1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Kim Ốc Hận – Tác Giả : Liễu Ký Giang - Tình Trạng : Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Băng Băng, 25/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 80: Thà để con ngốc mong bình an​
    Tháng Mười một mùa đông năm Nguyên Đỉnh thứ tư. Thánh giá trở về đế đô Trường An. Chuyến tuần thú phương đông lần này kéo dài tổng cộng ba tháng.

    Thái tử Lưu Mạch dẫn hoàng tộc và bá quan ở lại ra ngoài thành nghênh đón. Hắn cởi dây lụa bạch tháo chiếc mũ thái tử màu vàng xuống rồi ngẩng đầu lên để lộ ra gương mặt ôn hòa trầm ổn nhưng còn rất non trẻ, bái lạy: “Nhi thần cung nghênh phụ hoàng.” Nói xong, hắn hơi liếc nhìn qua hai người con gái bên cạnh Lưu Triệt, nở nụ cười ấm áp.

    “Trẫm rất vui.” Lưu Triệt giơ tay bảo Lưu Mạch đứng dậy, mỉm cười nói, “Thái tử giám quốc rất thành công, không phụ ủy thác của trẫm.”

    “Đó là nhờ nghiêm khắc tuân thủ những lời phụ hoàng dặn bảo trước khi rời khỏi Trường An đó ạ.” Lưu Mạch nói: “Phụ hoàng và mẫu thân đi đường xe ngựa mệt nhọc, kính xin hãy trở về cung Kiến Chương trước đã.”

    Đoàn xe ngựa rục rịch chuyển động. Lưu Mạch thấy hai thiếu nữ trẻ đẹp đi theo phía sau liền mỉm cười, chắp tay nói, “Đa tạ hai vị Thượng Quan tiểu thư đã chiếu cố mẫu thân ta ở Lâm Phần.”

    Hai tỷ muội Thượng Quan do ca ca cố ý đưa từ biệt viện nơi khác đến Lâm Phần bầu bạn với Trần nương nương, khi nghi trượng ngự giá đi qua Lâm Phần, liền nhân tiện theo ngự giá về kinh. Các cô cứ tưởng cuộc sống sau khi trở về cũng không có gì khác với trước đây, không ngờ Thái tử điện hạ quả nhiên là chí hiếu với mẫu thân giống như lời đồn, còn tự mình đến tạ ơn, khiến các cô không khỏi luống cuống chân tay. Phải biết rằng vị thái tử điện hạ triều Đại Hán hôm nay tuy trẻ tuổi tuấn tú và không ham sắc nữ nhưng từ tài năng dung mạo của bản thân cho tới tương lai ngày sau, khiến hắn trở thành phu quân lý tưởng nhất của các thiếu nữ thế gia quý tộc Đại Hán. Cho tới tận bây giờ, thiếu nữ có thể được hắn đối xử tử tế vẫn chỉ có mỗi người muội muội ruột thịt cùng mẹ sinh ra, Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ. Thượng Quan Vân rốt cuộc vẫn là người con gái xuất thân thế gia, bình tĩnh lại rất nhanh, hơi đỏ mặt, quỳ gối đáp lễ, “Thái tử quá lời. Đó là bổn phận của thần nữ, thực không dám nhận.” Thượng Quan Linh cũng đáp lễ, chớp mắt suy nghĩ, xem ra ca ca nói quả nhiên không sai, muốn giành được cảm tình của vị thái tử điện hạ này thì biện pháp hữu hiệu nhất chính là bắt đầu từ chỗ Trần nương nương. Gặp mặt mới biết Lưu Mạch ôn nhã trầm ổn khiến mọi người phải sinh lòng hâm mộ còn hơn cả trong lời đồn đại. Cô xoay người định trèo lên xe, liếc thấy tỷ tỷ vẫn dõi theo lưng Lưu Mạch, mắt vẫn còn hiện lên những tia mộng ảo, thầm nghĩ, một cô gái như Thượng Quan Vân có thể gợi mở trái tim Lưu Mạch sao?

    Chẳng qua chỉ là mấy câu nói, nhưng vì trong đó có một người là Thái tử Lưu Mạch nên mấy ngày sau thì câu chuyện đã lan truyền rất nhanh trong thành Trường An. Trong khoảnh khắc, hai tiểu thư nhà Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt, nhất là tiểu thư Thượng Quan Vân, đã được mọi người xôn xao bàn tán, danh tiếng nổi lên như diều gặp gió. Có người ao ước, có người ghen tỵ, nhưng ai bảo lão gia nhà mình không đến Lâm Phần, hoặc là không có ca ca làm Lang trung lệnh chứ, ca thán thì cũng được gì.

    “Có thể mọi người chưa biết chứ”, đầu đường cuối phố thi thoảng lại có năm ba bà túm tụm buôn chuyện, “Nghe nói có phu nhân thế gia hiếu kỳ vào cung hỏi Trần nương nương về cảm giác đối với hai thiếu nữ nhà Thượng Quan. Trần nương nương nghiêng đầu suy nghĩ một lát, tặng mỗi cô nương lời bình bốn chữ. Thượng Quan gia tiểu thư thì là “Đẹp như trăng rằm”, còn nhị tiểu thư chính là “Thêu hoa dệt gấm.”

    “Ồ”, những người vây quanh tán thưởng: “Nói như thế thì Trần nương nương đánh giá Thượng Quan đại tiểu thư rất cao đó. Nói không chừng, Thái tử điện hạ sẽ rước nàng về dinh thật đấy.”

    “Biết nói sao đây.” Trong nhã phòng ở lầu Thanh Hoan, Lưu Sơ tức tối giậm chân, “Rõ ràng là mẫu thân cảm thấy nếu nói không tốt thì sẽ phá hủy cả đời cô ta, thế nên mới nói xa xôi về những tâm sự mà bọn họ không giấu được. Cho dù gia sự nhà cô ta như thế nào, nhưng muốn được ca ca ta cưới về thì cứ đợi kiếp sau đi.”

    “Muội cần gì phải tức giận vì những chuyện vớ vẩn này chứ?” Lưu Mạch thì trái lại rất bình tĩnh ung dung, châm một chén trà cho muội muội rồi thở dài nói, “Nhắc lại thì huynh không nên đến tạ ơn mới phải. Vô duyên vô cớ lại gây thành chuyện. Đám người kia cũng rỗi hơi, chuyện nhỏ thế mà cũng chộp lấy nói cho được.”

    “Đó cũng là vì ca ca là người tốt, lại đến tuổi rồi nên mọi người mới để ý.” Lưu Sơ bỗng không hề tức giận, chỉ nhìn hắn mà che miệng cười.

    “Nói bậy bạ gì đó.” Lưu Mạch vừa bực mình vừa buồn cười, hỏi: “Muội rủ ta ra ngoài chỉ để nói những chuyện không đâu này sao?”

    “Không phải.” Lưu Sơ chuyển sắc mặt nghiêm túc, trầm giọng nói: “Ca ca, huynh hãy nói thực cho muội biết. Vụ Thượng Lâm Uyển năm xưa cuối cùng do huynh tiếp quản, thật sự con ngựa muội cưỡi đó bị kim của Công Tôn Kính Thanh đâm nên mới phát điên sao?”

    Lưu Mạch hơi bất ngờ khi Lưu Sơ khơi lại chuyện năm xưa, song hắn biết cô sẽ không hỏi vô cớ. Muội muội cuối cùng đã lớn rồi, có một số việc không phải cứ giấu giếm là tốt, ngày sau sẽ đến lượt cô một mình chống lại mưa gió nên cũng cần phải biết qua chuyện đời một chút. Hắn liền nói, “Cũng có khả năng là người khác, nhưng bấy giờ phương án đánh đổ Vệ gia chính là lựa chọn tốt nhất của mẫu thân và chúng ta.”

    “Huynh có thể dung tha cho người có ý đồ thương tổn mẫu thân và muội sao?” Lưu Sơ cao giọng chất vấn.

    “Tảo Tảo.” Lưu Mạch tức giận trách mắng.

    Lưu Sơ liền tỉnh táo lại, cúi đầu nói: “Xin lỗi ca ca, muội không nên giận dỗi huynh.”

    Lưu Mạch thở dài nói, “Sau vụ việc, huynh có đi điều tra tàu ngựa của Thượng Lâm Uyển nhưng những người có mặt ở đó lúc ấy đều biến mất không thấy tung tích.

    Cô bình tĩnh lắng nghe, trong lòng dần trầm xuống. Không phải chuyện như thế đã nói rõ vụ việc năm xưa có huyền cơ khác hay sao. “Người đó đã hại chúng ta lần đầu thì có thể hại chúng ta lần thứ hai.” Cô thản nhiên nói, “Nhưng mới lần đầu mà muội đã mất đi một đệ muội, lần thứ hai thì muội không thể nào tưởng tượng nổi.”

    “Yên tâm đi”, Lưu Mạch xoa đầu muội muội trấn an: “Huynh đã nghe Nhật Đan nói về chuyện Mã Thượng Phong. Mặc dù không có chứng cứ nhưng quá nửa là do bà ta. Trong cung có uy thế của phụ hoàng, cung nhân cung Kiến Chương chỉ nghe lời mẫu thân, bà ta sẽ không thể nào có trò gì được. Nếu thật sự có mưu đồ thì chỉ có thể thông qua người nhà. Huynh đã theo dõi sát người nhà của bà ta, không tin bà ta có thể gây ra sóng gió gì.

    “Năm xưa huynh còn quá nhỏ tuổi, không cách nào bảo vệ mẫu thân và muội.” Lưu Mạch lộ ánh mắt thâm trầm, nói giọng tin tưởng sâu sắc: “Bây giờ thì huynh đã lớn, sẽ không tha bất cứ kẻ nào dám làm thương tổn hai người nữa.”

    Bệ hạ tuần thú phương đông trở về kinh, nghỉ ngơi ba ngày xong liền cử hành đại yến ở cung Kiến Chương. Trên điện Phi Tuyết, Lưu Triệt và Trần A Kiều sóng vai ngồi ở ghế thủ tịch[1] tươi cười nhìn cảnh ăn uống linh đình ở phía dưới. Lưu Triệt nổi hào khí cười sang sảng, uống liền mấy chung rượu Tân Phong. Dần dần, không khí bữa tiệc trở nên sinh động hẳn lên. Lưu Mạch châm rượu rồi đi tới bên cạnh Trần A Kiều, cung kính nói, “Đã mấy tháng Mạch Nhi không được gặp mẫu thân rồi. Xin kính mẫu thân một chén.”

    [1] Ghế thủ tịch: Vị trí tôn quý nhất.

    A Kiều tất nhiên rất cao hứng, cầm tay Lưu Mạch, mỉm cười hỏi, “Mấy tháng qua Mạch Nhi có mệt lắm không?”

    “Con vẫn khỏe.” Nói chuyện với mẫu thân thì tự nhiên không cần phải khách sáo, Lưu Mạch châm rượu cho mẹ rồi nói: “Nhi tử ở Trường An, nghe nói mẫu thân bị bệnh trên đường đi thì lòng như lửa đốt. Nếu không phải phụ hoàng không có ở đây, Mạch Nhi là thái tử không được rời kinh, thì thật đúng là muốn chạy thật nhanh tới thăm thì mới an tâm được.”

    Lưu Triệt nghe vậy không khỏi nhìn sang, nửa cười nửa không, “Mạch Nhi hiếu thuận, mẫu thân của con trong lòng hẳn là vui mừng lắm đó.”

    “Đa tạ phụ hoàng dạy bảo.” Lưu Mạch mỉm cười đáp, kính rượu, nói thêm mấy câu với A Kiều rồi liền đi xuống mời rượu đám trọng thần. Đối với thần tử, được Thái tử mời rượu là vô cùng vinh quang. Chúng thần không dám chậm trễ, đều đứng dậy nghênh đón. Khi mời đến Trường Tín hầu Liễu Duệ, Lưu Mạch hắng giọng hỏi, “Không biết sức khỏe Nam Cung cô cô dạo này thế nào?”

    Liễu Duệ khẽ thở dài một tiếng, lộ vẻ u buồn nói: “Vẫn thế thôi.”

    Trời bắt đầu vào thu là Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm lại nằm bẹp trên giường bệnh. Lưu Mạch trước giờ rất yêu mến cô cô, nhiều lần sai ngự y đến thăm bệnh nhưng vẫn không biến chuyển. Cuối cùng, viên ngự y nhiều tuổi nhất Ngự y thự liền bẩm, “Trưởng công chúa chính là cây liễu khô bên hồ bị bão cát quanh năm của đại mạc thổi khiến cho dần dần khô héo rồi. Bây giờ chỉ có dùng thuốc tốt để điều dưỡng.”

    Liễu Duệ không nói gì với Lưu Mạch. Năm Lưu Đàm mới trở về Hán, Tiêu Phương đã chẩn bệnh cho nàng, nói cũng không khác mấy. Vì thế nên những năm qua, chỉ cần tỷ tỷ cầu xin thì không điều gì là Lưu Triệt không đáp ứng. Ngay cả nàng không cầu thì y cũng thường ban thưởng, kính trọng nàng nhất trong kinh thành. Chỉ là đến tình trạng như bây giờ thì Lưu Đàm chỉ còn muốn thường xuyên được gặp người thân mà thôi. Lưu Triệt ngồi ghế trên, ánh mắt chợt ảm đạm, khẽ nói, “Mấy hôm nữa trẫm sẽ đến phủ thăm hoàng tỷ.”

    “Vậy Liễu Duệ xin đa tạ ân điển của bệ hạ.” Liễu Duệ thoáng mỉm cười, nói, “Chắc chắn Trưởng công chúa sẽ rất vui.”

    Cuối năm Nguyên Đỉnh thứ tư, Lưu Triệt đi cùng Trần A Kiều tới phủ Trường Tín hầu thăm Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm. So với trước khi đi tuần thú phương đông, Lưu Đàm đã tiều tụy đi rất nhiều, nằm dựa trên giường càng lộ vẻ gầy yếu. Nàng húng hắng ho vài tiếng, gương mặt hồng lên đôi chút, nói yếu ớt, “Triệt Nhi có thể tới thăm khiến ta thấy rất vui.”

    “Hoàng tỷ nói gì vậy.” Lưu Triệt nhìn bộ dạng của Lưu Đàm mà lòng đau xót. Từ sau khi Vương thái hậu mất đi, hai người phụ nữ chiếm vị trí quan trọng nhất trong lòng y thì một là A Kiều, hai chính là vị hoàng tỷ đã chịu hy sinh cả tuổi thanh xuân vì y. Trong cuộc chiến Mạc Bắc năm Nguyên Thú thứ hai, Liễu Duệ đón được Nam Cung trưởng công chúa về phương nam. Y tự hứa rằng từ nay về sau sẽ phụng dưỡng thật tốt người tỷ tỷ này để bù đắp cho những đau khổ mà tỷ tỷ từng phải gánh chịu. Nhưng không ngờ Lưu Đàm chỉ hưởng phúc được mấy năm thì đổ bệnh liệt giường, suy nhược trông thấy.

    “Ninh Nhi”, Lưu Đàm dịu dàng gọi, một cậu bé chừng sáu, bảy tuổi ngoan ngoãn đi tới trước giường bệnh, khẽ nói, “Mẫu thân, Ninh Nhi ở đây.”

    Lưu Đàm mỉm cười, cầm tay Liễu Ninh, nói: “Còn không bái kiến người nhà đi.”

    Lưu Triệt thấy cậu bé quay lại, quỳ xuống hành lễ theo đúng quy củ: “Ninh Nhi tham kiến bệ hạ, Trần nương nương.” Y khẽ cười, đang định bảo cậu đứng dậy thì bỗng nghe Lưu Đàm lắc đầu nói, “Sai rồi, Ninh Nhi nên gọi một tiếng cữu cữu, cữu mẫu.”

    “Triệt Nhi”, Lưu Đàm nhìn đệ đệ, hơi nghiêm mặt nói, “Hôm nay ta bảo Ninh Nhi hành lễ không phải là quốc lễ mà là gia lễ. Ninh Nhi là con trai ruột của ta.”

    Lời nói như có ý tứ ủy thác khiến Lưu Triệt đau nhói, cúi xuống nhìn gương mặt non nớt thanh tú của Liễu Ninh. Y thầm thở dài một hơi, nghiêm mặt nói, “Trẫm nhất định sẽ đối đãi Liễu Ninh như đối đãi Bình Dương hầu.”

    Lưu Đàm cười vẻ an tâm nhưng vẫn để Liễu Ninh quỳ bái theo gia lễ. Lưu Triệt không chịu nổi không khí nặng nề trong phòng liền bước ra ngoài. Lưu Đàm thở dài một tiếng trông theo bóng lưng y rồi quay sang nói với A Kiều: “Thật may là có muội ở bên cạnh Triệt Nhi.”

    Trần A Kiều đang bế Liễu Ninh, nghe vậy liền mỉm cười nói: “Đàm tỷ quá coi trọng A Kiều rồi.”

    “Sao lại nói như vậy?” Lưu Đàm nói đến đây liền thở dốc, nghỉ một lát mới nói tiếp, “Triệt Nhi là đệ đệ của ta, ta biết rõ bản tính nó vốn bạc bẽo đến vô tình nhưng may là có muội ở bên cạnh nên trong lòng nó mới có chút tình cảm. Tuy nói bản thân nó chưa chắc quan tâm những thứ này, nhưng ta làm tỷ tỷ vẫn cảm thấy hiện giờ nó đang hạnh phúc.”

    A Kiều chỉ nín lặng chơi đùa với Liễu Ninh, ngẫm nghĩ một lúc mới nói, “Có lẽ là vậy. Muội cứ cảm thấy trong tình thế bình yên hiện giờ như đang cuộn sóng ngầm không biết khi nào sẽ bùng lên và sẽ có cục diện ra sao.”

    “Thế à.” Lưu Đàm cũng thở dài, mỉm cười nhìn Liễu Ninh, vẻ mặt hòa ái, “Ninh Nhi mặc dù không được thông minh cơ trí như Mạch Nhi và Sơ Nhi nhưng tỷ thà để nó ngốc đi một chút, chỉ cần tâm tính thiện lương, lại có Triệt Nhi và cha nó bảo vệ thì sẽ không có chuyện gì.”

    Liễu Ninh nghe không hiểu lời mẫu thân, ở trong lòng A Kiều quay đầu lại lo lắng gọi, “Mẫu thân.” Lưu Đàm mỉm cười trấn an, “Không có chuyện gì.” Nàng nói tiếp, “Mấy ngày nay ta nằm trên giường bệnh không có việc gì làm. Từ sau khi Mạch Nhi đi sứ Thân Độc về thì Phật giáo cũng dần truyền tới Đại Hán. Duệ ca sợ ta nhàm chán nên dịch một số kinh Phật cho ta. Ta đọc kinh cũng giác ngộ được nhiều đạo lý.”

    “Thật không?” A Kiều mỉm cười hỏi. Phật giáo có thể khiến cho người ta tĩnh tâm. Chân tình sâu nặng của Liễu Duệ đối với Lưu Đàm không thể nói hết bằng lời. Lưu Đàm còn có thể tự an ủi bằng kinh Phật, còn những đớn đau trong lòng Liễu Duệ khi nhìn cảnh ái thê của mình ngày một suy yếu thì lấy thứ gì để an ủi đây?

    Lần này đến thăm Nam Cung trưởng công chúa, cả Lưu Triệt lẫn Trần A Kiều đều thấy lòng buồn thảm. Lưu Triệt ngồi trong long xa hồi cung, nhìn ra ngoài mành thấy cảnh phố phường Trường An phồn hoa liền bùi ngùi nói, “Hồi còn bé, mỗi khi trẫm gây ra chuyện gì thì phần lớn đều được hoàng tỷ chịu bị mẫu hậu mắng thay. Có một lần… mẫu hậu đánh trẫm, hoàng tỷ thoa thuốc cho trẫm. Khi đó, hoàng tỷ còn nhỏ nên chưa tới Hung Nô kết hôn để cầu hòa….”

    Y vừa như cố tình nhắc lại, cũng vừa như ra vẻ thờ ơ. Trần A Kiều hiểu tâm trạng của y, than một tiếng, nói: “Bệ hạ nói vậy thật khiến người ta khó hiểu. Đàm tỷ thương yêu người, chẳng lẽ Bình Dương tỷ và Long Lự tỷ không che chở cho người? Ngay cả A Kiều khi còn bé cũng từng che chở cho người đó thôi.”

    Lưu Triệt cười khẽ trong họng, ôm lấy A Kiều, nói: “Hiện giờ đổi lại là trẫm che chở các người.”

    Lúc Lưu Triệt và Trần A Kiều đang đến thăm Nam Cung trưởng công chúa thì tại điện Bác Vọng, Thái tử Lưu Mạch đang suy nghĩ cẩn thận về những hành động gần đây của người Lý gia. “Huynh trưởng Lý Phi của Lý tiệp dư gần đây liên tiếp viếng thăm những quan lớn không thuộc bên Trần gia; hôm qua ấu đệ Lý Kỳ đánh lộn với người khác ở lầu Thanh Hoan… Trước đó vài ngày, tiểu thiếp của Lý Phi hai lần tự mình đi tới Xuân Sinh đường của Ngô gia, còn sai tỳ nữ tới một lần. Tin tức sao như mớ bòng bong vậy. Nhật Đan, ngươi nói…” Hắn nhíu mày, nhìn người bạn tốt đang xuất thần, chắc không nghe thấy mình nói gì, buồn cười hét lên: “Nhật Đan!”

    “Ừ?” Kim Nhật Đan hoàn hồn nói: “Ngươi vừa nói gì?”

    Lưu Mạch phì cười, hỏi, “Ngươi nghĩ gì thế?”

    Kim Nhật Đan hơi lúng túng, nói: “Không có gì.”

    Dù sao tạm thời nghĩ cũng không ra điều gì nên Lưu Mạch liền tạm gác lại chuyện này, quay sang hỏi việc riêng của bạn. “Ta nói này, Nhật Đan.” Hắn cười cười, nói ra phỏng đoán mà bản thân mình hoài nghi đã lâu, “Ngươi thành thật nói cho ta biết, có phải ngươi thích Tảo Tảo hay không?” Kim Nhật Đan vặn eo bẻ cổ, vẻ mặt miễn cưỡng, hỏi ngược lại, “Chẳng phải từ trước đến giờ Thái tử vẫn tán tụng muội muội của mình lên mây, có người thích chẳng phải là rất bình thường sao?”

    Lưu Mạch ngớ ra, cũng không ngờ rằng Kim Nhật Đan lại thừa nhận thẳng thắn như thế, nghiêm túc hỏi: “Nhật Đan chỉ đơn thuần là thích hay là…?”

    “Phải hay không phải thì như thế nào?” Kim Nhật Đan tự giễu, cười một tiếng, trên mặt lộ ra vẻ phẫn nộ đã lâu không thấy: “Đừng nói ta chỉ là một gián đại phu nho nhỏ, chỉ riêng với việc ta là người Hung Nô thì làm sao có thể được Hoàng thượng và Thái tử gả Công chúa Duyệt Trữ sủng ái nhất cho chứ?”

    “Thế thì cũng chưa chắc.” Lưu Mạch nói với vẻ suy tư, thấy thần sắc kinh ngạc của Kim Nhật Đan liền giải thích, “Tảo Tảo cũng đến tuổi kết hôn rồi, mặc dù hiện tại còn chưa nhưng áng chừng cũng sẽ rất nhanh phải đề cập tới hôn sự thôi. Đám con cháu thế gia trong thành Trường An xứng đáng với thân phận của nó nếu không phải là thứ ăn chơi lêu lổng thì cũng không có năng lực, trong mắt của ta còn chẳng bằng Nhật Đan. Về phần mẫu thân ta, chắc người chỉ cần Tảo Tảo gật đầu là được. Thật sự khó vượt qua chính là phụ hoàng ta.” Hắn mỉm cười nhìn Kim Nhật Đan, nói: “Kim Nhật Đan, quả thật rất khó để phụ hoàng gật đầu.”

    Tuy nói vậy nhưng chuyện này quan hệ tới muội muội yêu thương nhất, nên Lưu Mạch đã nhớ đến thì không sao quên được, ngày hôm sau liền tới thỉnh an A Kiều và nhân tiện nhắc luôn.

    “Kim Nhật Đan à?” Trần A Kiều nghiêng đầu suy nghĩ một chút, nói: “Cậu ấy cũng không tệ, nhưng Tảo Tảo có thích không?”

    “Tảo Tảo à?”, Lưu Mạch hơi nhụt chí, “Không biết nó đã quên được Hoắc Khứ Bệnh chưa, nhưng cứ cho là nó không thích Nhật Đan thì mẫu thân cũng cần chú ý, đừng để phụ hoàng tùy ý gả cho một kẻ ăn chơi lêu lổng nào đó.”

    Trần A Kiều bật cười nói, “Phụ hoàng con sẽ không như vậy đâu.”

    Dù sao thì y cũng sủng ái Lưu Sơ nhất, sẽ không tùy tiện quyết định chuyện hôn nhân của con gái mình. “Mẫu thân sẽ nhớ hỏi ý tứ của phụ hoàng”, A Kiều suy nghĩ một chút rồi nói.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  2. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 81: Mượn dao sắc có thể giết người
    Lưu Mạch rời khỏi điện Bác Vọng thì sắc trời còn sớm. Những ngày trước Lưu Triệt không có ở Trường An, Lưu Mạch bận rộn công việc đến ngập đầu. Hôm nay Lưu Triệt đã trở về, hắn thoáng cái đã rảnh rỗi hơn rất nhiều nên không muốn về điện Bác Vọng, quay đầu lại bảo: “Thành Liệt, đi lấy một chiếc xe ngựa bình thường. Chúng ta ra ngoài cung chơi một chút.”

    Sáng sớm trên đường Trường An rất náo nhiệt, cỗ xe ngựa màu xanh chạy trên phố như một giọt nước thấm vào biển rộng, không người nào chú ý.

    “Chủ nhân”, Thành Liệt cười hỏi, “Tới lầu Thanh Hoan chứ?”

    “Thôi đi.” Lưu Mạch suy nghĩ một chút, “Chạy vòng quanh phố xá một vòng rồi tính sau.”

    “Tuân lệnh.” Thành Liệt đáp một tiếng rồi bảo với phu xe ở ngoài mành. Phu xe giảm tốc độ, cỗ xe chầm chậm lăn bánh trên phố. Thanh âm huyên náo truyền tới tai Lưu Mạch chính là thanh âm của đô thành Trường An phồn hoa nhất Đại Hán, là thanh âm cãi cọ, mua bán, gọi nhau của rất nhiều người sống trong thành. Tương lai sẽ có một ngày, từ thành thị cho tới quốc gia này đều giao vào tay hắn. Hắn có thể vượt qua phụ hoàng của mình, kiến tạo nên một triều đại càng hưng thịnh hay không?

    Lưu Mạch nghĩ như vậy, nghe tiếng bánh xe lăn dần tới phía nam thành bỗng nhiên dừng lại, liền vén rèm hỏi, “Có chuyện gì?”

    “Điện hạ”, ngoài mành, giọng Thành Liệt vui vẻ, “Gặp người quen rồi.”

    “Ồ?” Lưu Mạch nhìn sang, quả nhiên thấy cách đó không xa có một cỗ xe ngựa màu xanh ngọc rộng rãi sang trọng, hiển nhiên không phải của nhà bình thường. Thiếu nữ mặc y phục màu hồng vén rèm xe, nhìn thiếu nữ đứng dưới, mỉm cười hỏi, “Không biết Nhị tiểu thư thông minh lanh lợi có thể tự mình tìm đường về nhà không?”, nói xong liền buông rèm xuống, ra lệnh, “Quay trở về phủ.” Phu xe vâng lệnh, không buồn nhìn đến Thượng Quan Linh mà cứ thế đánh xe đi, để lại Thượng Quan Linh ăn mặc mong manh tròn mắt đứng trong gió nhìn chiếc xe ngựa rời đi.

    “Chà”, Thành Liệt tặc lưỡi, thở dài nói, “Vị đại tiểu thư này của Thượng Quan gia thật ác độc, có thể bỏ muội muội của mình đơn độc ở bên ngoài.”

    “Điện hạ”, Thành Liệt biết Lưu Mạch không muốn dây dưa quan hệ với tỷ muội Thượng Quan gia, khẽ hỏi, “Chúng ta đi qua chứ?”

    Lưu Mạch suy nghĩ một chút, rốt cục thở dài nói, “Một cô nương đơn độc trên phố cũng nguy hiểm. Ta đã nhìn thấy, chẳng lẽ không quản tới?” Huống chi, nghe lời của Thượng Quan Vân vừa nói thì Thượng Quan Linh chịu cơn giận dữ như vậy phần nhiều là có liên quan đến mẫu thân hoặc chính bản thân hắn.

    “Thành Liệt.” Lưu Mạch bảo, “Ngươi đi mời Thượng Quan nhị tiểu thư tới đây.”

    Thành Liệt lĩnh mệnh bước xuống nói mấy câu với thiếu nữ. Lưu Mạch ở trên xe, trông ra thấy thiếu nữ tỏ vẻ đề phòng, sau khi thấy là hắn thì liền kinh ngạc.

    “Thái tử điện hạ”, Thượng Quan Linh bước tới gật đầu chào. Cô biết Lưu Mạch mặc y phục xanh là không muốn bị người khác nhận ra thân phận nên cũng không hành lễ. Dù vừa bị người khác mỉa mai nhưng trên mặt cô vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Nếu Thượng Quan Vân biết vừa rồi có Lưu Mạch ở gần thì dù giận dữ gấp trăm lần cũng không lựa chọn bộc lộ tính tình đại tiểu thư của mình.

    “Thượng Quan tiểu thư”, Lưu Mạch mỉm cười nói, “Lên xe đi, ta đưa cô trở về phủ Thượng Quan.”

    “Không cần.” Thượng Quan Linh dịu dàng từ chối: “Đa tạ Thái tử điện hạ lo lắng, dù vừa rồi tỷ tỷ của thần nóng giận nhưng tính tình cũng không xấu, chắc lát nữa hết giận sẽ quay lại đón thần.”

    “Thật không?” Lưu Mạch cười nhạt, nói: “Cũng không biết lúc nào mới hết giận, Thượng Quan tiểu thư cứ lên đây đi.”

    Thượng Quan Linh bất đắc dĩ đành nói, “Như vậy thì xin đa tạ thịnh ý của Thái tử.” Vào thời này thì chuyện nam nữ ở chung còn chưa nghiêm trọng, Thượng Quan Linh lên xe, thầm nghĩ tới dụng ý của Lưu Mạch. Cô chỉ gặp một lần chứ không có giao tình gì với Thái tử nên không tin là Lưu Mạch để ý tới mình. Theo lý thì Thái tử không nên cố mời ở nơi đông người như thế này.

    “Thượng Quan cô nương”, quả nhiên Lưu Mạch nhìn ra ngoài cửa sổ, hỏi bâng quơ, “Ta nghe nói rằng lúc mẫu thân của ta viết thư trả lời phụ hoàng hôm ở Lâm Phần thì chính cô nương đã đứng bên hầu mài mực. Cô nương có biết mẫu thân ta viết cái gì không?”

    Thượng Quan Linh liếc sang, điềm nhiên hỏi lại, “Thái tử điện hạ muốn biết thì sao không tự mình đi hỏi Trần nương nương chứ?”

    Lưu Mạch trầm mặc giây lát. Nếu có thể hỏi mẫu thân thì hắn đã không cần ngồi đây hỏi Thượng Quan Linh.

    “Nếu Trần nương nương nguyện ý nói cho Thái tử điện hạ, tự nhiên sẽ nói.” Thượng Quan Linh khéo léo chuyển hướng, “Nếu nương nương không muốn, Linh Nhi tuy thấy nhưng cũng không tiện nói.”

    Hai người đang nói chuyện thì cỗ xe ngựa màu xanh ngọc ban nãy đã quay trở lại đầu phố. Phu xe nhìn chung quanh một vòng, không thấy Thượng Quan Linh thì ngơ ngác. Thượng Quan Linh nhìn qua cửa sổ xe, thấy vậy bèn mỉm cười, “Ồ, không ngờ tỷ tỷ hết giận nhanh như vậy, đã quay lại đón rồi. Thái tử điện hạ, Linh Nhi cáo từ.”

    Lưu Mạch khẽ gật đầu, cảm thấy buồn cười, liền thuận miệng hỏi,” Cô nương cùng lệnh tỷ tới thành Nam để…?”

    “Gia tẩu không được khỏe”, Thượng Quan Linh khom người hành lễ, “Mấy hôm trước có tới y quán Xuân Sinh của Ngô gia xin bốc thuốc nên hôm nay chủ tâm tới để cảm ơn. Tỷ tỷ và ta rảnh rỗi chẳng có việc gì nên liền đi theo chị dâu nhưng không ngờ Ngô đại phu đã đột quỵ mất trước đây vài hôm. Tỷ tỷ đang bực bội, Linh Nhi có khả năng nói gì đó đắc tội nên mới như thế, khiến cho Thái tử điện hạ chê cười.”

    “Ngô đại phu qua đời rồi ư?”, Lưu Mạch kinh ngạc hỏi.

    “Đúng thế.” Thượng Quan Linh hơi ngạc nhiên. Mặc dù Ngô Xuân Sinh là đại phu nổi danh ở thành Trường An nhưng chung quy cũng chỉ là dân thường, sao Thái tử Lưu Mạch lại biết?

    Lưu Mạch chợt nhớ lại lời mật báo về chuyện tiểu thiếp Lý Phi mấy lần viếng thăm Ngô Xuân Sinh. Ngô Xuân Sinh bây giờ mất mạng là sự trùng hợp hay là bị giết? Hắn suy nghĩ thật nhanh, nói “Có người đến đón tiểu thư rồi thì ta không quấy quả nữa.” Nói rồi quay lại bảo Thành Liệt, “Mau trở về điện Bác Vọng.”

    Thượng Quan Linh gật đầu, thi lễ rồi xuống xe đi về hướng xe ngựa nhà mình ở đằng xa. Bên kia, Thượng Quan Vân không thấy muội muội thì đang lo lắng, bây giờ gặp Thượng Quan Linh mới an lòng, tức giận hỏi, “Muội đi đâu thế?” Thượng Quan Vân nhìn về hướng cô vừa đi tới, thấy một cỗ xe ngựa màu xanh đang quay đầu lại chạy vụt đi, trên ghế trước có một người mặc áo xanh trông rất quen thuộc. Cô suy nghĩ một lát thì nhớ ra đó chính là nội thị của Thái tử Lưu Mạch. Trong phút chốc, sắc mặt chợt xanh mét.

    Lưu Mạch cũng không hề biết tất cả những điều này. Hắn nhanh chóng về điện Bác Vọng, gọi Đình úy Trương Thang tới hỏi, “Có điểm gì đáng ngờ trong việc đại phu Ngô Xuân Sinh của Ngô gia ở thành Nam đột nhiên qua đời không?”

    Trương Thang chắp tay hành lễ, tỏ vẻ kinh ngạc. “Điện hạ là thái tử, sao lại có hứng thú đối với cái chết của Ngô Xuân Sinh vậy?”

    Lưu Mạch nhắm mắt, nói: “Trương đại nhân, mặc dù chuyện này tầm thường nhưng lại có quan hệ không nhỏ đối với ta. Xin đại nhân tường trình sự thật.”

    “Xét theo bề ngoài thì không có điểm gì đáng ngờ.” Lưu Mạch đã nói như vậy thì Trương Thang cũng không muốn hỏi nữa, ngẫm nghĩ một lát rồi bẩm, “Cần phải xem qua hồ sơ thì mới có thể hiểu được sự thật.”

    Để Thái tử đọc hồ sơ cũng không có gì, nhưng nếu làm công khai sẽ không tránh khỏi khiến bệ hạ ở điện Tuyên Thất biết được. Đương nhiên, bắt đầu từ lúc Lưu Mạch gọi Trương Thang đến thì chuyện này đã không thể không truyền đến tai Lưu Triệt. Ngô Xuân Sinh qua đời hai ngày trước, người nhà báo là bị đột quỵ. Rõ ràng trước mấy ngày lão còn rất khỏe nhưng hôm đó người nhà tới gọi lão dậy thì đã tắt thở.

    Lưu Mạch nhíu mày: “Ta thấy cần gặp trực tiếp tiểu đồng của lão một lần.”

    Tiểu đồng của Ngô Xuân Sinh tên là Đông Diệp. Sắc mặt của hắn khi bị gọi đến phủ Đình úy dù tái nhợt nhưng cũng khá bình tĩnh. “Đại nhân muốn nghe chuyện ngày đó?” Đông Diệp không biết thân phận của Lưu Mạch nhưng đoán người có thể ngồi ở vị trí chủ tọa trên công đường trong Đình Úy tất không phải bình thường. Hắn suy nghĩ một chút rồi nói: “Có một quý phu nhân tới chơi, nhưng lại bàn chuyện bí mật với tiên sinh nên tiểu nhân không biết họ nói những gì.”

    “A, đúng rồi”, hắn bỗng nhiên nhớ ra, “Vị phu nhân đó đi rồi, tiên sinh liền cảm thán một câu rằng vị phu nhân này thật cuồng dại. Lần thứ hai phu nhân đó đến và trao đổi mấy câu, sau đó tiên sinh suy tư mất mấy ngày.”

    Tiểu thiếp Lý Phi cuồng dại? Lưu Mạch cười lạnh, nghe cũng thấy lý do đó thật là hồ đồ vì không thể chứng minh được. Bàn về y thuật thì từ sau khi sư công rời đi, có người nào trong thành Trường An bì kịp mẫu thân? Nếu muốn dùng y học để đối phó với mẫu thân thì chẳng phải là quá múa rìu qua mắt thợ hay sao? Hoặc là, Lý Chỉ thấy hắn hiện giờ ở điện Bác Vọng, mẫu thân không thể luôn để mắt đến như Tảo Tảo nên muốn đối phó? Hắn nghĩ mông lung một hồi, như lạc vào đám mây mù không rõ phương hướng, cảm giác mình đã bỏ qua một điểm gì đó then chốt.

    “Khi Ngô tiên sinh còn sống”, hắn gõ tay lên bàn, hỏi, “có hành động gì đặc biệt không?”

    “À”, Đông Diệp hồi tưởng lại, nói: “Trước đó vài ngày có Thượng Quan phu nhân tới khám, Ngô tiên sinh đọc tên phương thuốc và bảo bốc cho Thượng Quan phu nhân. Hôm nay Thượng Quan phu nhân dẫn hai vị tiểu thư tới tạ ơn nhưng không ngờ tiên sinh đã mất rồi.”

    “Thành Liệt”, Lưu Mạch xoay người dặn bảo, “Đến nhà Thượng Quan Kiệt lấy đơn thuốc về đây.”

    Thành Liệt đáp lời rồi đích thân rời đi. Nội thị của Thái tử đến, Thượng Quan phu nhân không dám từ chối, chỉ tỏ vẻ ngượng ngùng lấy đơn thuốc giao cho Thành Liệt. Lưu Mạch trông thấy đơn thuốc thì chấn động. Mặc dù hắn không học y thuật nhưng mẫu thân và sư công đều là danh gia y thuật hiện thời nên hắn cũng miễn cưỡng hiểu đại khái, mơ hồ biết được công hiệu của phương thuốc.

    “Lý Chỉ!” Lưu Mạch nghiến răng ken két rít lên cái tên này. Thành Liệt vỡ mật kinh hồn, cảm thấy trong khoảnh khắc đó, toàn thân vị thái tử điện hạ xưa nay vẫn ôn hòa này lộ ra một luồng hàn khí. Lưu Mạch không nói gì, chỉ phất tay áo, chắp tay bỏ đi.

    “Thái tử điện hạ”, Thành Liệt đã nghe chính miệng Thượng Quan phu nhân nói phương thuốc mình đưa có tác dụng ngừa thai. Thượng Quan phu nhân đã sinh được ba con trai cho quan Trung lang, năm trước lại sinh một nữ, sức khỏe suy giảm không nên sinh nở thêm nên đến xin Ngô Xuân Sinh kê thuốc.

    Thành Liệt thấy bộ dạng Thái tử điện hạ như thế, liên tưởng trước sau thì dần dần hiểu ra, biến sắc nói: “Chúng ta có đưa cho Ngự y thự xem qua hay không?”

    Bọn họ biết thời cơ chính là lúc này. Ngự giá về kinh đã gần được nửa tháng. Nửa tháng qua, bệ hạ đều ở chỗ của Trần nương nương. Nếu như…, bây giờ mà không trừng trị được Lý Chỉ thì còn chưa biết đến bao giờ.

    “Không.” Ngoài dự tính, Lưu Mạch lại lắc đầu, dần trở nên bình tĩnh. Hắn nhướng mày nói: “Chắc nội thị do phụ hoàng sai tới tuyên triệu ta cũng sắp đến rồi.”

    Khi Lưu Mạch theo lời tuyên triệu đến điện Tuyên Thất thì Lưu Triệt vừa mới xử lý công việc xong, ngồi trên điện với vẻ mặt khó đoán nhìn con trai trưởng của mình một lát rồi mới hỏi, “Hôm nay Thái tử cho đòi Trương Thang để làm gì?”

    Lưu Mạch là thái tử của một nước nên không thể nào quản chế hậu cung của phụ hoàng, cuối cùng chuyện này vẫn phải giao cho Lưu Triệt quyết định. Lưu Mạch căn bản cũng không có ý định tự điều tra, chuyện ảnh hưởng đến mẫu thân, hắn nghĩ, phụ hoàng sẽ không nương tay. Dù sao thì mẫu thân cũng là người phụ hoàng yêu thích nhất. Còn hắn, mặc dù là con trai, nếu điều tra quá sâu thì trái lại còn có khả năng bị phụ hoàng nghi ngờ. Hoàng thượng và thái tử vốn không thể quá thân mật, điều này chính là nỗi bi ai của hoàng tộc.

    “Nhi thần hôm nay ra ngoài tình cờ gặp tỷ muội nhà Thượng Quan và biết được chị dâu nhà bên đó gần đây có được một đơn thuốc từ một vị đại phu, mà vị đại phu kia lại vừa chết cách đây mấy ngày.” Hắn muốn giấu không cho Lưu Triệt biết mình phái người theo sát nhất cử nhất động của người nhà Lý Chỉ nên mượn chuyện gặp tỷ muội Thượng Quan để lấy cớ.

    “Nhi thần nhận ra đơn thuốc đó là đơn thuốc mẫu thân tự kê cho mình, không truyền ra ngoài. Nhi thần thấy sự việc bất thường nên mới gọi Trương Thang đến hỏi về vị đại phu kia.”

    Lưu Triệt ngẩng lên, chuyện liên quan đến A Kiều thì y nhớ rõ. Phương thuốc duy nhất A Kiều vẫn uống mấy năm này là… Một luồng sát khí hiện lên trên mặt. Y đứng bật dậy, nổi giận quát lên, “Dương Đắc Ý!”

    Dương Đắc Ý ở bên vội vàng khom người thưa: “Có nô tài.”

    Y thở gấp một hơi, lạnh giọng gằn từng chữ ra lệnh, “Ngươi mau dẫn Kỳ Môn quân niêm phong Ngự y thự, kiểm tra xem thuốc Trần nương nương uống hàng ngày có gì khác thường không.”

    Lưu Mạch cúi đầu thầm nghĩ, phụ hoàng thật sự là rất quan tâm đến mẫu thân sao? Nếu không thì sẽ không phản ứng mạnh như thế. Lưu Triệt chắp tay, đi lại vài bước trên điện thì hơi bình tĩnh lại. Y nhìn con trai, bỗng nhiên cười lạnh hỏi, “Mạch Nhi, con tính sẽ thành thân với một trong hai tỷ muội nhà Thượng Quan sao?”

    Lưu Mạch lấy làm kinh hãi, hỏi lại: “Phụ hoàng?”

    “Thái tử đừng nghĩ đến chuyện gạt trẫm.” Lưu Triệt thản nhiên nói, “Trẫm nghĩ rằng không phải con biết được phương thuốc từ nhà Thượng Quan mà là con phái người theo dõi mọi hoạt động của Lý gia?”

    Trán Lưu Mạch lấm tấm mồ hôi, “Phụ hoàng anh minh.”

    “Thôi đi.” Lưu Triệt nói chậm rãi, giọng có vẻ thê lương, “Trẫm biết là con không yên lòng về mẫu thân và muội muội của con.”

    “Trẫm là đế vương, dĩ nhiên có tai mắt để biết chuyện. Nhưng trẫm chưa từng nghĩ,” Mắt y lộ ra tia âm độc, “hậu cung của trẫm lại có người làm việc như thế.”

    Trong hậu cung, giết người không thấy máu vốn là chuyện bình thường. Chỉ là Lý Chỉ lần này bắt tay vào làm từ nơi không phòng bị nhất, lại dùng thủ đoạn giết người gián tiếp nên mới khiến cả hai cha con bọn họ suýt nữa gặp nạn. Nếu không phải Lý Chỉ quá ác tâm, giết người diệt khẩu, thì sợ rằng sẽ không lộ dấu vết nhanh như thế. Ngự y thự bị Kỳ Môn quân vây chặt, các ngự y đều hoảng loạn. Ngự y lệnh mặt tái nhợt, bước lên hỏi Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý, “Không biết vì sao Dương công công lại tới đây?”

    Dương Đắc Ý nghiêm mặt nói: “Ta phụng mệnh bệ hạ tra xét xem thuốc Trần nương nương sử dụng có gì khác thường.”

    Hắn vừa nói dứt lời, tất cả mọi người trong Ngự y thự đều biết vị trí của Trần nương nương ở trong lòng bệ hạ nên cùng biến sắc.

    “Dương công công”, Ngự y lệnh miễn cưỡng cười nói, “nói gì vậy? Kẻ nào ăn gan chó dám gây bất lợi với Trần nương nương? Huống chi, bản thân Trần nương nương tinh thông y thuật, ai có thể động tay động chân vào thuốc của người?”

    “Ít nói nhảm thôi.” Dương Đắc Ý cười lạnh nói, “Bảo ngươi tra xét thì tra xét đi.”

    Ngự y lệnh bất đắc dĩ đành ra lệnh, “Mang thuốc nương nương dùng ngày hôm qua ra tra xét.”

    Nội thị nhận lệnh, chỉ lát sau đã mang thuốc tới. Mấy viên ngự y cũng kiểm tra xong liền thở dài một hơi, an tâm nói: “Dương công công, kiểm tra thuốc này không có gì sai cả.”

    Dương Đắc Ý sửng sốt, nói: “Dám ra tay với thuốc của Trần nương nương thì tất nhiên phải cao tay, cẩn thận kiểm tra hơn nữa.”

    “Đúng là không sai gì cả.” Ngự y lệnh bất đắc dĩ chắp tay nói, “Ngày đó nương nương viết phương thuốc có mười hai vị gồm Phục linh, Đỗ hành, Quyết minh tử…, ngay cả thần nhìn lầm thì mấy vị ngự y cũng không thể nhìn lầm được.”

    “Như vậy”, Dương Đắc Ý liền chau mày, cảm thấy khó giải quyết, hỏi, “Thuốc nương nương dùng hôm nay đâu?”

    “Hôm nay vẫn còn sớm nên chưa bắt đầu sắc.”

    “Lấy ra đây!”

    Ngự y lệnh bất đắc dĩ nói, “Tuân lệnh.”

    Lão đón lấy thuốc do nội thị đưa tới, cười khổ nói, “Dương công công, ngài xem, cũng không…” Sắc mặt lão dần dần thay đổi.

    Dương Đắc Ý nhạy cảm hỏi, “Thế nào?”

    “Thuốc này”, Ngự y lệnh run như cầy sấy, không nói được nữa. Mấy lão ngự y bên cạnh cũng trắng bệch mặt, thở dài nói, “Thuốc này liều lượng không đúng.” Nếu hôm nay không phải tự mình cầm trong tay xem xét kỹ lưỡng thì dù có là ngự y già đời kinh nghiệm phong phú cũng không phát hiện được ra rằng liều lượng thuốc dùng trong đó hơi khác biệt.

    “Thật to gan!” Dương Đắc Ý cười lạnh nói, “Người chịu trách nhiệm lấy thuốc đâu?”

    Người phía dưới trắng bệch mặt đáp, “Tô Vân vừa rồi thấy không bình thường, đã bỏ chạy từ lúc Kỳ Môn quân còn chưa phong tỏa cửa trước Ngự y thự rồi.”

    Tô Vân hốt hoảng chạy trên hành lang cung Vị Ương, ý đồ muốn đến điện Phi Sương cầu cứu Lý tiệp dư nhưng vì lòng dạ bối rối, không thấy rõ đường phía trước nên đâm sầm vào một người.

    “Mắt chó của ngươi mù à.” Giọng một nội thị cũng lanh lảnh như gã quát lên, “Dám xô cả Tam hoàng tử điện hạ?”

    Gã sợ rúm người, chẳng kịp nhìn phương hướng, cứ thế quỳ sụp xuống, dập đầu bình tĩnh nói: “Nô tài mạo phạm Tam hoàng tử điện hạ, xin thứ tội.”

    Lưu Hoành cười lạnh nói, “Người xô vào ta mà còn muốn sống sao?” “Người đâu”, cậu cao giọng ra lệnh: “Đánh cho tên nô tài này chết đi.” Tam hoàng tử mặc dù không được sủng ái nhưng vẫn có quyền đánh chết một nô tài.

    Khúc Ly nghe tiếng kêu la dần yếu đi, rùng mình một cái, khẽ nói, “Điện hạ, gió đã đổi chiều. Bây giờ làm thế này liệu…?”

    Lần này thì Lý Chỉ chết chắc rồi.

    Đánh chết tên nô tài kia cũng không giúp được cái gì.

    “Thế nên ta mới đánh chết gã”, Lưu Hoành mỉm cười nói, “để không thua cháy túi.”

    Cậu ngẩng đầu nhìn trời, mặc dù đã sắp tới năm mới rồi nhưng hôm nay vẫn còn có một cơn gió đông hiếm thấy. “Lưu Mạch”, cậu nắm chặt tay, nói: “Vận khí của ngươi thật tốt.”

    Tại sao ngươi cứ luôn may mắn như vậy chứ? Từ đầu đến cuối, người cậu muốn đối phó không phải là Trần A Kiều mà là Lưu Mạch và muội muội bảo bối Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ.

    “Dù sao, nếu không phải các ngươi gây chuyện thì tại sao mẹ ruột của ta lại phải chết cô độc ở điện Thanh Lương chứ?” Nếu muốn đối phó với Lưu Mạch thì trước hết phải đối phó với Trần A Kiều. Cậu ra tay không hề do dự, không hề gợn lòng.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  3. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 82: Đêm đen sao vẫn dài vô tận
    Dương Đắc Ý bẩm báo việc Tô Vân bị đánh đến chết khiến Lưu Triệt và Lưu Mạch đang ở trong điện Tuyên Thất đều thấy bất ngờ.

    “Trùng hợp thế sao?” Lưu Mạch hỏi vẻ nghi hoặc.

    “Thật thế.” Dương Đắc Ý khom người bẩm, “Tô Vân thấy không ổn bèn trốn khỏi Ngự y thự thì lại xô vào Hoành điện hạ. Hoành điện hạ liền sai dùng trượng đập chết hắn nhưng sau đó biết người này có ý đồ hại Trần nương nương thì hiểu rằng mình lỗ mãng, bây giờ đang quỳ ngoài điện Tuyên Thất thỉnh tội.”

    “Bỏ qua đi.” Gương mặt Lưu Triệt rất bình tĩnh, không để lộ suy nghĩ của mình. Y thản nhiên nói, “Chẳng qua chỉ là một nô tài, dùng trượng đập chết thì chết. Không phải là không có hắn thì không trị tội được người đàn bà kia.”

    Y cực kỳ hận Lý Chỉ muốn hãm hại A Kiều nên dù có hơn hai mươi năm làm vợ chồng nhưng lúc này y chẳng buồn nhắc đến ngay cả tên của nàng, lạnh lùng ban lệnh, “Truyền ý chỉ của trẫm, lệnh cho Đình úy Trương Thang kê biên tài sản của Lý gia, điều tra rõ chân tướng sự việc.”

    Trương Thang là một viên quan có năng lực phá án nhất hiện thời, qua hai canh giờ đã tới bẩm, người tiểu thiếp kia của Lý Phi không chống nổi đã khai ra việc Lý tiệp dư sai huynh trưởng thông qua tăng giảm liều lượng dùng thuốc để hãm hại Trần nương nương. Lưu Triệt giận tím mặt, cười gằn, “Ban thưởng cho điện Phi Sương ba thước lụa trắng, không cần đến gặp trẫm nữa.”

    Sự việc bại lộ, kết cục của Lý tiệp dư cũng đã định. Dương Đắc Ý không hề thấy bất ngờ, thấp giọng đáp, “Lĩnh chỉ bệ hạ.” Song lát sau viên nội thị đi ban lệnh chết quay lại bẩm, “Lý tiệp dư không chịu tiếp chỉ, cầu kiến bệ hạ.”

    Lưu Triệt hơi bất ngờ, vẻ mặt chán ghét, “Tiện phụ còn có tư cách gì mà đòi gặp trẫm?” Y khoát tay, đang định ra hiệu bảo nội thị không cần để ý, cứ thế mà ban chết nhưng bỗng liếc mắt thấy con trai trưởng của mình đang yên lặng đứng bên cạnh, liền thay đổi chủ ý, bảo: “Thái tử hãy đi một chuyến thay trẫm.”

    “Con à?”, Lưu Mạch nhướng mày nhìn phụ thân của mình.

    “Đúng vậy.” Lưu Triệt nói đầy thâm ý: “Hãy thay trẫm hỏi một câu, trẫm đối xử với cô ta không bạc, sao cô ta lại làm chuyện bất nghĩa thế này?”

    Chẳng qua là vì để được quân vương sủng ái, vì ngôi vị cho con trai, có gì mà hỏi nữa. Lưu Mạch không thể trả lời như vậy, chỉ đành chắp tay nói, “Nhi thần tuân lệnh phụ hoàng.”

    Từ sau khi Trần A Kiều chuyển tới điện Trường Môn thì Lưu Mạch không giao thiệp với cung Vị Ương nữa. Bây giờ hắn đi trên hành lang cung Vị Ương, nhìn cảnh phồn hoa đẹp đẽ trong cung, lòng chợt dâng lên cảm giác xa lạ như ngắm hoa trong sương mù.

    Điện Phi Sương đã từng là cung điện mà Hoàng đế thường xuyên lui tới nên rất tinh xảo và có khí thế, nhưng hôm nay thì lòng người chỉ thấy bàng hoàng. Cái Trường công chúa Lưu Yên luôn ở bên cạnh mẫu thân, còn Tứ hoàng tử Lưu Đán mặc dù thường ngày vẫn theo học sư phụ ở nơi khác nhưng mẫu thân gây ra chuyện lớn như thế nên đã chạy về từ lâu. Hai tỷ đệ canh giữ ở bên cạnh mẫu thân, cảnh giác nhìn huynh trưởng tiến vào.

    “Không ngờ rằng bệ hạ vẫn không tới”, Lý Chỉ khẽ cúi đầu, cười khổ nói, “mà chỉ có Thái tử điện hạ.”

    Thời trẻ, bệ hạ đã từng khen nàng mặc áo lụa hồng là xinh đẹp nhất, vì vậy, hôm nay nàng mặc đúng quần áo lụa hồng, tẩy hết phấn son, ăn mặc nghiêm trang, búi kiểu tóc nối phức tạp nhất, dùng trâm ngọc bích có đuôi dài rủ xuống bên mai vô cùng đẹp mắt. Lưu Mạch trông thấy cũng thầm thở dài. Người phụ nữ này cũng có vẻ đẹp riêng của mình.

    “Phụ hoàng muốn ta hỏi ngươi”, hắn nhắc lại đúng từng câu từng chữ, “Người đối xử với ngươi không tệ, tại sao ngươi lại làm chuyện phản nghịch như vậy?”

    “Đối xử không tệ, ha ha.” Lý Chỉ bỗng bật cười lớn, cười như bị bệnh tâm thần, cười đến nghẹt thở. “Đúng vậy”, nàng căm hận nói: “Bệ hạ đối xử với ta không tệ. Y phong ta từ một cung nữ nho nhỏ thành tiệp dư, đề bạt người nhà của ta quyền thế hiển hách, ban cho ta ở điện Phi Sương phồn hoa lộng lẫy. Thế nhưng y căn bản không để mắt tới ta.” Có trang điểm xinh đẹp thế nào chăng nữa cũng không thể thu hút được một tâm hồn không rung động.

    “Mười năm rồi.” Giọng nàng nói như khóc như cười, biết đã hết cơ may. Người ngày xưa gối ấp môi kề chính là người hôm nay hạ lệnh cho mình dùng dải lụa trắng lạnh như băng treo cổ, còn bản thân y không thèm tới gặp mặt, nhưng lại cho con của tình địch tới hỏi, ngươi, vì sao như thế. Cuộc đời đã đến nước này thì còn có gì phải bận tâm nữa đây?

    Nàng nhìn đứa trẻ đang đứng trong điện, thấy hắn có những đường nét rất giống người kia, lông mày như lưỡi kiếm rút ra khỏi vỏ, môi mỏng như giấy nhưng lại được kế thừa huyết thống từ người con gái kia mà giảm bớt tính sắc bén của Lưu Triệt, tăng thêm tính ôn hòa.

    “Ta đợi ở điện Phi Sương mười năm, suốt mười năm rồi.” Nàng nói lẩm nhẩm tựa như người đang đứng trước mặt chính là y. “Ngươi cứ luôn ở chỗ của nàng ấy, quay lại cũng không trông thấy ta.”

    Nàng vẫn cho rằng nàng vì con cái nên mới bày mưu đối phó với Trần A Kiều nhưng không ngờ tâm tư của nàng quá sâu, sâu đến mức che giấu được ngay chính bản thân, đến mức độ phải bị lộ ra thì mới thấy rõ lòng dạ của mình. Chỉ là nàng đã tịch mịch quá rồi, tịch mịch giống như một lưỡi đao khắc cốt ngày qua ngày lại cứa vào linh hồn của mình. Một người đàn bà tịch mịch mười năm trời thì có chuyện gì là không làm được chứ?

    “Mẫu phi!” Vẻ mặt ma quỷ của Lý Chỉ khiến ngay cả Lưu Mạch cũng không khỏi lui lại một bước, huống hồ là hai người con trai gái của mình. Lưu Đán nhào tới bên người nàng, khóc lóc, “Người đừng như thế này.”

    “Nào, Đán Nhi đừng khóc.” Lý Chỉ thở dài một hơi thật sâu rồi dịu giọng trấn an. “Thái tử điện hạ”, nàng hồi phục tinh thần, khẽ than thở, “Tại sao ngươi và mẫu thân của ngươi phải trở lại chứ?”

    Khi Trần A Kiều chưa hồi cung, trong cung Vị Ương có vô số những người đàn bà tịch mịch mà cũng không phải là quá tịch mịch, vừa tỏ vẻ tươi cười với nhau vừa tranh đấu với nhau, ai nấy thỉnh thoảng đều được hưởng ân sủng của vua. Lúc còn trẻ tuổi, nàng chán ghét cái cuộc sống đó nhưng sau khi Trần A Kiều trở lại cung đình thì nàng mới phát hiện cuộc sống đó vẫn là một loại hạnh phúc. Ít nhất, không phải là hoàn toàn tuyệt vọng.

    Chuyện đã quá rõ ràng, Lưu Mạch quay đầu ra lệnh: “Hầu hạ Lý tiệp dư lên đường.” Hắn không muốn chứng kiến nên chắp tay đi ra khỏi điện.

    “Thái tử ca ca.” Lưu Yên cũng ôm chặt váy Lý Chỉ nhưng cô không giống đệ đệ, khóc không kiềm chế được mà lao theo ra, cắn chặt môi, sắc mặt trắng bệch, quỳ sụp gối dưới chân Lưu Mạch, dập đầu nói: “Muội muội van cầu huynh tha cho mẫu phi được không?”

    “Tha ư?” Lưu Mạch cười nhạt, nhìn muội muội có cùng một nửa huyết thống với mình. Trong mười năm qua cô vẫn luôn lặng lẽ. Tựa như mãi cho tới tận bây giờ, hắn mới chính thức thấy rõ hình dáng của cô.

    “Tại sao ta phải tha cho bà ta? Muội cũng biết rằng mẫu thân muội đang cố làm hại mẹ ruột của ta mà.” Hắn lắc đầu, trong lòng không có lấy một tia thương tiếc.

    Lưu Mạch nghĩ rằng mình đã hiểu ý phụ hoàng khi bảo hắn tới gặp Lý Chỉ. Tâm địa hắn cũng ác độc, trừ mẫu thân và Tảo Tảo thì hắn không chút thương xót đối với những người khác. Nhưng Lưu Triệt cho rằng lòng dạ hắn còn chưa đủ ác độc. Hoàng gia là một nơi quá ô trọc mà người trong hoàng gia lại quá không an phận. Cho dù chỉ là một công chúa mới vừa tròn mười tuổi thì cũng đâu phải là nhân vật đơn giản? Còn Lưu Triệt thì lại muốn hắn là người kế vị Đại Hán thấy được rõ ràng hơn những ô trọc trong chốn hậu cung. Những không cam lòng, ghen tỵ, đố kỵ, sẽ phá hỏng một con người.

    Lưu Yên kêu khóc, “Người là mẫu phi của muội mà.”

    “Vậy thì sao chứ?” Hắn hờ hững.

    Lưu Yên nhòa lệ nhưng lại vô cùng tỉnh táo, “Thái tử ca ca hôm nay làm việc như thế này không sợ về sau sẽ có ngày gặp báo ứng sao?”

    Lưu Mạch bật cười, nói: “Ta rất muốn xem đến ngày đó thì muội sẽ làm thế nào đòi báo ứng?”

    “Cái Trường”, hắn nói từ tốn: “Dường như muội nghĩ sai rồi. Có thể quyết định tha hay không tha mẫu phi của muội không phải là ta.”

    Lưu Yên lặng người, thân hình co rúm quỳ trên hành lang.

    “Nể muội dù sao cũng cùng phụ thân với ta, ta có thể cho muội thời gian một khắc, chỉ cần muội có thể đến điện Tuyên Thất cầu xin được phụ hoàng tha thứ cho mẫu thân muội thì ta sẽ không động đến bà ta, thế nào?”

    Cô bé nghe vậy thì khẽ nhướng mày nhưng cuối cùng lại chán nản ngồi bệt xuống đất. Lưu Mạch hừ lạnh một tiếng, chắp tay hạ lệnh, “Động thủ đi.”

    Nội thị nghe lệnh, lấy ra dải lụa trắng và ném vắt qua xà nhà trong điện Phi Sương.

    “Dẫn tam hoàng tử và Cái Trường công chúa đi.” Lưu Mạch lại ra lệnh.

    Lý Chỉ khẽ mỉm cười, đứng lên chiếc đôn thấp, bình tĩnh thò đầu qua dải lụa trắng đã thắt thành thòng lọng. Trước lúc đá văng chiếc đôn đi, nàng khẽ thở dài một tiếng, “Đêm đen sao mãi dài vô tận?”

    Đêm đen sao mãi dài vô tận?

    Mặc dù Lý tiệp dư đã tự sát, Lưu Triệt đã hạ chỉ xử trí cả nhà Lý thị nhưng câu chuyện vẫn chưa kết thúc.

    “Tạm thời không để cho Trần nương nương biết chuyện này.” Lưu Triệt căn dặn.

    Ngay sau những việc xảy ra ở Ngự y thự và trong cung Vị Ương, Trần A Kiều nhận được tin tức do bồ câu đưa thư chuyển vào điện Trường Môn thì kinh ngạc hỏi lại: “Tên Ninh Triệt đi lòng vòng khắp nơi, cuối cùng mất tung tích ở kinh đô nước Tề sao?”

    “Đúng vậy.” Lục Y gật đầu nói: “Trong thư nói như thế.”

    A Kiều để chiếc lò sưởi trong lòng xuống, mỉm cười nói, “Xem ra Tề vương Lưu Cứ cũng không đơn giản.”

    “Tạm thời không nói đến chuyện này”, Lục Y nhăn mày nói, “Bệ hạ sai người niêm phong Ngự y thự, chúng ta lại không dò xét được tin tức gì, nương nương cảm thấy thế nào?”

    “Bệ hạ không muốn cho ta biết thì ta sẽ không cần biết.” Trần A Kiều lại chẳng buồn để ý: “Binh tới tướng ngăn, nước lên đất chặn mà thôi.”

    Dù sao thì cũng đã uống thuốc bị động tay động chân mất gần nửa tháng nên Lưu Triệt không cách nào đoán được Trần A Kiều có mang thai hay không.

    “Bệ hạ, vì thời gian quá ngắn nên chưa biết được.”

    Y định lôi đám ngự y ra luận tội nhưng trước hết còn phải giải quyết một vài vấn đề.

    “Thật ra thì cho dù có thụ thai hay không, trước hết hãy uống một thang trợ thai là được.”

    Bởi vì đã không thụ thai, uống thuốc cũng không có gì đáng ngại. “Nếu A Kiều thật sự có thai”, Lưu Triệt cười lạnh nói, “Các ngươi có thể bảo đảm thuốc trợ thai sẽ không ảnh hưởng đến sức khỏe chứ?”

    “Việc này”, cả đám ngự y đều do dự, có người cố gắng mặt dày hỏi, “Không biết lần nương nương tới kỳ gần nhất là bao giờ?”

    Cung Kiến Chương có nữ quan ghi chép những chuyện này, liền đáp, “Ước chừng là mười ngày trước.”

    Thế thì vẫn còn có khả năng thụ thai. Rốt cuộc thì vẫn cầu cho sức khỏe của Trần nương nương được ổn thỏa là tốt nhất, tuy nói uống thuốc trợ thai càng sớm thì càng ít tổn hại cơ thể nhưng vạn nhất xảy ra vấn đề thì… Hơn nữa, vẻ mặt đám ngự y dần dần trở nên nghiêm trọng, nếu mà có hoàng tử, bệ hạ thật sự sẽ bỏ qua sao? Lưu Triệt khẽ thở dài một hơi, cuối cùng chán nản nói: “Hãy nghiên cứu lại xem thế nào.”

    Đêm xuống, y chắp tay đi tới điện Trường Môn. A Kiều đang chong đèn vẽ cái gì đó, ngẩng lên nhìn thấy y liền khẽ mỉm cười: “Người đã về rồi?”

    “Ừ.” Y gật đầu, vừa để nội thị hầu cởi áo khoác vừa hỏi, “Nàng đang vẽ gì đó?”

    “Chờ khi nào vẽ xong sẽ cho người xem.” A Kiều nói: “Thiếp nghe nói hôm nay người ban cho Lý tiệp dư tự sát, cô ta đã gây ra chuyện gì?”

    Lưu Triệt nhíu mày, thở dài nói, “Kiều Kiều không nên hỏi nữa.” Y từng hứa sẽ bảo vệ nàng, kết quả là lại để cho người khác làm thương tổn nàng ngay trước mắt mình.

    A Kiều nhún vai. Nàng nhớ rằng trong đám phi tần ở cung Vị Ương của Lưu Triệt thì Lý Chỉ là một người thanh nhã an phận, còn khiến cho nàng có cảm tình. Từ sau khi rời cung Cam Tuyền, Lưu Triệt không còn sủng hạnh đám phi tần nữa nên nàng cũng có thể hòa bình với những người đó.

    “À”, nàng chợt nhớ ra, “Tảo Tảo đã mười lăm rồi, Triệt Nhi có tính toán gì về hôn sự của con chưa?” Nàng không muốn rào trước đón sau khơi gợi Lưu Triệt hứng thú nên chọn cách hỏi thẳng vào vấn đề.

    “Sơ Nhi”, Lưu Triệt ngẩn người ra, “Chọn một người tài mạo song toàn trong số con cháu thế gia là được rồi.”

    “Lấy đâu ra người tài mạo song toàn trong số con cháu thế gia.” A Kiều cười lạnh, lại thấy may mắn là mình đã hỏi câu hỏi đó. “Con gái của thiếp”, nàng nói: “phải được tự quyết định hôn sự.”

    Không lấy chồng là con cháu thế gia thì chẳng lẽ gả cho người bình thường sao? Lưu Triệt thấy nóng mặt nhưng hôm nay y rất nhẫn nại, chỉ nói: “Nhưng nó còn nhỏ tuổi, đợi thêm một hai năm nữa rồi nói sau.”

    Mười lăm tuổi đã không còn nhỏ nữa, Trần A Kiều mỉm cười, chẳng qua là tình thương của cha mẹ, dù con cái có lớn đến đâu thì vẫn cứ cảm thấy chúng còn nhỏ.

    “Được rồi.” Nàng đáp.

    Nàng ngủ trong vòng ôm của Lưu Triệt, đến nửa đêm chợt tỉnh giấc thì phát hiện thấy y cũng không ngủ yên, cứ nhìn vào bụng mình, ánh mắt thay đổi liên tục. Nàng liên tưởng lại những dấu hiệu trong ngày hôm nay, chợt hiểu ra, liền giả vờ như vẫn ngủ say. Cho dù nàng có sống thêm bao nhiêu năm, chứng kiến bao nhiêu chuyện kinh tâm động phách thì vẫn không thể thích nghi được việc những người con gái đã từng quan hệ với nhau, vì một lý do không đâu lại quay sang làm hại lẫn nhau. Như chuyện Vu cổ năm đó sao? Cho nên đến bây giờ nàng vẫn không thể nào yêu thích được chốn phồn hoa nhất mà cũng hoang vu nhất thiên hạ này.

    Chớp mắt đã đến cuối năm Nguyên Đỉnh thứ tư. Cung Kiến Chương bắt đầu lần quét dọn thứ nhất, trong những tiếng í ới ồn ào náo nhiệt, tiếng chuông năm mới cuối cùng cũng đã điểm.

    Ngày mùng Một đầu năm mới chính là ngày Đông Phương Mi đầy một tuổi. Cuộc sống hiện tại khiến Trần A Kiều không thể nào xuất cung, chỉ đành nghe mọi người thuật lại câu chuyện chọn đồ vật đoán tương lai long trọng kia. Đông Phương Sóc vô cùng yêu thương con gái đã nhất nhất chuẩn bị đầy đủ tất cả từ giấy bút mực cầm kỳ thư họa cho đến cả thảo dược, nữ công… đặt ở dưới chân Đông Phương Mi nhưng cô bé lại bất chấp tất cả, bò trên sàn nhà phủ gấm vóc mà túm lấy quần áo của Liễu Ninh rồi không chịu buông tay, đùa nghịch khiến đứa con nhỏ của Tang gia là Tang Duẩn ghen lồng lên.

    Có thể coi như là chọn đồ vật đoán tương lai sao? Trần A Kiều cười ngặt nghẽo một lúc lâu, nới với Lưu Đàm: “Có lẽ là ông trời xe duyên rồi, hai đứa nhỏ này ghép với nhau cũng không tồi.”

    “Ta cũng cảm thấy như vậy.” Lưu Đàm tỏ vẻ vô cùng nhu hòa. Có lẽ là năm mới vui vẻ khiến bệnh tình thuyên giảm, sức khỏe của nàng chuyển biến hơn đôi chút, vào ngày thời tiết đẹp thì cũng có thể ra ngồi ngoài trời. Liễu Duệ thì bỏ mặc mọi việc, hàng ngày theo sát bên cạnh nàng. Trong không khí vô cùng an bình chợt xuất hiện một tia buồn bã, dần dà lan tỏa trong lòng mỗi người.

    “Chỉ là A Duệ và Phi Nguyệt đều không làm, chuyện này ngày sau hai nhà phải tình nguyện mới được. Đông Phương Sóc thì nhảy dựng lên, từ đó liền coi Ninh Nhi như là kẻ ngày sau muốn trộm con gái của hắn.”

    A Kiều đang tươi cười bỗng nhiên cau mày.

    “Có chuyện gì?” Lưu Đàm có bệnh nên vô cùng nhạy cảm, quay đầu lại nhìn nàng.

    “Không có chuyện gì”, nàng khẽ mỉm cười, đáp lời.

    Quả nhiên là đến kỳ rồi. Nàng thở dài, chuyện có thai thì còn phải tùy duyên phận. Đường con cái của nàng và Lưu Triệt coi như đã hết. Tuy thuốc bị động tay động chân nhưng chỉ có công hiệu giảm khả năng ngừa thai chứ không tới mức hỗ trợ mang thai. Thời gian quá ngắn, mặc dù mới là đầu tháng chưa có dấu hiệu gì nhưng bản thân nàng lại mơ hồ có cảm giác rằng mình sẽ không mang thai được, đến bây giờ thì coi như hết mong mỏi. Chỉ buồn cười cho Lý Chỉ, tính toán cơ mưu tường tận mà lại mất mạng, cuối cùng vẫn thua trắng tay.

    Chuyện thế này thì chỉ sau một canh giờ là Lưu Triệt đã biết. Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt thở một hơi dài, tựa như an lòng nhưng lại như thất vọng. Y nhướng mày, nói với nữ quan đến bẩm báo tin tức: “Biết rồi, ngươi lui xuống đi.”

    Nữ quan không đoán được ý tứ của Lưu Triệt, đành cúi đầu lui ra.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  4. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 83: Dưới vòm trời đất có hai người thương tâm
    Sau khi chuyện này kết thúc, Lưu Triệt có ý muốn ở bên A Kiều nhiều hơn, nào ngờ cả hai đều bận rộn trong những ngày tiếp theo, không rảnh để nghỉ ngơi.

    Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, biên cương dấy loạn, Lưu Triệt phái quân đánh dẹp. Về phần A Kiều thì mẫu thân của nàng là Trưởng công chúa Quán Đào Lưu Phiếu cũng tuổi cao bệnh nặng không dậy nổi. Tuy họ Lý bị diệt là do tự mình gieo gió gặt bão nhưng cũng gián tiếp dẫn đến cục diện ngoại thích họ Trần độc bá thành Trường An. Từ sau năm Nguyên Đỉnh thứ năm, người nắm giữ uy quyền lớn nhất, có thể áp chế con cháu của Trần gia là Trưởng công chúa Quản Đào bệnh nặng, không thể quản việc trong nhà. Trần A Kiều thương mẫu thân nhất nên túc trực bên giường hầu hạ thuốc thang, vất vả mệt nhọc. Trần Hi có kiến thức nhưng thân phận lại thấp nên không thể kiềm chế con cháu họ Trần. Lâu ngày liền có con cháu chi thứ của Trần gia ở trong thành Trường An làm càn, ỷ thế hiếp người, càng lúc càng nghiêm trọng. Quan viên không tiện xử trí nên đành nhắm mắt làm ngơ, cuối cùng thì Lưu Triệt cũng biết chuyện. Thiên tử nổi giận, đích thân ra lệnh lôi đám con cháu làm bậy của Trần gia ra phạt trượng, không hề nể mặt. Một gậy đánh xuống đã dập tắt khí thế coi trời bằng vung của Trần gia, cũng làm cho giới quyền quý trong thành Trường An nhao nhao suy đoán xem rốt cuộc tình cảm thiên tử dành cho thân thích của Trần nương nương nông sâu thế nào. Nếu ân vua còn dày thì sao lại có thể không nể mặt Trần nương nương mà trách phạt con cháu Trần gia nặng như thế. Nếu ân sủng đã cạn thì sao lại không thấy Vua gần gũi những giai nhân khác trong hậu cung?

    Chuyện còn chưa rõ đầu đuôi thì đến mùa xuân tháng Ba, bệnh tình Trưởng công chúa Quản Đào lại trầm trọng hơn. Bà thường xuyên hôn mê, thỉnh thoảng mới tỉnh lại, thân thể gầy yếu đến mức trông thấy rõ gân xanh dưới cổ. Trần A Kiều chứng kiến như vậy, trong lòng sầu thảm. Bản thân nàng tinh thông y lý nên không cần ai nói cũng biết rằng mẫu thân không còn sống được bao lâu nữa. Trưởng công chúa Quản Đào Lưu Phiếu không chỉ là mẫu thân của Trần A Kiều mà còn là cô cô kiêm nhạc mẫu của Lưu Triệt. Bệnh đến tình trạng thế này thì Lưu Triệt đương nhiên phải đích thân đến thăm.

    Cuối tháng Ba, đích thân bệ hạ đến phủ Đường Ấp hầu. Đường Ấp hầu Trần Việt ra tận cửa quỳ đón, dẫn y vào phòng ngủ của mẫu thân. Cả phòng nồng nặc mùi thuốc. Trần Việt vừa vén rèm lên thì Lưu Triệt liền thấy A Kiều đang hầu hạ bên giường bệnh. Để tiện chăm sóc mẫu thân nên nàng chỉ mặc váy dài bình thường, gương mặt có vẻ tiều tụy. Tiếp đó, y nhìn thấy cô cô Lưu Phiếu nằm trên giường bệnh. Nô tỳ trong phòng đồng loạt quỳ xuống bái chào. A Kiều nhướng mày nhìn y, khẽ gật đầu tỏ ý chào rồi ghé sát vào tai Lưu Phiếu khẽ nói, “Nương nương, bệ hạ tới thăm người.”

    Lúc này, Lưu Phiếu rất tỉnh táo, cố gắng mở mắt ra, thều thào “A Kiều, đỡ ta ngồi dậy.”

    Lưu Triệt nhìn thấy dấu hiệu tử vong đang đến gần ở trên khuôn mặt cô cô, cũng giống như y đã từng nhìn thấy ở mẫu hậu của mình vào năm đó.

    “A Kiều”, Lưu Phiếu khó nhọc nói: “Trong kho của phủ có một cuộn gấm trắng, con mang tới đây giúp mẫu thân.”

    “Đã lâu rồi con không về phủ, e là đã quên đường. Việt Nhi, con dẫn đường cho muội muội đi.”

    Trần A Kiều biết rằng mẫu thân muốn mấy người nàng ra ngoài chứ nàng làm sao có thể quên được đường trong phủ đệ nhà mình? Nếu nàng quên thật thì cứ bảo thẳng ca ca lấy mang tới là được, cần gì phải bảo cả hai người đi. Chẳng qua mẫu thân có mấy lời muốn nói riêng với Lưu Triệt mà thôi. Nàng thấy lòng chua xót, thấp giọng đáp, “Dạ.”

    Ra khỏi phòng mẫu thân, nàng thấy cảnh hoa đào trước đình đã qua kỳ nở rộ, bắt đầu có xu hướng héo tàn, lòng chợt chùng lại, nói: “Ca ca, muội ở đây chờ, ca ca đi lấy giúp muội nhé.”

    Trần Việt không muốn làm trái ý nàng, gật đầu, “Được rồi, muội cứ ở đây, ta đi một chút rồi quay lại.”

    “Triệt Nhi có biết”, ở trong phòng, Lưu Phiếu mỉm cười hỏi, “thứ quý giá nhất đời cô cô là gì không?”

    “Biết.” Đối diện với người phụ nữ bây giờ đã là bậc trưởng bối thân thiết nhất của mình, Lưu Triệt thoáng ngập ngừng, thấp giọng đáp, “Là A Kiều.”

    “Đúng vậy, là A Kiều.” Lưu Phiếu cười lanh lảnh, “Khi giao A Kiều cho con, lúc đầu thì rất đắc ý nhưng sau đó lại hối hận. Còn bây giờ, ta đã yên tâm rồi.”

    “Tốt cũng được, xấu cũng được nhưng các con đều phải tự mình vượt qua.” Bà khẽ dựa vào thành giường, nhắm mắt giấu đi vẻ mệt mỏi.

    “Cô cô yên tâm”, Lưu Triệt mỉm cười nói, “Sau này trẫm tất không bạc đãi A Kiều.”

    “Ừ.” Lưu Phiếu lại mở mắt ra nhìn Lưu Triệt nói: “Lần này thì ta tin con.”

    “Cô cô còn có gì muốn dặn dò nữa không?”

    “Cũng chẳng còn gì nữa đâu”, Lưu Phiếu vẫn có vẻ mệt mỏi, “Trong cuộc đời này, ta đã từng nếm trải lúc tôn quý, khi mất mát, khi đắc ý cũng như lúc đau thương. Bây giờ già rồi thì còn gì để nói nữa đây.”

    “Nếu như nói là có”, bà suy nghĩ một chút rồi nói, “Con hãy cho phép Đổng Yến được chôn cùng chỗ với ta.”

    Đó cũng không phải là chuyện to tát gì nên Lưu Triệt liền chấp thuận, “Được.”

    “Hãy chôn ta ở bên cạnh mộ mẫu hậu.” Bà buồn bã nói: “Còn cả A Kiều nữa. Triệt Nhi, nếu sau này con trăm tuổi mà không thể cho A Kiều ở cùng chung lăng mộ thì hãy để nó ở bên cạnh ta. Để nó ở phi viên[1] thì sẽ khiến nó cô đơn, mà nó lại không bao giờ thích cô đơn tịch mịch.”

    [1] Phi viên: Nơi an táng phi tử.

    Ấn đường Lưu Triệt bất giác nhướng lên. “Chuyện này trẫm tự biết tính toán”, y mỉm cười cự tuyệt, “không phiền cô cô phải quan tâm.”

    “Như vậy cũng tốt.” Lưu Phiếu không nói gì thêm.

    Lưu Triệt ra khỏi phòng cô cô thì thấy Trần A Kiều khoanh tay đứng dưới một gốc đào ở bên đình. Nàng quay lưng về phía y, dáng vẻ gầy gò. Một cơn gió nhẹ thổi qua làm vô số cánh hoa đào, cả sắp tàn và chưa tàn, rơi xuống lả tả phủ đầy lên đầu, lên người nàng nhưng lại không hề toát lên sức sống mà nhìn vào chỉ thấy càng thêm lạnh lẽo.

    “Kiều Kiều không được ra gió kẻo nhiễm lạnh đấy.” Y từ từ bước đến, phủi đi những cánh hoa đào còn vương trên vai nàng.

    “Bệ hạ”, nàng ngoảnh lại, sắc mặt hơi có vẻ ngỡ ngàng.

    “Mẫu thân thế nào rồi?” Nàng khẽ hỏi.

    “Ngủ rồi.” Y đáp.

    “Vậy à.”

    Ở hành lang đằng xa, Trần Việt đang ôm một cuộn gấm màu trắng bước nhanh tới, vừa ngẩng đầu lên thì trông thấy khung cảnh bên đình nên liền nhón nhẹ bước chân.

    “Gia gia.” Một cô bé khoảng chừng năm sáu tuổi chạy dọc theo hành lang tới, ôm lấy chân Trần Việt rồi ngẩng đầu lên. Cô bé tuy còn rất nhỏ nhưng gương mặt đã cực kỳ xinh đẹp.

    “Suỵt”, Trần Việt khẽ nói, nắm lấy tay Trần Mạn rồi từ từ bước lui lại.

    “Mạn Nhi, cháu tới đây làm gì?”

    “Cháu muốn thăm tổ nãi nãi[2].” Trần Mạn nũng nịu đáp, “Gia gia, hình như cháu vừa nhìn thấy cô nãi nãi[3].”

    [2] Tổ nãi nãi: Cụ.

    [3] Cô nãi nãi: Bà, là cô của bố hoặc mẹ.

    “Ừ”, Trần Việt đáp, “Tổ nãi nãi của cháu ngủ rồi. Cô nãi nãi đang ở cùng với bệ hạ, cháu không được tới quấy rầy bọn họ.”

    “Dạ.”

    “Phụ thân”, Trần Mạn trông thấy phụ thân ở phía trước liền mừng rỡ chạy đến nhào vào lòng Trần Hi.

    “Ừ, Mạn Nhi.” Trần Hi ôm lấy con gái, mỉm cười hỏi phụ thân, “Nãi nãi hôm nay thế nào rồi?”

    “Vẫn thế thôi.” Trần Việt khẽ thở dài nói, “Bệ hạ đích thân đến thăm, giờ đang ở cùng nương nương.”

    “Vâng.” Trần Hi đáp, nghĩ tới những lời mọi người đang đồn đại thì cảm thấy hơi tức cười. “Vậy là bệ hạ vẫn còn sủng ái cô cô lắm.”

    Trần Mạn ở trong lòng hắn bỗng ngẩng đầu lên, tư lự hồi lâu rồi cuối cùng bật hỏi, “Nếu như thế thì tại sao bệ hạ lại hạ lệnh trách phạt mấy thúc thúc bá bá nhà ta?” Dù nó còn bé nhưng cũng nghe được một số điều bên ngoài xì xào.

    “Bởi vì”, Trần Hi liếc nhìn phụ thân rồi trả lời nghiêm túc, “Bệ hạ nguyện ý sủng ái là cô cô chứ không phải là Trần gia.”

    Trần A Kiều là người của Trần gia nhưng Trần A Kiều không phải là Trần gia. Lưu Triệt có thể ân sủng, có thể yêu thương một mình Trần A Kiều chứ y không nguyện ý thấy lại cảnh ngoại thích Trần gia độc bá. Thế nên y cố tình phá tan khí thế của Trần gia. Người y sủng ái chỉ có A Kiều, nhiều nhất là thêm mẫu thân và các con của A Kiều, vì ít nhất đó cũng là cô cô và con cái của y. Còn những người khác của Trần gia, bao gồm cả Đường Ấp hầu Trần Việt, thì y cũng chẳng muốn bảo vệ, nếu Trần Việt mà phạm tội thì e rằng y cũng trừng phạt không chút lưu tình. Còn cô cô, chỉ cần Trần gia được bình an thì cô cô cũng không để tâm đến việc bệ hạ trách phạt con cháu Trần gia. Có lẽ, trong mắt cô cô, con cháu Trần gia có bị quản thúc thêm một chút thì ngược lại càng có thể có tiền đồ.

    Trần A Kiều độc chiếm ân sủng của thánh thượng là cơ duyên nhưng cũng là tổn thương nặng nề đối với Trần gia. Vì có cô cô nên Trần gia nhất định bị mang tiếng là ngoại thích. Hơn nữa, khi không có thế gia ngoại thích khác cạnh tranh thì càng phải cẩn thận từng li từng tí, không thể bước nhầm để người khác hiềm nghi. Hắn cũng phải suy nghĩ rất nhiều năm mới thông suốt những điều này. Cho nên hắn nghĩ rằng việc cuối cùng mà nãi nãi phó thác cho bệ hạ chắc chắn chỉ có cô cô chứ sẽ không có Trần gia. Trần gia quật khởi không phải dựa vào ân sủng của Hoàng phi hay Hoàng hậu mà là dựa vào chính mình. Đến cuối cùng thì phủ Đường Ấp hầu hiển hách suốt trăm năm nhưng chẳng qua cũng chỉ có ba người sáng suốt mà thôi.

    Nửa đầu năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Lưu Triệt bận việc chính sự, quân sự nên dù nghe nói Trưởng công chúa Quản Đào càng ngày càng yếu nhưng cũng chỉ tới thăm được có một lần. Cuối tháng Tư, ngự y tới bẩm báo rằng bà chỉ còn sống thêm được vài ngày nữa. Bậc trưởng bối năm xưa đang từng bước từng bước đi tới điểm tận cùng của sinh mệnh. Lưu Triệt cảm nhận thấy trong buổi đầu mùa hạ tươi xanh mát mắt bừng bừng sức sống vẫn có một tia bi ai đến tận xương cốt. Song y không rảnh bận tâm đến bi ai của mình vì biết rằng A Kiều lúc này còn đau thương hơn nhiều.

    Phủ Đường Ấp hầu vào cung báo tang thì sắc trời đã muộn, y đang vùi đầu xử lý công việc, nghe vậy liền lặng người đi. “Bệ hạ”, Dương Đắc Ý lấy hết can đảm bước lên, khẽ nói, “Trần nương nương còn đang ở Hầu phủ chưa hồi cung.”

    Y vội vã xuất cung, tới phủ Đường Ấp hầu thì đã vào đêm. Hầu phủ ngày xưa cẩm tú phồn hoa, hôm nay treo đầy trướng trắng.

    “Bệ hạ”, Đường Ấp hầu Trần Việt dập đầu nghênh giá. Ập vào mắt Lưu Triệt là một nhà toàn những người mặc đồ tang.

    Người đến người đi trước linh cữu của cô cô, y nhìn thoáng qua một vòng rồi hỏi. “A Kiều đâu?”

    Y hỏi như vậy thì Trần Việt cũng không thấy bất ngờ, bình thản đáp. “Nương nương quá đỗi đau thương, thần sợ nương nương bị tổn thương thân thể nên sai tỳ nữ đưa người về lầu Mạt Vân nghỉ ngơi rồi.”

    Đi trên hành lang dài dằng dặc dẫn từ phủ Đường Ấp hầu nhìn trở về thì thấy lầu Mạt Vân xa xa hoàn toàn yên ắng, không đèn không nến cứ tựa như chưa từng có một ai ở đó. Thị nữ đứng canh ngoài lầu mang vẻ mặt lo âu, thấy ngự giá đến liền vội vàng quỳ gối. Lục Y thở một hơi thật dài, vội vàng bẩm, “Bệ hạ, nương nương trở về đây rồi thì liền nói rằng muốn ở một mình yên tĩnh, bảo tất chúng nô tỳ ra ngoài.”

    Cô đứng bên ngoài gọi rất nhiều lần nhưng không nghe thấy tiếng trả lời. Sự tĩnh mịch bên trong lầu Mạt Vân thật khiến cho lòng người sợ hãi. Lưu Triệt gật đầu tỏ ý bảo đã biết, đón lấy chiếc đèn lồng Dương Đắc Ý chuyển sang, đẩy cửa bước vào. Ánh đèn chập chờn chiếu lên tường một chiếc bóng âm u. Y gọi khẽ, “Kiều Kiều.”

    Y nhìn qua một lượt, thấy trên giường, cạnh án đều không có bóng dáng quen thuộc. Y đảo một vòng quanh phòng mới thấy A Kiều ôm đầu gối, ngồi trong góc. Y thở dài một tiếng, bao nhiêu năm đã qua rồi mà nàng vẫn không bỏ được thói quen này. Năm xưa, tổ mẫu của y cũng là ngoại tổ mẫu của nàng là Đậu thái hoàng thái hậu qua đời. Khi đó nàng còn là hoàng hậu của y, y cũng phải tìm thật lâu khắp trong cung Vị Ương, đến điện Tiêu Phòng không có, đến cung Trường Nhạc cũng không có, cuối cùng phải tìm tới ngọn giả sơn mà hai người gặp nhau hồi nhỏ thì mới thấy.

    “Kiều Kiều”, y ôm nàng vào lòng, qua ánh đền lồng yếu ớt chỉ thấy khuôn mặt nàng trống rỗng. Sau khi nghe y gọi vài lần thì đôi mắt nàng mới có chút linh động, ngẩng đầu nhìn y, một lát sau mới ngập ngừng gọi, “Triệt Nhi?”

    “Trẫm ở đây.” Y dịu dàng đáp.

    Vào năm Vương thái hậu qua đời, chính nàng đã ở với y suốt cả đêm. Lưu Triệt phải thừa nhận rằng nhờ có nàng ở bên cạnh đêm hôm đó mà y giảm được rất nhiều đau đớn. Vì thế lần này đổi lại là y ở bên nàng.

    “Kiều Kiều có muốn biết”, y mỉm cười nói, cố gắng chuyển hướng suy nghĩ của nàng, “ngày hôm đó cô cô đã nói gì với trẫm không?”

    “Không muốn.” Nàng hơi nghiêng đầu tựa vào vai y, cảm nhận được sự kinh ngạc của y nên liền nói, “Thiếp cũng đoán được.”

    Chẳng qua cũng là muốn y đối xử với nàng thật tốt mà thôi. Xót thương thay cho tấm lòng cha mẹ trong thiên hạ. Từ xưa vốn đã là như thế. Những năm qua, mẫu thân ở bên cạnh nàng, yêu thương nàng, che chở nàng, làm hậu thuẫn vững chắc cho nàng. Dần dần, nàng có cảm giác rằng bà chính là mẫu thân của mình dù ở kiếp trước hay trong kiếp này. Đều cùng một tình yêu thương, đều cùng sự chở che, đều cùng sự trả giá, đều cùng sự dâng hiến.

    “Nói cho cùng thì tất cả những gì mẫu thân muốn đều là hư ảo, chỉ có hạnh phúc của con và Triệt Nhi mới là thật sự.” Phút lâm chung, mẫu thân đã nói như vậy.

    Hai ngàn năm sau, khi mẹ qua đời thì nàng còn đang trong buổi huấn luyện tại trường cảnh sát. Nàng đột nhiên cảm thấy có một thứ rất quan trọng đã mất đi, sau đó nghe được tin dữ thì nàng khóc đến khàn cả giọng. Còn hôm nay, nàng cứ đau đáu nhìn mẫu thân gầy đi rồi mất. Nàng đưa tay lên chạm vào má mình mà thấy không hề có một giọt nước mắt. Điều này là do nàng thiếu tình yêu với mẫu thân hay là mấy năm nay đã dần biến thành lạnh lùng?

    “Từ nhỏ đến lớn, mẫu thân yêu thương thiếp nhất.” Nàng hồi tưởng, “Còn yêu thương hơn cả ca ca nữa. Bà ngoại bảo thiếp ở lại cung Trường Nhạc, mẫu thân thật ra không nỡ nên cứ ba ngày hai bận lui tới cung Trường Nhạc để chào bà ngoại mà cũng là thăm thiếp.” Nàng có gì tốt mà khiến cho mẫu thân yêu thương đến thế?

    “Ừ.” Nàng nghe thấy người bên cạnh trầm giọng, “Khi còn bé, trẫm… ta từng có lúc rất hâm mộ Kiều Kiều. Mẫu hậu cũng rất yêu thương ta nhưng đó lại không chỉ là tình yêu thương đơn thuần.”

    “Có một năm thiếp bị lên sởi mà mẫu thân gọi tất cả ngự y trong cung đến. Rõ ràng là bệnh chẳng phải nặng gì nhưng bà lại lo lắng đến như vậy. Có một năm…”

    “Năm thiếp gả cho người, mẫu thân đưa thiếp lên xe, trong lòng lưu luyến nhưng lại cười rất vui vẻ… Có một năm, thiếp thích một con búp bê nhưng mẹ không mua được, thiếp đã không hiểu lại còn khóc lóc…”

    “Kiều Kiều?” Có người lắc nhẹ vai nàng, giọng nói thật kỳ lạ.

    Cuối cùng thì con búp bê vẫn xuất hiện trên đầu giường của nàng. Nàng từ từ ngẩng đầu lên, trông thấy ánh mắt của y có vẻ gì đó khá kỳ lạ nhưng ánh nến quá mờ nên nhìn không rõ lắm.

    Lưu Triệt than một tiếng, nói: “Nếu Kiều Kiều muốn khóc thì cứ khóc đi.”

    Từng giọt, từng giọt nước mắt ứa ra, lăn trên gương mặt rồi rơi xuống. Dần dà lệ nhòa gương mặt tựa như nàng đang đi giữa trời mưa tầm tã. Những người mà nàng gọi là mẹ ở trong vòng trời đất này đều đã mất.

    Theo lễ nghi cổ đại, cha mẹ qua đời, con gái đã xuất giá phải thủ hiếu nửa tháng. Trần A Kiều ở miết trong cung Trường Môn suốt nửa tháng, khi trở ra thì gió Nam tháng Năm đã thổi tới mang theo hơi nóng hây hẩy. Tháng Năm, lúc tin quân Hán lần đầu tiên thất trận ở biên cương được báo về đến thành Trường An thì Nam Cung trưởng công chúa đang nằm trong lòng phu quân Liễu Duệ của nàng tươi cười nhắm mắt. Chỉ là lần này đã vĩnh viễn không thể mở ra.

    Lưu Triệt nhận được tin, cầm nguyên cây bút ngồi lặng lẽ, nước mực theo thân bút chảy tong tóc xuống trang giấy hoa tiên trắng như tuyết, loang ra nhòe nhoẹt. Dương Đắc Ý nhìn thấy kinh hãi, khuyên nhủ, “Mong bệ hạ nén bi thương.”

    “Nén bi thương?” Lưu Triệt chậm rãi nói, “Không, trẫm cũng không bi ai.”

    Ít nhất không bi ai như hai lần trước đây. Người vừa mất là tỷ tỷ của y, tỷ tỷ cùng cha cùng mẹ, thuở nhỏ yêu thương y, đến lúc lớn lại vì y mà ôm lấy tủi nhục đi sang Hung Nô kết hôn để cầu hòa. Khi đó, y còn cho là cả đời này sẽ không gặp lại được tỷ tỷ. Nhưng nếu như trời cao đã nguyện ý thành toàn cho tỷ đệ bọn họ đoàn viên, tại sao không ban cho tỷ tỷ thêm ít năm tuổi thọ chứ?

    “Ngươi có biết”, y không xoay người lại, hỏi, “Hoàng tỷ của trẫm năm nay bao nhiêu tuổi không?”

    Dương Đắc Ý sợ mất mật không dám đáp lời.

    “Hoàng tỷ chỉ lớn hơn trẫm có bốn tuổi.”

    Tính ra cũng chỉ lớn hơn A Kiều hai tuổi. Sinh mạng còn trẻ như vậy mà lại bị bão cát của đại mạc vùi dập làm cho héo tàn quá sớm. Vậy A Kiều thì sao?

    A Kiều cũng đã từng bị vùi dập, A Kiều cũng rất yếu ớt. Bây giờ thân thể nàng lạnh giá, dễ mệt, chỉ cần dính phải một cơn gió lạnh sẽ bị sốt cao không ngừng.

    A Kiều yếu ớt như vậy, có khi nào đến một giai đoạn nào đó trong cuộc đời sẽ buông tay ra đi không thể ở bên cạnh y nữa không? Những người mà y coi trọng trong cuộc đời đều lần lượt ra đi, cho tới giờ, bên cạnh cũng chỉ còn có một mình A Kiều. Trong lòng y đột nhiên dâng lên cảm giác nôn nao khó tả, đến khi nhìn thấy bóng dáng giai nhân quen thuộc mới dần trấn tĩnh lại.

    Thân thể A Kiều tuy gầy nhưng trông sắc mặt vẫn tốt. Nàng cứ mãi nhìn y qua màn nước mắt lăn dài, nói: “Đàm tỷ đã đi rồi.”

    Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm, con gái của Hiếu Cảnh hoàng đế, chị ruột của Vũ hoàng đế. Khi Vũ Đế còn bé, Thiền vu Quân Thần của Hung Nô xâm phạm biên ải, Hoàng đế bất đắc dĩ phải gả con gái mình là Nam Cung để cầu hòa thì Quân Thần mới bãi binh. Thiền vu Quân Thần chết đi, em trai của hắn là Y Trĩ Tà lên ngôi. Tập tục của Hung Nô là cha chết thì con thừa kế vợ của cha nên Trưởng công chúa phải ngậm đắng đi theo Y Trĩ Tà.

    Vũ hoàng đế mấy lần đánh với Hung Nô đều chiến thắng. Tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, Trường Tín hầu dẫn một vạn kỵ binh luồn sâu ngàn dặm tập kích vương đình ở Mạc Bắc, cứu được Nam Cung trưởng công chúa trở về. Vào tháng Mười hai mùa đông năm Nguyên Thú thứ hai, Trường Tín hầu Liễu Duệ cưới Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm. Từ đó về sau, vợ chồng ân ái mặn nồng. Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Nam Cung trưởng công chúa qua đời. Hoàng đế đau buồn, cho tiến hành tang lễ trọng thể, chôn cất tỷ tỷ ở Mậu Lăng.

    Còn lúc này, y đột nhiên ôm chặt lấy A Kiều, không nói một lời. A Kiều không khỏi kinh ngạc, nghĩ tới y đang đau khổ vì Trưởng công chúa qua đời nên dịu dàng an ủi.

    Lưu Triệt còn nhớ, khi hoàng tỷ bệnh nặng nằm liệt trên giường đã từng hỏi y, “Triệt Nhi có yêu A Kiều không?” Lúc ấy y không trả lời, chỉ khẽ gật đầu, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.

    “Vậy cũng tốt.” Lưu Đàm mỉm cười an tâm, biết rằng nếu là đáp án khác thì đệ đệ nhất định sẽ không như thế. Khi đó, dù nàng đã rất suy yếu, nhưng nét mặt vô cùng an tĩnh.

    “Vậy thì ta có thể hơi an tâm rồi.”

    Nếu như không như thế, nàng sợ rằng một khi ngay cả nàng cũng xuôi tay thì trên thế gian này sẽ không còn ai đối xử với đệ đệ của mình thật lòng nữa để rồi sẽ càng ngày càng thêm cô độc rồi cuối cùng thì dù quyền cao chức trọng nhưng lại tịch mịch đến mức không nhận ra ngay chính bản thân mình.

    “Có thể yêu một người cũng là một loại hạnh phúc.” Ít nhất, còn có chỗ để gửi gắm tâm sự. Phật nói, đời người có tám khổ ải lớn, trong đó có nỗi khổ yêu thương mà phải xa nhau. Nhất là yêu thương mà phải vĩnh viễn xa cách, hiện giờ xem như là đau khổ lớn nhất. Nàng có thể yên tâm về đệ đệ nhưng lại không yên tâm về phu quân. Dù không yên tâm thì cũng biết phải làm thế nào chứ? Cuối cùng vẫn phải ra đi.

    Năm Nguyên Đỉnh thứ năm không phải là một năm tốt cho cả Lưu Triệt lẫn A Kiều. Trong năm này, bọn họ đều mất đi một người rất quan trọng trong cuộc đời. Cho dù bọn họ đối với bên ngoài vẫn bình thản nhưng đến đêm khuya gặp mặt nhau thì mới cảm nhận được sự đau đớn ở trong lòng.

    “A Kiều, muội yêu Triệt Nhi sao?”

    “Chẳng phải Đàm tỷ đã hỏi vấn đề này từ hồi năm Nguyên Thú thứ hai rồi sao?”

    “Đúng vậy, nhưng hôm nay, ta hỏi lại một lần nữa, hy vọng có thể nghe được đáp án khác.”

    Hôm đó, nàng đã suy nghĩ rất lâu rồi mới đáp, “Đúng vậy, muội yêu chàng.”

    Nàng nghĩ, dần dần bản thân nàng cũng không rõ tình yêu là gì.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  5. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 84: Núi xuống cùng mây cuối chân trời
    Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Tề vương Lưu Cứ rời đất phong tới Trường An. Chuyến đi lần này của hắn là để chịu tang. Vào năm này, triều đình để tang hai vị công chúa, luận thân phận là trưởng bối trực hệ của các hoàng tử, mặc dù không phải là họ gần với Vệ thị nhưng về tình về lý thì hắn cũng phải thăm hỏi.

    Khi xe ngựa nước Tề tiến vào Trường An, Lưu Cứ ngồi ở trên xe suy nghĩ mông lung. Tình thế trước mắt không phải là không tốt, Công chúa trưởng Quán Đào là mẹ đẻ của Trần A Kiều, còn Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm mặc dù là cô cô của cả hắn và Lưu Mạch nhưng lại thiên vị Trần A Kiều hơn. Mặc dù bệ hạ kính trọng cả hai nhưng người đã chết như đèn đã tắt. Tình cảm dù có sâu đậm đến mấy nhưng nếu ở trong hoàng gia vài năm cũng sẽ dần dần phai nhạt. Lần này hai người chết đi ngược lại là một suy yếu mạnh đối với thế lực của Trần thị.

    Hắn nhớ lại lúc trước khi tới Trường An, mưu sĩ Ninh Triệt từng nói với hắn rằng trong chuyến đi này, nếu không nắm chắc mười mươi thì nhất định không được châm chọc Thái tử và gia tộc Trần thị. Năm trước Ninh Triệt từ Lâm Phần trở về nước Tề đã từng nói rằng người con gái kia thật sự không phải là nhân vật đơn giản: “Chỉ nhìn một cách đơn thuần thì ta thật sự không thể nào tưởng tượng được rằng Trần nương nương hôm nay và người tính sai ngã thảm trong vụ án Vu cổ năm Nguyên Quang thứ năm lại là một.”

    Ninh Triệt bàn tiếp, “Trần gia bây giờ đang thịnh, được bệ hạ coi trọng, chọc tới bọn họ thì người cuối cùng chịu khổ chính là Vương gia. Cơ hội có lợi nhất của chúng ta là thời gian. Bệ hạ đang lúc tráng niên, ở lâu với ai thì rồi cũng sinh chán ghét, khi đó mới là lúc Vương gia hành động.”

    Nhưng mà, hắn từ từ siết chặt nắm tay, thật sự phải kính cẩn thận trọng sao? Mặc dù tính tình của hắn luôn kính cẩn thận trọng, nhưng đã bốn năm rồi. Trong bốn năm này, nỗi đau mất mẹ không một ngày nào không gặm nhấm tâm hồn hắn, phải nhẫn nại thế nào mới có thể bình tĩnh, cúi đầu ở trước mặt người phụ nữ kia.

    Chỉ tiếc cho Lý Chỉ. Tuy hắn ở nước Tề xa xôi nhưng vẫn có tai mắt. Mấy ngày trước nghe chuyện Lý tiệp dư bị ban cho tự sát, hắn đã thầm thở dài. Thật sự là phụ nữ không thể làm nên việc lớn được sao? Nếu bà ta thành công thì đương nhiên là Lưu Đán được lợi, bản thân hắn ở ngoài xa ngàn dặm làm gì còn có cơ hội? Phàm làm việc quá độc ác thì sẽ bị báo ứng. Lý Chỉ bố trí mọi việc ở trong cung rất kín kẽ nhưng cuối cùng lại để lộ sơ hở ở ngoài cung.

    “Cữu cữu”, cô bé ngồi trong lòng hắn hơi khó chịu, cau mày khẽ kêu lên, “Người ôm làm đau cháu.”

    Hắn giật mình, lỏng tay hỏi, “Vi Nhi không sao chứ?”

    “Không sao.” Cô bé chừng bố năm tuổi nhưng rất hiểu biết, ngẩng đầu lên mỉm cười nói: “Cữu cữu, tại sao cha mẹ không cùng về Trường An gặp ngoại công[1] bệ hạ?”

    [1] Ngoại công: Ông ngoại.

    Đã không muốn nhớ đến những chuyện thương tâm nữa, thế mà vẫn vướng vào vòng trần ai. Lưu Cứ nghĩ bụng nhưng lại không thể nói như vậy với Lý Vi, chỉ giảng giải, “Bởi vì gia gia cũng bị bệnh nên cha mẹ cháu ở lại chăm sóc. Hai người nghĩ rằng Vi Nhi chưa từng được gặp ngoại công nên mới nhờ cữu cữu dẫn Vi Nhi về kinh.”

    “A.” Lý Vi còn ở tuổi chưa hiểu được những phức tạp trong lòng người. Cô bé bừng bừng hưng phấn nhìn qua tấm rèm cửa lay động theo nhịp bánh xe lăn, ngắm nhìn cảnh thành Trường An ngựa xe như nước, áo quần như nêm. “Cữu cữu, Trường An đẹp thật. Tại sao mẫu thân và cữu cữu lại muốn rời Trường An về ở đất Tề chứ?”

    Trẻ nhỏ nói không giữ miệng khiến Lưu Cứ nghe mà lòng buồn thảm. Nếu có thể thì hắn chịu tình nguyện rời khỏi Trường An chôn rau cắt rốn sao? Chẳng qua là lúc phải rời đi thì mẫu hậu đã mất, phụ hoàng cũng bỏ rơi tỷ đệ bọn hắn.

    “Vi Nhi”, hắn ôm lấy đứa cháu ngoại, mỉm cười nói: “Sau này ta sẽ dẫn mẹ cháu và cháu trở về sống ở thành Trường An có được không?”

    “Được chứ.” Lý Vi nửa hiểu nửa không nhưng vẫn gật đầu.

    “Nhưng cháu tuyệt đối không được nói cho bất cứ ai biết chuyện này đấy.”

    Tề vương Lưu Cứ tiến kinh, trước tiên vào cung bái chào bệ hạ. Cha con gặp nhau một lát ở điện Tuyên Thất rồi Lưu Triệt dẫn Lưu Cứ ra ngoài. Hai người đi trong cung Vị Ương. Trong một sơn đình ở phía đằng xa, Hình Nhược đang ngồi mỉm cười nhìn Tam hoàng tử Lưu Hoành chơi đùa với một cô bé ở phía dưới. Cô bé kia còn rất nhỏ tuổi, mới chỉ cao đến thắt lưng Lưu Hoành, chạy lon ton, bất chợt đứng không vững ngã phịch xuống đất, tuy chưa chắc đã đau nhưng dù sao thì cũng ấm ức nên khóc váng lên.

    “Vi Nhi.” Lưu Cứ chợt khẩn trương, vội bước lên phía trước ôm lấy Lý Vi vỗ về an ủi, “Vi Nhi không khóc, cữu cữu đây rồi.”

    Lưu Triệt lặng người đi, nhớ lại hồi năm Nguyên Thú nguyên niên, Vệ Trường và phu nhân bị bãi về quê, bọn họ mới sinh một đứa bé gái, hình như đặt tên chỉ có một chữ là Vi.

    “Tham kiến bệ hạ.” Mọi người hành lễ. Lưu Hoành lúng túng nói, “Nhị ca, ta thấy Vi Nhi đáng yêu nên mới chơi đùa với nó, không phải cố ý đâu.”

    Lưu Cứ khoát tay, tươi cười, nói, “Không sao. Tính ra thì tam đệ cũng là cữu cữu của Vi Nhi đấy.” Hắn cúi xuống bảo Lý Vi: “Vi Nhi, chào tam cữu đi.”

    Lý Vi dần dần thôi khóc, thút thít chào tam cữu rồi đưa mắt nhìn Lưu Triệt ở phía xa khẽ hỏi, “Cữu cữu, đó là ngoại công à?”

    Lý Vi liền giật giật tay cữu cữu bảo hắn buông mình ra rồi bước lũn cũn tới trước mặt Lưu Triệt. Cô bé còn quá nhỏ lại không lớn lên ở chốn cung đình nên không biết gặp vua thì phải làm theo lễ nghi. Cô bé thấy những người xung quanh làm đại lễ thì trong lòng cũng thấy kính sợ, rón rén sờ vào y phục của Lưu Triệt. Đám thị vệ theo hộ giá căng thẳng nhưng thấy bệ hạ không tỏ vẻ khó chịu nên cũng không tiến lên. Lý Vi ngẩng đầu, thơ ngây hỏi: “Ông ngoại?”

    Lưu Triệt cất tiếng đáp nhẹ. Y ngắm nhìn khuôn mặt Lý Vi, thấy quả nhiên cũng dịu dàng giống hệt như Vệ Trường. Năm xưa Vệ Trường đã từng có thuở nhỏ như thế này, cũng bước đi lũn cũn, ngây thơ gọi y là phụ hoàng. Khi đó, y vẫn còn hiếm hoi, mới có một con gái là Vệ Trường nên dù chỉ là công chúa nhưng thực sự yêu quý như châu báu. Những ngày tháng đó đã mãi qua, bây giờ, đến cả con gái của Vệ Trường cũng lớn thế này rồi. Vệ Trường là con gái trưởng, cho tới bây giờ mới có một con gái là Lý Vi. Vì Dương Thạch phản nghịch nên bị tước danh hiệu công chúa, để tang Công Tôn Kính Thanh mất nên đến nay chưa sinh nở tiếp. Chư Ấp xuất giá đã hơn một năm, vài ngày trước báo tin về là mới có mang. Như vậy, cho tới bây giờ, chỉ duy nhất Lý Vi có bối phận hàng cháu của y, và vẫn như cũ là do Vệ thị sinh ra.

    Y ngầm cảm thấy thương tâm nhưng vẻ mặt vẫn tỏ vẻ ôn hòa, chỉ hỏi han những chuyện thường nhật. Lý Vi còn nhỏ tuổi, chưa từng chứng kiến tính tàn ác vô tình của y nên dần dần cũng quên bẵng nỗi kính sợ ban đầu, nói cười liến thoắng, đôi lúc cũng rất tinh nghịch. Lưu Cứ đứng bên liền thở phào nhẹ nhõm. Xem ra việc nghe theo kế sách của Ninh Triệt, chọn cách đánh vào tình cảm là chính xác.

    “Vì gia gia bị bệnh nặng”, Lý Vi vẫn theo những lời hắn nói mà nhẩn nha kể về chuyện gia đình mình. Trẻ con dù có tinh quái thế nào chăng nữa cũng không thể nói dối che được mắt phụ hoàng của hắn, chỉ có cách để cho chính cô bé tin tưởng những gì mình nói là thật thì mới thể hiện ra như thật.

    “Cha mẹ đều ở nhà chăm sóc nên không thể tới Trường An được, đành phải giao Vi Nhi cho cữu cữu. Khi đưa tiễn, mẫu thân đã khóc hết nước mắt.” Lý Vi buồn bã.

    “Thật sao?”, Lưu Triệt hỏi bâng quơ, rời mắt khỏi Lý Vi, khẽ liếc về phía Lưu Cứ, Lưu Hoành. Ánh mắt Lưu Triệt lành lạnh đầy ý tứ khiến Lưu Cứ phát sợ nhưng y lại hạ lệnh, “Truyền ý chỉ của trẫm, thăng phò mã Lý Giai lên chức Thủy thành đô úy, tiếp chỉ lập tức đến Trường An nhậm chức. Cứ Nhi, quá lâu con không trở về Trường An, bây giờ tới rồi thì nên ở thêm mấy ngày, dẫn Vi Nhi đi chơi thành Trường An một vòng nhé.”

    Cung Kiến Chương chẳng có liên quan gì đến cung Vị Ương nhưng cung nhân chỉ nghe phong thanh là đoán được chiều gió. Trần A Kiều nhanh chóng biết được chuyện này. “Kẻ tìm ra Lý Vi làm điểm đột phá kia thật là thông minh.” Nàng xé bỏ một bản vẽ hỏng, trầm ngâm nói. Nếu Lưu Cứ có thể tự mình nghĩ ra thì đã không phải lãng phí bao năm mới dùng phương pháp này. Người ở xa ngàn dặm có thể suy đoán chuẩn xác những sơ hở trong lòng đế vương thì tất nhiên không phải kẻ tầm thường.

    Buổi tối, Lưu Triệt về nghỉ ở điện Trường Môn và nói với nàng: “Kiều Kiều, Mạch Nhi không còn nhỏ nữa, nàng chọn cho nó một người để kết hôn đi. Thái tử thành thân thì những đệ muội của nó mới cưới gả được.”

    Trần A Kiều liền bật cười. Y đã nói như vậy thì nàng còn dùng cái cớ “Mạch Nhi còn nhỏ tuổi” thế nào được nữa chứ? Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Thái tử Lưu Mạch mới tròn mười sáu tuổi. Mười sáu tuổi rồi, đó chính là tuổi nàng được gả cho Lưu Triệt. Năm đó y còn trẻ hơn, chỉ mới mười bốn tuổi. Nàng biết rằng lần này không thoái thác được nên liền đồng ý, “Được rồi.”

    Bệ hạ đã chính miệng nói ở lại thêm mấy ngày nên tất nhiên Lưu Cứ không dám làm trái. Hơn nữa việc này lại thể hiện ân sủng của Thánh thượng. Trời vào hè, Tề vương Lưu Cứ hẹn với tam tỷ Chư Ấp và dẫn cháu gái ngoại đi dạo quanh các phố phường Trường An. Tất nhiên, bọn họ không đến lầu Thanh Hoan có quan hệ dây mơ rễ má với Trần gia. Những năm qua, thức ăn dùng cách xào nấu đã dần dần thông dụng nên lầu Thanh Hoan cũng dần mất đi địa vị đứng đầu thành Trường An. Lúc này, bọn họ tới lầu Tàng Mai mới mở, ngồi ở bàn gần cửa sổ trên lầu ngắm nhìn cảnh phố xá phồn hoa bên ngoài.

    “Tam tỷ sức khỏe an khang”, Lưu Cứ nói giọng vui mừng, “Ta thật an tâm.”

    Lý Vi còn là một đứa trẻ, không cưỡng nổi sức hấp dẫn của cảnh náo nhiệt trên đường phố. Lưu Cứ liền căn dặn người hầu đi theo bế nó xuống phố chơi, hầu hạ cẩn thận, chỉ cần Lý Vi thích là mua, không phân biệt giá cả đắt rẻ.

    “Tỷ nghĩ rằng năm xưa tỷ đã chọn lựa sai mất rồi.” Lưu Thanh chán nản nói: “Mặc dù Thạch gia đối xử không tệ nhưng tất cả già trẻ lớn bé đều cứng đầu như đá tảng, nói nào danh phận thái tử đã định, thiên hạ đồng lòng, mình làm thần tử thì càng phải trung thành. Tỷ làm mọi cách ngầm khuyên nhủ nhưng ngay cả phu quân của mình cũng không khuyên nổi.”

    “Tam tỷ vui vẻ là được rồi.” Lưu Cứ không mấy để ý, chỉ cười, “Bảo vệ được mình là tốt rồi. Không phải quan tâm đến mấy đệ đệ. Lão sư vốn là người như vậy, tuy không thể giúp tỷ nhưng nếu tỷ đắc thế thì ông ấy sẽ trung thành tuyệt đối với tỷ. Tam tỷ không cần phí tâm tư thêm nữa.”

    Ánh mắt hắn lóe lên, “Hôm nay chúng ta ở trong tối, bọn họ ở ngoài sáng. Chúng ta tấn công, bọn họ phòng thủ. Một khi Lưu Mạch để cho chúng ta bắt được sai lầm thì lúc đó…”

    Miệng hắn vẫn nói nhưng ánh mắt lại chăm chú nhìn đứa cháu gái đang đi trên phố bên trở về lầu. Hắn thấy một cỗ kiệu có mái theo kiểu nhà quan từ từ đi tới rồi dừng lại ở dưới lầu Tàng Mai, một thiếu nữ xinh đẹp mặc quần áo màu hồng có phong độ rất đại gia vén rèm bước ra, Lý Vi còn nhỏ tuổi, tay lại cầm quá nhiều đồ, đứng không vững ngã xuống dưới chân thiếu nữ. Thiếu nữ nhướng mày định nổi xung, nhưng thấy cô bé còn nhỏ quá nên dẫu bực bội mà không phát tiết ra được. Cô gái thấy tên tiểu tử theo hầu lúng túng nói lời xin lỗi thì đành phải nén giận, vùng vằng đáp: “Thôi đi.”

    “Đó là đại tiểu thư nhà Thượng Quan đấy mà.” Lưu Thanh cũng liếc mắt nhìn thấy, cười lạnh nói, “Dân chúng thành Trường An đồn đại cô ta là lựa chọn có hy vọng nhất cho vị trí thái tử phi.”

    Lưu Cứ nhíu mày, hỏi: “Nhà Thượng Quan nào?”

    “Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt.” Lưu Thanh cười mỉa, “Nghe nói, Trần A Kiều tặng cho cô ta lời bình bốn chữ ‘Đẹp như trăng rằm’, nhưng tỷ thấy kiêu căng ngạo mạn mới là đúng.” Cô đã quên bản thân mình năm xưa kiêu căng ngạo mạn chỉ hơn chứ không kém so với Thượng Quan Vân.

    “Loại người như Lưu Mạch mà lại để mắt tới cô ta sao?” Lưu Cứ cúi đầu, có vẻ không thể nào hiểu nổi.

    “Điều này thì chưa chắc.” Lưu Thanh thản nhiên nói, “Người khác không biết chứ tỷ thì biết được một chút. Đêm trước khi Lý tiệp dư rớt đài, nghe nói viên nội thị thân tín của Lưu Mạch là Thành Liệt đã từng đến phủ Thượng Quan.”

    Lưu Cứ trầm ngâm một lúc rồi lần nữa quan sát Thượng Quan Vân ở dưới lầu. Ánh mắt nhìn chằm chặp khiến Thượng Quan Vân có cảm ứng, liếc mắt nhìn lên trên lầu, thấy một khuôn mặt trông khá giống với người kia, liền sững lại. Hắn chợt nhớ, theo mẫu hậu nói, năm xưa trước bị phế truất thì Trần A Kiều cũng có tính cách kiêu căng ngạo mạn như thế này.

    “Thượng Quan tiểu thư”, Lưu Cứ chậm rãi bước xuống lầu, bế Lý Vi lên, mỉm cười nói, “Cháu gái của kẻ hèn này còn quá nhỏ, có gì mạo phạm thì kính xin tiểu thư rộng lượng tha thứ cho.”

    “Không có gì.” Thượng Quan Vân đáp. Cô nhìn dung mạo Lưu Cứ ở sát gần thì càng cảm thấy nghi hoặc, không nhịn được hỏi, “Ngươi thật ra là ai?”

    “Ta là ai”, Lưu Cứ ỡm ờ đáp, “thì mấy hôm nữa tiểu thư tất sẽ biết.”

    Hắn bế Lý Vi trở lên lầu, thấy ánh mắt chất vấn của tam tỷ, “Rốt cục là Cứ Nhi định làm gì?”

    Lưu Cứ cười một tiếng, không trả lời thẳng, “Tam tỷ có nhớ rằng đệ năm nay cũng đã mười bốn rồi không? Sắp lập vương phi được rồi.”

    “Không được.” Lưu Thanh dở khóc dở cười, “Cứ Nhi cần phải tự suy nghĩ cho thật kỹ càng, chớ để giống như tam tỷ, sau này hối hận thì ván cũng đã đóng thuyền rồi.”

    “Đệ tự biết suy xét”, Lưu Cứ đáp.

    Ngoài Chư Ấp công chúa thì chẳng một ai biết Tề vương Lưu Cứ nổi ý muốn lập phi. Nhưng chuyện Trần nương nương muốn tự mình tuyển chọn thái tử phi cho Thái tử Lưu Mạch là vô cùng chính xác, nhanh chóng lan truyền khắp các gia đình quyền quý trong chốn kinh thành. Danh thiếp của các tiểu thư bay tới chỗ ở của Trần A Kiều trong điện Trường Môn như hoa tuyết khiến A Kiều trông thấy mà muốn bỏ của chạy lấy người. Chỉ là chuyện không thể tránh được. A Kiều gọi Lưu Mạch đến hỏi, “Mấy năm qua, Mạch Nhi có yêu thích người con gái nào không?”

    Lưu Mạch cười khổ, suy nghĩ một lát rồi hỏi ngược lại, “Mẫu thân cảm thấy có nhà nào trong thành Trường An có con gái đẹp vừa mắt không?”

    Trần A Kiều im lặng. Nàng ít gặp đám thiếu nữ con nhà thế gia, trong đó tỷ muội nhà Thượng Quan là quen thân hơn đôi chút. Quá nửa trong số bọn họ đều xinh đẹp kiêu căng giống như Thượng Quan Vân, lại quen sống trong nhung lụa, mới chỉ mười ba mười bốn tuổi đầu thì hiểu được bao nhiêu chuyện đời? Dõi mắt nhìn xuống thì những người cảm giác là có tố chất như Đông Phương Mi lại còn đang bi bô học nói, chưa đến tuổi trưởng thành.

    Cuối tháng bảy năm Nguyên Đỉnh thứ năm, quân Hán bình xong loạn ở biên cương, quay về Trường An. Cuối tháng Bảy, Tề vương Lưu Cứ muốn trở về nước Tề, đến điện Tuyên Thất từ biệt Lưu Triệt. Lưu Triệt cuối cùng cũng nảy sinh một chút tình cảm cha con quyến luyến, trông thấy Lưu Cứ muốn nói lại thôi, liền ôn tồn hỏi, “Cứ Nhi có điều gì muốn nói hay sao?”

    Lưu Cứ nghe vậy đỏ mặt nhưng vẫn nói: “Phụ hoàng, mấy hôm trước con và hoàng tỷ du ngoạn trên đường phố Trường An có gặp được tiểu thư nhà Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt. Thượng Quan tiểu thư có tư chất xuất chúng khiến nhi thần rất ngưỡng mộ. Nhi thần cảm thấy mình cũng đến tuổi trưởng thành rồi, khẩn cầu phụ hoàng hãy ban cho nhi thần cuộc hôn nhân này.”

    “Thượng Quan Vân?” Lưu Triệt rất bất ngờ. Trên đường tuần thú phương đông, y đã gặp thoáng qua thiếu nữ này mấy lần. Mặc dù với thân phận của mình, y không mấy chú ý tới phụ nữ trong gia đình các hạ thần, nhưng theo ấn tượng thì đó là một thiếu nữ xinh đẹp và hơi phù phiếm, có chút giống… A Kiều ở thời thiếu nữ.

    Y thầm so sánh trong lòng, ngay cả như thế thì thiếu nữ đó vẫn không bằng A Kiều. A Kiều thời thiếu nữ rất kiêu ngạo, đến mức có thể coi thường mọi uy quyền, kể cả là uy quyền đế vương của y, cho dù cuối cùng vì vậy mà tổn thương cũng không thay đổi. Nàng kiêu ngạo, nhưng là một loại kiêu ngạo từ cốt tủy. Cũng bởi tính cách như vậy nên nàng mới có thể như một con phượng hoàng tái sinh chói lọi từ cõi niết bàn. Còn Thượng Quan Vân thì cũng kiêu ngạo, nhưng chỉ là một loại kiêu ngạo dựa theo thân phận của mình. Nếu gặp phải người có thân phận cao quý hơn thì cô ta sẽ phải thu lại tính cách, mặt mũi ảm đạm, cúi đầu phục tùng. Từ góc độ này thì y trái lại coi trọng người muội muội vẫn luôn trầm tĩnh đứng sau cô ta hơn.

    “Cứ Nhi sẽ không hối hận chứ?” Lưu Triệt cười nhạt, hỏi đầy ẩn ý.

    Lưu Cứ hơi động tâm, nhưng kịp trấn tĩnh, trầm giọng, “Không hối hận.”

    “Tốt lắm.” Lưu Triệt cúi đầu xuống không nhìn hắn nữa, nói “Dương Đắc Ý, viết ý chỉ cho trẫm.”

    “Có trưởng nữ của Thượng Quan Hoài là Thượng Quan Vân, cung kính lễ phép, tư chất hơn người, ban làm phi của Tề vương Lưu Cứ, đợi Thái tử cử hành đại hôn xong sẽ cho thành hôn.”

    Lưu Cứ quỳ lạy ân điển của phụ hoàng, tiếp thánh chỉ rồi lui ra.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  6. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 85: Tỷ muội khai hoa chẳng giống nhau
    Trên đường trở về đất Tề, tiểu đồng của hắn thấy rất khó hiểu liền hỏi, “Việc Vương gia định kết hôn với Thượng Quan tiểu thư là để tranh hơn thua với Thái tử sao?”

    “Đó chỉ là một trong các lý do”, Lưu Cứ thản nhiên đáp. Hắn cũng không tin rằng Lưu Mạch với tính cách khá lạnh lùng lại có thể say đắm Thượng Quan Vân. Nhưng huynh trưởng của Thượng Quan Vân đang giữ chức vị rất quan trọng là Lang trung lệnh quản lý kinh sư, Lưu Mạch vốn đã có địa vị thái tử cao quý, nếu lấy con gái họ Thượng Quan làm vợ thì chẳng khác nào nắm cả kinh sư trong lòng bàn tay, ngoài phụ hoàng ra thì trong thiên hạ đừng ai nghĩ đến việc lay chuyển hắn nửa phần.

    Phủ Thượng Quan, thành Trường An.

    “Sao lại có thể như thế?” Thượng Quan Vân nghe nội dung đạo ý chỉ kia liền hỏi thất thanh, thần sắc hoảng loạn, “Muội đâu có biết Tề vương, hơn nữa muội cũng đã chuyển danh thiếp của mình đến Trần nương nương rồi, tại sao bệ hạ lại có thể gả muội cho người khác được chứ?”

    “Muội hãy ăn nói cho cẩn thận đấy.” Thượng Quan Kiệt lớn tiếng trách mắng, sau đó dịu giọng, “Ý chỉ đã ban ra rồi thì dĩ nhiên Trần nương nương sẽ loại bỏ danh thiếp của muội.”

    “Nhưng mà”, Thượng Quan Vân mở to mắt, nói giọng ai oán “muội không muốn gả cho Tề vương.”

    “Đừng nói là muội không muốn gả,” Thượng Quan Kiệt cười khổ, “Huynh cũng đâu muốn kết thông gia với vị hoàng thân như Tề vương. Tuy Tề vương là vương gia chư hầu có địa vị tôn quý nhưng thiên hạ này sẽ thuộc về Thái tử, sợ rằng ngày sau Tề vương cũng không được yên thân.”

    “Đã như thế này”, Thượng Quan Vân rơi lệ, nắm lấy tay Thượng Quan Linh, “Linh Nhi, muội có quan hệ tốt với Trần nương nương, cũng có qua lại với Thái tử, muội hãy nói để bọn họ khuyên bệ hạ thu hồi ý chỉ ban hôn có được không?”

    “Tỷ tỷ nói gì thế?” Thượng Quan Linh giãy nãy, “Muội có thể có giao tình gì với Trần nương nương và Thái tử điện hạ được chứ? Muội chỉ là một Linh Nhi hèn mọn, sao có thể nói được bọn họ?” Thượng Quan Kiệt cũng lắc đầu, trách mắng, “Từ xưa vua không nói chơi, ý chỉ ban ra thì hôn sự đã được quyết định rồi.”

    “Nhưng Vân Nhi này”, hắn suy nghĩ một chút rồi không nhịn được hỏi, “Có thật là muội chưa từng gặp Tề vương điện hạ không? Huynh nghe nói cuộc hôn nhân này là do Tề vương điện hạ đích thân cầu xin bệ hạ đấy.”

    Thượng Quan Vân sững người, một gương mặt khá quen thuộc trên Tàng Mai lâu đột nhiên ùa vào trí nhớ của cô. “Khó trách”, cô lẩm bẩm nói, “Bọn họ vốn là huynh đệ cùng cha, mặt mày có nét giống nhau cũng là phải.”

    Trần A Kiều biết được đạo ý chỉ này của Lưu Triệt thì chỉ cười nhạt, bảo Lục Y rút danh thiếp của Thượng Quan Vân ra khỏi đống danh thiếp cao như núi kia rồi không để ý đến nữa. Việc tuyển chọn thái tử phi cho Lưu Mạch đã ngày càng cấp bách. Hôm đó, Lưu Mạch vừa từ điện Bác Vọng trở về thì nội thị thiếp thân Thành Liệt đưa tới một tờ bái thiếp[1], nói là Nhị tiểu thư Thượng Quan Linh của nhà Thượng Quan cầu kiến.

    [1] Bái thiếp: Thiệp thăm hỏi.

    Thượng Quan Linh! Hắn thấy hiện lên trong trí nhớ hình ảnh một thiếu nữ nhu mì điềm tĩnh. Hắn còn thiếu nợ cô một ân tình trong chuyện Lý tiệp dư lần trước nên không nỡ từ chối cô cầu kiến hôm nay.

    Lưu Mạch đang thong thả thưởng thức trà trên lầu Thanh Hoan, nhìn qua cửa sổ trông thấy cỗ xe ngựa màu xanh ngọc của nhà Thượng Quan chầm chậm lăn bánh tới, một thiếu nữ mặc y phục màu xanh dương bị ép phải miễn cưỡng xuống xe, đang muốn nói gì đó nhưng thấy khuôn mặt cầu khẩn của thiếu nữ mặc y phục màu hồng trên xe thì lại thôi.

    “Thật là xấu hổ, ta làm phiền điện hạ rồi.” Thượng Quan Linh cũng biết tỷ muội nhà mình đường đột, lúng túng đến đỏ ửng cả vành tai.

    “Không sao.” Lưu Mạch cười ấm áp, hỏi, “Lệnh tỷ bảo tiểu thư nói gì?”

    Hắn hỏi như vậy chứng tỏ vừa rồi đã trông thấy hết cả. Thượng Quan Linh hơi ngượng ngùng, ấp úng nói: “Thật ra thì cũng không có gì.” Cô không biết rào đón thế nào, đành lấy hết can đảm nói luôn: “Tỷ tỷ nói tỷ ấy không muốn gả cho Tề vương, khẩn cầu Trần nương nương và điện hạ can gián để bệ hạ thu hồi mệnh lệnh đã ban ra.”

    Cô ngừng lại một chút, trông thấy vẻ mặt cao thâm khó lường của Lưu Mạch thì thở dài nói, “Nói vậy cũng biết là khó, nếu điện hạ cảm thấy buồn cười thì coi như chưa từng nghe qua.”

    “Thật ra thì Tề vương điện hạ là hoàng tử được phong làm vương gia chư hầu, tuổi cũng còn trẻ, coi như xứng đôi vừa lứa.” Lưu Mạch mím môi, thản nhiên nói, “Ta không hiểu lệnh tỷ không hài lòng một cuộc hôn nhân như vậy ở chỗ nào?”

    “Hay là lệnh tỷ đã có người khác? Cho dù có như thế thì cũng làm sao sánh được với Tề vương điện hạ cơ chứ?”

    Thượng Quan Linh trầm tư một lát. Người trong mộng của Thượng Quan Vân chẳng phải chính là vị thái tử điện hạ đương triều này sao? Cho dù thế thì đường đường là thái tử điện hạ cũng đâu để ý tới một thiếu nữ có lòng với hắn chứ?

    “Linh Nhi biết ý tứ của Thái tử điện hạ rồi.” Cô mỉm cười đứng dậy, thi lễ muốn cáo lui.

    “Thượng Quan tiểu thứ”, Lưu Mạch hơi bất ngờ, hỏi: “Chuyện của lệnh tỷ dặn bảo, cô định cứ thế là xong sao?”

    “Những gì tỷ tỷ bảo Linh Nhi nói thì Linh Nhi đã nói. Về phần điện hạ có ý giúp đỡ hay không, Linh Nhi không làm chủ được.” Thượng Quan Linh quay đầu lại, thản nhiên nói.

    “Thượng Quan tiểu thư từ trước đến giờ vẫn nhìn thế sự vậy sao?” Hắn khẽ hỏi, nhìn lại thiếu nữ trước mặt, thầm nghĩ dung mạo của Thượng Quan đại nhân trước kia chắc chắn phải đẹp lắm mới để lại hai con gái mỗi người mỗi vẻ thế này. Nếu như nói Thượng Quan Vân là đóa phù dung kiều diễm, thì Thượng Quan Linh chính là đóa hoa sen an tĩnh.

    “Cái gì?” Thượng Quan Linh nghe không rõ lắm.

    “Không có gì.” Lưu Mạch lắc đầu, cười nói, “Thành Liệt, tiễn Thượng Quan tiểu thư xuống lầu.”

    Cuối cùng, người được Thái tử Lưu Mạch chỉ định làm thái tử phi là thứ nữ Thượng Quan Linh của nhà Thượng Quan.

    “Thượng Quan Linh?” Trần A Kiều cũng không có ý kiến gì, chỉ nói: “Thật đúng là trùng hợp, người Lưu Cứ lúc trước chỉ định làm vương phi cũng là con gái nhà Thượng Quan.”

    “Vậy à.” Lưu Mạch mỉm cười để lộ ra vẻ trẻ con cố chấp hiếm khi thấy, “Nhưng cũng không thể nói hắn chọn trước rồi thì con không thể chọn được nữa.”

    A Kiều nhớ tới hai thiếu nữ, một rạng rỡ, một thanh nhã, nói, “Con mắt con tốt hơn Lưu Cứ một chút.”

    “Tuy thành Trường An có rất nhiều thiếu nữ nhưng con lại không tìm được người thực sự hợp ý.” Lưu Mạch mỉm cười, “Còn về Thượng Quan Linh thì nàng có thân phận phù hợp, tính tình cũng thông minh, ít nhất con còn có chút cảm tình với nàng.” Trên thế gian đâu có nhiều thiếu nữ tốt như vậy, dù là có thì còn phụ thuộc vào nhân duyên gặp gỡ, cuối cùng cũng chỉ có thể như thế mà thôi.

    Mùa thu năm Nguyên Đỉnh thứ năm, bệ hạ truyền ý chỉ xuống cho thứ nữ của Tiên phụng thường Thượng Quan Hoài là Thượng Quan Linh nhân ái bao dung, thông minh xinh đẹp xuất chúng được xuất giá làm thái tử phi, thành hôn vào tết Thượng nguyên năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, truy phong Tiên phụng thường Thượng Quan Hoài làm Chất Lăng hầu, mẫu thân của Thái tử phi và Tề vương phi cùng được phong làm Phụng Hoa phu nhân. Bởi vì Thái tử phi và Tề vương phi đều xuất thân từ nhà Thượng Quan gia nên dòng họ Thượng Quan lập tức trở thành niềm ao ước của toàn thiên hạ. Nhưng gia chủ của họ Thượng Quan là Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt đứng trước vinh hạnh đặc biệt này thì lại mặt ủ mày chau, có suy nghĩ khác. Ý chỉ của bệ hạ vừa ban ra, Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt liền dành riêng những căn phòng phía sau hậu viện cho hai muội muội ở.

    Thượng Quan Linh cầm sách ngồi trước cửa sổ, gió đầu thu thổi qua, nhẹ nhàng lật ra một tờ. Tâm trạng cô rối bời, chốc chốc lại thở dài thườn thượt, đặt sách qua một bên. Từ sau khi nhận được ý chỉ, cô như ở trong giấc mộng, không hiểu nguyên nhân vì sao mà mình lại được như thế này. Cô chưa từng nghĩ rằng sẽ có một ngày mình được hoàng gia chọn lựa đưa lên ngôi vị cao quý này hoặc trong tương lai sẽ có một ngày trở thành người phụ nữ cao quý nhất thiên hạ.

    Cô vẫn cho là mình sẽ sống một cuộc đời bình lặng, nghe hoặc không nghe theo lời ca ca mà được gả cho một người cao quý hoặc không cao quý rồi cứ thế mà sống qua một kiếp người. Do đó, cô vẫn xem mình như một người khách nhìn thành Trường An gió thổi mây trôi, người nào thắng, người nào thua cũng không mấy liên quan tới mình. Nào ngờ vận mệnh đột nhiên làm ra một trò đùa lớn, đẩy cô vào nơi thu hút ánh mắt của mọi người nhất. Kể từ lúc này, cô chính là một luồng gió, một áng mây trong chốn gió mây tụ hội đó, chẳng bao giờ có thể thoát ra được nữa.

    Người thiếu niên ở ngôi vị thái tử có nụ cười ấm áp lãng mạn kia dĩ nhiên là rất tốt, nhưng cô chưa từng nghĩ tới sẽ có một ngày như thế này, vẫn chỉ cho hắn là thái tử Đại Hán xa vời vợi, dù tốt đến mấy thì cũng có quan hệ gì tới mình. Nào ngờ bây giờ người có liên quan nhất với hắn trên thế giới này lại chính là cô. Giờ cô nhìn hắn bằng ánh mắt khác, chỉ mới thoáng nghĩ đến, đã đỏ hồng đôi má, nhưng nghĩ thế nào cũng không hiểu được tâm tư của hắn.

    Bảy ngày sau khi xác định người được chọn làm thái tử phi, Trần nương nương cho triệu cô đến điện Trường Môn gặp mặt. “Thân phận thái tử phi tôn quý, đến lúc đó dĩ nhiên sẽ có người tới dạy lễ nghi.” Trần nương nương vẫn dáng vẻ hiền hậu, mỉm cười nói, “Chỉ là Linh Nhi phải nhớ kỹ. Lễ nghi là những điều làm cho qua là được, không ai quá nghiêm khắc. Ta hy vọng sau này con làm chuyện gì cũng phải suy nghĩ trước sau thật kỹ xem chuyện đó có phải với phu quân của con không?”

    Mẹ chồng tương lai nói chuyện thường sẽ dặn dò mấy câu đại loại như: “Hy vọng các con ngày sau hòa thuận.” Chẳng qua chuyện cần làm thì vẫn phải làm, hai bên đều ngầm hiểu lẫn nhau. Song Trần A Kiều nói rất chân tình, cô ngẩng đầu lên nhìn nàng, chăm chú lắng nghe chứ không phải nghe cho có lệ.

    A Kiều cười nhẹ, “Chắc con đang cho là vi nương thương con trai của mình. Mạch Nhi do một tay ta nuôi lớn, ta rất hiểu tính tình của nó. Chỉ cần con không phụ nó thì nó sẽ không dễ dàng phụ con.”

    “Vì vậy, con phải tự trân trọng bản thân mình nhiều hơn.”

    Lời của Trần nương nương về một số việc ở một mức độ nào đó đã vượt qua quan niệm của thế nhân. Sau khi trở về, cô suy nghĩ mấy ngày vẫn cảm thấy chưa thấu đáo, đúng lúc này có thị nữ tới báo Đại tiểu thư đến chơi, cô không khỏi mỉm cười ý vị. Kết quả như thế thì chắc là tỷ tỷ tức giận lắm. Song ngoài dự liệu của cô, Thượng Quan Vân lại không tức giận mà mang nét mặt ảm đạm hơi có vẻ tiều tụy.

    “Linh Nhi, muội nói xem có phải thật sự là không thể phản kháng vận mệnh ư?”, cô hỏi.

    Thượng Quan Vân cũng không biết rằng Tề vương Lưu Cứ ở đất Tề xa xôi nhận được tin tức từ Trường An thì ngạc nhiên một hồi lâu.

    “Thái tử điện hạ làm việc thật không kiêng kỵ”, Ninh Triệt cười khổ nói.

    Con cháu thế gia vốn tuân theo quy củ “Dòng chính, con trưởng, hiền tài”, phụ nữ dù không ở trong đó nhưng trưởng nữ dù sao cũng tôn quý hơn thứ nữ. Lưu Cứ đã cưới Thượng Quan Vân, Lưu Mạch là thái tử lại chọn thứ nữ cùng nhà, quả nhiên không để ý đến miệng lưỡi của người trong thiên hạ.

    “Ninh tiên sinh suy nghĩ nhiều làm gì”, Lưu Cứ cười lạnh nói, “Trong thiên hạ có ai tôn quý hơn được hoàng gia đâu. Vị trí Thái tử đã đủ để Lưu Mạch coi thường những tôn ti ngoài cung Vị Ương rồi.”

    Nhiều năm trước, Vệ Tử Phu, mẹ của hắn từ một ca cơ đi lên vị trí mẫu nghi thiên hạ, mọi người chỉ có thể ao ước chứ nào có ai dám cười nhạo? Chỉ là, tới bây giờ thì Vệ gia đã thất bại hoàn toàn.

    “Nếu như thế thì Thượng Quan Vân chắc chỉ có tác dụng giới hạn mà thôi.” Lưu Cứ trầm ngâm, đoán ra được chọn lựa của Thượng Quan Kiệt, “Ta có nên rút lại cuộc hôn nhân này hay không?”

    “Theo tình thế hiện giờ thì cuộc hôn nhân này vừa có lợi mà vừa có hại, thoái thác hay không là tùy thuộc vào Vương gia, còn theo Ninh Triệt nghĩ thì cứ để nguyên cũng được.”

    “Ồ, vì sao chứ?”

    “Xưa nay đại trượng phu lời hứa ngàn vàng, nếu Vương gia nói một đàng, làm một nẻo, đẩy một thiếu nữ yếu ớt vào tình cảnh khó xử thì e là sẽ bị bệ hạ coi thường.”

    Lưu Cứ đắn đo, chợt nhớ tới dung nhan kiều diễm như hoa sen của thiếu nữ dưới lầu Tàng Mai. Thật ra thì ngay cả bản thân phụ hoàng cũng đâu có coi trọng lời hứa như sinh mạng? Nhưng hắn lại không ở ngôi cao như phụ hoàng, trong lòng lại có khao khát nên không thể nào không kiêng kỵ.

    “Vậy thì mời tiên sinh chỉ cho ta chỗ lợi.”

    “Chính là cái chữ ‘Lợi’ đó,” Ninh Triệt nói vẻ sâu xa: “Người trong thiên hạ đều xu lợi, nếu ngày khác tình thế đảo ngược, những đao kiếm trong nghi trượng của Lưu Mạch sẽ quay lại làm thương tổn chính hắn.”

    “Tiên sinh cao kiến”, Lưu Mạch khẽ mỉm cười, mặc dù không phải là hoàn toàn hài lòng nhưng tạm thời cũng chỉ có thể như vậy.

    Lúc chuyện trong thành Trường An dần lắng xuống thì đã vào cuối thu. Một ngày kia, Lưu Triệt tới đúng lúc điện Trường Môn khởi động lại địa hỏa. Y nhớ tới sự ấm áp trong điện liền quay đầu nhìn A Kiều còn đang ngái ngủ trên giường, nửa mê nửa tỉnh, có một sự quyến rũ khác lạ. Y khẽ cười nhẹ một tiếng, liếc thấy trong cuốn sách A Kiều thường xem có kẹp mấy tờ giấy, chữ viết trên đó đã lâu lắm rồi, có lẽ do chính A Kiều viết. Y tiện tay mở ra xem, bất giác ồ lên một tiếng. Tuy chữ viết trên giấy rất tùy tiện nhưng lại mô tả một số chuyện nhà nông với cách lý giải vô cùng chuẩn xác.

    “Đó là do thiếp chỉnh lý lại vào năm trước”, A Kiều không biết đã dậy từ lúc nào, khoác áo ngồi bên cạnh y, nói: “Thiếp vốn định để tới mùa xuân năm nay sẽ đưa người làm thử xem, nào ngờ mẫu thân và Đàm tỷ lần lượt bệnh nặng nên còn để lại đó.”

    “Sang năm làm thử cũng được mà.” Lưu Triệt nhướng mày nói, ôm lấy, hôn lên má nàng, vui vẻ cười: “Kiều Kiều đã lâu không làm những chuyện này rồi. Trẫm cũng quên là Kiều Kiều luôn có những suy nghĩ mới mẻ.”

    Trần A Kiều vẫn không quen âu yếm khi trời sáng, hơi ngượng nghịu, xẵng giọng, “Đã không còn sớm nữa, bệ hạ không tới điện Tuyên Thất mà định làm hôn quân sao?”

    “Văn hoàng đế nói, việc đồng áng là căn bản của thiên hạ”, Lưu Triệt cười lớn, vung vẩy tờ giấy viết thư, nói: “Chẳng phải trẫm đang xử trí chuyện lớn của quốc gia sao?”

    Tâm trạng y rất sảng khoái, không phải chỉ vì nông nghiệp phát triển sẽ dẫn đến dân giàu nước mạnh, quốc lực của Đại Hán nhất định sẽ tăng lên, mà còn bởi vì những năm gần đây, A Kiều chủ yếu chỉ để tâm đến việc hỗ trợ Tang Hoằng Dương buôn bán khắp thiên hạ để làm đầy quốc khố, đây là lần đầu tiên nàng chủ động chia sẻ gánh nặng việc nước với y.

    Những năm qua y đã sửa chữa và mở rộng cung điện, cộng thêm chinh chiến liên miên khiến sức dân mỏi mệt. Mặc dù Tang Hoằng Dương quản lý tài sản có phương pháp, quốc khố không bị căng thẳng nhưng đã ngầm gặp khó khăn. Nếu nàng có thể bỏ qua phần ngọn là buôn bán, trực tiếp nâng cao gốc rễ của Đại Hán là trình độ nông nghiệp thì dĩ nhiên sẽ giải trừ được mối lo lắng của y. A Kiều chịu làm như thế này cũng là vì có chút thành tâm.

    “Lúc đi tuần thú phương đông thấy nông dân ở Lâm Phần canh tác rất cực khổ nên thiếp định chỉnh lý những thứ này để giúp mọi người một tay.” Nàng mỉm cười nói.

    Nàng trở về Trường An vẫn luôn áy náy nhưng những năm gần đây bọn họ bận nhiều chuyện nên quên mất kế hoạch về nông nghiệp. Chuyện này đối với bọn họ cũng chỉ là tiện tay nhưng lại có thể giúp đỡ nông dân rất nhiều. Tuy thế nàng vẫn hơi thấp thỏm, chần chừ hồi lâu mới hỏi, “Bệ hạ không hỏi A Kiều sao tự dưng lại bày ra chuyện nông nghiệp à?”

    Dù nàng có thể nói ra trăm ngàn lý do nhưng một người vừa được yêu chiều từ bé như nàng lại có thể làm chuyện này thì với tính tình của mình, Lưu Triệt có thể không nghi vấn được sao?

    “Kiều Kiều làm trẫm rất vui”, Lưu Triệt tinh quái nhìn nàng, “Trẫm cứ coi như là ân huệ của trời cao.” Nàng bất giác tức cười.

    “Kiều Kiều nói trước hết phải làm chuyện này”, Lưu Triệt mỉm cười nói, “chỉ riêng như vậy đã rất hay, chẳng lẽ Kiều Kiều có ý định khác?”

    “Đúng vậy”, nàng suy nghĩ một chút, nói: “Thiếp muốn thử nghiệm chuyện trị thủy.”

    Một số kinh nghiệm và kỹ thuật nông nghiệp được nàng chỉnh lý lại từ trí nhớ nên cũng không khó khăn. Hoàng Hà là họa lớn suốt trăm ngàn năm qua của Trung Quốc vẫn chưa giải quyết được. Nó đem lại rất nhiều lợi ích nhưng cũng gây ra tổn hại cực lớn đối với dân chúng. Nếu có thể bắt đầu việc trị thủy từ thời Đại Hán xa xưa này thì có lẽ ngày sau người dân hai bên bờ Hoàng Hà sẽ bình an hơn rất nhiều.

    “Đây có thể là công trình vĩ đại đó.” Lưu Triệt nhận xét.

    “Đúng vậy.” A Kiều bật cười, nói: “Nên giải quyết chuyện trước mắt đã.”

    “Ngày trước thiếp đi du lịch các nước chư hầu từng thấy dùng trâu ngựa cày ruộng thì người nông dân đỡ vất vả hơn rất nhiều. Nếu chế ra một nông cụ kiểu mới để cày đất nhuyễn hơn thì sẽ có thể nâng cao sản lượng.”

    “Vốn là thế này, thật ra thì địa phương thích hợp nhất cho trồng trọt chính là vùng biên giới phía nam. Dải đất Ba Thục và Giang Nam không bị khô hạn như ở đây.”

    “Kiều Kiều nghĩ nhiều rồi”, Lưu Triệt bật cười, “Hiện giờ vùng trung tâm dọc theo Hoàng Hà của Đại Hán còn rất nhiều đất hoang chưa khai khẩn. Trên phương diện này thì phát triển về hướng nam có vẻ không thực tế,”

    “Thiếp biết.” A Kiều khẽ siết chặt nắm tay. Thật đáng tiếc vì đời sau, đó là một vùng phát triển phồn hoa. “Thôi bỏ đi vậy. Thiếp cũng không rõ chuyện này lắm, chỉ biết đại khái thôi.” Nàng nói tiếp, “Có lẽ nên luân phiên canh tác, tập trung vào các loại hoa màu, tập trung vào tưới tiêu, quản lý thật tốt…”

    Nàng mới ngủ dậy nên vẫn còn chưa hết uể oải, trong điện lại rất ấm áp làm đôi má nàng ửng hồng kiều diễm như hoa. Lưu Triệt đứng bên cạnh ngắm nhìn đến say mê, sốt ruột ngắt lời, “Những chuyện này để hôm khác trẫm cho người phụ trách chuyên môn đến nghe nàng giảng giải.” Y là đế vương, mặc dù có hứng thú về nhiều chuyện, kiến thức rộng rãi nhưng lại không quan tâm lắm đến nông nghiệp, cười nói, “Giờ cũng muộn rồi, hôm nay trẫm không tới điện Tuyên Thất nữa, ở lại với Kiều Kiều nhé.”

    Nàng giật mình, ngẩng đầu lên thấy cặp mắt sâu thăm thẳm của y lại xuất hiện vẻ lả lơi quen thuộc thì liền đỏ bừng mặt, gắt gỏng: “Chàng điên rồi, giờ đang là giữa ban ngày ban mặt đấy!”

    “Ban ngày ban mặt thì sao chứ?” Lưu Triệt vẫn ung dung nói “Có ai quy định vào ban ngày nên làm cái gì, không nên làm cái gì đâu chứ?”

    Nô tỳ trong điện cúi đầu, im lặng lui ra, nghe thấy tiếng cười trầm trầm xen lẫn với tiếng mắng khẽ. Qua một lúc, tất cả đều chìm vào an tĩnh.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  7. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 86: Có người dừng chân ngoài vách lắng nghe

    Buổi trưa, Thái tử Lưu Mạch rời điện Bác Vọng đi thẳng tới điện Trường Môn định thỉnh an mẫu thân, nhưng vừa tới ngoài cửa điện đã bị thị tòng ngăn lại.

    “Thái tử điện hạ”, Thành Tục tỏ vẻ lúng túng, bẩm, “Bệ hạ đang ở trong điện, điện hạ không nên vào.”

    Hắn nhìn sang thấy cung nhân đứng cả loạt bên ngoài điện, trong đó có cả Đại nữ quan Lục Y thân cận của mẫu thân, mà bên trong điện lại lặng ngắt như tờ thì chợt hiểu. Hắn không khỏi hơi đỏ mặt lên, rồi lại thầm nghi hoặc, lẽ ra lúc này Lưu Triệt phải ở điện Tuyên Thất xử lý chính sự từ lâu, tại sao còn ở trong điện của mẫu thân. “Vậy ta đi đây.” Hắn mỉm cười căn dặn, “Thành Tục nhớ báo cho mẫu thân một tiếng là ta tới thỉnh an nhé.”

    Từ khi Lưu Triệt tuần thú phương đông trở về, tuy Lưu Mạch ở ngôi cao thái tử nhưng lại không thể phóng tay làm việc như hồi còn là Hoàng tử trưởng. Hắn ghi nhớ lời mẫu thân dặn bảo, trên là để tránh phu hoàng hiểu lầm, dưới là cho thần dân thuần phục, cần phải hết sức cố gắng duy trì cân bằng, mặc dù bề ngoài có vẻ thanh nhàn ít việc nhưng thật ra thì rất cực khổ. Thành Liệt thấy chủ nhân như thế liền bước tới nói: “Điện hạ đã mấy ngày không ra khỏi cung rồi, chi bằng ra ngoài chơi một chuyến đi.”

    “Cũng được.” Lưu Mạch gạt bỏ cảm giác lạnh lẽo mà ngay cả bản thân mình cũng không biết từ đâu xuất hiện ở trong lòng, phấn chấn tinh thần, nói: “Thì đi ra ngoài chơi một chút nào.”

    Xe ngựa lăn bánh lọc cọc trên đường phố Trường An, Thành Liệt khẽ cười nói, “Chủ nhân định đến nhà ai bây giờ? Quý phủ của Công chúa trưởng Phi Nguyệt, nhà của Trường Tín hầu hay là Tang đại nhân?”

    Lưu Mạch lắc đầu, nhăn nhó đáp: “Ta đã đến nhà của những thúc thúc, bá bá, a di này biết bao nhiêu lần rồi, khó lắm mới ra ngoài được một lần, không muốn nghe giáo huấn nữa.”

    Thật ra nói chính xác hơn thì cũng chưa phải là giáo huấn mà chỉ là những lời trêu đùa với ý tốt. Nhất là Tang Hoằng Dương và Lưu Lăng, họ chắc chắn cười bảo: “Mạch Nhi lớn thế này rồi cũng nên lấy vợ đi. Nói không chừng đến sang năm là sẽ có con bế con bồng rồi đấy.” Chỉ cần nghĩ đến đó, hắn đã lạnh run người. Hắn có vẻ giống với mẫu thân, tuy là con trai nhưng da mặt lại rất mỏng trong những chuyện này, vậy nên tất nhiên không chịu tự đưa mình vào tròng.

    “Chẳng lẽ lại đến lầu Thanh Hoan?” Thành Liệt nhăn mặt. Mặc dù lầu Thanh Hoan nấu ăn rất ngon nhưng lần nào cũng đến đó thì còn có ý nghĩa gì nữa.

    “Ai bảo vậy?” Lưu Mạch chợt nổi tính trẻ con, nhớ tới một người liền nói, “Nơi ta định đi lần này là một chỗ chưa từng đến bao giờ.”

    “Thành Liệt”, hắn nghĩ đến liền phì cười, hạ thấp giọng hỏi, “Lần trước ngươi đã đến phủ Thượng Quan, hẳn là còn nhớ phải đi thế nào chứ?”

    “Chủ nhân”, Thành Liệt dừng xe lại ở rất xa trước phủ Thượng Quan Kiệt, hỏi, “Người thật sự định đi gặp Thái tử phi tương lai sao?”

    “Đã tới”, Lưu Mạch chỉ mỉm cười đáp, “thì đương nhiên phải gặp chứ.”

    “Cũng không phải là không thể được.” Thành Liệt có chút khó khăn, “Nhưng chủ nhân và Thái tử phi chỉ là phu thê chưa thành hôn, gặp gỡ thế này cũng hơi kỳ quái.” Mặc dù thời đó chuyện nam nữ gặp nhau chưa phải là nghiêm trọng, nhưng nếu hai người có địa vị cao mà bị đồn đại thì cũng rất phiền phức.

    “Ngươi nói cũng đúng.” Lưu Mạch nháy mắt, “Có ai bảo ngươi là ta sẽ đi vào bằng cửa chính đâu.”

    Hắn bỏ Thành Liệt lại, đi vòng sang cửa ngách phủ Thượng Quan rồi nhẹ nhàng nhảy lên. Thượng Quan Kiệt vốn là võ tướng, trong nhà lại mới có hai hoàng thân nên tất nhiên là có thủ vệ canh gác ngày đêm. Nhưng Lưu Mạch xuất thân từ Triêu Thiên môn, tuy vì thân phận nên không tập luyện võ nghệ nhiều nhưng khinh công cũng không tồi. Hắn tránh thoát tai mắt thủ vệ một cách dễ dàng, chỉ khó khăn là chưa từng tới phủ Thượng Quan nên không biết Thượng Quan Linh ở tại phòng nào. Đang đứng chần chừ nơi hành lang thì nghe phía sau có người quát giật giọng, “Ai?” Hắn quay đầu nhìn lại thì thấy một gương mặt quen thuộc. Hắn đã từng gặp người này. Đó là một trong số những kỵ binh dưới trướng Kỵ đình úy Tiết Thực ngày xưa đi sứ Thân Độc, mặc dù không nhớ tên nhưng đúng là đã gặp.

    “Ngươi được điều từ Phiêu kỵ quân đến Kỳ Môn quân lúc nào?”

    Thị vệ thấy là hắn thì rất kinh hãi, ấp úng, “Hoàng tử trưởng… à, không, Thái tử điện hạ!”

    “Có gì đó?” Đồng đội của hắn từ phía xa hỏi vọng sang.

    “Không, nhìn lầm thôi.” Hắn thấy Lưu Mạch đưa tay ra dấu im lặng liền trả lời lấy lệ.

    Lưu Mạch thoáng đỏ mặt, hỏi, “Thượng Quan Linh ở chỗ nào?”

    Viên thị vệ há hốc miệng. Nhưng Kỳ Môn quân chỉ phụng mệnh bảo vệ Thái tử phi và Tề vương phi tương lai chứ không có lệnh coi Thái tử là đối tượng trong phạm vi phòng vệ, bởi vậy liền đáp, “Ở trong ngôi lầu mới phía bên tay phải kia.”

    Lưu Mạch gật đầu, xoay người rời đi. Viên thị vệ đứng nguyên tại chỗ, suy nghĩ, chẳng lẽ Thái tử điện hạ hâm mộ giai nhân, không nén nổi tương tư nên cố ý tới thăm vị hôn thê chăng. Hắn cười xòa, lắc đầu rời đi. Một đôi tình nhân gặp nhau trong một ngày gió heo may se sắt chẳng phải là chuyện rất thú vị hay sao? Chỉ tiếc cho cô gái Thân Độc với mối chân tình không được đền đáp. Đến giờ hắn vẫn còn nhớ mãi vẻ quyến rũ khi cô cười lúc vừa thức dậy.

    Từ phía lầu trúc sát ngay trên có tiếng đàn văng vẳng, thanh âm tinh tế, uyển chuyển du dương. Mẫu thân và muội muội của Lưu Mạch đều tập đàn nhưng tiếc là không có thiên phú nên có vẻ học không đến nơi, do đó Lưu Mạch cũng không được nghe đánh đàn nhiều lắm. Thiếu nữ chơi đàn mang dáng vẻ thanh nhã. Hình bóng thấp thoáng qua tấm mành, đẹp như một cánh hoa vừa rơi, nổi trên mặt nước tĩnh lặng. Lưu Mạch đi vòng qua tầng tầng thủ vệ, tới trước song cửa lầu của Thượng Quan Linh, chờ một đội thị vệ đi tuần tra qua rồi nhẹ nhàng gõ ngoài cửa sổ.

    Tiếng đàn hơi ngưng lại nhưng một lúc lại vang lên. Cửa sổ hé mở làm vang mấy tiếng cọt kẹt khe khẽ. Thượng Quan Linh giật mình ngừng chơi đàn, đứng dậy bước ra xem. Cô trông thấy một người mà mình tuyệt đối không nghĩ sẽ xuất hiện ở đây.

    “Thái tử điện hạ”, cô khẽ kinh ngạc thốt lên nhưng vội vàng che miệng nhìn chung quanh rồi mới hỏi dồn dập, “Tại sao người lại đến đây?” Cô sợ làm kinh động những người chung quanh nên nén giọng xuống cực thấp.

    Hắn ra hiệu bảo cô mở rộng cửa sổ, tung mình nhảy vào, hú hồn nhìn đội thị vệ vừa tuần tra tới, thở phào một hơi, nói: “Muốn tới nên tới thôi.”

    “Điện hạ”, Thượng Quan Linh trợn tròn hai mắt, nói: “Người là thái tử của Đại Hán thì phải chú ý tới từng lời nói cử chỉ chứ.”

    Ngày trước cô chỉ được đứng xa ngắm nhìn Lưu Mạch, thấy hắn luôn sắm vai một thái tử hoàn mỹ, nụ cười ôn hòa, tựa như đối với ai cũng rất thân thiết nên trong lòng luôn cảm thấy xa cách. Nào ngờ hôm nay cô lại được chứng kiến hắn cũng có dáng vẻ nghịch ngợm như một cậu bé bất kỳ trong lứa tuổi này. Lưu Mạch nhìn cô chằm chằm một hồi rồi chợt cười, nói: “Nếu như thế thì những lời Linh Nhi hôm nay nói với ta có vẻ cũng không hợp quy củ lắm nhỉ?”

    Thượng Quan Linh cứng miệng. Tuy cô được chỉ định làm thái tử phi nhưng vẫn chưa thành hôn, bây giờ vẫn chỉ có thể coi là thân quyến nhà quan, dùng giọng như thế nói với thái tử một nước đúng là không hợp quy củ. Chỉ là, cô bỗng nhiên thấy Thái tử đột ngột xuất hiện trong khuê phòng của mình thì làm sao có thể hành động phù hợp với quy củ cho được?

    “Tiểu thư?” Thị nữ ở bên ngoài loáng thoáng nghe thấy có tiếng động liền lên tiếng hỏi, “Có việc gì thế?”

    Cô vội vàng đáp, “Không có gì. Ngươi lui xuống đi.”

    Về lý, người đang ở trong khuê phòng là vị hôn phu của mình, dù thật sự bị trông thấy thì cũng không có gì đáng ngại, tuy thế cô vẫn không nén nổi chột dạ. Lưu Mạch nhìn cô chân tay luống cuống trả lời câu hỏi của thị nữ, cười nhẹ, “Ta ở bên ngoài nghe Linh Nhi chơi đàn thấy rất hay.” Ít nhất là hay hơn so với mẫu thân và muội muội của hắn, bọn họ đàn không khá hơn tiếng bật bông là bao nhiêu, nhưng vì đó là những người hắn yêu thương nên vẫn nguyện ý lắng nghe.

    “Sao ta nghe tiếng đàn hơi bối rối.” Hắn để tay lên ngực hỏi.

    Thượng Quan Linh trầm ngâm một lát. Bởi vì tiền đồ vẫn còn mờ mịt cho nên tâm hồn cô mới bối rối, nhưng sao có thể nói thành lời? Cô từ từ cúi đầu xuống, cảm giác như mặt đang nóng bừng. Không phải cô chưa từng nói chuyện mặt đối mặt với người thiếu niên này, chỉ là thân phận đã thay đổi nên mới có cảm giác hoàn toàn khác trước. Cô cảm thấy nỗi ngượng ngập đã hoàn toàn lấn át lý trí, vân vê tà áo, chậm rãi nói, “Điện hạ, người…” Khóe mắt cô nhìn thấy khuôn mặt trẻ trung kia cũng hơi ửng đỏ, liền thoáng ngạc nhiên, bất giác buồn cười.

    Thì ra không riêng một mình cô có cảm giác như thế? Cô nghĩ thông suốt điểm này liền trấn tĩnh lại, hỏi, “Điện hạ có thể nói cho Linh Nhi biết vì sao điện hạ lựa chọn Linh Nhi được không?” Trong kinh thành có biết bao thiếu nữ tốt hơn, xinh đẹp hơn, cao quý hơn. Hắn là một vị thái tử điện hạ ngồi trên cao, tại sao lại chọn một thiếu nữ không quá nổi bật như cô?

    “Bởi vì”, hắn nhìn cô âu yếm, “Linh Nhi biết tôn trọng bản thân mình, hơn nữa tâm hồn lại rất bình lặng.”

    “Linh Nhi không hiểu.”

    “Biết tôn trọng bản thân sẽ không dễ để mình bị thương tổn, tâm hồn bình lặng sẽ không làm cho người khác chán ghét.” Hắn nói nhẹ, “Linh Nhi rất giống mẫu thân của ta ở hai điểm này.”

    Cô thầm thở dài một hơi, đang định lên tiếng thì chợt nghe thấy bên ngoài hành lang có tiếng bước chân khiến cả người cứng đờ.

    “Linh muội”, Thượng Quan Kiệt ở ngoài cửa gọi vào, “Muội có ở đó hay không? Ca ca có lời muốn nói với muội.”

    Lưu Mạch cũng sững lại. Dù hắn nhất thời nổi lòng tinh nghịch muốn tới gặp vị tiểu hôn thê của mình nhưng không muốn bị bắt gặp, nhất là người ca ca này của Thượng Quan Linh. Thượng Quan Linh mím miệng, chỉ vào tấm bình phong ở trong phòng. Tiếp đó cô ra mở cửa, mỉm cười mời ca ca vào: “Ca ca muốn gặp tiểu muội vì việc gì vậy?”

    Thượng Quan Kiệt có điểm khác với thị nữ của Thượng Quan Linh lúc trước là tinh thông võ công. Lưu Mạch nén hơi thở, nghe thấy Thượng Quan Kiệt đi vào rồi bỗng nhiên quỳ xuống, sau đó là tiếng Thượng Quan Linh kinh hãi hô lên, “Ca ca đừng làm thế!”

    “Linh Nhi”, Thượng Quan Kiệt mỉm cười nói, “Năm sau muội sẽ là thái tử phi, ca ca quỳ trước mặt muội thế này cũng đúng mà. Những năm qua, mặc dù ta không quá thương muội nhưng cũng chưa bao giờ bạc đãi. Mai này muội được gả cho Thái tử điện hạ, cả họ tộc Thượng Quan nhất định sẽ dồn toàn bộ lực lượng trợ giúp Thái tử điện hạ làm việc. Muội muội cũng cần phải nhớ bảo vệ họ tộc Thượng Quan được bình an.”

    “Ồ”, một lát sau Thượng Quan Linh mới ồ lên một tiếng, giọng hơi trào phúng, “Thì ra ca ca muốn nói điều này. Nhưng Thái tử điện hạ bây giờ đã có địa vị vững chắc thì đâu còn cần ca ca ra sức nữa?”

    “Linh muội còn cần ca ca phải nói rõ hơn sao?” Thượng Quan Kiệt cười nói, “Mọi việc không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất. Huống chi, cho dù Thái tử điện hạ có địa vị vững chắc thì muội muội sẽ thế nào?”

    “Chốn hậu cung xưa nay phi tần tranh đấu, nếu muội muội không có ngoại thích hỗ trợ thì nhất định sẽ phải chịu thua thiệt đấy.”

    Nàng lại ồ lên một tiếng rồi hỏi dồn, “Ca ca lựa chọn giúp muội, vậy tỷ tỷ thì sao?”

    “Vân Nhi”, Thượng Quan Kiệt hơi lưỡng lự, “Chỉ cần Tề vương an phận thì tự nhiên muội ấy sẽ cả đời vinh hoa.”

    Thượng Quan Linh cười lạnh. Hai người đều hiểu rõ trong lòng rằng Tề vương có khả năng an phận được hay sao?

    “Được rồi, muội biết.” Cô cúi đầu nói: “Ca ca để cho muội suy nghĩ thêm đã.”

    Cô nhìn Thượng Quan Kiệt lui ra ngoài, trong lòng vẫn ngổn ngang suy nghĩ. Không biết qua bao lâu, cô chợt giật mình, nhìn lại trong phòng, đã không thấy bóng dáng Lưu Mạch đâu nữa. Hắn đến lặng lẽ, đi cũng lặng lẽ sao? Cô cảm thấy hơi hụt hẫng, bước ra sau tấm bình phong thì chợt gặp ánh mắt của hắn, giật thót người kinh hãi. Cô quen thấy nét mặt ôn hòa của thiếu niên này mà dần quên mất rằng dù sao đó cũng là con của bệ hạ. Thời khắc ấy, ánh mắt Lưu Mạch lóe lên cũng sắc bén như của bậc đế vương ở trong điện Tuyên Thất kia.

    “Điện hạ”, cô gọi mà trong lòng vẫn hơi kinh sợ.

    “Ừ?” Hắn đáp khẽ rồi bất chợt cười một tiếng đầy hàm ý, nói: “Thê tử của ta thì ta sẽ tự mình bảo vệ, không phiền Thượng Quan Kiệt phải phí tâm.”

    Thượng Quan Linh lặng người, bàn tay đang vén rèm đờ ra khiến tấm rèm từ từ buông xuống. Rời phủ Thượng Quan dễ dàng hơn nhiều so với lúc vào. Lưu Mạch đi chầm chậm trên đường, thầm suy nghĩ việc Thượng Quan Kiệt chọn lúc này để tỏ lòng trung thành với Thượng Quan Linh là tình cờ trùng hợp hay là vì biết mình ở trong phòng Thượng Quan Linh? Người thị vệ hắn gặp ở trong phủ Thượng Quan có báo tin cho Thượng Quan Kiệt hay không?

    Hắn lắc đầu thôi không suy nghĩ thêm, nhìn thấy Thành Liệt liền bảo, “Thành Liệt, trở về thôi.”

    “Chủ nhân.” Thành Liệt giật mình quay lại, thấy hắn liền thở phào, mặt mày tươi rói hỏi: “Có gặp được Thái tử phi không?”

    Lưu Mạch hừ lạnh một tiếng, bước luôn lên xe rồi quay đầu lại ra lệnh, “Cấm không được nói cho ai biết chuyện hôm nay.”

    Nếu để cho mẫu thân và Tảo Tảo biết được thì chắc chắn không còn mặt mũi nào gặp ai nữa. Chợt hắn chăm chú nhìn vào một thiếu nữ đang từ đằng xa đi đến trước phủ Thượng Quan, thậm chí không nghe thấy cả tiếng Thành Liệt vâng dạ. Thiếu nữ kia chừng mười bảy mười tám tuổi, vận một bộ y phục màu vàng nhạt, tuy không quá sang trọng nhưng tốt hơn bình thường rất nhiều, dung nhan quyến rũ. Cô nói với đám thủ vệ nhà Thượng Quan: “Ta xin gặp nhị tiểu thư nhà các ngươi có được không?”

    Tên thủ vệ dò xét nhìn cô một lượt từ trên xuống dưới, hỏi gắt gỏng: “Ngươi là ai? Nhị tiểu thư nhà chúng ta là thái tử phi tương lai, thân phận cao quý, hà cứ muốn gặp là có thể gặp được hay sao?”

    “Là cô ấy!” Lưu Mạch buột miệng thốt lên.

    “Chủ nhân biết cô gái này à?” Thành Liệt tò mò hỏi.

    Lưu Mạch không đáp lại, ra lệnh, “Ngươi đến dẫn cô ấy tới đây.”

    Ở đằng xa, thiếu nữ nghe Thành Liệt hỏi bèn nhìn sang, thấy là hắn, lập tức gọi to, “A Trinh.” Gọi xong, cô liền xốc tà váy chạy qua phố. Cô có dung nhan quyến rũ, hành động lại vô cùng tùy ý nên lập tức khiến không ít người nhìn theo. Lưu Mạch thở dài, nói: “Cô vẫn cứ tùy tiện như vậy, Diễn Na.”

    “Chắc ta vĩnh viễn cũng không thay đổi được đâu.” Diễn Na vốn đang cực kỳ vui mừng bỗng buồn như đưa đám, cúi đầu nói: “Ta nghe nói A Trinh muốn kết hôn với nhị tiểu thư nhà này.”

    “Đúng vậy.” Lưu Mạch bình thản đáp, “Nàng tên là Thượng Quan Linh.”

    “Thượng Quan Linh?” Diễn Na khẽ nhắc lại cái tên này, “Tên rất dễ nghe, cô ấy nhất định là một cô gái rất tốt nhỉ? Chắc ít nhất cũng tốt hơn ta nên ngươi mới bằng lòng cưới cô ấy phải không?”

    “Sao nói vậy được chứ”, Lưu Mạch lắc đầu, dường như thấu hiểu tâm sự của cô, “Cả hai đều có điểm tốt.” Thế gian này, nếu như có người khát nước tới ba ngày, nhìn thấy một bình nước trước mắt thì dĩ nhiên phải lựa chọn.

    “Cô tới đây là để…?” Hắn mỉm cười hỏi.

    “Ta chỉ muốn xem người con gái được A Trinh lựa chọn rốt cuộc thế nào mà thôi.” Diễn Na cười khẽ. Mấy năm sống trong nhà Hán, cuối cùng cũng làm người thiếu nữ Thân Độc vốn không hiểu biết gì về những u sầu trên thế gian này bị lây nhiễm một thoáng bi ai. “Tuy vậy, có thể gặp được A Trinh là niềm vui ngoài ý muốn rồi.” Cô nghĩ tới ý tứ ẩn sau việc Lưu Mạch xuất hiện ở nơi này, thì trong lòng hiện lên một chút chua xót, cuối cùng nhướng mày nói, “A Trinh yên tâm, ngươi đã thành thân rồi thì ta sẽ không nhớ ngươi nữa.”

    “Như vậy”, Lưu Mạch lưỡng lự giây lát rồi buông xuôi: “cũng tốt.”

    Ngày mười lăm tháng Giêng năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Thái tử Lưu Mạch thành thân với thứ nữ nhà Thượng Quan là Thượng Quan Linh. Lúc này đang là tết Nguyên tiêu, Lưu Mạch là hoàng tử đầu tiên của triều Hán Vũ Đế đón dâu. Thân phận thái tử của hắn cao quý nên hôn lễ vô cùng long trọng, cứ đầu mỗi con phố từ phủ Thượng Quan đến cung Vị Ương là có một điểm bắn pháo bông. Dân chúng thành Trường An nói chuyện say sưa, những người già nhớ lại hồi năm Hoàng thượng còn là thái tử cưới Quận chúa Đường Ấp làm vợ cũng phô trương như vậy.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  8. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 87: Thiên hạ kính trọng điện Trường Môn
    Con trai trưởng thành hôn, Lưu Triệt và Trần A Kiều là cha mẹ nên tất nhiên phải đến dự nhưng không ở lại cuối cùng. Trở lại điện Trường Môn, Lưu Triệt thấy A Kiều tâm trạng không vui liền hỏi, “Kiều Kiều làm sao vậy?”

    “Thiếp thấy phiền muộn.” A Kiều đáp vẻ bất an, “Rõ ràng ngày hôm qua vẫn cảm thấy là Mạch nhi còn nhỏ, chớp mắt một cái, con trai đã thành thân rồi. Cứ thế mà tính thì hóa ra thiếp đã già rồi sao?”

    Đứa con trai mà mình hết lòng yêu thương đã cưới một cô gái xa lạ nên trong lòng nàng rất không nỡ. Có phải mỗi người mẹ đều từng trải qua tâm trạng như vậy không?

    Lưu Triệt cười lớn, vén mái tóc đen dày của A Kiều lên, âu yếm hôn nàng rồi nói: “Dung nhan Kiều Kiều vẫn như xưa, đâu thấy già đi chút nào?” Y nói vậy cũng không phải để an ủi nàng. Tính ra thì Trần A Kiều không còn trẻ nữa nhưng nàng lại già đi rất chậm, dung nhan hiện giờ vẫn hết sức rạng rỡ không hề thua kém thời thiếu nữ.

    Ngày hôm sau thì Thái tử phi vừa được gả phải vào cung thỉnh an, Thượng Quan Linh vốn là người khéo ăn ở, không hề để xảy ra sai sót về mặt quy củ lễ nghi. Từ nay về sau, bốn mươi tám điện của cung Vị Ương chính là nhà của cô. Chốn phồn hoa gấm vóc này là niềm khao khát nhưng cũng là mồ chôn tuổi thanh xuân của vô vàn thiếu nữ.

    “Từ nay về sau, con phải tự mình sống cho tốt.” Trần A Kiều tươi cười căn dặn.

    “Linh nhi biết.” Cô ngoan ngoãn đáp rồi quay sang nhìn phu quân mới cười. Trong khoảnh khắc đối mặt, má cả hai đều đỏ bừng.

    Lưu Triệt hạ chỉ cho Thái thương lệnh Triệu Quá phụ trách nông nghiệp trong triều áp dụng những phương pháp nông nghiệp mới trên ruộng thí nghiệm ở vùng lân cận kinh thành. Triệu Quá vốn xem thường Trần nương nương là cành vàng lá ngọc thì không hiểu biết gì về nông nghiệp. Sau khi Trần nương nương xuất cung, giảng giải về hai phép quảng canh và thâm canh thì hắn mới thay đổi quan điểm, vô cùng khâm phục nàng.

    “Hạ quan cũng từng trông thấy cảnh dùng súc vật cày ruộng, đúng là tiết kiệm được rất nhiều sức lực nhưng lại không mấy thuận tiện. Hơn nữa, tuy là phép quảng canh, thâm canh rất tốt nhưng nếu sức dân có hạn, không thể nào duy trì được cách làm này thì đúng là phụ ý tốt của nương nương mất rồi.”

    “Vì thế nên mới cần thử nghiệm trước ở kinh thành một năm.” Trần A Kiều mỉm cười nói, “Hơn nữa, chỉ cần chế tạo nông cụ thích ứng thì dùng trâu cày sẽ rất tiện lợi.”

    Đến cuối tháng Hai bắt đầu vào mùa xuân thì cày đôi kiểu dáng mới và máy gieo hạt đã chế tạo xong. Triệu Quá chọn một vùng đất tại khu vực quanh kinh thành để áp dụng phép quảng canh theo cách của Trần A Kiều, đồng thời dùng trâu bò cày ruộng thật nhuyễn, gieo giống tưới nước, quả nhiên tiết kiệm được rất nhiều sức lực. Thượng Quan Linh theo A Kiều đi xem một lần, như có điều suy nghĩ, hỏi A Kiều: “ Có phải năm trước mẫu thân thấy nông dân ở Lâm Phần cực khổ nên nảy ra ý bảo bệ hạ xúc tiến nông nghiệp phải không?”

    “Đúng vậy.” A Kiều nhẹ nhàng đáp. Những chuyện nàng có thể làm được cũng chỉ đến thế. Nếu bảo nàng thực sự xắn tay áo xuống ruộng làm việc là chuyện không thể nào. Khi còn bé nàng đọc sách sử rằng các bậc đế vương coi trọng nông nghiệp cũng từng xuống ruộng làm gương cho thiên hạ, nhưng theo như nàng thấy thì Lưu Triệt không bao giờ làm được điều này.

    “Con vốn cho rằng làm phụ nữ chỉ cần hầu hạ phu quân cho tốt là được.” Thượng Quan Linh bất giác thở dài nói, “Hôm nay thấy mẫu thân có thể chia sẻ gánh nặng với bệ hạ mới biết, chí hướng của phụ nữ cũng không chỉ giới hạn trong khuê các mà còn lợi ích khắp thiên hạ. Mẫu thân đại tài, nhi thần bái phục!”

    Chớp mắt đã đến tháng Ba, cũng sắp tới thời điểm kết hôn của Tề vương Lưu Cứ. Lưu Cứ dù sao cũng là con nối dòng của bệ hạ, là chư hầu một phương, nên quan lại từ đế đô Trường An cho tới đất Tề đều rục rịch đưa tỷ tỷ của Thái tử Phi, em gái lớn của Thượng Quan Kiệt là Thượng Quan Vân tới đất Tề làm lễ cưới. Đến ngày hai mươi ba tháng Ba, đội ngũ rước giá phải rời Trường An lên đường để kịp đến nơi vào thời hạn kết hôn trong tháng Năm. Ngày hôm đó, thị nữ thiếp thân Trúc Tâm của Thượng Quan Vân từ trong khuê lầu của Thượng Quan Vân hốt hoảng chạy ra tìm Thượng Quan Kiệt, khóc váng lên rồi quỳ sụp xuống bẩm báo: “Thiếu gia, Đại tiểu thư… không thấy đâu nữa.”

    Mấy tháng đã qua kể từ khi muội muội gả cho Thái tử điện hạ đương triều mà Thượng Quan Kiệt vẫn chưa hết đắc ý. Tuy hắn cũng hơi lo lắng về chuyện Thượng Quan Vân bị gả cho Tề Vương nhưng xét tạm thời thì cuộc hôn nhân này đối với Thượng Quan gia cũng coi như là dệt hoa trên gấm. Đến cuối cùng, dù cho hoàng tử nào đăng cơ thì hắn cũng là ngoại thích nắm quyền cao nhất, lấn át cả triều đình. Bây giờ lại nghe Trúc Tâm báo như vậy thì bỗng nhiên lạnh toát cả người, giận dữ hỏi, “Ngươi nói gì?”

    “Nô tỳ biết Đại tiểu thư vẫn luôn không chịu gả cho Tề Vương điện hạ.” Trúc Tâm khóc lóc kể lể, chuyện đã đến mức này cô còn e ngại gì nữa mà không kể hết ra: “Nhưng nô tỳ lại không thể nào ngờ được là Đại tiểu thư lại có ý đào hôn. Hôm tết Nguyên Tiêu, Đại tiểu thư ngồi lặng trước song cửa sổ cả ngày, một mực khóc ròng, nhưng không cho nô tỳ nói với thiếu gia. Đến bây giờ thì thời gian thành hôn đã tới. Buổi sáng hôm nay, nô tỳ tới hầu tiểu thư rửa mặt, nào ngờ tiểu thư đánh nô tỳ ngất xỉu rồi đổi y phục của nô tỳ trốn ra ngoài. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, nô tỳ có nghe Đại tiểu thư nói là dù chết cũng không chịu gả cho Tề vương, dặn thiếu gia và Thái tử phi điện hạ bảo trọng. Sau đó nô tỳ tỉnh lại thì không thấy tiểu thư đâu nữa nên vội tới bẩm báo cho thiếu gia.”

    Thượng Quan Kiệt chết điếng người, vô lực ngã ngồi xuống ghế. Việc không thấy thị vệ canh cửa Vân lâu tới bẩm báo với hắn là Thượng Quan Vân giả dạng thị nữ xuất phủ cho thấy rằng Thượng Quan Vân đã trốn thoát, không cần phải hỏi nữa. Dù sao thì thị vệ cũng chỉ để phòng người ngoài xâm nhập chứ nào ai nghĩ rằng một thiếu nữ sắp trở thành Tề vương phi tôn quý lại muốn chạy trốn chứ? Hân vẫn biết lòng trưởng muội luôn hướng về Thái tử điện hạ nhưng chưa từng nghĩ rằng Thượng Quan Vân lại là một thiếu nữ cương cường, hoặc nói cách khác là đơn thuần đến ngu xuẩn, đến mức dùng phương thức quyết liệt như vậy để cự tuyệt. Hơn nữa cô là một tiểu thư quyền quý mà lưu lạc ở bên ngoài thì sao có thể sống được an toàn?

    Chuyện này không thể che giấu nên Thượng Quan Kiệt bảo thê tử vào cung cầu kiến Thái tử phi, bản thân mình thì tới phủ Chiêm sự quỳ xuống nhận tội không dạy được muội muội và xin bị trừng phạt. Thượng Quan Linh biết được chuyện này thì trong lòng cả kinh, tay cầm chén trà run rẩy đánh đổ mất hơn một nửa.

    “Ra là vậy.” Cô tự nhủ, “Chẳng lẽ tỷ tỷ cũng yêu Thái tử điện hạ?”

    Trong lòng cô vẫn cảm thấy khó hiểu. Cô luôn cho rằng Thượng Quan Vân đối với Lưu Mạch chẳng qua là thiếu nữ hoài xuân gặp thiếu niên anh tuấn nên ôm ấp ảo mộng, nào ngờ vì tình cảm này mà Thượng Quan Vân chịu trả giá nhiều như vậy, vứt bỏ cuộc sống nhung lụa đã quen thuộc từ tấm bé, làm nghịch ý ban hôn của bệ hạ, thậm chí không nề hà cả việc làm liên lụy đến ca ca. Nhưng ngay cả như thế thì cũng có kết quả gì chứ? Không hề nhìn thấy một tia hi vọng nhưng vẫn làm, chứng tỏ tỷ tỷ quyết liệt đến nhường nào.

    Bệ hạ biết chuyện này thì nổi giận lôi đình, phạt Thượng Quan Kiệt một trăm trượng, tước tất cả chức vụ. Thượng Quan Linh là Thái tử phi cũng liên lụy, bị quản chế trong điện Bác Vọng.

    “Điện hạ”, Thượng Quan Linh sợ mất mật, hỏi Lưu Mạch:”Bệ hạ sẽ xử lý tỷ tỷ như thế nào?”

    “Chuyện này sao mà biết được”, Lưu Mạch chau mày nói, “tốt nhất là Thượng Quan Vân đừng để bị tìm thấy.” Nếu không, ngay cả hắn cũng không dám chắc sẽ cứu được Thượng Quan Vân từ trong tay phụ hoàng.

    Tất cả mọi người đều cho rằng Thượng Quan Vân quen sống giữa nhung lụa nên chắc sẽ chỉ trốn đi không quá một ngày. Cô lại không hiểu thế sự thì làm sao có thể tránh được sự truy tìm gắt gao của Kỳ Môn quân. Nào ngờ Kỳ Mông quân không ngừng truy tìm trong vòng nửa tháng, lật tung cả thành Trường An nhưng thiếu nữ xinh đẹp đó lại giống như hơi nước biến mất trong không khí. Ba tháng sau, Tề Vương Lưu Cứ cưới một thiếu nữ con nhà thế gia khác làm vợ. Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt nhờ chuyện này mà được phục chức lại, nhưng đó là chuyện của ba năm sau. Cũng từ đó, Thượng Quan Vân trở thành một cái tên bị kiêng kỵ trong thành Trường An. Nhiều năm sau, mọi người mới gặp lại cô, nhưng đó là chuyện còn xa xôi.

    Rất lâu sau, những người già trong thành Trường An vẫn còn thổn thức nhắc tới chuyện lập lại Hiếu Vũ Trần hoàng hậu vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu. “Chuyện phế hậu rồi lại lập lại quả thật hiếm thấy trong lịch sử Hoa Hạ.”

    Song người phụ nữ là Hiếu Vũ Trần hoàng hậu kia được thế gian xưng là Hiền hậu[1], người phụ nữ tốt như vậy thì cần phải được đối xử tương ứng. Vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Hiếu Vũ Trần hoàng hậu được phục vị. Trong suốt hai mươi bốn năm sau đó, Hoàng đế và Hoàng hậu luôn ân ái mặn nồng. Khi triều đại Hán Vũ huy hoàng qua đi, thiên hạ chỉ biết có Hiếu Vũ Trần hoàng hậu mà dần dần quên lãng người phụ nữ họ Vệ cũng đã từng được ca ngợi là truyền thuyết của cung Vị Ương. Người đời chóng quên cũng là lẽ thường.

    [1] Hiền hậu: Vị hoàng hậu đức hạnh, tài năng.

    Trần hoàng hậu được phục vị nhưng không trở về điện Tiêu Phòng mà ở lại cung Kiến Chương. Nhà Hán truyền ngôi được hơn bốn trăm năm, mấy chục vị hoàng đế đời sau đều tôn điện Trường Môn làm Trung cung. Từ Thượng Quan hoàng hậu trở xuống, Hoàng hậu đời sau nào cũng thích ở điện Trường Môn để nhớ về một đời Hoàng đế và Hoàng hậu ân ái mặn nồng nhưng sống cách nhau cả trăm năm nên cũng chẳng thể biết rõ về tâm tình thật sự của đôi vợ chồng luôn gắn bó với nhau như hình với bóng đó.

    Cuối tháng Bảy năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thì Lưu Triệt về ở hẳn trong cung Kiến Chương. Mùa thu vừa chớm, một ngày y vô tình bị cảm lạnh. Y xưa nay vẫn khỏe mạnh nên tuy uống mấy thang thuốc để chiều ý A Kiều nhưng bản thân lại không mấy để tâm, song qua mấy ngày vẫn không thấy đỡ. Một hôm, y đang xử lý công việc trong điện Tuyên Thất thì nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng nhưng khẩn trương ở bên ngoài. Trung thư lệnh Chu Kiệt mặt mày tái nhợt đi vào quỳ bẩm, “Bệ hạ, Tây Khương phản rồi!”

    Lưu Triệt nhíu mày, gấp mạnh bản tấu chương trong tay, đứng phắt dậy, nghiến răng, cười lạnh nói, “Bọn chúng thật to gan!” Y đang muốn nói tiếp thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, trước mắt tối sầm, cả người đổ vật xuống. Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý ở một bên thấy thế thì sắc mặt trong phút chốc còn trắng hơn cả giấy, xộc tới nâng dậy, hét lên the thé: “Bệ hạ!”

    Chu Kiệt ngớ người ra một lát mới khôi phục thần trí, hét vang “Mau tuyên ngự y!” Cung nhân trong điện bấy giờ mới tỉnh ra, hoảng loạn chạy đi.

    Sắc mặt Chu Kiệt trắng bệch. Phải biết rằng tuy Tây Khương làm phản nhưng bọn họ ở biên thùy xa xôi, chẳng qua chỉ là họa nhỏ. Lưu Triệt lại đang là trụ cột của Đại Hán, nếu nằm xuống thì Đại Hán tất yếu sẽ dậy sóng. Từ sau năm Tuyên Quang, Hoàng đế trong điện Tuyên Thất dần dần bộc lộ tài năng, phong cách hành xử luôn sát phạt khốc liệt, quyết đoán tàn ác. Trong lòng mọi người, hình tượng của y cao vời không thể xâm phạm, dù là thần tử hay cung nhân của y đều chưa bao giờ nghĩ tới bệ hạ của họ sẽ có ngày đột nhiên ngã xuống. Song Lưu Triệt đích xác là đã bị bệnh, hơn nữa bệnh tình còn vô cùng trầm trọng. Y ho đến khàn giọng, không thể xử lý công việc nhưng trong lúc ngự y trị liệu vẫn lạnh giọng ra lệnh, “Chỉnh đốn ba quân, mau sớm đạp bằng Tây Khương.”

    “Bệ hạ”, trên trán ngự y toát mồ hôi, khom người bẩm, “Bệ hạ bị cảm lạnh lúc trước còn chưa khỏi, lúc này lại lửa giận công tâm nên mới đột nhiên choáng váng.”

    “Trẫm không muốn nghe điều này”, Lưu Triết cười lạnh nói, “Ngươi cứ nói thẳng cho trẫm biết bao lâu mới khỏi?”

    “Điều này”, ngự y không khỏi chần chừ, trên thực tế, Lưu Triệt lúc còn nhỏ đã tập qua cưỡi ngựa bắn cung, đấu kiếm, sau khi trưởng thành lại thích săn bắn nên cơ thể cường tráng, trước đây rất ít bị bệnh. Nhưng chính vì thế một khi phát bệnh sẽ rất nặng.

    “Cũng phải điều dưỡng một thời gian.” Ngự y nói ngắn gọn.

    Lưu Triệt nhướng đôi mày lưỡi mác, đang định nổi giận thì vừa lúc Dương Đắc Ý khom người ngoài mành bẩm, “Bệ hạ, Trần nương nương đến.”

    Y sững lại, hạ giọng nói với ngự y: “Ngươi lui xuống trước đi.” Ngự y ngầm thở phào, có cảm giác vừa sống sót dạo qua một vòng trước Quỷ Môn quan. Lão vừa quay ra thì đúng lúc Trần nương nương đang vén rèm vào điện.

    “Triệt nhi.” A Kiều trông thấy Lưu Triệt mặt xám ngoét nằm trên giường thì không khỏi nhíu mày lo lắng thốt lên. Nàng đưa tay ra định bắt mạch thì nghe thấy tiếng Lưu Triệt mỉm cười trấn an, nói: “Không có chuyện gì đâu.” Y vừa nói xong lại cong người ho sù sụ.

    “Mạch mấy ngày trước còn tốt.” Nàng chậm rãi nói. Hôm nay, mạch của y đập yếu mà nhanh, cũng may chứng bệnh rõ ràng, gốc bệnh không sâu.

    “Ta kê đơn thuốc này cho bệ hạ.” Nàng thu tay lại, không tin vào mấy ngự y mà lấy giấy bút viết ra phương thuốc.

    “Thuốc này…”, ngự y nhìn phương thuốc, chần chừ nói, “có quá mạnh không?”

    “Đúng vậy.” Trần A Kiều gật đầu nói: “Thuốc mạnh để trị bệnh, điều dưỡng bằng thức ăn.”

    “Bệ hạ?” Nàng hỏi ý Lưu Triệt.

    Lưu Triệt gật đầu, nói: “Trẫm tin Kiều Kiều.”

    Bệ hạ cũng đã nói vậy thì người của Ngự y thự không còn dị nghị gì nữa. Chén thuốc sắc xong được bưng lên có màu nâu đen, mùi vị đắng ngắt. Lưu Triệt khẽ nhíu mày uống một hơi cạn sạch và chiêu một ngụm nước sạch xúc miệng rồi bảo, “Đưa trà lên.”

    Dương Đắc Ý khom người vâng dạ, đang định truyền lệnh xuống tiếp thì thấy Trần A Kiều lắc đầu, nói: “Không được, trà giải dược tính, không thể uống.” Hắn quay sang nhìn Lưu Triệt vẻ dò hỏi.

    “Thôi bỏ đi.” Lưu Triệt khẽ mỉm cười, “Dù sao, nói về trà đạo thì có ai tinh thông hơn Kiều Kiều của trẫm chứ?” Y ho khan vài tiếng, nhìn Trần A Kiều, cười ý vị, “Bao nhiêu năm qua trẫm đã thành thói quen uống trà do Kiều Kiều sao, một ngày không uống thì cảm thấy trong người rất khó chịu.”

    Nàng nhấm nháp ý tứ trong lời nói của y, duyên dáng cười, nói: “Có thể nói đó là vinh hạnh của thiếp được không?”

    Hoàng đế bệnh nằm trên giường, những hoàng tử công chúa còn ở trong cung đều tới thăm. Sau đó Lưu Triệt về nghỉ ở điện Trường Môn. Cũng không biết vì địa long trong điện Trường Môn ấm áp hay vì dược tính mạnh mẽ mà y cảm thấy mình thiếp đi, người nóng hầm hập. Y trằn trọc đến nửa đêm thì toàn thân toát mồ hôi, mãi tận gần sáng mới ngủ say. Theo thói quen nhiều năm, lúc y tỉnh dậy thì sắc trời vẫn còn rất sớm, nhưng giai nhân đã không còn bên cạnh. Từ hồi A Kiều quay về Trường Môn vào năm Nguyên Sóc thứ sáu thì y đã biết nàng không quen dậy sớm, sau khi nàng bị thương vào năm Nguyên Thú nguyên niên lại càng như vậy. Song vào ngày hôm nay, nàng lại dậy sớm hơn y. Cung nhân hầu y rửa mặt xong liền mang cháo loãng vào cho y.

    “Người vừa khỏi bệnh cần ăn những món ăn thanh đạm.” A Kiều vén rèm đi vào, mỉm cười nói.

    Y niếm thử một miếng thấy mùi vị cực ngon thì chợt động tâm, cười hỏi, “Kiều Kiều tự mình nấu phải không?”

    Nàng ngạc nhiên, hỏi lại: “Sao bệ hạ lại suy nghĩ như vậy?”

    Lưu Triệt khẽ ho vài tiếng, đưa tay vuốt mấy sợi tóc xõa ra thái dương của nàng, âu yếm nói, “Má nàng bị vương khói dầu rồi.”

    Khuôn mặt A Kiều thoáng ửng đỏ, ngượng ngùng quay đi không đáp, lại nói, “Hạt ý dĩ tính ôn, nhân hạt thông cũng rất tốt cho cơ thể. Bệ hạ ăn vào một lần sẽ thấy.” Dù như thế nào thì nàng vẫn luôn mong y không xảy ra việc gì. Lưu Triệt cúi đầu cười mấy tiếng, mặc dù thân thể vẫn còn mệt mỏi nhưng tâm trạng đã khá hơn.

    Dùng thuốc vào thì quả nhiên đỡ hơn nhưng bệnh vẫn còn dây dưa nên cần phải điều dưỡng dần dần. Một hôm, Lưu Triệt nhìn Trần A Kiều như có điều suy nghĩ, bỗng nhiên nói, “Kiều Kiều, trẫm cho nàng phục vị làm hoàng hậu nhé. Được không?”

    Trần A Kiều sửng sốt, nhìn thẳng vào mắt y mà kinh ngạc hỏi, “Sao đột nhiên lại đề cập tới chuyện này?”

    Những năm qua, dù nàng chưa từng tiếp nhận bất kỳ danh hiệu hay phong hào nào nhưng ở tại hai cung Kiến Chương, Vị Ương cũng coi như tương đương với hoàng hậu. Hiện giờ thế sự ổn định, nàng lại không có yêu cầu thì không có lý do gì để y chủ động nhắc tới chuyện phục vị hoàng hậu? Dù sao, một khi phục vị hoàng hậu sẽ coi như thừa nhận với thiên hạ rằng việc phế hậu năm xưa là sai. Trần gia ở sau nàng lại một lần nữa có cơ hội phát triển.

    Lưu Triệt hơi lúng túng, quay đầu đi, chậm rãi nói, “Hôm đó, lúc ngã xuống ở điện Tuyên Thất, trẫm đã suy nghĩ xem nếu cuộc đời trẫm kết thúc như vậy thì chuyện gì muốn làm mà chưa kịp?”

    “Trẫm còn trên đời một ngày thì còn có thể sủng ái nàng, khi trẫm mất đi thì Mạch nhi kế vị cũng có thể tôn nàng làm Thái hậu, nhưng khi nàng trăm tuổi mà chôn cùng trẫm ở Mậu Lăng thì dù gì vẫn không được danh chính ngôn thuận. Kiều Kiều đã bị phế thì không thể nào cùng trẫm vào thái miếu tổ tông được. Khi cô cô dặn dò trước lúc qua đời, trẫm có ý nghĩ này nhưng vẫn e ngại thế cục Trường An nên muốn kéo dài thêm một thời gian. Tuy thế, việc này có thể kéo dài tới bao lâu chứ? Cuối cùng cũng phải đối mặt mà thôi. Nếu khi còn sống có thể được Kiều Kiều bầu bạn bên cạnh thì trẫm không muốn sau khi mất lại phải cô đơn ở dưới lòng đất một mình. Nếu trẫm đột nhiên mất đi thì đó chính là điều tiếc nuối.”

    A Kiều kinh ngạc nghe xong, bỗng nhiên cúi đầu mắng một câu, “Ngu ngốc!” Giọng nàng khẽ đến nỗi ngay cả bản thân nàng cũng không nghe rõ, mắng xong, nàng cúi đầu, nước mắt chầm chậm lăn xuống.

    Vào năm Nguyên Quang thứ năm đó, người này đã nói với nàng rằng y không cần nàng, quyết ý muốn phế bỏ nàng. Y để nàng ở sau lưng buồn bã gọi tên mình, gọi đến nhòa lệ không thấy bóng lưng của y nhưng vẫn không quay đầu lại. Khi đó, nàng thật sự cảm thấy dù cuộc đời có phồn hoa thế nào chăng nữa thì đối với nàng cũng chỉ là trống rỗng. Nàng đã thất bại tức tưởi trước vận mệnh vì người thương yêu nhất đã cho nàng một nhát đao trí mạng. Cho nên với cuộc ám sát ở cung Trường Môn thì dường như nàng còn mong nó xảy ra. Nếu nàng chết vào lúc ấy, Triệt nhi của nàng hay biết thì có thương tâm một chút nào không? Nàng thật sự không dám nghĩ tới đáp án. Khi đó, nàng oán hận nghĩ rằng một ngày nào đó người sẽ hối hận vì không biết mình đã đánh mất thứ gì. Bởi vì, trên cõi đời này không còn người con gái nào có thể yêu người hơn nàng. Năm tháng như thoi đưa, chớp mắt một cái đã hai mươi năm. Sau hai mươi năm, y nói với nàng, “Kiều Kiều, trẫm cho nàng phục vị làm hoàng hậu nhé. Được không?” Câu nói đó coi như là một loại biến tướng của hối hận sao? Nhưng ngay cả khi y hối hận thì nàng cũng đã không thể yêu thương y như trước được nữa rồi. Còn nàng nói “Ngu ngốc”, rốt cuộc là mắng y hay là mắng chính nàng?

    Lưu Triệt nhìn nàng rơi lệ, cặp mắt đen sâu thẳm cũng mờ đi, cuối cùng nói, “Thật xin lỗi.” Giọng y cũng khẽ đến nỗi nay cả bản thân y cũng không nghe thấy.

    Tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ sáu là lúc mùa lúa mì trồng thí nghiệm lần đầu tiên ở vùng gần kinh thành chín. Hiếu Vũ hoàng đế chiêu cáo thiên hạ, Hoàng hậu Trần A Kiều năm xưa có tài có đức nhưng bị bãi truất do kẻ gian mưu hại, nay khôi phục lại ở Trung cung làm mẫu nghi thiên hạ.

    Vận mệnh luôn luôn có những khúc ngoặt mà con người không thể tưởng tượng nổi. Lúc xưa Quận chúa Đường Ấp Trần gia danh chấn kinh thành, có ai ngờ một thiếu nữ xinh đẹp như phượng hoàng lại thua trong tay một ca cơ hèn mọn. Còn khi thế gian truyền xướng ca dao “Sinh nam không mừng, sinh nữ không giận, một thân một mình, Vệ Tử Phu hơn cả thiên hạ”, Thì lại không ai ngờ rằng người phụ nữ cuối cùng khiến cho Hiếu Vũ hoàng đế nhớ nhung lại là biểu tỷ A Kiều thuở ban đầu của y?

    Năm sau, Hoàng đế hạ lệnh cho đào sáu con kênh, đồng thời ban bố phương pháp quảng canh, thâm canh cho toàn thiên hạ. Vào lúc nông dân vùng Quan Trung sử dụng súc vật cày ruộng, tất cả mọi người đều khen, “Hoàng hậu nương nương thật là một hoàng hậu hiền minh.”

    Năm tháng dần xóa nhòa quãng thời gian hai mươi năm giữa hai lần Trần A Kiều làm hoàng hậu. Sau triều Hán Vũ, Thiên hạ coi điện Trường Môn ở cung Kiến Chương là Trung cung, điện Tiêu Phòng ngược lại không được nhắc đến. Sau này khi Tư Mã Thiên viết Sử ký, danh từ Hiếu Vũ hoàng hậu nếu không phải đặc biệt thì chính là chỉ Trần hoàng hậu. Người trong thiên hạ, ngoại trừ bốn con gái mà Vệ hoàng hậu lưu lại ở nhân gian, còn lại dần quên lãng người phụ nữ từng một bước lên trời này.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  9. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 88: Lại nghe Vu cổ kinh hoàng cả đêm

    Cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt cuối cùng khỏi bệnh, Tây Khương cũng báo tin về là quân Hán đánh trận nào thắng trận ấy, cho thấy rằng có thể nhanh chóng bình định cuộc phản loạn. Thứ sử đất Thục báo lên rằng có vị phương sĩ tên Loan Tử tự xưng là biết thuật trường sinh thăng thiên, Thứ sử thấy người đó đúng là có biết một số môn pháp thuật nên rất bái phục, tiến cử lên Hoàng đế. Lưu Triệt khi còn trẻ thì không tin vào pháp thuật của các phương sĩ, song tuổi tác nhiều lên lại thay đổi quan điểm. Hơn nữa, mấy ngày trước vừa bị bệnh nặng, giờ y nghe nói hai chữ trường sinh thì không khỏi động lòng, liền ra lệnh, “Lệnh Ngũ Bị đi kiểm chứng thần thông của phương sĩ.”

    Mấy ngày sau, Ngự sử đại phu Ngũ Bị dâng chỉ, cười nói, “Nhìn bề ngoài thì Loan Tử đúng là có phong thái thế ngoại cao nhân. Thần không biết hắn có thật biết thuật trường sinh hay không, nhưng quả thật là có vài đạo thuật nhỏ, chẳng hạn như ngưng nước thành băng.”

    Trần hoàng hậu nghe nói chuyện này thì hơi nhăn mặt, nói: “Thiếp không tin trên đời này có thuật trường sinh gì cả, quá nửa là lừa người để kiếm miếng ăn.”

    Lúc đó Lưu Triệt cũng ở điện Trường Môn, nghe vậy cười nói, “Chẳng phải Kiều Kiều cũng từng nói ‘Trên đời cũng có thể có người có thần thông’ là gì. Dù đúng hay sai thì gặp cho biết cũng chẳng sao cả.”

    Trần A Kiều khuyên can không được, dự cảm thấy bất thường. Nàng day day trán, thầm nghĩ không biết Loan Tử có quan hệ gì với Loan Đại trong lịch sử hay không. Sau chuyện Lý Thiếu Ông hồi năm Nguyên Thú, Lưu Triệt không tin tưởng vào phương sĩ như trong lịch sử, cũng không cuồng nhiệt với thuật trường sinh như sử sách ghi chép. Nàng từng cho rằng chuyện này coi như chấm dứt, không ngờ lại còn xảy ra.

    Lưu Triệt cho đòi phương sĩ Loan Tử vào cung. Lúc đó là tháng Mười một giữa mùa đông, Trường An rét căm căm. Lưu Triệt mặc áo lông cáo ngồi trong đình có màn lụa quây kín bốn bề ở ngự hoa viên mà còn cảm thấy gió Bắc tràn về lạnh thấu xương, chỉ lướt qua cũng khiến đóng băng da mặt. Loan Tử được nội thị dẫn đường đi tới, tướng mạo thanh khiết, quần áo mỏng manh nhưng không hề cảm thấy lạnh. Lão tới dưới đình, quỳ xuống bái chào: “Phương sĩ Loan Tử, tham kiến Hoàng đế bệ hạ!”

    Lưu Triệt trầm ngâm một lát rồi thản nhiên nói, “Đứng dậy đi.”

    Loan Tử đứng dậy nhìn lên, chắp tay nói, “Bệ hạ”, còn chưa dứt lời thì đột nhiên giật bắn mình.

    Dương Đắc Ý ở bên cạnh Lưu Triệt, thấy y hơi nhíu mày thì biết Hoàng đế không hài lòng, vội vàng quở mắng, “Nô tài ở trước mặt Hoàng thượng mà dám vô lễ!”

    “Bệ hạ”, Loan Tử hoàn hồn lại bẩm, “Không phải tiểu đạo không có lý do gì lại dám to gan, chỉ là tiểu đạo tự nhận tu vi của mình hơi có chút thành tựu, có thể nhìn tướng mà biết được một chút thiên mệnh. Trên đỉnh đầu bệ hạ có sắc tía như mây, dày đến mức tiểu đạo quả thật là bình sinh chưa từng được trông thấy. Đó chính là tướng chân mệnh thiên tử.” Lão thấy Lưu Triệt hơi chuyển sắc mặt, lưỡng lự giây lát, lại nói: “Nhưng trên ấn đường của bệ hạ có sắc tối, đó là tướng bị người dùng Vu cổ ám hại.”

    Lão nói câu này như trời long đất lở. Tất cả đám cung nhân trong vườn đều biến sắc. Từ thời lập nước Đại Hán tới nay, các vị hoàng đế tiền nhiệm đều giữ chuyện Vu cổ kín như bưng, chỉ riêng triều Hán Vũ Đế đã phế hai hoàng hậu đều với lý do là Vu Cổ. Hai chữ này chính là ác mộng ở cung Vị Ương. Lưu Triệt đột nhiên sầm mặt, cười lạnh nói, “Đạo trưởng ăn nói lung tung, chẳng lẽ cho rằng đao phủ của trẫm chém không đứt được đầu của ngươi?”

    “Tiểu đạo không dám.” Loan Tử giọng điệu cung kính nhưng lại tỏ vẻ không một chút hãi sợ, ngang nhiên nói tiếp: “Bệ hạ là thánh quân nên chẳng ngại kẻ gian làm loạn, ý đồ bất chính. Những này gần đây bệ hạ có cảm thấy thân thể khó chịu không?”

    Lưu Triệt không thay đổi sắc mặt nhưng lại thoáng động lòng nhớ đến cơn bệnh nặng trước đây mấy ngày nên cũng lấy làm nghi hoặc, hỏi giọng lạnh băng, “Nếu thế thì đạo trưởng có thể chỉ ra ai là người đã làm loạn Vu cổ không?”

    “Tiểu đạo không biết ai trong cung Vị Ương cả.” Loan Tử bình tĩnh ung dung đáp: “Nhưng tiểu đạo dám khẳng định người làm loạn tất ở trong cung. Hơn nữa”, Lão ngưng thần nhìn quanh rồi giơ tay chỉ hướng nam, nói vẻ chắc chắn: “Ở vào hướng kia.”

    “Mã Hà La!” Lưu Triệt lớn tiếng gọi.

    “Dạ.” Mã Hà La tiến ra đáp.

    “Ngươi dẫn một đội Kỳ Môn quân lục soát các cung điện phía nam cung Vị Ương, nếu không phát hiện được gì”, Lưu Triệt nhìn Loan Tử bằng vẻ mặt quỷ quyệt, nói giọng lạnh tanh, “Trẫm không muốn gì khác, chỉ cần đầu của cửu tộc nhà ngươi.”

    “Tiểu đạo là người tu hành”, Loan Tử chắp tay cười nói, “Cửu tộc nhà thần đều đã mất rồi. Nếu bệ hạ không tin thì cứ lấy cái đầu này là được.’

    Mã Hà La đi một lúc lâu rồi chạy theo hành lang từ cung Vị Ương trở về bẩm, “Khởi bẩm bệ hạ, thần lục soát các cung điện ở phía nam, phát hiện vật này dưới nền đất điện Phi Sương nơi ngày xưa Lý Tiệp Dư tự vẫn.”

    “Hay, hay lắm.” Lưu Triệt giận đến cực điểm nhưng lại không hề tỏ sắc giận, thản nhiên nói, “Trình lên.”

    Cung nhân bưng chiếc khay sợ run cầm cập trình lên trước ngự giá. Lưu Triệt ngưng thần nhìn xem, Thấy trong khay có hai hình nộm nhỏ, một nam một nữ, sau lưng có khắc ngày sinh tháng đẻ, chữ viết còn rất non nớt. Ngày sinh tháng đẻ trên lưng một hình nộm tất nhiên là của y, chủ nhân ngày sinh tháng đẻ còn lại rõ ràng là Trần A Kiều trong điện Trường Môn.

    “Nghiệt tử”, Lưu Triệt cười lạnh, Nghiến răng rít lên hai chữ này. “Trẫm vẫn nghĩ tới tình phụ tử nên không đành lòng sát hại. Nó thì tốt rồi, dám tái diễn Vu cổ, gây họa làm loạn cung đình.”

    “Truyền lệnh của trẫm”, y buông từng chữ một, “Niêm phong điện Phi Sương, giam Tứ hoàng tử và Công chúa Cái Trường vào đại lao phủ Tông nhân.”

    Trong phủ Tề vương, Ninh Triệt mấy ngày liền cầu xin được gặp Tề Vương nhưng Tề vương Lưu Cứ vẫn cự tuyệt không gặp. Mãi đến hôm nay rốt cục mới thấy thị tùng của Tề vương bước ra nói: “ Ninh tiên sinh, Vương gia lệnh mời ngài vào.”

    Ninh Triệt đi vào, hỏi ngay: “Vương gia thật sự không nhận ra rằng bây giờ không phải lúc hành động à?”

    “Ta biết.” Lưu Cứ nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói, “Cho nên mấy ngày qua mới không chịu gặp tiên sinh.” Hắn sợ phải nghe Ninh Triệt phân tích lợi hại khiến mình bỏ cuộc.

    “Bây giờ người kia chắc đã gặp phụ hoàng rồi, thế nên tiên sinh có muốn nói gì cũng không cần thiết nữa.”

    Ninh Triệt nhắm mắt, chán nản hỏi tiếp: “Kính xin Vương gia giải thích vì sao đã biết rõ việc không ổn mà vẫn khăng khăng chấp nhất hành động?”

    “Vì ta là phận con cái.” Lưu Cứ cười nói, “Ta không thể dễ dàng bỏ qua việc phụ thân bố cáo thiên hạ rằng mẫu thân từng mưu hại người phụ nữ khác, sau đó lại cố giúp người đó ngồi lên vị trí của mẫu thân. Cho dù tất cả có thể đều là sự thật.”

    Chuyện năm xưa trôi qua đã lâu, người ngoài không còn biết được chân tướng. Thật ra người đã sa lầy trong chốn hoàng gia thì có ai là vô tội. Bệ hạ không thể trách mình cũng không thể chỉ trích người hiện giờ là Phi Nguyệt trưởng công chúa Lưu Lăng được, nên sẽ phải để người đã chết gánh chịu tất cả mọi tội lỗi. Cho dù người đó đã từng có vô số đêm má ấp vai kề bên gối của y. Bệ hạ quả nhiên rất tuyệt tình với người đã ruồng bỏ.

    “Ta biết ngươi nghĩ gì.” Lưu Cứ cười nhạt, “Ngươi có thể nghĩ như vậy nhưng ta đứng trên lập trường của mình thì không.”

    “Hơn nữa”, hắn sầm mặt, lạnh lùng nói, “Không ai có thể biết rõ hơn ta về việc phụ hoàng là người vô tình đến mức nào, vì vô tình và đa nghi vốn là căn bệnh chung của những người đã lên ngôi cao. Những năm qua, giữa ông ấy và Trần A Kiều không có xung đột cho nên mới có thể bình an vô sự. Thế nhưng một khi có xung đột thì…”

    Hắn mím môi: “Ta muốn xem phụ hoàng của ta rốt cuộc có thể vô tình đến mức nào.”

    Trần A Kiều nhờ Tang Hoằng Dương đi điều tra về lai lịch của người phương sĩ có tên là Loan Tử, nhưng Tang Hoằng Dương huy động lực lượng cả mấy nhà vẫn không điều tra ra một chút tin tức gì về người này. Lão dường như cũng từ hư không xuất hiện giống bọn họ.

    Ngày hôm qua, Trần A Kiều ở điện Trường Môn nghe thấy hai chữ kinh hoàng kia mà ngơ ngẩn, suýt nữa cắn rách môi mình mà không biết. Lại là Vu cổ, cứ mỗi lần nàng cho rằng có thể hoàn toàn thoát khỏi cơn ác mộng hai chữ này gây ra thì vận mệnh lại một lần nữa ập tới khiến nàng không thể quên nơi nàng đang sống là một dạng địa ngục trần gian như thế nào.

    Nàng mệt mỏi nhắm mắt lại, nói: “Bệ hạ, người tin Loan Tử hơn là tín nhiệm con của mình sao?”

    “Trẫm cũng không tin hắn.” Lưu Triệt điềm nhiên đáp, “Nhưng chẳng qua hắn là một phương sĩ, mà Mã Hà La lại đích thực lục soát được hình nhân bị làm phép Vu cổ trong điện Phi Sương.”

    “Vậy cũng có thể là do bị hãm hại”, A Kiều cười mỉa mai nói, “Năm Nguyên Quang thứ năm, chẳng lẽ bệ hạ không biết rõ tại sao hình nhân Vu cổ lại tiến vào điện Tiêu Phòng được ư?”

    “Kiều Kiều.” Lưu Triệt chợt cao giọng giận giữ quát lên, nhưng rồi dịu lại: “Nàng phải biết rằng nó không chỉ nguyền rủa trẫm mà còn cả nàng nữa đấy.”

    “Thiếp tuyệt đối không tin vật chứng.” A Kiều lắc đầu, “Nhưng đó là con trai của người chứ không phải con thiếp. Người không đau lòng thì chẳng lẽ thiếp lại phải đau lòng?”

    “Nhưng mà”, nàng buồn bã nói, “Nếu một ngày có người nói với bệ hạ rằng Mạch Nhi hoặc thiếp có ý đồ dùng Vu cổ với bệ hạ thì bệ hạ sẽ làm thế nào đây?”

    Ngoài A Kiều thì chưa từng có một người phụ nữ nào dám chất vấn y trực tiếp như thế. Lưu Triệt ngắm nhìn dung nhan kiều diễm trước mắt, lòng chùng xuống. Y ôm lấy A Kiều, nói từng chữ một, “Trẫm nhất định không phụ khanh!”

    Chuyện Hoàng đế, Hoàng hậu tranh cãi trong điện Trường Môn rất nhanh chóng loan truyền. Loan Tử nghe được thì kín đáo nhíu mày. Ba ngày sau, Loan tử yết kiến vua lần thứ hai, tiếp tục nói ra lời kinh hãi. Mặc dù đã đào được Vu cổ ở điện Phi Sương nhưng sắc u ám trên ấn đường của bệ hạ vẫn không tiêu tán. Trong cung đình còn có người khác dùng Vu cổ.

    Lần này, lão chỉ đúng về hướng điện Bác Vọng của Thái tử Lưu Mạch.

    Ánh mắt sắc bén của Lưu Triệt nhìn chằm chặp vào lão một lúc lâu. Lão đang còn run sợ thì chợt nghe Lưu Triệt nhếch miệng cười ra lệnh, “Dẫn người tra xét điện Bác Vọng.” Trong khoảnh khắc, cả điện lặng như tờ.

    Mã Hà La chưa kịp dẫn Kỳ Môn quân tới điện Bác Vọng thì Trần A Kiều và Lưu Mạch đã hay tin. A Kiều chỉ cười lạnh, ánh mắt trầm tĩnh dần dần ngưng lại như một tầng băng mỏng. Thái tử Lưu Mạch liền tới điện Tuyên Thất, tấu xin được gặp mặt quân vương. Loan Tử đứng ở dưới điện, tâm trạng thấp thỏm khi thấy Lưu Triệt gật đầu: “Cho Thái tử vào.”

    Mã Hà La dẫn Kỳ Môn quân vào điện Bác Vọng thì Thái Tử Lưu Mạch không còn ở đó, chỉ có Thái tử phi Thượng Quan Linh đứng bên ngoài điện trong gió Bắc thổi ào ào, dáng vẻ lẻ loi.

    “Phụng ý chỉ của bệ hạ”, Mã Hà La chắp tay, nghiêm nghị nói, “lục soát điện Bác Vọng.”

    “Nếu không phải ngươi phụng ý chỉ của bệ hạ”, Thượng Quan Linh cười lạnh nói, “ngươi cho rằng ta sẽ cho phép ngươi bước vào điện Bác Vọng sao?”

    Mã Hà La chột dạ, nhớ ra thân phận của người trước mắt này là vị thê tử được Thái tử Đại Hán cưới hỏi theo đúng lễ giáo, nếu không có gì bất ngờ thì sau này chắc chắn là mẫu nghi thiên hạ.

    Hắn lui lại nửa bước, làm đại lễ, “Tham kiến Thái tử phi điện hạ.”

    “Miễn lễ.” Thượng Quan Linh bình thản, “Mã tướng quân, ngươi phụng ý chỉ của bệ hạ, tất nhiên ta không thể ngăn cản ngươi lục soát điện Bác Vọng. Nhưng ngươi phải nhớ kỹ hôm nay ngươi lục soát cung điện của Thái tử Đại Hán. Ta là nữ chủ nhân của điện Bác Vọng, tuy không thể đích thân chứng kiến lục soát nhưng lại có thể phái người hỗ trợ, chỉ điểm cho tướng quân một chút, giúp tướng quân tránh lầm vào nơi trọng yếu mà chẳng may phạm tội. Tướng quân thấy thế nào?”

    “Nếu như thế”, Mã Hà La chắp tay nói, “Đa tạ Thái tử phi.”

    “Thành Liệt”, Thượng Quan Linh xoay người, điềm nhiên ra lệnh, “Ngươi giúp Mã tướng quân lục soát một chuyến đi.”

    Cô bước từng bước vào trong điện. Cô mới làm Thái tử phi nên không có kinh nghiệm đối phó với những tình huống như thế này, nhưng lại không thể không đối phó. Phu quân của cô ở bên ngoài làm những việc cần làm, nếu cô ở nhà mà thất bại thì sẽ khiến cho Lưu Mạch gặp khó khăn mọi bề. Bản thân cô không muốn mình làm liên lụy đến hắn.

    Lưu Mạch bước vào điện Tuyên Thất với vẻ mặt trầm tĩnh, nhìn Loan Tử, “Ta nghe nói ngươi rất giỏi thuật trường sinh?”

    “Đúng vậy.” Loan Tử trả lời khiêm tốn.

    “Như vậy”, Lưu Mạch nhanh như chớp lấy thanh kiếm đeo trên lưng một thị vệ của Hoàng đế đang đứng dưới điện Tuyên Thất, uy nghiêm hỏi, “Nếu ta chém đầu ngươi thì ngươi có thể mọc ra một cái đầu khác không?”

    Hắn vung kiếm chém vút qua, máu tươi trước tiên nhuốm tràn lưỡi kiếm rồi lập tức chiếu đỏ mắt mọi người. Đầu Loan Tử rụng xuống, lăn mấy vòng trên điện rồi mới dừng lại, cặp mắt còn lộ vẻ kinh hoảng. Đám thị vệ nhao nhao hét lên: “Hộ giá”, rồi vung đao rút kiếm che chắn bên dưới điện, trong lòng đầy nghi hoặc. Người mà bọn họ đang giơ đao chĩa thương vào chính là Thái tử Đại Hán. Lưu Mạch cười lạnh, ném thanh kiếm xuống nền điện tạo nên tiếng kêu loảng xoảng, nhíu mày nhìn vị quân vương bên trên điện.

    “Lui ra đi.” LưuTriệt phất tay nói.

    “Ngươi thật sự là đứa con trai giống trẫm nhất.” Y nhìn con trai cả đứng bên dưới điện, nói rành rọt, giấu đi ánh mắt tán thưởng.

    “Đúng vậy.” Lưu Mạch cười lạnh, “Con là con của người. Mặc dù chưa chắc con đã thích người, nhưng con tôn kính người. Chỉ cần người không động đến mẫu thân con, không động đến muội muội của con”, hắn chần chừ một chút rồi nói tiếp: “không động đến vợ con của con thì con cũng không muốn làm một người nhẫn tâm điên cuồng có ý đồ sát hại phụ thân, hành thích hoàng thượng.”

    “Trẫm tin con.” Lưu Triệt nói dứt khoát, xoay người ra lệnh, “Bảo Mã Hà La không cần lục soát nữa.” Y thờ ơ liếc nhìn thủ cấp Loan Tử bên dưới điện, nói giọng chán ghét: “Mang đi, ném ra ngoài bãi tha ma.”

    Lưu Mạch cười nhạt, chớp chớp mắt, nhẹ nhàng nhắc nhở, “Lần này người đã thật sự làm tổn thương mẫu thân rồi.”

    Tề vương Lưu Cứ sau đó cũng nghe được tin tức từ Trường An truyền về, uống cạn chén rượu, cười lạnh nói, “Đúng thật là phụ tử tình thâm!”

    “Thật ra thì”, Ninh Triệt thở dài, “chưa chắc kế này của Vương gia đã không được mà chỉ là không phải lúc. Nếu đợi thêm mấy năm nữa, mâu thuẫn giữa quyền lực của vua và quyền lực của thái tử phát sinh, thì bệ hạ chắc sẽ không nương tay dễ dàng như vậy đâu.”

    “Nhưng mà”, Ninh Triệt hỏi thêm, “tại sao Vương gia nhất định phải đối phó với Tứ hoàng tử trước?”

    “Có hai nguyên nhân.” Lưu Cứ đáp: “Một là bởi vì hắn có căn cơ yếu kém nên thích hợp để mang ra thử đao, còn thứ hai thì chẳng qua là lấy đạo kỳ nhân để trị kỳ nhân mà thôi.” Không biết Lý Chỉ nằm trong mồ mà thấy tình huống ngày hôm nay thì có hối hận hay không?

    Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt cuối cùng đã chọn lựa tin tưởng con mình. Khi thánh ý truyền tới điện Bác Vọng thì Mã Hà La vẫn chưa lục soát xong. Hắn mỉm cười quỳ tiếp ý chỉ, thầm thở dài nghĩ, “Quả nhiên bệ hạ vẫn coi trọng Trần hoàng hậu và Thái tử điện hạ.”

    Kỳ Môn quân rút khỏi điện Bác Vọng. Thượng Quan Linh ngồi sụp xuống ghế, cảm thấy vẫn chưa hết sợ hãi, tay chân bủn rủn. Dù sao, từ ngày nhà Hán hưng thịnh đến nay đã có biết bao nhiêu người bị choàng lên hai chữ “Vu cổ” mà chết không chỗ chôn thây, cô và Lưu Mạch lần này có thể thoát khỏi an toàn chứng tỏ trong lòng bệ hạ vẫn còn ưu ái. Lưu Mạch trở về điện Bác Vọng, trông thấy Thượng Quan Linh như thế, lấy làm thương xót, mỉm cười trấn an: “Không có chuyện gì nữa rồi.”

    Thượng Quan Linh vùi đầu vào lòng hắn, phiền muộn hỏi: “Bệ hạ thật sự không còn nghi ngờ chàng nữa chứ?”

    “Phụ hoàng”, Lưu Mạch cười một tiếng thê lương, “Người còn đang bận trấn an mẫu thân.”
     
    PhươngThảo thích bài này.
  10. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 89: Không rõ là đa tình hay vô tình
    Lúc Lưu Triệt bước vào điện Trường Môn điện thì A Kiều đang đánh đàn dưới cửa sổ. Nàng nghe tiếng bước chân của y liền bỏ cây đàn xuống, nhìn sang.

    “Chuyện hôm nay”, không biết vì sao Lưu Triệt trông thấy ánh mắt trong trẻo của A Kiều lại thoáng chần chừ.

    “Bệ hạ không cần nói nữa”, A Kiều khẽ mỉm cười, khóe môi hơi nhếch lên, “Bệ hạ có thể thu hồi lệnh lục soát điện Bác Vọng vào thời điểm quyết định cuối cùng, chừa lại một đường cho thiếp và Mạch Nhi là thiếp cảm ơn rồi.”

    Lưu Triệt chợt thấy lòng lạnh như băng. Y có thể dự liệu rằng A Kiều sẽ oán trách, sẽ làm toáng lên, sẽ nổi giận nhưng chưa từng nghĩ rằng nàng lại bình tĩnh đến mức lạnh lùng như vậy, thậm chí còn nói trước những gì y định nói. Tuy những lời nàng nói có vẻ như rộng lượng tha thứ nhưng y lại mơ hồ cảm giác thấy khoảng cách rất gần giữa hai người đã bị kéo lùi lại một bước dài. Y cảm giác như đang trông thấy xuân về hoa nở, khắp nơi ấm áp nhưng chỉ trong chớp mắt đã quay ngược lại mùa đông ngập tràn băng giá mà y thì lại không thể làm được gì cả. Cảm giác thất bại như vậy khiến y cực kỳ tức giận, ôm siết nàng vào lòng, nói: “Trẫm đâu có phụ bạc nàng.”

    “Thiếp biết.” Nàng nhắm mắt, đáp.

    Nàng biết, với tính cách đa nghi, với sự kiêng kỵ Vu cổ của y mà vẫn chịu dừng tay vào thời khắc quyết định cuối cùng thì thật sự là y vẫn nhớ tới lời hứa với nàng. Nhưng khi hạ lệnh lục soát điện Bác Vọng của Mạch Nhi thì y thật sự không hề nghi ngờ một chút nào hay sao? Nhà đế vương tình cảm nhạt nhẽo, không cần biết lòng nghi ngờ nhiều hay ít, chỉ cần nó tồn tại thì sẽ không xóa đi được nữa.

    Nàng cũng muốn coi điện Trường Môn là nhà của nàng, trong ngôi nhà phồn hoa tươi đẹp này có y, có nàng, có Mạch Nhi, có Tảo Tảo. Nếu như trong suốt quãng đời còn lại, cả nhà có thể sống vui vẻ hòa thuận thì coi như là một thứ hạnh phúc nhưng thứ hạnh phúc đó lại nằm trong tay y. Hôm nay y tin nàng thì bọn họ có thể làm người một nhà. Nếu như có ngày y không tin nàng nữa thì có phải ngôi nhà này sẽ sụp đổ trong chớp mắt? Không chỉ tình cảm của bọn họ sụp đổ mà có khi tính mạng của ba mẹ con nàng cũng đi theo. Trong tình cảnh như vậy, sao bọn họ có thể là người một nhà cho được?

    Lưu Triệt ôm A Kiều trong lòng, nhạy cảm nhận thấy tâm trạng không vui của giai nhân liền cười lạnh, thô bạo hôn lên đôi môi của nàng. A Kiều kêu “a” một tiếng, bị động tiếp nhận nụ hôn cưỡng bức của y. Những năm qua nàng bị sự sủng ái nhất mực của y che mắt, dần có chút vờ không biết, quên mất người bên gối là hạng người gì.

    Chuyện đã vậy thì cứ để mặc nó xảy ra. Nàng bỗng nhiên ôm lấy bờ vai Lưu Triệt, chủ động hôn trả lại. Bất kể như thế nào, hiện tại nàng yêu người đàn ông này. Bất kể như thế nào, hiện tại y vẫn còn tin nàng. Như vậy, ít nhất ở hiện tại nàng nên học theo câu nói “Sống ngày nào vui ngày ấy” của cổ nhân. Ngày mai dù có trời nghiêng, đất lở, núi đổ, sông rời, tình yêu mất đi cũng là chuyện của ngày mai. Đến ngày mai, bọn họ sẽ bình tĩnh đối phó, còn hôm nay tạm thời cứ thế này đi. Lưu Lăng vẫn bảo nàng cần phải luôn tỉnh táo nhìn thế sự, không được học cách sống phóng túng. Thật ra thì phóng túng cũng có cái hay của phóng túng. Thế nên sáng nay, nàng bỗng nhiên rất muốn phóng túng một trận với người đàn ông này.

    Lưu Triệt thấy A Kiều đột nhiên nóng bỏng như vậy thì khá ngạc nhiên, nhưng như thế cũng tốt. Y cởi bỏ y phục của A Kiều, đôi mắt nóng rực nhìn xoáy sâu vào mắt nàng. Dù thế nào, trẫm không thể dung thứ cho bất kỳ kẻ nào dám tổn thương nàng. Y thầm hứa trong lòng.

    Vào cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Hoàng đế truyền xuống ý chỉ, phế tước hiệu Quảng Lăng Vương của Tam hoàng tử Lưu Hoành, cấm cố ở Bắc cung, cả đời không được ra khỏi Trường An. Ý chỉ ban ra đột ngột, chấn động cả hai cung Vị Ương và Kiến Chương. Hình Khinh Nga khóc đến chết đi sống lại, tuyệt vọng hỏi, “Hoành Nhi chưa hề làm chuyện gì sai, sao bệ hạ lại trừng phạt nghiêm khắc như thế?” Một hoàng tử bị cấm cố trong cung cả đời thì coi như là hắn đã chết.

    Lưu Hoành nhận thánh chỉ rất bình tĩnh, thản nhiên hỏi, “Ta có thể cầu kiến phụ hoàng được không?”

    Giọng hắn rất hờ hững. Người trong cung Vị Ương ai nấy đều chứng kiến sự vô tình của bệ hạ. Vương tiệp dư, Vệ hoàng hậu, Lý tiệp dư trước khi chết đều từng cầu kiến bệ hạ nhưng bệ hạ chưa từng mảy may niệm tình chăn gối. Bản thân hắn là một hoàng tử chưa từng được sủng ái, không hề dám ôm hy vọng. Vì vậy, khi thấy Lưu Triệt xuất hiện ở Bắc cung thì hắn sửng sốt một lúc lâu mới dám tin rằng không phải mình đang nằm mơ.

    “Bởi vì con là con của trẫm”, Lưu Triệt nhìn hắn, “Cho nên trẫm mới tới gặp con lần này với hy vọng giải thích cho con hết nghi hoặc.”

    Hắn trầm mặc chốc lát, hỏi, “Loan Tử đã bị Lưu Mạch giết chết rồi thì làm sao phụ hoàng phát hiện được sơ hở của con?”

    “Trẫm không phát hiện ra điều gì.” Lưu Triệt lắc đầu, nói, “Nhưng trẫm cảm thấy nếu Đán Nhi muốn làm chuyện Vu cổ thì sao lại để cho tên phương sĩ đó biết được chứ? Trẫm không tin Kiều Kiều của trẫm lại làm chuyện này. Thế nên trong cung Vị Ương chỉ còn có con và mẫu phi con là đáng bị hiềm nghi.”

    Năm Nguyên Đỉnh thứ tư, khi Tam hoàng tử ra mặt, dùng trượng đập chết tên tiểu nội thị đã động tay vào thuốc của Trần A Kiều thì Lưu Triệt liền giật mình nhận ra đứa con trai thứ ba đã bị y lãng quên nhiều năm cũng đã tới tuổi có suy nghĩ của riêng mình. Ngay sau đó y đã cài tai mắt của mình ở bên cạnh Lưu Hoành.

    “Trẫm chỉ lệnh cho Trương Thang lôi tất cả nô tỳ thiếp thân của con ra dùng trượng tra khảo, chưa đầy mười trượng thì bọn chúng đã khai hết.”

    “Thật ra thì con cháu hoàng gia mưu hại lẫn nhau là chuyện thường. Khi còn trẻ trẫm cũng từng ép huynh trưởng không còn đường lùi. Trẫm hiếm con, chỉ có được bốn đứa, trong đó có ba đứa thành tài đã rất vui mừng rồi.”

    “Tuy nhiên”, Lưu Triệt nhìn Lưu Hoành, nghiêm nghị nói, “con làm việc rất có tài năng nhưng khí độ quá nhỏ nhen chỉ nghĩ đến thù riêng, không phải là người nên chọn cho nghiệp lớn. Bởi vậy, Trẫm không thể không vứt bỏ con.”

    Lưu Hoành lặng người đi, tiếp đó điên cuồng cười to, “Tốt, tốt!”

    Hắn nghiến răng nói, “Người ta nói phụ hoàng làm việc anh minh quả quyết, nhi thần đã quan sát nhiều năm trong cung Vị Ương này nhưng cảm thấy phụ hoàng chỉ mê đắm nữ sắc của Trần hoàng hậu chứ không phải tài giỏi gì lắm. Đến hôm nay mới biết, phụ hoàng dù sao cũng là phụ hoàng, luôn nhìn xa hơn đám con cái chúng nhi thần.”

    “Chỉ là”, hắn cười vô cùng thống khoái, “phụ hoàng có nghĩ tới chuyện mặc dù có thể bố trí hạ Vu cổ trong điện Phi Sương nhưng nhi thần đang ở trong cung Vị Ương thì làm thế nào để tìm kẻ đồng mưu Loan Tử hay không?”

    Hắn thở hổn hển, nghĩ cuộc đời mình đã rơi vào tình cảnh này thì coi như cũng xong rồi, đã vậy thì phải kéo Lưu Cứ xuống nước. Lời vừa thốt ra khỏi miệng, hắn lại lập tức hối hận vì Lưu Cứ còn tồn tại sẽ giống như một con rắn độc lúc nào cũng có thể cắn Lưu Mạch một miếng. Nếu cả Lưu Cứ cũng ngã xuống thì trên đời này thật sự không còn ai có thể uy hiếp được Lưu Mạch nữa rồi. Song ngoài dự liệu của hắn, Lưu Triệt cười khan một tiếng rồi quay đầu đi, hờ hững nói: “Trẫm biết. Trẫm biết đứa con thứ của trẫm vẫn luôn hận con trưởng. Trẫm biết rằng Cứ Nhi có một Ninh Triệt ở bên cạnh với ý đồ bất chính. Nhưng như thế thì thế nào?”

    “Thái tử đã là thái tử rồi mà còn đấu không lại Cứ Nhi thì chính bản thân nó không có năng lực. Đến cuối cùng người ngồi được lên ghế rồng chẳng phải vẫn mang dòng máu họ Lưu của ta?”

    Lưu Hoành run sợ hồi lâu mới chậm chạp cúi đầu xuống, nở nụ cười còn khó coi hơn cả khóc, “Con vốn cho rằng mình đã nhìn thấu sự vô tình của phụ hoàng. Cho tới bây giờ thì con đã biết, phụ hoàng còn vô tình ngoài sức tưởng tượng của con.”

    “Con muốn hỏi thêm”, hắn lại nhếch môi, nét mặt quỷ dị, “phụ hoàng có thể bàng quan xem hai con trai tranh đấu nhưng có thật sự, phụ hoàng không làm vì người đàn bà trong điện Trường Môn kia?”

    Lần đầu tiên kể từ khi Lưu Triệt bước vào điện Thanh Trữ, Lưu Hoành rốt cuộc cũng nhìn thấy y hơi biến sắc mặt, nhưng trong nháy mắt đã khôi phục bình tĩnh.

    “Là bậc đế vương”, Lưu Triệt thản nhiên nói, “giang sơn và tình cảm vốn là hai thứ khác biệt.”

    Lưu Hoành quỳ trên mặt đất nhìn theo phụ thân của hắn bước thẳng ra khỏi điện Thanh Trữ. Trong khoảnh khắc, nước mắt loang nhòa khuôn mặt khiến hắn không nhìn được rõ mọi vật. Hắn bất chấp hậu quả, la lớn: “Phụ hoàng, người còn nhớ nương thân Vương tiệp dư của con trong điện Thanh Lương chờ người tới chết không? Người còn nhớ dưỡng mẫu Hình Khinh Nga của con đợi người nhiều năm như vậy không?”

    Nước mắt đàn ông không dễ rơi xuống. Sao không dễ rơi? Chỉ vì chưa tới lúc thương tâm. Nếu như người đàn ông có thể rơi nước mắt, chứng tỏ người đó cực kỳ thương tâm. Nước mắt nhòa gương mặt khiến hắn không thể nhìn rõ khi Lưu Triệt nghe hắn nói có dừng lại một bước nào hay vẫn một mực bỏ đi.

    Sau khi Lưu Hoành bị giam lỏng ở Bắc cung, bệ hạ hạ chỉ rằng chuyện Tứ hoàng tử và Cái Trường công chúa liên quan đến Vu cổ trước kia là do Tam hoàng tử Lưu Hoành mưu hại, nay đã điều tra sáng tỏ nên vô tội phóng thích. Tứ hoàng tử Lưu Đán năm xưa được phong là Yến vương, nay đã lớn phải lập tức lên đường tới đất phong. Cái Trường công chúa Lưu Yên quay về điện Phi Sương.

    Trải qua một phen hãi hùng ở phủ Tông nhân, lòng dạ Yến vương đã nguội lạnh. Sau khi thấy lại ánh mặt trời và được phụ hoàng an ủi hắn rơi lệ tại chỗ. Trước đêm đi tới đất phong, Lưu Đán đến điện Phi Sương nói với tỷ tỷ Lưu Yên: “Ngày mai đệ đi tới đất phong, kình xin tỷ tỷ tự bảo trọng. Cung Vị Ương hôm nay danh chính ngôn thuận đã là thiên hạ của Hoàng hậu nương nương. Trần hoàng hậu đã độc chiếm ân sủng của Thánh thượng, tỷ tỷ nên an phận, chớ để cho đệ đệ ở bên ngoài lo lắng.”

    Lưu Yên cả giận nhướng mày, “Đệ quên mẫu phi chết như thế nào rồi sao?”

    Cô buồn bã nói, “Mẫu phi tự vẫn bỏ mạng ở chỗ này. Đệ thân là con trai độc nhất của mẫu phi, sao lòng nhiệt thành lại không bằng một thiếu nữ như ta?”

    “Chỉ dựa vào nhiệt thành liệu có được không?” Lưu Đán bất đắc dĩ nói: “Chúng ta ra vào phủ Tông nhân chuyến này, chẳng lẽ tỷ tỷ còn chưa hiểu được sao? Hoàng tử công chúa cái gì chứ, ở trong mắt phụ hoàng đều không đáng nhắc tới.”

    “Hơn nữa”, ánh mắt hắn vụt trở nên xa xăm, “Mẫu phi bỏ mình, rốt cuộc chúng ta nên oán trách ai đây?”

    Lưu Yên im lặng. Cô nghĩ tới Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ hôm nay theo mẹ mình sống ở Trường Môn điện với muôn vàn sủng ái, thầm nén ai oán trong lòng. Sao bọn họ rõ ràng đều là con gái của phụ hoàng nhưng người lại đối xử cách biệt như trời với đất vậy chứ?

    Sóng gió năm Nguyên Đỉnh thứ sáu dần trôi qua. Cuối năm dẹp xong loạn Tây Khương, Lưu Triệt thiết lập chức vụ Hộ Khương giáo úy nắm chắc Tây Khương trong tay, từ đó về sau hơn trăm năm không còn xảy ra biến cố gì. Dù việc nước trôi chảy nhưng Dương Đắc Ý lại cảm thấy gần đây tính tình đế vương trong điện Tuyên Thất ngày càng cáu kỉnh. Hắn mơ hồ biết rằng tâm trạng này của đế vương có liên quan với Hoàng hậu nương nương trong điện Trường Môn. Từ sau chuyện Vu cổ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt và Trần A Kiều đã dần lại đối xử với nhau “tương kính như tân”[1], dù bề ngoài luôn giữ hòa khí nhưng ẩn sâu trong xương cốt là một tầng băng cứng. Có là hoàng đế thì cũng chẳng thể làm được gì trong chuyện này nên càng thêm tức giận. Còn hắn, Dương Đắc Ý, nhìn thấy hết thảy nhưng không giúp được gì. Thế nên khi Công chúa Duyệt Trữ đến điện Tuyên Thất cầu kiến bệ hạ, hắn thậm chí còn vui mừng đón cô. Trong bốn người con trai, sáu người con gái, bệ hạ coi trọng nhất là Thái tử Lưu Mạch, sủng ái nhất là Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ. Vì vậy, lúc này mà gặp công chúa thì chắc bệ hạ sẽ vui vẻ. Dù sao thì Lưu Sơ cũng là con gái của Trần hoàng hậu. Dương Đắc Ý nhẹ bước vào điện, bẩm, “Bệ hạ, Công chúa Duyệt Trữ ở bên ngoài.”

    [1] Tương kính như tân: Vợ chồng kính nhau như khách.

    Lưu Triệt hơi bất ngờ, chậm rãi hỏi, “Sơ Nhi?” Y buông cây bút lông sói trong tay, ra lệnh: “Để nó vào đi.”

    Lưu Sơ vén rèm đi vào, nhướng mày gọi lớn, “Phụ hoàng.” Trong chốc lát, cặp mắt trong trẻo của cô như chiếu sáng cả căn phòng u ám nơi điện Tuyên Thất. Y không nhịn được cười khẽ, nhìn đứa con gái giống hệt A Kiều, dịu mặt hỏi, “Sơ nhi có việc gì vậy?”

    Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ là em song sinh với con trai trưởng Lưu Mạch, đến năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thì cũng đã mười bảy tuổi rồi. A Kiều và y đã từng trải qua một tuổi thanh xuân đẹp như giấc mộng chẳng thể nào níu kéo trở lại được nữa. Lúc này thấy Lưu Sơ, y mới giật mình. Cả năm nay y bận quá nhiều chuyện nên không để ý rằng con gái mình đã là một thiếu nữ xinh đẹp không hề thua kém A Kiều năm xưa. Không biết con cái nhà ai có vinh hạnh nắm giữ được viên minh châu này của y.

    Trong phút chốc, Lưu Sơ tỏ vẻ mặt vừa giận dữ vừa thẹn thùng, cuối cùng quay đầu đi, vùng vằng hỏi, “Phụ hoàng sai Mã Hà La đến tra xét điện Bác Vọng của ca ca, chẳng lẽ thật sự cảm thấy ca ca đã làm chuyện gì bất hiếu sao?”

    Từ khi trở về cung từ hồi năm Nguyên Sóc thứ sáu tới nay, cô càng thêm được sủng ái. Mặc dù theo các cung nhân lén lút nói với nhau thì đương kim Hoàng thượng là người rất vô tình nhưng lại chưa bao giờ làm gì bất lợi với cô, vì vậy cô cũng không kinh sợ Lưu Triệt như những hoàng tử công chúa khác, có gì không vừa lòng thì liền hỏi thẳng. Cô hoàn toàn không nhìn thấy Dương Đắc Ý chợt biến sắc, liên tục nháy mắt với mình. Lưu Triệt không nổi giận, cười nhẹ một tiếng, cho Dương Đắc Ý lui, ôn tồn nói, “Trẫm bảo Mã Hà La đi lục soát điện Bác Vọng, có mấy dụng ý.”

    “Một trong số đó là muốn xem Mạch Nhi ứng đối ra sao.”

    Lưu Sơ sáng mắt, mỉm cười nói, “Ca ca giỏi quá.”

    “Đúng vậy”, Lưu Triệt khẽ mím môi, “Biểu hiện của Mạch Nhi quả thực không khiến trẫm thất vọng.”

    Vậy những dụng ý khác của phụ hoàng thì sao? Lưu Sơ thoáng nghĩ. Cô há miệng định hỏi tiếp nhưng cuối cùng lại im lặng vì mơ hồ cảm thấy không hỏi thì tốt hơn. Có một số chuyện nên để cho thời gian xóa nhòa đi, như vậy ít nhất bọn họ còn có thể giữ được vẻ hòa thuận bên ngoài. Một nỗi bi thương cuộn lên trong lòng cô. Cô có thể giả bộ ngu ngốc không hỏi tới nhưng mẫu thân có thể sao? Dù sao, người sống cả đời với phụ hoàng là mẫu thân. Mấy ngày nay, không phải cô không thấy sóng gió ngầm nổi lên giữa mẫu thân và phụ hoàng nhưng cô là con gái thì có thể làm gì đây?

    “Sơ Nhi hôm nay cố ý tới gặp trẫm là vì chuyện này sao?” Lưu Triệt hỏi.

    “À? Không phải”, Lưu Sơ phục hồi tinh thần, duỗi ngón tay, nghiêm túc nói, “Phụ hoàng còn nhớ ngày đó khi đi tuần thú phương đông ở Lâm Phần, phụ hoàng còn nợ con một yêu cầu không?”

    “À?” Lưu Triệt hỏi vẻ ẩn ý, “Sơ Nhi đã nghĩ ra là muốn điều gì rồi sao?”

    Lưu Sơ không đáp, cúi đầu, chậm rãi nói, “Danh sách con cháu thế gia chỗ mẫu thân đã chất thành một chồng cao, còn kinh khủng hơn cả năm đó ca ca chọn phi.”

    “Đúng vậy.” Lưu Triệt bật cười nói, “Sơ Nhi cũng không còn nhỏ nữa, đúng là nên gả chồng rồi.” Tề vương Lưu Cứ nhỏ tuổi hơn cô mà đã kết hôn, y chẳng thể nào giữ mãi đứa con gái mình thương yêu nhất ở bên cạnh.

    “Con không cần,” Lưu Sơ cao giọng, kéo tay áo rộng của Lưu Triệt, nhõng nhẽo: “Phụ hoàng, người cho con kéo dài thêm mấy năm nữa nhé, con chưa muốn bị gả chồng.”

    “Ít nhất là con không muốn bị gả cho đám con nhà quyền quý đó.” Cô khẽ giọng lẩm bẩm.

    “Sao Sơ Nhi không nói chuyện đó với mẫu thân?”

    “Mẫu thân?” Lưu Sơ thở dài, “Con có nói nhưng mẫu thân bảo người không thể làm chủ, nói con phải tự tới tìm phụ hoàng nên con mới tới đây.”

    Cô ra vẻ vô tội, Lưu Triệt nghe xong thấy lòng trầm xuống. Y xưa nay thương yêu Duyệt Trữ, chuyện như vậy chỉ cần A Kiều muốn thì y sao có thể không đồng ý. Chẳng lẽ ngay cả khi ở chung vào buổi tối mà A Kiều cũng không muốn nói với y một câu? Y đầu tiên cảm thấy hơi giận nhưng sau đó lại dần buồn bã. Sớm biết như thế này, sớm biết như thế này thì ngày đó y thà không cho Loan Tử vào gặp, đám con trai của y muốn làm loạn thế nào cũng mặc. Nếu chúng quá đáng thì cần phạt cứ phạt, cần cấm cung cứ cấm cung, mọi chuyện nếu cứ thế trôi qua thì làm gì đến mức này? Suy nghĩ ấy cứ lởn vởn trong đầu khiến Lưu Triệt đột nhiên sợ hãi, thì ra vị trí A Kiều trong lòng y quan trọng như vậy sao? Y xưa nay làm việc không quay đầu, nhưng bây giờ lại bởi vì A Kiều mà mơ hồ cảm thấy hối hận.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  11. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 90: Non nước ẩn tình thu
    “Phụ hoàng, phụ hoàng.” Lưu Sơ thấy sắc mặt y biến đổi liên tục bèn lên tiếng gọi hai lần liền.

    Lưu Triệt choàng tỉnh, liếc mắt nhìn Lưu Sơ hỏi: “Lưu Sơ thích người nào chưa?”

    Lưu Sơ vừa xấu hổ vừa có chút mơ màng, bĩu môi nói: “Con chỉ thích Hoắc ca ca thôi.”

    “Khứ Bệnh?” Y hồi tưởng lại người thiếu niên chí khí hiên ngang, còn trẻ mà tính tình cao ngạo bất kham, hùng quang vạn trượng nhưng đáng tiếc là mất đi quá sớm.

    “Sơ Nhi”, y nhắc nhở: “Con phải nhớ là Khứ Bệnh qua đời đã sáu năm.”

    Nếu người thiếu niên đó còn sống, với hùng quang vạn trượng như thế thì tất nhiên là xứng đôi với con gái bảo bối của y nhưng cũng sẽ làm y phải nhức đầu vì hai người phân chia về hai nhà Trần Vệ, cho dù có được người đời coi là Kim Đồng Ngọc Nữ thì cũng làm sao có thể lấy nhau. Nhưng Hoắc Khứ Bệnh đã chết. Cho dù y có yêu thích người thiếu niên kia đến mấy cũng không muốn đứa con gái bảo bối mà y nâng niu trên tay lại phải trói buộc cả cuộc đời mình với một người anh hùng đã khuất.

    “Đúng vậy.” Lưu Sơ ảm đạm cúi đầu, khẽ nói, “Hoắc ca ca đã qua đời lâu rồi.”

    Lưu Triệt nhìn vẻ mặt con gái, hiểu rằng quá nửa là trong lòng con gái mình đã có người mới, nếu không thì cô bé đã bị kích động hơn nhiều. Lưu Sơ, ít nhất về mặt tính tình, rất giống tính cách yêu hận rõ ràng như mẹ mình. Cô lúc yên lặng suy tư, lúc lại do dự, cuối cùng mới hỏi, “Phụ hoàng, người có yêu mẫu thân không?”

    Y không biết nên khóc hay nên cười. Thật sự là chưa từng có ai ngoài hoàng tỷ Lưu Đàm hỏi y về vấn đề này, ngay cả A Kiều cũng không, nào ngờ người tiếp theo hỏi y lại là con gái. Y cho việc mình làm đã rất rõ ràng, tất nhiên nếu không yêu thì y hà tất phải giữ A Kiều ở bên cạnh suốt bao nhiêu năm như vậy? Thế gian có hàng nghìn hàng vạn mỹ nhân, sao y phải nâng niu mỗi một mình A Kiều?

    “Con đã hỏi mẫu thân về vấn đề này hồi năm Hoắc ca ca qua đời, hôm nay trước khi tới đây con lại hỏi mẫu thân một lần nữa. Mẫu thân trả lời hai lần với hai đáp án không giống nhau. Con cũng đã hỏi ca ca rằng có yêu tẩu tẩu hay không, ca ca lại cho một đáp án khác. Bây giờ thì con muốn hỏi phụ hoàng câu này.”

    Tình yêu rốt cuộc là gì?

    Cô thấy hàm ý trong mắt Lưu Triệt thì nín cười lắc đầu nói, “Không được, không được. Con không thể bán đứng mẫu thân, nhưng mà”, cô nghịch ngợm nói thêm: “Con sẽ lén nói cho phụ hoàng biết ca ca trả lời thế nào.”

    “Trẫm không có hứng thú đối với đời sống tình cảm của con cái.” Y nhướng mày, trả lời thản nhiên. Còn A Kiều thì sao? A Kiều vào năm được gả cho y còn nhỏ hơn Duyệt Trữ bây giờ một tuổi. Năm đó, y cưỡi ngựa đi dọc suốt đường phố Trường An thật dài đến phủ Đường Ấp hầu cưới A Kiều về cung. Năm đó, dung nhan A Kiều xinh đẹp hơn cả hoa sen. Y vén khăn ráng trùm đầu nàng lên, lòng tràn đầy vui mừng.

    Đúng vậy, niềm vui mừng rất trọng đại, nhưng cũng chỉ là vui mừng, thế thôi. Sau đó y đăng cơ trở thành hoàng đế Đại Hán. Sau nữa thì gặp Vệ Tử Phu. Niềm vui mừng đó dần nhòa theo thời gian rồi biến mất không thấy tăm tích.

    Xưa là đóa phù dung, nay thành cỏ đoạn trường. Đến năm Nguyên Quang thứ năm, y phế truất nàng không chút lưu tình. Sau đó A Kiều biến mất trong cuộc sống của y. Đến khi gặp lại nhau thì đã qua bảy năm đằng đẵng. Y biết rằng A Kiều của bảy năm sau luôn canh cánh khắc sâu trong xương cốt nỗi đau năm nào, muốn quên đi cũng chẳng thể. Bọn họ không quay về được quá khứ, có cố gắng hết sức cũng vô vọng. Bởi vì A Kiều đã không thể nào toàn tâm toàn ý yêu thương y như thuở còn niên thiếu. Rất nhiều chuyện nếu cân nhắc kỹ thì đều có thể tìm ra nguyên nhân. A Kiều thanh khiết kiêu ngạo, yêu thương y mà không giữ lại chút nào nhưng y lại cứa một nhát đao vào tim của nàng, gieo một hạt giống nghi ngờ tron niềm tin yêu của nàng, tới bây giờ thì hạt giống đó đã nảy nở, lớn lên thành một cây đại thụ che trời, như vậy thật ra thì y không có lý do gì để trách cứ nàng.

    Thế nhưng tại sao cứ muốn trở về quá khứ chứ? Bình tâm mà nói, trong quá khứ y chưa từng yêu nàng như hiện tại. Thế thì có trở lại quá khứ cũng chẳng thể hạnh phúc. Tương lai sẽ có một ngày, những tổn thương y gây ra cho nàng trong quá khứ sẽ là chướng ngại giữa hai người. Y ở trên ngôi chí tôn thiên hạ nên không thích làm cái loại chuyện khóc sầu thu này, cũng chẳng quay nhìn những gì đã qua. Y chỉ muốn sẽ chung sống với A Kiều trong những ngày còn lại. Năm tháng lâu dài sẽ làm chứng, có một ngày nào đó A Kiều sẽ thật sự tin rằng y rất yêu nàng.

    Y từ tốn mỉm cười, nhìn con gái rồi trầm trọng, “Trẫm nghĩ là đúng vậy.”

    Trẫm yêu nàng!

    Vẻ mặt Lưu Sơ khác lạ, nghĩ ngợi một lúc rồi cáo lui. Lưu Triệt nhìn theo bóng lưng Lưu Sơ khuất dần ngoài cửa điện, ra lệnh, “Dương Đắc Ý. Hãy điều tra thêm cho trẫm xem Công chúa Duyệt Trữ đã làm những gì, gặp những ai trong mấy tháng vừa qua.” Y muốn xem người trẻ tuổi kia có đủ tư cách đón Duyệt Trữ từ trong tay của y hay không.

    Tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ được bệ hạ ân sủng nhất bước vào tuổi mười bảy trăng tròn đẹp nhất. Thị nữ nhìn khuôn mặt Lưu Sơ tươi đẹp giống hệt Hoàng hậu nương nương ở trong gương đồng, nhẹ nhàng chải chuốt mái tóc đen nhánh của cô, cười nói, “Bây giờ Công chúa đã đến tuổi thành hôn, không biết Hoàng thượng và Hoàng hậu nương nương chọn trong ngàn vạn người có tuyển được thiếu niên nào xứng đôi với Công chúa không đây?”

    Cô vốn định nói đùa mấy câu để lấy lòng Công chúa Duyệt Trữ, không ngờ Lưu Sơ lập tức sa sầm mặt, mắng: “Đoán mò cái gì, lui xuống.”

    Lưu Sơ đuổi thị nữ đi nhưng trong lòng đã bị khuấy động. Cô biết rằng tuổi mình một ngày một lớn thêm, cuối cùng cũng đến lúc quyết định. Cô được coi là một công chúa Đại Hán rất may mắn vì có phụ hoàng sủng ái, mẫu thân yêu thương, nhưng mẫu thân mới khôi phục ngôi vị hoàng hậu, địa vị thừa kế của ca ca rất chắc chắn nên không cần người muội muội như cô phải hạ thấp bản thân để lôi kéo đám quyền quý. Cho dù tình thế không sáng sủa như vậy thì cô vẫn tự tin rằng mẫu thân mình không phải là Vệ Tử Phu, sẽ không vì những thứ quyền lực địa vị tầm thường của thế nhân mà hy sinh con gái của mình. Mẫu thân coi trọng nhất không phải là những hư danh bề ngoài mà là hạnh phúc của cô và ca ca. Cho nên, năm ngoái ca ca chọn phi chỉ suy xét đến bản thân những cô gái kia chứ không phải là ý nghĩa đại diện đằng sau bọn họ. Dù tốt đẹp đến thế nhưng cô vẫn mê muội không hiểu tại sao con gái nhất định phải được cưới gả, nếu có thể được cô tình nguyện cả đời ở vậy bầu bạn với mẫu thân. Bởi vì người mà cô muốn gả đã qua đời rồi.

    “Hoắc ca ca”, cô trằn trọc suy nghĩ đến cặp mắt này, đôi mắt người thiếu niên kia vẫn mang bóng dáng của Hoắc Khứ Bệnh khi cưỡi tuấn mã quay đầu nhìn lại với nụ cười sáng rực rỡ như mặt trời. Cô bất chợt giật mình. Đến ngày mười tám này là Hoắc Khứ Bệnh đã rời bỏ thế gian được sáu năm tròn. Sau năm rồi, nếu không dọn dẹp thì cỏ xanh trên mộ hắn đã cao bằng đầu người rồi chứ chẳng sai.

    Ngày mười tám tháng Chín, Lưu Sơ giấu mẫu thân, lén dẫn người đi tới Mậu Lăng. Lưu Triệt cực kỳ coi trọng những lễ tiết hậu sự hoành tráng, vì vậy y đích thân lựa chọn Mậu Lăng, vừa lên ngôi liền bắt đầu cho xây dựng, cho đến tận hôm nay vẫn chưa hoàn thành. Nơi đây vốn không cho phép ai vào, song Lưu Sơ có thân phận công chúa nên không hề để tâm tới điều này mà cứ thế đi thẳng đến mộ Quan Quân hầu. Mộ của Quan Quan hầu nằm ở khu mộ bồi táng Hoàng đế sau này nên xây dựng cực kỳ hoành tráng, mộ phần trắng toát chịu sáu năm mưa gió phong sương mà vẫn còn nguy nga tráng lệ. Hình dáng ngôi mộ hùng vĩ như dãy núi Kỳ Liên mai táng người anh hùng thiếu niên chói sáng nhất triều Tây Hán.

    “Hoắc ca ca.” Lưu Sơ tế lạy Hoắc Khứ Bệnh xong thì thầm, “Huynh là anh hùng, nếu sống lại được thì chắc chắn sẽ giữ lời hứa. Muội đã đầy mười sáu tuổi. Nếu phụ hoàng chấp nhận thì muội chắc đã được gả cho huynh rồi chứ không còn phiền não như thế này nữa.”

    “Không đúng”, cô chợt nghĩ ra, cười khổ, “Nếu huynh biết rằng bà dì hoàng hậu của huynh vì Trần gia mà mất địa vị phải tự vẫn thì e rằng sẽ hận chết muội, mà có không hận thì e là cũng không chịu thực hiện lời hứa nữa.”

    Ngay từ thời điểm ban đầu, bọn họ đã bị chủ định sẽ không có kết cục tốt. Như vậy, ít nhất việc Hoắc ca ca mất đi quá sớm cũng lưu giữ được hình tượng tốt đẹp của mỗi người trong lòng nhau, cuối cùng không tới mức trở mặt thành thù.

    “Hoắc ca ca”, cô khẽ nghiêng đầu, hỏi như có điều trăn trở, “Huynh ở trên trời nhiều năm như vậy có nhận thấy con trai nhà nào tốt, đáng giá để Duyệt Trữ gửi gắm cả đời không?”

    “Công chúa”, Oanh Tâm đứng ở bên mộ chua xót định khuyên nhủ mấy câu, nhưng vừa lên tiếng thì lại không biết phải nói gì. Cô thoáng liếc thấy có bóng người từ đường núi phía xa hướng tới bên này liền vội nói, “Công chúa, có người đến.”

    Lưu Sơ ngơ ngẩn đứng dậy nhìn sang, thấy trên đường núi có một thiếu niên mặc áo quần xanh thẫm đang dắt tay một cậu bé chừng năm sáu tuổi đi lên. Người thiếu niên kia chính là Hoắc Quang, chắc cậu bé đang nói gì đó nên hắn nghiêng đầu lắng nghe, không ngẩng đầu lên nhìn hai người. Đó chắc là Hoắc Thiện, con trai độc nhất của Hoắc Khứ Bệnh để lại trên thế gian, mới chớp mắt mà đã lớn như vậy. Lưu Sơ không muốn gặp lại hai người này để gợi lại nỗi đau, hạ giọng nói, “Oanh Tâm, đi theo ta”, nói xong cô luồn ra sau mộ.

    Một lúc sau thì nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng dừng bước ở trước mộ, rồi giọng Hoắc Quang vang lên buồn bã, “Thiện Nhi, quỳ xuống. Người trong mộ chính là cha của cháu.”

    “A.” Hoắc Thiện không hiểu lắm, hỏi lại: “Thúc thúc, cháu nghe người ta nói rằng cha cháu là một đại anh hùng có phải không?”

    Đúng vậy, là một đại anh hùng. Lưu Sơ thầm khẳng định, những năm qua cô luôn nhớ tới Hoắc ca ca nhưng lại quên mất hắn đã là cha của một đứa trẻ. Nhưng dù hắn còn sống, mọi thứ đều tốt đẹp thì hai người bọn họ cũng không thể thành đôi. Trong lòng cô đột nhiên rưng rưng. Khi Hoắc Khứ Bệnh mất đi, cô từng quật cường nói: “Trừ khi trên cõi đời này có người con trai nào tốt hơn Hoắc ca ca, còn không thì ta sẽ không gả cho ai.” Thiên hạ này rộng lớn nhưng cô lại không tìm được một người con trai nào tốt như hắn nữa.

    “Đúng vậy, là một đại anh hùng.” Hoắc Quang nhắc lại. Hoắc Thiện nghe vậy rất vui mừng, ngoan ngoãn khấu đầu. Cậu khấu đầu xong liền ngẩng lên nhìn thúc thúc, hơi lấy làm lạ khi thấy trên mặt vị thúc thúc từ trước đến giờ luôn ôn hòa lại có những nét khác lạ.

    “Đại ca, huynh ở dưới đó cứ yên tâm đi.” Vẻ mặt Hoắc Quang thoáng gợi nét kính nể lẫn u buồn, “Dù Vệ hoàng hậu mất rồi nhưng Trường Bình công chúa không bị liên lụy. Nhị hoàng tử đi làm Tề vương đến nay vẫn được bình an, năm nay còn thành hôn, có lẽ đến sang năm huynh sẽ thêm một đứa cháu họ nữa.”

    “Thiện Nhi rất tốt. Nó lớn dần lên, rất ngoan ngoãn, rất thông minh. Hoán Liên cũng khỏe, đệ coi như cũng ổn.”

    “Về phần cô bé kia cũng rất tốt. Ừ, cô ấy đã bước sang tuổi mười bảy, vẫn rất được ân sủng. Năm ngoái đệ đã gặp mặt ở Tấn Trung, thấy cô ấy càng ngày xinh đẹp hơn, vẫn còn rất nhớ đại ca. Chỉ tiếc là đệ không khí phách như ca ca nên không lọt vào mắt xanh của cô ấy.”

    “Thúc thúc”, Hoắc Thiện cắn ngón tay, nghe thấy như vậy thì rất tò mò, đảo mắt hỏi, “Thúc cuối cùng nhắc tới ai vậy?”

    “Là một a di mà Thiện Nhi chưa gặp bao giờ.” Hoắc Quang cười buồn bã. “Cô ấy là một công chúa, được phụ thân cháu đối xử rất tốt khi người còn sống.”

    Lưu Sơ đứng ở sau mộ, lúc đầu nghe chuyện còn xấu hổ, lúc sau lại xuất thần đến mức Hoắc Quang dẫn Hoắc Thiện rời đi từ khi nào cũng không phát hiện ra. Oanh Tâm đứng ở bên cạnh Lưu Sơ, nghe chuyện cũng đỏ mắt lên, lén che miệng cười trộm, rất lâu sau mới nói: “Công chúa, nô tỳ nghe ra vị Hoắc đại nhân này chắc là rất thích Công chúa đấy.”

    Lưu Sơ chợt bừng tỉnh, lườm Oanh Tâm một cái, cả giận quát, “Nói loạn gì đấy?” Oanh Tâm theo cô đã nhiều năm, rất hiểu tính chủ nhân nên không một chút sợ hãi, ánh mắt còn tinh quái hơn. Lưu Sơ bị cô cười trêu nên không ngẩng đầu lên, vừa chạy ra liền sững lại. Tuy Hoắc Quang đã rời đi nhưng có một người khác. Cô nấp ở sau mộ, đang lúc bối rối nên không biết hắn đến.

    “A”, Oanh Tâm đứng ở sau Lưu Sơ, trông thấy Kim Nhật Đan thì rất kinh ngạc, quỳ gối nói: “Oanh Tâm tham kiến Kim đại nhân.”

    Kim Nhật Đan nhìn Lưu Sơ, cười vui vẻ, “Công chúa điện hạ cũng tới bái tế Quan Quân hầu, Hầu gia ở dưới biết được chắc chắn sẽ mừng lắm.”

    Cô không rõ Kim Nhật Đan đã nghe được bao nhiêu nên lúng túng, miễn cưỡng hỏi, “Tại sao ngươi lại tới đây?”

    “Nhật Đan đã nói”, Kim Nhật Đan chỉ cười, không để ý lắm tới câu hỏi: “một trong hai người Hán mà Kim Nhật Đan bình sinh bội phục nhất chính là Quan Quân hầu. Hôm nay ngày giỗ của Quan Quân hầu, Nhật Đan tới bái tế một lần thì có gì là không được?”

    “Tất nhiên là được chứ .” Lưu Sơ gật đầu, “Ngươi cứ bái tế đi, ta phải hồi cung rồi.”

    “Công chúa Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan gọi giật lại, “Trời thu trong xanh mát mẻ, Công chúa đã không dễ xuất cung mà lại định trở về như thế này sao?”

    Lưu Sơ nghe vậy bực mình, xoay người hỏi, “Theo như Kim đại nhân thì Duyệt Trữ phải như thế nào đây?”

    “Này”, Kim Nhật Đan nhoẻn miệng hỏi Oanh Tâm: “Ngươi tên là gì?”

    Hắn hỏi khá bất ngờ, Oanh Tâm ngẩn người một lát rồi mới đáp, “Nô tỳ tên là Oanh Tâm.”

    Kim Nhật Đan bỗng giơ tay túm lấy Lưu Sơ, nói: “Ta dẫn công chúa của ngươi đi chơi. Ngươi cứ chờ ở cửa Tư Mã phía tây, trước lúc mặt trời lặn ta sẽ đưa cô ấy về.” Hắn mặc Oanh Tâm ngơ ngác, nhất thời không biết phải thế nào.

    Lưu Sơ bất thình lình bị hắn lôi đi, thẹn quá hóa giận, giãy giụa định tránh ra nhưng từ thuở nhỏ đã không khỏe, làm sao có thể chống lại được Kim Nhật Đan nên vẫn bị hắn kéo thẳng xuống núi, cả giận quát, “Kim Nhật Đan, ngươi thật to gan!”

    “Lá gan của ta đúng thật là không nhỏ.” Kim Nhật Đan không thèm để ý, huýt gió một tiếng. Từ trong bóng râm, một con tuấn mã cao lớn uy mãnh, phong thái hùng dũng phi đến, không phải là loại tuấn mã thuần phục hiền lành như Lưu Sơ đã gặp ở Tấn Trung. Lưu Sơ tức thì tái nhợt mặt, lui lại một bước.

    “Sao vậy?” Kim Nhật Đan nhảy lên ngựa, từ trên cao mỉm cười nhìn xuống để lộ hàm răng trắng bóng, “Công chúa vẫn còn sợ ngựa sao?” Hắn nắm tay kéo cô lên ngựa, cười lớn nói, “Ta chở cô chạy một đoạn nhé.” Hắn hét lớn một tiếng, con tuấn mã hí vang rồi phi nhanh như điện chớp, nháy mắt đã ra khỏi Mậu Lăng. Lưu Sơ ở trong lòng Kim Nhật Đan, nghe tiếng gió vù vù bên tai, biết giờ có nói cũng vô dụng nên đành mím môi yên lặng.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  12. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 91: Ba năm nguyện trồng xanh ngô đồng[1]
    [1] Xuất phát từ tích “Phượng đậu ngô đồng.” Phượng ở đây chỉ người con gái, cây ngô đồng ám chỉ người con trai cứng cỏi, là chỗ dựa vững chắc để người con gái dựa vào.

    Chạy được một lát thì Kim Nhật Đan hô một tiếng, ghìm ngựa lại rồi nhảy xuống, mỉm cười nói: “Đến rồi.” Lưu Sơ ngồi trên lưng ngựa, nhìn chung quanh thấy hoàn toàn lạ lẫm.

    “Cưỡng ép công chúa đương triều”, cô lạnh lùng nói, “Kim Nhật Đan, rốt cuộc ngươi nghĩ mình có mấy cái đầu? Hơn nữa ngươi cho là ngươi so với một muội muội ruột thịt như ta thì đại ca sẽ bảo vệ ai?”

    “Oan uổng quá.” Kim Nhật Đan cười vang, dang rộng hai tay, “Ta chỉ cảm thấy Công chúa đã phiền muộn ở cung Kiến Chương quá lâu nên dẫn ra ngoài hóng mát một chút. Xuống đây đi.”

    “Hóng mát cũng phải cần ta đồng ý mới được.” Lưu Sơ cười lạnh nói, “Nếu ngươi không đưa ta trở về thì ta không xuống.”

    “Vậy à?” Kim Nhật Đan nhíu mày, ôm quyền nói, “Công chúa không xuống thật sao? Ta sẽ bảo Hắc Phong của ta mang cô đi vậy.” Hắn làm bộ muốn huýt sáo. Lưu Sơ nhìn khoảng cách từ lưng con ngựa ô tới mặt đất, không rét mà run, vội vàng nói, “Được rồi, được rồi, ta xuống là được chứ gì.” Cô vịn tay Kim Nhật Đan xuống ngựa, vẫn chưa hết giận, oán hận nói, “Ngươi coi thường ta sợ ngựa đúng không? Ngươi không sợ khi trở về ta sẽ tố cáo tội trạng của ngươi với phụ hoàng hay sao?”

    Người thiếu niên dìu tay cô, khuôn mặt thoáng hiện ý cười, cố tình cao giọng: “Công chúa Duyệt Trữ cảm thấy ỷ vào Hoàng Thượng và Thái tử điện hạ vinh dự lắm sao?”

    “Ngươi!” Lưu Sơ tức giận đến mức giậm chân, biết rõ là hắn khích tướng nhưng vẫn không nhịn được nói, “Ngươi thì có gì đặc biệt hơn người chứ.”

    Tháng Chín ở thành Trường An đã là cuối mùa thu. Lưu Sơ nhìn bốn phía, bất giác thán phục Kim Nhật Đan đã lựa chọn được một chỗ rất đẹp. Tuy cây cỏ dần úa vàng nhưng chính vì thế mà trời đất mới hiện ra vẻ yên tĩnh mênh mang. Cô quay đầu lại nhìn ra xa, cây phong trên Mậu Lăng ánh lên sắc hồng, rạng ngời như mây gấm.

    “Ồ Kim Nhật Đan.” Cô không nhịn được, quay đầu lại hỏi: “Ngươi kéo ta đến đây rốt cuộc là muốn làm gì?”

    “Con người làm chuyện gì cũng phải có dụng ý sao?” Kim Nhật Đan nhàn nhã nằm trên mặt đất, miệng ngậm một cọng cỏ khô, nụ cười trong sáng. “Thỉnh thoảng dừng lại nghỉ ngơi một chút, ngắm nhìn trời xanh, mây trắng, cỏ vàng chẳng phải cũng tốt sao?”

    “Thật không?” Lưu Sơ khẽ cười lạnh, “Nếu chỉ là thế thì ta ngắm nhìn ở điện Trường Môn cũng được, cần gì phải đến chỗ này?”

    “Công chúa Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan bỗng nhiên quay đầu nhìn cô, “Còn nhớ những điều ta nói với cô ở Tấn Trung không? Làm người chẳng thể nhìn mãi về quá khứ.”

    “Nhìn về con đường phía trước còn rất nhiều phong cảnh mỹ lệ.”

    Lưu Sơ chợt cảnh giác, nhìn hắn vẻ đề phòng, nhẫn nại nói: “Rốt cuộc ngươi muốn nói điều gì?”

    “Không có gì.” Kim Nhật Đan bỗng nhiên lại cười ha hả, “Chỉ muốn để cho Công chúa đừng như một đứa trẻ, mãi không thể xa rời phụ thân, mẫu thân và ca ca?”

    “Kim Nhật Đan!” Lưu Sơ nghiến răng nghiến lợi, lại nghe Kim Nhật Đan nói tiếp, “Thật không ngờ, lúc Công chúa Duyệt Trữ nổi giận lại là lúc có sức sống nhất, xinh đẹp mê người.”

    Cô hơi sửng sốt. Kim Nhật Đan quay sang chỗ khác, nhớ lại, “Lúc phụ thân ta còn sống, ta ở trong bộ lạc Hưu Đồ đã được nghe tên của cô, người biết chuyện nhà Hán kể rằng hoàng đế nhà Hán sinh được bốn người con trai, sáu người con gái.”

    Sau đó thì hắn chỉ chú ý tới tên hiệu của các hoàng tử, còn về phần những công chúa đẹp như hoa như gấm thì chỉ nghe qua loa về danh hiệu và biết người được hoàng đế nhà Hán sủng ái nhất là Công chúa Duyệt Trữ.

    Duyệt Trữ! Duyệt Trữ! Cái tên này quả nhiên rất đẹp, không giống như danh hào của các công chúa khác. Khi đó hắn còn chưa biết rằng cái tên này sau đó chiếm một vị trí quan trọng như thế nào trong cuộc đời mình. Biến cố Hà Tây xảy ra, phụ thân hắn bị Lâu Phiền vương giết chết. Hắn và mẫu thân, đệ đệ đều bị bắt vào cung nhà Hán làm nô lệ. Số phận chỉ qua một đêm đã đổi khác, nếu nói là hận thì hắn càng hận đám người cùng tộc đã tàn hại lẫn nhau. Thời gian ở trong cung nhà Hán, hắn đã nghe được rất nhiều chuyện, bao gồm từ chuyện thiên tử nhà Hán dốc sức vì nước, thấy Trần nương nương từng bị phế hậu lại được sủng hạnh, thiếu niên anh hùng Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh, cho tới đôi huynh muội lưu lạc bên ngoài thời niên thiếu rồi cuối cùng trở về với hoàng gia. Hắn đã được gặp Hoắc Khứ Bệnh. Đó đúng là một hán tử thật sự, có tính cách hào hùng, dũng mãnh, không giống đám binh sĩ nhà Hán mà ngược lại giống những người thảo nguyên lớn lên trên lưng ngựa hơn. Người đời thường nói Hoắc Khứ Bệnh chết đi vào những năm tháng anh hùng nhất của đời mình và người con gái trong lòng hắn chính là Công chúa Duyệt Trữ Lưu Sơ mà bệ hạ sủng ái nhất.

    Chuyện tình này thật sự đáng để ngẫm nghĩ. Lúc đó hắn đang ở vị trí hèn mọn nhất trong cung nhà Hán mấy năm, dần hiểu được sự tranh đấu khốc liệt trong chốn phồn hoa đẹp đẽ nhất của thế gian này. Hai người rõ ràng thuộc về hai gia tộc của hai hậu – phi tranh đấu một mất một còn mà tại sao lại có thể có tình cảm như vậy chứ?”

    Hắn không đoán được sự sâu xa trong đó, cũng không muốn tốn quá nhiều thời gian vào những chuyện tiểu tiết như vậy. Hắn cũng có dã tâm của mình, không cam lòng cả đời ở mãi vị trí hèn mọn, cho dù bản thân mình đang ở nước khác cũng phải tìm ra được một con đường riêng. Sau khi mẫu thân hắn lâm bệnh qua đời trong cung nhà Hán, hắn hao tổn hết tâm tư, cuối cùng cũng thoát được ra ngoài cung Hán.

    Trên đường đi sứ Thân Độc, hắn tình cờ được gặp Hoàng tử trưởng Lưu Mạch, đó quả thật là chuyện bất ngờ nhất trong cuộc đời hắn. Thời niên thiếu, vị tiên sinh biết chuyện nhà Hán đã kể với hắn rằng hoàng đế nhà Hán sinh hạ được bốn người con trai, tài năng nhất chắc chỉ có Hoàng tử trưởng Lưu Mạch và người về sau trở thành Tề vương Lưu Cứ. Hắn đã từng nhìn thấy Lưu Mạch ở trong cung, người thiếu niên này nhỏ hơn hắn hai tuổi, là con trai trưởng của hoàng đế trị vì đế quốc mạnh nhất thế gian, rất được coi trọng. Bản thân Lưu Mạch cũng không phụ sự coi trọng này, ẩn dưới khuôn mặt ôn hòa là tâm trí nhạy cảm kiên nghị. Song Lưu Mạch lại lựa chọn mai danh ẩn tích đi sứ vào thời điểm có khả năng nhất để thừa kế vị trí thái tử Đại Hán. Quyết định hoang đường như vậy khiến ngay cả một kẻ “man di” của nước khác như hắn vừa nghe thấy cũng phải há mồm trợn mắt nghĩ rằng Lưu Mạch quả thực là điên rồ. Nhưng sao khi thực sự quen biết cậu thì hắn mới hiểu rằng dưới bề ngoài ôn hòa chững chạc thì người thiếu niên này vẫn là một người trẻ tuổi, vẫn có khát vọng như những thiếu niên cùng trang lứa khác là được đi qua hết thảy núi sông trong thiên hạ. Cho dù cung Vị Ương có lộng lẫy phồn hoa, vị trí đó có tối cao cũng không thể che khuất được khát vọng đó.

    Trên đời có rất nhiều người ấp ủ khát vọng nhưng lại rất ít người chịu nỗ lực biến những khát vọng đó thành hiện thực. Hai người bọn họ vừa khéo lại ở trong số ít đó. Sau khi thực sự hiểu Lưu Mạch, hắn đã nghĩ rằng người thiếu niên này ngày sau sẽ là một hoàng đế Đại Hán rất tốt. Lưu Mạch bản chất là một người cực kỳ vô tình. Hắn không hề nghi ngờ nếu có một ngày mình cản đường Lưu Mạch thì đối phương sẽ không mảy may niệm tình đồng trang lứa mà cứ thế lạnh lùng giết hắn. Chỉ có mẫu thân và muội muội mới có thể làm nhạt đi tính vô tình của Lưu Mạch. Lưu Mạch nói rằng mẫu thân của mình là người phụ nữ tốt nhất thiên hạ. Lúc nghe Lưu Mạch nói vậy, hắn còn bật cười. Hắn luôn nghĩ rằng chắc là Lưu Mạch rất yêu, rất yêu mẫu thân của mình nên mới thấy phụ nữ trong khắp thiên hạ đều kém hơn. Song Trần A Kiều tốt hay không tốt đều là chuyện của hoàng đế nhà Hán, không can hệ tới hắn.

    Tại chợ của người Thân Độc, Lưu Mạch có mua một thanh dao găm cong cong. “Đây là thứ mà ta định tặng cho muội muội”, Lưu Mạch mỉm cười nói, trong niềm vui toát ra tình yêu thương kín đáo, “Tảo Tảo sẽ thích.” Hắn sửng sốt hồi lâu mới liên hệ được cái tên này với Công chúa Duyệt Trữ được sủng ái.

    Mãi sau này, hắn nghe nói rằng cái tên Tảo Tảo là ngày xưa Trần nương nương đã đặt, lấy ý tứ trong câu thơ “Đời người nếu mãi như vừa gặp.” Ngay đến một người Hung Nô không hiểu thơ phú là hắn đây cũng thích nghe câu thơ đẹp đẽ như vậy.

    Lần đầu tiên hắn gặp cô là ngày sứ đoàn từ Thân Độc trở về Trường An. Thiếu nữ vừa chớm tròn mười bốn nâng váy vui mừng chạy ào tới chỗ ca ca của mình trông thật duyên dáng. Trong ký ức của mình, hắn chưa từng thấy một thiếu nữ nào đẹp bằng một nửa cô. Chỉ tiếc là cô quá mảnh mai. Nghe nói, thân thể Công chúa Duyệt Trữ từ nhỏ đã yếu ớt. Trên đời này vốn không có chuyện hoàn mỹ, cô được sủng ái nhiều như vậy nên ông trời phải lấy đi chút gì đó cho công bằng. Hắn cũng dần hiểu được tại sao có nhiều người bất phàm lại không ngăn nổi lòng sủng ái đối với cô bé này. Tính cách của Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ thông minh mà không hấp tấp, được sủng ái nhưng không kiêu ngạo. Nếu ai coi trọng cô thì chắc chắn cô sẽ đối xử lại với người ấy như thế. Trong suốt quá trình trưởng thành, cô đã được quá nhiều người che mưa che gió, bảo hộ cho mình. Bản thân hắn cũng muốn trở thành một người như vậy.

    Lưu Sơ hơi lúng túng, “Ngươi ở cung Vị Ương đã mấy năm nhưng sao ta chưa từng thấy bao giờ?”

    “Công chúa là cành vàng lá ngọc”, hắn mỉm cười nói, “Tất nhiên không để ý tới một cung nhân thấp hèn.”

    Một con thỏ trắng như tuyết bỗng nhiên nhảy ra khỏi ổ trong vùng đất khô vàng, xù lông dõi cặp mắt đen nhánh cảnh giác nhìn hai người, con ngươi xoe tròn trông rất linh động. Lưu Sơ hoan hỉ kêu lớn, “Con thỏ kìa!” Con thỏ kinh hoảng, lập tức chạy xa hơn nhưng vì chưa bao giờ trông thấy con người nên lại tiếp tục cảnh giác quan sát.

    “Công chúa thích sao?” Kim Nhật Đan khẽ mỉm cười, quay lại chỗ con ngựa lấy cung, lắp tên định bắn. Lưu Sơ hoảng hồn, vội hỏi, “Ngươi làm gì vậy?” Cô nhào tới đẩy một cái, dù không mạnh nhưng vẫn có thể làm ảnh hưởng tới sự chính xác của Kim Nhật Đan. Mũi tên bắn ra cắm trước người con thỏ chừng một tầm tên khiến nó hoảng sợ chạy biến đi như một làn khói.

    “Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan bất đắc dĩ nói, “Cô làm gì vậy?”

    “Ngươi mới làm gì đấy?” Lưu Sơ ngẩng đầu lên, không chú ý tới Kim Nhật Đan đã thay đổi cách xưng hô. “Ta chỉ thích con thỏ nhảy nhót, nếu nó chết rồi thì còn thích nó làm gì?”

    Hắn im bặt, lúc này mới nhớ lại chuyện Lưu Mạch đã từng đề cập tới, rằng muội muội này của hắn rất không thích giết chóc.

    “Dù sao cũng phải bắn.” Hắn nói khẽ, quay lại buộc cung tên vào yên ngựa. Người Hung Nô giỏi săn thú nhưng không giỏi bắt sống một con thỏ vẫn còn nhảy nhót để lấy lòng người yêu. Sinh mạng của một con thỏ quá yếu ớt khiến hắn có bắn hạ nó cũng cảm thấy rất ấm ức. Nếu bảo phải ôm một con thỏ còn sống trên tay thì hắn sợ rằng mình sẽ quá tay bóp chết nó.

    “Cái gì gọi là nhất định phải bắn?” Lưu Sơ nghe mà không hiểu.

    “Người Hung Nô từ xưa có một tập tục là tự tay lột da con thú mình săn được để tặng cho người trong trái tim mình. Trước khi tới đất Hán, ta đã đánh mất bộ da con thú săn được ở Hung Nô nên dù gì cũng phải săn lại.”

    Gương mặt Lưu Sơ dưới ánh nắng mùa thu ửng hồng. Hắn nhìn đến mê muội, nghĩ bản thân mình chỉ là một người dị tộc thì có được mấy phần cơ hội lấy được viên ngọc minh châu được sủng ái nhất trong lòng bệ hạ? Vì hai huynh muội này, hắn nguyện ý từ bỏ thân phận người Hung Nô của mình, coi bản thân như một người Hán, tôn thiên tử Đại Hán là bệ hạ của mình.

    “Cứ cách mấy năm là phụ hoàng của ta lại đến Thượng Lân Uyển săn thú.” Lưu Sơ kể, “Trong Thượng Lâm Uyển có cả sư tử và báo, nếu ngươi được đi theo thì biết đâu có thể săn được.”

    “Vậy à?” Kim Nhật Đan cười dài, “Duyệt Trữ thích nhất loài gì?”

    “Ta ư?” Lưu Sơ suy nghĩ một chút, nói: “Ta cũng giống mẫu thân, thích nhất là cáo tuyết.”

    “Cáo tuyết?” Kim Nhật Đan nhíu mày, “Loài này rất hiếm thấy. Ta ở Hung Nô nhiều năm nhưng chưa từng thấy bao giờ. Nghe nói chỉ riêng vùng Đường Cổ Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ mới có. Tại sao cô thích nó?”

    “Bởi vì nó rất đẹp.” Lưu Sơ cười nói, “Khi còn bé, Quách sư thúc bế ta đứng ở xa nhìn thấy một con, màu sắc trắng như tuyết, cặp mắt cực kỳ linh hoạt cứ như là biết nói chuyện. Chỉ tiếc”, cô siết chặt nắm tay nói: “nó ở quá xa, chúng ta vừa cử động thì nó đã bỏ chạy mất tăm rồi.”

    “Ngươi đừng mơ tưởng nữa.” Lưu Sơ cười khanh khách, “Phụ hoàng ta sai người tìm kiếm bao năm vẫn chưa từng thấy một con.”

    ‘Chẳng qua…”, cô suy nghĩ một chút, lại cắn môi, nói: “Nếu ngươi thật có săn được hổ hay báo gì đó thì đừng làm hỏng bộ da mà cứ đưa đến phường may Tạp Môn, báo danh hiệu của ta là Hạ a di sẽ biết nên làm như thế nào.”

    Vào cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt tuyên Kim Nhật Đan vào cung Kiến Chương gặp mặt. Lúc đó, khí trời thành Trường An đã tương đối lạnh. Kim Nhật Đan quỳ hồi lâu trên mặt tuyết mới nghe thấy Hoàng đế thủng thẳng nói, “Nghe nói gần đây ngươi và Công chúa Duyệt Trữ lui tới rất thân thiết.”

    “Đúng vậy.” Cho dù là đối mặt với bậc đế vương có uy quyền nhất trên thế gian, Kim Nhật Đan vẫn không hề sợ hãi, ‘Vi thần thích Công chúa, dĩ nhiên hy vọng có thể tiếp cận gần hơn với nàng.”

    “Thật to gan.” Nét mặt Lưu Triệt nhìn không ra vui hay giận, “Công chúa Duyệt Trữ là viên ngọc minh châu mà trẫm và Hoàng hậu nâng niu, một kẻ hàng thần Hung Nô như ngươi có tư cách gì dám nói loạn là thích Công chúa chứ?”

    “Vi thần tự biết thân phận thấp kém, ngay cả không phải là người Hung Nô thì cũng không xứng với Công chúa.” Kim Nhật Đan hiên ngang nói: “Vi thần chỉ thích Công chúa mà thôi. Bệ hạ trị vì bốn biển, trong đó cũng có con dân Hung Nô. Bệ hạ muốn giáo hóa để dân chúng thuận theo nhưng lại không xem trọng bọn họ thì làm sao khiến bọn họ phục tùng bệ hạ?”

    “Mồm miệng thật sắc sảo.” Lưu Triệt cười lạnh một tiếng, từ trên cao nhìn xuống, “Không trách Hoàng hậu và Thái tử đều nói giúp cho ngươi.”

    Lời nói của bậc đế vương khiến Kim Nhật Đan giật mình, song hắn còn chưa kịp nghĩ được gì thì Lưu Triệt đã thong thả bước đến bên cạnh hắn. “Ngươi nghe đây”, y nghiêm nghị nói, “Con gái của trẫm không phải dễ lấy như vậy. Nể mặt Hoàng hậu, trẫm cho ngươi một cơ hội. Trẫm cho ngươi ba năm, trong ba năm này ngươi phải gắng sức làm việc cho triều đình để trẫm nhìn xem rốt cuộc ngươi có tư cách mang Duyệt Trữ của trẫm đi được hay không. Còn nếu ngươi khiến cho trẫm có nửa phần không hài lòng…”

    Y lãnh đạm nói, “Trẫm sẽ lập tức chọn một người trong đám con cháu tôn thất và cho Duyệt Trữ xuất giá.”

    Yêu cầu của Hoàng đế rất khó nhưng đây là hy vọng duy nhất. Kim Nhật Đan vui mừng khấu đầu, “Thần tạ ân điển của bệ hạ!”

    Lưu Triệt lạnh lùng nhìn Kim Nhật Đan lui ra rồi quay đầu lại hỏi: “Như thế Kiều Kiều đã hài lòng chưa?”

    Trần A Kiều cầm một chiếc lò sưởi nhỏ từ sau đình bước ra, nhướng mày nói: “Tại sao lại là thiếp hài lòng? Chẳng phải Tảo Tảo cũng là con gái của bệ hạ sao?”

    “Hay là bệ hạ còn có ý khác?”

    Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, nắm tay A Kiều, chau mày nói,”Nơi này gió lớn quá. Chúng ta nên trở về điện Trường Môn thôi.”

    A Kiều cười duyên dáng, vẻ mặt dịu xuống, nhẹ nhàng đáp, “Cũng được.”

    Y cho Kim Nhật Đan cơ hội lần này dĩ nhiên là vì A Kiều giữ vẻ lạnh lùng liên tiếp mấy ngày liền khiến y phát mệt mỏi, không thể không làm theo ý nàng. Ngay cả chuyện khác đi, y nghĩ, nếu Duyệt Trữ kiên quyết thì cuối cùng y cũng đồng ý, bởi vì y không nỡ để Duyệt Trữ phải buồn.

    Duyệt Trữ ở trong lòng y chính là một A Kiều chưa từng bị thương tổn. Y từng đích thân gây thương tổn cho A Kiều nên hy vọng Duyệt Trữ không phải đi qua con đường này. Y che chở cho Duyệt Trữ cũng tựa như năm đó che chở cho A Kiều, thế nên y căn bản không thể nào lại chính tay gây tổn thương cho Duyệt Trữ một lần nữa. Chỉ là nỗi lòng kín đáo này lại ẩn sâu dưới lớp tuyết rơi dày ở cung Kiến Chương, chẳng bao giờ thấy tung tích.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  13. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 92: Vợ chồng kết tóc chớ hồ nghi
    Sau buổi trưa ngày cuối cùng của năm Nguyên Đỉnh, tuyết đầu mùa rơi lất phất nhưng chỉ lát sau đã đổ xuống trắng trời. Từ trong cung Kiến Chương nhìn ra ngoài, khắp nơi chỉ là một màu trắng xóa. Song tuyết rơi có lớn hơn nữa cũng không ngăn được không khí lễ hội mừng năm mới. Cung nhân cung Kiến Chương từ trên xuống dưới đã trang trí cung điện rực rỡ hẳn lên như mới, treo những đèn lồng đỏ thắm trên hành lang khiến cho đêm đông lạnh lùng vắng lặng trở nên ấm áp hơn. Lưu Triệt nghĩ đến thân thể yếu ớt của A Kiều, không muốn nàng phải đi xa nên quyết định tổ chức gia yến ở Phi Tuyết các trong cung Kiến Chương.

    Khi trời sẩm tối, Trần A Kiều bước lên long xa, ra lệnh, “Đi đến Phi Tuyết các.”

    Nàng ngồi ở trên long xa vẫn nghe thấy tiếng gió Bắc thổi soàn soạt hất tung tấm rèm xe, nhìn thấy những bông tuyết rơi xuống thành từng dải trông giống như cành liễu đung đưa trước gió. Nàng không nhịn được thò tay ra đón lấy một bông, cảm giác trên tay hơi lạnh, nhìn xuống thấy bông tuyết đã nhanh chóng tan đi, chỉ để lại một vệt nước đọng.

    Nàng chợt nhớ lại chuyện năm xưa đã rút một quẻ thẻ ở chùa Viên Giác, trên đó có đề một bài thơ thất ngôn:

    “Cháu con Cao Tổ thuộc chi đầu,

    Tâm hồn đạm bạc lòng thanh cao.

    Kiến Chương trùng điệp ba nghìn dặm,

    Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”

    “Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”

    “Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”

    Đến giờ thì nàng đã hiểu được ý tứ của ba câu đầu nhưng suy nghĩ mãi vẫn không ra câu cuối cùng này. Nàng vẫn có cảm giác rằng một khi hiểu thấu đáo được nó thì tất cả sẽ đi đến điểm cuối cùng, có một kết cục tốt đẹp.

    Năm Nguyên Quang thứ năm, Trần A Kiều bị phế.

    Năm Nguyên Quang thứ sáu, nàng sinh được Mạch Nhi và Tảo Tảo.

    Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Lưu Triệt biết được sự tồn tại của nàng, cuối năm đó, nàng trở về cung Hán.

    Cho tới bây giờ thì những năm Nguyên Đỉnh cũng sắp kết thúc. Bấm tay khẽ đếm, bao nhiêu năm đã êm đềm trôi qua. Bọn họ được số phận đưa đẩy quấn quít lấy nhau, cùng nhau trải qua suốt bấy nhiêu năm, cũng chẳng còn trẻ nữa. Nếu bảo “Dùng hết cát xong mới đến tiền” thì rốt cục là nhằm nói đến một kết cục như thế nào?

    Năm Nguyên Đỉnh thứ sáu là một năm đầy biến động dữ dội, bình định Tây Nam, điều binh trấn áp quân phản loạn. Những hành động này vừa đồng thời mở rộng biên giới vừa nâng cao vị thế đất nước khiến bậc đế vương ở điện Tuyên Thất bừng bừng chí khí, văn thành võ đức đều đạt tới đỉnh cao không ai sánh bằng. Còn đối với nàng thì năm Nguyên Đỉnh thứ sáu cũng được coi là năm tốt.

    Từ rất xa, nàng nhìn thấy Phi Tuyết các đèn đuốc sáng trưng, trang hoàng ấm áp như cả điện đã vào xuân. Lưu Sơ đứng trên hành lang, gọi to, “Mẫu thân.” Sắc mặt cô rạng ngời, mặc bộ áo gấm lót lông cừu trắng tinh như hòa tan trong tuyết ở bên ngoài điện, mái tóc buông xõa lên đôi gò má đỏ hồng đẹp như ngọc.

    “Khoan đã.” Nàng mỉm cười bước xuống xe, cầm tay Lưu Sơ mà hỏi, “Tảo Tảo có lạnh không?”

    “Không lạnh.” Lưu Sơ cười khúc khích, tay cô quả nhiên ấm áp. “Mẫu thân hôm nay thật xinh đẹp, phụ hoàng trông thấy nhất định là thích lắm.” Cô thỏa mãn thở phào một hơi, nũng nịu dựa vào người A Kiều, “Thoạt nhìn thì mẫu thân còn rất trẻ, người không biết mà trông thấy thì nhất định sẽ không cho rằng chúng ta là hai mẹ con mà ngược lại cho là hai chị em đấy.”

    “Dẻo miệng.” Nàng không nhịn được, cười phá lên, gõ gõ vào trán Lưu Sơ, chế giễu, “Con thỏa mãn rồi chứ? Đúng là nhà ta có con gái sắp trưởng thành mà.” Hình ảnh cô bé ở Đường Cổ Lạp Sơn ngây thơ ngước mắt gọi mẫu thân còn rõ mồn một trước mắt, thế mà chỉ thoáng qua đã đến tuổi có thể lập gia đình.

    “Mẫu thân.” Lưu Sơ tức thì mặt đỏ ửng, yêu kiều nói: “Còn ba năm nữa, ai biết sẽ thay đổi thế nào?” Ánh mắt cô lấp lánh, nói: “Phụ hoàng lần này hiểu rất rõ lòng con. Con lại có thể từ chối để được ở bên cạnh mẫu thân thêm ba năm nữa, thật là hay biết mấy.”

    “Lại từ chối nữa sẽ thành lão cô nương đấy.” Nàng mắng yêu, ngẩng đầu lên thì liền trông thấy long xa ngự giá đang đi đến từ hướng điện Tuyên Thất. Trên long xa chính là người mà nàng đã chung sống suốt nửa cuộc đời. Nàng từng cho rằng tên của y đối với nàng cũng giống như tên tuổi của biết bao danh nhân trong lịch sử, chỉ là một dãy ký tự lạnh băng trên giấy, thế nhưng số mệnh đùa cợt đã bất đắc dĩ hợp nhất cả hai làm một. Để đến nỗi bây giờ dù nhắm mắt, nàng vẫn có thể hình dung ra từng nét nhỏ nhất trên khuôn mặt y, quen thuộc với hơi thở của y như những đường chỉ trong lòng bàn tay.

    Số mệnh thật kỳ diệu. Nàng bị nhấn chìm trong vòng xoáy số mệnh xoay vần nhưng đến cuối cùng đành chịu tin rằng có nhiều việc sẽ trở nên nhạt nhòa quên lãng theo dòng thời gian trôi qua. Phảng phất như một người đi trên con đường cái lớn bỗng nhiên ngoặt vào một ngã rẽ, đi trên ngã rẽ này hồi lâu thì dần dần quên mất con đường đang đi dưới chân bây giờ vốn không phải là con đường lúc ban đầu.

    Long xa đi trên mặt đất phủ tuyết làm vang lên những tiếng lạo xạo, để lại hai đường rãnh thật sâu, dừng lại ở trước Phi Tuyết các. Cung nhân đi theo xe vén rèm lên cho Lưu Triệt mặc bộ y phục bằng gấm đen bước xuống. Y trông thấy nàng đứng ở hành lang thì ánh mắt dịu đi, hàm chứa vẻ ấm áp. Dường như y nhớ lại rất nhiều chuyện, từ rất nhiều năm trước đây. Khi đó hai người còn là đôi vợ chồng trẻ, mỗi lần y từ Tuyên Thất trở về Tiêu Phòng, nàng đều ra đứng trước điện chờ đón, lòng ngập tràn vui sướng. Khi đó y luôn tỏ vẻ bất đắc dĩ, “Kiều Kiều, nàng không phải luôn ra đón thế này.”

    “Thiếp biết rồi.” Khi đó nàng cười thật thoải mái. “Thiếp chỉ muốn được gặp chàng sớm hơn một chút.”

    “Kiều Kiều”, Lưu Triệt mỉm cười bước tới, kéo tay nàng với vẻ rất tự nhiên mà nói: “Vào nhà đi thôi.”

    “Được rồi.” Nàng cúi đầu, đáp khẽ, liếc thấy hình như con gái đang che miệng cười. Lúc bắt đầu, bên cạnh nàng là y. Đến cuối cùng thì bên cạnh nàng cũng vẫn là y.

    Đây là lần đầu tiên kể từ khi Trần hoàng hậu phục vị, Hoàng đế và Hoàng hậu chính thức cùng nhau xuất hiện tham dự gia yến của hoàng cung. Những ngọn nến đỏ to bằng cổ tay được xếp thành hai hàng khiến Phi Tuyết các cũng nhuộm một sắc đỏ hồng nhạt tràn ngập ý mừng vui, rực rỡ như ban ngày. Mọi người trong điện đều quỳ bái, cung kính nói, “Tham kiến Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương.”

    “Tất cả đứng lên đi.” Lưu Triệt dường như đang vui, ôn hòa nói.

    A Kiều theo y bước lên ngồi lên trên ghế chủ tọa, từ trên cao nhìn xuống các phi tần và con cái Hoàng đế đang ngồi bên dưới mà khẽ thở dài, uống cạn chén rượu nhỏ. Hết năm này qua năm khác, Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng khiến hậu cung trở nên điêu linh. Sau khi Doãn Giai La vào Dịch đình, Vương Thẩm Hinh, Vệ Tử Phu, Lý Chỉ lần lượt chết đi, trong số các phi tần chỉ có mỗi mình Hình Nhược là nàng còn quen mặt. Nhưng nét mặt Hình Nhược cũng đã trở nên ảm đạm, quá đau buồn nên già đi rất nhiều. Ngoài việc không được vua ân sủng, đứa con nuôi Lưu Hoành cuối cùng cũng có kết quả thê lương. Thâm cung tịch mịch, sống với nhau lâu thì dù là con không do mình sinh ra cũng vẫn có thể phát sinh tình cảm, huống chi Lưu Hoành xưa nay luôn biểu hiện vui vẻ lại chịu hẩm hiu cũng là một đả kích khá lớn.

    Cung nữ mang Bích Nhưỡng Xuân lên cung kính châm rượu cho nàng. “Mẫu thân.” Lưu Mạch dẫn Thượng Quan Linh tiến lên bái chào, tươi cười nói. “Nhi tử kính chúc mẫu thân năm mới an khang, phúc thọ an khang.”

    “Hay lắm.” Nàng cũng mỉm cười đáp lời, uống cạn chén rượu nhỏ.

    Lưu Triệt nhìn sang, nhíu mày nói: “Kiều Kiều không nên uống quá nhiều. Uống rượu nhiều sẽ làm tổn hại sức khỏe.”

    “Thiếp đang vui mà.” Nàng xoay đầu lại, cười khúc khích, men rượu dâng trào khiến hai gò má thoáng đỏ hồng lên, đôi mắt lấp lánh như ánh sao. “Sắp sang năm mới rồi, bệ hạ không thấy vui sao?” Suốt bao năm qua nàng chưa bao giờ có nét mặt thanh thoát vui vẻ như vậy. Y không nói gì thêm nữa.

    Nhạc công nắn phím tấu lên những cung đàn sâu lắng. Mặc dù Tư Mã Tương Như và Lý Diên Niên lần lượt rời đi được mấy năm rồi nhưng Nhạc phủ vẫn tiếp tục vận hành, sưu tập được không ít ca dao dân ca và sáng tác những ca khúc mới. Phong cách ca vũ nhạc cung đình cũng được thay đổi làm nổi bật vẻ thanh tân dễ thương nhưng dù ca vũ có hay đến đâu chăng nữa thì xem mãi cũng trở nên tẻ nhạt. Yến hội hoàng gia tuy là gia yến nhưng nào có ai dám thật sự cởi mở tâm hồn? Dạ yến tiến hành đến gần khuya thì Lưu Triệt cũng cảm thấy nhàm chán, nói: “Tất cả giải tán thôi.” Y xoay người nhìn lại, thấy A Kiều đã có vẻ ngà ngà say liền bật cười, bảo, “Hoàng hậu và trẫm sẽ cùng nhau đi xe trở về, các ngươi cũng tự mình về đi.” Lục Y không dám nói gì, chỉ khuỵu gối chào rồi lặng lẽ lui ra.

    Nàng như say mà không say, bước lên ngự xa, vén rèm nhìn ra ngoài, bỗng nhiên thốt lên, “Tuyết ngừng rơi rồi.” Đúng là tuyết đã ngừng rơi khi dạ yến đang diễn ra.

    Y nghe thấy tiếng thở dài than tiếc hận của nàng, từ đằng sau ôm nàng vào lòng, “Kiều Kiều thích tuyết lắm sao?”

    Vòng eo nàng nhỏ như chưa đầy một chét tay. Y đã từng vui thích khi được ôm vòng eo thon thả này, nhưng tới bây giờ thì lại mơ hồ lo lắng thế này có phải là sức khỏe không tốt hay không. Nàng nghiêng đầu suy tư, mấy sợi tóc đen xòa lên mặt y thật mềm mại đáng yêu. Nàng bảo: “Thiếp chỉ thích tiết trời không lạnh.”

    Nàng yêu thích những bông tuyết trong suốt lóng lánh nhưng lại sợ cái lạnh thấu xương của nó nên không dám tới gần. Cảm giác say sưa làm tan đi những lãnh đạm thường này của nàng, làm nàng dần dần buông lơi tính cách nghiêm nghị, hơi có chút phóng túng. Lưu Triệt nhìn đến say mê, thầm nghĩ rằng nếu thế này thì thi thoảng say rượu một chút cũng không có gì xấu.

    Điện Trường Môn êm đềm ấm áp, bài trí xa hoa hơn cả điện Tiêu phòng năm xưa, vừa vén rèm lên liền cảm thấy một luồng hơi ấm phả vào mặt. Năm trước, Gián đại phu đã kiện lên rằng Đại tư nông Tang Hoằng Dương quản lý tài chính của Đại Hán nhưng bản thân mình lại kinh doanh kiếm lời vào túi riêng, thu nhập hàng năm hơn mười vạn. Lưu Triệt chỉ cười xòa bỏ qua. Y biết rõ tiền tài trong tay Tang Hoằng Dương sẽ đi đến nơi nào. Tất cả cũng chỉ dồn vào cho điện Trường Môn, phủ Công chúa trưởng, Liễu Duệ và chính bản thân y mà thôi. Tang Hoằng Dương hết lòng tin tưởng rằng tiền tài sống không tiêu được thì chết cũng không thể mang đi, sống ngày nào biết ngày ấy nên hễ có một quan tiền dư mà không tiêu sài hết được thì không cam lòng. Nhưng hắn thì chỉ cam tâm tình nguyện tiêu xài cho người nhà, ngoài ra chỉ có Liễu Duệ, A Kiều, và Lưu Lăng.

    Cho tới bây giờ y chẳng buồn tính xem có bao nhiêu thứ trong số những kỳ trân dị bảo vô cùng đẹp mắt ở trong điện Trường Môn là do y ban thưởng, bao nhiêu thứ là do Tang Hoằng Dương đưa tới. Có điều y là đế vương, tuy không cần vui mừng thừa nhận ân tình nhưng cũng không phải hoài nghi cách chức Tang Hoằng Dương vì những hành động như vậy. A Kiều là người con gái xứng đáng được hưởng cung vàng gác tía. Cho nên nếu người kia không thể hậu đãi nàng thì hắn sẽ xây lầu vàng cho nàng. Đó chính là tâm tư của Tang Hoằng Dương mà Lưu Triệt không biết được.

    Tấm thảm nhung dày trải dài dưới ánh nến chan hòa tạo nên không khí ấm áp vui vẻ. A Kiều bước đi trên đó, lòng cảm thấy thư thái, cởi bỏ mũ miện hoàng hậu cho tóc buông xõa ra, rửa mặt, thay y phục bình thường rồi soi gương chải tóc. Trong gương hiện lên một khuôn mặt xinh đẹp chẳng thua kém thời còn trẻ là bao. Nàng kinh ngạc ngắm nhìn rồi chợt nói, “Triệt Nhi, nếu có một ngày thiếp già và xấu đi thì chàng còn tìm đến Trường Môn nữa không?”

    Lưu Triệt kinh ngạc, phất tay bảo cung nhân lui ra rồi hỏi, “Tại sao Kiều Kiều lại đột nhiên hỏi như thế?”

    Hồng nhan dù có xinh đẹp như thế nào thì cuối cùng vẫn có một ngày sẽ trở thành nắm xương tàn, có phá trời vỡ đất cũng không tìm về được nữa. Nếu y vẫn đối xử lạnh lùng với nàng, quay lưng bỏ đi thì nàng sẽ không thèm nhỏ dù là mọt giọt nước mắt. Nhưng nếu đã trải qua nhiều năm tình nồng thắm thiết như vậy mà vẫn có kết cục đó thì nàng không thể tin rằng mình sẽ không động lòng. Lưu Triệt mỉm cười, cúi đầu hôn lên mái tóc đen của nàng, “Kiều Kiều đẹp như thế này, chỉ sợ ngay cả khi trẫm đã già rồi thì Kiều Kiều vẫn chưa già.”

    Y bế nàng lên giường, “Tục ngữ có câu ‘vợ chồng kết tóc xe tơ’, nếu Kiều Kiều không tin vào tâm ý của trẫm thì trẫm xin kết tóc một lần với nàng vậy.”

    Lời thề là cái gì đó không đáng tin nhất, nếu tâm hồn đã nhạt phai thì nó cũng tan tành theo mây khói. A Kiều thầm giễu cợt trong lòng, thuở còn niên thiếu thì hai người cũng từng là vợ chồng nhưng sau đó vẫn chia ly, vậy có thể thấy là điều đó hoàn toàn không có nghĩa lý gì. Nhưng nàng không muốn làm y cụt hứng nên liền lấy của mỗi người một đoạn tóc, nhẹ nhàng tết thành một búi. Đầu mày khóe mắt nàng đều hiện rõ ý cười làm mềm đi sự lạnh lùng tàn khốc của y, “Như thế này có được không?”

    Nàng gật đầu, chăm chú ngắm nhìn, bỗng nhiên có tâm trạng tựa như bị nước lạnh như băng tuyết tràn qua, lạnh đến cực điểm. Trong số tóc được tết lại thành búi kia rõ ràng có một sợi đã bạc trắng.

    Lưu Triệt quyết định lấy chữ “Phong” đặt tên cho kỷ nguyên mới. Sang năm chính là năm Nguyên Phong đầu tiên. Những người thuộc thế hệ bọn họ đều đã dần dần già đi, đám trẻ thuộc thế hệ tiếp theo đang lớn lên với chí tiến thủ mạnh mẽ. Nhân dịp năm mới, Trần A Kiều đến chơi bốn phủ trong kinh thành, ngắm nhìn Trần Mạn, Tang Duẫn, Liễu Ninh đang lớn dần lên, chơi đùa với nhau, nụ cười trong sáng giống như những dòng suối mát. Mi Nhi nhỏ nhất cũng được ba tuổi, miệng bi ba bi bô nói còn chưa sõi nhưng quả nhiên luôn bám chặt lấy Liễu Ninh đúng như những điều đã thể hiện trong lần chọn đồ vật đoán tương lai năm xưa, khiến cho cha nó là Đông Phương Sóc tức uất. Sự giao hòa ấm áp này đã thể hiện rõ ý nghĩa của những nỗ lực trong bao năm qua của bọn họ, dường như tính thân mật đầm ấm được di truyền theo huyết thống rồi cứ mãi di truyền tiếp xuống.

    Một hôm, Trần A Kiều tới chỗ Công chúa trưởng Phi Nguyệt để cùng Lưu Lăng ôn lại kỷ niệm xưa. Thị nữ cung kính vén rèm, cung kính chào đón, “Cung nghênh Hoàng hậu nương nương.” Lưu Lăng ở trong nhà, xoay người tươi cười nhìn sang, bên tay phải nàng có một thiếu nữ khoảng chừng mười ba mười bốn tuổi, xinh đẹp tuyệt trần, cúi đầu quỳ gối, bái chào theo đúng quy củ: “Tế Quân tham kiến Hoàng hậu nương nương.”

    “Tế Quân đã lớn thế này rồi à.” Trần A Kiều không khỏi bất ngờ nhưng sau đó lập tức hiểu ra. Lưu Tế Quân vốn chỉ nhỏ hơn Lưu Sơ khoảng chừng hai, ba tuổi.

    “Thưa vâng.” Lưu Tế Quân ngẩng đầu lên, dịu dàng đáp: “Hôm nay là ngày đầu năm mới, Tế Quân tới bái chào cô cô, may mắn gặp đúng dịp Hoàng hậu nương nương cũng tới.”

    Chiếu theo vai vế của gia đình mình thì thực ra Lưu Tế Quân thấp hơn Lưu Lăng hai ngôi, nhưng sau được bái Lưu Thiên làm cha nuôi nên theo vai vế mới của Phủ Mạt Lăng hầu mà chuyển sang gọi Lưu Lăng là cô cô. Những năm qua, Trần A Kiều và Lưu Lăng đều rất yêu thích vị Tế Quân quận chúa thanh lịch đa tài, nghĩa khí hào hùng nhưng số phận truân chuyên trong lịch sử này nên luôn quan tâm chăm sóc cho cô. Tuy có những tính cách do chính con người tạo nên, nhưng Đan Dương hầu phu nhân nhiều năm sủng ái cũng không làm thay đổi được bản tính thanh lịch đa cảm của cô nên không đáng ngại nữa.

    “Hoàng hậu nương nương đã tới, Tế Quân nghĩ rằng Hoàng hậu nương nương lâu rồi không gặp cô cô nên nhất định có nhiều chuyện muốn nói, Tế Quân xin cáo lui trước.”

    Trần A Kiều gật đầu, nhìn thân hình mảnh mai của Lưu Tế Quân khuất dần sau tấm mành che, ngẫm nghĩ thấy như thế này cũng tốt. Nếu cưng chiều khiến cho Lưu Tế Quân trở nên kiêu căng ngạo mạn như mình năm xưa thì Lưu Tế Quân còn là Lưu Tế Quân nữa sao.

    “Òa! A Kiều tỷ đang nghĩ gì thế?” Nàng đang lơ đãng thì Lưu Lăng đi tới phía sau, bất chợt ú òa khiến nàng giật nảy mình rồi mới cười hỏi.

    A Kiều lườm Lưu Lăng một cái, lên tiếng trách: “Đã lớn cả rồi mà còn chơi trò này.”

    “Tỷ đang suy nghĩ”, nàng cúi đầu, nói như có điều phải suy tư: “Lịch sử đã có những thay đổi, vậy thì Lưu Tế Quân có cần phải lặp lại cuộc đời vĩ đại nhưng tuyệt đối không có hạnh phúc của cô ấy nữa hay không?”

    Dù bọn họ không dựa vào những kiến thức lịch sử của mình nhưng cũng đã vô tình làm thay đổi dòng lịch sử. Từ đó chính bọn họ đang bị lịch sử biến đổi đó làm cho mơ hồ, không thể nào dùng những kiến thức của mình để suy xét thế giới này được nữa. Rốt cuộc đây là loại nghịch lý gì?

    Lưu Lăng thản nhiên nói, “Con cháu có phúc của con cháu, cứ để cho bọn chúng tự mình làm. Nhưng theo suy luận thì Tế Quân đã không còn là một nữ cô nhi không ai bảo trợ như trong lịch sử, tôn thất có biết bao con gái, bệ hạ chưa chắc đã chọn Tế Quân.”

    “Cũng không đơn giản như vậy đâu.” Trần A Kiều cau mày nói, “Người được tuyển chọn để gánh vác nhiệm vụ kết hôn cầu hòa mà điêu ngoa tùy hứng, chẳng phân biệt được đúng sai, thì chẳng phải sẽ làm hỏng quan hệ ngoại giao giữa hai nước hay sao?”

    “A Kiều.” Lưu Lăng cười khanh khách, “Có phải tỷ làm hoàng hậu quá lâu rồi nên đầu óc không còn sáng suốt nữa không vậy? Tỷ có nhớ mục đích Đại Hán kết hôn cầu hòa với Ô Tôn là gì hay không?”

    Nàng suy nghĩ một lát rồi bật cười. Đại Hán kết hôn cầu hòa với Ô Tôn là để ước hẹn cùng nhau chống lại Hung Nô, bây giờ Hung Nô đã suy tàn, còn cần thiết có cuộc hôn nhân này nữa sao. Nàng bị lịch sử trong đầu trói buộc nên có suy nghĩ hồ đồ. Nàng lại chợt nảy ra một ý nghĩ, nếu lịch sử đã bị thay đổi toàn bộ từ thời điểm bọn họ đến đây thì có phải việc nàng dùng những ấn tượng trong lịch sử để suy xét những con người hiện thực bây giờ sẽ tạo ra sai lầm hay không? Đây không còn là một trang lịch sử lạnh lùng nữa. Hiện tại, những người ở bên cạnh nàng đều đang sống. Bọn họ biết khóc, biết cười, biết yêu, biết hận, ngay cả Tư Mã Thiên cũng bắt đầu viết “Sử ký” mới rồi, việc nàng vẫn cố chấp với lịch sử ghi trong trí nhớ liệu có còn phù hợp? Nàng có thể tin hoặc không tin, Lưu Triệt lạnh lẽo vô tình được nàng tới bên cũng dần hiểu được tình yêu chân thành, thật sự có lòng đồng hành với nàng đến già, cho dù năm tháng đổi thay cũng không phai nhạt.

    Lưu Lăng nhìn thấy sắc mặt nàng liên tục biến hóa bèn tò mò hỏi, “Tỷ đang suy nghĩ gì thế?”

    “Không có gì.” Nàng đáp khẽ.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  14. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 93: Ô Tôn sai sứ tới từ phía Tây
    Lịch sử quả nhiên phát sinh biến hóa theo cách riêng của nó. Vào tháng Hai năm Nguyên Phong đầu tiên, nước Ô Tôn ngưỡng mộ uy thế của Đại Hán nên cử sứ thần tới Trường An muốn đặt quan hệ hôn nhân. Ô Tôn chính là một trong những quốc gia mạnh mẽ nhất ở vùng Tây Vực của Đại Hán. Quốc gia này sinh sống bằng phương thức du mục ở phía bắc dãy Thiên Sơn theo một dải từ bờ sông Hồ Nam cho tới lưu vực sông Liệt Hà, thủ đô là thành Xích Cốc nằm ở bờ sông Hồ Nam. Phía nam Ô Tôn giáp với các thành quách của các nước láng giềng nằm ở phía nam của dãy Thiên Sơn, phía Tây là Đại Uyển, Tây Bắc là Khang Cư, đông giáp với Xa Sư, vùng Đông Bắc tiếp giáp với Hung Nô. Vào năm Nguyên Thú thứ hai và năm thứ tư của cuộc chiến Mạc Nam Mạc Bắc giữa Đại Hán và Hung Nô, vì sự có mặt của Trường Tín hầu Liễu Duệ nên sự đả kích đối với Hung Nô ác liệt vượt xa những gì trong sách sử ghi lại. Lũng Tây, Mạc Nam, Hung Nô, đều bị tiêu diệt nên thế lực Ô Tôn thừa dịp phát triển, trở lại đất cũ Đôn Hoàng Kỳ Liên, dần giáp giới với Đại Hán. Từ năm Nguyên Thú thứ tư, dưới sự thống trị của Lưu Triệt và sự đồng tâm hiệp lực của A Kiều lẫn Tang Hoằng Dương, Đại Hán mở rộng biên giới ra ngoài, đời sống dân chúng trong nước cũng không thấy điêu linh, quốc lực cường thịnh áp chế các nước chung quanh. Trong hoàn cảnh đó, quốc vương Ô Tôn tự sai sứ tới Hán triều bái phỏng cũng là chuyện hợp lý.

    Trong lịch sử nhà Hán, kết hôn cầu hòa là kế sách kém cỏi. Lưu Triệt vì tỷ tỷ của mình là Trưởng công chúa Nam Cung Lưu Đàm chịu khổ cả đời mà phản cảm với chuyện này. Hơn nữa, tính cách của y vốn trời sinh đã cao ngạo, cũng không muốn đem áp lực nặng nề của chuyện hưng thịnh, ổn định của quốc gia lên người một cô gái yếu ớt.

    Vào năm Nguyên Đỉnh thứ hai, sứ giả Ô Tôn lần đầu tiên vào đất Hán đã bị lóa mắt bởi sự phồn hoa của kinh đô Trường An, sau khi về nước liền ra sức ca ngợi Đại Hán rộng lớn, giàu có và đông đúc. Vào năm Nguyên Phong đầu tiên, Ô Tôn Vương Côn Mạc chọn trong đám con cháu rồi phái cháu trai Quân Tu Mỹ dẫn theo cháu gái A Mạc Đề tới nhà Hán để hiến ngựa tốt của Ô Tôn và kết hôn cầu hòa. Lịch sử lại xoay vòng theo một phương thức kỳ diệu.

    Lưu Triệt trọng thị sứ giả lần này của Ô Tôn, tiếp kiến ở điện Tuyên Thất. Tối đến trở về điện Trường Môn, Trần A Kiều hỏi Lưu Triệt, “Chuyện Ô Tôn kết hôn cầu hòa, bệ hạ có tính toán gì không. Dù thế nào thì cũng phải có một người chịu khổ sao?”

    “Đại Hán có lợi trong việc bang giao hòa thuận với Ô Tôn nên không thể từ chối.” Lưu Triệt thở dài, “Chỉ là chọn người khá khó khăn.”

    “Vậy à.” Trần A Kiều nhẹ nhàng, “Ô Tôn đưa thiếu nữ tới kết hôn cầu hòa nhưng cũng không thể khuất phục được thân phận cháu gái quốc vương của nàng ta. Khổ nỗi các hoàng tử của bệ hạ nếu không phải đã lập gia đình rồi thì còn chưa tới tuổi. Đứa duy nhất dường như có thể được thì lại bị người cầm cố trong Bắc cung.”

    Lưu Triệt khẽ nhíu mày, nói: “Tuy là cháu gái của Ô Tôn vương, nhưng dù sao…”

    Y còn chưa nói hết lời nhưng lòng A Kiều đã lạnh ngắt. Thân phận cơ bản nhất của Lưu Triệt vẫn như cũ là một vị đế vương. Y vì sự liên hiệp với nước khác mà có thể đem con cháu tôn thất gả đến Ô Tôn nhưng trong thâm tâm vẫn còn xem thường thiếu nữ man di. Kim Nhật Đan mà Tảo Tảo nhìn trúng cũng là người man di không hơn không kém.

    “Thật ra thì còn có một biện pháp.” Lưu Triệt thấy nàng có vẻ ưu phiền, đột nhiên sinh lòng muốn đùa giỡn, “Mục đích ban đầu của Ô Tôn vương là tính gả cháu gái của ông ta vào…” Y dừng lại, ánh mắt dần trở nên âm trầm. Ngoài A Kiều ra thì các thiếu nữ khác dù có đẹp đến mấy đối với y cũng không quan trọng. Nếu y thực sự nhận lời lấy A Mạc Đề thì coi như vô duyên vô cớ tự hạ thấp vai vế xuống hai bậc so với lão nhân kia.

    Trần A Kiều nghe một lúc mới hiểu. Ô Tôn ở vùng Tây Vực xa xăm nên không biết hoàng đế nhà Hán chỉ sủng ái một mình nàng, thế nên mới đầu đưa A Mạc Đề tới là để dâng cho Lưu Triệt làm phi tần. Nàng cứ một mực xét chuyện theo ý của mình, ngay cả dấu hiệu rõ ràng như vậy cũng sơ suất bỏ qua.

    “Lưu Triệt!” Nàng trừng mắt, tức giận hô lên.

    Lưu Triệt cười lớn, ôm lấy nàng, nói: “Trẫm thật sự đã lâu không được trông thấy Kiều Kiều tức giận rồi đấy.”

    Trong lòng nàng ngầm cảnh tỉnh, chỉ mong mấy ngày nàng đã liên tiếp phạm hai sai lầm, phải chăng điều này chứng tỏ rằng nàng thật sự hy vọng có thể nắm tay y tới lúc bạc đầu? Dần dần, nàng đã tin vào tâm ý của y, tin rằng y yêu mình, coi trọng mình, sẽ không bao giờ lại làm tổn thương mình được nữa. Hoặc là ít nhất hy vọng rằng mình có thể tin tưởng được như vậy?

    Tháng Ba năm nguyên Phong đầu tiên, Lưu Triệt cho bày đại yến ở cung Vị Ương chiêu đãi cháu trai và cháu gái của Ô Tôn vương, đồng thời mời con cháu tôn thất tới dự. Trần A Kiều là nữ chủ nhân của Đại Hán, ngồi bên cạnh đế vương, vẻ mặt lạnh nhạt. Cháu trai của Ô Tôn vương là Quân Tu Mỹ cư xử rất có chừng mực, là một nhân vật không đơn giản. A Mạc Đề mũi cao mắt sáng trông cực kỳ xinh đẹp, có phong thái hào sảng dám yêu dám hận của người tái ngoại. Cô không hề nhìn đến đám tôn thất ngồi đối diện mà lại thỉnh thoảng liếc nhìn Lưu Triệt ngồi trên ghế chủ tọa ở bên trên. Ánh mắt đó khiến Trần A Kiều có cảm giác rất không thoải mái nhưng lại không thể bộc lộ ra.

    Sau khi yến hội, A Mạc Đề ra khỏi cung vẫn còn luyến tiếc nhìn mãi về cung Vị Ương tráng lệ huy hoàng rồi lại hưng phấn nhìn phố xá Trường An phồn hoa thịnh vượng. Quân Tu Mỹ thấy vậy cau mày, kéo nàng trở về dịch trạm, nói luôn “A Mạc Đề, muội thích ai trong số đám con cháu quý tộc nhà Hán có mặt hôm nay thì nói cho ca ca biết. Chắc là hoàng đế nhà Hán sẽ thành toàn, còn những chủ ý khác thì muội hãy quên ngay đi.”

    “Muội không thích ai.” A Mạc Đề dẩu môi: “Muội chỉ thích hoàng đế nhà Hán của bọn họ. Con gái Ô Tôn nếu phải gả thì chỉ gả cho bậc anh hùng. Trong mắt của muội, y chính là anh hùng lớn nhất. Lúc trước chẳng phải ca ca và gia gia đều nói sẽ gả muội cho y, sao bây giờ lại thay đổi chứ?”

    “Muội còn chưa nhận ra sao?” Quân Tu Mỹ nhẫn nại nói: “Hôm nay y sắp xếp như thế có nghĩa là căn bản không có ý muốn kết hôn với muội. Người trong thành Trường An đều nói rằng hoàng đế nhà Hán chỉ sủng ái mỗi hoàng hậu của mình. A Mạc Đề, muội không thể tùy hứng như vậy.”

    “Có thể…” A Mạc Đề cười khanh khách một hồi nhưng tròng mắt lại đỏ hoe, “Muội biết, muội biết mình có trách nhiệm với Ô Tôn nên phải chú ý đại cục, không thể tùy hứng. Nhưng thật sự là muội không thể tùy hứng một chút sao?”

    Huynh muội bọn họ dùng tiếng Ô Tôn nói chuyện với nhau nên dù giọng khá lớn nhưng đám người Hán theo hầu vẫn không hiểu được câu nào. Quân Tu Mỹ bị cô hỏi như vậy thì nín lặng hồi lâu rồi mới thở dài, ánh mắt có vẻ thương hại, nói: “Sau khi tới thành Trường An, ta nghe người Hán có một câu nói, ‘Vô tình nhất chính là nhà đế vương’, muội là công chúa Ô Tôn nên không thể không gánh vác trách nhiệm. Ca ca thay mặt cho ngàn vạn con dân Ô Tôn tạ ơn muội muội.”

    Những lúc rảnh rỗi, Quân Tu Mỹ cũng rất yêu thích thành Trường An phồn hoa nên ăn mặc theo kiểu người Hán, dẫn theo tùy tùng đi dạo ở chợ phía đông Trường An. Chợ phía đông tấp nập, bách tính an cư lạc nghiệp, nét mặt tươi cười vui vẻ.

    “Chỉ nhìn như vậy cũng biết hoàng đế Đại Hán đúng là một người rất giỏi.” Quân Tu Mỹ nói trong lòng.

    Chuyện kết hôn cầu hòa lần này bắt buộc phải hoàn thành để tránh cho ngày sau Ô Tôn xung đột với Đại Hán. Hắn nghĩ tới A Mạc Đề đang hờn dỗi ở dịch trạm thì khẽ nhíu mày. Luận về thân phận và tuổi tác, A Mạc Đề chính là lựa chọn tốt nhất để kết hôn cầu hòa với nhà Hán. Cô cũng không phải là người không hiểu biết nhưng lại mang tâm tư thiếu nữ nên vẫn không phân biệt được sự khác nhau giữa ảo ảnh và thực tế, nhất quyết không chịu chấp nhận ấm ức.

    “Vị công tử này!” Dù hắn mặc trang phục bình thường nhưng chất vải sang trọng, khí độ lại bất phàm, tiểu thương Trường An đều là kẻ thành tinh nên sao có thể bỏ qua, nhiệt tình mời mọc, “Công tử tới xem đồ của chúng tôi, toàn là đồ tốt cả đó. Công tử mua về tặng cho phu nhân nhé.” Hắn cười lắc đầu ý bảo không cần. Hắn vừa tham quan những hàng hóa rực rỡ muôn màu bày đầy trên đường phố vừa thả bước đi tiếp, bỗng nhiên thấy một hai lưu dân co rúm trong một góc chợ ít được người chú ý. Giờ đang là tháng Tư, Trường An mới vào xuân nên buổi sáng vẫn khá lạnh. Hai người mặc áo quần rách nát nhưng những người qua đường vẫn thản nhiên đi qua cứ như là đã quá quen với cảnh này.

    “Xem ra nhà Hán cũng không phải nơi nơi đều thái bình.” Đám tùy tùng thấy hắn chú ý tới hai lưu dân kia liền tiến lại gần, khẽ nói.

    Hắn cười nhạt, nước quá trong sẽ không có cá. Dù cho thiên tử nhà Hán anh minh thế nào đi nữa thì cũng không thể bảo đảm tất cả con dân bên dưới đều vui vẻ an khang. Đúng lúc hắn vừa xoay người định bước đi thì trông thấy một cỗ kiệu nữ màu xanh dừng ở bên đường, một thiếu nữ quý tộc nhà Hán chừng mười ba mười bốn tuổi vén rèm lên, giơ bàn tay trắng nõn mềm mại đưa nửa xâu tiền ra, nhẹ nhàng bảo, “Miên Trữ, đem cái này cho hai người kia.”

    Miên Trữ đáp một tiếng, nhận lấy tiền, đi tới trước mặt hai lưu dân, nói, “Các ngươi quả thật may mắn mới gặp được Quận chúa nhà ta. Quận chúa thiện tâm nên thưởng cho các ngươi.” Hắn ném nửa xâu tiền kêu xủng xẻng trước mặt hai người rồi quay trở về. Chớp mắt, cỗ kiệu lại đi tiếp về phía trước.

    Người trong chợ phía đông không quan tâm tới hai lưu dân nhưng lại rất hứng thú với cô quận chúa xinh đẹp vừa xuất hiện, bàn tán: “Người mới vừa rồi chính là Giang Đô quận chúa Tế Quân rất hay làm phúc đó.”

    Cô vốn là cô nhi của tội thần nhưng bỗng nhiên đổi vận, được vợ chồng Đan Dương hầu thu nhận làm con nuôi, vô cùng ưu ái, không ai còn dám coi thường. Ai có thể nói cô có phúc phận không tốt. Đại nương bán vải bỗng nhiên quay đầu lại, lớn tiếng nói, “Tế Quân quận chúa đẹp người đẹp nết. Ở hiền gặp lành, có phúc phận tốt như vậy là đúng. Ngươi không thấy sao, có biết bao con cháu thế gia quý tộc đi chơi chợ Đông nhưng có mấy người bố thí tiền tài như Tế Quân quận chúa chứ?”

    Bà nói đúng sự thật nên mọi người tức thì không còn biết bàn tán gì nữa, sau đó dần yên lặng. Tùy tùng phía sau Quân Tu Mỹ xuýt xoa một hồi rồi nói: “Các cô gái nhà Hán thật xinh đẹp nhưng đáng tiếc là quá yếu ớt. Tỷ như cô quận chúa vừa rồi mà đến Ô Tôn thì e rằng không sống qua nổi một mùa đông.” Quân Tu Mỹ quay lại lườm một cái khiến hắn im bặt.

    Quân Tu Mỹ thiên tính thông minh, trước lúc đi sứ đã theo người có hiểu biết về nhà Hán, học được một chút tiếng Hán nên lúc này đứng trên phố Trường An có thể nghe hiểu đại khái. Nếu điều gì hắn không thể nói thì đưa mắt nhìn tùy tùng. Tên tùy tùng là người rất cơ trí, bước tới trước cửa hàng của vị đại nương vừa lên tiếng bảo vệ Lưu Tế Quân mà hỏi, “Đại nương, vải của bà bán thế nào?”

    Đại nương nhìn thấy Quân Tu Mỹ đứng phía sau liền mỉm cười nói, “Nửa xâu tiền một súc.” Bà sợ bị chê đắt nên vội vàng giải thích, “Vải này được nhuộm theo cách mới của Tang Tư nông, ngài nhìn xem, màu sắc tươi tắn, chất vải trơn mềm đến mức nào.”

    Quân Tu Mỹ đưa tay sờ qua, bất giác “ồ” lên một tiếng. Chất vải quả nhiên mềm mại vô cùng. Ngay cả vải vóc bình thường bán trên phố cũng đã tốt như thế, xem ra nhà Hán không chỉ lớn mạnh mà các kỹ nghệ khác đều vượt qua Ô Tôn. Tùy tùng không biết biến hóa trong suy nghĩ của Quân Tu Mỹ, hỏi tiếp, “Đại nương, vị quận chúa vừa rồi là người nhà vương hầu nào hay sao?”

    Đại nương nhìn hắn hồi lâu rồi mới cười nói, “Hai vị là người từ nước ngoài tới rồi.”

    “Người trong thành Trường An có ai không biết Quận chúa Tế Quân.” Đại nương thở dài nói, “Số phận nàng ấy rất long đong. Nàng vốn là con gái của Giang Đô vương. Sau khi Giang Đô vương mưu phản bị giết thì được Đan Dương hầu thu nhận. Nàng rất sáng dạ, đồng thời theo học cả Trần hoàng hậu và tài nữ đất Thục là Trác Văn Quân. Ngươi nên biết rằng Trần hoàng hậu, Phi Nguyệt trưởng công chúa và Trác Văn Quân được xưng là ba đại tài nữ của Đại Hán chúng ta. Nàng đồng thời theo học hai người, nghe nói rằng tài gảy đàn tỳ bà của nàng còn vượt qua cả sư phụ, thật sự gần như là tiên nữ trong chốn nhân gian.”

    Những điều cần hỏi thì đã hỏi xong, viên tùy tùng cảm thấy cũng đáng mua giúp một súc vải. Hắn nhìn các cuộn vải đủ màu sắc mà lúng túng không biết lựa chọn thế nào, liền quay đầu lại nhìn Quân Tu Mỹ. Quân Tu Mỹ mỉm cười, nhớ lại người thiếu nữ ban nãy vén rèm để lộ ống tay áo màu vàng nhạt nhưng lại có một đôi mắt thanh tú dịu dàng. Hắn chợt nghĩ hợp nhất với nàng là y phục màu hoa đào vừa bừng bừng sức sống lại điểm thêm chút cởi mở, cộng với vẻ yên bình thì càng thêm quyến rũ.

    Quân Tu Mỹ trả nửa xâu tiền và nhận súc vải màu hoa đào. Hắn chợt cảm thấy tức cười về hành động của mình. Hắn là cháu trai quốc vương nước ngoài đi sứ, nàng là quận chúa của Đại Hán, hai người chưa chắc đã có duyên gặp mặt thì mua vải thế này để làm gì? Hắn quẳng súc vải cho tùy tùng, chán nản nói: “Trở về dịch trạm thôi.”

    Trở lại dịch trạm, thị nữ của A Mạc Đề đến bẩm báo rằng tối hôm qua A Mạc Đề cảm thấy không khỏe, chắc là do nhiễm phong hàn. Hắn không lo lắng mà ngược lại giận giữ, cười lạnh nói, “Tiết trời Ô Tôn lạnh như vậy mà còn không bị phong hàn, sao đến Đại Hán thì lại bị. A Mạc Đề, muội thật khiến người ta thất vọng.”

    A Mạc Đề rơi lệ vì lời nói của ca ca song một khi đã nhiễm phong hàn cũng không cách nào dễ dàng khỏi hẳn. Mấy ngày sau, cung Hán truyền xuống ý chỉ gả cháu gái của Ô Tôn vương cho con thứ Lưu Bồi. A Mạc Đề lặng lẽ nghe tuyên chỉ, vẫn rất bình thản chứ không hề làm ầm lên. Quân Tu Mỹ quan sát thấy thế thì hơi bất an nhưng lại không thể làm gì. Một hôm, hắn hỏi thăm người trong dịch trạm và biết được chỗ của lầu Thanh Hoan nổi danh nhất thành Trường An, liền dẫn người đi.

    Những năm trước đây, người Hán vẫn nói tới thành Trường An mà chưa tới lầu Thanh Hoan thì coi như chưa tới Trường An. Những năm này dù danh tiếng có suy giảm nhưng vẫn hơn xa các tửu lâu bình thường. Hắn vừa tới lầu Thanh Hoan liền thấy xe ngựa nườm nượp, toàn là hạng người phú quý. Trên một cỗ xe có một cậu bé con nhà quyền quý chừng mười tuổi sốt ruột không chịu chờ người tới đỡ xuống mà cứ cố gắng bước ra, vô ý lao vào con tuấn mã kéo xe làm nó giật mình chồm hai chân lên khiến cậu bé ngã lọt xuống dưới vó ngựa sắp đạp lên người cậu bé thì bỗng có một thanh niên ở bên cạnh lao vọt đến ôm lấy cậu bé lăn ra ngoài.

    Một phụ nữ quý tộc ngồi trên chiếc xe ngựa đầu tiên, lúc này mới hoàn hồn, kêu lớn, “Sách Nhi.” Nàng ta chạy đến ôm được cậu bé đang sợ đến ngây người vào lòng thì mới yên tâm trở lại. Quân Tu Mỹ khẽ mỉm cười, đang định rời đi thì đột nhiên sững lại. Một người phụ nữ mặc y phục màu xanh trông trẻ hơn phu nhân phía trước, khí độ cao quý vén rèm bước xuống xe, theo bên cạnh là một thiếu nữ mặc y phục màu ngọc bích. Đó là Lưu Lăng, trông thấy Lưu Sách bình yên vô sự ở trong lòng Kim Nga thì mới an tâm, khẽ mỉm cười nói: “Đa tạ công tử cứu giúp cháu ta.”

    Hắn lúng túng không cất nên lời, chỉ chú ý đến thiếu nữ có cặp mắt thanh tú dịu dàng phía sau, hồi lâu mới lên tiếng đáp: “Phu nhân nói quá lời rồi.” Ngữ điệu của hắn cứng ngắc, không hề giống với người Hán. Lưu Lăng cùng Tế Quân đều ngạc nhiên, hỏi, “Công tử quý tính đại danh là gì để phủ Đan Dương hầu nói lời cảm tạ.”

    “Đúng vậy.” Kim Nga phục hồi lại tinh thần, cảm kích nói. Phải biết rằng, Lưu Sách là con độc nhất của nàng ta, cháu đích tôn của phủ Mạt Lăng hầu, ngoài thân phận cao quý còn là cốt nhục của nàng ta. Nếu cậu bé xảy ra chuyện gì thì quả thật nàng ta không thể chịu nổi.

    Quân Tu Mỹ cười nhẹ, “Ta là sứ giả tới từ Ô Tôn.”

    Kim Nga khẽ “a” một tiếng. Các nàng dĩ nhiên đã nghe nói về việc Ô Tôn sai sứ tới đây. Lưu Tế Quân mỉm cười, nói: “Chả trách trên người công tử đích thực là có khí khái anh hùng của đấng nam nhi vùng đại mạc.”

    Lúc này Lưu Sách cũng đã hoàn hồn, rất có cảm tình với Quân Tu Mỹ, nói: “Mẫu thân, vị đại ca này có công phu thật giỏi, người nhất định phải đa tạ huynh ấy thay con.”

    Quân Tu Mỹ hơi nheo mắt, dù nhà Đan Dương hầu có cao quý nhưng hắn cũng chưa chắc đã coi vào đâu. Chỉ là, hắn không nỡ rời xa người thiếu nữ kia nên mới không định cứ thế bỏ đi.

    “Dĩ nhiên rồi.” Kim Nga vỗ về trấn an con trai, quay đầu lại nghiêm túc nói: “Công tử vừa cứu con ta, nếu ở trong thành Trường An có gặp khó khăn gì xin cứ tìm đến phủ Mạt Lăng hầu.”

    Lưu Lăng lại khẽ mỉm cười, hỏi, “Quý tính đại danh của công tử là gì?”

    “Ta họ Tôn”, Quân Tu Mỹ suy nghĩ một chút nói, “Tên gọi Quân Tu.”

    Kim Nga và Lưu Tế Quân cùng “a” một tiếng, sắc mặt cũng không có gì khác thường. Lưu Lăng khẽ cúi đầu, thầm nghĩ, xét theo khí độ nhân phẩm thì người này tất không phải kẻ tầm thường. Không lẽ hắn chính là cháu của Ô Tôn vương? Nhìn vẻ mặt và ánh mắt của hắn thì chắc là thích Tế Quân. Chẳng lẽ đây là mối nhân duyên trời định không thể chia cắt được hay sao? A Kiều mà biết thì chắc chắn sẽ không vui, nhưng cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên mới tốt.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  15. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 94: Ngựa sang xứ tuyết, hoa đào sau lưng
    Quân Tu Mỹ vừa gõ cửa ngách phía đông phủ Mạt Lăng hầu liền có thị nữ ra mở cửa, che miệng cười nói, “Tôn công tử, tiểu thiếu gia nhà ta đợi người đã lâu.”

    Hắn còn chưa quen với tác phong ăn nói lanh lợi, tươi tắn quyến rũ của con gái nhà Hán nên chỉ cúi đầu nói: “Xin hãy dẫn đường cho.”

    Thị nữ đã quen nghe cách nói tiếng Hán cứng nhắc của hắn nên liền gật đầu, tươi cười đi trước dẫn đường, ngoặt trái rẽ phải bảy tám bận thì đến một ngôi đình trên mặt nước. Lưu Sách ở trên đình, trông thấy từ xa liền vui mừng nhảy xuống gọi: “Tôn đại ca.”

    “Khoan đã.” Quân Tu Mỹ mỉm cười ôm lấy cậu, hỏi: “Đệ không sợ té ngã sao?”

    “Tôn đại ca võ nghệ cao cường đến mức có thể cứu được đệ từ dưới vó con ngựa điên”, Lưu Sách nháy mắt tinh nghịch, nói: “nên đệ mới không sợ chứ.”

    Thiếu nữ mặc bộ y phục màu xanh nhạt mím môi cười, nét mặt thanh nhã, nhướng mày đối lại với ánh mắt cháy bỏng của người thanh niên. Cô bỗng hơi lặng đi, cúi đầu xuống, khuôn mặt hơi ửng hồng.

    “Tỷ tỷ.” Lưu Sách bỗng quay đầu hỏi: “Tỷ nói võ nghệ của Tôn đại ca so với Thái tử ca ca thì thế nào?”

    “Thái tử?” Quân Tu Mỹ ngẩn người hỏi lại.

    “Vâng.” Lưu Sách hào hứng nói; “Chắc là Tôn đại ca không biết chứ Thái tử ca ca của chúng ta mặc dù là thái tử nhưng cũng rất giỏi võ nghệ, lợi hại vô cùng.” Cậu có vẻ hơi buồn phiền, “Nói thật ra thì Thái tử ca ca rất bận rộn nên đệ chẳng mấy khi gặp, nhưng tỷ tỷ hay cùng Duyệt Trữ tỷ tỷ đọc sách nên thường xuyên gặp hơn.”

    Quân Tu Mỹ liền nhìn sang Lưu Tế Quân. Cô gật đầu, thầm cảm thấy không hài lòng. Cháu đích tôn của Mạt Lăng hầu giao tiếp với người nào thì mẫu thân sẽ cho điều tra thân phận của người đó. Cô biết hắn là sứ giả Ô Tôn và sẽ kế thừa ngôi vương của Côn Mạc nhưng không nói cho Sách Nhi vì cảm thấy giao tiếp với nhau không phải vì tên tuổi hay thân phận, do đó vẫn xưng hô với hắn bằng tên giả. Nhưng việc đã liên quan đến Thái tử Đại Hán thì cần phải cẩn thận hơn nhiều.

    Quân Tu Mỹ cười sảng khoái, nói: “Không ngờ thái tử điện hạ của Đại Hán sống ở trong thâm cung mà lại có võ nghệ cao cường, thật là hiếm có.”

    “Không phải là Mạch ca ca chỉ sống ở trong thâm cung đâu.” Lưu Sách vội nhảy dựng lên nói: “Đệ nghe mẹ kể rằng khi Mạch ca ca còn bé…”

    “Sách Nhi.” Lưu Tế Quân nhíu mày quát lên.

    Quân Tu Mỹ liền nên dừng lại ở đây, mỉm cười hỏi, “Không biết thường ngày Tế Quân quận chúa yêu thích điều gì?”

    Lưu Tế Quân đứng ngồi không yên, vội vàng nói; “Ta về phòng trước đây. Sách Nhi, đệ không nên quấy rầy nhiều làm mất thời gian của Tôn công tử.”

    Lưu Sách đảo mắt nhìn theo bóng tỷ tỷ đi khuất hẳn rồi mới láu lỉnh vỗ vào người, hỏi Quân Tu Mỹ: “Tôn đại ca, huynh thích tỷ tỷ của đệ à?”

    Hắn thu ánh nhìn hút theo Lưu Tế Quân, cúi xuống trả lời cậu bé: “Đúng vậy.” Đàn ông Ô Tôn lòng dạ ngay thẳng, không hề làm bộ ngượng ngùng.

    Hắn trả lời dứt khoát như thế trái lại làm cho Lưu Sách hơi bất ngờ, lặng đi một lúc mới thở dài sườn sượt thốt lên, “Khó lắm đấy.”

    Cậu làm bộ trầm ngâm một lúc nhưng thấy Quân Tu Mỹ không mắc mưu mà chỉ khoanh tay yên lặng, thì lại không nhịn được nói tiếp: “Mặc dù tỷ tỷ không phải là con ruột của cha mẹ đệ nhưng huynh đừng tưởng rằng tỷ ấy phải ăn nhờ ở đậu, hoàn cảnh đáng thương. Có đôi khi đệ còn cảm thấy mẫu thân chiều chuộng tỷ ấy hơn cả đệ. Hơn nữa, Hoàng hậu nương nương và Phi Nguyệt cô cô đều rất thích tỷ tỷ.”

    “Mặc dù đệ thấy Tôn đại ca”, cậu nhìn từ trên xuống dưới đánh giá hồi lâu rồi nói: “Có phong thái không phải người bình thường nhưng lại không phải người Hán. Vì điều này, huynh muốn kết hôn với quận chúa Đại Hán là rất khó.”

    Quả nhiên không có ai là đèn cạn dầu. Quân Tu Mỹ than thầm, chỉ là một cậu bé chưa tới mười tuổi mà đã có thể nhận biết được nhiều như vậy. Tuy nhiên, hắn nheo mắt, thành bại còn do người làm, nếu không làm thì không biết thế nào cả?

    Tháng Ba, Hán đế đến Thượng Lâm Uyển săn thú mùa xuân, mời cả cháu trai và cháu gái của quốc vương Ô Tôn đi cùng. Người Ô Tôn sống du mục săn bắn trên thảo nguyên nên dù nam hay nữ đều cưỡi ngựa bắn tên rất giỏi. A Mạc Đề bị cảm lạnh mới khỏi, trong lòng lại đang buồn bực về chuyện kết thân cầu hòa nên tự mình cưỡi ngựa ra roi phóng vụt đi. Thượng Lâm Uyển có diện tích rất rộng, cô phi ngựa một lát, gió tạt vào người thì bình tĩnh lại, nhìn bốn phía chẳng còn nhận biết phương hướng thế nào, bất đắc dĩ đành xuống dắt ngựa từ từ bước đi.

    “Mặc dù con gái man di nhưng xem ra cũng rất có phong độ.”

    Câu nói khinh mạt vang lên phía sau khiến A Mạc Đề giật mình quay đầu nhìn lại, thấy một người Hán cưỡi ngựa từ trong rừng phi ra. Hắn có khuôn mặt khá dễ coi nhưng dáng điệu quý phái, không thể giấu được vẻ kiêu ngao.

    “Hu!” Hắn ruổi ngựa đến bên cạnh A Mạc Đề thì ghìm cương lại, nói: “Ngươi có biết rằng ta chính là vị hôn phu đích thân bệ hạ ban hôn cho ngươi, con thứ của Đông Lâm hầu, tên là Lưu Bồi?”

    Hắn là hoàng thân mà lại phải kết hôn với một người con gái tộc Hồ nên rất không cam lòng nhưng lại không dám phản ứng lại bệ hạ, vì vậy mới trút hết oán giận lên người cháu gái của Ô Tôn vương. Hắn ngồi trên lưng ngựa khom mình nhìn xuống, cười vẻ càn rỡ, “Hãy cho ta xem con gái Ô Tôn có gì khác với con gái người Hán?”

    A Mạc Đề không giỏi tiếng Hán như ca ca nhưng vẫn miễn cưỡng hiểu được mấy chữ, biết thân phận của người trước mặt thì tức giận nhướng mày. Cô cũng là kiều nữ của một nước, chưa từng bị đối xử tệ như thế nên rất không hài lòng với người này. Không biết tự bao giờ cô đã rút cây cung sau lưng ra, chém thẳng vào Lưu Bồi. Lưu Bồi nhanh tay lẹ mắt tránh được nhưng cung vẫn bổ trúng thân ngựa khiến nó kinh sợ hất tung hắn xuống đất.

    Lưu Bồi loạng choạng đứng dậy, cả giận nói, “Man di, hãy xem ta thu phục ngươi như thế nào.”

    “Vương tôn.” Đám tùy tùng Ô Tôn đứng cùng Quân Tu Mỹ ở chỗ khuất trong rừng trông thấy tình cảnh này, vội vàng nói, “Nếu chúng ta không xông ra thì tiểu thư A Mạc Đề sẽ phải chịu thiệt thòi.”

    Mặc dù A Mạc Đề là cô gái lớn lên trên thảo nguyên còn Lưu Bồi là con cháu quý tộc ở thành Trường An nhưng nam nữ trời sinh đã có những khác biệt mà con người không thể nào vượt qua được.

    Quân Tu Mỹ nhíu mày, trầm giọng nói, “Hãy chờ một chút đã.”

    Hắn âm thầm siết chặt nắm tay, làm như vậy có phải là tốt không? Hắn muốn cưới về một cô nương nhà Hán nhưng thấy người này không xứng với A Mạc Đề. Ngoài kia, A Mạc Đề đã trúng một tát, khuôn mặt lập tức đỏ ửng, tóc tai tán loạn. Cái tát ngược lại chỉ kích thích cô bộc phát tính cách ngang ngạnh, dùng hết sức lực đá ra một cước trúng chân trái Lưu Bồi. Lưu Bồi thẹn quá hóa giận, đang định tiếp tục động thủ thì chợt nghe thấy giọng trầm thấp nói tiếng Hán cứng ngắc: “Ngươi làm gì muội muội của ta vậy?”

    “Ca ca”, A Mạc Đề bị ấm ức òa lên một tiếng rồi vùi đầu vào lòng Quân Tu Mỹ khóc tức tưởi.

    Quân Tu Mỹ giơ tay trấn an cô, ánh mắt sắc bén nhìn chằm chằm vào Lưu Bồi, lạnh lùng nói, “Ta là sứ giả Ô Tôn đi sứ Đại Hán với ước nguyện kết thành đồng minh vĩnh viễn với Đại Hán. Người Đại Hán lại đối xử với cháu gái của Ô Tôn vương chúng ta như thế này sao?”

    Lưu Bồi tỉnh táo lại, mồ hôi toát đầm đìa. Hắn hiểu rằng nếu đối phương bẩm báo với bệ hạ việc này thì cuộc đời hắn coi như là hết, vội vàng cười nói, “Đây chỉ là đùa chơi mà thôi. Ta đến chỉ để coi mặt vị hôn thê của mình. Đại ca giơ cao đánh khẽ, chúng ta đều là người một nhà mà.”

    A Mạc Đề đang ở trong lòng Quân Tu Mỹ liền ngẩng đầu lên, định nhận phần thua thiệt thay cho ca ca. Dù sao thì việc cô phải chịu ấm ức cũng chỉ là chuyện nhỏ, quan hệ hai nước mới là chuyện lớn. Nhưng cô không ngờ Quân Tu Mỹ lại lãnh đạm nói như đinh đóng cột, “Không được. Không cho phép ai đối xử tệ với công chúa Ô Tôn của chúng ta.”

    “Ca ca.” A Mạc Đề không nhịn được thốt lên.

    “Gì thế?” Quân Tu Mỹ cúi xuống hỏi cô.

    “Không có gì.” A Mạc Đề đành nín khóc, mỉm cười, “Muội thấy là ca ca rất thương muội.”

    Quân Tu Mỹ siết chặt nắm tay. Thế muội có thể thương ta một chút được không? A Mạc Đề, muội cho rằng ca ca quá tốt, nhưng nếu không phải ca ca cũng có việc phải cầu xin thì chắc chắn vừa rồi đã chấp thuận đề nghị của Lưu Bồi.

    Tin này truyền tới tai Hán đế. Lưu Triệt rất tức giận, ngay lập tức phạt Lưu Bồi ba trăm lạng vàng nhưng việc kết thân cầu hòa giữa hai nước thì lại lâm vào tình cảnh khó khăn. Cháu gái của Ô Tôn vương nhất định không chịu kết hôn với người đã từng làm nhục mình. Người Hán dù sao cũng đuối lý nên Lưu Triệt không thể cưỡng ép được. Lưu Triệt triệu cháu trai của Ô Tôn vương đến, nói: “Hai nước chúng ta kết thân cầu hòa…” Y vừa mới mào đầu thì Quân Tu Mỹ đã liền quỳ xuống nói, “chuyện đã đến mức này, ta có một thỉnh cầu quá đáng.”

    “Hai nước kết thân cầu hòa quan trọng là minh ước chứ không liên quan đến chuyện cưới gả. Lần này A Mạc Đề bị tổn thương, ta là ca ca cũng không muốn làm khó muội ấy nữa. Nhưng ta lại rất yêu thích một cô nương kiều diễm ở kinh đô Trường An nhà Hán, khẩn cầu Hán đế ân chuẩn gả người con gái dòng dõi tôn thất đó cho ta. Ta xin hứa sẽ coi nàng là công chúa nhà Hán, đời này kiếp này nhất định không phụ bạc.”

    Lưu Triệt lặng yên một lát, bỗng nhiên cười lạnh nói: “Quân Tu Mỹ, việc của ngươi cũng chưa hẳn là không thể được. Trẫm biết người ngươi yêu thích là ai. Nhưng Lưu Tế Quân là cháu gái trẫm, cũng là người mà Hoàng hậu và cháu gái của trẫm rất yêu thích. Trẫm không thể gả cô bé đến Ô Tôn xa xôi.”

    “Hoàng đế nhà Hán.” Quân Tu Mỹ chắp tay hành lễ, vội vàng nói, “Người Ô Tôn chúng ta đã yêu quý ai thì sẽ yêu quý suốt đời. Quân Tu Mỹ lần này hết sức thành tâm, kính xin được chấp thuận. Hơn nữa”, hắn lưỡng lự một lát, nói: “Nếu Hán đế chấp thuận cho, ta nguyện sẽ…”

    Lưu Triệt nhìn hắn hồi lâu, cuối cùng nói: “Thế này đi, nếu Lưu Tế Quân tình nguyện, Hoàng hậu và Đan Dương hầu phu nhân cũng đồng ý thì thật sự trẫm sẽ không áy náy nữa.”

    “Tất nhiên là ta không đồng ý.” Đan Dương hầu phu nhân nghe được tin này thì phản ứng luôn. “Tế Quân còn nhỏ như thế, yếu ớt như thế thì làm sao mà chịu được gió sương ở Ô Tôn chứ?”

    “Mẫu thân.” Lưu Tế Quân đứng xuất thần một lúc rồi nói: “Nữ nhi lại xin nguyện ý.”

    “Tế Quân, con…” Kim Nga ngẩn người nhìn con gái nuôi, nói: “Con nghĩ sao thế? Ô Tôn quá xa xôi.”

    “Nữ nhi không làm sao.” Cô cười lảng đi, nhớ tới nét mặt như điêu khắc, ánh mắt cháy bỏng của người thanh niên, gò má bất giác nóng rực.

    “Mẫu thân”, cô nghiêm túc nói, “Nữ nhi muốn học theo Hoàng hậu nương nương không giới hạn chí hướng trong khuê các. Không có bệ hạ thì có thể Tế Quân đã chết rồi, huống chi”, cô tỏ vẻ đau thương, “Mẫu thân có thương con đến đâu thì cuối cùng con vẫn có thân phận nữ tội thần, cao không tới, thấp không xong thì ngày sau biết sẽ như thế nào đây.”

    “Mẫu thân đã gặp cháu của Ô Tôn vương rồi. Tế Quân nghĩ hắn sẽ đối xử tốt với con.” Huống chi cô gả sang đó sẽ có thân phận là đại biểu chính thức của Đại Hán, ai có can đảm đối xử không tốt chứ?

    Kim Nga kinh ngạc lắng nghe, rốt cục đỏ hoe mắt, “Mẫu thân không thuyết phục được con. Con tự mình làm chủ, không phải hối hận là được rồi.”

    Trần hoàng hậu đang ở Thượng Lâm Uyển hay tin này cũng lặng người đi một lúc rồi khẽ thở dài, “Rốt cục cũng không cưỡng lại lịch sử được sao?” Nhưng đây là lịch sử đã biến chuyển, là Lưu Tế Quân dùng lý trí của mình tự do lựa chọn, là sự kết hợp của một đôi nam nữ có tình cảm với nhau. Nàng cho rằng Lưu Tế Quân chắc sẽ hạnh phúc hơn so với trong lịch sử.

    Cuối tháng Ba năm Nguyên Phong đầu tiên, Lưu Triệt phong Giang Đô quận chúa Lưu Tế Quân làm công chúa nhà Hán. Quân Tu Mỹ và Lưu Tế Quân cử hành hôn lễ trọng thể ở kinh đô Trường An. Ngoài bộ lễ phục cao quý do Lưu Triệt ban thưởng còn có lễ vật do Đan Dương hầu phu nhân và Hoàng hậu ban tặng, vinh sủng nhất chốn kinh thành.

    Quân Tu Mỹ dẫn tân nương và muội muội rời thành Trường An, đến biên giới giữa nhà Hán và Ô Tôn thì đã là tháng Tư. Thời tiết Tây Vực lạnh lẽo, đến tận lúc này, đào mới trổ hoa. Quân Tu Mỹ sợ Tế Quân bị rét, vừa cưỡi ngựa vừa quay đầu lại hỏi: “Nàng có lạnh không? Mặc thêm y phục nhé?”

    Lưu Tê Quân lắc đầu, sắc mặt đỏ bừng không phải bởi vì lạnh mà vì cảm thấy ấm lòng. Cô ôm đàn tỳ bà, nói: “Đi thôi.”

    Ngồi trên lưng ngựa nhìn về phía trước sẽ thấy những dãy núi Ô Tôn trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi phủ đầy băng tuyết, còn đằng sau là cực tây lãnh thổ Đại Hán cố hương. Cô khó nhọc quay đầu nhìn lại mấy lần, cuối cùng gạt lệ quyết tâm quay đi. Sau dấu chân ngựa là những vùng hoa đào nở rộ, nhưng cưỡi trên lưng ngựa vẫn có thể cảm nhận thấy cái lạnh của băng tuyết. Một cuộc sống hoàn toàn mới dần dần hiện ra ở dưới vó ngựa. Cô có thể chịu đựng thời tiết khắc nghiệt ở chốn xa xôi kia hay không, điều này còn chưa thể biết.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  16. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 95: Đại lễ Phong Thiện vui lòng thiên hạ
    Đắp một đài bằng đất trên ngọn núi Thái Sơn làm đàn tế thiên để báo công với trời nên gọi là Phong. Quét đất lập đàn trên một ngọn núi nhỏ dưới chân Thái Sơn để báo công với đất nên gọi là Thiện.

    (Sử ký – Phong Thiện sách)

    Lễ Phong Thiện có từ thời xưa, là nghi thức tế trời nguyên thuỷ nhất của các bộ lạc hoặc thị tộc sùng bái tự nhiên sống chung quanh Thái Sơn vào thời viễn cổ. “Có lẽ xa thì khoảng mấy nghìn năm trước gần thì mấy trăm năm trước, nghi thức đắp đất tế lễ kia đã thất truyền nên không thể biết được để ghi chép tỉ mỉ lại”. Nhà Tần thống nhất sáu nước, vị hoàng đế đầu tiên tự cho là công cao cái thế bèn xưng là Thủy Hoàng. Năm thứ hai mươi tám, Tần Thủy Hoàng đi tuần các quận huyện phía đông, mượn các nghi lễ của nhà Tần để tế tự những bậc đế vương ở Ung Châu[1] thuở trước để làm lễ Phong ở Thái Sơn, Thiện ở Lương Phụ, khắc chữ lên vách đá ca tụng công đức nhà Tần.

    [1] Ung châu cũng chính là Thiểm Tây, nơi phát tích của nhà Tần.

    Nhà Hán lưu truyền được năm đời, hưng thịnh nhất vào năm Kiến Nguyên, đánh bại kẻ địch bên ngoài, chỉnh đốn pháp luật bên trong, sự nghiệp hiển hách. Vào năm Nguyên Đỉnh đầu tiên lấy được bảo đỉnh ở sông Phần, coi là điềm lành nên các bề tôi dâng thư thỉnh cầu Hoàng đế Lưu Triệt tới Thái Sơn làm lễ Phong Thiện báo cáo công tích với trời xanh, loan báo đức chính cho dân chúng. Lưu Triệt cũng động lòng, hạ lệnh cho quần thần tham khảo phép tắc thời xưa tập luyện nghi thức, xây phủ đệ, lập minh đường[2]. Đến năm Nguyên Phong đầu tiên, y định niên hiệu có chữ “Phong” cũng là đã quyết định trong lòng, sau đó phân công các bề tôi chuẩn bị tất cả cho đại lễ Phong Thiện. Tháng Ba năm Nguyên Phong đầu tiên, sau khi xong chuyện kết hôn cầu hoà với Ô Tôn, Lưu Triệt dẫn bá quan văn võ tháp tùng nghi trượng đi tuần thú phương đông, hơn một vạn người đi theo, xe Phong Thiện nối dài mấy trăm dặm, để Thái tử Lưu Mạch ở lại giám quốc.

    [2] Minh đường: Khoảnh sân dành cho việc tế tự hay thờ cúng.

    Trong xe ngự tráng lệ được nghi trượng trùng điệp vây quanh, Lưu Triệt nhàn nhã ngồi trên giường đánh cờ với Trần A Kiều. Y nhìn dung nhan đẹp đẽ của A Kiều, nói vẻ quan tâm, “Kiều Kiều nên cẩn thận giữ gìn sức khoẻ, chớ để như lần trước ở Lâm Phần”. Một khi lâm bệnh thì nàng sẽ không thể đi tiếp cùng với y.

    “Được rồi.” A Kiều bật cười, “Thiếp đâu đến nỗi yếu ớt như vậy. Lần trước là bị lạnh ngoài ý muốn mà thôi”. Khuôn mặt nàng hơi đỏ lên, nói: “Huống chi lễ Phong Thiện ở Thái Sơn là một việc hiếm có, thiếp cũng không muốn bỏ qua.”

    Nàng thư thả hạ một quân cờ, hỏi, “Bệ hạ có biết nghi lễ Phong Thiện có từ đâu không?”

    Nàng bỏ rất nhiều công sức ra nghiên cứu cờ vây nên rất tiến bộ, quân cờ này hạ xuống cực kì tinh diệu, khiến Lưu Triệt cũng buộc phải trì hoãn, cẩn thận nghĩ nước kế tiếp.

    “Trước đây thì không thể biết.” Y đăm chiêu nói, cũng hạ xuống một quân cờ, “Tương truyền từ cổ có bảy mươi hai vị vua đã từng làm lễ Phong Thiện nhưng đến nay thì chỉ biết đích xác mỗi Doanh Chính của triều Tần.”

    “Ừ.” Nàng gật đầu, nhìn sắc mặt của y, nói: “Nho sinh hai nước Tề, Lỗ cho rằng Phong Thiện chính là nghi lễ để đế vương nhận lệnh của trời, giao tiếp với trời. Từ xưa tới nay, nếu như không phải là đế vương của thời kì thiên hạ thái bình, quốc gia hưng thịnh thì không thể tiến hành hành nghi lễ này. Từ khi bệ hạ kế vị tới nay, bên ngoài thì dẹp được nạn Hung Nô xâm phạm biên giới hơn bảy mươi năm, bên trong thì giúp dân chúng sinh sống an bình, thật đúng là là có tư cách.”

    “Vậy à?” Lưu Triệt kéo nàng qua, mỉm cười nói, “Thật khó được Kiều Kiều khen ngay trước mặt như thế này.” Y khẽ gõ vào trán nàng, tư thế thân mật. A Kiều nhất thời lúng túng, gắt gỏng: “Có cung nhân ở đây đấy.” Nàng liếc sang thấy cung nhân bên cạnh đã sớm cúi đầu cười trộm.

    Nàng dứt khoát tự đầu vào ngực y, thầm nghĩ chuyện Phong Thiện dù thoạt nhìn long trọng láo nhiệt, là vinh hạnh đặc biệt khó được nhưng một lần cũng đã đủ rồi. Nế thật sự để y cứ hai ba năm lại tới Thái Sơn một chuyến, trong hơn hai mươi năm tiến hành Phong Thiện tới tám lần như trong sử sách ghi lại thì quá hao tài tốn của. Vì thế nên nếu cần phải nói thì nàng nhất định phải tìm cách tẩy não y khỏi ý muốn tới Thái Sơn, đả thông quan điểm thần thánh hoá Phong Thiện để đề phòng y coi đây thành chuyện tế tự trong nhà, thỉnh thoảng nhớ tới lại tới đây một chuyến.

    Đến chân núi Tung Sơn, Lưu Triệt hạ lệnh cho xe ngựa nghi trượng tạm thời dừng trú mấy ngày, bản thân mình dẫn A Kiều, Lưu Sơ và mấy vị cận thần đi từ Nam Lộc lên Tung Sơn vừa du ngoạn vừa tế tự. Lúc này mới chỉ đầu mùa xuân, hoa cỏ trên núi còn chưa mọc, chỉ có mấy cây tùng bách xanh tốt quanh năm. Ngoài ra ở đây còn có thư viện Tung Dương, trước mặt là hai khe suối, lưng dựa vào núi cao ngất, phía tây dựa vào Thiếu Thất Sơn, phía đông có thể thấy Vạn Tuế Sơn, núi lượn vòng quanh, suối chảy róc rách, phong cảnh u nhã động lòng người.

    Lưu Triệt nắm tay A Kiều bước vào thư viện Tung Dương. Y thấy trong viện có cây bách cao lớn, tán cây xanh ngắt rộng như mái đình, cành lá rậm rạp, chắc đã sống qua ngàn năm. Y ngẩng đầu nhìn hồi lâu mới nói: “Cây bách này cao lớn kì vĩ như tướng quân thống lĩnh vạn quân, hay là phong nó làm Bách tướng quân?”

    “Không được”, A Kiều phì cười, nói: “Thế gian này có ngàn vạn cây bách, cớ sao bệ hạ lại biết cây này đứng đầu? Nếu có những cây bách khác cao hơn thì chẳng phải là bất công ư? Theo A Kiều thì phong làm Tam tướng quân là đủ rồi.”

    Nàng nhớ lại điển tích Bách tướng quân của Tung Sơn nên nén cười, ánh mắt lấp lánh. Lưu Triệt vô tình quay đầu lại nhìn thấy, im lặng hồi lâu mới nói, “Nếu như thế thì làm theo lời của Kiều Kiều đi. Tuy nhiên”, y quay hẳn lại, mỉm cười nói: “nếu cây bách này muốn trách vì được phong danh hiệu thấp thì hãy tìm Kiều Kiều nhé.”

    Quan viên đi theo tán tụng, “Bệ hạ thánh ân rộng khắp, Hoàng hậu nương nương rất mực khiêm tốn, nếu cây bách này có biết thì cũng chỉ cảm kích chứ sao dám sinh lòng hờn giận chứ?”

    Lưu Triệt cười lớn, dẫn A Kiều xuyên qua viện Nhị Tiến, nhìn quanh liền sững lại. Trong viện lại có một gốc cây bách cao chừng mười trượng, đường kính chừng một vòng tay ôm, cao lớn hơn cây bách vừa rồi, dù vỏ cây đã bị tróc ra, thân cây sần sùi nhưng vẫn tràn đầy sức sống. Quan viên, thị tùng đi theo nhìn nhau vừa âm thầm kêu khổ vừa suy đoán tâm tư của đế vương. Bệ hạ vốn vui giận thất thường, nếu thẹn quá thành giận thì… Một lúc lâu, Lưu Triệt mới tủm tỉm cười, liếc nhìn A Kiều mà hỏi như có điều thắc mắc: “Kiều Kiều đã tới nơi này rồi sao?”

    “Đúng vậy.” Trần A Kiều đáp như không có chuyện gì: “Vào năm Nguyên Sóc thứ sáu, đúng là thiếp đã đến Tung Sơn trước khi tới Tức Mặc gặp Lăng Nhi.”

    Lưu Triệt chợt nhớ tới cuộc chia lìa cách đây nhiều năm thì chợt nhói đau trong lòng nên thôi không nổi giận, nói: “Cây này cao lớn hơn Tam tướng quân, vậy phong làm Nhị tướng quân đi.”

    Dưới cây bách có một cái hốc hình vòm người có thể đi lọt nối thông hai hướng nam bắc trông giống như cổng đình khá là kỳ thú. Đi vượt lên phía trước, A Kiều quay đầu lại thấy hai rễ cây lớn nổi lên mặt đất của Nhị tướng quân uốn cong như cặp cánh, vừa như hùng ưng giương cánh, lại tựa như kim kê muốn bay lên. Đi thêm một lát nữa, quả nhiên thấy một cây bách còn cao lớn hơn hai cây vừa rồi, Lưu Triệt đứng dưới hàng cây thở dài nói, “Kỳ công tạo hoá thật không lừa người!” Y liền phong cây bách là Bách đại tướng quân, lại sai người lập bia bên cạnh, trên bia có khắc dòng chữ “Bia vua Hán phong cây bách làm tướng quân.” Sau đó y cảm thấy đã mãn nguyện, bèn dẫn mọi người xuống núi. Một cơn gió nhẹ thổi qua đỉnh núi làm cho cành lá của Bách đại tướng quân nhẹ nhàng đung đưa giống như gật đầu thăm hỏi.

    Xe ngựa tiếp tục đi về hướng đông them mấy ngày thì đến Thái Sơn. Lưu Triệt sai người lên đỉnh khắc chữ lên vách đá, bản thân mình thì dẫn cả đoàn đi du Đông Hải. Tháng Tư, ngự giá trở về Thái Sơn, hơn vạn người đi theo phủ kín cả Thái Sơn tạo nên một cảnh tượng hết sức hùng tráng.

    Hoàng đế theo lễ nghi đã định ra, đến lễ ở đền thờ thần Địa chủ ở núi Lương Phụ, sau đó cử hành lễ Phong, xây đàn Phong cao chín thước ở dưới chân núi hướng đông, bên dưới chôn sách Ngọc điệp[3]. Sau khi kết thúc lễ Phong thì sai phu dịch tu sửa đường núi cho phu xe chở đá hộc lên xếp thành đài Phong. Hoàng đế ở dưới chân núi trai giới bảy ngày rồi dẫn Trần A Kiều và các bề tôi lên lên Thái Sơn tiến hành lễ Phong long trọng nhất và cũng là trang nghiêm nhất trong lễ Phong Thiện. Ở miếu lớn trên đỉnh núi, Trần A Kiều thay y phục cho Lưu Triệt. Lưu Triệt buộc xong dải mũ, nhìn A Kiều, giọng bùi ngùi, “Kiều Kiều, nàng còn nhớ, trẫm từng hứa với nàng trong ngày tân hôn rằng trẫm sẽ làm một minh quân kiến tạo nên một mảng giang sơn gấm vóc để truyền lại cho con cái của chúng ta không?”

    [3] Sách Ngọc điệp: Thời cổ, gia phả của hoàng tộc Trung Quốc được gọi là Ngọc điệp.

    Nàng ngẩng đầu nhìn lên liền sững sờ trước ánh mắt đen nhánh sắc bén của y, hồi lâu sau mới nhớ lại. Điều này y đã từng nói với nàng vào đêm tân hôn của hai người, đã từng vứt bỏ, giờ lại nhặt lên. Nàng buông lỏng tay, tâm trạng quay cuồng, ngoảnh đi, khẽ nhắc, “Giờ lành đã tới rồi, bệ hạ ra ngoài đi.”

    Y liếc nàng một cái, ánh mắt thoáng có vẻ thương tiếc lẫn bất đắc dĩ, song chỉ trong nháy mắt y xoay người đi, ánh mắt này đã bị thay thế bằng vẻ tự tin và khí phách.

    Đúng vậy, ngập tràn khí phách. Từ trước đến nay, Phong Thiện là vinh dự cao nhất của đế vương. Đối với một đế vương mà nói, lễ Phong Thiện còn long trọng hơn cả đại lễ đăng cơ, bởi vì mỗi đế vương đều có đại lễ đăng cơ của mình nhưng không phải đế vương nào cũng có tư cách lên Thái Sơn làm lễ Phong Thiện.

    Từ khi y đăng cơ đến nay thoáng chốc đã ba mươi năm. Trong ba mươi năm này, y đánh bại mấy thiền vu Hung Nô mà các triều đời Hán vẫn xem là đại hoạ tâm phúc, bình loạn ngoài biên giới, thu nạp nước Điền, khuất phục Triều Tiên, kết hôn cầu hoà với Ô Tôn, kiến lập nên lãnh thổ Đại Hán hoà bình rộng lớn chưa từng có. Thần dân trong lãnh thổ đều tôn y làm quân chủ, an cư lạc nghiệp, đời sống bình an, pháp luật nghiêm cẩn. Công lao như vậy nhìn lên có thể báo với Trời, cúi xuống có thể thưa với Đất, người người thần phục nên mới có lễ Phong Thiện ở Thái Sơn ngày hôm nay.

    Lễ phong là nghi thức vô cùng trang trọng, lễ phục trên người Lưu Triệt nửa trên màu vàng để biểu thị thân cận với trời, nửa dưới màu đen để biểu thị kính trọng với đất. Y nghiêm trang đi lên đài Phong, mười hai vòng hạt châu màu đen từ mũ miện rủ xuống biểu lộ thân phận đế vương trong chốn nhân gian. Đế vương thông qua lễ Đăng Phong là để thông cáo với trời, bày ra quân quyền thần thụ, quyền uy quân chủ, được trời cao đồng ý.

    Trần A Kiều đứng dưới nhìn Lưu Triệt làm lễ ở trên đài Phong. Dù nàng cũng không tin vào chuyện dùng lễ Phong Thiện có thể thông cáo tới trời cao nhưng mỗi thời đại cần một loại tín ngưỡng. Nàng là hoàng hậu của đế quốc thì nhất thiết phải duy trì được tín ngưỡng này. Lưu Triệt đứng cạnh tấm bia đá trắng muốt không khắc chữ trên đỉnh. Tấm bia cao mấy trượng, trên dưới đều bằng nhau, đỉnh hình chóp mũ, cao vút vững chãi.

    “Trẫm thấy những đế vương thời trước đều cho dựng bia khắc ghi công tích”, sau khi xuống đài, Lưu Triệt nói với A Kiều, “trẫm không cần vậy. Trẫm công đức cái thế, không phải một tấm bia đá nhỏ có thể ghi hết.”

    A Kiều nghe xong cười một hồi, nam nhân này vẫn luôn có bộ dạng tự đại độc tôn như vậy. Nhưng y có tư cách ấy. Thời đại Hán Vũ Đế là thời thịnh trị chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc, nhân tài xuất hiện lớp lớp, công lao sự nghiệp kỳ vĩ, để lại cho các triều đại sau một bức bản đồ rõ ràng. Sau triều đại của y thì đến triều Đường mới lại hưng thịnh huy hoàng tương tự.

    Bọn họ ở lại trên đỉnh núi một đêm. Lưu Triệt đã tạo lập công đức muôn đời, lại có giai nhân trong lòng nên cực kỳ hưng phấn, sai người mang tới một loại cây để đích thân trồng.

    “Hay cứ chọn cây bách đi.” A Kiều nói. “Cây bách sống được ngàn năm. Ngàn năm sau, mọi người lên đỉnh Thái Sơn còn có thể chiêm ngưỡng cây do bệ hạ đích thân trồng, giống như những cây bách tướng quân bệ hạ thấy trên Tung Sơn.”

    “Hay.” Lưu Triệt luôn không muốn làm A Kiều cụt hứng, gật đầu nói,”Vậy chọn bách đi.”

    Tùy tùng rất nhanh tìm tới mấy cây bách non. Tuy nói là Hoàng đế đích thân trông nhưng thật ra đều do tùy tùng đào hố, tưới nước, Lưu Triệt chẳng qua chỉ cẩn thận đặt cây giống vào cái hố mà họ đã đào sẵn.

    “Kiều Kiều tới đây giúp trẫm một tay.” Lưu Triệt gọi.

    “Được rồi.” Nàng gật đầu đáp rồi đi qua nhẹ nhàng giữ cây giống cho Lưu Triệt xúc đất đổ vào hố.

    Nàng có thể nghĩ đến cảnh cành lá sum sê, dáng cứng cáp cao vút của sáu cây bách thời Hán này vào ngàn năm sau nhưng không biết cuối cùng là cây nào bị “Xích Mi chém một nhát, thấy chảy máu nên dừng tay”[4].

    [4] Trong sân bách của đại miếu trên núi Thái sơn, có một cây bách lớn, cây đã hơn hai nghìn tuổi mà vẫn tươi tốt sum suê. Bên dưới của cây có một vết chém màu đỏ, đây chính là vết tích của quân Xích Mi để lại trên cây bách cổ.

    Vào cuối thời Tây Hán, phía đông Sơn Đông và phía Bắc Giang Tô xảy ra thiên tai, lại thêm sự phẫn nộ của nhân dân đối với triều đình, quân khởi nghĩa Xích Mi nổi dậy, họ vẽ lông mi đỏ để phân biệt với quân triều đình. Quân khởi nghĩa từng hạ trại trên núi Thái Sơn, không biết là do lòng thù hận đối với nhà Hán hay là vì thiếu củi, mà quân Xích Mi đã đi vào miếu, ra tay chặt cây bách do chính tay Hán Vũ Đế Lưu Triệt trồng. Nhưng rất lạ, chưa chặt được mấy nhát thì thân cây bách bỗng nhiên chảy ra chất lỏng màu đỏ. Quân Xích Mi thấy vậy vô cùng hoảng sợ, không dám chặt nữa. Vết chém đó vẫn còn lưu lại trên thân cây bách, hơn nữa màu đỏ kia vẫn không hề phai nhạt so với lúc ban đầu, nay đã trở thành một kỳ quan.

    “Mình nghĩ quá xa rồi”, Trần A Kiều thấy buồn cười, sáu cây bách thời Hán lúc này chẳng qua chỉ là những cây giống nhỏ bé còn chưa biết bao lâu nữa mới trưởng thành. Huống chi, hai mươi năm lịch sử đã vô tình thay đổi trong tay bọn họ, còn chưa biết ngày sau có quân Xích Mi hay không nữa. Trồng xong cây, chuyện tiếp theo giao cho thị tòng lo liệu, bọn họ tới miếu lớn thay y phục.

    Vào ban đêm có thể thấy lờ mờ hình dáng Thái Sơn cao ngất, mênh mang sâu thẳm, khí thế bàng bạc, trùng điệp không ngừng. Tới ngày hôm sau, mặt trời từ phương đông mọc lên trông hết sức huy hoàng tráng lệ. Bảy mươi hai ngọn núi của dãy Thái Sơn dưới ráng mây che phủ trông u nhã hiểm trở, mỹ lệ mênh mang, thế núi lô xô, đẹp không sao tả xiết. Đứng trên đỉnh núi dõi mắt trông về phía xa, thu hết thảy mọi vật vào trong tầm mắt.

    “Thái Sơn trùng điệp,

    Lỗ mãng vọng trông.

    Ngầm như báo mộng,

    Toại nguyện phương đông.”[5]

    [5] Trong sách Lỗ Tụng – Kinh thi.

    Lưu Triệt cất tiếng ngâm rồi quay sang hỏi A Kiều, “Người đời vẫn nói Kiều Kiều là tài nữ một thời, thấy cảnh hùng tráng thế này thì có thơ phú để tán thưởng không?”

    Nàng nhìn y một lát, ngân nga:

    “Đông nhạc núi cao vút,

    Đẹp như là cõi tiên.

    Gói không gian trống vắng,

    Tĩnh mịch đến u huyền.

    Chẳng ai đem bút vẽ,

    Mây tỏa sắc tự nhiên.

    Đất trời như vẫy gọi,

    Ta sống thú điền viên.

    Xin gửi thân nơi ấy,

    Trọn cuộc đời bình yên,”[6]

    [6] Thái sơn Ngâm của Tạ Đạo Uẩn.

    Không khí trong phòng tĩnh mịch rất hợp với tính cách của A Kiều, nhưng câu cuối cùng khiến tâm trạng Lưu Triệt trầm xuống. Sao y có thể để cho A Kiều rời khỏi mình mà ở lại Thái Sơn dù chỉ một ngày cơ chứ? Mọi người xuống núi Thái Sơn đi cùng Lưu Triệt dựa theo nghi lễ tế Hậu Thổ làm lễ Thiện dưới chân núi Túc Nhiên ở hướng đông bắc Thái Sơn.

    Tương truyền minh đường thời Hoàng Đế[7] ở dưới chân núi Thái Sơn cực kỳ đơn sơ, “Xung quanh không vách, mái lợp có tranh, bốn bề ngập nước, vào cửa Tây Nam, tên là lầu Côn Luân.” Nhưng đến thời Hán thì đã không còn nữa. Lưu Triệt ra lệnh trước hết cứ dựa theo phép cũ thời Hoàng Đế mà xây dựng một ngôi minh đường, lại ban bố chính lệnh triệu kiến đại thần cùng tế tự thần linh tổ tiên. Sau khi lễ Phong Thiện kết thúc, Lưu Triệt từ lầu Côn Luân vào minh đường, tiếp nhận lời chúc tụng của quần thần, cắt lấy hai huyện phía trước để thờ phụng Thái Sơn, đặt tên là huyện Phụng Cao.

    [7] Hoàng Đế, còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế, là một vị vua huyền thoại và anh hùng văn hóa Trung Quốc, được coi là thủy tổ của mọi người Hán.

    Ngự sử viết chiếu rằng: “Trẫm lấy thân hèn kế thừa ngôi vị chí tôn, nơm nớp lo sợ không dám nhậm chức. Trẫm đức còn đơn bạc, không rõ lễ nhạc, nếu xây từ đường thái miếu chỉ giống hình thức thì hy vọng có bùa chú để trấn áp quái vật. Trẫm bỏ dục vọng, đăng phong Thái Sơn, rồi đến Lương Phụ, sau đó thiền định nghiêm túc, ăn năn hối lỗi. Trẫm cùng các kẻ sĩ và thường dân làm lại từ đầu, ban thưởng trăm hộ dân một con trâu mười vò rượu, tặng thêm những cô quả trên tám mươi tuổi hai súc vải vóc, miễn tô thuế năm nay cho các vùng Phục Bác, Phụng Cao, Xà Khâu, Lịch Thành. Đại xá thiên hạ giống như lệnh năm Ất Mão là có làm thì phải chịu nhưng nếu đã xảy ra trên hai năm thì đều không tính nữa.”

    Lễ Phong Thiện ở Thái Sơn kết thúc thì thiên tai lũ lụt không hề xảy ra khiến uy vọng của Lưu Triệt nhất thời đạt đến đỉnh cao, đi đến đâu dân chúng cũng hết lời tán tụng. Nghi trượng tiếp tục đi về hướng bắc tới Kiệt Thạch rồi lại đi tuần từ Liêu Tây sang phía bắc tới Cửu Nguyên. Trần hoàng hậu đều đi theo suốt chặng đường, Hoàng đế và Hoàng hậu ở với nhau rất hòa hợp.

    Từ sau lễ Phong Thiện, Lưu Triệt hăng hái, không muốn lập tức trở về đế đô Trường An mà nhân tiện lên đường tuần thú. Từ Cửu Nguyên tới biên giới phía bắc, thanh thế lên cao thì y mới cảm thấy mãn ý, hạ lệnh quay lại, vượt qua Hoàng Hà trở về Trường An.

    Trần A Kiều theo Lưu Triệt suốt chặng đường, cảm thấy ra khỏi thành Trường An thì bầu trời rộng mở, tâm tình thanh thản, ngàn vạn ưu phiền lo nghĩ đã có người bên cạnh xử lý ổn thỏa, bản thân mình yên lòng thỏa sức ngắm nhìn núi sông Đại Hán tươi đẹp. Trong đời nàng đã mấy lần đi xa, dù người bên cạnh khác nhau nhưng lần nào cũng đều cảm thấy vui vẻ. Lưu Triệt tuy là một người khi trở mặt sẽ lạnh lùng nhưng nếu y còn có tình cảm với ai thì có những lúc sẽ là một tình nhân tốt nhất. Nàng cảm giác mình đang đùa với lửa. Dù bây giờ ngọn lửa chỉ phát ra ánh sáng bập bùng mỹ lệ trong lòng bàn tay nhưng chỉ sợ nếu không cẩn thận thì có một ngày sẽ đốt cháy cả bản thân mình.

    “Sợ cái gì?” Lưu Lăng cười khanh khách nói: “Bàn về đùa với lửa tới mức thành thục thì có ai thắng được tỷ.”

    “Tỷ không phải sợ”, nàng ngẩng đầy lười biếng nhìn Lưu Lăng, “Nhưng mà…” Nàng muốn nói lại thôi, ngày trước nàng đã giác ngộ được rằng, được thì tốt, không được cũng chẳng sao, chỉ cần cố gắng hết sức là được. Cho tới bây giờ, nàng lại mơ hồ hy vọng có thể sống ổn định đến lúc bạc đầu. Bạc đầu ư? Nàng ngửa đầu lên trào phúng, nếu bạc đầu, dung nhan không còn tươi đẹp như xưa nữa thì chẳng phải người kia sẽ quay lưng bỏ đi không chút do dự hay sao?

    Vợ chồng Lưu Lăng cũng ở trong đoàn tùy tùng lần này. Thỉnh thoảng khi Lưu Triệt không ở bên cạnh nàng thì Lưu Lăng lại tới tâm sự. Nàng kéo tay Lưu Lăng nói: “Lăng Nhi đã từng đến Hoàng Hà rồi sao?”

    “Xem kìa.” Lưu Lăng mỉm cười nói, “A Kiều tỷ chưa từng nghe rằng một dải bờ nam sông Hoàng Hà nổi tiếng nhờ hoa đào, được xưng ‘Mười dặm hoa đào đỏ ráng trời’, muội từng mộ danh đến xem, quả nhiên cảnh sắc thật là rực rỡ.”

    “Muội thích hoa đào”, Trần A Kiều thở dài nói, “Thật không biết muội có phải là yêu hoa đào kiếp trước đầu thai hay không.”

    “Nói vậy cũng không sai.” Lưu Lăng cười tinh nghịch: “Chẳng phải A Kiều tỷ cũng thích nhất hoa cúc?”

    “Ta không yêu cuồng si như muội đâu.” Nàng liếc Lưu Lăng, vén rèm xe lên nhìn ra dải đất vàng mênh mông bên ngoài. Ngự giá dù đã gia cố nhưng vẫn cảm giác hơi xóc, nàng nhìn ra ngoài xa chỉ thấy ruộng vườn bát ngát một màu xanh tươi.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  17. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 96: Một khúc tình ca trọn kiếp người
    Ngày thứ hai, thuyền vượt qua Hoàng Hà tiếp tục xuôi nam. Ở trên thuyền nghe tiếng sóng Hoàng Hà xô rào rạt chấn động lòng người. Thuyền tiếp tục đi về phía trước, quả nhiên thấy những cánh rừng đào trùng điệp mấy dặm liền, tiếc rằng đã hết mùa, hoa đào đã tàn tạ chỉ còn lại cành lá xanh biếc thoang thoảng hương thơm.

    “Thật đáng tiếc.” Trần A Kiều liền buông tay thả rèm xuống, “Nếu còn hoa đào nở thì nhất định là rất đẹp.”

    Lưu Triệt ôm lấy nàng dỗ dành, “Nếu Kiều Kiều muốn thì đầu xuân sang năm lại đến xem cũng được mà.”

    “Bệ hạ”, A Kiều đưa mắt nhìn y, “Người cho rằng người đi tuần một chuyến là rất dễ dàng có phải không? Người không biết ngân khố phải chi bao nhiêu tiền hay sao mà sang năm lại đi nữa? Người tỉnh lại đi. Thiếp sợ Tang tư nông lấy đao chém thiếp đó.”

    Lưu Triệt cười lạnh một tiếng, nói: “Hắn dám.” Ánh mắt của y có chút thâm trầm. Nàng thầm than đã lỡ lời, đang định nói mấy câu vớt vát thì bỗng nghe thấy phía ngoài có tiếng người thốt lên, “Mười dặm sông dài hoa đào ngút trời! Quả nhiên là danh bất hư truyền!” Cả đoàn nghi trượng xôn xao, ngay cả xe ngự cũng từ từ dừng lại. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên, giờ đã là đầu mùa hè thì lấy đâu ra hoa đào? Song cảnh tượng khi vén rèm lên lại khiến mọi người sững sờ. Những quầng mây lớn đỏ rực tựa như hoa đào hiện lên rõ ràng trên bầu trời cao trông như một dòng suối mây đang từ từ chuyển động, đẹp không thể tả xiết.

    Lưu Triệt ngồi sau nàng cũng nhìn thấy, khẽ ồ lên một tiếng, “Xem ra trời xanh cũng không muốn để cho Kiều Kiều qua sông này phải tay trắng mà về, dù không thể khiến hoa đào nở nhưng lại sinh ra dòng sông mây để cho Kiểu Kiều chiêm ngưỡng.”

    Câu nói vô cùng ngọt ngào nhưng A Kiều lại không cảm thấy vui sướng. Nỗi lòng nàng cứ chìm dần, chìm dần xuống, cuối cùng lại mỉm cười. Điều gì phải đến thì sẽ đến, chẳng phải vậy sao? Nàng luôn biết rằng ở nơi này có một người con gái sẽ xuất hiện trước mặt Lưu Triệt rồi giành được sủng ái, cuối cùng sinh ra một người con trai trở thành hoàng đế Đại Hán kế nhiệm. Nhưng đó không phải là bây giờ mà là sáu năm sau.

    Sáu năm sau thì nàng đã già rồi. Liệu Lưu Triệt có tách khỏi nàng để bước theo con đường lịch sử vốn có, xóa sạch tất cả mọi dấu tích về bọn họ? Nàng không biết. Nàng chỉ nghĩ rằng lịch sử đã bị bọn họ làm biến đổi đến hình thái như ngày hôm nay thì liệu người con gái kia có thể cũng biến mất ở trong buổi hồng hoang của lịch sử? Nhưng cô ta vẫn xuất hiện trong tầm mắt của bọn họ, có điều là sớm hơn sáu năm. Quả nhiên, có thuật sĩ chạy đến trước xe ngự, dập đầu nói: “Chúc mừng bệ hạ. Chúc mừng bệ hạ. Suối mây lành may mắn này là phúc tướng trời sinh, báo hiệu Đại Hán ta muôn đời hưng thịnh.”

    “Hơn nữa”, lão hơi ngẩng đầu lên liếc nhìn Trần hoàng hậu ở bên cạnh Hoàng đế, hơi do dự một chút rồi nói: “Bần đạo thấy điềm mây này có nghĩa là nơi đây tất có kỳ nữ hiện thế.”

    “Ồ”, Lưu Triệt nửa cười nửa không nói, “Bàn về kỳ nữ, chẳng lẽ còn có cô gái nào đặc sắc hơn cả hoàng hậu của trẫm sao?”

    “Hoàng hậu nương nương tất nhiên là một kỳ nữ thế gian hiếm có”, phương sĩ không dám ngẩng đầu nhưng vẫn nói: “Nhưng vì sao mây lành không xuất hiện ở nơi khác mà lại xuất hiện đúng lúc Hoàng đế qua sông Hoàng Hà chứ? Có thể thấy rằng kỳ nữ này khác hẳn những người khác.”

    “Nếu như thế”, Lưu Triệt quyết định, “thì hôm nay nghỉ lại nơi này. Cho người đi tìm kỳ nữ đó đến.”

    Trần A Kiều không nhịn được quay đầu lại nhìn Lưu Triệt. Nàng không tin vào lời nói mây lành phúc tướng gì đó. Nàng chỉ từ ghi chép trong lịch sử mà cảm thấy Triệu Câu Qua thật sự là một người con gái có dã tâm, giỏi cơ mưu, biết quyền biến, thế nhưng cô ta không hiểu rõ về lòng dạ sắt đá tuyệt tình của Lưu Triệt, cho dù có thành công cũng chẳng còn tính mạng để hưởng thụ. Nhưng một người con gái dám liều mạng đánh cuộc lớn và nguy hiểm như vậy thì điều cô ta muốn chắc không phải là hưởng thụ mà chỉ là thành công mà thôi, để cuối cùng bánh xe lịch sử sẽ chuyển động theo ý chí của mình. Đó sẽ là một thành tựu vô cùng lớn lao. Lưu Triệt sẽ tin là thật? Hay y chỉ cho đây là câu chuyện cười do một người tự diễn?

    Lưu Triệt cảm nhận được ánh mắt của nàng, cười một tiếng trấn an: “Chẳng có việc gì thì cứ để xem thế nào.”

    Nàng chợt thấy lạnh toát trong lòng. Lần trước lúc gặp thuật sĩ Loan Tử thì y cũng nói như thế, kết quả là gây ra sóng gió rung trời. Sau khi vào hành cung, phương sĩ lại tới khấu đầu nói: “Bần đạo xem điềm mây thì cô gái này phải ở Hà Gian phía đông nam sông Hoàng Hà, chỉ là nơi đó rất đông người, trong thời gian ngắn chắc không tìm được….”

    Dương Đắc Ý thấy Lưu Triệt tỏ vẻ lãnh đạm thì vội vàng trách, “Vậy thì sai người cố gắng tìm đi. Bệ hạ là hoàng đế Đại Hán cho dù cô ta là ai cũng không có thể để cho bệ hạ phải đi về hướng đông nam tìm gặp được.” Phương sĩ toát mồ hôi đầm đìa, vâng dạ lui ra. Ngày thứ hai thì bên dưới báo lên rằng quả nhiên tìm được ở Hà Gian một người con gái họ Triệu vô cùng diễm lệ, nghe nói thuở nhỏ hai tay bị tật luôn nắm chặt không thể mở ra.

    Lưu Lăng đang đánh cờ với Trần A Kiều ở trong điện của hành cung. Nàng hạ một nước cờ, oán hận nói, “Đáng tiếc là không ngờ cô gái họ Triệu lại xuất hiện sớm những sáu năm nên chưa thu xếp thỏa đáng được. Bây giờ thì không thể động thủ vì sẽ để lại quá nhiều dấu vết.”

    Đã đến nước này thì Trần A Kiều trái lại rất bình thản, chỉ nói: “Hãy thuận theo tự nhiên đi.”

    “Thật ra”, Lưu Lăng hạ cờ cực nhanh, nói giọng đầy suy tư “giữa Lý Nghiên và Triệu Câu Qua thì muội thích Lý Nghiên hơn một chút. Mặc dù cả hai đều có thủ đoạn nhưng Lý Nghiên không bố trí và có dã tâm lớn như vậy.”

    Trần A Kiều bật cười, nghe Lục Y vén rèm bẩm, ‘Nương nương, bệ hạ đã tuyên cô gái họ Triệu lên điện rồi.” Nàng chỉ khẽ ồ lên một tiếng.

    “Nương nương”, Lục Y nói gấp gáp, “Tại sao người lại không lo lắng một chút nào vậy?”

    Nhìn vào thế trận này, chỉ cần cô gái họ Triệu đủ xinh đẹp khiến cho Lưu Triệt thấy yêu thích thì rất có thể sẽ được nhận vào hậu cung. Dù sao thì có hoàng đế nào kháng cự nổi một kỳ nữ được trời cao mách bảo? Hơn nữa bệ hạ lại rất kính ngưỡng quỷ thần.

    “Lo lắng thì có tác dụng sao?” Nàng không ngẩng đầu lên mà chỉ hỏi lại khiến cho Lục Y im bặt.

    Những năm qua nàng vẫn âm thầm quan sát thân thể trải qua mấy lần đại nạn nhưng lại già đi rất chậm. Tính ra thì thời gian ước chừng hai năm đối với người khác chỉ bằng nàng trải qua một năm. Nàng không hỏi được ai, chỉ có thể thầm suy tính do trong cơ thể mình có hai linh hồn. Cho tới bây giờ cơ thể của nàng cũng khoảng ba mươi ba tuổi. Mặc dù ba mươi ba chưa thể coi là già, tóc nàng vẫn đen nhánh có thể soi gương nhưng dù sao cũng đã qua thời đẹp nhất của người con gái. Nàng muốn được ở bên cạnh y cho đến lúc bạc đầu, nhưng nếu đến lúc bạc đầu thật rồi lại bị ruồng bỏ thì nàng làm sao chịu đựng nổi? Thế nên nếu muốn đoạn tuyệt thì nên làm luôn khi còn trẻ cho xong. Lúc này, nếu như y sinh lòng đứng núi nay trông núi nọ thì nàng còn có thể dùng lý trí đào thải y ra khỏi trái tim, biết tự trân trọng mình. Chỉ là rất khó vượt qua đau thương mà thôi.

    Lưu Lăng trông thấy ánh mắt của nàng, thầm than một tiếng. Nàng đứng trước cửa sổ, nhìn theo cô gái đang cúi đầu theo viên nội thị đi xuyên qua hành lang vào gặp mặt vua. Mặc dù cô gái cúi đầu nhưng vẻ thùy mị của cô vốn không phải ở dung nhan, chỉ nhìn dáng người cũng thấy nét thanh xuân phơi phới. Còn nàng và A Kiều thì đều đã sắp già rồi. Hồng nhan dù có xinh đẹp nhưng với thời gian thì cũng dần hóa thành xương khô. Tay của Triệu Doanh Mi[1] nắm thật chặt. Nàng từ xa nhìn lại mà dường như vẫn có thể trông thấy trên bàn tay mảnh dẻ hiện lên những làn gân xanh chằng chịt. Buồn tẻ và nhạt nhẽo!

    [1] Doanh Mi là tên tự của Câu Qua.

    Triệu Doanh Mi vào trong điện liền ngửi thấy một mùi thơm thoang thoảng mát dịu. Dưới tấm màn lụa nhiều tầng có một lư hương hình Thao Thiết[2] bằng đồng xanh đang tỏa ra những làn khói xanh nhàn nhạt lững lờ bay lên trông rất đẹp mắt. Người ngồi trên điện chính là vị hoàng đế tôn quý nhất của đế quốc. Cô hơi thả lỏng tay, khầu đầu, “Dân nữ Triệu Doanh Mi khấu kiến bệ hạ.”

    [2] Thần thú Thao Thiết cổ xưa theo truyền thuyết là một trong chín đứa con của rồng, một linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Đặc điểm nổi bật của Thao Thiết là tham ăn vô độ, gặp gì ăn nấy, cuối cùng cũng chết vì ăn.

    Ở trên điện, Hoàng đế khẽ ồ một tiếng, lệnh xuống: “Ngẩng đầu lên xem.” Y nói bằng giọng hơi trầm, có vẻ thờ ơ.

    Lưu Triệt liền thấy cô gái bên dưới điện từ từ ngẩng đầu, hàng mi lá liễu, đôi môi đỏ mọng, da trắng như tuyết lại tựa như được tráng một lớp men sứ trông nõn nà bóng mượt. Y ngắm kỹ một lúc mới hỏi, “Trẫm nghe nói rằng từ nhỏ ngươi đã không thể xòe hai bàn tay ra được phải không?”

    Triệu Doanh Mi thấy bậc đế vương ngồi trên ghế ngự đã không còn trẻ, khuôn mặt sắc sảo, đôi môi rất mỏng, vô tình đến mức hấp dẫn thì im lặng một hồi rồi cúi đầu đáp: “Không dám dối lừa bệ hạ, đúng là như vậy.”

    Lưu Triệt liền ra ý bảo nội thị ở phía sau tiến đến bên cạnh Triệu Doanh Mi. Triệu Doanh Mi dịu dàng đưa tay ra, nội thị thử gỡ các ngón tay một lát rồi quay lại bẩm, “Bệ hạ, quả nhiên không duỗi ra được.”

    “Ồ.” Lưu Triệt cảm thấy phấn khích bèn đích thân đi xuống. Y vừa trông thấy đôi tay mềm mại như không có xương cốt kia thì không hiểu tại sao lại thấy cặp mắt của A Kiều như hiện lên trước mặt, vừa có vẻ độ lượng, vừa có chút giận hờn, chợt lóe rồi biến mất. Y đích thân dùng tay duỗi ngón tay cô ra, da thịt nóng hổi vừa chạm vào nhau thì gương mặt Triệu Doanh Mi liền đỏ bừng lên từng mảng. Y tựa như không phải dùng chút sức lực nào mà bàn tay cô vẫn tự nhiên xòe ra, trong lòng bàn tay có một viên ngọc trong suốt, dưới ánh nến phát ra ánh sáng lóng lánh.

    Trần A Kiều đang chơi cờ vây với Lưu Lăng ở điện Tây, mặc dù nét mặt vẫn tỏ ra hững hờ nhưng trong lòng lại có vẻ thấp thỏm. Lưu Lăng khoát tay một cái xóa ván cờ đi rồi thở dài nói, “A Kiều, nếu thấy không yên tâm thì hãy đến đó xem thế nào. Thế còn tốt hơn là người một nơi mà hồn một nẻo.”

    Nàng ngơ ngác một lúc rồi cười khổ nói, “Rốt cuộc là tỷ vẫn còn lưu luyến.” Nàng vứt quân cờ xuống, tâm tư rối loạn ưu phiền. Nàng không muốn đến xem hai người đang làm gì ở đó, cũng không muốn ngồi ở đây thở ngắn than dài, bỗng nhiên đứng bật dậy nói, “Lăng Nhi, đi cưỡi ngựa với tỷ đi,” Lưu Lăng biết nàng không thoải mái, lắc đầu nói, “Thôi, tỷ đi một mình ra ngoài hít thở không khí trong lành cũng tốt.”

    Nàng đến chuồng ngựa, cưỡi lên một con rồi phi ra ngoài hành cung. Cung nhân không dám ngăn cản vội vàng chạy đến chính điện thông báo cho Hoàng đế. Dương Đắc Ý nghe vậy thì không dám chậm trễ, vội vàng vén rèm bước vào ghé sát tai Lưu Triệt nói khẽ, “Bệ hạ, Trần hoàng hậu cưỡi ngựa xuất cung rồi.”

    Lưu Triệt lập tức buông tay Triệu Doanh Mi ra. Triệu Doanh Mi quỳ ngay sát gần Hoàng đế, gần đến mức có thể nhìn thấy những đường chỉ đen tỉ mỉ trên áo bào của Hoàng đế. Cô loáng thoáng nghe thấy người nọ đến gần nói thầm vào tai Hoàng đế những câu gì đó, trong đó có chữ hoàng hậu. Bệ hạ khẽ “ồ” một tiếng, hơi nhếch miệng cười nhạt, nếu cô không nhìn lầm thì nụ cười đó lại có phần mang vẻ hân hoan.

    Lòng cô bỗng nhiên trầm xuống. Phụ thân của cô từng là quan thủ vệ cửa Hoàng môn của cung Vị Ương. Sau khi mẫu thân sinh được cô thì phụ thân không biết vì lý do gì mà lại cung hình, nhậm chức Trung hoàng môn, cuối cùng thì mắc tội, bị xử tử ở kinh đô Trường An. Đó là thành Trường An phồn hoa mà mẫu thân thường nói ngựa xe như nước áo quần như nêm.

    Khi còn bé, cô thường nghe mẫu thân kể chuyện rằng cho dù nơi đẹp đẽ trang nghiêm nhất trên thế gian này cũng không thể sánh bằng cung Vị Ương ở thành Trường An xa xôi đó. Phấn son mà các phi tần hàng ngày tẩy rửa đi có thể nhuộm nước sông Vị Thủy thành màu hồng tựa như cánh hoa đào. Phụ thân năm xưa đã nói với mẫu thân như vậy. Mẫu thân là một người kiên cường, phu quân mất rồi thì đem nhưng điều phu quân đã nói khi còn sống kể lại cho con gái nghe để con gái có thể có thêm nhiều ấn tượng về phụ thân của mình.

    Cô mỗi ngày một lớn lên, dung nhan như hoa như ngọc, trong cả trăm dặm xung quanh không ai sánh bằng. Tâm cơ của cô cũng sâu sắc tương đồng với sắc đẹp. Cô nhắm tới tòa cung điện mà phụ thân đã nhắc tới, chỉ khác là cô muốn vào đó nhưng không phải bằng thân phận nô tài như phụ thân mình mà muốn làm chủ nhân tòa cung điện đó. Một dung nhan như hoa như ngọc mà bảo cô phải cam tâm chết già ở chôn quê mùa thì thật quá khó khăn.

    Một người mẹ có thể nuôi dưỡng được con gái như vậy thì sao có thể là một người phụ nữ đơn giản? Trước khi cô đi, mẫu thân đã vuốt ve gương mặt của cô, sắc mặt lạnh tanh. “Ta không tin” bà nghiến răng nói, “Trần hoàng hậu đã lớn tuổi như vậy lại có thể hơn được Doanh Mi của ta.”

    Đúng thế, cô vừa qua tuần cập kê, sức sống của tuổi trẻ giúp vẻ đẹp của cô hiện rõ trên từng tấc da thớ thịt. Mà nghe nói Trần hoàng hậu còn lớn hơn bệ hạ tới hai tuổi. Một người con gái dù có xinh đẹp đến đâu khi đến tuổi này thì dung nhan cũng phải héo tàn. Cô chưa từng nghĩ rằng bệ hạ sẽ không vừa ý về mình. Để tiến vào tòa cung điện cho bệ hạ ngắm nhìn dung nhan kiều diễm của cô, mẹ con cô đã đánh cuộc bằng cả tính mạng của mình. Lập ra những thủ đoạn lớn như vậy, đánh cược bằng cái giá lớn như vậy, nếu không có kết quả gì thì điều gì sẽ đợi chờ hai người?

    Ánh sáng từ cửa điện hắt vào, chiếu lên khuôn mặt nghiêng nghiêng của bệ hạ để lại một cái bóng mờ với đường cong ưu nhã nhưng vô tình. Y cười nhạt nói: “Nếu như thế thì Đắc Ý hãy theo trẫm đi tìm Hoàng hậu.” Y chắp tay đi ra ngoài cửa. Dương Đắc Ý ngạc nhiên gọi hỏi, “Bệ hạ, xử trí cô gái họ Triệu này như thế nào?”

    Triệu Doanh Mi lúng túng quỳ gối trên điện. Hoàng đế hờ hững quay đầu lại nhìn cô, đôi mắt đen nhánh như một hố sâu không nhìn thấy đáy. Y lạnh lùng nói: “Cô ta có ý phạm tội khi quân. Lệnh cho Kỳ Môn quân dẫn đi, ban cho được chết.” Triệu Doanh Mi quá sợ hãi, ngã xoài ra trên mặt đất, nước mắt đầm đìa, giọng nói thê lương, “Bệ hạ, dân nữ đâu dám làm như thế?” sắc mặt cô trắng bệch, khóc sướt mướt như hoa lê dưới mưa rất đáng thương. Tiếc rằng Lưu Triệt lại không mảy may động lòng, chỉ cười lạnh nói, “Sao vậy? Nếu ngươi không dám thì sao dám thăm dò ý trẫm.”

    Từ lúc chưa gặp cô, trong lòng Lưu Triệt đã nổi sát ý. Một dân nữ huy động được lực lượng như thế thì có thể thấy là tâm tư tuyệt đối không đơn giản. Y đã không thể nào thu nạp thì nhất định phải nhổ cỏ tận gốc, nếu không thì dù Đại Hán dưới sự cai trị của y lúc này đang vững vàng như núi Thái Sơn nhưng nếu có kẻ lợi dụng danh tiếng kỳ nữ trời sinh của cô gái này thì chưa hẳn sẽ không gây ra chuyện. Y là đế vương, vẫn luôn thà giết lầm vạn người chứ không thể bỏ sót một người. “Hơn nữa”, Lưu Triệt trầm ngâm nói, “Bành Thông nói năng bậy bạ, cũng ban cho được chết.” Y nói dăm ba câu xử trí hai mạng người xong thì không nói gì nữa mà cứ thế bỏ đi.

    Trần A Kiều cưỡi tuấn mã phi thẳng một mạch về hướng sông Hoàng Hà. Nàng giục ngựa điên cuồng, không cần biết đến những thị vệ đi theo phía sau, cảm giác thấy gió sương phương bắc mát lạnh quất vào mặt khiến tinh thần sảng khoái, tất cả những sức mạnh sinh lực vốn bị thương bệnh đoạt đi đã trở về cùng với lần phi ngựa sảng khoái này. Chỉ chốc lát sau, nàng vừa nghe thấy tiếng sóng sông Hoàng Hà rào rạt vang lên bên tai thì cũng liền thấy nước Hoàng Hà chảy cuồn cuộn trước mắt. Nàng kéo cương thắng ngựa dừng lại, bỗng nhiên bật cười vang.

    Cần gì phải đa sầu đa cảm như vậy? Cứ để cho nước Hoàng Hà cuốn trôi đi tất cả những buồn bực phiền muộn ở trong lòng. Thế gian nay còn có rất nhiều cảnh đẹp hoành tráng, chỉ vì lòng nàng còn quá câu nệ nên chưa được thấy mà thôi. Thời đại này còn rất sớm, sông Hoàng Hà chưa bị đục như đời sau. Nước sông trong đục lẫn lộn, gầm thét chảy về phía trước.

    Sóng nước Hoàng Hà chảy ầm ầm khiến nàng không nghe thấy tiếng vó ngựa lộp cộp phía sau nhưng nàng bỗng như có linh tính quay đầu nhìn lại, thấy có một đoàn người ngựa từ phương xa chạy tới, Con tuấn mã chạy trước tiên có màu đen nhánh như một con thần mã. Nàng nhìn người cưỡi ngựa thì trái tim đập rộn ràng. Ngoài y ra, còn người nào xuất hành mà lại dẫn theo nhiều tùy tùng như vậy? Nàng vừa mới nói cần phải thả lỏng tâm hồn nhưng lúc này lại không nhịn được, khóe mắt bờ môi đều nhiễm vẻ hân hoan. Một nụ cười đẹp như tranh khiến Lưu Triệt nhìn đến cơ hồ mê mẩn.

    Đoàn thị vệ tháp tùng đến cách khoảng ba mươi thước thì đồng loạt ghìm cương lại, riêng một mình Lưu Triệt giục ngựa tiến về phía trước đến bên cạnh nàng. “Kiều Kiều”, y mỉm cười nói, “Trẫm thật sự rất vui, rốt cục trong lòng nàng vẫn còn có trẫm.”

    Giọng nói của y không nhỏ nhưng ở gần sông Hoàng Hà chỉ trong gang tấc nên bị tiếng sóng át đi. A Kiều không nghe thấy rõ nhưng nhìn ánh mắt và nụ cười của y thì cũng đoán được rõ ràng. Mười ba năm rồi. Từ khi gặp lại hồi năm Nguyên Sóc thứ sáu đến lần đi tuần thú năm Nguyên Phong nguyên niên, đã đủ mười ba năm tròn. Trong mười ba năm đó, nàng cứ ơ hờ nhìn y đến rồi đi, không màng được thua, không buồn không vui. Rốt cục phải trải qua mười ba năm ròng nàng mới để tâm trở lại, tuy rằng còn xa mới cực kỳ chấp nhất như thời niên thiếu nhưng cả hai người đều hiểu rõ ràng ý nghĩa của nó. Tất nhiên, nếu nàng không mang lòng yêu thương đối với người đàn ông trước mắt này thì tại sao lại để tâm như vậy?

    Nàng im lặng hồi lâu rồi chợt hỏi, “Người đem…?”

    Nàng đột nhiên im bặt, bỏ lửng câu hỏi. Tất nhiên, y đã xuất hiện ở nơi này thì còn cần gì phải hỏi nữa. Lưu Triệt như hiểu được ý của nàng thản nhiên nói, “Kiều Kiều sẽ không gặp lại cô ta nữa.” Ánh mắt y thoáng hiện lên một tia tàn khốc. A Kiều một lúc sau mới hiểu, ngạc nhiên nói: “Cần phải vậy sao?” Cô gái kia tuy có dã tâm quá lớn nhưng cũng không đáng tội chết.

    Nhưng nàng không phải là người quá lương thiện, huống chi nghĩ ra thì cũng hiểu cho ý tứ của Lưu Triệt. Lưu Triệt là bậc đế vương tôn nghiêm, y không thể dung tha cho kẻ dưới to gan dám tính kế với mình, huống chi kẻ đó lại không đơn thuần chỉ là một cô gái muốn được ân sủng.

    Sóng nước Hoàng Hà ầm ào mãnh liệt, đám thị vệ ở ngoài xa không nghe thấy bọn họ nói gì. Chính bản thân hai người cũng phải nói lớn mới có thể nghe được tiếng của nhau. Lưu Triệt giục ngựa tới gần, vươn một tay ra bế nàng sang ngồi trước người mình. Con ngựa ô bọn họ đang cưỡi hí vang lên, quất đuôi tựa như bất mãn về việc tăng thêm trọng lượng trên lưng mình. Song đối với Lưu Triệt, A Kiều lại rất nhẹ, nhẹ đến mức y cảm thấy vươn tay ra bế nàng cứ nhẹ tênh tênh chẳng tốn chút sức lực nào.

    “Lưu Triệt”, A Kiều ngồi yên trong lòng Lưu Triệt, khẽ gọi. Hai người ở sát bên nhau nên Lưu Triệt nghe tiếng nàng nói: “Người nhìn xem, thế nước sông Hoàng Hà mãnh liệt, một khi tràn bờ thì mấy ngàn dặm ruộng vườn đều sẽ bị phá hủy mất. Tai họa do con người gây ra còn tránh được chứ thiên tai thì biết tránh đi đâu. Ở trước mặt thiên nhiên, sức người thật là nhỏ bé.”

    Lưu Triệt trầm ngâm giây lát rồi nói: “Trẫm lại tin tưởng mọi việc đều có cách giải quyết. Việc trị thủy, cho dù trẫm không thể nào hoàn thành nhưng còn có con cháu muôn đời sau nữa. Trẫm tin tưởng, giang sơn Đại Hán sẽ được con cháu của trẫm và Kiều Kiều kế tục, cuối cùng sẽ có một ngày giải quyết được việc này.”

    Nàng ở trong lòng y, mỉm cười tươi tắn. Nàng biết rõ việc trị thủy là đại nghiệp muôn đời, cho dù ngàn năm sau vẫn không thể giải quyết thích đáng. Nhưng người này lại tự tin đến như vậy, một sự tự tin mãnh liệt mà những người khác khó có thể sánh được. Lưu Triệt, nàng nhủ thầm trong lòng, lúc này người đã đến bên ta vậy thì ta cũng nên nhường nhịn người một chút. Từ nay về sau, ta sẽ thật lòng coi người là chồng, là vua của ta. Kính trọng người, yêu thương người, tin tưởng người. Ta mong rằng sẽ đợi được đến khi chúng ta bạc đầu để hồi tưởng lại những chuyện trong cuộc đời này một lần xem điều gì là vĩnh viễn không quên? Là những tổn thương thuở còn niên thiếu hay là những cơn gió không ngừng trên bờ sông Hoàng Hà hôm nay? Tới lúc đó thì có lẽ ngay cả những tổn thương cũng có thể mỉm cười nhớ tới. Chỉ cần người không phụ ta thì ta vĩnh viễn không phụ người. Những tổn thương đã từng có sẽ tồn tại không cách nào xóa đi được. Ta cũng không có khả năng xóa chúng đi, chỉ là từ nay về sau ta sẽ chôn chặt chúng vào ký ức, chỉ cần người không khơi ra thì ta sẽ không đụng tới. Hãy để chúng ta nhìn xem thời gian có thể vùi chôn được ký ức hay không? Chúng ta đều sắp già rồi.

    Con ngựa hai người đang cưỡi rong ruổi dọc theo bờ sông Hoàng Hà. Vô số thị vệ đi theo cách chừng mười trượng phía sau bảo vệ Hoàng đế và Hoàng hậu của đế quốc Đại Hán. Đúng vậy, Hoàng đế và Hoàng hậu.

    Nàng thả lỏng người, khẽ tựa vào ngực Lưu Triệt. Lồng ngực Lưu Triệt rất rộng khiến nàng tin tưởng rằng nếu có sóng gió thế nào thì y vẫn có thể che chở cho nàng. Thật là kỳ quái, tất cả những phong ba bão táp của nàng đều phát sinh từ người đàn ông này nhưng trong một khoảnh khắc, nàng lại không khỏi cảm thấy y sẽ ngăn gió che mưa cho nàng. Nàng chợt nhớ tới một câu thơ đã đọc trong sách cổ từ thuở nhỏ, “Núi có cây và cây có cành.”

    “Triệt Nhi”, nàng bỗng động tâm, ngoảnh lại nói: “Thiếp sẽ hát một khúc nhé. Người có muốn nghe không?”

    Y hơi cúi đầu xuống, nhìn vào lúm đồng tiền của nàng, âu yếm nói, “Nàng hát đi.”

    Gió Hoàng Hà ào ào thổi qua làm cho búi tóc của nàng xô ra, hơi xốc xếch nhưng nhìn rất nữ tính. Nàng suy nghĩ một chút rồi xướng lên giai điệu kia, giọng hát thánh thót.

    “Mặt nước xanh sóng gợn

    Vua cứ hoài ưu tư

    Lòng có bao phiền muộn

    Để mặc gió cuốn đi”

    Trong cuộc đời mình, nàng đã nghe rất nhiều bản tình ca nhưng đến giờ cuối cùng thì nàng lại chọn một bài theo phong cách cổ. Năm xưa khi xuyên qua ngàn năm đi tới triều đại cổ xưa này, nàng có bao giờ ngờ được mình sẽ có kết cục như vậy?

    “Giở lại trang sách sử

    Ba năm lại ba thu

    Gió Bắc gieo giá lạnh

    Miên man kể nỗi sầu

    Chung sống đến đầu bạc

    Tử sinh đáng gì đâu

    Ngàn năm đã qua hết

    Tỉnh mộng lại u sầu”

    Đứng trên bờ Hoàng Hà nhìn ra thấy bốn phía là một vùng đồng đất mênh mông. Đang đầu mùa hè, khắp nơi đều là màu xanh mơn mởn, bừng bừng sức sống. Nàng dần tin rằng nhân duyên do số mệnh sắp đặt.

    “Thuyền Bách Chu rời bến

    Theo sóng gió phiêu lưu

    Trải qua bao con nước

    Quên mất cả Ngũ Châu”

    Nàng đã từng không chịu phục khi bị cuốn vào trong vòng xoáy vận mệnh. Dựa vào cái gì mà vận mệnh lại chọn đúng nàng trong thế giới có hàng ngàn vạn con người chứ? Vào những thời điểm then chốt, phải lựa chọn như thế nào thì nàng cũng không có gì để đối chiếu. Cuộc đời ẩn chứa quá nhiều biến số, nàng lại chỉ lựa chọn dựa theo tâm ý, sau đó cẩn thận làm theo lựa chọn của mình còn kết quả ra sao thì không quá để ý.

    “Xin ở cùng với thiếp

    Đến răng long bạc đầu

    Gió vẫn không ngừng thổi

    Cuốn bay hết ưu sầu

    Nghe câu chuyện ngày trước

    Ngỡ là giấc chiêm bao

    Thương người ở trước mắt

    Chẳng nỡ rời tay đâu”

    Nàng vẫn hy vọng là sẽ có một kết cục tốt đẹp, có thể bạc đầu răng long, có thể quên hết ưu sầu, có thể… vĩnh viễn chẳng phân ly. Hy vọng như vậy có phải là quá tham lam không?

    Nhưng có câu rằng phải có niềm tin thì mới có thể tồn tại. Nàng ở trong một chỗ bình yên ấm áp ngẩng đầu lên, dọc theo sông Hoàng Hà ở phía trước rất xa hình như có mục đồng đang thổi sáo, một khúc tình quê êm đềm nhưng tràn đầy vui sướng. Nếu tin tưởng và vui vẻ thì sẽ gặp nhiều hạnh phúc. Và câu chuyện tình đẹp nhất triều Hán Vũ Đế đã kết thúc trong bài hát êm đềm này.

    Mặt nước xanh sóng gợn

    Vua cứ hoài ưu tư

    Lòng có bao phiền muộn

    Để mặc gió cuốn đi

    Xin ở cùng với thiếp

    Đến răng long bạc đầu

    Gió vẫn không ngừng thổi

    Cuốn bay hết ưu sầu

    Nghe câu chuyện ngày trước

    Ngỡ là giấc chiêm bao

    Thương người ở trước mắt

    Chẳng nỡ rời tay đâu

    Núi lưng trời cao vút

    Thôn quê suối xanh màu

    Tiếc chuyện không tên cũ

    Đến nay lại quay đầu

    Ánh trăng sáng vằng vặc

    Soi bóng thành ba người

    Ngàn năm đã qua hết

    Tỉnh mộng thấy u sầu

    Thuyền Bách Chu rời bến

    Theo sóng gió phiêu lưu

    Trải qua bao con nước

    Quên mất cả Ngũ Châu

    Xin ở cùng với thiếp

    Đến răng long bạc đầu

    Gió vẫn không ngừng thổi

    Cuốn bay hết ưu sầu

    Nghe câu chuyện ngày trước

    Ngỡ là giấc chiêm bao

    Thương người ở trước mắt

    Chẳng nỡ rời tay đâu

    Tham khảo trang sách sử

    Ba năm lại ba thu

    Gió Bắc gieo giá lạnh

    Miên man kể nỗi sầu

    Chung sống đến đầu bạc

    Tử sinh đáng gì đâu

    Ngàn năm đã qua hết

    Tỉnh mộng lại u sầu.

    (Nỗi nhớ không tên – Kinh thi)
     
    PhươngThảo thích bài này.
  18. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 97: Vĩ thanh: Đời người bước đến lúc tận cùng
    Cuộc đời nàng cứ xuôi theo cảnh mặt trời lặn, mặt trời lặn trên thành Trường An, hoa nở hoa tàn trong cung Kiên Chương cho đến ngày nhắm mắt.

    Năm Nguyên Phong đầu tiên, ngự giá trở về đến Trường An đã là tháng Bảy. Lúc xe ngự tráng lệ được Kỳ Môn quân bảo vệ xung quanh tiến vào Trường An từ cửa thành phía tây, Trần A Kiều nhìn qua rèm thấy mái ngói lưu ly của cung Kiến Chương thì thở một hơi thật dài. Ao sen trước điện Trường Môn ngày nào còn xanh um giờ đã nở rộ.

    Cuối tháng Chín, Lưu Triệt di chuyển lưu dân tới Giang Hoài, bắt đầu khai phá lưu vực sông Trường Giang ngày sau còn phồn hoa hơn cả Quan Trung. Tháng Mười, y dẫn mười tám vạn kỵ binh đi tuần thú biên cương, Trần A Kiều không đi theo. Hành trình đi từ phía bắc Vân Dương qua Thượng Quận, Tây Hà, Ngũ Nguyên rồi vượt Trường Thành lên bắc đứng trên đài của thiền vu nhìn về hướng Bắc Hà quan sát Hung Nô. Trước uy thế quân Hán, dân Hung Nô còn lại đều chạy trốn thật xa. Cuối năm Nguyên Phong, Hoàng Hà lại dâng nước gây lũ lụt. Nước Lương, nước Sở trước đây Hoàng đế và Hoàng hậu có đi tuần thú qua đều gặp tai họa, dân chúng lầm than. Lưu Triệt rốt cục hạ quyết tâm dồn sức sửa trị Hoàng Hà.

    “Năm xưa Cấp Ảm, Trịnh Đương bịt đê vỡ nhưng vết vỡ quá sâu nên không đủ vật liệu.” Trong điện Trường Môn, Trần A Kiều chỉ vào sa bàn sông Hoàng Hà nói giọng đều đều, “Sau đó bệ hạ lại bỏ đắp đê nên mới để cho lũ lụt hoành hành hơn hai mươi năm.” Năm đó nàng còn là hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ trang nghiêm ở điện Tiêu Phòng, chỉ chăm chăm chờ đợi, vui mừng khi phu quân trở về bên cạnh, nào nghĩ đến sự sống chết của vô số lưu dân ngàn dặm bên ngoài.

    “Khi đó cuộc chiến Hán Hung đang hồi cấp bách, hơn nữa vùng Quan Trung mới là căn bản của Đại Hán ta. Đất Quan Trung chiếm một phần ba thiên hạ mà dân chúng chỉ chiếm một phần mười ba, đất đai trù phú mà mới khai khẩn được sáu phần mười.” Lưu Triệt liếc nhìn nàng. A Kiều khẽ thở dài, y là đế vương nên phải tính đến toàn cục chứ không phải ở tiểu tiết. Quyết định như vậy đối với dân chúng mà nói quả thật tàn nhẫn nhưng không thể nói năm đó Lưu Triệt quyết định không đúng.

    Sau khi văn võ bá quan trong điện Tuyên Thất hiểu được ý của bệ hạ thì cả triều đều im lặng. Chuyện trị thủy đã không dám nói chắc, lại khá gian khổ, cuối cùng giao cho Thái trung đại phu Kim Nhật Đan. Trần A Kiều biết rằng đây cũng là khảo nghiệm của Lưu Triệt đối với Kim Nhât Đan. Từ sau khi diện kiến bệ hạ ở cung Kiến Chương hồi cuối năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Kim Nhật Đan dần thu bớt tính tình cuồng ngạo, hành xử trong triều ngày càng cẩn thận. A Kiều quan sát thấy hết thảy, trong lòng thầm cảm thán. Người thiếu niên Hung Nô nay có thể hy sinh vì Tảo Tảo như vậy thì chắc phải rất yêu con nàng. Nàng vì dân chúng thiên hạ nên bảo Mạch Nhi nhắc nhở Kim Nhật Đan hai điều. Thứ nhất, chuyện trị thủy chú trọng về phần khai thông mà không phải là đơn thuần ngăn chặn. Thứ hai, để ý vấn đề vật liệu đắp đê.

    Năm Nguyên Phong thứ hai, Hoàng đế phái Thiệp Hà tới thuộc quốc Triều Tiên ban dụ lệnh cho quốc vương Triều Tiên là Vệ Hữu Cừ vào bái kiến. Quốc Vương Triều Tiên không nhận dụ lệnh. Tháng Tư, từ Hoàng Hà báo tin về rằng Kim Nhật Đan chỉ huy Quách Xương[1] và mấy vạn dân công, lấy trúc và đá cắm xuống đáy sông chắn ngang chỗ đê vỡ, mới đầu thì thưa, sau đó dày lên khiến thế nước chảy qua chỗ vỡ chậm lại, tiếp đó dùng cỏ khô trộn với đất cát bịt kín, cuối cùng đổ đất và đá vào, chặn được dòng nước, khôi phục dòng chảy sông Hoàng Hà trở lại như trước. Vì công trạng này, Kim Nhật Đan được thăng trung lang tướng, bổng lộc hai ngàn thạch.

    [1] Theo sử là người vùng Vân Trung dùng thân phận giáo úy đi theo Vệ Thanh tấn công Hung Nô.

    Tháng bảy, Triều Tiên mượn một cớ nhỏ để phát binh tấn công Liêu Đông, giết chết Thiệp Hà. Trong mùa thu, Lưu Triệt ra lệnh chiêu mộ tử tù, chia làm hai đường đánh dẹp Triều Tiên. Tháng Giêng năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán bắt được Lâu Lan vương, khống chế con đường tơ lụa. Vào mùa hè, quân Hán bình định Triều Tiên ở phía đông, thiết lập bốn quận Chân Phiên, Huyền Thố, Lâm Truân, Nhạc Lăng.

    Đến mùa thu, Công chúa Duyệt Trữ vốn được Hoàng đế sủng ái nhất vừa tròn hai mươi tuổi, cuối cùng cũng chuẩn bị xuất giá trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Vị hôn phu mà bệ hạ lựa chọn cho cô lại là một người Hung Nô. Tuy Kim Nhật Đan dần bộc lộ tài năng trong triều đình, tác phong cẩn thận vững vàng, có tài kinh bang tế thế, được sự tán thưởng của cả Hoàng thượng và Thái tử, nhưng làm sao có thể chiếm lấy viên minh châu được cưng chiều nhất trên tay Hoàng đế và Hoàng hậu chứ? Cả giới quý tộc lẫn dân chúng Trường An còn đang ra sức đoán già đoán non thì lễ nghi xuất giá của Công chúa Duyệt Trữ đã được cử hành long trọng. Đại tư nông Tang Hoằng Dương trông coi tiền bạc và lương thảo quốc gia, nói về thân phận em kết nghĩa của mẫu thân Công chúa Duyệt Trữ, lần đầu tiên không ngầm dị nghị về sự lãng phí của đế vương, vui vẻ quyết toán tiền bạc chuẩn bị cho hôn lễ.

    Trên điện Trường Môn, Lưu Sơ ngồi yên lặng trước gương để A Kiều trang điểm tỉ mỉ cho cô theo kiểu thiếu nữ đợi xuất giá. Cặp lông mày, đôi má lúm dần hiện ra tinh tế, đẹp đẽ dưới phấn son trang điểm. Thiếu nữ trong gương bất giác đã đến tuổi hai mươi hoa gấm. Ở cái tuổi rực rỡ như vậy, từ nay về sau sẽ thuộc về một người khác, buồn vui, vinh nhục cùng hắn…

    “Mẫu thân”, Lưu Sơ bật gọi một tiếng rồi khóc òa lên. Đã bao nhiêu năm qua kể từ khi A Kiều về ở Trường Môn, khôi phục lại vị trí hoàng hậu, nhưng cô vẫn không chịu đổi cách xưng hô thành mẫu hậu mà cảm thấy gọi mẫu thân mới là thân thương nhất.

    “Tảo Tảo ngốc nào”, Trần A Kiều mỉm cười an ủi, giấu đi nỗi nghẹn ngào. “Có phải là không về nữa đâu. Nếu con muốn, lúc nào cũng có thể vào cung thăm mẫu thân và phụ hoàng. Đừng khóc nữa, kẻo phí công trang điểm.”

    Lưu Sơ nín khóc, mỉm cười gật đầu. Cô đứng dậy quay ra thì thấy ca ca đang chờ ở ngoài rèm. Cô rảo bước tới bên cạnh Lưu Mạch, đưa tay cho hắn đỡ, nghiêng đầu hỏi, “Ca ca, Tảo Tảo có đẹp không?”

    Lưu Mạch đã ở vị trí thái tử được mấy năm, tâm trí ngày càng sâu sắc, nhưng nhìn muội muội sống nương tựa lẫn nhau từ thuở nhỏ cho tới lúc trưởng thành vừa mới trang điểm xong thì cặp mắt đen sâu thẳm vẫn ánh lên vẻ dịu dàng. “Đẹp lắm!”, hắn chân thành khen.

    Lúc đó Kim Nhật Đan đang ở ngoài cửa đông cung Kiến Chương chờ đợi người thiếu nữ chiếm vị trí quan trọng trong cuộc đời mình. Lưu Sơ mặc bộ lễ phục tân nương nhìn như một áng mây hồng, dung nhan như hoa sen nổi trên mặt nước, tỏa hương thơm ngát. Từ nay về sau hắn sẽ có thể danh chính ngôn thuận nắm tay cô.

    Vợ chồng Công chúa tới điện Tuyên Đức khấu đầu tạ ơn công lao nuôi dưỡng của Hoàng hậu và Hoàng đế. Trên điện, Lưu Triệt cùng Trần A Kiều đều mặc lễ phục trang trọng của Hoàng đế và Hoàng hậu, nét mặt rất nhu hòa.

    Món hồi môn cực lớn của Công chúa Duyệt Trữ khiến cho dân chúng Trường An trợn mắt líu lưỡi. Khi cỗ xe chở lễ đầu tiên đã vào khuất trong phủ Công chúa thì cỗ xe lễ cuối cùng còn chưa lên đường rời khỏi cửa cung.

    Vào mùa thu năm Nguyên Phong thứ ba, Trần A Kiều gả chồng cho đứa con gái yêu quý nhất trong cuộc đời mình, mặc dù sau này vẫn có thể thường xuyên gặp mặt nhưng đã không còn là đứa con gái bé bỏng có thể tùy ý làm nũng với nàng nữa. Lòng nàng vui buồn lẫn lộn.

    Tháng Mười hai năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán đánh bại nước Xa Sư.

    Vào lễ đầu năm mới của năm Nguyên Phong thứ tư, Công chúa Duyệt Trữ vào cung thăm phụ hoàng và mẫu thân. Cô nắm tay A Kiều, líu ríu nói mấy chuyện riêng của phụ nữ. Trần A Kiều nhìn vào mắt con thấy vẫn trong veo thì trong lòng cũng được an ủi. Là người mẹ, nàng luôn lo lắng cho hạnh phúc của con gái.

    Cuối năm Nguyên Phong thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh bỗng nhiên ngất xỉu ở điện Bác Vọng, ngự y thăm khám xong liền bẩm: “Chúc mừng Hoàng hậu nương nương, chúc mừng Thái tử điện hạ, Thái tử phi điện hạ có thai. Hoàng gia đã có người nối dõi, thật là chuyện vui lớn.” Trần A Kiều và Lưu Mạch nghe xong đều vui mừng.

    Vào mùa xuân năm Nguyên Phong thứ năm, Thượng Quan Linh sinh đứa cháu gái trưởng của hoàng gia sớm mấy ngày. Đứa bé nhỏ đến nỗi A Kiều bế chiếc áo gấm mềm mại bọc thân hình bé nhỏ của nó trên tay rồi mà còn hoài nghi liệu nó có biến mất hay không. Thời gian thấm thoắt, mới năm nào nàng ôm hai đứa con song sinh quyết tâm sống tốt cuộc đời này, chớp mắt một cái, nàng đã không còn nhớ được cảm giác khi bế một đứa trẻ mới sinh trên tay thế nào nữa. Lưu Triệt ban cho đứa cháu gái đầu của y cái tên là Yêu.

    “Hoa đào yêu kiều,

    Sắc màu rực rỡ.

    Rồi sẽ vu quy,

    Yên bề gia thất”[2]

    [2] Bài Đào yêu 1 của Khổng Tử được ghi chép trong Kinh Thi.

    A Kiều cho rằng cái tên này hàm chứa những kỳ vọng của y đối với hạnh phúc của đứa bé mới sinh.

    Tháng Tư, Hoàng đế thiết lập thứ sử ở mười ba châu, dùng sáu điều hỏi chuyện[3].

    [3] Đây là một loại chuẩn tắc được đặt ra để giám sát quan viên, bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế chia đất nước thành mười ba châu, mỗi một châu cử tới một thứ sử, mỗi năm trong đợt tuần hành vào mùa thu, sẽ dùng sáu câu hỏi để nắm được tình hình quận quốc, giám sát viên khu vực.

    Tháng Chín, danh tướng một đời Vệ Thanh lâm bệnh mất ở phủ Trường Bình hầu, còn chưa đến tuổi biết mệnh trời[4]. Đêm khuya hôm đó, Lưu Triệt và A Kiều đã thay thường phục, đang xem sách nói chuyện vui vẻ trong điện Trường Môn thì nghe nội thị bẩm báo việc này. Lưu Triệt thấy lòng sầu thảm. Người vừa đi mất chính là tri kỷ của y thời niên thiếu, chinh chiến vì chí hướng của y nhưng sau này lớn lên lại bị chính trị làm cho xa cách. Chỉ là nghe tin hắn qua đời trong một đêm thu như thế này, y lại nhớ tới quãng thời gian trong sáng vui vẻ cùng nhau đi săn thú trong Thượng Lâm Uyển thuở còn niên thiếu. Lưu Triệt càng nghĩ càng cảm thấy già nua. Vệ Thanh cùng thế hệ với y cũng đã ra đi, vậy bọn họ còn bao nhiêu thời gian trên thế gian này.

    [4] Tuổi biết mệnh trời tức tuổi năm mươi. Theo câu “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh” trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới năm mươi tuổi mới có thể thông suốt chân lý của tạo hóa, hiểu được mệnh trời.

    Lưu Triệt xưa nay hùng tâm vạn trượng, trong lòng bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi. Y ôm chặt lấy A Kiều, trầm mặc một lát rồi nhẹ giọng hỏi, “Sao Kiều Kiều lại không hề tức giận một chút nào thế?”

    “Cái gì?” Trần A Kiều giật mình, một lúc sau mới có phản ứng, hỏi ngược lại, “Sao thiếp lại phải tức giận?”

    Mặc dù Vệ Thanh là người họ Vệ nhưng nàng vẫn thừa nhận hắn là anh hùng. Còn nguyên nhân hắn không còn được Lưu Triệt tin dùng, truy đến cùng, có một phần do tính toán của nàng. Gian nan là nợ anh hùng phải vay.

    “Thiếp biết.” Nàng mỉm cười nói, “Vệ Thanh là một người quan trọng trong cuộc đời bệ hạ, không có gì đáng ngạc nhiên. Giống như A Kiều là thê tử của bệ hạ nhưng A Kiều vẫn có sư phụ, Mạch Nhi, Tảo Tảo, sư huynh.” Bọn họ đều là những người không thể thay thế trong cuộc đời.

    Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng. Nghe A Kiều nhắc tới Tiêu Phương, y không khỏi nhớ lại cảnh trong Thượng Lâm Uyển năm Nguyên Đỉnh nguyên niên, người đàn ông đẹp như ngọc kia bởi vì A Kiều đau đớn mà bộc phát ra một phần tâm tư vẫn luôn giấu kín. Cho tới bây giờ, cả linh hồn lẫn thể xác A Kiều đều đã thuộc về y nhưng y vẫn không thể nào xóa đi sự kính trọng của nàng với Tiêu Phương. Y nồng nàn hôn lên khuôn mặt kiều diễm ở trong lòng, khiến nàng ngây ngất. Tất cả những ý nghĩ vẩn vơ đều tạm thời ném lên tận chín tầng mây.

    Vào năm Nguyên Phong thứ sáu, Ích Châu, Côn Minh làm phản. Lưu Triệt sai Tiết Thực xuất quân bình định. Vào năm sau nhà Hán đổi niên hiệu thành Thái Sơ. Tháng Năm năm Thái Sơ đầu tiên, triều đình ban chiếu dùng “Thái Sơ lịch”, lấy tháng Giêng là tháng đầu năm chọn màu vàng làm chính, tính theo ngũ hành, quy định các chức quan, âm luật và lễ nghi của tông miếu, của bá quan thành chuẩn mực cho đời sau.

    Tháng Tám năm Thái Sơ thứ hai, Lưu Triệt phái sứ giả đem vàng đến Đại Uyển đổi lấy Hãn huyết bảo mã. Đại Uyển vương khâm phục uy thế của Đại Hán nên dâng tặng bảo mã. Trần A Kiều nghe danh Hãn huyết bảo mã đã lâu, đợi sau khi sứ giả từ ngàn dặm xa xôi đem bảo mã trở về vườn ngự uyển ở Trường An, không nén nổi tò mò, kéo Lưu Triệt đi xem. Con ngựa toàn thân đỏ rực, cao lớn nhanh nhẹn, ánh mắt ngạo nghễ, danh bất hư truyền. A Kiều nóng lòng muốn thử, Lưu Triệt lo lắng cho thân thể của nàng, nói: “Chờ để thuần phục đã.”

    Hãn huyết bảo mã cực kỳ cao ngạo, liên tục hất ngã mấy người thuần ngựa, sắc mặt Lưu Triệt trầm xuống, “Đại Hán được xưng anh tài xuất hiện lớp lớp, sao ngay cả một con tuấn mã cũng không thể thuần phục nổi?”

    “Phụ hoàng”, Lưu Mạch đứng bên cạnh, thấy đúng là bảo mã, lại muốn mẫu thân hân hoan, chắp tay nói, “Xin để nhi thần thử một lần.”

    “Thái tử?” Lưu Triệt do dự, vẫn nói con của thiên tử làm gì cũng phải cẩn thận. Thái tử là người kế vị một nước, có thân phận cao quý, thuần phục ngựa lại là một công việc nguy hiểm, chẳng may té ngã thì ắt là không hay, vì dù không làm sao thì riêng việc không thuần phục được ngựa cũng đã mất thể diện rồi. Nhưng thời niên thiếu của y cũng từng mạo hiểm như vậy, lúc đạp trên đầu sóng ngọn gió, đã bao giờ biết sợ hãi?

    “Mạch Nhi”, A Kiều thì lại tin tưởng con mình, thay y sửa sang lại cổ áo cho con trai rồi dặn dò: “Cẩn thận đấy.”

    “Dạ.” Lưu Mạch giao mũ qua cho Thành Liệt, buộc lại tóc, vào trường ngựa, bước tới trước con Hãn huyết bảo mã. Con tuấn mã liên tục hất văng mấy người nên cũng có phần mệt mỏi, hơi chồm vó trước lên, thở phì phì. Lưu Mạch nhìn thấy ánh mắt nó lấp lánh, cực kỳ kiêu hãnh. Hắn thình lình phóng lên ngồi vững vàng trên lưng ngựa. Hãn huyết bảo mã sửng sốt một lúc rồi tung vó phóng như điên, nhảy lên chồm chồm, định hất người trên lưng xuống. Song trên lưng nó là người kế thừa công phu của Triêu Thiên Môn mà những người thuần ngựa bình thường không thể sánh kịp. Lưu Mạch bình tĩnh ngồi trên lưng ngựa, cảm giác như đang ở trên một con thuyền nhỏ giữa đại dương, sóng gió mạnh hơn nữa vẫn vững tựa Thái Sơn. Cũng không biết trải qua bao lâu, con tuấn mã bên dưới rốt cục nhụt chí, dần ổn định lại, cả người lẫn ngựa đều đầm đìa mồ hôi.

    “Hay!!!” Tiếng reo hò chung quanh vang lên như sấm. Có cung nhân cơ trí khen, “Thái tử điện hạ quả nhiên dũng mãnh phi thường, hàng phục được bảo mã.” Lưu Mạch coi như không nghe thấy, ngồi yên trên lưng ngựa, cười tươi tắn. Ánh mặt trời mùa thu chiếu nhàn nhạt trên trường ngựa. Nhiều năm về sau, đám cung nhân vẫn còn nhớ mãi nụ cười trong sáng của Chiêu hoàng đế có thể so sánh với ánh mặt trời mùa thu ấm áp lúc ấy. Chiêu hoàng đế không giống với Vũ hoàng đế vì miệng của hắn luôn có nếp nhăn khi cười, nhưng nó chỉ ôn hòa chứ không nồng ấm. Vì ngày đó có Hiếu Vũ Trần hoàng hậu đứng ở bên ngoài nhìn, cho nên hắn mới có thể cười thật lòng.

    Mở đầu truyện của Ban Siêu đời sau về Hiếu Chiêu hoàng đế có viết: Hiếu Chiêu hoàng đế chí hiếu với mẫu thân.

    Lưu Mạch nhảy xuống ngựa, sai thị tòng làm một bộ yên cương hợp với ngựa, quay lại nhìn mẫu thân đang bước tới, mỉm cười nói, “Giờ mẫu thân có thể cưỡi được rồi.”

    Hãn huyết bảo mã lấy hết ngạo khí còn sót lại gõ gõ chân, liền bị Lưu Mạch trừng mắt. Nó dường như hiểu sự quan trọng của người phụ nữ này đối với chủ nhân nên yên tĩnh trở lại. Truyền thuyết quả nhiên là thật, mồ hôi của Hãn huyết bảo mã đỏ như máu, nhuộm hồng cả thân nó, cũng nhuộm hồng phần dưới y phục của Lưu Mạch. A Kiều nhìn thấy cau mày, mất hứng nói: “Nhuộm thành như vậy, coi như y phục bỏ đi một nửa.”

    Lưu Mạch không ngờ mẫu thân lại đáp lại như thế, cất tiếng cười lớn. Hãn huyết bảo mã nghe tiếng cười, cảm giác mình bị sỉ nhục, quay đầu nhìn hai mẹ con trước mặt vẻ tò mò.

    “Vậy thì xin mẫu thân ban cho nó một cái tên”, Lưu Mạch nói.

    “Con ngựa này là lương câu[5] của thiên hạ, lông đỏ như máu, mồ hôi cũng đỏ như máu”, A Kiều suy nghĩ một chút nói, “Vậy đặt tên là Chu Ly đi.”

    [5] Lương câu: Ngựa tốt.

    Bởi vì Lưu Mạch thuần phục được Chu Ly nên Lưu Triệt ban nó cho Lưu Mạch. Khi Lưu Mạch trở lại điện Bác Vọng, Thượng Quan Linh đã nghe nói chuyện ở trường ngựa. Cho dù mắt thấy Lưu Mạch không hề bị tổn thương nhưng nghĩ lại vẫn kinh tâm động phách, bước ra đón, lo lắng hỏi: “Điện hạ có chuyện gì không?”

    “Không sao.” Lưu Mạch thay y phục, vẫn còn hăng hái: “Linh Nhi, ta tập võ từ thuở nhỏ, chẳng qua là một con ngựa mà thôi, sao làm khó được ta.”

    Lưu Yêu đã ba tuổi, có thể nói được mấy từ, bi bô gọi, “Phụ thân.” Gương mặt cô bé không giống cha mẹ mấy, nhưng lại giống hệt A Kiều thậm chí còn giống hơn cả cô cô Lưu Sơ. Vì vậy, cô bé được phụ thân Lưu Mạch và tổ phụ Lưu Triệt vô cùng yêu thích. Đối với Lưu Triệt, nói là yêu thích cũng không hoàn toàn chính xác. Lúc gặp Lưu Yêu thì vẻ mặt y hòa ái, ban thưởng rất nhiều nhưng y lại không muốn Thượng Quan Linh thường xuyên đưa Lưu Yêu đến điện Trường Môn chơi, càng không thích thấy Lưu Mạch yêu thương con gái. Lưu Mạch loáng thoáng phát hiện ra điều này nên cũng ít khi dẫn con gái xuất hiện trước mặt phụ hoàng.

    Năm Thái Sơ thứ tư, Ô Tôn sai vợ chồng Quân Tu Mỹ đưa cống phẩm tới hiến tặng cho hoàng đế Đại Hán, ngoài mấy hòm nhân sâm và da chồn, còn có một thứ nhìn rất bắt mắt. Đó là một con cáo tuyết chưa đến nửa tuổi được sứ giả Ô Tôn cẩn thận đem tới. Con cáo tuyết rất khôn ngoan, không hề có mùi hồ ly khó ngửi trên người, lại được huấn luyện qua nên không sợ người, đôi mắt đen nhánh linh động không ngừng đảo tròn.

    “Vương tôn đại nhân của chúng tôi sai người tốn rất nhiều công sức mới bắt được con cáo tuyết này. Ô Tôn khí trời rét lạnh, có nhiều động vật tuyết nhưng cáo tuyết là động vật vô cùng cảnh giác, cũng không thể thuần phục. Con cáo tuyết này là do thợ săn Ô Tôn trải qua ngàn vạn gian khổ tìm kiếm ở núi cao mới tìm được huyệt động của cáo tuyết, lúc vừa mới chào đời đã bị bắt về. Vương tôn sợ cáo tuyết không thích nghi được khí hậu ngoài Tuyết Sơn nên đặc biệt đeo cho nó một khối băng ngọc ở trước ngực.”

    Lưu Triệt chỉ nhìn thoáng qua con cáo tuyết. Dù cáo tuyết đẹp đẽ nhưng bản tính y lại không thích nhũng thứ quá mức tinh xảo đẹp đẽ. Là đế vương điều tối kỵ nhất chính là mê muội mất đi cả ý chí. “Đưa con cáo tuyết đến điện Trường Môn”, y quyết định.

    Bởi vì có con cáo tuyết nên vật phẩm theo lệ cách một năm một lần ban tặng cho Quận chúa Tế Quân kết hôn cầu hòa với Ô Tôn năm nay càng thêm phong phú. Lúc ôm con cáo tuyết, Trần A Kiều hơi kinh ngạc. Nàng chưa từng nghĩ rằng năm đó chẳng qua thuận miệng nhắc tới mà Lưu Triệt lại thật sự tìm kiếm suốt bao năm qua cho nàng như vậy. Tuy không phải là tìm kiếm tận trên trời hay dưới địa ngục nhưng chỉ cần làm thì sẽ có người phát hiện ra. Đến cuối cùng thì Lưu Mạch, Lưu Sơ đều biết, duy chỉ có nàng là bị giấu giếm.

    “Chúc mừng Hoàng hậu nương nương.” Lục Y che miệng len lén cười không nhịn được, yêu thích nhìn con vật khả ái, nói: “Nương nương đặt tên cho nó nhé, nếu không chúng ta biết gọi nó thế nào đây?”

    “Lại đặt tên à?” Trần A Kiều khẽ nhíu mày, nói: “Nó là cáo tuyết đến từ Ô Tôn, vậy thì gọi là Tuyết Ô đi.” Tuyết Ô rúc vào lòng A Kiều ấm áp, ngẩng đầu lên kêu chít chít mấy tiếng, cảm giác được sự an ổn toát ra từ người phụ nữ này.

    Vào năm Lưu Yêu lên năm tuổi, đã có thể bước đi lũn cũn. Nó rất thích Tuyết Ô được A Kiều nuôi trên điện, nhõng nhẽo với A Kiều, “Hoàng tổ mẫu, để cho Tuyết Ô đi theo Yêu Yêu về điện Bác Vọng ở vài ngày có được không?”

    A Kiều nhìn Lưu Yêu, trong lòng thầm nghĩ, nếu nàng dám đồng ý thì không biết vẻ mặt Lưu Triệt sẽ thế nào? Nàng không thể làm gì khác hơn là dỗ dành Lưu Yêu, “Nếu Yêu Yêu thích Tuyết Ô thì đến Trường Môn ở vài ngày là được rồi.”

    Ngày hôm đó, Lưu Sơ hồi cung thăm mẫu thân, ôm Tuyết Ô, nghe kể chuyện của Lưu Yêu thì cười khanh khách, “Yêu Yêu muốn có được Tuyết Ô”, cô bày cách: “trước hết cháu phải đi xin hoàng gia gia đã.”

    Lưu Yêu dù luôn được Lưu Triệt cưng chiều nhưng thỉnh thoảng nhìn thấy vẻ mặt lạnh lùng của Lưu Triệt đối với người khác thì trong lòng vẫn thấy sợ hãi, rùng mình một cái, nói: “Thôi ạ, coi như cháu không cần nữa là được.”

    A Kiều nghe nói Quách Giải trở lại Trường An, cuộc sống khá tốt. Xa cách quá lâu, nàng cũng không có ý rời cung đến thăm, biết hắn mạnh khỏe là an tâm rồi. Vào một năm khác, Thượng Quan Linh cùng Lưu Sơ đều có thai, đều sinh một bé trai vào năm Thiên Hán đầu tiên.

    Cái tên Thiên Hán cũng rất có thâm ý. Bởi vì hàng năm đều bị hạn hán nên Lưu Triệt cải niên hiệu thành Thiên Hán. Từ đó về sau, niên hiệu triều Hán Vũ được sửa từ sáu năm một vòng thành bốn năm một vòng. Năm Thiên Hán đầu tiên, con trai trưởng của Tang Hoằng Dương là Tang Duẫn đầy mười sáu tuổi, lấy vợ là cháu gái đầu của phủ Mạt Lăng hầu, muội muội của Lưu Sách là Lưu Hiệt.

    Năm Thiên Hán thứ ba, trưởng nữ Đông Phương Mi của Trưởng công chúa Phi Nguyệt đầy tuổi mười lăm, rốt cục thuyết phục được phụ thân Đông Phương Sóc gả cho nghĩa tử Liễu Ninh của Trường Tín hầu vẫn gắn bó với cô từ thuở nhỏ. Có lẽ, trên đời này thật sự tồn tại duyên phận. Nếu không, tại sao khôn khéo như Đông Phương Mi lại một mực thích Liễu Ninh chất phác. Duyên phận nếu có chắc cũng khởi nguồn từ lần chọn đồ vật đoán tương lai hồi năm Nguyên Đỉnh thứ năm. Trần A Kiều nhớ tới lần chọn đồ vật đoán tương lai hoang đường đó liền không nhịn được cười.

    Các con trai con gái đều kết hôn cả rồi, chẳng phải bọn họ đã già thật rồi sao? Đúng vậy, thời gian chẳng buồn để ý xem ngươi là quân vương hay hắn là tên ăn mày. Theo thời gian, khuôn mặt người đàn ông bên cạnh nàng cũng đã in dấu gió sương. Chỉ là, tinh thần của y không hề thua kém thời tuổi trẻ, đôi mắt sắc bén càng trở nên thâm trầm, dáng người ngồi trên điện Tuyên Thất vẫn thẳng tắp. Một hôm ở điện Trường Môn, trước khi đi ngủ, Lưu Triệt vuốt ve mái tóc đen nhánh của A Kiều như có điều suy nghĩ, “Chẳng lẽ Kiều Kiều là người trời hay sao mà mãi không thấy già đi chút nào cả?”

    A Kiều cười thảng thốt, “Đâu có?”

    Trên đời này nào có ai không già chứ? Mái tóc đen dày của nàng dù không thấy sợi bạc nhưng cũng dần không còn mềm mượt như thời thiếu nữ. Thỉnh thoảng nàng soi vào chiếc gương đồng cũng thấy vài nếp nhăn như có như không ở khóe mắt. Có ai kéo được thời gian, nhưng nếu như người thương yêu cứ già đi thì mình trường sinh bất lão để làm gì? Thế nên nếu phải già đi thì cứ già đi thôi.

    Năm Thiên Hán thứ tư, Lưu Yêu đầy chín tuổi. Con gái Hoàng gia dù không cần trị quốc an bang nhưng vẫn phải học hành. Cô bé học Kinh thi, ngâm nga mấy câu: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, thấy tình yêu cũng đẹp như mùa xuân tươi thắm.

    “Phụ thân.” Cô bé quấn lấy Lưu Mạch làm nũng, “Con nghe cung nhân nói rằng phụ thân không phải sinh ra ở cung Vị Ương mà khi mấy tuổi rồi mới được hoàng tổ mẫu mang về hoàng cung. Tại sao vậy chứ?”

    Lúc đó Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng của thánh thượng, phục hồi ngôi vị làm mẫu nghi thiên hạ đã được rất nhiều năm. Người trong cung đã thôi không bàn tán về những việc xảy ra trước kia, chẳng còn ai nhắc tới chuyện vì sao Trần hoàng hậu lại rời xa bệ hạ, hay chuyện nàng đã làm những gì lúc ở ngoài cung. Lưu Yêu lần đầu thấy sắc mặt lạnh lẽo của phụ thân luôn thương yêu mình. “Trẻ con không được nghe ngóng lung tung”, hắn trách mắng.

    Lưu Yêu cảm thấy rất ấm ức, cô bé là cháu gái trưởng của hoàng gia, được cưng chiều nhất ở cả hai cung Kiến Chương và Vị Ương, ngay cả đệ đệ ruột đôi khi cũng không được hoàng gia gia và hoàng tổ mẫu yêu thương bằng.

    “Yêu Yêu”, mẫu thân kéo cô bé, nói: “Cha con xưa nay kính trọng hoàng nãi nãi nhất. Quãng thời gian đó”, Thượng Quan Linh chần chừ chốc lát, nói xa xôi: “Cha con vẫn cảm thấy hoàng gia gia có lỗi với hoàng nãi nãi. Cho nên, sau này con đừng nhắc tới.”

    Lưu Yêu gật đầu cho có lệ, sao lại có thể như vậy chứ? Cô bé ngầm cảm thấy nghi hoặc, hoàng gia gia yêu thương hoàng tổ mẫu đến mức cô bé cũng cảm thấy ngưỡng mộ, thì sao lại có lỗi với hoàng tổ mẫu. Mặc dù không dám nhắc, nhưng nỗi nghi ngờ trong lòng Lưu Yêu lại tựa như một hạt giống đã bén rễ đâm chồi, nếu không được ai giải tỏa thì có thể lớn dần lên thành đại thụ chọc trời.

    Mùa xuân năm Thái Thủy đầu tiên, mộ các hào kiệt của đất nước được di dời vào Mậu Lăng. Đến mùa hè, Công chúa Duyệt Trữ sinh hạ một bé gái trông khá giống với cô năm xưa. Lưu Triệt cực kỳ thương đứa bé, ban cho danh hiệu là Thuận Hoa ngay từ khi còn nằm trong tã lót, ý nghĩa là cả một đời hòa thuận vinh hoa.

    Tháng Ba năm Thái Thủy thứ hai, đổi đúc tiền vàng, mở Bạch Cừ[6], phát triển thủy lợi.

    [6] Bạch cừ: Công trình thủy lợi nổi tiếng thời cổ đại ở Quan Trung, Thiểm Tây, Trung Quốc.

    Tháng Giêng năm Thái Thủy thứ ba có sứ giả từ nước khác tới. Lưu Triệt mở đại yến chiêu đãi ở cung Cam Tuyền. Mấy sứ thần đều luôn miệng ca tụng Trường An là đô thành phồn hoa nhất thế giới thời bấy giờ.

    “Thế nhưng”, bọn họ khẽ giọng, “Chúng ta nghe nói hoàng đế Đại Hán bỏ mặc ba nghìn phi tần ở hậu cung, chỉ sủng ái một mình hoàng hậu, điều này là thật sao?”

    “Đúng vậy.” Người hầu dâng rượu thản nhiên đáp.

    “Sao lại như vậy chứ?” Nhũng người này thốt lên “Làm gì có chuyện quân vương của một quốc gia lớn như thế này lại chỉ thích duy nhất một người phụ nữ. Ngay đến những quốc gia như của chúng tôi cũng chẳng có vị quốc vương nào là không nuôi mấy người thiếp đẹp.”

    “Có thể là do Hoàng hậu nương nương của chúng tôi rất đẹp, rất thông minh, rất ôn hòa.” Người hầu vẫn không đổi giọng.

    Đám khách ngoại quốc lắc đầu, “Có điều”, bọn họ ngưỡng mộ nói: “đó thật đúng là câu chuyện tình đẹp. Có ba ngàn mỹ nhân mà chỉ yêu duy nhất một người. Ha ha!”

    Năm Thái Thủy thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh sinh được người con trai thứ hai là Lưu Việt. Đây cũng là đứa con út của nàng.

    Chớp mắt đã đến năm Chinh Hòa đầu tiên. Vào năm đó, Hoàng trưởng tôn Lưu Việt đã tám tuổi. Con cháu hoàng tộc luyện tập cưỡi ngựa bắn cung từ thuở nhỏ. Tổ phụ lẫn phụ thân của cậu đều rất am hiểu những thứ này. Bản thân cậu cũng tỏ ra rất có thiên phú, chưa tới nửa năm đã đòi lấy luôn con ngựa Chu Ly trong chuồng ngựa của phụ thân.

    Theo truyền thuyết, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã đệ nhất thiên hạ, phi nhanh như gió, ngày đi ngàn dặm, mồ hôi như máu, bình sinh chỉ nhận một mình Lưu Mạch làm chủ nhân. Trong điện Bác Vọng, Lưu Mạch nhìn đứa con trai của mình, lắc đẩu: “Con còn quá nhỏ.” Ở tuổi như cậu mà cưỡi con ngựa mạnh mẽ như Chu Ly, thật quá nguy hiểm.

    “Nhưng”, Lưu Việt không phục nói: “chẳng phải lúc phụ thân tám tuổi cũng đã làm vậy rồi sao?”

    Lưu Mạch nhớ lại hồi mình tám tuổi. Hắn làm thái tử ở điện Bác Vọng đã quá nhiều năm nên dần quên đi quãng thời gian niên thiếu tài hoa. Ở tuổi nhỏ hơn Lưu Việt hiện giờ, hắn còn chưa biết phụ thân mình là ai trên cõi đời này, sống nương tựa với mẫu thân và muội muội. Sau đó hắn mới biết phụ thân của mình là người tôn qúy nhất Đại Hán. Nhưng như vậy thì sao chứ? Có tôn quý đến đâu thì ông đã ruồng bỏ ba mẹ con hắn. Hắn sợ phải trông thấy nước mắt của mẫu thân nên không chịu tha thứ cho người đàn ông đã khiến mẫu thân phải khóc. Hắn theo mẫu thân đi khắp núi sông Đại Hán trong nửa năm trời mà lòng không nuôi hy vọng có ngày phải quay về Trường An. Điều này chỉ là ước mơ xa vời, vì Tảo Tảo vẫn còn ở đó. Bởi thế, cuối cùng bọn họ vẫn phải trở về cái nơi tù túng này.

    Lần đầu tiên đối mặt với phụ thân trong cung Trường Môn, hắn mới thấy giật mình vì thấy bọn họ giống nhau đến như vậy. Giống từ cặp lông mày lưỡi mác hiên ngang, ánh mắt sắc bén, cho đến cặp môi mỏng như giấy. Điều khác biệt chính là sự sắc bén của hắn luôn ẩn dưới nụ cười ôn hòa, còn sự sắc bén của phụ hoàng lúc nào cũng bộc lộ ra ngoài như một thanh kiếm lạnh giá đã tuốt khỏi vỏ. Ông đã là người có quyền lực lớn nhất trên thế gian nên không cần che giấu sự sắc bén của bản thân.

    Sau khi gặp phụ hoàng, hắn thừa nhận phụ hoàng là một quân vương tốt. Dưới sự cai trị của ông, Đại Hán quốc thái dân an, dương danh bốn biển. Nhưng ông không phải là phụ thân tốt, lại càng không là một phu quân tốt. Một phu quân tốt không thể làm tổn thương người vợ mà bản thân mình yêu sâu sắc. Hắn cũng đã từng gặp Vệ Tử Phu, không thể hiểu nổi người phụ nữ nhợt nhạt đó có điều gì tốt mà khiến phụ hoàng năm xưa ruồng rẫy mẫu thân để chọn bà ta.

    Sau cùng hắn dần trưởng thành, cũng đùa giỡn với quyền mưu đến mức thành thục không hề có chút sơ suất, nhưng trong lòng vẫn nhớ lời dạy trước đây của mẫu thân là hãy luôn tin tưởng trên thế gian vẫn còn tồn tại những điều tốt đẹp. Mẫu thân khi xưa đã dạy hắn như thế nào? Bà thương yêu hắn nhưng vẫn nén đau để cho hắn ra đi bởi vì người chưa từng trông thấy đất trời rộng lớn sẽ không chịu tu tâm xây dựng gia đình, không tự mình trải nghiệm sẽ không thể thật sự trưởng thành.

    Hắn mỉm cười, nói: “Nếu thế thì con hãy đi đi.”

    Lưu Việt hoan hô ầm lên: “Cám ơn phụ thân!”

    “Khoan đã.” Hắn căn dặn, “Bảo Hà công công đứng bên theo dõi. Hãy cẩn thận đấy.”

    Năm xưa phụ hoàng đã theo dõi hắn như thế nào? Hắn chưa từng suy nghĩ đến vấn đề này, giờ đột nhiên lại hiểu ra khi quan tâm đến đứa con trai của mình. Đó là đứa con tạo thành từ cốt nhục của mình nên hắn luôn mong nó tốt, mong nó ngày sau có thể kế thừa, phát huy công lao sự nghiệp của mình. Nhưng cũng bởi vì lợi ích mà cha con vĩnh viễn không thể có khả năng gần gũi. Cha con bọn họ cùng bảo vệ hai người phụ nữ hoặc nói cách khác là đều yêu sâu sắc các nàng nhưng bọn họ lại không thể không đề phòng lẫn nhau. Quan hệ kỳ lạ như vậy cứ thế kéo dài mấy chục năm, hai bên đều cho rằng đó là phương thức phù hợp nhất. Lưu Mạch khẽ cúi đầu cười nhạt. Không thể lặp lại những chuyện trước kia nữa, hắn không hy vọng quan hệ cha con lạnh lùng đó lại tiếp tục kéo dài sang cả hắn và con trai của mình.

    Chu Ly được dẫn ra khỏi chuồng ngựa thì có chút cảm động. Chủ nhân quá bận rộn nên rất ít có cơ hội cưỡi nó. Dù chuồng ngựa của điện Bác Vọng sang trọng nhưng nó vẫn cảm thấy tù túng. Huống chi, nó cảm nhận được mùi vị quen thuộc của chủ nhân trên bộ y phục cậu bé phía trước đang mặc nên ngoan ngoãn để cậu cưỡi lên.

    Cung nhân chăm ngựa tấm tắc cho là lạ, nói: “Hãn huyết bảo mã xưa nay không để cho người lạ chạm vào nhưng lại phục tùng trưởng tôn điện hạ. Điện hạ quả nhiên là phúc dày mạng lớn.”

    Lưu Việt cưỡi trên lưng Chu Ly vui mừng hỏi, “Hoàng tỷ của ta đâu?”

    “Yêu quận chúa đang chơi với Hoàng hậu nương nương ở điện Trường Môn.” Cung nhân bẩm.

    Lưu Việt quen hành động theo ý mình, tưởng tượng ra cảnh bản thân mình có thể khoe tư thế oai hùng trên lưng Chu Ly với người tỷ tỷ lớn hơn sáu tuổi, liền phi ngựa chạy xuyên qua cung đình rộng lớn, vòng qua ngọn giả sơn, rồi phóng một mạch tới điện Trường Môn. Một đám cung nhân kinh hãi chạy theo sau la hét í ới, sợ thuật cưỡi ngựa của Hoàng trưởng tôn chưa thạo, lỡ may không cẩn thận va phải giả sơn đình đài, nếu bị ngã thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng chẳng may vị điện hạ tôn quý này bị thương thì bọn họ dù có tới mười cái mạng cũng không đủ chôn cùng.

    Cũng may, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã cực kỳ có linh tính khéo léo vòng qua tất cả chướng ngại, phóng tới trước điện Trường Môn. Lúc đó là mùa đông nhưng vẫn có ánh mặt trời hiếm hoi. A Kiều sai người kê ghế dài ra ngoài ngồi sưởi nắng. Lưu Yêu lấy một quyển sách đọc chầm chậm cho A Kiều nghe, nhưng giọng đọc cứ nhỏ dần khi liếc thấy vẻ mặt mơ màng của hoàng tổ mẫu. Cô nghe thấy tiếng động phía sau, quay đầu lại thấy là đệ đệ liền vội vàng đưa tay lên miệng làm hiệu im lặng.

    Lưu Việt ở trên lưng Chu Ly cúi xuống, dần dần nguôi phấn khích, chăm chú nhìn tổ mẫu đã ngủ thiếp đi dưới ánh nắng. “Năm nay tổ mẫu bao tuổi rồi nhỉ?” Cậu thầm hỏi đầy nghi hoặc. Hoàng gia gia đã dần già đi nhưng sao thoạt nhìn, hoàng tổ mẫu lại còn trẻ như vậy, không già hơn mẫu thân của mình là bao nhiêu.

    Ánh nắng soi rọi khuôn mặt ấm áp, an tĩnh mà mỹ lệ của A Kiều. Lưu Việt là hoàng trưởng tôn nên dĩ nhiên đã quen nhìn người đẹp. Mẫu thân, cô cô, tỷ tỷ của cậu, thậm chí cả các cung nữ đi đi lại lại trong cung Vị Ương và cung Kiến Chương, có ai là không có dung nhan xuất chúng? Ngay cả hoàng tổ mẫu, cậu cũng thường gặp mặt. Nhưng trong ngày mùa đông này, cậu đã chứng kiến một vẻ đẹp khác biệt, không liên quan đến dung nhan.

    Sau này, cậu bị phụ thân phạt cấm chế vì sự bồng bột hôm nay. Phụ thân nói vẫn còn may, chứ nếu mà đã là hoàng tử, lại tùy ý phóng ngựa trong cung Kiến Chương như thế này, thì hoàng gia gia chắc chắn sẽ lấy mạng tất cả cung nhân theo hầu chứ không chỉ trách phạt đơn giản như vậy. Vô tình đến mức đó sao, cậu thầm nghi ngờ. Hiện giờ cung Kiến Chương rất tốt. Hoàng gia gia đối với tất cả đám con cháu cũng rất hòa ái. Nhưng cậu chợt nhớ tới chuyện về người thúc thúc bị cấm cố vĩnh viễn ở Bắc cung thì bất chợt rùng mình. Còn hiện giờ, cậu nhẹ nhàng xuống ngựa, cùng tỷ tỷ chờ ở bên cạnh hoàng tổ mẫu cho đến khi người tỉnh lại.

    Tuvết Ô đang nằm cuộn tròn dưới chân hoàng tổ mẫu ngẩng đầu, giương cặp mắt linh động lên nhìn cậu vẻ dò xét. Nó vừa trông thấy Chu Ly đứng gần đó, liền quật mạnh đuôi nhảy vọt lên, nghe véo một tiếng, đã hạ xuống trên đầu Chu Ly. Chu Ly hí dài, dựng thẳng hai chân trước, muốn hất Tuyết Ô xuống. Song Tuyết Ô nhẹ bẫng nên nào dễ hất xuống được, ngược lại, làm cho A Kiều tỉnh giấc.

    “Hoàng tổ mẫu”, Lưu Việt trừng mắt nhìn Chu Ly và Tuyết Ô rồi lén nhìn A Kiều vẻ biết lỗi: “Là cháu không tốt, để Chu Ly làm kinh động đến người.”

    “Không sao.” A Kiều mỉm cười đáp rồi nhìn Chu Ly và Tuyết Ô chơi đùa, rõ ràng một lớn một nhỏ, một đỏ một trắng, một như lửa một như băng nhưng trong lúc này lại dung hợp vói nhau vô cùng hài hòa.

    Cuối năm Chinh Hòa thứ ba, quân Hán diệt nước Xa Sư. Sau mấy năm lấy niên hiệu Chinh Hòa, Lưu Triệt đổi sang niên hiệu Hậu Nguyên, đây cũng là niên hiệu cuối cùng của triều Hán Vũ. Năm Hậu Nguyên đầu tiên, Hoàng đế và Hoàng hậu cùng tới cung Cam Tuyền, Trưởng thị vệ Mã Hà La theo hầu có ý đồ phản bội hành thích đế vương nhưng bị hôn phu của Công chúa Duyệt Trữ là Kim Nhật Đan phát hiện, bắt giữ tại trận. Hoàng đế nổi giận, tru di cửu tộc Mã Hà La, phong thưởng Kim Nhật Đan được hưởng thực ấp một ngàn lẻ năm hộ.

    Đêm hôm đó, Trần A Kiều nằm trong lòng Lưu Triệt mà vẫn không hết lo sợ. Không phải nàng lo sợ vì Mã Hà La phản bội mà vì nàng hiểu rõ hơn ai hết mái tóc phu quân của mình đã chuyển màu bạc trắng. Bọn họ đã sống quá lâu trên thế gian này và giờ cũng tới lúc ông trời muốn lấy lại ân sủng. Người đàn ông bầu bạn bên cạnh nàng suốt bao năm sắp qua đời, sẽ rời xa nàng mãi mãi không bao giờ trở lại. Nàng không muốn tin vào sự thật tàn khốc đó nhưng lại không thể thuyết phục bản thân mình. Nàng không muốn y rời xa, nhưng chẳng có cách nào ngăn lại được. Y thuật dù cao minh đến đâu cũng bất lực trước quy luật già lão của tự nhiên.

    Tháng Hai năm Hậu Nguyên thứ hai, Hoàng đế ban chiếu mời các vương gia chư hầu tới gặp mặt ở cung Cam Tuyền. Đại yến hết sức vui vẻ, Hoàng đế rất sảng khoái nhưng bất ngờ lại trúng phải gió lạnh, không ngừng ho khan. Ngự y cẩn thận điều chế thuốc thang để Trần hoàng hậu đích thân cho y uống. Lưu Triệt ngủ một giấc thật say, sáng hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng rõ. Y thấy Trần A Kiều đang ngồi trên ghế trước giường, ngây người nhìn mình thì lập tức có linh cảm rằng mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu trên cõi đời này nữa.

    Ở tuổi thiếu niên bừng bừng tráng chí kiến công lập nghiệp, y đã từng có lúc cực kỳ sợ hãi khi nghĩ về tuổi già và cái chết, không sao tưởng tượng được hình dáng của bản thân khi hai từ này vận vào mình, nhưng bây giờ, giáp mặt với nó thì lại thấy lòng bình thản. Y thầm cảm thấy may mắn vì luôn có nàng ở bên cạnh trong nửa cuộc đời này.

    “Kiều Kiều”, y gọi khẽ, “Nàng biết không? Thời trẻ trẫm từng nghĩ đến lúc mình trăm tuổi thì sẽ bắt tất cả phi tần cung nữ trong chốn hậu cung phải chôn cùng, không lưu lại một ai để phòng ngừa lần nữa phát sinh chuyện Lữ hậu[7] ở Lưu gia.”

    [7] Lữ hậu người Đan Phụ (nay là huyện Đan tỉnh Sơn Đông) là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán – vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang. Bà là người phụ nữ tàn ác, chuyên quyền. Sau khi Hán Cao Tổ mất, con trai bà là Huệ đế làm vua nhưng toàn bộ quyền lực đều nằm trong tay bà. Huệ đế buồn phiền sinh bệnh chết, Lữ hậu nắm giữ chính quyền, phong tước phong hầu cho con cháu nhà họ Lữ, đàn áp con cháu họ Lưu, đối với những người không nghe lời, Lữ hậu giết không tha, số người bị Lữ hậu giết nhiều tới nỗi chính bà cũng không nhớ nổi. Năm 180 TCN, Lữ hậu chết, thiên hạ thuộc về tay Lưu Hằng, con trai thứ ba của Lưu Bang.

    Y nhìn chằm chằm vào mặt nàng với hy vọng có thể thấy thoáng kinh sợ, vì dù sao thì thủ đoạn này cùng quá tàn khốc, từ cổ chí kim chưa từng có ai làm, thế nhưng A Kiều chỉ òa khóc nức nở, nước mắt chan hòa rơi xuống tay y từng giọt từng giọt nóng hổi, làm lòng y tan nát. Đã nói tới mức như vậy, có phải ngay cả bản thân y thừa nhận sẽ có một điểm cuối của cuộc đời?

    “Đừng khóc nữa.” Lưu Triệt bất đắc đĩ than thở “bây giờ thì trẫm sao nỡ động tới Kiều Kiều. Hơn nữa Thái tử sáng suốt, Kiều Kiều lại không hề có dã tâm, chẳng cần nói tới chuyện này nữa.”

    “Những người còn lại trong cung Vị Ương”, ánh mắt y lóe lên tia lạnh lẽo. “dù có hợp sức lại với nhau cũng không phải là đối thủ của Kiều Kiều, trẫm cũng không cần động đến bọn họ.”

    Tháng Hai, thánh giá lên đường trở về Trường An, nào ngờ đang đi bệnh tình trở nên trầm trọng hơn nên đành phải dừng lại ở cung Ngũ Tộ. Trần hoàng hậu truyền ý chỉ, lệnh cho các hoàng tử hoàng nữ ở khắp nơi tập trung về cung Ngũ Tộ, cũng niệm tình cha con mà đặc cách cho phép cả Lưu Hoành đang bị giam lỏng ở Bắc cung được đi theo Thái tử đến.

    Lưu Triệt lướt nhìn bốn đứa con trai, sáu đứa con gái trước mặt, thầm cười lạnh. A Kiều luôn tin tưởng rằng trong lòng mọi người ít nhiều đều có tính chân thiện mỹ, nhưng theo như y thấy thì mấy đứa con gái cùng có bộ dạng bi thương nhưng chỉ có một mình Duyệt Trữ là chân thành.

    “Mạch Nhi”, rất hiếm khi y gọi con mình thân thiết như thế, “Con phải nhớ kỹ rằng ngày sau thừa kế giang sơn Đại Hán của trẫm, dù phải trên hiếu kính với mẫu thân, dưới bao bọc đệ, muội, nhưng chuyện cần làm vẫn phải làm, không được quá e dè.” Tề vương Lưu Cứ đang quỳ ở phía sau Lưu Mạch nghe thấy vậy ứa lệ, rét lạnh trong lòng vì biết rằng đây là lời cảnh cáo cuối cùng của phụ hoàng với hắn. Nhưng có một số chuyện dù biết cũng chẳng đặng đừng.

    “Phụ hoàng”, Lưu Sơ nắm tay y, nước mắt giàn giụa.

    “Được rồi, Sơ Nhi.” Trong suốt cuộc đời này y vẫn luôn kiên quyết không chịu gọi con gái bằng tên mụ như A Kiều thường gọi, “Con đã có mẫu hậu và ca ca chiếu cố rồi, phụ hoàng không còn gì phải lo lắng nữa.” Y nhìn qua tất cả các con trai, con gái một vòng, nhìn đến cả Di An mà y rất ít khi gặp, rồi phất tay, “Các con ra ngoài hết đi.”

    Mấy đứa con đều biết, Hoàng đế muốn ở lại với Hoàng hậu một chút nên lặng lẽ thối lui. Y ho khan vài tiếng, quay đầu định gọi A Kiều nhưng đột nhiên ngưng bặt. A Kiều vẫn đứng bên cạnh, hơi cúi đầu, vẻ ưu tư. Y nhớ lại người con gái năm xưa đã gặp.

    “Kiều Kiều.” Y gọi rất chậm.

    Trần A Kiều giật mình bước tới bên cạnh, nắm lấy tay y. Cánh tay y gầy đét, bàn tay từng rất có lực nhưng giờ ngay cả việc nắm lấy tay nàng cũng khó khăn. Chỉ là dù sao hai người cũng đã làm được như câu “vợ chồng nắm tay nhau đến bạc đầu”. Nàng đã từng cho rằng không thể đạt được như câu nói này, y lại dùng hơn ba mươi năm để thực hiện nó. Nàng nghĩ, nàng không có tư cách để hoài nghi nhưng vẫn muốn hỏi một câu rằng, y có từng hối hận về chuyện năm xưa? Khi y nhướng mày, nhìn nàng sâu thẳm, “Trẫm không hối hận” thì nàng mới phát hiện mình vừa vô tình, buột miệng hỏi thành lời.

    “Trẫm biết rằng quyết định năm đó của trẫm khiến nàng đau đớn, oán hận suốt đời, nhưng trẫm không hề hối hận. Bởi vì nếu không phải như thế thì sao trẫm có được nàng như ngày hôm nay. Cho nên, ngay cả khi thời gian có quay trở lại, ngay cả có mỏi mòn đau đớn vì phải làm tổn thương nàng thì trẫm sẽ vẫn một lần nữa lựa chọn cách làm như vậy.” Y khẽ nhíu mày. Y vốn không quen nói chuyện rõ ràng, nhưng đã đến lúc này thì còn điều gì là không thể nói?

    Lưu Triệt khẽ thở một hơi thật dài, nhìn Trần A Kiều: “Trẫm thích A Kiều của năm xưa và lấy làm tiếc vì đã phụ lòng tin cậy của nàng. Nhưng người trẫm yêu là Kiều Kiều của bây giờ.”

    A Kiều sững sờ, ngước lên nhìn thẳng vào đôi mắt y. Chúng rất sáng, toát lên vẻ thấu hiểu. Nàng chợt hiểu, cắn chặt môi không thể nào tin nổi, nước mắt nhạt nhòa không còn trông rõ ánh mắt của y, chỉ còn nghe tiếng rủ rỉ bên tai, “Sau khi trẫm mất”, y hơi ngừng lại rồi nói tiếp, “Mậu Lăng được xây dựng đã nhiều năm, chẳng bao lâu nữa sẽ hoàn thành nhưng quy chế của tổ tiên tuy cho Hoàng đế và Hoàng hậu cùng lăng nhưng không cùng tẩm, càng không cho cùng bậc. Trẫm lại không muốn tách rời Kiều Kiều nên đành phải tòng quyền[8] thôi. Trẫm đã viết trong di chiếu về chuyện này, Kiều Kiều xem là sẽ hiểu.”

    [8] Tòng quyền: ứng phó linh hoạt tùy theo hoàn cảnh, không cố chấp, không câu nệ.

    Trên đời này không có điều gì là hoàn toàn bí mật. Hơn nữa người mà y gần gũi ngày đêm là một người thông minh biết nhường nào. Y cứ cho là mình giữ được bí mật nhưng lại không hay rằng người bên cạnh đã biết rõ, chỉ là không nói ra mà thôi. Hai người dù yêu nhau đến đâu cũng vẫn là hai người, vĩnh viễn không thể hợp thành một. Cả hai cùng tự cho là mình hiểu rõ lẫn nhau, thật ra trong nội tâm sâu thẳm vẫn có một khoảng không thể nhìn tới, hoặc là nhìn thấy nhưng chẳng thể làm được gì. Dù có gần gũi đến đâu thì tâm hồn cũng không chạm tới được.

    Nàng chẳng còn để ý đến việc nàng yêu y thì y có yêu mình hay không nữa, mà chỉ thấy tình yêu dần khiến nàng bớt đi sự hờ hững lạnh đạm. Vào năm sau khi từ lễ Phong Thiện trở về, nàng sẽ bỏ qua những chuyện năm xưa, chỉ cần y không nhắc đến thì nàng cũng sẽ im lặng.

    Nàng có thể không nghĩ tới những tổn thương, coi như không nhìn thấy vết sẹo trong lòng nên không đau đớn. Nhưng nàng không thể không nghĩ xem rốt cuộc y yêu là yêu bản thân nàng hay yêu vì cảm thấy có lỗi với A Kiều năm xưa. Trần A Kiều, ngươi đừng vô vị như vậy, quá khứ hay hiện tại đều chẳng phải là một mình ngươi sao? Nhưng sự thật có phải là thế? Suy nghĩ này dù không nặng nề nhưng chất chứa trong lòng lâu ngày cũng thành một nỗi ám ảnh. Hôm nay y đã nói là yêu bản thân nàng. Bọn họ ở bên nhau suốt bao năm, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, quấn quýt không rời nhưng chưa hề nói một chữ yêu. Nàng cho là mình giữ một bí mật động trời nhưng nào ngờ y đã biết từ lâu. Y cho là nàng hiểu được tình yêu của mình nhưng đâu hay rằng nếu không nói ra thì nàng vẫn luôn ám ảnh nghi ngờ. Bọn họ đều là những người quá kín đáo, có cảm thụ về nhau nhưng lại không chịu nói thành lời.

    “Kiều Kiều, đừng thương tâm nữa.” Lưu Triệt dịu dàng, “Trẫm đăng cơ năm mười bảy tuổi, năm nay đã bảy mươi, tại vị hơn năm mươi năm cũng đủ rồi, chẳng còn gì tiếc nuối nữa. Trẫm ở Mậu Lăng chờ nàng, tới giờ cũng chẳng biết là nên cầu mong cho Kiều Kiều sống lâu thêm một chút hay mong Kiều Kiều đến với trẫm sớm hơn một chút.”

    Ngày Đinh mão, Lưu Triệt băng hà ở cung Ngũ Tộ, thọ bảy mươi tuổi. Ngày Giáp thân tháng Ba, y được chôn cất ở Mậu Lăng, lấy thụy hiệu là Vũ, chính là Hiếu Vũ Đế. Hoàng tử để tang chưa đầy một tháng thì Tề vương Lưu Cứ làm phản, viện lý do rằng Thái tử Lưu Mạch là con của Trần A Kiều sinh khi lưu lạc ở ngoài cung, chưa chắc là con của Vũ Đế. Lúc hịch văn dấy loạn truyền tới tay Lưu Mạch, hắn chỉ cười lạnh. Lưu Cứ quả thật đã nóng lòng đến loạn trí rồi, suốt bao nhiêu năm qua, không có ai dám hoài nghi về việc này chẳng phải vì tướng mạo của hắn và Vũ hoàng đế giống nhau như đúc sao? Nhưng nếu Lưu Cứ không phản lúc này mà đợi đến khi Lưu Mạch dùng ngôi vị thái tử ổn định thiên hạ thì chắc chắn Lưu Cứ sẽ hết cách.

    Tháng Tư, sau khi hết ba mươi sáu ngày mãn tang, Lưu Mạch đăng cơ hoàng đế; hiệu lệnh toàn bộ Đại Hán, chính là Chiêu hoàng đế sau này. Hắn tôn mẫu thân Trần A Kiều làm Hoàng thái hậu, theo như tổ chế chuyển tới cung Trường Nhạc. Lập chính thê Thượng Quan Linh làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu, muội muội Lưu Sơ làm Duyệt Trữ trưởng công chúa, trưởng nữ Lưu Yêu được phong làm Dương Hà công chúa. Ngoại trừ đất Tề, chúng thần đều thần phục, kinh sư Trường An vẫn duy trì ổn định.

    Tháng Tám, Lưu Cứ bị đánh bại. Đại tướng Tiết Thực chém Ninh Triệt, tuân theo thánh ý, giải Lưu Cứ về Trường An. Tội mưu phản vốn không thể tha nhưng Lưu Mạch mới mãn tang phụ hoàng chưa lâu, không đành lòng để phụ hoàng khó an giấc dưới suối vàng bởi cảnh huynh đệ tương tàn nên tha mạng cho Lưu Cứ, phế làm thứ dân, giam lỏng cả đời ở cung Ngũ Tộ.

    Trần A Kiều ở trong cung Trường Nhạc ôm Tuyết Ô cũng biết được hết thảy. Nàng biết con trai mình đủ khôn khéo và từng trải nên không lo nó không xử lý được những chuyện nhỏ này. Bản thân nàng đã kiệt sức trước những bi thương liên tiếp kéo đến, chẳng thể để ý. Sau khi Lưu Triệt mất, nàng chuyển ra ngoài Trường Môn, không muốn ở lại nơi mà nhìn đâu cũng vấn vương hình bóng của y. Nhưng nàng lại quên rằng cung Trường Nhạc cũng không phải chỗ yên vui gì. Đó là nơi nàng lớn lên từ nhỏ, lưu giữ bao nhiêu ký ức vui vẻ với y thuở còn niên thiếu. Có thể nói, thành Trường An, Đại Hán, thậm chí cả thiên hạ này đều có bóng dáng của y, dù nhắm mắt che tai vẫn còn hiển hiện. Cuối cùng nàng bất lực, cứ để mặc cho nỗi nhớ nhung giày vò.

    Nàng tưởng nhớ về ánh mắt của y, gương mặt của y, nét đáng yêu của y khi còn nhỏ, vẻ âm trầm khi trẻ trung, sau cùng lại tràn ngập yêu thương. Từ trước đến giờ nàng vẫn không thể đoán được đến lúc cuối cùng, hồi tưởng về chuyện thời niên thiếu thì mình sẽ có cảm giác thế nào. Giờ nàng rốt cuộc đã biết. Nàng nhớ về căn phòng ngoài của điện Tiêu Phòng hun hút gió năm xưa, y tỏ vẻ lạnh lẽo, thái độ vô tình, cứ thế bỏ đi. Vào lúc đó nàng cảm thấy buốt giá đến tận xương tủy, cả đời này chắc không thể có giây phút nào lạnh giá hơn. Hôm nay nàng nhớ lại vẫn còn cảm thấy cái lạnh ấy, chỉ là lần này không chỉ có cảm giác đó mà còn có cả niềm đau xót. Đau xót vì y đã vô tình làm tổn thương mình, đau xót vì y đã không còn bên cạnh nữa, nàng có tìm khắp trên trời dưới đất cũng không thể thấy một người tên Lưu Triệt gọi nàng một tiếng Kiều Kiều. Điều trớ trêu là, nếu y không rời khỏi thế gian này thì nàng lại không thể yêu thương y hết mình.

    Sau khi Vũ hoàng đế mất được một năm, hoàng đế mới lên ngôi đổi niên hiệu là Hiển Thủy. Trong gia yến mừng năm mới, Lưu Mạch kinh hãi phát hiện thấy một lọn tóc bạc trắng trên mái tóc đen của mẫu thân mình. Chẳng lẽ tương tư lại khiến cho mẫu thân chỉ trong một năm ngắn ngủi đã bạc đầu? Chiêu Đế và Công chúa trưởng Duyệt Trữ lo mẫu thân cô đơn nên không chỉ thường xuyên tự mình tới Trường Nhạc thăm hỏi mà còn bảo con cái tới cùng vui vầy. Nhưng mấy đứa cháu trai phải học tập vất vả, Công chúa Dương Hà lại vừa xuất giá, cuối cùng chỉ có một mình Thuận Hoa là hay tới chơi với A Kiều.

    Năm Hiển Thủy đầu tiên, Thuận Hoa đã được mười một tuổi mụ, bắt đầu biết mộng mơ. Dù vẫn nhớ cha mẹ nhưng cô lại thích ở trong Trường Nhạc vắng lặng với ngoại tổ mẫu luôn điềm tĩnh. Rất nhiều năm sau, cô vẫn nhớ tới ngoại tổ mẫu trong những năm Hiển Thủy có mái tóc đen dài đã pha sương nhưng không thể che lấp được vẻ mỹ lệ. Người thường đốt một lò hương rồi ngồi viết chữ hoặc đánh đàn, lúc thời tiết tốt thì bế Tuyết Ô ngồi sưởi nắng mặt trời. Tuyết Ô được người vuốt ve bộ lông cổ dày, nằm duỗi dài biếng nhác. Thỉnh thoảng, ngoại tổ mẫu lại khe khẽ hát mấy khúc ca rất êm đềm mà cô chưa bao giờ nghe thấy. Có một lần, người từng hát rõ cho cô nghe một bài rất thanh thoát mà nhiều năm sau cô có quên đi giai điệu nhưng vẫn còn nhớ rõ ca từ.

    “Lúc còn thơ bé rất nghịch ngợm, bà ngoại thường hát để dỗ dành. Mùa hè sau giờ Ngọ, bà ngoại lại hát ru, lời ca như vậy: Trời tối đen muốn mưa rơi, khắp nơi một màu đen.

    Ta yêu một người đến quên bản thân, coi người đó là cả thế giới. Nhưng khi ta lẫn lộn với cuộc đời đầy dối trá và lừa lọc, mới tự hỏi phải chăng thế giới khi ta trưởng thành luôn không trọn vẹn. Mỗi ngày ta đều phải đối diện với muôn vạn nẻo đường, ta hoài niệm quá khứ đơn thuần chính là một niềm hạnh phúc nhỏ. Yêu luôn làm cho người ta khóc, làm cho người ta cảm thấy không vừa lòng, bầu trời rất lớn nhưng mịt mờ, ta cô độc một mình. Khi trời tối, ta lại nghĩ tới bài hát, đột nhiên mong đợi cơn mưa bình yên. Hóa ra bà ngoại đã sớm hát cho ta nghe chân ỉý, dù mưa có rơi xuống cũng phải dũng cảm bước tới…”

    Lúc đó, cô cho là ngoại tổ mẫu cố ý hát để mình nghe. Rất nhiều năm sau hồi tưởng lại, mới chợt giật mình nhận ra, biết đâu đó chính là ngoại tổ mẫu cảm thương cho cuộc đời mình, bởi vì khi còn bé ngoại tổ mẫu lớn lên ở cung Trường Nhạc. Khi đó chủ nhân của cung Trường Nhạc là Đậu thái hậu, ngoại tổ mẫu của ngoại tổ mẫu.

    Người trong cung Trường Nhạc dần lén nghĩ, chẳng lẽ Thuận Hoa quận chúa sẽ trở thành một Hiếu Vũ Trần hoàng hậu khác? Cả hai cùng lớn lên ở cung Trường Nhạc, đều có một hoàng đế là ông ngoại, một hoàng đế là cữu cữu. Thuận Hoa quận chúa cũng có giao tình tốt với hai vị hoàng tử, có thể nói là thanh mai trúc mã. Thanh mai trúc mã là một từ ngữ mỹ lệ trong đoạn thơ “Thiếp phát sơ phúc ngạch, môn tiền chiết họa kịch. Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai.”[9]

    [9] Câu thơ “Thiếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi, Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi” trong bài Trường can hành của Lý Bạch.

    Chẳng lẽ chỉ có Vũ hoàng đế và Trần thái hậu mới thật sự là thanh mai trúc mã? Có một vị hoàng đế nào đó sẽ làm phu quân của Thuận Hoa? Người đó có yêu nàng cả đời, đến chết vẫn không thôi? Trần A Kiều nghe được lời bàn tán, liền nhíu mày trách mắng: “Nói lung tung gì đó?” Nàng xưa nay vốn ôn hòa, hiếm khi nghiêm mặt nên cung nhân lập tức đều câm như hến. Thuận Hoa thế này đã rất tốt rồi không cần làm một hoàng hậu như vậy để dệt hoa trên gấm nữa. Hoa khoe sắc trên gấm tuy đẹp nhưng Vị Ương lại không phải là một chỗ thích hợp cho hoa khoe sắc, không vào chốn này ngược lại còn là hạnh phúc. Huống chi, huyết thống của nàng và Lưu Triệt đã rất gần nhau, nàng không muốn lại thêm một lần như vậy.

    Thuận Hoa không để ý lắm, chỉ thỉnh thoảng thấy Ánh Chu và Phiếu Tử phía sau ngoại tổ mẫu tỏ vẻ thương cảm. Bọn họ đều nói “Thái hậu nhất định là nhớ tói Vũ hoàng đế rồi.”

    “Vũ hoàng đế?”, Thuận Hoa thầm nghĩ. Nghe nói, danh hiệu Thuận Hoa của cô chính là được ngoại tổ phụ[10] đích thân ban cho. Lúc cô biết chuyện thì Vũ hoàng đế đã bắt đầu già rồi. Nghe nói ngoại tổ mẫu lớn hơn Vũ hoàng đế hai tuổi nhưng sao đến giờ ngoại tổ mẫu vẫn còn xinh đẹp đến thế? Khó trách mà Vũ hoàng đế yêu người nhiều năm như vậy. Tình yêu là gì chứ?

    [10] Ngoại tổ phụ: Ông ngoại.

    Thoáng cái đã đến tháng Mười bắt đầu vào mùa đông. Khi những cơn gió bắc đầu mùa thổi qua thành Trường An thì Thuận Hoa ngoan ngoãn cũng gần mười hai tuổi, thỉnh thoảng lại bồn chồn đi tới đi lui trong nhà và cung Trường Nhạc tịch mịch, len lén mang theo thị nữ ra phố, tự nghĩ là đã giấu được nhưng lại không biết các bậc trưởng bối ngầm đồng ý. Bọn họ cũng từng có một thời niên thiếu háo hức như vậy.

    Thành Trường An vẫn phồn hoa như cũ, cảnh ồn ào tấp nập không hề bị vụ phản loạn năm trước ảnh hưởng, tiếng người huyên náo cho Thuận Hoa những cảm giác mới mẻ, không nhịn được thò đầu ra khỏi xe. Một cậu bé ăn mày quần áo rách rưới chạy ào ào trên đường, đâm sầm vào một thiếu niên ăn mặc sang trọng định trộm túi tiền của thiếu niên kia nhưng lại bị bắt quả tang, chịu một trận đấm đá chửi rủa. Cậu bé ăn mày cũng là một người quật cường, tuy ngã sóng xoài trên đất nhưng không hề cất tiếng van xin, cặp mắt vẫn ánh lên như sao sáng. Thuận Hoa nhìn cặp mắt đó, sinh lòng thương xót, nếu chẳng may đánh chết người thì thật quá mức. Cô đang định lên tiếng ngăn lại thì một thiếu niên mặc đồ xanh đã tiến tới, mỉm cười nói, “Huynh đài đã dạy dỗ rồi, có thể khoan dung được thì xin hãy độ lượng hơn chăng.”

    Lúc này người xem đã vây quanh bốn phía nên Trần Đình không thể xuống thang trước mặt đám đông liền cao giọng: “Ngươi muốn ta tha thì ta phải tha sao?” Hắn vừa nói xong đã biến sắc, thiếu niên mặc đồ xanh kia trông rất văn nhã, đôi tay nhìn cũng không có lực nhưng lại khiến hắn không thể giãy giụa mảy may. Lúc này hắn mới chú ý, ở thắt lưng của thiếu niên có quấn ngang một thanh nhuyễn kiếm, tuy lưỡi kiếm còn nằm trong vỏ nhưng vẫn không thể che lấp sự sắc bén.

    “Đấu rượu Tân Phong giá chục ngàn,

    Thiếu niên du hiệp đất Trường An

    Tương đồng chí khí cùng nâng chén

    Buộc ngựa lầu cao liễu thẳng hàng.”

    Bài thơ nổi tiếng về du hiệp này tương truyền là do Trần thái hậu viết ra năm xưa. Thoạt nhìn thì thiếu niên mặc đồ xanh hẳn là một du hiệp.

    Trần Đình đã hơi biến sắc, nhưng vẫn cố làm bộ hùng hổ: “Ngươi biết ta là ai không?” Hắn nghĩ đến việc này thì lại thêm phần tự tin, ưỡn ngực nói: “Nói cho ngươi biết, Trần thái hậu trong cung Trường Nhạc hiện nay là cô nãi nãi của ta đây.”

    “Ổ.” Dân chúng bốn phía đồng loạt ồ lên, hóa ra là con cháu Trần gia.

    “Thật à?” Thiếu niên mặc đồ xanh cười vang, nói vẻ hài hước “Thật là trùng hợp, tính ra thì Trần thái hậu cũng là sư cô của ta đây. Như vậy chẳng phải vai vế ngươi thấp hơn ta rồi sao? Nào, chào một tiếng thế thúc[11] đi.”

    [11] Thế thúc: Cách xưng hô với người bằng hữu nhỏ tuổi hơn cha của mình.

    Sắc mặt Trần Đình trở nên xám xịt. Năm xưa Trần thái hậu lưu lạc ngoài cung đúng thật đã từng bái làm đệ tử của môn phái du hiệp đệ nhất thiên hạ. Theo lời đồn, năm xưa bệ hạ từng muốn thanh trừng du hiệp nhưng nể mặt Trần hoàng hậu nên mới chịu bỏ qua. Bản thân các du hiệp sau đó khi tung hoành thiên hạ cũng bớt phóng túng nên hết thảy bình an vô sự. Hắn chẳng biết đáng tin hay không nhưng cũng dần nhụt chí, đành nói mấy câu khách sáo rồi bỏ đi. Cậu bé ăn mày bò dậy, nói: “Đa tạ cứu giúp.” Cậu cúi đầu thật sâu nhưng bị thiếu niên ngăn lại, thở dài, “Ta không mong ngươi tạ ơn, nhưng ngươi cũng không ăn trộm được gì của ta đâu vì trên người ta không có đồng nào.”

    Hắn nghe thấy tiếng cười lanh lảnh như chuông bạc từ phía sau truyền đến liền quay đầu lại, thấy một thiếu nữ còn nhỏ tuổi đang nhìn mình. Cô xinh đẹp tuyệt trần, mặc bộ y phục may từ gấm vân sa dù có tiền cũng khó mua được.

    “Được rồi.” Thuận Hoa ném ra một xâu tiền Ngũ Thù lớn “Ta không cần ngươi trộm, đưa luôn cho ngươi là được.” Nhìn nụ cười hiền hậu của cô, cậu bé ăn mày bất giác đỏ mặt lùi lại một bước, vòng tay lên bái, nói: “Vốn ta không muốn lấy tiền của tiểu thư nhưng bất đắc dĩ nhà có việc cần dùng gấp, xin ghi nhớ ân huệ của tiểu thư.” Cậu nói xong không hề liếc mắt nhìn bọn họ, xoay người rời đi.

    Quách Lãng ra vẻ bất bình, “Ta cứu mạng của hắn mà hắn lại tạ ơn người khác, như vậy chẳng phải là nhất bên trọng nhất bên khinh ư?”

    Thuận Hoa hé miệng cười để lộ chiếc lúm đồng tiền, “Ta vừa nghe ngươi nói là sư chất[12] của Trần thái hậu có đúng không?”

    [12] Sư chất ở đây có nghĩa là cháu của sư phụ Trần A Kiều.

    Quách Lãng liếc thấy miếng ngọc bội có đóng dấu hoàng gia đeo bên thắt lưng liền suy đoán được thân phận của cô, bình thản nói, “Tất nhiên rồi.”

    “Như vậy”, Thuận Hoa háo hức hỏi, “ngoại tổ Thái hậu nương nương đã làm những việc gì lúc ở ngoài cung vậy?”

    “Lúc ta ra đời thì Hoàng hậu nương nương đã hồi cung lâu rồi.” Quách Lãng nói, “Chỉ nghe cha mẹ có kể rằng năm xưa Trần sư cô bị người ta đuổi giết, được sư thúc tổ cứu mạng nên bái làm môn hạ, dẫn theo hai người con trở lại Đường Cổ Lạp Sơn ở mấy năm mãi tới đại chiến Hán Hung sau đó mới xuống núi.”

    Thuận Hoa nghe vậy liền ra sức đoán chuyện năm xưa. Nếu ngoại tổ mẫu từng bị truy sát thì hồi đó Vũ hoàng đế có biết hay không? Chắc là người không biết, nếu không thì làm sao có thể để người vợ kết tóc của mình lưu lạc nhiều năm bên ngoài như vậy. Nhiều năm sau gặp lại, Vũ hoàng đế chắc hết sức vui mừng? Cô nhớ bản thân từ khi hiểu chuyện tới nay vẫn luôn chứng kiến tình cảm ân ái mặn nồng đẹp đẽ của Hoàng đế và Hoàng hậu trong điện Trường Môn. Ngày sau liệu cô có được như vậy? Thuận Hoa suy nghĩ vẩn vơ, ngẩng đầu lên bỗng vô tình bắt gặp gương mặt tuấn tú của Quách Lãng thì tự dưng thấy mặt mình nóng bừng.

    Đến mùa xuân năm Hiển Thủy thứ hai, Kim Nhật Đan đưa Thuận Hoa về phủ đón năm mới. Lúc cô đi là ban ngày nên cung Trường Nhạc còn náo nhiệt, nhưng đến buổi tối tĩnh mịch thì Trần A Kiều mới cảm thấy trống trải. Chiếc giường trong cung Trường Nhạc rất rộng, rất mềm mại thư thái, nàng xoay nghiêng người và cảm giác thấy bên cạnh hụt hẫng, người bầu bạn bao năm qua với mình đã không còn nữa. Nàng thấy cay cay ở sống mũi, vội vàng mở mắt để xua đi nỗi buồn bã rồi đứng dậy khoác thêm chiếc áo ngoài và đi tới trước cửa sổ. Trên bầu trời đêm đông giá lạnh có ngàn sao đang lấp lánh, ngôi sao nào là ánh mắt của y đang ngắm nhìn nàng? Y xưa nay vẫn luôn khí phách không cho phép nàng cự tuyệt, nếu thật sự mỗi ngôi sao là đại biểu cho một linh hồn thì y nhất định sẽ lấy bóng đém làm cánh tay ôm siết. Nàng đã phải mất tận một năm mới học được cách không để lòng dậy sóng khi nhớ nhung y, nhưng đêm nay, chỉ riêng một đêm nay lại khiến nàng nhớ thương vừa dịu dàng vừa mãnh liệt.

    Sáng hôm sau, Trần thái hậu lâm bệnh trầm kha, không thể ngồi dậy. Chiêu Đế lo lắng, tuyên các ngự y vào chữa trị. Bọn họ đều nói Thải hậu nương nương lúc còn trẻ đã mấy lần bị trọng thương động tới căn cốt, giờ tuổi cao mới phát nên không có cách gì cứu vãn. Lưu Mạch tức giận nghiến răng ken két, nhớ tới Triêu Thiên môn ngoài kiếm thuật cũng rất giỏi về y thuật bèn phái người không quản đường xa vạn dặm tới Đường Cổ Lạp Sơn cầu người. Trường An cách Đường Cổ Lạp Sơn cực xa, lúc mời được người về thì đã là tháng Năm.

    Tính ra thì Tiêu Phương cũng đã già lắm rồi nhưng khi Lưu Mạch lần đầu tiên trông thấy ông đứng trên hành lang cung Trường Nhạc quay đầu nhìn lại thì trong đầu vẫn như cũ nghĩ đến hai từ ấm áp. Một vẻ ấm áp vượt qua những nét đẹp bên ngoài, thấm sâu vào tâm can người đối diện.

    “Sư công.” Hắn gật đầu chào hỏi, liếc nhìn cô gái đứng sau Tiêu Phương, cảm giác khá bất ngờ. Thời gian đã trôi qua hơn hai mươi năm, kiều nữ hồng nhan năm đó đã già đi, khuôn mặt cũng trở nên tròn trịa hơn. Nàng khẽ dập đầu bái lạy: “Dân nữ tham kiến bệ hạ.”

    “Năm đó cô ấy được người cứu giúp rồi lưu lạc đến làm môn hạ của ta.” Tiêu Phương biết hắn nghi ngờ nên giải thích.

    Người ra tay cứu giúp kia biết khúc mắc cùa nàng với hoàng gia, không muốn dẫn lửa thiêu thân nhưng lại không nỡ bỏ mặc người con gái yếu đuối không cứu giúp, nên mách bảo Thượng Quan Vân ngàn dặm tìm tới. Năm đó, Tiêu Phương gặp người thiếu nữ này dưới chân Đường Cổ Lạp Sơn. Chỉ qua một tháng gió sương đã làm mất đi hoàn toàn sự kiêu ngạo của cô, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ quật cường. Vẻ quật cường đó khiến Tiêu Phương bất giác nhớ lại sắc mặt tái nhợt của Nhạn Thanh lúc té ngã ở ngoài thành Trường An năm xưa.

    “Triêu Thiên môn được xưng Y kiếm song tuyệt nhưng sau ta thì người học y chỉ có một mình mẫu thân người. Mẫu thân người ở địa vị cao, không cách nào tĩnh tâm học tiếp nên ta đành phải tìm người truyền y bát[13].”

    [13] Truyền y bát: Cụm từ xuất phát từ Phật giáo. Y và bát là hai vật được đức Phật coi trọng, truyền lại cho đệ tử, tương trưng cho việc truyền thụ và kế thừa Phật pháp. Cụm từ truyền y bát còn được hiểu rộng là sự truyền thụ và kế thừa sự nghiệp của sư phụ.

    Vũ hoàng đế đã mất, Tề vương Lưu Cứ lại bị phế làm thứ dân, Lưu Mạch dĩ nhiên không muốn không nể mặt Tiêu Phương mà cứ thế trị tội chị gái của vợ mình vì những chuyện trước kia, mỉm cười nói, “Sư công đã đến thì mời vào thăm mẫu thân đi.”

    Trước đây Tiêu Phương đã từng tới cung Trường Nhạc không ít lần. Khi đó, chủ nhân của cung Trường Nhạc là Vương thái hậu, bây giờ đã đổi tới Nhạn Nhi. Trần A Kiều nghe tiếng bước chân, liền quay đầu lại, nhìn thấy Tiêu Phương thì sững người giây lát rồi dịu dàng mỉm cười cất tiếng chào: “Sư phụ.” Thượng Quan Vân thấy người mà lòng xót xa, bao nhiêu năm đã qua rồi và Trần hoàng hậu xinh đẹp ở Lâm Phần ngày nào bây giờ rốt cục cũng đã già.

    Tiêu Phương bắt mạch kê đơn. Sau khi xong chuyện, vì đàn ông bên ngoài không được ở trong cung nên ông đành rời đi, để Thượng Quan Vân ở lại chăm sóc Trần thái hậu. Trần thái hậu uống thuốc xong, chợt bật cười, “Không ngờ vận mệnh thật kỳ lạ, ngươi lại trở thành sư muội của ta.”

    “Thái hậu nương nương nói quá rồi, dân nữ không dám nhận.” Thượng Quan Vân thản nhiên đáp, hai người đàn ông quan trọng nhất trong cuộc đời cô đều có liên quan đến người phụ nữ này thật là kỳ lạ!

    “Thái hậu nương nương.” Ánh Chu vén rèm bẩm, “Hoàng hậu nương nương tới đây thỉnh an.”

    A Kiều gật đầu: “Bảo Hoàng hậu vào đi”, nói xong quay sang bảo Thượng Quan Vân: “Tỷ muội các ngươi đã không gặp nhau nhiều năm rồi, nói chuyện thoải mái một chút.”

    Thượng Quan Vân ngước lên nhìn muội muội đang ung dung tiến vào. Đã nhiều năm không gặp, thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần năm xưa đã ra dáng một bậc mẫu nghi thiên hạ, cúi nhìn lại thấy mình thật sự lại giống như một người phụ nữ nông thôn. Nhưng ít ra như vậy còn tốt hơn là năm đó gả cho Tề vương, để sau này lại xảy ra chuyện binh đao. Thượng Quan Linh cũng đánh giá qua người tỷ tỷ xa cách nhiều năm, vẻ kiêu ngạo thời trẻ đã mất đi, hiện rõ vẻ đằm thắm. Tỷ tỷ vốn đẹp hơn cô, giờ lại càng như vậy. Cô mỉm cười, nắm tay Thượng Quan Vân, nước mắt rưng rưng, chân thành nói: “Lần này tỷ tỷ trở về hãy ở lại luôn nhé. Ca ca đã khôi phục chức quan, sau này ba huynh muội chúng ta sẽ đoàn tụ có được không?”

    Cô không ngờ Thượng Quan Vân lại chầm chậm rút tay về, nói khẽ nhưng cương quyết: “Duyên tới thì tụ, duyên hết thì tán. Hoàng hậu nương nương đừng cưỡng cầu khi duyên phận tỷ muội giữa chúng ta đã hết.”

    A Kiều ở một bên nghe, nhướng mày cười nói, “Vân Nhi nói vậy dường như đã tham khảo Phật pháp rồi.” Thượng Quan Vân cúi đầu, ‘Đúng vậy. Những năm trước đây khi còn là thái tử thì bệ hạ đã từng đi sứ Thân Độc. Từ đó một tôn giáo của Thân Độc đã theo con đường giao thương giữa Đại Hán và Thân Độc mà lưu truyền sang Đại Hán. Sư phụ đã một lần được nghe thuyết giảng và cảm thấy rất hứng thú nên những năm qua vẫn thường đọc kinh Phật. Vân Nhi hầu hạ ở bên cạnh sư phụ, dĩ nhiên mưa mãi cũng thấm.”

    Cô ngước lên trông thấy sắc mặt trang nghiêm của A Kiều, liền thôi không nói nữa mà nghe A Kiều niệm đều đều, “Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại[14] là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần[15] là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm mắt, thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai.”

    [14] Tứ đại: Trong quan niệm nhà Phật, tứ đại để chỉ vật chất.

    [15] Trong giáo lý nhà Phật có ba khái niệm cơ bản là lục căn, lục trần và lục thức. Lục căn là sáu giác quan của con người, lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần sẽ sinh ra lục thức. Nếu tâm không tĩnh thì cái thức chúng ta nhận được sẽ là ảo ảnh, hay chính là huyễn ảnh.

    “Đây là Viên giác kinh mà sư phụ thường đọc. Thái hậu nương nương cũng học Phật Sao?” Cô hơi kinh ngạc nhưng thoáng cái đã hiểu, chuyện này xảy ra trước khi cô nhập môn và không liên quan gì đến cô cả.

    Trần A Kiều nhớ lại năm Nguyên Quang thứ năm từ thời gian đó tới giờ sao thật xa xôi cứ giống như đã qua một kiếp người. Lúc đó Mạch Nhi và Tảo Tảo còn chưa ra đời, nàng vẫn chỉ là Nhạn Thanh. Ngày đó nàng nhìn sư phụ chằm chằm, cười khanh khách “Gặp sư phụ thì mới biết được cái gì là ‘Quân tử khiêm cung, sáng láng như ngọc’.”

    “Thật không?” Hắn không tức giận, chỉ đáp vẻ cáu kỉnh, ngay cả cặp mày cũng không nhướng lên.

    “Đúng vậy.” Nàng gật đầu như có thật, “Khi còn bé, mẫu thân từng đọc một đoạn kinh văn, con đọc cho sư phụ nghe: Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai….”

    Những tháng ngày đó vui vẻ, trong trẻo như dòng suối mùa xuân. Nếu như, nếu như không phải xảy ra những chuyện sau đó mà cứ sống như vậy cũng là một loại hạnh phúc. Nhưng đời người nào có được bao nhiêu chữ “Nếu như” chứ? Nếu nói trong cuộc đời này, người có lỗi với nàng nhất là Lưu Triệt, vậy người mà nàng có lỗi nhất thì không thể nghi ngờ, chính là Tiêu Phương.

    Nửa tháng sau đó, Lưu Mạch xử lý xong chính sự ở điện Tuyên Thất liền tới cung Trường Nhạc thỉnh an mẫu thân. Cung nhân nói cho hắn biết Thái hậu nương nương đã ra khỏi điện. Hắn thong thả bước trên hành lang cung Trường Nhạc, bỗng nhiên dừng lại, nhìn thấy mẫu thân và sư công đang ở cùng nhau tại sơn đình phía trước, cách nhau một khoảng không xa cũng không gần. Có một số người trên thế gian này, ngay cả tuổi già cũng không thể lấy đi vẻ đẹp của họ, ngược lại lắng đọng lên men qua năm tháng, ủ ra một vẻ đẹp thuần khiết. Mẫu thân và sư công, không thể nghi ngờ là hai người trong số đó.

    Ngoài đình lất phất mấy cánh hoa hạnh, lẻ loi xoáy tròn trong không trung, Trần A Kiều bắt lấy một cánh, chầm chậm vo tròn, thở dài, nói: “Nếu như Nhạn Nhi chỉ đơn thuần là Nhạn Nhi, chắc sẽ lựa chọn ở lại bên cạnh sư phụ.” Chỉ tiếc rằng nàng không phải như vậy.

    Tiêu Phương cảm giác một nỗi đau đớn dịu dàng dâng lên trong lòng, nhưng ông ôm mối tình câm nửa cuộc đời, có được một câu này cũng tốt. Ông không muốn nàng khó xử, hỏi, “Vậy kiếp sau con chỉ là Nhạn Nhi được không?

    “Kiếp sau?” A Kiều nhìn ra xa, “Con vốn không tin kiếp sau, nhưng nếu thực sự có kiếp sau, con không thể hứa hẹn điều gì. Bởi vì con sợ rằng bản thân con ở kiếp sau sẽ tự oán hận mình. Nhưng”, nàng từ từ quay đầu lại, nhìn Tiêu Phương, chân thành nói, “kiếp sau, sư phụ có thể sớm tới tìm con.”

    Nếu ông tới gặp nàng trước Lưu Triệt, biết đâu lại có một kết cục khác. Chẳng qua, nàng rất hoài nghi, một người có tính cách ngang tàng như Lưu Triệt chắc chắn sẽ không để xảy ra chuyện như vậy.

    “Được rồi.” Tièu Phương gật đầu.

    Lại qua mấy ngày, khí trời mát mẻ. Đám cung nhân đỡ Thái hậu nhẹ nhàng hỏi, “Người có muốn chuẩn bị ghế nằm ở ngoài điện không?”

    “Không cần.” Nàng như có điều suy nghĩ lắc đầu, nói: “Ta muốn trở về xem lại điện Trường Môn.”

    Cung nhân hơi kinh ngạc. Từ sau khi Vũ hoàng đế mất đi thì Trần thái hậu chưa bao giờ trở lại điện Trường Môn cả, chắc là sợ thấy cảnh nhớ người. Nhưng người các cô hầu hạ là người phụ nữ tôn quý nhất triều Đại Hán, dù cả bệ hạ đến đây cũng không phản đối nên quỳ gối đáp, “Dạ.”

    Điện Trường Môn từ lâu không có người ở nhưng vẫn được quét dọn hết sức sạch sẽ. Trần A Kiều nhắm mắt cũng có thể chỉ ra sau chiếc án kia, Lưu Triệt đã từng ôm nàng cùng xem sách, sau tấm bình phong kia, nàng đã từng sửa lại áo mũ cho y, sau tấm màn trướng kia, bọn họ từng vô số lần hoan ái…

    Triệt Nhi, thoáng một cái mà người đã rời xa thiếp hai năm rồi. Nàng cho là mình sẽ rơi lệ nhưng bây giờ lại rất bình tĩnh. Bình tĩnh nhìn chỗ ngồi này tràn ngập ký ức giữa y và nàng, vừa đau nhói vừa ngọt ngào.

    Mai Phi thời nhà Đường đời sau có viết: “Trường Môn cứ tựa không người quét”[16]. Y dùng tình yêu của mình biến Trường Môn thành Trung cung vạn người kính ngưỡng không ai sánh bằng. Nếu thật sự còn có một Giang Thải Bình[17] đa tài đa nghệ thì nàng sẽ ra sao?

    [16] Bài thơ của Mai Phi trả ngọc châu cho Đường Huyền tông khi không còn được sủng ái:

    “Mày liễu không tô lâu lắm rồi

    Son thừa nhuốm lệ ở bờ môi

    Trường Môn cứ tựa không người quét

    Há tặng trân châu để đãi bôi.”

    [17] Giang Thải Bình chính là Mai Phi.

    A Kiều bước ra khỏi Trường Môn, ngồi xuống tấm bồ đoàn mà cung nhân trải trên chiếc ghế đá bên ngoài điện. Nàng đã cao tuổi nên chỉ lát sau liền ngủ thiếp đi trong ánh nắng ấm áp. Không biết qua bao lâu, nàng bị nhẹ nhàng lay tỉnh, thấy một khuôn mặt quen thuộc với đôi mày sắc như lưỡi kiếm, đôi môi mỏng đang ở gần trong gang tấc, liền ngơ ngẩn gọi, “Triệt Nhi.”

    “Mẫu thân”, Lưu Mạch nghe không rõ, gọi lần nữa. Nàng nhìn kỹ lại, than thở: “Là Mạch Nhi à!” Một cảm giác thất vọng mơ hồ dâng lên trong đầu nàng.

    Hơn một tháng sau thì Trần thái hậu mất ở cung Trường Nhạc, thọ bảy mươi tuổi nhưng nhìn dung mạo như chưa đầy bốn mươi bốn. Các cung nữ như lệ thường định vào hầu hạ Thái hậu rửa mặt vẫn thấy Thái hậu có vẻ mặt tươi tắn, bờ môi còn hơi mỉm cười nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh dậy thì hoảng hốt, vội vàng đến điện Tuyên Thất bẩm báo với bệ hạ. Nhưng không ngờ bệ hạ có thần giao cách cảm với Thái hậu nên từ sớm đã có dự cảm không lành, chưa đợi cung nữ nói đã vội vã chạy tới cung Trường Nhạc, nhìn dung nhan Trần thái hậu, khóc lên thất thanh.

    Trong cung tức thì tràn ngập tiếng khóc lóc khiến Tuyết Ô uốn mình nhảy xuống đất, mở to cặp mắt long lanh nhìn mọi người, không rõ hôm nay có chuyện gì mà đám người kia khóc lóc thống thiết như thế. Có lẽ là nó cũng đã hiểu, người phụ nữ quanh năm bế nó đã không còn ở trên cõi đời này nữa. Theo di chỉ của Vũ hoàng đế, Chiêu Đế chôn cất Trần A Kiều ở cùng chung tẩm với Vũ hoàng đế trong Mậu Lăng. Trong cung để tang ba tháng tưởng niệm Trần thái hậu.

    Đến thời điểm hoa đào đua nở vào năm sau, Chiêu Đế tách khỏi mọi người, một mình một ngựa cưỡi Chu Ly tới Mậu Lăng, đứng trầm mặc tưởng niệm ở trước mộ cha mẹ. Cả cuộc đời này cha mẹ của hắn sống được ở bên nhau, khi chết cùng chôn chung huyệt là cặp phu thê ân ái hiếm có trong nhà đế vương. Mẫu thân, đây cũng là mong muốn trong lòng của người phải không? Hắn miên man suy nghĩ.

    Hoa đào trong gió rơi lất phất xuống bên mộ trông như mưa máu lại tựa như những giọt nước mắt vừa rực rỡ yêu dị vừa long lanh mỹ lệ. Lưu Mạch khẽ mỉm cười, xoay người dắt Chu Ly rời khỏi khu lăng tẩm hoàng đế rồi lên ngựa, thét lớn: “Đi thôi!”

    Chu Ly hí một tràng dài, tung vó phi nhanh về hướng cung Vị Ương, để lại phía sau một vùng trời hoa đào rực rỡ.
     
    PhươngThảo thích bài này.
  19. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 98: Ngoại truyện 1: Lên tận trời xanh hay xuống suối vàng
    Trong điện Tín Hợp ở Thượng Lâm Uyển, nội thị bưng lên một chén thuốc đã được các ngự y cẩn trọng điều chế rồi cho người thử độc. Lục Y đón lấy, chăm chút đút cho Trần A Kiều. Qua một lúc khá lâu A Kiều vẫn không tỉnh lại khiến Lưu Triệt bắt đầu lo lắng. Dù không hiểu y thuật nhưng y cũng biết rằng chỉ đẻ non mà mê man lâu như vậy thì nhất định là không bình thường. Các ngự y chỉ nói loanh quanh: “Nương nương có thai khi đã lớn tuổi nên vốn đã là nguy hiểm, huống chi… lại bị chấn động mạnh như vậy làm thai nhi bị hỏng.”

    Lưu Triệt nghe xong, mi mắt giần giật, cố gắng xua đi ý định tru di cửu tộc đám ngự y luôn vô dụng trong lúc nguy cấp. Ngay cả Tiêu Phương chẩn trị xong cũng nói rằng bệnh tình lần này của A Kiều rất kỳ lạ nên khó trách bọn họ chẳng thể nói được điều gì.

    “Bệ hạ”, Dương Đắc Ý đứng bên ngoài điện khẽ bẩm báo, Công chúa trưởng Quán Đào tới.”

    Y ừ một tiếng rồi bảo, “Mời cô cô vào.”

    Trưởng công chúa Quán Đào vén rèm bước vào, chưa kịp bái chào đã thấy A Kiều sắc mặt tái nhợt nằm trên giường thì lập tức nghẹn ngào chực khóc. Lưu Triệt chỉ im lặng không nói gì, thầm nghĩ dù cô cô của mình có khát vọng quyền lực mãnh liệt nhưng lại rất mực yêu thương A Kiều. Điều này cũng giống như tình yêu thương vô điều kiện của A Kiều đối với Lưu Mạch và Lưu Sơ, kể cả… đứa con trong bụng nàng nữa. Cho dù y xưa nay vốn cứng rắn nhưng nghĩ tới đứa con vừa bị mất đi thì lòng bất giác lại nhói đau.

    “Hoàng thượng”, Trưởng công chúa Quán Đào nói: “Người trở về nghỉ đi. Để A Kiều đấy cho ta chăm sóc.”

    Y đã mấy ngày không được ngủ tròn giấc nên nghe vậy liền gật đầu. “Được rồi.” Nếu có ai đó trên cõi đời này không muốn để A Kiều xảy ra chuyện, ngoài y ra thì chỉ có một mình cô cô thế nên y có thể an tâm phó thác A Kiều cho bà. Trong một căn phòng ngách trống trải của ngôi điện, lại không có A Kiều lặng lẽ kề bên khiến Lưu Triệt đột nhiên có cảm giác tĩnh mịch. Y sợ là sẽ không thể nào ngủ được nhưng nào ngờ vẫn mặc nguyên y phục nằm xuống giường đã nhanh chóng thiếp đi. Trong giấc ngủ mê man, y thấy mình đang đi một mình trên hành lang dài có treo những bức vẽ hình chim đại bàng, rõ ràng là quen thuộc nhưng nhất thời lại không nhớ ra đó là cung điện nào. Lưu Triệt khẽ nhíu mày, lẽ ra y đang ở điện Tín Hợp tại Thượng Lâm Uyển chờ A Kiều tỉnh lại nhưng sao chớp mắt một cái đã thấy mình đang ở trong cung điện hoa lệ nhưng trống trải này.

    “Dương Đắc Ý”, y lên tiếng gọi nhưng viên Ngự tiền tổng quản vẫn luôn theo sát bên cạnh y lại không lên tiếng trả lời. Có hai người cung nữ tóc tết bím mặc áo ngắn đang từ cuối hành lang đi tới. Người bưng chậu nước than thở, “Trần nương nương lại cáu kỉnh không chịu cho hầu hạ rửa mặt. Nhưng nàng nổi giận với đám nô tỳ chúng ta thì có ích lợi gì chứ?”

    Người cung nữ kia trầm ngâm một lát rồi nói: ‘Trần nương nương cũng rất đáng thương, Nàng có thân phận tôn quý như vậy, làm mẫu nghi thiên hạ rồi mà cuối cùng lại bị trục xuất khỏi Trường Môn.”

    A Kiều? Lưu Triệt giật mình, thì ra nơi này là Trường Môn, khó trách vừa rồi y không thể nhớ ngay. Trường Môn sau ngày A Kiều trở về thì luôn náo nhiệt vui vẻ, sao lại hoang vắng như vậy? Như thể sầu khổ của thiên hạ đều tập trung vào tòa cung điện nhỏ bé này. Y thấy hai cung nữ vẫn thản nhiên đi ngang qua thì hiểu rằng mọi điều trước mắt chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nhưng giấc mộng này là muốn để cho y nhìn thấy điều gì?

    Ánh hoàng hôn phủ xuống Trường Môn đẹp đẽ mà thê lương. Y đã bao nhiêu lần ở Trường Môn ngắm mặt trời lặn nhưng chưa từng chứng kiến cảnh hoàng hôn thê lương như vậy. Một không gian tràn ngập mùi vị buồn bã hòa theo tiếng đàn u hoài đứt quãng, Y lần tới chỗ phát ra tiếng đàn liền trông thấy A Kiều. Là A Kiều ghi khắc trong lòng y.

    Lúc đó, A Kiều đã rất gầy gò. Bộ lễ phục màu đỏ mặc trên người nàng không hề toát ra một chút khí sắc mừng vui, phong thái ung dung của bậc mẫu nghi thiên hạ đã hoàn toàn tiêu tán, chỉ thấy một bóng dáng nghiêng nghiêng cô tịch. Nàng đang gảy Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân.

    “Trắng như tuyết trên núi,

    Sáng tựa nguyệt trong mây.

    Nghe chàng sinh lòng khác,

    Muốn cự tuyệt tình này.

    Hôm nay chung chén rượu,

    Mai tiễn biệt đầu sông.

    Loạng choạng theo thuyền bước,

    Nước cứ chảy tây đông.”

    Tiếng đàn rời rạc không thành điệu, qua vài nốt thì giai điệu chợt chuyển sang dồn dập nhưng khúc từ vẫn ai oán.

    “Năm xưa kim ốc đổ,

    Khiến hai hàng lệ rơi.

    Nước mắt làm sao cạn,

    Cho hận sầu chơi vơi.”

    “Nương nương”, người cung nữ đứng hầu bên cạnh rơi lệ, “Ngươi đừng hát nữa. Người muốn khóc thì cứ khóc đi.”

    “Phật” một tiếng, dây đàn đứt tung cắt vào ngón trỏ của Trần A Kiều làm rướm ra một vệt máu nhỏ. Nàng cười lặng lẽ, đứng dậy nặng nhọc quay đầu, đưa cặp mắt trống rỗng nhìn xa xa, chợt trông thấy Lưu Triệt thì khẽ chớp lên nhưng dường như không còn sức níu giữ nữa nên trong giây lát liền nhắm nghiền.

    Đây là thời gian nào? Lưu Triệt tự hỏi, chẳng phải y đã quay lại với A Kiều rồi ư? Nhưng sao cặp mắt của A Kiều lại còn sầu, còn khổ, còn cuồng si như thể vừa phải chịu một nỗi uất ức cực độ? Phải rồi, nỗi uất ức y đã gây cho nàng chẳng phải là nỗi uất ức cực độ hay sao? Nàng từng yêu y, từng tin y đến như vậy mà y lại đi tìm niềm vui mới để rồi cuối cùng phế truất nàng, nhẫn tâm gạt bỏ khỏi trí nhớ người con gái từng yêu kiều gọi y là Triệt Nhi, chẳng bao giờ nhìn lại một lần.

    Có lẽ, y cũng hiểu rằng nếu ngoảnh đầu lại sẽ không thể nào nhẫn tâm được nữa. Đó là người con gái từ nhỏ đã gọi y là Triệt Nhi, từng có nụ cười xán lạn hơn cả bầu trời thành Trường An vào ngày trong xanh nhất, thế nhưng chỉ vì y mà dần vướng u sầu. Có lấy lý do nào cũng không thể phủ nhận được sự thật là y đã từng rung động trước người con gái này. Nhưng rung động sâu sắc tới đâu cũng không thể ngăn cản y bước về phía trước, để rồi dù có gặp người con gái nào đẹp hơn đi chăng nữa thì cả cuộc đời y cũng sẽ không còn có được những rung động như thuở ban đầu. A Kiều tựa như đang nhìn thấy những điều chưa hề trông thấy nên không hề phát hiện ra tâm trạng biến động của y đang đứng gần trong gang tấc, cứ thế đi thẳng qua. Màn đêm dần buông xuống.

    A Kiều bảo tất cả đám người hầu đi hết ra ngoài, một mình ở lại trong điện. Nàng mở cửa sổ ngước nhìn vầng trăng giữa không trung, chắp tay nhắm mắt, khẽ khấn: “Hỡi ông trời.” Y không nghe rõ A Kiều nói những gì, chỉ nhìn thấy vẻ mặt nàng rất thành kính. Ánh trăng biêng biếc soi nghiêng lên hàng mi đen dày rợp trên gương mặt khiến Lưu Triệt chợt dâng lên niềm khao khát muốn đặt môt nụ hôn lên đó. A Kiều, hãy tỉnh lại đi!

    “Vũ hoàng đế có thật sự muốn biết Trần hoàng hậu đã nói những gì không?”

    Một giọng nói đột ngột vang lên ở phía sau nhưng Lưu Triệt không hề sợ hãi, thản nhiên hỏi, “Cuối cùng thì ngươi cũng xuất hiện?”

    “Vậy thì sao?” Một ông lão râu tóc bạc phơ cười ha hả, “Vũ hoàng đế biết rằng lão sẽ tới ư?”

    Lưu Triệt quay đầu lại, gằn giọng, “Trẫm nghĩ rằng ngươi có thể làm cho trẫm nằm mộng quay về Trường Môn của nhiều năm trước thì ắt phải có mưu đồ. Rốt cuộc ngươi là ai?”

    “Ồ.” Ông lão khẽ mỉm cười, “Vũ hoàng đế nửa đời vẫn cầu thần tiên, sao giờ trông thấy thật thì lại uy hiếp người như thế?”

    “Huống chi”, ông lão trông thấy sắc mặt nửa tin nừa ngờ của Lưu Triệt liền cười nhẹ, “tuy Vũ hoàng đế ở trong mộng nhưng cuộc trao đổi này lại không phải là chuyện hoang đường. Đây là Trường Môn của một thời không khác, nếu như không có tác động bên ngoài thì Hiếu Vũ hoàng hậu sẽ phải sống một mình ở Trường Môn hơn hai mươi năm rồi ngậm hờn ra đi. Thế nên Trần A Kiều gặp nạn ở Thượng Lâm Uyển cũng là số mệnh.”

    Lòng y chợt nhói buốt, A Kiều lại có thể cứ thế này mà đi sao? Ông lão không nhìn y, quay sang nhìn A Kiều đang ở trong điện nói: “Dù ngươi không nghe thấy Trần hoàng hậu nói gì nhưng chúng ta lại nghe được. Nàng nói đại ý rằng nàng nguyện giảm hai mươi năm tuổi thọ để mọi chuyện đổi khác. Vì thế cho nên chúng ta đã chấp thuận yêu cầu của nàng.” Cần phải quyết tâm biết nhường nào khi chịu giảm hai mươi năm tuổi thọ?

    “Thần, Phật trên trời vốn công bằng, Trần A Kiều gặp cơ duyên may mắn nên đã biết được một số chuyện, bởi vậy tất nhiên ta cũng phải tiết lộ một chút cho ngươi. Huống chi, Hoàng đế vốn chính là con của trời.”

    Y thấy thời gian bỗng nhiên trôi cực nhanh qua trước mắt, loang loáng những cảnh huy hoàng tráng lệ lẫn chiến trường khốc liệt hào hùng, rồi dừng lại ở một chỗ rất rộng rãi. Nơi đó có một sản phụ đang vật vã đau đớn rồi sinh ra một bé gái. Một cô gái mặc trang phục trắng trông rất kỳ lạ, tóc búi cao, bế bé gái ra cửa phòng sinh trao cho một người đàn ông dáng nho nhã đeo cặp kính gọng vàng nói, “Chúc mừng Hàn tiên sinh, là một bé gái.”

    “Con gái?” Hàn Thành hỏi vẻ ngỡ ngàng nhưng niềm vui làm cha khiến hắn hiền từ ẵm lấy đứa bé, ngắm nhìn khuôn mặt con gái rồi bật thốt lên, “Xinh quá!”

    “Đúng vậy.” Cô hộ lý cười phụ họa theo: “Tôi làm ở khoa sản bao nhiêu năm rồi nhưng mới là lần đầu tiên thấy một bé gái xinh xắn thế này đấy.”

    “Đây là…” Lưu Triệt vốn có định lực rất mạnh, dù núi sập trước mặt cũng không biến sắc nhưng lúc này lại kinh ngạc há hốc mồm miệng.

    “Đây là thế giới của hai ngàn năm sau.” Giọng nói quen thuộc kia lại vừa cười vừa lên tiếng giải thích. Y quay đầu lại nhưng không còn thấy ông lão tóc bạc đâu nữa.

    “Như vậy”, y trấn tĩnh lại rất nhanh, thản nhiên hỏi, “Đại Hán truyền được bao nhiêu đời?”

    Giọng nói kia chợt chững lại, có vẻ bất đắc dĩ, “Không hổ là Vũ hoàng đế, quả nhiên chỉ muốn hỏi về vấn đề này. Nhưng lần này là để ngươi làm quen với cô bé gái kia một chuyến chứ không phải vì chuyện đó. Ngươi hãy từ từ xem đi.”

    Bên kia, Hàn Thành ẵm con gái tới bên giường vợ mình, dịu dàng nói, “Mai Mai, chắc em mệt lắm.”

    “Cũng qua rồi.” Tiêu Mai nhìn con gái bọc trong tã lót, vẻ mặt thanh thản, “A Thành, anh nói nên đặt tên con là gì?”

    Hàn Thành nghĩ một lát rồi đáp: “Lúc được báo tin, anh chạy tới bệnh viện thì vừa hay trông thấy một đàn chim nhạn bay ngang bầu trời, con đầu đàn còn kêu to một tiếng. Vậy thì đặt tên con là Nhạn Thanh nhé.”

    “Nhạn Thanh.” Tiêu Mai mỉm cười thì thầm, “Quy nhạn thanh thanh, hàm ý rất hay, lại dễ nghe, được lắm.”

    Nhạn Thanh! Lưu Triệt chấn động, chẳng phải năm xưa lưu lạc ở bên ngoài thì A Kiều đã dùng một cái tên giả có đúng hai từ này sao? Thế giới luôn luôn cân bằng một cách kỳ diệu.

    Nhạn Thanh lớn dần lên, khuôn mặt giống A Kiều thuở nhỏ như đúc. Nếu như nói, nét mặt Lưu Sơ giống A Kiều đến bảy phần, Lưu Yêu sau này giống A Kiều đến chín phần thì Nhạn Thanh mà hiện giờ y đang chứng kiến lại như đúc ra từ một khuôn, rõ ràng là A Kiều thuở nhỏ. Hồi đó A Kiều thường chạy nhảy dọc theo hành lang cung Vị Ương, cả hai đều còn trẻ con, nàng thuần nhất như mặt trời vừa mọc còn y cũng chưa nhiễm phải quá nhiều mưu mô quyền biến. Nàng thường rón rén đi tới sau lưng, đưa cánh tay nhỏ nhắn mềm mại lên bịt mắt y rồi cười khanh khách hỏi: “Triệt Nhi, đoán xem ta là ai?”

    Khi đó, y sẽ dài giọng vẻ bất đắc dĩ, “A Kiều tỷ.” Trong cung Vị Ương này, ngoài nàng ra thì còn ai có hứng thú lẫn can đảm dám nghĩ tới chuyện bịt mắt y mà hỏi bằng cái chất giọng non nớt “Triệt Nhi đoán xem ta là ai?”

    Nhạn Thanh lớn lên từng ngày, nét mặt ngày càng thanh tú khiến cha mẹ cũng phải ngỡ ngàng, vẻ đẹp của nàng đã vượt xa tất cả những nét thừa hưởng từ cha mẹ. Nàng bắt đầu học thơ văn, dĩ nhiên nhập môn từ thơ của Lý Bạch thời Đường, đọc đi đọc lại mấy câu thơ kinh điển như: “Đầu giường trăng sáng tỏ, Ngỡ mặt đất phủ sương”[1]

    [1] Trích bài Tĩnh dạ tứ (Nỗi nhớ trong đêm) của Lý Bạch.

    Dần dần, nàng cảm thấy vô vị liền hỏi, “Mẹ ơi, bài thơ này tên gì vậy?”

    Tiêu Mai nhìn qua, ngẫm nghĩ một lúc. Bài thơ Nhạn Thanh hỏi là bài Trường can hành của Lý Bạch. Bài thơ này khá dài lại không tuân thủ nghiêm ngặt niêm luật nên quả thật hơi khó hiểu đối với Nhạn Thanh bây giờ. Song bà vẫn giảng giải cho con gái, “Đây là bài thơ mà Lý Bạch viết về một đôi thanh mai trúc mã.”

    “Thiếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi

    Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi

    Trường Can cùng chung xóm, còn bé chẳng quan hoài

    Mười bốn nên chồng vợ, ngượng ngùng lắm chàng ơi

    Quay tường đầu rúc gối, gọi ngàn lần kệ thôi

    Mười lăm thì trổ dáng, nguyện muôn kiếp không rời

    Giữ lòng tin son sắt, ngại chi vọng phu đài?’

    Nhạn Thanh nghe chỉ hiểu được lõm bõm nhưng vẫn cảm thấy thoáng bi ai không nói nên lời tràn ngập cõi lòng. Nàng im lặng một lúc lâu mới hỏi: “Thanh mai trúc mã là gì ạ? Có phải là như con với mẹ không?”

    Tiêu Mai phì cười: “Mấy từ này dùng để chỉ một đôi trai gái còn nhỏ gần bằng tuổi nhau.”

    “Vậy à.” Nhạn Thanh gật đầu, “Vậy thì có thể coi con và anh Trầm là thanh mai trúc mã được không?”

    Tiêu Mai trầm ngâm một lát rồi đáp: “Chắc là chưa phải đâu. Thanh mai trúc mã là phải sống và lớn lên cùng nhau trong nhiều năm mới được. Nhà chúng ta mới chuyển tới đây chưa đầy nửa năm mà.”

    “Hai người cùng lớn lên với nhau thì thật là hạnh phúc.” Nhạn Thanh mím môi vẻ cương quyết, “Được rồi, con sẽ đi tìm thanh mai trúc mã của con.”

    Tiêu Mai bật cười, đâu phải ai cũng có thanh mai trúc mã của mình. Mà thanh mai trúc mã cũng không nhất định là sẽ hạnh phúc. Mấy năm sau Nhạn Thanh mới hiểu được điều này.

    Khi đó, nàng mặc váy công chúa màu hồng chạy trên đường, vấp phải viên đá nhỏ, ngã trên mặt đất, sây sát từ khuỷu tay đến đầu gối, đau rát chỉ chực òa khóc nức nở. Nàng ngẩng đầu lên thì thấy một người đàn ông mặc bộ đồ kiểu dáng kỳ lạ may từ gấm đen đang nhìn mình, thở dài vẻ quan tâm.

    Nàng quên bẵng hết đau đớn, hỏi, “Chú là ai?”

    Nguòì đàn ông kia ngạc nhiên, hỏi lại: “Nàng nhìn thấy trẫm… ta?”

    “Tại sao lại không chứ? Chú.” Nàng nhìn mặt trời vẻ ngạc nhiên, không chú ý cách dùng từ lạ lẫm của y. Ánh mặt trời chiếu từ phía sau người đàn ông này khiến khuôn mặt bị khuất bóng làm nàng không thấy rõ dung mạo của y.

    Y dường như hơi nhếch miệng, muốn cười lại thôi, “Đừng gọi là chú, nghe không được tự nhiên. Nếu cô bé đồng ý,” y chần chừ một lát rồi đề nghị: “thì cứ gọi là ‘anh’ đi.”

    Sau khi y mười tuổi liền cảm thấy A Kiều thật sự không hề giống một biểu tỷ mà chỉ là một thiếu nữ đơn giản không hề biết đến những ưu sầu của thế gian. Nàng cần gì phải biết những điều đó? Vốn từ khi sinh ra, nàng đã có thân phận cao quý, có ngoại tổ mẫu che chở, có cữu cữu che chở, có y… che chở. Đúng vậy, khi y lớn lên cũng là lúc bắt đầu học cách che chở cho biểu tỷ. Người thiếu nữ này là vị hôn thê của y. Dù trong cuộc hôn nhân đó có xen vào rất nhiều hàm ý chính trị, thì lúc ban đầu y vẫn muốn che chở cho nàng được bình an. Nhưng sau này… sau khi trở về, nàng trở nên cực kỳ thông minh, vô cùng nhạy cảm nhưng lại không hề giống những người phụ nữ đã từng trải chuyện đời có cùng độ tuổi. Nàng khi thì nhanh nhẹn, khi thì ưu sầu khiến y đôi lúc phải thầm hỏi liệu A Kiều của mình có phải là ba mươi tuổi thật không? Sao nàng có lúc còn duyên dáng giống thiếu nữ hơn?

    Nhạn Thanh thì lại không thể nào lý giải được tại sao y lại suy tư nhiều như vậy nên chỉ nhíu mày nghĩ rằng y tuổi tác thế mà đòi làm anh thì quá là già. Tuy nhiên Lưu Triệt lại toát ra một điều gì đó không giải thích nổi khiến nàng cảm thấy an tâm, không muốn trái ý mà ngoan ngoãn gọi: “Anh!”

    Ở đằng xa, Tiêu Mai cất tiếng gọi, “Nhạn Nhi.”

    “Dạ.” Nàng đáp lời và nhảy dựng lên, phát hiện ra mình không còn đau nữa. Nàng đi được vài bước thì quay đầu lại cười hỏi “Anh ở gần đây à?”

    Y cũng mỉm cười, “Không vội, sau này chúng ta sẽ gặp lại nhau” Đúng vậy, chẳng lẽ không phải bánh xe vận mệnh đã bắt đầu chuyển động rồi sao?

    Nàng gật đầu, an tâm đi về phía mẹ. Lần gặp mặt tình cờ như chim trời cá nước này dần dà chìm xuống theo thời gian, cuối cùng nàng hoàn toàn không nhớ tới nữa. Nhưng duyên phận đã được định đoạt.

    Sau đó, Hàn Thành vứt bỏ vợ con đi theo niềm vui khác, buộc Tiêu Mai phải ký giấy ly hôn. Nhạn Thanh chạy đuổi theo xe của cha thật lâu, khóc hết nước mắt. Từ đó về sau nàng không còn cha nữa.

    “Chỉ tổn thọ mà thôi.” Dì nhà bên đi ngang qua nói, “Chỉ mới nghe nói ‘Kim ốc tàng kiều’ chứ chưa bao giờ thấy chuyện đòi lại được danh phận vợ lớn.”

    “Kim ốc tàng kiều?” Nhạn Thanh ngơ ngác hỏi.

    “Đúng vậy. Có vợ còn nuôi lẽ bên ngoài chính là Kim ốc tàng kiều.” Dì kia trề miệng.

    Rõ ràng không phải như vậy. Có một năm, cô cô tới điện tìm A Kiều, hỏi trêu Lưu Triệt: “Trong điện này có rất nhiều con gái, gả cho Triệt Nhi một cô được không? Triệt Nhi thích ai nào?”

    Y nhất quyết lắc đầu, những cung nữ này quá mức tầm thường, không lọt vào mắt cho đến khi cô cô chỉ vào A Kiều. Nếu không thật sự thích biểu tỷ thì y chỉ cần đồng ý là đủ rồi chứ nào phải nói ra lời hứa hẹn đó.

    “Dạ! Nếu lấy được A Kiều, cháu sẽ xây lầu vàng cho nàng ở.”

    Kim ốc tàng kiều.

    Kim ốc tàng kiều.

    Nào đâu biết lại trầm luân tới bước này?

    Nhạn Thanh không thích Kim ốc tàng kiều. Nàng có thể khóc thảm thiết nhưng khóc xong rồi vẫn phải đương đầu với cuộc sống, đối mặt với người thân. Nàng mỉm cười nói “Cha không còn ở đây nữa thì Nhạn Thanh nhất định sẽ ở với mẹ đến già.” Nàng không thấy có lý do gì khiến cho hai người không thể thanh thản sống với nhau đến già cả.

    “Kim ốc tàng kiều là gì vậy?”

    “Ngày xưa, Vũ Đế nhà Hán hứa hẹn với biểu tỷ của y, ‘Nếu có một ngày ta lấy được Trần A Kiều làm vợ, ta sẽ xây lầu vàng cho nàng ở’. Khi bọn họ lớn lên, Vũ hoàng đế lãng quên lời hứa thời niên thiếu, lập hoàng hậu khác, bỏ mặc A Kiều ở trong cung Trường Môn hơn hai mươi năm trời, đến chết cũng không gặp. Người đời sau hay dùng điển tích này để chỉ người chồng bỏ bê vợ con đi yêu thương tình nhân khác.”

    Kim ốc tàng kiều! Lầu vàng giấu người ngọc! Đã thật sự có tình yêu thì sao lại dùng chữ “tàng” đó chứ.

    “Nhưng đã hứa ra miệng rồi mà lại có thể lãng quên đi được sao?”

    “A Kiều nhất định, nhất định sẽ rất thương tâm!”

    Người đời thường nói Vũ hoàng đế lòng dạ sắt đá, nhưng tại sao trong những chuyện liên quan đến A Kiều, chỉ cần y thoáng quay đầu nhìn lại thì đều không thể nén được cảm giác đau đớn. Y hận cái cảm giác bất lực này, vùng vẫy muốn thoát ra. Thoát ra được thì y lại là bậc đế vương có quyền uy bao trùm thiên hạ, có thể bảo vệ cho A Kiều, dù A Kiều còn đang mê man thì y vẫn có thể ôm được nàng. Song giấc mộng như cảnh biển trời mênh mang không biết đâu là bến bờ.

    Cuộc sống luôn khắc nghiệt, gia đình mất đi trụ cột nên một mình Tiêu Mai không thể lo đủ học phí cho con gái. Nhạn Thanh bất đắc dĩ phải lựa chọn thi vào trường cảnh sát, chịu đựng sự huấn luyện vất vả để lại vô số vết sẹo trên tấm thân ngọc ngà.

    Vì sao phải khổ thế chứ? Vì sao phải khổ thế chứ? A Kiều của y được cưng chiều từ tấm bé, đã bao giờ phải chịu những nỗi khổ cực như vậy đâu. Nhưng nàng vẫn cắn răng không hề kêu than, từng bước gắng sức vượt qua. Lúc trông thấy Quý Đan Tạp và Liễu Duệ thì y mới hiểu vì sao ngày sau không ai có thể chia rẽ quan hệ của bốn người này. Chỉ còn thiếu một mình Tang Hoằng Dương nữa thôi. Đợi đến lúc hắn xuất hiện thì tất cả sẽ trở về quỹ đạo. Nhưng y lại nổi lên một điều nghi vấn, cái gì mới là quỹ đạo, cái gì mới là thiên đạo? Nếu Nhạn Thanh đã sống rất tốt ở cái thế giới kia rồi thì vì sao lại nhất định phải trở về Đại Hán, trở về bên cạnh y. Chỉ là y không thể chịu đựng được cảnh mất nàng, nếu như đã có lại được rồi thì không thể để mất đi một lần nữa.

    Lúc Tiêu Mai qua đời, Nhạn Thanh khóc rất thương tâm nhưng y không cách nào an ủi. Cũng may là Quý Đan Tạp vẫn luôn ở bên cạnh nàng. Khoảng thời gian này sẽ trôi qua rất nhanh. Lần này nàng trở về với y thì y nhất định sẽ không làm nàng bị tổn thương lần nữa.

    Năm 2007, Nhạn Thanh và Đan Tạp tốt nghiệp trường cảnh sát nhận nhiệm vụ đầu tiên và gặp Mạc Ung Niên. Lưu Triệt rốt cục có thể mỉm cười. Trong chuyến trở lại lần này, y chỉ có thể quan sát, không nói chuyện với bọn họ.

    Tại chùa Viên Giác trên núi Ly Sơn, hòa thượng Thiên Mi chắp tay nói với ông lão tóc trắng, “Vận mệnh đã bắt đầu nghịch chuyển chưa?”

    “Sai rồi.” Ông lão nói: “Vận mệnh đã không còn ở quỹ đạo ban đầu sau này phát triển như thế nào còn tùy thuộc vào bọn họ.”

    Trong thành cổ Tây An, một vụ tai nạn xe hơi đã làm mất đi không khí lễ hội. Tại ngoại thành Trường An vào hai ngàn năm trước, một cô gái tỉnh lại bên bờ sông.

    Lôi Bị thu đội, điểm nhân số, phát hiện thấy thiếu một người trong số phái ra truy tìm phế hậu liền bẩm báo với Quận chúa Lưu Lăng, “Có khả năng phế hậu vẫn còn sống, có truy tìm tiếp hay không?”

    Lưu Lăng vừa mới tỉnh lại, đã nhụt chí khí nên chỉ thở dài đáp: ‘‘Bỏ đi.” Nếu có thể khoan dung tha thứ cho người khác thì ngày sau gặp nhau sẽ được vui vẻ.

    Còn Nhạn Thanh thì ngất xỉu ở trước mộ Sở Phục, đến khi tỉnh lại thì gặp được Tiêu Phương. Lúc đó, Nhạn Thanh và Tiêu Phương đều còn trẻ, nam thanh nữ tú gặp nhau nên dễ nảy sinh tình cảm. Cùng một thời gian, y còn vui vầy với người mới trong cung Vị Ương gần kề gang tấc nhưng nào biết người vợ kết tóc trong bụng mang cốt nhục của mình đã lưu lạc khỏi Trường Môn.

    Y vén rèm bước vào phòng trên lầu Văn Nhạc, một cô gái mặc y phục màu hồng phấn quay đầu lại, ngước cặp mắt trong trẻo như sao trời, mỉm cười nói.

    “Ta họ Trần.”

    Y không để ý, chỉ khẽ chào đáp lễ: “Phu nhân”, rồi cúi đầu không nhìn nàng thêm nữa. Nếu chịu nhìn kỹ thì liệu y có thể nhận ra đó là A Kiều đã từng cùng lớn lên với mình, đã từng yêu, đã từng hận mình hay không? Nếu nhận ra thì liệu y có ôm lấy nàng rồi hôn nàng hay không? Có lẽ y sẽ không làm vậy. Nhiều khả năng là y sẽ giam nàng vào một nơi không ai biết, để nàng sống an ổn cả quãng đời còn lại nhưng không bao giờ gặp mặt. Nếu vậy thì nàng sẽ càng hận y nhiều hơn, vậy cứ để như hoàn cảnh hiện giờ cũng tốt. Cho nên y cũng chỉ có thể nhìn nàng mỉm cười duyên dáng nũng nịu gọi sư phụ, giống như thuở nhỏ dịu dàng gọi y là Triệt Nhi với niềm tin tưởng vô điều kiện. Bản thân đã tự tay vứt đi thì còn có tư cách gì để tiếc nuối. Chỉ là nếu được trông cảnh này sớm hơn thì đáng ra đã phải chém Tiêu Phương ở điện Tín Hợp ngày đó rồi.

    “Bỏ đi.” Y thở dài, nếu thật nghĩ gì làm đó thì sẽ rất khó giải thích sau khi A Kiều tỉnh lại. Mọi chuyện cứ để nó qua đi. Dù thế nào, Trần A Kiều cũng là thê tử của y, trên trời dưới đất không một ai có thể phủ nhận được.

    Năm Nguyên Quang thứ sáu, nàng gặp Tang Hoằng Dương, mở lầu Thanh Hoan. Lúc đi một mình trên đường thì va phải xa giá của cô cô. Ngày hôm đó cô cô vào cung xin được gặp A Kiều nhưng bị y cự tuyệt nên còn nổi cơn giận dữ. Bọn họ không biết rằng A Kiều thật ra đang ở gần chỉ một tầm tay với. Vận mệnh quả là quá trêu ngươi.

    A Kiều bị động thai nên sinh nở cực kỳ nguy hiểm. Dù trước đây y đã nghe kể về chuyện này nhưng khi tận mắt chứng kiến thì vẫn kinh hãi mặt mũi tái nhợt. Cũng may là nàng vượt qua được. Đáng lẽ ra nàng phải trở về bên cạnh y nhưng lại chọn cách rời xa y.

    Y đã thoáng có linh cảm khi đi sát qua A Kiều ở lầu Thanh Hoan vì dù sao thì đó cũng là ngưòi con gái thanh mai trúc mã đã cùng lớn lên với y. Nhưng nàng quay đầu lại, nụ cười xa lạ, thản nhiên hỏi, “Công tử có chuyện gì vậy?” Y cho là mình nhận lầm người nên quay mặt sang chỗ khác không nhìn lại nữa. Vận mệnh vẫn luôn trêu ngươi. Một lần cách biệt là mấy năm trường.

    Năm Nguyên Sóc thứ hai, Vệ Tử Phu sinh Lưu Cứ, y lập Tử Phu làm hoàng hậu. Năm Nguyên Sóc thứ năm, Hán Hung đại chiến, Liễu Duệ bộc lộ tài năng, Trần A Kiều một xe một ngựa trở về Trường An. Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Lưu Cứ nhiễm bệnh, Hoàng đế và Hoàng hậu đều lo lắng. Tang Hoằng Dương tiến cử thần y của Tử Dạ y quán. A Kiều lại một lần nữa tiến vào tầm mắt của y.

    A Kiều! Y chưa từng ngờ tới là nàng, lại càng chưa từng ngờ tới nàng sẽ tiếp tục lựa chọn rời đi, chỉ để lại đứa con gái mà y chưa từng gặp mặt và một bài Giai nhân khúc còn vang vọng để y nhớ nhung.

    “Phương Bắc có giai nhân,

    Thế gian này chỉ một.

    Ngoảnh đầu lại nghiêng thành,

    Ngoái lần nữa nghiêng nước.

    Chẳng cần biết nghiêng thành hay nghiêng nước,

    Khó gặp lại giai nhân.”

    Thật khó trở lại. Thứ đã mất đi thật khó trở lại.

    Trong vòng nửa năm, y đối diện với con gái giống hệt nàng, nhớ lại những điểm tốt của nàng. Chẳng phải A Kiều của y rất thông minh sao? Nếu như khi đó nàng không chọn lựa rời đi mà cứ thế xuất hiện trước mặt y thì y thực sự sẽ không biết phải lựa chọn xử lý như thế nào? Nhưng có nửa năm làm bước đệm khiến cho tâm hồn lạnh lẽo sắt đá của y dần trở nên hòa hoãn hơn. Y nghĩ nếu lần sau gặp lại nàng có thể học được cách giảm bớt sự kiêu ngạo thì chưa hẳn là y sẽ không dung thứ cho nàng. Nhưng một A Kiều có bản tính kiêu ngạo, một sự kiêu ngạo đã ăn sâu vào xương cốt, thì có thể thu lại thế nào đây.

    Sau lần bốn nước ở vùng Giao Đông làm loạn, nàng vì Lưu Lăng mà cam tâm tình nguyện trở lại Trường An. Một lần nữa bước vào Trường Môn, thật là… là một mối giao tình vĩ đại.

    Y đang nghỉ hè ở cung Cam Tuyền thì nhận được tin này, chợt cảm thấy ngạc nhiên, tự hỏi không biết biểu tỷ của mình được tháng năm rèn giũa sẽ trở nên như thế nào. Nàng đã không ở bên cạnh y bảy năm, mãi đến năm Nguyên Sóc thứ sáu mới trở lại trong vòng tay y. Cuối tháng Bảy năm Nguyên Sóc thứ sáu, Hoàng đế rời ngự giá từ Cam Tuyền trở về Trường An.

    Tháng Chín, y lần đầu tiên bước chân vào Trường Môn, đứng bên cửa sổ điện Bát Nhã nhìn hai cô gái quen thuộc trong ký ức đang đánh cờ nơi bàn đá bên ngoài rừng trúc. Gió thu thổi qua, cành trúc xào xạc, A Kiều mỉm cười ngẩng đầu, đôi mắt trong suốt như giọt sương trên mặt hồ. Vận mệnh trong khoảnh khắc này đã ngoặt khỏi lối rẽ để trở về như cũ.

    “Bệ hạ, bệ hạ, nương nương tỉnh rồi.” Lục Y đi xuyên qua hành lang đến ngoài điện bẩm báo, giọng nói không giấu được vẻ vui mừng.

    “Suỵt”, Dương Đắc Ý nói khẽ, “Bệ hạ mới ngủ chưa được bao lâu, hãy để cho bệ hạ nằm thêm lát nữa,”

    Y tỉnh dậy từ trong giấc mộng hỗn loạn, chợt cảm thấy không phân biệt được đâu là mộng là thực, day day thái dương, lên tiếng gọi “Dương Đắc Ý!”

    Dương Đắc Ý vén rèm đi vào, cúi đầu nói, “Chúc mừng bệ hạ, Trần nương nương hồng phúc bằng trời, vừa mới tỉnh dậy, đã không còn gì đáng ngại rồi.”

    “Vậy à.” Sau khi được nội thị sửa sang lại y phục, y bước nhanh về điện Tín Hợp.

    Có thật vậy không? Y nhớ tới đủ loại biểu hiện kỳ lạ sau khi A Kiều trở về. Có một năm, Liễu Duệ đã từng nói khi huấn luyện Hoàng tử Lưu Mạch cưỡi ngựa bắn cung trên thao trường: “Chưa nói chuyện khác, năm xưa mẫu thân và dì Lăng của cháu huấn luyện còn gian khổ hơn rất nhiều.” Lúc ấy y và Duyệt Trữ đều cho là Liễu Duệ nói đùa, bây giờ nghĩ thì quả thật đã thấy trong mộng là A Kiều luyện tập rất gian khổ, ngay cả những gian khổ của y hồi còn nhỏ luyện tập cưỡi ngựa bắn cung cũng không thể sánh bằng.

    Trong điện Tín Hợp, A Kiều vừa tỉnh lại, vô cùng yếu ớt, nhợt nhạt như một chiếc bóng sẽ tan biến đi trong nháy mắt. Cung nữ dâng lên cháo nóng đã chuẩn bị sẵn, A Kiều yếu đến nỗi cầm thìa không vững, đánh rơi xuống đất vỡ tan. Tiếng đồ sứ vỡ vang lên giòn tan trong điện Tín Hợp và cũng vọng lên ở một không gian khác. Cô cô vốn rất giỏi ứng biến, mỉm cười lui ra ngoài, nhân tiện cũng vẫy đám cung nữ lui theo.

    Lưu Triệt tự mình chăm sóc người con gái yếu ớt trên giường bệnh.

    Lúc này, A Kiều lại ngoan ngoãn, uống hết non nửa chén cháo mới thôi.

    Y rốt cuộc có thể ôm nàng vào lòng, không cần giống như trong mộng, ngay cả vươn tay cũng không tới. Song A Kiều đang nằm trong lòng y có sắc mặt tái nhợt, vậy thì đây là A Kiều câm lặng trong suốt hơn hai mươi năm cho đến lúc chết ở Trường Môn hay là cô bé thanh mai trúc mã tóc xòa trước trán mà mình đang tìm kiếm? Nhưng điều đó thì có quan hệ gì chứ? Người nằm trong lòng vẫn là A Kiều của y.

    “Kiều Kiều”, y dịu dàng hỏi: “Sao nàng thiếp đi lâu như vậy?”

    Nàng ngơ ngác lắc đầu, y không để ý, nói tiếp: “Mới vừa rồi, trẫm mặc nguyên cả quần áo nằm ngủ trong điện Thiên thì gặp một giấc mộng.”

    ‘‘Thế à?” Nàng hỏi, “Mộng thấy cái gì?”

    Y mỉm cười không đáp, chỉ nhìn nàng đằm thắm, nhớ tới hai người phụ nữ trong giấc mộng. Tại sao không thể ở bên nhau cho đến lúc già chứ? Rõ ràng là đã có lời hứa ngay từ buổi ban đầu rồi. Cuối cùng, y đặt một nụ hôn lên trán nàng, thì thầm, “Trẫm sẽ như nàng mong muốn.”

    Y nghĩ, có lẽ A Kiều thật sự là một lễ vật trân quý mà trời xanh ban cho y, một cơ duyên ấm áp để cho y mất đi mẫu hậu rồi vẫn có thể vĩnh viễn không cô độc khi ngồi ở ngôi vị cao nhất trong thiên hạ. Chúng ta sẽ nắm tay nhau đến lúc bạc đầu! Hãy thử xem nào. Đây là lần cuối cùng nàng bị thương tổn trong tay trẫm, từ nay về sau trẫm sẽ là người che chở cho nàng, để nàng không còn phải ưu sầu trước những phong ba của cuộc đời.

    Rất nhiều năm sau.

    “Mẹ ơi, Kim ốc tàng kiều là gì ạ?”

    “Kim ốc tàng kiều à”, người mẹ trẻ mỉm cười quay đầu lại, trong mắt lộ ra vẻ xa xăm, “Ngày xưa, nhà Hán có một vị hoàng đế tên gọi là Hán Vũ Đế. Vũ Đế hứa hẹn với biểu tỷ của mình, ‘Nếu có một ngày ta lấy Trần A Kiều làm vợ, ta sẽ xây lầu vàng cho nàng ở’, sau đó Hán Vũ Đế quả thật đã thực hiện lời hứa thuở niên thiếu của mình xây cung Kiến Chương cho biểu tỷ. Bọn họ ở với nhau trong điện Trường Môn cung Kiến Chương đến già. Mọi người tưởng nhớ tới cặp vợ chồng đế vương ân ái mặn nồng hiếm thấy này, từ đó Kim ốc tàng kiều trở thành một lời hứa tình yêu đẹp nhất.”

    “Ôi”, cô bé nghe đến say mê, mơ màng nói: “Mẹ ơi, vậy sau này con có thể tìm được người sẽ xây một chiếc lầu vàng cho con hay không?’’

    Người mẹ bật cười, xoa chiếc mũi nhỏ nhắn của con gái, “Ngốc nào, chuyện xưa đẹp đẽ là đẹp đẽ ở tấm chân tình. Sau này con gặp ai, chỉ cần người đó có chân tình thì dù tặng con nhà cỏ hay nhà gỗ thì trong tình yêu cũng chính là một lầu vàng rồi.”
     
    PhươngThảo thích bài này.
  20. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Quyển 4 - Chương 99: Ngoại truyện 2: Lưu lang đã rời bỏ nơi Bồng Lai[1]
    [1] Núi Bồng Lai hay còn gọi là tiên đảo Bồng Lai, là một vùng đất truyền thuyết tìm thấy trong thần thoại Trung Quốc, và cũng xuất hiện trong cả truyền thuyết của Nhật Bản. Theo Sơn hải kinh, núi Bồng Lai nằm trên một hòn đảo ở phía đông của Bột Hải, cùng với bốn đảo khác: Phương Trượng, Doanh Châu, Đại Dư và Viên Kiều, là nơi các vị thần tiên cư ngụ.

    Nàng nghĩ, nếu lúc còn sống mà được nghe bài thơ như vậy thì nhất định sẽ bật khóc. Núi Bồng Lai xa xôi, xa xôi đến chừng nào? Có phải như nàng và Lưu lang, rõ ràng cùng đi ở trong cung Vị Ương, ngước mắt lên sẽ trông thấy nhau nhưng lòng đã hóa thành một vùng hoang vắng, như hai người xa lạ chưa từng có những năm tháng tuổi trẻ hạnh phúc. Vẫn gần trong gang tấc vậy mà đôi khi cũng như xa cách tận chân trời.

    Trên đời này, xa nhất không phải tận chân trời, cũng không phải cách trở âm dương mà là yêu rồi dần hóa thành xa lạ, đến cuối cùng trở mặt thành thù hận. Còn hôm nay, nàng ở dưới Địa phủ sâu chín vạn thước nhìn lên chứng kiến chuyện tình của y và người ấy. U minh lạnh lẽo, tịch mịch, tịch mịch đến mức nước mắt chẳng muốn tuôn rơi.

    Chuyện mở đầu là y và người ấy, chuyện kết thúc vẫn là y và người ấy. Còn nàng chỉ là một khách qua đường đáng buồn cười xen vào chuyện tình của bọn họ rồi cuối cùng rút lui. Chuyện tình của bọn họ lại bắt đầu, tiếp diễn, cuộn trào, sâu lắng miên man, cho đến kết thúc vẫn không chút liên quan tới nàng.

    Năm Nguyên Thú đầu tiên, Vệ Tử Phu tự vẫn tại điện Tiêu Phòng, được chôn cất theo nghi lễ phi tần ở khu lăng mộ. Cho đến lúc chết, Lưu lang vẫn không tới gặp nàng. Những hồn phách chết oan không được đầu thai. Nàng dật dờ lưu lạc ở Uổng tử thành suốt bao năm chỉ để chờ đợi. Chờ đợi một ngày Lưu lang tới đây, nàng sẽ hỏi một câu trước lúc y uống canh Mạnh bà, hỏi rằng y có từng yêu nàng hay không? Chỉ thế mà thôi.

    Nàng ra đời trong một căn phòng dành cho nô bộc ở phủ Bình Dương hầu hồi Cảnh hoàng đế còn tại vị. Lúc nàng sinh ra, mẫu thân từng thốt lên: “Xinh quá! Xinh đẹp hơn mẫu thân nhiều.” Đẹp đến mấy thì cũng để làm gì chứ? Chẳng qua vẫn chỉ là một nô bộc. Thời niên thiếu, nàng từng nghe nói rằng có người thiếu niên được lập làm Hoàng thái tử ở đế đô Trường An xa xôi đã từng mỉm cười hứa hẹn với biểu tỷ của cậu ta, “Nếu lấy A Kiều làm vợ thì sẽ xây lầu vàng cho nàng ở.” Truyền thuyết Kim ốc tàng kiều ấy đẹp biết nhường nào! Nàng đã từng cảm khái cho hạnh phúc của người thiếu nữ kia, hoàn toàn không biết rằng, trong tương lai, nàng lại chính là người phá vỡ cái truyền thuyết đẹp đẽ ấy. Vận mệnh đứng trong bóng tối nhìn theo, mỉm cười đầy ý vị.

    Vào một năm, Bình Dương công chúa cành vàng lá ngọc được gả cho Bình Dương hầu Tào Thọ. Một thiếu nữ từ trên cỗ xe ngựa sơn son thiếp vàng tráng lệ bước xuống, xinh đẹp như tiên nữ trên trời. Bình Dương trưởng công chúa Lưu Tịnh chính là người đã thay đổi vận mệnh cuộc đời nàng. Năm đó nàng còn quá nhỏ tuổi. Một hôm, nữ chủ nhân của phủ Bình Dương hầu nhìn thấy nàng, ánh mắt sáng rực, thốt lên: “Thật là một mỹ nhân trong tương lai.” Rất nhanh sau đó, nàng không phải làm công việc hầu hạ nữa. Bình Dương công chúa chuyển nàng vào nội viện để huấn luyện ca múa.

    “Tử Phu đừng phụ sự kỳ vọng của ta nhé.” Công chúa mỉm cười nói, ánh mắt khó hiểu. Kỳ vọng gì chứ? Nàng không hiểu. Nàng chỉ là một nô tỳ nhỏ nhoi với ước mơ rất tầm thường, mong sao người nhà mình được bình an, no ấm.

    Năm thứ hai, nhị tỷ Vệ Thiếu Nhi của nàng ân ái với viên tiểu lại Hoắc Trọng Nhụ của huyện Bình Dương rồi sinh ra một bé trai. Hoắc Trọng Nhụ không thể cưới nhị tỷ của nàng vì hắn đã có vợ. Vệ Thiếu Nhi bế đứa con trai khóc thầm lặng lẽ, kéo tay nàng nói: “Tam muội, đừng đi theo vết xe đổ của tỷ tỷ và mẫu thân nhé.”

    Khi đó, nàng càng lớn càng xinh đẹp, ca múa cũng dần điêu luyện, đẹp đến mức tỷ tỷ ruột của mình cũng phải thán phục. “Nhị tỷ yên tâm.” Nàng vừa mỉm cười vừa nựng đứa cháu trai bé bỏng. Sau một năm tập luyện ca múa, tầm mắt nàng đã ngước lên cao hơn, dứt khoát không chịu làm một tiện tỳ tư thông với người khác để đến nỗi cả đời không thể ngẩng đầu. Nhưng con đường phía trước sẽ như thế nào đây? Tất cả vẫn còn mờ mịt!

    Cuối năm đó có đại tang Cảnh hoàng đế, công chúa khuyên bảo hầu gia chuyển nhà lên Trường An. Hoàng đế mới kế vị đặt niên hiệu là Kiến Nguyên, lập thái tử phi trong truyền thuyết Kim ốc tàng kiều làm Trung Cung hoàng hậu. Phẩm cấp của Bình Dương công chúa cũng được nâng lên thành Bình Dương trưởng công chúa. Bệ hạ niệm tình tỷ đệ, ngầm đồng ý cho tỷ tỷ và cả nhà tỷ phu ở lại Trường An. Nàng chứng kiến cảnh phồn hoa của Trường An, hiểu rằng Công chúa nhất định có mưu đồ nên mới huấn luyện ca múa cho các nàng từ rất nhỏ. Biết vậy nhưng nàng cũng không dám nghĩ quá xa. Dù nàng có mặc y phục hoa lệ, dung nhan xinh đẹp thì chẳng qua vẫn là một ca cơ như cũ, thấy người thì phải khẽ cúi đầu gợi lòng trắc ẩn. Người đi bên dòng suối nhỏ trông thấy ngọn núi đằng xa đã cảm thấy rất cao, sao còn dám ôm mộng bay lên tầng mây? Vận mệnh không biết là hào hiệp hay tàn khốc đã mở ra một cánh cửa cho nàng. Nàng cứ thế bước tới, chẳng biết đi đâu về đâu, không thể tự mình quyết định.

    Nàng biết rằng bệ hạ và Trưởng công chúa là cùng một mẹ sinh ra, tình cảm rất sâu đậm. Một hôm bệ hạ tới thăm phủ Bình Dương hầu, Trưởng công chúa sai mấy mỹ nhân tới hầu hạ, bệ hạ đều nói cười thản nhiên, nhìn không thuận mắt. Thị nữ thiếp thân A Lan của Trưởng công chúa bảo, “Tử Phu, cô lên phòng khách ca múa đi.” Vào khoảnh khắc đó, nàng cảm thấy dường như ông trời đã ban xuống cho mình một cơ duyên, nói không động lòng là giả dối. Người theo học nghề ca múa thành tài sẽ được bán vào nhà các vương hầu nhưng nàng còn có cả dung nhan vô song, nếu muốn bán thì cũng phải bán cho đế vương. Lúc bấy giờ, bệ hạ còn rất trẻ, nàng cũng vậy. Người trẻ tuổi tràn đầy ảo tưởng với tình yêu, cứ thế lao vào con đường tình ái không hề sợ hãi.

    Đế vương ngồi trên cao, cặp lông mày lưỡi mác, đôi môi rất mỏng, cực kỳ tuấn tú. Chắc y đang ở trong hoàn cảnh bất đắc chí, trên mặt phảng phất nét buồn.

    Đó là người ngồi trên ngôi vị thiên hạ chí tôn! Nàng như người ngã trong bùn lầy ngước nhìn mây bay trên trời, còn chưa cất tiếng thì lòng đã tan ra. Nàng quên hết, không còn nhớ mình đã hát, múa như thế nào, chỉ còn nhớ rằng y ngồi ở trên cao hơi nhướng mày, uống cạn chén rượu, ánh mắt nhìn nàng lóe lên một tia thưởng thức. Nàng hầu hạ y thay quần áo. Y gỡ chiếc trâm cài tóc của nàng, khen ngợi, “Mái tóc đẹp quá!” Chuyện xảy ra như một giấc chiêm bao. Nàng theo người đàn ông này về cung Vị Ương. Nàng vẫn biết, tục danh của hoàng đế triều Đại Hán hiện giờ là Lưu Triệt, chỉ là từ đó về sau, cái tên này không chỉ khiến nàng tôn sùng mà còn mang một ý nghĩa sâu sắc hơn rất nhiều.

    Rồi cũng đến lúc nàng nhìn thấy người đó. Cung nữ đến trước xe ngự bẩm báo, “Hoàng hậu nương nương chờ bệ hạ trở về đã lâu rồi.”

    Trong xe ngự yên lặng một lát rồi truyền ra giọng của bệ hạ, “Vậy à?”

    Nàng đứng cuối xe ngự, nghe tiếng nói ở gần trong tấc gang mà lại xa xăm như tận chốn chân trời.

    “A Kiều tỷ”, bệ hạ xuống xe, mỉm cười hỏi, “Bên ngoài gió lớn thế mà sao nàng còn ở đây?”

    Cô gái kia cười duyên dáng quay lại, khẽ nghiêng đầu nói: “Chàng không ở trong cung, thiếp nhớ chàng nhiều lắm, cứ tính toán từng canh giờ xem lúc nào chàng trở về để chờ ở đây.”

    Đó là người con gái tôn quý nhất mà nàng đã gặp trong cuộc đời này. Người con gái đó dù gặp bệ hạ cũng chưa từng chịu cúi đầu vẫn tươi cười chàng chàng thiếp thiếp như thể đó chỉ là phu quân của mình. Đến sau này, nàng vươn lên được địa vị cao giống người đó nhưng không sao có được khí thế như của đối phương. Đến cuối cùng thì nàng mới hiểu rằng, nàng – Vệ Tử Phu chỉ là hoàng hậu của Lưu Triệt, còn Trần A Kiều mới là thê tử của Lưu Triệt.

    Vẻ đẹp của Trần A Kiều khác với vẻ đẹp của nàng. Ở Trần A Kiều là vẻ đẹp cao quý, không người nào có thể phủ nhận được. Có một hoàng hậu xinh đẹp như vậy thì đương nhiên nàng phải bị vứt bỏ, vào làm nô tỳ trong cung. Nhưng nàng không cam lòng! Hiến thân cho đế vương không phải để sống lại cuộc sống nô tỳ thuở trước. Nàng nghe người trong cung nói rằng bệ hạ và hoàng hậu ái ân nồng thắm, hiếm thấy trong nhà đế vương. Vậy còn nàng thì sao? Vệ Tử Phu này được xem là cái gì?

    Một năm sau, cung Vị Ương loại bỏ những cung nữ lớn tuổi. Nàng tuyệt vọng, mang lòng quyết tâm không thành công cũng thành nhân vượt qua bao khó khăn để đến được trước mặt bệ hạ, quỳ gối cầu xin y cho nàng rời đi. Bệ hạ trông thấy dung nhan vừa quen thuộc vừa xa lạ đang lệ rơi đầm đìa liền sủng ái lại lần nữa. Lần này thì hoàng hậu nương nương không cách nào nhẫn nhịn. Một người con gái cao quý sao có thể chịu được cảnh phải cùng chia sẻ phu quân với một ca cơ có thân phận thấp hèn.

    Nhưng rồi nàng đã mang thai. Từ lúc bệ hạ đăng cơ đến nay chỉ sủng ái một mình hoàng hậu nhưng vẫn chưa có người nối dõi. Chuyện kế thừa của hoàng gia cực kỳ trọng yếu. Hoàng hậu nương nương không quản đến mọi việc, chỉ để ý đến phu quân của mình, nào ngờ vừa tỉnh mắt ra thì ngày đã sang, người đã khác. Nàng vẫn cho rằng sở dĩ Trần A Kiều thua là bởi vì bệ hạ ở ngôi cửu ngũ thì không thể nào chỉ có vĩnh viễn một người. Sau này, nàng mới bi thương phát hiện ra, trên đời này chẳng có chuyện gì là tuyệt đối. Như vậy thì ai đúng ai sai chẳng phải đã rõ ràng ngay từ buổi ban đầu ?

    Hoài Nam quận chúa Lưu Lăng cũng yêu bệ hạ, liên kết với nàng, lợi dụng người nhà Sở Phục để ép buộc Sở Phục phải đẩy Hoàng hậu nương nương vào chỗ chết không nhắm mắt. Nàng lạnh lùng theo dõi Lưu Lăng, âm thầm suy nghĩ xem vì sao cô ta lại phải khổ đến như vậy? Ngay cả đánh đổ Trần A Kiều thì Lưu Triệt vẫn không thể nào là của cô ta được. Thế thì khổ cực cho ai, vội vàng cho ai? “Cho nên, Tử Phu, ngươi phải nhớ kỹ.” Nàng tự nói với bản thân mình, những cô gái đắm chìm trong tình yêu thật quá ngu ngốc, nếu có ngày đó thì ngươi không được để mình giống như bọn họ. Nào ngờ khi người kia quay trở về, nàng mới thấu hiểu, có một số chuyện không phải cứ tự cảnh cáo mình là có thể không phát sinh.

    Những năm đó, nàng ở bên cạnh đế vương với thân phận mẫu nghi thiên hạ, bình thản nhìn đế quốc Đại Hán ngày một cường thịnh. Thời gian thấm thoắt, nàng cũng dần dà phó thác cả trái tim mình cho y. Tại sao lại phải yêu chứ? Bởi vì y quá tuyệt tình hay vì thời gian trôi qua quá vô vị? Không một ai ở dưới vòm trời này có thể đưa ra đáp án.

    Song một luồng tình ý cuối cùng cũng đã mất đi. Bọn họ ngửa tay làm mây, úp tay làm mưa nhưng lại quên mất rằng bệ hạ đang ở bên cạnh lạnh lùng quan sát. Vào ngày đã quyết định xong ý chỉ phế hậu, bệ hạ tới dùng bữa ở điện của nàng. Sau khi ân ái, y nhìn dung nhan xinh đẹp của nàng, đột nhiên cười lạnh nói, “Trẫm thật không nhìn ra khanh lại là người có lòng dạ hiểm độc.”

    Nàng kinh hãi, toát mồ hôi lạnh. Đó là hoàng đế của hoàng triều Đại Hán, thiên hạ đều ở trong tay y. Đến sau này, nàng mới biết, bản thân tự cho là đắc kế nhưng chẳng qua là vì bệ hạ ngầm đồng ý nên chuyện mới phát sinh. Người kia là biểu tỷ cùng lớn lên với y từ nhỏ, là người con gái mà y từng hứa hẹn muôn vàn sủng ái, được người đời ca tụng là đôi đế hậu cầm sắt hòa hợp. Y lại cứ thế nhìn người đó chầm chậm đi đến vực thẳm, sau đó còn đích thân đẩy xuống. Nàng vẫn cho rằng mình biết rõ hơn Trần A Kiều về sự vô tình của người cùng chung chăn gối nào ngờ y không phải là vô tình mà là tuyệt tình. Từ ngày đó, nàng bắt đầu học theo cách nghĩ của y để hành xử thì y lại dần rời xa nàng. Nếu không phải bởi vì nàng đang mang thai Chư Ấp, e là trên thế giới này không có một hoàng hậu tên là Vệ Tử Phu. Trong hậu cung ba ngàn phi tần cung nữ nhưng có sinh có dưỡng thì chỉ một mình nàng. Sau này ấu đệ Vệ Thanh bắt đầu quật khởi. Cuối cùng, nàng sinh hạ con trai trưởng Lưu Cứ, được lập làm hoàng hậu. Vào lúc đó, nàng lại không biết rằng ở Đường Cổ Lạp Sơn xa xôi, Lưu Mạch và Lưu Sơ cũng đã bắt đầu bi bô học nói.

    Từ một ca cơ lên đến ngôi vị hoàng hậu, truyền kỳ về kỳ tích như vậy đủ để phủ bóng lên câu chuyện cũ Kim ốc tàng kiều. Nàng dần quên mất rằng thuở bé mình cũng hằng ngưỡng mộ câu chuyện huyền thoại đẹp đẽ này. Cho đến năm Nguyên Sóc thứ sáu, cái tên bị quên từ lâu lại được nhắc tới một lần nữa. Trở về theo cái tên đó còn có một công chúa giống mẫu thân của cô như đúc, tên gọi là Sơ. Cô bé kia nói, chữ “Sơ” này ở trong một câu thơ đẹp đẽ “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”

    “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”

    “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”

    Khi nàng nghe được câu này thì chỉ cảm thấy buồn cười, đời người nếu mãi như khi bọn họ vừa gặp nhau thì Vệ Tử Phu nàng sẽ ở đâu? Hoặc nếu như đời người mãi chỉ như khi nàng vừa gặp bệ hạ thì trên đời này cần gì phải có một Trần A Kiều? Đều là những chuyện mâu thuẫn. Mà có lẽ, đời người vốn là một mâu thuẫn lớn nhất. Trong khoảnh khắc đó, nàng mơ hồ cảm thấy lòng đau đớn.

    Vốn nàng vẫn luôn tự nhắc nhở mình đừng yêu nhưng cuối cùng lại vẫn sa vào đó. Thoáng chớp mắt đã từ năm Kiến Nguyên thứ hai đến năm Nguyên Sóc thứ sáu, được hơn mười năm rồi. Năm tháng dài như vậy, yêu thương cứ lớn lên từng chút một khiến khi tỉnh ngộ thì chính bản thân mình cũng không thể xóa bỏ được nữa. Cũng như đời nàng đã được chú định thống khổ, đến chết vẫn không yên.

    Bệ hạ ban cho cô bé kia danh hiệu Duyệt Trữ, ở tại điện Chiêu Dương, Duyệt Trữ! Duyệt Trữ! “Du duyệt an trữ”[2]. Trong cung Vị Ương này, ai có thể thực sự vui vẻ an bình? Trong điện có bao nhiêu là người mà cô bé không hề e ngại dám nói rằng mình nhớ mẫu thân, mẫu thân của mình là người phụ nữ tốt nhất thiên hạ.

    [2] Vui vẻ bình an.

    Người phụ nữ tốt nhất thiên hạ? Nàng nhớ lại người con gái trong ký ức, khuôn mặt như đóa phù dung, cặp mày lá liễu, dĩ nhiên là đẹp tuyệt trần. Nhưng với tính cách kiêu ngạo tùy hứng như vậy thì có muốn làm trái lương tâm để nói ra một chữ tốt cũng thấy khó khăn. Chẳng phải bệ hạ cũng bị tính cách đó của người kia từng bước ép phải rời xa sao?

    Tính cách kiêu ngạo đó, sau nhiều năm lưu lạc bên ngoài có được mài giũa? Đã bước chân ra khỏi thành Trường An, nào ai nguyện ý chịu đựng người kia thêm lần nữa. Trần A Kiều mất đi tính cách kiêu ngạo rừng rực như lửa thì có còn là Trần A Kiều như trong ký ức? Nàng cũng chẳng nghĩ được rõ ràng. Trong lòng nàng, cái tên Trần A Kiều đồng nghĩa với một người con gái luôn kiêu ngạo, giống như một con phượng hoàng luôn đứng thẳng, kiêu hãnh bay trong biển lửa không bao giờ chịu cúi đầu, cuối cùng bị đốt thành tro bụi. Ngay cả nàng là kình địch nhưng cũng không thể không thừa nhận rằng hình ảnh hủy diệt huy hoàng đó đẹp đến tột đỉnh. Đẹp đến nỗi không ai có thể trơ mắt lạnh lùng chứng kiến giây phút cuối cùng. Thế nên, Lưu lang của nàng mới thật là vô tình!

    Nàng vẫn ôm mối hận. Đều là phận nữ nhi, đều là hoàng hậu, tại sao Trần A Kiều lại có thể sống mạnh mẽ, thẳng thắn như vậy còn nàng thì cứ ngày ngày lặng lẽ, mỏi mòn ở cung Vị Ương phồn hoa để cuối cùng héo hon đi giống như chiếc bóng mỹ lệ trên tấm màn lụa hàng đêm kéo lên trong điện Tiêu Phòng mà không hề có sinh khí.

    Sau khi nàng sinh Cứ Nhi thì bệ hạ trở nên lạnh nhạt. Nàng nghĩ, chung quy lại thì y chỉ muốn có một đứa con trai nối dõi mà thôi. Nàng giúp được y thực hiện hy vọng đó, nên y cho nàng ngồi lên ngôi vị hoàng hậu cao quý nhất mà cũng cô quạnh nhất ở cung Vị Ương, rồi để mặc nàng cho số phận giày vò, còn nàng cũng vui vẻ chịu giày vò như thế. Có ai trên cõi đời này không ngưỡng mộ, có ai ở trong cung Vị Ương không tôn sùng ngôi vị trí hoàng hậu? Người đời thường nói nó là đại biểu cho ngôi vị mẫu nghi thiên hạ, nhưng chỉ có người ngồi trên mới biết được cảm giác bi thương trộn lẫn với hân hoan.

    Nàng chiếm được ngôi vị hoàng hậu mà mình ước ao thèm khát nhưng lại đánh mất sự sủng ái của phu quân. Nàng cũng không biết phải chăng mỗi người đàn bà đang tranh đoạt ngôi thứ trong cung Vị Ương đều như vậy? Một người đàn bà có được tôn sùng đến đâu thì trước hết vẫn là một nữ nhân, mà đã là nữ nhân thì liệu có người nào không mong mỏi được phu quân thương yêu? Người trong cung Vị Ương thôi không còn nhắc đến Trần hoàng hậu nữa mà bây giờ bọn họ chỉ nói đến Vệ hoàng hậu ở điện Tiêu Phòng.

    “Vệ hoàng hậu là người hiền hậu. Hôm qua ta làm việc trong ngự hoa viên. Vệ hoàng hậu đi qua còn hơi mỉm cười với ta.”

    “Vệ hoàng hậu thật may mắn. Nghe nói, nàng vốn chỉ là một ca cơ của phủ Bình Dương hầu.”

    “Đúng đấy. Nói về thân phận thì Trần hoàng hậu trước kia cao quý biết nhường nào chứ? Thế mà chẳng phải cũng thua bởi một ca cơ? Có thể thấy được…”



    Cho nên, sinh nam không vui, sinh nữ không giận, ai không thấy Vệ Tử Phu bao trùm thiên hạ?

    Lức nàng mới nghe được bài hát đó thì đột nhiên bật cười. Những người đó chỉ thấy được bề ngoài rạng rỡ nhưng lại không thấy được bùn lầy bên dưới. Nàng vẫn luôn nghĩ nếu không có Cứ Nhi, không có Thanh đệ, không có Khứ Bệnh thì rốt cuộc nàng là cái gì ở trong lòng Lưu lang? Cô bé kia nói suốt nửa năm, Lưu lang cũng nghe suốt nửa năm, dần thấy người kia quả thật là một người rất tốt. Người kia trong dĩ vãng luôn kiêu căng tùy hứng làm tổn thương y nhưng đã được thời gian xóa mờ, giờ trong ký ức chỉ còn lại những gì tốt đẹp.

    Trong cuộc đời mỗi người đàn ông đều có một bông hoa hồng nhung và một đóa hồng trắng. Hoa hồng trắng là dịu dàng, hoa hồng đỏ là nồng nhiệt. Y rời xa hoa hồng đỏ đã lâu nên coi người đó như một nốt ruồi son trước ngực, giữ tận trong lòng, nếu không có lại được thì sẽ mãi còn day dứt, Lúc đó, nàng cũng đã nhìn thấy trước chuyện của mười năm sau nhưng nàng chỉ không đoán được kết cục, càng không đoán được lòng của Lưu lang. Nếu thật sự là vô tình thì hãy vô tình đến cùng, sao dần lại có tình, rồi khối tình đó lại dành cho người khác, khiến cho nàng đã mộng đến nửa đêm lại tỉnh, sao không khỏi đớn đau?

    Nàng vẫn cho rằng Cứ Nhi là chỗ dựa cuối cùng, không thể bị đánh đổ của mình nhưng nào ngờ cuối cùng nàng lại thất bại, phải tự vẫn cũng vì nó. Trong đời người có chuyện nào mỉa mai hơn? Năm Nguyên Sóc thứ hai, nàng sinh Cứ Nhi, đăng cơ làm hoàng hậu. Năm Nguyên Sóc thứ năm, Vương Thấm Hinh sinh Nhị hoàng tử Lưu Hoành, nhất thời giành được ân sủng của Hoàng thượng. Cứ Nhi không còn là con trai nối dòng duy nhất của y. Năm Nguyên Sóc thứ sáu công chúa Duyệt Trữ Lưu Sơ hồi cung. Cuối năm Nguyên Sóc thứ sáu, Trần A Kiều dẫn theo Lưu Mạch hồi cung. Bọn họ nói, hoàng tử trưởng mới thật sự là giống bệ hạ, giống từ cặp mắt đến bờ môi. Cuối cùng thì đứa con giống Lưu lang của nàng nhất vẫn là con trai của người đó. Còn tướng mạo Cứ Nhi một nửa giống Lưu lang, một nửa giống nàng, lúc bình thường cảm thấy không có gì, nhưng bây giờ nghĩ lại mới có chút oán hận.

    Bệ hạ để cho Trần A Kiều quay về Trường Môn. Nhị tỷ an ủi nàng rằng như vậy không tốt sao? Điều này nói lên rằng bệ hạ không coi trọng người kia vì Trường Môn chính là lãnh cung. Nàng cười lay lắt, nói nhị tỷ quả thật là quá ngây thơ. Trường Môn cũng là nơi người làm hoàng hậu như nàng không thể quản đến. Từ đó có thể thấy được ý của bệ hạ là muốn bảo vệ cho Trần A Kiều.

    Ngẫm nghĩ ra mới thấy thật không công bằng. Nàng ở cung Vị Ương này đã hơn mười năm vẫn cảm thấy có khoảng cách, không sao vừa mắt Thái hậu. Nếu không phải vì Cứ Nhi thì e rằng nàng còn chẳng duy trì được ngay cả cái cục diện không mặn không nhạt như ngày hôm nay. Ấy vậy mà, Trần A Kiều vừa mới trở về, chưa nói đến mẫu thân là Trưởng công chúa Quán Đào mà ngay cả Vương thái hậu cũng đối xử bằng ánh mắt khác. Chẳng phải Lưu lang của nàng cũng coi trọng người kia hơn một chút sao?

    Bọn họ cố ý cách ly nàng với người kia, mà ngay bản thân hai người cũng ngầm thỏa thuận là không gặp nhau. Gặp nhau thì cả hai ắt sẽ đều lúng túng. Nàng được nghe kể rằng người kia vốn đã xinh đẹp nay càng xinh đẹp, năm tháng lại ưu ái không để lại bao nhiêu gió sương trên dung nhan, hơn nữa tính cách đổi thành tao nhã, điềm đạm, chẳng chút nào giống cô gái kiêu ngạo nông nổi trong ký ức của nàng. Ngay cả nàng cũng không nhịn được tò mò, người kia trong mấy năm nổi chìm lưu lạc đã xảy ra chuyện gì mà đổi thành dáng vẻ hôm nay?

    Sau khi bệ hạ hồi cung, kết quả của lần đầu tiên đi gặp người kia là chia tay trong hờ hững. Người kia lén xuất cung bị biết được, vì cung nữ trong điện Trường Môn nên đành phải tới điện Tuyên Thất cầu tình. Sau đó, bệ hạ ân xá cho bọn họ, còn đồng ý để người kia xuất cung. Trong đại thọ của Trưởng công chúa Quán Đào, người kia xuất cung chúc thọ, bệ hạ cũng tới đó rồi được người kia săn sóc khi bị dị ứng nổi mẩn do uống rượu. Đêm Trừ tịch của năm Nguyên Thú đầu tiên, bệ hạ ở lại Trường Môn, sáng sớm chia tay trong nặng nề.

    Nàng biết nàng không thể oán, không nên oán nhưng từng chuyện, từng chuyện đều không khỏi gợn lên trong lòng. Dù không đau nhưng nếu cứ kéo dài mãi thì sẽ khiến nàng trở nên ưu sầu. Nàng muốn nhắm mắt che tai không nhìn tới, không nghe tới nhưng vẫn tự có người đến báo, còn nàng đành phải gượng giữ vẻ mặt tươi cười, lắng nghe.

    Nàng biết bệ hạ coi trọng Trần A Kiều, không cho phép nàng động tới người ta. Những năm này, nàng ở trên ngôi vị hoàng hậu nhưng vẫn luôn ghi nhớ lời giáo huấn năm xưa, một mực án theo ý tứ của y mà hành sự, giữ yên hậu cung để y có thể an tâm lo chuyện nước. Cũng vì thế nên bệ hạ mới có thể để nàng ngồi trên ngôi vị hoàng hậu nhiều năm như vậy. Y lại không biết, tuy nàng mỉm cười nhìn y lui tới các tòa điện trong cung Vị Ương, bề ngoài vẫn tỏ ra bình thản nhưng trong lòng lại đau nhói. Nếu có thể, sẽ chẳng người phụ nữ nào nguyện chia sẻ phu quân với người khác, trừ phi người đó không hề có chút tình cảm. Nàng yêu thương y nên nhất định sẽ đau đớn.

    Trước khi Trần A Kiều trở về, nàng cho rằng mình có thể cứ cười như vậy đến suốt đời, cao cao tại thượng nhưng tịch mịch, đợi chờ Lưu lang thỉnh thoảng lui đến. Trần A Kiều trở về đã phá vỡ hạnh phúc nhỏ nhoi đó của nàng.

    Giờ nàng mới biết, hóa ra nàng có thể chịu đựng được chuyện Lưu lang ở chung với những người con gái khác nhưng không thể dễ dàng tha thứ chuyện Lưu lang quay lại với Trần A Kiều. Điều này không khác một cái tát giáng thẳng vào nàng, nói cho nàng biết rằng, thắng lợi mà nhiều năm qua ngươi vẫn tự cho là mình giành được chỉ là giả tạo Người kia đã từ vận mệnh trở về, đòi lại hết thảy những gì trước đây nàng cướp đi.

    Sau này nàng nghĩ, có lẽ lúc đó, trực giác nhạy cảm đã nói cho nàng biết, Lưu lang đã dần yêu người con gái mà y từng vứt bỏ. Như vậy, khi chính bản thân y cũng ý thức được điểm này thì chẳng phải người đã từng làm tổn thương A Kiều là nàng sẽ phải chết không chỗ chôn thây? Thế nên, cuộc đấu của nàng và người kia còn là cuộc đấu sinh tử,

    Nàng cũng không biết sau khi trở về người kia sẽ thế nào nên mới bố trí một cái bẫy hết sức tinh vi, kết cục mới biết chính bản thân mình lại là người sập bẫy. Người kia thì sao? Sau khi thắng rồi cũng không thèm đếm xỉa gì tới nàng mà lại xin bệ hạ một đạo ý chỉ để về phủ Đường Ấp hầu ở tạm. Lần ở tạm này dài tới một năm.

    Trong một năm đó, nàng bị giam lỏng ở điện Tiêu Phòng, đối diện với cung điện hoa lệ nhưng trống rỗng, bơ vơ không biết bấu víu vào đâu. Mọi người nói rằng bệ hạ thường tới phủ Đường Ấp hầu thăm người kia, giảm bớt số lần lưu lại cung Vị Ương.

    Nàng chỉ cười dịu dàng, lặng lẽ nghe bọn họ bàn tán, ra vẻ cảm thông lẫn bất bình thay cho mình, lòng cứ thế nhạt dần, Nàng đã yêu phải một người chưa bao giờ yêu nàng, vậy thì tình yêu của nàng cứ thế, cứ thế tan biến. Nếu tình yêu đó chỉ có thể làm cho nàng khổ, làm cho nàng đau thì nàng cũng không cần nhưng e rằng, nếu vứt bỏ nó thì nàng sẽ đau đớn không chịu nổi, đau đớn muốn chết đi. Nàng còn có người nhà phải bảo vệ, Cứ Nhi phải che chở, cho nên nàng không có thời gian để mềm yếu, không có thời gian để héo sầu xuân thu, không có thời gian để mà khóc cho mối tình đang tàn tạ.

    Năm Nguyên Thú thứ hai, trưởng nữ Vệ Trường xuất giá. Đến con gái cũng đã đến tuổi gả chồng thì nàng coi như đã già rồi. Vệ Trường thật sự rất giống nàng, giấu kín những bi thương ở trong lòng. Nàng thật sự mến một thiếu niên, nhưng người thiếu niên đó lại ngại là biểu ca của nó. Cảm mến thì làm sao? Với tình cảnh của Vệ gia ngày đó thì chuyện hôn nhân của Vệ Trường là cực kỳ quan trọng với nàng. Nàng không thể để cho tình cảm riêng tư của con gái gây ảnh hưởng đến mưu đồ toàn cục. Nhưng nàng làm con gái bi thương thì lòng nàng còn bi thương hơn. Bi thương vì nàng biết rõ Vệ Trường không tình nguyện nhưng vẫn lựa chọn gả vào Lý gia. Dường như những gì trong đời nàng lại một lần nữa tái diễn, những gì làm ra hoàn toàn khác với suy nghĩ trong lòng.

    Từ phương bắc truyền tin về báo rằng Khứ Bệnh đại thắng. Quả nhiên Khứ Bệnh là một đứa trẻ xuất sắc, tài hoa rực rỡ, không uổng công Vệ Trường thương yêu. Vệ Trường thật sự có cặp mắt tốt hơn nàng, nó chỉ là yêu mà không đến được, còn nàng lại vì yêu mà thành tổn thương.

    Trường Tín hầu Liễu Duệ toàn thắng Hung Nô, đem về bào tỷ[3] của bệ hạ, Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm, kết hôn cầu hòa với Hung Nô đã nhiều năm. Đồng thời ở thành Trường An, sinh mạng của Vương thái hậu cũng bước tới giờ phút cuối cùng. Người phụ nữ dù tôn quý đến đâu thì khi tiến gần đến giờ phút tử vong cũng đều giống nhau. Vương thái hậu vẫn luôn mong ngóng Nam Cung trưởng công chúa trở về. Nhiều năm trước, bà đã đưa nàng đi Hung Nô kết hôn cầu hòa trong khi bản thân mình thì an nhàn ngồi trên ngôi vị tôn quý cũng cảm thấy xót xa. Xót xa cũng chỉ là xót xa, nếu mọi chuyện tái diễn, bà vẫn dứt khoát lựa chọn đưa đứa con gái yêu của mình ra đi để giúp cho chính bà và đứa con trai. Cũng giống như nếu được sống lại một lần nữa, nàng vẫn sẽ chọn cách dùng chuyện Vu cổ hãm hại Trần hoàng hậu. Xét về bản chất thì nàng và Vương thái hậu là cùng một loại người. Cả hai không phải không có tình yêu, nhưng vì những thứ quan trọng hơn tình yêu mà đành chôn vùi nó. Chỉ là Vương thái hậu thành công, còn nàng từ trước tới nay vẫn cho là mình thành công nhưng bây giờ nhìn lại mới biết nguy cấp như rơi xuống vực thẳm, thế nên hai người luôn không thể gần gũi nhau.

    [3] Bào tỷ: Chị ruột.

    Vào ngày Vương thái hậu qua đời, nàng đứng ở ngoài cung Trường Nhạc với tâm trạng cực kỳ hờ hững, không vui không buồn. Người phụ nữ đang hấp hối trong cung Trường Nhạc phồn hoa tôn quý là mẫu thân của phu quân nàng. Bà và nàng sống ở trong hai cung điện suốt bao nhiêu năm qua nhưng tới giờ vẫn như hai người xa lạ. Bản thân nàng tràn ngập bi thương, chẳng thể nào chia sẻ với người phụ nữ nửa đời huy hoàng nhưng sắp ra đi kia.

    Song, bà lại là mẫu thân của Lưu lang. Vào thời khắc đó, Lưu lang thật sự bi thương. Dù Lưu lang có tàn nhẫn đến đâu nhưng trong lúc mẫu thân qua đời thì trái tim y vẫn thoáng có chút mềm yếu. Nàng đi theo y tới ngoài điện Linh Tâm. Mọi người nói rằng Lưu lang ở tại tòa cung điện này từ nhỏ đến lớn. Lưu lang của nàng ngồi trong điện Linh Tâm thương tiếc mẫu thân, còn nàng đứng ở ngoài, chần chừ không dám vào. Thời gian đã mài mòn dũng khí của nàng. Nàng không còn được như hồi còn trẻ, không hề sợ hãi về tiền đồ phía trước.

    Người đời nói rằng, hiểu rõ tâm Hoàng đế nhất trên đời này chính là Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý hầu hạ bên cạnh y nhiều năm. Ngày hôm đó, Dương Đắc Ý đã đi khắp cung điện tìm Trần A Kiều. Nàng đứng tại đình Viễn Sơn ở rất xa, nhìn Doãn Giai La tiến vào rồi bị bệ hạ nổi trận lôi đình truyền giải tới Dịch đình. Cuối cùng là Trần A Kiều bước vào.

    Nàng cứ đứng chờ mãi ở trong đình, đợi đến khi sắc trời sẩm tối, đợi đến khi những cơn gió Nam tháng Năm thổi tới, tâm hồn lạnh giá vẫn chưa thấy người kia đi ra ngoài. “Hoàng hậu nương nương”, Thải Thanh khẽ nhắc, “Chúng ta trở về thôi.” Nàng quay đầu lại, tựa hồ nghe ra vẻ bất nhẫn trong lời của Thải Thanh, cười không thành tiếng.

    Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm từ nhỏ đã có tình cảm rất tốt với Trần A Kiều, trước mặt mọi người gây khó xử cho nàng, đối đãi lạnh nhạt. Sau khi Thái hậu qua đời, nàng chính là người phụ nữ tôn quý nhất Đại Hán nhưng sao lại phải cẩn trọng hơn so với trước kia? Bệ hạ dẫn Nam Cung trưởng công chúa và Trần A Kiều tới cung Cam Tuyền nghỉ hè. Sau khi trở về, ân ái càng thêm nồng thắm. Còn nàng thì trông coi ngôi vị hoàng hậu lạnh lẽo mà dần trở nên mòn mỏi, gầy yếu đến nỗi chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua cũng ngã.

    “Mẫu hậu”, các con gái gọi nàng vẻ lo lắng.

    “Không có chuyện gì”, nàng bình thản đáp, vẫn cười dịu dàng. “Ta đã quen rồi.” Đúng vậy, nàng đã quen. Không phải là nàng nguyện ý quen mà hiện thực buộc nàng phải như vậy, không chấp nhận thì làm thế nào?

    Dương Thạch đã xuất giá, Khứ Bệnh cũng đã mất đi. Không khí tịch mịch tràn ngập cung Tiêu Phòng. Ngay cả mái hiên thoạt nhìn tráng lệ huy hoàng trong những năm đầu giờ cũng ảm đạm qua năm tháng bào mòn. Còn nàng càng ngày càng trở nên thận trọng. Cho tới bây giờ, chỉ cần con gái mạnh khỏe, gia tộc bình an, nàng sẽ có thể cứ thận trọng như vậy đi hết cuộc đời.

    Cuối cùng nàng vẫn không thể chống lại con bão táp bộc phát trong Thượng Lâm Uyển. Lúc vừa nghe chuyện, nàng rất ngạc nhiên, ngoài nỗi lo lắng cho gia tộc còn là một thoáng sung sướng. Trần A Kiều kiếp này ngươi luôn thuận buồm xuôi gió mà cũng có ngày hôm nay sao? Mất đi đứa con kia, nhất định ngươi sẽ rất đau, rất đau, có đau như ta không?

    Nàng gắng sức làm giảm cơn sóng lớn đổ ập vào Vệ gia nhưng không thể ngăn được nỗi sợ hãi lúc đêm khuya nằm ngủ một mình ở điện Tiêu Phòng. Chẳng lẽ lần này thật sự không qua được? Năm xưa nàng đối xử với Trần A Kiều như thế nào thì tới giờ vận mệnh như muốn báo ứng trở lại gấp bội. Người đầu tiên ra đi là ngoại trưởng tôn.

    Sau đó là Dương Thạch, cuối cùng là Cứ Nhi. Vận mệnh nếu muốn nàng bại lui từng bước, nàng cũng chẳng thể cưỡng nổi. Nàng chỉ có thể ngồi trên chiếc ghế hoàng hậu giá lạnh, xung quanh chỉ còn mấy đứa con và người thân. Chỉ sợ sau cơn phong ba này thì chiếc ghế hoàng hậu cũng sẽ mất đi. Sao nàng có thể cam tâm? Nếu phía sau đã là vực sâu vạn trượng, không thể lui được nữa thì sao nàng có thể tiếp tục lui cho được? Tiếp đó, chuyện mưu phản, Vu cổ dồn dập ập đến. Tất cả đều đã sắp đến hồi kết thúc, nàng ngồi gảy đàn trong điện Tiêu Phòng. Đó là khúc Thượng Tà trong Nhạc phủ.

    “Nguyện làm đôi lứa tương tri, trọn đời chẳng phân ly.

    Núi sẽ mòn, nước sông rồi cạn,

    Đông sấm rền, hè giăng mưa tuyết,

    Trời đất sập, mới cùng chàng ly biệt!”

    Cuộc đời của nàng, chẳng qua chỉ là một lần đánh cuộc lớn. Nửa đời trước, nàng thắng nên tới được điện Tiêu Phòng. Nửa đời sau, nàng lại thua nên tự vẫn, trả giá bằng tính mạng. Cuối cùng cũng đã xa cách với người. Lưu lang là quân vương, nhưng nàng chỉ mong mỏi y là lang quân của mình. Lúc còn trẻ, nàng lạnh lùng quan sát cô gái kiêu ngạo kia, thầm giễu cợt cô ta không hiểu chuyện. Lưu lang của các nàng là bậc đế vương làm chúa tể thiên hạ mà cô ta lại mong y chỉ sủng ái riêng mình, thế chẳng phải là quá ngây thơ hay sao? Giờ nàng mới biết, bất kỳ người con gái nào cũng đều nuôi vọng tưởng như vậy trong lòng. Chỉ là Trần A Kiều thành thực hơn, lại có tư cách để vọng tưởng nên mới nói ra không hề e ngại. Có thể sống một cuộc đời thẳng thắn như vậy, ai bảo không phải là hạnh phúc?

    Đã đến bước này, nhìn lại hết thảy, nàng chỉ thấy bản thân mình luôn bị áp chế, dù ngay cả lúc đắc ý nhất là đăng cơ lên ngôi hoàng hậu thì chung quanh vẫn chỉ là màu xám. Cả đời nàng chỉ duy nhất một lần mang màu sắc ấm áp. Đó là lúc người kia còn là hoàng hậu, còn nàng mới có Vệ Trường, bệ hạ đến điện của nàng thăm nom, hai người cùng bế Vệ Trường êm đềm vui vẻ. Cảnh tượng đó rất giống hồi còn bé, nàng từng thấy một gia đình nông dân ở huyện Bình Dương, vợ chồng quấn quýt bên nhau, cho đến già vẫn còn trao nhau đầu mày cuối mắt tràn ngập yêu thương. Chính nàng đã phá vỡ sự ấm áp đó, sắp đặt chuyện Vu cổ hãm hại Trần A Kiều, đẩy A Kiều khỏi ngôi hoàng hậu. Nếu như mong muốn lớn nhất trong cuộc đời chỉ là được bên nhau đến già thì lúc ban đầu nàng cần gì phải dốc hết tâm cơ để giành giật sự yêu thương của bệ hạ. Trong buổi ban đầu đó, rốt cuộc là vì nàng muốn giành lấy yêu thương của bệ hạ, biến y trở thành Lưu lang của mình nên mới nảy sinh tình yêu hay là vì nàng nảy sinh tình yêu nên mới quyết tâm liều mạng giành giật tình cảm của Lưu lang? Điều đó ngay cả bản thân nàng cũng không biết. Nàng chưa bao giờ nguyện ý đoạn tuyệt, chỉ mong gắn bó cả đời với y.

    “Núi sẽ mòn, nước sông rồi cạn,

    Đông sấm rền, hè giăng mưa tuyết,

    Trời đất sập, mới cùng chàng ly biệt!”

    Nhưng Lưu lang đã đoạn tuyệt trước với nàng. Cõi đời này chỉ có một Lưu lang, vậy sao đã có một Vệ Tử Phu lại còn sinh ra một Trần A Kiều? Hoặc là đã có Trần A Kiều rồi thì cần gì phải sinh ra một Vệ Tử Phu? Vận mệnh rất công bình. Nàng đã có gan đánh cuộc thì phải chịu thua nhưng lại không dứt bỏ được vì còn bốn đứa con trai con gái lại trên đời. Nếu có thể, kiếp sau nàng nhất định không quan hệ với nhà đế vương. Nàng đã thoáng suy nghĩ như vậy khi dải lụa trắng siết qua cổ.

    Hồn phách chết oan không được đầu thai nên nàng cứ dật dờ suốt bao năm, chờ đợi suốt bao năm ở trong Uổng tử thành này, ngày ngày xem cảnh bọn họ buồn, vui, tan, hợp rồi cuối cùng cũng đến một ngày chờ được Lưu lang của nàng đến. Quỷ sai đi ngang qua, khẽ báo. “Hiếu Vũ hoàng đế đến rồi đấy.”

    Nàng nhìn ra đằng xa, Lưu lang của nàng đã già lắm rồi, khuôn mặt tiều tụy. Không biết y còn nhớ rằng trong cuộc đời mình từng có một người con gái tên Vệ Tử Phu hay không. Bao năm rồi, nàng chưa từng rơi lệ, bây giờ đột nhiên bật khóc. Từng giọt, từng giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống, chưa qua hết gò má đã kết thành băng lạnh.

    Hiếu Vũ hoàng đế Lưu Triệt tại vị sáu mươi năm, chiến công hiển hách. Đám quỷ sai trong chốn U minh cũng nghe danh. Lưu lang cau mày hỏi, “Khi nào thì hoàng hậu của trẫm mới xuống đây?”

    Quỷ sai nói: “Sinh tử có số, đã tới U minh rồi thì hãy tuân thủ quy củ của chốn U minh. Nếu Hiếu Vũ hoàng đế cùng Hiếu Vũ Trần hoàng hậu còn có duyên phận thì nhất định có thể gặp được nhau trong cõi âm này.” Y định hỏi bao nhiêu năm nhưng rồi lại thôi. Hai năm sau thì Trần A Kiều cũng đến. Khác với Lưu lang, hai người phụ nữ lại có thể nhìn thấy nhau.

    “Ta và ngươi tranh đấu suốt bao nhiêu năm qua, ngươi có hận ta không?” Nàng chẳng biết hỏi gì hơn.

    “Nhiều năm như vậy”, Trần A Kiều chỉ cười, đáp ngoài dự tính của nàng: “Ta đã quên mất từ lâu.”

    Bao nhiêu năm đã qua… Đúng vậy, đã qua biết bao năm tháng. Trần A Kiều đã quên, nàng cũng chẳng nhớ. Tiếp sau là Vệ Trường, Dương Thạch, Chư Ấp rồi cả Cứ Nhi cũng xuống, tất cả những mối bận tâm của nàng ở trên trần thế đã hoàn toàn chấm dứt.

    Quỷ sai tới trước mặt nàng, nói, “Vệ Tử Phu, ngươi đã có thể chuyển thế.” Nàng bình thản gật đầu: “Được rồi.” Chờ đợi đằng đẵng quả thật là một chuyện mỏi mệt, phải nhớ mãi một đoạn ký ức muốn lãng quên lại càng mệt mỏi.

    Chầm chậm, chầm chậm, nàng cứ thế uống hết chén canh Mạnh bà vừa được bưng tới, vùi chôn hết thảy ân oán tình thù trong suốt cuộc đời.
     
    PhươngThảo thích bài này.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này