1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Dị năng Dị giới Huyền huyễn Trái Tim Của Quỷ - Tác giả : Jessie Mai - Tình trạng :Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Băng Băng, 4/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 19
    VÀO NGÀY THỨ SÁU, CHÚA TẠO RA CON NGƯỜI.

    Đó là Adam.

    Anh ta được Chúa vô vùng ưu ái, được cho phép sống trong vườn Địa Đàng và được ban tặng một cuộc sống bất tử.

    Nhưng, anh ta trở nên buồn chán vì chỉ có một mình.

    Vậy nên, Chúa tạo nên một người đàn bà là Eva từ chiếc xương sườn của Adam. Bởi là chiếc xương sườn bị thiếu của Adam, anh ta phải vất vả đi tìm Eva. Nhưng tìm được mảnh còn thiếu của mình không hề dễ dàng.

    Vườn Địa Đàng có một loại cây đặc biệt là cây Trí tuệ. Trên cái cây là Trái cấm. Tuy bị cấm không được ăn quả, nhưng Adam và Eva vẫn được phép ở quanh cây.

    Rồi một ngày, có một con rắn bò xuống từ tán cây.

    Nó thủ thỉ

    những điều cấm kỵ,

    những điều tội lỗi,

    những điều sai trái.

    Bị dụ dỗ, Eva ăn trái cấm rồi đưa cho Adam một nửa.

    Thượng Đế nổi giận. Ngài tống Adam và Eva ra khỏi Địa Đàng, đày xuống trần gian và rút lại lời ban phước cuộc sống bất tử của họ. Họ sẽ phải tự lực kiếm ăn, sinh sống.

    Dẫu được miêu tả qua nhiều dị bản khác nhau, nhưng hầu như Trái Cấm đều được biết đến là một loại cây bây giờ vẫn tồn tại.

    Cây táo.

    Howl lao ra khỏi lâu đài. Cậu đi tìm Angeline, rồi dừng lại ở ngọn đồi có cây táo.

    Trồng cây táo trên xác một trinh nữ.

    Những lời giải thích thoáng hiện lên trong đầu Howl.

    Tưới hạt mầm bằng máu Cambion.

    Cậu đã hiểu ra tất cả.

    Lần thứ hai cho đến khi cái cây lớn, nuôi nó bằng máu- kết tinh thuần khiết của sự sống.

    Angeline không có trên ngọn đồi hay thung lũng, hay chuồng ngựa. Đàn ngựa thả rông.

    Tụng thần chú đều đặn.

    Howl quay một vòng nhìn quanh, những luồng gió xoáy quanh cậu và thổi tung lên. Những ngọn cỏ úa bị đứt bị gió thổi tung lên, vướng vào quần áo cậu.

    Quả táo đầu tiên đủ mạng để giết một Cambion ngay lập tức.

    Cậu cảm thấy chóng mặt, những luồng gió tiếp tục quay cuồng thổi như muốn nhấn chìm cậu. Một cơn giông đang đến. Ở phía Tây, bầu trời tối đặc lại và ì ầm sấm.

    Cô ta đã biến mất.

    Cô ta không ở chuồng ngựa. Cô ta không ở khu nhà bếp. Cô ta cũng không ở trên ngọn đồi hay thung lũng. Đàn ngựa được thả rông. Howl cảm giác như mình là một con hươu ngu xuẩn, và cậu vừa sa chân vào một cái bẫy đã được mắc sẵn. Cô ta thậm chí có phải người không? Cô ta là ai? Howl tưởng mình đã biết rõ. Nhưng cậu đã sai.

    Cậu đã sai hoàn toàn.

    Lần đầu tiên cậu hiểu cảm giác bị đánh lừa là như thế nào.

    Dù Angeline là ai đi nữa, cô ta đã trông cây táo đó. Cô ta đã lấy quả của nó mang cho Moldark. Cô ta là người đứng sau tất cả.

    Howl đi vào nhà bếp, nhìn quanh quất. Móng tay cậu cấu chặt vào vỏ quả táo.

    “Ngài ổn chứ, Quỷ Vương?”

    “Thưa ngài...?”

    Một vài người hầu bối rối hỏi.

    Howl hít một hơi dài rồi gật nhẹ đầu:

    “Đừng để ý đến tôi. Mọi chuyện ổn... Ừm, có ai ở đây thấy người chăn ngựa không? Cô ta trẻ, mặc áo choàng trắng...?”

    Họ nhìn nhau một lúc, nhún vai rồi lắc đầu. Howl nhăn mày. Vẻ mặt họ giống như đây là lần đầu nghe về Angeline.

    “Tôi chỉ thấy cô ta mỗi lần cô ta đến đây lấy phần ăn của mình.” Một người nói.

    Howl bật ra một tiếng cười phẫn nộ. Mắt cậu ánh lên sự tức giận, tất cả mọi người rụt vai lại, lặng thinh.

    “Không ai sao?”

    Có một người phụ nữ đang chà sàn bếp ở phía sau cùng. Bà ta cúi gằm mặt xuống, đăm đăm nhìn cái nùi giẻ và sàn nhà, chà lấy chà để.

    “Còn bà thì sao?” Cậu hỏi.

    Mọi người đứng lùi ra, quay lại nhìn người phụ nữ. Cũng ý thức được điều đó, bà ta thôi chà tấm ván gỗ trên sàn. Tóc bà ta đã có nhiều lọn ngả trắng, bà ta ngước đôi mắt nâu to, quanh mắt đầy nếp nhăn lên nhìn Howl. Trông bà ta bơ phờ và tội nghiệp.

    “Một vài lần, thưa ngài.” Bà ta nói, rồi ném mạnh nùi giẻ vào thùng nước. “Khi cô ta tới thành phố.”

    “Thành phố sao?”

    Người phụ nữ đứng dậy, gật đầu một cách do dự. Giọng bà ta hơi trầm, thứ giọng của những kẻ nhút nhát luôn chìm phía sau:

    “Cô ta vào đều đặn mỗi tháng và trở về với những xô gỗ đầy.”

    Howl bước vài bước về phía bà ta. Những người khác tự động lùi ra. Gã bếp trưởng béo đặt con dao thái thịt xuống, thận trọng lùi lại cùng mọi người.

    “Đầy những cái gì?”

    Bà ta cúi gằm mặt, tay vân vê mép áo của mình. “Tôi không rõ, thưa ngài. Tôi không hỏi cô ta.”

    “Chỉ thế thôi à?”

    Cậu nhìn chằm chằm vào bà ta. Bà ta im lặng một lúc, không dám ngẩng đầu lên vì sợ nhìn vào mắt Howl. Cậu dồn nhiều áp lực lên bà ta chỉ bằng ánh mắt đến mức bà ta phải nín thở. Rồi bà ta cũng buộc phải nói:

    “Có một lần cô ta mang những cái xô đến rửa, và tôi đã nhìn lén. Tôi... Tôi tưởng rằng đó là xô nước của tôi.”

    “Và...?”

    Bà ta ngước cặp mắt to khắc khổ lên, vén một lọn tóc lòa xòa trước mặt. “Tôi nghĩ là máu, thưa ngài... Thậm chí có cả một mẩu nội tạng.”

    Giọng bà ta nhỏ dần. Howl thấy cả năm ngón tay mình đều đang bấu chặt vào quả táo như sắp bóp nát nó. Những móng tay của cậu cắm ngập vào lớp vỏ đỏ của quả táo.

    “Bà chắc chứ?”

    “Phải.” Bà ta trả lời nặng nhọc. “Tôi đã để ý những lần sau nữa... Và... Và... Tôi khá chắc đó là máu. Nó đông lại và đóng đặc ở thành xô.”

    Cặp mắt cậu dịu đi, nhưng giọng nói lại dằn dữ và khó nghe hơn. “Được rồi. Tốt hơn đó nên là sự thật.”

    Đoạn, Howl quay người nhìn một vòng quanh căn bếp, ánh mắt dừng ở từng người một. Cậu nói to:

    “Có ai biết gì về cô ta nữa không? Bất cứ người nào ở cái lâu đài chết tiệt này?”

    Tất cả nhìn nhau hoảng hốt, câm nín như hến. Cậu càng giận dữ, họ càng im lặng. Những con quạ đứng khúm núm quanh Howl như thế một lúc. Người phụ nữ kia cũng không nói thêm lời nào.

    Đột nhiên, một cô gái lên tiếng. Cô ta chắc trạc tuổi Angeline, tóc tai xũ xượi, có nét gì đó hao hao với người phụ nữ nọ:

    “Cô ta ở đây từ rất lâu rồi.” Cô hầu gái nói, hai tay đan vào nhau, ngước đôi mắt to nhìn Howl một cách dè dặt.

    “Melanie!” Người phụ nữ kia khẽ quát. “Con làm gì thế?”

    “Không.” Howl cắt ngang. “Để cô ta nói.”

    Cô gái trẻ do dự nhìn mẹ mình một lúc, rồi đánh bạo nói tiếp:

    “Cô ấy đến vào ngày Phu nhân Myris qua đời.” Cô mím môi, giọng run rẩy, lí nhí vì sợ Howl. “Tôi nhớ vì tai nạn của Phu nhân xảy ra ngay trong đêm đó.”

    “Melanie!” Người phụ nữ thảng thốt quát lên. Xung quanh, những người hầu đưa ánh mắt kỳ thị nhìn cô gái như thể cô ta vừa nói điều gì khủng khiếp lắm. Hình như chính cô ta cũng cảm thấy thế. Cô gái rụt đầu lại, cúi gằm mặt và đỏ bừng.

    “Được rồi… Làm việc tiếp đi.”

    Howl nhìn một lượt căn bếp lần nữa rồi ra ngoài bằng cửa sau. Cái nhìn của cậu là cái nhìn của sự cảnh cáo.

    Trở lại với cánh đồng, Howl nheo mắt nhìn những dải núi ở chân trời. Các cánh rừng tối thâm lại, gió của cơn giông tạt đến và bẻ cong những cành cây cao nhất.

    Tòa tháp.

    Howl chợt nghĩ.

    Những ngọn cây bị gió bẻ oằn và ngã rạp xuống, nên cái đỉnh tháp hiện ra rõ hơn bao giờ hết. Nó nhọn hoắt, cao, chĩa lên bầu trời đang tối sầm lại. Lá rụng. Cỏ bị thổi tung lên. Mùi mưa ẩm ướt trong không gian.

    Howl tới chân ngọn tháp chỉ trong nháy mắt. Khi đi săn, cưỡi ngựa là một chuyện. Nhưng bây giờ cậu không thể đợi thêm một giây nào để gặp cô ta, mặt đối mặt. Bắt cô ta phải nhìn vào mắt cậu và nói ra sự thật, bóc trần sự dối trá mê hoặc của cô ta.

    Tòa tháp đứng im lìm trong cơn cuồng phong. Vẻ đơn độc mà vững chãi của nó làm Howl rợn người. Mới đây thôi, Howl còn thấy nó yếu đuối và cũ kỹ, một trận gió bão đủ để hất tung những viên gạch lợp trên mái ra. Bây giờ, nó sừng sững đen thui, trông như một bà góa phụ, chĩa cái nón nhọn hoắt lên bầu trời giông bão.

    Gió rít qua các ô cửa kính vỡ. Nghe như tiếng thét. Rùng rợn.

    “Angeline?”

    Cậu gọi to.

    “Cô có ở đây không?”

    Không có tiếng trả lời, ngoại trừ tiếng gió và lá cây. Khu rừng như đang nổi giận. Những tán lá đen thẫm khua vào nhau như giọng nói của rừng già, của một vị thần bí ẩn. Gió lạnh làm da Howl nổi gai ốc lên.

    “Angeline!” Cậu thét gọi, rồi nhảy lên những bậc tam cấp vào cửa tòa tháp.

    Cánh cửa khóa chặt. Những mảng màu xung quanh vỡ toác khi Howl di chuyển vào trong ngọn tháp. Phòng tối. Ấm và dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng trống không.

    “Angeline?”

    Howl xoay người nhìn quanh, dường như cô ta không có ở đây. Cô ta có thể đi đâu được? Trong thời tiết này? Cô ta là người chăn ngựa, cô ta chỉ cần quanh cánh đồng và nhà mình là đủ.

    Nhưng một lần nữa, Howl quên mất rằng mình chẳng hề biết cô ta nhiều như cậu nghĩ.

    Lần này, cậu đã nhớ ra điều đó. Cậu ném quả táo một cách giận giữ qua bàn. Nó va vào một cái bình hoa sứ, cái lọ xoay xoay mất thăng bằng rồi rơi xuống vỡ toang.

    Những bông hoa héo rơi ra. Nước bắn đầy sàn lạnh, tung tóe.

    Howl trở ra ngoài. Khoảng trời trên đầu cậu đã chuyển màu tối thui. Cậu bực bội nhìn xung quanh. Khu rừng đang tối đi, hơi nước ẩm ướt phủ khắp không trung. Những chiếc lá khua mạnh theo gió. Giữa các thân cây, sương lan đến làm không gian nhòe đi. Trong đám sương, có những vật đen đúa cựa quậy. Có thể là một cành cây, một con vật, một đám lá. Chúng đảo điên trong cơn gió và sương.

    Ở dưới chân Howl, có những vệt màu đỏ kéo dài. Cậu thoáng bắt gặp chúng trên lối đường mòn. Những vệt đỏ thẫm và tròn, tựa một giọt nước rớt, rơi xuống và vỡ. Chúng để lại dấu trên đá, và Howl lần theo. Ánh sáng bây giờ chẳng giúp được gì nhiều cho cậu. Howl bước theo những vết máu trên đá, vòng ra phía sau ngọn tháp.

    Trước mặt cậu là hàng rào một khu vườn nhỏ. Chiếc cổng sắt cũ mòn vẹt chẳng giúp được gì nhiều ngoài va đập vào các thanh sắt một cách dữ dội. Những tiếng lanh canh chói tai vang lên ồn ã.

    Howl đẩy cánh cửa sắt. Cậu bước vào trong khu vườn. Cỏ dại ngập lối. Những bụi hoa hồng trồng quanh lối đi. Ở trên đầu, một giàn hoa đang hé những cái nụ tím. Nhưng dù có là một vườn hoa rực rỡ đi nữa, chúng cũng thâm tối lại, màu đỏ như chảy máu và màu tím tái mét như xác chết. Howl bước trên các viên đá lát trên đất thành đường. Khi các bụi hoa và cỏ dại chấm dứt, những cái cây lớn xuất hiện. Tán lá chúng bị bẻ cong trong gió. Những chiếc lá đan vào nhau rậm rạp. Những cái cây được trồng so le. Dưới đất, cỏ mọc cao tận đầu gối. Ở quanh các gốc cây, đất được đắp cao hơn trông như ngọn đồi tí hon. Howl đứng ngẩn người một lúc.

    Cậu tưởng tượng, dưới mỗi gốc cây là một nấm mồ.

    Khi đến gần, Howl trông thấy mặt đất quanh cây ướt đẫm. Cỏ nhuộm màu đỏ đồng, một ít vệt đỏ còn bám lên thân cây.

    Một đàn quạ đang kêu ầm lên trong hoảng loạn trên đầu cậu. Chúng mổ dưới những gốc cây, đào bới các mảnh nội tạng và những cục máu đông còn thừa trên đất.

    Khi Howl đến, chúng bay vụt lên, thét vào mặt cậu thứ âm thanh chói tai.

    Và khi cậu quẹt ngón tay lên những vệt đỏ đó, chúng còn mềm. Chúng đã đông lại nhưng vẫn còn mềm.

    Máu.

    Cô ta chỉ mới tưới chúng lên không lâu.

    Hai cái xô nằm trơ trọi ở góc vườn, quai kim loại va vào thành gỗ kêu leng keng. Lũ quạ nháo nhác bay giữa các tán cây.

    Cây táo ở ngọn đồi không phải là cây táo duy nhất.

    Lộp độp.

    Lộp độp.

    Mưa rơi những giọt đầu tiên.

    Gió thét dội, các tán cây xồ lên như một con mãnh thú. Tóc Howl bị bới rối tung, những hạt mưa to đập vào tóc và da cậu. Những cái cây đột ngột như to ra, trùm một thứ bóng đen rùng rợn, gào thét bằng giọng nói của cơn gió, mấy cành cây lớn vươn ra như đe dọa cậu.

    Howl đang đứng trên những nấm mồ. Nấm mồ cây của những cô gái trinh nữ.

    Một ít máu khô bám vào đế giày cậu.

    Đỏ.

    Và đen.

    Nếu đây là vườn Địa Đàng của Chúa,

    Thì là Địa ngục đối với Cambion.
     
  2. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 20
    XIN CHÚA, HÃY CỨU CON.

    Dẫu Ngài không có ở đây, dẫu Ngài đang ở đâu đi nữa.

    Con bé đã biết.

    Chúa ơi, con bé đã biết. Nó đã biết từ khi nào? Nó đang làm gì? Vạch trần tôi? Tôi run rẩy trong sợ hãi, như một ngọn nến sắp tàn trước cơn cuồng phong.

    Nó ép tôi phải đi.

    Tôi không hiểu nó đang làm gì cả.

    Liệu nó đã nói với anh ta? Không, không, anh ta chưa biết. Tôi đã không gặp anh ta trong nhiều ngày, anh ta cũng không lảng vảng trong rừng. Anh ta chưa biết.

    Nhưng anh ta có thể sẽ biết.

    Tôi đã rửa mãi, rửa mãi hai bàn tay mình dưới dòng suối đó. Có lẽ con bé đã nhìn thấy chăng? Bàn tay đầy máu của tôi.

    Tôi cảm thấy trái tim mình vỡ vụn. Rồi tôi lại gom những mảnh vỡ ấy lại. Có sao đâu? Thì sao nào? Ông ta đã chết và thế là hết. Tôi sống thêm cũng chỉ thừa thãi. Tôi sống chỉ với một mục đích là chứng kiến ông ta bị chôn vùi dưới đất. Con bé đã biết. Thế thì sao?

    Tôi giương đôi mắt ương ngạnh lên.

    Tôi không thể tỏ ra sợ hãi hay hoảng loạn. Giữ cao đầu. Mẹ dặn. Luôn ngẩng cao đầu dù có bị vùi dập đến đâu. Mẹ có bao giờ cúi đầu đâu?

    Có thể tôi không trụ nổi sau đêm nay.

    Có thể sau đêm nay, tôi sẽ chết. Mục rữa. Chết.

    Nhưng tôi vẫn có hi vọng, dẫu tôi không hiểu để làm gì. Đó chỉ là bản năng, người ta bấu víu vào những điều vô lý nhất khi cho rằng nó có thể giúp mình sống sót. Tôi đã sống sót. Tôi đã sống sót được rất lâu, như vậy đã có thể coi là chiến thắng rồi. Đừng khóc, tôi tự nhủ, đừng khóc. Họ sẽ gọi mày là đồ mít ướt mất.

    Chuyện gì đến cũng phải đến.

    Bỗng chốc, tôi thấy mình đang đứng trên giàn treo cổ. Cái dây thòng lọng buông xuống trước mặt.

    Bước một bước thôi.

    Bước một bước thôi.

    Rơi!
     
  3. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 21
    HOWL RƠI VÀO IM LẶNG.

    Rất im lặng.

    Cơn mưa dữ dội trút xuống, kèm theo tiếng sấm rền. Cậu ngồi yên, dõi theo cơn giông qua cánh cửa sổ phòng làm việc. Howl hiếm khi bắt mình im lặng được. Nhưng mỗi khi như thế, nghĩa là có chuyện chẳng mấy tốt đẹp sắp xảy ra.

    James bước vào phòng. Howl biết điều đó, nhưng cậu không quay lại. Cậu vẫn nhìn chằm chằm vào cơn giông như đang phân tích xem nó sẽ mưa bao nhiêu lượng và gió giật to cỡ nào.

    “Tôi tưởng ngài sẽ không ăn tối ở lâu đài?”

    Howl chẳng quay đầu lại. Cậu chống cằm lên nắm tay trái.

    “Tưởng. Bây giờ cái gì người ta cũng tưởng.”

    James nhăn trán. “Có vấn đề gì sao, thưa ngài?”

    “Không.”

    James có thể cảm nhận rõ sự giận dữ của Mẹ thiên nhiên lẫn của Howl. Cậu cứ ngồi yên như thế, chẳng nói gì cả. Y đâm ra bối rối.

    “Vậy là ngài sẽ không đến bữa tiệc ở lâu đài Xương?”

    Howl buông tay xuống. “Bữa tiệc nào?”

    James thở dài một tiếng. Ông ta bước đến gần bàn làm việc, lục tìm trong đống thư từ chưa được mở ra của Howl.

    “Của ngài Erik. Có thư mời ở ngay đây, ngài chưa đọc sao?”

    Howl ngả đầu xuống ghế. Cậu lấy tay phải xoa trán, rồi gãi đầu. Trong vòng mấy tiếng vừa rồi, chẳng có cái gì khác trong đầu cậu ngoài vườn táo. Vườn táo và những nấm mồ. Vườn táo và con rắn độc. Vườn táo và tội lỗi. Vấn đề là ai trong vai con rắn độc, và ai trong vai người sa ngã.

    Nếu như con rắn độc là Angeline thì mọi chuyện đã quá rõ ràng.

    “Tôi sẽ đi.” Howl nói trong khi đầu óc vẫn đang để đi nơi khác. “Tôi phải ra khỏi cái lâu đài này hoặc tôi sẽ phát bệnh. Tôi muốn gặp Iolite nữa. Chuẩn bị mọi thứ đi.”

    James gật đầu nghiêm nghị rồi ra khỏi phòng.

    Howl ghé mắt sát ô cửa sổ. Những cơn gió và mưa đang hoành hành ở miền đất này sẽ sớm rời đi. Chúng sẽ rời đi và rồi sẽ chẳng còn gì che giấu những nấm mồ. Bảy cây táo. Bảy nấm mồ. Bảy cô gái vô tội.

    Và vô số người đã đổ máu để nuôi sống những cái cây.

    Tại sao một thứ xinh đẹp lại có thể chết chóc đến thế?

    Howl biết với vùng Bóng tối, chẳng gì là không thể. Nhưng dạ dày cậu quặn lại, cậu nuốt khan vì chưa thể tiêu hóa được thông tin ấy. Cậu không nhất thiết phải đưa cô ta ra Hội Đồng. Nhưng cậu cần có lý do để làm thế.

    Cô ta sẽ phải tỏ ra hữu dụng nếu muốn sống sót.

    Cô ta sẽ phải vâng lời cậu nếu không muốn mọi chuyện bị phanh phui.

    Bóng tối đang trùm lên đôi mắt Howl. Cậu chợt nhận ra một điều, ngoài những ngôi mộ ở nghĩa trang, có những ngôi mộ khác rải rác ở đây. Những cái chết khác và bóng ma khác lảng vảng quanh đây. Trong đôi mắt của James, của người đàn bà lau sàn dưới nhà bếp và của những người hầu khác, là sự thừa nhận điều đấy.

    Họ biết họ đang sống giữa một khu nghĩa địa.

    Và họ chấp nhận điều đó.

    *

    CÔ TA MẶC CHIẾC VÁY MÀU ĐỎ.

    Trong ánh nến dát vàng.

    Giữa đám đông.

    Đưa mắt và mỉm cười với Howl.

    Có quá nhiều màu đỏ ở bữa tiệc. Rượu đỏ. Lớp son môi đỏ. Những tà váy đỏ. Mái tóc đỏ. Những món đồ ăn ngon lành cũng đỏ rực. Howl sẽ chẳng nhạy cảm với chúng thế nếu như chúng chẳng gợi cho cậu về những quả táo. Thứ ánh sáng ảo mờ của buổi tiệc làm người ta như say một loại thuốc vô hình, Howl thấy nhức đầu và lý trí cậu mờ dần đi.

    Erik tiến tới từ phía sau và đánh thức cậu khỏi cơn mê muội. Anh ta mặc nguyên một cây đen, làm nổi bật đôi mắt tinh ranh và ma mị. Nụ cười khoe hai hàm răng hoàn hảo.

    “Cậu ổn chứ? Đã bao giờ tham dự bữa tiệc nào như thế này chưa?”

    “Tôi ổn, hoàn toàn, thật đấy. Tôi còn thấy phấn khích nữa. Nhân dịp gì đây, Erik?”

    “Sinh nhật Alicia.”

    Erik nói và chỉ về phía cô ta trong đám đông. Cô ta thật đẹp, thành thật là thế. Cô ta sở hữu nước da trắng, có lẽ là hơi nhợt nhạt, đôi mắt đen sâu thẳm, cái cằm hơi nhọn nhưng cân đối với khuôn mặt. Cô ta trang điểm hơi đậm, hai quầng mắt quét lớp phấn màu đỏ đồng và đôi môi màu tím than. Thêm chiếc váy đen tuyền đính lông vũ, trông cô ta già hẳn đi.

    “Anh không phiền nếu tôi trở thành em rể anh chứ?” Cậu hỏi nửa đùa nửa thật.

    Erik nhướn mày nghi ngờ rồi bật cười:

    “Tôi thì không. Nhưng cậu muốn có được con bé không phải chuyện dễ đâu. Chẳng ai vừa mắt nó cả, tôi đã cố rồi, tin tôi đi.”

    “À nhưng, anh cũng chưa gặp ai như tôi cả phải không?” Cậu huýt sáo.

    “Hầu hết những gã thất bại đều mói thế.”

    Howl cười cáu kỉnh. “Được rồi, cứ cho là thế đi.” Cậu nhìn quanh đám đông một vòng, hoa mắt vì những bộ trang phục rườm rà lấp lánh xoay quanh mình. “Gần đây anh có thấy Iolite không?”

    Erik đặt cốc rượu xuống bàn. “Ả ta sao? Không, khi ả ta muốn thì chẳng ai kiểm soát hay lần theo ả được.” Anh xắn tay áo. “Nhưng những dịp hội hè thì ả sẽ tự tìm đến thôi. Rượu của tôi ngon bậc nhất đấy.”

    Howl buông một tiếng thở dài mỉa mai. “Tôi sẽ đi loanh quanh xem ả có tới không vậy.”

    Erik nhìn cậu một hồi lâu. Howl nhún vai.

    “Có chuyện gì à? Cậu cần ả làm gì thế?”

    Howl nhếch mép cười. “Chuyện riêng tư thôi. Anh nên đứng ngoài.”

    “Tôi không biết nữa. Trông cậu căng thẳm lắm…”

    Câu cuối của Erik kết thúc bằng một tiếng huýt. Mắt anh ta dán vào một cô gái đang đứng tần ngần trên các bậc thang dẫn xuống phòng tiệc. Một vài cặp mắt cũng nhìn lên giống anh ta. Cô ta mặc bộ đồ trắng muốt từ đầu tới chân, đeo mặt nạ, vẻ bối rối.

    “Tôi biết buổi tối hôm nay sẽ kết thúc như nào rồi.” Erik nói. “Nhìn và học hỏi nhé.”

    Đoạn, anh ta rẽ đám đông tiến đến chỗ cô gái kia.

    Howl kêu một tiếng ngán ngẩm. Cậu chẳng có tâm trạng cho những thứ đó vào lúc này. Cậu quay người đi tìm Iolite, với hi vọng mỏng manh là cô ta xuất hiện ở buổi tiệc.

    Người đông. Ồn ào. Hầu hết các cô gái đều đeo mặt nạ, điều mà Howl chẳng biết tại sao. Mùi nước hoa nồng nặc, khi giống hoa hồng, khi lại giống mùi diên vĩ và gỗ. Quyện vào mùi sáp thơm của nến và mùi thức ăn bốc lên làm Howl chóng mặt. Cậu chưa uống hết một ly rượu nhưng đã thấy choáng váng, thoạt nghĩ đến đây thật sai lầm.

    Lẽ ra cậu nên ở nhà.

    Và chờ cô ta về.

    Dù cô ta đang ở đâu đi nữa.

    Iolite xuất hiện thật. Lần này, cô ta đang hút thuốc. Cô ta đứng tựa vào một cây cột và châm lửa điếu thuốc bằng một ngọn nến.

    Howl lại gần Iolite, nụ cười có vẻ căng thẳng:

    “Cô đang đợi ai à?”

    “Có thể là cậu lắm.” Cô ta nhả một luồng khói xám nhạt và không trung. Howl đưa tay quạt quạt rồi ho vài tiếng.

    “Tôi tưởng cô không đến.”

    “Tôi đổi ý.” Iolite nói sau một hồi im lặng. “Tôi nghĩ cậu muốn nói chuyện.”

    “Tại sao cô nghĩ thế?”

    Iolite cười, dựa đầu vào cây cột rồi rít một hơi thuốc. “Vậy cậu không muốn nói chuyện sao?”

    Howl nhoẻn cười. Cậu vẫn không rõ khả năng của Iolite là gì nhưng rất có thể là khả năng về ngoại cảm. Cô ả thong thả đưa mắt về phía đám đông, rồi nhả một luồng khói. Cô ta đã muốn nói gì đó, nhưng sau đấy lại thôi.

    “Được rồi.” Howl nói. “Chúng ta nên tới chỗ nào đó kín người hơn.”

    Iolite đứng thẳng người dậy, ghé sát Howl và thổi một luồng khói vào mặt cậu. “Những chỗ kín đáo không chỉ dành cho công chuyện đâu. Chúng ta có thể làm nhiều thứ hơn thế kia.”

    “Nếu đó là cách mọi chuyện phải diễn ra.” Howl đấm nhẹ vào cằm cô ta.

    Iolite ngửa đầu lên cười. Cô ả quay lưng và bỏ đi.
     
  4. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 22
    ĐÂY LÀ ĐIẾU THUỐC THỨ HAI của Iolite.

    Howl ngồi nhìn cô ta rít hết hơi này đến hơi khác, nhả những luồng khói vào không trung rồi rót rượu. Cậu lắc đầu, đẩy ly rượu đi. Rồi băn khoăn đó có phải là điếu thuốc thông thường hay là một loại ma phiện nào đấy. Ở vùng Bóng tối đầy rẫy những thứ cây cỏ như thế. Và cậu không muốn tiếp chuyện với một kẻ đang say ngấc vì thuốc.

    Nhưng, ngược lại, cô ta có vẻ tỉnh táo.

    “Có vấn đề gì với cô và những cuộc họp thế?” Howl rót cho mình một ly nước trắng. “Say quá không lê thân đến được à?”

    “Họ vẫn gửi giấy tờ và mọi thứ linh tinh đến cho tôi thôi. Chẳng ai có thể khiến tôi đến đâu.” Iolite nhoẻn cười, nghe như thể từ trước đến giờ cô ta vẫn như thế.

    “Không ai cảnh cáo hay,” Cậu nhún vai. “Rao giảng luật lệ với cô à? Họ cứ thể để yên sao?”

    Iolite ngửa cổ lên, thổi một hơi khói xám. “Lúc nào chẳng thế. Tôi vẫn làm mọi chuyện ngon lành thôi, lũ ngốc ấy không dám đặt một tay lên tôi đâu.”

    Howl bật cười. Cậu biết Iolite là loại phụ nữ tự lập và tự tin nữa, cô ta không kiêu ngạo nhưng lại kiêu hãnh. Nhưng đến mức bỏ hầu hết các buổi họp hội đồng mà vẫn bình an vô sự thì chẳng phải chuyện bình thường.

    “Cô đã làm gì để họ để cô yên thế?”

    “Tôi ngủ với họ đấy.” Ả trả lời, thở dài sườn sượt. “Chúng ta thôi nói về chuyện này được không?”

    Howl đặt cốc nước xuống, nhưng cậu vẫn khát. Cậu cần một thứ gì đó mạnh hơn như cà phê mới có thể giữ mình tỉnh táo nổi. Trong Howl nhen lên chút nghi ngờ, nhưng Iolite có vẻ không phải là loại nhiều chuyện. Cô ta có thể giữ bí mật này, có thể không. Và cậu cần cô ta giúp đỡ nữa.

    Howl cân đo đong đếm khả năng cô ta sẽ làm lộ chuyện. Năm mươi năm mươi. Ở vùng Bóng tối, chừng ấy là quá đủ để tin tưởng người khác.

    “Tôi đã nói chuyện với Dommik Barbatos về cha tôi. Và ông ta đã tìm ra được vài thứ khá thú vị.”

    Iolite gạt đầu thuốc cháy vào gạt tàn. “Nói đi.”

    “Moldark là một Cambion bất tử, cô biết điều đó chứ? Tôi thì không.”

    “Có gì lạ đâu? Ông ta ba hoa về điều đó suốt.” Iolite nói. “Chẳng ai không biết cả. Nhưng điều đó chỉ làm cái chết của ông ta tệ hơn thôi.”

    “Lạ nhỉ.” Cậu nói. “Không ai đề cập với tôi điều đó cả.”

    “Họ có nhiều lý do. Ngay từ đầu họ đã nghĩ cậu không thể làm việc này một mình, đó cũng là một thách thức. Một cách kiểm tra.”

    “Vậy thì tôi đã vượt qua bài kiểm tra rồi.” Howl ngả người ra ghế, nhoẻn cười nhưng có đôi chút cáu kỉnh phảng phất trên nét mặt cậu.

    Iolite nhướn mày, cô ta bật ra một điệu cười ngạc nhiên:

    “Cậu đã tìm ra?”

    “Phải.” Howl khẳng định.

    “Cậu có muốn nói là ai không? Tại sao không báo cáo cho hội đồng mà nói với tôi?” Cô ta ngừng một lát. “Cậu không có bằng chứng à?”

    “Tôi có. Nhưng tôi sẽ giữ danh tính cô ta cho riêng mình.”

    Trông Iolite có vẻ hào hứng hẳn. Thật ra, cô ta trông đắc ý. Đôi khi Howl tự hỏi một ngày của cô ta như thế nào, cô ta ở đâu những lúc không đến hội đồng, hay bất cứ nơi nào cô ta cần có mặt. Nhưng cậu tự nhủ với mình sẽ hỏi điều đó sau.

    “Được thôi. Vấn đề là gì nào?”

    Howl chống cằm, vẻ mặt chìm trong suy tư. “Tôi đã tìm hiểu.” Howl nói tỏ vẻ bí hiểm. “Và có vẻ như cô ta có chút gì đó liên quan tới mẹ tôi. Tôi không có bằng chứng cụ thể, nhưng tôi không tin vào trùng hợp. Cô ta được đưa đến lâu đài Quỷ cùng ngày mẹ tôi chết.”

    “Cô ta sống ở đó sau?”

    Howl mỉm cười. “Gần đó.”

    “Mẹ cậu chết vì hỏa hoạn phải không?” Iolite đập đập điếu thuốc. “Người ta nói bà ấy tự sát. Tôi không biết nữa Howl, cần nhiều hơn thế để thuyết phục cô ta có liên quan gì đó. Chuyện đó xảy ra lâu rồi, cô ta chỉ là đứa trẻ con lúc ấy.” Iolite nhún vai. “Một đứa con nít thì làm được gì?”

    “Tôi không nghĩ bà ấy tự sát.” Howl nói, cậu cảm thấy da mặt mình nóng lên, và dạ dày cậu bị sự cáu kỉnh thiêu đốt. “Nếu không phải thế thì sao? Tôi đã nói chuyện với người giữ di chúc qua đời của bà ấy, bà ấy chẳng để lại cái di chúc nào cả. Đó là Moldark tự sắp xếp. Nếu bà ấy định tự sát, ít nhất bà ấy phải để lại gì đó chứ? Cho tôi, cho Abigail?’

    Iolite buộc phải cắt ngang để kìm bớt sự cáu giận của Howl:

    “Được rồi, nghe này, tôi tin cậu. Nhưng chẳng có gì chứng minh cô ta liên quan tới mẹ cậu.”

    Đây là điều Howl đang băn khoăn. Trong một thời điểm nào đấy, mọi chuyện nghe thật hợp lý và rõ ràng là liên quan. Nhưng trên những gì cậu biết thì lại thật phi lý. Cô ta chẳng liên quan gì đến mẹ cậu. Cô ta là người ngoài, một đứa con hoang của ai đấy, hẳn bị mang đến làm người hầu trên một chuyến xe buôn nô lệ hay thứ gì đó giống thế. Hoặc cô ta có bố hay mẹ làm ở lâu đài Quỷ, nhưng có vẻ bây giờ họ không còn.

    Cũng thật đúng

    mà cũng thật sai.

    Cậu đã bỏ sót điều gì chăng?

    “Tôi chỉ nói thế thôi.” Howl thở dài. “Hy vọng cô giữ miệng được về chuyện này. Chỉ trong thời gian ngắn thôi, tôi phải hỏi cô ta vài thứ rồi mới báo lên hội đồng được.”

    “Chà!” Iolite thốt lên, nhấc cốc rượu khỏi mặt bàn. “Ghi điểm cao đấy, Lucifer. Họ sẽ phải ấn tượng đấy.”

    Howl biết, nhưng khi Iolite nói ra điều đó cậu mới cảm thấy thoải mái hẳn. Cậu sẽ được coi trọng hơn. Chỉ trong vài năm nữa thôi, sẽ chẳng còn ai dám suy nghĩ về cậu như một kẻ trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm nữa cả.

    Cậu có trẻ thật, cậu chưa có nhiều kinh nghiệm.

    Nhưng,

    cậu tài giỏi, và đấy sẽ là điều làm họ không dám khinh thường Howl nữa.

    *

    Iolite và Howl rời khỏi căn phòng và trở lại bữa tiệc. Bằng một cách kỳ diệu nào đấy, cậu đã cảm thấy tỉnh táo hơn hẳn. Iolite đi bên cạnh cậu, cô ta khoanh tay và đã đeo vào cái mặt nạ từ khi nào. Chiếc mặt nạ che nửa trên của khuôn mặt, ánh mắt cô ta trở nên vô cảm và trống rỗng.

    “Sợ người ta bắt gặp cô ở đây à?” Howl hỏi mỉa mai.

    “Một phần.” Cô ta liếc nhìn lên cậu, giọng hờ hững. “Tôi ghét bọn nịnh bợ nữa, Howl. Chúng sẽ bu vào như kiến nếu nhận ra tôi.”

    Howl vờ ngoái đầu nhìn xung quanh:

    “Tôi có thấy ai đâu?”

    “Họ sẽ nhận ra cậu. Đánh hơi như loài kền kền đánh hơi xác chết vậy. Nhưng tôi đoán cậu thích điều đấy.”

    “Không phải rõ ràng quá rồi sao?”

    Hai người đứng ở cuối phòng, khi mà Erik, đang đứng trên phần bục cao dành cho những người chơi nhạc, gõ vang ly rượu của mình. Những tiếng nói chuyện lắng dần đi, mọi người dành hết sự chú ý vào anh ta:

    “Chào buổi tối, thưa các quý ông, quý bà.” Anh ta nháy mắt một cách đầy quyến rũ. “Và những quý cô trẻ tuổi. Hy vọng mọi người đang có thời gian vui vẻ.”

    Đám đông gật đầu, tươi cười đồng tình.

    “Bữa tiệc trang trọng ngày hôm nay là dành cho em gái tôi, Alicia, người vừa bước qua tuổi hai sáu.”

    Cô ta đứng gần Erik, đưa mắt nhìn đám đông rồi gật đầu. Không một nụ cười. Không chút cảm xúc.

    “Hai sáu ư?” Howl hỏi. “Cô ta trông như mười tám.”

    Iolite cười khúc khích, nhấp chút rượu. “Cậu sẽ không bao giờ đoán được tuổi thật của Cambion cả, đặc biệt là nhà Amodeus. Họ trẻ lâu lắm.”

    Những tiếng vỗ tay vang rộ lên, đan xen tiếng nói cười xôn xao. Những chùm nến đung đưa trên đầu, rọi sáng căn phòng. Người nhạc công ngồi cạnh chiếc đàn piano đắt tiền lướt tay lên phím đàn. Các nốt nhạc vang lên như một dải lụa mềm mại vào không trung, một thứ mật ngọt. Đám đông giãn ra, thành hình tròn. Ở giữa căn phòng, những đôi nam nữ lại tiếp tục điệu nhảy.

    “Cậu không chọn được ai sao?” Iolite hỏi. Howl và cô ta cùng quét một lượt nhìn quanh bữa tiệc.

    “Tôi chờ họ tự tìm đến tôi.” Cậu nói.

    Ở bên góc kia của căn phòng, đứng giữa đám đông là cô gái lúc nãy. Cô gái mà Erik đang nhắm đến. Nhưng cô ta đứng một mình, Erik và Alicia đang chào hỏi khách của mình ở bên này. Cô ta không bắt chuyện với ai cả.

    Howl quan sát cô ta một lúc. Rồi không hiểu vì nguyên cớ gì, cô ta dừng ánh mắt ở chỗ cậu. Nói cách khác, cô ta đã trông thấy cậu.

    Ngay lập tức, cô ta quay người và bỏ đi. Cô ta chạy vội lên những bậc cầu thang rồi biến mất khỏi bữa tiệc.

    Howl có linh cảm. Cậu vội vàng len người qua đám đông đuổi theo.

    “Howl?” Iolite gọi.

    “Tận hưởng bữa tiệc đi!” Cậu nó cụt lủn và biến mất giữa đám đông.

    Dãy cầu thang bằng đá uốn mình chạy ngược lên trên, khi Howl lên tới nơi thì thấy một hành lang dài hun hút. Một vài người hầu đi lại quanh chỗ này, họ bưng bê đồ cho bữa tiệc: nước, rượu, thức ăn, trái cây, vân vân. Nhưng không thấy cô gái váy trắng đâu cả.

    Cậu chạy tìm cô ta.

    Cô ta có đôi mắt màu xanh.

    Cô ta có nước da trắng và mái tóc bạch kim.

    Xác xuất gặp hai người giống nhau đến thế là bao nhiêu? Cậu nghi ngờ vì không hiểu sao cô ta xuất hiện ở đây được. Howl hy vọng mình nhầm.

    Cậu túm một người hầu lại và hỏi. Anh ta bối rối chỉ về lối rẽ bên trái của hành lang. Cậu nhanh chóng chạy theo. Trong không trung nồng nặc mùi rượu và sáp nến. Hành lang rất rộng, được lát đá láng bóng. Hai bên là những bức tường, các cây cột đúc hình vòm một cách cầu kỳ và những trụ nến sáng rực. Những cánh cửa phòng thưa thớt đặt đối diện nhau. Đó là những căn phòng chờ, giống căn phòng mà khi nãy Howl và Iolite vào. Tiếng người nói chuyện, cười đùa vang lên sau vài cánh cửa.

    Howl nhìn trước nhìn sau, nhưng chẳng thấy cô ta đâu nữa cả.

    Cậu đứng tần ngần giữa đoạn hành lang. Cậu cảm thấy chóng mặt kinh khủng, như thể có ai vừa chuốc thuốc cho cậu và chút nữa thôi cậu sẽ bất tỉnh trên sàn nhà.

    Cậu đi tới lui đoạn hành lang. Cô ta đã biến mất như một bóng ma vậy.

    Howl nhắm mặt lại, mồ hôi túa ra trên trán cậu. Những thớ cơ trên người cậu giãn căng ra, một cơn đau đầu ập đến từ trán sau đổ bổ sang sau gáy. Giống như có một tên sát nhân đang chặt đầu cậu bằng một lưỡi rìu vậy.

    Cánh cửa thứ nhất.

    Cánh cửa thứ hai.

    Cánh cửa thứ ba.

    Cánh cửa thứ tư…

    Howl mở mắt. Những giọt mồ hôi lăn dọc xuống sống mũi, trán và trên môi cậu mằn mặn. Cậu bước lùi, rồi đứng trước cánh cửa thứ tư.

    Nó không khóa.

    Howl cứ thế mở cửa,

    và bước vào.
     
  5. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 23
    ĐỎ.

    Đỏ như máu.

    Đỏ như hoa hồng.

    Đỏ như những trái táo.

    Rèm cửa. Ghế. Khăn trải bàn. Những bình sứ và hoa, tất cả đều đỏ rực. Dường như đỏ là tông màu chính của căn phòng này. Howl cảm giác như mình vừa bước vào một bữa tiệc ăn thịt đẫm máu.

    Bởi thế nên cô ta trở nên nổi bật hẳn trong bộ đầm trắng. Chiếc đầm mang những họa tiết cổ điển màu đen và đính lông vũ ở hai bên vai. Cô ta đeo mặt nạ nhưng chẳng thể che giấu được mình bởi mái tóc bạch kim mềm vắt qua vai, buông xuống dưới.

    Trông Howl kiệt quệ nhưng vẫn tỉnh táo, cậu nhẹ nhàng đóng cửa lại và khóa trái.

    Cô ta lùi lại như một nạn nhân yếu ớt cố lê xa khỏi tên giết người đang cầm rìu trước mặt. Và cái rìu đó trong trường hợp này là ánh mắt của Howl. Đôi mắt hổ phách đẹp đẽ ấy. Cậu cười một tiếng qua cổ họng đầy vẻ khinh bỉ.

    Chẳng hiểu sao Howl không buồn ngạc nhiên nữa.

    “Đẹp lắm.” Cậu nói. “Bộ váy mà cô mặc ấy, có vẻ như được may tay. Chắc giá tiền cũng không rẻ.”

    Cô ta giương đôi mắt ương ngạnh lên, rồi lại cụp xuống lảng tránh. Biết không thể che giấu được gì, cô ta cởi mặt nạ ra, mặt đối mặt với cậu.

    Lần đầu tiên Howl trông thấy cô ta dưới trang phục không phải chiếc áo choàng lúc nào cũng trùm kín đầu hàng ngày. Tách cô ta ra khỏi tấm nền u ám của lâu đài, của cánh rừng và bầu trời, cô ta trông có sức ống hơn. Cô ta không trang điểm gì, chỉ có một vài viền kẻ quanh đôi mắt xanh. Thoáng bối rối ẩn hiện trong nét mặt cô ta khi tấm mặt nạ được gỡ xuống. Nhan sắc của cô ta cũng chẳng kém cạnh gì ai, nếu chưa nói là rất đáng ngắm nhìn.

    Nhưng Howl đã học được một bài học. Quả táo ngon không có nghĩa là nên cắn nó. Một thứ đẹp đẽ không có nghĩa bên trong cũng thế.

    Cô ta có gương mặt của cừu,

    Howl có đôi mắt của loài sư tử.

    Nhưng dường như trong đêm nay điều đó đã bị đảo lộn.

    “Angeline.” Cậu gọi tên cô ta chậm rãi.

    Cô ta lùi lại, cho đến khi chân vấp vào chiếc ghế đỏ nhung và ngã xuống ghế. Cô ta ngồi im như tượng, không nhúc nhích nữa.

    Howl chẳng nói chẳng rằng, chỉ mỉm cười. Cậu đi đến chiếc bàn trải thảm nhung rồi từ tốn rót ra một cốc rượu đầy.

    “Cô tiếp tục, và tiếp tục gây bất ngờ cho tôi đấy.” Cậu đẩy cho Angeline một ly.

    “Tôi không uống.” Cô ta nói.

    Howl vẫn để nguyên nó ở đấy rồi nhấc ly rượu của mình lên. Thật ra nó là một loại rượu nhẹ, khó mà say được nếu chỉ uống vài ly.

    “Tôi có nhiều câu hỏi cho cô lắm, đến mức mà…” Howl bật lên một tiếng cười bất lực. “Đến mức mà tôi không biết bắt đầu từ đâu nữa.”

    Cô ta nhìn chằm chằm vào cậu, mím môi, rồi cất tiếng sau một hồi:

    “Anh muốn biết gì?”

    Howl ngồi xuống, mồ hôi vẫn chưa khô. “Đơn giản thôi. Cô là ai?”

    Cô ta nhìn cậu một hồi lâu rồi cau mày.

    “Đừng nói dối nữa vì chẳng lời nói dối nào có thể giúp cô bây giờ đâu, cừu non.”

    “Chẳng việc gì tôi phải làm thế cả. Tôi là Angeline, tôi đã nói với anh rồi.”

    “Angeline, người chăn ngựa cho lâu đài Quỷ.”

    “Phải.”

    “Vậy tại sao cô lại ở đây?”

    Cô ta nhìn xuống tấm mặt nạ, mân mê những chiếc lông vũ đính trên nó. “Abigail đưa tôi đến. Nhưng giờ tôi chẳng tìm thấy nó ở đâu cả.” Cô ta im lặng một lúc, sau đó nói tiếp. “Tôi đoán nó cũng biết hết mọi thứ.”

    “Nó ư?” Giọng Howl đầy vẻ nghi hoặc. Không đời nào con bé có thể tự tìm ra được. Cậu đã mất một khoảng kha khá thời gian mới có thể tìm ra sự thật.

    Và dù gì đi nữa, tại sao nó không nói với cậu?

    Howl nhăn trán, ly rượu vơi dần. Sự im lặng treo lơ lửng giữa cả hai một lúc. Con bé có thể biết tối nay có tiệc, phải, và cậu sẽ đi. Howl chẳng bao giờ bỏ lỡ bữa tiệc nào. Có thể là vì nó muốn đưa Angeline đến trước mặt cậu, dắt tận tay đến cho cậu.

    Con bé đau khổ. Vậy nên nó sẽ căm ghét Angeline.

    Nhưng tại sao phải làm thế? Howl nghĩ, chẳng việc gì phải phức tạp thế, con bé có thể đến và nói với cậu bất cứ khi nào. Nó chỉ cần ra khỏi phòng, đi gặp Howl.

    Trừ khi,

    Trừ khi,

    Nó muốn để lại một lời nhắn.

    Một thông điệp.

    Gương mặt Howl giãn ra. Mỗi khi tìm được thứ gì đó mới, khám phá được thứ gì đó lạ, cậu sẽ có nụ cười ranh mãnh như thế. Kiêu ngạo, nửa vời, và đầy tự đắc. Một cái cười mỉa mai đầy sắc sảo.

    “Anh muốn nói gì sao?”

    Howl nhìn cô ta, lắc đầu. “Không, mọi chuyện vẫn ổn thôi. Tôi chỉ mới nghĩ ra vài điều.”

    “Anh sẽ làm gì?”

    Angeline hỏi với sự điềm tĩnh. Cậu nghĩ cô ta sẽ bỏ chạy hoặc van xin cậu, hay ít nhất là khóc lóc trong sợ hãi. Nhưng không, cô ta bình tĩnh và không lảng tránh. Dù thế, cậu vẫn cảm nhận được sự hoang mang và lồng ngực bị thắt lại của cô ta. Cậu không hiểu sao mình có thể cảm nhận được nỗi sợ đó rõ ràng như thế.

    “Tôi sẽ làm rõ vài điều trước.” Howl lắc nhẹ ly rượu. “Cả hai chúng ta đều biết cô giết Moldark. Và Abigail cũng biết.”

    Cô ta không trả lời, chỉ nuốt khan.

    “Cô giết ông ta bằng những trái táo?”

    Howl nhìn cô ta đủ lâu để buộc cô ta phải gật đầu. Angeline cúi mặt xuống. Cậu gần như có thể đồng cảm với sự tội lỗi đang lớn dần trong cô ta. Howl không rõ có phải mình đang tưởng tượng quá mức không, nhưng những cảm giác tội lỗi, sợ hãi, hoang mang lẫn tức giận của cô ta, cậu hầu như có thể chạm vào được.

    “Cô nuôi chúng bằng máu.” Howl nhấn mạnh một cách khó khăn, uốn lưỡi mỉa mai. “Tôi không thể nào tưởng tượng được cảnh cô làm thế. Cách mà cô lấy những xô máu người từ trong thành phố. Cô đã giết bao nhiêu người cho chỗ máu đó thế?”

    Cô ta ngẩng đầu lên, ngạc nhiên:

    “Gì cơ?”

    “Cô vào thành phố mỗi tháng để lấy máu cho cái cây. Đừng hỏi tại sao tôi biết, và quỷ thần ơi, cô có cả một cái vườn như thế, trong suốt mười mấy năm!”

    Cô ta bối rối nhìn Howl. “Tôi chẳng hiểu anh nói gì cả.”

    Howl bật lên một điệu cười phẫn nộ. “Đừng giả vờ với tôi nữa, làm ơn! Cô có thể còn giết nhiều người hơn tôi nữa. Ít nhất danh sách nạn nhân của tô vẫn là số không.”

    “Đó không phải máu người!” Cô ta thở hắt ra một tiếng bất bình. “Anh nghĩ gì vậy? Tôi lấy máu trong một lò mổ gia súc trong thị trấn. Họ không cần thứ đó.”

    Nụ cười của Howl đóng băng. Cậu thấy mình là một tên ngớ ngẩn toàn tập.

    “Gì cơ?”

    “Đấy là máu gia súc.” Cô ta chậm rãi nói, rồi lảng nhìn đi. “Bởi vậy, quả của cây táo kém hiệu nghiệm hơn.”

    Howl nhìn cô ta, cậu không thể nói nửa lời.

    “Bình thường chỉ mất một năm.” Cô ta nói, giọng trầm đều. Angeline lại trở về là chính cô ta, người đã nói chuyện với cậu ở trong tòa tháp và khu lăng mộ. Lạnh lẽo như một cơn mưa, với đôi mắt chai lì. “Những cây táo vẫn ra quả, nhưng chúng không thể giết Cambion luôn… Chúng chỉ có thể đầu độc dần dần.”

    Chẳng hiểu sao, cô ta lại cúi gằm xuống như xấu hổ. Hẳn cô ta không bao giờ muốn nói to những lời như thế ra.

    “Phải. Tôi đã giết ông ta.” Cô ta nói như một tội phạm đang thú nhận tội ác của mình. “Và nếu được quay lại, tôi sẽ làm thế một lần nữa.”

    Cô ta thì nhìn chằm chằm xuống chiếc mặt nạ, còn Howl thì nhìn cô ta. Một lúc sau, Howl mới cất lời:

    “Cô biết chuyện này sẽ dẫn đến đâu mà, phải không?”

    Cô ta chậm rãi gật đầu, nuốt khan. Trong lúc này, Howl bỗng hình dung đến cái gia treo cổ, thứ sẽ kết thúc cuộc đời của cô ta. Một cái thòng lọng xám xịt, cái sợi dây mỏng manh sẽ lấy đi cuộc đời cô ta như nó đã làm với vô số người khác.

    “Nhưng sẽ thế nào nếu tôi bảo là cô có thể tránh xa cái giá treo cổ đó một thời gian?”

    Howl nhoẻn cười, đặt ly rượu đã cạn sạch lên bàn. Bây giờ, cậu thấy tỉnh táo hơn bao giờ hết. Cậu đứng dậy, chậm rãi bước vòng qua chiếc bàn. Không khó để Howl kéo lại thế chủ động cho mình. Chỉ cần một câu của cậu, cô ta có thể sẽ chết trong vòng một tuần – đó là tính cả những thủ tục rườm rà, phiên tòa và tra khảo của Hội đồng. Cậu muốn cô ta hiểu rõ hơn ai hết người quan trọng nhất là người đang nắm giữ sinh mạng cô ta.

    Và đó là cậu.

    Rồi Howl chợt thoáng nghĩ, nếu cô ta chẳng sợ chết thì sao?

    “Tôi không biết.” Cô ta nói, nhìn ngọn lửa cháy trong lò sưởi.

    Quả thật, cô ta chẳng có vẻ gì là sợ hãi cái chết.

    Nếu cô ta đã có gan để giết Moldark, tức là cô ta đã tính đến chuyện này. Howl không thể tưởng tượng được loại người nào có thể sống chung với ý nghĩ mình sắp chết cả ngày và đêm. Như thế, không biết khi nào mình chết lại có vẻ là một điều tốt.

    “Trong trường hợp này, tôi sẽ làm điều đó.” Howl dừng lại ngắm nghía những chiếc ly cốc tuyệt đẹp đặt trên thành lò sưởi và những chai rượu đắt tiền. “Tôi có thể giúp cô thoát khỏi án tử hình, nếu cô giúp tôi.”

    “Giúp anh làm gì?” Cô nói bằng giọng cảnh giác.

    “Một vài việc nhỏ.” Howl quay lại nhìn cô ta. “Chắc chắn cô làm được thôi, khá dễ dàng mà.”

    “Tôi sẽ không làm cái gì cả.”

    Howl bật ra một tràng cười rũ rượi, làm Angeline giật bắn mình. Cô ta cau mày giận giữ.

    “Cô nói giống như cô có lựa chọn vậy. Angeline, hoặc cô làm việc cho tôi, hoặc cô sẽ chết. Chỉ vậy thôi, đừng ảo tưởng rằng cô vẫn kiểm soát được mọi thứ. Trước đây thì có nhưng...” Cậu thôi cười. “Từ đêm nay thì không.”

    Angeline đứng dậy. Cô ta giương cao cái nhìn ngang ngạnh và lì lợm của mình lên:

    “Tôi thà chết còn hơn.”

    Có vẻ là thế thật. Nhưng Howl đã lường trước điều này. Cậu, cha cậu và mọi người khác trong dòng họ Lucifer đều có máu của một nhà thương thuyết giỏi. Nhà Lucifer có thể thuyết phục bất cứ cái gì: họ có thể bán một con bò với giá một ngôi nhà, một cái tủ gỗ

    Đương nhiên, gia tộc của Howl chẳng bán những thứ tầm thường như thế.

    Thay vào đó là những lời mời hấp dẫn đến mức khó tin. Đến mức không thể cưỡng lại được.

    Cũng giống như cách mà con rắn trên cây Trí Tuệ đã dụ dỗ Eva như thế nào để nàng ăn trái táo vậy.

    “Tôi còn chưa nói về công việc đó như thế nào mà.”

    “Dù nó là gì đi nữa, chắc chắn cũng chẳng tốt đẹp gì.”

    Howl gõ nhẹ mũi giày, tỏ vẻ suy tư. Trong ánh mắt cậu ánh lên vẻ ranh mãnh khó lường. Cậu chậm rãi bước về phía Angeline. Cô ta lùi sang bên trái, khỏi chiếc ghế, chậm rãi, mắt dõi theo từng cử động của cậu.

    “Việc đó rất đơn giản thôi. Nhưng trước hết tôi phải hỏi cô điều này đã.”

    “Điều gì?”

    “Cô không trồng những cây táo?”

    Angeline lắc đầu.

    “Cô bắt đầu chăm sóc và tưới cho chúng từ khi nào?”

    Cô ta chần chừ nhìn Howl trước khi trả lời: “Vài năm sau khi tôi đến lâu đài Quỷ.”

    “Và tại sao cô lại biết về câu thần chú đó được vậy? Cô là phù thủy?”

    Lưng Angeline đã chạm vào bức tường sau lưng. Với Howl đang chậm rãi bước đến ở trước mặt, cô ta như bị đẩy và buộc chặt vào đó, hoàn toàn dưới thế áp đảo. Howl bắt gặp hai bàn tay cô ta run rẩy.

    “Tôi không phải phù thủy.” Cô ta nói, nhưng nghe yếu ớt và kém thuyết phục.

    “Cô là ai?”

    “Tôi đã nói rồi.”

    “Cô là ai?” Cậu nhắc lại.

    “Tôi đã nói với anh rồi! Tôi là kẻ giết người đấy, anh sẽ làm gì nào?” Cô ta lên giọng, nhưng không thể tránh xa khỏi Howl nữa.

    “Cô là ai?”

    “Dừng lại đi!”

    Ngay khi cô ta vừa dứt lời, Howl bỗng vụt bước đến và đập mạnh vai cô ta vào tường và giữ nguyên cô ta ở đó, như thể bàn tay cậu là một cái cùm sắt. Cô ta bị ép chặt vào tường, Howl có thể cảm thấy cô ta đang run lên cạnh mình.

    “Dù cô là ai đi nữa.” Cậu thì thầm bằng thứ giọng sắc như dao. “Cô có liên quan đến mẹ tôi. Tôi không biết sự thật về bà ấy nhưng tôi biết thế nào là dối trá, và người ta cứ tiếp tục, rồi tiếp tục, dối trá về mẹ tôi. Cô có như vậy không?”

    Một tay của Howl gần như đang bóp cổ cô ta. Cô ta nhìn cậu bằng đôi mắt xanh ương bướng đó, nhưng đôi môi cô ta đang run rẩy. Cô ta biết rõ mình bất lực và nhỏ bé thế nào khi đứng với Howl, Howl biết cô ta đang sợ. Cô ta muốn vùng chạy, nhưng điều đó là bất khả thi.

    “Vậy nên.” Cậu nói chậm rãi từng từ. Những âm thanh thoát ra từ hai kẽ răng cậu làm Angeline mềm nhũn dù chỉ trong một giây. “Tôi cần cô để biết chuyện chết tiệt gì thật sự xảy ra ở cái lâu đài của tôi.”
     
  6. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 24
    CÓ LỬA CHÁY TRONG MẮT HOWL.

    Và chúng đổ những cái nhìn dữ dội vào Angeline.

    Cô ta mềm nhũn, yếu đuối và run rẩy. Dù môi của cô ta vẫn hơi cong lên và đôi mắt tỏ vẻ không thể khuất phục. Đó là tất cả những gì cô ta có thể làm để tự vệ cho mình.

    “Tôi không đòi hỏi gì cao xa cả.” Howl cười nửa vời. “Tôi sẽ đối đãi với cô thật tử tế, thật đấy. Cô sẽ được chuyển vào trong lâu đài và mọi chuyện về Moldark sẽ là chuyện riêng của chúng ta.”

    Howl nhấc tay ra khỏi vai và cổ Angeline. Cô ta thở mạnh rồi ho, vai rũ xuống. Cậu lùi lại một bước, nhưng vẫn giữ khoảng cách gần sát cô ta. Cậu muốn đảm bảo rằng cô ta nuốt trọn được từng từ mình nói, không sót một từ:

    “Tôi sẽ đảm bảo mọi chuyện ổn thỏa ở Hội đồng. Không ai sẽ tìm đến cô cả. Chỉ cần cô giúp tôi. Cô sẽ được an toàn.”

    Cô ta đẩy Howl ra một cách giận dữ:

    “An toàn? Tôi chỉ an toàn khi nào tôi đã chết. Đừng nói về việc được an toàn ở vùng Bóng tối. Kể cả anh cũng chẳng bao giờ được an toàn cả.”

    Howl cảm thấy trong giọng nói của cô ta lẫn lộn cả tức giận, phẫn nộ lẫn tuyệt vọng. Nhưng cô ta nói không sai. Không có khái niệm an toàn tuyệt đối ở vùng Bóng tối. An toàn chỉ là một cảm giác tạm thời, một cảm giác của sự ảo tưởng mơ hồ.

    Rốt cuộc, chẳng ai sinh ra và sống ở vùng Bóng tối cảm thấy an toàn cả.

    Chỉ là một cụm từ tương đối.

    Nhưng không ai nói thẳng điều đó ra thành lời, ngoại trừ Angeline. Sống mũi cô ta chuyển thành màu đỏ, cô ta cắn chặt môi.

    “Phải, cô có hai lựa chọn là giúp tôi hoặc đối mặt với Hội đồng ngày mai, và tôi không hiểu sao lựa chọn đầu có vẻ tồi tệ với cô đến thế. Nhưng cô quên mất một điều.”

    Cô ta gằn giọng. “Điều gì?”

    Howl mỉm cười.

    Sao mà nụ cười của cậu có thể tàn nhẫn đến thế.

    “Cô đâu thể lựa chọn cho mình. Tôi đã nói rồi. Người quyết định mạng sống của cô, là tôi.”


    *



    “CẬU ĐÃ Ở ĐÂU THẾ?” Iolite hỏi khi trông thấy Howl. Vậy mà cậu tưởng cô ta đã rời đi rồi.

    Angeline đi cùng Howl, vì không còn thấy Abigail ở đâu cả. Howl đoán con bé đã về nhà và tận hưởng buổi tối một mình vui vẻ với bữa ăn ngon lành, thích thú khi nghĩ về cuộc gặp của cậu và Angeline. Howl biết nó nghĩ gì. Nó sẽ cho rằng vì Howl đã biết Angeline là kẻ giết Moldark, và cả hai đang ở giữa bữa tiệc đầy những thành viên nằm trong hội đồng. Con bé muốn cậu đưa Angeline lên hội đồng ngay lập tức. Cô ta không thể chạy trốn.

    Nhưng điều con bé không thể ngờ đến, đó là Howl chẳng hé răng về việc này.

    “Tôi muốn thoải mái một chút ở bữa tiệc thôi.” Howl nói, cậu hất đầu ra sau.

    Iolite nghiêng đầu nhìn ra sau vai cậu. Cô ta thấy Angeline đang đứng phía sau Howl, nhếch một bên mày. “Lựa chọn tuyệt đấy. Cô ta là ai?”

    “Không phải người cô biết.”

    Iolite đảo mắt. “Sao cũng được.”

    Khi cô ta vừa dứt lời, một người đàn ông trẻ bỗng xuất hiện gần họ. Anh ta đi cùng với một cô gái hơn Angeline vài tuổi. Khi nhìn thấy Howl, anh ta ngạc nhiên gọi cậu:

    “Howie? Howl Lucifer?”

    Cả Iolite và Howl để quay lại. Thoạt đầu, cậu không nhận ra anh ta là ai. Anh ta sở hữu một gương mặt hơi tròn, đôi mắt nâu, mái tóc màu đỏ hung quăn quăn và chĩa đủ hướng. Những nốt tàn nhang trên mặt anh ta đã mờ đi, nhưng vẫn lấm chấm một ít trên sống mũi và trán.

    “Nhìn cậu này!” Anh ta thốt lên bằng thứ giọng miền Tây trầm ấm và vui vẻ. “Phải hơn năm năm rồi đấy!”

    Bây giờ thì Howl đã nhớ ra anh ta là ai. Đó chính là cái thằng bé mà vào mỗi cuối tuần khi cậu chỉ chừng mười hai, mười ba tuổi. Đó là cái thằng bé - đứa duy nhất nói chuyện với Howl nhiều đến thế khi cậu ở Vampiton. Ernest Beleth.

    Bên cạnh cậu, Iolite hắng giọng, còn Angeline lùi ra sau lưng cậu đứng.

    “Ồ, xin lỗi tôi, tôi là Ernest.” Anh ta nói với Iolite trước khi Howl kịp lên tiếng. “Ernest Beleth. Còn đây là hôn phu của tôi, Gracie Leraje.”

    Iolite đáp lại bằng một nụ cười tươi mà riêng Howl, cậu cảm thấy rất giả:

    “Iolite Bealzebub. Quả là một cặp đôi đáng yêu đấy.”

    Rồi cô ta quay sang Howl và thì thầm thật nhanh vào tai cậu trước khi đột ngột bỏ đi. “Tôi phắn đây.”

    Howl nghĩ lần này, cô ta phắn thật.

    Cậu quay sang nhìn Ernest và nhún vai. “Cô ta lúc nào cũng thế. Dẫu sao, anh bạn, cậu đã ở đâu suốt mấy năm qua thế?”

    “Dynasty.” Ernest nói. “Một nơi tuyệt vời. Tôi về để tiếp quản công việc của cha tôi thôi.”

    “Khá xa đấy.” Howl nói khi nghĩ đến Dynasty, một vùng đất bên kia đại dương. Thường để sang đó phải dùng thuyền, dù Cambion có thể dịch chuyển nhưng không thể trong phạm vi xa đến thế. Khi Ernest đi, cậu chỉ loáng thoáng nghe rằng cha cậu ta đưa cậu ta về để học việc tại nhà. Nếu đi bằng tàu, nhanh nhất cũng phải mất ba, bốn ngày.

    “Kiếm một chỗ nào đó yên tĩnh ngồi đi.” Ernest đề nghị. Họ đang đứng giữa đám đông ồn ào, và quả thật Howl đã thấy hơi mỏi chân. Ernest quay sang nói gì đó với cô hôn phu của mình và họ đi trước tới một dãy bàn tròn.

    “Tôi muốn về.” Angeline nói.

    “Cô đùa à?” Howl ngán ngẩm nhìn cô ta. “Tôi không thể. Tôi phải gặp Ernest. Tôi không nói chuyện với anh ta hàng năm trời rồi.”

    “Anh cũng có bạn bè cơ đấy.” Cô ta nhìn cậu bằng ánh mắt sắc lẻm.

    “Phải.” Howl kéo cô ta đi theo mình, hạ giọng xuống. “Còn cô thì chắc chắn là không. Chẳng ai làm bạn với kẻ giết người lén lút như cô cả.”

    Angeline giằng tay mình ra, nhưng vẫn đi theo cậu. “Tôi có bạn.” Rồi nghĩ sao, cô ta sửa lại. “Tôi từng có bạn.”

    “Vậy sao? Tôi nghi ngờ đấy.” Cậu tỏ ra mất kiên nhẫn. “Tôi không có thời gian để kỳ kèo với cô đâu. Cứ giả vờ rằng chúng ta đi với nhau, chẳng ai mất gì cả! Cô giỏi giả vờ mà.”

    Ernest và hôn phu của anh ta đã ngồi yên vị trên ghế, nói chuyện và cười đùa về điều gì đó. Cô ta ôm cánh tay của Ernest đầy tình cảm, nhưng trông hơi nhút nhát.

    “Cứ bắt chước cô ta đi.” Howl nói.

    “Giết tôi đi đã.”

    Chẳng hiểu sao, cậu bật cười. Được rồi, chẳng vấn đề gì cả. Cậu sẽ xoay sở ổn trong tối nay thôi. Nếu để cô ta ra khỏi tầm mắt, cậu e cô ta sẽ chạy trốn mất.

    “Phải rồi, quý cô này là ai thế?” Ernest hỏi khi Angeline ngồi xuống cạnh Howl.

    “Hai người cũng đã đính hôn phải không?” Gracie hỏi nhỏ nhẹ.

    “Không.” Angeline nói, rồi không thêm một lời. Giọng cô ta lạnh như nước đá vậy.

    Howl buộc phải là người bao biện. “Chúng tôi chỉ mới quen biết nhau thôi. Đây là...” Cậu hắng giọng. “Angeline Azazel.”

    “Ồ. Rất hân hạnh được gặp cô.” Ernest nói.

    Angeline chỉ gật nhẹ đầu, rồi cô nhìn lảng ra phía khác, lờ đi nụ cười của Ernest và Gracie.

    “Được rồi, vậy,” Howl lên tiếng, lấy lại sự chú ý của hai người kia về mình. “Cậu tới đây làm gì thế?”

    “Mở rộng việc buôn bán, cha tôi muốn hướng tới thị trường bên này. Hơn nữa, ông ấy muốn tôi vào Hội đồng. Như thế sẽ có chỗ đứng vững vàng hơn.” Rồi anh ta ngoái nhìn hôn phu mình. “Tôi, Grace và chị họ tôi cùng đến đây.”

    Howl gật gần, vẻ ấn tượng. Một người hầu đi đến và mang cho họ những chai rượu mới và dọn dẹp những chiếc ly bẩn trên bàn. Khi anh ta định rót rượu cho Angeline, cô ta lắc đầu.

    “Cô ấy không uống, cảm ơn.” Howl nói. Người hầu nam gật nhẹ đầu rồi rời đi.

    “Nghe nói cậu vừa lên ngôi.” Ernest nói, giữ lấy cốc rượu trong tay. “Trông cậu ổn lắm đấy, cậu có biết không? Không phải người nào trẻ thế cũng với được tầm đó đâu. Tôi ghen tỵ đấy.”

    Ernest không phải người duy nhất ghen tỵ, nhưng anh ta là người duy nhất nói ra. Howl liếc nhìn Angeline. Cậu đang ngồi cạnh kẻ sát nhân giết cha mình, người mà có khi đang lên kế hoạch với cả cậu nữa. Có ai khác muốn rơi vào tình thế như vậy sao?

    “Tôi chỉ gặp may thôi.” Howl nói.

    “Có lẽ tôi sẽ ở lại đây một thời gian, biết đấy, vài chuyện với Hội đồng.”

    “Tôi có thể giúp đỡ.” Howl nói. Một mặt nào đấy, địa vị của cậu thật quả là thứ đáng ghen tỵ. “Cứ nói với tôi một tiếng nếu cần gì.”

    Ernest nâng cốc rượu của mình lên, và hôn phu của anh ta cũng vậy. Người duy nhất không cạn ly là Angeline.

    “Vì tương lai huy hoàng.”

    Howl bật cười. Đó là một câu nói của cả hai khi còn nhỏ. Hai thằng bé ôm mộng làm những chuyện to lớn khi lớn lên, và không gì tốt hơn một mục đích rõ ràng thế.

    “Vì tương lai huy hoàng.”

    Khi uống cạn ly rượu, Howl có thể cảm thấy ánh mắt của Angeline đang chăm chú dò xét mình. Trong một giây, cậu cảm thấy như lồng ngực vỡ tung ra vì sự căm ghét. Cậu có thể cảm thấy sự căm ghét tột đỉnh của cô ta dành cho mình trong từng sợi dây thần kinh.

    Đó là lúc cái tương lai huy hoàng vỡ vụn ra trong đầu cậu. Nát bét.


    “Ernest! Ernest, chị tìm em khắp nơi…”

    Một người phụ nữ tóc đỏ đi đến chỗ họ ngồi, quạt quạt chiếc quạt lông trên tay. Cô ta có những đốm tàn nhan giống Ernest, không đeo mặt nạ, nên có thể thấy rõ vẻ sốt sắng trên gương mặt:

    “Chị tưởng lạc luôn em rồi.”

    “Em ở đây nãy giờ thôi. Đừng bất nhã thế, Rosie. Đây là Quỷ Vương đấy, chị không thể chào một tiếng sao?”

    Bây giờ, cô ta mới nhìn thấy Howl. Đôi mắt cô ta tròn xoe ngạc nhiên, quét cái nhìn từ đầu xuống chân cậu.

    “Hân hạnh.” Cậu nói. “Howl Lucifer.”

    Cô ta quạt nhẹ chiếc quạt, đung đưa hai vai và nở một nụ cười đỏ thắm. “Thật là một vinh dự lớn, thưa ngài. Tôi chưa từng nghĩ ngài... trẻ đến thế.”

    “Đương nhiên rồi!” Ernest nói. “Cậu ấy mới kế vị mà. Chị chưa nghe sao?” Rồi anh ta quay sang Howl. “Đây là chị họ tôi, Rosette Beleth. Chị ấy chưa sang đây bao giờ, thứ lỗi vậy.”

    “Đừng đối xử như chị là đồ ngốc thế!” Cô ta quay sang nạt. “Em biết chị dễ bị hấp dẫn thế nào mà.”

    Howl nhướn mày nhìn cô ta, rồi cậu nhếch môi cười, để lộ chiếc răng nanh ranh mãnh. Dưỡng như những người tóc đỏ rất dễ bị hấp dẫn bởi cậu. Rosette đưa mắt nhìn Howl, rồi cười ngọt ngào. Cô ta sở hữu gương mặt mặn mà và đằm thắm, giống như cái tên của mình. Đôi gò má cao kiêu hãnh, nước da hơi rám, nhưng săn chắc và khiến dáng vóc thêm thon gọn. Quanh cô ta phảng phất chút kiêu ngạo, từ đôi mắt đen cho đến cái nhếch môi duyên dáng.

    “Em thích bản này.” Gracie bỗng thốt lên khi người những nhạc công chơi một bản nhạc mới. Cô quay sang nhìn Ernest rồi kéo anh ta đứng dậy. “Đi nào.”

    Ở khoảng giữa căn phòng, những cặp nam nữ kéo nhau rời khỏi, nhường chỗ cho người khác. Đám đông rộ lên những tiếng cười nói. Gót nốt gót, họ cầm tay nhau ra khiêu vũ.

    “Cậu thì sao?” Ernest hỏi, rồi đưa mắt sang Angeline. “Thôi nào, đừng nói cậu vẫn ghét các bữa tiệc như ngày trước.”

    “Tôi chỉ ghét nhảy thôi.” Howl nheo mắt cười, nhấc ly rượu của mình lên.

    “Cậu vẫn chẳng biết tận hưởng vui vẻ gì cả.”

    Đứng gần đấy, Rosette hắng giọng, rồi vuốt phẳng phiu lại bộ đầm ren tím của mình. Đôi mắt cô ta khoác vẻ háo hức khác thường.

    “Tôi sẽ không chạy mất đâu mà sợ.” Angeline nói, chỉ đủ cho Howl nghe thấy. Cậu ném cho cô ta một cái nhìn nghi hoặc, rồi mỉm cười và thì thầm đáp lại:

    “Cô cũng chẳng có gan đó đâu.”

    Khi sự tức giận và vẻ mặt bị xúc phạm của Angeline hiện lên, cậu biết mình thắng thế. Howl đứng dậy, chỉnh sửa lại cổ áo và mời Rosette một điệu nhảy. Cô ta nhoẻn cười, đôi mắt ánh lên những tia rạng ngời.

    Bản nhạc vang lên những nốt nhạc trong veo, réo rắt, du dương.

    Angeline nhìn theo cậu cho đến khi cậu đang nhảy với Rosette ở giữa đám đông. Cô ta chỉ buông một cái nhìn hờ hững, rồi quay lại nhìn chằm chằm vào ly rượu trước mặt. Mùi rượu bốc lên đã làm cô ta muốn say.

    Cô ta từ từ với lấy chiếc ly và cầm nó bằng cả hai tay.

    Rồi cô ta ngẩng đầu lên uống, mắt nhìn chăm chăm vào trần nhà, cho đến tận giọt cuối cùng. Ly rượu cay xé họng, mắt cô ta chảy nước.

    Nhưng cô ta khóc vì hương vị lạ lẫm của rượu cào cấu trong họng,

    hay vì điều gì,

    khó có thể nói được.
     
  7. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 25
    ĐÃ TỪNG CÓ MỘT THỜI GIAN, Angeline cảm thấy lâu đài Quỷ là chốn bình yên. Cô thuộc về nơi này.

    Đó là khoảng thời gian khi Abigail chừng bảy tuổi. Cô, con bé và Maya, con gái người hầu nữ trong lâu đài, từng là ba đứa trẻ duy nhất sống ở lâu đài Quỷ. Vào một buổi chiều mùa đông, tuyết ngập các cánh đồng, ba đứa trẻ chạy lên ngọn đồi và chơi trò ném tuyết. Chúng đắp những đống tuyết lên thành người tuyết, rồi vùi nhau xuống tuyết ẩm. Cô có thể thấy ba đứa trẻ đang nô đùa ở trên đấy, đâu đó nơi vùng ký ức giao với hiện tại. Cô cầm một vốc tuyết rồi ném vào Maya, cả hai cười lanh lảnh, cho đến khi ai nấy đều ẩm ướt và dính đầy tuyết. Abigail nhập bọn sau khi dính phải một quả cầu tuyết đi lạc.

    Bây giờ, Angeline ngồi trên một chiếc trường kỷ gỗ ngoài hiên lâu đài, ngắm nhìn ngọn đồi đó. Nó xám xịt. Héo úa. Sương kéo đến làm ranh giới giữa ngọn đồi và cánh rừng mờ đi.

    Maya và Abigail, hai người bạn duy nhất của cô.

    Mọi chuyện khi còn nhỏ thật đơn giản.

    Giá như khi cô lớn lên, cả ba vẫn không thay đổi. Cô ước thế.

    Abigail sẽ không nói chuyện với cô, có lẽ là trong suốt phần đời còn lại của nó. Nó đã phát điên, gào thét dọa Howl sẽ tự mình đi báo cho Hội đồng hoặc bất cứ ai có khả năng bắt Angeline đi. Nó vừa thóa mạ chửi mắng cô vừa khóc. Cô đứng giữa hành lang, nghe Abigail thét gọi mình là quân giết người.

    Nó rút ra một lưỡi kiếm và đâm xuyên qua cô.

    Cô thậm chí không thể ngã xuống được.

    Vết kiếm đâm qua trái tim cô rỉ máu, chọc một lỗ thủng lớn trống hoác và đau đớn ở lồng ngực cô. Những vết rỉ từ thanh kiếm ăn vào da thịt cô, vào máu cô, khiến khoảng trống hoác đó vừa chảy máu, thoi thóp và loang lổ vết gỉ sét. Nỗi đau của sự tội lỗi làm Angeline nghẹt thở.

    Những vết gỉ sét ấy vẫn đang còn lan ra. Xấu xí. Đáng thương.

    Howl chẳng thể nhìn thấy vết thủng trống hoác giữa lồng ngực Angeline. Cậu ta cáu giận quát lên với Abigail và bắt con bé về phòng. Cậu ép con bé đi khỏi, để lại Angeline đứng giữa hành lang trong vũng máu của mình.


    Cô tìm đến chiếc trường kỷ, mặc cho gió luồn qua vết thủng lạnh buốt. Một lúc lâu sau, khi những ảo ảnh về ba đứa trẻ trên ngọn đồi tuyết phai dần, Maya xuất hiện. Maya xuất hiện trong bộ dạng xộc xệch và lấm lem tro bếp như mọi ngày. Cô ta không nói gì, ngồi xuống cạnh Angeline. Trên gấu chiếc váy sờn xơ vải của cô ta, than dính đầy. Ở phần cùi tay và mép áo đã ố vàng, buột chỉ. Mái tóc nâu giống mẹ, Maya buộc túm thành một búi ra sau gáy. Khi cơn gió khô khốc của mùa thu thổi qua, những lọn tóc cháy của cô ta đung đưa trên gương mặt bơ phờ.

    “Mình không nghĩ mình sẽ sống nổi đến mùa thu năm sau.” Cuối cùng, Angeline lên tiếng. Đôi mắt cô nhìn ra những đám sương khô trên các dải đồi. Cỏ héo ủa, hơi nóng của gió bốc lên không trung.

    Tiếng cót két của một cái xích đu gần đấy vang lên. Kẹt... Kẹt….

    Maya đảo đôi mắt xanh lá sang Angeline. Trên gương mặt của cả hai khoác vẻ đăm chiêu và giày vò.

    “Anh ta làm gì cậu thế?”

    “Chẳng gì cả.” Angeline nói. “Anh ta muốn mình sống trong lâu đài. Có Chúa mới biết loại người đó sẽ làm gì.”

    “Chúa không biết đâu.” Maya nói bằng giọng của cơn gió khô mùa thu. Cô nhìn xuống lòng bàn tay đầy những vết sẹo khi nấu nướng. “Vì làm gì có Chúa.”

    “Có đấy.” Angeline quay sang nhìn Maya. “Nếu không thì tại sao lại có chúng ta? Tại sao có Quỷ và Cambion? Phải có ai đó đã tạo ra tất cả chứ.”

    “Dù là ai đi nữa, họ cũng rời đi rồi. Họ bỏ chúng ta.”

    Cả hai im lặng một lúc. Bàn tay chai sạn của Maya bỗng run lên từng hồi đến mức cô phải nắm chặt chúng lại. Maya là con của bà Gry, bằng tuổi Angeline. Bà Gry đã làm việc ở lâu đài Quỷ lâu đến mức chẳng ai đếm được. Người ta nói khi bà đến, bà đang mang thai đứa con đầu lòng. Không ai biết về cuộc sống của bà trước khi bà đến lâu đài làm việc. Những người hầu đồn với nhau, bà từng kết hôn và sống với một gã chồng vũ phu. Gã đánh bà như cơm bữa, người bà đầy sẹo.Vậy nên bà bỏ đi với đứa con gái đầu lòng tới lâu đài Quỷ.

    Angeline đã nhiều lần trông thấy Gry. Bà có gương mặt hao hao Maya, gầy gò với cái cằm xương. Bà trầm lặng và hầu như chẳng mấy khi nói chuyện, chỉ làm việc và làm việc. Đã có lần nào đấy, bà bắt gặp Angeline xách những xô máu gia súc về. Nhưng bà chỉ ngó cô đúng một cái, rồi nhìn cái xô và bỏ đi.

    Bà Gry chẳng nói gì cả, cũng không kể với ai. Angeline cũng im lặng, không một lời giải thích.

    Bà cấm Maya chơi cùng Abigail, nhưng cô không chịu. Phải một thời gian sau đó, cô mới hiểu ra và ngừng tiếp xúc với con bé. Đó là cả một khoảng thời gian khó khăn, khi cả ba bắt đầu dừng gặp nhau và nói chuyện. Giống như một thỏa thuận ngầm, không ai đề cập đến những điều về ngày trước nữa.

    Maya là con thứ hai của bà Gry. Cô kể với Angeline rằng chị gái mình đã chết trước khi cô ra đời, nhưng chỉ có thế. Bà Gry có con với một người làm ở lâu đài Quỷ, rồi vài năm trước ông ta cũng chết vì rượu. Angeline biết người đàn ông đó, ông ta là người làm vườn, một trong số ít những kẻ tử tế và tuyệt vọng. Khi cha chết, Maya là một đứa trẻ gầy gò và tiều tụy. Cô khóc ròng mấy ngày, mắt tím bầm và suýt ngã bệnh.

    Khi đấy, Angeline bỗng ngộ ra một điều.

    Dù có là ai đi nữa, một kẻ tử tế hay một kẻ hẹp hòi, một kẻ giàu sang hay một kẻ nghèo hèn, đều có những cái kết chẳng mấy tốt đẹp. Vậy nên, cô ngừng nghĩ về sự công bằng cần có. Maya đã đúng khi nói tất cả họ đều bị bỏ rơi.

    “Không có cách nào để chữa căn bệnh của cậu sao?” Maya bỗng lên tiếng, làm Angeline giật mình.

    Cô chậm rãi lắc đầu. “Không gì trên thế giới này có thể.” Cô nói với một nụ cười.

    Tiếng cót két của cái xích đu gần đấy làm cả hai nổi gai ốc.

    “Cậu định làm gì tiếp đây?” Maya hỏi. “Tôi không biết rõ về Tân Quỷ Vương, Angeline à, nhưng có vẻ chẳng có gì tốt đẹp. Hôm trước anh ta bước vào bếp và đột nhiên hỏi mọi người ở đó về cậu.”

    “Về mình ấy à?” Angeline ngạc nhiên.

    “Anh ta làm tất cả sợ hãi.” Maya nghĩ đến lúc mình nói với Howl về Angeline. Cô lên tiếng vì nghĩ một vài chi tiết nhỏ không quan trọng sẽ làm anh ta bỏ đi. Cô sẽ không bao giờ tiết lộ gì về Angeline cả, và cô biết Angeline cũng thế.

    Angeline quay sang nhìn cô. “Anh ta hỏi gì?”

    “Có ai biết về cậu không. Anh ta đã hỏi đích thân mẹ mình.”

    “Bà ấy nói gì?”

    “Những gì bà ấy biết.” Maya nói. “Tôi thề, Angeline, bà ấy không có ý hại cậu hay gì cả. Bà ấy chỉ phải nói. Tôi cũng thế. Tôi từng nghe kể trước đây có một người chủ lâu đài Quỷ đã trói nô lệ của mình vào cọc và để bên ngoài suốt đêm cho quạ rỉa vì họ ăn cắp một cái bình hoa bằng bạc mà không chịu nhận.”

    Có đầy rẫy những câu chuyện như thế ở giới nô lệ. Angeline đã nghe không ít về các hình phạt máu me và tàn khốc ấy, và đương nhiên chẳng ai lại đi cứu nô lệ. Một khi đã ký vào giấy, họ sẽ phải làm việc đủ bằng đó năm trong lâu đài hay bất cứ đâu mà họ xin vào hay được thuê. Vậy nên, cuộc sống của một nô lệ hoàn toàn phụ thuộc vào kẻ mà nô lệ đó phục vụ.

    “Được rồi, nhưng tôi đoán anh ta không phải loại người thích tra tấn bằng roi vọt đâu.” Angeline nói. “Tệ hơn thế nhiều.”

    Maya nhìn cô bằng đôi mắt nâu to đầy thông cảm. Đó là cái ngưỡng thân thiết nhất họ có với nhau, sự thông cảm. Sự thông cảm giữa những kẻ nhỏ bé giữa dòng lũ cuốn, không có cơ hội ngoi lên để bám vào một cành cây, để cứu cuộc đời mình. Trong lòng cả hai cồn cào sự giải thoát, nhưng đều biết điều đó là không thể.

    “Tôi sẽ rời khỏi đây ngay khi mẹ hết hạn làm với lâu đài Quỷ.” Maya nói bằng giọng yếu ớt nhưng quả quyết.

    “Tôi nghĩ nơi nào cũng giống lâu đài Quỷ thôi.” Angeline nói. “Dù cậu đi đâu đi nữa, làm việc gì đi nữa...”

    “Cậu không biết chắc mà.” Maya cãi lại. “Cậu có bao giờ đặt chân ra khỏi đây đâu. Có thể có nơi nào đó bình yên cho chúng ta, một nơi dành cho chúng ta.”

    “Tôi còn không chắc mình sống sót kia mà. Tôi nghĩ tôi sẽ hài lòng chết ở đây thôi.”

    Maya nhìn Angeline một lúc, trán chau lại và đôi mắt hơi giận dữ. Rồi cô đứng dậy và giọng nói bỗng trở nên mạnh mẽ:

    “Ít nhất tôi còn biết hy vọng. Cậu sẽ ngạc nhiên với những gì chúng ta có thể làm với nó đấy.”

    Nói rồi, Maya bỏ đi. Cô để lại phía sau Angeline ngồi ngạc nhiên, thẩn thơ. Bỗng dưng Angeline thấy xấu hổ. Cô chạm lưng vào thành ghế, chỉ một chút, hai tay ôm lấy đầu gối và vai nhô lên. Đúng, Maya có thể hy vọng vì cô ta có thể rời đi, có thể sống ở nơi bình yên nào mà cô ta muốn. Dẫu thế nào, cô ta vẫn có cơ hội được sống cuộc sống tốt hơn.

    Nhưng ý nghĩ rằng lâu đài Quỷ là nơi tồi tệ của Maya làm Angeline khó chịu và đôi chút giận dữ. Chẳng có hình phạt tra tấn nào ở đây cả. Người hầu được ăn uống đầy đủ, họ có thể béo tốt là khác. Chỉ cần làm việc đầy chăm chỉ thì chẳng có vấn đề gì cả.

    Thậm chí những người chủ lâu đài còn chẳng nhớ tên người hầu của mình.

    Như thế không phải tốt hơn nhiều sao?

    Người nhà Lucifer có quá nhiều thứ để quan tâm, họ làm việc chứ không hưởng thụ, chẳng ai để ý đến Angeline và những gì cô làm. Bằng chứng là Moldark chẳng hề biết về cây táo và mọi thứ khác cho đến khi ông ta chết.

    Angeline chẳng bao giờ muốn rời đi. Cô muốn ở đây,

    sống ở đây,

    và chết ở đây.
     
  8. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 26
    “ĐƯỢC RỒI, ĐI THEO TÔI.”

    Howl nói, khi cậu bước lên những bậc thang màu đá đen xỉn của lâu đài. Angeline đi phía sau một cách thận trọng. Cô không rõ Howl đang dẫn mình đi đâu. Cô chỉ biết mình đang ở tòa tháp Tây của lâu đài. Lâu đài Quỷ có ba, bốn tòa tháp lớn như thế, nhưng hầu như không được sử dụng. Ở các tòa tháp đều có một cầu thang xoắn ốc dẫn lên tận đỉnh, mỗi tầng sẽ có một căn phòng. Nhưng những căn phòng đó để làm gì thì chẳng ai biết. Bây giờ, dựa theo các cánh cửa khóa trái gỉ sét, Angeline đoán chúng bị bỏ hoang lâu rồi.

    Quanh lối hành lang hẹp và dãy cầu thang, rải rác những ô cửa sổ kính. Chúng mờ xước và nứt vỡ, bầu trời qua cửa kính có màu vàng ố như cà phê. Cánh rừng và ngọn đồi cũng thế. Các luồng sáng nhẹ đáp xuống sàn đá thành một ô vuông như cánh cửa sổ, làm nổi bật lên sự tương phản với bóng tối xung quanh. Mỗi bước Howl đi, Angeline để ý thấy các hạt bụi cuộn lơ lửng trong không trung.

    Cô hình dung nơi Howl đang dẫn mình đến. Có thể là một căn phòng tối, anh ta sẽ xích cô vào và nhốt cô ở đó, bỏ đói hoặc tra tấn cô như một thú tiêu khiển để xả căng thẳng. Có một gã điền chủ trong thành phố đã bị bắt vì tội giết người và bạo hành nô lệ của mình. Tuy thế, hắn chỉ bị chú ý vì giết quá nhiều nô lệ. Vẫn có các đạo luật về sử dụng nô lệ ở vùng Bóng tối, nhưng chẳng mấy ai thật sự để tâm đến tính mạng họ cả.

    Howl là Quỷ Vương.

    Anh ta sẽ chẳng bao giờ bị bắt nếu giết người cả.

    Những suy nghĩ đó làm những sợi lông tơ sau gáy cô dựng lên. Cô không sợ một cái chết nhanh chóng, như một vết dao đâm xuyên qua tim hay treo cổ. Cô sợ một cái chết từ từ và đau đớn.

    “Sao cô tái mét thế?” Howl bỗng quay lại hỏi, điệu cười của anh ta giống như anh ta có thể nhìn thấu rõ suy nghĩ của Angeline bây giờ. “Tôi không làm gì đâu mà sợ. Tôi chỉ muốn cho cô xem một thứ thôi.”

    Angeline vẫn chẳng thấy yên tâm hơn. Nhưng cô vẫn đi theo.

    Khi ở gần đỉnh ngọn tháp, Angeline bắt đầu nghe thấy tiếng gió rít. Hẳn một chỗ nào đó đã bị nứt hở, gió luồn qua tạo lên những tiếng như mèo kêu, phả vào Angeline lạnh lẽo. Gió mùa thu rất khô, chúng mang theo mùi của cỏ úa và rừng.

    “Đây rồi.” Howl đứng trước một cánh cửa bằng đá, bản lề kim loại gỉ và có hình vòm. Một đường viền chạy quanh mép cửa là ranh giới duy nhất giúp Angeline phân biệt được nó với bức tường.

    Mấy tiếng leng keng vang lên trong tay Howl. Cậu cầm một chùm chìa khóa, rồi lần tìm giữa những chiếc chìa bằng đồng đỏ hung một lúc. Sau đó, cậu thốt lên một tiếng vui mừng và tra khóa vào ổ.

    Phải mất một lúc ấn, mở, đẩy, thúc mạnh vào cánh cửa và đủ cách bạo lực với cái ổ khóa, nó mới chịu mở.

    “Xin lỗi.” Howl nói.

    “Vì điều gì?” Angeline hỏi lạnh tanh.

    Howl quay sang nhìn cô. “Đó chỉ là cách diễn đạt thôi. Chẳng vì gì cả.”

    Một tầng bụi dày cuộn xoáy lên không trung khi Howl dịch cánh cửa đá. Da Angeline sởn gai ốc khi cái âm thanh rin rít, ken két của bản lề cửa và của cánh cửa cào vào nền đá khi nó di chuyển. Bây giờ cô mới nhận ra tòa tháp yên lặng thế nào. Âm thanh đó đã đánh động suốt cả bấy nhiêu tầng. Cô nhìn xuống dãy cầu thang, tưởng tượng có thứ gì đó bị tiếng vang này đánh thức và lao ra khỏi bóng tối.

    “Để tôi đoán.” Angeline nói. “Tòa lâu đài này đầy những lối đi bí mật phải không?”

    Howl ghì vai vào cửa để lấy sức đẩy. Cậu đã cho người làm dọn dẹp và thay bản lề cửa mới từ lần tu bổ trước, nhưng có vẻ chẳng khá khẩm hơn mấy.

    “Điều gì khiến cô nghĩ thế?”

    “Đó là kiểu các tòa lâu đài hay có mà.” Angeline nói. “Hành lang ngầm, căn phòng bí mật, che giấu kho báu.” Cô ngừng một lát rồi nói tiếp. “Hoặc che giấu một thứ khủng khiếp nào đấy.”

    “Cô có trí tưởng tượng phong phú thật đấy.”

    “Có thể tôi sẽ tìm thấy trong khi ở đây. Tôi sẽ lục tung hết bí mật của lâu đài này.”

    Rốt cuộc cánh cửa cũng nhích ra được một khoảng khá rộng. Howl hắt xì liên tục vì bụi bay mù trong không trung. “Chúc may mắn. Được thế thì tôi cũng mừng, giờ thì vào đi.”

    Angeline liếc nhìn Howl một cách nghi hoặc, rồi lách mình qua cánh cửa. Cậu đi ngay đằng sau cô, nhưng điều đó lại khiến Angeline thấy bất an. Cô luôn phải ngoái nhìn lại phía sau, cảm giác như mình có thể bị đâm chết hay đánh chết bất cứ lúc nào có thể. Anh ta chỉ cần vật cô xuống sàn và bóp cổ.

    Đôi khi Angeline thấy ngạc nhiên vì mình có thể sống lâu vậy.

    Phía sau cánh cửa là một căn phòng trống. Nó đẹp đến đáng ngạc nhiên. Đây là đỉnh tháp, nên bao quanh bốn bức tường là những tấm kính lớn xếp hình vòm, trong vắt, có thể trông ra nhiều hướng. Angeline đứng ngẩn ra một lúc, rồi ngạc nhiên nhìn Howl.

    Cậu chỉ mỉm cười, rồi nhún vai.

    Ở giữa căn phòng, có độc nhất một cây đàn piano. Nó cũ đến mức ở nhiều chỗ, sơn đã bong tróc ra và để lộ lớp vân gỗ bên trong. Cây đàn khá lớn, có một chiếc ghế ngồi, những phím đàn phủ đầy bụi và ố vàng. Nó giống kiểu một cây đàn cổ ở một ngôi nhà bị ma ám, vào ban đêm sẽ đột nhiên vang lên những nốt réo rắt giữa bóng tối tĩnh mịch.

    Như thể bên trong nó cũng có một linh hồn vậy.

    “Đây là gì?” Angeline hỏi.

    “Quà tặng của tôi mừng cô vào lâu đài Quỷ.” Howl nhoẻn cười ranh mãnh.

    “Đừng có đùa nữa.”

    Howl rời khỏi chỗ đang đứng, cậu bước gần lại phía cây đàn. Khi đặt tay lên mặt gỗ, lớp bụi liền dính ngay vào tay cậu.

    “Đây là quà cưới của cha mẹ tôi. Mẹ tôi thích nhạc cụ, đặc biệt là piano. Cây đàn từng là của bà ấy. Khi bà ấy chết, cây đàn là tài sản của cha tôi và ông ấy bỏ nó lên đây, phủ bụi hàng năm trời.” Howl xoa xoa những ngón tay đầy bụi, rồi quay lại nhìn Angeline đang chăm chú lắng nghe. “Và sau khi Moldark chết, ông ta muốn để lại cây piano cho cô.”

    “Tôi ư?” Cô ngạc nhiên,

    “Cô là Angeline Gallois?”

    “Phải.” Cô ta trả lời khó nhọc. “Thì sao?”

    Tất cả những gì Howl làm là mỉm cười. Cậu đứng lùi ra khỏi cây đàn, ung dung bước quanh Angeline:

    “Tôi nghĩ cha tôi vì không có cách nào khác để chỉ ra cô là kẻ giết người, nên ông ta đã lập di chúc như thế. Chắc chắn tôi sẽ chú ý nếu đột nhiên trong di chúc của cha mình có tên một người lạ, mà lại là một người làm trong lâu đài. Ông ta muốn tôi tìm ra cô.”

    Angeline nuốt khan.

    Vậy là dù như thế nào đi nữa, anh ta vẫn sẽ tìm ra cô.

    Cô không thể che giấu nổi.

    “Tuy nhiên, sau khi thu lượm được vài điều mà tôi nghĩ rằng cô có liên quan đến cái chết của mẹ tôi, tôi bắt đầu nghĩ có thể Moldark muốn nói gì đó nhiều hơn kết tội cô. Ông ta để lại một thông điệp.”

    “Hy vọng anh đã tìm ra.”

    Angeline cố nói bằng giọng rắn rỏi, nhưng cô đã thất bại. Nghe cô thật yếu ớt và sợ hãi.

    “Thật ra là chưa.” Howl nói. “Tôi vẫn không biết có chuyện gì đã xảy ra với mẹ tôi. Có rất nhiều khúc mắc. Tôi nghĩ cô có thể giúp.”

    “Tôi chẳng liên quan gì đến mẹ anh cả.” Angeline nói. Tay cô lướt nhẹ trên những phím đàn, làm một tần bụi dày dính lên đầu ngón tay. Cô chưa từng trông thấy hay chạm vào một cây đàn piano. Những phím đàn có vẻ nặng và cứng, nếu chỉ nhấn nhẹ chúng sẽ chẳng nhúc nhích.

    Angeline không nghe thấy tiếng Howl trả lời. Anh ta đứng bên kia cây đàn, đối diện cô. Cây đàn trở thành lá chắn giữa cô và Howl, nhưng Angeline cảm thấy chưa đủ. Nếu là một bức tường đá thì tốt hơn.

    “Tôi chưa hỏi cô điều này.” Howl nói. “Tại sao cô giết Moldark? Tôi có cảm giác cô muốn trả thù. Cho bạn bè? Gia đình? Anh chị em? Cô ở đâu đến, Angeline?”

    Angeline lỡ nhấn quá mạnh vào một phím đàn. Âm thanh của nốt nhạc bật lên làm cả hai giật mình. Howl lẩm bẩm ngạc nhiên.

    “Ông ta đã giết cả gia đình tôi.” Angeline nói bằng giọng lãnh đạm và cảnh giác, cô cân nhắc phần nào nên kể và phần nào thì không. “Ông ta cần bị trừng phạt.”

    “Tôi hoàn toàn đồng ý.” Howl nói. “Thấy đấy, đó là điểm chung lớn của chúng ta. Cả hai chúng ta đều ghét Moldark.”

    “Anh là con trai ông ta.” Angeline mỉm cười khinh bỉ. “Đừng kéo tôi vào chuyện của anh.”

    Các nốt nhạc lần lượt vang lên, từ những âm thanh nhẹ bẫng đến những âm nặng nề, theo từng ngón tay của Angeline. Những chuỗi âm thanh không còn trở nên xa lạ. Các nốt nhạc va vào cửa kính rồi dội lại tòa tháp. Dĩ nhiên Angeline chẳng biết chút gì về âm nhạc, cô chỉ thích nghe âm thanh của các phím đàn.

    “Vậy là cô đã lên kế hoạch cho việc này hàng năm trời.”

    “Không… Tôi chỉ tiếp tục nó thôi.” Angeline liếc nhìn Howl để quan sát vẻ mặt của cậu, rồi cô lại cúi nhìn những phím đàn vàng ố. “Khi tôi đến đây, mấy cây táo đã lớn rồi. Ai đó đã bắt đầu câu thần chú nhưng không hoàn thiện nó. Tôi tìm thấy các tờ giấy ghi chép về câu thần chú ở tòa tháp. Đó là dấu hiệu cho tôi, tôi cần tiếp tục hoàn thiện nó.”

    “Tòa tháp đó là của mẹ tôi, Myris.”

    Angeline ngẩng đầu nhìn Howl, ngạc nhiên. Các nốt nhạc cũng dừng lại. Từ trước đến giờ, cô nghĩ Myris là tên của tòa tháp, dù cái tên này có vẻ quen thuộc. Không có ai trong lâu đài dám gọi thẳng tên Myris mỗi khi nhắc đến bà cả.

    “Tôi nghĩ bà là người đã trồng những cây táo.” Howl nói tiếp một cách trôi chảy. “Tôi sẽ chẳng băn khoăn về việc tại sao bà ấy lại làm thế đâu. Nhưng dẫu sao bà ấy cũng không thể hoàn thành nó, đó là khi cô đến đây và tiếp tục chăm sóc những cái cây.”

    Angeline cúi xuống, tiếp tục nhấn từng phím đàn. “Tôi biết những thứ đó thuộc về một ai đấy, nhưng tôi chưa từng nghĩ đó là mẹ anh.” Rồi cô ngẩng đầu lên. “Tuổi thơ bất hạnh nhỉ.”

    “Cô không biết hết đâu.” Howl nhếch môi cười.

    Bỗng nhiên, chuỗi âm thanh của cây đàn bị đứt mạch. Một phím đàn không phát lên âm thanh như những phím khác. Angeline nhấn nó thêm nhiều lần, nó nặng và như có thứ gì chẹt ở dưới.

    “Phím này hỏng rồi.” Cô nói.

    “Thứ này đã bị bỏ không cả chục năm rồi, đừng ngạc nhiên thế.”

    “Không. Tôi nghĩ...” Cô ngập ngừng do dự. “Tôi nghĩ có thứ gì làm chẹt phím đàn.”

    “Để tôi xem.”

    Howl nói và đi vòng qua cây đàn, đứng cạnh Angeline. Cậu nhấn thử một hai lần vào phím đàn bị hỏng. Angeline lùi xa ra khỏi cậu vài bước.

    “Tôi sẽ cho thợ sửa sau.” Howl nói. “Cô cũng đâu cần đến nó, phải không? Trừ khi cô muốn chơi vài bản nhạc.”

    Howl nói rồi cười rũ. Angeline cau mày, cô biết cậu ta nói thế bởi cô không biết dùng đàn hay bất kỳ thứ gì cả. Cậu ta thì chắc chắn có, và đang cười nhạo cô vì thế.

    Angeline cau mày khó chịu nhưng không nói gì. Cô thôi hướng sự chú ý vào cây đàn piano, mà tới những cánh cửa đối diện với cánh cửa đá vào phòng. Nó nằm sau chiếc đàn, có ba cánh cửa tất cả, được làm bằng gỗ. Sơn trên ba cánh cửa đã xỉn đen và trầy xước. Cô không hiểu tại sao lại có ba cánh cửa đó. Vì đằng sau chúng nhẽ ra phải là không gian ngập gió khô bên ngoài.

    Chẳng có căn phòng nào nằm sau ba cánh cửa đấy được cả.

    Chúng nằm liền cạnh các ô kính. Im lìm.

    “Những cánh cửa này để làm gì thế?” Angeline hỏi.

    Howl gãi cằm, ngước nhìn lên các cánh cửa. “Đừng có bước vào, tôi nói rồi đấy. Chúng không phải cửa bình thường đâu.”

    “Vậy thì là gì?”

    Howl nhoẻn cười trước ánh mắt tò mò của cô gái. Cậu chỉ lên cánh cửa bên trái mình. “Đó là cánh cửa dẫn tới Quá Khứ. Khi cô bước vào, nó sẽ đưa cô về quá khứ của mình. Có thể là một ký ức cô muốn nhớ lại hoặc ngẫu nhiên, chẳng thể biết được.”

    Cậu đi những bước chậm đến cạnh Angeline. Cô chăm chú nghe và nhìn cánh cửa bên trái.

    “Bên kia là Hiện Tại.” Cậu chỉ vào cánh cửa bên phải. “Cô bước vào, sẽ biết được bất kỳ điều gì đang xảy ra lúc này, chỉ cần tập trung nghĩ đến địa điểm hay người mà cô cần biết. Tuy nhiên, không dễ gì mà mở được nó đâu.”

    “Không sao?”

    Angeline thử bước đến và vặn nắm đấm cửa. Nó không hề có ổ khóa, cô thề là thế. Chỉ có một nắm đấm cửa tròn bằng gỗ trồi ra, kẹt cứng, không hề nhúc nhích khi cô vặn.

    “Tôi nói rồi, không phải ai cũng mở được nó. Cần có một chút động lực.” Cậu đảo mắt suy nghĩ. “Giống như phải có gì đó thôi thúc, một việc nguy cấp, cô mới mở được.”

    “Còn cánh cửa còn lại?”

    Howl nhìn cánh cửa nằm ở chính giữa. Nó có vẻ to hơn và chắc chắn hơn hai cánh cửa còn lại nhiều.

    “Đó là cánh cửa Tương Lai.” Cậu nhìn Angeline. “Theo tôi biết họa chăng chỉ có một hai người có thể mở được nó. Cần nhiều hơn một chút động lực để biết trước được tương lai.”

    Cô gái nhỏ nhìn cánh cửa đó. Trong cô có một chút thôi thúc thật, cô muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra với mình trong vòng vài tháng nữa. Nhưng Angeline biết cái động cơ cá nhân đấy không thể mở được cánh cửa. Tất cả mọi người đều có một thôi thúc muốn biết về tương lai của mình.

    Nhưng nó nhiều và mạnh mẽ chừng nào thì lại là chuyện khác.

    Và liệu rằng có ai thật sự muốn biết về tương lai? Dù chỉ là một giây thoáng qua, nó cũng có thể trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng.

    Chẳng hạn, Angeline tưởng tượng khi mình bước vào và trông thấy cái chết đen ngòm của bản thân. Dẫu cô vẫn đang sống với suy nghĩ mình sẽ chết trong vòng bao lâu mỗi ngày, điều đấy cũng thật kinh khủng.

    Có những thứ tốt nhất không nên biết thì vẫn hơn.

    “Tôi sẽ cho thợ sửa lại cây đàn và di chuyển nó xuống dưới nếu cô muốn.” Howl nói. “Có thể nó sẽ làm căn phòng đẹp hơn đôi chút. Bây giờ tôi sẽ dẫn cô đi xem vài phần của lâu đài. Tôi không rõ cô hiểu về tòa lâu đài này nhiều tới đâu nhưng một chuyến tham quan cũng không hại ai.”

    Cậu nói và quay ra phía cửa. Angeline chẳng nói chẳng rằng, đi theo. Thật ra cô chẳng hiểu mấy về lâu đài và các tầng lầu. Mỗi khi dành thời gian cùng Abigail, cả hai hay ra ngoài cánh đồng, có khi là quanh hiên. Hoặc khi mang táo cho Quỷ Vương, cô cũng nhớ được phòng ngủ và phòng làm việc của ông ta ở đâu, nhưng chỉ có có thế... Dẫu Angeline không bao giờ công nhận kể cả với chính mình, cô vẫn cố không phải bước chân vào lâu đài.

    Cánh cửa đá ken két đóng lại.


    Tại sao cô cố tránh xa tòa lâu đài?


    Chiếc piano đầy bụi và căn phòng lại rơi vào im lặng.


    Có những mảng tối tồn tại trong lâu đài Quỷ, và Angeline sợ phải đối mặt với chúng một ngày nào đấy
     
  9. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 27
    CĂN PHÒNG MỚI của Angeline nằm ở phía Đông của lâu đài Quỷ. Có một ban công hẹp, hai ô cửa kính màu ẩn sau rèm cửa, một chiếc giường trải ga trắng, tủ quần áo và bàn ghế. Căn phòng không quá rộng, nhưng với Angeline, nó thênh thang. Từ đây đi dọc xuống cuối hành lang sẽ là phòng của Howl, cô chẳng hiểu nguyên cớ gì mà giữa bao nhiêu căn phòng bỏ không trong lâu đài, anh ta lại chọn phòng này.

    Có lẽ anh ta cần giữ một khoảng cách vừa đủ với cô, không quá gần để bị sao nhãng, không quá xa để thiếu kiểm soát.

    Trên trần nhà treo một chùm đèn thủy tinh, tỏa ra những hạt ánh sáng màu vàng nhạt. Angeline ngồi trên giường và nhìn nó chằm chằm.

    Khi sống ở tòa tháp, Angeline phải đi bộ từ đó về lâu đài để làm việc, vào cuối buổi chiều hoặc những ngày mưa bão, cô về tòa tháp. Chưa từng có ai ngoài cô đặt chân vào tòa tháp đó cho đến khi Howl xuất hiện với con hươu anh ta săn được.

    Maya đã chỉ cho cô tòa tháp trong rừng, và cô đã lặng lẽ đến đó sống, không ai hay biết. Cũng chẳng có ai ngăn cấm gì. Không ai trong tòa lâu đài này dám đi quá sâu vào rừng, vì chẳng ai tưởng tượng được có gì sống len lách giữa bóng tối của khu rừng già sau lưng tòa tháp. Angeline cũng vậy, cô không bao giờ đi quá sâu, chỉ loanh quanh ở bìa rừng và một vài khu vực quanh con suối. Vào những đêm quang đãng có trăng, vẳng lại từ cánh rừng già những âm thanh như tiếng tru.

    Vào những tuần đầu tiên khi mới đến lâu đài Quỷ, Angeline tưởng mình sắp chết. Mỗi ngày, cô tỉnh dậy và tự hỏi mình đang ở đâu, liệu đây có phải giấc mơ - một cơn ác mộng. Gia đình của cô ở đâu, và khi nào thì cơn ác mộng tồi tệ này kết thúc.

    Những tháng tiếp theo là những tháng ngập nước mắt.

    Đó là khi cô đã dần dần nhận ra mình không thể quay về nhà.

    Cô không thể trở về bãi biển, cô không thể ngồi nghe ngóng tiếng mưa giột rơi lách tách trong đêm. Cô không thể ngắm nhìn bầu trời đầy sao hay cơn gió biển nào nữa. Cô sống ở lâu đài Quỷ, giữa những mái hiên đầy hoa hồng dại, các ngọn đồi ngập cỏ và bầu trời u ám. Cô đã giữ cái ý nghĩ tất cả đều không có thực, tất cả đều là ác mộng quá lâu cho đến khi cô không thể giữ nổi chúng nữa.

    Đám người hầu trong nhà luôn lấy Angeline ra làm trò vui, có lẽ vì cuộc sống của họ quá nhàn rỗi. Vì màu tóc của cô, vì dáng vẻ của cô, vì tuổi tác của cô. Cho đến một ngày cô không thể chịu nổi nữa và quyết định sống trong tòa tháp.

    Angeline đứng dậy, vén tấm rèm sang một bên. Ở căn phòng này không thể nhìn thấy khoảng rừng có ngọn tháp. Nhưng lại có thể thấy con đường ngoằn ngoèo từ lâu đài Quỷ đến cánh cổng, và dòng Ner Rill sau những bãi đất đầy cây dại xa xa. Đêm đầu tiên ở tòa tháp, cô đã thức trắng, ngọn nến được thắp đến tận sáng. Tòa tháp đã quá cũ, tiếng gió đập vào và luồn qua căn gác mái giống tiếng than khóc. Những cành cây to quá khổ liên tục chọc và cọ vào khung cửa sổ. Chưa kể đến đám chuột chui rúc sống dưới sàn, và nhiều tấm ván gỗ trên sàn nhà đã mục nát.

    Bóng tối và những âm thanh rùng rợn ấy đã bóp nghẹt Angeline trong nỗi sợ.

    Cô lại làm việc mà từ trước đến giờ cô vẫn làm.

    Thức trắng đêm, khóc.

    Đêm hôm sau, Maya đến ngủ cùng Angeline. Cả hai đứa trẻ đều sợ hãi, đều nằm yên trong bóng tối và nghe ngóng. Ở trên mái tòa tháp, có một lỗ hổng lớn mà khi gió luồn vào tạo thành những tiếng gào rít, va đập rùng rợn.

    Đám chuột lại mò ra.

    “Cậu sẽ không bỏ về chứ?” Nằm trên giường và cuốn mình trong chăn, Angeline hỏi Maya.

    “Có chết mình cũng không ra ngoài đâu.” Maya liếc nhìn vào bóng tối qua khung cửa sổ. Ánh nến thắp sáng khắp căn phòng. “Đừng lo, mình sẽ ở đây đến khi nào cậu quen.”

    “Cậu thật tốt.”

    “Không, mình chẳng tốt đâu.” Maya ngước đôi mắt nâu to nhìn cô và thì thầm. “Mình chỉ tử tế thôi.”

    Angeline khẽ mím môi khi nhớ lại lời của Maya.

    Cô gái đó là người duy nhất Angeline có thể trao niềm tin vào trong vùng đất này.

    Angeline đã không còn sợ tòa tháp nữa. Cô nhận ra nó giống một chốn bình yên hơn. Đặc biệt khi đông đến, nó ấm áp như hơi thở người mẹ. Cả cánh rừng trắng xóa, tòa tháp cũng hứng bao nhiêu tuyết, trơ trọi. Các loài thú đều đi ngủ đông, dòng suối chảy gần đó thì đóng lại thành băng. Angeline ngồi trước hiên nhà và hơn bao giờ hết, cô cảm thấy hạnh phúc. Ở đây có một nơi mà không ai biết đến cô, không ai làm phiền cô, không ai biết những việc đô đang làm. Ở đây có một nơi mà rốt cuộc, cô cũng cảm thấy mình có thể sống mãi.

    Tòa tháp và khu rừng đã bảo vệ cô, giữ cô an toàn trong suốt nhiều năm. Những con thú rừng đã quen với sự hiện diện của Angeline. Và từng gốc cây cũng trở nên quen thuộc. Kể cả bóng tối, những cơn mưa giông hay sương mù dày đặc cũng chẳng đáng sợ nữa.

    Cho đến một ngày, khu rừng xuất hiện một con sư tử đáng sợ,

    nó rình rập cô,

    và đôi khi cô nghĩ,

    nó sẽ ăn sống cô vào lúc cô mất cảnh giác nhất.


    *


    QUANH LÂU ĐÀI QUỶ là một mê cung hành lang. Angeline có thể nhớ một vài nơi Howl đã dẫn mình đi qua, nhưng cô không thể nhớ nổi lối nào với lối nào. Howl đã đi vắng. Anh ta giống như một con chim đại bàng, ra ngoài khi trời sáng và trở về khi trời tối, còn cô là tù nhân trong cái tổ của anh ta.

    Vậy là Angeline đi loanh quanh lâu đài.

    Thật chẳng ngạc nhiên khi nó bị ma ám.

    Dù đã được tu bổ và sửa chữa, vẫn không thể nào thổi bay đi cái linh hồn hàng trăm năm tuổi đang trú ngụ trong nó. Các hành lang đều âm u tối, phòng đóng im lìm, không tiếng động. Chỉ cần một bước chân nhẹ của ai từ đầu bên kia hành lang cũng có thể nghe thấy.

    Vào buổi chiều, lâu đài lặng thinh.

    Angeline thậm chí chẳng thấy bóng người nào. Cô tự hỏi Abigail ở đâu và làm gì trong suối những tháng ngày ở đây. Con bé không hề ra ngoài, vì nếu nó ra ngoài, Angeline đã thấy nó. Cô ước có thể nói chuyện với nó, nhưng không thể. Cô không thể nói chuyện với nó vì nó ghét cô. Và những cảm giác tủi hổ, tội lỗi, căm ghét lại bủa vây quang cô và thắt chặt cô trong những sợi dây của chúng.

    Có đôi khi, Angeline nhìn mình trong gương.

    Cô không thấy chính mình.

    Cô thấy một kẻ xấu xí, một kẻ giết người đứng ở đó. Một kẻ độc ác với nụ cười ta ma và nguy hiểm.

    Kẻ đó có một lỗ thủng gỉ sét ở ngực. Ở đó, máu tuôn xuống bóng tối.

    Sự xuất hiện của Abigail, thậm chí chỉ là những suy nghĩ của nó, cũng đã đủ để mấy vết gỉ sét đó loang lổ ra trong cô. Những vết gỉ sét và máu để lại dấu nơi cô đi qua, nhuộm sàn nhà một vẻ xấu xí và đau đớn.

    Trái tim Angeline đập những nhịp dồn dập. Cô nghe thấy trong lâu đài sự im lặng. Vẳng ở đâu xa bỗng có tiếng động như tiếng cửa đóng, vừa mơ vừa thực. Cô hy vọng đó không phải Abigail.

    Rồi Angeline dừng lại khi cô nghe thấy tiếng bước chân.

    Vang lên trong không gian lặng như tờ, tiếng bước chân có thể nghe thấy rõ đến độ như thể nó ngay bên cạnh cô. Angeline đứng im.

    Âm thanh ma quái ấy vang lên đều đều.

    Đều đều.

    Chậm rãi.

    Quá nhẹ để là bước chân của Howl.

    Rồi thình lình, dưới ánh sáng của ngọn đèn dưới hành lang, có một cô bé. Mái tóc nâu, vóc dáng nhỏ thó, mắt hổ phách rực lên trong bóng tối. Trông nó nhợt nhạt và xanh xao, mặc chiếc váy màu hồng son thắt nơ.

    Đó là khi tiếng bước chân đã ngừng. Không gian thanh vắng không một âm thanh.

    “Abigail?”

    Con bé chẳng đáp.

    “Abigail, là em à?”

    Đột nhiên, con bé chạy vụt đi.

    Angeline vừa gọi theo, vừa chạy tìm nó. Cô có thể nghe rõ tiếng bước chân nó trên sàn nhà, va từng bước. Lộp cộp, lộp cộp, và Angeline chạy theo. Cái bóng nhỏ thó dừng lại chờ cô ở mỗi lối rẽ hành lang, khi Angeline đến gần thì nó chạy tiếp.

    Cô thề là đã nghe thấy con bé gọi mình. “Lại đây.” Nó nói bằng tiếng thở, và Angeline chạy theo cái bóng. Trong bóng tối, đôi mắt nó vàng rực lên. Vào một khoảnh khắc nào đấy, cô cảm tưởng như nó sắp tan biến.

    “Lại đây.”

    Cái bóng chạy lên cầu thang, qua các dãy hành lang dài. Thoạt đầu Angeline nghĩ nó chỉ trêu đùa mình. Con bé vẫn ghét cô, và nó biết cô sẽ muốn gặp nó. Nhưng cô bắt đầu thấy nghi ngờ khi chợt nhận ra mình đang đứng ở cầu thang tòa tháp Tây.

    Con bé thấy cô dừng lại, cũng dừng lại, và chờ.

    Angeline dạm bước một hai bậc, rồi cô leo lên. Con bé chạy tiếp. Cái bóng chạy nhanh vun vút, tiếng giày nó nện vào các bậc thang đá xỉn màu vang dội vào tường.

    Angeline chạy theo con bé, khi đến nơi thì cô cũng đã thở không ra hơi. Tới đỉnh tòa tháp, cô chợt thấy cánh cửa đá đang hé mở. Nó hé mở như một lời mời để ngỏ, và cô không thấy Abigail đâu cả. Hẳn con bé đã lẻn vào trong. Tiếng giày đã biến mất, tòa tháp lại chìm vào sự im lặng dị thường.

    Cô hít một hơi dài và nhìn quanh, rồi lấy lại bình tĩnh. Angeline bước gần đến cánh cửa và lách mình vào.

    “Abigail?”
     
  10. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 28
    KHÔNG CÓ AI TRONG CĂN PHÒNG CẢ.

    Chỉ có cây đàn piano

    đứng đơn độc

    trước ba cánh cửa kỳ dị.

    Suy nghĩ đầu tiên của Angeline là Abigail đã vào trong một các cánh cửa đó. Con bé đang cố nói với cô gì đó, hoặc chỉ cố đùa giỡn với Angeline.

    Cả ba cánh cửa đều đóng im lìm.

    Như Howl đã nói, cô không thể mở cánh cửa Hiện Tại và Tương Lai. Vậy nên, Angeline bước vòng qua chiếc đàn và đến đứng trước cánh cửa Quá Khứ.

    Những lớp bụi dày đóng trên cửa và sàn nhà cho thấy nó không hề được sử dụng từ lâu. Cô nghi ngờ liệu Abigail có thật sự vào trong, vì nếu có, trên lớp bụi hẳn sẽ có một đường dài hình vòng cung khi gờ cửa dịch chuyển.

    Howl sẽ không thích cô vào trong này, Angeline biết thế. Cô chạm lên nắm đấm cửa và đó là khi sự tò mò thôi thúc cô xoay nó. Rất có nhiều ký ức cô đã lãng quên, chẳng hạn như tại sao cô lại bị mang đến đây. Gương mặt mẹ và giọng nói bố là như thế nào. Sự thôi thúc dai dẳng trong Angeline khiến cô đột ngột xoay nắm đấm cửa và bước vào trong dứt khoát.

    Không có bất cứ thứ gì đằng sau cửa cả.

    Theo đúng nghĩa đen.

    Bốn bề xám ngắt. Không bầu trời, không mặt đất. Ở dưới chân Angeline có vẻ cứng như sàn nhà nhưng thật ra nó trong suốt và lơ lửng những tầng khói. Cô như đang bước giữa không trung. Có một sợi dây thừng vàng buộc ở cánh cửa, và nó kéo căng, chạy dài giữa không trung vô định tới hút tầm mắt. Angeline bám chắc vào nó và cố không nhìn xuống dưới chân.

    Rồi không gian xám ngoét bắt đầu nứt toác ra như vỏ một quả trứng.

    Các mảng màu bong tróc. Rơi xuống. Rệu rã. Đằng sau những khối màu xám đang tan đi, để lộ một màu xanh dương kỳ dị. Angeline dán mắt vào những ô xanh dương và trắng đan xen cho đến khi nhận ra nó là bầu trời.

    Dưới chân cô là những mảng màu vàng. Vàng, trắng, xanh. Cho đến khi màu xám biến mất hoàn toàn, và một cơn gió không biết từ đâu thổi thốc đến, Angeline mới đột ngột nhận ra mình ở đâu.

    Cô hóa đá.

    Đầu ngón tay. Gót chân. Gương mặt cô, cơ thể cô, bỗng hóa thành một bức tượng thạch cao, cô cảm thấy mình tê dại. Angeline không thể thở.

    Những làn gió biển thổi ập vào bức tượng cô, như muốn hất tung cô lên trời. Ánh nắng vàng gay gắt chiếu thẳng vào mắt Angeline, đôi mắt cô giãn to và ngước nhìn xung quanh bằng cái nhìn thẫn thờ. Mùi gió biển, mùi cát, mùi nắng, mùi tanh và mùi cây cỏ chảy đầy trong hai lá phổi của Angeline thay vì không khí.

    Đây là vùng Ánh Sáng.

    Cô không thể nhầm. Vì nếu là vùng Bóng tối, ánh mắt trời sao có thể rực rỡ và ấm vậy. Vùng Bóng Tối không có mặt trời.

    Những hạt cát biển lấp lánh nắng, tiếng sóng ngoài khơi, mùi muối mặn nồng. Tất cả đều rất thật, đều đang trước mặt Angeline. Đây là mơ. Cô nghĩ. Nhưng nó cũng không thể là mơ được, không thể với sự sống động này.

    Angeline bước đi lảo đảo. Cô nhìn thấy phía trước một người, ánh nắng làm cô hoa mắt. Các tia nắng chiếu vào người kia, ánh lên các hạt màu bạc lấp lánh. Cô thấy một đứa trẻ, chừng bốn, năm tuổi, người gầy gò và có mái tóc bạch kim dài thướt. Angeline ngẩn người ra một lúc thì nhận ra đó là cô.

    Đó từng là cô.

    Angeline đến gần đứa trẻ, và dường như nó không thể thấy cô. Trên vũng cát ẩm ướt phẳng lì, đứa trẻ đắp một đống cát lên và xây lâu đài. Cái lâu đài tí hon đứng không vững, xiên xẹo, trông như sắp đổ đến nơi. Đứa trẻ mải mê đắp cát, còn Angeline đứng nhìn nó, môi cô run rẩy, trái tim cô cũng run rẩy.

    Angeline hầu như không thể nhận ra đó là mình. Dẫu đứa bé kia cũng có mái tóc bạch kim, đôi mắt xanh, hai hàng mi trắng cong, có thêm vài nốt tàn nhang lấp tấm trên sống mũi mà giờ đã không còn. Nước da nó đậm hơn cô bây giờ - cái màu da cháy nắng của người vùng biển, tràn ngập sức sống. Hai bàn tay xương đầy cát, mắt nheo nheo lại.

    Khi Angeline cúi xuống nhìn con bé, nó cũng không hề ngẩng đầu lên. Cô đứng đó và nhìn vào bản thể của chính mình.

    Đột nhiên, một tiếng gọi vọng lên, tước ngang cơn gió biển:

    “Angeline! Angeline, con không định về ăn trưa à?”

    Con bé ngẩng lên, cười toe toét, phủi qua loa bàn tay đầy cát ẩm và đứng dậy.

    Angeline nhìn theo hướng con bé đang nhìn. Ở xa, dưới ánh nắng và bãi cát lấp lánh, một người phụ nữ tiến đến. Bà nheo mắt nhìn con bé. Bà có nước da cháy, đôi môi đầy đặn, mái tóc vàng óng ả. Bà mặc một chiếc váy vải nâu, tay áo lửng, đang bước lại gần đây.

    “Con ở đây!” Đứa trẻ reo lên cạnh Angeline. “Xem lâu đài của con này!”

    Angeline đứng dậy. Bấy giờ, trái tim run rẩy của cô rơi ra khỏi lồng ngực, giãy đập trên cát như một con cá chết cạn. Vũng cát nơi cô đứng nhuốm màu đau đớn lẫn kiệt quệ.

    Mẹ.

    Bà tên là gì nhỉ?

    Bà là ai?

    Bà đã gặp cha như thế nào?

    Tại sao bà lại yêu cô nhiều đến thế? Nhiều hơn cả sinh mạng mong manh của bà.

    Mẹ có nước da cháy, đôi môi đầy đặn, mái tóc vàng óng ả. Mẹ mặc chiếc váy vải nâu, tay áo lửng, và đang đứng trước mặt cô. Những tia nắng chiếu xiên qua bà, và gió hất tung những sợi tóc mặt trời lên không trung. Mẹ cúi xuống và nhìn lâu đài cát xiên xẹo của bé con.

    “Con khéo tay quá, Angie. Nhưng lần sau đừng đến gần biển thế này một mình, được chứ? Con có thể bị sóng đánh cuốn đi đấy.”

    Phải rồi, giọng nói của mẹ. Angeline nheo mắt trong ánh nắng gay gắt và nhìn bà, giọng bà là thứ giọng của biển cả và gió. Là giọng của màu sắc và hương thơm, giọng của sự bình yên và thân thuộc. Khi nhìn thấy mẹ, một điều gì đấy bỗng trỗi dậy trong Angeline. Một điều gì đó cô tưởng chừng đã không còn ở trong mình, một điều xa về và vĩnh viễn thuộc về ánh mặt trời.

    Cô có thể,

    có thể,

    ở đây mãi.

    Giây phút mà cơn sóng đánh tan tòa lâu đài,

    và giọng cười của mẹ vang lên,

    nước mắt đã lăn dài trên gò má, xuống cả cằm và cổ cô, mặn như nước bể.

    “Được rồi, bé con.” Mẹ hôn lên trán đứa trẻ. “Đi nào, về ăn trưa thôi. Con có thể xây tiếp vào buổi chiều.”

    Con bé chân đất dẫm lên cát, cát dính lấm lem lên khắp bàn tay, và hai cái bóng dáng một lớn một nhỏ đó quay lưng với Angeline mà bỏ đi.

    Một phần nào đó, cái phần bị chôn sâu dưới tầng tầng lớp lớp những sự dối trá, nghi hoặc, tội lỗi, xấu xa, bất cần, không sợ hãi, lạnh lẽo và bất chấp mạng sống, cô tìm thấy một mảnh nhỏ bé màu vàng.

    Ánh mặt trời. Bãi biển. Mẹ.

    Tất cả đang khơi dậy trong cô một điều gì đó khác lạ.

    Kể cả khi những mảng màu tan đi, cô vẫn cảm thấy điều đó. Tiếng một loài chim biển nào đó vang lên, hòa trong tiếng sóng, thành một bài ru yên bình. Đây là nơi cô có thể ở mãi. Mảnh đất của cô. Bãi biển của cô. Vầng dương của cô. Tòa lâu đài cát của cô.

    Angeline lần lại sợi dây thừng và trở về căn phòng. Cô đóng sầm cửa lại, rồi ngồi thụp xuống giữa những mảng màu xám vàng của căn phòng. Ở bên ngoài, trời loang lổ màu giấy ố vàng, gió lặng thinh không thổi. Hơi thở của mùa thu tràn vào căn phòng.

    Angeline ôm lấy hai đầu gối mình và khóc.

    Vai cô chùng xuống, rung lên.

    Cô đã để quên mất trái tim mình ở bãi cát. Và giờ, trong cô chỉ có sự trống rỗng, nuối tiếc, và căm phẫn.

    Sẽ chẳng sao nếu cuộc sống ở lâu đài Quỷ là cuộc sống duy nhất cô biết.

    Sẽ chẳng sao nếu cái ngày nắng chói chang đó chỉ hiện về trong một giấc mơ xa vời.

    Sẽ chẳng sao cả.

    Nhưng một chút hình ảnh trôi lại từ quá khứ đã làm tâm hồn và cơ thể cô nứt toác. Cô nứt toác dưới ánh mặt trời, và nếm được vị nước mắt trên môi. Angeline ngồi nhìn trân trân cây đàn. Thẫn thờ. Cô chợt nhớ ra mình cũng từng có một cuộc sống đẹp, nhẽ ra cô phải có một cuộc sống như thế. Cô chợt nhớ ra mình có thể lựa chọn. Trong giây lát, những đám mây u tối trong đầu cô tan đi, nhường chỗ cho nắng vàng.

    Maya nói đúng.

    Lâu đài Quỷ không tốt.

    Cô không thuộc về nơi này.

    Giá như,

    giá như.

    Angeline nghĩ.

    giá như mà,

    cô có thể trở về,

    bãi biển ấy.



    *


    ANGELINE ĐỨNG DẬY, rũ bụi ra khỏi áo mình. Howl sẽ sớm về và cô không muốn mình bị bắt gặp. Cô vuốt lại tóc, lau nước mắt, và đứng thẳng, hếch cái cằm lên.

    Cô khóa mảnh màu vàng nắng của mình ở sâu cùng trái tim và vứt chìa khóa đi.

    Đó sẽ là ký ức mà cô mang xuống mồ. Đó sẽ là ký ức để nhắc nhở cô, việc bây giờ cô còn sống và thở, là nhờ người phụ nữ vĩ đại mà cô gọi là mẹ. Cô sẽ giữ trọn mọi ký ức về bà để nhớ rằng bà đã hy sinh nhiều như thế nào cho cô.

    Và chắc chắn là bà đáng để nhớ đến nhiều như thế.

    Bây giờ thì cô đã nhớ. Mẹ là nắng, là gió, và là biển.

    Angeline hít một hơi, cô bỗng thấy nhẹ nhõm. Trong một thoáng ngắn ngủi, mây bỗng tan bớt đi và những sắc vàng nâu làm căn phòng sáng lên. Trong không gian đầy mùi bụi và gỗ. Cô vòng qua chiếc đàn để đi đến cửa, nhưng rồi ánh mắt bắt gặp một tia sáng lóe lên giữa những sợi dây đàn kéo căng. Angeline nhìn vào trong và nhận ra có một chiếc chìa khóa đồng kẹt giữa những sợi dây đàn.

    Thật kỳ lạ.

    Tại sao cô và Howl không thấy nó trước đấy?

    Angeline cẩn thận gỡ chiếc chìa khóa ra, nó vẫn còn bóng và chỉ dính một ít bụi từ cây đàn. Màu đồng đã xỉn. Ở đầu kia chìa khóa có hình một vầng trăng lưỡi liềm được đúc tinh xảo. Tại sao nó lại có ở đây? Cô tự hỏi, liệu nó liên quan gì đến Abigail không, có phải con bé muốn dẫn cô đến cái chìa khóa này.

    Trăng khuyết, vầng trăng khuyết, dường như cô đã trông thấy ở đâu đó rồi.

    Và Angeline thình lình nhận ra nó.

    Rõ như ban ngày.

    Rõ như những ký ức của cô.

    Cái khóa đồng xỉn màu trên nắp tầng hầm tòa tháp cũng có hình mặt trăng.
     
  11. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 29
    KHÔNG CÓ MỘT CƠN GIÓ CHẾT TIỆT NÀO CẢ.

    Khu rừng im lặng.

    Giống như một con thú đã chết, hơi thở của nó không còn.

    Angeline bước đi giữa thảm lá ố màu trên đất. Một chuyển động nhỏ của bầy sóc và chim cũng có thể lọt vào mắt cô, vì không có một cành cây ngọn cỏ nào lay động cả. Giống như thể cả cánh rừng đã bị đóng băng và chỉ có cô là người duy nhất có thể cử động.

    Mùa thu nào cũng thế cả.

    Hầu hết lá cây đã rụng hết, để lại những cành cây khô trơ trọi và vài chiếc lá còn bám víu ở trên. Có những chùm quả dại ở các bụi cây nhỏ, khi chín đã không rụng xuống đất hay bị mấy con thú ăn nên héo quắt lại, nhăn nhúm và đen xỉn, bám chặt vào cành cây.

    Tòa tháp đã hiện ra trước mặt cô, với dòng suối trong vắt và lặng yên ở gần. Những hòn đá phủ đầy rêu ẩm ướt, và khác với mùa mưa, nước của nó chảy rất chậm, bụi lắng xuống nên có thể thấy rõ cả đáy suối. Lũ cá bơi hoảng loạn khi Angeline đi qua.

    Cô vẫn còn giữ chìa khóa vào tòa tháp. Ở bên trong, người ta đã dọn sạch mọi thứ, căn phòng trở nên trống trải. Angeline nhẹ nhàng khép cửa lại như thể sợ nếu tạo ra tiếng động mạnh sẽ đánh thức ai đó đang ngủ. Cô bước đến gần cửa sập tầng hầm. Mấy tấm ván gỗ cọt kẹt kêu.

    Angeline cúi xuống nhìn cánh cửa hình vuông trên nền nhà. Ở một góc có một ổ khóa, cái thứ mà cô đã vô tình dẫm vào bao nhiêu lần. Có một lần nó đã làm chân cô chảy máu. Angeline đã từng băn khoăn về cái tầng hầm, nhưng cô quên bẵng nó đi bao năm nay. Chẳng có gì lạ với nó cả: không có những âm thanh lạ hay bất cứ cái gì, nên cô cũng chẳng quan tâm.

    Khi Angeline mở cửa, cô bắt đầu tưởng tượng về những thứ dưới tầng hầm.

    Abigail đã dẫn cô đến cái chìa khóa, tại sao?

    Nó muốn cô biết điều gì?

    Dưới cái tầng hầm này, rốt cuộc, có gì?

    Tiếng khóa kêu một tiếng nhỏ và bật mở. Khó khăn lắm cô mới kéo được sợi dây xích sắt dày cộm ra khỏi ổ khóa. Sau bao năm không được sử dụng, lớp gỉ sét đã biến thành thứ keo đặc gắn cánh cửa vào nền nhà, Angeline xoay vặn đủ cách nhưng vẫn không thể mở nó ra. Nó thậm chí chẳng buồn nhúc nhích.

    Mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán Angeline. Cô ngồi xuống sàn nhà, chán nản nhìn cánh cửa.

    Cảm giác khi đang đứng trước ngay câu trả lời nhưng lại không thể với tới nó như ngọn lửa thiêu đốt bao tử Angeline. Cô nhìn quanh xem có bất cứ thứ gì dùng được không. Nhưng người ta đã dọn dẹp tất cả. Tòa tháp lại lần nữa bị bỏ hoang.

    – căn phòng ngủ bằng một nửa phòng cô ở lâu đài Quỷ và có độc một ô cửa sổ vỡ ở cuối phòng. Tim cô thắt quặn lại. Cô đã ở đây suốt nhiều năm, và hơi thở quen thuộc của nó làm Angeline chỉ muốn nán lại. Chẳng thể bù cho căn phòng cô đang ở, nó rộng đến trống trải và ma quái.

    Họ vẫn để lại cái giường. Nó có khung bằng sắt và đã gỉ sét nhiều. Mỗi lần cô cựa quậy, tiếng các khớp nối sẽ cọ vào nhau nghe nhức tai. Những khớp nối của phần khung đều đã lỏng lẻo. Cô xem xét một hồi, sau đó đá mạnh vào mấy thanh xà ngang nối cái khung cuối giường. Nó rung lên nhưng không dịch chuyển mấy. Angeline tiếp tục đá mạnh vào nó, và một lúc sau, thanh xà đã bung ra.

    Ở đầu khung xà, sắt được cán phẳng và bẹt. Angeline tiếp tục phá khớp nối đầu kia của thanh sắt. Những lớp gỉ khiến nó dính chặt vào chân giường. Cuối cùng, khi cái móc nối chịu bung ra, thanh xà sắt rơi xuống. Âm thanh kim loại va chạm với nền gỗ tạo ra tiếng động khá lớn, đặc biệt khi xung quanh lại yên ắng như vậy. Bụi cuộn lên và một ít gỉ sắt bong ra.

    Angeline nhấc chân giường lên để lấy thanh xà ra khỏi, rốt cuộc cô cũng có một cái đòn bẩy khá khẩm. Vấn đề còn lại là liệu cô có thể làm gì với nó và cánh cửa kia.

    Cô quay xuống tầng một. Thình lình cô nhìn thấy Howl, đứng ở giữa căn phòng như thể cậu đã ở đó từ lâu rồi. Sự xuất hiện của cậu ta tặng cho cô một cú đau tim.

    Howl nhìn Angeline rồi lại nhìn thanh sắt trên tay cô, nhướn mày. “Có gì cô muốn nói với tôi không?”

    “Anh làm gì ở đây?”

    “Tôi về thì thấy cô đang đi vào rừng.” Howl nhún vai. “Trông vội vã lắm, tôi nghĩ chỉ có thể đến đây. Cô tưới mấy cây táo à?”

    Lời nói của anh ta giống một lưỡi dao cạo, xé dọc một đường từ phổi đến bao tử cô, và sự tự ái lẫn tội lỗi thấm đầy cơ thể Angeline. Cô đứng im như tượng một hồi, cố nuốt trôi cái cục giận dữ đó vào như nuốt một cục than.

    “Không.” Cô lạnh nhạt. “Tôi tìm thấy vài thứ.”

    Cô đi qua Howl với thanh sắt trên tay, tưởng chừng như rất muốn đâm trả anh ta một nhát. Những ngón tay cô bấu chặt lấy thanh sắt đến trắng bệch.

    “Được thôi, thứ gì vậy?”

    “Tôi chưa biết.” Angeline nói rồi im bặt. Cô nhét phần đầu bẹt của thanh sắt xuống kẻ hở giữa cánh cửa và sàn nhà, rồi lấy hết sức mà bẩy nó lên. Cánh cửa có nhúc nhích đôi chút, những lớp gỉ bong nứt ra.

    Howl bật cười ngặt nghẽo. “Lùi ra nào, tiểu thư.”

    Angeline cáu kỉnh nhìn cậu. Howl bước đến, giành lấy thanh sắt trong tay cô và bẩy cánh cửa lên. Những đường gân trên tay và cổ cậu hằn lên rõ. Cánh cửa hơi nhúc nhích, có vẻ lỏng hơn. Chỉ khi gương mặt cậu chuyển sang đỏ gay nó mới bật mở.

    Howl dựng thanh sắt sang một bên. “Tại sao người ta luôn thích làm cửa bằng sắt nhỉ?”

    Angeline chẳng nói chẳng rằng, cô cúi xuống và lấy tay kéo cánh cửa sập lên. Cái bản lề cửa kêu rin rít rồi kẹt cứng. Cô tức giận đá mạnh vào nó và cái cửa đổ sập xuống bên kia sàn, để lộ một cái lỗ vuông đen trên sàn nhà. Có một cầu thang dẫn xuống dưới.

    “Làm sao cô mở được khóa cửa vậy?” Howl ngó xuống dưới.

    “Tôi tìm thấy chìa khóa trong cây đàn của mẹ anh.” Cô nói gọn lỏn.

    Howl ngạc nhiên. “Trong đàn của mẹ tôi sao? Sao nó lại ở đó.”

    “Đừng hỏi tôi. Đó là đàn của mẹ anh mà.”

    Angeline nhìn quanh. May mắn thay, có một khay nến đặt trên lò sưởi người ta vẫn để nguyên. Cô luôn đặt diêm ở trên thành lò sưởi, cạnh que cời lửa. Angeline lấy diêm thắp những cây nến rồi cô cẩn thận bước xuống bậc thang ở tầng hầm.

    “Cẩn thận đấy.” Howl nói, trong khi cô mò mẫm từng bậc thang gỗ. Giữa những bậc thang có một kẽ hở lớn, những thanh gỗ mà cô dẫm lên vẫn còn chắc chắn nhưng dính đầy bụi và mạng nhện. Cô có cảm giác ma quái rằng sẽ có một bàn tay nào đó thò ta từ khoảng hở giữa các bậc thang và lôi cô vào bóng tối.

    Gạt bỏ những suy nghĩ đó, Angeline vẫn tiếp tục dò dẫm trên cái cầu thang. Cô nín thở. Hơi bụi ẩm và thứ mùi hôi ngai ngái xộc lên mũi cô. Cây nến không soi sáng được nhiều, và xung quanh cô đều là bóng tối. Angeline từng bị ám ánh bởi bóng tối khi cô mới đến đây. Cô có thể tưởng tượng ra hàng tá thứ ẩn nấp trong bóng tối, dõi theo cô bằng những con mắt ma mị và sẵn sàng vồ chộp lấy cô bất cứ khi nào.

    “Ổn chứ?” Howl hỏi.

    “Tôi không sao.”

    Cuối cùng, bước chân Angeline đã ở trên nền tầng hầm. Cô thả tay mình ra khỏi tay vịn cầu thang và nhìn xung quanh, những nơi mà ngọn nến soi sáng được.

    “Soi cho tôi, để tôi xuống.” Howl nói, và Angeline vội giơ những cây nến để soi lối cho cậu.

    “Bụi.” Howl lẩm bẩm chửi thề khi quần áo và cả tay cậu dính đầy bụi.

    Angeline bước những bước thận trọng trong tầng hầm. Bấy giờ khi mắt đã quen với bóng tối, cả hai có thể quan sát rõ hơn căn phòng. Tầng hầm khá rộng, không hề có đến một cánh cửa nào cả. Nó được xây bằng đá đặc, sàn nhà bằng gỗ dày. Có một hai cây cột dựng giữa phòng, mục nát và đầy mạng nhện. Những con nhện bò ngay trên đầu Angeline, chạy đi và nấp vào bóng tối. Có một chiếc bàn đá dài kê sát vào tường, có lẽ là bằng đá. Một bồn rửa tay với vòi nước hỏng, nước nhỏ lách tách vang lên giữa không gian im lặng. Angeline cầm khay nến soi vào một cái tủ kính mờ ố. Bên trong đầy những chai thủy tinh kỳ lạ, tất cả đều đã được dán nhãn nhưng chữ viết đã mờ đi. Có một vài lọ đựng những thứ giống thảo dược phơi khô, những cái lọ khác lại chứa các dung dịch đặc quánh, đen lại. Angeline rùng mình khi nghĩ đến việc chúng là gì và để làm gì.

    Howl xem xét một cái vạc đồng trên bàn đá. Ở bên trong nó đầy những vụn xỉn màu đen và bụi. Một con côn trùng gì đó vội vàng chạy ra khi cậu nhìn vào cái vạc.

    Giữa nền nhà chính giữa tầng hầm, một ký hiệu hình tròn và ngôi sao năm cánh cùng các dòng ký tự kỳ lạ được vẽ. Angeline nhìn Howl.

    “Tuyệt lắm.” Cậu nói. “Cô sống trên hang ổ của phù thủy mà không biết sao?”

    Angeline lắc đầu, nhưng có vẻ không làm cậu tin được.

    “Chắc chắn nó của mẹ tôi.” Cậu nói, nhấc một con dao cùn lên khỏi bàn. “Bà ấy làm phép ở đây.”

    “Mẹ anh là phù thủy sao?”

    “Không.” Howl nói, nhưng rồi cậu cân nhắc sửa lại. “Tôi không biết, nhưng có vẻ bà ấy đã học phép phù thủy ở đâu đó. Nếu cô xin tôi lời khuyên, thì tôi khuyên cô nên tránh xa bọn phù thủy ra. Chúng có thể giết những kẻ không thể giết đấy.” Howl nhìn Angeline như thể cậu ta đang nói về cô. Angeline chột dạ, cô quay đi.

    “Hoặc làm cuộc sống cô khốn khổ. Tùy theo mức độ đắc tội của cô với mụ phù thủy đó đã.”

    Angeline không nói gì, cô soi nến và ngắm nghía từng thứ. Một cảm giác gai gai chạy dọc suốt sống lưng cô, cô biết có thứ gì đó ở đây mình cần để mắt. Một thứ gì đó mà Abigail muốn cô tìm thấy.

    Nhưng tại sao con bé biết về cái tầng hầm này?

    Nó chưa từng đến tòa tháp, Maya thì có.

    Vậy có thể Maya đã nói cho con bé. Nhưng Angeline không thấy lý do này thỏa đáng lắm, vì cô vẫn không hiểu nổi chiếc chìa khóa có ở đâu ra.

    “Xem này.”

    Howl nói. Cậu tìm thấy thứ gì đó trên bàn - một cuốn sách dày và nặng, dính trắng mạng nhện và bụi. Angeline đến gần cậu và chăm chú nhìn cuốn sách.

    “Cuốn sác Bóng tối của phù thủy.”

    “Là gì thế?” Cô hỏi.

    “Mỗi phù thủy đều có một cuốn sách Bóng tối. Họ dùng sách này để ghi chép mọi thứ: những câu thần chú, các loài thảo dược, vân vân. Tóm lại giống một cuốn ghi chép riêng của phù thủy vậy.”

    Cậu vén lớp mạng nhện dày khỏi cuốn sách. Một con nhện lồm cồm bò ra và vội vãi chạy đi.

    Howl mở cuốn sách, lật từng trang. Giấy đã ố vàng, mực viết nhòe đi và đầy các lỗ mọt. Angeline đặt khay nến xuống bàn. Tất cả mọi thứ trong cuốn sách đều là viết và vẽ tay. Trong lòng cô nhen lên chút ngưỡng mộ trước những hình vẽ đẹp như in ấy.

    “Bà ấy khéo tay thật.” Angeline nói.

    “Ước gì tôi hưởng được chút điều đó.”

    Cô bật cười. Những ghi chép về ma thuật chỉ tốn một nửa cuốn sách. Có lẽ mẹ Howl không phải là một phù thủy thật sự, bà chỉ làm phép khi cần thiết. Trong sách hầu như chỉ là thông tin về các loài cây, nguyên liệu và một vài câu thần chú không có gì đáng nói. Angeline nhận ra những tờ giấy ghi chép về câu thần chú của cây táo được xé ra từ cuốn sách này.

    “Xem này.” Howl nói. Phần sau của cuốn sách giống một cuốn nhật ký. Với những nét chữ thưa nghiêng nghiêng và dài, và dẫu mực đã nhòe đi, cả hai vẫn đọc được một vài dòng khi lật qua lại các trang giấy.

    “Đây là nhật ký của bà ấy.” Howl mím môi. Angeline lén nhìn cậu, thấy trong đôi mắt cậu phảng phất sự bồn chồn. Cô có thể cảm nhận được sự nôn nóng lẫn bất ngờ tỏa ra từ người Howl như một mùi hương đặc trưng.

    “Có thể chúng ta sẽ biết gì đó về cái chết của bà ấy.” Angeline nói. “Có lẽ là anh sẽ biết.” Cô sửa lại lời mình.

    “Chúng ta sẽ mang nó đi.” Howl gấp cuốn sách lại. Thậm chí nó còn hơi bám dính xuống chiếc bàn. Khi cậu nhấc cuốn sách lên để lại một ô hình chữ nhật trên bàn không bị dính bụi. Lũ mọt chui ra.

    Cuốn sách khá nặng. Howl đi trước, và Angeline cầm khay nến theo sau cậu. Cậu không nói thêm một lời nào, và cô băn khoăn không biết cậu ta đang nghĩ gì. Một điều gì đấy vừa thoáng gợn lên trong đôi mắt cậu, Angeline khó mà cắt nghĩa được nó.

    Cô thổi tắt nến và đóng cánh cửa hầm lại. Khi cô khóa xong cánh cửa rồi trở ra ngoài, cô bắt gặp Howl đang ngồi bên bờ suối với cuốn sách đang mở.

    Trong giây phút ấy, cô chợt nhận ra một điểm tương đồng giữa mình và Howl. Cả hai đều không còn gia đình. Những mảnh yêu thương, những mảnh hạnh phúc còn sót lại đều nằm lạc trong quá khứ. Cả hai đều cô đơn.

    Angeline hiểu sự cô đơn này, bởi cô đã trải qua nó mỗi ngày.

    Mỗi ngày từ khi cô bước chân sang vùng Bóng tối.

    Cô tự hỏi liệu Howl cũng đang gánh chịu cảm xúc tương tự. Cậu có yêu mẹ không? Cậu có nhớ gương mặt bà không? Giọng nói của bà? Hẳn là cậu không thể.

    Sự tương đồng ấy làm trái tim Angeline quặn lại như trúng độc.

    Cô chợt bắt gặp ánh mắt Howl khi cậu ngẩng lên và nhìn mình. Cả hai quay đi trong sự khó xử. Khi hai người trở về lâu đài, không ai nói một lời gì thêm.
     
  12. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 30
    ANGELINE CẢM THẤY MÌNH LÀ MỘT CON CHIM.

    Một con chim nằm trong lồng, rũ mình chờ ngày chết.

    Cô còn không biết liệu lâu đài Quỷ có phải cái lồng đó không. Cô không hiểu Howl giữ mình lại để làm gì, cậu đã đọc được gì từ cuốn sách Bóng tối? Dẫu cô chưa từng tò mò về mẹ Howl, thì sau khi biết bà là người chủ tòa tháp, thì một ít sự tò mò đã nhen lên trong cô. Cô muốn biết người phụ nữ tội nghiệp ấy đã sống và chết như thế nào.

    Cô biết rằng Howl ghét bố mình, nhưng có vẻ cậu không ghét Myris. Thật khó để ghét bỏ người mình chưa từng gặp đến mười mấy năm. Một người đã chết.

    Hoặc cũng có thể vì cái chết của bà làm cô nhớ đến mẹ mình. Những người mẹ, những người phụ nữ đáng thương, và những đứa con đáng thương.

    Cô vẫn quanh quẩn ở cánh đồng với đàn ngựa. Không trung lặng thinh, không một ngọn gió, và khắp các dải đồi là cỏ úa với lá khô. Lũ ngựa thẩn tha gặm cỏ, điềm nhiên và lãnh đạm. Chúng béo tốt, thậm chí còn hơn cả Angeline, khỏe mạnh dẫu chỉ được dùng đến khi Howl cần đi xa. Bây giờ thì cậu đang đi xa thật, cô loáng thoáng nghe cậu sẽ đi đến mấy ngày.

    Angeline ngồi dưới gốc táo như mọi khi. Buổi sáng mùa thu, khung cảnh trước mặt cô tĩnh lặng và rõ nét đến độ có thể nhìn được những thân cây ở bìa rừng. Đôi khi cô chỉ cần có thế, ngồi yên mãi trước dãy đồi ngả màu vàng úa.

    Khi mọi thứ đạt đến độ yên tĩnh đó, cô có thể nghe bất cứ âm thanh nào dù nhỏ. Tiếng cỏ khô lào xào khi có người bước đến. Angeline ngẩng lên, trông thấy Abigail ngồi xuống cạnh mình.

    Cô bé tái nhợt và tiều tụy. Vài phút trôi qua, không ai mở lời trước. Cả hai đều nhìn lũ ngựa đang gặm cỏ giữa cánh đồng.

    “Em xin lỗi.”

    Abigail nói lí nhí. Cô bé còn không dám nhìn vào mắt Angeline. Nó nhìn xuống đám cỏ khô và vặt chúng lên.

    Angeline có chết cũng không nghĩ con bé sẽ nói thế với mình. Cô thấy bất ngờ, lặng đi vài giây, lưỡng lự. Rồi đáp lại:

    “Vì điều gì?”

    “Vì gọi chị là đồ giết người.”

    Vết thương trên người Angeline lại chảy máu trở lại.

    Và nhỏ xuống đất.

    Cô lặng thinh. Cô không nghĩ con bé gọi mình thế là sai. Cô hoàn toàn không trách giận nó. Một phần nào đấy, cô cảm thấy nhẹ nhõm vì nó đã không còn giận cô. Nhưng phần khác, cô lại cảm thấy ngược lại, vì nó xin lỗi không có nghĩa điều cô làm là đúng.

    Giết người có đúng không?

    Dù ông ta không phải là người. Và ông ta cũng chẳng xứng đáng được sống.

    Cảm giác xấu hổ, tủi thẹn và tội lỗi chảy tràn trong ngực Angeline như khói độc. Cô sẽ chết vì độc. Cơ thể cô sẽ héo quắt lại. Đã hơn một lần, cả lúc trong mơ và khi còn thức, Angeline giả sử mình đã không giết ông ta. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô không giết ông ta? Ít nhất, Abigail sẽ không mất cha. Con bé sẽ không mồ côi. Bất chấp mọi lý lẽ của cô, sự tội lỗi trong ngực cô, sự cắn rứt trong lương tâm và cả sự ám ảnh hiện tại, Angeline biết cô sẽ vẫn chọn giết Moldark nếu quay ngược lại thời gian.

    Không có chữ nếu nào ở đây cả.

    Cô đã biết mọi cái giá phải trả và cô đang phải trả chúng. Mỗi ngày. Mỗi giờ. Mỗi giây đồng hồ.

    Moldark cũng phải trả giá vì sự tàn nhẫn và ích kỷ của ông ta. Tất cả mọi người đều phải trả giá cho việc mình làm.

    “Em nói không sai đâu, Abigail. Chị là đồ giết người.”

    Con bé ngẩng nhìn cô.

    “Không lời xin lỗi hay ngụy biện nào có thể thay đổi được điều đó.”

    Abigail cúi xuống và bứt những lá cỏ. Chúng tơi tả trong đôi tay giận dữ của cô bé. “Em biết chị sẽ nói thế.”

    Một cơn gió nhẹ bỗng tạt qua chỗ hai người đang ngồi, cuốn theo đi sự bức bách trong Angeline và khiến cô trở nên nhẹ nhõm. Những vết hoen gỉ đang bong tróc ra khỏi ngực cô, và gió cuốn chúng đi.

    Abigail đã tha thứ cho cô, Angeline không đòi hỏi gì nhiều hơn thế. Nỗi đau của cô, cô có thể chịu được. Nhưng cô không muốn con bé chịu điều tương tự. Về phần Howl thì thật đơn giản. Anh ta trông thanh thản hơn khi Moldark đã chết nhiều.

    “Anna có nhắc đến chị đấy.” Đột nhiên, Abigail lên tiếng.

    “Ai là Anna?”

    “Anna. Cô ấy là bạn em. Chị không thể thấy cô ấy đâu, trừ khi Anna muốn.”

    Bây giờ, không còn đứa trẻ nào trong lâu đài Quỷ cả, ngoài Abigail. Maya và cô thì không thể coi là trẻ con nữa rồi. Angeline biết thế vì nếu có đứa trẻ nào khác, cô hẳn đã thấy.

    “Anna nói gì?” Angeline vẫn hỏi.

    “Bạn ấy nói chị nên đọc cuốn sách chị tìm thấy ở tầng hầm.”

    Một cơn lạnh đến rùng mình chạy dọc sống lưng Angeline đến tận gáy cô và làm những sợi tóc tơ dựng lên. Không ai ngoài cô và Howl biết đến cuốn sách Bóng tối hay cái tầng hầm ở tòa tháp.

    Không ai cả.

    Nhưng rồi, Abigail, và chiếc chìa khóa. Hẳn con bé đã biết. Cô không hiểu làm sao nó biết, nhưng nó đã chỉ cô đến chỗ cuốn sách. Mười ba năm nay, tầng hầm đã bị khóa. Mười ba năm nay, Abigail chưa từng đặt chân đến tòa tháp, chưa nói gì đến tầng hầm.

    Làm sao nó có thể biết?

    Đã có ai đó nói cho nó chăng?

    Có thể là Myris? Có thể bà vẫn ở trong lâu đài Quỷ?

    Angeline ngước đôi mắt lên nhìn tòa lâu đài. Những ô cửa kính tối thui và đen ngòm. Vào những ngày mưa ảo não nhất, các hồn ma sẽ xuất hiện và đi lang thang khắp nơi.

    Liệu trong số đó có Myris không?

    “Anna nói chị có thể giúp cậu ấy.” Abigail nói tiếp.

    “Giúp việc gì?”

    “Cậu ấy nói chị phải giúp cậu ấy. Chỉ thế thôi. Chị phải đọc cuốn sách. Cuốn sách đó là thế nào vậy?”

    Angeline nhìn xuống lòng bàn tay mình, lảng tranh đôi mắt thắc mắc của Abigail. “Chỉ là một cuốn sách cũ về ma thuật thôi. Chị sẽ xem qua nó.”

    Abigail gật gật đầu, dù vẫn còn đâu đó trên nét mặt cô bé phảng phất sự hoài nghi.

    “Vậy chị sẽ giúp Anna chứ?”

    Angeline nhìn Abigail, rồi gật đầu.

    Cô chẳng quan tâm ai là Anna cả. Ngồi trước mặt cô chỉ có Abigail bé nhỏ và tiều tụy. Một Abigail có đôi mắt sáng và mái tóc hạt dẻ, một Abigail có giọng cười lảnh lót dễ thương mà cô ước có thể nghe lại.

    Con bé còn gợi nhắc cho cô về một điều gì đó thật trong trẻo và thuần khiết.

    Một điều,

    mà có lẽ,

    phải đào sâu, thật sâu, thật sâu vào dưới tận cùng đáy vùng Bóng tối

    mới có thể tìm thấy.

    Cô không muốn cái mảnh trong trẻo và thuần khiết đó biến mất. Giống như những mảnh thuần khiết và vô tội đã biến mất trong cô dần qua năm tháng. Angeline nhớ chúng. Chúng thật đẹp. Chúng thật đẹp và chúng cũng thật đáng thương.

    Khi nhìn vào Abigail, cô thấy con bé là một tấm gương, phản chiếu lại hình ảnh đáng ghét, bẩn thỉu, lén lút, đáng khinh, độc địa, những mảnh xấu xí trong cô. Những mảnh tội lỗi. Và cả những mảnh căm ghét.

    Cô đang mục ruỗng.

    “Tại sao em bỗng đổi ý thế?” Angeline hỏi ngập ngừng. “Ý chị là, tại sao em bỗng… bỏ qua mọi chuyện cho chị?”

    “Vì em nghĩ… ừm, em yêu bố. Nhưng có thể ông ấy đã phạm quá nhiều sai lầm để được tha thứ. Anna đã nói rõ điều đó cho em hiểu. Và giờ thì em hiểu rồi.”

    Angeline không biết nói gì cả. Cô thử tưởng tượng nếu một người, người mà mình vô cùng yêu thương, làm một việc sai trái vô cùng. Liệu cô vẫn tiếp tục bao che và phủ nhận tội lỗi đó, hay làm điều đúng đắn?

    Angeline không biết. Hẳn là Abigail cũng thế. Thậm chí Moldark là một người tồi tệ đi nữa, con bé vẫn yêu thương ông ta. Bỗng nhiên, Angeline cảm thấy xấu hổ vì sự ích kỷ kinh khủng của mình.

    Bỗng nhiên, Abigail đứng dậy, nói với cô. “Em phải về đây. Em sẽ gặp chị sau, Angeline.”

    Khi nói lời tạm biệt, đôi mắt con bé ảo não chẳng kém những chiều mưa. Lẫn lộn trong đấy những mảnh cảm xúc hỗn tạp mà Angeline có thể đọc rõ được. Cô ước cô có thể níu nó lại, nhưng nó đã đi. Nó đã bỏ đi. Một lần nữa, lồng ngực và bao tử của Angeline như đang nướng trên lửa. Mùi khét bốc lên.

    Cô đã không thể giữ con bé lại.

    Dù cô biết mình phải làm thế.

    Dù cô biết, mình sẽ phải hối hận về điều đó.
     
  13. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 31
    TIM ANGELINE ĐẬP NHƯ TRỐNG,

    như thể cô đang làm một điều gì đó rất sai trái.

    và cô là một tên trộm lén lút hèn hạ

    khi mà cô bước vào trong phòng làm việc của Howl và tìm cuốn sách nọ.

    Cậu không ở lâu đài, nhưng cô vẫn bước đi nhẹ nhàng và rón rén như một con mèo rình mồi. Cùng lúc, cô vừa cảm thấy như mình là một tên trộm, lại vừa thêm một chút xấu hổ từ cái lòng tự cao mà cô còn không biết nó ở đó. Sẽ thế nào nếu Howl về đột ngột? Cô có cảm giác như mình đang xâm phạm vào lãnh thổ riêng tư của cậu. Căn phòng này đầy mùi hương và dấu ấn của cậu.

    Lồng ngực Angeline bỗng nóng ran.

    Bây giờ, mày phải tìm cuốn sách. Angeline ra lệnh cho chính mình, nhưng cô vẫn không ngăn cản được bản thân ngắm nhìn căn phòng. Căn phòng ngăn nắp hơn Angeline tưởng tượng, sáng sủa với những ô cửa kính trong suốt hình vòm. Đối diện với một cánh cửa sổ là bàn làm việc của cậu. Angeline vòng qua chiếc bàn gỗ, lục tìm những cuốn sách trên đó.

    Cuốn sách không ở trên bàn. Angeline đến cạnh kệ sách và tìm tiếp. Một cuốn sách như thế, cô không thể không trông thấy được. Nó to, nặng, cổ xưa và đầy bụi. Rốt cuộc, ở ngăn cuối cùng của giá sách, Angeline cũng tìm được nó. Cô nhấc cuốn sách lên, nó nặng hơn tưởng tượng nhiều.

    Angeline mang cuốn sách đặt lên bàn làm việc của Howl và ngồi xuống đọc. Có vẻ cậu đã lau chùi bìa sách và đánh bóng nó, màu sắc bây giờ của cuốn sách đã đậm nét hơn, không còn mang màu bạc phếch của bụi. Những câu thần chú được ghi chép rất cẩn thận. Trên nền giấy ố vàng là những hình ảnh vẽ tay, cây cỏ, động vật, các sinh vật kỳ lạ, hay những biểu tượng mà cô chưa từng nhìn thấy bao giờ. Không thể nói là những kiến thức mới mẻ này không kích thích Angeline. Cô yêu ma thuật, như bất kỳ ai sống ở thế giới này, nhưng cô lại chỉ là người thường. Người bình thường vẫn có thể thực hiện một vài câu thần chú, nhưng để làm một phù thủy cần nhiều hơn thế.

    Những dòng chữ chuyển sang màu đỏ khi cô lật đến phần nhật ký trong cuốn sách.

    Myris viết chúng bằng mực đỏ.

    Cô không hiểu sao hai bàn tay mình run rẩy. Chỉ là mực, cô nghĩ, chỉ là mực. Angeline lật giấy, và đọc từ những dòng đầu tiên.


    Ngày... tháng... năm...

    Tên tôi, là Myris Cellia Lucifer, ba mươi tư tuổi, và tôi đang chuẩn bị cho lễ cưới của chính mình. Tôi sẽ trở thành vợ của Moldark Lucifer, và điều này thật sự ngoài sức tưởng tượng. Tôi không biết mình nên nghĩ sao lúc này, vui sướng, hồi hộp, hãnh diện, hay lo lắng.

    Ngày hôm qua tôi và mẽ đã đi xem vải may cho chiếc váy cưới. Bà có vẻ xúc động, nhưng tôi thì thấy thản nhiên quá đỗi. Tôi nghĩ bà xúc động khi nghĩ đến tương lai, đến cuộc sống sau này của gia đình tôi đã được Moldark cứu rỗi như thế nào. Không ai là không hào hứng. Khi viết những dòng này, tôi đang tự hỏi họ có mừng cho tôi thật sự không. Mẹ đã bán tôi đi để đổi lấy một cuộc sống sung túc. Bà ấy luôn luôn, luôn luôn, nói với tôi Moldark là người đàn ông tốt như thế nào, hoàn hảo như thế nào, ông ta giàu có và quyền lực. Rằng hàng trăm những quý phu nhân khác đang phải ghen tỵ với tôi.

    Tôi gặp ông ta trong một bữa tiệc, ông ta là một người đàn ông có địa vị đáng mơ ước, một cái đầu thông minh và có lẽ hơi đơn độc. Mẹ đã hơi vất vả khi giành được một suất cho tôi tham dự bữa tiệc thịnh soạn đó. Nhà Phenex đã rơi lại phía sau một cách thảm hại, kinh tế thiếu thốn và chúng tôi thậm chí phải đuổi gần hết những người hầu hạ đi. Mẹ mở một tiệm quần áo phụ nữ, thật may vì nó vẫn đông khách. Nhưng chúng tôi vẫn túng thiếu, quá túng thiếu để được dự tiệc, du ngoạn, hưởng thụ như những gia tộc khác. Mẹ nói rằng, cưới Moldark là một cách để thể hiện tình yêu của tôi với gia đình. Tôi có yêu nhà Phenex không? Đương nhiên là có. Tôi nói tôi sẽ làm mọi thứ vì gia đình, và tôi sẽ cưới Moldark.

    Dẫu sao, ông ta trông có vẻ là một người tử tế. Tôi không thể cưới ai tốt hơn như thế nữa.

    Cuốn nhật ký này sẽ là cuốn nhật kỳ phần đời còn lại của tôi ở lâu đài Quỷ. Tôi nghĩ những đứa con và cháu của mình sẽ muốn đọc và hiểu về mẹ của nó, bà của nó. Hoặc cho chính tôi.


    Dẫu cứ năm phút một lần, Angeline lại phải ngẩng đầu lên nhìn cánh cửa và cẩn thận nghe ngóng mọi âm thanh xung quanh, cô vẫn không thể bắt mình rời khỏi cuốn sách. Nỗi tò mò trong cô dâng cao như thủy triều vào đêm trăng, cô nuốt lấy từng từ chậm rãi. Myris Lucifer, mẹ của Howl, bà ta là ai? Cô muốn biết tất cả, cô muốn biết tại sao bà ta căm ghét chồng mình như thế và vì sao bà lại chết.

    Tận trong đáy lòng cô, như có ai xát muối vào vết thương hở. Người phụ nữ đáng thương, Angeline nghĩ, bà ta là người phụ nữ thật đáng thương.

    Giống như mẹ cô vậy.

    Cô thậm chí còn chẳng quan tâm nếu Howl về và bắt gặp cô đang đọc cuốn sách. Anh ta chẳng thể làm gì được cả, cô có quyền biết mọi thứ. Cô đã ở tòa tháp của Myris suốt mười mấy năm, cô đã chăm sóc những cây táo của bà, cô đã tiếp tục công việc của bà là mang những quả táo đến cho Moldark. Cô có đủ lý do để đọc cuốn sách này.

    Dựa theo những gì đang đọc, Angeline đoán cuộc hôn nhân giữa Moldark và Myris cũng chẳng mấy êm đẹp.

    Nói cách khác là tồi tệ.


    Những trận đánh, những cuộc cãi nhau, chiến tranh lạnh.


    Sự thờ ơ và bẽ bàng.


    Sự giả tạo trước mắt người ngoài. Nụ cười hạnh phúc giả dối.


    Và những nỗi đau lẫn nhục nhã.

    Angeline cắn chặt môi và những móng tay cô ấn nhẹ vào trang giấy. Bỗng nhiên cô thấy thông cảm cho Myris. Tất cả sự cay đắng khốn khố này đủ để những cây táo đó mọc lên tươi tốt.

    Moldark là một kẻ khốn nạn và cô chợt ngừng hối hận vì đã giết ông ta.

    Rồi đến một mục nhật ký mà thu hút sự chú ý của Angeline hơn cả. Vẫn là nét chữ nghiêng dài trên trang giấy:


    Tôi biết ông ta nói dối, nhưng tôi có thể làm gì đây? Myris ngu ngốc, Myris ngu ngốc.

    Ngày hôm nay, ông ta đã về muộn, rất muộn, lúc trời gần sáng. Ông ta đã đi hơn bốn ngày, và khi tôi hỏi rằng ông ta đã đi đâu, ông ta nói rằng phải túc trực ở trụ sở của Hội đồng vì cuộc chiến ở Ecrium. Nhưng tôi biết ông ta nói dối. Tôi đã sống đủ lâu với sự dối trá để cảm nhận được nó. Vậy là, tôi theo ông ta khi ông ta nói chuyện với James ở hành lang. Có ai có thể tưởng tượng được một kẻ coi trọng quản gia hơn cả vợ mình.

    Dẫu sao, tôi vẫn đã nghe được vài thứ. Dĩ nhiên James sẽ chẳng bao giờ tiết lộ với tôi nếu tôi hỏi. Ông ta là con rắn độc chướng mắt.

    Moldark đã đi gặp một người, tôi sẽ tạm gọi là Kẻ Đó bởi vì ông ta không nói tên ra. Có vẻ Kẻ Đó là một kẻ có khả năng tiên tri, và Moldark lo ngại về điều Kẻ Đó đã nói. Nhưng Moldark không nói rõ ra Kẻ Đó đã tiên tri về điều gì. Nhưng tôi loáng thoáng nghe được điều gì đó về đứa con trai đầu lòng của ông ta. Điều gì sẽ xảy ra với đứa con trai đầu lòng của ông ta? Điều gì sẽ xảy ra với đứa con đầu lòng của tôi?

    Tôi đang mang thai. Moldark không biết, nhưng tôi đang mang thai. Tôi có thể cảm nhận được đứa bé trong mình, nó nóng rẫy, và bao tử tôi quặn lại hầu như mọi lúc, cơ thể tôi đang chống đối lại tôi. Cái mầm sống bé nhỏ đang nảy nở trong tôi, nó sẽ như thế nào đây?


    Đột nhiên, Angeline nghe thấy tiếng động ngoài hành lang. Cô ngẩng đầu lên khỏi trang giấy và nghe thấy những tiếng bước chân. Sau đó là giọng của James.

    Angeline gấp cuốn sách lại và ôm nó đến cạnh cửa. Cô hé mắt nhìn qua khe cửa, thì thấy James đang nói chuyện gì đó với một người hầu ở cuối hành lang. Cô không thể chạy ra ngoài bây giờ, nếu không ông ta sẽ thấy cô.

    James là kẻ thân tín với Moldark, lẽ dĩ nhiên cô coi ông ta cũng gần như kẻ thù. Angeline luôn tìm cách tránh xa James. Howl biết cô đã giết Moldark, anh ta có thể tùy hứng mà tố cáo cô hay không. Nhưng James thì khác, ông ta sẽ lẳng lặng nói chuyện với Hội đồng nếu biết được, và cô sẽ bị bắt trước khi cô hiểu chuyện gì đang xảy ra.

    Howl có thể không biết hết James, nhưng Angeline thì có.

    Ông ta là con rắn độc mà cô bằng mọi giá không được đến gần.

    Hoặc để bị nhìn thấy.

    James không mảy may biết có một con mắt xanh đang nhìn mình qua khe cửa. Khi người hầu kia đi khỏi, ông ta đi lại gần cánh cửa phòng Howl. Angeline lùi lại khỏi cánh cửa, dựa lưng vào bức tường. Khi tai cô ép sát mặt tường, cô có thể nghe thấy bước chân nhẹ như lông của James.

    Và cô có thể cảm nhận được,

    chúng đã dừng lại.

    Một cảm giác gai sượng lan tỏa trên lưng, vai và cổ Angeline, lạnh buốt. Cô cảm thấy như ông ta đang đứng ngay đằng sau mình, và chuẩn bị tóm lấy cô,

    xuyên qua bức tường.

    Cô ôm chặt cuốn sách, nín thở. Angeline đảo mắt tìm chỗ trốn. Chẳng có chỗ nào có thể trốn được trong cái phòng rộng thênh thang này cả. James có thể thấy cô ngay khi ông ta vừa bước vào phòng.

    Angeline chạy ngang qua phòng và vào phòng ngủ của Howl. Cô đóng cửa phòng ngủ lại, ngay khi đó, James bước vào trong. Angeline ước cô có một cái kẽ hở nào đấy để có thể quan sát ông ta, nhưng cánh cửa lại kín mít. Cô chỉ có thể cố gắng kiềm lại hơi thở gấp gáp và tiếng tim đập như tiếng sấm của mình lại để lắng nghe ông ta.

    James rảo bước quanh căn phòng làm việc, tìm kiếm một dấu hiệu kỳ lạ. Tiếng bước chân của ông ta trên sàn nhà rất gần và rất rõ. Ông ta lúc này giống một kẻ sát nhân, đang dạo quanh để tìm kiếm con mồi của mình. Đây là một trò chơi nguy hiểm, Angeline thầm nghĩ.

    Khi Howl đề cập đến việc để cô ở trong lâu đài, cô không thấy James hỏi lý do. Ông ta chỉ im lặng và chẳng có ý kiến gì. Nhưng cô biết ông ta có khả năng đánh hơi mọi thứ dính mùi đáng nghi. Ông ta sẽ hỏi Howl. Cậu có nói hay không? Có thể lắm.

    Nhưng cũng có thể là không.

    Và còn Abigail.

    Con bé có thể đã nói cho James về sự thật là cô đã đầu độc Moldark. Con bé đã giận dữ mà.

    Cô không thể tách bạch đâu là điều có thể xảy ra, và đâu là điều thực sự đã xảy ra. Nhưng rốt cuộc cô cũng bị kéo khỏi mớ bòng bong ấy,

    khi mà,

    James,

    vặn mở cánh cửa phòng ngủ.
     
  14. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 32
    ANGELINE NÉP VÀO BÓNG TỐI.

    Một con mắt xanh của cô nhìn qua mép cửa tủ và thấy James đang đi vào.

    Ông ta đi chậm rãi. James có đôi mắt của một con rắn và nụ cười của một kẻ giết người máu lạnh, điên loạn trong thầm lặng.

    Đôi mắt ấy quét khắp căn phòng. Angeline nấp sau chiếc tủ đặt gần cửa. Cô sợ rằng mình sẽ bị phát hiện vì tiếng thình thịch của quả tim đang co bóp vang lên quá to.

    Cô ôm chặt cuốn sách. Cuốn sách này không thể để James nhìn thấy, không. Ông ta không đáng tin, cô nghĩ, chắc chắn Howl cũng chưa nói cho ông ta về cuốn sách, ít nhất là cho đến khi cậu đọc xong.

    Nhưng ông ta đã không trông thấy cô. James đóng cửa phòng lại, và Angeline nôn nóng muốn nghe tiếng ông ta rời đi. Dường như bước chân của ông ta còn hơi chần chừ, nhưng sau đó cô nghe tiếng chốt cửa bên ngoài vang lên mơ hồ.

    Angeline rốt cuộc đã có thể đứng thẳng dậy. Cô nhận ra từ nãy tới giờ mình đã nín thở. Hít một hơi đầy phổi, Angeline lò dò từng bước trong bóng tối khỏi chiếc tủ. Khi mắt đã quen với bóng tối, cô mới có thể nhìn rõ được căn phòng ngủ. Căn phòng có cửa sổ nhưng kéo rèm che kín mít, quần áo bừa bộn trên giường và cả giá móc áo. Những cuốn sách cũng để khắp nơi, trên bàn, trên giường, tủ và cả dưới sàn nhà. Hẳn cậu ta chẳng phải một kẻ ngăn nắp lắm.

    Angeline nhanh chóng ra khỏi căn phòng, khi ra đến bên ngoài cô mới nhận ra phòng ngủ của cậu ta bí bách như thế nào. Cô cẩn thận xoay nắm đấm cửa, hé nhìn ra hành lang. Trống trơn, James đã đi khỏi, cô gái nhỏ lò dò ra ngoài rồi đóng cửa lại.

    Và rồi cô chạy biến về phòng mình cùng với cuốn sách.

    *


    BÊN NGOÀI, HOWL ĐANG ĐẬP CỬA.

    Angeline giật thót mình. Bây giờ đã khuya, hình như cậu ta mới về.

    Cô đi ra mở cửa phòng, thấy Howl bơ phờ đứng trước mặt. Anh ta hỏi cô cộc lốc:

    “Cuốn sách?”

    “Cuốn sách nào?”

    “Thôi nào.” Howl đẩy cô vào phòng. “Tôi chẳng có thời gian đâu. Tôi mệt và muốn đi ngủ.”

    “Tôi không có cấm anh ngủ.”

    Howl chẳng nói chẳng rằng, cậu đi thẳng vào phòng cô như không, rồi trông thấy cuốn sách đang ở trên bàn. Bên cạnh còn có một giá nến và một ấm trà. Cuốn sách đang mở toang.

    Angeline đón chờ một sự tức giận. Có thể anh ta tức giận lắm chứ, và cô thì không biết khi tức giận Howl sẽ như thế nào. Howl sẽ biết cô đã vào phòng và lục lọi đồ của cậu.

    Nhưng thay vào đó, cậu chỉ thản nhiên nhìn Angeline. “Cô đọc đến đâu rồi?”

    Angeline ngạc nhiên nhìn cậu, cân nhắc trả lời. “Tôi đang đọc nhật ký của bà ấy... Sắp hết rồi.”

    Howl vẫn bình thản. “Được rồi, có gì đáng chú ý không?” Cậu ngồi lên bàn.

    “Tất cả.”

    Howl nghiêng đầu nhìn cuốn sách. Cậu lật tờ giấy nơi Angeline đang đọc dở và lật tiếp xuống cuối. Ngón tay cậu lần lên nét chữ màu đỏ của Myris.

    “Thật chẳng bất ngờ.” Angeline buột miệng.

    “Gì cơ?”

    “Anh.”

    “Tôi làm sao?” Howl hỏi, ngẩng nhìn cô với đôi mắt thách thức.

    Angeline nhún vai. “Với tất cả những gì tôi đã đọc về bố mẹ anh trong đó. Moldark thì bỏ rơi anh, và mẹ anh thì...” Cô bỏ lửng câu hỏi, chợt cảm thấy như mình đang cố làm tổn thương anh ta. “Anh có nhớ bà ấy không?”

    Howl nhìn xuống cuốn sách, nhưng lần này như để lẩn tránh ánh mắt dò xét của cô. “Không nhiều, thú thực là vậy. Tôi ước mọi chuyện đã có thể tốt đẹp hơn, Angie nhỏ bé à. Nhưng không thể, vậy đấy, nếu cô hỏi tại sao tôi như bây giờ, cô có mọi câu trả lời cô cần rồi đấy.” Cậu nheo mắt cười.

    Angeline bặm môi, cô cảm thấy bối rối. Hai kẻ đang đứng trong căn phòng này, Howl và cô, đều là những đứa trẻ mồ côi. Nhưng điểm chung là gì, ngoài việc nhìn thấy người chân bị thần chết lấy đi? Anh ta không được bố và mẹ nuôi dạy, và đây, đứng trước mặt cô, một kẻ mà trong tâm thức cô đánh giá là phiên bản trẻ hơn, năng nổ hơn, khó lường hơn của Moldark. Còn cô, cô là ai? Cô là con của một nhà ngư tiều, kẻ duy nhất họ hại là những con cá đánh từ biển lên. Và cô lại trở thành kẻ giết người.

    Một điểm chung thật tai hại, thật xấu xí và khiến Angeline phẫn uất,

    cô nhận ra mình cũng tồi tệ chẳng kém gì Howl.

    “Chẳng ai muốn mất gia đình cả.” Angeline nói.

    “Đừng chắc chắn thế.”

    Howl đứng dậy, vươn vai, cậu ngáp một cái thật dài rồi đi ra cửa.

    “Anh không lấy lại cuốn sách sao?”

    “Không, cô cứ tự nhiên đi. Nhưng cô sẽ phải cho tôi biết cô đã đọc được gì, tôi buồn ngủ lắm.”

    Angeline thấy anh ta lại ngáp trong lúc nói rồi đi ra khỏi phòng cô, chẳng buồn đóng lại cửa. Cô khép cánh cửa lại sau đấy, bỗng dưng nhận ra một điều buồn cười.

    Quỷ Vương cũng giống người bình thường lắm chứ.


    *


    SÁNG HÔM SAU, khi Angeline mang trả lại cuốn sách. Cô gõ cửa, nhưng phải đến gần năm phút sau Howl mới xuất hiện. Anh ta có thói quen khá kỳ lạ, chẳng bao giờ khóa cửa khi đi vắng nhưng một khi đã ở phòng thì chẳng bao giờ quên khóa cửa.

    Angeline tròn mắt nhìn bộ dạng ngái ngủ của anh ta. Cái đầu vàng rối bù và tóc dựng ngược lên đủ hướng, lòa xòa xuống cả trán và mắt. Quần áo thì xộc xệch và cô nghĩ anh ta còn chẳng buồn thay quần áo tối qua. Howl nhìn cô mấy giây bằng đôi mắt đờ đẫn sắp díp lại.

    “Cô muốn gì?”

    Angeline cứng lưỡi một hồi, cô quên sạch mất mọi thứ. Rồi đột nhiên cô nhớ ra cuốn sách mình đang ôm giữa hai tay.

    “Tôi trả cuốn sách cho anh.”

    Howl đảo mắt, mất lâu hơn vài giây để tiêu hóa được thông tin đó khi cái đầu vẫn còn muốn ngủ. Sau đấy, cậu đẩy rộng cánh cửa để Angeline vào.

    “Anh biết mấy giờ rồi không?” Cô hỏi, đặt cuốn sách lên bàn một cách cẩn thận.

    “Không và tôi cũng không quan tâm.” Howl trở vào trong phòng ngủ. Thoạt đầu Angeline nhăn mày vì nghĩ anh ta ngủ tiếp, nhưng rồi cô nghe thấy tiếng động va đập bên trong. Howl khép hờ cửa phòng ngủ chứ không đóng hẳn.

    “Tôi sẽ đi nếu anh muốn theo đuổi giấc mơ của mình.”

    Cô vỗ nhẹ vào cuốn sách và dạm đi khỏi.

    “Không, tôi tỉnh rồi. Cứ ở đấy, tôi muốn biết cô đã đọc được gì.”

    “Anh có thể tự đọc sau.”

    “Phải, tôi sẽ đọc sau nhưng đáng tiếc là bây giờ đến thời gian ngủ tôi cũng không có. Vậy nên tôi sẽ nghe cô tóm tắt lại. Hãy tỏ ra hữu ích chút đi.”

    Angeline bực bội ngồi xuống ghế. Cô mím môi, nhìn cậu bước ra từ phòng ngủ với bộ quần áo khác. Dẫu cô chẳng là gì cả, thậm chí chẳng có tiếng nói, cô vẫn ghét cay ghét đắng giọng điệu hách dịch đấy.

    Anh ta thật giống bố mình, Angeline nghĩ.

    “Cô nhìn gì thế?” Howl cau mày hỏi. “Tôi dính gì trên mặt à?”

    “Sự thảm hại.” Angeline nói cộc lốc.

    Howl tròn mắt ngạc nhiên nhìn cô. Angeline điềm nhiên với lấy bình trà trước mặt để rót uống.

    “Thôi được rồi.” Cậu ngồi xuống. “Giúp tôi chút đi nào.”

    Cô dõi theo Howl bằng đôi mắt nghi hoặc và lạnh tanh. Bất đắc dĩ, cô vẫn phải trả lời Howl. Trong lúc đó, cậu đứng dậy pha một cốc cà phê.

    “Tôi không biết nhiều về mẹ anh, tôi chẳng thể biết được chi tiết nào thì liên quan đến việc bà ấy qua đời cả.”

    “Tôi nghĩ là cô có biết chứ?” Cậu bình thản. “Không có bất cứ điều gì lạ sao? Về Moldark? Về những người sống trong lâu đài khi bà ấy vẫn còn?”

    Angeline ngẫm nghĩ một hồi. Bà viết trong vòng năm năm kể từ ngày cưới, có không ít những chi tiết bất thường như thế. Moldark luôn làm việc thầm lặng và mờ ám. Sự hiện diện của Myris ở lâu đài chẳng khác nào một bóng ma vô danh. Bà đã dựng lên tòa tháp để học ma thuật.

    Và Howl, Howie bé bỏng.

    Cô không muốn nói với cậu Myris yêu cậu đến nhường nào. Cô muốn cậu tự mình nhận ra điều ấy. Một người mẹ xứng đáng được con trai mình biết đến, kể cả khi đã chết.

    “Có một lần ông ấy đến vùng Ánh sáng. Tôi nhớ thế.”

    Howl quay lại nhìn cô, ngạc nhiên. “Vùng Ánh sáng sao?”

    “Khoảng hơn mười bảy năm trước.” Angeline bặm môi, rồi lắc lắc đầu. “Chỉ có thế, ông ta đã đưa anh đi cùng.”

    Howl ngẩn người. Cô đoán cậu đang cố lục lọi ký ức mình xem điều đó có thật không. Moldark có thể sang vùng Ánh sáng, điều đó không hẳn bất thường. Đôi khi những người có vị thế như ông ta phải sang đó, thường là để gặp gỡ những lãnh đạo của vùng Ánh sáng. Câu chuyện chính trị chẳng bao giờ có hồi kết.

    “Tôi không nhớ là mình đã đi.”

    “Có thể anh đã quên.” Angeline nhún vai. “Myris.. Mẹ anh nói anh và ông ta đi chừng bốn ngày.”

    “Một chi tiết đáng ngạc nhiên đấy.” Howl gõ gõ vào trán mình rồi ngồi xuống với tách cà phê nóng. Cậu mở hũ đường và bỏ vào đúng ba viên. “Tôi chẳng nhớ gì cả.”

    Angeline bồn chồn nhìn cậu, rồi lại nhìn cuốn sách. Cô phải nói thế vì có thể Howl sẽ đọc, đằng nào cậu cũng sẽ biết mọi chuyện mà Myris đã viết về, giống như cô. Cô chẳng thể giấu diếm điều gì.

    “Một đêm khó ngủ à?” Howl hỏi, trong lúc đóng nắp hũ đường lại và khuấy đều cốc cà phê. Hẳn anh ta đã để ý thấy hai bọng mắt thâm và sưng lên của cô. “Chưa quen nơi ở mới?”

    “Tôi ổn.” Cô nói cụt lủn. Angeline nhìn xuống bàn tay mình và nhận ra chúng đang run rẩy.

    Tiếng lanh canh vang lên khi Howl khuấy cốc cà phê. Cậu gõ nhẹ cái thìa vào thành cốc để những giọt nâu trên đó rơi xuống. Trong lúc đó, chỉ có sự im lặng.

    “Tôi nghĩ đó không phải chi tiết duy nhất cần được lưu ý. Còn gì nữa, Angeline?”

    “Rất nhiều, anh muốn tôi phải kể hết lại cuốn nhật ký viết trong vòng năm năm sao?”

    “Chỉ những gì liên quan đến cô, mẹ tôi.” Howl nhấp một ngụm cà phê. “Và Moldark.”

    Angeline đẩy cuốn sách đến chỗ Howl, rồi đứng dậy. Howl nhướn mày, ngả lưng ra ghế.

    “Anh nên tự biết về mẹ mình, Howl.” Cô nói. “Không phải qua bất cứ ai khác cả. Đó là mẹ anh.”

    Từ khi gặp Howl, một nỗ lực vô hình đã hình thành trong Angeline, cô muốn anh ta phải suy nghĩ và cân nhắc về mọi chuyện một lúc nào đấy. Cô muốn anh ta phải công nhận mọi sự yêu thương của mẹ mình trong khi anh ta luôn hành động như không cần điều đó. Cô muốn thấy ở Howl điều gì đó khiến anh ta không giống Moldark, muốn anh ta phải suy nghĩ, phải hối hận, phải buồn rầu, phải xem xét.

    Thật kỳ lạ là đến bây giờ Angeline mới nhận ra điều đó.

    Giống như một cách trừng phạt tuyệt vọng, một cách níu kéo sự đồng cảm, một cách để kêu gào cho bản thân.

    Hai bàn tay Angeline nắm chặt vào nhau và run rẩy. Cô cắn chặt môi khi ra khỏi phòng.

    “Cô nói như thể điều đó quan trọng lắm vậy.”

    Howl bình thản giơ cốc cà phê lên ra dấu, gương mặt chẳng có vẻ gì là băn khoăn về lời nói của Angeline.

    Anh ta,

    đã, theo nghĩa đen,

    thổi bay đi mọi sự nỗ lực vô hình đó của Angeline,

    và gợi lại cho cô sự ấn tượng ban đầu về Howl.

    Một kẻ xấu xa với tâm hồn chai sạn của vùng Bóng tối.
     
  15. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 33
    Howl. Howie.

    Tôi sẽ gọi thằng bé là Howl.

    Tôi đã không ngủ nhiều đêm nay để canh chừng thằng bé. Nó thật nhỏ, quá nhỏ, quá mong manh, quá dễ bị tổn thương trong tay tôi. Lần đầu tiên trong đời, bản năng làm mẹ trỗi dậy và tôi biết tôi có thể làm mọi thứ vì Howie nhỏ bé, tôi có thể làm mọi thứ cho những đứa con của mình.

    Khi đặt tên cho nó, tôi tưởng tượng đến một ngày nó hỏi mẹ mình ý nghĩa cái tên.

    Quanh Rethala có rất nhiều sói, vào những đêm đơn độc nhất, chúng hú lên giữa bầu tĩnh mịch. Tôi có thể nghe thấy tiếng chúng hú gọi bầy, mạnh mẽ, hào khoáng, bản hát của rừng già. Tôi muốn thằng bé khi lớn cũng sẽ có tiếng nói như thế, nó sẽ là đứa trẻ mạnh mẽ và đầy tin tưởng, nó có thể làm được những việc không tưởng, và không gì có thể đánh gục được nó. Nó sẽ sống sót, như những tiếng hú đầy kiêu hãnh kia.


    Ly rượu thứ ba của Howl, cậu đã thấy hơi choáng váng.

    Angeline đã đúng, khi nói rằng cậu phải tự mình đọc những dòng này. Có gì đó cô ta không thể nói ra, nhưng bên cạnh đó, là sự giận dữ. Howl có thể cảm nhận sự giận dữ của cô ta trong ngực mình, âm ỉ và đau đớn như bị vùi trong than. Cô ta tức giận vì sự lạnh nhạt của cậu, và vì người mẹ tội nghiệp kia.

    Myris đã trồng những cây táo, dù không phải cây nào cũng nảy mầm. Dựa trên những dòng chữ bà viết trong đây, Howl chợt cảm thấy thông cảm với những cây táo ấy. Thật khó để nói về “mẹ” bằng lời, vì khi đọc cuốn nhật ký, Howl cảm thấy bà thật xa lạ. Nhưng một phần nào đó, cậu lại thông cảm với mọi việc bà đã làm.

    Sự thông cảm đó đến một cách mỉa mai và giận dữ, giống như sự giận dữ của Angeline. Âm ỉ. Và đau đớn.

    Myris chưa từng là một người phụ nữ sẵn sàng giết người khác. Bà chỉ bị chính mình ép buộc, bị cuộc hôn nhân và những điều dị nghị truyền từ người này sang người khác như bệnh lao phổi, ép buộc. Howl giận dữ vì cậu không hiểu tại sao những việc như thế lại xảy ra với bà, bà không đáng bị như thế.

    Không ai đáng bị một cuộc sống như thế.

    Nhưng dường như, điều đấy không có nghĩa lý gì trong cuộc sống này cả. Một đứa trẻ sinh ra không bỗng dưng ác độc, trừ khi nó là một kẻ tâm thần bệnh tật. Howl đã nghe thấy, nhìn thấy, chứng kiến thấy nhiều điều tương tự thế. Cách mà cuộc đời xoay vần và biến một đứa trẻ vô tội thành một kẻ giết người.

    Không ai băn khoăn về điều đó cả. Đó đơn giản chỉ là cuộc đời.

    Chỉ đơn giản là vùng đất này.

    Có lẽ đó cũng là điều Angeline nghĩ, cô ta dễ bất bình hơn cậu. Cậu là kẻ suy xét, còn cô ta là kẻ dễ kích động, dễ tổn thương, dễ giận dữ, và dễ mềm lòng. Cậu có thể nhìn cái cách cô ta đồng hóa mình với Myris là đoán ra.

    Ly rượu thứ tư.

    Howl gấp cuốn sách lại. Tư lự.

    Cậu cất giọng gọi James. Ông ta là người sống lâu nhất trong tòa lâu đài này, hiện tại thì thế. Chắc chắn ông ta phải biết gì đó về Myris. Bà đã sống trong lâu đài Quỷ suốt chín năm, ông ta không thể không trả lời.

    Một lát sau, James đi vào, mái tóc lúc nào cũng gọn gàng một cách hoàn hảo của ông ta hôm nay không vào nếp. Howl tự hỏi ông ta vừa làm gì.

    “Tôi tưởng ngài sẽ qua chỗ Erik?”

    “Kế hoạch thay đổi rồi.” Cậu nói, chống tay lên trán, tay còn lại gõ nhẹ lên mặt bàn.

    James xũ bụi ra khỏi cổ tay áo và găng tay, nhưng đồng thời ông ta cũng để ý đến ly rượu vang và chai rượu trước mặt cậu. Khi Howl ngẩng lên, cậu thấy ánh mắt ông ta dừng ở cuốn sách.

    Howl chẳng buồn cất nó đi, cậu vẫn để cuốn sách lại như một lời thách thức.

    “Ông đã làm việc ở đây từ lúc nào tôi còn chẳng biết nữa.” Howl nói. “Ông biết gì về mẹ tôi? Myris Cellia Lucifer?”

    James điềm tĩnh, lạnh, và thản nhiên, như trước giờ ông ta vẫn thế. “Như tất cả mọi người thôi.”

    “Vậy tất cả mọi người biết gì về bà ấy? Bà ấy là người như thế nào?”

    Những nếp nhăn trên trán ông ta dồn vào nhau rồi lại giãn ra, Howl biết ông ta đang lưỡng lự:

    “Bà ấy rất... khép kín. Xa cách. Hầu như bà ấy không bao giờ can dự vào những chuyện lớn trong nhà.”

    “Can dự ư?” Cậu ngừng gõ bàn rồi cười khúc khích, giống một kẻ điên tự kể và tự thưởng thức câu chuyện cười của mình. “Được rồi, còn gì nữa không?”

    “Bà ấy là một nhạc công tuyệt vời.” James nói lạnh tanh. “Chỉ có thế.”

    Howl ngồi thẳng lên và đẩy một ly rượu cho James. Ông ta cau mày, nhìn ly rượu vang một cách nghi hoặc rồi ngồi xuống đối diện cậu. “Tôi không uống khi làm việc.”

    “Ông chẳng bao giờ uống cả. Bây giờ tôi mới để ý thấy điều đó.”

    “Tôi muốn giữ mình tỉnh táo.”

    Cậu đẩy ly rượu dứt khoát. “Đôi khi, tỉnh táo không phải câu trả lời.”

    James quan nhìn những làn sóng trong chiếc ly, sóng sánh màu vàng hổ phách khi ly rượu bị rung lắc. Màu của rượu táo tươi rói và đẹp. Một hai cái bọt nước li ti nổi lên.

    Ông ta có thể ngửi thấy mùi rượu trên đầu lưỡi.

    Chất lỏng màu vàng ấy tuôn xuống cổ họng James, làm sống dậy mọi giác quan của ông ta.

    Howl mỉm cười. Mỗi khi cười, đôi mắt cậu sẽ hơi nheo lại một cách ranh mãnh và khó lường. James không sao xua được mùi nghi hoặc ra khỏi mình.

    “Tôi biết ông là một người có tài, James. Một người tuyệt vời với lòng trung thành và sự tỉnh táo tuyệt đối. Thật khó để có thể tìm được một kẻ như thế thời buổi này.” Cậu lại gõ xuống bàn. “Vậy nên, với tư cách là một người trung thành và hết lòng như thế, hãy nói thử cho tôi nghe những gì ông thật sự nghĩ và biết về mẹ tôi.”

    James đặt ly rượu xuống. Ngoài việc chất cay của rượu vẫn đang lan khắp cổ họng, ông ta chẳng thấy có gì khác biệt.

    Ngoại trừ,

    ngoại trừ.

    Có lẽ sẽ chẳng sao nếu nói những gì ông ta nghĩ.

    Tại sao phải che giấu? Tại sao phải cân nhắc? Howl đơn thuần chỉ muốn biết về mẹ cậu và thế thôi.

    Cậu muốn câu trả lời thành thực, sự muốn ấy cháy lên trong lưỡi James. Ông ta biết mình sẽ phải trả lời thành thực, vì tâm trí ông ta muốn thế, vì Howl muốn thế, vì ông ta phải thế.

    “Bà ấy yếu đuối và dựa dẫm.” James nói. “Tôi đã nhiều lần thấy bà ấy muốn xen vào những chuyện của ngài Moldark, và tôi đã cảnh báo bà ấy. Bà ấy là người phụ nữ hiểm độc và khó lường. Mỗi khi bà ấy quyết định thứ gì đó hộ Moldark, sẽ lại có một sai lầm xảy ra. Tôi đã bảo bà ấy không nên quyết định cái gì cả.”

    “Bà ấy có muốn tôi đến Vampiton không?”

    “Không.” James trả lời không lưỡng lự. Nhưng trán ông ta nhăn lại vì không hiểu sao mình muốn trả lời đến thế. Ông ta chưa từng sơ suất như thế này. “Bà ấy đã phản đối rất dữ dội.”

    “Moldark đã làm gì?”

    James ngồi im như phỗng, như thể ông ta đã hóa thành một bức tượng đá. Ông ta không trả lời, vì ông ta biết rằng khi mở miệng, mình sẽ không thể nói dối. Dù chỉ một từ.

    Howl nhìn cuốn sách. Cậu coi sự im lặng đó là công nhận.

    “Bà ấy đã bị đánh nhiều lần.” Cuối cùng, James nói. Ông ta mấy máy môi như định nói gì thêm, nhưng lại thôi. Trong tròng mắt trắng của ông ta hằn những tia máu đỏ.

    “Không ai can thiệp sao?” Cậu hỏi, nhấp rượu, lạnh nhạt.

    “Không ai cả.”

    Dẫu Myris đã viết tất cả những điều đó lại, Howl vẫn muốn nghe tận tai một lần. Cậu không thể nào xóa bỏ những ý nghĩ ám ảnh về Myris, cùng với những cảm xúc phức tạp lẫn lộn trong mình.

    Hẳn Angeline thấy cậu đáng thương.

    Bỗng dưng Howl ước mình đã không cho cô ta đọc cuốn sách. Cậu ghét bị thương hại. Một kẻ mồ côi cha mẹ, xa cách gia đình từ nhỏ, chưa từng biết đến tình yêu thương chăm sóc của ruột thịt máu mủ. Bằng một cách nào đấy, Howl có cảm giác cô ta đã từng nếm thử cảm giác được chăm sóc và che chở trong một gia đình. Cô ta đã có nó và cô ta đã mất nó. Cô ta mất nó giống như mất đi linh hồn mình vậy. Cậu thấy ghen tỵ, nhưng cậu cũng thấy đáng thương.

    “Bà ấy đã chết như thế nào?”

    Hai hàng lông mày của James cau lại, những nếp nhăn trên mặt ông ta ép vài nhau. Ông ta bối rối nhìn cậu. “Ngài đã biết rồi còn gì?”

    Trong cuốn nhật ký năm năm, Myris từng đề cập đến những cây táo và câu thần chú, việc bà giấu cuốn nhật ký ở đâu và làm sao để che mắt mọi người. Nhưng Myris đã sống ở đây chín năm, cậu đang tự hỏi tại sao bà bỗng dưng bỏ viết một cách đột ngột thế, chỉ sau khi cậu hơn năm tuổi một chút. Hoặc, cũng có thể, bốn năm còn lại đang nằm ở một cuốn sách khác.

    Cậu cần bốn năm đó, vì có thể nó sẽ có những dòng cuối cùng của Myris trước khi chết.

    “Tôi muốn nghe lại. Từ chính miệng ông.”

    Howl ngẩng lên nhìn ông ta bằng đôi mắt nửa lạnh nhạt nửa quan tâm. James không nói gì, người ông ta toát ra mùi căng thẳng. James không thể nói dối, vậy ông ta sẽ nói gì đây?

    “Bà ấy đã chết trong đám cháy.” James nói. “Mang theo nhiều thù hận. Chỉ thế thôi. Trước đó, đã có nhiều vấn đề bất ổn với bà ấy rồi.”

    Howl nhìn xuống bàn, tư lự. “Chuyện này là về Angeline. Ông có biết cô ta là ai và đến từ đâu không? Ai đã đưa cô ta đến đây?”

    “Cha của ngài.” James nói, thở ra một cái. “Nhưng ông ấy không nói gì về cô ta cả. Ông ấy giấu mọi chuyện.”

    “Giấu?”

    Howl ngừng gõ tay. Cậu ngẩng lên nhìn James với đôi mắt nghi hoặc lẫn ngạc nhiên. Ông ta giật mình, chợt như ý thức được điều mình vừa nói. Nhưng đã quá muộn.

    “Tôi không biết ông ấy đưa cô ta từ đâu đến. Tôi đã hỏi nhiều lần, rất nhiều lần. Nhưng Moldark không nói cho bất kỳ ai cả.”

    “Cô ta được đưa đến trước khi mẹ tôi chết, phải không?”

    “Một ngày trước đó.” James nói, giọng khô như mặt đất nứt nẻ mùa hạ. Ông ta không thể bắt mình thôi nói. Mỗi khi Howl đặt ra câu hỏi, cái lưỡi của ông ta sẽ hoạt động trước cả khi ông ta ý thức được. James ngồi cứng đơ trên ghế như một tù nhân.

    Và Howl là người tra khảo.

    Nhưng, cậu không đặt thêm bất kỳ câu hỏi nào nữa. Cậu ngồi im lặng một lúc, rượu thấm vào người, rồi cho James rời khỏi phòng. Ông ta chớp mắt, lảo đảo đứng dậy và nhanh chóng đi khỏi.

    Howl rót rượu. Cậu cho phép mình say ngày hôm nay.

    Cậu biết James đang giấu diếm gì đó, nhưng trong lúc này, dù là chuyện gì đi nữa cậu cũng không muốn nghe. Ông ta chỉ biết về Myris, còn cậu thì cần biết về Angeline. Không ngẫu nhiên mà cậu giữ cô ta lại thay vì đưa cô ta lên trước hội đồng như thế.

    Có một cái gì đó về Angeline,

    mà cậu luôn luôn, luôn luôn có linh cảm rằng mình phải biết về điều đó. Một thứ gì đó xấu xí và chết chóc đến mức mỗi khi ở gần cô ta, những sợi lông tơ ở gáy cậu luôn dựng lên như một phản xạ. Cậu không thể nào làm trò mánh với cô ta như đã làm với James.

    Đó, có lẽ, là điều khiến Howl hoang mang và sửng sốt hơn cả.

    Dù cậu chẳng bao giờ để lộ.

    Cậu không thể nào, bằng mọi giá, tác động được vào tâm trí của Angeline.

    Năng lực của cậu vô dụng với cô ta.
     
  16. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 34
    MỘT ĐỢT GIÓ LẠNH DỒN VỀ, buổi chiều trở nên nặng nề và tối hơn.

    Angeline đang múc nước lên từ một cái giếng gần chuồng ngựa. Hầu như, nước cho lũ ngựa đều đến từ đây hoặc dòng sông. Vào mùa khô, nước sông không còn chảy xiết, mà lặng lẽ hẳn đi. Nước ở giếng cũng từ một nhánh nước ngầm của dòng sông. Ner Ril có rất nhiều nhánh nước ngầm, nước của nó đủ để nuôi cả một thành phố.

    Cỏ dưới chân cô đã úa vàng. Những bụi cây dại cũng thế, nhưng chúng không rụng lá. Những cái lá khô sẽ bám dính vào cành cho đến khi các đợt gió đầu tiên của mùa đông đến.

    Angeline ngẩng lên nhìn vì nghe thấy tiếng bước chân của ai trên cỏ. Cô trông thấy Howl đang đi về phía mình, vẫn mặc nhiên thả chiếc xô sắt xuống giếng.

    “Tôi đã nói là cô không cần làm những việc này nữa.”

    “Tôi không muốn dành cả ngày để ngắm nhìn mấy bức tường chết tiệt trong lâu đài.”

    Cô nói và thả dây thừng. Chiếc xô tạo một tiếng động rất vang, trong lẻo và trầm như giọng nói từ trong cái giếng sâu. Nước tạo những đường lượn tròn sóng sánh khi cái xô va chạm vào.

    “Tôi có cả một thư viện đấy.”

    Angeline ngẫm nghĩ. Nhưng rồi cô chẳng nói gì cả.

    “Hoặc, tôi có thể dạy cô sử dụng cây đàn của cô.”

    “Anh muốn gì?” Angeline thở dài sốt ruột. Anh ta chẳng bao giờ vào vấn đề chính luôn, và cô biết anh ta đến không phải chỉ để tán gẫu với cô về những công việc cô đang làm để giết thời gian. Cô thích đàn ngựa, và chăm sóc chúng không chỉ là công việc, nó còn là cách để Angeline thấy bận rộn và ổn định tâm trạng mình.

    “Tôi đã đọc hết cuốn sách... À, đương nhiên chỉ phần nhật ký thôi.” Howl nói. Cậu dựa lưng vào chiếc cột ở thành giếng. Miệng giếng khá thấp, Angeline luôn luôn lo sợ một lúc nào đấy mình sẽ sảy chân và ngã xuống. Còn Howl, trông anh ta chẳng có vẻ gì là sợ chuyện đó xảy ra cả.

    “Anh muốn cảm ơn tôi vì đã bắt anh tự đọc hết tất cả sao?” Angeline hỏi. Cô kéo sợi dây thừng. Chiếc xô đầy nước được kéo lên bằng những nhịp chậm. “Không có gì đâu.”

    “Cô muốn tỏ ra cay cú với tôi đến bao giờ?” Howl cau mày, nhưng cậu vẫn cười một cách ranh ma. “Tỏ ra hợp tác chút đi, Angeline. Tôi là người có thể cứu cái mạng cô đó.”

    Angeline im lặng. Cô đã thừa nhận điều đó qua ánh mắt mình. Nước tròng trành tràn ra khỏi miệng xô, Angeline kéo cái xô lại gần và tháo cái móc dây thừng ra khỏi quai xô. Cô đặt chiếc xô xuống đất, phủi tay.

    “Bà ấy ghét Moldark, và tôi cũng thế. Tôi muốn cảm ơn bà ấy vì đã trồng những cây táo. Tại sao bà ấy chết? Chưa từng ai nói với tôi về Myris cả.”

    “Đó là bởi ai cũng sợ nhắc lại chuyện đó.” Howl khoanh tay, bình thản cất lời. “Bà ấy chết trong một đám cháy.”

    Angeline im lặng. Trong đầu cô, lửa gợn lên qua những ký ức mờ nhạt nhất. Cô đã từng chứng kiến một đám cháy. Cô đã từng chứng kiến cái chết, chỉ là cô không nhớ đó có phải Myris không.

    Hay, đó là một ai khác.

    Có thể cô đã thấy đám cháy đó ở lâu đài Quỷ, cũng có thể không.

    “Một tai nạn à?” Cô hỏi, nuốt khan.

    “Nếu cô gọi một tai nạn là việc cả tòa tháp bị tẩm trong dầu và sau đó bị phòng hỏa.”

    “Bà ấy bị giết sao?”

    “Phải. Bà ấy đã tự giết mình.” Howl trả lời. “Sau khi có bầu Abigail, điều gì đó đã biến bà ấy phát điên. Đó là những gì tôi được kể. Bà ấy nhốt mình trong phòng, viết lách, bỏ bữa, thức dậy và đi lang thang ban đêm, rồi nói chuyện một mình. Họ nói Moldark đã đưa bà ấy đến bác sĩ nhưng chẳng tiếng triển gì. Và vào một đêm, sau khi bà ấy sinh Abigail được vài tuần, bà ấy đã lên cơn điên. Bà lấy dầu đốt trong nhà kho, tẩm ướt tòa tháp và nôi của Abby rồi phóng hỏa.”

    “Abigail vẫn còn sống.” Angeline băn khoăn.

    “Moldark đã cứu con bé ra, nhưng ông ta nói khi ấy mẹ tôi đã là ngọn đuốc sống, còn Abigail chỉ bị bỏng nhẹ ở chân. Bà ấy gào thét khiến con bé phát khóc, rồi chết trong lửa.” Howl nói mà không va vấp một từ. Sự bình tĩnh của cậu làm Angeline ngưỡng mộ, cô không thể bình tĩnh được đến thế khi nói về cái chết của gia đình mình. “Bà ấy suýt giết chết con mình. Cả tòa tháp đã cháy trụi.”

    “Đó là tòa tháp nào?”

    “Tháp Nam.” Howl nói. “Nó được xây lại từ lâu rồi.”

    “Tôi hiểu.”

    Angeline ráng nhớ xem liệu Abigail có bị vết bỏng nào ở chân. Nhưng cô chưa từng nhìn thấy nó bao giờ, có thể con bé đã được chữa trị tốt đến mức không còn sẹo. Có rất nhiều thảo dược có khả năng ấy.

    Điều khiến cô băn khoăn nhất là cô không sao nhớ được cảnh tòa tháp cháy.

    Hoặc bất cứ ký ức gì về nó.

    “Người viết cuốn nhật ký... chẳng giống một kẻ điên chút nào.” Cô bắt đầu múc nước vào xô thứ hai.

    “Đó là bởi vì trong cuốn sách chỉ có năm năm kể từ khi bà ấy cưới Moldark.” Cậu nói, nụ cười biết mất và thay vào đó là vẻ nghiêm túc khó thấy. “Mẹ tôi đã sống ở đây chín năm. Tôi không nghĩ bà ấy đột ngột dừng viết như thế.”

    “Tôi đã tìm trong căn hầm đó một lần nữa rồi.” Angeline thả dây thừng để chiếc xô rơi xuống giếng. “Chẳng có gì khác ngoài những đồ ma thuật linh tinh cả. Dù một số hữu ích lắm đấy.”

    “Có thể phần bốn năm còn lại đã cháy cùng với ngọn tháp.” Howl cắn môi, giọng day dứt tiếc nuối.

    “Hoặc.” Cô xách xô nước đặt xuống xô thứ nhất. “Nó đang được giấu ở đâu đấy. Lâu đài của anh đầy những bí mật mà.”

    Nét nghiêm túc hiếm hoi của Howl bay hơi mất, cậu phá lên cười. “Cảm ơn, lời khen duy nhất của cô dành cho nơi ở của tôi từ trước đến giờ đấy. Khó khăn lắm để khen ngợi nhau sao?”

    “Khó mà khen ngợi được anh.” Cô nói. “Trừ khi anh coi đáng ngờ, ích kỷ, hẹp hòi, toan tính, kiêu ngạo, tự phụ là một lời khen.”

    Cậu cúi đầu, nhún mình lịch sự. “Tôi xin nhận hết. Nhưng thú thực mà nói, chẳng khó để khen ngợi đâu.”

    “Ví dụ đi.”

    Cô nói, xách xô nước lên và đi về phía chuồng ngựa để. Howl rời khỏi chỗ mình đứng để đi theo cô. Angeline đổ nước vào máng nước của lũ ngựa, mấy giọt mồ hôi lăn trên trán cô xuống má và cằm. Nước bắn lên không trung.

    “Ví dụ à? Được thôi, tôi sẽ dạy cô cách trở thành một người lịch sự không hằn học. “Chẳng hạn như, cô có đôi mắt rất đẹp.”

    Angeline nghiêng cái xô quá mức và nước bắn tung tóe vào chân cô. Chỉ một chút nữa là cô đã đánh đổ cả xô nước. Howl nhướn mày nhìn cô rồi cười. “Đừng kích động thế. Chỉ là lời khen thôi. Trừ khi, cô muốn nó mang ý nghĩa gì khác.”

    Angeline ngẩng đầu lên, mím môi cáu kỉnh. Nếu cô không tỏ ra cáu kỉnh bây giờ, có thể anh ta sẽ nghĩ cô thích lời khen đó. Cô đang băn khoăn về đôi mắt mình, rồi tự hỏi anh ta nói đùa hay nói thật.

    “Đừng bao giờ nói như thế nữa.” Angeline cảnh báo, rồi bỏ đi về phía cái giếng.

    Howl ngửa đầu lên trời, cười thành tiếng. “Đừng nói dối mình, Angeline. Cô biết là cô thích được khen ngợi mà.”

    “Ít nhất không phải từ anh.”

    Angeline xách xô nước thứ hai đến. Howl không nói gì nữa, đứng yên nhìn cô đổ nước vào máng. Sự im lặng của anh ta làm Angeline ngứa ngáy. Có bao giờ anh ta chịu im đâu.

    Cô đặt xô nước xuống đất, ngoảnh nhìn Howl.

    “Vậy là cô sẽ giúp tôi chứ?” Anh ta hỏi. “Tôi nghiêm túc đấy, có quá nhiều thứ đáng ngờ xung quanh chuyện của mẹ tôi. Tôi không nghĩ bà ấy bị điên. Tôi càng không nghĩ bà ấy tự sát.”

    “Sau bao nhiêu năm, anh trở về và mới bắt đầu băn khoăn về chuyện gia đình mình sao?” Cô nói, vỗ về một con ngựa. “Hơi muộn rồi đấy.”

    Howl mím môi, cậu xoáy cái nhìn vào Angeline đến mức cô không dám nhìn lại. Cô sợ nếu mình nhìn vào mắt anh ta, anh ta có lẽ sẽ đọc được hết suy nghĩ của cô mất.

    “Cô nói cô giết Moldark để trả thù, vì ông ta đã giết cả gia đình cô. Angeline, gia đình cô ở đâu và tại sao ông ta lại giết họ? Ông ta giết kẻ thù thì chẳng có gì lạ.” Howl nhún vai. “Nhưng tại sao lại là người thường?”

    Angeline im lặng. Mỗi khi căng thẳng, cô hay cắn môi. Cô vờ chăm chú vào con ngựa, vuốt ve lông của nó và lảng tránh Howl.

    “Angeline.”

    Giọng nói của anh ta làm cơ thể Angeline đông cứng lại. Cô không thể giả vờ thêm một giây nào.

    “Cô đến từ đâu?”

    Angeline liếc nhìn Howl một cách cảnh giác. Đó là cái nhìn của những con mồi run rẩy trong đêm tối, lặng im chờ đợi kẻ săn mồi đi qua.

    “Tại sao anh không tự tìm hiểu nhì?” Cô nói, lùi xa khỏi con ngựa và xách hai chiếc xô rỗng lên. “Hoặc, anh có thể đi hỏi bố mình.”

    Cô quay lưng bỏ đi. Cô biết cái sai lầm khủng khiếp mình vừa tạo ra là gì. Cô đã khiến anh ta nghi ngờ. Cô đã tự cho anh ta biết rằng cô đang không hoàn toàn thành thực, rằng cô đang giấu diếm điều gì đó. Nhưng cô không thể nói gì cả.

    Cô phải khâu miệng mình lại.

    Không một lời.

    “Angeline!” Howl gọi cô lần nữa. “Cô vẫn chưa trả lời tôi.”

    Angeline quay lại nhìn anh ta. Vẻ đắc thắng hiện rõ trên mặt Howl. “Trả lời điều gì?”

    “Cô sẽ giúp tôi chứ?”

    Angeline cắn môi.

    “Tôi sẽ giúp anh tìm ra chuyện gì đã xảy ra với Myris. Chỉ để đảm bảo rằng tính mạng tôi an toàn thôi.” Cô nói. “Hy vọng anh giữ được lời mình.”

    Anh ta làm điệu bộ khóa miệng lại và ném chiếc chìa khóa vô hình vào không trung. “Chỉ là bí mật nho nhỏ giữa cô và tôi thôi. Hơn nữa, tôi đã sắp xếp mọi chuyện rồi. Hội Đồng sẽ có cái họ muốn: Một tội nhân.”
     
  17. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 35
    TÔI KHÔNG THỂ CHẠY TRỐN KHỎI CHÍNH MÌNH.

    Tôi không thể giả vờ như thể chẳng có chuyện gì xảy ra.

    Sớm hay muộn, tôi cũng phải đối diện với cái chết. Nhưng tôi sẽ lấy một cái cớ khác để che đậy lên cái chết của mình. Đôi khi tôi nghĩ, chết cũng hay đấy. Sau cùng thì, còn có gì đáng để cho tôi sống?

    Không gì cả.

    Tôi không nghĩ rằng Howl muốn biết tại sao mẹ mình chết. Kể cả những gì người ta đã nói, đã đồn đại là giả dối đi nữa, bà ấy cũng đã chết. Và anh ta còn chẳng ở bên bà ấy khi bà ấy chết. Anh ta có đủ tình cảm với mẹ mình để tìm hiểu sự thật về bà ấy không?

    Tôi cho rằng là không.

    Vậy, điều anh ta nhắm đến là gì?

    Cuốn nhật ký của Myris. Những gì James hay mọi người đã kể lại với anh ta. Những cây táo độc. Ngọn tháp. Chiếc đàn. Tầng hầm. Chìa khóa. Abigail.

    Tôi không thể kết nối chúng lại được. Myris đã cưới Moldark vì gia đình bà cần tiền. Bà có cuộc sống mà như bà đã nhắc đến trong cuốn nhật ký, là như một cơn ác mộng sống. Bà đã xây dựng ngọn tháp trong rừng, có thể là để chuẩn bị cho những cây táo lắm. Cuốn nhật ký không nhắc đến những cây táo, chắc chắn khi ấy bà chưa nghĩ đến. Chiếc chìa khóa tầng hầm được Abigal mang đến, tại sao con bé có nó? Tại sao con bé biết về tầng hầm và mọi thứ? Con bé không thể tự mình khám phá hết được.

    Và cuối cùng là cái chết của Myris.

    Không có những ghi chép cuối cùng của bà, chẳng ai biết được bà có bị điên hay không.

    Tôi biết bà đã từng phạm tội. Những cây táo cần xác một trinh nữ.

    Howl không hề biết điều này, nhưng vườn táo ở tòa tháp chỉ là giả. Tôi đã đào bới, và đào bới, nhưng không có cái xác nào ở đó cả. Những cây táo đó chỉ là thử nghiệm. Cây táo trên ngọn đồi, chỉ quả của nó mới có độc.

    Có một cô gái tội nghiệp đang nằm dưới gốc cây ấy. Tôi ước mình có thể biết đó là ai. Nhưng tôi không thể trách Myris được. Có khi, bà bị điên thật. Bà đã giết người, chẳng có lý do gì bà lại không làm lại với chính mình. Kết thúc cuộc đời cô độc và mục rữa bằng ngọn lửa sáng rực rỡ.

    Howl đang băn khoăn về việc tôi có liên quan đến bà. Tôi có thể nhìn thẳng vào mắt anh ta và nói không hề, vì tôi còn chưa từng gặp hay quen biết bà. Nhưng anh ta đồng thời cũng nghi ngờ về động cơ của tôi nữa. Tôi không thể hé răng cho anh ta điều gì cả. Anh ta sẽ tiêu diệt tôi. Thậm chí, tôi cũng chẳng chắc chắn mình không hề liên quan đến Myris. Có thể tôi không dính dáng gì tới việc bà ấy chết, nhưng quả thật chẳng phải trùng hợp khi tôi được đưa về vào đúng thời điểm mà bà ấy qua đời.

    Chẳng vấn đề gì cả. Tôi sẽ làm được. Tôi sẽ làm tốt. Tôi muốn tìm ra lý do tại sao Moldark đồng ý chuyện đó. Nếu tôi không đồng ý giúp, Howl chỉ càng thêm nghi ngờ mà thôi.

    Tôi vẫn chưa muốn chết.

    Tôi chỉ mới thoát khỏi Moldark thôi mà.
     
  18. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 36
    BÀ GRY, MẸ CỦA MAYA, ĐANG LÚI HÚI lau dọn bàn bếp khi Angeline bước vào. Bà ta tảng lờ đi sự xuất hiện của cô.

    Bên cạnh James, Gry cũng đã làm việc ở đây từ rất lâu. Bà ta có thể biết gì đó về Myris lắm. Cô nghe nói người đỡ đẻ cho Myris là Gry, cùng với một số người hầu và một bác sĩ. Nhưng họ không có ở đây, còn bà ta thì có.

    Angeline ngồi xuống một chiếc ghế gỗ ở bàn bếp. Trên bàn, những giỏ rau quả và thịt chiếm gần hết mặt bàn. Cô nghiên người nhìn vào trong, thấy tên bếp trưởng béo cộc cằn đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh gỗ thông, hút một tẩu thuốc và đọc báo. Mấy người phụ bếp thì đang mang rác đi đổ. Cô không thấy Maya đâu, có lẽ đang lau dọn đâu đó trong lâu đài.

    Gry kỳ cọ cạnh bàn, không nói nửa lời.

    “Tại sao bà không bao giờ thắc mắc về những gì tôi đã làm?” Angeline hỏi bằng giọng nhẹ nhàng. Cô hiếm khi nói chuyện với Gry, bà ta cũng thế, kiệm lời và khó gần.

    Người phụ nữ vẫn kỳ cọ bàn bếp. Những vết ố cháy của dầu mỡ rất khó mà bong đi. Nhưng cô biết bà ta sẽ trả lời, những nhịp lau chùi đang chậm lại. Bà ta đưa một cái nhìn vội vã lên cô và mím chặt đôi môi khô nhợt nhạt.

    “Tôi không quan tâm đến việc của người khác.” Bà nói. “Nhất là khi nó không ảnh hưởng đến tôi.”

    Angeline nghĩ bà ta đang nói thật. Bà ta chẳng bao giờ đặt câu hỏi với cô về những xô máu, về cây táo, về mọi thứ. Bà ta trả lời khi được hỏi, chứ không bao giờ đặt câu hỏi.

    Cô im lặng một lúc, rồi nói tiếp. “Tôi nghe nói bà sẽ sớm thôi làm ở đây.”

    Gry không nói gì cả, cô coi đó là sự công nhận. “Tại sao thế?” Cô hỏi.

    “Maya cần cuộc sống tốt hơn. Và tốt hơn nghĩa là tránh xa cái lâu đài này và đám người Cambion.”

    Angeline giật mình vì sự cay nghiệt trong giọng nói Gry. Cô chưa từng nhận ra bà ta ghét Cambion cho đến bây giờ. Nhưng bà ta đã làm ở đây từ quá lâu, từ khi cô con gái đầu của bà ta chỉ mới vài tuổi. Cô nuốt khan, cảm thấy một chút thông cảm len lỏi trong mạch cảm xúc.

    “Hai người sẽ đi đâu?”

    “Chúng tôi chưa biết.”

    Angeline có thể đoán ra rằng bà ta đã lên kế hoạch trước cho việc rời khỏi đây, chỉ là không muốn nói với cô. Giữa hai người hình thành một bức tường dày vô hình, một kẻ cố lấn sang còn kẻ kia từ chối tiết lộ về mình. Cô biết sẽ khó mà nói chuyện được với Gry - nếu Howl ở đây thì lại khác.

    “Tôi muốn hỏi bà vài chuyện, Gry.” Angeline nói, và trước khi bà ta mở miệng từ chối, cô đã hỏi bà ta. “Bà có biết Myris không? Bà ấy từng là vợ của Moldark.”

    Đuôi mắt của Gry giật giật. “Cô không được phép nói thẳng tên họ ra như thế.” Ngưng một lúc, rồi bà ta nói tiếp. “Mọi người gọi bà ấy là Cellia.”

    “Bà ấy là người như thế nào?”

    Gry nhúng chiếc giẻ rách vào xô nước và vắt nó vài lần, thứ nước bẩn đục màu phai ra từ chiếc giẻ hòa vào nước trong xô.

    “Tại sao cô hỏi thế?”

    Angeline không thể nghĩ ra bất kỳ lý do thành thực mà hợp lý nào. Cô đành mượn đến Howl. “Quỷ Vương đã nhờ tôi đi hỏi những người còn sống ở lâu đài về My... Cellia.”

    “Cô đáng lẽ không nên lại gần ngài ấy.”

    “Anh ta tự tìm thấy tôi trước mà.” Angeline nói. “Nói cho tôi biết đi, Gry, Myris là người thế nào?”

    Bà Gry nhìn cô cân nhắc. Những nếp nhăn trên gương mặt bà ta rõ như những nét vẽ của một bức họa. Trong ánh sáng này, bà ta trông thiếu sức sống, gương mặt trở nên khắc khổ và mệt nhọc. Angeline để ý, ở đầu ngón tay và móng tay bà ta, da đen sạm lại. Những vết rộp và xước chằng chịt. Bà ta tần ngần nhìn cái nùi giẻ ướt trên tay.

    “Bà ấy là một người đáng thương.” Gry nói đứt quãng. “Tôi không nhớ rõ, cô biết đấy. Bà ấy mất lâu rồi.”

    Angeline không nhận ra mình đang hơi ngả về phía trước. “Tôi biết. Tôi nghe nói bà là một trong những người hộ sinh của Myris.” Cô luôn quên mất phải gọi Myris là Cellia, nhưng cô chẳng buồn sửa lại. “Tôi đoán bà đã tiếp xúc khá nhiều với bà ấy.”

    Gry như sực tỉnh khỏi cơn mê, nhìn Angeline với đôi mắt trống rỗng. Bà ta đã để mình chìm xuống những ký ức, nhưng là ký ức nào?

    “Phải, hai lần liền.” Cái nùi giẻ được vắt chặt, Gry tiếp tục lau cọ bàn bếp. “Nhưng có nhiều người lắm. Cả hai lần, cố Quỷ Vương đều không có mặt tại lâu đài.”

    Họng Angeline xé lên một cảm giác bỏng xót và khô cứng. Cô thường chỉ có cái cảm giác đó khi bị nhiễm lạnh, hoặc, khi khóc. Cô tưởng tượng về Howl – người sinh ra khi bố mình đang ở miền nào chẳng biết. Nếu là cô, cô sẽ rất tức giận và tủi thân. Liệu anh ta có thấy thế không?

    “Tôi chỉ chăm lo cho bà ấy sau khi sinh.” Gry nói. “Còn những lúc bình thường khác, tôi ít khi nói chuyện với bà ấy. Những người hầu đâu có thể tự nhiên mà bắt chuyện với chủ mình?”

    “Bà ấy...” Angeline gặp khó khăn khi nói, tiếng không thể thoát ra hoàn toàn khỏi họng cô. “Bà ấy có thương con mình không?”

    Gry ngưng lau chùi. Bà tay quay ra nhìn Angeline như thể cô đang hỏi về một điều gì vô lý lắm. Trong giọng nói của bà ta có chút hờn giận lẫn cay nghiệt.

    “Không người mẹ nào lại không yêu thương con đẻ mình cả. Kể cả Ác Quỷ đi nữa.”

    Cô không có cảm giác bà ta nói về Myris, mà đang nói về bản thân mình. Bà ta cuối cùng cũng chịu nói chuyện hẳn hoi với cô.

    “Tôi nghe nói Myris đã tự tử.” Angeline nói, giọng nhẹ bâng. “Nhưng tôi không chắc đó là những gì đã xảy ra.”

    “Cô đâu có ở đây khi ấy.” Giọng Gry đầy sự trách móc, nhưng ánh mắt bà ta vô cảm. “Bà ấy đã hóa điên. Trong suốt nhiều đêm liền, bà ấy lang thang khắp các hành lang. Bà ấy chẳng nói chuyện với ai cả. Nên bà ấy đã châm lửa và tự kết liễu mình.”

    Điều kỳ lạ là, Angeline có một trí tưởng tượng sống động về khung cảnh đó.

    Có một hai bức họa về Myris trong lâu đài, nên cô có biết mặt bà khi trẻ. Cô tưởng tượng vào một đêm khuya vắng lặng, bà xách can dầu hỏa lên tòa tháp của mình, run rẩy tưới nó quanh những chân tường. Tưới nó vào giá sách, tưới nóvào giường, tưới nó vào nôi.

    Và bằng một ngọn diêm, bà châm lửa. Mái tóc bà sẽ xổ ra xũ xượi, bê bết, cổ họng bà sẽ phát ra những âm thanh rên rỉ ai oán khi bà đổ xăng vào mình.

    Ngọn lửa sẽ bắt vào xăng.

    Và bà sẽ cháy.

    Trong nôi, Abigail gào khóc.

    “Bà ấy đã suýt giết Abigail.” Angeline nói.

    Gry quay đi, tựa mình vào phía bàn bếp, lau những nhịp chậm và mỏi mệt. “Phải.”

    Angeline im lặng một lúc. Nãy đến giờ, cô chỉ xác nhận lại những gì đã được nghe kể. Cô chẳng tìm ra điều gì mới mẻ cả.

    “Bà có ở đó đêm hôm ấy không?” Bấy giờ, Angeline mới hỏi thật sự. “Tôi thì không, tôi không nhớ gì về đêm hôm ấy hết.”

    “Trong đám đông.” Gry nói. “Tôi và nhiều người hầu khác đã chứng kiến tòa tháp cháy hàng giờ.”

    “Không ai dập tắt nó sao?”

    “Chẳng gì có thể dập tắt ngọn lửa đó cả.”

    Angeline sau đó không nói gì, cô chỉ biết im lặng.

    Một đợt gió heo may khô thổi qua cửa bếp vào chỗ Angeline đang ngồi. Cô nhớ đến những ngọn lửa. Chúng có nhiều phiên bản, nhiều sự hiện diện, đôi lúc chúng ấm áp và lan truyền sự sống. Đôi lúc chúng tàn bạo, kiêu kỳ và độc ác. Cô đã gieo nên nhiều ngọn lửa đỏ giết chóc. Và trước cô cũng có những ngọn lửa đó. Cái chết đen thù lù như những nắm tro sau khi lửa tàn, đó là giây phút của sự tan vỡ khi Angeline nhận ra rốt cuộc, mọi thứ cũng sẽ trở thành tro. Chết. Trở về với cát bụi.

    Đó là chuyện bình thường.

    Tất cả mọi người đều phải chết.

    Nhưng điều gì có thễ giữ cô tiếp tục nỗ lực cho đến khi nằm trong huyệt mộ?

    Bây giờ, thì chẳng có gì cả.

    “Cô không nên sống ở đây nữa.” Gry chợt nói. Lời của bà ta như hơi thở, thổi bay đi những nắm tro tàn trong tâm trí Angeline. “Hãy... dừng mọi việc cô đang làm... và rời đi.”

    “Đến đâu?” Angeline hỏi lạnh tanh, bình thản.

    Một chiếc lá khô bay đến dưới chân cô.

    “Tôi không biết.” Gry nói, chừng như hơi bối rối. “Nơi nào cô muốn.”

    Trong tâm trí cô bỗng hiện lên ánh mặt trời lấp lánh và tiếng chim biển. Nhưng chúng biến mất ngay lập tức.

    “Bà tin có một nơi như thế sao?” Angeline đứng dậy, cô chuẩn bị kết thúc cuộc nói chuyện này.

    “Cô thì không à?”

    Gry nhìn cô bằng đôi mắt nâu. Cô chợt nhận ra Maya có đôi mắt hệt như thế. Cô gái đó là một phiên bản trẻ hơn của mẹ mình.

    “Tôi muốn ở đây.” Angeline nhún vai. “Chẳng nơi nào khác cả.”

    Qua đôi mắt Gry, bà ta như vỡ lẽ gì đó. Trông bà ta hơi ngạc nhiên. Angeline gật nhẹ, như một lời khẳng định cuối, rồi cô quay lưng đi.

    Đôi môi Gry mấp máy như muốn nói điều gì đó. Trong giọng nói của bà ta có chút dùng dằng phân vân:

    “Cô... cô không cần đến cái cây táo nữa, phải chứ?”

    Angeline quay người nhìn bà. Cô định nói là có, nhưng sau đấy, khi nhìn thấy dáng vẻ tơi tả của người phụ nữ, cô lại đổi ý. “Tôi không biết.”

    “Đứa con gái thứ nhất của tôi...” Gry nói. “Nó vừa tròn mười tám tuổi... khi phu nhân quyết định trồng cây táo. Nó không được bình thường lắm.”

    Mùa thu chẳng hề lạnh, nhưng Angeline bỗng cảm thấy như có hơi thở lạnh giá nào đó phả vào sau gáy mình, tê dại. Cô hóa đá giữa căn phòng. Gry mím môi, chần nhừ như muốn nói thêm gì. Sống mũi bà đỏ ửng, các nếp nhăn khô lại, nứt nẻ như mặt đất hạn hán. Đôi mắt nâu của bà chợt long lanh, phản chiếu những hạt sáng từ luồng sáng ngoài cửa. Mà sau đó, Angeline nhận ra nó là nước mắt.

    Bà quay đi. Dẫu vậy, cô không thấy có giọt nào lăn xuống cả. Người phụ nữ mím môi đầy giận dữ, bấu chặt ngón tay vào nùi giẻ.

    “Tôi nghĩ cô nên biết điều ấy.”

    Cổ họng cô lúc ấy cứng đơ và hoàn toàn chẳng biết nói gì. Gry chưa bao giờ nói với ai về đứa con gái thứ nhất của bà. Maya cũng thế.

    “Tôi rất tiếc.” Angeline nói. Giọng cô bị bóp méo đi đôi chút. Cô bỏ lại người phụ nữ trong bếp và ra ngoài.

    Không khí bên ngoài trong sạch và thoáng đãng hơn rất nhiều. Angeline hít một hơi đầy phổi. Khi cô tìm thấy những tờ giấy ghi chép về cây táo của Myris trong tòa tháp, cô đã biết ai đó sẽ phải chết để cái cây được trồng.

    Angeline trèo lên dải đồi. Cô nhìn cây táo nhưng không đến gần nó. Cô đã ngồi ở gốc cây táo hầu như hàng ngày, và hầu như cô đều quên mất có cái gì ở dưới rễ của nó. Mùa thu, cây táo bạc màu đi. Mấy chiếc lá quăn mép khua khua vào không trung theo gió. Chúng vọng ra một thứ âm thanh – một loại ngôn ngữ lạ kỳ mà chỉ có loài cây mới hiểu được.

    Dưới cái cây cao lớn và tươi tốt, là một nấm mồ.

    Một cô gái từng là vô danh.

    Một người mà Angeline từ chối nghĩ đến, tưởng tượng đến. Cô biết cô không giết cô gái ấy, nhưng không có nghĩa cô vô tội. Myris có tội. Cô cũng có tội. Tất cả mọi người đều phạm sai lầm, tất cả mọi người đều mang gánh một tội lỗi nào đấy.

    Gry đã ở đây hàng chục năm, và bà đã đứng đấy, ở cửa căn bếp, dõi mắt theo cây táo. Dõi mắt theo đứa con gái của bà, đang lớn lên, đầu thai thành một cái cây xinh đẹp và đầy nhựa sống. Bà đã không rời đi, bà chờ đợi điều gì?

    Angeline trở về lâu đài.

    Bây giờ cô lại ước giá như Gry đừng nói điều đó với cô.
     
  19. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 37
    HOWL XÁCH ỐNG CUNG VÀ CUNG TÊN tới cạnh con ngựa lông nâu, khi Angeline vừa dắt nó ra khỏi chuồng. Bấy giờ là chiều muộn. Buổi chiều của những ngày đầu đông, không khí se lạnh, bầu trời phản chiếu màu bạc sắc nét. Từng đợt gió lùa đến, mang theo hơi thở chớm đông. Con ngựa lúc lắc bờm và dậm chân khi Howl chạm vào nó.

    Cậu đeo ống cung ra sau lưng, rồi nhìn Angeline. Cô cảm thấy khó xử.

    “Có chuyện gì sao?”

    Howl cười, khoe hàm răng đều tắp, có một chiếc răng nanh dài hơn bình thường. “Chẳng gì cả. Chỉ là tôi băn khoăn tại sao gã chăn ngựa tôi đã thuê thì ngồi trong bếp hút tẩu và tán chuyện thì cô lại phải làm việc thay gã.”

    “Đàn ngựa không thích ông ta.” Cô trả lời. “Tin tôi đi, chúng có cảm xúc đấy.”

    “Hẳn rồi.”

    Nhưng cô biết Howl chẳng tin, cậu ta chỉ nói cho xong chuyện.

    “Cô muốn đi săn không?”

    Angeline chớp mắt, ngạc nhiên nhìn cậu ta. Cô lùi lại khỏi con ngựa để Howl cầm lấy dây cương của nó.

    “Cô có thể lấy một con ngựa khác. Cô không đi săn bao giờ sao? Cô ở trong rừng mà?”

    Angeline đón nhận những lời ấy bằng một thái độ dè chừng, vì tách chúng ra, cô ngửi thấy mùi chế nhạo. “Tôi có câu cá... và bẫy lũ gà rừng.”

    Howl chống một cầu cây cung xuống đất, kéo dây. Angeline để ý thấy một con dao săn bọc trong bao da dắt ở thắt lưng, trong áo khoác cậu. “Còn hươu nai hay thỏ thì sao?”

    “Tôi bẫy được thỏ.”

    “Cô không dám giết chúng à?” Cô nghe thấy cậu cười khùng khục trong họng. Angeline đỏ mặt và cáu kỉnh:

    “Có thể, nhưng tôi không ngại giết người đâu.”

    Howl nhìn cô cười, nhưng im lặng chẳng nói gì. Cậu đeo cung lên vai rồi xắc xắc ống tên. “Vậy thì hôm nay cô sẽ được đích thân tôi dạy cách như thế nào để săn một con thỏ, mà không cần bẫy ấy.”

    Cô ngoái nhìn bầu trời, đoán chừng còn một hai tiếng nữa là trời sẽ tối hẳn. Đó là khoảng thời gian duy nhất mà có vẻ như Howl tranh thủ được trong tuần để đi săn. Lâu đài Quỷ chẳng đời nào thiếu lương thực, nhưng cậu ta vẫn thích đi săn, cô chẳng thể hiểu nổi.

    Giết động vật bất lực thì có gì vui chứ?

    Nhưng chẳng hiểu vì nguyên cớ gì, cô vẫn đồng ý.


    Angeline cưỡi một con ngựa có lông màu cà phê đặc, loang lổ vài vệt trắng. Cả hai đi vào rừng khi một dải sương mỏng bắt đầu xuất hiện, và những đám khói trắng đang bốc lên từ nhà bếp.


    Lũ ngựa băng qua lối mòn, Howl đi trước và Angeline đi sau. Nhưng rốt cuộc cả hai phải để lại hai con ngựa ở gần con suối, để có thể săn bắn dễ dàng. Angeline cẩn thận buộc những nốt dây thừng lớn vào một chạc cây, cô kéo vài lần để đảm bảo chúng không bị buột ra khi lũ ngựa bỗng giật dây. Trong lúc ấy, Howl tra mũi tên vào cây cung và ngó nghiêng xung quanh.

    Đầu đông, hầu hết động vật đã hoặc đang tìm nơi trú ẩn cho chúng khi tuyết rơi. Mặc dầu vậy, Howl vẫn loáng thoáng thấy một hai con chim đất chạy lạch bạch xuyên qua một bụi cây. Khi lá rừng đã rụng gần hết, không gian trở nên quang đãng và dễ quan sát hơn. Những cành cây khô đan chằng chịt vào nhau, chia bầu trời xám thành các ô nhỏ không đồng đều. Những chiếc lá còn sót lại trên cành queo quắt, nhăn nhúm lại như nếp nhăn trên trán bà già, chúng rụng kể cả những cơn gió nhỏ nhất.

    “Điều đầu tiên của việc săn bắn là...” Howl nói, vặn nhỏ giọng lại, mắt để lên những hốc cây. “Cô phải bước thật im lặng.”

    Dưới chân hai người đầy những bụi cây khô, và cả một thảm lá dày mà dường như đã bết dính xuống đất. Khó khăn lắm cô mới dẫm lên chúng mà không tạo tiếng động. Ngược lại với Howl, kẻ đi săn, kẻ luôn phải bước trong yên lặng, Angeline sử dụng âm thanh của những chiếc lá để cảm nhận xem liệu có mối nguy nào xung quanh mình. Cánh rừng hầu như luôn tĩnh lặng, lũ chim ở đây chẳng ồn ào như những chốn khác. Vậy nên, Angeline có thể tách bạch ra dễ dàng âm thanh quen thuộc của khu rừng với bất kỳ âm thanh lạ nào khác.

    Đó là bản năng của những con mồi.

    Để chúng có thể chạy trốn và sống sót.

    Howl là một thợ săn tài giỏi. Trong khi cô phải bước thật chậm, tới mức tụt lại một đoạn xa phía sau, cậu ta vẫn đi trước với bước chân của sự im lặng. Angeline chẳng có ý định quan sát tìm kiếm con mồi nào. Cô chỉ để tâm mình vào khu rừng, liệu nó có nhớ cô? Liệu nó có chào đón cô?

    Một cặp sóc vờn nhau trên cành cây sồi già. Chúng làm cuống những chiếc lá khô rung động, rồi nhanh chóng chui vào một trong cái hốc cây. Ở một chạc cây cao khác, có con cú già đang nhìn hai người họ với đôi mắt to vàng khè, nó chẳng buồn nhúc nhích, cái đầu tròn di chuyển thật chậm theo chuyển động của Angeline.

    Cô ngẩng đầu lên thì thấy Howl đã đứng lại. Cậu giơ cây cung đã lên tên ngang hông rồi đột ngột ngoặt sang bên trái, ra khỏi lối mòn.

    “Gì thế?” Cô hỏi.

    “Suỵt.” Cậu nói. “Nói nhỏ thôi, tôi nghĩ có một con thỏ.”

    Cô nhìn theo hướng cậu chỉ nhưng chẳng thấy gì ngoài những bụi cây khô. Nhưng cô vẫn đi theo Howl, nỗi tò mò chợt trỗi dậy. Cô chẳng hiểu mình tò mò về điều gì, cô chỉ muốn tận mắt xem Howl săn bắn như thế nào.

    Howl đi theo con thỏ, có vẻ thế. Nhưng một lúc sau cậu cũng lạc dấu nó. Angeline thì trông thấy nền trời phương Bắc tối lại, và sương đang tỏa ra bốn phía quanh cô. Howl đang đi sâu hơn vào rừng. Không quá sâu, nhưng để trở lại bìa rừng cũng phải mất chừng năm phút.

    “Chắc nó quay về hang rồi.” Cậu nói đầy tiếc rẻ.

    “Anh có tìm được hang thỏ không?” Cô hỏi.

    “Nếu tôi theo dấu được nó.” Cậu nói, rồi nhận ra Angeline đang chăm chú nhìn cây cung của mình. Howl hạ cung xuống.

    “Cô dùng cung bao giờ chưa?”

    Angeline lắc đầu. Cô chẳng có lý do gì mà phải đụng vào một cái cung. Cô bắt thú rừng – những động vật nhỏ bé ngốc nghếch như lũ thỏ xám, chồn đất, hay gà rừng bằng bẫy, và có thể bắt cá thoải mái ở con suối. Cô không nói rằng mình được ăn uống no đủ và thoải mái, nhưng cô cũng chẳng phải kẻ chịu đói khát.

    “Cô muốn tôi dạy cho không?”

    Cô dứt khoát lắc đầu, rồi quay đi. Howl nhướn mày, có lẽ vì cậu ta đã nghĩ cô sẽ đồng ý.

    Cả hai tiếp tục vào sâu trong rừng. Howl không để ý đến mấy con thú như sóc hay chồn, cô nghĩ cậu ta đang cố kiếm lũ thỏ hoặc nai, hoẵng. Chừng mười lăm phút sau, cả hai bỗng bắt gặp một con nai ở ven cái thác của dòng suối, nó đang uống nước một cách chậm rãi và vô tư.

    Angline đứng sau Howl, cô nhỉ có thể nhìn con hươu bằng một con mắt. Cả hai núp sau một thân cây lớn, vai Howl hơi tựa vào cái cây. Cậu ép sát cây cung vào mình và quan sát con hươu một lúc băng đôi mắt hổ phách sắc sảo.

    “Một con nai con.” Cô thì thào bằng tiếng thở.

    “Có vẻ thế.” Cậu hơi ngấc đầu lên. Angeline nhìn thấy một vài chiếc lá nhỏ như móng tay bám trên mái tóc vàng của cậu. Ý nghĩ với tay lên và gỡ chúng xuống làm cô đỏ mặt. “Hơi to so với mấy con tôi từng thấy.”

    Cô im lặng. Con nai nẩng đầu lên nghe ngóng. Nó bây giờ đang ở sau một lùm cây rậm, bỗng thận trọng bước gần con thác hơn và lọt vào tầm ngắm hoàn hảo của Howl. Cậu bước ra khỏi nơi ẩn núp và thu hẹp khoảng cách với con nai. Angeline vẫn không rời vị trí, cô bám hai bàn tay lên vỏ cây ram ráp và quan sát.

    Howl đứng sau một thân cây còi cọc chỉ cao hơn đầu cậu chút đỉnh, nhưng san sát cành khô. Cậu giơ cung tên lên trong yên lặng, ngắm vào đùi con nai. Nó lại ngẩng lên, nước rỏ khỏi lông trên mõm, ngơ ngác nhìn khoảng rừng trống.

    Những móng tay Angeline cấu vào vỏ cây. Howl đã bắn mũi tên.

    Cậu chưa từng bắn trật phát nào.

    Dẫu mũi tên hơi hướng xuống chân con nai chứ không phải giữa đùi như cậu muốn nhưng Howl vẫn hài lòng. Ngay khi mũi tên vừa đâm phập qua da thịt nó, con vật nhảy bắn lên xuống dòng suối và cuống cuồng chạy sang bờ bên kia với cái chân bị thương. Howl đứng dậy vào đuổi theo nó. Angeline bối rối ra khỏi chỗ núp và chạy theo để không mất dấu cậu.

    Con nai để lại vệt máu dài trên thảm lá khô. Howl chỉ thấy một cái đầu và đôi tai xa xa, nhưng cậu không để mất dấu nó. Gấu quần của cậu ướt đến đầu gối. Angeline băng qua con suối bằng những hòn đá như cô vẫn từng làm, nên chỉ một chút ở gấu váy cô bị dính nước.

    “Nó khỏe thật.” Howl vừa chạy vừa nói, thở hổn hển. Angeline theo sau cậu, gật đầu nhưng cậu đâu có thấy. Cô không đáp lại vì bận chạy và thở.

    Chẳng sinh vật nào lại không giãy lên chạy trốn khi biết mình sắp chết cả.

    Cô lo lắng khi cả hai đã chạy hơi sâu vào rừng. Quãng thời gian trôi qua thật nhanh, khi sắc trời đã có vẻ tối dần lại. Con nai chạy lặc, máu nhuốm đầy lông nó. Cô bắt kịp Howl khi cậu chạy chậm lại. Cảnh tượng con nai lê bước với cái mũi tên cắm giữa chân không khiến Angeline thích thú mấy. Nó bắt đầu bật kêu những tiếng tuyệt vọng.

    “Chúng ta đi hơi xa rồi.” Angeline nói, ngoái nhìn lại quãng đường mình vừa chạy qua. Con thác vừa rồi đã cách tòa tháp của cô khá xa, cô chỉ đi sâu đến thế một hai lần là cùng. Cây cối ở đây dày hơn, rập rạp hơn, phủ kín hầu hết khoảng trời.

    “Yên nào.” Howl nói. “Nếu cô ngại thì cứ về đi. Hoặc quay lại chỗ mấy con ngựa để đảm bảo chúng chưa tự bứt dây ra mà chạy.”

    Con hươu ngã xuống bên một tảng đá lớn, giữa đám cỏ héo. Mắt nó đảo quanh, thở dốc, bên chân bị thương co quắp lại. Dòng máu đỏ tươi của nó nhỏ giọt xuống cả đám cỏ.

    Angeline đứng yên tại chỗ, nhìn không rời khỏi dòng máu đặc quánh của con vật. Cô bị ám ảnh với màu đỏ. Mỗi khi nhìn thấy thứ màu ấy, có gì đó tối tăm lại khơi dậy trong cô. Một thứ gì đó thuộc về miền đất này, như một thứ bản năn sinh tồn, thuyết phục cô đó là màu sắc của sự sống. Không phải cái chết. Không phải sự cám dỗ. Không phải tội lỗi. Mà là sự sống, thuần khiết, sống động, thôi thúc mãnh liệt.

    Cô cảm thấy ngay lúc này đây, cơ thể mình trở nên tê dại.

    Howl quỳ bên cạnh con hươu và rút con dao ra. Nó thậm chí chưa chết, nhưng mũi tên đã chạm đến xương.

    Chắc hẳn là đau đớn lắm, Angeline hay tò mò nỗi đau da thịt ấy có cảm giác như thế nào.

    Cô biết Howl sẽ làm gì tiếp theo. Cậu sẽ giết con hươu còn thoi thóp ấy và đâm nó, lôi những thứ nội tạng nhơ nhớp dịch và máu của nó ra khỏi bụng. Đó là chuyện bình thường của những thợ săn, mà có lẽ cậu đã làm điều ấy thuần thục đến mức nhắm mắt cũng xong được. Angeline cũng từng phải tự mình xử lý thịt thú rừng tươi, và nó mang đến cho cô một cảm giác kỳ dị, đáng sợ, nhắc nhở cho cô đến một nỗi khao khát đen tối tồn tại trong cô.

    Howl đặt con dao xuống đất để rút mũi tên khỏi chân con nai.

    Đó là lúc mà Angeline nghe thấy tiếng dẫm nhẹ nhàng trên lá và cành cây khô. Cô ngoái nhìn xung quanh, băn khoăn mình có đang tưởng tượng ra những tiếng răng rắc rất khẽ, và tiếng gầm gừ đó hay không.

    “Này...” Cô run lên và lùi lại khỏi Howl.

    “Đừng làm tôi mất tập trung!”

    “Nghe đây, hãy đứng lên thật chậm thôi, và hạ cung tên xuống.”

    Howl ngước nhìn cô, nhăn mày thắc mắc cô đang nói về cái gì thì có một hơi thở phả đến sau gáy cậu. Con nai quờ quạng đạp chân và kêu lên những tiếng rên rỉ yếu ớt.

    Howl làm y theo lời cô. Cậu thận trọng đứng lên và lùi ra xa. Cả hai đều không dám nhúc nhích.

    Con vật ấy chĩa cái mõm ra khỏi bụi cây. Toàn thân nó phủ một lớp lông tơ đen ánh và dày. Angeline có thể trông thấy rõ hai cái răng nanh dài của nó chĩa ra khỏi hàm như hai con dao sứ nhọn hoắt. Nó có hình dáng của loài sói, với bốn chân lởm chởm móng vuốt, đôi mắt xếch lên trong suốt, và một cái đuôi dài hơn bình thường. Kích cỡ của nó phải bằng ba con sói xám cộng lại. Cô biết đâu đó trong rừng có thú hoang, nhưng cô chưa từng mơ mình sẽ gặp con vật này.

    Con sói tiến đến phía trước, chắn giữa hai người và con nai như thể tuyên bố con nai là của nó. Vai nó nhô cao lên và trong cổ họng phát ra những tiếng gầm gừ.

    Con nai vẫn kêu lên the thé.

    “Đừng có bỏ chạy.” Howl nói.

    “Tôi chưa điên.”

    Cái đuôi đen của con vật vờn qua lại trên không trung. Cuối cái đuôi có một bàn tay lông lá và chẳng có nét nào giống với bàn tay người thường. Cái giây phút cả hai nhận ra con vật này không phải chó sói là giây phút tệ hại nhất.

    “Chó nước Ahuizotl đấy.” Howl nói. “Tôi không nghĩ thịt con nai đủ để nó dính răng đâu...”

    “Im lặng đi.”

    Ahuizotl không phải là loài chó bình thường. Nó là một loài săn thịt sống quanh vùng nước, thậm chí ở dưới nước. Điều đó có thể hiểu được vì Ner Rill cách đây không xa. Hơn nữa từ dòng sông ấy đổ vào rừng biết bao nhánh sông suối đầm lầy nhỏ hơn. Chúng hay lang thang quanh các con sông, đầm lầy để kiếm mồi, đôi khi bắt cả những người câu cá hay ở ven sông một mình. Và thêm một điều chắc chắn nữa, chúng chẳng thèm thịt nai bằng máu thịt sống của con người.

    “Anh là Quỷ Vương đấy.” Angeline thì thầm.

    “Quỷ Vương cũng có thể bị xé xác bởi một con thú lắm.” Cậu nói. Nhưng rồi cô thấy Howl nhoẻn cười, dù cậu có vẻ căng thẳng không kém gì cô. Howl nhẹ nhàng rút một mũi tên ra và tra vào dây cung.

    Angeline muốn nói là cái mũi tên quèn đó chẳng thể làm gì một con chó nước, nhưng cô chẳng thể nói to ra được. Cô đành trông chờ vào mọi việc mà Howl đang định làm để thoát khỏi cảnh làm mồi cho ác thú.

    Con chó đang thu chân lại. Cả Howl và Angeline đều biết nó chuẩn bị làm gì. Nó sẽ vồ lên và chộm lấy hai người để cắn xé. Và kể cả né được thì bàn tay xấu xí sau đuôi nó sẽ hành động.

    Howl giương mũi tên lên. Ánh sáng lóe lên từ mũi tên làm con vật hơi kích động. Như đánh hơi được mùi cái chết, con nai đằng sau kêu rống lên và ngấc đầu dậy khỏi mặt đất. Giờ con chó đã chú ý đến Howl hoàn toàn, Angeline cố tách mình ra khỏi tầm nhìn của nó. Nó cao hơn Howl rất nhiều, và có hàm răng có thể nhai trọn cậu.

    Sinh vật đen đúa ấy rống lên một tiếng man dại và nhảy chồm lên lao vào Howl. Ngay lúc ấy, cậu bắn. Mũi tên phóng đi nhưng rốt cuộc lại cắm phập vào thân cây đằng sau con vật. Cả hai kinh ngạc lùi lại vì cảnh tượng vừa rồi: những tiếng gầm thét khiến cả khu rừng như sống dậy vang lên giữa cuộc vật lộn của một con nai sừng tấm già bỗng lao ra từ mạn phải con chó và dùng đôi gạc vĩ đại của nó húc sinh vật kia đâm rầm xuống một đống đá ngổn ngang. Angeline thét lên và giật lùi lại, Howl kéo cô về phía sau. Hai con vật ấy gào thét ầm ĩ như đang tuyên chiến, con chó lùi lại đằng sau, lắc lư cổ và vặn vẹo cái đuôi của nó. Rõ ràng, nai sừng tấm không phải đối thủ của nó, nó có thể cắn chết con nai dễ dàng.

    “Đi thôi.” Howl nói khi mặt đất dưới chân họ bắt đầu rung lên và hai con vật giao chiến. Con nai to khỏe húc cặp sừng của nó vào con chó, sinh vật kia không sao bật lại được con nai sừng.

    Howl dần bỏ đi, cậu kéo Angeline theo nhưng điều gì đó khiến chân cô chùn lại. Con nai yếu thế hơn và chắc chắn nó biết thế. Nó cũng không đời nào lao vào chỗ chết vì bản năng sinh tồn của nó. Vậy điều gì đã khiến nó lao bật ra và trống trả bằng mọi cách như vậy?

    Con nai mà Howl đã bắn. Nó hẳn là con của con nai già kia. Nó không kêu rống vì sắp chết, nó đã gọi mẹ mình.

    Cô giằng tay khỏi Howl và chạy ngược lại. Con chó Ahuizotl lấy đuôi nắm lấy cổ chân sau của con nai và quăng nó đi. Con nai mất đà đâm sầm xuống đất, một bên gạc bị mẻ. Nó bò dậy trong đau đớn.

    “Cô điên à?” Howl gào lên.

    Angeline không đáp lại. Hãy mặc anh ta. Cứ để anh ta chạy, cô nghĩ, còn cô sẽ ở lại. Angeline lao lại gần chỗ con nai con, nơi nó đang hấp hối, và nhặt con dao săn của Howl lên. Bấy giờ con dao là vũ khí duy nhất mà cô có.

    Cô biết mình không thể lao vào giữa trận chiến giữa hai con vật khổng lồ, cô phải chờ thời cơ. Con hươu đâm một bên gạc của nó vào con chó, nhưng con vật đen đúa ấy chỉ kêu lên một tiếng đau đớn chứ không bị thương. Nó đạp con nai sừng tấm ra. Những tiếng rống ầm ĩ lai tạp giữa hai con vật, tiếng kêu thê thảm của con nai con làm cả khoảng rừng náo loạn.

    Angeline lùi lại. Lúc ấy, con chó Ahuizotl lao vào cắn xé con hươu. Hàm răng của con chó chỉ cách chân con hươu vài phân trước khi nó dùng chân mình đạp thẳng vào mõm Ahuizotl. Con chó đen nhăn nhó lùi lại, nhưng rồi lại chực lao đến. Lần này nó đã tóm được thân con nai già và cố cắn con nai bằng mọi giá. Cái đuôi của nó quét sạt xuống đất. Đó là lúc Angelien thấy mình lao ra khỏi, cô đâm một nhát sâu và ngọt vào giữa cái đuôi nó, ngay chỗ bàn tay. Con chó tru lên đau đớn, Angeline dùng cả hai tay ấn lưỡi dao sang ngang, cô cắt đứt được một phần gân và thịt của sinh vật ấy trước khi đuôi nó hất ngược cô xuống đất và nó gầm rú quay cuồng, buông con nai ra.

    Angeline bò lùi. Con chó đã để ý đến cô. Nó chỉ thêm giận giữ khi cô biến cái đuôi nó thành phế vật. Bàn tay chảy máu và vắt vẻo như sắp lìa ra.

    Hai mũi tên lao đến, cắm vào giữa mắt và trán con chó. Angeline thấy nó chồm lên cao và gào thét dữ dội, máu tóe ra từ hốc mắt nó. Cô nhìn sang bên thì thấy Howl với cây cung trên tay, trông cậu mệt mỏi và giận dữ. Cậu hất đầu ra hiệu cho cô đứng lên chạy. Angeline loạng choạng bò dậy, người dính đầy đất và lá khô, trốn sau một thân cây.

    Con chó tiếp tục gào thét thảm thiết. Nó dùng móng hai chân trước cố cào mũi tên ra khỏi mắt phải. Mũi tên gãy dưới sức mạnh của nó nhưng vẫn cắm chặt một đoạn ở mắt nó như một cái gai. Chắc chắn nó đã mù.

    Nó điên cuồng tìm kẻ vừa bắn mình, và trông thấy Howl đang đứng đấy. Con nai đã kiệt sức và chảy máu, nằm bệt trên đất vô vọng. Howl bỏ cây cung xuống một gốc cây, đặt ống cung bên cạnh, một mình tiến ra trước mặt sinh vật to lớn đó.

    Tim Angeline đập thình thịch. Có mấy vết xước trong lòng bàn tay cô nhưng cô chẳng quan tâm. Cô ngồi im đó cố nén nhịp thở, quan sát Howl và con chó.

    Con chó gầm ghè giương oai, cái đuôi của nó chảy máu, rạn xương và lê trên đất. Máu chảy ra từ hốc mắt và trán nó có màu đen, và trông nó điên cuồng hơn cả bình thường. Howl chẳng buồn quan tâm. Con chó xù lông lên như chực lao đến, thì một luồng lửa đỏ rực khiến cả khu rừng tăm tối bừng sáng xuất hiện. Trong mắt Angeline phản chiếu màu sắc rực rỡ và hoang dại của ngọn lửa. Con chó rống lên một tiếng rung trời, thân trước của nó bật lên khỏi không trung và toàn bộ bộ lông đen đang bắt lửa, bốc khói. Angeline có thể cảm thấy sức nóng của ngọn lửa từ tận đây.

    Bấy giờ con chó Ahuizolt chỉ đi bằng hai chân sau. Hai chân trước của nó cào với trên không trung, quay cuồng và nó còn bắt lửa vào những thân cây cô. Nhẽ ra lửa chỉ bén vào đầu nó, nhưng bằng một cách nào đó lại lan ra toàn cơ thể nó nhanh chóng như thể nó được ngâm trong xăng. Mùi khét lẹt bắt đầu bốc lên với khói.

    Sau một hồi kháng cự quyết liệt và giãy dụa điên cuồng, con sói nằm vật xuống đất giữa những thân cây cháy. Lửa vẫn không dập tắt trên cơ thể nó, khói bốc lên đen kịt khỏi những ngọn cây xơ xác.

    Angeline hoang mang nhìn quanh không hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì giật mình nhận thấy Howl đang đứng trước mặt, người không có lấy một viết xây xước. Cô cũng thế, nhưng lấm lem đất và lá. Howl giơ bàn tay mình ra. Trong mắt cô vẫn phản chiếu những ngọn lửa sáng rực dữ dội, cô nắm lấy tay anh ta và đứng dậy.

    Lửa vẫn cháy. Mọi hơi thở lạnh giá của thời tiết đầu đông biến mất ngay lúc ấy.


    HOWL NHẶT CÂY CUNG LÊN, chửi rủa vì một đầu cung đã bén lửa và cháy đen. Dây cung đứt, nhăn nhúm cháy. Angeline chẳng bận tâm. Cô đứng nhìn xác con vật khổng lồ đang cháy, từ cơ thể nó bốc ra những đám khói nghi ngút đen đặc, có mùi khét của lông và cả mùi của thịt.

    Cô đưa mắt tìm con nai. Con nai sừng tấm già nằm bên xác con nai con, thở hổn hển. Bốn chân nó co quắp lại, đầu nó gác lên mặt đất và máu chảy ra từ các vết thương bê bết. Angeline bước lại gần con hươu.

    “Cô biết đấy, nếu cô không bỗng dưng quay lại thì cây cung yêu thích của tôi đã không cháy.” Howl trách móc rồi giận dỗi đá vào một hòn đá.

    Angeline chẳng nói chẳng rằng. Cô cúi xuống bên con nai sừng tấm. Con nai con đã mất máu chết, rốt cuộc Howl vẫn sẽ mang được về chiến lợi phẩm cho ngày hôm nay. Nhưng con nai già vẫn còn sống, một bên gạc của nó bị gãy trong trận chiến vô vọng với con chó Ahuizolt. Cổ họng nó phát ra những âm thanh yếu đuối. Cô biết nó cũng sẽ chết sớm.

    “Đi về thôi.” Howl nói. “Tôi sẽ gọi một vài người ra để mang con nai to về.”

    “Tôi sẽ ở lại đây.” Angeline, cô ngẩng lên, quả quyết. “Nếu có con thú nào tha chiến lợi phẩm của anh đi thì sao? Tôi sẽ canh chừng.”

    Cô nghĩ rằng Howl sẽ phản đối. Nhưng thật ra anh ta không đủ quan tâm đến mức đó. Anh ta chỉ hơi ngạc nhiên lúc đầu khi cô nói thế, rồi nhún vai:

    “Tùy cô thôi. Đừng đi đâu cả, tôi sẽ gọi người đến đây nhanh thôi.”

    Angeline gật đầu. Cô ngồi bên một tảng đá to cạnh nơi hai con nai đang nằm. Trời đang tối đi rõ rệt, nhưng những đám lửa bốc lên từ con chó đã chết và từ những thân cây khô có thể trông thấy từ xa. Howl rời đi ngay sau đó.

    Chỉ còn Angeline ở lại giữa khoảng rừng vắng. Ánh lửa hắt lên dát một nửa khuôn mặt và mái tóc cô màu vàng ấm nóng, rực rỡ. Angeline vuốt ve nhẹ nhàng đầu con nai con, nghe tiếng gầm gừ yếu ớt từ con nai mẹ. Nó bị thương rất nặng, và có vẻ như cũng đã buông xuôi.

    Tiếng bước chân trên lá của Howl xa dần.

    Angeline cúi xuống, xóc con nai con đã chết lên. Cơ thể nó vẫn ấm áp như còn sống. Một bên đùi nó bê bết máu, đặc quánh lại thành màu đỏ rùng rợn trong bóng tối. Con nai mở trừng trừng mắt vào không trung, mềm oặt trong tay Angeline. Cô quỳ xuống cạnh nó, trên thảm cỏ úa vàng. Con nai sừng mẹ đưa mắt nhìn theo.

    Angeline đặt một lên chân con nai con, nơi nó bị thương. Và tay còn lại cô đặt lên chỗ mà cô nghĩ là tim của nó. Đây không phải lần đầu tiên Angeline làm điều này. Hơi lạnh tụ lại ở lòng bàn tay cô, kèm theo cảm giác ngứa râm ran. Bàn tay Angeline hóa trắng toát, hơi thở của cô chuyển sang đứt quãng và hổn hển như người vừa chạy đến vài dặm. Ở nơi vết thương của con nai, máu bết đặc lại, che mất những dấu hiệu đầu tiên cho thấy vết thương của nó đang lành lại. Những thớ thịt, dây thần kinh, mạch máu và gân, tất cả đều đang chuyển động, chằng nối với nhau dần thành một khối. Sau đó, một lớp da mỏng phủ lên ngoài vết thương của nó màu hồng nhạt. Khi những sợi lông đầu tiên mọc trở lại trên chỗ da hồng ướt ấy, Angeline cảm nhận được nhịp tim của con nai.

    Một nhịp.

    Ngắt quãng. Im lặng.

    Hai nhịp.

    Ba nhịp.

    Không đồng đều.

    Bốn nhịp.

    Và rồi trái tim thoi thóp của nó đập nhanh dần, bơm máu tràn lên toàn cơ thể. Lượng máu dồn dập lan khắp mạch máu của nó, bù đắp cho số máu đã ngấm xuống cỏ và đất. Hai mắt con nai bắt đầu chớp và di chuyển. Nó cử động rồi đứng dậy, vẫn không vững, lảo đảo như người say.

    Angeline nhấc tay mình ra. Con nai kêu lên những tiếng đầu tiên sau khi nó chết. Đáp lại là mẹ nó – con nai sừng tấm già thương chấn đầy mình. Angeline vịn vào hòn đá. Con nai nhỏ chạy đi sau khi nó rúc vào mẹ mình một lúc, thẳng vào rừng.

    Cô ngồi đấy, chờ đợi nai mẹ chết.

    Nhưng cô không thể làm gì cả. Howl sẽ phát điên lên. Cô biết con nai sừng này sẽ chẳng oán trách gì, nó đã lựa chọn. Nó đã lựa chọn để con cái của nó được sống.

    Gry nói đúng.

    Bản năng của một người mẹ là bảo vệ con mình.


    Khi Howl trở lại với đoàn người ngựa, con nai sừng tấm đã chết. Khói vẫn bốc lên từ xác con chó Ahuizolt dù nó đã ngừng cháy. Cơ thể nó đen quắt lại thành một đống. Angeline ngồi yên ở tảng đá, mặt xanh xao. Tiếng người ngựa làm khu rừng náo loạn. Người ta lôi dây thừng ra, quấn quanh con nai chết để kéo nó về.

    Howl lại gần cô. “Con nai kia đâu?” Cậu hỏi.

    “Tôi không biết.” Angeline vịn vào tảng đá, đứng dậy. Trông cô bơ phờ và mệt mỏi.

    “Cô đùa sao? Cô ở đây suốt mà?”

    “Nó đứng dậy và chạy mất rồi.”

    Howl ngẩn người.

    Angeline rảo bước đi, chẳng nói thêm gì. Sau đó, Howl đi theo và kéo tay cô lại:

    “Nó đã chết rồi. Cô đã vứt nó à?”

    Angeline giật tay áo mình ra, đôi mắt cô trở về với đôi mắt có cái thần thái như lần đầu tiên Howl gặp, bất cần, lầm lỳ, xa cách:

    “Anh đã có con vật này rồi mà.” Cô ghé sát Howl. “Đừng tham lam nữa.”

    Howl trừng mắt ngạc nhiên, nhưng đáp lại chỉ có sự dửng dưng của cô gái. Cô quay mình, lần này, là bỏ đi thật. Cô leo lên ngựa và quay trở về lâu đài.
     
  20. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 38
    MÙA ĐÔNG ĐANG ĐẾN, nó đến bằng những buổi sáng mờ mịt sương khói và hơi ẩm giá lạnh. Các cơn gió lạnh hung tàn của phía Bắc nổi lên. Ner Rill nước chảy lặng như một dòng suối, in xuống đó hình phản chiếu những áng mâu trời bạc nhẹ như lụa, những bụi bờ khô khốc lá và các đàn chim di cư. Thường thì, trong suốt mùa khô và đầu đông, Angeline phải đi kiếm củi để đốt trong mùa đông. Nhưng bây giờ thì không cần thiết nữa.

    Cô đã không ra tưới nước cho cây táo nhiều ngày nay. Nó bạc màu đi, thẫn thờ và buồn chán. Cả cô và Howl đều chẳng tìm ra điều gì đáng chú ý cả. Cậu ta vẫn đi mất hút, có khi đến vài ngày. Dưới thành cửa sổ hình vòm của thưa viện, Angeline ôm một cuốn sách trong lòng mình và chăm chú đọc. Cách duy nhất để có cảm giác rằng mình không ở đây, cô đưa tâm trí mình vào những dòng chữ. Chúng cuốn cô đi thật xa, xa khỏi lâu đài Quỷ, xa khỏi nỗi sợ hãi khi nhận ra rốt cuộc mùa đông sắp đến.

    Angeline hay ngủ gật ở thư viện. Có thể cô chẳng ngủ nổi một khi đã nằm lên giường, trằn trọc suốt đêm, nhưng giữa sự im lặng vắng vẻ và mùi sách giấy cũ phảng phất, cơn buồn ngủ đến với cô dễ dàng. Cô tựa đầu mình vào cửa sổ, cảm thấy một chỗ dựa vững chãi và an toàn bên vai.

    Nhưng cô chẳng thể ngủ dễ dàng đến thế.

    Một chiếc ly sứ trên bàn rơi xuống và vỡ toang. Angeline sực tỉnh, giật bắn mình. Âm thanh đó đánh thức cô bằng một cái đập đau điếng. Ban đầu cô nghĩ mình nghe nhầm, khi nửa tỉnh nửa mơ người ta thường tưởng tượng ra những âm thanh, hình ảnh không có thật. Cô cũng ngỡ là thế, cho đến khi tiếng động thứ hai vang lên.

    “Angie...”

    Tiếng thì thào vọng lại trong không trung. Angeline gấp lại cuốn sách, trái tim cô bị bóp thắt vì hồi hộp. Cô nhìn quanh những giá sách nhưng chẳng nhìn thấy gì cả.

    Tiếng cười của trẻ con vang lên mơ hồ tựa như sương. Cô không thể xác định được hướng nó phát ra, như thể làn sương ấy bao trùm khắp bốn phía không gian. Thứ giọng tai quái ấy.

    Cô rảo bước quanh những giá sách, rồi sau đó đi đến đoạn hành lang giữa thư viện. Một chiếc cốc màu đỏ vỡ tan tành từng mảnh trên sàn nhà, ở chiếc bàn gần lối ra vào nhất. Angeline không còn lạ lẫm gì với những trò đùa như thế này. Vào những ngày tháng đầu tiên cô ở lâu đài Quỷ khi còn là đứa trẻ, cô đã tái mét và sợ run khi gặp những tình huống như thế lúc ở một mình.

    Đặc biệt, vào những đêm mưa, chúng xuất hiện nhiều hơn, lang thang khắp nơi để hù dọa.

    Vì một lý do nào đấy, lâu đài Quỷ không cho phép nhiều người rời đi – cả người sống và người chết. Những âm thanh, những cái bóng, giọng cười – màn hù dọa kinh điển. Chúng hiếm khi vì một lý do cụ thể nào đó, chúng chỉ rảnh rỗi và buồn chán, và có khiếu đùa cợt.

    Cô định quay lại đọc sách tiếp, thì nghe thấy tiếng bước chân chạy qua hành lang ngoài thư viện. Một tiếng nài xin não nùng vang lên gọi tên cô, không thể nói là không khiến Angeline có chút sợ hãi lúc này. Khó mà đuổi những hồn ma đi được.

    “Ngươi muốn gì?” Angeline hỏi thật lớn, cô đi gần đến cửa ra vào.

    Một quãng im lặng ngắn ngủi, và âm thanh méo mó dị thường như vang lên từ chốn không thuộc về thực tại làm sống lưng cô lạnh toát:

    “Đến đây...”

    Angeline ép mình phải lờ nó đi, phải mặc kệ nó, đừng làm theo lời nó nói. Nhưng chân cô vẫn bước tiếp. Giờ cô đang đứng trước cánh cửa lạnh ngắt, do dự trước khi mở nó ra.

    Tiếng gõ cửa ầm ầm làm Angeline giật nảy mình, loạng choạng lùi lại. Nhưng rồi cô trở nên khó chịu. Có thể sau cánh cửa này sẽ là một cảnh tượng chẳng mấy mãn nhãn. Có thể là một cái đầu xấu xí với mái tóc bê bết tro và bùn đất, hai hốc mắt sâu hoắm như miệng vực, một cái miệng đang rỉ máu, hay làn da tái nhợt và nứt nẻ của xác chết.

    Cô giật mạnh cánh cửa. Angeline không cho phép mình dễ dàng sợ hãi như thế, đặc biệt với những hồn ma phiền phức ấy.

    Chẳng có gì cả.

    Hành lang bên ngoài lạnh, trống không, và tối.

    Cô bước hẳn ra ngoài, chuẩn bị cho một cú hù dọa đáng sợ. Có lẽ là một cái đầu máu me, một gương mặt dị dạng méo mó và chỉ có nửa thân trên, hay một mái tóc dài xổ ra từ bóng tối, sẵn sàng bóp cổ và lôi cô đập mình xuống sàn nhà.

    Nhưng, chẳng có gì cả.

    Chẳng có gì, ngoài một hành lang tối thui và lạnh. Ánh sáng hắt thành những khối vuông trên sàn nhà qua các ô cửa sổ, tạo ra những đường ranh giới rõ rệt giữa sáng và tối.

    Nhưng đột ngột, ở cuối hành lang thình lình hiện ra một cái bóng.

    Một cái bóng đen thui, giống như được sơn đen, cô có thể thấy cái bóng vì luồng sáng nhẹ từ cửa sổ chiếu đằng sau nó. Angeline cắn nhẹ vào môi. Cái bóng đứng yên như thể nó đã ở đó từ lâu lắm rồi, gương mặt nó ẩn trong bóng tối, nó đứng đó như một pho tượng.

    Trong khoảnh tối bao trùm quanh cái bóng, Angeline thấy hai tia sáng vàng khè ở gương mặt như thể đấy là mắt nó. Nỗi sợ thôi thúc và đập vào lồng ngực cô những nhịp dồn dã, như cào cấu và thì thầm rằng: chạy, chạy đi, tránh xa khỏi cái thứ này.

    Nhưng cô đã làm điều ngược lại.

    Điều mà cô đã tự dạy mình và ép mình làm theo trong suốt những năm sống ở vùng Bóng tối.

    Nếu thấy sợ hãi,

    hãy mở to mắt,

    và đừng bỏ chạy,

    điều tệ hại nhất có thể xảy ra chỉ là cái chết mà thôi.

    Vậy nên, có vẻ thật ngu ngốc khi cô quyết định lại gần cái bóng, nhưng Angeline biết nó không ở đó chỉ cho vui. Hẳn phải có lý do gì đó nó mới xuất hiện.

    Angeline lần bước vào trong bóng tối. Càng lúc, cô càng đến gần hơn với cái bóng. Nó vẫn bất động. Và khi mắt cô đã quen với bóng tối, Angeline nhận ra một khuôn mặt. Đó là Abigail, với những tia sáng vàng phản chiếu trong mắt nó.

    Nhưng đó không thể là Abigail được. Không thể.

    Gương mặt đó là của một kẻ đã chết, nhợt nhạt màu xám xanh, tái tím đi. Abigail thường hay buộc tóc mình thành bím, nhưng cái thứ này thì không, tóc nó xõa ra khắp vai và cổ, trông như một mớ râu ngô bị nhúng xuống bùn ướt. Máu chảy ra từ hai hốc mắt sâu hoắm như đáy vực, và trên làn da là những đường nứt như sứ vỡ.

    Nhưng bộ dạng ấy không dọa được Angeline. Cô đã từng nhìn thấy nhiều con ma đáng sợ hơn thế. Lúc này, máu chảy xuống từ mắt con bé nhỏ giọt trên sàn nhà. Điều duy nhất đáng sợ ở đây là việc nó giống Abigail như đúc. Một bản sao hoàn hảo.Cứ như thể cô đang nhìn thấy Abigail – một Abigail đã chết.

    Và điều đó thật chẳng dễ chịu.

    Angeline ngạc nhiên vì sự bình tĩnh của mình. Cô đưa một tay lên, định chạm vào cái bóng thì nó giật lùi lại và chạy vụt đi. Cô biết nó muốn mình chạy theo, giống như lần trước, vậy nên cô đuổi theo cái bóng. Nó chạy rất nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện, hầu như không thể thấy rõ được. Nhưng Angeline biết mình phải chạy theo hướng nào, bởi vì có bước chân của nó đã dẫn đường. Khắp lâu đài yên tĩnh như thế, bỗng vang lên tiếng bước chân chạy, khó mà lờ đi được. Với sự im lặng này, thì dù là một giọt nước nhỏ xuống sàn người ta cũng nghe thấy.

    Cô không rõ mình đang chạy đi đâu, ban đầu thì thế, nhưng Angeline có nhận ra càng lúc mình càng chạy lên cao. Những đoạn hành lang tối và các dãy cầu thang cứ nối tiếp bước chân cô. Ánh sáng màu vàng ố hắt vào từ các ô cửa sổ, nghiêng nghiêng từng ô vuông xuống sàn nhà. Angeline chạy theo các ô vuông đó. Các bức tượng và tranh trở nên rõ nét hơn khi có ánh sáng hắt vào, chúng nhăn nhó bởi những phần tối nơi ánh sáng không hắt đến được. Cô lại chạy. Qua hành lang. Qua các cánh cửa. Qua cầu thang.

    Đột nhiên, khi lên đến cầu thang tầng sáu, Angeline đâm sầm vào James. Ông ta xuất hiện thình lình như một bóng ma, thậm chí còn hơn thế. Trán Angeline đau ê ẩm và cô lùi lại. Khi nhìn quanh cô thấy cái bóng đã biến mất. Bấy giờ cô đang đứng ngơ ngác giữa một ngã tư với ba lối rẽ hành lang và một dãy cầu thang lượn xuống dưới, với James.

    “Cô đang tìm ai à?” Ông ta hỏi từ tốn và bình thản.

    “Không, không...” Angeline vẫn đảo mắt xung quanh, ngược lại hoàn toàn so với lời nói của mình. “Không có gì cả.”

    Sau gáy James, tại đoạn hành lang bên trái, Angeline thấy một cái đầu nhỏ thó ló ra. Nó nhìn cô một lúc rồi lại chạy biến.

    “Xin lỗi.” Angeline nói, bỏ lại James phía sau và chạy tiếp. Cô thở hổn hển không ra hơi, hai bắp chân nóng cháy lên và cơ căng ra. Nhưng nó càng nhức và nóng, Angeline càng chạy nhanh hơn. Mồ hôi túa mạnh trên trán cô.

    Rốt cuộc, cái bóng dẫn cô đến tháp Nam.

    Nhẽ ra cánh cửa vào tháp phải đóng, nhưng cô thấy nó đang mở hé như một lời chào: Vào đây đi, vào đây đi, có những bí mật đáng tò mò trong này. Angeline đứng chần chừ trước cái tháp, rõ ràng đây là nơi cái bóng muốn cô đến. Rồi trong đầu cô chợt lóe lên một ý nghĩ, sáng chói như tia lửa của que diêm trong căn hầm tối. Đây, là nơi mà mẹ Howl đã chết.

    Đây, là nơi đã cháy rụi hoàn toàn nhiều năm về trước.

    Là nơi mà dường như không ai muốn nhắc đến nữa.

    Cô lập tức chạy vào trong. Rồi sau đó cô nhận ra sai lầm của mình khi không mang theo một cây đuốc hay nến, vì trong tháp tối om và cô phải men theo các bậc cầu thang đá rất cao. Những đường lượn xoắn ốc uyển chuyển đưa dãy cầu thang lên trên cao. May mắn, có một vài ô cửa mà có lẽ quá nhỏ để gọi là cửa sổ, cho phép ánh sáng ngoài trời in vào trong. Angeline có thể thấy được cấc bậc thang khi mắt đã quen với bóng tối. Ở chỗ có ánh sáng, cô thấy có cả bụi. Nó bẩn thỉu hơn tháp Tây gấp nhiều lần.

    Phía Nam lâu đài Quỷ là một khoảng rừng thưa, mỏng, xen lẫn đầm lầy. Angeline không bao giờ đi xuống tận đó. Một phần là vì nó quá xa, phần khác là vì những cái đầm lầy. Có cái sâu đến cổ người, ngập ngụa bùn và những loài thực vật nước. Và ai mà biết được có cái gì ở bên dưới mặt nước đặc quánh, xanh lè ấy.

    Vậy nên, chẳng có gì để mà ngắm nghía ở tháp Nam cả.

    Chân tay cô rã ra khi cô cuối cùng cũng lên đỉnh tháp Nam. Ở đây, cầu thang dẫn thẳng vào một cánh cửa gỗ, mà chẳng hiểu vì lý do gì khóa đã mở. Nhưng Angeline không thấy chìa khóa đâu cả.

    Cô bước đến gần cánh cửa, gỡ ổ khóa ra khỏi dây xích và để xuống sàn nhà, rồi kéo mạnh cánh cửa. Điểm khác nhau giữa một cánh cửa gỗ và một cánh cửa sắt đó là cô vẫn có thể kéo cửa gỗ ra mà không cần đến cái xà beng chết tiệt nào. Dù bản lề của nó đã gỉ sét, tạo ra những âm thanh kêu rít chói tai, cô vẫn có thể mở nó ra được.

    Cửa nặng nề mở ra. Và Angeline bước vào phòng.

    Ban đầu cô thoáng giật mình. Những tấm vải trắng trải kín phòng mà lúc sau cô mới nhận ra chúng để che phủ đồ đạc khỏi bụi. Khác với phòng ở tháp Tây, phòng này chi có hai ô cửa sổ đối diện nhau, phủ rèm tím. Cô chần chừ một lát trước khi đi vào trong, cảm thấy sau gáy ngứa ngáy và lạnh toát.

    Angeline đi đến bên hai cánh cửa sổ trước để kéo rèm ra. Ánh sáng nhuộm căn phòng màu vàng ố. Đi đến đâu cũng thấy bụi và mạng nhện, vón lại với nhau và dày từng lớp. Cô không còn thấy cái bóng ở đâu nữa, nên đoán rằng đây chính là nơi mình cần đến. Angeline bèn kéo hết những tấm vải trắng xuống, lục tung đồ đạc bên dưới chúng nhưng bằng một cách cẩn thận.

    Có một tủ quần áo gỗ đầy trang phục nữ: các bộ váy, khăn choàng, giày, găng tay, mũ... Bên cạnh còn có một bàn trang điểm bẵng gỗ, bụi dày đến mức Angeline không muốn đụng vào. Nhưng cô phải tìm, cô phải tìm cho ra thứ cần tìm, dù cô vẫn chưa biết đó là gì. Có lẽ là một lá thư, một mẩu giấy, một đồ vật, hay bất cứ cái gì. Trong những ngăn kéo bàn trang điểm, cô chỉ tìm thấy những xấp giấy - những bản nhạc soạn tay. Angeline ngẩn người.

    Đây hẳn là đồ đạc của Myris để lại. Và đây là những bản nhạc bà đã soạn. Chúng không dài, thường chỉ có một đoạn ngắn, đôi chỗ trong tờ giấy bị gạch chồng chéo lên nhau. Nét chữ của bà y hệt với trong cuốn sách Bóng tối, nên cô không còn nghi ngờ gì nữa.

    Khi những ngón tay của Angeline lần trên các trang giấy mà viền đã tơi tả, cô cảm thấy hơi thở của một cuộc đời khác phả đến. Ngắn ngủi, tội lỗi, đáng thương, những thứ cũng gần gũi với cô. Myris đã từng sống ở đây. Và lòng dạ cô bồn chồn lẫn lo sợ khi nhớ đến việc bà cũng đã chết ở đây.

    Chính xác, là chỗ nào của căn phòng nhỉ?

    Cô cố né tránh các câu hỏi của chính mình, vì nó chỉ làm cô thêm sợ hãi. Angeline đặt lại các bản nhạc soạn tay vào ngăn kéo. Trong phòng có rất nhiều đồ đạc, nhưng cô cảm thấy đó là hơi ít so với một người từng là vợ của Moldark, Quỷ Vương. Hoặc người ta đã mang vứt hết đi rồi.

    Trong góc phòng, Angeline tìm thấy một chiếc nôi cũ bằng gỗ đỏ. Những chấn song giăng mắc mạng nhện nhưng nước sơn vẫn còn nguyên. Cô chạm vào thành nôi, dường như kích cỡ của nó hơi lớn cho một đứa trẻ sơ sinh. Bên trong nôi vẫn còn để nguyên một tấm đệm trắng không có ga, và hai cái gối xếp cạnh nhau. Bụi phủ kín nguyên lớp vải và nhuộm màu trắng thành màu nâu ngà bẩn thỉu. Cô tự hỏi liệu đây có phải là cái nôi của Abigail.

    Sự xuất hiện của chiếc nôi cũ gợi lên điều gì đó trong Angeline. Lòng cô dịu xuống như thể trước đó trong cô chỉ có những cơn sóng dữ dội, bây giờ lại là mặt hồ yên ả. Angeline băn khoăn không biết cô có tìm được thứ gì đó ở cái nôi không. Cô kéo hai cái gối lên rồi sau đó là tấm đệm trắng. Dưới những thanh gỗ đóng song song với nhau, cô chợt trông thấy một vật vuông vuông, nhỏ nhắn đặt ở dưới.

    Một cuốn sổ da.

    Tim Angeline đập mạnh, cô cầm lấy cuốn sổ lên. Cô bắt gặp những dòng chữ nghiêng nghiêng bên trong cuốn sách. Nó đã ở đấy lâu đến mức viền giấy quăn lại và nham nhở vì mọt, các tờ giấy dính sát vào nhau. Một ít mực loang lổ ở vài tờ giấy đầu, lem nhem lên dòng chữ: Myris Cellia Lucifer.


    Đây chính là thứ cô cần tìm.


    Phần nhật ký những năm cuối của Myris trong lâu đài Quỷ.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này