mặt lộ rõ vẻ hoảng hốt không sao giấu được, thấp giọng hô lên: “Biểu ca, Vệ thái y nói thai phụ không được tùy tiện dùng lá chuối tây, nhưng Quỳnh La vốn hầu hạ việc ăn uống của Thuần Nguyên Hoàng hậu trong khi mang thai, như thế rõ ràng là...” Sắc mặt nàng ta càng lúc càng tái, cuối cùng trở nên nhợt nhạt như những bông tuyết còn sót lại bên ngoài cửa sổ. “Thần thiếp từng nghe mẫu thân kể lại trong cung có lời đồn là vị Hoàng tử mà Thuần Nguyên Hoàng hậu sinh ra còn chưa ra đời thì đã tắt thở rồi, hơn nữa trên người còn có những đốm màu xanh, mà năm xưa Quý phi vốn hầu hạ kề bên Hoàng hậu, hình như ngay đến nàng ta cũng có nhìn thấy đấy.”

    Lúc này thời tiết vẫn còn giá lạnh, thêm vào đó bên ngoài trời lại đổ mưa rả rích, Huyền Lăng sớm đã khoác lên người một chiếc áo gấm màu đen viền trắng rất dày, ngọn nến cắm trên chiếc giá nạm vàng hình rồng cuộn vẫn cháy đều đều trong chiếc chụp đèn làm bằng vải lụa, những tia sáng dìu dịu màu vàng cam khi chiếu lên chiếc áo của y lại làm toát ra một vẻ thê lương khó mà miêu tả bằng lời. Đôi hàng lông mày của y nhíu chặt lại, dường như không cách nào chịu đựng được nỗi đau khổ khi phải nhớ về những chuyện ngày xưa, miệng thì khẽ cất tiếng lẩm bẩm như đang nói lời mê sảng: “Đứa bé đó vừa sinh ra thì đã chết rồi, toàn thân đều lạnh băng, hơn nữa còn có rất nhiều đốm xanh trên người, rất đáng thương. Khi đó nó nằm trong lòng trẫm, chẳng thở được chút nào, lạnh như một khối băng vậy, dù trẫm có ôm thế nào nó cũng không ấm lên được. Thái y nói với trẫm là nó khi còn ở trong bụng mẹ đã yếu ớt rồi, sau đó lại phải chịu mấy phen kinh hãi, do đó đã qua đời từ trong bụng mẹ. Những phen kinh hãi mà nó phải chịu đều là do Đức phi Cam thị và Hiền phi Miêu thị nhòm ngó ngôi hậu mà ra, bằng không Thuần Nguyên đã có thể yên tâm dưỡng thai rồi. Đứa bé đó thật đáng thương biết mấy...”

    “Hoàng thượng xin hãy bớt đau thương.” Tôi dịu dàng nói. “Chuyện dù sao cũng đã qua rồi, Hoàng thượng đừng để trong lòng, không tốt cho long thể đâu.” Tôi nháy mắt ra hiệu một cái, Cận Tịch hiểu ý, bèn bưng tới một chén trà hạnh nhân đã được chuẩn bị sẵn. Tôi ôn tồn nói tiếp: “Đồ ngọt có thể làm tâm thần thư thái, Hoàng thượng hãy uống một ngụm đi.”

    Huyền Lăng nhìn thấy chén trà hạnh nhân đó, sắc mặt lại càng u uất bi thương. “Trà hạnh nhân này cũng là thứ mà Thuần Nguyên rất thích khi còn tại thế.”

    Cận Tịch sợ Huyền Lăng thương tâm, vội nói: “Trà hạnh nhân này nguội rồi, để nô tỳ đi mang ít đồ điểm tâm khác tới.”

    Huyền Lăng đón lấy chén trà, nhìn những làn hơi nước màu trắng sữa bốc lên mà ngơ ngẩn, hơi nước mịt mờ cứ thế phả vào mặt y, dường như lại càng làm nỗi buồn thương nhung nhớ tăng thêm bội phần. “Ngày xưa ở Chiêu Dương điện, Thuần Nguyên rất thích chọn hôm nào trời nắng đẹp mà kê ghế dài ra ngoài ngồi uống trà hạnh nhân. Nàng ấy vốn không ưa xa hoa, ngay đến đồ điểm tâm cũng chỉ thích những loại bình thường. Trong Chiêu Dương điện chủ yếu dùng loại vải lụa mềm màu xanh nhạt, mỏng như cánh ve, ánh dương xuyên qua những lớp vải như thế rồi chiếu lên người nàng ấy, thực là đẹp đẽ không gì tả nổi.” Y một tay cầm chén trà hạnh nhân, một tay vuốt ve bức rèm cửa sổ của Nghi Nguyên điện, ngẩn ngơ nói. “Chính là thứ màu sắc như thế này.” Mọi người đều không dám khuyên nhủ gì, mãi một hồi lâu sau Huyền Lăng mới khẽ nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói tiếp: “Ngay đến mùi vị cũng giống hệt năm xưa, thoáng mang theo một chút đắng, sau khi uống vào rồi thì lại chỉ thấy ngọt thơm.”

    “Hạnh nhân ngọt đem ngâm vào nước nóng, bỏ thêm một nhúm tro bếp lò, chờ khi nước nguội rồi thì lấy hạnh nhân ra bỏ vỏ, rửa thật sạch, sau đó lại cho thêm một lượng nước vừa phải vào mà xay nát ra theo cách làm đậu phụ. Cuối cùng chỉ cần dùng túi vải lọc bỏ bã, lấy nước đun lên cho chín, khi dùng thì cho thêm đường trắng, lại hòa với sữa bò, cũng có thể kết hợp với một số phụ liệu khác như vừng, cánh hoa hồng, hoa quế, câu kỷ tử... Tiên Hoàng hậu không thích đồ quá ngọt, ngoài hạnh nhân ra còn cần cho thêm một ít hạnh nhân đắng đã bỏ vỏ, như thế khi mới uống sẽ thấy hơi đắng, nhưng sau đó lại chỉ còn vị thơm ngọt mà thôi.”

    Giọng nói ấy nặng nề và thoáng mang theo một chút chua chát, chậm rãi vang lên vô cùng trôi chảy. Mọi người ngoảnh đầu qua nhìn thì thấy Đoan Quý phi đang đứng ngay cạnh cửa, bóng dáng mỏng manh yếu ớt như thể gió thổi cũng ngã, bên khóe mắt vẫn còn rơm rớm lệ. Chẳng ai biết nàng ta đã tới đây tự lúc nào.

    Huyền Lăng khẽ gật đầu, vẫy tay ra hiệu cho nàng ta lại gần, nói: “Phải rồi, năm xưa Thuần Nguyên từng dạy nàng cách làm trà hạnh nhân, cả Nghi Tu cũng từng học nữa.” Trong giọng nói lạnh lùng của Đoan Quý phi lộ ra một tia buồn bã: “Vâng, về sau Thuần Nguyên Hoàng hậu có thai, chuyện ăn uống đều do muội muội ruột của nàng ta, cũng tức là Quý phi nương nương năm đó đích thân phụ trách.” Đoan Quý phi chậm rãi đi vào, cầm chén trà hạnh nhân đưa lên mũi ngửi thử, đoạn nhẹ nhàng cất tiếng: “Hoàng thượng, trà hạnh nhân này là một thứ đồ tẩm bổ rất tốt, nhưng nếu dùng không đúng cách thì cũng có thể giết người được đấy.”

    Tôi gật đầu, nói: “Ly Phi bỏ mạng chính là vì ăn quá nhiều hạnh nhân, Thuần Nguyên Hoàng hậu năm đó đang có thai, sao có thể uống trà hạnh nhân được?”

    Đoan Quý phi khẽ lắc đầu. “Loại hạnh nhân Ly Phi dùng để tự vẫn có độc tính rất mạnh, còn trà hạnh nhân thì được chế biến bằng đặc sản hạnh nhân ngọt ở vùng phụ cận kinh sư, đã được sàng lọc kĩ càng, tuyệt đối không có độc tính, có điều thai phụ thì vẫn không thể dùng nhiều được.” Ngoài cửa sổ mưa thưa gió mạnh, lạnh đến thấu xương, còn trong phòng, mọi người cũng bị lời của Đoan Quý phi làm cho trái tim rét buốt. “Trang Mẫn Phu nhân, phu nhân còn nhớ việc tiểu vương tử của phủ Thanh Hà Vương khi sinh ra trên người cũng có đốm xanh không?”

    Hồ Uẩn Dung gật đầu, nói: “Dạ phải, ngày đó muội trò chuyện với Ẩn phi và Thục phi ở Nhu Nghi điện, từng cùng Thục phi tận mắt nhìn thấy trên người tiểu vương tử có đốm xanh. Nhũ mẫu nói là vì Tĩnh phi trước khi sinh nở đã bị chất độc ngấm vào người, do đó đứa bé khi sinh ra mới có dấu vết như vậy, nhưng may mà sau khi động thai nàng ta đã sinh đứa bé ra rất nhanh, do đó sức khỏe của đứa bé không có vấn đề gì cả.”

    Đoan Quý phi lại ngoảnh đầu nhìn qua phía Vệ Lâm. “Nhân tiện có Vệ thái y ở đây, bản cung hỏi ngươi, trên người thai nhi có đốm xanh là vì duyên cớ gì?”

    Vệ Lâm rất ít khi thấy Đoan Quý phi tỏ ra trịnh trọng như vậy, tức thì không dám chậm trễ, lập tức đáp: “Thai nhi khi còn ở trong bụng mẹ nếu phải chịu cơn kinh hãi nào đó hoặc bị những loại thuốc tính hàn gián tiếp xâm nhập vào, trên người sẽ xuất hiện đốm xanh, mà nếu dùng loại thuốc đó trong thời gian quá dài thì đứa bé sẽ bị lạnh, rất có thể sẽ chết trong bụng mẹ. Phàm những ai thông hiểu y thuật thì đều rõ, thai chết so với sẩy thai còn làm ảnh hưởng tới thân thể nhiều hơn, chất độc từ trong thai nhi sẽ truyền dần vào cơ thể người mẹ, khả năng người mẹ theo đó mà mất mạng là rất lớn.”

    Đoan Quý phi cất giọng nặng nề: “Nếu uống phải loại thuốc có tính hàn, thai phụ lẽ nào lại không tự mình hay biết gì ư?”

    “Thai phụ sẽ cảm thấy bụng mình lạnh giá, tay chân cạn sức, thân thể tê dại, nhưng mấy triệu chứng này lại khá giống với các triệu chứng xuất hiện khi mang thai, không rõ ràng như khi uống phải các loại thuốc như sơn tra, hồng hoa, do đó nếu không để ý kĩ thì khó mà phát hiện ra được.”

    Đoan Quý phi khẽ gật đầu, không nói nhiều thêm, chỉ cất tiếng gọi: “Cát Tường!”

    Cát Tường nghe thấy tiếng gọi liền đi vào, trên tay bưng theo một chiếc bát sứ trắng, hơi nóng trong bát bốc lên nghi ngút, chính là một bát trà hạnh nhân. Cát Tường bưng bát tới trước mặt Huyền Lăng, Đoan Quý phi thấp giọng nói: “Hoàng thượng, xin hãy nếm thử một chút xem bát này với bát vừa rồi của Thôi Thượng nghi có gì khác biệt không!”

    Huyền Lăng không rõ duyên cớ bên trong, thế nhưng Đoan Quý phi bấy lâu nay làm việc gì cũng có chừng mực, do đó y cũng không hỏi nhiều, chỉ múc một thìa lên nếm thử, sau đó bèn lắc đầu tỏ ý không có gì khác biệt. Đoan Quý phi lại nói: “Vệ thái y cũng nếm thử đi.”

    Vệ Lâm không thể thoái thác, đành nếm thử mỗi bát một thìa, nhưng sau một hồi lâu nhấm nháp vẫn chưa chắc chắn lắm, thế là lại nếm thêm lần nữa. Lần này dường như đã nắm chắc được mười phần, Vệ Lâm bèn nói: “Bẩm Hoàng thượng, bát của Thôi Thượng nghi được cho thêm hạnh nhân đắng, còn bát của Đoan Quý phi thì được cho thêm một ít bột đào nhân. Vị đắng của hai thứ này từa tựa nhau, nếu không nếm kĩ thì khó mà phân biệt được.”

    Đoan Quý phi nói: “Hoàng thượng thường xuyên uống trà hạnh nhân mà còn không thể phân biệt, nếu không có thái y ở đây thì ai mà phân biệt được đây?” Rồi nàng ta lại chỉ vào bát trà hạnh nhân Cát Tường mang tới, hỏi Vệ Lâm: “Nếu thai phụ không rõ nội tình, mỗi ngày đều uống trà hạnh nhân được cho thêm một ít bột đào nhân, kết quả sẽ ra sao?”

    Vệ Lâm cả kinh thất sắc, vội vàng quỳ sụp xuống, nói: “Nếu thai phụ thật sự uống loại trà hạnh nhân như thế trong thời gian dài, thai nhi quyết không thể nào sống sót đến khi ra đời được, hơn nữa trên người thai nhi sẽ xuất hiện những đốm màu xanh.”

    Bầu không khí trở nên tĩnh lặng tột cùng, một sự tĩnh lặng đầy vẻ chết chóc, tất cả mọi người thì như bị đóng băng giữa trời đông, thậm chí còn chẳng thể rùng mình được. Huyền Lăng nổi rõ gân xanh trên trán, khuôn mặt vốn hơi võ vàng trở nên méo mó vặn vẹo, bên khóe môi thoáng hiện một nụ cười lạnh lùng khiến người ta không rét mà run.

    Hồ Uẩn Dung dường như chợt nhớ tới một việc, bèn hỏi: “Nếu thỉnh thoảng còn dùng lá chuối tây để hấp đồ ăn thì sao?”

    Vệ Lâm tuôn đầy mồ hôi lạnh, không kìm được đưa tay áo lên lau. “Nếu lá chuối tây và bột đào nhân mà kết hợp với nhau, thai nhi ắt không giữ được. Nhưng nếu trong thời gian ấy thường xuyên làm cho thai phụ sợ hãi và phiền muộn, vậy thì bất kể là ai cũng khó mà phát hiện một số triệu chứng của thai phụ là do đào nhân và lá chuối tây gây ra.”Từ trong chiếc lò hương hình con kỳ lân làm bằng đồng đen nằm trên mặt đất, những luồng khói mỏng mang mùi long diên hương không ngớt bay ra, tạo thành một tấm lưới vô hình, cứ thế chụp thẳng xuống đầu người ta.

    Ánh mắt Huyền Lăng lộ ra những tia mơ màng bất định, sau một hồi lâu trầm lặng, y bèn đứng dậy, nói: “Cam thị và Miêu thị suốt ngày gây chuyện, Thuần Nguyên thì vì vô tình làm Miêu thị sẩy thai mà vô cùng áy náy, đêm nào cũng gặp ác mộng, đã thế còn thường xuyên nhẫn nhịn sự gây hấn của hai người đó, thực là vất vả vô cùng.”

    Hồ Uẩn Dung nhẹ nhàng bước tới bên cạnh Huyền Lăng, khẽ nói: “Biểu ca, đó chỉ là vẻ bề ngoài thôi, chính chỗ đào nhân và lá chuối tây kia mới là thủ phạm hại chết hai mẹ con Thuần Nguyên Hoàng hậu.”

    Huyền Lăng lúc này đã bình tĩnh trở lại, sắc mặt không có lấy một tia dị thường, bình tĩnh cất tiếng hỏi: “Nguyệt Tân, nàng từ đâu mà biết được những việc này?”

    “Sau khi Hoàng hậu bị cấm túc, lượng bạc chi tiêu trong cung của Hoàng hậu vẫn không hề suy giảm, còn có chênh lệch với con số mà phủ Nội vụ báo lên. Thần thiếp là người đứng đầu trong tứ phi, nắm quyền hiệp trợ quản lý lục cung, được Hoàng thượng sai điều tra thì tất nhiên không dám lơ là, do đó đã lập tức thẩm vấn ba người hầu tâm phúc của Hoàng hậu là Hội Xuân, Tú Hạ, Tiễn Thu. Nào ngờ sau một hồi thẩm vấn, Hội Xuân vì muốn được tha đã khai báo việc năm xưa từng có người sai khiến thị dùng đào nhân thay thế hạnh nhân đắng để mưu hại Thuần Nguyên Hoàng hậu.” Hơi dừng một chút, nàng ta dường như muốn xoa dịu cơn sôi sục trong lồng ngực, sau đó mới chậm rãi nói tiếp: “Thần thiếp không dám lỗ mãng, lại tiếp tục thẩm vấn Tiễn Thu và Tú Hạ. Tiễn Thu không chịu nổi sự tra tấn nên cắn lưỡi tự vẫn, còn Tú Hạ thì rốt cuộc đã khai ra chân tướng.”

    Thời gian dường như đã bị hơi lạnh làm đông cứng lại, trôi qua chậm rãi vô cùng. Huyền Lăng gằn giọng nói ra từng chữ một: “Là ai?”

    Ngọn nến trong điện được đốt lâu rồi nên hơi tối đi một chút, những tia sáng nhờn nhợt mang theo ánh tuyết từ ngoài cửa sổ chiếu vào bao phủ trên khuôn mặt trầm lặng như nước của Đoan Quý phi, tựa như ngưng tụ thành sương tuyết. “Là đương kim Hoàng hậu Chu Nghi Tu, muội muội ruột thịt của Thuần Nguyên Hoàng hậu.”

    Đại điện tức thì trở nên tĩnh lặng đến tột cùng, nghiêng tai lắng nghe thậm chí còn có thể nghe thấy tiếng những mảnh vụn trầm hương nứt ra trong lò hương. Đoan Quý phi quay sang nhìn tôi, nói: “Thục phi kỳ thực không phải người đầu tiên bị Chu Nghi Tu hãm hại đến nỗi mất con, cũng chưa chắc đã là người cuối cùng.”

    Nếu giọng nói có thể ăn thịt người, vậy thì đó ắt hẳn là giọng nói của Huyền Lăng lúc này đây: “Trẫm còn nhớ rõ, để đảm bảo việc ăn uống của Thuần Nguyên được chu toàn, Nghi Tu đã cẩn thận đứng ra lo liệu đến từng tiểu tiết. Trẫm vốn cứ ngỡ bọn họ là tỷ muội tình sâu.” Nói xong những lời này, hai mắt Huyền Lăng như muốn nứt toạc ra, lồng ngực phập phồng không ngớt.

    Trên đuôi mắt Hồ Uẩn Dung lúc này ngợp đầy những tia căm hận. “Thuần Nguyên Hoàng hậu ngồi lên ngôi hậu thế nào, Hoàng thượng hẳn vẫn còn nhớ rõ, Chu Nghi Tu có thể không hận được sao? Có thể không muốn báo thù được sao? Đừng nhìn nàng ta thường ngày kính cẩn, kỳ thực đó là hạng người lòng dạ tàn độc, ngay đến tỷ muội ruột thịt cũng nhẫn tâm giết hại!”

    Huyền Lăng vung tay đẩy nàng ta ra, rảo bước đi nhanh ra ngoài, đồng thời dặn dò Lý Trường: “Theo trẫm tới Thận hình ty.”

    Bầu không khí thoắt đó đã lại trở về tĩnh lặng, trong đại điện chỉ còn tôi, Hồ Uẩn Dung và Đoan Quý phi. Hồ Uẩn Dung đưa tay chỉnh lại cây trâm ngọc trên đầu một chút, uể oải ngồi xuống, khẽ cười, hỏi: “Theo Thục phi thấy, Hoàng thượng lần này thẩm vấn sẽ có kết quả như thế nào?”

    Tôi đứng bên cửa sổ, nở một nụ cười tỏ vẻ hiểu ý. “Uẩn Dung muội muội ắt sẽ đạt thành tâm nguyện, không uổng phí phen công sức hôm nay.”

    Nàng ta đưa mắt liếc tôi. “Thục phi rõ là ngồi không mà hưởng thành quả, trong khi đó ta với Quý phi thì phải tốn bao công miệng lưỡi.”

    “Ta với Hoàng hậu kết oán đã lâu, Hoàng thượng vốn biết rõ ràng, ta mà mở miệng thì chỉ khiến tình hình xấu đi thôi.”

    Hồ Uẩn Dung cười tủm tỉm nhìn Đoan Quý phi vốn lặng im từ nãy tới giờ. “Chắc hẳn ngoài Quý phi ra, không ai có thể khiến Hoàng thượng tin tưởng được tới vậy.” Đoạn nàng ta lại vỗ tay, nói: “Cũng may mà có sự trù tính chu toàn của Thục phi, bằng không muốn khơi ra chuyện này quả thực là chẳng dễ dàng gì.”

    “Chỉ là chuyện vặt mà thôi.” Tôi hờ hững nói. “Đưa mắt nhìn khắp hậu cung, dù là ba người chúng ta, làm gì có cung của ai mà không có sự thâm hụt về tiền bạc, chẳng qua là mượn cớ mà thôi. Nếu không phải Hoàng hậu đang bị cấm túc, chúng ta quả thực chẳng thể làm gì được nàng ta.”

    “Có điều...” Hồ Uẩn Dung đặt tay lên chỗ trái tim, làm ra vẻ vô cùng kinh sợ. “Con rắn dù chết cũng vẫn còn nọc độc, tiểu muội đến bây giờ vẫn chưa hết sợ đây này.”

    Đoan Quý phi vốn im lặng nãy giờ, lúc này chợt nhẹ nhàng cất tiếng: “Việc có liên quan tới Thuần Nguyên Hoàng hậu, Hoàng thượng ắt không chịu bỏ qua đâu.” Sau đó lại đưa mắt liếc tôi. “Nếu thật sự muốn cảm ơn thì chúng ta phải cảm ơn An thị, không có câu nói mà nàng ta lưu lại trước khi chết kia, chắc chúng ta khó có thể nghĩ tới chuyện này.” Dứt lời, Đoan Quý phi vẫy tay ra hiệu một cái, Cát Tường lập tức bước tới đỡ nàng ta. Rồi nàng ta khoác chiếc áo choàng lên người, khẽ nói: “Theo ta tới Thông Minh điện cầu phúc nào. Hoàng hậu có thể trả nợ cho muội, trả nợ cho ta, cũng có thể trả nợ cho Uẩn Dung, nhưng quyết không thể nào trả nợ cho Thuần Nguyên Hoàng hậu được. Chúng ta đi thôi!”

    Tôi vâng lời đứng dậy, chậm rãi cất bước ra ngoài. Hồ Uẩn Dung đi theo sau, ghé đến bên tai tôi khẽ nói: “Thục phi bây giờ không hối hận vì chuyện từng đáp ứng với ta đấy chứ?”

    Lời của tôi tuy nhẹ nhàng nhưng lại hết sức rành rọt: “Ta đã nói rồi, ta không có ý đồ gì với ngôi hoàng hậu cả.”

    Nàng ta lộ vẻ hài lòng. “Mong là Thục phi nói lời giữ lấy lời!”

    Màn đêm lúc này tối đen như mực, mưa lạnh vẫn rả rích rơi, đưa mắt nhìn về phía xa chỉ thấy trong Tử Áo Thành, cung điện đình đài tầng tầng lớp lớp, vô số ánh đèn lấp ló bập bềnh, tựa như một biển sao miên man vô tận. Tôi buộc lại chiếc áo choàng trên người cho chặt, nhưng vẫn cảm thấy rét buốt thấu tâm can. Có lẽ... con người ta ngồi lên ngôi cao rồi thường khó tránh khỏi cảm giác cô độc, rét lạnh.
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 5: Bởi đâu duyên số thảy do trời
    Huyền Lăng ở trong Thận hình ty một ngày một đêm mới ra ngoài, tôi và Đoan Quý phi cũng quỳ trong Thông Minh điện trọn một ngày một đêm. Trong thời gian này, Đoan Quý phi cứ cách ba canh giờ lại cầm đàn tì bà lên gảy, gửi vào đó muôn vàn nỗi ưu thương, mãi tới khi hai bờ môi đã tím tái vẫn không chịu rời đi. Tôi không biết nàng ta đang tưởng niệm Thuần Nguyên Hoàng hậu đã đích thân dạy nàng ta gảy đàn tì bà hay là nghĩ tới vị tiểu Hoàng tử còn chưa ra đời thì đã chết kia, chỉ thấy nỗi ưu thương của nàng ta sâu đậm vô cùng, tôi không cách nào sinh lòng đồng cảm.

    Cuối cùng Ôn Nghi Công chúa phải tới quỳ với nàng ta thêm một thời gian, thế rồi nàng ta mới chịu về cung nghỉ ngơi.

    Huyền Lăng sau khi từ trong Thận hình ty trở ra thì không tới cung của tôi. Giữa đêm dài tịch mịch, tôi nhắm mắt lại muốn đi vào giấc ngủ, thế nhưng đầu lại rấm rứt đau, trong cơn mơ màng dường như nghe thấy âm thanh phát ra từ đồng hồ nước tiếng sau dài hơn tiếng trước, trái tim thì cứ treo lơ lửng mãi vẫn chẳng thể buông xuống.

    Bên ngoài bức màn có người đứng buông tay kính cẩn, rồi giọng nói của Cận Tịch vang lên: “Nương nương, Hoàng thượng cho triệu người tới Nghi Nguyên điện.”

    Tôi hỏi: “Bây giờ là canh mấy rồi?”

    “Dạ, là giờ Tuất ba khắc.” Hơi dừng một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Trang Mẫn Phu nhân đã vâng chỉ tới đó rồi.”

    Hóa ra không phải là ý chỉ gọi tới thị tẩm, tôi mở choàng mắt ra, cất tiếng dặn dò: “Thay áo.”

    Đường đi tới Nghi Nguyên điện đã vô cùng quen thuộc, bước đi của các thái giám cũng hết sức vững vàng, giữa làn gió đêm vi vút, chiếc kiệu cứ thế tiến đi không nghỉ.

    Hôm nay là mùng Chín tháng Hai, trời vẫn còn rất lạnh, từng làn gió đêm luồn qua khe cửa sổ không ngừng thổi vào làm mấy lọn tóc mai của Hoàng hậu lất phất bay, khuôn mặt không được tô son điểm phấn lộ rõ nếp nhăn dưới ánh nến đỏ hồng. Vì là tấm thân mang tội nên toàn bộ những thứ đồ trang sức châu ngọc trên người nàng ta đều đã bị gỡ bỏ, chỉ còn lại cặp vòng ngọc phỉ thúy nặng nề đeo trên cổ tay. Mái tóc của nàng ta được búi gọn lại một cách đơn giản và cố định chắc chắn bằng hai sợi dây màu bạc, chẳng được tự do. Trên người vận một bộ cung trang màu đỏ viền đen thêu hoa văn hình gợn sóng, nàng ta cứ thế quỳ trên mặt đất không nói năng gì, cặp xương quai xanh gầy guộc lồ lộ hiện ra phía sau cổ áo.

    Hồ Uẩn Dung đứng lặng lẽ bên cạnh Huyền Lăng, bên khóe môi thấp thoáng một nụ cười lạnh lẽo, không nói một lời.

    Huyền Lăng khép hờ hai mắt, chỉ tay vào Tú Hạ và Hội Xuân quỳ phía sau Hoàng hậu, hờ hững nói: “Bọn họ đều đã khai nhận rồi, nàng còn có gì để nói nữa không?”

    Hoàng hậu ngoảnh đầu lại nhìn hai thị nữ thân tín vừa phải chịu đủ mọi cực hình kia, rồi chỉ tay vào những chiếc móng tay đã bị kim đâm thủng của Hội Xuân, trầm giọng nói: “Hoàng thượng, Hội Xuân và Tú Hạ đều bị tra tấn dã man như thế, lời khai của họ chẳng lẽ có thể tin được ư?”

    Huyền Lăng lạnh lùng đưa mắt liếc nhìn hai con người mình đầy thương tích đó. “Những vết thương trên người bọn họ đều là do trẫm trừng phạt sau khi khai báo, bởi hai kẻ này đã dám nối giáo cho giặc. Lời khai của cả hai vô cùng rõ ràng, nếu là bị nhục hình truy bức mà khai thì trước sau lại có thể thống nhất được đến thế sao?” Nói đến đây, bên khóe môi y lộ ra một tia giận dữ. “Nàng cứ yên tâm, nếu không tự mình thẩm vấn, trẫm thực chẳng dám tin rằng vị Hoàng hậu hiền thục vốn bầu bạn bên trẫm bao năm qua lại là một con người có lòng dạ tàn độc đến như vậy.”

    Hoàng hậu cất giọng hờ hững: “Hoàng thượng giờ đã tin rồi, vậy còn triệu thần thiếp tới hỏi làm gì nữa?”

    Huyền Lăng nhắm hai mắt lại, nói giọng đầy vẻ chán ghét: “Nếu không bởi vì muốn đợi nàng chính miệng thừa nhận, nàng nghĩ trẫm còn muốn nhìn thấy khuôn mặt này của nàng nữa sao?”

    “Thần thiếp tuổi già sắc phai, tất nhiên khó có thể làm Hoàng thượng vừa mắt được rồi. Có điều thần thiếp thật sự rất tò mò, nếu tỷ tỷ vẫn còn tại thế, liệu Hoàng thượng có yêu tấm dung nhan đã trở nên già nua của tỷ ấy không đây? Thần thiếp hối hận quá, lẽ ra nên để Hoàng thượng nhìn thấy tỷ tỷ của ngày hôm nay mới phải, như thế chắc Hoàng thượng sẽ không còn hận thần thiếp nữa.”

    “Lòng hiền từ thì dung mạo sẽ xinh đẹp, Uyển Uyển dù có già nua đến mấy thì nhất định cũng hơn nàng muôn vạn lần.”

    Hoàng hậu cười khẩy một tiếng, để lộ ra mấy nét hững hờ, đoạn nàng ta cúi đầu nhẹ nhàng vuốt ve cặp vòng ngọc phỉ thúy sáng lấp lánh trên cổ tay. “Nhớ ngày thần thiếp vào cung, Hoàng thượng đã tự tay đeo cặp vòng ngọc này cho thần thiếp, nói là nguyện như vòng này, sớm tối bên nhau. Nhưng bây giờ, nếu không phải Hoàng thượng cho rằng thần thiếp phạm phải lỗi lầm, có lẽ đã chẳng muốn gặp lại thần thiếp nữa.” Hơi dừng một chút, giọng của nàng ta càng lúc càng trầm xuống: “Năm xưa Hoàng thượng còn từng cầm chiếc vòng này mà nói với thần thiếp, chỉ cần sinh được hoàng tử, ngôi hoàng hậu sẽ là của thần thiếp. Nhưng khi thần thiếp sinh được hoàng tử thì người đã cưới tỷ tỷ của thần thiếp làm hoàng hậu rồi, ngay đến con của thần thiếp cũng vì thế mà trở thành con thứ như thần thiếp vậy, vĩnh viễn không thể thoát khỏi thân phận này.”

    Huyền Lăng bất giác nhíu chặt đôi mày. “Nàng biết là trẫm không để tâm tới chuyện đích thứ mà. Mẫu hậu kỳ thực cũng không để tâm bởi bà là con dòng thứ, và trẫm cũng vậy.”

    “Hoàng thượng có biết nỗi ấm ức của những nữ tử xuất thân dòng thứ không? Thần thiếp từ nhỏ đã phải chịu đủ ấm ức rồi, trong mắt cha chỉ có mình tỷ tỷ thôi, bởi thần thiếp là con dòng thứ, thần thiếp và mẫu thân của thần thiếp chưa bao giờ được coi trọng. Điều này Hoàng thượng dựa vào cái gì mà hiểu được đây?”

    “Trẫm hiểu chứ.” Huyền Lăng đột ngột mở mắt ra nhìn chằm chằm vào nàng ta. “Chính bởi vì trẫm hiểu nên sau khi nàng vào cung trẫm mới đặc biệt hậu đãi nàng, cho dù về sau trẫm lập Uyển Uyển làm hoàng hậu duy nhất thì nàng cũng được làm Hiền Quý phi có địa vị chỉ kém nàng ấy thôi. Nhưng nàng vĩnh viễn không biết thế nào là đủ cả!”

    Hoàng hậu cất giọng lạnh tựa băng sương: “Ngôi hoàng hậu đó vốn thuộc về thần thiếp, thế mà mới thoáng đó đã bị tỷ tỷ cướp đi, ngôi thái tử vốn cũng thuộc về con của thần thiếp, thế mà cuối cùng nó lại chỉ có thể làm con thứ. Thần thiếp từ nhỏ đã phải sống dưới vầng hào quang của tỷ tỷ rồi, sau khi vào cung lại phải vĩnh viễn ở dưới tỷ ấy nữa, thậm chí tỷ ấy còn đoạt mất mọi sự sủng ái của phu quân. Thần thiếp rất muốn tự thỏa mãn, thế nhưng lại khó lòng làm được.”

    Huyền Lăng khẽ thở ra một hơi. “Nhưng nàng quả thực không bằng Uyển Uyển.”“Cho nên thần thiếp phải chấp nhận thất bại, vĩnh viễn ở dưới người khác ư?”

    Huyền Lăng thình lình vỗ mạnh một cái xuống bàn, chén trà sứ men xanh trên bàn bất giác nảy lên, nước trà xanh biếc trong chén bắn ra tung tóe, kèm theo đó là những làn hơi nóng bốc lên nghi ngút cùng hương trà thanh đạm. Vẻ mặt Huyền Lăng lúc này đã trở nên hơi méo mó. “Uyển Uyển là tỷ tỷ ruột của nàng.”

    Hồ Uẩn Dung đưa tay nắm lấy bàn tay Huyền Lăng, cất giọng dịu dàng: “Biểu ca, Chu thị là hạng nữ nhân lòng như rắn rết, không đáng để huynh tức giận đâu! Nếu huynh thật sự giận, cứ phế bỏ ngôi hậu của nàng ta là được rồi.”

    Hai mắt Hoàng hậu sáng rực lên, thấp thoáng để lộ ra những tia ngạo nghễ, khi nhìn về phía Hồ Uẩn Dung liền tỏ rõ vẻ khinh miệt và xem thường. “Hồ Uẩn Dung, ngươi muốn lắm lời thì hãy chờ ngồi lên được bảo tọa hoàng hậu đã! Trước khi Hoàng thượng phế bỏ ngôi vị của bản cung thì bản cung vẫn là hoàng hậu, đế hậu nói chuyện, một con phi tần nhỏ bé như ngươi không xứng nói chen vào.”

    Hồ Uẩn Dung cười khẩy một tiếng, cất giọng giễu cợt: “Ta thế này gọi là có sao học vậy, có người đã dám mưu hại tiên Hoàng hậu để cướp ngôi rồi, ta chẳng qua chỉ chen miệng vào nói mấy câu mà thôi, hãy còn chưa thể tính là tội ác tày trời được!”

    Hoàng hậu cười lạnh, nói: “Dù ngươi có muốn giành ngôi của bản cung thì cũng chớ nên nôn nóng như thế, thật là chẳng có nửa phần thận trọng, có trao ngôi hậu cho ngươi thì ngươi cũng chẳng ngồi nổi mấy ngày!” Đoạn nàng ta liếc mắt qua phía tôi, lạnh lùng nói tiếp: “Bên trên vẫn còn Quý phi và Thục phi, thế mà ngươi đã sốt ruột trước rồi!”

    Tôi hơi khom người hành lễ. “Hoàng hậu nương nương đề cao thần thiếp quá rồi, thần thiếp không dám nhòm ngó ngôi hậu.”

    “Không dám?” Nàng ta trầm mặt xuống, nói giọng khinh miệt. “Có dám hay không thì ngươi cũng đã làm rồi, còn có gì để nói nữa? Ngươi có dám thề là sự thất thế của bản cung hôm nay không phải do ngươi một tay tạo thành không?”

    “Không phải.” Tôi thản nhiên nhìn lại nàng ta. “Thần thiếp tin là lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, đã phạm phải lỗi lầm thì sớm muộn gì cũng sẽ bị trừng phạt thôi.”

    Vừa khéo lúc này một làn gió lạnh thổi vào từ ngoài cửa sổ làm ánh nến trong điện không ngớt đung đưa, ngay sau đó Huyền Lăng cất giọng vừa bi thương vừa giận dữ: “Chẳng lẽ nàng không sợ bị báo ứng ư? Những lúc nửa đêm nằm mộng nàng không sợ Uyển Uyển và đứa bé kia hiện hồn về đòi mạng ư?”

    “Nếu tỷ ấy có thể làm được như vậy thì cứ việc tới Chiêu Dương điện mà ơn đền oán trả, đỡ cho thần thiếp đêm đêm phải nằm mơ thấy đứa con chết yểu của mình khóc mãi không thôi.” Dưới ánh nến bập bềnh xao động, khuôn mặt Hoàng hậu trở nên mơ hồ, hai hàng lệ nóng chậm rãi chảy ra từ trong đôi mắt trống rỗng vốn tưởng đã cạn khô, khiến ai nhìn thấy cũng không kìm được sinh lòng cảm khái. “Khi con của thần thiếp mắc bệnh rồi qua đời thì tỷ tỷ đang mang thai. Hoàng thượng, khi ấy người chỉ biết vui mừng vì tỷ tỷ có thai thôi, đâu có nhớ rằng mình còn có một đứa con trưởng nữa! Hoàng thượng, con của thần thiếp chết đáng thương lắm, thần thiếp đã ôm nó đi dưới trời mưa suốt cả đêm, chỉ muốn đi tới tận Diêm La điện cầu xin Diêm Vương cho phép thần thiếp được dùng mạng mình đổi lấy tính mạng của thằng bé. Nó còn chưa đầy ba tuổi, vậy mà đã bị sốt cao đến nỗi toàn thân nóng bừng, cuối cùng không qua khỏi. Trong thời điểm ấy tỷ tỷ lại có thai, chẳng lẽ không phải con của tỷ ấy đã làm con của thần thiếp mất mạng ư? Thần thiếp sao có thể để tỷ ấy sinh hạ hoàng tử được! Thần thiếp là một người mẹ, thần thiếp quyết không thể để con của mình phải chịu thêm nỗi ấm ức nào!”

    Tôi chưa từng thấy Hoàng hậu thất thố như vậy bao giờ, hóa ra nàng ta cũng có những nỗi đau vĩnh viễn không thể nào lành lại.

    “Nàng điên rồi!” Khuôn mặt Huyền Lăng lúc này chìm trong một nỗi đau đớn và xót xa vô tận. “Là trẫm nhất quyết muốn cưới Uyển Uyển, là trẫm nhất quyết muốn lập nàng ấy làm hoàng hậu, là trẫm và nàng ấy cùng tạo ra đứa bé đó!” Y rảo bước đi tới trước mặt Hoàng hậu, đưa tay chụp lấy cổ áo của nàng ta. “Tại sao nàng lại không hận trẫm?”

    Khuôn mặt của hai người họ ở gần sát nhau, hơi thở ấm nóng của Hoàng hậu không ngừng phả lên mặt Huyền Lăng, ánh mắt thì lướt nhanh trên khuôn mặt y vẻ tham lam và quyến luyến. “Hoàng thượng cho rằng thần thiếp không muốn ư?” Nàng ta nhìn chằm chằm vào Huyền Lăng, dường như muốn kéo khuôn mặt y vào trong đôi mắt mình. “Thần thiếp muốn hận Hoàng thượng lắm chứ, nếu có thể hận được thì thần thiếp đã hận từ lâu rồi!” Những giọt nước mắt nóng hổi vẫn lẳng lặng tuôn rơi trên đôi bờ má lạnh băng của nàng ta. “Hoàng thượng lúc nào cũng chỉ nghĩ tới một mình tỷ tỷ thôi, đâu có biết rằng tình cảm mà thần thiếp dành cho người không hề ít hơn tỷ tỷ.”

    “Biểu ca!” Hồ Uẩn Dung khẽ gọi một tiếng, trên khuôn mặt yêu kiều lộ rõ vẻ căm hận tột cùng. “Chớ nên nói nhiều với nàng ta nữa, thật là buồn nôn quá!”

    Huyền Lăng lạnh lùng buông bàn tay đang túm cổ áo nàng ta ra, tiện tay với lấy bức rèm bên cạnh mà lau tay, vẻ chán ghét lộ ra rất rõ, rồi y quay qua nói với tôi: “Hoàn Hoàn, giúp trẫm thảo chiếu thư phế hậu đi.”

    Tôi lạnh lùng đứng nhìn nãy giờ chỉ vì chờ khoảnh khắc này thôi, tất cả mọi sự tranh cãi và đối chất đều chẳng thể gọn ghẽ bằng một đạo chiếu thư phế hậu.

    Tôi trải tờ thánh chỉ màu vàng tươi ra, nhúng bút vào nghiên mực thật đẫm rồi bắt đầu múa bút mau lẹ. “Hoàng hậu Chu thị, thiên mệnh chẳng dung, gây điều thị phi, phá rối cương kỷ, còn ôm lòng soán nghịch, thực là tội ác tày trời, há có thể đi vào tông miếu, làm mẫu nghi thiên hạ? Nay phế làm thứ dân, đẩy vào lãnh cung. Hình phạt dùng với người nhà, quả là có lỗi với tiền nhân, nhưng âu cũng vì đại kế nước nhà, chuyện cũng bởi bất đắc dĩ mà ra cả.”

    Tôi viết xong liền gác bút qua một bên, cất giọng sang sảng đọc cho Huyền Lăng nghe, từng câu từng chữ đều là do nỗi căm hận chứa chan trong lòng tôi hóa thành, và lúc này đây, nỗi niềm sảng khoái trong tôi đã bao trùm lên sự thương tâm và đau xót đó.

    Hoàng hậu vẫn giữ nguyên vẻ hờ hững, lạnh lùng như thể tờ chiếu thư phế hậu đó chẳng hề liên quan tới nàng ta, miệng thì khẽ lẩm bẩm: “Con trai, con trai của mẹ.”

    Huyền Lăng lẳng lặng nghe xong rồi nói: “Được rồi.” Y cúi đầu chuẩn bị cầm lấy ngọc tỷ, tôi ngẩng lên vừa khéo bắt gặp ánh mắt tột độ mừng vui của Hồ Uẩn Dung, bất giác lén ngoảnh đầu qua hướng khác.

    Phế hậu, chỉ còn thiếu một con dấu mà thôi.


    Gian điện rộng lớn lúc này chìm trong sự tĩnh lặng và lạnh lẽo, dường như gốc mai bên dưới hành lang phía xa vừa nở hoa, mùi hương tao nhã hòa vào với gió mưa lạnh lẽo dường như lại khiến vẻ diễm lệ tăng thêm mấy phần.

    Đang lúc sững sờ, chợt một tiếng “két” thật dài vang lên, cửa điện chậm rãi bị đẩy ra, tiếng cây gậy chống đầu rồng gõ xuống đất thật chẳng khác gì tiếng sấm rền. Thái hậu mang theo làn hương hoa lạnh lẽo kia chống gậy chậm rãi đi vào trong điện.

    Thái hậu tới đây giữa đêm khuya, trên người chỉ mặc một chiếc áo dài màu xanh sẫm kiểu dáng bình thường, đồ trang sức cũng đơn giản không có gì đặc biệt, thế nhưng toàn thân lại toát ra một thứ khí thế của người ngồi ở ngôi cao khiến người ta không rét mà run.

    Huyền Lăng thấy Thái hậu đích thân tới đây thì vội vàng đứng dậy nghênh đón, tôi và Hồ Uẩn Dung cũng không dám chậm trễ, lập tức khom người cất tiếng thỉnh an.

    Thái hậu bám vào tay Huyền Lăng bước tới ngồi xuống chiếc ghế ở chính giữa, sau khi khẽ ho hai tiếng mới chậm rãi cất tiếng hỏi: “Chiếu thư phế hậu đã ban xuống chưa?”

    Huyền Lăng thoáng ngẩn ra, đoạn cung kính đáp: “Chỉ còn thiếu việc đóng dấu nữa thôi.”

    Thái hậu “ừm” một tiếng, nói: “Ai gia dạo này mắt không được tốt, Uẩn Dung, hãy đọc cho ai gia nghe đi!”

    Hồ Uẩn Dung bất giác lộ ra mấy tia sợ hãi, đưa mắt thoáng nhìn qua phía tôi, rốt cuộc đành cầm chiếu thư lên đọc một lượt.

    Thái hậu nhìn nàng ta, nói: “Giọng nói dễ nghe lắm, đọc cũng rất rõ ràng, có điều chớ nên run rẩy như vậy.” Rồi Thái hậu lại ngoảnh đầu qua nhìn tôi. “Lời ít mà ý nhiều, chắc đây là thủ bút của Thục phi rồi.”

    Tôi cúi đầu khẽ thưa: “Dạ.”

    Thái hậu tỏ ra vô cùng đau đớn, khi nhìn qua phía Hoàng hậu, trong mắt khó mà giấu được vẻ chán ghét và xót xa. “Thục phi xét ra không hề nói quá tội lỗi của ngươi chút nào!” Dứt lời, bà ta liền vung cây gậy chống lên định đánh xuống người Hoàng hậu.

    Cây gậy chống đó có phần cán đầu rồng được đúc bằng vàng ròng, thân thì làm bằng gỗ lim, cứng rắn mười phần, nhát gậy này mà đánh xuống người Hoàng hậu thì dù không chết cũng sẽ trở thành người tàn phế.

    Biến cố này xảy ra quá đột ngột, Hồ Uẩn Dung kinh hãi đến nỗi thiếu chút nữa đánh rơi tờ chiếu thư trong tay. Hoàng hậu thì mặt mày tái nhợt, vậy nhưng lại không né tránh, còn ưỡn thẳng lưng lên đón lấy nhát gậy ấy.

    Sau đó, cây gậy rốt cuộc đã dừng giữa không trung, rồi Thái hậu dùng sức chống mạnh nó xuống đất, chỉ nghe thấy “rầm” một tiếng, âm thanh vang vọng mãi không ngừng, bên trong như mang đầy nỗi phẫn nộ và đau đớn của Thái hậu. Thái hậu không nhìn nàng ta nữa, chỉ lạnh lùng nói: “Năm xưa đưa ngươi vào cung, xem ra ai gia đã sai rồi.”

    Hoàng hậu chậm rãi ngẩng đầu, hơi thở dần dần trở nên nặng nề và dồn dập, âm thanh đó nghe hệt như những tiếng trống không ngừng nối tiếp nhau gõ vào tai người ta, chứa đầy nỗi tuyệt vọng khó mà dùng lời miêu tả. “Cái sai của mẫu hậu không phải là ở chỗ đón con vào cung, mà là đồng ý đón tỷ tỷ vào cung. Mẫu hậu vốn thông minh tột bậc, cái đạo lý một núi không thể có hai hổ lẽ nào lại không hiểu ư?”

    Có lẽ vì đại điện quá rộng lớn, hơi thở của Thái hậu dường như mang đầy vẻ lạnh lẽo và trống trải. “Là tại ai gia đã quá xem trọng cái tình tỷ muội của các ngươi.”

    “Tình tỷ muội?” Hoàng hậu khẽ cười lạnh một tiếng, âm thanh như vọng ra từ sâu trong lồng ngực, chất chứa đầy nỗi thê lương trầm uất. “Ngay đến người từng mặn nồng ân ái còn có thể ra tay hạ sát, tình tỷ muội thì có đáng gì! Huống chi xét về thủ đoạn đối đãi với tỷ muội, con thực sự khâm phục mẫu hậu vô cùng!”

    Khuôn mặt vốn già nua của Thái hậu tức thì trở nên tái nhợt như những bông hoa đã úa tàn trên hồ Thái Dịch, Huyền Lăng thấy thế liền gằn giọng quát: “Sao nàng lại có thể ăn nói càn rỡ với mẫu hậu như thế được?”

    Hoàng hậu khẽ nở một nụ cười mỉm với Huyền Lăng, trong đôi mắt đen láy đã chẳng còn ánh hào quang rực rỡ của ngày nào, chỉ còn lại một sự trống trải và tuyệt vọng vô cùng vô tận, rồi nàng ta lẩm bẩm nói: “Càn là trời, khôn là đất, càn khôn phải hòa hợp thì thế sự mới được yên vui. Cổ nhân cũng từng nói cần tề gia trước rồi mới nên trị quốc, gia hòa vạn sự hưng, vậy mà giờ đây hậu cung lại lâu ngày thiếu người cầm trịch, thực chẳng phải là điều hay. Ngẫm thấy Nhàn Quý phi Chu thị xuất thân danh môn, đức hạnh kiêm đủ, lại từng hầu hạ trẫm nhiều năm, biết kính cẩn với bề trên, khoan hòa với kẻ dưới, chính là tấm gương cho tất thảy phi tần noi theo, nay vâng theo mệnh lệnh của Hoàng thái hậu, ban cho kim sách, kim bảo để cai quản hậu cung, chính thức lập làm hoàng hậu. Ơn này trời bể, thực là to lớn chẳng kể gì bằng, nhớ nên trân trọng. Khâm thử!”

    Đây chính là chiếu thư lập hậu của nàng ta năm xưa, từng câu từng chữ đều được đổi bằng máu tươi và tính mạng, do đó đến giờ nàng ta vẫn thuộc làu, chẳng quên nửa chữ.

    Thái hậu coi như không nghe thấy, chỉ bình thản nhìn qua phía Huyền Lăng. “Hoàng thượng, vẫn còn thiếu một con dấu nữa, vậy tức là vẫn chưa phế hậu rồi.”

    Huyền Lăng bất giác trầm mặt. “Mẫu hậu, tội của Chu thị quyết không thể tha, nhi thần không thể không phế bỏ ngôi hậu của nàng ta để an ủi vong linh Uyển Uyển nơi chín suối. Mong mẫu hậu đừng nên ngăn cản.”

    Thái hậu khẽ mỉm cười. “Không ngờ con lại biết rào trước đón sau như thế đấy. Được rồi, con muốn ai gia không ngăn cản thì ai gia sẽ không ngăn cản, ai gia tới đây giữa đêm khuya thế này chỉ bởi vì đột ngột nhớ lại chuyện năm xưa, do đó muốn nói cho con biết thôi.”
    Huyền Lăng lộ rõ vẻ nghiêm túc. “Dạ.”

    Thái hậu đưa tay vuốt ve bờ vai Huyền Lăng vẻ hiền từ. “Tấm lòng của con với A Nhu ai gia biết rất rõ, lời mà nó từng nói chắc hẳn con vẫn chưa quên, do đó, ai gia chỉ muốn nhắc nhở con một chút thôi.” Thái hậu khẽ ho một tiếng, cất giọng trầm thấp: “Trước khi từ trần, A Nhu đã từng cầu xin con một việc, con có còn nhớ không?”

    Huyền Lăng toàn thân chấn động, vừa kinh hãi vừa ngẩn ngơ, nhưng rất nhanh sau đó sắc mặt đã dần bình tĩnh trở lại, hờ hững nói: “Nhi thần không ngày nào dám quên, nhưng tội ác của Chu thị quả thực không thể tha thứ được.”

    Một làn gió lạnh chợt nhè nhẹ thổi vào qua ô cửa sổ, mang theo mùi ẩm mốc của cỏ cây đã bị ngấm nước mưa lâu ngày, nhanh chóng luồn lách khắp nơi. Ngọn nến trên chiếc đế đồng cháy đã lâu rồi, tim nến trở nên cong queo đen đúa, ngay đến ánh sáng tỏa ra cũng yếu hẳn đi, không ngừng nhảy nhót trong chiếc chụp đèn. Giữa làn ánh sáng lờ mờ yếu ớt ấy, quang cảnh trong điện trở nên hết sức mơ hồ, gần như chẳng thứ gì có thể nhìn thấy rõ.

    Thái hậu hờ hững nói: “Ai gia chỉ hỏi con thôi.”

    Huyền Lăng cố gắng kìm nén nỗi oán hận và giận dữ trong cổ họng, trầm giọng nói: “Khi đó Uyển Uyển chỉ còn thoi thóp một hơi thở, nàng ấy đã nắm lấy tay con mà cất lời thỉnh cầu.” Y nhắm hai mắt lại, nói ra rành rọt từng chữ một: “Thiếp mệnh bạc, không thể sống với tứ lang tới lúc đầu bạc răng long, ngay đến con của chúng ta cũng không giữ được. Thiếp chỉ có một người muội muội là Nghi Tu thôi, xin tứ lang sau này bất kể thế nào cũng phải đối tốt với muội ấy, đừng ghét bỏ muội ấy!”

    Tứ lang! Tứ lang! Thì ra năm xưa nàng ta cũng từng âu yếm gọi y như thế!

    Tiếng thở dài của Thái hậu như một nắm đấm nện vào trái tim tôi, bà ta hờ hững nói: “Con đã chính miệng đồng ý với A Nhu rồi, tuyệt đối không bao giờ ghét bỏ Nghi Tu!”

    Huyền Lăng phẫn nộ kêu lên: “Mẫu hậu!”

    “Hoàng thượng!” Thái hậu ngăn cơn giận dữ của Huyền Lăng lại. “Nếu con bất chấp lời hứa với A Nhu, ngay cả di ngôn của nó cũng chẳng chịu nghe theo, sau này xuống suối vàng, con còn mặt mũi nào để gặp lại nó nữa?”

    Huyền Lăng tỏ ra vô cùng đau đớn không cách nào kìm nén được. Thái hậu nhìn y vẻ thương xót, thế nhưng giọng nói lại không hề nhân nhượng: “Con bây giờ ghét bỏ Nghi Tu, đến tên của nó cũng không chịu gọi, câu nào câu nấy đều gọi nó là Chu thị, nhưng con chớ quên A Nhu cũng là Chu thị, và mẫu hậu của con cũng là Chu thị đấy. Ai gia chỉ nói với con một câu này thôi, nhà họ Chu không thể xuất hiện phế hậu được.”

    Rồi bà ta lạnh lùng đưa mắt liếc qua phía tôi và Hồ Uẩn Dung. “Hai người các ngươi tốt nhất cũng hãy nhớ lấy điều này.”

    Tôi lẳng lặng cúi đầu, thản nhiên cất tiếng đáp: “Dạ!”

    Thái hậu không để ý đến tôi nữa, dịu dàng khuyên nhủ Huyền Lăng: “A Nhu vốn thông minh rất mực, mà con người ta trước khi chết lòng thường sáng suốt vô cùng, những việc Nghi Tu đã làm nó chưa chắc đã không biết, cho nên mới phải khổ sở van nài con như vậy. Những việc Nghi Tu đã làm ai gia cũng không thể dung thứ được, lần này ai gia khuyên con chỉ là vì hy vọng sau này con còn có thể gặp lại A Nhu dưới suối vàng. Nhà họ Chu của Nghi Tu cũng là nhà họ Chu của A Nhu, mong con hãy hiểu cho một phen khổ tâm của nó!”

    Huyền Lăng chỉ đáp lại bằng sự lặng im, Thái hậu lại chậm rãi nói tiếp: “Mẫu hậu là người sắp chết, lời của ta con hoàn toàn có thể không nghe. Nhưng con phải nhớ lấy, mẫu thân của con là người nhà họ Chu, vợ kết tóc của con là người nhà họ Chu, trên người con cũng chảy dòng máu của nhà họ Chu!” Kế đó bà ta liền bám vào tay Tôn cô cô, khẽ dặn dò: “Trúc Tức, đưa Hoàng hậu về đi.”

    Đại điện lúc này tĩnh lặng tột cùng, ngay cả tiếng nổ lốp bốp của vụn trầm hương trong lò cũng có thể nghe thấy rõ, Thái hậu thì dường như chưa từng tới đây vậy. Hồ Uẩn Dung còn chưa cam tâm, nắm chặt góc áo Huyền Lăng mà cất tiếng van nài: “Hoàng thượng, Thái hậu bị ốm nên hồ đồ, nhưng người thì không thể hồ đồ được! Trong cung đã có biết bao nhiêu đứa bé phải chết oan rồi, chúng đều là con của người đấy!”

    Huyền Lăng lặng lẽ ngồi tựa vào ghế, chỉ lẳng lặng nhìn tôi bằng ánh mắt cô độc và đau thương.

    Trái tim tôi bất giác nguội lạnh dần từng chút một.

    Ngày hôm sau, ý chỉ của Huyền Lăng rốt cuộc đã được truyền đi khắp lục cung: “Hoàng hậu Chu thị, thiên mệnh chẳng dung, không xứng làm mẫu nghi thiên hạ, nhưng niệm tình là muội muội của Thuần Nguyên Hoàng hậu, vào cung hầu hạ đã lâu, nay đặc biệt an trí ở Chiêu Dương điện, không chết thì không được ra ngoài. Việc trong lục cung giao cho Thục phi quản lý, Quý phi, Đức phi hiệp trợ. Khâm thử.”

    Không chỉ thế, Huyền Lăng còn sai người đi lấy toàn bộ thánh chỉ và bảo ấn, bảo sách từng ban cho nàng ta trong những dịp phong phi, phong quý phi, lập hoàng hậu, lại dặn dò phủ Nội vụ đối xử với nàng ta theo quy cách của canh y - loại cung tần mạt hạng nhất, đồng thời còn truyền lời ra khắp lục cung: “Đời này quyết không bao giờ gặp lại Chu Nghi Tu.”

    Y làm như vậy có thể nói là đã ân đoạn nghĩa tuyệt với Chu Nghi Tu, chỉ lưu lại cho nàng ta cái danh hoàng hậu mà thôi.

    Trong cung bắt đầu nổi lên những lời bàn tán xôn xao, rằng nhà họ Chu liên tiếp xuất hiện hai vị hoàng hậu, nhưng rồi vật cực tất phản, lạc cực sinh bi. Giờ đây ngôi hậu lung lay, lòng người cũng theo đó mà sôi sục.

    Mà trong dịp đầu xuân hỗn loạn và lạnh lẽo này, ở Di Ninh cung, bệnh tình của Thái hậu dường như ngày một nặng.
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 6: Dường như quen biết én quay về [5]
    [5] Trích Hoán khê sa - Nhất khúc tân từ tửu nhất bôi của Án Thù. Dịch thơ: Nguyễn Xuân Tảo. Nguyên văn Hán Việt: Tự tằng tương thức yến quy lai - Người dịch (ND).

    Giữa xuân năm ấy, Chân Ninh Trưởng công chúa vốn được gả đi xa tận Lương Châu dẫn theo Thừa Ý Quận chúa về kinh thăm Thái hậu đang lâm trọng bệnh. Chuyện này kỳ thực là do Huyền Lăng một tay an bài để tỏ lòng hiếu thảo, bởi Hoàng hậu bây giờ chẳng khác nào bị đầy vào lãnh cung, Thái hậu thực khó có cách nào vui vẻ được. Huyền Lăng vì muốn an ủi Thái hậu nên đành phái người chẳng quản ngày đêm đi đón Chân Ninh Trưởng công chúa và cô con gái duy nhất của nàng ta là Thừa Ý Quận chúa về kinh bầu bạn với Thái hậu.

    Phu quân của Chân Ninh Trưởng công chúa là Trần Thuấn, lúc này đang trấn thủ Cát Châu, bảo vệ cho một phương được yên bình. Chân Ninh Trưởng công chúa sau khi sinh hạ Thừa Ý Quận chúa thì trong người có mầm bệnh lưu lại, không thể bôn ba đường dài, lần gần đây nhất về kinh là khi Hoa Phi được phong phi, thế nhưng sau lần ấy nàng ta đã đổ bệnh một phen, thêm vào đó, mấy năm nay vùng biên ải lại không được thanh bình, thành ra nàng ta đã mười mấy năm chưa trở lại kinh sư.

    Đức phi lúc này đang cùng Lung Nguyệt chơi đùa với một con vẹt, đồng thời cười tủm tỉm, nói: “Lần này Trưởng công chúa về kinh tất nhiên là để vui vầy với Thái hậu rồi, có điều Thừa Ý Quận chúa tính ra cũng đã tới tuổi gả chồng, Lương Châu thì lại xa xôi hẻo lánh, làm sao mà chọn nổi một vị quận mã cho ra hồn được.”

    Tôi cho thêm ít nước vào trong chiếc cốc của con vẹt, mỉm cười nói: “Thái hậu chỉ có duy nhất một người con gái ấy thôi, nếu không vì muốn vùng biên ải được bình yên thì đã chẳng gả nàng ta đi xa như thế. Lần này nàng ta dắt theo con gái về đây, Thái hậu tất nhiên phải chọn cho nàng ta một người con rể như ý rồi.”

    Thượng Lâm uyển dịp tháng Ba, tháng Tư quả thực là ngợp đầy sắc xuân, đi tới đâu cũng có thể thấy bóng mẫu đơn yêu kiều, hải đường mềm mại, trúc biếc thướt tha, ngô đồng quyến rũ... Trên hồ Thái Dịch, các cung nhân tốp năm tụm ba chèo thuyền dạo chơi, những tà váy áo tung bay lất phất như chan hòa cùng sóng nước, thêm vào đó độ này thời tiết lại nắng mưa bất định, cảnh sắc trên mặt hồ vì thế mà trở nên hữu tình hơn rất nhiều.

    Trang Mẫn Phu nhân vốn thích nghe hát, lúc này đang cho một đội cung nữ đứng bên bờ hồ cất tiếng hát vang. Người ngồi bên nàng ta hiện giờ là Nguyệt Quý nhân, tân sủng của Huyền Lăng, cũng chính là Lý Tài nhân ngày trước.

    Nhà họ Lý vốn có quan hệ họ hàng với nhà họ Hồ, trong triều cũng còn chút thế lực, do đó Lý thị mới vào cung đã được phong làm tài nhân. Có điều hồi đầu Lý thị không đắc sủng lắm, khi xưa chẳng qua chỉ được Huyền Lăng tiện tay lựa chọn mà thôi, vậy mà giờ đây Quỳnh Quý nhân vốn phong quang vô hạn đã ngọc nát hương tan, Khương thị thì sau khi sẩy thai cũng không còn được sủng ái như trước nữa, thời gian qua, số lần Lý thị được thị tẩm ngày một nhiều lên. Hồ Uẩn Dung từng vì chuyện này mà cười, nói: “Những người như Nguyệt Quý nhân mới gọi là có hậu phúc, chứ Quỳnh Quý nhân hồi đầu thì phong quang cho lắm, đến cuối cùng xét ra chẳng được hưởng phúc ngày nào cả.”

    Nguyệt Quý nhân lúc ấy cũng ở kề bên, cung kính nói: “Xét về có phúc, ai mà so được với Phu nhân vừa ra đời đã cầm ngọc bích trong tay chứ, như Phu nhân mới gọi là hậu phúc vô cùng.”

    Thời điểm này ngôi hậu đang xao động, thành ra tin đồn trong cung ngày một nhiều hơn, mọi người lại để ý tới Hồ Uẩn Dung vừa ra đời đã cầm ngọc bích trong tay một lần nữa. Trong cung có rất nhiều người mê tín, tin vào cái dị tượng “ánh đỏ đầy phòng, hương thơm ngào ngạt” xuất hiện khi Hồ Uẩn Dung ra đời, hơn nữa dù ánh đỏ và hương thơm ngào ngạt có phần huyễn hoặc thì vẫn còn có khối ngọc bích kia là vật vô cùng chân thực. Thế là thời gian qua, tình hình trong cung biến ảo khôn lường, ngoài Nhu Nghi điện của tôi ra thì Yến Hy điện cũng trở nên hết sức náo nhiệt, hôm nào cũng có vô số người lui tới.

    Một hôm tôi nghe Hoa Nghi kể về lời đồn “mang ngọc chào đời, phú quý tột bậc” đang sôi sục trong cung, không kìm được cười, nói: “Hoa Nghi, theo muội nghĩ thì thế nào mới là phú quý tột bậc?”

    Hoa Nghi ôm một bó hoa trắng muốt đi tới để cắm vào bình, tiện tay cầm chiếc kéo bên cạnh lên tỉa bớt cành lá thừa đi, sau đó vừa cắt hoa vừa chậm rãi nói: “Chu thị bị phế, nàng ta được vào làm chủ trung cung, như thế mới gọi là phú quý tột bậc, mà đó đồng thời cũng là ước nguyện trong lòng nàng ta bây giờ.”

    Cận Tịch khẽ cốc vào trán thị một cái, cười nói: “Hoa Nghi đúng là càng ngày càng biết nhìn người, có điều mồm miệng vẫn còn nhanh nhảu quá, cứ như cái kéo này vậy.”

    Tôi khẽ nở nụ cười, đưa tay chỉnh lại bó hoa vừa được Hoa Nghi cắt tỉa. “Cắt tỉa hoa cần phải gọn gàng, như thế bó hoa trông mới đẹp. Có điều để nguyên một bó hoa trước mắt thì người ta sẽ dễ cảm thấy bối rối, nhất thời không biết nên ra tay từ đâu, dao sắc chặt đay rối cố nhiên đơn giản gọn nhẹ, nhưng cũng dễ xảy ra sai sót.” Tôi nhặt mấy cành hoa có nụ vừa bị Hoa Nghi cắt bỏ lên. “Mắt nhìn phải chuẩn, động tác cũng thế, phàm việc gì chỉ cần nôn nóng là sẽ rối ngay, cho nên bất kể là cắt tỉa hoa hay là xử lý công chuyện, lòng phải bình tĩnh thì mới có thể làm tốt được.”

    Hoa Nghi nghiêng đầu lộ vẻ trầm ngâm. “Ý của nương nương là nô tỳ đã cắt vội quá ư?”

    “Cắt hoa mà cắt nhầm thì có thể cắt lại lần nữa, nhưng có một số việc lỡ mà làm sai rồi thì chưa chắc đã có thể bổ cứu được đâu.” Tôi đưa mắt nhìn qua phía Cận Tịch. “Nếu quả đúng như lời Hoa Nghi nói, mong ước của Hồ Uẩn Dung trở thành hiện thực, chúng ta sẽ ra sao đây?”

    Cận Tịch dâng một chén nước anh đào lên cho tôi bằng hai tay, sau đó mới chậm rãi nói: “Trừ phi là chính bản thân nương nương, bằng không dù là ai làm hoàng hậu thì cũng không thể nào cho phép một vị sủng phi như nương nương tồn tại bên cạnh Hoàng thượng, huống chi nương nương còn có Hoàng tử nữa chứ. Trước đây Hồ Uẩn Dung với nương nương đúng là nước sông không phạm nước giếng, thậm chí có lúc còn cùng hội cùng thuyền, nhưng một khi ngồi lên ngôi hoàng hậu rồi, nàng ta đối xử với nương nương ắt chẳng tốt hơn Chu thị xưa kia chút nào đâu, thậm chí với tâm tính cao ngạo của nàng ta, cảnh ngộ của nương nương có thể sẽ còn tệ hơn trước nữa.”

    Tôi cười nhạt, nói: “Ta chẳng ngốc như Hồ Uẩn Dung đâu. Ai ai cũng cho rằng hoàng hậu là mẫu nghi thiên hạ, tôn quý tột cùng, do đó tìm đủ mọi cách để ngồi lên ngôi vị đó, nhưng lại chẳng có ai nghĩ tới việc sau khi trở thành hoàng hậu rồi thì sẽ trở thành cái đích cho tất thảy mọi người. Hoàng hậu muốn giữ được ngôi hậu thì tất nhiên phải không từ thủ đoạn, nhưng bị vô số những người hiểm độc nhắm vào như thế, dù hôm nay không xảy ra chuyện thì ngày mai cũng sẽ xảy ra chuyện, thực khó có thể yên tâm mà sống, do đó ta quyết không bao giờ làm hoàng hậu đâu.”

    “Nương nương, chuyện này đã ở vào thế đặng chẳng đừng rồi. Dù nương nương không muốn làm hoàng hậu thì người khác cũng sẽ cho rằng người muốn làm hoàng hậu, mọi lời nói đều sẽ bị cho là làm bộ làm tịch. Mà một khi người khác có suy nghĩ như thế, họ ắt sẽ không ngừng bày mưu hãm hại nương nương.”

    Tôi cầm chén nước anh đào lên khẽ nhấp một ngụm, nói: “Chúng ta cứ tự biết với nhau như thế là được rồi, sau này tự khắc sẽ có cách giải quyết thôi.” Tôi đứng dậy chỉnh sửa lại trang phục, hờ hững nói tiếp: “Chân Ninh Trưởng công chúa vừa về kinh, chúng ta cũng nên đi bái kiến rồi.”

    Từ Ninh cung lúc này tĩnh lặng vô cùng, có lẽ các phi tần trong cung còn chưa hay tin Chân Ninh Trưởng công chúa đã về tới nơi, do đó nhất thời chưa kịp đến bái kiến. Tôi vén rèm đi vào, thấy Thái hậu đang ngồi trên sạp nắm tay một thiếu nữ hỏi nọ hỏi kia, cạnh đó là một nữ nhân trung niên ăn mặc xa hoa lộng lẫy, thần thái thì thân mật vô cùng.

    Phương Nhược thông báo là tôi đã tới, Thái hậu bèn cười tủm tỉm, ngẩng đầu nhìn tôi. “Đều là người một nhà với nhau, lẽ ra phải gặp nhau từ sớm rồi mới đúng.”

    Tôi nhún gối thỉnh an Thái hậu, sau đó bèn cười tươi, nói: “Kính chào Trưởng công chúa.”

    Đây là lần đầu tiên tôi gặp Chân Ninh Trưởng công chúa, người tỷ tỷ cùng cha cùng mẹ duy nhất của Huyền Lăng. Chân Ninh Trưởng công chúa có vóc người cao ráo, thần thái tuy dịu dàng nhưng lại không thiếu phần cương nghị, nơi đuôi mắt luôn thấp thoáng nét cười khiến người ta khó mà nảy sinh ác cảm. Nhìn kĩ người nàng ta còn có thể thấy được mấy phần bóng dáng của Thái hậu năm nào.

    Tôi thầm thở dài cảm khái, đúng là hai mẹ con có khác, quả nhiên giống nhau vô cùng.

    “Vị này chắc hẳn là Thục phi rồi.” Chân Ninh Trưởng công chúa nhìn tôi chăm chú, một lát sau mới hé môi cười. “Thục phi đúng là một mỹ nhân, mới nhìn thoáng qua đã biết là không tầm thường rồi.”

    Tôi hơi nhún gối. “Trưởng công chúa quá khen rồi.”

    Nàng ta đưa tay tới đỡ lấy tôi, dịu dàng cười nói: “Thục phi là người quan trọng nhất trong lòng Hoàng thượng hiện nay, cũng là đệ muội của ta nữa, đâu cần khách sáo như vậy làm gì.”

    Một giọng nói trong trẻo động lòng người bất chợt vang lên bên tai tôi: “Mẫu thân, sao vừa rồi người lại nhìn Thục phi chăm chú như thế?” Đôi mắt long lanh như nước của nữ tử đó nhìn lướt qua khuôn mặt tôi. “Có điều Thục phi đúng là rất xinh đẹp, hóa ra mẫu thân cũng ham mê mỹ sắc.”

    “Mỹ sắc là thứ khó có được nhất và cũng dễ mất đi nhất trên thế gian này, không chỉ mình mẫu thân cháu đâu, ngay cả ai gia cũng ham mê vô cùng. Cháu hãy đi soi gương thử đi, nếu thích tấm dung nhan trẻ trung lúc này đây thì cháu cũng là một người ham mê mỹ sắc đấy.” Thái hậu hôm nay vô cùng vui vẻ, lời nói so với lúc bình thường cũng nhiều hơn một chút.

    Thiếu nữ đó mặt ngọc đỏ bừng, giậm chân nói: “Tuệ Sinh không chịu đâu, ngoại tổ mẫu toàn trêu Tuệ Sinh thôi.”

    Vành mắt tôi bỗng ươn ướt, vẻ yêu kiều tinh nghịch kia thật giống với My Trang hồi còn ở nhà ngoại tổ mẫu biết bao nhiêu. Trước mắt người khác, My Trang luôn đoan trang nền nã, nhưng khi tới bên ngoại tổ mẫu vốn rất mực thương yêu tỷ ấy, tỷ ấy cũng có lúc làm nũng thế này.

    Chân Ninh Trưởng công chúa kéo tay con gái lại, nhẹ nhàng vỗ vai nàng ta. “Tuệ Sinh, chào Thục phi đi!”Thiếu nữ trước mắt xinh tươi và rạng rỡ như một bông hướng dương, đồng thời còn thấp thoáng mấy nét ngây thơ, yêu kiều do được ăn sung mặc sướng từ nhỏ, thế nhưng trên mặt cũng có những nét cương nghị như mẫu thân và ngoại tổ mẫu. Nàng ta chính là Trần Tuệ Sinh, con gái của Chân Ninh Trưởng công chúa, người được phong làm Thừa Ý Quận chúa. Nàng ta hành lễ với tôi, sau đó liền nhìn tôi vẻ tò mò. “Cho dù ở xa tận Lương Châu nhưng ta cũng từng nghe tiếng Thục phi, bây giờ gặp mặt thấy quả là danh bất hư truyền, chẳng trách lại có người lén lút gọi Thục phi là “yêu cơ” như thế.”

    Trưởng công chúa thấy nàng ta ăn nói không biết kiêng dè gì thì hơi trầm mặt xuống, quát: “Tuệ Sinh!”

    Tôi bất giác thầm sửng sốt, không biết nàng ta thật sự ngây thơ nghĩ gì nói nấy hay là cố tình kiếm cớ khiêu khích, đành mỉm cười, nói: “Kỳ thực không phải ai cũng có thể làm tuyệt đại yêu cơ đâu, ta tự vấn thấy mình không có cái bản lĩnh đó. Nếu người khác cứ nhất quyết cho là như vậy, ta cũng đành nghĩ rằng Hoàng thượng chính là Trấn Yêu tháp hoặc là cao tăng đắc đạo thôi, vì thế nên ta mới chẳng thể tác oai tác quái được.”

    Trần Tuệ Sinh cất tiếng cười trong trẻo. “Thục phi thực là hài hước quá, cữu phụ nói chuyện với Thục phi nhất định sẽ thấy rất thú vị, chứ còn những người lúc nào cũng quy củ kia thực là nhạt nhẽo lắm. Hơn nữa “yêu cơ” cũng đâu có gì là không tốt, mẫu thân ta khi tức giận cũng thường xuyên gọi ta là “tiểu ma đầu”, “tiểu nghiệp chướng”, nhưng ta biết bà kỳ thực thương ta vô cùng. Người khác có lén lút nói xấu Thục phi thế nào cũng chỉ bởi vì ghen tị đó thôi.”

    Tôi bất giác bật cười. “Có những lời này của Quận chúa, sau này ta cũng tiện đi khoác lác khoe khoang rồi. Xin đa tạ Quận chúa!”

    Trưởng công chúa vốn thương yêu cô con gái này vô cùng, sau khi thoáng đưa mắt qua trách móc liền quay sang cười nói với tôi: “Tuệ Sinh từ nhỏ đã bị ta chiều quá thành hư, mong Thục phi chớ nên chê cười.”

    “Mẫu thân toàn nói như vậy thôi, nhưng con biết mẫu thân vì thương con nên mới chiều con như thế chứ.” Trần Tuệ Sinh hôm nay mặc một chiếc váy dài, khi cười lên trông chẳng khác nào một bông hoa đung đưa trong gió, mười phần đáng yêu.

    Tôi không kìm được cười, nói: “Thái hậu, tôn nữ này của người đúng là lanh lợi, tinh nghịch quá, khiến người ta yêu thích vô cùng.”

    Thái hậu mặt đầy nét cười, tỏ ra cực kỳ vui vẻ. “Tiểu muội Ngọc Nhiêu của con chẳng phải cũng thế sao? Ai gia thấy Tuệ Sinh và cửu Vương phi chắc là rất hợp nhau đấy.”

    Tôi cười, nói: “Ngọc Nhiêu hôm nay không ở đây, Quận chúa nếu bằng lòng thì có thể tới cung của ta chơi với mấy vị Công chúa.”

    Tuệ Sinh vỗ tay cười, nói: “Hay quá!” Sau đó lại quay sang nhìn Trưởng công chúa. “Nhưng còn cần mẫu thân đồng ý mới được.”

    Trưởng công chúa cười tươi rạng rỡ. “Con nếu thích đi thì cứ đi đi, nhưng nhớ đừng quấy rầy Thục phi đấy.”

    Tôi vừa đứng dậy thì Tuệ Sinh đã như một con chim nhỏ bay vút ra ngoài. Tôi liên tục cáo từ mấy bận, sau đó mới cất bước rời đi.

    Sau khi tôi bước ra ngoài cửa điện, giọng nói của Chân Ninh Trưởng công chúa loáng thoáng vọng lại lẫn trong tiếng lá cây xào xạc: “Dung mạo đúng là rất giống, thế nhưng khí chất của hai người thì lại hoàn toàn khác biệt.”

    Thái hậu khẽ cất tiếng thở dài. “A Nhu lòng dạ hiền từ, A Nghi thua kém xa, thế nhưng tâm cơ của A Nghi thì A Nhu dù có cưỡi ngựa đuổi theo cũng chẳng thể nào so được.”

    “Mẫu hậu, tiên Hoàng hậu và Hoàng hậu đều là người nhà họ Chu.”

    Thái hậu buồn bã thở dài. “Nếu không phải Hoàng thượng còn nhớ tới điều này, nếu không phải mẫu hậu vẫn còn thoi thóp một hơi thở, chỉ e A Nghi sớm đã bị phế rồi.” Hơi dừng một chút, bà ta lại nói tiếp: “Tính tình Tuệ Sinh có phần ngây thơ quá, con nhớ dạy dỗ cẩn thận, bằng không sau này sẽ phải chịu thiệt thòi đấy.”

    Chân Ninh Trưởng công chúa đáp: “Dạ vâng, nhi thần sẽ ghi nhớ kĩ điều này.”

    Thái hậu khẽ cười, nói: “Kỳ thực ai gia cũng có hơi cả nghĩ, Tuệ Sinh chỉ cần được gả cho một quận mã tốt rồi hưởng phúc là được rồi, chẳng cần phải giống như ai gia năm xưa. Xét cho cùng vẫn là đứa bé này có phúc.”

    Giọng nói của họ càng lúc càng nhỏ, tôi dần dần không thể nghe rõ nữa, chỉ còn lại tiếng lá cây xào xạc như tiếng mưa rơi bên tai. Ngẩng lên, tôi nhìn thấy một con bồ câu trắng đang tung cánh bay lượn giữa trời, dần dần biến mất giữa ánh dương rực rỡ.

    Kể từ đó, Chân Ninh Trưởng công chúa liền ở lại trong Di Ninh cung. Tuệ Sinh thì rất thích mấy vị công chúa, cũng khá hợp tính với Ngọc Nhiêu, sống trong cung có thể nói là hết sức vui vẻ. Đương nhiên, Chân Ninh Trưởng công chúa cũng từng mấy lần đề nghị Huyền Lăng tha tội cho Hoàng hậu để Hoàng hậu tới hầu hạ Thái hậu. Huyền Lăng chỉ lắc đầu, nói: “Hoàng tỷ niệm tình xưa cố nhiên là tốt, nhưng trẫm lo nếu để nàng ta ra ngoài hầu hạ Thái hậu, các vị Hoàng tử của trẫm sẽ đều bị chết oan hết, trẫm thực không dám đem tính mạng của các Hoàng tử ra đùa.” Thế rồi chuyện này dần dần bị cho qua, không còn được nhắc tới nữa.

    Một ngày bốn tháng sau đó, tôi cùng Hồ Uẩn Dung và Đức phi ngồi trò chuyện với Chân Ninh Trưởng công chúa trong cung của Thái hậu. Hôm nay trời cao nắng đẹp, trên những chiếc lá chuối biếc xanh trước điện phủ đầy ánh nắng vàng ươm. Thái hậu nhặt một quả nhãn khô đã bóc sẵn lên ăn, nheo mắt lại, nói: “Hôm nay hình như là ngày trạng nguyên lang vào cung tạ ơn thì phải.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Thái hậu có trí nhớ tốt quá, qua đó đủ thấy sau khi Trưởng công chúa về đây thì tinh thần của Thái hậu đã ngày càng tốt hơn rồi.”

    “Vốn dĩ ai gia cũng chẳng nhớ được, nhưng hôm qua khi tới đây thỉnh an, Hoàng thượng có nhắc tới việc này, nên ai gia mới bất chợt nhớ lại chuyện khi xưa.” Thái hậu nghiêng đầu qua hỏi Chân Ninh Trưởng công chúa: “Còn nhớ hoàng tỷ Lạc An Trưởng công chúa của con không?”

    Chân Ninh Trưởng công chúa cười tủm tỉm, nói: “Tất nhiên là nhớ chứ, đó là một đoạn giai thoại trong cung cơ mà.”

    Vừa khéo lúc này Ngọc Nhiêu cũng ở đây, không kìm được tò mò cất tiếng hỏi: “Là giai thoại gì vậy ạ?”

    Chân Ninh Trưởng công chúa nở nụ cười tươi rạng rỡ tựa như hoa đào. “Cửu Vương phi vừa được gả vào hoàng tộc, tất nhiên là không biết tới đoạn giai thoại này rồi, nhưng Đức phi và Uẩn Dung thì chắc là có biết đúng không?”

    Hồ Uẩn Dung mỉm cười gật đầu, Đức phi thì lại lộ vẻ sửng sốt, đoạn cười, nói: “Thần thiếp cũng đang chờ Trưởng công chúa kể đây.”

    Chân Ninh Trưởng công chúa cười, nói: “Xưa nay Công chúa không phải do thánh thượng chỉ hôn thì là lên Phượng đài tự chọn phò mã, những ai bất hạnh nhất thì phải xuất tái hòa thân, thế nhưng Lạc An Trưởng công chúa thì lại là ngoại lệ. Mọi người có biết phu quân của tỷ ấy là từ đâu mà có không?” Dứt lời bèn cười tủm tỉm, chậm rãi uống trà.

    Tuệ Sinh vốn tính nóng vội, lập tức hỏi: “Mẫu thân, rốt cuộc là từ đâu mà có vậy?”

    Trưởng công chúa nói: “Hôm đó là ngày trạng nguyên lang của cuộc khảo thí ba năm một lần vào cung tạ ơn. Trạng nguyên năm đó thực sự không tầm thường, là tài tử Trương Tiên Lệnh nức tiếng gần xa. Trương Tiên Lệnh không chỉ có tài, hơn nữa còn hào hoa tuấn tú, các nữ tử trong cung sau khi nghe tiếng không một ai là không ngưỡng mộ và tò mò. Tiên đế vốn nhân từ, liền cho phép mọi người đứng trên lầu thành nhìn trạng nguyên lang cưỡi ngựa vào cung tạ ơn. Tình hình năm đó đúng là náo nhiệt, vô số phi tần trong cung cùng với nữ quyến các phủ tranh nhau leo lên lầu thành. Trương Tiên Lệnh thì quả nhiên khí độ bất phàm, mắt chẳng nhìn nghiêng, giục ngựa chậm rãi đi vào cung.” Nói tới chuyện thú vị khi xưa, Chân Ninh Trưởng công chúa không kìm được khẽ nở nụ cười. “Ta khi đó còn nhỏ, cứ thế đi theo hoàng tỷ Lạc An tới đứng ở hàng đầu tiên trên lầu thành. Khi trạng nguyên lang đi qua, tất cả đều xao động, chẳng biết là ai ở phía sau vô tình khẽ đẩy một cái, hoàng tỷ liền tuột tay đánh rơi chiếc quạt tròn xuống dưới.” Nàng ta mỉm cười hồi tưởng lại chuyện xưa. “Ta đến giờ vẫn còn nhớ rõ, chiếc quạt tròn đó của hoàng tỷ có cán làm bằng ngà voi, hai mặt đều thêu hình uyên ương, chính là do mẫu hậu tặng cho. Kết quả trùng hợp làm sao, chiếc quạt ấy rơi ngay vào đầu Trương Tiên Lệnh. Trương Tiên Lệnh đau quá liền ngẩng đầu lên nhìn, sau khi nhìn thấy hoàng tỷ thì không giận dữ gì cả, còn cung tay hành lễ rồi mới rời đi. Tiên đế về sau nghe nói tới chuyện thú vị này liền nói là “nhân duyên hiếm có”, lập tức hạ chỉ ban hôn, từ đó tác thành cho một đôi phu thê ân ái. Mọi người nói xem đây có phải là giai thoại không nào?”

    Mọi người nghe đến nhập thần, không kìm được cười, nói: “Quả nhiên là một giai thoại hiếm có.”

    Lúc này Tuệ Sinh đang cầm trong tay một chiếc quạt tròn thêu hình hoa thược dược bằng chỉ vàng dùng để che mặt, kết hợp với khuôn mặt yêu kiều xinh xắn của nàng ta thực là hết sức động lòng người. Nàng ta đang nghe đến thẫn thờ, Ngọc Nhiêu mỉm cười đẩy nhẹ cánh tay nàng ta. “Quận chúa cầm quạt cẩn thận đấy, chớ nên đánh rơi.”

    Tuệ Sinh kêu lên “úi chao” một tiếng, ngoảnh mặt qua, hỏi: “Cái gì cơ?” Bàn tay thì bất giác buông lỏng, chiếc quạt tròn kia nhẹ nhàng rơi xuống đất. Tôn cô cô vội vàng nhặt nó lên, cười nói: “Ở đây làm gì có trạng nguyên, Quận chúa không cần phải đánh rơi quạt đâu.”

    Mọi người đều không kìm được cất tiếng cười vang, Tuệ Sinh thẹn đến đỏ bừng hai má, giậm chân chạy đi. Thái hậu vừa cười vừa kêu người ngăn nàng ta lại. “Cháu đi đâu vậy?”

    Tuệ Sinh nói: “Mọi người đều xấu lắm, cháu chẳng ở lại đây nữa đâu.”

    Thái hậu cười đến không khép miệng lại được, chỉ tay vào nàng ta, nói: “Cứ ngồi yên đấy thôi, nếu cháu thật sự muốn đi thì chi bằng cùng mẹ cháu và mấy người Đức phi đi ngắm xem trạng nguyên lang năm nay thế nào. Trong cung đã nhiều năm không có chuyện gì thú vị rồi, chúng ta vui vẻ với nhau một chút cũng hay.” Sau đó lại quay qua nói với Chân Ninh Trưởng công chúa: “Ai gia bây giờ thực chẳng có sức mà đứng dậy nữa rồi, khi nào con quay lại nhớ kể cho ai gia nghe trạng nguyên lang năm nay là một nam tử tuấn tú cỡ nào đấy.”

    Chân Ninh Trưởng công chúa đứng dậy khom người, cười nói: “Vậy nhi thần xin lĩnh mệnh.”

    Thế là cả đoàn người nối đuôi nhau đi theo Chân Ninh Trưởng công chúa lên lầu thành chờ ngắm trạng nguyên lang, dưới ánh xuân rạng rỡ, những tiếng nói cười vang lên không ngớt. Đức phi và tôi đi sau cùng, nàng ta mím môi cười nói với tôi: “Thái hậu làm thế này đâu phải là để chúng ta ngắm trạng nguyên lang, rõ ràng là muốn chọn cho Quận chúa một vị phu quân ưng ý mà.”

    Hồ Uẩn Dung khẽ gật đầu một cái tỏ ý tán đồng. Tôi cười, nói: “Thái hậu đã phải hao tổn tâm tư như thế rồi, chúng ta có lẽ nào lại không chiều ý? Hơn nữa một chuyện thú vị như thế này, chúng ta cũng đều mong được thấy cả.”

    Đức phi tươi cười gật đầu, sau đó lại đi qua bên cạnh nói chuyện với Ngọc Nhiêu.

    Chẳng bao lâu sau chúng tôi đã lên tới trên lầu thành. Bốn phía đều tĩnh mịch, sắc trời xanh biếc, ánh nắng vàng ươm, con đường lớn lát đá cẩm thạch bên dưới lầu thành kéo dài thẳng tắp hàng trăm trượng ra tới tận cửa thành. Những tiếng vó ngựa giòn tan bất chợt vang lên, tất cả mọi người đều có thể nghe thấy rõ ràng. Hai bên đường trồng đầy những gốc mận đang nở hoa rực rỡ, một làn gió nhẹ thổi tới, những cánh hoa trắng muốt rơi lất phất tạo thành một tấm thảm đẹp mắt thu hút ánh nhìn tò mò và chờ đợi của tất thảy mọi người trên lầu thành.

    Có gã thái giám khẽ cất tiếng hô: “Tới rồi! Tới rồi!” Mọi người cùng dõi mắt nhìn đi, chỉ thấy mãi nơi tận cùng phía phát ra tiếng vó ngựa có một thiếu niên áo đỏ cưỡi trên lưng một con ngựa trắng cao lớn đang chậm rãi đi tới, bộ đồ trạng nguyên trên người thực là bắt mắt vô cùng. Hồ Uẩn Dung đưa tay lén đẩy Tuệ Sinh lên trước nhất, cười nói: “Quận chúa tinh mắt nên chắc nhìn được rõ ràng hơn một chút, trạng nguyên lang trông như thế nào vậy?”

    Tuệ Sinh vừa thẹn vừa giận lại vừa tò mò, hậm hực nói: “Mọi người cứ tự xem đi là được, đẩy ta làm cái gì chứ!”

    Trang nguyên lang chậm rãi đi tới gần, có thể thấy rõ đó là một thiếu niên mặt đẹp như ngọc, áo quần hoa lệ, bên khóe môi thấp thoáng một nụ cười mừng vui đắc ý.

    Tiểu Hạ Tử đứng một bên khẽ nói: “Vị trạng nguyên lang này mới mười chín tuổi thôi, là người Thanh Châu, nghe nói hãy còn chưa thành gia lập thất cơ đấy.”

    “Gió xuân thả sức cho phi ngựa, ngày trọn Trường An xem hết hoa[6].” Chân Ninh Trưởng công chúa khẽ gật đầu. “Thiếu niên đắc ý, quả là khí khái hiên ngang.”

    [6] Trích Đăng khoa hậu của Mạnh Giao. Dịch thơ: Khương Hữu Dụng. Nguyên văn Hán Việt: Xuân phong đắc ý mã đề tật, nhất nhật khán tận Trường An hoa - ND.

    “Thế này mà gọi là khí khái hiên ngang gì cơ chứ!” Tuệ Sinh nắm chặt lấy chiếc quạt tròn trong tay, khóe môi hơi nhếch lên để lộ vẻ giễu cợt. “Mẫu thân nhìn xem kìa, mặt y còn trắng hơn mặt con, lông mày còn đen hơn lông mày của con, môi thì còn đỏ hơn môi con nữa, nếu cởi bỏ bộ đồ trạng nguyên kia ra rồi thay bằng đồ con gái thì trông có khác gì chúng ta đâu, thật là chẳng ra dáng nam nhi gì cả!”

    Đức phi cười, ôn tồn nói: “Hóa ra Quận chúa không thích những nam tử thanh tao nho nhã. Không sao không sao, chúng ta chờ ngắm tiếp bảng nhãn và thám hoa là được rồi.”

    Bảng nhãn là một nam nhân đã ngoài năm mươi tuổi, chắc vì khổ công học tập suốt mấy chục năm trời nên hai bên tóc mai đã điểm bạc, thân thể thì lòm khòm, mọi người tất nhiên không quá chú ý, còn thám hoa cũng là một thiếu niên tuổi chừng trên dưới hai mươi, vóc người cao lớn, tráng kiện vô cùng. Chân Ninh Trưởng công chúa không kìm được tấm tắc khen: “Đúng là một hảo nam nhi, tuy chỉ là thám hoa thôi nhưng nếu chăm chỉ làm quan thì tiền đồ cũng sẽ sáng sủa vô cùng.”

    Tuệ Sinh dùng sức cầm chặt cán quạt, dường như sợ nó rơi xuống trúng đầu vị thám hoa lang phía dưới kia, đồng thời trề môi ra nói: “Cái gì mà hảo nam nhi chứ, mới trúng thám hoa thôi mà đã đắc ý như thế rồi, nếu để y trúng trạng nguyên thì chắc sẽ chẳng coi ai ra gì đâu, quá ư là hời hợt.”

    Chân Ninh Trưởng công chúa cùng chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, rồi nàng ta ôn tồn nói: “Ta thấy trạng nguyên lang và thám hoa lang năm nay so với phò mã cô phụ của con còn tốt hơn nhiều lắm, sao con lại chẳng vừa mắt ai vậy?”

    Tuệ Sinh lè lưỡi, nói: “Tại sao con lại phải vừa mắt bọn họ chứ?”

    Sau khi trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa vào cung thì tới lượt các văn quan với trang phục sặc sỡ đủ màu từ đỏ, tím, xanh, đen đi vào. Mọi người nhìn tới đây thì đều cảm thấy chán ngán, không còn hứng thú gì nữa, chuẩn bị xoay người rời đi, chợt Ngọc Nhiêu nhìn thấy Tuệ Sinh cứ đứng im đó không động đậy, bèn khẽ kéo nàng ta. “Quận chúa, sắc trời không còn sớm nữa rồi, chúng ta về thôi.”

    Lúc này, ánh dương nhàn nhạt chiếu lên một nửa bên mặt của Tuệ Sinh, đôi hàng lông mi dài chớp động, để lộ ra mấy nét si mê. Nàng ta giơ quạt chỉ về phía xa, hỏi: “Người đó là ai vậy?”

    Nơi chiếc quạt tròn chỉ vào, chỉ thấy rất nhiều cánh hoa vẫn lất phất rơi, nhất thời làm mờ đi tầm mắt. Đến khi hoa rụng vãn đi, chỉ thấy dưới ánh dương vàng ươm lộ ra một thân hình mơ hồ, đôi làn gió mát thổi tới khiến góc chiếc áo bào màu tím của y bay lên nhè nhẹ. Y để ngựa bước đi chậm rãi, đưa tay phủi mấy bông hoa rơi trên vai, giữa khung cảnh tuyệt đẹp xung quanh, nhìn y thực là vô cùng trầm lặng.

    Ngọc Nhiêu tỏ ra khá bất ngờ, cây thoa ngọc trên đầu ánh lên những tia sáng thanh tao dìu dịu. “Người đó là gia huynh, tên gọi Chân Hành.”

    Tuệ Sinh chậm rãi cụp mắt xuống, khuôn mặt bất giác hơi ửng hồng. Chân Ninh Trưởng công chúa còn chưa biết đã có chuyện gì xảy ra, kéo tay nàng ta, khẽ nói: “Mau về thôi nào, mà con nhớ kể với ngoại tổ mẫu của con những việc đã thấy hôm nay đấy nhé!”

    Tuệ Sinh chợt thu lại những nét nghịch ngợm thường ngày, trong lòng như có thêm mấy tia tâm sự, chậm rãi quay về.

    Tôi đi ở phía sau, ngoảnh đầu lại chợt thấy Hồ Uẩn Dung bước đi chậm rãi mãi sau cùng, hình như cố tình làm vậy. Tôi bước tới bên nàng ta, cất tiếng hỏi: “Sao còn chưa quay về vậy?”

    Hồ Uẩn Dung dõi mắt nhìn bóng dáng những người phía trước, lộ rõ vẻ u buồn. “Khi xưa cha ta đỗ trạng nguyên, được Thái Tông ban hôn cho cưới mẫu thân của ta là Tấn Khang Quận chúa, sau đó lại được phong làm thượng triều nghị lang chính lục phẩm, về sau thì đường quan nhẹ bước, nhảy vọt lên tới chức ngân thanh quang lộc đại phu tòng tam phẩm, thực là hiển hách vô cùng. Nếu không phải vào năm Long Khánh thứ mười khi Bác Lăng Hầu mưu phản, cha ta bị người ta tố cáo là qua lại quá gần gũi với Bác Lăng Hầu, nhà ta đã chẳng suy bại tới mức phải dựa vào mẫu thân ta để cầm cự. Sự phú quý như Chân Ninh Trưởng công chúa nhà ta tuy chưa từng được hưởng, thế nhưng mười phần cũng phải được ba, bốn phần. Ngẫm kĩ ra quyền thế thực giống như một đám mây biến đổi khôn lường, sớm đến chiều tan.” Hơi dừng một chút, nàng ta dường như tập trung hết sức lực toàn thân, cất giọng mạnh mẽ: “Nhưng càng là thứ gì khó nắm bắt ta lại càng muốn nắm chặt trong tay, khi ta đã trở thành người có thể hô mưa gọi gió, lẽ nào còn sợ cái gọi là sớm đến chiều tan ư?”

    Tôi mỉm cười, nói: “Đang yên đang lành, cớ sao muội muội lại sinh ra nỗi niềm cảm khái như thế? Muội muội bây giờ kỳ thực đã vinh quang vô hạn rồi.”
    “Vậy ư?” Trong cặp mắt phượng ánh lên mấy tia rực rỡ, nàng ta nhìn tôi cười tủm tỉm. “Chỉ cần Thục phi có lòng, hẳn sẽ không ngăn cản sự vinh quang của ta đâu.”

    Tôi giả bộ như không biết gì. “Mỗi người đều có con đường riêng của mình, ta tất nhiên sẽ không ngăn cản muội muội rồi.”

    Nàng ta khẽ cười, nói: “Chỉ mong là vậy.” Chợt lại cất tiếng hỏi: “Nhuận Nhi vẫn khỏe chứ?”

    Tôi thầm kinh ngạc về sự quan tâm của nàng ta với Dư Nhuận, nhưng vẫn mỉm cười đáp: “Thằng bé vẫn ổn, muội muội yên tâm.”

    Lúc này đang dịp tháng Tư, trời quang gió ấm, những bông hoa đào rơi rụng đầy trên mặt đất, còn hoa anh đào cùng hoa hải đường thì lại phơi phới nở rộ, cảnh sắc ở Thượng Lâm uyển trước nay chưa từng trở nên tịch mịch và hiu quạnh.

    Sau chuyện ở trên lầu thành, Thừa Ý Quận chúa đã trở nên trầm lặng hơn rất nhiều, dường như chỉ sau một đêm, vô số tâm sự đã chất đầy trong lòng nàng ta, còn chậm rãi lan tỏa lên đôi hàng lông mày của nàng ta nữa. Ngay đến Thái hậu cũng không kìm được cảm thấy khó hiểu: “Tuệ Sinh sao tự nhiên lại đổi tính như vậy?”

    Lòng tôi thầm có chút bất an, thế nhưng khi trả lời thì vẫn ung dung vô cùng: “Có lẽ đang dịp cuối xuân nên cô bé có chút uể oải đấy thôi.”

    Đức phi khẽ gật đầu. “Chẳng trách, nghe Quý phi kể gần đây Ôn Nghi cũng có vẻ uể oải hơn trước rất nhiều.”

    Thái hậu tựa lưng vào chiếc gối phía sau, gật đầu nói: “Có lẽ là vậy, ai gia thấy Lung Nguyệt cũng có vẻ trầm lặng đi nhiều rồi. Quãng thời gian trước, phủ Nội vụ nói là đã chuẩn bị xong đồ cưới cho Thục Hòa, thế mà Lung Nguyệt chẳng có hứng thú đi xem gì cả.”

    Đức phi cười trừ, nói: “Dạ phải, bây giờ con bé chỉ có hứng thú theo Quý phi học gảy đàn tì bà thôi, mà trông cũng ra dáng lắm rồi.”

    Thái hậu lộ vẻ trầm ngâm. “Ai gia thường ngày đã quen thấy lũ trẻ con náo nhiệt rồi, bây giờ tất cả đều yên tĩnh thực là tẻ nhạt quá.” Bà ta ngẩng lên nhìn sắc trời bên ngoài một chút rồi nói tiếp: “Thời tiết bây giờ đang đẹp, kêu chúng nó ra ngoài đi lại nhiều một chút đi!”

    Đức phi đáp “vâng” một tiếng, sau đó bèn quay qua nói với Tuệ Sinh: “Quận chúa, phủ Nội vụ vừa làm xong mấy chiếc diều lớn, trông đẹp vô cùng, Quận chúa có muốn đi thả diều không?”

    Tuệ Sinh lúc này trông có vẻ buồn bã ủ dột, thế nhưng không cách nào cự lại sự nài nỉ của Ôn Nghi và Lung Nguyệt, đành đi theo. Tôi xoay người cáo lui: “Thái hậu, thần thiếp xin phép đi thả diều cùng bọn họ.”

    Thái hậu không trả lời tôi, hóa ra bà ta đã tựa đầu vào gối ngủ mất rồi, thế nhưng dù là trong giấc ngủ, trên gương mặt bà ta vẫn lộ rõ vẻ mỏi mệt.

    Thời gian qua, gió xuân dịu nhẹ làm lòng người thư thái, có điều bệnh tình của Thái hậu xem ra đã ngày một nặng hơn rồi.

    Bầu trời bên ngoài trong xanh quang đãng, thế nhưng những ngọn gió từ mặt hồ thổi tới lại yếu ớt vô cùng, tựa như bàn tay của một đứa bé sơ sinh phớt nhẹ qua mặt. Với những ngọn gió thế này, dù con diều có bay lên được thì cũng sẽ lại rơi xuống rất nhanh.

    Trong lòng tôi còn đang nghĩ thế, chiếc diều uyên ương của Tuệ Sinh đã lờ đờ rơi xuống đất rồi. Vì dây rất dài nên con diều rơi mãi ở phía xa, Đức phi đưa tay khẽ đẩy tôi một cái. “Muội mau qua xem thử xem thế nào đi, diều rơi như thế chỉ sợ cô bé này sẽ nổi tính tiểu thư đấy.”

    Tôi cười, nói: “Quận chúa tuy có hơi trẻ con nhưng vẫn chưa tới mức như vậy đâu.”

    Tôi nháy mắt ra hiệu một cái, Ôn Nghi biết ý, bèn giao chiếc diều trong tay cho một gã thái giám, kéo theo Lung Nguyệt chạy đi.

    Trong Thượng Lâm uyển lúc này trăm hoa đua sắc, hồng hồng tím tím đan xen, thực là đẹp đẽ vô cùng, còn tôi thì đang mặc một chiếc váy dài có tà váy lê đi trên mặt đất nên không thể chạy nhanh được, đến khi tìm thấy Tuệ Sinh cùng chiếc diều kia thì không kìm được ngây ra.

    Chỉ thấy ca ca tôi bị dây diều quấn mấy vòng quanh người, trong tay còn cầm một chiếc diều uyên ương nửa đỏ nửa vàng đan xen, dù có gỡ thế nào cũng không thoát ra được. Tuệ Sinh thì đang đứng ngay trước mặt ca ca, trông bộ dạng thì có vẻ như đang đờ đẫn chẳng biết phải làm gì. Dưới làn ánh dương màu vàng nhạt tràn đầy sức sống từ trên cao chiếu xuống, gốc anh đào sau lưng ca ca lúc này đang nở rộ những bông hoa trắng muốt, thực là đẹp đến mê hồn.

    Tôi đột nhiên nhớ ra, hồi sáng Tiểu Doãn Tử từng nói với tôi là chiều nay ca ca sẽ cùng Ngọc Nhiêu vào cung thăm tôi.

    Lung Nguyệt nhìn thấy ca ca vào cung thì vô cùng vui vẻ, vội vàng chạy tới kéo tay y, hưng phấn nói: “Cữu phụ.”

    Tuệ Sinh dùng sức nắm chặt sợi dây diều còn chưa đứt trong tay, khẽ nói: “Ta biết, huynh là Chân Hành.”

    Ca ca bất giác hơi sững người, bèn cất tiếng hỏi: “Vị cô nương đây là...”

    Tôi thấy Tuệ Sinh như thế thì lòng bất giác hơi chùng xuống, đành đáp: “Vị này là Thừa Ý Quận chúa, con gái của Chân Ninh Trưởng công chúa.”

    Ca ca định khom người hành lễ, hiềm rằng thân thể bị dây diều quấn quanh nên mười phần bất tiện, bèn cười gượng, nói: “Ngọc Nhiêu chờ lâu sốt ruột nên kêu ta ra ngoài tìm nương nương, ai ngờ đi đến đây thì tự dưng bị một chiếc diều từ trên trời rơi xuống quấn vào người, thực là thất lễ với Quận chúa.”

    Tuệ Sinh đưa tay tới định giúp ca ca tôi gỡ dây diều trên người xuống, nhưng nhất thời lại thấy xấu hổ, vội vàng rụt tay về. Lung Nguyệt thì vừa gỡ dây diều vừa cười hỏi Tuệ Sinh: “Biểu tỷ thật là thông minh quá, sao tỷ lại biết cữu phụ của muội tên là Chân Hành vậy?”

    Tuệ Sinh đỏ mặt tía tai, ấp úng chẳng nói nổi lời nào. Ôn Nghi bẻ một cành hoa anh đào cầm trong tay, cười tủm tỉm, nói: “Biểu tỷ đánh rơi diều uyên ương đấy nhé!”

    Tuệ Sinh nhìn ca ca tôi, khẽ cười nói: “Nghe nói huynh từng chinh chiến nơi sa trường, phụ thân của ta hiện giờ đang trấn thủ Lương Châu, huynh có thể kể cho ta nghe những chuyện trên sa trường không?”

    Dưới gốc hoa nở rộ, tiếng cười sang sảng của Lung Nguyệt bay cùng làn gió dập dờn chung quanh, những cánh hoa anh đào yếu ớt theo đó buông rơi lả tả, khung cảnh thực là tươi đẹp vô cùng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/9/17
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 7: Lất phất mưa phùn hoa nhẹ rơi
    Ánh dương buổi chiều độ này đã dần dần nóng lên, mang theo một chút oi bức của mùa hè, sau khi chiếu qua ô cửa sổ của Di Ninh cung liền in lên mặt đất cái bóng của những bông hoa được điêu khắc trên cửa sổ.

    “Khốn kiếp!” Thái hậu đưa mắt liếc tôi, nói. “Thục phi, ai gia xưa nay vẫn luôn đặc biệt thương yêu ngươi, nhưng cứ nhìn tình hình bây giờ mà xét, ngươi coi sự thương yêu ấy của ai gia thành ra cái gì rồi?”

    Thái hậu xưa nay vẫn luôn xem trọng tôi, lại vì tôi đã sinh được một hoàng tử và hai công chúa nên có nói gì thì cũng khách sáo vô cùng, dù là sau khi Hoàng hậu bị cấm túc và tôi được trao quyền quản lý lục cung thì bà ta cũng chưa từng mặt nặng mày nhẹ với tôi như thế.

    Tôi hết sức sợ hãi, vội vàng quỳ xuống, nói: “Thần thiếp không rõ mình sai ở chỗ nào mà lại khiến Thái hậu tức giận như vậy, mong Thái hậu chỉ rõ.”

    Thái hậu không kêu tôi đứng dậy, chỉ nói: “Ngươi xưa nay vẫn luôn thông minh lanh lợi, ai gia cũng thích cái sự thông minh lanh lợi ấy của ngươi, có điều ngươi chớ nên thông minh quá.” Bà ta thở ra một hơi rồi nói tiếp: “Thị nữ của ngươi là Hoán Bích được đưa tên vào tộc phổ rồi gả cho lục Vương gia làm trắc phi, ấu muội của ngươi Ngọc Nhiêu thì được gả cho cửu Vương gia làm chính phi, cả nhà đã vinh hiển tột cùng, thế mà ngươi còn chưa biết đủ, đi xúi giục huynh trưởng cám dỗ Tuệ Sinh. Tuệ Sinh còn nhỏ chưa biết gì, ngây thơ hết mực, chẳng rõ huynh trưởng của ngươi đã dùng thủ đoạn gì mà khiến nó cứ nhất quyết đòi được gả cho y...” Bà ta không nói tiếp nữa, chỉ giận dữ nhìn tôi.

    Tôi vốn còn bình thản lắng nghe, nhưng khi thấy Thái hậu nhục mạ ca ca thì đầu óc như nổ “uỳnh” một tiếng, máu nóng bất giác xộc thẳng lên đầu.

    Tôi còn chưa nói gì thì Chân Ninh Trưởng công chúa đã lên tiếng, trên khuôn mặt vốn luôn ôn hòa tràn ngập nét sầu. “Đứa bé đó cứ như bị trúng tà vậy, mấy hôm trước, sau khi đi thả diều về thì tâm sự trùng trùng không thích nói năng, ta cũng chẳng hỏi ra được điều gì. Ai ngờ đêm hôm trước, nó đột nhiên chạy tới cầu xin mẫu hậu, nói là muốn được ban hôn. Tuệ Sinh sau khi vào kinh thì chưa quen nam tử nào cả, ta cứ ngỡ là nó hồi tâm chuyển ý nhìn trúng vị trạng nguyên hoặc là thám hoa hôm đó, nào ngờ nó lại muốn được gả cho huynh trưởng của Thục phi.” Nàng ta điều chỉnh lại hơi thở rồi mới chậm rãi nói tiếp: “Mẫu hậu khi đó tức giận vô cùng, lập tức cự tuyệt. Ta nghe mẫu hậu kể thì mới hay, huynh trưởng của Thục phi đã hơn ba mươi tuổi rồi, còn từng cưới vợ sinh con, nếu gả Tuệ Sinh cho y thì há chẳng phải là... há chẳng phải là...”

    Mái tóc bạc phơ của Thái hậu hơi rối, chỉ được cố định bằng một cây trâm vàng, bà ta trầm giọng nói: “Lý nào lại có chuyện Quận chúa đi làm thiếp của người ta chứ? Đúng là chuyện nực cười!”

    Trong chiếc chén sứ trắng ngần, nước trà xanh biếc như màu lá mùa xuân, hương trà tỏa ra vương vất, thế nhưng bàn tay cầm chén trà của Chân Ninh Trưởng công chúa thì lại hơi run rẩy. “Tuệ Sinh từ nhỏ đã rất có chủ kiến, thấy mẫu hậu không đồng ý thì cũng không tranh cãi gì, chỉ là hai ngày nay ăn uống ít hơn hẳn, mỗi ngày đều ủ dột không vui, người cũng tiều tụy đi nhiều. Ta thân là người làm mẹ... Thục phi cũng là người làm mẹ, hẳn hiểu được lòng ta bây giờ.”

    Thái hậu còn chưa bớt giận, cất giọng hờ hững: “Chân Hành quả là có phúc! Thục phi bụng dạ quả là thâm sâu! Nhà họ Chân quả là vinh hiển quá chừng! Nếu huynh trưởng của ngươi thành thân với Tuệ Sinh, như thế cả nhà ngươi đều có quan hệ sâu sắc với hoàng tộc, chẳng lẽ bây giờ ngươi đang nhòm ngó bảo tọa hoàng hậu đấy ư?”

    “Thái hậu bớt giận!” Nghe thấy những lời đó, tôi liền dằn lòng lại, ngẩng lên nói. “Thái hậu nói rất đúng, cuộc hôn nhân này có vấn đề, không chỉ Thái hậu không vừa lòng, ngay cả thần thiếp cũng phản đối. Thần thiếp nghĩ như vậy không phải là vì muốn xóa mối hiềm nghi nhòm ngó bảo tọa hoàng hậu mà Thái hậu vừa nói tới, kỳ thực ngay từ đầu thần thiếp đã không tán thành chuyện này. Thái hậu thử nghĩ mà xem, xét về bối phận thần thiếp là cữu mẫu của Quận chúa, ca ca của thần thiếp hẳn nhiên cũng thuộc hàng bề trên của Quận chúa, như thế sau khi Quận chúa được gả cho ca ca của thần thiếp thì thần thiếp biết phải xưng hô ra sao đây, cuộc hôn nhân này rõ ràng là một sự loạn luân trái lẽ cương thường. Hơn nữa sau khi thê tử là Tiết thị qua đời, ca ca của thần thiếp không hề có ý tục huyền, do đó Thái hậu không cần suy nghĩ nhiều làm gì cả, cứ nên bảo trọng phượng thể thì hơn.”

    Thái hậu lạnh lùng nhìn tôi. “Thục phi, ngươi thật sự nghĩ như vậy sao?”

    Tôi cúi đầu thưa: “Việc này kỳ thực Quận chúa chỉ nói với Thái hậu thôi, còn gia huynh mấy hôm trước mới gặp Quận chúa lần đầu, khi đó thần thiếp cùng Đức phi và hai vị Công chúa lại đều ở bên, huynh ấy làm sao mà cám dỗ Quận chúa được? Do đó gia huynh đến giờ có lẽ còn chưa hay biết việc này, bất kể Thái hậu có phản đối thế nào thì thần thiếp cũng đều không có dị nghị gì.” Lúc này Thái hậu lặng im không nói gì thêm. Tôi cố kìm nén cơn tức giận trong lòng, xin phép cáo lui.

    Hai ngày sau, Chân Ninh Trưởng công chúa tới Nhu Nghi điện gặp tôi, trên mặt tràn đầy vẻ ưu sầu lo lắng. “Tuệ Sinh vẫn cố chấp lắm.” Rồi nàng ta lại khẽ gượng cười. “Đều tại ta thường ngày đã nuông chiều nó quá.”

    Tôi ngồi đối diện với nàng ta, ôn tồn nói: “Trưởng công chúa có thể nói cho Quận chúa biết việc gia huynh vô cùng nhung nhớ vong thê, như thế Quận chúa có lẽ sẽ nguội lòng.”

    Chân Ninh Trưởng công chúa thở dài, than: “Ta cũng đã làm thế rồi, nhưng Tuệ Sinh lại càng cố chấp hơn, cho là ca ca của Thục phi tình sâu ý nặng.”

    Tôi ngơ ngẩn bật cười. “Gia huynh tình sâu ý nặng là với tẩu tẩu thôi, với Quận chúa thì chưa chắc đã được như vậy.” Chân Ninh Trưởng công chúa đưa tay xoa trán, tỏ ra phiền não vô cùng. “Nhưng Tuệ Sinh lại không cho là như thế.”

    Tôi chậm rãi nhấp một ngụm trà trong chén, sau một thoáng trầm ngâm bèn cười nói với nàng ta: “Thực ra ta hâm mộ Công chúa vô cùng.”

    Nàng ta “ồ” lên một tiếng, nhìn tôi, hỏi: “Lời này của Thục phi là ý làm sao?”

    Tôi nói: “Phò mã chỉ có một mình Công chúa thôi, trong khi đó ta lại phải chia sẻ Hoàng thượng với rất nhiều người.”

    Nàng ta bật cười. “Lời của Thục phi xem ra là thật lòng rồi, có điều hậu phi vốn phải không ghen ghét không oán hận, Thục phi cớ gì lại nói như vậy?”

    Tôi khẽ cất tiếng thở dài. “Được phu quân toàn tâm toàn ý thương yêu là nguyện vọng của tất cả nữ nhân trên đời này, ta chỉ là người thường thôi nên cũng không ngoại lệ.”

    Chân Ninh Trưởng công chúa dần thu lại nụ cười. “Kỳ thực ta vẫn thường cảm thấy may mắn vì mình là công chúa, vậy nên cuộc sống mới yên ổn hơn người khác một chút.” Rồi nàng ta nhìn tôi chăm chú. “Ta hiểu, một nữ nhân chỉ khi nào thật lòng để tâm tới một người thì mới không muốn chia sẻ y với người khác.”

    “Cho nên...” Tôi bình thản nhìn lại nàng ta, chậm rãi nói: “Quận chúa cần phải hiểu rõ là trong lòng gia huynh đã có tẩu tẩu rồi, giả như Quận chúa thành thân với gia huynh, vậy thì vô hình trung sẽ phải chia sẻ huynh ấy với người khác...”

    “Thục phi nói vậy là không đúng.” Tôi còn chưa dứt lời thì Tuệ Sinh đã rảo bước đi vào Nhu Nghi điện. Nàng ta bước rất nhanh, tà áo gấm màu xanh lam tung bay lất phất, mới thoáng đó mà đã đi vào nội điện rồi, bức rèm châu phía sau thì không ngớt đung đưa. Nàng ta đi tới trước mặt tôi, hơi thở vẫn còn hơi hổn hển. “Ta thích Chân Hành không phải vì huynh ấy từng có chiến công hiển hách, cũng không phải vì thương huynh ấy từng phải trải qua những chuyện đau buồn. Mọi người đều cho là ta còn nhỏ nên chưa hiểu gì, kỳ thực cái gì ta cũng hiểu hết. Ngày đó đứng trên lầu thành nhìn thấy huynh ấy, ta lập tức cảm nhận được huynh ấy khác hẳn với người thường, mà ta cũng từng nghe nói về mối tình sâu nặng của huynh ấy với Tiết thị. Ở trong cung ta nhìn thấy rất rõ, trong lòng các quan văn võ trong triều chỉ có tiền đồ phú quý, còn cữu phụ thì cũng có vô số nữ tử trong hậu cung vây quanh, nào có ai biết tình là gì. Tự nơi đáy lòng ta kỳ thực rất ngưỡng mộ mối tình sâu nặng của hai phu thê Bình Dương Vương, do đó mới lại càng cảm thấy Chân Hành là một nam nhân hiếm có vô cùng. Huynh ấy bây giờ vẫn còn nhớ nhung Tiết thị, tại sao ta lại không thể ở bên huynh ấy để xoa dịu nỗi đau khổ trong lòng huynh ấy chứ?”

    “Tuệ Sinh, con ngày càng vô phép rồi đấy, sao có thể hô to gọi nhỏ với Thục phi như thế chứ?” Nàng ta hạ giọng, dịu dàng nói tiếp: “Cho dù Chân Hành là một nam nhân hiếm có như lời con nói thì sao? Trong lòng y chỉ có vong thê của y thôi, gả con cho y thực là không đáng chút nào.”

    “Mẫu thân!” Tuệ Sinh trợn trừng cặp mắt tròn xoe, những giọt lệ long lanh rưng rưng nơi khóe mắt. “Cái gì mà đáng với không đáng chứ? Lẽ nào con thành thân với một vị trạng nguyên lang thì là đáng hay sao? Nếu con không thích y, phải ở với y suốt cả phần đời còn lại, vậy mới là không đáng chút nào! Theo suy nghĩ của mẫu thân và ngoại tổ mẫu, con là con gái của Trưởng công chúa, thân phận tôn quý vô song, dù có gả cho ai thì cũng là không đáng, vậy thì tại sao con lại không thể chọn một người mà con thích? Chân Hành đúng là lớn tuổi hơn con nhiều, lại từng cưới vợ sinh con, còn rất mực nhung nhớ vong thê nữa, nhưng thế thì sao chứ? Chỉ cần con thích huynh ấy là được rồi!”

    Tuệ Sinh là một thiếu nữ còn chưa xuất giá, sau khi nói xong những lời này liền đỏ mặt tía tai, cuối cùng không kìm được mà rơi lệ. Chân Ninh Trưởng công chúa giận đến ngây người. “Tuệ Sinh, con ăn nói lung tung cái gì thế? Nữ nhân nói ra những lời như vậy mà không biết xấu hổ sao?”

    Tuệ Sinh đưa tay lên lau nước mắt, bướng bỉnh nói: “Con chỉ nói những lời thật lòng thôi, có gì đâu mà phải xấu hổ!”

    Chân Ninh Trưởng công chúa còn đang định khuyên thêm, chợt một tràng tiếng vỗ tay bất ngờ vang lên không ngớt, kế đó một giọng nam nhân sang sảng vọng vào: “Nói hay lắm! Quả đúng là cháu gái của trẫm!”

    Tôi ngoảnh đầu nhìn qua thấy chính là Huyền Lăng. Năm nay trời nóng sớm, lúc này vừa tan buổi chầu y đã đổi sang mặc thường phục rồi, đang cười tủm tỉm đứng trước cửa điện.

    Tôi vội vàng nhún người hành lễ thỉnh an. Y đi tới đỡ tôi đứng dậy, vui vẻ nói: “May mà hôm nay vừa tan triều trẫm liền tới đây ngay, bằng không đã bỏ lỡ mất một phen ngôn luận tuyệt vời của Tuệ Sinh rồi.” Y cất tiếng cười sảng khoái. “Những lời này mà đem ra nói trước triều đường, đám hủ nho kia nhất định sẽ phải tự thẹn vì không bằng cho mà xem.”

    Tuệ Sinh bất giác có chút thẹn thùng. “Cữu phụ cứ trêu cháu thôi!”
    Chân Ninh Trưởng công chúa tức thì đanh mặt lại nhìn Huyền Lăng. “Mẫu hậu ắt không cho phép chuyện này xảy ra đâu, Hoàng thượng cứ nên khuyên nhủ Tuệ Sinh đi thì hơn.”

    “Khuyên nhủ?” Huyền Lăng hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười điềm đạm, sau đó bước tới bên cửa sổ rồi ngồi xuống, chậm rãi nói: “Chuyện của Tuệ Sinh trẫm cũng có nghe nói sơ qua, tự dưng lại nhớ đến việc Thục phi hồi cung mấy năm trước.” Đoạn y mỉm cười nhìn Chân Ninh Trưởng công chúa. “Hoàng tỷ cảm thấy Thục phi là người như thế nào?”

    Trưởng công chúa gật đầu khen ngợi: “Không tệ, có thể coi là một người vợ hiền của Hoàng thượng.”

    “Đúng thế, chuyện còn chưa xảy ra thì không ai biết kết quả tốt xấu thế nào. Nhớ năm xưa khi trẫm nhất quyết đòi đón Thục phi về cung, mẫu hậu không đồng ý, quần thần cũng dị nghị rất nhiều, cho rằng Thục phi là giống hồ ly mê hoặc quân vương, ai mà ngờ được Thục phi sau khi về cung liền sinh cho trẫm một vị Hoàng tử, về sau còn xử lý mọi việc vô cùng ổn thỏa nữa. Khi đó mọi người đều cực lực phản đối, trẫm liền nhủ thầm rằng cho dù về sau nàng ấy không thể sinh nở thuận lợi, cho dù về sau nàng ấy làm loạn hậu cung thì trẫm bây giờ vẫn mong đón nàng ấy về bên trẫm, nếu chỉ vì những chuyện có thể xảy ra trong tương lai mà từ bỏ thì trẫm sẽ cảm thấy nuối tiếc vô cùng.”

    Lòng tôi thầm chấn động, khi ngẩng đầu lên thì bắt gặp ánh mắt chan hòa mà nóng bỏng của y chiếu tới, không kìm được khẽ nở nụ cười. “Ý của Hoàng thượng là...”

    Y nắm tay tôi, ôn tồn nói: “Ý của trẫm là người làm cha mẹ xét cho cùng không thể lo cho con cái cả đời được, chuyện này chi bằng cứ để tự Tuệ Sinh quyết định đi.”

    Tôi phản đối một cách yếu ớt: “Nhưng huynh trưởng của thần thiếp...”

    “Dù gì thì y cũng phải tục huyền đúng không nào?” Huyền Lăng mỉm cười nhìn tôi. “So với việc về sau vâng lời cha mẹ thành thân với một người mà bản thân chẳng có chút tình cảm nào, chi bằng bây giờ hãy chọn Tuệ Sinh, bởi Tuệ Sinh dù sao cũng vô cùng thích y. Chuyện này xét ra không có hại gì với ca ca nàng cả.”

    Chân Ninh Trưởng công chúa khẽ thở dài, than: “Hoàng thượng, ta thì không có gì, nhưng chỉ e mẫu hậu sẽ tức giận.”

    Y ôn tồn nói: “Mẫu hậu tức giận là bởi vì quá thương yêu Tuệ Sinh và hoàng tỷ, do đó chỉ cần hoàng tỷ cùng trẫm đi khuyên giải, mẫu hậu ắt sẽ đồng ý thôi.” Hơi dừng một chút, y tươi cười nói tiếp: “Mẫu hậu vốn thương con cháu, tất nhiên là mong con cháu được vui lòng thỏa nguyện. Hoàng tỷ hãy đi cùng trẫm nhé?”

    Chân Ninh Trưởng công chúa lại thở dài tiếng nữa, đưa tay khẽ vuốt ve bờ má Tuệ Sinh. “Đây là ý nguyện của bản thân con, mong là sau này con không phải hối hận.”

    Huyền Lăng mỉm cười điềm đạm, đứng dậy nói: “Tự thân lựa chọn, hẳn là sẽ không hối hận rồi.” Tuệ Sinh dùng sức gật đầu thật mạnh, nở một nụ cười rạng rỡ như hoa. Huyền Lăng xoa nhẹ má tôi, ghé đến bên tai tôi khẽ nói: “Nàng hãy cho trẫm một cơ hội để bù đắp cho huynh trưởng của nàng đi, như thế sau này y mới nhẹ lòng mà sống được. Tuệ Sinh xét ra không phải là một lựa chọn tồi đâu.”

    Tôi hít sâu một hơi, nhìn y chăm chú. “Được.”

    Có lẽ là vì Thái hậu thương yêu con cháu, cũng có thể là vì sự khuyên giải của Huyền Lăng đã tác động tới Thái hậu, tóm lại thánh chỉ ban hôn cuối cùng đã được ban xuống, mọi người đều thầm thở phào một hơi.

    Ca ca chắp tay sau lưng đứng dưới ánh chiều tà, dõi mắt nhìn tờ thánh chỉ màu vàng tươi trên chiếc bàn làm bằng gỗ tử đàn, gượng cười nói: “Dường như mỗi cuộc hôn nhân của ta đều là do người khác quyết định, lần trước là muội chọn Thiến Đào cho ta, lần này thì là Hoàng thượng ban hôn cho ta với Thừa Ý Quận chúa.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Chuyện bất đắc dĩ trên đời này quả thực có rất nhiều.” Rồi tôi lại lộ vẻ lo lắng. “Ca ca, Thừa Ý Quận chúa xuất thân cao quý nên từ nhỏ đã được nuông chiều, lần này coi như huynh phải chịu ấm ức rồi.”

    Ca ca vỗ nhẹ lên mu bàn tay tôi mấy cái, ôn tồn nói: “Kỳ thực cũng có gì đâu, thời gian qua muội cùng Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu đã phải gánh vác rất nhiều chuyện của nhà họ Chân rồi, ta thân là huynh trưởng, không thể khoanh tay đứng nhìn thêm được.”

    Chuyện hôn nhân trên đời này chính là như thế, tôi và ca ca vốn xuất thân thế gia có lý nào mà chẳng hiểu. Được một người viên mãn, hạnh phúc như Ngọc Nhiêu đã là rất không dễ dàng rồi.

    Ngoài sân lúc này hoa rơi lả tả, tôi đưa tay giúp ca ca phủi đi mấy cánh hoa đỏ rơi trên tay áo. Mùa xuân thật sự đã trôi qua, giống như quãng thời gian thơ bé đầy kỷ niệm của chúng tôi năm nào.

    Ca ca đã rời đi lâu rồi mà tôi vẫn đứng lặng im trong gió, để mặc cho những làn gió mềm mại mơn trớn quanh thân thể mình, tâm trạng cũng chợt ấm chợt lạnh như những cơn gió vậy.

    Cận Tịch nhẹ nhàng bước tới khoác cho tôi một chiếc áo choàng màu đỏ, ôn tồn nói: “Cứ đứng ngoài trời thế này nương nương sẽ bị nhiễm phong hàn đấy.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Thái hậu kỳ thực không hề thích cuộc hôn nhân này, cũng không hy vọng quyền thế của nhà họ Chân ngày càng hiển hách, chẳng qua là không muốn trái ý con cái đấy thôi.”

    Trên khuôn mặt trắng nõn của Cận Tịch lộ ra mấy nét ưu sầu. “Thái hậu muốn giữ sự vinh hoa phú quý cho nhà họ Chu, tất nhiên không hy vọng nhà họ Chân vinh hiển quá rồi. Mối hôn sự này coi như là ván đã đóng thuyền, nương nương cần phải nghĩ cách để làm Thái hậu không còn kiêng dè nữa, bằng không cuộc sống của nương nương sau này sẽ chẳng thể nào dễ chịu được đâu.”

    Nhẹ nhàng giẫm lên những cánh hoa vương vất hương thơm, tôi chậm rãi bước ra ngoài Vị Ương cung.

    Có được thì tất phải có mất, đây chính là lẽ thường tình trên đời này. Cũng giống như lúc này tôi quỳ trước mặt Thái hậu, tâm trạng chẳng còn được ung dung điềm đạm như thường ngày. Tôi khấu đầu liên tục mấy lần, cất giọng nhẹ nhàng nhưng kiên định: “Thần thiếp tạ ơn Thái hậu đã thành toàn cho Thừa Ý Quận chúa và gia huynh, nhưng tự đáy lòng thần thiếp quả thực không hy vọng nhà họ Chân vì là ngoại thích mà quá hiển hách trên triều đình, do đó xin được giao ra quyền quản lý lục cung.”

    “Giao ra quyền quản lý lục cung?” Thái hậu nằm nghiêng trên chiếc sạp rộng mạ vàng đóng bằng gỗ tử đàn mà chậm rãi uống trà, màu tím sậm của chiếc chăn gấm trên sạp lại càng khiến sắc mặt bà ta trông nhợt nhạt, chiếc trâm vàng vạn thọ cài trên búi tóc thì có vẻ rất nặng nề, chừng như bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống. Duy có cặp hoa tai đính ngọc phỉ thúy của bà ta là ánh lên những tia sáng âm u, khiến bà ta tuy đầy vẻ uể oải, mỏi mệt nhưng vẫn không mất đi phong thái của người đứng đầu hậu cung. Sau một hồi trầm lặng, bà ta ngước mắt lên nhìn tôi rồi hờ hững hỏi: “Vậy Thục phi cho rằng ai có thể đảm nhiệm trọng trách này thay ngươi đây?”

    Tôi trầm ngâm một lát rồi mới chậm rãi đáp: “Quý phi và Đức phi đều đã quen quản việc trong cung, nhiều năm nay cũng từng hiệp trợ xử lý rất nhiều sự vụ, hẳn là có thể thay thế thần thiếp. Ngoài ra, Trinh Phi tâm tư tinh tế cũng có thể thử một phen, Hân Phi thì mau mồm mau miệng làm việc hết sức gọn gàng. Đương nhiên không thể không nhắc tới Uẩn Dung, muội ấy đẹp người đẹp nết lại có tâm tư nhạy bén, thực là một nhân tài có thể bồi dưỡng.”

    “Vậy ư?” Thái hậu hơi hất hàm một cái, Tôn cô cô liền đi tới bóp vai cho bà ta. Một lát sau bà ta tỏ ra thư thái dễ chịu, nhắm mắt lại, nói: “Đức phi và Quý phi thì ai gia tất nhiên yên tâm, có điều Quý phi sức yếu e là chẳng thể làm được gì nhiều; Trinh Phi và Hân Phi thì chỉ làm việc nhỏ chứ chẳng làm nổi việc lớn, không phải loại người có thể một mình đảm đương một mặt, còn về Uẩn Dung...” Thái hậu trầm ngâm một hồi lâu rồi cuối cùng mới khẽ “hừ” một tiếng. “Con phượng hoàng này e là sắp bay cao rồi.”

    Tôi thầm kinh hãi, sống lưng bất giác lạnh toát từng cơn, hóa ra mồ hôi lạnh đã túa ra đầy người. Trong cung tuy có nhiều lời đồn nhưng chưa từng có ai dám nhắc đến trước mặt Thái hậu, hơn nữa Thái hậu còn thường xuyên đổ bệnh, quanh năm phải nằm giường, chẳng ngờ lại biết rõ ràng mấy chuyện này như thế. Tôn cô cô vừa khẽ bóp vai cho Thái hậu vừa chậm rãi nói: “Đức phi vốn tính ôn hòa, nếu cùng hiệp trợ quản lý lục cung với Trang Mẫn Phu nhân thì ý kiến chưa chắc đã được Trang Mẫn Phu nhân tiếp thu, dù sao Phu nhân cũng hãy còn trẻ tuổi.”

    Thái hậu khẽ vỗ tay Tôn cô cô mấy cái, sau đó ngẩng khuôn mặt đầy nếp nhăn lên nhìn tôi. “Ngươi không cần phải mang quyền quản lý lục cung ra để đổi lấy sự yên tâm của ai gia, trái tim này của ai gia kỳ thực chưa được ngơi nghỉ bao giờ, cho nên cứ tiếp tục phải bận lòng cũng không sao cả.” Thái hậu gắng gượng ngồi dậy, chậm rãi nói tiếp: “Thục phi ngươi vốn rất mực thông minh, ai gia cũng chẳng ngại nói thẳng. Hoàng hậu cớ gì mà bị cấm túc, cả ngươi và ai gia đều biết rõ, mà sau khi ngôi hậu xao động, lòng người trong hậu cung cũng bắt đầu sục sôi. Ngươi chưa chắc đã không có ý gì với ngôi hoàng hậu, rất nhiều người khác lại càng là như thế. Ngươi bây giờ giao ra quyền lực cố nhiên có thể khiến ai gia tạm thời yên tâm, nhưng chỉ e sau đó ai gia sẽ lại càng thêm phiền lòng.” Thái hậu điều chỉnh hơi thở một chút rồi mới lại nói tiếp: “Ai gia bây giờ sẽ nói rõ với ngươi luôn, bất kể thế nào thì Hoàng hậu cũng không thể bị phế được, ngươi quyết không được nảy sinh suy nghĩ này, mà những người khác cũng đều như thế.”

    Tôi thầm nín thở, nói: “Thần thiếp hiểu được nỗi khổ tâm của Thái hậu, ngôi hậu phải giữ yên thì hậu cung mới có thể thái bình.”

    Thái hậu lạnh lùng đưa mắt nhìn tôi. “Ngươi hiểu được thì tốt. Ngôi hậu không đổi, người quản lý lục cung cũng không đổi, như thế thì tình hình mới ổn định được.”

    Tôi lại khấu đầu lần nữa. “Thái hậu dạy dỗ rất phải.”

    Bà ta chậm rãi xoay người để lại cho tôi một cái bóng lưng lạnh lùng và thẳng tắp. “Hoàng thượng nói đúng, chẳng qua chỉ là quận mã mà thôi.” Sau đó bà ta xua tay, nói tiếp: “Ngươi lui xuống đi!”


    Ba ngày sau, Thái hậu truyền chỉ ra khắp lục cung: “Ban cho Trang Mẫn Phu nhân quyền hiệp trợ quản lý lục cung, mong là hậu cung sau này sẽ càng thêm vững vàng an định.” Sau đó lại dặn dò thêm: “Trang Mẫn còn ít tuổi, mọi việc phải nghe ý của Thục phi, Thục phi cũng nên để Trang Mẫn có nhiều cơ hội rèn luyện một chút.”

    Tôi thu chiếu chỉ của Thái hậu lại, uể oải tựa người vào hàng lan can, khẽ thở dài một hơi. Hoa Nghi tỏ ra hết sức khó hiểu. “Những lời này của Thái hậu thực là kỳ lạ quá, vừa muốn Trang Mẫn Phu nhân nghe lời nương nương lại vừa bảo nương nương phải buông quyền cho Trang Mẫn Phu nhân, rốt cuộc là ý làm sao chứ?”

    Cận Tịch cười gượng, nói: “Ngoài Chu Nghi Tu lúc còn là Quý phi ra, chỉ có Trang Mẫn Phu nhân là được Thái hậu đích thân chỉ định hiệp trợ quản lý lục cung thế này thôi.” Hơi dừng một chút, nàng ta thấp giọng nói tiếp: “Yến Hy điện bây giờ náo nhiệt lắm, trong cung ngoài Quý phi và Trinh Phi ra thì ai cũng đã tới đó chúc mừng rồi, ngay đến Đức phi cũng không thể không nể mặt.”

    “Cũng khó trách người ta lại như thế, Chu Nghi Tu vì được Thái hậu xem trọng mà đã trở thành hoàng hậu, bây giờ ngôi hậu xao động, Thái hậu hiển nhiên rất xem trọng Hồ Uẩn Dung, khó ai có thể đảm bảo nàng ta sẽ không trở thành hoàng hậu kế tiếp, với tính cách đó của nàng ta, mọi người trong cung có ai mà dám không bợ đỡ đây?” Tôi cúi đầu nhìn những chiếc móng tay dài hơn một tấc của mình, vì không bôi nhuộm gì nên tất cả đều có màu hồng phớt, thỉnh thoảng còn có mấy tia sáng mờ mờ ánh lên. “Quý phi thân phận tôn quý, không đi chúc mừng cũng chẳng sao, nhưng Trinh Phi cớ gì lại không đi vậy?”

    Cận Tịch vội đáp: “Trinh Phi sau khi sinh nở thân thể vẫn luôn hư nhược, hơn nữa bấy lâu nay cũng chẳng thích qua lại với người ta, căn bản chẳng có bao nhiêu giao tình với Yến Hy điện cả, do đó chỉ sai người đưa quà mừng tới chứ không đích thân đi chúc mừng.”

    Hoa Nghi nói chen vào: “Vì chuyện này mà Trang Mẫn Phu nhân rất không vui đấy. Nàng ta không ra vẻ giận dữ trước mặt người ta, chỉ nói là Trinh Phi thân thể hư nhược cần phải yên tâm tĩnh dưỡng, hai tháng tới không tiện hầu hạ Hoàng thượng, rồi kêu người bỏ lục đầu bài của Trinh Phi đi, không để nàng ta thị tẩm trong vòng hai tháng.” Rồi nàng ta thè lưỡi, nói tiếp: “Quan mới nhận chức thường phải ra oai với người ta, lần này Trang Mẫn Phu nhân làm thế quả là ghê gớm, chẳng biết Hoàng thượng có giận không nữa.”

    Tôi đưa mắt lườm thị một cái. “Giờ là lúc nào rồi chứ, chớ nên ăn nói bậy bạ.” Sau đó lại khẽ thở dài. “Hoàng thượng xưa nay vốn chẳng để tâm tới Trinh Phi lắm, chắc sẽ không có dị nghị gì đâu.”

    Hoa Nghi vội vàng đưa tay che miệng, không dám nói gì thêm.

    Tôi ngoảnh đầu qua dặn dò Cận Tịch và Tiểu Doãn Tử: “Hiện giờ Yến Hy điện đắc thế, các ngươi ngàn vạn lần chớ có tranh đấu gì với bên đó, có việc gì thì cứ né tránh là được rồi, nếu quả thực không né tránh được thì hãy chịu khó nhẫn nhịn chứ đừng phản bác lại, càng không được để lộ ra nửa phần bất mãn nào. Đối với những người trong Vị Ương cung, các ngươi cũng nhớ phải dặn dò cẩn thận, đừng để xảy ra chút sai sót nào.”

    Tiểu Doãn Tử vội vàng đáp “vâng” một tiếng, sau đó lại lén đưa mắt nhìn vẻ mặt tôi. “Nói gì thì nói, Yến Hy điện cũng đâu thể so sánh với Nhu Nghi điện của chúng ta, ngay đến Thái hậu cũng nói là bên đó phải nghe lời nương nương...” Y thấy tôi im lặng không nói gì, bèn câm bặt không dám nói tiếp nữa.

    Tôi nhìn cảnh cây cối um tùm, xanh biếc bên ngoài cửa sổ, tâm trạng bất giác có chút thấp thỏm không yên, liền nói rành rọt từng chữ một: “Hãy ghi nhớ kĩ một câu này, chỉ cần là việc có liên quan tới Yến Hy điện thì nhất định phải né tránh và nhẫn nhịn.”

    Cận Tịch dịu giọng khuyên nhủ tôi: “Nương nương kỳ thực không cần buồn phiền như thế.”

    Tôi hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười hờ hững. “Ta đâu có buồn phiền gì. Thời gian này chúng ta cần yên tĩnh một chút, có như vậy ta mới học được cái sự quyền mưu của Thái hậu.”

    Cận Tịch mỉm cười gật đầu, không nói gì thêm.

    Thời gian này Hồ Uẩn Dung cực kỳ đắc sủng, lại được Thái hậu thương yêu, ngay cả tôi cũng phải tỏ ra hết sức nhún nhường, thành ra trong chốn Tử Áo Thành này, nàng ta gần như có thể hô mưa gọi gió, đắc chí vô cùng.

    Thái hậu mười phần xem trọng Hồ Uẩn Dung, ngay cả chuyện thành thân của ca ca tôi với Thừa Ý Quận chúa cũng giao cho nàng ta và tôi cùng lo liệu. Tôi tranh thủ lúc không có ai liền cười nói với nàng ta: “Thái hậu tuy nói như vậy nhưng Phu nhân biết đấy, hiện giờ bạc trong phủ Nội vụ không còn nhiều như xưa, mà đây dù sao cũng là chuyện của nhà họ Chân, nếu ta làm xuề xòa quá thì ảnh hưởng đến mặt mũi của Thái hậu và Trưởng công chúa, lại dễ bị người ta nói là làm bộ làm tịch, còn nếu ta làm long trọng quá thì e người ta sẽ nói là ta thiên vị nhà mẹ đẻ. Suy đi nghĩ lại, ta thấy chuyện này chỉ có thể nhờ vào muội muội thôi.”

    Hồ Uẩn Dung nghe thế khẽ nở một nụ cười điềm đạm, chậm rãi nói: “Thục phi tỷ tỷ đã mở lời như thế rồi, muội tất nhiên không thể thoái thác, có điều chắc tỷ tỷ cũng rõ, thời gian gần đây biên cương với Hách Hách không được yên ổn lắm, tiền bạc đa phần phải dùng làm quân phí, lễ thành thân của Chân đại nhân với Thừa Ý Quận chúa muội tuy cũng muốn tổ chức thật long trọng nhưng hiềm rằng không bột khó gột nên hồ...” Nàng ta không nói tiếp nữa, chỉ lẳng lặng đưa mắt nhìn tôi.

    Tôi khẽ cười, nói: “Muội muội cứ làm chủ là được rồi, ta thì chỉ việc nghe theo sự an bài của muội muội thôi.”

    Nàng ta cười vang sảng khoái làm những món đồ trang sức châu ngọc đầy đầu không ngớt đung đưa. “Xưa nay bổng lộc hằng tháng của tỷ tỷ vẫn đứng hàng đầu trong cung, nhưng cũng khó trách, bên cạnh tỷ tỷ có nhiều trẻ con, không như muội đây chỉ có mình Hòa Mục.”

    Tôi mỉm cười khách sáo. “Muội muội phúc lắm thọ nhiều, Hòa Mục như thế mới gọi là có phúc chứ.”

    Nàng ta cười tươi rạng rỡ, không nói nhiều thêm, rồi chúng tôi từ biệt nhau mà không chuyện trò gì nữa.

    Chiều tối hôm ấy, khi tôi đang ngồi dưới cửa sổ cắt tỉa một bó hoa bách hợp đuôi cáo thì Cận Tịch đi vào bẩm báo: “Trang Mẫn Phu nhân đã dặn dò phủ Nội vụ cắt giảm một nửa bổng lộc hằng tháng của Nhu Nghi điện và Không Thúy điện, phần của nương nương thì bị cắt hai phần ba, riêng có bổng lộc của tứ điện hạ là không giảm chút nào cả.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Bây giờ nàng ta muốn lập uy, ta thì là người đứng mũi chịu sào, nàng ta cắt giảm bổng lộc của ta cũng là chuyện trong ý liệu mà thôi, các ngươi phải chịu thiệt chỗ nào ta sẽ tìm cách bù đắp, còn về Trinh Phi thì thứ nhất là nàng ta sinh được hoàng tử, thứ hai là lần trước nàng ta từng đắc tội với Hồ Uẩn Dung, cho nên việc này cũng có thể hiểu được.”

    Cận Tịch cúi đầu nói: “Nô tỳ kỳ thực chẳng mấy để tâm tới việc này, có điều trong lòng lại thầm thắc mắc, tại sao mọi người ở Nhu Nghi điện đều bị cắt giảm bổng lộc mà chỉ có mình tứ điện hạ là không bị ảnh hưởng gì?”

    Tôi khẽ phủi chỗ phấn hoa dính nơi đầu ngón tay đi, chậm rãi nói: “My Trang tỷ tỷ từng có ơn với nàng ta, chắc tại nàng ta nghĩ tới ân tình cũ nên mới đặc biệt coi trọng Nhuận Nhi như thế.”

    Cận Tịch mấp máy khóe môi, dường như có điều do dự. Tôi nói: “Ngươi muốn nói gì thì cứ việc nói đi.”

    Cận Tịch trầm ngâm cất tiếng: “Nô tỳ cũng chỉ phán đoán thôi, nhưng Trang Mẫn Phu nhân nhất định đã biết việc mình không thể sinh nở nữa, mà nàng ta lại muốn ngồi lên ngôi hậu. Tuy gia thế và quyền lực của nàng ta đều hơn nương nương, có điều về đường con cái thì rõ ràng không thể so với nương nương được. Nhưng Chu thị từng nhận Hoàng trưởng tử làm con nuôi...”

    “Ngươi nghĩ là Hồ Uẩn Dung sẽ học theo Chu Nghi Tu ư?”

    “Hoàng trưởng tử tuy đã thành thân rồi nhưng về danh nghĩa vẫn là con nuôi của Chu thị, còn nhị điện hạ và tam điện hạ thì đều vẫn còn mẹ ruột, duy có tứ điện hạ...” Thị lén đưa mắt nhìn tôi, không nói tiếp nữa.

    Tôi hiểu ra, tiện tay múc một ít nước tưới lên những cánh hoa, trầm giọng nói: “Nhuận Nhi là cốt nhục duy nhất của My Trang tỷ tỷ, ta quyết không để nó trở thành con cờ giúp cho người khác ngồi lên ngôi hậu được.”

    Lễ thành thân của ca ca rốt cuộc vẫn được tổ chức hết sức phong quang rầm rộ, mà khi tôi gặp lại y thì đã là một tháng sau đó rồi. Lúc này ca ca vừa đi Lương Châu thăm phụ thân của Thừa Ý Quận chúa về, rồi vào cung gặp tôi ngay.

    Đang là buổi chiều giữa hạ, trong điện chỉ có những tiếng đồng hồ nước tí tách vang lên, vẻ tịch mịch vô cùng.Khi kể về chuyến đi Lương Châu, ca ca không kìm được nói tới chuyện ở biên cương nơi phò mã trấn thủ, sau đó lại nói: “Trưởng công chúa từng nói với ta là nếu ta tới đó cùng nhạc phụ trấn thủ biên quan, hai bên sẽ có thể cùng tiến cùng lùi.” Dừng một chút, ca ca lại nói tiếp: “Dù sao bây giờ ta với họ cũng là người một nhà, mà con rể phân ưu cho nhạc phụ là lẽ đương nhiên, hơn nữa ta cũng muốn...”

    “Ca ca, chúng ta bây giờ không thể đụng tới binh quyền, dù chỉ là một chút thôi cũng không được. Bài học lần trước chẳng lẽ huynh quên rồi sao?” Tôi gõ ngón tay xuống mặt bàn làm phát ra những tiếng “cộc cộc”, vừa gõ vừa trầm giọng nói. “Hoàng thượng vô cùng kiêng kỵ những người nắm binh quyền trong tay, huynh từng chịu thiệt về việc này hẳn là hiểu rất rõ ràng, do đó huynh hãy nghe lời muội mà rời xa binh quyền, chịu khó giao du với những người phong nhã thì hơn.”

    Ca ca thoáng lộ vẻ nghi hoặc. “Giao du với những người phong nhã? Ta vốn đâu có giỏi việc này.”

    Ngoài cửa sổ gió hè thổi nhẹ, một cánh chuồn chuồn đậu trên nhụy hoa sen, dường như đang cảm nhận một tia u sầu khó mà dùng lời để miêu tả giữa mùa hè nóng nực. Tôi mỉm cười, nói: “Không giỏi cũng không sao hết, ca ca chỉ cần suy nghĩ kĩ một chút là được rồi.”

    Ca ca vốn thông minh, mấy năm nay lại phải bập bềnh chìm nổi, nếm trải đủ nỗi khổ đau, do đó đầu óc càng thêm minh mẫn, chỉ thoáng suy nghĩ đã lập tức hiểu ra.

    Bản triều vốn trọng văn, mà Huyền Lăng ngoài miệng tuy không nói gì nhưng sau chuyện của Nhữ Nam Vương cùng biến cố của nhà họ Chân thì bất cứ người sáng mắt nào cũng đều biết rõ, đương kim Hoàng thượng cực kỳ kiêng kỵ những vị võ tướng biết cầm quân đánh trận, thế là phong khí trọng văn khinh võ trong triều ngày một sâu sắc hơn. Ca ca mà qua lại với các văn nhân sĩ tử thì thứ nhất là có thể tránh được sự nghi ngờ và đề phòng của Hoàng thượng, thứ hai là các văn nhân vốn đại diện cho ngôn luận trong thiên hạ, chỉ cần ca ca thân thiết với bọn họ rồi thì bọn họ ắt sẽ nói tốt cho tôi và Hàm Nhi, như thế sau này có tính toán gì cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Hiện giờ Huyền Lăng chỉ có bốn vị hoàng tử là Dư Ly, Dư Bái, Dư Hàm và Dư Nhuận. Dư Ly tuy lớn tuổi nhất nhưng chỉ là con nuôi của Hoàng hậu, kỳ thực là do Cẩn Phi vốn sợ tội tự sát sinh ra, xưa nay không được Huyền Lăng yêu thích lắm, dù Hoàng hậu từng dốc sức muốn lập y làm thái tử nhưng cuối cùng việc vẫn chẳng thành. Còn Dư Bái của Trinh Phi và Dư Hàm của tôi thì vốn sinh cùng ngày cùng giờ, chẳng qua chỉ hơn kém nhau một khắc mà thôi, tuổi tác có thể nói là tương đương, có điều xét về thân phận thì Trinh Phi thua kém tôi rất nhiều, hơn nữa trong cung xưa nay vốn có quy củ là có con đích thì lập con đích, không có con đích thì lập người hiền, không hề có sự phân chia trưởng thứ, do đó chỉ cần không phải là hoàng tử do Hoàng hậu sinh ra thì tuổi tác lớn nhỏ thế nào cũng không quan trọng. Ngoài ra bấy lâu nay tôi vẫn thầm quan sát Trinh Phi, thấy tính tình nàng ta rất giản dị, chưa chắc đã có lòng nhòm ngó cái ngôi vị thái tử kia cho con mình.

    Quan viên trong triều vốn không biết rõ lắm về các phi tần trong cung, chỉ từng nghe nói tới tôi và Hoàng hậu. Nhưng Hoàng hậu kém bề con cái, xưa nay lại chẳng dính dáng gì đến triều đường, còn tôi thì sau khi hồi cung đã khá nổi danh, lâu nay còn được Huyền Lăng cho phép xem tấu chương và bàn luận việc triều chính, nếu lại có thêm sự giúp đỡ của ca ca thì rõ ràng là như hổ thêm cánh rồi.

    Tôi nói với ca ca: “Ca ca xưa nay vẫn luôn hiếu võ, như vậy kỳ thực cũng rất tốt, có điều nếu có thể văn võ kiêm toàn thì lại tốt hơn nhiều. Hơn nữa nếu huynh có thể tụ tập cùng các sĩ tử uống rượu làm thơ, viết văn biên sử thì lại càng tuyệt vời không gì bằng. Kỳ thực việc này cũng chẳng có gì là khó, chỉ cần ca ca đứng ra làm đầu dẫn mối tụ họp các sĩ tử lại với nhau là được rồi, việc về sau thì cứ giao cho bọn họ thôi. Tân tẩu tẩu cùng với nhạc mẫu đại nhân Chân Ninh Trưởng công chúa của ca ca có lẽ sẽ rất thích điều này đấy. Quận chúa còn trẻ, ắt là rất thích thi từ ca phú, lại vừa thành thân với ca ca, ca ca cứ tìm một vài chuyện hợp với sở thích của nàng ta mà làm, há chẳng phải là rất hay ư?”

    Ánh mắt ca ca bỗng trở nên ảm đạm, dường như đang nhìn về nơi chân trời xa tắp mà ngơ ngẩn, một hồi lâu sau ca ca mới khẽ nói: “Nếu Thiến Đào còn tại thế, chẳng biết liệu nàng ấy có thích không?”

    Lời của ca ca như một nhát búa gõ mạnh vào trái tim tôi, làm tôi bất giác ngẩn ngơ thầm nghĩ, Huyền Lăng mỗi lần nghĩ tới điều gì liệu có tự hỏi rằng, liệu Uyển Uyển có thích không như thế này không?

    Tự đáy lòng vang lên những tiếng đì đùng ầm ĩ, vô vàn nỗi chua xót không ngớt trào dâng làm trái tim tôi như quặn xé từng cơn, đau đớn tột cùng. Hóa ra chúng tôi đều là những con người đáng thương, đáng thương tột độ.

    Cận Tịch thấy tôi ngơ ngẩn thẫn thờ, ca ca thì cũng lặng im không nói, hai bên chỉ ngồi nhìn nhau mà ôm những mối tâm sự riêng, liền gọi một tiểu cung nữ lại, sai bưng trà mới lên, sau đó đưa vào tay tôi. “Trà nguội mất rồi, đây là trà mới mang lên, nương nương với quận mã gia tranh thủ uống đi cho nóng.” Nước trà trong chén lúc này vẫn còn bốc hơi nghi ngút, hơi nóng truyền qua chén ngọc tới những ngón tay lạnh giá của tôi, mang tới một chút cảm giác tê tê và đau nhói.

    Tôi chậm rãi nhấp một ngụm trà, biết là Cận Tịch đang nhắc nhở tôi, bèn cố gắng kìm nén tâm trạng đang xao động, nhẹ nhàng cất tiếng: “Có mấy câu này không biết ca ca đã từng nghe nói tới chưa?”

    Ca ca xoay người lại, lộ vẻ chăm chú nói: “Muội muội có gì cứ nói đi.”

    “Non sông phóng mắt cõi mênh mông, mưa gió tội xuân hoa tàn rụng, chi bằng họp mặt với nhau luôn[7].” Tôi làm bộ vô tình nói. “Án Đồng Thúc[8] viết từ quả là rất hay, nói hết được những nỗi niềm cũ mới trên thế gian này.”

    [7] Trích Hoán khê sa - Nhất hướng niên quang hữu hạn thân của Án Thù. Dịch thơ: Nguyễn Đương Tịnh. Nguyên văn Hán Việt: Mãn mục sơn hà không niệm viễn, lạc hoa phong vũ canh thương xuân, bất như liên thủ nhãn tiền nhân - ND.

    [8] Đồng Thúc là tên tự của Án Thù - ND.

    Ngoài miệng tôi tuy an ủi ca ca như thế nhưng nơi đáy lòng kỳ thực cũng ngợp đầy nỗi thê lương, chẳng rõ những lời an ủi ấy ca ca có nghe lọt tai không nữa.

    Một lát sau ca ca khẽ thở dài một hơi, chậm rãi nói: “Quận chúa đối xử với ta không tệ.”

    Tôi gật đầu. “Ca ca hiểu được vậy thì tốt...”

    “Nhưng Thiến Đào...” Ca ca suy nghĩ một lát, cuối cùng vẫn nói ra suy nghĩ trong lòng: “Nàng ấy là thê tử kết tóc của ta.”

    Tôi vô thức ngoảnh đầu qua một bên, trong giọng nói dần để lộ ra những tia đau xót: “Muội biết là ca ca vẫn cảm thấy rất thương tâm mỗi khi nhớ đến tẩu tẩu, tẩu tẩu từng vì ca ca mà phải chịu biết bao nhiêu nỗi khổ, nhưng đến cuối cùng ngay cả tính mạng cũng không giữ được. Chúng ta là những người sống sót sau cơn biến cố ấy, chúng ta nhất định phải tìm cách báo thù cho tẩu tẩu, còn cả Trí Ninh nữa, nó mới chỉ là một đứa bé còn nằm trong tã lót, chưa hiểu chuyện gì, chẳng ngờ những kẻ táng tận lương tâm đó vẫn đành lòng ra tay.”

    Tôi thấy trong mắt ca ca bùng lên những tia đau thương tột độ, đành chuyển hướng khuyên nhủ: “Bây giờ ca ca đã thành thân với Quận chúa, Quận chúa thì lại một dạ tình si với ca ca, ca ca thực sự không nên vì người đã mất mà phụ lòng Quận chúa. Mối tâm tư này của ca ca quyết không thể để lộ ra trước mặt Quận chúa. Quận chúa vẫn còn trẻ, không chịu nổi những sự đả kích như vậy đâu.” Tôi thấy ca ca đã có chút xao động, bèn nói tiếp: “Một khi biết ca ca vẫn còn rất mực nhớ nhung Thiến Đào tẩu tẩu như thế, Quận chúa nếu có tâm tư khoáng đạt thì tất nhiên sẽ thông cảm cho ca ca, nhưng nếu nàng ta suy nghĩ không thông suốt thì rất có thể sẽ gây náo loạn, còn trút giận lên Thiến Đào tẩu tẩu nữa, tới lúc đó nàng ta lúc nào cũng ôm hận trong lòng, như thế Thiến Đào tẩu tẩu dù ở dưới suối vàng cũng khó mà yên nghỉ. Ngoài ra, nếu Hoàng thượng và Trưởng công chúa biết việc này, rất có thể họ sẽ nghi ngờ ca ca vẫn còn ôm lòng oán hận... Việc này ca ca nhất định phải suy nghĩ kĩ đấy.”

    Ca ca trầm ngâm một lát rồi nói: “Ta hiểu, dù ta có nhớ Thiến Đào tới mấy thì cũng sẽ chôn giấu nàng ấy ở nơi đáy lòng. Có điều trong cuộc đời này, dù thế nào thì cũng vẫn là ta có lỗi với nàng ấy.”

    Tôi thầm buồn bã, bèn khẽ nói: “Ca ca kỳ thực không có lỗi gì với tẩu tẩu cả, khi còn tại thế, tẩu tẩu mỗi ngày ở bên ca ca đều cảm thấy vô cùng vui vẻ. Có điều... nếu ca ca cứ nhất định nghĩ là mình có lỗi với tẩu tẩu, vậy thì xin thứ cho muội muội lắm mồm một câu, tất thảy xét cho cùng chỉ là bởi bất đắc dĩ mà thôi. Hy vọng ca ca bây giờ chớ nên phụ lòng người trước mắt.”

    Ca ca chỉ ngẩn ngơ ngồi đó, bóng hoa bóng lá từ ngoài cửa sổ chiếu vào in lên người y như tạo thành một bức tranh thủy mặc vẽ hình non nước, lại càng làm tôn lên dáng vẻ cô đơn buồn bã trên khuôn mặt khôi ngô tuấn tú kia.

    Non sông phóng mắt cõi mênh mông, mưa gió tội xuân hoa tàn rụng, chi bằng họp mặt với nhau luôn. Tôi thầm đọc đi đọc lại mấy câu từ ấy trong lòng, bất giác cảm thấy có chút heo hắt u buồn. Người trước mắt tôi chẳng phải chính là Huyền Lăng ư? Nhưng, y thì có gì đáng để tôi phải nặng lòng? Non sông phóng mắt cõi mênh mông, chỉ có người đó mới có thể làm tôi chưa ngừng thôi nhung nhớ. Ngay đến bản thân mình mà tôi cũng không thuyết phục được, vậy thì tôi dựa vào cái gì để thuyết phục ca ca đây? Mấy câu vừa rồi của tôi đúng là một chuyện nực cười nhất trên đời, đến nỗi khiến người ta cười ra nước mắt.

    Một hồi lâu sau, ca ca đưa mắt nhìn tôi chăm chú, cất giọng mang đầy ý vị sâu xa: “Hoàn Hoàn, muội lần này hồi cung, trong lòng hình như đã có thêm rất nhiều tâm sự.”

    Tôi thấy mắt ca ca sáng như đuốc, rõ ràng có ý muốn nói chuyện thẳng thắn, bèn cười gượng, nói: “Con người lớn lên rồi, tâm sự nhiều thêm cũng là lẽ thường thôi. Huống chi giờ muội đã là mẹ của ba đứa con, lẽ nào còn có thể ngây thơ như một thiếu nữ còn chưa xuất giá ư?”

    Ca ca không kìm được lộ rõ vẻ xót thương. “Muội xuất cung rồi lại vào cung, chỗ đứng vốn bấp bênh vô cùng, may mà Hoàng thượng còn sủng ái muội hơn trước, rồi muội lại sinh được hoàng tử, nhờ thế mới đứng vững được trong hậu cung. Có điều càng ở ngôi cao, càng được sủng ái nhiều thì lại càng giống như đi trên băng mỏng... Bây giờ có vô số người đang nhìn chằm chằm vào muội mà rình mò hãm hại, muội không còn là vị thiên kim tiểu thư của nhà họ Chân được vô số người bảo vệ như trước đây nữa rồi.”

    Trái tim bất giác ấm lên rất nhiều, tôi khẽ cười, nói: “Ca ca không cần lo lắng cho muội. Trước đây khi còn ở nhà, việc gì cũng là ca ca đứng ra gánh vác, bây giờ muội đã có thể cùng tiến cùng lùi với ca ca rồi. Muội nhất định sẽ làm tốt mọi việc, không để ca ca phải lo lắng.”
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 8: Khói mờ bến liễu ao xưa cũ[9]
    [9] Trích Lâm giang tiên - Thiển thiển dư hàn xuân bán của Án Kỷ Đạo. Nguyên văn Hán Việt: Yên mê liễu ngạn cựu trì đường - ND.

    Hoàng hậu hiện giờ đã bị cấm túc, chẳng khác nào phải vào ở trong lãnh cung. Tuy chiếu chỉ phế hậu chưa được ban xuống nhưng Thái hậu chẳng còn sống được bao lâu nữa, ai ai cũng biết là một khi không còn chỗ dựa thì Hoàng hậu sẽ lập tức bị phế ngôi và đuổi ra khỏi Tử Áo Thành. Ngôi hậu ở trung cung lay động, các phi tần tức thì sục sôi, tuy bề ngoài chưa ai có hành động gì rõ rệt nhưng những chuyện cũ từ hồi Long Khánh Đế phế hậu được lan truyền ngày càng rộng rãi, tình hình thực là sôi nổi, náo nhiệt vô cùng.

    Hôm nay Đức phi tới cung của tôi ngồi chơi, vừa nhìn Quý phi điều chỉnh dây của cây đàn tì bà Thiêu Tào vừa ung dung nói: “Mấy ngày nay, mọi người trong cung thường xuyên nói lại chuyện cũ, chẳng hạn như năm xưa tiên đế độc sủng Thư Quý phi, ghẻ lạnh hậu cung, phế hậu Hạ thị vì ghen ghét mà sinh hận, bỏ Hạc Đỉnh Hồng vào trong nước táo đỏ mà Thư Quý phi hay uống thường ngày, sau khi sự việc bại lộ, nhờ được Chiêu Hiến Thái hậu che chở nên mới không sao. Về sau phế hậu lại nảy ra ý đồ mưu hại đương kim Hoàng thượng và lục Vương gia khi đó còn ít tuổi, cố tình nhân lúc Hoàng thượng dẫn lục Vương gia ra ngoài chơi sai người động chân động tay vào tảng đá mà họ hay leo trèo, định mượn tay Hoàng thượng để khiến lục Vương gia bị ngã chết, từ đó một mũi tên bắn trúng hai con chim. Tiên đế không sao nhẫn nhịn được nữa, bất chấp ơn dưỡng dục của Chiêu Hiến Thái hậu, cuối cùng vẫn phế bỏ Hạ thị, đuổi bà ta ra khỏi Tử Áo Thành. Ba tháng sau, phế hậu vì căm phẫn, u buồn quá độ mà nhảy xuống giếng tự vẫn.” Đức phi cười nhạt một tiếng, nhẹ nhàng mân mê chiếc hộ giáp làm bằng ngọc lưu ly trong suốt. “Kỳ thực, xét về sự tàn độc thì phế hậu làm sao so được với Chu Nghi Tu. Bây giờ Thái hậu còn có thể bảo vệ cho nàng ta, nhưng chờ khi Thái hậu qua đời rồi, ngôi hậu ấy của nàng ta ắt không cách nào giữ được.”

    Đoan Quý phi ôm đàn tì bà ngồi bên cạnh đài sen, ngón tay chậm rãi chỉnh dây đàn, những tiếng nhạc rời rạc thỉnh thoảng lại vang lên. Nghe Đức phi nói xong, nàng ta chẳng buồn ngẩng đầu, khuôn mặt vẫn giữ nguyên vẻ điềm đạm. “Ngôi hậu yên ổn thì thôi không nói, nhưng một khi Hoàng hậu bị phế, hậu cung ắt sẽ đại loạn. Muội cứ nhìn tình hình trước mắt thì rõ, chuyện còn chưa đâu vào đâu mà đã có biết bao nhiêu người đang ngầm mưu tính rồi.”

    Đức phi cười tủm tỉm, nói: “Quý phi tỷ tỷ quả là có cái nhìn khoáng đạt nhất. Muội thì cũng thế, chẳng muốn dấn thân vào vũng nước đục ấy làm gì. Cứ như muội thấy, trong chốn hậu cung này, làm gì có ai có tư cách làm hoàng hậu hơn Thục phi.”

    Đoan Quý phi lúc này đã chỉnh xong dây đàn, trầm ngâm nói: “Chúng ta tất nhiên đều mong hậu cung yên bình, nhưng một khi nội loạn nổi lên, chúng ta dù muốn yên phận giữ mình cũng chẳng được.” Dứt lời, nàng ta đưa mắt nhìn tôi, khẽ thở dài, than: “Chính bởi vì Thục phi có tư cách làm hoàng hậu nhất, do đó mới lại càng dễ bị người ta nhắm vào.”

    Đức phi hiểu ý của nàng ta, bèn tiếp lời: “Đúng là có người đã đắc chí quá mức rồi. Tối qua Anh Quý tần đã bị người ở Yến Hy điện trách cứ một phen đấy. Anh Quý tần vừa mới sinh được Hoài Thục Công chúa, Hoàng thượng trong cơn cao hứng sủng hạnh nàng ta nhiều một chút cũng là lẽ thường. Có lẽ vì Anh Quý tần từng đi thăm Trinh Phi mấy bận, lại chia sẻ bớt sự sủng ái mà Hoàng thượng dành cho nàng ta, do đó nàng ta mới không thoải mái.”

    Đoan Quý phi đưa mắt nhìn về phía chân trời, hờ hững nói: “Con người ta một khi có quyền thế thì thường đắc ý, mà một khi đắc ý rồi thì sẽ kiêu ngạo, sau đó rất dễ mất chừng mực.”

    Tôi và Quý phi đưa mắt nhìn nhau. “Đang lúc sóng gió sôi trào, nàng ta khó tránh khỏi có hơi nóng nảy.”

    Đức phi mân mê một bông hoa làm bằng hồng ngọc trong tay, khẽ cười, nói: “Ấy vậy mà Hoàng thượng lại không hề tức giận, chỉ an ủi Anh Quý tần mấy câu mà thôi.”

    Tôi cười nhạt vẻ hờ hững. “Hoàng thượng của chúng ta là người như thế nào chứ, dù có tức giận cũng chưa chắc đã nói ra ngay, hơn nữa thường ngày ngài vốn thích vị biểu muội kia nhất cơ mà.”

    Đoan Quý phi đưa tay với lấy một chiếc quạt tròn mà nhẹ nhàng phe phẩy, để lộ ra một đoạn cổ tay trắng ngần cùng với chiếc vòng vàng bóng bẩy bên trên. “Anh Quý tần xuất thân thấp kém, Hồ Uẩn Dung thì ngược lại, Hoàng thượng an ủi mấy câu như thế là có ý gì, chẳng lẽ muội còn chưa nhìn ra hay sao?”

    Đức phi không kìm được bật cười khúc khích, nói: “Không phải là muội không nhìn ra, muội chỉ sợ người đó sốt sắng với ngôi hậu quá nên không nhìn ra thôi.”

    Tôi vốc một vốc nước trong dưới đài sen lên, nhẹ nhàng cất tiếng: “Gần đây trong cung xuất hiện rất nhiều lời đồn, không chỉ có việc tiên đế phế hậu, ngay cả chuyện khi xưa muội rời cung tu hành cũng bị người ta đem ra nói rất nhiều.”

    Huyệt thái dương của tôi vốn đã rấm rứt đau, lúc này lại càng nảy lên liên hồi, dường như có thứ gì đó muốn tràn ra ngoài vậy. Bất kể bây giờ Huyền Lăng sủng ái tôi đến thế nào thì việc tôi phải xuất gia tu hành khi xưa cũng là một sự thực không thể thay đổi, dù Huyền Lăng đã gạt bỏ chuyện cũ và còn cố gắng bù đắp cho tôi rất nhiều, thế nhưng ý chỉ mà năm xưa y từng tự tay ban xuống nay đang bị người ta lôi ra làm đề tài bàn tán. Sau khi Hoàng hậu bị cấm túc, lục cung vô chủ, tuy về danh nghĩa tôi là người chấp chưởng hậu cung, nhưng trong cung không chỉ có mình tôi là có tư cách ngồi lên ngôi hậu. Trong suy nghĩ của những con người đó, tôi nào có khác cái đinh trong mắt, cái gai trong thịt đâu.

    Đức phi lặng im một lát rồi nói: “Trong cung có ngày nào mà không có tin đồn đâu, muội muội không cần để bụng làm gì.”

    Đoan Quý phi vừa gảy đàn vừa chậm rãi nói: “Đây mới chỉ là khởi đầu mà thôi. Ta đã nghe thấy những lời bàn tán bên ngoài rồi, có người nói là muội không thích hợp nuôi dưỡng Hoàng tử, nên giao tứ điện hạ cho người khác nuôi.”

    Trái tim tôi bất giác co thắt lại, Đức phi lộ vẻ cảnh giác, hỏi: “Là ai mà lại nói ra những lời như thế?”

    Quý phi trả lời ngắn gọn: “Không có Hoàng tử mà ngồi lên ngôi hậu, người khác sẽ không bao giờ chịu phục đâu.”

    “Kỳ thực chỉ cần thánh chỉ được ban ra, phục hay không phục thì cũng đâu có gì khác biệt!”

    Quý phi không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ cúi đầu gảy đàn. Buổi chiều tĩnh lặng trầm buồn cứ thế trôi qua giữa những tiếng đàn du dương vương vất.

    Trong thời gian này, những tin đồn về việc tôi xuất cung tu hành ngày một xôn xao, đã thế còn càng lúc càng quá quắt. Ban đầu người ta chỉ nói là tôi tính tình cao ngạo, càn rỡ trước mặt thánh giá nên bị đuổi khỏi cung, rồi dần dần họ lại nói hồi đó tôi rời cung là vì đã hại chết Hoa Phi, ép Tần Phương nghi phát điên, có kẻ xấu xa hơn còn bàn tán về việc sau khi tôi rời cung đã sử dụng những thủ đoạn đê hèn hạ đẳng để cám dỗ Hoàng thượng... Vì có chuyện Ly Phi dùng dược vật với Huyền Lăng, thế là rất nhiều chuyện vốn chẳng liên quan cũng được đổ lên đầu tôi, chẳng hạn như tôi dùng ngũ thạch tán để giành lấy ân sủng, thậm chí còn có người nói là tôi đã đặc biệt an bài Phó Như Kim có dung mạo giống tôi vào cung.

    Thường ngày luôn có những tin đồn bậy bạ lọt vào tai tôi, tôi nghe xong chỉ cảm thấy dở khóc dở cười rồi không để ý đến nữa, vẫn chuyên tâm xử lý mọi việc trong cung, ngày đêm bận rộn, không có lúc nào ngơi.

    Sau mấy ngày liền lao lực, sáng sớm hôm ấy, khi đang ngồi trang điểm, tôi không kìm được khẽ ho mấy tiếng. Bản thân tôi chẳng mấy để tâm nhưng Huyền Lăng thì lại tỏ ra sốt sắng, cầm một chiếc áo tới khoác cho tôi. Tôi nhìn vào trong gương, thấy khí sắc của mình không được tốt lắm, bèn bôi thêm một lớp phấn, khẽ cười gượng gạo. “Thần thiếp cứ nghĩ là mình còn trẻ, hóa ra sức chịu đựng lại kém đến mức này, mới mỏi mệt một chút thôi là mặt mũi đã trở nên phờ phạc.”

    Huyền Lăng đích thân rót trà đưa cho tôi, lại tiện tay bỏ vào trong đó mấy bông cúc hàng bạch có công hiệu thanh nhiệt giải độc. Thấy tôi đã uống được mấy ngụm, y lại mở hộp son hoa nhài ra giúp tôi thoa lên hai bờ má. Giữa làn hương thơm vương vất, y dịu dàng nói: “Nàng tiều tụy như thế đâu phải vì mỏi mệt, rõ ràng là vì phiền muộn quá mức mà.”

    Tôi cố tình né tránh ánh mắt y. “Thần thiếp được Hoàng thượng thương yêu, có lý đâu mà lại phiền muộn chứ?”

    “Những lời đồn bậy bạ đang xôn xao ầm ĩ cả lên ở bên ngoài, đừng nói là nàng ngày ngày ở trong hậu cung, ngay đến trẫm ở tiền triều cũng có nghe nói. Hôm qua trẫm thấy nàng trằn trọc cả đêm không ngủ được, nhất định là phiền muộn vì chuyện này rồi.” Hơi dừng một chút, y đưa tay khẽ vuốt ve mái tóc mềm mại của tôi. “Mấy lời đó thực là quá quắt, họ không chỉ vu cho nàng tội mưu hại Hoa Phi và Tần Phương nghi, còn tính cả việc của Như Kim và An thị lên đầu nàng nữa.” Trong giọng nói của y thấp thoáng lộ ra mấy tia giận dữ. “Trẫm sớm đã nói là không cho phép nhắc lại chuyện nàng rời cung tu hành, thế mà bọn họ còn dám bàn tán, xem ra bọn họ giờ đang rảnh rỗi quá rồi.”Tôi tựa người vào lồng ngực y, cười gượng, nói: “Cây ngay không sợ chết đứng, thần thiếp chẳng cần biện bạch làm gì, hơn nữa dù thần thiếp có biện bạch thì cũng chẳng ích gì đâu.” Tôi tỏ vẻ dịu dàng rất mực. “Thần thiếp chỉ có chút sợ hãi thôi, Hàm Nhi và Nhuận Nhi đã sắp hiểu chuyện rồi, nếu những lời này lọt vào tai bọn nó, thần thiếp là người làm mẹ thực không biết nên xử trí thế nào.”

    Huyền Lăng ôn tồn an ủi tôi: “Trẫm biết là nàng khó xử, lại không mong trẫm vì nàng mà phải phiền não nên mới âm thầm chịu đựng. Nàng yên tâm, chuyện này trẫm sẽ giải quyết giúp nàng.”

    Tôi khẽ cười một tiếng, cất giọng áy náy nói: “Rốt cuộc thần thiếp vẫn khiến Hoàng thượng phải phiền lòng.”

    Thế rồi hôm ấy Huyền Lăng cho tan buổi chầu thật sớm rồi quay lại ngồi với tôi, chờ các phi tần tới Nhu Nghi điện thỉnh an. Vì thời gian qua việc triều chính bận rộn, mọi người đã hơn nửa tháng không gặp Huyền Lăng rồi, hôm nay thấy y ở đây thì vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, lại thấy Huyền Lăng đang đặt Dư Hàm và Dư Nhuận trên đùi mà vui đùa thì tươi cười đi tới góp vui. Huyền Lăng không tỏ ra khó chịu chút nào, tươi cười đối đáp với tất cả mọi người, lại hỏi han các phi tần về việc ăn ở nghỉ ngơi, nào thì khi trời lạnh có ai bị ho không, khi trời nóng nhớ phải ăn đồ hạ nhiệt, lúc nào trái gió trở trời nhớ mặc thêm áo ấm... Tôi ngồi đó mỉm cười trò chuyện với Quý phi, bên tai không ngừng vọng lại những lời ôn tồn của y, trong lòng bất giác thầm cảm thán rằng khi y chịu dụng tâm thì quả là chu đáo ân cần, khiến các nữ tử đều vì y mà cảm thấy hạnh phúc.

    Đợi khi mọi người đều đã tới đủ, y lại càng tỏ ra ôn hòa, nhã nhặn hơn. “Sáng nay thức giấc, nghe thấy Thục phi ho mấy tiếng, lòng trẫm thực chẳng yên chút nào. Thục phi xưa nay vẫn phải bận rộn xử lý những việc vụn vặt trong cung, vô cùng mỏi mệt, nếu các phi tần ngồi đây không thể giúp nàng ấy mà còn làm nàng ấy thêm phiền não, như thế trẫm sẽ lại càng không yên tâm. Bây giờ tam Hoàng tử và tứ Hoàng tử đều sắp lớn rồi, chớ nên để chúng nghe thấy những lời bàn tán của người khác về mẹ mình. Đôi tai của trẻ con vốn sạch sẽ, không nên nghe những lời đó, mà trẫm cũng không cho phép chúng nghe thấy những lời đó. Nói ra thì các ái phi của trẫm đều xuất thân danh môn, thông thuộc lễ nghi, chắc hẳn sẽ không bao giờ nói ra những lời ô uế bẩn thỉu ấy đâu. Đúng vậy không?”

    Y vẫn giữ nguyên vẻ điềm đạm, bên khóe miệng thấp thoáng nụ cười, thế nhưng đôi mắt lại lạnh tựa băng sương, thật khiến người ta nhìn mà run sợ. Tất thảy mọi người thấy thế đều vội vàng vâng dạ, trong lòng thầm suy nghĩ xem thâm ý trong những lời ấy là gì. Y lại đưa mắt nhìn quanh một lượt, hơi cau mày lại, hỏi: “Sao Uẩn Dung còn chưa tới?”

    Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, nhất thời chẳng ai dám trả lời. Tôi mỉm cười ngồi đó, làm bộ như không nghe thấy, bên tai thì vẫn vang vọng những lời của Cận Tịch đêm qua: “Chu thị bị cấm túc, hậu cung bây giờ vô chủ, chỉ e một phen ác chiến chẳng bao lâu nữa sẽ nổi lên, nương nương nhất định phải cẩn thận. Nương nương cố nhiên là một trong tứ phi, sinh được một hoàng tử và hai công chúa, còn được Hoàng thượng sủng ái rất mực, thế nhưng trong cung không phải chỉ có mình nương nương có tư cách ngồi lên ngôi hậu. Quý phi và Đức phi vào cung đã lâu, đều có tư cách này, mà Trinh Phi sinh được nhị điện hạ cũng không thể xem nhẹ. Có điều mấy vị này đều không thể so được với người kia...” Nàng ta dõi mắt nhìn về hướng Yến Hy điện. “Nàng ta là họ hàng gần với Thái hậu, xuất thân vốn đã cao quý rồi... Nương nương chắc vẫn còn nhớ lời đồn về xuất thân của nàng ta, rõ ràng là phỏng theo câu chuyện của Câu Dặc phu nhân, khi ra đời tay đã cầm miếng ngọc bích “vạn thế vĩnh xương”. Chỉ e ngay từ trước khi vào cung, nàng ta đã có cái ý tranh đoạt ngôi hậu.”

    Đúng thế, nàng ta tay cầm miếng ngọc bích “vạn thế vĩnh xương” ra đời cơ mà, việc gì phải hạ mình trước tôi. Hơn nữa, bấy lâu nay nàng ta vẫn luôn tự thị là mình xuất thân tôn quý.

    Diệp Lan Y phe phẩy chiếc quạt tròn trong tay, đưa mắt nhìn những đám mây trôi lững lờ bên ngoài cửa sổ. “Trang Mẫn Phu nhân thân phận tôn quý, tất nhiên không cần theo mọi người tới đây để mà hạ thấp thân phận rồi.”

    Huyền Lăng không đổi sắc mặt, chỉ quay qua nhìn Đoan Quý phi. “Trẫm nhớ Nguyệt Tân là con gái của Hổ Bôn tướng quân. Thái Tổ khai quốc vì muốn báo đáp ơn tắm máu sa trường của nhà họ Tề mà đã đặc biệt cho đặt tranh của tổ phụ nàng ở Vũ Anh các.”

    Đoan Quý phi vén áo đứng dậy, nghiêm túc nói: “Thần thiếp tuy là con nhà tướng nhưng cũng biết quy củ. Ngôi vị của thần thiếp đúng là ở trước Thục phi, song Thục phi nắm quyền quản lý hậu cung, thần thiếp không phải chỉ tôn trọng Thục phi thôi mà còn xem trọng quy củ của nơi cung cấm nữa.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu, lại mỉm cười hờ hững. “Xem ra vị biểu muội này của trẫm đúng là tùy tiện buông thả đến đáng yêu.”

    Sau chuyện này, những lời đồn thổi trong cung tức thì bay biến, các phi tần khi gặp nhau cũng đều tỏ ra khiêm nhường, cẩn trọng hơn. Mọi người đều vì những lời của Huyền Lăng hôm đó mà sinh ra mấy phần kính nhi viễn chi với nàng ta, nhưng tôi khi gặp gỡ Hồ Uẩn Dung thì vẫn tỏ ra rất mực khiêm nhường, ngay cả khi đi hầu hạ Thái hậu đang trong cơn bệnh thì cũng là nàng ta ngồi ở ghế trên chỉ huy mọi người, còn tôi thì chỉ ngồi ở ghế dưới rót trà đưa thuốc cho Thái hậu. Tất nhiên, Thái hậu lúc này đang ốm mê mệt nên chẳng biết gì, nhưng các cung nhân thì lại xì xào bàn tán: “Khi Thục phi và Trang Mẫn Phu nhân ở riêng với nhau, hóa ra Phu nhân lại ngồi ở ghế trên, còn Thục phi thì giống như một cung tần bình thường. Đương nhiên, khí độ của Trang Mẫn Phu nhân đúng là cao quý hơn thật, có lẽ là bởi nàng ta có xuất thân quý tộc nên mới như thế.”

    Đối với những lời đánh giá của Huyền Lăng về mình hôm đó, Hồ Uẩn Dung chẳng qua chỉ cười nhạt cho qua, khi cùng hầu hạ Thái hậu với tôi còn cười giả lả, nói: “Vốn là ta không phải, thế mà biểu ca còn nói là ta “đáng yêu”, thành ra khiến ta chẳng tiện đi gặp Thục phi chút nào.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Có gì đâu, Hoàng thượng thương yêu muội muội cũng là lẽ thường thôi mà. Muội muội vốn đã đáng yêu rồi, ta thực không đành lòng để muội muội bị câu thúc bởi mấy thứ quy củ kia đâu.”

    Nàng ta cười tươi rạng rỡ, chiếc bộ dao làm bằng vàng ròng hình phượng hoàng trên đầu không ngớt đung đưa. “Vì ngọc thể của Thái hậu mà ta nôn nóng đến nỗi mấy đêm liền không ngủ được, mãi khi trời sáng mới có thể chợp mắt một chút, thành ra khó mà đi thỉnh an sớm được, mong Thục phi đừng trách.” Rồi nàng ta lại che miệng cười, nói: “Huống chi biểu ca còn nói là ta “tùy tiện buông thả đến đáng yêu”, ta thực không dám không vâng theo thánh chỉ.”

    Tất cả kỳ thực chỉ là những lời nói đùa mà thôi, chờ khi các phi tần khác tới hầu hạ thì nàng ta lập tức trở lại là vị Trang Mẫn Phu nhân tôn quý kiêu sa như trước.

    Hoa Nghi nghe thấy mấy lời đó thì tức giận vô cùng, lén than trách với tôi: “Cho dù Hoàng thượng có nói là nàng ta đáng yêu, nhưng chẳng lẽ tùy tiện buông thả không phải là lời chỉ trích ư? Sao nàng ta còn cười được chứ?”

    Tôi bật cười, nói: “Tại sao lại không nào? Với tính cách của nàng ta thì chẳng bao giờ cúi đầu chịu thua đâu. Vả chăng lời của Hoàng thượng tuy quan trọng nhưng tình thế trong cung cũng quan trọng vô cùng. Vào lúc này, nếu để mất thể diện, nàng ta làm sao mà ngồi lên bảo tọa hoàng hậu được đây? Mà cho dù có ngồi lên được rồi thì cũng chẳng cách nào khiến người ta chịu phục.”

    Hoa Nghi trề môi, nói: “Nàng ta nghĩ là mình chắc chắn sẽ trở thành hoàng hậu ư?”

    “Xét về xuất thân và mối quan hệ với hoàng tộc, trong chốn hậu cung này đúng là không ai so được với nàng ta.”

    Hoa Nghi vẫn chưa chịu phục. “Nhưng xét về ngôi vị cùng bề con cái thì làm gì có ai so được với nương nương.”

    Tôi cười, nói: “Không phải chỉ mình muội suy nghĩ như vậy đâu, nàng ta cũng thế đấy.” Lúc này đã gần tới giờ Ngọ, tôi ngó quanh không thấy bóng dáng Nhuận Nhi đâu, vội hỏi: “Nhuận Nhi đâu rồi?”

    Tiểu Doãn Tử nghe thấy động tĩnh liền vén rèm bước ra thưa: “Sáng nay khi nương nương tới chỗ Thái hậu thỉnh an, Quỳnh Chi cô cô ở Yến Hy điện đã tới mời tứ điện hạ đi ăn điểm tâm rồi.” Y ngẩng lên nhìn sắc trời rồi nói tiếp: “Xem thời gian thì chắc bọn họ sắp đưa điện hạ về rồi.”

    Tôi lặng im một lát rồi hỏi: “Yến Hy điện gần đây rất thích đón Nhuận Nhi qua đó ư?” Sau một thoáng trầm ngâm, tôi bèn dặn dò: “Tứ điện hạ còn ít tuổi, sau này bất kể là đến cung của vị nương nương nào chơi, ngươi cũng nhớ phải đích thân đưa đón đấy.”

    Tiểu Doãn Tử vội vàng đáp “vâng” một tiếng rồi lui đi.

    Trong lòng tôi hiểu rõ, bất kể tôi có chịu hay không thì bây giờ tôi với Hồ Uẩn Dung cũng giống như hai con hổ trên cùng một ngọn núi, sớm muộn gì cũng có ngày phải ác đấu một phen để phân thắng bại.

    Mấy ngày sau, bệnh tình của Thái hậu trở nặng, tất thảy thái y trong Thái y viện đều phải túc trực ở Di Ninh cung, không được rời đi nửa bước. Huyền Lăng vì muốn làm tròn đạo hiếu nên ngoài những lúc xử lý việc triều chính thì có quá nửa thời gian là ở bên giường của Thái hậu, cứ như vậy được bảy, tám ngày thì y vô cùng mỏi mệt, mỗi đêm đều nghỉ lại ở chỗ tôi hoặc Đức phi. Còn tôi ngoài những lúc bận rộn việc trong cung thì chủ yếu dành thời gian để an ủi Huyền Lăng, giúp y xoa dịu con tim mỏi mệt.

    Hôm ấy trời khá đẹp, gió sớm thổi vào trong điện những làn hương sen thơm ngát. Tôi mở cửa sổ nhìn ra ngoài, thấy những bông hoa sen màu hồng hoặc trắng đang nở khắp hồ, hệt như những đám mây rực rỡ. Lúc này đầu óc tôi có chút mơ màng, khi ngoảnh đầu nhìn lại thì chợt thấy Huyền Thanh dường như đang đứng giữa làn nắng sớm mờ ảo, đặt một tay trên vai tôi, lặng lẽ ngắm những bông sen phía ngoài, không nói năng gì cả.

    Lòng tôi bỗng như mềm lại, trái tim vốn phải trải qua bao sự đấu tranh mưu tính trong mấy năm nay giống như một tờ giấy Trừng Tâm Đường trải ra trên bàn, sau đó được tô vẽ lên vô số những bông sen tỏa hương thơm dìu dịu.

    Trong sự tĩnh lặng ấy, thời gian dường như đã trôi ngược lại lúc còn ở trên đỉnh Lăng Vân, tươi đẹp vô chừng. Có lẽ vì ngồi quá lâu, đầu gối có hơi tê dại, vậy nhưng tôi lại không dám xoay người, cũng không đành lòng quay lại nhìn, sợ mình mà động đậy thì sẽ mất đi mọi thứ trước mắt.

    Y ôn tồn nói: “Hoàn Hoàn, hiện giờ thực có nhiều việc quá, chỉ có ở chỗ nàng trẫm mới được thư thái trong chốc lát thôi.”

    Giọng nói ấy giống như một tiếng chuông chói tai đột ngột vang lên giữa cơn mơ hỗn độn, sau nháy mắt đã phá tan giấc mộng đẹp của tôi. Tôi thầm thở dài một tiếng tự nơi đáy lòng, đưa tay nắm lấy bàn tay y, đem chút dịu dàng còn chưa tan hết kia ra mà nhẹ nhàng cất tiếng: “Thời gian qua Hoàng thượng đã phải vất vả rồi.”

    Y thầm cảm kích sự ân cần và thân mật ấy của tôi, bèn cúi đầu khẽ hôn lên tay tôi một cái. Hơi thở của y ở gần tôi biết mấy, còn mang theo mùi long diên hương, thực là hoàn toàn khác với mùi hoa đỗ nhược trên người Huyền Thanh. Tôi không kìm được thầm nín thở, cố gắng kìm nén để mình không ngoảnh đầu qua hướng khác.

    Tôi thấy Huyền Lăng hình như đang cao hứng, bèn đề nghị: “Hoa sen ở đây tuy đẹp nhưng dù sao cũng không thể so với hoa sen ở hồ Thái Dịch, chi bằng Hoàng thượng hãy cùng thần thiếp tới hồ Thái Dịch dạo chơi đi.”

    Huyền Lăng dắt tay tôi chậm rãi cất bước ra ngoài, đi qua những dãy hành lang quanh co khúc khuỷu, ngắm nhìn mấy chục cặp chim tương tư mỏ đỏ trong những chiếc lồng dưới hành lang. Đó vốn là lũ chim do An Ly Dung nuôi, bây giờ người không còn nữa nhưng chim thì vẫn vui hót líu lo, còn chụm đầu vào nhau trông đáng yêu vô cùng. Giữa hồ nước trong veo, lũ cá đỏ tung tăng bơi lượn, mấy bông hoa súng màu đỏ nở rộ đẹp tươi, lũ cò trắng nghỉ ngơi dưới những gốc xương bồ đỏ sậm, thỉnh thoảng lại đập cánh làm nước bắn lên tung tóe. Giữa chốn hoàng cung hoa lệ, cái nóng buổi đầu hạ lại càng thêm rực rỡ, hương hoa dìu dịu được những làn gió đưa tới thật dễ làm lòng người đắm say.

    Đi được một đoạn xa rồi, tôi và y cùng đi vào Trầm Hương đình và ngồi xuống. Lúc này hoa mẫu đơn đã tàn hết, bên đình có những gốc phù dung hợp mùa đang nở hoa rất đẹp. Tôi đã quen ngắm vẻ cao sang của mẫu đơn, lúc này nhìn hoa phù dung vừa có thần thái của mẫu đơn lại vừa có mấy phần ôn hòa như một cô gái thôn quê, thấy quả là mới mẻ. Huyền Lăng nói: “Mới là đầu hạ, hoa sen trong hồ Thái Dịch còn chưa nhiều, thành ra chẳng thể so được với hoa phù dung ở đây.”

    Tôi mỉm cười nhìn về phía xa. “Từ Trầm Hương đình này nhìn ra xa thì có thể thấy thắng cảnh ở hồ Thái Dịch, nhìn gần thì có thể ngắm hoa phù dung, đúng là một nơi rất tuyệt.”

    Huyền Lăng tỏ ra hết sức thư thái, gật đầu nói: “Lúc này nếu có một giọng ca trong trẻo ở bên thì thật tuyệt.” Y suy nghĩ một lát rồi nói: “Kêu Diễm Tần tới đây đi, không cần gọi nhạc sư đi theo, cứ để nàng ta hát một mình là được rồi.”

    Giữa làn hương phù dung vương vất, Huyền Lăng ngồi ung dung trong đình, một tay cầm chén canh mai xanh, tay kia cầm chiếc phách mà đánh nhịp, dáng vẻ thư thái vô cùng.

    Giọng hát của Diễm Tần cực kỳ trong trẻo, khi tới những âm cuối là lại lộ ra vẻ uể oải yêu kiều, mang theo những nét phong tình vô hạn giống hệt như con người của nàng ta. Lúc này nàng ta cầm một chiếc quạt nhỏ trong tay, chiếc váy dài màu xanh phản chiếu lại ánh mặt trời dìu dịu, miệng thì hờ hững hát bài Đình trung hữu kỳ thụ: “Trong sân cây tươi tốt, xanh lá nở nhiều hoa. Vin cành tìm bông hái, muốn gửi người phương xa. Gió thổi hương lồng áo, đường dài khó gửi qua! Vật này đâu để tặng, cảm biệt ly đó mà[10].”

    [10] Đây là một bài thơ Nhạc phủ khuyết danh được chép lại trong tập Cổ thi thập cửu thủ, dịch thơ: Điệp Luyến Hoa. Nguyên văn Hán Việt: Đình trung hữu kỳ thụ, ti diệp phát hoa tư. Phàn điều chiết kỳ vinh, tương dĩ khiển sở tư. Hinh hương doanh hoài tụ, lộ viễn mạc trí chi. Thử vật hà túc quý, đãn cảm biệt khinh thời - ND.

    Tiếng ca thanh nhã ấy giống như một làn khói mỏng lan tỏa ra khắp xung quanh, những tia nắng vàng ươm, trong suốt len qua giữa lá hoa chiếu tới rõ ràng chỉ làm tăng thêm mấy nét u sầu.

    Hát được một lúc lâu, Diễm Tần dừng lại nghỉ ngơi. Huyền Lăng vẫn còn đắm chìm trong tiếng hát, mãi tới khi Tề Vương Dư Ly và chính phi Hứa thị xuất hiện, y mới tỉnh táo trở lại.

    Chờ hai người thỉnh an xong, Huyền Lăng liền kêu bọn họ ngồi xuống. Tới lúc này tôi mới có dịp cẩn thận quan sát cặp phu thê mới này, thấy bọn họ thân thiết như keo sơn, không hề vì thân phận con gái nuôi của Hứa thị mà có sự ngăn cách. Sau khi thành thân, Hứa thị được nghỉ ngơi thoải mái, vóc người lại càng thêm đẫy đà, y phục cùng những món đồ trang sức trên người đều đầy vẻ xa hoa diễm lệ, thần thái trên mặt cũng tự tin hơn. Tôi thầm gật đầu, xem ra Hứa Di Nhân của bây giờ đã khác hẳn ngày xưa, không còn là một cô gái mồ côi phải gửi thân vào gia đình quyền thế nữa. Giờ đây nàng ta đã là một người phú quý thật sự, trong chốn kinh thành chẳng có mấy ai sánh bằng.

    Tôi hỏi Hoàng trưởng tử: “Điện hạ vào cung thỉnh an Thái hậu đúng không?”

    Hoàng trưởng tử cung kính đáp “dạ” một tiếng rồi lại nói: “Di Nhân thấy hoàng tổ mẫu hôn mê mãi không tỉnh, nhất thời lòng dạ không yên, định không quay về vội mà cùng nhi thần tới Thông Minh điện cầu phúc cho hoàng tổ mẫu.”

    Huyền Lăng nhắm mắt lại, khẽ “ồ” một tiếng ra vẻ hài lòng. “Sau khi thành thân, con đúng là đã hiểu chuyện hơn nhiều rồi.” Sau đó lại quay sang hỏi: “Di Nhân đã đi thỉnh an Trang Mẫn Phu nhân chưa? Trước đây khi ở trong cung, con từng được nàng ấy chiếu cố rất nhiều, chớ nên để thiếu sót về bề lễ số.”

    Hứa Di Nhân lộ rõ vẻ buồn bã, cúi đầu thưa: “Dạ, nhi thần đi rồi.”

    Huyền Lăng lại hỏi tiếp: “Mấy ngày nay trẫm không có thời gian rảnh đi thăm nàng ấy, con tới cung của nàng ấy thấy Hòa Mục Công chúa có khỏe không?” Hứa Di Nhân tỏ ra do dự, cứ ấp úng mãi chẳng nói được gì. Huyền Lăng lộ vẻ nghi hoặc, không kìm được mở mắt ra nhìn nàng ta. “Không gặp thì cứ nói là không gặp, cớ gì mà lại ấp úng như thế?”

    Dư Ly thấy Huyền Lăng lộ vẻ trách móc liền vội vàng đứng dậy, nói: “Không phải là Di Nhân có ý giấu giếm phụ hoàng đâu, có điều Trang Mẫn Phu nhân vốn không để nhi thần và Di Nhân vào Yến Hy điện thỉnh an, thị nữ của Yến Hy điện thì nói là Phu nhân đã qua chỗ Thái hậu rồi.”

    “Kỳ thực Trang Mẫn Phu nhân không hề qua chỗ Thái hậu, bởi trước đó cung nhân ở chỗ Thái hậu nói là Phu nhân vừa mới rời đi chưa lâu. Nô tỳ còn nhìn thấy thị nữ của Yến Hy điện ra ngoài đổ nước phấn son, đủ thấy Phu nhân còn đang ở trong điện thay y phục và trang điểm lại.” Dư Ly vừa nói xong thì một thị nữ đứng sau lưng Hứa Di Nhân đã không kìm được lên tiếng biện bạch.

    “Tô Tử, chớ có càn rỡ!” Hứa Di Nhân vội quỳ xuống, dập đầu thưa: “Là nhi thần không phải, khiến Phu nhân đến bây giờ vẫn còn canh cánh trong lòng. Sau khi qua Thông Minh điện cầu phúc cho Thái hậu, nhi thần sẽ mang roi tới đó thỉnh tội, hy vọng Phu nhân sau khi đánh nhi thần một phen sẽ không còn giận nữa.”

    Huyền Lăng bất giác lộ vẻ khó hiểu: “Vì việc gì mà con lại đắc tội với Uẩn Dung tới mức này?”

    Mắt rơm rớm lệ, Hứa Di Nhân chỉ cắn chặt môi không nói năng gì. Tôi vội đưa tay đỡ nàng ta dậy. “Vương phi mới về làm dâu hoàng tộc, sao có thể khóc lóc như vậy chứ?”

    Dư Ly đỏ mặt tía tai không nói được gì, tôi thì tuy hiểu rõ nguồn cơn nhưng cũng không tiện lên tiếng, cuối cùng vẫn là Diễm Tần giúp Huyền Lăng xua đi nỗi nghi hoặc: “Vương phi vốn là cung tần mà Trang Mẫn Phu nhân muốn dâng lên cho Hoàng thượng, ai ngờ Vương phi và điện hạ lại tâm đầu ý hợp, nên điện hạ mới xin Hoàng thượng cho phép được thành thân với Vương phi. Phu nhân một lòng sốt sắng mà chẳng nên công cán gì, sao có thể không oán hận Vương phi vì lâm trận trở giáo làm uổng công sức của nàng ta chứ?”

    “Lâm trận trở giáo?” Huyền Lăng cười khẩy, nói. “Hôn sự của Dư Ly với Di Nhân vốn do trẫm làm chủ, nàng ta định trách Di Nhân trở giáo về phía ai đây? Nàng ta tiến cử Di Nhân cho trẫm chẳng qua là mong trẫm được vui lòng, bây giờ trẫm ban Di Nhân cho Ly Nhi, thấy Ly Nhi có người vợ hiền trẫm lại càng vui lòng. Nàng ta không chỉ không biết nghĩ tới đại cuộc, còn trút giận lên người Di Nhân, qua đó đủ thấy nàng ta tiến cử Di Nhân chẳng qua chỉ là để củng cố địa vị của mình!” Huyền Lăng cầm bát canh mai xanh lên uống một hơi cạn sạch. “Nàng ta làm thế thật chẳng giống con gái của một gia đình quý tộc chút nào, so ra thì còn thua cả các nữ tử bình thường.”
    Hứa Di Nhân cất giọng u buồn: “Bất kể thế nào thì Phu nhân cũng là trưởng bối của nhi thần, do đó mọi lỗi lầm xét ra đều là của nhi thần cả. Nếu phụ hoàng lại vì chuyện của Phu nhân mà tức giận làm ảnh hưởng tới thân thể nữa, vậy thì nhi thật thực là tội đáng muôn chết.”

    Dư Ly quỳ xuống, nói: “Xin phụ hoàng hãy chú ý giữ gìn long thể.”

    “Hai đứa mau đứng dậy đi, chuyện này đừng nên nhắc lại nữa.” Huyền Lăng ôn tồn nói. “Di Nhân dịu dàng hiếu thảo, rất xứng làm con dâu của trẫm.” Rồi y lại lệnh cho Lý Trường: “Mang chiếc vòng Xích Lệ Chi mà Nam Chiếu tiến cống tới đây thưởng cho Tề Vương phi.”

    Tôi dắt tay Hứa Di Nhân, kéo nàng ta cùng ngồi xuống, cười tủm tỉm, nói: “Chiếc vòng Xích Lệ Chi này là cống phẩm của Nam Chiếu, được bện thành từ những sợi vàng ròng, hơn nữa bên trên còn có đính ba viên hồng ngọc được điêu khắc thành hình ba quả vải chung cuống, thực là tinh xảo đến tột cùng. Mấy hôm trước, Thục Hòa Công chúa đã xin nhưng Hoàng thượng không chịu ban cho, bây giờ xem ra ngài vẫn coi trọng con dâu trưởng hơn một chút.”

    Huyền Lăng đích thân đeo chiếc vòng ngọc đó vào tay Hứa Di Nhân, nói: “Thục mẫu phi của con rất giỏi pha trà, hôm nay trong cung lại có loại trà thanh phượng tủy hảo hạng vừa được tiến cống, các con hãy ở lại nếm thử đi.”

    Hai người cùng cất tiếng tạ ơn, Diễm Tần chọn một bài hát nhẹ nhàng vui tai rồi chậm rãi cất tiếng hát. Hứa Di Nhân làm bộ chăm chú lắng nghe, thế nhưng thỉnh thoảng lại cúi đầu nhìn chiếc vòng vàng trên cổ tay mình, dáng vẻ vô cùng mừng rỡ.

    “Hương đốt long diên, trà pha phượng tủy. Thanh phượng tủy xét về sự hiếm có có thể so được với long diên hương mà thánh thượng thường dùng, là một thứ trà cực kỳ quý giá.” Tôi vén tay áo lên một chút, bắt đầu đun nước, tráng chén để pha trà, đồng thời chậm rãi nói: “Trong Trà kinh của Lục Vũ có ghi lại, pha trà có năm bước là chuẩn bị dụng cụ, chọn nước, nổi lửa, chờ nước sôi, thưởng trà, trong đó bước chờ nước sôi là quan trọng nhất. Nước sôi chia làm ba độ, khi nước sôi ở độ thứ nhất, tức là có những bọt nước nho nhỏ như mắt cá bơi trên mặt nước thì bỏ muối vào. Ðến khi nước sôi độ thứ nhì, tức là khi bọt nước trông giống như những hạt châu bằng pha lê trong suốt thì bỏ trà vào. Ðến độ sôi thứ ba, tức là sóng nước sủi lên sùng sục trong ấm thì đổ một thìa nước lã vào ấm để trấn trà và làm cho nước hồi phục lại nguyên khí, kế đó thì rót trà ra mà thưởng thức. Khi thưởng thức lại nhớ phải uống nhanh khi còn nóng, chứ để đến khi trà nguội thì bao nhiêu thứ tinh hoa sẽ bay đi hết, trà cũng theo đó mà thành thứ phẩm.”

    Lúc này trà đã pha xong, hương thơm tỏa ra khắp phía, tôi lần lượt rót trà cho từng người một. Hứa Di Nhân khẽ nhấp một ngụm, cất tiếng khen: “Thơm quá! Nước trà trong veo như ngọc bích, so với loại trà ướp hoa mà nhi thần uống thường ngày thực là hơn nhiều lắm!”

    Huyền Lăng nhấm nháp một lát rồi nói: “Trà ngon quý ở chỗ vị thuần, trong cung tuy thường dùng các loại hoa mai, hoa nhài để ướp trà khiến trong trà có hương hoa, thêm phần thanh nhã, thế nhưng cách làm ấy chỉ có thể dùng với các loại trà bình thường thôi, còn trà ngon vốn dĩ đã có hương thơm rồi, bỏ thêm vật khác vào sẽ chỉ làm ảnh hưởng tới hương gốc, thực chẳng khác nào vẽ rắn thêm chân. Cũng giống như các nữ tử trong cung, người nào đoan trang thông tuệ thì giống như trà ngon, hương thơm tất nhiên truyền khắp thiên hạ, còn ai mà có nhiều tâm kế thì chẳng khác nào bị bỏ thêm vào các vật khác, từ đó vị gốc bị ảnh hưởng, biến thành tầm thường. Di Nhân, điều này con phải nhớ kĩ đấy.”

    Hứa Di Nhân cung kính đáp “dạ” một tiếng. Huyền Lăng tỏ ra hết sức hài lòng, lại dặn dò thêm: “Khi nào rảnh rỗi nhớ qua chỗ Thục phi nhiều một chút, để học pha trà cũng được, học vẽ tranh cũng được, tóm lại là mọi việc con đều nên chú ý học hỏi Thục phi.”

    Phía đằng xa, tiếng nhạc du dương bất chợt vang lên, chậm rãi bay lại theo làn gió. Ban đầu, do ở cách khá xa nên mọi người chỉ có thể nghe được loáng thoáng, nhưng dần dần đã rõ ràng hơn, đi kèm với đó là một giọng ca uyển chuyển cứ hát lặp đi lặp lại một bài không đổi: “Nước Hoàng Hà về đông chảy mãi, đất Lạc Dương cô gái Mạc Sầu, mười ba biết dệt lụa màu, năm lên mười bốn hái dâu ngoài đồng, mười lăm tuổi lấy chồng Lư thị, mười sáu sinh con quý A Hầu. Lư gia lan quế đẹp sao! Uất kim, tô hợp ngạt ngào mùi hương. Mười hai hàng trâm vàng cài tóc, hài tơ thêu ngũ sắc chân mang. San hô rực rỡ bóng gương, nô tỳ đứng cạnh nhắc rương đựng giày. Giàu sang kể có ai bì được, đời người còn nguyện ước gì sao? Hờn kia ôm tự thuở nào, nhà bên đông chẳng gả vào vương gia[11].”

    [11] Xem chú thích ở chương 1 tập 4 - ND.

    Huyền Lăng nghiêng tai lắng nghe một lát rồi nói: “Là ai đang hát vậy nhỉ? Chúng ta hãy qua bên đó xem thế nào.”

    Mọi người bèn đứng dậy, cất bước lần đi theo hướng phát ra âm thanh. Càng đi về phía Yến Hy điện, tiếng nhạc lại càng rõ ràng, tôi rốt cuộc đã dừng chân không muốn đi tiếp nữa. “Hoàng thượng, xin cho phép thần thiếp được cáo lui trước.”

    Huyền Lăng thấy sắc mặt tôi hơi tái đi, bèn ân cần hỏi: “Nàng không khỏe ư? Có cần gọi thái y tới không?”

    Tôi vội vàng lắc đầu. “Hoàng thượng cứ cho phép thần thiếp cáo lui là được rồi.”

    Cửa lớn hoa lệ của Yến Hy điện đã ở ngay ngoài trăm bước chân, Huyền Lăng nói: “Nàng không muốn gặp Uẩn Dung ư? Tính tình nàng ấy tuy có hơi tệ...”

    “Hoàng thượng, bài hát vọng ra từ trong Yến Hy điện có tên là Mạc Sầu ca.” Diệp Lan Y lạnh lùng cất tiếng.

    “Dạ phải.” Hứa Di Nhân lén đưa mắt nhìn thần sắc Huyền Lăng, khẽ nói. “Đây chính là bài Mạc Sầu ca do Lương Vũ Đế Tiêu Diễn sáng tác, kể về một nữ tử tên gọi Mạc Sầu. Không hiểu sao Yến Hy điện cứ cho hát đi hát lại bài này như thế nữa...”

    Hoàng trưởng tử ngạc nhiên cầm tay nàng ta, hỏi: “Sao ta lại không nghe ra thế nhỉ?”

    “Bài hát này ca nữ hát bằng giọng Ngô, mà Hoàng thượng với điện hạ sinh ra và lớn lên ở kinh đô cho nên không nghe ra được. Nhi thần hồi bé từng sống ở vùng Ngô Việt một thời gian, do đó mới hiểu được nội dung. Các phi tần trong cung có rất nhiều người Ngô Việt, chắc là cũng hiểu được, nếu Hoàng thượng không tin thì cứ hỏi họ mà xem.”

    Huyền Lăng xua tay cắt ngang lời nàng ta. “Đừng nói thêm nữa.” Sau đó liền lẳng lặng lắng nghe những tiếng nhạc du dương tao nhã vọng ra từ Yến Hy điện cách đây không đầy trăm bước chân, một hồi lâu sau mới bình tĩnh quay sang hỏi Lý Trường: “Trẫm từng hạ lệnh cho lục cung không được nhắc lại việc Thục phi xuất cung năm xưa nữa, đúng vậy không?”

    “Dạ.” Lý Trường cung kính đáp.

    “Hồ thị thực là to gan!”

    “Muội ấy thích nghe thì cứ kệ muội ấy đi. Đều là chuyện xưa cũ rồi, người không thể buông bỏ được là thần thiếp.” Tôi chậm rãi phủ phục người xuống, hai hàng nước mắt lã chã rơi. “Hoàng thượng đừng nên trách Uẩn Dung, xét kĩ ra tất cả đều tại lỗi lầm của thần thiếp năm xưa mà thôi.”

    Huyền Lăng đưa tay kéo tôi vào lòng ôm thật chặt, đoạn gằn giọng nói: “Là lỗi của ai cũng không quan trọng, điều quan trọng là không người nào được phép coi nhẹ quyền uy của thiên tử. Lời của trẫm, nhất ngôn cửu đỉnh.”

    “Lý Trường.” Y đưa mắt nhìn về phía Yến Hy điện lộng lẫy vàng son. “Truyền chỉ đi khắp lục cung, Thái hậu đang lâm bệnh, thế mà Trang Mẫn Phu nhân Hồ thị không biết nghĩ đến chữ hiếu, mặc sức hưởng lạc, nay giáng làm phi chính nhị phẩm, không tuyên gọi thì không được tới gặp trẫm.”

    Tôi nắm chặt lấy vạt áo Huyền Lăng mà khẩn khoản van nài: “Hoàng thượng, người đừng nên trừng phạt Uẩn Dung vào lúc này. Thái hậu đang ốm, Hoàng hậu thì bị cấm túc, Uẩn Dung tốt xấu gì cũng là người trong hoàng tộc, thường ngày lại được Thái hậu yêu mến, nếu trừng phạt muội ấy vào lúc này, Thái hậu ắt sẽ rất đau lòng. Hoàng thượng nên suy nghĩ kĩ những điều được mất trước rồi hãy hạ chỉ.”

    Huyền Lăng thầm nín thở, dường như muốn xoa dịu cơn giận trong lồng ngực. Hứa Di Nhân cũng cất tiếng khuyên: “Phụ hoàng, cho dù Hồ mẫu phi thường ngày có hơi kiêu ngạo thì người cũng đừng nên tức giận kẻo ảnh hưởng tới thân thể, mọi việc cứ nên chờ Thái hậu phượng thể an khang đã rồi hãy tính sau.”

    Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, hậm hực nói: “Trẫm nhịn nàng ta một lần nữa vậy.”
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 9: Ải Hán đêm qua dậy gió thu[12]
    [12] Trích Quân thành tảo thu của Nghiêm Vũ. Dịch thơ: Bùi Hạnh Cẩn, Việt Anh. Nguyên văn Hán Việt: Tạc dạ thu phong nhập Hán quan - ND.

    Thời gian lặng lẽ trôi đi, mới thoắt đó đã lại tới giữa hạ, lũ ve sầu kêu ra rả suốt cả ngày. Thời tiết càng lúc càng nóng nực, Huyền Lăng thì cũng ngày một nóng tính hơn, hai ngày trước chỉ vì mấy việc nhỏ mà đã trách mắng Uông Phân nghi và Mục Lương viện một phen, ngay cả Phúc Quý tần vốn tính đôn hậu nhất cũng bị mắng cho mấy câu, mọi người trong hậu cung không có ai là không sợ hãi.

    Lý Trường khi tới chỗ tôi cũng từng kể khổ, rằng mới đây chỉ vì nước trà hơi nóng một chút thôi mà Huyền Lăng đã hắt chén trà lên người y. Theo hầu bên cạnh Huyền Lăng mấy chục năm, đây có lẽ là lần đầu tiên Lý Trường phải chịu nỗi ấm ức như vậy, tôi cũng chỉ đành ôn tồn khuyên nhủ một phen.

    Tiếng ve sầu vang lên ra rả, dường như muốn đâm thủng màng nhĩ người ta. Hoa Nghi đứng một bên nhẹ nhàng phe phẩy quạt, tôi lòng thầm phiền muộn nên đi vào hậu đường ngủ trưa, đồng thời dặn dò: “Mang sào dính keo đi bắt hết lũ ve sầu đó lại cho ta, cả ở Nghi Nguyên điện cũng thế.”

    Làm sao mà có thể không phiền muộn được đây? Dịp cuối xuân, Ma Cách Khả hãn của Hách Hách đã nhân lúc cỏ cây tốt tươi, lương thảo đầy đủ mà dẫn theo hai mươi vạn thiết kỵ từ đô thành Tàng Kinh kéo thẳng đến Nhạn Minh quan cách Thượng Kinh chỉ chừng tám mươi dặm.

    Nhạn Minh quan tây gần sông Hỷ Lăng, nam giáp Thượng Kinh, bắc có Chỉ Tiên quan cùng sạn đạo ở núi Lạc Thiết, xưa nay vẫn luôn là vùng đất mà nhà binh ắt phải tranh đoạt. Núi Lạc Thiết là biên giới tự nhiên giữa Hách Hách và Đại Chu, còn Nhạn Minh quan thì giống như một bức bình phong kiên cố, một khi bị Hách Hách phá tan thì cố đô Thượng Kinh sẽ khó có cách nào giữ được, ngay cả kinh đô hiện tại là Trung Kinh cũng sẽ lộ ra ngay trước vó ngựa kiêu dũng của kỵ binh Hách Hách.

    Sau hội thề Hà Trì giữa Anh Cách Khả hãn của Hách Hách với Thái Tổ Đại Chu, Thái Tổ đã phong Mạo Thành Quận chúa làm Kim Sơn Công chúa rồi gả cho Anh Cách Khả hãn làm đại phi chính thất. Biên giới giữa Hách Hách với Đại Chu đã nhiều năm không có chiến sự, hai bên còn thông qua Hỗ Thị để trao đổi hàng hóa, tấp nập vô cùng, chủ yếu là Hách Hách dùng bò, ngựa để đổi lấy lá trà, tơ lụa cùng lương thực của Đại Chu, do đó dân chúng đa phần được an cư lạc nghiệp, đã bao năm rồi chưa gặp phải chuyện binh đao.

    Ma Cách Khả hãn của Hách Hách bây giờ là con trai của Anh Cách, bừng bừng dã tâm, bấy lâu nay vẫn luôn rèn binh luyện tướng, không ngừng thôn tính các bộ lạc nhỏ yếu xung quanh Hách Hách, từ đó tăng cường thực lực. Còn Huyền Lăng những năm qua luôn đặt tinh lực vào chiến sự ở phía tây nam, mong có thể thu hồi cương thổ, về sau lại phải dốc sức bình định Nhữ Nam Vương, nên khó tránh khỏi có phần buông lỏng sự đề phòng với Hách Hách, do đó khi đại quân Hách Hách kéo tới thì các tướng sĩ nơi Nhạn Minh quan đều luống cuống chân tay, không kịp ngăn cản, khó khăn lắm mới giữ được cửa ải không để bị đánh hạ. Huyền Lăng trong cơn giận dữ liền phái mười lăm vạn đại quân viễn chinh kinh đô Tàng Kinh của Hách Hách, thế nhưng tướng sĩ Đại Chu không quen với cái nóng khô hanh ở vùng sa mạc, thêm vào đó năm nay thời tiết còn nóng hơn mọi năm rất nhiều, nên còn chưa tới nơi thì đã có rất nhiều tướng sĩ cảm nắng ngất xỉu, Đại Chu coi như chưa đánh đã tự thua.

    Huyền Lăng vừa nôn nóng vừa giận dữ, không kìm được cất tiếng than: “Trong quân chẳng có ai dùng được, nếu Tề Bất Trì còn tại thế thì tốt biết bao!”

    Đáng tiếc Tề Bất Trì chỉ có một, mà Đại Chu bao năm nay vẫn luôn trọng văn khinh võ, trong triều chẳng có tướng tài, thực khó mà vãn hồi được cục diện.

    Trong cơn nguy ngập, ngay đến Thái hậu cũng lo lắng và sợ hãi vô cùng, bệnh tình lại càng trở nặng, rốt cuộc đã qua đời vào ngày Hai mươi bảy tháng Năm ở tây điện của Di Ninh cung.

    Cả Đại Chu đều đau buồn, mà ngày Thái hậu được đưa vào quan tài, Tôn cô cô đã đập đầu vào cột tự vẫn, đi theo hầu Thái hậu.

    Huyền Lăng đau xót vô cùng, để làm tròn đạo hiếu đã đặt thụy hiệu cho Thái hậu là “Chiêu Thành”, toàn hiệu là “Chiêu Thành Hiếu Túc Hòa Duệ Thánh Hoàng Hậu”. Tiên đế sau khi phế bỏ Hoàng hậu Hạ thị thì không lập hậu nữa, cuối cùng chỉ có Chiêu Thành Thái hậu là được an táng trong Lễ lăng chung với tiên đế. Sau đó Huyền Lăng lại sai đại thần tổ chức tang lễ long trọng, mình thì mặc đồ trắng để tang cho Thái hậu, đồng thời cho đình chỉ các buổi chầu ở chính điện trong vòng một tháng.

    Đang trong thời điểm nội ưu ngoại hoạn thế này, Huyền Lăng nóng tính hơn thường ngày thực ra cũng là lẽ đương nhiên.

    Sau tang lễ, Huyền Lăng gầy đi rất nhiều, bờ môi thì vì nội hỏa quá vượng mà nứt nẻ cả ra. Tôi không khỏi có chút âu lo nôn nóng, bèn mang canh bạc hà tim sen đã hầm cả buổi sáng tới Nghi Nguyên điện cho y.

    Trên bàn, tấu sớ chất cao như núi, Huyền Lăng ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế chạm trổ hình rồng cuộn phía sau. Đôi làn gió mát từ cửa sổ hướng bắc thổi vào mang theo hương hoa cỏ thanh tân phớt qua khuôn mặt y, thế nhưng đám mây đen ngưng tụ giữa đôi hàng lông mày của y thì vẫn nặng nề vô hạn, mãi chẳng chịu tan.

    Y chẳng buồn ngẩng lên, trong giọng nói toát ra một vẻ uể oải và mỏi mệt tới cùng cực. “Nàng tới rồi.”

    Tôi cất giọng ôn tồn: “Thần thiếp mới nấu được ít canh nên mang tới đây cho Hoàng thượng.”

    Y khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Cứ đặt ở đó đi.”

    Đang lúc giữa trưa, một ánh dương từ ngoài cửa sổ chiếu vào, cái nóng nực của mùa hè liền lan truyền đi khắp khiến người ta cảm thấy gian điện kín mít này thực là ngột ngạt lạ thường.

    Tôi bèn mở cửa sổ ra, lập tức cảm thấy tầm mắt mở rộng, lọt vào trong mắt là một khu rừng biêng biếc xanh tươi, tâm trạng tức thì thư thái hơn rất nhiều.

    Huyền Lăng hơi cau mày. “Đóng cửa sổ lại đi, trẫm không thích nghe tiếng gió.”

    Tôi khẽ cười một tiếng, nhúng đầu ngón tay vào một ít dầu bạc hà trong chiếc hộp nhỏ mạ vàng rồi nhẹ nhàng day huyệt thái dương cho y. “Nhạn Minh quan tuy đang phong thanh hạc lệ nhưng Hoàng thượng anh minh thần võ, ắt có thể hô mưa gọi gió.” Rồi tôi dịu giọng dò hỏi: “Hoàng thượng bây giờ đã chọn được ai làm tướng soái chưa vậy?”Y lộ vẻ khổ não. “Ngoài phò mã Trần Thuấn và Phủ Viễn tướng quân Lý Thành Nam ra, trẫm không còn lựa chọn nào khác.”

    Tôi lại hỏi thêm: “Hoàng thượng sao không để lục Vương gia và cửu Vương gia thử xem? Nghe nói hai vị Vương gia ấy từng đảm nhận nhiệm vụ ở Thiết Kỵ doanh trong kinh thành, đều là hạng có bản lĩnh cả.”

    Trên khuôn mặt vàng vọt ánh lên mấy nét âu lo, y gõ ngón tay xuống bàn làm phát ra những tiếng “cộc cộc” nặng nề, sau đó do dự nói: “Lão cửu còn ít tuổi chưa trải việc đời, còn về lão lục...” Y suy nghĩ thêm một lát rồi trầm giọng nói: “Thân vương không thể tùy tiện nắm binh quyền, nàng đã quên mối họa do Nhữ Nam Vương gây ra ngày trước rồi ư?”

    Tôi đành làm bộ kính cẩn. “Thần thiếp quyết chẳng dám quên.”

    Y trầm ngâm nói: “Huynh trưởng của nàng...”

    Lòng tôi trầm hẳn xuống, vội nói: “Ca ca thần thiếp vì chuyện năm xưa mà trên người đã lưu lại mầm bệnh, tuy ngày đêm đều muốn ra trận giết địch cho Hoàng thượng nhưng hiềm rằng thân thể đã chẳng còn được như trước nữa rồi. Bây giờ huynh ấy cũng lòng như lửa đốt, có điều tạm thời chỉ có thể đi theo dưới trướng phò mã thôi, quả thực không đảm đương nổi những nhiệm vụ nặng nề.”

    Y khẽ gật đầu, lộ vẻ áy náy, nói: “Chuyện huynh trưởng của nàng năm xưa, trẫm quả thực đã có phần lỗ mãng, Hoàn Hoàn, nàng không trách trẫm chứ?”

    Nếu thật sự áy náy thì việc gì phải đợi tới lúc đại địch đã cận kề trước mắt như thế này? Tôi bất chợt nhớ tới lời của ca ca lúc trước: “Ta dù có hoài bão gì thì cũng chỉ dám làm đến phó tướng thôi. Muốn giữ cho người nhà được bình an dưới tay Hoàng thượng, ai mà dám làm thống soái thống lĩnh vạn quân? Chuyện ngày xưa vẫn còn sờ sờ ra đó, ta quả thực chỉ có thể như vậy mà thôi.”

    Khoảnh khắc trầm tư đó của tôi không thể nào thoát khỏi đôi mắt của Huyền Lăng, y lại hỏi thêm lần nữa. Tôi đảo mắt rồi nhẹ nhàng nói: “Thần thiếp chợt nhớ tới Vinh Tần. Nếu không vì Hoàng thượng nhân hậu, thần thiếp sớm đã chẳng buông tha cho ả dư nghiệt của nhà họ Mộ Dung ấy rồi.”

    Y thầm thở phào một hơi không dễ gì phát giác. “Những việc này đừng nên nhắc lại nữa.” Sau đó đưa một bản tấu chương cho tôi, hậm hực nói: “Nàng hãy xem cái này đi.”

    Tôi đón lấy mở ra xem thử, không kìm được hơi biến sắc mặt. “Ma Cách định tiến kinh bái kiến Hoàng thượng ư?”

    Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Hắn dám ngông cuồng như thế chẳng phải vì đã chuẩn bị đủ lương thảo ư! Những lần trước Hách Hách thất bại chủ yếu là vì lương thảo không đủ, lần này Ma Cách đã chuẩn bị từ sớm rồi. Hắn rèn binh luyện tướng nhiều năm, tích lũy được không ít lương thực, đã thế vừa rồi còn ra sức cướp bóc ở bên ngoài Nhạn Minh quan, do đó mới dám sinh ra dã tâm này.”

    Lòng tôi trầm hẳn xuống, vội vàng hỏi: “Hắn đã chuẩn bị đầy đủ lương thảo như thế rồi, còn phải vào kinh bái kiến làm gì nữa?”

    “Tiếng là bái kiến nhưng thực ra hắn muốn đoạt lấy hai châu U, Vân của trẫm, còn muốn trẫm hằng năm phải thưởng cho hắn vàng bạc mỗi loại ba trăm vạn lạng, tơ lụa một trăm vạn sấp, trong khi đó đồ cống của hắn chỉ là mấy chục thớt ngựa hạ đẳng mà thôi, thực là đáng ghét tột cùng!”

    Tôi căm phẫn nói: “Ma Cách làm thế đâu phải là muốn tiến cống rồi xin ban thưởng, rõ ràng là có ý làm Hoàng thượng mất mặt. Những thứ hắn đòi ban thưởng tính tổng cộng phải bằng một phần ba tiền thuế mỗi năm của Đại Chu, nếu làm như vậy lâu dài, căn cơ của Đại Chu sẽ dần suy yếu, Hoàng thượng quyết không thể tùy tiện đáp ứng được.”

    Trong mắt Huyền Lăng bừng lên những tia lửa âm u. “Hắn đòi hỏi như thế rõ ràng là đã sử ra công phu sư tử ngoạm. Chỉ đòi ban thưởng thì thôi còn được, nhưng hai châu U, Vân vốn dễ thủ khó công, là nơi yếu địa cực kỳ quan trọng, trẫm há có thể cung tay dâng lên được! Hắn nay đã đánh tới bên ngoài Nhạn Minh quan, đưa ra yêu cầu hà khắc như vậy, thứ nhất là để thăm dò hư thực của Đại Chu, thứ hai là muốn kiếm cớ cho việc phát động chiến tranh lần này, hạng hồ lỗ man di như hắn có được tâm tư như thế quả là không dễ!”

    Tôi đầy bụng âu lo, bèn thăm dò: “Hoàng thượng, hắn dám tới đây như thế chắc là đã sớm có đề phòng rồi đúng không?”

    “Hắn muốn cho hai vạn tinh binh đóng ngoài thành làm tùy tùng hộ vệ. Trẫm vốn định không đồng ý nhưng có tin báo về là đã có không ít gian tế lẻn vào kinh sư, mà động thì chẳng bằng tĩnh, tạm thời cứ đồng ý với hắn vậy.” Huyền Lăng cười lạnh, nói. “Thái hậu vừa qua đời, lòng người đang không yên, thế mà hắn lại định tới đây vào lúc này. Cũng tốt, hắn mà dám tới thì trẫm sẽ ở đây đợi hắn.”

    Tôi xắn tay áo lên, lẳng lặng giúp y mài mực, một lát sau mới chậm rãi nói: “Ma Cách nhòm ngó Đại Chu ta đã lâu, bây giờ lương thảo đầy đủ, thực lực đáng gờm, chúng ta quyết không thể ngồi yên chờ chết được.”

    Huyền Lăng thở dài, than: “Sao trẫm lại không biết điều này chứ? So với thiết kỵ Hách Hách, binh lực Đại Chu không phải là không sánh bằng, tuy các binh sĩ vì bị cảm nắng mà thể lực suy giảm nhưng chỉ cần có tướng tốt là tình hình sẽ ổn thỏa ngay. Chỉ là bây giờ tướng tốt khó tìm, các đại tướng trấn thủ biên cương chẳng qua chỉ gắng gượng cầm cự được mà thôi, các binh sĩ đổ bệnh thì ngày càng nhiều, chẳng lẽ trời cao thật sự không phù hộ cho Đại Chu ư?”

    Huyền Lăng chỉ lo lắng việc nước mà thôi, còn tôi ngoài việc nước thì còn phải lo cả việc nhà. Y bây giờ một lòng muốn tìm tướng tốt, tôi thì lại phải nghĩ cách để ca ca không trở thành vị tướng tốt đó của y, đồng thời còn phải làm sao cho chiến sự kết thúc, dân chúng được an cư lạc nghiệp, những nỗi lo nghĩ trong lòng thực là nhiều không tả nổi. Sau một thoáng trầm ngâm, tôi bèn mỉm cười, nói: “Sao có thể chứ? Hoàng thượng là thiên tử, trời cao không phù hộ cho người thì phù hộ cho ai? Chẳng hạn như đợt bệnh dịch năm đó, Hoàng thượng đang vô kế khả thi thì Ôn Thực Sơ đã tìm ra phương thuốc chữa trị bệnh dịch. Còn cảm nắng thì có phải là thứ bệnh gì ghê gớm đâu, làm sao khó chữa bằng bệnh dịch năm đó được, mà nói ra mới nhớ, hồi đó trong cung có bao nhiêu người nhiễm bệnh, nếu như không có phương thuốc của Ôn thái y thì thật chẳng rõ sẽ có bao nhiêu người phải bỏ mạng nữa. Rốt cuộc vẫn là Ôn thái y có lòng, về sau đã lưu lại một số mẫu bệnh cùng với cách chữa trị...” Tôi lảm nhảm một hồi như thể đang tán gẫu với y. Y thì chỉ lặng im lắng nghe, ngón tay vạch đi vạch lại trên mặt bàn, trông bộ dạng thì dường như đang có điều suy tư.

    Ánh dương chiếu trên bức tường sơn màu đỏ son dần trở nên mờ nhạt, thứ màu đỏ kia thì càng lúc càng đậm đến nỗi như có thể nhỏ ra nước, cứ thế chảy vào mắt người ta. Tôi bất giác thầm nghĩ, một người nếu giết chóc đến đỏ cả mắt, liệu cặp mắt có biến thành như vậy không? Lần theo hướng ánh dương chiếu xuống, trái tim tôi dần bay lên bầu trời xanh biếc, trong lòng ngoài nỗi sầu lo còn có một sự tò mò, vị Ma Cách Khả hãn đang xua quân tiến đánh Nhạn Minh quan kia rốt cuộc là một nhân vật như thế nào?

    Ngày Hai mươi tháng Bảy, khi Ma Cách vào kinh, Trung Kinh đang trong thời điểm nóng nực nhất. Huyền Lăng không muốn gặp hắn ở kinh sư, bèn lấy cớ “tránh nóng” mà tiếp kiến Ma Cách tại Thái Bình hành cung ở Tây Kinh.

    Thời tiết ngày một nóng lên, còn tôi thì ngày càng phiền muộn. Vì việc Ma Cách tới Tây Kinh mà hậu cung dường như đã trở nên nặng nề hơn rất nhiều, cho dù bây giờ trời trong nắng vàng nhưng mọi người dường như đều cảm nhận được mưa gió đang kéo tới. Đức phi khi tới thăm tôi từng lén hỏi: “Nghe nói Ma Cách đã tới hành cung được mười ngày rồi, Hoàng thượng tiếp đãi hết sức chu đáo, nhưng vẫn cứ thoái thác chẳng chịu gặp mặt, chuyện rốt cuộc là như thế nào vậy?”

    Thấy ánh mắt nàng ta đầy vẻ tò mò, tôi vội vàng xua tay, nói: “Muội chỉ là một nữ tử chốn hậu cung, làm sao biết được mấy việc này! Tỷ tỷ đừng nên hỏi muội!”

    Đức phi lo lắng nói: “Đến muội cũng không biết thì ta còn có thể hỏi ai bây giờ?”

    Tôi khẽ nở nụ cười. “Ý trời khó đoán, ai mà biết được.”

    Đức phi chắp hai tay lại niệm một câu “A Di Đà Phật”, nói: “Chẳng biết Hoàng thượng có ý gì nữa, mấy ngày nay cứ tránh trong Thủy Lục Nam Huân điện chẳng chịu ra ngoài, nói là vì Thái hậu vừa mất nên thương tâm, còn bị cảm nắng nữa. Khi các phi tần tới thăm thì Hoàng thượng lại không chịu gặp mặt, chỉ cho Diễm Tần ở trong bầu bạn, chẳng ai rõ chuyện là như thế nào nữa. Ta nhủ thầm, nếu là bị cảm nắng, tại sao lại không gọi thái y tới hầu hạ? Hôm nay ta từng thử dò hỏi một phen thì được biết Ôn thái y cũng không ở đó.”

    Tôi nói: “Ôn đại nhân mấy năm nay vẫn luôn ở bên mộ của Huệ Nghi Quý phi để sám hối mà, có mấy khi rời đi đâu.”

    Đức phi khẽ “ồ” lên một tiếng. “Cũng phải, tính kĩ ra, lần gần đây nhất ta gặp y cũng là từ lâu lắm rồi. Hoàng thượng bây giờ cứ ngày đêm ở bên Diễm Tần như thế e là không tốt cho thân thể.”

    Vừa khéo hôm nay Ngọc Ẩn, Ngọc Diêu và Ngọc Nhiêu đều ở đây. Ngọc Diêu xưa nay vẫn luôn trầm mặc ít nói, Ngọc Nhiêu thì đặt Linh Tê trên đầu gối mà trêu chọc, còn Ngọc Ẩn không kìm được hơi cau mày, nói: “Không còn Phó Như Kim nữa thì lại lòi ra một Diệp Lan Y, xuất thân hèn mọn chưa nói tới, lại còn suốt ngày cám dỗ quân vương. Thái hậu vừa mới qua đời, Hoàng thượng nếu thật sự không vui thì cũng nên để trưởng tỷ ở bên bầu bạn, làm gì tới lượt ả chứ!”

    Tôi càng nghe càng khó chịu, không kìm được ngoảnh đầu qua một bên. Ngọc Nhiêu đưa một chén trà tới cho Ngọc Ẩn rồi cười, nói: “Nhị tỷ uống chén trà đi cho mát họng. Chẳng biết vì cớ gì nữa, nhị tỷ hình như rất ghét Diễm Tần thì phải.”

    Ngọc Ẩn hơi nhướng mày. “Ta đâu có ghét bỏ gì ả. Ả là sủng thiếp của Hoàng thượng, ta sao dám ghét bỏ ả chứ? Ta chỉ bất bình thay cho trưởng tỷ mà thôi.”

    Tôi khẽ ho một tiếng, ngước mắt lên, nói: “Lời này của muội thực khiến người ta thương tâm quá. Ở đây ngoài Ngọc Diêu chưa gả chồng và Ngọc Nhiêu là chính phi ra, có ai mà không phải là thiếp đây?”

    Đức phi vội vàng cười tươi giàn hòa: “Không thể nói như vậy được, muội muội là Thục phi nắm quyền quản lý lục cung, trước đây ngoài Hoàng hậu ra, làm gì có ai có quyền uy như vậy. Hoàng thượng nhất định chưa bao giờ coi muội muội là thiếp đâu.”

    Tôi gõ ngón tay xuống bàn làm phát ra những tiếng “cộc cộc”, đồng thời chậm rãi nói: “Danh phận đã sờ sờ ra đó rồi, muội tự biết mình là ai, tỷ tỷ không cần phải an ủi muội đâu.”

    Ngọc Ẩn đỏ bừng hai má, đành cầm chén trà lên uống một ngụm để che giấu sự xấu hổ. Đức phi thở dài, than: “Cũng khó trách Ẩn phi lại bất bình thay cho muội, trong cung bây giờ có mấy ai không oán trách Diễm Tần đâu. Hoàng thượng thì lại không chịu nói gì, chuyện tiếp kiến Ma Cách cũng cứ bị kéo dài nữa...”

    Ngọc Nhiêu ngẩng lên, nói: “Nghe nói gã Ma Cách đó cũng không nôn nóng, suốt ngày tìm người dẫn đi ngắm phong cảnh Tây Kinh, thảnh thơi vô cùng.” Sau đó lại chống cằm lộ vẻ u sầu. “Cũng khó trách cửu lang dạo này lại hay tức giận, đang lúc quốc nạn lâm đầu y tất nhiên hy vọng có thể ra sa trường dốc sức, có điều đã dâng sớ lên mấy lần mà Hoàng thượng chẳng buồn trả lời lấy nửa câu.”

    Đức phi ôn tồn khuyên nhủ: “Cửu Vương gia hãy còn trẻ tuổi, về sau tự khắc sẽ có cơ hội kiến công lập nghiệp.”

    Ngọc Nhiêu giận dữ nói: “Sao muội lại không biết điều này chứ, có điều cửu lang tạm chưa nhắc tới, nhưng bản lĩnh của lục ca, chúng ta đều biết cả mà.”

    Ngọc Ẩn bất giác giật mình thảng thốt, vội cười, nói: “Muội không cần dát vàng lên mặt Vương gia như thế làm gì, chút bản lĩnh đó của y chỉ đủ dùng để cưỡi ngựa bắn tên thôi, đâu có thể thật sự ra trận giết địch. Hoàng thượng rất biết dùng người, ắt sẽ chẳng dùng tới Vương gia đâu.”

    Ngọc Nhiêu khẽ cười một tiếng, không nói gì thêm. Mọi người đang ngồi đó uống trà, chợt Lý Trường lẳng lặng đi vào, cung tay mừng rỡ nói: “Bẩm nương nương, có tin mừng lớn bằng trời đây. Đúng là trời cao đã phù hộ cho Đại Chu ta, đám người man di Hách Hách ở ngoài Nhạn Minh quan không hiểu sao tự dưng lại bùng phát bệnh dịch, binh sĩ cứ thế đổ rạp, không cách nào chữa trị. Vị Khả hãn Hách Hách kia đã nôn nóng lắm rồi, đang yêu cầu được gặp Hoàng thượng ngay.”

    Tôi bất giác hơi nhếch khóe môi, hắn rốt cuộc đã nôn nóng rồi.

    Đức phi vội vàng hỏi: “Hoàng thượng đã biết chưa?”

    Lý Trường cười đến híp mắt lại. “Có tin tức tốt thế này, nô tài tất nhiên phải bẩm báo lúc nương nương cũng ở bên rồi, như thế nương nương mới tiện giúp nô tài xin ban thưởng chứ!”

    Tôi không kìm được bật cười khúc khích. “Ngươi cứ mặc sức mà lẻo mép đi.”

    Đức phi vội đứng dậy, nói: “Muội muội có việc quan trọng cần làm, ta xin phép cáo lui đây.”

    Tôi quay sang nói với Ngọc Nhiêu: “Muội mau thay ta tiễn Đức phi đi.”Ngọc Nhiêu vội vàng đứng dậy đưa tiễn Đức phi. Ngọc Ẩn theo tôi vào phòng trong thay y phục, thấy xung quanh không có ai mới nôn nóng nói: “Bây giờ thế công của Hách Hách đã giảm, nhưng bất kể thế nào trưởng tỷ cũng chớ nên để Vương gia tới biên quan. Đao thương không có mắt là một nhẽ, đã thế Hoàng thượng còn kiêng dè tài năng của Vương gia, vết xe đổ của Nhữ Nam Vương, muội đến bây giờ hãy còn nhớ rõ...”

    Tôi khẽ gật đầu, trầm giọng nói: “Ta hiểu.”

    Đi tới bên ngoài Thủy Lục Nam Huân điện, chỉ thấy bốn phía đều không có tiếng động, im lặng tựa chốn không người. Tôi đang định sai gã thái giám canh gác bên ngoài đi vào bẩm báo, chợt một tiếng “két” vang lên, một nữ tử hờ hững cất bước ra ngoài, hóa ra là Diễm Tần với khuôn mặt vô cùng uể oải.

    Nàng ta ngẩng lên nhìn thấy tôi thì hơi nhún người coi như hành lễ. Tôi vội đưa tay đỡ lấy nàng ta. “Đã khiến muội muội phải chịu ấm ức rồi.”

    Nàng ta cười gượng gạo, nói: “Quả thế thật, ngày nào cũng phải ngồi trên ghế không được động đậy, không được nói năng, lại còn phải nhìn Hoàng thượng đầy lòng ưu phiền mà chẳng thể phát tác, ta quả thực rất mệt.”

    Tôi khẽ gật đầu, nói: “Đã tới lúc này rồi, Hoàng thượng làm gì có tâm tư mà sủng hạnh phi tần, thành ra khiến muội muội phải chịu tiếng oan.”

    Nàng ta cười nhạt một tiếng, trong mắt ánh lên những tia lạnh tựa băng sương. “Ta quen rồi. Ngoài ta ra thì làm gì còn ai gánh nổi tội danh như thế.”

    Lòng tôi thầm chua xót, đang định mở lời thì bỗng nghe ở phía trong, Huyền Lăng cất tiếng cười vang sang sảng. “Hay! Bệnh dịch quả nhiên đã bùng phát rồi, đây đúng là một tin mừng lớn!”

    Tôi vội vàng ngoảnh đầu lại, thấy Lý Trường cũng tỏ ra hết sức ngạc nhiên và khó hiểu. Diễm Tần hờ hững đưa mắt nhìn tôi, nói: “Vừa rồi Tiểu Hạ Tử đã đi vào.”

    Lý Trường kinh ngạc bật thốt: “Nô tài cũng chỉ mới hay tin thôi, Tiểu Hạ Tử cớ gì mà lại biết được tin này nhanh như thế chứ?”

    Diễm Tần chỉnh lại cổ áo một chút, thấp giọng nói: “Thục phi cẩn thận một chút, Tiểu Hạ Tử là người của Hồ Uẩn Dung.”

    Tôi lập tức hiểu rõ nguồn cơn, bèn cười, nói: “Lý Trường, ngươi mau vào hầu hạ Hoàng thượng đi. Bản cung mệt rồi, phải về nghỉ ngơi đây.”

    Rốt cuộc vào buổi trưa ba ngày sau, Huyền Lăng đã cho bày tiệc ở Thái Bình hành cung để tiếp đãi Ma Cách Khả hãn từ xa tới. Ngay từ sáng sớm, Tiểu Doãn Tử đã tấm tắc nói với tôi: “Nghe nói Ma Cách Khả hãn đã tiến cống một con gấu, hình như hung dữ vô cùng.” Kế đó y lại lắc đầu nguầy nguậy. “Người khác đa phần đều tiến cống vàng bạc châu báu hoặc lụa là hương liệu, y thì hay lắm, lại đi tiến cống một con gấu, rõ là loại man di có khác.”

    Tôi nghe thế thì chỉ cười nhạt không nói gì. Một con gấu mà thôi, sát tâm liệu có đáng sợ hơn con người được không?

    Tôi chậm rãi vẽ lông mày trong sự trầm lặng. Loa tử đại một thỏi giá ngang một hộc vàng, cứ thế được tô lên đôi hàng lông mày lá liễu của tôi. Mấy năm nay do những phen sát phạt mà trên đôi mày của tôi đã có thêm mấy tia sát khí, do đó phải vẽ sao cho tròn đầy một chút, vậy mới toát ra được vẻ ôn hòa, điềm đạm.

    Vì Thái hậu vừa mất nên dù là trong yến tiệc cũng không thể mặc đồ bắt mắt, hôm nay tôi chỉ khoác một chiếc áo dài có ống tay áo rộng màu vàng, bên trên thêu hình hoa phù dung, phía dưới là chiếc váy màu xanh thêu hoa hải đường. Khi búi cao mái tóc và cài chiếc bộ dao hình phượng hoàng lên trên, tôi chợt nhớ lại những ngày cùng ra ngoài du ngoạn với Huyền Thanh năm xưa, quãng thời gian ấy mới thật tươi đẹp biết nhường nào, tiếc thay nó đã một đi không trở lại.

    Ngoài cửa sổ, những loài hoa mùa hè nở đẹp như gấm vóc, vô số bông sen đỏ vẫn chen chúc nhau bên ngoài Nghi Phù quán chẳng khác gì mọi năm, chỉ duy có con người là đã trở nên khác biệt, cả dung mạo và trái tim đều bị thời gian làm hao mòn và phá hủy mất cái vẻ ban sơ.

    Trong bữa tiệc hôm nay, Huyền Thanh dắt theo cả Ngọc Ẩn tới tham dự, mỗi lần gặp mặt thế này, liệu y có cảm thấy tôi ngày càng khác với Chân Hoàn của năm xưa không?

    Vừa nghĩ như vậy, tôi liền không kìm được có chút cảm khái, lòng thoáng nỗi u buồn, bèn đặt cây trâm vàng đang cầm trong tay xuống bàn. Cận Tịch đã phát giác ra sự khác thường của tôi, bèn đuổi hết đám người dưới ra ngoài, lại cẩn thận chọn lấy một cặp bông tai ngọc hình chim én rồi đeo lên tai cho tôi, đồng thời dịu giọng nói: “Nô tỳ biết là nương nương không muốn gặp Vương gia ở trong cung, cũng biết là Ẩn phi vốn có bệnh đa nghi khá nặng, tấm lòng của nương nương Ẩn phi chưa chắc đã biết, mà nếu nhìn thấy vẻ mặt của nương nương lúc này, chỉ e nàng ta sẽ rất không vui.” Hơi dừng một chút, nàng ta lại khẽ cất tiếng thở dài. “Sau khi Tĩnh phi qua đời, Vương gia vẫn đối xử với Ẩn phi khách sáo như trước, người ngoài nhìn vào đều nói là phu thê họ ân ái vô cùng, nhưng nội tình thế nào thì chúng ta đều rõ cả. Phân Nhi mấy lần về đây đều đã nói rồi, Vương gia tuy thường qua đêm ở chỗ Ẩn phi nhưng hai người chẳng trò chuyện gì với nhau cả, chỉ diễn tuồng cho thiên hạ xem mà thôi. Nô tỳ nhủ thầm rằng Vương gia vốn thông minh, chỉ e sớm đã hoài nghi cái chết của Tĩnh phi có vấn đề rồi.”

    Tôi khẽ thở dài một tiếng, đôi hàng lông mày nhíu chặt. “Ta nào phải không biết điều này, nhưng Vương gia đã chịu nhẫn nhịn như thế, chắc hẳn vẫn còn để ý tới thể diện của nhà họ Chân, huống chi Ngọc Ẩn quả thực đã biết lỗi rồi, thời gian qua luôn chăm sóc cho Dư Triệt hết sức chu đáo, cẩn thận. Chúng ta đều biết rõ cuộc sống của muội ấy ở vương phủ chỉ có vẻ hào nhoáng bề ngoài mà thôi, thực ra khổ sở vô cùng, thêm nữa muội ấy từ nhỏ đã phải trải qua vô vàn trắc trở, khó tránh khỏi hay cả nghĩ, thành ra ta cũng không nhẫn tâm trách cứ quá nhiều. Bên phía Vương gia ta đã kêu Thái Cát lựa lời khuyên nhủ rồi, dù sao cả cuộc đời này bọn họ cũng phải ở bên nhau, cứ thế này mãi thì làm sao được?”

    Cận Tịch gật đầu, nói: “Một phen khổ tâm của nương nương nô tỳ biết rõ, cũng biết vì cớ gì mà nương nương lại che chở cho Ẩn phi như vậy. Thực ra Ẩn phi dù có lỗi lầm nhưng nhìn từ góc độ của Ẩn phi mà nói, nàng ta tất nhiên không hy vọng nương nương có dính dáng tới Vương gia, do đó mỗi lần nương nương không vui, nàng ta đều khó tránh khỏi sinh lòng nghi ngờ. Mà mọi người trong cung nhìn vào nương nương thì đều cảm thấy nương nương thân là Thục phi, rất được ân sủng, hẳn nhiên không bao giờ phải buồn bã. Nô tỳ biết trước mặt người ta, nương nương luôn phải gượng nở nụ cười, trong lòng thực là mười phần bất nhẫn, nhưng nô tỳ vẫn phải khuyên nương nương một câu này, đã gượng cười trước mặt người ta rồi thì sau lưng người ta đừng nên để lộ vẻ bi thương. Trong cung có nhiều tai mắt, biết bao người lại đang nhòm ngó ngôi vị của nương nương, nương nương cần phải quen với việc không bao giờ gỡ bỏ mặt nạ thì mới giữ được sự bình an vĩnh viễn.”

    Tôi thở dài, than: “Cận Tịch, trước nay chỉ có ngươi là chịu hiểu ta, nhắc nhở ta thôi. Thân ở trong chốn cung đình, ta quả thực không nên nhớ lại việc xưa mà làm tăng thêm những nỗi niềm phiền não.”

    Cận Tịch dịu dàng cười, nói: “Không phải là không nên nhớ lại. Nô tỳ biết quãng thời gian vui vẻ nhất trong cuộc đời này của nương nương là khi nào, nếu không có quãng thời gian đó, cuộc sống của nương nương chỉ e sẽ càng vất vả. Có điều nô tỳ cảm thấy, dù là mừng hay giận thì cũng cần thể hiện ra đúng lúc, chỉ có như vậy thì mọi việc mới ổn thỏa được.” Nàng ta chỉnh lại xiêm y giúp tôi, sau đó mới mỉm cười nói tiếp: “Mong là nương nương sau này có thể thường xuyên tươi cười.”

    Dù gặp gỡ cũng chỉ coi nhau như người xa lạ, đó mới là lối hành xử thích hợp nhất của tôi và y trong thời điểm này. Tôi nhìn vào gương rồi nở một nụ cười thích hợp với thân phận Thục phi nhất, thực là đoan trang, nền nã khó mà dùng lời để miêu tả. Có điều trong khoảnh khắc ấy, tôi lại không kìm được thầm kinh hãi, từ lúc nào mà nụ cười của tôi lại có mấy phần dáng vẻ của Hoàng hậu năm xưa thế này?
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 10: Trong trướng cửu hoa đã giật mình[13]
    [13] Trích Trường hận ca của Bạch Cư Dị. Dịch thơ: Phương Sơn. Nguyên văn Hán Việt: Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh - ND.

    Khi tôi chậm rãi bước vào nơi bày tiệc là Thủy Vân Gia Ấm đường thì Huyền Lăng đã ở đó rồi. Trang Mẫn Phu nhân đưa quạt lên che một nửa khuôn mặt, cất giọng hờ hững nói: “Thục phi quả nhiên vẫn là tôn quý nhất, trong bữa tiệc hôm nay mà cũng tới sau cùng.”

    Tôi chỉ khẽ cười một tiếng theo phép lịch sự, sau đó không để ý đến nàng ta mà chỉ quay sang hành lễ với Huyền Lăng: “Thần thiếp biết là bữa tiệc hôm nay quan trọng nên không dám sơ sài, bằng không thì thực là làm mất thể diện của hoàng tộc.”

    Huyền Lăng chăm chú nhìn tôi một lát rồi gật đầu cười, nói: “Tốt lắm. Thực ra dù nàng để mặt mộc tới đây thì cũng chẳng thất lễ đâu, có điều hôm nay trang điểm như vậy trông lại càng đoan trang, cao quý hơn nhiều.” Hơi trầm giọng xuống, y nắm lấy bàn tay tôi. “Trước mặt người Hách Hách quyết không thể làm mất sự uy nghi của thiên triều ta được.” Tôi khẽ cười nền nã, cất giọng vui vẻ nói: “Có thiên uy của Hoàng thượng ở đây, người Hách Hách ắt chẳng dám càn rỡ.”

    Trinh Phi nở một nụ cười dịu dàng tựa như hạt mưa tháng Ba đậu trên chóp lá, thành khẩn nói: “Có Hoàng thượng ở đây, mọi việc tất nhiên sẽ đều thuận lợi.”

    Huyền Lăng khẽ mỉm cười, có điều còn chưa kịp trả lời thì Trang Mẫn Phu nhân đã bước lên phía trước, đưa tay chỉnh lại vạt áo cho y, lại liếc mắt qua phía Trinh Phi. “Có Hoàng thượng ở đây, mọi việc thuận lợi là lẽ đương nhiên, lời này của Trinh Phi thật thừa thãi quá, cứ như là hiện tại đang có việc gì không thuận lợi vậy.”

    Trinh Phi thoáng có chút sượng sùng, đang định biện bạch thì Trang Mẫn Phu nhân đã cười khanh khách rồi ngẩng lên nhìn Huyền Lăng. “Biểu ca hôm nay thật có khí thế quá, khiến Dung Nhi bỗng nhớ lại dáng vẻ uy chấn tứ hải của biểu ca khi tiếp kiến ngoại thần tứ di năm xưa. Khi đó sứ thần Hách Hách quỳ mọp dưới đất như phải đối mặt với người trời, Dung Nhi tới bây giờ vẫn nhớ rõ bộ dạng run rẩy sợ hãi của hắn.” Nàng ta lộ rõ vẻ ngạo nghễ. “Lũ người man di Hách Hách đúng là vô tri, biểu ca hôm nay nhất định phải cho bọn chúng biết thế nào là lễ độ đấy nhé!”

    Huyền Lăng nghe thế thì rất vui vẻ, quên bẵng cả việc an ủi Trinh Phi, mỉm cười cầm tay Hồ Uẩn Dung, nói: “Trẫm nhớ là năm đó nàng mới có tám, chín tuổi thôi...”

    Hồ Uẩn Dung nở nụ cười rạng rỡ, hai bờ má thoáng ửng hồng. “Dung Nhi khi đó tuy còn ít tuổi nhưng đã vô cùng ngưỡng mộ khí khái phi phàm của Hoàng thượng rồi.”

    Trinh Phi đưa mắt nhìn bóng lưng Huyền Lăng, bất giác lộ vẻ buồn bã. Tôi vội nháy mắt ra hiệu cho Kết Ngạnh đứng sau lưng nàng ta. Kết Ngạnh lập tức hiểu ý, khẽ đẩy khuỷu tay Trinh Phi một cái. Trinh Phi tới lúc này mới tỉnh táo trở lại, vội vàng che giấu thần sắc của mình. Đức phi nhìn không vừa mắt, ghé tới bên tai tôi khẽ nói: “Nàng ta càng ngày càng kiêu ngạo, ngày sau nếu trở thành hoàng hậu thì còn ghê gớm đến thế nào nữa đây?” Dứt lời liền nhìn qua phía Đoan Quý phi, trong mắt thấp thoáng vẻ âu lo. Từ sau chuyện Hoàng hậu Đức phi liền hết sức khâm phục khí độ của Đoan Quý phi, lúc này thấy Hồ Uẩn Dung cao ngạo thì liền muốn dò hỏi xem Đoan Quý phi có ý thế nào. Đoan Quý phi làm như không nhìn thấy, bên khóe môi thấp thoáng một nụ cười như có như không.

    Một lát sau, các nhũ mẫu dẫn theo các vị hoàng tử và công chúa đi vào trong điện, đưa chúng tới ngồi bên cạnh mẫu phi của mình. Trinh Phi nhìn thấy Dư Bái thì sắc mặt mới hơi dãn ra, thoáng lộ vẻ mừng vui. Tôi nhìn Hồ Uẩn Dung đang tươi cười rạng rỡ bên cạnh Huyền Lăng, rồi lại nhìn Trinh Phi đượm vẻ thê lương, bất giác sinh lòng trắc ẩn. Đoan Quý phi khẽ lắc đầu, lấy cớ là thân thể không khỏe mà xin phép cáo từ rời đi.

    Huyền Lăng thương nàng ta thường ngày nhiều bệnh nên cũng không níu giữ, nói: “Có Thục phi ở đây là được rồi.” Sau đó liền để Ôn Nghi đưa nàng ta về cung.

    Hồ Uẩn Dung vốn đứng bên cạnh Huyền Lăng trò chuyện, lúc này thấy Đoan Quý phi đứng dậy thì cười, nói: “Biểu ca cứ nghe muội nói chuyện thế thôi, chẳng chịu quan tâm xem muội có mệt không gì cả.”

    Kể từ khi Hoàng hậu bị cấm túc, bên cạnh Huyền Lăng không còn bày bảo tọa hoàng hậu nữa, người có địa vị tôn quý nhất trong cung là Đoan Quý phi, mỗi lần mở tiệc, ghế quý phi đều được bày ở hàng đầu phía đông ngự tọa, còn ghế thục phi thì bày ở phía tây. Lúc này Đoan Quý phi còn chưa bước chân ra ngoài điện, thế mà Hồ Uẩn Dung đã thản nhiên ngồi vào ghế quý phi như đang ở chốn không người, tức thì tất thảy mọi người đều biến sắc mặt, có điều không ai dám ho he lời nào.

    Khi Đoan Quý phi đi tới trước cửa điện thì vừa khéo Ôn Nghi Công chúa nghe thấy động tĩnh mà quay đầu lại, thấy thế thì biến hẳn sắc mặt. Ôn Nghi là vị công chúa có tính tình ôn hòa nhất, xưa nay lại được Quý phi dạy dỗ cẩn thận, do đó hết sức nền nã, tuy tuổi mới chỉ mười mấy nhưng mừng giận đã không tùy tiện để lộ ra ngoài mặt rồi. Thế nhưng lúc này nhìn thấy Hồ Uẩn Dung ngang ngược như vậy, cô bé không kìm được nôn nóng, nói: “Trang Mẫn Phu nhân, đó là ghế của mẫu phi ta.”

    Ôn Nghi chắc hẳn vì quá yêu quý Đoan Quý phi nên không thích Hồ Uẩn Dung, trong cơn nôn nóng thậm chí đến hai chữ “mẫu phi” cũng không gọi mà gọi thẳng phong hiệu của nàng ta. Sau tiếng gọi ấy, cả Hân Phi cũng không kìm nén được, buột miệng nói: “Phu nhân chỉ thuộc hàng tòng nhất phẩm, không nên ngồi vào ghế quý phi chính nhất phẩm kẻo làm loạn tôn ti.”

    Hồ Uẩn Dung không để ý tới những lời bàn luận của mọi người phía dưới, chỉ nghiêng đầu nhìn Huyền Lăng rồi nở một nụ cười rất mực ngây thơ. “Biểu ca, muội đứng mãi nên mệt quá rồi, nếu ngồi ở xa thì e là không thể nói chuyện với biểu ca được.”

    Lời của nàng ta hết sức dịu dàng, thân mật khiến người ta khó mà từ chối. Huyền Lăng nhất thời có chút trù trừ, bèn nhìn theo bóng lưng Đoan Quý phi tỏ vẻ dò hỏi. Mọi người tức thì đều yên lặng dõi mắt về phía Đoan Quý phi, chờ xem nàng ta phản ứng thế nào về mối nhục bị chiếm mất chỗ ngồi. Người thẳng thắn như Hân Phi thậm chí đã lộ vẻ chờ mong, hy vọng Đoan Quý phi sẽ dùng thân phận tôn quý nhất hậu cung mà dạy cho Hồ Uẩn Dung vốn ngày càng kiêu ngạo một bài học.

    Đoan Quý phi chậm rãi xoay người lại, chỉ lạnh lùng đưa mắt nhìn qua phía Hồ Uẩn Dung một chút, sau đó liền làm ra vẻ việc không liên quan tới mình, chỉ cầm tay Ôn Nghi, ôn tồn nói: “Lương Ngọc, theo mẫu phi về cung thôi.” Ôn Nghi dù sao cũng còn nhỏ, tuy đã ngoan ngoãn vâng lời nhưng giữa đôi hàng lông mày vẫn lộ rõ vẻ phiền muộn. Đoan Quý phi ngoảnh đầu qua nhìn thấy, bèn cất giọng càng dịu dàng hơn: “Lương Ngọc, phàm việc gì cũng chớ nên nôn nóng, như vậy mới giữ được chừng mực. Hôm nay con ăn nói bộp chộp quá, mẫu phi phạt con dùng lửa nhỏ đun thuốc trong vòng ba canh giờ, lấy đó xua đi sự xốc nổi trong con.”

    Ôn Nghi suy nghĩ một lát, sau đó đỏ mặt khẽ đáp “vâng” một tiếng. Hai mẹ con họ vừa trò chuyện vừa chậm rãi bước đi, chẳng bao lâu sau đã không còn bóng dáng.

    Trong điện lúc này vô cùng tĩnh lặng, một số phi tần sau một hồi nghiền ngẫm những lời nói và cử chỉ của Đoan Quý phi liền không kìm được lộ ra vẻ kính sợ với Hồ Uẩn Dung, lại càng không dám nói nhiều. Tôi thì suy nghĩ về mấy lời đó của Đoan Quý phi, lập tức hiểu rõ nguồn cơn. Có lẽ vì lúc này trời quá nóng, Hồ Uẩn Dung mặt mũi đều đã đỏ bừng, trề môi ra nói với Huyền Lăng đang nhìn chằm chằm vào nàng ta. “Biểu ca xem đó, Quý phi cũng đâu có nói gì đâu.”

    Phía bên dưới, Huyền Thanh chợt bật cười khúc khích, vừa phe phẩy chiếc quạt xếp trong tay vừa chậm rãi nói: “Lời này của Phu nhân làm Thanh bỗng nhớ tới câu chuyện “bịt tai trộm chuông” mà Ngọc Ẩn dùng để dạy con hôm qua, chẳng biết Phu nhân có từng nghe nói tới câu chuyện này chưa?”

    Hồ Uẩn Dung hơi cau mày lại, thoáng lộ ra vẻ giận dữ, khó khăn lắm mới kìm nén được, bèn ngoảnh đầu qua một bên không thèm để ý tới y. Ngọc Ẩn ngồi kế bên che miệng cười, nói: “Vương gia nói đùa rồi, Phu nhân học rộng, có lý nào mà lại thua một đứa trẻ con chứ!”

    Huyền Thanh khẽ lắc đầu, nói: “Quý phi tính tình đoan trang nền nã, trong cung không có ai là không kính phục, chắc hẳn Phu nhân cũng thế cho nên mới thích đồ của Quý phi như vậy.” Rồi y ra vẻ như nói đùa với Huyền Lăng: “Thần đệ nghĩ hoàng huynh có thể để Phi Hương điện và Yến Hy điện đổi chủ một phen, được vậy Phu nhân hẳn sẽ thỏa lòng thỏa ý.”

    Đoan Quý phi vốn không thích xa hoa, thành ra Phi Hương điện bấy lâu nay vẫn giản dị vô cùng, còn Hồ Uẩn Dung thì ỷ rằng mình được sủng ái nên thứ gì ở Yến Hy điện cũng quý báu tột bậc. Hồ Uẩn Dung nghe thế liền không kìm được cười lạnh, nói: “Lục biểu ca chịu suy nghĩ cho muội như thế thực là hiếm có, bằng không muội lại cứ nghĩ là không phải người cùng tộc thì tâm tính ắt sẽ khác biệt.” Rồi nàng ta nhướng mày lên, giọng nói lại càng cay nghiệt: “Càng hiếm có hơn là bao năm nay lục biểu ca vẫn luôn dốc lòng khổ học, chứ một nơi khỉ ho cò gáy như Bãi Di thì chắc chẳng dạy cho lục biểu ca biết câu chuyện bịt tai trộm chuông được đâu.” Nghe thấy mấy lời này, Huyền Thanh vẫn chỉ mỉm cười bình thản, nhưng Ngọc Ẩn thì đã tái nhợt mặt mày. Huyền Lăng khẽ nở nụ cười mỉm, quay sang nhìn Hồ Uẩn Dung, nói bằng giọng như trách trẻ con: “Ngồi thì cứ ngồi đi, còn chưa uống rượu mà đã nói linh tinh rồi.” Sau đó lại quay sang cười nói với Huyền Thanh: “Đệ biết đấy, Uẩn Dung bấy lâu nay được Tấn Khang Quận chúa chiều quá thành hư mất rồi, đệ đừng tính toán với nàng ấy.”

    Huyền Thanh cười nhạt, nói: “Quý phi nương nương bụng dạ rộng rãi, Thanh đương nhiên phải học theo rồi, sao có thể tính toán gì với Phu nhân được.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu. Lý Trường đứng kế bên khẽ nói: “Hoàng thượng, Ma Cách Khả hãn đã chờ ngoài điện rồi...”Huyền Lăng nghiêm túc nói: “Tuyên hắn vào đi.”

    Lý Trường vội vàng đi tới trước cửa điện, lớn tiếng nói: “Tuyên Ma Cách Khả hãn vào tấn kiến...”

    Lời còn chưa dứt thì những tiếng ủng da “lộp cộp” nện xuống đất đã không ngớt vang lên. Huyền Lăng thoáng lộ vẻ không vui, Hồ Uẩn Dung thì cau mày lại, nói: “Không có ai dạy hắn những lễ tiết khi diện thánh ư? Đi lại lớn tiếng thế này lẽ nào không sợ làm kinh động tới thánh giá?”

    Tôi thầm kinh ngạc, tại nơi cung cấm mà cũng dám vô lễ thế này, Ma Cách Khả hãn rốt cuộc là một nhân vật như thế nào?

    Đang lúc tôi thầm kinh ngạc thì một nam tử to lớn vạm vỡ đã ngẩng cao đầu, rảo bước đi vào. Y vận một bộ vương phục màu đỏ sậm của người Hách Hách, khuôn mặt đằng sau bộ râu quai nón trông cực kỳ góc cạnh, cặp mày kiếm nhướng cao, đôi mắt thì đen láy sâu thẳm như không thấy đáy, toàn thân chẳng khác nào một thanh kiếm sắc tỏa ra những tia sáng lạnh băng.

    Tôi không kìm được thầm hít vào một hơi khí lạnh, cảm thấy luồng khí lạnh đó không ngừng cào xé lục phủ ngũ tạng của mình, làm tôi như rơi xuống hầm băng.

    Tôi đến chết cũng không thể nào quên được, cho dù có thêm bộ râu quai nón nhưng khuôn mặt của Ma Cách hoàn toàn giống với nam tử mà tôi từng gặp trên Huy Sơn năm xưa, chẳng có chút nào khác biệt.

    Sự chấn động trong lòng lúc này thực không lời nào tả nổi, tôi vội vàng che giấu thần sắc của mình, ánh mắt thì không kìm được nhìn qua phía Huyền Thanh. Thế rồi tôi bắt gặp ánh mắt đầy vẻ quan tâm của y, và y khẽ gật đầu một cái, đưa tay nắm lấy bàn tay Ngọc Ẩn rồi đặt lên mặt bàn.

    Ngọc Ẩn lập tức hiểu ý, khẽ mỉm cười ra hiệu với tôi. Tôi suy nghĩ một chút rồi thần sắc trở lại như thường, thản nhiên ngồi đó.

    Ma Cách rảo bước đi vào trong điện, hai mắt nhìn chằm chặp vào Huyền Lăng, chẳng buồn để ý tới ai khác, lại càng chẳng có chút vẻ nhún nhường. Một vị sứ giả Hách Hách đứng cạnh y khom người, nói: “Khả hãn nước ta xin có lời chào gửi tới Hoàng đế Đại Chu.”

    Ma Cách khẽ cười một tiếng, không quỳ xuống mà cũng chẳng nhún người, chỉ ôm quyền cung tay coi như hành lễ.

    Dù Huyền Lăng có lòng nhẫn nại nhưng thấy Ma Cách như vậy thì cũng không kìm được hơi biến sắc mặt. Hồ Uẩn Dung xưa nay vốn tâm cao khí ngạo, làm sao cho phép Ma Cách vô lễ với Huyền Lăng như thế, lập tức đứng dậy, bừng bừng giận dữ nói: “Hách Hách đã tới đây tấn kiến, cớ gì lại không hành lễ diện kiến thánh thượng theo quy củ của Đại Chu, đã thế còn không nói lời thỉnh an, thực là to gan!”

    Hồ Uẩn Dung hôm nay vận một bộ lễ phục màu đỏ sậm, tuy đang tức giận nhưng do trên người treo đầy đồ trang sức vàng ngọc nên trông lại càng diễm lệ, quý phái. Ma Cách chẳng hề giận dữ, chỉ nở một nụ cười giễu cợt rồi dùng tiếng Hách Hách nói mấy câu gì đó với Hồ Uẩn Dung.

    Các phi tần ngồi đây không ai hiểu tiếng Hách Hách, không kìm được ngơ ngác nhìn nhau. Hồ Uẩn Dung cũng không biết Ma Cách nói gì, có điều thấy hắn tỏ ra giễu cợt thì cũng biết không phải là lời hay ho gì cả, trong cơn lúng túng lại càng giận dữ.

    Sứ giả Hách Hách nở một nụ cười xấu xa, sau đó liền cung tay, dùng tiếng Hán nói: “Nương nương chớ nên tức giận. Vừa rồi nương nương trách Khả hãn tệ quốc không bái kiến bằng lễ số Trung Nguyên, cũng không nói lời chào hỏi, kỳ thực Khả hãn tệ quốc lo Hoàng đế Đại Chu không hiểu tiếng Hách Hách, do đó mới dùng hành động ôm quyền để bái kiến.” Hơi dừng một chút, gã nhếch khóe môi để lộ vẻ giễu cợt. “Từ lâu đã nghe nói Thục phi nương nương nắm quyền quản lý hậu cung, vì thông minh sáng suốt mà được Hoàng đế Đại Chu sủng ái, hóa ra lại không hiểu đạo lý này như vậy.”

    Đức phi nghe thấy thế liền lén che miệng cười, biết rằng sứ giả Hách Hách thấy Hồ Uẩn Dung ăn vận xa hoa, lại ngồi ở vị trí tôn quý nhất bên cạnh Huyền Lăng nên cho rằng nàng ta là Thục phi. Hồ Uẩn Dung muốn phản bác nhưng lại thấy như thế có phần không ổn, đành giận dữ ngồi xuống, chẳng nói năng gì.

    Ma Cách đại khái có thể nghe hiểu tiếng Hán, thấy sứ giả gọi Hồ Uẩn Dung là Thục phi thì đôi hàng lông mày hơi máy động, khẽ lắc đầu, đưa mắt nhìn khắp xung quanh một lượt. Lát sau, tròng mắt y bất giác hơi co lại vẻ khó tin, sau một hồi trầm tư suy nghĩ lại cẩn thận ngó qua khuôn mặt tôi mấy bận, cuối cùng thì khóe môi hơi nhếch lên, đưa tay đặt lên thanh chủy thủ đeo bên hông. Cặp mắt y lóe lên ánh tinh quang, ngay sau đó đã trở lại như thường, chỉ khẽ mỉm cười nhìn Huyền Lăng. Lúc này quan phiên dịch tuy đang ở bên nhưng lại rất sợ phải chứng thực cái tiếng vô lễ của Hồ Uẩn Dung, thành ra không dám dịch lại những lời của Ma Cách cho mọi người nghe.

    Huyền Lăng đưa tay nắm lấy tay tôi, hờ hững cất tiếng dặn dò Hồ Uẩn Dung: “Nàng không cần ở cạnh trẫm nữa, quay về chỗ của mình đi.”

    Hồ Uẩn Dung cắn chặt môi quay trở về chỗ của mình, lại ôm Hòa Mục vào lòng mà hậm hực ngồi im.

    Tôi hiểu tâm ý của Huyền Lăng, bèn đứng dậy bưng một chén rượu nho, chậm rãi đi tới trước mặt Ma Cách. Hắn cho rằng tôi đi tới kính rượu, bèn cười khẩy một tiếng, định đưa tay ra đón lấy. Tôi đột ngột rụt tay về, chậm rãi rưới chén rượu xuống khoảng đất trống trước mặt Ma Cách, đoạn mỉm cười hướng đáy chén rượu đã trống không về phía y cho y xem, sau đó mới lùi về phía sau hai bước.

    Ma Cách hơi nheo mắt lại, trong mắt ánh lên một tia lạnh băng, lạnh lùng nói bằng tiếng Hán: “Người Hán chỉ khi tế người chết mới rưới rượu xuống đất, ngươi rủa bản hãn đó ư?”

    Tôi mỉm cười, chậm rãi nói: “Không ngờ Khả hãn lại nói tiếng Hán giỏi như vậy, thật khiến người ta khâm phục!” Tôi để ý thấy hắn chưa tan cơn giận, còn lạnh lùng đưa mắt liếc qua phía Huyền Thanh, trong lòng không khỏi thầm kinh sợ, nhưng bề ngoài vẫn cười nói như thường. “Khả hãn hiểu lầm rồi, bản cung đâu có rủa gì Khả hãn, chỉ đang đón tiếp Khả hãn bằng lễ quý khách đấy thôi.” Tôi đích thân rót đầy một chén rượu nho nữa, sau đó mới cất giọng nền nã nói tiếp: “Khả hãn là khách quý của thiên triều, lại lần đầu tiên vào triều tấn kiến thiên tử Đại Chu ta, Đại Chu trên tới Hoàng thượng, dưới tới lê dân, không có ai là không vui mừng nghênh đón. Vậy nên chén rượu đầu tiên kia ta mới dùng để cảm tạ hoàng thiên hậu thổ vì đã đưa khách quý tới đây.”

    Hắn khẽ “hừ” một tiếng, lạnh lùng đưa mắt nhìn lướt qua khuôn mặt tôi, từ trong giọng nói khó mà nghe ra được là hắn đang mừng hay giận: “Lời này có phần khiên cưỡng quá.”

    Tôi nở nụ cười tươi, ôn tồn nói: “Xem ra hành vi của bản cung đã khiến Khả hãn nghi ngờ, dùng lời biện bạch thì khó mà khiến Khả hãn thỏa mãn. Thế nhưng vừa rồi khi Khả hãn vào đây chỉ ôm quyền hành lễ với Hoàng thượng, lại dùng tiếng Hách Hách để trò chuyện với những nữ tử cả ngày chỉ ở trong chốn thâm cung như bọn ta, chẳng trách lại làm Trang Mẫn Phu nhân không vui. Bản cung lấy đạo của người để trả lại cho người như thế là vì nữ nhân lòng dạ đều nhỏ mọn, nhưng Khả hãn là bậc trượng phu hào kiệt, ắt sẽ không khó chịu vì việc vừa rồi đâu đúng không?”

    Ma Cách lặng im một lát rồi hơi nhếch khóe môi. “Thục phi mồm miệng lém lỉnh, thật chẳng giống với một người cả ngày chỉ ở trong chốn thâm cung chút nào.”

    Tôi hơi khom người, bình tĩnh nói: “Khả hãn quá khen rồi, bản cung tài thô học thiển, có chút hiểu biết cũng là nhờ Hoàng thượng thỉnh thoảng chỉ dạy cho, đâu có đáng để Khả hãn ngợi khen như thế.”

    Y nhìn tôi rồi nở một nụ cười đầy ý vị, sau đó lại quay sang nói giọng trách cứ với gã sứ giả kia: “Vị này mới là Thục phi của Đại Chu, sao vừa rồi ngươi lại nhận người bừa bãi như thế?”

    Gã sứ giả đó đỏ mặt tía tai, vội khom người tự trách. Tôi chỉ cười nhạt, nói: “Khả hãn bất tất phải trách y làm gì, Đại Chu và Hách Hách bấy lâu nay chẳng qua chỉ trao đổi buôn bán thông qua Hỗ Thị, thời gian qua thì lại có chiến tranh, khó tránh khỏi khiến sự hiểu biết về nhau suy giảm. Nếu chuyến ghé thăm của Khả hãn lần này có thể khiến Hách Hách và Đại Chu trở thành những nước huynh đệ lân bang, một lòng hòa hảo, như thế hai bên ắt sẽ hiểu biết về nhau nhiều hơn, mà lê dân trăm họ chắc hẳn cũng sẽ mừng rỡ vô cùng.”

    Tôi thướt tha bước tới, đưa chén rượu trong tay cho Huyền Lăng đang vui vẻ cười tươi. Y khẽ gật đầu với tôi, sau đó liền nâng chén rượu về phía Ma Cách. “Lời của Thục phi cũng chính là mong muốn trong lòng trẫm, mời Khả hãn uống cạn chén này để tỏ mừng cho cuộc gặp gỡ ngày hôm nay.”

    Tôi xoay người quay trở về chỗ của mình, lén lau đi những giọt mồ hôi lạnh túa đầy ra lòng bàn tay, ngoài miệng thì vẫn giữ nguyên nụ cười đoan trang nền nã.

    Ma Cách uống một hơi cạn sạch chén rượu, sau đó nói bằng tiếng Hán: “Chúc Hoàng đế Đại Chu vạn phúc vĩnh thọ. Phúc lý tuy chi, thọ khảo miên hồng[14].”

    [14] “Phúc lý tuy chi” là một câu thơ trích từ bài Cưu mộc trong Kinh Thi, có ý phúc lộc yên hưởng. “Thọ khảo miên hồng” ý rằng tuổi thọ dài lâu - ND.

    Tôi thầm kinh hãi, lời chúc của Ma Cách là những câu thơ trong Kinh Thi, đủ thấy kẻ này hiểu sâu về văn hóa của người Hán tới mức nào, e rằng hắn không chỉ ngưỡng mộ Hán học mà còn có dã tâm cực kỳ ghê gớm. Tôi không kìm được đưa mắt nhìn qua phía Huyền Lăng, thấy thần sắc y không đổi, chỉ cười tươi khen ngợi: “Khả hãn hình như rất thích Kinh Thi thì phải. Lục đệ của trẫm là Thanh Hà Vương tinh thông thi từ ca phú, Khả hãn khi nào rảnh rỗi có thể trao đổi với y một chút xem sao.”

    Ma Cách nhíu đôi mày rậm, cười nói với Huyền Thanh: “Đã lâu lắm không gặp cố nhân rồi.”

    Huyền Thanh mỉm cười hờ hững. “Khả hãn phong thái vẫn như xưa.”

    Ma Cách hơi nhướng mày lên, vỗ tay ba cái rồi gọi: “Người đâu!”

    Tức thì có gã người hầu bưng một chiếc hộp gấm đựng một chuỗi gồm chín chiếc vòng ngọc nối liền vào nhau tới, màu ngọc trong lấp lánh ôn hòa, lại được đựng trong hộp gấm màu đỏ nên vẻ đẹp lại càng tăng thêm, thực là một vật có giá trị liên thành, ngay đến các phi tần đã quen nhìn châu ngọc cũng không kìm được phải cất lời tán thán.

    Ma Cách cất giọng ôn tồn: “Hách Hách vốn không có ngọc, bản hãn nhiều năm trước từng kiếm được một chuỗi vòng ngọc chín chiếc nối liền, nghe nói vốn là một khối ngọc do những người thợ đào ngọc ở Tây Vực dùng không biết bao nhiêu mạng người để đổi lấy, sau đó lại phải trải qua rất nhiều công đoạn điêu khắc, mài giũa mới biến thành như thế này, tinh xảo vô song. Nhưng bản hãn lại được biết, chuỗi vòng ngọc này có thể gỡ ra, mà từ lâu đã nghe nói Trung Nguyên có nhiều bậc trí giả, chẳng hay Hoàng đế Đại Chu có thể mời ai đó giúp bản hãn gỡ chuỗi vòng ngọc này ra không?”

    Huyền Lăng mỉm cười, nói: “Hay lắm, hãy mang cho các vị đại thần xem qua một lượt, ai mà gỡ được trẫm sẽ ban thưởng thật hậu.”

    Lý Trường khom người đón lấy rồi bước ra khỏi điện. Huyền Lăng cho gọi ca nữ, vũ cơ lên, tức thì trong điện khách chủ đều vui, ăn uống linh đình. Một hồi lâu sau y mới hỏi: “Không có người nào gỡ được ư?”

    Lý Trường cúi đầu thưa: “Các vị đại thần đều nói chuỗi vòng này vốn dĩ liền nhau, không thể gỡ ra được.”

    Huyền Lăng nhìn kĩ một lát rồi nói: “Mang qua cho các vị Vương gia xem đi.”

    Lý Trường lại mang chuỗi vòng tới trước mặt mấy vị Vương gia. Kỳ Sơn Vương chăm chú quan sát một hồi lâu rồi vỗ đùi đánh “bốp” một cái, xua tay nói với Lý Trường: “Mau đi đi, bản vương nhìn đến hoa cả mắt rồi, hãy đem qua cho lục Vương gia xem ấy.”

    Huyền Thanh đón lấy xem qua một lát, tròng mắt hơi máy động, rồi cười nói với Huyền Lăng: “Thần đệ chịu thua.”

    Huyền Phần cũng cung tay, nói: “Thần đệ xưa nay vốn không thích mấy thứ vàng bạc châu báu, không giỏi ngón nghề này.”

    Huyền Lăng thoáng chút trầm ngâm rồi ôn tồn gọi tôi: “Thục phi.” Trong tiếng gọi ấy của y mang đầy sự kỳ vọng. Tôi bèn đón lấy chuỗi vòng ngọc, chăm chú quan sát một lát, thấy quả nhiên là không có kẽ hở nào, thế nhưng cũng không phải là không có cách. Đang lúc trầm ngâm, tôi chợt thấy Hồ Uẩn Dung với vẻ mặt lạnh tanh, bất giác tự nhủ rằng hôm nay mình đã đắc tội với nàng ta quá nhiều rồi, hơn nữa nhìn thần sắc của Huyền Thanh vừa rồi thì y chưa chắc đã không biết cách gỡ, y đã không muốn nói nhiều thì tôi hà tất phải nói nhiều làm gì.

    Tôi khẽ thở dài một tiếng, cúi đầu làm bộ hết cách, nói: “Thần thiếp bất tài.”

    Huyền Lăng nhanh chóng che giấu sự thất vọng, chậm rãi nói: “Không sao.”

    Đại điện tức thì trở nên yên lặng, tất thảy mọi người đều nín thở không nói gì. Ma Cách khẽ cất tiếng cười khinh miệt, gã sứ giả Hách Hách kia bèn đắc ý nói: “Hóa ra lời đồn Đại Chu có nhiều bậc trí giả chỉ là nhảm nhí mà thôi, thế mà bấy lâu nay bọn ta lại cứ tin là thật.”

    Thấy hắn làm nhục Đại Chu như vậy, đôi tai tôi bất giác nóng bừng, hiềm vì vừa nãy đã nói thế rồi nên bây giờ không tiện nói nhiều thêm. Đang lúc tôi khó xử thì chợt thấy Lung Nguyệt ngay cạnh mình hấp háy cặp mắt tròn xoe, đôi bàn tay nắm chặt, nhưng khổ nỗi chẳng nghĩ ra cách nào, cứ cắn môi mà trầm tư không ngớt. Tôi khẽ nắm lấy bàn tay con bé rồi kéo nó vào lòng, làm như vô ý rút một cây trâm ngọc từ trên búi tóc ra đập nhẹ xuống bàn, sau đó lại nháy mắt ra hiệu với Lung Nguyệt và làm bộ cúi đầu nghiền ngẫm suy tư.

    Lung Nguyệt chăm chú nhìn động tác của tôi, sau khi nghiêng đầu suy nghĩ một chút liền nở nụ cười rạng rỡ, chợt giãy ra khỏi lòng tôi rồi cười khanh khách, nói: “Phụ hoàng, con có cách rồi.”

    Huyền Lăng khẽ cười gượng gạo. “Ngay đến các đại thần trong triều còn phải chịu thua, một đứa bé như con thì có cách gì được chứ?”

    Lung Nguyệt sáng rực hai mắt, cất giọng yêu kiều: “Con vốn ít tuổi vô tri, cho dù có lỡ làm sai chuyện gì thì cũng không đến nỗi trở thành trò cười. Phụ hoàng cứ cho con thử một lần đi mà!”

    Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Vậy cũng được.”

    Lung Nguyệt ghé tới bên tai Hoa Nghi nói khẽ mấy câu, Hoa Nghi lập tức chạy đi mang một chiếc búa tới đưa cho con bé. Lung Nguyệt giơ chiếc búa lên, nhưng rồi lại có chút do dự nhìn qua phía tôi. Tôi chỉ khẽ mỉm cười, gật gật đầu với Lung Nguyệt tỏ ý khích lệ, thế là con bé không còn do dự gì nữa, cứ thế đập mạnh chiếc búa xuống.

    Chuỗi vòng ngọc tức thì vỡ nát thành mấy đoạn. Lung Nguyệt cười vang vui vẻ, nói: “Phụ hoàng, con làm được rồi này.”

    Huyền Lăng mỉm cười hài lòng, đưa tay khẽ vuốt ve bờ má Lung Nguyệt. “Oản Oản đúng là hiểu lòng trẫm nhất.”

    Con bé cười tươi như hoa, quay sang nhìn Ma Cách, kiêu ngạo nói: “Ngươi không cần khen ta thông minh, thần dân Đại Chu ai ai cũng biết, chẳng qua là không thèm nói với ngươi mà thôi. Sau này muốn đánh đố thì đừng đưa ra câu đố đơn giản thế này nữa.”

    Gã sứ giả Hách Hách kia trợn mắt há mồm, lắp bắp nói: “Ngươi... ngươi... Chuỗi vòng ngọc này có giá trị liên thành đấy.”

    Lung Nguyệt ngẩng cao đầu, nói: “Thế thì sao chứ? Ngươi chỉ yêu cầu gỡ vòng ngọc ra, đâu có nói là không được làm tổn hại tới chung.” Dừng một chút, con bé ngạo nghễ nói tiếp: “Huống chi những vật thế này ta từ nhỏ đã thấy nhiều rồi, ngươi chớ nên vì nó mà đánh mất khí độ của một sứ giả khiến người ta cảm thấy người Hách Hách nhỏ mọn.”Ma Cách hơi ngước mắt lên, lạnh lùng nói: “Mặc kệ ngươi nói thế nào đi nữa thì vật này cũng là quốc bảo của Hách Hách ta, ngươi đã làm hỏng nó rồi, bây giờ định giải thích thế nào đây?”

    Đức phi thấy giọng của Ma Cách có vẻ lạnh lùng thì vội vàng đứng dậy, nói: “Công chúa còn ít tuổi, cũng chỉ vô tâm mà thôi...”

    Tôi đưa tay kéo Đức phi lại, khẽ cười, nói: “Chúc mừng Khả hãn, Công chúa làm thế này là đem tới điềm lành cho Hách Hách đấy.”

    Y cười khẩy, nói: “Thục phi đúng là rất giỏi cưỡng từ đoạt lý.”

    Tôi đưa tay nhặt một mảnh vòng ngọc vỡ lên, ôn tồn nói: “Vừa rồi nghe Khả hãn nói thì chuỗi vòng ngọc này đã làm mất tính mạng của vô số người, ngọc lại vốn là vật âm thịnh, mà làm hại mạng người thì còn gây tổn thương tới âm đức, Khả hãn dùng nó làm quốc bảo thực là hết sức không lành, còn chứng tỏ rằng Khả hãn không coi trọng mạng người, đâu xứng làm vua một nước. Công chúa đập vỡ vật này tức là đã xua đi âm khí, đem lại điềm lành cho Hách Hách đó.”

    Trinh Phi mỉm cười, nói: “Ngọc vỡ mất rồi, Khả hãn khó tránh khỏi không vui. Thần thiếp vừa nghĩ ra một cách, ấy là sai thợ khéo trong cung dùng vàng ròng chắp những mảnh vòng vỡ lại, tạo thành vòng ngọc nạm vàng. Vàng vốn chủ về dương khí, có thể áp chế âm khí của ngọc, mà vàng ngọc chan hòa lại càng là điềm lành.”

    Huyền Lăng gật đầu, nói: “Ý kiến của Trinh Phi quả là không tệ.”

    Tôi ngoảnh đầu qua nhìn Ma Cách. “Ngọc vỡ còn có thể chữa lành, hai nước chúng ta cớ gì mà không hóa can qua thành ngọc bạch[15] để lê dân trăm họ được yên vui, chẳng hay ý Khả hãn thế nào?”

    [15] Ngọc bạch: ngọc và tơ lụa.

    Ma Cách khẽ nhấp một ngụm rượu trong chén, chăm chú nhìn Lung Nguyệt một lát rồi hỏi: “Đây là...”

    Huyền Lăng lộ rõ vẻ thương yêu qua ánh mắt. “Đây là Lung Nguyệt Công chúa, con gái thứ ba của trẫm. Trẻ con vô tri, đã khiến Khả hãn chê cười rồi.” Dứt lời bèn dịu giọng nói với Lung Nguyệt: “Quay về chỗ mẫu phi con đi.”

    Lung Nguyệt vui vẻ đáp “vâng” một tiếng, sau đó quay về đứng bên cạnh Đức phi. Đức phi hết sức vui mừng, không ngừng đưa tay xoa đầu con bé.

    Ma Cách cung tay hỏi: “Lung Nguyệt Công chúa là con gái của Đức phi nương nương ư?”

    Huyền Lăng tiện miệng cười, đáp: “Lung Nguyệt là trưởng nữ của Thục phi, có điều được gửi nuôi ở chỗ Đức phi.”

    Ma Cách đưa mắt liếc tôi một cái, cất giọng khen ngợi: “Quả đúng là mẹ nào con nấy, bản hãn rất thích sự thông minh của vị Công chúa này.” Dứt lời, y liền vẫy tay một cái, một gã tùy tùng lập tức bưng tới một chuỗi vòng được xâu thành từ những viên lục bảo thạch tròn đều, cực kỳ tinh tế, bắt mắt. Y cười, nói: “Đây là một chút tâm ý của bản hãn với Lung Nguyệt Công chúa.”

    Lung Nguyệt đứng bên cạnh Đức phi, chẳng thèm ghé mắt nhìn qua, vẻ rất ung dung bình thản. Huyền Lăng thì mỉm cười gật đầu một cái, tỏ ra hết sức hài lòng, sau đó lại uống với Ma Cách mấy chén rượu nữa. Ma Cách nói: “Công chúa của Hoàng đế Đại Chu đúng là xuất sắc, con gái của bản hãn chẳng có ai so được.” Huyền Lăng đang định khiêm tốn mấy câu thì hắn đã đưa mắt liếc qua bên cạnh. “Mấy vị này đều là con trai của Hoàng đế ư? Chẳng lẽ chỉ có bốn người?”

    Trong cung vốn không có nhiều hoàng tử, ngoài hoàng trưởng tử đã trưởng thành ra thì ba người khác đều hãy còn là trẻ con. Sứ giả Hách Hách che miệng cười, nói: “Khả hãn bản quốc có mười một vị vương tử, ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến, sau này nếu có cơ hội mong được so tài với các vị Hoàng tử quý quốc một phen.”

    Những lời này của gã rõ ràng có ý giễu cợt Huyền Lăng không có nhiều con trai, nhưng Huyền Lăng không hề tỏ ra tức giận, chỉ cười nhạt, nói: “Chờ Hoàng tử của trẫm trưởng thành thì con của Khả hãn đã qua tuổi tráng niên, tới lúc ấy trẫm có thắng cũng là bất võ. Khả hãn khách sáo quá rồi.”

    Ma Cách cười khà khà, ôm quyền nói: “Hoàng đế không chê bản hãn lấy nhiều thắng ít là được rồi.”

    Lời này quả thực là lộ liễu quá mức, Hồ Uẩn Dung không kìm được nghiêm mặt khẽ quát: “Chỉ có lũ súc vật trong cung mới sinh nhiều như vậy thôi.” Suy nghĩ một chút lại thấy có phần bất nhã, nàng ta bèn ngoảnh mặt đi không nói gì thêm.

    Tôi nở nụ cười tươi, nói: “Khả hãn nói đùa rồi, lê dân trong thiên hạ đều là con của Hoàng thượng, chỉ mong Khả hãn không chê bọn ta lấy nhiều thắng ít thôi.”

    Ma Cách bất giác hơi nhếch khóe môi cười khẩy. “Theo như lời của Thục phi thì dùng mười vạn con sâu cái kiến có thể chặn được một con mãnh thú, Hoàng đế nghĩ sao?” Huyền Lăng đang định trả lời thì chợt thấy Tiểu Hạ Tử bưng rượu đi lên phía trước, nhất thời cũng không nói nhiều, để mặc cho hắn thay chén rượu cũ bằng một chén Cam Chanh Hương sóng sánh màu vàng cam. Huyền Lăng thoáng lộ nét mừng, ngay sau đó liền ung dung nói: “Được rồi, lui xuống đi.” Đôi mắt y rực ánh tinh quang, trở nên sắc bén như mắt chim ưng, thế nhưng khuôn mặt thì vẫn nguyên vẻ điềm nhiên thư thái. “Mãnh thú có thế mạnh của mãnh thú, sâu kiến có trí tuệ của sâu kiến, Khả hãn cho rằng chuyện thắng thua có thể nhìn bề ngoài mà đoán định được ư?”

    “Bây giờ sâu kiến hình như đang liên tiếp thua trận thì phải?”

    “Chắc Khả hãn đã từng đọc qua binh thư, biết thế nào là lấy lùi làm tiến?”

    “Bản hãn cũng muốn suy đoán như vậy, mong là Hoàng đế đừng ăn nói ba hoa.”

    “Khả hãn nói đùa rồi, trẫm là thiên tử, nhất ngôn cửu đỉnh.”

    “Nghe đồn rồng sinh chín con, con của trời cao chưa hẳn chỉ có một người.”

    Huyền Lăng nghe thế liền thoáng lộ nét mừng vui. “Vốn sinh cùng một gốc, sao nỡ đốt thiêu nhau[16]? Đại Chu và Hách Hách vốn là những nước huynh đệ lân bang, lẽ ra nên hòa hiếu để dân chúng được yên vui mới đúng. Nghe nói đại quân Hách Hách đang bị dịch bệnh bên ngoài Nhạn Minh quan, binh mã ở bên ngoài, thầy thuốc e là không đủ. Đại Chu mười mấy năm trước cũng từng phát sinh dịch bệnh, phải tốn rất nhiều công sức mới giải quyết dứt điểm được, do đó hãy còn lưu lại một số đơn thuốc. Khả hãn nếu cần thì trẫm có thể sai người đi tìm thử xem.”

    [16] Trích Thất bộ thi của Tào Thực. Nguyên văn Hán Việt: Bản thị đồng căn sinh, tương tiên hà thái cấp? - ND.

    Ma Cách hơi nheo mắt lại. “Vậy ư? Xin đa tạ ý tốt của Hoàng đế, bản hãn tự sai người đi tìm là được rồi.”

    Huyền Lăng cười hà hà, nói: “Vậy cũng được. Có điều những vị y sĩ ấy hay vân du tứ hải, đơn thuốc thì luôn mang theo trên người, trẫm dù có phái người đi tìm thì cũng phải mất hai, ba tháng mới xong. Mong là Khả hãn sẽ được thuận lợi trong quá trình tìm kiếm.”

    Ma Cách đặt mạnh chén rượu xuống bàn, tôi bất giác thầm kinh hãi, nhưng chỉ lẳng lặng chờ xem y định thế nào. Chợt có một gã tùy tùng đi từ ngoài vào ghé tai Ma Cách khẽ nói mấy câu, sắc mặt hắn càng lúc càng trở nên lạnh lùng, ánh mắt thì sắc lẹm như một lưỡi đao có thể xuyên thấu trái tim bất kỳ ai. Huyền Lăng làm như không phát hiện, sai người tiếp tục ca múa. Lúc này các vũ cơ đang múa điệu Hồ Toàn vũ mang phong tình Tây Vực, thiếu nữ múa dẫn đầu trông chẳng khác nào một bông hoa chớm nở đầu cành, non nớt đến độ có thể nhỏ ra nước, lại kết hợp với điệu múa tuyệt vời kia thực khiến người ta phải mê say. Nếu không để tâm tới những làn sóng ngầm đang sôi sục, khung cảnh trước mắt quả thực là tột độ phồn hoa, đượm nét thanh bình.
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 11: Mắt đượm buồn thương ngó cảnh sầu[17]
    [17] Trích Điệp luyến hoa - Quyển nhứ phong đầu hàn dục tận của Triệu Lệnh Chỉ. Nguyên văn Hán Việt: Não loạn tằng ba hoành nhất thốn - ND.

    Chờ khi điệu múa kết thúc, Ma Cách vỗ tay bồm bộp không ngừng, đồng thời trầm giọng nói: “Múa đẹp lắm!” Giọng nói ấy nghe ồm ồm chẳng giống như đang khen ngợi, còn mang theo những tia sắc bén vô cùng. Tôi ngước mắt lên, vừa khéo bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của Huyền Thanh, bèn bám vào tay Cận Tịch đứng dậy, lén ra ngoài thay y phục.

    Tiếng ca múa bị bỏ lại xa dần, tôi đi tới Tùng Đào hiên vắng vẻ, thấy Lý Trường cũng đã đi theo tới nơi. Ngó khắp xung quanh thấy không có ai tôi mới trầm giọng hỏi: “Thế nào rồi?”

    Lý Trường vội bẩm báo: “Hoàng thượng đã phái phò mã gia giằng co với đại quân Hách Hách đóng giữ bên ngoài, đồng thời phái quận mã gia và Lý Thành Nam dẫn quân đi tập kích nơi đồn trữ lương thảo của quân Hách Hách, tuy vì hướng gió đột ngột thay đổi nên không thể đốt hết lương thảo của bọn chúng, thế nhưng cũng đốt được quá nửa. Mất chỗ lương thảo ấy rồi, trong quân còn bùng phát bệnh dịch, gã Ma Cách kia coi như hết đường ngông nghênh!”

    Tôi thở dài than: “Đúng là tin tốt! Nhưng ngươi không thấy gã Tiểu Hạ Tử kia còn nhận được tin trước cả ngươi ư? Chuyện là như thế nào vậy?”

    Lý Trường bất giác nhăn mặt khiến các nếp nhăn trông càng rõ nét hơn, kế đó thì chỉ cúi đầu không nói năng gì, miệng thở dài không ngớt. Cận Tịch vội đẩy y mấy cái, cất tiếng khuyên nhủ: “Đằng nào cũng đã tới nước này rồi, có chuyện gì mà không thể nói ra được đâu, chưa biết chừng nương nương lại có thể giúp đỡ đưa ra chủ ý đấy.”

    Lý Trường thở dài, nói: “Kể từ năm ngoái, Tiểu Hạ Tử đã bắt đầu không yên phận, nô tài cũng muốn tìm cách chèn ép hắn, ai ngờ tên tiểu tử ấy lại bám lấy Trang Mẫn Phu nhân, giờ đã trở thành tâm phúc của Trang Mẫn Phu nhân rồi. Trang Mẫn Phu nhân thân phận tôn quý, tên tiểu tử đó thì lại nhanh nhẹn, rất biết làm việc, do đó càng ngày càng được Hoàng thượng yêu thích. Hoàng thượng bây giờ đã rất tin tưởng hắn, thậm chí đến cả chuyện cơ mật thế này cũng để cho hắn biết trước, còn nô tài thì mãi về sau mới biết.”

    Tôi ôn tồn an ủi: “Không sao đâu, ngươi vốn theo hầu Hoàng thượng từ sớm, tình cảm giữa hai bên chẳng phải tầm thường, Hoàng thượng ắt sẽ không ghẻ lạnh ngươi đâu.”

    Lý Trường ay người đi, đưa tay lên lau khóe mắt, nói: “Nô tài bây giờ già nua vô dụng rồi, Hoàng thượng chê nô tài không làm được việc cũng là hợp lẽ thôi. Có điều gã Tiểu Hạ Tử đó bây giờ đã đi theo Trang Mẫn Phu nhân rồi, mà nàng ta thì một lòng muốn ngồi lên ngôi hoàng hậu, nô tài quả thực rất sợ nương nương...”

    Tôi mỉm cười đưa tay vỗ nhẹ lên cánh tay y. “Không có gì phải sợ cả. Nàng ta muốn ngồi lên ngôi hoàng hậu là việc mà ai sáng mắt cũng có thể nhìn ra, còn ngươi cũng không cần nôn nóng, Tiểu Hạ Tử cùng lắm chỉ nhanh nhẹn thôi chứ chưa trải việc đời, việc gì cũng bộp chộp, bên cạnh Hoàng thượng không thể thiếu ngươi đâu. Ngươi cứ yên tâm về đi, bản cung thay y phục xong rồi sẽ quay lại.”

    Lý Trường vội vàng gật đầu rồi rời đi. Tôi bám vào tay Cận Tịch ngồi xuống, lắng nghe những tiếng gió xào xạc từ bên ngoài vẳng lại, trong lòng nửa vui nửa buồn, tâm trạng vô cùng hỗn loạn.

    Một hồi lâu sau, tôi khẽ thở dài một tiếng, nói: “Chúng ta hãy về thôi, đang dịp thế này không thể ra ngoài quá lâu được.”

    Cận Tịch giúp tôi chỉnh lại xiêm y, cười trừ, nói: “Nương nương lúc nào cũng phải buồn lo thế này, thật chẳng biết mọi chuyện tới bao giờ mới kết thúc nữa.”

    Tôi không kìm được bật cười. “Nợ nhiều rồi thì sẽ không còn buồn lo nữa, buồn lo nhiều rồi sẽ không còn sợ nữa, ta chẳng qua là rảnh rỗi quá nên mới lo nghĩ linh tinh đó thôi.” Dứt lời liền bám vào tay nàng ta cất bước ra ngoài. Bên ngoài Tùng Đào hiên là một rừng thông lớn, đâu đâu cũng là tiếng thông lay xào xạc, thỉnh thoảng còn có mấy con chim không rõ tên gọi cất tiếng hót véo von, dưới đất cỏ biếc mọc đầy, khung cảnh vô cùng tịch mịch. Phía sau rừng thông xanh biếc thấp thoáng lộ ra một góc của Đồng Hoa đài, tôi chăm chú nhìn kĩ một lát rồi định ay người rời đi, chợt bắt gặp một đôi mắt sâu thẳm, không khỏi thầm kinh hãi, vội lùi về phía sau hai bước, buột miệng nói: “Vương gia.”

    Y đưa tay tới theo bản năng, định đỡ cho tôi khỏi ngã nhưng Cận Tịch đã nhanh chóng đỡ lấy tôi trước, sau đó liền khom người hành lễ: “Vương gia vạn phúc.”

    Bàn tay y đơ ra giữa không trung làm nên một hình trạng cô đơn không hoàn chỉnh. Y lúng túng rụt tay về, hỏi: “Vừa rồi ta thấy thần sắc hoàng huynh và Ma Cách đều có vẻ không bình thường, Tiểu Hạ Tử thì cứ lén lén lút lút, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”

    Tôi chọn những việc quan trọng kể lại cho y nghe. Y khẽ gật đầu, chợt nhìn tôi chăm chú. “Có một chuyện này ta muốn hỏi nàng từ rất lâu rồi.” Giọng nói của y như tràn ra từ trong lồng ngực, mang đầy vẻ bức bối. “Tĩnh Nhàn rốt cuộc đã chết như thế nào vậy?”

    Tôi bất giác ngây người, trái tim như bị một tảng đá nặng cả ngàn cân đè lên. Y là một người thông minh, một khi đã hỏi ra miệng như vậy ắt là đã biết được điều gì đó rồi. Tôi nhìn vào cặp mắt trong veo của y, bỗng cảm thấy có chút sợ hãi, đành né tránh ánh mắt y, khẽ nói: “Hôm đó Vương gia cũng có mặt mà, đáng lẽ phải biết rõ Tĩnh Nhàn qua đời là vì uống nhầm bát canh đã bị Xích Thược bỏ độc mới đúng chứ!”

    Giọng của y rất nhẹ, thế nhưng lọt vào tai tôi lại chẳng khác gì tiếng sấm rền: “Nếu ta hoài nghi thủ phạm là người khác thì sao?”

    Tôi lập tức sinh lòng cảnh giác, buột miệng hỏi: “Là ai?”

    Y nhìn tôi chằm chằm, sau một hồi lâu im lặng mới khẽ nói: “Một người vô cùng thân thiết với cả nàng và ta.”

    Tôi gần như không dám nhìn vào mắt y, vội vàng biện bạch: “Không phải Ngọc Ẩn đâu!”

    Y nhếch khóe môi, gượng nở nụ cười ảm đạm. “Hóa ra nàng cũng đã nghĩ tới nàng ấy rồi.”

    Tôi bất giác cả kinh. “Muội ấy là người tay kề gối ấp của huynh, huynh chớ nên nghi ngờ muội ấy như thế!”Y ngoảnh đầu qua một bên, run giọng nói: “Sau khi Tĩnh Nhàn qua đời, ta từng thấy Phân Nhi lén an ủi Ngọc Ẩn, khuyên nàng ấy đừng nên tự mình dọa mình nữa. Ngọc Ẩn đang sợ cái gì chứ? Tĩnh Nhàn là mẹ của Dư Triệt, ta không thể để nàng ấy chết một cách không rõ ràng được.” Y nắm lấy cổ tay tôi. “Hoàn Nhi, nàng thông minh như thế, nàng nhất định đã biết được điều gì đó rồi, xin nàng hãy nói cho ta biết.”

    Tôi khẽ lắc đầu, mấy dải tua ngọc trên chiếc bộ dao rủ xuống không ngớt lắc lư đập nhẹ vào má, hệt như đang tát lên má tôi những cái tát bỏng rát. “Ta chỉ tin vào những điều mà đôi mắt mình nhìn thấy thôi, là Vinh Tần đã vô ý hại chết Tĩnh Phi, không liên quan tới người khác.”

    Y không nói gì, một lát sau mới nhẹ nhàng cất tiếng: “Tại sao khi nói những lời này, nàng lại không nhìn vào mắt ta?”

    Tôi đột ngột ngẩng lên nhìn chăm chăm vào mắt y, dường như muốn soi thấu vào tận nơi sâu nhất. Ánh mắt y vẫn trong veo như trước, chẳng hề thay đổi, tôi bất giác cảm thấy chua xót như trong tim đang rớm máu. Tôi cơ hồ muốn trách Ngọc Ẩn, trách muội ấy đã ép tôi lại một lần nữa phải nói dối Huyền Thanh. Nhưng muội ấy dù sao cũng là muội muội chí thân của tôi, tôi cố kìm nén những giọt lệ sắp rơi bên khóe mắt, nói chậm rãi từng chữ một: “Nếu huynh nhất định muốn hỏi ta, ta chỉ có thể đem tình nghĩa bao lâu nay của chúng ta ra để nói với huynh rằng, huynh không được hoài nghi một nữ nhân đã đem lòng yêu huynh suốt bao năm như thế.”

    Tôi vung tay quá mạnh nên ống tay áo bất ngờ trượt xuống, để lộ ra một đoạn cánh tay trắng ngần, trên cổ tay thình lình xuất hiện chiếc vòng san hô đỏ mà y đã tặng tôi trong dịp tôi được phong phi. Chưởng thượng san hô liên bất đắc, khước giáo di tác thượng dương hoa[18]. Trái tim tôi tức thì đau nhói, những giọt lệ lã chã tuôn rơi.

    [18] Xem chú thích ở chương 1 tập 6 - ND.

    Y nhìn chằm chằm vào chiếc vòng trên tay tôi, cũng cảm thương khó nói nên lời, một lát sau mới buông tay tôi ra rồi khàn giọng nói: “Ta hiểu rồi. Có điều dù nàng có muốn bảo vệ nàng ấy thì cũng đừng nên đem tình cảm của chúng ta ra để nói những lời như vậy.”

    Tôi ngoảnh đầu qua một bên, khẽ đưa tay lau nước mắt, thấp giọng nói: “Bất kể ra sao cũng được, nhưng Ngọc Ẩn quả thực không có lỗi gì, mà muội ấy còn vô cùng yêu huynh.”

    Y chậm rãi thở ra một hơi. “Chỉ mong là thế. Ta cũng không hy vọng muội muội của nàng lại là người như vậy, có lẽ ta đã cả nghĩ đoán nhầm.”

    Tôi lặng im hồi lâu, trong lòng lại chợt nghĩ đến tình hình trong Thủy Vân Gia Ấm đường, bèn lo lắng nói: “Nếu ta không nhận nhầm thì gã Ma Cách đó chính là người trên Huy Sơn năm xưa...”

    Y dùng ánh mắt ngăn tôi nói tiếp, kế đó khẽ gật đầu. Tôi hết sức hoang mang, cắn chặt môi, nói: “Hắn hình như... đã nhận ra ta rồi...”

    Huyền Thanh trầm ngâm một lát rồi nói: “Hắn không dám đâu.”

    Tôi đang định nói nữa thì chợt thấy có một bóng người tha thướt từ xa đi đến, nhìn kĩ thì hóa ra là Ngọc Ẩn. Muội ấy trầm giọng nói: “Trưởng tỷ yên tâm, Vương gia đã cưới muội làm trắc phi, Ma Cách dù có lá gan ấy thì chúng ta cũng có thể chối bay chối biến đi được.” Muội ấy nắm chặt lấy bàn tay Huyền Thanh, dường như sợ mất y vậy, đồng thời dịu dàng hỏi: “Vương gia nói xem có đúng vậy không?”

    Huyền Thanh khẽ gật đầu, đưa mắt nhìn về phía xa mà ngơ ngẩn. Ngọc Ẩn cảnh giác thoáng nhìn tôi, sau đó liền cẩn thận che giấu vẻ đề phòng của mình, ôn tồn cất tiếng hỏi: “Cớ gì mà Vương gia lại một mình ra ngoài vậy? Làm thiếp thân lo lắng quá. Nếu Vương gia muốn nói gì với trưởng tỷ, có thiếp thân ở một bên cũng tốt hơn.” Hơi dừng một chút, muội ấy lại thấp giọng nói: “Trong cung tai vách mạch rừng, Vương gia dù không lo cho mình thì cũng nên nghĩ cho trưởng tỷ một chút.”

    Huyền Thanh khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Mấy lời này nàng đã khuyên ta rất nhiều rồi. Nếu không vì có chuyện quan trọng thì ta cũng chẳng dám quấy rầy Thục phi đâu. Sao nàng lại đi theo ra ngoài vậy?”

    Ngọc Ẩn vội cúi đầu cười trừ, nói: “Bên ngoài trời đang nắng nóng, thiếp thân sợ Vương gia vừa uống rượu ng lại đi ra ngoài sẽ bị cảm nắng, nên mới không yên tâm. Đợi lát nữa thiếp thân sẽ dặn Phân Nhi đi nấu một ít canh mai xanh giải rượu.” Sau đó lại quay sang cười nói với tôi: “Vương gia mỗi lần say đều phải uống canh mai xanh để giải rượu, lỡ mà Hoàng thượng uống say ở chỗ trưởng tỷ thì trưởng tỷ cũng nên nấu canh mai xanh, như thế vừa sạch miệng lại không làm hại tới dạ dày.”

    Tôi không biết nên nói gì mới phải, Cận Tịch vội vàng trả lời thay tôi: “Đa tạ Ẩn phi đã cho hay.”

    Ngọc Ẩn lại cười tủm tỉm, nói: “Kỳ thực canh mai xanh chưa chắc đã có tác dụng với Hoàng thượng, bởi rượu chẳng say người tự say, Hoàng thượng say trong cung của trưởng tỷ đâu phải chỉ bởi vì rượu.”

    Đôi tai tôi bất giác nóng bừng, thật không biết nên phản ứng thế nào mới phải, lại càng chẳng biết nói gì. Huyền Thanh rốt cuộc đã không kìm được mà cất tiếng: “Ngọc Ẩn, hôm nay nàng nói hơi nhiều rồi đấy.”

    Ngọc Ẩn cầm lấy tay áo của Huyền Thanh lay nhẹ mấy cái, cất giọng yêu kiều như làm nũng: “Thiếp thân chỉ đùa với trưởng tỷ thôi mà, mong Vương gia đừng trách.”

    Thấy hai người bọn họ trò chuyện với nhau thân mật như vậy, tôi thật sự cảm thấy lúng túng, như thể mình là một người thừa thãi, bèn lén kéo áo Cận Tịch tỏ ý hãy rời khỏi đây.

    Mới đi vòng qua Tùng Đào hiên mấy bước thì tôi chợt phát hiện phía sau một gốc thông gần đó thấp thoáng một bóng người cao lớn, không kìm được kinh hãi dừng chân.

    Tôi đang định hỏi “là ai” thì chợt nghe một tràng cười sang sảng vang lên, người đó vừa vỗ tay vừa bước ra từ sau cây thông, cất giọng sang sảng như tiếng chuông đồng: “Ba người các ngươi đúng là nực cười quá!”

    Những lời ấy chẳng khác nào tiếng sấm nổ bên tai tôi. Tôi định thần nhìn kĩ, hai mắt bỗng tối sầm đi, kẻ này không phải Ma Cách thì còn là ai được nữa?

    Sắc mặt tôi lúc này nhất định đã tái nhợt, trái tim thì đập thình thịch không ngừng, dường như có thứ gì đó sắp nhảy ra từ trong cổ họng. Rừng thông xung quanh gần như che kín cả bầu trời, thỉnh thoảng có vài tia nắng xuyên qua những kẽ lá chiếu xuống thì đều đã mất đi sự ấm áp vốn có, làm tôi chỉ còn cảm nhận được một sự băng giá tột cùng, từ sống lưng tới lòng bàn chân, bàn tay đều không ngớt rỉ mồ hôi, thân thể thì run lên lẩy bẩy.

    Thế nhưng dù hoang mang đến mấy thì tôi vẫn mỉm cười gật đầu coi như chào hỏi, sau đó còn cất giọng như đang nói đùa: “Khả hãn sao lại trốn khỏi bàn tiệc vậy, lại còn lén lút nhìn trộm nữa, thực chẳng có phong thái của vua một nước gì cả.”

    Hắn đưa tay vuốt râu, chậm rãi nói: “Bản hãn chỉ sợ làm hỏng mất một vở kịch hay, do đó mới không đành lòng đi ra cắt ngang thôi.”

    “Con người ta có ai mà không ở trong kịch, khi Khả hãn nhìn người khác chưa biết chừng người khác cũng đang nhìn Khả hãn đấy.”

    Đôi mắt hắn đen như mực, khó mà phân biệt được mừng giận. “Bản hãn chỉ đang cảm thấy thú vị thôi, diễn viên thì vẫn là mấy người thuở trước, thế nhưng nội dung vở kịch thì đã khác rồi. Nữ nhân bên cạnh Thanh Hà Vương trước đây chỉ là thị nữ của Thục phi, thế mà giờ đã bay lên cành cao trở thành phượng hoàng. Thục phi thì vốn thân mật với y như phu thê, vậy mà sau nháy mắt đã trở thành tẩu tẩu của y, trở thành thục phi có quyền có thế nhất trong hậu cung Đại Chu.” Hắn vừa nói vừa đưa mắt liếc qua phía tôi. “Ta thấy lá gan Thục phi đúng là lớn thật, không ngờ lại dám tư thông với đệ đệ của Hoàng đế. Thật lòng mà nói, bản hãn khâm phục Thục phi nương nương lắm đấy.”

    Vẻ khinh miệt trong lời nói của hắn lộ ra hết sức rõ ràng. Tôi cố kìm nén cơn giận trong lòng, trầm giọng nói: “Xin thứ cho bản cung không hiểu Khả hãn đang nói gì, nhưng chẳng hay Khả hãn có từng nghe nói tới câu vật đổi sao dời chưa? Chẳng hạn như đại quân Hách Hách dù có kiêu dũng đến mấy thì cũng không địch lại nổi thiên tai nhân họa.”

    Hắn hơi nheo mắt, từ hai khe hẹp đó chiếu ra những tia sáng lạnh lùng như có thể làm người ta đóng băng. “Thục phi không sợ ta nói việc năm xưa cho Hoàng đế biết ư?”

    Tôi hái một bông hoa nhỏ trên giàn tử đằng bên cạnh xuống mân mê trong tay. “Sợ? Bản cung sợ việc năm xưa muội muội của bản cung là Ngọc Ẩn cùng Thanh Hà Vương ra ngoài du ngoạn bị người ta hay biết ư? Bọn họ sớm đã tâm đầu ý hợp, kết làm phu thê từ lâu rồi, dù Khả hãn có nói việc ấy với Hoàng thượng thì Hoàng thượng cũng chỉ coi như một đoạn giai thoại mà thôi, thậm chí còn có khả năng hoài nghi Khả hãn cớ gì lại biết được những việc này ấy chứ. Tới lúc ấy, lỡ Hoàng thượng không vui thì chỉ e sẽ không cho người đi tìm thần y nữa, vậy thì bệnh dịch trong đại quân Hách Hách làm sao hết được. Khả hãn là người thông minh, chắc sẽ không đem tính mạng của mấy chục vạn tướng sĩ ra làm trò đùa đâu.”

    Hắn chắp tay đứng đó, trong mắt thấp thoáng mấy tia tức giận, một lát sau cười lạnh, nói: “Thục phi cho rằng bản hãn lại chịu để Hoàng đế của Thục phi uy hiếp ư? Y dám lén đốt lương thảo quân ta, thủ đoạn quá bỉ ổi!”

    Tôi nở nụ cười tươi. “Xem ra Khả hãn đã say thật rồi, không ngờ lại quên mất câu binh bất yếm trá.” Rồi lại đưa mắt liếc y một cái. “Khả hãn cố nhiên có thể tức giận, nhưng bản cung nghĩ Khả hãn là người bụng dạ rộng rãi, ắt sẽ không để lộ vẻ gì ra cho Hoàng thượng nhìn thấy đâu. Bản cung xin khuyên Khả hãn một câu này, nếu ngài đang mượn rượu mà ra ngoài cho khuây khỏa nỗi lòng thì xin mau mau quay về đi kẻo Hoàng thượng nghi ngờ.”

    Hắn lạnh lùng đưa mắt nhìn tôi. “Thục phi cho rằng bản hãn e sợ Hoàng đế Đại Chu ư?”

    Tôi mỉm cười, nói: “Khả hãn là người thông minh, tất nhiên biết rằng cần tránh hại tìm lợi, bản cung chẳng qua chỉ nhiều lời nhắc nhở một câu mà thôi.”

    Hắn hơi mím môi, nhìn tôi chăm chú. “Vừa rồi mới nhìn thấy Thục phi, bản hãn đã nhận ra ngay rồi, nhưng lại luôn cảm thấy Thục phi có chỗ nào đó khác với trước kia, hóa ra khi Thục phi cứ trưng ra cái bộ dạng ta đây là thục phi thì chẳng còn vẻ đáng yêu phóng khoáng như khi ở trên Huy Sơn năm xưa nữa. Nhưng một khi Thục phi nói năng hành sự, quả là vẫn chẳng khác khi xưa chút nào.”

    Tôi vẫn giữ nguyên nụ cười nền nã bên môi. “Mấy lời này của Khả hãn, bản cung quả thực không hiểu.”

    “Có hiểu hay không thì tự Thục phi hiểu rõ, còn bản hãn thì chỉ tin vào đôi mắt của mình thôi.”

    Giọng điệu trầm lắng ấy của hắn khiến tôi mơ hồ có chút bất an, bèn hơi hất hàm, nói: “Cho dù có thấy tận mắt thì cũng chưa chắc đã là thực, Khả hãn chớ nên tự tin quá.”

    Trong mắt thoáng qua một tia sáng mê ly, hắn đi tới bên cạnh tôi, nói chậm rãi từng chữ một: “Một nữ nhân vừa xinh đẹp vừa có trí tuệ, đã thế lại còn có cả sự tàn độc nữa, thực dễ khiến người ta sinh lòng ngưỡng mộ.”

    Nỗi bất an trong lòng càng lúc càng rõ ràng, nhưng tôi vẫn làm bộ như không biết gì, chỉ hờ hững nói: “Chắc Yên thị[19] của Khả hãn chính là một người như thế, bản cung mười phần ngưỡng mộ. Huống chi Đại Chu và Hách Hách vốn là huynh đệ lân bang, chắc hẳn sau này bản cung sẽ có cơ hội bái phỏng.”

    [19] Yên thị là hoàng hậu của người Hung Nô, ở đây thì là người Hách Hách - ND.

    Hắn ngưng nụ cười thấp thoáng như có như không bên khóe miệng, giọng nói cất lên lạnh tựa băng sương: “Bản hãn có vô số phi tử, nhưng Yên thị duy nhất thì đã chết trong tay Thục phi rồi.” Đột nhiên hắn đổi hẳn giọng, mang theo một vẻ gì đó khiến người ta không kìm được thầm run rẩy. “Do đó, Thục phi phải nhớ lấy, Thục phi đã giết thê tử của ta thì nhất định phải đền cho ta một thê tử khác.”

    Tôi bị sự dịu dàng ẩn trong những lời nói ấy làm kinh động, nhất thời sợ hãi tột cùng, đồng thời còn cảm thấy mình như đã nghe nhầm, hắn đường đường là vua một nước, sao lại đi nhòm ngó sủng phi của Hoàng đế nước khác như vậy chứ? Huống chi tôi giờ là mẹ của ba đứa con, sớm đã không còn trẻ nữa rồi. Tôi gắng giữ bình tĩnh mà mỉm cười, nói: “Khả hãn thực chẳng phóng khoáng gì cả, Đại Chu ta mỹ nữ như mây, chỉ cần Khả hãn thỉnh cầu, Hoàng thượng nhất định sẽ chọn lấy nữ tử thông minh, xinh đẹp nhất ban cho Khả hãn làm Yên thị, qua đó tăng tình hòa hiếu giữa hai nước.”Hắn ung dung chắp tay sau lưng, nhếch môi cười, nói: “Chỉ mong Huyền Lăng đành lòng làm thế.”

    Gọi thẳng tên húy của Hoàng đế như thế là một hành vi cực kỳ bất kính, hơn nữa bây giờ bệnh dịch đang lan rộng trong quân Hách Hách, tình hình quả thực bất lợi với hắn vô cùng, thế mà hắn còn dám tỏ ra khinh thường Huyền Lăng như vậy, có thể nói là hết sức lớn gan.

    Bông hoa bị tôi cầm trong tay lâu quá, những giọt nhựa từ trong cuống hoa chảy ra dính vào tay tôi mang tới cảm giác nhớp nháp. Tôi đưa mắt nhìn y. “Hiện giờ Khả hãn nên lo lắng việc liệu Hoàng thượng có chịu đưa cho Khả hãn đơn thuốc trị bệnh dịch hay không chứ không phải là những việc khác.”

    Ánh mắt trở nên sắc lẹm như kiếm, y dõi nhìn bầu trời xanh biếc không một gợn mây, chừng như muốn xuyên thủng nó vậy. “Thục phi cho rằng bản hãn thật sự sợ thứ bệnh dịch đó sao? Nam nhi Hách Hách đều là trang tuấn kiệt, không ai sợ chết. Bản hãn có thể lập tức hạ lệnh xử tử tất cả các binh sĩ bị nhiễm bệnh dịch để tránh cho bệnh dịch lan rộng. Hiện giờ quân sĩ Đại Chu chỉ dám phòng thủ trong thành, không dám ra ngoài khai chiến. Hoàng đế không đưa đơn thuốc cũng được, bản hãn sẽ sai người ném các nam nhi Hách Hách bị nhiễm bệnh dịch vào trong thành. Bản hãn không tin là người Đại Chu thân cường thể kiện, không có ai bị nhiễm bệnh dịch như bọn ta.”

    Tôi nhìn thấy vẻ quyết liệt và dữ dằn trong đôi mắt sâu không thấy đáy kia của y, trong lòng thực là kinh hãi tột cùng, buột miệng nói: “Ngươi điên rồi!”

    Hắn cười khà khà mấy tiếng, chẳng khác nào một con mãnh thú đang rình rập chờ thời cơ. “Điên thì sao chứ? Chẳng lẽ lại cứ để Hoàng đế của Thục phi giở trò bẩn thỉu mà không đáp trả! Hắn đánh trận thì chẳng khác nào trẻ con, có điều âm mưu quỷ kế thì cứ hết phen này tới phen khác!”

    “Trên sa trường lẽ nào không cần dùng âm mưu quỷ kế ư? Dùng mà có lợi thì tức là kỳ mưu diệu kế, chỉ có bên nào chịu thiệt mới nói là âm mưu quỷ kế thôi. Thắng làm vua thua làm giặc kỳ thực cũng là như vậy.” Tôi thấy y trợn trừng đôi mắt hổ, bất giác khẽ nở nụ cười.

    Hắn chợt thay đổi hẳn vẻ mặt tức giận, để lộ mấy nét tươi cười. “Hóa ra Thục phi còn có thể cười vui vẻ như vậy, ta cứ ngỡ là chỉ có lúc ở trên Huy Sơn, Thục phi mới cười được như vậy thôi.”

    Khi chúng tôi đang trò chuyện thì đúng lúc Ngọc Ẩn và Huyền Thanh chậm rãi bước tới. Ngọc Ẩn vốn thính tai, đã nghe thấy câu nói này của Ma Cách, đôi hàng lông mày hơi cau lại, nhưng ngay sau đó đã nở nụ cười tươi. “Khả hãn có trí nhớ tốt quá, vẫn còn nhớ tình cảnh khi thiếp thân và Vương gia du ngoạn Huy Sơn. Nói ra thì chúng ta đúng là rất có duyên khi hôm nay có thể trùng phùng.”

    Ma Cách nhướng mày lên quan sát Ngọc Ẩn một lát, sau đó liền nhếch môi nói: “Cô nương chính là tiểu nha đầu bên cạnh Thục phi năm đó rồi.”

    “Tiểu nha đầu” vốn không có ý gì khác, thế nhưng Ngọc Ẩn lại cả nghĩ, lập tức cười, nói: “Khả hãn đúng là quý nhân hay quên việc, làm gì có tiểu nha đầu hay tiểu a hoàn nào chứ! Năm xưa ta và Vương gia vừa mới định tình, cùng nhau du ngoạn Huy Sơn, trưởng tỷ chỉ đi cùng bọn ta mà thôi. Có lẽ khi đó ta còn ít tuổi, lại thích đi theo phía sau trưởng tỷ, vậy nên Khả hãn mới tưởng nhầm rằng ta là một tiểu a hoàn.”

    Ma Cách khẽ cười vẻ khinh miệt: “Tuy cô nương và Thục phi có đôi nét giống nhau nhưng bản hãn tin vào đôi mắt của mình. Dù Thục phi là trưởng tỷ của cô nương, mà cô nương khi đó lại còn ít tuổi, nhưng bộ dạng của tiểu a hoàn thì ắt không nhầm được.”

    Ngọc Ẩn khi ở trong phủ Thanh Hà Vương đã từng bị nhà họ Vưu áp chế một thời, rất nhiều lần bị chế giễu là từ thị nữ trở thành vương phi, vẫn không thoát khỏi thân phận nô tỳ, do đó lúc này nghe Ma Cách nói thế thì không kìm được hơi biến sắc. Muội ấy cố kìm nén cơn giận trong lòng, gượng cười nói: “Khả hãn nhất định muốn nói như vậy thì ta cũng chịu thôi.” Dứt lời liền đưa tay khoác tay Huyền Thanh, nghiêng đầu cười dịu dàng, nói: “Năm xưa khi Vương gia cùng thiếp thân đi du ngoạn Huy Sơn đã gặp Khả hãn, hôm nay cố nhân trùng phùng, đợi lát nữa nhất định phải uống với Khả hãn mấy chén mới được, Vương gia nói xem có đúng thế không?”

    Huyền Thanh mỉm cười, nói: “Khả hãn hảo tửu lượng, bản vương làm sao có thể so sánh được.”

    Câu trả lời này của y tuy là tránh nặng tìm nhẹ, thế nhưng cũng coi như là đã ngầm thừa nhận những lời của Ngọc Ẩn. Ma Cách chỉ khẽ cười. “Ba người các vị đúng là kỳ lạ, vốn là một cặp tình nhân ngày trước thì nay trở thành thúc tẩu, còn tiểu a hoàn mới thoắt đó đã được gả cho vị tình lang kia. Các vị không cảm thấy kỳ quặc, nhưng bản hãn mới ngó qua mấy lần đã cảm thấy gai mắt rồi.”

    Huyền Thanh khẽ cười điềm đạm, rút tay ra khỏi tay Ngọc Ẩn mà kéo muội ấy ra sau lưng, nghiêm túc nói: “Khả hãn nói đùa thì không sao, có điều xin đừng lấy ái thê của tiểu vương ra để làm trò cười như thế.”

    Trên khuôn mặt xinh đẹp dâng lên một nét đỏ hồng như san hô, Ngọc Ẩn đưa tay nắm lấy bàn tay trái của Huyền Thanh: “Đa tạ Vương gia đã thương yêu.”

    Ma Cách cười khì một tiếng. “Phu thê thương yêu nhau vốn là lẽ đương nhiên, có gì đâu mà phải cảm ơn, qua đó đủ thấy quan hệ giữa hai ngươi lạnh nhạt cỡ nào. Giữ được con người ta mà không giữ được trái tim thì có gì là thú vị đây?” Rồi hắn đưa mắt liếc qua phía Huyền Thanh. “Người khác chưa từng nhìn thấy bộ dạng của ngươi khi bảo vệ nàng ta, nhưng bản hãn thì đã thấy tận mắt. Cho dù bây giờ ngươi có bảo vệ vương phi của mình thì cũng chẳng hề giống năm xưa bảo vệ nàng ta.”

    Tôi bất giác thầm chấn động, những tia chua chát trong lòng sau nháy mắt đã trở nên ngọt ngào vô hạn. Ma Cách có nhãn lực lợi hại cỡ nào, bọn tôi tất nhiên chẳng thể giấu được hắn, nhưng chờ đến một ngày nào đó nếu người khác cũng phát hiện ra việc này, liệu sẽ có một cơn phong ba dữ dội thế nào đổ xuống đầu chúng tôi đây?

    Huyền Thanh không nói nhiều, chỉ hờ hững cất tiếng: “Khả hãn xin hãy về điện đi thôi, tiểu vương muốn mời ngài uống thêm mấy chén nữa, ngài thấy thế nào?”
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 12: Rồng kêu gấu rống dội suối khe[20]
    [20] Trích Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt của Lý Bạch. Nguyên văn Hán Việt: Hùng bào long ngâm ân nham tuyền - ND.

    Khi chúng tôi trở lại trong điện thì ca múa đang biểu diễn được nửa chừng, Huyền Lăng có vẻ chếnh choáng say. Tôi lén vẫy tay ra hiệu cho Hoa Nghi mang một chén canh mai xanh tới, sau đó liền đích thân bưng đến cho Huyền Lăng. Y đón lấy, khẽ nhấp một ngụm rồi thấp giọng hỏi: “Nàng vừa đi đâu mà lâu thế vậy?”

    Tôi nở nụ cười tươi. “Thần thiếp thay xong y phục thấy hơi mệt, nên ngồi lại Tùng Đào hiên nghỉ ngơi một lát. Ai ngờ khi đó lục Vương gia và Ẩn phi lại đi dạo bên ngoài, thực là vô cùng ân ái. Thần thiếp không muốn quấy rầy bọn họ, liền vội vã quay trở lại đây.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu, lại đưa tay nắm lấy bàn tay tôi bên dưới ống tay áo. “Ma Cách chắc đã biết việc lương thảo bị đốt rồi, nên nói với trẫm rằng muốn ra ngoài một chút cho tỉnh rượu, trẫm thấy hắn có vẻ đang giận dữ lắm đấy.” Giọng nói của y lúc này dịu dàng như một làn gió xuân. “Hoàn Hoàn, đa tạ nàng đã nhắc nhở trẫm, nhờ thế trẫm mới nhớ ra chỗ Ôn Thực Sơ còn lưu lại một số mẫu máu độc của những người bị nhiễm bệnh dịch năm xưa, qua đó làm bệnh dịch bùng phát trong quân Hách Hách.”

    Tôi khẽ cười, nói: “Thần thiếp đâu có biết được mấy việc ấy, chẳng qua chỉ lắm miệng một chút mà thôi, tất thảy vẫn là nhờ Hoàng thượng anh minh. Hoàng thượng không chê thần thiếp lắm lời là thần thiếp đã cảm thấy may mắn lắm rồi.”

    Huyền Lăng nở nụ cười dịu nhẹ. “Lời này có phần làm bộ làm tịch quá rồi, tình cảm giữa trẫm với nàng như thế nào chứ, vậy mà nàng còn nói những lời như vậy với trẫm, chờ lát nữa trẫm nhất định sẽ...” Y cười khì một tiếng, không nói tiếp nữa.

    Giọng của y rất nhẹ nhưng tôi lại càng cảm thấy xấu hổ hơn, bèn khẽ cười, nói: “Hoàng thượng không sợ Uẩn Dung ghen ư? Cứ trêu thần thiếp mãi thôi.”

    “Uẩn Dung vẫn còn trẻ con lắm...” Y ngước mắt nhìn quanh mà không thấy bóng dáng Hồ Uẩn Dung đâu, bèn xua tay, nói: “Có lẽ nàng ấy đã bế Hòa Mục ra ngoài rồi.” Sau đó lại nhìn về phía tôi. “Nàng để ý đến nàng ấy làm gì, từ sau khi Chu Nghi Tu bị cấm túc, nàng ấy càng ngày càng khó tính hơn.”

    Tôi che miệng cười, nói: “Dùng lời của Hân Phi để nói thì Uẩn Dung muội muội chính là biểu muội của Hoàng thượng, Hoàng hậu tương lai khó tính một chút cũng là lẽ thường tình, bằng không làm sao quản lý lục cung được.”

    Huyền Lăng bất giác nhíu chặt đôi mày. “Hân Phi bấy lâu nay vẫn luôn nghĩ gì nói nấy, lời của nàng ta sao có thể coi là thật được. Tính cách Uẩn Dung như thế, làm một vị quý phi thiên kiều bá mỵ là thích hợp nhất, còn về hoàng hậu...” Vừa nói y vừa trầm mặt xuống. “Chưa xét tới việc di mệnh của Thái hậu còn đó, bây giờ vẫn còn nàng ở đây, tệ hơn nữa thì có Quý phi, Đức phi, Trinh Phi, đâu đến lượt nàng ấy.”

    Tôi vội vàng đưa tay tới che miệng y, khẽ cười, nói: “Thần thiếp nếu là Quý phi tỷ tỷ thì ắt sẽ tức giận đấy. Quý phi tỷ tỷ cũng là một mỹ nhân, tính ra đâu có thua gì Uẩn Dung cơ chứ!”

    Trong lúc nói cười với Huyền Lăng, tôi đưa mắt nhìn thoáng qua thấy Ma Cách và Huyền Thanh lúc này đã uống với nhau được mười mấy chén rồi. Huyền Thanh dường như đã say, đang gục đầu xuống bàn, một lọn tóc rối từ trên chiếc mũ vàng đính ngọc buông xuống trông đầy vẻ phong lưu tao nhã. Trên bàn có đặt một chiếc bình lớn, bên trong cắm hoa sen mới hái, tấm dung nhan thanh tú của Ngọc Ẩn kết hợp với những bông hoa khiến vẻ yêu kiều lại tăng thêm bội phần. Muội ấy nhúng chiếc khăn tay màu trắng vào bát nước trong rồi đưa lên nhẹ nhàng lau mặt cho Huyền Thanh, động tác tuy bình thường nhưng lại được thực hiện cẩn thận và chu đáo vô cùng. Tôi không kìm được thầm thở dài một tiếng, Ngọc Ẩn quả thực rất yêu Huyền Thanh, có điều...

    Tiếng thở dài nơi đáy lòng tôi hãy còn chưa dứt, Huyền Lăng đã đưa tay vuốt cằm vẻ đầy thích thú, ánh mắt cũng dừng lại trên người Huyền Thanh và Ngọc Ẩn. Y quay qua cười nói với tôi: “Hoán Bích đối xử với lão lục đúng là không tệ, trong chốn hoàng tộc thực khó mà tìm được một cặp phu thê ân ái như thế.”

    Tôi khẽ hờn trách: “Hoàng thượng, đó là nhị muội Ngọc Ẩn của thần thiếp, không phải là Hoán Bích.”

    Y cười, nói: “Trẫm cứ luôn cảm thấy nàng ta vẫn là tiểu a hoàn đi theo bên cạnh nàng như hình với bóng ngày nào.”

    Huyền Thanh lúc này đã say, còn Ma Cách ngồi đối diện với y thì vẫn còn tỉnh táo. Hắn nhìn Huyền Lăng mà cười, nói: “Mấy màn vũ đạo của Đại Chu quá mềm yếu, khiến xương cốt người ta muốn nhũn cả ra, chẳng giống như ở Hách Hách, những điệu vũ lúc nào cũng cương nhu họp đủ, nam hay nữ đều như nhau.”

    Huyền Lăng vỗ tay, cười nói: “Hay hay hay! Trẫm cũng đang muốn xem thử xem những điệu vũ của Hách Hách có gì đặc biệt, Khả hãn đề nghị rất hay!”

    Ma Cách xua tay một cái, cất giọng sang sảng nói: “Ca múa xem nhiều thì nhạt nhẽo lắm, bản hãn hôm nay có một món quà muốn dâng lên Hoàng đế Đại Chu, mong nhận lấy cho.”

    Huyền Lăng nói: “Nghe nói là một con gấu?”

    Ma Cách hơi nheo mắt lại, cười nhạt, nói: “Chỉ là một giống thú vật bình thường ở Hách Hách thôi, Hoàng đế cứ giữ lại chơi là được rồi.”

    Hắn vỗ tay ba cái, tức thì xung quanh đều tĩnh lặng, chỉ có những tiếng bánh xe lăn lộc cộc không ngớt vang lên.

    Mọi người cùng dõi mắt nhìn đi, chỉ thấy trong một chiếc lồng sắt có nhốt một con mãnh thú nửa vàng nửa trắng, bộ dạng chẳng mấy bắt mắt. Khi chiếc lồng đó tiến lại gần, mọi người mới nhìn rõ con mãnh thú kia tuy rất giống với loài gấu đen được nuôi trong Thú uyển, nhưng tư thế và ngũ quan đều có chút giống người, lông toàn thân thì vừa vàng vừa trắng, cổ cũng dài hơn, tứ chi cùng thân thể đều rất tráng kiện, ánh mắt thì đầy vẻ hung tàn, vô cùng đáng sợ.Dư Nhuận còn ít tuổi, vừa mới biết nói, không kìm được có chút sợ hãi, bèn níu mép váy tôi mà kêu lên: “Gấu! Gấu!” Dư Hàm tò mò, thò đầu ra nhìn không chớp mắt. Lung Nguyệt tựa người vào lòng Đức phi, còn Linh Tê thì chẳng hề để tâm, vẫn chăm chú bóc vải ăn một cách ngon lành. Tôi nhìn phản ứng của bốn đứa bé, không khỏi có chút ngạc nhiên về tính tình lãnh đạm của Linh Tê, không biết nó giống ai.

    Ma Cách khẽ cười một tiếng, đưa tay chỉ về phía con gấu đó. “Con gấu này tính tình hung hãn, khỏe mạnh vô song, cái cây to một người ôm mà bảo nhổ bật lên là nhổ bật lên ngay. Khi gặp người nó thường hay đứng thẳng lên mà đuổi bắt, tư thế với ngũ quan đều khá giống người, tính thì hung hãn mà sức thì mạnh, có thể dễ dàng bắt được bò, ngựa làm thức ăn, vì vậy mà được gọi là gấu người. Từng có tay thợ săn lành nghề vào trong núi bắt gặp gấu người lúc nó qua sông, bèn nấp vào một chỗ mà quan sát. Đó là một con gấu cái khổng lồ, mang theo hai con gấu con. Gấu mẹ đặt một con gấu con lên đầu rồi nhảy xuống nước bơi qua sông, sau khi lên bờ, nó sợ gấu con chạy lung tung, bèn lấy một tảng đá chặn lên con gấu con, sau đó quay trở lại để đón con kia. Người thợ săn đang ẩn nấp bèn nhân cơ hội bắt lấy con gấu con bị đá đè kia đi, gấu mẹ nổi giận điên cuồng, đứng ở bờ sông bên kia kéo hai chân con gấu con còn lại lên xé làm hai mảnh, từ đó cũng đủ thấy giống này hung tợn và ngu độn đến độ nào.” Ma Cách nói tới đây thì đúng lúc con gấu người kia gầm khẽ một tiếng, âm thanh chẳng khác sấm rền, tựa như muốn chứng thực cho lời của hắn vậy. Ma Cách ung dung tựa người vào ghế, thấy các phi tần bên cạnh Huyền Lăng đa phần lộ ra vẻ sợ hãi thì cười, nói: “Hoàng đế bất tất phải sợ hãi.”

    Huyền Lăng không đổi sắc mặt, còn cất giọng thích thú hỏi: “Theo như lời Khả hãn thì đây quả đúng là một giống dị thú, hiếm có mười phần. Nhưng gấu người hung hãn như vậy, chẳng hay Khả hãn đã bắt nó bằng cách nào?”

    Ma Cách cười, nói: “Các thợ săn bình thường đều không dám dây dưa với gấu người chứ đừng nói là có ý đồ săn bắt chúng. Nhưng gấu người cũng không phải là không thể bắt, chỉ có điều phải rất mạo hiểm, chỉ cần một khâu có sai sót nhỏ thôi là mất mạng ngay. Vì loài mãnh thú này rất khỏe, lại da dày thịt chắc, dù có bị đao thương đâm thủng bụng làm chảy máu lòi ruột thì nó vẫn có thể móc bùn đất và nhựa thông bít vết thương lại rồi tiếp tục đuổi giết con người, do đó rất khó có thể dùng vũ lực để đánh bại nó. Người Hán có câu nói rằng “gặp mạnh dùng trí, gặp yếu bắt sống”, muốn săn bắt gấu người chỉ có thể dùng trí mà thôi. Giống gấu người này thích chọn những bọng cây đại thụ ngàn năm tuổi làm hang ổ. Không khí bên trong bọng cây nóng như có lò sưởi, băng tuyết đều tan hết, gấu người ăn no rồi thì thường chui vào trong ấy ngồi. Các thợ săn sau khi tìm được hang gấu sẽ ném vào trong đó những khối gỗ, gấu người tính ngu, thấy có gỗ rơi xuống liền đưa tay bắt lấy, lót bên dưới mông. Cứ thế các khối gỗ mỗi lúc một nhiều, con gấu người cũng cứ thế vừa nhặt vừa kê, càng lúc càng ngồi lên cao hơn. Đợi đến lúc nó ngồi ngang tầm với miệng cái bọng cây, các thợ săn sẽ nhắm chuẩn thời cơ, dùng búa lớn chặt phăng đầu nó, hoặc dùng mũi giáo thọc vào các khe hở trên thân cây đâm chết nó.” Y khẽ nở nụ cười mỉm, trong mắt lộ ra những tia ý vị phức tạp. “Gấu người có khá nhiều ở Hách Hách, con dân Hách Hách khi đối phó với giống mãnh thú này xưa nay đều dùng trí chứ không dùng sức. Thấy con dân của mình vừa có dũng vừa có mưu như thế, bản hãn hết sức vui mừng.”

    Huyền Lăng khẽ cười một tiếng, không tiếp lời hắn mà chỉ hỏi: “Con nai trân quý mà lần trước trẫm ban cho Hách Hách bây giờ thế nào rồi?”

    Ma Cách ngẩng đầu lên, đáp: “Quá ngoan ngoãn, chẳng có chút gì là cương liệt, cũng không chịu nổi gió cát ở Hách Hách, bây giờ đã gầy đến nỗi chỉ còn da bọc xương, nhưng ít nhất vẫn còn sống.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Giống thú ấy ôn hòa tường thụy, bị Khả hãn nuôi đến nỗi chỉ còn da bọc xương như thế khó tránh khỏi làm mất sự tường thụy và gây hại đến nhân hòa.”

    Bàn tay đang đặt trên bàn của Ma Cách từ từ nắm chặt lại, trên mặt vẫn nguyên nụ cười như có như không. “Bản hãn chỉ tin vào câu nói “việc thành bởi người”, bất kể là nhân hòa hay là tường thụy, chỉ cần bản hãn muốn thì nhất định sẽ có thể tự mình đoạt được.”

    Huyền Lăng cười khẩy một tiếng, cất giọng hững hờ: “Chỉ mong là vậy.” Rồi y vẫy tay ra hiệu cho Tiểu Hạ Tử đi lên phía trước. “Cho con gấu kia ăn ít thịt đi.”

    Tiểu Hạ Tử đáp “vâng” một tiếng, nhưng lại sợ hãi không dám đi đến gần quá, bèn dùng một chiếc sào trúc đưa thịt lợn rừng tới trước mặt con gấu. Con gấu nhìn thấy thịt tươi thì có lý nào mà chẳng thích, lập tức đưa tay tới định chụp. Tiểu Hạ Tử đột ngột rụt tay về, con gấu liền chụp trượt, nôn nóng đến nỗi cứ đưa tay vò đầu mà xoay tròn không ngớt. Các phi tần thấy một con vật to lớn mà lại có hành động thế này thì không kìm được đều cảm thấy hết sức tức cười. Tiểu Hạ Tử thấy vậy thì lại càng muốn làm mọi người cười hơn, bèn dụ dỗ tránh né đủ kiểu, khiến con gấu chỉ có thể nhìn mà không thể ăn, liên tục vò đầu bứt tai bực bội, cuối cùng thì ngồi xuống đập tay xuống đất không ngừng. Ma Cách muốn nói gì đó lại thôi, cuối cùng chỉ cười nhạt một tiếng rồi không thèm để tâm tới nữa.

    Trinh Phi vốn tính ôn hòa điềm đạm, thấy vậy bèn ôm Dư Bái vào lòng, nói: “Mau dừng lại đi! Đợi lát nữa lỡ chọc giận con gấu ấy thì không hay đâu, trêu chọc một chút là đủ rồi.”

    Một tiếng cười lạnh lùng chợt vang lên. “Trinh Phi đúng là nhát gan quá, chẳng trách nhị điện hạ cũng có bộ dạng sợ đầu sợ đuôi như vậy.” Tôi ngoảnh đầu nhìn qua, thấy chính là Hồ Uẩn Dung đang bế Hòa Mục đi vào. Hòa Mục vừa thay một bộ đồ màu đỏ tươi thêu hình những quả lựu, trông lại càng xinh xắn, đáng yêu hơn trước mấy phần. Hồ Uẩn Dung hơi khom người hành lễ rồi nói với Huyền Lăng: “Vừa rồi Trân Ly nghịch ngợm làm rượu đổ lên người, thần thiếp vừa đưa nó đi thay y phục.”

    Huyền Lăng khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Thay y phục thì cứ thay, tự nhiên lại chỉ vào Trinh Phi và Bái Nhi mà nói linh tinh cái gì thế?”

    Hòa Mục tò mò nhìn con gấu đang tức giận kia, vui vẻ cười rạng rỡ. “Mẫu phi, mẫu phi, con muốn qua xem con gấu kia!”

    Hồ Uẩn Dung khẽ cười, hỏi: “Trân Ly có sợ không?”

    Hòa Mục ra sức lắc đầu, còn cố gắng nhoài người ra khỏi lòng Hồ Uẩn Dung. “Con muốn cho nó ăn thịt.”

    Tiểu Hạ Tử nghe thấy vậy liền xun xoe treo một miếng thịt vào cây sào trúc rồi đưa tới. Hòa Mục chẳng buồn nhìn, đưa tay chụp ngay lấy miếng thịt, để Hồ Uẩn Dung bế tới chỗ cách lồng thú hơn mười bước chân, sau đó gắng sức ném miếng thịt về phía trước. Trẻ con tuy không khỏe nhưng miếng thịt ấy vẫn được ném trúng ngay vào mắt con gấu người. Con gấu tức thì giật mình kinh hãi, vội vàng ngó nhìn khắp xung quanh, sau đó nhặt miếng thịt kia lên bỏ vào miệng nuốt chửng.

    Hồ Uẩn Dung như vô tình như hữu ý liếc qua phía Trinh Phi, cười nói: “Hoàng thượng, con của chúng ta dũng cảm hơn nhiều, không thẹn với thân phận cành vàng lá ngọc.”

    Hòa Mục cất tiếng cười vang khanh khách, lại ra sức vỗ tay bồm bộp. Mọi người cũng cười lên phụ họa, đồng thời liên tục khen Hòa Mục Công chúa dũng cảm. Huyền Lăng cười, nói: “Vậy là được rồi, mau quay lại đi, con gái con đứa chớ nên chơi đùa với dã thú nhiều quá làm gì.” Hòa Mục cười hì hì một tiếng, kế đó lại làm mặt quỷ với con gấu người kia.

    Con gấu đó chắc hẳn đã bị đau, hai mắt dần trở nên đỏ ngầu, lại nhìn thấy Hòa Mục mặc đồ đỏ làm mặt quỷ, tức thì càng thêm giận dữ, hai tay vỗ bồm bộp xuống đất làm phát ra những âm thanh dữ dội. Mọi người nhìn thấy thế thì đều chẳng mấy để tâm, nhưng chợt nghe “két” một tiếng, chiếc lồng sắt kia không ngờ lại bị con gấu người đang tức giận điên cuồng cậy ra một cái khe lớn. Con gấu gầm lên không ngớt, kế đó lao thẳng về phía Hòa Mục.

    Trước mặt Hòa Mục còn có một hàng rào sắt chắn ngang, con gấu người liền vắt hai chân trước lên đó định trèo qua. Hòa Mục nhất thời sợ đến sững người, hai mắt mở to, thậm chí còn không khóc thành tiếng được. Hồ Uẩn Dung cũng không biết phải làm sao, cứ đứng ngây ngốc ở đó, chỉ biết ôm chặt Hòa Mục vào lòng, mặt mày trở nên tái mét vì sợ hãi. Tiểu Hạ Tử vốn đi theo bên cạnh, nhất thời cũng trợn mắt há mồm, hai chân run lẩy bẩy, phải cố gắng hết sức mới có thể đưa tay tới kéo Hồ Uẩn Dung, đồng thời lớn tiếng thét lên: “Nương nương mau chạy đi!” Hồ Uẩn Dung biết rằng lúc này chạy trốn là quan trọng nhất, tức thì kêu ré lên một tiếng, tranh thủ lúc con gấu trèo qua hàng rào sắt mà bế Hòa Mục loạng choạng chạy về phía ngự tọa của Huyền Lăng.

    Vũ lâm quân trong cung chưa từng gặp phải tình cảnh này, cứ thế đờ đẫn nghe con gấu người gầm lên vang trời, không biết nên làm sao mới phải. Các phi tần hai bên ngự tọa của Huyền Lăng thấy con gấu chạy huỳnh huỵch tới, không có ai là không sợ tới nỗi hồn bay phách tán, vội vàng trốn đến phía sau ngự tọa.

    Sự việc xảy ra quá đột ngột nên tôi cũng chẳng biết phải làm sao, chỉ biết đưa tay tới kéo Linh Tê, Dư Hàm và Dư Nhuận về phía sau. Ai ngờ phía sau lúc này đã toàn người với người, tôi căn bản chẳng có chỗ để mà lùi lại. Giữa lúc hỗn loạn, Dư Nhuận vốn ít tuổi yếu ớt nên bị người ta vô tình làm ngã xuống đất, lập tức khóc rống lên. Con gấu người kia đang đuổi theo Hòa Mục, đã ở cách rất gần rồi, đột nhiên nghe thấy tiếng trẻ con khóc thì bất giác hơi sững ra, sau đó liền đi về phía Dư Nhuận. Dư Hàm vốn đang rúc vào lòng tôi theo bản năng, chợt thấy Dư Nhuận bị ngã thì vội vàng kêu lên: “Mẫu phi, đệ đệ bị ngã rồi kìa!”

    Nếu bỏ lại Dư Nhuận, tôi hoàn toàn có thể bế Linh Tê và Dư Hàm chạy đi, còn nếu quay lại bế Dư Nhuận thì chỉ e cả Dư Hàm và Linh Tê cũng sẽ bị liên lụy. Chỉ một khoảnh khắc, trong đầu tôi đã thoáng qua vô vàn suy nghĩ, trái tim phiền muộn đến nỗi như muốn nứt toạc ra. Tôi liếc thấy Dư Nhuận đã khóc đến nỗi mặt mũi đỏ bừng, đang đưa tay về phía tôi khóc nức nở, bất giác lòng đau như dao cắt, chẳng nghĩ ngợi gì đã đẩy Dư Hàm và Linh Tê vào lòng Đức phi, chạy vội tới bên cạnh Dư Nhuận, đưa tay ôm thằng bé vào lòng. Trong cơn hỗn loạn, chẳng biết là ai đã giẫm phải tà váy của tôi khiến tôi bất ngờ ngã sõng soài ra đất, mắt cá chân đau đến thấu tim gan, không cách nào bò dậy được nữa. Tôi vội dùng thân thể mình bảo vệ Dư Nhuận, lại thấy bên cạnh đều là các phi tần trói gà không chặt, chỉ có Huyền Lăng là ở gần mình nhất. Tôi chẳng để ý tới bản thân, vội quay qua phía Huyền Lăng cầu cứu: “Hoàng thượng, Hoàng thượng mau cứu lấy Nhuận Nhi...” Huyền Lăng đang định đứng dậy thì chợt thấy bóng dáng to lớn kia không ngừng bước lại gần, bất giác có chút do dự. Hồ Uẩn Dung kéo Huyền Lăng lại, kinh hãi kêu lên: “Hoàng thượng là vua một nước, há có thể đưa thân mình vào nơi nguy hiểm được!” Kế đó lại đưa mắt liếc qua phía tôi. “Nghe nói gấu người ăn thịt người xong sẽ không tấn công ai nữa, Thục phi nên vì Hoàng thượng mà hiến thân hộ giá mới phải...”

    Huyền Lăng tức thì cả giận. “Nói bậy, sao có thể để Thục phi bị tổn hại được!” Thân thể y hơi rụt về phía sau nhưng vẫn không quên rướn cổ lên hô lớn: “Vũ lâm quân đâu rồi, mau bảo vệ Thục phi!”

    Tôi thấy y như vậy, lại thấy con gấu người chỉ còn cách mình hơn mười bước chân, căn bản khó có cách nào thoát được, trong lòng sớm đã tuyệt vọng, lại thấy Huyền Thanh đã được Ngọc Ẩn kéo đi xa thì trái tim đang lửng lơ mới yên tâm hơn một chút. Nhưng còn Dư Nhuận... My Trang ơi My Trang, mong là muội có thể liều tính mạng này để bảo vệ thằng bé, như vậy cũng coi như là trọn tình tỷ muội bao năm của chúng ta rồi.

    Trong khoảnh khắc ngửi thấy mùi tanh nồng từ trên người con mãnh thú đó xộc đến, tôi dằn lòng lại, mang lòng tất chết mà đè chặt Dư Nhuận xuống dưới thân thể mình, chỉ hy vọng có thể bảo vệ được thằng bé.

    Tôi nhắm chặt hai mắt, chờ đợi một cái chết đau đớn đến với mình. Giữa khoảnh khắc tuyệt vọng ấy, đầu óc tôi bỗng trở nên sáng trong và trống rỗng, sau đó những hình ảnh về thời niên thiếu chậm rãi hiện lên, tôi và My Trang cùng cầm những bông hoa mà cười ngây thơ vui vẻ, rồi khuôn mặt My Trang bỗng nhòe dần đi và biến thành Huyền Thanh, y đứng kề vai với tôi trên đỉnh Lăng Vân, áo quần lất phất tung bay trong gió. Trong dòng hồi ức tươi đẹp ấy, có lẽ sự sợ hãi đối với cái chết của tôi đã giảm bớt đi rất nhiều. Những tiếng ồn ào huyên náo như biển động xung quanh dần dần lùi xa, bên tai tôi chỉ còn lại những tiếng ong ong chẳng hề chân thực, bỗng từ phía không xa vọng lại một tiếng kêu xé gan xé ruột tột cùng thảm thiết: “Vương gia đừng đi...” Tôi giật mình phát giác đó là tiếng kêu của Ngọc Ẩn, trái tim tựa như bị người ta cào xé. Khi tôi còn chưa kịp ngẩng đầu lên thì đã bất ngờ cảm nhận được có một luồng sức mạnh cực lớn kéo tôi ra xa ba thước, rồi thân thể bỗng bị ai đó đè lên, hóa ra lúc này có ai đó đang bảo vệ tôi bên dưới thân thể mình giống như tôi đang bảo vệ Dư Nhuận. Ngay sau đó, một giọng nói rất mực dịu dàng vang lên bên tai tôi: “Đừng nhìn!”

    Giọng nói ấy thật quen thuộc biết bao, giữa khoảnh khắc sống chết chỉ cách nhau một lằn ranh thế này mà vẫn chứa chan vô vàn cảm xúc phức tạp. Trong lòng tôi bỗng trào lên một nỗi sợ hãi, nỗi sợ hãi ấy còn lớn hơn rất nhiều khi tôi quyết định liều chết bảo vệ Dư Nhuận.

    Lúc này, nơi đáy lòng tôi chỉ còn lại duy nhất một suy nghĩ: Y không thể chết được! Nhuận Nhi không thể chết được!

    Tôi vung tay thật mạnh, không chút nghĩ ngợi muốn đẩy y ra. Nhiệt độ cơ thể y bao trùm quanh tôi, y quát khẽ: “Chớ động đậy bừa bãi, bằng không mọi người sẽ phải chết hết đấy!” Giọng nói của y sao ở gần tôi quá! Tôi lúc này bị y đè chặt bên dưới, không dám suy nghĩ nhiều thêm, chỉ biết để mặc cho hai hàng lệ nóng không ngớt tuôn trào.

    Vũ lâm quân đang cố hết sức tìm cách ứng cứu, nhưng vì con gấu người lúc này đang ở cách tôi quá gần nên không một ai dám ném vũ khí tấn công. Đúng lúc này, Huyền Thanh chợt đứng dậy kéo tôi và Nhuận Nhi ra xa, thực là thời cơ tốt nhất, chỉ nghe những tiếng vũ khí xé gió không ngớt vang lên, rất nhiều Vũ lâm vệ đồng loạt vung đao vung thương đâm về phía con gấu người. Nào ngờ con gấu quá dũng mãnh, vũ khí tuy nhiều nhưng bị nó vung tay gạt đi mất không ít, phần còn lại cũng chỉ có thể khiến nó bị thương ngoài da thịt mà thôi. Con gấu sau khi bị thương lại càng thêm hung hãn, chợt đưa mắt liếc thấy Hòa Mục trong bộ đồ màu đỏ, bèn gầm lớn một tiếng, hai mắt đỏ ngầu chạy vụt qua.

    Hồ Uẩn Dung chẳng biết phải làm sao, lại càng chẳng có chỗ nào để lùi lại, chỉ biết kéo theo Hòa Mục Công chúa nấp sau lưng Huyền Lăng. Nàng ta sớm đã chẳng để ý gì tới phong thái nữa, lớn tiếng kêu gào: “Biểu ca cứu muội với!” Con gấu người đó nhìn chằm chằm vào Hòa Mục Công chúa, bước từng bước lại gần, sau nháy mắt đã chẳng còn cách ngự tọa bao xa. Phía sau ngự tọa chỉ có những lớp màn gấm trùng trùng, căn bản không có nơi nào để lui lại, các phi tần tức thì bỏ chạy tứ tán, Huyền Lăng thì nôn nóng đến nỗi mồ hôi tuôn ra đầy đầu, vội vàng hét lên: “Hộ giá! Hộ giá!”

    Bốn phía không ngừng vang lên những tiếng kêu thất thanh, tiếng chạy dồn dập, tiếng bát đĩa vỡ loảng xoảng, tiếng hét của Huyền Lăng vừa mới vang lên thì đã lập tức vỡ vụn. Trinh Phi vốn đã chạy ra xa, bỗng cúi đầu nhìn Dư Bái đang khóc nức nở trong lòng rồi bất ngờ xoay người lại nhét thằng bé vào lòng nhũ mẫu, xách váy lên chạy thẳng về phía Huyền Lăng, dang hai tay ra chắn trước ngự tọa. Huyền Lăng bất giác cả kinh, đang định kêu nàng ta chạy đi thì chợt thấy gấu người đã tiến lại gần, bèn nuốt luôn những lời khuyên can vào trong cổ họng. Đúng lúc này thì Vũ lâm quân dưới sự chỉ huy của Huyền Phần đã nhanh chóng tiến lại gần, dùng đủ các loại vũ khí kìm giữ thật chặt con gấu.

    Người đông thì sức lớn, con gấu nhất thời bị kìm giữ chặt không thể động đậy. Đúng lúc này, Huyền Thanh bỗng kéo tôi về phía sau, đưa tay chụp lấy một cây thương rất dài, hít sâu một hơi, ra sức ném mạnh về phía trước.

    Chỉ nghe những tiếng rít kinh hồn vang lên vun vút, từ trong tai tôi lại có cảm giác nhói đau. Tôi tranh thủ lúc Huyền Thanh đứng dậy mà bế Nhuận Nhi đứng dậy theo, vừa khéo nhìn thấy cây trường thương mà Huyền Thanh ném ra đã xuyên qua cổ họng con gấu người kia, đầu mũi thương lòi ra phía sau gáy nó chừng hơn một tấc, những giọt máu đỏ tươi không ngớt rỉ ra.

    Đó là một thứ màu sắc vừa diễm lệ mà lại vừa tàn nhẫn, làm lòng người chấn động. Ma Cách nheo cặp mắt thành một đường hẹp dài, từ bên trong chiếu ra những tia sắc bén. Hắn vừa vỗ tay vừa cất tiếng khen ngợi lạnh lùng tột độ: “Ném thương giỏi lắm!”

    Bởi vì tiếng khen của hắn mà đại điện lại càng có vẻ tĩnh lặng, một sự tĩnh lặng đến trống trải, tựa như nơi đây chẳng phải là chốn nhân gian. Linh Tê và Dư Hàm đồng thời giãy ra khỏi lòng nhũ mẫu, chạy vội về phía tôi. Dư Hàm khóc òa lên một tiếng, Linh Tê thì rơm rớm nước mắt ôm chặt cánh tay tôi mà khẽ gọi: “Mẫu phi! Mẫu phi!”

    Hai thân hình bé bỏng cứ thế quyến luyến nép sát vào người tôi. Tôi ôm Nhuận Nhi đang sợ đến nỗi khóc không thành tiếng trong lòng, hai bờ má thì áp vào má Linh Tê và Dư Hàm, cảm nhận sự ly biệt giữa sống và chết khi nãy, không kìm được lã chã tuôn rơi hai dòng lệ.

    Ngọc Ẩn sớm đã nôn nóng đến nỗi tóc tai rối bời, mặt mày tái mét, lúc này vội vàng gạt mọi người ra nhào thẳng vào lòng Huyền Thanh, bàn tay hoang mang sờ khắp thân thể y, miệng thì ân cần hỏi: “Vương gia không sao chứ? Không sao chứ?” Lời còn chưa dứt, nước mắt đã tuôn rơi đầy mặt. Huyền Thanh chỉ đành đưa tay tới vỗ về an ủi muội ấy, đồng thời thấp giọng nói: “Ta không sao, chỉ bị một phen hú vía mà thôi.”

    Ngọc Ẩn nhìn khuôn mặt y chăm chú, tựa như có nhìn thế nào cũng không đủ được, thấy y không bị làm sao mới yên tâm hơn một chút, quay qua hỏi tôi: “Trưởng tỷ vẫn ổn chứ?”
    Tôi thấy trong mắt Ngọc Ẩn chứa đầy vẻ quan tâm và quyến luyến, trong lòng bất giác sinh ra một tia cảm xúc khó nói bằng lời, cho dù y đã xả thân để cứu tôi thì rốt cuộc Ngọc Ẩn mới là người vợ thân mật nhất của y. Đưa mắt nhìn qua, tôi thấy Hồ Uẩn Dung đang lạnh lùng nhìn mình, bên khóe môi thấp thoáng một nụ cười như có như không, bèn không kìm được nhủ thầm rằng trong tình huống vừa rồi, Huyền Lăng chưa chắc đã không nghi ngờ gì. Tôi hít sâu một hơi, run giọng nói: “Ngọc Ẩn, may mà có Vương gia nhà muội...” Tôi gắng gượng đứng dậy, chỉnh lại xiêm y rồi khom người hành lễ thật sâu. “Đa tạ ơn nghĩa của Vương gia, bản cung cũng thay mặt Huệ Nghi Quý phi xin đa tạ Vương gia.”

    Nơi đáy mắt thoáng qua một tia cảm xúc vô cùng phức tạp, Ngọc Ẩn vội vàng đưa tay tới nắm lấy cánh tay tôi, ân cần nói: “Vương gia là muội phu của trưởng tỷ, sao có thể nhìn trưởng tỷ và Nhuận Nhi gặp nguy hiểm mà khoanh tay đứng nhìn được, như thế há lại chẳng làm tổn hại tới tình nghĩa phu thê của bọn muội ư!”

    Tuy cách một lớp vải mỏng nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được sự ẩm ướt của những giọt mồ hôi trên đầu ngón tay Ngọc Ẩn, ngón tay muội ấy hơi dùng sức, chẳng giống như đang cầm tay tỷ tỷ, móng tay còn cắm cả vào trong da thịt tôi. Ngoài mặt muội ấy vẫn giữ nguyên vẻ ân cần tha thiết, tôi thấy vậy thì lòng bất giác thầm giá lạnh, bèn khẽ đẩy tay muội ấy ra, đưa Nhuận Nhi cho nhũ mẫu bế, đồng thời vội vàng dặn dò: “Mau đi mời Ôn thái y tới đây xem thử thế nào đi.”

    Tôi nghiêng đầu qua thấy Trinh Phi đang ngồi bệt dưới đất ngay cạnh Huyền Lăng, trên mặt vẫn còn lưu lại thần thái dù chết cũng không hối hận trong khoảnh khắc sống còn hồi nãy, bàn tay thì nắm chặt lấy tay Huyền Lăng. Có lẽ vì sự thân mật lúc này mà trên khuôn mặt nhợt nhạt của nàng ta ánh lên mấy tia đỏ hồng, thực là bắt mắt vô cùng, giống như một bông hoa đẹp đẽ nở ra giữa đám mây trắng muốt.

    Tôi đi tới trước mặt Huyền Lăng, quỳ xuống hành lễ. “Hoàng thượng vạn an!” Dứt lời bèn nắm lấy bàn tay Trinh Phi, ân cần nói: “Đa tạ Trinh Phi vừa rồi đã xả thân bảo vệ Hoàng thượng.”

    Huyền Lăng chẳng buồn nhìn tôi, chỉ dịu dàng đỡ Trinh Phi đứng dậy, ân cần hỏi: “Yến Nghi, nàng vẫn ổn chứ?”

    Trinh Phi nhìn Huyền Lăng chăm chú. “Hoàng thượng không sao là tốt rồi, thần thiếp có thể yên tâm được rồi.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu, đưa mắt nhìn quanh bốn phía, đột nhiên cất lời cảm thán: “Yến Nghi, chỉ có mình nàng là thật lòng tốt với trẫm.”

    Trinh Phi bất giác đỏ hoe hai mắt, nghẹn ngào nói: “Hoàng thượng đừng nói như vậy, Yến Nghi không nhận nổi.”

    Huyền Lăng hờ hững nhìn lướt qua khuôn mặt tôi. “Vậy ư? Trẫm tới hôm nay mới biết, vậy có coi là muộn quá không?”

    Yến Nghi cảm động đến rơi nước mắt. “Thần thiếp biết là Hoàng thượng trước nay vẫn luôn biết rõ mà.”

    “Trẫm trước đây quả thực chưa biết trân trọng nàng.” Y khẽ cất lời thổn thức. “Lý Trường, đỡ Trinh Phi đi nghỉ ngơi đi.” Suy nghĩ một chút lại ngăn Lý Trường lại. “Để tự trẫm.” Dứt lời bèn đưa tay bế thốc Trinh Phi lên. “Để trẫm đưa nàng về cung nghỉ ngơi.” Rồi y ngoảnh đầu qua nói với Ma Cách: “Ái phi của trẫm mệt rồi, trẫm xin thất lễ.”

    Ma Cách nói: “Hoàng đế xin cứ tự nhiên.” Hơi dừng một chút, y nở một nụ cười đầy vẻ mơ hồ. “Đợi lát nữa bản hãn còn có một câu nói cực kỳ quan trọng muốn đích thân nói với Hoàng đế.” Dứt lời, y hờ hững đưa mắt liếc qua phía tôi, nụ cười lại càng thêm rõ ràng.

    Hồ Uẩn Dung thấy Huyền Lăng không hỏi gì tới mình đã đi ngay, không khỏi có chút nôn nóng, vội cười, nói: “Biểu ca, Hòa Mục sợ tới phát khóc rồi kìa.”

    Trinh Phi đỏ bừng mặt mũi, thần sắc như mê như say, nghe thấy vậy bèn khẽ kéo tay áo Huyền Lăng tỏ ý bảo y hãy quan tâm tới Hòa Mục một chút. Huyền Lăng chẳng buồn ngoảnh đầu lại, vẫn bế Trinh Phi chậm rãi đi về phía trước. “Vậy thì mời thái y đến xem đi, trẻ con sợ hãi làm gì có đứa nào không khóc.”

    “Biểu ca.” Hồ Uẩn Dung đi lên phía trước hai bước, nôn nóng nói. “Trẻ con khóc tất nhiên không phải việc gì quan trọng, huống chi Hòa Mục chỉ là một công chúa mà thôi. Nhưng lần này đúng là phải đa tạ lục biểu ca đấy, vừa rồi huynh ấy xả thân cứu Thục phi và tứ điện hạ, ngay tới trắc phi và ấu tử của mình cũng bỏ mặc không thèm để ý tới.”

    Lời này của nàng ta rõ ràng có ý khiêu khích, ly gián, tôi làm gì mà chẳng biết. Lúc này, ánh mắt tất thảy mọi người đều đổ dồn về phía tôi, tôi nhất thời không biết phải biện bạch thế nào, đành đứng lặng im ở đó. Huyền Thanh vốn đã dắt tay Ngọc Ẩn đi tới góc điện, nghe thấy thế liền ngoảnh đầu lại, hờ hững nói: “Con của thần đệ vừa rồi đã tới được nơi an toàn, lại có Ngọc Ẩn chiếu cố. Hoàng huynh thì phải bảo vệ Trang Mẫn Phu nhân và Hòa Mục Công chúa, lại phải chỉ huy Vũ lâm quân khống chế gấu người, trong lòng kỳ thực cũng rất lo cho sự an nguy của Thục phi. Hoàng huynh thân phận tôn quý không thể tùy tiện mạo hiểm, thần đệ và hoàng huynh huynh đệ một lòng, đương nhiên là phải phân ưu cho hoàng huynh trong thời khắc quan trọng nhất rồi.”

    Huyền Lăng cười nhạt một tiếng, nhìn y chăm chú. “Thanh Hà Vương đúng là rất biết nói chuyện.” Y trước sau chẳng buồn nhìn tôi dù chỉ một chút. “Thục phi vừa rồi đã phải chịu một phen kinh sợ, trước tiên hãy tới Nghi Nguyên điện đợi trẫm đi, đợi lát nữa trẫm sẽ kêu thái y tới khám cho nàng.”

    Lời này rõ ràng có chút cổ quái, tôi cố kìm nén nỗi nghi hoặc trong lòng, dịu dàng nói: “Dạ!”
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 13: Biết rằng hội ngộ không dài mãi[21]
    [21] Trích Giá cô thiên - Đương nhật giai kỳ thước ngộ truyền của Án Kỷ Đạo. Dịch thơ: Điệp Luyến Hoa. Nguyên văn Hán Việt: Tình tri thử hội vô trường kế - ND.

    Tôi đứng lặng lẽ trong Nghi Nguyên điện. Nơi này tôi đã tới quá nhiều lần rồi, do đó vô cùng quen thuộc, nhưng cũng vì thế mà trong lòng bất giác sinh ra mấy tia cảm khái khó mà dùng lời để miêu tả. Tôi dường như đang sợ hãi, sự sợ hãi đó bắt nguồn từ việc một bí mật vốn bị ẩn giấu nhiều năm nay vừa hé lộ ra một góc nhỏ. Tôi không biết, cũng không dám nghĩ, lỡ như bí mật đó thật sự bị vạch trần thì sẽ dẫn đến một cơn biến cố ghê gớm đến chừng nào.

    Tôi khẽ cất tiếng hỏi Lý Trường: “Hoàng thượng hình như đang rất giận thì phải?”

    Lý Trường lắc đầu, đáp: “Vừa rồi thấy nương nương bị như vậy nô tài cũng vô cùng sợ hãi, nhưng không ngờ lục Vương gia lại xả thân cứu nương nương.” Y đưa mắt liếc qua phía tôi, dè dặt nói: “Có lẽ Hoàng thượng đang giận bản thân mình, bởi người không thể cứu được nương nương mà phải nhờ tới người khác.”

    Tôi bất giác thở phào một hơi, Lý Trường thì thở dài, nói tiếp: “Nô tài đã già rồi, nhiều lúc chẳng thể nào đoán được tâm tư của Hoàng thượng nữa. Nương nương phải chú ý bảo trọng đấy.”

    Tôi khẽ gật đầu, lặng lẽ ngồi bên cửa sổ lắng nghe tiếng gió thổi vù vù, cảm giác chẳng khác nào tiếng thiên quân vạn mã lao đi dồn dập.

    Bầu không khí trong điện có chút ngột ngạt, đó là một sự ngột ngạt từ nơi đáy lòng truyền ra, khiến người ta vô cùng khó chịu. Tôi dần dần có cảm giác không thở nổi nữa, liền đứng dậy mở cửa sổ, nhưng rồi lại nghe thấy từ bên ngoài vang vọng những tiếng ve sầu, thật chẳng khác nào một cơn mưa rào, vô cùng đáng ghét. Trong lúc chờ đợi, tôi bất giác cảm thấy buồn ngủ, liền mơ màng nhắm mắt lại, nhưng những mối tâm sự cứ liên tục hiện lên trong lòng khiến tôi càng mỏi mệt hơn.

    Chẳng biết đã qua bao lâu, khi tôi mở mắt ra thì trời đã sâm sẩm tối rồi, màn đêm mờ mịt không ngừng kéo đến khiến người ta chẳng có chỗ nào để né tránh. Trong một góc điện u ám, nơi mà ánh sáng không thể chiếu tới được, một cái bóng cao lớn màu đen đang đứng trong lặng lẽ, chẳng khác gì bức tượng. Hình như đã lâu lắm rồi tôi không chăm chú nhìn vào bóng lưng của y như vậy, thành ra y trong ký ức và y của bây giờ thật chẳng giống nhau chút nào, cứ như hai con người khác biệt. Sau giây lát tôi mới giật mình tỉnh táo trở lại, vội đứng dậy, nói: “Hoàng thượng tới đây từ khi nào vậy?”

    Y quay lưng về phía tôi, cất giọng hững hờ: “Trẫm thấy nàng đang ngủ, do đó mới không đánh thức nàng.” Hơi dừng một chút, y lại nói tiếp: “Nàng ngủ không được ngon lắm thì phải.”

    Tôi gượng cười, nói: “Thần thiếp nhát gan, mãi đến bây giờ vẫn còn chưa hết sợ vì chuyện hồi chiều.” Thấy y không nói gì, tôi chỉ biết đứng nguyên chỗ cũ, nói tiếp: “Trinh Phi muội muội không sao chứ?”

    Y chỉ đáp lại bằng một giọng hững hờ khó mà nghe ra được là mừng hay giận: “Trinh Nhất Phu nhân vẫn ổn, trẫm đã ở bên nàng ấy suốt cả buổi chiều.”

    “Trinh Nhất Phu nhân?” Tôi hơi sững người, rất nhanh sau đó đã hiểu ra, bèn khẽ mỉm cười. “Muội ấy đã xả thân vì Hoàng thượng, được phong thưởng cũng là đúng thôi, vậy mới không uổng một tấm tình si của muội ấy với Hoàng thượng.”

    Trong hậu cung Đại Chu vốn có hai vị phu nhân, nhưng từ triều Long Khánh trở về sau chỉ còn lập một để tỏ sự vinh hiển. Hiện giờ Huyền Lăng đưa Yến Nghi lên ngang hàng với Hồ Uẩn Dung đủ thấy y coi trọng nàng ta tới mức nào. Tôi thoáng có chút mừng vui, đối với Yến Nghi mà nói, đây rõ ràng là một niềm an ủi rất lớn.

    “Một tấm tình si?” Huyền Lăng cười nhạt một tiếng, vung tay nói. “Tình si vô cùng đáng quý, trẫm tất nhiên không thể phụ lòng nàng ấy rồi.”

    Tôi thấy giọng y có vẻ khác thường, nên không dám nói gì thêm, chỉ lặng yên đứng đó.

    Sự tĩnh lặng lúc này khiến người ta cảm thấy sợ hãi. Bao lâu nay tôi chưa từng cảm thấy sự tĩnh lặng giữa mình và y lại có thể trở nên gượng gạo đến chừng này, làm tôi vô cùng khó xử. Tôi cúi xuống, dường như ngoài cúi đầu thì chẳng có việc gì khác để làm. Hôm nay tôi đi một đôi giày màu đỏ làm bằng vải đoạn, bên trên thêu hình phượng hoàng, vì đang mùa hè nên đó là loại vải đoạn rất mềm và mỏng, áp sát vào chân mang lại cảm giác vô cùng thoải mái. Sau khi nhìn một lúc lâu, tôi bỗng thấy hơi hoa mắt, cặp phượng hoàng trên đôi giày tưởng chừng như đang vỗ cánh bay lên, sau khi lượn quanh mấy vòng lại sà xuống mổ vào ngón chân tôi hết nhát này tới nhát khác làm tôi đau nhói.

    Y khẽ “ừm” một tiếng, vẫy tay gọi tôi lại. “Qua đây.” Giọng của y dứt khoát, lạnh lùng, chẳng còn chút thân thiết nào của ngày xưa. Tới lúc này tôi mới hiểu ra, vì sự căng thẳng trong lòng nên tôi mới càng thêm mỏi mệt. Tôi chậm rãi bước tới đứng bên cạnh y, đó là một tư thế vô cùng thân mật, quan hệ giữa chúng tôi tựa hồ chưa từng đổi khác.

    Tôi với y đứng kề vai nhau một lát, làn gió đêm mang theo mùi thơm ngọt ngào của hoa lá luồn qua cửa sổ thổi vào, chẳng cho ai phân bua gì đã xộc thẳng vào đầu vào mặt người ta. Y đột ngột quay đầu lại, đưa tay chụp lấy mặt tôi, cúi xuống hôn lên trán tôi. Tôi nhất thời lúng túng chẳng biết phải làm sao, trong cơn hoảng loạn liền khẽ ngăn cản theo bản năng. Y càng lúc càng dùng sức mạnh hơn, dường như muốn ấn thứ gì đó xuống vậy, làm hai bờ má tôi đau đến bỏng rát.

    Một hồi lâu sau y mới chậm rãi buông tôi ra, vẻ mặt vô cùng hờ hững, dường như tôi chẳng phải là người mà vừa rồi y còn muốn bảo vệ. Y lạnh lùng nhìn tôi, hỏi: “Chuyện bắt đầu từ bao giờ vậy?”

    Tôi ngẩng lên, có thể nhìn thấy rõ ràng nơi đáy mắt y thấp thoáng những tia sát cơ lạnh lẽo. Tôi khẽ hít vào một hơi, nói: “Xin thứ cho thần thiếp ngu muội, thần thiếp quả thực không rõ Hoàng thượng đang nói tới chuyện gì.”

    Y hơi nhếch khóe môi tạo thành một đường cong lạnh lẽo. “Nàng thông minh như thế, lẽ nào thật sự không biết ư?”

    Lòng tôi lúc này vô cùng thấp thỏm, trái tim đập thình thịch liên hồi, mồm miệng thì khô khốc chẳng nói nổi lời nào. Huyền Lăng nhìn tôi chằm chặp, đột nhiên khẽ thở ra một hơi, đưa tay vuốt ve bờ má tôi vẻ đầy trìu mến. Tôi bất giác rùng mình một cái theo bản năng, không biết y định làm gì, cứ đứng đờ người ra đó. Y nhìn tôi rồi chậm rãi nói: “Hoàn Hoàn, bấy lâu nay trẫm vẫn luôn rất mực sủng ái nàng, nhưng lúc này đây, trẫm thật hận khuôn mặt này của nàng biết bao nhiêu.” Nhìn thẳng vào đôi mắt đầy vẻ hoang mang của tôi, trong mắt y bừng lên những tia căm phẫn và bất lực. “Hoàn Hoàn, có người kể với trẫm câu chuyện về Minh Phi...”

    Tôi hơi sững ra, mãi tới lúc này mới giật mình tỉnh táo trở lại, cơ hồ cho rằng mình đã đoán nhầm. Trong khoảnh khắc sững sờ đó, có một làn gió đêm nhẹ nhàng thổi sát qua sống lưng tôi, tôi liền cảm thấy lạnh, rồi chợt phát hiện mình đã tuôn đầy mồ hôi lạnh tự lúc nào. Có điều sự lạnh lẽo ấy vẫn không cách nào xua đi được sự chấn động trong lòng, tôi nhìn Huyền Lăng, khẽ nói: “Là Ma Cách...”

    Y chậm rãi ngoảnh mặt đi khiến tôi không thể nhìn thấy thần sắc y, chỉ thấy đôi tay chắp sau lưng y đang nắm chặt lại thành quyền. Trong điện lúc này vô cùng yên tĩnh, tôi gần như có thể nghe rõ những tiếng “rắc rắc” vọng ra từ mấy đốt ngón tay y, thế nhưng giọng y vẫn chẳng có gì khác biệt so với lúc thường ngày: “Vừa rồi Ma Cách đặc biệt tới gặp trẫm, yêu cầu trẫm để nàng đi hòa thân!” Nơi đáy mắt y thấp thoáng một tia băng giá, còn kèm theo vẻ chán ghét. “Rốt cuộc hắn đã bắt đầu để ý tới nàng từ khi nào vậy?” Y đưa mắt liếc tôi, giọng nói mang vẻ âm u tột bậc. “Khuôn mặt này của nàng thu hút trẫm như thế, ắt cũng sẽ thu hút người khác. Trẫm thực không nên để hắn nhìn thấy nàng!”

    Toàn thân chấn động, tôi ngàn vạn lần không ngờ được Ma Cách lại đưa ra lời thỉnh cầu như thế. Sau một thoáng ngẩn ngơ, tôi vội vàng quỳ xuống, rơm rớm nước mắt, nói: “Thần thiếp là phi tần của thiên tử, sao có thể hạ mình đi hòa thân được, Ma Cách thực quá hoang đường!”

    “Trẫm nào phải không biết điều ấy!” Huyền Lăng hậm hực nói. “Trẫm đã dùng những lời vừa rồi của nàng để chặn họng hắn, ai ngờ hắn lại lôi ra điển cố Hán Nguyên Đế, dùng Minh Phi Chiêu Quân để so sánh với nàng, yêu cầu trẫm chấp nhận lời thỉnh cầu của hắn.”
    Tôi chợt nhớ tới câu nói kia của Ma Cách: “Do đó, Thục phi phải nhớ lấy, Thục phi đã giết thê tử của ta thì nhất định phải đền cho ta một thê tử khác.” Lúc này tôi kinh hãi tới tột cùng, không ngờ y lại thực hiện lời nói của mình nhanh đến thế, bèn đưa tay tới nắm chặt lấy góc áo Huyền Lăng. “Minh Phi xuất tái là nỗi đau lớn nhất trong đời Nguyên Đế, huống chi thần thiếp đã là mẹ của bốn đứa con rồi, nếu thật sự làm theo yêu cầu của hắn, sau này các vị Hoàng tử và Công chúa làm sao ngẩng mặt làm người được đây!”

    “Hắn nói với trẫm, phong tục của Hách Hách là con cái kế thừa mọi thứ của cha, ngay đến thứ mẫu cũng có thể tiếp nhận chứ đừng nói gì tới nàng.” Đầu ngón tay Huyền Lăng run lên lẩy bẩy, giống hệt như giọng nói run run khó giấu của y lúc này. “Với tính tình của Ma Cách, dù bệnh dịch đang lan tràn trong quân cũng chẳng chịu tùy tiện cúi đầu. Đại Chu tuy nhất thời có thể dùng bệnh dịch để áp chế hắn nhưng khó ai có thể đảm bảo rằng hắn sẽ không thể tìm ra phương thuốc trị bệnh, hơn nữa chiến sự kéo dài tới bây giờ đã làm nguyên khí của Đại Chu tổn thương rất nặng rồi. Trẫm vừa hỏi bộ Hộ, được biết bây giờ tập hợp tất cả lương thảo lại cũng chỉ đủ dùng cho đại quân trong thời gian ba tới năm tháng, hai bên cứ tiếp tục giằng co thế này thì sẽ có trăm cái hại mà không có cái lợi nào. Ma Cách đã nói rõ với trẫm là chỉ cần đồng ý để nàng làm Yên thị của Hách Hách, lại đưa cho hắn phương thuốc chữa trị bệnh dịch, đại quân Hách Hách sẽ lập tức rút về, kể từ nay về sau, Đại Chu mỗi năm chỉ cần giao nộp ba ngàn gánh lương thảo cùng mười vạn lạng bạc thì hắn sẽ không gây chiến nữa.”

    Y dừng lại không nói tiếp nữa, chỉ nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt âm u tột độ. Màn đêm giống như một tấm vải đen khổng lồ và mềm mại phủ xuống nhân gian, sớm đã tới thời gian thắp đèn, thế nhưng vì không có ý chỉ của Huyền Lăng nên không có ai dám đi vào thắp đèn. Tôi chỉ yên lặng không nói gì, trong lòng trào dâng một nỗi chua chát khó mà dùng lời để miêu tả, thế nhưng chẳng rõ vì sao, đôi mắt tôi lại khô cạn, không thể chảy ra một giọt nước mắt nào. Bóng tối xung quanh làm tôi trở nên đờ đẫn và tê dại, tôi bèn cầm lấy một cây bùi nhùi mang đi thắp sáng ngọn nến được cắm trên chiếc đế hình con hạc làm bằng đồng. Ánh nến màu vàng cam dần dần sáng lên và không ngớt đung đưa, hệt như một trái tim yếu ớt đang nhẹ nhàng lay động.

    Giữa ánh nến lờ mờ, tôi bỗng phát hiện khuôn mặt mà mình đã nhìn suốt mười mấy năm nay sao lại xa lạ đến thế. Có điều, vẻ xa lạ này hình như tôi đã từng nhìn thấy ở đâu đó rồi, hóa ra, trong đêm tôi rời cung thuở nào, y cũng từng để lộ ra vẻ mặt giống hệt như vậy.

    Y vẫn lặng im không nói gì, chỉ chờ tôi mở miệng.

    Lời của y đã tới nước này rồi, hà tất phải ép y nói ra những lời bạc bẽo hơn làm gì nữa. Thôi thôi, xét cho cùng, một thân vinh hoa phú quý này đều là do y ban cho.

    Tôi chỉnh sửa lại xiêm y, trịnh trọng quỳ xuống. “Thần thiếp thân là thục phi của Đại Chu, bấy lâu nay luôn được Hoàng thượng sủng ái, lòng thực vô cùng bất an, không biết nên báo đáp thế nào mới phải. Nay đã tới lúc thần thiếp báo đền ân đức của Hoàng thượng rồi, thần thiếp không dám ích kỷ, mọi việc đều xin nghe Hoàng thượng sai khiến.”

    Y dường như đã thở phào một hơi, lại đưa tay lên che mặt, nói: “Trẫm là vua một nước, mọi việc... mọi việc nàng hãy tự mình làm chủ đi.”

    Trái tim bỗng không còn nặng nề nữa, tựa như một sợi dây đàn vốn bị kéo căng đột ngột đứt lìa, trở nên vô cùng nhẹ nhõm, tôi rốt cuộc đã ý thức được rõ ràng rằng y là một con người bạc bẽo tới mức nào.

    Trong khoảnh khắc cúi đầu xuống, tôi chợt khẽ mỉm cười, cười chính bản thân mình. Tôi nào phải không biết là y bạc bẽo, thế mà vẫn ôm một tia hy vọng rằng y sẽ vì những đứa bé mà giữ tôi lại. Giang sơn mỹ nhân bên nào nặng bên nào nhẹ, tôi vốn không nên trông chờ vào y mới phải.

    Cái gọi là ân ái sủng hạnh trong chốn hậu cung làm sao mà so được với tiền đồ của giang sơn, sự an nguy của xã tắc, nếu tôi thật sự mở lời cầu xin y xót thương thì thực là không biết tự lượng sức mình.

    Cố nén nỗi giá lạnh trong lòng, tôi chậm rãi nói: “Thần thiếp không dám quên ơn.”

    Một làn gió mạnh vùn vụt bay vào thổi bay đi âm cuối trong lời nói của tôi, làm sống lưng tôi càng thêm lạnh giá. Một giọng nói quen thuộc mang vẻ kiên định hiếm có bất ngờ vang lên: “Thục phi nương nương xin hãy suy nghĩ kĩ, không thể như vậy được! Nương nương làm vậy có thể nói là không tiếc thân mình, nhưng chỉ e sẽ đẩy hoàng huynh vào cảnh bất nghĩa.”

    Lý Trường nôn nóng tới nỗi mồ hôi tuôn ra đầy đầu, vội vàng đi theo sau lưng y. “Hoàng thượng còn chưa tuyên triệu, Vương gia không thể đi vào được.”

    Tôi đứng dậy, dùng lý trí ép mình phải bình tĩnh. “Lục Vương gia quá lo rồi.” Khóe môi tôi hơi nhếch lên để lộ một tia lạnh lùng. “Chuyện này là do bản cung tự nguyện, Hoàng thượng không hề cưỡng ép bản cung.”

    Đối mặt với sự bình tĩnh ấy của tôi, y cung tay nói: “Nương nương tất nhiên không muốn làm hoàng huynh khó xử, nhưng một khi nương nương đi hòa thân, Hoàng thượng sẽ giống như Hán Nguyên Đế, vĩnh viễn bị người đời sau chê cười.”

    Huyền Lăng khẽ thở dài một tiếng, ánh mắt nhìn tôi chan chứa vẻ không đành lòng. “Trẫm và Thục phi làm phu thê đã mười mấy năm, về sau chỉ còn hình đơn bóng chiếc, những lúc nhìn thấy Lung Nguyệt, Linh Tê và Hàm Nhi, trẫm há lại chẳng đau lòng...”

    Trong lời của Huyền Lăng chứa chan tình cảm. Huyền Thanh đưa mắt liếc sang tôi, thoáng lộ vẻ chấn động, ngay sau đó vội vàng ngoảnh đầu qua hướng khác. “Thục phi đã sinh được ba người con cho hoàng huynh, địa vị tôn quý tột cùng, nếu để Thục phi đi hòa thân, sau này nếu các vị Hoàng tử và Công chúa níu áo hoàng huynh hỏi về tung tích mẫu phi, hoàng huynh sẽ trả lời như thế nào? Hách Hách ở xa ngoài ngàn dặm, sau này dù hoàng huynh có nhớ Thục phi đến mấy thì e là cũng chẳng còn cơ hội gặp lại nữa rồi.”

    Lý Trường lúc này đã nghe ra được nguồn cơn, bất giác mặt mày tái nhợt, tay cầm cây phất trần cười trừ, nói: “Hoàng thượng thương yêu Thục phi nương nương như thế, tất nhiên không muốn để nương nương phải tới đất Hồ, sau này không còn ngày gặp mặt. Nếu Hách Hách thật sự muốn hòa thân, sao Hoàng thượng không chọn lấy một nữ tử tài mạo song toàn trong tông thất rồi phong làm công chúa để gả cho Ma Cách? Như thế thực có thể nói là lưỡng toàn kỳ mỹ, vừa bảo vệ được nương nương lại vừa không làm Ma Cách mất mặt.”

    Dưới ánh nến âm u, sắc mặt Huyền Lăng trông âm u tột độ. “Ngươi phải biết rằng tình cảm là một thứ rất khó thay đổi. Ma Cách đã đưa ra yêu cầu như thế thì ắt phải đạt được mục đích mới chịu thôi, ngươi cho là nếu để người khác đi hòa thân thì hắn có thể hài lòng mà lui binh được sao?”

    Lý Trường sợ đến nỗi không dám nói gì thêm, Huyền Lăng lạnh lùng nói tiếp: “Nơi này không có việc gì của ngươi, mau lui xuống đi.” Lý Trường vội đưa tay lên lau mồ hôi, khom người lui ra ngoài.

    Huyền Thanh hơi cau mày, nói: “Bất kể là nữ tử tông thất hay là Thục phi nương nương thì cũng đều là hy sinh nữ tử để bảo vệ quốc gia, có gì khác biệt đâu? Lỡ như Hách Hách lấy đó làm lệ, năm nào cũng yêu cầu hòa thân, vậy thì mặt mũi của Đại Chu biết phải để vào đâu? Thần đệ cho rằng như thế không ổn.”

    Huyền Lăng nhướng mày lộ rõ vẻ tức giận. “Hắn nhất định muốn có Thục phi. Chỉ có trẫm là chẳng biết gì, thậm chí cả việc hắn bắt đầu chú ý tới Thục phi từ khi nào cũng không biết rõ, cho nên hôm nay mới phải mất mặt và rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như vậy.”

    Hơi thở của Huyền Thanh dần trở nên dồn dập, chẳng còn vẻ ôn hòa điềm đạm của ngày xưa. Y cố hết sức điều chỉnh hơi thở của mình, vén áo quỳ xuống, nói: “Hoàng huynh, chúng ta đâu phải là đánh không lại Hách Hách.”

    Huyền Lăng chăm chú nhìn y, thoáng lộ vẻ bi thương. “Lục đệ, đệ cho rằng trẫm đành lòng để Thục phi đi ư? Chúng ta không phải là không thể đánh, mà là không thể đánh mãi như thế được. Hách Hách mà không thu dã tâm về, dù nhất thời bị đánh lui thì sau này cũng sẽ quay lại, Đại Chu sẽ chẳng bao giờ được yên ổn.” Y khẽ hít một hơi, lộ vẻ buồn bã nói tiếp: “Tề Bất Trì giờ đã chết rồi, đệ cho rằng Đại Chu còn bao nhiêu tướng lĩnh có thể dùng đây?”

    “Sử xanh nhà Hán chép, kế vụng ấy hòa thân. Xã tắc vì minh chủ, an nguy gửi nữ nhân. Phấn son dù có đẹp, binh lửa dễ gì ngăn. Khanh tướng từ thiên cổ, ai người giúp thánh quân[22]? Việc dùng nữ tử để giữ yên xã tắc thế này quả thực là không ổn. Nếu hoàng huynh không chê thần đệ vô dụng, thần đệ xin nguyện lòng dẫn binh xuất quan, không đẩy lùi Hách Hách quyết không về triều.”

    [22] Vịnh sử của Nhung Dục. Dịch thơ: Cao Tự Thanh. Nguyên văn Hán Việt: Hán gia thanh sử thượng, kế chuyết thị hòa thân. Xã tắc y minh chủ, an nguy thác phụ nhân. Khởi năng tương ngọc mạo, tiện nghĩ tĩnh Hồ trần. Địa hạ thiên niên cốt, thùy vi phụ tá thần - ND.

    Đại điện sau nháy mắt đã trở nên tĩnh lặng, tôi cơ hồ có thể nghe thấy tiếng gió luồn qua giữa những lùm cây bên ngoài cửa sổ, lướt nhẹ trên mặt hồ. Thế nhưng lòng tôi thì lại dần dần giá lạnh, chẳng lẽ y không biết là cần phải tránh sự hiềm nghi sao? Chuyện vừa rồi Huyền Lăng chưa chắc đã để trong lòng, nhưng bây giờ y lại tự nguyện xin được cầm quân xuất chinh, lẽ nào y đã quên mất là Huyền Lăng xưa nay vốn kiêng kỵ nhất việc thân vương nắm binh quyền trong tay?

    Vừa suy nghĩ như vậy, trong lòng tôi chợt sinh ra mấy tia nghi hoặc, tại sao Huyền Lăng vừa định để tôi đi hòa thân thì Huyền Thanh đã đẩy cửa đi vào như thế? Lẽ nào vừa rồi y vẫn luôn đứng bên ngoài điện và nghe thấy hết cuộc nói chuyện giữa tôi và Huyền Lăng?

    Tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh, tại sao y lại luôn ở bên ngoài điện chứ?

    Huyền Lăng chậm rãi nở nụ cười, ánh mắt thì lại dần trở nên lạnh lẽo, từng lời nói ra chẳng khác nào những khối băng vụn: “Đệ rốt cuộc đã chịu nói ra câu này rồi!” Ánh mắt lúc này đã trở nên lạnh tựa huyền băng ngàn năm, còn sắc bén đến độ có thể đâm thấu lồng ngực người ta, y gằn giọng nói tiếp: “Đệ hãy nói cho trẫm biết, lời thỉnh cầu này của đệ rốt cuộc là vì Đại Chu... hay là vì nàng ta?”

    Tôi rùng mình kinh hãi, trái tim giống như bị ai đó bóp chặt và lôi ra khỏi lồng ngực, tự nơi đáy lòng trào lên một cơn đau đớn tới tột cùng.

    Y rốt cuộc đã nghi ngờ rồi! Xem ra y quả thực có tình ý với tôi, do đó mới dụ Huyền Thanh bước từng bước vào trong điện như thế.

    Huyền Lăng hơi nheo mắt lại, để lộ ra mấy tia sát cơ lạnh lẽo. “Nếu đệ không chịu nói, vậy thì để trẫm nói thay đệ. Vừa rồi trẫm lệnh cho đệ chờ bên ngoài điện, không có chiếu chỉ thì không được đi vào. Đệ xưa nay vẫn luôn nghe lời trẫm, làm gì cũng cẩn trọng, nhưng tại sao khi nghe trẫm nói là đồng ý cho Thục phi đi hòa thân thì lại tùy tiện xông vào? Đệ vốn rất ít khi để ý tới chuyện triều chính, chỉ làm một vị vương gia nhàn tản, mà đệ cũng biết là trẫm không thích thân vương cầm quân, thế mà còn vì nàng ta mà đề nghị đích thân cầm quân đi chống lại Hách Hách.” Y cười lạnh một tiếng, giọng nói nghe dữ dằn như một con mãnh thú đang săn mồi. “Trẫm nhớ ra rồi, năm xưa đệ cũng từng dâng tấu cầu xin giúp cho huynh trưởng của Thục phi, quả nhiên cũng là vì nàng ta! Hôm nay... đệ ngay đến vợ con của mình cũng bỏ mặc không để ý đến, chỉ một lòng muốn cứu Thục phi. Trẫm chẳng phải kẻ mù, khi con gấu người đó tới gần Thục phi, đệ đã nôn nóng tới nỗi bất chấp sự an nguy của bản thân, tất cả trẫm đều thấy rõ. Trẫm chỉ hận mình trước đây mù mắt thôi, không ngờ lại không nhìn ra tư tình của hai người bọn đệ. Nếu không phải vừa rồi đệ tùy tiện xông vào trong điện thì trẫm còn chưa đến nỗi tin vào lời của người khác rằng hồi chiều nay hai người từng lén gặp gỡ trong cung! Hà hà...” Y cười gằn với giọng mang đầy sát cơ. “Trẫm trước đây đúng là ngốc nghếch quá!”

    Mồ hôi lạnh trên trán tôi tuôn ra không ngớt, từng giọt từng giọt nhỏ thẳng xuống cổ, thế mà tôi vẫn chẳng cảm thấy lạnh, một lát sau mới giật mình phát hiện hóa ra mình đã sợ hãi tới mức này.

    Trong cơn giận dữ Huyền Lăng dùng sức rất mạnh, đưa tay chụp lấy cổ tay tôi, không ngừng cất tiếng cười lạnh. “Nàng được lắm!” Tôi đau đớn vô cùng, cổ tay bị y nắm chặt đến nỗi trở nên tím tái. Tôi lúc này chỉ biết cắn chặt môi không nói năng gì.

    Sắc mặt Huyền Thanh hơi tái đi nhưng y không nhìn về phía tôi, chỉ bình tĩnh nhìn thẳng vào cặp mắt đầy vẻ dữ dằn của Huyền Lăng. Trong sự tĩnh lặng đột ngột kéo tới này, thời gian như bị kéo ra rất dài, biến thành một sợi dây mỏng manh nhưng cực kỳ bền dẻo, liên tục quấn vòng quanh thân thể chúng tôi. Sau bao nhiêu năm giấu giếm, sau bao nhiêu năm lo sợ, chuyện tày trời này rốt cuộc đã bị bày ra ngay trước mặt chúng tôi rồi.

    Tôi chẳng để ý tới cơn đau nơi cổ tay, hết nhìn Huyền Thanh rồi lại nhìn Huyền Lăng, trong đầu vang lên những âm thanh vô cùng kỳ quái, hệt như vô số tiếng nhạc huyên náo, cuồng loạn. Tất thảy mọi suy nghĩ của tôi nhanh chóng bị quét đi sạch bách, trong đầu chỉ còn lại duy nhất một ý niệm: “Bất kể y nói thế nào, Huyền Thanh, chúng ta cũng không được thừa nhận... Tuyệt đối không được.”

    “Hoàng huynh hiểu lầm rồi.” Y tỏ ra hết sức bình tĩnh, dường như những lời Huyền Lăng vừa nói chẳng liên quan gì tới y. “Thần đệ xưa nay vẫn luôn khinh cuồng vô lễ, chẳng trách hoàng huynh lại nghi ngờ, nhưng Thục phi thì đâu có lúc nào không giữ quy củ trong cung, nếu không vì Ngọc Ẩn thì hai bên thậm chí còn chẳng mấy khi trò chuyện. Vừa rồi thần đệ xông vào trong điện đúng là thất lễ, nhưng thần đệ là con dân Đại Chu, thật lòng không muốn Đại Chu phải chịu nỗi nhục như vậy. Thần đệ tuy bất tài nhưng bao năm nay nhận lộc thân vương, thực không thể không báo đền ơn nước, dù có phải ra ngoài biên ải làm một gã tiểu tốt đi đầu cũng cam lòng. Còn về việc cầu xin cho huynh trưởng của Thục phi thì lúc đó hoàng huynh đã từng trách thần đệ rồi, rằng không nên nói giúp cho kẻ tội thần. Kỳ thực năm xưa khi bình mối loạn Nhữ Nam Vương, thần đệ đã có giao tình rất sâu với Chân Hành, cảm thấy người này nhân phẩm không tệ đến mức như lời Quản Lộ nói.” Nói tới đây y hơi trầm ngâm một chút, dường như đang suy nghĩ xem nên giải thích thế nào về chuyện xả thân cứu tôi hồi chiều, còn Huyền Lăng thì chỉ cười lạnh chờ y nói tiếp.

    Huyền Thanh rốt cuộc đã ngẩng đầu lên, bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt Huyền Lăng. “Thần đệ không phải không quan tâm tới vợ con, nhưng khi đó Ngọc Ẩn và Dư Triệt đều ở xa con gấu, có thể nói là khá an toàn, còn tứ điện hạ thì lại là cốt nhục duy nhất của Huệ Nghi Quý phi. Trong cung có vô số phi tần, nhưng thần đệ bấy lâu nay vẫn luôn kính trọng Huệ Nghi Quý phi nhất.” Y làm bộ vô tình nhìn lướt qua phía tôi, rất nhanh sau đó lại nói tiếp: “Thần đệ năm xưa từng có duyên gặp gỡ Huệ Nghi Quý phi một lần trong cung của Thái hậu, khi đó Huệ Nghi Quý phi hầu hạ Thái hậu hết sức ân cần, khi rảnh rỗi còn hỏi thăm thần đệ một câu rằng thời tiết lạnh dần rồi, không biết Thái phi tu hành bên ngoài thân thể có được khỏe không? Không lâu sau thời tiết lại càng lạnh hơn, Huệ Nghi Quý phi liền sai thị nữ Thái Nguyệt đem áo gấm tới nhờ thần đệ đưa tặng cho mẫu phi, thần đệ ngoài cảm kích ra còn vô cùng kinh ngạc, về sau mới biết Huệ Nghi Quý phi hiền từ, chiếc áo gấm đó không chỉ mình mẫu phi có mà các vị thái tần từng hầu hạ phụ hoàng khi xưa cũng đều có cả. Các vị thái tần vốn đều không con không cái, rất nhiều người đã chết già, thế mà Huệ Nghi Quý phi vẫn quan tâm tới tất thảy bọn họ, thần đệ thực là kính trọng vô cùng.”

    Sắc mặt Huyền Lăng thoáng hòa hoãn hơn một chút, thế nhưng vẫn chưa giảm sự nghi ngờ, chỉ hờ hững nói: “Phải rồi, Thư Quý thái phi phải tu hành bên ngoài cung, không thể ngày ngày gặp đệ.” Trong giọng nói của y lộ ra mấy tia lạnh lẽo. “Xem ra bấy lâu nay đệ đã phải chịu khổ rồi.”

    Huyền Thanh nói tiếp: “Ơn nghĩa ấy của Huệ Nghi Quý phi thần đệ không thể không báo, lại càng không thể nhìn giọt máu duy nhất của Quý phi với hoàng huynh phải mất mạng, do đó mới liều tấm thân này.” Vừa nói y vừa khẽ nở nụ cười mỉm. “Thần đệ còn có một tầng tư tâm khác, ấy là Ngọc Ẩn đã đi theo Thục phi nhiều năm, lỡ Thục phi gặp điều bất trắc thì Ngọc Ẩn ắt sẽ sinh lòng oán trách thần đệ.” Huyền Thanh chậm rãi nở nụ cười hờ hững. “Xin lỗi, đã làm hoàng huynh phải thất vọng rồi, những việc mà hoàng huynh nói vừa rồi chẳng qua chỉ là suy đoán của bản thân mà thôi. Có điều thần đệ thật lòng rất vui, hoàng huynh suy đoán như vậy cố nhiên không công bằng với thần đệ, nhưng đồng thời cũng chứng tỏ hoàng huynh rất quan tâm tới Thục phi.” Y chỉnh lại y phục rồi quay qua phía tôi, cung tay nói: “Chúc mừng Thục phi.”

    Khi nhìn về phía tôi, y để lộ thần sắc mà một thân vương nên thể hiện ra với sủng phi của Hoàng đế, vừa lịch sự mà lại vừa giữ một khoảng cách hợp lý, căn bản không có chút sơ hở nào.

    Trong lòng tôi trào dâng một phen cảm xúc vừa mừng vui vừa chua xót, thực khó có thể miêu tả bằng lời. Trước mắt tôi như mờ mịt đầy sương mù trắng xóa, khuôn mặt y dần trở nên mơ hồ không rõ ràng. Tôi biết, tôi biết rõ, khi nói ra những lời như vậy trước mặt Huyền Lăng, lòng y kỳ thực đau đớn vô cùng, tựa như bị vô số lưỡi dao liên tục cứa vào tim.

    Ánh mắt Huyền Lăng ôn hòa hơn một chút, thế nhưng giọng nói thì vẫn lạnh lùng, hệt như lực bóp trên tay y lúc này vẫn chẳng hề suy giảm. “Nếu đệ còn nghĩ tới Ẩn phi, vậy thì không nên lén gặp Thục phi trong cung. Nếu Ẩn phi biết được thì lẽ nào lại không nghi ngờ đệ? Mấy hôm trước trẫm nghe được tin đồn rằng đệ và Ẩn phi đang bất hòa, cư xử với nhau hết sức lãnh đạm.”

    Y hơi nhướng mày lên. “Thần đệ tất nhiên biết rõ không nên lén gặp mặt phi tần trong cung, nhưng thần đệ quả thực có một việc quan trọng muốn hỏi Thục phi, mà việc này có liên quan tới Tĩnh Nhàn...”

    “Là về Tĩnh phi...” Tôi gần như đã buột miệng thốt lên cùng lúc với y.

    Huyền Lăng bất giác trầm mặt, không đợi Huyền Thanh nói hết đã nhìn qua phía tôi. “Thục phi, Thanh Hà Vương nói đã đủ nhiều rồi, trẫm muốn nghe nàng nói.”

    Tôi cố nén những giọt lệ tưởng chừng bất cứ lúc nào cũng có thể trào ra, nghiêm túc quỳ xuống, không hề né tránh ánh mắt y. “Lục Vương gia ghẻ lạnh Ẩn phi kỳ thực là vì cái chết của Tĩnh phi. Ngọc Ẩn mỗi lần tới gặp thần thiếp đều than thở về việc này, nhưng lại không chịu nói nguyên nhân, thần thiếp thân là tỷ tỷ nên vô cùng lo cho muội ấy. Hôm nay Vương gia tới gặp thần thiếp đã mấy lần lộ ra bộ dạng muốn nói lại thôi, thần thiếp vô cùng lo lắng nên truy hỏi không ngừng, mãi tới cuối cùng Vương gia mới chịu nói ra một chút chân tướng. Hóa ra trước đây khi còn ở trong vương phủ, hai vị trắc phi đã có chút bất hòa rồi, mà trong phủ Quốc công chắc cũng có lời qua tiếng lại, vì vậy Vương gia cảm thấy cái chết của Tĩnh phi có vấn đề. Thần thiếp vốn nắm quyền quản lý hậu cung, chuyện ngày đó mọi người lại đều thấy cả, thần thiếp tất nhiên không thể để Ngọc Ẩn phải chịu oan, do đó đã khuyên giải Vương gia đừng nên nghi ngờ Ngọc Ẩn, đã là phu thê với nhau mà còn nghi ngờ như thế thực không hay chút nào, nhưng thần thiếp chỉ là người ngoài, dù có khuyên giải nhiều đến mấy thì cũng chỉ vô ích.”

    Huyền Thanh hơi nhướng mày lên, trầm giọng nói: “Kỳ thực khi đó Thục phi mới khuyên giải thần đệ chưa lâu thì Ngọc Ẩn đã ra ngoài tìm thần đệ rồi, giữa thần đệ và Thục phi căn bản chẳng có cái gọi là lén lút gặp gỡ, không biết kẻ nào đã nói với hoàng huynh những lời bậy bạ đó?”

    Tôi bất giác rơm rớm nước mắt, nói: “Vừa rồi thần thiếp và Vương gia không hẹn mà cùng cất tiếng, Hoàng thượng chắc cũng biết thần thiếp với Vương gia không hề thông đồng với nhau trước.” Tôi không kìm được bật khóc nghẹn ngào. “Thần thiếp không sợ phải chịu chút nhục nhã vì Đại Chu, nhưng trước đã có chuyện với Ôn thái y, nay chuyện lại dính dáng tới Vương gia nữa, thần thiếp thực khó mà không lạnh lòng.”“Lạnh lòng ư?” Y cười hờ hững, nói. “Trong lòng trẫm từng thoáng qua một tia nghi ngờ, bức tranh cắt khi trước quả thực khá giống với Ẩn phi, nhưng nếu nói là giống nàng cũng không phải là không được. Nếu đó thật sự là tranh cắt hình nàng, còn Ẩn phi chỉ đứng ra thay thế thôi, vậy thì trẫm thực sự không dám nghĩ tiếp nữa.”

    “Hoàng huynh cả nghĩ rồi.”

    “Đúng là trẫm đã cả nghĩ.” Huyền Lăng để lộ ra vẻ ôn hòa. “Mẫu hậu khi còn tại thế từng rất nhiều lần nhắc nhở trẫm là đừng nên quá mê đắm mỹ sắc, Thục phi vô tình cũng được, cố ý cũng được, dù sao cũng gây ảnh hưởng tới tình huynh đệ của chúng ta, nay lại bị lũ man di nhòm ngó, đúng là hồng nhan họa thủy. Nếu còn giữ nàng ta lại trong cung thì thật không lành, do đó trẫm sẽ đồng ý với yêu cầu của Ma Cách, để nàng ta tới Hách Hách hòa thân...”

    Huyền Thanh hơi biến sắc mặt, cung tay nói: “Xin Hoàng thượng hãy suy nghĩ kĩ...”

    Y kiên quyết xua tay, nói: “Đệ mau về đi, trẫm đã quyết như vậy rồi, chuyện này không thể nào thay đổi được.”

    Đúng là không thể thay đổi được! Sau một thời gian dài sống giữa chốn cung đình, tôi đã hoàn toàn hiểu rõ, đối với Huyền Lăng mà nói, tôi chỉ là một đóa hoa giữa rừng hoa mà thôi, dù nở đẹp đến mấy thì cũng có ngày phải úa tàn, huống chi dù bông hoa này tàn thì cũng sẽ có bông hoa khác nở. Nếu có thể dùng tôi để đổi lấy sự bình yên cho xã tắc, y tất nhiên sẽ bằng lòng ngay, còn về thể diện thì y tất nhiên cũng có cách để bảo toàn, chỉ cần kiếm lấy vài cái cớ là xong. Tôi đưa mắt nhìn qua phía Huyền Thanh, thấy bờ môi y tái nhợt, đôi tay nắm lại thật chặt trong tay áo, phải cố hết sức mới giữ được bình tĩnh. Lòng tôi lúc này đau như dao cắt, Huyền Lăng đã nổi lòng nghi ngờ rồi, giữa tôi và Huyền Thanh ắt có một người phải chấp nhận hy sinh, và tôi thà rằng người đó chính là bản thân mình.

    Tôi lẳng lặng chấp nhận sự bạc bẽo của Huyền Lăng, phủ phục người xuống khấu đầu ba lần. “Yến tiệc ngày xuân, rượu lục một chén, ca một hồi. Lại bái hỏi xin ba nguyện vọng: Một, nguyện lang quân ngàn tuổi...” Tôi không sao kìm nén được cơn nghẹn ngào trong cổ họng, giữa làn nước mắt mơ hồ lại nhìn thấy khuôn mặt đầy vẻ kìm nén của Huyền Thanh, thế là những giọt nước mắt rốt cuộc đã tuôn rơi lã chã. Rồi tôi lại tiếp: “Hai, nguyện thân thiếp kiện khang. Ba, nguyện như đôi yến đậu tường nhà, hằng năm thường gặp mặt[23]. Thần thiếp vốn là người đã bị ruồng bỏ, được Hoàng thượng sủng ái mà cho trở lại hầu hạ kề bên đã là điều may, hôm nay có thể dốc chút sức mọn cho Hoàng thượng, thần thiếp chẳng lý đâu thoái thác. Cho dù sau này không thể hằng năm gặp mặt Hoàng thượng, thần thiếp vẫn hy vọng Hoàng thượng có thể vạn thọ vô cương.”

    [23] Đây là toàn bài Trường mệnh nữ của Phùng Duyên Kỷ. Dịch thơ: Tống Cửu Lan. Nguyên văn Hán Việt: Xuân nhật yến, lục tửu nhất bôi ca nhất biến. Tái bái trần tam nguyện: Nhất nguyện lang quân thiên tuế, nhị nguyện thiếp thân trường kiện, tam nguyện như đồng lương thượng yến, tuế tuế trường tương kiến - ND.

    Huyền Thanh, y hẳn hiểu được ý của tôi, tôi mong y có thể sống lâu trăm tuổi, ngàn vạn lần không được vì tôi mà đắc tội với Huyền Lăng.

    Huyền Thanh mặt mũi trầm lặng như nước, khom người cáo lui.

    Ánh trăng mờ mịt từ trên cao chiếu xuống như phủ lên thân thể người ta một lớp sương tuyết. Giữa mùa hè nóng nực, đưa mắt nhìn ra ô cửa sổ phía tây, tôi không ngờ lại cảm thấy khung cảnh đầy vẻ lạnh lẽo, hệt như tâm trạng của tôi lúc này.

    Huyền Lăng bước lại gần tôi thêm một chút, tôi cơ hồ có thể cảm nhận được những hơi thở ấm nóng của y phả ra. Y hỏi tôi: “Nàng định thế nào?”

    Tôi bất giác nín thở theo bản năng. “Thần thiếp chẳng dám làm trái lệnh vua.”

    Y ghé đến gần tôi thêm chút nữa, nhìn chằm chằm vào tôi.

    “Trẫm hỏi nàng, sau khi đi hòa thân, nàng định thế nào?” Trên mi tôi vẫn còn đọng lại một giọt lệ long lanh, tưởng như sắp rơi mà mãi vẫn chẳng rơi xuống. Tôi nở một nụ cười thê thảm. “Thần thiếp nhớ là vào dịp tháng Chín năm thần thiếp về cung, Hoàng thượng có nói với thần thiếp là bên Lê viên vừa có một vở kịch mới có tên gọi Hán cung thu nguyệt, còn từng dẫn thần thiếp đi xem. Thần thiếp tới giờ vẫn chưa dám quên, trong vở kịch đó, Chiêu Quân bị ép phải rời cung xuất tái, thế nhưng lại nhớ ơn vua, cũng không muốn rời xa cố hương, thế là khi tới sông Hắc Thủy - nơi giao giới giữa hai nước, bèn nhảy xuống sông tự vẫn. Thần thiếp không dám để lũ man di làm nhục, gây ảnh hưởng tới danh dự của Hoàng thượng.”

    Vừa dứt lời tôi chợt giật mình nhớ tới Huyền Thanh, năm xưa vì tình thế bức ép mà tôi phải về cung hầu hạ Huyền Lăng, nếu lại tới Hách Hách nữa... Đời này kiếp này tôi đã có lỗi với y một lần rồi, quyết không thể có lỗi với y thêm lần thứ hai. Tôi khẽ hít một hơi, làn không khí thoang thoảng hương hoa giữa đêm hè giống như một lưỡi đao sắc bén cứa vào trái tim tôi, những giọt nước mắt chua xót lại một lần nữa không kìm được tuôn rơi lã chã.

    Y nhìn lướt qua khuôn mặt tôi bằng ánh mắt thăm dò, một lát sau rốt cuộc đã chịu buông cổ tay tôi ra, đi tới bên giá sách đóng bằng trúc tía lấy ra một chiếc bình sứ xanh nhỏ. Rồi y trở lại bên cạnh tôi, lặng lẽ nghiêng bình rắc lên chỗ tím bầm trên cổ tay tôi một ít bột mịn trắng ngần như tuyết, khiến tôi lập tức cảm thấy mát rượi. Y lại dùng một cuộn vải trắng mềm mại giúp tôi băng bó cổ tay lại cẩn thận, sau đó mới nói: “Đây là thuốc tiêu thũng mà Thái y viện mới dâng lên. Vừa rồi trẫm đang cơn tức giận nên có hơi nặng tay.”

    Tôi không biết y có ý đồ gì, đành nói: “Đa tạ Hoàng thượng!” “Trẫm không phải là Hán Nguyên Đế, cũng không hy vọng nàng trở thành Minh Phi Chiêu Quân một đi không trở về.” Y đưa tay tới dịu dàng đỡ tôi đứng dậy, nhìn tôi bằng ánh mắt mang đầy ý vị sâu xa, lấy từ trong tay áo ra một gói giấy nhỏ màu vàng sậm. Tôi đón lấy rồi mở ra, thấy bên trong đó là một loại bột được nghiền rất mịn, nhìn kĩ thì có màu lục nhạt, phân lượng rất ít, chỉ chừng một cái móng tay, còn tỏa ra mùi rượu thoang thoảng. Y không đổi sắc mặt, chỉ thấp giọng nói: “Chỉ cần dùng một chút thôi là ổn. Trẫm biết nàng thông minh hơn người, nhất định có thể khiến nó phát huy tác dụng.”

    Tôi khẽ ấn một chiếc móng tay dài chừng hơn tấc của mình xuống gói giấy, thấy trên móng tay ánh lên một thứ màu xanh lục vô cùng tà dị, sau đó hờ hững nói: “Bắn người bắn ngựa trước tiên, bắt giặc bắt tướng đương nhiên công thành. Hoàng thượng nghĩ vậy không sai, có điều Ma Cách có không ít con cái, chỉ e dù giết được hắn thì cũng chẳng ích gì.”

    Trong mắt lộ ra một tia cười nhàn nhạt, Huyền Lăng khẽ đưa tay lên chống cằm. “Ma Cách có năm đứa con đã trưởng thành, tất cả đều anh dũng thiện chiến, có điều chỉ là hạng hữu dũng vô mưu, không đáng lo ngại. Duy chỉ có đứa con thứ bảy của hắn là khá thông minh, nhưng nay mới có mười tuổi, tính ra cũng chẳng đáng kể gì.” Huyền Lăng xua tay một cái vẻ chán ghét, dường như muốn vứt bỏ một thứ gì đó hết sức bẩn thỉu đi. “Chỉ cần gã Ma Cách lòng đầy dã tâm đó chết đi, Hách Hách tất nhiên sẽ phải thần phục trẫm, không dám gây họa nữa.”

    “Hoàng thượng suy nghĩ quả rất chu toàn. Chỉ là Ma Cách có đại quân bảo vệ, thần thiếp tự biết rằng mình sau khi đắc thủ khó mà thoát thân.” Tôi nhìn y chăm chú, chậm rãi nói. “Chỉ mong Hoàng thượng có thể đối xử tốt với các con của thần thiếp, như thế thần thiếp dù phải mất mạng vì Đại Chu cũng chẳng hề hối hận.”

    Y khẽ nở nụ cười, vẻ như đang tán gẫu việc nhà với tôi. “Yên tâm, trẫm đã an bài rồi, một khi nàng đắc thủ tự khắc sẽ có người tiếp ứng. Tới lúc đó nàng có thể bình an trở về đây và lại là Thục phi của trẫm.” Y dang tay ôm tôi vào lòng, bộ dạng vẫn hệt như hồi còn ân ái. “Cho dù lão lục có ôm lòng tơ tưởng tới nàng thì trẫm cũng chẳng thật sự tức giận đâu, trên đời này làm gì có ai mà không yêu cái đẹp, khó trách bọn họ lại thèm thuồng nàng như thế.” Hơi dừng một chút, y chợt cất giọng nặng nề: “Nhưng Hoàn Hoàn, bất kể người khác ái mộ nàng như thế nào, trái tim của nàng cũng chỉ được ở chỗ trẫm thôi.”

    Dứt lời y lại càng ôm tôi chặt hơn, dường như muốn kéo tôi vào tận bên trong xương cốt của y vậy. Khuôn mặt tôi áp sát vào áo y, dần dần cảm thấy ngột ngạt đến nỗi không sao thở nổi. Qua kẽ hở nơi cánh tay y, tôi nhìn thấy bên ngoài cửa sổ ánh trăng trắng lóa, nơi đáy lòng thì tựa như có một trận tuyết lớn đang rơi, chẳng mấy chốc tất thảy tâm tư đã bị bao trùm bởi một mảng màu trắng mênh mang bát ngát.
     
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 14: Gió tây sầu gợn sóng lăn tăn[24]
    [24] ích Than phá hoán khê sa - Hạm đạm hương tiêu thuý diệp tàn của Lý Cảnh. Dịch thơ: Nguyễn Chí Viễn. Nguyên văn Hán Việt: Tây phong sầu khởi lục ba gian - ND.

    Sáng hôm sau thức dậy, tôi ở về cung của mình, Huyền Lăng thì thông báo ra khắp lục cung là Thục phi bị gấu tấn công, u uất thành bệnh, không thể lo liệu công việc, mọi chuyện ong lục cung tạm thời giao cho Quý phi, Đức phi, inh Nhất Phu nhân và ang Mẫn Phu nhân cùng xử lý, mọi người nếu không có việc gì thì không được quấy nhiễu Thục phi, sau đó lại chọn từ trong Dịch đình ra một cung nữ xinh đẹp, yểu điệu tự nguyện xuất tái hòa thân để gả cho Khả hãn Hách Hách.

    inh Nhất Phu nhân chỉ sau một đêm đã nhận được sự sủng hạnh tột cùng, việc này vốn dĩ sẽ khiến người ta ghen tị và bất mãn, thế nhưng việc nàng ta xả thân bảo vệ Huyền Lăng hôm đó mọi người đều thấy rõ, cho nên ngay đến ang Mẫn Phu nhân cũng chẳng thể chỉ ích điều gì chứ càng đừng nói là người khác.

    Lúc này Cận Tịch không kìm được lộ vẻ nghi hoặc, hỏi: “Những việc khác thì chưa xét tới, có điều hôm đó con gấu kia nổi nóng là vì bị tiểu Công chúa của ang Mẫn Phu nhân êu chọc, sao Hoàng thượng chẳng những không ách cứ mà còn ban cho ang Mẫn Phu nhân quyền hiệp ợ quản lý lục cung như thế chứ?”

    Tôi ngả người về phía sau một chút, đưa tay cắt hai miếng thuốc cao dán lên huyệt thái dương, cất giọng hờ hững nói: “Hồ Uẩn Dung vốn tai mắt lanh lẹ, được Hoàng thượng sủng ái cũng là lẽ thường thôi.”

    Cận Tịch thoáng ầm ngâm, mí mắt bất giác hơi nảy lên. “Ngày đó Hoàng thượng cớ gì lại biết nương nương lén gặp gỡ lục Vương gia, chỉ e là...”

    ong mắt tôi ánh lên mấy tia lạnh lùng. “Việc này ta tự có tính toán.” Sau đó lại nhìn vào ong gương mà cười nói: “Cận Tịch, ta dán thuốc cao lên thế này có phải là càng giống một người u uất thành bệnh không?”

    Khóe mắt Cận Tịch bỗng ươn ướt. “Nương nương thân phận tôn quý, thế mà lại phải vâng lệnh đi làm việc này, nô tỳ thực là đau lòng khôn xiết...”

    Ngoài cửa sổ hoa lựu nở đầy, khắp nơi đều ngợp một màu đỏ rực, thoạt nhìn tựa như ánh ráng chiều phủ khắp. Ở cạnh thứ màu đỏ rực rỡ đó, khuôn mặt trầm lặng như nước của tôi lúc này ông lại càng nhợt nhạt, vô cùng tiều tụy. Tôi chậm rãi nói: “Quân muốn thần chết, thần không thể không chết, sủng phi và thần tử kỳ thực đâu có gì khác biệt, tất thảy mọi thứ bao gồm cả tính mạng đều là của Hoàng thượng. Nếu y thật sự muốn ta dùng tấm thân này hầu địch, ta ngoài tự vẫn ra còn có cách nào khác nữa đây?”

    Cận Tịch lộ rõ vẻ bi thương. “Một đêm phu thê trăm ngày ân ái, nô tỳ cứ ngỡ là Hoàng thượng sẽ niệm tình cũ...”

    Tôi khẽ nở nụ cười, cất giọng hờ hững: “Cận Tịch, ngươi xưa nay vẫn luôn thông minh, sao bây giờ lại ở nên nhu nhược, yếu mềm thế nhỉ?”

    Cho dù đã cố hết sức kiềm chế nhưng nàng ta vẫn không nén được căm phẫn, nói: “Đại Chu khai quốc tới nay đã được trăm năm, nhưng nô tỳ chưa từng nghe nói có vị phi tần nào lại phải chịu nỗi nhục lớn như vậy.”

    “Dù sao thì cũng phải có người đầu tiên chứ, đúng không?” Tôi nắm lấy bàn tay nàng ta. “Cận Tịch, ta không tin được người khác, chỉ có thể dẫn ngươi đi theo bên cạnh thôi.”

    Cận Tịch tức thì ịnh ọng nói: “Từ khi nương nương vào cung tới giờ, nô tỳ chưa có ngày nào rời xa nương nương, dù nương nương không nói thì nô tỳ cũng sẽ sống chết không rời.”

    Tôi âm thầm cảm động, bất kể ra sao thì tôi cũng vẫn còn Cận Tịch, vẫn còn cảm nhận được một chút ấm áp giữa cuộc đời đầy rẫy những sự bạc bẽo này.

    Hoa Nghi vốn đứng bên ngoài, lúc này chợt nhẹ nhàng cất tiếng: “Nương nương, cửu Vương phi và Ẩn phi tới thăm nương nương.”

    Cận Tịch khẽ “ồ” lên một tiếng. “Không phải đã có ý chỉ là mọi người đều không được tới Nhu Nghi điện để tránh quấy rầy nương nương ư?”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi khẽ nở nụ cười. “Dù gì thì cũng không đến mức ngay cả muội muội của ta cũng không thể tới thăm ta đúng không nào? Như thế thì chỉ càng khiến người ta nghi ngờ thôi. Hơn nữa ta đoán ắt là Ngọc Nhiêu đã đi cầu xin, bằng không Hoàng thượng cũng khó mà đồng ý.”

    Cận Tịch niệm một câu “A Di Đà Phật” rồi nói: “May mà tứ tiểu thư là cửu Vương phi, bằng không nô tỳ khó mà không lo lắng được.”

    Tôi cười, nói: “Mau mời họ vào đây đi!”

    Khi Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu đi vào thì tôi đã ở ên giường, mái tóc buông xõa ra chứ không búi lại, ông càng có vẻ võ vàng ốm yếu. Ngọc Nhiêu vừa nhìn thấy thế liền không kìm được hơi biến sắc mặt, nôn nóng nói: “Muội còn tưởng người ta chỉ nói quá thôi, không ngờ tỷ tỷ lại thật sự sợ quá mà thành bệnh thế này, ông tỷ bây giờ tiều tụy quá.”

    Cận Tịch vội vàng dâng à lên, hỏi: “Tam tiểu thư và lão phu nhân đều không tới ư?”

    Ngọc Nhiêu cười, nói: “Mẹ ta rất sợ phải vào cung, những năm nay thân thể lại không được khỏe lắm, cứ ốm liên tục, do đó không tiện tới thăm tỷ tỷ. Tam tỷ với Quận chúa tẩu tẩu thì phải ở lại bầu bạn với mẹ ta.”

    Ngọc Ẩn ngồi xuống cạnh giường, chăm chú nhìn khuôn mặt tôi một chút rồi hờ hững nói: “May mà có Vương gia kịp thời ứng cứu, bằng không ưởng tỷ...”

    Ngọc Nhiêu ngẩng đầu lên đưa mắt nhìn qua, cười nói: “Nếu không vì nể mặt nhị tỷ, nhị tỷ phu chưa chắc đã chịu dốc sức cứu đại tỷ như vậy đâu.”

    Ngọc Ẩn hơi biến sắc mặt, muốn nói gì đó lại thôi, cuối cùng đành cười gượng coi như đáp lại. Ngọc Nhiêu cười, nói tiếp: “Nhị tỷ, những thứ chúng ta mang tới đâu rồi, Phân Nhi chắc còn đang mải tán gẫu với mấy người ở bên ngoài thì phải nhỉ? Gốc nhân sâm đó muội đã phải chọn rất lâu đấy.”

    Ngọc Ẩn đứng dậy đi ra ngoài, Ngọc Nhiêu thấy xung quanh đã không còn ai mới nhân lúc chỉnh lại chiếc gối cho tôi một chút mà ghé tới bên tai tôi khẽ nói: “Cửu lang đã hay tin rồi, nghe nói Hoàng thượng có ý để tỷ đi hòa thân đúng không?”

    Tôi đưa mắt liếc qua phía muội ấy. “Là lục Vương gia nói với cửu Vương gia ư? Ngọc Ẩn đã biết chuyện này chưa?”

    Ngọc Nhiêu khẽ lắc đầu, nôn nóng uy hỏi: “Có phải là thật không?” Thấy tôi buồn bã không ả lời, muội ấy tức thì biến hẳn sắc mặt, hậm hực nói: “Muội sớm đã biết là y chẳng ra gì rồi, nhưng không ngờ lại bạc tình đến thế!”

    Tôi thoáng lộ vẻ ầm ngâm. “Muội chớ nên khinh suất làm bừa đấy.” Thấy muội ấy tỏ ra nôn nóng, tôi cũng có chút không đành lòng. “Ta tự có cách của ta, muội đừng lo.”

    Bức rèm chợt hơi lay động, Ngọc Ẩn chậm rãi cất bước đi vào. Hôm nay muội ấy ăn mặc đơn giản, chỉ vận một chiếc áo dài màu xanh lam thêu hình bướm vờn hoa, ên đầu cài một cặp thoa ngọc bích ánh lên những tia lấp lánh. Ngọc Nhiêu nhất thời không kịp che giấu vẻ nôn nóng, Ngọc Ẩn thì lại tinh mắt nên đã nhìn thấy ngay, bèn khẽ mỉm cười. “Quả đúng là tỷ muội tình thâm, ưởng tỷ vừa mới đổ bệnh mà tứ muội đã rơi nước mắt rồi.”

    Ngọc Nhiêu vội vàng đổi hẳn sắc mặt, cười tủm tỉm, nói: “Đều là tỷ muội với nhau cả, nhị tỷ lẽ nào không quan tâm tới đại tỷ ư?”

    Ngọc Ẩn lập tức cười tươi. “Tất nhiên không phải thế rồi.” Sau đó liền bóc một quả nho đưa vào ong miệng tôi, cúi đầu ung dung nói: “Nghe nói ưởng tỷ đổ bệnh, Vương gia vốn định cùng muội đi thăm, kết quả là ngay từ sớm cửu vương phi đã tới mời, thế là đành để muội đi cùng tứ muội.”

    Tôi nói bằng giọng yếu ớt: “Nam nữ có sự khác biệt, ngay cả ca ca và phụ thân muốn tới thăm ta một lần cũng chẳng dễ chứ nói gì tới Vương gia vốn chỉ là muội phu của ta thôi.”
    Ngọc Ẩn khẽ “ồ” lên một tiếng, khóe môi tới lúc này mới lộ ra một tia ấm áp. “ưởng tỷ đang ốm nên khó ánh khỏi đắng miệng, hãy ăn thêm quả nho nữa đi.”

    Tôi khẽ lắc đầu. Cận Tịch nói: “Nương nương vừa phải chịu một phen kinh sợ, mấy ngày nay đều chẳng ăn uống được gì, đêm nào cũng gặp ác mộng, nô tỳ nhìn mà lo lắng lắm.”

    Ngọc Ẩn nhíu chặt đôi mày. “Ôn thái y đã tới thăm khám chưa vậy?”

    Cận Tịch nói: “Mầm bệnh lưu lại từ hồi sinh nở của inh Nhất Phu nhân đến giờ vẫn chưa khỏi, Hoàng thượng đã mời Ôn thái y qua bên đó rồi, cho nên mấy ngày nay đều là những vị thái y khác chữa bệnh cho nương nương.”

    Vẻ u uất ong mắt càng thêm rõ ràng, Ngọc Ẩn khẽ nói: “Có phải việc Vương gia cứu tỷ mấy hôm ước đã khiến Hoàng thượng không vui không thế...” Muội ấy cắn chặt môi, nói tiếp một cách khó khăn: “Sau khi quay về Vương gia tỏ ra rất không vui, muội hỏi thì y lại không chịu nói gì hết.”

    Thấy Ngọc Ẩn nói vậy, ngay tới Ngọc Nhiêu cũng âu lo thêm mấy phần, cặp mắt òn xoe nhìn tôi chăm chú.

    Có rất nhiều chân tướng thường khiến người ta cảm thấy tàn khốc, hà tất phải nói ra làm gì. Tôi khẽ cười, nói: “Muội đừng cả nghĩ. Vương gia cứu ta và Nhuận Nhi, Hoàng thượng sao lại không vui chứ? Chẳng lẽ ngài lại muốn nhìn ta và Nhuận Nhi chết thảm ư? Nhuận Nhi là cốt nhục thân sinh của Hoàng thượng cơ mà.”

    Ngọc Ẩn tới lúc này mới thở phào một hơi, rồi lại hỏi: “Hoàng thượng tới thăm tỷ chưa vậy?”

    Tôi đáp: “Hồi trưa nay đã tới rồi, chắc vì bận rộn việc iều chính nên chỉ ngồi lại đây chừng nửa canh giờ thôi.”

    Ngọc Ẩn khẽ gật đầu, nói: “Hoàng thượng hai ngày nay quả thực rất bận, nghe nói còn phải chọn cung nữ từ Dịch đình để gả cho Khả hãn Hách Hách nữa cơ. May mà chỉ là cung nữ, nhược bằng là nữ tử ong tông thất thì chỉ e iều đình sẽ xôn xao lên mất.”

    Tôi tiện miệng hỏi: “Cuối cùng đã chọn ai vậy?”

    “Là Lâm thị ở Lê viên, tuổi vừa mười tám, phụ mẫu đều đã qua đời, nhan sắc cũng vào hạng khá. Nghe nói đêm nay sẽ được đưa tới hành quán.” Ngọc Ẩn thoáng lộ vẻ xót thương. “Tuy nói là đi hòa thân nhưng thân phận của thị vốn thấp kém, lại phải tới nơi dị tộc, chỉ e cuộc sống ở Hách Hách sau này sẽ chẳng dễ chịu gì.”

    “Muôn thuở tì bà lưu điệu rợ...” Tôi khẽ cất tiếng lẩm bẩm, ong lòng cũng ngợp đầy nỗi cảm thương.

    ò chuyện thêm một lát thì sắc ời đã không còn sớm, bọn họ lại thấy tôi có vẻ uể oải nên đứng dậy cáo từ.

    Ngọc Nhiêu qua chái điện thăm mấy đứa nhỏ, Ngọc Ẩn đi tới cửa điện thì dừng chân, một mình quay ở lại bên cạnh tôi. “Chuyện lần này may mà Hoàng thượng không uy cứu, nhưng quyết không thể có lần sau nữa.” Muội ấy ầm giọng nói. “Vương gia là phu quân của muội, muội thực sự lo lắng vô cùng.”

    “Muội yên tâm.” Tôi cất giọng rành rọt. “Ta cũng không muốn dính dáng gì tới Vương gia nữa đâu.”

    Ngọc Ẩn hấp háy bờ mi, dường như vẫn chưa thể nào yên tâm được, sau một hồi ầm lặng liền lặng lẽ rời đi.

    Đêm ấy tôi được đưa ra khỏi cung ong một chiếc kiệu nhỏ, ang phục ên người hoàn toàn là theo quy cách của một cung nữ được đưa đi hòa thân. Giữa đêm dài tịch mịch, thỉnh thoảng lại có tiếng ống canh từ đằng xa vọng lại, tôi nghe mà lòng thổn thức không thôi.

    Bước chân của các thái giám khiêng kiệu vừa nhanh vừa vững, mỗi lần giẫm xuống đất lại phát ra những tiếng soàn soạt, nghe hệt như tiếng gió ong vĩnh hạng. Tự nơi đáy lòng tôi bất giác ào lên những nỗi niềm thương cảm khó tả bằng lời, nếu tôi sẩy tay rồi bỏ mạng bên ngoài cung, có lẽ đêm nay sẽ là đêm cuối cùng tôi được nghe thấy tiếng gió ong vĩnh hạng. Nỗi thương cảm khiến tôi không kìm nén được mà đưa tay vén rèm kiệu lên, chỉ thấy bên ngoài mịt mờ ong bóng tối, hai bên là hai bức tường cao chạy dài về phía xa, khó mà nhìn thấy được sắc ời ên cao thế nào, cung cấm thâm sâu chính là như thế. So với lần ước rời cung, lần này tôi lại càng thấp thỏm, ít nhất thì ước đây tôi cũng biết là mình sẽ đi đâu, đi như thế nào, còn bây giờ thì chuyện sống chết tồn vong hãy còn vô cùng mờ mịt, vận mệnh hoàn toàn chẳng nằm ong sự khống chế của tôi.

    Dường như chỉ sau nháy mắt, chiếc kiệu đã đưa tôi tới bên ngoài cửa thành. Màn đêm lúc này tối đen như mực, gần xa có vô số đống lửa rực cháy thấp thoáng tỏa ra mùi thơm của gỗ tùng, xung quanh còn vang vọng đầy tiếng ngựa phì phì cùng tiếng chuông ngựa đinh đang, còn mấy ngàn binh sĩ Hách Hách thì căn bản chẳng phát ra chút tiếng động nào. Chiếc kiệu rèm đỏ tía mà Lâm thị ngồi đang dừng lại cách chỗ tôi chỉ chừng mấy chục bước chân. Ma Cách thấy tôi một mình xuống kiệu, sau lưng chỉ có Cận Tịch đi theo, bèn cười, nói: “Nàng với Hoàng đế Đại Chu dù gì cũng từng là phu thê, thế mà y lại chẳng chịu tới đưa tiễn, đúng là bạc tình.”

    Tôi không để ý đến hắn, chỉ bám vào tay Cận Tịch mà bước lên ngồi vào trong chiếc xe của Lâm thị, sau đó mới điềm đạm cất tiếng: “Dù đưa tiễn ngàn dặm thì cũng có lúc phải ly biệt, hà tất phải nhi nữ tình ường như thế làm gì!”

    ong mắt Ma Cách lộ rõ nét cười. “Hay lắm, ta rất thích tính cách này của nàng.”

    Tôi chẳng hề nhìn hắn, chỉ tiện tay chỉnh lại xiêm y. “Quân muốn thần chết thần không thể không chết, ta chẳng có lời nào để nói cả.”

    Ma Cách cười vang sang sảng. “Đúng vậy, Hoàng đế chịu tặng nàng cho ta như thế đúng là chẳng dễ dàng gì, bằng không dù ta có xua quân đánh tới, nếu hắn nhất quyết không đồng ý thì ta cũng chẳng làm gì được.”

    Tôi hơi nhếch khóe môi coi như đáp lại, sau đó nhắm mắt dưỡng thần. Hắn cũng không nói nhiều, tiện tay kéo Lâm thị vốn ngoan ngoãn ngồi bên cạnh tôi xuống xe, quát bảo: “Tự cưỡi ngựa đi.”

    Lâm thị không dám khóc, chỉ đành tự mình rời đi.

    Đoàn người cứ thế tiến đi chẳng quản ngày đêm, tôi được ngồi ên xe nên ánh được nỗi khổ vì gió cát, thế nhưng xe ngựa lắc lư không ngừng làm tôi chẳng lúc nào được yên ổn, thực là vất vả mười phần, các nữ tử đi theo bồi giá thì lại càng chẳng cần phải nói. Ma Cách chỉ lẳng lặng dẫn quân tiến đi, chẳng hề ò chuyện với tôi, lại càng chẳng lại gần tôi. Tôi thỉnh thoảng lại đưa tay mò mẫm gói giấy bên hông một chút, không kìm được hết sức băn khoăn do dự.

    Hai ngày hai đêm cứ thế ôi qua, đội ngũ rốt cuộc đã ra tới bên ngoài Nhạn Minh quan và hội họp với đại quân, lại đi thêm hơn ăm dặm nữa, Ma Cách mới hạ lệnh cho ba quân dừng lại hạ ại nghỉ ngơi.

    Buổi sáng ở sa mạc ời khá lạnh, tôi đã khoác một chiếc áo choàng lên người rồi mà vẫn không kìm được run lên lẩy bẩy, bèn cùng Cận Tịch xuống xe tới ngồi bên đống lửa sưởi ấm.

    Đại quân đang ở nơi dã ngoại nên không hề có cơm canh nóng hổi, thêm vào đó lương thảo lại vừa bị đốt mất quá nửa nên số lượng được chia cho mỗi người không nhiều, đến tay tôi chỉ có một cái bánh đã khô đến nứt ra cùng nửa bình sữa ngựa. Do hồi ở ong cung đã ăn sung mặc sướng quen rồi, các nữ tử bồi giá thấy chỉ được phân phát cho thứ thức ăn như vậy đều không kìm được bật khóc thút thít.

    Cận Tịch hít sâu một hơi, đem nhúng chiếc bánh cứng như đá vào ong sữa ngựa, nói: “Nương nương chịu khó ăn tạm đi vậy, bằng không để đói bụng thì không hay đâu.”

    Sữa ngựa có mùi tanh chua rất hăng, không hề thơm ngọt như sữa bò mà tôi hay uống, vừa mới ngửi thử một chút đã thấy rất khó chịu rồi, làm sao mà nuốt nổi, chẳng trách các nữ tử kia lại khóc đến đỏ hoe hai mắt như vậy. Thế nhưng hai ngày qua đã phải đi đường suốt ngày đêm, ăn uống qua loa hết sức, tôi hơi cau mày, học theo Cận Tịch nhúng bánh vào sữa ngựa cho mềm bớt đi, sau đó nín thở mà ăn bánh một cách khó khăn.

    Cận Tịch mỉm cười vui vẻ. “Nương nương đã phải chịu khổ rồi.”

    Tôi cúi đầu, ầm ngâm nói. “Ta tự nhiên lại nhớ tới việc khi xưa Thanh từng bị giam cầm ở Hách Hách, lúc đó có lẽ đến thứ bánh thế này y cũng chẳng được ăn.” Tôi dõi mắt nhìn về phía xa, sau khi ra khỏi Nhạn Minh quan, bốn phía đã chẳng còn những mảng màu xanh biếc nữa, lại đi tiếp đến bây giờ, ong tầm mắt chỉ còn lại một màu vàng vô biên vô tận, chẳng có bến bờ, khung cảnh thực là ngợp đầy vẻ hoang lương. Những làn gió không ngừng vù vù thổi tới mang theo những hạt cát rất nhỏ chui vào ong mũi, miệng người ta, vô cùng khó chịu. Tôi cầm lấy một chiếc khăn màu xanh lục quấn quanh mũi, miệng mình, thấp giọng hỏi: “Đã ra ngoài Nhạn Minh quan được hơn ăm dặm rồi đúng không?”

    Cận Tịch hình như đang chuyên tâm vào việc xé bánh, chỉ khẽ đáp: “Dạ.” Sau đó lại ngẩng lên nhìn tôi với vẻ hết sức âu lo. “Đã đi xa như thế rồi mà nương nương vẫn không có cơ hội ra tay, chỉ e nếu phải đi thêm nữa thì dù nương nương có đắc thủ, cũng chẳng thể nào thoát thân ở về được.”

    Tôi tiện tay cầm lấy một cành cây khô vứt vào trong đống lửa, những tiếng nổ “lốp bốp” lập tức vang lên xua bớt cái lạnh khô hanh do gió cát mang lại. Cận Tịch không kìm được lo lắng nói: “Nô tỳ thấy Ma Cách rõ ràng không phải hạng người ngu độn, nương nương liệu nắm chắc được mấy phần về khả năng đắc thủ?”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Ngươi nghĩ sao?”

    Cận Tịch hơi cau mày lại, tôi cời đống lửa cho sáng lên một chút, khẽ nói: “Ma Cách cố nhiên là tinh minh, nhưng Hoàng thượng mới thật sự là người mưu mô ghê gớm. Y đã chấp nhận để ta đi hòa thân, vậy ắt là đã tính đến khả năng ta không thể trở về. Chỉ dùng một mình Thục phi mà đổi được sự bình yên của hai châu U, Vân, có lý do gì mà không đổi chứ?”

    Cận Tịch nói: “Quân Hách Hách đã bị bệnh dịch làm ảnh hưởng, căn bản chẳng còn sức để đánh chiếm hai châu U, Vân nữa rồi, bọn hắn chẳng qua chỉ nói khoác vậy thôi.”

    “Quả là như thế.” Tôi hờ hững nói. “Hai châu U, Vân chỉ là cái cớ mà thôi, có được phương thuốc chữa bệnh đã đủ để Hách Hách vượt qua cơn khó khăn trước mắt này rồi, huống chi mỗi năm còn có ba ngàn gánh lương thảo và mười vạn lạng bạc nữa. Có điều, nếu Ma Cách nhất quyết bám lấy hai châu U, Vân không buông, không tiếc liều mạng, Hoàng thượng chưa chắc đã chống đỡ được. Hoàng thượng cũng giống như Ma Cách, chẳng qua chỉ tìm cớ để xuống thang thôi, còn ta vừa hay chính là chiếc thang ấy.”

    Cận Tịch đưa mắt liếc tôi. “Vậy Ma Cách cớ gì lại chọn nương nương như thế...”

    Tôi cười, nói: “Đại Chu có bốn vị hoàng tử, trong đó Dư Ly tư chất tầm thường, Dư Bái thì tuy hiện giờ thân mẫu đắc sủng nhưng về sau thế nào còn chưa biết được, dù sao gia thế của Trinh Nhất Phu nhân cũng khá kém, trong nhà chẳng có ai nổi bật. Xét về mọi mặt, Dư Hàm và Dư Nhuận đều rất có khả năng trở thành thái tử, đến khi đó ta sẽ là một quân cờ vô cùng hữu dụng trong tay Ma Cách.”

    Cận Tịch càng nghe lại càng lo lắng. “Hoàng thượng ắt không chịu để bị người ta uy hiếp đâu!”

    Tôi vô thức đưa tay mò mẫm gói giấy kia một chút, bên khóe môi thoáng hiện nụ cười. “Ta đã tính kĩ lượng thuốc mà Hoàng thượng đưa cho rồi, đủ để hạ độc giết chết hai người. Do đó, nếu Ma Cách không chết thì ta sẽ phải tự vẫn, nếu Ma Cách chết rồi, ta mà may mắn thoát được thì thôi, nhưng nếu không thoát được thì cũng phải tự vẫn.” Tôi hờ hững đưa mắt nhìn về phía chân trời lạnh lẽo, chậm rãi nói tiếp: “Đó là thánh ý.”

    Ma Cách đứng phía xa nhìn tôi nhúng bánh vào sữa ngựa ăn một cách khó khăn, bèn đi lại gần, mỉm cười nói: “Nàng trước đây là thục phi, sung sướng đã quen, bây giờ coi như phải chịu ấm ức rồi.”

    Lời này của hắn rõ ràng có ý ngả ngớn, nhưng đồng thời còn mang theo mấy tia ấm áp. Tôi hơi khom người hành lễ. “Khả hãn dùng trăm phương ngàn kế mang ta tới đây, lẽ nào còn sợ ta phải chịu ấm ức ư? Huống chi sau khi rời cung, ta đã chẳng coi mình là thục phi nữa rồi.”

    “Nàng đúng là biết thích nghi với hoàn cảnh đấy.” Hắn vừa nói vừa huýt sáo một tiếng rất vang. “Có điều khi nói chuyện, nàng tự xưng là “ta” như thế nghe đúng là dễ chịu hơn tiếng “thần thiếp” kia nhiều.”

    “Như nhau cả thôi.” Tôi đưa tay lại gần đống lửa thêm một chút để sưởi ấm, cất giọng hờ hững. “Cầu sinh vốn chính là bản năng, do đó trên đời này làm gì có ai mà không biết thích nghi với hoàn cảnh.”

    Hắn nở một nụ cười ấm áp như ánh dương giữa ngày thu. “Với tính cách thế này, nàng tuyệt đối có thể làm yên thị của ta đấy.”

    Tôi đưa mắt liếc hắn. “Khả hãn đúng là nói được làm được.”

    Hắn nói ngắn gọn: “Nàng đã giết chết đại phi của ta.” Chính thê của Khả hãn Hách Hách được gọi là đại phi, bên dưới đại phi lại có Đông trướng yên thị và Tây trướng yên thị. Đông trướng yên thị là Đóa Lan Ca vốn xuất thân cao quý, lại đã sinh cho hắn mấy người con trai, hắn nói như vậy tức là muốn lập tôi làm Tây trướng yên thị rồi.

    Tôi dùng mũi bàn chân hẩy nhẹ cát vàng. “Ta căn bản không thích hợp làm đại phi của ngài, điều này ngài biết rất rõ.”

    Y khẽ gật đầu, lại nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tôi bằng ánh mắt sắc lẹm như dao. “Do đó, nàng phải làm được nhiều hơn những điều mà đại phi cần làm.”

    Tôi ngoảnh mặt qua một bên vẻ vô cùng bình thản, thấy giữa không trung có một đàn chim nhạn bay qua, hót vang mấy tiếng liền đập cánh bay vào giữa tầng mây trắng muốt. Sau khi ra ngoài Nhạn Minh quan, bầu trời tuy bao la bát ngát nhưng chẳng còn vẻ xanh biếc yên bình. Một làn gió thổi tới làm chiếc khăn che mặt màu xanh đung đưa nhè nhẹ, hệt như mặt nước hồ Thái Dịch giữa mùa xuân. Tôi chợt nhớ tới ngày mình mới vào cung, thời tiết hôm đó đẹp biết chừng nào, một đàn chim nhạn lớn bay ngang, thế nhưng từ nay về sau, tôi có lẽ chỉ có thể trở về cố quốc qua những giấc mộng...

    Và cũng từ nay, Nhuận Nhi, Hàm Nhi, Linh Tê và Lung Nguyệt đã trở thành những đứa bé không có mẹ rồi...

    Hắn cười khẩy, hỏi: “Nàng sợ rồi ư?”

    Tôi cười tươi nhìn hắn. “Nếu ta sợ thì đã tự vẫn ngay trước Nhạn Minh quan rồi, vậy là có thể tránh được những nỗi khổ về sau.”

    Hắn cầm lấy chiếc túi da hươu để bên tay tôi, ngẩng đầu uống một ngụm sữa ngựa, cất giọng sang sảng nói: “Ngay từ lúc nhìn thấy nàng trên Huy Sơn, ta đã biết nàng có thể làm nữ nhân của ta rồi!”

    Cận Tịch thấy hắn như vậy thì bất giác thầm nôn nóng. Tôi lẳng lặng đón lấy chiếc túi từ trong tay hắn, đưa cho Cận Tịch. “Khả hãn uống sữa ngựa làm sao được, mau kêu người đổi thành rượu sữa ngựa mang tới đây.”

    Hắn dường như rất hài lòng về sự tinh tế của tôi, khóe mắt cong lại thành hình trăng khuyết. Mắt thấy Cận Tịch chuẩn bị đón lấy chiếc túi da, tôi đột ngột thu tay về, nói với một gã tùy tùng của Ma Cách ở ngay gần đó: “Ngươi đi đi.”

    Ma Cách khoát tay ngăn tôi lại. “Không cần như thế. Nàng đã theo ta tới đây rồi, ta không có lý do gì phải đề phòng nàng cả.” Sau đó liền cầm lấy chiếc túi vứt cho Cận Tịch. “Đi đổi thành rượu sữa ngựa mang tới đây.”

    Cận Tịch vâng lời rời đi, rất nhanh sau đó đã mang theo một túi rượu sữa ngựa về. Tôi đón lấy ngửi thử, không kìm được đưa tay che mũi. “Rượu này mạnh quá.”

    Hắn cười, nói: “Nữ nhân làm sao có thể uống loại rượu mạnh thế này được, huống chi nàng còn là nữ tử Trung Nguyên!”

    Tôi nghe ra cái ý khinh miệt trong lời nói của hắn, bèn không nói nhiều, nâng chiếc túi lên uống luôn. Mùi sữa xen lẫn với mùi rượu nồng nặc xộc thẳng vào trong cổ họng, cay đến nỗi làm đầu óc tôi choáng váng, cảm giác bỏng rát nhanh chóng lan tỏa đi khắp lục phủ ngũ tạng. Tôi nhất thời không kìm nén được, cứ thế ho sặc sụa không ngừng.

    Y bất giác mỉm cười, đưa tay vỗ nhẹ bờ vai tôi. “Nàng uống sai cách rồi, lần đầu tiên uống rượu sữa ngựa phải nhấp từng ngụm nhỏ, chờ tới khi đã quen với vị cay và vị tanh của nó rồi mới có thể nhận ra được vị ngọt bên trong. Cứ uống như nàng thế này thì nhất định sẽ bị sặc.”
    Dứt lời, y liền đưa tay tới định cầm lấy túi rượu, tôi nhất quyết giữ chặt không chịu buông, cất giọng quật cường: “Để ta thử lại xem.”

    Nụ cười của y lại càng thêm rõ ràng, giọng nói cũng có thêm mấy phần ấm áp: “Được!”

    Tôi làm bộ vô ý để túi rượu bên dưới tay áo, thầm dằn lòng lại, lén lút mở gói giấy kia ra, ngoài miệng thì vẫn cười, nói: “Ta chỉ có chút không phục thôi, huống chi sau này dù gì cũng phải uống đúng không?”

    Hắn cười hà hà, nói: “Ta cứ ngỡ là nàng chỉ chịu để lộ vẻ ngoan ngoãn nghe lời ra trước mặt Thanh Hà Vương thôi cơ đấy.”

    Tôi giật mình cảnh giác, lặng lẽ nhét gói giấy kia trở về chỗ cũ, thản nhiên nói: “Ta cần gì phải nghe lời y chứ? Trước đây khi ở trong cung, ta chỉ nghe lời một mình Hoàng thượng, còn sau này thì sẽ nghe lời ngài.”

    Y cười tủm tỉm nhìn chằm chằm vào tôi. “Vậy sao? Nàng nghe lời Hoàng đế Đại Chu là vì quyền thế, nghe lời ta là vì tình thế, còn với Thanh Hà Vương là vì yêu thích cho nên mới nghe lời.” Trong mắt y lộ ra những tia ý vị sâu xa. “Ta từng tận mắt nhìn thấy rồi, cho nên mới có thể đưa ra sự so sánh như vậy.”

    “Thế thì sao chứ?” Tôi cầm lấy một cành cây khô cào nhẹ trên nền cát. “Ta chẳng bao giờ có quyền tự lựa chọn cả.” Rồi tôi ngẩng đầu nhìn y. “Ta chỉ có thể ngoan ngoãn nghe theo sự an bài của vận mệnh thôi.”

    Hắn nhìn tôi bằng ánh mắt thích thú, một lát sau mới nói: “Nếu là như thế thì ta đã chẳng cần mất công đòi Hoàng đế Đại Chu giao nàng cho ta rồi.” Hơi dừng một chút hắn lại cười, nói tiếp: “Nàng phải biết là yêu cầu hắn giao nàng ra chẳng dễ dàng hơn đoạt lấy hai châu U, Vân từ trong tay hắn bao nhiêu đâu.”

    “Vậy tức là giá trị của ta tương đương với hai châu U, Vân ư?” Tôi cười phì một tiếng. “Khả hãn đề cao ta quá rồi.”

    Hắn hơi nheo mắt lại. “Nếu ta không yêu cầu hắn để nàng đi hòa thân, nàng đoán xem bây giờ nàng đã chết trong hoàng cung Đại Chu theo cách như thế nào rồi?”

    Tôi nhìn chằm chằm vào y, hai mắt sáng lấp lánh. “Tại sao ta lại phải chết chứ?”

    “Tư tình.” Hắn nói ngắn gọn. “Nàng giờ đã rời cung, ta cũng không ngại nói cho nàng biết, có người đã nói chuyện giữa nàng và Thanh Hà Vương với Hoàng đế Đại Chu rồi.”

    Lòng tôi thầm máy động. “Trang Mẫn Phu nhân?” Ngay sau đó lại nở nụ cười tươi. “Bây giờ ta bình an rời cung, Trang Mẫn Phu nhân thì được như ý nguyện, Thanh Hà Vương cũng không việc gì, quả là mọi người cùng vui, tất thảy đều là nhờ Khả hãn thành toàn cho đấy.”

    Hắn hơi nhếch khóe môi. “Ta chỉ muốn bảo vệ nàng thôi.”

    “Có lẽ ta chẳng đáng để ngài làm vậy đâu.”

    “Nàng tất nhiên có giá trị của nàng.”

    Tôi thở nhẹ một hơi, cố kìm nén cơn tức giận trong lòng. “Ta xưa nay vẫn luôn cảm thấy hai chữ giá trị chỉ có thể dùng để nói về hàng hóa thôi, nếu Khả hãn cho rằng ta là một món hàng đáng để trao đổi, vậy thì ngài nhầm rồi đấy.”

    “Vậy sao?” Hắn cười nhạt một tiếng, bên khóe miệng để lộ mấy tia bá khí ngạo nghễ vô song. “Đối với nam nhân mà nói, nữ nhân không chỉ là công cụ để sinh con đẻ cái, còn phải giúp ích được trong những việc khác nữa, tất nhiên, có thể khiến nam nhân ấy yêu thích thì lại càng tốt hơn. Nhưng nếu nàng có thể thỏa mãn điều kiện cuối cùng, hai điều đầu tiên ta đều có thể bỏ qua không tính tới.” Cặp mắt hắn lúc này đen láy và sâu thẳm, phản chiếu lại khuôn mặt đã bị che kín của tôi. “Hơn nữa, ở bên Hoàng đế Đại Chu nàng đã phải chịu quá nhiều nỗi ấm ức rồi, hắn không thể mang lại hạnh phúc cho nàng, còn ta thì tin rằng mình có thể.”

    Tôi làm gì mà chẳng nghe ra tình ý trong lời nói của hắn, thế nhưng chỉ làm bộ như không biết, khẽ ngoảnh đầu qua một bên. “Khả hãn nói đùa rồi, Chân Hoàn không xứng đâu.”

    Đúng vậy, một nữ nhân nếu yêu một nam nhân thì ngay đến những sự quan tâm dù là nhỏ nhất của y cũng có thể cảm nhận được rõ ràng, còn nếu không yêu, bất kể y có ôm mối tình sâu đậm thế nào thì cũng có thể khiến nàng ta giả câm giả điếc, làm bộ như không hay biết mà thôi.

    Ma Cách thấy tôi chỉ trầm ngâm im lặng liền nói: “Nàng nghĩ rằng ta chỉ coi nàng như hàng hóa thôi ư?”

    “Ngài đưa ta về Hách Hách mà chưa từng hỏi xem ta có bằng lòng hay không, đúng vậy không?”

    Hắn lặng im không nói gì khiến người ta không thể nào đoán được khoảnh khắc tiếp theo sẽ là sóng gió ngợp trời hay là trời êm bể lặng. Một lát sau, hắn đột ngột rút thanh loan đao đeo bên hông ra. Hách Hách vốn thượng võ, các nam tử trong tộc đều đeo loan đao, do đó tôi chẳng quá để tâm, nhưng tới khi thanh loan đao đó được rút hẳn ra khỏi vỏ rồi, tôi không kìm được đưa mắt nhìn chăm chú, chỉ thấy chuôi đao được làm bằng ngọc hắc lân đen nhánh một màu, lưỡi đao thì mỏng như cánh ve, còn ánh lên những tia sáng màu xanh nhạt, vừa nhìn đã biết là loại bảo đao có thể chém sắt như bùn. Hắn giao thanh loan đao đó vào tay tôi, trịnh trọng nói: “Thanh Tiêu Vĩ Viên Nguyệt đao này là bảo đao trấn tộc của tộc ta, hôm nay ta đón nàng về làm yên thị, thứ này coi như là sính lễ. Từ nay về sau nàng chính là yên thị mà Ma Cách ta yêu quý nhất.” Tôi vốn nghe tiếng Tiêu Vĩ Viên Nguyệt đao từ lâu, biết rằng loại đao này được làm bằng Mông Trì huyền thiết, hơn nữa phải rèn đủ ba trăm chín mươi chín ngày dưới ánh trăng, khi tôi luyện thì ắt phải dùng loại nước tuyết thuần khiết thu thập trong quãng thời gian cuối xuân đầu hạ, do đó cực kỳ quý báu, xưa nay vẫn luôn được người Hách Hách coi như chí bảo, chẳng dễ gì tặng cho người khác.

    Tôi đưa tay lạnh lùng đón lấy, thấy từ trên lưỡi đao cong cong ánh lên những tia sáng lạnh tựa băng sương, quả nhiên là một thanh bảo đao hiếm có.

    Tôi đưa tay búng nhẹ vào thân đao làm phát ra những tiếng đinh đang, sau đó liền tiện tay trả đao lại cho hắn, chậm rãi nói: “Tiêu Vĩ Viên Nguyệt đao hết sức nổi danh, tiếc rằng Chân Hoàn xưa nay vốn không thích đao kiếm, chẳng biết phải làm gì với nó cả.”

    Ma Cách nhìn tôi chăm chú, đang định nói gì thêm thì trong mắt chợt lộ ra mấy tia băng giá, dõi nhìn về phía xa. Tôi không biết vì cớ gì mà hắn lại tỏ ra cảnh giác như vậy, bèn nhìn theo hướng ánh mắt hắn, chỉ thấy ở phía rất xa có một làn cát bụi màu vàng nhạt bốc lên. Tôi còn chưa kịp hiểu ra là có chuyện gì thì đã thấy các binh sĩ Hách Hách đột ngột xao động, chẳng bao lâu sau đã đứng khắp chung quanh Ma Cách.

    Nét cười mỉm bên khóe môi càng lúc càng rõ ràng, Ma Cách chỉ tay về phía trước, bình thản nói với tôi: “Nàng đã đánh giá bản thân mình quá thấp rồi đấy.”

    Tôi ngưng thần nín thở, thấy mảng cát bụi màu vàng đó càng lúc càng tới gần, sau một hồi nhìn kĩ thì biết rằng, hóa ra có một đội nhân mã đông đảo đang kéo đến. Tôi chỉ nghe thấy những tiếng vó ngựa rầm rập vang rền, nhất thời không thể biết rõ lần này rốt cuộc có bao nhiêu người tới đây.

    Lòng tôi bất giác trầm hẳn xuống, chẳng lẽ đó là đội ngũ mà Huyền Lăng phái tới tiếp ứng tôi? Thế nhưng tôi còn chưa đắc thủ, cớ gì mà bọn họ lại chẳng chút kiêng dè như thế? Tôi càng nghĩ lại càng sợ hãi, chợt thấy sắc mặt Ma Cách dần trở nên âm trầm, bất giác nghĩ bụng, sắc mặt của tôi lúc này cũng chẳng khá hơn y là mấy.

    Cận Tịch lẳng lặng đi tới bên cạnh tôi, cũng chẳng rõ người tới là ai, chỉ nắm chặt lấy bàn tay phải của tôi, hai bàn tay của chúng tôi hóa ra đều đã tuôn đầy mồ hôi lạnh ngắt.
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 15: Bao phen hồn mộng được tương phùng[25]
    [25] Trích Giá cô thiên - Thái tụ ân cần phủng ngọc chung của Án Kỷ Đạo. Dịch thơ: Nguyễn Thị Bích Hải. Nguyên văn Hán Việt: Kỷ hồi hồn mộng dữ quân đồng - ND.

    Chờ khi đoàn người đó tới gần rồi, chỉ thấy tất cả đều mặc trang phục binh sĩ Đại Chu, người thì nhanh nhẹn cường tráng, ngựa cũng cao lớn uy phong. Mười hai kỵ sĩ đi đầu phi ngựa tới cách chúng tôi chừng hơn ba mươi bước chân thì tách sang hai bên, nhường đường cho kỵ sĩ theo sau tiến tới. Người đó mặc một bộ giáp trụ màu trắng bạc, sau lưng còn khoác áo choàng phấp phới bay khiến dáng vẻ anh tuấn lại càng tăng thêm mấy phần.

    Cảm giác ấm áp không kìm được trào dâng tự đáy lòng, cuối cùng ngưng tụ lại và biến thành những giọt lệ rưng rưng trong mắt tôi.

    Tôi chưa từng nghĩ rằng y sẽ tới đây như thế.

    Ma Cách đưa mắt liếc tôi, đoạn nhướng mày nhìn y, nói: “Thực không ngờ các hạ lại xuất hiện ở đây vào lúc này.”

    Y ngồi trên ngựa, cung tay cười, nói: “Khả hãn vội vã rời khỏi Đại Chu, Thanh không kịp đưa tiễn, lại sợ sau này khó mà gặp lại, do đó mới đặc biệt tới đây.” Rồi y lại nhìn qua phía tôi. “Hoàn Nhi, nàng đưa tiễn Khả hãn đã lâu rồi, nên theo ta quay về thôi.”

    Binh mã xung quanh đều không có hành động gì, bốn phía chỉ có tiếng gió thổi vù vù không ngớt, thỉnh thoảng lại xen lẫn vài tiếng ngựa kêu phì phì. Tôi hơi sững ra, bao nhiêu năm nay y chưa từng gọi tôi là “Hoàn Nhi” trước mặt người ngoài như thế. Dõi mắt nhìn đi, tôi thấy bên cạnh y là A Tấn và một thiếu niên vô cùng tuấn tú, còn sau lưng họ thì chỉ có khoảng hơn ngàn người, nhìn lối ăn mặc thì đều là thân vệ trong vương phủ, chắc hẳn đều là người của phủ Thanh Hà Vương và Bình Dương Vương, không có người ngoài đi theo. Tôi thoáng yên tâm hơn một chút, thế nhưng ngay sau đó trái tim đã lại nảy lên liên hồi, một khi Huyền Lăng biết việc y xuất quan thì hậu quả sẽ như thế nào...

    Lòng tôi đau đớn không thôi, Huyền Thanh ơi Huyền Thanh, muội đã phải tìm đủ mọi cách để giữ cho huynh được an toàn, huynh cớ gì còn vì muội mà mạo hiểm như thế chứ?

    Ma Cách hờ hững đưa mắt nhìn y. “Các hạ là thân vương của Đại Chu, hẳn cũng biết rõ tại sao nàng ta lại theo ta xuất quan.” Hơi dừng một chút, hắn nhếch khóe môi cười khẩy. “Nếu như không nỡ thì cũng phải là phu quân của nàng ta đến đây đòi người, các hạ định dựa vào thân phận gì để đón nàng ta về đây?”

    Lời này thực là vô cùng sắc bén, tôi nghe mà màng nhĩ đau nhói từng cơn, nhưng Huyền Thanh vẫn tỏ ra bình thản như thường. “Năm xưa gặp gỡ trên Huy Sơn cứ ngỡ Khả hãn là người sáng mắt, ai ngờ hôm nay còn bắt Thanh phải nói rõ mọi điều, như thế thì còn đâu là sự anh minh của vua một nước nữa.”

    Ma Cách cười khà khà, nói: “Lá gan của các hạ lớn thật, đến cả lời này mà cũng dám nói ra.”

    Huyền Thanh nhíu chặt đôi mày, lộ vẻ đau xót nhìn tôi chăm chú. “Năm xưa Thanh bỏ lỡ cơ hội, không thể giữ thê tử lại bên mình, bao năm nay vẫn luôn tiếc nuối, hôm nay quyết không thể giẫm lên vết xe đổ của ngày xưa.”

    Ma Cách đưa mắt nhìn lướt qua đội ngũ sau lưng Huyền Thanh, lại chỉ tay vào mấy chục vạn đại quân của mình, lộ vẻ xem thường, nói: “Các hạ cho rằng chỉ bằng vào nhúm người kia mà có thể làm nên chuyện được sao?”

    Huyền Thanh mỉm cười, nói: “Không phải là dựa vào bọn họ, chỉ có một mình ta thôi.” Trong cặp mắt màu hổ phách ánh lên những tia ấm áp, y nhìn tôi rất mực dịu dàng: “Tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ[26].”

    [26] Đây là một câu trong sách Mạnh Tử: Công Tôn Sửu Thượng. Dịch nghĩa: Dù trước mặt là ngàn vạn người, ta cũng quyết không lùi bước. Toàn đoạn: Tự xét lại bản thân, nếu thấy mình đuối lý, dù chỉ đối mặt với người dân áo vải tay không tấc sắt, ta cũng sẽ không dọa nạt. Trái lại, nếu tự xét thấy không thẹn với lòng, dù trước mặt là ngàn vạn người, ta cũng quyết không lùi bước - ND.

    Ma Cách cười lạnh, nói: “Thanh Hà Vương vượt ngàn dặm xa xôi tới đây chỉ là để nói đùa với bản hãn mấy câu này thôi sao?”

    Huyền Thanh đưa mắt nhìn hắn, cất giọng ôn hòa: “Hôm nay Thanh dám tới đây đón Hoàn Nhi về, tất nhiên không sợ Khả hãn người đông thế mạnh. Nhưng Khả hãn là vua một nước, dù có dùng đại quân áp trận thì Thanh cũng không dám nói nhiều.”

    Ma Cách nghe thế thì tức giận, khẽ “hừ” một tiếng, trong giọng nói thấp thoáng lộ ra mấy tia sắc bén: “Các hạ không cần nói khích làm gì, bản hãn vốn chẳng thèm lấy đông hiếp ít!” Hắn ngẩng cao đầu, ngạo nghễ nói. “Người Hách Hách có quy củ là nếu vì nữ nhân mà nảy sinh tranh chấp, vậy thì đó là chuyện riêng của hai nam nhân.”

    Huyền Thanh tung người nhảy xuống ngựa, cất giọng cung kính: “Tuy Khả hãn đã từng dùng Thập Hương Nhuyễn Cân tán để bắt Thanh, nhưng chỉ bằng câu nói này cũng đủ chứng tỏ rằng Khả hãn là người quang minh lỗi lạc.”

    Ma Cách bất giác bật cười. “Đó là việc nước, mấy thứ thủ đoạn như thế ta chẳng thèm dùng vào việc hôm nay.”

    Một gã tùy tùng sau lưng Ma Cách nghe y nói vậy thì không kìm được cau mày đi lên phía trước, nói mấy câu gì đó. Ma Cách nghe xong thì nhíu mày, xua tay nói: “Không cần các ngươi lo.” Rồi hắn thu ý cười, nói với Huyền Thanh: “Ngươi muốn mang nàng ta đi, vậy thì phải hỏi thanh Tiêu Vĩ Viên Nguyệt đao trong tay ta trước đã!”

    Huyền Thanh khẽ nở nụ cười. “Tiêu Vĩ Viên Nguyệt đao đúng là rất nổi danh, tiếc rằng trong mắt Huyền Thanh ta thì chẳng khác nào một khối sắt rỉ. Bảo đao lợi khí tuy sắc bén nhưng lẽ nào có thể so được với sự cứng rắn của lòng người ư?”

    Mấy lời này của y không ngờ lại gần giống với những lời mà tôi đã nói với Ma Cách vừa rồi, lòng tôi bất giác mềm đi, chăm chú nhìn y mà mỉm cười không nói gì. Y nhìn lại tôi, nở một nụ cười dịu dàng rất mực.

    Lòng tôi lúc này ngập tràn một thứ cảm giác vô cùng thư thái, hóa ra tôi và y thật sự tâm tư tương thông, chỉ cần chúng tôi có thể ở bên nhau, dù phải sa thân vào tuyệt cảnh thì cũng đâu có xá gì. Sau khi suy nghĩ như vậy, tôi bất giác nhủ thầm, trên thế gian này, dù là việc gì cũng không thể khiến tôi sợ hãi nữa, chỉ cần có y ở bên là đã đủ rồi.

    Tôi chậm rãi bước tới bên cạnh y, đưa tay cởi khăn che mặt, cười tươi, nói: “Thanh đao đó sắc lắm, huynh phải cẩn thận đấy!”

    Y cũng khẽ mỉm cười. “Được, ta còn phải đưa nàng rời khỏi đây nữa mà.”

    Ma Cách đứng một mình trước mặt mọi người, thấy tôi và y tươi cười trò chuyện với nhau như thế thì đặt tay lên cán đao, nói với Huyền Thanh: “Bản hãn khuyên các hạ một câu này, ngay cả Hoàng đế Đại Chu cũng đã đồng ý để Chân Hoàn làm yên thị của ta, đây là chuyện mà không ai thay đổi được, các hạ chỉ là một vương gia nhàn tản, kỳ thực không nên nhúng tay vào vũng nước đục này làm gì.”

    Huyền Thanh tuy trả lời y nhưng ánh mắt lại dừng trên người tôi. “Hôm nay chỉ cần Huyền Thanh ta còn một hơi thở thì quyết sẽ không để mất Hoàn Nhi lần nữa. Trong cuộc chiến lần này, ta có lẽ không địch lại Khả hãn, nhưng nếu như sợ hãi thì chẳng xứng là nam nhi!” Những lời này của y hết sức lỗi lạc, lại xen giữa tiếng gió cát vù vù, vẻ oai phong lẫm liệt càng tăng thêm bội phần.

    Kế đó, y kéo tôi ra sau lưng, khẽ nói: “Nàng yên tâm, có ta ở đây rồi.”

    Tôi khẽ gật đầu, lẳng lặng nắm chặt lấy bàn tay y, chợt lại nhìn thấy trên vai áo y có một vết rách nhỏ, chắc hẳn là do cưỡi ngựa vội quá mà ra, nhưng y dù đã rách áo rồi mà vẫn chẳng hề hay biết. Tôi rút một cây trâm nhỏ dài từ trên búi tóc xuống, lại rút từ trên vạt váy ra một sợi chỉ mà buộc vào đầu cây trâm, kế đó dịu dàng nói: “Áo của huynh rách rồi kìa, để muội vá áo cho huynh trước đã.”

    Y nói: “Được, đã lâu lắm rồi nàng không vá áo cho ta.”

    Tôi hơi khom người nói với Ma Cách: “Phiền Khả hãn đợi một lát.”

    Ma Cách gật đầu đồng ý. Bốn phía xung quanh là thiên quân vạn mã cùng gió cát rít gào, thỉnh thoảng lại có mấy tiếng ngựa hí vang, bầu không khí thực là hoang lương khôn tả.

    Tôi vừa cúi đầu vá áo vừa khẽ nói: “Trong trận chiến với Ma Cách lần này, dù huynh có thắng được hắn thì đám binh mã sau lưng hắn cũng chẳng chịu khoanh tay đứng nhìn, ắt sẽ xông ra để giữ thể diện cho hắn.”

    Y dùng sức nắm chặt lấy bàn tay tôi, cất giọng nhẹ nhàng: “Ta tự biết là khó sống nổi, nhưng thực lòng không muốn để nàng cùng hắn tới vùng đại mạc. Hoàng huynh có thể không để tâm tới nàng, ta thì không thể.” Y vừa nói vừa nhìn tôi chăm chú. “Ta đã từng trơ mắt nhìn nàng rời xa ta một lần, lần này dù thế nào cũng phải làm chút gì đó cho nàng mới được. Vậy nên bất kể kết quả ra sao ta cũng mong nàng có thể sống tiếp, cho dù không có ta ở bên.”Rốt cuộc đã vá áo xong, tôi cúi đầu cắn đứt sợi chỉ, nhanh chóng lau đi giọt lệ vừa rỉ ra bên khóe mắt, ngẩng đầu lên mỉm cười nhìn y, nói chậm rãi từng chữ một: “Mới hay thắt nút áo, chẳng bằng thắt nút lòng[27]. Hôm nay nếu huynh chết ở đây, muội tuyệt đối sẽ chẳng sống tiếp một mình.”

    [27] Trích Kết ái của Mạnh Giao. Nguyên văn Hán Việt: Thủy tri kết y thường, bất như kết tâm tràng - ND.

    Giữa vùng hoang mạc trống trải, một con nhạn lạc bầy lao qua giữa không trung, vừa bay vừa hót lên một tiếng mang vẻ bi thương tột độ.

    Nhưng lòng tôi lúc này lại hết sức vui mừng.

    Y đưa tay vuốt ve bờ má tôi, bên khóe mắt thấp thoáng ánh lệ, nhưng miệng thì lại khẽ mỉm cười. “Đồ ngốc.”

    Tôi cũng cười, nước mắt chợt lã chã tuôn rơi làm ướt thẫm bờ vai y. “Có huynh mới là đồ ngốc ấy.”

    Huyền Thanh xoa nhẹ vết vá trên vai áo một chút, kế đó ngẩng đầu lên nhìn Ma Cách: “Mời Khả hãn.”

    Ma Cách thoáng ngẩn người ra trong khoảnh khắc, rất nhanh sau đó đã ngẩng đầu lên, ánh mắt lạnh lùng nhìn lướt qua khuôn mặt tôi và y. Cuối cùng hắn chợt vứt thanh Tiêu Vĩ Viên Nguyệt đao trong tay xuống đất, ngẩng đầu hú dài một tiếng, cất giọng buồn bực: “Thôi bỏ đi, các hạ quả thực yêu nàng ta hơn ta.” Rồi hắn ngoảnh đầu qua nhìn tôi chăm chú, trầm giọng nói: “Dù nàng không nói thì ta cũng biết, nàng hẳn cũng yêu y giống như y yêu nàng.”

    Huyền Thanh khẽ mỉm cười, quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt chứa chan tình cảm, đoạn nói với Ma Cách: “Khả hãn nói không sai, trong lòng ta chỉ có nàng ấy, trong lòng nàng ấy cũng chỉ có ta. Xin đa tạ Khả hãn.”

    Ma Cách mặt mày lạnh tanh, nói: “Gã Hoàng đế kia đúng là thua kém ngươi nhiều. Có điều bây giờ mọi người ở Hách Hách đều biết ta sắp cưới một nữ tử thân phận tôn quý làm Yên thị, bây giờ ngươi lại muốn mang nàng ta đi, nếu ta cứ để yên như thế thì ắt sẽ bị mọi người trong tộc chê cười.”

    Huyền Thanh nghe thấy lời này thì hai bờ vai hơi chấn động, thoáng lộ vẻ trù trừ. Tôi thấy phản ứng của y như thế thì không khỏi có chút nghi hoặc, nhưng lại chỉ thấy y lặng im không nói gì.

    Lời của Ma Cách nhanh chóng tan đi trong gió, xung quanh chỉ còn lại tiếng gió cát rít gào. Chợt một giọng nói vừa nhu mì vừa trong trẻo vang lên giữa không trung: “Vậy ta sẽ đi theo ngài.”

    Giọng nói ấy quen thuộc biết bao nhiêu, tôi vừa nghe xong liền không kìm được biến hẳn sắc mặt, lập tức ngoảnh đầu nhìn qua, thấy người đó không phải Ngọc Diêu thì còn là ai nữa. Vừa rồi tôi tập trung hết mọi sự chú ý lên người Huyền Thanh nên không phát hiện ra Ngọc Diêu cũng vận nam trang mà đi theo trong đội ngũ tùy tùng, lúc này lập tức kéo tay muội ấy, nôn nóng nói: “Ngọc Diêu, sao muội lại tới đây?” Rồi tôi lại ngoảnh đầu qua nhìn Huyền Thanh, thoáng lộ vẻ giận dữ: “Ngọc Diêu không hiểu chuyện thì cũng đành, nhưng sao huynh lại để muội ấy đi theo tới đây?”

    Ngọc Diêu bình tĩnh nói: “Tỷ tỷ, tỷ đừng trách tỷ phu, là muội nhất quyết đòi đi theo huynh ấy.”

    Tôi thầm nôn nóng, bèn khẽ quát: “Muội mau về đi! Ta tự sẽ có cách khác để quay về!”

    “Cách khác?” Ngọc Diêu khẽ mỉm cười, nói. “Khi tới Thượng Kinh thì sông Vị Nam đột nhiên có lũ, rất nhiều người đã bị chặn lại bên bờ sông, tỷ phu đã phải liều mạng dẫn người vượt sông để tới đây cứu tỷ. Nhìn thấy cảnh ấy, muội thân là muội muội ruột thịt của tỷ thực là hổ thẹn vô cùng.” Hai mắt Ngọc Diêu xưa nay vẫn luôn ảm đạm, thế nhưng lúc này thì lại sáng bừng rực rỡ, tựa như có một ngọn lửa đang cháy hừng hực bên trong. “Tỷ tỷ, muội biết hồi ở trong cung tỷ đã phải sống một cuộc sống như thế nào, Hoàng thượng có thể bán đứng tỷ một lần thì sẽ có thể bán đứng tỷ lần thứ hai, lần thứ ba, tỷ không thể quay về bên một con người như thế được.” Muội ấy ngoảnh đầu qua nhìn Huyền Thanh. “Thời gian qua muội đã thấy rất rõ ràng, người tỷ phu thật sự thích không phải Ngọc Ẩn mà là tỷ. Muội không biết cớ gì huynh ấy lại thành thân với Ngọc Ẩn, nhưng huynh ấy hiển nhiên là một con người tình sâu nghĩa nặng nên mới chịu tới đây để đón tỷ về như thế. Chi bằng tỷ hãy... theo huynh ấy tới nơi chân trời góc bể mà vui vầy bên nhau, đừng tiếp tục sống vì người khác nữa.”

    Ngọc Diêu xưa nay vốn tính ôn hòa trầm lặng, rất ít khi nói ra những lời quyết liệt thế này, hai bờ má dần trở nên ửng đỏ tựa như hai bông hoa mộc cẩm đang nở rộ. “Tỷ tỷ, trước đây dù muội có sai nhưng cũng coi như đã sống vì bản thân một lần. Có điều muội đã làm mọi người bị liên lụy nhiều quá, tỷ hãy để muội có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, như thế thì lòng muội mới dễ chịu hơn một chút.”

    Tôi nắm chặt lấy bàn tay Ngọc Diêu, nôn nóng nói: “Muội hãy còn trẻ, chuyện Quản Khê lần trước mọi người không hề trách muội, cũng không cần muội phải sửa chữa lỗi lầm gì cả. Muội chớ nên nhất thời hồ đồ, nếu muội cứ thế này mà đến Hách Hách thì chẳng khác nào tự tay hủy hoại cuộc đời hạnh phúc của chính bản thân mình đấy!”

    Ngọc Diêu hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười gượng thê lương. “Tỷ tỷ, muội còn có cái gọi là hạnh phúc nữa sao? Lòng muội giờ đã như tro tàn nguội lạnh, ngày ngày chỉ ở trong nhà gõ mõ tụng kinh, xin tỷ hãy cho muội một cơ hội sửa chữa lỗi lầm, chỉ như vậy muội mới có thể yên lòng sống tiếp được.” Rồi muội ấy cắn chặt môi. “Huống chi sau khi tới đây, muội căn bản chưa từng nghĩ tới việc quay về!”

    Tôi thầm chấn động, trong số các tỷ muội trong nhà, Ngọc Diêu vốn là người nhu nhược nhất, không ngờ cũng có lúc quật cường thế này, quả không thẹn là muội muội của tôi.

    Ngọc Diêu khẽ nở nụ cười, đẩy tay tôi ra, đột ngột gỡ búi tóc ra để mái tóc mây xõa xuống. Muội ấy đi thẳng tới trước mặt Ma Cách rồi khom người hành lễ, cất giọng bình tĩnh nói: “Khả hãn biết rõ là tỷ tỷ còn có con cái ở nhà, dù gì cũng khó mà yên tâm được. So với việc gây khó dễ cho tỷ tỷ, chi bằng Khả hãn hãy đưa ta về Hách Hách!”

    Ma Cách nhìn Ngọc Diêu vẻ đầy hứng thú, cười nói: “Nàng muốn đi thì ta sẽ đưa nàng đi sao? Nàng có biết ta đã phải tốn mất bao nhiêu công sức mới đưa được tỷ tỷ của nàng tới đây không? Nàng dựa vào cái gì mà so sánh với tỷ tỷ của nàng?”

    Ngọc Diêu không hề giận dữ, chỉ nở một nụ cười mỉm tựa như ánh trăng xuân dìu dịu. “Ngọc Diêu đúng là không thể so sánh với tỷ tỷ, nhưng Khả hãn chỉ nói với mọi người trong nước là sắp cưới một nữ tử tôn quý làm yên thị chứ không hề nói rõ nữ tử đó là Thục phi của Đại Chu, qua đó đủ thấy Khả hãn cũng sợ bị mang tiếng cướp đoạt thê tử của người khác. Tỷ tỷ của ta cố nhiên là thục phi của Đại Chu, thân phận tột cùng tôn quý, nhưng Ngọc Diêu ta dù gì cũng là muội muội của Thục phi và Ẩn phi, tỷ tỷ của Bình Dương Vương phi, tiểu cô[28] của Thừa Ý Quận chúa, tiểu di[29] của thân vương Đại Chu, còn là di mẫu của mấy vị Công chúa và Hoàng tử, nếu xét về thân phận, Ngọc Diêu chưa chắc đã thua kém tỷ tỷ bao nhiêu, hơn nữa còn không khiến Khả hãn bị người ta dị nghị điều gì.” Một làn gió thổi tới làm mái tóc Ngọc Diêu tung bay nhè nhẹ, vẻ thanh tú theo đó mà tăng thêm mấy phần. Chỉ nghe muội ấy nói tiếp bằng giọng trong trẻo như châu rơi đĩa ngọc, hết sức động lòng người: “Kỳ thực, Khả hãn nhất quyết đòi cưới tỷ tỷ của ta là hành động không sáng suốt chút nào. Tỷ tỷ đã lớn tuổi, Ngọc Diêu thì còn trẻ, bỏ nhỏ chọn lớn là thứ nhất; tỷ tỷ đã lấy chồng, Ngọc Diêu thì chưa xuất giá, bỏ khuê nữ mà chọn gái nạ dòng, phá hoại gia đình của người ta, ấy là thứ hai; tỷ tỷ vướng bận vì con cái, Khả hãn dù có đưa được con người tỷ tỷ về thì cũng chẳng thể giành được trái tim của tỷ tỷ, phí hết tâm tư mà cuối cùng chẳng được gì, ấy là thứ ba; mà điều quan trọng nhất là Hoàng thượng tuy đồng ý tặng tỷ tỷ cho Khả hãn, thế nhưng thù đoạt vợ không đội trời chung, bây giờ Hoàng thượng tuy không nói gì nhưng sau này Hoàng thượng cũng được, thái tử cũng được, một khi nghĩ tới mối thù này, Khả hãn cho rằng Hách Hách còn có thể sống yên ở vùng đại mạc được sao? Huống chi vua nhục thì tôi cũng nhục, đến lúc đó vua tôi Đại Chu một lòng muốn diệt Hách Hách, Khả hãn cho rằng kết quả sẽ thế nào?” Rồi muội ấy lại chỉ ngón tay thon dài về phía Huyền Thanh mà nói tiếp: “Lục Vương gia vốn là vị thân vương tính tình ôn hòa nhất, thế mà bây giờ cũng đích thân đuổi theo tới đây để đưa tỷ tỷ về, Khả hãn là người thông minh, tất nhiên không cần Ngọc Diêu phải nói nhiều thêm nữa.”

    [28] Em chồng - ND.

    [29] Em vợ - ND.

    Ma Cách nhìn chằm chằm vào Ngọc Diêu, cười khẩy, nói: “Nàng đúng là rất biết nói chuyện đấy!”

    Ngọc Diêu ửng hồng hai má, rốt cuộc đã để lộ mấy tia thẹn thùng. “Ngọc Diêu chỉ nói sự thực mà thôi.”

    Ma Cách cất giọng hững hờ: “Nàng không đẹp bằng tỷ tỷ của nàng.” Lời này vừa mới nói ra, ngay đến đám cận vệ bên cạnh Ma Cách cũng không kìm được cười vang thành tiếng, xem ra không hề để Ngọc Diêu vào trong mắt.

    Khuôn mặt Ngọc Diêu càng lúc lại càng ửng đỏ, chừng như có thể rỉ ra máu, thực là kiều diễm vô cùng. Một lát sau muội ấy mới chậm rãi ngẩng đầu, cặp mắt đen láy nhìn Ma Cách chăm chú. “Ngọc Diêu tự biết là dung mạo của mình không thể so sánh với tỷ tỷ, nhưng Khả hãn là bậc minh quân sáng suốt, hẳn biết rõ cưới vợ là cưới ở cái đức, hơn nữa Khả hãn cưới vợ không chỉ là việc nhà mà còn là việc nước, há có thể chỉ nhìn vào dung mạo mà không xét tới những mặt khác được.”

    Ma Cách hơi sững ra, sau đó liền cất tiếng cười vang. “Hay lắm, nàng chỉ là một tiểu nữ tử mà không ngờ cũng có được bụng dạ cùng những sự kiến giải như thế này!”

    Nghe thấy những lời này, tôi không khỏi thầm chua xót, hồi thơ bé, tâm tư Ngọc Diêu đơn thuần tựa như dòng nước vậy, có thể nói ra những lời thế này đại để là vì phen thương tâm quá độ kia mà ra. Phàm là nữ tử, chỉ khi nào trái tim đã bị tổn thương triệt để rồi thì mới hiểu được rằng thế nào là thói đời ấm lạnh, tâm tư cũng từ đó mà sáng suốt hơn nhiều.

    Nụ cười bên khóe môi Ngọc Diêu dần trở nên hờ hững như một đám mây mỏng manh, chỉ cần gió thổi là tan. “Đa tạ Khả hãn khen ngợi.”

    Ma Cách xua tay, nói: “Nhưng chỉ dựa vào một mình nàng thì vẫn chưa đủ để bản hãn thả cho nàng ta đi.”

    Ngọc Diêu dường như đã đoán trước được là hắn sẽ còn nói ra những lời như vậy, bèn quay qua khẽ gọi Huyền Thanh một tiếng “tỷ phu”, kế đó đi lại gần Huyền Thanh, giọng nói tuy nhẹ nhàng nhưng mỗi chữ đều rành rọt: “Tỷ phu, muội biết là khi muội yêu cầu huynh đưa muội theo, lòng huynh khó chịu vô cùng, nhưng sự đời là thế, có lúc không thể không đưa ra lựa chọn, hơn nữa vì tỷ tỷ muội mà sẵn lòng hy sinh bản thân.” Hơi dừng một chút, muội ấy nghẹn ngào nói tiếp bằng giọng chan chứa nỗi mừng vui. “Hôm nay muội gọi huynh là “tỷ phu” như thế không phải vì Ngọc Ẩn, mà là vì tỷ tỷ. Có rất nhiều chuyện muội tới bây giờ mới biết... Tỷ phu, tỷ tỷ bây giờ đã không thể về cung được nữa, huynh thì đã xuất quan muốn trở về cũng rất khó khăn. May mà Ngọc Ẩn và tiểu vương tử đều đang ở trong phủ của tiểu muội, có tiểu muội ở đó chắc Hoàng thượng sẽ không gây khó dễ gì cho bọn họ đâu. Huynh hãy đưa tỷ tỷ cao chạy xa bay, càng xa càng tốt, muội giờ đã không thể hạnh phúc nữa rồi, nhưng mong tỷ phu và tỷ tỷ có thể mãi mãi hạnh phúc bên nhau.” Giọng của muội ấy nhỏ dần. “Còn có đơn thuốc kia nữa...”

    Nơi đáy mắt Huyền Thanh thấp thoáng vẻ không đành lòng, nhưng thấy Ngọc Diêu đã trịnh trọng dặn dò như vậy thì cũng chỉ đành nói: “Muội yên tâm.” Ngọc Diêu cười tươi vui vẻ, cầm lấy một tờ giấy mỏng manh từ trong tay Huyền Thanh, kế đó xoay người lại nói với Ma Cách: “Tiểu nữ tự biết mình vô dụng, chỉ có chút hiểu biết về y thuật, do đó đặc biệt tìm tới đây một đơn thuốc có thể chữa được bệnh dịch, mong là có thể giúp ích cho Khả hãn.”

    Trong mắt Ma Cách thoáng qua một tia sắc lạnh, rất nhanh sau đó đã cười, nói: “Lẽ nào nàng không biết Hoàng đế Đại Chu đã đưa cho ta đơn thuốc chữa trị bệnh dịch, bằng không ta cớ gì lại chịu lui binh chứ?”

    Ngọc Diêu khẽ “ồ” lên một tiếng, chậm rãi nói: “Hoàng thượng là vua một nước, nhất ngôn cửu đỉnh, nói đơn thuốc đó chữa được bệnh dịch thì ắt là có thể chữa được. Khả hãn cũng là bậc kiêu hùng, nhất định đã thử qua rồi thì mới chịu lui binh. Nhưng Ngọc Diêu còn có chuyện này muốn hỏi, không biết những người bị mắc bệnh dịch sau khi được chữa khỏi có phải là tay chân vẫn mềm nhũn, toàn thân vô lực không? Khả hãn có lẽ cho rằng bọn họ mắc bệnh lâu ngày nên thể lực suy giảm, nhưng rất nhiều thị nữ trong cung sau khi được chữa trị chừng bảy, tám ngày thì sức khỏe đã khôi phục lại như cũ rồi, lẽ nào các binh sĩ dũng mãnh của Khả hãn lại thua cả mấy nữ tử yếu ớt ư?”

    Ngọc Diêu cứ nói ra một câu thì đôi mày của Ma Cách lại nhíu chặt thêm một phần, tới khi câu cuối cùng được nói ra, Ma Cách nắm chặt hai tay, bừng bừng nổi giận. “Ta sớm đã biết là Hoàng đế Đại Chu quỷ kế đa đoan, ắt sẽ không dễ nói chuyện như thế mà!”

    “Phải rồi, Hoàng thượng đâu có nuốt lời, đơn thuốc đó đúng là có thể chữa được bệnh dịch, dù rằng dược tính có hơi bá đạo, Khả hãn muốn nói là y quỷ kế đa đoan, lòng dạ hẹp hòi cũng không sao. Hôm nay, ngay đến cả nữ nhân của mình y cũng có thể bán đứng, ngày sau liệu sẽ làm ra những chuyện gì thực khó có ai biết được!” Ngọc Diêu nói bằng giọng hết sức nhẹ nhàng, thế nhưng người nghe không ai là không rùng mình sợ hãi. Tôi và Huyền Thanh đưa mắt nhìn nhau, biết rõ là với tính cách của Huyền Lăng thì ắt có thể làm ra chuyện như vậy. Ngọc Diêu phẩy nhẹ đơn thuốc trong tay. “Ngọc Diêu không có sở trường gì khác, vậy nên mới phải dùng đủ trăm phương ngàn kế để tìm đơn thuốc này tới đây, nó có thể chữa được bệnh dịch mà không gây tổn hại tới thân thể của người bệnh.”

    Ma Cách đưa tay đón lấy đơn thuốc, cười lạnh, nói: “Trên này chỉ có tên các loại thuốc, làm sao cứu được con dân Hách Hách ta? Mà ta dựa vào cái gì để tin nàng chứ?”

    Ngọc Diêu cung kính khom người hành lễ. “Tên các loại thuốc đã ở trên đó, còn về phân lượng cùng cách sắc thuốc thì nằm trong tay Ngọc Diêu. Khả hãn có thể đưa Ngọc Diêu về, nếu đơn thuốc vô dụng thì cùng lắm là các tướng sĩ của Khả hãn vẫn y nguyên như cũ, còn nếu hữu dụng thì sẽ giúp binh lực của Khả hãn lập tức mạnh lên, việc này thực là có trăm cái lợi mà không có cái hại nào. Khả hãn là người thông minh, chắc cũng rõ là nếu Ngọc Diêu nói hết tất thảy với Khả hãn ngay bây giờ thì tỷ tỷ chưa chắc đã đi được.”

    Ma Cách suy nghĩ một chút rồi vỗ tay, cười nói: “Hay! Hay! Tâm tư cùng tính cách thế này thực là giống với tỷ tỷ của nàng, bản hãn không còn gì để nói nữa.” Rồi hắn nhìn tôi chăm chú. “Nàng đi theo y đi!” Ngay sau đó lại ra lệnh cho gã cận vệ kề bên. “Đỡ Tây trướng Yên thị lên xe!”

    Gã cận vệ đó đi tới bên cạnh Ngọc Diêu, nói: “Mời Yên thị lên xe!” Ngọc Diêu đẩy tay hắn ra, tự mình trèo lên xe, sau đó liền ngoảnh đầu nhìn tôi, nở nụ cười tươi tắn. “Tỷ tỷ bảo trọng, Ngọc Diêu đi đây!”

    Tôi thầm đau xót trong lòng, đi tới nắm chặt lấy bàn tay muội ấy, hai hàng lệ nóng bất giác tuôn trào. “Ngọc Diêu...”

    Tấm thân mỏng manh của Ngọc Diêu lúc này thật giống một bông hoa thuần khiết giữa làn gió cát, giọng nói cũng thoáng vẻ nghẹn ngào: “Tỷ tỷ, muội làm vậy chỉ vì mong mình được thanh thản hơn thôi, không phải là vì tỷ, cho nên tỷ đừng thương tâm.” Hơi dừng một chút, muội ấy lại nói tiếp: “Tỷ tỷ, muội đã sống vì bản thân rồi, tỷ cũng sẽ sống vì bản thân một lần đúng không?”

    Xe ngựa chậm rãi tiến đi, cánh tay gầy guộc của Ngọc Diêu dần tuột ra khỏi tay tôi, không thể nào níu giữ. Giữa làn cát bụi mịt mù, bóng dáng gầy yếu của Ngọc Diêu dần dần bị che khuất, phía đằng xa chỉ còn lại một mảnh tịch dương như máu nhuộm đỏ cả nơi chân trời.

    Màn đêm như một bức rèm nhung nhẹ nhàng buông xuống, những vì sao sáng lấp lánh đầy trời, thoạt nhìn tưởng như ở rất gần nhưng khi đưa tay ra lại không cách nào với tới được.

    Tôi và y cưỡi chung một ngựa, để mặc cho con ngựa chậm rãi bước về phía trước.

    Y ngồi ngay sau lưng tôi, ôm tôi trong lòng, không rời nửa bước. Sa mạc mênh mang dường như chẳng có điểm tận cùng, đủ cho chúng tôi mãi mãi ở bên nhau.

    Tôi tựa đầu vào bờ vai y, khẽ hỏi: “Chúng ta còn phải đi bao lâu nữa?”

    Giọng nói trầm ấm của y nhẹ nhàng vang lên bên tai tôi: “Nàng thích là được rồi.” Đôi tay y dùng sức thêm một chút, ôm chặt tôi vào lòng, nghe giọng chẳng khác nào nói mê: “Hoàn Nhi, ta chưa từng nghĩ là mình còn có ngày này, mất rồi lại được.”

    Tôi hơi cúi đầu, chợt ngửi thấy mùi hoa đỗ nhược quen thuộc trên người y.

    Trong khoảnh khắc ấy, tôi thật sự cảm thấy chuyện cũ đều có thể buông bỏ hết, chỉ cần có thể mãi mãi ở trong lòng y thế này là tốt rồi.

    Tôi dịu dàng cười, nói: “Nếu thật sự có thứ gì đó vĩnh viễn bất biến, muội tin rằng đó chính là mùi hoa đỗ nhược trên người huynh.”

    “Người trong núi chừ, như đỗ nhược thơm[30].” Y cất giọng ấm áp như làn gió mùa xuân. “Tranh cắt rồi sẽ phai màu, ta cũng sẽ có ngày già đi, thậm chí tâm ý với nàng cũng có thể thay đổi, nhưng những bông hoa đỗ nhược kia sẽ mãi được đặt bên bức tranh cắt của nàng, vĩnh viễn không bao giờ thay đổi.”

    [30] Xem chú thích chương 27 tập 4 - ND.

    Đôi hàng lông mày của tôi hơi máy động, y lập tức phát hiện ra, bèn đưa tay tới giúp tôi day trán. “Không được cau mày, Hoàn Nhi, ta vốn không muốn nói với nàng những lời buồn nôn như thế, nhưng để có cơ hội này ta đã phải chờ đợi rất nhiều năm rồi, do đó ta muốn nàng nhớ lấy, tâm ý của ta với nàng chưa bao giờ phai nhạt, hơn nữa còn ngày càng sâu đậm, cho dù là khi nàng ở bên hoàng huynh còn bên cạnh ta có Ngọc Ẩn.”

    Y tì cằm vào bên má tôi, những cọng râu lún phún mới mọc cà nhẹ làm tôi hơi ngứa ngáy, thế nhưng tôi lại không dám động đậy, chỉ nhẹ nhàng cất tiếng: “Muội biết.” Rồi tôi đưa tay lấy chiếc túi gấm kia từ trong vạt áo trước ngực y ra, bất giác mỉm cười. “Đã bao nhiêu năm rồi mà huynh vẫn còn mang nó bên mình, đúng là ngốc quá.”

    Y ghé sát đến bên tai tôi, khẽ nói: “Đúng thế, vậy mà nàng lại không chê ta ngốc nghếch.”

    Tôi không kìm được bật cười, đưa tay cào nhẹ một cái lên má y. “Huynh có biết thẹn không thế?”

    Vầng trăng dìu dịu soi sáng trên cao, ngay đến đường chân trời phía xa cũng bị phủ lên một lớp ánh sáng bạc mờ mờ, hệt như sông Ngân treo ngược liền thành một dải. Vì thời gian đã qua lâu, chiếc túi bị ngón tay sờ nhiều quá nên mòn đi không ít, thậm chí bên trên còn có cả vết vá. Tôi dịu dàng hỏi: “Là huynh tự vá nó lại hay sao thế?”

    Ánh mắt thoáng ảm đạm đi một chút, nhưng y vẫn cười, nói: “Là Ngọc Ẩn vá đấy. Ta vẫn luôn cảm thấy nghi hoặc, không biết tại sao hôm đó bức tranh cắt lại đột ngột rơi ra, về sau mới phát hiện hóa ra chiếc túi đã bị rách. Ngọc Ẩn biết ta không muốn thay cái mới, về sau liền giúp ta vá nó lại.”

    Tôi vừa nghe thấy hai chữ “Ngọc Ẩn” liền lập tức nhớ lại tình cảnh hôm đó, không muốn nói nhiều thêm, bèn cẩn thận nhét chiếc túi gấm về chỗ cũ.

    Y thấy tôi im lặng thì nắm lấy bàn tay tôi, hỏi: “Sao vậy?”

    Tôi không trả lời mà hỏi ngược lại: “Khi huynh đi, Ngọc Ẩn có biết không?”

    Y khẽ gật đầu. “Chắc là có biết. Lúc ta kêu Ngọc Nhiêu tới đón nàng ấy qua phủ Bình Dương Vương thì nàng ấy đã có chút lo lắng rồi, còn từng lựa lời khuyên ta nữa.”

    “Huynh cũng phải suy nghĩ cho muội ấy và Dư Triệt nữa.”

    Gió mang lời của y tới bên tai tôi. “Ta không biết hoàng huynh để nàng đi hòa thân như thế liệu có còn dự tính gì khác hay không, nhưng ta không thể không đề phòng vạn nhất được. Lỡ như nàng không thể trở về, lỡ như nàng cả đời phải ở lại Hách Hách, lỡ như khi có chiến tranh, người Hách Hách lại mang nàng ra để uy hiếp Đại Chu... Hoàn Nhi, lần này ta nhất định phải đưa nàng đi!”

    Tự nơi đáy lòng tôi trào dâng cảm giác ngọt ngào vô hạn, thế nhưng trong sự ngọt ngào lại xen lẫn mấy tia chua xót.

    “Chúng ta có thể đi đâu được đây?”

    “Thiên hạ này rộng lớn như thế, dù gì cũng có chỗ dung thân cho chúng ta thôi.” Y hôn nhẹ bờ môi băng giá lên chỗ tóc mai tôi. “Bất kể là vì nguyên nhân gì đi nữa thì hoàng huynh cũng đã ép nàng đi hòa thân rồi, ta thực không dám để nàng trở lại bên cạnh y. Dù y muốn gì ta cũng có thể không tranh giành với y, duy có nàng là không được.” Hơi dừng một chút, y cất giọng mang theo nỗi niềm cảm khái vô hạn. “Hãy cứ coi như đây là lần duy nhất ta tranh giành một thứ gì đó với y đi. Ta sẽ nói với hoàng huynh là ta không đuổi kịp, lại nghe nói nàng ám sát Ma Cách không thành, giờ đã trốn đi không rõ tung tích. Chờ sau khi sự việc lắng xuống, ta sẽ an bài ổn thỏa tất thảy rồi đi tìm nàng.”

    Giữa tiếng vó ngựa lộp cộp, tôi lẩm bẩm nói: “Thiên hạ này đúng là rộng lớn, nhưng thật sự có chỗ dung thân cho chúng ta ư?”

    Tôi ngẩn ngơ đưa mắt nhìn đi, thấy nơi này hóa ra đã là điểm tận cùng của hoang mạc rồi, phía trước còn thấp thoáng có ánh đèn chiếu ra từ trong dịch trạm. Tôi không kìm được ngoảnh đầu lại nhìn, thấy trong tầm mắt chỉ có duy nhất một gốc hồ dương đang nhẹ nhàng đung đưa trong gió cát, ngoài ra là một mảnh mênh mang không bến bờ. Chúng tôi cứ thế ngồi trên lưng ngựa chậm rãi tiến đi, hệt như một chiếc lá lẻ loi trôi nổi trên mặt biển bao la bát ngát, vĩnh viễn chẳng thể đi tới điểm tận cùng.

    Nếu thật sự được vậy thì tốt biết bao, chúng tôi sẽ có thể thả mình theo sóng nước, chẳng bị ai bức ép cả. Thế nhưng thiên hạ này tuy rộng lớn nhưng quả thực chẳng có chỗ dung thân cho hai chúng tôi.Khắp dưới gầm trời, đâu không phải là đất của nhà vua? Khắp trên mặt đất, đâu không phải là bề tôi của nhà vua? Ngay cả chiếc túi gấm nhỏ bé kia cũng có những đường kim do Ngọc Ẩn tự tay may vá, chúng tôi mang theo trái tim đầy nỗi vướng bận thế này liệu có thể tự do đi được bao xa đây?

    Chúng tôi có quá nhiều thứ không thể buông xuôi, bể khổ vô bờ khó lòng vượt qua, do đó vĩnh viễn không thể tới bờ bên kia được.

    Gió lớn dần lên, xiêm y của chúng tôi lất phất tung bay hệt như những cánh bướm khổng lồ muốn được tự do bay lượn. Tôi nhìn vào mắt y, lại nắm lấy vạt áo của y vẻ đầy quyến luyến, cuối cùng tựa người vào lòng y, khẽ gọi: “Thanh...”

    Ánh đèn mờ mờ tỏ tỏ phía đằng xa lọt vào trong mắt, hệt như những vì sao đang bốc cháy, lại giống như những giọt lệ long lanh, trong đầu tôi bỗng hiện lên một câu thơ từng đọc hồi nhỏ, những phần trước sau đều đã quên hết cả rồi, chỉ nhớ được duy nhất một câu: “Liều bỏ cả cuộc đời, mong chàng một ngày vui[31].”

    [31] Nguyên văn Hán Việt: Bính tương nhất sinh hưu, tẫn quân nhất nhật hoan - ND.

    Cả cuộc đời? Tôi còn chưa kịp suy nghĩ kĩ thì nụ hôn của y đã phủ kín môi tôi với một mùi hương quen thuộc.

    Ánh trăng trong veo dìu dịu len qua cửa sổ của dịch quán rọi vào phòng, nhẹ nhàng chiếu lên khuôn mặt đầy vẻ yên bình đang trong giấc mộng của Huyền Thanh. Vẻ mặt thế này đã mấy năm tôi không được thấy rồi, nhưng vẫn có cảm giác quen thuộc biết bao nhiêu, giống hệt như trong ký ức của tôi vậy, mà ánh trăng bây giờ với ánh trăng trên đỉnh Lăng Vân năm xưa cũng không hề khác biệt.

    Trên khuôn mặt tuấn tú của y ánh lên những tia ửng đỏ, còn thấp thoáng vẻ mỏi mệt. Tôi ghé tới ngắm nhìn khuôn mặt y thật kĩ, lòng bỗng như mềm lại, ngón tay đưa tới nhẹ nhàng vuốt ve đôi bờ mi của y. Đột nhiên y đưa tay nắm chặt lấy cổ tay tôi, tôi nhất thời không dám động đậy, chỉ khẽ nở một nụ cười rất mực dịu dàng. “Úi chà, đã ngủ rồi mà vẫn không chịu ngoan ngoãn nữa...” Kế đó lại thấy y trở mình một cái, nói giọng ngắc ngứ: “Hoàn Nhi... đừng đi, bao nhiêu năm rồi... ta rốt cuộc đã chờ được nàng...” Tôi bất giác ngây người ra đó, chậm rãi áp sát đầu vào lồng ngực y, cảm nhận sự ấm áp do y mang lại, cả thể xác lẫn tinh thần đều thư thái vô cùng.

    Dường như đã rất lâu trôi qua, bên ngoài cửa sổ gió thổi vù vù, lớp giấy dán cửa sổ lung lay không ngớt. Tiếng gió ở Tái ngoại không hề giống tiếng gió trong Tử Áo Thành, gió ở Tử Áo Thành dù có lớn thế nào cũng đầy vẻ yếu mềm nhu nhược, còn gió ở đây thì cứng rắn vô cùng.

    Nhưng...

    Tôi chậm rãi gỡ tay y ra, trong khoảnh khắc đó, nơi khóe mắt chợt nhòe ánh lệ. Giữa làn nước mắt nhạt nhòa, tôi chợt nhớ tới ngày y đi Điền Nam mấy năm trước, trước lúc ly biệt tôi đã nhìn y bằng ánh mắt chứa chan tình cảm mà cất giọng kiên định tột cùng: “Muội sẽ đợi huynh.”

    Tôi rốt cuộc đã đợi được y về, thế nhưng bản thân thì lại không thể không rời đi.

    Vận mệnh như thế đã vĩnh viễn đeo bám chúng tôi rồi.

    Dịch quán này đã bị bỏ hoang từ lâu nên mười phần sơ sài, bên trong còn thoang thoảng mùi bụi đất. Tôi lẳng lặng trở dậy đi tới cạnh bàn, lấy từ trong túi hành lý ra một cây an thần hương rất nhỏ, vừa đốt mà đôi tay vừa run rẩy không ngừng. Sau một hồi hít thở sâu để lấy lại bình tĩnh, tôi thấy cây an thần hương kia đã bắt đầu tỏa ra một làn khói trắng mỏng manh, rồi mới khoác lên người một chiếc áo choàng màu đỏ sậm, nhẹ nhàng mở cửa cất bước ra ngoài.

    Trong khoảnh khắc chuẩn bị đóng cửa, tôi thấy thân thể y được ánh trăng dìu dịu phủ lên, đầy vẻ yên bình, bên khóe miệng hãy còn vương một tia cười ấm áp, có lẽ là vì đang nằm mơ thấy chuyện vui.

    Cửa “két” một tiếng đóng lại, tôi cố ép mình phải xoay người, chỉ thấy ngoài sân hoa rụng tơi bời, khắp sân ngợp một màu trắng lóa tựa như sương tuyết, tột cùng tĩnh lặng. Vầng trăng tròn vành vạnh thì vẫn treo cao giữa trời, lạnh lùng ngắm nhìn tất thảy.

    Tôi rốt cuộc đã không kìm được mà tuôn rơi nước mắt.

    Tôi đi qua hai cái sân tới bên ngoài cửa lớn của dịch quán, thấy A Tấn và Cận Tịch đang ngồi bệt dưới đất mà ngủ gà ngủ gật. Cận Tịch ngủ không sâu, lập tức tỉnh lại, thấy tôi xiêm y chỉnh tề đi ra vẫn chẳng hề tỏ vẻ kinh ngạc, chỉ khẽ cười thê lương. “Nô tỳ biết nương nương sớm muộn gì cũng sẽ đi ra mà.”

    Tôi khẽ gật đầu, đi tới đẩy nhẹ A Tấn một cái. Y thấy tôi một mình đi ra thì không kìm được ngạc nhiên, hỏi: “Nương tử sao lại ra ngoài vậy?” Y thò đầu nhìn về phía sau lưng tôi. “Vương gia đâu rồi?”

    “Vương gia còn đang ngủ.” Tôi nhìn y, bình tĩnh nói: “A Tấn, ngươi hãy dẫn quân đưa ta về đi.”

    “Về đâu chứ?” Y nhất thời không hiểu là tôi có ý gì.

    Tôi trả lời ngắn gọn: “Về cung.”

    Sắc mặt A Tấn tức thì trở nên khó coi tột độ. “Nương tử nhất thời hồ đồ thì không sao, nhưng Vương gia mà biết việc này thì sẽ giết nô tài đấy.” Trên khuôn mặt trẻ trung của y đột ngột lộ ra một tia kiên nghị. “Những năm nay, người khác không rõ Vương gia sống như thế nào, nhưng A Tấn thì biết rất rõ. Lần đó nếu không phải vì Vương gia uống hơi nhiều rượu, Tĩnh phi nương nương lại mặc bộ đồ gần giống như nương tử, Vương gia ắt đã không... Vương gia khi đó thật sự không cố ý đâu, nô tài biết trong lòng Vương gia chỉ có một mình nương tử mà thôi. Bây giờ nương tử khó khăn lắm mới có thể thoát khỏi nơi cung cấm, tại sao lại không đi theo Vương gia? Trước đây thì không thoát được, nhưng bây giờ lẽ nào cũng không thoát được ư?”

    Tôi khẽ thở ra một hơi, chậm rãi nói: “A Tấn, ta biết ngươi trung thành với Vương gia, do đó mới nhờ cậy ngươi việc này để cứu Vương gia một mạng.” A Tấn lập tức mở to hai mắt nhìn tôi. Tôi nói tiếp: “Vương gia mang theo người của hai vương phủ ra ngoài, kinh thành lúc này chỉ e sớm đã trở nên hỗn loạn, cho dù các ngươi sau khi quay về có thể nói là Vương gia không tìm được ta, hoặc là nói ta đã bỏ trốn mất, nhưng trên đời này làm gì có chuyện muôn miệng một lời. Hơn nữa nếu Vương gia đưa ta rời đi, vậy thái phi, Ẩn phi và Dư Triệt phải làm thế nào? Sau khi giăng thiên la địa võng mà không bắt được bọn ta, Hoàng thượng nhất định sẽ trút giận lên bọn họ, thế thì ta có khác nào đã đẩy Vương gia vào cảnh bất hiếu, bất trung, bất nghĩa. Mà nếu Vương gia an bài ta ở bên ngoài thì sau này gặp mặt sẽ khó tránh khỏi để lộ ra tin tức, đến lúc đó hậu quả lại càng khó có thể tưởng tượng. A Tấn, ngươi là người hầu trung thành nhất của Vương gia, quyết không thể trơ mắt nhìn Vương gia...”

    A Tấn thoáng lộ vẻ trù trừ do dự, không ngừng xoa hai bàn tay vào nhau. “Vương gia năm xưa đã vô cùng hối hận vì không dẫn theo nương tử rời đi, để đến nỗi hai người phải chia lìa, đã thế nương tử khi ở trong cung còn phải chịu khổ rất nhiều nữa. Lần này...” Y đưa mắt nhìn tôi, tỏ ra hết sức lo lắng. “Nương tử không thể giết chết Ma Cách Khả hãn theo như ý nguyện của Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng lại biết Vương gia đã đưa nương tử về, như thế chỉ e ngay đến nương tử cũng sẽ gặp họa sát thân.”

    Phía đằng xa, lũ côn trùng kêu lên rả rích, như đang cất tiếng gọi mùa thu. Ánh trăng bàng bạc từ trên cao chiếu xuống khiến bộ giáp trụ của A Tấn ánh lên một quầng sáng mờ mờ, thế nhưng quầng sáng ấy dù đẹp đến mấy cũng vẫn thấp thoáng lộ ra mấy tia sát khí. Tôi khẽ thở dài, than: “A Tấn, ngươi nghĩ Hoàng thượng là kẻ ngốc ư? Ngay từ sớm y đã thông báo ra khắp lục cung là ta kinh hãi thành bệnh, vậy tức là có ý ta không thành công sẽ thành nhân. Nếu ta đắc thủ, sau khi trở về sẽ lại là thục phi và tiếp tục nắm quyền quản lý hậu cung, còn nếu ta thất thủ bỏ mạng, Hoàng thượng sẽ nói là ta qua đời vì bệnh tật, sau đó còn truy phong rầm rộ cho ta. Nhưng có một con đường duy nhất mà ta không thể đi, ấy chính là bỏ trốn. Ta trước giờ vẫn luôn biết rõ là ta không thể trốn đi được, bởi nếu ta chết rồi thì thôi khỏi cần vương vấn điều gì, nhưng nếu ta còn sống, vậy thì không thể không suy nghĩ cho Vương gia cùng mấy đứa nhỏ, do đó ta chỉ có thể quay về.” Dưới ánh trăng ảm đạm, tôi gượng nở nụ cười buồn. “Vậy nên A Tấn, ngươi phải đưa ta về cung. Mọi người đều rõ ngươi là thủ hạ đắc lực nhất bên cạnh Vương gia, nhất định phải là ngươi đưa ta về cung thì người ta mới tin rằng đây là ý của Vương gia chứ không phải ai khác. Đến lúc đó chúng ta có thể nói là Vương gia một lòng trung thành với Hoàng thượng, mang người đuổi theo Ma Cách chính là để đưa ta về cung, như thế thì Hoàng thượng mới không có cái cớ nào để động đến Vương gia.”

    A Tấn vẫn còn trẻ tuổi, trong mắt lúc này đã rơm rớm ánh lệ, cây roi trong tay không kìm được vụt mạnh xuống đất một cái làm bụi đất bốc lên mù mịt. “Nô tài thực không sao hiểu nổi, trên đời này có biết bao người hữu tình đã thành đôi thành cặp, sao Vương gia và nương tử lại khó đến với nhau như thế chứ?”

    Tôi khẽ nở nụ cười, thế nhưng trái tim lại như bị vô số con sâu nhỏ không ngừng cắn xé, đau đớn tột cùng, trong giọng nói không tránh khỏi lộ ra mấy nét thê lương: “A Tấn, nếu vì thành đôi thành cặp mà khiến y phải hy sinh như thế, ta thà rằng y được bình an sống đến lúc già.”

    Nước mắt của A Tấn rốt cuộc đã không kìm được mà lã chã tuôn rơi, y vội đưa tay lên lau mạnh một cái, muốn nói gì đó mà lại thôi, cuối cùng hạ thấp giọng, nói: “Kiếp sau, kiếp sau nương tử nhất định phải gặp Vương gia sớm hơn đấy, đừng để giống như kiếp này.”

    Tôi khẽ gật đầu, nghẹn ngào nói: “Nhất định rồi.”

    Ánh trăng đã chếch về tây thêm mấy phần, tôi nói: “Mau dẫn theo một đội nhân mã đáng tin đưa ta rời khỏi đây, chờ thêm lát nữa là trời sẽ sáng đấy.”

    A Tấn khẽ gật đầu, vội vã rời đi. Chỉ chừng nửa tuần hương sau y đã dẫn theo hơn trăm người đi tới, lại dắt một con ngựa qua chỗ tôi. “Nương tử mau lên ngựa đi.”

    Tôi trèo lên lưng ngựa, A Tấn thì ngoảnh đầu lại phía sau dặn dò: “Nhẹ nhàng một chút, chớ làm kinh động đến Vương gia.”

    “Không sao đâu.” Tôi nhớ đến cây an thần hương đó, nó có thể khiến y ngủ một mạch tới tận trưa. Ngoảnh đầu nhìn lại, tôi thấy cửa dịch trạm đã đóng chặt rồi, mà lúc này y nhất định vẫn còn chìm trong một giấc mộng bình yên và vui vẻ, nếu giấc mộng ấy có thể kéo dài vĩnh viễn thì thật tốt biết bao.

    Y vẫn luôn là nam nhân mà tôi yêu nhất, tôi có thể liều cả tính mạng của mình để được ở bên y. Thế nhưng, càng yêu sâu sắc thì khi phải đối mặt với sự lựa chọn, tôi lại càng đau khổ, bởi vì tôi đã không thể không hết lần này tới lần khác rời xa y.

    Thiên hạ rộng lớn là thế, tháng năm dài lâu là thế, cứ như vô cùng vô tận, nhưng tôi và y lại chẳng thể tiếp tục ở bên nhau, quãng thời gian dành cho hai chúng tôi đã đi tới điểm tận cùng rồi.

    Tôi thầm đau xót trong lòng, ra roi thúc ngựa.

    Giữa đồng cỏ mênh mang bát ngát, những tiếng vó ngựa dồn dập như đạp nát cả ánh trăng, đạp cho lòng người ảm đạm, chỉ lưu lại nỗi biệt ly.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này