1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Hậu cung Chân Hoàn truyện - Tác giả: Lưu Liễm Tử - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 28/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 4: Cố nhân tới (Thượng)
    Đầu tháng Mười một, thời tiết dần trở nên giá lạnh, sương mù bao phủ quanh núi, tiết trời âm u, chẳng mấy khi có nắng. Nhà trệt vốn thấp bé, mỗi lần đến mùa này đều giá lạnh và ẩm ướt, cả người tôi giống như một cây cọc rêu nơi góc tường, thậm chí còn có thể vắt ra nước. Đương nhiên là có than sưởi ấm nhưng thứ được đưa đến chỗ chúng tôi toàn là loại than đen rất xấu, vừa đốt là khói đã bốc mù mịt, làm người ta cay sè mắt, không kìm được ho sặc sụa.

    Cận Tịch đi hỏi, Tịnh Bạch vốn chủ quản việc này chỉ cười tủm tỉm, thản nhiên đáp: “Dám hỏi một câu, Mạc Sầu là phụng chỉ đến đây tu hành hay đến đây để hưởng phúc?” Chỉ câu hỏi ấy thôi đã khiến Cận Tịch nghẹn lời.

    Tiểu ni cô bên cạnh còn cười, nói: “Bọn ta chẳng phân biệt được than đen hay than trắng mới là than tốt đâu, nương tử nhà các ngươi trải đời nhiều, chi bằng hãy tự đi mà làm lấy, như thế tốt hơn là đi xin từ chỗ khác về nhiều.”

    Cận Tịch dù có tốt tính đến mấy cũng không sao kìm nén được nữa, sắc mặt trở nên tím tái. “Nhưng loại than đen đó thực sự không thể dùng được, nương tử còn đang ở cữ, Tịnh Bạch sư phụ xin hãy xem giúp liệu có thể chiếu cố một chút được không, tốt xấu gì thì nương tử cũng là người phụng chỉ tu hành.”

    Tịnh Bạch bề ngoài thì thành thực nhưng giọng nói cất lên lại the thé không hợp với dáng người chút nào: “Phụng chỉ tu hành? Đó chỉ là những lời dễ nghe để nói với bên ngoài thôi, còn với mọi người trong chùa, không cần nói những lời như vậy đâu. Tục ngữ có câu ‘giấu trên không giấu dưới’, cô nghĩ bọn ta đều là kẻ ngốc hết sao, ai mà không biết Mạc Sầu là người bị đuổi ra khỏi cung!” Nói xong, cả đám người cùng cất tiếng cười rộ.

    Giọng của Tịnh Bạch vốn lớn, lúc này lại cố tình nói to, nghe như tiếng chuông, tiếng trống. Cận Tịch cố gắng kìm nén, biết rằng có nói với bọn họ nữa cũng chẳng ăn thua, đang định rời đi, chợt bị một tiểu ni cô kéo lại, cười hì hì, nói: “Ta có cách này hay lắm, trên ngọn núi sau chùa có rất nhiều cây to, bọn cô chịu khó trèo lên đó chặt một ít củi về sưởi ấm là được mà.” Nói xong liền che miệng cười khúc khích.

    Với thời tiết bây giờ, đường núi gập ghềnh khó đi, sao có thể đi chặt củi được, lời này rõ ràng là có ý châm chọc.

    Cận Tịchmuốn nói nhiều với bọn họ, xoay người rời đi luôn.

    Thế nhưng còn chưa hết, câu nói cuối cùng của Tịnh Bạch còn khó nghe hơn, vẫn lọt vào tai nàng ta: “Xin thứ cho bần ni lắm lời, nơi này không phải là chốn cung đình để nương tử muốn gì cũng được, mà nương tử cũng không còn là nương nương như trước đây nữa, phải biết rõ thân phận của mình.”

    Lời này hết sức khó nghe, Cận Tịch hơi biến sắc nhưng rốt cuộc vẫn rảo bước rời đi.

    Khi nàng ta trở về, tôi đang nằm ngủ trên giường, đầu óc nửa mê nửa tỉnh, hết sức mỏi mệt. Lúc này, Hoán Bích đang giặt quần áo ngoài sân, nhìn thấy Cận Tịch tay không trở về liền nôn nóng hỏi: “Lại bị bọn họ trách cứ sao?”

    Cận Tịch không nói gì, chỉ ngồi xuống bên cạnh cùng giặt quần áo với Hoán Bích, một lát sau liền ngoảnh đầu nhìn vào trong, hỏi: “Nương tử đâu?”

    Hoán Bích nhỏ giọng nói: “Tiểu thư còn đang ngủ, vẫn chưa thức giấc.”

    Cận Tịch khẽ thở dài một hơi, than thở: “Nếu chỉ là trách cứ thì còn đỡ, cô không biết đám người đó nói năng khó nghe thế nào đâu.”

    Hoán Bích đưa tay xắn lại hai ống tay áo sắp rơi xuống, lắc đầu, nói: “Dù có khó nghe đến mấy thì cũng vậy thôi, trước đây khi tiểu thư mới vào cung, còn chưa đắc sủng, đám người Hoàng Quy Toàn ở phủ Nội Vụ đã nói bao nhiêu lời khó nghe chứ, không phải chúng ta cũng đã chịu đựng được hết đó sao?”

    Cận Tịch xua tay, nói: “Lúc đó dù sao cũng là ở trong cung, những việc đáng khinh như thế xảy ra thực quá đỗi bình thường. Nhưng nơi này là cửa Phật thanh tịnh, là chốn tu hành, cô không biết đám ni cô đó nói năng khó nghe, khiến người ta tổn thương đến thế nào đâu.” Bọn họ đều ngỡ là tôi đã ngủ say, thế là Cận Tịch bèn rủ rỉ kể lại toàn bộ sự việc với Hoán Bích.

    Hoán Bích nghe xong, không kìm được vừa kinh ngạc vừa tức giận, nói: “Đây là lời mà những ni cô có thể nói ra được sao? Thực chẳng khác gì đám đàn bà đanh đá nơi phố chợ. Tiểu thư đã rơi vào cảnh này rồi, hà tất phải ném đá xuống giếng nữa? Làm như vậy bọn họ được lợi lộc gì chứ?”

    Cận Tịch thở dài một hơi, buồn khổ nói: “Lúc mới tới đã như vậy rồi, những ngày tháng sau này nương tử phải sống thế nào đây?”

    Tôi chỉ yên lặng lắng nghe rồi từng chút rúc mình vào trong chăn, dùng chăn quấn chặt lấy thân thể mình. Tháng Mười một trời đã vào đông, mỗi khi nói chuyện là lại có một làn hơi trắng phả ra từ trong miệng, nhưng dù trời có lạnh đến mấy cũng làm sao so được với sự giá lạnh trong lòng người?

    Chẳng lẽ dù đến đâu cũng không thể thoát khỏi những chuyện thị phi hay sao?

    Chùa Cam Lộ đã là bước đường lui cuối cùng rồi, tôi còn có thể trốn đến đâu được nữa? Ngay cả một nơi bình yên để gửi mình, tôi cũng chẳng thể có được sao?

    Tôi cắn chặt chăn. Chăn trong chùa tất nhiên không thể mềm và nhẹ như chăn gấm trong cung, vừa nặng nề vừa cứng nhắc, đã thế còn chẳng ấm áp chút nào. Tôi cắn đến nỗi hai hàm răng tê nhức, nước mắt rốt cuộc vẫn không kìm được tuôn rơi.

    Nhưng nước mắt vừa rơi được một giọt, tôi đã cố kìm nén để mình không khóc vì việc này. Ngay từ sớm tôi đã biết dù tới chùa Cam Lộ cũng chẳng thể hưởng phúc, vậy việc gì phải khó chịu vì những nỗi khổ kia chứ?

    Tôi đưa tay lau nước mắt, nhẹ nhàng đứng dậy, bước ra ngoài. Hoán Bích và Cận Tịch nghe thấy tiếng bước chân thì đều sợ đến giật nẩy mình, vội tươi cười để che giấu những nét u sầu trên khuôn mặt. Cận Tịch cất tiếng: “Nương tử tỉnh rồi sao, sao không ngủ thêm lát nữa rồi hẵng dậy?”

    Tôi tươi cười kéo tay bọn họ lại, nói: “Yên tâm, ta ngủ đủ rồi!” Không khí bên ngoài còn lạnh hơn trong phòng, quần áo của tôi có hơi mỏng manh. Tôi chậm rãi nói: “Mọi việc nhờ người khác chẳng bằng nhờ mình, chẳng qua chỉ là một ít than mà thôi, nếu quả thực không thể dùng thì chúng ta tự lên núi chặt củi là được. Chúng ta có chân có tay, nhất định không thể chết đói, cũng không thể chết rét được.”

    Cận Tịch biết là tôi đã nghe thấy tất cả, liền mỉm cười, nói: “Có câu nói này của nương tử, chúng ta còn phải sợ gì nữa? Đạo lý chính là như vậy, nhờ người chẳng bằng nhờ mình.”

    Hoán Bích lo lắng nói: “Tiểu thư còn đang ở cữ, sao có thể đi làm việc nặng được? Hơn nữa, tiểu thư xưa nay sống sung sướng quen rồi.”

    Tôi khẽ cười. “Có sung sướng đến mấy thì cũng là chuyện xa xưa, bây giờ chúng ta có gì khác nhau chứ?”

    Hoán Bích không kìm được, vành mắt bất giác đỏ hoe. “Tiểu thư nói như vậy thực khiến bọn nô tỳ thương tâm lắm!”

    Tôi kéo bọn họ cùng ngồi xuống, xắn tay áo, nói: “Ta tuy đang ở cữ, không thể chạm vào nước nhưng phơi quần áo thì hẳn là không có vấn đề gì. Dù sao ta cũng không thể nhìn hai người vất vả, mình thì ngồi yên an hưởng thanh nhàn được.”

    Cận Tịch đứng bên cạnh cười, nói: “Nương tử đã nói như vậy, bọn nô tỳ cũng không thể có lời gì thêm. Nhưng dù sao nương tử vẫn đang ở cữ, lỡ để lại mầm bệnh gì thì không hay, vì thế nếu nương tử đi lại được, chỉ cần cắt cỏ là được rồi, việc nặng như chặt củi thì cứ giao cho nô tỳ và Hoán Bích cô nương.”

    Tôi biết Cận Tịch và Hoán Bích một lòng muốn bảo vệ tôi, do đó lại càng cảm kích.

    Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm, tôi đã lên núi cắt cỏ. Trên đường vừa khéo gặp Tịnh Bạch dẫn theo hai ni cô ra ngoài, thấy tôi đi nhặt củi, bà ta liền ngênh ngang nói: “Giúp ta đi cắt một gánh về nhé!”

    Bà ta nói như thể đó là lẽ đương nhiên, mà tôi cũng không muốn nảy sinh xung đột và tranh chấp, liền ngoan ngoãn vâng lời.

    Tôi mới đi lần đầu, lại đi từ sớm, trên núi còn chưa có bóng người nào, tôi liền hưng phấn cắt một gánh cỏ lớn mang về, đưa tới chỗ Tịnh Bạch trước. Bà ta chỉ liếc mắt nhìn qua, đột nhiên đưa tay véo cánh tay tôi, cười nói: “Ta thấy ngươi đúng là lười nhác, cắt bừa một lúc để về ứng phó qua loa sao? Ngươi nhìn chỗ cỏ mà ngươi cắt xem, sao có thể dùng được.” Bà ta bóp vào cọng cỏ như vừa bóp cánh tay tôi, một dòng dịch thể xanh biếc lập tức chảy ra, bà ta liếc mắt cười giễu cợt. “Nhìn bộ dạng ngốc nghếch của ngươi kìa, nhất định là ngươi đã chọn loại cỏ cao lớn ở dốc núi phía sau, nhiều nước như thế làm sao mà đốt được. Nhìn mặt ngươi cứ ngỡ là người thông minh, sáng dạ, không ngờ lại ngu ngốc như thế, đến cắt cỏ cũng không biết. Đúng là nương nương từ trong cung ra, chỉ biết hưởng phúc thôi!”

    Bà ta nói năng cay nghiệt, cánh tay tôi bị đau nhưng không dám tránh, cũng không dám cãi lại, chỉ đành cố gắng kìm nén.

    Ni cô đứng bên cạnh có pháp hiệu Mạc Giác, là đồ đệ của Tịnh Bạch, thấy cảnh này liền cười xiểm nịnh, nói: “Sư phụ nói đúng lắm, người nhìn cái bộ dạng lẳng lơ của cô ta kìa, sao biết cắt cỏ chứ, chỉ biết giả vờ giả vịt ra vẻ đáng thương mà thôi. Cô ta nghĩ cô ta còn ở trong cung hay sao, mà chắc hồi ở trong cung, cô ta cũng chỉ là loại hồ ly tinh lẳng lơ chuyên đi quyến rũ Thánh thượng thôi!”

    Tôi chỉ đờ đẫn đứng nghe, cảm giác chua xót bất giác trào dâng trong lòng, không kìm được thầm nghĩ người xuất gia không phải nên lấy từ bi làm đầu sao? Cớ gì bọn họ cứ thích nói vào chỗ đau của người khác, không chút nể nang như vậy? Tôi có chỗ nào đắc tội với bọn họ cơ chứ?

    Có điều, tôi đã thấy quá nhiều cảnh tình người bạc bẽo, do đó cũng lười chẳng muốn tranh luận với bọn họ.

    Tịnh Bạch thấy tôi ngây ra, không biện bạch gì, lại càng chán ghét, nói: “Mau đi đi. Cứ nhìn ngươi ta lại thấy khó chịu! Đi cắt hai gánh cỏ khác về đây, không làm xong thì không được ăn cơm.”

    Tôi đờ đẫn lên núi, do đã được thuyết giáo một bài nên lần này, tôi chỉ tới sườn dốc phía trước để cắt cỏ. Tôi mới cắt được một lúc, chợt nhìn thấy Mạc Ngôn lẳng lặng bước tới.
    Bà ta đưa mắt quan sát tôi một hồi rồi dừng ánh mắt trên đám cỏ, hỏi: “Đây chính là cỏ mà cô cắt sao?”

    Tôi không hề nhìn ra có chỗ nào không ổn, đáp: “Phải!”

    Bà ta không nói gì thêm, bới tung sọt cỏ mà tôi vừa cắt lên một lượt, sau đó đổ toàn bộ xuống đất. Bà ta trừng mắt nhìn tôi nói: “Cô đừng kinh ngạc! Cô mà mang chỗ cỏ này về, nhất định sẽ bị Tịnh Bạch mắng cho một trận nữa thôi!”

    Tôi hơi hổ thẹn, cúi đầu, nói: “Ta không biết phải cắt thế nào mới đúng, cũng không có ai chịu nói với ta.”

    Mạc ngôn chẳng buồn ngẩng đầu lên. “Đám người trong chùa Cam Lộ đều không ưa cô, sao chịu nói cho cô biết nên cắt loại cỏ nào.” Bà ta cứ cúi đầu đi về phía trước, lúc bước lúc dừng, vừa cắt cỏ vừa nói: “Cắt cỏ thoạt nghe cứ tưởng là một công việc dễ dàng, kỳ thực không dễ chút nào.” Bà ta ngắt vài cọng cỏ, đưa tới cho tôi xem. “Loại cỏ đuôi chó này là tốt nhất, vừa thẳng lại vừa đốt được lâu.”

    Những loại cỏ mà bà ta nói tới có quá nửa tôi chưa từng nhìn thấy lần nào, chỉ thầm ghi nhớ để sau này còn tiện phân biệt.

    Mạc Ngôn lại nói tiếp: “Vừa rồi Tịnh Bạch nói một câu không sai, cắt cỏ phải xem vị trí. Cỏ có loại ở dốc trước và dốc sau, loại ở dốc sau thường cao lớn nhưng lại nhiều nước, không dễ đốt, loại ở dốc trước thì vì được nhiều nắng nên khô, khi đốt cũng dễ dàng hơn nhiều.”

    Chân tay bà ta rất linh hoạt, chẳng bao lâu sau đã cắt được một đống lớn, xếp tất cả vào trong chiếc sọt của tôi. Tôi đi theo phía sau, bối rối học theo nhưng chẳng cắt được bao nhiêu, không kìm được cười nhăn nhó, nói: “Ta đúng là vô dụng, đến việc cắt cỏ cũng phải nhờ bà chỉ dạy, đã thế lại còn cắt chậm nữa.”

    Bà ta đưa mắt liếc nhìn tôi, lạnh lùng nói: “Cô vốn chưa từng làm những việc này, cứ từ từ mà học. Ta thấy mấy việc như thêu thùa của bọn cô mới là khó học, nếu bắt ta làm, ta cùng lắm chỉ thêu được một quả trứng vịt thôi!”

    Tôi thấy bà ta tuy lạnh lùng, không hợp với mọi người nhưng lại nhiệt tình, tốt bụng, quả là một người ngoài lạnh trong nóng. Bà ta chịu ra tay trợ giúp, tôi cảm kích vô cùng.

    Sau khi bận rộn suốt một buổi sáng, chúng tôi cắt được hai đống cỏ rất cao, tuy đang là mùa đông nhưng trên lưng tôi, mồ hôi đã tuôn đầm đìa. Mạc Ngôn lại giúp tôi bỏ cỏ vào sọt rồi giẫm cho thật chặt, nói: “Chỗ này đủ cho cô dùng vài ngày rồi, cũng tiện đi ăn nói với Tịnh Bạch.”

    Tôi đưa tay lau mồ hôi trên trán, ngẩng đầu nhìn bốn phía chỉ thấy mênh mang cỏ vàng, phần lớn đều đã héo khô, bèn cười, nói: “Chi bằng bà về trước đi, ta cắt thêm một ít nữa.”

    Mạc Ngôn làm sao chịu, hơi cau mày, nói: “Thân thể cô vừa mới khỏe lại chưa lâu, cố làm quá sức như vậy để cho ai xem chứ? Cô còn đang trong thời gian ở cữ, cẩn thận kẻo lưu lại mầm bệnh rồi sau này tha hồ mà chịu khổ.” Bà ta vốn có đôi mày ngài hệt như đàn ông, lúc giận dữ chúng liền xoăn tít lại, trông càng đáng sợ hơn.

    Tôi vội cười, nói: “Được, được. Ta nghe lời bà.” Tôi cảm kích không thôi, nói tiếp: “Lúc ta mới đến, bị bệnh, may nhờ có bà mang đường đỏ tới giúp đỡ. Bây giờ ta lại càng phải cảm tạ bà.”

    Bà ta vỗ vào tay tôi một cái, cất tiếng cười rộ, nói: “Sao phải khách sáo như thế chứ!” Mạc Ngôn vốn rất khỏe, vỗ đúng vào chỗ vừa bị Tịnh Bạch véo, tôi bất giác kêu lên “úi chao” một tiếng. Mạc Ngôn nghe ra có sự khác thường, liền xắn tay áo tôi lên, phát hiện chỗ vừa bị Tịnh Bạch véo lúc này đã trở nên tím bầm.

    Mạc Ngôn bừng bừng nổi giận, vỗ đùi đánh đét một cái. “Để ta đi nói với trụ trì.”

    Tôi hoang mang kéo bà ta lại. “Không sao đâu, quay về bôi chút rượu thuốc là được rồi!”

    Mạc Ngôn nói: “Không phải chỉ là cắt nhầm cỏ thôi sao, có phải chuyện gì ghê gớm lắm đâu, sao có thể véo cô như vậy được?”, rồi lại trừng mắt nhìn tôi. “Cô ngốc thật hay ngốc giả thế, cô ta làm nhục cô như vậy, cô không biết đánh trả sao? Không biết đi nói với trụ trì hay sao?”

    Tôi nhìn lại bà ta. “Vậy, nếu ta đánh trả hoặc đi nói với trụ trì thì sẽ thế nào?”

    Bà ta buột miệng nói: “Trụ trì tất nhiên sẽ trừng trị cô ta một phen!”

    Tôi cúi đầu lặng lẽ bước mấy bước rồi nói: “Đúng thế! Nếu ta đi nói với trụ trì, trụ trì tất nhiên sẽ xử lý việc này một cách công bằng. Thế nhưng một khi ta làm vậy, bọn họ nhất định sẽ càng ghét ta hơn. Trụ trì chỉ có một mình, bảo vệ được ta một lúc chứ không bảo vệ được ta cả đời. Nếu bọn họ ôm hận trong lòng, ngầm giở trò gì đó, ta thực sự không cách nào đề phòng được, do đó đành tạm thời nhẫn nhịn, hy vọng tình hình ngày sau sẽ tốt hơn một chút.”

    Mạc Ngôn căm phẫn nói: “Cô đúng là tốt tính quá đấy. Nếu là ta, ta nhất định sẽ lập tức tát cho cô ta hai cái thật mạnh, để cô ta biết được sự lợi hại của bà cô đây.”

    Bà ta nói năng đanh đá, thật chẳng giống một người xuất gia chút nào. Tôi chỉ khẽ cười khúc khích. “Phải rồi! Nếu ta mà có sức khỏe như bà, tất nhiên sẽ không ép dạ cầu toàn làm gì.”

    Bà ta đắc ý nói: “Tất nhiên là thế rồi, cô nhìn xem trong chùa Cam Lộ này có ai dám ức hiếp Mạc Ngôn ta?”

    Tôi mỉm cười, gật đầu. “Tất nhiên là không ai dám ức hiếp cô, trừ phi kẻ đó đã ăn gan hùm gan báo.” Tôi suy nghĩ một lát rồi bất giác có chút buồn bã. “Không biết ta đã đắc tội với bọn họ ở chỗ nào, sao bọn họ cứ luôn gây khó dễ cho ta như thế chứ?”

    Mạc Ngôn bĩu môi, cất giọng khinh thường: “Còn có nguyên nhân gì khác được? Chẳng qua là do cô trẻ tuổi xinh đẹp, lại vừa từ trong cung ra, trước đây nhất định là được Hoàng đế sủng ái, do đó bọn họ mới không vừa mắt.” Bà ta thấp giọng cười giễu. “Bọn họ là một đám gái già, cả đời này ngay đến nam nhân cũng chưa được nhìn thấy mấy lần ấy chứ!”

    Lời này quá mức lộ liễu, tôi bất giác đỏ bừng hai má, làm bộ như không nghe thấy gì, cất bước đi theo bên cạnh Mạc Ngôn. Thế nhưng bà ta thực sự rất khỏe, gánh hai sọt cỏ lớn mà vẫn bước đi như bay, nếu không phải vì nghĩ đến tôi mà đi chậm lại một chút, chỉ e sớm đã về đến chùa Cam Lộ rồi.

    Quả nhiên, Tịnh Bạch nhìn thấy chỗ cỏ mà tôi mang về thì không bắt bẻ được gì, chỉ cau mày, bỏ lại một câu: “Sau này mỗi ngày đi cắt hai gánh cỏ về đây!” Thấy tôi xoay người lẳng lặng cáo từ, bà ta lại lớn tiếng nói: “Đi tắm rửa cho cẩn thận, trong cung có người tới thăm ngươi, đừng ra vẻ như thể bọn ta bạc đãi ngươi lắm!”

    Tôi bất giác sững người, trong cung có ai tới thăm tôi được? Tôi là người mang tấm thân không lành bị trục xuất khỏi cung cơ mà! Trái tim tôi chợt trở nên ấm áp, liệu có phải là My Trang không? Phải rồi, cũng chỉ có My Trang mới lo lắng cho tôi thôi.

    Chẳng rõ mấy chục ngày vừa qua, tỷ ấy sống thế nào, liệu có gầy hơn trước không?

    Nhưng phi tần không dễ gì rời cung, My Trang làm thế nào để có thể tới đây thăm tôi?

    Suy nghĩ như vậy, bước chân tôi bất giác nhanh hơn, trái tim không ngừng đập thình thịch, đi thẳng về chỗ ở của mình.

    Đưa tay đẩy cánh cửa gỗ ra, tôi nhìn thấy bên cạnh trụ trì là một người phụ nữ vận cung trang tuổi chừng bốn chục, trên người vận một bộ áo váy thêu hoa màu xanh nõn chuối, lại khoác thêm một chiếc áo lụa màu xanh sẫm bên ngoài, mặt mũi rất mực hiền hòa, không phải Phương Nhược thì còn là ai được nữa?

    Tôi bất giác ngây người, không ngờ người tới lại là bà ta, bất giác buột miệng gọi: “Phương Nhược cô cô!”

    Phương Nhược nói liền hai câu “tốt lắm”, lại cầm lấy bàn tay tôi, giọng nói bất giác đã có chút nghẹn ngào: “Nương tử tiều tụy đi nhiều quá!” Bà ta vuốt ve cổ tay tôi, xót xa nói: “Sao nương tử lại gầy đến thế này chứ?” Còn chưa nói xong, bên khóe mắt đã xuất hiện vẻ không vui, liếc qua phía trụ trì.

    Tôi biết rõ trụ trì vô tội, bà ta chỉ một lòng hướng Phật, rất ít khi để tâm tới những việc khác, vì vậy bèn nói: “Là tự ta sức khỏe quá kém đó thôi, mọi người trong chùa Cam Lộ đều đối xử với ta rất tốt.”

    Phương Nhược nghe vậy mới chịu bỏ qua, lại mời trụ trì ra ngoài, kéo tay tôi cùng ngồi xuống, thân mật nói: “Ta có mấy thứ đồ tốt muốn mời nương tử xem đây.”

    Tôi có chút nghi hoặc, chỉ thấy bà ta mở bọc đồ mang theo ra. “Những thứ này đều là do Thái hậu ban cho, để nương tử bồi bổ thân thể. Nương tử còn đang trong thời gian ở cữ, vốn nên ăn những thứ như gà ác, tổ yến để tẩm bổ, nhưng Phật môn dù sao cũng là nơi tu hành, thứ nhất là không thể ăn đồ mặn, thứ hai là những loại thức ăn quá quý giá cũng không tiện đưa tới.” Rồi bà ta liệt kê từng thứ: “Đây là phương thuốc điều dưỡng cho người vừa sinh nở, Thẩm Tiệp dư đã đặc biệt nhờ Ôn đại nhân kê giúp rồi nhờ nô tỳ đưa tới đây. Ôn đại nhân xưa nay từng xem mạch cho nương tử rất nhiều lần, do đó đơn thuốc này có thể nói là phù hợp với thể chất của nương tử nhất. Thuốc cũng đã được chuẩn bị sẵn rồi, nương tử cứ sắc theo đơn mà uống là được. Ở đây còn có cỏ ích mẫu, củ từ, long nhãn, vải khô, đều là do Thái hậu ban cho nương tử đấy. Còn mấy chiếc áo bông và áo gấm này nữa, để nương tử chống rét. Đây là than sưởi, tuy không bằng được thứ trong cung nhưng dùng tạm cũng ổn.” Phương Nhược ngó quanh bốn phía một lát rồi nói: “Chỗ này của nương tử có hơi sơ sài, chỉ sợ không thể chịu nổi mùa đông giá lạnh, đặc biệt là ở trong vùng núi thế này, đợi mấy ngày nữa, nô tỳ sẽ sai người đưa tới thêm một ít đồ chống rét.”

    Tôi khom người, nói: “Ta là người mang tội, Thái hậu còn rất mực xót thương như thế, ta thực không dám nhận.”

    Phương Nhược khẽ thở dài một hơi. “Sự oan khuất của nương tử, Thái hậu sao có thể không biết được chứ! Thái hậu kỳ thực rất thương nương tử, chỉ là không tiện nói ra mà thôi! Dù sao Hoàng thượng cũng là con ruột của Thái hậu, Hoàng hậu thì là cháu gái ruột của Thái hậu, có lỗi lầm gì, Thái hậu không thể không che chở.” Phương Nhược đưa mắt liếc nhìn tôi, nhỏ giọng nói: “Tuy lòng bàn tay với mu bàn tay đều là thịt, nhưng nương tử là người thông minh, tất nhiên biết rõ thịt ở lòng bàn tay với mu bàn tay cũng có phân chia chỗ dày chỗ mỏng. Xin đừng trách Thái hậu!” Bà ta nắm chặt bàn tay tôi, dường như có ý an ủi, lại càng giống như đang dặn dò.

    Dường như có một cơn gió lạnh đột ngột thổi qua, trong mắt tôi bỗng trào dâng cảm giác chua xót, phải khó khăn lắm mới kìm nén để nước mắt không rơi. “Ta không dám trách Thái hậu.”
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 5: Cố nhân tới (Hạ)
    Phương Nhược khẽ gật đầu, nói: “Nương tử là người hiểu chuyện, hẳn biết rõ Thái hậu nương nương ẩn cư trong cung nhiều năm, không hỏi đến việc đời, lại thường xuyên bệnh tật nhưng đầu óc thì vẫn chưa hồ đồ. Có một số chuyện Thái hậu nương nương cũng chẳng có cách nào, dù hiểu rõ tất cả nhưng lại không thể nhúng tay, huống chi việc còn có liên quan đến tiền triều.” Sắc mặt hơi đờ ra, Phương Nhược nói với vẻ hết cách: “Suốt một tháng vừa qua, Hoàng thượng luôn tức giận, không cho phép người khác nhắc tới nương tử một câu. Hôm ấy Kính Phi nương nương ở trong Quân Chiêu điện hầu chuyện Hoàng thượng, chỉ ngẫu nhiên khen rằng Lung Nguyệt Công chúa trông giống nương tử, vậy mà Hoàng thượng đã bừng bừng nổi giận, còn đập vỡ cả chén trà, mắng Kính Phi nương nương mang lòng hiểm ác, cố tình nhắc đến kẻ mang tội. Nương tử cũng biết đấy, với tính cách của Hoàng thượng, bình thường không dễ gì tức giận, lần này quả thực đã nổi trận lôi đình. Khi đó nô tỳ đang hầu hạ bên cạnh, không khỏi sợ đến giật nẩy mình, chỉ dám đi nhặt những mảnh chén vỡ. Hoàng thượng xưa nay luôn cư xử với Kính Phi nương nương rất khách sáo, nào đã từng trách mắng bằng giọng nặng nề như vậy. Kính Phi nương nương khi đó cũng rất sợ hãi, ngây người suốt một hồi lâu, chỉ biết khấu đầu nhận tội.”

    Tôi thầm nôn nóng, giữa tháng Mười một giá lạnh mà sống lưng bất giác rỉ đầy mồ hôi. Nếu Kính Phi xảy ra chuyện, Lung Nguyệt của tôi thực sự sẽ chẳng còn ai bảo vệ nữa. Nghĩ vậy, sắc mặt tôi biến đổi hẳn, vội hỏi: “Sau đó thì sao?”

    Phương Nhược dịu giọng an ủi: “Nương tử đừng lo, Kính Phi nương nương dù sao cũng là người có địa vị và danh vọng trong cung, Hoàng thượng chỉ trách mắng mấy câu, phạt hai tháng bổng lộc và liền mấy ngày không trò chuyện gì thôi. Hơn nữa, ngày ngày ngài vẫn tới thăm Công chúa. Tục ngữ có câu ‘gặp mặt là có ba phần tình cảm’, Kính Phi nương nương cũng biết cách lấy lòng Hoàng thượng, do đó bây giờ cơn giận của Hoàng thượng cũng dần tan rồi!”

    Tôi thở phào một hơi, thế nhưng tỉ mỉ ngẫm nghĩ lại cảm thấy không đúng lắm, liền cất tiếng hỏi: “Kính Phi không phải là người lỗ mãng, sao có thể tùy tiện nhắc đến ta trước mặt Hoàng thượng như thế? Khi đó còn có ai ở đó nữa?”

    Phương Nhược biết là không giấu được, đành nói: “Khi đó Kỳ Tần tiểu chủ cũng có mặt, còn nói một câu: ‘Trẻ con đứa nào trông cũng giống cha mẹ mình.’ Khi đó Hoàng thượng không nói gì, chắc hẳn Kính Phi nương nương muốn khơi dậy tình cảm của Hoàng thượng với nương tử, do đó đã nói một câu như thế, không ngờ lại khiến Hoàng thượng bừng bừng nổi giận.”

    Tôi bất giác thầm nghĩ, những năm nay chẳng mấy ai có ý đồ gì với Kính Phi, nàng ta gần như không đua tranh với đời. Về sau Hoa Phi bỏ mạng, Kính Phi lại càng ngồi vững ở ngôi phi chính nhị phẩm, không phải lo lắng điều gì, thành ra mới sơ ý trúng kế của người hác. Nghĩ tới đây, tôi không khỏi sinh lòng lo lắng.

    Phương Nhược thấy tôi nhíu chặt hàng mày, biết tôi đang lo lắng điều gì, vội nói: “Kính Phi nương nương vốn thông minh, lại ở trong cung nhiều năm, bị trúng kế của người khác một lần là đã rút được kinh nghiệm rồi, đối phương đừng hòng có cơ hội giở trò lần nữa. Do đó, nương tử cứ yên tâm, Kính Phi nương nương nhất định sẽ bảo vệ được cho Công chúa. Huống chi lần này Kính Phi nương nương không hề bị thất sủng, còn nhờ Công chúa mà được lợi. Kính Phi nương nương là người vô cùng hiểu chuyện, đương nhiên biết Công chúa có thể giúp đỡ mình rất nhiều trong việc tranh sủng, do đó lại càng không dám sơ suất chút nào.”

    Nghe thế tôi mới cảm thấy yên tâm hơn phần nào, khẽ cười, nói: “Quả đúng là ta đã quá căng thẳng, khiến cô cô chê cười rồi. Kính Phi nương nương kinh nghiệm dày dặn, về điều này thì ta rất yên tâm.”

    Phương Nhược thoáng trầm ngâm, trong nụ cười lộ ra một tia không đành lòng. “Hơn nữa, Kính Phi nương nương thân ở ngôi cao, nhưng bấy lâu nay vẫn chưa có con.”

    Lòng tôi sáng rõ như gương, vừa thương tiếc cho Kính Phi lại vừa cảm thấy vui mừng không tả. “Bởi vì nàng ấy không có con nên mới đối xử tốt với Lung Nguyệt của ta, coi nó như châu báu, cũng giống như Đoan Phi nương nương đối xử với Ôn Nghi Công chúa vậy.”

    “Có thể nói Kính Phi coi Công chúa như tính mạng, yêu quý như yêu quý đôi mắt của mình ấy chứ!” Phương Nhược quả quyết nói.

    Tôi thoáng buồn rầu, tựa như làn gió thu khẽ thổi bên ngoài rèm cửa sổ. “Chỉ là Hoàng thượng bây giờ thường xuyên tới chỗ Kính Phi nương nương, lỡ như sau này, Kính Phi nương nương sinh con đẻ cái, Lung Nguyệt của ta khó tránh khỏi sẽ bị xem nhẹ…”

    Phương Nhược thoáng ngập ngừng, chậm rãi nói: “Hoàng thượng tuy thường tới chỗ Kính Phi nương nương nhưng lại rất ít khi nghỉ qua đêm. Dù sao Kính Phi nương nương cũng không phải người đẹp nhất, hơn nữa còn có những người như An Phương nghi và Kỳ Tần, bọn họ đâu dễ gì chịu im lặng. Ngoài ra, trước khi được tấn phong làm thục nghi, Kính Phi nương nương từng cùng ở Mật Tú cung với Hoa Phi.” Trong giọng nói đầy ý vị của Phương Nhược toát ra một tia cổ quái, cặp mắt xưa nay vốn luôn hiền hòa thấp thoáng nét bi ai. “Kính Phi nương nương chắc không thể có con được nữa đâu.”

    Tôi bất giác cả kinh, sau nháy mắt đã hiểu ra mọi điều. “Hoan nghi hương?” Tôi nhất thời ngây ra, hồi lâu sau mới không kìm được, thở dài một tiếng. “Cửa thành bốc cháy, vạ đến cá dưới ao, con cá ấy mới thực vô tội biết chừng nào! Việc này Kính Phi có biết không?”

    Phương Nhược lắc đầu, nói: “Không biết. Thái y chỉ nó thân thể Kính Phi không thích hợp để mang thai. Kính Phi trước giờ vẫn luôn bị giấu giếm chân tướng, tuy cũng từng định mạo hiểm sinh nở nhưng thân thể nàng ấy đã bị tổn hại, đâu cứ phải bản thân muốn mạo hiểm là có thể mạo hiểm được, do đó cuối cùng đành từ bỏ suy nghĩ này.” Trong mắt Phương Nhược ánh lên một tia thương xót. “Kính Phi nương nương là người tốt, chỉ đáng tiếc phận bạc, bị người ta làm liên lụy. Ngày đó Kính Phi nương nương mới chỉ là dung hoa chính tứ phẩm, chưa đạt tới bậc chính tam phẩm nên không thể làm chủ riêng một cung, chỉ có thể ở trong Mật Tú cung cùng Hoa Phi. Hoan nghi hương ghê gớm thế nào, nương tử cũng đã biết rồi đấy, khi đó Kính Phi mới chỉ là Phùng Dung hoa, ngày đêm sống trong Mật Tú cung, tất nhiên không thể tránh khỏi sự tàn phá của Hoan nghi hương.” Phương Nhược cố gắng ổn định lại tâm trạng, xót xa nói: “Nếu không, Kính Phi tuy không tệ nhưng trong cung có nhiều phi tần như thế, ai cũng một lòng tranh sủng, Hoàng thượng cớ gì lại ban cho nàng ấy ngôi cao, còn thường xuyên tới thăm nữa?”

    Nỗi thương tâm trong lòng tôi thực khó có thể dùng lời miêu tả hết được, Kính Phi đáng thương biết bao, mà khi đó số phi tần ở cùng với Hoa Quý tần nhiều như thế, người bị liên lụy há chỉ có một mình Kính Phi! Tôi bèn hỏi: “Vậy ngày đó còn có ai ở cùng Hoa Quý tần và bị liên lụy nữa?”

    Phương Nhược thoáng trầm ngâm. “Chỉ có mình Kính Phi thôi!” Thấy tôi tỏ ra khó hiểu, bà ta bèn nói: “Hoa Quý tần không phải kẻ ngốc, thời gian đó, nàng ta tuy đắc sủng nhưng không phải là chuyên sủng. Trong số các phi tần ngày đó, Kính Phi cũng rất được Hoàng thượng sủng ái. Sau khi sẩy thai, Hoa Quý tần nhìn thấy ai cũng khó chịu, liền đuổi hết mấy vị tiểu chủ ở cùng mình ra ngoài. Nàng ta lại sợ lúc này Hoàng thượng vẫn còn tình cảm với Kính Phi, do đó liền dứt khoát bẩm với Hoàng hậu, xin cho Kính Phi dọn đến ở tại Mật Tú cung của mình, như thế cũng dễ trông coi. Khi đó, Hoa Quý tần cực kỳ đắc sủng, ngay đến Hoàng thượng cũng không muốn trái ý nàng ta, thậm chí Hoàng hậu nương nương còn đích thân tới khuyên nhủ, nói là Hoa Quý tần tính tình cứng rắn, chỉ có Kính Phi tới đó ở cùng thì hai bên mới hòa thuận được, thế là Kính Phi nương nương đành phải vâng theo.”

    Mí mắt tôi bất giác chớp động, trái tim đột ngột lạnh băng, Hoàng hậu rõ ràng biết tác hại của Hoan nghi hương cơ mà! Tôi cả kinh. “Vậy Kính Phi đã ở đó bao lâu?”

    “Chắc phải tới một năm.” Phương Nhược hơi cụp mí mắt: “Tính cách của Hoa Quý tần, nương tử cũng biết rồi đấy, hồi đó Kính Phi nương nương ở trong cung của nàng ta nhất định đã phải chịu không ít khổ cực. Mãi đến một năm sau, Hoa Quý tần được tấn phong làm Hoa Phi, Kính Phi nương nương cũng từ tiệp dư được thăng làm quý tần, thế mới được ra ở cung riêng, coi như thoát khỏi bể khổ nhưng thân thể dù sao cũng đã bị tổn hại.”

    Trái tim tôi không ngừng đập thình thịch, Hoan nghi hương, Hoan nghi hương! Mỗi lần nghĩ tới, sự phẫn nộ và thương tâm mà Hoa Phi thể hiện trước khi chết lại hiện lên trước mắt. Mảng máu tươi dính đầy trên tường đó tựa như hoa đào nở rộ, biết bao đêm liền đã khiến tôi chẳng thể ngủ nổi, trong lòng sợ hãi đến tột cùng.

    Phương Nhược mặt không đổi sắc, chỉ dịu dàng nói: “Đoan Phi nương nương và Kính Phi nương nương đều không thể sinh con, Hoa Phi quả là đã tạo nghiệt quá nhiều!”

    Cổ họng tôi bất giác nghẹn lại, cơ hồ muốn bật thốt lên rằng: Hoa Phi tất nhiên đã tạo nghiệt quá nhiều, nhưng nàng ta thì sao? Rõ ràng nàng ta biết tác hại của Hoan nghi hương, vậy mà còn bảo Kính Phi đến ở tại Mật Tú cung. Sau đó, nàng ta vẫn một mực cư xử khách sáo với Kính Phi, dường như tất cả mọi việc đều chẳng có chút dính dáng đến nàng ta, thực quá sức ghê tởm!

    Cũng khó trách, dù Kính Phi được phong làm phi, khá được ân sủng nhưng Hoàng hậu vẫn rất mực ung dung, chẳng hề để bụng. Ngoài nguyên nhân Kính Phi là người thông minh, không ưa tranh đấu ra, còn bởi Hoàng hậu biết rõ Kính Phi không có khả năng sinh nở, lại không quá được sủng ái, căn bản không phải là đối thủ của mình.

    Mồ hôi lạnh túa ra, ướt đẫm sống lưng tôi, như thể có một con côn trùng đang bò trên đó, những cái chân mang đầy gai nhọn đâm vào da thịt, mang tới cảm giác đau nhói.

    Giọng nói của Phương Nhược càng trở nên dịu dàng và chắc nịch, tựa như một ngọn núi đè xuống người tôi: “Nương tử phải nhớ lấy, là Hoa Phi tạo nghiệt, cũng chỉ có mình Hoa Phi tạo nghiệt, không liên quan tới người khác.”

    Mồ hôi lạnh túa ra khiến mái tóc của tôi bết lại. Hoàng hậu tâm cơ thâm trầm, tôi gần như không thể kháng cự, đến người thông minh như Kính Phi còn bị giấu giếm chân tướng cơ mà. Từ việc nàng ta chỉ dùng chiếc áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu đã dễ dàng đẩy tôi vào cảnh này là có thể thấy được tâm cơ của nàng ta ghê gớm đến mức nào, sự sợ hãi trong lòng tôi càng lúc càng nặng nề, tựa như có một khối chì đang đè trong dạ dày tôi vậy, khiến tôi đau đớn khôn cùng.

    Tôi chợt nhớ tới một người khác. “Vậy, Đoan Phi có biết chuyện không?”

    Phương Nhược hơi trầm ngâm rồi nói: “Chưa chắc đã biết”, sau đó lại tiếp: “Dù có biết thì với tính cách hờ hững của Đoan Phi, chỉ cần việc không liên quan tới mình ắt sẽ không nói gì.”

    Sự sợ hãi nơi đáy lòng bao phủ toàn thân tôi, Lung Nguyệt của tôi, Lung Nguyệt của tôi, lỡ như Hoàng hậu nảy sát cơ với nó… Không… Tôi quả thực không dám tưởng tượng thêm.

    Sắc mặt tôi chắc hẳn đang tái nhợt đến đáng sợ, ánh mắt phải tuyệt vọng và thê lương lắm. Cận Tịch bất giác bước tới đỡ lấy tôi, nhẹ nhàng nói: “Nương tử…”

    Tôi cố giữ bình tĩnh, nhưng không sao bình tĩnh được… Lung Nguyệt, đứa con duy nhất của tôi…

    Phương Nhược đưa tay nắm lấy bàn tay tôi, mười ngón tay dùng sức rất mạnh. “Nương tử yên tâm, Công chúa sẽ không xảy ra chuyện gì đâu, ngoài Kính Phi nương nương ra còn có Thẩm Tiệp dư nữa mà. Kính Phi nương nương vốn có quan hệ rất tốt với mọi người trong cung, bây giờ còn thường xuyên đưa Công chúa tới chỗ Thái hậu vấn an, ngoài ra vì cùng nuôi dưỡng Công chúa nên quan hệ với Đoan Phi nương nương cũng khá hữu hảo.” Bà ta khẽ nói: “Nô tỳ mạo muội nói ra những lời này không phải vì muốn khiến nương tử thương tâm hay lo lắng, mà chỉ mong nương tử hiểu được, chớ nên hành động thiếu suy nghĩ. Trong tình hình hiện giờ, tuy nương tử đã bị trục xuất khỏi cung, không thể về cung nữa nhưng vẫn có rất nhiều người lo lắng cho nương tử, chẳng hạn như Thái hậu và Thẩm Tiệp dư, cũng có cả những người khác nữa, điều này nương tử nhất định phải hiểu. Thái hậu ắt sẽ bảo vệ nương tử, nhưng nương tử cũng nên biết rõ, nếu nương tử chỉ một lòng nghĩ đến chuyện báo thù, người đứng mũi chịu sào sẽ chính là Công chúa. Nương tử đã toàn tâm toàn ý muốn bảo vệ Công chúa, như vậy Công chúa cũng sẽ trở thành gánh nặng của nương tử.”

    Lời của bà ta hết sức ôn tồn, vậy nhưng những điều lợi hại bên trong lại được trình bày rất rõ. Tôi nắm ngược lại bàn tay Phương Nhược, cơ hồ không khống chế nổi bản thân, dùng sức thật mạnh. Trái tim tôi đã trở nên trống rỗng, lúc này chỉ muốn túm lấy một thứ gì đó chân thực để nhét vào. Tôi cứ thế nắm chặt bàn tay Phương Nhược, nắm đến nỗi đốt ngón tay trở nên trắng bệch nhưng hoàn toàn không cảm thấy đau đớn.

    Phương Nhược chắc hẳn đang khá đau, vậy nhưng lại không nói gì, chỉ dịu dàng xoa khẽ mu bàn tay tôi, dốc bầu tâm sự: “Nương tử rơi vào cảnh ngộ hôm nay, nô tỳ thực đau lòng vô hạn. Ngày đó nô tỳ làm cô cô hướng dẫn cho nương tử, tự tay hầu hạ nương tử vào cung, mắt thấy nương tử đắc sủng, lại nhìn nương tử chìm nổi trong cung, cứ ngỡ sớm muộn sẽ có ngày được đứng vào hàng Tứ phi. Nào ngờ đột nhiên lại xảy ra chuyện thế này, nương tử bị đuổi đến chùa Cam Lộ tu hành, cả đời không còn hy vọng gì nữa, không biết nô tỳ đã thầm rơi bao nhiêu nước mắt. Bây giờ nô tỳ đã lại qua hầu hạ Thái hậu nương nương rồi, lúc nào cũng cố gắng nghĩ cách xem có thể giúp gì được cho nương tử không, cũng coi như một chút tâm ý của nô tỳ với mối duyên phận này.” Bà ta đột nhiên hạ thấp giọng nói: “Di thể của thiếu phu nhân và thiếu công tử Chân gia đã được Ôn đại nhân và Thẩm Tiệp dư bỏ tiền nhờ người an táng ổn thỏa rồi. Nương tử có thương tâm đến mấy thì người chết cũng không thể sống lại, hơn nữa lúc này người nhà của nương tử mỗi người một phương, tất cả đều phải trông vào mệnh trời.”Nghĩ đến cái chết thảm thương của tẩu tẩu và Trí Ninh, trái tim tôi bất giác đau đớn tột cùng, dường như có một cây kim sáng lóa đang đâm thẳng vào vết thương vốn đã thối rữa của tôi, đâm sâu biết mấy, ngay sau đó một dòng máu đỏ tươi lập tức ồng ộc chảy ra.

    An Lăng Dung!

    Tôi hận đến nỗi cơ hồ muốn hộc máu.

    Phương Nhược nhìn tôi chăm chú. “Thời thế chẳng chiều lòng người. Nương tử dù không cam tâm đến mấy thì cũng phải cam tâm… Đây không chỉ là vì bản thân nương tử.” Cặp mắt bà ta như lóe lên những tia sáng âm u của sự kìm nén. “Chân đại nhân và Chân công tử tuy đã rời xa nương tử nhưng cũng coi như đã tìm được một chốn yên thân tạm thời… Mà trước mắt, chỉ có những người để ý tới được mới là quan trọng nhất!”

    Tôi cắn chặt môi, trên môi đã xuất hiện mùi tanh của máu mà hoàn toàn chẳng hay biết, chỉ cảm thấy có thứ gì đó ấm nóng nhỏ xuống vạt áo, hết giọt này đến giọt khác, mang mùi tanh nồng, nhỏ xuống chiếc áo ni cô màu xám kia tạo thành những bông hoa nhỏ đỏ rực, lặng lẽ mà dịu dàng. Cận Tịch hoảng hốt lấy khăn ra định lau cho tôi. Tôi xua tay tỏ ý không cần.

    Có lẽ là rất lâu sau, tôi thản nhiên đưa tay lau đi vết máu bên khóe miệng, giọng nói trở nên khản đặc đến nỗi ngay bản thân tôi cũng cảm thấy bất ngờ. “Được, coi như là vì Lung Nguyệt, cũng là vì những người còn sống, ta đồng ý với cô cô, dù ta có hận ai, hận đến thấu xương, cũng sẽ không hành động thiếu suy nghĩ.” Tôi khẽ hắng giọng, nói tiếp: “Cô cô cũng biết tính ta rồi, ta tuyệt đối không làm những việc mà mình không nắm chắc.”

    Nụ cười dần xuất hiện trên khuôn mặt Phương Nhược, vẻ mừng vui và dịu dàng. Lúc này đây, dù là được Thái hậu sai bảo, ngoài bà ta ra cũng không có ai dám tới trước mặt tôi, nói ra những lời gan ruột thế này, mà cũng chẳng ai muốn nói.

    Tôi miễn cưỡng uống một ngụm trà cho cổ họng dịu đi rồi chậm rãi nói: “Xin cô cô chuyển lời đến Thái hậu, ta sẽ ngoan ngoãn ở trong chùa Cam Lộ tu hành, còn về Công chúa, nếu Thái hậu có lòng để mắt, đó chính là cái phúc của Công chúa rồi.”

    Phương Nhược tất nhiên có lòng tốt. Còn về Thái hậu, đây chẳng qua chỉ là một cuộc giao dịch mà thôi, dùng sự yên phận của tôi để đổi lấy sự chăm sóc của bà ta đối với Lung Nguyệt, cũng là đổi lấy sự yên tâm của Hoàng hậu.

    Phương Nhược nhẹ nhàng nói: “Kỳ thực, thân phận của nương tử bây giờ đã là sự đảm bảo tốt nhất rồi. Đại Chu từ khi khai quốc đến nay, ngoài nương tử ra còn có mấy vị phi tần khác xuất gia khi quân vương vẫn còn tại vị, chẳng hạn như Túy Phi, Dương Thục phi, bọn họ không ai không ở ngôi cao, không ai không chết già bên ngoài cung, chẳng còn cơ hội trở về, một số phi tần thân phận thấp kém khác thì lại càng chẳng cần nhắc tới. Do đó, kiếp này nương tử nhất định sẽ phải ở lại đây cả đời thôi. Đối với những người không muốn nhìn thấy nương tử trong cung, đây cũng là một sự đảm bảo. Đợi một thời gian nữa, sự việc dần qua đi, chắc tình hình sẽ tốt hơn một chút. Dù sao nói một câu thực lòng, những việc rắc rối trong cung thực nhiều vô kể, không ai có tâm trạng để ý tới nương tử mãi đâu.”

    Tôi lặng im một lát, chỉ nói: “Cũng phải!”

    Phương Nhược nói xong liền cười tủm tỉm, mở một bọc vải lụa ra, vui vẻ nói: “Nương tử hãy nhìn những thứ này xem!”

    Chỉ thấy bên trong toàn là đồ của trẻ sơ sinh, nào là áo, quần, tất, khăn quấn cổ, yếm, gần như đủ mọi thứ đồ cho các mùa xuân hạ thu đông. Cặp mắt tôi bất giác đỏ hoe, nghẹn ngào nói: “Đây là quần áo của Lung Nguyệt sao…”

    Phương Nhược mỉm cười gật đầu. “Chính thế. Hai hôm nữa là ngày đầy tháng của Công chúa, Hoàng thượng nói phải tổ chức thật long trọng. Những thứ này đều là đồ mà Hoàng thượng thưởng cho Công chúa.”

    Trái tim tôi lúc này vừa nóng bỏng lại vừa chua xót, tâm trạng thực khó tả tới tột cùng.

    Lung Nguyệt của tôi, còn hai ngày nữa là đầy tháng rồi. Người làm mẹ tôi đây, từ sau khi sinh nó ra, không ngờ lại không được gặp nó thêm lần nào nữa.

    Cận Tịch “úi chao” một tiếng, cầm một chiếc áo lên, nói: “Chất vải tốt thật, e là loại vải vùng Giang Ninh và Thục Trung mới tiến cống năm nay.”

    Phương Nhược khen ngợi: “Cặp mắt Cận Tịch đúng là lợi hại thật. Chiếc áo mùa hè này được làm bằng vải lụa mà Giang Ninh tiến cống, thấm hút mồ hôi, mặc trong mùa hè vừa mát mẻ vừa thoáng khí. Áo mùa đông thì làm bằng gấm Minh quang của đất Thục Trung, màu sắc sặc sỡ, hoa văn đều là kiểu mới, hết sức đẹp mắt. Hoàng thượng còn đặc biệt dặn dò, trong áo nhất định phải lót thêm lụa mềm, như thế mới không làm tổn thương làn da non nớt của Công chúa. Tóm lại, ý của Hoàng thượng là làm thế nào cho tốt nhất thì làm, khiến phủ Nội vụ phải lật tung hết rương hòm, chỉ hận không thể lôi hết những thứ ồ tốt ra.”

    Tôi không kìm được đưa tay sờ thử những quần áo đó, chất vải quả nhiên vô cùng mềm mại, chạm tay vào có cảm giác thoải mái vô cùng. Tất cả mọi thứ đồ từ quần áo đến tất đều rất nhỏ, chẳng đầy một nắm tay, màu sắc thì sặc sỡ đủ loại, từ đỏ tía, xanh nõn chuối đến xanh bảo thạch, không thứ nào không đẹp, không thứ nào không phải là tinh phẩm.

    Phương Nhược cười, nói: “Vì Hoàng thượng đã có lời, do đó các vị nương nương, tiểu chủ trong cung ai nấy đều cố sức nịnh nọt bợ đỡ, những thứ như khóa vàng trường mệnh, nguyên bảo như ý được đưa tới đã chất cao như núi, khiến Kính Phi nương nương phải than không dùng hết được. Hân Quý tần còn trêu rằng Kính Phi nương nương nhờ phúc của Công chúa mà được phát tài một phen.”

    Cận Tịch cũng mỉm cười: “Chẳng trách Hân Quý tần lại nói như vậy, lúc Thục Hòa Công chúa đầy tháng, vì có Hoa Phi áp chế nên buổi lễ được tổ chức rất qua loa, ngay đến Ôn Nghi Công chúa cũng chỉ được tổ chức lễ đầy tháng theo quy củ. Lung Nguyệt Công chúa của chúng ta đúng là may mắn nhất rồi!”

    Tôi ngẩn ngơ vuốt ve những thứ đồ sắp bao bọc lấy đứa bé của tôi kia, cảm thấy vừa thân thiết lại vừa xa lạ. Tôi thân là mẹ ruột của Lung Nguyệt, không ngờ lại chẳng thể gần gũi với nó, ôm ấp nó như những thứ đồ này. Tôi xoay người lại, cẩn thận lau đi giọt nước mắt sắp tràn, khẽ cất tiếng thở dài. “Chỉ đáng thương cho người làm mẹ ta đây, đến đồ để tặng cho con gái nhân ngày đầy tháng cũng chẳng có.”

    Cận Tịch thấy tôi thương tâm, vội an ủi: “Sao nương tử lại nói vậy chứ! Người là mẹ ruột của Công chúa, tấm lòng yêu con gái này của người đã là món quà tốt nhất, hiếm có nhất rồi. Công chúa mà biết mình được nương tử nhớ nhung như vậy, nhất định cũng sẽ vui sướng vô cùng.”

    Tôi thoáng ngẩn ngơ rồi không kìm được thở dài cảm khái. “Ta thương tâm như vậy mà làm gì chứ, có phụ hoàng của nó đối xử tốt với nó là được rồi. Ta không thể không nói một câu thực lòng, dù Hoàng thượng đối xử với ta hà khắc đến mấy thì đối với Lung Nguyệt, người như vậy đã là rất tốt rồi! Cũng xin cô cô thay ta tạ ơn Thái hậu, người đã mất công bảo cô cô mang những thứ này đến cho ta xem, để ta biết Hoàng thượng thương yêu Công chúa đến thế nào, giờ ta yên tâm rồi.”

    Phương Nhược nở một nụ cười hiểu ý. “Rốt cuộc nương tử cũng hiểu được sự khổ tâm của Thái hậu, khi quay về, nô tỳ nhất định sẽ thành thực bẩm báo với Thái hậu lòng cảm kích của nương tử.” Bà ta hơi ngoảnh đầu nhìn qua bên cạnh, đột nhiên hỏi: “Nương tử bây giờ còn viết chữ nữa không?”

    Tôi nhất thời không hiểu ý, bèn hỏi: “Gì cơ?”

    Phương Nhược cười, nói: “Trước đây nương tử chép kinh Phật cho Thái hậu, Thái hậu thường khen chữ của nương tử rất đẹp, lại rõ ràng nên khi người đọc kinh thấy rất thoải mái, chỉ là vẫn còn thiếu một chút hỏa hầu. Giờ nương tử tu hành trong chùa Cam Lộ, chi bằng hãy tiếp tục chép kinh Phật cho Thái hậu như trước đây, coi như luyện chữ để giết thời gian. Hằng tháng, nô tỳ sẽ tới chùa Cam Lộ một lần để mang kinh Phật đi. Xin nương tử hãy lấy thời gian một tháng làm kỳ hạn, chép kinh Phật cầu phúc cho Thái hậu.” Nói xong, bà ta liền chăm chú nhìn tôi rồi bổ sung thêm một câu: “Thái hậu đã nói rồi, nhất định phải là lời cầu phúc do chính tay nương tử chép thì mới có tác dụng, bằng không thì không tính đâu.”

    Kinh Phật trong cung nhiều như vậy, việc gì phải chạy đến tận chùa Cam Lộ xa xôi này để lấy từ chỗ tôi?!

    Thế nhưng tôi chỉ thoáng suy nghĩ, lập tức hiểu ra ngay, bèn khom người thật sâu, nói: “Xin thay Mạc Sầu cảm tạ sự quan tâm của Thái hậu, Mạc Sầu nhất định sẽ dốc hết tâm sức chép kinh Phật, cầu chúc cho Thái hậu được trời cao phù hộ.”

    Phương Nhược mỉm cười hiểu ý, chỉnh lại cây trâm bạc trên búi tóc một chút, đứng dậy cười, nói: “Nương tử hiểu rõ thì tốt. Sắc trời không còn sớm nữa, nô tỳ phải quay về phục mệnh đây.”

    Tôi lập tức đứng dậy theo. “Để ta tiễn cô cô ra ngoài.”

    Ngoài cửa có mấy ni cô đang ngó nghiêng để ý tình cảnh trong phòng tôi, Phương Nhược thấy có nhiều người, bèn dừng lại, nói: “Nương tử hãy về đi, ngoài này lạnh lắm!”, rồi cố ý nói lớn: “Kinh Phật mà Thái hậu nhờ nương tử chép mỗi tháng nô tỳ sẽ tới lấy một lần, nương tử cứ dốc hết sức mình làm việc này là được.”

    Tôi biết bà ta cố ý nói vậy cho đám ni cô kia nghe, tránh để tôi bị bọn họ ức hiếp. Tôi vội vàng tươi cười nhường đường, đợi sau khi bà ta đã đi xa mới yên tâm trở vào phòng.
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 6: Dây đàn đứt chẳng người nghe
    Tôi một lòng điều dưỡng, ăn ngủ đúng giờ. Quả đúng như sự kỳ vọng của Cận Tịch và Hoán Bích, thân thể tôi đã dần khỏe lại, ăn uống cũng thấy ngon miệng hơn, có thể thoải mái đi lại. Tôi bắt đầu ngày ngày tụng kinh niệm Phật, làm việc chăm chỉ. Hễ có thời gian rảnh rỗi, tôi lại cẩn thận vùi đầu chép kinh Phật bất kể ngày đêm. Chỉ mong những lời chân ngôn chân ý trong kinh Phật có thể xua bớt tâm trạng u uất thường dâng trào trong lòng tôi. Trong quãng thời gian này, tôi chép xong Kim Cương kinh rồi lại chép Lăng Nghiêm kinh, sau khi chép đủ ba lần mỗi cuốn kinh thư, tôi ngẩng đầu chăm chú nhìn mình trong gương, thấy ánh mắt quả nhiên đã vơi đi rất nhiều tạp niệm, nhưng đồng thời cũng trở nên trống rỗng.

    Tôi chép kinh Phật một cách nghiêm túc, nét mực đen nhánh và nồng đậm, tựa như sự không cam tâm và nỗi oan khuất của tôi, tất cả đều được viết vào trong những lời chân ngôn vô biên của Phật pháp, qua đó xoa dịu sự căm phẫn trong tôi.

    Thái hậu vì tôi mà khổ tâm an bài như thế thực đã có thể coi là hết mức rồi.

    Bà ta yêu cầu tôi phải tự tay chép kinh Phật, mỗi tháng sai Phương Nhược đến lấy, chính là để đảm bảo tôi vẫn còn sống, sống một cách bình an với hai tay hai chân lành lặn, thân thể khỏe mạnh và không có bệnh tật gì.

    Việc Phương Nhược đến đây hằng tháng không hề khiến công việc vất vả của tôi giảm đi bao nhiêu, chỉ là trong hôm bà ta tới, tôi được Tịnh Bạch cho phép nghỉ ngơi một ngày.

    Hoán Bích hỏi tôi: “Tiểu thư phải làm việc vất vả như vậy, tại sao lại không nói với Phương Nhược cô cô để nhờ chủ trì công đạo, hoặc nói trực tiếp với trụ trì cũng được mà?”

    Tôi cúi đầu, cẩn thận hồ quần áo, hờ hững nói: “Nếu ta nói với trụ trì, trụ trì nhất định sẽ tới gặp Tịnh Bạch cầu xin giúp ta. Nhưng dù gì ta cũng nằm dưới quyền quản lý của Tịnh Bạch, nếu bà ta ngoài miệng đồng ý nhưng sau lưng ngầm ám toán thì đến chút bình yên khó khăn lắm mới có được này, ta cũng chẳng còn. Mà nếu nói với Phương Nhược, Phương Nhược nhất định sẽ quay về bẩm với Thái hậu. Thái hậu tuy là cô ruột của Hoàng hậu nhưng chiếu cố ta với Lung Nguyệt như vậy đã coi như tận tâm rồi, hà tất phải khiến lão nhân gia người nhọc lòng thêm. Hơn nữa, trong cung tai vách mạch rừng, nếu việc này truyền đến tai Hoàng hậu và An Lăng Dung, không biết kết quả sẽ ra sao nữa.”

    Lý do có thể nói ra tôi đều đã nói cả rồi, nhưng vẫn còn một nguyên nhân khác tôi không thể nói. Tôi vừa mới rời cung, những người muốn dồn tôi vào chỗ chết kia đương nhiên không chịu dễ dàng bỏ cuộc, chỉ e bên cạnh tôi có vô số cặp mắt tới từ trong cung đang rình mò. Thái hậu bảo tôi chép kinh Phật để Phương Nhược mang về mỗi tháng cũng là vì nguyên nhân này, người lo có người hãm hại tôi. Tịnh Bạch khó chịu trước xuất thân và dung mạo của tôi, do đó cố tình gây khó dễ khiến tôi vất vả. Nếu những kẻ kia nhìn thấy tình cảnh của tôi bây giờ, nhất định sẽ cảm thấy yên tâm hơn nhiều, ý định đối phó với Lung Nguyệt của tôi cũng sẽ giảm đi không ít. Mọi việc trên đời này đều có liên quan đến nhau, tôi là người làm mẹ, cũng chỉ có thể làm cho Lung Nguyệt một chút việc như vậy mà thôi.

    Mỗi lần Phương Nhược tới, tôi chỉ hỏi hai câu: “My Trang có khỏe không? Lung Nguyệt có khỏe không?”

    Phương Nhược không tiện nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng trả lời đôi câu đơn giản, chưa từng nói tỉ mỉ. Tôi biết bà ta có chỗ khó xử nên cũng không làm khó, chỉ là mỗi lần gặp mặt vẫn chỉ hỏi hai câu này.

    Hỏi nhiều quá rồi, Phương Nhược không kìm được bật cười, nói: “Nương tử vĩnh viễn chỉ quan tâm tới hai người bọn họ thôi sao?”

    Tôi không chút nghĩ ngợi, đáp: “Phải!”

    Phương Nhược thoáng tỏ vẻ trầm ngâm, trong mắt lóe hiện nét cười. “Thái hậu dặn dò nô tỳ mỗi tháng đều phải tới thăm nương tử, thực sự là rất quan tâm, lẽ nào nương tử không muốn hỏi xem Thái hậu gần đây thế nào sao?”

    Tôi hờ hững nói: “My tỷ tỷ ở trong cung phải nhờ sự chiếu cố của Thái hậu mới được bình yên, nếu My tỷ tỷ yên lành, Thái hậu ắt cũng không có vấn đề gì, do đó không cần phải hỏi. Hơn nữa, cô cô mỗi lần tới đều chẳng hề tỏ vẻ âu lo, từ đó có thể biết rõ Thái hậu vẫn an khang, mạnh khỏe.”

    Phương Nhược gật đầu, nói: “Sự thông minh của nương tử chẳng kém ngày xưa chút nào!” Bà ta khẽ mỉm cười. “Vậy Lung Nguyệt Công chúa phải nhờ Kính Phi nương nương nuôi dưỡng, lẽ nào nương tử cũng không hỏi tới Kính Phi nương nương chút nào sao?”

    Ngoài cửa sổ tuyết bay lất phất, tựa vô số miếng bông nhỏ. Tôi hờ hững nhìn cảnh tuyết rơi, nói: “Không cần. Nàng ta bây giờ đã có chỗ nương tựa cả đời, ắt sẽ yêu thương Công chúa như tính mạng. Hơn nữa, ta mà hỏi đến, nàng ta nhất định sẽ bị người khác để ý thêm, như thế há chẳng phải đẩy nàng ta vào cảnh nguy hiểm.” Tôi chậm rãi cười, nói: “Kính Phi vốn thông minh, nhất định sẽ có cách bảo vệ bản thân và Công chúa. Cô cô thường nói Công chúa rất thông minh, đáng yêu, vậy chắc hẳn cuộc sống của Kính Phi cũng phải thư thái, thoải mái, nếu không sao có thể nuôi dưỡng Công chúa tốt như thế được.”

    Phương Nhược thoáng trầm ngâm. “Vậy Hoàng thượng thì sao? Lẽ nào nương tử cũng hoàn toàn không để tâm đến?”

    Tôi đột nhiên cau mày nhưng rất nhanh sau đó đã cảm thấy cau mày vì Huyền Lăng thực không đáng, khuôn mặt dần dãn ra nhưng lại vô cùng lạnh lùng, mà sự lạnh lùng ấy còn ngấm vào lời nói, băng giá tới tột cùng: “Nếu có quốc tang, cả thiên hạ đều biết, không cần cô cô tới nói với ta.”

    Tôi rõ ràng là đang rủa y chết! Những lời lạnh lùng, tàn độc như thế bật thốt ra từ miệng tôi, đến bản thân tôi cũng bất ngờ, sự oán hận của tôi với y đã sâu sắc đến mức này rồi sao?

    Quả nhiên Cận Tịch cả kinh, vội bịt miệng tôi lại. “Nương tử hồ đồ rồi sao?”

    Phương Nhược chăm chú nhìn tôi một lát, chậm rãi lắc đầu, nói: “Nương tử, xin thứ cho nô tỳ nhiều lời khuyên một câu, người cứ ôm mãi sự oán hận trong lòng như vậy, kỳ thực chỉ khổ mình mà thôi.”

    Tôi xoay người đi, làm bộ như không nghe thấy, chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh mắt hết sức lạnh lùng, cơ hồ muốn nhìn cho rõ xem ngọn gió bên ngoài cửa sổ rốt cuộc đang xao động thế nào.

    Giọng nói điềm tĩnh của Phương Nhược vẫn lọt vào tai tôi: “Trong đợt tuyển tú tháng Mười vừa qua, số người Hoàng thượng vừa mắt khá nhiều, tổng cộng chọn được mười tám cung tần, đây là năm có nhiều người được chọn nhất kể từ khi Hoàng thượng lên ngôi tới giờ.” Bà ta thoáng trầm ngâm, đưa mắt nhìn Cận Tịch, rốt cuộc vẫn nói ra: “Lần này các vị tiểu chủ được chọn đều xuất thân từ gia đình quan lại bậc trung, không có ai quá hiển hách, cũng không có ai quá thấp kém. Hơn nữa, bọn họ tuổi tác đều hãy còn nhỏ, không có ai quá mười lăm.”

    Mười lăm tuổi, năm tôi vào cung cũng vừa đúng mười lăm tuổi, cái tuổi tựa bông hoa non nớt, mềm mại. Giờ đây, tôi đã hai mươi rồi, so với các cung tần trẻ tuổi kia, dung nhan và tuổi tác của tôi chắc đều có thể tính là ảm đạm, sao có thể so sánh với sự khỏe khoắn, tươi trẻ, xinh đẹp rạng rỡ của bọn họ được.

    Tôi khẽ nở nụ cười lạnh, nếu tôi nhớ không nhầm, sau dịp năm mới, Huyền Lăng cũng đã ba mươi rồi.

    Y là kẻ quân vương, do đó, y luôn có diễm phúc như vậy, lúc nào cũng được hưởng thụ sự tươi trẻ vô tận của người khác.

    Mà Hoàng hậu lớn hơn Huyền Lăng hai tuổi, đối mặt với các nữ tử non nớt, trẻ trung kia, dù trang điểm đậm đà đến mấy, hẳn cũng đã có chút lực bất tòng tâm.

    Giọng nói bình thản của Phương Nhược vang lên, tựa như đang nói tới một việc chẳng hề quan trọng: “Đây là ý của Hoàng hậu, Hoàng hậu khuyên Hoàng thượng nên chọn những nữ tử trẻ tuổi vào cung.” Tôi thoáng ngẩn ra, lại nghe Phương Nhược chậm rãi nói tiếp: “Hoàng hậu nói các phi tần trong cung tuổi tác đã dần cao, chi bằng chọn những người mới trẻ trung, khỏe mạnh, như vậy mới có lợi cho việc sinh người nối dõi cho hoàng gia.”

    Tôi thoáng sững sờ nhưng rất nhanh sau đó đã hiểu ra dụng ý của Hoàng hậu. Lòng bàn tay tôi lạnh băng, sau nháy mắt cơn lạnh đã truyền vào gan ruột, khiến tôi có cảm giác như bị đẩy vào hầm băng.

    Càng là những nữ tử trẻ tuổi từ nhỏ đã sống trong nơi khuê các thì lại càng không có tâm cơ, dù có được kẻ quân vương yêu thương, sủng ái đến mấy thì cũng không thể chống lại một ả đàn bà đầy mưu mô, hiểm ác từng sống ở nơi thâm cung nhiều năm như nàng ta, mà chỉ có thể nằm trong sự khống chế của nàng ta. Hơn nữa, những nữ tử kia đều xuất thân từ gia đình quan lại hạng trung, không có khí chất và kiến thức của những tiểu thư ngàn vàng, do đó lại càng ít có cơ hội được lên ngôi cao. Còn về người nối dõi cho hoàng tộc, bọn họ có sinh được hay không còn là điều chưa ai biết rõ.

    Mà loại người có xuất thân thấp kém như An Lăng Dung vừa cẩn thận lại vừa tâm kế thâm trầm, Hoàng hậu nhất định sẽ không cho phép xuất hiện thêm kẻ thứ hai.
    Do đó, những nữ tử trẻ tuổi xuất thân bình thường vào cung mới là hợp với tâm ý của nàng ta nhất.

    Còn Huyền Lăng, chỉ cần là những nữ tử dịu dàng, xinh đẹp, yêu kiều, y đều sẽ tiếp nhận hết.

    Những lời tiếp theo của Phương Nhược vừa hay chứng thực phán đoán của tôi: “Hoàng thượng rất thích các tiểu chủ vào cung lần này, có điều địa vị của bọn họ còn chưa cao, đa phần mới chỉ là thường tại, mỹ nhân, chẳng rõ sau này sẽ có ai lên được ngôi cao nữa. Chỉ là các tiểu chủ lần này có vẻ ngang sức ngang tài đấy!”

    Ngang sức ngang tài, vậy tức là ai ai y cũng thích, không ai hơn ai.

    Cũng phải, y trái ôm phải ấp đi lại giữa chốn phấn hương, hưởng thụ sự dịu dàng và quyến rũ của những nữ tử mới mẻ, tất nhiên hết sức thỏa mãn rồi. Còn tôi, ngày ngày mặc áo ni cô nghe tiếng trống sớm chuông chiều, sống giữa nơi núi non hoang dã, chịu đựng sự cô đơn, hiu quạnh mà tôi đáng phải chịu. Giờ đây hai chúng tôi mỗi người một nơi, chẳng còn liên quan tới nhau nữa.

    Ngoài trời tuyết rơi lả tả, khung cảnh tựa một ngày xuân muộn thuở xưa, khi tôi đứng tựa người vào lan can trên hành lang, nhìn những bông liễu trắng toát xoay mình lặng lẽ, giữa làn gió đông thổi nhẹ, từng đốm trắng phấp phới bay bay. Nhưng dịp đó trời đã rất ấm áp, tôi chỉ mặc một chiếc áo mỏng mùa xuân, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn lên, đập vào mắt là một khung cảnh tuyệt vời, khiến người cũng đắm say.

    Còn giờ đây, những bông tuyết cũng rất giống những bông liễu bay đầy trời kia nhưng lại lạnh lẽo đến vô chừng, tựa mái đầu đã bạc, khiến lòng người xiết nỗi thê lương. Tôi nhẹ nhàng cất tiếng: “Ta chỉ mong những người mà ta quan tâm đều được bình an, còn về những người hay chuyện khác, có liên quan gì tới ta đâu chứ!” Tôi giao chỗ kinh Phật mình chép trong một tháng vừa qua cho Phương Nhược, hạ lệnh trục khách: “Tuyết lớn khó đi, e sẽ làm chậm trễ thời gian về cung, cô cô xin hãy quay về thôi.”

    Phương Nhược không hề tỏ ý khó chịu, chỉ mỉm cười hiền hòa, nói: “Nô tỳ về sớm một chút cũng tốt, lần trước Thanh Hà Vương vì chuyện của nhà họ Chân mà cầu xin Hoàng thượng, bị Hoàng thượng trách mắng, phạt đến cố đô Thượng Kinh suy nghĩ lỗi lầm, không có chiếu chỉ không được về kinh, bây giờ ngoài các phi tần ở ngôi quý tần trở lên và các hoàng tử, công chúa, cũng chỉ còn Bình Dương Vương là thường xuyên tới thỉnh an Thái hậu. Thái hậu độ này rất hay buồn rầu, phiền muộn, nô tỳ quả thực không thể không sớm tối hầu hạ kề bên.”

    Tôi bất giác cả kinh, vội hỏi: “Thanh Hà Vương rời kinh rồi sao?”

    Phương Nhược thoáng ngạc nhiên về phản ứng của tôi, ôn tồn nói: “Nương tử vẫn chưa biết sao? Đây là vì Thanh Hà Vương đã dâng tấu cầu xin giúp cho nhà họ Chân đấy. Thanh Hà Vương vốn không để ý gì tới việc triều chính, trong lần bình định Nhữ Nam Vương tuy đã lập công không nhỏ nhưng rất nhanh sau đó đã đặt mình ra ngoài sự việc, không mấy khi bày tỏ ý kiến. Vừa rồi dâng tấu cầu xin cho nhà họ Chân chắc hẳn là vì trong lúc bình định Nhữ Nam Vương đã kết giao với huynh trưởng Chân Hành của nương tử. Nhà nương tử lần này đúng là oan khuất, mắc tội vì một lý do chẳng rõ ràng.”

    Giống như bị một lưỡi đao rất nhỏ, rất mỏng cứa qua làn da, ban đầu tôi không hề cảm thấy đau đớn, nhưng rồi sau khi vết thương nứt toác, làm lộ cả phần thịt nửa trắng nửa đỏ, máu tươi cuồn cuộn chảy ra, một cơn đau dữ dội bất thình lình ập đến.

    Huyền Thanh, không ngờ y lại vì chuyện nhà của tôi mà can dự vào việc triều chính rồi còn bị đuổi đến Thượng Kinh. Việc này vốn chẳng dính dáng gì đến y kia mà.

    Nước mắt của tôi vẫn chưa rơi nhưng sự oán hận với Huyền Lăng thì đã sâu thêm một tầng. Ngay đến Phương Nhược cũng hiểu đó là một lý do chẳng rõ ràng, ngay đến Huyền Thanh cũng cất lời giúp đỡ, tại sao y vẫn nhất quyết làm theo ý mình như vậy?

    Phương Nhược dường như hiểu được mối tâm sự của tôi, khẽ nói: “Chuyện Nhữ Nam Vương đã trở thành điều đại kỵ trong lòng Hoàng thượng, vừa mới bình định chưa lâu thì xuất hiện chuyện của nhà họ Chân, Hoàng thượng sao không tức giận cho được. Hơn nữa, Hoàng thượng là đấng cửu ngũ chí tôn, dù có sai thì kết cục cũng đã định, ai có thể khuyên nổi. Mà người bên cạnh Hoàng thượng bây giờ chỉ biết ném đá xuống giếng, lại càng chứng thực tội danh của nhà họ Chân, các đại nhân trong quan trường cũng đều như vậy cả.” Phương Nhược thở dài than: “Dù nhà họ Chân có thể rửa oan nhưng phần đời còn lại có lẽ nương tử sẽ phải gửi mình trong chùa Cam Lộ rồi, chẳng còn cơ duyên về cung nữa.”

    Sự chán ghét của tôi cuộn trào ra ngoài qua lời nói: “Dù có cho kiệu tám người khiêng đến mời ta về, ta cũng nguyện lòng ở lại đây tới hết kiếp.”

    Lời của tôi chắc nịch như chém đinh chặt sắt. Phương Nhược không nói gì, sau khi im lặng một lát liền cáo từ rời đi.

    Nhìn bóng dáng Phương Nhược dần biến mất giữa trời tuyết rơi lất phất, tôi khẽ lẩm bẩm: “Trường tương tư.”

    Hoán Bích nhất thời chưa nghe rõ, bèn hỏi: “Tiểu thư nói gì vậy?”

    Tôi khẽ nói: “Trường tương tư đâu?”

    Đã lâu lắm rồi tôi không gảy đàn, dù đã ôm theo cây đàn Trường tương tư đó ra khỏi nơi cung cấm, tôi vẫn chẳng có chút tâm trạng nào để gảy đàn. Lúc này nghe tôi đột nhiên hỏi tới, Hoán Bích lập tức lộ rõ nét mừng, vội vàng chạy đi mang đàn tới, nói: “Dạ ở đây, chỉ là bên trên đã dính không ít bụi, cần lau qua một chút mới được.”

    Tôi cầm lấy miếng vải mềm, lau đàn một cách cẩn thận. Cây đàn Trường tương tư này thực thân thuộc biết bao, nó đã từng bầu bạn bên tôi vô số đêm không ngủ nơi cung cấm, dù là khi vui vẻ hay lúc buồn đau, giúp tôi hóa giải muôn vàn nỗi tâm tư khó nói bằng lời.

    Những ngày vừa qua, không phải tôi thật sự không muốn gảy đàn nữa, cũng không phải vì thường ngày bận rộn mà quên mất Trường tương tư. Tôi chỉ không dám, không dám chạm vào những sợi dây đàn mỏng manh của Trường tương tư để rồi nhớ đến những tháng ngày xưa cũ lúc còn ở trong cung. Tôi ngày ngày tụng niệm chân ngôn trong kinh Phật, như vậy mới có thể dựng lên một bức tường tạm thời giúp tôi bình tĩnh, nhưng bức tường ấy sao chịu nổi sự phá hoại của những chuyện cũ cuồn cuộn như sóng dữ kia, chúng sẽ rất dễ dàng vượt qua bức tường và nhấn chìm tôi xuống đáy nước. Những chuyện cũ đó, tôi thực không muốn động tới thêm chút nào.

    Thế nhưng vừa rồi nghe Phương Nhược nói tới Huyền Thanh, tôi mới biết y đã vì gia tộc của tôi mà dốc hết sức mình. Trong quãng thời gian ở chùa Cam Lộ này, ngoài nỗi nhớ phụ thân, ca ca cùng lòng oán hận Huyền Lăng ra, tôi gần như chưa từng nhớ tới bất kỳ nam tử nào khác.

    Lời của Phương Nhược khiến tôi nhớ lại, tại chỗ rẽ trên dãy hành lang đằng đẵng ngợp bóng hoa lê trắng muốt trong hoàng cung, dưới ánh trăng khuyết mờ mờ ảo ảo, có một người từng mang lại cho tôi những lời an ủi ấm áp đến vô chừng.

    Những ngón tay tôi nhẹ lướt trên dây đàn, giữa bầu không khí tĩnh lặng, tiếng nhạc du dương chầm chậm vang lên, nhưng làn điệu lại vô cùng trống rỗng, tựa như tiếng thở than rất dài, vang vọng mãi không thôi. Nỗi buồn vui trong lòng tôi sau nháy mắt đã trở nên mơ hồ, biến thành một mảng mờ mịt, hoang vu. Ngoài cửa sổ, những cây tùng già đang vươn mình ngạo nghễ, dù bị băng tuyết bao phủ nhưng màu xanh biếc vẫn hiển hiện hết sức rõ ràng.

    Thượng Kinh nằm ở nơi đất Bắc xa xôi, cách kinh thành tới sáu, bảy trăm dặm, là cố đô của Đại Chu. Đất Bắc, nhất định lạnh hơn so với chốn ngoại ô kinh thành, nơi tôi đang tu hành này nhiều. Trong một thoáng ngẩn ngơ, gốc tùng già phía xa dường như biến thành bóng dáng cô độc của y. Trong tay y cầm cây sáo Trường tương thủ, hơi ngẩng đầu ngắm trăng, ung dung trò chuyện với tôi vài câu.

    Thế nhưng, tiếng đàn của tôi đã không còn như xưa, người cũng chẳng thể quay đầu. Cuộc đời này của tôi, dù phía trước không còn đường đi thì cũng chỉ có thể một mực đi tiếp về phía trước.

    Y sẽ tiếp tục làm một vị thân vương thanh cao tôn quý, cưới về một người vợ đẹp như hoa, sống giữa nơi phồn hoa náo nhiệt; còn tôi thì sống nơi cửa Phật, ngày ngày tụng niệm kinh văn, cô độc đến già.

    Tâm sự như sóng triều trào dâng cuồn cuộn, động tác của tôi bỗng mạnh hẳn lên, chỉ nghe dây đàn “tưng” một tiếng đứt lìa, tiếng đàn cũng theo đó mà đột nhiên dừng lại. Tôi ngó quanh bốn phía, chỉ thấy một mảng tuyết trắng mênh mang, khóe miệng chợt nở một nụ cười buồn bã.

    Rốt cuộc, ngoài bản thân tôi ra, đến khi đàn đứt dây cũng chẳng có người nào nghe cả.

    Trường tương tư đã đứt dây rồi, tất nhiên không thể tương tư được nữa. Tôi chậm rãi phủ phục người xuống cây đàn, uể oải nhắm mắt lại.
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 7: Lòng đã giá băng ai người hỏi tới
    Giữa mùa đông lạnh, việc giặt quần áo vẫn không được giảm nhẹ, khi tuyết lớn bao phủ khắp núi, chúng tôi thường phải đun tuyết lấy nước để giặt, còn khi thời tiết tốt hơn thì tới bên bờ suối, đập vỡ lớp băng dày bên trên ra mà bắt đầu giặt giũ.

    Dòng nước suối lạnh đến thấu xương nhưng tôi không thể né tránh, chỉ biết trơ mắt nhìn những vết nứt nẻ lưu lại từ năm ngoái tái phát, cả bàn tay đều sưng vù, trông đáng sợ vô cùng. Tôi bất giác nhớ lại những tháng ngày lạnh lẽo, ẩm ướt trong Đường Lê cung, có lẽ đó chính là quãng thời gian mà tôi cảm thấy bàng hoàng, đau đớn nhất trong cuộc đời này.

    Tôi cười gượng, nói với Cận Tịch: “Quả đúng là có một số chuyện dù một lòng muốn quên đi cũng không sao quên được, như những vết nứt nẻ này vậy, cứ đến dịp là lại tái phát.”

    Cận Tịch dùng bàn tay ủ ấm cho tay tôi, có điều bàn tay của nàng ta với Hoán Bích cũng lạnh băng, sưng đỏ, chẳng khác gì tay tôi, bên trên đầy những vết nứt nẻ ngang dọc. Thỉnh thoảng Hoán Bích còn nói đùa: “Đôi tay này đầy những vết nứt nẻ, chỗ xanh chỗ đỏ chỗ tím, nô tỳ chỉ coi như là những chiếc nhẫn bảo thạch, loại màu xanh là ngọc phỉ thúy, loại màu đỏ là san hô, còn loại màu tím thì chính là thạch anh tím.”

    Tôi và Cận Tịch cười trêu Hoán Bích đã ham tiền đến phát điên rồi. Nhưng nói tới châu ngọc bảo thạch, tôi chợt nhớ ra sau khi mình xuất gia, toàn bộ đồ trang sức nhận được trong cung tôi đều để lại Đường Lê cung, chỉ mang theo những món của hồi môn lúc đầu, bây giờ đã khóa hết vào trong hòm, chưa từng mở ra lần nào. Đã xuất gia rồi, những thứ đồ châu ngọc ấy tất nhiên không còn liên quan gì đến tôi nữa.

    Cận Tịch vuốt ve những vết nứt nẻ trên bàn tay mình, khẽ cất tiếng: “Hồi mới vào cung, nô tỳ chỉ là một tiểu cung nữ chuyên vẩy nước quét dọn. Khi đó trong cung chỉ có Đoan Phi và Nhàn Phi, cũng chính là Hoàng hậu bây giờ, tất nhiên không đến lượt những tiểu cung nữ như nô tỳ đi hầu hạ. Khi mới vào cung khó tránh khỏi bị ức hiếp, quãng thời gian đó, nô tỳ thường xuyên phải giặt quần áo cho các cô cô, số lượng nhiều đến mức tưởng chừng không bao giờ giặt hết được, kết quả là bàn tay đầy những vết nứt nẻ. May mà về sau, Thuần Nguyên Hoàng hậu thấy nô tỳ đáng thương, liền nói: ‘Bàn tay đã nứt nẻ đến thế này còn bắt giặt quần áo, phủ Nội vụ không có chút lòng thương xót người dưới nào sao?’ Thế là nô tỳ mới được phái đi làm việc khác. Về sau nô tỳ dần thăng tiến, bản thân cũng trở thành cô cô, tất hiên không phải làm những việc nặng nhọc ấy nữa, bàn tay cũng theo đó lành lặn trở lại. Không ngờ hôm nay phải làm lại công việc khi xưa, có điều nô tỳ cũng không cảm thấy ngượng tay chút nào.”

    Cận Tịch nhẹ nhàng kể lại việc cũ về Thuần Nguyên Hoàng hậu, tôi cũng chỉ hờ hững lắng nghe, không hề suy nghĩ quá nhiều.

    Cứ thế từng tháng trôi qua, mùa đông cuối cùng cũng kết thúc, kế đó tất nhiên là mùa xuân.

    Ôn Thực Sơ đến thăm tôi đúng vào ngày đầu xuân. Hôm ấy trời âm u tăm tối, mây đen phủ đầy tới tận chân trời, vậy nhưng lại không hề mưa.

    Khi hắn đột ngột bước vào, tôi đang vất vả đổ từng thùng nước vừa gánh về vào trong chiếc vại sành lớn bên dưới cửa sổ. Hoán Bích đột nhiên gặp lại cố nhân, nhất thời vừa ngạc nhiên vừa cảm động, nước mắt lã chã tuôn rơi, thất thanh bật khóc. “Ôn đại nhân.”

    Tôi nghe thế liền ngoảnh đầu lại, Ôn Thực Sơ đứng ngay cạnh cửa, vận một bộ đồ màu xanh, thân hình gầy guộc. Hắn chạy về phía tôi, không kìm được thốt lên: “Hoàn muội muội, muội gầy đi nhiều quá!”

    Tôi thoáng ngẩn ngơ, giữa nơi chùa chiền trong núi hoang vu, đột nhiên được gặp lại cố giao thuở trước, thực cảm động tới rơi nước mắt. Thế nhưng cũng chỉ có một khoảnh khắc ngắn ngủi ấy thôi, ngay sau đó tôi đã thản nhiên như thường, nói với Hoán Bích: “Có gì đâu mà khóc.”

    Hoán Bích vội đưa tay lên lau nước mắt, mời Ôn Thực Sơ vào trong. Ôn Thực Sơ nhìn thấy tôi đang đổ nước, liền bước tới giành lấy thùng nước trong tay tôi, ngạc nhiên nói: “Sao muội lại phải làm công việc nặng nề này?”

    Tôi cười hờ hững, hỏi ngược lại: “Tại sao lại không làm? Ta đã không còn là tiểu thư ngàn vàng, cũng không phải là sủng phi trong cung, chẳng qua chỉ là một ni cô bình thường, không làm việc này thì làm việc gì chứ?”

    Hắn nôn nóng nói: “Dù nói thế nào thì muội cũng là người phụng chỉ tu hành từ trong cung ra, các ni cô của chùa Cam Lộ sao có thể đối xử hà khắc với muội thế này được?”

    Tôi vẫn cười bình thản. “Ta là phi tử bị phế truất và đuổi ra khỏi cung, không phải phi tử của tiên đế, chẳng có chút danh phận nào, tại sao lại phải đối xử tốt với ta?”

    Hắn nhất thời nghẹn họng, đành kéo tôi ra, xắn tay áo lên giúp tôi đổ nước vào trong vại. Tôi hờ hững nói: “Đa tạ, nước dùng cho ngày hôm nay đã đủ rồi!”

    Hắn thoáng tỏ vẻ ngạc nhiên. “Nước dùng cho ngày hôm nay? Mỗi ngày muội đều phải làm công việc đổ nước vất vả này sao?”

    Tôi đáp: “Ta có tay có chân, tất nhiên phải làm việc rồi.”

    Hoán Bích đứng bên cạnh nghe thấy vậy, không kìm được nghẹn ngào nói: “Chút việc này thì có tính là gì, tiểu thư và bọn nô tỳ còn phải tự tay đi nhặt củi, giặt giũ, nấu nướng. Nô tỳ và Cận Tịch thì không sao, vốn nên làm những việc này, chỉ đáng thương cho chân tay tiểu thư…”

    Ôn Thực Sơ nghe Hoán Bích nói vậy thì thầm nôn nóng, vội kéo bàn tay tôi lên xem. Bàn tay tôi sớm đã chẳng còn được mịn màng, nõn nà như xưa, bên trên đầy những vết chai sạn, mụn nước, còn có những vết gai đâm vào da thịt khi cắt cỏ, để lại rất nhiều đốm nhỏ màu đen.

    Ôn Thực Sơ hết sức xót xa, nôn nóng nói: “Sao lại thành ra thế này?”

    Hoán Bích giậm chân, nghẹn ngào nói: “Mụn nước trên tay tiểu thư vỡ cái này lại mọc cái khác, bàn tay gần như chẳng còn chỗ nào lành lặn. Tiểu thư từ nhỏ đã sống nơi khuê các, nào đã từng phải chịu khổ thế này, nhưng đám ni cô kia thực độc ác lắm, ức hiếp, làm khó đủ điều.”

    Tôi lớn tiếng cắt ngang tiếng khóc của Hoán Bích: “Oán trách thì có tác dụng gì? Oán trách vẫn phải vất vả, không oán trách cũng vẫn vất vả.”

    Hoán Bích thút thít nói: “Nô tỳ chỉ thương tiểu thư thôi!”

    Tôi lắc đầu, cười gượng. “Không cần thương ta làm gì, rồi sẽ dần quen thôi, dù sao ta cũng phải sống ở đây cả đời.”

    Ôn Thực Sơ vội kéo tôi ngồi xuống, lấy ra ít thuốc cao mang theo trên người, tha thiết nói: “Ta chỉ mang theo ít thuốc này thôi, muội giữ lấy dùng tạm. Ngày mai ta sẽ đưa thêm thuốc tốt tới.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Đa tạ!”

    Tôi để mặc hắn xem vết thương giúp mình, chỉ khẽ hỏi: “Thời gian vừa qua My tỷ tỷ vẫn khỏe chứ?”

    Hắn ngẩn ra, ngay sau đó liền oán trách: “Bản thân đã thành ra thế này rồi, vậy mà vẫn chỉ nghĩ tới người khác.”

    Tôi cố chấp hỏi: “My tỷ tỷ vẫn khỏe chứ? Huynh đã nhận lời với ta, nhất định sẽ chăm sóc tỷ ấy thật tốt rồi mà!”

    Hắn thở dài, nói: “Cô ấy vẫn khỏe, chỉ là rất nhớ muội.” Thoáng dừng một chút, hắn nói thêm: “Cũng giống như ta nhớ muội vậy.”

    Tôi hơi ngây người, ngay sau đó liền nói: “Tất nhiên rồi, huynh với My tỷ tỷ đều là người lớn lên cùng ta, tình cảm tất nhiên vô cùng sâu sắc.” Tôi lại hỏi: “Vậy vết thương trên tay tỷ ấy đã khỏi chưa, An Lăng Dung và Hoàng hậu có làm khó tỷ ấy không?”

    Hắn nói: “Vết thương trên tay cô ấy gần khỏi rồi, chỉ là không sao xóa hết được vết sẹo. Ta đã đi tìm mọi phương thuốc tốt, rốt cuộc vẫn lưu lại dấu vết mờ mờ, nhưng nếu không nhìn kĩ thì cũng chẳng thể nhìn ra.” Hắn nói với giọng nhấn mạnh: “Không có ai làm khó cô ấy cả. Cô ấy ngày ngày chỉ hầu hạ bên cạnh Thái hậu, sau khi quay về lại cùng Kính Phi chăm sóc Lung Nguyệt, không ai có thể gây khó dễ gì được.”

    Tôi thoáng vui mừng, ngay sau đó lại cảm thấy khó chịu. “Vậy Lung Nguyệt có khỏe không?”

    Ôn Thực Sơ hơi cau mày nhưng vẫn cười, nói: “Lung Nguyệt Công chúa mới được tám tháng đã sinh, còn chưa đủ ngày, thân thể tất nhiên hơi yếu ớt, so với những Công chúa khác thì dễ mắc một vài căn bệnh vặt như phong hàn, ho khan hơn.”

    Trái tim tôi bỗng co thắt lại, Lung Nguyệt của tôi tuy chỉ là một đứa trẻ, không thể uy hiếp tới địa vị của bất cứ ai, nhưng nếu có người vì căm hận tôi mà trút mối thù ngày xưa lên người Lung Nguyệt, một đứa bé còn ở trong nôi như nó sao mà chịu nổi đây? Tôi không kìm được cơn sợ hãi, run giọng hỏi: “Vậy phải làm sao? Phải làm sao đây? Bệnh phong hàn của nó có nghiêm trọng lắm không, nó mới có mấy tháng tuổi, sao chịu nổi phong hàn chứ?”

    Ôn Thực Sơ thấy tôi biến hẳn sắc mặt, vẻ quan tâm và lo lắng lộ rõ ra ngoài, vội cất tiếng an ủi: “Không sao, không sao, muội yên tâm. Hoàng thượng rất thương yêu Công chúa, lệnh cho ta toàn lực chăm sóc. Bệnh phong hàn của Công chúa đã là chuyện từ tháng trước, giờ không còn vấn đề gì nữa rồi. Vì Công chúa mắc bệnh, Kính Phi và Thẩm Tiệp dư gần như hai ngày hai đêm liền không được nghỉ ngơi, phải thay phiên nhau trông chừng, ngay đến Hoàng thượng cũng ở bên chăm sóc Công chúa một đêm. Ta xin hứa với muội tại đây, Ôn Thực Sơ ta dùng tính mạng đảm bảo, nhất định sẽ dốc hết sức bảo vệ Công chúa được bình an.”

    “Nó mới chỉ là một đứa bé, còn chưa biết nói chuyện, có bị ốm, bị đói hay không thoải mái thì cũng chẳng thể kể ra, chỉ biết khóc thôi. Vừa nghĩ đến tiếng khóc ấy, trái tim này của ta liền đau đớn khôn nguôi.” Nước mắt của tôi rốt cuộc đã không kìm nén được mà tuôn rơi lã chã. “Thực Sơ ca ca, thật sự rất cảm ơn huynh.”

    Ôn Thực Sơ cũng lộ vẻ sầu thảm. “Hoàn muội muội, ta không thể giúp gì cho muội, điều duy nhất làm được là liều tính mạng này bảo vệ cho Công chúa. Con gái của muội, ta coi như con ruột của mình.”

    Tôi cảm động đến rơi nước mắt. “Có lời này của huynh, biết huynh sẽ hết lòng chăm lo cho My tỷ tỷ và Lung Nguyệt, ta rất yên tâm.” Sự yếu đuối nơi đáy lòng tôi sau nháy mắt đã cuồn cuộn dâng lên, không sao kìm nén được. “Thực Sơ ca ca, ta tin huynh, người có thể giúp ta cũng chỉ có mình huynh mà thôi.”

    Hắn cũng ngân ngấn lệ, nhưng dù sao cũng là một nam nhân, rốt cuộc đã kìm được dòng nước mắt. Ngó quanh bốn phía một chút, hắn nói: “Chỗ ở của muội thực sơ sài quá, có thiếu thứ gì không? Nếu thiếu, để lần sau ta mang đến cho muội cả thể.”

    Tôi lắc đầu đáp: “Ta không thiếu gì hết, dù thiếu cũng không phải thứ gì quan trọng. Chỉ cần Lung Nguyệt được bình an là tốt rồi.”

    Hắn dịu giọng an ủi: “Công chúa rất khỏe. Kính Phi nương nương yêu thương Công chúa vô cùng. My Trang cũng rất thích Công chúa. Bọn họ cùng ở một cung, chăm sóc cho nhau cũng tiện.”

    Hắn lại nhìn qua phía tôi, cất giọng xót xa vô hạn: “Ta nhất định sẽ nghĩ cách đưa muội rời khỏi nơi này, ta không thể để muội tiếp tục chịu khổ thêm nữa.”

    Tôi khẽ cười hờ hững, cho rằng hắn chỉ tùy tiện nói vậy thôi, cũng chẳng mấy để tâm. Chỉ cần hắn giúp tôi chăm sóc Lung Nguyệt thật tốt là được.

    Cứ thế mấy lần, Ôn Thực Sơ hoặc là đưa tới thuốc tha hoặc là đưa tới những đồ đạc mà tôi thiếu thốn, dần dần cũng trở nên quen thuộc, tôi không kìm được thầm cảm kích tấm lòng tương trợ của hắn.

    Thế nhưng một thời gian sau, tôi bắt đầu cảm thấy hơi mất tự nhiên.

    Chùa Cam Lộ vốn là vùng thanh tịnh mà các ni cô tu hành, hắn mấy lần hưng phấn chạy tới, tuy các ni cô trong chùa biết hắn là thái y trong cung, người quen cũ của tôi, nhưng thấy hắn tỏ vẻ ân cần với tôi như vậy, bọn họ tuy không nói gì nhưng vẻ mặt dần trở nên khó coi.Hôm ấy, tôi và Hoán Bích cùng đến bên bờ suối giặt quần áo. Đang độ mùa xuân tháng Ba, hoa cỏ đâm chồi nảy lộc, khung cảnh ngợp nét xanh tươi, xung quanh có rất nhiều cánh bướm tung tăng múa lượn. Hai chúng tôi mang theo một sọt lớn quần áo của các ni cô trong chùa tới ngồi bên suối, xắn tay áo bắt đầu giặt giũ.

    Quần áo rất nhiều và nặng, tôi và Hoán Bích mang được tới đây cũng khá vất vả. Mới giặt được một lúc, Hoán Bích chợt kêu “úi chao” một tiếng, cau mày oán trách: “Đám người Tịnh Bạch đó càng lúc càng quá đáng, đến quần áo lót cũng đưa cho chúng ta giặt, chẳng biết kiêng kỵ gì cả!” Tôi ngoảnh đầu qua xem, thấy trong sọt có rất nhiều đồ lót của đàn bà, bất giác cau mày vẻ chán ghét. Thế nhưng thấy Hoán Bích tức giận tôi cũng không tiện thêm dầu vào lửa, chỉ nói: “Thôi bỏ đi, ai bảo chúng ta là người mới tới.”

    Hoán Bích cố kìm nén nhưng rốt cuộc vẫn không nhịn được. “Chúng ta là người mới tới ư? Đám Mạc Chân cũng vừa mới tới đó thôi, dựa vào cái gì mà những công việc nặng nề, bẩn thỉu đều giao hết cho chúng ta làm? Trước đây còn đỡ, bây giờ thì ngày càng quá quắt hơn, đến đồ lót cũng bắt chúng ta giặt, thực chẳng ra sao cả!”

    Tôi im lặng, giơ chày đập mạnh xuống đống vải vóc, những giọt nước lạnh băng văng tứ phía, bắn cả vào mặt tôi.

    Hoán Bích đưa tay giữ lấy tay tôi, khuôn mặt xinh đẹp trở nên trắng bệch vì giận dữ. “Tiểu thư không giận chút nào sao?”

    Tháng Ba tuy đã là mùa xuân nhưng nước suối vẫn còn khá lạnh. Ngón tay Hoán Bích chạm vào cánh tay tôi, bên trên còn thấp thoáng mấy vết tím đỏ do nứt nẻ lưu lại.

    Tôi nhất thời xót xa, thở dài, khẽ nói: “Đã tới chùa Cam Lộ này rồi thì phải hiểu rằng đây không phải là nơi để hưởng phúc.”

    Hoán Bích nhất thời không nói được gì, lát sau mới ngẩn ngơ nói: “Nô tỳ chỉ thương tiểu thư thôi. Tiểu thư trước đây chưa từng phải làm những việc nặng nhọc, bẩn thỉu thế này.” Nàng ta cầm bàn tay tôi lên. “Tay tiểu thư đã thành bộ dạng gì rồi? Bôi bao nhiêu thuốc mà vẫn chẳng thấy khỏi, nô tỳ chỉ nhìn thôi đã thấy không đành lòng, lẽ nào tiểu thư không thương xót bản thân chút nào sao?”

    Tôi im lặng một lát, thương xót bản thân ư? Tôi nên thương xót bản thân thế nào đây?

    Tôi vốn còn chưa quen giặt giũ bên bờ suối, trong lúc trò chuyện với Hoán Bích, không cẩn thận giẫm chân xuống suối làm ướt mất giày, đến cả tất bên trong cũng ướt hết cả, từ lòng bàn chân tràn lên cảm giác lạnh giá. Không chỉ như thế, tệ hơn nữa là áo của tôi cũng bị ướt, thành ra lại càng khó chịu. Tôi không kìm được, hắt hơi một cái, Hoán Bích cả kinh nói: “Bây giờ tuy là mùa xuân nhưng giẫm chân xuống nước thì cũng lạnh lắm, phải làm sao mới được đây? Cứ mặc đồ ướt để dính vào người như vậy, chỉ e tối về xương cốt tiểu thư sẽ lại tê nhức một phen.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi buông chiếc chày và quần áo trong tay xuống, ngó thấy xung quanh không có người, liền kéo tay Hoán Bích đi vào lùm cây ngay gần đó cởi đồ ra phơi, chỉ mong chúng có thể mau khô.

    Tôi vừa cởi xong, chợt nghe bên bờ suối có tiếng nói cười, chắc hẳn các ni cô trong chùa ra ngoài giặt quần áo, rất nhiều người kết bạn đi cùng với nhau, hết sức náo nhiệt.

    Không biết là ai kêu lên “úi chao” một tiếng, cười ré lên, nói: “Hai đứa Mạc Sầu với Hoán Bích đó đúng là lười nhác, quần áo còn chưa giặt xong đã vứt ở đây, không biết lại chạy đi đâu trốn việc rồi.”

    Lại có người khác lớn tiếng cười giễu cợt, cất giọng khinh thường: “Chưa chắc đã là trốn việc đâu! Không biết trong cung lại có gã thái y hay thị vệ nào đến thăm cô ả nữa, chưa biết chừng lúc này bọn họ đang nấp ở đâu đó mà tâm sự tỉ tê với nhau rồi ấy chứ!”

    Cả đám người cùng cất tiếng cười rộ, đầu óc tôi như nổ uỳnh một tiếng, cơn giận vì bị làm nhục trào dâng, ngẩn ngơ ngoảnh đầu qua, hỏi Hoán Bích: “Bọn họ đang nói tới ai vậy? Là ta sao?”

    Hoán Bích lắc đầu một cách khó khăn, đáp: “Bọn họ đều là hạng rỗi hơi rảnh việc, nói toàn những lời nhảm nhí khó nghe, tiểu thư đừng để ý làm gì.”

    Thế nhưng phía bên kia lại có người nói tiếp: “Cô ả từ trong cung ra ngoài, bộ dạng lại lẳng lơ, trước đây là nữ nhân của Hoàng đế nên tất nhiên không có ai dám để ý đến, nhưng bây giờ đã bị đuổi ra khỏi cung nên có rất nhiều nam nhân thối tha mò tới đây. Ngươi cứ thử nhìn cái bộ dạng lẳng lơ của cô ả khi nói chuyện với gã thái y kia xem, nghe nói trước đây ở trong cung, cô ả rất đắc sủng, bây giờ đột nhiên bị nhốt ở chỗ chúng ta, không có nam nhân nữa, cô ta chịu được sự cô đơn sao? Nói không chừng gã thái y gì đó kia chính là tình nhân cũ của cô ta, lúc ở trong cung đã lén lút dan díu với nhau rồi.” Những lời này rất lớn, lọt vào tai tôi hết sức rõ ràng, không muốn nghe cũng không được. Tôi nhận ra đây chính là giọng nói ồm ồm của Tịnh Bạch.

    Đám ni cô lại cất tiếng cười vang, một người nịnh nọt: “Tịnh Bạch sư thúc kiến thức am tường, sự thực ắt hẳn chính là như vậy.”

    Tôi không kìm được nắm chặt hai bàn tay, trong lòng vừa giận dữ vừa căm phẫn, một dòng máu nóng bất giác trào dâng, cuộn trào trong lồng ngực. Tôi luôn nghĩ Phật môn là nơi thanh tịnh, không ngờ lại đầy những lời nói nhơ nhớp, bẩn thỉu thế này, thực chẳng khác gì chốn hậu cung.

    Hoán Bích không sao nghe tiếp được nữa, khuôn mặt trở nên đỏ bừng, đôi hàng lông mày nhướng hẳn lên, định xông ra ngoài. Trong cơn giận dữ tột cùng, tôi không ngờ vẫn giữ được một tia lý trí, vội đưa tay kéo Hoán Bích lại, cất giọng kiên định nói: “Đừng đi.”

    Hoán Bích không sao kìm nén nổi, nhìn thẳng vào mắt tôi: “Tiểu thư…”

    Tôi lại lắc đầu lần nữa. “Đừng đi…”

    Tôi giữ chặt lấy cánh tay Hoán Bích, tựa như đang giữ lấy nỗi ấm ức và bất bình của bản thân lúc này.

    Tiếng cười bên ngoài càng lớn hơn, một giọng nữ chói tai vang lên: “Tịnh Bạch sư thúc nói không sai, cô ả và gã thái y kia nhất định đã có tư tình từ sớm. Cô ả bị đuổi ra khỏi cung, người trong cung khi đưa tới đây còn nói là tu hành để cầu phúc cho quốc gia. Nhưng nếu thật sự là như thế, sao lại bị phế mất tước vị?” Tiếng cười của cô ta tràn đầy vẻ mờ ám và bí hiểm, nói giọng như thể cả đám người ai cũng hiểu ý mình: “Nhất định là việc cô ả và gã thái y kia có tư tình đã bị vạn tuế gia của chúng ta biết được, do đó mới bị đuổi ra ngoài.”

    “Chậc chậc… Không biết giữ gìn như vậy, thực đúng là vô liêm sỉ quá chừng…”

    “Các ngươi biết không? Lần trước ta nhìn thấy cô ả rõ ràng đã tiễn gã thái y kia ra tới cửa, vậy mà còn nói nói cười cười, rủ rỉ tâm sự, bộ dạng lưu luyến lắm cơ.”

    Lần trước, nói nói cười cười, rủ rỉ tâm sự, bộ dạng lưu luyến… Tôi chẳng qua chỉ dặn dò Ôn Thực Sơ hãy cố gắng chăm sóc Lung Nguyệt của tôi, nào có từng đê hèn, bỉ ổi như lời của bọn họ.

    “Có một lần ta còn nhìn thấy gã thái y đó rõ ràng đã về rồi, nhưng không biết thế nào lại quay trở lại nhìn căn phòng của cô ả đến ngẩn ngơ, chẳng rõ là si tình đến mức nào…” Một người khác cười khúc khích nói: “Nếu cô ả chịu hạ mình một chút, nam nhân đó nhất định sẽ bu tới như ruồi nhặng, thực không biết lúc ở trong phòng, hai người đó đã làm gì nữa?” Bọn họ chụm đầu trò chuyện, lớn tiếng nói cười, vừa giặt quần áo vừa ra sức sỉ nhục tôi, tưởng tượng ra đủ điều bẩn thỉu. Những tiếng đập quần áo “bộp bộp” vang lên không ngớt, chiếc chày gỗ liên tục đập xuống tảng đá bên dưới qua lớp quần áo mềm, tựa như đang đập vào trái tim tôi.

    Hắn đã quay trỠlại nhìn căn phòng của tôi đến ngẩn ngơ sao? Tôi chẳng hề hay biết. Tôi thở dài, Ôn Thực Sơ đúng là không biết chú ý gì cả, dù rằng mỗi lần hắn đến đều quang minh chính đại, mà tôi cũng chẳng đóng cửa lần nào.

    Hoán Bích hậm hực nói: “Nô tỳ vốn tưởng Phật môn là nơi thanh tịnh, không ngờ các ni cô trong chùa lại có thể nói ra những lời vô duyên vô cớ thế này, còn thua cả những người đàn bà vô tri nơi quê mùa nữa.”

    Tôi cảm thấy tức giận với đám người này thực không đáng chút nào, chỉ thầm cười lạnh mà không nói gì.

    Không biết qua bao lâu, đám ni cô rốt cuộc đã giặt xong quần áo, kéo nhau lũ lượt rời đi. Mà quần áo cùng giày tất của tôi cũng đều khô cả rồi.

    Hoán Bích giúp tôi mặc đồ, lại cầm lấy bàn tay tôi, dè dặt nói: “Tay tiểu thư lạnh quá, chúng ta mau quay về thôi, phải nấu bát canh gừng uống cho tan cái lạnh, kẻo lại bị nhiễm phong hàn thì không hay đâu.” Thấy tôi chỉ cười lạnh mà không nói, Hoán Bích nhỏ giọng an ủi: “Tiểu thư tức giận cũng phải thôi, đến nô tỳ cũng không thể nghe lọt tai, chỉ cảm thấy buồn nôn.”

    Tôi vỗ nhẹ vào bàn tay Hoán Bích, chậm rãi nói: “Ta không giận. Tức giận với bọn họ không đáng chút nào!” Tôi cố giữ bình tĩnh, bước ra ngoài giặt tiếp chỗ quần áo kia, hờ hững nói: “Hoán Bích, chúng ta cũng có chỗ không phải.” Dừng một chút, tôi hỏi: “Trông ta và Ôn đại nhân thật sự thân mật lắm sao?”

    Hoán Bích nôn nóng nói: “Đâu có! Bọn họ chỉ nói bừa thôi.”

    “Ta biết là bọn họ nói bừa.” Tôi giơ chày đập quần áo hết nhát này đến nhát khác, như thể muốn phát tiết hết nỗi bi phẫn trong lòng. “Ta vẫn luôn cho rằng mình và Ôn đại nhân lấy lễ đãi nhau, nhưng lời của bọn họ chẳng lẽ không có chút nào là sự thực? Thời gian vừa qua, Ôn đại nhân quả đã đến đây nhiều quá, hình như y còn đứng bên ngoài nhìn căn phòng của ta đến ngẩn ngơ…”

    Hoán Bích cúi đầu ngẫm nghĩ một lát rồi khẽ nói: “Nô tỳ tuy còn chưa tận mắt nhìn thấy nhưng dựa vào tính cách của Ôn đại nhân và tình ý của y với tiểu thư, chưa chắc đã không làm ra chuyện như vậy…”

    Tôi đột nhiên nhớ lại lúc mình có thai lần đầu, đang giờ ngủ trưa, tôi biết rõ hắn đang ở ngoài điện nhưng lại không muốn trở dậy ra ngoài nói chuyện với hắn, chỉ tiếp tục giả vờ ngủ ngay dưới cửa sổ. Nhưng hắn vẫn lặng lẽ đứng bên ngoài, bóng dáng in lên cửa sổ, cách lớp rèm cửa và lớp màn thưa, hắn chăm chú nhìn tôi, suốt hồi lâu không nói năng gì.

    Tôi cứ luôn cho rằng hắn đã không còn tình ý gì với mình nữa, lần này quả là tôi sơ suất rồi.

    Thế nhưng hắn lại không hề bày tỏ với tôi, thế nên ngay đến một cơ hội để từ chối, tôi cũng không có.

    Tôi đưa mắt nhìn Hoán Bích, khuôn mặt bất giác lộ vẻ lúng túng. “Ta đã xuất gia rồi…”

    Hoán Bích trầm tư suy nghĩ một lát, cuối cùng do dự nói: “Tiểu thư tuy đã xuất gia nhưng vẫn còn để tóc. Huống chi…” Thoáng trù trừ, nàng ta khẽ nói: “Tiểu thư đã rời cung, còn bị Hoàng thượng phế truất tước vị, coi như người dưng, hai bên đã chẳng còn quan hệ gì nữa. Bây giờ tiểu thư là người tự do, cũng khó trách Ôn đại nhân lại nổi tâm tư.”

    Tôi khẽ cười hờ hững, nói: “Ta nghĩ, y quả thực đã nghĩ quá nhiều rồi!”

    Mang theo chút vẻ oán trách, Hoán Bích nói: “Tiểu thư đừng trách nô tỳ nhiều lời, tâm tư của Ôn đại nhân với tiểu thư vẫn luôn như vậy, chưa từng thay đổi. Chỉ là bây giờ y làm thế này có phần lộ liễu quá, thực đã mang thêm nhiều phiền phức tới cho tiểu thư.” Thế nhưng ngay sau đó, nàng ta lại cất giọng cảm thán: “Có điều, tình ý của Ôn đại nhân thực khiến người ta phải cảm động.”

    “Tâm tư của ta với y vẫn giống hệt như trước đây, chưa từng thay đổi.” Tôi trầm ngâm suy nghĩ một chút, nói: “Y không biết giữ ý, nhưng chúng ta thì không thể như vậy. Nếu không phải việc gì thật sự cần thiết, cứ nên xa lánh y một chút thì hơn, đừng để y hiểu lầm điều gì, cũng đừng làm y khó xử quá.” Bên bờ suối, cảm giác se lạnh của mùa xuân lại càng trở nên rõ ràng, tôi thở dài, nói: “My tỷ tỷ và Lung Nguyệt ở trong cung đều cần có y chiếu cố, bọn ta lại là cố giao, dù gì cũng phải giữ cho y một chút thể diện mới được.”

    Hoán Bích cúi đầu vâng lời. “Điều này thì nô tỳ và Cận Tịch đều hiểu.” Sau đó, lại nhìn qua chỗ đám ni cô vừa giặt quần áo, cau mày, cất giọng chán ghét: “Nô tỳ vốn nghĩ sống ở nơi này chỉ vất vả thôi, không ngờ tình người lại lạnh nhạt như vậy. Mà tình người lạnh nhạt thì thôi đã đành, không ngờ bọn họ nói năng còn chua ngoa, ác độc như thế, thực khiến người ta nghe mà nguội lạnh trái tim. Ngay đến nơi cửa Phật như chùa Cam Lộ mà còn như vậy, biết tìm đâu ra một cõi thật sự thanh tịnh trên thế gian này?”

    Đúng thế, tôi ngẩn ngơ thầm nghĩ, thực khó mà tìm được một nơi thanh tịnh trên cõi đời này. Nhưng phiền phức thì vẫn không ngừng tìm đến, có muốn tránh cũng không được.

    Thế rồi thời gian sau đó, cứ hôm nào đoán trước Ôn Thực Sơ sẽ tới, tôi liền tránh đi từ sớm, chịu thêm chút vất vả khi phải cắt cỏ và giặt quần áo ở xa, mãi đến tận chiều tối mới quay về. Thỉnh thoảng gặp nhau một lần, tôi cũng chỉ hỏi thăm về tình hình của My Trang và Lung Nguyệt, sau đó thì kiếm cớ mời hắn rời đi.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 8: Bình ngọc lung linh
    Khi Ôn Thực Sơ tới lần nữa thì tôi đã đi cắt cỏ, hai bên không hề gặp mặt. Khi tôi trở về, vầng tà dương đã đổ bóng, chỉ thấy Hoán Bích và Cận Tịch đang ngơ ngác nhìn nhau, mặt đầy vẻ lúng túng đứng cạnh chiếc bàn.

    Hoán Bích bước tới giúp tôi phủi những cọng cỏ dính trên người. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì mà đứng ngẩn ngơ ở đây thế?”

    Cận Tịch đưa mắt nhìn qua phía Hoán Bích, khóe miệng hơi máy động, rốt cuộc vẫn không nói gì. Hoán Bích cất tiếng: “Ôn đại nhân vừa mới tới, lần này có đưa tặng tiểu thư một món đồ.”

    Còn về việc đưa tặng món đồ gì thì Hoán Bích không nói, chỉ hơi dẩu môi trỏ về hướng chiếc bàn.

    Tôi chỉnh sửa lại quần áo một chút, đưa mắt liếc nhìn qua, lập tức sững người. Trên chiếc bàn cũ kĩ có đặt một chiếc bình ngọc trắng được chế tác hết sức tinh xảo, bề mặt lóng lánh như gương, kích cỡ vừa đủ để có thể đặt trong lòng bàn tay, nhỏ nhắn vô cùng. Lúc này, ánh chiều tà màu vàng kim chiếu vào phòng qua ô cửa sổ, rọi lên chiếc bình ngọc, làm vô số tia sáng dìu dịu phản chiếu ra xung quanh.

    Tôi nhất thời không hiểu, hỏi: “Y đưa tới món đồ quý giá thế này để làm gì?”

    Hoán Bích khẽ thở dài một hơi, đáp với giọng hết cách: “Tiểu thư cứ mở ra xem khắc biết!”

    Tôi mở nắp bình ra, không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. Trong bình không có thứ gì khác, chỉ có mấy miếng lê xắt miếng chỉn chu sắp thành hình trái tim, màu sắc trắng ngần, thanh khiết.

    Tôi cả kinh, đầu óc như nổ uỳnh một tiếng, không ngờ hắn lại có ý này.

    Hoán Bích cầm mép áo, cắn chặt môi. Vẻ mặt Cận Tịch phức tạp, đứng bên cạnh tôi, khẽ nói: “Nguyên vẹn trái tim gửi trong bình ngọc, Ôn đại nhân đã tỏ rõ tâm tư, nương tử định trả lời thế nào đây?”

    Một cơn nóng giận từ nơi lồng ngực cơ hồ trào ra ngoài cổ họng, tôi không kìm được đập tay xuống bàn. “Bộp” một tiếng, tuy tôi đập không mạnh nhưng chiếc bàn cũ kĩ vẫn rung lên một hồi.

    Hoán Bích sợ đến giật nẩy mình, vội bước tới xem bàn tay tôi, khuyên nhủiểu thư cẩn thận kẻo đau tay.”

    Cận Tịch liếc nhìn tôi rồi dịu giọng nói với Hoán Bích: “Nương tử đang khó chịu, khó tránh khỏi hơi nôn nóng.”

    Cận Tịch tuy nói chuyện với Hoán Bích nhưng tôi lại hiểu rõ ràng thâm ý bên trong, vì thế sắc mặt dần hòa hoãn, mỉm cười, nói: “Đúng là ta có hơi nôn nóng. Đến nơi này rồi, không ngờ lại chẳng được bình tĩnh như xưa.”

    Tới lúc này Cận Tịch mới cầm chén trà lên nhấp một ngụm, dịu giọng nói: “Nếu nương tử bằng lòng, cứ nhận lấy là được. Nhưng nô tỳ nhìn bộ dạng của nương tử, rõ là chẳng vừa ý chút nào, hành động lần này của Ôn đại nhân thực lỗ mãng quá!”

    Hoán Bích đứng bên cạnh nói: “Cũng khó trách tiểu thư lại tức giận, tiểu thư đang tu hành, sao có thể nhận những thứ như thế này. Hơn nữa, những năm nay tiểu thư đối xử với y thế nào, y cũng nên hiểu rõ mới phải.”

    Tôi buồn bã ôm gối ngồi xuống, ngẩn ngơ một chút, hậm hực nói: “Sao y cứ luôn không hiểu chuyện như thế chứ? Tình ý của y với ta ngay trước lúc vào cung ta đã cự tuyệt rồi, trước đây đã không cần, bây giờ lại càng không cần. Ta chẳng qua chỉ coi y như huynh trưởng, như cố giao, sao y không chịu hiểu điều này chứ?”

    Hoán Bích cũng buồn bã nói: “Nhưng bây giờ cũng không tiện trực tiếp cự tuyệt y. Lung Nguyệt Công chúa và Thẩm Tiệp dư ở trong cung đều không rời được sự chăm sóc của y. Lúc này chúng ta vốn đã thế đơn lực bạc, lẽ nào còn phải mất thêm vây cánh nữa? Tiểu thư nhất định phải suy nghĩ cho kĩ mới được!” Sau đó lại nói thêm: “Ôn đại nhân kỳ thực cũng đã chiếu cố chúng ta rất nhiều.”

    Tôi hơi nghiêng đầu, hờ hững nói: “Y quả thực đã chiếu cố ta rất nhiều, nhưng ta thật sự không thích y.”

    Cận Tịch chỉ lặng lẽ đứng một bên, trên mặt chẳng có chút biểu cảm nào. “Tình ý của Ôn đại nhân đúng là khiến người ta cảm động, trên đời này nam tử như y đã chẳng còn được bao nhiêu nữa rồi.”

    Tôi không ngờ Cận Tịch lại nói ra những lời như vậy, liền đưa mắt nhìn sang. Hoán Bích cũng hơi sững người.

    Ba chúng tôi đều không nói gì, mỗi người mang một tâm tư riêng.

    Hoán Bích đi tới bên cạnh tôi, tựa người vào tôi, sắc mặt dịu dàng mà thương cảm, khẽ cất tiếng nói: “Thực ra suy nghĩ lại, Ôn đại nhân và tiểu thư quen biết nhau từ nhỏ, tình cảm y dành cho tiểu thư hết sức sâu sắc. Ngày đó, trước khi tiểu thư vào cung tham gia tuyển tú, Ôn đại nhân đã tới trước mặt tiểu thư bày tỏ tình ý nhiều năm của mình, muốn lấy tiểu thư làm vợ. Khi ấy tiểu thư tâm khí cao vời, ánh mắt tất nhiên không dừng lại trên người Ôn đại nhân. Nhưng giờ đây thời thế đổi thay, tiểu thư trải qua biết bao phong ba trong cung, hiểu rõ rằng tình yêu của Hoàng thượng không hề đáng tin cậy, rồi lại có một người thật tâm thật ý đối xử tốt với tiểu thư, hai bên cũng quen biết nhau từ lâu, tại sao tiểu thư không thử tính toán đến một khả năng khác? Dù có suy nghĩ thêm vài năm cũng tốt, không cần thiết phải trực tiếp buông lời cự tuyệt y ngay.” Thấy tôi chỉ ôm gối không nói năng gì, Hoán Bích lại chậm rãi khuyên nhủ tiếp: “Ôn đại nhân tuy nôn nóng và không biết lựa lúc nhưng tình ý với tiểu thư bao năm như một, chưa từng thay đổi. Hơn nữa, y rất giỏi về y thuật, gia đình lại giàu có, nếu hết lòng tương trợ tiểu thư, chưa biết chừng lại có thể giúp tiểu thư rời khỏi chốn thị phi này.”

    Tôi cũng không hẳn là không nghe lọt tai sự khuyên nhủ của Hoán Bích, mà cuộc sống ở nơi này quả có thể nói là gian nan hết sức.

    Tôi chỉ hỏi: “Khi y đến, còn nói những gì nữa?”

    Cận Tịch trả lời một cách ngắn gọn và rõ ràng: “Ôn đại nhân nói ba ngày sau sẽ quay lại đây lần nữa.”

    Phía đằng xa hoa cỏ dập dờn, núi non ẩn hiện, ráng chiều ửng đỏ, từng làn gió nhẹ như có như không thổi phớt qua mặt người mang theo cảm giác lành lạnh. Những sỠphiền não trong thiên hạ này quả là có tránh tới đâu cũng không thể hết được.

    Sắc trời dần tối, dường như có vô số cánh quạ che kín bầu trời, tầng tầng lớp lớp, khiến tất cả chìm trong bóng tối. Tôi cảm thấy chán ghét và mỏi mệt, khép chặt hai mắt lại, hờ hững nói: “Hai người ra ngoài đi, để ta suy nghĩ một lát.”

    Trong ba ngày này tôi vẫn hết sức bình thản, không nhắc gì đến chiếc bình ngọc.

    Tôi cẩn thận đặt bình ngọc vào trong chiếc tủ cạnh giường, ngày nào cũng dùng khăn mềm lau chùi cẩn thận một lượt. Hoán Bích thấy tôi như vậy, lần nào cũng chớp chớp mắt cười với Cận Tịch, Cận Tịch chỉ đáp lại bằng một nụ cười mỉm.

    Buổi chiều ba ngày sau, tôi cố tình ở trong phòng chờ sẵn, không ra ngoài làm việc.

    Ôn Thực Sơ quả nhiên đã tới. Căn phòng lúc này được quét dọn hết sức sạch sẽ, một nhành hoa lê trắng muốt vừa nở cắm trong bình, từng làn hương thơm thoang thoảng tỏa ra khiến người ta cảm thấy hết sức dễ chịu.

    Tôi đã bảo Cận Tịch pha sẵn trà, mình thì ngồi một bên lặng lẽ chờ hắn tới.

    Ôn Thực Sơ còn chưa bước vào cửa đã tươi cười, nói: “Hoàn muội muội hôm nay khí sắc tốt quá, sắc mặt cũng hồng hào hơn trước nhiều rồi.”

    Có lẽ khí sắc tốt của tôi đã giúp hắn xua đi nỗi thấp thỏm, bất an ban đầu, sắc mặt dần trở nên bình tĩnh, ngồi xuống uống trà và trò chuyện với tôi. Chúng tôi tán gẫu những chuyện vặt vãnh thường ngày, rồi tôi cẩn thận lấy chiếc bình ngọc kia ra, đặt vào giữa hắn và tôi.

    Chiếc bình ngọc quả thực rất đẹp và tinh xảo. Tôi dịu giọng nói: “Nếu tiểu muội nhớ không nhầm, năm nay Thực Sơ ca ca đã hai mươi lăm tuổi rồi.”

    Nghe thấy lời này của tôi, hắn lộ rõ vẻ mừng rỡ, trong mắt ánh lên những tia dịu dàng hết mực, cười nói: “Trí nhớ của Hoàn muội muội đúng là tốt lắm, ta quả thực đã hai mươi lăm tuổi rồi.”

    Tôi nửa như thở dài, nửa như cảm khái: “Hai mươi lăm tuổi, nếu là một người bình thường, lúc này có lẽ đã thê thiếp thành đàn, quây quần con cái rồi. Ôn bá phụ chắc hẳn từ những năm trước đã hết sức phiền não vì chuyện hôn nhân của huynh.”

    Hắn muốn nói gì đó song lại thôi, cuối cùng chỉ mỉm cười. “Nếu không thể cưới người mà mình yêu, Thực Sơ thà rằng không cưới.”

    Tôi gật đầu, nói: “Thực Sơ ca ca nói đúng lắm, cưới vợ phải nhìn vào đức hạnh, nạp thiếp thì trông vào nhan sắc nhưng bất kể là vợ hay thiếp cũng đều cần bản thân yêu thích mới được, nếu không, cuộc sống sẽ chẳng còn gì thú vị nữa. Do đó, Thực Sơ ca ca có lấy vợ muộn một chút cũng không hề gì.”

    Ôn Thực Sơ thoáng lộ vẻ ngượng ngập nhưng cũng rất tán thành những lời này của tôi: “Ta chẳng qua là con nhà quan lại bình thường, lấy vợ muộn một chút cũng không sao. Không như đấng cửu ngũ chí tôn, việc hôn nhân liên quan tới thiên hạ, xã tắc, mới mười ba, mười bốn tuổi đã đại hôn rồi. Lại nói tới hoàng tộc, vị Thanh Hà Vương kia năm nay cũng đã hai mươi ba, y không muốn nạp phi đại hôn, ngay đến Thái hậu cũng chẳng có cách nào…”

    Hắn còn chưa nói xong, tôi đã cảm thấy trái tim mình đau nhói. Hắn thấy trên mặt tôi thoáng qua một tia buồn bã, biết rằng mình vừa nhắc tới Hoàng đế khiến tôi không vui, bất giác lộ vẻ ngượng ngập, vội nói: “Ta không cố ý đâu.”

    Tôi làm bộ như không nghe thấy, mỉm cười nói: “Thanh Hà Vương tầm mắt cao vời, thực không rõ phải là nữ tử thế nào mới xứng với y, chỉ nghĩ thôi cũng đã thấy thú vị rồi.”

    Hắn thấy tôi không sao thì cũng thoáng yên tâm nhưng nhất thời lại lúng túng chẳng nói được lời nào. Tôi hé môi cất tiếng: “Thực Sơ ca ca, huynh còn nhớ cảnh chúng ta lần đầu gặp mặt không?”

    Sắc hắn lập tức ngợp đầy nét dịu dàng. “Sao có thể không nhớ được? Việc này ta vẫn luôn ghi nhớ, khi đó muội mới tròn mười tuổi. Chân huynh sau khi tan học liền trốn sư phụ lén dẫn muội xuống hồ bơi thuyền. Vừa khéo hôm ấy ta cưỡi ngựa ra ngoài, thấy muội búi tóc thành hai trái đào, trong lòng ôm đầy những bát sen, đứng ở đầu thuyền ngâm nga ca hát. Về sau gặp ta, muội cũng không sợ người lạ, còn bóc hạt sen cho ta ăn nữa.”

    Tôi khẽ nở nụ cười mỉm, những chuyện thú vị ngày xưa bây giờ nhớ lại mới thấy thật quý giá và đẹp đẽ vô cùng. Giữa những tháng năm vô ưu vô lo đó, tôi đâu biết được, đâu đoán trước được, con đường về sau lại gian nan, khó khăn đến nhường này, khiến tôi dù chẳng còn đường để đi cũng vẫn phải tiếp tục vùng vẫy mà tiến về phía trước.

    Bởi vì có sự ngọt ngào thuở ban đầu, nỗi đắng cay trong cuộc đời ngày sau mới càng trở nên rõ ràng, đã thế còn không sao tránh được.Tôi khẽ cất tiếng ngâm nga: “Hỏi ngó sen, tơ có bao nhiêu? Tâm sen vì ai mà đắng? Cặp hoa liền gốc thắm thiết nhìn nhau…” Nhưng rồi lại quên mất lời, không sao hát tiếp được, chỉ đành cười, nói: “Thật sự không nhớ được nữa rồi!”

    Ôn Thực Sơ tiếp lời: “Câu tiếp theo cũng là câu cuối cùng rồi, chính là đôi nam nữ thuở xưa[1].”

    [1] Câu này cùng với mấy câu bên trên là phần đầu của bài từ Mô ngư nhi – Vấn liên căn hữu ti đa thiểu, tác giả Nguyên Hiếu Vấn. Tương truyền ở tỉnh Hà Bắc ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau, cùng nhảy xuống sông tự vẫn, trong năm đó tất cả hoa sen đều chung gốc với nhau mà nở, tỏ sự cảm phục trước tình yêu của họ. Sau khi nghe xong câu chuyện, tác giả viết ra bài từ này để bày tỏ tâm sự – ND.

    Tôi ngượng ngùng đưa tay lên vuốt má, cười hờ hững, nói: “Chẳng trách ta lại quên…” Hơi hạ thấp giọng, tôi mang theo một chút bất lực, đôi nét âu sầu, khẽ nói: “Chúng ta đều không phải là đôi nam nữ thuở xưa nữa, bài hát thuở xưa cũng nên quên đi thôi.” Sau đó liền đẩy chiếc bình ngọc tới trước mặt hắn, trịnh trọng nói: “Nguyên vẹn trái tim gửi trong bình ngọc, Chân Hoàn tự thẹn không thể nhận nổi tình ý sâu đậm như thế, Thực Sơ ca ca xin hãy thu về đi.”

    Ôn Thực Sơ biến hẳn sắc mặt, vội uống một ngụm trà để cố giữ lòng mình bình tĩnh, chậm rãi nói: “Chiếc bình ngọc này là bảo bối gia truyền của nhà ta, gia phụ từng dặn dò ta, nhất định phải tặng nó cho người mình yêu nhưng trước đây, ta chưa có cơ hội tặng cho muội. Giờ đây với cả tấm lòng thành, ta khẩn cầu muội hãy nhận lấy chiếc bình ngọc này.”

    Tôi lắc đầu, dịu dàng nói: “Chiếc bình ngọc này quý báu như thế, huynh nên trao cho người mình yêu. Nhưng Thực Sơ ca ca, huynh không phải là người mà ta yêu, do đó ta không thể nhận chiếc bình ngọc này. Nếu huynh ép ta nhận lấy thì thật là không công bằng đối với chiếc bình ngọc này.”

    Ôn Thực Sơ không còn lời gì để nói, sắc mặt trở nên cứng đờ, tựa như chiếc lá xanh bị làn sương thu đầu mùa bao phủ, đầy vẻ uể oải, chán chường. “Hoàn muội muội, muội vẫn không chịu chấp nhận ta. Trước đây là vậy, bây giờ cũng vậy.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Thực Sơ ca ca, thứ cho ta nói thẳng một câu, huynh luôn ghi nhớ những chuyện hồi nhỏ, có lẽ người mà huynh thật sự yêu thích chỉ là ta của năm xưa, hồi còn chưa vào cung, chứ không phải ta của bây giờ. Ta bây giờ đã khác hẳn trước kia, huynh sao phải cố chấp như vậy làm gì?”

    Hắn đột ngột ngẩng đầu, trong mắt bừng lên những tia sáng rực, cơ thể vội vã nghiêng về phía trước, khàn giọng nói: “Hoàn muội muội, ta nhất định phải nói với muội, tâm ý của ta với muội trước giờ vẫn không thay đổi.” Giọng nói của hắn nhỏ dần nhưng vẫn nguyên vẻ thành khẩn: “Bất kể là lúc ở trong cung hay khi ở bên ngoài.”

    Tôi nghe hắn nói xong, chợt nở nụ cười lặng lẽ. Nụ cười ấy mang theo mấy phần hờ hững, mấy nét hoang lương, tựa như trận tuyết đầu tiên của mùa đông, đầy vẻ mênh mang và nhợt nhạt.

    “Huynh còn nhớ Tào Cầm Mặc không?” Tôi đột nhiên cất tiếng hỏi.

    Thần sắc Ôn Thực Sơ ngợp đầy vẻ buồn bã, hai tay buông thõng. “Tất nhiên là nhớ chứ!” Hắn khẽ lẩm bẩm: “Sao có thể không nhớ được?”

    Tôi chậm rãi nhắm mắt lại, khẽ nói: “Đúng thế! Nàng ta là Tương Quý tần, mẹ ruột của Ôn Nghi Công chúa, được truy phong làm Tương Phi.” Tôi đột ngột mở choàng mắt, gằn giọng nói: “Ngày đó Tương Phi đã chết thế nào, huynh và ta đều biết rõ.”

    Sắc mặt Ôn Thực Sơ u ám hẳn đi, trên trán túa đầy mồ hôi lạnh. Một lát sau, hắn khẽ thở dài một tiếng như thể tự an ủi mình. “Chuyện này ta vẫn luôn canh cánh trong lòng, vừa nghĩ tới là lại ăn ngủ không yên, có lẽ đây là chuyện khiến ta thẹn với lòng nhất trong cuộc đời này. May mà bây giờ Ôn Nghi Công chúa được Đoan Phi chăm sóc cẩn thận, Tương Phi sau khi chết cũng khá phong quang, nên lòng ta mới an định hơn một chút. Việc ta có thể làm lúc này chỉ là dốc hết sức mình đảm bảo cho thân thể Ôn Nghi Công chúa được an khang, cũng coi như là để chuộc tội…”

    Tôi lạnh lùng cắt ngang lời hắn: “Ta không có ý nói tới việc này. Huynh và ta lớn lên bên nhau, việc cùng trải qua trong cung cũng không phải là ít. Ta có chỗ nào tốt hay chỗ nào không tốt, huynh đều biết rõ. Trong cái chết của Tào Cầm Mặc, ban đầu huynh hoàn toàn không muốn ra tay, mà tự nơi đáy lòng huynh e là còn oán trách ta nữa… Có đúng vậy không?”

    Hắn nhất thời nghẹn họng, không đối đáp lại được, chỉ biết ngẩn ngơ nói: “Việc này… Ta…”

    Tôi hơi cau mày, buồn bã cất tiếng: “Sau khi Mộ Dung Thế Lan chết, người mà ta muốn đối phó chỉ còn Tào Cầm Mặc. Nhưng nàng ta là người cẩn thận vô cùng, muốn khiến nàng ta vô ý trượt chân ngã xuống nước hoặc gặp chuyện bất ngờ gì đó thì gần như là không thể. Mà nếu tạo ra tội danh gì đó để gán cho nàng ta, chỉ e nàng ta sẽ còn cắn ngược trở lại. Do đó, khi ấy chỉ có duy nhất một cách là bỏ thuốc thôi. Huynh ở Thái y viện vốn nổi tiếng nhân từ, lại giỏi về y thuật, hay giúp đỡ người gặp khó khăn, nên nàng ta mới yên tâm hơn chút. Huống chi thứ thuốc chúng ta bỏ cho nàng ta uống chỉ là loại làm ảnh hưởng đến tâm thần, khiến nàng ta liên tục gặp ác mộng, thân thể suy yếu dần, vậy mới có thể lẳng lặng dồn nàng ta vào chỗ chết.” Tôi đưa mắt nhìn hắn, khẽ nói: “Thực đã làm khó cho huynh rồi!”

    Ôn Thực Sơ chăm chú nhìn tôi, nói: “Vì muội, việc gì ta cũng chịu.”

    Tôi khá xúc động, khẽ gật đầu, nói: “Tâm địa huynh vốn lương thiện, quyết chẳng chịu nảy sát cơ, khi đó cũng do dự rất lâu. Nếu không phải vì giúp ta, huynh sao lại chịu chứ… Bây giờ nghĩ lại, ta cũng cảm thấy khi đó mình đã quá tàn độc. Có điều, ngồi ở vị trí đó, nếu huynh không giết người, người ta sẽ giết huynh. Tương Phi là một nữ nhân vô cùng thông minh, lại biết không ít bí mật của ta, ta quyết không thể để nàng ta sống tiếp.”

    Ôn Thực Sơ mím chặt môi, thần sắc toát ra mấy phần kiên nghị. Kỳ thực hắn cũng có thể tính là một nam nhân tuấn tú, vừa chín chắn vừa trung hậu. Hắn khẽ an ủi tôi: “Hoàn muội muội, muội vốn lương thiện, chỉ có lần đó là hơi tàn độc một chút thôi!”

    “Vậy sao? Vậy lúc giết Dư thị và Hoa Phi, ta cũng không tính là tàn độc sao?” Giọng tôi hơi hòa hoãn, chậm rãi nói: “Ta là người lương thiện cũng được, tàn độc cũng được, huynh đều đã nhìn thấy rõ ràng. Chúng ta thân thiết với nhau như thế, hiểu về nhau như thế, cũng có thể coi là rất gần gũi rồi. Nhưng trong tình yêu nam nữ, ai lại không muốn để người kia nhìn thấy mặt tốt nhất của mình, còn chỗ nào xấu thì giấu hết đi. Nhưng huynh lại biết quá nhiều bí mật của ta, nếu sống chung với huynh, ta sẽ cảm thấy rất mất tự nhiên. Huynh cũng chưa chắc có thể quên đi những chỗ không tốt của ta, như thế sau này sống bên nhau sao còn niềm vui thú gì được, hà tất phải làm khổ nhau?”

    Ôn Thực Sơ bị đả kích rất mạnh, cúi gằm mặt, hàng lông mày nhíu chặt. Hai tay hắn nắm thật chặt, vì dùng sức quá mạnh mà hai bàn tay đều đỏ bừng lên. Hắn cố giữ bình tĩnh nói: “Ta chỉ là một thái y nhỏ bé, ở trong mắt muội vẫn luôn là một người vô dụng, một người chẳng ra gì.”

    Tôi dịu dàng nói: “Những chỗ tốt của huynh ta tất nhiên biết rõ. Nếu nói tới một thái y, huynh tuổi trẻ tài cao, y thuật phi phàm, được Hoàng thượng khá coi trọng; nếu nói tới một người chồng, huynh nhất định sẽ là một người chồng tốt, thương yêu vợ con, hết lòng chăm sóc. Nhưng Thực Sơ ca ca, cũng giống như uống trà vậy, ta thích loại Tuyết đính hàm thúy, còn trà Phổ nhĩ dù có tốt, có ngon đến mấy, ta cũng không thể thích nổi, như vậy chẳng lẽ có thể nói là trà Phổ nhĩ không ốt sao? Đây chỉ là vấn đề sở thích của mỗi người mà thôi.”

    Hắn lẩm bẩm một mình: “Muội muốn nói trong lòng muội, ta chính là chén trà Phổ nhĩ kia sao?”

    Tôi khẽ nói: “Thực Sơ ca ca, huynh thực sự rất tốt, rất tốt, đáng tiếc ta không có phúc, không cách nào thích huynh được.” Tôi cầm bình ngọc lên, nói tiếp: “Nguyên vẹn trái tim gửi trong bình ngọc, tấm chân tình này ta thật không nhận nổi. Nhưng tâm ý sâu nặng của huynh ta xin ghi nhớ kĩ trong lòng, quyết không quên, bất kể là bây giờ hay về sau, ta sẽ mãi coi huynh như bằng hữu, như người thân của mình, không bao giờ thay đổi.”

    Đôi môi hắn run lẩy bẩy, ẩn bên trong sự thê lương tới tột cùng còn xen lẫn vài nét dịu dàng hết mực. “Coi ta như bằng hữu, như người thân? Đáng tiếc đó không phải là điều ta mong muốn.”

    Tôi cũng đáp lại bằng vẻ thê lương: “Thực Sơ ca ca, trên thế gian này, có mấy khi cái chúng ta muốn lại thành sự thật. Vật lộn trong cung bao năm, thứ ta muốn có chẳng qua là một tấm chân tình, một chút bình an nhưng ngay đến mong muốn nhỏ nhoi đó cũng chẳng thể đạt được, còn rơi vào cảnh như bây giờ.”

    Hắn thấy tôi buồn bã, liền khuyên nhủ: “Tuy đã rơi vào cảnh như bây giờ nhưng trong nỗi bất hạnh cũng có điều may mắn, muội đã rời khỏi hoàng cung và trở thành người tự do rồi.”

    Trái tim tôi khó chịu như thể đang bị một bàn tay bóp chặt, nhưng lại không muốn rơi nước mắt trước mặt Ôn Thực Sơ, liền cố sức kìm nén. “Ta tuy đã rời xa chốn thị phi kia nhưng nỗi khổ mà phụ mẫu huynh muội phải chịu ta không thể nào quên được, mà tỷ muội và con gái của ta đều ở trong cung, đấng cửu ngũ chí tôn kia là phu quân, là phụ thân, là chủ nhân của bọn họ. Cho dù ta được tự do ở bên ngoài, nhưng việc xảy ra trong những năm nay, sao ta có thể quên nổi, mà có lẽ cả đời này cũng chẳng thể nào quên, như thế dù thân thể ta có được tự do thì trái tim cũng chẳng tự do, ngày ngày phải chịu khổ.”

    Hắn muốn an ủi tôi, liền đưa bàn tay tới nhưng tôi lại vội rụt tay về. Hắn thoáng lộ vẻ lúng túng, nhưng lập tức che giấu rất nhanh, dịu giọng nói: “Hoàn muội muội, muội đừng thương tâm quá!”

    Tôi ngoảnh đầu qua một bên, cố sức kìm nén để nước mắt không rơi. “Mấy năm nay, Hoàng thượng đối xử với ta… Thực Sơ ca ca, ta cũng không sợ nói thật với huynh, giờ ta chẳng còn tha thiết chuyện tình cảm nam nữ kia nữa, do đó huynh có nói thế nào với ta cũng vô dụng thôi. Giờ đây, dù có phải chịu khổ thế nào, ta cũng chỉ muốn sống nốt phần đời còn lại trong chùa Cam Lộ, ngày ngày tụng kinh niệm Phật để xoa dịu lòng mình.” Hơi định thần lại, tôi nói tiếp: “Ta biết huynh có cách giúp ta rời khỏi đây, nhưng rời khỏi đây rồi, ta có thể đi đâu được? Phụ thân với ca ca ta người ở Xuyên Bắc, người ở Lĩnh Nam, thiên hạ này tuy rộng lớn nhưng ta đã chẳng còn nơi nào để đi nữa. Do đó, Thực Sơ ca ca, nếu muốn tốt cho ta, sau này huynh đừng thường xuyên tới thăm ta nữa.”

    Ôn Thực Sơ im lặng hồi lâu, cuối cùng mới nói: “Ngay đến việc thường xuyên tới thăm muội cũng không thể sao?”

    Tôi khẽ gật đầu. “Nếu huynh tới đây nhiều quá, chỉ e người trong cung sẽ biết, tới lúc đó không biết sẽ lại có bao nhiêu cơn phong ba nổi lên, hà tất phải như vậy chứ?”

    Hắn dùng sức nhắm chặt hai mắt, lát sau mới chậm rãi hít vào một hơi, nói: “Muội sợ làm liên lụy tới Thẩm Tiệp dư và Lung Nguyệt Công chúa sao?”

    Tôi gật đầu thật mạnh, đáp: “Nói thật, người mà hiện giờ ta còn quan tâm, lo lắng chỉ có bọn họ mà thôi.” Tôi nhìn hắn chăm chú, nói tiếp: “Huynh đã từng hứa với ta rằng sẽ dốc toàn lực chăm sóc cho bọn họ thật tốt. Vậy huynh không thể vì bất cứ người nào mà làm bất cứ việc gì có khả năng làm tổn thương đến họ, đây là điều huynh đã hứa với ta mà. Thực Sơ ca ca, nếu huynh thật sự tốt với ta, vậy huynh có thể thực hiện lời đã hứa với ta không?”

    Hắn bất giác nghẹn lời, hồi lâu sau sắc mặt mới trở nên nghiêm túc, trịnh trọng nói: “Điều đã hứa, ta nhất định sẽ thực hiện.” Tới lúc này, tôi mới cảm thấy yên tâm, thầm thở phào một hơi. Hắn ngẩn ngơ đứng đó, nỗi thất vọng trong mắt dày đặc như sương mù đầu đông, cơ hồ che phủ toàn bộ khuôn mặt. Hắn cất giọng bi thương, bên trong còn thấp thoáng mang theo chút mong chờ: “Kỳ thực muội hoàn toàn có thể bảo ta đợi muội thêm vài năm nữa, dù bắt ta phải chờ đợi cả đời cũng không hề gì. Tại sao muội nhất định phải cự tuyệt t một cách tàn nhẫn và quyết liệt như thế, không để cho ta có một chút hy vọng nào?”

    Sự thương tâm trong lời nói của hắn khiến lòng tôi xao động, tôi thoáng sững người, thầm chua xót, nhưng không để lộ ra mặt, chỉ bình tĩnh nói: “Nếu ta trao cho huynh một chút hy vọng hư vô, huynh sẽ chỉ mất công chờ đợi. Thực Sơ ca ca, huynh biết mà, ta xưa nay chưa từng muốn nói ra những lời trái với lòng mình. Nếu ta gạt huynh, bắt huynh chờ đợi, lòng ta khó mà yên được.”

    Hắn thẫn thờ đứng đó, ánh dương trong vắt hắt vào từ ngoài cửa sổ, dừng lại trên người hắn, tựa như chiếu vào một khoảng âm u, tối mịt, không cách nào sáng lên được. Hắn tuy chán chường và thất vọng nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh, nói: “Muội còn nhớ không, trong lần đầu gặp mặt, muội đã bóc rất nhiều hạt sen cho ta ăn. Khi đó, muội còn nhỏ, không biết trước khi ăn hạt sen cần phải lấy tâm sen ra trước, mỗi hạt ta ăn vào đều rất đắng, đắng đến nỗi không sao nuốt nổi. Nhưng vì đó là hạt sen muội bóc cho ta, đắng đến mấy ta vẫn ăn, ăn một cách vui vẻ, ăn một cách ngon lành. Do đó hôm nay, chỉ cần là quyết định của muội, dù có khó chịu đến mấy, dù có khó chấp nhận đến mấy, ta cũng sẽ chấp nhận, cũng sẽ tôn trọng nguyện vọng của muội.”

    Tôi cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm hẳn đi, dịu giọng nói: “Huynh cứ luôn thương ta phải ở đây chịu khổ, nhưng nếu vì tránh một cuộc sống cực khổ mà sống với một người mình không hề yêu, ta không nghĩ đó là hạnh phúc. Về điều này, nhất định là Thực Sơ ca ca cũng hiểu. Do đó, nếu huynh cứ tiếp tục đối xử với ta như quãng thời gian vừa rồi thì chỉ lãng phí tình cảm, hơn nữa còn khiến ta khó xử. Cả cuộc đời này, ta chỉ có thể coi huynh như huynh trưởng, như bằng hữu, qua đó báo đáp ân tình của huynh.” Những lời này nhẹ như làn gió xuân, nhưng hàm ý bên trong hắn nhất định có thể hiểu được. Tôi đối xử với hắn khách sáo nhưng lại không thể trao cho hắn nửa phần hy vọng.

    Suốt hồi lâu, hắn không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, đứng dậy rời đi, cười gượng gạo, nói: “Hoàn muội muội, muội vẫn luôn khiến ta hết cách như thế. Nhưng hôm nay muội đã thẳng thắn nói như vậy, ta… sẽ không bao giờ làm muội khó xử nữa.”

    Tôi đặt chiếc bình ngọc tới trước mặt hắn, cẩn thận giúp hắn gói lại, nhẹ nhàng nói: “Huynh mang nó về đi, sau này nhất định phải tặng nó cho nữ tử yêu huynh như huynh yêu cô ấy, đừng tùy tiện mang ra ngoài nữa.”

    Hắn ngẩn ngơ nhìn chiếc bình ngọc, nhưng lại không đưa tay nhận lấy, chỉ thở dài một tiếng, buồn bã nói: “Nếu muội không chịu nhận, ta còn có thể đưa nó cho ai?”

    Tôi thoáng cảm thấy không đành lòng nhưng chỉ sau một khoảnh khắc ngắn ngủi, trái tim đã cứng rắn trở lại. Nếu lúc này tôi mà mềm lòng, sau này bất kể là tôi hay hắn, ắt sẽ bị vướng vào vô số sự phiền não. Ngoài mặt vẫn cười tươi, tôi bình tĩnh nói: “Lời này cứ như là đang giận dỗi với ta vậy.”

    Tôi lại đẩy chiếc bình ngọc tới. Hắn cuối cùng cũng hết cách, liền ngoảnh mặt qua một bên, nói: “Sao ta nỡ giận dỗi với muội chứ?” Bàn tay hắn hơi run rẩy, lát sau, rốt cuộc đã nhắm chặt mắt lại, ôm chiếc bình ngọc vào lòng, rảo bước rời đi.

    Hắn đi ra tới cửa, ngoảnh đầu lại ba lần liền, sự quyến luyến và thương tâm trong mắt khiến lòng người như đứt đoạn. Tôi cơ hồ không dám ngẩng lên nhìn vào mắt hắn, chỉ khẽ mỉm cười, cố giữ bình tĩnh. Sự quyến luyến và thương tâm trong mắt hắn giống như vầng tà dương nơi chân trời, rốt cuộc đã từ từ chìm xuống, chỉ để lại những nỗi đau đớn vô biên, tựa như màn đêm mờ mịt, đen tối đến nỗi khiến người ta tuyệt vọng.

    Tôi cúi đầu một lúc, rốt cuộc chỉ có thể khẽ cất tiếng thở dài.
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 9: My vu [1]
    [1] Tên một loại cỏ thơm, hái lá tươi về phơi khô có thể dùng làm hương liệu – ND.

    Cận Tịch ôm theo đống quần áo vừa phơi khô bước vào, thấy tôi đang ngồi thẫn thờ thì im lặng, chỉ đứng trước giường, cẩn thận gấp quần áo, động tác thuần thục mà nhanh nhẹn.

    Gấp xong, nàng ta thổn thức nói: “Bộ dạng của Ôn đại nhân lúc bước ra ngoài vừa rồi thật khiến người ta cảm thấy buồn bã.”

    Tôi đưa tay chống cằm, bình tĩnh hỏi: “Có rất nhiều người nhìn thấy sao?”

    Nàng ta khẽ gật đầu. “Ôn đại nhân thương tâm quá độ, trông cứ như người mất hồn, đâu còn biết che giấu sắc mặt, mà lúc này lại là thời gian đi tụng niệm dịp chiều tối, có rất nhiều người qua lại.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng rồi lại tiếp tục trầm tư. Trong căn phòng mờ tối, ánh nến bập bùng khiến mắt người ta cay cay. Tôi đổi sang thắp đèn dầu, ngọn lửa nhỏ sáng lên, tỏa ra những tia sáng mông lung.

    Theo lệ thường, tôi mở kinh văn ra xem, bắt đầu tụng niệm. Cận Tịch nghe được một lát, liền dịu dàng cất tiếng: “Tiếng niệm kinh của nương tử hôm nay hình như không còn nhiều tâm sự như hai ngày trước nữa.”

    Tôi khẽ cười hờ hững, chỉ nói: “Thuyết phục được y cũng coi như tâm nguyện của ta đã đạt thành, nếu không, sau này gặp mặt sẽ rất khó xử, đây là điều mà ta không muốn thấy.”

    Cận Tịch im lặng, lát sau mới nói: “Với tính cách của Ôn đại nhân, nếu nương tử cứng rắn quá, chỉ e sẽ làm trái tim y thương tổn, còn ảnh hưởng đến tình nghĩa nhiều năm, dù sao lâu nay Ôn đại nhân vẫn luôn ôm mối tình si với nương tử, mọi người đều thấy rõ, mà sau này Lung Nguyệt Công chúa và Thẩm Tiệp dư cũng cần có y chăm sóc; nhưng nếu mềm mỏng quá, chỉ sợ y sẽ nghe không lọt tai, luôn ôm một chút hy vọng, như thế thực chẳng tốt cho bất cứ ai. Lần này để khuyên nhủ được Ôn đại nhân, nương tử nhất định đã phải hao tổn rất nhiều tâm sức.”

    Tôiấp cuốn kinh thư lại, cười nói: “Ngươi nói đúng lắm, tâm ý của y bao năm nay ta vẫn luôn cảm kích. Để có thể khiến y dễ chấp nhận một chút, ta đã phải vắt óc suy nghĩ, lục tìm trong ký ức tất cả những chuyện thuở xưa.”

    Cận Tịch khẽ cười. “Hai ngày trước nhìn nương tử cứ ngồi ngẩn ngơ, Hoán Bích còn tưởng là nương tử sẽ đồng ý với Ôn đại nhân nữa đấy!”

    Tôi bật cười, nói: “Sao có thể chứ? Nếu ta đồng ý, trước đây đã không vào cung. Dù thời thế thay đổi nhưng bản tính con người cũng không bao giờ đổi thay.”

    Cận Tịch nói: “Quả thực Ôn đại nhân không phải người thích hợp nhất với nương tử. Bởi vì…” Nàng ta khẽ cười, nói tiếp: “Tình ý của y cứ luôn không đúng lúc như thế.”

    “Không đúng lúc?” Tôi tỉ mỉ nghĩ lại rồi cũng cười, nói: “Lần thứ nhất là trước khi vào cung, đợi đến khi ta được chọn đi tham dự tuyển tú, y mới tới bảo ta đừng đi, muốn thành thân với ta; hai lần sau thì là ở trong cung, lại càng không có chút khả năng nào; còn một lần nữa chính là lúc này đây…” Nói tới đây, tôi không khỏi thầm chua xót. “Với tâm trạng của ta bây giờ, sao có thể nghĩ tới mấy việc này được?”

    Cận Tịch tỏ vẻ thấu hiểu. “Do đó, Ôn đại nhân vốn không nên nói ra, như thế khi hai bên gặp nhau còn dễ nói chuyện. Y không hiểu rằng nếu nương tử thật sự thích y, ngay từ sớm đã có hôn ước với y rồi, chẳng cần phải đi tham dự tuyển tú làm gì.”

    Tôi không kìm được tò mò, hỏi: “Vậy tại sao hôm đó ngươi còn nói là tình ý của Ôn Thực Sơ với ta hết sức hiếm có?”

    Cận Tịch cụp mắt, khẽ nở nụ cười. “Nô tỳ chẳng qua chỉ nói sự thực mà thôi. Có điều cả nương tử và nô tỳ đều hiểu rõ, cảm động là một nhẽ, còn tình cảm lại là một nhẽ khác, vốn chẳng liên quan đến nhau. Nương tử không thích tức là không thích, sẽ không vì cảm động mà miễn cưỡng bản thân.”

    Tôi lại hỏi: “Hoán Bích đâu?”

    “Biết buổi chiều Ôn đại nhân sẽ tới, Hoán Bích cô nương cũng giống như nô tỳ, đã tìm cớ ra ngoài rồi.”

    Tôi hơi nhướng mày. “Lần này nha đầu đó hình như đã đoán nhầm rồi, có lẽ cô nàng cho rằng ta sẽ đồng ý với Ôn Thực Sơ.”

    Cận Tịch nở nụ cười dịu dàng mà điềm tĩnh. “Nô tỳ biết nương tử nhất định sẽ không đồng ý với Ôn đại nhân. Hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình là thứ nhất, quan trọng hơn là nếu vì né tránh sự vất vả nhất thời mà làm việc trái với lòng mình, đó sẽ không phải là Chân nương tử mà Cận Tịch biết.” Đôi mắt nàng ta trong veo và sáng rực. “Nương tử vô cùng kiên trì và xem trọng chuyện tình cảm, đây chính là chỗ đáng quý nhất của nương tử.”

    Tôi khẽ cười, nói: “Cha mẹ sinh ra ta nhưng hiểu ta nhất chính là Cận Tịch ngươi.”

    Lời còn chưa dứt, Hoán Bích đã bước từ cửa vào, nhìn thấy tôi và Cận Tịch đều ở đây liền tò mò hỏi: “Ôn đại nhân đi rồi sao? Tiểu thư đã trả lời y thế nào?”

    Tôi và Cận Tịch đưa mắt nhìn nhau, cùng nở nụ cười hiểu ý.

    Mấy ngày sau, tôi lại đi giặt quần áo, thấy những lời đồn thổi đã giảm đi nhiều. Hôm ấy, nhân dịp thời tiết ấm áp, tôi ôm một sọt quần áo lớn tới bên bờ suối giặt giũ. Sau khi nói rõ ràng mọi việc với Ôn Thực Sơ, tôi bất giác cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều, như thể trong lòng có một tảng đá lớn vừa được buông xuống.

    Khi đến bên bờ suối, chỉ nghe nước chảy róc rách êm tai, bọt nước bắn đi tung tóe nhưng xung quanh lại chỉ có một mình Mạc Ngôn.

    Bà ta thấy tôi một mình đi tới, liếc mắt nhìn qua, hờ hững nói: “Hôm nay hình như tâm trạng cô không tệ.”

    Tôi bất giác đưa tay lên vuốt má, cười nói: “Vsao? Thế mà ta chẳng biết gì đấy.”

    Bà ta “ừm” một tiếng, cởi giày và tất ra, nhảy luôn xuống dòng suối. Tôi kinh hãi kêu lên: “Có lạnh không? Mau lên đây, chớ nên đứng trong nước lạnh như thế!”

    Mạc Ngôn cười sang sảng. “Sợ cái gì! Làm thế này đâu có vi phạm quy định của nhà chùa.” Sau đó lại đưa tay kéo tôi. “Tới đây nào, cô cũng xuống đây đi, mát lắm!”

    Tôi cười khúc khích một hồi, cuối cùng vì sức yếu hơn nên bị Mạc Ngôn kéo xuống. Dòng nước suối lạnh băng mơn trớn trên da thịt, tựa như vô số con cá nhỏ há miệng rỉa vào chân tôi, vừa ngứa ngáy vừa thoải mái, dễ chịu. Dù gì bây giờ vẫn là đầu xuân, sau một thoáng ngâm nước, tôi liền không chịu được nữa, liền cùng Mạc Ngôn tươi cười vui vẻ dắt tay nhau leo lên bờ.

    Mạc Ngôn phủi nhẹ tà áo, cười tủm tỉm, nói: “Gã thái y trong cung kia đã mấy ngày không tới rồi, cô thành ra lại không còn tâm sự gì nữa thì phải.”

    Tôi mỉm cười, bình thản đáp: “Tâm sự của ta vốn không phải vì y.”

    Bà ta chẳng buồn ngẩng lên, chỉ buông một câu: “Ta thấy tâm sự của cô nằm ở chỗ phải ứng phó với y thế nào. Bây giờ y không tới nữa, cô không cần phải ứng phó với y, tất nhiên không còn tâm sự nữa.”

    Tôi thấy bà ta mau mồm mau miệng như vậy, không kìm được bật cười, coi như thừa nhận. Rồi tôi tiện tay lấy quần áo ra, rắc lên một nắm bột bồ kết, bắt đầu chuyên tâm giặt giũ.

    Mạc Ngôn xưa nay vẫn luôn độc lai độc vãng, không qua lại với các ni cô trong chùa, khuôn mặt lại có vẻ lạnh lùng, hung dữ, thành ra các ni cô không dám gây khó dễ với bà ta, lại càng không dám bắt bà ta đi làm những việc nặng, do đó Mạc Ngôn chỉ cần lo cho bản thân là được.

    Mạc Ngôn rất nhanh đã giặt xong chỗ quần áo của mình, thế nhưng lại không đi ngay mà tiện tay cầm lấy quần áo trong sọt của tôi, đặt lên tảng á lớn trước mặt, giơ chày đập từng nhát. Động tác của bà ta hết sức thuần thục, lực đập vừa phải, không mạnh không nhẹ, cũng không hề làm nước bắn lên, dường như đã rất quen với công việc này.

    Tôi không để ý đến, nhìn xuống dòng suối trong veo, cảm thấy giống như một dải lụa mềm uốn lượn đung đưa, nhẹ nhàng chảy qua bờ cỏ xanh biếc, tâm trạng bỗng thư thái hơn nhiều.

    Cứ ngồi lặng im như vậy được một lát, Mạc Ngôn đột nhiên cúi đầu, thấp giọng nói: “Cô rất tốt!”

    Tôi nhất thời không hiểu ý bà ta, buột miệng hỏi: “Gì cơ?”

    Bà ta dừng động tác, liếc nhìn tôi, nói: “Cô không thích gã thái y kia, rất tốt.”

    Tôi không kìm được, bật cười. “Tại sao lại nói vậy?”

    Mạc Ngôn thoáng ngẩn ra, ánh mắt trở nên lạnh lùng mà hung dữ, từ trong kẽ răng bật ra mấy từ đầy vẻ hằn học, tựa như một bãi đờm nhầy nhụa khiến người ta buồn nôn, chỉ muốn nhổ đi thật xa. “Lũ nam nhân thối tha đều chẳng tốt đẹp gì!”

    Tôi “a” lên một tiếng nhưng lại không dám cười, càng không biết nên trả lời thế nào.

    Mạc Ngôn nói thẳng: “Giống như gã thái y kia vậy, hắn tới thăm cô không phải là tới thăm một vị chủ nhân đã thất sủng, điều này tự cô hiểu rõ. Nam nhân ấy mà, khi chưa có được cô thì sẽ tìm trăm phương ngàn kế mong chiếm được trái tim cô, nhưng một khi chiếm được rồi thì sẽ sinh lòng chán ghét, vứt bỏ cô như một đôi giày rách, chẳng quan tâm xem trước đây đã vì cô mà phải hao tâm tổn sức thế nào.” Bà ta nói liền một hơi, sau khi nói xong liền thở hồng hộc một hồi.

    Tôi không nói gì, ngón tay vạch nhẹ xuống nước, cảm giác mát lạnh xuyên thấu qua da thịt truyền vào tận trái tim. Tôi ngơ ngẩn nhìn Mạc Ngôn, cất giọng nghi hoặc: “Bà…”

    Bà ta khẽ vỗ tay một cái, ngẩng đầu nhìn ánh dương rạng rỡ màu vàng kim, những tia nắng chói chang khiến bà ta hơi nheo mắt, giọng nói yếu ớt như ngưng kết thành một cây kim nhỏ, lập lòe phát ra những tia sáng lạnh ngắt khiến người ta phải rùng mình. “Không ngại nói thật với cô, ta là người nửa đường xuất gia đấy!”

    Tôi khẽ gật đầu. “Ta biết chứ, nếu là người xuất gia từ nhỏ, ắt sẽ không bất hòa với các ni cô trong chùa, tính cách cũng không nóng nảy, bộp chộp như bà.”

    Mạc Ngôn nhướng mày, lớn tiếng nói: “Không sai, ta đã từng lấy chồng, đã từng sinh con, rồi sau đó mới tới chùa Cam Lộ này tu hành.” Nhìn dòng nước suối đến ngẩn ngơ, Mạc Ngôn thỉnh thoảng lại móc một nắm rêu xanh trong khe đá lên, thứ màu xanh sẫm âm trầm ấy giống hệt như tâm cảnh của bà ta lúc này. “Tính tình ta đúng là thô lỗ, nóng nảy nhưng hồi trẻ chưa gả chồng, có ai không phải là một cô gái tốt, tính tình ngoan ngoãn, hiền lành. Chỉ có điều, sau khi lấy chồng, chưa xét tới tinh thần hao tổn, chẳng may gặp phải một người chồng không tốt, mẹ chồng lại cay nghiệt, e rằng dù có là hòn ngọc tốt đến mấy thì cuối cùng cũng sẽ trở nên sứt mẻ tả tơi.”Kỳ thực, nhìn kĩ thì dung mạo Mạc Ngôn cũng không tính là khó coi, xấu xí, dù những nếp hằn của thời gian cùng vẻ hung dữ nơi khóe mắt đã không thể che giấu được, nhưng những đường cong mềm mại trên khuôn mặt kia vẫn toát ra một sức hút riêng. Có thể tưởng tượng nếu thời gian lui về hai mươi năm trước, dung mạo của bà ta nhất định là thanh tú, đáng yêu vô cùng, chắc hẳn cũng từng được rất nhiều nam tử ái mộ.

    “Vậy tại sao bà lại xuất gia?”

    Mạc Ngôn không chút nghĩ ngợi đáp ngay: “Vì lấy nhầm người thôi! Ta và y vốn môn đăng hộ đối, đều xuất thân từ gia đình làm nông bình thường, lại ở hai thôn gần nhau, từ nhỏ đã quen biết. Khi ta chưa được gả cho y, y đối xử với ta rất tốt, ta lại giỏi kéo sợi dệt vải, có thể giúp đỡ lo liệu việc nhà, thế là y bèn mừng rỡ cưới ta về. Sau này ta ngày một già đi, lại sinh liền hai đứa con gái, gã nam nhân thối tha đó liền chê ta, nói ta không thể sinh cho y đứa con trai nối dõi, lại không nuôi nổi hai cô con gái, thế là đứa nhỏ vừa mới ra đời đã bị y dìm nước đến chết. Ta giận quá, lại thêm thương tâm, bèn tranh cãi với y mấy câu, y liền đuổi ta ra khỏi cửa. Mẹ chồng với em chồng không những không khuyên, còn thêm dầu vào lửa, nói là sẽ tìm cho y một người vợ mới vừa trẻ trung vừa biết sinh đẻ. Trong cơn giận dữ, ta liền mang theo đứa con gái lớn bỏ đi, ngay đến giấy bỏ cũng chẳng cần. Một nữ nhân không thể sinh được con trai đã là cái cớ lớn nhất để người ta chê cười, giễu cợt rồi, ta lại không có bản lĩnh gì, đành mang con gái vào chùa xin miếng cơm ăn thôi.”

    Bà ta nói xong, nơi khóe mắt đã thấp thoáng ánh lệ, thế nhưng giọng nói lại toát ra vẻ hờ hững và xa cách, ngay đến sự phẫn nộ và không cam tâm của bản thân cũng đã rất nhạt nhòa. Bà ta bình tĩnh đến vậy, chắc hẳn là đã thương tâm tới tột độ rồi. Tôi nghe mà tim đập chân run, đó là một nam nhân như thế nào mà lại có thể tự tay giết chết đứa con gái vừa mới ra đời của mình, thật tàn nhẫn biết bao! Tôi thầm buồn bã, nhưng cũng chỉ cất tiếng khuyên nhủ: “Bà đừng thương tâm…”

    Mạc Ngôn đột ngột ngẩng lên, lau vội giọt nước mắt, cắt ngang lời tôi, phỉ phui một tiếng bằng giọng khinh miệt: “Phì! Gã nam nhân thối tha đó mà xứng để ta thương tâm sao! Y cứ nằm mơ giữa ban ngày đi!”

    Lòng tôi thầm thương cảm, đồng thời cũng có chút vui mừng. Mạc Ngôn sinh liền hai người con gái, bị nhà chồng ruồng bỏ, đuổi ra khỏi cửa, còn tôi lại cảm thấy may mắn vì Lung Nguyệt của mình là thân con gái, nhờ thế mới có thể sống yên ổn trong cung, không phải đối mặt với sự ám hại của bao người. Nhưng nếu tôi còn ở trong cung, còn là Hoàn Quý tần và đang hưởng phúc một cách yên ổn, chỉ e tôi cũng sẽ thầm tiếc nuối vì Lung Nguyệt của mình là con gái.

    Tôi cố kìm nén những tâm sự trong lòng, chợt nghĩ tới một việc, hỏi: “Bà nói là con gái bà cũng đi theo bà sao?”

    Mạc Ngôn khẽ “ừm” một tiếng, cười lạnh, nói: “Cô nghĩ chùa Cam Lộ là nơi tốt đẹp lắm sao, đám ni cô đó đều xem thường ta xuất thân bần hàn, có thể thu nhận ta đã là một việc không dễ dàng gì rồi, ta liền tìm mọi cách sắp xếp cho con gái ta một công việc ở dưới núi, hai bên cũng coi như có thể giúp đỡ lẫn nhau. Khi ta mới tới, tính khí còn khá tốt, bọn họ thường ngày dù có chê bai, giễu cợt, gây khó dễ thế nào ta cũng nhịn, nhưng có một ngày ta rốt cuộc không nhịn được nữa, liền đập vỡ một vại nước nặng chừng trăm cân trong chùa, từ đó không còn ai dám ức hiếp ta nữa, quả đúng như câu hồng mềm dễ nắn, người hiền dễ bị bắt nẮ” Bà ta khẽ thở dài một tiếng, vỗ nhẹ lên mu bàn tay tôi. “Tính khí cô cũng tốt quá đấy, do đó mới hay bị bọn họ ức hiếp.”

    Tôi khẽ cười, nói: “Bà còn có một người con gái đã trưởng thành để mà nương tựa, lại chỉ có một thân một mình trong chùa, chẳng phải sợ ai. Nhưng còn ta, ta là người từ trong cung ra, chùa Cam Lộ này là chốn dung thân cuối cùng của ta, nếu rời khỏi đây, ta thực sự không còn nơi nào để đi. Huống chi còn có hai người Hoán Bích và Cận Tịch, ta thực không muốn làm liên lụy đến họ thêm nữa.”

    Mạc Ngôn suy nghĩ một chút, cuối cùng gật đầu, nói: “Cũng có lý, cô đúng là đã phải chịu nhiều ấm ức rồi!”

    Tôi cười gượng, nói: “Chẳng qua là sống tạm qua ngày mà thôi, nếu nói tới ấm ức, sống ở đâu mà không phải chịu ấm ức cơ chứ?”

    Mạc Ngôn nói: “Kể ra cũng phải, cô cứ nhìn cái đám ni cô trong chùa Cam Lộ này thì biết, thường ngày chỉ vì chút chuyện cỏn con mà không ngừng đấu đá nhau, giở đủ trò đủ kiểu. Trước đây, cô là quý nhân trong cung, nữ nhân ở đó nhiều hơn chùa Cam Lộ này nhiều, mà phàm là việc gì dính dáng đến nam nhân, dính dáng đến tiền tài và quyền lực, có nữ nhân nào không trở nên hung ác, điên cuồng, giở đầy thủ đoạn, trước đây cô nhất định đã phải chịu không ít ấm ức.”

    Bà ta vốn là người thô lỗ, có thể nói ra những lời quan tâm chu đáo thế này thực không dễ dàng gì, tôi bất giác có chút cảm động. Đưa mắt nhìn khắp chùa Cam Lộ, ngoài Hoán Bích và Cận Tịch ra, có ai chịu nói với tôi những lời như vậy nữa chứ?

    Vành mắt tôi hoe đỏ nhưng rốt cuộc vẫn cố kìm nén, không để Mạc Ngôn thấy mình rơi nước mắt, sau đó lại cúi đầu mân mê mép áo, khẽ nói: “Bà quả đã có cái nhìn thấu triệt.”

    Mạc Ngôn khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Có gì mà không thấu triệt chứ, đưa mắt nhìn khắp thế gian này, kẻ hưởng phúc luôn là nam nhân. Còn nữ nhân chúng ta, bất kể là con nhà giàu hay con nhà nghèo, ai cũng phải chịu khổ như nhau.” Bà ta thở dài than: “Giống như cô với ta vậy, nếu không vì bị ép tới đường cùng, có ai lại muốn bỏ nhà bỏ con nửa đường xuất gia chứ?”

    Lời này như một nhát búa nặng nề đánh vào trái tim tôi, làm tôi thầm chấn động. Nhưng dù chấn động đến thế nào đi nữa, bề ngoài tôi vẫn chỉ mỉm cười, không nói năng gì.

    Mạc Ngôn thấy tôi ngây người, biết là tôi đang buồn, liền khẽ cười, nói: “Ta có câu chuyện cười kể cho cô nghe này.”

    Tôi miễn cưỡng phấn chấn lên một chút, cười hỏi: “Câu chuyện gì vậy?”

    Mạc Ngôn nở một nụ cười thần bí, thản nhiên nói: “Tháng trước gã nam nhân kia vừa mới tới tìm ta.”

    Tôi “a” lên một tiếng, hỏi: “Vậy bà có theo y quay về không?”

    Bà ta đưa mắt lườm tôi một cái, nói: “Y muốn ta quay về, nhưng nếu ta chịu theo y quay về, bây giờ đã không còn ở đây nữa rồi.” Sau đó bà ta lại cười, nói tiếp: “Cô vợ mà gã nam nhân thối tha đó mới cưới cũng sinh được con gái, hơn nữa y còn nói với ta, cô vợ mới của y trẻ thì trẻ thật, nhưng tướng mạo lại không bằng ta hồi trẻ. Hơn nữa, cô ta tay chân rất vụng về, trước đây một ngày ta dệt được hai xấp vải, vừa dày vừa đẹp, còn nữ nhân kia bây giờ một ngày chưa dệt xong một xấp, lại thường xuyên làm đứt chỉ và dệt lỗi, khiến nam nhân thối tha kia tức phát điên, có đánh chửi cũng không ăn thua.”

    “Vậy bà nói với y thế nào?”

    Trong mắt Mạc Ngôn bừng lên một tia sáng lạnh lùng. “Ta chỉ nói với y một câu thôi, trả lại tính mạng con gái ta cho ta. Chỉ cần nó có thể sống lại, ta sẽ theo y quay về. Gã nam nhân thối tha không còn gì để nói, đành ngượng ngùng quay về.” Giọng bà ta chợt trở nên dịu dàng và bi thương. “Cô không biết đâu, đứa con gái nhỏ đó của ta đáng yêu vô cùng, ta yêu thương nó lắm. Chỉ đáng tiếc, nó sống trên đời chưa đủ ba ngày.” Bốn phía xung quanh tĩnh lặng như tờ, chỉ có tiếng gió thổi qua kẽ lá, như than như khóc, kết hợp với nỗi thương tâm của Mạc Ngôn khiến lòng người thổn thức.

    Mạc Ngôn gạt mạnh nước mắt, nói: “Gã nam nhân thối tha đó đúng là nằm mơ, muốn gọi ta về để hắn được trái ôm phải ấp, đừng hòng ta chiều ý hắn. Ta mang theo con gái sống bên ngoài tự do tự tại, việc gì phải về nhà hắn mà chịu khổ. Đứa con gái nhỏ kia của ta không thể chết một cách vô ích được.”

    Tôi ngẩn ngơ nhớ lại, trong tập Kinh Thi từng đọc ngày xưa có một bài thơ thế này:

    Lên núi hái my vu,

    Xuống núi gặp chồng xưa.

    Bái chào và thăm hỏi:

    “Người vợ mới ra sao?”

    “Người mới tuy rằng tốt,

    Nhưng chẳng bằng người xưa.

    Nhan sắc so sánh được,

    Tay nghề lại kém thua.

    Người mới về tới cửa,

    Người cũ rời nhà đi.

    Người mới dệt lụa vàng,

    Người cũ dệt lụa trắng.

    Lụa vàng ngày một tấm,

    Lụa trắng năm thước dư.

    Lụa vàng so lụa trắng,

    Người mới chẳng bằng xưa[2].”

    [2] Đây là bài Lên núi hái my vu, thực ra là một bài thơ Nhạc phủ, dịch thơ Điệp Luyến Hoa, người dịch có sửa chữa một chút – ND.

    Qua đó có thể thấy nam tử bạc tình, nữ tử bạc mệnh, từ xưa đã vậy rồi, đến giờ vẫn chẳng hề thay đổi. Còn Mạc Ngôn, tất nhiên kiên cường, dũng cảm hơn cô gái hái my vu kia nhiều.

    Tôi nắm chặt bàn tay Mạc Ngôn, an ủi: “Không sao, dù gì cũng đã qua rồi.”

    Mạc Ngôn nở nụ cười thê thảm. “Cô biết tại sao ta lại nói với cô những lời này không?”

    Tôi lắc đầu, cười mỉm. “Chắc là vì bà cảm thấy ta mồm miệng kín đáo.”

    Bà ta cười lặng lẽ, nắm lại bàn tay tôi. “Bởi vì ta nhìn ra được, nỗi đau khổ trong lòng cô không hề ít hơn ta.”

    Tôi chỉ khẽ mỉm cười, một làn gió thổi nhẹ qua bàn tay ẩm ướt, mang tới cảm giác mát lạnh. Thế nhưng, tôi có thể nói gì được đây? Rốt cuộc, tôi chỉ đành im lặng.
     
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 10: Váy xanh mặt ngọc như từng gặp
    Thế là trong khoảng thời gian rất lâu sau đó, Ôn Thực Sơ không tới căn phòng của tôi trong chùa Cam Lộ thêm lần nào nữa. Tôi cũng dần cảm thấy yên tâm. Hắn không tới, chắc hẳn cũng đang cố gắng xoa dịu tâm trạng của chính mình. Tôi chỉ mong hắn tạm thời đừng tới gặp tôi nữa, như vậy hai bên cũng không phải rơi vào cảnh lúng túng, khó xử.

    Mong rằng ngày sau, khi gặp lại, hai bên có thể mỉm cười nhìn nhau, ung dung, bình thản.

    Thời gian như bánh xe chậm rãi lăn đi, nghiền nát mùa xuân, đi qua mùa hạ, chạy đến mùa thu, mùa của những phiến lá vàng xơ xác, tiêu điều.

    Mấy ngày sau tết Trùng Dương, trong lòng tôi bỗng nảy sinh mấy tia bất an khó tả. Có một làn sóng ngầm nào đó đang chảy trong lòng, khiến tôi cảm thấy vừa lo lắng vừa chờ mong.

    Cận Tịch thắp một nén hương, từng làn hương thơm chậm rãi tỏa ra bốn phía, tôi ngồi trong phòng, tay lần tràng hạt lẩm nhẩm niệm kinh.

    Cận Tịch khẽ nói: “Nô tỳ biết lí do tại sao nương tử lại phiền lòng như vậy, mùng Sáu tháng sau chính là ngày thôi nôi của Lung Nguyệt Công chúa.”

    Lòng tôi thầm lo lắng nhưng cũng chỉ có thể cười gượng, vừa lần tràng hạt vừa nói: “Thế thì sao chứ? Ngay đến việc gặp Lung Nguyệt một lần trong mơ cũng là điều xa xỉ đối với ta, người làm mẹ ta đây chỉ có thể tụng kinh cầu phúc cho nó nhiều hơn một chút mà thôi!”

    Cận Tịch mỉm cười, nói: “Như vậy cũng tốt mà, đó dù sao cũng là tâm ý của nương tử. Tuy mẹ con nương tử không thể ở cùng nhau, nhưng hai người có quan hệ máu mủ, chắc hẳn Công chúa có thể cảm nhận được.”

    Thế rồi tôi ngày ngày đều thức khuya dậy sớm quỳ trước án hương tụng kinh cầu phúc, chỉ mong Lung Nguyệt của tôi thân thể khỏe mạnh, mọi việc đều được như ý. Cứ như thế, thời gian ngủ mỗi ngày của tôi rất ít, có một chiều tôi đến bên bờ suối giặt quần áo, bần thần ngủ gật, một chiếc áo trong tay liền trôi theo dòng nước. Nước chảy nhanh quá, tôi chạy theo mà không sao đuổi kịp. Tôi thầm sợ hãi, chiếc áo đó vốn là của Tịnh Bạch, lỡ như làm mất, tôi nhất định sẽ bị quở trách một phen, chưa biết chừng còn có một cơn phong ba nổi lên nữa.

    Quả nhiên khi quay về, Tịnh Bạch thấy bị mất áo liền mắng tôi một trận, nhưng vì lúc này phải đi tụng niệm dịp chiều tối, không có thời gian trừng phạt tôi ngay nên chỉ buông lại một câu: “Ngày mai đi lau sạch mặt sàn của Cẩn Thân điện cho ta.”

    Tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh, Cẩn Thân điện là tòa điện lớn nhất trong chùa Cam Lộ, rộng và trang nghiêm vô cùng, muốn lau sạch hết mặt sàn ở đó cũng mất đến nửa ngày. Hơn nữa, mỗi ngày tôi đều phải giặt quần áo, cắt cỏ theo lệ thường, ngay đến thời gian để nghỉ lấy hơi cũng không có.

    Thế nhưng tôi cũng không muốn tranh cãi. Ngày hôm sau, khi trời còn chưa sáng, tôi đã chạy đến Cẩn Thân điện, đợi các ni cô tụng niệm xong đi vào lau sàn.

    Toàn bộ mặt sàn trong Cẩn Thân điện được lát bằng gạch vàng, tôi phải quỳ trên mặt đất, cúi sát người xuống mới có thể lau được. Từng viên gạch đều bóng loáng như gương, cơ hồ có thể nhìn thấy rõ ràng. Tôi cẩn thận lau từng viên gạch, hai đầu gối phải tì xuống mặt sàn cứng rắn mà lê từng chút, thỉnh thoảng gặp phải chỗ nào hơi gồ lên là đầu gối lập tức đau đến thấu xương. Lưng tôi cơ hồ cong đến gập xuống, lâu dần, cảm giác tê dại từ từ lan tỏa, tựa một chiếc lưới nhện trùm khắp toàn thân, khiến tôi mỏi nhừ.

    Thỉnh thoảng có vài ni cô đi qua, hoặc là tươi cười hỉ hả hoặc là lộ vẻ xót thương, thấp giọng lẩm bẩm: “Công việc lau sàn này đúng là giày vò người ta nhất, không thể thẳng lưng, không thể ngẩng đầu, Cẩn Thân điện lại lớn như thế, sau mấy canh giờ, xương cốt chắc cũng rời ra hết. Rốt cuộc vẫn là Tịnh Bạch giỏi hành hạ người ta nhất!”

    Nhìn xuống mặt sàn bóng loáng quá lâu, tôi bắt đầu thấy hoa mắt, trước mặt như xuất hiện vô số chiếc bóng trắng, ngay đến chiếc bóng của tôi bên dưới mặt sàn cũng trở nên mơ hồ và hòa vào trong đó. Tôi vừa ưỡn thẳng lưng, định xoa bóp một chút, chợt thấy sau hai canh giờ mà mình còn chưa lau xong một phần ba mặt sàn, đã thế còn một sọt lớn quần áo chưa giặt, do đó không khỏi thầm nôn nóng, chẳng còn tâm tư đâu mà nghỉ ngơi.

    Cẩn Thân điện lúc này hết sức tĩnh lặng, tất cả ni cô đều đã đi làm việc của mình. Tôi không ngừng lặp lại động tác kỳ cọ, hai cánh tay tê rần, đầu thì không ngẩng lên một lần nào cả.

    Phía sau chợt có người cất tiếng: “Sao chỉ có một mình cô thế này, Cận Tịch và Hoán Bích không tới giúp cô sao?”

    Tôi nghe thấy liền ngoảnh đầu lại, trước mắt bỗng tối sầm, phải nhìn chăm chú một lúc mới nhận ra người đó là Mạc Ngôn. Tôi khẽ lắc đầu, nói: “Bọn họ còn chưa làm xong công việc của mình, sao ta có thể làm liên lụy đến bọn họ được, là ta không cho bọn họ tới.”

    Mạc Ngôn lắc đầu lia lịa, nói: “Cô đúng là đồ ngốc, chẳng lẽ cứ để yên cho bọn Tịnh Bạch ức hiếp, giày vò mình như thế sao?”

    Tôi cụp mi mắt, cười gượng, nói: “Mạc Ngôn, bà còn có đứa con gái đã trưởng thành, có thể nương tựa được. Còn ta, chùa Cam Lộ đã là chốn dung thân cuối cùng rồi, nếu ta phản kháng, chỉ e sẽ chẳng còn nơi nào để đi nữa.”

    Mạc Ngôn khẽ buông tiếng thở dài, nhanh nhẹn xắn tay áo lên, vắt khô miếng giẻ lau, nói: “Vậy để ta giúp cô.”

    Tôi vội vàng xua tay, thấp giọng nói: “Nếu Tịnh Bạch biết được, nhất định sẽ lại nổi cơn tam bành.”

    Mạc Ngôn đưa mắt liếc qua, ung dung nói: “Ngựa hiền bị cưỡi, người hiền bị bắt nạt. Để ta xem Tịnh Bạch có bản lĩnh đánh với ta một trận không. Một khi trở mặt rồi, ta nhất định sẽ cho mụ ta biết thế nào là lễ độ.”

    Mạc Ngôn tuy nói năng ngang ngược, thô lỗ nhưng lại toát ra vẻ hào sảng, nghĩa khí. Tôi nghe mà thầm cảm thấy ấm áp, mỉm cười, nói: “Vậy ta xin đa tạ bà trước!” Rồi Mạc Ngôn không nói hai lời, bắt đầu nhanh nhẹn lau chùi.

    Có Mạc Ngôn giúp đỡ, tốc độ tất nhiên nhanh hơn rất nhiều. Trong điện có dựng tượng Phật mình vàng uy nghiêm, khi lau đến dưới chân tượng, tôi ngước mắt nhìn thấy sự đồ sộ, nguy nga kia, bất giác thầm chua xót, nước mắt thiếu chút nữa đã tuôn rơi.

    Lung Nguyệt ơi, mẹ của con thật vô dụng quá chừng, ngoài cầu phúc ra thì chẳng thể làm gì cho con cả. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ kĩ khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ hỏn khi mới ra đời kia, nhưng ba ngày sau đó, Huyền Lăng đã đưa nó tới cung của Kính Phi, không để tôi nhìn nó thêm lần nào. Lung Nguyệt của tôi, nó cao đến đâu rồi? Chắc bây giờ đã biết nói chuyện rồi chứ? Hôm nay nó ăn những gì? Mặc quần áo như thế nào đây?

    Tôi không biết, tôi hoàn toàn không biết gì hết. Sự mù mịt về tình hình của con gái ruột khiến tôi cảm thấy hoang mang và hụt hẫng. Phật pháp tinh thâm, liệu có thể giúp tôi được gặp con gái mình một lần không? Nơi đáy lòng tôi tràn ngập nỗi trống trải và bất lực, rồi đột nhiên thân thể tôi trở nên mềm nhũn, phủ phục xuống đất, lặng lẽ rơi nước mắt.

    Không biết bao lâu sau, có một đôi tay mạnh mẽ đỡ tôi dậy. Tôi miễn cưỡng bình tĩnh trở lại, nghẹn ngào nói: “Mạc Ngôn, ta không sao.”

    Nhưng giọng nói vang lên sau đó lại ôn tồn, ấm áp như ánh mặt trời, xoa dịu trái tim đang nhỏ máu của tôi: “Không việc gì nữa rồi! Không việc gì nữa rồi!”

    Đó là giọng của một nam tử, quen thuộc quá chừng. Tôi bất giác cả kinh, lập tức ngoảnh lại nhìn. Trong tòa đại điện ngược sáng, thân thể y như được bao phủ bởi làn ánh dương rực rỡ, cao lớn và vững chãi vô cùng. Lòng bàn tay y cực kỳ ấm áp, sự ấm áp ấy từng chút, từng chút truyền qua làn da, ngấm vào trong cơ thể tôi, khiến tâm ồn tôi nhẹ nhõm đi nhiều.

    Tôi cơ hồ không suy nghĩ chút nào, để mặc bản thân buột miệng thốt lên theo tiềm thức: “Lục Vương gia.”

    Y khẽ thở dài đáp lại: “Là ta.”

    Y đỡ tôi đứng dậy, lúc này tôi đã có thể nhìn thấy rõ khuôn mặt y. Ánh mắt y hết sức trong sáng, còn toát lên vẻ dịu dàng rất mực, nhưng trên khuôn mặt vốn trắng trẻo, thư sinh kia đã có thêm mấy nét kiên nghị phong trần. Trên người y là một chiếc áo dài màu xanh đơn giản, vô cùng vừa vặn với thân thể cao lớn của y, còn phảng phất mấy làn hương thơm thanh khiết, không hề dính chút bụi trần. Trong khoảnh khắc ấy, tôi bỗng trở nên đờ đẫn, như thể được uống một chén nước tuyết mát lạnh giữa trời hè nóng nực, sự thoải mái ngấm vào tận tim gan.

    Y ôn tồn nói: “Ta đến muộn rồi.”

    Tôi đưa tay che mặt, chỉ biết lắc đầu: “Vương gia về khi nào vậy?”

    “Ba ngày trước.” Y chậm rãi đáp rồi nói ngắn gọn: “Hoàng huynh triệu ta về kinh.” Y nhìn quanh bốn phía, thấy chỉ có một mình Mạc Ngôn đang cúi đầu làm việc, bèn khẽ nói: “Nơi này nói chuyện không tiện, có thể qua chỗ khác không?”

    Tôi thoáng suy nghĩ, khẽ gật đầu, đi thẳng tới chỗ Mạc Ngôn, khẽ dặn dò mấy câu. Giữa ánh mắt nghi hoặc của Mạc Ngôn, tôi theo y ra ngoài.

    Vừa bước chân ra khỏi Cẩn Thân điện, ánh dương rực rỡ lập tức bao trùm lấy khuôn mặt tôi không chút kiêng dè. Mắt tôi bỗng hoa đi, bước chân cũng trở nên loạng choạng. Y kịp thời đưa tay ra, nhẹ nhàng đỡ lấy cánh tay tôi. Tôi thầm xấu hổ, vội rụt tay về, thấp giọng nói: “Đa tạ!”

    Tôi đương nhiên không tiện cùng y quay về chỗ ở của mình, đành thong thả cất bước ra ngoài chùa. Kỳ thực, tôi chưa từng cẩn thận ngắm nghía quang cảnh bên ngoài chùa Cam Lộ, thứ nhất là không có tâm tư, thứ hai là mỗi ngày đều bận rộn công việc, cũng chẳng có thời gian mà ngắm. Lúc này cùng Huyền Thanh đi dạo, tôi không dám nhìn y, ánh mắt tất nhiên chỉ dừng lại trên cảnh non xanh nước biếc xung quanh.Bất giác chúng tôi đã đi được khá xa, nhìn lại thì đã tới bên dòng sông uốn lượn dưới chân núi. Khung cảnh nơi đây non nước đan xen, đẹp đẽ vô cùng. Có một con ngựa trắng đang cúi đầu gặm cỏ bên bờ sông, thỉnh thoảng lại quay sang bên cạnh uống nước, dáng vẻ hết sức ung dung, tự tại.

    Tôi vừa thấy thế liền khẽ bật cười. “Con ngựa này nhất định là của Vương gia rồi!”

    Y cười rạng rỡ, để lộ hai hàm răng trắng đều, cất giọng nghịch ngợm như trẻ con: “Sao nương tử biết được?”

    Tôi mỉm cười, đưa tay vuốt ve lưng ngựa, nó ngoan ngoãn liếm nhẹ bàn tay tôi, thân mật vô cùng. Tôi cười, nói: “Vì bộ dạng ung dung, nhàn tản này của nó trông giống hệt Vương gia ngài”, sau đó lại hỏi: “Nó tên là gì vậy?”

    “Ngự phong.”

    “Cái tên này có nguồn gốc từ sách Trang Tử sao?”

    “Phải!” Huyền Thanh cười rộ. “Con ngựa trắng này theo ta được sáu năm, đã học hết những điểm xấu của ta rồi!”

    Tôi khom người, ngắt lấy một nhúm cỏ, đưa tới bên miệng con ngựa cho nó ăn, khẽ vuốt ve tai nó, đồng thời cất tiếng hỏi Huyền Thanh: “Là những điểm xấu nào vậy?”

    Y mỉm cười, đáp: “Nàng đối xử tốt với nó, nó sẽ nghe lời nàng.”

    Tôi suy nghĩ một chút, chợt nhớ tới lần đầu gặp mặt giữa tôi và Huyền Thanh, lúc đó thấy y say rượu nên tôi tỏ ra rất lạnh nhạt, thế là tôi không kìm được ngoảnh đầu qua, cười nói: “Lần đầu gặp Vương gia, hình như ta đối xử với ngài không tốt chút nào.”

    “Ít nhất nàng cũng bảo thái giám đỡ ta đi nghỉ, chứ không vung chân đá ta xuống hồ.”

    Tôi lại hái một cọng cỏ mềm mại, phần gốc của nó xanh biếc, mịn màng, tỏa ra mùi thơm thanh tân, tươi mới. Tôi bật cười khúc khích.” Kỳ thực hôm đó ta cũng rất muốn làm như vậy, chỉ ngại lễ nghi với thân phận nên mới không dám mà thôi.” Tôi thoáng suy nghĩ rồi lại nói tiếp: “Thế này chưa tính là điểm xấu được, nó còn điểm xấu nào khác không?”

    Huyền Thanh nở một nụ cười xấu xa, hai mắt ánh lên những tia sáng rực. “Thanh và Ngự Phong đều ái mộ mỹ nhân.”

    Lời của y khiến sắc mặt tôi ảm đạm hẳn đi, tôi biết rõ, trong những ngày tháng ở chùa Cam Lộ, sự tiều tụy của tôi ngày một tăng thêm, dung nhan cũng sa sút đi nhiều, tựa bông hoa vàng vọt sau khi làn gió tây thổi tới, chẳng còn phong thái như xưa. Thế nhưng ánh mắt của Huyền Thanh khi nhìn tôi vẫn giống hệt trước đây, không hề để ý tới điều này. Y phát hiện ra sự buồn bã của tôi, liền chăm chú nhìn vào mắt tôi, thản nhiên nói: “Trong suy nghĩ của Thanh, mỹ nhân kỳ thực không phải lấy mỹ sắc làm trọng. Nếu chỉ nhìn bề ngoài để bình xét mỹ nhân thì quả là nông cạn quá chừng, bởi quan trọng nhất vẫn là vẻ đẹp trong trái tim.”

    Tôi lạnh lùng nói: “Kỳ thực ta không phải là một người tốt thuần túy.”

    Trên khuôn mặt y tràn đầy vẻ khẳng định, tựa vầng trăng ngày Mười lăm, Mười sáu, có thể soi thấu tận nơi sâu thẳm nhất trong trái tim con người. “Nhưng nàng chưa từng chủ động hãm hại bất cứ người nào.”

    Huyền Thanh luôn giữ trên môi nụ cười mỉm, tựa như ánh trăng hôm rằm, chầm chậm tan chảy trong trái tim tôi. Y đứng giữa làn gió nhẹ, tuy chỉ mặc độc chiếc áo dài màu xanh hết sức đơn giản, thế nhưng phong thái lại vô cùng bất phàm, hơn hẳn những tay công tử quần là áo lụa, chỉ được cái mẽ ngoài.

    Tôi khẽ thở dài, than: “Ta vì chưa từng chủ động hại người nên mới rơi vào cảnh như bây giờ, còn ngài thì vì dâng sớ giúp nhà họ Chân ta mà bị đuổi đến Thượng Kinh. Lần này, quả là ta đã làm liên lụy đến ngài rồi.”

    Y lắc đầu, khẽ nở nụ cười bình thản, như thể một năm ở Thượng Kinh vừa qua chẳng đáng kể gì. “Giờ ta đã quay về, hoàng huynh vẫn đối xử với ta như trước, ta vẫn là Thanh Hà Vương, không có gì khác biệt.” Y bình thản nói: “Nàng không cần để tâm làm gì. Ta ở Thượng Kinh cũng giống như năm xưa ở Thục Trung vậy, ngày ngày đều đi du sơn ngoạn thủy, cái gọi là suy nghĩ về lỗi lầm chỉ là vẻ ngoài để gạt người mà thôi.”

    Tôi áy náy nói: “Dù gì cũng là vì nhà họ Chân ta…”

    Y đưa tay lên ngăn tôi nói tiếp, ôn tồn nói: “Nếu nàng còn nói nữa, ta thực không dám nói ra mục đích mình tới đây hôm nay.”

    Tôi thoáng ngạc nhiên. “Xin Vương gia cứ nói.”

    Y lấy từ trong chiếc túi trên lưng ngựa ra một cuộn tranh, nói: “Hai ngày trước ta vào cung tạ ơn hoàng huynh, lại đến bái kiến Thái hậu, do đó gặp được một người. Ta nghĩ nàng nhất định rất muốn được thấy người này, do đó mới vẽ lại một bức tranh, mang đến đây cho nàng chỉ giáo về bút pháp.”

    Tôi thoáng ngạc nhiên, thành thực nói: “Ta không giỏi vẽ tranh, sao có thể chỉ giáo cho Vương gia được?”

    Y cởi sợi dây màu đỏ trên cuộn tranh ra, sau đó lật mở từng chút một. Chỉ sau khoảnh khắc, tâm tư tôi đã bị hình ảnh trên bức tranh hút lấy, không thể rời đi. Trong tranh vẽ một bụi cúc mùa thu đang nở rộ với đủ sắc màu, bên cạnh đó là hai thiếu phụ xiêm y hoa lệ đang mỉm cười vui vẻ. Thiếu phụ đứng bên trái trông thướt tha, xinh đẹp, khoác chiếc áo choàng mỏng màu tím nhạt, bên trong là chiếc váy thêu hoa màu đỏ, thân hình yểu điệu, tóc bới thành búi, cài xéo một bông cúc Đại Lệ màu đỏ tía bên trên, cây trâm cài đầu có tua đung đưa nhè nhẹ, khuôn mặt được trang điểm rất nhạt, đôi mày hình lá liễu, bờ môi đỏ thấp thoáng nụ cười, chính là bộ dạng của Kính Phi. Thiếu phụ bên phải dáng người mảnh dẻ, vận một chiếc áo lụa màu đỏ, bên trên có thêu những bông hoa nhỏ màu trắng, phía dưới là chiếc váy dài chấm đất màu trắng sữa, búi tóc trên đầu chỉ cài một bông hoa đỏ và một cây trâm bạch ngọc, toàn thân chỉ có hai màu trắng đỏ, trông hết sức tao nhã, thanh lệ, không phải My Trang thì còn là ai? My Trang đang bế một đứa bé gái trong lòng, chỉ tay vào con hạc trắng bên cạnh mà chọc nó cười vui. Kính Phi cầm trong tay bông cúc đỏ lớn, ánh mắt nhìn bé gái chăm chú, chuẩn bị đón nó vào lòng mình. Hai người đều có vẻ hết sức chăm chú, ánh mắt tập trung vào bé gái kia, ngợp nét thương yêu. Còn bé gái đó mặc chiếc áo gấm thêu hoa màu đỏ, trên cổ đeo chiếc khóa vàng trường mệnh nhỏ xinh, chân đi giày màu xanh lục, đang tựa người vào vai My Trang, dáng vẻ đáng yêu vô cùng, mà ánh mắt nhìn về phía Kính Phi cũng đầy sự quyến luyến.

    Những nhân vật trong tranh đều xiêm y đơn giản, màu sắc hoa lệ, tinh tế vô cùng, người vẽ hẳn đã phải bỏ ra rất nhiều công sức.

    Những giọt nước mắt nóng bỏng từ khóe mắt tuôn rơi, tôi vì kích động mà giọng nói trở nên khản đặc, ngón tay chỉ vào bé gái trong bức tranh. “Đây là…”

    Huyền Thanh ôn tồn nói: “Lần đầu gặp Lung Nguyệt Công chúa, ta liền vẽ cho Công chúa bức tranh này, coi như thể hiện chút tâm ý của một vị hoàng thúc.”

    Tôi tham lam ngắm Lung Nguyệt trên tranh, trong lòng trào dâng tình cảm của một người mẹ, bất giác nước mắt tuôn rơi, làm ướt đẫm vạt áo. Lát sau, tôi chợt nhớ tới một việc, bèn hỏi: “Vương gia vẽ bức tranh này, người trong cung có biết không?”

    Y đáp: “Để đề phòng việc không hay, sau khi về vương phủ, Thanh mới vẽ lại cảnh tượng mình nhìn thấy trong cung của Thái hậu, ngay đến Thẩm Tiệp dư và Kính Phi cũng không hay biết việc này.”

    My Trang và Kính Phi trong bức tranh đều hết sức sống động, tựa như đang đứng ngay trước mặt tôi, cả thần thái và dung mạo đều được thể hiện một cách rõ nét, như vậy Lung Nguyệt của tôi nhất định cũng giống hệt trong tranh rồi.

    Ngón tay tôi nhẹ nhàng vuốt ve Lung Nguyệt trong tranh, rơm rớm nước mắt, nói: “Mới có một năm thôi mà Lung Nguyệt đã lớn thế này rồi, ta cơ hồ không nhận ra được.”

    Huyền Thanh khẽ mỉm cười, nói: “Phải, trẻ con thường lớn nhanh mà. Nghe nói mấy hôm nữa là tới ngày thôi nôi của Lung Nguyệt Công chúa, Thanh nghĩ nương tử là người làm mẹ, nhất định rất muốn biết tin tức gần đây của con gái mình, như vậy mới có thể yên tâm được.”

    Y chỉ mới về kinh được ba ngày, chắc hẳn rất bận rộn, vậy mà lại dành thời gian vẽ tranh Lung Nguyệt mang đến cho tôi, giúp tôi xoa dịu trái tim đang chất đầy nỗi nhớ mong con gái của người làm mẹ. Tôi vô cùng cảm kích, chỉ biết khom người bái tạ y. “Dù thường ngày thỉnh thoảng được nghe Phương Nhược nói về Lung Nguyệt, nhưng chỉ dựa vào mấy lời ngắn ngủi thực khó biết được điều gì. Bức tranh này của Vương gia thực hơn hẳn muôn ngàn lời miêu tả của người khác về Lung Nguyệt, ta xin cảm tạ ý tốt của Vương gia tại đây.”

    Đáp lại sự cảm kích của tôi, y chỉ cất lời ngắn gọn: “Thanh hết sức yêu quý Lung Nguyệt, lại biết vẽ một chút, chi bằng sau này cứ hai tháng, Thanh sẽ vẽ một bức tranh mang đến cho nương tử đánh giá, không biết nương tử có bằng lòng không?”

    Tôi đương nhiên muôn lần vui sướng, vạn lần bằng lòng, hàng lông mày không kìm được dãn hẳn ra, đầy nét mừng rỡ. Hành động này của Huyền Thanh chẳng khác gì giúp tôi được nhìn Lung Nguyệt dần trưởng thành, bảo tôi sao mà không vui cho được? Tôi thầm cảm kích sự chu đáo, tận tâm của Huyền Thanh, tất cả những việc y làm vì tôi đều không nói là vì tôi, mà chỉ nói là vì bản thân mình, qua đó phần nào giúp tôi tránh khỏi tâm trạng áy náy và bất an.

    Bên cạnh chân y, dòng nước nhẹ nhàng chảy về đông, mặt sông rộng lớn mà bình lặng. Giữa mùa thu, hoa lau hai bên bờ giống như những nữ tử để mặt mộc, không ngừng đung đưa theo làn gió. Thỉnh thoảng lại có một bông lau rơi xuống nước, lẳng lặng trôi đi, trông rất có dáng vẻ gặp đâu yên đấy, không hề toát ra nỗi thê lương khi phải trôi dạt lênh đênh.

    Tôi cùng y đứng lặng lẽ bên bờ sông, nghe tiếng sóng gợn rì rào, trong lòng trào dâng cảm giác ấm áp đến khó tả.
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 11: Tháng chín hoa trà rợp lối đi
    Cạnh dòng sông, từng làn gió núi thổi vào lùm cây làm phát ra những tiếng xào xạc nghe như tiếng sóng. Giữa buổi chiều thu ấm áp, tôi như một bông hoa vươn mình vui vẻ tắm dưới ánh dương, tâm trạng thoải mái mà nhẹ nhõm. Loáng thoáng có tiếng hát từ đâu đó vẳng lại, dường như có người đang ngâm nga một khúc dân ca. Tôi liếc mắt nhìn Huyền Thanh đang đứng kề vai với mình, thấy y khẽ nở một nụ cười mỉm, nghiêng đầu lắng nghe, biết là y cũng đã nghe thấy.

    Phía đằng xa vang lại một tiếng ca êm dịu, tuy ở cách khá xa nhưng lời ca vẫn hết sức trong trẻo, rõ ràng, phần nội dung tôi có thể nghe rõ được.

    Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…

    Tiếng ca càng lúc càng tới gần, nghe giọng hát thì hình như còn có chút non nớt của một cô bé nhưng lại hết sức trong trẻo, vui tươi. Tôi thấy Huyền Thanh đang mím chặt môi, vẻ như trầm tư suy nghĩ, đôi mắt trong veo lướt qua bụi lau sậy đang đung đưa nhè nhẹ, lại lướt qua những dãy núi xanh biếc trập trùng cùng dòng sông sóng nước dịu êm, sau đó chậm rãi nở một nụ cười mỉm dịu dàng, tựa một bé trai bị người ta vạch trần tâm sự, nét cười ấy mang theo một chút ngượng ngùng, từ từ lan tỏa trên khóe môi y.

    Tôi cúi xuống, vừa khéo nhìn thấy chiếc bóng cao lớn, hiên ngang của y đang phủ lên cái bóng yếu đuối, cô độc của tôi trên mặt nước.

    Trái tim tôi giật thót, chợt nhìn thấy phía không xa có một thiếu nữ đang hát khúc hát vừa rồi, tay khua mái chèo nhè nhẹ, loáng cái đã chèo thuyền tới gần. Thiếu nữ ấy tuổi chừng mười bốn, mười lăm, mặc một bộ quần áo may bằng vải hoa xanh, trên đầu tết một bím tóc thật lớn, đuôi bím tóc buộc bằng sợi đây đỏ, đang ca hát hết sức vui vẻ. Vóc người cô bé còn chưa phát triển hết, vẻ non nớt vẫn còn lộ rõ, khuôn mặt còn hơi xanh xao, duy có đôi mắt là to tròn hết sức linh động, khiến người ta vừa nhìn đã sinh lòng yêu thích.

    Huyền Thanh cất tiếng gọi: “Cô nương, thuyền này của cô có chở khách không?”

    Thiếu nữ chèo thuyền đó đáp lại bằng giọng trong trẻo, ngọt ngào: “Tất nhiên là có rồi! Công tử muốn qua sông sao?”

    Huyền Thanh chắp tay mỉm cười, nói với tôi: “Trên đỉnh Phiêu Miểu phía trước có biệt viện Thanh Lương Đài của ta, trong một tháng ta thường ở lại đó khoảng mười ngày, bây giờ nhờ vị cô nương này chở ta tới đó cũng tốt.”

    Tôi không kìm được hỏi: “Vậy còn Ngự Phong thì sao?”

    Y cười đáp: “Ngự Phong là ngựa già, biết rõ đường tới Thanh Lương Đài, đợi sau khi ăn uống no say, nó sẽ tự khắc tới đó.”

    Tôi thoáng suy nghĩ, cười nói: “Vậy, xin chúc Vương gia thuận buồm xuôi gió.”

    Y cười hà hà một tiếng, ống tay áo rộng bị gió thổi nhè nhẹ tung bay, phong thái vô cùng tiêu sái. Y chăm chú nhìn tôi khẽ nói: “Nương tử có bằng lòng tiễn Thanh một đoạn, nhân tiện ngắm cảnh sắc ven sông không?”

    Tôi hơi do dự nhưng nghĩ tới những việc mà y đã làm cho mình, rốt cuộc không đành lòng cự tuyệt: “Cũng được!”

    Thế rồi Huyền Thanh bèn cầm lấy bọc đồ trên lưng ngựa, tung người nhảy lên chiếc thuyền nhỏ của thiếu nữ, lại kéo tôi xuống thuyền. Đó vốn là một động tác rất bình thường nhưng khi ngón tay chạm vào lòng bàn tay y, tôi cảm thấy tay y rất ấm áp và khô ráo, những mạch máu dưới làn da đang nhẹ nhàng máy động. Còn bàn tay tôi, lúc này lại đang lạnh giá và ẩm ướt.

    Tôi và y một người ngồi ở đầu thuyền, một người ngồi ở đuôi thuyền, nữ tử chèo thuyền thấy vậy liền không vui, nói: “Hai người vốn quen biết nhau, một người ngồi đầu thuyền, một người ngồi cuối thuyền thế này, đợi lát nữa nói chuyện với nhau, ta đứng giữa sẽ khó xử lắm.”

    Huyền Thanh bật cười, nói: “Cô nương nói phải lắm! Vậy giờ tại hạ tới đuôi thuyền, nương tử không có ý kiến gì chứ?”

    “Nương tử?” Thiếu nữ đó đưa mắt nhìn bộ đồ ni cô trên người tôi, tò mò hỏi: “Trông bộ dạng cô thì rõ ràng là ni cô trong chùa Cam Lộ, sao y lại gọi cô là nương tử thế?”

    Tôi thoáng ngượng ngùng, đành nói: “Ta là người để tóc tu hành.”

    Thiếu nữ đó khẽ “ồ” một tiếng, giật mình hiểu ra, vỗ tay nói: “Đúng rồi, mẹ ta là người xuất gia, do đó mọi người đều gọi bà ấy là ni cô hoặc gọi pháp hiệu Mạc Ngôn. Còn cô thì chỉ là người để tóc tu hành.”

    Tôi có chút kinh ngạc, nhìn thiếu nữ đó, hỏi: “Mạc Ngôn là mẹ cô sao?” Rồi lại nhìn kĩ một chút, thiếu nữ này tuy cơ thể còn chưa phát triển hoàn toàn nhưng những đường nét trên khuôn mặt thì giống hệt Mạc Ngôn.

    Thiếu nữ đó khẽ gật đầu, mừng rỡ nói: “Đúng thế, cô biết mẹ ta sao?”

    Tôi gật đầu, đáp: “Bà ấy từng chiếu cố cho ta rất nhiều.” Thiếu nữ ngưng tay chèo, tò mò nhìn tôi, hỏi: “Mẹ ta nói có một ni cô tên là Mạc Sầu, thân thế rất thê thảm, đáng thương, chính là nói tới cô đúng không?” Tôi không biết phải trả lời thế nào, thoáng cảm thấy lúng túng, thiếu nữ đó đã lại nói tiếp: “Ta thấy cô mặt mày vàng vọt, nhất định là ăn không được no, ngủ không được yên, chẳng trách mẹ ta lại nói cô đáng thương.”

    Tâm tư của thiếu nữ hết sức đơn thuần, cho rằng ăn không được no, ngủ không được yên đã là điều đáng thương nhất. Cô bé đâu biết trên thế gian này còn vô số những nỗi đau khổ khác khó mà miêu tả bằng lời.

    Thế nhưng Mạc Ngôn nói tôi đáng thương thì quả đúng là sự thực. Bà ta tuy cũng ở trong cửa Phật nhưng có con gái ở gần bên cạnh, thường xuyên có thể gặp gỡ. Đâu giống như tôi, ngoài bức tranh trong tay ra, đời này kiếp này e là chẳng còn cơ hội gặp lại đứa con gái duy nhất nữa, cũng chẳng thể nghe tiếng nó khóc, cười, hai bên như người xa lạ.

    Thiếu nữ nói xong thì không suy nghĩ nhiều thêm. Lại tiếp tục chèo thuyền. Nhưng lúc này tôi đã bị khơi dậy nỗi sầu muộn trong tim, khó mà bình tâm lại được.

    Huyền Thanh ngồi bên tôi, khẽ cất tiếng hỏi: “Mẹ của cô ấy có phải là người vừa cùng lau sàn với nàng không?” Tôi khẽ gật đầu coi như trả lời. Vẻ ưu sầu sau nháy mắt đã bao trùm lên đôi mắt vốn luôn ôn hòa kia, y nhẹ nhàng cất tiếng: “Nàng gầy đi nhiều quá, hôm nay ta thấy nàng phải lau sàn vất vả, ngày nào nàng cũng phải làm việc nặng như thế sao?”

    Tôi khẽ lắc đầu, đáp ngắn gọn: “Không.”

    Thiếu nữ kia đứng bên cạnh nói chen vào: “Cô nói là lau sàn trong đại điện sao? Đó là công việc để phạt người ta khi làm sai chuyện gì, vất vả lắm. Mẹ ta có kể, nơi đó phải lau mất nửa ngày trời, lau xong xương cốt toàn thân đều như rã rời”, sau đó lại liếc qua Huyền Thanh. “Ta nghe mẹ ta nói, Mạc Sầu là người mới tới, đám ni cô kia thường xuyên ức hiếp cô ấy, mỗi ngày đều bắt cô ấy phải đi cắt cỏ và giặt rất nhiều quần áo, vất vả vô cùng.”

    Huyền Thanh nhìn tôi bằng ánh mắt đầy vẻ xót thương. “Tại sao không nói với ta? Tại sao không có người nào giúp nàng chủ trì công đạo, để nàng bị ức hiếp thế này?”

    Tôi cúi đầu, tâm trạng dần trở nên bình tĩnh. “Là ta cam tâm tình nguyện.” Sau đó lại thản nhiên ngước mắt nhìn y. “Sống trong chùa Cam Lộ tuy vất vả nhưng không còn những sự minh tranh ám đấu, ta vì chán ghét cuộc sống trong cung nên mới tình nguyện đi tu hành. Huống chi…” Tôi khẽ nói: “Một khi thân thể mỏi mệt, ta sẽ không còn tâm tư suy nghĩ tới những nỗi đau khổ trước đây nữa. Do đó, ta cam lòng như vậy.”

    Trong mắt Huyền Thanh ánh lên những tia thấu hiểu, kèm với đó là sự đau đớn cố kìm nén, tựa một phiến lá cây hay thứ gì đó giữa tảng hổ phách long lanh. Ở khoảng cách rất gần, tôi đột nhiên phát giác, đôi mắt của y không có màu đen bình thường, mà hơi nhạt hơn một chút, mang theo đôi nét ôn hòa ấm áp của hổ phách.

    Y nói: “Có thể tìm được sự bình tĩnh như thế trong nỗi vất vả, ấy cũng là điều tốt. Nhưng đáng sợ nhất là bị lún sâu vào đó, không tự rút mình ra được.”

    Một làn gió thổi qua mái tóc tôi, mang tới cảm giác hơi ngứa ngáy. Tôi ngẩng đầu, nhìn bầu trời xanh biếc, mỉm cười nói: “Hiểu được thì rất dễ nhưng muốn làm được, quả thực khó vô cùng.”

    “Vậy…” Những tia nắng nhuốm màu non nước chiếu lên khuôn mặt Huyền Thanh, càng làm tôn lên những đường nét mềm mại, y ôn tồn nói: “Lúc này hãy cùng ngồi với nhau ở đây, ngắm mây trên trời, nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im thôi, hưởng thụ sự bình yên trong khoảnh khắc ngắn ngủi này.”

    “Cùng ngồi với nhau ở đây, ngắm mây trên trời, nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im…” Tôi thấp giọng lẩm bẩm.

    “Phải!” Giọng y chắc nịch mà hiền hòa, tựa như một làn gió mềm mại mang theo đầy hơi nước bốc lên từ dưới lòng sông. “Lúc này, ta chỉ muốn cùng nàng như vậy.”

    Tôi lẳng lặng cụp đôi hàng mi, sự bình tĩnh và hoang mang trong lòng đan xen, tựa như những gợn nước lăn tăn trên mặt hồ, dần trở nên bình lặng. Vô số tia nắng rạng rỡ phản chiếu từ dưới nước lên thuyền, tự đáy lòng tôi thầm thở dài cảm thán, nếu quãng đời về sau của tôi có thể thường xuyên bình lặng như khoảnh khắc này đây, lại có một phương hướng về kết quả cố định như dòng nước chảy về đông này, vậy thì thực tốt biết mấy.

    Tôi và y ngồi im lặng bên nhau, cùng nhìn về một khoảng đất trời, trong lòng tràn ngập sự bình yên.

    Thiếu nữ chèo thuyền cất tiếng cười vang như chuông bạc. “Cổ nhân nói đúng lắm, tu mười năm mới được ngồi chung thuyền, tu trăm năm mới được nằm chung gối. Hai người đã ngồi chung thuyền với nhau rồi, sao lại không trò chuyện gì thế? Ta mặc kệ hai người, giờ ta hát đây, hai người đừng chê ta hát khó nghe nhé!”

    Tu mười năm mới được ngồi chung thuyền, tu trăm năm mới được nằm chung gối.

    Tôi bất giác sững người, trước đây tôi đã từng nghe nói tới những điều này rất nhiều lần, cũng chẳng mấy để tâm, thỉnh thoảng còn mang ra trêu người khác, thế nhưng lúc này đột nhiên nghe thấy, liền giống như tham thiền, cúi đầu tỉ mỉ ngẫm nghĩ ý tứ bên trong, tựa như giữa màn đêm tối đen mờ mịt bỗng bắt gặp ánh sáng lóe lên ở phía chân trời. Trong khoảnh khắc hết sức ngắn ngủi đó, rõ ràng có thứ gì đó sáng rực lên, nhưng khung cảnh thì vẫn đen tối mờ mịt, chẳng thể nhìn rõ thứ gì.

    Tôi lén đưa mắt nhìn Huyền Thanh, thấy y cũng lặng lẽ cúi đầu, dường như đang suy nghĩ vấn đề gì đó, nét mặt thấp thoáng nét mừng vui, nhưng không mấy rõ ràng, rồi giọng nói của y chậm rãi vang lên: “Nói như vậy, ta và nương tử từng ngồi cùng thuyền với nhau hai lần, tức là kiếp trước đã tu hành được hai mươi năm rồi.”

    Tôi ngoảnh đầu qua một bên, nhìn mặt sông lăn tăn gợn sóng, nước sông tháng Chín cũng đã hơi lạnh, sự lạnh lẽo chầm chậm ngấm vào da thịt. Tôi khẽ nói: “Vương gia lại nói đùa rồi!”

    Thiếu nữ kia vẫn ngẩng cao đầu, hát đi hát lại bài hát vừa nãy. Nhưng cô bé dù sao cũng hãy còn nhỏ, không hiểu được ý vị bên trong, do đó trong lời ca chỉ toàn là tâm trạng vui mừng, khoan khoái, không có lấy nửa phần tương tư hay tình cảm nồng nàn.

    Giữa mối tâm tư nặng nề, tôi kỳ thực cũng không rõ mình tốt cuộc đang nghĩ gì, muốn nghĩ gì, đầu óc hết sức mông muội. Chỉ là trong sự mông muội ấy, tôi chợt nhớ ra rõ ràng, ngoại trừ mấy tháng triền miên hồi mới yêu đương, tôi chẳng khi nào ngày ngày tựa cửa trông chờ Huyền Lăng cả.

    Đỉnh Phiêu Miểu vốn ở rất gần với đỉnh Lăng Vân, nơi tọa lạc của chùa Cam Lộ, do đó chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã tới nơi.

    Huyền Thanh nhảy lên bờ, chỉ tay về phía tòa kiến trúc trên đỉnh núi. “Nơi này chính là Thanh Lương Đài, sau này nếu nương tử có việc gì cần giúp đỡ, cứ sai người tới Thanh Lương Đài là được. Thanh nhất định sẽ cố hết sức.”

    Tôi mỉm cười, khom người nói: “Đa tạ! Được nhìn thấy tranh vẽ Lung Nguyệt là ta đã cảm kích bất tận rồi, không còn mong cầu gì hơn.”

    Thân thể Huyền Thanh được bao trùm giữa cảnh sắc nước non, lại càng toát ra vẻ xuất trần, thoát tục. “Ta nói như vậy kỳ thực còn vì có chuyện muốn nhờ nương tử giúp đỡ, mùng Sáu tháng sau là ngày thôi nôi của Lung Nguyệt, có việc này nương tử nhất định phải giúp Thanh một tay.”

    Tôi hơi ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì vậy?”

    Y lấy từ trong bọc đồ ra rất nhiều thứ vải, có vải đoạn màu tím, vải gấm màu đỏ, vải lụa màu xanh biếc, muôn màu muôn vẻ, rồi đưa hết cho tôi. Thấy tôi tỏ vẻ khó hiểu, Huyền Thanh mỉm cười giải thích: “Mùng Sáu tháng sau là ngày thôi nôi của Lung Nguyệt, ta thân là thúc thúc của nó, tất nhiên phải tặng ít quần áo làm quà, đáng tiếc thợ may trong Thanh Hà Vương phủ tay nghề kém lắm, đành phiền nương tử giúp đỡ thôi.”

    Y nói rất tự nhiên và khách sáo, tôi nghe mà xiết nỗi mừng vui, cơ hồ không thể tin nổi, đôi tay thì vì kích động mà không ngừng run lẩy bẩy, vội hỏi: “Thật thế sao? Ta có thể tự tay may quần áo cho Lung Nguyệt sao?”

    Trong câu trả lời bình thản của y toát ra một vẻ chắc nịch: “Nàng là mẫu thân của Lung Nguyệt, quần áo nàng may tất nhiên là hợp với nó nhất rồi. Mà Lung Nguyệt là con gái nàng, nếu có thể mặc quần áo nàng tự tay may, nhất định cũng sẽ rất thích.”

    Tôi vô cùng cảm kích, do dự hỏi: “Nhưng các vương công quý tộc ắt sẽ đưa tới rất nhiều quần áo làm quà mừng, quần áo ta may liệu Lung Nguyệt có được mặc không?”

    Trong mắt ánh lên những tia dịu dàng ấm áp, Huyền Thanh mỉm cười, nói: “Điều này thì nàng yên tâm, ta đã nói với Kính Phi rồi, trong ngày thôi nôi, Lung Nguyệt nhất định sẽ mặc quần áo mà nàng may.” Sau đó y lại lấy từ trong tay áo ra một mảnh giấy nhỏ, nói: “Trên này có ghi lại cỡ người của Lung Nguyệt, hai ngày trước lễ thôi nôi, ta sẽ đích thân đến lấy quần áo, vẫn sẽ đợi nương tử ở chỗ này.” Thoáng ngừng lại một chút, y ôn tồn nói tiếp: “Mọi việc xin phiền nương tử, đến lúc đó Thanh tặng quà vào cung chẳng qua là mượn hoa dâng Phật mà thôi.”

    Tôi cẩn thận ôm lấy những loại vải kia vào lòng, tựa như đang ôm Lung Nguyệt bé bỏng của tôi, vô cùng kích động.

    Huyền Thanh ngoảnh đầu qua, hỏi thiếu nữ kia: “Xin hỏi, ta nên xưng hô với cô nương thế nào đây?”

    “A Nô.” Thiếu nữ nở nụ cười tươi, đáp: “Mọi người ở đây đều gọi ta là A Nô.”

    Huyền Thanh khẽ mỉm cười, móc ra một ít bạc vụn, đặt vào tay A Nô. “Vậy, A Nô, phiền cô nương đưa vị nương tử đây quay về đi.”

    A Nô gật đầu, dùng sức đẩy mạnh cây sào trúc. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại, Huyền Thanh vẫn đứng lặng lẽ trên bờ, bóng hình càng lúc càng xa rồi dần biến mất hẳn.

    Khi tôi quay về, Mạc Ngôn vừa khéo cũng đang ở phòng tôi, bà ta khẽ cất tiếng hỏi: “Sao lại ra ngoài lâu thế? May mà đám người Tịnh Bạch không phát hiện ra, ta đã giúp cô lau sạch Cẩn Thân điện rồi.” Sau đó lại hơi cau mày hỏi tiếp: “Sao cô lại theo một nam nhân ra ngoài lâu thế?”

    Tôi xúc động nói: “Cảm ơn bà!”, sau đó lại thấp giọng nói tiếp: “Người đó là thúc thúc của con gái ta.”

    Mạc Ngôn khẽ “ồ” một tiếng, lập tức lộ vẻ thấu hiểu, không hỏi han gì thêm. Tôi mỉm cười, nói: “Hôm nay ta vừa gặp con gái A Nô của bà đấy!”

    Bà ta bất giác “a” lên một tiếng, thoáng ngượng ngùng, lại có chút đắc ý: “Đã sắp trổ mã thành một vị đại cô nương rồi, vậy mà vẫn phải ở bên ngoài chèo thuyền mưu sinh, có điều tay làm hàm nhai cũng tốt.”

    Tôi cười, nói: “Chừng hai năm nữa thôi là bà phải tính đến chuyện tìm nhà thông gia rồi.”

    Mạc Ngôn nghiêm mặt nói: “Con gái ta chẳng cần gả cho lũ nam nhân thối tha để bị chà đạp, cứ sống một đời thanh tịnh là được rồi.”

    Tôi ngạc nhiên nói: “Tuy bà nghĩ như vậy đành nhưng A Nô đang tuổi thanh xuân, nó chưa chắc đã chịu đâu.”

    Mạc Ngôn khẽ lắc đầu, nói: “Về mặt này, con gái ta nhìn còn thấu triệt hơn ta nhiều.”

    Tôi và bà ta trò chuyện thêm vài câu, sau đó liền nói lời từ biệt.
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 12: Ơn mẹ cha
    Đến đêm, tôi đặc biệt dặn dò Cận Tịch phải thắp cả đèn dầu và nến, khoác lên người một chiếc áo ngoài, tinh thần phấn chấn chuẩn bị cắt vải may vá. Thế nhưng vừa mới đưa nhát kéo đầu tiên, tôi đã sinh lòng do dự, ngẩn ngơ suốt một hồi lâu.

    Cận Tịch nói: “Nương tử xưa nay vốn chẳng thua ai về tài may vá, sao lúc này lại do dự không cắt nổi một nhát kéo như vậy?”

    Tôi thoáng ngượng ngùng, đáp: “Ta chỉ sợ mình chẳng may cắt nhầm rồi không thể may cho Lung Nguyệt một chiếc áo đẹp nhất.”

    Cận Tịch cười, nói: “Nương tử là mẹ ruột của Công chúa, chiếc áo do người tự tay may vốn đã là đẹp nhất rồi, người cứ yên tâm mà làm đi thôi.”

    Tôi chà nhẹ cây kim lên đầu, mỉm cười nói: “Có lẽ người làm mẹ nào cũng từng có tâm trạng như ta bây giờ.”

    Vừa khéo lúc này Hoán Bích đã giặt xong chỗ quần áo của ngày hôm nay, bước vào với thần sắc uể oải, nhìn thấy trên bàn có đặt mấy miếng vải màu sắc sặc sỡ, không kìm được tò mò hỏi: “Hôm nay Phương Nhược cô cô mới tới sao? Trước đây đều không phải ngày này mà”, rồi lại hỏi: “Lần này sao Phương Nhược cô cô lại đưa vải tới thế?”

    Bình thường khi Phương Nhược tới thăm tôi chỉ đưa tới một ít đồ điểm tâm hoặc đồ dùng thường ngày, chưa từng đưa vải tới, mà tôi cũng chỉ mang theo mấy bộ đồ cũ bên người, đều là đồ của tôi từ trước khi vào cung, quãng thời gian gần đây chưa từng mặc lại lần nào. Tôi tu hành trong chùa, để tránh bị chú ý nên tuy còn để tóc nhưng cũng giống như các ni cô bình thường, chỉ mặc loại áo nhà chùa màu xám.

    Tôi đang tập trung tinh thần vào việc may vá, tiện miệng đáp: “Là vải Lục Vương gia đưa tới để ta may quần áo cho Lung Nguyệt.”

    Hoán Bích lộ rõ vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Vương gia đã về rồi sao? Về lúc nào vậy?”

    “Ba ngày trước.” Tôi đáp: “Chắc là về rất vội, trông dáng vẻ bụi bặm phong trần lắm.”

    Hoán Bích chăm chú nhìn cuộn tranh mà tôi đã mở sẵn bên cạnh, giọng nói thấp thoáng nét mừng vui: “Đứa bé này là Lung Nguyệt Công chúa của chúng ta sao?”

    Cận Tịch cũng vui vẻ nói: “Đúng thế, trông đáng yêu quá chừng, đôi mắt này giống hệt mắt nương tử.”

    Ánh mắt tôi cũng bị thu hút qua đó, lại chăm chú nhìn một hồi lâu. “Kính Phi trông đẫy đà hơn một chút, chắc thời gian vừa qua sống rất thoải mái, đáng tiếc My Trang lại gầy đi!”

    Cận Tịch ghé đến bên cạnh, nói: “Cũng không rõ ràng lắm, kỳ thực từ sau khi bị cấm túc, Thẩm Tiệp dư chưa bao giờ hoàn toàn khỏe mạnh trở lại, cũng thực khổ cho cô ấy.”

    Hoán Bích khẽ nói: “Những nhân vật trong bức họa này sống động như thật, trình độ của người vẽ quả không tầm thường.”

    Tôi đưa mắt liếc qua, mỉm cười, nói: “Vương gia vốn nổi tiếng tài năng, trước đây, ta chỉ cho rằng y thi thư thông thuộc, cưỡi ngựa rất giỏi, không ngờ ngay đến việc vẽ tranh cũng là sở trường của y.”

    Hoán Bích thoáng ngạc nhiên, ngay sau đó đã lại mỉm cười bình thản. “Vương gia quả là có lòng.” Sau đó, nàng ta không nói gì thêm, xoay người ra ngoài lấy nước.

    Trong chiếc bình sứ trên bàn có cắm một bó hoa lau, tôi hái chúng bên bờ sông lúc quay về, không có mùi hương cũng không có màu sắc đẹp đẽ, chỉ nằm lặng lẽ trong bình, thoáng nhìn qua đã thấy yên bình, thoải mái.

    Cứ thế, mỗi đêm tôi đều thắp đèn may quần áo, rốt cuộc hai ngày trước sinh nhật của Lung Nguyệt, tôi đã may xong tất thảy mọi thứ. Mỗi món đồ tôi đều may theo kích thước mà Huyền Thanh đưa, gồm hai chiếc áo yếm may bằng vải gấm màu đỏ, lần lượt thêu hình bướm vờn hoa mẫu đơn và rồng phượng ngũ sắc; một chiếc váy dài màu xanh biếc may bằng gấm đoạn; một bộ quần áo bông thêu hoa mặc trong mùa đông; một bộ đồ mặc mùa thu may bằng vải gấm in hoa; còn một bộ xiêm y may bằng gấm Thục kẻ ô để Lung Nguyệt mặc dịp thôi nôi, dù rằng nó chưa chắc đã mặc; ngoài ra còn có mấy đôi tất và khăn quàng cổ may bằng vải đoạn màu tím.

    Tôi cầm từng thứ lên ngắm nghía kĩ càng, xem có chỗ nào bị lỗi không, chỉ sợ có sợi chỉ thừa nào đó làm tổn thương đến làn da non nớt của Lung Nguyệt.

    Sau khi tôi may xong, cả Hoán Bích và Cận Tịch đều hết sức mừng rỡ. Hoán Bích lo lắng nói: “Mấy món đồ này đều rất đẹp nhưng tiểu thư phải làm thế nào mới đưa được chúng vào cung đây? Thực là đau đầu!”

    Tôi nhìn mấy bộ quần áo đó không rời mắt, tươi cười đáp: “Ngày mai Vương gia sẽ đến đây lấy.”

    Hoán Bích buột miệng hỏi: “Tiểu thư một mình đi gặp Vương gia sao?”, suy nghĩ một chút, lại nói tiếp: “Bên cạnh Vương gia có một người hầu tùy thân tên A Tấn, nô tỳ từng quen biết từ hồi ở trong cung, đã lâu lắm không gặp rồi, chẳng rõ bây giờ y có khỏe không nữa.”

    Tôi mỉm cười chỉnh sửa lại rồi cẩn thận bỏ tất cả những thứ quần áo, khăn tất ấy vào trong bọc, nói: “Ta không biết người đó, có điều nếu muội muốn đi, ngày mai cứ đi cùng ta cũng được.”

    Hoán Bích tươi cười, nói: “Tiểu thư đã nói như vậy, nô tỳ tất nhiên phải đi chứ!”, sau đó lại cất giọng xót xa: “Hôm nay tiểu thư phải ngủ sớm đấy, mấy ngày vừa qua tiểu thư dốc lòng may quần áo cho Công chúa đã chẳng được ngủ ngon, đôi mắt thâm quầng rồi kìa, thân thể chắc cũng rất mệt, hôm nay nhớ ngủ sớm một chút nhé!”

    Tôi ngáp dài một cái, cười nói: “Muội nói đúng lắm, có điều vì Lung Nguyệt, dù phải chịu khổ thế nào ta cũng cam lòng.”

    Buổi trưa hôm sau, tôi tìm dịp rảnh rỗi tới bên bờ sông như ước hẹn. Khi tôi tới nơi thì Huyền Thanh đã ở đó rồi, lần này đi theo y quả nhiên có một người hầu, tuổi chỉ khoảng trên dưới hai mươi, vừa nhìn đã biết là người mẫn cán, tính cách cũng đôn hậu.

    Hoán Bích nhìn thấy y từ xa liền vẫy tay gọi: “A Tấn!”

    A Tấn nhìn thấy Hoán Bích cũng lộ rõ vẻ vui mừng, cười nói: “Lâu lắm không gặp Hoán Bích cô nương rồi, cứ ngỡ sống trong chùa Cam Lộ phải ăn uống kham khổ, không ngờ cô nương càng ngày càng xinh đẹp.”

    Hoán Bích khẽ phỉ phui một tiếng, đưa tay làm bộ định đánh y. “Càng ngày càng lẻo mép hơn rồi, đúng là đáng ghét!”

    Huyền Thanh thấy bọn họ cười đùa với nhau, liền nói với tôi: “Đây là A Tấn, tùy tùng theo ta từ nhỏ.”

    A Tấn nhìn thấy tôi, vội khom người thỉnh an: “Trước đây ở trong cung chưa được thỉnh an nương tử lần nào, nay xin bổ sung cả thể”, rồi lại cười, nói tiếp: “Trước đây, nô tài thường nghe Vương gia khen nương tử đẹp thế nào, tốt thế nào, cứ ngỡ là ngài nói quá, nay được gặp mới biết tuy Vương gia mồm miệng lợi hại nhưng so với nương tử thật sự ở bên ngoài, lời kể rốt cuộc vẫn có chỗ không bằng, thực chẳng rõ là vì nguyên nhân gì.”

    Hoán Bích đứng bên cạnh nghe thấy thế thì cười không khép được miệng, lát sau mới nói: “Tiểu thư đừng nghe lời y. A Tấn ỷ được Vương gia sủng ái, mồm mép láu lỉnh lắm!”

    A Tấn đưa tay chống nạnh, ngẩng đầu nói: “Nghe Hoán Bích cô nương nói kìa, vừa rồi nô tài có nói sai sao? Ở đâu lại có thị tỳ nói chủ nhân của mình không tốt nhỉ, đúng là chưa từng nghe nói bao giờ.”

    Hoán Bích vừa nôn nóng vừa tức giận, hậm hực giậm chân. Huyền Thanh vừa cười vừa cốc đầu A Tấn một cái thật mạnh. “Càng ngày càng thích nói linh tinh.”

    Tôi tươi cười rạng rỡ đưa bọc quần áo cho Huyền Thanh, nói một tiếng “cám ơn”, rồi lại quay sang nói với A Tấn: “Hoán Bích vì đoán ngươi sẽ tới nên mới xin ta cho theo tới đây, chẳng ngờ vừa mới gặp mặt, ngươi đã chọc cho muội ấy tức giận.”

    A Tấn vội vàng nhận lỗi: “Nô tài không hề biết việc này, như vậy xem ra lần này là nô tài không đúng rồi”, sau đó lại quay sang kéo mép áo Hoán Bích, nói: “Là ta không hiểu chuyện, hảo tỷ tỷ xin hãy tha cho ta lần này đi.”

    Hoán Bích gạt mạnh tay y ra, thẹn đỏ mặt nói: “Vương gia cũng đang ở đây mà, sao không dạy dỗ A Tấn một chút, để y càng ngày càng càn quấy”, rồi lại nói: “Chỗ quần áo này tiểu thư phải tốn rất nhiều công sức mới làm xong, phiền Vương gia đưa vào cung giúp.”

    Huyền Thanh khẽ nở nụ cười mỉm. “Tất nhiên không vấn đề gì.”

    Tôi lại lấy từ trong bọc đồ ra một quả cầu vải màu đỏ, bên dưới treo hai chiếc chuông bạc, liên tục phát ra những tiếng đinh đang, tươi cười nói: “Thứ này là dành cho Ngự Phong, Vương gia đeo vào cho nó đi.”

    Huyền Thanh cố ý cau mày, nói: “Qua việc này có thể thấy trong lòng nương tử, Thanh còn không so được với Ngự Phong. Nương tử có quà cho Ngự Phong nhưng lại chẳng có gì cho ta cả.”

    Tôi mím môi cười, nói: “Lần trước không phải Vương gia đã nói rồi sao? Ngự Phong đã học được hết điểm xấu của Vương gia rồi, như vậy ta tặng quà cho Ngự Phong cũng giống như tặng quà cho Vương gia vậy.”

    Nói cười được một lát, A Tấn chợt cất tiếng: “Chúng ta còn phải đi thăm lão Thái phi nữa đấy!”

    Sau đó, chúng tôi nhanh chóng từ biệt nhau.

    Về đến phòng, Phương Nhược sớm đã chờ tôi ở đó, thấy tôi quay về liền vội mỉm cười, đứng dậy. “Nương tử về rồi. Vì bận chuẩn bị lễ thôi nôi cho Công chúa, ta mới đến muộn mất hai ngày.”

    Tôi khẽ nói: “Không sao, mời cô cô ngồi.”

    Phương Nhược y lời ngồi xuống, ngắm nhìn tôi một lát, cười nói: “Hôm nay trông nương tử khí sắc tốt quá, vừa rồi đã đi dạo ở đâu sao?”

    Hoán Bích rót trà đưa tới, đáp thay: “Tiểu thư thấy hôm nay thời tiết khá tốt, liền ra ngoài đi dạo loanh quanh một chút thôi.”

    Thế rồi Phương Nhược liền chọn mấy việc liên quan tới lễ thôi nôi của Lung Nguyệt mà kể lại, chẳng hạn như phủ Nội vụ chuẩn bị thế nào, buổi lễ sẽ cử hành ra sao, các phi tần định tặng lễ vật gì. “Lễ vật của các nương nương tiểu chủ khác thì không có gì, chỉ toàn là gậy như ý, khóa vàng hoặc là nguyên bảo. Duy có Từ Tài nhân là đặc biệt nhất, chuẩn bị hẳn một bức tượng Quan Âm làm bằng bạch ngọc, đúng là rất có lòng.” Dừng một chút, bà ta lại nói tiếp: “Nương tử tu hành trong chùa Cam Lộ, tất nhiên không thể ở bên chăm sóc Công chúa, Từ Tài nhân tặng một bức tượng Quan Âm bạch ngọc như vậy, thứ nhất là thể hiện rằng lòng yêu con gái của nương tử tựa như sự từ bi phổ độ chúng sinh của Quan Âm, chưa từng ngừng nghỉ bao giờ, trong đó tất nhiên cũng có ý nói tới Kính Phi nương nương; thứ hai còn là để cầu phúc cho Công chúa. Bức tượng Quan Âm bạch ngọc ấy khá quý giá, Từ Tài nhân gia cảnh bình thường, hẳn đã phải hao phí không ít tâm sức.”

    Tôi thấy Phương Nhược chỉ nói tới một mình Từ Tài nhân, hiểu rằng nàng ta rất yêu quý Lung Nguyệt, không kìm được hỏi: “Từ Tài nhân là ai?”

    Phương Nhược mỉm cười, đáp: “Từ Tài nhân họ Từ, khuê danh Yến Nghi, vào cung trong đợt tuyển tú dịp này năm ngoái. Ban đầu cô ấy được phong làm thái nữ, bây giờ đã là tài nhân rồi.”

    Tôi thoáng trầm ngâm. “Từ Tài nhân rất đắc sủng sao?”

    Phương Nhược lắc đầu, đáp: “Ban đầu thì còn tốt nhưng bây giờ không đắc sủng lắm, cũng có thể nói là trầm lặng, không ai biết tới. Hiện giờ nổi bật nhất trong cung vẫn là An Dung hoa và Quản Thuận nghi… cũng chính là An Phương nghi và Kỳ Tần khi trước, ngoài ra chỉ có Khánh Quý nhân, Xương Tần và Dương Lương đệ là đang đắc sủng, ba người này cũng đều mới vào cung. Đặc biệt nhất phải kể đến Xương Tần Hồ thị, vị Xương Tần này không vào cung với thân phận tú nữ, mà được Hoàng thượng đích thân nhìn trúng trong bữa tiệc cung đình. Thân mẫu cô ta là con gái nhỏ của Vũ Dương Công chúa – em gái của Thái tông, cũng chính là Tấn Khang Quận chúa bây giờ. Tuy là nhà chồng của Tấn Khang Quận chúa đã suy bại nhưng tính ra vẫn là thân thích của hoàng gia. Hơn nữa, Xương Tần thực sự rất xinh đẹp, khi mới vào cung còn được Thái hậu đặc biệt triệu kiến.”

    Tôi nắm chặt bàn tay, cười lạnh một tiếng: “Chúc mừng An Dung hoa và Quản Thuận nghi, lại được tấn phong rồi.”

    Phương Nhược hờ hững nói: “Quả là như vậy, chỉ trong một năm mà An Dung hoa liên tục được tấn phong, đúng là phong quang vô hạn.” Dừng một chút, bà ta lại nói tiếp rành rọt từng từ: “Huống chi bây giờ, Xương Tần đã có thai rồi.”

    Tôi bất giác cả kinh, hơi nheo mắt. “Xương Tần có thai rồi?” Ngay sau đó lập tức ý thức được rằng mình thất thố, tôi dần bình tĩnh trở lại, thử thăm dò: “Xương Tần có thân phận cao quý, hết sức bất phàm, có thai tất nhiên là việc tốt, sau này nếu sinh được công chúa hay hoàng tử, nhất định sẽ càng hiển hách.”

    Phương Nhược ngẩn ra, ngay sau đó đã hiểu được ý của tôi, bèn chậm rãi nói: “Nương tử yên tâm, Lung Nguyệt Công chúa tự khắc có người bảo bọc. Còn về cái thai của Xương Tần tiểu chủ, Hoàng thượng tất nhiên sẽ chú ý tới, không chỉ như vậy, tất cả mọi người trong cung cũng đều để tâm tới việc này, ngay cả mẹ ruột của Xương Tần tiểu chủ là Tấn Khang Quận chúa cũng thường xuyên vào cung chăm nom đấy!”

    Tôi chậm rãi nhắm mắt lại, cất giọng đầy ý vị sâu xa: “Đã được xem trọng như vậy, cái thai của Xương Tần nhất định sẽ không gặp vấn đề gì.”

    Phương Nhược ngẩng đầu nhìn trời, cười hờ hững, nói: “Điều này thì ai mà biết được. Chỉ bởi vì Xương Tần có thai, Hoàng thượng đã ba, bốn ngày liền không đi thăm Công chúa rồi, có điều, trong buổi lễ thôi nôi của Công chúa, Hoàng thượng nhất định sẽ tới.”

    “Đây là việc nằm trong ý liệu, có điều, đợi sau khi đứa bé của Xương Tần ra đời, Lung Nguyệt sẽ bị ghẻ lạnh.” Tôi buồn bã thở dài. “Đứa con gái không có mẹ ruột ở bên, lúc nào cũng phải chịu thiệt thòi.”

    Phương Nhược tỏ ý không tán đồng, nói: “Ôn Nghi Công chúa được Đoan Phi nương nương nuôi nấng, Thục Hòa Công chúa có mẹ ruột là Hân Quý tần, vậy mà sự đãi ngộ của Thục Hòa Công chúa lại có phần kém Ôn Nghi Công chúa, và cả hai vị Công chúa đều không được Hoàng thượng yêu quý bằng Lung Nguyệt Công chúa.”

    “Có điều…” Đôi hàng lông mày của tôi dần cau lại. “Mẹ ruột của Lung Nguyệt là người bị Hoàng đế căm ghét. Do đó, thứ duy nhất mà Lung Nguyệt có thể dựa vào trong cung chính là sự yêu thương của phụ hoàng nó, chỉ khi nào sự yêu thương ấy không giảm bớt, nó mới có thể sống yên ổn trong cung.”Kỳ thực, ở trong cung, các phi tần tranh đoạt sự sủng ái của Hoàng đế là để bảo vệ bản thân mình, các con cái của hoàng đế cũng có khác gì đâu. Hoàng tử thì còn có thể dựa vào sự phấn đấu của bản thân để vươn lên, nhưng còn công chúa, tiền đồ và tao ngộ cả đời đều phải trông chờ vào sự thương yêu của phụ hoàng.

    Tôi đưa tay chống cằm, trầm tư suy nghĩ, mấy bông cúc vàng tươi cắm trong phòng tỏa mùi hương hơi hăng tựa như mùi thuốc, khiến đầu óc người ta tỉnh táo hơn. Tôi chậm rãi mở mắt ra, nở một nụ cười cực kì điềm đạm, nói: “Di vật của Thuần Nguyên Hoàng hậu, bây giờ đang do ai bảo quản?”

    Phương Nhược vạch từng ngón tay ra, vừa suy nghĩ vừa nói: “Những thứ quần áo hoặc đồ trang sức mà Thuần Nguyên Hoàng hậu yêu quý nhất đều ở chỗ Hoàng thượng, còn lại thì là do Hoàng hậu bảo quản, chỗ Thái hậu cũng có một ít.”

    “Vậy khi còn tại thế, Thuần Nguyên Hoàng hậu có thích thứ đồ trang sức nào kiểu như vòng đeo cổ không?”

    Phương Nhược tập trung suy nghĩ một lát rồi mới đáp: “Có. Nô tỳ nhớ Thuần Nguyên Hoàng hậu có một chiếc vòng ngọc phù dung được điêu khắc thành từ ngọc Dương Chi, ở chính giữa là một bông phù dung trắng tinh thuần khiết, hai bên phải trái đều là những cành lá nối liền với nhau, do chín miếng ngọc xanh điêu khắc thành. Lúc sinh tiền, Thuần Nguyên Hoàng hậu hết sức yêu thích chiếc vòng này, hình như nó là do Hoàng thượng chính tay ban tặng trong ngày đại hôn.”

    “Vậy, nếu muốn điêu khắc một chiếc vòng tương tự như thế, đại khái cần khoảng bao lâu?”

    Phương Nhược suy nghĩ một chút rồi nói: “Ngọc Dương Chi thuần khiết vốn đã khó tìm, dù có tìm được, muốn chế thành ít ra cũng cần nửa tháng mới xong.”

    Tôi bẻ lấy một bông cúc, chậm rãi ngắt từng cánh hoa, đôi chút dịch thể màu vàng nhạt dính vào lòng bàn tay tôi, tỏa ra mùi thơm thoang thoảng. “Nếu chỉ dùng loại ngọc trắng bình thường để điêu khắc một bông hải đường bốn cánh tương tự phù dung, cành lá thì dùng ngọc phỉ thúy thứ phẩm, liệu cần thời gian bao lâu? Ta chỉ cần hao hao giống, không yêu cầu giống hoàn toàn.”

    “Cho dù dùng vật liệu bình thường, lại điêu khắc theo lối đơn giản nhất, cũng cần ba, bốn ngày mới có thể hoàn thành được.”

    Tôi đứng dậy, mở hộp châu ngọc phủ đầy bụi, lấy từ bên trong ra những món đồ trang sức mà mình đã lâu không dùng tới, giao hết vào tay Phương Nhược, khẩn khoản nói: “Lung Nguyệt là đứa con gái duy nhất của ta, bây giờ nó sắp tròn một tuổi, ta là người làm mẹ, chỉ biết làm hết những điều có thể thôi. Xin cô cô hãy giúp ta cầm mấy thứ này tới phủ Nội vụ nhờ những người thợ ở đó làm nhanh giúp ta một chiếc vòng cổ như ta vừa nói, để Lung Nguyệt có thể đeo trong dịp thôi nôi, đây cũng coi như một chút tâm ý của người làm mẹ này.”

    Phương Nhược nhìn tôi bằng ánh mắt thấu hiểu, hồi lâu sau liền buông tiếng thở dài, giữ tay tôi lại. “Nương tử ở bên ngoài, đồ đạc cũng chẳng còn lại bao nhiêu, mời thợ không cần tiêu tốn nhiều như vậy.” Bà ta tiện tay cầm lấy một chiếc vòng ngọc phỉ thúy, nói: “Chỉ cái này cũng đủ rồi. Nương tử yên tâm, nô tỳ sẽ cố hết sức.”

    Tôi dặn dò thêm: “Ta vì mặc nhầm quần áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu mà mang tội, hy vọng Lung Nguyệt đừng giẫm lên vết xe đổ của ta.”

    Phương Nhược vỗ nhẹ lên bàn tay tôi tỏ ý an ủi, nói: “Nương tử yên tâm, nô tỳ hiểu mà!”

    Tôi đứng tựa người vào cánh cửa, dùng ánh mắt tiễn Phương Nhược quay về. Thấy bóng dáng bà ta dần biến mất giữa ánh hoàng hôn mờ mịt, sự lưu luyến trong lòng tôi bất giác càng nồng đậm hơn.

    Khi Phương Nhược tới đây lần nữa thì đã là một tháng sau. Theo lệ thường, bà ta nhận lấy chỗ kinh Phật mà tôi vừa chép xong, cười tủm tỉm, nói: “Nghe Thái hậu nói chữ của nương tử đã đẹp hơn nhiều rồi, chỉ là thiếu một chút sức sống, có lẽ vì đọc nhiều kinh Phật quá, tính tình nương tử trở nên quá mức điềm đạm.”

    Tôi nói: “Bản lĩnh nhìn chữ đoán người của Thái hậu quả là phi phàm.”

    Phương Nhược mỉm cười, nói: “Xương Tần có thai được ba tháng rồi, cái bụng cũng đã hơi nhô lên.”

    Tôi hờ hững “ừm” một tiếng, chậm rãi lần tràng hạt trong tay, tỏ ra chẳng mấy để tâm tới việc này. “Ai mà chưa từng có thai, việc này thì liên quan gì tới ta chứ?”

    Phương Nhược nói: “Việc này quả thực không liên quan gì tới nương tử, chỉ là cứ ngỡ cái thai của Xương Tần sẽ chia sẻ bớt sự quan tâm của Hoàng thượng tới mấy vị công chúa và hoàng tử, nhưng bây giờ người khác thế nào chúng ta tạm chưa nói tới, còn Lung Nguyệt Công chúa thì đắc sủng vô cùng, không ai có thể so sánh được.”

    Tôi mỉm cười, lật mở trang kế tiếp của cuốn Lăng Nghiêm kinh, khẽ nói: “Thực đã làm phiền Phương Nhược cô cô rồi!”

    “Nô tỳ chẳng qua chỉ làm theo sự dặn dò của nương tử mà thôi. Sau việc lần này, ngay đến Kính Phi nương nương cũng thán phục không thôi.” Phương Nhược chậm rãi kể lại: “Ngày mùng Sáu tháng Mười là ngày sinh của Công chúa, lễ thôi nôi được tổ chức ở Trọng Hoa điện, khách chủ đều vui cả. Công chúa mặc một chiếc áo kẻ ô may bằng gấm Thục, đáng yêu vô cùng, được Kính Phi nương nương bế ngồi phía bên trái Hoàng thượng. Khi Hoàng thượng bế Công chúa thì nhìn thấy chiếc vòng ngọc mà Công chúa đeo trên cổ. Việc này vốn khá mạo hiểm, ban đầu Kính Phi nương nương đã do dự suốt một hồi lâu, sợ Công chúa giẫm vào vết xe đổ của nương tử thì mang họa. Nô tỳ đã phải khuyên nhủ hết lòng, lại kể ra mưu trí của nương tử ngày trước, Kính Phi nương nương mới chịu nghe theo. Lúc Hoàng thượng nhìn về phía chiếc vòng ngọc kia, chắc Kính Phi nương nương đã hồi hộp vô cùng. Ai ngờ Hoàng thượng chỉ ngẩn ngơ nhìn một lát, nói là rất quen mắt nhưng không hề tức giận, chỉ hỏi Kính Phi nương nương chiếc vòng này là ở đâu ra. Kính Phi liền trả lời rằng hai ngày trước, khi chuẩn bị đồ trang sức cho Công chúa, phát hiện Công chúa còn chưa có vòng đeo cổ mới vội vã bảo phủ Nội vụ làm một chiếc. Nương tử biết đấy, khi Kính Phi nương nương vào cung thì Thuần Nguyên Hoàng hậu đã qua đời, Kính Phi nương nương tất nhiên chưa từng nhìn thấy di vật của Thuần Nguyên Hoàng hậu, mà chiếc vòng ấy chế tác cũng đơn giản, nhìn xa thì mới thấy hơi giống chiếc của Thuần Nguyên Hoàng hậu, còn nhìn gần thì khác hẳn. Hoàng thượng tất nhiên không nghi ngờ gì Kính Phi nương nương, chỉ cho rằng là trùng hợp mà thôi. Sau đó người liền sai Lý Trường đi lấy chiếc vòng kia của Thuần Nguyên Hoàng hậu tới, ban tặng cho Công chúa, còn đích thân giúp Công chúa đeo lên cổ. Mãi tới lúc ấy nô tỳ mới dám thở phào một hơi.”

    Những hạt châu tròn lẳn chậm rãi lướt đi trên đầu ngón tay tôi, tuần hoàn liên tục. Tôi nhắm hai mắt lại, ngửi mùi đàn hương trong phòng, khẽ nói: “Công chúa còn nhỏ tuổi, vẫn chưa biết gì, cho dù là một thứ đồ giống hệt, Hoàng thượng cũng sẽ không cho rằng Công chúa cố ý mạo phạm. Làm một vật có phần tương tự như thế, thứ nhất là để Kính Phi không bị liên lụy, thứ hai là biến việc hữu ý thành vô tâm, khiến Hoàng thượng càng dễ dàng tin tưởng hơn, ngay đến Hoàng hậu cũng không nghi ngờ gì.”

    “Sau việc này, ngay đến Kinh Phi nương nương cũng nói, có được chiếc vòng ngọc phù dung này của Thuần Nguyên Hoàng hậu, Công chúa giống như có thêm bùa hộ mệnh vậy.”

    Tôi hỏi: “Vậy ở trước mặt Hoàng thượng, Kính Phi nương nương xưng hô với Công chúa thế nào?”

    Phương Nhược hơi cúi thấp đầu, thấp giọng đáp: “Ở chỗ có người thì gọi là Lung Nguyệt, còn khi ở riêng với Hoàng thượng thì gọi khuê danh Oản Oản của Công chúa.”

    Tôi gật đầu, mỉm cười. “Kính Phi là người thông minh, hiểu rất rõ cách tự bảo vệ mình. Giao Công chúa cho nàng ấy nuôi dưỡng, ta rất yên tâm. Phiền cô cô khi quay về hãy dặn Kính Phi một câu, chiếc vòng ngọc phù dung ấy nên cất vào một chỗ, nếu để Công chúa thường xuyên đeo trên người, có thể sẽ gặp phải những rắc rối không cần thiết.”

    “Nô tỳ hiểu” Phương Nhược nở nụ cười hiền dịu. “Nương tử từ chỗ mình sẩy chân học được cách biến thua thành thắng, giúp Công chúa thu được rất nhiều lợi ích. Qua việc này có thể thấy tâm trí nương tử không hề vì đắm chìm trong Phật pháp mà trở nên trì trệ, đầu óc ngược lại còn có vẻ chu toàn hơn.”

    Tôi hờ hững nói: “Cô cô nói đùa rồi, ta chỉ là một kẻ thua trận, còn dám nói gì tới mưu trí nữa. Chẳng qua là ngã một keo, leo một nấc, ta có thể giúp được con gái mình chỗ nào thì cố gắng giúp chỗ đó mà thôi!”

    Phương Nhược khoan khoái nói: “Qua chiếc vòng ngọc phù dung này, đủ thấy địa vị của Công chúa trong lòng Hoàng thượng, dù sau này Xương Tần có mẹ tròn con vuông, đứa bé sắp ra đời kia cũng khó mà uy hiếp tới Công chúa được.”

    Trong lòng tôi cũng trào dâng một tia mừng rỡ, mỉm cười khẽ than: “Nuôi con tới trăm tuổi thì có đến chín mươi chín năm lo lắng, làm gì có lúc nào thật sự yên tâm. Dù sau này Lung Nguyệt được gả chồng, ta cũng sẽ lo lắng không biết phò mã liệu có thật lòng thật dạ với nó không.” Thoáng suy nghĩ một chút, tôi lại hỏi Phương Nhược: “Có một việc ta luôn muốn hỏi cô cô. Đoan Phi là con gái của danh tướng Tề Bất Trì, vừa vào cung đã thành quý tần; Hoa Phi có chỗ dựa là Nhữ Nam Vương, mới tiến cung đã được phong làm Hoa Tần; Hoàng hậu năm xưa càng chẳng cần phải nói, là biểu tỷ của Hoàng thượng, cháu gái của Thái hậu, mới vào cung đã được tôn làm Nhàn Phi. Nhưng Xương Tần là con gái của Tấn Khang Quận chúa, có quan hệ thân thích với hoàng gia, tại sao khi vào cung lại chỉ có danh phận quý nhân, bây giờ có thai rồi cũng chỉ được phong làm tần?”

    Phương Nhược thoáng suy nghĩ rồi trầm ngâm đáp: “Khi Hoàng thượng vừa mới đăng cơ, cả hậu cung và triều đình đều chưa ổn định, do đó cần phải lập mấy vị phi tử có địa vị thật cao. Bây giờ hậu cung về cơ bản đã đi vào quy củ, dù Xương Tần có đắc sủng đến mấy thì cũng phải tiến dần từng bước từ thấp đến cao. Vì việc này, khi tới thỉnh an Thái hậu, Tấn Khang Quận chúa đã từng không ít lần than vãn. Thế nhưng Tấn Khang Quận chúa cũng thật quá hồ đồ.” Phương Nhược lắc đầu, nói: “Bây giờ hậu cung là do Hoàng hậu chủ trì đại cuộc, thân thể Thái hậu không khỏe lắm, đâu còn có thể một lời chín đỉnh như năm xưa được.”

    “Vậy quan hệ của Xương Tần với các phi tần ở hậu cung thế nào? Có đặc biệt thân thiết với ai không?”

    “Dạ không.” Phương Nhược không chút nghĩ ngợi đáp ngay. “Xương Tần thân phận tôn quý, xưa nay luôn tự thị rất cao, không mấy khi qua lại với người khác, luôn độc lai độc vãng. Ngoài Hoàng hậu, Đoan Phi và Kính Phi ra, những người khác, cô ta đều không để ý tới.”

    Tôi đưa tay khẽ vuốt chiếc cằm ngày một gầy guộc của mình, trầm giọng hỏi: “Vậy với An Lăng Dung thì sao?”

    Phương Nhược chẳng buồn nhướng mày lên, nói: “Xương Tần mắt cao quá trán, sao thèm để ý đến An Dung hoa. An Dung hoa tuy có tước vị cao hơn Xương Tần nhưng cư xử với Xương Tần lại vô cùng cung kính, không dám ra vẻ kẻ cả chút nào.”

    Tôi cười lạnh, nói: “An Lăng Dung vốn chẳng có căn cơ gì trong hậu cung, trước mặt Xương Tần tất nhiên phải nhún mình rồi. Có điều, chỉ cần Xương Tần và An Lăng Dung không chung một giuộc, ta cũng không có gì phải lo lắng nữa.”

    Phương Nhược nghe thấy vậy thì trầm ngâm một lát, sau đó liền đứng dậy cáo từ: “Nương tử đã không có gì để lo lắng, như vậy nô tỳ cũng yên tâm hơn rồi.”

    Giữa vùng núi vắng mênh mang, mùa đông thường tới rất sớm. Như lệ thường, mùa đông năm nay lại tới giữa những chiếc lá cây rơi lả tả. Huyền Thanh cứ cố định mỗi tháng đến thăm tôi một, hai lần, để tránh bị nghi ngờ, cũng để tránh cho tôi khỏi gặp khó khăn với những lời đồn thổi, y thường xuyên đợi tôi bên bờ sông dưới chân núi khi tôi ra ngoài giặt giũ hoặc đi cắt cỏ.

    Ban đầu, thường là y bảo A Tấn đi nói với Hoán Bích thời gian y tới, sau đó đợi tôi ra ngoài gặp y. Dần dần, có lẽ là do hiểu nhau, tôi thường xuyên cảm giác được khi nào thì y sẽ tới, thế là bèn ra ngoài, những lúc đó, y đều chờ tôi sẵn bên bờ sông rồi.

    Thỉnh thoảng tôi hỏi tới việc này, y chỉ cười, đáp: “Ta thường xuyên rảnh rỗi không có việc gì làm, bèn đi lại loanh quanh bên bờ sông, đi lại nhiều rồi, tất nhiên biết được khi nào thì nương tử sẽ đi qua đây.” Nụ cười của y điềm đạm như làn gió, cắt ngang qua mặt sông, làm mặ nước nhẹ nhàng lay động. “Cũng có thể nói, ta thật sự thích chờ ở đây, nếu chờ được người mà mình muốn gặp thì thật sự là một niềm vui lớn vô cùng, còn có thể cảm thán sự diệu kỳ của duyên phận nữa.”

    Tôi khẽ cười trước gió. “Nói thực lòng, trong chuyện tình cảm nam nữ, ta không hề tin vào duyên phận. Xưa nay ta luôn nghĩ chỉ những người yếu đuối, không chịu cố gắng tranh thủ mới dùng hai chữ duyên phận để làm cái cớ, khi nào thân mật thì nói là duyện phận sâu dày, còn khi muốn kết thúc mối tình thì nói là duyên phận đã hết.”

    Huyền Thanh cười tủm tỉm, nói: “Nương tử cứ luôn khiến người ta phải sáng mắt lên như thế đấy, từng lời nói đều ẩn chứa chân lý sâu xa.”

    “Vương gia quá khen rồi!” Tôi nhìn về phía con thuyền đang dập dềnh trên sóng nước đằng xa, khẽ nói: “Có lẽ tới ngày nào thật sự không còn đường để đi nữa, ta mới chịu nói rằng, duyên phận đã hết rồi.”

    Huyền Thanh chậm rãi nói, khuôn mặt đầy vẻ ung dung, điềm đạm: “Nếu là trước đây, khi nương tử còn đắc ý, nương tử nói ra những lời này Thanh sẽ không hề cảm thấy lạ. Nhưng bây giờ nương tử đã theo Phật Tổ tu hành, chẳng lẽ vẫn chưa tin vào duyên phận sao?”

    “Phải.” Tôi hơi chỉnh lại vạt áo, nơi nội tâm trong veo và bình lặng. “Dù đã vào nơi cửa Phật, ta vẫn kiên trì với lòng tin của mình. Huống chi Phật Pháp tinh thông, ta cũng chưa từng hiểu được hết, chỉ mong Phật Pháp có thể làm lòng người yên ổn mà thôi. Còn về cái thuyết duyên phận, ta cảm thấy việc là ở người, sum vầy hay ly tán đều như thế cả, không cần thiết phải lấy hai chữ duyên phận ra làm cái cớ.”

    Huyền Thanh vỗ tay cười, nói: “Thanh cứ ngỡ tính tình của nương tử đã hoàn toàn bị kinh Phật làm mềm đi, không ngờ vẫn còn một mặt thế này. Những lời vừa rồi của nương tử thực chẳng có vẻ gì của một người xuất gia.”

    Hai bờ má thoáng ửng hồng, tôi rất nhanh đã cười, nói: “Tuy gần đây thường xuyên tiếp xúc nhưng dù sao ta cũng mới nghiên cứu kinh Phật được hơn một năm thôi, những chỗ bác đại tinh thâm còn chưa thể lĩnh ngộ, đã khiến Vương gia chê cười rồi.”

    Chúng tôi cứ thỉnh thoảng trò chuyện vài câu như vậy, y không hề nhắc tới nhi nữ tư tình, khiến một chút tâm tư thấp thỏm của tôi dần tan biến.

    Ngoài dịp cứ hai tháng một lần đưa tranh của Lung Nguyệt tới, phần lớn thời gian gặp gỡ, tôi và y đều trò chuyện với nhau về Phật pháp hay thi từ, thỉnh thoảng không có gì để nói thì chỉ ngồi cùng nhau ngắm cảnh. Cũng có lúc y tìm được cuốn sách hay nào đó, liền đem tặng cho tôi. Nếu khi nào không tiện gặp mặt, y sẽ bảo A Tấn nhân lúc Hoán Bích ra ngoài mà nhờ giao lại cho tôi. Cuộc sống trong chùa Cam Lộ vẫn luôn khô khan và cô độc, chỉ có những cuốn kinh văn và công việc hằng ngày, thỉnh thoảng trò chuyện với y là dịp mà tôi vui vẻ nhất, qua đó mà còn nhớ được một số bài thơ, bài từ thuở xưa, đây có lẽ là chút lạc thú duy nhất của tôi trong quãng đời tẻ nhạt còn lại.

    Những ngày tháng ở chùa Cam Lộ, tâm trạng tôi luôn tràn ngập sự tuyệt vọng và oán hận nặng nề, vô số chuyện cũ hoặc tươi đẹp hoặc u ám không ngừng xuất hiện trước mắt tôi. Tôi vẫn luôn cố gắng quên chúng đi, nhưng mỗi lần màn đêm buông xuống, những ngọn gió bên ngoài cửa sổ đều như than như khóc, kết hợp với những dòng ký ức ùa về, đè nặng lên trái tim tôi, hủy hoại tôi một cách tàn nhẫn mà dữ dội.

    Thế nhưng mỗi lần tới trước mặt y, tôi lại luôn giữ được tâm trạng bình lặng, bình lặng tựa mặt nước hồ thu lấp lánh những ánh dương ấm áp.

    Hoán Bích thường không yên tâm để tôi và Huyền Thanh ở riêng với nhau, sợ lại xuất hiện những lời đồn thổi như lần trước, thế là lần nào cũng đòi đi theo, nhưng thấy tôi và y chỉ tán gẫu bình thường, liền đứng ra phía xa, trò chuyện với A Tấn đôi câu.

    Cứ thế, chúng tôi lẳng lặng qua lại với nhau, hết sức thanh bạch.

    Mãi đến rất nhiều ngày sau, đã khá lâu rồi không thấy y tới, khi đi ngang qua dòng sông bên dưới chùa Cam Lộ, nghe thấy tiếng chim hót véo von, cảm nhận sự mềm mại và đắm đuối đặc biệt của làn gió trong dịp giao mùa xuân hạ, lại ngửi mùi thơm thoang thoảng của cỏ cây xung quanh, tôi đột nhiên ý thức được, Huyền Thanh đã hai tháng không tới đây rồi, dưới chân núi chỉ còn lại dòng sông vẫn lững lờ chảy mãi, A Nô vẫn tiếp tục hát khúc hát mà tôi từng nghe thấy trong lần đầu gặp mặt.

    Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…

    Tiếng ca của A Nô cao vút mà khoan khoái, lúc nào cũng hết sức vui tươi.

    Có lúc tôi không hiểu, liền hỏi cô bé: “A Nô, ngươi có biết ý nghĩa của khúc hát này không?”

    A Nô tươi cười rạng rỡ, đáp: “Tất nhiên là biết chứ!”

    Tôi cười, thở dài: “Khúc hát này nói về tình cảm nam nữ, ngươi tuy rằng biết nhưng lại chẳng hát ra được chút tình ý nào.”

    A Nô ngẩng cao đầu, tỏ ý không tán đồng, bàn tay mân mê bím tóc, tươi cười nói: “Biết được thì sao? Không hát ra được thì sao? Trên thế gian này có rất nhiều chuyện bản thân rõ ràng biết là không thể làm được. Huống chi ta còn chưa có người trong lòng, không hát ra được tình cảm nam nữ thì có gì là kỳ lạ đâu.”

    Tôi vẫn tiếp tục nghe khúc tình ca đó bằng giọng hát vui vẻ của A Nô, trong lòng chợt trào dâng nỗi cô độc tột cùng. Bên cạnh tôi, Hoán Bích cũng thở dài, nói: “Vương gia đã lâu lắm rồi không tới, đến một người để nói chuyện cũng không còn nữa rồi.” Nghe giọng của cô nàng cũng đầy vẻ cô đơn.
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 13: Tuyệt đại giai nhân
    Khu vực quanh chùa Cam Lộ đã dần trở nên quen thuộc với tôi, tôi bắt đầu đi xa hơn một chút trong những lần cắt cỏ.

    Có lúc Tịnh Bạch cau mày, trách mắng tôi: “Đừng có lười nhác, tưởng mình còn là lá ngọc cành vàng như trước sao? Đi cắt cỏ nhớ đi xa một chút!”

    Thế là ngay cả đỉnh Lăng Vân hay hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, tôi cũng thường hay lui tới.

    Chỉ duy có đỉnh Phiêu Miểu, nơi có biệt viện Thanh Lương Đài của Huyền Thanh là tôi nhất quyết không tới bao giờ. Không phải bởi nguyên nhân gì khác, chỉ là vì khi tôi trèo lên cao, nhìn thấy Thanh Lương Đài tường xanh ngói đỏ ở phía xa, tâm trạng liền trở nên bình yên khó tả, cảm thấy chỉ cần nhìn xa như vậy là được. Một khi lại gần, trong lòng tôi liền thấp thoáng trào dâng cảm giác sợ hãi.

    Hôm ấy, tôi tới hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, nơi đây đường hẹp cây nhiều, cành lá rậm rạp, những bông hoa dại mọc lác đác giữa bụi cỏ, thoang thoảng hương thơm, tôi nhất thời nhìn mà say đắm, liền bước vào sâu trong khu rừng, nơi mình chưa từng đặt chân tới. Chỉ thấy xung quanh là một vùng xanh biếc, hoàn toàn che hết ánh mặt trời nóng nực, văng vẳng đâu đây còn có tiếng chim hót véo von, vui tai vô cùng, thời tiết tháng Năm cũng theo đó mà trở nên mát mẻ. Càng vào sâu trong núi lại càng xuất hiện nhiều mạch suối, không khí trở nên sảng khoái, dễ chịu hơn, toàn thân tôi không có chỗ nào là không thoải mái.

    Đi tới giữa rừng, một con đường ruột dê lát đá cuội hiện ra trước mắt, chẳng biết dẫn về nơi nào, dường như đang mời gọi người ta đi tiếp. Men theo đó mà đi, chỉ thấy có mấy ngôi nhà cũ quây quần một chỗ, màu sắc ban đầu của tường ngói sớm đã bị gió núi xóa nhòa, chỉ còn lại một vẻ cũ kĩ, hòa vào màu xanh biếc của khung cảnh xung quanh, không có lấy một chút sinh khí, cũng chẳng có gì bắt mắt.

    Đi tới gần, tôi thấy trên cổng của khu nhà đó có một tấm biển nhỏ, sơn vàng quá nửa đã bị bong tróc, thêm vào đó, lúc này sắc trời u ám, phải nhìn một lúc lâu tôi mới nhận ra đó là ba chữ lớn “An Tê Quán”.

    Tôi nhất thời tò mò, lại cảm thấy mồm miệng khát khô, thầm nghĩ cánh cửa gỗ màu xám kia đang khép hờ, hẳn là có người ở trong. Thế là tôi bèn đưa tay đẩy khẽ, cánh cửa “két” một tiếng mở ra.

    Xuất hiện trước mắt tôi là một chiếc sân nhỏ cùng một gian chính đường kiểu dáng bình thường, sau chính đường là sân giữa, sau nữa lại có ba gian thiền phòng nhỏ, tất cả đều vô cùng sạch sẽ, chỉnh tề. Điều đáng chú ý là ở nơi đây, giữa những lùm cỏ xanh biếc có một nguồn suối từ giữa khe đá chảy ra, hết sức thú vị. Quanh sân trồng đầy những cây ngô đồng nhỏ, khiến khung cảnh càng trở nên thanh tịnh và đẹp đẽ.

    Giữa rừng tĩnh lặng, gió mát vi vu thổi tới khiến tôi không khỏi cảm thấy hơi lành lạnh, thế là không còn khát như trước nữa.

    Một giọng nói dịu dàng, điềm đạm chợt vang lên: “Cô đang tìm ai sao?”

    Tôi nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy một nữ tử ăn mặc theo lối đạo cô đang đứng giữa ánh ráng chiều, tay xách một thùng nước, lẳng lặng nhìn tôi.

    Vì đứng ngược sáng nên tôi không thể nhìn rõ dung mạo bà ta, chỉ cảm thấy giọng nói của bà ta rất ôn hòa và động lòng người. Tôi biết mình tự tiện tiến vào thế này là vô cùng thất lễ, liền vội khom người, áy náy cười, nói: “Ta khát nước quá, do đó mới mạo muội vào đây định xin miếng nước.”

    Bà ta nghe vậy liền khẽ nở nụ cười, vẫy tay nói với tôi: “Nước ở đó là nước lã, không uống được đâu. Theo ta vào đây đi, để ta lấy nước cho cô.” Tôi vội vã cảm tạ rồi mới đi tới bên cạnh bà ta.

    Đi tới gần, tôi mới thấy đạo cô này chỉ chừng xấp xỉ bốn mươi tuổi, trông không đến mức quá diễm lệ nhưng khuôn mặt lại rất thanh tú và điềm đạm, còn có mấy phần quen thuộc. Từ trong đôi mắt của bà ta toát ra một vẻ dịu dàng, uyển chuyển khó mà diễn tả bằng lời, tựa một bài Tống từ tinh tế nhất. Lúc này sắc trời đang tối dần, ánh hoàng hôn lập lòe chừng như sắp tắt đến nơi. Tấm dung nhan đột nhiên xuất hiện của bàa tựa một vầng trăng sáng treo cao trên trời, chiếu xuống vô số tia sáng dìu dịu, lại như bông tuyết đầu tiên rơi xuống giữa trời mùa đông, thuần khiết, thanh tân.

    Tôi nhất thời cảm thấy ánh mắt mơ màng, mồm miệng khô khốc. Sự khô khốc đó không phải do cơn khát vừa rồi gây ra, mà là bởi tâm tư tôi đã không còn ở trong đầu mình mà dừng lại hết trên người bà ta, không sao dời đi được.

    Bà ta cười tủm tỉm, đưa cho tôi một chén nước, nói: “Uống đi, trà này vừa mới nguội, chính là lúc ngon nhất đấy!”

    Tôi vẫn còn đang ngơ ngẩn, chẳng đưa tay ra đón. Bà ta khẽ giục hai câu, tôi mới giật mình bừng tỉnh, ngượng ngùng nói: “Đã thất lễ rồi!”

    Bà ta khẽ lắc đầu, không trách cứ gì. Tôi vội đưa tay đón lấy chén nước, thầm tự trách mình, tôi không phải là một nam tử háo sắc, lúc ở trong cung cũng từng thấy đủ loại nữ tử xinh đẹp rồi, thậm chí có cả người diễm lệ tuyệt trần như Hoa Phi. Đạo cô trước mắt này không thể tính là mỹ nhân tuyệt sắc, nhưng lại có thể khiến người ta không kìm được, sinh lòng đắm say.

    Tôi thầm khen lạ, uống một ngụm nước rồi hỏi: “Không biết phải xưng hô với sư phụ thế nào?”

    Bà ta cười, ôn tồn nói: “Cứ gọi ta là Xung Tĩnh.”

    Xung Tĩnh? Tôi thầm ngơ ngẩn, cảm thấy hình như mình từng nghe thấy cái tên này ở đâu rồi. Mà điều khiến tôi nghi hoặc nhất là chùa Cam Lộ vốn thờ Phật, là nơi ở của các ni cô, tại sao ngay trong ngọn núi gần chùa Cam Lộ lại có một tòa đạo quán chẳng mấy nổi danh thế này?

    Xung Tĩnh, tôi cẩn thận suy nghĩ nhưng rốt cuộc vẫn không nhớ ra được từng nghe thấy cái tên này ở đâu. Thế nhưng, tôi biết rõ cái tên này rất quen.

    Đương nghĩ ngợi, bà ta chợt hỏi tôi: “Cô là ni cô ở chùa Cam Lộ sao?” Tôi khẽ gật đầu. Bà ta lại hỏi: “Cô là người mới tới à? Sao muộn thế này rồi mà vẫn còn ở bên ngoài?”

    Tôi thấp giọng đáp: “Dạ phải. Chỉ vì còn chưa cắt đủ cỏ, vãn bối mới ở lại bên ngoài này nhưng cũng chuẩn bị về ngay đây.”

    Bà ta khẽ nở nụ cười, trong mắt thấp thoáng một tia xót thương. “Thực vất vả cho cô rồi!”

    Tôi không muốn để người khác thương hại nên chỉ im lặng không đáp lời. Thấy bà ta chỉ có một mình, tôi bèn hỏi: “Sư phụ ở đây một mình sao?”

    Bà ta ngó nhìn xung quanh một chút, mỉm cười nói: “Ta ở cùng với một người thị nữ.”

    Tôi không khỏi thầm kinh ngạc, như vậy thực hiu quạnh quá, nhưng cũng không tiện hỏi bà ta sao lại ở đây, chỉ cúi đầu, lẳng lặng uống nước.

    Đương trò chuyện, cánh cửa gỗ chợt mở ra lần nữa, một giọng nói khẽ vang lên: “Úi chao, có người lạ ở đây sao?”

    Tôi ngoảnh đầu lại, nhìn thấy một người ăn mặc theo lối thị nữ, chắc hẳn chính là người thị nữ mà Xung Tĩnh vừa nhắc tới, bèn nói: “Đã làm phiền rồi!”

    Bà ta tuổi tác tương đương với đạo cô kia, đặt thứ đồ trong tay xuống, nở một nụ cười sảng khoái. “Thái phi còn không thấy bị làm phiền, sao ta có thể có cảm giác ấy được?”

    Tôi ngẩn ra, trong đầu như lóe lên một tia sáng. Vị đạo cô dáng vẻ hiền hòa trước mắt này được thị nữ gọi là “Thái phi”, nơi này lại ở ngay gần Thanh Lương Đài của Huyền Thanh, mà nhìn khí chất điềm tĩnh nơi khóe mắt bà ta còn không phải giống hệt với Huyền Thanh đó sao? Thứ khí độ cao quý kia, một đạo cô bình thường sao mà có được?

    Không ngờ đạo cô trước mắt tôi đây lại chính là Thư Quý thái phi, mẹ ruột của Huyền Thanh, người năm xưa từng làm chấn động kinh thành, đến bây giờ vẫn còn được vô số người trong cung nhắc tới.

    Xung Tĩnh, giờ tôi mới nhớ ra lúc xưa Huyền Lăng đã sắc phong cho Thư Quý thái phi làm “Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ”.

    Không ngờ vị Thư Quý thái phi năm xưa từng khiến sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son bây giờ lại sống trong một tòa đạo quán vắng vẻ thế này.

    Tôi nhất thời kinh hãi, ngẩn ngơ chẳng nói được gì, lát sau mới buột miệng thốt lên: “Thư Quý thái phi?”

    Bà ta hơi cau đôi mày ngài, nhìn tôi vẻ nghi hoặc. “Cô biết ta?”

    Nghe bà ta nói như vậy, tôi lại càng khẳng định phán đoán của mọi người.

    Trong lời đồn đại của mọi người và trong sự tưởng tượng của tôi, Thư Quý thái phi được tiên đế rất mực sủng ái nhất định phải là một nữ tử xinh đẹp vô ngần, rạng rỡ tựa vầng dương chính ngọ, nhưng đạo cô trước mặt tôi đây lại hết sức dịu dàng, tính tình điềm đạm như hoa cúc, hoàn toàn không có vẻ sắc bén của một nữ tử đã từng sống mấy chục năm ở nơi cung đình

    Tôi khẽ gật đầu, cung kính hành lễ. “Dạ phải! Bây giờ nên gọi người là Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ rồi.”

    Danh hiệu này là do Hoàng đế đích thân ban phong, không phải ai trong thiên hạ cũng biết. Lúc này tôi buột miệng nói ra, bà ta cũng đoán được điều gì, sau khi quan sát tôi hồi lâu bèn hỏi: “Cô là người từ trong cung ra?”

    Tôi thoáng ngượng ngùng, nhanh chóng đáp: “Thái phi nói không sai.”

    Bà ta lặng lẽ đứng trước mặt tôi, khóe miệng thấp thoáng một nụ cười mỉm. Giữa nơi u ám, nụ cười ấy thực rạng rỡ vô cùng, khiến lòng người ấm áp. Lúc này trời đã tối hẳn, trên trời thấp thoáng những vì sao mịt mờ, đạo bào của Thư Quý thái phi bị gió núi thổi bay lất phất, tựa một bông hoa lê thuần khiết vô ngần, càng tôn lên thân hình yểu điệu tựa một tiên tử đang đứng ngắm trăng của bà ta.

    Tôi nhìn mà thầm chấn động, cơ hồ không mở mắt ra nổi. Bà ta kỳ thực không quá diễm lệ nhưng điểm động lòng người kia thì lại khó ai có thể so sánh. Tôi từ nhỏ đã tự phụ rằng dung mạo mình chẳng thua kém ai nhưng đứng trước mặt bà ta lại thấp thoáng có cảm giác tự thẹn kém người.

    Khí chất dịu dàng, linh động này thực sự vô cùng đặc biệt, có thể thu hút bất cứ người nào, tôi chưa từng được thấy ở bất kỳ ai khác trong cung. Thư Quý thái phi sống nơi thâm cung mấy chục năm mà khí chất không thay đổi, chẳng trách tiên đế lại thích bà ta đến mức đó, gần như chẳng để ý đến bất cứ nữ tử nào khác. Cũng khó trách mẫu thân của Kỳ Sơn Vương lại từng lén mắng bà ta là “hồ ly lẳng lơ”, nhưng đó kỳ thực không phải lẳng lơ, mà là một sự dịu dàng, ấm áp có thể khiến cả nữ nhân mê đắm.

    Bà ta nhìn tôi, cười, nói: “Thanh Nhi từng nói với ta, trong cung có một vị Hoàn Quý tần phụng chỉ tới chùa Cam Lộ tu hành, chắc hẳn chính là cô rồi.”

    Tôi có chút ngượng ngùng, đoạn khẽ đáp: “Quý tần đã là lối xưng hô của ngày xưa rồi, Thái phi cứ gọi vãn bối là Mạc Sầu.”

    “Mạc Sầu?” Bà ta thoáng trầm ngâm, cười hỏi: “Cô vốn họ gì?”

    Tôi đáp: “Dạ, họ Chân.”

    Bà ta nhìn mái tóc dài buông xõa qua vai của tôi, mỉm cười nói: “Vậy ta sẽ gọi cô là Chân nương tử.”

    Tôi nói: “Thái phi khách sáo quá rồi!”

    Thư Quý thái phi cười, dịu dàng nói: “Vừa rồi đúng là ta đã nhìn nhầm rồi, khí độ của Chân nương tử, những ni cô bình thường trong chùa miếu tất nhiên không thể nào có được, vậy mà ta nhất thời lại không thể nhận ra, thực sơ suất quá!” Nói rồi bà ta liền mời tôi ngồi xuống, chỉ tay về phía người thị nữ vừa rồi. “Đây là thị nữ hầu cận của ta, tên gọi Tích Vân”, sau đó lại bảo Tích Vân tới hành lễ.

    Tôi vội khiêm tốn nói: “Người hầu hạ Thái phi tất nhiên là cô cô, mà vãn bối bây giờ chỉ là thứ dân, sao có thể nhận lễ của một vị cô cô chứ.”

    Thái phi vội kéo tôi lại, nghiêm túc nói: “Giờ chúng ta đều không còn ở trong cung, hà tất phải giữ lễ số trong cung làm gì. Ta coi cô như vãn bối, mà Tích Vân là thị nữ của ta, hành lễ một chút cũng là việc nên làm.”

    Tôi nghe Thái phi nói năng thân mật như vậy thì cũng không tiện cự tuyệt, đành để im cho Tích Vân hành lễ. Tích Vân tính tình rất thẳng thắn, sảng khoái, cười hì hì nói với tôi: “Vừa rồi nghe Thái phi nói nương tử là ni cô trong chùa Cam Lộ, ta không khỏi giật nẩy mình, nghĩ thầm làm gì có ni cô nào xinh đẹp như vậy, nhất định là Thái phi nói dối ta.”

    Tôi thấy bà ta nói năng không hề câu nệ, không kìm được nhìn qua phía Thái phi. Quả nhiên Thái phi chẳng để bụng chút nào, cười nói: “Thị từ nhỏ đã lớn lên cùng ta, nói năng lúc nào cũng như vậy cả, nương tử đừng trách.”

    Tôi cười, nói: “Tất nhiên rồi. Vãn bối thực sự thích lối nói chuyện thẳng thắn như vậy, không mệt mỏi như ở trong cung.”

    Tích Vân đi tới gần tôi, tôi ngước mắt nhìn, bất giác cả kinh, đôi mắt của thị giống Thư Quý thái phi, đều có màu hổ phách. Tôi không kìm được, hỏi: “Mắt của hai người…”

    Thư Quý thái phi cười tủm tỉm nói: “Tích Vân giống ta, đều là người Bãi Di, do đó mắt của bọn ta không giống với người Hán các cô.”

    Bãi Di là một tộc nhỏ ở phía nam của Nam Chiếu, vốn tự hình thành một thể, hằng năm xưng thần triều cống Nam Chiếu. Năm Long Khánh thứ ba, tiên đế sai Phủ Viễn Đại tướng quân bình định Nam Chiếu, nhân tiện đạp bằng mấy tộc nhỏ phụ thuộcNam Chiếu như Bãi Di, Thương Nam, cuối cùng mấy tộc đó đều quy hàng, trở thành chư hầu của Đại Chu.

    Trong sách sử có viết Thư Quý thái phi là con gái của Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên, cũng coi như xuất thân thế gia thư hương, sao lại là người Bãi Di? Lẽ nào mẫu thân của Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di?

    Tích Vân thấy tôi nghĩ ngợi, bèn cười tủm tỉm, nói: “Chân nương tử, ta biết cô đang suy nghĩ chuyện gì. Cô nhất định đang nghĩ tại sao Thái phi lại là người Bãi Di đúng không?”Tôi bị đoán trúng tâm tư thì không khỏi có chút ngượng ngùng, không tiện giấu giếm, liền dứt khoát nói: “Trong Chu sử đâu có viết như vậy, rõ ràng nói Thái phi là thiên kim của Tri sự bình chương Nguyễn đại nhân…”

    Thư Quý thái phi thản nhiên nói: “Trước đây ở trong cung tất nhiên có nhiều điều kiêng kỵ, bây giờ nói ra cũng không sao. Nguyễn đại nhân là dưỡng phụ của ta, năm xưa tiên đế muốn ta vào cung thuận tiện hơn, do đó mới để ta nhận Nguyễn đại nhân làm dưỡng phụ. Ta quả thực chính là con gái Bãi Di, phụ mẫu đều là người Bãi Di chính gốc.” Bà ta thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ. “Non nước Bãi Di mới thực sự là cố hương của ta.”

    Nghe bà ta nói năng chân thành, không hề giấu giếm, tôi không khỏi thầm cảm động, bất giác thấy gần gũi với bà ta hơn rất nhiều.

    Thư Quý thái phi cười, nói: “Ta đã nói nhiều quá rồi, nương tử có lẽ cũng chẳng thích nghe. Đúng là con người ta già rồi thì thường hay nhiều lời.”

    Trong mắt bà ta ánh lên vẻ thương yêu. “Chỉ là vừa nhìn thấy nương tử, ta đã có cảm giác gần gũi, mong nương tử chớ trách.”

    Tôi vội nói: “Sao có thể chứ, được Thái phi thương yêu là niềm vinh hạnh của vãn bối.”

    Thư Quý thái phi cười tủm tỉm. “Trước đây, ta từng nghe Thanh Nhi nhắc đến nương tử mấy lần, lần nào cũng không ngớt lời khen. Khi đó, ta chỉ nghe rồi bỏ ngoài tai, bây giờ gặp rồi mới biết nương tử thực đẹp như tiên nữ ở trên núi tuyết A Nặc của người Bãi Di bọn ta.”

    Tích Vân cũng cười, nói: “Phải rồi, trước đây những người già trong tộc thường hay kể, tiên nữ trên núi tuyết A Nặc là người đẹp nhất trên thế gian đấy!”

    Tôi vội nói: “Thái phi cứ khen mãi như vậy, vãn bối thực chẳng biết giấu mặt vào đâu. Phong tư của Thái phi, Chân Hoàn cũng đã ngưỡng mộ từ lâu rồi.”

    Thái phi đưa mắt liếc qua, mỉm cười hỏi: “Chân Hoàn? Đây là tên của nương tử sao?”

    Tôi gật đầu cười, đáp: “Dạ, là khuê danh trước đây của vãn bối.”

    Thái phi gật đầu, quay sang nói với Tích Vân: “Ta đã nói rồi mà, tên của con gái người Hán là hay nhất. Chân Hoàn, nào có như ở Bãi Di, cái tên đều do cha mẹ tùy ý đặt.”

    Tích Vân pha trà mang tới, cười trách: “Thái phi đúng là, nương tử đã tới đây lâu như vậy rồi mà chẳng mời lấy một chén trà, còn bắt người ta ở ngoài hầu chuyện.”

    Thư Quý thái phi bật cười vui vẻ, đưa mắt liếc qua phía thị. “Phải rồi, phải rồi, là ta không đúng. Nhưng sao ngươi cũng chỉ đứng một bên chẳng làm gì vậy, còn không phải là thất lễ với khách sao?”

    Tôi thấy bọn họ nói cười thân mật, không hề phân chia chủ tớ, bất giác cảm thấy thật thân thiết, gần gũi vô cùng, nói: “Vừa rồi vãn bối khát nước, tùy tiện vào đây, Thái phi không những không trách tội, còn đích thân rót nước cho vãn bối, thực đã làm vãn bối tổn thọ rồi.”

    Tích Vân đưa cho tôi và Thư Quý thái phi mỗi người một chén trà, cười nói: “Trước đây ở Bãi Di, tên của Thái phi là Di Quang, còn tên ta là A Vân, cái tên Tích Vận này là về sau mới đổi.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Thứ cho vãn bối mạo muội, hình như trước đây vãn bối có nghe nói phương danh của Thái phi là…” Tôi cố sức suy nghĩ nhưng nhất thời nôn nóng không sao nhớ ra được.

    Thư Quý thái phi nói: “Là Yên Nhiên, Nguyễn Yên Nhiên.” Dừng một chút, bà ta cười, nói tiếp: “Ta vốn tên Di Quang, cái tên Yên Nhiên sau khi tới Đại Chu mới đổi, là do tiên đế đích thân đặt cho ta.”

    Tôi thấy bà ta tâm tư thẳng thắn, có gì nói nấy, ngay cả khuê danh cũng chẳng giấu giếm, không khỏi càng hào hứng, sinh lòng muốn kết giao. “Duyên phận giữa vãn bối và Thái phi đúng là không cạn, tạm chưa xét tới việc hôm nay tình cờ gặp mặt, vãn bối còn có một cây đàn tên gọi Trường tương tư, cũng chính là vật mà ngày trước Thái phi từng dùng.”

    Thư Quý thái phi “ồ” lên một tiếng, hai mắt đột nhiên sáng rực, mừng rỡ nói: “Thật thế sao?”

    Tôi gật đầu, đáp: “Lúc rời khỏi cung, vãn bối chỉ mang theo duy nhất cây đàn Trường tương tư đó, bây giờ đang để ở chùa Cam Lộ.”

    Thư Quý thái phi không kìm được cất lời cảm khái: “Ngày đó khi rời khỏi cung, ta đã để lại Trường tương tư và Trường tương thủ trong cung, chỉ bởi vì tiên đế đã qua đời ta có giữ lại hai thứ ấy cũng chẳng để làm gì. Không ngờ bây giờ Trường tương tư lại ở trong tay nương tử, chắc nương tử cũng là người tinh thông âm luật.” Bà ta nhìn tôi chăm chú. “Thoắt cái đã chia lìa hai vật ấy mười mấy năm, nếu nương tử bằng lòng, xin hãy mang nó tới đây một chuyến.”

    Tôi áy náy nói: “Vốn nên mang nó tới cho Thái phi xem, chỉ là mấy tháng trước, vãn bối gảy đàn không cẩn thận, đã làm đứt mất một sợi dây đàn…”

    Tôi hơi cúi đầu, thầm nghĩ Trường tương tư là vật mà Thư Quý thái phi yêu quý, mình nhất định sẽ bị trách móc mấy câu. Thế nhưng Thư Quý thái phi lại chỉ cười sảng khoái, hòa nhã nói: “Làm gì có ai gảy đàn mà không làm đứt dây đàn bao giờ? Nếu nương tử tin tưởng, chi bằng hãy mang nó tới đây cho ta xem thử, ta sẽ cố sửa lại xem.”

    Tôi cả mừng, vội vàng đứng dậy. “Như vậy thì thật tốt quá! Thái phi là chủ nhân cũ của Trường tương tư, tất nhiên biết rõ nên sửa thế nào.”

    Thái phi mím môi nói: “Tạm thời đừng cảm ơn ta vội, lối cài dây của Trường tương tư khác với những cây đàn bình thường, muốn sửa được ít nhất cũng cần vài ba tháng. Nếu thật sự không thể nối dây, ta phải bảo Thanh nhi về cung mang lông đuôi ngựa, Băng tuyết tàm ti và Kim ti tới đây, e là mấy thứ ấy đều không dễ tìm.”

    Tôi vội cười, nói: “Việc này giao cho Thái phi là vãn bối yên tâm rồi. Nếu thật sự không sửa được, vậy chỉ đành than tiếc là không thể nghe thấy tiếng đàn tuyệt diệu của Trường tương tư nữa thôi.”

    Thái phi mỉm cười, ánh mắt toát lên vẻ hiền từ vô hạn. “Vậy lần sau tới đây nương tử hãy ngồi lại lâu một chút, nhân tiện mang Trường tương tư tới luôn. Ta thực sự rất thích trò chuyện cùng nương tử đấy!”

    Đã lâu tôi không được nói chuyện thoải mái với người khác như vậy, do đó cũng rất mừng rỡ. “Thái phi đã có thịnh tình, sao vãn bối dám không tuân lệnh?”

    Lúc tôi quay về đến chùa Cam Lộ thì đã rất muộn, Hoán Bích và Cận Tịch đều nôn nóng không thôi nhưng lại không dám khua chiêng gióng trống ra ngoài tìm, đành đứng ngoài cửa, nghển cổ chờ tôi. Thấy tôi quay về, Hoán Bích mừng rỡ kéo tay tôi lại, đồng thời không kìm được oán trách: “Tiểu thư đi đâu vậy, mãi bây giờ mới quay về, làm người ta lo lắng chết đi được. Nếu tiểu thư còn chưa về, nô tỳ và Cận Tịch đành phải bẩm việc này với trụ trì, xin trụ trì cho người ra ngoài tìm tiểu thư thôi.”

    Cận Tịch đón lấy sọt cỏ trong tay tôi, dịu dàng nói: “Nương tử đi đường chắc cũng vất vả rồi, cơm canh đã được hâm nóng, nương tử mau vào ăn đi thôi!”

    Hai người bọn họ mang nước đến cho tôi rửa mặt rồi ngồi xuống cạnh tôi, nghe tôi kể lại mọi việc đã gặp trong ngày hôm nay.

    Cận Tịch hơi cau mày, trầm giọng nói: “Quả như lời nương tử nói, người nương tử gặp hôm nay chính là Thư Quý thái phi. Khi nô tỳ vào cung thì đã là năm Long Khánh cuối cùng, thành ra chỉ được gặp Thư Quý thái phi mấy lần. Thế nhưng phong thái của Thư Quý thái phi, bất cứ ai từng gặp, cả đời đều khó mà quên được.”

    Tôi dừng đũa, nghi hoặc hỏi: “Năm xưa Thư Quý thái phi phụng chỉ xuất gia theo đạo, sao lại tu hành ngay gần chùa Cam Lộ thế này, bà ấy đáng lẽ phải đến một đạo quán nào đó tu hành mới đúng chứ?”

    Cận Tịch đáp: “Thư Quý thái phi quả thực tu hành trong đạo quán, cũng chính là An Tề quán mà bà ấy hiện đang ở.” Cận Tịch hơi hạ thấp giọng: “Bởi vì Thái hậu nói tu hành cần thanh tịnh mới có thể tập trung, do đó bên cạnh Thư Quý thái phi chỉ có duy nhất một người thị nữ để sai bảo.”

    Hoán Bích không kìm được ngạc nhiên “úi chao” một tiếng, tôi vội dùng ánh mắt ra hiệu bảo nàng ta im lặng.

    Hoán Bích không dám nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn Cận Tịch, chờ nghe kể tiếp. Cận Tịch thở dài một tiếng, cất giọng đầy vẻ xót xa: “Trước lúc tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi là người đắc sủng nhất, gần như chiếm trọn sự sủng ái của tiên đế, không ai có thể sánh được. Có điều, tuy trên danh nghĩa bà ấy là con nuôi của Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên nhưng thực chất việc này chỉ là để che tai mắt thiên hạ, các phi tần trong cung đều biết rõ bà ấy là người dị tộc, hết sức coi thường, sau khi bà ấy được phong làm phi cũng chỉ một mực ở trong Thái Bình hành cung, không qua lại với các phi tần khác. Thế nhưng về sau, Thư Quý thái phi sinh được Lục Hoàng tử, cũng chính là Thanh Hà Vương bây giờ, tiên đế hết sức yêu quý Lục Hoàng tử thông minh sáng dạ, liền bất chấp sự phản đối của Thái hậu, sắc phong Thư Phi khi đó làm Thư Quý phi, từ đó bà ấy nhảy vọt lên thành người đứng đầu các phi tần. Nếu chỉ có vậy thì thôi cũng đành nhưng trước khi chết, Ngọc Ách phu nhân vẫn còn oán hận Thư Quý thái phi vô cùng, Hoàng hậu cũng vì Thư Quý thái phi mà bị phế, ngay đến Chiêu Hiến Thái hậu năm xưa cũng chẳng thích bà ấy chút nào, không ngừng làm khó. Trong tình cảnh như vậy, tuy được tiên đế vô cùng sủng ái nhưng cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung vẫn hết sức khó khăn. Duy có Thái hậu bây giờ, tức là Lâm phi nương nương năm xưa giao hảo với bà ấy, hai người thân mật vô cùng, chẳng khác nào chị em ruột. Có mấy lần Thư Quý thái phichịu ấm ức, đều là Lâm Phi nương nương ra mặt giúp đỡ. Vậy nên ngay đến tiên đế cũng khá thương yêu Thái hậu bây giờ, sau khi Hoàng hậu chết liền để cho Thái hậu bây giờ chấp chưởng hậu cung, tới khi đó cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung mới thoải mái hơn một chút.”

    Sự sủng ái của tiên đế với Thư Quý thái phi bỗng khiến tôi nhớ lại lời cảm khái của Huyền Thanh lúc ở trên đài Đồng Hoa: “Thực ra có người chia sẻ sủng ái cũng là chuyện tốt, nếu không, ba ngàn sủng ái ôm trọn vào thân, trở thành mục tiêu oán trách của cả lục cung, khi đó Huyền Thanh quả thực phải khóc than thay cho Tiệp dư rồi!”

    Lời cảm thán đó của y là vì tôi, cũng là vì cuộc đời của mẫu thân y, Thư Quý thái phi.

    Ôm trọn sủng ái vào người cũng là ôm trọn mọi sự oán hận vào người. Quá được sủng ái, con người ta chẳng khác nào như phải ở trên lò lửa!

    Nghe kể về tình cảm giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, tôi hết sức cảm động, lại nhớ tới My Trang còn ở trong cung, thế là càng thổn thức không thôi.

    Lời của Cận Tịch dường như là đang khen ngợi tình tỷ muội giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, thế nhưng lại chẳng liên quan chút nào tới câu hỏi của tôi.

    Cận Tịch cũng hiểu sự nghi hoặc của tôi, cặp mắt thoáng đong đưa, mỉm cười, nói: “Sau khi tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi khóc lóc sầu thảm không thôi, có mấy lần còn muốn tự vẫn đi theo tiên đế, may mà được các cung nhân kịp thời phát giác và cứu sống. Phi tần trong cung tuy trước đây đều oán hận Thư Quý thái phi nhưng thấy vậy thì vô cùng cảm động, ngay cả các thần tử bên ngoài cũng biết được việc này, liền hết lời khen ngợi Thư Quý thái phi. Thái hậu hết sức cảm động, lúc này Thư Quý thái phi lại xin được xuất gia để cầu phúc cho tiên đế, đồng thời giao phó Lục Vương gia cho Thái hậu nuôi dưỡng. Thái hậu cảm tấm lòng thành của Thư Quý thái phi, lại nói Thái phi sống thoải mái đã quen, tất nhiên không thể ở cùng với các ni cô trong chùa Cam Lộ, liền đặc biệt cho xây dựng An Tê quán để Thư Quý thái phi ở một mình, sau đó lệnh cho bà ấy xuất gia tu đạo chứ không phải vào chùa Cam Lộ tu hành. Thái hậu sợ người ngoài hầu hạ không quen sẽ làm Thái phi tức giận, liền để thị nữ hầu cận của Thái phi đi theo hầu hạ, đây cũng là vì suy nghĩ cho Thư Quý thái phi. Tất nhiên, nếu không có việc gì quan trọng, Thư Quý thái phi cũng không thể tự tiện rời khỏi An Tê quán một bước.”

    Cận Tịch nói với giọng vô cùng mềm mỏng nhưng dù có mềm mỏng đến mấy, tôi cũng đã hiểu được ý tứ bên trong.

    Thư Quý thái phi xuất gia tu đạo, mà chùa Cam Lộ lại là nơi cửa Phật, hai bên tất nhiên sẽ nước sông không phạm nước giếng, không qua lại với nhau, mà bên cạnh bà ta lại chỉ có một thị tỳ hầu hạ… Lòng tôi thầm máy động, như vậy coi như Thư Quý thái phi đã bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài rồi.

    Tôi mặt không đổi sắc, chỉ chậm rãi đưa đũa gắp lấy một cọng rau xanh. Cọng rau xanh ấy đã được nấu chín, rất mềm, chỉ có thể để mặc người ta gắp đi gắp lại. Tôi thản nhiên nói: “Nghe nói lúc sinh tiền, tiên đế hết sức yêu quý Thanh Hà vương, có mấy bận còn muốn lập y làm thái tử.”

    Cận Tịch cúi đầu, cung kính đứng một bên, nhìn xuống mũi bàn chân mình, nói với giọng đều đều, không có lấy một tia xao động: “Xuất thân của Thư Quý thái phi bị người ta bàn tán rất nhiều, việc lập Thanh Hà vương làm thái tử, ngay đến các triều thần cũng cực lực phản đối. Bên trên Thanh Hà Vương còn có mấy vị vương gia, tuy triều ta chủ trương lập người hiền, không lập con trưởng, Hoàng hậu cũng không sinh được con trai nhưng mấy vị vương gia khác, ví như đương kim Hoàng thượng, cũng đều vô cùng xuất sắc, mà khi đó ở trong cung, Lâm Phi nương nương bất kể là về địa vị hay sự sủng ái đều chỉ thua kém một mình Thư Quý phi, xuất thân lại cao quý hơn một chút, còn nắm quyền quản lý hậu cung. Vậy là cuối cùng, tiên đế đành quyết định lùi một bước, lập đương kim Thánh thượng làm thái tử, ấy cũng là việc hợp tình hợp lý.” Câu cuối cùng, Cận Tịch nói rất khẽ, tựa như đang kể về một chuyện chẳng hề quan trọng, nhưng tôi vẫn nghe được rõ ràng: “Huống chi, có sự ủng hộ của Nhiếp Chính Vương năm xưa, đương kim Thánh thượng kế thừa ngôi thiên tử cũng là lẽ thường tình.”

    Tôi bất giác cảm thấy lòng mình rét buốt từng cơn, đồng thời sau nháy mắt đã hiểu ra được rất nhiều điều.

    Nhiếp Chính Vương, có lẽ y mới là điểm mấu chốt để Huyền Lăng được kế thừa ngôi báu.

    Thế nhưng, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại.

    Đó chỉ là những việc xưa cũ mà thôi, đều là ân oán của đời trước rồi. Bây giờ, người ngồi vững trên ngai vàng ở Tử Áo Thành, tay nắm càn khôn, ngạo nghễ cúi đầu nhìn thiên hạ đã là Huyền Lăng rồi.

    Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều là vật hy sinh trong cuộc chiến đoạt hoàng quyền, dù không cam tâm đến mấy thì sự thực cũng đã là như vậy, chẳng thể thay đổi.

    Nhưng bất kể sự thực như thế nào, việc tôi qua lại với Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều không liên quan gì tới hoàng quyền, dù sao bây giờ tôi cũng đã là người xuất gia rồi.

    Tôi lẩm bẩm nói: “Mọi sự phân tranh kỳ thực đều bắt nguồn từ việc Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di thôi.”

    Hoán Bích vốn luôn im lặng lắng nghe, nhưng khi nghe đến chỗ này, bát cơm trong tay chợt “cạch” một tiếng rơi xuống bàn, lăn tròn một lúc mới dừng lại. Tôi vội giúp nàng ta giữ chiếc bát lại, lo lắng hỏi: “Sao thế?”

    Trong mắt thoáng qua một nét hoang mang, Hoán Bích vội cười, nói: “Nô tỳ chỉ có chút tò mò, Thư Quý thái phi thật sự là nữ tử Bãi Di sao?”

    “Ừm.”

    Hoán Bích đưa tay gạt nhẹ lọn tóc mai bên thái dương, thấp giọng nói: “Sau khi bị chinh phục, Bãi Di đã trở thành thuộc quốc của Đại Chu, thế nhưng dù sao cũng là dị tộc, Thư Quý thái phi có thể leo lên địa vị như vậy với xuất thân dị tộc quả là không dễ dàng gì.”

    Tôi nghe vậy bèn ngoảnh đầu qua, hỏi: “Hoán Bích, hình như muội khá hiểu về Bãi Di thì phải?”

    Hoán Bích khẽ “a” một tiếng, hờ nói: “Chẳng qua nô tỳ chỉ được nghe nói một chút chuyện bên ngoài mà thôi.” Sau đó nàng ta lại khẩn khoản nhìn tôi. “Tiểu thư, vừa rồi tiểu thư nói định mang Trường tương tư tới chỗ Thái phi, khi đó đưa nô tỳ theo cùng được không?”

    Tôi ôn tồn nói: “Muội cũng rất muốn gặp Thái phi sao? Vừa hay có thể để muội ôm đàn, rồi chúng ta cùng tới đó.”

    Trên khuôn mặt xuất hiện nét mừng rỡ như trẻ con được quà, Hoán Bích gật đầu thật mạnh.
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 14: Xanh xanh cỏ bên sông
    Thế rồi vào một ngày trời trong gió mát, Hoán Bích ôm theo cây đàn Trường tương tư cùng tôi tới hậu sơn. Tới nơi, tôi thấy ngoài cửa An Tê quán có một con ngựa trắng, trên cổ đeo quả cầu vải màu đỏ, đang đứng ung dung gặm cỏ non. Trong lòng tôi bỗng trào dâng cảm giác mừng rỡ khó tả, con ngựa này chính là Ngự Phong. Nhìn thấy tôi, nó cũng mừng rỡ hí vang một tiếng.

    Tôi đưa tay vuốt nhẹ tai nó, Hoán Bích đã nôn nóng đẩy cửa đi thẳng vào trong. Trong sân có tiếng trò chuyện vui vẻ nhưng sau khi Hoán Bích đẩy cửa đi vào thì lập tức dừng lại. Tôi lúc này cũng chậm rãi bước vào, nghe thấy Hoán Bích cất tiếng gọi lảnh lót, giòn tan: “Vương gia.”

    Tôi đưa mắt nhìn, thấy y vận một bộ đồ lụa màu trắng, đang chắp tay sau lưng đứng bên cạnh Thư Quý thái phi. Nghe thấy tiếng gọi, y lập tức ngoảnh đầu qua phía cửa, nhìn thấy tôi thì vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, buột miệng nói: “Hồi nãy mẫu phi vừa nhắc tới nàng xong đấy…”

    Tôi khẽ gật đầu tỏ ý chào y, sau đó quay sang kính cẩn hành lễ với Thư Quý thái phi. Thái phi mỉm cười bước tới đỡ tôi dậy, nói: “Đúng là nhắc đến Tào Tháo, Tào Tháo tới liền, qua đó đủ thấy không thể tùy tiện nói xấu người khác sau lưng được”, rồi lại chỉ qua phía Huyền Thanh nói: “Nó vừa từ vùng Xuyên Thục quay về, thậm chí còn chưa kịp trở lại vương phủ, cô tới thật đúng lúc.”

    Tôi cười, nói: “Vãn bối thấy hôm nay trời đẹp, liền mang Trường tương tư đến đây, mối họa mà vãn bối gây ra xin phiền Thái phi bổ cứu giúp.”

    Thái phi hiền từ nói: “Đúng là một đứa nhỏ ngốc ngếch, nói lời khách sáo như vậy làm gì, chỉ khiến người ta xót xa thôi.”

    Tôi đưa tay chỉ Hoán Bích, giới thiệu: “Đây là thị nữ hầu cận của vãn bối, hôm nay đặc biệt đưa tới đây thỉnh an Thái phi.”

    Hoán Bích ngoan ngoãn quỳ xuống hành lễ, nói: “Nô tỳ thỉnh an Thái phi và Vương gia.”

    Huyền Thanh cười, nói: “Hiếm có khi nào Hoán Bích hành đại lễ với ta như vậy, hôm nay coi như được nhờ phúc mẫu phi rồi.”

    Thư Quý thái phi vẫy tay gọi Hoán Bích lại gần, cầm bàn tay nàng ta lên ngắm nghía hồi lâu, cười nói: “Mặt mũi thanh tú, làn da cũng hết sức nõn nà”, sau đó lại nhìn qua phía tôi. “Đặc biệt là đôi mắt này, trông giống nương tử lắm đấy!”

    Tôi không ngờ ánh mắt Thái phi lại sắc bén như vậy, vội cười nói: “Dạ phải!”

    Huyền Thanh đứng bên cạnh cũng khẽ cười. “Trước đây chưa nhìn kỹ thì còn chưa cảm thấy gì, bây giờ nghe mẫu phi nói vậy, con cũng thấy đúng là có mấy phần giống nhau.”

    Hoán Bích thẹn thùng cúi đầu, đưa cây đàn trong tay cho Tích Vân, sau đó cùng ngồi xuống uống trà. Huyền Thanh dịu dàng đưa mắt nhìn tôi. “Đây là trà Tuyết đính hàm thúy mới hái, vừa được pha xong, nàng nhất định rất thích.”

    Chén trà được làm bằng sứ trắng, càng tôn lên màu xanh biếc của nước trà. Tôi thích cái gì, ghét cái gì, y hoàn toàn biết rõ. Có điều, lúc này đột nhiên nhìn thấy loại trà mình hay uống trong cung, tôi cũng chẳng rõ mình có tâm trạng gì, chỉ cảm thấy thổn thức không thôi. Trà là trà vừa hái, cũng mới được pha xong, chỉ có người uống trà tôi đây vẫn là con người ngày trước.

    Huyền Thanh vừa từ nơi xa về, Thư Quý thái phi quan tâm đến con trai, liền kéo y lại ân cần hỏi han đủ chuyện.

    Thư Quý thái phi và Huyền Thanh trò chuyện bằng tiếng Bãi Di mấy câu, tôi nghe không hiểu lắm, không kìm được hơi cau mày, chăm chú lắng nghe.

    Hoán Bích thấy tôi cau mày thì liền ghé tai tôi, khẽ nói: “Thư Quý thái phi đang dùng tiếng Bãi Di nói chuyện với Vương gia, dặn dò Vương gia ở trong cung phải cẩn thận, thường ngày cũng nên chú ý giữ gìn sức khỏe, an phận giữ mình.”

    Hoán Bích nói rất khẽ nhưng vì Thư Quý thái phi ở quá gần nên vẫn nghe thấy. Bà ta không kìm được nhìn qua phía Hoán Bích, đôi hàng lông mày thanh tú hơi cau lại, hỏi: “Ngươi hiểu tiếng Bãi Di sao?”

    Hoán Bích thoáng do dự, đáp: “Dạ!” Sau khi định thần lại nói thêm: “Vì mẫu thân của nô tỳ là nữ tử Bãi Di.”

    Tôi thầm kinh hãi, chẳng trách hôm nay Hoán Bích lại muốn theo tôi tới nơi đây, thì ra là vì mẫu thân của Hoán Bích cũng là nữ tử Bãi Di.

    Thư Quý thái phi khẽ “ồ” một tiếng, trên mặt xuất hiện mấy tia vui mừng. “Vậy sao?” Kế đó liền dùng tiếng Bãi Di hỏi han mấy câu.

    Hoán Bích không chút nghĩ ngợi, dùng tiếng Bãi Di trả lời một cách trôi chảy, lại hành lễ vấn an với Thư Quý thái phi theo lễ tiết vãn bối gặp trưởng bối của người Bãi Di.

    Thư Quý thái phi tươi cười vui vẻ, vẫy tay gọi: “Người qua đây, để ta nhìn kỹ ngươi nào.”

    Hoán Bích y lời đi tới, lại khom người hành lễ theo lễ tiết Trung Nguyên, nói: “Thư Quý thái phi vạn an.”

    Thư Quý thái phi đưa tay tới nâng cằm Hoán Bích lên, cẩn thận ngắm nghía hồi lâu, khẽ hỏi: “Ngươi làm nô tỳ trong nhà Chân nương tử sao?”

    Hoán Bích bất giác cúi xuống, giọng nói nhỏ tới mức cơ hồ không nghe thấy được: “Dạ phải, chính là Chân phủ của Thị lang bộ Lại trước kia.”

    Thái phi hơi trầm ngâm, hai mắt đột nhiên sáng rực, khẽ hỏi: “Tên húy của y có phải là Chân Viễn Đạo không?”

    Hoán Bích gật đầu đáp: “Chính thế.”

    Tôi thấy cha mình được nhắc đến, không tiện im lặng nữa, bèn bẩm rõ: “Chân Viễn Đạo chính là gia phụ, Hoán Bích từ nhỏ đã hầu hạ bên cạnh vãn bối, tiếng là nô tỳ, kỳ thực không khác gì tỷ muội.”

    Huyền Thanh tươi cười nhẹ nhàng tựa vầng mây trắng ở nơi chân trời. “Hoán Bích từ nhỏ đã sống trong Chân phủ, khi nương tử vào cung thì bầu bạn kề bên, bây giờ lại cùng đồng cam cộng khổ.”

    Thư Quý thái phi không nói gì, chăm chú nhìn Hoán Bích một lát, đột nhiên cất tiếng hỏi: “Hà Miên Miên là gì của ngươi?”

    Toàn thân Hoán Bích chấn động, trong đôi mắt trong veo như làn nước mùa thu chợt hiện lên một tầng sương mù mong manh, nơi khóe mắt đã ầng ậng nước, giọng nói cũng hơi run rẩy: “Chính là mẫu thân của nô tỳ.”

    Tôi thầm kinh hãi, đây là lần đầu tiên tôi nghe nói tới tên của mẫu thân Hoán Bích. Trước đây tôi chỉ biết Hoán Bích là em gái mình, còn những việc khác thì không ai nói với tôi, thành ra tôi cũng không biết gì nhiều.

    Chỉ là, mang cái tên triền miên da diết như vậy, lại có xuất thân Bãi Di, đó rốt cuộc là một nữ tử quyến rũ tới mức nào đây?

    Thư Quý thái phi khẽ thở dài một tiếng, trên mặt lộ ra thần sắc vui mừng. “Quả nhiên, hai mẹ con nhìn giống nhau quá, cứ như được đúc ra từ một khuôn vậy”, rồi lại hỏi với giọng quan tâm: “Mẫu thân ngươi vẫn khỏe chứ?”

    Hoán Bích nhất thời không thể trả lời, cổ họng như nghẹn lại, nước mắt không kìm được lã chã tuôn rơi, vội vàng xoay người lại lau. Tôi lên tiếng trả lời thay: “Khi đó Hoán Bích được sinh ra thì mẫu thân của muội ấy qua đời, do đó cha vãn bối mới bế muội ấy về, nuôi dưỡng trong phủ từ nhỏ.”

    Thư Quý thái phi thở dài buồn bã, lát sau mới cất tiếng: “Phải rồi, Miên Miên và ta đều là hậu nhân của tội thần, cô ấy còn bị đưa vào nô tịch, suốt kiếp chẳng thể trở mình, tất nhiên không cách nào gả vào nhà quan lại làm thê thiếp. Chẳng trách Hoán Bích lại gọi nương tử là tiểu thư.” Nói tới đây, khóe mắt bà cũng ầng ậng nước, cúi đầu sụt sịt nói tiếp: “Miên Miên thật đáng thương!” Sau đó lại gọi Hoán Bích tới gần, khẽ xoa trán Hoán Bích, an ủi: “Cô bé ngoan, ngươi thực đã phải chịu ấm ức rồi.”Lòng tôi cũng thầm thương cảm, khi ngẩng lên, chợt phát hiện Huyền Thanh đang chăm chú nhìn mình, liền vội ngoảnh qua hướng khác, không nhìn y, nói với Thư Quý thái phi: “Mẫu thân của Hoán Bích có phải là người quen của Thái phi không?”

    Thư Quý thái phi vừa vỗ vai Hoán Bích tỏ ý an ủi vừa nhìn sang phía tôi, nói: “Trước đây, khi từ Bãi Di ra ngoài, ta và Tích Vân đi cùng nhau. Khi đó đương lúc chiến tranh loạn lạc, lòng người hoang mang, bọn ta vừa khéo gặp được Miên Miên cũng rời khỏi Bãi Di quy hàng Đại Chu.” Thái phi lộ vẻ vô cùng cảm khái. “Khi đó, cô ấy còn chưa mang tên Miên Miên, mà là Bích Châu Nhi. Cái tên Miên Miên là do cô ấy về sau tự đổi.” Nói tới đây, Thái phi chỉ lẳng lặng nhìn tôi, không nói gì thêm, ánh mắt thấp thoáng một nét sâu xa khó tả.

    Trái tim tôi chợt sáng bừng, tựa như có một tia chớp vừa xẹt qua, không kìm được buột miệng nói: “Thanh thanh hà biên thảo, miên miên tư viễn đạo[1]! Bởi vì cha vãn bối tên là Chân Viễn Đạo, do đó bà ấy mới đổi tên thành Miên Miên đúng vậy không?”

    [1] Đây là hai câu đầu trong bài thơ Nhạc phủ Ẩm mã Trường Thành quật hành, tả về nỗi nhớ của người vợ với người chồng ở nơi xa, dịch nghĩa: Xanh xanh, cỏ bên sông, trải dài bát ngát, (làm ta) nhớ đến người ở nẻo xa. Trong đó chữ “tư” có nghĩa là tương tư, nhung nhớ – ND.

    Thư Quý thái phi gật đầu thật mạnh, thổn thức nói: “Không sai! Miên Miên một lòng ái mộ phụ thân nương tử, do đó mới đổi tên mình để biểu đạt tình ý sắt son sâu nặng. Tuy là người mang tội nhưng tình ý của cô ấy hẳn cũng đã khiến phụ thân nương tử xúc động vô cùng.”

    Tôi nhìn Hoán Bích, thấy khuôn mặt Hoán Bích lúc này tựa như bông hoa lê trong mưa, yếu đuối vô cùng. Thư Quý thái phi nói Hoán Bích trông rất giống mẫu thân, như vậy ngoài đôi mắt có mấy phần giống tôi ra, tất cả những đường nét còn lại hẳn đều thoát thai từ mẫu thân của muội ấy, ví như khuôn mặt hiền hòa, cái cằm thon gọn, khí chất dịu dàng. Mà như thế, Miên Miên tất nhiên cũng có dung mạo xinh đẹp thanh tú như Hoán Bích, hơn nữa nữ tử Bãi Di còn giỏi ca hát, có sự phóng khoáng, cố chấp không có ở nữ tử người Hán, từ việc vì cha tôi mà đổi tên là đã có thể thấy được phần nào.

    Hoán Bích phủ phục xuống đầu gối Thư Quý thái phi mà bật khóc nức nở. “Cha nô tỳ nói, khi mẹ qua đời còn cố gọi tên cha, sau đó mới trút hơi thở cuối cùng.”

    Nỗi sợ hãi trong lòng tôi tựa như những đám mây cuồn cuộn đan xen giữa trời.

    Thực ra cha mẹ tôi chỉ là một cặp phu thê gia đình quan lại bình thường, cũng chẳng ân ái với nhau lắm. Nhưng sau khi sinh con đẻ cái và bầu bạn bên nhau nhiều năm như vậy, giữa họ dù gì cũng có một chút tình cảm, ít nhất thì ở trong mắt những người con như chúng tôi, họ luôn hết sức tôn trọng nhau. Hơn nữa, cha cũng có một người thiếp được mua về từ vùng Giang Nam hơn mười năm trước. Khi đó, mẹ thường xuyên nói cha dù sao cũng là người làm quan, không có người thiếp nào thì không ổn, chưa kể người ngoài có khi lại nói là mẹ ghen tuông, không có dạ dung người, vì thế mẹ liền làm chủ, mua người thiếp đó về cho cha. Có điều, vị di nương đó chẳng qua chỉ là để cho có, cả năm trời cũng chẳng thấy cha gần gũi với cô ta mấy lần, đa phần thời gian cô ta đều hầu hạ bên cạnh mẹ, thỉnh thoảng rảnh rỗi còn dạy tỉ muội bọn tôi thổi sáo, gảy đàn. Di nương không được sủng ái, lại không có con, do đó không thể làm ảnh hưởng đến địa vị của mẹ. Vì thế mẹ thường xuyên nói mình may mắn, được gả cho một người không háo nữ sắc như cha, nhờ vậy mà cả đời thanh tịnh, không phải lo lắng quá nhiều.

    Thế nhưng, mẹ rõ ràng không biết được chân tướng sự việc, không biết rằng đằng sau vẻ ngoài thanh tịnh, yên ổn kia là một cuộc tình sâu đậm giữa chồng mình với một nữ nhân khác.

    Thanh thanh hà biên thảo, Miên Miên tư Viễn Đạo!

    Những cây bách được trồng xung quanh tràn ngập vẻ sâu cay khó tả, khiến đầu óc người ta trở nên choáng váng. Đầu óc tôi xoay chuyển liên hồi, chợt nảy ra một suy nghĩ cổ quái: Nếu… nếu Miên Miên không chết sớm như vậy, có lẽ có một ngày bà ấy sẽ trở thành thiếp của cha tôi, có lẽ có một ngày vì sự sủng ái của cha tôi mà địa vị sẽ còn lên cao hơn cả mẹ tôi, thậm chí là trở thành chính thất. Khi ấy, liệu tôi có còn là đại tiểu thư thân phận cao quý của nhà họ Chân nữa không? Nếu điều này thật sự xảy ra, có lẽ bây giờ tôi và Hoán Bích đã phải đổi vị trí cho nhau rồi. Nghĩ tới đây, tôi không kìm được nhìn qua phía Hoán Bích, cố ép bản thân nuốt một ngụm nước bọt để giữ bình tĩnh, nơi sống lưng đã toát đầy mồ hôi lạnh.

    Bên tai tôi chợt vang lên giọng nói dịu dàng của Thư Quý thái phi: “Cha? Ngươi gọi Chân Viễn Đạo là cha sao?” Thoáng trầm ngâm, bà tỏ vẻ thấu hiểu. “Phải rồi, con của Miên Miên sao có thể không phải là con của Chân Viễn Đạo được? Vì mẹ ngươi là hậu nhân của tội thần, ông ta tất nhiên không thể thừa nhận ngươi là con gái. Do đó, ngươi phải gọi tỷ tỷ của mình là tiểu thư, nhưng cô ấy vẫn đối xử với ngươi như muội muội, đúng không?”

    Hoán Bích khẽ gật đầu, lại đưa tay lên lau mắt. “Tiểu thư đối xử với nô tỳ rất tốt.”

    Thư Quý thái phi trầm ngâm nói: “Tên ban đầu của Miên Miên là Bích Châu Nhi, cha ngươi đặt tên cho ngươi là Hoán Bích chắc cũng vì nguyên nhân này.”

    Huyền Thanh cảm thấy khá bất ngờ, đưa mắt nhìn tôi rồi lại nhìn Hoán Bích, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên đôi mắt tôi, nói: “Chẳng trách mắt hai người lại giống nhau như thế, thì ra là chị em cùng cha khác mẹ. Còn nhớ trước đây, lần đầu tiên gặp Hoán Bích, ta nghe cô ấy nói mình là thị nữ hầu cận của nàng, liền nghĩ có lẽ vì hai người lớn lên cùng nhau từ nhỏ, ngày ngày ở bên nhau, cho nên đôi mắt mới giống nhau như vậy.”

    Hoán Bích ngẩng lên nhìn y, nở một nụ cười thê thảm. “Nô tỳ và tiểu thư tuy cùng cha, nhưng mẹ của nô tỳ thậm chí còn chẳng phải là thiếp. Nô tỳ chẳng qua… chỉ là một đứa con rơi mà thôi!”

    Tôi trước giờ chưa từng biết rằng giữa mẹ của Hoán Bích và cha tôi lại có nhiều mối dây dưa như vậy, mà cha cũng chưa từng kể với tôi về việc này. Trong nhà, ngoài cha ra thì chỉ có tôi biết Hoán Bích là em gái mình, việc này thậm chí đến mẹ tôi cũng không rõ chân tướng, chỉ nghĩ Hoán Bích cũng giống như Lưu Chu, đều là trẻ mồ côi được đem về từ bên ngoài.

    Tôi lúc này lại càng cảm thấy thương Hoán Bích hơn, nếu không vì vấn đề xuất thân của Miên Miên, chắc Hoán Bích đã trở thành nhị tiểu thư của nhà họ Chân rồi, muội ấy vốn chỉ nhỏ hơn tôi một tuổi mà thôi.

    Huyền Thanh kéo Hoán Bích đứng dậy, dịu giọng an ủi: “Không có con rơi con vãi nào cả, trong lòng mấy người bọn ta chưa bao giờ có suy nghĩ như vậy.”

    Hoán Bích đan hai tay vào nhau, đầu cúi thấp, cắn chặt môi, lẩm bẩm nói: “Bây giờ… mọi người đều đã biết rồi…” Sau đó lại chợt ngẩng lên, đôi mắt long lanh xinh đẹp ầng ậng nước, đột nhiên bật khóc nức nở. “Vương gia, ngài đừng coi thường nô tỳ.”

    Huyền Thanh thoáng sững người, đưa mắt nhìn tôi, ngay sau đó liền dịu giọng nói với Hoán Bích: “Tất nhiên rồi, mẫu thân cô và mẫu thân ta là cố giao, lại là người cùng tộc, trên người chúng ta đều có dòng máu Bãi Di, sao ta có thể coi thường cô được.”

    Mắt Hoán Bích càng lúc càng sáng, vẻ như còn chưa tin tưởng. “Thật thế sao?”

    Huyền Thanh mỉm cười, đáp: “Tất nhiên là thật rồi, ta đã gạt cô bao giờ đâu.”

    Hoán Bích gật đầu thật mạnh, đôi má lúm đồng tiền hiện ra giữa nụ cười tươi. Tôi bất giác thầm kinh ngạc, cảm thấy Hoán Bích lúc này thật xinh đẹp, đáng yêu vô cùng, tôi không ngờ Hoán Bích lại có thể đẹp tới mức này. Nhưng nhìn Huyền Thanh dịu dàng an ủi Hoán Bích, bản thân thì chỉ có thể đứng im lặng một bên, tựa như bị ngăn cách với bọn họ bởi mấy lớp màn dày, nhìn thấy được mà không với tới được, nơi đáy lòng tôi chợt xuất hiện cảm giác cô đơn và hụt hẫng.

    Tôi cố gắng ngoảnh đầu qua một bên, không nhìn họ nữa, cất tiếng hỏi Thư Quý thái phi: “Chẳng hay cha vãn bối quen Miên Miên, cũng chính là Hà di nương trước hay là quen mẫu thân của vãn bối trước?”

    Thư Quý thái phi buồn bã nói: “Cái duyên phận này há có thể dựa vào việc ai tới trước, ai tới sau mà quyết định. Khi Miên Miên quen biết Chân Viễn Đạo thì y đã thành thân rồi. Hẳn nương tử cũng biết, trước khi thành hôn, cha mẹ cô chưa từng gặp mặt, đừng nói tới chuyện quen biết. Sự kết hợp giữa bọn họ chẳng qua là nghe theo sự sắp xếp của bề trên thôi, kỳ thực các gia đình quan lại người Hán đều như vậy cả.”

    Hai má tôi bất giác nóng bừng, thấp giọng nói: “Dạ phải!”

    “Người Hán các cô không có chế độ một vợ một chồng như người Bãi Di chúng ta, có thể nạp thiếp được đúng không?” Tôi lại gật đầu lần nữa. Thái phi nói tiếp: “Tuy là quen biết sau nhưng cha cô há lại không muốn cưới Miên Miên về làm thiếp để được ở bên nhau lâu dài. Chỉ là Miên Miên bạc mệnh đáng thương, gia đình đột nhiên gặp cơn biến cố, do đó mới mất đi cơ hội về bên cha cô mà thôi.”

    “Thái phi không cảm thấy mẫu thân của vãn bối cũng rất đáng thương sao?” Tôi cười ngơ ngẩn, lại nhìn thẳng vào mắt của Thư Quý thái phi. “Làm vợ chồng với nhau cả đời, vậy mà mẫu thân vãn bối không hề hay biết trong lòng phụ thân lại luôn có một nữ nhân khác. Tuy phụ thân không thể cho Hà di nương một danh phận nhưng vì áy náy, vì nhớ nhung, cũng là vì Hoán Bích, trong lòng phụ thân nhất định thường xuyên nhớ tới di nương. Giữa di nương và mẫu thân, thực chẳng rõ ai mới là người đáng thương hơn.”

    Huyền Thanh ngoảnh đầu lại, chăm chú nhìn tôi, hai mắt sáng lấp lánh, tôi thì cúi đầu làm bộ không phát hiện ra. Thái phi im lặng hồi lâu, ánh mắt nhìn tôi dần ánh lên nét hiền từ, rồi bà thở dài, nói: “Trên thế gian này, người đáng thương luôn nhiều không kể xiết.”

    Tôi hơi khom người, đáp: “Thái phi nói rất phải, di nương đã qua đời nhiều năm, còn cha mẹ vãn bối bây giờ đều bị đày đến vùng Xuyên Bắc. Người qua đời thì đã về nơi yên nghỉ, bây giờ chúng ta chỉ có thể quan tâm tới người còn sống thôi. Hoán Bích là muội muội của vãn bối, dù hôm nay đã rơi vào cảnh này nhưng vãn bối cũng sẽ không bỏ mặc muội ấy. Có chuyện này vãn bối lực bất tòng tâm, chỉ có thể cố hết sức, mong Thái phi và Vương gia giúp đỡ cho.”

    Thư Quý thái phi nói: “Nương tử cứ nói đi, ta nghe thử.”

    Tôi chậm rãi nói: “Hoán Bích không còn nhỏ nữa, vãn bối không muốn vì mình mà làm ảnh hưởng tới chuyện chung thân đại sự của muội ấy. Xin Thái phi làm chủ, chọn cho Hoán Bích một người chồng tốt, như thế cũng coi như hoàn thành tâm nguyện cho Hà di nương rồi.”

    Thư Quý thái phi mỉm cười, nói: “Nương tử quả đã suy nghĩ cho muội muội rất chu toàn, ta không ngờ cô còn có tấm lòng như thế.” Sau đó lại cười tủm tỉm, quay sang nói với Huyền Thanh: “Thanh Nhi, mẫu phi bây giờ chỉ mong thanh tịnh, không tiện nhúng tay vào chuyện này, mà có muốn cũng không nhúng tay vào được. Hoán Bích là con gái bạn cũ của ta, cũng là người muội muội mà con phải một lòng bảo vệ, mẫu phi giao chuyện này cho con, con nhất định phải chọn cho Hoán Bích một người chồng thật tốt!”

    Huyền Thanh khẽ nở nụ cười, kính cẩn đáp: “Lời dặn dò của mẫu phi, con nhất định sẽ ghi nhớ kĩ.”
     
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 15: Hoán Bích
    Trò chuyện được một lát, tôi thấy trên mặt Thái phi đã lộ nét mỏi mệt, liền đứng dậy cáo từ. Thái phi nói với Huyền Thanh: “Để hai cô gái về nhà một mình không tiện, con thay ta tiễn bọn họ một đoạn đi.”

    Huyền Thanh cung kính đáp “vâng” một tiếng rồi A Tấn dắt Ngự Phong đi theo tôi và Hoán Bích, Huyền Thanh thì đi bên cạnh. Hoán Bích thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu trò chuyện vài câu với A Tấn, một đoàn bốn người chậm rãi đi về phía chùa Cam Lộ.

    Tôi làm bộ như vô ý hỏi: “Vừa rồi nghe Thái phi nói thì hình như mấy tháng vừa rồi Vương gia đã tới vùng Xuyên Thục?”

    Huyền Thanh nói: “Hôm đó hoàng huynh đột nhiên nổi hứng, nói ta từng dừng chân du ngoạn ở đất Thục Trung mấy tháng, bèn lệnh cho ta vi hành tới vùng Xuyên Thục lần nữa, để ý xem chính tích của các quan viên thế nào. Vì nhận lệnh vội vã, ta phải thu dọn đồ đạc rồi tới Xuyên Thục ngay, vốn muốn bảo A Tấn đi bẩm báo với mẫu phi, nhân tiện nói với nương tử một tiếng, đáng tiếc thời gian gấp rút quá, thành ra không kịp dặn dò câu nào.”

    Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Lần này ly biệt cũng phải gần ba tháng!”

    Y khẽ nở một nụ cười điềm đạm, bên khóe môi như tỏa ra từng làn hơi thở thanh tân của cây rừng rậm rạp xung quanh. “Tính từ lần gặp gỡ gần đây nhất, ta và nương tử đã có chín mươi bảy ngày chưa gặp nhau!”

    Trái tim tôi bất giác nẩy lên, tựa như bị ai đó dùng cây búa nhỏ đập vỡ tan lớp vỏ cứng bên ngoài, làm lộ ra phần nội tâm yếu đuối và mềm mại bên trong, tự nơi đáy lòng trào dâng cảm giác vừa ngọt ngào vừa chua chát, sau nháy mắt đã chất đầy trái tim vốn ngợp trong sự hoang lương của tôi.

    Huyền Thanh chỉ vô tâm nói vậy nhưng tôi nghe rồi lòng liền trầm hẳn xuống, đôi hàng lông mày nhăn tít lại, sắc mặt cũng trở nên hờ hững. “Vương gia có kiến thức uyên bác, học rộng biết nhiều, trí nhớ tất nhiên là rất tốt, sở dĩ…”

    Huyền Thanh nhẹ nhàng cất tiếng: “Sở dĩ ta nói với nương tử về chuyến đi Xuyên Thục lần này, ấy là vì song thân của nương tử đều ở Giang Châu.” Y lấy từ trong vạt áo trước ngực ra một phong thư, nói: “Khi quay về, ta đã rẽ sang Giang Châu, tuy hành trình bị chậm trễ hai ngày nhưng coi như đã không uổng chuyến đi này. Phong thư này nương tử hãy tự xem đi.”

    Khi đưa tay ra, bàn tay tôi không kìm được hơi run rẩy, trên phong thư màu vàng nhạt ấy có cài một bông sen nhỏ màu hồng. Y nói: “Đây là bông sen đầu tiên trong vại nước của mẫu phi, ta thấy đẹp, liền hái xuống.” Bình thường, khi người ta đặt một cánh hoa sen vào trong bức thư là để tỏ ý nhớ nhung với người ở phương xa, cũng là muốn nói với người thân hay bè bạn rằng mình vẫn bình yên, y cài hoa lên bức thư như vậy quả là một việc làm sáng tạo. Ánh mắt đầy vẻ kiên định, y nhìn tôi, cất giọng hết sức hiền hòa: “Mau mở ra đi, đây là thư nhà mà Chân đại nhân gửi cho nương tử đấy.”

    Tôi run rẩy mở phong thư ra, nét chữ quen thuộc của cha vẫn hệt như ngày trước, ngay ngắn và gọn gàng. “Ta và mẹ con đều khỏe, không cần lo lắng. Nghe nói con và Hoán Bích đang tu hành trong chùa Cam Lộ, cũng tốt. Đại cục đã định, chớ cố làm những việc uổng công. Chỉ không biết Hành Nhi giờ thế nào, lòng rất nhớ nhung. Kẻ chân trời người góc bể, hãy tự mình bảo trọng, đừng nên quá vấn vương.”

    Muôn vàn lời nói cùng tấm lòng quyến luyến của cha, cuối cùng chỉ ngưng tụ thành mấy câu ngắn ngủi, tình cảm sâu đậm dành cho tôi, dành cho Hoán Bích, dành cho ca ca, đều đã ở trong đó cả.

    Huyền Thanh nói: “Từ phong thư, hẳn là nàng có thể nhìn ra, Chân đại nhân bút lực rắn rỏi, nhất định thân thể không có vấn đề gì. Khi ta tới đó thì nghe nói đại nhân được người dân khá quý mến, bản thân đại nhân cũng nói, sau khi rời xa triều đình và những phân tranh ở kinh đô, cuộc sống cũng thoải mái hơn một chút.”

    Lòng tôi thầm đau xót, rơm rớm nước mắt, nói: “Giang Châu là nơi thế nào chứ, tuy ta chưa từng tới đó nhưng cũng biết đó là nơi thế nào. Sông Bồn gần chốn cát lầm, lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên. Tiếng chi đó nghe liền sớm tối, cuốc kêu sầu vượn hót véo von[1]. Cha mẹ ta tuổi tác đã cao, bảo ta làm sao đành lòng được đây.” Dứt lời, tôi liền bật khóc nức nở.

    [1] Trích Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị, dịch thơ Phan Huy Vinh. Nguyên văn Hán Việt: Trụ cận bồn giang địa đê thấp, hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh. Kỳ gian đán một văn hà vật, đỗ quyên đề huyết viên ai minh – ND.

    Y đưa tay tới khẽ xoa lưng tôi, để tôi tựa đầu vào bờ vai y, cất tiếng an ủi: “Cuộc sống ở Giang Châu tuy vất vả nhưng con người có thể ung dung tự tại cả ngày. Lần này ta gặp Chân đại nhân, trong lúc trò chuyện thì thấy ông ấy đã hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh mới. Trong triều đình có biết bao sự đấu đá, bề ngoài thì phong quang vô hạn, nhưng Chân đại nhân dù sao tuổi tác cũng đã cao, có thể sống ở một nơi yên bình, thanh tịnh, ông ấy kỳ thực đã rất thỏa mãn. Trong lời lẽ của Chân đại nhân cũng tràn ngập tình cảm với nương tử, so với những cuộc minh tranh ám đấu nơi hậu cung, ông ấy hy vọng nương tử có thể sống bình yên trong chùa Cam Lộ, dù sao tính mạng của bản thân cũng quan trọng hơn những sự vinh hoa phú quý nhiều. Thân là người làm cha mẹ, ai chẳng mong con cái được bình an, ấy đã là nguyện vọng lớn nhất cả đời rồi.”

    Tôi khóc rấm rứt, hỏi: “Chỉ không biết bây giờ ca ca thế nào rồi.”

    Y đưa tay tới khẽ xoa đầu tôi, lớp vải mềm mại trên chiếc áo của y nhanh chóng hút hết nước mắt của tôi. “Ta đã phái người đi nghe ngóng rồi, ca ca nàng bị lưu đày đến Lĩnh Nam, cuộc sống không so được với Chân đại nhân vẫn còn làm quan, tất nhiên không thể gửi thư được. Có điều, nghe tướng lĩnh ở Lĩnh Nam nói, ca ca nàng tuy ngày đêm phải làm việc vất vả nhưng tinh thần vẫn còn khá tốt. Chỉ là…” Thoáng dừng lại, y mới nói tiếp: “Việc tẩu tẩu và cháu nàng qua đời, đến giờ y vẫn chưa hay biết.”

    Tôi thầm cảm thấy kinh hãi, đột ngột ngẩng lên. “Điều này là đương nhiên. Ca ca có thể yên tâm ở lại nơi biên thùy, tinh thần còn khá tốt, ắt là nghĩ rằng vợ con mình đều bình yên. Vương gia không biết ca ca ta yêu thương tẩu tẩu và Trí Ninh thế nào đâu, nếu để huynh ấy biết…” Tôi thực sự không dám nghĩ tiếp, vội đưa tay lên bụm miệng, không dám nói tiếp.

    Y nói: “Ta biết chứ, ta nhất định sẽ cố hết sức giúp đỡ giấu giếm chuyện này. Khi xưa, ta từng cùng Hành huynh chung sức trong cuộc bình định Nhữ Nam Vương, cũng coi như là bạn bè tri giao, có thể giúp được gì ta nhất định sẽ không từ nan.”

    Tôi đột nhiên cảm thấy, vừa rồi mình gục đầu vào vai y khóc lóc một cách yếu đuối như thế thực quá thân mật cũng quá thất lễ. Hai bờ má tôi không khỏi nóng bừng, vội lùi lại hai bước, đưa tay lên lau nước mắt, cố lấy lại vẻ bình tĩnh thường ngày, mỉm cười thản nhiên nói: “Vừa rồi thất lễ quá, mong Vương gia chớ trách.” Tôi cẩn thận gấp phong thư kia lại, cất vào vạt áo trước ngực rồi nói: “Lửa phong ba tháng lan tràn, thư nhà đưa đến muôn vàn chắt chiu[2]. Nhưng trong lòng ta, phong thư mà Vương gia đưa tới không chỉ có giá trị liên thành.” Sau đó liền khom người thật sâu. “Xin đa tạ Vương gia!”

    [2] Trích Xuân Vọng, Đỗ Phủ, dịch thơ Trần Trọng San. Nguyên văn Hán Việt: Phong hỏa liên tam nguyệt, gia thư để vạn kim – ND.

    Huyền Thanh tỏ ý bảo Hoán Bích đỡ tôi dậy, trầm giọng nói: “Thanh và nương tử là bạn tri giao, nương tử nói những lời khách sáo như vậy làm gì?” Suy nghĩ một chút, y lại nói tiếp: “Vừa rồi mẫu phi có nói về vấn đề hôn sự của Hoán Bích, ta nghĩ có một người khá thích hợp, không biết ý nương tử thế nào?” Nói rồi liền mỉm cười nhìn qua phía A Tấn.

    Tôi ngạc nhiên bật thốt: “A Tấn?”

    Hoán Bích không kìm được đỏ bừng hai má, A Tấn cũng tỏ ra hết sức kinh ngạc, cả hai đồng loạt ngẩng lên bật thốt: “Cái gì?”

    Kỳ thực nếu nhìn kỹ, A Tấn cũng có thể coi là một thiếu niên tuấn tú. Huyền Thanh cười, nói: “A Tấn từ nhỏ đã lớn lên cùng ta, về mặt nhân phẩm ta tất nhiên có thể đảm bảo. Hơn nữa Hoán Bích với y cũng biết nhau sẵn, không thể tính là gả bừa cưới bậy.”

    A Tấn gãi đầu gãi tai, đỏ bừng hai má, nói: “Việc này…”

    Hoán Bích vội vã kêu lên: “Nô tỳ không muốn.”

    Tôi kéo tay Hoán Bích lại, dịu giọng nói: “Hoán Bích, muội đang xấu hổ đấy sao?”

    Hoán Bích lắc đầu nguầy nguậy, Huyền Thanh mỉm cười, quay sang hỏi A Tấn: “A Tấn, ngươi có bằng lòng cưới Hoán Bích cô nương không?”

    A Tấn xấu hổ đến nỗi hai má đỏ bừng, nghe thấy câu hỏi thì chỉ biết nắm chặt dây cương ngựa trong tay, lát sau lại quay sang xoa bờm Ngự Phong liên tục, lí nhí nói: “A! Vương gia nói thế nào thì là thế ấy.”

    Huyền Thanh vừa tức giận vừa tức cười, quát bảo: “Đường đường một đại nam nhân, có thì nói có, không thì nói không, sự nhanh nhẹn thường ngày của ngươi đi đâu mất rồi?”

    Hoán Bích đột nhiên giật tay ra khỏi tay tôi, chỉnh sửa lại quần áo, quỳ xuống nói: “Vương gia bất tất phải hỏi A Tấn làm gì, dù A Tấn có bằng lòng, nô tỳ cũng sẽ không bằng lòng. Tiểu thư phải tu hành trong chùa Cam Lộ cả đời, nếu nô tỳ đi rồi, dù bên cạnh tiểu thư còn có Cận Tịch nhưng tình cảm giữa nô tỳ và tiểu thư không chỉ là chủ tớ thông thường. Hôm nay, nô tỳ đã nói hết sự thực, tiểu thư là trưởng tỷ của nô tỳ, nô tỳ thân là muội muội không thể nhìn tỷ ấy một mình chịu khổ, còn bản thân thì lại thành thân với người khác để hưởng phúc.” Hoán Bích tỏ ra rất tỉnh táo nhưng từng lời, từng từ đều khẩn thiết vô cùng.

    Huyền Thanh ôn tồn nói: “Nếu ngươi thành thân với A Tấn, sau này sẽ sống ở Thanh Lương Đài, có thể thường xuyên gặp mặt nương tử. Nếu vẫn thấy không tiện, thỉnh thoảng đón nương tử tới Thanh Lương Đài vài ngày cũng được.”

    Giọng Hoán Bích đột nhiên trở nên hết sức chói tai: “Vậy không biết Vương gia rốt cuộc muốn nô tỳ thành thân với A Tấn hay là muốn mượn việc nô tỳ và A Tấn thành hôn để sau này tiểu thư có thể thỉnh thoảng tới Thanh Lương Đài? Làm như thế rốt cuộc là để tiện cho hai tỷ muội nô tỳ gặp mặt, hay là tiện cho Vương gia và tiểu thư gặp mặt đây? Có những lời, Vương gia hoàn toàn có thể nói ra rõ ràng.”

    Những lời này của Hoán Bích tựa như một lưỡi dao bén nhọn, từng nhát từng nhát cắt vào má tôi, khiến tôi hổ thẹn đến nỗi chỉ muốn chui xuống đất. Tôi không kìm được quát lên: “Hoán Bích!”

    Sắc mặt tôi lúc này nhất định đã trở nên trắng bệch, Huyền Thanh cau mày nói: “Hoán Bích, cô rốt cuộc muốn giúp tiểu thư của cô, hay là muốn làm cô ấy tổn thương?”

    Hoán Bích thấy sắc mặt tôi biến đổi hẳn, bất giác có chút hoang mang, kéo tay áo tôi, thấp giọng gọi: “Tiểu thư…”

    Bờ môi hơi tái đi, Huyền Thanh đưa tay tới đỡ lấy thân thể tôi, khẽ gọi: “Hoàn Nhi!”

    Đương cơn chấn động, tôi bất giác sững người, trước đây y chưa từng xưng hô như vậy bao giờ, Hoàn Nhi, không ngờ y lại gọi tôi bằng khuê danh của tôi ngày trước. Rất lâu, rất lâu rồi, chưa có ai gọi tên tôi như vậy, ngay cả Huyền Lăng cũng chỉ gọi tôi là “Hoàn Hoàn”. Trong khoảnh khắc ấy, trong lòng tôi trào dâng vô vàn cảm xúc vừa buồn vừa vui, bỗng dưng sinh ra cảm giác như được trùng phùng với chuyện cũ.

    Thế nhưng, cảm giác ấy chỉ lóe hiện trong trái tim tôi, tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, lạnh lùng đưa tay gạt bàn tay đang đỡ tôi của Huyền Thanh ra, khôi phục lại bộ dáng hờ hững thường ngày, khẽ nói: “Pháp hiệu của ta là Mạc Sầu.”

    Mạc Sầu, cái tên này đã hoàn toàn ngăn cách tôi với những chuyện ngày xưa. Giờ đây, tôi là Mạc Sầu đang để tóc tu hành.Trên khuôn mặt thoáng qua một tia hụt hẫng và buồn thương sâu sắc, y lẳng lặng buông bàn tay ra.

    Tôi nói với giọng hòa hoãn hơn chút: “Hoán Bích dù gì cũng là con gái, dễ xấu hổ, vội vã bàn tới việc hôn nhân thế này cũng không tốt, đợi sau khi quay về, ta sẽ hỏi han muội ấy kĩ càng một phen.”

    “Không cần.” Hoán Bích cất giọng kiên quyết mà lạnh lẽo, thân thể thẳng tắp dựa vào một gốc cây cạnh đó. “Chúng ta đã nói rõ ràng rồi, không cần chia làm hai lần làm gì cả, chỉ một lần là đủ rồi.” Ánh mắt nhìn đăm đăm vào A Tấn, Hoán Bích cắn môi hỏi: “A Tấn, ngươi nói thực với ta, ngươi có thích ta không?”

    A Tấn nào đã từng gặp một nữ tử nói năng thẳng thắn như vậy, không khỏi đỏ mặt tía tai, nôn nóng đến nỗi lời nói có chút lắp bắp: “Không phải, không phải! Bích cô nương, ta thật sự thích cô nhưng ta chỉ coi cô như em gái thôi!”

    Sắc mặt nhẹ nhõm hẳn đi, Hoán Bích thở phào một hơi, nói: “Huynh không thích ta, ta tất nhiên sẽ không lấy một người không thích mình. Nhưng điều quan trọng nhất là ta cũng không thích huynh. Nếu như Hoán Bích ta không thích ai, nhất định sẽ không lấy người đó, dù người đó có thích ta đến thế nào!” Hoán Bích đưa mắt liếc nhìn tôi, tâm tư này của muội ấy thực sự rất giống tâm tư của tôi với Ôn Thực Sơ khi trước. Hoán Bích định thần một chút, nói tiếp: “Nếu có một ngày phải gả chồng, tự ta sẽ nói với tiểu thư, không cần người khác mất công an bài cho ta làm gì. Nếu ta thích một ai đó, dù phải làm thiếp của y, ta cũng cam tâm tình nguyện. Còn bây giờ, ta chỉ muốn được bầu bạn bên tiểu thư thôi. Hôm nay ta xin được nói rõ, sau này việc hôn nhân của ta không cần bất cứ người nào khác nhắc tới.” Dứt khoát, Hoán Bích thở phào một hơi như thể vừa giải quyết được một mối tâm sự lớn, thế nhưng dù gì nàng ta cũng là con gái, sau khi đứng trước mặt mọi người nói ra những lời kiên quyết như vậy, khuôn mặt xinh đẹp mau chóng trở nên đỏ bừng, giậm chân một cái rồi vội vã chạy đi.

    A Tấn lúng túng nói: “Tiểu nhân dù sao cũng không xứng với Hoán Bích cô nương.”

    Tôi dịu giọng nói: “Hoán Bích xưa nay tâm khí rất cao, bây giờ lại vừa cùng ta trải qua cơn biến cố, khó tránh khỏi sinh lòng thờ ơ trước mọi việc, mong Vương gia thứ lỗi.”

    Huyền Thanh cũng buồn bực không thôi, ánh mắt đầy vẻ áy náy. “Việc hôm nay là ta đã lỗ mãng rồi, ta chỉ mong Hoán Bích cô nương có thể sớm thành hôn, không ngờ lại khiến cô ấy tức giận.”

    Tôi thầm lo lắng cho Hoán Bích, bèn nói: “Không sao đâu, để ta về an ủi muội ấy là được.” Sau đó, hơi khom người một cái, cũng không kịp cáo từ, tôi xoay người rời đi.

    Tôi vừa về đến nơi, Cận Tịch đã lẳng lặng bước tới và hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì sao? Hoán Bích cô nương vừa về đã khóc rồi.”

    Tôi bước vào xem thử, thấy Hoán Bích quả nhiên đang vùi đầu vào trong chăn khóc nức nở. Lòng tôi bất giác nguội ngắt từng cơn, nhất thời cũng không biết nên khuyên nhủ thế nào, đành đi cắm bông sen nhỏ kia vào trong bình.

    Ngày hôm sau ngủ dậy, tôi phát hiện bông sen cắm trong bình sau một đêm đã chỉ còn lại phần cọng sen hơi ngả màu vàng, những cánh sen hồng phấn rụng xuống lác đác xung quanh chiếc bình sứ, tựa như những cánh bướm chẳng thể bay lên, nằm lặng im một chỗ.

    Tôi khẽ cất tiếng thở dài, thương cảm nói: “Một bông hoa đẹp như vậy, không ngờ chỉ sau một đêm đã tàn rồi.”

    “Bông hoa nở đầu tiên thường không thể tồn tại quá lâu.” Giọng nói lạnh băng của Hoán Bích chợt vang lên phía sau lưng. Hoán Bích đưa tay gạt những cánh hoa vào trong một chiếc túi vải, nói tiếp: “Để nô tỳ mang chúng đi phơi nắng, vậy là có thể giữ lại được lâu dài.”

    Tôi đưa tay giữ lấy bàn tay Hoán Bích. “Hoán Bích, muội còn khó chịu sao?”

    Hoán Bích mỉm cười, nói: “Nô tỳ đã suy nghĩ cả đêm, Vương gia dù sao cũng suy nghĩ cho nô tỳ”, rồi lại hơi nhếch khóe môi. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ là con gái cố nhân của Thư Quý thái phi, an bài để nô tỳ thành thân với người mà y quen thuộc thì có gì là không đúng?” Lúc này vẻ cô đơn và hụt hẫng trong mắt Hoán Bích hiện lên hết sức rõ ràng. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ chỉ là một tiểu nha hoàn bên cạnh tiểu thư, do đó, tất nhiên chỉ có thể gả cho tùy tùng thân tín của y thôi, lại càng chẳng có gì là sai cả.”

    Tôi thở dài, nói: “Hoán Bích, muội vẫn luôn thông minh, chớ nên tự đẩy mình vào chỗ khó như thế. Cho dù hôm qua Vương gia không biết muội là con gái của Hà di nương thì cũng biết muội và ta tình như tỷ muội, ắt sẽ không có lòng tùy tiện gả muội cho một gã người hầu đâu. Chính vì y biết ta với muội tình như tỷ muội, lại có lời nhờ cậy của Thái phi, do đó mới muốn gả muội cho một người mà y tin tưởng.” Tôi khẽ gạt mấy sợi tóc rối trước trán Hoán Bích, nói tiếp: “Huống chi, muội với A Tấn xưa nay luôn nói chuyện với nhau rất hợp, do dó khó tránh khỏi khiến Vương gia hiểu lầm.”

    Hoán Bích ban đầu chỉ lẳng lặng lắng nghe, nhưng khi nghe thấy câu cuối cùng, đột nhiên ngẩng lên nhìn tôi chăm chú. “Nhưng…” Nụ cười của Hoán Bích dần trở nên sâu sắc. “Vương gia và tiểu thư xưa nay nói chuyện cũng rất hợp nhau mà.”

    Hoán Bích nhấn mạnh vào hai chữ “xưa nay”, tôi nghe mà thầm kinh hãi: “Ta cũng chỉ nói chuyện hợp với Vương gia mà thôi. Chính vì thế nên muội mới nghi ngờ Vương gia mượn việc hôn nhân của muội để tiếp cận ta, đúng không?”

    Hoán Bích cắn chặt môi, cúi gằm mặt xuống, lát sau mới nói: “Nô tỳ cứ luôn cảm thấy Vương gia đối xử với tiểu thư quá tốt, còn đi ngàn dặm xa xôi mang thư nhà tới cho tiểu thư nữa.”

    “Vậy…” Tôi hỏi: “Ôn Thực Sơ đối xử với ta thế nào? Còn ta thì đối xử với y ra sao?”

    “Ôn đại nhân từ nhỏ đã đối xử với tiểu thư rất tốt, nên tiểu thư cũng biết giữ chừng mực. Ngày đó khi vừa tới chùa Cam Lộ, nô tỳ thấy tiểu thư phải chịu đủ điều ấm ức, vất vả, cũng rất muốn tiểu thư có được một chỗ dựa cả đời, dù là kín đáo không để ai biết cũng tốt. Đương nhiên, bất kể là về phẩm cách, tướng mạo hay khí độ, học thức, Vương gia đều hơn hẳn Ôn đại nhân, nhưng…” Thoáng do dự, Hoán Bích nói tiếp: “Vương gia là đệ đệ của Hoàng thượng.”

    Lời của Hoán Bích tựa như một chậu nước lạnh băng giội thẳng xuống đầu tôi. Tôi trầm ngâm một chút rồi hờ hững nói: “Ta nào phải không biết điều này, hơn nữa ta cũng chẳng có chút tâm tư nào khác với y.”

    Hoán Bích không khỏi có chút nôn nóng, lay nhẹ người tôi, nói: “Nô tỳ biết hôm qua mình đã nói rất nhiều lời làm tiểu thư tổn thương nhưng dù tiểu thư không có tâm tư gì với Vương gia, chẳng lẽ Vương gia cũng không có tâm tư gì với tiểu thư sao? Có một số việc vẫn nên cẩn thận một chút, chúng ta… chúng ta thật sự không thể chịu được cơn trắc trở nào nữa rồi.”

    Tôi im lặng hồi lâu, dường như những làn khói đàn hương trong phòng đã dần làm mờ đôi mắt tôi, tôi miễn cưỡng cười, nói: “Hoán Bích, muội cứ yên tâm, không có việc đó đâu. Vương gia coi ta là tri kỷ, ta cũng coi y là tri kỷ. Bất kể là ở trong cung hay ngoài cung, y đều đã giúp đỡ ta rất nhiều, muội đã từng thấy y có lời lẽ nào mạo phạm ta chưa? Tất nhiên, ta cũng biết là phải có chừng mực.”

    Hoán Bích khẽ gật đầu, tựa người vào lòng tôi, rủ rỉ nói: “Tiểu thư, từ nhỏ nô tỳ đã không có mẹ, đều là do tiểu thư một tay chăm sóc. Bây giờ, chỉ còn hai tỷ muội chúng ta nương tựa vào nhau thôi.”

    Tôi khẽ xoa đầu Hoán Bích, ôn tồn nói: “Ta biết, ta biết chứ!”

    Thế nhưng từ tận đáy lòng, tôi lại không kìm được thầm thở dài một tiếng. Có lẽ, tôi thật sự nên chú ý giữ khoảng cách với Huyền Thanh.

    Phải giữ khoảng cách với Huyền Thanh, trong lòng tôi ít nhiều gì cũng sinh ra một chút khúc mắc. Trong quãng thời gian sau đó, tôi không còn tới bên bờ sông nữa. Y là người hết sức thông minh, biết là tôi cố ý né tránh, do vậy cũng ít lui tới hơn. Thỉnh thoảng giữa buổi chiều tĩnh lặng, tôi nghe thấy trong làn gió thấp thoáng tiếng ca cao vút mà vui vẻ của A Nô, vẫn là khúc hát ngày đó:

    Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…

    Tiếng ca xuyên qua lớp lớp đình đài lầu các, dừng lại trên mỗi phiến ngói lưu ly trong chùa Cam Lộ, Tịnh Bạch trề môi nói với giọng chán ghét: “Lời ca dâm dật, thực là khinh nhờn Phật Tổ.”

    Trụ trì thì lại nói: “Có lòng nghe, tất nhiên là sẽ nghe thấy, cứ làm ngơ, không để ý tới là được.”

    Tôi thầm thở dài, dù tôi vô tâm nhưng lời ca ấy cũng đã lọt vào tai tôi.

    Trong thời gian này, tôi phát hiện Hoán Bích có mấy lần đi tới bên bờ sông, khi quay về thì cả giày và tất đều bị ướt, thế là bèn hỏi xem có chuyện gì. Hoán Bích chỉ đáp: “Lần trước, những lời của nô tỳ hình như đã làm tổn thương Vương gia và A Tấn, có lúc nô tỳ thật sự muốn trực tiếp xin lỗi bọn họ.” Thoáng dừng một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Dù sao, Vương gia cũng đối xử với chúng ta rất tốt.”

    Sau một thoáng lặng im, tôi nói: “Hoán Bích, những lời của muội lần này khác hẳn với lần trước, hình như có chút mâu thuẫn đấy.”

    Hoán Bích nghẹn lời, lúng túng nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ nói ra lời trong lòng mà thôi.”

    “Vậy…” Tôi hỏi: “Muội có gặp được Vương gia không?”

    “Có gặp mấy lần.” Hoán Bích cúi đầu, mân mê mép áo. “Nhưng y chỉ nhìn mặt sông mà ngơ ngẩn, lần nào cũng chỉ có A Tấn nói chuyện với nô tỳ, thành ra nô tỳ không cách nào mà xin lỗi được.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, cũng không suy nghĩ gì nhiều. Sự quan tâm của Huyền Thanh vẫn chưa từng gián đoạn, chỉ là bây giờ phải thông qua Cận Tịch mà thôi. Có lúc y bảo Cận Tịch đưa tranh của Lung Nguyệt tới, có lúc lại hỏi Cận Tịch xem tôi có khỏe không.

    Tất nhiên, ngay từ lúc ở trong cung, Cận Tịch và y đã khá thân thuộc với nhau rồi.

    Mùa hạ rất nhanh đã qua đi và mùa thu lại tới.
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 16: Xuất kỳ đông môn [1]
    [1] Tên một bài thơ trong Kinh thi, thuộc tập Trịnh phong trong phần Quốc phong, nghĩa đen là “ra khỏi cửa đông” – ND.

    Trung thu năm nay tôi vốn nghĩ sẽ lại trôi qua trong sự cô đơn và tịch mịch như trước, cùng lắm cũng chỉ là tôi với Cận Tịch và Hoán Bích chia nhau ăn bánh Trung thu.

    Đến giờ cơm tối, các ni cô trong chùa đều lên núi ngắm trăng, chỉ có tôi, Cận Tịch và Hoán Bích là ở lại trong phòng, không ra ngoài.

    Chợt nghe bên ngoài có tiếng chuông ngựa vang lên, tôi thính tai nghe thấy, bèn nói: “Không biết là ai tới đây vào giờ này, để ta ra ngoài xem thử.”

    Mở cửa ra ngoài, tôi nhìn thấy A Tấn tay xách một giỏ hoa quả nhảy xuống từ trên lưng ngựa, cười hì hì, nói: “Tiểu nhân biết ngay lúc này các ni cô trong chùa Cam Lộ đều đã đi ngắm trăng rồi mà. Vương gia vốn muốn đích thân tới, tiếc bây giờ trong cung đang mở tiệc, Thái hậu cũng có mặt, thành ra không thể tranh thủ tới đây được.” Y đưa giỏ hoa quả cho Hoán Bích, nói tiếp: “Đây là những thứ hoa quả mà thường ngày nương tử thích ăn, Vương gia dặn tiểu nhân đặc biệt chuẩn bị cho nương tử, khi ngắm trăng dù sao cũng phải ăn gì đó.”

    Hoán Bích mỉm cười, đón lấy. “Vương gia quả là có lòng, ta xin thay tiểu thư nhà ta tạ ơn Vương gia.”

    Tôi trêu: “Cứ tưởng ngươi sẽ không dám đến gặp bọn ta nữa cơ, không ngờ bây giờ lại lon ton chạy đến đây thế này.”

    Hoán Bích giậm chân thẹn thùng nói: “Tiểu thư lại trêu nô tỳ rồi.”

    A Tấn gãi đầu gãi tai, xấu hổ giải thích: “Việc lần trước đã nói rõ ràng rồi, nô tài chỉ coi Hoán Bích như muội muội thôi.”

    Tôi mỉm cười, quay sang nói với Cận Tịch: “Không phải chúng ta cũng có bánh Trung thu sao, lấy mấy cái ra đây cho A Tấn, coi như là chúng ta cùng đón Trung thu.”

    A Tấn nghe tôi nói như vậy, trong mắt chợt lóe lên một tia nghịch ngợm, mỉm cười, nói: “Nương tử nói đến bánh Trung thu, vừa hay Vương gia nhà nô tài cũng bảo nô tài mang bánh tới cho nương tử đấy.”

    Tôi thấy có chút khó hiểu, nhưng vẫn tỏ vẻ thản nhiên. “Là loại bánh Trung thu đặc biệt gì mà phải bảo ngươi mang tới đây vậy?”

    A Tấn cười tủm tỉm, nói: “Nương tử cứ xem rồi khắc biết, Vương gia đã dặn đi dặn lại nô tài rằng nhất định phải đưa bánh tới tận tay nương tử mới được.”

    Tôi nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi nói với y: “Trịnh trọng như vậy, xem ra nhất định là loại bánh Trung thu hiếm có rồi.”

    A Tấn lấy từ trong ống tay áo ra một chiếc bọc nhỏ, mở lần lượt từng lớp giấy và vải lụa bọc bên ngoài ra, cẩn thận đưa tới trước mặt tôi. “Nương tử hãy tự xem đi.”

    Đó chẳng qua chỉ là một chiếc bánh bình thường, không có chỗ nào đặc biệt, Hoán Bích đứng bên cạnh không kìm được nghi hoặc, cười hỏi: “Không phải chỉ là một chiếc bánh bình thường thôi sao?”

    Tôi cũng thấy hơi nghi hoặc, bèn bẻ đôi chiếc bánh ra xem. Thì ra chiếc bánh này rỗng ruột, bên trong có một mảnh giấy nhỏ, tôi mở mảnh giấy ra xem thì thấy bên trên có viết bốn chữ “hữu bị vô hoạn[2]” hết sức ngay ngắn, nắn nót.

    [2] Đây là một câu thành ngữ, ý nói có phòng bị trước thì sẽ tránh được tai họa – ND.

    Tôi nhất thời không nhìn ra được điều gì, bèn hỏi A Tấn: “Thế này là ý gì vậy?”

    A Tấn cười hì hì, nói: “Vương gia nói hôm nay là tết Trung thu, phải ngắm đèn lồng đoán câu đố, do đó bèn bảo nô tài mang lời giải đố này đến cho nương tử, nói nương tử thông minh hết mực, nhất định có thể đoán ra câu đố.”

    Hoán Bích đứng bên cạnh cũng không đoán ra được gì, bèn cười oán trách: “A Tấn, Vương gia nhà ngươi đúng là cổ quái, người ta bình thường đều là đi đoán lời giải đố, ai lại cho lời giải để đoán câu đố như vậy bao giờ.”

    A Tấn xòe tay, nhún vai vẻ hết cách. “Đây là ý của Vương gia, ta là kẻ nô tài, chỉ có thể nghe lệnh, sao dám cãi lại câu nào”, rồi lại quay sang cười, nói với tôi: “Nương tử đã phải nhọc lòng rồi!” Nói xong, lại không cười nữa mà khẽ thở dài một hơi. “Vương gia nhà nô tài đang không vui nhưng vẫn muốn giành được một nụ cười của nương tử.”

    A Tấn xưa nay vốn mau mồm mau miệng, con người cũng thông minh nhanh trí, đột nhiên nói như vậy nhất định là có nguyên do. Tôi cũng không nói gì, chỉ thoáng đưa mắt liếc qua phía Hoán Bích.

    Hoán Bích cười, nói: “Đây nhất định là lời đùa cợt rồi, Vương gia thân phận tôn quý, là tấm thân ngàn vàng, dù có ai đắc tội thì cũng chỉ cần đánh cho một trận là được, cớ gì mà lại không vui chứ.”

    A Tấn nghiêm túc nói: “Lời này thực sai lắm, thứ nhất Vương gia nhà ta không phải người như vậy, thứ hai, Vương gia phiền lòng là do ý của Thái hậu. Thái hậu nói Vương gia không còn nhỏ nữa và đã giúp ngài chọn được một vị tiểu thư để làm Thanh Hà Vương phi rồi. Thái hậu có vẻ rất hài lòng về vị tiểu thư đó, nói hôm nào sẽ an bài cho Vương gia gặp mặt.”

    Lòng tôi thầm chấn động, không kìm được nhìn qua phía Hoán Bích. Hoán Bích cũng tỏ ra hết sức bất ngờ, thốt lên: “Thật thế sao?”

    A Tấn cau mày, rầu rĩ nói: “Tất nhiên là thật rồi, nếu không tại sao Vương gia lại không vui chứ. Thời gian qua, Thái hậu giục rất gấp nói Vương gia đã hai mươi tư tuổi rồi, làm gì có ai đến tuổi này mà còn chưa nạp phi, Vương gia thì thậm chí đến một người thiếp cũng không có, chẳng ra thể thống gì cả. Lần này, Thái hậu đã chọn được tiểu thư nhà Bái Quốc công, tên gọi Vưu Tĩnh Nhàn, nghe nói vô cùng dịu dàng, hiền thục, ngay đến mấy vị thái phi cũng không ngớt lời khen.”

    Tự đáy lòng tôi chợt dâng trào từng cơn giá lạnh khó mà miêu tả bằng lời, tựa như giữa ngày đông có ai đó thò bàn tay vừa ngâm trong nước lạnh tới, nắm chặt lấy trái tim tôi để sưởi ấm. Tôi biết rõ cảm giác này là khó hiểu và không nên có, vội mỉm cười bình tĩnh để che giấu. “Đây là việc tốt, ở tuổi của Vương gia, nếu đổi lại là người khác chỉ e đã con cái thành đàn, vào lúc này Vương gia quả cũng nên cưới một vị Vương phi về để quản lý việc nhà rồi.”

    Hoán Bích khẽ gọi: “Tiểu thư…”

    Tôi mỉm cười đưa mắt nhìn qua, nói: “Vương gia chuẩn bị nạp phi là việc tốt, hơn nữa cặp mắt Thái hậu xưa nay vẫn luôn nhìn người rất chuẩn, chúng ta nên chúc mừng Vương gia mới đúng chứ!”

    A Tấn nghe tôi nói vậy liền khẽ “hừm một tiếng, trong giọng nói thấp thoáng vẻ không vui: “Vương gia nhà ta đang vì chuyện này mà sầu não không thôi, ta vốn nghĩ Vương gia coi nương tử như tri kỷ, nương tử nhất định cũng hiểu được tâm tư của Vương gia, không ngờ nương tử lại nói ra lời chúc mừng Vương gia như thế, A Tấn không thích nghe chút nào, xin được cáo từ.” Sau đó liền hậm hực tung người nhảy lên lưng ngựa, giục ngựa rời đi.

    Gió ngừng thổi tự lúc nào, bốn phía đều chìm trong tịch mịch. Bàn tay tôi vẫn cầm chặt mảnh giấy nhỏ lấy từ trong chiếc bánh Trung thu ra. Hoán Bích bước tới đỡ lấy cánh tay tôi. “Đêm hơi lạnh rồi, chúng ta mau vào trong thôi.”

    Tôi thấy giọng Hoán Bích đầy vẻ buồn bã, khác hẳn với thường ngày, liền ngoảnh đầu nhìn, phát hiện trên khuôn mặt xinh đẹp kia quả nhiên thấp thoáng nét hụt hẫng. Tôi thở dài một tiếng, khẽ nói: “Hoán Bích, muội trách ta đã nói những lời vừa rồi sao?”

    Hoán Bích khẽ lắc đầu, lát sau lại gật đầu, nói: “Tiểu thư thật lòng chúc mừng cho Vương gia sao? A Tấn không hiểu, nhưng sao nô tỳ không hiểu cho được chứ!”

    Nỗi ưu sầu của tôi như thảm cỏ xuân lan tràn khắp nơi. Tôi cố không để ý tới việc này, hỏi lại Hoán Bích: “Vậy muội cảm thấy ta nên nói thế nào? Ngoài lời chúc mừng ra, ta chẳng thể nói được gì khác.”

    Đầu ngón tay Hoán Bích hơi giá lạnh, tựa như giọt sương trên lá. “Đây là việc mừng, nhưng không phải ai cũng vui mừng”, rồi lại hơi cúi xuống. “Không phải A Tấn đã nói rồi sao? Vương gia cũng không vừa ý.”

    “Vừa ý hay không vừa ý thì Vương gia cũng đã đến tuổi rồi, đây lại là ý của Thái hậu, lẽ nào thật sự có thể làm trái?”

    Tôi bước qua bên cạnh, chậm rãi thắp một nén đàn hương, mùi khói lửa trộn lẫn mùi thơm dìu dịu của đàn hương khiến lòng tôi bình lặng hơn một chút nhưng đồng thời lại càng cảm thấy thê lương.

    Hoán Bích tựa người vào cửa, chăm chú nhìn động tác của tôi, buồn bã nói: “Khi sầu muộn, tiểu thư thường thích thắp đàn hương thế này.”

    Bàn tay tôi hơi run rẩy nhưng rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại. “Muội thấy ta đang sầu muộn sao?”

    Hoán Bích chỉ khẽ lắc đầu, mỉm cười, nói: “Một khi Vương gia có gia thất, nhất định sẽ không được tự do tự tại như trước nữa, cũng không thể thỉnh thoảng tới thăm chúng ta như bây giờ.”

    Tôi hít một hơi thật sâu, chầm chậm nhấm nháp mùi thơm dìu dịu của đàn hương trong không khí, hồi lâu sau mới nói: “Muội rất mong được gặp Lục Vương gia sao?”

    Cuối cùng, Hoán Bích không chịu nói gì thêm.

    Mười lăm trăng sáng, Mười sáu trăng tròn, hôm nay, trong lúc các ni cô đi tụng niệm, Huyền Thanh bước đi giữa những ánh trăng màu trắng sữa tới thăm tôi. Mãi đến khi chiếc bóng dài của y xuất hiện trong tầm mắt, tôi mới giật mình phát hiện y đã tới.

    Thoáng kinh ngạc, tôi rất nhanh đã đứng dậy, nói: “Vương gia trước giờ chưa từng tới đây, sao hôm nay lại tới thế?”

    Dáng vẻ y rất ung dung, tựa như chẳng có việc gì, bước tới gần tôi, mỉm cười nói: “Đang làm gì thế?”

    Tôi gác cây bút trong tay qua một bên, khẽ cười, nói: “Còn có thể làm gì được, chép kinh Phật cho Thái hậu thôi. Mấy ngày nữa Phương Nhược sẽ lại tới lấy!”

    Y “ồ” một tiếng, lẳng lặng đọc tập kinh văn mà tôi vừa chép, hồi lâu sau mới chậm rãi nói: “Chữ của nàng lại tiến bộ hơn rồi, chỉ là…” Sau đó, y vừa chỉ tay vào chữ vừa nhìn tôi, nói: “Hình như tâm thần nàng không yên, do đó mấy chữ này có hơi nghiêng ngả.”

    Tôi hờ hững đưa mắt liếc qua, làm bộ thản nhiên nói: “Vương gia tinh mắt thật, mấy việc này ta đều chẳng thể giấu được ngài.” Thấy Hoán Bích bưng trà bước vào, tôi mới mỉm cười, nói: “Đa tạ Vương gia hôm qua tặng bánh, ta nhất thời cao hứng nên chữ viết mới thành ra như vậy.”

    Hai mắt bỗng hơi lóe sáng, Huyền Thanh mỉm cười, ôn tồn hỏi: “Nương tử đã đoán được rồi sao?”Loại trà mà Hoán Bích pha mang tới là trà cúc Hàng bạch, những bông hoa màu vàng nhạt nổi bồng bềnh trên mặt nước, phía dưới là một mảng màu xanh trong vắt. Tôi hơi cúi đầu, lập tức ngửi thấy một mùi thơm thanh tân dễ chịu.

    Tôi hiểu rõ dụng tâm của Hoán Bích, hôm qua nghe thấy những lời đó của A Tấn, tôi tất nhiên không vui; còn A Tấn xưa này vốn mau mồm mau miệng, sau khi quay về nhất định sẽ nói hết những lời của tôi với Huyền Thanh, như thế Huyền Thanh ắt sẽ càng không vui, do đó Hoán Bích mới chọn trà cúc Hàng bạch, giúp tâm trạng hai chúng tôi phần nào bình tĩnh hơn.

    Tôi chậm rãi nhấp một ngụm trà, cười tủm tỉm, nói: “Lời giải đố là ‘hữu bị vô hoạn’, muốn dựa vào đó để đoán ra câu đố quả không dễ dàng gì. Ta đã phải nghiền ngẫm suốt hồi lâu mới nghĩ tới truyện Tam Quốc, từ đó đoán ra đáp án, nhưng cũng không biết mình đoán có đúng không, còn phải chờ Vương gia trả lời mới được.”

    Y cầm chén trà trong tay, cười nói: “Nương tử cứ nói ta nghe thử.”

    “Trong Tam Quốc, ‘bị’ ý chỉ hoàng thúc nhà Hán Lưu Bị. Lưu Bị dốc hết tâm sức cả đời, lập quốc ở Thục Trung, trở thành chủ nhân nước Thục. Còn ‘vô hoạn’ có nghĩa là bình an.” Ngón tay tôi búng nhẹ vào chiếc chén làm bằng sứ, vang lên những tiếng “tách tách” vui tai, nụ cười bên khóe miệng đầy vẻ thư thái. “Thục Trung và Xuyên Bách ở rất gần nhau, hẳn là Vương gia muốn nói với ta, cha mẹ và muội muội ta ở vùng Xuyên Bắc đều bình an, khỏe mạnh.”

    Y nở một nụ cười vui mừng, nói: “Nàng đoán đúng lắm, người mà ta phái đi đã quay về bẩm báo rồi, cha mẹ nàng đều khỏe mạnh, không đau bệnh gì, hơn nữa hai năm nay cha nàng hưng tu thủy lợi, mở rộng kênh mương, giúp việc giao thông thêm thuận lợi, chính tích khá tốt, hơn nữa còn được nhân dân yêu quý.”

    Xuyên Bắc là nơi đất đai cằn cỗi, cha mẹ đều khỏe mạnh, tôi cũng yên tâm hơn phần nào. Tôi thầm cảm động, giọng nói cũng bất giác dịu dàng hơn: “Đa tạ Vương gia nói với ta những việc này”, rồi lại lo lắng nói: “Nơi đó giá lạnh, chân cha ta xưa nay luôn yếu, nhỡ bị đau nhức thì phải làm sao đây?”

    Huyền Thanh bật cười, đôi mắt nheo lại thành hình hai vầng trăng non rất đẹp. “Sau Trung thu là tới mùa đông rồi, chỉ e thời tiết sẽ càng lúc càng lạnh. Hôm qua được biết có sứ giả vào Xuyên, ta liền nhờ Ôn thái y tìm cho một ít thuốc cao đặc trị những bệnh hay mắc ở nơi ẩm thấp, đặc biệt là về xương, sau đó nhờ sứ giả mang tới cho Chân đại nhân rồi.”

    Lòng tôi thầm thư thái, lại càng cảm kích sự chu đáo của y. “Thực làm phiền Vương gia phải tổn hao tâm trí.”

    Y cười vang, nói: “Ta đâu có gì mà hao tâm tổn trí, người hao tâm tổn trí là Ôn thái y kìa. Vừa nghe nói ta muốn đưa thuốc tới cho Chân Viễn Đạo đại nhân, suốt đêm đó, y liền chọn những loại nguyên liệu tốt nhất để chế tạo ra một loại thuốc cao mới, rồi đích thân đưa tới phủ của ta, ta chẳng qua chỉ thuận nước dong thuyền mà thôi.”

    Nơi đáy lòng tôi thầm buông tiếng thở dài, cũng rất cảm kích. Ở trong cung may còn có Ôn Thực Sơ. Nhưng tôi không muốn để Huyền Thanh nghĩ nhiều, vì vậy chỉ mỉm cười, nói: “Ôn thái y là cố giao lâu năm với nhà ta, nhưng bây giờ vẫn chịu giúp đỡ như thế cũng thực là hiếm có.” Tôi bất giác thấy hơi buồn bã, trên thế gian này việc thêu hoa trên gấm thì nhiều, tặng than giữa trời tuyết rơi thì ít, tâm ý của Ôn Thực Sơ thực đáng quý vô cùng.

    Thế nhưng tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, ra vẻ trách cứ, nói: “Có điều, câu đố lần này của Vương gia lòng vòng trắc trở, muốn đoán ra được quả là chẳng dễ dàng gì.”

    “Nếu quá đơn giản, với sự thông minh của nương tử nhất định sẽ đoán ra được ngay, như thế thì còn gì thú vị nữa.” Y búng ngón tay cười khẽ, tựa như đang nhấm nháp chén trà hoa cúc trong tay. “Hôm qua là Trung thu, ta đoán nàng nhất định sẽ nhớ nhà, do đó mới cố ý chọn một câu đố khó đoán như vậy, hy vọng có thể giúp nàng xua bớt nỗi nhớ mong.”

    Huyền Thanh cứ luôn như vậy, mang tới cho tôi sự cảm động trong lặng lẽ. Đó không phải là những cơn sóng dữ cuộn trào, mà là từng làn gió nhẹ buổi đêm, hết sức dịu dàng và mềm mại, khiến tôi không cách nào nổi lên ý niệm kháng cự.

    Trong lòng tôi trào dâng từng tia ấm áp, tựa như những bông hoa cúc bị ngâm trong nước trà kia, dần dãn nở từng chút.

    Đột nhiên tôi nhớ tới câu nói của Hoán Bích hôm qua: “Một khi Vương gia có gia thất, nhất định sẽ không được tự do tự tại như trước nữa, cũng không thể thỉnh thoảng tới thăm chúng ta như bây giờ.”

    Muốn thỉnh thoảng gặp một lần cũng không được, với y là thế, với tôi cũng thế.

    Nghĩ tới đây, tôi lại càng buồn bã, khuôn mặt dần xuất hiện vẻ hụt hẫng.

    Đúng lúc này, Hoán Bích ôm theo một bó cúc lớn bước vào, chẳng qua trông hết sức tự nhiên, trắng tinh thuần khiết, thanh nhã vô cùng.

    Hoán Bích đứng lẳng lặng bên cạnh ô cửa sổ phía nam, cẩn thận thay hoa mới vào bình. Vì có muội ấy ở đây, tôi nhất thời không tiện nói gì, mà Huyền Thanh cũng không nói nửa lời, hai chúng tôi chỉ ngồi cạnh nhau, im lặng uống trà.

    Lát sau, Hoán Bích ôm theo bó hoa cúc vàng đã lụi tàn quá nửa rời đi, vì có hơi vội vã nên mấy cánh hoa rơi xuống sàn, màu sắc đều đã đen thui, còn hơi xoăn vào, tựa một trái tim đã hoàn toàn suy sụp.

    Hôn sự của y, nếu y không nhắc tới, tôi cũng sẽ chẳng đề cập một từ nào, chỉ làm như không biết mà thôi, bởi tôi cũng đâu thể nói được gì.

    Hồi lâu sau, trà nguội hẳn, rốt cuộc y cũng lên tiếng: “Hôm qua, A Tấn làm nương tử giận sao?”

    Tôi lắc đầu, nụ cười hờ hững mà xa cách một mực hiện diện trên khóe môi. “A Tấn xưa nay luôn nhanh nhẹn, thẳng thắn, dù y có nói gì thì ta cũng không tức giận đâu.”

    Y hơi khép mắt lại vẻ mỏi mệt, khẽ cất tiếng: “Y rất lắm lời”, suy nghĩ một chút lại nói thêm: “Như vậy, nàng đã biết rồi đúng không?”

    Tôi hờ hững vạch qua vạch lại ngón tay trên mặt bàn, nói: “Đúng vậy, nhưng ta chỉ thấy mừng thay Vương gia thôi!”, rồi lại chậm rãi nói tiếp: “Tiểu thư của Vưu phủ đương nhiên là một sự lựa chọn tốt, huống chi Thái hậu lại thích nàng ta nữa.” Tôi khẽ nhấp một ngụm trà, để dòng nước giá lạnh chảy qua đầu lưỡi. “Năm xưa, Bái Quốc công từng cùng Thái tổ Hoàng đế chinh chiến sa trường, vào sinh ra tử nên mới có được công danh như thế, tất cả đều là dùng đao thương mà đổi lại. Bái Quốc công gia thế hiển hách, đã phong quang được mấy trăm năm, tuy bây giờ chẳng còn thực quyền trong tay nhưng gia giáo rất tốt, con gái trong một gia đình như vậy nhất định là bậc đại gia khuê tú, phong hoa tuyệt trần. Tĩnh Nhàn…” Tôi thoáng trầm ngâm, cười nói: “Vừa nghe đã biết là tên của một cô gái ngoan hiền nền nã, ta xin có lời chúc mừng Vương gia trước.”

    Tôi cũng không biết tại sao mình lại thao thao bất tuyệt như vậy, dường như chẳng khống chế nổi bản thân, càng nói nhiều, cảm giác thê lương trong lòng càng nồng đậm, nhanh chóng bao phủ toàn thân tôi.

    Thần sắc Huyền Thanh theo từng lời nói của tôi mà càng lúc càng trở nên buồn bã.

    Y im lặng hồi lâu, đột nhiên khẽ nở một nụ cười tao nhã, bên trong lại thấp thoáng đôi nét ưu sầu, nhìn tôi, trầm giọng hỏi: “Nàng thật lòng chúc mừng ta sao?”

    Có khoảnh khắc nào đó tôi thực sự rất muốn ngoảnh đầu đi, vô cùng muốn, nhưng rốt cuộc tôi vẫn kìm được, cố nở nụ cười dịu dàng nhất có thể. “Đương nhiên là thật lòng chúc mừng rồi!”

    Y chỉ im lặng. Tôi không dám nhìn y nhưng chiếc bóng của y in xuống chén trà thực rõ ràng biết mấy, rõ ràng đến mức khiến tôi không thể không nhìn.

    Bàn tay y chậm rãi đưa tới, muốn nắm lấy tay tôi. Tôi cả kinh, rụt tay về theo bản năng, không dám ngẩng lên thêm lần nào.

    Nụ cười của y lại càng trở nên giá lạnh, tuy đang cười nhưng lại chẳng có chút tâm trạng vui vẻ nào, khuôn mặt tựa như tấm mặt nạ cứng đơ, khiến người ta vừa nhìn là đã có cảm giác như bị một làn gió thu héo hắt thổi qua, chỉ còn lại nỗi cô đơn cùng ánh tà dương tịch mịch.

    Bàn tay của y giữ nguyên khoảng cách một tấc với tay tôi, không động đậy, tôi cơ hồ có thể cảm nhận được sự giá lạnh nơi đầu ngón tay y. Giọng y vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh: “Bất kể nàng có nói thực lòng hay không, ta chỉ muốn nói với nàng, ta không hề thích Vưu Tĩnh Nhàn.” Rồi y chậm rãi đứng dậy, chắp tay sau lưng đi tới trước cửa sổ, bó hoa cúc dại kia khoe sắc trước mắt y, ngoài cửa sổ là gốc ngô đồng với rất nhiều phiến lá đang rơi lặng lẽ. “Có mấy câu thơ vừa hay có thể biểu đạt tâm trạng ta lúc này.” Y nói, giọng hơi hờ hững, trong sự hờ hững lại toát ra vẻ kiên định không thể thay đổi: “Bước ra vừa khỏi cửa đông, lắm cô thiếu nữ sắc dung mặn mà. Tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình[3]. Dù Vưu Tĩnh Nhàn có tốt đến thế nào, ta cũng không sao yêu thích được.”

    [3] Trích Xuất kỳ đông môn, Kinh thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: Xuất kỳ đông môn, hữu nữ như vân. Tuy tắc như vân, phi ngã tư tồn – ND.

    Tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình. Không ngờ y lại dùng đôi câu thơ này để tỏ rõ tâm ý.

    Tôi không còn gì để nói, chỉ biết cúi đầu, khẽ thở dài. “Nhưng Thái hậu rất vừa ý tiểu thư nhà họ Vưu, mà Vương gia quả thực cũng tới tuổi thành hôn rồi, chẳng lẽ cứ định kéo dài mãi hay sao?”

    Ánh mắt y nóng bỏng như lửa, sáng rực như đuốc. “Thái hậu không biết, nhưng nàng thì biết rõ, ai kia áo xám khăn đen, làm ta vui thích riêng mình yêu đương[4].”

    [4] Trích Xuất kỳ đông môn, Kinh thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: Cảo y kỳ cân, liêu nhạc ngã viên – ND.

    Lòng tôi chấn động khôn cùng, áo xám khăn đen? Chẳng phải tôi chính là một người tu hành áo xám đó sao? Không ngờ y lại có thể thẳng thắn bày tỏ như vậy, không hề vòng vèo, cũng không hề mềm mỏng. Trong khoảnh khắc đó, tôi đột nhiên không muốn né tránh nữa, dù tôi hiểu được tâm ý của y thì sao, có thể làm gì được chứ? Thế là tôi bèn nói: “Dù Vương gia không vừa ý tiểu thư nhà họ Vưu thì Thái hậu cũng sẽ chọn cho ngài những mối hôn sự khác, Vương gia có thể cự tuyệt Vưu tiểu thư nhưng chẳng lẽ có thể cự tuyệt tất cả những người khác hay sao? Ý chỉ của Thái hậu không dễ gì phản kháng được đâu.” Khẽ hắng giọng, tôi lại nói tiếp: “Vương gia vừa mới nói ‘ai kia áo xám khăn đen, làm ta vui thích riêng mình yêu đương’ nhưng người áo xám khăn đen kia vị tất đã có tâm tư gì với Vương gia, Vương gia cớ sao phải tự làm khổ mình?”

    Ngoài cửa sổ, lá vàng rơi lả tả, tựa những cánh bướm nhè nhẹ lượn bay, càng tôn lên vẻ tiêu điều của mùa thu. Y đứng trước cửa sổ, chậm rãi lên tiếng: “Dù mẫu hậu nhất định muốn chỉ hôn, ta cũng liều chết phản kháng. Mẫu hậu có kiên trì đến mấy thì rốt cuộc cũng không thể cự lại tâm ý của ta. Ta không phải quân vương, việc hôn nhân không liên quan gì tới vận nước, mẫu hậu ắt sẽ không bức ép ta quá!” Y chăm chú nhìn tôi, ánh mắt nóng bỏng không có lấy nửa phần rụt rè mà còn cuồn cuộn như nước, càng lúc càng mãnh liệt. “Còn về việc người áo xám khăn đen có tâm tư gì với ta hay không, ta nghĩ mình chỉ cần kiên trì chờ đợi nàng là được. Bởi ta tin rằng, chỉ cần đủ lòng thành, sẽ có ngày vàng đá cũng phải nứt ra.”

    Đây là lần đầu tiên y thẳng thắn tỏ rõ tâm tư của mình với tôi như vậy.

    Tôi hít một hơi khí lạnh nhưng trong người bất giác lại có những tia ấm áp đang dần lan tỏa. Tôi cơ hồ đã hơi xao động nhưng rốt cuộc vẫn cố kìm nén không suy nghĩ thêm, dứt khoát hỏi thẳng: “Đủ lòng thành, có lẽ thực sự sẽ có ngày vàng đá cũng phải nứt ra, nhưng giờ đây lòng ta đã như giếng lặng, thực không muốn nổi lên gợn sóng nào nữa, do đó dù có nhiều lòng thành đến mấy thì cũng vô dụng thôi, Vương gia hà tất phải uổng phí tâm sức.”

    Nhưng y lại dùng một nụ cười bình thản để đón lấy vẻ hờ hững của tôi. “Không cần biết vàng đá có nứt ra hay không, Thanh vẫn sẽ dốc hết lòng mình.” Y nhìn tôi chăm chú, nói tiếp: “Thanh chỉ mong nương tử đừng nói hai chữ ‘chúc mừng’ nữa, Thanh quả thực sợ phải nghe thấy hai chữ đó vô cùng.”

    Tôi khẽ buông tiếng thở dài buồn bã. “Được, ta sẽ không tùy tiện nói vậy nữa. Chỉ là nếu thực sự có một ngày như thế, Vương gia cũng không để ta được thật lòng chúc mừng sao?” Thấy y hơi cau mày, tôi vội nói: “Được rồi, được rồi, ta không nói nữa.”

    Nụ cười của y rốt cuộc đã ấm áp trở lại. “Nàng biết không, hôm qua khi A Tấn quay về nói với ta việc nàng chúc mừng ta, ta thực sự đã tức đến phát điên, chỉ hận không thể bỏ dở bữa tiệc trong cung mà chạy tới đây lý luận với nàng.”

    Tôi phỉ phui một tiếng, khẽ nói: “Ta vốn có lòng tốt, ngài hà tất phải tìm ta lý luận làm gì”, rồi lại mỉm cười nói tiếp: “Thanh Hà Vương xưa nay luôn tự phụ là bậc quân tử ung dung, nho nhã, không ngờ cũng có lúc nóng giận đến mức này.”

    “Cũng chỉ có nàng mới có thể khiến ta tức giận đến thế thôi!” Y thở dài lẩm bẩm. “Chỉ mình nàng thôi!”

    Tôi khẽ cười một tiếng, không nói gì thêm.
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 17: Hồng nhan lắm nỗi truân chuyên
    Tới mùa đông, công việc của tôi vẫn bận rộn như trước nhưng thân thể thì ngày một yếu đi, giữa đêm khuya thường ho sù sụ không ngớt, thời tiết khô hanh đầu đông khiến tôi không tài nào ngủ ngon được.

    Sau dịp Trung thu, tôi không cho Huyền Thanh tới chùa Cam Lộ nữa, tự đáy lòng tôi thấp thoáng cảm thấy Ôn Thực Sơ tới thì không sao, còn nếu y tới, một khi bị người ta phát hiện, chỉ e sẽ phát sinh những chuyện thị phi không cần thiết. Mà tôi, quả thực không muốn y gặp rắc rối bởi những lời đồn.

    Trời đã trở lạnh, tôi cũng lười không tới bên bờ sông nữa. Có lẽ không hẳn vì lười, mà vì mỗi lần nghĩ tới sự quan tâm của Thái hậu với chuyện hôn nhân của y, tôi lại sinh lòng do dự, dù sao tôi và y cũng không hợp nhau. Ni cô cửa Phật và con cháu hoàng gia, phế phi của thiên tử và thiếu niên tuấn tú, nhìn thế nào cũng không nên thành đôi.

    Thế là, bây giờ chỉ có Cận Tịch tới gặp y.

    Lần này quay về, Cận Tịch mang theo một bát chè lê hầm đường phèn, bên trên vẫn còn hơi ấm. Nàng ta nói: “Lần trước nô tỳ ngẫu nhiên kể với Vương gia việc nương tử hay bị ho, lần này Vương gia liền mang chè lê hầm đường phèn tới, nói là để giúp nương tử nhuận phổi.”

    Tôi đang cúi đầu chép kinh Phật, nghe vậy chỉ nói: “Để qua một bên đi, ta chép xong rồi ăn.”

    Cận Tịch đứng bên cạnh xem tôi chép được một lúc, lẩm bẩm nói: “Phương Nhược đã hai tháng không tới đây rồi thì phải.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Hồ Đức nghi vừa sinh Hòa Mục Công chúa, lại được thăng từ Xương Tần thành Đức nghi, đang lúc đắc sủng. Mà Phương Nhược lại thường xuyên phải đưa Công chúa tới chỗ Thái hậu, tất nhiên là bận rộn hơn, không có thời gian tới đây lấy kinh Phật nữa.”

    Cận Tịch ghé tai tôi, khẽ nói: “Phương Nhược không tới cũng là chuyện tốt. Việc bà ta thường xuyên tới đây chứng tỏ một số phi tần trong hậu cung vẫn rất để ý đến nương tử, do đó bà ta mới phải tới để xem nương tử có bình yên hay không. Bây giờ bà ta không tới nữa, tức là lòng đề phòng của những người đó với nương tử đã giảm hẳn rồi.”

    Tôi nhúng đầu bút vào nghiên mực, hờ hững nói: “Ta rời cung đã được hai năm, bọn họ bây giờ đều biết rõ là ta không thể quay về, do đó tất nhiên chẳng thèm để ý đến ta nữa. Huống chi Hồ Đức nghi vừa sinh được Hòa Mục Công chúa, đang đắc sủng, tâm tư của mọi người hầu như đều dồn cả vào nàng ta rồi.”

    “Có điều…” Cận Tịch hơi do dự nói: “Nghe nói Hồ Đức nghi bây giờ không thể sinh nở được nữa.”

    “Ồ?” Tôi tạm ngừng bút, đưa mắt liếc nhìn nàng ta. “Làm sao ngươi biết được?”

    Cận Tịch trầm giọng đáp: “Hai hôm trước, Ôn thái y đưa một ít thuốc ho tới đây nhưng nương tử đã ra ngoài. Nô tỳ nói chuyện phiếm với y một lát, nghe y kể lại rằng Hồ Đức nghi vì sinh Hòa Mục Công chúa mà thân thể bị tổn thương, khó mà có thai thêm lần nữa.”

    Tâm tư tôi thoáng xoay chuyển. “Vậy bản thân Hồ Đức nghi có biết không?”

    “E là còn chưa biết, mà dù có biết, việc thân thể bị tổn hại như thế cũng làm gì có dấu vết để lại, dù sao thì khi sinh con cũng phải có chút rủi ro. Tấn Khang Quận chúa biết việc này thì hết sức tức giận và thương tâm nhưng cũng chẳng điều tra được gì.”

    Tôi thầm cười lạnh, Hồ Đức nghi là con gái của Tấn Khang Quận chúa, đứa con của nàng ta quyết không thể bị sẩy được. Mà sinh ra công chúa thì cũng chẳng sao, trong mắt mọi người chốn hậu cung, tuy bây giờ Hồ Đức nghi đắc sủng nhưng về sau lại không thể sinh được con, chẳng có gì đáng ngại. Huống chi, dù sinh ra hoàng tử thì việc có nuôi lớn được hay không cũng là điều chưa ai biết rõ.

    Chiêu này có thể nói là tiêu trừ hết hậu họa, tuyệt diệu vô cùng.

    Tôi hờ hững hỏi: “Vậy Hoàng thượng có biết không?”

    “Tất nhiên là không biết, nếu để ngài biết và truy cứu, dù gì cũng không phải chuyện hay.” Cận Tịch mỉm cười, nói: “Công lực của Hoàng hậu quả đã tiến bộ nhiều rồi, chỉ đáng thương cho Hồ Đức nghi thôi!”

    “Hồ Đức nghi không phải là người đầu tiên, cũng sẽ không phải là người cuối cùng, chỉ cần Hoàng hậu vẫn còn sống.” Tôi khẽ thở dài một tiếng, mở nắp đậy chiếc bát ra, nhìn thấy mấy miếng lê nằm lặng yên trong chiếc bát trắng tinh như ngọc. Tôi xúc một thìa lên nếm thử, cảm giác ngọt lịm và mát dịu lập tức thấu vào tận tâm can, thoải mái vô cùng.

    Cận Tịch thu dọn chỗ kinh Phật mà tôi vừa chép xong, ôn tồn nói: “Kỳ thực ‘nguyên vẹn trái tim gửi trong bình ngọc’ của Ôn đại nhân cũng không tệ, có điều bình ngọc thì chỉ nhìn được thôi, đâu có ngon lành, mát ruột như chén chè lê hầm đường phèn này.”

    Tôi khẽ ho mấy tiếng, khuôn mặt bất giác đỏ bừng. Tôi nắm chặt lấy tràng hạt nơi cổ tay mình, khẽ nói: “Cận Tịch, hôm nay ngươi nói hơi nhiều đấy!”

    Nhưng lòng tôi thì hiểu rõ, dù tôi không gặp Huyền Thanh, sự quan tâm của y vẫn từng giờ từng khắc ở bên tôi không rời.

    Thời tiết lạnh dần, bệnh ho của tôi ngày một nặng hơn, vốn ban đầu chỉ thường ho và ra mồ hôi trộm giữa đêm khiến giấc ngủ không sâu nhưng dần dần, ngay lúc ban ngày tôi cũng ho sù sụ không ngớt, mặt mũi đỏ bừng, nằm gục trên bàn, toàn thân mỏi mệt, chẳng còn sức mà chép kinh văn nữa.

    Hoán Bích và Cận Tịch đều lo lắng không thôi. Hoán Bích một mình tới phủ của Ôn Thực Sơ, sau khi quay về liền cúi đầu, ủ rũ nói: “Bọn họ nói Hồ Đức nghi vừa sinh nở xong, người không được khỏe, liền giữ Ôn đại nhân lại trong cung, Ôn đại nhân đã nhiều ngày nay không về phủ rồi.”

    Tôi vừa ho sù sụ vừa nóicách khó khăn: “Hồ Đức nghi vừa sinh Hòa Mục Công chúa, đang là lúc đắc sủng nhất, lại là con gái của Tấn Khang Quận chúa, tất nhiên tôn quý vô cùng.”

    Cận Tịch rầu rĩ nói: “Phải làm sao mới tốt đây, chè lê hầm đường phèn đã ăn nhiều như vậy, lá sơn trà cũng đã nấu không ít, dễ phải có tới nguyên một gốc rồi, tại sao vẫn chẳng đỡ hơn chút nào chứ?” Lúc này Cận Tịch đang bưng một bát canh tổ yến trong tay, dịu giọng nói: “Đây là canh tổ yến mà Vương gia lén cho người đưa tới, bổ dưỡng vô cùng, nương tử mau ăn đi!”

    Tôi xua tay nói: “Làm gì đến mức như vậy, ta chẳng qua chỉ ho vài tiếng mà thôi!”

    Hoán Bích lo đến nỗi sắc mặt trắng bệch. “Thế nào gọi là chỉ ho vài tiếng chứ, tiểu thư đã ho đến sắp hỏng cả người rồi. Nửa tháng nay, chưa đêm nào tiểu thư ngủ yên, vậy mà mỗi ngày Tịnh Bạch vẫn bắt tiểu thư phải giặt nhiều quần áo như thế, nô tỳ thấy nhất định là tiểu thư đã lao lực quá độ!”

    Cận Tịch khẽ kéo ống tay áo Hoán Bích, thấp giọng nói: “Cô nương bớt nói vài câu đi, vì việc nương tử ho dữ quá, bên ngoài đã có biết bao lời đồn khó nghe rồi, có kẻ còn nói nương tử mắc bệnh lao.”

    Hoán Bích cả giận quát lên: “Ai mà nói năng bừa bãi như thế? Ta thấy tiểu thư thành ra thế này hoàn toàn là do bị bọn họ giày vò.”

    Tôi thở dốc một hồi, khàn giọng nói: “Bớt nói mấy câu đi.”

    Đương lúc nói chuyện, cửa chợt “rầm” một tiếng bị đẩy mạnh ra, một đám ni cô xông vào, dẫn đầu chính là Tịnh Bạch. Bà ta mặt mày hậm hực, kêu gào ầm ĩ: “Chùa Cam Lộ không thể để một người bị ho lao ở lại được, nếu không, còn hương khách nào dám tới nữa. Thanh danh của ngôi chùa cổ trăm năm không thể để bị hủy hoại trong tay loại người không lành này.”

    Hoán Bích giận đến nỗi hai bờ môi tái nhợt. “Ai nói tiểu thư nhà ta bị ho lao? Có đại phu nào từng tới đây khám bệnh? Cứ nói năng bừa bãi như vậy, không sợ bị trời đánh thánh vật sao?”

    Tịnh Bạch đưa tay gạt Hoán Bích qua một bên, cau mày nói: “Dù không phải ho lao thì cũng chẳng khác ho lao là mấy. Cứ suốt ngày ho sù sụ như vậy, người khác sao chịu được, vừa nhìn đã thấy khó chịu rồi!”

    Tôi không thể không dằn lòng ép dạ, khàn giọng nói: “Xin lỗi, thân thể ta không khỏe, làm liên lụy tới mọi người.”

    Một tiểu ni cô gân cổ, cất giọng the thé chói tai: “Đã biết là làm liên lụy tới người khác, vậy còn không mau đi đi, cứ mặt dày ở lại đây, thực là đáng ghét!”

    Tròng mắt Tịnh Bạch đảo qua đảo lại, nhìn thấy bát canh tổ yến đặt trên bàn, lập tức chống nạnh, đắc ý kêu lên: “Các ngươi xem kìa! Ả ta là kẻ trộm, tang vật vẫn còn ở đây nhé!”

    Màng nhĩ tôi bị giọng nói chói tai của bà ta làm cho rung lên ong ong, lại nghe thấy những lời vu cáo ác độc như vậy, dù tôi có giỏi nhẫn nhịn đến mấy cũng không kìm được hơi biến sắc. “Nói thì phải có chứng cứ, ta từng ăn trộm cái gì của bà nào?”

    Tịnh Bạch vênh mặt lên, chỉ tay vào bát canh tổ yến trên mặt bàn, gằn giọng nói: “Trong chùa Cam Lộ chỉ có ta với trụ trì sư thái là được ăn tổ yến, bát canh tổ yến này của ngươi là từ đâu ra?”

    Tôi hơi biến sắc, tỏ ý bảo Cận Tịch và Hoán Bích đừng nói gì, lai lịch của bát canh tổ yến này sao có thể nói ra được.

    Tịnh Bạch vạch ngón tay ra, nói: “Gã thái y đó đã một thời gian không tới thăm ngươi rồi, ngươi chớ có nói bát canh tổ yến này là do hắn mang tới. Vị cô cô trong cung kia cũng đã hai, ba tháng không tới đây, còn ai có thể mang canh tổ yến tới cho ngươi được? Tổ yến của trụ trì sư thái và ta để chung một chỗ, mỗi ngày đều do đồ đệ Mạc Giới của ta nấu xong rồi bưng tới cho bọn ta. Nếu không phải ngươi ăn trộm từ phòng ta, chẳng lẽ tổ yến mọc chân rồi tự chạy vào trong bát của ngươi chắc?”

    Mấy tiểu ni cô bên Tịnh Bạch cũng lớn tiếng phụ họa: “Chính thế, chính thế, hằng ngày cô ta đi cắt cỏ về đều phải đến phòng sư phụ nói một tiếng, nhất định là cô ta thầm hận sư phụ đối xử hà khắc nên mới lấy trộm tổ yến về ăn để báo thù.”

    Tôi lạnh lùng nói: “Người xuất gia không nói dối, tổ yến được để ở trong phòng của Tịnh Bạch sư phụ, Tịnh Bạch sư phụ lại ăn nó hàng ngày, nếu thấy thiếu thì sớm đã phát hiện ra rồi, tại sao mãi tới lúc nhìn thấy tổ yến ở chỗ ta mới nói là có trộm?”

    Tịnh Bạch thoáng sững người rồi lập tức xua tay, nói: “Ta không nói nhiều với ngươi. Nếu ngươi có bản lĩnh, chỉ cần nói ra bát canh tổ yến này là từ đâu mà có, nếu không nói được thì tức là ngươi ăn trộm.”

    Hoán Bích nôn nóng nói: “Sao chỉ cho phép bà có tổ yến, người khác chẳng lẽ không thể có sao?”

    Tịnh Bạch cười gằn một tiếng. “Người khác thì có lẽ còn được người nhà đưa tới cho ít đồ, nhưng Mạc Sầu là ai chứ, cô ta là một người xui xẻo, bị đuổi ra khỏi cung, không có bạn bè, người thân nào hết, sao có thể có thứ đắt tiền như tổ yến được! Trộm chính là trộm, có chối cãi cũng vô ích!” Sau đó, bà ta quay sang nói với một tiểu ni cô: “Đi mời trụ trì tới đây!”

    Đám ni cô bên cạnh không ngừng rì rầm bàn tán với nhau, bộ dạng như đang chờ xem kịch hay.

    Tôi nào đã từng bị vu cáo như vậy, không khỏi tức giận đến sững người, lồng ngực sục sôi, nhộn nhạo, vô cùng khó thở.
    Chẳng mấy chốc trụ trì đã tới.

    Bà nhìn tôi bằng ánh mắt xót thương, hỏi: “Sao lại ốm đến mức này?”

    Lồng ngực tôi đang tắc nghẹn, đến hít thở cũng có chút khó khăn. Tịnh Bạch nói: “Trụ trì, người và tang vật đều ở đây cả, Mạc Sầu chính là kẻ ăn trộm tổ yến. Thanh danh trăm năm của chùa Cam Lộ chúng ta sao có thể để một kẻ trộm phá hoại được!”

    Tôi nắm chặt hai tay, cố nén nước mắt, chậm rãi nói: “Trụ trì, ta không ăn trộm.”

    Trụ trì khẽ thở dài một tiếng. “Vừa rồi có người nhắc tới bệnh lao, chuyện này là như thế nào vậy?”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Ta không mắc bệnh lao, cũng chưa có đại phu nào tới đây thăm khám nói ta bị bệnh lao cả, ta chỉ ho nhiều thôi.”

    “Đã uống thuốc chưa?”

    Hoán Bích đỡ lấy tôi, khẽ đáp: “Thuốc đã bốc uống theo thang rồi, có điều vẫn chưa thấy đỡ.”

    Một tiểu ni cô nói: “Mạc Sầu ho suốt ngày đêm như vậy cũng đã hơn nửa tháng rồi, kỳ thực từ hai tháng trước, cô ta đã ho, chỉ là không ho nhiều như bây giờ thôi. Nếu không phải bệnh lao, tại sao uống nhiều thuốc như vậy rồi mà vẫn không thấy đỡ?”

    Mọi người lại phụ họa theo: “Ngươi trông bộ dạng gầy guộc của cô ta kìa, vừa ho là mặt mũi đã đỏ bừng lên, quá nửa là mắc phải bệnh lao không thể chữa khỏi, nhất định không thể ở cùng cô ta được.”

    Trụ trì ngó quanh một lượt, khuôn mặt lộ vẻ xót xa nhưng hết cách, cuối cùng đành nhìn tôi, nói: “Bây giờ… thân thể ngươi không được khỏe, mọi người lại không chịu ở chung với ngươi nữa, chi bằng ngươi hãy tạm dọn ra ngoài đi.”

    Tôi nghe vậy thì không khỏi cảm thấy vừa hụt hẫng vừa ấm ức. “Trụ trì hẳn cũng biết, ta bây giờ không còn người thân, bè bạn gì nữa, trong thời gian ngắn biết dọn đi đâu đây?”

    Hoán Bích căm phẫn thốt lên: “Tại sao trụ trì lại không chủ trì không đạo mà chỉ đi nghe đám người kia nói năng lung tung, thế này thực là thiếu chủ kiến quá!”

    Hoán Bích chưa nói xong đã bị Tịnh Bạch bước tới, tát cho một cú thật mạnh, bà ta quát lên: “Đến trụ trì mà ngươi cũng dám chỉ trích sao?”

    Hoán Bích vừa xấu hổ vừa tức giận, đưa tay bụm miệng, cố kìm nén không khóc, bàn tay còn lại thì nắm chặt lấy tay tôi. Bàn tay Hoán Bích hơi run rẩy, hai chúng tôi đều chưa từng phải chịu nỗi nhục nhã thế này.

    Cận Tịch bước lên, nói: “Trụ trì xin nghe nô tỳ nói mấy lời, bệnh của nương tử có phải ho lao hay không còn chưa biết rõ, có điều bây giờ nương tử quả thực đang bị bệnh.” Nàng ta thoáng nhìn sắc trời, lại tiếp: “Bên ngoài hình như sắp đổ tuyết, nhất thời biết phải dọn tới đâu đây? Không biết trụ trì có thể châm chước cho chúng tôi mấy ngày không?”

    Cận Tịch vừa nói xong, đám ni cô lấy Tịnh Bạch làm đầu đã lớn tiếng kêu gào ầm ĩ: “Cô ta bệnh tật thế này, sao có thể ở cùng một chỗ với bọn ta được!”

    “Ho suốt ngày đêm, bọn ta sao mà ngủ được!”

    “Cô ta là kẻ trộm, hôm nay ăn trộm tổ yến, ai biết ngày mai còn ăn trộm cái gì nữa chứ!”

    Cuối cùng tất cả âm thanh đều hòa làm một: “Nếu Mạc Sầu còn ở chùa Cam Lộ, chúng ta đều không thể ở lại được.”

    Tôi thấy trụ trì đầu to như cái đấu, bộ dạng hết sức khó xử, nhất thời căm phẫn, liền đứng dậy hành lễ với trụ trì, nói: “Nếu chùa Cam Lộ đã không dung được ta, vậy ta cũng không làm trụ trì khó xử nữa. Nhưng có một điều cần nói rõ, ta không phải kẻ trộm, bát canh tổ yến này cũng không phải do ăn trộm mà có.” Rồi tôi ngoảnh đầu nói với Hoán Bích và Cận Tịch: “Chùa Cam Lộ đã không chứa nổi chúng ta, vậy chúng ta rời đi là được, hai người mau thu dọn đồ đạc đi.”

    Hoán Bích rơm rớm lệ, khẽ “vâng” một tiếng, đang định đi thu dọn quần áo thì chợt Tịnh Bạch bước lên phía trước, cất giọng giễu cợt: “Đã là tr٭, vậy tất cả đồ đạc đều phải nhất nhất kiểm tra, lỡ như các người lén mang thứ gì đó ra ngoài…”

    Trụ trì nói: “Tịnh Bạch, chớ có nói nữa!”

    Tịnh Bạch còn có chút không cam tâm, trợn mắt một cái nhưng rốt cuộc cũng không động thủ.

    Tôi vừa nôn nóng vừa tức giận, lồng ngực nhộn nhạo từng cơn, trước mắt bỗng nhiên tối sầm, hai chân trở nên mềm nhũn, đành ngồi xuống ghế nhìn Hoán Bích và Cận Tịch thu dọn đồ đạc.

    Đúng lúc này, từ ngoài cửa chợt có người chạy vào, chính là Mạc Ngôn.

    Bà ta khoanh tay trước ngực, hỏi: “Cô phải đi sao?”

    Tôi khẽ gật đầu. “Phải!”

    Bà ta lạnh lùng đưa mắt nhìn khắp mọi người, nói: “Một nơi như thế này không ở lại cũng được, để ta đưa cô ra ngoài!” Nói xong liền xắn tay áo, bước tới giúp Hoán Bích và Cận Tịch thu dọn đồ đạc.

    Trụ trì khẽ thở dài một hơi, nói với tôi: “Trên đỉnh Lăng Vân còn có mấy gian thiền phòng của chùa Cam Lộ, ngươi tạm thời hãy dọn đến đó mà dưỡng bệnh đi. Mọi việc đợi sau khi lành bệnh rồi nói tiếp, ít nhất thì bây giờ cũng có được một chốn dừng chân.”

    Tôi cố nén cảm giác khó chịu, khẽ gật đầu.

    Đồ đạc thu dọn xong xuôi, Mạc Ngôn nhìn tôi, nói: “Sắc mặt cô kém quá, làm sao mà leo lên đỉnh Lăng Vân được, bên ngoài lại đang có tuyết, để ta cõng cô vậy.” Nói rồi, bà ta liền cõng tôi lên, rảo bước ra ngoài.

    Phía sau lưng có một tiểu ni cô lầm bầm nói: “Quả nhiên chỉ biết làm bộ làm tịch, chỉ có từ đỉnh Cam Lộ tới đỉnh Lăng Vân thôi mà cũng cần người ác cõng.”

    Mạc Ngôn lạnh lùng quay lại, gằn giọng nói: “Ai còn muốn lắm điều nữa, cứ việc tới tìm ta.” Xung quanh lập tức lặng ngắt như tờ, Mạc Ngôn “hừ” lạnh một tiếng, cõng tôi nhanh chóng rời đi.

    Lúc này, ngoài trời đang vô cùng âm u, những làn gió sắc lẹm như dao không ngừng gào rít. May mà đỉnh Lăng Vân nằm rất gần đỉnh Cam Lộ, chúng tôi chỉ đi chừng nửa canh giờ đã tới nơi.

    Hoán Bích “úi chao” một tiếng, lầm bầm nói: “Thế này thì sao mà ở được đây?”

    Nơi đây có ba gian thiền phòng nhỏ, trong đó hai gian là phòng ngủ cùng một tiểu sảnh làm nơi ăn cơm, phía trước còn có một cái sân nhỏ. Chỉ là dường như nơi đây đã rất lâu rồi không có người ở, rất bẩn thỉu và tồi tàn.

    Cận Tịch quan sát một chút rồi nói: “Dọn dẹp một chút thì vẫn có thể ở được, trong sân còn có cây cối, vào mùa hè sẽ không nóng lắm, phương hướng coi như tạm được. Có điều chúng ta cần vất vả dọn dẹp một phen rồi!”

    Thế rồi chúng tôi cùng bắt tay vào dọn dẹp, phải mất hai ngày mới tạm coi như xong xuôi. Mạc Ngôn giúp chúng tôi dán lại cửa sổ, lợp lại mái nhà, rốt cuộc đã làm xong kịp trước khi tuyết rơi. Mạc Ngôn nói: “Khi tuyết rơi khó mà lên núi, ta cũng không thể thường xuyên rời chùa Cam Lộ tới thăm cô, cô hãy tự bảo trọng.”

    Tôi gượng cười, nói: “Mạc Ngôn, cảm ơn bà, ta đã làm phiền bà quá nhiều rồi!”

    Bà ta phủi tay mấy cái, nói: “Có gì đâu, thực ra cô ở lại đây cũng tốt, đỡ bị đám người Tịnh Bạch đó hành hạ giày vò, hãy cố gắng tĩnh dưỡng đi!” Suy nghĩ một chút rồi lại tiếp: “Cô đừng trách trụ trì, bà ấy có nỗi khổ riêng.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Ta biết chứ, nên không hề trách trụ trì.”

    Mạc Ngôn nói: “Đám người Tịnh Bạch vốn đã không vừa mắt cô rồi, bây giờ người trong cung lại mấy tháng liền không tới thăm cô, bọn họ tất nhiên sinh lòng muốn giày vò cô.”

    Lồng ngực như tắc nghẹn, tôi khẽ cất tiếng thở dài. “Thực không ngờ ngay đến nơi cửa Phật như chùa Cam Lộ mà cũng chẳng hề thanh tịnh.”

    Mạc Ngôn cười lạnh, nói: “Chùa chiền vốn đều xây dựng ở nơi thế tục, sao tránh khỏi chuyện thị phi? Thôi, cô hãy nghỉ ngơi đi, khí sắc cô bây giờ kém quá!”

    Lúc chiều tối, tuyết rốt cuộc đã rơi, những bông tuyết đều rất lớn, va vào cửa sổ làm vang lên những tiếng “lộp bộp”. Trước lúc tuyết rơi, Hoán Bích và Cận Tịch đã tranh thủ đi nhặt một ít củi về, lúc này liền đốt lên sưởi ấm.

    Căn phòng lúc này tuy đã được dọn dẹp sạch sẽ nhưng vẫn còn rất lạnh, một chậu lửa nhỏ không thể nào sưởi ấm hết toàn thân. Hoán Bích và Cận Tịch đều ngồi sát bên chậu lửa, những thứ chăn áo có thể dùng được đều đã đắp hết lên người tôi. Thân thể tôi vẫn run lẩy bẩy, rõ ràng là cảm thấy lạnh như đang giữa hầm băng, nhưng thân thể tôi lại nóng rực, khó chịu vô cùng. Tôi mơ màng hé mắt ra, đằng sau lớp giấy dán cửa sổ mong manh là những bông tuyết to như lông ngỗng phủ khắp đất trời, nhấn chìm mọi vật vào một mảnh mênh mang. Hoán Bích và Cận Tịch lần lượt áp bàn tay lạnh băng lên chiếc trán nóng bỏng của tôi, tôi dần ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ màng, tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc của Hoán Bích nhưng đầu óc lại vô cùng hỗn loạn, tựa như có muôn vàn con ngựa đang ầm ầm chạy qua.

    Tôi thấy rất nóng, tựa như phải phơi mình dưới ánh mặt trời giữa mùa hè nóng nực, lại như đang ngồi bên bếp lửa, trong cơ thể có vô số quả cầu lửa nhỏ lăn qua lăn lại, khiến tôi cảm thấy nóng nực và khát khô cổ họng, chỉ biết ra sức lấy hết chỗ chăn và quần áo đắp trên người ra.

    Trong cơn mơ màng, dường như tôi đã ôm lấy một tảng băng rất lớn, từng tia mát lạnh truyền tới làm dịu đi cơn nóng nực và nỗi đau đớn trong cơ thể tôi. Dần dần, tảng băng đó bị cái nóng làm tan chảy, một lát sau thì biến thành nước mát và bao bọc lấy tôi. Cảm giác của tôi lúc này thật giống như giữa mùa hè nóng nực được uống một bát canh mơ ướp lạnh, toàn bộ lục phủ ngũ tạng và từng lỗ chân lông đều vô cùng thoải mái.
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 18: Chẳng ngại băng tuyết
    Dường như tôi bị ốm rất nặng, trước mắt thấp thoáng vô số bóng người nhưng tôi lại chẳng có sức để nhìn rõ bọn họ là ai. Mỗi ngày mơ màng tỉnh dậy chẳng qua là để uống thuốc mà người khác bón cho, và tôi không hề cảm thấy đắng. Thỉnh thoảng nôn thuốc ra ngoài, tôi lại được bón thêm cho từng thìa thuốc mới. Có lúc tôi ngơ ngẩn nói ra đôi ba câu mà bản thân cũng chẳng biết là gì, sau đó liền cảm thấy mỏi mệt, ngay đến mắt cũng không mở nổi, bèn dứt khoát chìm vào giấc ngủ say.+

    Trong lần tôi thực sự tỉnh táo trở lại, trời vừa tờ mờ sáng, mồm miệng tôi khát khô, bèn đưa tay lần mò tìm nước uống. Đôi mắt tôi vẫn còn nhức mỏi và tê dại, tất cả cảnh vật xung quanh đều trở nên trắng lóa, lờ mờ. Mãi một hồi lâu sau, tôi mới có thể thấy rõ mọi thứ nhưng lại không biết mình đang ở đâu. Chỉ thấy ô cửa sổ phía xa được rèm che kín mít, cơ hồ không tia sáng nào có thể lọt qua. Duy có nơi hai nửa bức rèm giao nhau là còn một khe hở nhỏ, ánh bình minh dìu dịu xuyên qua đó, chiếu vào. Khắp căn phòng chỉ có một tia sáng nhỏ nhoi ấy thôi, nhưng lại như được nhuốm một mảng màu tươi mới. Bốn phía đều tịch mịch, cây nến thắp suốt đêm lúc này đã tàn, sáp nến chảy ngưng tụ vào một chỗ, tựa như những giọt nước mắt cạn khô của một nữ tử xa cách lâu ngày, đầy nỗi nhớ thương. Tôi hơi định thần, không ngờ lại nhìn thấy Huyền Thanh đang nằm trên chiếc sạp bên ngoài bức rèm, trên người đắp xéo một tấm chăn da hổ. Dường như y ngủ không ngon lắm, đôi hàng lông mày còn đang nhíu chặt, giống hệt một đứa bé, khiến người ta không kìm được muốn đưa tay tới vuốt ve an ủi, vỗ về.

    Ánh bình minh dìu dịu len qua bức rèm, nhẹ nhàng chiếu lên khuôn mặt y. Búi tóc vốn được chải chuốt gọn ghẽ của y lúc này đã hi rối, chiếc mũ vàng bó tóc cũng bị lệch hẳn sang một bên. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi tới, khiến mấy sợi tóc rời rạc của y dính vào trán, tạo thành những đường cong mềm mại. Trước đây, y luôn ôn hòa như ngọc, mang tới cho người ta cảm giác ấm áp, vững vàng, nhưng tôi lại chưa từng để ý xem tướng mạo y ra sao. Bây giờ lẳng lặng nhìn kỹ, tôi thấy y hai mắt khép hờ, đôi bờ môi nhợt nhạt mím chặt, thân thể như ngọn núi ngọc nguy nga hùng vĩ nằm ngang, ngay đến bộ dạng mỏi mệt trong lúc ngủ cũng đẹp tuyệt vời, không có chỗ nào để chê trách. Y vốn khí độ cao sang, ung dung tiêu sái, nhưng lúc này lại toát ra một vẻ cương nghị hào hùng hiếm thấy. Tôi khẽ thở dài một tiếng, y há chỉ là một vị vương gia nhàn tản, gửi tình vào thi thư, ngày ngày chỉ biết thổi tiêu gảy đàn? Vị thiếu niên anh hùng ngày đó một mũi tên bắn xuyên hai mắt Hải đông thanh, bình định Nhữ Nam Vương phủ, chính là bộ mặt rất ít khi để lộ trước người ngoài của y! Nếu không vì y là con trai của Thư Quý thái phi, nếu không vì y từng được tiên đế yêu quý nhất, định lập làm Thái tử, cuộc đời của y lúc này có lẽ đã rẽ theo hướng khác, lập nên vô số công tích lẫy lừng, ắt chẳng kém gì Nhữ Nam Vương lúc huy hoàng, rực rỡ nhất.

    Tôi chăm chú nhìn y, sững sờ một lát, chợt thấy thân mình y hơi động đậy, chiếc chăn da hổ đắp trên người đã gần rơi xuống đất. Căn phòng này tuy khá ấm áp nhưng nếu không đắp thứ gì, chỉ sợ sẽ bị nhiễm phong hàn ngay.

    Lòng thầm máy động, tôi rón rén trở dậy. Nào ngờ vì phải nằm giường quá lâu, bệnh lại chưa khỏi hẳn, chân tôi chẳng còn chút sức lực. Khó khăn lắm mới đứng dậy được, tôi vừa định bước đi, trước mắt đã hoa lên, trong đầu không ngớt vang lên những tiếng ong ong, thân thể khuỵu hẳn xuống.

    Tôi chợt vấp phải thứ gì đó mềm nhũn, rồi có người kêu lên “úi chao”. Tôi sợ tới giật nẩy mình, rốt cuộc đã phát hiện là Hoán Bích đang ngồi cuộn mình ngủ gật ngay cạnh giường, vừa rồi tôi đã ngã lên người nàng ta. Hoán Bích mơ màng hé mắt, nhìn thấy tôi thì vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, bật thốt: “Tiểu thư tỉnh rồi à?”

    Câu nói ấy vừa vang lên, Huyền Thanh đã giật mình bừng tỉnh. Y đưa tay gạt chiếc chăn đắp trên người ra, nhảy bật dậy, bước tới đỡ lấy tôi, mừng rỡ hỏi: “Nàng đã đỡ hơn chút nào chưa?”

    Được y ôm trong lòng, tôi cảm thấy một thứ mùi quen thuộc đang bao bọc lấy tôi. Lúc này tôi khó có thể đứng vững đành dựa người vào tay y, không khỏi vừa lúng túng vừa thẹn thùng. Ngẩng lên, nhìn thấy đôi mắt vằn đầy tia máu cùng thần sắc quan tâm tột độ của y, lòng tôi hơi run rẩy, khẽ cất tiếng đáp: “Đỡ hơn rồi!”

    Tôi ngẩn ngơ nhìn quanh bốn phía, hỏi: “Đây là đâu vậy?”

    Huyền Thanh đáp: “Là Thanh Lương Đài của ta. Nàng ốm nặng quá, ta liền đón nàng đến Thanh Lương Đài để tiện chăm sóc.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, không kìm được khẽ hờn trách: “Vừa rồi ngài ngủ mà chẳng chịu nằm yên, chiếc chăn gần rơi xuống vẫn không hay biết gì.”

    Y nắm lấy bàn tay tôi, vẻ mừng rỡ lộ ra ngoài mặt. “Nàng nhìn thấy bộ dạng của ta khi ngủ rồi sao?”

    Tôi lại “ừm” tiếng nữa, tò mò hỏi: “Như vậy thì có gì đáng để vui mừng chứ?”

    Y vẫn giữ nguyên vẻ hưng phấn, ghé tai tôi, thấp giọng nói: “Nhất định là nàng nhìn thấy chăn của ta gần rơi nên mới trở dậy, đúng vậy không?”

    Mặt tôi đỏ bừng, không biết nói gì mới phải, bèn không để ý tới y nữa, quay sang hỏi Hoán Bích: “Ôn đại nhân đâu?”

    Hoán Bích “úi chao” một tiếng, đáp: “Nô tỳ mừng quá nên hồ đồ mất rồi. Vừa nãy Ôn đại nhân vẫn còn trông chừng ở đây, nô tỳ thấy y mệt quá, liền mời y qua phòng khách nghỉ ngơi. Giờ nô tỳ sẽ đi mời Ôn đại nhân tới đây khám cho tiểu thư.”

    Hoán Bích nói xong liền vui vẻ rời đi. Tôi giãy ra khỏi lòng Huyền Thanh, cúi đầu ngồi xuống cạnh giường, không thèm để ý tới y. Y đi tới trước mặt tôi, gãi đầu, thấp giọng cười nói: “Những lời vừa rồi nàng cứ coi như ta nói bừa là được. Có điều ta cảm thấy, khi ngủ nhất định là trông ta dễ coi hơn thường ngày một chút.”

    Khi nói mấy lời này, nhìn thần sắc y chẳng khác gì một đứa trẻ con. Tôi không sao kìm được, bật cười thành tiếng.

    Lúc này Ôn Thực Sơ đã tới, sau khi xem xét một lúc thì cũng mừng rỡ không thôi, nói tôi đã khỏe hơn nhiều, chỉ cần yên tâm tĩnh dưỡng là được.”

    Tôi khẽ cất tiếng: “Sao Thực Sơ ca ca cũng tới đây vậy?”

    Mặt y lộ rõ nét âu lo. “Hôm đó ta khám cho Hồ Đức nghi xong liền rời cung, vừa về đến phủ thì nghe nói Thanh Lương Đài cho người đến mời ta đi chữa bệnh, tới đây rồi ta mới biết người bệnh là muội. Khi đó ta đã sợ hãi vô cùng, muội bị sốt cao, toàn nói những lời mê sảng, lại còn hôn mê suốt.”

    Tôi lo lắng hỏi: “Rốt cuộc ta bị mắc bệnh gì vậy?”

    Ôn Thực Sơ thở dài, đáp: “Lúc trước, sau khi sinh nở lần đầu, muội đã không tĩnh dưỡng cẩn thận, thành ra lưu lại mầm bệnh, thường ngày lại lao lực quá, thời tiết vừa trở lạnh bệnh cũ liền tái phái, thêm vào đó muội còn ngày đêm nhớ nhung quá độ, vậy nên mới mắc phải bệnh này. Bây giờ muội đã đỡ hơn nhiều rồi, chỉ cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng là được.”

    Tôi nói: “Thực Sơ ca ca cũng đã nói là ta đỡ hơn nhiều rồi, vậy không biết khi nào thì ta có thể quay về?”

    Vừa nghe thấy lời này, Huyền Thanh lập tức nói: “Nôn nóng quay về như vậy làm gì chứ, bệnh của nàng đã khỏi hẳn đâu. Thanh Lương Đài này hiếm khi có khách tới chơi, thực là nơi tốt nhất để tĩnh dưỡng.”

    Ôn Thực Sơ thoáng trầm ngâm, liếc nhìn tôi và Huyền Thanh, nói: “Kỳ thực, Thanh Lương Đài chưa chắc đã tốt…”

    Huyền Thanh đang định nói, Hoán Bích đã lên tiếng trước: “Nếu Thanh Lương Đài không tốt, chẳng hay còn có nơi nào tốt hơn? Dù gì thì cũng không thể dọn đến phủ của Ôn đại nhân được, tuy ở gần đại phu là điều rất tốt nhưng như thế còn ra thể thống gì, lại dễ bị người ta phát giác. Hơn nữa, với tình hình sức khỏe của tiểu thư bây giờ, liệu có đi lại xa xôi như thế được không?”

    Ôn Thực Sơ nghẹn lời, hồi lâu sau mới nói: “Ta không có ý đó…”

    Hoán Bích cười tủm tỉm, cắt ngang lời hắn: “Ý của Ôn đại nhân là gì chỉ cần tự đại nhân biết là được rồi, không cần thiết phải nói với bọn ta. Vương gia không có lòng nghe, nô tỳ chẳng rảnh để nghe, còn tiểu thư thì không có tinh thần nghe, do đó không nói là tốt nhất.”

    Tôi thầm cười trộm, Ôn Thực Sơ chưa chắc đã có lòng đưa tôi đến chỗ hắn, thế nhưng Hoán Bích chỉ dùng đôi ba lời ngắn ngủi đã khiến tâm tư của hắn bị xua tan sạch. Tôi ngầm khen ngợi, Hoán Bích quả đúng là người tỷ muội cùng lớn lên với tôi, hiểu tôi vô cùng.

    Tôi nhìn khắp xung quanh, không thấy Cận Tịch đâu, bèn hỏi: “Cận Tịch đi đâu rồi?”

    Hoán Bích đáp: “Nô tỳ theo tiểu thư tới Thanh Lương Đài, còn Cận Tịch thì ở lại trông nhà, có việc gì cũng tiện chiếu ứng cho nhau.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Cũng tốt, nếu Cận Tịch cũng tới đây thì không hay chút nào.”

    Huyền Thanh khẽ mỉm cười, liếc nhìn Hoán Bích bằng ánh mắt ôn hòa, mặt mày tươi tắn, nói: “Khi đó ta nôn nóng đưa nương tử tới Thanh Lương Đài, chỉ tùy tiện tìm một nơi rộng rãi rồi đưa nương tử vào. Bây giờ nương tử đã đỡ hơn một chút, cũng không nên ở lại căn phòng này nữa. Nếu muốn dưỡng bệnh, chi bằng hãy tới Tiêu Nhàn quán đi.”

    Tôi khẽ gật đầu, nói: “Ở đâu cũng giống nhau cả thôi, quả thực không cần tốn quá nhiều tâm sức làm gì.”

    Huyền Thanh trầm tư một lát rồi nói: “Cũng tốt, đợi nàng đỡ hơn chút nữa, chúng ta lại bàn tới việc này.” Sau đó liền vỗ tay “bộp bộp” hai tiếng, từ ngoài cửa có hai nữ tử đi vào. Tôi ngồi tựa vào thành giường, tỉ mỉ quan sát, thấy đây là hai nữ tử tuổi chừng mười bảy, mười tám, mặt mũi trắng trẻo dễ coi, thân hình thon thả cân đối, khá xinh đẹp. Nhìn kĩ, trên người là áo váy may bằng vải bông đất Ngô màu đỏ xen trắng, trên đầu cài một cặp trâm bạc hình hoa mai tinh xảo.

    Huyền Thanh lộ rõ vẻ quan tâm, tha thiết nói: “Nàng đang bị ốm thế này, để một mình Hoán Bích chăm sóc thì thực vất vả quá. Hai ngày nay, việc sắc thuốc bên ngoài đều là do bọn họ lo liệu, bây giờ hãy để họ vào đây cùng Hoán Bích chăm sóc nàng luôn.”

    Khi nói tới hai nữ tử này, y tỏ ra ôn hòa, khách sáo, tôi và Hoán Bích không kìm được đưa mắt nhìn nhau, cảm thấy vô cùng nghi hoặc. Tôi biết Hoán Bích nhất định cũng giống như tôi, đang thầm đoán hai nữ tử này rất có thể chính là thị thiếp của Huyền Thanh.

    Thế là tôi bèn đưa mắt liếc qua, Hoán Bích lập tức hiểu ý, vội cười, nói: “Như vậy đâu có tiện, tiểu thư vốn do nô tỳ hầu hạ từ nhỏ, bây giờ chỉ cần một mình nô tỳ chăm sóc đủ rồi, không cần phiền đến người của Vương gia đâu.”

    Huyền Thanh thoáng lộ vẻ mỏi mệt, khẽ nói: “Hoán Bích cô nương yên tâm, nếu không phải người ổn thỏa, ta cũng không cho đến chăm sóc tiểu thư nhà cô đâu. Hai ngày nay, cô chẳng mấy khi được chợp mắt, cũng đã mệt mỏi lắm rồi!”

    Hoán Bích đang định nói, tôi ngẩng đầu nhìn thấy thần sắc Huyền Thanh không ổn lắm, khuôn mặt đỏ bừng, hai mắt híp lại, dường như vô cùng mỏi mệt. Tôi nhớ lại việc vừa rồi khi ở trong lòng y, hơi thở của y rất nóng, bèn đoán y đã nhiễm phong hàn và bị sốt rồi, nhất thời có chút nôn nóng, không còn tâm trạng để ý tới điều gì khác, vội nói với Ôn Thực Sơ: “Vương gia hình như không được khỏe, huynh hãy xem thử xem sao.”

    Ôn Thực Sơ vội vàng bước tới bắt mạch, lại cẩn thận nhìn tưa lưỡi của Huyền Thanh, sau đó mới nói: “Vương gia lao lực quá độ, lại nhiễm phong hàn, do đó mới phát sốt. Ngài mau trùm chăn ngủ một giấc cho ra mồ hôi, sau đó uống thuốc ta kê, hẳn sẽ không việc gì đâu.” Hoán Bích vội bước tới, đỡ lấy cánh tay Huyền Thanh, nói: “Để nô tỳ kêu người đưa Vương gia đi nghỉ.”

    Huyền Thanh mỉm cười, xua tay nói: “Ta đâu yếu ớt như vậy, đợi lát nữa rồi đi cũng được mà.”

    Ôn Thực Sơ trầm giọng trách: “Hôm đó, khi Vương gia tới thăm Hoàn muội muội vốn đã mặc ít áo, mấy ngày nay lại vất vả quá độ, cứ nên đi ngủ một giấc luôn thì hơn.”

    Hoán Bích lập tức tỏ ý tán đồng, lại ngoảnh đầu ra ngoài, cất tiếng gọi: “A Tấn, mau vào đây đỡ Vương gia nào.”

    Huyền Thanh cười gượng, nói với tôi: “Xem ra ta phải đi ngủ một giấc rồi, nàng hãy nghỉ ngơi cho tốt nhé!”

    Tôi vội gật đầu lia lịa rồi lại hờn trách: “Bản thân đã bị ốm rồi, vậy mà còn nghĩ tới người khác, ngài mau đi đi!”

    Thế rồi Huyền Thanh liền để cho Hoán Bích và A Tấn đỡ ra ngoài. Tôi mỉm cười nói với Ôn Thực Sơ: “Chỗ ta giờ đã không có việc gì rồi, huynh mau qua chỗ Vương gia đi.”

    Ôn Thực Sơ nhìn tôi chăm chú, cười tủm tỉm, nói: “Hình như muội rất quan tâm tới Thanh Hà Vương thì phải?”

    Trái tim giật thót một cái, tôi cố tỏ ra bình tĩnh, nói: “Ta đối xử với huynh và y đều như nhau thôi, đâu có gì đặc biệt. Ta vừa khỏe lại một chút mà huynh đã muốn chọc giận ta rồi sao?”

    Tôi nói những lời này hơi dồn dập, không kìm được khẽ ho mấy tiếng. Ôn Thực Sơ thấy thế thì biến hẳn sắc mặt, vội nhận lỗi: “Là ta không đúng, đã làm muội giận rồi. Cứ ho như vậy nhất định sẽ càng khó chịu.”

    Tôi cố hết sức điều chỉnh lại hơi thở, chậm rãi nói: “Thanh Hà Vương xưa nay luôn trượng nghĩa, lúc ở trong cung đã chiếu cố cho ta rất nhiều. Bây giờ y là chủ nhân ở đây, còn vừa cứu ta về, ta chẳng qua chỉ hỏi thăm vài câu bình thường mà thôi.”

    Tôi thoáng trầm ngâm rồi lại nói thêm: “Huống chi y là người của hoàng gia, lại là em của người đó, ta sao có thể…” Nói tới đây, giọng tôi bất giác mấy tia thương cảm.

    Ôn Thực Sơ sầu não ra mặt, nói: “Là ta không tốt, làm muội khó chịu. Sau này, ta sẽ không nói năng bừa bãi nữa.” Thế nhưng suy nghĩ một hồi, hắn lại ấm ức cất tiếng: “Có điều, ta cứ luôn cảm thấy, hình như muội đối xử với y tốt hơn với ta một chút.”

    Tôi không khỏi dở khóc dở cười, đành nói: “Vậy được rồi, bây giờ ta cũng quan tâm tới huynh một chút, huynh đã chăm sóc ta nhiều ngày, vất vả lắm rồi, cũng nên đi nghỉ sớm đi.”

    Hắn còn muốn nói gì thêm, tôi đã nói: “Nếu huynh còn nói thêm, sau này ta sẽ không để huynh chữa bệnh cho ta nữa đâu.”

    Ôn Thực Sơ hết cách, đành buồn bực rời đi. Ôn Thực Sơ vừa khuất bóng, một giọng nữ trong trẻo bất ngờ vang lên: “Vị thái y này đáng yêu thật, ta thiếu chút nữa thì không nhịn được cười.”

    Tôi ngoảnh đầu nhìn lại, thấy người vừa lên tiếng là một trong hai nữ tử vừa rồi. Bọn họ đều rất ngoan ngoãn, thấy tôi nhìn qua thì đồng loạt khom người hành lễ với tôi, nói: “Thỉnh an tiểu thư.” Dứt lời liền nhoẻn miệng cười.

    Tôi không rõ thân phận của bọn họ là gì, chỉ đành nhận lấy một lễ đó, đoạn mỉm cười hỏi: “Hai người tên là gì vậy?”

    Nữ tử hơi cao hơn một chút nói: “Nô tỳ tên Thái Lam.” Người kia thì nói: “Nô tỳ tên Thái Tần.”

    Tôi nghe bọn họ tự xưng là “nô tỳ”, biết rằng cả hai chỉ là những thị nữ được sủng ái, có lẽ là thị nữ hầu cận của Huyền Thanh. Tôi bất giác bật cười một tiếng, nói: “Hai cái tên này là do Vương gia đặt cho các ngươi sao?”

    Thị nữ Thái Tần lộ rõ vẻ ngạc nhiên: “Sao tiểu thư lại biẴ vậy?”

    Tôi ngồi tựa người vào chiếc chăn phía sau, cười nói: “Thái Lam, Thái Tần đều là những cái tên có nguồn gốc từ Kinh Thi. Thanh Hà Vương quả đúng là người phong nhã.” Rồi tôi khẽ cất tiếng ngâm: “Thái Lam là lấy từ câu ‘chung triều thái lam, bất doanh nhất xiêm, ngũ nhật vi kỳ, lục nhật bất chiêm[1]’, còn Thái Tần là lấy từ câu ‘Vu dĩ thái tần? Nam giản chi tân[2]’. Cả hai cái tên đều rất tao nhã.”

    [1] Trích Thái Lục, Kinh Thi. Dịch nghĩa: Suốt buổi sáng hái rau lam, nhưng vẫn không đầy vạt áo. Chàng hẹn năm ngày sẽ gặp, nhưng nay đã sáu ngày rồi mà vẫn chưa thấy chàng về – ND.

    [2] Trích Thái Tần, Kinh Thi. Dịch nghĩa: Đi đâu hái được rau tần? Chính ngay khe nước ở gần núi Nam – ND.

    Thái Tần nhoẻn miệng cười, nói: “Bọn nô tỳ đâu biết là tốt hay không, có điều mấy câu thơ tiểu thư vừa ngâm, lúc Vương gia đặt tên cho bọn nô tỳ đúng là đã từng ngâm qua, chỉ là bọn nô tỳ không nhớ được mà thôi.”

    Tôi khẽ cười một tiếng, nơi đáy lòng thầm lo lắng cho thân thể của Huyền Thanh, bất giác cảm thấy hơi mỏi mệt, bèn nằm xuống ngủ. Tôi ngủ rất say, khi tỉnh lại thì đã là chiều tối.

    Lúc này Hoán Bích đã quay về, đang ngồi bên cạnh tôi. Thái Tần và Thái Lam ngồi mãi phía cửa, ba người không hề trò chuyện với nhau.

    Hoán Bích thấy tôi tỉnh lại thì vội vàng lấy nước cho tôi uống, lại bảo Thái Tần và Thái Lam xuống bếp mang cháo trắng và ít thức ăn nhẹ lên cho tôi ăn tối.

    Tôi thấy khi nói chuyện với Thái Tần và Thái Lam, Hoán Bích tỏ ra rất khách sáo và xa lạ, không hề giống thường ngày, bất giác cảm thấy có chút nghi hoặc. Thừa dịp hai người họ xuống bếp, tôi khẽ cất tiếng hỏi Hoán Bích: “Muội không thích hai người bọn họ sao?”

    Hoán Bích khẽ cười hờ hững, đáp: “Đâu có gì mà thích hay không thích. Có điều tiểu thư cũng biết đấy, nô tỳ vốn là người trầm tính, còn Thái Lam và Thái Tần thì đều hoạt bát, sôi nổi, thành ra không hợp nhau lắm.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Là vậy sao?”, rồi lại cất giọng hơi thương cảm: “Nhưng ta nhớ trước đây Lưu Chu với muội cũng rất hợp nhau mà.”

    Hoán Bích cúi xuống mân mê mép áo, trầm giọng đáp: “Lưu Chu và nô tỳ từ nhỏ đã lớn lên bên nhau, tất nhiên không giống với bọn họ. Huống chi, hai vị cô nương Thái Tần và Thái Lam có lẽ là người thân cận của Vương gia, nếu nô tỳ đi lại gần gũi với bọn họ quá, khó tránh khỏi mang tiếng là bợ đỡ, nịnh nọt…”

    Tôi thở dài, nói: “Muội lúc nào cũng vậy, cứ hay cả nghĩ.” Thoáng trầm ngâm, tôi lại hỏi: “Vừa rồi khi muội quay về, Vương gia đã đỡ hơn chưa?”

    Hoán Bích cúi đầu lặng im một lát, trên mặt thấp thoáng nét ưu sầu nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh đáp: “Tiểu thư nói đùa rồi, mới một chút thời gian như thế sao đã đỡ hơn được. Vương gia vẫn sốt, vừa về đến Lục Dã đường đã ngủ li bì, bây giờ đang được A Tấn và Mạc đại nương chăm sóc.”

    Tôi hơi cau mày, khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Nếu muội có thời gian, hãy qua đó xem thử, dù sao chúng ta cũng là khách, nên làm trọn lễ số. Ta bây giờ không đi lại được, nếu không đã tự qua đó rồi.”

    Hoán Bích vui vẻ đồng ý. “Tiểu thư nói đúng lắm, bây giờ chúng ta vốn đang ở Thanh Lương Đài, mà Vương gia lại bị ốm, chúng ta quả nên đi thăm Vương gia nhiều một chút. Chỉ là nếu tiểu thư không mở miệng, nô tỳ cũng không dám đi. Bây giờ tiểu thư đã có lời, nô tỳ đâu dám không gắng sức.” Lời vừa dứt, Thái Tần và Thái Lam đã bưng cháo trắng và một ít đồ ăn nhẹ tới, đặt xuống chiếc bàn gỗ lim nhỏ kê sẵn trên giường.

    Chờ bọn họ bày biện xong xuôi, Hoán Bích mỉm cười, nói: “Để ta hầu hạ được rồi, hai vị đi nghỉ đi.”

    Thái Lam thoáng sững người rồi cười, nói: “Vất vả cho Bích cô nương rồi, có điều Vương gia đã dặn dò tỷ muội bọn ta hầu hạ tiểu thư…”

    “Từ lúc năm tuổi, ta đã theo hầu tiểu thư rồi, mấy việc thế này đã rất quen thuộc. Hai vị cô nương cứ đi làm việc của mình đi.” Hoán Bích cười tủm tỉm khi nói ra những lời này nhưng khẩu khí thì lại rất kiên quyết.

    Thái Lam và Thái Tần hết cách, đành đưa mắt nhìn tôi. Tôi chẳng có tâm trạng để ý tới quan hệ giữa bọn họ, chỉ khẽ cười, nói: “Hoán Bích hầu hạ ta quen rồi, cứ để muội ấy làm là được.” Thế rồi liền để cho Hoán Bích hầu hạ mình ăn uống.

    Nhưng lúc này mồm miệng tôi nhạt thếch, mới ăn mấy miếng đã không nuốt thêm được. Thoáng trầm ngâm, tôi chỉ tay vào đĩa rau ngâm Vân Châu và đĩa chao đỏ trên bàn, nói với Thái Lam: “Vương gia đang bị nhiễm phong hàn, chỉ có thể ăn những món ăn thanh đạm, hai món này đều không tệ, lát nữa cô nương hãy đưa tới cho Vương gia nhé!”

    Thái Lam tươi cười, đón lấy, Thái Tần lại nói: “Đa tạ tiểu thư có lòng quan tâm tới Vương gia.”

    Hoán Bích chỉ im lặng thu dọn các thứ, đôi mắt to tròn chợt khẽ đảo qua đảo lại, cười nói với tôi: “Hồi sáng nô tỳ đưa Vương gia về Lục Dã đường, bây giờ trời đã tối rồi mà còn chưa đi thăm Vương gia, dù gì cũng phải đi một chuyến, chi bằng hãy giao việc này cho nô tỳ.” Căn phòng lúc này ấm áp như mùa xuân, đầu óc tôi quay cuồng, nghe Hoán Bích nói vậy thì chỉ khẽ gật đầu, không nói gì thêm.
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 19: Tái tương phùng
    Tôi khi mê khi tỉnh, quá nửa thời gian đều mơ mơ màng màng. Thế nhưng được năm ba ngày, tinh thần của tôi đã tốt dần lên, có điều, nghe Hoán Bích nói bệnh tình của Huyền Thanh ngày một trở nặng, sốt cao cả ngày.

    Tôi liền hỏi Ôn Thực Sơ tại sao Huyền Thanh lại mắc bệnh nặng như vậy, hắn chỉ trả lời một cách mơ hồ, nói là còn chưa rõ lắm. Tôi cũng không có sức mà tranh luận với hắn, chỉ đành đợi bản thân lành bệnh rồi tính tiếp.

    Hôm ấy tôi vừa uống thuốc xong, tinh thần khá tốt, liền ngồi tựa vào thành giường, nhắm mắt dưỡng thần. Hoán Bích ngồi im lặng bên cạnh tôi. Ngó thấy xung quanh không có ai, tôi bèn nói ra nỗi nghi hoặc mấy ngày nay của mình: “Tại sao bệnh của Vương gia đột nhiên lại nặng như vậy?”

    Khuôn mặt Hoán Bích lúc này ngợp nét ưu sầu, vàng vọt mà tiều tụy, nghe tôi hỏi vậy thì hơi cau mày, đáp: “Ôn đại nhân chỉ nói mấy hôm trước Vương gia bị nhiễm phong hàn mà không nghỉ ngơi cẩn thận, trong thời gian tiểu thư bị ốm lại mấy ngày mấy đêm liền bỏ ăn bỏ giấc, khiến cơn bệnh trở nặng, trong thời gian ngắn khó mà bình phục được.”

    Tôi hơi trầm ngâm, hỏi thêm: “Vậy tại sao Vương gia lại nhiễm phong hàn?”

    Hoán Bích cúi đầu, đáp với giọng nhỏ như muỗi kêu: “Hôm đó Ôn đại nhân đã nói rồi, khi Vương gia tới thiền phòng thăm tiểu thư thì mặc ít quần áo quá, lại gặp đúng hôm trời lạnh…”

    Tôi khẽ mỉm cười nhưng rất nhanh đã thu nụ cười lại, nhìn đăm đăm vào mắt Hoán Bích. “Đó chỉ là lời của Ôn đại nhân, ta muốn nghe muội nói thật.” Thoáng dừng một chút, tôi nói tiếp: “Hoán Bích, Ôn Thực Sơ đương nhiên có lý do để giấu ta, nhưng còn muội, chẳng lẽ muội cũng muốn giấu ta sao?”

    Hoán Bích mân mê mép áo, cắn môi nhìn tôi, do dự nói: “Tiểu thư thực sự muốn biết sao?”

    Từ trong lò hương, từng làn khói mỏng chậm rãi bay ra, thấp thoáng mang theo mùi thơm của quả phật thủ, khiến tinh thần người ta tỉnh táo. Tôi dường như vẫn còn ở trong giấc mộng, có một thân thể lạnh băng ôm tôi vào lòng, thân thể ấy lạnh biết mấy, tựa như băng tuyết, khiến tôi giữa lúc hôn mê nóng nực cảm thấy vô cùng dễ chịu. Tôi khẽ thở ra một hơi, nói: “Tất nhiên.”

    Sau một thoáng sững sờ, Hoán Bích chậm rãi nói: “Hôm đó tiểu thư sốt cao, thân thể nóng vô cùng, còn bắt đầu nói những lời mê sảng. Nô tỳ và Cận Tịch bưng nước tuyết đến, đắp cho tiểu thư không biết bao nhiêu chiếc khăn lạnh, vậy mà vẫn chẳng ăn thua, thậm chí nước lạnh cũng đã biến thành nước ấm. Cận Tịch vội bảo nô tỳ đi mời Ôn đại nhân tới, nhưng khi đó Ôn đại nhân đang ở trong cung thăm khám cho Hồ Đức nghi, nô tỳ tất nhiên chẳng thể vào cung để mời, chỉ đành quay về. Nô tỳ nôn nóng tới mức chỉ muốn khóc, vừa khéo lúc đó Vương gia dẫn theo A Tấn quay về Thanh Lương Đài, gặp nô tỳ ở chân núi, thế là bèn cùng nô tỳ tới thiền phòng. Nhìn thấy tiểu thư như vậy, Vương gia lập tức sai A Tấn cưỡi ngựa đi mời đại phu ở Thanh Lương Đài tới, nhưng hôm đó trời đổ tuyết lớn, chặn hết cả đường đi, thành ra đại phu chẳng thể tới được. Lúc ấy tiểu thư sốt đến nỗi mặt mũi đỏ bừng, hơi thở dồn dập, bọn nô tỳ đều sợ hãi vô cùng.” Hoán Bích dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Kỳ thực bệnh của tiểu thư chính là ở chỗ sốt cao mãi mà không hạ, không có đại phu đến khám, cũng không tìm được thuốc giảm sốt, thế là…” Nói tới đây, hai má Hoán Bích đều ửng hồng, do dự không nói tiếp nữa. Nhìn thấy cảnh này, tôi đã loáng thoáng hiểu ra điều gì đó, bất giác mặt mũi nóng bừng. Trong lúc tôi hôn mê, người mà toàn thân lạnh băng đã ôm lấy tôi kia nhất định chính là Huyền Thanh. Hoán Bích mân mê chiếc khăn trong tay, nói với giọng nhỏ như muỗi kêu: “Vương gia chỉ mặc một chiếc áo mỏng bó sát người, ra nằm trên băng tuyết, đợi sau khi toàn thân mình lạnh băng thì đi vào ôm lấy tiểu thư, cứ như vậy không biết bao nhiêu lần, rốt cuộc tiểu thư cũng đã hết sốt. Tới khi tuyết ngừng rơi, Vương gia liền bế tiểu thư đến Thanh Lương Đài, sau đó tiểu thư cứ hôn mê mãi không tỉnh, Vương gia gần như không chợp mắt chút nào, cùng Ôn đại nhân chăm sóc cho tiểu thư. Sau bao phen vất vả như vậy, dù là mình đồng da sắt cũng không chịu nổi.” Thấy tôi lặng lẽ cúi đầu, khuôn mặt đỏ bừng như sắp nhỏ máu đến nơi, Hoán Bích vội vàng giải thích: “Tiểu thư yên tâm, khi đó tiểu thư vẫn mặc quần áo.”

    Tôi hơi định thần lại, chậm rãi ngồi thẳng người dậy, nói: “Hoán Bích, muội đi lấy áo khoác của ta tới đây, chúng ta đi thăm Vương gia.”

    Hoán Bích nôn nóng nói: “Tiểu thư giờ vẫn chưa lành bệnh, ra ngoài dễ bị nhiễm phong hàn lắm, nên ở yên trong phòng thì hơn!”

    Tôi khẽ ho mấy tiếng, xua tay, nói: “Sao lại thế được, Vương gia có ơn lớn đối với ta, bây giờ y đang bị bệnh, ta không thể không đi thăm. Muội cũng hiểu tính khí ta rồi, không cần khuyên nữa.”

    Hoán Bích thấy tôi nhất quyết muốn đi thì cũng không tiện nói gì thêm, đành lấy một chiếc áo dày mặc vào cho tôi, lại giúp tôi chải chuốt cẩn thận, đặt một chiếc lò sưởi cầm tay vào trong lòng tôi, đỡ tôi đi thẳng tới Lục Dã đường.

    Nơi tôi ở cách Lục Dã đường khá xa, thân thể tôi lại đang yếu ớt, do đó cứ phải khi đi khi nghỉ, hồi lâu sau mới tới nơi. A Tấn nhìn thấy tôi thì liền cúi đầu, ủ rũ nói: “Nương tử tới rồi, Vương gia vẫn đang ngủ.”

    Tôi khẽ gật đầu, thấp giọng nói: “Ta vào trong xem sao, lát nữa sẽ ra.” Rồi lại hỏi thêm: “Thái phi đã tới đây chưa?”

    A Tấn lắc đầu, đáp: “Sao có thể chứ, Thái phi cả đời này không thể bước chân ra khỏi An Tê quán, việc Vương gia bị ốm đến bây giờ Thái phi vẫn chưa biết.”

    Tôi khẽ gật đầu, nói: “Cứ tạm giấu cũng được, kẻo Thái phi lại lo lắng.”

    Lục Dã đường rất thoáng đãng, chủ yếu chỉ có vài giá sách đóng bằng gỗ bưởi, bên trên toàn những sách là sách, trên tường treo rất nhiều loại vũ khí khác nhau. Lòng tôi thầm nảy sinh cảm giác mừng rỡ, nơi này quả là chẳng có chút dấu tích nào của nỠnhân.

    Y vẫn đang ngủ, dung nhan có chút tiều tụy, trên người mặc một bộ đồ ngủ màu trắng, nơi cổ áo có những đường hoa văn hình lá liễu đơn giản. Đôi hàng lông mày của y hơi cau lại, dường như ngay cả trong giấc ngủ cũng chẳng hề vui vẻ. Ánh dương từ ngoài cửa chiếu vào, len qua bức rèm sa mỏng, đậu xuống khuôn mặt y, thấp thoáng những tia dìu dịu. Chiếc giường lớn làm bằng gỗ đàn của y ánh lên màu đen nhánh, lại càng khiến người ta cảm thấy tấm thân trong bộ đồ trắng kia tràn ngập những nét mộng ảo.

    Tôi nhẹ nhàng bước tới gần y, chút ký ức mơ hồ trong lúc hôn mê lóe hiện, dường như đã là chuyện từ rất lâu rồi, một giọt nước mắt của y rơi xuống mặt tôi, mang tới cảm giác ấm áp mà ẩm ướt. Còn lần này, y nằm giữa trời băng tuyết, ôm lấy tôi giúp tôi xua đi cái nóng. Ký ức về sự nóng, lạnh đó đan xen nơi đáy lòng tôi, vì sự tồn tại của y, trái tim vốn đã hóa thành sa mạc của tôi nở rộ một bông hoa đầy sức sống.

    Tôi ngồi xuống trước giường y, nhẹ nhàng đưa bàn tay tới, đặt lên đôi hàng lông mày của y mà xoa nhẹ. Tôi vẫn luôn mong được nhìn thấy y cười, một nụ cười chân thành, tinh nghịch, khiến trái tim vốn đã băng giá của tôi dần trở nên ấm áp. Tôi ngoảnh đầu nhìn qua bên cạnh, trên chiếc án dài dưới cửa sổ có đặt một chậu văn trúc, lá trúc biếc xanh, tú lệ vô cùng. Tôi thầm nghĩ, có lẽ chỉ có loài cây vô tình mới có thể quanh năm xanh biếc, chẳng bao giờ rơi rụng, héo tàn như vậy, còn con người lại chẳng phải cỏ cây. Tôi cứ ngồi lặng im như thế, chỉ nhìn khuôn mặt y mà không nói năng gì, nơi đáy lòng ngợp cảm giác bình yên.

    Khi y tỉnh lại thì đã là một canh giờ sau đó. Đôi mắt y vừa mở ra, từ bên trong đã bừng lên những tia lửa rực rỡ của sự ngạc nhiên và vui mừng, khiến khuôn mặt vốn ảm đạm vì cơn bệnh kia sáng rực hẳn lên. Y cố gắng trở mình ngồi dậy, hỏi: “Nàng đến rồi, nàng đã khỏe lại rồi sao?”

    Tôi mỉm cười, nói: “Ta có thể tự mình tới đây thăm huynh, huynh nghĩ ta đã khỏe chưa?”

    Y nắm lấy bàn tay tôi. “Tay nàng còn lạnh quá!”, rồi lại hỏi: “Nàng tới bao lâu rồi?”

    Tôi rụt tay về. “Mới chỉ một canh giờ thôi, thấy huynh ngủ ngon nên ta không muốn gọi huynh dậy.” Rồi tôi hỏi y: “Thanh, huynh muốn uống nước không?”

    Y cơ hồ không dám tin vào tai mình, sững ra một chút mới lẩm bẩm nói: “Nàng gọi ta là gì cơ?”

    Tôi chậm rãi đứng dậy, pha cho y một chén trà hoa cúc, bên khóe miệng thoáng hiện nụ cười. “Thanh, ta có thể gọi huynh như vậy không?”

    “Có thể, đương nhiên là có thể rồi!” Y đột ngột ngồi thẳng người dậy, nụ cười tỏa ra trên khuôn mặt tuấn tú, rồi y nắm chặt lấy bàn tay tôi. “Hoàn Nhi, ta có nằm mơ cũng không dám nghĩ tới điều này.”

    Lần này thì tôi không rụt tay về, chỉ khẽ nói: “Việc trên thế gian này ai mà có thể đoán biết trước được.” Tôi đưa chén trà tới bên miệng y. “Huynh uống một hớp đi cho xuôi họng.”

    Y uống một ngụm nước nhưng không vội nuốt ngay mà chỉ ngậm trong miệng, cặp mắt lặng lẽ nhìn tôi, ánh mắt chứa chan tình cảm. Giọng nói của y trầm thấp mà dịu dàng, tựa như vầng trăng sáng trên cao: “Hôm nay nàng lại mặc áo trắng rồi.”

    Tôi cúi đầu, trên người tôi hôm nay đúng là một chiếc áo gấm màu trắng, bên trên còn thêu những bông hoa lê tinh xảo bằng chỉ bạc. Thoáng ngượng ngùng, tôi mỉm cười, nói: “Từ sau khi vào chùa Cam Lộ, đã lâu lắm rồi ta chưa mặc loại áo này.” Sau đó lại thấp giọng nói tiếp: “Thứ này là do Mạc đại nương mang tới cho ta, ta chỉ tiện tay cầm lấy mặc, không biết hôm nay huynh cũng mặc đồ màu trắng.”

    Huyền Thanh áp tay lên bàn tay tôi, mang tới một cảm giác ấm áp khó tả. Y nói: “Ta trước giờ vẫn luôn tin tưởng vào cái gọi là tâm ý tương thông.”

    Ngoài cửa sổ, gió dữ rít gào, mang theo cái lạnh cắt da cắt thịt. Trong phòng ấm áp như mùa xuân, tôi nhìn y cười khẽ, nơi đáy lòng tràn ngập sự vui vẻ và yên bình. Hồi lâu sau, tôi đang định gọi người vào rửa mặt cho y, chợt nghe bên ngoài vang lên tiếng bước chân hỗn loạn, rồi A Tấn vội vã chạy vào bẩm báo: “Vương gia, Hoàng thượng cùng Kính Phi nương nương và Hồ Đức nghi đang trên đường tới đây.”

    Huyền Lăng! Chợt nghe nói tới y, lòng tôi tột cùng chấn động, tựa như nhìn thấy vô số tia sét rực sáng giữa trời, vang lên những tiếng đì đùng không ngớt.

    Huyền Thanh cũng hơi biến sắc, hỏi: “Sao Hoàng thượng lại tới đây?”

    A Tấn không ngừng nháy mắt ra hiệu cho tôi, tôi ngẩn ngơ đứng dậy, nói: “Ta ra ngoài né tránh một chút vậy.”

    A Tấn vội vàng nói: “Bọn họ đang vào đây, ra ngoài là bắt gặp ngay!”

    Huyền Thanh nhanh chóng bình tĩnh trở lại, trầm giọng nói: “Sau giường của ta có một bức bình phong, nàng mau tới đó tránh tạm một lát đi.”

    Tôi không nói gì thêm, lập tức đến nấp sau bức bình phong. Vừa mới đứng vững, tôi đã loáng thoáng nghe thấy tiếng châu ngọc va vào nhau, lại ngửi thấy mùi phấn son vương vất, rồi một giọng nam phóng khoáng cất lên: “Lục đệ lần này bị bệnh, thành ra không còn ai đàm luận chuyện thi họa với trẫm nữa rồi.” Giọng nói ấy vẫn quen thuộc như xưa, đột ngột vang lên khiến thân thể tôi sau nháy mắt đã trở nên lạnh ngắt. Cái lạnh ấy khiến tôi nhớ lại lần gặp mặt cuối cùng với y trong Đường Lê cung, tâm trạng quyết liệt hôm đó sau nháy mắt đã trào dâng trong ký ức. Bàn tay tôi bám vào bức bình phong, cảm thấy chua xót và đau đầu đến khó tả.

    Lúc này A Tấn đã đỡ Huyền Thanh đứng dậy hành lễ. “Hoàng thượng vạn tuế kim an.”

    Huyền Lăng đưa tay đỡ lấy y, cười nói: “Đã bị bệnh rồi, còn để ý tới lễ số làm gì.”

    Giọng Kính Phi tôi vừa nghe đã nhận ra ngay, nhưng sau khi nàng ta chào hỏi Huyền Thanh, tôi lại nghe thấy một giọng nữ hết sức ngọt ngào khác: “Vương gia an hảo.”

    Huyền Thanh khẽ ho hai tiếng, cười nói: “Hôm nay hoàng huynh tâm trạng tốt thật, không ngờ lại mang theo cả Hồ Đức nghi ra ngoài. Chỉ là sao hoàng huynh lại đột nhiên nghĩ tới thần đệ vậy?”

    Huyền Lăng đáp: “Đợi mãi tuyết mới tan, hôm nay thời tiết lại đẹp, bọn họ cả ngày ở trong cung cũng thấy bí bức. Ta nghe nói đệ bị bệnh, liền đưa bọn họ tới thăm đệ.” Y chăm chú nhìn Huyền Thanh một lát rồi nói tiếp: “Sắc mặt vẫn còn nhợt nhạt, có điều tinh thần lại rất tốt, cứ như vừa gặp chuyện mừng rất lớn vậy”, rồi lại ngoảnh đầu quay sang nói với Hồ Đức nghi: “Uẩn Dung, hôm nay nàng câu nệ lễ tiết quá, trước đây gặp mặt còn gọi một tiếng ‘lục biểu ca’, bây giờ thì lại chẳng nói năng gì nữa rồi.”

    Hồ Đức nghi che miệng cười, nói: “Hoàng thượng đang trêu thần thiếp đấy sao. Bây giờ thần thiếp là phi tần của Hoàng thượng, khi gặp Lục Vương gia tất nhiên phải chú ý giữ lễ quân thần, sao còn có thể giống như trước đây được.”

    Kính Phi cười tủm tỉm, nói: “Hồ muội muội hiểu chuyện như vậy mà Hoàng thượng còn nói muội ấy câu nệ lễ tiết, đúng là đã đổ oan cho người tốt rồi.”

    Chợt một giọng trẻ con ngọt ngào, non nớt vang lên: “Nghe nói lục hoàng thúc bị bệnh, Lung Nguyệt đặc biệt tới đây thỉnh an hoàng thúc.”

    Nghe thấy giọng nói ấy, thân thể tôi run lẩy bẩy, toàn bộ tâm thần đều bị hút đi, không kìm được nhìn ra phía ngoài. Bức bình phong trước mặt được ghép thành từ bốn phiến gỗ điêu khắc hình hoa anh thảo, ở bốn góc đều có những chỗ chạm rộng chừng năm tấc. Tôi cẩn thận giữ chặt mép áo, thò đầu ra nhìn, ánh mắt lập tức bắt gặp một đứa bé tầm một, hai tuổi, đang được Kính Phi bế trong lòng, trên đầu là hai búi tóc tròn xoe được tô điểm bằng hai viên minh châu, phía dưới mặc một chiếc áo gấm thêu hoa màu hồng, trên khuôn mặt trái xoan nhỏ xinh là một đôi mắt tròn xoe, đen láy, đáng yêu vô cùng.

    Vừa mới nhìn thoáng qua, máu huyết toàn thân tôi đã trở nên sôi sục, cho dù trước đây chưa từng nhìn thấy tranh vẽ Lung Nguyệt, chỉ dựa vào cái nhìn này thôi, tôi cũng sẽ biết ngay đây nhất định là con gái mình. Đôi hàng lông mày kia, cái mắt, cái mũi kia, không có chỗ nào là không giống tôi, duy chỉ có đường nét dưới cằm là giống với Huyền Lăng.

    Tôi nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch, càng lúc càng dồn dập, tựa như bất cứ lúc nào cũng có thể nhảy ra khỏi lồng ngực. Đây chính là Lung Nguyệt, Lung Nguyệt mà tôi hằng nhung nhớ bao đêm. Lòng tôi thầm thổn thức, cơ hồ muốn bật khóc thành tiếng.

    Lung Nguyệt, tôi muốn được bế Lung Nguyệt của tôi biết bao, nó đáng yêu quá chừng. Thế nhưng, tôi không thể ra ngoài, sao tôi có thể ra ngoài được đây? Tôi nắm chặt lấy bức bình phong, cố kìm nén những giọt nước mắt có thể trào ra bất cứ lúc nào.

    Phía bên ngoài, Huyền Thanh đưa tay tới, cười nói: “Lung Nguyệt tới rồi à, lại đây hoàng thúc bế một chút nào.”

    Tôi hiểu ý của Huyền Thanh, với vị trí của y bây giờ, tôi có thể nhìn thấy Lung Nguyệt rõ nhất. Thế nhưng Lung Nguyệt lại cười hì hì, nói: “Hoàng thúc đang bị ốm, Lung Nguyệt không tiện quấy rầy hoàng thúc.” Nói rồi nó lại bám vào người Kính Phi mà ngọ nguậy liên tục, chẳng chịu ở yên.

    Huyền Lăng cười rộ, nói: “Nha đầu này tinh quái lắm, biết đệ bị ốm không chịu để đệ bế, còn giả bộ nói rằng sợ quấy rầy đệ. Tính cách này thật giống hệt mẫu phi của nó.”

    Huyền Lăng vừa dứt lời, mọi người đều đồng loạt im lặng, người mà Huyền Lăng nói tới tất nhiên không phải là Kính Phi. Nhưng Hồ Đức nghi rất nhanh đã tươi cười, cất tiếng: “Phải rồi, mọi người đừng thấy Kính Phi tỷ tỷ thường ngày ít nói mà nhầm, nếu xét về sự thông minh, tinh quái, tỷ ấy không thua kém ai đâu, đại trí nhược ngu chính là nói tới những người như vậy. Cũng chỉ có Hoàng thượng mới hiểu được sự thông minh của tỷ tỷ, do đó lại càng thương yêu tỷ tỷ và Lung Nguyệt Công chúa hơn.”

    Những lời này của Hồ Đức nghi khiến bầu không khí căng thẳng lập tức tan biến, Huyền Lăng vỗ tay cười rộ: “Vẫn là Uẩn Dung biết nói chuyện.” Dứt lời liền vòng tay qua vai nàng ta, kéo nàng ta lại gần.Hồ Đức nghi yêu kiều nói: “Phải rồi, Uẩn Dung là phi tử của Hoàng thượng, cũng là biểu muội của Hoàng thượng, tất nhiên hiểu Hoàng thượng hơn người ngoài một chút.”

    Kính Phi đứng bên cạnh, khẽ nở nụ cười. “Hoàng thượng thương yêu Hồ muội muội như vậy quả nhiên là có lý do, nghe nói năm sau muội muội sẽ được thăng lên làm dung hoa đấy.”

    Hồ Đức nghi tươi cười, nói: “Kính Phi tỷ tỷ nói đùa rồi. Kính Phi tỷ tỷ có Lung Nguyệt Công chúa thông minh lanh lợi, sao muội so sánh được.”

    Kính Phi cười, nói: “Muội muội có Hòa Mục Công chúa, tuy còn nhỏ nhưng đã đáng yêu vô cùng, thực sự rất giống muội muội, sau này lớn lên ắt cũng là một mỹ nhân.”

    Trong lúc Kính Phi và Hồ Đức nghi vui vẻ nói cười, tôi nhìn Hồ Đức nghi chăm chú. Chỉ thấy nàng ta có khuôn mặt tròn trắng nõn, cặp mắt to lấp lánh có thần, đôi bờ môi đỏ như son, thân hình yêu kiều, nhỏ nhắn, trên người là một chiếc áo gấm màu đỏ được thêu những đường hoa văn phức tạp, nơi vạt áo còn đính đầy những viên châu ngọc long lanh, phía dưới mặc một chiếc váy lụa màu hồng, lại càng tôn lên vẻ kiều diễm. Nơi búi tóc bới kiểu nghênh xuân của nàng ta có cài một cây trâm trân châu bát bảo vô cùng bắt mắt, lại được điểm xuyết bằng đủ loại ngọc ngà, trông xa hoa, quý phái vô cùng, khiến Kính Phi trong bộ đồ gấm màu lam thêu hình hoa mai bên cạnh bị lu mờ hẳn. Có điều, cho dù Hồ Đức nghi thân thế hiển hách, dung mạo mỹ miều nhưng cũng có chỗ kém, có lẽ Kính Phi đã nắm rõ được điều này, do đó mới có thể tươi cười, ung dung như vậy.

    Huyền Lăng lúc này đang hỏi Huyền Thanh tại sao lại mắc bệnh, việc chữa trị tiến hành tới đâu rồi. Huyền Thanh nhất nhất trả lời. Huyền Lăng lại nói: “Đệ đã lâu không vào cung rồi, làm trẫm thấy phiền muộn quá. Không có đệ, ngay đến một người để nói chuyện về thi từ ca phú, trẫm cũng chẳng có, nếu năm xưa nàng ấy không…” Nói tới đây, thần sắc Huyền Lăng hơi biến đổi, lập tức ngừng lời, không nói gì thêm.

    Tôi rất muốn nhìn xem thần sắc y lúc này thế nào, thế nhưng lại bị thân thể Huyền Thanh chắn mất, chỉ nhìn thấy được một góc áo màu vàng của y. Thứ màu vàng tươi đó tôi chỉ vừa thoáng liếc qua đã cảm thấy gai mắt vô cùng, vội cúi xuống. Huyền Thanh nói: “Năm xưa, khi Thuần Nguyên hoàng tẩu vào cung, thần đệ thường xuyên thấy hoàng huynh và hoàng tẩu đàm luận về thi từ ca phú, còn cùng ca hát. Lúc đó thần đệ mới chỉ năm, sáu tuổi, vừa hiểu được một chút chuyện đời, thực là vô cùng ngưỡng mộ.”

    Huyền Lăng thẫn thờ một lát, cất tiếng cảm khái: “Về sau, cũng chỉ có Chân thị là còn trò chuyện được với trẫm vài câu, chỉ đáng tiếc, nàng ta quá không biết điều.”

    Lúc này Lung Nguyệt đang nghịch một quả cầu thêu, nghe thế bèn tò mò hỏi: “Mẫu phi, Chân thị là ai vậy?”

    Kính Phi thầm khó xử, chẳng biết trả lời ra sao, đành nhìn qua phía Huyền Lăng. Huyền Lăng bế Lung Nguyệt lại, hôn lên trán nó một cái, cười nói: “Là một người mà con không quen. Đừng hỏi nữa, bảo mẫu phi bế con đi.”

    Lòng tôi bỗng dưng nghẹn lại, Lung Nguyệt, nó chưa từng biết tới sự tồn tại của người mẹ ruột tôi đây. Nó có nhiều mẫu phi như thế, phụ hoàng của nó có nhiều phi tần như thế, vậy mà lại cố ý giấu giếm nó, không để nó biết tới sự tồn tại của tôi. Khi con gái ruột của tôi hỏi về tôi, tôi lại chỉ là một người xa lạ. Dù có một ngày tôi và nó đi sát qua nhau, tôi rốt cuộc cũng chỉ là một người qua đường, cả đời này đều như người dưng nước lã.

    Hồ Đức nghi làm bộ giận dỗi nói: “Thì ra Hoàng thượng chê bọn thiếp ngu dốt, không biết nói chuyện, Kính Phi tỷ tỷ xưa nay vốn rộng lượng nhưng thần thiếp thì tức giận rồi đấy.”

    Huyền Lăng cào nhẹ lên mũi nàng ta một cái, cười nói: “Xem nàng kìa, lại làm nũng rồi!”, sau đó quay sang nói với Huyền Thanh: “Đây là lần đầu tiên trẫm tới Thanh Lương Đài của đệ, vốn nghe nói nó rất tuyệt, hôm nay tới rồi mới biết quả nhiên không sai. Mà càng thú hơn là nó được xây trên đỉnh núi, có thể nhìn khắp núi non xung quanh, thu hết phong cảnh vào trong mắt.”

    Huyền Thanh cười, nói: “Nếu Hoàng huynh thích, cứ thường xuyên tới đây chơi là được.”

    Huyền Lăng thở dài, than: “Trẫm đâu có được cái phúc như vậy, muốn ra ngoài một chuyến cũng chẳng dễ gì, bị cặp mắt của bao nhiêu ngôn quan nhìn chằm chằm vào đấy”, nói rồi lại cười rộ. “Thanh Lương Đài của đệ tốt thì tốt thật, chỉ là còn thiếu một vị nữ chủ nhân. Lần trước tiểu thư nhà Bái Quốc công vào cung, trẫm và Thái hậu đều thấy rất tốt, thế mà đệ lại kiếm cớ khước từ, việc này đành cho qua. Có điều, đệ quả thực đã không còn nhỏ nữa, cũng tới lúc phải lập chính phi rồi.”

    Huyền Thanh mỉm cười, nói: “Việc này đâu thể tùy tiện được. Nếu có người vừa ý, thần đệ nhất định sẽ lập tức đưa nàng về làm nữ chủ nhân của Thanh Lương Đài, cả đời yêu thương.”

    Huyền Lăng nói: “Đệ tự có chủ ý của mình cũng tốt, việc chung thân đại sự dù gì cũng phải thận trọng. Bây giờ đã qua quãng thời gian nóng bỏng nhất rồi, đệ cứ từ từ mà lựa chọn.” Kế đó lại tủm tỉm cười, nói với giọng trêu chọc: “Nếu đệ thích, ta sẽ chọn lấy vài người trong số các tú nữ lần tới cho đệ.”

    Huyền Thanh chỉ khẽ cười hờ hững. “Hoàng huynh nói đùa rồi!”

    Huyền Lăng ngáp dài một cái, nói: “Sắc trời cũng không còn sớm nữa, trẫm phải quay về phê duyệt tấu chương. Lục đệ, đệ hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho tốt nhé!”

    Huyền Thanh vội đứng dậy định đi tiễn, Huyền Lăng ngăn lại, cười nói: “Không cần, đệ hãy nghỉ ngơi cho lành bệnh đi đã”, sau đó liền dẫn theo Kính Phi và Hồ Đức nghi rời đi, chẳng bao lâu sau thì hút bóng.

    Huyền Thanh bước tới cầm lấy bàn tay tôi, dịu giọng nói: “Y đi rồi!”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, rốt cuộc không kìm được nữa, để những giọt nước mắt lã chã rơi.

    Y khẽ xoa lưng tôi, nhẹ nhàng an ủi: “Cho dù hoàng huynh không chịu thừa nhận nhưng nàng rốt cuộc vẫn là mẹ đẻ của Lung Nguyệt, đây là điều không ai có thể thay đổi.”

    Tự nơi đáy lòng tôi, sự đau thương và mềm yếu không ngớt trào dâng, tựa như tơ tằm, chậm rãi quấn lấy trái tim tôi, quấn rất chặt, khiến tôi cơ hồ không thể thở nổi. Một lát sau, tôi ngẩng lên, đẩy tay y ra, khẽ lắc đầu, nói: “Lung Nguyệt không biết cũng tốt, một người mẹ như ta sẽ là nỗi sỉ nhục của nó.”

    Huyền Thanh hơi cau mày. “Nói bậy! Có một người mẹ hết lòng hết dạ vì con như nàng là niềm kiêu ngạo lớn nhất của nó.”

    Tôi thở dài, than: “Có biết hay không cũng không quan trọng, chỉ cần nó sống tốt là được, như thế ta cũng yên tâm.” Tôi đưa tay lau nước mắt, khẽ gọi y: “Vương gia…”

    Y sững người. “Hoàn Nhi, sao nàng không gọi tên ta nữa?”

    Tôi cúi đầu, đưa mắt nhìn chậu văn trúc xanh biếc, hờ hững nói: “Vừa rồi gọi tên Vương gia là sơ suất của Mạc Sầu. Mạc Sầu vô ý phạm lỗi, mong Vương gia lượng thứ, ngoài ra xin Vương gia hãy xưng hô với ta như trước.” Tôi cố tình nói vậy, muốn vạch rõ ranh giới giữa tôi và y, kỳ thực khoảng cách giữa hai chúng tôi há chỉ là một trời một vực. Tôi khó khăn lắm mới thoát khỏi cuộc sống nơi hoàng cung, sao có thể tùy tiện dính dáng đến một người tới từ nơi cung đình như y được. Sự cầm lòng không đặng đó của tôi quyết không thể xuất hiện thêm lần nữa.

    Sự sững sờ và chấn động của Huyền Thanh không hề giảm bớt, khuôn mặt còn bị bao phủ bởi một tầng nghi hoặc. “Là vì hoàng huynh sao?”

    Tôi khẽ lắc đầu, ôm chặt chiếc lò sưởi cầm tay, dựa vào một chút hơi ấm từ đó để giúp mình không gục ngã. “Hoàng thượng bất ngờ tới đây chỉ khiến ta tỉnh táo trở lại mà thôi. Vừa rồi ta nhất thời hồ đồ, do đó mới quên mất tôn ti mà mạo phạm tới Vương gia.”

    Y cau mày, cười gượng, nói: “Y trước giờ chưa từng tới Thanh Lương Đài, ta cũng không ngờ y lại đột nhiên tới như vậy. Nhưng y bỗng dưng nổi hứng tới đây, với ta, với nàng đều là…”

    “Việc trên thế gian này ai mà có thể đoán biết trước được.” Tôi chậm rãi cúi đầu, cẩn thận giấu đi giọt lệ nơi khóe mắt, nói với giọng vô hồn.

    Y vẫn mỉm cười nhưng trong mắt lại tràn đầy nét thê lương. “Vừa rồi khi nói những lời này, nàng không như vậy.” Câu nói này vừa rồi tôi quả có nói qua, bên trong ẩn chứa sự ấm áp và mong chờ, bởi sau khi thân thể khỏe lại, trái tim vốn phủ bụi lâu ngày của tôi cũng đã mở ra. Thế nhưng sau khi Huyền Lăng tới, tôi đột nhiên phát hiện giờ đang là mùa đông giá lạnh tột cùng, tâm cảnh cũng hoàn toàn khác với trước đó.

    Tôi nắm chặt chiếc váy màu trắng mình đang mặc, cảm giác như thể đang nắm một khối tuyết lạnh băng. “Vương gia đã tin vào cái gọi là tâm ý tương thông, vậy lúc này nhất định cũng hiểu được tâm tư của ta, hà tất phải để ta nói nhiều thêm nữa.” Sự lạnh lùng lại một lần nữa dựng lên cho tôi một bức tường vững chãi, chặn đứng mọi sự quan tâm và tình cảm của y. Tôi bằng lòng sống trong sự lạnh lẽo này. Huyền Lăng, y giống như một chậu nước lạnh giội xuống giấc mộng đẹp của tôi, khiến tôi toàn thân băng giá.

    Nơi khóe miệng Huyền Thanh ngợp đầy một nét cười chua chát. “Ta cơ hồ đã hận hoàng huynh, nếu y không tới…”

    Tôi cắt ngang lời y, giọng nói tột cùng lạnh lẽo, tựa như ngọn gió núi mùa này, dù mặt trời có rực rỡ thế nào cũng không làm nó ấm áp lên được: “Dù y tới hay không, có một số giấc mộng, đến cuối cùng vẫn phải tỉnh lại.” Thấy Huyền Thanh đi chân trần trên đất, tôi không khỏi thầm xót xa, vội nói: “Vương gia còn chưa lành bệnh, nên nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng cho tốt đi, Mạc Sầu xin cáo từ trước.” Tôi chỉnh lại quần áo, lẳng lặng rời đi.

    Phía sau lưng tôi, y trầm giọng cất tiếng, tuy âm trầm nhưng kiên định: “Ta biết, vừa rồi ngọn gió trong lòng nàng đã thổi về phía ta. Dù chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng ta cũng vui vẻ vô cùng. Ta sẽ đợi nàng, đợi ngọn gió trong lòng nàng lại thổi về phía ta lần nữa. Chỉ cần nàng bằng lòng, ta sẽ mãi đi bên cạnh nàng, chỉ cần nàng ngoảnh đầu là lập tức có thể nhìn thấy.”

    Tôi bất giác dừng chân, lòng thầm mềm lại, cơ hồ muốn rơi nước mắt, thế nhưng khi mở miệng thì lại nói: “Vương gia có để tâm tới vị biểu muội Hồ Đức nghi đó không?”

    Y ngạc nhiên hỏi: “Sao cơ?”

    Tôi bình tĩnh nói: “Nếu Vương gia để tâm, xin hãy nhắc Hồ Đức nghi một tiếng, trong hậu cung, bất cứ người nào cũng chớ nên tỏ ra rằng mình rất hiểu Hoàng thượng, ít nhất như thế cũng sẽ khiến Hoàng thượng phản cảm, mà điều này thì không hay chút nào.”

    Huyền Thanh thoáng sững người, ngay sau đó bèn nói: “Ta sẽ tìm cách nhắc nhở muội ấy.”

    Tôi hờ hững cất tiếng: “Với tính cách của Hồ Đức nghi, chưa chắc đã chịu nghe lời khuyên của Vương gia, Vương gia chỉ cần tận lực là được rồi.” Dứt lời, tôi bèn xoay người rời đi.

    Huyền Thanh gọi Hoán Bích vào, nói: “Chỗ ở của nàng bây giờ thực không tiện lắm, ta đã sai người quét dọn Tiêu Nhàn quán cho nàng ở rồi. Nàng… Nương tử nếu có thời gian rảnh, hãy tới đó xem có vừa ý không.”

    Tôi khom người, nói: “Vương gia đang bị ốm mà còn hao tâm tổn sức vì ta như vậy, thực khiến ta áy náy vô cùng. Kỳ thực ở chỗ nào cũng như nhau cả thôi.”

    Sắc mặt y lúc này trắng nhợt như chiếc áo trên người y. “Nàng cứ đi xem có thích không đã.” Y đã có thịnh tình như vậy, tôi biết phải thoái thác thế nào đây? Tôi không biết phải nói gì, chỉ cúi đầu im lặng, chậm rãi cất bước ra ngoài.

    Ngoài Lục Dã đường, ánh dương rạng rỡ, giữa mùa đông thật hiếm khi thời tiết tốt thế này. Trong khoảnh khắc được ánh dương chiếu lên người, tôi cơ hồ có cảm giác như đã sang kiếp khác, còn bao nhiêu chuyện vừa rồi đều chỉ là một giấc mộng Nam Kha.

    Hoán Bích cẩn thận đỡ tôi về, lại hâm nóng thuốc cho tôi uống, khi vị đắng chát của thảo dược bao trùm đầu lưỡi, tôi mới có cảm giác đã quay về hiện thực.

    Hoán Bích khẽ nói: “Vừa rồi Hoàng thượng đã tới đây.”

    “Ừm!”

    Hoán Bích dè dặt hỏi: “Tiểu thư gặp Hoàng thượng rồi sao?”

    Vị đắng chát của thảo dược ngưng đọng nơi đầu lưỡi, không sao xua tan đi được. “Không!”

    Hoán Bích dường như thở phào một hơi, lại xoa ngực, nói: “Vậy thì tốt. Vừa rồi thấy Hoàng thượng đi vào Lục Dã đường, nô tỳ thực sự đã toát mồ hôi hột, may mà không có việc gì xảy ra.” Hoán Bích nói xong liền đặt một quả mơ ngâm đường vào miệng tôi, nói: “Thuốc này đắng quá, tiểu thư ăn tạm quả mơ đi cho đỡ khó chịu.”

    Tôi ngậm quả mơ trong miệng, sau khi im lặng một lát liền lẩm bẩm: “Cố tình không gặp, tất nhiên sẽ không phải gặp.”

    Hoán Bích nói: “Vậy đứa bé mà Kính Phi nương nương bế có phải là Lung Nguyệt Công chúa của chúng ta…”

    Tôi cắt ngang lời Hoán Bích: “Hoán Bích, ta mệt rồi!” Sau đó liền uể oải nằm xuống, lúc này tôi chỉ muốn ngủ một giấc thật say, quên đi tất cả mọi chuyện trên đời.

    Hoán Bích không dám nói thêm, đắp chăn cho tôi rồi lặng lẽ rời đi.
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 20: Chuyện cũ Tiêu Nhàn
    Quãng thời gian sau đó, tôi coi như không có việc gì xảy ra, yên tâm dưỡng bệnh. Huyền Thanh cũng ở yên tĩnh dưỡng trong Lục Dã đường của mình, đợi sau khi có thể đi lại thì thỉnh thoảng tới thăm tôi nhưng cũng chỉ nói tới Tiêu Nhàn quán, nhân tiện trò chuyện vu vơ vài câu, hoàn toàn không nhắc gì tới Huyền Lăng, tránh cho hai bên rơi vào cảnh lúng túng, khó xử.

    Thái Tần và Thái Lam một ngày ba bận mời tôi đến Tiêu Nhàn quán xem thử, tôi thoái thác không được, rốt cuộc đã chọn một ngày đẹp trời dẫn Hoán Bích đi theo họ qua đó.

    Tiêu Nhàn quán cách Lục Dã đường không xa, là một tòa tiểu viện nhỏ độc lập, hết sức thoáng đãng, tịch mịch. Chúng tôi chậm rãi bước vào, thấy trong sảnh đường có bày mấy món đồ cổ, đều vô cùng tinh xảo, giản đơn, không hề hoa lệ quá mức. Trên tường có treo bức tranh “Trâm hoa sĩ nữ đồ” của Chu Phưởng thời Đường, từng nét bút đều nhẹ nhàng mềm mại, vừa tao nhã lại vừa cổ kính. Dưới đất có bày chiếc bàn đóng bằng gỗ sưa, xung quanh là mấy chiếc ghế. Trong căn phòng nhỏ phía bên trái có đặt một giá sách lớn, bên trên bày những cuốn sách chỉnh tề, còn tỏa ra mùi mực thoang thoảng.

    Thái Tần mỉm cười, nói: “Vương gia nói tiểu thư thích xem sách, do đó mới đặc biệt dặn dò người dưới chọn những cuốn sách tốt nhất trong thư phòng của ngài mang tới đây để tiểu thư xem giải sầu.”

    Tôi khẽ cười hờ hững. “Vương gia đã phải nhọc lòng tốn sức rồi, thực khiến ta áy náy quá!”

    Thái Tần nhoẻn miệng cười tươi để lộ hai hàm răng trắng ngần, cất giọng lanh lợi nói: “Nô tỳ thấy Vương gia tuy nhọc lòng tốn sức nhưng lại rất vui vẻ, nô tỳ hầu hạ Vương giamười năm nay, đây là lần đầu thấy Vương gia như vậy. Nếu tiểu thư thích xem những cuốn sách này, có lẽ Vương gia sẽ lại càng vui vẻ hơn.”

    Tôi lấy một cuốn sách xuống, mở ra, lướt nhẹ đầu ngón tay trên trang sách đã ố vàng, tâm trạng giống hệt như trang sách, vốn bình lặng nhưng lại bị bàn tay ai đó nhẹ nhàng lướt qua, làm nổi lên muôn vàn gợn nhẹ, lan tỏa hết lớp này tới lớp khác.

    Tôi gấp cuốn sách lại, làm bộ vô tình khẽ nói: “Vương gia cư xử với người khác vẫn luôn chân thành như thế, nếu có người nào có thể đàm luận với y đôi câu về văn chương thơ phú, y liền coi người đó như tri âm tri kỷ, dùng thành tâm thành ý mà đối đãi.”

    Thái Tần hơi nghiêng đầu qua một bên, mím môi cười, nói: “Còn chẳng thế sao? Có điều nhìn thấy nhân vật như tiểu thư, lại thường xuyên tiếp xúc, ai nấy đều nảy sinh cảm giác gần gũi vô cùng. Đừng nói là Vương gia, ngay đến nô tỳ và Thái Lam cũng cảm thấy có thể làm chút việc gì đó cho tiểu thư chính là cái phúc của bản thân.”

    Tôi không kìm được bật cười một tiếng, chỉ tay vào nàng ta và Thái Lam. “Chẳng trách Vương gia lại quý ngươi và Thái Lam như vậy, dùng các ngươi làm thị tỳ tùy thân, quả nhiên là giỏi ăn nói. Vương gia có hai người như các ngươi ngày ngày bầu bạn kề bên, chắc hẳn cũng bớt được không ít nỗi phiền não, có thể yên hưởng cuộc sống thanh nhàn.”

    Thái Lam đứng phía sau, vừa nghe vậy liền vội vàng xua tay, nói: “Tiểu thư lầm to rồi. Thứ nhất, bọn nô tỳ chỉ là người hầu của Vương gia, không khác gì các thị nữ khác, không thể nói là ‘tùy thân’ được, xưa nay chỉ có một mình A Tấn là thường xuyên đi theo Vương gia thôi. Chẳng qua Vương gia thấy bọn nô tỳ không quá ngốc nghếch, do đó mới đặc biệt nâng đỡ, cho đến đây hầu hạ tiểu thư. Thứ hai…” Nàng ta thoáng trầm ngâm, hai bờ má ửng hồng, do dự không nói thêm nữa.

    Rốt cuộc vẫn là Thái Tần mau mồm mau miệng, nhỏ giọng nói: “Thứ hai, nô tỳ và Thái Lam tỷ tỷ cũng không phải là sủng tỳ thị thiếp của Vương gia, do đó…”

    Thì ra là vậy! Tôi vốn cũng biết điều này, vừa rồi chẳng qua chỉ nói đùa một câu thôi, nhưng sau khi nghe bọn họ chính miệng xác nhận, nơi đáy lòng vẫn không kìm được sinh ra một tia nhẹ nhõm. Mà lúc này tôi hoàn toàn không phát hiện ra, Hoán Bích đứng sau lưng tôi cũng có vẻ như vừa buông được một tảng đá đè nặng trong lòng.

    Thế nhưng lòng tôi rất nhanh đã trầm xuống, dù hai người trước mắt không phải thị thiếp của y thì cũng có liên quan gì tới tôi đâu.

    Tôi đang định nói gì, chợt thấy Hoán Bích vốn một mực im lặng đứng sau lưng mình bước lên phía trước, một tay kéo tay Thái Tần, một tay kéo tay Thái Lam, nói với giọng thân mật: “Tiểu thư nhà ta vừa rồi chẳng qua chỉ nói đùa vậy thôi. Tiểu thư thấy hai vị cô nương vừa xinh đẹp lại vừa dịu dàng, trong lòng thực vô cùng yêu quý, thầm nghĩ với dung mạo và tính tình của hai vị cô nương, tuy chưa chắc đã có thể trở thành trắc phi nhưng vị trí thị thiếp hay di nương thì thực là mười phần chắc chắn, do đó mới nói ra những lời như vậy. Hơn nữa, dù hiện thời không phải nhưng ai dám nói sau này hai vị không có cái phúc phận đó, người ngoài dù hâm mộ cũng chẳng thể làm gì khác được. Đừng nói là tiểu thư, ngay đến bản thân ta, trong lòng cũng nghĩ mình sớm muộn gì cũng phải chúc mừng hai vị cô nương.”

    Từ sau khi Huyền Thanh sai Thái Tần và Thái Lam tới hầu hạ tôi, vì hai người bọn họ dung mạo xuất chúng, ăn mặc hoa lệ, không giống các thị nữ bình thường nên khi Hoán Bích và bọn họ ở chung một chỗ thường luôn tỏ ra hờ hững, không hề thân mật. Bây giờ Hoán Bích chủ động bước lên trò chuyện với bọn họ, còn nói năng khách sáo như vậy, đúng là hiếm có vô cùng, tôi thấy thế cũng không khỏi thầm kinh ngạc.

    Thái Tần và Thái Lam biết Hoán Bích là thị nữ hầu cận của tôi, lại cùng lớn lên từ nhỏ, ngay đến Huyền Thanh cũng không cư xử với Hoán Bích như với người dưới, do đó cả hai đều khách sáo vô cùng, bây giờ thấy Hoán Bích thân mật như vậy thì tất nhiên đều không dám sơ suất. Thái Tần vội cười, nói: “Hoán Bích cô nương nói vậy thực khiến ta và Thái Lam tỷ tỷ phải tổn thọ rồi.”

    Thái Lam nghiêm túc nói: “Đám nô tỳ hầu hạ ở Thanh Lương Đài bọn ta không so được với những người Thanh Hà Vương phủ, đều là nữ tử được chọn từ các gia đình đủ ăn đủ mặc trở lên. Đám người bọn ta ai nấy đều gia cảnh điêu linh, phiêu bạt bên ngoài, sống chết chỉ cách nhau một lằn ranh, may được Vương gia cứu về, từ đó mới ở lại Thanh Lương Đài làm nô tỳ. Trong mắt bọn ta, Vương gia chính là đại ân nhân, quyết không được nảy sinh suy nghĩ gì quá phận. Bây giờ bọn ta hết lòng hết sức hầu hạ Vương gia, sau này sẽ hết sức hầu hạ Vương gia và Vương phi.” Thoáng dừng một chút, lại quay sang nói với tôi: “Vương gia coi tiểu thư như tri kỷ, tiểu thư hẳn cũng biết rõ, Vương gia nhất định sẽ không có thị thiếp hay trắc phi gì đâu. Nếu có thì cũng chỉ có duy nhất một vị Vương phi chính thất thôi, đúng không?”

    Tôi khẽ gật đầu. “Vương gia quả thực đã từng nói như vậy, nữ tử trên đời tuy có muôn ngàn nhưng y sẽ chỉ chọn một người duy nhất.”

    Khóe mắt Hoán Bích giật nhẹ mấy cái nhưng rất nhanh đã bình thường trở lại, cười tươi, nói: “Nhưng ít nhất có thể ở bên Vương gia hầu hạ cả đời cũng là cái phúc đủ khiến người khác phải ngưỡng mộ rồi!”

    Nghe Hoán Bích nói vậy, hai tỷ muội Lam, Tần tất nhiên đều thấy hợp ý vô cùng, liền mỗi người một câu, cả ba dần trở nên thân thiết. Tôi thấy bọn họ nói năng vui vẻ thì cũng không đành lòng quấy nhiễu, chỉ lẳng lặng ngó nghiêng quan sát Tiêu Nhàn quán.

    Trong Tiêu Nhàn quán có bày một chiếc giá gỗ nhiều tầng, bên trên có bày mấy hộp ấn đã được khắc sẵn, ngoài ra còn có đá Kê Huyết, đá Thanh Điền, tất cả đều hết sức chỉnh tề. Nơi trước cửa sổ có đặt một thư án dài, bên trên trải sẵn giấy Trừng Tâm Đường[1], chỉ đợi có người tới hạ bút, ngoài ra bên cạnh còn có tám ống bút làm bằng gỗ tử đàn, một chậu rửa bút, một giá gác bút, một nghiên mực, tất cả đều được làm bằng ngọc bích, cực kỳ tao nhã. Bên dưới ô cửa sổ quay về hướng nam có đặt một chiếc sạp dài, bên trên trải đệm màu tím, trên chiếc bàn cạnh sạp có đặt hai chậu hoa thủy tiên, tỏa hương thơm dìu dịu. Trên cửa sổ có mắc một bức rèm màu lam mỏng như cánh ve, phía dưới treo một chậu hoa lan, tuy đang là mùa đông nhưng cành lá vẫn rất tươi tốt. Chính giữa phòng có đặt một chiếc bàn trổ hoa làm bằng gỗ tử đàn, trên bàn đặt một chiếc bình sứ mỹ nhân màu xanh, bên trong cắm mấy cành mai đỏ, hoa nở lác đác, ngoài ra bên cạnh còn có một bộ đồ uống trà, chế tác á tinh xảo. Ngay gần chiếc bàn lại có đặt một chiếc giá thêu, những loại tơ muôn màu đủ sắc đều đã được chuẩn bị sẵn, nằm lẳng lặng kề bên.

    [1] Loại giấy do Nam Đường hậu chủ Lý Dục thời Ngũ Đại Thập Quốc chế ra, được bình là loại giấy tốt nhất trong lịch sử Trung Quốc – ND.

    Đi vòng qua bức bình phong bốn tấm đóng bằng gỗ lim, bên trên điêu khắc hình hoa anh thảo, lại đi tiếp vào bên trong nữa, tôi nhìn thấy một chiếc giường ngủ, bên trên mắc màn màu xanh lam có thêu những bông hoa hải đường rất mờ. Trên giường đặt một chiếc chăn gấm màu đỏ được gấp gọn ghẽ, phía dưới trải đệm may bằng da chồn trắng, hết sức ấm áp và mềm mại. Sàn phòng được lát bằng những phiến đá xanh, ở giữa điêu khắc hoa lạc tiên, trên bức tường trát vôi trắng lóa không có bức tranh chữ nào, chỉ treo hai bức tranh thêu tinh xảo, một bức thêu hình hoa mẫu đơn, một bức thêu hình phượng hoàng đậu gốc ngô đồng, đều ở nơi đầu giường.

    Tôi nhắm mắt, khẽ hít một hơi, ngửi thấy một mùi thơm ngọt ngào thấm vào tận tim phổi, sau đó liền nhìn thấy trên chiếc móc treo màn có treo một quả cầu bạc dát vàng, mùi thơm chính là từ đó tỏa ra, còn là mùi hoa bách hợp mà tôi vốn yêu thích nhất.

    Y cẩn thận an bài như vậy, thực sự chu đáo vô cùng, quả đã biến nơi đây thành phòng ngủ của một nữ nhi khuê các.

    Tôi thấy ngoài cửa sổ mập mờ bóng ảnh, nhất thời tò mò đẩy ra, nhìn thấy bên ngoài là một khu vườn, trong vườn không trồng những loại mai đỏ, mai trắng bình thường, mà là loại mai có màu xanh biếc. Lúc này đang là mùa hoa mai nở rộ, những bông mai xanh khắp vườn đều đang khoe sắc, tựa như vô số viên ngọc bích treo trên cây, ngay đến ánh dương chiếu xuống cũng bị nhuốm mấy tia xanh biếc, thực có vẻ đẹp không giống ánh xuân mà còn hơn cả ánh xuân. Tôi nhất thời ngơ ngẩn, không thể nào dời mắt đi được.

    Hoán Bích không biết đã bước vào tự lúc nào, lặng lẽ tiến tới bên cạnh tôi, khẽ nói: “Chỉ nhìn thoáng qua là biết, Vương gia nhất định đã hao tổn không ít tâm huyết. Không nói tới thứ khác, chỉ riêng bức ‘Trâm hoa sĩ nữ đồ’ kia đã là vật có giá trị liên thành rồi.”

    Tôi không nói gì, chỉ nhìn những bông mai xanh biếc đầy vườn. Nếu y thực sự biết về cuộc gặp gỡ giữa tôi và Huyền Lăng trong Ỷ Mai viên, từ đó tránh trồng những loại mai đỏ, mai trắng, sợ làm tôi thương tâm, vậy y quả đúng là chu đáo quá chừng rồi. Dù không phải thế thì để kiếm được nhiều cây mai xanh thế này cũng chẳng dễ dàng gì.

    Ánh mắt Hoán Bích cũng bị vườn mai đặc biệt kia thu hút, sau một thoáng ngẩn ngơ liền đột nhiên cất giọng mừng rỡ tột cùng: “Tiểu thư nhìn kìa, những bông hoa mai kia đều có màu xanh biếc.”

    Tôi chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới việc tại sao muội ấy lại mừng như vậy, chỉ hờ hững “ừm” một tiếng coi như trả lời.

    Lời của Huyền Thanh dường như vẫn còn vang vọng bên tai: “Lúc ở trong cung, Thanh từng thành tâm mời nương tử tới Thanh Lương Đài gặp gỡ, nương tử lại lấy cớ rằng mùa hạ đã qua, Thanh Lương Đài quá mát mẻ mà từ chối. Nhưng Thanh vẫn một lòng mong chờ, hy vọng có dịp nào đó cơ duyên xảo hợp, nương tử có thể tới Thanh Lương Đài chơi, như thế thực tốt biết mấy. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Thanh đã chuẩn bị sẵn Tiêu Nhàn quán rồi, bây giờ rốt cuộc đã có cơ hội dùng đến.” Khi nói những lời này, y khó có thể che giấu được sự mừng rỡ và thỏa mãn.

    Tôi cũng khẽ cười. “Vương gia cũng từng nói, Thanh Lương Đài đông ấm hè mát, nếu có một ngày ta cảm thấy thời tiết quá lạnh thì cũng có thể tới chơi, lò sưởi của Vương gia luôn sẵn lòng vì ta mà xua tan cái lạnh. Tuy Vương gia có lẽ cũng mong rằng vĩnh viễn không có một ngày như thế, nhưng bây giờ người chẳng ngại băng tuyết, giúp ta giữa cơn hoạn nạn vẫn là vị Thanh Hà Vương coi lời hứa đáng giá ngàn vàng của năm xưa.”

    Y cũng chu đáo, sợ tôi bất an nên chỉ bảo Thái Tần và Thái Lam đưa tôi tới đây.

    Tôi nghe thấy tiếng bước chân khe khẽ phía sau lưng, biết là Thái Tần và Thái Lam đã tới. Hai người khẽ nở nụ cười, Thái Lam nói: “Tiểu thư có hài lòng với sự bố trí trong Tiêu Nhàn quán không? Nếu hài lòng thì hôm nay có thể vào ở được rồi.”

    Thái Tần lại nói thêm: “Tiêu Nhàn quán là nơi thanh nhã nhất ở Thanh Lương Đài, hơn nữa còn rất gần Lục Dã đường của Vương gia.”

    Lòng tôi thầm do dự, chợt thấy Hoán Bích khẽ kéo tay áo tôi, thấp giọng khẩn cầu: “Tiểu thư, chúng ta ở lại đây được không?” Thoáng dừng một chút, nàng ta lại tiếp: “Nơi này phong cảnh đẹp, thích hợp cho tiểu thư dưỡng bệnh. Hơn nữa…” Vừa nói Hoán Bích vừa liếc mắt ra ngoài vườn mai vẻ si mê.

    Tôi cười nói: “Muội thích vườn mai đó đúng không?”

    Hoán Bích khẽ gật đầu. Dường như chính cái gật đầu ấy đã làm trái tim vốn đang dao động của tôi trở nên kiên định, rồi tôi trầm giọng nói: “Ta rất thích nơi này, phiền hai vị cô nương giúp ta thu dọn quần áo mang tới đây.”

    Thái Tần và Thái Lam chỉ mong nghe thấy câu này, lập tức mừng rỡ rời đi.

    Buổi tối hôm đó, tôi đã đến Tiêu Nhàn quán ở. Nơi này phong cảnh tao nhã, chăn đệm ấm áp, sáng sủa thông gió, vừa mở cửa sổ là có thể ngửi thấy mùi hoa mai thơm dịu, thực là một chốn thần tiên tuyệt vời.

    Cứ ở như vậy được mấy ngày, tôi lại càng cảm nhận được sự chu đáo và sâu sắc của y, mỗi việc y làm đều cực kỳ ổn thỏa.

    Sáng sớm hôm ấy ngủ dậy, tôi thấy hơi đau đầu, liền cắt hai miếng cao dán dán lên trán. Hoán Bích vô cùng yêu quý những bông mai xanh kia, ngày ngày đều hái mấy cành mai về đặt nơi đầu giường, mỗi khi có thời gian rảnh rỗi là lại ngồi trước mấy bông hoa, ngắm nhìn chăm chú, mà mùi thơm dìu dịu của hoa mai cũng khiến tôi cảm thấy thư thái vô cùng.

    Tôi tựa người vào chiếc chăn kê sau lưng, cười tủm tỉm, nói với Hoán Bích: “Hiếm khi thấy muội thích hoa như vậy đấy!”

    Hoán Bích cũng khẽ nở nụ cười. “Nô tỳ đang ngắm hoa, cũng là đang suy nghĩ về tâm ý của Vương gia.”

    Tôi cúi đầu vuốt lại mép chăn cho phẳng, nhẹ nhàng cất tiếng: “Lần này ta bị ốm, phải ở lại Tiêu Nhàn quán này, Vương gia quả đã tốn không ít tâm tư.”

    Hoán Bích liếc mắt nhìn tôi, thấp giọng nói: “Tiểu thư cho rằng chỉ có lần này Vương gia mới quan tâm tới tiểu thư như vậy sao? Kỳ thực ngay từ lúc ở trong cung…”

    Tôi lên tiếng ngắt lời Hoán Bích: “Ta biết!” Sao tôi không biết chứ, ngày hôm đó, chính y đã che giấu cho tôi khi tôi lén đi thăm My Trang, hôm sinh nhật tôi, chính y cũng đã chuẩn bị những bông hoa sen nở rộ đó, lúc tôi ngả lòng suy sụp, chính y mang tới cho tôi sự an ủi, còn hết lòng khuyên nhủ tôi. Bất kể là thêu hoa trên gấm hay tặng than giữa trời tuyết rơi, y cũng đều vì tôi mà nhọc sức.

    Thế nhưng Hoán Bích lại khẽ lắc đầu. “Nô tỳ không nói tới những việc mà Vương gia làm để lấy lòng tiểu thư.” Sau đó liền hơi ngoảnh đầu qua một bên. “Tiểu thư còn nhớ lúc người bị sẩy thai không? Khi ở trong Mật Tú cung của Tích Hoa phu nhân ấy!”

    Mật Tú cung của Tích Hoa phu nhân! Trái tim tôi bất giác nhói đau, bao nhiêu chuyện cũ lại hiện về trước mắt, đó là một mảng đỏ tươi tanh nồng, mùi tanh không ngừng xộc lên mũi, khiến đầu óc tôi trở nên hỗn loạn. Sao tôi có thể quên được đây? Đó là con tôi, đứa con đầu tiên của tôi, nó đã sống trong bụng tôi được bốn tháng, vậy mà lúc ở trong Mật Tú cung lại phải rời khỏi thân thể tôi. Khi đó tôi đã đau biết mấy, sinh mệnh của nó dần mất đi theo từng giọt máu chảy ra khỏi thân thể tôi, tôi vĩnh viễn không sao quên được.

    Nếu không có lần sẩy thai đó, có lẽ đến bây giờ tôi vẫn là một sủng phi được Huyền Lăng cưng nựng trong lòng bàn tay, không biết tới đau khổ. Những sự nổi chìm trong cuộc đời tôi bắt đầu chính từ khoảnh khắc đó. Tôi không kìm được nắm chặt hai bàn tay. Lần sẩy thai đó tôi cứ ngỡ là do Hoa Phi gây ra, chẳng ngờ lại là An Lăng Dung… Ngay từ lúc tặng Thư ngân giao cho tôi, ả đã giấu sẵn sát cơ rồi. Giữa bao nhiêu sát cơ và quỷ kế trùng trùng như thế, tôi thực không thể giữ nổi đứa bé ấy, và việc này cũng trở thành nỗi đau vĩnh viễn của tôi. Vì thế, kể từ đó về sau, không có ai dám tùy tiện nhắc tới việc này trước mặt tôi nhưng hôm nay Hoán Bích lại đột nhiên nhắc tới, khiến tôi không khỏi có chút sững sờ. “Tiểu thư còn nhớ lần đó là ai cứu tiểu thư ra khỏi Mật Tú cung không?”

    Là ai? Là Huyền Thanh. Trái tim tôi đột nhiên chấn động, trước khi biết được sự thực, trong khoảnh khắc hôn mê, tôi đã cho rằng người đến cứu tôi là Huyền Lăng, hoàn toàn không nghĩ gì tới Huyền Thanh. Còn nhớ khi đó, Hoa Phi Mộ Dung Thế Lan vẫn luôn coi Nhữ Nam Vương là chỗ dựa, đè nén tất cả các phi tần trong cung, thậm chí chẳng thèm để Hoàng hậu vào mắt. Còn Huyền Thanh, vì duyên cớ mẫu thân của y và mẫu thân của Nhữ Nam Vương lúc sinh tiền có nhiều mâu thuẫn, do đó y vẫn luôn bị Nhữ Nam Vương căm hận, coi như cái gai trong mắt, muốn sớm diệt trừ. Mà ngày đó trong triều đình, Nhữ Nam Vương Huyền Tế tay nắm thực quyền, lại có thể điều động quân binh nơi Quan Ngoại, thế lực cực lớn, ngay đến Huyền Lăng thân là Hoàng đế cũng phải kiêng dè mấy phần. Trong khi đó, Huyền Thanh chỉ là một vị vương gia nhàn tản, không quyền không thế, cả ngày gửi tình vào cầm kỳ thi họa, né tránh mũi nhọn của đối phương. Ngày đó, y tùy tiện xông vào Mật Tú cung của Hoa Phi để cứu tôi giữa lúc nguy nan, không chỉ đắc tội với Hoa Phi đang được sủng ái, còn trực tiếp gây xung đột với phe phái của Nhữ Nam Vương, thực đã hoàn toàn trái ngược với tác phong hành sự của y thường ngày, khiến người ta cảm thấy khó hiểu.

    Hoán Bích trước giờ chưa từng nhắc tới việc hôm đó trước mặt tôi, hôm nay lại rủ rỉ kể ra tất thảy: “Ngày đó, tiểu thư bị phạt quỳ trong Mật Tú cung của Tích Hoa phu nhân, ngay đến Kính Phi nương nương cũng không sao cứu được, nô tỳ liền biết là không hay. Hôm đó Cận Tịch đi theo tiểu thư, tất nhiên không thể thoát thân, mà các phi tần cũng đều ở trong Mật Tú cung cả, Hoàng thượng và Hoàng hậu lại đều ra ngoài tế trời, Thái hậu thì bệnh nặng hôn mê, tự lo cho mình còn chẳng xong, sao còn để ý đến tiểu thư được, tình hình quả đúng là lên trời hết đường, xuống đất hết lối. Nô tỳ đứng bên ngoài, thấy tiểu thư bị Tích Hoa phu nhân giày vò như vậy, không khỏi thầm lo cho đứa bé trong bụng tiểu thư, nhưng lại chẳng nghĩ ra được cách nào để cứu tiểu thư cả, thực sự sốt ruột vô cùng. Thế nhưng, trong cung còn có ai dám đắc tội với Tích Hoa phu nhân đây?” Hoán Bích thoáng dừng một chút rồi lại tiếp: “Vừa khéo lúc đó nô tỳ nhìn thấy A Tấn đi ngang qua, mới chợt nhớ tới việc Lục Vương gia vì muốn tiện chăm sóc cho Thái hậu đang bị bệnh, bèn ở lại trong Lũ Nguyệt Khai Vân quán nơi hồ Thái Dịch.”

    Lũ Nguyệt Khai Vân quán là nơi ở của Huyền Thanh trước lúc rời cung mở phủ riêng. Y còn chưa thành hôn, lại là do Thái hậu nuôi nấng trưởng thành, do đó nơi hồ Thái Dịch vẫn lưu lại nơi ở đó cho y, giúp y qua lại giữa hoàng cung và vương phủ thêm thuận tiện, có thể thường xuyên vào cung bầu bạn với Huyền Lăng và vấn an Thái hậu. Hơn nữa, Lũ Nguyệt Khai Vân quán được xây giữa hồ Thái Dịch, các phi tần dù có chèo thuyền đi chơi cũng sẽ không tới một nơi xa như vậy, vừa hay có thể tránh các mối hiềm nghi.

    “Trước đây nô tỳ từng gặp A Tấn, biết y là tâm phúc thân tín của Vương gia, hoàn toàn có thể tin tưởng được, thế là bèn xin A Tấn đưa mình tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán tìm Lục Vương gia để nhờ nghĩ cách cứu tiểu thư.” Dường như Hoán Bích đã chìm vào dòng hồi ức. “Đó là lần đầu tiên nô tỳ tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán, chỉ thấy ngoài quán có vô số bông hoa hợp hoan màu vàng nhạt và màu hồng đang nở rộ, không ngừng rung rinh giữa cơn gió nhẹ thoảng qua, nếu không vì nôn nóng cứu tiểu thư, nô tỳ nhất định đã dừng chân ngắm nhìn thật kĩ. Vương gia khi đó đứng ngay giữa biển hoa, đang cúi đầu viết chữ. Nô tỳ không biết y viết gì nhưng y vừa nhìn thấy nô tỳ tới liền biết ngay là đã xảy ra chuyện. Bởi trước đó, sau khi tiểu thư có thai, Vương gia từng dặn dò nô tỳ, nếu tiểu thư gặp chuyện gì khó giải quyết, nô tỳ có thể tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán tìm y, nếu y không ở đó có thể bảo A Tấn chuyển lời cho y. Hôm đó A Tấn tự mình dẫn nô tỳ tới, bộ dạng nô tỳ lại hết sức luống cuống, hốt hoảng, Vương gia vừa nhìn liền biết nhất định đã xảy ra chuyện lớn. Thế rồi nô tỳ bật khóc thành tiếng, quỳ xuống cầu xin Vương gia nhất định phải tới Mật Tú cung cứu tiểu thư.” Sau khi thoáng ngẩn ngơ, Hoán Bích kể tiếp: “Vừa nghe nô tỳ kể xong, sắc mặt Vương gia liền tái nhợt đi, cũng không nói là sẽ cứu thế nào, vứt ngay giấy bút qua một bên, kéo nô tỳ đi về hướng Mật Tú cung. Khi đó, A Tấn nôn nóng đến suýt phát điên, ra sức kéo Vương gia lại, xin Vương gia đừng lỗ mãng kẻo đắc tội với Tích Hoa phu nhân và Nhữ Nam Vương. Nhưng khí lực của Vương gia lớn như thế, A Tấn sao kéo lại nổi. Đừng nói là A Tấn, ngay đến các thị vệ canh gác bên ngoài Mật Tú cung cũng sợ đến ngây người, không cách nào ngăn cản. Thế rồi bọn nô tỳ cứ thế xông vào Mật Tú cung, Vương gia thân là nam tử mà lại tùy tiện xông vào như vậy, các phi tần kia đều sợ hãi vô cùng, hoang mang nấp vào nội điện, ngay đến Tích Hoa phu nhân cũng tái nhợt mặt mũi, chẳng để ý gì đến việc tị hiềm, liền nổi nóng, phát sinh tranh chấp với Vương gia. Ôi, khi đó Tích Hoa phu nhân nào thèm nể mặt ai, nhưng nàng ta không chịu nghĩ thử xem, Vương gia dám xông vào Mật Tú cung cứu người như thế, chẳng lẽ còn kiêng dè nàng ta hay sao?”

    Trong quãng hồi ức đau khổ năm xưa, tôi chỉ nhìn thấy Huyền Thanh vì tôi mà trực tiếp tranh cãi với Mộ Dung Thế Lan, đó là lần đầu tiên tôi thấy y nôn nóng như thế, sắc mặt biến đổi hẳn. Trong khi đó, thường ngày Huyền Thanh luôn nho nhã, ung dung.

    “Khi đó tiểu thư đã chảy rất nhiều máu, cả chiếc váy đều bị nhuộm thành màu đỏ, còn ngất lịm đi, Thẩm tiểu thư có gọi thế nào cũng không tỉnh. Nô tỳ sợ quá, chỉ biết bật khóc nức nở, Vương gia thấy không có ai giúp được việc gì, liền chẳng để tâm tới nam nữ thụ thụ bất thân, bế tiểu thư về Đường Lê cung.” Hoán Bích kể tới chỗ cảm động, không kìm được rưng rưng nước mắt. “Ngay sau đó, Kính Phi nương nương cũng tới, thấy bộ dạng tiểu thư như vậy thì thiếu chút nữa ngất xỉu, vội vàng chạy đi gọi thái y. Vương gia sai A Tấn cưỡi khoái mã đi mời Hoàng thượng về, lại đích thân canh giữ bên ngoài Đường Lê cung để đề phòng Tích Hoa phu nhân thừa cơ sinh sự, đến tận khi Hoàng thượng quay về.”

    Những chuyện tiếp theo đó Hoán Bích không kể nữa, vì tôi đã biết cả rồi, đứa bé của tôi rốt cuộc vẫn không giữ được. Thế nhưng tôi thực sự chấn động vô cùng, lòng dạ sục sôi không ngớt, nhất thời chẳng nói nổi lời nào. Thì ra ngay từ sớm, y đã đối xử với tôi như thế, bảo vệ tôi, suy nghĩ chu toàn cho tôi. Tôi cứ luôn nghĩ rằng mình đã biết, nhưng thì ra lại chỉ biết ít như vậy, chỉ là một góc nhỏ của ngọn núi băng.

    “Ai cũng nói vì tiểu thư là Hoàn Quý tần, là sủng phi mà Hoàng thượng yêu thích nhất, lại đang có thai, do đó Lục Vương gia mới bất chấp tất cả để tới cứu người, thậm chí không ngại đắc tội với Tích Hoa phu nhân có Nhữ Nam Vương đứng sau chống lưng.” Hoán Bích nhìn tôi, đôi mắt sâu thẳm như hai đầm nước, giọng nói ngợp nỗi u buồn: “Nô tỳ cũng luôn cho rằng như vậy. Nếu không vì ngày đó chính mắt nhìn thấy Vương gia vì tiểu thư mà rơi lệ, nô tỳ cũng chẳng dám tin. Đó là lần đầu tiên nô tỳ nhìn thấy một nam tử rơi lệ. Nam nhi có lệ chẳng dễ rơi, nhưng ngày đó ở Mật Tú cung, nô tỳ đã chính mắt nhìn thấy nước mắt của Vương gia nhỏ xuống mặt tiểu thư. Tiểu thư, khi đó nô tỳ đã hiểu hết tất cả… Vương gia vì tiểu thư mà đau lòng.”

    “Quý tần!” Trong khoảnh khắc cuối cùng trước khi mất đi tri giác, tôi chỉ nghe thấy người bế tôi gọi tôi như vậy. Trong tiếng gọi ấy ẩn chứa thứ tình cảm đậm sâu cùng muôn vàn nỗi đau đớn và kìm nén. Tôi vẫn luôn ngỡ đó là Huyền Lăng, phu quân của tôi, y vì tôi mà đau lòng, vì tôi mà nôn nóng. Giọt nước mắt kia dường như nóng bỏng vô cùng, để lại một dấu vết thật sâu, tôi vừa nhớ lại liền cảm thấy nơi má mình bỏng rát. Vệt nước mắt trên má tôi sớm đã biến mất hoàn toàn, nhưng tôi lại hiểu, nó đã nhỏ xuống trái tim tôi ra sao, để lại một dấu vết đậm sâu đến nhường nào. Đó là giọt nước mắt Thanh rơi vì thương tôi, cũng trở thành tâm ma của tôi hôm nay, thường xuyên phát tác, tôi biết phải ngăn cản thế nào đây?

    Tôi chẳng qua chỉ đang dốc chút sức tàn gắng gượng phản kháng mà thôi. Im lặng một hồi, tôi cứ thế nhìn chiếc chăn gấm thêu hoa trước mặt mà ngơ ngẩn, những bông hoa trên đó đều tràn đầy màu sắc tươi vui, là kiểu dáng thường dùng của gia đình quan lại. Tôi hiểu rõ dụng tâm của Huyền Thanh, y kêu người chuyển đi hết những thứ đồ mang kiểu dáng cung đình là vì sợ tôi nhìn thấy mà sinh lòng thương cảm. Tuy nơi này là Thanh Lương Đài của y, cách xa hoàng cung nhưng hơi thở của cung đình thực sự đã rời xa rồi sao? Từ trong lò hương vướng vít bay ra làn khói thơm của loại hương liệu mà tôi thích, chính là Trầm thủy hương đắt tiền mà chỉ các cung phi có địa vị trong cung mới có tư cách dùng. Hơn thế nữa, bản thân y cũng có muôn vàn mối liên hệ không thể nào dứt bỏ với chốn hoàng cung.

    Tâm trạng tôi mới thoáng đó đã trở nên trống rỗng, không sao khống chế nổi. Từ ngoài cửa sổ, gió nhè nhẹ thổi vào, tựa như nàng thục nữ đang thả bước, mang theo một nét lạnh lùng quét nhẹ qua bờ má tôi.

    Tấm rèm cửa sổ bị gió hất bay lên trong một thoáng, phong cảnh ngoài cửa sổ hiện ra làm mắt tôi hoa đi. Khi ấy, lòng tôi xao động từng hồi, đột nhiên cảm thấy mình yêu y biết mấy, nhưng lại nhất định không thể để mình yêu y. Sau một thoáng ngẩn ngơ, tất cả mọi sự buồn vui, cay đắng, hụt hẫng và những nỗi kỳ vọng của thời thiếu nữ đồng loạt trào dâng trong trái tim tôi. Trong những năm tháng đầu đời, khi bản thân vẫn còn mang đầy hy vọng về tình yêu, tôi đã từng vô cùng khao khát có được một vị lang quân không vì tôi đẹp hay xấu mà vui buồn, không vì gia thế tôi sang hay hèn mà để bụng, cùng tôi ý hợp tâm đầu, có thể sớm ngày chung sống bên nhau tới tận lúc đầu bạc răng long, vĩnh viễn không chia lìa. Trước mắt tôi giờ đã có một người như vậy, y phù hợp với mọi yêu cầu ban đầu của tôi, cũng là một giấc mơ tuyệt vời về tình yêu của tôi. Y hiểu tôi, yêu thương tôi, cùng tôi tâm ý tương thông, lại không hề để tâm tới việc dung nhan tôi thay đổi.

    Thế nhưng tôi lại chùn chân, lại sợ hãi. Bàn tay của thời gian khiến chúng tôi không gặp được nhau ngay từ đầu, đến bây giờ, sự việc còn có thể thay đổi được sao? Tôi từng vô số lần thầm nghĩ, trước đây, khi tôi chưa vào cung, chưa trở thành sủng phi của Huyền Lăng, có lẽ tôi có một phần vạn cơ hội được cùng y gặp gỡ, quen biết và yêu nhau. Nhưng một phần vạn cơ hội ấy đã biến mất rồi, bởi khi gặp y, tôi đã là phi tử của Huyền Lăng, tôi không thể thay đổi được gì, không thể nói, không thể làm, khi đối mặt với tình ý mà y vô ý lộ ra, tôi chỉ có thể giả bộ như không biết, cố sức kìm nén tâm trạng của bản thân. Mà đến bây giờ, thân phận của tôi và y đều đã hết sức rõ ràng. Dù tôi là một phi tử bị ruồng bỏ, dù tôi và Huyền Lăng không còn danh phận phu thê nhưng dù sao tôi cũng từng là hoàng tẩu của y. Huống chi, y vẫn là vị Lục Vương gia của năm xưa, anh tuấn tiêu sái, nghi biểu đường đường; còn tôi đã là một nữ tử gia thế điêu linh, thảm thương tiều tụy. Đối mặt với tình ý vẫn như xưa, thậm chí còn càng lúc càng mãnh liệt của y, sao tôi không sinh ra cảm giác tự thẹn kém người, nghĩ mình chẳng xứng với y kia chứ!
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 21: Tử Dạ ca [1]
    1] Tên một bài thơ Nhạc phủ, trong đó Tử Dạ là tên người – ND.

    Tôi cứ ngồi ôm chăn như thế, chẳng hề nhận ra thời gian đang lẳng lặng trôi qua, từ sáng sớm tới lúc hoàng hôn, ánh sáng không ngừng biến đổi nhưng tôi lại chẳng hay biết.

    Sự tĩnh lặng ấy ngưng đọng trên những bước chân dồn dập của thời gian. Hoán Bích thấy tôi như vậy thì vô cùng sợ hãi, bèn dè dặt cất tiếng: “Tiểu thư, nô tỳ nói sai điều gì rồi sao?”

    Tôi khẽ đáp: “Không.”

    Hoán Bích nôn nóng đến phát khóc. “Nếu nô tỳ nói sai chỗ nào, tiểu thư cứ việc đánh nô tỳ, mắng nô tỳ, ngàn vạn lần đừng để trong lòng mà làm ảnh hưởng tới sức khỏe.”

    Tôi chậm rãi lắc đầu. “Hoán Bích, ta không giận gì muội, ta chỉ muốn yên tĩnh suy nghĩ một số chuyện thôi.”

    Hoán Bích không dám nói gì thêm, chỉ ngồi lặng yên bên cạnh tôi, bộ dạng ưu lo trùng trùng, khiến người ta nhìn mà thương cảm.

    Sắc trời dần tối, Hoán Bích không biết làm thế nào, cũng không dám đi nói việc này với Huyền Thanh, chỉ đành đứng dậy thắp sáng từng cây nến, sau đó lại quay về ngồi bên cạnh tôi. Giữa căn phòng, ánh lửa sáng bùng lên, không ngừng nhảy nhót nhẹ nhàng, tựa như những trái tim tuy yếu ớt nhưng vẫn chưa thôi vùng vẫy.

    Chợt nghe có tiếng bước chân khe khẽ vang lên, tôi ngoảnh đầu nhìn lại, thấy Huyền Thanh đã bước vào phòng. Tôi không muốn để y biết tâm tư của mình, liền vực dậy tinh thần, khom người, nói: “Sao Vương gia lại đến đây vào giờ này vậy? Đã dùng bữa tối chưa?”

    Y khẽ cười, đáp: “Ta vừa về vương phủ một chuyến, đã dùng cơm ở đó rồi.”

    Tôi cũng mỉm cười. “Có thể đi lại được như vậy, chứng tỏ thân thể Vương gia không còn vấn đề gì nữa rồi.”

    Y tự vỗ vai mình mấy cái, cất tiếng cười rộ. “Bao năm mới ốm một lần, bây giờ ta đã khỏe hẳn rồi!” Sau khi ngó quanh bốn phía, y lại hỏi: “Nàng thấy Tiêu Nhàn quán ổn chứ?”

    Tôi trêu chọc y: “Lần nào tới đây cũng hỏi như vậy, Vương gia không thấy phiền thì ta cũng thấy phiền rồi. Ta chỉ nói thêm một lần nữa thôi đấy, Tiêu Nhàn quán rất tốt.”

    Y rất tinh mắt, vừa liếc qua đã để ý thấy tôi chưa hề đụng đến cơm và thức ăn đặt trên bàn, không kìm được hỏi: “Sao lại chưa ăn gì thế? Đồ ăn ở đây không hợp khẩu vị của nàng sao?”

    Hoán Bích đang định trả lời thay, tôi đã cười, nói: “Không phải là không hợp khẩu vị, mà là lúc này mồm miệng ta nhạt nhẽo, chẳng muốn ăn gì hết. Đồ ăn cứ tạm thời để đó đã, khi nào đói ta sẽ ăn.”

    Huyền Thanh hơi cau mày, khẽ nói với giọng như dỗ dành trẻ con: “Mồm miệng nhạt nhẽo thì bảo nhà bếp làm một số thứ thanh đạm là được, đừng nên làm khó dạ dày của mình. Nếu ăn ít quá thì sao mà khỏe lại được.” Rồi y quay qua dặn dò Hoán Bích: “Đi bảo nhà bếp làm mấy món ăn thanh đạm mang tới đây, kèm thêm ít cháo trắng nữa. Để ta ở lại đây với tiểu thư nhà cô.”

    Tôi vội cản lại, nói: “Việc gì phải phiền phức như thế, ta không ăn được đâu, Vương gia khỏi cần mất công làm gì.”

    Y vén áo ngồi xuống, lại gọi A Tấn bê tới một chiếc bàn tròn đặt ngay trước giường tôi, cười tủm tỉm, nói: “Vừa rồi khi ở trong vương phủ, ta chẳng qua chỉ ăn cho xong bữa, vẫn chưa được no, bây giờ xin được mời nương tử cùng ăn với ta một chút, chẳng hay nương tử có chịu nể mặt không?”

    Tôi biết y có lòng muốn tôi ăn lấy một chút gì đó, tâm ý như thế thực không tiện chối từ, đành mỉm cười đồng ý, ngoài miệng thì nói: “Trong vương phủ, thứ sơn hào hải vị gì mà chẳng có, vậy mà Vương gia còn quay về Thanh Lương Đài này để ăn thêm.”

    Y cũng không giải thích, chỉ khẽ mỉm cười. “Ta chỉ nghĩ sao làm vậy mà thôi.”

    Hoán Bích vâng lời rời đi. Huyền Thanh cũng không nói gì nhiều, chỉ chọn những chuyện tôi thích để kể. Tôi nói: “Thời tiết bên ngoài không tốt, Vương gia bất tất phải thường xuyên bôn ba qua lại làm gì”, rồi lại ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. “Cận Tịch ở một mình trong núi, chẳng biết bây giờ thế nào rồi.”

    Y cười, nói: “Trên đường tới đây, ta có đi thăm Cận Tịch, mọi việc vẫn bình thường, có điều cô ấy rất nhớ nàng đấy.” Sau đó, y lại kể về tình hình của Cận Tịch, nói mình đã sai người đưa than và quần áo, thức ăn tới đó rồi. Tôi khẽ gật đầu, thầm cảm kích sự chu đáo của y. Hai chúng tôi ngồi đối diện nhau, tôi nghiêng đầu lắng nghe, thấy ngoài cửa sổ dường như có tiếng hát trong trẻo vang lại, có vẻ như là tiếng hợp ca của các nữ tử.

    Tôi nghe được một lát, bất giác mỉm cười, nói: “Hình như là khúc Tử Dạ ca, các ca nữ của Thanh Lương Đài đang hát sao?”

    Y hơi nhếch khóe môi, nở một nụ cười điềm đạm mà ấm áp, lại chậm rãi nói: “Tử Dạ tứ thời ca dựa theo bốn mùa mà hát những bài khác nhau, ta thường sai các thị nữ ở Thanh Lương Đài ngó cảnh bốn mùa mà ca hát. Bây giờ là mùa đông, do đó bọn họ đang hát đông ca[2] đấy.”

    [2] Tử Dạ ca và Tử Dạ tứ thời ca kỳ thực là hai bài khác nhau, tương truyền đều là do một nữ tử người thời Tấn tên Tử Dạ sáng tác, lời ca rất đau khổ, ai oán, đều được thu vào Nhạc Phủ thi tập. Tử Dạ ca ra đời trước, Tử Dạ tứ thời ca phỏng theo đó mà ra, được chia thành xuân ca, hạ ca, thu ca, đông ca, mỗi mùa lại có rất nhiều bài nhỏ, mỗi bài bốn câu, mỗi câu năm chữ. Ở đây tác giả có vẻ như đã đánh đồng hai bài làm một, lời ca thì là của Tử Dạ tứ thời ca, nhưng giải thích thì lại dùng của Tử Dạ ca – ND.

    Tôi không kìm được, nở một nụ cười vui vẻ. “Việc phong nhã thế này, cũng chỉ có Vương gia là làm được thôi!” Tôi dựa theo lời hát của bọn họ mà chậm rãi cất tiếng ngâm từng câu: “Vực băng dày ba thước, tuyết trắng phủ muôn nơi. Lòng thiếp như tùng bách, tình chàng liệu ra sao? Đường trơn không ai bước, chẳng quản lạnh tìm nhau. Nếu không tin lời thiếp, trên tuyết dấu còn in. Chim lạnh nép cây cao, rừng khô thoảng gió buồn. Lòng vui tan tiều tụy, dung nhan thêm mặn mà[3]…”

    [3] Nguyên văn Hán Việt: Uyên băng hậu tam xích, tố tuyết phúc thiên lý. Ngã tâm như tùng bách, quân tình phục hà tự. Đồ sáp vô nhân hành, mạo hàn vãng tương mịch. Nhược bất tín nông thời, đãn khán tuyết thượng tích. Hàn điểu y cao thụ, khô lâm minh bi phong. Vi hoan tiều tụy tẫn, na đắc hảo nhan dung – ND.

    Y nở nụ cười ấm áp như ánh nắng mùa xuân, dường như còn mang theo mùi hương thoang thoảng của hoa ngọc lan, khiến tôi ngơ ngẩn. Y chậm rãi nói: “Đông ca có mười bảy bài, đây chỉ là ba bài đầu thôi!”

    Tôi chăm chú lắng nghe, các ca nữ dường như đang hát ở phía xa, giọng hát không cao vang lắm mà lả lướt triền miên, giống như những sợi tơ bạc không ngừng quấn tới, tràn đầy ý vị, chầm chậm chảy vào trái tim người ta. Thế nhưng các ca nữ đó cứ cất tiếng du dương hát đi hát lại, mãi mà vẫn chỉ có ba bài đầu đó.

    Tôi thấy có chút nghi hoặc, bèn hỏi: “Sao lại chỉ hát có mấy bài này, các bài tiếp theo thì sao?”

    Y khẽ lắc đầu, sắc mặt như một ngọn lửa lóe lên, hơi ảm đạm, chỉ cười mà không nói.

    Đúng lúc này, Hoán Bích bước vào, tươi cười, nói: “Đồ ăn đã làm xong rồi, tiểu thư và Vương gia nếm thử đi!”

    Chỉ thấy trên bàn có bày bốn món ăn, gồm tùy gà xào nấm, canh rau rút, rau râu rồng luộc, ruốc thịt Phúc Kiến, ngoài ra còn có một đĩa tương hoa hồng, kèm theo đó là một bát cháo trắng bốc hơi nghi ngút. Huyền Thanh cười, nói với Hoán Bích: “Cô nương quả đã có lòng rồi!”

    Sắc mặt hơi máy động, Hoán Bích bất giác nở nụ cười, nói: “Dạ! Rau râu rồng luộc và ruốc thịt Phúc Kiến là hai món mà Vương gia thường ngày thích ăn, do đó nô tỳ mới kêu nhà bếp chuẩn bị.” Hai gò má Hoán Bích hơi ửng hồng nhưng rất nhanh đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh, tự nhiên. “Thái Lam từng có lần nói tới việc này.”

    Huyền Thanh coi như không nghe thấy, chỉ nói: “Tiểu thư nhà cô rất thích ăn tùy gà xào nấm và canh rau rút, hơn nữa hai món ăn này dùng với cháo trắng đều rất hợp.”

    Lần này thì đến lượt tôi ngạc nhiên, không kìm được hỏi: “Sao Vương gia lại biết vậy?”

    Y bình thản đáp: “Thường ngày nàng ăn không nhiều, chỉ có hai món này là ngày nào cũng ăn, hơn nữa còn động đũa nhiều nhất.”

    Lòng tôi thầm chấn động, bất giác sững người, nhớ lại cảm giác hồi nhỏ, khi đi theo di nương tới suối nước nóng. Kỳ thực nước suối không hề nóng, chỉ là có một dòng nước nóng từ trong khe đá dưới đáy suối chậm rãi chảy ra, khiến cả dòng suối không còn lạnh nữa. Lúc này, bộ dạng của tôi nhất định là đang đờ đẫn, sững sờ, Hoán Bích cũng đang ngây ra mà chẳng rõ vì sao.

    Tôi nhất thời chẳng biết phải đối đáp thế nào, chỉ miễn cưỡng cười, nói: “Đa tạ Vương gia quan tâm.” Tôi cố tình lảng qua chuyện khác, quay sang cười nói với Hoán Bích: “Tương hoa hồng này đúng là rất thơm, ta mới ngửi đã muốn ăn rồi!”

    Thần sắc có chút không tự nhiên, Hoán Bích gượng cười, giải thích: “Thứ này làm cũng dễ thôi, chỉ cần chọn cánh hoa hồng tươi bỏ đi nước sương, trộn lẫn với đường trắng và ô mai rồi giã nhuyễn ra là được. Nếu tiểu thư thích, nô tỳ sẽ bảo bọn họ mỗi ngày đều chuẩn bị sẵn.”Tôi xua tay, nói: “Ta chẳng qua chỉ tiện miệng nói vậy thôi, không cần mất công như thế.”

    Huyền Thanh cầm đũa lên, ôn tồn nói: “Nếu thích thì hãy ăn nhiều một chút.”

    Nhất thời cả hai chúng tôi đều im lặng, thức ăn bỏ vào miệng đủ cả bốn vị chua cay mặn ngọt, khiến trong lòng chúng tôi trào dâng muôn vàn cảm xúc.

    Hoán Bích lùi ra phía xa, đứng canh chừng bên dưới bức rèm bông dày trước cửa. Bức rèm ấy có màu vàng nhạt, bên trên thêu hình những khóm trúc biếc xanh, hết sức tinh xảo. Hôm nay, Hoán Bích mặc một chiếc áo màu xanh kiểu dáng bình thường, không thêu chút hoa văn, lại kết hợp với chiếc váy màu xanh sẫm, thành ra toàn thân đều là màu xanh, đứng ngay dưới bức rèm bông kia, cả người liền giống như đã hòa vào đó, người ngoài chỉ có thể nhìn thấy một chiếc bóng mơ hồ.

    Tôi và Huyền Thanh đều rất trầm lặng, khiến tiếng ca du dương từ phía xa vang tới kia lại càng trở nên rõ ràng.

    Tôi buông đũa xuống, đoạn dây bạc nhỏ gắn trên đũa phát ra những tiếng loạt soạt, tựa như lời rủ rỉ chuyện trò. Tôi mỉm cười, nói: “Ta đã nghĩ ra tại sao các ca nữ lại chỉ hát ba bài đầu của Tử Dạ đông ca rồi.” Nụ cười của tôi dần trở nên tịch mịch. “Bởi vì càng về sau, mối tình ấy lại càng trở nên thê lương, lại càng đi vào tuyệt lộ. Ví như ‘Nơi nào kết đồng tâm? Đồi tây ngay gốc bách. Lãng đãng giữa bốn bề, sương lạnh giá lòng em’, rồi lại ‘Giữa làn nắng tháng Ba, ve sầu vừa kêu lại. Nhớ về nỗi vui xưa, tóc bạc tự bao giờ[4]’.”

    [4] Tử Dạ đông ca có mười bảy bài, đây là bài thứ mười ba và mười bảy. Nguyên văn Hán Việt: Hà xứ kết đông tâm, tây lăng bách thụ hạ. Hoảng đãng vô tứ bích, nghiêm sương đống sát ngã. Thích kiến tam dương nhật, hàn thiền dĩ phục minh. Cảm thời vi hoan thán, bạch phát lục tấn sinh – ND.

    Y khẽ nở nụ cười, cũng buông đũa xuống. “Mối tình được kể ra trong mùa đông tất nhiên là phải xơ xác, tiêu điều, tựa như tuyết phủ mênh mang, không có chút sức sống, khiến người ta nhìn là thương tâm, tuyệt vọng.”

    Tôi vẫn cười nhưng nỗi thê lương trong lời nói thì đã không thể kiềm chế được: “Tử Dạ tứ thời ca được làm ra theo bốn mùa, xuân hạ thu đông tuần hoàn không ngớt. Một đoạn tình ý có sự ấm áp của mùa xuân, sự nóng bỏng của mùa hạ, tất nhiên cũng phải có sự ưu sầu của mùa thu, sự tiêu điều của mùa đông. Giữa những tháng ngày đầy hoan hỉ, ai ngờ lại có lúc ‘tóc bạc tự bao giờ’. Cặp uyên ương nào mà không muốn cùng bay nhưng đâu phải muốn là được, chỉ đáng thương cho những người chưa già tóc đã bạc… Do đó, thà rằng ngay từ đầu đã vô tình, như thế sẽ bớt được vô số nỗi khổ não.”

    Y có chút ngạc nhiên, lại nhanh chóng lộ vẻ thấu hiểu. “Điểm tận cùng của tình yêu chưa chắc đã là nỗi bi ai. Muốn tình yêu đạt được thành quả, vốn phải có đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mà bây giờ thiên thời, địa lợi đã có, còn yếu tố nhân hòa thì chỉ phụ thuộc vào con người mà thôi.”

    “Vậy…” Tôi ngoảnh đầu qua chăm chú nhìn y, trong giọng nói mang theo mấy phần quật cường và khí thế: “Vương gia đã từng nảy sinh quan hệ yêu đương với nữ tử nào chưa?”

    Y im lặng, một thoáng sau liền ngoảnh đầu qua hướng khác. “Chưa.”

    “Ta thì đã trải qua rồi, cho nên hiểu rõ. Xin không biết thẹn mà nói một câu, ta là người từng trải.” Tôi nở nụ cười thê lương, liếc mắt nhìn ra khoảng không rét lạnh bên ngoài cửa sổ. Trong phòng, than vẫn không ngừng cháy, tôi bỗng thấy khóe mắt cay cay, đoán chừng là vì bị khói hun. Kỳ thực, trong chậu than kia là loại than bạc thượng hạng, làm gì có chút khói nào, lại được vứt mấy miếng vỏ quýt vào trong, mùi thơm dìu dịu tỏa khắp, không hề có tạp khí. Tôi chậm rãi nói: “Có một số việc nếu ngay từ đầu đã biết là không thể có kết quả tốt, vậy thì chớ nên si tâm vọng tưởng mà mang lòng cưỡng cầu làm gì. Giống như ta với y ngày trước, nếu ngay từ đầu ta đã mang tâm thái của một phi tần bình thường, chỉ mong có vinh hoa phú quý, chẳng cần để tâm tới chân tình, có lẽ bây giờ ta vẫn còn yên ổn trong cung, địa vị không ai lay chuyển được, lại càng không làm liên lụy tới cha anh để họ rơi vào cảnh ngộ như bây giờ.”

    Khi nói chuyện, ngay đến tên của Huyền Lăng tôi cũng không muốn nhắc đến, chỉ thay thế bằng một chữ “y”, Huyền Thanh tất nhiên hiểu rõ. Mà ý tứ trong lời nói, tuy rằng tôi chỉ điểm đến là dừng nhưng tin rằng y cũng hiểu.

    Trong mắt y lẳng lặng xuất hiện một lớp băng sương lạnh giá nhưng phía sau đó dường như lại thấp thoáng một ngọn lửa nóng bỏng bập bùng. “Nàng mới thương tâm một lần mà đã sinh lòng thất vọng với chtình’ trên thế gian này rồi sao?”

    Tôi không trả lời y, chỉ đưa tay chống cằm, chậm rãi nói: “Vương gia đã nghe kể về Bạch Xà truyện chưa? Tương truyền thời cổ có một con Bạch Xà Tinh tu luyện ngàn năm hóa thành hình người, chỉ mong tìm được một mối tình phu thê bình thường nhất giữa nhân gian. Dưới làn mưa bụi Tây Hồ, nơi Đoạn Kiều gặp gỡ, ngồi chung một thuyền, định tình bằng ô giấy, Bạch Nương Tử và Hứa Tiên rốt cuộc đã kết thành phu thê. Cũng không phải chưa từng ân ái, chỉ là không chịu nổi mấy lời chia rẽ của Pháp Hải, để rồi ngay cả khi Bạch Nương Tử đã mang cốt nhục của mình trong người, Hứa Tiên cũng không chịu quay lại giúp đỡ, còn chính tay cho nàng uống rượu hùng hoàng. Thực khổ cho Bạch Xà vì một nam nhân như vậy mà dâng nước nhấn chìm Kim Sơn, ăn trộm linh chi, còn vì y mà lo liệu việc nhà, sinh con đẻ cái. Chỉ bởi vì nàng không phải là đồng loại, cho dù một lòng chân thành đối đãi với Hứa Tiên cũng không được tha tội, đến cuối cùng vẫn vĩnh viễn bị đè dưới tháp Lôi Phong.”

    Y mỉm cười nhìn tôi nhưng nụ cười ấy lại không có lấy một tia ấm áp. “Ta từng nghe nói, hình như chỉ khi tháp Lôi Phong đổ, nước Tây Hồ cạn khô, Bạch Nương Tử mới có thể thoát ra ngoài.”

    Tôi cười lạnh lùng, cất tiếng: “Có khả năng ấy sao? Đó chẳng qua là chút hy vọng nhỏ nhoi mà người đời sau trao cho Bạch Nương Tử thôi. Bây giờ phong cảnh Tây Hồ vẫn như xưa, tháp Lôi Phong sừng sững, nào có thấy ai trốn thoát được ra ngoài. Chỉ đáng thương cho Bạch Nương tử vĩnh viễn bị đè dưới tháp Lôi Phong, phải chịu nỗi khổ vô bờ, chẳng thể siêu sinh. Trong khi đó, Hứa Tiên lại được sống bình yên mãi tới lúc già, mà chỉ e y chẳng có khoảnh khắc nào nghĩ đến nữ tử từng vì y mà vào sinh ra tử, một dạ tình si kia nữa!” Tôi ngước mắt nhìn y, trong mắt bất giác trào dâng một tia oán hận, tia oán hận đó tựa như một lưỡi kiếm sắc bén, kiếm khí vun vút bay đi đâm vào người y, cũng đâm cả vào người tôi. “Sao có thể nghĩ đến được đây? Trong mắt y, Bạch Nương Tử dù tốt đến mấy cũng chỉ là một con rắn thành tinh mưu đồ chiếm đoạt gia sản nhà y mà thôi. Không biết trong quãng thời gian đằng đẵng bị đè dưới tháp Lôi Phong, Bạch Nương Tử có từng cảm thấy hối hận chút nào không, hối hận vì ngày đó khi gặp Hứa Tiên ở Đoạn Kiều đã nảy sinh tình ý, để đến nỗi sau này phải chịu cảnh cay đắng muôn vàn, vĩnh viễn không thể thoát thân.” Tôi cố sức kìm nén nhưng rốt cuộc vẫn nói thẳng: “Nếu ta là Bạch Nương Tử, ta nhất định sẽ hối hận. Ta thà rằng mình chưa từng gặp y, chưa từng quen biết y, cả đời không bao giờ qua lại.”

    Lòng tôi trào dâng muôn vàn cơn sóng dữ, hết lớp này đến lớp khác, mang theo nỗi chua xót khó nói bằng lời. Những cơn sóng đó đều ánh lên một màu hồng kỳ dị, đó là màu hồng của cánh hoa hạnh, múa lượn khắp trời. Đằng sau những cánh hoa dày đặc bất ngờ lại là khuôn mặt của y. Giọng y rất trầm thấp, mà câu đầu tiên lại là: “Ta là… Thanh Hà Vương.”

    Hóa ra, ngay từ lần đầu gặp mặt, y đã lừa gạt tôi rồi.

    Sau cơn chua xót, tôi lại cảm thấy lòng mình tắc nghẹn, chỉ muốn nôn mửa. Tôi cơ hồ thấy hận bản thân mình, tại sao tôi vẫn nhớ chứ?

    Trong mắt y lập lòe một ngọn lửa âm u, chiếu ra những tia sáng màu lam mờ ảo, giọng nói đầy vẻ xót thương và thấu hiểu: “Vậy nàng cũng hối hận vì ngày đó đã quen biết y trên danh nghĩa là ta, đúng thế không?”

    Tôi cả kinh rồi lập tức giả bộ như không có việc gì, lạnh lùng nói: “Sao ngài biết?”

    Y đưa tay phủi áo, đáp: “Là y tự nói với ta.” Sắc mặt y ngợp vẻ phức tạp khó tả. “Mãi đến sau này gặp nàng, được y nói cho biết nàng chính là nữ tử mà y gặp dưới gốc hạnh ở Thượng Lâm uyển, ta mới biết nàng và nữ tử đó là một.” Y khẽ cười tự giễu. “Chuyện trên đời này luôn phức tạp như thế đấy, giống như việc tranh vẽ nàng rõ ràng là ở trong tay ta, lúc y gặp nàng rõ ràng là dùng danh nghĩa của ta, lúc ban đầu rõ ràng…” Trong mắt y đột ngột bừng lên ánh lửa, nhưng sau nháy mắt đã trở nên ảm đạm. “Lúc ban đầu rõ ràng… nàng cho rằng người nàng thích là ta. Nhưng đến cuối cùng người có được nàng lại là y. Ta và nàng, dường như luôn vì những nguyên nhân gì đó mà để vuột mất nhau.”

    Trong mắt y rõ ràng có thứ gì đó, tôi cũng nhìn thấy rõ ràng nhưng rốt cuộc vẫn không dám hoàn toàn tin tưởng. Lòng tôi thầm sợ hãi, nhưng vẫn cố duy trì vẻ hờ hững. “Ta chỉ biết rằng con người ta một khi đã vào cung, bất kỳ người hay việc gì cũng đành để vuột mất thôi.” Tôi chậm rãi dùng thìa khuấy bát cháo trước mặt, cúi đầu, dửng dưng nói: “Vương gia có những tao ngộ thế nào ta không biết, cũng không muốn biết. Còn tao ngộ của ta, ta chỉ muốn quên đi tất thảy, mong Vương gia đừng nhắc đến nữa.”

    Khóe môi hơi máy động, y cất giọng xót xa: “Những việc đó ta cũng muốn nàng quên đi mãi mãi.”

    “Phải!” Tôi hơi ngẩng lên, nói: “Vì không chịu tin nữa, ta mới muốn quên đi, và cũng sợ lại có chuyện gì khác nữa.” Tôi hạ giọng, buồn bã nói: “Thiên Nhạc chí sách Đường thư chép rằng, ‘Tử Dạ ca thuộc Tấn khúc. Đời Tấn có người con gái tên là Tử Dạ sáng tác ra khúc nhạc này, lời ca rất đau khổ’. Tử Dạ ca tuy được người đời sau thuộc làu làu, mang tới muôn vàn dư vị, nhưng thực chẳng rõ khi xưa Tấn nữ Tử Dạ đã phải trải qua những nỗi mừng vui, đau khổ và kỳ vọng, thất vọng thế nào, để rồi sau khi hoàn toàn tuyệt vọng về người thương thì mới có khúc Tử Dạ ca này. Nếu sớm biết như vậy, Tử Dạ nhất định sẽ không cam tâm chịu đựng những nỗi đau khổ như thế.” Trong khoảnh khắc ấy, tất cả mọi nỗi bi thương và đau đớn của tôi đồng loạt bùng phát. “Ái tình vất vả, trên đường tình gió mưa trắc trở thì nhiều, hạnh phúc vui tươi thì ít. Do đó thà rằng ngay từ đầu đã chẳng cần, như thế sau này sẽ không phải chịu những nỗi đau khổ vô biên.”

    Sau một thoáng trầm ngâm, y chậm rãi nói: “Gió mưa trắc trở nhiều, hạnh phúc vui tươi ít, ấy là bởi con người kia không đúng, không thể mang lại cho nàng ánh nắng ấm áp suốt bốn mùa, mà chỉ đem đến mây mù phủ khắp. Nếu có người một lòng một dạ đối đãi với nàng, nguyện vì nàng mà hóa thành ánh nắng, giúp nàng che chắn gió mưa, nàng cũng không bằng lòng sao?”

    Tôi nở nụ cười thê thảm, thổ lộ nỗi lòng: “Ta từng phải chịu đau khổ, đã sợ lắm rồi!” Tôi không dám nhìn y, cúi đầu, khẽ nói: “Còn có một bài Tử Dạ ca khác, Vương gia từng nghe nói tới chưa?”

    Tôi hơi cụp mắt, nhìn đĩa tương hoa hồng kia đến ngẩn ngơ, nghe tôi nói vậy thì mới cười, hỏi: “Chẳng hay nương tử đang nói tới bài nào?”

    Đĩa tương hoa hồng đó có màu đỏ sậm, được cẩn thận đặt giữa một chiếc đĩa trắng ngần, tựa như trái tim đã bị người ta giã nát. Tôi ngẫm nghĩ một chút, chậm rãi cất tiếng ngâm: “Đời người sầu hận đành khôn thoát. Tiêu hồn một khối, tình man mác! Cố quốc mộng quay về, tỉnh ra thêm não nề. Nhớ cùng ai lên gác, thu ngắm vầng trăng bạc. Việc cũ đã qua rồi, vèo như giấc mộng thôi[5]”, sau đó nói: “Đây là bài Tử Dạ ca của Lý hậu chủ, tuy không hợp cảnh nhưng lại có hai câu rất đúng. Việc cũ đã qua rồi, vèo như giấc mộng thôi. Với ta mà nói, việc cũ đã thành giấc mộng, việc tương lai cũng có thể nhìn thấy rõ ràng, cứ thế bước tiếp là được, bất tất phải mơ mộng vu vơ làm gì.”

    [5] Bài Tử Dạ ca này là tác phẩm của Nam Đường hậu chủ Lý Dục, được sáng tác sau khi bị bắt về nước Tống, thể hiện nỗi niềm bi phẫn của kẻ vong quốc cùng với nỗi nhớ về chốn xưa. Nguyên văn Hán Việt: Nhân sinh sầu hận hà năng miễn? Tiêu hồn độc ngã tình hà hạn! Cố quốc mộng trùng quy, giác lai song lệ thùy. Cao lâu thùy dữ thượng? Trường ký thu tình vọng. Vãng sự dĩ thành không, hoàn như nhất mộng trung. Dịch thơ Nguyễn Chí Viễn – ND.

    Nỗi u sầu và buồn thương nơi đáy lòng tôi tựa như một lớp rêu dày bám trên gốc mai già trải mấy chục năm, đã nhuốm màu phong sương sâu sắc, dù ánh nến có soi rọi cũng không thể sáng lên được.

    Y cũng không nói gì khác, chỉ hỏi: “Bao nhiêu nỗi uất ức khi xưa, thực sự đều đã thành không hết rồi sao?”

    Tôi im lặng, dù có muôn vàn lời muốn nói cũng chỉ có thể như vậy mà thôi.

    Rồi tôi quay qua hướng khác, nói: “Ta mệt rồi!”

    Y khẽ nói một tiếng: “Được!”, lại tỏ vẻ thản nhiên như không có việc gì. “Nàng hãy nghỉ ngơi đi, hai ngày tới trong cung có việc, ta e là không thể thường xuyên tới chỗ nàng nữa.”

    Tôi mỉm cười, đưa mắt nhìn y. “Được, ta sẽ tự chăm sóc bản thân thật tốt.”

    Y cũng không tị hiềm, cẩn thận gài góc chăn cho tôi. Lòng tôi hơi xao động, chỉ coi như không biết, nhắm mắt chìm vào giấc mộng.
     
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 22: Bích Ngọc ca [1]
    [1] Tên một bài thơ Nhạc phủ, trong đó Bích Ngọc là tên người – ND.

    Chẳng biết đã qua bao lâu, dường như là rất lâu rồi nhưng tôi vẫn chưa nghe thấy tiếng y rời đi, do đó không dám động đậy, cứ thế nằm cuộn mình trong chăn. Căn phòng rất ấm áp, cứ nằm ôm chăn như vậy, trên người tôi bất giác túa đầy mồ hôi, lưng nóng rần rật. Mấy tia ký ức thời thơ ấu bất giác ùa về, còn nhớ khi đó là mùa xuân, tôi mặc một chiếc áo đơn màu đỏ, nằm trên thảm cỏ, những ngọn cỏ non mới nhú vừa nhọn vừa mềm, nhẹ nhàng đâm vào lưng tôi qua lớp áo. Chợt nghe Hoán Bích khẽ thở dài một tiếng, tựa như có cánh bướm nhẹ nhàng đậu xuống tai tôi. Tôi không mở mắt ra, cũng không động đậy, chỉ khẽ hỏi: “Đang yên đang lành, muội tự nhiên lại than thở cái gì thế?”

    “Nô tỳ than rằng tiểu thư quá nhẫn tâm.” Nhẹ nhàng đỡ tôi dậy, Hoán Bích với lấy một chiếc đệm, kê vào sau lưng tôi.

    Tôi cứ ngồi im ở đó, trái tim lạnh giá tựa một chiếc lá cô đơn giữa làn gió thu, đung đưa không ngớt. Tôi cố giữ lòng bình tĩnh, đón lấy chén canh mật ong hoa quế mà Hoán Bích đưa tới, khẽ nhấp một ngụm, bất giác hơi cau mày. “Ngọt quá!”

    Hoán Bích thoáng lộ vẻ nghi hoặc, nếm thử một chút nói: “Đâu có ngọt”, rồi lại đặt tay lên mu bàn tay tôi, sắc mặt lộ vẻ xót xa và buồn bã. “Trong lòng tiểu thư nhiều nỗi đắng chát quá, do đó ngay cả một chút ngọt ngào thôi cũng không chịu được, cứ luôn cảm thấy ngọt quá.”

    Tôi ngước mắt lên. “Muội muốn nói gì?”

    Ánh mắt Hoán Bích có chút đờ đẫn, sau khi lặng im một lát bèn nói: “Tiểu thư có biết vừa rồi khi ra ngoài, Vương gia có bộ dạng thế nào không?”

    Sau khoảnh khắc lạnh băng, tôi ôm chặt lấy chiếc chăn dày, dường như muốn mượn sự ấm áp của nó để làm mình kiên cường thêm, rồi tôi khẽ lắc đầu, nói: “Ta không muốn biết.”

    Lúc này, Hoán Bích thể hiện rõ sự bướng bỉnh, trong mắt lóe lên những tia sáng lạnh băng. “Dù tiểu thư không muốn nghe, Hoán Bích cũng phải nói một câu. Vương gia đối xử với tiểu thư tốt như thế, tại sao tiểu thư phải làm ngài khó chịu như vậy?” Sau một thoáng ngẩn ngơ, nàng ta lại tiếp: “Những lời của tiểu thư với Vương gia vừa rồi, nô tỳ đều đã nghe thấy cả.”

    Tôi hơi định thần lại. “Ta không hề có ý giấu muội, nghe thấy thì có sao.” Tôi chăm chú nhìn Hoán Bích, trầm giọng nói: “Vả lại, theo muội ta nên nói với y thế nào?”

    Trên mái tóc dày, đen nhánh của Hoán Bích có cài một viên trân châu trắng lóa, dưới ánh nến mờ ảo, nó phát ra những tia sáng nhàn nhạt long lanh, tôi nhìn vào đó mà trong lòng trào dâng muôn vàn nỗi thê lương, bất lực. Thế nhưng tôi nhanh chóng bình tĩnh trở lại. “Ngoài mấy lời đó ra, ta có nói gì với y thì cũng là sai cả.” Rồi tôi nắm ngược lấy bàn tay Hoán Bích, như để an ủi muội ấy, cũng là để an ủi chính mình. “Hoán Bích, có một số việc nếu ngay từ đầu đã không hy vọng, tính ra còn tốt hơn ngày sau phải thất vọng rất nhiều. Muội đừng trách ta nhẫn tâm.”

    Hoán Bích nở nụ cười mờ ám mà chua chát. “Tiểu thư đã từ chối Ôn đại nhân, cũng từ chối cả Vương gia.”

    Tôi cúi xuống, nhìn những đường hoa văn vạn sự như ý trên chiếc chăn gấm, bất giác có chút ngẩn ngơ. “ChỮ Huyền Thanh, chi bằng chọn Ôn Thực Sơ, ít ra cũng có thể sống bình yên đến già, trong lòng không có chút tạp niệm.”

    Trong khoảnh khắc đó, ánh mắt Hoán Bích bỗng trở nên sắc bén, tựa một mũi tên lấp lánh những tia sáng bạc, đâm thẳng vào lòng người. “Tiểu thư thực sự nghĩ như vậy sao? Kỳ thực tiểu thư không thích Ôn đại nhân cũng là chuyện hợp tình hợp lý, Ôn đại nhân vốn không phải loại nam tử mà tiểu thư thích, trước đây không, bây giờ lại càng không. Nhưng còn Vương gia, lẽ nào tiểu thư chưa từng động lòng trước tấm chân tình của Vương gia sao?”

    Tôi ngây ra, líu lưỡi không nói nổi một lời, tôi thực sự chưa từng động lòng trước tấm chân tình son sắt bấy lâu của Huyền Thanh sao? Tôi còn nhớ rõ bông tịch nhan ở Thái Bình hành cung đêm đó, bó hoa sen cuối cùng trong hồ Thái Dịch độ nào, còn cả tâm ý tương thông giữa hai chúng tôi sau khi tôi mất con, hay những sự chiếu cố hết sức chu đáo của y khi tôi đang bị bệnh, rồi còn ngày đó, tôi đứng trước mặt y, khẽ gọi một tiếng “Thanh”.

    Tôi thực sự chưa từng động lòng chút nào sao? Tôi kỳ thực đang sợ hãi.

    Hoán Bích còn chưa nói xong, giọng điệu đã hòa hoãn phần nào, một bàn tay bất giác đưa tới vuốt nhẹ chiếc đệm nhung dày, mềm mại bên dưới thân thể tôi, vuốt được một lúc, dường như không kiềm chế được bản thân mình, bèn nói: “Kỳ thực, Ôn đại nhân cũng không có gì là không tốt, chỉ là không biết chọn lúc, cứ hay bày tỏ tình cảm vào những lúc tiểu thư không vui. Nhưng còn Vương gia, nếu là lúc trước khi tiểu thư còn chưa xuất giá, người mà tiểu thư ngày ngày ở trong khuê phòng kỳ vọng chẳng phải chính là một nam tử như Vương gia sao? ‘Mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau’, đây là lời mà tiểu thư thường hay nói, chỉ cần trong lòng tiểu thư còn nghĩ như vậy, Vương gia hẳn vẫn là loại nam tử mà tiểu thư thích. Nô tỳ vừa nói rồi, trước đây tiểu thư mà không thích, bây giờ sẽ càng không thích. Nói cách khác, trước đây tiểu thư mà thích, bây giờ chưa chắc đã không còn thích nữa.” Dừng một chút, Hoán Bích khẽ cười, nói tiếp: “Tiểu thư vừa nói chọn Vương gia, chi bằng chọn Ôn đại nhân, ít ra cũng có thể sống bình yên đến già, trong lòng không có chút tạp niệm. Nô tỳ tin tiểu thư nói thực lòng, vì tiểu thư không thích Ôn đại nhân, do đó trong lòng mới không có tạp niệm. Nếu thực sự thích thì sao mà lòng không tạp niệm được đây?”

    Lời của Hoán Bích hết sức chuẩn xác, giống như mũi dùi băng sắc bén đâm thẳng vào đầu tôi, khiến tôi lạnh toát đến nghẹn lời, cảm thấy giọng nói của Hoán Bích sao lại lạnh đến thế, lạnh đến mức khiến tôi không dám tin. Thần sắc Hoán Bích lúc này sâu xa khó đoán, tôi chưa từng thấy muội ấy như vậy. Hoán Bích xưa nay vẫn luôn dịu dàng và ít nói nhưng tôi biết muội ấy thông minh vô cùng, luôn có thể phát hiện ra những điều nhỏ nhặt mà người khác không thể phát hiện. Chỉ là sự thông minh của Hoán Bích thường chỉ để trong lòng, rất ít khi thể hiện ra ngoài như hôm nay, hơn nữa còn nói trúng tim đen của tôi nữa. Tôi không kìm được lạnh lùng cất tiếng, trong giọng nói còn thấp thoáng một tia bài xích: “Hoán Bích, đừng nói những lời mà muội không nên nói, muội trước giờ vốn chưa từng nói ra những lời như vậy…”

    Câu trả lời của Hoán Bích không hề giống với sự ngoan ngoãn của muội ấy trước đây, giọng nói lạnh lùng mà sắc bén hệt như những bông hoa mai bên ngoài cửa sổ: “Tiểu thư, nô tỳ chưa từng thấy Vương gia thương tâm như vậy. Tại sao tiểu thư lại làm một người thích tiểu thư phải thương tâm chứ? Hơn nữa, tiểu thư cũng không phải là không thích y, cớ sao phải nói với y những lời như vậy?” Giọng Hoán Bích hơi dịu đi, bmang theo nỗi thương cảm: “Vừa rồi khi tiểu thư ngủ, đôi hàng lông mày vẫn nhíu chặt. Nô tỳ biết, tiểu thư cũng chẳng dễ chịu chút nào.”

    Tâm tư tôi rốt cuộc đã hoàn toàn suy sụp, một chút ý niệm kiên trì cuối cùng không thể cầm cự được trước những lời này của Hoán Bích. Trên chiếc bàn dài bên dưới cửa sổ có đặt một chậu hoa thủy tiên hết sức thanh nhã, trong phòng tuy ấm áp nhưng hương hoa lại không hề nồng đậm, còn hết sức dịu mát. Nhìn bông hoa cánh trắng nhụy vàng, cành lá xanh biếc trước mặt kia, tôi bỗng sinh ra cảm giác ngưỡng mộ, nếu làm người có thể giống như một cành thủy tiên thì thật tốt biết bao, đơn giản đến tận cùng, rõ ràng đến cực điểm, hơn nữa còn có thể thuần khiết không dính một chút bụi trần. Đáng tiếc, điều này là không thể, bất kể là ở trong cung hay nơi chùa Cam Lộ, kể cả quãng thời gian dưỡng bệnh ở Thanh Lương Đài, lòng tôi vẫn luôn đầy khúc mắc. Có lúc làm người thực sự còn chẳng bằng một cành hoa. Tôi đột nhiên nghĩ tới một chuyện, bèn hỏi: “Hoán Bích, trước đây muội từng khuyên ta phải chú ý chừng mực trong mối quan hệ với Lục Vương gia, tại sao hôm nay lại nói ra những lời hoàn toàn trái ngược như thế?”

    Hoán Bích sững người hồi lâu sau mới ngước mắt lên, ánh mắt thấp thoáng nỗi sầu lo và đau đớn. “Nô tỳ không nhẫn tâm, mà cũng không nỡ nhìn cả tiểu thư và Vương gia đều thương tâm như vậy.”

    Tôi ủ rũ nhắm mắt, nói: “Hoán Bích, đừng nói nữa. Lục Vương gia là người trong hoàng thất, có muôn vàn mối quan hệ không thể cắt đứt, ta không muốn dính dáng đến nữa.”

    Hoán Bích muốn nói lại thôi, cuối cùng đành im lặng. Bao nỗi bất lực và lo lắng của tôi, muội ấy không phải không biết. Một lát sau, Hoán Bích chăm chú nhìn tôi, vừa như khuyên nhủ vừa như an ủi: “Nhưng tâm ý của Vương gia, tiểu thư đã biết rồi, chỉ e khi gặp mặt sẽ khó xử. Chẳng biết những lời cự tuyệt của tiểu thư vừa rồi Vương gia đã nghe lọt tai chưa, nếu vẫn chưa, vậy thì thực là một chuyện khiến người ta phiền não.”

    Hương mai dìu dịu từ bên ngoài Tiêu Nhàn quán bay vào, những cành mai gầy guộc in bóng lên lớp giấy dán cửa sổ, rối loạn như mối tâm sự trong lòng tôi lúc này. Vậy thì thực là một chuyện khiến người ta phiền não! Lời của Hoán Bích cứ vang mãi trong tai tôi, xua hoài không tan được. “Chúng ta không thể ở lại Thanh Lương Đài này được nữa.” Tôi khoác áo đứng dậy, ngó quanh bốn phía, nói: “Hoán Bích, đi lấy giấy bút lại đây.”

    Hoán Bích khẽ “dạ” một tiếng, rồi không kìm được hỏi: “Tiểu thư vừa đỡ hơn một chút, cần giấy bút làm gì vậy? Lỡ như tổn hao tinh thần quá độ, lát nữa sẽ lại đau đầu đấy!” Tuy nói vậy nhưng muội ấy vẫn đi tìm giấy bút đưa tới cho tôi.

    Trong Tiêu Nhàn quán có chuẩn bị sẵn giấy hương thảo, bên trên là những đường hoa văn màu lam mờ mờ, thấp thoáng còn có thể ngửi thấy mùi thơm ngọt ngào của hương thảo. Y suy nghĩ quả là chu đáo! Tôi khẽ thở dài một tiếng, hương thảo mỹ nhân, ấy là tâm nguyện của biết bao nam tử trên đời này. Tôi nhúng đẫm mực vào đầu bút nhưng lại do dự chẳng biết nên viết gì. Nếu lời lẽ nhẹ nhàng quá, y chưa chắc đã nghe lọt tai, còn nếu quá nặng lời, lòng tôi lại không nỡ. Suy nghĩ hồi lâu, một giọt mực rơi xuống, nhuốm một đốm đen lên tờ giấy trắng tinh. Hoán Bích đứng bên cạnh, nói: “Tiểu thư muốn viết gì vậy? Tờ giấy này đã bị bẩn, để nô tỳ lấy cho tiểu thư tờ khác.”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Không cần!”

    Tôi chậm rãi đưa bút viết từng chữ, nét bút rất nhẹ nhàng, dường như sỠmình hơi dùng sức sẽ khiến tờ giấy bị rách, qua đó làm chút dũng khí vừa nảy sinh hoàn toàn tan biến. “Gái nhà nghèo Bích Ngọc, đâu dám với cành cao. Tạ ơn chàng hữu ý, thẹn không sắc khuynh thành[2].” Viết xong xuôi, tôi cảm thấy mình đã dùng hết sức lực toàn thân, mắt hoa đầu váng, hết sức khó chịu. Cố trấn định tâm thần, tôi bám vào chiếc bàn làm bằng gỗ tử đàn cho khỏi ngã, chiếc bàn quá cứng khiến lòng bàn tay tôi nhói đau. “Đồ đạc của chúng ta không nhiều, muội thu dọn một chút đi, ngày mai chúng ta sẽ quay về.”

    [2] Trích Bích Ngọc ca, Tôn Xước. Nguyên văn Hán Việt: Bích Ngọc tiểu gia nữ, bất cảm phàn quý đức. Cảm quân thiên kim ý, tàm vô khuynh thành sắc – ND
    Hoán Bích lo lắng nói: “Nhưng thân thể tiểu thư có chịu nổi không?”

    Tôi khẽ gật đầu. “Đi nói với Ôn đại nhân, nếu Vương gia có hỏi thì cứ nói là ta đã khỏe rồi, không cần phải ở lại Thanh Lương Đài tĩnh dưỡng nữa. Nhân tiện bảo y kê cho ta mấy thang thuốc đề thần, ngày mai theo chúng ta về luôn.”

    Hoán Bích chỉ tay lên bàn, hỏi: “Có cần sai người đưa thứ này cho Vương gia không?”

    Tôi xua tay, nói: “Không cần, hai ngày tới Vương gia chắc sẽ không tới đây, đặc biệt sai người đưa đi lại thành không hay, cứ để nó trên bàn là được, khi Vương gia quay về tự khắc sẽ thấy.”

    Lòng tôi đang xao động, lại thêm vừa rồi dùng quá nhiều sức, tôi cảm thấy mỏi mệt vô cùng. Hoán Bích đỡ tôi nằm xuống, lại mở lò hương, đổi sang đốt An tức hương, ghé tai tôi, nói: “Tiểu thư nghỉ ngơi đi!”

    Tôi cựa mình trong chiếc chăn mềm mại, đầu óc dần trở nên mơ màng, miệng lẩm bẩm nói với Hoán Bích: “Ngày mai chúng ta đi luôn thôi, nơi này thực không thể ở lại được nữa.”

    Sáng hôm sau khi tôi thức giấc, sắc trời âm u như sắp có mưa, mây đen phủ khắp bầu trời.

    Khi Thái Lam bưng bát thuốc đi vào, tôi vừa chải chuốt xong xuôi, đang ngồi lặng lẽ trước chiếc bàn trang điểm. Nàng ta liếc thấy trên chiếc giường đã được dọn dẹp chỉnh tề có đặt một bọc vải hoa, vội cười hỏi: “Đang yên đang lành sao lại chuẩn bị hành lý thế này, chẳng lẽ Hoán Bích định quay về mấy ngày sao?”, rồi bèn quay sang, cười nói với Hoán Bích: “Cô nương cứ yên tâm, ít nhiều gì ở Thanh Lương Đài này cũng có người hầu hạ, nhất định sẽ không để xảy ra chuyện gì đâu.”

    Nàng ta quan sát tôi một lát, thoáng ngạc nhiên rồi lại cười, nói: “Hôm nay tiểu thư dậy sớm quá, nô tỳ thấy tinh thần tiểu thư đúng là rất tốt đấy, khí sắc cũng khá hơn nhiều rồi.”

    Tôi dùng chiếc lược đã nhúng dầu hoa quế chuốt lại chỗ tóc mai vừa bị cộm lên, trầm giọng nói: “Không phải một mình Hoán Bích, là hai người bọn ta cùng quay về”, sau đó lại mỉm cười, nói tiếp: “Quãng thời gian vừa qua đã làm phiền cô nương và Thái Tần cô nương nhiều rồi, ta xin có lời cảm tạ.”

    Thái Lam biến hẳn sắc mặt, vội cười, nói: “Sao đang yên đang lành, tiểu thư lại muốn đi? Sức khỏe của tiểu thư vừa đỡ hơn một chút, sao chịu được nỗi vất vả khi phải ngồi xe xuống núi? Việc này ngàn vạn lần không thể. Hơn nữa, Vương gia đã biết chưa?”

    Nụ cười của tôi bất giác trở nên cứng đờ. “Không sao đâu, khi về đến đây, Vương gia tự khắc sẽ biết.”

    Thái Lam xua tay lia lịa. “Sao có thể như vậy được chứ? Tiểu thư nói vậy tức là Vương gia còn chưa biết, khi quay về biết được rồi, dù Vương gia khoan dung nhân hậu, ắt cũng sẽ không tha cho bọn nô tỳ”, rồi lại khuyên nhủ: “Chi bằng tiểu thư hãy nghỉ ngơi thêm đôi ngày nữa, đợi thân thể khỏe hơn rồi hãy quay về cũng không muộn.”

    Lồng ngực tôi vẫn hơi tắc nghẽn nhưng tôi sớm đã nhờ Hoán Bích trang điểm giúp, son phấn không thiếu thứ gì, lại vừa uống một thang thuốc đề thần, do đó mới che giấu được vẻ bệnh tật, tinh thần còn phấn chấn lạ thường.

    Tôi chỉ tay vào mặt mình, cười nói: “Vừa rồi Lam cô nương còn nói khí sắc ta rất tốt mà, ta kỳ thực đâu còn bệnh tật gì nữa. Quãng thời gian vừa qua đã làm phiền các vị nhiều rồi, vốn đã là không mời tự đến, bây giờ Vương gia lại đang bận việc ở vương phủ mấy ngày, không thể mời y về chỉ để nói lời cáo biệt được, như thế thì thất lễ quá!” Sau đó, tôi lại quay sang nhìn Hoán Bích. “Ôn đại nhân không phải đã nói sẽ tới ngay sao? Sao bây giờ còn chưa thấy bóng dáng đâu thế?”

    Thái Lam nghe vậy thì cả kinh, vội hỏi: “Tiểu thư định đi ngay sao? Việc gì phải nôn nóng như thế? Xin để nô tỳ sai người đến vương phủ bẩm báo với Vương gia một tiếng, sau đó an bài xe ngựa đưa tiểu thư về.”

    Tôi mỉm cười, nắm lấy bàn tay nàng ta, ôn tồn nói: “Những ngày qua được cô nương và Thái Tần cô nương tận tình chăm sóc, ta cảm kích vô cùng, có điều việc này đã được an bài ổn thỏa, Ôn đại nhân sắp tới đón ta rồi, không cần đổi sang ngày khác làm gì.” Sau đó, tôi liền đứng dậy. “Dù gì cũng phải cáo biệt, có lẽ ta chẳng còn cơ hội tới Thanh Lương Đài nữa, nhưng ý tốt và sự quan tâm của Lam cô nương, ta sẽ ghi nhớ mãi.”

    Tôi đón lấy bát thuốc trong tay Thái Lam, ngẩng đầu uống một hơi cạn sạch, cười nói: “Lần cuối cùng rồi mà còn phiền cô nương hầu hạ ta uống thuốc, thật ngại quá!” Rồi tôi gọi Hoán Bích lại: “Thái Lam đã chiếu cố cho chúng ta rất nhiều…”

    Hoán Bích bước tới, nắm lấy bàn tay Thái Lam, khách sáo nói: “Lam cô nương chiếu cố chủ tớ bọn ta nhiều ngày như vậy, đừng nói là tiểu thư, cả ta cũng cảm kích muôn phần. Hy vọng sau này cô nương có thể thường xuyên xuống núi ghé thăm bọn ta, thân thể tiểu thư không được tốt, sợ là không thể lên Thanh Lương Đài được, mong cô nương lượng thứ.”

    Hoán Bích vừa nói vừa gỡ viên trân châu cài trên mái tóc xuống, đặt vào lòng bàn tay Thái Lam, cười nói: “Ta và tiểu thư đều không có thứ gì quý giá trên người, viên trân châu này là vật tùy giá của tiểu thư ngày trước, về sau tặng cho ta, nay ta tặng lại cô nương, xin cô nương đừng chê.”

    Thái Lam vội nói: “Sao lại vậy được, hầu hạ tiểu thư và cô nương là bổn phận của ta, ta không thể nhận thưởng của cô nương được.”

    Đương lúc đưa đẩy, một làn gió lạnh đột ngột thổi vào, tôi ngoảnh đầu lại liền thấy Ôn Thực Sơ vừa vén rèm lên. Hắn mặc một chiếc áo bông màu đỏ sậm, vừa bước vào đã xoa tay không ngớt, miệng nói: “Đã thu dọn xong xuôi cả chưa? Bên ngoài hình như sắp có tuyết rơi, chúng ta mau đi thôi, chứ đợi đến lúc tuyết rơi rồi thì đường khó đi lắm!”

    Hoán Bích mím môi cười, nói: “Bọn ta vừa nhắc tới đại nhân xong, nói sao đại nhân còn chưa tới để bọn ta phải đợi lâu quá. Đồ đạc đều đã chuẩn bị xong xuôi rồi, giờ có thể đi ngay.”

    Đầu mũi Ôn Thực Sơ vì lạnh quá mà hơi ửng đỏ, tôi vừa thoáng liếc qua liền không khỏi cảm thấy tức cười. Ôn Thực Sơ ân cần nói: “Muội nhớ mặc nhiều áo một chút, bên ngoài lạnh lắm đấy!” Nói rồi, hắn liền mở chiếc bọc đang đeo trên người, lấy ra một chiếc áo choàng màu gỉ sắt khoác lên người tôi, lại cười tủm tỉm, nhìn tôi nói: “Khoác chiếc áo này vào, trông muội có mấy phần dáng vẻ của Chiêu Quân[3] rồi đấy.”

    [3] Tức Vương Chiêu Quân, một trong tứ đại mỹ nhân trong lịch sử Trung Quốc – ND.

    Hoán Bích hơi cau mày tỏ vẻ không vui. “Màu gỉ sắt đâu có giống Chiêu Quân chứ, Chiêu Quân khi xuất tái mặc một chiếc áo choàng màu đỏ tươi mà.”

    Tôi không nói gì, cũng lười chẳng muốn nói. Kỳ thực màu gỉ sắt là thứ màu tôi ghét nhất, bởi tôi cảm thấy nó quê mùa, vô cớ khiến làn da người ta trở nên u ám, không có chút vẻ vui tươi nào. Nhưng Ôn Thực Sơ lại hay khen thứ màu này nền nã ưa nhìn, mang lại cảm giác thoải mái. Dường như trong những bức họa mà về sau Huyền Thanh đưa tới, tôi thường xuyên nhìn thấy My Trang mặc đồ màu gỉ sắt. Có điều, My Trang ăn mặc như vậy quả đúng là rất nền nã, ưa nhìn, vừa đoan trang vừa không làm mất đi nét thanh tú, so với tôi thì đẹp hơn nhiều.

    Tô thấy mũi của Ôn Thực Sơ đã ửng đỏ, bên ngoài trời lại âm u, nhất định là đang giá lạnh vô cùng, phải mặc nhiều áo mới được. Thế là tôi chẳng còn tâm trạng để ý tới màu sắc hay kiểu dáng nữa, để nguyên chiếc áo choàng trên người theo Ôn Thực Sơ ra ngoài, cùng Hoán Bích leo lên chiếc xe được chuẩn bị sẵn, khởi hành rời đi.

    Bên ngoài xe, gió dữ rít gào, tôi và Hoán Bích cùng ngồi trong xe nhưng vẫn cảm thấy rất lạnh. Giữa sắc trời âm u, tôi đưa tay khẽ vén rèm xe, ngoảnh đầu nhìn cảnh đẹp nơi Thanh Lương Đài, lòng thầm hụt hẫng, sau này có lẽ tôi chẳng còn cơ hội quay lại đây nữa rồi. Có một số thứ, cứ ngắm nhìn từ xa vẫn dễ chấp nhận hơn. Thứ gì tôi không thể chịu đựng nhưng có thể né tránh, vậy thì cứ né tránh thì hơn.
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 23: Búp đinh hương
    Việc tôi vội vã rời đi, Huyền Thanh nhất định đã biết, thế nhưng y lại không tới tìm tôi. Tôi cảm kích sự thấu hiểu của y, vì sự thấu hiểu ấy, dù tôi có lựa chọn giữ khoảng cách với y cũng vẫn tìm được một chút bình tĩnh, qua đó khiến trái tim đang hỗn loạn dần trở nên tê dại. Lúc tôi quay về, thiền phòng trên đỉnh Lăng Vân đã được Cận Tịch thu dọn chỉnh tề, gọn ghẽ, phía trước sân còn trồng cây trồng hoa, vui tươi đón tôi lành bệnh trở về.

    Ngày tháng cứ trôi qua một cách bình lặng, nhưng trong sự bình lặng ấy, tôi ngày càng dành nhiều thời gian ngồi tựa bên bệ cửa sổ mà đờ đẫn, thường là cả một buổi sáng hoặc cả một buổi chiều. Khi tinh thần tốt hơn một chút, tôi đem những hạt giống hoa tịch nhan thu được ở Thanh Lương Đài ra gieo xuống đất một cách cẩn thận, lại nhìn những mầm non nhú dần lên.

    Cận Tịch sớm chiều bầu bạn bên tôi, rốt cuộc có một hôm không kìm được mà thở dài, khẽ nói: “Sau khi từ Thanh Lương Đài dưỡng bệnh trở về, hình như nương tử đã biến thành một con người khác.

    Tôi nhìn mấy búp lộc non mới nhú trên cành, cất giọng điềm nhiên nói: “Vừa ốm một trận, có lẽ ta đã gầy đi nhiều.”

    Cận Tịch lẳng lặng nhìn tôi chăm chú. “Lúc ở Thanh Lương Đài có phải đã xảy ra chuyện gì rồi không?”

    Tôi nở một nụ cười mỏi mệt. “Cận Tịch, không có chuyện gì đâu.”

    Cận Tịch nói: “Nếu thực sự không có, tại sao bây giờ Ôn đại nhân lại thường xuyên tới đây, còn Vương gia thì chẳng tới lần nào nữa?”

    Đúng như lời nàng ta nói, quả thực bây giờ Ôn Thực Sơ rất hay tới thăm tôi. Hắn đưa tay bắt mạch cho tôi, miệng ôn tồn nói: “Thân thể muội đỡ hơn nhiều rồi, chỉ là tinh thần còn kém lắm, nên ra ngoài đi dạo nhiều hơn cho khuây khỏa nỗi lòng.”

    Tôi rụt tay về, buông tay áo xuống. Hắn lẳng lặng nhìn tôi. “Hoàn muội muội, ta cứ luôn cảm thấy sau khi từ Thanh Lương Đài quay về, muội chẳng có lúc nào vui.”

    Tôi ngước mắt nhìn hắn. “Việc ta không vui không phải mới bắt đầu từ ngày hôm nay, hà tất phải nhắc tới Thanh Lương Đài làm gì.”

    Hắn im lặng, khóe mắt ẩn chứa một tia quan tâm, cũng có một nét vui mừng. “Có lẽ là ta cả nghĩ. Nhưng muội rời khỏi Thanh Lương Đài, với muội mà nói kỳ thực cũng là một chuyện tốt.”

    “Chuyện tốt?”

    “Đúng vậy!” Trong mắt Ôn Thực Sơ ánh lên một tia phức tạp đến khó hiểu. “Ta cứ luôn cảm thấy Thanh Hà Vương rất nguy hiểm, khiến người ta dễ dàng bị mê hoặc. Muội tốt nhất đừng nên gần gũi với y.”

    “Mê hoặc?” Tôi khẽ cười hờ hững. “Huynh lo ta bị y mê hoặc sao?”

    “Không, không, không.” Hắn xua tay lia lịa, nói: “Ta chỉ suy nghĩ cho muội thôi, không hề có ý đó.”

    Tôi uể oải gục người xuống bàn, ngón tay khẽ vuốt ve cành hoa đào đang cắm trong bình, dửng dưng cất tiếng: “Bất kể huynh có ý gì, ta đều sẽ không để ý.”

    Hoa đào đang nở rộ nhưng tôi lại chợt có cảm giác chán ghét, những bông hoa đỏ tươi, diễm lệ kia sao có thể so được với mai xanh tao nhã động lòng người. Suy nghĩ như vậy, tôi liền để mặc cho hoa đào nở rồi lại rụng, mùa xuân năm nay cứ thế trôi qua trong lặng lẽ.

    Một ngày dịp cuối xuân, hoa đào đã rụng lả tả gần hết, hương thơm dìu dịu ngợp khắp nơi. Hôm ấy tâm trạng tôi khá tốt, lại nhớ ra cây đàn Trường tương tư bị hỏng dây đã để ở chỗ Thư Quý thái phi được gần một năm, tính ra chắc đã sửa xong, thế là tôi bèn quyết định tới An Tê quán thăm Thư Quý thái phi một chuyến. Chẳng ngờ khi đẩy cửa đi vào, tôi lại nhìn thấy ngay Huyền Thanh, lúc này y đang chắp tay sau lưng đứng bên cạnh Thư Quý thái phi, không biết đang nói gì mà mặt mày có vẻ rất hào hứng.

    Bóng dáng y cứ thế đột ngột xuất hiện trước mắt tôi, có một khoảnh khắc tôi cơ hồ đã ngừng thở, tôi và y đã ba tháng không gặp rồi. Thanh Lương Đài cách nơi ở của tôi không xa lắm, tôi thầm nghĩ, nếu muốn gặp thì ngày nào cũng có thể gặp, còn một khi né tránh, khoảng cách ngắn ngủi như thế cũng là góc bể chân trời.

    Nghĩ tới đây, lòng tôi bất giác trào dâng cảm giác sợ hãi, bước chân theo đó mà chậm lại. Tôi đang định lặng lẽ rời đi, Tích Vân đã nhìn thấy tôi, cười tủm tỉm, bước tới nói: “Lâu lắm không gặp nương tử rồi.”

    Huyền Thanh nghe thấy thế liền ngoảnh lại nhìn tôi, nở một nụ cười phóng khoáng, gật đầu tỏ ý chào tôi. Tôi không kìm được nghĩ thầm, ba tháng không gặp, không ngờ y lại gầy đi nhiều như vậy. Lúc này tôi không tiện rời đi nữa, đành bước lên phía trước, khom người hành lễ với Thư Quý thái phi, sau đó mới quay sang mỉm cười với y. Thái phi vẫy tay, cười nói với tôi: “Hôm nay thời tiết tốt, rốt cuộc nương tử đã chịu tới đây rồi!”

    Trò chuyện được một lúc, ba người chúng tôi cùng đứng nơi sân sau, lặng lẽ ngắm những cánh hoa rơi lả tả xuống thảm cỏ xanh biếc. Tôi ngoảnh đầu, thấy Huyền Thanh chắp tay đứng đó, sắc mặt vẫn điềm đạm như xưa, bất giác cảm thấy thư thái, dễ chịu hơn nhiều. Hồi lâu sau, Thư Quý thái phi cười, nói: “Đã lâu lắm không được lặng lẽ ngắm cảnh hoa rơi như thế này.”

    Tôi khẽ nở nụ cười. “Hoa rơi chẳng phải vô tình, hóa mùn dành để thắm cành hoa sau[1]. Cảnh hoa rơi thế này còn đẹp hơn hoa xuân nhiều lắm.” Huyền Thanh chăm chú nhìn tôi một lát, rất nhanh đã dời ánh mắt đi như thể chưa từng có việc gì xảy ra.

    [1] Trích Kỷ Hợi tạp thi, Cung Tự Trân. Nguyên văn Hán Việt: Lạc hồng bất thị vô tình vật, hóa tác xuân nê canh hộ hoa – ND.

    Thư Quý thái phi mỉm cười, nhặt một bông hoa vừa rụng lên, ôn tồn nói: “Bây giờ đang là mùa hoa rụng, có điều hoa rụng lại chẳng phát ra chút âm thanh nào, ta bỗng muốn nghe tiếng đàn quá.” Dứt lời, bà liền sai Tích Vân đi vào nội đường, rồi quay sang nói với tôi: “Dây đàn bị hỏng lần trước đã được sửa xong, lần này nương tử có thể thử xem đàn có vừa tay không rồi.”

    Từ sau khi dây đàn đứt, tôi đã hơn một năm nay không gảy đàn. Nét cười dần xuất hiện trong đôi mắt Huyền Thanh, ánh mắt tôi như bị kéo đi, dừng lại trên eo y, trái tim vừa ấm áp lại vừa giá lạnh.

    Quả nhiên, trên chiếc dây lưng màu vàng của y có cài cây sáo Trường tương thủ. Lỡ như… Ý nghĩ “lỡ như” của tôi còn chưa hoàn toàn xuất hiện, y đã thong dong cất tiếng: “Vừa hay lúc này hài nhi có mang theo cây Trường tương thủ trên người, có thể cùng nương tử hợp tấu một khúc nhạc.”

    Y ung dung quay sang nói với tôi: “Việc cùng nương tử hợp tấu khúc Trường tương tư độ trước đến bây giờ Thanh vẫn còn nhớ rõ, tài gảy đàn của nương tử quả là rất tuyệt.”

    Tôi cố ý không nhìn y, quay sang khiêm tốn nói với Thư Quý thái phi: “Chủ nhân cũ của Trường tương tư ở đây, vãn bối sao dám khoe tài gảy đàn của mình, như thế thì thực là múa rìu qua mắt thợ. Còn hợp tấu với vương gia đã là việc của nhiều năm trước rồi, Vương gia không nhắc tới chắc vãn bối đã quên mất.”

    Ánh mắt Huyền Thanh bất giác trở nên ảm đạm, tựa như ngọn nến sáng rực bị luồng gió mạnh thổi vào, có điều chỉ sau nháy mắt đã bình thường trở lại. Ánh mắt Thư Quý thái phi hơi máy động, bà dịu dàng cười, nói: “Từ sau khi tiên đế băng hà, ta đã không còn động tới Trường tương tư nữa, tiếng nhạc hợp tấu cũng chưa được nghe lại bao giờ.”

    Tôi kiếm cớ thoái thác: “Ở nơi cửa Phật thế này, thổi sáo, gảy đàn e không thích hợp lắm.”

    Tích Vân đứng bên cất lời khuyên nhủ: “Thái phi và nương tử chẳng qua chỉ để tóc tu hành, Vương gia cũng là người phú quý nhàn tản, các vị lại chẳng định diễn tấu thứ nhạc đồi trụy gì, kỳ thực không có vấn đề gì lớn đâu.”

    Huyền Thanh đưa mắt nhìn tôi, vẻ như đang dò hỏi. Tôi tuy không đành lòng cự tuyệt, thế nhưng lý trí vẫn còn, quyết không cho phép mình đồng ý. Tôi đang định cất lời, thần sắc Thư Quý thái phi đã trở nên ưu sầu tựa băng sương buổi sớm. “Vậy, Chân nương tử, xin hãy thành toàn cho tâm nguyện của kẻ góa bụa. Trong quãng đời còn lại, ta rất muốn được nghe tiếng hợp tấu tuyệt vời của Trường tương tư và Trường tương thủ.”

    Trong đôi mắt màu hổ phách của bà đã thấp thoáng ánh lệ, tôi không cách nào từ chối được nữa, chỉ đành nói: “Được!”

    Huyền Thanh chăm chú nhìn tôi, cất lời dò hỏi: “Tấu khúc nhạc nào đây?”

    Tôi thoáng trầm ngâm, trong đầu bất giác xuất hiện cảnh tượng ngày đó, khi tôi gảy đàn trong Đường Lê cung mong xua bớt tâm sự, nửa phần sau của Trường tương tư không sao gảy tiếp được nữa, y liền ở mãi phía xa tiếp nối giúp tôi. Thế là tôi bèn buột miệng nói: “Trường tương tư

    Chẳng ngờ lời vừa ra khỏi miệng, y cũng đã bật thốt lên: “Trường tương tư thì sao?”

    Thư Quý thái phi khẽ nở nụ cười mỉm. “Hai đứa đúng là tâm ý tương thông đấy!”

    Hai má tôi bất giác ửng hồng, cảm thấy có chút mất tự nhiên, vội cười, nói: “Chỉ vì đàn tên Trường tương tư, do đó vãn bối và Vương gia mới có chung suy nghĩ đó thôi.”

    Y cũng nói: “Mẫu phi lại nói đùa rồi, hài nhi với nương tử kỳ thực chẳng phải tâm ý tương thông gì cả, chẳng qua là tức cảnh sinh tình mà thôi.”

    Thư Quý thái phi cười, nói: “Tốt lắm, ta tuy chẳng mấy tinh thông thơ từ ca phú nhưng bài Trường tương tư của Lý Thanh Liên[2] thì cũng có biết, chi bằng cứ chọn bài này đi.”

    [2] Tức Lý Bạch – ND.

    Tôi khẽ “vâng” một tiếng, cẩn thận điều chỉnh dây đàn và thử âm, sau đó mới bắt đầu gảy. Cùng lúc ấy, tiếng sáo du dương chậm rãi vang lên, tựa một dòng suối trong mát rượi, chậm rãi chảy vào lòng người. Tiếng sáo thật quen thuộc biết bao, trong khoảnh khắc ấy, đôi chút gò bó ban đầu của tôi đã được xoa dịu hoàn toàn. Thư Quý thái phi nghiêng đầu lắng nghe, dáng vẻ say mê vô cùng.

    Tôi gảy xong một bài, thấy tiếng sáo của y vẫn không hề dừng lại, liền hơi ngoảnh đầu nhìn qua, thấy y đang ngước mắt nhìn mình mà nở nụ cười. Tôi thoáng suy nghĩ, lập tức hiểu ra, tiếng đàn liền theo tiếng sáo của y mà vang lên tiếp, làn điệu bắt đầu lại từ đầu. Chợt nghe một giọng nữ mềm mại vang lên theo tiếng nhạc hợp tấu của tôi và y:

    “Hoa ngậm khói sắc trời sắp tận, trăng giăng tơ lòng ngẫm sầu mang. Đàn iệu ngừng khúc Phượng Hoàng, muốn ôm đàn Thục uyên ương góp lời. Đàn ý hay không ai lưu giữ, gửi gió xuân đến xứ Yên Nhiên. Non Yên đâu chẳng tới miền, nhớ chàng thăm thẳm đường lên tới trời. Ánh mắt xưa lả lơi làn sóng, mà nay thành suối nóng lệ tuôn. Chẳng tin lòng thiếp đậm buồn! Chàng về mà ngắm đáy gương, hỡi chàng!

    Nhớ nhau đau đáu! Ngụ tại Trường An! Dế thu miệng giếng gáy ran, sương rơi bao lớp âm hàn chiếu tre. Đèn mờ, ruột thắt gan se, vén màn trăng ló e dè thầm than. Mỹ nhân! Hoa cách mấy ngàn tầng mây! Ngước lên trông trời tây biêng biếc, cúi xuống nhìn sóng nước mông lung. Hồn bay trời rộng hãi hùng, mộng hồn khó đến ngàn trùng quan san. Nhớ nhau đau đáu! Hiu hắt tim gan!”

    Thổi ra một khúc nhạc ai oán mênh mang như thế, vậy mà tiếng sáo tuy ngợp nỗi ưu sầu nhưng lại chẳng hề có chút nghẹn ngào. Ngay đến tiếng đàn của tôi cũng hết sức trong trẻo và không hề ngưng trệ. Còn tiếng ca của Thư Quý thái phi tuy da diết tình sầu nhưng lại không hề thê thảm. Khúc nhạc kết thúc, ai cũng cảm thấy lòng dạ thư thái, mọi tâm sự đều theo tiếng nhạc trôi đi.

    Thư Quý thái phi nở nụ cười như bông hoa đón gió, gật đầu, nói: “Từ sau khi tiên đế qua đời, đã lâu lắm rồi ta chưa được nghe Trường tương tư và Trường tương thủ hợp tấu, hai đứa quả rất xứng với cặp đàn sáo này.”

    Tôi mỉm cười khiêm tốn, nói: “Đã hơn một năm không gảy đàn rồi, động tác khó tránh khỏi có chút gượng gạo, may mà không đến nỗi làm bẩn tai Thái phi.”

    Thái phi nhìn cặp đàn sáo bằng ánh mắt chứa chan tình cảm, lại nhẹ nhàng vuốt ve thân đàn, cười tủm tỉm, nói: “Tốt lắm, hôm nay ta rốt cuộc đã có thể yên tâm rồi. Trước đây cứ nghĩ vì nương tử thông minh, xinh đẹp nên được Hoàng đế tặng cho Trường tương tư, thành ra lo lắng mất mấy ngày, thầm nghĩ nếu nương tử cầm kệ kém cỏi thì thật không xứng với Trường tương tư của ta. Bây giờ nghe nương tử gảy đàn rồi, ta thực cảm thấy mừng thay cho cây đàn này, nó rốt cuộc đã tìm được một vị chủ nhân tốt biết yêu thương nó rồi.”

    Tôi vội nói: “Thái phi quá khen, vãn bối thực không dám nhận.”

    Thư Quý thái phi nghiêm t nói: “Ta không hề quá lời đâu.” Bà thoáng lộ vẻ trầm ngâm, dường như đang chìm vào dòng hồi ức đẹp đẽ ngày trước, bên khóe miệng nở nụ cười tươi. “Hôm nay nghe tiếng đàn sáo hợp tấu, thực rất có vận vị khi ta với tiên đế hợp tấu năm xưa.”

    Thư Quý thái phi nói lời vô tâm nhưng tôi nghe thấy thế, trái tim bất giác nẩy lên từng hồi, vô cùng rối loạn. Tôi không kìm được ngoảnh đầu nhìn qua, vừa khéo bắt gặp ánh mắt của Huyền Thanh, hai bờ má không khỏi ửng hồng. Đúng lúc này, Tích Vân lại nói: “Thái phi nói đúng lắm, những cây đàn sáo khác thì không có gì, nhưng Trường tương tư và Trường tương thủ của chúng ta thì khác, không chỉ đòi hỏi người diễn tấu phải có kỹ xảo điêu luyện, khi hợp tấu còn cần tâm ý tương thông, thấu hiểu lẫn nhau, mà quan trọng hơn là bên trong phải có cả tình cảm nữa, nếu không thì sao có được cái ý vị tương tư, tương thủ.”

    Tôi thầm cảm thấy căng thẳng nhưng ngoài mặt vẫn cười nói vẻ thản nhiên: “Nghe Tích Vân cô cô nói vậy, ta cứ như là mèo mù vớ cá rán, chó ngáp phải ruồi ấy. Ta với Vương gia mới chỉ từng cùng hợp tấu một lần, nếu nói hai bên hiểu nhau thì còn nghe được, nhưng nói tới tình ý hay vận vị gì đó thì thực là vô lý quá chừng, chỉ khiến Thái phi cười chê thôi.”

    Tích Vân cười, nói: “Ta vì cao hứng quá nên mới quên hết chừng mực, mong nương tử đừng trách.”Tôi vội nói: “Vãn bối đâu dám.”

    Thư Quý thái phi chậm rãi rót một chén trà đưa tới cho tôi, mỉm cười, nói: “Nói đi cũng phải nói lại, hai người muốn hợp tấu thành công, điều quan trọng nhất là phải ăn ý, nếu mất đi sự ăn ý rồi, dù kỹ xảo có điêu luyện đến mấy cũng vô ích. Hôm nay lại một lần nữa được nghe Trường tương tư và Trường tương thủ chan hòa vang tiếng, cuộc đời này của ta không còn điều gì nuối tiếc nữa rồi.”

    Huyền Thanh đứng bên cạnh Thư Quý thái phi cũng cười, nói: “Trước đây chẳng qua là đàn sáo hợp tấu mà thôi, hôm nay còn có tiếng ca của mẫu phi nữa, quả có thể coi là hoàn mỹ vô khuyết rồi.”

    Tôi khẽ nở nụ cười. “Quả đúng như Vương gia nói, đàn sáo hợp tấu chỉ có thể thể hiện vận vị bên trong, so với trực tiếp hát ra thành lời thì kém hơn ở cảm giác trực quan, cũng thua về sự mới lạ. Đối với Thái phi mà nói, trực tiếp thẳng thắn rõ là hơn hẳn quanh co, vòng vèo, đó chính là tính cách của Thái phi.”

    Thái phi tươi cười rạng rỡ, lại xoa đầu tôi vẻ hiền từ. “Chân nương tử quả đúng là tri âm của ta.”

    Tôi cười vui vẻ, nói: “Thái phi nói như vậy, có thể thấy đã thật lòng thương yêu vãn bối rồi!”

    Thư Quý thái phi mỉm cười, vuốt nhẹ vai Huyền Thanh, giúp y gạt mấy cánh hoa rơi trên đó xuống. “Tri âm của mẫu phi cũng là tri âm của con, chắc hẳn con và Chân nương tử nói chuyện với nhau rất hợp.”

    Huyền Thanh cười rộ, nói: “Mẫu phi không biết đó thôi, trước đây khi cùng nương tử đàm luận về thi từ sử sách, hài nhi chỉ cần sơ suất một chút thôi là sẽ rơi vào thế hạ phong, thực là vô cùng hổ thẹn.”

    Thư Quý thái phi bật cười, chỉ tay vào tôi, nói: “Chân nương tử thoạt nhìn thì dịu dàng, e lệ, không ngờ lại giỏi tài ăn nói như thế, có thể khiến con trai ta phải cam bái hạ phong, quả là không tầm thường.”

    Tôi che miệng cười, nói: “Vương gia khiêm tốn nên mới nói chẳng lựa lời, vậy mà Thái phi cũng tin sao? Khi ở trước mặt Thái phi thì Vương gia khen vãn bối vài câu vậy thôi, đợi tới lúc khác chẳng biết sẽ chê cười vãn bối thế nào nữa.”

    Huyền Thanh nghe thế liền vội nói: “Thanh nói thực lòng mà, quyết không dám chê cười nương tử nửa câu.” Chúng tôi cứ thế nói cười một lúc, cuộc vui rốt cuộc cũng tàn. Huyền Thanh cất lời cáo biệt Thư Quý thái phi, sau đó liền đưa tôi xuống núi.

    Huyền Thanh đi bên tôi, A Tấn dắt ngựa đi theo mãi phía sau. Đường núi quanh co, từng làn gió mát vù vù thổi tới, kèm theo đó là mùi hương thanh tân của cỏ dại, khiến người ta cảm thấy thư thái vô cùng. Làn gió còn thấp thoáng mang theo những tiếng tinh tang phát ra từ chiếc chuông nhỏ đeo trên cổ ngựa, nghe như tiếng nhạc vui vẻ mà ai đó đang hát ở đằng xa. Vó ngựa giẫm lên những bông hoa dại nơi sơn dã, thỉnh thoảng lại có mấy dòng dịch thể man mác hương thơm bắn ra xung quanh. Tôi và y đứng cách nhau chỉ chừng một nắm tay, cùng bước đi lặng lẽ, không ai nói gì.

    Nơi giao lộ của con đường núi có mọc một bụi chuối dại rất lớn, ánh dương rạng rỡ tựa dòng thác chảy xuống những phiến lá chuối to ngang chiếc quạt, lại tách ra thành vô số tia nhỏ tỏa đi khắp phía, khiến gốc chuối vốn đã xanh biếc lại càng tràn trề sức sống. Nơi chính giữa mấy cây chuối là những chiếc nõn chuối vừa nhú, còn đang cuộn tròn trong màu vàng nhạt, tựa mấy cây đuốc đang bùng cháy. Trên thảm cỏ xanh phía dưới lác đác nở vài bông đinh hương, hoặc màu tím nhạt hoặc màu xanh lam, trông rất mảnh dẻ dịu dàng, tựa như một thiếu nữ tuổi vừa đôi tám đang nở nụ cười e thẹn.

    Tôi thấy Huyền Thanh đang chăm chú nhìn bụi chuối và những bông đinh hương, không kìm được cười, nói: “Nõn chuối cuộn tàu đinh hương búp, cùng hướng gió xuân thảy tự sầu[3]. Phải chăng Vương gia đang cười điều này?”

    [3] Trích Đại tặng kỳ 1, Lý Thương Ẩn, nguyên văn Hán Việt: Ba tiêu bất triển đinh hương kết, đồng hướng xuân phong các tự sầu. Hai câu thơ này tác giả dùng giọng điệu của một người con gái đang nhớ người tình, trong đó nõn chuối là hình ảnh ẩn dụ của người tình, còn búp đinh hương là bản thân người con gái, cả hai đang cùng đứng trước làn gió xuân mà nhớ về nhau – ND.

    Trong mắt y ánh lên một nét cười sáng rực. “Không biết ta nên khen nương tử thông minh hay là nói nương tử đáng sợ đây?”

    Tôi nở nụ cười tự đáy lòng. “Như vậy hẳn là ta đã may mắn đoán đúng ý của Vương gia rồi.”

    Huyền Thanh đưa tay hái một bông đinh hương màu tím, đưa lên mũi ngửi. “Thanh quả đúng là vì nghĩ tới câu đó nên mới cười. Đinh hương và chuối tuy cùng ở trước mắt nhưng lúc này, Thanh và nương tử thư thái vô cùng, chẳng hề có nỗi sầu tương tư ly biệt, thế nên hai câu thơ đó thực không hợp cảnh chút nào.”

    Tôi mỉm cười, chỉ tay vào cây đàn Trường tương tư đang ôm trong lòng. “Có vật này ở đây, cũng tạm có thể coi là hợp cảnh rồi. Cây đàn này vốn mang tên Trường tương tư mà.” Tôi nhìn bông đinh hương trên tay y, khẽ nói: “Nó đẹp quá!”

    Huyền Thanh nhìn bông hoa bằng ánh mắt yêu thương, lại ngoảnh đầu qua phía tôi mà cười, nói: “Quả là rất đẹp, thế nhưng Thanh không hề có ý tặng cho nương tử.”

    Tôi bật cười. “Tuy ta không hề muốn nhận nhưng vẫn không nén nổi tò mò mà muốn hỏi một câu vì sao.”

    Huyền Thanh dời ánh mắt từ bông đinh hương tới khuôn mặt tôi. “Đinh hương là bông hoa tương tư đau khổ, Thanh không hy vọng nương tử như vậy.”

    “Ta là người tu hành, tất nhiên sẽ không dính vào chuyện tương tư, Vương gia quá lo rồi.” Tôi chợt nhớ lại chuyện vừa rồi, bất giác liếc nhìn về phía eo y. “Trường tương thủ là vật quý giá vô cùng, chẳng lẽ lúc nào Vương gia cũng mang theo bên mình ư?”

    “Không.” Y lắc đầu, nói: “Có điều mỗi lần tới đây, ta đều mang theo nó.”

    Tôi loáng thoáng đoán được ý tứ của y, không khỏi cảm thấy có chút sợ hãi, vội nói: “Lòng hiếu thảo của Vương gia với Thái phi quả là hết sức sâu dày.”

    Trước đây ở trong cung, mỗi lần trò chuyện cùng tôi tới chỗ này, y đều điểm tới là dừng, không để hai bên rơi vào cảnh khó xử. Thế nhưng hôm nay tình hình lại hoàn toàn khác, y không hề có ý ngưng lời: “Đây chỉ là một nguyên nhân…” Thoáng dừng một chút, hai mắt y bỗng sáng rực. “Còn một nguyên nhân khác là Trường tương tư ở chỗ nàng.” Y nói giọng rất ung dung, điềm đạm, cứ như thể đó là một lẽ đương nhiên.

    Y thông minh như thế, chẳng lẽ không biết có những lời không thể tùy tiện nói với tôi sao?

    Tôi ngoảnh mặt qua hướng khác, gượng cười để che giấu tâm trạng rối bời của bản thân. “Vương gia đúng là thú vị, vì Trường tương thủ mà tới tìm Trường tương tư.”

    Ánh mắt Huyền Thanh tựa như ánh dương bao phủ khắp trời, khiến người ta không có chỗ nào để né tránh. Y nghiêm túc nói: “Thanh là chủ nhân của Trường tương thủ, tới tìm chủ nhân của Trường tương tư.”

    Bàn tay đang ôm cây đàn Trường tương tư của tôi toát đầy mồ hôi, mang tới cảm giác nhớp nháp. Tôi không thể né tránh nữa, khuôn mặt bất giác đỏ bừng, lúng túng nói: “Vương gia thật biết đùa quá!”

    Y nhìn tôi vẻ hết cách, hồi lâu sau mới nói: “Nàng biết là ta không đùa.”

    Tôi cố dằn lòng, đột ngột ngẩng lên nhìn y chăm chú, lạnh lùng nói: “Nhưng ta lại chỉ có thể nghĩ là Vương gia đang đùa.”

    Y không hề nhìn vào mắt tôi, mà chỉ thoáng liếc qua. “Trước đây nàng là sủng phi trong cung, bây giờ đã không phải nữa rồi. Do đó, ta không hề đùa với nàng, nàng hãy coi đó là lời thật lòng của ta. Sau khi nàng để lại mảnh giấy đó ở Thanh Lương Đài rồi không từ mà biệt, ta sợ nàng thương tâm khó xử nên mới cố kìm nén không đi tìm nàng, nhưng nàng có biết thời gian qua, lòng ta bức bối đến thế nào không? Nõn chuối cuộn tàu đinh hương búp, cùng hướng gió xuân thảy tự sầu. Ta không biết nàng có giống ta không, nhưng đối với ta, bởi một câu ‘tạ ơn chàng hữu ý, thẹn không sắc khuynh thành’ kia của nàng, e rằng mùa xuân năm nay chính là mùa xuân đau khổ nhất trong cuộc đời ta.”

    Lời của y lập tức khiến tôi trở nên nôn nóng, tôi phất tay áo, nói: “Trước đây ta là sủng phi trong cung, do đó dù đã bị trục xuất khỏi cung nhưng đời này kiếp này, ta vẫn không thể dứt bỏ cái bóng của cung đình.” Một dòng lệ chua chát chừng như bất cứ lúc nào cũng có thể trào ra, phải cố hết sức tôi mới kìm nén được. “Con người chẳng phải cỏ cây, sao ta không hiểu tâm ý của Vương gia kia chứ, hiềm một nỗi phận bèo dạt chẳng dám với cành cao, Mạc Sầu này bị đuổi khỏi cung với tấm thân tàn, thực không muốn dính dáng gì tới hoàng thất nữa.”

    “Vì nàng từng là phi tử của y, còn ta lại có xuất thân cung đình, do đó nàng mới không thể chấp nhận ta sao?” Y chăm chú nhìn tôi, trong mắt ngợp nỗi xót xa và trìu mến. “Ta chỉ hỏi nàng một câu thôi, trước đây ở trong cung, nàng đã từng có ngày nào được bình an, vui vẻ chưa?”

    Bình an vui vẻ? Lòng tôi chợt nhói đau. Nhớ khi đó, mỗi một ngày, mỗi một giờ, dù đang được Huyền Lăng hết mực sủng ái nhưng cuộc sống của tôi có khi nào mà không giống như đi trên băng mỏng, trên đầu lưỡi đao đây?

    Bình an vui vẻ, đó là điều mà tôi thậm chí không dám nghĩ đến.

    Tôi chỉ mong mình có thể sống, sống tốt hơn một chút.

    Y ngẩn ngơ nói: “Mỗi lần ta gặp nàng, nàng đều chẳng được vui vẻ thật sự, ngay đến tiếng khóc cũng phải cố sức kìm nén.”

    Nỗi khổ bao năm qua, sự tranh đấu bao năm qua, cả sự thương tâm và hụt hẫng của tôi, chỉ có y là từng tận mắt nhìn thấy và vỗ về, an ủi.

    Tôi lòng dạ nguội lạnh, thổn thức nói: “Cho dù không có quãng thời gian trong cung đó, quá khứ và hiện tại, rốt cuộc vẫn không giống nhau.”

    Huyền Thanh nhìn thẳng vào mắt tôi, khiến tôi không thể né tránh được nữa. Y hỏi: “Quá khứ và hiện tại có chỗ nào khác nhau?”

    Qua màn sương mỏng mịt mờ trên đôi mắt, tôi phát hiện y và Huyền Lăng kỳ thực không hề giống nhau. Huyền Lăng có vẻ góc cạnh lạnh lùng của bậc đế vương, còn Huyền Thanh, những đường nét đều dịu dàng, mềm mại. Tôi cơ hồ không kiềm chế nổi, những giọt nước mắt chậm rãi rơi xuống. “Sao lại không khác chứ, bây giờ… ta đã chẳng còn trái tim nhi nữ như thuở xưa rồi.”

    Y cất tiếng ngắt lời tôi: “Trước đây nàng là thiên kim tiểu thư của nhà họ Chân, dung nhan như ngọc; bây giờ, nàng là nữ tử bị hoàng huynh của ta trục xuất khỏi cung, để tóc tu hành.” Y bước tới gần tôi, từng làn hơi thở như bao trùm lấy tôi. “Nhưng bất kể là trước đây hay bây giờ, bỏ qua quãng thời gian trong cung, nàng đều là một người tự do, có thể chung sống với bất cứ người nào. Trước đây và bây giờ, căn bản không có gì khác biệt. Điều duy nhất khác biệt chỉ là trái tim của nàng.” Giọng nói của y lạnh lùng mà băng giá, tựa như một chiếc búa không ngừng gõ lên trái tim tôi. “Chân Hoàn kiêu ngạo, dũng cảm, không biết sợ là gì mà ta quen biết trước đây rốt cuộc đã đi đâu rồi?”

    “Đã đi đâu rồi?” Tôi lẩm bẩm tự hỏi mình, cũng như là đang hỏi y, bao nỗi ấm ức và khổ sở trong lòng rốt cuộc cũng cuồn cuộn tuôn trào. “Cô ấy chết rồi, Chân Hoàn của ngày xưa đã chết từ khoảnh khắc nhà tan cửa nát rồi! Người đang sống bây giờ tên là Mạc Sầu, là thân xác mà Chân Hoàn để lại, không còn là Chân Hoàn mà huynh từng quen biết trước đây nữa!”

    Tôi chậm rãi nói ra những lời đã chất chứa trong lòng mình bấy lâu, đột nhiên có cảm giác trống rỗng và yếu đuối, sau khi loạng choạng mấy bước liền tựa người vào vách đá, thở dốc từng cơn.

    Y nở nụ cười thê thảm nhưng trong sự thê thảm lại xen lẫn một chút mừng vui, nhìn cứ như cọng rơm cứu mạng giữa dòng nước xiết. Y nói: “Nàng vừa nói con người chẳng phải cỏ cây, hẳn nhiên không thể vô tình, như thế tức là trong lòng nàng cũng có một vị trí dành cho ta, đúng vậy không? Chẳng hạn như ngày hôm đó, nàng đã gọi tên ta.”

    Tôi cố sức lắc đầu, lắc đến mức chóng cả mặt, dường như chỉ có như thế tôi mới có thể tăng thêm sức nặng cho lời nói của mình: “Vương gia hiểu lầm rồi, bởi vì Vương gia đã chiếu cố cho ta bao năm nay, mà con người chẳng phải cỏ cây, nên ta tất nhiên hiểu rõ tâm ý của Vương gia đối với ta. Nhưng hiểu là một chuyện, còn tình cảm lại là chuyện khác, ta chỉ có thể coi Vương gia như tri kỷ mà thôi. Nếu bởi vì ngày đó ta mạo muội gọi tên Vương gia mà khiến Vương gia hiểu lầm, vậy ta xin có lời cáo lỗi.”

    Sự nhiệt tình của y dần giảm bớt. Tôi tựa đầu vào vách đá, nói với giọng cứng rắn: “Vương gia từng nói, tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình. Tiểu thư nhà Bái Quốc công tuy đức hạnh xuất chúng, xinh đẹp tuyệt trần, vậy nhưng ngài lại không thích. Hôm nay xin cho phép ta nói một lời mạo phạm, tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình, câu này quả rất hay, tâm tư của ta với Vương gia cũng là như vậy. Vương gia tuy là dòng dõi hoàng thất cao quý, lại văn võ kiêm toàn, nói là rồng phượng trong loài người cũng không quá, nhưng Chân Hoàn ta…” Tôi cố dằn lòng, lạnh lùng nói: “Nhưng Chân Hoàn ta lại không thích ngài.”

    Vách đá lạnh băng và bóng loáng, dán sát vào lưng tôi. Lưng tôi khi nóng khi lạnh, cứ như đang bị ốm nhưng trong đầu lại chỉ có cảm giác lạnh giá vô cùng. Cái lạnh ấy cứ như là khi tôi nhúng bàn tay vào trong băng tuyết lúc nghịch tuyết hồi nhỏ, lạnh đến thấu tâm can, còn kèm theo cảm giác tê dại.

    Hơi thở của y trở nên dồn dập, càng lúc càng nặng nề, bên trong tràn ngập vẻ tuyệt vọng, tựa một cây búa không ngừng đập vào trái tim tôi. Ánh mắt y giống hệt một con dã thú bị thương, tột cùng băng giá.

    Tôi sợ phải nhìn y biết bao, sợ vô cùng. Tôi cố sức ngoảnh đầu qua hướng khác, không nhìn y nữa nhưng ánh mắt y lại như bao phủ khắp cả đất trời, tôi không thể tránh được. Tôi bị y nhìn như thế, một cảm giác trống rỗng khó mà miêu tả bằng lời cuồn cuộn trào dâng, trái tim tôi dường như chỉ còn lại cái vỏ bên ngoài, không sao lấp đầy được nữa. Ngón tay tôi run lẩy bẩy, tôi sợ bị y nhìn thấy, liền giấu ra sau lưng, dùng sức nắm chặt hai bàn tay lại.

    Sắc mặt y dần bình tĩnh trở lại. Hồi lâu sau, y cài bông đinh hương đó lên vạt áo của mình, gượng cười cất tiếng: “Nghe nàng nói vậy, bông đinh hương phải chịu đầy nỗi khổ tương tư xem ra đành thuộc về ta rồi.”

    Tôi không sao kìm nén được nữa, vội vã chạy đi, chẳng hề phát hiện nước mắt đã trào dâng nơi bờ mi tự lúc nào.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này