1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Dị năng Dị giới Huyền huyễn Trái Tim Của Quỷ - Tác giả : Jessie Mai - Tình trạng :Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Băng Băng, 4/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    ๖ۣۜTầm ๖ۣۜHoan ๖ۣۜC๖ۣۜT๖ۣۜV

    TRÁI TIM CỦA QUỶ

    Tác Giả : Jessie Mai
    Thể Loại : Dị giới, Huyền huyễn, Dị Năng, Truyện Teen
    Số Chương : 75 chương
    Nguồn : Truyện full

    [​IMG]
    Giới thiệu:
    Thể loại: Tiểu Thuyết,Truyện Tình Cảm,Dị giới,Truyện Tự Sáng Tác

    Nếu cả địa ngục cùng thiên đàng đều hiện hữu nơi trần thế sẽ như thế nào?

    Những con quỷ sẽ đi lại giữa loài người, thiên thần sẽ đứng giữa đám đông.

    Những cuộc chiến hỗn loạn sẽ nổ ra,

    Những vị thần cổ xưa ngủ sâu tại cõi vĩnh hằng. Thiên Thần và Ác Quỷ bị đẩy trở lại từ nơi chúng tới và vĩnh viễn không còn được đặt chân lên mặt đất. Con người cùng các loài sinh vật huyền bí và quyền năng vẫn sinh sôi, tồn tại cho đến bây giờ.

    Nơi đây,

    Vùng Bóng tối huyễn hoặc này, nó sống và thở dưới sự trị vì của Cambion, những đứa trẻ lai giữa quỷ và người trong cuộc chiến hỗn loạn.

    Vào một ngày mưa rào tại vịnh Thiên Đường, vùng vịnh tuyệt đẹp ở vùng Ánh sáng, một kẻ lạ mặt bỗng xuất hiện. Hắn dừng chân trước tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh, và bị âm thanh ấy mời gọi. Hắn đến bên nôi đứa bé, thì thầm những lời đầy buồn bã. Vận mệnh của đứa trẻ đã được vạch ra thật rõ ràng.

    Rồi hắn gieo rắc những hạt giống hy vọng cuối cùng, mà một ngày nào đấy, sẽ khiến cả một thế giới đã chết tái sinh.
     
  2. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 1-1
    Từ một vùng đất bị lãng quên
    Vọng tiếng gọi của kẻ đã chết
    Nơi ngọn lửa còn âm ỉ cháy
    Tiếng khóc thương cho chốn thiên đường.

    Gửi Michael, tình yêu của em.

    Anh còn nhớ những đêm dài vô tận, ta ngồi trên ban công ngắm nhìn thành phố?

    Chúng ta kể cho nhau nghe

    những câu chuyện

    về nhân gian và cuộc đời.

    Bây giờ,

    Hãy nhớ về điều đó,

    Tưởng tượng nó là một tấm bản đồ,

    đi theo trái tim anh

    và lắng ngheemkể một câu chuyện khác.

    Về hai con người kỳ lạ.

    Họ đến với nhau bởi sự đối nghịch.

    Thừa nhận đi, một phần của chúng ta là như thế đó.

    Nhưng câu chuyện này không phải về anh và em.

    Vậy hãy đồng hành cùng em, anh nhé.

    Rồi đôi ta sẽ nhận ra,

    Cái chết chưa bao giờ là kết thúc.

    Ký tên,

    Pandoras yêu dấu của anh.

    _____________________

    Tôi sinh ra vào một ngày mưa.

    Những gì mẹ kể là một màn mưa đục ngầu. Trắng xóa. Ẩm ướt. Lạnh lẽo. Và tối.

    Tôi có thể hình dung thật rõ ra khung cảnh ấy.

    Họ nói tôi sinh ra đã là một linh hồn yếu ớt, một linh hồn bị thánh thần bỏ rơi. Tôi sống được lâu chừng đó bởi có cơ thể của mẹ bao bọc quanh, cho đến khi tôi chào đời.

    Tôi đã chết một lần. Mẹ bảo thế.

    Tôi chết bởi thứ bệnh dịch tai quái mang tên khuẩn trắng đã hủy hoại cơ thể tôi, khi mà cái cơ thể đó vẫn còn đỏ hỏn và là một bào thai bé bỏng. Tôi không nhớ rõ thế giới khi mình còn là một bào thai, tôi chỉ nhớ về một thế giới khi tôi là đứa trẻ bốn tuổi, rộng lớn, vĩ đại, sáng. Tôi yêu thế giới khi tôi mới bốn tuổi hơn là khi tôi đã lớn, và chắc chắn là hơn nhiều khi tôi vẫn còn là một bào thai.

    Nhưng,

    tôi đã sống lại,

    vào một ngày mưa thứ hai.

    Tôi hồi sinh. Trong cơn giông lũ xối xả ngày hôm ấy, một con Quỷ đã mò đến cạnh tôi. Không, nó không phải Thần Chết, vì mẹ không thấy lưỡi hái nào. Và con Quỷ ấy đã giao cho tôi trái tim của nó. Tâm trí tôi hiện ra một khuôn mặt. Có ai đi cùng con Quỷ đó không? Mẹ trả lời không, nhưng trái tim tôi bảo có. Cha nói, trái tim của Quỷ lạnh lắm, lạnh như băng, nhưng tôi lại thấy thứ đập trong ngực mình ấm áp biết bao.

    Tôi không nhìn thấy người ấy. Tôi chỉ nhớ. Thậm chí dù chỉ là một đứa trẻ, thậm chí tôi đã chết, tôi vẫn cảm nhận được cái vị kỳ lạ của lửa trong trái tim mình. Ai nhỉ? Ai đã cùng con Quỷ đứng dưới làn mưa kia? Tôi giật mình. Tôi chỉ tưởng tượng ra sao?

    Tôi nhìn mẹ.

    Mẹ kể lại...
     
  3. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 1-2
    GÃ ĐẬP CHIẾC CỐC GỖ XUỐNG, gào đòi thêm rượu bằng giọng khè khè. Tiếng cười sằng sặc của gã làm cả quán rượu như tỉnh dậy khỏi những ngày yên lặng ế ẩm. Người bồi bàn lóc cóc chạy lại bàn gã, vội vàng rót thêm rượu.

    “Ông có trả được tiền không đấy Alanus?” Anh chàng bồi bàn hỏi.

    “Im đi, thằng nhóc này.” Gã gào lên với những người còn lại ngồi quanh bàn. “Chúng tao đang ăn mừng! Ăn mừng vì cuối cùng, đám người Cambion khốn kiếp ấy cũng chịu nhường lại đảo Paim cho chúng ta. Ai nói người vùng Ánh sáng là nhu nhược nào?”

    Một người đàn ông có mái tóc đỏ quạnh ngồi đối diện, đập mạnh chiếc cốc của mình xuống bàn làm những giọt rượu bắn ra ngoài. “Không ai cả!”

    “Vì Vùng Ánh sáng!” Mọi người nói.

    “Vì Vùng Ánh sáng!” Alanus gào. Quán rượu hầu như vắng tanh nên chẳng ai lấy làm phiền hà. Những chiếc cốc gỗ va mạnh vào nhau khi họ cụng ly như những người hiệp sĩ thời cổ vừa hạ được một con rồng trong truyền thuyết, và đang ngồi quanh bàn rượu để huyên thuyên về những chiến công của mình.

    Người bồi bàn cười, rồi cầm chiếc giẻ cáu bẩn đi lau những cái bàn bên cạnh lần thứ sáu chỉ trong buổi sáng hôm nay. “Tôi không biết các ông cũng quan tâm đến chính trị đấy.”

    “Ai không quan tâm chứ?” Alanus nói. Rượu đã làm cho giọng ông ta trở nên méo mó. “Nghe đây, Simo, con trai, không bao giờ, không bao giờ,” Ông ta gạt gạt ngón tay bàn tay phải. “... là quá sớm để quan tâm đến chính trị cả. Lũ Cambion và những sinh vật ghê tởm của vùng Bóng tối sẽ nuốt trọn cậu nếu cậu sơ ý. Nhưng cảm ơn Chúa, chúng ta có những Nephilim xuất chúng bảo vệ. Thất bại của họ cũng là thất bại của chúng ta.”

    Rồi gã quay sang những người bạn nhậu của mình. “Khi tôi còn là đứa trẻ, Chúa thương tôi, tôi đã phải chứng kiến bạn bè mình, gia đình mình, người thân mình chia rẽ vì cuộc chiến tranh giành lãnh thổ của Cambion và Nephilim. Bọn xấu xa ấy đi đến đâu là thây người rải đến đó. Chúng sẽ chẳng bao giờ dừng lại cho đến khi chiếm hết được đất chúng ta.”

    Sagaristio, gã có bộ râu nâu cháy và hai hàng lông mày rậm như sắp nối lại với nhau, nói bằng giọng hầm hừ:

    “Chúng là Quỷ dữ, là con cháu của lũ quỷ, súc sinh ác nghiệt, cho chúng thấy lòng nhân từ chỉ hoài phí!”

    “Chà chà, Sagaristo.” Anh chàng bồi bàn nói. “Ông nóng tính quá đấy. Cambion sẽ chẳng đặt nửa bước chân sang vùng Ánh sáng được. Chúng ta có Hàng Rào bảo vệ, nhớ không, và họ đã ký hiệp ước với chúng ta.”

    “Chúng ta không thể sống mãi trong thời bình, con trai, chúng ta luôn phải chuẩn bị sẵn sàng với những chiêu trò gian xảo của chúng. Nhưng trước hết, hãy ăn mừng vì chiến thắng trên đảo Palm đã!”

    Chiếc chuông nhỏ treo trên cánh cửa quán rượu bỗng rung lên leng keng, một người đàn ông bước vào, cắt ngang màn cạn ly của đám ngư dân. Gương mặt Alanus như bừng sáng, ông ta ngoác cười đến tận mang tai và gào rõ lớn:

    “Sergius, bạn tôi! Anh bạn đáng mến của tôi, anh đến đây cũng để ăn mừng cho đảo Palm với chúng tôi phải không?”

    “Đảo Palm? Ồ, à phải, tôi có nghe.” Sergius nói, rồi liếc nhìn cốc rượu trên tay Alanus. “Ông chỉ kiếm cớ để uống rượu thôi phải không ông già?”

    “Tôi đâu có già!” Ông ta nói. “Tôi vẫn có thể lái thuyền, đánh cá đấy anh bạn, như một chàng trai hai mươi! Simo đây có thứ rượu ngon nhất thị trấn đấy!”

    Simo vắt chiếc giẻ lên tay, tươi cười chào Sergius. “Anh cần gì sao? Trông anh có vẻ mệt mỏi thế?”

    “Tôi muốn mua thêm cây Mã Lâu. Có vẻ chừng ấy vẫn chưa đủ.”

    “Được rồi.” Anh ta nháy mắt. “Tôi xuống kho lấy thêm cho anh.”

    Khi Simo mất hút sau dãy cầu thang sau tủ rượu, Alanus gọi to tên Sergius để anh đến ngồi cùng họ. Anh cười bối rối, rồi nhún vai. “Nhưng tôi sẽ không uống rượu đâu.”

    “Tùy cậu thôi. Cậu thiệt mà.”

    “Cậu thế nào rồi, Sergus? Tôi không thấy cậu đến cảng hôm nay.”

    Sergius đang định cất tiếng trả lời, thì anh lại ngoái đầu về phía cửa, cùng với những gã nhậu hướng sự chú ý vào một người khách lạ mới bước vào quán. Trong thị trấn chài lưới nhỏ bé ở vũng vịnh này, hầu như ai cũng quen mặt nhau, đến cả con chó con mèo trong nhà. Nhưng người đàn ông này họ chưa từng gặp bao giờ. Anh ta bước vào như một cái bóng yên lặng cổ quái. Những hạt bụi cuộn lên khỏi áo choàng của anh ta. Tà áo dính đầy bùn đất và rách sờn cả.

    Vị khách đưa mắt nhìn Sergius. Chỉ mình anh.

    Anh nuốt khan.

    Kẻ lạ đi lướt qua họ, ngồi đấu lưng lại tại một chiếc bàn trong góc quán. Những cặp mắt vẫn dán chặt vào anh ta với sự yên lặng lộ liễu.

    Simo phá ngang sự yên lặng ấy như đập nát một tấm kính khi anh chạy lên và cầm theo một túi lớn thứ bột màu xanh:

    “Đây, Sergius.” Anh vừa nói, vừa thở hổn hển. “Tôi sẽ còn nhập thêm nên cứ thoải mái nhé. Về tiền nong để sau cũng được.”

    Sergius hắng giọng, gật đầu, cầm lấy cái túi.

    “Giá mà cậu có thể làm thế với cốc rượu của tôi, Simo.” Alanus nói như giận dỗi, tiếc rẻ.

    “Nếu thế tôi đóng cửa mất.” Lúc này, Simo mới trông thấy vị khách lạ ở bàn bên kia quán. Lại chừng ấy cặp mắt, nhìn theo anh khi anh đến hỏi xem kẻ đó muốn uống gì. Không ai nghe thấy giọng của hắn, dù quán rượu chợt im phăng phắc, và Simo gật nhẹ đầu trước khi chạy đến tủ rượu.

    Sagaristo huých vai Sergius. “Chắc là khách đường xa. Hắn trông đáng nghi thật.”

    Một người ngó nhìn cái bọc lá cây khô nghiền nhỏ trong tay Sergius, hất hàm hỏi. “Mã Lâu à? Cậu cần để làm gì vậy?”

    “Không có gì nghiêm trọng.” Sergius không hiểu sao mình bỗng vặn nhỏ giọng đi như cảnh giác. “Con gái của tôi đang ốm.”

    “Ồ.” Alanus nói. “Hèn gì. Con bé sao rồi? Tôi nghe nói nó ốm nặng lắm.”

    “Không gây nguy hiểm gì nhưng...” Sergius thở dài, giọng nói lẫn lộn sự mệt mỏi. “Con bé chỉ bị cảm lạnh bình thường nhưng không sao khỏi được. Nó mới chỉ là trẻ sơ sinh, nên tôi có lo ngại...”

    “Mã Lâu tốt đấy.” Alanus nói. “Nhưng nếu không khỏi được thì cậu cần mang đến thầy y. Họ sẽ biết phải làm gì. Vợ cậu thế nào rồi?”

    Sergius bật cười. “Tôi nghĩ cô ấy sắp ốm cùng con tôi rồi.”

    “Lát nữa tôi sẽ mang ít cá tươi đến nhà cậu.” Sagaristo nói. “Tôi phải xem đứa cháu nhỏ bé ấy ra sao rồi đã. Đừng nghĩ rằng chúng tôi không sẵn sàng giúp.”

    “Không, tôi biết các ông luôn sẵn sàng giúp tôi mà.” Sergius nói. “Tôi yên tâm vì điều ấy.”

    Alanus cầm cốc rượu, ngả lưng ra chiếc ghế với vẻ mơ màng, đôi mắt nhìn lên trần nhà. “Đứa trẻ tội nghiệp.” Ông ta nói. “Tôi tò mò không biết lớn lên nó sẽ như thế nào đấy, sau tất cả những chuyện đáng ghét này.”

    *Chú thích của tác giả: Cambion là con lai giữa người và Quỷ, vào những thế hệ đầu có sức mạnh rất lớn nhưng vì dòng máu càng về sau càng pha loãng nên sức mạnh giảm đi đáng kể. Cambion giành quyền làm chủ vùng Bóng tối sau khi cánh cửa Thiên đàng và Địa ngục bị đóng.

    Tương tự, Nephilim là con của người và thiên thần, thống trị vùng Ánh sáng.



    *

    ĐỨA TRẺ KHÚC KHÍCH CƯỜI KHI THẤY một bàn tay thò vào nôi và vuốt ve đôi gò má của nó.

    Trên đầu đứa bé, những ngôi sao làm bằng lá cây và cành cây nhỏ xoay xoay. Tiếng mưa rơi lách tách trên hiên gác mái, những giọt trong suốt và mát mẻ. Dường như nó cũng nghe được âm thanh ấy. Đôi mắt nó dán chặt vào gương mặt anh, một kẻ lạ, nhưng nó không hề bật khóc lấy một tiếng. Đôi mắt nó như hai viên ngọc xanh thẳm, tuyệt đẹp vớt lên từ đáy đại dương sâu. Đứa bé vẫn ngoác miệng cười dẫu đang lên cơn sốt.

    “Angie bé nhỏ.” Người lạ thì thào cạnh nó. “Em có nghe thấy tiếng mưa đêm không?”

    Đứa trẻ với hai bàn tay bé xíu lên, túm lấy sống mũi của anh, cười khúc khích.

    “Anh chỉ xin một điều, Angie à.” Hắn hôn nhẹ lên trán đứa trẻ. Một luồng khí mát rượi ngấm vào da nó và xua tan cơn sốt đang biến nó thành hòn than đỏ ửng. “Hãy giúp cô ấy nhé.”

    Hắn thò tay vào túi.

    Mở nắp chiếc lọ thủy tinh nhỏ,

    Để cho thứ huyễn khí kỳ lạ trong lọ tràn vào phổi nó, cơ thể nó, linh hồn nó.

    Và hắn thì thầm với con bé,

    “Đừng sợ bóng tối, Angeline.”
     
  4. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 2
    VÙNG TRỜI PHÍA TÂY ỬNG ĐỎ. Những luồng sáng hiếm hoi của mặt trời tan chảy sau đám mây mù, dát vàng hành lang sảnh bằng thứ màu vàng quánh đặc. Hơi lạnh phả vào theo những cơn gió.

    Howl xoa tay. Miền Nam này có thứ thời tiết đặc trưng và kỳ lạ, mỗi khi bầu trời ửng lên ánh nắng, nhiệt đột sẽ hạ xuống như để cân bằng và bù trừ cho sự nóng nực hiếm có. Cái nắng hửng trái mùa luôn làm cho các học viên ở Vampiton khó chịu. Họ cố gắng tránh xa nhất có thể những dãy hành lang phía Tây như loài ma cà rồng cố tránh ánh nắng vậy.

    Đó là khoảng thời gian hoàn hảo để Howl có thể ở một mình.

    Nhưng không phải hôm nay.

    Cô Preris đi dọc dãy hành lang, nhăn mặt lại vì ánh nắng đến gần Howl. Preris là một những giáo sư trong trường, nhưng cô không dạy học, mà giống phụ trách trật tự trường hơn. Cô can thiệp vào cả những chuyện nhỏ nhất của đám học viên. Bởi vậy khi thoáng trông thấy cô, Howl nghĩ mình lại gặp rắc rối.

    Những nếp nhăn của cô Preris hiện lên rõ hơn dưới ánh sáng vàng quánh đặc này. Kể cả khi nói, môi cô cũng giống như một miếng vỏ cây nhăn nhúm. Ẩn đằng sau chiếc kính một mắt tròn đôi mắt tối thẳm như màn đêm.

    Cậu, như thường lệ, vẫn là người lên tiếng trước. “Nếu là về việc thằng ngốc ngớ ngẩn ấy ngã ngựa, thì tôi vô can đấy, thưa cô.”

    “Nếu chỉ thế thì tôi đã chẳng cần tìm đến tận chỗ cậu đâu, cậu Howl.” Cô cất giọng. “Tôi e là có sự việc không hay vừa xảy ra. Lá thư này vừa được đưa đến nửa tiếng trước với lưu ý là cần đưa tận tay cho cậu.”

    Cô Preris đưa cho Howl lá thư có phong bao da. Howl cầm nó nên xem xét trước, chợt thấy một cái dấu đóng to trên nó, gắn chặt mép phong bao lại mà không cần đến thứ keo dính gì.

    Cậu có thể nhận ra cái dấu đóng đó ở bất kỳ đâu.

    Lá thư được đưa đến từ lâu đài Quỷ.

    Howl xé nó ra và đọc ngay trước mặt Preris. Cô dường như cũng đã nghe ngóng được chút gì đó, bấy giờ chỉ đứng đấy, quan sát thật kỹ gương mặt và phản ứng của cậu.

    Lá thư rất dài.

    Và cậu không ý thức được rằng mình đang nhăn mày. Mồ hôi bỗng lăn từ trên trán xuống thái dương.

    “Tôi e là cậu sẽ phải rời khỏi Vampiton.” Cô Preris nói.

    Howl ngẩng lên nhìn cô như cô vừa nói điều gì nực cười lắm. Nhưng gương mặt già nua của người phụ nữ trước mặt cậu chẳng có vẻ gì là đang đùa cợt.

    “Đã đến lúc rồi.” Cô nói. “Cậu phải về lâu đài Quỷ.”

    *

    CHÀO MỪNG TỚI LÂU ĐÀI QUỶ.

    Dòng chữ ấy được khắc sâu trên cánh cổng đá, với đám dây leo trói quanh như lũ rắn. Một vài con quạ đen, cái giống thích rỉa xác chết, đậu ở trên đó, như đang mở tiệc.

    Chào mừng. Tới lâu đài Quỷ.

    Thật ngọt ngào làm sao, Howl nghĩ.

    Cỗ xe ngựa lượn một đường rất ngọt trên con đường rải toàn những viên đá sắc nhọn. Những con quạ mắt đen láy nhìn theo cỗ xe, và rồi đột ngột vỗ cánh chao liệng lên không trung, giữa nền trời mây xám vảy cá. Bắt đầu từ đây, con đường uốn lượn lên xuống những triền dốc thoai thoải tới tận lâu đài. Hai bên là cỏ dại trắng sương, với những ngọn đồi trống mờ hơi nước trải tít đến tận bìa rừng. Một lằn ranh màu xanh đậm - những cái cây mọc thưa thớt ở bìa rừng, đánh dấu ranh giới giữa thung lũng cỏ với cánh rừng bên cạnh.

    Tất cả thu gọn lại trong đôi mắt hổ phách của Howl, gợi lại cho cậu những liên tưởng xa xôi nhất về nhà mình mười ba năm trước.

    Cậu đang về nhà,

    về Lâu đài Quỷ.

    Howl có thể cảm thấy cạnh sắc nhọn của những viên đá dưới đế giày mình lúc cậu đặt chân ra ngoài cỗ xe. Trong vòng năm phút sau đấy, cậu chỉ đứng yên trong khi đồ đạc của cậu được dỡ khỏi xe. Cậu lùi lại vài bước, ngửa cổ ngước nhìn tòa lâu đài Quỷ dưới ánh sáng yếu ớt của bầu trời sau trận mưa. Những mảng sáng tối đối ngược nhau xen lẫn trên các mái vòm, tạo thành các mảnh vỡ ánh sáng rải rác. Mấy cây thường xuân độc bám chắc bộ rễ của chúng vào các cây cột, cửa kính và mái nhà, đến mức khó mà nhìn thấy bức tường lâu đài sau tán lá rậm rì của chúng. Phía sau tất cả các ô cửa sổ chỉ là một khoảng tối hư vô.

    Trong ký ức của Howl, lâu đài Quỷ đẹp hơn và rộng lớn hơn thế. Nó từng là ngôi nhà bình yên của cậu. Nó từng là tất cả, cuộc sống, hơi thở, niềm vui, nỗi đau của cậu, trước thời điểm nó chìm vào quên lãng sau mười ba năm dài.

    Cậu đã ở đây suốt tám năm đầu đời, cậu tự nhủ.

    Nhưng đó là quá khứ.

    Lâu đài Quỷ đã chết.

    Và đây là xác của nó.
     
  5. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 3
    CÓ MỘT VÙNG ĐẤT TÊN LÀ RETHALA.

    Không ai biết tại sao nó được gọi như thế. Nhưng qua hàng thế kỷ, cái tên đó vẫn được giữ nguyên.

    Con sông vĩ đại vắt qua Rethala được gọi là Ner Rill. Từ tháng tư đến tháng mười một mỗi năm, con sông cuồn cuộn nước chảy. Nhưng từ nửa tháng mười một, khi tuyết bắt đầu rơi, nó yên tĩnh trở lại và đóng băng. Đấy là một cảnh tượng mà bất kỳ ai cũng phải kinh ngạc. Băng cứng đến mức có thể đi lên trên.

    Rethala có những ngọn đồi dài hiu quạnh. Có những dải núi hùng vĩ và khu rừng u ám không tên. Xen kẽ rừng với rừng là thảo nguyên hoang dã. Vào những ngày trời mưa, cỏ rũ xuống và mặt đất trở nên lầy lội.

    Không ai xây dựng nhà cửa tại Rethala và cạnh dòng Ner Rill cho đến khi một gia tộc đến và quyết định đây là đất ở của họ. Họ gây dựng nên dòng tộc đồ sộ của mình bên dòng chảy xiết của Ner Rill. Họ tạo dựng cả một thành phố. Và ở bên bờ kia con sông, họ xây dựng một tòa lâu đài hoàn toàn cách biệt với thế giới. Đó là lịch sử của lâu đài Quỷ. Ra đời giữa những cơn mưa trái mùa, gió tuyết và bão, tòa lâu đài là một trong những thành trì cổ nhất của cả lục địa. Nó không được xây dựng để trở thành trung tâm chính trị, hay bất kỳ mục đích nào khác ngoài sinh sống. Gia tộc Lucifer đã sống ở đó hàng thế kỷ.

    Mà có lẽ là hàng thế kỷ nữa, họ vẫn sống ở đấy.

    Cho đến thế hệ của Howl, tòa lâu đài đã không được tu bổ quá lâu. Nó trở nên ảm đạm, mục rữa, như cái xác khô từ địa ngục, vào đêm trăng thanh bỗng sống dậy. Một đàn quạ lông đen tuyền bay qua lại trên những tháp canh. Chúng làm tổ trong những hốc đá, gờ tường, những bụi thường xuân bao quanh mấy cây cột cổ kính.

    Trên đầu Howl, bầu trời ầm ì sấm, báo hiệu một cơn mưa.

    Những con quạ khác rồi cũng xuất hiện. Chúng mặc bộ đồ trắng và đen, tuổi tác thường quá ba mươi, đi ra từ cửa lâu đài để dỡ hành lý. Nước da xanh nhợt nhạt, nhiều nếp nhăn, tóc chải gọn gàng, mắt đen láy và cái cằm hơi nhọn. Đó là những người làm thuê, hầu hạ trong lâu đài. Những nô lệ buồn chán.

    Một đàn quạ, két.

    Vây quanh Howl.

    Có con quạ lớn hơn đi xuống từ cầu thang. Có khi là kền kền, Howl nghĩ. Vì ông ta quả giống con kền kền, loài chim cáo già ấy. Da ông ta ửng đỏ và nhăn nheo, râu tóc đều trắng. Cái nhìn của ông ta đăm chiêu, dò xét và chờ đợi. Con kền kền ấy bước xuống các bậc thang như bước trên lông vũ, không một tiếng động. Rồi đến ngay trước mặt Howl.

    “Quản gia James Rider, thưa ngài.” Kền Kền xưng danh. Y mang vẻ mặt điềm tĩnh, đôi mắt sắc của loài cáo, và cái mũi quả thật làm Howl nghĩ đến loài chim đấy. Đôi môi y uốn thành một nụ cười mảnh, giống những nét vẽ trên một tấm mặt nạ cười.

    Trái ngược với sắc thái trầm, dò xét của James, giọng nói Howl vang hơn, sôi nổi hơn. Cậu bắt tay ông ta, tươi cười:

    “Ông đã làm ở đây bao lâu rồi?”

    “Khá lâu rồi, thưa ngài. Từ ngày Quỷ Vương bắt đầu công việc của ngài ấy.”

    “Tôi không nhớ nhiều về ông lắm.” Howl nói.

    “Vậy ư?” Trông y không có vẻ ngạc nhiên lắm. James quay đi, vẫy vẫy tay với đám quạ két đang khuân vác hành lý cho Howl. Cậu đi sau gót ông ta. “Tôi thì biết ngài từ khi ngài mới là đứa trẻ.”

    Mười ba năm không phải quãng thời gian quá dài, nhưng cũng không hẳn là ngắn. Howl cố không nhớ những điều đáng quên về lâu đài Quỷ, dù một số ký ức của cậu vẫn chẳng đi đâu cả. Nhưng cậu hoàn toàn không nhớ về James. Cậu có đã từng gặp ông ta? Có, có thể chứ.

    Quanh ông ta, phảng phất mùi thuốc men.

    “Tôi sẽ dẫn ngài lên phòng.”

    “Không cần.” Cậu nhoẻn cười. Vết thâm dưới mắt cho thấy sự mỏi mệt nhưng giọng nói cậu thì phấn khích. “Tôi muốn gặp ông già tôi đã.”

    “Ngài không mệt sao?”

    Rõ ràng ông ta tỏ ra phật ý. Cậu chợt hiểu ra y không thích mình gọi Quỷ Vương bằng cụm từ “ông già tôi”. Thái độ đó đã mang cho cậu khá nhiều thông tin về Kền Kền. Một điều chắc chắn, ông ta không phải kẻ ba phải.

    Không, ông ta trung thành.

    Mà sự trung thành không phải luôn là tốt.

    “Không. Tôi đã không gặp ông ấy mười mấy năm.” Howl bóng gió. “Tôi sốt ruột lắm rồi.”

    Y im lặng một quãng ngắn, rồi gật đầu:

    “Được thôi. Mời đi lối này.”

    Trong chốc lát, mọi người đã tản đi và sảnh trước của lâu đài lại vắng tanh. Từ sâu trong những ngóc ngách yên tĩnh của lâu đài, dội lại những âm thanh dù là nhỏ nhất.

    Và Howl có thể nghe thấy,

    đâu đó quanh đây,

    tiếng khóc than

    của một đám tang.

    *

    LÂU ĐÀI QUỶ CÓ KIẾN TRÚC ĐẶC TRƯNG của nền văn hóa vùng đất này. Cổ xưa. Tối. Và vắng lặng.

    Hầu hết những cảnh cửa, mái nhà và cả trần nhà đều được xây theo hình vòm hẹp. Trên các bức tường và cây cột xây bằng đá là những họa tiết điêu khắc có tuổi thọ lên đến cả trăm năm. Howl bắt gặp trên những bức tượng điêu khắc ấy các đường nứt kín đáo và góc cạnh mòn vẹt của chúng.

    Ở bên ngoài lâu đài, những cây thường xuân độc bám chắc rễ vào các gờ tường, mép đá, các bức điêu khắc, và cả cửa sổ. Những ô cửa kính bị rễ cây bám chặt lấy, chằng chịt như hàng rào mắt cáo. Ánh sáng trong lâu đài đã ít nay còn ít hơn. Howl tự hỏi mình đang tưởng tượng, hay là nhiệt độ trong lâu đài thấp hơn cả ở ngoài thật.

    Cậu chợt cảm thấy tiếc.

    Nỗi nuối tiếc đi cùng với nỗi nhớ. Lâu đài Quỷ từng là một trong những tòa lâu đài đẹp bậc nhất. Nó có sức sống, nó có hơi thở. Nó có vẻ đẹp trầm tư và yên lặng như một người góa phụ sống ẩn dật. Cậu thấy như mình vừa đặt chân vào một chốn xa lạ hoàn toàn.

    Khi mẹ cậu còn sống, bà chắc chắn không bao giờ để lâu đài như một phế tích bỏ hoang như thế.

    Không bao giờ.

    Cậu đã sống ở đây. Qua ngày và đêm. Trong suốt thời thơ ấu. Trong suốt những năm tháng từng được nhớ đến với sự tốt đẹp, an bình hiếm hoi.

    Bấy giờ khi bước theo gót chân James, Howl không còn cảm thấy tòa lâu đài thở nữa. Nó đã chết, theo cùng với những kỷ niệm đẹp, theo năm tháng. Nó đã chết dưới bàn tay của cha cậu, Quỷ Vương, Moldark Lucifer.

    Nhưng sẽ chẳng có và sẽ chẳng còn khác biệt gì nữa cả.

    Vì ông ta cũng đang sắp chết.

    Theo chân James Rider, Howl lên tới tầng bốn. Băng qua các hành lang rộng thênh thang u tối và quanh co như một mê cung vô tận, cậu được dẫn đến căn phòng ngủ lớn nhất của tòa lâu đài. Cánh cửa gỗ hình vòm dày khoảng ba mươi phân nặng nề di chuyển dưới tay của Kền Kền. Y kéo nó một cách thận trọng nhưng không ngăn được tiếng rin rít ồn ào từ bản lề cửa rỉ sét phát ra.

    James không vào trong cùng Howl. Y muốn giữ riêng tư cho cậu và Quỷ Vương. Đó cũng là điều Howl muốn. Chỉ cậu và ông ta, mặt đối mặt.

    Ấn tượng đầu tiên của cậu là thứ không khí ẩm thấp, đặc và ngột ngạt của căn phòng. Cậu sớm trông thấy trên chiếc giường trải ga trắng một người đàn ông gầy guộc, xanh xao. Đôi khi cha cậu vẫn ghé qua Vampiton, nhưng cậu không chắc mình nhận ra người này. Ông ta tái nhợt, những đường gân nổi rõ trên da như rễ cây chằng chịt. Mái tóc muối tiêu của ông ta cũng ngả trắng dần.

    Nhưng trong phòng không chỉ có cậu và ông ta.

    Có một người khác cũng ở đấy.

    Kẻ đó hẳn là một phụ nữ. Mà không, trẻ hơn thế, một cô gái. Cô ta mặc áo choàng trắng có mũ trùm, gương mặt ẩn trong vành mũ tối. Cô ta kinh ngạc nhìn Howl, dường như không thấy trước sự xuất hiện của cậu.

    “Cô là ai?” Howl cất tiếng trước.

    “Người hầu, thưa ngài.”

    Người đàn ông nằm trên giường nhướn đôi mắt đục ngầu lên nhìn cô ta. Ánh mắt hai kẻ đó giao nhau, nhưng Howl đã không nhận ra được điều đó.

    “Cô có thể đi được rồi.” Cậu nói và liếc thấy một giỏ táo đặt trên bàn. Những quả táo mang màu đỏ chín, quyến rũ và ngon mắt. Howl không thể cưỡng lại lời mời ngon lành đấy, cậu cầm một quả lên.

    Cô ta gật nhẹ đầu. Khi đi lướt qua Howl, cậu mới băn khoăn về trang phục của cô ta. Người hầu trong lâu đài có đồng phục riêng. Nữ thì váy đen riềm trắng đơn giản. Không ai ăn mặc khác cả.

    Điều đấy khiến Howl tự hỏi tại sao cô ta nói dối.

    Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Howl. Cái không khí lạnh lẽo trong phòng cộng thêm tiếng cửa đóng ken két làm những sợi tóc tơ sau gáy cậu dựng cả lên. Quanh giường của Quỷ Vương, mùi thuốc men nồng nặc. Thật ra chúng làm từ thảo dược cả, nên cũng không quá khó ngửi.

    Howl cắn quả táo một miếng, ung dung kéo chiếc ghế gần đó và ngồi xuống, gác chân lên mép giường. Quỷ Vương trông gầy gò và tiều tụy như một gã ăn mày đã bị bỏ đói cả tuần trời. Mắt ông ta mắt đục ngầu, hằn những tơ máu đỏ ửng còn trán thì lấm tấm mồ hôi. Ánh mắt trống rỗng, dằn dữ đó theo sát từng cử chỉ của Howl.

    “Chào bố.” Howl nhoẻn cười.

    Cậu gần như không nhận ra ông ta bởi bộ dạng lúc này của ông ta, nhưng Howl vẫn biết ông ta chính là Moldark, vĩ nhân trong lòng những Cambion biết đến ông ta, bậc thầy của chiến tranh và vị vua quyền lực. Nhưng với Howl, ông ta mãi mãi là một kẻ tồi tệ, cái gai độc trong mắt cậu.

    Ông ta rên rỉ, dường như đã nhận ra cậu. Đôi mắt đỏ quạnh hướng theo Howl không rời.

    "Trông bố tệ nhỉ?" Cậu nói mỉa mai. "Chỉ mới mười ba năm thôi mà. Con đã tưởng bố sẽ sống lâu hơn thế."

    "Dẫu sao, con cũng muốn chào hỏi bố trước khi, bố biết đấy..." Cậu đưa tay cắt ngang cổ mình và vờ trợn mắt lên. "...đi mất."

    Ông ta liếc nhìn lên trần nhà. James đã nói với cậu rằng khả năng giao tiếp và nói năng của ông ta giảm sút khá nhiều, nhưng cậu tin rằng ông ta hiểu mình đang nói gì. Bởi sau đó, ông ta chợt lắc đầu.

    Cậu không muốn hiểu điều đó có nghĩa là gì, nhưng Moldark vẫn cứ lắc đầu, người run lên.

    "Thật buồn khi con không thể nói chuyện được với bố." Cậu nói. "Nhưng con có thể quen với việc đó. Bố biết không, cả nơi này sẽ thuộc về con và của mình con khi bố đã đi khỏi. Con biết điều đó thật nghiệt ngã, chẳng vị vua nào muốn từ bỏ ngôi báu của mình." Cậu nhún vai. "Nhưng ai rồi cũng sẽ phải chết, và bố đừng lo..."

    Howl vươn người, chỉnh sửa ngay ngắn cổ áo và tấm chăn trên người Moldark. "...con hứa sẽ chăm sóc nơi này thật tốt. Tốt hơn bố từng chăm sóc nó. Lâu đài Quỷ sẽ là của con, bố ạ, và không ai có thể lấy nó đi."

    Howl đứng lên, chỉnh sửa lại trang phục. "Con phải đi rồi, chúc bố có chuyến đi vui vẻ. À, và, hãy gửi lời thăm của con đến mẹ nhé."

    Cậu quay lưng đi, nhoẻn cười với mình. Đột ngột, Quỷ Vương vươn bàn tay gầy nhăn nheo của mình ra túm chặt lấy cánh tay Howl. Những ngón tay của ông ta bám lấy da cậu như một chiếc kìm kim loại.

    Rõ ràng ông ta đang cố nói gì đấy.

    “Sao cơ?” Howl cúi người ghé tai xuống nghe.

    “Hãy cẩn thận...”

    Đó là những gì ông ta có thể thốt ra được, cặp mắt như lồi ra và sưng lên nhìn cậu chằm chằm. Howl giật tay ra:

    “Cẩn thận cái gì?”

    Ông ta oằn người, đầu hơi nâng lên. Và một trong những ngón tay già nua nhúc nhích, khẽ chỉ vào giỏ táo tươi ngon trên bàn.
     
  6. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 4
    CHÍN GIỜ TỐI. Một cơn giông lớn đang hoành hành tại Rethala. Nó là nguyên nhân của trận mưa như trút bên ngoài. Rethala rất hay mưa, tầm từ tháng bảy trở đi trời luôn ẩm ướt và nặng. Những tia chớp lóe sáng, kéo theo tiếng sấm ì ầm trên bầu trời đen kịt. Nhiều người tập trung ở trước cửa phòng Quỷ Vương. Howl đứng dựa vào một ô cửa kính, còn James Rider đứng ngay cạnh cậu. Khó mà đoán được tâm trạng của y qua gương mặt vô cảm đấy.

    “Nếu ngài ấy ra đi trong tối nay, có lẽ cử hành tang lễ luôn trong ngày mai là tốt nhất.”

    Howl liếc mắt ra ngoài cửa sổ, nơi những tia chớp chạy nhì nhoằng trên bầu trời vừa lóe lên. Tiếng mưa lớn đến mức chẳng ai có thể nghe thấy cuộc nói chuyện của cậu và James:

    “Tôi không phải là người vội vàng, James. Có thể để đến ngày kia, bởi cái chết của ông ta chắc chắn sẽ mang đến nhiều vị khách hiếu kỳ lắm.”

    “Họ sẽ có cơ hội đến sau.”

    “Thôi nào, James.” Howl cười xòa, chỉ ước có một cục tẩy để xóa bớt những nếp gấp nhăn nhó trên gương mặt y. “Tôi nhớ ông cố cổ gì đó của tôi khi qua đời, họ đã tổ chức lễ tang trong gần một tuần.”

    Kền Kền đanh mặt lại. “Chúng ta đang nói về đám tang cho một vĩ nhân, không phải một bữa tiệc.”

    Howl liếc nhìn xung quanh thật nhanh, rồi nhún vai.;

    “Nếu sắp có một đám tang, sao tôi chẳng thấy ai đau buồn thế.”

    Bấy giờ, cửa phòng ngủ bỗng mở. Đám người hầu túa ra như đàn ong. Một con ong bay đến chỗ Howl:

    “Thưa ngài... Chúng tôi rất tiếc…” Anh ta chẳng cần nói gì thêm, cả cậu và James đã hiểu rõ điều anh ta định thông báo.

    Howl gật đầu, chẳng nói chẳng rằng.

    Cậu thử dò xét xem trong mình có cảm xúc gì không. Một chút phẫn nộ, tiếc nuối. Một chút buồn bã hoặc nặng nề. Cậu đang chờ đợi chúng.

    Nhưng chẳng có gì cả.

    Howl nhớ năm mười hai tuổi, cậu nuôi một con rùa mai đỏ. Khoảng nửa năm sau, nó chết vì bị bệnh. Với một đứa trẻ mười hai tuổi không bạn bè, con rùa quả thật có ý nghĩa. Cái chết của nó thật sự làm Howl thấy chút tổn thương.

    Howl không thấy cái chết của cha mình đáng thương hơn con vật kia. Cậu không cảm thấy như mình bị thương. Trái lại, là một cảm giác nhẹ nhõm lạ lùng mà đầy tội lỗi.

    Cậu thấy nể sợ chính bản thân mình.

    Lúc James quay trở lại với Howl thì bắt gặp nụ cười nửa miệng của cậu, nhưng y phớt lờ như chẳng thấy gì. “Còn một điều nữa, đó là về căn bệnh của ngài ấy.”

    “Ông ấy đã chết, nhân danh vùng Bóng tối.” Howl thở sườn sượt. “Sao chúng ta không bước tiếp và tất cả đều có một cuộc sống tươi đẹp.”

    Tấm mặt nạ da của James vẫn không thay đổi. Y điềm tĩnh, nhưng sâu trong ánh mắt, Howl bắt gặp một chút nóng nảy. Cậu biết thế vì cậu đã phải tập làm quen với những người hay nóng giận cả đời mình.

    “Tôi chưa nói xong, thưa ngài.”

    Howl nheo mắt nhìn ra ánh chớp bên ngoài, rồi ngáp dài. “Thôi được, ông muốn nói gì nào?”

    Tuy nhiên, Kền Kền không có lấy một cơ hội mở lời tiếp. Tiếng bước chân vọng ngược từ đầu hành lang thu hút ánh nhìn của tất cả mọi người. Kỳ thực, đó là tiếng chạy ồn ào nhất Howl từng nghe thấy, kể cả có sấm sét đi nữa thì khó mà phớt lờ được âm thanh đó. Một đứa trẻ chạy sượt qua Howl, con bé có mái tóc màu nâu vàng của lá thu, đôi mắt hổ phách trong vắt giống Howl y như đúc. Cậu ngạc nhiên nhìn theo dáng nó trong chiếc váy diêm dúa ngắn đến bắp chân đang chạy thục mạng như chực đâm luôn vào cửa.

    “Lũ người hầu vô dụng!” Nó kêu lên những lời thóa mạ vô tội vạ khi họ ngăn con bé vào trong phòng của Quỷ Vương. “Cút hết ra!” Nó vừa gào vừa đạp chân, trông như một con ruồi mắc vào tơ nhện.

    “Tôi nghĩ tiểu thư nên bình tĩnh lại trước đã.” Một người hầu có vẻ mặt xúc động đang dỗ dành con bé. Nhưng hóa ra phản tác dụng vì nó bỗng òa khóc, quẫy đạp tứ tung. Giọng chửi rủa của con bé cũng thành méo mó, khó nghe vô cùng.

    Howl dường như chẳng có gì là bị tác động bởi cảnh tượng đó. “Đó là...”

    “Em gái ngài, Abigail. Con bé mới mười hai tuổi rưỡi.”

    “Nó thực sự khóc vì cha tôi đấy à?”

    “Rõ ràng là thế.” James nói, giọng đều đều.

    Abigail gần như nằm vật xuống sàn nhà, khóc không thành tiếng. James rời khỏi chỗ mình đang đứng, lại gần và sai hai người hầu đưa cô bé về phòng. Nó tìm cách phản đối bằng cách vùng vẫy điên loạn. Đám người hầu tỏ ra bất lực.

    Riêng Howl, cậu thấy hơi buồn cười.

    Không phải cậu không thấy con bé đáng thương. Nhưng cậu không thấy thế vì nó vừa mất cha. Cậu thấy thế vì nó phải đối mặt với cái chết quá muộn.

    Cái chết đầu tiên mà Howl phải đối mặt là của mẹ mình, năm tám tuổi. Họ nói bà tự sát. Có thể bà đã tự sát thật, nhưng không ai nói tại sao. Không một lá thư tuyệt mệnh, không một lời nhắn, bà chết trên căn phòng yêu thích của mình bằng một sợi dây thừng vắt qua xà nhà. Đám tang của bà là lời tóm tắt ngắn gọn cho cuộc đời bà: không ai biết đến, và im lặng. Không ai khóc cả. Abigail mới chỉ được vài tháng tuổi. Nó không hề biết gì về mẹ mình. Nó thậm chí chỉ biết mặt bà qua bức tranh treo trên sảnh đường lâu đài.

    Nhưng Howl nhớ mẹ mình. Giọng nói của bà và đôi mắt của bà. Điều đấy không khiến cậu khá hơn là mấy. Nó chỉ khiến cậu muốn đốt trụi cái lâu đài này.

    Rốt cuộc, không ai dỗ nổi Abigail. Họ dường như chỉ chờ nó mệt và nín khóc. Howl thì không ưa trẻ con, cậu đang định bỏ đi vì tiếng ồn khó chịu từ con bé.

    Và rồi cô ta lại xuất hiện.

    Cô gái Howl đã gặp trong phòng của Quỷ Vương. Cô gái với gương mặt khuất trong bóng tối.

    Howl đứng từ xa quan sát. Mọi người có vẻ biết cô ta. Họ để cô ta lại gần Abigail. Cô ta cúi xuống ôm nó, thủ thỉ gì đó vào tai nó. Cô ta có khả năng thôi miên chăng, mà con bé bỗng thôi vùng vẫy. Nó vẫn khóc nấc trong lòng cô ta.

    Cô gái với áo choàng trắng.

    Cô ta đã làm được điều không ai làm được.

    Cuối cùng, Abigail cũng chịu về phòng. Nó như lả dần đi, và kể cả đã có người hộ tống, nó vẫn nhất quyết túm áo cô gái kia không rời. Cô ta buộc phải đi theo con bé về phòng.

    Howl đứng tựa lưng vào bức tường giữa hai cây cột nhà, tay xỏ túi áo. Abigail ngẩng nhìn lên. Đôi mắt sắc sảo của cậu chớp lấy ánh mắt nó và môi uốn thành nụ cười ẩn ý. Những tơ máu nổi trên mắt con bé, Howl có thể ngửi thấy mùi căm ghét từ nó.

    Cô gái đi cạnh nó có vẻ bình thản. Nhưng Howl có thể cảm thấy từ cô ta tỏa ra một luồng cảm xúc kỳ lạ, mà cũng có thể là do cậu tưởng tượng ra. Trong khoảng một phút, cơ thể cậu đông cứng vì điều đấy, khi mà những cảm xúc lạ hoắc bắt đầu nhấn chìm Howl và phủ quanh cô gái kia như những hạt sương mờ.

    Điều Howl băn khoăn không phải những hạt sương mờ đó, mà là điều gì khiến cô ta, một người hầu, có thể dỗ dành Abigail khi mà không ai làm được. Cậu nhìn theo cho đến khi dáng cô ta khuất sau những bức tường.

    Các tia chớp nổi lên dữ dội, nhìn từ sau lưng, cô ta trông như một bóng ma.

    Một bóng ma câm lặng

    và nắm giữ những bí mật khủng khiếp nhất.
     
  7. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 5
    MƯA VẪN KÉO DÀI trong mấy ngày kế tiếp.

    Mưa tuôn như thác từ bầu trời màu khói đặc. Nước mưa va xuống những chiếc ô rồi văng tung tóe. Trong cơn mưa, mấy chiếc ô lô nhô trong khu lăng mộ trông giống như những chiếc lá sen màu đen vậy.

    Ở đây, những người đã từng sống và thuộc về lâu đài Quỷ sẽ được chôn tại khu lăng mộ này. Nằm tọa lạc khoảng vài trăm mét so với lâu đài quỷ về phía dòng Ner Rill, nó là điểm nhấn đặc biệt về sự ảm đạm tang tóc của lâu đài. Howl cân nhắc đặt thêm một cái biển báo hình mũi tên chỉ về phía những ngôi mộ này. Một lời nhắn đầy ẩn ý:

    Đầu tiên, hãy đi vào lâu đài. Sau đó, hãy đi ra đây.

    Dù không muốn đi nữa, cũng phải đi ra đây.

    Vào buổi chiều mưa ảm đạm, các ngọn đồi thoai thoải rậm rạp cỏ ngập đầy nước. Đường chân trời trở nên nhòe nhoẹt và ướt. Tòa lâu đài thì bị lấp trong làn mưa trắng xóa, còn nơi những người tham dự lễ chôn cất là giữa các bia mộ cao cao bằng đá đỏ. Các bia mộ được xây dựng không mấy đồng đều, một vài trong số chúng thấp hơn hoặc cao hơn. Bằng một cách nào đó, sự hiu quạnh, lạnh lẽo của lâu đài Quỷ lại trở thành một nét đẹp riêng không nơi nào có được.

    Howl đã đứng ở đây được hơn ba mươi phút và chân cậu bắt đầu rã ra. Cậu đang tính ngồi xuống một bia mộ kế bên thì thấy James Rider lách người về phía mình. Cái giá lạnh của gió và sự ẩm ướt của cơn mưa lách qua đám đông, Howl ngộp thở vì hơi nước lạnh đặc trong không khí.

    “Tôi không biết ai đã thuê ông ta, James. Nhưng ông ta giả bộ dở lắm.” Howl nói, và James nhìn theo ánh mắt cậu, nơi gã Mục Sư đang đứng ở trên một cái bệ cao, đằng sau cỗ quan tài và đọc bài tế văn dài lê thê.

    James nghiêng đầu, giọng nói nhỏ hơn cả tiếng mưa.

    “Gã là một thần chết đấy, thưa ngài. Bây giờ khó mà kiếm được một kẻ như thế lắm.”

    “Được rồi, tôi cũng chẳng muốn hỏi nữa đâu.” Howl nói. Cậu có thể hiểu tại sao hắn làm nghề này, với đôi mắt thâm quầng trống rỗng, trán hói và má hóp lại như một cái xác ướp. Nhưng vấn đề là cậu không ưa những chủng tộc ngoài Cambion. Không hẳn là ghét, nhưng với cậu, bọn họ là những kẻ xa lạ và kỳ dị. Trong số các chủng tộc tồn tại ở thế giới này, Cambion thực ra rất ít. Những người đứng đầu một dòng tộc Cambion thường có vai trò rất lớn trong chính phủ. Howl đoán ở vùng Ánh sáng, Nephilim cũng có vai trò tương tự, có thể còn quan trọng hơn vì được tôn sùng. Còn ở vùng Bóng tối, một dòng tộc Cambion không chỉ có nghĩa là cổ xưa, nhiều tiền của, mà còn có quyền và sức mạnh mà bất kỳ chủng tộc nào khác cũng phải nể sợ. Cậu luôn cảm thấy những loài khác thật nhỏ bé và đáng thương làm sao.

    Như gã thần chết kia chẳng hạn.

    “Tôi thấy buồn nôn.”

    Howl nói và ngồi hẳn xuống gờ đá của bia mộ đặt sau lưng mình, một ít nước mưa thấm vào quần áo cậu. Cậu nói thế khi gã thần chết đọc đến đoạn ca ngợi những cống hiến và con người của Quỷ Vương, cha cậu. James vẫn đứng đó như một bức tượng, vẻ mặt ông ta lạnh như cơn mưa.

    “Ngài có thể không ưa cha mình, nhưng sự thật là ông ấy đã làm rất tốt công việc của mình.”

    “Đương nhiên ông ta phải làm tốt. Ông ta trở thành tên khốn chỉ vì vị trí đầu gia tộc mà. Còn có ai sống trong lâu đài này nữa không, James?” Howl mỉa mai. “Ngoài đám người hầu quản gia ra.”

    Ông ta nhoẻn cười, cặp môi thâm màu đồng mảnh như sợi dây. “Ngài ấy không ưa ồn ào mà.”

    “Một là họ tự bỏ đi, hai là bị đuổi.” Howl giơ mấy ngón tay ra đếm. “Bác của tôi, vợ bác ấy, cặp sinh đôi anh em họ của tôi. Ồ và một người dì, em gái mẹ tôi nữa chữ. Tôi tự hỏi họ đi đâu hết rồi.”

    James im lặng, giữ vững thái độ điềm tĩnh. Howl ngước lên, nụ cười cao ngạo của cậu như trêu chọc ông ta, rồi nhắc lại cái câu trong bài tế văn mà gã thần chết vừa đọc khỏi miệng vài phút trước:

    “Ngài ấy thật sự là một con người vĩ đại, một tấm gương cho chúng ta.” Rồi cậu bật cười thật to, to đến mức tất cả mọi người đều quay lại nhìn. Gã thần chết lén liếc nhìn cậu, nhưng vẫn đọc tiếp. Còn Abigail, con bé mang cả một cơn thịnh nộ trong mình.

    Nhưng Howl chẳng bận tâm. Phân nửa trong đám người này cậu chẳng quen biết. Cậu chỉ thôi cười khi cảm thấy vậy là đủ. Không ai ho he gì vì biết cậu là ai và sẽ là ai. Người sẽ kế vị kẻ đang nằm trong chiếc quan tài này, và bởi thế Howl càng được nước.

    James, dường như cũng chẳng quan tâm đến thái độ đó, bèn mở lời sau khi Howl đã im lặng trở lại. Ông ta cứ luôn dùng cái giọng đó: nhỏ, máy móc và phát âm rất sắc:

    “Lúc trước tôi đang định nói với ngài về điều này, nhưng bây giờ chắc điều đó không còn quan trọng nữa.”

    “Ồ, cứ nói đi. Bất cứ thứ gì làm tôi không ngủ gục luôn ở đây, tôi đều nhận hết.”

    “Điều này hiện tại chỉ một mình tôi biết, là về nguyên nhân chết của Quỷ Vương.” Ông ta hạ giọng. “Ngài ấy không chết vì bệnh tật gì cả. Mà là trúng độc.”

    Thật sự mà nói, Howl chẳng lấy làm bất ngờ. Nhưng thái độ quan tâm của cậu cải thiện lên chút ít.

    “Độc? Ý ông là bị hạ độc ấy à? Bởi ai?”

    “Nếu tôi biết thì tôi đã nói rồi.”

    Bài tế văn vẫn văng vẳng trong tiếng mưa nhưng không lọt vào tai Howl nữa. Cậu cẩn thận quan sát thái độ của James Rider, nhưng thật sự thì ông ta che giấu biểu cảm giỏi đến mức cậu không thể đoán được ông ta thật sự đang nghĩ gì.

    “Làm sao ông biết được điều đó?

    “Người đã khám bệnh cho Quỷ Vương. Ông ta là một Cambion thuộc dòng họ Lucifer của chúng ta, một người thật sự rất cao tay.”

    “Và ông ta nói cha tôi bị hạ độc à?” Howl nghi hoặc.

    “Không hẳn là độc, ít nhất là những loại độc bình thường...” Giọng James có vẻ thiếu chắc chắn. “Ông ta nói đó có thể là một loại bùa chú nguy hiểm nào đó.”

    Howl đã đôi lần nghĩ về cái chết của mình và cậu chưa từng nghĩ đến viễn cảnh mình bị hạ độc mà chết. Nhưng điều này không lạ lẫm gì, những kẻ lãnh đạo và mang thân phận quyền lực ngay từ khi sinh ra như Quỷ Vương hẳn gây thù chuốc oán với không ít người. Tuy nhiên, điều mấu chốt nằm ở việc ai là kẻ có gan để phù phép lòng căm hận của mình thành hành động. Cha cậu đã sống hơn một thế kỷ, ông ta biết mọi trò vặt vãnh và hèn hạ để giết người, cuối cùng vẫn bị sa vào cái bẫy nào đó. Howl biết sự không thể đơn giản như thế được.

    “Ít nhất các ông có một bước đi khôn ngoan.” Howl nói. “Công bố với tất cả mọi người rằng ông ta bị bệnh. Nhưng còn gã đã khám bệnh cho cha tôi thì sao, ông ta có thể thích rủ rỉ các bí mật về bệnh nhân của mình khi rượu vào chẳng hạn.”

    Tiếng mưa rơi rào rào và giọng đọc của gã thần chết khiến khó có ai có thể nghe lén được câu chuyện của James và Howl. James nhún vai, giọng điệu có chút tươi tỉnh hơn:

    “Chúng ta sẽ vẫn phải công bố khi bắt được thủ phạm thôi. Bây giờ chỉ là để tình hình trong tầm kiểm soát, không bị rối tinh lên bởi các tin đồn thất thiệt.”

    “Tôi hiểu, nhưng khi tìm được kẻ đã hạ độc ông ta, tôi muốn gặp hắn đầu tiên. Tôi cần phải đãi hắn một bữa thật thịnh soạn để cảm ơn điều hắn đã làm. Giá như tôi có thể thay đổi luật pháp, tôi sẽ miễn tội cho hắn luôn.”

    Một lúc sau, James mới trả lời. “Không hay đâu, thưa ngài.”

    Howl rúc rích cười, làm một vài ánh mắt lại liếc xéo qua cậu. “Hắn quả là con người quả cảm. Có lẽ tôi sẽ khóc trong đám tang của hắn.”

    Abigail đã nghe thấy giọng cái giọng phỉ báng của Howl. Nó đứng cách cậu khá xa, khuất phía sau những người đàn ông và phụ nữ trong bộ đồ tang đen sì. Nó có thể không nghe thấy những gì James nói về việc hạ độc, nhưng rõ ràng nó nuốt hết từng lời mỉa móc và tiếng cười của Howl. Nó lách qua đám người, rồi bước đến trước mặt cậu. Con nhóc chỉ cao khoảng một mét ba hoặc hơn chút, mái tóc nó rủ xuống và dính những hạt bụi nước li ti, khiến tóc nó lấp lánh. Howl bắt gặp một nét quen thuộc kỳ lạ từ con bé, mà cậu nhận ra nó thừa kế từ mẹ mình. Rất khó nói cụ thể nét tương đồng đó nằm ở đâu, nhưng mấy ký ức hiếm hoi về mẹ bỗng gợn lên khi Howl trông thấy con bé. Có điều, giống như cậu, đôi mắt con bé là những tia màu vàng hổ phách, giống như bố, bướng bỉnh và ngoan cố đến lạ.

    “Tôi biết anh đang có quãng thời gian rất vui vẻ…” Con bé nói bằng giọng dằn dỗi và tức giận, khó mà hiểu phần nào nhiều hơn: trẻ con hay chín chắn. “Nhưng anh có thể đợi khi cha tôi được chôn xong không?”

    James Rider không nói gì cả, ông ta lẳng lặng lùi đi. Howl nhướn mày nhìn theo ông ta, rồi lại quay sang mặt đối mặt với con bé. Abigail Lucifer và Howl Lucifer. Cậu liên tưởng đến một cuộc chiến khi nghĩ đến hai cái tên đó. Những đốm vàng trong mắt cậu như sáng lên và Howl nhoẻn cười:

    “Anh nghĩ ông ta không thể nghe thấy đâu.”

    “Tôi thì có.”

    “Em bị làm phiền sao?”

    Con bé trừng mắt nhìn cậu. Howl chợt nhận ra đây là lần đầu tiên cậu và nó nói chuyện thật sự. Như những lúc trước, vẻ mặt con bé vẫn đầy vẻ phẫn nộ, như thể Howl chính là nguyên nhân khiến Quỷ Vương chết. Nhìn hai bọng mắt sưng húp của con bé, và việc sống mũi nó vẫn đỏ au lên, cậu cảm tưởng như nó sẽ òa khóc bất cứ lúc nào. Và cậu thì không thích những người mau nước mắt. Nói đúng hơn, nếu đứng trước một người đang khóc, cậu không biết làm gì tiếp theo: dỗ dành, để yên đó, hay ghẹo tiếp.

    “Em quả thật rất may mắn đó, em biết không Nếu ông ta thật sự đối xử tốt với em đến mức em khóc cho ông ta, anh cảm thấy ghen tỵ vô cùng.”

    Nó nhún vai. “Anh là đồ tồi. Ông ấy là bố anh đấy. Bố của tôi nữa. Ông ấy làm gì không quan trọng, ông ấy vẫn là bố tôi. Ông ấy là máu mủ, gia đình.”

    Howl bật cười rũ rượi, làm con bé giật mình bối rối. Nó tỏ vẻ bị xúc phạm nặng nề.

    “Máu mủ, cái đó đúng. Nhưng em mới chỉ mười hai, Abigail nhỏ bé à. Em sẽ hiểu chuyện khi lớn hơn thôi.”

    Con bé nín im, mím môi giận dữ nhưng có vẻ nước mắt của nó sắp trào ra. Đúng lúc đó, tên thần chết đã đọc xong bài tế văn. Mọi người đứng thẳng dậy, tỏ ra tỉnh táo và buồn thương. Abigail quay ngoắt người bỏ đi khi quan tài chuẩn bị được đưa vào lăng mộ. Nó dành hết sức lực còn lại để ngăn mình òa khóc.

    Sau khi lễ tang kết thúc, cơn mưa cũng ngớt dần. Mọi người lục đục trở vào trong lâu đài, vài người ghé lại nói chuyện với Howl để tỏ ý chia buồn. Cậu trông tươi tỉnh và khó mà giả bộ buồn rầu được. Howl là người cuối cùng trở vào trong, nhưng khi đi được một quãng, cậu dừng lại. Cảm giác rùng mình, sởn gai ốc buộc Howl phải quay đầu nhìn quanh xem có ai, hoặc cái gì không. Cậu có cái cảm giác kỳ cục này từ khi trở về lâu đài, cũng có thể là do tưởng tượng ra nhưng Howl không đề cao trí tưởng tượng ở vùng đất được xây dựng bởi Quỷ lắm. Cậu đứng nấp mình sau một cột đá, lặng lẽ quan sát lăng mộ của Quỷ Vương. Những chiếc vòng hoa màu trắng ngập nước mưa.

    Một cô gái.

    Chắc chắn là một cô gái.

    Cô ta là cô gái mặc áo choàng trắng và có thể dỗ Abigail nín khóc.

    Cầm trên tay một chiếc ô màu xanh rêu, cô ta đứng im lặng trước mộ của Quỷ Vương một lúc. Khoảng thời gian từ lúc đó cho đến khi cố ta rời đi là một khoảng lặng dài. Cô ta không đi về phía lâu đài mà quay lưng, hướng đến cánh rừng cách đấy không xa.

    Howl quay lại chỗ lăng mộ khi cô ta đã đi mất. Ở những vòng hoa được đặt cạnh bia mộ - những vòng hoa thủy ly màu trắng chỉ dành cho người chết, có đơn độc một bông hoa tỏa ra những chiếc cánh mỏng mịn màu xanh nhợt nhạt. Howl nhận ra loài hoa này nhưng không biết tên, hẳn cô ta vừa đặt nó ở đây. Nước mưa lăn xuống trên những cánh hoa trắng mỏng manh.

    Thật sự, không nói quá đi, trông như bông hoa đang khóc vậy.
     
  8. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 6
    CÓ MỘT BÔNG HOA XANH NHỢT NHẠT,

    nằm trên lăng mộ

    giữa cơn mưa.

    Nước mưa cuốn bông hoa rơi xuống một dòng suối,

    được lấp đầy bởi những bông hoa y hệt.

    Howl thấy mình nằm bên dưới dòng suối đấy, những cánh hoa trôi lơ lửng trên đầu. Cậu nín thở, những bong bóng nước bay lên từ mũi cậu. Cảm thấy không thể nín thở thêm, cậu ngồi dậy.

    Một âm thanh lớn đến mức màng nhĩ cậu muốn thủng vang lên. Howl mở mắt, nhìn chằm chằm vào bức tường trước mặt. Vài giây sau, cậu nhận ra đấy là tiếng sét. Rất gần.

    Đầu cậu nhức ong ong, nheo mắt vì ánh sáng ban ngày. Howl lê ra khỏi giường năm phút sau. Cậu vẫn không tài nào nhớ được tên cái loại hoa đó. Rồi nó cũng sớm trôi tuột đi cùng với giấc mơ kỳ lạ của cậu.

    Dù đã cử hành chôn cất, nhưng một lễ chia buồn nhỏ sẽ diễn ra. Không hẳn là chính thức, nhưng sẽ có các bàn ăn và đồ uống nhẹ như một bữa tiệc nhỏ. Người ta có thể ghé đến bất cứ lúc nào; không ai lại không đáp lại một người đến để ngỏ lời chia buồn với mình.

    Kể cả họ có chia buồn thật, hay chỉ là một kẻ tọc mạch và tò mò.

    Fernya Hal là tên gọi của một sảnh đường ở tầng hai. Nơi đây được xây dựng lên với mục đích trở thành phòng hội họp, gặp gỡ, hoặc tổ chức tiệc. Vì cả ba thứ đó hầu như đã không diễn ra trong nhiều năm, Fernya Hal trở thành một trong những căn phòng bị bỏ trống của lâu đài.

    Nhưng hôm nay, nó đã được dọn dẹp, trang hoàng và ngập khách khứa.

    Những người khách đến đây hầu hết đều là khách phương xa. Một số đến từ Hội đồng Bóng tối Valhalla, bởi Quỷ Vương là một nhân vật quan trọng trong hội đồng đó. Còn lại, hầu như Howl chỉ thấy những quý tộc quen biết ông ta; người thân và họ hàng xa đã dự đám đưa tang, chắc chắn họ sẽ không quay lại nữa. Một vài vị khách mang đến thức ăn và rượu như quà chia buồn.

    Dù thế, có chết Howl cũng không tin họ buồn rầu gì.

    Cậu buộc phải có mặt ở Fernya Hal sớm để đón tiếp các vị khách. Gặp gỡ và giao tiếp là thế mạnh của Howl. Người ta dễ dàng cảm thấy cậu thú vị và đáng chú ý chỉ qua vài cuộc nói chuyện. Như một câu châm ngôn của cậu, ấn tượng đầu tiên luôn là ấn tượng quan trọng nhất.

    “Cứ như họ coi chúng ta là nhà Bealzebub* vậy.” Howl nói khi James Rider đến đưa cho cậu một ly rượu táo.

    “Có sao thì nhận vậy thôi, thưa ngài.” James trả lời.

    “Ông biết tôi ghét nhất là gì không?” Howl nói. Cậu đang đứng trên cầu thang, nơi có tầm nhìn bao quát cả đám đông bên dưới. Một nhóm những cô gái trẻ có làn da nâu đang nói cười rúc rích. Ở phía khác, quanh dãy bàn ăn nhẹ, những quý ông trang trọng nâng rượu như chúc mừng điều gì. Abigail ngồi ở cánh cửa ngoài, nơi khách khứa sẽ phải đi qua đó để vào Fernya Hal. Con bé khoác trên mình màu đen tang tóc và có ánh mắt trống rỗng. Ai đi qua đều dừng lại nói chuyện và chào hỏi nó.

    Luôn luôn là cách cư xử, Howl.

    Cậu thầm nói với mình.

    Khi có ai đó chết, mọi người tỏ ra thương tiếc. Đúng vậy, tỏ ra thương tiếc. Họ khoác bộ mặt buồn bã, họ nói điều tốt đẹp về người đã khuất. Nhưng liệu có chút buồn rầu nào là thật không? Tất cả mọi người đều dối trá về điều gì đấy. Và tất cả mọi người đều biết mình dối trá. Họ chỉ lờ nó đi.

    Đó là điều bình thường, đó là chuẩn mực cư xử.

    Riêng Howl, cậu cảm thấy mỉa mai. Cậu không phớt lờ sự dối trá, nhưng cũng không thừa nhận nó. Cậu chỉ mỉa mai nó. Cậu mỉa mai sự bình thường và thói cư xử đấy. Cậu thấy tận sâu bên dưới những tấm mặt nạ thương tiếc kia là bóng tối.

    Howl không biết mình uống cạn ly rượu khi nào. Và James đang nói gì đấy, nhưng rồi tất cả lời nói của ông ta trôi tuột đi. Tận sâu bên trong, cậu phá lên cười nhạo bản thân.

    Một người phụ nữ lạ đi qua cánh cửa. Cô ta chỉ gật đầu nhẹ với Abigail chứ không dừng lại. Ở một đám tang nơi cả đàn ông và đàn bà đều bó mình trong bộ lễ phục màu đen, cô ta trở nên nổi bật với nước da sáng, tóc vàng ruộm như râu ngô, mặc bộ váy màu xanh bay. Cô ta nhanh chóng nhận được sự chú ý của đám đông, không phải bởi vẻ ngoài nổi bật mà bởi cô ta là một nhân vật tiếng tăm. Howl nhận ra điều đó ngay khi vừa liếc xéo qua chỗ cô ta.

    “Đó là....”

    “Iolite Bealzebub thưa ngài.” James Rider trả lời. “Cô ta là nữ chủ nhân, người thừa kế và đứng đầu gia tộc Cambion dòng máu quỷ Bealzebub.”

    “Nói đến là đến ngay.”

    Howl từng gặp một vài đứa trẻ thuộc nhà Bealzebub khi còn ở Vampiton. Chúng chưa thể nói là loại người kỳ lạ nhất, nhưng thuộc hàng khó ưa nhất. Bealzebub có điểm chung ở làn sa sáng đầy sức sống, sở hữu mái tóc dày và cứng. Và nghiện ăn. Đấy là điểm nhấn, điểm yếu, và điểm mạnh của họ. Lũ nhóc nhà Bealzebub luôn mập mạp và đầy đặn. Vậy nên khi nhìn thấy Iolite Bealzebub, Howl đã ngạc nhiên. Cô ta sở hữu cơ thể săn chắc và những đường cong ở tỷ lệ hoàn hảo. Cậu đã tưởng tượng một bà béo với chiếc đầm xù kệch cỡm và chỉ để mắt đến những đĩa đồ ăn.

    Nhưng không phải.

    Cô ta sắc sảo, quyến rũ vô cùng.

    “Có vẻ cô ta muốn gặp ngài.” James nói, lần đầu tiên, Howl thấy ông ta mỉm cười thật. Có một chút trêu đùa trong đấy.

    Howl quan sát ông ta đi khỏi rồi đảo mắt qua Iolite. Cả hai nhìn nhau như đã hẹn trước. Iolite thật sự là một phụ nữ đẹp, hầu hết vẻ đẹp đó đều ở hình thể. Cô ta cao ráo, uyển chuyển, nụ cười tự tin và chín chắn. Mái tóc vàng xõa ra sau lưng, uốn thành lọn cong cong và không gài ghim bất cứ phụ kiện gì. Mắt cô ta lốm đốm những vệt màu nước biển.

    “Howl Lucifer.”

    Cô ta gọi tên cậu khi bước lên các bậc cầu thang. Giọng nói rõ ràng là khác hẳn với nhà Lucifer. Nó trong trẻo, trẻ trung, quyến rũ. Không giống như giọng của Howl, trầm và luôn đầy chất mỉa mai, quyến rũ theo một cách hoàn toàn khác. Giọng cậu là giọng nói của ngọn lửa. Tỏa sáng. Thu hút. Ấm áp. Và kiêu ngạo.

    “Thứ lỗi nhưng xin hỏi lần cuối cái phòng này được sử dụng là khi nào vậy?” Cô ta nói.

    “Tôi không biết, khi ấy tôi chưa được sinh ra nữa.”

    “Iolite Bealzebub.” Cô ta nói, dựa mình vào lan can cầu thang. “Nhưng chắc cậu nghe rồi.”

    “Phải, nhưng họ không nói người Bealzebub có thể đẹp vậy.”

    Cô ta cười. “Có thể ư?” Tay phải cô ta cầm một chai rượu vang thượng hạng. Chất lỏng cay nồng ấy sóng sánh màu vàng tuyệt đẹp, bắn lên những giọt li ti cô ta khi rót đầy ly rượu của Howl. Iolite không cầm cái ly nào, cô ta uống thẳng từ chai.

    “Đừng cố tán tỉnh tôi.”

    “Tôi không tán tỉnh ai nhiều tuổi hơn mình cả. Nhưng tôi sẽ xem xét lại điều đó.” Cậu nhìn cô ta một lượt từ chân lên đầu.

    “Thế mà tôi tưởng nhà Lucifer chỉ biết yêu bản thân mình.”

    Vị cay nồng của rượu tỏa trong cổ họng Howl. Một chút đắng, một chút cay, một chút ngọt. Nếu nụ cười của cậu có vị, nó sẽ có vị giống thế:

    “Tôi có. Tôi phải lòng chính mình năm mười bốn tuổi và nhận ra đó là tình yêu đích thực, nhưng tôi cũng biết thưởng thức cái đẹp nữa.”

    “Phải, tôi có thể thấy được rồi.”

    Thật ra với Howl, đối diện với những lời tâng bốc rất dễ dàng. Đối mặt với những lời tâng bốc mỉa mai càng dễ hơn nữa. Tất cả mọi người đều biết rõ điều làm nên vẻ cuốn hút của nhà Lucifer, sự hóm hỉnh, xảo trá, sự thâm thúy và sắc sảo, biết nhìn nhận.

    Đó là lòng kiêu ngạo.

    Không phải sự kiêu ngạo hợm hĩnh, khoe khoang. Nhà Lucifer có mọi thứ họ muốn. Bởi họ biết mình có thể làm gì và phải làm gì. Đấy là cách mà họ trở nên đáng sợ và khó lường.

    Một kẻ giết người bình thường sẽ kết liễu mục tiêu của mình nhanh gọn và đau đớn nhất.

    Nhưng một kẻ giết người thuộc nhà Lucifer thì không,

    họ có cách,

    ép đối thủ của mình

    tự sát.
     
  9. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 7
    IOLITE XOAY NGƯỜI, ngoái nhìn những vị khách bên dưới. Trong ánh sáng nhợt nhạt của căn phòng, cô ta trông lạnh lẽo, làn da láng mịn khiến Howl tưởng như cô ta là một bức tượng sứ. Chỉ cần một tác động nhẹ, cô ta sẽ vỡ toang.

    “Không biết cậu tìm đâu ra đám người tẻ nhạt này.” Cô ta dừng lại để uống rượu. “Bọn họ giống như mấy con quạ vậy.”

    Howl nhớ đễn những con quạ vào ngày mình trở lại lâu đài Quỷ. “Quạ ư?”

    “Đánh hơi được mùi xác chết từ xa rồi xông đến như lũ quỷ đói. Chúng tới chỉ để hóng chuyện.”

    Điều cô ta nói chỉ làm hình ảnh lũ quạ đậu trên cánh cổng vào lâu đài càng tồi tệ. Howl cảm thấy những chiếc kim vô hình chọc vào gáy mình và làm sống lưng cậu lạnh buốt.

    “Họ đến đây vì tôi mà.” Howl nghĩ mình nên thôi uống rượu, sau khi nó chuyển thành vị đắng kinh khủng trong miệng cậu.

    “Điều đó nhắc nhở tôi rằng tôi cũng đến đây vì lý do đó.” Rồi cô ta nhoài người về phía Howl ngắm nghía cậu một cách chẳng e ngại gì. Nó thực ra giống cách người ta chọn con ngựa tốt nhất để mua hơn. “Có ngoại hình, có tố chất, những yếu tố còn lại sẽ được thử thách thôi. Nói tôi nghe, ham muốn lớn nhất của cậu là gì?”

    “Không ít đâu. Tôi muốn đánh chiếm vùng Ánh sáng, nhưng nhận ra việc đó tốn thời gian quá, nên nghĩ đến việc mở rộng lục địa Bóng tối trước đã.”

    Cô ta cười rung. “Thật sao?”

    “Phải, tôi đã viết những điều đó và dán lên đầu giường mình đấy. Khi ấy tôi mười tuổi.”

    “Được rồi, ý cậu là gì nào?”

    Howl nhoẻn cười. “Tôi sẽ làm một điều gì đó…” Cậu hạ giọng, thì thầm, đôi mắt ánh lên những đốm sáng. “… tuyệt vời, và ấn tượng, mà không ai có thể quên được tôi.”

    “Được thôi.” Cô ta nhón gót chân, nâng mình lên ngang tầm với Howl. Cậu cảm thấy hơi thở đầy mùi rượu của cô ta phải vào môi và sống mũi mình. “Tôi háo hức lắm đấy.”

    Howl bật ra một tiếng cười nhẹ. Iolite giống một loài hoa độc, vẻ đẹp của cô ta tỉ lệ thuận với độ khó lường. Nhưng cậu là người thích sự thách thức. Và Iolite là thách thức đầu tiên của cậu.

    Khi bỏ chai rượu xuống, Iolite lại đảo mắt quanh căn sảnh và đám đông bên dưới, rồi Howl thấy cô ta nhoẻn cười khinh khỉnh:

    “Xem ai đến kìa. Lũ Asmodeus dâm dục.”

    Howl ngẩng đầu, quan sát bên dưới và thấy một người đàn ông dừng ở chỗ Abigail rõ lâu. Trông anh ta trẻ trung, có khi còn trẻ hơn cả Iolite. Cậu không lường trước được việc mình phải tiếp đón tới hai người đứng đầu gia tộc Cambion trong cùng một buổi sáng. Nhưng Howl thích thế vì điều đó chứng tỏ sự quan trọng của cậu.

    “Đừng bao giờ tin nhà Asmodeus.” Iolite nói khi cùng Howl đi xuống. “Lũ đàn ông khốn nạn chỉ biết kiếm bạn tình, và lũ đàn bà lẳng lơ chỉ nghĩ đến việc tối nay mình ngủ với ai.”

    “Tôi thấy có nhiều hứa hẹn đấy.”

    Howl cảm thấy da mình sởn gai ốc lên vì phấn khích. Không chỉ về việc lên giường với ai như Iolite nói, mà là việc gặp một người nhà Asmodeus thật sự. Họ được mệnh danh là những con quỷ của dục vọng và xác thịt. Asmodeus cũng là gia tộc đông người nhất, chuyện này cũng khá dễ hiểu. Họ sở hữu dáng vẻ thanh khiết, cao ráo và u tối, với những cặp mắt có thể nhìn xuyên vào tâm trí người khác.

    “Anh ta là ai?” Howl hỏi.

    “Erik Cloven Asmodeus.” Iolite trả lời. “Đằng sau anh ta là Alicia Glinny Asmodeus.”

    Howl nhướn đầu nhìn qua vai Iolite. Có một cô gái đi theo Erik thật, người mà khi nãy cậu không để ý là có mặt ở đấy. Hai người họ giống nhau như một cặp sinh đôi. Cả hai đều có tóc đen nhánh, gương mặt ưa nhìn đến độ đáng ngạc nhiên: làn da láng mịn, mắt sáng cuốn hút và nụ cười chết người. Nhưng Howl chỉ đoán thế, cậu chưa thấy cô gái đằng sau anh ta cười.

    “Vợ của anh ta à?”

    Iolite phá lên cười. “Làm ơn đi.”

    “Cô có nghĩ tôi sẽ ngủ với cô gái đó không?”

    “Nằm mơ đi.”

    Iolite dừng chân làm cậu suýt va phải cô ta. Cậu chợt nhận ra cô ta không dùng nước hoa, chỉ có một thứ mùi tự nhiên nhưng khó tả phảng phất quanh mái tóc vàng.

    “Cơn gió nào đưa anh đến đây ngày hôm nay thế? Tôi tưởng anh ghét đám tang.”

    Anh ta cười nhạt. “Moldark là người tôi ngưỡng mộ, tôi không thể làm khác được.”

    Đứng cạnh Iolite, Howl bật cười. Erik và Iolite đều quay sang nhìn cậu. “Ồ xin lỗi.” Howl nói. “Tôi tưởng anh đang đùa kia.”

    Erik bắt tay cậu. “Cậu hẳn là con trai của Quỷ Vương. Rất vui được gặp mặt. Em gái của cậu dễ thương đấy.”

    Howl có thể trông thấy Abigail đang nhìn về phía này. “Cô gái đi cùng anh cũng thế.”

    “Phải rồi. Đây là Alicia Glinny Asmodeus, em gái tôi.”

    Howl thoáng ngạc nhiên; cậu đã tưởng đó là vợ hay tình nhân của anh ta. Alicia chỉ nhìn Howl đúng một cái rồi thôi, chẳng nói nửa lời. Cô ta nhìn quanh quất với vẻ mặt hờ hững, thờ ơ và kiêu hãnh. Đây là loại người mà Howl thích gặp, loại không bao giờ quan tâm đến những thứ xung quanh và chẳng gì làm họ ấn tượng được.

    “Em không phiền chứ?.” Erik nói. “Anh cần nói chuyện riêng với họ.”

    Cô ta lẳng lặng gật đầu rồi đi khỏi. Ba người họ chọn một chỗ ngồi xa và khuất nhất, một chiếc ghế sofa hình vòng cung đặt kề cửa sổ. Howl ngả người xuống, tay vắt lên thành ghế. Iolite gác cặp chân lên bàn sau khi dùng mũi giày đẩy đẩy mấy chai rượu đặt trên đó ra. Trên bàn có đến bốn chiếc ly nhưng không ai dùng cái nào.

    “Chuyện này đang được đồn đại giữa các gia tộc Cambion.” Erik vặn nhỏ giọng. Giọng anh ta là giọng của mùa đông, lò sưởi, quyến rũ và tối tăm. “Họ nói Quỷ Vương bị hạ độc, có phải không?”

    Howl chẳng lấy làm ngạc nhiên. Không phải cậu không tin James, mà là gã thầy đồng thầy bói mà James gọi là một danh y. Tin tức lan nhanh như một căn bệnh truyền nhiễm vậy.

    “Phải.” Howl bình thản nhận định. “James, lão quản gia đã nói với tôi thế. Có vẻ đây không còn là tin tức tuyệt mật nữa rồi.”

    “Tuyệt mật?” Iolite phá lên cười cười.“Người ta đang đồn ầm ngoài kia kìa, cậu có để ý không thế? Không có lửa thì chẳng có khói, và đám khói độc này đang được gió thổi khắp nơi đấy.”

    Erik nói sau một khoảng lặng. “Lão quản gia có nói đó là loại độc gì hay ai là người đáng nghi không?”

    “Nếu lão nói thêm bất cứ cái gì, tôi e lão là thủ phạm mất.”

    Sự im lặng lơ lửng trên đầu họ một lúc. Cả ba bâng quơ đảo mắt qua đám đông và những bàn tiệc. Howl không muốn bới móc thêm về vụ việc này,cậu đã mất hơn hai mươi năm cuộc đời bị trói buộc bởi bóng dáng cha mình. Bất cứ dự định nào của cậu cũng khiến cậu nghĩ đến ông ta. Bây giờ cậu đã được tự do khỏi một sợi dây xích sắt, cậu chẳng muốn biết vì sao nó đứt cả. Nó đã đứt. Chấm hết.

    Rồi Iolite là người phá vỡ sự im lặng. Cô ta uống khá nhiều rượu rồi mà chẳng có dấu hiệu gì của việc say xỉn. Nhiều Cambion thường sở hữu một loại năng lực nào đó đặc biệt. Howl cười thầm khi nghĩ năng lực của cô ta là Giữ Đầu Óc Tỉnh Táo Khi Nốc Rượu.

    “Nếu tìm được thủ phạm thì chúng ta làm gì?”

    “Cô còn phải hỏi sao?” Erik nói. “Xử tử, đương nhiên rồi.”

    Iolite gật gật nhẹ, nheo mắt nhìn tên chai rượu được in trên thân nó. “Không tồi. Giết một kẻ giết người. Hẳn hắn thấy trớ trêu lắm, có lẽ nên cho hắn uống một bát thuốc độc.”

    “Cô thích điều đó lắm à?” Howl cười cợt. “Lấy cái chết trừng trị kẻ gây ra cái chết.”

    Cô ta lại uống rượu.

    “Trong một vài trường hợp. Không phải cuộc đời cơ bản đã là một vòng tròn trớ trêu sao?” Iolite cười mỉm.

    Màu sắc trên gương mặt của Erik như bị rút bỏ, trông anh ta nhợt nhạt và mệt mỏi:

    “Chúng ta không thể làm gì khác. Mọi quyết định đều thuộc về hội đồng.” Rồi anh ta cau mày. “Vả lại cậu không nghĩ người hạ độc cha mình đáng chết sao?”

    Howl ngồi thẳng, đặt ly rượu của mình lên bàn, giơ hai tay kiểu đầu hàng. “Tôi muốn gì đâu quan trọng. Quan trọng là tôi sẽ đãi hắn một bữa ăn ngon nhất trần đời trước khi hắn chết để tỏ lòng biết ơn.”

    “Cậu đúng là đồ khốn.” Erik nói.

    “Cảm ơn.”

    “Cứ để rồi xem.” Iolite nói. Cô ta đẩy chai rượu lên bàn, mùi rượu táo thoang thoảng trong không khí, bị pha loãng với mùi mưa.

    Khoảng ba mươi phút sau thì cả Iolite và Erik đều ra về. Khi chào tạm biệt trước cửa chính của lâu đài, Howl cầm tay Alicia Asmodeus lên và lịch sự hôn bàn tay mịn màng, lạnh ngắt của cô ta. Chẳng ai nói gì cả, nhưng cái nhìn cáu kỉnh và chán ghét trong mắt cô ta cho thấy cô ta chẳng thích điều đó chút nào.

    Tới cuối ngày, khi khách khứa đã ra về hết, James Rider gọi những người hầu đến để dỡ quà, dọn đồ ăn thức uống thừa và lau dọn. Howl vẫn chưa rời khỏi Fernya Hal. Ở những ô cửa kính màu trên cao, những đốm sáng nhạt rọi qua khiến ánh sáng mờ như phủ sương. Vết mốc lốm đốm trên tường và các cây cột vẫn chưa được gột sạch. Howl nghĩ mình sẽ sơn lại toàn bộ căn phòng này, thay những chùm đèn gỉ sét và lau sạch những ô cửa sổ xước.

    Fernya Hal trong ký ức cậu khá mờ nhạt. Thật ra, mọi thứ về lâu đài Quỷ đều mờ nhạt. Các cánh cửa, những dãy hành lang, những căn phòng vắng. Mùi hương của sự quen thuộc chỉ phảng phất quanh đây. Nhưng có một vài mảng ký ức vẫn còn đọng lại, những ký ức như thế thường sẽ tồn tại rất lâu và khó mà quên đi.

    James đến từ phía sau, lặng lẽ như một bóng ma cổ xưa. Ông ta nhìn theo mắt Howl lên những bức tượng được khắc đẽo trên trần nhà.

    “Họ đã nói cho ngài về cuộc họp ngày mai chưa?” Ông ta lên tiếng.

    Erik đã nói về cuộc họp này trước khi ra về. Không hẳn là chính thống. Những Cambion quyền lực nhất của vùng Bóng tối sẽ được mời. Một cuộc họp đảm bảo đủ độ bí mật, mà Howl đoán được sẽ là về Quỷ Vương và lời đồn quanh cái chết của ông ta.

    Hoặc ít nhất là sự thật về cái chết của ông ta.

    “Rồi. Tôi biết mình sẽ phải gặp họ sớm.” Cậu rót rượu ra từ một chai đã vơi đi nửa. “Nhưng không nghĩ là sớm đến mức đó.”

    James Rider nhíu mày. “Ngài lo lắng sao?”

    “Tôi ư? Lo lắng ấy à?” Cậu cười. “Đừng đùa, James. Tôi chỉ háo hức thôi.”

    Khi nhìn vào mắt Howl, James Rider sẽ biết cậu không nói dối. Dưới Địa Ngục có bao nhiêu quỷ, ở trên này có bấy nhiêu gia tộc Cambion. Một số đã chết. Một số chỉ còn vài người. Một số khác lại đồ sộ và thịnh vượng, như Thập Quỷ. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi thế. Tất cả các gia tộc Cambion đều mang họ tên theo con quỷ tạo ra mình. Có bảy cái tên quan trọng nhất hết thảy số còn lại. Và không ai, không một ai trên cả lục địa Bóng tối này lại không biết đến họ. Bealzebub, Asmodeus, Belial, Leviathan, Belphegor, Mammon và Lucifer.

    Những con quỷ này được gọi là Bảy hoàng tử của địa ngục, những kẻ thống trị mạnh mẽ nhất. Đã từng là như thế. Và bây giờ, dòng giống của chúng tiếp tục lấy ngai thống trị vùng Bóng tối này.

    James không còn giống con kền kền, không chút nào trong ánh sáng này. Ông ta trông tối tăm và hoài nghi, đôi mắt ánh lên những vệt vàng-đỏ như của loài rắn. Khi ông ta tiến tới gần, làn da ở cổ của Howl sởn gai ốc. Cậu cảm tưởng như ông ta có thể cắn mình bất cứ lúc nào.

    “Nếu ngài chiếm được tình cảm của họ thì sớm ngài sẽ thuộc một trong những kẻ quyền lực đó thôi. Đấy, mới là lý do chúng ta cần ăn mừng.”

    James mỉm cười rồi bỏ đi. Howl vẫn đứng nguyên, ngẫm nghĩ về điều đó. Quyền lực, ngay lúc này cậu đã cảm thấy thèm khát bao nhiêu thứ đó. Không chỉ là tiền bạc, quyền lực bao hàm tất cả. Danh tiếng. Sự giàu sang. Sự tôn sùng, ngưỡng mộ. Sự cao lớn. Sự vĩ đại. Hơn cả cha cậu từng có.

    Cậu sẽ có tất cả mọi thứ cậu muốn,

    và mọi thứ những kẻ khác muốn.
     
  10. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 8
    NƯỚC VÔ CÙNG MỎNG MANH.

    Sóng sánh. Lạnh lẽo. Điềm tĩnh. Và che giấu.

    Howl nghiêng người nhìn mặt nước của con sông vĩ đại, nơi mà tòa lâu đài của gia tộc Leviathan được xây dựng nên. Cậu vẫn không hiểu sao họ thích nước vậy. Làn nước trong xanh ở bề mặt nhưng tối đen ở bên trong, phản chiếu những tia sáng mong manh từ bầu trời vẩn đục. Bên trái có núi non, bên phải cũng có. Chúng quá xa đến độ lẫn luôn vào đường chân trời và mặt nước. Không một cây cầu, không một dải đất bao quanh, lâu đài của Leviathan hiên ngang dựng lên từ trên mặt nước. Nó là một pháo đài và một quần thể kiến trúc đẹp đến đáng kinh ngạc.

    Howl bắt gặp Iolite ở hành lang trước căn phòng họp. Cô ta lại thó được ở đâu đó một chai rượu. Cậu quả quyết cô ta là một kẻ nghiện rượu nặng đến không thể chữa nổi. Nhưng mặt khác, cô ta không có vẻ gì là say xỉn.

    Dãy hành lang này có một bên ốp kính và một bên là tường với các căn phòng. Những cánh cửa kính có thể mở ra, mái tóc vàng của Iolite bị gió bới tung. Lúc này, gương mặt cô ta phảng phất một nét hoài cổ đáng thương.

    “Lâu đài đẹp nhỉ.” Howl nói. “Tôi sẽ phải xây lại cả lâu đài Quỷ mất thôi. Ông già của tôi đã bỏ bê nó cả thế kỷ rồi.”

    Cô ta ngẩng mặt nhìn ra đường chân trời, giọng hơi trầm xuống, giễu cợt. “Hẳn là cậu sẽ làm tốt hơn ông ta.”

    “Tôi chẳng đôi co với cô đâu. Tôi sẽ chứng minh điều đó sau thôi.”

    Iolite cười nửa miệng, xoay người lại nhìn cậu. Howl cũng nhìn lại cô ta với đôi mắt thách thức. Cô ta có vẻ thích ăn mặc mát mẻ, vì chiếc váy màu tím mềm mại này được may cắt sao cho cổ và ngực lộ ra khá nhiều, đồng thời có cả một vết cắt lớn dọc thân váy, biến nó thành xẻ tà. Tóc cô ta xõa xuống vai và lưng, màu vàng sậm hơn màu tóc Howl. Khó mà tin đó là màu tóc tự nhiên.

    “Nghe đây, Howl Lucifer, nếu cậu là kẻ tham vọng đến vậy...” Iolite nói, cố tình lẫn giọng mình vào tiếng gió. “Nếu cậu tin chắc những thứ cậu cần là tòa lâu đài, vị trí đứng đầu gia tộc, hãy làm mọi thứ lũ khốn ấy muốn. Nếu chúng bảo cậu tìm ai, cậu phải làm. Nếu chúng bảo cậu phải giết ai, cậu cũng phải làm. Không hỏi, không phải đối, không trốn tránh.” Khi nhìn vào vẻ mặt của Iolite, Howl biết là cô ta đang rất nghiêm túc. “Nếu chúng bảo cậu giết một cô gái đáng thương tội nghiệp, cậu phải nghe theo. Vùng Bóng tối không khuyến khích sự chần chừ, nhưng ưa chuộng những cái chết. ”

    Howl khắc từng lời cô ta nói vào trong đầu. Iolite là một con sâu rượu đích thực, nhưng là con sâu rượu giàu kinh nghiệm. Và cô ta đang chia sẻ nó. Howl không thấy có gì khó khăn với quy tắc Làm Theo Luật Đám Đông đó. Giống như khi đi săn, chỉ khác là mũi tên của cậu sẽ không hướng vào một con hươu. Mà là một con người.

    Nhưng sự khác biệt nhỏ ấy cũng vẫn khiến Howl băn khoăn:

    “Nếu không thì sao?”

    “Thì người sẽ chết là cậu.”

    Lúc cô ta quay người đi vào phòng họp, Howl chợt nhận ra mình đã ra khỏi Vampiton mất rồi. Cậu không còn đứng sau vạch chuẩn bị, hào hứng với những trải nghiệm. Cậu đang dấn thân dần vào vùng Bóng tối. Có thể sau này kết cục của cậu cũng giống cha mình: mục ruỗng, trống rỗng, thèm khát sự sống, quyền lực, rồi chết trên một chiếc giường lạnh lẽo, với kẻ sát nhân đứng ngay cạnh.

    Đấy có thể là cái kết của cuộc đời cậu lắm chứ.

    Căn phòng họp có hình tròn. Ở lâu đài Quỷ cũng có vài căn phòng như thế. Chúng được giữ sạch sẽ và thường xuyên được sử dụng hơn cả phòng ngủ hay thư viện. Ở đây, các ô cửa sổ kính màu đều nép sau những chiếc rèm dày màu xanh biển. Chiếc bàn bằng đá được đặt đầy đủ nước, hoa quả, khăn giấy xếp gọn ghẽ. Bảy chiếc ghế được xếp xung quanh, năm chiếc đã có người ngồi. Howl và Iolite là những người vào sau cùng.

    Ngay khi vừa ngồi xuống, cậu đã cảm thấy sợi dây đàn chăng mắc trong không khí. Sự căng thẳng, áp lực từ những kẻ ngồi đối diện làm bay biến mất đâu tính dí dỏm và đùa cợt của Howl. Cậu hiểu nếu mình tỏ ra thiếu nghiêm túc sẽ chẳng được lòng ai cả.

    Người đầu tiên lên tiếng là Ulsa Leviathan, người chủ lâu đài này. Cô ta ngồi cách Howl hai người nữa về bên trái, mặc một chiếc đầm màu tím có cổ cao đến ngang ngửa đỉnh đầu. Mái tóc màu tím tái được tết lên và quấn thành búi lớn trên đầu, lấp lánh những hạt ngọc trai xanh. Cô ta khác Iolite một trời một vực.

    “Chắc không cần lời mở đầu long trọng nào đâu nhỉ? Chỉ người trong giới mới biết đến cuộc họp này.”

    Erik nhún vai. “Hẳn trong chúng ta đã có những suy đoán về cuộc họp này, nhưng…” Anh ta nhìn mọi người một lượt. “Tại sao không nói về mục đích của nó đầu tiên nhỉ? Ai đã khởi xướng cuộc họp này?”

    Một gã cao lớn tóc đỏ nãy giờ ngồi tựa vào thành ghế vẻ mệt mỏi bỗng ngồi thẳng dậy. Hắn dễ cao đến gần hai mét, có mái tóc đỏ cháy quăn quăn cắt sát đầu và nước da màu đồng. Giọng nói ồm ồm và trầm nặng, vang như tiếng chuông đánh trên các tòa tháp. Howl cảm tưởng bề mặt ly nước đặt trước hắt cũng đang rung rung:

    “Của tôi, dĩ nhiên. Sau cái chết của Quỷ Vương và những tin đồn…” Hắn chống hai khuỷu tay lên bàn, đan tay vào nhau. “Tôi nghĩ chúng ta cần nói về vấn đề này. Hơn nữa, cuộc bầu chọn người kế vị sắp diễn ra.”

    Hắn liếc mắt nhìn Howl. Cậu nhướn mày, cười mỉm.

    “Chỉ vậy thôi, phải không?” Cậu đoán gã tóc đỏ là Belial. Akhan Belial. Belial cũng nằm trong số Bảy Hoàng Tử của địa ngục, một con quỷ hùng mạnh và đáng sợ. Howl được biết là nhà Belial rất dễ nổi nóng, nên cậu phải cẩn thận lựa lời.

    Tuy nhiên, ai cũng phải thừa nhận đó không phải thế mạnh của Howl.

    “Rồi, rồi, từng việc một thôi.” Một gã béo - Polentus Mammon nói. Mắt hắn nhỏ như một đường kẻ, khoác nụ cười bệ vệ và hào phóng. “Sao không nói về các tin đồn trước nhỉ? Ai đã làm rò rỉ?”

    Howl hơi nhoài người về phía trước. “Một gã đã khám cho cha tôi, tôi e là vậy. Tôi sẽ có tên và nơi ở của hắn nhanh thôi.”

    “Chúng ta sẽ nói chuyện và giải quyết hắn.” Ulsa Leviathan nói. “Hắn sẽ xác nhận mọi tin đồn thiệt sai thế nào.”

    Howl bật cười. “Tin đồn ư? Thôi nào, đến cách các người phát âm từ tin đồn còn có vấn đề nữa. Sao không cùng thừa nhận rằng ai cũng biết đó là sự thật luôn đi?”

    “Chúng ta chưa xác nhận…” Erik nói.

    “Thôi được,” Howl giơ hai tay lên đầu hàng. Cậu ghét kiểu nói chuyện vòng vo khi ai cũng biết tỏng sự thật rồi. “Hãy giả sử đúng là Quỷ Vương bị hạ độc. Các vị sẽ giải quyết như thế nào đây?”

    Tất cả im lặng.

    Howl tự thưởng cho mình một nụ cười. Cậu đảo mắt nhìn quanh, rồi dừng lại ở Erik. “Xử tử?”

    Đuôi mày Erik giật giật.

    “Rõ ràng là thế rồi.” Belial điềm đạm nói. “Chúng ta sẽ mở một phiên tòa. Cứ tiến hành như bình thường thôi.”

    “Nếu không có bằng chứng thì sao?” Iolite hỏi. “Ý tôi là, nếu chúng ta biết chắc kẻ giết người, nhưng không có bằng chứng?”

    Một người ngồi bên trái Howl cất giọng uể oải. Cậu không để ý đến anh ta cho đến lúc này. Damien Belphegor, sở hữu mái tóc nâu nhạt, thưa và rối bù.

    “Tại sao phải cần bằng chứng nữa?” Giọng anh ta kéo dài và yếu. “Nếu đã biết chắc ai là kẻ giết người rồi?”

    “Đúng vậy.” Erik gật đầu đồng tình. “Đừng kéo dài phiên tòa lâu quá. Dù thế nào hắn vẫn bị xử tử thôi. Một cái chết êm ái bằng thuốc độc.”

    Ulsa cười. “Tôi thích ý tưởng đó đấy.”

    “Vậy không ai phản đối gì chứ?” Belial hỏi lại một lần nữa. “Quyết định thế đi.”

    Iolite dốc chai rượu lên uống, đôi mắt đầy vẻ khinh bỉ. Rồi cô ta nhìn sang Howl, và cậu có nhận ra.

    “Được thôi.” Giọng cô ta hờ hững. “Các người định tìm ra hắn bằng cách nào?”

    Iolite đặt chai rượu lên bàn, nhướn mày nhìn Belial. Ông ta cau mày, đáp trả bằng ánh mắt thách thức:

    “Chúng ta sẽ tìm được hắn. Cậu làm được việc này chứ, Lucifer?”

    “Làm ơn, chỉ Howl thôi.” Cậu nói. Tiếng Polentus Mammon phá lên cười cắt ngang cậu. Điệu cười của ông ta khô, vang và lớn hơn bình thường:

    “Cậu ta vẫn còn thiếu kinh nghiệm, Belial. Ngài nghĩ gì thế? Tôi không nghĩ là cậu ta xoay sở được đâu.”

    Ulsa Leviathan gật đầu đồng tình. “Cậu ta không thể cáng đáng được đâu.”

    Howl cảm thấy bị xúc phạm. Họ nói như thể cậu không ngồi ở đây, với giọng điệu kiểu “Làm sao để một đứa trẻ con đi điều tra một vụ giết người được?” Một trong những điều cậu ghét nhất đó là bị đánh giá thấp.

    “Đừng nhìn mặt mà bắt hình dong, Leviathan. Ít nhất tôi cũng không làm thế với cô.”

    Cô ta trợn mắt nhìn Howl.

    “Tôi sẽ tìm ra được thủ phạm.” Cậu khẳng định. “Tôi biết mình có thể làm những gì. Vậy nên, hãy cho tôi một cơ hội và tôi sẽ bắt được kẻ đã đầu độc Moldark.”

    Belial nhìn cậu bằng đôi mắt nghi ngờ.

    Thật ra, tất cả ngoại trừ Iolite đều nhìn cậu như thế.

    Damien Belphegor nhún vai. “Cứ để cậu ta làm. Moldark dù gì vẫn là cha cậu ta.”

    “Được thôi, nhưng tốt nhất là nhanh lên. Chúng tôi không thích chờ đợi đâu.”

    Tất cả nhìn nhau như xác nhận lại lần cuối. Howl biết chẳng ai trong cái phòng này tin cậu làm được. Điều đó chỉ làm cậu thêm khó chịu và nôn nóng.

    “Bây giờ, hãy nói đến vấn đề mà ai cũng hào hứng.” Erik xoay xoay cốc nước trong tay, vừa nói vừa nhìn Howl. “Lễ đăng quang.”

    Cậu nhún vai. Một cái nhún vai tự cao. “Anh nói đúng. Quả là rất đáng hào hứng đấy.”

    “Tôi thì không.” Iolite lầm bầm trong họng.
     
  11. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 9
    CƠN ÁC MỘNG VẪN ẬP TỚI HÀNG ĐÊM từ khi Howl bắt đầu sống ở lâu đài Quỷ.

    Mỗi buổi sáng, Howl thức dậy với cơn đau đầu. Nhưng cũng chỉ khoảng nửa tiếng sau nó biến mất.

    Cậu không hiểu tại sao.

    Lễ đăng quang của cậu diễn ra vào tuần trước. Lâu đài Quỷ chưa bao giờ đông như thế, hầu như không còn ai đề cập đến chuyện Moldark đã chết nữa. Nhưng Howl biết ở sau lưng mình, họ vẫn rì rầm đồn đoán về điều ấy. Kẻ giết người là ai? Tại sao hắn lại làm thế? Bằng cách nào hắn giết được Moldark? Việc ông ta bị ám sát có lẽ đã là một thông tin khó tin và gây sửng sốt, nên người ta càng tò mò về danh phận của thủ phạm.

    Nghiễm nhiên, vị bác sĩ đã khám cho ông ta lại nổi tiếng. Vào đám tang, ông ta cũng đến nhưng chẳng chia sẻ điều gì hữu ích cả.

    Howl và những người thuộc Hội đồng chỉ cố gắng im lặng hết sức có thể. Dẫu bản thân cậu cũng tò mò.

    Sáng hôm nay, người giữ bản di chúc của Moldark đã đến. Anh ta mặc một bộ vest đen ngay ngắn, không vết nhăn nhúm, mái tóc nâu cắt cao được chải gọn. Chắc anh ta chỉ tầm ngoài ba mươi, dáng vẻ nhanh nhẹn, có khuôn mặt hơi xương xẩu và cái mũi cao thẳng, hơi gãy. Anh ta bước thẳng đến trước bàn làm việc của Howl và ngồi xuống đối diện cậu.

    “Buổi sáng tốt lành, thưa ngài.”

    Howl chỉ hờ hững gật đầu. Chiếc ghế của cậu xoay ngang so với chiếc bàn, và Howl ngoái nhìn ra cửa sổ. Mưa rơi lất phất bên ngoài, Rethala vẫn đang vào mùa mưa nên chẳng mấy khi trời tạnh ráo. Cỗ xe ngựa bên ngoài hẳn là của người giữ di chúc. Anh ta có vẻ cũng là loại khá giả.

    “Một năm điên rồ phải không?” Anh ta nói khi thấy Howl vẫn chưa chú ý đến mình lắm. Thật ra chẳng có lý do gì mà cậu phải chú ý: bản di chúc của Moldark chỉ là vấn đề giấy tờ trước và sau khi qua đời của ông ta. Những gì viết trong đó đã rõ, mọi tài sản sẽ để lại cho cậu và Abigail, không thể khác được.

    “Còn tùy nữa.” Howl nói, rốt cuộc cậu cũng quay người lại phía anh ta. “Còn chưa hết năm mà.”

    Anh ta nhăn trán rồi lấy tay vuốt sống mũi, tỏ ra mệt mỏi. “Tôi biết, nhưng nó dài như cả thập kỷ vậy... Được rồi, tôi mang đến đây di chúc của ngài Moldark. Tôi đã đến một vài lần trước khi ngài ấy qua đời và, cũng không có gì bất ngờ lắm cả.”

    “Cho tôi xem đi.” Howl nói.

    Người đàn ông đặt chiếc vali đen lên bàn. Anh ta lật mở những cái chốt, rồi lấy ra trong vali một tập phong bì niêm kín có dấu đỏ. Đặt vali xuống, anh ta để chiếc phong bì ngay ngắn trên bàn, trước mặt Howl.

    “Tôi phải báo trước có vài điều hơi kỳ lạ.” Anh ta nói, rồi cẩn thận mở niêm phong phong bì. “Nhưng cũng không có gì đáng lo cả, tôi nghĩ vì ngài ấy là người khá kỳ quặc thôi.”

    “Kỳ quặc ư?” Howl trả lời bằng một tiếng cười. “Ông ta không kỳ quặc, anh bạn. Ông ta là loại vô cảm và tham lam. Nhưng thôi được, cho tôi xem anh có gì ở đó nào.”

    Người đàn ông lấy những tờ giấy da được giữ phẳng phiu bên trong phong bì ra, ở trong là những nét chữ đều đều màu nâu. Howl cầm lấy bản di chúc. Lẽ ra cuộc gặp mặt ngày hôm nay phải có cả Abigail vì con bé cũng là một phần trong gia đình. Nhưng sự xuất hiện của nó cũng chẳng để làm gì cả ngoài tăng thêm sự giận dữ.

    “Ông ấy để lại lâu đài và mọi tài sản cho ngài và tiểu thư Abigail, về cơ bản thì vậy.”Anh ta tóm tắt lại. “Đất đai, tiền bạc, những tài sản có giá trị... Tuy nhiên có một phần hơi kỳ lạ.” Anh ta cười và những nếp nhăn ở mắt dồn ép lại với nhau. “Ông ấy để lại cây đàn piano của vợ mình cho một người tên Angeline Gallois.

    Howl lật tờ giấy. “Ai là Angeline Gallois?”

    “Tôi không biết, có lẽ là người quen?”

    “Hoặc ông ta có nhân tình.”

    “Tôi không nghĩ sẽ lộ liễu vậy đâu, vả chăng nếu có...”

    Howl ngẩng nhìn anh ta, nhướn mày.

    “Được rồi...” Người đàn ông hắng giọng. “Đó là tất cả, liệu ngài có muốn hỏi điều gì?”

    “Bây giờ thì chưa.” Howl chống tay lên cằm, mắt vẫn dán chặt vào tờ giấy. Cậu đọc đi đọc lại dòng chữ viết “để lại cây đàn piano cho Angeline Gallolis”. Cậu không thể làm gì ngoài phỏng đoán về việc cô ta là ai. Cậu chưa từng nghe thấy cái tên này bao giờ cả.

    Người đàn ông trong lúc chờ Howl đọc bản di chúc, ngả người ra ghế và nhìn ngắm một hồi căn phòng của cậu. Rồi anh ta dừng mắt ở chùm đèn pha lê màu vàng đục trên đầu:

    “Thứ cổ lỗ này vẫn còn ở đây sao? Nó vẫn y nguyên như lần trước tôi đến đây.”

    “Phải, vì chỉ mới có vài tháng thôi. Tôi đang thuê người sửa sang lại lâu đài rồi.” Howl lật lại tờ giấy, chau mày.

    “Vài tháng? Không, ý tôi là lần tôi đến đây khi phu nhân qua đời.”

    Howl ngẩng đầu lên. “Mẹ tôi sao?”

    “Phải.” Anh ta chỉnh lại cổ áo. “Tôi đã đến đây khá nhiều lần rồi đấy.”

    Howl không hiểu anh ta muốn gửi thông điệp gì khi nói đã đến đây nhiều lần và cậu cũng không muốn biết. Cậu đặt tờ giấy lên trên phong bì rồi cất lời:

    “Bà ấy có để lại di chúc sao?”

    “Không hẳn. Bà ấy chẳng để lại gì cả, không một bức thư hay gì đó đại loại thế nên Moldark đã gọi tôi đến để tạo một di chúc. Trên thủ tục giấy tờ thôi, bởi mọi tài sản hầu như chẳng có gì giá trị. Bà ấy có một cây đàn piano, theo tôi nhớ là thế. Mọi thứ đều được để lại cho Moldark.”

    Một vài ký ức thoáng gợn lên khi anh ta đề cập đến cây đàn piano của mẹ mình. Những ký ức đó có phần mông lung, nhưng Howl có nhớ gì đó về những bản nhạc mà mẹ đã đàn, những nốt nhạc buồn vang lên trong ngày mưa. Bây giờ cậu mới băn khoăn cây piano đó ở đâu. Có lẽ Moldark đã bỏ mặc nó ở một xó xỉnh nào đó trong lâu đài, bây giờ hẳn nó đã cũ mòn và chưa chắc còn dùng được.

    Mười ba năm.

    Có cây đàn nào sau mười ba năm không sử dụng vẫn còn bền không?

    Không thể nói là không thể, nhưng lại gần như không thể.

    Khoảng nửa tiếng sau, người giữ di chúc ra về. Anh ta để lại bản di chúc cho Howl và một vài lời khuyên về việc lâu đài nên được tu bổ như thế nào.

    Howl không tiễn anh ta. Cậu chỉ đứng ở cửa sổ và nhìn cỗ xe ngựa đi khỏi lâu đài Quỷ.

    Trong bóng tối, như có một nốt nhạc vô hình vang lên.

    Chúng vang lên,

    Trong lửa.

    *

    NHỮNG BỤI HOA HỒNG chất đống trên cỏ. Các cánh hoa tơi tả bay đi khắp nơi.

    Họ đang trang hoàng lại tòa lâu đài.

    Các bụi hồng dại leo trên các hàng rào bị cắt và nhổ đi. Cỏ được tỉa, con đường được lát lại. Thậm chí cả cánh cổng chào mừng. Howl cho người dỡ nó xuống và thay bằng dòng chữ khác: Lâu đài Quỷ.

    Chỉ thế, không có chào mừng gì cả.

    Ở trên cao, những người làm bắc thang và lau chùi chữ L rêu mốc. Các bức tường bên ngoài cũng được sơn và ốp lại. Hẳn sẽ mất nhiều hơn một tháng mới có thể hoàn tất, nhưng Howl không e ngại điều đó.

    Trong lâu đài, mọi thứ đều được sửa lại. Các chùm đèn được thay, cửa sổ được làm sạch và người ta sơn lại cả trần nhà. Lần đầu tiên trong bao nhiêu năm, lâu đài Quỷ lại đông đúc.

    Howl đứng ở bên ngoài, nheo mắt nhìn những ô cửa sổ đang được lau chùi lại. Những người làm công vừa làm việc, vừa nói chuyện. Không khí vang những âm thanh lao xao của gió và tiếng người. Điểm tuyệt nhất trong sửa sang lại lâu đài, là cậu có thể xóa hết những dấu vết mà cha cậu in khắp nơi bên trong nó. Nó không còn thuộc về ông ta nữa. Nó thuộc về cậu. Tất cả.

    Nhưng liệu nó có thật sự là của cậu không?

    James bước đến cạnh Howl. Những vết chân chim ở khóe mắt nhăn lại.

    “Ngài định trồng thêm bao cây?” Ông ta nhìn theo những cây non vừa được trồng rải rác quanh lâu đài. “Tôi e sẽ hơi rậm rạp quá. Và đến mùa đông không chắc chúng sẽ trụ được.”

    “Chỉ thêm một chút bóng mát thôi. Dặn đám thợ thay những cửa nào đã nứt kính đi. Tôi không thích gió rít vào đâu.”

    “Tôi sẽ bảo họ sau.”

    Dưới ánh sáng ngoài trời, James trông già hơn. Tóc ông ta ngả trắng, được chải gọn gàng. Khó mà đoán được ông ta đã bao nhiêu tuổi. Cambion có tuổi thọ dài hơn người thường. Ông ta hẳn đã phục vụ cho gia tộc cậu từ rất lâu. Hàng chục năm, có khi hơn thế.

    “Ông đang nghi ngờ.” Howl nói. Cậu nheo mắt nhìn. Một bụi cây leo độc đang được chặt bỏ gần mấy cây cột ở hiên ngoài lâu đài. Một vài người khiêng đến những chiếc ghế và xích đu mới. Dần dần, trông nó không còn giống khu vườn bị bỏ hoang hàng chục năm nữa.

    Sự sống đang đẩy lùi hơi thở u ám của nơi này, như ánh mặt trời rọi qua sau những ngày mưa ẩm thấp.

    “Nghi ngờ điều gì?”

    “Ồ, ông biết mà. Đừng giả bộ với tôi.” Cậu gõ gõ vào đầu mình. “Tôi có khả năng tuyệt vời về tâm trí đó.”

    Mọi cảm xúc bị rút cạn khỏi gương mặt ông ta. Howl đã nhầm. Cậu không nên so sánh ông ta với loài kền kền, mà phải với loài rắn. Thứ sinh vật ẩn náu trong bóng tối, nguy hiểm, khó lường. Bạn không bao giờ biết mình bị một trong số chúng cắn cho đến khi cảm thấy được nọc độc đang chảy trong cơ thể, và chết dần.

    Howl không dành sự tin tưởng hoàn toàn cho James. Thật khó để tin được ai trong cái thế giới này.

    “Quỷ Vương sẽ không thích cách ngài đang làm với nơi này đâu.”

    “Vậy sao? Ông có vẻ biết rõ ông ta phải không?”

    “Tôi đã phục vụ ngài ấy gần một thế kỷ.” Ông ta nói, rồi im lặng. Howl có thể đoán được vài điều qua sự im lặng đó.

    Gần như có thể coi đó là một kiểu tài năng.

    Cậu biết khi nào người ta giận dữ. Khi nào họ khó chịu. Khi nào họ vui vẻ, hả hê. Không cần trò gì bí hiểm với tâm trí cả, cậu chỉ cần lược vài điều từ ánh mắt và câu nói của họ. Sự im lặng của James cho thấy một chút nuối tiếc của ông ta từ vị chủ nhân cũ. Như một con thú nuôi vô chủ, ông ta đang rối trí. Và ông ta không chấp nhận cậu làm chủ nhân mới của mình.

    Một con rắn khôn ngoan và trung thành làm sao.

    “Sự thay đổi, James,” Cậu buộc ông ta phải nhìn vào mắt mình. James mím môi im lặng. Sức nặng từ ánh mắt cậu làm ông ta bối rối. “Chỉ là chuyện bình thường thôi. Ông không biết học cách chấp nhận sao?”

    Bằng một chút nỗ lực, Howl đọc tâm trí ông ta.

    Cậu vỗ nhẹ vai James Rider, rồi bỏ đi.

    Cậu mỉm cười.

    Cậu biết ông ta đang sợ.
     
  12. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 10
    HOWL ĐI VÒNG QUA mạn trái của lâu đài. Chuồng ngựa đang được dỡ và sửa lại. Mùi hôi từ phân ngựa, cỏ, rơm mốc và cái ẩm ướt của những thanh xà gỗ ngâm mưa lâu ngày khiến Howl nhăn mặt.

    “Đàn ngựa đâu?” Cậu hỏi một người làm gần đấy.

    “Đang được thả, thưa ngài. Giữ chúng ở trong thì khó cho việc sửa chữa.”

    “Có người lo cho việc đó chứ?”

    Con quạ gật đầu.

    “Tiếp tục đi.” Howl nói rồi lùi vài bước ra xa để có một cái nhìn bao quát về phía này của lâu đài. Cảm thấy chưa đủ, cậu leo lên một đỉnh đồi gần đấy. Gió thốc mạnh hơn, mắt Howl cay xè, tóc rối bù. Những bóng người nhỏ dần lại trước mắt cậu.

    Mặc kệ vẻ âm u não nề, nơi này vẫn thật đẹp.

    Trong sâu thẳm, Howl ước mình lớn lên ở đây thay vì bất kỳ nơi nào khác. Ít nhất, cậu cũng sẽ biết mình thuộc về đâu.

    Một tiếng động nhẹ vang lên sau lưng cậu. Cậu sẽ chẳng nghe thấy nếu vật đó không lăn đến và đập vào giày cậu. Howl nhấc chân, cúi nhìn.

    Một trái táo.

    Đỏ. Chín. Căng mọng. Bóng bẩy. Đẹp đẽ.

    Nó nằm im trên cỏ, hẳn vừa rơi từ cái cây phía sau. Cậu nhặt nó lên. Cảm giác bất an bỗng lấn chiếm lấy cậu. Trong dạ dày Howl như có lửa.

    Cậu ngẩng đầu lên. Làn da sau gáy và trên cánh tay sởn gai ốc. Trong mấy giây đầu, cậu không thể mở lời.

    Cô ta đứng ngay trước cậu. Chiếc áo choàng có mũ trắng khiến cô ta trông nhợt nhạt như một bóng ma. Cô ta ôm một bó cỏ to, có vẻ ngạc nhiên khi thấy Howl.

    Howl gần như quên béng mất cô ta. Quên mất sự hiện diện của cô gái kỳ lạ mà cậu rất đỗi tò mò, người có thể dỗ được Abigail nín khóc. Người đặt những bông hoa dại lên lăng mộ Quỷ Vương.

    Người mang đến những trái táo đỏ cho ông ta.

    Cô ta bối rối cúi chào. Howl lấy lại bình tĩnh. Cậu nhắc bản thân mình mới là người nắm thế chủ động.

    “Cô đang làm gì thế?” Cậu hỏi.

    Cô ta nhìn bó cỏ mình ôm. “Cắt cỏ, thưa ngài.”

    Howl nhướn mày.

    “Đang mùa mưa.” Cô ta giải thích thêm. “Tôi trữ cỏ để chúng vẫn có thức ăn kể cả khi không thể ra ngoài cánh đồng.”

    Howl không chú tâm lắm đến những gì cô ta nói. Có thể trước đây cậu đã không đê ý thấy, nhưng cô ta là một cô gái đẹp. Cô ta sở hữu làn da trắng tự nhiên, đôi mắt xanh như mặt biển và gương mặt nhỏ nhắn, thanh mảnh. Cô ta không có thân hình hoàn hảo như Iolite, hay vẻ cổ kính u tối đặc trưng của Alicia.

    Cô ta khác tất cả họ.

    Đó là điều làm Howl ấn tượng.

    Cô ta dường như không thuộc vể mảnh đất này.

    Cô ta thanh khiết. Bí ẩn. Xinh đẹp. Mỏng manh.

    Cô ta là mặt nước.

    Cô ta đẹp bởi những bí mật cô ta nắm giữ, không phải vì sở hữu một vẻ ngoài ưa nhìn.

    Howl đưa mắt nhìn quanh. Ở phía trước ngọn đồi ngả gió là một thung lũng rộng và bằng phẳng. Đàn ngựa đang ở đấy, nhẩn nha gặm cỏ. Có gần ba mươi con, khỏe mạnh và sạch sẽ. Cậu nhìn cô gái:

    “Cô là người chăn đàn ngựa à?”

    Cô ta gật đầu. Howl đọc được trong mắt cô ta sự chai lỳ và cảnh giác. Cô ta biết cậu là ai, và Howl tự hỏi cô ta nghĩ gì. Liệu cô ta có sợ không? Cậu đưa mắt nhìn quả táo trong tay, rồi lại nhìn cô ta.

    “Cô tên gì? Hình như tôi đã thấy cô ở đâu đó…”

    “Ở trong lâu đài.” Cô gái nói. “Tôi mang táo đến cho Quỷ Vương.”

    Thậm chí cô ta còn không buồn nói dối hay che giấu.

    Che giấu?

    Howl tự nhủ với bản thân, cô ta chẳng làm gì sai mà che giấu cả. Cô ta chỉ mang táo đến, không gì thêm. Tại sao cậu lại nghĩ là cô ta phải che giấu chứ?

    “Táo à?” Cậu hỏi.

    Howl có cảm thấy lớp vỏ mát rượi của quả táo dưới bàn tay mình. Cô gái kia nhìn chằm chằm quả táo trong tay cậu, lầm bầm. “Đó hẳn là quả cuối cùng…”

    “Tại sao một người chăn ngựa lại mang táo cho ông ấy?”

    Cô ta ngước nhìn cây táo.

    “Nó là của tôi. Tôi chăm sóc nó.”

    “Cô trồng nó à?”

    “Không.” Cô ta ngừng một quãng. “Là người khác. Nhưng nó vẫn là của tôi.”

    Howl cười nhạt. “Được thôi.” Cậu lau quả táo bằng gấu áo. Mưa đã gột sạch nó, nó chỉ dính ít lá cỏ khi rơi xuống đất. Nó có vị thanh mát và ngọt. Ở đầu lưỡi, Howl nếm được vị của mưa và gió.

    Cô ta nhăn mày khi thấy Howl ăn quả táo.

    “Cô biết Abigail, em tôi à?”

    Khi thấy cô ta giật mình, Howl biết mình đã hỏi trúng tim đen. Cô ta mang táo cho Quỷ Vương. Cô ta xuất hiện ở phòng ông ta trước khi ông ta chết. Cô ta mang những cánh hoa đặt lên lăng mộ của Moldark. Được thôi, Howl cho phép mình bỏ qua những chi tiết đó. Có thể cô ta là một đứa trẻ mồ côi được, hoặc bị, cha cậu mang về đây. Hoặc cô ta là con một ai đó, một người hầu trong lâu đài, có quen biết với Quỷ Vương.

    Nhưng bằng cách nào cô ta có sức ảnh hưởng như thế tới Abigail?

    Đấy là điều mấu chốt mà cậu cần biết.

    “Tôi có nói chuyện với con bé vài lần.”

    “Tôi cũng nói chuyện với nó vài lần, nhưng không đủ để dỗ nó nín khóc. Không ai làm được cả.”

    Giờ thì, cô ta đã biết không dễ gì qua mặt được Howl. Nhưng điều đó không làm cô ta bối rối. Cô ta vẫn có cái nhìn bình lặng và khó hiểu đấy. Cô ta nhìn cậu như nói rằng: “Phải, tôi biết những điều anh không biết. Tôi nhìn thấy những thứ diễn tra trong bóng tối của lâu đài này, nhưng không đời nào tôi hé miệng cho anh biết. Anh sẽ làm gì nào?”

    Howl sẽ chẳng làm được gì cả. Đứng cạnh cô ta, mọi sợi lông tơ trên gáy cậu đều dựng đứng lên. Cậu cảm nhận được luồng không khí quanh cô ta, tâm trạng cô ta, nhưng không biết cô ta nghĩ gì và biết gì cả.

    “Chúng ta sẽ nói chuyện này sau vậy.” Howl cắn một miếng táo rồi dạm bước bỏ đi. Cậu không thể để lộ sự bất lực của mình. Nhưng rồi như nhớ ra gì, cậu quay lại. “Tên của cô…?”

    Cô ta mím môi, chần chừ.

    “Angeline.” Giọng cô ta như tiếng thầm thì của gió vọng lại từ hang sâu.

    “Angeline.” Howl nhắc lại. “Gặp cô sau.”

    Lúc Howl rời khỏi ngọn đồi cũng là lúc sương dần buông xuống. Gió rít qua cánh rừng ầm ĩ như một con thú bị thương.


    Bị thương, quằn quại, và chết dần.
     
  13. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 11
    Chương mười một

    ANH TA LÀ MỘT KẺ XẤU.

    Một kẻ giả tạo.

    Dối trá.

    Đểu cáng.

    Tàn nhẫn.

    Xấu xa.

    Nhưng, những thứ xấu xa thường có vẻ ngoài thật lộng lẫy và quyến rũ.

    Tôi khinh thường anh ta.

    Nhưng tôi cũng không thể tỏ ra xa cách. Tôi sống ở đây. Tôi thuộc về nơi này. Tôi không thể tỏ ra bất mãn. Tôi không thể tỏ ra nổi loạn. Tôi phải chấp nhận rằng có một Quỷ Vương mới đang sống ở lâu đài Quỷ.

    Liệu rằng, liệu rằng, anh ta có tìm ra không?

    Anh ta liệu có tìm ra tôi? Núp trong bóng tối và sợ hãi.

    Anh ta xấu xa.

    Nhưng anh ta cũng cô đơn. Đáng thương làm sao. Anh ta không buồn nhỏ một giọt nước mắt khi cha anh ta chết.

    Tôi thì có. Tôi đã khóc mỗi đêm. Tôi khóc mỗi khi nhìn thấy con bé. Tôi khóc mỗi khi nhìn thấy những cánh hoa thanh xà. Tôi khóc khi đêm xuống và ngày lên.

    Tôi khóc cho chính mình nữa.

    Có thể đây là mùa mưa cuối cùng của tôi ở lâu đài Quỷ. Tôi không biết một năm nữa mình sẽ ở đâu. Có lẽ là mục rữa trong một lỗ huyệt nào đấy. Khi tôi chết, tôi muốn người ta trồng hoa thanh xà lên mộ mình. Chúng thật đẹp. Chúng xanh biếc và chúng thật đẹp. Chúng có màu của bầu trời trong và của đại dương. Chúng có màu của mắt tôi.

    Chúng có màu của mẹ tôi.

    Cha tôi.

    Và tất cả những linh hồn khốn khổ ấy.

    Thật may mắn khi lại bắt gặp chúng trong rừng.

    Tôi không biết làm gì tiếp theo, thật sự là thế.

    Tôi hoàn toàn không biết.

    Tôi tuyệt vọng. Bởi vậy, tôi muốn dành những ngày cuối ở đây, miền đất xấu xí đã nuôi tôi mười mấy năm qua. Tôi biết anh ta sẽ không làm gì tôi, anh ta không thể tìm ra tôi. Tôi biết mọi chuyện sẽ ổn. Khi chết rồi, tôi sẽ về nhà.

    Tôi sẽ gặp lại những mảnh yêu thương của tôi. Tội lỗi của tôi. Linh hồn của tôi.

    Họ đang chờ tôi.

    Tất cả những gì tôi cần làm

    Là chờ đợi.
     
  14. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 12
    HOWL XẾP GỌN NHỮNG CUỐN SÁCH LÊN GIÁ một cách cẩn thận, nhưng chỉ những cuốn quan trọng. Chúng ít đến ngạc nhiên. Những cuốn còn lại, James cho người mang đến xếp vào thư viện.

    Trời tạnh ráo, sáng sủa. Howl có một buổi sáng rảnh rỗi, mà cậu thì không chịu được việc ngồi không. Cậu đi xuống dưới, chợt trông thấy Abigail trên hành lang. Chỉ là thoáng qua. Con bé vừa ra khỏi phòng nó. Đôi khi cậu tự hỏi nó làm gì hàng ngày. Con bé hầu như không ra ngoài mấy, nhưng trông như thể nó vừa lẻn đi đâu về vậy.

    Trước khi Howl kịp nói hay làm gì, nó vào phòng và đóng sầm cửa lại.

    Cả tòa lâu đài rộng lớn và ngoài người làm, người hầu ra chỉ có cậu và con bé. Cậu cảm thấy điều đó thật đáng tiếc theo một cách nào đấy. Có hàng chục căn phòng, nhưng hầu như đều bị bỏ trống. Vào những đêm cô đơn nhất, gió rú lên từng hồi và tiếng mưa gào thảm thiết có thể làm người ta run rẩy vì sợ.

    Những thứ cổ xưa thường chứa nhiều bí mật.

    Và ít ai đủ can đảm để tìm ra.

    Gió đang điên cuồng rít thổi, lùa nhau từ bãi cỏ lên không trung. Bầu trời vốn xám xịt, nhưng hôm nay lại ánh lên những sắc bạc từ những tầng mây. Cảm giác như bầu không gian được kéo rộng ra gấp đôi, thoáng hơn, rộng hơn, nhưng cũng trống vắng hơn.

    Howl sải bước trên những cuộn cỏ đang thổi dạt sang thành từng lớp sóng trong cơn gió. Gió luồn qua mái tóc cậu, khiến từng sợi một ánh lên sắc vàng kim đẹp lạ lùng.

    Chuồng ngựa nằm gần cánh cửa sau của khu bếp, dưới những mái hiên. Mái đã được lợp lại để sàn bên trong không còn bị ướt nhẹp vì các vết dột. Họ dọn dẹp sạch sẽ mọi ngóc ngách của cái chuồng, đóng lại cột kèo và máng cỏ. Cái mùi ngai ngái, hôi nồng nặc của lũ ngựa, của cỏ úng, của gỗ ngâm mưa lâu ngày phai dần đi. Cậu băn khoăn không biết cha mình có để ý đến việc ông ta sở hữu một đàn ngựa cần được chăm sóc sạch sẽ không.

    Lũ ngựa đều đang ở trong chuồng. Thời tiết âm u có thể mưa bất cứ khi nào nên chỉ có thể trữ cỏ khô thay vì thả chúng ra và để chúng ngâm nước. Người xà ích ở đấy, vỗ về lũ ngựa và nói cho Howl về từng con khi cậu đến. Những con khỏe mạnh nhất, nhanh nhẹn nhất và thông minh nhất. Nhưng buồn cười một nỗi là Howl cảm thấy ông ta chẳng biết gì mấy về chúng cả.

    Cậu chọn một con ngựa có lông nâu và bờm xanh đen. Nó to lớn, hơi bốc mùi khi lại gần nhưng về cơ bản trông khỏe mạnh và nhanh nhạy. Lũ ngựa hầu như chỉ để sử dụng cùng những cỗ xe – cho mọi người vào hoặc ra khỏi lâu đài. Ít ai cưỡi chúng để đi lang thang như cậu.

    Thật ra, Howl định đi săn.

    Có những buổi đi săn thường niên được tổ chức ở Vampiton vào mỗi cuối tuần, người ta có thể tham gia hoặc không. Howl không đi sót buổi nào, trừ khi thời tiết xấu. Khi ở trên lưng ngựa, phi nước đại giữa những thân cây dày đặc của cánh rừng, cậu cảm thấy khoan khoái và tự do.

    Con vật đầu tiên cậu giết được – săn được, là một con hươu con. Khi đó, cậu mười hai tuổi. Con hươi đi lạc khỏi mẹ, có vẻ thế. Howl bắt gặp nó đang mải mê gặm những chùm lá non từ một bụi cây. Cậu và Ernest, một thằng bé Cambion nhà Beleth, có mái tóc đỏ lôm chôm và mặt đầy tàn nhang. Có một thời cả hai là bạn, sau đó thì Howl không buồn nhớ đến nữa. Cậu và thằng bé hay đi săn cùng nhau, và cả hai đang tranh cãi về việc nên bắn con hươu con luôn, hay đợi mẹ nó đến và giết cả nó.

    Dĩ nhiên, không ai biết con hươu lạc mẹ cả. Cả hai đứa trẻ đều nghĩ con hươu mẹ ở quanh đấy.

    “Nó sẽ không đến đâu.” Howl hằn học nói với Ernest. Mắt nó xanh như lá, to và sáng rực.

    “Chờ đợi là nước đi khôn ngoan.” Nó cãi lại cậu.

    “Cậu đọc cái thứ chết tiệt đó ở đâu ra thế?”

    “Tớ không biết.” Ernest giãy nảy lên. “Bỏ cung xuống đi, và nói khẽ thôi. Nó mà chạy mất thì tiêu.”

    “Chết tiệt, Ernest. Vậy để tớ bắn nó đi trước khi nó chạy mất.”

    Rõ ràng, cả hai đã đánh động con hươu con. Nó ngẩng lên khỏi bụi cây, ngó nhìn quanh đầy cảnh giác.

    “Suỵt!” Ernest thì thào.

    Mặc cho thằng bé nhất quyết đòi chờ con hươu mẹ đến, Howl vẫn giương cung lên. Qua tán cây, cậu thấy đôi tai nhỏ xíu của nó dựng lên.

    Đột nhiên, nó co chân chạy đi.

    Hai thằng bé nhảy vọt ra khỏi bụi cây đuổi theo.

    “Ngựa của chúng ta!” Ernest vừa thở hổn hển vừa nói.

    “Chúng ta sẽ quay lại luôn thôi! Giờ thì im đi!”

    Howl biết mình không thể đuổi kịp con hươu. Cậu trèo lên một gờ đá cao và giương cung. Mũi tên bật ra khỏi dây, lao vun vút xuyên qua những chiếc lá rồi đâm phập vào chân con vật. Nó loạng choạng lê thêm được vài bước thì ngã gục.

    “Trúng rồi!” Cậu kêu lên, rồi cả hai thằng bé háo hức chạy đến cạnh con vật.

    “Tuyệt!” Ernest nói. “Nhưng nó chết chưa? Hình như nó còn thở.”

    Con hươu con nằm trên lá và sỏi đất, một chân co quắp lại, thở hổn hển. Howl nhổ mũi tên ra khỏi chân nó. Máu chảy lênh láng khắp đùi con vật, và dây vào cả tay cậu. Cơ thể con hươu còn ấm, nên dòng máu cũng thế. Nó nằm bệt và giương đôi mắt to nhìn hai thằng bé.

    Một cách nào đấy, Howl biết con hươu đã chịu thua. Nó biết nó sẽ chết. Bản năng của nó mách bảo nó điều đó.

    “Đưa tớ con dao.” Howl hối.

    Ernest lúng túng lôi con dao bạc từ thắt lưng ra.

    Howl cầm lấy con dao. Mũi dao phản chiếu ánh sáng từ khu rừng, sáng loáng.

    Cậu có chùn tay không?

    Một chút thương cảm?

    Một chút sợ hãi?

    Howl đâm mũi dao vào con vật. Nạn nhân đầu tiên của cậu.

    Dòng máu đầu tiên của cậu.

    Nó tắt thở.

    Đến lần thứ hai, mọi thứ có vẻ dễ dàng hơn.

    Và bây giờ, chúng cũng chỉ là con vật. Đó là quy luật. Một số sinh vật phải chết để số khác tồn tại. Howl đã học được điều đó khi cậu giết con vật kia. Đôi khi một số sinh vật đó không phải là con vật. Đôi khi là một giống loài khác.

    Đôi khi, là một người khác.

    Và cậu là loại người chấp nhận mọi quy luật.

    Howl cưỡi ngựa vào rừng. Cánh rừng ẩm ướt và tối. Vỏ cây mục nát là nơi lý tưởng cho những đám rêu xanh tươi tốt mọc lên. Những chiếc lá thưa thớt khua vào nhau trong gió, tạo nên thứ âm thanh kỳ lạ. Âm thanh của khu rừng. Âm thanh của tự nhiên.

    Cậu bỏ con ngựa lại ở bìa rừng. Với lớp lá cây khô lào xào dưới chân, mỗi bước đi của nó có thể đánh động con thú. Cậu mang cây cung vào rừng một mình.

    Nói không quá đi, đây là lần đầu tiên cậu bước chân vào khu rừng của lâu đài Quỷ.

    Thời gian gần đây cậu không đi săn. Cậu hy vọng mình tóm được một con thỏ, hoặc tốt hơn thế, một con hươu. Lũ chim cũng không tệ, có lẽ là một con chim đất. Nếu đi từ bìa rừng khoảng nửa ngày bằng ngựa, sẽ chỉ tìm thấy những con vật như thế. Chúng ẩn nấp, sinh sôi, kiếm ăn trong rừng. Nhưng khi đi vào sâu hơn là đến địa phận của một vùng khác. Hẳn phải có ranh giới đánh dấu địa phận của nhà Lucifer, nhưng chẳng ai biết ở đâu cả. Ở chốn rừng thiêng nước độc đó, không ai biết và không ai muốn biết có cái gì sinh sống ở đấy.

    Howl dựng vài cái bẫy thú ở quanh bìa rừng, sau đó tiến vào sâu hơn. Howl vừa đi vừa quan sát, cố gắng bước thật nhẹ để không tạo tiếng động nào. Rồi đột nhiên, cậu thấy dưới chân mình là một con đường mòn. Hẳn có ai đó hay ra vào khu rừng. Những hòn sỏi được rải dọc con đường, cỏ mọc xung quanh rồi thêm một lớp lá úa mục rữa phủ lên. Mùi rừng và nước mưa dễ chịu đến lạ.

    Howl đi dọc con đường mòn, băn khoăn không biết nó dẫn đến đâu. Vừa đi, cậu vừa ngẩng nhìn quanh, quan sát xem có con vật nào ở quanh không. Có một vài cái hang thỏ, nhưng không thấy con nào cả. Thỉnh thoảng có tiếng lũ chim lúc rúc quanh đấy, nhưng tán cây chằng chịt khiến cậu không thấy chúng đâu cả.

    Một lúc sau, Howl nhìn thấy một con nai lớn. Nó trông khỏe mạnh và béo tốt. Howl nấp sau một thân cây, im lặng quan sát con vật. Đôi mắt hổ phách của cậu như sáng lên. Con vật không hay biết gì, đôi lúc nó ngẩng lên, rồi lại cúi xuống chúi mũi vào đám cỏ, nấm mọc xen kẽ trên gốc cây mục.

    Howl rút một mũi tên, rồi tra vào cung thật nhẹ nhàng. Chỉ một tiếng động nhỏ thôi, nó cũng sẽ nghe thấy. Nó sẽ biết, và nó sẽ chạy đi mất.

    Phập! Mũi tên găm vào bụng con nai. Nó giật mình chồm lên và bỏ chạy. Howl bật dậy lùa theo con vật. Chúng luôn luôn chạy khi bị bắn, nhưng chẳng được bao xa. Howl lần theo vết máu con vật. Ở khoảng này của khu rừng có nhiều cây bụi mọc, máu của con nai rơi rớt trên những cành cây khô dưới đất.

    Howl đeo cung ra sau, lấy tay gạt những cành cây thấp ra. Cậu nhảy qua những tảng đá lớn chồng lên nhau, mấy cành cây quẹt qua má cậu ran rát.

    Sẽ chẳng có gì nếu con hươu không nằm ngay ở đấy.

    Sẽ chẳng có gì nếu nó đang hấp hối ở một chỗ khác. Một gốc cây khác. Một khoảng đất khác.

    Sẽ chẳng có gì nếu nó không nằm chờ chết ở dưới chân cô ta.
     
  15. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 13
    CẬU KHÔNG BIẾT GỌI ĐÓ LÀ GÌ. Sự trùng hợp? Sự ngẫu nhiên? Sự vô tình? Hay là một sự sắp đặt không thể ngờ đến?

    Con hươu chảy máu. Mũi tên cắm sâu vào da thịt nó. Bàn tay của cô ta chạm lên cái bụng ấm của nó. Cô ta vẫn mặc chiếc áo choàng trắng như tuyết, nhưng lần này, cô ta không kéo mũ trùm lên, và Howl có thể thấy rõ được diện mạo của cô ta. Cô ta có mái tóc bạch kim, mềm như con suối. Trong vài khoảnh khắc, mái tóc đó là tất cả những gì Howl thấy.

    “Con vật tội nghiệp….” Cô ta thì thào, vuốt ve đầu con nai. Không rõ cô ta nói với cậu hay với con vật.

    Howl tiến đến, cúi xuống, rút mũi tên ra. Cô gái nhìn theo cậu không rời.

    “Anh bắn nó sao?”

    “Tôi đi săn.” Cậu nói gọn lỏn.

    Vừa lúc, con hươu ngừng thở.

    “Tốt rồi.” Howl lẩm bẩm. “Chưa lụt nghề.”

    Cô gái kia đứng dậy, khẽ nhăn mặt khi thấy một ít máu của con vật rớt trên tay mình. Howl rút con dao dắt ở giày ra, bắt đầu xẻ thịt con hươu từ bụng. Nó là một con hươu đực, trên lưng lấm tấm những nốt màu vàng. Cái gạc nhú ra được một đoạn dài, nhưng có vể mềm và yếu.

    “Cô là Angeline phải không?”

    “Phải.”

    Máu trào ra khi Howl rạch một đường dài và sâu vào bụng con hươu. Cô ta lùi lại, quay mặt đi. Da thịt con hươu vẫn ấm áp và mềm mại, cả máu của nó cũng thế. Howl có thể cảm nhận hơi ấm sự sống của nó đang nhạt dần.

    “Tôi hỏi câu này có thể lạ nhưng… Cô đang làm gì ở đây vậy? Giữa rừng?”

    Cô ta thận trọng lùi lại.

    “Không có gì to tát cả.”

    Thú thật mà nói, Howl suýt phì cười trước câu trả lời của cô ta. Nhưng cậu kiềm lại được, gật gù nghiêm túc.

    “Vậy cô làm cái việc không có gì to tát cả đấy ở trong rừng à?”

    “Phải.” Cô ta điềm đạm trả lời.

    Howl moi ruột con hươu ra. Cậu cau mày. Máu bám lên tận cổ tay cậu. Howl dùng dao cắt những lớp màng trong suốt của nó ra.

    “Tôi từng hỏi cô về Abigail.” Cậu nói. “Và tôi chưa nhận được câu trả lời.”

    “Sao anh phải hỏi nhiều câu vậy?” Cô ta kéo mũ lên. “Tôi đi đây.”

    Từng có một thời, nếu kẻ bề dưới nói như thế với một người thuộc gia tộc cao quý như Lucifer, họ sẽ có cái kết không tốt đẹp lắm. Đánh. Bỏ đói. Cắt lưỡi. Hoặc tệ hơn.

    Thật ra ở nhiều nơi bây giờ vẫn như thế. Nhưng Howl không nói gì cả. Cô ta biết cậu là Quỷ Vương, và đang quay lưng bỏ đi. Chưa ai từng làm thế.

    “Chờ đã.”

    Cô ta dừng bước.

    Howl ngẩng đầu lên nhìn cô. “Cô biết có chỗ nào tôi có thể rửa tay không?”

    Howl đặt con hươu trong một bao lớn bằng vải thô và để lên lưng ngựa. Cậu đi bộ cạnh cô gái kia. Khoảng năm phút sau thì một con suối hiện ra dưới chân họ. Nó rộng nhưng khá nông, kể cả sau những cơn mưa như trút. Nước chảy xiết, cây cỏ mọc tươi tốt xung quanh.

    “Ở đây được rồi.” Cô ta dừng chân.

    Howl gỡ con hươu ra khỏi bao và rửa sạch bụng nó. Máu hòa theo nước nổi lên màu đỏ tươi. Sau đó cậu rửa tay mình, nhưng máu không dễ phai đi như thế. Dòng suối mát lạnh không gột được những vết bám màu đỏ trong móng tay và kẽ ngón tay.

    “Anh nên lấy rêu.”

    Howl ngẩng đầu, nhíu mày.

    Angeline cúi xuống, móc một đám rêu to ra khỏi hốc đá. Không phải những loại rêu cậu từng nhìn thấy. Nó xanh hơn, cứng và lấm tấm trắng.

    “Thứ này có thể rửa mọi vết bám.”

    Howl cầm lấy nắm rêu ẩm ướt, đưa đôi mắt nghi hoặc nhìn cô ta. Cậu không thể không cảnh giác, biết đâu loại rêu cứng ngắc này có độc hay sao đó. Khi chà lên tay, da cậu có cảm giác ran rát nhè nhẹ. Những vết máu theo đó bị chà đi.

    “Cô có vẻ am hiểu về khu rừng.” Cậu nói. “Và máu.”

    “Điều gì khiến anh nói thế?”

    Cậu cười. “Cô biết dòng suối này ở đâu. Cô không muốn con hươu kia bị giết. Cô còn biết loại cây nào có tác dụng gì. Tôi từng thấy cô đi vào rừng một lần.” Rồi cậu hạ giọng, thì thầm. “Và cô biết làm sao để gột được máu.”

    Cô ta im lặng, nhìn Howl chăm chăm với ánh mắt khó đoán. Một chút lỳ lợm. Một chút rụt rè. Một chút cảnh giác. Cô ta không sợ Howl, cô ta không lo lắng khi ở đây với cậu một mình, và cậu thì mang cung cùng dao săn. Cô ta biết mình có thể xoay sở được, Howl đọc được điều đó trong ánh mắt cô ta.

    Đôi mắt xanh thẳm đấy.

    Và hàng lông mi màu trắng bạc giống tóc.

    “Tôi sống ở đây.” Rốt cuộc, cô ta cũng nói.

    Howl nhướn mày, ném đám rêu sang bên rồi đứng dậy.

    “Ở đây? Một mình à?” Cậu nhếch mép, dắt con dao săn vào giày.

    “Phải.”

    “Được rồi.” Howl xoa xoa cằm, nhìn xuống đất. Cậu xoay một vòng thật chậm, nhìn xung quanh, rồi giơ hai tay ngang ra. “Ở đây sao? Cô đang làm tôi rối đấy. Tại sao một cô gái chăn ngựa lại sống ở trong rừng, và tại sao cô ta biết em gái Quỷ Vương?”

    “Anh hơi ám ảnh về điều đó nhỉ.” Cô ta nói. “Tôi nói chuyện với con bé vài lần.”

    “Phải, cô nói điều đó rồi. Cô không phải nhắc lại điều mình đã nói và người khác đã biết.”

    Cô ta mím môi. “Tôi có biết con bé.”

    “Biết? Có nhiều mức độ biết lắm đấy.”

    “Phải, nhưng, không có lý do gì để tôi phải nói, phải không?” Cô ta điềm đạm trả lời. “Ngài nên lo chuyện của mình, thưa Quỷ Vương.”

    Howl hiểu câu đó theo nghĩa “Ngài đúng là kẻ hay chĩa mũi vào chuyện người khác.” Cậu phá lên cười. Từ nhỏ đến giờ chưa có ai dám nói như thế. Lông mày Howl giật giật cáu kỉnh, dù miệng vẫn nở nụ cười tươi. Cậu là loại người ưa thử thách và khi đã muốn gì thì không ai cản được. Bây giờ, cậu muốn biết nét bình thản trên gương mặt cô ta và sự tội lỗi trong cô ta là gì.

    Cô gái với chiếc áo choàng trắng, cô đã làm gì?

    Nhìn ở từ sau lưng, cô ta trông cô độc, như một kẻ đưa tin, một sứ giả của thần chết. Sự chết chóc vô hình lặng lẽ bao trùm lấy cô ta.

    “Khoan đã.” Cậu vội gói con hươu lại, đặt lên lưng ngựa rồi kéo con ngựa đi. “Cô sống ở đâu?”

    “Tôi nói rồi.” Cô ta trả lời, không quay đầu lại. “Tôi sống ở đây.”

    “Trên cây à?” Cậu trêu.

    “Giờ thì ngài đi theo một người chăn ngựa, thưa Quỷ Vương. Quả là một ngày kỳ lạ.”

    Howl đi chậm lại, tay giữ dây cương con ngựa. Con ngựa cao lớn khẽ lắc bờm. Cậu chỉ cười cười. Được rồi, cô ta không chỉ bí ẩn. Cô ta còn ngoan cố nữa. Điều đấy thu hút cậu một cách tự nhiên, như những con thiêu thân lao vào đống lửa đêm vậy.

    Rồi trước mắt Howl, xa xa trên các ngọn cây và xuôi theo dòng suối, một đỉnh tháp nhỏ nhô lên khỏi tán rừng. Màu sắc của nó hòa với khu rừng, ban đầu Howl nghĩ là chòi canh, nhưng không phải. Cậu nhận ra mình đang đi đến gần nơi đó.

    “Ở đó sao?” Howl chỉ lên. “Có một tòa tháp trong rừng à?”

    “Đó là nhà của tôi.” Cô ta dừng chân, quay người lại nhìn Howl. “Anh không bận việc gì à?”

    “Không, tôi rảnh lắm. Tôi vào thử cái tháp được không?”

    “Đó là nhà tôi.”

    “Còn cô đang đứng trên đất của tôi. Mọi thứ trên đất của tôi đều là của tôi.” Howl thả dây cương của con ngựa, buộc nó vào cái cây gần đó. “Kể cả cái cây này, và tòa tháp đó.”

    Howl tựa người vào cái cây, khoanh tay, môi nở nụ cười ranh mãnh. Nếu cô ta không nhớ rằng ai là người có quyền hơn thì đã đến lúc nhắc nhở cho cô ta điều đấy.

    “Chẳng có gì ở đó cả.” Angeline nói. “Anh hay đi tham quan nơi ở của người hầu lắm à?”

    “Chỉ có cô thôi.”

    Howl nhịp nhịp chân thiếu kiên nhẫn. Cậu uể oải bỏ đi trước, huých nhẹ vào vai cô ta. Chẳng có người hầu nào có cả một tòa tháp riêng để ở, dù nó nhỏ và nằm giữa rừng đi nữa. Cậu men theo con suối, nheo mắt nhìn lên để tìm phương hướng. Con suối vắt qua lối đường mòn rồi chảy tiếp. Howl dẫm lên những hòn đá trơn rêu, nhảy sang bờ bên kia và theo lối mòn đi tiếp.

    Tòa tháp đang ở ngươi trước mắt cậu. Nó cao cũng chỉ bằng cây rừng, bằng gỗ với đá và được sơn đen. Các bức tường đang nứt toác ra, rêu và dây leo bám rễ ở chân tường. Tòa tháp có mái vòm, ở trên đỉnh mái chĩa lên một cái cột nhọn có bốn cánh quạt nhỏ. Gió thổi qua và chúng quay vòng vòng.

    “Myris.”

    Howl giật mình, quay người lại. Angeline đứng đằng sau cậu. Cậu ngạc nhiên nhìn cô ta. “Cô vừa nói gì cơ?”

    “Myris.” Cô ta nhắc lại. “Đó là tên tòa tháp.”

    Cô ta chỉ lên. Howl ngẩng nhìn theo. Ở trên cửa chính của cái tháp có một tấm biển gỗ mục nát. Nhìn kỹ hơn chút có thể thấy chữ Myris mờ mờ bằng sơn trắng ở trên.

    Myris. Myris Lucifer.

    Đó là tên của mẹ Howl.
     
  16. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 14
    MẢNH KÝ ỨC CUỐI CÙNG của Howl về Mẹ cũng đã phai nhạt theo thời gian.

    Đó là vào những tháng cuối trước khi Howl được đưa tới Vampiton. Trong trí nhớ, mẹ cậu khá mờ nhạt. Như bức tranh treo ở hành lang lâu đài Quỷ, bà có nước da hơi trầm, thiếu sức sống. Bà sở hữu mái tóc vàng giống Howl, đôi mắt nâu, cái cằm nhỏ và má lúm đồng tiền. Myris hiếm khi ra khỏi lâu đài. Giống như một tù nhân, bà bị giam lỏng quanh các bức tường và tên cai ngục là cha cậu.

    Lúc còn nhỏ, đôi khi Howl bị mộng du. Myris thức dậy lúc nửa đêm để đưa cậu về giường mình. Người mẹ có mùi hương của hoa nhài. Của rừng. Của sự ấm áp, của tình yêu. Howl không biết mẹ có yêu mình không, hay bà cũng khinh ghét cậu bởi cậu là con trai của Moldark.

    Myris không cưới Moldark vì tình yêu, điều đấy ai cũng rõ và Howl cũng vậy. Bà thuộc một gia tộc Cambion nghèo khổ và trên đà tan rã, trong gia tộc không còn mấy người. Nếu bà cưới Moldark, ông ta sẽ lo tất cả. Tìm một dinh thự đẹp trong thành phố bên dòng Ner Rill cho người thân của bà, cho bà một cuộc sống không thiếu thốn gì, sung túc đến cuối đời.

    Quả thật bà vẫn sống sung túc cho đến khi chết.

    Vào ngày mùa xuân trước khi Howl rời khỏi lâu đài Quỷ, cậu nhớ đã thấy mẹ mình trồng những cái cây. “Rồi một ngày chúng sẽ lớn, con trai. Chúng đẹp đẽ và trong sạch. Chúng là những cái mầm không nhuốm bẩn, chúng sẽ soi sáng ngôi nhà của con.”

    Cậu luôn nghĩ điều đó thật kỳ lạ.

    Myris chết sau khi sinh Abigail vài tháng, trong một đám cháy ở ngọn tháp Tây của lâu đài. Howl đã không ở đó, cũng như không biết về sự tồn tại của tòa tháp này.

    Angeline ngước đầu nhìn cậu. “Anh biết nó à?”

    “Không. Theo trí nhớ của tôi thì vậy.”

    Cậu không chờ cô ta mời vào, dù đúng ra đây là nhà của cô ta thật. Howl đẩy cánh cửa gỗ. Nó có một ổ khóa nhưng lúc này không bị khóa. Bên trong tối nhưng không lạnh lẽo như Howl tưởng tượng. Căn phòng mà Howl vừa bước vào đơn giản hơn bất cứ căn phòng nào trong lâu đài Quỷ. Nó khá khiêm tốn, có một bếp sưởi, một bộ bàn ghế gỗ. Trên gờ một bức tường có các chậu cây nhỏ đang hứng lấy ánh sáng từ cửa sổ. Cuối căn phòng là một gian bếp hẹp, sơ sài, và Howl nhìn thấy một cầu thang đi lên gác.

    “Tòa tháp này có bao nhiêu tầng?”

    “Hai tầng.” Cô gái ngẩng lên nhìn trần nhà. “Và một gác mái.”

    “Cô đã sống ở đây bao lâu?”

    Angeline im lặng, nhìn cậu ta chằm chằm. Dường như cô ta không thích những câu hỏi mà cậu đặt ra. Howl biết rõ sự khó chịu mình gây ra, nhưng cậu chỉ nhoẻn cười:

    “Tôi hỏi thế thôi.”

    “Mười hai.” Cô ta ngập ngừng. “Có thể là mười ba năm. Tôi không nhớ rõ.”

    “Cô ở đây từ nhỏ rồi sao?” Cậu nhướn mày.

    Howl cúi xuống tấm sàn gỗ. Có một cánh cửa sập bằng sắt ở trên sàn, được khóa chắc chắn. Cậu không nghĩ là nó được mở ra thường xuyên vì sắt đã gỉ sét hết cả.

    “Không. Tôi được đưa đến đây bởi một hầu nữ.” Cô ta cắn môi, Howl ngẩng lên nhìn. “Mẹ tôi. Bà ấy mất vài năm trước ở lâu đài rồi.”

    Mắt Howl hơi sáng lên. “Chà, bi kịch thật.” Rồi cậu quay lại với cái cửa sập.

    Đây là một điều đặc biệt. Ở vùng Bóng tối, bạn phải tập đọc vị người khác trước khi học bất cứ điều gì. Đấy không phải điều bắt buộc, nhưng nhờ đó người vùng Bóng tối luôn có đôi mắt và cảm nhận hơn người vùng Ánh sáng. Họ có thể đoán ai là người như thế nào chỉ bởi một hai lần tiếp xúc và nói chuyện. Nó thuộc về bản năng và Howl giỏi phát triển khả năng đấy của mình. Hơn nữa cậu còn có lợi thế về tâm trí. Bởi vậy, chẳng cần nghi ngờ thêm, cậu biết chắc cô ta đang nói dối.

    “Anh không mở được đâu.” Giọng cô ta trầm lại. Tông giọng đó khiến sống lưng Howl lạnh buốt. “Trừ khi anh có chìa khóa.”

    Cảm tưởng như đằng sau mình là một kẻ sát nhân và hắn đang giơ con dao lên, chuẩn bị đâm xuống, Howl vội đứng dậy. Cái chết của Quỷ vương là ví dụ điển hình cho sự thiếu cảnh giác. Ông ta tưởng rằng mình là bất bại cho đến khi bị chôn xuống mồ. Howl không cho phép mình lơ là như thế, hoặc cậu sẽ có kết cục giống ông ta.

    Đôi mắt xinh đẹp nhưng khó gần của cô ta như ngầm ý đuổi Howl đi. Nhưng rõ ràng cậu không phải là loại người quan tâm đến người khác nghĩ gì. Ngược lại là khác:

    “Cô có hay ra vào lâu đài Quỷ không?”

    Cô ta lắc đầu, rồi đi vào bếp. “Chỉ khi tôi mang táo đến.”

    “Phải rồi, cây táo của cô. Nó hết mùa quả rồi thì phải.”

    Howl nghe thấy trong bếp tiếng lách cách của cốc thìa. Âm thanh ấy chợt dừng lại một quãng ngắn khi Howl hỏi thế.

    “Nếu anh muốn ăn,…” Cô ta nói. “Tôi sẽ mang đến cho anh.”

    Cô ta mang cốc nước nóng đến cho Howl, đưa cậu bằng cả hai bàn tay. Những ngón tay cô ta trắng trẻo và thon đẹp, làn da căng mịn sức sống. Nhưng lòng bàn tay vẫn có những mảng da chai sạn.

    “Không có thuốc độc đâu mà sợ.”

    Cô ta nói khi thấy cậu chần chừ. Sẽ bớt đáng sợ hơn nếu cô ta không nói ra điều đấy. Howl nhếch khóe môi thành một nụ cười:

    “Kể cả nếu có, cũng khó mà giết được tôi.”

    Howl cầm lấy cốc nước mà uống. Trong khoảnh khắc đó, cậu đã rất chắc chắn cô ta bỏ thứ gì đó vào nước. Nhưng cậu vẫn uống, vì cậu không thể tỏ ra sợ hãi. Cậu không thể hạ mình, hèn nhát trước một người hầu.

    “Tôi phải đi đây.” Howl đặt ly nước xuống bàn. “Phải làm thịt con hươu khi nó còn tươi.”

    “Để tôi tiễn anh ra.”

    Cậu bật cười. “Giờ thì cô tỏ ra lịch sự. Có phải vì tôi uống thuốc độc của cô không vậy?”

    Cô ta không trả lời, đi lướt qua Howl và mở cửa trước. Cậu xốc lại ống cung trên vai, rồi đi theo Angeline ra ngoài. Được rồi, không thể nói rằng cậu không có chút nghi ngờ nào về ly nước đấy. Nhưng cho đến giờ cậu vẫn ổn, không chóng mặt, đau đầu hay buồn ngủ. Rồi Howl chợt nghĩ cô ta chỉ đùa. Cô ta cũng như nhiều người hầu khác đều biết việc Moldark bị hạ độc, một chút chơi đùa với sự cảnh giác của cậu và chỉ có thế.

    Howl ra khỏi tòa tháp thì chợt nghe thấy tiếng loạt soạt ở bên trái mình. Cậu bước thật nhẹ nhàng về phía đó, thấy sau tán lá có một con gà nhỏ. Nó đứng ở trên một cành cây đổ, một loại gà rừng nào đấy. Howl giương cung lên bắn, sau đó xách con gà đang còn cắm nguyên mũi tên quay lại.

    “Có vẻ anh giỏi dùng cung.” Cô ta vừa nói, vừa nhìn con gà.

    “Bình thường thôi. Tôi dùng kiếm khá hơn.” Cậu gõ nhẹ một đầu cây cung vào thái dương mình. “Đây mới là thứ tôi giỏi.”

    Angeline cau mày. “Đầu óc à?”

    Howl cười khẩy, cậu rút mũi tên ra khỏi con gà rừng. “Cứ cho là thế đi. Cô có biết cách nấu không?”

    “Đôi khi tôi giúp việc trong nhà bếp.” Cô ta bối rối.

    “Đây.” Câu cầm chân con gà giơ lên. “Bữa trưa.”

    Trông cô ta còn bối rối hơn cả khi nãy. “Tôi có thể tới lâu đài lấy thức ăn.”

    “Lời cảm ơn nho nhỏ thôi. Cô không nhận thì cô thiệt.”

    Cậu nhoẻn cười.

    Angeline cầm lấy con gà rừng. Nó không to quá nhưng đủ cho cả bữa trưa và tối. Cô ta gật đầu như cảm ơn.

    “Tôi đi đây. Hẹn gặp lại.”

    Khi nói xong, Howl mới cảm thấy kỳ lạ. Cậu không định nói thế, chỉ là buột miệng. Cậu cũng không nghĩ gặp lại cô ta để làm gì nữa.

    “Một việc nữa.” Cô ta chợt lên tiếng, níu Howl lại vài giây. “Tôi chẳng bỏ gì vào trong cốc nước cả.”

    “Thật tốt khi nghe điều đấy.” Cậu cười rồi bỏ đi, quay trở lại chỗ con ngựa khi nãy. Bằng một cách nào đấy, Howl tin cô ta nói thật.

    Dẫu sao, cậu cũng đã uống cốc nước đó. Kể cả nó có độc thật thì không phải hay hơn là tin rằng nó không có sao?
     
  17. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 15
    CÓ MA TRONG LÂU ĐÀI.

    Mấy người hầu đang bàn tán vê chủ đề đó. Họ vừa lau sàn vừa nói, khi Howl đi qua thì im bặt và sau đó lại tiếp tục. Họ có đủ lý do để tin vào điều đó. Giúp việc. Đầu bếp. Thợ xây. Người chăn gia súc. Người làm vườn. Chủ nhân lâu đài và con cháu của họ, nhiều người đã bỏ mạng khi còn ở đây. Việc đó, và cả việc tòa lâu đài này khoác hình dạng như thế nào khiến người ta chắc như đinh đóng cột về sự tồn tại của các hồn ma trong lâu đài.

    Thật ra, ma không phải không tồn tại. Nhưng chúng kín tiếng, im lặng, vô hại đến mức ít ai đã chứng kiến tận mắt. Chúng bị mắc kẹt lại vì lý do nào đấy chẳng ai rõ. Chúng là những linh hồn đáng thương trong bóng tối, gắn bó với một nơi quá lâu đến mức không thể rời đi. Bản thân Howl cũng chưa từng thấy chúng lần nào. Việc chúng không bao giờ xuất hiện khiến cậu nghi ngờ mấy lời đồn thổi đó.

    Nhưng nếu mẹ cậu vẫn ở đây trong hình hài một hồn ma lại khác.

    Người ta có thể giao tiếp với hồn ma, có cả trăm ngàn cách để làm thế. Nhưng cậu không nghĩ bà vẫn ở lại làm gì. Bà sẵn sàng đổi mạng mình để ra khỏi lâu đài Quỷ, chắc chắn thế.

    Howl nghĩ về điều đó khi đi dọc đoạn hành lang tối trong lâu đài. Khó thuyết phục được ai rằng chốn này không có ma. Gió luồn qua các kẽ hở trên tường và cửa, rít lên như tiếng mèo hoang. Tòa lâu đài thường rơi vào tình trạng im lặng đến mức một tờ giấy mỏng rơi xuống cũng có thể nghe thấy. Các ô cửa sổ dọc hành lang quá nhỏ, chiếu xuống sàn nhà những ô sáng nhợt nhạt. Đáng sợ nhất là các bức tranh cổ quá khổ đặt rải rác khắp nơi. Chúng vẽ những thế hệ dòng họ Lucifer, thật đến độ mỗi khi đi qua, Howl đều có cảm giác họ đang nhìn theo. Một ngày nào đấy, treo trên tường sẽ là tấm chân dung của cậu.

    Khi đi qua phòng Abigail, Howl nghe thấy tiếng nói chuyện xì xào bên trong. Con bé hiếm khi ra khỏi phòng chứ đừng nói ra khỏi lâu đài. Cậu chẳng nhìn thấy nó nhiều, ngoài những lần thấy nó đi lòng vòng đâu đó rồi lại quay về phòng. Cứ như nó đang nuôi một sinh vật bí mật nào đấy trong đó vậy.

    Con bé cũng thật đáng thương.

    Howl cảm thấy thế phần nào. Về huyết thống, nó vẫn là gia đình của cậu. Những gì còn sót lại trong gia đình của cậu. Một mảnh đau thương tội nghiệp giống mẹ cậu. Có thể khi lớn lên nó sẽ khác. Nhưng những ký ức và nỗi ám ảnh tối tăm như thế là điều khó có ai có thể rũ bỏ. Đây là điều bình thường ở vùng Bóng tối. Ai ai cũng có một nỗi ám ảnh, một nỗi đau thương, một mảnh vỡ không thể tìm thấy. Ai ai cũng có một tâm hồn chai sạn dần theo thời gian, bớt đi sự dễ chịu và thêm vào sự cay nghiệt, già rũ rồi tàn úa trong bóng tối.

    Người ta gọi đấy là cuộc đời.

    Howl nghe thấy giọng con bé thì thào lúc to lúc nhỏ như nói chuyện với ai. Cậu ghé tai vào cửa, nhưng rốt cuộc cũng chẳng nghe thấy ai ngoài Abigail. Cứ như con bé đang nói chuyện một mình. Nó đã hóa điên chăng? Có thể lắm chứ. Howl suýt buột miệng cười. Quỷ Vương và cô em gái điên của anh ta. Cụm từ này sẽ được đồn thổi từ miệng người này qua người khác, nhanh đến chóng mặt một khi đã lọt ra ngoài.

    “Đừng nghịch ngợm nữa, Anna.” Howl nghe thấy giọng con bé vang lên bên trong. “Bỏ cuốn sách xuống đi!”

    “Lại đây, Anna.”

    “Muốn chơi trò xếp chữ không?”

    “Không, bên ngoài chẳng có gì vui cả. Chúng ta không nên ra đó. Có thể Howl đang ở nhà. Mình ghét thấy anh ta. Đừng hỏi tại sao nữa.”

    Rõ ràng chỉ có mình giọng con bé, còn lại Howl chỉ nghe thấy sự im lặng. Nhưng Abigail vẫn tiếp tục nói chuyện, thậm chí ngâm nga hát một cách vô tư. Có thể con bé hóa điên thật. Chỉ kẻ điên mới nói chuyện một mình. Và chỉ kẻ đã bị tổn thương sâu sắc mới hóa điên theo cách như thế.

    Cậu định gõ cửa thì nghe thấy tiếng hắng giọng sau gáy mình. Howl quay lại thì thấy James đứng ngay đằng sau. Ông ta hất đầu ra hiệu cho cậu đi ra chỗ khác, rồi bước chân đi theo cậu.

    “Có chuyện gì với Abigail vậy?” Howl hỏi ông ta.

    “Tôi nghĩ con bé đang trải qua giai đoạn khó khăn thôi.”

    “Tôi nghe nó nói chuyện. Nó nói chuyện với ai thế, ai là Anna?”

    James Rider dừng chân lại. Ông ta mang vẻ ái ngại trên mặt, thở dài một cái rất kịch.

    “Một người bạn tưởng tượng. Người hầu trong lâu đài không còn lạ gì nữa. Con bé tự tạo ra một người bạn từ nhiều năm trước, gọi là Anna. Tôi không phải chuyên gia về tâm thần nhưng…” Ông ta ngừng một quãng. “Có lẽ chúng ta nên đưa cô bé tới một môi trường tốt hơn.”

    Howl nhướn mày, bật cười. “Ý ông là đưa nó ra khỏi lâu đài như cha tôi đã từng làm với tôi ấy à?”

    “Không.” Ông ta vội vã sửa lại. “Một ngôi trường, có lẽ thế. Ở thành phố bên kia sông cũng được. Tôi nghĩ tốt hơn là để cô bé nói chuyện với bản thân một mình.”

    Howl nhăn trán đắn đo. Nếu đưa Abigail sang thành phố bên kia Ner Rill, cậu có thể cho người đưa cô bé về mỗi ngày. James có thể đúng. Có thể Abigail sẽ được cải thiện khi được tiếp xúc với bên ngoài.

    “Không.”

    Howl giật mình, nhưng cậu không đánh mất bình tĩnh. Có lẽ Abigail đã nghe thấy tiếng cậu và James. Con bé mặc bộ đồ viền ren đỏ, tóc xõa ra, tay cầm một con gấu bông trông thê thảm tới mức tội nghiệp. Đầu con gấu ngoặt sang một bên, cứ như nó đang trong nỗ lực trốn chạy khỏi Abigail một cách bí mật và tuyệt vọng.

    “Tôi sẽ không đi đâu cả.” Con bé nói nhẹ nhàng nhưng cứng rắn. “Đây là lần cuối cùng và tôi sẽ không nhắc lại lần nữa đâu.”

    Howl cá là James đã đề nghị về chuyện này với Abigail cả trăm lần. Nếu cô bé giống cậu về khoản cứng đầu, sẽ chẳng có ai hay cái gì có thể thay đổi suy nghĩ của nó. Nhưng ai cũng có điểm yếu, và tìm ra điểm yếu đó là điều quan trọng.

    Howl ra hiệu ngầm với James để ông ta rời đi, để lại cậu và Abigail một mình. Con bé ngấc đầu nhìn theo ông quản gia.

    “Em muốn gì nào, Abigail?” Howl cúi xuống, giờ thì chiều cao của cậu cũng ngang con bé. “Em không muốn nhìn mặt anh. Nhưng em cũng không muốn đi. Em cần gì, Abigail? Tại sao em không muốn rời đi?”

    Cô bé nhìn chòng chọc vào Howl như cậu vừa hỏi câu gì đó xúc phạm nó nặng nề. Một bí mật nó không muốn chia sẻ, hoặc cậu quá tầm thường và không đáng để nó tiết lộ. Nhưng rồi đôi môi hằn những tia đỏ tự nhiên, rực rỡ của nó mấp máy, tông giọng hạ xuống:

    “Tôi sẽ không đi nếu không có Anna. Không đi đâu hết.”

    Có vẻ con bé bị điên thật.

    Đó là những gì Howl đã nghĩ.

    Cậu không phải bác sĩ tâm thần. Cậu không rành về chuyện người khác nghĩ gì; đó là vấn đề cậu ít quan tâm nhất. Nhưng nếu con bé cứ khăng khăng như thế thì được thôi. Anna. Thế nào cũng được.

    “Tại sao? Anna không cho em đi à?”

    “Anna cũng ghét lâu đài này như tôi thôi.” Con bé khẽ nghiêng đầu, nhoẻn cười, những vệt màu vàng trong mắt nó nổi lên thật rõ, màu vàng của những khóm hoa dại. “Như anh. Như tất cả mọi người ở đây. Chỉ là Anna không thể rời đi và tôi cũng thế.”

    Abigail vừa nói vừa tiến những bước chậm rãi về phía Howl. Trong một giây, cậu không có cảm giác đó là em gái mình. Nó tối tăm như tòa lâu đài này, và khó lường như những kẻ đang sống ở đây.

    “Hãy đốt nó, anh trai ạ.” Nó nói vừa như ra lệnh, vừa như van xin. “Đốt hết đi.”

    Trong lúc cậu còn bối rối, con bé quay người bỏ đi. Nó trở lại phòng của mình, nằm trên đoạn hành lang tối. Howl không hiểu chuyện vừa xảy ra là gì. Giống như một lời cảnh báo, nhưng cũng lại giống một lời nài xin. Hoặc đơn giản do cái đầu óc nhỏ bé có vấn đề của nó. Cậu đứng dậy, cảm giác bất lực lan đến nhanh như những đám mây mùa mưa. Chẳng gì cậu có thể làm với nó ngoài để nó yên.

    Rồi Howl quay về phòng.

    Những người hầu tiếp tục rủ rỉ về các hồn ma và cái chết.

    Và dường như, dường như,

    cả tòa lâu đài đã phát điên.
     
  18. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 16
    CÔ NGƯỜI HẦU TRẺ TRUNG XINH ĐẸP có đôi mắt nâu và nụ cười quyến rũ mời Howl vào trong nhà. Tóc cô ta cắt ngắn, đồng phục của người hầu trong nhà xộc xệch một cách cố ý. Cô ta đưa Howl đi dọc hành lang căn nhà, đôi khi ngoái lại cười tinh quái.

    Đây là nhà của vị bác sĩ đã khám bệnh cho Moldark, Dommik Barbatos. Nếu đúng như người ta vẫn nói thì ông ta là một bác sĩ giỏi. Những gì Howl nghe được không ít, hầu hết là những lời khen. Tuy nhiên vẫn có vài người nói rằng ông ta là một kẻ hắc dịch và kiêu ngạo. Cậu chưa gặp ông ta lần nào sau khi Quỷ Vương chết, chỉ có thể viết thư qua lại cho ông ta.

    Căn nhà của ông ta giống một lâu đài thu nhỏ, nhỏ hơn lâu đài Quỷ rất nhiều nhưng vẫn có khá nhiều phòng và khá đẹp nữa. Đồ đạc đều ngăn nắp, sạch sẽ. Các ô cửa kính mắt cáo đóng kín không mở, chỉ có vài cánh cửa chớp mở hé bên trên. Không có các cột đá cổ kính, tường được đẽo gọt, căn nhà được làm có vẻ đơn giản với các mái vòm nhô ra ngoài hiên và những bức tranh khó hiểu treo trên tường. Howl thoáng trông thấy một tủ thảo dược khi đi lên cầu thang.

    “Lối này, thưa ngài.” Cô hầu gái nói. Cô ta nhìn cậu không dưới hai lần, từ đầu đến chân. Khi đi qua ngưỡng cửa bước vào thư phòng, cậu tặng cho cô ta một cái cười và dường như điều đó đã khích lệ cô ta. Cô ả xinh tươi, trẻ và quyến rũ, lại là một người hầu trong nhà. Chừng ấy đủ để Howl có vài phỏng đoán về gã Dommik Barbatos mình sắp gặp.

    “Thưa ngài?” Cô ta nói bằng giọng ngọt ngào. Howl nhìn cô ả từ phía sau rồi thầm nghĩ, cũng chẳng tệ lắm nếu có một vài cô hầu gái giống cô ta.

    Người đàn ông mặc vét sang trọng đứng bên cửa sổ quay lại. Ông ta đeo kính và cầm một cuốn sách đang mở trên tay. Ông ta chừng ngoài bốn mươi – vẻ ngoài thì thế nhưng tuổi thật của Cambion thì chẳng ai đoán chính xác được. Cằm ông ta lún phún bộ râu quai nón đen, mắt dài, xương gò má cao. Đôi gò má cao kiêu hãnh đó là đặc trưng dễ nhận biết nhất của gia tộc ông ta.

    “Ngài Lucifer đã đến.”

    “Cô có thể pha trà cho chúng tôi không, Ruby? Như thế thì tốt quá.”

    Howl nhướn đuôi mày, ngoái theo khi cô ta đi khỏi. Gương mặt cậu khi bình thường luôn giữ vẻ tự mãn như lúc này. Cậu buông một tiếng cười nhẹ:

    “Ông có con mắt tinh tế đấy chứ, Barbatos?”

    “Mời ngồi, ngài cứ tự nhiên.” Ông ta lảng đi và đặt cuốn sách xuống bàn.

    Howl rảo bước quanh chiếc bàn rồi ngồi xuống ghế. Một ô cửa sổ của căn phòng hé mở, đón những ngọn gió bắc se lạnh từ bầu trời quang đãng bên ngoài. Nhìn qua cũng biết ông ta là loại người tỉ mỉ và ngăn nắp, và có lẽ sạch sẽ quá mức nữa. Mọi thứ đều được xếp rất gọn gàng, đến nỗi cuốn sách và cặp kính trên bàn cũng được đặt rất chỉnh chu.

    “Tôi đã nghe rằng ngài sẽ đến nhưng không nghĩ là sớm đến vậy.”

    Howl ngả người ra ghế, không hiểu sao thấy không thoải mái lắm:

    “Lẽ ra tôi không phải đến gặp ông.” Cậu nói. “Nhưng tôi không thích cái cách ông đã viết qua thư. Ông đang che giấu điều gì thế, Barbatos? Có điều gì ông không thể nói qua thư à?”

    Ông ta đẩy kính, thở dài. Cùng lúc đó, tiếng giày nện trên sàn vang lên lộp cộp và Ruby mang vào một khay trà. Howl nhìn thứ nước màu xanh ngọt rót ra khỏi cốc cùng với vài mẩu lá khô. Mùi trà bốc lên thơm dịu.

    Cô ả đẩy cho Howl một cốc, nháy mắt với cậu rồi bỏ đi.

    “Ngài cũng biết mà.” Barbatos nhấc cốc trà của mình lên, đổ vào chút đường. “Có những thứ chỉ có thể nói trực tiếp. Tôi không tin tưởng những lá thư, chúng qua tay rất nhiều người trước khi người cần nhận nhận được.”

    “Tôi thì cho rằng thư từ là cách liên lạc vô cùng tiện lợi.”

    Howl nhấp một chút trà, mũi nhăn lại vì nó quá ngọt. “Ông không có rượu à?”

    “Thảo mộc đấy, thưa ngài.” Ông ta nói. “Vô cùng tốt cho sức khỏe.”

    Howl nhoẻn cười. “Một chút vang cũng không làm phiền tôi đâu.”

    Khóe môi Barbatos kéo thành một nụ cười, ông ta lên tiếng gọi Ruby và bảo cô ta pha cà phê. Không phải thứ Howl muốn nhưng vẫn còn hơn loại trà ngọt như đường mía này.

    “Tôi chỉ có một tủ rượu, nhưng bà vợ của tôi nghiện chúng nên tôi buộc phải khóa lại và giấu chìa đi.” Ông ta giải thích. “Quay về vấn đề chính, thưa ngài, ngài đến đây vì Moldark?”

    “Rõ ràng rồi. Tôi đoán ông làm lộ chuyện cha tôi bị giết? Đáng buồn quá nhỉ. Hội đồng đang bàn về hình phạt dành cho ông đấy.”

    “Vậy sao, họ đưa ra những đề nghị gì thế?”

    Dù đã che giấu nhưng Howl biết ông ta đang lo sợ. Cốc trà của ông ta rung rung trong lòng bàn tay.

    “Đó là chuyện bí mật. Vài… gợi ý, thế thôi. Ông không có vẻ là người hay buôn chuyện. Ông cũng không phải kẻ tối ngày say lướt khướt.”

    Howl dừng một lúc. Cậu quan sát thật kỹ từng biểu hiện trên mặt ông ta.

    “Để tôi đoán. Ông đã nói với một người và dặn kẻ đó phải giữ bí mật, nhưng hắn đã không làm thế, phải không?”

    Ruby lại trở lại phòng, mang theo ly cà phê của Howl. Cậu liếc nhìn cô ta, rồi liếc nhìn Barbatos. Bỗng dưng, cậu hiểu ra mọi chuyện. Cậu đợi cô ta rời khỏi phòng rồi mới cất giọng cười hả hê:

    “Vậy đấy, ông bạn. Ông có lắm bí mật ghê đấy! Vợ ông chưa biết gì phải không?”

    Barbatos mím môi, cặp mắt hoảng hốt. Ông ta đặt chiếc cốc xuống bàn và hơi nhoài người về phía cậu, cặp kính trễ xuống sống mũi:

    “Làm ơn, thưa ngài. Tôi không cố ý khi nói ra chuyện đó, tôi chỉ lỡ lời.”

    “Với cô ta.” Howl nhướn mày. “Tôi tự hỏi lúc đó ông và cô ta đang làm gì.”

    Barbatos nhín bặt, còn Howl chỉ cười.

    Những câu chuyện kiểu này không phải hiếm gặp, nó mang lại lợi thế khủng khiếp cho Howl. Những ông chồng dối trá và những bà vợ dâm đãng. Họ sẽ chết để bảo vệ bí mật nhỏ của mình. Và cậu sẽ làm việc mà cậu cần làm: mang lợi thế về cho mình.

    Nhà Lucifer luôn giỏi, luôn luôn giỏi, trong tìm ra nhược điểm của người khác và sử dụng nó.

    “Tôi không nặng nề lắm về chuyện này đâu, ông bạn, đừng lo lắng thế. Hãy cảm thấy may mắn vì người ta đang dồn sự chú ý về việc tại sao Quỷ Vương lại chết. Ông có manh mối nào không?”

    Barbatos bồn chồn đứng dậy. “Theo tôi, thưa ngài.” Ông ta nói một cách ngoan ngoãn.

    Howl nhíu mày nghi ngờ, rồi đứng dậy, cầm theo cốc cà phê.

    Barbatos dẫn cậu khỏi thư phòng, đi lên cầu thang. Howl nhìn lướt qua một ô cửa sổ xuống sân sau của ngôi nhà và thấy lũ trẻ, tầm ba, bốn đứa, đang nô đùa quanh những bụi cây.

    “Con ông đấy à?”

    “Phải.”

    “Lũ trẻ không biết nói dối đâu, hãy đảm bảo rằng bọn chúng không nhìn thấy gì nhé.”

    Cậu nói nửa đùa nửa thật, còn ông ta chỉ nín im.

    Vài phút sau, họ lên tới tầng năm và rẽ vào một căn phòng đầy những tủ thuốc, giấy tờ, có cả một bàn khám và những dụng cụ kỳ lạ. Trên các kệ thuốc, có những chiếc lọ chứa các dung dịch đủ màu, đặc quánh và tởm lợm. Kế đến là đủ loại thảo dược, một tủ sách rồi ba chiếc giá gỗ đặt các chậu cây ngoài ban công hình vòm. Barbatos cẩn thận khóa cửa lại rồi kéo kín rèm cửa.

    “Ông tàm tôi rối trí đấy.” Howl nói. “Những thứ này là gì vậy?”

    “Ngài biết đấy, những căn bệnh thông thường thì rất dễ chữa. Một chút phép thuật can thiệp có thể chữa khá nhiều loại bệnh. Tôi có thể chữa bệnh cúm, sởi, nhiễm trùng, vân vân, của con người bằng vài loại thuốc rẻ tiền bằng thảo dược và bùa phép.”

    Howl không tỏ ra ngạc nhiên. “Tôi không nghĩ ông là loại đi chữa những bệnh như thế.”

    “Không.” Ông ta nói. “Phức tạp hơn thế nhiều. Tôi không nhận những ca thông thường. Nhưng nếu ai đó bị ma sói cắn, hoặc bị một phù thủy bỏ bùa, tôi có thể làm gì đó đấy.”

    Howl dựa người vào mép tủ. “Nói cách khác, ông là bác sĩ chuyên về phép thuật. Được thôi. Ông muốn nói gì nào?”

    Barbatos đi quanh giá sách như tìm kiếm thứ gì. “Vùng Bóng tối đầy những điều huyền bí, thưa ngài. Có những thứ trong lịch sử có tồn tại nhưng bây giờ thì không. Ngài biết những cách nào để giết một Cambion?”

    Howl nhún vai, nhìn lên trần nhà. Rốt cuộc, ông ta chẳng trả lời cho hẳn hoi. “Tuổi già chăng?”

    Ông ta quay lại nhìn Howl, lắc đầu, rồi lôi mấy cuốn sách ra nhưng lại cất lại.

    “Cambion chỉ có một nửa là Quỷ. Chúng ta đâu có bất tử? Chỉ là sống dai hơn và khó chết hơn. Nếu xé tôi ra làm đôi thì tôi cũng chết thôi.”

    Có vẻ như Barbatos đã tìm ra cuốn sách mình cần. Nó dày và nặng, nằm ở góc trên cùng của giá sách. Cơ mặt giãn ra và ông ta thở phào.

    “Đã từng có một thời tồn tại những Cambion bất tử. Họ là những Cambion có dòng máu Quỷ tinh khiết và có lẽ là thế hệ đầu. Một vài trong số họ vẫn còn sống đấy.” Barbatos nói, trầm tư. “Nhưng họ khá kín tiếng.”

    Howl nghĩ là mình đã nghe thấy điều này ở đâu đó nhưng cậu không chắc. Những Cambion thế hệ đầu, trải qua các cuộc chiến và sinh sống ở thời loài Quỷ đang còn bước trên mặt đất. Họ có quyền năng mạnh, gần bằng một con quỷ thật sự lại dễ trà trộn. Nhưng cậu chưa từng gặp một Cambion nào bất tử cả.

    Howl ngước nhìn lên trần nhà. Cậu băn khoăn nếu mình cũng bất tử giống họ.

    Bất tử.

    Ai mà không muốn điều đó chứ?

    “Cambion đã từng rất mạnh.”

    Barbatos nói và im lặng một lúc, ông ta nhìn chằm chằm vào mép cuốn sách đến nửa phút, sau đó mới tiếp tục lật tìm các trang sách.

    Howl biết. Điều này ai cũng biết. Cambion được sinh ra bởi quỷ và con người, dòng máu Quỷ đang thoái hóa dần qua mỗi thế hệ. Tất cả các gia tộc Cambion đều lo lắng về sự thoái hóa ấy. Nó khiến Cambion yếu hơn, nhu nhược hơn, mang tính người hơn. Bằng chứng là hầu như không còn Cambion nào có thể sống bất tử nữa.

    Giống như một vị vua bị phế ngôi, những đứa con mang dòng máu Quỷ đều phần nào đó nuối tiếc về thời đại trước đây của mình.

    “Khi đó, chỉ có Nephilim hoặc các Thiên Thần mới có thể giết được một Cambion bất tử.” Barbatos giải thích. “Tuy nhiên, vẫn còn một cách khác.”

    “Nhưng điều này thì liên quan gì đến cha tôi?”

    “Ồ, ngài không biết sao?” Ông ta ngạc nhiên, đứng thẳng dậy. “Moldark Lucifer là một Cambion bất tử.”

    Howl nhăn trán nghi ngờ. Cậu cười khẩy. “Chắc ông đùa.”

    “Không hề, thưa ngài. Đôi khi dòng máu Quỷ trội hơn bình thường sẽ dẫn đến sự ra đời của một Cambion bất tử.”

    Howl vò đầu. Cậu chỉ biết vò đầu. Nếu Moldark thật sự là một Cambion bất tử, cái chết của ông ta càng đáng ngở hơn. Cậu tựa đầu vào tủ kính, nhìn Barbatos lật những trang sách.

    “Cách thứ hai là gì?”

    “Khi Moldark chết, tôi đã xin được giải phẫu ông ta nhưng không được cho phép.” Ông ta ngước nhìn Howl qua cặp kính như đó là lỗi của cậu. “Dẫu sao, tôi cũng đoán được vài điều. Ngài không phiền nếu lại đây chứ?”

    Barbatos vuốt phẳng phiu mép sách, hẳn ông ta đã tìm được cái cần tìm. Howl đến gần cái bàn rồi chống một tay xuống. “Gì đây?”

    “Những câu thần chú.” Barbatos trả lời. “Nghi lễ.”

    “Ông trữ cả thứ này sao?”

    “Tôi là người ham hiểu biết.”

    “Được rồi.” Cậu nói cho qua chuyện. Những trang sách dày đặc chữ, biểu tượng và hình vẽ. Chúng viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau mà chỉ một vài trong số đó là Howl biết.

    Ngón tay Barbatos di trên các dòng chữ:

    “Ngài thấy đấy, đây là một câu thần chú cổ, đòi hỏi một người có quyền năng lớn. Nó được viết vào lúc cánh cổng Thiên Đàng và Địa Ngục chưa bị đóng, bởi một phù thủy tên Melanie Rita.”

    “Melanie Rita? Ông chắc chứ?”

    Howl không khỏi nghi hoặc. Melanie Rita được tôn sùng là một vị Thánh trong giới phù thủy. Ả có vô số tín đồ, những kẻ sử dụng phép thuật hắc ám và nung nấu ý định lật đổ cả Thiên thần lẫn Quỷ. Theo như Howl nhớ, ả không chỉ có quyền năng lớn hơn hết thảy các phù thủy khác, mà còn có cái đầu gian xảo nên mới có thể đưa đội quân của mình tiến xa đến thế. Tuy nhiên, ả đã chết. Ả chết trên một cái cọc. Rita và hàng trăm phù thủy khác bị xử tử và thiêu sống vào cái ngày mà cánh cửa tới Thiên Đàng và Địa Ngục bị đóng.

    Câu thần chú này là một mảnh sót lại của ả, cùng với vô vàn những nghi thức khác ả đã sáng tạo ra.

    “Melanie Rita là phù thủy đầu tiên và là người viết ra câu thần chú có thể giết được Quỷ, Thiên thần.” Barbatos giải thích. “Câu thần chú đó cũng có tác dụng lên cả Cambion và Nephilim. Bà ta rất giỏi, tôi phải thừa nhận là thế.”

    “Được rồi. Ý ông là đây chính là hung khí?”

    Barbatos chớp chớp mắt. “Tôi khá chắc chắn đấy.”

    Ông ta cúi xuống, dịch lại cho Howl:

    “Câu thần chú này đòi hỏi sự công phu và kiên nhẫn.” Ông ta mím môi. “Nó đòi hỏi sự hiến tế.”

    “Hiến tế ấy à?”

    “Hiến tế một trinh nữ.” Barbatos nuốt nước bọt. “Cô ta phải đủ mười tám tuổi. Đó là nguyên liệu đầu tiên. Nguyên liệu thứ hai là “hạt giống gieo rắc tội lỗi.” Xin lỗi ngài, tôi không chắc lắm về đoạn này. Dịch ra thì đúng là thế nhưng chẳng có nghĩa gì cả.”

    Howl kéo ghế ngồi xuống. Cậu chống tay xuống bàn. “Tiếp tục đi.”

    Barbatos đẩy kính. Những nếp nhăn trên trán ông ta gấp lại, lấm tấm mồ hôi. Cậu đoán không phải ông ta không dịch được cuốn sách, hẳn ông ta đã phải đọc qua rồi. Ông ta căng thẳng có lẽ vì những gì sắp phải nói với cậu.

    “Nguyên liệu thứ ba là là “Sự tinh túy của sự sống”. Barbatos thở dài. “Tôi không thể hiểu nó có nghĩa gì. Hạt giống phải được nuôi sống bằng sự tinh túy của sự sống. Cuối cùng là máu của Cambion sẽ bị giết.”

    Howl đưa tay xoa trán. “Lũ phù thủy. Chúng không học được cách viết rõ ràng à?”

    “Cuối cùng là tụng thần chú.” Barbatos nói thêm. “Hạt giống tội lỗi phải được gieo trên xác của trinh nữ, sau đó tưới bằng máu của Cambion. Tụng thần chú trong mỗi mùa trăng tròn và chăm sóc hạt mầm bằng “sự tinh túy”. Thành quả đầu tiên của hạt giống có thể ngay lập tức giết Cambion.”

    Barbatos ngồi xuống ghế, gương mặt kiệt quệ, đầm đìa mồ hôi. Trông ông ta như vừa phải lăn một tảng đá lên trên núi rồi lại lăn về. Cả hai ngồi im lặng một lúc lâu. Sự im lặng kết thúc bằng tiếng cười nhạt của Howl.

    “Có lẽ là cây? Hạt giống thì phải là cây, phải chứ?”

    “Tôi không chắc bà ta viết theo nghĩa đen.” Ông ta nhún vai. “Nếu là một cái cây thật, nó sẽ là cây gì đây?”

    “Ông nói thành quả đầu tiên có thể giết Cambion ngay lập tức.” Howl nhăn mày. “Nhưng bằng cách nào? Nó không phải vũ khí thông thường.”

    “Theo như tôi nghĩ...” Barbatos nói. “Nó là độc. Một thứ gì đó để tẩm độc vào.”

    “Quả cây.” Howl lẩm bẩm. Cậu nhìn ra cửa sổ, nơi một ô cửa kính vừa rung lên qua trận gió.

    Sau đó, Howl đứng dậy. Cậu cảm thấy bế tắc hoàn toàn, dù có vẻ chìa khóa câu trả lời đang ngay trước mắt. Cậu còn chưa thể hình dung ra cụ thể thứ hung khí ấy có hình dạng như thế nào.

    “Viết cho tôi bản dịch của câu thần chú, Barbatos.” Cậu nói. “Rồi gửi cho tôi bản gốc sau. Tôi cần đưa nó ra trước Hội đồng.”

    “Được, thưa ngài.”

    Howl chăm chú cúi nhìn cuốn sách trong khi Barbatos ghi lại những điều thiết yếu. Những hình vẽ trong trang giấy không đưa lại nhiều manh mối cho cậu.

    Cuối cùng, Ruby tiễn cậu ra về. Howl cầm tờ giấy trong tay và đọc đi đọc lại nó. Cậu vẫn hy vọng mình hiểu gì đó. Chúng lặp lại và khó hiểu giống như một đoạn mã vậy.

    Cậu suýt đâm rầm vào Ruby khi cô ta đột ngột dừng lại, chặn giữa cậu với đoạn cầu thang hẹp trước mặt. Howl nhướn mày.

    “Ngài có muốn chút rượu trước khi về không? Tôi có chìa khóa cái tủ rượu chết tiệt đó.” Cô ta kéo ra dưới lớp áo mình chiếc chìa khóa đồng.

    Howl hiểu lời mời đó có nghĩa là gì. Cậu nhoẻn cười rồi ngoái đầu nhìn quanh. “Cô không sợ bị phạt à? Ông chủ của cô dễ dãi nhỉ?”

    “Ngược là khác.” Cô ta kéo cổ áo Howl. “Tôi thích bị trừng phạt lắm.”

    Tiếng giày nện trên các bậc thang vang lên. Howl ngó ra sau lưng cô ta thì thấy một người phụ nữ đang đi lên này.

    “Đủ rồi, Ruby.” Bà ta nói. “Đừng để tôi phải nói lại lần nữa.”

    Cô hầu tóc đỏ thở sườn sượt một tiếng chán nản rồi bỏ đi xuống cầu thang.

    Người phụ nữ khoanh tay nhìn cô ta đi khỏi. Bà ta có mái tóc nâu hạt dẻ búi cao, gương mặt đã có tuổi, ánh mắt điềm lặng. Ở tay trái bà ta, một điếu thuốc vẫn đang bốc khói.

    “Xin lỗi ngài. Mẹ cô ta là điếm nên di truyền cho cô ta.” Bà nói, rít một hơi dài từ điếu thuốc và nhả ra một làn khói. “Vợ của Dommik. Hân hạnh.”

    Âm sắc trong giọng nói bà ta rất đều. Đôi mắt bà ta phảng phất sự uy quyền. Một người vợ lãnh đạm và thờ ơ, cùng một gã chồng trăng hoa. Howl cười mỉa mai trong dạ, thật là một gia đình ấm áp làm sao.

    “Tôi cũng thế.”

    “Ngài có gì đây?” Bà ta giật lấy tờ giấy trong tay Howl, chậm rãi giơ lên đọc. “Ngài và Dommik có vấn đề với lũ ma cà rồng à? Lũ thú vật ấy.” Bà ta hạ âm ở câu cuối cùng.

    “Tại sao bà nghĩ thế?” Howl hỏi. Chẳng có gì trong tờ giấy liên quan tới sinh vật này cả. Chúng thích máu. Có chăng chỉ có dòng chữ “Máu của Cambion” nhưng cũng chẳng có tính gợi nhắc gì.

    “Tinh túy của sự sống.” Bà ta kẹp tời giấy giữa hai ngón tay, tay kia rẩy rẩy cho những mẩu thuốc bay đi. “Đó là cách chúng gọi về Máu người. Ngài không biết sao?”

    Howl lấy lại tờ giấy. Cậu cười mỉm. “Không. Tôi vẫn đang cố lý giải đây. Nhưng tôi phải về rồi. Chúc bà có một ngày vui vẻ.”

    Người phụ nữ hờ hững quay đầu nhìn Howl bước xuống cầu thang. Được nửa chừng, cậu dừng lại, nói vọng lên với bà ta:

    “Nếu bà muốn, tôi có thể đưa cô hầu nhỏ bé đến lâu đài Quỷ. Tôi khá thích cô ta còn bà thì có vẻ không.”

    Người phụ nữ nhếch mép, rít một hơi từ điếu thuốc. Mỗi lời nói của bà ta đều đi kèm với một đám khói nhỏ:

    “Ông ta sẽ kiếm một con điếm khác thôi. Dẫu sao vẫn cảm ơn tấm lòng của ngài.”
     
  19. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 17
    MƯA RƠI TẦM TÃ BÊN NGOÀI, đổ xuống đất màu xánh lạnh.

    Mùa mưa sắp kết thúc.

    Rethala sẽ chuyển mình, trở nên cằn cỗi hơn trước khi mùa đông đến. Hầu hết mọi loại cây ở đây sẽ ngả màu rồi héo úa. Howl đoán mình sẽ phải thuê thêm số người làm vườn để lâu đài không ngập trong cỏ khô và lá mục.

    Biết đâu đấy, có thể hôm nay sẽ là ngày mưa cuối cùng.

    Howl xếp nhanh những tập giấy da trên bàn sang một bên. Ở cạnh tay là chiếc bút mực và lọ mực đã vơi nửa. Kế đó là những xấp thư chưa được mở. Howl ngả người ra ghế, thở dài. Cậu nhắm mắt, lắng nghe tiếng mưa bên ngoài. Mùi mưa và gió dễ chịu đến kỳ lạ.

    Howl nhấc xấp thư lên để ra trước mặt. Thông thường chỉ cần nhìn tên người gửi là Howl đã đoán được nội dung của nó. Có một lá thư trông lạ mắt hơn, không làm từ thứ giấy đắt tiền như những lá thư kia. Một phong thư có bìa nâu, giấy ráp, những nét mực đen viết đều trên giấy. Emerson Phenex, em trai của mẹ cậu. Anh ta cũng đã đến đây vào đám tang của Quỷ Vương, một chàng trai gầy gò với bộ râu rậm và ánh mắt hun tối.

    Lá thư ban đầu chỉ hỏi thăm về cậu và Abigail, và về cả chuyện Howl đã sửa sang lại lâu đài. Sau đó lại đề cập đến chuyện “nối lại mối quan hệ sau bao năm phủ bụi” và những chuyện liên quan đến tiền bạc, điều mà Howl đã lường trước. Hẳn họ thấy đây là một cơ hội tuyệt vời, Howl lên ngôi và cậu hoàn toàn có thể gửi một số tiền chu cấp cho họ. Theo như cậu biết, gia tộc bên ngoại của mình chẳng giàu có lắm mặc dù con gái – chị gái – cháu gái họ cưới Quỷ Vương. Dù bà đã chết đi nữa thì Moldark vẫn đã có con với bà và đó là cậu.

    Howl chẳng ngần ngại đặt xuống một lời đồng ý.

    Hơn nữa, cậu thừa mứa tiền bạc. Tòa lâu đài có quá ít người ở đến mức nó tốn chẳng bao. Cậu vẫn đang không biết làm gì với số tiền ấy. Howl đặt bút viết một lá thư hồi âm thật lịch sự, cố gạt bỏ những lời lẽ đầy gai của mình ra để gửi trả họ.

    Howl đặt lá thư vào trong phong bao rồi để lại trên bàn. James sẽ đến phân loại và gửi chúng đi. Xét cho cùng, ông ta vẫn là một quản gia tận tụy, Howl cân nhắc giữ ông ta làm việc lâu dài.

    Lá thư thứ hai cậu cầm lên là của Dommik Barbatos.

    Ông ta gửi cho cậu bản chép tay của câu thần chú cổ. Howl chỉ nhìn lướt qua rồi để đấy. Nếu không phải do Hội đồng đang thúc giục, cậu cũng chẳng buồn để mắt đến chuyện này.

    Howl bước vòng qua bàn, đến tủ rượu và khui một chai. Cậu rót đầy một ly rồi đặt nó lại vào tủ, đoạn quay qua cửa sổ nhìn cơn mưa trắng xóa. Ở chân trời hầu như không thể thấy gì ngoài màn sương dày. Khu mộ xa xa thấp thoáng hiện ra trong sương. Howl cũng đang suy tính dời khu mộ ấy vào nghĩa trang thành phố; nhưng cậu đoán sẽ nhiều người phản đối. Cứ nghĩ đến việc cha cậu đang nằm ở đấy, im lặng quan sát cậu và tòa lâu đài này khiến Howl rợn gáy. Có thể cậu sẽ xây một khu vườn, hay những nhà kính đón gió ở đấy. Bất cứ thứ gì vẫn hơn là một khu mộ lù lù sau lưng mình.

    Một cái bóng thấp bé đang động đậy chỗ khu mộ.

    Howl nheo mắt nhìn. Cỏ trắng xóa nước mưa. Khi người ta nhìn thấy một cái bóng sượt qua lần đầu, họ sẽ lờ nó đi. Nhưng khi nó lướt qua một lận nữa, và một lần nữa, nó sẽ thu hút được ánh mắt của tất cả những ai nhìn thấy. Bây giờ, tất cả những ai nhìn thấy chỉ có How, nhưng cậu không điên. Cậu tin vào chuyện ma. Phải. Và cậu tin vào Quỷ. Chỉ những kẻ ngây thơ mới không tin. Những kẻ ngây thơ và những kẻ điên. Cậu biết chắc có cái gì đó ở khu mộ.

    Howl cầm lấy chiếc ô đặt ở cửa. Cậu bật nó lên. Trong khoảnh khắc khi chiếc ô xòe ra, quang cảnh quanh Howl thay đổi. Căn phòng cậu đang đứng như tan ra thành khói và bay đi, rồi cậu nghe thấy tiếng mưa đập chan chát lên ô. Có dưới chân cậu trắng khủng khiếp, Howl đang đứng giữa khu mộ mà bốn bề trắng xóa. Howl bước lên cỏ lạnh, tiến vào lối mòn trong khu mộ.

    Khả năng dịch chuyển là khả năng bẩm sinh của Cambion, dù nó khá hạn chế vì nhiều nơi giăng bùa chống Cambion và vì thế sẽ không vào được. Giống như lâu đài Quỷ, không Cambion nào có thể dịch chuyển vào trong, nhưng nếu đã ở bên trong thì có thể dịch chuyển đi bất cứ đâu. Đôi khi Howl hơi lạm dụng khả năng này.

    Rốt cuộc, ngoài những bia một tối xếp đều nhau chẳng còn gì khác. Hơi lạnh phả vào người Howl, chứa đầy trong buồng phổi cậu. Cậu nheo mắt nhìn quanh nhưng không thấy gì cả. Mưa kèm sương khiến tầm nhìn của cậu giảm rõ rệt. Những ngôi một thình lình hiện ra ở mỗi ngã rẽ, đen đúa và xấu xí. Howl định quay trở lại bên trong thì cái bóng lại sượt qua lưng cậu, Howl quay người lại nhưng nó đã biến mất.

    Cậu đi trên các lối mòn lát đá như tìm kiếm thứ gì. Cỏ ngập nước, hoa héo, các gò đất ẩm, hàng rào dây leo, bia mộ trăng trắng khi ở gần và đen thui khi nhìn xa, chỉ có thế. Cậu không thể nhìn xa hơn, chỉ trông thấy một vệt đen kéo dài ở chân trời là khu rừng. Cái bóng đang đùa nghịch với cậu. Nó thoắt ẩn thoắt hiện, đôi khi Howl đã bắt gặp được nó nhưng chưa định hình được gì thì nó đã biến mất. Cậu chỉ cảm nhận được luồng không khí bị kéo về phía nó, cùng với âm thanh rúc rích như tiếng cười nửa thực nửa mơ trong không gian.

    Howl ghét ma.

    Chúng là đám phiền phức đích thực.

    Trong bóng tối, những cái bóng cựa quậy. Chúng cựa quậy một cách lén lút như đang chơi trốn tìm với Howl. Ở bất cứ góc khuất nào cũng có thể xồ ra một thứ gì đấy gớm ghiếc. Howl gắng gạt những điều không tưởng đấy ra khỏi đầu.

    Nó làm cậu đau tim khi đột nhiên cậu quay người lại và thấy nó đứng ở đấy, sau một bia mộ thấp. Sương làm nó trông như một ảo ảnh, một cái bóng đen thui không mặt mũi. Nó nhô đầu lên khỏi mộ như con mèo rình mồi.

    Howl giữ chặt chiếc ô và đi lại gần ngôi mộ. Nó vẫn đứng im ở đấy. Khi Howl chỉ còn cách nó chừng hơn một mét thì một giọng nói vang lên sau lưng cậu:

    “Anh làm gì thế?”

    Chỉ một kẻ dám nói ngang hàng như thế với Howl. Cô ta còn đáng sợ hơn cả cái bóng. Howl nhìn lại ngôi một thì cái bóng đã biến mất từ khi nào. Cậu đột nhiên có cảm giác mình bị chơi xỏ. Tại sao cậu phải bận tâm đến một con ma thích phá phách chứ?

    “Tôi thấy có người ngoài này.” Howl lấy lại giọng nói bình tĩnh của mình. “Tôi đoán là cô.”

    “Và điều đó làm anh bận tâm sao?”

    Đương nhiên là không, tôi mặc xác cô làm gì, tôi chỉ bị một con ma xỏ mũi. Nhưng Howl không nói thành tiếng đều đấy. Cậu chỉ cười. “Một chút.”

    Howl bỗng thấy băn khoăn. Nếu cậu ra đây vì con ma chết tiệt ấy, liệu có phải cô ta cũng thế.

    “Cô có thấy ai không?”

    “Ý anh là ngoài anh ra?” Cô ta đưa mắt nhìn một vòng. “Tôi không nghĩ thế.”

    Howl nhướn mày. “Đừng nói dối.”

    Cô ta lườm cậu rồi quay người bước đi.

    “Nếu anh nhìn thấy gì thì cũng đừng lo lắng quá.” Cô ta nói. “Chúng thích trêu chọc người khác. Nhưng chúng cũng vô hại thôi, chúng chỉ buồn chán. Tôi đoán thế.”

    “Chúng ta có đang nói về cùng một thứ không thế, bởi vì…” Howl cầm chiếc ô đi theo cô ta. Cậu để lửng câu của mình, theo chân Angeline ra rìa ngoài khu mộ.

    Cô chỉ ra ngoài xa. Ban đầu Howl chẳng trông thấy cái gì hết, nhưng rồi cậu nhận ra có một cái bóng xám lẫn vào mưa cùng sương đang đi lòng vòng. Nó chỉ đi lòng vòng, không xa hơn được một mét.

    Rồi cô ta lại ngước lên nhìn các ô cửa sổ lâu đài. Hẳn là cô ta thấy gì đó mà cậu không thấy.

    “Đang vào tuần trăng nên chúng xuất hiện suốt.” Angeline nói bằng giọng đều đều như thể đó là một điều hết sức bình thường, bình thường như những cơn mưa đến vào mùa mưa và tuyết tới trong mùa đông. “Nhưng rốt cuộc chúng cũng chẳng làm gì có hại cả. Nhiều kẻ trong số chúng còn chưa biết mình đã chết.”

    Howl cảm thấy hơi khó chịu với cô ta. Cô ta là một người hầu nhưng có vẻ còn biết nhiều hơn cả chủ nhân của tòa lâu đài. Nếu cô ta sống ở đây từ nhỏ, hẳn cô ta cũng đã quen với những thứ kỳ dị này. Cậu biết đó không phải lỗi của cô ta nhưng cậu vẫn cảm thấy bứt rứt kỳ lạ.

    “Cô không sợ chúng à?”

    “Tôi nói rồi mà.” Cô ta ngước mắt nhìn cậu. “Chúng vô hại.”

    “Cô có thấy hồn ma nào kỳ lạ không?” Cậu nhún vai, lờ mờ gợi ý. “Ừm, của một người nào đấy từng sống trong lâu đài. Giống Quỷ Vương chẳng hạn?”

    Cậu bắt gặp ánh nhìn nghi hoặc của cô ta. “Không. Họ thường không ở lại. Tôi chưa thấy ai cả.”

    Những hồn ma tồn tại là một chuyện, việc chúng có muốn nói chuyện hay xuất hiện không là một chuyện khác. Bọn chúng là những nhân chứng hoàn hảo nhất, tồn tại đủ lâu để chứng kiến mọi chuyện xảy ra với lâu đài. Nhưng chúng không bao giờ lên tiếng, Howl biết thế. Cái chết làm chúng thay đổi. Một khi biết mình đã chết, khó mà có thể nghĩ được như khi còn sống.

    Howl nhìn thấy bó hoa tươi Angeline vừa đặt trên mộ Quỷ Vương. Đôi mắt cô ta lạnh và lặng thinh trong mưa, thẫn thờ nhìn ngôi mộ. Khó mà nói được rằng cô ta đang tiếc thương. Điều gì về Quỷ Vương làm cô ta ám ảnh đến thế?

    “Ông ta đã chết được một tháng rồi.” Howl nói. “Cô còn lo lắng điều gì nữa?”

    “Tôi không lo gì cả.” Cô mím môi, gương mặt trầm tư. “Nếu có cũng không phải về Quỷ Vương. Tôi lo cho Abigail.”

    Nụ cười khiến đôi môi Howl trông mỏng đi. “Tôi có cần giả vờ như biết giữa cô và Abigail có gì không? Cô biết đấy…”

    “Chúng tôi từng lớn lên cùng nhau.” Cô ta nói nhẹ như lông hồng.

    Howl hơi băn khoăn khi nghe thấy từ “Chúng tôi”. Cậu im lặng chờ Angeline nói tiếp. Nếu lần lại được, biết đâu cậu sẽ tìm được kẻ đã giết Moldark?

    “Đó là tất cả những gì tôi có.” Cô nói. “Lớn lên cùng nhau. Abigail đối xử rất tốt với tôi; chúng tôi từng là những đứa trẻ duy nhất trong lâu đài. Nhưng con bé không còn nói chuyện với tôi nữa.” Angeline ngừng một quãng như hồi tưởng đến một điều gì đó kinh khủng vô cùng. “Từ khi ông ta chết, nó không nói chuyện với tôi nữa.”

    Howl tỏ ra nghi hoặc. “Cô cảm thấy… tội lỗi à?”

    Cô ta liếc lên Howl, trừng mắt, không nói gì cả.

    “Thôi được rồi.” Cậu thở hắt ra một tiếng. “Con bé có một người bạn tưởng tượng, thế là đã đủ hiểu rồi. Tôi nghĩ cô có thể giúp nó bớt cô đơn.”

    “Bây giờ thì tôi không thể làm điều đó được nữa.”

    Cô ta nhìn Howl, đôi mắt dịu xuống, rồi cầm chiếc ô của mình rời khỏi khu mộ. Hẳn cô ta về tòa tháp vì Howl thấy cô đi tới cánh rừng. Trong thời tiết này thì thật kỳ lạ.

    Nhưng xét cho cùng, có điều gì về cô ta là không kỳ lạ đâu?
     
  20. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 18
    “BỎ NÓ XUỐNG, ANNA.”

    Abigail nói.

    Con bé đặt con búp bê vừa rơi trên sàn nhà lên tủ.

    Chiếc tủ kính đầy ắp những con búp bê như thế.

    Có con đang ngồi. Có con đứng. Có con nằm. Chúng có mái tóc phồng lên, rất dài. Chúng mặc những chiếc váy xòe dễ thương, ngước đôi mắt tròn vo và trống trỗng về phía trước. Những con búp bê luôn có cái nhìn như thế.

    Chúng mỉm cười.

    Chúng dõi theo.

    Chúng nói ngôn ngữ của sự im lặng.

    Có hàng chục cặp mắt tròn vo nhìn xuống Abigail như thế.

    Nhưng con bé đã quá quen với chúng. Nó không sợ hãi những con búp bê. Nó yêu thích chúng và gìn giữ chúng vô cùng cẩn thận.

    Trong căn phòng của Abigail không chỉ có búp bê. Những bức tranh vẽ nguệch ngoạc treo khắp buồng ngủ của nó. Những bộ váy dù được người hầu là phẳng cẩn thận nhưng vẫn vứt lung tung khắp chỗ. Trên sàn nhà, những con búp bê nằm vạ vật, nghiêng người về một bên. Những ô khối hình vuông bằng gỗ lăn lóc trên sàn. Một số được dựng chồng lên nhau thành một tòa tháp. Một nửa tòa tháp.

    “Không. Mình không muốn ra ngoài. Mình không muốn gặp Howl hay cô ta. Hay bất cứ ai trong lâu đài này. Cậu chán sao?”

    Dường như con bé đang nói chuyện một mình.

    “Không hẳn.” Giọng con bé có vẻ do dự. “Mình sẽ làm gì đó, nhưng không phải bây giờ.”

    “Mình không biết.”

    ...

    Abigail ngồi xuống sàn nhà. Con bé gom lại những khối hộp gỗ lại một chỗ.

    “Mình ghét cô ta và Howl ngang như nhau. Cô ta đã lừa mình, con khốn nạn đó.”

    “Cậu biết gì nào?”

    Khi Abigail im lặng, cả không gian im lặng theo. Những con búp bê cũng im lặng. Chúng hiện diện nhưng chúng im lặng. Chúng chỉ lắng nghe, một tai dành cho Abigail và một tai dành cho sự lập dị của cô bé.

    “Thế sao?”

    “Chúng ta có nên làm gì không nhỉ?”

    Tiếng cười khanh khách của Abigail vang lên trong không khí. Con bé cẩn thận xếp các khối gỗ lên.

    “Cậu lảm nhảm mãi chuyện đó rồi. Anna, cậu không nghĩ ra gì mới sao? Mình thì vừa nghĩ ra một chuyện rất hay.”

    “Mình sẽ lật tẩy cô ta. Mình sẽ cho Howl thấy cô ta là người như thế nào và cô ta xấu xa như thế nào. Mình chán ngán phải nghe những lời nói dối từ đám người lớn rồi.”

    Đột nhiên, Abigail dừng tay không xếp nữa. Con bé nhíu mày, nhìn về phía đối diện mình. Rồi đột nhiên, con bé hất tung tòa tháp gỗ.

    “Đừng có nói nhảm nữa! Đừng nói dối mình, mình ghét nói dối. Cả cậu cũng nói dối sao Anna? Cậu không bị ai giết cả! Bây giờ cậu có định giúp mình hay không?”

    Đuôi mắt Abigail giật giật nóng giận. Con bé cúi xuống thì trông thấy những khối khỗ mình đánh đổ văng ra xa. Nó gầm gừ trong cổ họng rồi bò lại gom những khối gỗ vuông.

    Tất cả các khối gỗ đều có một mặt sơn chữ.

    Những khối gỗ bị văng ra xa lại xếp thành một từ. Abigail đảo tròn mắt nhìn.

    Có.

    Đó là chữ Có

    *

    THƯ VIỆN.

    Đây hẳn là căn phòng ít được sử dụng nhất trong lâu đài Quỷ.

    Nhưng lại là căn phòng đẹp bậc nhất.

    Kích cỡ của nó không hề khiêm tốn, nếu chưa nói là rất rộng. Một dãy hành lang ngắn trải thảm đỏ chạy thẳng từ cửa chính vào. Ở cuối hành lang là những ô cửa kính màu lộng lẫy. Hai bên hành lanh là những giá sách. Chúng xếp sau các cây cột đá cẩm thạch, gọn gàng và theo một trật tự hoàn hảo.

    Howl bước vào trong thư viện, bước chân cậu chậm rãi trên đoạn hành lang trải thảm. Cậu có thể ngửi thấy trong không gian mùi của những cuốn sách cũ, của bụi và mưa. Tuổi của chúng có thể còn nhiều hơn cả cậu. Chúng cũ kỹ. Kinh điển. Quyến rũ. Trên những trang giấy lấm tấm các vế ố vàng, và bìa sách thì sờn. Howl tìm kiếm rồi bê một chồng nặng trên tay, đi lại chỗ những dãy bàn đọc sách.

    Hầu hết những cuốn sách này là về cây cỏ, thảo dược. Cậu chắc chắn rằng “Hạt giống tội lỗi” đó là một loại cây. Có thể nó hiếm và chỉ biết bằng cái tên cổ xưa nào đấy. Nhưng không có vẻ gì là thế cả.

    Howl không thể hiểu câu thần chú theo nghĩa bóng.

    Nếu cậu làm thế, cậu sẽ phải tìm kiếm rộng hơn. Đây là vùng Bóng tối, nơi có hàng ngàn thứ đều có thể gọi là “hạt giống của tội lỗi.”

    Howl bỏ cuộc sau hai quyển sách. Chẳng có thứ gì được gọi, thậm chí là liên quan đến cái tên đó cả. Ngả người ra sau, Howl đặt mắt lên trần nhà và suy nghĩ. Có lẽ cậu cần tham khảo ý kiến người thứ hai. Có lẽ Iolite sẽ là người thích hợp. Cô ta luôn vắng mặt trong các cuộc họp và kỳ lạ là chẳng ai dám bắt phạt cô ta cả. Nếu cô ta xuất hiện, cô ta sẽ đi cùng một chai rượu, với đôi mắt ngà ngà say. Nhưng cô ta đã sống lâu và dày dạn kinh nghiệm hơn hết thảy, cậu đang suy tính đến chuyện nhờ sự giúp đỡ của cô ta.

    Hơn hết, cô ta sẽ không đánh giá cậu như Erik hay những kẻ khác. Howl biết chắc thế.

    Từ nãy tới bây giờ, âm thanh duy nhất mà Howl nghe thấy là tiếng mưa và sự im lặng. Nhưng rồi khi cậu ngẩng nhìn lên trần, cậu bắt gặp một cái bóng vụt qua ở tầng hai thư viện. Rồi tiếng đồ đạc lịch kịch vang lên ở trên đó.

    Howl đã chán ngán về những kẻ phá đám này. Chúng luôn luẩn quẩn quanh đây, thể hiện rằng mình có hiện diện nhưng lại không xuất hiện. Đôi lúc vào buổi tối, cậu tưởng tượng rằng mình đang tắm và một bóng ma nhàn rỗi nào đấy sẽ hiện lên trong gương hù dọa cậu. Howl không sợ chúng, nhưng cách chúng xuất hiện luôn làm cậu giật bắn.

    Nhẽ ra cậu sẽ mặc kệ cái bóng. Nhưng rồi tiếng đồ đạc rơi liên tục vang lên, mà Howl đoán là những cuốn sách. Thậm chí là tiếng thở, nửa thực nửa mơ đằng sau gáy cậu.

    Howl quyết định đi lên lầu trên xem nó muốn gì. Ở cuối hành lang có hai dãy hành lang song song, dẫn đến một dải hành lang hẹp hình nhữ U ở trên. Đoạn hành lang đó một bên là lan can có thể nhìn xuống dưới, một bên là các giá gỗ đầy sách. Howl chậm rãi đi và quan sát. Cái bóng lúc ẩn lúc hiện, khó mà đoán được khi nào nó mới xuất hiện.

    Mà có lẽ nó đã đi rồi.

    Nó thích thú vì lừa được cậu lên, và rồi bỏ đi.

    Hẳn là vậy.

    Các cuốn sách bị lôi ra khỏi giá và rơi bừa bãi xuống sàn. Howl điềm nhiên bước qua chúng.

    “Được rồi, đủ rồi.” Cậu nói to. “Ngươi muốn gì nào? Tại sao không bước ra đây?”

    Chẳng có ai trả lời.

    Nếu không phải vì những cuốn sách rơi lộn xộn, cậu sẽ cho rằng mình chỉ tưởn tượng ra cái bóng. Và giờ thì giống như cô em gái điên của mình, cậu đang nói chuyện của mình.

    “Nếu ngươi thật sự đang ở đây, cho ta thấy một dấu hiện rằng ngươi muốn nói chuyện.”

    Cậu nhìn quanh quất, chờ đợi một thứ gì đó dị thường xảy ra. Chùm đèn bỗng dưng sáng, sàn nhà bỗng rung lên, hay các tấm rèm chợt bung ra. Vài phút sau, vẫn chẳng có gì xảy ra cả. Cậu thở dài, chống tay lên hành lang và xoa đầu. Cơn đau đang lan đến từ sau gáy cậu cho đến hai bên thái dương.

    Đột nhiên, một chuỗi những âm thanh ồn ào khiến Howl giật bắn vang lên. Cậu ngẩng nhìn các giá sách. Những cuốn sách bị lôi ra khỏi giá và rơi xuống sàn nhà, tạo thành những tiếng vang lớn, nghe như một vụ nổ nhỏ. Giấy bị xé rách và bay lả tả xuống như một cơn mưa trắng.

    Howl lùi lại, cậu bất động trong vài giây chờ đợi xem liệu còn mà hù dọa khoa trương nào không. Nhưng chỉ có thế. Cậu hít một hơi dài:

    “Được rồi, được rồi. Ngươi muốn gì?”

    Rốt cuộc vẫn chỉ có mình Howl nói. Cậu nhìn quanh quất, chỉ nghe thấy tiếng giấy loạt soạt.

    Trong bóng tối bỗng vang lên một tiếng động chậm rãi, âm thanh của một quả bóng đang lăn và nảy trên sàn. Howl cũng không nghe thấy tiếng mưa nữa.

    Giữa thư viện chỉ có mình cậu. Và cái âm thanh kỳ lạ đó. Một vật màu đỏ lăn ra từ trong bóng tối, va vào đế giày cậu. Dựa vào âm thanh, nghe như nó vừa được ai thả xuống nền nhà cho lăn đi vậy.

    Quả táo.

    Howl ngạc nhiên nhìn nó.

    Nó căng mịn và bóng bẩy, tươi rói. Thứ màu đỏ ở vỏ quả táo dễ dẫn đến liên tưởng tới màu máu tươi. Howl nhặt nó lên, ngửi thấy ở đầu mũi mùi tanh lạnh. Trong dải hành lang tối, chỉ có mình cậu đứng đó. Cái bóng không xuất hiện nữa.

    Một quả táo? Nó muốn nói gì?

    “Hạt giống của tội lỗi.” Howl lẩm bẩm một mình. “Hạt giống...”

    Đôi mắt Howl giãn căng ra.

    Giờ thì cậu đã hiểu tất cả.

    Cậu cầm quả táo và chạy ra khỏi thư viện.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này