1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Hậu cung Chân Hoàn truyện - Tác giả: Lưu Liễm Tử - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 28/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 24: Tiếng sáo đêm
    Khi về đến thiền phòng, nước mắt của tôi sớm đã cạn khô. Tôi không muốn để Cận Tịch và Hoán Bích biết được nỗi bi thương và sự yếu đuối của mình, dù rằng bọn họ đã loáng thoáng đoán ra một số điều.

    Tôi vốn cho rằng sau khi nói ra những nỗi sợ hãi và cố kỵ đã chất chứa trong lòng bấy lâu, tâm trạng tôi sẽ nhẹ nhõm hơn, thế nhưng giờ đây ánh mắt tuyệt vọng của y thỉnh thoảng lại xuất hiện trước mắt tôi, khiến tôi cảm thấy đau đớn vô cùng, không muốn nhìn thấy, cũng không muốn nghĩ gì tới y.

    Y quả nhiên đã không tới nữa, kể từ hôm đó chúng tôi không còn gặp lại nhau lần nào. Tôi cả ngày quỳ trước án hương tụng niệm kinh văn, tay lần tràng hạt, dựa vào đó để xoa dịu trái tim vốn ngợp nỗi thấp thỏm, bất an. Mùi đàn hương trong phòng ngày một nồng đậm, giữa thời điểm xuân hạ giao mùa như bây giờ, thứ mùi chẳng giống mùi hoa đó kỳ thực hoàn toàn không hợp cảnh.

    Phía sau lưng, Hoán Bích và Cận Tịch cùng nhìn tôi chăm chú mà cất tiếng thở dài, hình như đã lại nặng nề hơn trước.

    Mỗi ngày tôi đều đắm mình trong những cuốn kinh văn và khói hương vương vất, cho đến khi mỏi mệt mà ngủ gục. Kỳ thực con người có thể sống một cách vô tri vô giác như thế cũng không hẳn không tốt, chỉ là Huyền Thanh, tuy y không xuất hiện bên tôi nữa nhưng lại thường xuyên bước vào trong giấc mộng của tôi.

    Mỗi lần nhìn thấy sắc mặt trắng bệch của tôi, Ôn Thực Sơ lại lộ vẻ xót xa vô hạn. “Muội rõ ràng đã khỏe lại rồi, tại sao bây giờ tâm trạng lại kém như thế, chẳng lẽ có điều gì bức bối hay sao?”

    Hoán Bích đành đứng ra giải thích giúp tôi: “Tiểu thư ngày ngày đều ở đây tụng kinh niệm Phật, kỳ thực cũng buồn chán lắm!”

    Ôn Thực Sơ thầm thở phào một hơi, khi tới chỗ tôi lần nữa, hắn còn xách theo một chiếc lồng chim, hào hứng nói: “Ta vừa mua mấy con họa my, nghe bọn chúng hót thấy hay quá, liền mang tới đây cho muội.”

    Mấy con họa my đó lông màu vàng nhạt, thân hình nhỏ nhắn, tiếng hót lại trong trẻo, tôi vừa thấy đã thích, liền giữ lại nuôi trong phòng. Đám họa my này có lẽ đã được Ôn Thực Sơ cẩn thận chọn lựa, đều rất hoạt bát, cứ hót líu lo không ngừng, khiến căn phòng náo nhiệt hơn hẳn.

    Tối ấy tôi ngủ muộn, đang lúc mơ màng thì loáng thoáng nghe thấy có thứ gì sắc bén đang cào soàn soạt vào song cửa sổ, phát ra những âm thanh hết sức ghê tai. Gian thiền phòng này tuy từng được sửa chữa nhưng cửa sổ đã cũ lắm rồi, không được chắc chắn lắm. Tôi trở mình ngồi dậy, thấy trong chiếc lồng chim treo trên cửa sổ, mấy con họa my đang kêu chí chóe. Tôi mơ màng thầm nghĩ: “Lũ chim này sao ồn ào thế chứ?” Sau đó liền đứng lên, lần mò đi thắp nến, miệng khẽ cất tiếng gọi: “Cận Tịch…”

    “Soạt” một tiếng, lớp giấy dán cửa sổ bị cào rách. Tôi còn chưa kịp thắp nến, nương theo ánh trăng chiếu vào mà liếc mắt nhìn qua, thấy cửa sổ đã bị thủng một lỗ lớn, đám họa my trong lồng xù lông kêu ầm ĩ. Từ ngoài cửa sổ, một cái đầu lông lá thò vào, mang theo cặp mắt xanh lè vô cùng đáng sợ. Nó kêu lên “meo” một tiếng rồi lao thẳng về phía tôi, thân hình cực kỳ to lớn, còn mang theo một luồng gió tanh hôi khó ngửi. Tôi đưa tay ra đỡ theo bản năng, đồng thời kinh sợ kêu ré lên: “Mèo! Có mèo!”

    Xen lẫn trong tiếng gió, những tiếng bước chân hỗn loạn vang lên, Hoán Bích chạy tới trùm chăn lên người tôi, nôn nóng cất tiếng gọi lớn: “Cận Tịch, mau đuổi mèo ra ngoài, đừng để tiểu thư nhìn thấy nó nữa, đừng để tiểu thư nhìn thấy nó nữa!”

    Tôi sợ đến nỗi toàn thân run rẩy, dường như thời gian chảy ngược, trở về thời điểm tôi tới nhà Phạm Thị lang làm khách năm nào. Nhớ lúc đó, công tử nhà họ Phạm chỉ xấp xỉ tuổi tôi, chỉ chừng bảy, tám tuổi, nhưng lại rất nghịch ngợm, trong tay bế một con mèo, thừa lúc tôi không chú ý đã nhét nó vào trong chiếc áo gấm của tôi. Lúc ấy là mùa đông, chiếc áo gấm tôi mặc rất rộng, còn được bó lại ở phần eo, con mèo sau khi chui vào không tìm được phương hướng, liền vừa cào vừa kê điên cuồng. Những tiếng “meo meo” đó nghe thật chói tai và quái dị, tựa như cơn ác mộng bao trùm lấy tôi, không cho tôi thoát ra ngoài. Lúc ấy tôi chỉ biết dùng sức mà cất tiếng gào khóc, chúng bạn bên cạnh cũng sợ hãi kêu ré lên. Thân thể lông lá của con mèo cứ liên tục bò qua bò lại, cuối cùng chỗ vạt áo trước ngực tôi cũng bị tách ra, rồi nó nhảy vọt ra ngoài. Tôi vĩnh viễn không sao quên được cảm giác khi nó thoát ra ngoài và nhảy lên vai tôi, chiếc đuôi tanh hôi đầy lông của nó quệt nhẹ qua cằm tôi, đôi mắt xanh sẫm quỷ dị hằn học nhìn tôi chằm chằm, khiến tôi của thời thơ ấu hoàn toàn mất đi sức kháng cự.

    Tôi vì việc này mà ốm nặng một phen, về sau tuy những vết cào trên người đã khỏi, cũng không để lại sẹo nhưng lại sinh ra chứng sợ mèo, chỉ cần có con mèo nào tới gần là tôi sẽ sợ hãi hét toáng lên. Cũng vì vậy mà từ đó về sau, trong Chân phủ không có một con mèo nào xuất hiện.

    Vậy mà giờ đây, giữa đêm hôm khuya khoắt, một con mèo lớn như thế lại đột nhiên xuất hiện, khiến tôi sợ đến nỗi suýt thì hồn lìa khỏi xác.

    Tôi được Hoán Bích trùm vào trong chăn, nhưng đôi tai vẫn nghe thấy tiếng kêu đầy vẻ sợ hãi của Hoán Bích: “Con mèo này sao lại to như thế chứ?” Cận Tịch cầm gậy đập liên tục nhưng hình như lần nào cũng trượt, còn đập cả vào tường. Hơn nữa, có vẻ không chỉ có một con, mà có tới mấy con, bọn chúng cứ chạy đi chạy lại trong phòng, hung dữ kêu gào.

    “Rầm” một tiếng, cánh cửa như bị ai đó đá bung ra, kế đến là những âm thanh hỗn loạn, có tiếng kêu thê thảm của lũ mèo, tiếng hô kinh ngạc của Hoán Bích, và cả lời an ủi của Cận Tịch, sau đó một người chạy đến ôm chặt lấy tôi, khẽ vỗ vào chăn mà dịu giọng nói: “Không sao rồi, không sao rồi!”

    Tôi chưa hết kinh hồn, đưa tay vén chăn ra, đầu tóc rối bời. Ngước mắt lên, bắt gặp khuôn mặt Huyền Thanh, những sự yếu đuối và sợ hãi trong lòng tôi sau nháy mắt đã cuồn cuộn dâng trào, rồi tôi nắm chặt lấy cánh tay y, vùi đầu vào lòng y mà bật khóc nức nở.

    Y khẽ xoa lưng tôi, dịu dàng an ủi: “Không sao rồi, là mấy con mèo rừng vào đây kiếm mồi đó thôi.”

    Tôi ngoảnh đầu nhìn qua, thấy trên mặt đất la liệt xác mấy con mèo màu xám, thân hình to lớn, so với mèo nhà thì lớn hơn rất nhiều. Chiếc lồng chim đã rơi xuống đất vỡ tan, mấy con họa my bị cào lòi cả ruột, máu tươi bắn ra tung tóe. Tôi chỉ liếc qua đã sợ hãi vô cùng, toàn thân co rúm lại. Huyền Thanh nói: “Đừng sợ, đừng sợ, chúng đã chết cả rồi, không việc gì nữa rồi”, sau đó lại hơi cau mày. “Nơi này là vùng núi, sao có thể nuôi chim được. Trong núi tuy không có mãnh thú nhưng mèo rừng lại nhiều vô kể, bọn chúng thường đi thành đàn, thích nhất là ăn thịt chim, tính tình hung dữ, thân thể to lớn, thậm chí còn dám tấn công con người. Quá nửa là bọn chúng nghe thấy tiếng chim hót nên mới bị dụ đến đây săn mồi, may mà chưa ai bị làm sao.”

    Hoán Bích lẩm bẩm nói: “Bọn nô tỳ không biết ở đây có mèo rừng, đều là tại Ôn đại nhân, đang yên đang lành lại mang họa my tới. Nói là để tiểu thư nghe hót cho vui tai, nhưng thành ra lại là dụ mèo rừng tới đây.”

    Cận Tịch thở phào một hơi. “May mà Vương gia tới kịp thời, bằng không bọn nô tỳ không biết phải làm sao, vừa rồi nô tỳ cũng sợ phát khiếp, nào đã từng thấy con mèo nào to như vậy. Nói ra thì đúng là Ôn đại nhân có lòng tốt nhưng việc làm chẳng ra sao.” Dứt lời, nàng ta liền đi kiếm một chiếc túi vải lớn, bỏ xác mèo và xác họa my vào trong, mang đi vứt rồi lại cùng Hoán Bích cọ rửa sạch căn phòng.

    Hoán Bích và Cận Tịch đều ở đây, tôi cảm thấy rất xấu hổ, vội chỉnh lại đầu tóc, ngồi xuống, cất giọng nghi hoặc: “Hôm nay may mà có Vương gia, nhưng sao giờ này mà Vương gia còn ở gần đây vậy?”

    Trên khuôn mặt y thoáng lộ nét lo âu. “Nàng không muốn gặp ta, ta chỉ đành lén đến đây thăm nàng thôi. Hơn một tháng nay, nàng đều gần tới canh hai mới ngủ, chẳng trách sắc mặt lại nhợt nhạt thế này.”

    Tôi sững người. “Không ngờ ta lại chẳng hay biết gì.”

    Y khẽ nở nụ cười, nói với giọng chua chát khó tả: “Nếu ta cố ý không muốn để nàng phát hiện, nàng làm sao biết ta đang ở ngay bên ngoài được.”

    Tôi ngây ngốc đáp: “Vậy, sau khi ta không từ mà biệt ở Thanh Lương Đài, có phải Vương gia vẫn thường như vậy không?”

    Y cúi đầu không nói, thế nhưng nhìn vẻ mặt kia tôi đã đoán ra đáp án. Trái tim tôi đập thình thịch từng hồi, trông y lúc này vô cùng tiều tụy, hai mắt đều thâm quầng, chắc hẳn ngủ không đủ giấc, hoàn toàn chẳng còn dáng vẻ của một thiếu niên phong lưu, tuấn tú, dịu dàng như ngọc thuở nào. Tôi khẽ buông tiếng thở dài. “Vương gia việc gì phải khổ thế chứ?”

    Y ưỡn thẳng người lên, mỉm cười, nói: “Ta không khổ chút nào, chỉ là phải thấy nàng ngủ rồi ta mới yên tâm đi được.”

    Trên vai áo y còn ướt đẫm dấu sương đêm, tôi hơi cau mày, khẽ nói: “Lời này thì đúng là nói dối rồi. Nếu sau khi ta ngủ Vương gia sẽ đi ngay thì tại sao bây giờ Vương gia vẫn còn ở đây?”

    Y thở dài than: “Nàng cớ gì mà phải thông minh như thế chứ, cứ coi như ta tham ngắm cảnh đêm là được rồi”, sau đó lại áy náy nói: “Hôm nay là ta không tốt, tự dưng lại ngủ gật, do đó mới khiến nàng phải chịu cơn kinh hãi. Thấy nàng nuôi họa my, ta nhất thời cũng không nghĩ đến việc sẽ dụ mèo rừng tới.”

    Lòng tôi thầm máy động nhưng lại chỉ có thể đáp lại bằng sự lặng im, hồi lâu sau mới cất giọng thê lương: “Vương gia thân phận cao quý, việc gì phải tự làm khổ mình như vậy?”

    Y gượng cười một tiếng, vẻ mặt càng trở nên tiều tụy. “Đối với ta, có thể đứng bên ngoài nhìn ánh đèn hắt ra từ cửa sổ phòng nàng đã là điều an ủi lớn nhất rồi.”

    Lòng tôi xao động từng cơn, tựa như có muôn vàn ngọn sóng đang trào dâng không ngớt. Sau một thoáng im lặng, tôi đẩy tay y ra, khẽ nói: “Ta đã không việc gì rồi, xin Vương gia hãy quay về ngủ đi, bây giờ chắc đã phải canh ba rồi đấy!”

    Ánh mắt y trong veo như dòng nước suối, cứ thế chăm chú nhìn tôi không chớp. Trái tim tôi cơ hồ ngừng đập, đôi mắt không hiểu sao lại không thể né tránh y, chỉ biết lặng lẽ nhìn lại.

    Hồi lâu sau, y đứng dậy, nói: “Vậy nàng nghỉ ngơi đi, đừng nghĩ tới chuyện đêm nay nữa.”

    Tôi ngoan ngoãn gật đầu. “Được!”

    Y đưa tay tới định gài lại góc chăn cho tôi, tôi vội ngăn lại. “Để ta tự làm được rồi.”

    Y gượng cười chua chát, tựa như bông hoa lau đang không ngừng lay động giữa làn gió mùa thu. “Lần trước ta gài góc chăn cho nàng còn là ở Thanh Lương Đài.” Y dừng lại một chút, trong mắt thấp thoáng một tia khẩn cầu. “Đã lâu lắm không làm như vậy rồi, hãy để ta giúp nàng một lần nữa đi. Lần sau, e là chẳng còn cơ hội nữa.”

    Cảm giác chua xót trào dâng, tôi không đành lòng cự tuyệt y thêm nữa, để mặc y giúp tôi cẩn thận gài lại góc chăn. Rồi y khẽ nói: “Ban đêm cẩn thận đừng để cảm lạnh, sắc mặt nàng kém quá!”

    Tôi khẽ gật đầu, lại thấy trong mắt y đầy vẻ quyến luyến, thế là không dám nhìn tiếp nữa, quay đầu qua hướng khác, nhắm mắt lại.

    Kể từ hôm ấy, những cơn bóng đè của tôi bắt đầu trở nên nghiêm trọng. Dù không có sự quấy nhiễu của mèo rừng nhưng chuyện hồi nhỏ và cặp mắt xanh lè của mèo rừng đêm đó lại đi vào giấc mộng của tôi, thường khiến tôi sợ đến nỗi kêu ré lên và giật mình bừng tỉnh giữa đêm khuya vắng lặng.

    Hoán Bích và Cận Tịch bầu bạn kề bên vẫn chẳng ích gì, sự sợ hãi khiến tôi hằng đêm không sao ngủ nổi.

    Chính lúc này, tiếng sáo đã vang lên, liền thành một dải, miên man không dứt. Cho dù chẳng nghiêng tai lắng nghe, tôi cũng biết ngay đó là tiếng sáo của Trường tương thủ. Những âm thanh tròn trịa cao vang được làn gió đêm đưa tới, lọt vào tai tôi hết sức rõ ràng. Tôi ôm chăn ngồi đó, cảm thấy sự sợ hãi và bất an đã hoàn toàn lắng xuống, còn tiếng sáo kia lại giống như dòng suối mát lành giữa nơi rừng núi, chầm chậm chảy vào trái tim tôi.

    Hoán Bích đứng dậy, đi mở cửa sổ, khẽ nói: “Hẳn là Vương gia đang thổi sáo!”

    Tôi lẩm bẩm: “Muội cũng nghe ra rồi sao?”

    Hoán Bích hơi nhếch khóe môi, nở nụ cười hờ hững. “Chỉ có tiếng sáo của Vương gia mới chứa chan tình cảm thế này thôi!” Lúc này, bóng dáng Hoán Bích chừng như đã hòa vào giữa ánh trăng, giọng nói rất nhẹ nhàng: “Đêm nay, chẳng biết Vương gia sẽ thổi sáo đến canh mấy nữa.”

    Tình cảm bên trong, ngay đến Hoán Bích cũng nghe ra.

    Tôi tựa người vào tường, thấy ánh trăng chiếu vào hệt như những bông hoa lê trắng lóa, bất giác nghĩ tới cảnh y đứng thổi sáo dưới trăng, sau khi im lặng hồi lâu, rốt cuộc không kìm được mà rơi lệ.

    Đêm ấy, tôi lại đi vào giấc ngủ trong tiếng sáo du dương của Huyền Thanh. Vậy mà thứ khiến tôi giật mình bừng tỉnh không phải là ác mộng mà là cơn mưa rào đột nhiên kéo tới bên ngoài cửa sổ.

    Trong dịp giữa hè, những cơn mưa rào bất chợt thế này kỳ thực không phải điều gì đặc biệt.

    Giữa cơn mưa rào, từng làn gió dữ mang theo hơi nước lùa thẳng vào phòng qua ô cửa sổ khép hờ. Cận Tịch giật mình bừng tỉnh, vội chạy tới đóng cửa sổ cẩn thận, lại thấy tôi đang ngồi thẫn thờ bên giường, liền lẳng lặng ngồi xuống cạnh tôi.

    Ánh nến không ngừng đung đưa trước mắt, một cơn mưa dữ dội nặng nề trút xuống nhân gian, cuốn trôi hết những thứ tanh hôi nơi trần thế. Trong tiếng mưa rơi, sấm giật, tiếng sáo kia vẫn da diết vang lên, chừng như không bao giờ dứt.

    Trái tim tôi như bị ai đó cào mạnh, trong lòng ngợp nỗi mong chờ, rằng tiếng sáo kia mau mau dừng lại, mau mau dừng lại!

    Huyền Thanh, muội xin huynh đấy, đừng lo lắng việc muội ngủ có được ngon không nữa, mưa to thế này, huynh mau về đi!

    Cận Tịch liếc mắt nhìn tôi, ôn tồn cất tiếng: “Nương tử đang lo lắng điều gì sao?”

    Tôi nhất thời không che giấu nổi tâm trạng bất an của mình, thấp giọng đáp: “Ngươi nghe xem, tiếng sáo kia vẫn chưa dừng.”

    Cận Tịch thở dài một hơi, vuốt phẳng lại mép áo của mình, nói: “Thật là đáng thương, bên ngoài mưa to như thế, ngâm nước mưa giờ này dễ bị ốm lắm.”

    “Mưa to như thế…” Tôi khẽ lẩm bẩm, lòng sợ hãi vô cùng, còn thấy hết sức lo lắng.
    Ánh mắt Cận Tịch tựa như tia chớp sáng lòa bên ngoài cửa sổ, chiếu rọi khắp căn phòng. Nàng ta nghiêm túc nói: “Có mấy lời này bấy lâu nay nô tỳ vẫn không dám nói, nhưng bây giờ thấy nương tử như vậy, thực đã đến lúc không thể không nói rồi!” Cận Tịch khẽ nắm lấy bàn tay tôi, trong giọng nói nghiêm túc toát ra một vẻ dịu dàng và thương yêu vô hạn: “Nương tử, việc quá khứ đều đã qua rồi. Nương tử tiều tụy thế này vừa là giày vò bản thân mà cũng là giày vò Vương gia. Bao năm nay nô tỳ đã thấy rõ cả, Vương gia nghĩa nặng tình sâu, là một người có thể gửi gắm được.”

    Giữa bầu trời đêm mờ mịt, sấm rung chớp giật đì đùng, khiến người ta tê dại cả hai tai, nhưng tiếng sáo vẫn du dương vang vọng, khiến lòng tôi nổi sóng từng cơn.

    Hoán Bích tuy cũng có khuyên can hay ngăn cản nhưng trước giờ chưa từng có ai nói ra những lời thẳng thắn với tôi thế này.

    Mưa vẫn rơi như trút, Cận Tịch thấy tôi chỉ lặng im ngơ ngẩn, liền khẽ mỉm cười. “Trước đây, khi còn ở trong cung, nô tỳ cũng rất thích nghe kịch, có một khúc Tư phm là nghe quen tai nhất, đằng nào bây giờ nương tử cũng không buồn ngủ, chi bằng để nô tỳ hát cho nương tử nghe giải sầu.”

    Lòng tôi đang tê dại, đâu còn tâm trạng để ý xem Cận Tịch định hát gì, để mặc cho nàng ta vừa vỗ tay làm nhịp vừa hát: “Gã đánh mắt nhìn tôi, tôi đưa mắt liếc gã. Gã và tôi, tôi và gã, hai bên xiết nỗi nhớ nhung. Oan gia! Làm sao để thành được mối nhân duyên? Hãy chết trước điện Diêm Vương, để ông ta lấy chày ra giã, lấy cưa ra cắt, lấy cối ra xay, lại bỏ vào chảo dầu mà chiên mà rán. Úi chao, để mặc ông ta! Chỉ thấy người sống chịu tội, nào từng thấy ma quỷ mang cùm! Úi chao, để mặc ông ta. Lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt. Lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt[1].”

    [1] Đây là một phần của phân đoạn Tư phàm trong vở Nghiệt hải ký, thuộc dòng Côn khúc. Phân đoạn Tư phàm này chỉ có một nhân vật là ni cô Sắc Không, cô này vào chùa từ nhỏ, tuổi vừa đôi tám, không chịu nổi cuộc sống cô đơn trong chùa, khao khát được trải nghiệm tình yêu nam nữ nơi trần tục, sau một phen đấu tranh tư tưởng kịch liệt cuối cùng đã trốn khỏi chùa và chạy xuống núi. Trích đoạn bên trên thể hiện khát khao về tình yêu cùng những sự đấu tranh trong tư tưởng của Sắc Không – ND.

    Dường như có một tia chớp màu tím xanh lóe lên giữa bầu trời, khiến lòng tôi bỗng nhiên rực sáng. Cận Tịch đột ngột mở cửa sổ ra, tôi nhìn thấy bên ngoài sân vô số bông tịch nhan đã lặng lẽ rơi rụng trong màn mưa gió bập bùng.

    Lòng tôi chấn động tột cùng, từng dòng máu nóng không ngớt cuộn dâng, miệng thầm lẩm bẩm: “Lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt. Lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt.”

    Tôi đột nhiên đứng dậy, cất bước chạy nhanh ra ngoài. Hoán Bích không biết đã thức giấc tự bao giờ, nôn nóng gọi với theo: “Tiểu thư, sao lại không mang ô thế?”

    Tôi ngoảnh đầu lại, nở một nụ cười tươi rạng rỡ. “Không cần đâu”, rồi bèn xách váy vội vã chạy đi.

    Phía sau lưng, dường như Hoán Bích đang cất tiếng thở dài với Cận Tịch. “Tiểu thư rốt cuộc đã ra ngoài rồi.”

    Bên ngoài trời, những hạt mưa rơi ào ào không ngớt, tựa vô số cây roi quất lên người tôi, mang tới cảm giác đau nhói. Quần áo tôi mặc trên người đều đã ướt nhẹp, dính sát vào người, đôi mắt thì bị nước mưa làm nhòe đi, mái tóc cũng trở nên rối loạn. Gió mưa không ngừng cản bước chân tôi, một tia sét lớn đánh gãy một cành cây ở nơi cao tít nhưng tôi vẫn chẳng để tâm, cũng không hề cảm thấy mệt. Bao nhiêu năm nay, bất kể khi đứng giữa những bông hoa lê trắng như tuyết ở Đường Lê cung hay khi tụng kinh niệm Phật giữa làn khói hương vương vất trong thiền phòng, tâm trạng tôi chưa từng thư thái như hôm nay.

    Tôi chạy vút đi, tựa một chú chim vừa được chắp lại cho đôi cánh, đang bay về hướng tiếng sáo phát ra. Y ở nơi nào, nơi đó chính là đích đến của tôi.

    Giữa màn mưa đêm, y đứng bên vách đá trong bộ quần áo màu trắng phất phơ, như vừa bước ra từ trong sấm sét, cây sáo đặt kề bên môi, nhẹ nhàng thổi những âm thanh du dương, trong trẻo.

    Trong khoảnh khắc ấy, tôi không sao kìm nén được những giọt nước mắt của mình, đôi chân vội chạy đi, nhào thẳng vào lòng y.

    Nước mưa chảy xuống từ trên khuôn mặt y. Y ôm tôi trong lòng, cơ hồ không thể tin nổi, lẩm bẩm nói: “Hoàn Nhi… Là nàng đó sao?”

    Tôi gật đầu thật mạnh, lại quàng tay qua cổ y, vừa rơi nước mắt vừa cười nói: “Là muội. Muội tới rồi đây.”

    Y chừng như vẫn không dám tin, đôi mắt mở to nhìn tôi chằm chặp. Đột nhiên, y cởi áo ngoài của mình ra, khoác lên người tôi, giận dữ nói: “Nàng điên rồi! Giờ đang mưa to như vậy mà nàng còn chạy ra ngoài, không biết lo cho thân thể của mình sao?”

    Tôi cắn chặt môi, trừng mắt nhìn y, nghẹn ngào nói: “Rõ ràng là huynh không lo lắng cho thân thể của mình, mưa to như vậy mà còn đứng đây thổi sáo như một kẻ điên.”

    Y kéo đầu tôi tựa vào sát ngực y, thở dài nói: “Nàng trước giờ vốn sợ nhất là sấm sét mà.”

    Tiếng tim đập của y vang vào tai tôi không ngớt, cách một lớp áo ướt nhẹp, nhiệt độ cơ thể y vẫn lẳng lặng truyền tới thân thể tôi.

    Trong lòng trào dâng vô số tình cảm ngọt ngào, tôi nép sát đầu vào ngực y, thấp giọng nói: “Chỉ cần có huynh ở bên, muội không sợ gì nữa.”

    Y dường như không nghe rõ, ngẩn ngơ hỏi: “Gì cơ?”

    Nước mưa làm bốc lên vô số làn hơi nước trắng lóa, che mờ khuôn mặt của y. Lúc này lòng tôi đã trở nên tột cùng kiên định, kiếp này vất vả bao phen, những chuyện xưa cũ chất chồng làm thể xác và tinh thần tôi đều sụp đổ, thế nhưng giữa lúc lòng dạ nguội lạnh, rốt cuộc vẫn có thứ gì đó mà tôi không thể buông bỏ, một mực đi kiếm tìm.

    Tôi ngẩng lên nhìn y chăm chú, chậm rãi nói từng từ: “Thanh, chỉ cần có huynh ở bên, muội không sợ gì nữa. Do đó, muội mong huynh mãi ở bên muội.”

    Giữa màn đêm mờ mịt, những hạt mưa rào rào rơi xuống hoa lá cỏ cây, khiến mùi thơm thanh tân của hoa cỏ lan tỏa khắp chốn. Y chăm chú nhìn tôi, trong mắt chỉ có duy nhất bóng dáng của tôi, kèm theo đó là vô số tình cảm vừa dịu dàng vừa ghi tâm khắc cốt. Trên khuôn mặt y là một nỗi mừng vui vô hạn, y dang tay ôm chặt lấy tôi, chặt vô cùng, ngay đến xương cốt tôi cũng loáng thoáng truyền tới cảm giác đau đớn. Lúc này đây, tôi có cảm giác như đang ở trong giấc mộng, duy có chút đớn đau kia là khiến tôi biết rằng y quả thực đang ôm tôi, làm lòng tôi hết sức ngọt ngào. Y mừng rỡ như muốn phát điên, trầm giọng nói: “Chỉ cần nàng bằng lòng, ta sẽ vĩnh viễn ở bên cạnh nàng, không bao giờ rời xa.”

    Ánh mắt của y ấm áp mà kiên định, mang tới cho tôi niềm hạnh phúc mà tôi khao khát đã lâu. Xuyên qua những hạt nước mưa và nước mắt, tôi và y chăm chú nhìn nhau, cảm thấy có nhìn thế nào cũng không đủ. Thì ra khoảng cách giữa hai trái tim có thể gần đến thế, mà cũng có thể xa xôi biết bao, khoảng cách gần xa thế nào đều chỉ do một ý niệm mà ra.

    Đôi bờ môi lạnh giá của y dán sát lên trán tôi. “Hoàn Nhi, nếu nàng còn chưa chịu nói với ta, còn né tránh ta, chỉ e ta sẽ phát điên lên mất.”

    Tôi thoáng ngẩn người, thẹn thùng nói: “Chẳng lẽ những lời muội muốn nói với huynh, huynh đã biết cả rồi sao?”

    Toàn thân y lúc này giống như một viên ngọc minh châu lấp lánh, tỏa ra những tia sáng ấm áp giữa màn đêm giá lạnh. “Đồ ngốc, nàng nghĩ ta ngốc như vậy sao, nàng thích ta, chẳng lẽ ta lại không nhìn ra được. Đừng nói là ta, chỉ sợ ngay đến Cận Tịch và Hoán Bích cũng đều đã nhìn ra rồi. Nhưng ta thương nàng, không đành lòng thấy nàng tự giày vò bản thân như thế.”

    Tôi thổn thức: “Thanh, trong lòng muội, thực sự có rất nhiều điều không thể và không dám.”

    Y hơi hé đôi bờ môi cong cong mềm mại của mình. “Hoàn Nhi, nàng có tâm ý này với ta từ bao giờ vậy?”

    Tôi khẽ lắc đầu, thành thực đáp: “Muội cũng không biết nữa.” Sau khi cẩn thận ngẫm nghĩ một hồi lại nói thêm: “Có thể là lúc ở Thanh Lương Đài, cũng có thể là lúc ở bên bờ sông, mà cũng có thể là… sớm hơn nữa, từ sau lần muội bị sẩy thai, huynh dùng tiếng sáo gọi muội ra ngoài Đường Lê cung giúp muội vơi bớt tâm sự.” Tôi thở dài. “Thanh, muội không biết là từ bao giờ, vì bấy lâu nay trong những lúc mà muội cần nhất, huynh luôn là người đưa tay kéo muội, không để muội ngã xuống.”

    Y lắc đầu, trong mắt ánh lên muôn vàn tia sáng rực rỡ. “Không quan trọng, mọi việc đều không quan trọng. Điều quan trọng là bây giờ nàng đang ở trong lòng ta, nói với ta những lời như vậy. Hoàn Nhi, ta chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

    Mưa dần ngừng rơi, thỉnh thoảng lại có một hạt nước từ trên cành cây rơi xuống, chảy vào trong cổ áo của tôi, mang tới cảm giác mát lạnh. Mười ngón tay y và mười ngón tay tôi đan chặt vào nhau, dường như mọi nỗi mừng vui và cảm kích đều đã nằm trong hai đôi tay này rồi.

    Phía đằng đông, sắc trời dần hửng sáng, ánh bình minh ló dạng mang theo màu xanh nhạt hiền hòa. Giữa bầu không khí ẩm ướt, những lời nói của y nhẹ nhàng vang lên bên tai tôi, tựa làn gió cuối xuân dìu dịu: “Trong lòng nàng, ta là người như thế nào đây?”

    Tôi suy nghĩ một chút, tất cả tình ý trong lòng cuối cùng đã hóa thành mười sáu chữ: “Dịu dàng như ngọc, sừng sững như tùng. Phi phàm trác tuyệt, thế gian độc nhất[2]. Trong lòng muội, huynh là người ‘thế gian độc nhất’.”

    [2] Trích từ Bạch Thạch Lang khúc, một bài thơ Nhạc phủ. Trong đó Bạch Thạch Lang là tên của thủy thần, bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của vị nam thần này. Nguyên văn Hán Việt: Tích thạch như ngọc, liệt tùng như thúy. Lang diễm độc tuyệt, thế vô kỳ nhị – ND.

    Y áp trán vào trán tôi, khẽ cười, nói: “Đây là lời tán dương nam thần trong thơ từ cổ, ta không được như thế đâu.”

    Tôi mỉm cười không nói, hỏi ngược lại y: “Vậy muội thì sao, trong lòng huynh muội là người như thế nào?”

    Y suy nghĩ một chút, cuối cùng trả lời một cách trịnh trọng: “Trong lòng ta, muội chính là cả bầu trời.”

    Tôi còn chưa kịp nhấm nháp thâm ý trong lời y, nước mắt đã tuôn rơi, trong lòng tràn ngập nỗi mừng vui khó miêu tả bằng lời, tựa vô số bông hoa đột nhiên cùng nở rộ, tạo thành một mảng trắng lóa thuần khiết, không dính bụi trần. Niềm vui ấy còn giống như vầng trăng vằng vặc treo giữa trời đêm, xua tan những mảng tối đen vô tận trong lòng, khiến cuộc sống của tôi bước sang một trang hoàn toàn mới.

    “Bầu trời của huynh?” Tôi khẽ lẩm bẩm, cơ hồ không dám tin.

    Giọng nói của y chắc nịch như tảng đá đã sừng sững trên đỉnh núi cao suốt ngàn năm: “Đúng thế, ta có được nàng tức là đã có được tất cả. Nếu nàng không ở bên, mọi sự phồn hoa gấm vóc với ta thực chỉ là hư ảo mà thôi.” Giọng y chợt trở nên đờ đẫn: “Hoàn Nhi, vì có nàng nên bất kể trước đây đã phải mất đi bao nhiêu, ta vẫn cảm thấy rất đáng giá.”

    Tôi thấp giọng nghẹn ngào, lại khẽ lắc đầu, nói: “Muội kỳ thực không tốt như huynh nói đâu. Muội là phế phi của đương kim Hoàng đế, bây giờ đã vào cửa Phật, lại là con gái của tội thần, còn từng sinh được một đứa con gái nữa. Trong khi đó, huynh có thể lựa chọn vô số tiểu thư khuê các, còn có một tiền đồ gấm vóc trước mặt, thực không cần phải ở cùng người như muội làm gì…”

    Y đưa bàn tay ấm áp lên giữ môi tôi, không cho tôi nói tiếp, sau đó lại dùng sức ôm chặt tôi vào lòng. “Trong lòng ta, nàng là người tốt nhất. Hoàn Nhi, nàng phải tin vào điều này.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Muội biết chứ, và trong lòng muội, huynh cũng là người tốt nhất.” Một nụ cười mỉm dần xuất hiện trên khóe môi y, rực rỡ tựa bông hoa nhỏ đang nở rộ.

    Vòng tay của y rộng lớn mà ấm áp, như một bầu trời xanh biếc bao la. Tôi được y ôm trong lòng, cảm giác cứ như một cánh chim vốn luôn nằm trong tổ ngắm nhìn bầu trời nay rốt cuộc đã được vỗ cánh bay lên tầng không mà mình hằng khát vọng bấy lâu, mọi mối tâm sự nặng nề đều được buông xuống, niềm vui như biển mây bát ngát xung quanh, cả thể xác lẫn tinh thần đều trở nên nhẹ nhõm.

    Tôi khẽ nói: “Thanh, cũng bởi vì có huynh, bất kể trước đây đã phải chịu bao nỗi gian nan, uất ức, muội cũng không còn điều gì oán hận.”

    Thời gian dần trôi, trời rốt cuộc đã sáng hẳn. Ánh bình minh nơi chân trời rực rỡ tựa gấm hoa, tôi chưa từng phát hiện, thì ra ánh bình minh có thể đẹp đến mức khiến người ta phải tán thán thế này.

    Khi Huyền Thanh đưa tôi về thiền phòng, Cận Tịch và Hoán Bích đã chờ sẵn bên ngoài, nhìn thấy tôi và y dắt tay nhau, lập tức đều hiểu ra điều gì.

    Cận Tịch cất lời trêu chọc: “Trước khi trời sáng, mưa đã ngừng rơi, không ngờ nương tử còn bị cơn mưa ngăn cản đến bây giờ.”

    Hoán Bích lặng im một lát rồi mới nói: “Hôm qua tiểu thư ngâm nước mưa bên ngoài, tới bây giờ mới về, chắc đã đói rồi. Cơm canh đã được nấu xong xuôi, tiểu thư và Vương gia mau vào ăn tạm một chút đi.”

    Tôi cười bảo: “Ta không đói lắm, bây giờ chỉ cảm thấy mệt thôi.”

    Huyền Thanh nói: “Suốt đêm không ngủ, nàng mau đi ngủ một lát đi.”

    Tôi khẽ gật đầu, dịu dàng nói: “Huynh cũng đi ngủ sớm một chút, hai mắt đều thâm quầng cả rồi kìa.”

    Y nắm lấy bàn tay tôi rồi lại quay sang cười nói với Hoán Bích: “Ta giao tiểu thư nhà cô cho cô đấy nhé!”

    Hoán Bích khẽ nở nụ cười. “Vương gia đã dặn, nô tỳ đâu dám không dốc sức.”

    Dõi theo bóng dáng đầy vẻ lưu luyến của y tới khi khuất hẳn, tôi ngáp dài một cái, cơn buồn ngủ trào lên, chạy vào phòng vùi đầu xuống chiếc gối mềm mại, đắm mình vào giấc mộng ngọt ngào.
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 25: Lòng say giấc tình
    Mỗi ngày ở bên Thanh, tôi đều cảm thấy vui vẻ và chân thực, thế nhưng lần nào cũng thế, tôi luôn đi vào giấc ngủ giữa những sự mâu thuẫn và dằn vặt, tôi thầm nghĩ tôi và Thanh dường như không có tương lai. Tất cả mọi thứ bây giờ đúng như câu hát của Cận Tịch, “lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt”, cũng là một sự nóng bỏng và tuyệt vọng khi “bỏ hết kiếp sống này, đến cùng chàng khoái lạc[1]”. Đặc biệt là mỗi lần Phương Nhược tới thăm tôi, kể với tôi bất cứ chuyện gì có liên quan tới cuộc sống của tôi trong cung đình thuở trước, tôi đều giật mình phát hiện, toàn thân tôi đều đã in hằn dấu ấn của quá khứ rồi.

    [1] Trích Bồ tát man, Ngưu Kiều – ND.

    Tôi không biết mình nên làm thế nào để thoát khỏi thân phận của bản thân, cái thân phận đáng giận bây giờ khiến tôi cảm thấy vừa khó xử vừa nhục nhã.

    Nhưng mỗi ngày tỉnh dậy, nhìn những tia nắng bình minh dìu dịu xuyên qua khe cửa sổ chiếu vào phòng, nghĩ tới việc ngày hôm nay mình có lẽ sẽ lại được gặp y, tâm trạng tôi liền lập tức ngập chìm trong nỗi mừng vui và ngọt ngào to lớn.

    Đó là sự ngọt ngào như thế nào đây? Mỗi khoảnh khắc ở bên cạnh Thanh, lòng tôi đều nhẹ nhõm, vui tươi, cảm thấy tất cả mọi sự phiền não trên thế gian này sẽ chẳng bao giờ tới tìm mình cả.

    Có lúc, tôi sẵn lòng biến thành một nữ tử vô tri, vô đạo đức, không biết liêm sỉ, không có quan niệm thị phi, thậm chí là… không có ký ức. Như thế, tôi sẽ không còn đau khổ nữa, không còn khó chịu nữa.

    Nếu có thể, tôi sẵn lòng dùng tất cả mọi thứ mà mình đang có để đổi lấy những khoảng thời gian vui vẻ bên Thanh.

    Tôi sẵn lòng.

    Hôm ấy, tôi cùng y ra ngoài đi dạo, lòng nhẹ nhõm, thảnh thơi, cảm thấy được y dắt tay như thế này đã là một niềm hạnh phúc hết sức lớn lao rồi.

    Đường núi gồ ghề khó đi, lại quanh co xuyên qua một khu rừng nhỏ. Những phiến đá lát trên mặt đường do lâu ngày không có ai đi lại nên đã mọc một lớp rêu xanh rất dày, chỉ sơ sẩy một chút thôi cũng có thể trượt ngã. Trên đỉnh đầu chúng tôi là vô số cành cây đan xen nhau một cách hỗn loạn, những cái bóng lờ mờ chiếu xuống nhìn như cánh tay đáng sợ của đám yêu ma quỷ quái, chỉ là trên những cánh tay ấy mọc đầy những chiếc lá non màu vàng tơ, khiến vẻ ma mị dịu đi và được thay bằng mấy phần tươi mới. Có chú chim không rõ tên gọi đậu trên cành cây cất tiếng hót líu lo, khiến buổi hoàng hôn trong khu rừng tịch mịch bất giác tràn ngập một luồng sức sống khó mà miêu tả bằng lời. Trên núi có mấy gốc phụng tiên vừa nở hoa, nửa kín nửa hở nép mình vào lùm cỏ dại, nhìn rực rỡ như ngọn đuốc.

    Lúc này mặt trời đã ngả về tây, tà dương lay lắt, những ánh ráng chiều rực rỡ đủ màu phủ khắp nửa bầu trời, tựa bức tranh gấm rực rỡ và hoa lệ nhất giữa nhân gian… Trên đỉnh núi trước mặt y có một quầng ráng chiều rực rỡ tụ lại, chừng như chỉ cần thò tay ra là có thể với tới, còn sau lưng tôi là một khoảng không âm u vô tận, những đám mây màu mực như làn khói sương cuốn tới, chuẩn bị cuộn phăng mọi ánh sáng.

    Ánh ráng chiều màu vàng cuối cùng bao trùm quanh người y, y ngoảnh lại nhìn tôi, vì khuôn mặt đang ngược sáng nên không thể nhìn rõ lắm. Y chậm rãi đưa tay về phía tôi. “Đường núi khó đi, để ta dắt tay nàng nào.”

    Dưới ánh ráng chiều, thân thể y toát ra một vẻ trang nghiêm, thanh khiết như thiên thần, từng làn gió núi thổi vun vút qua chỗ chúng tôi, khiến đôi ống tay áo rộng của y lất phất bay.

    Lúc này tôi cảm thấy tim mình cứ đập thình thịch không ngừng, trong lòng tràn ngập cảm giác ngọt ngào nhưng đồng thời cũng rất do dự, hai bàn tay chẳng đưa ra mà cứ nắm chặt nhau, nơi lòng bàn tay đã lấm tấm mồ hôi.

    Nơi dòng sông dưới núi loáng thoáng vọng lại tiếng hát, dần trở nên rõ ràng, thì ra là A Nô, lời ca vẫn không có gì thay đổi so với trước đây: “Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…”

    Tiếng ca ấy như đã khắc ghi vào trái tim tôi, lúc này nghe thấy liền không kìm được thầm xao động, nhất thời chẳng nói được gì.

    Đôi mắt y trong veo như mặt nước hồ thu phẳng lặng, giọng nói dịu dàng, ấm áp như làn gió tháng Tư: “Nàng nghe kìa!”

    Tôi thấp giọng đáp: “Muội nghe thấy rồi.”

    Y đưa bàn tay tới gần hơn, chỉ thiếu chút nữa là đã chạm vào ống tay áo tôi rồi. Trầm ngâm một chút, y khẽ nói: “Lòng ta với nàng cũng hệt như vậy đấy.” Thấy tôi không nói gì, sắc mặt y thoáng trở nên buồn bã. “Ngày đó nàng viết cho ta bài Bích Ngọc ca, tạ ơn chàng hữu ý, thẹn không sắc khuynh thành. Mở hết cả cuốn Nhạc phủ, ta chưa từng sợ một câu thơ nào như vậy.”

    Tôi ngẩng đầu nhìn y, chậm rãi thò bàn tay từ trong ống tay áo ni cô màu xám ra. Do ăn chay lâu ngày, hai tay tôi đều nhợt nhạt, làn da mỏng tang để lộ những mạch máu màu xanh yếu ớt, lấp lánh phản chiếu lại những tia ráng chiều dìu dịu.

    Tôi nhìn thẳng vào mắt y, trái tim vốn loạn nhịp dần bình tĩnh trở lại, một nụ cười mỉm rạng rỡ xuất hiện trên khóe môi, giọng nói vang lên mềm mại như cỏ bồ: “Lần này thì để muội nói, điều muội muốn nói là: Đã thấy quân tử, cớ gì chẳng yêu[2].”

    [2]Phong vũ, Kinh Thi. Nguyên văn Hán Việt: Ký kiến quân tử, vân hồ bất hỉ – ND.

    Một làn gió thổi tới khiến chiếc áo ni cô màu sắc ảm đạm của tôi khẽ tung bay, tự nơi đáy lòng bất giác trào dâng mấy tia mừng rỡ. Tình yêu của tôi với Huyền Thanh xưa nay luôn ẩn sâu trong huyết quản, và bây giờ, những lời vốn phải cố sức kìm nén ấy đã bật ra ngoài, khiến tôi có cảm giác mừng vui và nhẹ nhõm khó tả, cứ thế cười tủm tỉm, chăm chú nhìn y.

    Trên mặt y lộ ra nét dịu dàng, ấm áp cùng thần sắc vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, giữa sắc trời dần trở nên u ám, trông y lúc này tựa như một ánh dương rạng rỡ nhất mùa hè, khiến người ta bất giác vui lây.

    Nụ cười của tôi trào lên tự đáy lòng, dần lan tỏa khắp từng tấc da thịt.

    Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, mừng rỡ đến nỗi chẳng nói nổi một lời, chỉ biết cười mà nhìn tôi không chớp.

    Bàn tay y rất ấm áp, rất lớn, nắm trọn lấy bàn tay nhỏ nhắn của tôi.

    Từng làn hơi thở quen thuộc của y như bao bọc lấy tôi, đột nhiên người tôi bị kéo về phía trước, mặt vùi vào vạt áo trước ngực y. Y ôm tôi rất chặt, lại cọ nhẹ cằm vào mái tóc của tôi, ghé sát miệng vào tai tôi, nói: “Chúng ta cùng đi thôi.”

    Trái tim tôi như bị thứ gì va phải, thoáng nhói đau, sống mũi cay cay như muốn khóc.

    Kỳ thực tôi cũng không biết chúng tôi có thể đi tới nơi nào. Tôi là phế phi bị trục xuất khỏi cung, để tóc tu hành, y là thân vương hoàng tộc địa vị cao quý, thân phận cách biệt có thể nói là một trời một vực. Đúng như lời Cận Tịch nói, chẳng qua là “lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt” mà thôi.

    Nhưng lúc này, nghe y nói năng trịnh trọng như thế, lòng tôi liền thấy thư thái và dễ chịu hơn nhiều, đối với tương lai mờ mịt kia cũng có thể sinh ra một tia tưởng tượng.

    Những làn gió núi không ngừng thổi qua chỗ chúng tôi, khiến mấy gốc phụng tiên đung đưa nhẹ nhàng. Y dắt tay tôi bước dần lên đỉnh núi, cứ đi được một bước lại ngoảnh đầu nhìn tôi một lần.

    Y đột nhiên dừng chân, tách từng ngón tay của tôi ra, đặt những ngón tay của mình vào giữa, cuối cùng mười ngón tay của chúng tôi đan xen nhau. Tôi cảm thấy hơi nghi hoặc nhưng chỉ im lặng nhìn y. Huyền Thanh khẽ mỉm cười, cất giọng vô cùng kiên định: “Tư thế dắt tay này có tên gọi Đồng tâm khấu, nghe đồn cặp nam nữ nào dắt tay nhau như thế này, cả đời sẽ không bao giờ ly biệt.”

    Lòng tôi trào dâng muôn vàn cảm giác phức tạp nhưng nổi lên trên hết là một nỗi mừng vui và xao xuyến tột cùng, hết sức khó tả. Lúc này tôi thấy mình như đang ở trong giấc mộng, nhưng lại là một giấc mộng chân thực vô cùng, không có vẻ gì là xa xôi thăm thẳm, chỉ cần đưa tay ra là có thể với tới.

    Rồi tim tôi bỗng máy động, tôi đột nhiên cất tiếng: “Thanh, muội cứ có cảm giác như đang nằm mơ vậy, huynh cắn hoặc véo muội một cái đi được không? Để muội biết rằng muội thực sự không phải đang nằm mơ.”

    Huyền Thanh cúi đầu, khẽ hôn một cái lên mũi tôi, thấp giọng cười, nói: “Ta không nỡ.” Tôi chợt thấy mình ngốc nghếch, sao tôi lại có thể ngốc đến thế cơ chứ, ngay đến bản thân tôi bây giờ cũng không kìm được mà muốn tự cười mình. Hai bờ má tôi đỏ bừng, tựa như quầng mây màu rực rỡ đằng xa, đi kèm theo đó là sự thẹn thùng khôn xiết.

    Y vẫn một mực mỉm cười hòa nhã. Nụ cười của y trông đẹp biết mấy, hệt như tiếng hát trong veo giữa mây xanh, vang đi khắp muôn dặm đất trời. Mặt tôi bỗng đỏ bừng, nói năng lại càng không biết lựa lời: “Thanh, nụ cười của huynh đẹp quá!”

    Trước đây tôi cũng cảm thấy như vậy nhưng chưa từng dám thừa nhận. Ôi, bây giờ đứng trước mặt y tôi trở nên ngốc nghếch quá chừng, lời gì cũng nói ra được.

    Huyền Thanh nắm chặt bàn tay tôi, mỉm cười, thở dài nói: “Nụ cười của ta, đều là vì nàng nên mới có!”

    Nụ cười của y là vì tôi nên mới có, còn nụ cười thật lòng của tôi lúc này há cũng chẳng thế hay sao? Tôi thoáng cảm thấy thẹn thùng, cúi xuống nhìn đôi giày cỏ mộc mạc mà mình đang đi, thấy chúng chậm rãi bước đi trên lớp rêu xanh dày, mỗi bước chân đều tràn ngập nét mừng vui.

    Tôi chợt nhớ đến đôi giày được Huyền Lăng ban cho khi còn đắc sủng năm xưa. Đôi giày đó có đế làm bằng ngọc thạch, bên trong lót hương liệu, mũi giày có đính một viên minh châu Hợp Phố vô cùng bắt mắt. Trên mặt giày làm bằng gấm Thục thêu hình uyên ương bằng chỉ vàng, gấm Thục xưa nay vốn vang danh thiên hạ, huống chi còn là loại gấm thêu tinh tế như thế, các nữ tử Thục Trung phải cần trăm người thêu suốt ba năm mới xong một xấp, mỗi tấc đều có giá không dưới một đấu vàng, các nữ tử trong cung xưa nay đến nhìn thấy còn chẳng dễ, đừng nói là xa xỉ đến mức dùng để làm giày.

    Nhưng lúc này được cùng y dắt tay dạo bước, dù dưới chân là đôi giày cỏ giản đơn tôi cũng vẫn mừng rỡ và cảm động vô cùng, cảm giác khi nhận được đôi giày quý báu năm xưa căn bản không thể so sánh được.

    Y cùng tôi ngắm cảnh chiều tà, lại khẽ vuốt ve mái tóc tôi, dịu dàng nói: “Đi cả ngày rồi, nàng có mệt không?”

    Nơi đáy mắt tôi bất giác dâng trào một nét cười vui vẻ. “Không mệt.”

    “Vậy…” Y chợt nói: “Nàng cùng ta đến An Tê quán thăm mẫu phi nhé?”

    Tôi thoáng sững người, khuôn mặt không khỏi ửng hồng, thẹn thùng nói: “Vậy đâu có tiện chứ.”

    Y nắm lấy bàn tay tôi, khẽ nở nụ cười. “Mẫu phi xưa nay vẫn luôn thích nàng mà.” Thấy tôi xấu hổ, y lại nói thêm: “Mẫu phi là người sảng khoái, ắt sẽ không ngăn cấm chúng ta. Huống chi, Hoàn Nhi, có được nàng rồi ta mừng rỡ vô cùng, chỉ muốn nói ngay với mẫu phi ta rằng con của bà đã có được người mà nó muốn có nhất trên đời này rồi!”

    Tôi khẽ cười một tiếng, dù không biết chuyện sẽ diễn ra thế nào nhưng sao tôi đành lòng từ chối y đây, thế là bèn cúi đầu, thẹn thùng nói: “Được!”

    An Tê quán vẫn hệt như xưa nhưng tâm trạng của tôi khi đi gặp Thư Quý thái phi thì đã hoàn toàn đổi khác, không ngờ lại có một tia căng thẳng khó mà miêu tả bằng lời. Gõ cửa mấy cái, người đi ra mở cửa chính là Tích Vân, nhìn thấy tôi và Huyền Thanh cùng tới thì không kìm được ngạc nhiên thốt lên: “Hôm nay sao lại trùng hợp như vậy? Không ngờ vương gia và nương tử lại cùng nhau tới đây.”

    Huyền Thanh mỉm cười không đáp, khẽ hỏi: “Mẫu phi đâu?”

    Tích Vân cười nói: “Thái phi vừa tụng kinh xong, giờ đang uống trà.”

    Lúc này đang là mùa hè, các cửa sổ trong An Tê quán đều mở rộng, vì xung quanh trồng nhiều cây cối nên thực mát mẻ vô cùng. Trong chiếc bể lớn giữa sân có trồng một ít hoa sen, nhìn nhỏ nhắn, xinh xắn, vô cùng đáng yêu.

    Thái phi đang ngồi xếp bằng trên chiếc sạp, ung dung uống trà, nhìn thấy chúng tôi đi vào liền vẫy tay cười, nói: “Đến đúng lúc lắm, Tích Vân vừa mới hầm canh bách hợp đấy.” Sau đó liền bảo Tích Vân múc hai bát đưa lên.

    Huyền Thanh nói: “Nàng hành lễ với mẫu phi trước đi.”

    Tôi quỳ xuống bái lạy. “Thái phi an hảo.”

    Tôi đến An Tê quán đã nhiều lần, thường ngày gặp mặt chỉ chào hỏi theo lối bình thường mà thôi, bây giờ lại trịnh trọng hành lễ như vậy khiến Thư Quý thái phi bất giác ngẩn người, đưa mắt liếc nhìn tôi, cười tủm tỉm hỏi: “Hôm nay làm sao vậy?”

    Huyền Thanh lúc này cũng quỳ xuống hành lễ. “Hài nhi bái kiến mẫu phi”, nói rồi liền đỡ tôi đ鮧 dậy, nắm lấy tay tôi.

    Thái phi giật mình hiểu ra, không kìm được đưa tay vuốt trán, nở nụ cười tươi. “Hay! Hay! Rốt cuộc đã đến với nhau rồi!”, sau đó lại quay sang nói với Tích Vân: “Đừng mang canh bách hợp tới nữa, lấy một ít táo đỏ và ngân nhĩ đến đây!”

    Tôi đỏ bừng hai má, thấp giọng nói: “Đa tạ Thái phi”, sau đó lại cúi gằm mặt xuống, khẽ mỉm cười nói tiếp: “Nghe khẩu khí của Thái phi vừa rồi, hình như đã sớm biết vãn bối và Thanh…” Tôi bất giác thẹn thùng, liền ngừng lời, trừng mắt nhìn Huyền Thanh.

    Huyền Thanh vội vàng xua tay, nói: “Không phải là ta nói đâu.”

    Thái phi cười bảo: “Thanh Nhi không nói gì với ta cả. Chỉ là ngày đó hai đứa gảy đàn thổi sáo ăn ý với nhau như thế, quả đúng là tâm ý tương thông, con thực sự nghĩ ta đã già, không thể nhìn ra điều gì hay sao? Cái chuyện tâm ý tương thông này xưa nay vốn chỉ có ở những người hữu tình.”

    Tôi đỏ mặt tía tai, nói: “Thái phi quả có cặp mắt tinh đời.”

    Thái phi cầm lấy tay tôi, kéo tôi lại gần, nói với giọng trìu mến: “Ngày đó ta kỳ thực cũng chỉ thoáng nghĩ tới chuyện này thôi, không ngờ con và ta còn có duyên phận như vậy.” Nói rồi bà lại mỉm cười nhìn qua phía Huyền Thanh. “Đồ ngốc, chuyện tốt thế này sao lại không nói sớm với ta, làm ta đến bây giờ mới biết, hai đứa giấu ta kĩ quá!”

    Huyền Thanh có chút xấu hổ, âu yếm đưa mắt liếc tôi. “Chuyện này thực là khúc chiết lắm, chứ con đâu dám giấu giếm mẫu phi, chỉ vừa mới có kết quả thôi con đã lập tức dẫn Hoàn Nhi tới đây thỉnh an mẫu phi rồi.”

    Thái phi mặt đầy nét mừng, nhìn tôi cười, nói: “Hoàn Nhi, bây giờ ta cũng gọi con như vậy nhé!”, sau đó lại thở dài một tiếng. “Hoàn Nhi, con là một đứa bé thông minh, ta thực sự yêu quý con từ tận đáy lòng. Chỉ là ta thoáng nghe nói, con là một đứa bé mệnh khổ. Thanh Nhi từ nhỏ đã phải rời xa ta, cũng là một đứa bé khổ mệnh. Bao năm nay nó một lòng đi tìm nữ tử mà mình vừa ý, mãi đến tuổi này rồi vẫn chưa chịu thành hôn, ta là người làm mẹ, trong lòng thực lo lắng lắm…”

    Huyền Thanh nhìn tôi cười hì hì, nói: “Mẫu phi cứ yên tâm, ban đầu con kiếm cớ không chịu thành thân chẳng qua là vì không muốn để Thái hậu và hoàng huynh an bài hôn sự của mình, còn về sau thì hẳn nhiên là vì cô ấy rồi.”

    Tôi cười phỉ phui, nói: “Hừm, trước mặt Thái phi mà huynh còn dám nói bừa như vậy.”

    Thái phi đưa tay làm bộ đánh Huyền Thanh một cái, cười mắng: “Ta còn đang nói đấy, không ngờ con lại dám chen vào”, sau đó lại quay sang nói với tôi: “Vừa rồi Thanh Nhi nói chen vào một câu, kỳ thực cũng khiến ta được yên tâm hơn rồi. Đứa bé này vốn trọng tình trọng nghĩa, nó đã nói như vậy, có thể thấy không phải mới dụng tình với con chỉ một, hai năm. Hai đứa bọn con để được ở bên nhau như bây giờ, hẳn đã phải trải qua không ít gian nan trắc trở, mà con lại đang tu hành, sợ rằng cũng từng do dự rất lâu. Hơn nữa, con đường sau này của bọn con sợ rằng cũng chẳng được thuận buồm xuôi gió.”

    Huyền Thanh đưa mắt nhìn tôi, nói: “Mẫu phi…”

    Thái phi nghiêm túc cất lời: “Con nghe ta nói xong đã”, rồi lại nói tiếp với tôi: “Con đường trước đó các con coi như đã vượt qua được rồi, giờ có thể ở bên nhau, lòng ta thực vô cùng mừng rỡ. Nhưng con đường sau này chưa biết thế nào, các con đã quyết định đi cùng nhau, nhất định phải cố gắng đi tiếp. Có lẽ càng về sau con đường sẽ càng khó đi hơn, nhưng ta tin việc thành là bởi người, chỉ cần các con đồng lòng thì việc gì cũng có thể thành công. Những lời này của ta, các con hãy ghi nhớ kĩ!”Lời của Thư Quý thái phi câu nào cũng hợp tình hợp lý, tôi nghe mà cảm kích vô cùng, cùng Huyền Thanh vái sâu một cái.

    Tôi rơm rớm nước mắt, nói: “Thái phi, vừa rồi khi tới đây con đã sợ hãi vô cùng, sợ là người không thích con. Dù sao con cũng là người từ trong cung ra.”

    Thái phi mỉm cười, đưa tay xoa đầu tôi. “Nói tới từ trong cung ra, ba người bọn ta, kể cả Tích Vân nữa, có ai mà không từ trong cung ra đâu. Ta biết con lo nghĩ điều gì, nhưng việc quá khứ dù sao cũng đã qua rồi, ai mà không có quá khứ riêng. Đại Chu khai quốc đã được trăm năm, ta chưa từng nghe nói có phế phi nào còn quay trở về. So với việc chết già ngoài cung, chẳng bằng hãy tìm cách để sống cuộc sống mà mình mong muốn. Đời người trăm năm là tận, những ngày tháng thực sự thỏa lòng liệu có được bao nhiêu chứ?”

    Tôi nghe thế thì cảm động vô cùng, Huyền Thanh quàng tay qua vai tôi, hai chúng tôi nhìn nhau cười khẽ.

    Vừa khéo lúc này Tích Vân mang táo đỏ và ngân nhĩ tới, cất tiếng làu bàu với Thái phi: “Hôm nay Thái phi thực nhiều trò quá, đang từ canh bách hợp lại đổi sang táo đỏ với ngân nhĩ.”

    Thư Quý thái phi bật cười, đẩy bà ta một cái, nói: “Đồ ngốc, ăn táo đỏ với ngân nhĩ là có nguyên do đấy, thử nhìn hai đứa bé này xem.”

    Tích Vân thấy tôi và Huyền Thanh nắm tay nhau đứng đó, bất giác vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Quả nhiên là nên ăn táo đỏ với ngân nhĩ, Thái phi thật có phúc đấy!”

    Thái phi lộ vẻ tự đắc, cười hỏi: “Thế nào?”

    Tích Vân cười đến nỗi không khép được miệng. “Vương gia chọn đi chọn lại, mãi vẫn không chọn được cho mình một vị Vương phi, tầm mắt tất nhiên cao vời. Mới lần đầu nương tử tới đây, nô tỳ đã nói với Thái phi rồi, nhìn nương tử và Vương gia nhà ta hệt như một đôi người ngọc, không ngờ quả nhiên là có ngày này.” Nói rồi, thị vội vàng hành lễ với tôi.

    Tôi thẹn thùng vô hạn, vội đưa tay đỡ Tích Vân đứng lên. “Cô cô nói như thế, bảo vãn bối phải là sao mới tốt đây?”

    Huyền Thanh cười, nói: “Nàng thấy thế nào? Ta đã nói rồi mà, mẫu phi và cô cô ắt sẽ đều tán thành chuyện của chúng ta.”

    Thái phi cũng khẽ cười. “Hai đứa bọn con có được mối nhân duyên này cũng chẳng dễ gì, Thanh Nhi, con phải đối xử với Hoàn Nhi thật tốt.” Lúc này trăng sáng treo cao, những tia sáng dìu dịu chiếu vào qua cửa sổ, trong phòng ánh nến đung đưa, tấm dung nhan xinh đẹp của Thái phi như được phủ một tầng ánh sáng thánh khiết.

    Huyền Thanh trịnh trọng nói: “Dạ. Cho dù mẫu phi không dặn dò, hài nhi cũng nhất định sẽ làm được.”

    Thái phi thở dài cảm khái: “Hôm nay ta thực sự rất vui mừng, Trường tương tư và Trường tương thủ đã lại thành một đôi, quả đúng là ý trời.” Rồi lại hiền từ vuốt ve bàn tay tôi, nói: “Hoàn Nhi, hai người thật lòng thích nhau là một việc không dễ gì có được, có thể thẳng thắn và cam tâm tình nguyện thương yêu đối phương lại càng chẳng dễ dàng gì, hãy trân trọng hạnh phúc trước mắt.”

    Tôi khom người hành lễ. “Lời của Thái phi, Hoàn Nhi sẽ ghi nhớ kĩ.”

    Từ An Tê quán đi ra, Huyền Thanh mặt đầy nét mừng, nói: “Bây giờ nàng đã yên tâm chưa?”

    Tôi ngạc nhiên hỏi: “Gì cơ?”

    Huyền Thanh cúi đầu, hôn nhẹ ngón tay tôi, nghiêm túc nói: “Ta dẫn nàng đến gặp mẫu phi, nói với mẫu phi chuyện của chúng ta, ấy là mong nàng hiểu rằng tình cảm của ta với nàng không phải chỉ như nước sương mong manh ngắn ngủi mà hết sức chân thành. Ta thực sự hy vọng có thể ‘cầm tay nàng hẹn mấy lời, sống bên nhau mãi đến hồi già nua[3]’.”

    [3] Trích Kích cổ 4, Kinh Thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: chấp tử chi thủ, dữ tử giai lão – ND.

    Cầm tay nàng hẹn mấy lời, sống bên nhau mãi đến hồi già nua. Nhớ hồi xưa cũ, khi còn là một thiếu nữ sống trong khuê các ngày ngày mơ mộng, tôi đã từng bị câu thơ trong Kinh Thi này làm cho chấn động sâu sắc, rồi một cánh cửa mở ra trước mắt tôi, để tôi thấy được biển cả tình yêu bao la bát ngát, trong lòng sinh ra chấp niệm “mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau”.

    Giờ đây, tôi cứ luôn nghĩ rằng mình và y không có tương lai, nhưng không ngờ y lại đưa tôi tới chỗ mẫu phi của y, nói với tôi những lời như vậy.

    Sự cảm động trong lòng tôi giống như vô số bông hoa anh đào cùng nở rộ, tỏa hương bát ngát, ngợp khắp trái tim. Trong sự mừng rỡ đến mức không dám tin, tôi cơ hồ muốn rơi nước mắt.

    Y nắm chặt bàn tay tôi đặt lên ngực y, cất giọng kiên định nói: “Nàng nhất định phải tin ta.”

    Tôi gật đầu thật mạnh, lại nép vào lòng y. Có được lời hứa này rồi, dù con đường trước mắt mênh mang thế nào, tôi cũng phải kiên trì đi tiếp.

    Sau hồi lâu tĩnh lặng, tôi khẽ nói: “Thái phi đúng là đẹp quá!”

    Huyền Thanh ngạc nhiên hỏi: “Sao đang yên đang lành lại nói tới việc này?”

    Tôi cười nói: “Trước đây muội đã cảm thấy như vậy rồi, chẳng qua là ngại không nói với huynh mà thôi.”

    Huyền Thanh tươi cười vui vẻ, nói: “Vẻ đẹp của mẫu phi không phải là trời sinh đâu, hoặc có thể nói trước đây khi còn ở Bãi Di, mẫu phi chỉ khá xinh đẹp, chứ không có được khí chất như bây giờ.” Thấy tôi lộ vẻ nghi hoặc, y bèn giải thích: “Chỉ có một nử tữ toàn tâm toàn ý yêu thương tình lang, lại được tình lang hết dạ yêu thương thì mới có được khí chất như vậy, đây là thứ mà bất cứ loại son phấn nào cũng không thể tô vẽ nổi. Trong hậu cung Đại Chu, Thanh dám khẳng định mẫu phi là nữ tử duy nhất từng có một tình yêu hoàn chỉnh.”

    Tôi hiểu ý, bèn nói: “Do đó, mỗi cái đưa mày liếc mắt hay từng lời nói, nụ cười của Thái phi mới tươi đẹp và ấm áp như vậy.”

    Đó hoàn toàn là dấu ấn của một tình yêu tuyệt đẹp thuở nào.

    Dưới ánh trăng dịu mát, Huyền Thanh dắt tay tôi chậm rãi bước đi. “Khi nàng còn ở trong cung, ta biết rõ nàng là sủng phi của hoàng huynh, nên ngoài việc đứng sau lưng lặng lẽ nhìn nàng, ta không thể làm gì khác. Ta đã từng vô cùng tuyệt vọng, nhưng cũng rất hy vọng rằng nàng sẽ có được vẻ đẹp do tình yêu mang lại giống như mẫu phi ta, ta hy vọng hoàng huynh có thể mang tới cho nàng vẻ đẹp đó. Nhưng ngoài sự ưu sầu và tâm kế ra, ta chưa từng thấy thần thái nào khác trên mặt nàng. Hoàn Nhi, ta với nàng từng gặp gỡ mấy lần trong cung, nhưng có lần nào nàng thật sự vui vẻ? Mỗi lần gặp nàng, ta đều thấy nàng đau thương buồn tủi, nàng có biết ta đã đau lòng thế nào không?” Huyền Thanh dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, tỏ ra hết sức trịnh trọng. “Bây giờ, có được cơ hội như vậy, ta nhất định sẽ toàn tâm toàn ý yêu thương nàng, không để nàng phải chịu bất cứ nỗi ấm ức nào nữa.”

    Tôi khẽ nắm lấy bàn tay y, nhìn y bằng ánh mắt chứa chan tình cảm. “Muội cũng sẽ toàn tâm toàn ý yêu thương huynh như thế.”

    Huyền Thanh nở nụ cười tươi, bên trong chưa đầy tình sâu ý nặng, khiến tôi cảm thấy ngay đến ánh trăng cũng trở nên ngọt ngào.

    Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ, tôi đã không còn cảm thấy dằn vặt và mâu thuẫn nữa, có thể chìm vào giấc mộng trong sự bình yên. Khi tôi tỉnh dậy thì đã là buổi trưa ngày hôm sau, vầng dương trên cao tỏa những tia sáng màu vàng rực rỡ, len qua khe hở trên bức rèm trúc mà chiếu vào phòng, tựa như những dải vải lụa mềm mại kéo lê trên mặt đất, dải dày dải mỏng.

    Tôi uể oải mở mắt ra, cảm thấy thân thể mình dường như vẫn còn ߠtrong giấc mộng. Vì ngủ lâu quá, trên người tôi đổ chút mồ hôi, bên cạnh dường như có ai đó đang quạt cho tôi, từng làn gió mát thổi tới.

    Mở hẳn mắt ra, tôi nhìn thấy Cận Tịch, nàng ta cười tủm tỉm, nói: “Lần này nương tử tỉnh dậy, cứ như đã biến thành một con người mới ấy.”

    Cứ như đã biến thành một con người mới?

    Trong quãng thời gian cô đơn mà thanh tịnh vừa qua, tôi đã từng ngày đêm tụng niệm kinh văn, như một con thú bị nhốt trong lồng, chỉ biết làm vậy để kìm nén nỗi đau đớn và khổ sở, tâm trạng tràn ngập những mảng mây mù, không có lấy một tia sáng nào. Thế nhưng nhờ có sự thấu hiểu và sẻ chia của y, khoảng không u ám trong trái tim tôi đã bị xé rách một khe hở nhỏ, qua đó vô vàn ánh nắng rực rỡ chiếu vào.

    Trong bao ngày đêm vừa qua, ký ức của tôi là một mảng hỗn độn, trong đó đan xen sự tuyệt tình của Huyền Lăng, sự phản bội của Lăng Dung, sự giả dối của Hoàng hậu, và cả khuôn mặt non nớt đang say ngủ của Lung Nguyệt mà lần cuối cùng tôi được nhìn thấy… Trong những giấc mộng, câu nói “không thể cứu sống được nữa rồi” kia của Lăng Dung cứ đeo bám lấy tôi, kèm theo đó là một dòng máu tươi rợn người chảy khắp.

    Tôi đã từng vô số lần giật mình thức giấc lúc nửa đêm, nhớ về phụ thân và huynh trưởng ở hai vùng Nam, Bắc xa xôi, rồi còn cả Ngọc Diêu yếu đuối, Ngọc Nhiêu ít tuổi, mẫu thân đã già cùng tẩu tẩu và Trí Ninh đã chết thảm trong ngục. Tôi căm hận vô cùng nhưng chỉ biết nắm chặt hai bàn tay, để đến cuối cùng những chiếc móng tay đã nuôi được rất dài lần lượt gãy lìa, những tiếng “cạch cạch” giòn tan đó giống như sự thù hận và chết chóc đeo bám lấy tôi, tựa như ma quỷ một bước không rời, găm sâu vào trái tim tôi, biết bao lần khiến tôi uất nghẹn, khiến tôi lòng như tro tàn, chẳng còn thiết tha gì với cuộc sống.

    Nếu như không có Huyền Thanh, có lẽ tôi sẽ dần chìm nghỉm trong dòng ký ức đau khổ và thê lương đó, không có cách nào thoát ra được, để đến cuối cùng là chết trong sự cô đơn, không kèn không trống, chẳng ai đoái hoài.

    Tôi chỉ có thể không ngừng tụng niệm kinh văn, tụng niệm những lời chân ngôn tuyệt cú của Phật Tổ, lại cẩn thận ghi chép từng câu, cố kìm nén nỗi bất bình và bất an của bản thân giữa làn khói đàn hương vương vất, giữa những tiếng tụng niệm của các ni cô xung quanh. Tôi giống như con thú bị vây giữa thiên binh vạn mã, dù tả xung hữu đột nhưng rồi cuối cùng vẫn không thể thoát được.

    Tôi vốn cho rằng sau khi thoát khỏi chốn cung đình, gửi mình vào cửa Phật, ngày ngày nghe tiếng trống sớm chuông chiều, có lẽ nỗi oán hận và bi thương trong lòng tôi sẽ dần được xoa dịu. Thế nhưng rốt cuộc tôi vẫn chẳng thể tránh được những chuyện thị phi, trái tim vẫn bị vướng vào cõi đời trần tục, để rồi cuối cùng có một ngày sẽ đi vào tuyệt lộ giữa vô số tiếng tụng niệm kinh văn.

    Nếu không có Thanh, nếu không có sự yêu thương và thấu hiểu của Thanh, có lẽ ngày đó đã ở cách tôi rất gần rồi. Sự yêu thương và thấu hiểu của y, tình cảm tha thiết của y chính là phương thuốc tốt nhất để làm lành vết thương, xoa dịu lòng thù hận trong tôi.

    Tôi đã từng cố gắng kiếm tìm một thang thuốc tốt, mong có thể chữa bệnh cho trái tim mình. Giữa bóng hoa hạnh đầy trời, tôi cứ ngỡ mình đã tìm được, lòng đầy mừng vui, để cuối cùng phải đón nhận một mũi giáo lạnh băng đâm ngược lại.

    Thời gian trôi qua lâu như vậy rồi tôi mới biết, thì ra Huyền Thanh cùng với tình yêu sắt son thắm thiết kia của y mới chính là phương thuốc tốt nhất dành cho tôi.

    Đã để mất một thời gian dài như thế, đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội như thế, đã phải trải qua biết bao nhiêu gian nan, trắc trở như thế nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn tìm được y, và y cũng chờ được tôi. Hai chúng tôi cùng quên hết buồn vui, nắm tay nhau đi tìm hạnh phúc.

    Rốt cuộc, cũng đã có ngày này.

    Tôi cầm gương soi, thấy đôi mắt mình quả nhiên lấp lánh có thần, tựa như vầng trăng sáng, cả trái tim dường như đã sáng bừng trở lại.

    Hoán Bích đứng tựa cửa nhìn tôi từ xa, bên khóe môi thấp thoáng nụ cười hờ hững. “Người gặp chuyện vui tinh thần sảng khoái, Vương gia và tiểu thư cuối cùng đã được như ý nguyện, ai ai cũng vui mừng.” Ngoảnh đầu nhìn ánh mặt trời rạng rỡ chiếu xuống, Hoán Bích hơi nheo mắt lại, chậm rãi nói tiếp: “Chỉ cần hai người được vui vẻ như ý, nô tỳ cũng không còn mong mỏi gì hơn.”

    Kỳ thực, tỉ mỉ nhìn kĩ, dung mạo Hoán Bích rất giống tôi. Mà nếu chỉ nhìn thoáng qua, bóng lưng Huyền Thanh và Huyền Lăng cũng có mấy phần tương tự, dù sao bọn họ cũng là huynh đệ cùng cha.

    Trong những ngày ở bên Huyền Thanh, tôi thỉnh thoảng cũng nghĩ tới Huyền Lăng.

    Chỉ là đã tới nước này rồi, những chuyện xưa dù ngọt ngào hay đau khổ cũng không có gì khác biệt, dần bị tình cảm đậm sâu của Huyền Thanh làm cho phai nhạt. Đôi lúc, trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi lại tự hỏi bản thân, trong những tháng ngày xưa cũ, liệu tôi có mấy phần thật lòng với Huyền Lăng?

    Kỳ thực tôi cũng hiểu, tạm không tính đến chút tình cảm thuở ban sơ, đa phần thời gian tôi cũng đều bày mưu tính kế với y.

    Huống chi, một chút tình cảm ấy cũng đã dần đi vào ngõ cụt, đi vào đường cùng, về sau, giữa hai chúng tôi chỉ còn lại sự nghi ngờ và đề phòng, hơn nữa còn ngày một nặng nề.

    Một tình cảm như thế, liệu có thể coi là thật lòng không?

    Tình cảm của tôi đối với y, chẳng qua chỉ nhiều hơn người khác một chút mà thôi.

    Và giờ đây, y đã hoàn toàn rời khỏi cuộc sống của tôi. Không tính tới Huyền Thanh, người thỉnh thoảng còn mang theo chút hơi thở của hoàng cung tới chỗ tôi chỉ có mình Phương Nhược.

    Kỳ thực, từ sau khi tôi dọn đến thiền phòng ở đỉnh Lăng Vân, số lần Phương Nhược tới thăm tôi ít hẳn.

    Tôi rời cung cũng đã được ba năm, tháng Sáu năm nay, Phương Nhược lại tới thăm tôi lần nữa, nhưng không mang đi chỗ kinh Phật mà tôi chép. Đó là lần cuối cùng bà ta tới thăm tôi, sắc mặt bà ta lộ vẻ ưu thương mà điềm tĩnh. “Thời gian trôi nhanh thật, mới thoáng đó mà đã gần ba năm rồi.” Dừng một chút, bà ta chậm rãi nói tiếp: “Những người không yên tâm về nương tử trong cung nay đã chẳng còn thời gian rảnh mà để ý tới nương tử nữa, kể từ giờ nương tử có thể nói là đã an toàn, do đó nô tỳ cũng không cần tới đây thăm nương tử nữa.”

    Tôi hết sức ngạc nhiên, có chút lưu luyến nói: “Phương Nhược cô cô, sao cô cô lại nói vậy chứ? Dù bọn họ không còn rình mò nữa, cô cô cũng có thể tới đây thăm ta mà.”

    Phương Nhược khẽ vuốt vai tôi vẻ hiền từ, trìu mến. “Trước đây, nô tỳ tới thăm nương tử là để nhắc nhở những người kia chớ có khinh động, còn bây giờ tâm tư bọn họ đã chẳng đặt ở chỗ nương tử nữa rồi, nô tỳ mà tới nữa sẽ chỉ khiến bọn họ chú ý tới nương tử, không những không có lợi mà còn có hại.”

    Tôi nghi hoặc hỏi: “Cớ sao cô cô lại nói như vậy? Bọn họ thật sự đã không còn để ý tới ta nữa sao?”

    “Quả thực là vậy.” Phương Nhược cất giọng cảm khái: “Thứ nhất là vì thời gian qua đã lâu, thứ hai là vì sau đợt tuyển tú ngày mùng Hai tháng này có năm người mới đã được chọn vào cung, tâm tư của bọn họ đều đặt vào đó cả rồi.”

    Tôi nhìn mái tóc đã điểm bạc của Phương Nhược, nghĩ tới chuyện bà ta đã chiếu cố cho mình bao năm, trong lòng hết sức cảm động. Tôi gục đầu lên gối Phương Nhược, nói: “Cô cô chiếu cố ta bao năm, thực đã vất vả rồi. Từ nay về sau, cô cô không thể tới thăm ta nữa, ta có một thỉnh cầu quá đáng thế này, hy vọng về sau cô cô ở trong cung có thể giúp ta chiếu cố cho Lung Nguyệt và My Trang tỷ tỷ, như thế ta cũng được yên tâm.”

    Phương Nhược rơm rớm mắt lệ, khẽ đáp: “Việc này không cần nương tử phải nói, nô tỳ cũng sẽ dốc sức làm. Xin nương tử cứ yên tâm.” Nói tới đây, trên mặt bà ta bất giác lộ nét âu lo. “Chỉ là vừa có người mới vào cung, chốn hậu cung chỉ e từ nay sẽ xuất hiện vô số phong ba.”

    Tôi tò mò hỏi: “Chẳng lẽ những người mới đó có vấn đề gì không ổn sao?”

    “Người mới vào cung, ít nhiều gì cũng sẽ gây ra một số chuyện.” Phương Nhược khẽ vỗ tay tôi, vẻ hết sức hòa nhã. “Nương tử bây giờ đã là người tự do rồi, xin hãy tự bảo trọng.”

    Tôi đứng bên bậu cửa, nhìn theo bóng dáng dần khuất xa của Phương Nhược, thầm nghĩ tới những sự quan tâm mà bà ta dành cho mình kể từ lúc mới vào cung đến giờ, sống mũi bất giác cay cay. Từ giờ trở đi ngay cả bà ta cũng không tới nữa, sợi dây liên hệ giữa tôi và Tử Áo Thành lại mỏng manh thêm một phần.
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 26: Gái nhà nghèo Bích Ngọc
    Độ này thời tiết nóng nực, tôi liền búi tóc theo kiểu Thái hư. Tôi không cắt tóc, vì vâng theo ý chỉ xuất gia để tóc tu hành. Có điều, từ khi vào cửa Phật tới giờ, mỗi ngày tôi không còn phải mất thời gian trang điểm nữa, ngày ngày chỉ rửa mặt bằng nước suối, nếu trời không nóng quá thì mái tóc vẫn chỉ tùy ý buông xõa, cũng chẳng tỉa cho ngắn bớt, thế là càng ngày càng dài.

    Nghĩ lại việc xưa, tôi bất giác cười, nói với Cận Tịch: “Trước đây mỗi ngày ngủ dậy, việc trang điểm là mất nhiều thời gian nhất, cứ phải cài biết bao thứ đồ vàng ngọc lên đầu, làm ta cảm thấy đầu to như cái đấu, nặng nề quá thể.”

    Hoán Bích cũng khẽ cười. “Trước đây, số chỉ vàng trên quần áo tiểu thư tính ra phải nặng tới vài cân, xương cốt nào mà chịu cho nổi, chẳng trách các nương nương trong cung ai nấy đều đi lại khoan thai, kỳ thực là chẳng thể đi nhanh được.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi không kìm được bật cười thành tiếng. “Như chúng ta bây giờ quả đúng là được tự do hơn.”

    Hoán Bích cười tủm tỉm, đi tưới nước cho dãy tịch nhan trước cửa, tư thế khoan thai mà dịu dàng, khẽ nói: “Ở trong cung phải giữ quy củ trong cung, ở trong chùa Cam Lộ phải giữ quy củ của nhà chùa, bây giờ chúng ta bị đuổi đến đây, thành ra chẳng phải giữ quy củ gì nữa, cũng chẳng cần nghĩ tới mấy việc không đâu.”

    Ánh mắt tôi bị dãy tịch nhan thu hút, giọng nói bất giác trở nên dịu dàng: “Ngược dòng đi khắp hang cùng ngách, thư thả ngồi nhìn áng thanh thiên[1]. Cuộc sống như chúng ta bây giờ mới đúng là an nhàn, thư thái.”

    [1] Trích Chung Nam biệt nghiệp, Vương Duy, dịch thơ Phí Minh Tâm. Nguyên văn Hán Việt: Hành đáo thủy cùng xứ, tọa khán vân khởi thời – ND.

    Thế là trong cuộc sống bình lặng về sau, chỉ còn Ôn Thực Sơ và Huyền Thanh là thường xuyên tới thăm tôi. Có điều, Ôn Thực Sơ và Huyền Thanh thường chỉ vừa gặp mặt là sẽ tách ra ngay, do đó cũng chẳng trò chuyện gì nhiều với nhau. Huyền Thanh cứ độ dăm ba ngày lại tới một lần, cùng tôi bàn luận chuyện cổ kim, đánh cờ đối thơ, tìm một vài thú vui tao nhã, có lúc còn mang tới cho tôi một số tin tức về My Trang và Lung Nguyệt. Mấy tin tức ấy đều rất ít ỏi, không đến nỗi khơi dậy sự thương tâm của tôi nhưng cũng đủ để xoa dịu nỗi nhớ nhung và quan tâm nơi đáy lòng tôi.

    Huyền Thanh thường tỏ ra áy náy với tôi, nói rằng dăm ba ngày y mới tới được một lần, không thể ngày ngày bầu bạn bên tôi. Thế rồi y sai A Tấn huấn luyện một con bồ câu mang tới cho tôi, lại cười, nói: “Như vậy chúng ta có thể dùng bồ câu gửi thư cho nhau, cho dù không thể gặp mặt thì cũng có thể trò chuyện với nhau mấy lời.”

    Tôi cố ý trêu y: “Muội không cần đâu, nhận lấy bồ câu rồi đưa thư chưa được mấy lần, chỉ e đã dẫn mèo rừng tới, như thế muội sẽ sợ chết khiếp mất.”

    Huyền Thanh bật cười, nhéo mũi tôi, nói: “Nàng cho rằng bồ câu ngốc đến mức cứ ở yên trong lồng chờ mèo rừng đến ăn thịt sao? Thường ngày nó sẽ tự bay đi kiếm mồi, nàng muốn tìm nó về để gửi thư thì chỉ cần huýt sáo một cái là được.”

    Có lúc tôi không kìm được thầm nghĩ, tại sao y luôn có thể đoán biết tâm sự của tôi rõ ràng như thế, hơn nữa lần nào cũng vừa khéo giúp tôi hóa giải những nỗi băng giá trong lòng.

    Hỏi y, y lại chỉ nhìn tôi mà mỉm cười hòa nhã nhưng không trả lời.

    Thế là tôi không hỏi thêm nữa, chỉ lẳng lặng cảm nhận sự chu đáo của y cùng những khoảnh khắc bình yên mà y đem lại.

    Chiều hôm ấy, tôi và y vừa đánh xong ván cờ bên dưới ô cửa sổ phía tây, bên ngoài trời nóng nực, ve sầu kêu ầm ĩ, nghe cứ như tiếng mưa rơi, toát ra một vẻ mênh mang mà hỗn tạp. A Tấn thì đang ngồi ngủ gật dưới gốc cây, đầu cứ gật gà gật gù.

    Lúc này, Cận Tịch bưng hai chén canh đậu xanh tới, tôi hòa nhã nói: “Uống thứ này để giải khát là tốt nhất đấy, vừa rồi giữa trưa trời nóng như thế mà huynh còn phi ngựa tới, đúng là đầu óc có vấn đề.” Nói rồi tôi cầm một chén lên, dùng nắp gạt đi phần bọt, chậm rãi uống lấy hai ngụm.

    Huyền Thanh ngẩng đầu uống một hơi cạn sạch chén của mình, lại nhìn bóng trúc xanh biếc bên ngoài. “Chỗ này của nàng mát mẻ, do đó ta mới cố tình phi ngựa đến, bây giờ còn được uống canh giải khát nữa chứ!” Rồi y ngoảnh đầu, nói với Cận Tịch: “Cận Tịch, canh đậu xanh cô nấu càng ngày càng ngon hơn rồi.”

    Tôi cười bảo: “Cận Tịch, miệng lưỡi y thực ngọt ngào quá chừng, thôi thì hãy thưởng thêm cho y một chén nữa đi.”

    Cận Tịch tươi cười hòa nhã, lại bưng một chén canh nữa tới. “Vương gia muốn uống bao nhiêu thì có bấy nhiêu.”

    Vừa khéo lúc này Hoán Bích ngừng việc may vá trong tay, nở nụ cười dịu dàng, để lộ hàm răng trắng muốt. “Bên ngoài trời đang nóng như thế, lát nữa Vương gia bất kể là về vương phủ hay Thanh Lương Đài ắt sẽ ra đầy mồ hôi, chi bằng hãy ở lại đây dùng bữa tối.”

    Huyền Thanh mỉm cười, liếc mắt qua phía tôi. “Người hầu đã có lời lưu lại, chẳng biết ý tứ chủ nhân ra sao?”

    Tôi cầm chiếc quạt tròn lên phe phẩy mấy cái, miệng cười, nói: “Hoán Bích đã có lời giữ huynh lại, muội còn tiện đuổi huynh đi nữa sao, chỉ cần huynh không chê nơi đây cơm canh nhạt nhẽo là được.”

    Huyền Thanh ung dung cất tiếng: “Ăn cái gì cũng vậy thôi, tùy tâm là được.”

    Tôi phủi áo đứng dậy, mỉm cười, nói: “Đã như vậy, hôm nay tiểu nữ sẽ đích thân xuống bếp, nấu cho Vương gia một bát canh.”

    Khi mặt trời đã ngả về tây, chúng tôi kê một chiếc bàn dài dưới giàn mướp ngoài sân. Tôi bưng một bát cơm và bát canh tới, nói: “Vương gia nếm thử đi, canh này phải ăn cùng cơm trắng mới ngon.”

    Nước canh ánh lên màu xanh biếc, kết hợp với màu sứ trắng ngần, lại thêm mấy miếng măng và nấm hương nằm im nơi đáy bát, quả thực ngon mắt vô cùng. Huyền Thanh cười, nói: “Mới nhìn thôi đã khiến ngón tay trỏ của ta mấp máy rồi!” Rồi y múc một thìa canh lên, nhắm mắt thưởng thức. “Có mùi thơm của lá sen, có hạt thông, có mùi nấm hương, hình như còn có cả măng nữa.” Đôi hàng lông mày của y hơi cau lại. “Còn có một chút mùi thơm thoang thoảng, rất đặc biệt, ta cũng chưa rõ là thứ gì.”

    Tôi cười, nói: “Là thứ của Thanh Lương Đài đấy, vậy mà huynh lại không biết. Đây là nước tuyết trên mai xanh mà muội gom được lúc dưỡng bệnh ở Thanh Lương Đài của huynh năm ngoái. Mùi thơm của mai xanh khác hẳn mai thường, vừa trong trẻo lại vừa thoát tục, thế mới xứng dùng để nấu canh cùng lá sen non và hạt thông.”

    Y nghiêng đầu, cười nói: “Có nước tuyết trên hoa mai, có lá sen, hạt thông, lại có cả nấm và măng, toàn là những vật thanh tịnh trong thiên nhiên, thảo nào mùi vị lại thanh tân như thế.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Nếu là vật tầm thường, muội đâu dám mang ra cho huynh nếm thử.”

    Huyền Thanh hỏi: “Món này tuyệt vời như vậy, nàng đã đặt cho nó cái tên gì chưa?”

    Tôi đáp giọng ung dung: “Hoa mai, hạt thông, nấm hương và măng đều là vật trên núi, hoa sen thì dưới sông mới có, mấy vật này cùng ở chung một bát, có cả nước lẫn non, cái tên tất nhiên là vô cùng đặc biệt và thú vị rồi.”

    Y khẽ “ồ” một tiếng, trầm ngâm phán đoán: “Có phải tên là ‘Sơn quang thủy sắc’ không?”

    Tôi chậm rãi nói: “Nước non chỉ là thứ yếu thôi, điều đáng quý là phẩm cách của mấy vật này, tất thảy đều là loại rất có khí tiết”, rồi liền cất tiếng cười sảng khoái. “Nên nó tên là Thanh khí trường tồn.”

    Y vỗ tay cười, nói: “Đầu óc nàng đúng là điêu ngoa, cổ quái, đến ta cũng phải tự than không bằng.”

    Tôi hơi nhướng mày, nói: “Chẳng qua là trong lúc rảnh rỗi, muội để ý một chút tới chuyện ẩm thực thôi, vậy cũng bị coi là điêu ngoa, cổ quái sao?”

    Y hưng phấn nói: “Thanh khí trường tồn, nghe cứ như tên của ta vậy.”

    Tôi đập quạt mấy cái, lại đưa tay che miệng cười. “Đúng là người đâu vô lý quá chừng, muội làm một bát canh, huynh lại cố nói rằng nó giống tên mình, có biết xấu hổ không vậy?”

    Nơi khóe mắt Huyền Thanh thấp thoáng nét cười vui vẻ. “Dù nàng có phủ nhận, ta vẫn coi đó là sự thực.”

    Gió đêm mùa hạ mang theo hơi nước ẩm ướt, nhưng khi phả thẳng vào mặt lại khiến người ta cảm thấy mát rượi. Dưới ánh tà dương, những bông tịch nhan ngoài sân nhỏ nhắn, yêu kiều tựa cánh bướm, vừa hàm súc lại vừa dịu dàng, chậm rãi nhả hương khiến người ta quên hết mọi phiền ưu. Sau một thoáng sững sờ, tôi khẽ nói: “Sao huynh lại hiểu rõ lòng muội như thế chứ?”

    Y vừa cầm đũa lên, nghe thấy lời này của tôi thì ngây người, để lộ vẻ mừng rỡ như trẻ con, sau đó liền không kìm được cười rộ. “Chỉ vì cái tên này thôi ta cũng không nên phụ lòng nàng, ta muốn một hơi uống cạn bát canh.”

    Tôi thấy y cầm bát lên định uống, vội bật cười ngăn lại. “Nếu huynh chỉ uống canh mà không ăn cơm, vậy thì đúng là một kẻ ngốc rồi!” Tôi đứng dậy mang tới thêm một đĩa chân giò hun khói và một đĩa đậu phụ hạnh nhân, nói: “Canh này ăn cùng cơm mà có thêm chân giò hun khói thì càng tuyệt, còn mùa hè mà ăn đậu phụ sẽ mát ruột lắm.”

    Trong mắt y thoáng qua một tia mừng rỡ và cảm động, tựa như áng mây hồng rực rỡ nơi đỉnh núi. “Kể từ khi quen biết đến nay, đây là lần đầu tiên nàng xuống bếp vì ta, lại cẩn thận chuẩn bị đồ ăn cho ta như thế, thực làm ta cảm động không thôi.”

    Tôi đưa mắt liếc y. “Ăn thì cứ ăn, nói nhiều như thế làm gì, lẽ nào huynh có dự định sau này thường xuyên tới đây ăn cơm?”

    Y chỉ cười không nói, loáng cái đã ăn hết sạch hai bát cơm và toàn bộ thức ăn.

    Tôi thấy y ăn ngon lành, không hiểu tại sao, trong lòng trào dâng cảm giác mừng rỡkhôn cùng. Có lẽ khi đồ ăn mình nấu được người khác yêu thích, ai cũng có cảm giác như tôi lúc này.

    Một mùi thơm ngọt ngào bỗng từ đâu bay tới, dường như đó là sự kết hợp giữa mùi hoa hồng và mùi rượu. Ngay đến tôi cũng bị thu hút, không kìm được ngoảnh đầu nhìn lại, thấy Hoán Bích đang chậm rãi bước tới, mặt đầy nét cười. “Nô tỳ vừa xuống bếp nấu một bát canh rượu nếp hoa hồng, dùng làm điểm tâm thì rất hợp, xin Vương gia hãy nếm thử xem sao.”

    Đó là một bát canh rượu nếp màu trắng sữa, tỏa hương nồng nàn, bên trên còn rắc cánh hoa hồng, trông rất bắt mắt.

    Tôi cười, nói: “Mới ngửi đã thấy thơm rồi, tay nghề của Hoán Bích quả là không tệ.”

    Huyền Thanh thoáng lộ vẻ khó xử, cười nói: “Hôm nay ta quả thực đã no rồi, mà rượu nếp lại ngọt, ta ăn thêm không nổi.”

    Hoán Bích nhìn chỗ bát đĩa đã được ăn sạch bách trên bàn, có chút thất vọng, nói: “Vậy, chỉ nếm thử một chút thôi được không?”

    Nhìn muội ấy tay bưng bát canh thơm nức đứng ngay trước mặt, dáng vẻ hết sức đáng thương, người khác thực khó lòng cự tuyệt. Huyền Thanh cười tủm tỉm, nói: “Tay nghề của Hoán Bích vừa nhìn đã biết là rất tuyệt rồi, chỉ là hôm nay ta thực sự không thể ăn thêm được nữa, chi bằng để hôm khác đi.”

    Hoán Bích có chút ủ rũ, tiến thoái lưỡng nan, chỉ biết thấp giọng nói: “Vậy cũng được!”

    Tôi biết Huyền Thanh không thích ăn đồ ngọt nhưng thực không nên vì việc này mà làm Hoán Bích khó xử quá. Thoáng suy nghĩ, tôi bèn cười, nói: “Vừa rồi không phải huynh nói muốn tới An Tê quán thăm Thái phi sao, đừng đi muộn quá kẻo Thái phi lại lo, tranh thủ khi trời còn chưa tối hẳn mà đi mau thôi!” Tôi một lòng mong y đi mau cho, không hề phát hiện Hoán Bích đứng sau lưng mình, mặt đầy vẻ hụt hẫng.
    Huyền Thanh hiểu ý. “Vậy, mấy ngày nữa ta sẽ lại t۩.”

    Vì y thường xuyên tới đây nên tôi cũng không ra ngoài tiễn, đợi y đi rồi, thấy Hoán Bích đang lẳng lặng thu dọn bát đĩa trên bàn, tôi bèn dịu dàng khuyên giải: “Chẳng qua chỉ là một bát canh rượu nếp hoa hồng mà thôi, muội đã tốn công làm rồi, lúc khác Thanh nhất định sẽ ăn, hà tất phải buồn bã ủ ê như vậy.”

    Hoán Bích cúi đầu lau mạnh mặt bàn, thấp giọng nói: “Vương gia sẽ không ăn đâu.” Thoáng dừng một chút, trong mắt muội ấy ánh lên những tia ảm đạm. “Vừa rồi khi Vương gia thoái thác, ánh mắt chẳng nhìn về phía bát canh lần nào, có thể thấy y không hề thích ăn.”

    Tôi khẽ thở dài. “Hoán Bích, kỳ thực muội nhìn người rất tinh tế.”

    “Vậy sao?” Ánh tà dương chiếu xuống một bên mặt Hoán Bích, phủ lên đó một tầng ánh sáng màu hồng, chẳng hề ăn nhập với vẻ mặt của muội ấy lúc này. “Nô tỳ vốn thấy Vương gia khi rảnh rỗi thích uống chút rượu, do đó mới làm một bát canh rượu nếp hoa hồng, không ngờ dụng tâm lại không đúng chỗ.” Nói rồi liền đưa tay đổ bát canh vào thùng nước, sắc mặt bình thản, không hề có chút tiếc nuối.

    Tôi ngây ra. “Dù Thanh không muốn ăn thì muội cũng cứ để đó, việc gì phải đổ đi.”

    Hoán Bích vẫn thản nhiên như thường, mỉm cười, nói: “Nô tỳ làm là để cho Vương gia ăn, y không ăn thì nô tỳ đổ đi thôi, cũng không định để lại cho người khác. Nếu tiểu thư và Cận Tịch thích ăn, nô tỳ làm lại là được.”

    Tôi thầm thở dài một tiếng, tính cách của Hoán Bích dường như ngày càng cổ quái thì phải.

    Nhìn theo bóng lưng gầy guộc của muội ấy, tâm trạng tôi tựa như bầu trời đêm lúc này, dần bị nhuốm một tầng mờ mịt.

    Hoán Bích vẫn tiếp tục ít nói và trầm lặng như xưa, chỉ là ánh mắt của muội ấy khi nhìn về phía tôi đã dần có thêm một tầng sương mỏng. Nhưng muội ấy đã không muốn nói, tôi cũng không chủ động đi hỏi, chỉ coi như không biết.

    Rốt cuộc có một ngày, khi tôi đang cầm bình nước tưới cho dãy hoa tịch nhan, Hoán Bích đứng bên cạnh, chậm rãi nói: “Tiểu thư xưa nay vốn thông minh hơn người, tại sao lại đi hỏi Vương gia một câu nông cạn…” Muội ấy thoáng do dự rồi mới tiếp: “Hoặc có thể nói là ngốc nghếch như thế?”

    Hoán Bích nói chuyện trước giờ vẫn luôn cẩn thận, hôm nay lại dùng những lời lẽ sắc bén như thế với tôi, thực là kỳ lạ vô cùng.

    Tôi xoay người lại, trong mắt hiện lên một tầng nghi hoặc.

    Hoán Bích không hề sợ hãi, cũng không cúi đầu như thói quen thường ngày, chỉ lặng lẽ nhìn tôi bằng đôi mắt ngày một sâu thẳm, khẽ cất tiếng: “Tại sao Vương gia lại hiểu tâm tư của tiểu thư như vậy, tiểu thư thực sự không biết sao?” Thực sự không biết sao? Tôi tự vấn bản thân, thầm ngẫm nghĩ về câu hỏi này của Hoán Bích. “Bởi vì tất cả tâm tư của Vương gia đều đặt vào những sự buồn vui, mừng giận của tiểu thư rồi, do đó, tâm tư của tiểu thư, sao Vương gia có thể không biết kia chứ?”

    Đúng thế, tôi đã từng cảm thấy mình và Huyền Thanh tâm ý tương thông, nhưng nếu không hữu ý, nếu không đặt toàn bộ tâm tư của mình lên người đối phương, cái gọi là tâm ý tương thông kia làm sao mà có được?

    Tâm ý tương thông! Thì ra, tôi cũng hiểu rõ tâm tư của y, chỉ là suốt một thời gian dài trước đây, tôi luôn tự dối lòng, cho rằng mình không hay biết gì đó thôi.

    Hoán Bích không hề dời mắt khỏi người tôi, đã thế còn có mấy phần bức bách, giọng nói thoáng vẻ lạnh lùng: “Tiểu thư, kỳ thực tiểu thư đều biết cả, nhưng đã biết rồi tại sao còn phải hỏi như vậy?”

    Ánh mắt tôi dừng lại mãi trên một cành tịch nhan có những bông hoa vừa chớm nụ, hồi lâu sau vẫn chẳng thể dời đi. Những bông hoa đó thực trắng ngần thuần khiết, tựa vô số ngôi sao sáng rực trên trời, soi sáng trái tim vốn luôn mơ hồ và ảm đạm của tôi.

    Những tia tình cảm mơ hồ thuở ban đầu của y, kỳ thực ngay từ lúc ngắm hoa tịch nhan ở đài Đồng Hoa tôi đã lờ mờ hiểu được một chút.

    Vậy mà mãi đến lúc này, tôi còn hỏi y: “Sao huynh lại hiểu rõ lòng muội như thế chứ?”

    Tôi đã biết được đáp án từ sớm, chẳng qua chỉ không muốn tự tay mình vén mở nó ra mà thôi. Hoặc có lẽ, tại nơi sâu thẳm tâm hồn, tôi vẫn luôn mong y sẽ tự nói với tôi, chính miệng nói với tôi, rằng tất cả là vì tôi.

    Dường như chỉ có như vậy, tôi mới có thể hoàn toàn tin đây là sự thật, tin y thực sự yêu tôi, dù thân phận của tôi có thay đổi thế nào.

    Không biết tự bao giờ, tại nơi sâu nhất nơi đáy lòng tôi, những bông tịch nhan đêm đó sớm đã vượt hẳn lên mọi thứ kỳ hoa dị thảo trên thế gian này, không gì so sánh được.

    Ngay từ lúc tôi còn chưa biết gì, ngay từ lúc tôi còn dùng tư thái ngấm ngầm cự tuyệt để đối mặt với tình cảm của y, những bông hoa tịch nhan không thể nở rộ dưới ánh mặt trời và bị người đời gọi là “hoa bạc mệnh” kia đã đâm chồi nảy lộc trong trái tim tôi, nở ra một biển hoa trắng lóa.

    Thì ra, nó sớm đã biến thành một vầng trăng sáng trong trái tim tôi, đến lúc này mới hiện ra để soi đường chỉ lối.

    Tôi chỉ khẽ mỉm cười. “Hoán Bích, muội càng ngày càng thích phán đoán tâm tư của người khác rồi đấy!” Ngoảnh đầu lại, mùi thơm dìu dịu của tịch nhan thoảng qua bờ má, bên khóe môi tôi như nở ra một bông hoa.

    Hồi lâu sau, lời của Hoán Bích mới bật ra khỏi miệng: “Trước đây khi cự tuyệt Vương gia, tiểu thư đã từng dùng bài Bích Ngọc ca.” Thoáng dừng lại, Hoán Bích khẽ ngâm: “Gái nhà nghèo Bích Ngọc, đâu dám với cành cao. Tạ ơn chàng hữu ý, thẹn không sắc khuynh thành.”

    Tôi ngẩng lên nhìn muội ấy. “Thì sao?”

    Hoán Bích vẫn cười, nhưng nụ cười ấy lại có vẻ lạnh lùng, hờ hững, tựa như một giọt sương đậu trên bông tịch nhan. “Khi cự tuyệt Vương gia, tiểu thư có từng nghĩ đến mấy câu Bích Ngọc ca kế tiếp không, chỉ khác nhau một chút thôi, nhưng ý nghĩa lại hoàn toàn khác biệt.”

    Tôi suy nghĩ một chút, chậm rãi ngâm: “Gái nhà nghèo Bích Ngọc, đâu dám với cành cao. Cảm tạ chàng nghĩa nặng, nay xin kết kim lan[2]. Hoán Bích, muội muốn nói tới mấy câu này sao?”

    [2] Trích Bích Ngọc ca, Tôn Xước. Nguyên văn Hán Việt: Bích Ngọc tiểu gia nữ, bất cảm phàn quý đức. Cảm lang ý khí trọng, toại đắc kết kim lan – ND.

    Hoán Bích khẽ gật đầu, chiếc váy màu xanh nhạt bị làn gió thổi bay lất phất, như thể đã hòa vào mảng cành lá tịch nhan kia. “Tiểu thư, khi đó tiểu thư có từng nghĩ đến điều này không?”

    Tôi tỉ mỉ ngẫm lại, có lẽ thực sự có vài phần trùng hợp, thế là bèn trịnh trọng lắc đầu. “Thực sự là không.” Thế nhưng khi tôi trả lời, biến hóa đã xảy ra, giống như sự thay đổi trong Bích Ngọc ca vậy, tình cảm biến chuyển hết sức bất ngờ, thành ra trong câu trả lời trịnh trọng của tôi bỗng dưng xuất hiện một tia mềm mại.

    “Cảm tạ chàng nghĩa nặng, nay xin kết kim lan.” Hoán Bích khẽ nở nụ cười, ngón tay quấn lấy dải dây lưng xanh biếc trên chiếc áo, lẩm bẩm nói: “Tiểu thư, nô tỳ sớm đã biết được tiểu thư và Vương gia rồi sẽ…”

    Tôi hết sức ngạc nhiên trước những lời này, bất giác trầm tư, hỏi: “Hoán Bích, muội rốt cuộc muốn nói gì?”

    Nụ cười hờ hững của Hoán Bích tựa như bông tịch nhan khẽ rung rinh giữa làn gió thu. “Nô tỳ chỉ hay nghĩ, ngày đó tuy tiểu thư đã cự tuyệt Vương gia nhưng tại đáy lòng, có lẽ vẫn mang một chút suy nghĩ ‘cảm tạ chàng nghĩa nặng, nay xin kết kim lan’. Chẳng lẽ ngày đó khi nói lời cự tuyệt, tiểu thư thực sự không có chút tâm ý nào với Vương gia sao?”

    Tôi nói chẳng thành lời, có lẽ là có nhưng lúc đó, tôi vẫn còn vô cùng chần chừ, do dự.

    Còn Hoán Bích, muội ấy đã trở nên nhạy cảm và tinh tế thế này từ bao giờ vậy?

    Hoán Bích dường như biết được nỗi nghi hoặc của tôi, liền khẽ nói: “Nô tỳ cảm thấy hiểu được nhiều hơn một chút là việc tốt. Đi theo tiểu thư được nghe nhiều rồi, thành ra cũng hiểu nhiều hơn, nhìn người, nhìn việc thấu triệt hơn.” Thoáng dừng lại, Hoán Bích mỉm cười, nói tiếp: “Hoán Bích có thể hiểu nhiều điều như vậy, thực sự phải cảm ơn tiểu thư. Tiểu thư thường xuyên giảng giải về thi thư cho nô tỳ nghe, nhờ thế nên nô tỳ mới không đến nỗi đần độn chẳng biết gì.”

    Muội ấy nói rất nhẹ nhàng, chỉ một lời đã lược qua mọi việc, sau đó liền xoay người đi luôn, thân hình nhẹ nhàng, tha thướt nhưng bước chân lại thấp thoáng nét nặng nề, hoàn toàn không phù hợp với dáng vẻ bề ngoài của muội ấy.

    Tôi nhìn theo bóng lưng Hoán Bích, chút nghi hoặc nơi đáy lòng dần trở nên rõ rệt.

    Khi tôi thổ lộ với Cận Tịch về sự nghi hoặc của mình, Cận Tịch chỉ nói: “Nương tử đừng hỏi gì Hoán Bích, cũng đừng để lộ chút ý tứ đó, cứ coi bản thân như một người hồ đồ là được.”

    Thấy tôi lộ vẻ khó hiểu, Cận Tịch nói thẳng: “Mọi người đều thấy rõ tình cảm giữa nương tử và Vương gia, nô tỳ chỉ hỏi một câu thôi, nương tử có định học theo Nga Hoàng, Nữ Anh[3] thời cổ không?”

    [3] Nga Hoàng và Nữ Anh là hai người con gái của vua Nghiêu, cùng gả về làm vợ của vua Thuấn. Điển tích này chủ yếu nói về việc hai chị em ruột cùng thờ một chồng – ND.

    Tôi không chút nghĩ ngợi đáp ngay: “Không! Mà dù ta có tâm tư này, Thanh cũng quyết không chịu.”

    “Vậy thì phải rồi. Hoán Bích hầu hạ bên cạnh nương tử nhiều năm, suy nghĩ này của nương tử, cô ấy tất nhiên hiểu rõ. Nô tỳ thấy cô ấy rất để tâm đến Thanh Vương gia, như thế tâm tư của Vương gia, cô ấy hẳn nhiên cũng biết. Mà vì cô ấy đã biết cả, một khi cô ấy không nói, nương tử cũng đừng nên hỏi gì. Trừ phi nương tử muốn hai bên rơi vào cảnh khó xử, hoặc là đang nghĩ cách để đuổi Hoán Bích đi.”

    Tôi nôn nóng nói: “Tình cảm giữa ta và Hoán Bích đâu phải tầm thường, bên cạnh ta chỉ có muội ấy thôi, muội ấy cũng chỉ có thể nương tựa vào ta, ta sao nỡ để muội ấy phải khó xử hoặc đuổi muội ấy đi chứ.”

    Cận Tịch thở phào một hơi. “Vậy thì đúng rồi. Cứ như nô tỳ thấy, Hoán Bích cô nương cũng là người hiểu chuyện, cô ấy hiểu rất rõ tình cảm giữa nương tử và Vương gia, do đó ắt sẽ không mở miệng nói gì đâu. Hai ngày nay, cô ấy như vậy, chỉ có thể nói là đang nổi tính con gái thôi. Nếu nương tử để tâm quá thì chỉ tự làm khổ mình.”

    Lời của Cận Tịch giống như dòng nước mát lạnh giội xuống đầu tôi, tôi lập tức tỉnh táo hẳn ra. “Vậy theo ý của ngươi thì bây giờ ta nên giả bộ chẳng hay biết gì.”

    “Phải, như thế hai bên còn có thể tiếp tục ở bên nhau.” Cận Tịch chậm rãi nói: “Kỳ thực Vương gia cũng không phải người hồ đồ, tâm tư của Hoán Bích cô nương, ngài ấy chưa chắc đã không nhìn ra. Có điều, nhìn bộ dạng đó của Vương gia, ngài hẳn cũng đang giả bộ không biết, như thế việc gì nương tử phải chọc thủng lớp giấy dán cửa sổ đó. Nếu thực sự đến ngày phải bộc bạch mọi điều, tất nhiên Vương gia sẽ nói, nương tử không cần bận tâm đâu.”

    Lòng tôi lúc này sáng tỏ như gương, khẽ nở một nụ cười mỉm. “Cận Tịch, ngươi lúc nào cũng có thể nhìn sự việc một cách thấu triệt như thế, thật khiến ta yên tâm.”

    Cận Tịch cúi đầu, cười đáp: “Trong việc này, cả nương tử, Bích cô nương và Vương gia đều là người trong cuộc, chỉ có nô tỳ đứng ngoài nên thấy rõ thôi. Huống chi cả ba vị đều là người thông minh, hãy coi như đây là một lần hồ đồ hiếm có vậy.”

    Thế rồi sau đó tôi liền làm bộ thản nhiên, coi như chẳng hay biết gì, thái độ ấy của tôi đã khiến tâm tư Hoán Bích dần trở nên bình lặng.
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 27: Đêm thu
    Hôm nay là ngày Thất Tịch, tôi đoán buổi tối trong cung hẳn sẽ mở tiệc theo lệ thường nên y nhất định không thể tới đây. Thế là tôi bèn cùng Hoán Bích và Cận Tịch đi nấu vài món ăn đơn giản, chuẩn bị dùng bữa tối.

    Đêm về gió lớn, thổi bay cái nóng nực lúc ban ngày, làm chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi thấy rau kim châm mà Cận Tịch xào ăn rất ngon, bèn hỏi: “Còn rau kim châm không?”

    Cận Tịch đang đứng dưới giàn mướp kiễng chân hái quả, nghe vậy liền ngoảnh đầu đáp: “Còn nhiều lắm.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi cười nói: “Vậy chi bằng hãy xào rau kim châm, lại làm thêm món dưa chuột trộn nữa, rồi ta sẽ tự mình mang đến cho Thư Quý thái phi.”

    Cận Tịch cười, nói: “Vậy thì hay lắm, chỗ Thư Quý thái phi vốn ít người, nương tử tới đó thứ nhất là có thể tỏ lòng hiếu thảo, thứ hai là còn có thể chuyện trò bầu bạn với Thái phi một phen.” Nói rồi bèn quay sang nháy mắt với Hoán Bích, lại cúi đầu, cười khúc khích không thôi.

    Hoán Bích không tiếp lời, chỉ khẽ cười cho qua chuyện, đồng thời vẫn ngồi trên ghế chậm rãi bóc vỏ đỗ. Tôi biết Cận Tịch nói vậy là có ý gì, không khỏi cảm thấy hơi xấu hổ, chỉ đành nói: “Thư Quý thái phi dù sao cũng là trưởng bối, ta đi thăm bà ấy là việc nên làm.”

    Cận Tịch mím môi cười, nói: “Tất nhiên rồi, rất nên làm ấy chứ.”

    Tôi biết nàng ta đang lấy chuyện với Huyền Thanh ra để trêu mình, cũng không tiện biện bạch gì thêm, chỉ lặng im chờ Cận Tịch chuẩn bị đồ ăn xong xuôi rồi xếp vào trong hộp.

    Hoán Bích đứng dậy phủi áo mấy cái, nói: “Chi bằng để nô tỳ cùng tiểu thư qua đó một chuyến.”

    Tôi mỉm cười, chỉ tay lên trời. “Trời hãy còn sáng lắm, để ta một mình tới An Tê quán là được rồi. Dù sao cũng chỉ đi một chút rồi về, muội và Cận Tịch cứ ở nhà ăn cơm trước đi.”

    Hoán Bích khẽ “ừm” một tiếng, dõi mắt theo chân tôi ra đến bên ngoài.

    Lúc này trời còn sớm, một mảng ráng chiều rực rỡ nổi lên giữa bầu trời biếc xanh, tựa như cây đèn lưu ly mà tôi từng nhìn thấy hồi nhỏ, những màu sắc từ đỏ tía, xanh lam, vàng tươi, phỉ thúy tới vàng cam biến đổi không ngừng, tựa như một dải gấm ngũ sắc trải dài giữa trời cao. Trên núi tuy gió lớn nhưng đi đường lâu rồi, trên lưng tôi cũng rỉ đầy mồ hôi. Có điều, tôi không hề cảm thấy nóng, còn sinh lòng đắm đuối trước cảnh sắc hiện thời, trong lòng thầm nghĩ người ta hay kể Chức Nữ giỏi nghề dệt vải, mảng mây màu rực rỡ như gấm vóc trước mắt này liệu có phải do chính tay nàng ta dệt thành không đây?

    Thế nhưng, Chức Nữ bao năm trời nhung nhớ Ngưu Lang ở bờ bên kia sông Ngân, trọn ngày không thành lời, khóc nghẹn lệ như mưa[1], đằng sau áng mây màu rực rỡ này rất có thể chính là vô số giọt nước mắt thương tâm tột độ. Suy nghĩ như vậy, cảnh sắc trước mắt dù có đẹp đến mấy cũng nhuốm đầy nét sầu, không còn gì thú vị nữa.

    [1] Trích Điều điều khiên Ngưu tinh, vô danh. Nguyên văn Hán Việt: chung nhật bất thành chương, khấp thế linh như vũ – ND.

    Ngoài kinh đô có rất nhiều đồi núi, liên miên trùng điệp, tựa như bức bình phong thiên nhiên xanh biếc, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến đỉnh Phiêu Miểu, đỉnh Tha Nga, đỉnh Cam Lộ và đỉnh Lăng Vân. Đỉnh Phiêu Miểu và đỉnh Tha Nga đứng đối diện nhau, đỉnh Cam Lộ, đỉnh Tha Nga và đỉnh Lăng Vân thì liền thành một dải, phong cảnh tú lệ vô cùng. Chùa Cam Lộ được xây trên phần ngọn của đỉnh Cam Lộ, An Tê quán của Thư Quý thái phi thì nằm ở hậu sơn, Thanh Lương Đài của Huyền Thanh tọa lạc trên đỉnh Phiêu Miểu, còn nơi tôi ở là đỉnh Lăng Vân, đỉnh này có thế núi cao và dốc nhất so với ba đỉnh còn lại, chỉ là lại nằm giữa đỉnh Tha Nga và đỉnh Cam Lộ, do đó việc đi lại thuận tiện hơn một chút.

    Thiền phòng mà tôi trú ngụ vốn nằm tại sườn núi của đỉnh Lăng Vân, đi từ đó tới An Tê quán cũng không xa lắm, chỉ cần chừng nửa canh giờ là có thể tới nơi.

    An Tê quán tuy nhỏ nhưng chỉ có hai người Thư Quý thái phi và Tích Vân cô cô sống ở đó mà thôi, do đó hết sức thoáng đãng. Tôi đẩy cửa đi vào, Tích Vân cô cô nhìn thấy tôi tới thì liền nở nụ cười tươi, vẫy tay gọi: “Thái phi đang niệm kinh trong nội đường, nương tử hãy tạm qua đây đã”, rồi lại cười tủm tỉm. “Nương tử tới đúng lúc thật, ta đang chuẩn bị hái ít nho mang đi rửa đây, vừa hay có thể mời nương tử.”

    Nói rồi bà ta liền dẫn tôi đi xuyên qua sân trước để tới sân sau.

    Ở cửa sân trước có trồng một cặp tùng bách, nhìn cao lớn cân đối, lại kết hợp với những gốc ngô đồng xung quanh, phủ bóng xuống tạo thành một vùng râm mát.

    Tích Vân thấy tôi nhìn chăm chú, liền cũng đưa mắt liếc qua, nói: “Năm xưa, khi Thái phi mới vào quán, Lục Vương gia vô cùng quyến luyến, mang hai cái cây đến chính tay trồng ở đây rồi mới rời đi. Nhớ năm xưa hai cái cây này còn nhỏ xíu, vậy mà giờ đã lớn thế này rồi, khiến người ta không kìm được phải cảm thán thời gian quả như bóng câu qua khe cửa.”

    Tôi khẽ gật đầu, nghĩ tới việc cặp tùng bách này là do chính tay y trồng, không kìm được đưa tay tới sờ thử, cảm thấy cực kỳ thân thiết.

    Dường như nơi bàn tay tôi chạm tới không phải là một lớp vỏ cây sần sùi, mà là dấu tích y đã từng sờ qua, nơi đáy lòng trào dâng một nỗi niềm vui thích.

    Đi tới sân sau, tôi ngẩng lên nhìn, quả nhiên thấy có một giàn nho lớn, vô số cành lá xanh biếc trườn bò trên những chiếc sào trúc thẳng tắp, mỏng manh, biến toàn bộ sân sau thành một khoảng râm mát. Từ trên giàn nho có vô số chùm nho rủ xuống, chùm thì đỏ tía, chùm thì xanh biếc, nhìn trái nào cũng căng mọng như sắp nứt ra đến nơi, ngon mắt vô cùng.

    Tôi cười nói: “Trông ngon mắt quá, Thái phi quả là có khẩu phúc.”

    Trong núi thanh tịnh, từng làn gió mát vi vu thổi tới, khiến người ta thư thái, dễ chịu. Lời của tôi vừa dứt, Thư Quý thái phi đã chậm rãi bước ra, cười nói: “Con tới rồi!”

    Tôi hành lễ bái kiến trưởng bối xong bèn thưa: “Vốn hôm nay là ngày Thất Tịch, con không nên tùy tiện tới quấy rầy Thái phi, có điều thị nữ hầu cận của con mới nấu được hai món ăn vừa miệng, con nghĩ Thái phi chắc sẽ thích ăn, liền mang tới mời Thái phi nếm thử.”

    Thái phi vốn rất mực hiền hòa, khi cười trông lại càng tươi tắn, xinh đẹp. “Ta ở chỗ này quanh đi quẩn lại cũng chẳng có việc gì, con tới đúng lúc lắm, nếu không đêm Thất Tịch năm nay lại chỉ có ta và Tích Vân ngồi nhìn nhau thôi, như thế thì nhạt nhẽo lắm.”

    Đang lúc nói chuyện, Tích Vân đã bưng thức ăn từ trong chiếc hộp ra, đặt xuống chiếc bàn đá dưới giàn nho. Thái phi khẽ cười, nói: “Mấy món này chỉ mới nhìn thôi đã thấy ngon rồi, ta thích lắm!”, nói rồi liền kéo tôi ngồi xuống. “Ta vẫn chưa dùng bữa tối, chi bằng Hoàn Nhi hãy ngồi xuống ăn cùng ta luôn được không?”

    Tôi đáp: “Con vốn định quay về nhưng Thái phi đã có lời như thế, con tất nhiên cung kính không bằng tuân lệnh, vừa hay khi tới đây con cũng chưa ăn gì.” Thế rồi tôi bèn giúp Tích Vân bưng từ trong hộp ra một đĩa đậu phụ hoa hồng, một đĩa gừng tím, một bát canh mướp, ngoài ra còn có cháo trắng, toàn những món ăn dịu mát rất hợp dùng trong mùa hè. Sau đó, ba người chúng tôi cùng ngồi xuống ăn.

    Màn đêm tối mịt dần buông xuống, bao trùm cả bầu trời. Nơi chân trời phía đằng đông, một vầng trăng khuyết từ từ xuất hiện, cuối cùng leo lên mãi tít ngọn cây.

    Tôi và Thái phi ngồi ăn nho với nhau, Thái phi chậm rãi nói: “Mãi tới trưa nay nghe Tích Vân nói, ta mới nhớ ra hôm nay là ngày Thất Tịch. Cuộc sống trong núi quá mức bình lặng, làm ta quên hết tháng năm, thiếu chút nữa còn quên cả ngày Thất Tịch.” Những ngón tay cẩn thận bóc vỏ một quả nho, miệng bà khẽ nở nụ cười. “Kỳ thực, tiên đế qua đời đã nhiều năm như vậy rồi, đối với ta mà nói, ngày Thất Tịch với ngày thường cũng chẳng có gì khác biệt, nhưng mấy cô bé như bọn con thì khác, ngày này quả là có ý nghĩa vô cùng.” Nói xong, bà liền nhìn tôi mà cười tủm tỉm.

    Tôi có chút thẹn thùng, cúi gằm mặt xuống, mân mê quả nho trong tay, thấp giọng nói: “Thái phi đang nói gì vậy?”

    Bà chăm chú nhìn tôi một lát, chợt nghĩ tới điều gì, bèn hỏi: “Thanh Nhi vẫn chưa tới sao? À, hôm nay trong cung nhất định lại tổ chức yến tiệc, chắc nó không tới được rồi!”, sau đó lại hỏi tôi: “Có phải đã đi Thái Bình hành cung rồi không?”

    Tôi lắc đầu. “Hai năm nay, Hoàng thượng đều ở lại trong cung, rất ít khi tới Thái Bình hành cung tiêu khiển.”

    “Tuy là ở trong cung nhưng muốn ra ngoài e cũng chẳng dễ dàng gì.”

    Thái phi khẽ gật đầu, cười nói: “Chẳng trách trong ngày này mà con lại chạy đến đây bầu bạn với một bà già như ta, hóa ra là cô độc một mình.” Sau đó bà lại an ủi tôi: “Không phải Thanh Nhi không thương con, chỉ là ở trong cung nó cũng có sự bất đắc dĩ của nó. Vả lại nói thực lòng, ta nghĩ bây giờ dù đang tham gia yến tiệc nhưng trong lòng nó chắc chỉ có mình con thôi.”

    Khóe miệng tôi hơi nhếch lên: “Thái phi không cần khuyên nhủ, lòng y thế nào con tất nhiên hiểu rõ. Cho dù tạm thời không thể ở bên nhau cũng đâu phải việc gì nghiêm trọng.”

    Thái phi khẽ xoa trán tôi một cái, thở dài than: “Con có thể hiểu rõ lòng nó như vậy là tốt rồi. Ta với Thanh Nhi mẫu tử đồng tâm, nó đối xử với con thế nào, ta là người làm mẹ tất nhiên biết rõ. Do đó, trong lòng ta, con cũng giống như con gái của ta vậy.”

    Tôi thầm cảm động, vùi đầu xuống gối Thái phi, khẽ nói: “Trong lòng con, Thái phi cũng giống như mẹ của con vậy.” Nói xong, hai bờ má bất giác nóng bừng, cảm thấy hết sức xấu hổ.

    Thái phi trìu mến nói: “Con đã coi ta là mẹ, ta cũng không giấu gì con nữa, con và Thanh Nhi muốn được ở bên nhau, ắt sẽ phải trải qua rất nhiều gian nan thử thách. Chỉ là nếu lòng các con giống nhau, tất nhiên sẽ không có việc gì làm khó được. Có câu nói rằng tình cứng hơn vàng, con có biết không?”

    Tôi gật đầu thưa: “Dạ biết!”

    Một làn gió nhẹ khẽ thổi qua bờ má, mát rượi và dịu dàng giống như bàn tay Thái phi, mang tới cảm giác vô cùng thoải mái.

    Thái phi ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, bốn phía đều tĩnh lặng, loáng thoáng có tiếng chim hỉ thước vỗ cánh bay qua. Giọng nói của Thái phi vang lên tựa như làn nước mùa xuân mềm mại: “Thằng bé Thanh này rất giống với ta và phụ hoàng của nó. Trước đây, ta là con gái của hàng tướng Bãi Di, theo phụ thân vào triều đình Đại Chu, cuộc sống vốn đã khốn khó, về sau cha ta lại mắc tội, ta liền bị đưa vào tội tịch, phải tới làm nô tỳ trong phủ của Trưởng công chúa Vinh Đức. Sau này, Hoàng thượng vì muốn đưa ta vào cung, cho ta một danh phận, để ta có thể ở mãi bên người, bèn bảo ta nhận Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên Nguyễn đại nhân làm nghĩa phụ. Sau bao phen trắc trở, ta rốt cuộc đã vào được cung nhưng lại chỉ được ở trong Thái Bình hành cung mà thôi.” Thái phi dường như đã chìm vào dòng hồi ức, khuôn mặt trắng nõn được ánh trăng mông lung mờ ảo chiếu lên, lại càng ngợp nét dịu dàng, mềm mại. “Chiêu Hiến Thái hậu vì bất mãn với xuất thân của ta, do đó không cho phép ta vào Tử Áo Thành nhận sắc phong. Chiêu Hiến Thái hậu là mẹ cả của tiên đế, sau khi mẹ ruột của tiên đế là Chiêu Tuệ Thái hậu qua đời, tiên đế vốn là do bà ta chính tay nuôi nấng trưởng thành. Với tình mẫu tử mười mấy năm như thế, tiên đế tất nhiên không tiện làm trái ý Chiêu Hiến Thái hậu nhưng đồng thời cũng không nỡ để ta phải chịu ấm ức, do đó mới cho xây dựng đài Đồng Hoa ở Thái Bình hành cung rồi đón ta tới cử hành lễ sắc phong.”

    Đài Đồng Hoa, đó là nơi cử hành lễ sắc phong cho Thư Quý thái phi năm xưa, đồng thời cũng là nơi bà và tiên đế công khai đứng trước mặt người đời, dắt tay nhau cùng tiến cùng lùi, bất chấp mọi sự ngăn cấm. Khi đó, tiên đế đã đứng trên đài Đồng Hoa, đích thân dùng Trường tương thủ thổi bài Phượng hoàng vu phi để nghênh đón nữ tử mình yêu. Đối với một nữ tử mà nói, tình ý đậm sâu như thế tất nhiên là một quãng hồi ức vô cùng đẹp đẽ.

    Nhưng đối với tôi, đài Đồng Hoa… Nơi khóe miệng tôi bất giác gợn lên một nụ cười dịu dàng.

    Những bông tịch nhan đêm đó trông mới thuần khiết làm sao. Mỗi lần thương tâm, đau khổ, trong đầu tôi lại xuất hiện cuộc chuyện trò đêm đó, tâm trạng bất giác trở nên bình lặng hơn nhiều.

    Thái phi thấy tôi mỉm cười, không kìm được hỏi: “Hoàn Nhi, con đang cười gì vậy?”

    Tôi nghe thế thì giật mình tỉnh táo trở lại, cười đáp: “Con đang nghĩ trước đây mình đã từng nhìn thấy đài Đồng Hoa, do đó mới cười thôi.”

    Thái phi nói: “Phải rồi, đài Đồng Hoa cao ba trượng chín thước, được dựng thành hoàn toàn từ ngọc thạch trắng thượng hạng, vô cùng xa hoa, rực rỡ. Để dựng được đài Đồng Hoa, vô số người thợ giỏi đã phải bỏ ra rất nhiều tâm huyết. Tiên đế còn sai người trồng rất nhiều cây đường lê và ngô đồng xung quanh đài Đồng Hoa, ngô đồng… vốn là loài cây tượng trưng cho tình yêu vĩnh cửu mà.”

    Tôi gật đầu, nói: “Dạ, ngô đồng có thể mời gọi phượng hoàng tới, quả là một giống cây cao quý tượng trưng cho sự ân ái. Qua việc này có thể thấy tâm tư của tiên đế với Thái phi quả thực không phải là nhất thời nổi hứng.”

    Thái phi khẽ gật đầu, đường cong mềm mại dưới cằm trông như vầng trăng non giữa trời cao. “Mỗi năm vào độ xuân hạ, đường lê sẽ nở hoa trắng như tuyết, tỏa khắp hương thầm. Thỉnh thoảng nó còn nở hoa màu tím, lại càng hiếm có, cảnh đẹp ấy cứ như khắp trời bay đầy sương mù màu tím, khiến người ta đắm đuối tâm hồn. Mỗi lần vào dịp như thế, tiên đế sẽ sai các thị nữ giỏi ca hát đứng dưới gốc ngô đồng, hát bài Đường lê chi hoa, sau đó cùng ta dạo bước giữa đó, thưởng thức cảnh hoa nở hoa rơi. Ta vào cung bao nhiêu năm, tiên đế đối đãi tốt với ta như thế từng ấy năm. Tuy trong vòng một năm, có mấy tháng tiên đế phải về ở lại Tử Áo Thành, hai chúng ta mỗi người một nơi, hơn nữa còn có sự khó chịu của Thái hậu, sự bất mãn của Hoàng hậu, sự dị nghị của các phi tần và quan viên trong triều, nhưng tình ý của tiên đế đối với ta chưa bao giờ thay đổi.”

    “Con cũng thường nghe nói, phế hậu của tiên đế khi đó là thân thích của Thái hậu, trong cung còn có Ngọc Ách phu nhân đắc thế, tiên đế thậm chí đã vì Thái phi mà có hành động khóa cửa cung để trừng phạt các phi tần.”

    “Tiên đế đối xử với ta quả thực rất tốt. Nếu tới ở tại Thái Bình hành cung, ngài nhất định sẽ không tùy tiện triệu bất cứ phi tần nào khác tới hầu hạ ngoài ta. Tuy trên cho tới Thái hậu, dưới cho tới triều thần, ai cũng cố tình gây khó dễ cho ta, nhưng nhờ được tiên đế một lòng bảo vệ, ta không hề cảm thấy cuộc sống trong cung hồi đó có chút gì là vất vả.”

    Nghe bà nói như vậy, trong lòng tôi kỳ thực có chút sợ hãi. Tiên đế càng chuyên sủng Thư Quý thái phi, kỳ thực lại càng đẩy bà vào cảnh đối địch với các phi tần khác.

    Chiếm trọn mọi sự sủng ái vào mình thực ra cũng ngang với việc chiếm trọn mọi sự oán hận vào mình! Chẳng trách khi đó trên đài Đồng Hoa, Huyền Thanh lại khuyên tôi: “Ân sủng của đế vương quá đầy thì cũng như bị hơ trên lửa nóng, mười phần khổ sở.”

    Câu nói này, e rằng cũng là lời cảm khái của Huyền Thanh về mối tao ngộ mà mẫu phi y từng phải trải qua.

    Như thế, tuy ngoài miệng Thư Quý thái phi nói là rất ngọt ngào nhưng trong lòng hẳn cũng muôn vàn đau khổ.

    Nhưng trong lòng bà, có lẽ tình ý của tiên đế mới là điều quan trọng nhất.

    “Về sau, Chiêu Hiến Thái hậu qua đời, ta cũng theo đó mà được vào ở trong Tử Áo Thành. Tử Áo Thành tuy phồn hoa, náo nhiệt nhưng trong lòng ta thì còn xa mới so được với sự ung dung, nhàn nhã ở đài Đồng Hoa.” Nói tới đây, Thư Quý thái phi khẽ buông tiếng thở dài. “Tiếc rằng đương kim Thái hậu không thích đài Đồng Hoa, cho là nó quá xa hoa, lãng phí, nhiều năm nay ta không quay trở lại, chắc giờ nó đã trở nên hoang phế rồi!”

    Tôi khẽ nở nụ cười, cất lời khuyên giải: “Vậy thì cũng có sao, bất kể đài Đồng Hoa phồn hoa hay suy bại, trong mắt Thái phi và tiên đế, nó vẫn mãi là nơi chứng kiến tình ý mặn nồng của hai người năm xưa.”

    Thư Quý thái phi cũng mỉm cười. “Đúng thế, trong lòng ta, đài Đồng Hoa vĩnh viễn là nơi chứng kiến tình ý bao năm của ta và tiên đế.” Rồi bà ngoảnh đầu nhìn tôi, ánh mắt ngợp nét dịu hiền. “Ta kể lại những việc xưa cũ thế này, có phải con thấy rất nhạt nhẽo không?”

    Tôi cười đáp: “Dạ không, con vốn vẫn thích nghe kể chuyện xưa mà. Trước đây chỉ là nghe người khác đồn thổi về tình cảm giữa Thái phi và tiên đế, bây giờ mới được nghe chính miệng Thái phi kể lại, con tất nhiên hết sức vui mừng.”

    Thái phi tươi cười vui vẻ, ngay đến chiếc áo màu xám bạc cũng như được nhuốm vẻ lóng lánh của ánh trăng, toàn thân đều phát sáng, lại thêm làn gió đêm thổi tới khiến góc áo khẽ bay lất phất, nhìn bà chẳng khác gì thần tiên trên trời. Thư Quý thái phi lúc này đã quá bốn mươi tuổi, nhưng dung mạo bà vẫn rất trẻ trung, chừng như mấy chục năm qua không bị thời gian làm ảnh hưởng chút nào. Nghĩ tới cảnh bà nắm tay tiên đế, đứng trên đài cao đón gió lúc mới vào cung thuở nọ, tự đáy lòng tôi bỗng nảy sinh một niềm ngưỡng mộ vô bờ.

    Thái phi khẽ nắm lấy bàn tay tôi, nói: “Cũng khá muộn rồi, ở trong núi lại không giống với nơi khác, nếu con thấy lạnh thì chi bằng chúng ta vào trong nói chuyện tiếp đi.”

    Tôi cười đáp: “Sao lại lạnh được, chỉ là ngồi mãi trên ghế đá, con thấy hơi khó chịu.”

    Tích Vân cười, nói: “Nếu nương tử thấy khó chịu, vậy hãy cùng Thái phi nhà ta tới bên bậc thềm đằng kia mà ngồi, chỗ đó ta đã quét dọn sạch sẽ lắm rồi!”
    Thái phi mỉm cười nhìn tôi, quay sang trách Tích Vân: “Hoàn Nhi xuất thân khuê các, đâu có tùy tiện như người Bãi Di chúng ta, e là không quen đâu.”

    Tôi đứng dậy, dắt tay Thư Quý thái phi đi tới trước bậc thềm đá, chẳng buồn phủi bụi, ngồi thẳng xuống. “Trước đây, hồi còn ở trong nhà, con từng đọc bài Thu tịch của Đỗ Mục, thấy nói rằng ‘đêm thu đèn rọi họa bình, đuổi xua đom đóm phong phanh quạt là, cảnh trời đêm mát vẩn vơ, Khiên Ngưu Chức Nữ ngồi chờ xem chơi[2]’. Bây giờ cảnh trời đêm mát vẩn vơ, tuy không có sự hoa lệ khi đêm thu đèn rọi họa bình, cũng không có sự tao nhã khi đuổi xua đom đóm phong phanh quạt là, nhưng cái tâm trạng Khiên Ngưu Chức Nữ ngồi chờ xem chơi thì thực không có chút nào khác biệt.” Tôi tươi cười, nói: “Ngồi trên bậc thềm ngắm cảnh thế này, tầm nhìn đúng là thoáng đãng hơn ngồi trên ghế đá nhiều.”

    [2] Nguyên văn Hán Việt: Ngân chúc thu quang lãnh họa bình, khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh, thiên giai dạ sắc lương như thủy, tọa khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh. Dịch thơ Trần Trọng Kim. Bài thơ này tả về sự cô đơn và buồn bã của người cung nữ bị thất sủng, cô ta không ngủ được ngồi trên bậc thềm nhìn sao Khiên Ngưu và Chức Nữ, đấng quân vương không đến nữa, chỉ có đom đóm bay quanh mà thôi – ND.

    Tích Vân bật cười khúc khích. “Thái phi thấy nô tỳ nói đúng chưa nào? Nương tử vốn không phải loại nữ tử thích làm bộ làm tịch, cũng là một người tính tình sảng khoái.”

    Thái phi mỉm cười, gật đầu. “Cũng phải, bằng không sao có thể khiến ta vừa gặp đã thấy quen thân như thế được”, sau đó lại quay sang nói với tôi: “Bài con vừa đọc hình như là thơ cung đình thì phải.”

    Tôi gật đầu thưa: “Thái phi nói đúng lắm.”

    Bà cau mày suy nghĩ một lát, khẽ nói: “Trước đây khi còn ở trong cung, ta cũng thường nghe các cung nữ ngâm thơ cung đình như vậy, có một bài đương kim Thái hậu hay ngâm nhất, thời gian qua lâu rồi, ta cũng không nhớ rõ lắm, hình như có câu ‘ơn vua như nước chảy về đông, đắc sủng lo khi lúc lạnh phòng[3]’ thì phải. Nữ tử Bãi Di bọn ta chỉ biết hát dân ca, không được học về thi từ, mấy thứ này mãi về sau vào cung rồi, ta mới dần được biết.”

    [3] Trích Cung từ, Lý Thương Ẩn, dịch thơ Lê Quang Trường. Toàn bài: Ơn vua như nước chảy về đông, đắc sủng lo khi lúc lạnh phòng. Giữa tiệc chớ đàn Hoa lạc khúc, mé tây điện luống nổi thu phong. Nguyên văn Hán Việt: Quân ân như thủy hướng đông lưu, đắc sủng ưu di thất sủng sầu. Mạc hướng tôn tiền tấu Hoa lạc, lương phong chích tại điện tây đầu – ND.

    Tôi thầm kinh ngạc, không ngờ Thái hậu lại ngâm một bài thơ như thế, nhất định là đã từng thương tâm vô cùng. Chắc hẳn từ sau khi Thư Quý thái phi vào cung, bà ta rơi vào cảnh cô quạnh, trống vắng, do đó mới sinh lòng tự thương bản thân mình.

    Nụ cười dần ẩn đi, tôi cất lời cảm khái: “Ơn vua nước chảy về đông, được yêu lo ngại mà không lại sầu. Phàm là nữ tử trong cung, chắc ai cũng từng có nỗi thương cảm như vậy.”

    Thái phi nở nụ cười rạng rỡ. “Ta thì chưa có tâm trạng như vậy.” Thấy tôi có vẻ không tin lắm, bà liền nói: “Tuy lòng dạ của bậc đế vương dễ đổi thay nhưng tiên đế đối xử với ta luôn trước sau như một.” Bà dừng lại một chút rồi mới tiếp: “Tạm chưa xét tới việc ơn vua có như nước chảy về đông hay không, cho dù thực sự có một ngày như thế, ta cũng sẽ không buồn bã chút nào, vì trong lòng ta mãi chỉ có một mình tiên đế. Bất kể tiên đế có sủng hạnh ta hay không, có còn yêu ta nữa không, trong lòng ta, ngài vẫn mãi là vị thiên tử thiếu niên buổi đầu gặp gỡ. Mà tiên đế đối xử với ta cũng như vậy, do đó ta mới có niềm tin sâu sắc vào câu tình cứng hơn vàng.”

    Tôi thấy vẻ mặt bà như si như mê, trong lòng bỗng hoàn toàn sáng tỏ.

    Theo như lời đồn trong cung trước đây, Thư Quý thái phi được tiên đế chuyên sủng, khắp hậu cung không ai sánh bằng. Ban đầu tôi cứ ngỡ đó chỉ là thứ tình cảm bình thường giữa quân vương và phi tử, nhưng tới giờ mới biết, thì ra Thư Quý thái phi và tiên đế đều có trái tim chân thành, coi nhau như vợ chồng đích thực, vậy nên tình mới có thể cứng hơn vàng.

    Nghĩ đến tình ý như vậy, tôi cảm động đến suýt rơi nước mắt, liền hơi cúi đầu để che giấu ánh lệ, sau khi suy nghĩ một chút bèn tiếp lời của Thái phi vừa rồi: “Câu thơ này hình như nằm trong bài Cung từ của Lý Nghĩa Sơn[4]. Câu kế tiếp là ‘giữa tiệc chớ đàn Hoa lạc khúc, mé tây điện luống nổi thu phong’.”

    [4] Tức Lý Thương Ẩn, Nghĩa Sơn là tên tự – ND.

    Trước đây khi còn ở trong cung, tôi đã từng được nghe người ta hát khúc Hoa lạc, hình như người hát làAn Lăng Dung. Đó là một bữa tiệc nơi đại điện, ả ngồi bên cạnh Huyền Lăng mà cất tiếng ca vang, nhưng đó rốt cuộc là bữa tiệc nào thì tôi thực sự không nhớ nổi.

    Mà cũng có thể không phải An Lăng Dung mà chính tôi ngồi trong Đường Lê cung tự mình đàn khúc Hoa lạc, hình như khi tôi gảy đàn, Huyền Lăng còn đang ngồi bên cạnh, mỉm cười chăm chú nhìn tôi.

    Hoa lạc còn có tên khác là Mai hoa lạc, là khúc nhạc nổi tiếng trong Nhạc phủ, được rất nhiều người biết đến. Trong thời đại thái bình thịnh trị như bây giờ, khúc nhạc ấy nhất định đã từng được tấu không ít lần trước mặt kẻ đế vương.

    Tôi buồn bã nghĩ lại, năm xưa khi xuân phong đắc ý tấu khúc Mai hoa lạc đó trước mặt kẻ đế vương, ai mà ngờ được lại có ngày gió lạnh thổi tới, bản thân theo đó trở thành một trong vô số bông hoa lụi tàn. Còn bây giờ, bông hoa đang xuân phong đắc ý, vẫn đậu trên cành khoe sắc không phải ai khác mà chính là An Lăng Dung.

    Ơn vua như dòng nước chảy dài bất định, khi đông khi tây, việc đắc sủng, thất sủng của các phi tần cũng theo đó mà biến hóa, có lúc chỉ trong khoảnh khắc mọi sự đã đổi thay. Hôm nay ơn vua như nước triều dâng, ngày mai đã lại như hồ nước cạn; phi tử hôm nay còn đắc sủng, ngày mai lại thất sủng ai hay; mà một khi thất sủng rồi, ơn vua sẽ chẳng bao giờ còn trở lại, nỗi sầu thất sủng giống như dòng nước mùa xuân chảy mãi về đông. Do đó trong chốn cung đình, bất kể là đắc sủng hay thất sủng, tương lai chờ đợi những kiếp hồng nhan kia hầu như đều là một nỗi bất hạnh khôn cùng.

    Còn tôi, tuy giờ phải ở nơi nhà tranh giậu trúc nhưng đã được giải thoát.

    Thái phi thấy tôi trầm ngâm, liền kéo tay tôi, nói: “Hoàn Nhi, trước đây khi còn ở trong khuê các, con đón ngày Thất Tịch thế nào?”

    Tôi cầm chùm nho trong tay, bóc từng quả, cười đáp: “Trước đây khi còn ở trong nhà, nhũ mẫu thường hay kể chuyện cho con nghe, nhưng kỳ thực vẫn là kể đi kể lại chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ gặp gỡ trên sông Ngân. au đó dùng bữa tối, đợi khi trời tối hẳn thì cùng các tỷ muội thân thiết tụ hội. Trước tiên, bọn con ăn bánh chẻo cầu may, những chiếc bánh chẻo ấy đã được gói sẵn từ sáng sớm, trong đó có ba chiếc được nhét sẵn một đồng tiền, một cây kim và một quả táo đỏ, ai ăn phải đồng tiền thì là có phúc, ăn phải cây kim thì sẽ được khéo tay, còn ăn trúng quả táo thì sẽ thành hôn sớm. Kế đó bọn con lại cúng Chức Nữ, đồ cúng đều là những loại hoa quả tươi đúng mùa, ví như bát sen, ngó sen, ấu đỏ hay nho, tiếp đến thì thắp hương quỳ bái, thành tâm cầu khấn, hy vọng sau này tìm được một vị lang quân như ý, đồng thời cũng xin Chức Nữ phù hộ cho mình đầu óc thông minh, chân tay khéo léo, việc gì cũng được như ý nguyện. Sau khi thắp hương xong, mấy cô gái bọn con lại cùng xâu kim dưới trăng để thi xem ai khéo tay hơn, xin Chức Nữ ban phúc; hoặc cũng có lúc cầm chỉ màu đứng dưới đèn xâu chỉ qua lỗ kim, ai có thể xâu liền một lúc qua bảy lỗ kim thì được gọi là ‘Xảo thủ’, người nào không làm được thì bị gọi là ‘Thâu xảo’, còn bị mọi người búng mũi nữa. Cũng có lúc bọn con đi bắt một con nhện bỏ vào trong hộp, đến ngày thứ hai mở hộp ra, nếu nó đã nhả tơ chăng lưới thì gọi là ‘Đắc xảo’, tức là đã được ban cho sự khéo léo.” Tôi cười hì hì, nói: “Có điều bắt nhện rất khó, bọn con lại sợ bẩn, do đó rất ít khi làm việc này.”

    Trước đây hồi còn chưa vào cung, mỗi năm tôi đều cùng My Trang, Thái Nguyệt, Hoán Bích, Lưu Chu, Phân Nhi và mấy tỷ muội nhà khác cùng nhau chơi những trò này, thường chưa tới tháng Sáu đã ngóng ngày Thất Tịch, hôm nào cũng vạch ngón tay đếm ngày tính tháng. Tối hôm ấy chúng tôi có thể thoải mái chơi đùa với nhau mà không sợ các nhũ mẫu thường ngày luôn nghiêm khắc bám theo quản giáo hay răn dạy nữa.

    Đúng rồi, trong ngày Thất Tịch, chúng tôi còn phải làm “quả khéo tay”, người khéo nhất chính là Hoán Bích, muội ấy chỉ dùng những thứ dầu, bột mì, đường, mật bình thường cũng có thể làm ra đủ loại quả xinh xắn đáng yêu, vừa thơm vừa ngọt, ăn không ngấy chút nào.

    Những quãng thời gian tươi đẹp ấy giờ đã trở thành quá khứ, một đi không trở lại.

    Còn có một điều tôi không kể, đó là năm xưa khi ở trong cung đình, ngày Thất Tịch của tôi chẳng qua là bầu bạn bên cạnh kẻ đế vương, dự tiệc và ca múa. Những ngày lễ như thế luôn ngợp trong tiếng đàn ca, lần nào cũng là yến tiệc, xa hoa bất tận.

    Nghĩ đến đâ lòng tôi bất giác có chút buồn bã, đồng thời cũng nảy lòng thương cảm về chuyện ngày xưa.

    Thư Quý thái phi chỉ tay qua Tích Vân mà cười, nói: “Trước đây khi bọn ta còn ở Bãi Di, nữ tử Bãi Di thích nhất là ca hát và nhảy múa, mà ngày Thất Tịch kỳ thực cũng là ngày nam nữ trong tộc hát đối và thể hiện tình cảm với nhau. Bọn ta thường đốt những đống lửa lớn bên bờ sông, rồi hai bên nam nữ đứng ở hai bên bờ hát đối tình ca. Nếu có cặp đôi nào vừa ý nhau, người con trai sẽ bơi qua sông tới dắt tay người con gái rồi cả hai cùng nhảy múa trước mặt mọi người trong tộc, tỏ ý rằng tình cảm của hai bên vô cùng sâu đậm, vĩnh viễn chẳng đổi thay.”

    Nam nữ Bãi Di xưa nay luôn sắt son chung thủy, dân phong lại thuần phác, bất kể già trẻ gái trai đều thẳng thắn hào sảng, có thể không chút kiêng dè theo đuổi người mà mình yêu, do đó mới thích dùng cách hát đối để tỏ tình, hoàn toàn khác với sự bảo thủ của người Trung Nguyên, luôn phải nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ.

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, tò mò hỏi: “Vậy lỡ như hôm đó trời mưa thì sao, há chẳng phải sẽ không thể đốt lửa và hát đối được nữa?”

    Thư Quý thái phi dường như vô cùng hoài niệm những tháng năm xưa cũ đó. “Người Bãi Di gọi cơn mưa trong ngày Thất Tịch là ‘mưa tương tư’ hoặc ‘lệ tương tư’, vì mưa này là do Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau mà ra, do đó coi là mưa lành. Nếu hôm đó trời đổ mưa lành, việc đốt lửa tất nhiên phải tạm thời lùi lại đến hôm sau. Ngoài ra trong ngày Thất Tịch, chim hỉ thước thường rất ít xuất hiện, người già trong tộc nói bọn chúng đều đã bay lên trời để bắc cầu rồi.”

    Tôi cảm thấy rất thú vị, bèn nói: “Người Bãi Di cũng có truyền thuyết về việc chim hỉ thước bắc cầu cho Ngưu Lang, Chức Nữ sao?”

    “Ban đầu vốn không có, nhưng về sau Bãi Di và Trung Nguyên qua lại với nhau, thế là truyền thuyết này mới dần xuất hiện.” Thư Quý thái phi dường như nhớ tới chuyện gì thú vị, liền cười vui vẻ, nói: “Đêm ấy có rất nhiều thiếu nữ còn chưa tới tuổi để hát đối, đa phần bọn họ đều một mình lén nấp vào trong giàn bí ngô rậm rạp nào đó, nghe đồn giữa đêm khuya tĩnh lặng, nếu có thể nghe thấy lời chuyện trò của Ngưu Lang, Chức Nữ lúc gặp nhau, sau này lớn lên, thiếu nữ đó sẽ nhận đượctình yêu son sắt thủy chung, có thể sống với nam tử mà mình yêu tới lúc răng long đầu bạc.”

    Tôi mím môi cười, nói: “Chuyện này thì đúng là có chút hoang đường, ai mà nghe lén được cuộc chuyện trò của Ngưu Lang, Chức Nữ chứ? Khi ấy Ngưu Lang, Chức Nữ đang đoàn tụ trên cầu Hỉ Thước, làm gì có thời gian mà tới nhân gian.”

    Thư Quý thái phi bật cười. “Đâu phải là Ngưu Lang, Chức Nữ thật sự, chỉ là những cặp nam nữ đã hát đối thành công đang trốn vào chỗ kín để trò chuyện với nhau mà thôi.”

    Tôi nghe thấy thú vị, bất giác bật cười theo. Tích Vân lúc này cũng dừng việc giặt quần áo lại, ghé tới góp vui: “Còn chưa hết đâu, hôm mùng Bảy tháng Bảy đó bọn ta đều phải dậy sớm, vì người già trong tộc nói hôm đó bảy nàng tiên sẽ hạ phàm tắm rửa, nếu uống được nước tắm của bọn họ thì có thể tránh khỏi tà ma bệnh tật, tuổi thọ tăng lên. Thứ nước ấy được gọi là ‘Song thất thủy’, vì có nhiều lợi ích như thế nên vào ngày này, khi con chim đực vừa mới cất tiếng hót vang, mọi người liền tranh nhau đến bên bờ sông lấy nước, sau đó mang về đựng vào vò, để dành sau này từ từ uống.”

    Tích Vân quay sang nhìn Thư Quý thái phi, cười nói: “Hồi nhỏ, Thái phi rất nghịch ngợm, sáng hôm ấy thường dậy sớm nhất, kéo ta đến bên bờ sông lấy nước đầu tiên.”

    Thư Quý thái phi khẽ mỉm cười. “Chuyện từ bao năm trước rồi, không ngờ ngươi còn nhớ rõ như thế, bây giờ mới mang ra trêu ta.”

    Tích Vân cất tiếng cười vang. “Hồi nhỏ là quãng thời gian vui vẻ nhất, không có điều gì vướng bận. Về sau vào cung rồi, đâu còn được tự do tự tại như vậy nữa.”

    Thư Quý thái phi có chút ngẩn ngơ, thần sắc như vui vẻ mà lại như buồn bã. Có điều, tất cả đều chỉ thoáng qua, tựa như chút sương mù buổi sớm khi mặt trời còn chưa ló dạng, rồi bà trầm giọng nói: “Về sau, mỗi dịp Thất Tịch, trong cung đều là tiên đế bầu bạn bên ta, hai người bọn ta thường ngồi uống trà với nhau, thỉnh thoảng trò chuyện đôi câu. Cũng có lúc ta đàn Trường tương tư, tiên đế thổi Trường tương thủ, hợp tấu một khúc nhạc, rồi hai bên lặng lẽ nhìn nhau, cảm thấy vô cùng thư thái. Chỉ là… tiên đế đã qua đời, giờ chỉ còn lại mình ta lê kiếp sống tàn giữa chốn nhân gian. Chẳng biết ở dưới suối vàng, tiên đế có cảm thấy cô đơn, buồn bã vì không có ta bầu bạn cạnh bên không nữa?”

    Tôi biết Thư Quý thái phi đang thương tâm vì cái chết của tiên đế, liền an ủi: “Nếu khi tiên đế qua đời, Thái phi lấy thân tuẫn tình, tiên đế ở dưới suối vàng lại càng chẳng thể yên nghỉ. Tiên đế yêu Thái phi sâu sắc như thế, tất nhiên hy vọng sau khi mình qua đời, Thái phi và Thanh có thể tiếp tục sống thật tốt, thật vui vẻ, không bị vướng bận điều gì.”

    Thư Quý thái phi ngước nhìn bầu trời tối mịt mà ngơ ngẩn, hồi lâu sau mới thở ra một hơi dài, cất giọng thê lương: “Nếu không vì có nỗi khổ bất đắc dĩ, chỉ e tấm thân tàn này của ta đã sớm đi theo tiên đế rồi.”

    Tôi suy nghĩ một chút, đoạn nghiêm túc nói: “Thái phi đã có nỗi khổ bất đắc dĩ, vậy xin hãy vì nỗi khổ bất đắc dĩ này, cũng là vì Thanh, mà sống tiếp cho thật tốt. Hoàn Nhi biết, nếu không còn Thái phi ở bên, dù Thanh có được cuộc sống yên vui, an nhàn thế nào, rốt cuộc vẫn sẽ cả đời day dứt.”

    Thư Quý thái phi đột nhiên xoay người lại, chăm chú nhìn tôi, sắc mặt dần trở nên hiền từ, dịu giọng nói: “Hoàn Nhi, Thanh có được con chính là cái phúc lớn nhất của nó rồi.”

    Trái tim tôi nhảy dựng lên, khuôn mặt nóng bừng, vội vàng khom người hành lễ, cất giọng chân thành: “Có thể gặp được Thanh, ấy cũng là cái phúc lớn nhất của Hoàn Nhi.”

    Thư Quý thái phi vội đỡ tôi dậy, lại thở phào một hơi, trong mắt tràn ngập nét trìu mến, hiền từ.

    Tôi thấy trăng đã lên cao, thời gian không còn sớm nữa, bèn đứng dậy cáo từ.

    Vầng trăng tuy rất sáng nhưng các vì sao vẫn rạng rỡ vô cùng. Có điều, nói cho cùng đây vẫn chỉ là trăng đầu tháng, không đủ để soi tỏ đường đi, thế nên tôi vẫn phải xách theo một chiếc đèn lồng nhỏ, bước đi chậm rãi.

    Ánh trăng phủ xuống như một làn khói sương trắng lóa, đường núi gồ ghề, lại nhiều đá lớn nên tôi phải đi rất cẩn thận, thỉnh thoảng lại nghe có tiếng con chim nào đó bay vút qua, giữa vùng núi non tịch mịch, âm thanh ấy thực chói tai vô cùng.

    Tuy tôi đã đi qua con đường này rất nhiều lần nhưng dù sao cũng không dám sơ suất. Đang lúc tập trung tinh thần, chợt vang lên một tiếng “bộp”, có bàn tay ai đó vỗ vào vai tôi. Bốn phía bóng núi trập trùng, những tảng đá lớn nhìn như quái thú, trái tim tôi đập rộn lên, không kìm được thất thanh kêu lớn: “Ai đó?”

    Lọt vào mắt tôi là một đôi mắt ngợp nét cười, trông thật quen thuộc và ấm áp xiết bao. Tôi dần bình tĩnh trở lại, vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, nhào thẳng vào lòng y, tò mò hỏi: “Sao huynh lại tới đây?”

    A Tấn đứng bên cạnh cười hì hì, đáp thay: “Vốn trong cung mở tiệc nhưng được nửa chừng thì Vương gia giả vờ uống say, thế là Hoàng thượng mới vội sai người đưa ngài về phủ. Nào ngờ vừa mới vào phủ, thấy người trong cung đã rời đi, Vương gia liền lập tức tỉnh rượu, vội vàng chạy tới nơi này.”

    Thấy A Tấn cũng ở đây, tôi vội rời khỏi lòng Huyền Thanh, chỉnh sửa lại quần áo. Lòng đang vô cùng hoan hỉ nhưng ngoài miệng tôi lại trách: “Huynh điên rồi, ban đêm đường núi khó đi lắm đấy!”

    Y bước lại gần, ghé tai tôi, khẽ nói: “Ta muốn gặp nàng mà.”

    Hai má tôi đỏ bừng, vội ngoảnh đầu đi, phỉ phui một tiếng: “Muốn gặp muội thì phải tới ngay hay sao, không tới thì có vấn đề gì chắc? Có ai đang đợi huynh à?”

    Y khẽ nhéo tai tôi, cười nói: “Tất nhiên là nàng không đợi ta rồi… Đến nói dối cũng không biết, tai nóng hết cả lên rồi này.”

    Tôi đang định biện bạch, chợt nhớ tới việc vừa rồi, liền đấm nhẹ lên vai y. “Vừa rồi tại sao lại dọa muội như vậy? Làm muội sợ chết mất.”

    Y cười hà hà, đáp: “Làm gì có ai đi đường mà tập trung tinh thần quá thể như nàng, chỉ biết cắm cúi nhìn đường thôi, ngay cả việc ta đi theo sau cũng không biết.”

    Tôi không thèm để ý đến y, quay sang nói với A Tấn: “Ngươi cũng chẳng ra gì, chỉ biết đi theo chủ nhân nhà ngươi mà làm bừa thôi.”

    A Tấn cười hì hì, nói: “Nương tử đừng giận mà, hãy nể tình Vương gia đêm hôm khuya khoắt mà còn tới đây đi.”

    Tôi khẽ cười một tiếng, nói: “Có ai giận đâu nào.”

    Tới lúc này, Huyền Thanh mới lên tiếng: “Nàng đi một mình, ta không yên tâm, vì thế mới đi theo nàng.”

    Tôi không kìm được hơi nhếch khóe môi, khẽ nói: “Tất nhiên muội biết chứ!”, rồi lại hỏi: “Huynh còn phải tới An Tê quán đúng không? Mau đi thỉnh an Thái phi trước đi!”

    Y “ừm” một tiếng, giao chiếc đèn lồng trong tay cho A Tấn, nói: “Ngươi hãy đích thân đưa nương tử về, ta đi thỉnh an Thái phi trước.” Y chăm chú nhìn tôi, khuôn mặt ngợp nét vui mừng, khẽ nói: “Nàng đợi ta nhé!”

    Tôi thẹn thùng cúi đầu, lí nhí đáp lời y: “Được!” Rồi y một mình đi về hướng An Tê quán. Đợi sau khi y đã đi xa, tôi mới cùng A Tấn chậm rãi quay về.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 28: Gió vàng sương ngọc [1]
    [1] Một câu thành ngữ tả cảnh mùa thu, thường được dùng để nói về khung cảnh gặp gỡ của những cặp nam nữ đang yêu – ND.

    Khi y tới thì trời đã khuya lắm rồi, có điều biết y sẽ tới nên tôi vẫn để sẵn cửa chứ không đóng lại.

    Tôi ngồi trong phòng, thắp một ngọn nến mà lẳng lặng vá áo. Chợt nghe một tiếng “két” từ phía cánh cửa bên ngoài, tôi biết là y đã tới, vội đứng dậy.

    Hoán Bích sớm đã ra ngoài mở cửa, còn tươi cười cất tiếng giòn tan: “Vương gia tới rồi!”

    Quả nhiên là y đã tới. Trên chiếc mũ đồng bó tóc của y dính một chút sương đêm, lấp lánh phát sáng, ngay cả ống tay áo và mép áo cũng đều ướt đẫm một mảng, chắc là đã quệt vào lá cỏ lúc đi đường. Vì ẩm ướt nên khi gió thổi tới, áo y không hề tung bay, có điều cũng vì thế mà nhìn dáng người y càng thêm rắn rỏi, vững chãi.

    Tôi đi lấy một chiếc khăn tới đưa cho y, nói: “Huynh tự lau đi, lỡ như bị nhiễm phong hàn thì không hay chút nào.”

    Y cầm lấy khăn tay tự lau chùi một chút, cười nói: “Xin lỗi, ta ở chỗ mẫu phi hơi lâu, khiến nàng muộn thế này rồi mà còn chưa thể đi ngủ.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Muội trước giờ vẫn luôn ngủ muộn, huynh biết mà.”

    Y nửa như lo lắng nửa như cảm khái: “Nàng vẫn bị mất ngủ sao? Thuốc lần trước uống thế nào rồi?”

    Tôi lại lấy một chiếc khăn tay nữa tới, bảo y ngồi xuống, lau chỗ nước sương bám trên chiếc mũ đồng búi tóc của y, vừa lau vừa khẽ nói: “Thuốc đó tốt lắm, muội uống xong thì rất ít khi nằm mơ. Chỉ là muội không thích ngủ sớm thôi!” Nói xong, tôi lại mỉm cười. “Huynh chắc cũng tin vào y thuật của Ôn thái y chứ.”

    Y khẽ gật đầu: “Tất nhiên”, sau đó lại nhìn tôi vẻ trìu mến, nói: “Không có việc gì thì ngủ sớm đi.”

    Tôi nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc được búi lại gọn gàng của y, cười nói: “Hôm nay có thể tính là không có việc gì không?”

    Đợi y chỉnh sửa lại quần áo xong xuôi, tôi mới nhìn kĩ. Độ này thời tiết nóng nực, y chỉ mặc một chiếc áo dài màu xám bạc may bằng the mỏng, nơi ống tay áo có thêu hai bông hoa nhỏ màu trắng, nếu không tỉ mỉ nhìn kĩ thì cơ hồ không thể nhìn ra được. Trông bộ dạng này của y hoàn toàn không có chút khí độ nào của một bậc thân vương mà hệt như một tay công tử nho nhã bình thường.

    Tôi không khỏi thầm khen y tinh tế: “A Tấn nói huynh giả vờ say ra ngoài, lại vội vã chạy tới đây, không ngờ quần áo lại không hề có chút sơ hở nào như vậy, khi đi trên đường có ai ngờ huynh lại là hoàng thân quý tộc cơ chứ!”

    Y cúi xuống nhìn rồi cũng bật cười một tiếng. “Trong Thanh Hà Vương phủ không thiếu loại quần áo bình thường thế này, chỉ là màu xám bạc này ấy mà…”

    Lòng tôi hiểu rõ, vì tôi giờ sống ở thiền phòng, thường ngày chỉ mặc loại áo ni cô màu xám, do đó y mới cố ý chọn màu sắc này cho hợp với tôi.

    Hoán Bích đứng bên cạnh khẽ cười một tiếng, chỉ tay vào ngọn nến dài trên chiếc bàn gỗ trước mặt, nói: “Hôm nay tiểu thư cố ý chọn cây nến dài nhất đó, đã đốt rất lâu rồi mới cháy hết một phần. Nô tỳ cứ ngỡ là vì tiểu thư định tới chỗ Thái phi nên quay về muộn, không ngờ lại là vì biết trước Vương gia sẽ tới.”

    Y mỉm cười, giọng nói thoáng mang theo chút nghi hoặc: “Nàng biết là ta sẽ tới sao?”

    Tôi chăm chú nhìn y, cười đáp: “Muội biết huynh có lẽ không thể tới được, nhưng trong lòng vẫn luôn nghĩ rằng huynh có thể sẽ tới. Còn về nến ấy mà, chẳng qua thắp để tối đến may vá hoặc là chép kinh văn thôi.”

    Y không nói gì, chỉ đưa một bọc nho tới cho Hoán Bích, nói: “Đi rửa qua đi!” Hoán Bích vâng lời rời đi.

    Y ghé tai tôi, nói khẽ: “Nàng cứ nghĩ, nghĩ mãi, mong rằng có thể gặp được ta trên đường, thế rồi ta liền tới, đúng vậy không?”

    Dưới ánh nến đỏ lờ mờ, trông y dịu dàng mà tuấn tú, sắc mặt ngợp nét mừng vui. Tôi nhất thời ngơ ngẩn, quên cả việc đáp trả câu nói trêu chọc đó của y.

    Y cũng không nói gì thêm, chỉ khẽ búng mũi tôi một cái, cười tủm tỉm, nói: “Mẫu phi nói nàng thích ăn nho, bảo ta mang cho nàng một ít.”

    Tôi mỉm cười, liếc nhìn bóng dáng Hoán Bích bên ngoài. “Thái phi cứ nghĩ cho muội thế này, thực đã phải hao tâm tổn sức rồi!”

    Y cười, nói: “Ta thấy mẫu phi thương nàng còn hơn cả thương ta ấy chứ!” Nói rồi lại kéo ống tay áo tôi lại. “Hôm nay dường như mẫu phi rất vui, nhất định là vì nàng đã tới đó cùng bà trò chuyện rồi.” Y chăm chú nhìn tôi, dịu dàng nói: “Cảm ơn nàng!”

    Tôi cúi đầu lí nhí: “Huynh nói gì vậy, muội còn cần huynh cảm ơn sao?”

    Y càng cười tươi hơn. “Thấy mẫu phi thích nàng như vậy, ta rất vui.”

    Tôi chợt nghĩ tới một chuyện, khuôn mặt bất giác nóng bừng, vội hỏi: “Thái phi bảo huynh mang nho tới cho muội thế này, có phải là vì biết sau khi rời khỏi An Tê quán, huynh sẽ tới chỗ muội không vậy?”

    Y cười, nói: “Tất nhiên rồi, chứ không ta còn có thể đi đâu được?”

    Tôi lại càng thẹn thùng. “Như vậy đâu có tiện chứ, sau này muội không dám đến gặp Thái phi nữa mất thôi.”

    Y xoay người tôi lại, chăm chú nhìn vào mắt tôi, nói: “Mẫu phi rõ ràng cũng hy vọng ta tới thăm nàng, vậy nên mới giao đồ cho ta. Ta là con trai của mẫu phi, bà tất nhiên hiểu lòng ta nhất rồi.”

    Tôi cả thẹn, không kìm được bật cười khúc khích, vùi đầu vào lòng y.

    Y khẽ hỏi tôi: “Nàng có buồn ngủ không?”

    Tôi ngẩng lên nhìn y, mỉm cười nói: “Huynh muốn nghe lời thật lòng không?”

    Y ngẩn người. “Tất nhiên là có rồi.”

    Tôi đưa tay sờ cằm, cố ẩn đi nét cười trong mắt, cất giọng tinh nghịch: “Vừa rồi cơn buồn ngủ đã qua đi, bây giờ muội tỉnh như sáo ấy.”

    Y tươi cười rạng rỡ, đưa bàn tay tới trước mặt tôi. “Vậy bây giờ chúng ta ra ngoài đi dạo một chút nhé, nàng thấy có được không?”

    Tôi cũng nở nụ cười tươi, đặt tay mình vào giữa bàn tay y, hai người dắt tay nhau cùng bước ra ngoài.

    Đi được gần nửa canh giờ, tôi vẫn chẳng biết y rốt cuộc muốn đưa tôi đi đâu, chỉ cảm thấy được y dắt tay, chậm rãi bước đi thế này, bất kể là đi tới đâu, lòng tôi cũng vô cùng vui vẻ.

    Trên đường đi, y kỳ thực không hề yên phận,hông y có buộc một chiếc túi trong suốt làm bằng vải thưa, giữa không trung thỉnh thoảng lại có một con đom đóm lập lòe bay liệng, y liền nhanh tay bắt lấy, bỏ vào túi. Mắt y rất tinh, ra tay lại chuẩn xác, chẳng bao lâu sau đã bắt được khá nhiều đom đóm.

    Tôi mỉm cười trách cứ: “Huynh tập trung đi đường đi, cứ như trẻ con vậy.”

    Y không nói gì, vẫn tiếp tục vừa đi vừa bắt đom đóm.

    Con đường núi uốn lượn dốc dần xuống, loáng cái chúng tôi đã tới bên dòng sông dưới chân núi. Nước sông chầm chậm chảy về đông, phát ra những tiếng rì rào nhè nhẹ, từng làn gió thổi tới khiến dãy cỏ bên bờ sông không ngừng đung đưa, khiến khung cảnh càng trở nên thanh bình và tịch mịch.

    Tôi mỉm cười, nói: “Huynh muốn nghe hát sao? Giờ này A Nô đã ngủ từ lâu rồi, chẳng thèm để ý tới huynh đâu.”

    Y kéo tôi lại gần, chỉ tay vào chiếc thuyền mà A Nô dùng để chở khách lúc ban ngày. “Chúng ta qua sông thôi.”

    Tôi xua tay lia lịa. “Huynh điên rồi, nửa đêm thế này mà còn muốn qua sông.”

    Y nói: “Ta sẽ làm người chèo thuyền.”

    Tôi thấy y đang cao hứng, liền không chút nghĩ ngợi nói ngay: “Vậy được rồi.”

    Hai chúng tôi nhảy lên thuyền, y khua mái chèo chậm rãi đưa thuyền tới giữa sông, động tác hết sức thuần thục. Tôi nhớ lại cảnh gặp y trên hồ Thái Dịch năm xưa, khung cảnh cũng giống thế này, y ngồi ở đầu thuyền khua mái chèo, còn tôi thì ngồi lặng lẽ giữa thuyền, bó hoa sen cuối cùng trong hồ Thái Dịch lẳng lặng tỏa hương, dường như tới giờ, hương thơm vẫn còn đọng nơi đầu mũi. Giữa làn nước rung rinh, vầng trăng dường như vẫn là vầng trăng độ nào, tôi ngồi trên thuyền của y, trái tim đập thình thịch. Chỉ là thời gian chưa khi nào ngừng trôi, tựa như dòng nước sông chảy mãi bên cạnh, giờ tôi đã có thể dắt tay y cùng bước rồi.

    Nhớ lại ngày xưa, lòng tôi cũng tràn đầy cảm khái, chưa từng nghĩ lại có hôm nay.

    Nhất thời tâm tình khoan khoái, tôi không kìm được vỗ tay làm nhịp cất tiếng hát vang: “Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…”

    Đây chính là bài mà A Nô vẫn thường hát lúc chèo thuyền.

    Huyền Thanh nghe thấy tôi hát, liền ngoảnh lại khẽ mỉm cười. “Hiếm khi được nghe nàng hát, thì ra nàng hát lại thế này.”

    Tôi có chút thẹn thùng, cười nói: “Có gì đâu mà hay chứ, chẳng qua là ngày ngày nghe A Nô hát, có ngốc đến mấy cũng học được thôi.”

    Y khẽ ngân nga: “Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang”, nói rồi liền nhìn tôi chăm chú.

    Tôi không kìm được bật cười khúc khích. “Hình như huynh rất thích nghe bài dân ca này thì phải?”

    Y nói: “Tất nhiên rồi, so với thơ từ, dân ca lại càng đi thẳng vào lòng người, không chút vòng vèo, có thể dễ dàng biểu đạt tâm trạng khoan khoái, vui vẻ của người ta.”

    Tôi khẽ cười dịu dàng. “Tâm tư mỗi người đều quanh co khó đoán, nếu tất cả đều có thể thẳng thắn tỏ rõ nỗi lòng thì tốt biết bao.”

    Bóng lưng cao lớn của y đổ xuống người tôi, dường như toàn bộ thân thể tôi đều bị bóng của y bao trùm. Trời đất dù có sáng tỏ đến mấy cũng không thể khiến tôi yên tâm bằng việc được bóng dáng của y trùm lên người như lúc này.

    Tôi bất giác khẽ cười một tiếng, y, nói: “Động tác chèo thuyền của huynh thuần thục quá, lẽ nào là bởi huynh thường xuyên tới hồ Thái Dịch luyện tập?”

    Y cười “phì” một tiếng, đáp: “Cho dù ta thường xuyên tới hồ Thái Dịch chèo thuyền, nàng nghĩ lần nào cũng có thể gặp được một nữ tử giả dạng làm cung nữ lén chạy ra ngoài như nàng sao?” Y nhìn tôi chăm chú. “Khi đó lá gan của nàng lớn thật, không ngờ lại dám lén chạy đi thăm Huệ Quý tần đang bị cấm túc.”

    “My Trang tỷ tỷ sao? Không biết bây giờ tỷ ấy thế nào rồi?” Vừa nghĩ tới My Trang, trong lòng tôi liền trào dâng muôn vàn nỗi nhớ nhung.

    Y nhìn tôi, cất lời an ủi: “Cô ấy rất khỏe, hôm nay ta vừa gặp cô ấy xong. Chỉ là cô ấy vẫn như trước đây, rất ít qua lại với người khác.”

    Tôi nhớ đến lối xưng hô của y với My Trang vừa rồi, không kìm được hơi cau mày, hỏi với giọng nghi hoặc: “Huệ Quý tần?”

    “Phải!” Y thoáng trầm ngâm rồi mới đáp: “Mùng Một tháng Bảy năm nay, tức là sáu ngày trước, vâng theo ý chỉ của Thái hậu, hoàng huynh đã thăng cho Thẩm My Trang làm Quý tần chính tam phẩm, cho phép dọn ra khỏi Sướng An cung tới làm chủ nhân Diễn Khánh cung, ngoài ra còn được xây riêng cho Tồn Cúc điện để ở.”

    Nghe nói đây là ý chỉ của Thái hậu, lòng tôi hiểu rõ Thái hậu nhất định vẫn còn bảo bọc cho My Trang. Diễn Khánh cung là một trong những cung điện lớn nhất hậu cung, gần kề Sướng An cung mà My Trang trú ngụ trước đây, cũng chính là cung điện mà Kính Phi làm chủ, đương nhiên thuận tiện vô cùng. Nghĩ tới đây, lòng tôi nhẹ nhõm hẳn đi, sắc mặt cũng tràn ngập vẻ thư thái.

    “Nhưng…” Huyền Thanh lại nói tiếp: “Huệ Quý tần đã từ chối.”

    Tôi cả kinh, vội hỏi: “Tại sao? Là vì Hoàng hậu gây khó dễ? Hay là vì An Lăng Dung giở trò?”

    Y chậm rãi lắc đầu. “Đều không phải. Là Huệ Quý tần tự mình từ chối. Cô ấy xin được đến ở tại Đường Lê cung.”

    Đường Lê cung, tôi tột cùng chấn động, bởi đó chính là nơi ở của tôi trong Tử Áo Thành trước đây. Tôi lập tức hiểu ra, Đường Lê cung là nơi tôi bị giam lỏng, sau khi tôi bị đuổi ra khỏi cung, nó tất nhiên đã trở thành vùng đất không lành trong mắt các phi tần, không một ai chịu đến ở, ngay đến Huyền Lăng có lẽ cũng không muốn bước chân vào đó lấy nửa bước.

    Tôi đã bị đuổi ra khỏi cung, phụng chỉ để tóc tu hành, đời này kiếp này tất nhiên phải chết già bên ngoài, không bao giờ được trở về nữa. Nếu không có gì thay đổi, cung điện mà tôi từng ở sớm muộn gì cũng sẽ được ban cho phi tần khác, thân là tỷ muội chí cốt của tôi, My Trang tất nhiên không đành lòng trơ mắt đứng nhìn, mà thà rằng tự mình đến đó ở.

    Dù sao trong mấy năm sống ở Tử Áo Thành, Đường Lê cung cũng là chốn yên thân duy nhất của tôi.

    Dường như Huyền Thanh cũng vô cùng cảm khái: “Huệ Quý tần không muốn trú tại Diễn Khánh cung đường hoàng, hoa lệ, mà lại xin tới Đường Lê cung bị tất cả mọi người trong cung coi là vùng đất không lành, chỉ e từ nay về sau ơn mưa móc sẽ càng ít ỏi.”

    Tôi bất giác buột miệng hỏi: “Tỷ ấy làm như vậy, lẽ nào Thái hậu không ngăn cản sao?”

    Y khẽ lắc đầu vẻ cảm thương. “Nàng và cô ấy giao hảo với nhau từ nhỏ, lẽ nào còn không rõ tính cách của cô ấy? Huống chi đám người Hoàng hậu và An thị đều mong cô ấy bị thất sủng, tất nhiên sẽ thuận nước dong thuyền.” Có lẽ vì tâm trạng nặng nề nên động tác chèo thuyền của Huyền Thanh bất giác chậm hẳn đi. “Theo ta thấy, chắc cô ấy có ý giữ Đường Lê cung thay nàng, sống một mình ở đó trong sự quạnh hiu.”

    Lòng tôi xúc động vô cùng, thì ra My Trang cự tuyệt ý tốt của Huyền Lăng, muốn dọn tới Đường Lê cung là vì còn có thâm ý này. Đường Lê cung là nơi tôi gặp Huyền Lăng lần cuối, Huyền Lăng canh cánh trong lòng, tất nhiên sẽ không để cho sủng phi nào tới ở. Một khi có ai vào ở trong Đường Lê cung, Huyền Lăng ắt sẽ chẳng buồn ngó ngàng gì tới nàng ta nữa. Nói cách khác, phi tần nào tới Đường Lê cung cũng đồng nghĩa với việc bị Hoàng đế ghẻ lạnh, gần như chẳng còn cơ hội gặp được Hoàng đế nữa.My Trang ơi là My Trang, không ngờ tỷ cũng đã quyết liệt với Huyền Lăng tới mức này rồi.

    Nhưng cũng phải thôi, với tính cách của tỷ ấy, thà cô độc một mình trong cung chứ nhất định không chịu xin Huyền Lăng thương hại.

    Tôi vừa cảm động lại vừa lo lắng, nghĩ tới việc My Trang đang tuổi xuân tươi đẹp như vậy mà lại phải ở trong Đường Lê cung u uất một mình, lòng tôi trào dâng muôn vàn cảm xúc đan xen, vô cùng bức bối. “Cuộc đời của My Trang thật có quá nhiều điều tiếc nuối.”

    Huyền Thanh đưa tay khẽ vuốt ve bờ má tôi, cất giọng xót xa: “Nàng cảm thấy cuộc đời của cô ấy có chỗ nào đáng tiếc sao?”

    Tôi suy nghĩ tới chỗ sâu xa, càng nghĩ lại càng khó chịu, thế nhưng trong sự khó chịu ấy cũng dần sinh ra một tia an ủi, khiến sắc mặt tôi bất giác nhẹ nhõm hẳn đi. “Nói thực lòng, so với việc tỷ ấy đắc sủng để rồi phải một mình nắm giữ đại cục, đối chọi với đám người Hoàng hậu, An thị và Quản thị, muội vẫn mong tỷ ấy có thể sống yên ổn trong Đường Lê cung, như vậy ít nhất cũng không lo lắng về tính mạng, có thể bình yên đến già.” Tôi đưa tay tới, nắm lấy bàn tay Huyền Thanh. “Tỷ ấy được Thái hậu bảo vệ, hơn nữa lại là người thất sủng, Hoàng hậu và các phi tần khác sẽ không hãm hại tỷ ấy đâu. Muội chỉ mong My Trang tỷ tỷ được bình an, không phải sống quá vất vả, chỉ vậy thôi.”

    Lòng bàn tay Huyền Thanh rất ấm áp, sự ấm áp ấy len qua da thịt, truyền vào lòng tôi từng chút, khiến tôi dần bình tĩnh trở lại.

    Gia tộc tôi phát sinh biến cố, tôi phải rời đi, mẹ con tôi phải ly tán, My Trang chưa chắc đã không muốn báo thù giúp tôi. Nhưng ở trong cung bây giờ, My Trang thế đơn lực bạc, khó có thể làm gì. Dù tỷ ấy có căm hận đến đâu đi nữa, có mong muốn đến đâu đi nữa, Thái hậu cũng sẽ không cho phép tỷ ấy làm gì vì tôi. Hẳn Thái hậu đã đáp ứng với tỷ ấy điều gì nên mới sai Phương Nhược mỗi tháng tới thăm tôi một lần, yêu cầu tôi dâng lên chỗ kinh văn chép được mỗi tháng, qua đó chứng tỏ tôi vẫn còn sống. Như vậy, My Trang có đắc sủng hay không thì có gì khác đây? Bởi lẽ điều mà lòng tôi mong mỏi chỉ là tỷ ấy có thể sống thật tốt, sống trong sự bình yên và thanh tịnh.

    Tâm trạng tôi dần trở nên bình lặng, khi ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt quan tâm của y, trái tim tôi bất giác buông lỏng đi nhiều, toàn thân đều thư thái.

    Thế nhưng, người mà tôi quan tâm không chỉ có My Trang. “Vậy…”

    Y hiểu rõ tâm ý của tôi, bèn cười, nói: “Kính Phi vẫn khỏe, Lung Nguyệt cũng rất khỏe. Kính Phi coi Lung Nguyệt như con ruột của mình, Lung Nguyệt cũng rất quấn nàng ta, tình mẹ con giữa hai người sâu đậm lắm!”

    Lòng tôi vô cùng vui vẻ, lúm đồng tiền trên má bất giác hiện ra. “Vậy thì tốt quá, Lung Nguyệt có sự bảo bọc của Kính Phi, muội cũng yên tâm rồi!”

    Huyền Thanh trầm giọng nói: “Hiện giờ Kính Phi và Đoan Phi cùng hợp sức quản lý lục cung, Lung Nguyệt lại ngoan ngoãn, hiểu chuyện, Kính Phi gần như chưa từng rời xa nó. Hơn nữa…” Y cố ý nói với giọng nhấn mạnh: “Lung Nguyệt là công chúa chứ không phải hoàng tử, lại còn rất nhỏ.”

    Tôi khẽ gật đầu, lòng xao động khôn nguôi, hai hàng lệ nóng chậm rãi tuôn trào, chảy đến khóe miệng cũng không hề có cảm giác đắng chát, mà chỉ thấy ngọt ngào. Huyền Thanh đã nói rất rõ ràng, Lung Nguyệt là công chúa, vĩnh viễn không thể uy hiếp tới địa vị của ai, mà Kính Phi lại có quyền quản lý lục cung, người khác ắt không dám tùy tiện trêu chọc nàng ta. Huống chi Kính Phi coi Lung Nguyệt như con đẻ, lúc nào cũng mang nó theo bên cạnh, có thể thấy Kính Phi đã hạ quyết tâm phải dốc hết sức mình bảo vệ nó.

    Tôi thoáng do dự, cuối cùng vẫn hỏi: “Vậy phụ hoàng của nó…”

    “Rất tốt.” Đôi mắt y lộ vẻ dịu dàng và thấu hiểu, tựa vầng trăng sáng trên trời, khiến người ta thầm cảm thấy yên tâm. “Có hai chữ Oản Oản đó, hoàng huynh và mẫu hậu tất nhiên đều coi nó như hòn ngọc trên tay, huống chi bản thân Lung Nguyệt vốn đã rất đáng yêu rồi.”

    Nước mắt tôi vẫn lã chã tuôn rơi, y dịu dàng đưa tay lên lau giúp, nước mắt của tôi cứ thế thấm vào những đường vân nơi đầu ngón tay y, y nói: “Mọi người đều khỏe cả, nàng chỉ cần giữ gìn bản thân cho tốt là được.”

    Tôi nhào vào lòng y, gật đầu một cách kiên định, cất giọng nghẹn ngào: “Muội biết, muội nhất định sẽ giữ gìn bản thân thật tốt, đó là vì huynh, cũng là vì tất cả những người mà muội yêu thương và nhung nhớ.”

    Tôi ngẩng lên nhìn y, khẽ nói: “Thanh, cảm ơn huynh, cảm ơn huynh đã thường xuyên mang tin tức về Lung Nguyệt tới cho muội. Muội là người làm mẹ, kỳ thực đã nợ nó quá nhiều.”

    Thanh dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, ôn tồn nói: “Nàng đã suy nghĩ cho Lung Nguyệt rất nhiều rồi, nó ở trong cung, sẽ được sống một cuộc sống rất tốt. Với tư cách một người mẹ, nàng đã dốc hết sức mình rồi.”

    Dòng sông chảy dài miên man vô tận, tôi và y dừng thuyền trên sông, để mặc cho nó tự trôi. Tiếng chuông từ chùa Cam Lộ du dương vang lại, bay xa tới tận chân trời, lưu lại dư âm vương vất, mãi không tan. Bầu trời như trải dài bát ngát, vô số vì sao cùng soi bóng xuống dòng sông, mỗi vì sao như một viên kim cương lấp lánh, cùng tỏa sáng giữa những nhành cỏ nước rung rinh. Giữa khoảng không gian tịch mịch, con thuyền như đang trôi trên dòng sông Ngân rực rỡ, tựa hồ không có điểm dừng. Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, tôi lặng lẽ gối đầu lên đùi y. Vì đang để tóc tu hành, mái tóc dài của tôi tùy ý buông lơi, bên trên không có món đồ trang sức nào. Chiếc áo dài trên người y hẳn đã mặc được một thời gian, vậy nên mới mang tới cảm giác mềm mại và thoải mái như vậy, dính sát vào làn da tôi.

    Mái tóc buông xõa của tôi liên tục bị gió thổi qua trước mắt, khiến tôi phải gạt ra hết lần này tới lần khác. Y khẽ nở nụ cười, giọng nói nghe như tiếng chuông gió tháng Ba từ ngoài hiên vẳng lại, vừa trong trẻo vừa vui tai: “Đêm xưa chẳng chải đầu, tóc xõa buông hai vai[2].”

    [2] Trích Tử Dạ ca, nguyên văn Hán Việt: Túc tích bất sơ đầu, ti phát bị lưỡng kiên – ND.

    Tôi hơi nghiêng đầu qua một bên, cất giọng du dương tiếp lời: “Gối tình lang tựa khẽ, nhìn sao thật đáng yêu[3].”

    [3] Trích Tử Dạ ca, nguyên văn Hán Việt: Uyển thân lang tất thượng, hà xứ bất khả liên – ND.

    Tôi ngẩng đầu nhìn y, khẽ cười “khì” một tiếng. Cằm y chắc vừa mới cạo râu, nhìn bóng loáng và ánh lên màu xanh biếc, tựa những tia sáng lờ mờ xuất hiện vào buổi sáng sớm khi mặt trời còn chưa mọc.

    Y cất tiếng cười vang, lại ôm tôi vào lòng, những ngón tay nhẹ nhàng lướt trên mái tóc óng mượt của tôi, khẽ nói: “Chẳng trách các nữ tử trên đời đều coi trọng mái tóc của mình như vậy, tóc xanh đầy đầu cũng là nỗi tương tư khôn xiết.”

    Tôi nhất thời nảy lòng nghịch ngợm, bèn giật mạnh một sợi tóc trước trán y. Vì quá bất ngờ, y kêu “úi chao” một tiếng, đau đớn cau mày lại. “Gì thế?”

    Tôi bật cười đáp: “Vừa rồi không phải huynh nói tóc xanh đầy đầu cũng là nỗi tương tư khôn xiết sao? Thấy Thanh lang nhiều tóc như vậy, muội mới giúp huynh nhổ đi một sợi để bớt được chút phiền não vì nỗi tương tư, vậy không tốt ư?”

    Y cất tiếng cười vang, đưa hai ngón tay lại nhéo mũi tôi một cái. Chiếc thuyền quá nhỏ, tôi không có chỗ nào để tránh, chỉ đành để y nhéo mũi cho xong. Y nói: “Ai bảo tương tư là phiền não chứ. Nàng có nhổ hết mái tóc này của ta, ta vẫn đối xử với nàng như trước thôi.”

    Tôi khẽ phỉ phui một tiếng, nói: “Thực không biết xấu hổ gì hết!” Còn chưa nói xong thì đã bật cười, ngã vào lòng y. Ở trong lòng y, tôi luôn ngửi thấymùi hương thanh tân, thuần khiết, dường như là mùi hương của hoa đỗ nhược bên trong chiếc túi gấm thuở nào.

    Y cởi chiếc túi vải thưa đeo bên hông ra, dốc hết đám đom đóm bên trong vào giữa hai bàn tay tôi, dịu dàng hỏi: “Có thích không?”

    Những con đom đóm lập lòe phát ra ánh sáng màu xanh lam lành lạnh, như những vì sao đẹp đẽ. Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Đã có sao sáng đầy trời rồi, muội không dám nảy lòng tham thêm nữa.”

    Tiếng nước chảy nghe róc rách bên tai, dịu dàng tựa lời tình nhân rủ rỉ. Tôi nhìn đến đắm say nhưng rốt cuộc vẫn thấy không đành lòng, liền buông tay thả hết lũ đom đóm ra, nhìn bọn chúng nhẹ nhàng bay lượn xung quanh mình.

    Tôi thò bàn tay vào trong vạt áo trước ngực y, rất nhanh đã tìm được chiếc túi gấm nhỏ bé kia và lấy nó ra. Chiếc túi gấm trông vô cùng tinh xảo, phần miệng có mấy sợi dây tua màu bạc đính ngọc đồi mồi, dưới ánh trăng tỏa ra những tia sáng dìu dịu.

    Tôi thầm nghĩ bao năm nay hẳn y vẫn giữ gìn cẩn thận nên chiếc túi gấm không cũ đi chút nào. Cẩn thận mở nó ra, tôi khẽ nói: “Đã là vật từ bao năm trước rồi, sao huynh vẫn mang nó bên mình như thế?”

    Y nhìn chiếc túi gấm bằng ánh mắt dịu dàng và tha thiết, đáp: “Tuy nó đã cũ rồi nhưng mấy năm nay, nếu không có nó bầu bạn kề bên, chắc lòng ta không cách nào bình tĩnh được.” Trong chiếc túi gấm vẫn là mấy cánh hoa đỗ nhược như trước, tuy đã khô nhưng mùi thơm thì không hề giảm bớt, bên cạnh đó còn đặt bức tranh cắt hình tôi, y khẽ cất tiếng ngâm: “Người trong núi chừ, như đỗ nhược thơm[4], cũng chỉ có loài hoa đỗ nhược này mới xứng ở bên bức tranh cắt của nàng thôi.”

    [4] Trích Sơn quỷ, Khuất Nguyên. Nguyên văn Hán Việt: Sơn trung nhân hề phương đỗ nhược – ND.

    Ngón tay tôi nhẹ nhàng vuốt ve bức tranh cắt màu đỏ, đầu ngón tay như mang theo nỗi lưu luyến khôn nguôi. “Đây là muội của ngày xưa rồi!”

    Bức tranh cắt này là chính tay Tiểu Doãn Tử cắt cho tôi trong đêm Giao thừa năm tôi mới vào cung, dùng để cầu phúc. Đôi tay hắn cực kỳ khéo léo, do đó tranh cắt sống động như thật.

    Tôi chợt nghĩ tới một việc, không kìm được tò mò hỏi: “Có chuyện này muội vẫn luôn muốn hỏi huynh nhưng lần nào cũng quên mất… Bức tranh cắt này, rốt cuộc tại sao huynh lại có?” Nghĩ một chút tôi lại nói thêm: “Người muội gặp trong Ỷ Mai viên ngày đó không phải là huynh mà.”

    Y khẽ gật đầu. “Tất nhiên không phải là ta”, rồi bèn chậm rãi kể: “Hôm đó hoàng huynh rời khỏi bữa tiệc đi tản bộ, đi tới Ỷ Mai viên thì ngẫu nhiên gặp nàng, ta không hề hay biết. Ta chỉ nhìn thấy huynh ấy lướt khướt rời đi, lại nghe nói là đi tới Ỷ Mai viên, do đó không yên tâm lắm, liền cùng Lý Trường tới đó xem thử.” Giọng của y hơi trầm thấp: “Hoa mai ở Ỷ Mai viên vốn nở đẹp nhất trong cung, năm xưa khi Thuần Nguyên Hoàng hậu vào cung, rất được hoàng huynh sủng ái, những loại hoa mai trân quý trong Ỷ Mai viên đều là do hoàng huynh cùng Thuần Nguyên Hoàng hậu chính tay trồng, để nàng ta có thể ngắm nhìn vào mùa đông. Cũng vì thế nên khi nghe nói hoàng huynh rời bữa tiệc đi Ỷ Mai viên, ta mới thấy không yên tâm, phải đích thân qua đó xem thử.”

    Tôi cúi đầu cất lời cảm khái: “Nguồn cơn của biết bao việc, kỳ thực đều là từ Thuần Nguyên Hoàng hậu mà ra”, rồi lại gượng cười nói tiếp: “Thì ra ngay từ đầu, muội đã không tránh khỏi cái bóng của nàng ta.”

    Y dịu dàng an ủi: “Thực ra nàng và nàng ta cũng không hẳn là quá giống nhau.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Huynh kể tiếp đi.”

    “Khi ta tới Ỷ Mai viên, hoàng huynh đã trở ra rồi, còn dặn dò Lý Trường phải nhanh chóng đi tìm một cung nữ trong Ỷ Mai viên, ta nghe vậy liền biết nhất định là đã có chuyện. Khi đó, ta chẳng qua chỉ là nhất thời tò mò, thấy ý Trường đã đỡ hoàng huynh rời đi, ta liền vào Ỷ Mai viên xem thử. Ta nhớ lại việc hoàng huynh nói đã đứng nói chuyện với cung nữ đó cách một gốc cây, thế là bèn tìm tới chỗ hoa nở nhiều nhất, lại có dấu chân trên tuyết sâu nhất, sau đó liền phát hiện một bức tranh cắt được treo trên cành cây, ta đoán đó chắc là vật mà cung nữ đó để lại.”

    Tôi che miệng khẽ cười. “Sao huynh lại biết ả cung nữ kia, cũng chính là Diệu Âm nương tử sau này, không phải là người trên bức tranh cắt? Huynh từng gặp Diệu Âm nương tử bao giờ chưa?”

    “Gặp rồi.” Y khẽ cười một tiếng. “Ta vừa gặp đã biết ngay cô ta không phải người mà hoàng huynh muốn tìm.”

    “Bức tranh cắt đó tuy sống động như thật nhưng dù sao cũng không phải người sống, không thể vừa nhìn đã nhận ra là ai được.”

    Y khẽ gật đầu. “Tất nhiên rồi, ta cũng đâu thể dựa vào bức tranh cắt đó mà biết cô ta không phải là nàng”, sau đó lại hơi nhướng mày, lộ vẻ khá đắc ý. “Nàng có biết tại sao ta lại biết được không?”

    Tôi cố ý làm bộ không để ý đến y. “Huynh muốn nói thì nói, không muốn nói muội cũng chẳng thèm nghe đâu.”

    Y cười rộ. “Là vì dấu chân. Dấu chân mà ta nhìn thấy trên tuyết ngày đó nhỏ hơn so với chân của Diệu Âm nương tử nhiều. Vả lại, hoàng huynh từng kể với ta rằng cung nữ nói chuyện với huynh ấy biết một chút về thơ văn. Mà Diệu Âm nương tử xuất thân là cung nữ trồng hoa, dù có thế nào cũng không giống như kiểu người có thể nói ra câu thơ ‘nếu gió đông hiểu ý, xin đừng hại đến hoa’. Đã biết không phải là cô ta rồi, ta liền nảy ra chủ ý giấu bức tranh cắt này đi.”

    “Tại sao lại phải giấu đi?”

    “Diệu Âm nương tử về sau không ngừng tranh sủng, lại càng chứng thực phán đoán của ta. Nếu cô ta thật sự là cung nữ đã trò chuyện với hoàng huynh đêm đó, đáng lẽ phải có ý tránh né mới phải, cớ sao sau khi trở thành phi tần của hoàng huynh lại gây chuyện thị phi khắp nơi như thế? Qua đó đủ thấy cô ta không phải l cung nữ kia.” Y khẽ cười, nói: “Người trò chuyện với hoàng huynh đêm đó tự xưng là cung nữ trong Ỷ Mai viên, tuy chưa chắc đã đúng là vậy nhưng nhất định phải là nữ tử trong cung. Cô ấy tất nhiên biết việc Diệu Âm nương tử mạo danh mình, vậy mà lại chẳng nói gì cả. Ta bất giác cảm thấy thú vị, một người xem nhẹ vinh hoa phú quý, lại hiểu biết về thơ văn, nếu chỉ làm một cung nữ thôi thì thật quá đáng tiếc.”

    Tôi không kìm được cười, nói: “Muội hiểu rồi, huynh cố tình giấu nhẹm việc này đi là mong có thể mang cô ấy về làm thiếp cho mình.”

    Trong mắt Thanh ánh lên một nét cười rạng rỡ. “Ta không hề có ý nghĩ này. Ta chỉ cảm thấy, nếu có đủ khả năng thì mình nên cùng cô ấy làm một cặp tri kỷ về thơ từ ca phú, chứ cứ để cô ấy phải vất vả trong cung, có lẽ sẽ có một ngày cô ấy bước theo dấu chân của Diệu Âm nương tử, đi tranh giành sự sủng ái của hoàng huynh với các nữ tử khác, đã thế trong cung lại có Hoa Phi đè nén, như vậy cuộc sống của cô ấy sẽ vất vả vô cùng. Ta luôn thầm nghĩ, một nữ tử như vậy không nên bị mai một trong chốn hậu cung.”

    Tôi nở một nụ cười chua chát, ngẩn ngơ ngoảnh đầu qua một bên. “Đáng tiếc, dù có trốn tránh thế nào, muội rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi vận mệnh của mình.”

    Y nhớ lại chuyện xưa, cất giọng nhẹ nhàng: “Vì thế ngày đó nàng mới mất con, thất sủng, chịu đủ sự ghẻ lạnh. Nhưng rồi cuối cùng ta đã thấy nàng mặc một bộ đồ trắng xuất hiện trong Ỷ Mai viên cầu phúc cho hoàng huynh, cho dù mang mối hiềm nghi là cố ý, nhưng hoàng huynh ắt chẳng hề để tâm.”

    Tôi cười hờ hững, nói: “Muội cứ ngỡ rằng lần đó y đã bị tình ý của muội làm cho cảm động, chẳng ngờ rốt cuộc vẫn là vì Thuần Nguyên Hoàng hậu.”

    Y nói: “Muội chịu chấp nhận lấy lòng hoàng huynh, y tất nhiên hết sức vui mừng. Tuy nhiên trong có chút tâm cơ nho nhỏ nhưng y sẽ chỉ cảm thấy nàng đáng thương và đáng yêu, vả lại việc còn xảy ra trong Ỷ Mai viên, do đó sự đắc sủng của nàng về sau là điều hiển nhiên.”

    Tôi lẳng lặng cúi đầu, chậm rãi nói: “Muội kỳ thực không hề biết gì về Ỷ Mai viên”, sau đó lại cười lạnh một tiếng, ngoảnh lại nói: “Thì ra ngay từ đầu tất cả đã là vì nàng ta rồi.”

    Y khẽ gật đầu. “Ta biết chứ, chỉ là bây giờ việc này đã không còn quan trọng nữa rồi.” Thần sắc Huyền Thanh dần trở nên ảm đạm, tựa một bông tịch nhan ướt đẫm sương đêm, lại giống như vầng trăng non cong cong ở phía chân trời, đầy vẻ cô đơn, hiu quạnh. “Từ lần đầu tiên nhìn thấy nàng rửa chân bên dòng suối ở Thái Bình hành cung, nghe nàng ngâm câu thơ ‘đời người nếu dừng khi mới gặp, sợ chi vì gió bỏ quạt tròn’, lòng ta đã rõ, nàng nhất định chính là nữ tử trên bức tranh cắt đó. Tuy tranh không giống người thật nhưng ta lại có cảm giác đó nhất định chính là nàng. Chỉ đáng tiếc… khi ta gặp nàng lần đầu, nàng đã là Chân Uyển nghi đắc sủng nhất bên cạnh hoàng huynh rồi.”

    Chân Uyển nghi, quả đúng là thế. Trong Thái Bình hành cung năm đó, tôi là uyển nghi tiểu chủ được Hoàng thượng sủng ái nhất.

    Tôi thật lòng không muốn nhớ lại những việc có liên quan tới Huyền Lăng để rồi khiến bản thân không vui, bèn cười, nói: “Ngày đó huynh lỗ mãng quá chừng, thấy muội để chân trần mà không biết tránh đi, lại còn dám hỏi khuê danh của muội, thực là vô lễ.”

    Y nắm lấy bàn tay tôi, có chút ngượng ngùng cười, nói: “Ngày đó đúng là ta đã có phần mạo muội, nhưng ở trong cung ta chưa từng thấy nữ tử nào dám để chân trần mà cất tiếng ngâm nga như nàng. Khi ấy ta quả thật rất muốn biết tên nàng, do đó tuy cảm thấy không ổn nhưng rốt cuộc vẫn cất tiếng hỏi.”

    Tôi đưa tay khẽ cào vào má y, cất tiếng trêu chọc: “Đôi chân trần của nữ tử là thứ quý báu nhất, phải tới đêm động phòng hoa chúc mới có thể cho phu quân của mình nhìn thấy, huynh đúng là đã được một món hời rồi. Mà hỏi tên cũng là một nghi lễ quan trọng trong quá trình thành hôn, sao huynh có thể tùy tiện hỏi như thế chứ?”

    Y cười rộ một tiếng rồi ôm tôi vào lòng. “Nghĩ lại mới thấy đúng là thế thật, nhưng qua đó cũng đủ để thấy duyên phận giữa ta và nàng sớm đã được định sẵn rồi, nếu không sao ta lại hỏi những lời như thế và bây giờ nàng lại ở bên cạnh ta chứ?”

    Tôi vô cùng thẹn thùng, phỉ phui nói: “Sao muội lại quen một người như huynh chứ, thật là xui xẻo quá đi!”

    Y không đáp lại lời tôi, chỉ nói: “Ta vốn định khi tìm thấy người cung nữ đó sẽ tự tay trả lại bức tranh cắt cho nàng ta, nhưng kể từ khi gặp nàng, ta liền biết rằng bức tranh cắt ấy, ta sẽ mãi mãi không bao giờ chịu trả lại nữa.”

    Tôi hiểu được dụng tâm của y, bèn thấp giọng nói: “Muội biết, vì muội là người của Hoàng đế nên huynh chỉ có thể giữ lại bức tranh cắt ấy mà thôi.”

    “Trong những tháng ngày đứng nhìn nàng từ xa thuở nào, bức tranh cắt ấy quả thực là thứ duy nhất mà ta có.” Y khẽ gật đầu, trong niềm thương cảm miên man toát ra một nỗi mừng vui mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra. “Ta cứ luôn nghĩ rằng, cả cuộc đời này, thứ mà ta có thể giữ lại được chỉ có duy nhất bức tranh cắt ấy mà thôi.”

    Tôi đặt bàn tay mình vào giữa lòng bàn tay y, cảm nhận sự ấm áp từ lòng bàn tay y truyền lại, khẽ nói: “Sẽ không đâu.” Y khẽ “ừm” một tiếng, tôi lại nói: “Khi ở trong cung, muội đã coi huynh như tri kỷ. Chỉ là, muội sợ phải đối mặt với tình cảm thật của mình.”

    “Vậy bây giờ muội còn sợ nữa không?”

    Bờ vai y vững chãi mà rắn rỏi, tôi tựa mình vào đó, nghe tiếng tim đập đều đều của y, cất giọng kiên định: “Chỉ cần có huynh ở bên, muội không sợ gì hết.”

    Ánh mắt y có một sức mạnh nào đó khiến người ta cảm thấy yên tâm, tôi có thể nhìn thấy rõ ràng bóng dáng của bản thân trong mắt y, những ngôi sao trên trời dù có sáng đến mấy cũng không thể sáng hơn cặp mắt y được.

    Những con đom đóm bay lượn vòng quanh, đẹp đẽ tựa sao trên trời. Tôi hơi nghiêng đầu qua một bên, nụ hôn của y mang theo làn hơi thở ấm áp tràn tới, nhanh chóng bao bọc lấy tâm hồn tôi.
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 29: Rong chơi mạn Bắc
    Giữa tiết thu se lạnh, Huyền Thanh giục ngựa đi tới, hưng phấn nói: “Hoàng huynh vừa cho phép ta lên miền Bắc du ngoạn hai tháng, ta đã chuẩn bị xong hành trang rồi, chúng ta cùng đi nhé!”

    Tôi ngẩn người. “Huynh lên miền Bắc ngao du, sao muội có thể đi theo được?”

    Y cười đáp: “Ta xưa nay vẫn luôn độc lai độc vãng, vi hành ra ngoài, có ai biết ta là vương gia chứ. Còn hoàng huynh, từ sau khi có được tân sủng Phó thị, huynh ấy đâu còn thời gian rảnh mà để ý tới người khác nữa. Lần này ta chỉ mang theo mình A Tấn, chúng ta sẽ cùng nhau du ngoạn Thượng Kinh, nàng thấy thế nào?”

    Tôi có chút do dự. “Nhưng muội mình mặc áo ni cô, còn đang tu hành nữa.”

    Cận Tịch đứng bên cười, nói: “Nương tử ngày ngày ngồi không ở đỉnh Lăng Vân này thực là bí bách lắm, cứ ra ngoài vui chơi cho khuây khỏa cũng hay. Dù sao chúng ta cũng ở riêng bên ngoài, ai mà biết được nương tử có còn ở đây không. Chỉ cần thay áo ni cô ra là được, chúng ta vẫn còn rất nhiều quần áo cũ từ ngày xưa mà, mặc vào rồi há chẳng phải sẽ giống một nữ tử bình thường sao?”

    Hoán Bích cũng mỉm cười, nói: “Bên cạnh tiểu thư không thể không có người hầu hạ, chi bằng hãy mang theo cả nô tỳ nữa.”

    A Tấn cười hì hì, vỗ tay nói: “Bích cô nương hầu hạ nương tử, A Tấn ta hầu hạ Vương gia, bốn người chúng ta cùng đi với nhau là tuyệt nhất.”

    Cận Tịch ôn tồn nói: “Nương tử và Hoán Bích cô nương cứ đi đi, nô tỳ ở lại đây trông nhà. Tới Thượng Kinh vào mùa này là hợp nhất đấy, phong cảnh đang rất đẹp.”

    Trong mắt Huyền Thanh tràn ngập nét cười. “Chúng ta chưa từng ra ngoài chơi với nhau bao giờ đâu đấy, nàng có bằng lòng không?”

    Đại Chu hồi mới lập quốc đã từng định đô ở Dương Kinh mười hai năm nên nơi đó còn có tên là Thượng Kinh, cách kinh đô Trung Kinh hiện giờ khoảng chừng ba trăm dặm. Đại Chu năm Kiến Nguyên thứ mười, tộc Hách Hách ở miền Bắc liên tục đưa quân xâm phạm khu vực phụ cận Thượng Kinh, trong lần tồi tệ nhất, Tế Cách Khả hãn của tộc Hách Hách thậm chí còn dẫn theo năm ngàn tinh binh đánh thẳng tới Nhạn Minh quan, cửa ải cách Thượng Kinh chỉ chừng tám mươi dặm.

    Nhạn Minh quan tây giáp sông Hi Lăng, phía nam gần địa giới Dương Kinh, phía bắc có Chỉ Tiên quan nối liền với sạn đạo ở núi Lạc Thiết, xưa nay luôn là vùng đất nhà binh ắt phải tranh đoạt. Bên ngoài núi Lạc Thiết là một vùng thảo nguyên và sa mạc mênh mông, toàn bộ là lãnh địa của người Hách Hách. Do đó Nhạn Minh quan là vùng yếu địa bảo vệ giang sơn Đại Chu trước sự tấn công của tộc Hách Hách, quan trọng vô cùng. Vì cửa quan đó được dựng ở nơi hiểm trở, dễ thủ khó công, ngẩng đầu là gần như có thể chạm tới trời, ngay đến chim nhạn cũng khó lòng bay qua được, mỗi lần đến cuối thu lại thường xuyên nghe thấy từng đàn chim nhạn bay lòng vòng xung quanh mà cất tiếng hót bi thương, do đó mới có tên là Nhạn Minh quan. Thế nhưng không chỉ chim nhạn mới cất tiếng hót bi thương, cuộc sống của người dân xung quanh Nhạn Minh quan cũng kham khổ vô cùng. Tộc Hách Hách vốn sống ở phương Bắc, thường xuyên di cư theo nguồn nước và thảm cỏ, khi nào nước đầy cỏ rậm thì còn đỡ, một khi tới mùa thu nước cạn cỏ khô, sự ấm no của bộ tộc bị đe dọa, bọn họ sẽ xua quân xuống miền Nam, băng qua núi Lạc Thiết mà chém giết cướp bóc, khiến dân cư Đại Chu nơi biên thùy cửa nhà bị hủy, gặp hồi chiến loạn liên miên, khổ sở không lời nào tả xiết.

    Năm Kiến Nguyên thứ mười vừa khéo xảy ra một cơn đại hạn, ngàn dặm thảo nguyên tươi tốt của người Hách Hách biến thành một vùng hoang vu, vào thu chỉ chừng mười ngày thời tiết đã biến đổi hẳn, trở nên giá lạnh vô cùng, vài ngày sau thì tuyết rơi, băng dày ba thước. Người Hách Hách vì muốn giữ vận nước, duy trì sự sinh tồn của bộ tộc, liền dốc hết quốc lực mà xua mười vạn đại quân đánh xuống miền Nam.

    Khi đó Đại Chu cũng đang trong cơn hạn hán, lại vừa phải trải qua mấy năm chinh chiến liên miên, đất nước đang cần có thời gian phục hồi nguyên khí, sức nước suy yếu vô cùng, vấn đề lương thảo ở nơi biên ải khó lòng giải quyết, đã thế lại gặp cơn tuyết lớn, tướng sĩ giữ ải không ai ngờ được giữa trời tuyết lớn mênh mang lại thình lình có mấy vạn thiết kỵ Hách Hách xông ra, thế là tất cả chỉ biết trợn tròn mắt há hốc miệng, ngơ ngác nhìn nhau, để mặc cho vó ngựa của đối phương tràn xuống phía Nam.

    Nếu Nhạn Minh quan bị phá, Thượng Kinh e chẳng còn gì che chắn, hoàn toàn hé lộ trước mặt kẻ địch. Thái Tổ chinh chiến mất mười mấy năm mới giành được một mảnh giang sơn gấm vóc, vậy mà tưởng như sắp rơi vào tay lũ giặc man di tới nơi, lập tức lòng người cả nước đều hoang mang khôn tả, thậm chí có người còn khuyên Thái Tổ lui xuống bờ Nam sông Trường Giang, giữ lấy một nửa giang sơn để giằng co với người Hách Hách.

    Trong cơn nguy cấp, may mà có Đại tướng Tề Bất Trì chẳng ngại mang tấm thân già nua đã chinh chiến sa trường nửa đời người, khoác áo giáp trở ra chiến trận, với tuổi lục tuần mà vẫn xung phong đi trước sĩ tốt, một mũi tên bắn xuyên qua vai Tế Cách Khả hãn, khiến hắn ngã ngựa, qua đó quét sạch sự ủ dột của tướng sĩ Đại Chu, đồng thời cũng làm cho sĩ khí quân Hách Hách suy giảm hẳn, không còn dám tiến lên phía trước nữa.

    Tháng Mười một năm Kiến Nguyên thứ mười, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly lại một lần nữa dẫn quân tiến đánh Nhạn Minh quan, Tề Bất Trì cầm quân phòng thủ, cho xây dựng tường lũy bên phải cửa quan, đặt tên là Diệt Hách Bình, đồng thời lại chọn nơi hiểm yếu dựng thêm cửa ải, thiết lập đạo phòng tuyến thứ hai, sẵn sàng chờ đợi. Tháng Mười hai cùng năm, Tề Bất Trì và quân Hách Hách giao chiến mấy ngày, rốt cuộc không giữ được, phải lùi về đạo phòng tuyến thứ hai. Tướng sĩ Hách Hách mình mặc giáp dày, dùng móc sắt leo lên tường thành không ngớt, Tề Bất Trì và đệ đệ là Tề Bất Thoái đốc quân tử chiến, dùng cung cứng nỏ mạnh giết chết rất nhiều quân địch, nhưng thế công của đối phương vẫn không suy giảm, Tề Bất Trì sai bộ tướng Mộ Dung Chính dẫn theo một cánh quân tinh nhuệ, dùng đao dài búa lớn tấn công vào hai cánh trái phải của quân Hách Hách, qua đó phá tan nhuệ khí quân địch. Ngày mùng Một tháng Giêng năm Kiến Nguyên thứ mười một, Tề Bất Trì cho đốt núi Lạc Thiết, gõ trống trận vang trời, xuất quân phản kích, lại phái các tướng Vương Hỉ, Vương Vũ tấn công vào đại doanh quân Hách Hách. Đại quân Hách Hách trong cơn kinh hãi đã bˠđánh cho luống cuống chân tay, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly chiến tử, Tế Cách Khả hãn bị thương chưa lành phải dẫn quân tháo chạy, nửa đường vết thương tái phát mạng vong. Tề Bất Trì thừa thế sai Mộ Dung Chính dẫn quân truy kích, giết được hơn vạn tên địch, làm máu chảy thành sông; lại phái Tề Bất Thoái chặn một cánh phục binh trên con đường mà quân Hách Hách ắt phải đi qua khi trốn về nước, tập kích quân Hách Hách thêm lần nữa. Sau trận này, quân Hách Hách đã bị ép phải lùi về đến đô thành Tàng Kinh.

    Tề Bất Trì chinh chiến cả đời, kiên trinh can đảm, rốt cuộc vào tuổi sáu mươi đã dựa vào chiến công ở Nhạn Minh quan mà được phong hầu bái tướng, trở thành vị võ tướng tước hầu đầu tiên của triều Đại Chu, Định Huân Hầu. Thái Tổ sai họa sĩ giỏi vẽ lại chân dung ông, cho treo trong Dương Dực điện kề bên Thái miếu ở Thượng Kinh, lưu danh sử sách. Thậm chí năm đó ở vùng phụ cận núi Lạc Thiết, nếu có đứa trẻ nào bướng bỉnh gào khóc không ngơi, người lớn chỉ cần dọa một câu: “Tề Bất Trì tới rồi!”, đứa bé đó ắt sẽ nín bặt, không dám quấy khóc thêm nữa.

    Đáng tiếc, ông trời chẳng tha cho ai, sau khi được phong tước ba tháng, Tề Bất Trì đã kiệt sức qua đời, ngậm cười nơi chín suối. Về sau, hậu nhân của ông tuy bị Thái Tông dùng vinh hoa phú quý mà tước đi binh quyền, không còn nắm trong tay thiên binh vạn mã của Đại Chu nữa, thế nhưng gia tộc vẫn hiển hách vô cùng, trải trăm năm không suy chuyển. Nhưng tới năm Càn Nguyên của bản triều, dòng họ Tề nhân đinh dần trở nên thưa thớt, gia tộc cũng theo đó mà suy bại. Thế nhưng dù sao cũng là gia tộc đã sừng sững trăm năm, dư uy của bọn họ vẫn còn, không ai dám xem nhẹ. Hậu nhân của Tề Bất Trì chính là Đoan Phi Tề Nguyệt Tân trong cung hiện nay, đây cũng là nguyên nhân Tề Nguyệt Tân từ nhỏ đã được nuôi trong thâm cung để Huyền Lăng chọn làm phi tần.Mấy năm sau khi Tề Bất Trì qua đời, tin tức vẫn bị triều đình Đại Chu phong tỏa chặt chẽ. Người Hách Hách trong trận Nhạn Minh quan không chỉ bị mất nguyên soái và mấy vạn binh sĩ, ngay cả Khả hãn cũng bỏ mạng giữa đường, do đó rất sợ uy danh của Tề Bất Trì, thêm vào đó, nguyên khí tổn thương rất nặng, suốt mấy năm liền không dám có hành động gì với Đại Chu, một mực yên phận giữ mình. Không lâu sau, Đại hãn Hách Hách đời kế tiếp là Anh Cách đưa ra đề nghị giải hòa với Đại Chu, đồng ý lấy núi Lạc Thiết làm biên giới, xây dựng chợ Hỗ Thị để tiến hành mậu dịch, dùng trâu bò ngựa dê đổi lấy lá trà, tơ lụa cùng với lương thực từ Đại Chu, hai bên tự phòng thủ biên giới của mình, mãi mãi không xâm phạm lẫn nhau.

    Sau khi Tề Bất Trì qua đời, Đại Chu kỳ thực đã chẳng còn bao nhiêu binh lực để mà điều động, thêm vào đó trận Nhạn Minh quan đã làm quốc lực tổn hao nặng nề, không có vài năm thì đừng hòng hồi phục, do đó thấy Hách Hách đến nghị hòa thì lập tức đồng ý. Thế rồi hai bên Đại Chu và Hách Hách đã tiến hành uống máu ăn thề tại con sông biên giới, sử sách gọi đây là “Hội thề Hà Trì”.

    Đại Chu và Hách Hách cùng cho dựng bia ở Thượng Kinh và Tàng Kinh, bên trên khắc rõ các việc có liên quan tới hội thề. Trong hội thề, hai bên đã đồng thời bày tỏ Đại Chu và Hách Hách là huynh đệ một nhà, từ nay về sau sẽ coi nhau như một, cùng giữ biên cương, vĩnh viễn không xâm phạm lẫn nhau để dân chúng được an cư. Ngoài ra hai bên còn bàn bạc các hạng mục trong việc xây dựng Hỗ Thị, ước định bên Hách Hách sẽ dùng các vật như vàng bạc, ngựa dê, da sống, đuôi ngựa để trao đổi, còn bên Đại Chu sẽ dùng các vật như lá trà, tơ lụa, nồi niêu, lương thực để trao đổi; đồng thời lại cho thiết lập Trà Mã ty, chuyên quản việc buôn bán trao đổi giữa hai bên.

    Thế nhưng tình cảnh quân Hách Hách tấn công vào năm Kiến Nguyên thứ mười khiến Thái Tổ không sao quên được, nên vào tháng Một năm Kiến Nguyên thứ mười hai, Thái Tổ đã dời đô tới Trung Kinh bây giờ, cho xây dựng Tử Áo Thành để ở, lại gia phong Mậu Thành Quận chúa làm Kim Sơn Công chúa, gả cho Anh Cách Khả hãn làm Đại phi chính thất. Trăm năm qua, tuy vùng biên giới Đại Chu và Hách Hách thỉnh thoảng vẫn phát sinh chút xung đột nhỏ, nhưng rốt cuộc cũng có được trăm năm bình yên, không còn cảnh chiến tranh tàn khốc nữa.

    Lúc này, tôi và Huyền Thanh đang dắt tay nhau du ngoạn Thượng Kinh, giả trang làm một cặp vợ chồng bình thường. Tôi vận một chiếc áo lụa màu hồng, lại kết hợp với một chiếc váy gấm dài màu vàng nhạt, Huyền Thanh thấy giờ đang tiết trời thu, liền tiện tay khoác thêm cho tôi một chiếc áo ngoài. Tôi ngồi chăm chú, ngó nhìn vào gương một hồi, không kìm được cười, nói: “Màu sắc thật tươi vui quá chừng.” Huyền Thanh vận một chiếc áo gấm dài màu xanh nhạt, lại càng tôn lên thân thể cao lớn và khí độ ung dung, dịu êm tựa như ánh trăng xuân tháng Ba chiếu xuống nhành dương liễu.

    Tôi ngoảnh đầu chăm chú nhìn y, khóe môi hơi nhếch lên, mang theo mấy phần tình ý, khẽ nở nụ cười. “Sao tự nhiên huynh lại chọn mặc màu này thế?”

    Huyền Thanh đặt tay lên vai tôi, khiến dáng người vốn thuộc tầm trung của tôi bất giác có vẻ nhỏ nhắn đi nhiều. “Nàng mặc áo màu hồng, ta liền chọn áo màu xanh, hai màu sắc này rất hợp nhau, khiến bầu không khí càng thêm vẻ tươi vui.”

    Hoán Bích lúc này đang bưng hộp đồ trang sức trên tay, sau khi chăm chú ngắm nghía tôi và Huyền Thanh một hồi, đột nhiên ngoảnh đầu đi chỉnh trang quần áo, không nhìn chúng tôi nữa, chỉ hờ hững cười, nói: “Tiểu thư và công tử thế này, nhìn cứ như một cặp vợ chồng mới cưới đang chuẩn bị ra ngoài dạo chơi vậy.”

    Tôi thoáng cảm thấy giờ đây nụ cười của Hoán Bích ngày một hờ hững hơn, tựa như vầng trăng ẩn sau lớp mây thưa, dù có đôi chút ánh sáng chiếu xuống cũng vô cùng mờ ảo. Hơn nữa, muội ấy còn rất thích cúi đầu, tính tình thì ngày càng điềm đạm, ít nói.

    Huyền Thanh nghe vậy thì tỏ ra hết sức mừng rỡ, lập tức ngoảnh lại cười, hỏi: “Thật sự rất giống sao?”

    Hoán Bích hơi cúi đầu, cất giọng dịu dàng nói: “Nếu tự bản thân công tử cảm thấy giống, như vậy người ngoài ắt sẽ càng thấy giống.”

    Tôi khẽ chọc vào tay Huyền Thanh một cái, hai má đỏ bừng, bật cười khúc khích. “Làm gì có ai đi hỏi như vậy chứ, không biết xấu hổ gì cả. Hoán Bích đang trêu huynh đấy!”

    Huyền Thanh lộ ra bộ dạng nghịch ngợm như trẻ con, ung dung nói: “Ta thật sự thấy rất giống mà.”

    Nghe y nói như vậy, tôi lại càng xấu hổ, liền không thèm để ý tới y nữa mà kéo tay Hoán Bích qua một bên hỏi: “Lâu lắm không ăn mặc thế này rồi, một nữ tử bình thường nên bới kiểu tóc thế nào đây nhỉ?”

    Hoán Bích khẽ nở nụ cười. “Tiểu thư đã muốn cùng Vương gia đóng giả làm vợ chồng tân hôn ra ngoài chơi, vậy tất nhiên phải bới hết tóc lên thành một búi lớn rồi.” Vừa nói, Hoán Bích vừa nhanh nhẹn chải tóc, bới tóc giúp tôi mới bới được một nửa thì lại chợt chăm chú suy tư, sau đó liền gỡ ra mà bới cho tôi một kiểu tóc bình thường, cuối cùng dùng một cây trâm vàng để cố định. Cây trâm đó làm bằng vàng ròng, được đính hai viên minh châu to bằng đầu ngón tay cái, trắng lóa tròn xoe, lấp lánh phát sáng, vô cùng bắt mắt. Hoán Bích ngắm nghía một chút, lại đi chọn thêm đồ trang sức chuẩn bị cài lên cho tôi. Lúc này, chậu thu hải đường đặt dưới cửa sổ đang nở hoa rạng rỡ, có điều đây chỉ là loại thu hải đường bình thường nơi dân gian, tất nhiên không thể so sánh với những giống hoa trân quý nơi cung đình, cánh hoa lốm đốm màu hồng phấn, đượm nét vui tươi. Huyền Thanh hái lấy một cành hoa cài lên búi tóc tôi, sau đó liền mỉm cười nhìn tôi chăm chú, ánh mắt tràn ngập vẻ quyến luyến, yêu thương.

    Hoán Bích coi như không nhìn thấy, sau một hồi chọn lựa đã chọn được mấy bông hoa cài đầu hình hoa mai làm bằng phỉ thúy và cẩn thận cài lên mái tóc cho tôi.

    Tôi soi mình trong gương, chiếc áo màu hồng rạng rỡ làm tôn lên khuôn mặt vui tươi như tia nắng mùa xuân của tôi, khiến toàn thân tôi tràn đầy sức sống, dường như tôi chưa từng nhìn thấy mình như thế này bao giờ. Tôi và y đứng kề vai nhau, trên chiếc gương đồng có khắc hình một cặp uyên ương vờn nước hết sức bình thường, kỹ thuật khắc có thể nói là khá vụng nhưng vẫn không thể giấu được niềm hạnh phúc viên mãn tròn đầy toát ra từ bên trong. Tôi tựa đầu vào vai y, bên khóe môi luôn thấp thoáng một nụ cười tủm tỉm. Tôi rất ít khi mặc đồ màu hồng, bởi màu sắc này quá mức yêu kiều và diễm lệ, làm tôi cảm thấy nó hơi tầm thường, thậm chí là thô tục. Thế nhưng lúc này mặc vào, tôi lại chỉ thấy nó toát ra một niềm vui vô hạn, thật hợp với mình vô cùng, bởi chỉ có như thế mới thể hiện được tâm trạng của tôi lúc này. Giống như bông hoa thu hải đường đang cài trên mái tóc kia, trái tim tôi lúc này cũng vô cùng vui tươi và mềm mại, thế là tôi bèn quyết định chọn luôn chiếc khăn tay thêu hình hai bông hải đường liền cành màu đỏ tươi mà mang theo bên mình.
     
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 30: Giang sơn
    Rồi chúng tôi dắt tay nhau dạo bước ra ngoài, tựa như một cặp thiếu niên nam nữ du xuân, mang theo một chút lòng chờ mong và thỏa mãn, lần lượt đi thăm thú “Thượng Kinh bát cảnh”. Thượng Kinh nằm chếch về mạn Bắc, tất nhiên không thể có phong cảnh tú lệ và non nước hữu tình như Trung Kinh vốn ở miền Nam, có điều cũng có tám khu thắng cảnh cực kỳ nổi tiếng, lần lượt là: Vạn Tuyền Thùy Điếu, Thiên Trụ Bài Thanh, Huy Sơn Tình Tuyết, Hoa Bạc Quan Liên, Hoàng Tự Chung Minh, Hồn Hà Vãn Độ, Tháp Loan Tịch Chiếu, Liễu Đường Tị Thử[1].

    [1] Đây kỳ thực là tám cảnh đẹp ở Thịnh Kinh, tức thành phố Thẩm Dương thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay. Tên mỗi thắng cảnh có bốn chữ, hai chữ đầu là chỉ địa danh, hai chữ sau là điểm đặc sắc của địa danh đó – ND.

    Trong các thắng cảnh kể trên, Huy Sơn Tình Tuyết là đẹp nhất nhưng Huyền Thanh lại thở dài than: “Nơi phong cảnh đẹp nhất chưa chắc đã là nơi mọi người yêu thích nhất.”

    Tôi không kìm được lòng tò mò, bèn hỏi: “Tại sao lại nói như vậy?”

    Huyền Thanh chắp tay sau lưng, ngước nhìn ngọn Huy Sơn, ung dung đáp: “Phàm là các chốn phong cảnh tú lệ, tuyệt vời trên thế gian, thường cần phải tới nơi hiểm trở mới nhìn thấy được. Mà người đời đa phần đều sợ phải dấn thân vào nơi hiểm địa, do đó thường chỉ đồn thổi về vẻ đẹp của nơi nào đó chứ không chịu tự mình tới nơi. Tựa như Huy Sơn Tình Tuyết này vậy, người đứng ở chân núi nhìn lên thì nhiều, chứ người lên núi ngắm cảnh tuyết thì chẳng được mấy ai.”

    Tôi ngước mắt nhìn theo, thấy quả nhiên dưới chân núi người đông nườm nượp, trên đỉnh núi lại băng tuyết cô đơn, tịch mịch vô cùng, thực là một sự đối lập vô cùng rõ rệt, khiến người ta không kìm được phải sinh lòng cảm thán.

    Huyền Thanh nói: “Huy Sơn cao chừng trăm trượng, đứng trên đỉnh núi nhìn về phía bắc có thể thấy sa mạc bao la của người Hách Hách, nhìn về phí nam có thể thấy cảnh nước non tươi đẹp ở Trung Kinh, đó là một tầm mắt rộng lớn đến chừng nào kia chứ!”

    ©STE.NT

    Mấy ngày nay đi thăm thú Hồn Hà Vãn Độ, Tháp Loan Tịch Chiếu, Vạn Tuyền Thùy Điếu, tôi thấy chẳng qua chỉ hơn những phong cảnh bình thường một chút, nếu không có Huyền Thanh bầu bạn kề bên thì thật chẳng có gì thú vị. Lúc này nghe y nói vậy, tôi bất giác nảy lòng hứng thú, bèn hào hứng nói: “Đã không có ai chịu đi, vậy chi bằng chúng ta cùng trèo lên đó được không?” Dừng một chút, tôi cất giọng thiết tha: “Trên núi băng tuyết phủ đầy, chỉ có huynh và muội.”

    Huyền Thanh mỉm cười đưa mắt nhìn tôi, khẽ vuốt ve bờ vai tôi vẻ đầy trìu mến. “Ta chẳng qua chỉ nói vậy thôi, chứ trên núi lạnh như thế, ta sợ nàng không chịu nổi. Hôm nay chúng ta đâu có mang theo quần áo ra ngoài, trên người lại chẳng còn bao nhiêu bạc.”

    Tôi cười tươi, nói: “Có gì mà phải sợ chứ?”

    Tôi đưa mắt nhìn khắp xung quanh, thấy phía đằng xa có người đang gánh theo một gánh áo choàng da chồn tới bán, bèn vẫy tay gọi gã lại, sau khi lật xem thử thấy chất lượng cũng tốt bèn đưa tay tháo cây trâm vàng đính minh châu trên đầu xuống, đưa cho gã, cười nói: “Ta dùng cây trâm này đổi lấy ba chiếc áo choàng da chồn, vậy có được không?”

    Người đó nhìn tôi vẻ nghi hoặc, nhất thời không dám nhận lấy. Tôi chỉ tay vào hai viên minh châu to bằng ngón tay cái trên cây trâm, giải thích cho gã nghe: “Vàng ròng thì không có gì, nhưng hai viên minh châu này ít nhất cũng có giá ngang mười gánh áo choàng da chồn như của ngươi, ngươi không thiệt đâu.”

    Gã nhận lấy cây trâm rồi tỉ mỉ ngắm nghía một hồi, chừng như sợ tôi hối hận, vội vàng cất vào vạt áo trước ngực, mặt mày tươi cười, chọn lấy ba chiếc áo choàng lông chồn tốt nhất đưa cho tôi, lại tặng thêm cả bao tay, khăn quàng cổ, sau đó mới mừng rỡ rời đi.

    Hoán Bích không kìm được, tỏ ra có chút tiếc nuối. “Một cây trâm đẹp như thế, đổi lấy ba chiếc áo lông chồn thật không đáng chút nào.”

    Tôi cười, thản nhiên nói: “Ngàn vàng khó mua được một khoảnh khắc mừng vui, hà tất phải tiếc một cây trâm chứ, chẳng qua là vật ngoài thân mà thôi.”

    Huyền Thanh mỉm cười, nắm lấy bàn tay tôi. “Ngàn vàng đem đổi lấy nụ cười, câu nói đó chính là nói tới nàng đấy. Tính cách sảng khoái này của nàng đúng là rất tuyệt vời.”

    Huyền Thanh vốn muốn thuê hai chiếc kiệu mềm khiêng tôi và Hoán Bích lên núi, nhưng kiệu phu vừa nghe nói là phải leo lên đỉnh Huy Sơn liền vội vàng xua tay lia lịa, mặt mày nhăn nhó khuyên nhủ: “Công tử và hai vị cô nương đúng là có nhã hứng, nhưng trên đỉnh Huy Sơn toàn băng với tuyết, thực sự quá lạnh, đường lại trơn nữa, khó đi vô cùng, việc này bọn ta quả thực không thể nhận nổi.”

    Tôi quay sang cười, nói với Huyền Thanh: “Huynh không cần mất công tìm người nữa đâu, chúng ta cứ tự mình lên núi, đi được tới đâu thì hay tới đó, vậy cũng coi như là tận hứng rồi.”

    Hoán Bích cũng khẽ nở nụ cười. “Công tử chớ xem thường nô tỳ và tiểu thư, hai người chúng tôi không phải là loại người yếu ớt gió thổi cũng ngã đâu.”

    Huyền Thanh vỗ tay cười rộ. “Hai vị cô nương đã nói như vậy, Thanh tất nhiên không thể chịu kém, nhất định sẽ theo hầu tới cùng. Chỉ là có một thứ chúng ta không thể thiếu được.”

    Tôi không khỏi có chút tò mò. “Là thứ gì vậy?”

    Huyền Thanh lấy từ trong vạt áo trước ngực ra một gói gì đó, mùi khá khó ngửi, có màu vàng, là một thứ dạng bột.

    Hoán Bích ghé mũi tới ngửi, không kìm được hơi cau mày lại. “Mùi hăng quá, là thứ gì vậy?”

    Huyền Thanh đáp: “Là thuốc rắn. Trên đỉnh Huy Sơn tuy nhiều băng tuyết nhưng đó không phải là thứ đáng sợ nhất, bởi dù lạnh đến mấy thì cũng chỉ cần mặc nhiều áo là được.” Y lộ vẻ nghiêm túc, nói: “Trên Huy Sơn có một thứ đáng sợ nhất, ấy là hàn xà, người chưa từng tới Huy Sơn thì không biết gì về thứ này đâu. Các loài rắn khác cứ tới mùa giá lạnh thì đều phải đi ngủ đông nhưng hàn xà lại khác, vẫn hoạt động như thường, mà nó cũng chỉ có thể sinh sống ở nơi băng tuyết giá lạnh thôi. Hàn xà thân thể tuy nhỏ nhưng lại rất độc. Một khi bị nó cắn trúng, nhẹ thì hôn mê, nặng thì mất mạng. Bôi thứ thuốc rắn này vào thì có thể đảm bảo sẽ không xảy ra vấn đề gì, mà lỡ như bị rắn cắn thì vẫn có thể trong uống ngoài thoa, ít nhiều cũng có chút tác dụng.” Thấy tôi và Hoán Bích đều tỏ ra sợ hãi, Huyền Thanh liền tươi cười an ủi: “Có điều, hàn xà không bao giờ chủ động tấn công con người, hơn nữa số lượng cũng không nhiều. Chỉ là tuy chưa chắc đã gặp phải nhưng chúng ta vẫn cần đề phòng mới được.”

    Hoán Bích sợ hãi nói: “Nếu vậy, chi bằng chúng ta không lên đỉnh núi nữa. Giống hàn xà đó, nô tỳ vừa nghe nói tới đã cảm thấy sợ hãi rồi.”

    Huyền Thanh cười bảo: “Nếu chỉ vì một loài rắn mà bỏ qua phong cảnh tuyệt vời thì thật là đáng tiếc!”, rồi lại nhìn qua phía tôi. “Hoàn Nhi, ý nàng thế nào?”

    Tôi nhìn chăm chú vào gói thuốc rắn trong tay y, cười nói: “Không phải huynh nói có nó rồi thì sẽ không có vấn đề gì sao?”, sau đó bèn mở gói thuốc ra, bôi thuốc lên người. Huyền Thanh nở nụ cười hiểu ý, cũng bắt đầu bôi thuốc.

    Tôi quay sang nói với Hoán Bích: “Nếu muội sợ thì cứ ở đây đợi bọn ta, bọn ta sẽ quay lại nhanh thôi.”

    Hoán Bích nhìn tôi, rồi lại nhìn Huyền Thanh, cặp mắt hơi lóe sáng, thấp giọng nói: “Nô tỳ cũng muốn đi.”

    Kỳ thực đường núi không hề khó đi, nơi chân núi Huy Sơn mọc đầy những cây cổ thụ xanh biếc, cao tới chọc trời, trên cây um tùm những phiến lá to nhưng mỏng manh và mềm mại, hết sức ưa nhìn. Đi dần lên trên, cây cối dần toát ra vẻ lạnh lẽo, màu sắc cũng chuyển dần thành màu đen, chủ yếu là tùng bách, dưới đất rụng đầy lá tùng, giẫm chân lên có cảm giác hết sức mềm mại, cứ như đang đi trên thảm gấm. Thế nhưng màu sắc của lá tùng hoặc là xanh biếc hoặc là vàng ruộm, so với những loại thảm gấm hoa lệ bình thường thì đẹp hơn gấp mấy lần, qua đó cũng có thể phần nào thấy được sự kỳ diệu của thiên nhiên. Lại đi tiếp lên trên, thảm cỏ dài xanh biếc đã dần biến thành loại cỏ thấp dính sát đất và các loại rêu, thỉnh thoảng gặp vài cái cây thì đều là loại sần sùi, cứng cáp, ngạo nghễ đứng vươn mình giữa thế gian.Vốn dĩ nơi chân núi cây cối mọc rất nhiều, hơn nữa người còn đông như mắc cửi, tới đây rồi thì du khách thưa dần, chỉ có lác đác vài người, ai nấy đều mặc áo lông chồn giữ ấm nhưng tất thảy đều do dự không đi tiếp, chỉ ngẩng đầu nhìn đỉnh núi băng tuyết phủ đầy, cất lên từng tràng tán thán.

    Hồi nãy dưới chân núi thì còn ấm áp như dịp đầu thu, nhưng tới lưng chừng núi thì không khí trở nên vô cùng giá lạnh, từng làn gió rét không ngừng thổi tới, khiến Hoán Bích run lẩy bẩy, nép sát vào người tôi.

    Huyền Thanh đưa mắt liếc qua Hoán Bích, rồi khẽ mỉm cười quay sang nhìn tôi. “Mời nương tử quyết định, chúng ta có nên đi tiếp không đây?”

    Tôi bật cười, lườm y một cái, hờn trách: “Càng ngày càng lẻo mép, thật đáng ghét!”

    Tôi ngẩng đầu nhìn đỉnh núi, dưới nền trời xanh biếc, ngọn núi tuyết cao sừng sững, tựa một con rồng uốn lượn tung bay. Từ trên cao ánh dương chiếu xuống, ấm áp vàng ươm, càng làm đỉnh núi toát ra một vẻ rực rỡ và thuần khiết khôn tả, tôi không kìm được phải nín thở, trong lòng nảy sinh muôn vàn nỗi niềm sùng kính.

    Không rõ tại sao, tự nơi đáy lòng tôi chợt sinh ra một sự xúc động khó có thể diễn tả bằng lời, khiến tôi rất muốn lên đỉnh núi để thử cảm giác đứng ở nơi cao vót mà nhìn xuống thiên hạ. Thế là tôi bèn nói với giọng chắc nịch: “Đã tới được đây rồi, tất nhiên là phải đi tiếp. So với việc phải ngước nhìn cả đời, tự mình trèo lên mà ngắm nghía cho thỏa thích há lại chẳng tốt hơn sao.”

    Tôi lấy chiếc áo lông chồn màu xám bạc đưa cho Hoán Bích, lại lấy chiếc màu tím sẫm đưa cho Huyền Thanh. Mặc chiếc áo choàng màu tím sẫm lên người, trông Huyền Thanh lại càng tuấn tú, toàn thân toát ra khí độ hiên ngang, quý phái, tựa như đi tới từchín tầng mây, vẻ cao quý không gì che giấu được. Tôi giúp y thắt nút chiếc áo choàng, mặt ngoài chiếc áo mềm mượt, bóng loáng, lướt tay qua có cảm giác vô cùng dễ chịu. Lòng tôi bất chợt mềm đi, ngước mắt nhìn y chăm chú. Vừa khéo lúc này y cũng nhìn tôi, trong mắt đầy vẻ dịu dàng, làm lòng tôi càng mềm nhũn. Y đưa tay tới nắm lấy bàn tay tôi, tôi cúi đầu cười khẽ, thấp giọng nói: “Huynh làm gì đấy? Hoán Bích cũng đang ở đây kìa.”

    Y nở một nụ cười dịu dàng mà kiên định. “Ta chỉ muốn dắt tay nàng, mặc kệ gió tuyết, cùng nhau đi mãi.”

    Tự nơi đáy lòng tôi trào dâng một niềm ấm áp khó tả, khiến tôi cảm thấy toàn thân thư thái, tựa như đang được tắm nắng xuân.

    Nụ cười của tôi nhanh chóng lan ra khắp khuôn mặt, tựa một bông hoa nở rộ. Tôi khẽ nói: “Được!”

    Mười ngón tay của tôi và y nắm chặt, đan vào nhau. Tư thế nắm tay kiểu này chính là “Đồng tâm khấu” mà có lần y đã từng nói tới, mười ngón tay đan vào nhau, bất kể là sống hay chết cũng không tách rời.

    Một tay y nắm tay tôi, tay còn lại giúp tôi khoác chiếc áo lông chồn lên người. Chiếc áo của tôi so ra thì có màu nhạt hơn của y một chút, phần đầu những sợi lông tím lác đác mấy đốm màu bạc, nhưng như thế kết hợp với màu tím sẫm của y trông lại càng đẹp đẽ hơn. Phía bên kia, Hoán Bích cũng đã mặc áo xong, ba người chúng tôi cùng đi tiếp.

    Đường núi càng đi càng dốc, vì hiếm có ai tới đây nên đường đi đã dần bị băng tuyết phủ dày, tất cả ngợp trong màu trắng mênh mang. Ấy vậy mà trên con đường phía trước lại có hai hàng dấu chân rất rõ, hẳn là vừa có ai đi qua đây.

    Tôi không kìm được thầm cảm thấy kinh ngạc, liền quay sang nói với Huyền Thanh: “Không ngờ lại có người có nhã hứng giống chúng ta, lại còn đi trước một bước nữa.”

    Huyền Thanh cười, nói: “Như vậy cũng tốt, qua đó đủ thấy chúng ta không phải người lập dị.”

    Tôi lúc này tuy đi khá vất vả nhưng vẫn cất tiếng cười vang. “Đây là chuyện thú vị biết chừng nào, sao có thể coi là lập dị được.”

    Khi chúng tôi lên tới đỉnh núi thì trời đã ngả bóng hoàng hôn. Trên đỉnh núi tuy đầy băng tuyết nhưng vẫn có tùng bách vươn mình ngạo nghễ, những cành cây bị tuyết lạnh đè lên, nhìn như muôn vàn bông hoa lê nở rộ. Hơn nữa, cảnh tuyết đè tùng xanh vừa khéo trông như bạch ngọc khảm phỉ thúy, cực kỳ tráng lệ.

    Trên đỉnh núi, gió lạnh rít gào, nhưng đứng ở nơi đây lại có thể nhìn thấy sa mạc vô biên vô tận trong địa giới Hách Hách, ở nơi chân trời, vầng dương đỏ rực treo giữa những hạt cát vàng bay lượn, sắc đỏ chiếu xuống uốn lượn tựa dòng sông sóng nước cuộn trào. Còn trong địa giới Đại Chu, vẫn là vầng dương ấy nhưng lại giống một viên bảo thạch màu đỏ treo cao giữa trời, xung quanh là một mảng màu xanh thuần khiết cùng muôn áng mây màu, tạo nên một khung cảnh vô cùng rực rỡ, hoa lệ, tựa gấm vóc muôn màu. Ngọn núi xanh biếc trải dài liên miên bất tận chừng như cũng bị nhuốm lên những màu sắc ấy, trở nên hết sức mê ly. Trong thành Thượng Kinh, phố chợ ồn ào, người qua lại hết sức tấp nập. Từ nơi trang viện của mấy gia đình giàu có, khói chiều vương vất bay lên, tô điểm cho vô số tường xanh ngói đỏ cực kỳ hoa lệ. Mà những gia đình đó, lúc này chắc đều đang tấu nhạc vui tươi để hưởng thụ sự giàu sang giữa chốn nhân gian.

    Sự phồn hoa náo nhiệt, xa xỉ vàng son của vùng đất phía Nam thực giống như áng mây màu nơi chân trời, khiến người ta mê đắm. Nhưng phong cảnh như vậy, tôi lại chẳng có lòng dạ để thưởng thức.

    Lúc này, mắt thấy đại mạc mênh mang, tà dương sắp lặn, non nước mê ly, thế gian hữu tình, tất thảy đều ở xung quanh mình, lòng tôi bỗng xúc động khôn nguôi, sinh ra một niềm hào tình tráng chí “nắm trọn giang sơn vào giữa bàn tay”.

    Tôi không kìm được cất lời cảm khái: “Quả đúng là giang sơn tươi đẹp biết bao, làm ngất ngây vố số bậc anh hào. Muội dù chỉ là một nữ tử chân yếu tay mềm nhưng cũng nguyện vì thế mà ngây ngất.”

    Huyền Thanh khẽ kéo tôi vào lòng, hỏi: “Có lạnh không?ݍ

    Tôi vẫn đang trong tâm trạng sục sôi, hưng phấn đến nỗi hai má đỏ bừng. Huyền Thanh xoa nhẹ má tôi, nói: “Sao mà hưng phấn đến vậy chứ? Làm ngất ngây vô số bậc anh hào, tâm tư của muội quả cũng chẳng thua gì một trang nam tử.”

    Tôi nở nụ cười rạng rỡ. “Người quân tử thấy cảnh này, ắt đều nghĩ tới sự hưng vong của thiên hạ. Muội là nữ tử nhưng cảm xúc cũng không có gì khác biệt.”

    Huyền Thanh đưa tay chỉ hướng Hách Hách đằng xa, cất giọng sang sảng: “Nàng nhìn thấy chưa? Nơi đó cát vàng ngợp trời, đại mạc mênh mang, chính là địa giới Hách Hách. Năm xưa Tế Cách Khả hãn của Hách Hách dẫn quân tiến đánh Nhạn Minh quan, ý đồ phá ải đoạt thành, chiếm lấy giang sơn gấm vóc của Đại Chu ta. May có Đại tướng Tề Bất Trì dẫn quân huyết chiến liền mấy tháng, Đại Chu ta mới có được sự thanh bình ngày nay.” Hào khí trong y bỗng dâng cao vút. “Là thân nam nhi vốn phải như thế! Nếu Thanh sinh sớm trăm năm, gặp trận chiến này, ắt sẽ ruổi ngựa sa trường, tắm máu giết địch, vậy mới không uổng một kiếp nam nhi!”

    Hoài bão của y sao tôi không rõ, chỉ đáng tiếc… Thần sắc tôi thoáng trở nên ảm đạm, chỉ đáng tiếc y là con trai của Thư Quý thái phi, cả đời này ắt đều phải ẩn giấu tài năng của mình đằng sau bộ dạng đùa giỡn với đời.

    Sự lạnh giá của băng tuyết dần phủ khắp lòng tôi, cũng lan lên khuôn mặt của y. Y chăm chú nhìn non sông Hách Hách, tỏ vẻ bất bình. “Hiện giờ Ma Cách Khả hãn của Hách Hách lăm le hành động, dã tâm không kém gì tiên tổ Tế Cách Khả hãn của hắn năm xưa. Hách Hách và Đại Chu từ sau hội thề Hà Trì đã trải trăm năm không phát sinh một hồi đại chiến, tuy thỉnh thoảng cũng có vài cuộc tranh đấu quy mô nhỏ nhưng đa phần vẫn là hòa bình. Hợp lâu tất phân, phân lâu tất hợp, ấy chính là chân lý của thế gian. Những năm nay Ma Cách Khả hãn không ngừng thôn tính các bộ lạc nhỏ yếu xung quanh Hách Hách, hòng tăng cường sức mạnh của bản thân. Mấy năm trước, hoàng huynh luôn dồn tinh lực vào chiến sự ở vùng Tây Nam, mong khôi phục cương thổ, về sau lại tổn hao không ít tâm sức trong việc bình định Nhữ Nam Vương, khó tránh khỏi có chút buông lỏng vấn đề Hách Hách. Ma Cách dã tâm bừng bừng, chỉ sợ trong vòng mười năm, giữa Hách Hách và Đại Chu sẽ lại phát sinh một hồi đại chiến.”

    Tôi thoáng trầm ngâm. “Đại Chu binh lực không yếu, chỉ là binh sĩ dù dũng mãnh đến mấy cũng cần có tướng soái chỉ đạo. Theo huynh thấy, trong triều đình hiện nay có tướng tài nào không?”

    Huyền Thanh chỉ gượng cười chứ không nói năng gì. Tôi lập tức hiểu ra, Đại Chu xưa nay luôn trọng văn khinh võ, dùng văn để trị quốc, hạn chế quyền lực của các tướng lĩnh. Cứ nhìn những việc xảy ra khi Huyền Lăng nắm quyền thì rõ, sau khi bình định mạn Tây Nam, Nhữ Nam Vương đã bị cầm tù, nhà họ Chân sau khi bình định mối họa Nhữ Nam Vương thì bị lưu đày, như thế thử hỏi trong nước còn có ai dám hết lòng xông pha sa trường giết địch? Tất cả mọi người chỉ có vùi đầu đọc sách, mong qua đó tiến bước trên con đường hoạn lộ.

    Sau mấy lời vừa rồi, tôi và Huyền Thanh đều ôm những mối thương cảm riêng.
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 31: Cứu người
    Hoán Bích thấy hai chúng tôi đều im lặng, sau khi ngó nhìn sắc trời bèn nói: “Mặt trời sắp xuống núi rồi, mà trên núi lại lạnh thế này, chúng ta cũng đã ngắm cảnh rồi, chi bằng mau xuống núi thôi, nếu để muộn quá, phải ở lại trên núi thì không hay chút nào.”

    Tôi khẽ gật đầu, chuẩn bị cùng Hoán Bích và Huyền Thanh xuống núi, chợt nghe phía không xa có những tiếng hò hét vang lại. Bốn bề vốn đang tĩnh lặng, những âm thanh ấy vang lên nghe đột ngột và quái dị vô cùng, khiến tôi không kìm được thầm sinh lòng sợ hãi.

    Huyền Thanh lúc này hơi cau mày trầm ngâm, bỗng hô lớn một tiếng: “Không hay!” Sau đó liền chạy đi như bay. Tôi và Hoán Bích ngơ ngác nhìn nhau, không biết đã xảy ra chuyện gì. Thế nhưng thấy sắc mặt Huyền Thanh biến đổi hẳn, chúng tôi cũng biết là có điều gì đó không hay, liền không suy nghĩ quá nhiều nữa mà vội chạy theo y.

    Tôi và Hoán Bích chạy không được nhanh, khi tới chỗ phát ra những âm thanh quái dị vừa rồi thì chỉ thấy có một đôi nam nữ đang nằm trên nền đất tuyết, sắc mặt tái đen, đặc biệt là mấy chỗ xung quanh tai mắt mũi miệng lại càng đen kịt như mực. Hai người họ nhíu chặt đôi mày, dường như vô cùng đau khổ, thế nhưng chỗ từ hai mắt trở xuống lại đầy vẻ vui mừng, khóe miệng nhếch lên cười toe toét, cái mũi đen kịt không ngớt rung lên, dưới nền đất tuyết trắng tinh trông lại càng rùng rợn, khiến người nhìn sợ hãi. Hai chân bọn họ gập lại, đôi tay co giật liên hồi, miệng phát ra những tiếng kêu khò khè quái dị.

    Nhìn thấy cảnh tượng ghê rợn này, tôi và Hoán Bích lập tức ngây người. Hoán Bích thầm cảm thấy sợ hãi, vô thức tới nấp sau lưng tôi.

    Huyền Thanh đứng chắn trước mặt chúng tôi, nôn nóng nói: “Cẩn thận! Hai người đó trúng phải độc của hàn xà rồi.”

    Hoán Bích nghe thấy vậy thì không kìm được kêu “a” một tiếng, sợ hãi lùi lại mấy bước. Tôi chưa từng nhìn thấy cảnh này, trong lòng tất nhiên cũng rất sợ hãi, bất giác chăm chú nhìn y. “Phải làm sao đây?”

    Huyền Thanh khẽ hô lên: “Cứu người là quan trọng!” Tôi gật đầu thật mạnh, lập tức đi theo y. Huyền Thanh lấy thuốc rắn từ trong vạt áo trước ngực ra đưa cho tôi, sau đó liền đè chặt nam tử đang nằm trên mặt đất kia xuống, không cho gã giãy giụa, đồng thời quay đầu lại, nói: “Trong uống ngoài thoa, mau bôi thuốc rắn lên miệng vết thương của gã!”

    Tôi luống cuống chân tay, nhất thời không biết nên bắt đầu tìm miệng vết thương của người đó từ đâu, huống chi vết rắn cắn vốn đã rất nhỏ. Chợt tôi để ý thấy người đó mặc một chiếc áo lông cáo màu bạc hoa lệ, duy có đôi tay là lộ ra ngoài, liền chụp lấy hai tay gã mà kiểm tra, quả nhiên phát hiện ra hai dấu răng rất nhỏ trên mu bàn tay trái của gã. Tôi vội lấy khăn tay ra, siết chặt chỗ sát với miệng vết thương, miệng vết thương liền mở rộng ra, tôi lập tức rắc một lớp thuốc rắn thật dày lên trên đó.

    Nam tử này ăn vận xa hoa, nhìn như một vị công tử nhà giàu, thế nhưng i để ý thấy gan bàn tay của gã, tôi bất giác sững người, ở đó có một lớp chai rất dày và cứng, còn bóng đến độ có thể phản quang. Tôi thoáng do dự, lại lật bàn tay gã lên quan sát, thấy lòng bàn tay và mười ngón tay của gã cũng đều như vậy cả.

    Hai hàm răng người đó cắn rất chặt, không sao cạy ra mà đổ thuốc vào được. Tôi nôn nóng đến độ đầu vã đầy mồ hôi, đành nhìn qua phía Huyền Thanh cầu cứu. Y lập tức hiểu ý, liền đánh mạnh một cú vào cằm nam tử đó làm gã há miệng ra. Tôi vội đổ thuốc bột vào miệng gã, lại lấy túi da đựng nước ra mà đổ thêm vào.

    Huyền Thanh quan sát sắc mặt gã một chút, lập tức thở phào một hơi, khẽ nói: “Mau qua xem nữ tử kia đi.” Tôi vâng lời theo y qua đó. Nữ tử đó dường như hết sức đau đớn, khuôn mặt vốn thanh tú đã nhăn nhó đến biến dạng, miệng không thể nói năng, chỉ không ngừng phát ra những tiếng “khò khè” quái dị, nghe như tiếng kêu khàn khàn của con chim cú. Tôi thấy mặt cô ta xám như tro tàn, hai hàm răng nghiến chặt, vừa như vui sướng lại vừa như đau khổ, kỳ dị đến khó tả. Huyền Thanh đánh mạnh một cái vào cằm cô ta nhưng cô ta lại chẳng có chút phản ứng, vẫn nghiến chặt răng. Huyền Thanh nhíu chặt đôi mày, lật mí mắt cô ta lên, đột nhiên cúi đầu, ủ rũ nói: “Cô ta trúng độc quá lâu, không còn cách gì nữa rồi, đồng tử cũng đã dãn ra.” Tôi bất giác cả kinh, vô thức rắc bột thuốc lên bàn tay đã chẳng còn chút sinh khí của cô ta, trong lòng ngợp nỗi hoang mang, sợ hãi.

    Huyền Thanh giữ tay tôi lại, cất giọng bi thương: “Không ích gì đâu.”

    “Không ích gì đâu.” Tiếng thở dài của y như một nhát búa gõ mạnh vào trái tim tôi, khiến tôi đau nhói. Tôi nhìn nữ tử mà mình mới gặp mặt lần đầu đó, trong lòng bỗng nảy sinh một cảm giác kỳ dị: Tôi nhất định phải giúp cô ta, nếu không… Đến bản thân tôi cũng không biết là nếu không sẽ như thế nào, chỉ loáng thoáng cảm thấy có điều gì đó không hay.

    Tôi đang mải suy nghĩ, nữ tử đó chợt co giật dữ dội trong lòng tôi, thân thể run lẩy bẩy từng hồi, như thể một chiếc lá vàng giữa làn gió thu, ngợp nỗi tang thương khôn tả. Có lẽ là vì một cơn đau đột nhiên kéo tới, cô ta đau đớn đến nỗi toàn thân co rúm lại, trên trán, trên mu bàn tay đều hằn rõ gân xanh, tựa những con rắn đang uốn lượn, cả khuôn mặt lúc này đã trở nên đen như mực, màu đen còn ngấm sâu vào tận trong da.

    Tôi hỏi Huyền Thanh: “Có phải cô ta sắp chết rồi không?”

    Huyền Thanh đau khổ ngoảnh mặt qua một bên. “Phải, nhưng sẽ không nhanh lắm đâu. Nọc hàn xà một khi phát tác sẽ làm người ta vô cùng đau đớn nhưng lại không thể chết ngay. Tuy đồng tử của cô ta đã dãn ra không còn cách nào cứu nổi nhưng vẫn phải chờ một khắc nữa thì mới chết được.”

    “Vậy cô ta nhất định sẽ chết, có đúng vậy không?”

    Huyền Thanh khẽ “ừm” một tiếng, đầu vẫn ngoảnh đi, không đành lòng nhìn.

    Tôi đưa mắt nhìn con dao găm nhỏ mà y giắt xéo bên hông, con dao này y vốn dùng để phòng thân, vô cùng sắc bén, gần như đặt sợi tóc lên thổi nhẹ là đứt, do đó y mới thường xuyên mang theo bên mình như vậy. Tôi khẽ “ừm” một tiếng, đột nhiên rút con dao găm ra, đâm thẳng vào ngực nữ tử kia.

    Tâm trí tôi vô cùng kiên định, một loạt những động tác ấy diễn ra rất nhanh, khi con dao găm được rút ra, từng làn khí lạnh nơi lưỡi dao phả thẳng vào mặt tôi, nhưng cảm giác ấy còn chưa tan hết, lưỡi dao đã đâm thẳng vào thân thể mềm nhũn làm bằng máu thịt kia rồi. “Phụp” một tiếng, lưỡi dao loáng cái đã đâm lút cán. Âm thanh ấy nghe thật dịu dàng, tựa như lời rủ rỉ khẽ khàng của một cặp tình nhân đang trò chuyện.

    Cô ta chết rồi.

    Thân thể cô ta trở nên bình lặng, tựa một phiến lá không còn bay lượn giữa không trung nữa mà hoàn toàn trở về với đất bụi.

    Hoán Bích đứng một bên nhìn thấy tất cả, sau khi sững người trong giây lát liền thất thanh kêu “a” một tiếng. Huyền Thanh cũng cả kinh thất sắc, bật thốt lên: “Hoàn Nhi, nàng làm gì vậy?”

    Sau khi giết người xong, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại, thản nhiên nói: “Muội giết rồi!”

    Tiếng kêu chói tai của Hoán Bích vẫn chưa dừng lại, tôi đã ra hiệu im lặng mà muội ấy vẫn bỏ ngoài tai. Tôi lật tay tát cho Hoán Bích một cái thật mạnh, thấp giọng quát: “Im miệng cho ta!”

    Huyền Thanh đưa tay kéo bàn tay tôi lại, nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt không sao tin nổi. “Nàng đã giết người, còn đánh Hoán Bích nữa?”

    “Phải!” Tôi bình thản nhìn lại y. “Đây là núi tuyết, tuyết phủ quanh năm, tiếng kêu của Hoán Bích dù không thu hút sự chú ý của người khác thì cũng sẽ làm tuyết lở. Muội tuy đã giết người nhưng cũng không muốn phải chết cùng đâu.”

    Huyền Thanh cả giận, chỉ tay vào thi thể trên mặt đất. “Cô ta và muội không thù không oán…”

    “Nếu thực sự có thù oán, muội nhất định sẽ trơ mắt nhìn cô ta phải chịu đau đớn đủ một khắc rồi mới được chết.” Tôi nhìn Huyền Thanh, cố nói bằng giọng dịu dàng nhất có thể: “Thanh, đồng tử của cô ta đã dãn ra rồi, huynh cũng nói là không thể cứu được nữa mà, vậy sao còn phải để cô ấy chịu khổ?”

    “Muội…” Huyền Thanh không còn lời nào để phản bác, chỉ đành nói: “Dù sao cũng là một mạng người…”

    Tôi vặn lại: “Vậy lẽ nào huynh muốn nhìn cô ta phải chịu đau khổ xong rồi mới được chết?”
    Huyền Thanh buồn bã lắc đầu, đột nhiên ngẩng lên, ánh mắt âm u khó tả. “Hoàn Nhi, ta thừa nhận là nàng không làm sai.” Y hơi nheo mắt lại, khẽ thở dài. “Nhưng sự tàn nhẫn của nàng… nằm ngoài ý liệu của ta.”

    Tàn nhẫn? Tôi tàn nhẫn? Tôi cơ hồ đã bật cười thành tiếng, vì câu nói này của y, một cảm xúc dữ dằn bất giác cuồn cuộn tràn lên từ nơi nào đó trong sâu thẳm trái tim tôi. Tôi cười gằn, nói: “Muội tàn nhẫn?”, sau đó lại cất giọng hờ hững: “Chẳng lẽ huynh nghĩ một Chân Hoàn có thể sống sót để đi ra từ trong cung rồi đứng trước mặt huynh là một người hồn nhiên ngây thơ, ngốc nghếch lương thiện?” Tôi cười lạnh, nói tiếp: “Tàn nhẫn, ấy là bản lĩnh phòng thân của muội. Giết cô ta cũng là cứu cô ta. Nhưng trước khi giết cô ta, người chết trong tay muội vốn không phải mới chỉ có một.”

    Sắc mặt y biến đổi không ngừng, lúc xanh lúc trắng, tựa như đang phải trải qua một cơn đấu tranh dằn vặt khó mà dùng lời miêu tả trong nội tâm.

    Nơi đáy lòng tôi bỗng trào lên một niềm thất vọng, là với y, cũng là với chính bản thân mình. Sự đau khổ nơi đáy lòng tôi lan tỏa từng chút, cuối cùng bật ra ngoài qua kẽ răng: “Có phải bây giờ huynh mới phát hiện, muội kỳ thực không phải là người mà huynh muốn tìm? Chân Hoàn mà huynh yêu vĩnh viễn luôn thuần khiết ngây thơ, không hề giống như muội bây giờ. Hoặc có lẽ, huynh vốn chỉ yêu một thứ lý tưởng nào đó của huynh thôi, chứ không phải bản thân muội.”

    Bầu không khí chìm vào tĩnh lặng, tĩnh lặng tột cùng, thậm chí có thể nghe thấy tiếng tuyết tan thành nước, từ từ nhỏ xuống một giọt, hồi lâu sau, lại là một giọt nữa, như thể đang xuyên thấu trái tim người ta.

    Phía sau lưng chúng tôi bất chợt vang lên một giọng nói lạnh lùng: “Ngươi đã giết nàng?”

    Tôi nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy chính là nam tử vừa rồi. Lúc này gã đã tỉnh lại, đang ngồi xếp bằng trên nền đất tuyết, chỉ là hơi thở có chút yếu ớt, sắc mặt vàng như nghệ, trông thê thảm vô cùng. Tôi đang trong cơn tức giận, liền lật tay rút con dao găm dính đầy máu ra vứt xuống đất, thản nhiên lớn tiếng đáp lời: “Phải thì sao nào?”

    Nam tử đó tuy vừa mới đi dạo một vòng qua Quỷ môn quan nhưng khí thế vẫn không hề suy giảm, toát ra đầy vẻ quý phái. Hắn chợt cất giọng khàn khàn vẻ hết sức chân thành: “Đa tạ!” Tôi toàn thân chấn động, mà những lời kế tiếp của gã lại càng khiến tôi chấn động hơn: “Con rắn đó chỉ cắn một cái, vậy mà hai mạng người đã ra đi rồi.” Giọng gã nghe dịu dàng mà thương cảm, trong sự thương cảm còn như mang theo một tiếng thở dài u uất.

    Chỉ sau nháy mắt, tôi đã giật mình hiểu ra, ngạc nhiên bật thốt: “Lẽ nào cô ta đang mang thai?”

    “Không sai.” Gã khẽ gật đầu. “Nếu sinh ra, nó sẽ là đứa con trai thứ ba giữa ta và nàng.”

    Tôi nở nụ cười. “Có phải là đứa con trai thứ ba hay không ta không quan tâm, chỉ là… người Hách Hách các ngươi trước giờ đúng là luôn coi trọng con trai hơn.”

    Cơ thịt trên mặt gã bất giác hơi co giật, nhưng rất nhanh sau đó gã đã khôi phục được vẻ cứng cỏi như trước, còn cười khà khà hỏi: “Làm sao cô biết ta là người Hách Hách?”

    Tôi khom người cười khẽ, ung dung vuốt ve chiếc áo lông chồn ấm áp đang mặc trên người. “Khẩu âm và lối ăn mặc của ngươi không có chút sơ hở nào, nhưng bàn tay ngươi đã bán đứng ngươi.” Gã vô thức cúi đầu nhìn bàn tay mình, tôi chậm rãi nói: “Những vết chai trên tay ngươi là do nhiều năm kéo cung bắn tên mà thành, không có hai mươi năm trời khổ luyện ắt chẳng thể có được vết chai như thế. Mà Đại Chu vốn trọng văn khinh võ, ngoài các tướng sĩ ra, tuyệt đối không có người dân thường nào luyện tập cưỡi ngựa bắn tên, đừng nói là tinh thông. Mà đã là tướng sĩ thì ắt đều ở trong quân doanh cả, sao có thời gian rảnh mà leo lên Huy Sơn du ngoạn thế này. Người Hách Hách giành lãnh thổ từ trên lưng ngựa, giỏi nhất ngón cưỡi ngựa bắn tên, do đó mới có dấu vết này. Nếu ngươi bằng lòng, có thể để vị công tử bên cạnh ta xem thử cơ bắp nơi cẳng chân ngươi, ta dám chắc phần bên trong sẽ rắn chắc hơn phần bên ngoài, đó là do nhiều năm cưỡi ngựa mà ra.”

    Gã mỉm cười lắng nghe, không thừa nhận cũng không phủ nhận, nghe xong liền nói lảng sang chuyện khác: “Loài rắn này đúng là lợi hại, ta chẳng qua chỉ vô ý giẫm lên người nó, vậy mà nó thiếu chút nữa đã lấy mạng ta rồi.” Ánh mắt gã sắc bén chẳng kém gì lưỡi dao găm tôi vừa vứt qua một bên, gã nhìn chằm chằm vào tôi, khóe môi chậm rãi nhếch lên: “Nàng rất thông minh, nhưng nàng có biết nữ nhân thông minh quá thì sẽ thế nào không?”

    Tôi không để tâm tới việc gã thay đổi lối xưng hô với mình, chỉ khẽ xoay nhẹ chiếc vòng ngọc phỉ thúy trên cổ tay. “Ngươi sẽ giết ta sao? Bây giờ chẳng lẽ ngươi có đủ sức lực để giết ta? Thậm chí không cần đến vị công tử bên cạnh ta ra tay, ta hoàn toàn có thể dùng con dao vừa giết chết vợ ngươi để giết ngươi.”

    Gã vẫn tỏ vẻ thản nhiên, một mực mỉm cười, vì nụ cười ấy mà những đường nét cứng cỏi trên khuôn mặt gã mềm mại hẳn đi. “Ta căn bản không muốn giết nàng.” Dừng một chút, gã nói tiếp: “Một nữ nhân vừa thông minh lại vừa xinh đẹp, thường rất dễ khiến người khác có cảm tình.”

    Tôi bật cười khúc khích, nhưng tiếng cười ấy lại làm khơi lên nỗi đau vừa rồi, tôi bèn cất lời tự giễu: “Vừa rồi nếu ngươi đã tỉnh, chắc cũng nghe thấy vị công tử này nói ta tàn nhẫn. Như vậy, đối với một nữ tử tàn nhẫn như rắn rết, ngươi còn dám có suy nghĩ gì quá phận không?”

    Tôi cố ý nói những lời tệ hại về mình, sự khó chịu nơi đáy lòng hoàn toàn bị nụ cười trên mặt che đi. Khóe mắt liếc qua bên cạnh, tôi thấy Huyền Thanh sau khi nghe thấy những lời này, mí mắt liền nẩy lên mấy cái, nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi ngoảnh đầu qua hướng khác, không chịu nhìn y nữa.

    Nam tử kia ngẩng đầu, cười rộ: “Nếu một nữ tử được ông trời ưu ái cả về nhan sắc và trí tuệ, lại có cả sự tàn nhẫn, vậy sẽ càng khiến người ta dễ sinh lòng ái mộ.”

    “Vậy sao?” Tôi chỉ coi như đang nghe những lời đùa cợt, đột ngột ngoảnh đầu nhìn qua phía Huyền Thanh, cố tình kích thích y, nở nụ cười rạng rỡ. “Quả nhiên mật ngọt của người này có khi lại là thuốc độc với người khác.” Không ngoài dự liệu, mí mắt Huyền Thanh lại nẩy lên lần nữa, thần sắc thoáng vẻ bi thương.

    Nam tử đó thoáng sững người, sau đó liền nhìn chằm chằm vào tôi. Chắc hẳn thuốc rắn kia hết sức hữu hiệu, lúc này khí sắc gã đã khá hơn rất nhiều, vẻ tím tái gần như biến mất hẳn. Tôi để ý quan sát gã, thấy người này tuổi độ tam tuần, khuôn mặt cực kỳ góc cạnh, mày kiếm đâm ngang, đôi mắt đen láy sâu thẳm như mắt ưng, khiến người ta khó lòng đoán ra suy nghĩ trong lòng gã. Tuy gã cố ý ăn mặc theo lối công tử nhà giàu bình thường, thế nhưng luồng bá khí và sự sắc bén trên khuôn mặt kia lại không sao che giấu được, khiến người ta vừa thoáng liếc qua đã có cảm giác sợ hãi. Khóe môi gã hơi nhếch lên coi như nở nụ cười, thế nhưng trong mắt lại chẳng có nét cười nào. “Một nữ tử hội tụ đủ sắc đẹp, trí tuệ và sự tàn nhẫn, thực sự có thể khiến người ta ái mộ. Người như nàng đây, ta từng đi khắp Hách Hách mà chưa gặp bao. Do đó ta rất muốn giết chết nàng hoặc là mang nàng đi, để Đại Chu không còn một nữ tử xuất sắc như nàng nữa.”

    Huyền Thanh vốn một mực lặng im không nói, nhưng khi nghe thấy những lời này, dù công phu nhẫn nại có tốt đến mấy cũng không nhịn được, bèn gằn giọng: “Vị công tử này, ngôn từ của ngươi đã có phần hơi quá rồi đấy!”

    Nam tử kia thấy Huyền Thanh chỉ đứng một bên, ung dung nho nhã, rất có điệu bộ thư sinh, không kìm được lộ vẻ khinh miệt. “Ngươi có quan hệ thế nào với nàng ấy?”

    Tôi vốn vẫn đang giận Huyền Thanh, lúc này được dịp liền phát tác, cười tủm tỉm, nói: “Tất nhiên chẳng có quan hệ gì rồi!” Tôi khẽ lườm Huyền Thanh một cái rồi nói với nam tử kia: “Nếu y có quan hệ gì với ta, vừa rồi khi ngươi nói ra hai chữ ‘ái mộ’ cợt nhả ta, y sẽ phải trách mắng ngươi mới đúng, làm gì còn phải đợi đến lúc này.”

    Nam tử kia cất giọng thản nhiên: “Cũng phải. Có điều, ta thấy bọn nàng giống một cặp vợ chồng đang giận nhau hơn.” Tôi phỉ phui một tiếng, không thèm để ý đến gã. Gã lại cười hà hà, nói tiếp: “Nhưng ta mặc kệ nàng và hắn có phải là vợ chồng không, nàng tự chọn đi, muốn chết hay là muốn đi theo ta?”

    Huyền Thanh nghe thấy lời này thì giận đến nỗi sắc mặt tái nhợt, toàn thân hơi run rẩy. Y không sao kìm nén được nữa, bước lên một bước đứng chắn trước mặt tôi, lạnh lùng nói với nam tử kia: “Ta không cho phép ngươi mạo phạm nàng. Vừa rồi ta có thể cứu ngươi, bây giờ tất nhiên cũng có thể giết ngươi!”

    Nam tử kia ngồi xếp bằng trên nền đất, bị hơi lạnh làm sặc sụa một hồi, sau khi ổn định lại hơi thở bèn thản nhiên nói: “Tuy ngươi đã cứu mạng ta nhưng xưa nay ta đã muốn có thứ gì, nhất định phải có bằng được. Tuy chất độc trên người ta còn chưa được giải hết nhưng muốn đối phó với ngươi thì chẳng khó khăn gì.”

    Huyền Thanh nở nụ cười hờ hững. “Đã như vậy, ngươi cứ việc thử xem.”

    Nam tử kia hơi hất hàm một cái, ngạo nghễ nóNam nhân nhà Chu các ngươi làm gì có cái gọi là nhiệt huyết nam nhi, khí khái anh hùng. Nhìn khắp nhà Chu, người đáng lọt vào mắt ta chỉ có Nhữ Nam Vương Huyền Tế của các ngươi ngày trước, về sau y đã bị cầm tù, nghe nói Hoàng đế của các ngươi còn phải tốn một phen công sức mới xử lý được y. Bình định Nhữ Nam Vương xong, có một vị tướng quân trẻ tuổi họ Chân cũng khá nổi bật, chỉ là về sau phạm tội đã bị lưu đày, chẳng biết kết cục thế nào. Nhà Chu không có tướng tài nào để dùng, trong nước lại trọng văn khinh võ, dân chúng phần lớn là trói gà không chặt. Chỉ dựa vào một đám quân lính tản mạn của các ngươi, ta thực chưa thèm để mắt.”

    Thấy gã kiêu ngạo như vậy tôi vẫn chẳng hề lo lắng, với bản lĩnh của Huyền Thanh, muốn đối phó với một kẻ đã trúng độc còn chưa giải hết tất nhiên không thành vấn đề. Thế nhưng nghe khẩu khí và thần thái của nam tử kia, hình như là rất tự tin, hơn nữa còn có hiểu biết khá rõ về tình hình chính trị ở Đại Chu, thực chẳng biết là có lai lịch thế nào. Lỡ như gã thực sự có địa vị gì đó ở Hách Hách, một khi bị Huyền Thanh giết chết, rất có thể sẽ làm lộ ra chuyện tôi và y lén ra ngoài du ngoạn, như thế thì thật là được không bằng mất rồi. Tôi thầm suy nghĩ, nếu gã còn có người giúp đỡ đang ẩn nấp xung quanh, hoặc là có người đang trên đường tới chi viện, vậy thì sự việc sẽ càng thêm nan giải. Huyền Thanh mà chỉ có một mình tất nhiên sẽ dễ dàng ứng phó mọi việc, nhưng có thêm tôi và Hoán Bích ở bên thì nhất định sẽ gặp phiền phức lớn.

    Hơn nữa, tôi cũng không muốn nhìn thấy cục diện căng thẳng như hiện giờ, bèn tới sát bên cạnh Huyền Thanh, hạ thấp giọng nói: “Tạm thời đừng ra tay vội.”

    Y thoáng ngẩn ra, rất nhanh đã khẽ “ừm” một tiếng.
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 32: Xóa tan hiềm khích
    Tôi khẽ cười một tiếng, giữa vùng núi non tĩnh lặng, tiếng cười nghe càng thêm trong trẻo, giòn tan, loáng thoáng còn có tiếng vang vọng lại, như thể bốn phương tám hướng đều có những nữ tử đang cất tiếng cười ung dung. Tôi nhẹ nhàng gạt tay Huyền Thanh ra, bước lên trước, hơi nhún người làm lễ, nói: “Được công tử yêu thương tiểu nữ tất nhiên rất lấy làm vinh hạnh. Chỉ là công tử yêu thương tiểu nữ đây chẳng qua chỉ vì cho rằng tiểu nữ đủ thông minh, tướng mạo lại không đến nỗi làm bẩn mắt công tử, có lẽ còn vì nhìn trúng chút lòng tàn nhẫn chẳng đáng kể gì kia nữa.” Tôi hơi nghiêng đầu, nở một nụ cười quyến rũ, mấy món đồ trang sức cài trên búi tóc rung rinh lay động. “Nhưng…”

    Tôi cố ý trù trừ hòng thu hút sự chú ý của gã, trong lúc nói chuyện lại lén nháy mắt ra hiệu với Hoán Bích, đồng thời như có như không hờ hững liếc qua con dao găm. Hoán Bích hiểu ý, liền rón rén bước tới nhặt con dao găm lên, đi tới bên cạnh nam tử kia.

    Tôi nhìn nam tử kia, cất giọng u sầu: “Công tử thử nhìn kĩ xem, kỳ thực tiểu nữ làm gì có chỗ nào tốt đâu chứ.”

    Gã chăm chú nhìn tôi, đang định mở miệng nói gì, chợt hơi cau mày, sắc mặt lộ vẻ đau đớn, trong mắt bừng ra những tia hung tợn, nhanh chóng xoay người nhìn qua chỗ Hoán Bích vừa đứng. Hoán Bích tay chân nhanh nhẹn, chỉ vài bước chân đã chạy trở về nấp sau lưng Huyền Thanh, dáng vẻ hoang mang vô cùng.

    Tôi vỗ vai Hoán Bích một cái, khẽ cất tiếng an ủi: “Sợ cái gì chứ, chẳng qua chỉ đâm hắn một dao thôi, lại không vào chỗ yếu hại, hắn không chết được đâu.” Tôi cố ý cười tủm tỉm trêu chọc: “Hoán Bích, trước đây muội giết người còn chẳng chớp mắt lấy một lần, sao hôm nay lại nương tay như vậy?”

    Hoán Bích lúng túng đáp: “Đã lâu không động thủ, cổ tay nô tỳ mềm nhũn ra rồi.”

    Nam tử đó tỏ ra căm hận vô cùng, nhịn đau rút con dao vừa bị Hoán Bích ném trúng vào vai ra, nửa lưỡi dao dính đầy máu, một giọt máu nhỏ xuống nền tuyết trắng tinh, nhìn như một bông hoa mai đỏ rực. Hắn cố gắng đứng dậy, nhưng chất độc trong người vốn còn chưa được thanh trừ hết, bây giờ trên vai lại trúng một dao, rốt cuộc không gắng gượng nổi, mới đứng lên nửa chừng đã lại ngã nhào.

    Tôi cười nhạt, cất tiếng: “Này, ngươi chớ có mà động đậy bừa bãi, kẻo không miệng vết thương nứt ra thì ngươi khổ đấy.”

    Hắn hằn học nói: “Nàng muốn giết ta, tất nhiên có nam nhân kia ra mặt cho nàng, hà tất phải bảo một tiểu a hoàn dùng thủ đoạn bỉ ổi thế này để ám toán ta, như thế há có thể coi là hành vi của một bậc quân tử?”

    Tôi không kìm được cười vang khanh khách, đưa tay áo lên che miệng nói: “Ta và Hoán Bích vốn là nữ tử, tất nhiên không phải để tâm tới cái gọi là hành vi của quân tử rồi. Hơn nữa, vừa rồi ngươi muốn đoạt ta về Hách Hách, lẽ nào lại là hành vi của quân tử sao? Đã như thế, ta việc gì phải đối đãi với ngươi bằng đạo của người quân tử”, rồi liền chỉ sang Hoán Bích. “Đây là thị nữ của ta, ngươi thấy thế nào?” Tôi ung dung nói: “Dung mạo muội ấy không thua kém gì ta, còn nói đến thông minh tàn nhẫn, vừa rồi trong lúc ngươi không để ý, muội ấy có thể lặng lẽ đến gần ngươi ném dao găm làm ngươi bị thương, cũng coi như là lợi hại rồi.”

    Sắc mặt gã như bị mây đen che phủ, sau một thoáng im lặng liền sảng khoái nói: “Đúng vậy!”

    Hoán Bích dường như phát giác ra điều gì, nôn nóng hô lên: “Tiểu thư…” Tôi ra hiệu bảo muội ấy im lặng, muội ấy chỉ đành nhìn qua phía Huyền Thanh, hai bờ môi mím chặt.

    Tôi mỉm cười, nói: “Ta chẳng qua chỉ là một nữ tử bình thường nơi dân gian, vậy mà thị nữ của ta đã có thể ám toán ngươi như vậy rồi, qua đó đủ thấy số nữ tử vừa thông minh xinh đẹp lại vừa quả cảm ở Đại Chu nhiều vô kể, tùy tiện chọn một người cũng có thể nhận được sự ái mộ của ngươi. Như thế, xin hỏi tôn giá, ngươi muốn cướp đi toàn bộ hay là muốn giết hết toàn bộ đây?” Tôi khẽ vuốt ve bờ má. “Bất kể ngươi lựa chọn thế nào, ta dám đảm bảo, ngươi nhất định không thể dễ dàng lẻn vào Đại Chu rồi an toàn trở ra đâu.”

    Gã hơi biến sắc, ánh mắt trở nên sắc bén mà lạnh lùng. “Nàng đúng là đã tính toán giúp ta một phen rồi.”

    Tôi nói thẳng: “Tất nhiên. Vì ta có thể nhìn ra, tôn giá là một người quý trọng tính mạng của mình.”

    “Cớ sao lại nói vậy?”

    Tôi nói giọng giễu cợt: “Bởi vì ngươi biết ta đã giết vợ ngươi và đứa bé trong bụng cô ta, ngươi cũng nói cô ta và ngươi đã có hai đứa con trai, trong bụng cô ta là đứa thứ ba. Vậy thử hỏi khi biết tin người vợ đã giúp mình sinh con đẻ cái bị người ta giết chết, ngươi nên có vẻ mặt thế nào? Ngươi biết rõ ta là người ra tay, vậy mà không hề muốn báo thù, tuy ta cũng chỉ muốn tốt cho cô ta, nhưng người thân là một người chồng lại không hề hỏi đến, còn muốn chiếm đoạt lấy một người đã giết vợ mình như ta, thực không hợp lẽ thường. Chỉ có hai cách giải thích cho việc này, thứ nhất là ngươi không hề coi trọng cô ta, không định vì cô ta mà gây xung đột với bọn ta bằng tấm thân còn đang mang độc; thứ hai, đó là ngươi quá coi trọng tính mạng của bản thân, tuy khó chịu nhưng cũng chỉ có thể kìm nén, bởi ngươi luôn đặt tính mạng của bản thân vào vị trí quan trọng nhất.”

    Gã cười giễu một tiếng, hờ hững nói: “Dùng lời của người Chu để nói, nàng có thể coi là một nửa tri âm của ta rồi.”

    Tôi cười nhạt. “Không hẳn. Tôn giá khen ta là một nửa tri âm, nhưng ta thì đã phát hiện tôn giá tính tình bạc bẽo, nếu thật sự hiểu tôn giá, chỉ e sẽ vì sợ hãi mà phải hoang mang bỏ chạy mất thôi. Do đó, ta thật không dám nhận hai chữ ‘tri âm’ này. Ta chỉ mong sau này không bao giờ phải gặp tôn giá nữa, vậy đã là vận may lớn nhất đời rồi.” Tôi đưa tay ra dấu. “Mời tôn giá cứ tự nhiên cho.”

    Gã tỏ vẻ hồ nghi. “Nàng để ta đi?”

    Tôi hỏi ngược lại: “Bằng không, ngươi cho rằng ta lấy tính mạng ngươi làm gì?”

    Ánh mắt sắc lẹm như dao của gã lướt qua bờ má tôi, có lẽ là vì ảo giác, tôi cảm nhận được một chút dịu dàng và tán thưởng bên trong đó. Gã loạng choạng đứng dậy, đi được mấy bước, thân thể rốt cuộc đã vững vàng hơn.

    Hoán Bích thấy gã xoay người đi ngay, khẽ “úi” lên một tiếng, chỉ tay vào thi thể vợ gã trên mặt đất. “Ngươi bỏ mặc vợ ngươi sao?”

    Gã quay đầu liếc nhìn, mặt mày hờ hững, không hề có chút gì gọi là nỗi đau mất vợ. “Người chết thì đã chết rồi, chẳng lẽ bắt ta phải cõng theo một cái xác đi ra khỏi thành sao?” Sau đó lại đưa mắt liếc tôi, lạnh lùng cất tiếng: “Nàng nhớ lấy, nàng đã giết vợ ta, phải đền cho ta một người vợ khác! Nhớ lấy!” Nói xong thì không ngoảnh đầu lại thêm, xoay người đi thẳng.

    Hoán Bích tức giận vô cùng, hậm hực nói: “Trên đời này không ngờ lại có loại nam nhân như vậy, thi thể không cần, chẳng lẽ ngay cả việc chôn cất vợ mình cũng không làm được sao? Thực không xứng làm một người chồng!” Nói rồi, muội ấy liền thở dài, nhìn nữ tử kia. “Cô ta thật đáng thương!”

    Huyền Thanh khẽ xoa vai tôi, dịu dàng an ủi: “Lời của hắn, nàng đừng để bụng.”

    Tôi lẳng lặng ngồi xuống, đưa tay bới tuyết bên cạnh xác nữ tử kia, lạnh lùng nói: “Nam tử trên thế gian này đều bạc bẽo, ích kỷ, Hoán Bích, đây là lần đầu muội nhìn thấy cảnh này sao? Việc gì phải tức giận như vậy?”

    Huyền Thanh đưa mắt liếc tôi, khóe miệng hơi máy động nhưng rốt cuộc không nói năng gì, chỉ cùng tôi bới tuyết, rồi liền vùi xác nữ tử kia xuống đó. Mười ngón tay tôi lúc này gần như đông cứng lại, hoàn toàn mất đi tri giác. Tôi chậm rãi hà hơi vào tay, lại liếc nhìn ụ tuyết nổi lên kia, thở dài: “Vốn mang thân con gái trắng trong, bây giờ được vùi thân vào trong tuyết trắng thuần khiết, so với chôn xuống đất thì tốt hơn nhiều.”

    Hoán Bích nép sát vào tôi, khẽ nói: “Tiểu thư, vừa rồi tiểu thư bảo nô tỳ dùng dao găm ném hắn, nô tỳ thật sự rất sợ, nô tỳ chưa từng làm chuyện như thế bao giờ.”

    Tôi nắm lấy bàn tay Hoán Bích, an ủi: “Tự tay giết người, hôm nay cũng là lần đầu tiên của ta. Nếu không vì bất đắc dĩ, ai lại muốn tay mình dính máu tanh. Hoán Bích, hôm nay thực sự phải cảm ơn muội, nếu không có muội ném dao làm hắn bị thương, ta cũng chẳng biết phải tìm lời lẽ nào để ứng phó với hắn nữa.”

    Hoán Bích lộ vẻ nghi hoặc và căm phẫn. “Có công tử ở đây, muốn giết hắn đâu phải việc gì khó khăn, sao phải thả cho hắn đi chứ? Hắn còn cợt nhả tiểu thư nữa mà.”

    Tôi đưa mắt nhìn qua phía Huyền Thanh, khẽ hỏi: “Huynh thấy sao?”

    Y có chút trầm ngâm, hơi cau đôi mày cong cong lại, đáp: “Người này nhất định rất có quyền thế ở Hách Hách.” Tôi hiểu suy nghĩ của y, bên dưới Hách Hách Khả hãn có hai vị Đại vương của Nam Viện, Bắc Viện, bọn họ chia nhau cai quản chính sự, rất có quyền uy. Huyền Thanh tất nhiên đặt khá nhiều sự chú ý vào hai người này.

    Tôi gật đầu, nói: “Ít nhất cũng là người thuộc hàng tướng soái. Vậy, hắn tới đây là vì cớ gì?”

    Tất nhiên không phải là để ngắm cảnh đẹp trên Huy Sơn. Huyền Thanh nghiêm túc cất tiếng: “Chỉ e là để thăm dò chuyện giữa hai nước”, rồi lại khẽ lắc đầu. “Việc biên phòng không ngờ lại lơi lỏng đến mức này, để người Hách Hách có thể dễ dàng vào được tới tận đây.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Lối ăn mặc của hắn không khác gì người Đại Chu, vùng biên lại có chợ Hỗ Thị, hắn chỉ cần giả vờ là thương nhân thì tất nhiên có thể vào được.”

    Huyền Thanh nói: “Đợi ta về kinh, nhất định phải bẩm rõ với hoàng huynh việc tăng cường phòng ngự nơi biên giới. Dã tâm của người Hách Hách từ việc này đã bộc lộ phần nào rồi.”

    Tôi im lặng gật đầu, chỉ là trong lòng tôi còn có một suy nghĩ khác chưa nói ra. Hoán Bích nghe mà nghi hoặc, bèn hỏi: “Sao tiểu thư lại biết thân phận người Hách Hách của kẻ đó?”
    Tôi nói: “Muội có để ý thấy chiếc áo lông cáo trên người hắn không? Chiếc áo ấy thoạt nhìn thì không có gì đặc biệt, lại may theo kiểu bình thường, nhưng chỉ cần nhìn kĩ thì sẽ phát hiện lớp lông cáo có màu sắc cực kỳ thuần nhất, không hề có chiếc lông tạp nào, hơn nữa còn vô cùng tề chỉnh, thực hiếm có. Loại lông cáo ấy thuộc vào hàng thượng phẩm trong thượng phẩm, người bình thường không dễ gì có được, cũng giống như ngọc trai miền Nam trong hoàng cung Đại Chu vậy, chuyên dành cho quý tộc sử dụng. Người có thể mặc loại áo lông cáo thế này nhất định không phải hạng nhân vật tầm thường ở Hách Hách.”

    Hoán Bích im lặng một lát rồi mới rụt rè nói: “Tiểu thư, vừa rồi nô tỳ cho rằng… cho rằng tiểu thư khen nô tỳ trước mặt hắn, là có ý muốn nô tỳ thay tiểu thư theo hắn tới Hách Hách.”

    Tôi ngẩn ra, rồi lập tức cười nói: “Muội cả nghĩ quá rồi.”

    Hoán Bích vội vàng nói: “Nô tỳ biết, nô tỳ biết mà, là nô tỳ không tốt, đã suy nghĩ linh tinh. Nô tỳ cho rằng…” Muội ấy không nói tiếp nữa, sắc mặt đỏ bừng, cúi đầu im lặng.

    Huyền Thanh mỉm cười, nói: “Cô là muội muội của Hoàn Nhi, Hoàn Nhi sao có thể làm như vậy được.”

    Tôi đưa mắt liếc y, lạnh lùng nói: “Vừa rồi là ai nói ta tàn nhẫn, sao bây giờ lại đứng ra dàn hòa rồi?”

    Hoán Bích kéo tay tôi, dịu dàng cất tiếng: “Tiểu thư, là nô tỳ không tốt, nô tỳ không nên kêu lên như thế, dù tiểu thư đánh nô tỳ, nô tỳ cũng không oán hận chút nào.”

    Tôi khẽ vuốt ve bờ má vẫn còn sưng tấy, ửng đỏ của Hoán Bích, chậm rãi nói: “Đã đỡ hơn chút nào chưa? Là ta không tốt, trong lúc nôn nóng đã ra tay quá nặng. Không phải ta cố ý muốn đánh muội đâu.”

    Hoán Bích rơm rớm nước mắt, nói: “Nô tỳ biết.”

    Huyền Thanh cất giọng ôn tồn, bên trong còn mang theo chút áy náy: “Trời đã tối rồi, trên núi lại lạnh nữa, chúng ta mau theo đường cũ quay về thôi.” Tôi không nói gì. Huyền Thanh để Hoán Bích bầu bạn bên tôi, còn mình thì đi bẻ mấy cành thông khô về làm đuốc, lại móc đá đánh lửa giắt bên hông ra châm lửa. Ngọn đuốc làm bằng gỗ thông khô lập tức sáng bừng, còn tỏa ra mùi hương thoang thoảng.

    Huyền Thanh một tay giơ cao ngọn đuốc, một tay dắt tay tôi bước đi.

    Tôi rụt tay lại, quay người qua hướng khác. Huyền Thanh cười gượng, thở dài. “Vừa rồi là ta không tốt, đã làm nàng tổn thương. Nhưng bây giờ trời tối đường trơn, nàng nắm tay ta sẽ dễ đi hơn nhiều.” Tôi hết cách, đành đưa tay cho y. Hai chúng tôi dắt tay nhau cùng bước, y vốn khỏe mạnh, bước đi rất mau lẹ và vững vàng, Hoán Bích đi theo sau bất giác đã bị bỏ cách một quãng.

    Tôi và Huyền Thanh vì chuyện vừa rồi mà lòng mang tâm sự, khó tránh khỏi có chút thẫn thờ. Một lát sau, Huyền Thanh dừng chân, quay lại nói với Hoán Bích: “Ba người chúng ta cùng đi nào!” Nói rồi, y bèn đưa ngọn đuốc trong tay về phía Hoán Bích.

    Hoán Bích không khỏi ngây ra, hai má đỏ bừng, vội nhìn sang phía tôi. Tôi thấy muội ấy đi một mình quả thật rất khó khăn và vất vả, lòng cũng có chút xót xa, liền gật đầu đồng ý. Hoán Bích liền nhận lấy cây đuốc từ tay Huyền Thanh, lại đặt tay mình vào tay y, sau đó cùng tôi một trái một phải bước đi bên y. Tôi thấy muội ấy cứ một mực cúi đầu đi đường, đôi bờ môi hơi mấp máy chừng như đang nói gì đó, không kìm được hỏi: “Hoán Bích, muội đang nói gì vậy?”

    Hoán Bích nghe vậy thì cả kinh, sắc mặt càng thêm ửng đỏ, chỉ biết lắc đầu lia lịa.

    Tôi thấy muội ấy không trả lời, Huyền Thanh thì chỉ một mực dắt tay chúng tôi bước về phía trước, không nói năng gì. Tôi vẫn còn canh cánh những lời của Huyền Thanh ban nãy, do đó cũng có chút không vui, liền không nói thêm nữa.

    Tới khi về đến khách điếm thì đã là nửa đêm, Huyền Thanh quay về phòng mình nghỉ ngơi, tôi và Hoán Bích ở trong phòng múc nước nóng rửa mặt. Trong khoảnh khắc đắp chiếc khăn bông lên mặt, tôi bất giác rùng mình, tâm trạng phần nào buông lỏng.

    Vừa thay xong một bộ đồ bình thường, tôi nhìn thấy Huyền Thanh đẩy cửa đi vào, còn bưng theo đồ ăn đêm, mỉm cười, nói: “Chắc đã đói bụng rồi chứ gì, ta vừa dặn tiểu nhị đem cháo hạt thông tới, còn đang nóng hổi đây.”

    Tôi vẫn còn giận y vì hai chữ “tàn nhẫn” kia, liền chỉ hờ hững nói: “Đa tạ Vương gia đã nhọc lòng.”

    Y thở dài một hơi, than: “Nàng vẫn còn giận ta vì mấy lời đó sao?”

    Tôi cười lạnh, cất tiếng: “Vương gia là nhân vật cao quý cỡ nào, sao ta dám giận.”

    Trên mặt y thoáng lộ vẻ tự trách. “Ta biết là ta không tốt, không nên nói nàng như vậy. Nhưng nàng thế này tức là đang giận dỗi rồi, lẽ nào nàng muốn thành người xa lạ với ta sao?”

    Quầng mắt tôi bất giác đỏ hoe, sống mũi cay sè. “Vương gia muốn nghĩ ta thế nào cũng được nhưng ta thực sự không nhận nổi những lời đó của Vương gia đâu.”

    Huyền Thanh nháy mắt ra hiệu, Hoán Bích bèn nói: “Chỉ có cháo hạt thông thì sao đủ được, để nô tỳ đi bảo nhà bếp làm thêm vài món ăn nữa.” Nói rồi, muội ấy liền mở cửa ra ngoài.

    Huyền Thanh đi tới ngồi xuống cạnh tôi, áy náy nói: “Hôm nay là ta không tốt, không nên làm nàng tổn thương. Chỉ là khi đó nữ tử kia vẫn còn thở, vậy mà nàng lại dứt khoát giết chết cô ta. Tuy ta biết nàng muốn tốt cho cô ta, không đành lòng để cô ta chịu khổ thêm nữa, nhưng vẫn không kìm được kinh hãi vô cùng. Dù sao nàng cũng là một nữ tử yếu đuối, sao có thể nhẹ nhàng kết liễu một tính mạng như vậy được, nói gì thì nàng cũng ngày ngày tụng niệm kinh văn.”

    Lồng ngực như tắc nghẹn, tôi chăm chú nhìn y. “Huynh cảm thấy muội không có lòng từ bi sao? Hay là huynh cho rằng trước khi giết cô ta, muội nên niệm một lần bài chú Vãng Sinh?” Tôi trầm giọng nói: “Muội chỉ không đành lòng nhìn cô ta phải chịu đau đớn. Về sau nghe người Hách Hách kia nói cô ta đang có thai, muội cũng kinh hãi vô cùng. Nhưng thực sự xót thương một sinh mệnh tức là chỉ có thể trơ mắt nhìn sinh mệnh đó phải chịu đủ mọi đau khổ rồi mới được chết sao?” Mắt tôi lúc này đã rơm rớ lệ. “Huynh nói muội ra tay quá tàn nhẫn, nhưng khi giết cô ta, chẳng lẽ muội lại không sợ hay sao? Huống chi…” Tôi cắn chặt môi, nói tiếp: “Muội là người bước ra từ chốn hậu cung đầy những tâm cơ và sự chết chóc, lẽ nào huynh không biết hay sao?”

    Huyền Thanh đưa tay tới giúp tôi gạt đi giọt lệ bên khóe mắt, cất giọng đau đớn và xót xa: “Nàng đừng khóc! Ta biết mình nói sai làm nàng thương tâm, làm nàng nhớ lại những việc trong cung trước đây nhưng ta thật sự không cố ý.” Y khẽ vỗ vai tôi, an ủi: “Khi đó ta cũng chỉ nôn nóng quá thôi!” Trên mặt thoáng lộ vẻ ngượng ngùng, y lúng túng nói tiếp: “Nói thực, khi bình định Nhữ Nam Vương, tuy ta từng giết không ít người nhưng đây là lần đầu tiên ta nhìn thấy một nữ tử tự tay giết người, hơn nữa lại là nữ tử mà ta yêu nữa.”

    Tôi khẽ buông tiếng thở dài, buồn bã nói: “Có lẽ chúng ta còn chưa đủ hiểu nhau, dù sao khi ở trong cung mới chỉ gặp mặt mấy lần, bên ngoài cung cũng chỉ có vài lần gặp gỡ, những lúc ấy muội đều nhã nhặn, ôn hòa. Huynh chưa từng thấy cảnh muội tranh đấu với người ta trong cung đó thôi, có lẽ khi thật sự hiểu rõ muội rồi, huynh sẽ không còn thích muội nữa.”

    Huyền Thanh nôn nóng nói: “Cho dù tranh đấu với người ta thế nào, muội cũng không bao giờ chủ động làm hại ai cả.” Y nắm lấy bàn tay tôi, nói với giọng chân thành: “Hoàn Nhi, như nàng nói đó, có lẽ thời gian chúng ta ở bên nhau còn chưa đủ dài, nàng và ta hiểu nhau chưa đủ sâu sắc. Vậy, nàng đừng giận ta nữa được không? Nếu nàng cứ giận mãi thế này, sao chúng ta tìm hiểu về nhau thêm được.”

    Lòng tôi rốt cuộc đã phần nào thư thái hơn. “Huynh đúng là đồ nhẫn tâm đoản mệnh…” Nói tới hai chữ “đoản mệnh”, tôi bất giác có chút hoang mang, liền giậm chân một cái, thở dài oán trách: “Ai ai cũng có thể nói muội tàn nhẫn, nói muội không tốt, duy có huynh là không thể…”

    Y nói: “Phải, ta không thể.”

    Tôi đưa mắt liếc y. “Cho dù tất cả mọi người trên thế gian đều chê muội không tốt, huynh cũng không được chê, bởi vì huynh khác với bọn họ.”

    Trong mắt như bừng lên một cây cầu vồng rực rỡ, y đưa tay tới ôm tôi vào lòng, dịu dàng nói: “Bởi vì trên thế gian này, nàng thương yêu ta nhất, ta yêu thương nàng nhất, hai chúng ta là những người độc nhất vô nhị trong mắt nhau. Hôm nay đúng là ta đã trách nhầm nàng, Hoàn Nhi, nếu nàng không tha thứ cho ta, ta thực sự sẽ trở thành một người nhẫn tâm đoản mệnh đấy…”

    Tôi vội vàng đưa tay bịt miệng y lại. “Cứ suốt ngày nói linh tinh, cẩn thận kẻo muội không thèm để ý đến huynh nữa đấy!” Tôi đưa mắt nhìn y, nói tiếp: “Thanh, trước đây muội vẫn luôn cảm thấy huynh là một người tốt, tốt đến hoàn hảo, nhưng hôm nay rốt cuộc đã phát hiện ra một khuyết điểm của huynh rồi.”

    Y nói: “Nàng cứ nói đi, ta đang nghe đây.”

    Tôi thở dài than: “Sau việc lần này, muội cảm thấy lòng dạ huynh mềm yếu quá. Hoặc có thể nói, tâm địa huynh quá tốt, quá hay suy nghĩ cho người khác.”

    Y thản nhiên cười, nói: “Có lẽ ta đúng là quá hay mềm lòng.”

    Tôi tựa đầu vào vai y, khẽ nói: “Chỉ mong sự lương thiện sẽ không trở thành gánh nặng của huynh.”
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 33: Hỏi thế gian tình ái là chi
    Sau việc này, tôi và Huyền Thanh cùng tỏ bày tâm sự, cuối cùng gạt bỏ mọi hiềm khích, tiếp tục ở bên nhau như trước. Xong cuộc du ngoạn Thượng Kinh, thời tiết đã dần trở lạnh, chúng tôi bèn ngồi xe ngựa quay về Trung Kinh.

    Giữa tiết trời đông, trong cung tổ chức khá nhiều yến tiệc, Huyền không thể thường xuyên tới chỗ tôi, thỉnh thoảng có tới cũng chỉ ngồi lại nửa ngày, sau đó liền vội vã quay về.

    Hôm ấy, sáng sớm ngủ dậy, tôi thấy Huyền Thanh chắp tay sau lưng, đứng chờ ngoài cửa, trên người là một chiếc áo lụa mềm màu trắng có ống tay áo rộng, bên hông thắt chiếc túi thơm màu lam, tay cầm một cành mai với dáng vẻ ung dung rất mực. Dưới ánh bình minh dìu dịu do vầng mặt trời ngày đông rọi xuống, toàn thân y như được bao phủ bởi một quầng sáng mờ mờ, lại càng làm tôn lên vẻ cao sang, quý phái.

    Thấy tôi cất bước ra ngoài, y lập tức nở nụ cười tươi, dịu dàng nói: “Nàng dậy rồi.”

    Tôi cả kinh bật thốt: “Sao sớm thế này mà huynh đã tới rồi, đứng bên ngoài như thế có lạnh không?”

    Nụ cười của y tựa như tia sáng đầu tiên xuất hiện nơi chân trời. “Vừa sáng sớm ta đã cưỡi ngựa về Thanh Lương Đài, thấy mai xanh đã nở, liền hái một cành tới đây cho nàng.”

    Tôi mỉm cười đón lấy, nhẹ nhàng đưa lên mũi ngửi, mùi hương tao nhã của mai xanh lập tức khiến toàn thân tôi thư thái vô cùng. Tôi cười, nói: “Mau vào đi! Huynh đã ăn gì chưa vậy?”

    Y bật cười. “Vừa sáng sớm đã phi ngựa tới đây, bụng ta đang sôi lên đây này.”

    Phía trong phòng, Hoán Bích vừa bày xong mấy đĩa thức ăn đơn giản, lại đang múc cháo trắng để lên bàn, tôi cười nói: “Không có gì ngon để chiêu đãi huynh đâu, huynh cứ ngồi xuống mà tự lấp đầy cái bụng của mình đi.”

    Y cầm bát cháo trắng lên, gắp một miếng dưa muối nếm thử, đoạn mỉm cười, nhìn tôi chăm chú. “Ta cảm thấy có thể tới chỗ nàng ăn chút đồ ăn đơn giản, lại húp vài ngụm cháo, vậy đã là một việc hạnh phúc nhất trên thế gian rồi.”

    Tôi đưa mắt liếc y, làm bộ hờn trách: “Cái miệng huynh sao mà ngọt ngào thế, cứ như đã bôi mật vậy.” Y mỉm cười không nói, tôi lại hỏi: “Có phải trong cung đã xảy ra chuyện gì không?”

    Trong mắt y thoáng qua một nét sầu lo, ngay sau đó đã lại cười, nói: “Có thể có chuyện gì được chứ, chẳng qua là trong đợt tuyển tú hồi tháng Sáu, hoàng huynh vừa có thêm một vị sủng phi là Phó Uyển nghi, vì vậy mà xem nhẹ chuyện triều chính, còn ghẻ lạnh cả hậu cung.”

    Tôi không cảm thấy tò mò: “Chuyện này đúng là lạ thật, Hoàng thượng có thêm sủng phi vốn là lẽ thường, nhưng đến mức vì cô ta mà xem nhẹ chuyện triều chính thì không bình thường chút nào. Đó là một mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành sao?”

    Y thoáng ngẩn ra, lát sau mới hơi nhếch khóe môi cười khẽ. “Đẹp thì có đẹp, nhưng lại không có linh hồn.”

    Tôi cười, nói: “Thế thì quái lạ rồi đây, tại sao Hoàng thượng lại thích cô ta vậy?”

    Huyền Thanh khẽ lắc đầu. “Ta cũng không rõ, hoàng huynh luôn có lý do riêng của mình.”

    Hiện giờ tuy vẫn mang lòng oán hận Huyền Lăng nhưng khi nghe nói về việc y ân ái với nữ tử khác, tôi đã có thể bình thản tiếp nhận, không cảm thấy kích động chút nào, như thể người được nói đến là người mà tôi không hề quen biết.

    Huyền Thanh điều chỉnh lại tâm trạng của mình một chút, vui vẻ nói: “Hôm nay ta sẽ ở bên nàng cả ngày, vậy có được không?”

    Trong phòng có lò sưởi nên vô cùng ấm áp, mùi đàn hương vì vậy mà trở nên miên man nóng bỏng, hoàn toàn mất đi sự lạnh lùng. Y ngồi xuống trước mặt tôi, nhẹ nhàng múa bút, vẽ lại bóng dáng đang ngồi ngay gần đó của tôi. Tôi lấy cuốn Thái Bình quảng ký ra đọc, ung dung lật mở từng trang, trong phòng, khói thơm vất vưởng bay lượn, để lại trên mặt đất những chiếc bóng mờ mờ. Tôi nhất thời nổi hứng nghịch ngợm, liền đưa tay quờ nhẹ vào không khí, chợt phát hiện lúc này y vẫn đang cúi đầu chuyên tâm vào bức họa, không kìm được cười, nói: “Này, làm gì có họa sĩ nào như huynh chứ, khi vẽ cứ một mực cúi đầu, chẳng buồn nhìn người ta lấy một lần, liệu có vẽ giống được không đấy?”

    Huyền Thanh ngẩng lên cười, nói: “Nàng hãy tự mình tới xem đi.”

    Tôi ghé đầu tới xem thử, thấy bức vẽ đó thực tinh tế và sống động vô cùng, không kìm được buột miệng khen: “Quả là không tệ!”, rồi lại trách: “Nhưng vừa rồi huynh chẳng nhìn muội lần nào…”

    Y cười vang, khẽ véo mũi tôi một cái. “Ta tuy không nhìn muội, nhưng bộ dạng của muội lại luôn ở trong lòng ta, làm gì mà chẳng vẽ ra được.”

    Tôi xoay người qua một bên, bật cười khúc khích. “Chỉ giỏi nói linh tinh thôi…”

    Còn chưa dứt lời, tôi đã phát hiện ra điều khác lạ, chẳng rõ Ôn Thực Sơ vén rèm bước vào tự lúc nào, đang đứng lặng lẽ ngay cạnh cửa, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy.

    Lòng tôi thầm giá lạnh, việc tôi và Huyền Thanh định tình, Ôn Thực Sơ không hề hay biết, tôi cũng không định nói với hắn, mà Huyền Thanh trước giờ tới đây cũng chưa từng chạm mặt Ôn Thực Sơ. Nhưng vừa rồi tôi và Huyền Thanh thân mật với nhau, Ôn Thực Sơ nhất định đã nhìn thấy rồi, có điều tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại, bèn mỉm cười, nói: “Huynh đến rồi.”

    Ôn Thực Sơ khẽ “ừm” một tiếng, lạnh lùng nói: “Ta đến thật không đúng lúc.”

    Tôi đưa mắt nhìn Huyền Thanh rồi dứt khoát nói với Ôn Thực Sơ: “Quả thực không đúng lúc, có điều Thanh cũng không phải người ngoài.”

    Ôn Thực Sơ khẽ cười lạnh lẽo. “Thanh?” Sau đó lại vén rèm cửa lên, nói: “Hoàn muội muội, muội ra ngoài này, ta có lời muốn nói với muội.”

    Trái tim tôi bất giác hơi run rẩy, tôi kỳ thực không muốn làm hắn tổn thương, nhưng dù sao hắn cũng đã nhìn thấy rồi, tôi chỉ đành dằn lòng lại, mỉm cười nói: “Được, vậy xin huynh ra ngoài trước đợi muội một lát.”

    Ôn Thực Sơ rảo bước ra ngoài, Huyền Thanh khẽ kéo áo tôi, hơi cau mày lại. “Ôn đại nhân hình như rất tức giận thì phải?”

    Tôi khẽ cười, đáp: “Có chút hiểu lầm, để muội đi nói rõ với y là được, huynh cứ ở trong này đợi muội nhé!”

    Huyền Thanh khẽ gật đầu, tôi liền chậm rãi bước ra ngoài. Không khí bên ngoài rất lạnh, đột ngột bước ra từ trong căn phòng ấm áp, tôi không kìm được rùng mình một cái, toàn thân như tê dại.

    Ôn Thực Sơ chắp tay sau lưng đứng bên cạnh vách đá, sắc mặt tái xanh, nhìn thấy tôi đi ra liền nói thẳng: “Hoàn muội muội, muội từng nói với ta rằng muội ở trong cung mấy năm, đã hoàn toàn tuyệt vọng với chuyện tình cảm nam nữ. Muội cũng từng nói với ta rằng Thanh Hà Vương là người trong cung, lại là em ruột của đương kim hoàng thượng, vậy thì mối quan hệ giữa muội và Thanh Hà Vương bây giờ phải giải thích như thế nào đây?” Giọng hắn đầy vẻ phẫn nộ và thương tâm.

    Tôi cố giữ lòng mình bình tĩnh, trầm giọng nói: “Chính như huynh đã nói, đó chỉ là những lời mà muội từng nói.”

    “Muội…” Ôn Thực Sơ lộ rõ vẻ thương tâm. “Lời từng nói thì có thể gạt đi không cần để ý tới hay sao?”

    Tôi khẽ lắc đầu, dịu giọng nói: “Thực Sơ ca ca, không phải lời từng nói thì có thể gạt đi không cần để ý tới, mà là chuyện trên đời này thường phát sinh những sự biến hóa chúng ta không lường trước được, không có điều gì là vĩnh viễn. Chẳng hạn như muội từng là sủng phi của đương kim Hoàng thượng, hay như gia tộc của muội từng hết sức huy hoàng, và muội từng là một Chân Hoàn không tỏ việc đời, chỉ biết ôm bát sen ngồi ở đầu thuyền mà hát. Thực Sơ ca ca, những việc đó đều đã là quá khứ rồi, dù muội có trông mong tất thảy đừng có qua đi đến thế nào đi chăng nữa, thời gian rốt cuộc vẫn chẳng thể trôi ngược lại.”

    Ôn Thực Sơ ngẩn ngơ nói: “Muội đừng nói với ta những điều này, muội chỉ cần trả lời ta một câu thôi, muội và Thanh Hà Vương rốt cuộc có quan hệ như thế nào?”

    Tôi hít một hơi thật sâu, dòng khí lạnh băng tràn vào cơ thể khiến đầu óc tôi vô cùng tỉnh táo, tôi nín thở, nói: “Chẳng như thế nào cả, muội thích y, y cũng thích muội, chỉ vậy thôi.”

    Ôn Thực Sơ biến hẳn sắc mặt, cất giọng tang thương: “Hay! Hay! Hay lắm! Mãi hôm nay muội mới chịu nói thực với ta!”

    Tôi thầm áy náy, ôn tồn nói: “Muội kỳ thực đâu muốn giấu huynh, trong lòng muội, huynh giống như là huynh trưởng của muội vậy, lại là hảo hữu lâu năm, muội vốn nên sớm nói với huynh mới đúng. Nhưng, thứ nhất là việc này dù gì cũng không tiện nói ra ngoài, thứ hai, tấm lòng của huynh với muội, muội không phải là không biết, do đó cũng sợ huynh thương tâm, rồi cả hai lại rơi vào cảnh khó xử.”

    Ôn Thực Sơ ngẩn ngơ hồi lâu rồi mới hỏi: “Bọn muội qua lại với nhau được bao lâu rồi?”Tôi cắn chặt môi. “Điều này quan trọng sao?”

    Hắn nhìn tôi chăm chú, chậm rãi nói: “Rất quan trọng.”

    Tôi cúi đầu. “Nửa năm.”

    “Vậy bọn muội quen nhau bao lâu rồi?”

    “Cũng phải sáu, bảy năm rồi.”

    Khuôn mặt lộ vẻ đớn đau dữ dội, như thể sắp nhỏ máu đến nơi, Ôn Thực Sơ khàn giọng nói: “Muội và y quen nhau được sáu, bảy năm, nhưng muội và ta đã quen nhau hơn mười năm rồi, tình cảm đã có từ thuở nhỏ.”

    Lòng tôi thầm khó chịu không thôi, chỉ biết cúi đầu, thấp giọng nói: “Có một số chuyện, điểm mấu chốt không phải ở chỗ quen nhau nhiều hay ít năm.”

    Ôn Thực Sơ sững sờ đứng đó, chăm chú nhìn tôi bằng ánh mắt đau thương khó tả. “Đúng thế, có một số chuyện, điểm mấu chốt không phải ở chỗ quen nhau nhiều hay ít năm, nhưng muội từng nói muội đã hoàn toàn thất vọng với chuyện tình cảm nam nữ, hơn nữa y lại là em trai của Hoàng đế – người chồng trước đây của muội. Tại sao? Tại sao lại là y chứ?”

    Lời của Ôn Thực Sơ như một lưỡi dao sắc bén cứa vào vết thương của tôi, bày ra trước mắt tôi một mảng quá khứ bầy nhầy máu thịt. Lòng tôi rấm rứt đau, giọng nói cũng theo đó trở nên lạnh lùng: “Huynh muốn biết là tại sao ư, vậy để muội nói cho huynh biết. Vì muội đã tuyệt vọng với chuyện tình cảm nam nữ, vì muội đã tuyệt vọng với cuộc đời này, vì muội vốn chỉ là một người đã bị nhấn chìm trong sự đau khổ, là y, là Huyền Thanh, y đã khiến muội sinh ra một niềm hy vọng với mọi việc, khiến muội bằng lòng tin vào những điều mà muội theo đuổi, do đó muội có thể không để tâm tới thân phận của y, huynh có hiểu không?”

    Những lời này tôi nói dồn dập quá, giọng nói mất đi sự bình tĩnh thường ngày, trái tim không ngừng đập thình thịch, tựa như tiếng trống chiều trầm lắng giữa núi rừng.

    Ánh mắt Ôn Thực Sơ tràn ngập vẻ buồn bã, thê lương. “Nhưng muội ở cùng y, chỉ e sau này sẽ phải chịu không ít nỗi khổ, thậm chí đến một danh phận cơ bản nhất cũng không thể có được!”

    Tôi gượng cười chua xót, tựa như bông hoa đang run rẩy giữa tiết trời giá lạnh. “Với thân phận của muội bây giờ, dù ở chung với ai cũng không thể có danh phận gì được. Vả chăng, Thực Sơ ca ca, lẽ nào huynh có thể cho muội danh phận? Hay là, huynh nghĩ rằng danh phận là thứ muội muốn có nhất bây giờ?”

    Y nghẹn lời, chỉ biết trân trối nhìn tôi. “Muội sẽ rất vất vả…”

    Tôi bám tay vào vách đá, thản nhiên cất lời: “Muội phải chịu nỗi vất vả thế nào, y cũng sẽ phải chịu nỗi vất vả thế ấy, huynh không cần lo muội sẽ bị thiệt thòi gì đâu. Hơn nữa, muội đã bằng lòng đi theo y rồi, tất nhiên cũng đoán trước được sẽ gặp phải những chuyện gì, muội thực sự cam tâm tình nguyện.”

    Mọi việc trên thế gian này dù có khó khăn, gian khổ đến đâu, cũng không thể địch nổi một câu cam tâm tình nguyện.

    Ôn Thực Sơ đã dần bình tĩnh trở lại, lẩm bẩm nói: “Cam tâm tình nguyện, ta với muội, cũng là cam tâm tình nguyện, muôn chết không từ mà!”

    Tôi khẽ lắc đầu, bước đến gần hắn. “Thực Sơ ca ca, hai việc này không giống nhau đâu. Tình cảm của huynh với muội, muội mãi khắc ghi trong lòng, nhưng muội và Thanh, ấy là tình yêu chân chính đến từ hai phía.” Tôi cất giọng chân thành mà tha thiết: “Muội biết huynh muốn khuyên muội điều gì nhưng việc đã tới nước này rồi, muội cũng không ngại nói với huynh, dù lựa chọn Thanh là một sai lầm, muội cũng sẽ chấp nhận, mãi mãi không hối hận.”

    Tôi ngoảnh lại, đón lấy ánh mắt dịu dàng mà nóng bỏng của Huyền Thanh phía sau lưng, thầm cảm thấy ấm áp, trái tim như được buông lơi. Y chỉ đứng ở đằng xa với vẻ thấu hiểu, không hề bước lại gần. Nhìn thấy sự thương tâm và chấn động của Ôn Thực Sơ, tôi bất giác có chút không đành lòng, liền khẽ nói: “Thực Sơ ca ca, huynh thử nói xem, huynh cảm thấy ở bên muội quan trọng hơn, hay muội được thật lòng vui vẻ quan trọng hơn?”

    Tôi nói những lời này với ý thăm dò, nếu hắn ích kỷ, có lẽ lòng tôi sẽ được thoải mái hơn phần nào. Trong khoảnh khắc hắn hé môi, tôi thực sự có chút mong chờ, mong rằng hắn có thể ích kỷ một chút.

    Ôn Thực Sơ nói: “Tự nơi đáy lòng, ta luôn hy vọng có một ngày có thể có được muội, sau đó mãi mãi ở bên muội, nên tất nhiên ta coi đây là việc quan trọng nhất. Nhưng Hoàn muội muội, ngay đến trong mơ, ta cũng biết là muội không thích ta, muội ở với ta sẽ không có được niềm vui thực sự. Do đó, muội được thật lòng vui vẻ vẫn quan trọng hơn một chút.”

    Lời của hắn như nhát búa giáng mạnh vào trái tim tôi, khiến tôi cảm động vô cùng. Ôn Thực Sơ, hắn luôn đối tốt với tôi như thế, vẫn luôn thật lòng với tôi như thế. Sự thật lòng của hắn, thậm chí không thua kém tình yêu mà Huyền Thanh dành cho tôi.

    Thế nhưng, dù gì cảm động vẫn chỉ là cảm động, chứ không phải là tình yêu.

    Tôi dịu dàng cất tiếng: “Thực Sơ ca ca, cảm ơn huynh đã đối xử với muội tốt như thế.”

    Hai mắt Ôn Thực Sơ đỏ hoe, hắn ngẩng cao đầu, cố kìm nén những giọt nước mắt bất cứ lúc nào cũng có thể tuôn trào. “Ta đối xử với muội không hề tốt, vừa rồi ta còn hung dữ với muội nữa. Hoàn muội muội, ta chưa từng lớn tiếng như thế với muội bao giờ.”

    Tôi khẽ gật đầu, cặp mắt bất giác cay cay. “Muội không trách huynh. Thực Sơ ca ca, giờ muội đã tìm được người muội yêu và cũng yêu muội, muội rất vui, hy vọng huynh đừng khó chịu thêm nữa. Huynh sẽ mãi là Thực Sơ ca ca của muội, được không?”

    Ôn Thực Sơ hơi nhếch khóe môi nhưng trong mắt lại lóe lên nét bi thương khó diễn tả bằng lời. “Ta có khuyên muội cũng chẳng ích gì, dù sao bây giờ tâm ý muội cũng đã như vậy rồi, chỉ cần muội vui là được.” Hắn chăm chú nhìn Huyền Thanh đang đứng phía xa, giọng nói rất lạnh lùng, lời nào lời nấy như những khối băng vụn: “Hoàn muội muội, y có được sự cam tâm tình nguyện của muội, muội không biết đâu, ta thực sự ngưỡng mộ y vô cùng!”

    Tôi gượng cười, khẽ nói: “Có gì mà hâm mộ chứ, Thực Sơ ca ca, sau này huynh cũng sẽ gặp được một nữ tử tốt, cam tâm tình nguyện làm tất cả vì huynh.”

    “Sẽ không đâu.” Ôn Thực Sơ buồn bã cất tiếng than: “Hoàn muội muội, chỉ cần muội được vui vẻ là tốt rồi.”

    Hắn xoay người rời đi, dưới ánh mặt trời ngày đông dìu dịu, bóng dáng hắn lại càng toát lên vẻ cô đơn khó tả. Chiếc áo màu đỏ sậm hắn mặc trên người bị cơn gió lạnh thổi bay lất phất, nhìn như những gợn sóng dưới mặt hồ, mà toàn thân hắn cũng đều như nhăn nhúm lại. Giữa vùng núi non ngợp một màu u ám, trông hắn thật trơ trọi biết chừng nào.

    Tôi đứng ngẩn ngơ nơi đầu gió, từng cơn gió lạnh căm không ngừng ập vào mặt, khiến đầu óc tôi càng thêm tỉnh táo. Tôi có thể cảm nhận được sâu sắc rằng, mối tình kiên định bấy lâu nay hắn vẫn luôn dành cho tôi, lúc này đã bị tôi làm cho tổn thương sâu sắc. Dù tôi có không đành lòng đến mấy, nó rốt cuộc cũng đã tổn thương rồi.

    Hơi thở của Huyền Thanh cùng với sự ấm áp của chiếc áo choàng đồng thời bao bọc lấy tôi, y dịu dàng giúp tôi lau đi giọt lệ chừng như trào ra bên khóe mắt, khẽ thở dài cảm khái: “Ôn thái y thực sự rất thích nàng.”

    Tôi ngẩng lên, cố nén nỗi buồn, gượng cười ngơ ngẩn. “Đáng tiếc, cả cuộc đời này muội không thể báo đáp huynh ấy.”

    Chuyện tình cảm trên thế gian này, có được thì phải có mất. Có người vui vẻ thì phải có người hụt hẫng, ưu sầu. Với Ôn Thực Sơ là thế, với Hoán Bích là thế, và với tôi, với Huyền Lăng, Huyền Thanh cũng đều là như thế.

    Cặp mắt trong veo của Huyền Thanh lộ vẻ dịu dàng và thấu hiểu. “Hoàn Nhi, nàng có thể dùng tình bạn trong suốt cuộc đời này để báo đáp y.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Muội sẽ làm như thế.”

    Tiếng thở dài nhè nhẹ của Huyền Thanh như vương vấn mãi bên tai tôi. “Hoàn Nhi, nàng có biết khi nghe nàng nói ra câu cam tâm tình nguyện, mãi không hối hận, ta đã chấn động tới mức nào không?”

    Tôi lắc đầu, khẽ nói: “Muội chẳng qua chỉ nói lời thực lòng mà thôi.”

    Trên khuôn mặt y tràn ngập vẻ mừng vui và xúc động, còn kèm theo mấy nét dịu dàng, gần như đã nhấn chìm tôi vào trong đó. “Hoàn Nhi, tình cảm của Ôn thái y với nàng không hề ít hơn ta, chỉ là ta đã rất may mắn, do đó mới có thể ôm nàng vào lòng. Nàng là người mà cả cuộc đời này ta đều mong đợi!”

    Người mà cả cuộc đời này đều mong đợi, với tôi, đó chính là Huyền Thanh. Tôi cúi đầu, nép sát vào vòng tay rộng rãi mà ấm áp của y. Chỉ khi được y ôm vào lòng, tôi mới có thể cảm thấy yên tâm như bây giờ.

    Mùa đông dù rét lạnh đến mấy, rốt cuộc rồi cũng sẽ qua đi.
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 34: Trên đồng hoa nở
    Dịp tháng Ba, tháng Tư là thời điểm đào đỏ liễu xanh, hương thơm bát ngát.

    Tôi thấy bên ngoài trời mây đẹp như tranh vẽ, không kìm được cười, nói: “Bên ngoài cảnh đẹp thế này, cứ ngồi mãi trong phòng thật là một điều đáng tiếc”, rồi lại hỏi: “Sao không thấy Cận Tịch đâu thế?”

    Hoán Bích cười, nói: “Tiểu thư quên rồi sao? Cận Tịch đã ra ngoài hái rau tề thái, nói là để tối đến gói một ít hoành thánh nhân tề thái mà. Nô tỳ bây giờ đang chuẩn bị đi nhào bột đây. Tiểu thư không có việc gì làm, chi bằng ra ngoài đi dạo một chút cho khuây khỏa.”

    Tôi đưa tay vuốt nhẹ mái tóc, đứng dậy nói: “Cũng tốt, bên ngoài hoa đang nở rộ, ta đi hái một ít về cắm vào bình.”

    Hoán Bích nở nụ cười tươi. “Vậy thì hay quá, ngoài kia trăm hoa đua nở, khiến cho căn phòng này của chúng ta có vẻ lạnh lẽo quá chừng.”

    Thế rồi tôi bèn cất bước ra ngoài, hòa mình vào cảnh xuân đẹp đẽ, lúc này tất cả trời mây non nước đều tràn đầy sinh khí, nơi nơi ngợp những bóng hoa, ở trong cung, toàn bộ hoa cỏ đều phải qua bàn tay cắt tỉa của những người thợ khéo để hợp với nghi lễ của cung đình, đẹp thì đẹp nhưng dù gì cũng đã mất đi vẻ tự nhiên.

    Còn những bông hoa giữa chốn núi rừng quanh tôi lúc này đều được thoải mái vươn mình đón gió, cành lá tốt tươi, tràn đầy sức sống. Giữa trời đất bao la, thỉnh thoảng lại có một cơn gió thổi tới, mang theo mùi hương hoa cỏ thanh tân, ngọt ngào vô hạn.

    Đưa mắt nhìn về phía xa, dưới núi đồng ruộng bát ngát, nơi thì trồng lúa biếc xanh, nơi lại trồng cải vàng rộm, hai màu xanh và vàng đan xen nhau, trông như một dải gấm trải dài miên man vô cùng rực rỡ.

    Tôi bất giác khẽ nở nụ cười, thầm nghĩ năm nay chắc sẽ lại có một vụ mùa bội thu.

    Tôi vô tư bước đi trên con đường nhỏ, lúc thì hái vài bông hoa anh đào dại nở hoa trắng muốt, lúc lại hái mấy bông nhị nguyệt lan màu tím nhạt, có lúc lại tiện tay bẻ một nhành cỏ biếc xanh, cứ thế ôm tất thảy trong lòng, bước đi chậm rãi, tâm trạng vui vẻ vô cùng.

    Lúc này cảnh xuân đương đẹp, nơi nào cũng ngợp đầy sắc xuân, hoa dại tỏa hương bát ngát, khiến người ta lòng xiết mê say, chẳng muốn quay về. Giữa không trung thỉnh thoảng lại có chim chóc bay qua, khi oanh khi yến, lưu lại những tiếng hót véo von, thoắt hiện rồi chợt mất. Tôi lúc này đã hòa mình vào cảnh sắc xung quanh, gần như đắm đuối, cảm thấy ngay cả non nước vô tri cũng trở nên hữu tình, đang thiết tha mời gọi tôi dạo bước.

    Tôi chậm rãi bước đi, chợt để ý thấy sắc trời phía đằng xa đã dần chuyển thành màu đỏ, thỉnh thoảng lại có vài làn khói bếp nơi chân núi bốc lên, liền biết rằng thời gian đã không còn sớm nữa, đành ôm theo bó hoa, thả bước trở về.

    Khi tôi về đến thiền phòng thì Cận Tịch cũng đã quay trở lại, đang cùng Hoán Bích bận rộn bên bếp, mùi thơm ngọt ngào đặc biệt của rau tề thái không ngớt bay ra. Nghe thấy tiếng tôi mở cửa, hai người bọn họ liền ngoảnh đầu nhìn qua, Cận Tịch cười, nói: “Nương tử về muộn mất rồi, Vương gia vừa mới tới đây xong đấy!”

    Tôi thoáng ngạc nhiên, đồng thời còn có chút hụt hẫng, “Sao lại tới đây đột ngột như vậy?”

    Cận Tịch chậm rãi nói: “Vương gia có vẻ rất nôn nóng, quay về cũng rất vội vàng, dường như phải tìm một cái cớ nào đó mới có thể qua đây, lúc này chắc đã tới An Tê quán của Thái phi rồi.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, biết là lỡ mất cơ hội gặp y, tâm trạng không khỏi có chút buồn bã, nhưng cũng không muốn để Hoán Bích và Cận Tịch nhìn ra, liền lẳng lặng đi tìm một chiếc bình, cẩn thận cắm từng bông hoa vào, lại tưới nước cẩn thận rồi mới hỏi: “Khi tới đây, Vương gia có nói gì không?”

    Hoán Bích đáp: “Lúc tới, Vương gia có hỏi là tiểu thư đi đâu rồi, nô tỳ còn định đi tìm nhưng Vương gia lại nói ngọn núi này lớn như vậy, sợ là nhất thời không tìm thấy được, hơn nữa tiểu thư đã ra ngoài ngắm cảnh, nửa chừng tìm về chỉ e sẽ làm hỏng mất nhã hứng của tiểu thư. Sau đó, Vương gia lại đợi thêm một lát rồi A Tấn đến giục, thế là đành rời đi. Ngài không nói gì thêm, chỉ viết mấy chữ để lại trên bàn, tiểu thư cứ qua đó xem thì biết.”

    Tôi không gặp được y, lại biết y đã chờ tôi, liền càng thêm bồi hồi, hụt hẫng. Y tới được một chuyến cũng chẳng dễ dàng gì, lại bỏ lỡ như vậy, lần sau gặp mặt thật chẳng biết phải chờ đến bao giờ. Thôi thì có một bức thư cũng tốt, còn hơn là không có gì.

    Thế rồi tôi bèn cầm lấy bức thư, mở ra xem, trên tờ giấy trắng tinh chỉ có một dòng ngắn ngủi: “Trên đồng hoa nở, nàng cứ chầm chậm quay về[1].”

    [1] Đây là lời trên một bức thư mà Ngô Việt Vương Tiền Lưu thời Ngũ Đại gửi cho Vương phi Đới thị của mình. Tương truyền, Tiền Lưu và Đới thị cực kỳ ân ái, mà Đới thị lại là một người rất yêu quý quê hương, nên mùa xuân mỗi năm Đới thị đều phải về thăm quê xa một lần. Hôm ấy Tiền Lưu xuất cung, thấy dưới chân núi Phượng Hoàng và bên bờ Tây Hồ trăm hoa đua nở, muôn hồng ngàn tía, bất giác nhớ tới việc đã nhiều ngày không gặp ái phi, liền quay về viết một bức thư gửi nàng. Lời trên thư tuy ngắn ngủi nhưng lại vô cùng tinh tế và chứa chan tình cảm, khiến Đới thị đọc xong liền nhỏ lệ hai hàng. Về sau, chuyện này lan truyền ra ngoài, trở thành giai thoại, còn được cải biên thành dân ca, lưu truyền rất rộng trong dân gian – ND.

    Dường như có một dòng nước ngọt ngào đang từ từ chảy vào tim tôi, khiến nó trở nên ấm áp và mềm mại, rồi sau đó mọc ra những cánh hoa xuân tươi đẹp nhất.

    Y biết rõ muốn tìm ra tôi giữa vùng núi non này kỳ thực không có gì khó, chỉ cần đến nơi nào nhiều hoa là sẽ tìm thấy tôi ngay. Thế nhưng, y vẫn tình nguyện ở lại đây lặng lẽ chờ đợi, chứ không muốn cắt ngang tâm trạng vui vẻ của tôi khi ngắm hoa xuân.

    Y cứ thế ngồi đây trong im lặng, hy vọng tôi sẽ về sớm.

    Sự tinh tế của y, tình cảm chân thành và ấm áp của y khiến tôi thiếu chút nữa không kìm nỗi hai hàng lệ nóng.

    Không ngờ tình yêu mà y dành cho tôi lại bao dung và giàu sự nhẫn nại đến nhường này.

    Những bông hoa giữa đồng đều đã nở, nàng có thể chậm rãi ngắm hoa, không cần nôn nóng quay về. Tôi cảm nhận dường như y đang khẽ rủ rỉ những lời như vậy bên tai tôi.

    Trên đồng hoa nở, muôn hồng nghìn tía, y sẽ đứng ở đầu bên kia của biển hoa bát ngát mà chờ đợi tôi.

    Trong lúc chờ đợi, hẳn y đã mang theo một chút tương tư, một chút mong chờ, và còn cả một chút cô đơn, tất thảy đều chỉ vì muốn chờ tôi rong chơi trở về.

    Hoán Bích thấy tôi thất thần, vội bước tới hỏi: “Tiểu thư sao vậy?”

    Tôi mỉm cười vui vẻ, khẽ nói: “Không có gì. Con bồ câu lần trước Vương gia cho người đưa tới đâu rồi?”

    Hoán Bích đáp: “Đang ăn kê bên ngoài kia kìa, để nô tỳ mang nó vào đây.” Nói rồi liền xoay người đi ôm con bồ câu đó vào.

    Con bồ câu trắng muốt vẫn đang kêu “cúc cu” không ngớt. Tôi đi lấy một tờ giấy, cầm bút viết: “Nước tựa nhãn ba ngang, non tựa my phong tụ. Muốn hỏi người đi tới chỗ nao, mi mắt đăm đăm đó[2].”

    [2] Trích Bốc toán tử, Vương Quan, dịch thơ Nguyễn Chí Viễn. Nguyên văn Hán Việt: Thủy thị nhãn ba hoành, sơn thị my phong tụ. Dục vấn hành nhân khứ na biên, mi nhãn doanh doanh xứ – ND.

    Lòng thầm xao động, tôi cảm thấy như thế này hãy còn chưa đủ, liền lật tờ giấy sang mặt bên kia, viết thêm mấy hàng chữ nhỏ. “Mày chàng tựa rặng ngon xanh, ánh mắt như làn nước biếc. Muốn hỏi người ta tới nơi nao, thì rằng luôn trong mắt chàng chưa từng đổi khác. Lần này lỡ dịp gặp nhau, ngày sau cùng chàng hội ngộ, mong ở nơi bát ngát cỏ hoa.”

    Viết xong, tôi bất giác mỉm cười rồi cẩn thận cuộn tờ giấy đó lại, nhét vào trong chiếc ống trúc nhỏ buộc bên chân trái con chim bồ câu, sau đó cười, nói với Hoán Bích: “Con bồ câu này chắc biết đường bay về chứ nhỉ?”

    Hoán Bích cười đáp: “A Tấn đã phải tốn rất nhiều tâm sức mới huấn luyện được nó đấy, chắc sẽ không ngốc quá đâu!”

    Tôi ôm con bồ câu đi ra ngoài cửa, thấy những rặng núi non ẩn hiện dưới ánh tà dương, sắc trời tối dần, bèn thả cho con bồ câu bay đi. Trong khoảnh khắc ấy, trái tim tôi dường như cũng rời khỏi cơ thể mà bay theo nó.

    Ngày hôm sau, trời trong nắng ấm. Huyền Thanh thình lình xuất hiện trước mặt tôi, nơi tay áo còn vương mùi thơm của hoa xuân.

    Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Sao huynh lại đột nhiên tới đây thế?”

    Y nở nụ cười rạng rỡ, nắm lấy bàn tay tôi. “Sau khi nhận được thư của nàng, ta suy nghĩ suốt một đêm mà vẫn chẳng nghĩ ra nên trả lời thế nào mới phải, đành tự mình tới đây.” Trên khuôn mặt y tràn ngập vẻ khoan khoái. “Chỉ tiếc là chúng ta không thể hội ngộ ở một nơi bát ngát cỏ hoa.”

    Có gì quan trọng đâu, y tới đây, vốn đã mang tới cho tôi một miền cỏ hoa bát ngát rồi.

    Kỳ thực, giữa sân có một gốc đào già đang nở hoa rạng rỡ, một cơn gió nhẹ thổi tới, những cánh đào hồng lất phất tung bay, đất trời ngợp giữa màu hồng của hoa đào và màu vàng ươm của nắng.

    Bên dưới ô cửa sổ trong thiền phòng, y trịnh trọng rút từ trong tay áo ra một vật.Đó là một tấm thiệp hợp hôn màu đỏ, chính giữa có hình một cặp uyên ương ân ái, phần rìa thì vẽ hình phượng hoàng cùng bay, chỉ vợ chồng hòa hợp; nền của tấm thiệp còn có hoa văn sen mọc cùng gốc, ngụ ý nhiều con nhiều phúc, ân ái triền miên.

    Huyền Thanh đưa tay trái nắm lấy bàn tay tôi, tay phải cầm bút chậm rãi viết từng nét xuống tấm thiệp màu đỏ đó:

    Huyền Thanh – Chân Hoàn

    Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.

    Nhưng con chữ như khắc trên tờ giấy, hằn sang cả mặt sau. Mỗi nét chữ đều có thể nhìn thấy rõ ràng, đồng thời lại như lờ mờ khó thấy. Lúc này, người tôi trở nên mềm nhũn, tâm trạng xao xuyến không thôi, tựa như lúc được cha dẫn đi xem cảnh thủy triều hồi nhỏ, nước triều ở sông Tiền Đường như muôn vàn con ngựa cùng lao đi, mang tới cho tôi một sự chấn động khó tả, mắt tôi rơm rớm lệ, trong lòng chợt trào dâng nỗi bi thương.

    Tôi nắm chặt lấy bàn tay y, nức nở nói: “Muội là người bị hoàng huynh của huynh ruồng bỏ, tiền đồ chẳng biết thế nào, huynh việc gì phải đối tốt với muội như vậy chứ?”

    Huyền Thanh ôm tôi vào lòng, ống tay áo của chiếc áo đơn màu đỏ cọ xát nhè nhẹ với chiếc áo ni cô cùng mái tóc bị buông xõa của tôi. Nước mắt tôi rơi xuống áo y, loáng cái đã bị hút sạch, chỉ để lại một mảng màu hơi sẫm, chừng như đã hoàn toàn biến mất khỏi thế gian.

    “Cho dù tiền đồ chẳng biết thế nào thì đây cũng là tâm ý chân thành nhất của ta.” Giọng của y cũng trở nên nghẹn ngào: “Hoàn Nhi, trên thế gian này, ta chỉ cần mình nàng thôi.”

    Tôi im lặng, chợt nở nụ cười rạng rỡ, hai tay cùng quàng qua cổ y, chăm chú nhìn vào bóng dáng tôi trong đôi mắt y. Huyền Thanh cũng không nói năng gì, ánh mắt dừng lại trên khuôn mặt tôi, đôi mắt đen láy như đầm nước trong veo sâu không thấy đáy, bên trong duy chỉ có bóng dáng của tôi cùng những tia tình ý mặn nồng. Bên ngoài thiền phòng, hoa đào đang nở rộ, màu hồng tràn ngập giữa đất trời cùng từng làn hương thơm thoang thoảng, sắc xuân ngập tràn. Tôi tựa má mình vào bờ vai y, đôi tay y dùng sức càng lúc càng mạnh, ôm chặt lấy tôi, chặt vô cùng, như thể đời này kiếp này chúng tôi chằng bao giờ còn cơ hội bên nhau nữa. Lồng ngực tôi có cảm giác nhói đau vì bị ôm quá chặt nhưng cùng với sự đau đớn ấy, trong lòng tôi còn có một nỗi mừng vui khó miêu tả bằng lời.

    Sự mừng vui đó ngợp khắp đất trời, trước mắt chỉ toàn hình ảnh đôi uyên ương ban nãy, chúng tựa cổ cọ đầu, tột cùng ân ái… Rồi còn cặp hoa sen liền gốc, cả hai bông hoa đều đang nở rộ, cánh hoa cứ chậm rãi rơi, cuối cùng để lộ ra phần nhụy trắng ngần, trắng như miếng ngọc mỡ dê… Chiếc móc đồng treo màn khẽ lay động, bức màn màu trắng buông xuống nhẹ nhàng… Phượng hoàng cùng bay…

    Ngoài sân, những cánh hoa đào màu hồng phấn rơi lả tả giữa gió xuân, tựa như cơn mưa hoa lãng mạn… Trong màn, một đôi chân thon dài đang duỗi thẳng, cảnh sắc ướt át và ngợp đầy sắc xuân… Những tiếng thở nặng nề của nam nhân vang lên không ngớt… Tôi ngẩng đầu nhìn bứ tượng Quan Âm tạc bằng bạch ngọc đặt trên bàn rồi lại cúi đầu im lặng, bà ấy cũng không nói năng gì… Tràng hạt làm bằng gỗ trầm hương đặt đầu giường trông như một con rắn đang cuộn mình lặng lẽ, khi nhắm mắt lại, tôi tiện tay gạt văng nó xuống đất, làm phát ra những tiếng lộc cộc nhẹ nhàng.

    Tôi rón rén trở dậy mặc quần áo, sau khi xong xuôi, ngó sang thấy Huyền Thanh hai mắt vẫn nhắm, hít thở đều đều, dường như còn đang ngủ say. Tôi tới ngồi trước chiếc bàn trang điểm, mở hộp đồ trang sức đã phủ đầy bụi lâu ngày ra. Những món đồ châu ngọc kia đã bị tôi bỏ quên không ngó ngàng gì tới từ khá lâu rồi, lúc này nhìn thấy, không kìm được cảm thấy rực rỡ khôn tả, hoàn toàn không còn cảm giác gay mắt nữa. Tất cả những thứ trong hộp đều là đồ quý giá của tôi khi vào cung, không thiếu thứ gì. Mặc dù mấy năm trong cung từng được Huyền Lăng ban cho vô số món đồ quý báu nhưng tất thảy tôi đều để lại, ngay cả cây trâm vàng hình hoa hồng mà tôi vốn luôn yêu thích cũng chẳng mang theo.

    Những thứ gì liên quan đến Huyền Lăng, có thể bỏ lại được tôi đều đã bỏ lại.

    Ngồi trước gương chậm rãi chải chuốt, trang điểm, đã lâu lắm tôi không dụng tâm như vậy rồi. Tôi chải cho mình kiểu tóc Bán phiên đơn giản, mái tóc mây đen nhánh được cuộn hết ra phía sau, lại chia thành từng lọn nhỏ, uốn thành những vòng tròn hai bên, nơi chính giữa đỉnh đầu tụ thành một khối. Kế đó, tôi chọn lấy một cây trâm vàng nạm phỉ thúy cẩn thận cài lên đầu, sợi tua bên dưới cây trâm đung đưa không ngớt, cọ nhẹ vào búi tóc đen nhánh của tôi. Trên bệ cửa sổ có đặt một chậu hoa lan tím, tỏa hương dìu dịu, lòng tôi thầm máy động, liền đưa tay hái lấy mấy bông cài lên búi tóc.

    Tôi lại mở tiếp hộp son phấn, lấy các thứ phấn son bột nước ra, trang điểm theo lối Đào hoa trang, lại nhuộm thắm cả bờ môi. Dưới mái tóc mây, hai gò má tôi mang màu san hô hây đỏ, tựa như những án mây màu buổi bình minh. Kế đến tôi lại cẩn thận kẻ mày, những đường bút như vẽ ra hai rặng núi xa, phía dưới đó là đôi mắt trong veo rực sáng, chỉ thoáng đong đưa, vô vàn tình ý dào dạt truyền ra. Tôi không khỏi thầm cảm khái, vẻ suy sụp trước kia tới lúc này rốt cuộc đã hoàn toàn tan biến, người trong gương như có một cuộc sống mới, đã có thể để nụ cười thắm đượm bờ môi.

    Lúc này tôi đang mặc trên người chiếc áo ngăn thêu hoa màu tím nhạt, bên trên là những bông hoa màu vàng cùng cành lá rậm rạp xanh biếc, lại khoác bên ngoài chiếc áo cộc tay màu trắng thêu hình lá đào, phía dưới là chiếc váy lụa mềm xếp nếp màu xanh lơ, tung bay nhè nhẹ giữa làn gió xuân ấm áp.

    Những sắc màu ấy đều mang nét vui tươi, làm tâm trạng tôi thư thái hơn nhiều.

    Tôi đi tới trước bàn, nhúng đẫm mực vào đầu cây bút lông, cẩn thận viết tiếp vào sau mấy chữ của Huyền Thanh trên tấm thiệp. “Nguyện cầm sắc chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.” Dường như đang ở trong giấc mộng, tôi và Huyền Thanh rốt cuộc đã có ngày này, kiếp sống này coi như không uổng.

    Một giọng nói dịu dàng vang lên sau lưng tôi: “Hoàn Nhi?”

    Tôi tha thướt xoay người, y cất giọng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “Nàng vừa trang điểm?”

    Tôi mỉm cười nhìn y chăm chú, nơi đáy lòng vô số tình cảm dạt dào. “Khi xưa muội rời cung để tóc tu hành, lần trước tới Thượng Kinh du ngoạn trang điểm theo lối nữ tử bình thường chẳng qua là để cho tiện, không có nguyên nhân gì đặc biệt. Còn hôm nay, muội hoàn toàn là vì huynh nên mới trang điểm và trở lại cõi trần.” Tôi cúi đầu, ngượng ngùng khẽ nói: “Kỳ thực, vì huynh nên trái tim muội luôn ở nơi trần thế, chưa bao giờ thoát đi được.”

    Cặp mắt như lóe sáng, y nhẹ nhàng bước tới, ôm tôi vào lòng.

    Tôi tựa người vào cánh tay y, chìm đắm trong niềm hạnh phúc và mừng vui lớn lao vô bờ. Bỗng nhiên tôi nhớ tới một việc, bèn hỏi: “Trên tay huynh có hình xăm, đúng vậy không?”

    Khóe môi y hơi nhếch lên, nở một nụ cười kỳ lạ, ghé tai tôi, khẽ nói: “Vừa rồi không phải nàng đã nhìn thấy hết rồi sao?”

    Tôi bất giác đỏ bừng hai má, lặng lẽ vén tay áo y lên. Chỉ thấy trên cánh tay phải của y có hình xăm một sợi xích sắt, xung quanh bò đầy dây mây màu xanh, màu sắc vô cùng bắt mắt. Ngoài ra phía dưới còn có hình xăm một thanh trường kiếm nằm ngang, tay nghề của người xăm cao minh vô cùng, chỉ nhìn thôi đã khiến người ta cảm thấy như có vô số tia kiếm khí sắc bén bay ra.

    Tôi đưa tay, nhẹ nhàng vuốt ve những hình xăm trên cánh tay y, khẽ hỏi: “Khi xăm có đau lắm không?”

    “Đau.” Y cười, đáp: “Có điều chỉ cần cố chịu một chút là xong thôi.”

    Tôi cúi đầu, hôn lên hình xăm của y, cất giọng mơ màng: “Tại sao huynh phải xăm lên người những hình xăm như vậy, có ý nghĩa đặc biệt gì sao?”

    “Trong cơ thể ta có dòng máu của người Bãi Di, các nam tử Bãi Di sau khi trưởng thành đều phải xăm những hình xăm như vậy cả.”

    “Vậy… Thái hậu không phản đối sao?” Dù gì Thái hậu cũng là dưỡng mẫu của Huyền Thanh cơ mà.

    Y khẽ cười hờ hững, trong nụ cười thấp thoáng nét ưu thương nhàn nhạt, giọng nói đầy vẻ dửng dưng: “Ta chẳng qua chỉ là một vương gia nhàn tản, do đó tự do tự tại vô cùng.”

    Y buông tay áo xuống, ánh mắt dừng lại trên tấm thiệp màu đỏ kia. “Nàng mới viết gì vậy?” Huyền Thanh một tay ôm eo tôi, tay kia cầm tấm thiệp lên xem. Từng làn hơi thở ấm áp của y không ngừng phả vào tai tôi, cổ tôi, khiến tôi cảm thấy vô cùng ngứa ngáy. Một thoáng sau, giọng nói kiên định của y chậm rãi vang lên, vương vất mãi bên tai tôi: “Hoàn Nhi, ta nhất định sẽ để nàng được như ý nguyện.”

    Tôi đưa mắt nhìn những bông hoa đào đang nở rộ bên ngoài cửa sổ, thầm cảm thấy buồn bã. “Muội biết đó chẳng qua chỉ là một sự mơ mộng hão huyền, căn bản không thể trở thành hiện thực.”

    Huyền Thanh xoay người tôi lại, nắm chặt lấy bàn tay tôi, mười ngón tay của chúng tôi như hòa làm một, tỏ rõ tình ý sâu sắc triền miên. “Nàng hãy tin ta, đợi sau khi hoàng huynh dần quên nàng, ta sẽ nhờ Tĩnh Ngạn sư thái báo lên rằng nàng đã mắc bệnh qua đời rồi sau đó nàng thay tên đổi họ, vậy là chúng ta có thể mãi mãi bên nhau.” Ánh mắt y dịu dàng rất mực, tựa như làn nước mùa xuân, điều mà kiếp này vốn ngỡ là không thể, lúc này đã trở thành có thể rồi. Tôi như đang ở trong giấc mộng, không kìm được mà khẽ “ưm” một tiếng. Nhớ xưa kia, ngăn cách giữa tôi và y là biết bao người, biết bao việc, biết bao trở ngại khó khăn, vậy mà nay những thứ ấy đều đã tan biến, khiến tôi có cảm giác đó là việc từ kiếp trước rồi, chẳng hề chân thực. Lúc này, tôi như bước xuống từ chín tầng mây, chuẩn bị bắt đầu cuộc sống hoàn toàn mới.

    Giọng y lại vang lên nghe như lời mộng mị: “Hoàn Nhi, hôm sinh nhật Ôn Nghi đó, nàng còn nhớ không? Nàng ngâm đôi chân trần trong dòng suối, trông như một chú cáo trắng vậy…” Tôi lại khẽ “ưm” một tiếng, y không nói tiếp, sao tôi có thể quên được cuộc gặp gỡ lần đầu ngày hôm đó chứ.

    Tôi khẽ cười, nói: “Hôm đó huynh cực kỳ vô lễ, chẳng khác gì một tay lưu manh háo sắc.”

    Y mỉm cười. “Khi để chân trần nghịch nước, trông nàng xinh đẹp, đáng yêu biết mấy, nhưng khi nghiêm mặt giận dữ lại lập tức có bộ dạng cự tuyệt người ta từ ngoài ngàn dặm. Khi đó ta thầm nghĩ, sao lại có một nữ tử nhạt nhẽo như vậy nhỉ?” Y lẳng lặng nhìn tôi. “Nhưng sau đó khi bước vào điện, thấy nàng thổi cây sáo ngọc, lại múa điệu Kinh Hồng vũ, ta mới hay trên đời thực sự có người có thể uyển chuyển, thướt tha tựa như con chim hồng nhạn vậy.”

    Tôi bật cười thành tiếng, chỉ tay vào y mà trêu chọc: “Làm gì có ai đi khen người ta như vậy chứ, lúc thì cáo trắng lúc lại chim hồng nhạn, chẳng biết xấu hổ gì cả.”

    Trên thế gian này, y là người hiểu tôi nhất, mà người hiểu y nhất cũng chính là tôi. Chỉ là hiện giờ tôi không muốn suy nghĩ tới điều gì khác, toàn bộ tâm tư đều đắm chìm trong niềm hạnh phúc ngọt ngào.

    Tôi khẽ ãy người thoát khỏi vòng tay của y, nhổ một sợi tóc từ đầu y xuống. Y hơi đau, ngạc nhiên hỏi: “Làm gì vậy?”

    Tôi lại đưa tay tự nhổ một sợi tóc của mình, cẩn thận buộc hai sợi tóc đó vào nhau dưới ánh mặt trời dìu dịu chiếu vào qua khung của sổ. Huyền Thanh lập tức hiểu ra dụng ý của tôi, hai mắt rực sáng như hai ngọn đuốc, nơi khóe mắt thấp thoáng có giọt lệ rỉ ra. “Vợ chồng chúng ta sẽ ở bên nhau mãi mãi.” Tôi mỉm cười không nói, khuôn mặt bất giác nóng dần lên.

    Huyền Thanh cúi đầu hôn tôi không ngớt, kèm theo đó là những làn hơi thở dồn dập và nóng bỏng.
     
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 35: Cửu trương cơ [1]
    [1] Cửu trương cơ tức là Chín lần đưa khung cửi, đây là tên một nhóm cái bài từ thời Tống, không rõ của tác giả nào, tổng cộng có chín bài với chung một làn điệu từ, tên các bài lần lượt là Nhất trương cơ, Lưỡng trương cơ, Tam trương cơ…, Cửu trương cơ. Cả chín bài đều thể hiện những tâm trạng tương tư u oán của một thiếu nữ thôn quê, trong chương này tác giả gán thành những bài xướng họa của cặp nam nữ nhân vật chính, kỳ thực không thích hợp lắm – ND

    Trong sự ngọt ngào cùng hân hoan vô vạn, hai mùa xuân hạ năm nay mới thoắt đó đã trôi qua. Tôi đưa tay níu kéo nhưng thời gian vẫn lẳng lặng trôi qua giữa những kẽ tay, chỉ còn lưu lại chút hương thầm nhưng cũng đủ khiến lòng người thư thái.

    Buổi chiều hôm ấy, trời đang độ cuối hạ đầu thu, cái nóng nực vừa qua đi, thay bằng bầu không khí mát dịu, chính là thời tiết thích hợp để người ta có được giấc ngủ ngon nhất.

    Tôi nằm chợp mắt trên chiếc sạp nhỏ kê dưới cửa sổ, thỉnh thoảng lại có làn gió nhẹ thổi qua, mang tới cảm giác khoan khoái vô cùng. Đang lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi bỗng loáng thoáng nghe thấy bên ngoài có tiếng nói rì rầm, bèn chậm rãi mở mắt ra, uể oải cất tiếng gọi: “Hoán Bích…”

    Lúc này Hoán Bích đang mang áo bông mặc trong mùa đông ra ngoài phơi, nghe tiếng tôi gọi liền lập tức đáp lời: “Tiểu thư, A Tấn vừa mới tới đấy!”

    Tôi lập tức không còn cảm thấy buồn ngủ nữa, chỉnh lại mái tóc một chút rồi trở dậy, hỏi: “Sao lại tới vào lúc này thế? Có việc gì sao?”

    A Tấn bước vào phòng, mặt mày nhăn nhó, đáp: “Trong cung vừa truyền tin tới, nói là Hoàng thượng bị bệnh nên Vương gia phải lập tức vào cung hầu hạ. Cơn bệnh lần này hình như không nhẹ, sợ là phải tới mười ngày, nửa tháng nữa Vương gia cũng không thể đến được.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, lại hỏi: “Có biết là bệnh gì không?”

    A Tấn gãi đầu gãi tai, nói: “Điều này thì nô tài không biết, chỉ loáng thoáng nghe Tiểu Vưu vốn hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng nói rằng hình như ngài thổ huyết khi đang nghỉ lại trong cung của Phó Tiệp dư, bây giờ ngay đến Phó Tiệp dư cũng bị cấm túc rồi.”

    Lòng tôi thầm máy động nhưng ngoài miệng thì chỉ hờ hững nói: “Hoàng thượng tâm tư sâu sắc, khó tránh khỏi có lúc suy nghĩ quá nhiều mà làm tổn hại tới thân thể.” Hơi trầm ngâm một chút, tôi nói thêm: “Đã không rõ là mắc bệnh gì, khi nào khỏi bệnh cũng khó mà đoán trước được. Lần này, Vương gia vào cung vẫn ở tại Lũ Nguyệt Khai quán chứ?”

    “Dạ vâng!” A Tấn lộ vẻ lo lắng nói: “Lần này Vương gia được Thái hậu dặn dò, đã cùng Kỳ Sơn Vương, Bình Dương Vương vào cung hầu hạ thánh giá, ngay đến chị ruột của Hoàng thượng là Chân Ninh Trưởng công chúa được gả đi xa tới tận Lâm Châu cũng đã trở về rồi. Nhìn tình hình này thì bệnh của Hoàng thượng e là không nhẹ chút nào.”

    Tôi lẳng lặng ngoảnh đầu, nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh dương cuối hè đã không còn oi ả như trước nữa, nhẹ nhàng xuyên qua khe hở giữa những lùm cây mà rắc xuống mặt đất những đốm sáng li ti, tạo thành một mảng màu vui mắt. Hoán Bích liên tiếp đập tay vào những chiếc áo một cách thuần thục, vô số hạt bụi nhỏ nhuốm sắc vàng không ngừng bay lên. Giữa khoảng không gian tĩnh lặng, những tiếng “bộp bộp” vang lên ngoài sân ấy như toát ra một vẻ sôi nổi vô cùng.

    Tôi trầm giọng hỏi: “Vậy là trong thời gian tới, y không thể xuất cung, đúng vậy không?”

    A Tấn khẽ gật đầu, bên khóe miệng chợt xuất hiện một nụ cười nghịch ngợm. “Vương gia phải ở trong cung hầu hạ Hoàng thượng, không thể ra ngoài, nhưng A Tấn thì lại có thể.” Rồi y móc một tờ giấy nhỏ từ trong vạt áo trước ngực ra, nói tiếp: “Vương gia biết thời gian tới không thể qua thăm nương tử, sợ nương tử buồn, bèn viết một bài từ gửi đến, khi nào có thời gian rảnh xin nương tử hãy họa theo. Mỗi ngày A Tấn sẽ qua lại một lần, mang bài từ mà nương tử viết tới cho Vương gia, rồi lại mang bài từ Vương gia viết về cho nương tử.”

    Tôi chậm rãi mở tờ giấy đó ra, thấy bên trên có viết một bài từ ngắn:

    “Nhất trương cơ – Thải tang mạch thượng thí xuân y. Phong tình nhật noãn thung vô lực. Đào hoa chi thượng, đề oanh ngôn ngữ, bất khẳng phóng nhân quy[2].”

    [2] Dịch nghĩa: Một lần đưa khung cửi. Thử áo mới ra đồng hái lá dâu. Gió mát trời quang người uể oải. Trên cánh hoa đào, chim oanh hót véo von như có lòng níu giữ, không muốn cho người ta quay về – ND

    Tôi xem xong, không kìm được bật cười, rõ ràng y phải ở trong cung hầu hạ Hoàng thượng, không được phép xuất cung vậy mà lại nói là tiếng oanh hót giữ người ở lại, giữa lúc ưu lo mà còn có được tâm tư tao nhã như thế, trên đời này chắc chỉ có mình y.

    Tôi chỉ thoáng suy nghĩ rồi liền tìm lấy một tờ giấy Tiết Đào, viết lên trên đó:

    Lưỡng trương cơ. Hành nhân lập mã ý trì trì. Thâm tâm vị nhẫn khinh phân phó. Hồi đầu nhất tiếu, hoa gian quy khứ, chích khủng bị hoa tri[3].

    [3] Dịch nghĩa: Hai lần đưa khung cửi. Người đi dừng ngựa bụng trù trừ. Tình sâu chẳng đặng nói thành câu. Ngoảnh đầu cười khẽ, đi qua giữa vườn hoa mà về, chỉ sợ mối tâm sự bị hoa biết được – ND

    Tôi giao tờ giấy cho A Tấn, nói: “Không cần ngày nào cũng qua lại, thứ nhất là gai mắt quá, thứ hai là Vương gia phải ở trong cung hầu hạ Hoàng thượng, chắc vất vả vô cùng, đâu có bao nhiêu thời gian chứ.”

    A Tấn cười trêu tôi: “Nương tử quả nhiên rất quan tâm đến Vương gia.”

    Tôi bật cười, đưa tay chọc vào trán y một cái. “Hôm nào ngươi cũng chạy ra chạy vào thế này thì còn ai ở trong cung chăm sóc cho việc ăn ở của Vương gia nữa.”

    A Tấn nói: “Mạc đại nương đã sai Thái Cát trong phủ đi theo hầu hạ rồi, bà ta là người có kinh nghiệm, nương tử yên tâm”, sau đó lại làm mặt quỷ, cười nói: “Ngoài ra nô tài phải nói thêm là Thái Cát đã bốn chục tuổi rồi, nương tử không phải lo gì đâu nhé!”

    Tôi phỉ phui một tiếng, cười mắng: “Cho dù bà ta mới mười bốn tuổi, ta cũng có gì mà không yên tâm kia chứ!”

    A Tấn cẩn thận nhét tờ giấy Tiết Đào đó vào trong vạt áo trước ngực, cười hì hì, nói: “Thứ này nhất định phải cất kỹ mới được. Mấy ngày tới Vương gia không thể xuất cung, nhất định sẽ coi tờ giấy này như bảo bối. Chỉ e những ngày ở trong cung Vương gia sẽ xem ngày xem đêm, thấy chữ như thấy người, không nỡ buông xuống mất.”

    Tôi vừa thẹn vừa giận lại vừa tức cười, bèn lớn tiếng gọi: “Hoán Bích, muội mau tới đây xé nát miệng của cái con khỉ bẻm mép này ra cho ta, không có chủ nhân bên cạnh, gã ngày một điên khùng hơn rồi.”

    A Tấn vội vàng xin tha, lại cười, nói: “Nô tài sợ nương tử buồn vì Vương gia không thể tới đây, do đó mới trêu đùa một chút cho nương tử vui thôi. Vương gia nói rồi, nếu hôm nay nương tử mà không cười một tiếng, nô tài coi như chưa hoàn thành công việc.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Vậy ngươi đã hoàn thành việc hôm nay rồi đấy. Chỉ là ở trong cung tuy tốt nhưng khó tránh khỏi có chỗ không chu toàn, Vương gia nhà ngươi có thiếu thứ gì ngươi phải để ý cho cẩn thận đấy!”

    A Tấn làm bộ nhăn nhó, nói: “Làm tùy tùng thân tín cho Vương gia thật chẳng dễ dàng gì, vừa phải làm chân sai vặt vừa phải làm người đưa thư, lại còn phải làm cho nương tử cười nữa. Có điều, thấy nương tử và Vương gia vui vẻ, nô tài cũng vui lây. Thôi nô tài không làm phiền nương tử nữa, Vương gia chắc đang nóng ruột chờ tin lắm rồi!”, nói xong liền cáo từ rời đi.

    Thế là Huyền Thanh tuy không thể tới nhưng tình sâu ý nặng của y thì đã gửi hết vào trong câu chữ, cứ cách vài ngày lại đến tay tôi một lần. Bình thường, mỗi lần mở bài từ ra xem, lòng tôi đều vừa thấp thoáng âu lo lại vừa xen lẫn nét vui mừng.

    Y an ủi tôi, nói muôn vàn lời tương tư nhung nhớ, tôi tất nhiên hết sức vui mừng. Thế nhưng đi kèm với niềm vui ấy, tôi cũng biết rằng, lúc này y còn chưa thể trở về. Mang trong mình tâm trạng vừa buồn vừa lo ấy, tôi lần lượt viết ra những bài từ để xướng họa cùng y.

    Tam trương cơ. Ng tàm dĩ lão yến sồ phi. Đông phong yến bãi trường châu uyển. Khinh tiêu thôi sấn, quán oa cung nữ, yếu hoán vũ thời y[4].

    [4] Dịch nghĩa: Ba lần đưa khung cửi. Con tằm đất Ngô đã bắt đầu nhả tơ làm kén, con én non đã biết bay. Mùa xuân này đã qua rồi. Các cô gái dệt vải bị thúc giục phải làm mau mau để các cung nữ trong cung còn thay áo mới mặc trong mùa hạ. – ND.

    Vì cơn bệnh của Huyền Lăng, các buổi yến tiệc trong cung đều phải tạm dừng. Tử Áo Thành không còn ca múa, chắc đã trở nên lạnh lẽo và tịch mịch. Dưới ánh trăng bàng bạc, đứng giữa những đình đài lầu các trong Tử Áo Thành, Huyền Thanh, huynh đang làm gì thế?

    Tứ trương cơ. Y nha thanh lý ám tần mi. Hồi toa chức đóa thùy liên tử. Bàn hoa dịch oản, sầu tâm nan chỉnh, mạch mạch loạn như ti[5].

    [5] Dịch nghĩa: Bốn lần đưa khung cửi. Thầm cau mày trong những tiếng khung cửi đong đưa kẽo kẹt. Con thoi qua lại dệt ra những đường hoa văn. Hoa văn dệt ra thì dễ, nhưng tâm trạng ưu sầu thì lại khó xua đi, lòng tương tư rối bời như những sợi tơ hỗn loạn – ND.

    Nỗi nhớ nhung của muội, có lẽ huynh không nhìn thấy nhưng những bông hoa sen trong hồ Thái Dịch hoàn toàn có thể nói hết nỗi lòng tương tư của muội rồi. Có lẽ khi nhìn thấy những phiến lá sen xanh biếc trong hồ Thái Dịch, huynh cũng đang nghĩ tới muội chăng?

    Ngũ trương cơ. Hoành văn chức tựu thẩm lang thi. Trung tâm nhất cú vô nhân hội. Bất ngôn sầu hận, bất ngôn tiều tụy, chích bằng ký tương tư[6].

    [6] Dịch nghĩa: Năm lần đưa khung cửi. Dệt ra bài thơ của Thẩm Ước (Một nhà thơ nổi tiếng thời Nam Bắc Triều). Ý nghĩa chính của bài thơ chỉ lo không ai hiểu được. Chẳng nói trong lòng sầu hận thế nào, chẳng nói ngoài mặt tiều tụy ra sao, chỉ gửi nỗi tương tư của mình vào trong thơ – ND

    Huynh rời khỏi muội đã được mười lăm ngày rồi. Thanh, huynh không hề than thở với muội về nỗi sầu ly biệt, huynh chỉ nói với muội, mỗi lần trăng thanh gió mát, huynh đều nhớ đến muội.

    Lục trương cơ. Hàng hàng đô thị sái hoa nhi. Hoa gian canh hữu song hồ điệp. Đình toa nhất thưởng, nhàn song ảnh lý, độc tự khán đa thời[7].

    [7] Dịch nghĩa: Sáu lần đưa khung cửi. Mỗi hàng đều có những bông hoa. Giữa hoa lại có những bông hoa. Giữa hoa lại có đôi bướm lượn. Dừng con thoi không dệt nữa, dưới ánh nắng từ ngoài cửa sổ chiếu vào, một mình ngắm nhìn những hoa văn vừa dệt xong một hồi lâu – ND.

    Lũ bướm thành đôi thành cặp, bay giữa vườn hoa, cánh bướm không ngừng lay động làm ánh lên những sắc màu vô cùng rực rỡ. Trong những giây phút rảnh rang bất kể ngày đêm, không có huynh ở bên, muội chỉ có thể đắm mình trong cô độc.

    Thất trương cơ. Uyên ương chức tựu hựu trì nghi. Chích khủng bị nhân khinh tài diễn. Phân phi lưỡng xử, nhất trường ly hận, hà kế tái tương tùy[8].

    [8] Dịch nghĩa: Bảy lần đưa khung cửi. Dệt xong một đôi uyên ương rồi lại sinh lòng do dự. Chỉ sợ chúng bị người ta cắt riêng ra. Một khi chúng phải bay về hai nơi, lòng mang đầy nỗi sầu ly biệt, liệu có cách gì để có thể trở lại bên nhau? – ND.

    Hai chúng ta mỗi người một nơi, người huynh bầu bạn cạnh bên là phu quân trước đây của muội. Tử Áo Thành là vùng cấm địa trong ký ức của muội. Huynh đã nghe thấy gì, hay là nơi đáy lòng huynh cũng thấp thoáng nỗi âu lo khó nói bằng lời như muội?Bát trương cơ. Hồi văn thị trị a thùy thi. Chức thành nhất phiến thê lương ý. Hành hành độc biến, yêm yêm vô ngữ, bất nhẫn canh tầm tư[9].

    [9] Dịch nghĩa: Tám lần đưa khung cửi. Bài thơ hồi văn này không biết là do ai làm? Dệt nên bao nỗi thê lương. Lần lượt đọc từng hàng, sầu muộn sao khó tà, không đành lòng suy nghĩ thêm gì nữa – ND.

    Những lúc rãnh rỗi, tôi mở xem tập thơ hồi văn của Tô Nhược Lan, từng lời đều là tâm huyết, đều là nỗi nhớ nhung của bà với trượng phu Đậu Thao. Tôi tự thẹn không có được tài năng như bà, đành mang theo sự thấu hiểu về bà mà buồn bã viết ra mấy dòng.

    Cửu trương cơ. Song hoa diệp hựu song chi. Bạc tình tự cổ đa biệt ly. Tòng đầu đáo để, tương tâm oanh lệ, xuyên quá nhất điều ti[10].

    [10] Dịch nghĩa: Chín lần đưa khung cửi. Hoa thành đôi, lá thành đôi, cành cũng thành đôi. Xưa nay những kẻ bạc tình đều chẳng coi chuyện ly biệt ra gì. Dùng một sợi tơ mang đầy tình ý ngọt ngào của bản thân, đem xâu những hoa là cành kia làm một – ND.

    Huyền Thanh, khi huynh gửi bài Cửu trương cơ này tới thì đã là ngày thứ hai mươi bảy rồi. Huynh vẫn chưa trở về, chỉ nói rằng từ đầu chí cuối lòng vẫn luôn chỉ một.

    Sao muội lại không hiểuhứ? Lòng muội cũng giống như lòng huynh, đều luôn chỉ một thôi.

    Trong khoảnh khắc tôi cầm bút định viết thêm bài từ nữa, một đôi tay quen thuộc chợt ôm lấy tôi từ phía sau. Tôi vòng tay qua ôm đầu gối, cuộn tròn người lại, tựa vào lòng y.

    “Thanh.” Tôi khẽ thở dài. “Muội trông ngày ngóng đêm, lúc nào cũng nhớ về huynh. Lòng muội luôn mong mỏi, rằng huynh có thể mãi ở bên muội như bây giờ.”

    “Ta cũng thế.” Từng làn hơi thở của y như bao bọc lấy tôi. “Bệnh của hoàng huynh đã đỡ hơn nhiều rồi!” Y khẽ hôn lên dái tai tôi. “Hoàn Nhi, ra ngoài đi dạo cùng ta một lát nào.”

    Bây giờ đã là mùa thu nhưng cảnh vật vẫn còn tươi vui rạng rỡ, tôi và y dắt tay nhau chậm rãi bước đi.

    Giữa thảm cỏ mênh mông bát ngát, lác đác những bông đỗ quyên đang nở rộ, có bông màu đỏ sậm, bông thì màu hồng, bông lại màu tím nhạt hoặc màu trắng, cảnh thu lúc này thật tươi đẹp vô cùng. “Hồn tử quy[11] hóa thành, bông bông như son phấn; giọt máu lưu trên cánh, vệt khóc bám vạn cành. Hoa đỗ quyên, ấy thực là loài hoa thương tâm.” Huyền Thanh khẽ buông tiếng thở dài, vừa khéo lúc này có một con đỗ quyên[12] bay qua, kêu vang “cuốc cuốc”, âm thanh đầy nỗi bi thương.

    [11] Một tên khác của con chim cuốc – ND.

    [12] Một tên khác của con chim cuốc – ND.

    Tôi nắm lấy bàn tay y, khẽ cất tiếng hỏi: “Huynh mới nghe được gì hay là nhìn thấy gì hay sao? Lần này từ trong cung trở ra, muội cảm thấy huynh cứ buồn bã không vui.”

    Một làn gió nhẹ mang theo hương hoa thổi tới, chiếc áo bào màu xanh mặt hồ của y lất phất bay. “Phó Tiệp dư chết rồi!”

    “Phó Tiệp dư?”

    “Trong cuộc tuyển tú năm ngoái, Phó Tiệp dư là người xuất sắc nhất, cũng là phi tần trước đó được hoàng huynh sủng ái nhất.”

    Tôi hỏi: “Cô ta đẹp lắm sao?”

    “Đúng là rất đẹp, trong sự kiều diễm lại mang mấy nét thanh tao, tuyệt đối không thua gì Mộ Dung Phi ngày trước, nhìn xa cứ như tiên nữ vậy.” Huyền Thanh rất ít khi khen vẻ đẹp của nữ tử nào, lần này còn dùng đến hai chữ “tiên nữ”, có thể thấy nữ nhân đó quả thực rất đẹp. Thế nhưng ngay sau đó, y lại tiếp tục bình luận: “Chỉ là đẹp thì có đẹp nhưng lại không có linh hồn, chỉ là một mỹ nhân rỗng tuếch.”

    Hình như trước đây y đã từng nói câu này, tôi hơi nhướng mày, hỏi: “Phó Tiệp dư chính là Phó Uyển nghi mà huynh từng nhắc tới với muội trước đây sao?”

    “Chính là cô ta.”

    “Vậy gia thế cô ta thế nào?”

    “Cũng không tính là kém lắm, mới vào cung đã được phong làm tiểu nghi, nếu cứ tiếp tục đắc sủng, chẳng bao lâu sau sẽ trở thành quý tần, thậm chí ngay cả phong phi cũng có khả năng. Nghe nói khi hoàng huynh thương lượng với Hoàng hậu, ngay đến phong hiệu cũng đã nghĩ sẵn rồi.” Huyền Thanh khẽ nở một nụ cười đầy ý vị. “Là một chữ ‘uyển[13]’, uyển trong uyển chuyển.”

    [13] Chữ “uyển” này là 婉, không phải chữ “uyển – 宛” trong nhũ danh của Thuần Nguyên Hoàn hậu, nhưng đồng âm. – ND.

    Tôi nghe thấy thế thì cả kinh, không kìm được mà khàn giọng hỏi: “Cô ta rất đẹp? Đẹp như một vị cố nhân, đúng vậy không?”

    Phương Nhược từng kể, hậu cung bây giờ đã không còn là hậu cung hồi mới được xây dựng năm Càn Nguyên thứ nhất, khi đó các phi tần vừa vào cung đã ở ngay ngôi cao, còn bây giờ phần lớn đều phải bắt đầu từ thường tại, tuyển thị. Cuộc tuyển tú năm ngoái cách bây giờ chỉ mới một năm, vậy mà cô ta đã nhảy vọt từ tiểu nghi ngũ phẩm lên làm tiệp dư tam phẩm, chưa có thai mà chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành quý tần, nếu tôi còn sống trong cung, ắt hẳn phải coi cô ta như kình địch.

    Câu trả lời của Huyền Thanh đã chứng minh phán đoán của tôi là đúng: “So với Thuần Nguyên Hoàng Hậu đã qua đời quả có sáu, bảy phần giống. Trong ngày tuyển tú, hoàng huynh đã tự mình giữ thẻ của cô ta lại, chỉ từ việc này thôi cũng có thể đoán biết ngày sau thánh ân sẽ sâu dày thế nào.”

    Dừng một chút, y lại tiếp: “Hoàng huynh vì sủng ái Phó Tiệp dư nên khi cô ta còn chưa đủ tư cách đã ban cho một cung riêng, đối đãi theo lễ quý tần, hơn nữa vì có cô ta nên cuộc tuyển tú lần đó tổng cộng chỉ chọn năm người. Những ai sáng mắt đều có thể nhận ra, bốn người còn lại khi vào cung, địa vị đều rất thấp, chẳng qua chỉ để cho đủ số. Trong một năm qua, ngay đến Xương Quý tần xuất thân cao quý, lại sinh Hòa Mục Công chúa và An Quý tần vẫn luôn đắc sủng cũng đều bị vứt qua một bên, đừng nói tới những phi tần khác.”

    Tôi bật cười một tiếng, giọng nói lạnh tựa băng sương: “Vừa rồi muội còn đang nghĩ, đã là một mỹ nhân rỗng tuếch, tại sao lại đắc sủng như vậy, thì ra đúng là có nguyên nhân.” Chợt nhớ tới lời của A Tấn, bèn hỏi: “Hoàng thượng đã nôn ra máu trong cung của cô ta sao?”

    “Phải!” Y cất giọng trầm trầm thoáng vẻ bi thương: “Lần này hoàng huynh mắc bệnh nặng bắt đầu từ lúc nôn ra máu, mà căn nguyên của việc nôn ra máu theo như thái y nói thì là vì hoành huynh đã dùng quá nhiều ngũ thạch tán, lại uống một lượng lớn rượu mạnh ướp lạnh. Mà ngũ thạch tán được phát hiện trong cung của Phó Tiệp dư, cô ta căn bản không có cách nào chối cãi. Ngay đến cả bản thân cô ta cũng có dấu hiệu của việc sử dụng ngũ thạch tán.”

    Ngũ thạch tán? Nghe thấy những lời này, tôi cảm thấy sợ hãi vô cùng, ngũ thạch tán từng hết sức thịnh hành trong giới vương công quý tộc thời Ngụy Tấn, phần lớn được chế thành từ năm loại khoáng thạch là thạch chung nhũ, thạch tử anh, bạch thạch anh, thạch lưu hoàng và xích thạch chi. Trong năm vị thuốc này, thạch chung nhũ, bạch thạch anh và thạch lưu hoàng quả thực có công hiệu tráng dương, làm ấm phổi, thận, nhưng không lâu sau khi dược lực qua đi, thân thể sẽ lúc nóng lúc lạnh. Người nào thường xuyên sử dụng sẽ “hồn vía lên mây, mặt mày u ám, tinh thần bất định, dáng tựa cây khô, mang tướng quỷ u[14], thậm chí có khả năng thoát dương mà chết.”

    [14] Đây là lời hình dung của Quản Lộ về Hà Yến, một người dùng ngũ thạch tán lâu năm, trong Tam Quốc chí và Tam Quốc diễn nghĩa đều có ghi lại câu này – ND.

    Tôi chấn động không ngừng. “Đó là vật cấm trong cung, Phó Tiệp dư có nó từ đâu? Mà sao Hoàng thượng lại sử dụng thứ này? Thái y không biết chút nào sao?”

    “Hoàng huynh từ sau khi có được Phó Tiệp dư thì sớm tối không rời, thường xuyên ở trong cung của cô ta cả ngày, bình thường ngay đến Hoàng hậu muốn gặp cũng khó, nói chi là thái y. Theo như lời ả thị nữ bên cạnh Phó Tiệp dư cung khai thì ngũ thạch tán đó dùng cho việc phòng the, Phó Tiệp dư mang vào từ bên ngoài cung để mong được ân sủng, do đó mới khiến long thể bị tổn hại.”

    Tôi cúi đầu, trầm ngâm suy nghĩ, con đường núi gồ ghề uốn lượn, dường như đi mãi chẳng tới điểm tận cùng, từng làn gió nổi lên làm lá cây đung đưa xào xạc, giữa nơi trống trải lại càng trở nên đáng sợ. Huyền Lăng, không ngờ y lại buông thả bản thân đến mức này. Tôi tập trung nghiền ngẫm, chợt kinh hãi thốt lên: “Không thể nào! Theo như huynh nói thì Phó Tiệp dư có dung mạo rất giống Thuần Nguyên Hoàng hậu, được Hoàng thượng sủng ái vô cùng, việc gì còn phải dùng ngũ thạch tán để mong ân sủng. Mà ngũ thạch tán là vật cấm dùng trong cung, dù cô ta có muốn được ân sủng thì cũng có thể tìm thái y xin xuân dược mật chế, cớ gì phải mạo hiểm mang thứ bị cấm từ ngoài vào cung? Hơn nữa cô ta còn chưa có thai, chỉ có thể dựa vào một mình Hoàng đế, sao cô ta lại đi làm long thể của người bị tổn hại, như thế há chẳng phải là tự hại mình sao?”

    Hai mắt Huyền Thanh sáng rực, y chăm chú nhìn tôi. “Nàng còn nhớ những lời vừa rồi của ta chứ? Hoành huynh gần như độc sủng cô ta, ghẻ lạnh toàn bộ hậu cung, ngay đến Hoàng hậu muốn gặp hoàng huynh cũng chẳng dễ dàng gì.”

    Mí mắt tôi bất giác nẩy lên một cái. “Huynh cũng phát hiện cô ta có khả năng bị người ta hãm hại sao?” Tôi suy nghĩ một chút rồi kinh hãi nói: “Liệu có phải là Hoàng hậu không? Ngũ thạch tán đó có thể là của Hoàng hậu lắm chứ!”

    Huyền Thanh đặt tay lên vai tôi, bình tĩnh nói: “Từ khi vào cung tới giờ, Hoàng hậu vẫn luôn rất mực yêu thương hoàng huynh, dù có lòng đố kỵ Phó Tiệp dư rồi bày mưu hãm hại thì cũng quyết không sử dụng ngũ thạch tán khiến thân thể hoàng huynh bị ảnh hưởng đâu.”

    Tôi dần bình tĩnh trở lại, thầm nghĩ trong cung số phi tần không yêu Hoàng thượng kỳ thực chẳng ít ỏi gì.

    Đúng thế, sau việc này, dù Phó Tiệp dư có giải thích thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng ích gì. Trong thời gian đắc sủng, cô ta đã bị người nào oán hận, do đó khi thất thế mới rơi vào cảnh giậu đổ bìm leo, bị các phi tần khác thừa cơ công kích, từ đó làm Thái hậu bừng bừng nổi giận, hạ lệch giết Phó Tiệp dư và phế tất cả mọi người trong gia tộc cô ta thành thứ dân. Lòng tôi sau nháy mắt đã trở nên giá lạnh, hiểu rằng Thái hậu giết cô ta không chỉ vì ngũ thạch tán. Huyền Thanh trầm giọng nói, nơi khóe mắt thoáng hiện nét bi thương. “Có bài học từ mẫu phi ta, Thái hậu làm sao chịu để Phó Tiệp dư một mình độc sủng, bà ấy quyết không chấp nhận điều này đâu.”

    Tôi hiểu rõ, ngũ thạch tán chẳng qua chỉ là một cái cớ thôi, mà bởi việc này có chứng cứ xác thực nên ngay đến Hoàng thượng cũng chẳng hề nói được gì.

    “Thái hậu và Hoàng hậu hành động nhanh như sấm, khi hoàng huynh tỉnh lại thì Phó Tiệp dư đã chết rồi, dù hoàng huynh có muốn gỡ tội cho cô ta thì cũng chẳng được. Có điều, sau việc đó hoành huynh không nhắc tới Phó Tiệp dư lần nào nữa, chỉ nói một câu giai nhân khó mà có lại…” Kể tới đây, Huyền Thanh chợt ôm chặt lấy tôi, nói với giọng run run: “Hoàn Nhi, ta không thể không sợ hãi. Trong giấc mộng, Hoàng huynh đã gọi tên nàng. Ta ở trong cung hầu hạ người hai mươi bảy ngày, tuy chỉ nghe hoàng huynh mơ màng gọi nàng một lần trong giấc mộng, chỉ có một lần thôi, nhưng vẫn sợ hãi vô cùng. Hoàn Nhi, ta sợ mất nàng…”

    Trái tim tôi không ngừng đập thình thịch, chỉ biết áp sát mặt mình vào bờ vai y. Chuyện này thực nực cười biết mấy, khi tôi và y còn chung gối, trong giấc mộng y chỉ gọi “Uyển Uyển”, còn bây giờ lại gọi tên tôi.

    Tôi bình tĩnh nói: “Khi tỉnh táo, người y nghĩ đến là Thuần Nguyên Hoàng hậu, sở dĩ ngủ mê lại đi gọi tên muội, đại khái là vì…” Tôi gượng cười hờ hững. “Là vì muội có ba phần giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu. Trong lúc nhớ tới Thuần Nguyên Hoàng hậu, y chẳng qua chỉ thỉnh thoảng nghĩ tới bóng dáng của một người chẳng chịu thuần phục như muội thôi.” Tôi dịu dàng ngước mắt nhìn y, nói tiếp: “Huống chi, muội chỉ là người bị đuổi ra khỏi cung, sao còn có thể quay về được nữa. Do đó, huynh sẽ không mất muội đâu.”

    Huyền Thanh ôm chặt lấy tôi, tôi gần như có thể cảm nhận được tiếng tim đập nặng nề của y. “Ta chợt phát hiện không ngờ mình lại là một người nhát gan như thế, ta rất sợ phải mất nàng.”

    Tôi vùi mặt vào lồng ngực y, cảm nhận những hơi thở ấm áp khiến lòng người an định. “Thanh, muội cũng từng rất nhát gan, không dám tiếp nhận tình ý của huynh, nhưng bây giờ chúng ta đã ở bên nhau, nương tựa vào nhau rồi. Thanh, có huynh ở đây, muội không còn sợ gì nữa.”
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 36: Đỗ quyên khóc
    Y gật đầu, nơi khóe mắt long lanh một giọt lệ nóng bỏng, nhẹ nhàng hôn lên trán tôi. Hồi lâu sau, y cất giọng tiếc thương: “Chỉ đáng thương cho Phó Tiệp dư, cô ta cũng có thể coi là một nữ tử tốt.”

    Tôi ngẩn ngơ. “Càng đáng thương hơn là cô ta từng một thời được ân sủng, vậy mà sau khi chết Hoàng thượng chẳng buồn than thở lấy một câu. Dù sao, trong mắt Hoàng đế, Phó Tiệp dư cũng giống như muội, chỉ là cái bóng mà thôi.” Tôi không kìm nén được dòng tư lự của mình, cúi đầu gượng cười, nói: “Ngày đó đang yên lành huynh lại viết ra bài Thất trương cơ đó, làm muội rất khó chịu. Hôm nay muội cũng làm một bài Thất trương cơ, xem như là để phạt huynh.”

    Tôi trầm ngâm một chút, kế đó liền chậm rãi ngâm: “Thất trương cơ. Xuân tàm thổ tẫn nhất sinh ti. Mạc giáo dung dịch tài la khỉ. Vô đoan tiễn phá, tiên loan thải phượng, phân tác lưỡng bàn y[1].”

    [1] Đây là một bản khác của bài Thất trương cơ. Dịch nghĩa: Bảy lần đưa khung cửi. Con tằm mùa xuân nhả hết số tơ trong cả cuộc đời. Chớ tùy tiện dùng cắt áo. Không may cắt rách, tiên loan thải phượng thêu trên áo sẽ phải phân đôi ngả chia ly – ND.

    Huyền Thanh vội bịt miệng tôi lại, cười mắng: “Nàng thật nhẫn tâm quá đấy, ta chẳng qua chỉ nói ‘chích khủng bị nhân khinh tài tiễn’, vậy mà nàng đã ‘vô đoan tiễn phá, tiên loan thải phượng, phân tác lưỡng bàn y’. Thật đáng đánh đòn, nàng muốn nguyền rủa ta hay sao vậy?”

    Tôi thấy y biến hẳn sắc mặt, rất khác với ngày xưa, vội cười nói: “Chẳng qua là xướng họa thơ từ cho vui thôi, không thể coi là thật được.” Tôi suy nghĩ một chút rồi lại nói thêm: “Muội không coi là thật, huynh cũng không được coi là thật đâu đấy!”

    Huyền Thanh gật đầu thật mạnh, nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc của tôi. “Ta tất nhiên muôn vạn lần không coi là thật, ta làm sao dám chứ!” Kế đó lại khẽ mỉm cười. “Kỳ thực hôm đó vừa vào cung, ta sợ nàng vương vấn, rất muốn viết thứ gì đó cho nàng. Thế nhưng tuy có muôn vàn lời muốn nói, nhất thời lại chẳng biết viết gì, vừa khéo lúc đấy gặp Từ Uyển nghi…” Y thấy tôi có vẻ khó hiểu, liền giải thích: “Là nữ tử vào cung trong cuộc tuyển tú bốn năm trước, tuy không có nhan sắc khuynh thành nhưng lại rất tài năng, chỉ tiếc là không được hoàng huynh yêu thích lắm. Hôm đó, ta tình cờ gặp cô ấy nơi hồ Thái Dịch, nghe cô ấy ngâm một bài Tứ trương cơ, khiến ta lòng đầy cảm xúc.”

    “Tứ trương cơ?”

    “Đúng vậy!” Y chắp tay sau lưng cất tiếng ngâm: “Tứ trương cơ. Uyên ương chức tựu dục song phi. Khả liên vị lão đầu tiên bạch. Xuân ba bích thảo, hiểu hàn thâm xử, tương đối dục hồng y[2].”

    [2] Đây là một bài khác của Tứ trương cơ. Dịch nghĩa: Bốn lần đưa khung cửi. Uyên ương dệt cánh muốn cùng bay. Đáng thương tóc trắng xua già tới. Sóng xuân cỏ biếc, phòng sâu sáng rét, áo đỏ tắm cùng ai – ND.

    “Uyên ương chức tựu dục song phi. Khả liên vị lão đầu tiên bạch.” Tôi khẽ cất tiếng ngâm nga, đồng thời dụng tâm cảm nhận. Gần như ngay vào lúc Huyền Thanh cất tiếng ngâm, tôi đã bị sự thương cảm trong bài từ này đánh động, nguyên vẹn trái tim đều như ngâm trong dòng nước mùa thu, băng giá vô cùng.

    Tôi thật lòng tán tụng: “Viết hay quá, khiến người nghe thương cảm đến nỗi khó mà miêu tả bằng lời. Tài năng như vậy thật khiến người ta tán thán”, rồi lại hỏi: “Cô ấy không đắc sủng lắm sao?”

    Huyền Thanh suy nghĩ một chút rồi mới đáp: “Cũng không đến mức như thế, chỉ là không được ân sủng lắm mà thôi. Hơn nữa, năm vừa rồi, Phó Tiệp dư một mình độc sủng, ngay đến Xương Quý tần và An Quý Tần cũng bị ghẻ lạnh, huống chi là Từ Uyển nghi.”

    Có lẽ cô ấy thật lòng yêu Huyền Lăng, bởi vì yêu nên mới thương cảm và tự thương mình như vậy, khiến người ta không khỏi xót xa. Thế nhưng, cô ấy làm sao mà hiểu được, cũng giống như sự không thấu hiểu của tôi năm xưa, rằng đấng quân vương chí tôn đâu phải là người mà các phi tần như chúng tôi có thể yêu. Dành tình yêu cho con người đó, rốt cuộc chỉ có thể nhận về sự thương tâm mà thôi.

    Tôi nhất thời tò mò, bèn hỏi: “Từ Uyển nghi tên thật là gì vậy?”

    Y thoáng ngẩn ra rồi cười rộ. “Ta làm sao mà biết được chứ!” Sau khi suy nghĩ một chút rồi lại nói thêm: “Có điều, ta từng nghe hoàng huynh nhắc tới tên cô ấy một lần thì phải, hình như là… Yến Nghi? Ta không nhớ rõ lắm, chỉ nghe nói lần này hoành huynh bị bệnh, cô ấy ngày đêm quỳ ở Thông Minh điện, cầu phúc cho hoành huynh, cuối cùng còn bị hư thoát.”

    Từ Yến Nghi? Cái tên này hình như tôi đã từng nghe nói tới.

    Đang lúc tôi nghiền ngẫm suy tư, Huyền Thanh chợt vỗ nhẹ vai tôi, ân cần hỏi: “Nàng nghĩ tới việc gì thế?”

    Tôi ngoảnh lại, nở nụ cười tươi. “Muội đang nghĩ, vừa rồi khi huynh tới, muội đang định đáp lại bài Cửu trương cơ đó của huynh nhưng lại bị huynh cắt ngang.”

    Huyền Thanh cười, nói: “Vậy bây giờ nàng hãy làm một bài đi, việc này hẳn không thể làm khó nàng được.”

    Phía bên cạnh có hai gốc cây cổ thụ cong queo, vì trải bao năm tháng nên đã quấn vào nhau, tựa một cặp cây song sinh liền gốc, lòng tôi thầm máy động, liền tủm tỉm cười, cất tiếng ngâm: “Cửu trương cơ. Phương tâm mật dữ xảo tâm kỳ. Hợp hoan thụ thượng chi liên lý…”

    Tôi cúi đầu suy nghĩ tiếp, hai mắt Huyền Thanh ánh lên những nét dịu dàng, y nhẹ nhàng tiếp lời tôi: “Song đầu hoa hạ, lưỡng đồng tâm xứ, nhất đối hóa sinh nhi[3].”

    [3] Đây kỳ thực là một bài Ngũ trương cơ khác. Dịch nghĩa: Chín lần đưa khung cửi. Trái tim của thiếp thắm đượm nỗi nhớ nhung chàng, Trên cây hợp hoan cành liền cành. Dưới cặp hoa chung gốc, nơi hai con tim cùng nhịp, chúng ta mãi mãi bên nhau – ND.

    Tôi ngẩng đầu nhìn Huyền Thanh, không kìm được đưa tay tới nắm lấy bàn tay y, bàn tay y vững vàng mà ấm áp, dường như có thể giúp tôi ngăn cản mọi gió mưa. Lòng tôi bình yên mà vui vẻ, cảm thấy cuộc đời này chỉ cần có tình ý tha thiết của y là đủ rồi, không còn mong cầu gì hơn.

    Đỉnh núi lúc này vô cùng tĩnh lặng, tĩnh lặng đến mức có thể nghe thấy tiếng thở dài của thiên nhiên. Một làn gió bỗng đâu thổi lại, rất nhiều bông hoa trên cành rơi xuống, phát ra những tiếng “lộp bộp” mềm mại mà nhẹ nhàng.

    Tôi ngẩng lên, có một chú chim đang ung dung vỗ cánh, tự do bay lượn. Tôi chợt bật cười. “Nghe nói trong núi có sài lang hổ báo nhưng muội ở đây đã mấy năm rồi, ngoài mèo rừng ra thì chẳng nhìn thấy con vật hung dữ nào khác cả.”

    Huyền Thanh véo mũi tôi một cái, cười vang. “Nha đầu ngốc nghếch, đỉnh Lăng Vân, đỉnh Cam Lộ và đỉnh Phiêu Miểu đều là danh sơn, đến cả người trong hoàng gia còn tới các ngôi chùa ở đây thắp hương bái Phật, sao mà có sài lang hổ báo được chứ!”

    Tôi có chút ngượng ngùng, đưa tay xoa mũi. “Muội chẳng qua chỉ muốn nhìn thấy bọn chúng một chút thôi, cứ ở mãi trong phòng thực sự rất bí bức.”

    Huyền Thanh nói: “Nàng muốn xem hổ báo diễn trò cũng dễ thôi. Ta có quen một nữ sư phụ chuyên huấn luyện thú trong cung, lần sau ta sẽ mời cô ta tới Thanh Lương Đài biểu diễn.”

    Tôi cố ý hỏi: “Vị nữ sư phụ đó có phải đã rất già rồi không?”

    Y lộ vẻ khó hiểu, nhưng vẫn đáp: “Không, cô ta mới chỉ mười sáu, mười bảy tuổi thôi.”

    Tôi bật cười khúc khích, kéo dài giọng, nói: “Ồ, thảo nào. Muội đang nghĩ, nếu không phải là một thiếu nữ đang tuổi thanh xuân thì sao huynh quen được chứ!”

    Huyền Thanh đưa tay nhéo mạnh mũi tôi một cái, cười nói: “Nàng bắt đầu biết ghen rồi đấy nhỉ, nhưng cứ ghen vô cớ thế này, bảo ta phải nói nàng thế nào mới tốt đây?”

    Tôi cười ngả vào lòng y, dịu dàng nói: “Muội biết huynh sẽ không như vậy, do đó mới trêu huynh thôi. Nếu huynh thật sự phong lưu, muội sẽ chẳng thèm để ý tới huynh đâu.” Y nghe thế thì cười, ôm chặt lấy tôi.

    Không biết qua bao lâu sau, tôi tình cờ ngoảnh lại, thấy Hoán Bích đang đứng phía sau chúng tôi mấy thước, ngẩng đầu nhìn những đám mây trôi nơi chân trời, không nói gì.

    Tôi không biết muội ấy tới đây từ bao giờ, chỉ thầm nghĩ nếu muội ấy đã nhìn thấy cảnh chúng tôi thân mật vừa rồi, vậy thì thực là một chuyện vô cùng xấu hổ.

    Thế nhưng Hoán Bích lại chỉ tỏ ra rất hờ hững. “Cơm tối đã làm xong rồi, tiểu thư và Vương gia cùng về dùng bữa đi.”

    Lúc này sắc chiều đã phủ xuống thế gian một mảng màu rực rỡ, mấy khóm đỗ quyên hoặc đỏ tươi hoặc trắng ngần nơi vách núi trông thật giống những áng mây trôi nơi chân trời. Trên mái tóc được búi sơ sài của Hoán Bích có cài xéo một bông đỗ quyên màu đỏ tươi, làm tôn lên làn da mịn màng của muội ấy, kiều diễm vô cùng. Huyền Thanh vô ý liếc mắt qua, liền khen: “Hoán Bích tuy thích màu xanh nhưng cài lên đầu một bông đỗ quyên màu đỏ trông lại càng xinh đẹp.”
    Hoán Bích bất giác đỏ bừng hai má, đưa tay vuốt ve bông hoa trên mái tóc, lí nhí nói: “Cám ơn Vương gia đã khen.”

    Tôi hơi mấp máy khóe môi, nhưng cuối cùng lại không nói gì. Cánh hoa đỗ quyên quá mỏng manh, yếu đuối, kỳ thực không thích hợp để cài lên đầu, hơn nữa, đó còn là một loài hoa bạc mệnh.

    Thế nhưng nhìn bộ dạng của Hoán Bích thì dường như muội ấy rất thích, được Huyền Thanh tiện miệng khen một câu lại cng vui vẻ hơn.

    Huyền Thanh nắm lấy tay tôi mỉm cười, nói: “Sắc trời không còn sớm nữa, chúng ta cùng quay về thôi!”

    Bên tai không ngớt vang lên tiếng kêu của đỗ quyên, giữa những tháng ngày thanh bình và đẹp đẽ này, tôi gần như quên mất, đỗ quyên là loài chim của sự chia ly.

    Hai ngày sau, Hoán Bích không biết ôm từ đâu tới một đống sách lớn, toàn là các loại điển tịch cổ đã nhuốm màu thời gian, nhưng được đóng cẩn thận vô cùng, không chỗ nào bị mối mọt, nhất định là loại sách chỉ có ở các gia tộc thư hương.

    Tôi ngạc nhiên hỏi: “Sao muội lại ôm nhiều sách thế này? Từ đâu ra vậy?”

    Thoáng trầm ngâm, Hoán Bích đáp: “Nô tỳ bạo gan lén đi xin Vương gia, thế là hôm nay ngài mới sai A Tấn đưa tới.”

    Tôi cười, nói: “Ta thường ngày xem mấy cuốn sách kia giải sầu cũng đủ lắm rồi, Thanh nhãn lực cao minh, những cuốn sách mang tới đều lời ít ý nhiều, dư vị sâu xa, dùng để đọc những khi rảnh rỗi là tốt nhất. Sao muội còn đi xin y nhiều sách thế này về làm gì?”

    Hoán Bích mím chặt môi, khẽ nói: “Tiểu thư dạy nô tỳ đọc sách được không?”

    Tôi lật xem những cuốn sách mà muội ấy mang tới, thấy phần lớn đều là các loại sách như Kinh Thi, Sở từ, Đường thi, Tống từ, còn có một số loại sách ít tiếng tăm hơn như Tứ lục biên lệ, Nam Bắc diễm phú, không khỏi cảm thấy có chút kinh ngạc. Hoán Bích từ nhỏ đã được cha cho phép cùng tôi học tập trong thư phòng, do đó trong số các thị nữ trong phủ, muội ấy là người biết nhiều chữ nhất. Có điều, mẹ tôi nói dù sao Hoán Bích cũng là một a hoàn, học nhiều quá cũng chẳng để làm gì thêm, thêm vào đó, Hoán Bích trầm tính, thích những việc thêu thùa may vá hơn, cho nên việc đọc sách dần bị gác qua một bên, cuối cùng chỉ có thể đọc viết, còn việc ngâm thơ, viết từ thì không thể làm được.

    Tôi không kìm được, ngạc nhiên hỏi: “Không phải trước giờ muội đều không thích học thơ từ ca phú sao? Đang yên đang lành cớ gì mà bây giờ lại muốn học vậy?”

    Hoán Bích thoáng lộ vẻ lúng túng, rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại, mỉm cười, nói: “Nô tỳ biết nhiều một chút về thơ từ ca phú không tốt sao? Tiểu thư xưa nay vẫn luôn thích mấy thứ này, nếu nô tỳ biết nhiều một chút thì sẽ có thể trò chuyện với tiểu thư nhiều hơn.” Kế đó lại nở nụ cười tinh nghịch. “Bây giờ tiểu thư đã có Vương gia bầu bạn, đương nhiên là giống như một cặp vợ chồng thần tiên, chẳng lẽ vì thế mà không còn cần nô tỳ nữa sao?”

    Tôi nhất thời cứng họng, còn có chút dở khóc dở cười, chợt lại nhớ đến chuyện mấy ngày trước, lập tức hiểu rõ nguồn cơn, bèn cười nói: “Muội đừng bịa ra những lời lăng nhăng ấy làm gì cho nhọc sức. Hãy nói thật đi, hôm trước khi ta và Thanh họa thơ, có phải muội đứng phía sau đã nghe thấy rồi không?”

    Hai má Hoán Bích bất giác ửng hồng, tựa như bông đỗ quyên mà muội ấy đang cài trên búi tóc. “Tiểu thư đã đoán ra rồi, vậy nô tỳ cũng không giấu nữa. Tiểu thư và Vương gia biết nhiều như vậy, cả ngày đối đáp với nhau, nô tỳ thì chẳng biết gì, lại nghe tiểu thư và Vương gia họa thơ hay như vậy, cảm thấy mình cứ giống như khúc gỗ đứng ở đó, thật xấu hổ chết đi được.”

    Tôi đã hết hẳn lòng nghi hoặc, liền cười nói: “Muội đã có lòng cầu tiến như vậy, tất nhiên là điều tốt nhất rồi. Chỉ cần muội muốn học, ta tất nhiên sẵn lòng dạy muội. Có điều…” Tôi có chút âu sầu nói tiếp: “Con gái mà xem nhiều thơ từ quá, hiểu nhiều việc quá, chỉ e nỗi sầu sẽ theo đó mà tăng lên.”

    Hoán Bích nhìn ra ngoài cửa sổ, sắc mặt bình tĩnh lạ thường, tựa như mặt nước hồ thu, bên khóe miệng thoáng hiện nụ cười mỉm. “Như thế dù sao cũng tốt hơn là chẳng biết gì.”

    Nỗi buồn của muội ấy hoàn toàn thể hiện ra ngoài không chút giấu giếm, tôi chợt để ý tới bông đỗ quyên diễm lệ muội ấy cài trên tóc, lòng thầm kinh hãi. Sau khi được Huyền Thanh tiện miệng khen một câu, thường ngày muội ấy chỉ dùng mấy cây kẹp tóc bình thường để kẹp tóc, các thứ đồ trang sức khác đều bỏ không dùng nữa, chỉ cài một bông đỗ quyên lên đầu, lúc thì hồng lúc thì đỏ, các loại màu sắc đều thử hết một lượt.

    Chút tâm tư của muội ấy tôi không phải là không phát hiện ra, chỉ là, Huyền Thanh tất nhiên sẽ không để ý gì tới muội ấy, cũng sẽ không dính dáng gì tới muội ấy. Đã như vậy, ngay đến một chút tâm tư nhỏ bé như thế của muội ấy tôi cũng không cho phép tồn tại ư? Đi theo tôi, quãng đời còn lại của muội ấy đã cô độc và thê thảm lắm rồi.

    Hơn nữa, tôi phải mở miệng nói với muội ấy như thế nào đây? Chút tâm tư của muội ấy căn bản không ảnh hưởng gì tới việc tôi và Huyền Thanh ở bên nhau. Thương mình thương người, tôi rốt cuộc đã lặng im không nói một lời.

    Vì sự im lặng này, ngay đến tôi cũng không phát giác, trên đôi hàng lông mày của tôi đã thấp thoáng một nét sầu lo nhàn nhạt. Cho dù tôi biết rõ Huyền Thanh đối xử tốt với Hoán Bích hoàn toàn là bởi vì tôi nhưng tâm tư của Hoán Bích, dù tôi có giả vờ không biết như thế nào đi chăng nữa, rốt cuộc cũng biết rồi.

    Tôi cũng không có ý định nói việc này với Huyền Thanh, bởi nếu y biết được nhất định cũng sẽ khó xử như tôi, mà một khi chúng tôi đều khó xử, ngay cả Hoán Bích cũng chẳng dễ chịu gì. Bây giờ muội ấy đã phó thác tình cảm của mình cho Huyền Thanh, tôi cũng chỉ có thể coi như không biết mà thôi.

    Trong sự bức bối ấy, thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, bây giờ đã là thu muộn, lá phong chuyển màu đỏ rực tạo nên bức tranh hoa lệ nhất. Tôi chợt thấy A Tấn đánh xe ngựa tới từ xa rồi gã dừng xe ngựa, cười nói: “Vương gia nói cứ ở mãi trong phòng thì buồn chán lắm, liền sai nô tài tới đây đón nương tử đi ngắm cảnh thu, nương tử lên xe đi.”

    Lần trước tôi chẳng qua vô tâm nói một câu, vậy mà y lại ghi nhớ trong lòng. Bên ngoài, trời đất đang đẹp như gấm vóc, đến không khí cũng trở nên ngọt ngào, tôi không kìm được thầm xao động, liền vào phòng thay áo rồi lên xe. Hoán Bích tất nhiên cũng đi theo tôi, tay xách một bọc quần áo nhỏ, quay lại nói với Cận Tịch: “Muội đi theo hầu hạ tiểu thư, tỷ ở lại trông nhà nhé!”

    Cận Tịch không có dị nghị gì, chỉ đưa mắt chăm chú nhìn tôi. Tôi hiểu ý nhưng vẫn im lặng không tỏ vẻ gì.

    Tôi và Hoán Bích che mặt bằng khăn trắng cùng ngồi xe rời đi. Sự phồn hoa náo nhiệt của chốn kinh thành lại lần nữa hiện ra trước mắt, tôi có cảm giác như vừa được sang kiếp khác. Huyền Thanh bận áo xanh đội mũ vải, ăn mặc như một thư sinh.

    Chúng tôi đi tới Lãng uyển, một nơi có khá ít người qua lại ở ngoại ô kinh thành, nghe đồn ở đó có trúc Tương Phi[4] rất đẹp.

    [4] Tương truyền vua Thuấn đi tuần ở Thương Ngô rồi băng hà, hai người vợ của vua Thuấn là Nga Hoàng và bà Nữ Anh thương chồng than khóc nơi sông Tương, nước mắt vẩy lên cây trúc, từ đó thân trúc có đốm tuyệt đẹp, loài trúc này vì thế mà được dân chúng gần đó đặt cho cái tên là trúc Tương Phi – ND.

    Đến nơi rồi, chỉ thấy bóng trúc biếc xanh, thân trúc lốm đốm những dấu tròn hoặc màu tím, hoặc màu trắng, hoặc màu đỏ tươi, nhìn như những giọt nước mắt.

    “Một cành trúc nhỏ nhoi mà có cả ngàn giọt lệ.” Tôi cất lời cảm khái: “Nhìn thấy rồi mới khiến người ta thương cảm không thôi.”

    Hoán Bích đưa tay tới khẽ vuốt ve. “Quả đúng là hệt như những giọt nước mắt vậy.”

    Huyền Thanh khẽ mỉm cười. “Nga Hoàng, Nữ Anh vì cái chết của Thuấn mà than khóc tới nhường này, tình cảm thực là sâu đậm.”

    Bộ đồ màu xanh ngọc bích của Hoán Bích và những cây trúc Tương Phi như tô điểm cho nhau, đôi hoa tai phỉ thúy lại càng tôn lên làn da trắng ngần, Hoán Bích thấp giọng nói: “Thuấn thật là có phúc, được một cặp tỷ muội như Nga Hoàng và Nữ Anh bầu bạn kề bên. Cũng may mà bọn họ là tỷ muội, do đó mới có thể chung sống hòa thuận bên nhau, trở thành giai thoại.”

    Trái tim tôi nẩy thình thịch một chặp, bất giác cảm thấy nhói đau.

    Huyền Thanh khẽ nở nụ cười mỉm. “Tình cảm sâu đậm của Nga Hoàng và Nữ Anh thực khiến người ta phải cảm thán, chỉ là cái phúc ấy của Thuấn không phải ai cũng có thể có được. Đối với hạng người phàm như ta mà nói, có thể chung sống đến già với một người mà bản thân vừa ý đã là điều đáng mừng lắm rồi!” Trong khi nói, đôi mắt y chứa chan tình cảm, chăm chú nhìn tôi.

    Hoán Bích thoáng lộ vẻ buồn bã, ngay sau đó lại cười tươi. “Có câu nói này của công tử, nô tỳ cũng có thể yên tâm thay trưởng tỷ rồi. Chỉ mong công tử có thể làm như lời mình nói, yêu thương trưởng tỷ cả đời.”

    Những lời này của Hoán Bích, tôi hoàn toàn không ngờ tới, thế nhưng đây là kết quả tốt nhất rồi. Bất kể muội ấy thật lòng hay giả ý, tôi cũng sẽ mãi mãi cảm kích muội ấy vì câu nói này. Muội ấy đã có tâm ý như vậy, tôi hà tất còn phải tính toán việc muội ấy cài một bông đỗ quyên trên búi tóc nữa.

    Thế là toàn thân tôi đều nhẹ nhõm, vui vẻ đi thăm thú hết một lượt Lãng uyển, sau đó thừa dịp trời còn chưa tối mà thỏa chí quay về.
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 37: Cố Giai Nghi
    Ngồi lên xe rồi tôi cảm thấy hơi nóng, liền bảo Hoán Bích vén rèm cửa sổ lên cho thoáng khí. Nhìn ra bên ngoài, thấy ngay bên cạnh có một chiếc xe màu đỏ đang đậu, rèm xe màu xanh sẫm trái ngược với màu đỏ, bên trên thêu mấy nhành hoa, kiểu dáng hoa văn kỳ thực không có gì đặc biệt nhưng chất vải lại khiến tôi cảm thấy rất quen mắt. Tỉ mỉ ngẫm nghĩ, tôi mới nhớ ra trước đây khi mệnh phụ các phủ vào cung thường thích dùng loại vải Linh Nghê này làm rèm xe ngựa, gặp mưa không ướt, càng thú vị hơn là dưới ánh mặt trời rực rỡ, thứ vải này còn phản chiếu ra những tia sáng rực rỡ như cầu vồng, do đó mới có cái tên Linh Nghê, vô cùng hiếm có. Ngoài ra, nhìn chiếc xe ngựa kia có vẻ rất hoa lệ, đám tùy tùng đi theo hai bên thì đều cao to vạm vỡ, ăn mặc chỉnh tề, không hề trò chuyện riêng câu nào cả, chắc hẳn là người của một gia tộc giàu sang quyền thế.

    Tôi khẽ cười, nói: “Không biết là thiên kim tiểu thư nhà nào ra ngoài mà lại phô trương thế này nhỉ?”

    Hoán Bích lắc đầu, mỉm cười. “Nô tỳ không biết, nhưng chắc phải là người của đại gia tộc nào đó thì mới có thanh thế như vậy được.”

    Người tùy tùng dắt ngựa bên ngoài nghe thấy mấy lời này của chúng tôi thì liền cười hà hà, nói: “Hai vị nương tử không biết đấy thôi, đâu phải là thiên kim tiểu thư gì, là cô nương của Lưu Hoan các đấy.”

    Vừa nghe thấy cái tên Lưu Hoan các, trái tim tôi giật thót, mặt mũi đỏ bừng, lờ mờ hiểu ra điều gì đó.

    Hoán Bích vẫn chưa biết, liền truy hỏi: “Lưu Hoan các? Đó là nơi nào vậy?”

    Gã tùy tùng đó phì cười một tiếng, nói: “Hai vị nương tử nhất định là ngày ngày ở trong thâm khuê, do đó mới không biết. Lưu Hoan là nơi nam nhân thích tới nhất, cũng là chốn tiêu tiền nổi tiếng nhất trong kinh thành.”

    Hoán Bích “a” lên một tiếng, đã hiểu ra điều gì, liền kêu thất thanh: “Là lầu xanh sao?” Nói xong cũng cảm thấy mình thất thố, lại hỏi thêm: “Cô ta đã là người ở nơi ấy, tại sao còn có thể phô trương thế này?”

    Lúc này Huyền Thanh cũng đã lên xe, lấy từ vạt áo trước ngực ra một gói gì đó đưa cho tôi, tươi cười, nói: “Nàng thử đoán xem đây là thứ gì nào?”

    Tôi cầm lấy đưa lên mũi ngửi, bất giác nở nụ cười tươi. “Là kẹo hạt thông hoa quế của Vĩnh Phúc Ký”, sau đó liền lấy một viên ăn, cười nói: “Vẫn là mùi vị như trước đây, không hề thay đổi”, dứt lời lại nhìn qua phía y. “Vừa rồi huynh chạy đi chính là để mua thứ này sao?”

    Y nhìn tôi chăm chú. “Ngày đó nàng đã nói là trước đây thích ăn thứ này mà.”

    Tôi cúi đầu cười khẽ, đưa mắt liếc y. “Hôm đó, muội chẳng qua chỉ tiện miệng nói một câu thế thôi, không ngờ huynh lại coi đó như là việc nghiêm túc lắm vậy. Sao phải mất công chạy đi mua như thế chứ?”

    Y cười, nói: “Vĩnh Phúc Ký ở trong ngõ nhỏ, chẳng lẽ nàng muốn ta cho xe ngựa nghênh ngang chạy vào tận đó hay sao?” Tôi lườm y một cái, cúi đầu không nói gì thêm.

    Hoán Bích vui vẻ cất tiếng: “Công tử đối xử với tiểu thư tốt quá, tiểu thư nói gì cũng đều ghi nhớ trong lòng.”

    Huyền Thanh nhìn qua phía Hoán Bích, nở nụ cười mỉm, lại lấy ra một gói nhỏ khác đưa tới. “Hoàn Nhi nói cô nương thích ăn kẹo mơ của Vĩnh Phúc Ký, ta cũng mua giúp cô nương rồi đây.”

    Hoán Bích bất giác mỉm cười, khom người nói: “Đa tạ công tử.”

    Lúc này không khí đang hòa hợp, tôi cũng không nói gì thêm, chỉ cất tiếng: “Chúng ta đi thôi!”

    Phu xe đáp “vâng” một tiếng, đang định giục ngựa chạy đi, chợt ngoảnh đầu, cười nói: “Xe của Cố cô nương phía bên kia muốn đi trước, e là chúng ta không tranh nổi.”

    Tôi bật cười. “Việc này thì có gì mà tranh với không tranh, cô ta có việc muốn đi trước thì cứ để cô ta đi trước là được”, rồi lại ngoảnh đầu nói với Huyền Thanh: “Thanh, huynh nói xem như thế có được không?”

    Y áp bàn tay lên mu bàn tay tôi, khẽ nắm lấy, trong mắt ngợp vẻ dịu dàng. “Được!”

    Phu xe cho xe lùi lại phía sau mấy bước rồi ngoảnh đầu, cười nói: “Nương tử và tướng công đúng là hòa thuận, không chỉ hòa thuận, còn trai tài gái sắc nữa, thật hết sức xứng đôi, cứ như hai nhân vật trong tranh vẽ vậy.”

    Tôi đỏ bừng hai má, cúi đầu, khẽ cười.

    Huyền Thanh nắm tay tôi chặt hơn một chút, vui vẻ nói: “Nương tử nhà ta tất nhiên là người tốt nhất trên đời rồi.”

    Hoán Bích ngồi kế bên mỉm cười, nói với phu xe: “Ngươi mồm miệng ngọt ngào lắm, đợi lát nữa xuống xe ắt sẽ có người thưởng cho ngươi.”

    Phu xe cả mừng, vội vàng khom người cảm tạ, nhưng lời còn chưa nói xong thì đã thấy bức rèm của chiếc xe bên cạnh được vén lên, từ bên trong lộ ra một cánh tay trắng nõn như bạch ngọc. Phía sau cánh tay trắng nõn ấy là khuôn mặt thanh tú tựa hoa phù dung thoáng lướt qua, rồi một giọng nói trong veo khiến lòng người mê đắm vang lên: “Đa tạ!”

    Hơi ngẩn người một chút tôi mới hiểu ra là vị Cố cô nương đó cảm tạ việc chúng tôi đã nhường đường, bèn khẽ nói: “Cô nương khách sáo rồi!”

    Còn chưa nói xong, cô ta đã buông rèm xe xuống và nhanh chóng rời đi. Ánh dương chiếu xuống bức rèm kia rực rỡ vô cùng, trước mắt tôi dường như vẫn còn vương vất gương mặt thanh tú kia, hình như đã từng gặp ở đâu. Dung mạo cô ta thực sự rất đẹp, xe ngựa lướt qua, tấm dung nhan mỹ miều ấy tựa như tia sét bừng sáng giữa bầu trời, khiến người ta có chút trở tay không kịp.

    Tôi ngoảnh đầu hỏi Huyền Thanh: “Vưa rồi huynh có thấy rõ không? Vị Cố cô nương đó dung mạo quả là xuất chúng, nhưng không hiểu sao muội lại thấy hơi quen mắt.”

    Huyền Thanh chỉ “ừm” một tiếng, nói: “Vậy sao? Vừa rồi ta không thấy rõ lắm!”

    Hoán Bích cười trêu trọc: “Nghe nói vị Cố cô nương này là danh tiếng vang xa, công tử xưa nay luôn phong lưu rất mực, vậy mà cũng không biết sao?”

    Huyền Thanh nghiêm túc nói: “Ta thực sự không biết, mà trước giờ cũng chưa từng tới những nơi như vậy”, sau đó lại bật cười. “Sợ là những điều ta biết còn không nhiều bằng huynh đệ phu xe này.”

    Gã phu xe nghe y nói như vậy thì vui vẻ vô cùng, hào hứng kể: “Vị Cố cô nương này là cô nương hàng đầu của Lưu Hoan các, số công tử quý tộc theo đuổi tất nhiên nhiều khỏi nói, ngay đến các vụ đánh nhau vì cô ta ở Lưu Hoan các cũng không hề ít.”

    Tôi mỉm cười. “Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua, biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn[1]. Uy lực của mỹ nhân quả nhiên không thể xem nhẹ.”

    [1] Trích Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị, dịch thơ Phan Huy Thực. Nguyên văn Hán Việt: Ngũ lăng niên thiếu tranh triền đầu, nhất khúc hồng tiêu vị tri số – ND.

    Huyền Thanh nghiêng đầu cất tiếng ngâm: “Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ, bức quần hồng hoen ố rượu rơi. Năm năm lần nữa vui cười, mãi gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu[2]”, sau đó lại thoáng do dự, nói: “Đợi đến lúc cửa ngoài xe ngựa vắng không, xế chiều về hình dung đổi khác, vậy thì cũng thực có chút đáng thương.”

    [2] Trích Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị, dịch thơ Phan Huy Thực. Nguyên văn Hán Việt: Điền đầu ngân bế kích tiết toái, huyết sắc la quần phiên tửu ô. Kim niên hoan tiếu phục minh niên, thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ – ND

    Tôi đưa tay áo lên che miệng, khẽ cười nói: “Thanh lang lúc nào cũng thương hoa tiếc ngọc như vậy cả.”

    Huyền Thanh vẻ như đang thổn thức. “Ta chỉ than thở vì thân thế của cô ta mà thôi, dù bây giờ phong quang rất mực nhưng khi về già, chỉ e muốn làm vợ một thương nhân cũng chẳng thể.”

    Tôi nhìn y chăm chú, cũng hiểu được cảm xúc trong lòng y lúc này, bèn khẽ nói: “Muội hiểu! Nữ tử vốn như cánh bèo lênh đênh trôi dạt, kiếp người chẳng có Nam Bắc phân chia tựa như Vương Chiêu Quân và Trần A Kiều vậy. Nhớ năm xưa, Trần A Kiều là con gái của Trưởng công chúa, cháu gái của tiên đế, được gả cho biểu huynh Hoàng đế, đắc sủng vô cùng, đương nhiên mười phần đắc ý, ai ngờ được kết cục về sau.” Tôi nói với giọng cảm thông nhưng lời lẽ thản nhiên rất mực, không hề tự thương thân mình. Huyền Thanh hiểu rõ lòng tôi, liền đưa tay ôm tôi vào lòng. Tôi cười, nói: “Vị Cố cô nương này nếu thực sự thông minh thì nên sớm biết kết thúc cuộc sống ở chốn khói hoa, hoàn lương tìm lấy một bến đỗ cho cuộc đời.”

    Phu xe không để ý tới những lời vừa rồi của tôi và Huyền Thanh, nhưng khi nghe câu này thì nói ngay: “Có rất nhiều người muốn cưới vị Cố cô nương đó về, chỉ là cô ta từ nhỏ đã được nuông chiều, về sau lại có biết bao kẻ công hầu theo đuổi, cho nên mắt cao quá trán, chẳng nhìn trúng ai.” Gã chợt nghĩ đến chuyện gì, bèn kể tiếp: “Mấy năm trước, thiếu chút nữa cô ta đã hoàn lương, đối phương là một vị công tử con nhà thị lang, địa vị không kém nhưng lại thần hồn điên đảo vì cô ta, đến cha mẹ vợ con trong nhà cũng chẳng cần nữa. Nghe nói khi đó nương tử của hắn ta còn đang mang thai, đúng là đáng thương!”

    Hoán Bích nghe đến ngẩn ngơ, vội vàng hỏi: “Về sau thì sao?”

    Tôi bỗng có chút bất an, trong lòng trào dâng cảm giác như gió mưa sắp tới, lòng ngực bức bối đến khó tả. Lúc này tôi đã lờ mờ nhớ ra, tướng mạo của nữ tử kia tuy không thể nhìn rõ ràng lắm nhưng hình như có mấy phần giống với An Lăng Dung.

    Gã phu xe đó thấy Hoán Bích có vẻ hào hứng như vậy thì càng vui hn. “Nghe nói tỷ muội của vị công tử đó là nương nương trong cung, sau khi biết việc này thì giận dữ vô cùng, kết quả là vị công tử đó đã nổi cơn điên, bỏ mặc cha mẹ vợ con, ngay đến người tỷ muội làm nương nương trong cung kia cũng không cần nữa, quyết đòi ra khỏi phủ ở cùng với vị Cố cô nương kia.” Gã cười hà hà một tiếng rồi nói tiếp: “Có mỹ nữ ở trước mặt, quả nhiên là chẳng còn cần gì nữa, qua đó cũng đủ thấy sự lợi hại của Cố cô nương. Vị công tử đó có thể giành được trái tim của cô ta, cũng có thể coi là diễm phúc không cạn rồi.” Dứt lời, gã bèn chậc lưỡi vài tiếng, vẻ như hết sức ngưỡng mộ.

    Hoán Bích nghe kể tới đây, sắc mặt đã trở nên hơi nhợt nhạt, run giọng hỏi: “Sau đó thì sao?”

    “Sau đó…” Gã phu xe gãi đầu gãi tai. “Sau đó thì không ở bên nhau nữa. Chỉ nghe nói về sau vị công tử đó hối lỗi sửa sai, quay trở về nhà, còn được Hoàng thượng coi trọng mà phong cho một chức quan lớn, rồi không còn đi tìm Cố cô nương nữa.”

    Trái tim tôi đập thình thịch một chặp, đầu lưỡi run run nhưng rốt cuộc vẫn cất tiếng hỏi: “Vị Cố cô nương đó… tên là Giai Nghi đúng không?”

    Gã phu xe vỗ tay đánh “bốp” một cái, lớn tiếng nói: “Quả nhiên là nương tử cũng biết.”

    Huyền Thanh nghe thấy hai chữ “Giai Nghi” thì lập tức hiểu ra nguồn cơn sự việc, bèn giữ tay tôi, nói: “Hoàn Nhi! Nàng bình tĩnh lại đã!”

    Gã phu xe đó còn chưa biết gì, vẫn kể tiếp: “Về sau gia đình vị công tử đó xảy ra chuyện, bị lưu đày đến nơi nào đó rất xa xôi, nhà tan cửa nát, ngay đến vị nương nương kia cũng bị Hoàng thượng đuổi ra khỏi cung, không ngó ngàng tới nữa. Thật là đáng thương, nghe nói chuyện của gia đình họ còn có liên quan tới Cố cô nương nữa. Đúng rồi, vị công tử đó họ Chân, ta rốt cuộc đã nhớ ra rồi!”Toàn thân tôi lạnh ngắt, cố sức kiềm chế bản thân, nắm chặt lấy cánh tay Huyền Thanh.

    Hoán Bích biết là không hay, vội nói với gã phu xe: “Nương tử nhà ta hơi mệt, phải nghỉ ngơi một lát, ngươi hãy tạm tránh đi đã.”

    Gã phu xe đó đã không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, lại sợ có chuyện, liền vâng dạ mấy tiếng rồi tránh ra xa.

    Trên trán mồ hôi lạnh rỉ ra không ngớt, tôi chậm rãi nói ra ba từ: “Cố Giai Nghi.”

    Hoán Bích nhìn tôi không chớp mắt. “Tiểu thư, chúng ta phải đi hỏi cô ta, tại sao lại hại nhà họ Chân chúng ta như vậy? Rốt cuộc là tại sao?” Trong mắt Hoán Bích như có một ngọn lửa căm thù, bừng bừng rực cháy.

    Trong tôi cũng như có một ngọn lửa đang thiêu đốt, vô số nỗi căm phẫn và nghi hoặc trào lên. Tôi đẩy tay Huyền Thanh ra, đứng dậy nhảy ra ngoài xe ngựa. “Thanh, muội phải đi tìm cô ta! Muội phải hỏi cô ta!”

    Tôi phải hỏi cô ta, bao nhiêu nỗi oan khuất như thế, bao nhiêu nghi vấn như thế, mấu chốt đều ở chỗ cô ta, sao tôi có thể không đi hỏi, sao có thể giả vờ là không biết gì được? Tôi không thể! Bởi vì tôi là con gái của nhà họ Chân.

    Hoán Bích theo sát tôi ra ngoài, Huyền Thanh vội vàng đuổi theo sau, giữ tôi lại, kéo tôi vào lòng. “Hoàn Nhi, nàng không cần tính mạng nữa sao? Nàng không thể cứ thế này mà đi hỏi cô ta được!”

    Tôi cố giãy giụa nhưng Huyền Thanh rất khỏe, tôi có dùng sức đến mấy cũng không sao giãy thoát ra được. Hoán Bích cố gắng cạy tay Huyền Thanh ra, đồng thời nài nỉ: “Vương gia, nô tỳ cầu xin người đấy, hãy để tiểu thư nhà nô tỳ đi hỏi đi, cô ta nhất định biết nguồn cơn mọi sự. Đây là chuyện của nhà họ Chân, tiểu thư không thể để mặc cho nhà họ Chân phải chịu oan khuất được!”

    Huyền Thanh ôm chặt lấy tôi, không quan tâm tới việc tôi giãy giụa thế nào. Đôi hàng lông mày nhíu chặt, y ghé tai tôi, khẽ quát: “Nàng cứ như thế này mà hỏi đi, cô ta lại chịu nói với nàng sao? Nàng nên nhớ khi xưa chính cô ta đã lật lọng tráo trở, chứng tỏ cô ta là người của Hoàng hậu, chỉ cần nàng đi hỏi cô ta, Hoàng hậu sẽ có cả ngàn cách để hại nàng, sau đó lại tiếp tục làm hại những người thân đã có được cuộc sống yên bình của nàng!”

    Tôi nghe thế, lồng ngực như bị một thứ gì đó đột nhiên nện mạnh vào, lập tức ngừng giãy giụa, chỉ ngẩn ngơ đứng đó nghe y nói. Thấy tôi đã lặng yên, y bèn dịu giọng nói tiếp: “Tuy nàng ở ngoài cung nhưng vẫn chưa thoát khỏi hiểm cảnh, Hoàng hậu không dễ dàng buông tha cho nàng đâu, do đó hai năm đầu, Thái hậu mới sai Phương Nhược cô cô mỗi tháng tới thăm nàng một lần, bảo nàng chép kinh văn để mang về cung, ấy chính là vì sợ nàng bị người ta hãm hại. Bây giờ Hoàng hậu tuy đã buông lỏng sự cảnh giác, nhưng khi có động tĩnh gì, nàng ta chưa chắc đã không nhổ cỏ nhổ tận gốc, mà người gặp phải họa đầu tiên chính là Lung Nguyệt ở trong cung. Trong cung liên tiếp có người mới được chọn vào, Hoàng hậu không còn thời gian để ý đến nàng nữa, nhưng một khi nàng chạy đi tìm Cố Giai Nghi, không những sẽ không hỏi ra được điều gì, còn đánh rắn động cỏ, khiến Hoàng hậu lại một lần nữa đề phòng nàng. Nàng có hiểu không?”

    Tôi lặng lẽ nghe xong, hai chân chợt trở nên mềm nhũn, nhất thời không đứng vững nổi, phải tựa vào người Huyền Thanh.

    Huyền Thanh ôm chặt lấy tôi, chậm rãi ngồi xuống đất, không nói thêm câu nào. Hoán Bích ngẩn ngơ ngồi xuống, khuôn mặt ngợp vẻ thê lương, rấm rứt khóc, nói: “Tiểu thư, không ngờ chúng ta lại chẳng thể làm gì, chỉ có thể trơ mắt nhìn mọi việc xảy ra.”

    Tôi tựa vào lòng Huyền Thanh, trong đầu xuất hiện muôn vàn ý niệm, rối loạn vô cùng. Khó khăn lắm mới bình tĩnh lại được, tôi gạt những sợi tóc rối che trước mắt ra, chậm rãi nói: “Đúng vậy, bây giờ chúng ta không thể làm gì được cả. Hoán Bích, đã có thư nhà gửi về, cha tuy bị biếm đến Xuyên Bắc, một nơi hẻo lánh hoang vu, nhưng cuộc sống cũng không tệ lắm; còn ca ca thì ở Lĩnh Nam, tuy vất vả nhưng tính mạng vẫn còn giữ được, không xảy ra vấn đề gì. Bây giờ chỉ cần chúng ta đi nhầm một bước thôi, một bước rất nhỏ thôi, thì sẽ hại bọn họ ngay đến tính mạng cũng không giữ được. Hoán Bích…” Tôi lắc đầu vẻ thê lương. Bây giờ cho dù Cố Giai Nghi có ở trước mặt, lời của chúng ta chẳng lẽ cô ta lại chịu nghe sao? Chẳng lẽ cô ta lại chịu kể với chúng ta tất cả nguồn cơn sự việc sao?”

    Hoán Bích khẽ lắc đầu, đờ đẫn nói: “Cô ta không chịu đâu.”

    Huyền Thanh khẽ vỗ vai tôi, an ủi: “Nàng đừng nôn nóng, chúng ta cứ suy nghĩ từ từ, cuối cùng rồi cũng tìm ra cách thôi.”

    “Cuối cùng rồi cũng tìm ra cách?” Tôi chợt cười lạnh một tiếng. “Cho dù Cố Giai Nghi chịu nói, vị thiên tử thánh minh kia của chúng ta chẳng lẽ lại chịu tin sao?” Tôi xoay người gục đầu vào lòng Huyền Thanh, nghẹn ngào nói: “Khi đó Hoàng đế đã không tin nên nhà họ Chân mới hoàn toàn sụp đổ, nếu Hoàng đế chịu tin tưởng phần nào, nếu y… thì nhà họ Chân đã không rơi vào cảnh như vậy.” Tôi cố gắng nuốt nỗi đau vào trong, gằn giọng nói: “Trước đây, khi muội còn ở trong cung, y đã không tin, bây giờ muội bị đuổi ra ngoài, mà những kẻ ngày đó đã hãm hại muội như Hoàng hậu, An Lăng Dung và Quản thị ai nấy cũng đều sừng sững không đổ. Muội còn nghe nói Hoàng đế sủng ái An Lăng Dung và Quản thị vô cùng, lại vừa tiến phong cho bọn chúng. Như thế dù muội có nói gì đi nữa, chẳng lẽ lại có tác dụng sao?” Tôi bật khóc nức nở. “Khi đó, nếu còn một chút cơ hội, nếu chưa lâm vào cảnh lòng dạ nguội lạnh, không còn khả năng xoay chuyển tình hình, dù muội có phải chịu nhục đến mấy cũng sẽ ở lại trong cung chờ ngày báo thù, quyết không để Lung Nguyệt khi còn ở trong nôi đã phải rời xa mẹ ruột.” Tôi càng nói lại càng đau xót, trái tim sôi sục không thôi, khó lòng bình tĩnh lại được.

    Huyền Thanh hết sức xót xa, lại ôm chặt tôi thêm chút nữa, khẽ nói: “Hoàn Nhi, giả sử bây giờ nàng thực sự thuyết phục được Cố Giai Nghi đứng ra làm chứng giúp nàng, rồi hoàng huynh hiểu được nỗi oan khuất của nhà nàng, nàng thử nghĩ xem, tiếp theo thì sẽ sao nữa?”

    “Sẽ sao nữa?” Tôi lẩm bẩm nói. “Cha và ca ca sẽ được rửa sạch oan khuất, sẽ có thể trở về triều khôi phục chức cũ, nhà họ Chân cũng sẽ theo đó mà hiển hách trở lại.” Tôi ngoảnh mặt qua hướng khác, tuôn trào những giọt nước mắt thương tâm. “Nhưng tẩu tẩu và Trí Ninh thì không thể quay về được nữa, không quay về được nữa rồi.”

    “Ngay cả khi hoàng huynh rửa oan cho cha anh của nàng thì địa vị của Hoàng hậu liệu có bị lay động chút nào không?”

    “Hoàng hậu?” Tôi vừa căm phẫn lại vừa đau khổ.

    “Đúng vậy!” Huyền Thanh nói với giọng bình tĩnh và tỉnh táo: “Ngày nào Thái hậu còn sống, ngày đó Hoàng hậu vẫn sẽ là mẫu nghi thiên hạ, chủ nhân của lục cung. Hơn nữa, cho dù Cố Giai Nghi đứng ra làm chứng, mũi nhọn cũng chưa chắc chĩa về phía Hoàng hậu. Mà chỉ cần Hoàng hậu bình yên vô sự, An Lăng Dung cũng sẽ bình yên vô sự, có lẽ ngay cả Quản thị cũng chẳng hề hấn gì. Dù sao trong việc của nhà nàng, bọn họ đều không đứng ra làm gì cả. Nếu sự việc thực sự quá phức tạp, liên quan quá lớn, hoàng huynh vì muốn ổn định nền móng của triều đình, dù biết rõ là có oan khuất cũng sẽ không cho điều tra tiếp nữa.” Giọng của Huyền Thanh tràn ngập vẻ đớn đau và bất lực: “Bởi vì y là Hoàng đế, đối với y, triều đình là quan trọng nhất, do đó y sẽ không vì người nào mà làm tổn hại đến nền móng của triều đình, việc này nàng nhất định phải hiểu rõ. Ngoài ra, dù cha anh của nàng có thể quay về triều làm quan, nhưng trong tình huống bốn bề đều là địch, quay về như thế chẳng khác nào đưa mình vào miệng cọp. Nếu lại xảy ra biến cố gì nữa, bọn họ liệu có chịu nổi không?”

    “Liệu có chịu nổi không?” Tôi lẩm bẩm như tự hỏi mình. “Trở lại triều đình, cha sẽ lại phải minh tranh ám đấu với người khác, còn nếu họ vẫn phải hàm oan, vậy thì muội thực sự là bất hiếu, khiến phụ thân và ca ca người Nam kẻ Bắc, khó có cách nào đoàn tụ. Thanh, muội rốt cuộc nên làm thế nào mới phải?”

    Thanh khẽ lắc đầu vẻ thấu hiểu. “Chỉ e nàng mà có chút động tĩnh nào, khi mối oan khuất của cha anh nàng còn chưa được rửa sạch thì bản thân nàng và toàn bộ người thân đã gặp phải chuyện bất trắc rồi.”

    Tôi cảm thấy hết sức khó xử, lòng buồn khổ không thôi, nhất thời chẳng nói được lời nào.

    “Tiểu thư!” Hoán Bích đột nhiên gọi tôi một tiếng, ngẩn ngơ nhìn về phía xa. “Thanh Hà Vương gia suy nghĩ rất chu toàn, việc gì cũng đã nghĩ tới, chúng ta quả thật không nên khinh suất trong việc này. Có điều…” Mí mắt muội ấy hơi nẩy lên một cái, cặp mắt như bị thứ gì thiêu đốt, bừng lên một ngọn lửa nóng bỏng. “Vương gia có một việc quan trọng còn chưa nói.”

    Hoán Bích đột ngột dời ánh mắt về hướng Huyền Thanh, hờ hững cất tiếng: “Vương gia, chẳng lẽ khi ngài khuyên tiểu thư chớ nên khinh suất, trong lòng không có một chút tâm tư nào sao?”

    Hoán Bích vận bộ đồ màu xanh, lại thắt sợi dây lưng xanh biếc, giữa làn cỏ um tùm xung quanh, thân hình muội ấy như hòa vào trong, duy có khuôn mặt là tái nhợt chẳng có chút huyết sắc, đôi mắt giống như đầm nước trong veo sâu không thấy đáy. Muội ấy trầm giọng nói: “Hoán Bích tuy là nô tỳ nhưng trong việc này cũng có cái nhìn riêng của mình. Vương gia cố gắng khuyên tiểu thư như vậy cũng là sợ nhà họ Chân thoát tội, rồi tiểu thư trở lại trong cung, trở lại bên cạnh hoàng huynh của ngài, như thế ngài và tiểu thư sẽ bị cắt đứt mối tình duyên, không cách nào nối lại, đúng vậy không?”

    Tôi gượng cười một tiếng, cất giọng trầm buồn: “Hoán Bích, Đại Chu kể từ khi khai quốc đến giờ đã được mấy trăm năm, muội từng nghe nói có phi tần nào sau khi rời cung tu hành mà còn có thể trở lại hậu cung không? Muội cho rằng ai cũng là Võ Tắc Thiên sao, hay là hoàng đế nào cũng chung tình như Lý Trị? Huống chi Hoàng đế đuổi ta ra khỏi cung không phải vì phụ thân và ca ca, mà là vì ta mạo phạm đến tiên Hoàng hậu, tính tình lại không được ngoan ngoãn. Đây cũng là nguyên nhân khiến Hoàng hậu không tiếp tục hãm hại ta nữa.”

    Hoán Bích khẽ nói: “Đạo lý tuy là như vậy nhưng tiểu thư dù sao cũng là mẹ ruột của Lung Nguyệt Công chúa, nếu nhà họ Chân được rửa sạch án oan, Hoàng thượng có lẽ sẽ niệm tình cũ, cũng sẽ nghĩ đến tiểu thư, đến khi đó dù ngại vì lễ chế mà không đón tiểu thư về cung nhưng cũng có thể thường xuyên tới thăm tiểu thư. Một khi sự việc xảy ra, Vương gia và tiểu thư còn có thể qua lại như bây giờ sao?”

    “Hoán Bích…” Lòng tôi thầm kinh hãi, không kìm được nhìn qua phía Huyền Thanh.

    Y suy nghĩ như vậy có lẽ là hơi ích kỷ, nhưng sự ích kỷ này có gì không đúng sao?

    Mà một khi đến ngày ấy rồi, có khi nào tôi cũng ích kỷ như vậy không?

    Huyền Thanh cúi đầu trầm ngâm một lát, chợt ngước đôi mắt trong veo lên, khẽ mỉm cười. “Hoán Bích, không ngờ cô lại thông minh như vậy.”

    Hoán Bích thoáng ngẩn ra rồi mới hơi nhếch khóe môi, nở một nụ cười gượng gạo. “Vương gia như vậy là khen nô tỳ hay là giễu cợt nô tỳ đây?”

    Huyền Thanh chậm rãi lắc đầu, khẽ cất tiếng: “Hoán Bích, cô quả thực thấu hiểu tâm tư của ta. Nếu không có những nguyên nhân trước đó, có lẽ cô thật sự có thể nhận định rằng ta là một nam nhân ích kỷ. Nhưng…” Y khẽ nở nụ cười, tựa như làn gió nhẹ lướt qua thảm cỏ biếc xanh. “Đổi lại là cô, liệu cô có bằng lòng để cha anh mình trở lại nơi cung đình tiếp tục tranh đấu, đến sự bình an trong nửa quãng đời còn lại cũng không thể đảm bảo không? Liệu cô có bằng lòng để trưởng tỷ của mình trở lại bên một nam nhân không trân trọng cô ấy, không yêu thương cô ấy, không tin tưởng cô ấy, ngoài ra còn phải tranh đấu với vô số nữ nhân khác không?”

    Sắc mặt Hoán Bích sáng tối bất định, tựa như thời tiết sau một cơn mưa mùa hạ, lát sau mới ngẩng lên, nói: “Vương gia…”

    Huyền Thanh ngăn lời muội ấy lại, nói tiếp: “Cô là người cốt nhục chí thân, chảy cùng dòng máu với bọn họ, cô hãy nói cho ta biết, cô có muốn người thân của mình phải sống những tháng ngày như vậy không? Chẳng hạn như trưởng tỷ của cô, nếu giành được thắng lợi trong cung, vậy tức là cả cuộc đời này sẽ tranh đấu với những nữ nhân khác, mà nếu cô ấy thua, có thể ngay đến nơi vùi thân cũng chẳng có. Cô là muội muội của cô ấy, cô hãy nói cho ta biết, cô bằng lòng để cô ấy sống một cuộc sống như vậy sao?”

    Hoán Bích hết sức hoang mang, lắc đầu nguầy nguậy.

    Huyền Thanh buông tiếng thở dài, nói: “Những ngày tháng trong cung cô ấy đã phải sống thế nào, cô bầu bạn bên cạnh cô ấy tất nhiên phải hiểu rõ nhất. Chẳng lẽ cô muốn cô ấy phải chịu khổ lần nữa sao? Ngay cả cô ấy cũng không muốn, vậy ta vốn luôn coi cô ấy như báu vật cuộc đời, tất nhiên lại càng không muốn, cô có hiểu không?” Dứt lời, y liền nắm chặt lấy bàn tay tôi.

    Hoán Bích hết sức chấn động, không kìm được trợn tròn mắt, há hốc miệng, ngây người ra đó. Tôi thầm cảm động, nước mắt chậm rãi tuôn rơi, lại nắm chặt lấy bàn tay y, cúi đầu cất tiếng: “Nhưng bọn họ là người thân máu mủ của muội, muội không thể trơ mắt nhìn bọn họ chia cách hai nơi, mãi mãi không có ngày đoàn tụ.”

    Y thấp giọng nói: “Nàng chớ quên, ta tuy chỉ là một kẻ nhàn tản nhưng dù gì cũng có thân phận vương gia, là huynh đệ của đương kim Hoàng thượng. Cha anh nàng phải chia cách hai nơi Xuyên Bắc, Lĩnh Nam, cách nhau ngàn dặm, nếu có thề, ta sẽ tìm cách điều họ về cùng một chỗ. Nhưng nàng phải chịu ấm ức một chút rồi, không thể thường xuyên gặp mặt cha anh.”

    Tôi cúi đầu, đưa tay lau nước mắt. “Nếu cha muội trong những năm tháng tuổi già còn có được niềm vui như vậy, dù muội cả đời này không gặp lại bọn họ cũng chẳng sao.”

    Hoán Bích nhìn Huyền Thanh chăm chú, hỏi: “Vương gia có chắc sẽ làm được không?”

    Hoán Bích quấn ngón tay vào dải dây lưng xanh biếc, trầm ngâm một lát rồi mới nói: “Tâm ý của Vương gia với trưởng tỷ, Hoán Bích tất nhiên hiểu rõ, Vương gia đã nói như vậy rồi, Hoán Bích xin thay mặt cha anh và trưởng tỷ cảm tạ vương gia.” Dứt lời, muội ấy bèn trang trọng hành lễ, khom người thật sâu.

    Khi ngẩng lên, cặp mắt Hoán Bích đã trong veo trở lại, không còn vẻ phẫn uất như trước nữa. “Vừa rồi Hoán Bích nói năng lỗ mãng, thực sự đã mạo phạm Vương gia rồi.”

    Huyền Thanh khoan dung nói: “Không có gì, dù sao cô cũng giúp ta nói ra tâm sự khó nói trong lòng.” Sau đó y liền đỡ tôi đứng dậy, gọi phu xe lại, dịu giọng nói với tôi: “Trời sắp tối rồi, chúng ta quay về trước đã.”

    Lúc này đương là tháng Chín, hai bên đường lúa mạch đã mọc dày, khiến người nhìn cảm thấy thư thái. Thỉnh thoảng lại có cơn gió thổi qua, những làn sóng lúa mạch nổi lên giữa biển vàng bát ngát, nhấp nhô lên xuống không ngừng, tựa như những mối tâm sự và nỗi sầu lo vô tận trong lòng tôi vậy. Tôi không muốn để Huyền Thanh lo lắng, ngoài mặt vẫn cố giữ vẻ thản nhiên, nhưng sau một hồi tròng trành trong xe ngựa, vô số tâm sự vẫn cứ trào lên không ngớt.
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 38: Kết ái [1]
    [1] Tên một bài thơ của Mạnh Giao, một thi nhân thời Đường – ND.

    Tôi kể cho Cận Tịch nghe về Cố Giai Nghi. Cận Tịch nghe xong thì cau mày hồi lâu rồi mới trầm ngâm nói: “Vương gia nói đúng, chớ đánh rắn động cỏ, bây giờ chúng ta có làm gì thì cũng vô ích, chỉ có thể ở yên chờ đợi thời cơ.”

    Tôi nghe xong thì chỉ im lặng, với Hoán Bích cũng ăn ý vô cùng, không nhắc đến việc này lần nào nữa. Chỉ là thỉnh thoảng ánh mắt giao nhau, nỗi đau nhà tan cửa nát cùng sự thù hận với kẻ địch trong hai chúng tôi đều bộc lộ rõ ràng, qua đó chúng tôi lại càng hiểu rõ, nhà họ Chân đã suy bại đến mức này, chẳng ai còn sức mà phản kích, duy có tỷ muội chúng tôi là vẫn ở kinh thành, cần nương tựa vào nhau mới có cơ hội báo thù rửa hận.

    Thế là tôi cố sức kìm nén, dù nỗi đau khổ và căm hờn bùng lên vì sực xuất hiện của Cố Giai Nghi vẫn nhỏ máu từng ngày. Tôi hết lòng nhẫn nại, đồng thời biến những nỗi đau đớn, căm hờn nơi đáy lòng ấy thành một cây kim sắc bén đâm sâu vào da thịt, im lặng chờ đợi thời cơ.

    Trong sự kìm nén và dằn vặt của con tim, mùa đông năm nay rốt cuộc đã tới.

    Hôm nay trời có tuyết nhỏ, Huyền Thanh cưỡi ngựa tới thăm tôi.

    Trong thiền phòng, nến đỏ thắp thành đôi, rực rỡ tựa cặp mắt chứa chan tình cảm. Trên bàn có đặt một chiếc bình sứ lớn trắng tinh, bên trong cắm đầy những cành mai xanh tỏa hương thoang thoảng, trang nhã vô cùng. Dưới giường, lò lửa đang cháy mạnh, trong phòng lại đặt thêm hai chậu lửa lớn, tiếng nổ “lốp bốp” không ngừng vang lên bên tai, từ đó tạo nên khoảng không gian ấm áp vô cùng. Bên ngoài gió thổi mạnh, tuyết lất phất rơi, trong phòng lại ấm áp như mùa xuân, thực là hai khung cảnh hoàn toàn trái ngược.

    Ánh nến màu vàng cam chiếu rọi một bên, ngọn lửa thỉnh thoảng lại bùng lên dữ dội, khiến quầng sáng tỏa ra cũng theo đó mà nhẹ nhàng lay động. Những tia sáng tỏa ra chiếu lên mặt người, ngoài việc phủ lên đó một mảng màu vàng cam còn khiến cảm giác ấm áp tăng thêm.

    Tôi giúp y cởi chiếc áo choàng lông sóc màu xanh sẫm trên người xuống, nói: “Vừa rồi xuống ngựa, sao huynh lại không cẩn thận như vậy chứ, chiếc áo choàng đẹp như thế này mà lại bị rách mất một mảng.”

    Y khẽ mỉm cười, ngồi xuống bên cạnh tôi. “Nghĩ tới việc đã bốn ngày nay không gặp nàng, ta không khỏi có chút nôn nóng. Nhưng không sao, một chiếc áo choàng có là gì.”

    Tôi đưa mắt nhìn y, nói với giọng trách móc nhưng trong đó đã ngợp ý xót xa: “Đường núi lúc tuyết rơi thế này vốn đã khó đi, ngựa lại dễ bị trượt chân, huynh hà tất phải tới đây, đợi thêm vài ngày nữa, tuyết tan rồi tới cũng có hề gì. Lần nay là rách áo, lần sau chẳng may ngã ngựa bị thương thì biết làm thế nào?” Quầng mắt tôi bỗng đỏ ho. “Huynh muốn muội ngày ngày phải lo lắng hay sao chứ?”

    Thấy tôi như vậy, y vội vàng nói ngay: “Ta đồng ý với nàng, lần sau ta sẽ cẩn thận. Ta cũng đâu muốn mình bị thương, bị thương rồi sao còn có thể tới thăm nàng được nữa.”

    Tôi không kìm được bật cười rồi liền hờn trách: “Mồm mép tép nhảy! Lần sau mà còn không cẩn thận như vậy, xem ai chịu bỏ công vá áo cho huynh, người ta sẽ kệ huynh mặc áo rách ra đường.” Nói rồi tôi liền không để ý đến y nữa, cẩn thận khâu lại chỗ rách trên áo choàng của y.

    Y ngồi lặng lẽ nhìn tôi vá áo. Sau khi xong xuôi, tôi lặng im một lát rồi mới ngẩng lên hỏi: “Ngày mai chẳng phải huynh đi rồi sao?”

    Y nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi mới nói: “Đúng vậy, bây giờ đã sắp sang tháng Giêng, bắt buộc phải đi rồi. Dù sao năm nay ta cũng không thể ăn Tết ở kinh thành được.”

    “Vậy…” Tôi lưu luyến không thôi. “Trong vòng một tháng có thể quay về không?”

    Y tỉ mỉ tính toán thời gian rồi liền nhìn tôi chăm chú. “Trong vòng một tháng ta nhất định sẽ quay về.”

    “Ừm.” Tôi ngồi ôm gối, lại dùng cây cạo bằng đồng gạt nhẹ tim nến, khiến nó sáng hơn một chút, rồi mới chậm rãi nói: “Một tháng sau, trăng sẽ lại tròn thêm một lần.”

    Huyền Thanh âu yếm áp tay lên mu bàn tay tôi, khẽ nói: “Một tháng sẽ trôi qua rất nhanh thôi.” Y mỉm cười, nụ cười ấm áp như làn gió xuân. “Ta đã an bài ổn thỏa rồi, lần này đợi sau khi quay về, ta sẽ có thể đón nàng rời khỏi nơi đây.”

    Tôi cả mừng, buột miệng thốt lên: “Thật thế sao?”

    “Thật!” Y lấy từ vạt áo trước ngực ra một gói giấy nhỏ, mở ra chỉ thấy bên trong là một loại bột trắng tỏa mùi thơm thoang thoảng. Tôi tò mò hỏi: “Là phấn thơm sao?”

    Y lắc đầu, tỏ vẻ khá thần bí. “Đây là thuốc giả chết được Ôn thái y bào chế, tên gọi là ‘Thất nhật thất hồn tán’, chế thành từ phấn hoa mạn đà la, sau khi uống vào sẽ giống như đã chết, hoàn toàn ngừng thở, nhưng sau bảy ngày hôn mê, người uống sẽ tự tỉnh lại.”

    “Ôn thái y đã tự tay bào chế sao?”

    “Đúng vậy, cả quá trình ta đều tận mắt nhìn thấy y, y cũng hy vọng nàng sớm có thể rời khỏi nơi này.”

    Tôi thở phào nhẹ nhõm. “Nếu là huynh ấy tự tay bào chế, vậy muội có thể yên tâm rồi”, sau đó lại cất lời cảm khái, bên trong còn mang theo một tia vui vẻ. “Huynh ấy rốt cuộc cũng bằng lòng giúp muội.”

    Huyền Thanh cũng khá cảm động. “Ôn thái y đã suy nghĩ cho chúng ta rất nhiều, quả thực cần phải cảm tạ y một phen. Ta đã an bài ổn thỏa, chỉ đợi ta trở về từ Điền Nam lần này là mọi việc đều có thể giải quyết.” Y ôm tôi vào lòng, trong mắt bừng lên những tia sáng rực rỡ. “Hoàn Nhi, rốt cuộc chúng ta đã có thể ở bên nhau suốt đời suốt kiếp rồi.”

    Ánh nến chiếu tới khiến lòng người càng thêm ấm áp, tôi cất giọng dịu dàng như nước mùa xuân: “Đợi huynh trở về, đợi mọi việc xong cuôi, muội mới có thể thực sự yên tâm được, tới khi đó chúng ta hãy cùng nhau bàn về vấn đề này.”

    Y đưa mắt nhìn ngọn nến, nói: “Điền Nam ở ngay gần Nam Chiếu, Bãi Di và mấy bộ lạc lân cận khác sau khi quy thuận đều được hợp nhất vào Điền Nam. Mấy năm nay thiên tai nhân họa, lòng người không yên, hơn nữa từ Điền Nam ra khỏi Thiểm quan về phía bắc chính là cương vực của người Hách Hách, vùng Điền Nam lại có liên quan trực tiếp đến gần một nửa sản lượng lương thực lương thảo và tơ lụa của Đại Chu ta, một khi Đại Chu và Hách Hách có chiến tranh, đó sẽ là khu vực cực kỳ quan trọng. Nhưng cư dân ở đó khá hỗn tạp, chỉ sợ có gian tế của Hách Hách trà trộn vào để thăm dò tin tức của Đại Chu, do đó hoàng huynh hết sức phiền não. Thân mẫu của ta sinh ra ở Bãi Di, cũng chỉ có ta mới có thể tới đó một chuyến để thị sát dân tình, xoa dịu lòng người.” Y quay sang nhìn tôi, ánh mắt thiết tha, nói tiếp: “Việc này liên quan tới xã tắc, ta không thể không đi. Vả lại Bãi Di dù sao cũng là bộ tộc của mẫu thân ta, trong thân thể ta có chảy một nửa dòng máu của người Bãi Di, ta không thể không quản tới chuyện này.”

    Tôi gật đầu vẻ thấu hiểu, lại khẽ đặt ngón tay trỏ lên môi y. “Muội hiểu, trong triều chỉ có huynh là có thể xử lý việc này một cách công bằng hợp lý, chỉ có mình huynh thôi”, sau đó lại chăm chú nhìn vào mắt y. “Chỉ có một tháng thôi, muội sẽ chờ huynh về.”

    Y mỉm cười. “Lần này đi Điền Nam, khi trở về, ta sẽ rẽ qua vùng Xuyên Thục thăm phụ thân nàng, để nàng có thể yên tâm.”

    Tôi khẽ “ưm” một tiếng, rồi liền khom người kéo góc áo của chiếc áo gấm màu xanh viền trắng của y lên, lại kéo góc áo của mình lên, trịnh trọng thắt nút nối chúng lại, sau đó mới cất tiếng ngâm bằng giọng chứa chan tình cảm: “Đã tình đầu ý hợp, lòng cần thấu hiểu lòng. Một độ phải biệt ly, áo thắt muôn ngàn nút. Thắt cho thiếp thủy chung, thắt cho chàng về sớm.”

    Nút thắt ấy nhìn như một đôi tay ghép lại thành hình trái tim, y chậm rãi tiếp lời: “Mới hay thắt nút áo, chẳng bằng thắt nút lòng. Ngồi thắt đi cũng thắt, thắt đủ trọn trăm năm[2].”

    [2] Mấy câu này cùng với mấy câu bên trên ghép lại thành trọn vẹn một bài Kết ái của Mạnh Giao. Nguyên văn Hán Việt: Tâm tâm phục tâm tâm, kết ái vụ tất thâm, nhất độ dự ly biệt, thiên hồi kết y khâm. Kết thiếp độc thủ chí, kết quân tảo quy ý. Thủy tri kết y thường, bất như kết tâm tràng. Tọa kết diệc hành kết, kết tẫn bách tuế nguyệt – ND.

    Tôi mỉm cười dịu dàng nhưng đồng thời cũng cảm thấy chua xót vì sự biệt ly, hệt như ngậm một quả mơ xanh vào miệng, nhổ không nhổ được, nuốt cũng không nuốt được, chỉ đành để mặc nó trong miệng, chua vào tận đáy lòng.

    Tôi cố kiềm nước mắt, nằm trong lòng y, bàn tay khẽ vuốt ve ống tay áo của y, bên trên lớp vải gấm màu xanh đó có những đường hoa văn ngầm thêu bàng tơ tằm trắng muốt, nếu không nhìn kĩ thì gần như không thể phát hiện ra.

    Y cũng giống như tôi, đều thích màu sắc tinh khôi, thuần khiết này.

    Hơi thở của y ở gần tôi biết mấy, trong thế giới của tôi, dường như chỉ còn có mình y, tôi khẽ nói: “Một độ phải biệt ly, áo thắt muôn ngàn nút. Từ khi ở bên nhau đến giờ chưa có giây phút nào phải ly biệt, vừa nghĩ đến việc phải xa nhau cho dù chỉ là một thời gian ngắn thôi, muội cũng rất muốn buộc áo của chúng ta lại muôn ngàn lần, hy vọng con người cũng sẽ giống như nút thắt trên áo, không cần phải xa nhau.” Y khẽ hôn lên đôi mắt đang khép hờ của tôi, dịu dàng rất mực. Tôi lại nói tiếp: “Trước đây muội nghe di nương vốn là người Giang Nam nói, bên bờ Tây Hồ ở Hàng Châu có một cây cầu, tên gọi là Trường Kiều.”

    Huyền Thanh hỏi: “Cây cầu ấy dài lắm à?”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Trường Kiều kỳ thực không hề dài, theo như người dân địa phương nói, sỡ dĩ nó có tên là Trường kiều là bởi vì năm xưa đôi tình nhân Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài đã cáo biệt nhau trên cây cầu này, cả hai đều vô cùng lưu luyến nên cây cầu rất ngắn trở nên dài vô tận.” Tôi mỉm cười, xòe tay đan vào tay y, hai bàn tay nắm chặt, thổn thức nói: “Tâm trạng buổi biệt ly, tự cổ chí kim đều không có gì đổi khác.”

    Y vội bịt miệng tôi lại, cười, nói: “Chúng ta không giống Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài đâu nhé, bọn họ một người khóc lóc bị gả chồng, một người thổ huyết mất sớm, cuối cùng hóa bướm rồi rời khỏi nhân gian, chúng ta may mắn hơn họ nhiều.”

    Nghe y nói vậy, tôi cũng lập tức cảm thấy không hay, vội cười, nói: “Muội chỉ nói bừa vậy thôi mà, đó chẳng qua là một truyền thuyết, chúng ta nghe cho biết thôi.”

    Y bật cười. “Cũng phải, bây giờ ta cứ hay cả nghĩ, không dám nghe những lời xui xẻo. Có điều, qua đó có thể thấy trái tim của một nam tử khi bị nữ tử mà mình yêu giữ chặt lấy rồi thì sẽ khó mà phóng khoáng được.”Tôi ngẩng lên nhìn y, cười tủm tỉm, nói: “Huynh cứ đi mà phóng khoáng. Thanh Hà Vương vốn nổi tiếng phong lưu, còn không sợ không có vô số nữ tử xinh đẹp nhào tới hay sao?”

    Y thầm nôn nóng, bèn đưa tay tới cù tôi. Tôi vừa né tránh vừa làu bàu nói: “Huynh đúng là thiếu tính hài hước mà, vừa nói thế thôi đã không chịu được, bây giờ còn ức hiếp muội nữa, nhất định là thẹn quá hóa giận rồi.”

    Y giữ chặt tôi mà cù, lại trừng mắt nhìn tôi. “Ta thẹn quá hóa giận bao giờ?”

    Tôi cười vang không ngớt, không khỏi có chút nôn nóng, nói: “Cứ nói chuyện bình thường là được, huynh làm thế này còn ra sao nữa.”

    Vạt áo của y và vạt áo của tôi vốn đã được buộc vào nhau, vừa rồi tôi đứng dậy liền bị vướng, cả hai cùng ngã xuống, một nửa thân thể y đè lên người tôi, cả hai người cùng nằm trên giường, tư thế vô cùng mờ ám. Y ở cách tôi rất gần nhưng lại không chịu tránh ra, chỉ nói: “Muội còn nói linh tinh nữa không?”

    Tôi đành năn nỉ: “Huynh tránh ra trước đi, coi như muội đã nói linh tinh rồi.”

    Y đưa mắt nhìn vạt áo, rồi liền cười rộ chỉ tay vào nút thắt bên trên. “Cái này là tự nàng thắt cơ mà.” Thấy tôi càng có vẻ thẹn thùng hơn, y liền nhéo mũi tôi một cái, trong mắt ánh lên vẻ tinh nghịch. “Đợi lát nữa nàng mà còn linh tinh, ta nhất định sẽ véo cái mũi này của nàng xuống, xem nàng còn dám nghịch ngợm nữa không.”

    Thừa lúc y không chú ý, tôi vội đẩy y ra, vuốt phẳng lại vạt áo, miệng cười tủm tỉm, liếc mắt nhìn y. “Có huynh nói linh tinh thì có, là ai nghịch ngợm nào?”

    Y lại đưa tay ôm lấy tôi, trán đụng vào trán tôi, ngón tay chỉ vào nút thắt nơi vạt áo. “Mới hay thắt nút áo, chẳng bằng thắt nút lòng. Bây giờ nàng đã thấy câu này đúng chưa?”

    Tôi hậm hực lườm y một cái, rốt cuộc không kìm được phải bật cười, ngoảnh đầu đi hướng khác, suy nghĩ một chút rồi mới chậm rãi nói: “Khi huynh quay về chắc đã gần tới tháng Hai rồi”, sau đó khẽ ngâm: “Trên đồng hoa nở, có thể chầm chậm quay về.”

    “Trên đồng tuy hoa đã nở nhưng xin hãy sớm quay về.” Trong lòng tôi trào dâng nỗi dịu dàng mà thương cảm, thấp giọng nói: “Bởi vì… có muội chờ huynh ở nơi đây.”

    Bàn tay y áp lên má tôi, rất ấm áp, dường như da thịt y và da thịt tôi đã hòa làm một. Y ghé tai tôi, khẽ nói: “Ngày nào nàng còn ở đây, ngày đó ta sẽ còn một lòng mong có thể quay về. Ngay đến Ngự Phong của ta cũng cần phải đưa ta vượt qua ngàn dặm về đây, bất cứ thứ hương hoa gì cũng không thể giữ lại được.”

    Tôi khẽ “ưm” một tiếng, vùi đầu vào lòng y, thầm nghĩ chỉ cần chờ tới lúc y quay về, tôi và y sẽ có thể sớm tối bên nhau, trong lòng bất giác trào dâng nỗi cảm xúc ngọt ngào vô tận.

    Ngoài cửa sổ, trời tối đen như mực, tuyết rơi càng lúc càng lớn, đạp vào lớp giấy dán cửa sổ làm vang lên những tiếng soàn soạt nhè nhẹ, như hòa làm một với tiếng thở dồn dập của y. Chậu lửa lúc này đang cháy mạnh, căn phòng lại càng ấm áp, xuân sắc tràn ngập.

    Chẳng biết qua bao lâu, A Tấn bên ngoài gõ cửa mấy lần, tôi mơ màng trở mình, đột nhiên nghĩ ra A Tấn đang giục Huyền Thanh quay về vương phủ. Tôi thầm kinh hãi, như bị một chậu nước lạnh giội thẳng xuống đầu, sau nháy mắt đã tỉnh táo trở lại.

    Y chậm rãi xoay người, choàng cánh tay qua, ôm chặt tôi vào lòng, không chịu buông lơi.

    Trong lòng bỗng trào dâng nỗi buồn man mác, tôi khẽ tựa đầu vào ngực y. Bên ngoài cửa, A Tấn cất tiếng thúc giục, giọng đã lớn hơn: “Vương gia phải dậy rồi, chúng ta còn cần về vương phủ nữa, dù sao cũng không thể xuất phát từ đây được.”

    Trong giấc mộng, Huyền Thanh hơi cau mày, tôi không muốn thúc giục y, vội vàng nhắm mắt, giả vờ như thể vẫn đang ngủ say.

    Một lát sau, bên cạnh vẫn tĩnh lặng, Huyền Thanh chẳng hề động đậy. Tôi chậm rãi mở mắt, thấy y lúc này đã tỉnh rồi, đang nhìn tôi bằng cặp mắt chứa chan tình cảm.

    Tôi nhất thời thẹn thùng, lí nhí nói: “Huynh tỉnh rồi?”

    Y khẽ gật đầu, lại cúi xuống hôn lên trán tôi, cánh tay đang ôm tôi càng dùng sức hơn. Y ghé tai tôi, khẽ nói: “Còn chưa ly biệt, ta đã cảm thấy đắng cay rồi!”

    Tôi cố kìm nén nỗi chua xót trong lòng, nhẹ nhàng cất tiếng: “Trước đắng sau ngọt. Thanh, đợi huynh trở về, chúng ta sẽ có thể vĩnh viễn bên nhau, không còn phải chia ly nữa, đúng vậy không nào?”

    Huyền Thanh gật đầu thật mạnh, cất giọng kiên định nói: “Đúng vậy, đợi ta quay về, ta và nàng sẽ không bao giờ chia ly nữa.”

    Nỗi mừng vui nơi đáy lòng tôi tựa như bông hoa nở rộ trong sự chua xót, càng nở càng xuống thấp hơn, gần như chìm nghỉm giữa vô số bụi bặm. Nhưng nỗi vui mừng ấy ngay đến cát bụi trên thế gian này cũng không thể vùi lấ được, đó là cảm giác tràn ngập trong tim, khiến tôi vô cùng xúc động.

    Tôi đẩy cánh tay y ra, khẽ nói: “A Tấn đã ở bên ngoài đã nôn nóng lắm rồi, huynh mau dậy đi, đừng chần chừ thêm nữa.” Giọng tôi hạ thấp, nhỏ như muỗi kêu: “Chúng ta bên nhau không chỉ lúc này.”

    Y vừa nói vừa đặt xuống má tôi những nụ hôn dày đặc như mưa. “Hai tình ví phỏng lâu dài, đâu cứ phải mai mai tối tối[3]. Nàng không biết đâu, bây giờ ta căm ghét câu thơ này vô cùng. Đợi một thời gian nữa, chúng ta thực sự có thể mai mai tối tối bên nhau rồi.”

    [3] Trích Thước kiều tiên, Tần Quán, dịch thơ Nguyễn Xuân Tảo. Nguyên văn Hán Việt: Lưỡng tình nhược tại trường cửu thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ – ND.

    Tôi tựa người vào ngực y, nước mắt thiếu chút nữa lã chã tuôn rơi. Tôi trịnh trọng nói: “Chúng ta ngoắc tay nào!”

    Y bật cười, nhéo mũi tôi một cái. “Cứ như trẻ con vậy”, nhưng vẫn rất trịnh trọng ngoắc tay với tôi. “Ta trước nay chưa từng nuốt lời với nàng bao giờ.”

    Tôi mỉm cười, đúng vậy, y quả thực chưa từng nuốt lời với tôi.

    Thanh đã đáp ứng chuyện gì với tôi, trước giờ đều luôn làm được, tôi rất yên tâm.

    Y đứng dậy, bàn tay y vốn áp trên mu bàn tay tôi, đã áp cả một đêm rồi, trong khoảnh khắc hai bàn tay rời nhau, tôi bỗng cảm thấy như có thứ gì đó đã bị tách rời khỏi thân thể của mình vậy. Trái tim tôi bỗng giật thót, chừng như đã nứt toạc ra, cả thân thể đều trở nên trống rỗng đến khó tả.

    Cảm giác khi y rời khỏi tôi, khi hai làn da tách khỏi nhau ấy thật vô cùng dữ dội, như thể làn da của tôi và y vốn nên ở chung một chỗ với nhau. Từ mu bàn tay tôi bỗng truyền tới cảm giác nóng bỏng, tựa như bị một miếng sắt nóng ấn vào, mà bàn tay y dường như vẫn còn đặt trên mu bàn tay tôi vậy. Sự khó chịu trong lòng tôi bất giác càng thêm nồng đậm.

    Khi ngẩng lên, tôi thấy y đã mặc xong áo lót, đang nhìn chiếc áo khoác ngoài treo trên giá áo trước giường mà mỉm cười thích thú. Tôi đưa mắt nhìn qua, cũng không kìm được cười phì một tiếng.

    Thì ra tối qua trước khi đi ngủ, áo của tôi và áo của y đã được treo tách riêng ra, nhưng bây giờ buộc chung một chỗ.

    Tôi khẽ cười, nói: “Mới hay thắt nút áo, chẳng bằng thắt nút lòng. Huynh đã nói với muội như vậy, không ngờ vẫn làm việc này.”

    Y xoay người lại, dưới ánh bình minh, khuôn mặt tuấn tú của y tựa như tia nắng đầu tiên chiếu tới từ nơi chân trời. “Lòng đã thắt nút rồi nhưng ta còn muốn thắt thêm nút áo nữa. Nàng có cảm thấy ta tham lam quá không?”

    Tôi thoáng chút thẹn thùng nhưng vẫn nở nụ cười vui vẻ. “Dù huynh tham lam, muội cũng thích cái sự tham lam ấy của huynh.”

    Tôi chậm rãi cởi nút thắt trên chiếc áo ra, tự tay khoác lên người cho y, dịu dàng nói: “Huynh mặc vào đi!”

    Y ăn mặc chỉnh tề xong, lại nói thêm lần nữa: “Nàng đợi ta về nhé!”

    Tôi gật đầu thật mạnh, lại khẽ hôn lên môi y một cái. “Muội sẽ đợi huynh.”
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 39: Nghe đàn cởi ngọc thần tiên bỏ [1]
    [1] Trích Mộc lan hoa, Án Thù, dịch thơ Điệp Luyến Hoa. Nguyên văn Hán Việt: Văn cầm giải bội thần tiên lữ – ND.

    Huyền Thanh lẳng lặng rời đi, kỳ thực đây là lần đầu tiên chúng tôi xa nhau lâu ngày như thế.

    Thế nhưng không rõ tại sao, lòng tôi cứ luôn bất an, muốn may cho y một chiếc áo bào, chỉ là mới khâu được vài mũi thì đã bị kim đâm vào ngón tay. Một giọt máu đỏ tươi rỉ ra, Hoán Bích vội chạy tới, nói: “Sao lại không cẩn thận như thế chứ?”

    Tôi ngậm đầu ngón tay một lát rồi mới gượng cười, nói: “Không biết tại sao, hôm nay lòng ta cứ bồn chồn, bất an.”

    Hoán Bích cười, nói: “Chắc vì nghĩ đến việc Vương gia phải đi xa một tháng đó thôi!” Hai mắt muội ấy trong veo, khoan thai nói tiếp: “Chi bằng tiểu thư hãy đi tiễn Vương gia một chuyến.”

    Tôi vội xua tay lia lịa. “Sao lại thế được, nếu bị người ta nhìn thấy thì hỏng bét.”

    Hoán Bích ghé tai tôi, cười tủm tỉm, nói: “Nô tỳ nghe A Tấn nói rồi, việc hoàng thượng phái Vương gia ra ngoài rất kín dáo, do đó không có quan viên triều đình nào đưa tiễn đâu. Lần này chỉ có A Tấn đi cùng Vương gia, hai người bọn họ lên thuyền ở sông Bá.” Giọng Hoán Bích nghe đầy vẻ xúi giục: “Tiểu thư có đi không?”

    Chỉ suy nghĩ trong nháy mắt, tôi liền đứng dậy nói với Hoán Bích: “Mang áo choàng của ta tới đây!”

    Tuyết vừa ngừng rơi, đường đi trơn trượt, dù tôi đã giục ngựa đi nhanh nhưng khi tới nơi, Huyền Thanh cũng đã lên thuyền rồi.

    Tôi không kìm được giậm chân buồn bực, có điều Huyền Thanh ở phía xa đã nhìn thấy tôi, trên khuôn mặt tuấn tú lộ ra vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.

    Cách nhau một quãng sông, tôi đứng trên bờ, dùng ánh mắt tiễn y rời đi. Ánh mắt Huyền Thanh đầy vẻ bịn rịn, một mực dừng lại trên người tôi, tựa một con diều giấy, dù bay xa ngàn dặm nhưng vẫn luôn có một sợi dây giữ lại.

    Y đứng đằng xa hô lớn: “Ta sẽ quay về nhanh thôi!”, nói xong liền im lặng, nở nụ cười chứa chan niềm quyến luyến.

    Tôi biết câu tiếp theo mà y muốn nói là gì.

    Đợi ta quay về.

    Cũng giống như lời hẹn ước dưới ngọn đèn tối qua, y nói, đợi ta quay về là chúng ta có thể bên nhau mãi mãi.

    Thế là nơi đáy lòng tôi trào dâng niềm hân hoan vô hạn, tựa những bông hoa đang nở rộ không ngừng, bên trong chan chứa nỗi chờ mong. Rồi tôi liền vẫy tay hô lớn: “Muội nhất định sẽ đợi huynh, đợi huynh quay về.”

    Tôi giơ cao tay vẫy vẫy, chiếc khăn lụa đang cầm trong tay theo đó bay lất phất, màu vàng của chiếc khăn cũng giống như tâm trạng tôi lúc này, tuy sự biệt ly đang ở ngay trước mắt nhưng vì có muôn vàn nỗi chờ mong nên vẫn tươi vui và rạng rỡ vô cùng. Chợt tay tôi buông lỏng, một làn gió sông thổi tới, cuốn chiếc khăn bay đi xa.

    Tôi sững người, mắt nhìn chiếc khăn đó như cánh bướm lất phất bay đi, muốn đưa tay ra chụp nhưng không còn kịp nữa, đành trơ mắt nhìn nó từ từ mất dạng, trong lòng bất giác nảy sinh nỗi ưu sầu. Thế nhưng bình tâm nghĩ lại, đó chẳng qua chỉ là một chiếc khăn tay mà thôi, mất cũng đâu có gì đáng tiếc, thế là lòng tôi dần bình tĩnh trở lại. Cánh buồm lúc này đã lướt đi xa, vầng mặt trời đỏ rực chiếu xuống mặt sông một mảng màu đỏ rộng lớn vô bờ, chừng như muốn nuốt chửng con người ta vào trong đó.

    Tôi nhón chân nhìn theo chiếc bóng đã biến mất thành một đốm nhỏ của y, điệu bộ ấy giống hệt một người vợ tha thiết mong ngóng chồng mình quay về.

    Y đi xa rồi, lòng tôi càng trở nên cô quạnh, cô quạnh đến tột cùng.

    Mỗi một ngày, mỗi một giờ, mỗi một khắc, tôi đều chờ mong và hy vọng y có thể mau quay về.

    Huyền Thanh đã nói rồi, y chỉ rời xa một tháng. Vầng trăng tròn rồi lại khuyết, một tháng kỳ thực sẽ trôi qua nhanh thôi.

    Chỉ là trong lòng tôi, một ngày không gặp như cách ba thu, y mới đi có ba ngày, vậy mà tôi cảm thấy như là ba năm trời đằng đẵng.

    Người trong cuộc tương tư, thường không chịu nổi nỗi sầu ly biệt, cũng hay vì sự ly biệt này mà cảm thấy cô đơn, có điều đây không phải là nỗi cô đơn tuyệt vọng, mà còn thấp thoáng niềm vui, bởi ai kia sẽ có một ngày quay trở về.

    Thế là trong quãng thời gian cô đơn giữa mùa đông tuyết bay lất phất, tôi cố ăn thật nhiều để giữ cho mình khỏe mạnh, hy vọng khi y quay về, sẽ không cần nói ra câu: “Nàng gầy đi nhiều rồi!”

    Mùa đông nơi ngoại ô kinh thành bị bao phủ trong màu trắng tinh khôi của tuyết, ngay đến những dãy núi nhấp nhô trùng điệp cũng bị tuyết trắng phủ dày, nơi nơi ngợp trong bóng tuyết. Còn Điền Nam, có lẽ bây giờ vẫn còn đang ấm áp với khí hậu bốn mùa như mùa xuân.

    Giữa thế giới đầy những băng tuyết hiện giờ nỗi nhớ nhung của tôi với y càng thêm mãnh liệt.

    Mỗi lần rảnh rỗi, tôi lại lấy Trường tương tư ra gảy, gửi tình mình vào trong những khúc nhạc du dương.Cận Tịch ngày đêm bầu bạn bên tôi, mỗi khi nghe thấy tiếng đàn liền bỏ vào lò hương một mảnh hương liệu nhỏ, mùi hương liền chậm rãi tỏa ra. Giữa quãng ngày bình yên ấy, Cận Tịch khẽ nói: “Cái gọi là thần tiên quyến lữ[2], trong kiếp sống này nô tỳ mới chỉ từng thấy hai cặp, ngoài Vương gia và nương tử bây giờ ra chính là Hoàng thượng và Thuần Nguyên Hoàng hậu năm xưa.”

    [2] Câu thành ngữ ý nói hai vợ chồng ân ái hòa thuận, tựa như thần tiên trên trời – ND.

    Tôi mỉm cười vui vẻ, tuy biết rõ mình và Huyền Thanh yêu thương ân ái nhưng ngoài miệng vẫn cất tiếng hỏi: “Vậy trong mắt Cận Tịch, phải như thế nào mới xứng với bốn chữ ‘thần tiên quyến lữ’ đó?”

    Nàng ta đáp: “Như nương tử và Hoàng thượng trước đây, tuyệt đối không thể coi là thần tiên quyến lữ.”

    Tôi cụp mắt xuống, trong mắt thoáng qua một tia lạnh lùng. “Tất nhiên là vậy rồi.”

    “Nếu xét về dung mạo, khí chất, Hoàng thượng và nương tử có thể tính là một đôi, tất nhiên Vương gia và nương tử lại càng là một cặp người ngọc. Để có thể coi là thần tiên quyến lữ, bề ngoài tất nhiên phải nam tuấn tú, nữ mỹ miều, tô điểm cho nhau, không thể là những cặp kiểu như Vô Diệm và Chu Lang, Tiểu Kiều và Võ Đại[3]. Thế nhưng chỉ có vẻ bề ngoài thôi thì còn xa mới có thể gọi là thần tiên quyến lữ.” Cận Tịch chậm rãi nói tiếp: “Nương tử có biết là vì duyên cớ gì không? Nô tỳ là người đứng ngoài nên thấy rõ, nương tử tuy có phần thật lòng với Hoàng thượng nhưng nhiều hơn vẫn là sự mưu tính; còn Hoàng thượng cũng không phải là vô tình với nương tử, có điều thứ tình cảm ấy quá giả tạo, nếu không phải như thế, nương tử đã chẳng rơi vào cảnh ngộ như bây giờ. Huống chi Hoàng thượng và nương tử tôn ti phân rõ, không giống như Lục vương gia và nương tử, hai bên thật lòng đối đãi, coi nhau ngang hàng. Chỉ khi nào hai bên nam nữ đều hết lòng hết dạ, lại ý hợp tâm đầu, vậy mới có thể coi là thần tiên quyến lữ.”

    [3] Vô Diệm tức Chung Vô Diệm, nổi danh xấu xí. Chu lang tức Chu Du, chồng của Tiểu Kiều, vừa tài giỏi vừa phong lưu tuấn tú, Tiểu Kiều thì mỹ miều xinh đẹp. Võ Đại tức Võ Đại Lang, người lùn thấp xấu xí, là nhân vật hư cấu trong truyện Thủy hử – ND.

    Nghe nàng ta nhắc tới chuyện cũ giữa Huyền Lăng và tôi, tôi bất giác hơi sững người nhưng rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại. “Cận Tịch cũng từng ái mộ nam tử nào rồi sao? Nói năng sao nghe rõ ràng mạch lạc quá vậy?”

    Cận Tịch đỏ bừng hai má. “Nương tử nói đùa rồi, nô tỳ trước đây vốn luôn hầu hạ trong cung, chẳng dễ gì gặp được nam tử nào, bây giờ đã ba mươi lăm tuổi, sao có thể ái mộ ai được. Chẳng qua sau một thời gian dài sống trong cung, nô tỳ cũng biết được một số việc, do đó mới có thể nói ra mấy lời này.”

    Tôi đặt tay lên dây đàn, khẽ cất tiếng hỏi: “Năm xưa Thuần Nguyên Hoàng hậu và Hoàng thượng cũng ân ái với nhau như ta và Thanh lang bây giờ sao?”

    Cận Tịch đáp: “Hoàng thượng khi đó còn trẻ, Thuần Nguyên Hoàng hậu… thực sự là một người rất tốt.”

    Tôi có chút không tin, cười, nói: “Nhưng còn muội muội của cô ta thì sao?”

    Cận Tịch vội lắc đầu nguầy nguậy. “Thuần Nguyên Hoàng hậu và Hoàng hậu bây giờ không phải là cùng một loại người.”

    Thuần Nguyên Hoàng hậu là nỗi đau lớn nhất của tôi trong cung, tôi chưa từng gặp nàng ta bao giờ, chỉ được nghe người khác kể lại một số chuyện về nàng ta. Thế nhưng suốt bốn năm trời ở trong cung, tôi chỉ là một cái bóng của nàng ta mà thôi.

    Tôi cố kìm nén tâm trạng sục sôi nơi đáy lòng. “Thuần Nguyên Hoàng hậu rốt cuộc là người như thế nào?” Đầu óc tôi bỗng trở nên hỗn loạn. “Cận Tịch, ngươi nói nàng ta từng giúp đỡ ngươi, Thái hậu cũng nhớ mãi không quên nàng ta, Hoàng thượng thì vì nàng ta mà trái tim trở nên lạnh lùng, cuồng dại, Đoan Phi gảy tỳ bà hay như thế mà cũng chỉ mới có được mấy phần chân truyền của nàng ta, còn điệu Kinh Hồng vũ cũng phải qua tay nàng ta cải biên rồi mới lưu truyền thiên hạ, hồi nhỏ ta nghe nói Thuần Nguyên Hoàng hậu múa điệu Kinh Hồng làm điên đảo chúng sinh, người xem không ai là không tán thán, trên thế gian này lã nào thực sự có một nữ tử hoàn hảo như thế sao?”

    Cận Tịch hơi ngơ ngẩn, giọng nói thấp thoáng nét sầu: “Trước đây ở trong cung, mọi người đều không được phép bàn luận về Thuần Nguyên Hoàng hậu, ngay đến Hoàng hậu cũng giữ kín như bưng việc này, do đó ngoài mấy người vào cung từ sớm như Đoan Phi, Lục Thuận nghi và Lý Tu dung thì không còn ai biết tới Thuần Nguyên Hoàng hậu nữa. Kỳ thực cơ duyên giữa nô tỳ và Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng có hạn, chỉ mới gặp nhau vài lần. Nhưng nô tỳ cảm thấy, khắp cả hậu cung, không có ai lương thiện và ít tâm cơ hơn Thuần Nguyên Hoàng hậu.”

    Tôi khẽ cười hờ hững. “Ngươi từng nói ta là một bông hoa hồng có gai, còn Thuần Nguyên Hoàng hậu thì là hoa bách hợp.”

    Cận Tịch thõng tay đứng đó. “Thuần Nguyên Hoàng hậu giống như một bông bách hợp nơi thâm khuê, không hề biết đến sầu khổ, lại càng giống với một bông thủy tiên, chẳng dính chút bụi trần. Dùng lời của Thái hậu để nói thì nếu Thuần Nguyên Hoàng hậu là công chúa, cả đời sẽ chẳng có nỗi ưu lo nào cả, lúc nào cũng được hạnh phúc.”

    Tôi bất giác thầm nghĩ, một nữ tử như vậy rốt cuộc phải có dung mạo và khí chất thế nào, có lẽ giống như là tiên tử trên trời vậy.

    Cận Tịch thoáng dừng rồi lại nói tiếp: “Cho nên Thuần Nguyên Hoàng hậu không thích hợp làm hoàng hậu, cũng không quen với vị trí hoàng hậu.”

    Tôi khẽ cười lạnh một tiếng, nhưng cũng có chút khâm phục. “Nói đến làm hoàng hậu, không có ai thích hợp hơn vị Hoàng hậu nương nương của chúng ta bây giờ.”

    Cận Tịch nói: “Không sai, khi ở trong cung hầu hạ nương tử, nô tỳ thường khuyên nương tử phải nh뮠tâm, phải quyết đoán, nguyên nhân chính là như vậy. Thuần Nguyên Hoàng hậu cố nhiên lương thiện, nhưng cũng vì thế mà không có một kết cục tốt.” Nàng ta hờ hững nói tiếp: “Đương nhiên, đây là chuyện của ngày trước rồi.” Cận Tịch chăm chú nhìn tôi, cất giọng chân thành: “Nương tử có ngày hôm nay cũng coi như đã thoát khỏi bể khổ, đợi sau này Vương gia đưa nương tử ra khỏi cửa Phật và ở bên nương tử mãi mãi, nô tỳ sẽ không còn điều gì nuối tiếc nữa.”

    Tôi khẽ gật đầu, nghĩ tới một ngày như thế, trong lòng cũng dâng tràn nỗi mừng vui và mơ mộng. “Nếu quả có một ngày như thế, ta cũng không còn điều gì nuối tiếc nữa.”

    Cận Tịch nở nụ cười tươi. “Ngày ấy chắc cũng sắp tới rồi, khi đó nương tử nhớ đừng vứt bỏ nô tỳ và Hoán Bích cô nương nhé!”

    Tôi mỉm cười, nói: “Ba người chúng ta đồng cam cộng khổ, nhất định sẽ mãi ở bên nhau.”

    Cận Tịch lộ nét vui mừng. “Nếu ngày sau có thể mãi mãi ở bên hầu hạ nương tử và Vương gia, đó cũng là cái phúc của nô tỳ.” Nói rồi liền vạch ngón tay ra tính toán. “Chỉ còn hai mươi ngày nữa thôi là Vương gia sẽ quay trở về.”

    Cây đàn Trường tương tư trong tay tôi là sự khởi đầu cho giấc mộng, còn Trường tương thủ của Huyền Thanh chính là nơi giấc mộng đi tới điểm tận cùng. Nhớ về con đường dài dằng dặc đã đi qua, lại nghĩ tới việc sắp đi hết giấc mộng, lòng tôi xao xuyến không yên. Tôi bất giác thầm nhớ lại những tháng ngày ở bên Huyền Thanh, đó thực là khoảng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời, suy nghĩ như vậy, đôi tay tôi bất giác khẽ lướt qua Trường tương tư, một khúc nhạc vang lên da diết.
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 40: Kéo đứt áo mơ không thể giữ [1]
    [1] Trích Mộc lan hoa, Án Thù, dịch thơ Điệp Luyến Hóa. Nguyên văn Hán Việt: Vãn đoạn la y bất lưu bất trụ – ND.

    Năm mới cứ như thế trôi qua trong lặng lẽ, bấm ngón tay tính thử, chỉ còn năm, sáu ngày nữa thôi là y sẽ quay về.

    Nghĩ tới đây, lòng tôi vừa vui vẻ vừa phấn chấn. Hôm nay tuyết bắt đầu tan, trời quang nắng đẹp, tôi vừa mới tới An Tê quán thăm Thư Quý thái phi quay về, đang ngồi uống trà trong phòng, chợt nghe bên ngoài vang lên một tiếng bẩm báo the thé chói tai: “Mạc Sầu sư thái, có quý nhân trong cung tời thăm.”

    Tôi và Hoán Bích nhìn nhau ngơ ngẩn rồi mới chợt nhớ ra “Mạc Sầu sư thái” chính là tôi chứ không phải ai khác. Nhưng còn quý nhân trong cung thì là ai đây? Phương Nhược mỗi lần tới thăm tôi đều không phô trương thế này.

    Có điều rất nhanh sau đó, một nữ tử ăn mặc hoa lệ đã chậm rãi bước vào với sự dìu đỡ của hai người thị nữ. Nữ tử đó khoác một chiếc áo lông hạc viền vàng, trên đầu đội mũ nên nhất thời khó có thể nhìn rõ tướng mạo, nhưng hai người thị nữ đi bên cạnh hầu hạ chính là Thái Nguyệt và Bạch Sầm.

    Tôi cả mừng, gần như không dám tin người trước mắt lại là My Trang nhưng lúc này Thái Nguyệt đã hô lên: “Huệ Quý tần tới!”

    My Trang lúc này đã bỏ mũ và cởi áo khoác ngoài, thoạt nhìn qua trông tỷ ấy đẫy đà hơn một chút so với trước đây, mái tóc bới theo kiểu như ý, bên trên được điểm xuyết bằng mấy bông hoa lục diệp tinh xảo, lại cài thêm một cây trâm vàng hình bông sen có mấy sợi tua đính phỉ thúy, ngoài ra thì không còn gì khác, nhìn đơn giản mà không kém phần trang trọng. Trên người tỷ ấy là một chiếc áo gấm cổ cao màu vàng, kèm theo chiếc váy dài màu xanh biếc bên dưới, tuy đều là loại trang phục bình thường nhưng lại càng tôn lên khí chất cao quý, trang nhã của tỷ ấy.

    Tôi thầm cảm thấy mừng rỡ, hai mắt cay cay, vội quỳ xuống bái lạy. “Quý tần nương nương kim an!”

    Lời còn chưa dứt, My Trang đã đưa tay tới đỡ lấy tôi, trong mắt rưng rưng ánh lệ. “Hoàn Nhi, là ta không tốt, mãi bây giờ mới tới thăm muội.”

    Nghe thấy những lời này, nước mắt của tôi bất giác lã chã tuôn rơi, chẳng biết phải nói gì, chỉ lẳng lặng quan sát My Trang sau một thời gian dài xa cách.

    My Trang thấy tôi rơi nước mắt, vội đưa tay tới lau giúp. “Hai tỷ muội chúng ta gặp lại sau mấy năm trời xa cách, muội nên cười mới phải chứ.” Sau đó lại lấy khăn tay ra đưa cho tôi. My Trang nhìn quanh nơi ở của tôi, không kìm được hơi cau mày, nhìn qua hướng trụ trì Tĩnh Ngạn vừa mới bước vào. “Tại sao lại để muội muội của bản cung tới ở tại một nơi hẻo lánh thế này? Bản cung từ chùa Cam Lộ tới đây, cho dù ngồi kiệu cũng mất tới một tuần hương, chùa Cam Lộ đối xử với một vị nương tử rời cung tu hành như thế này sao?”

    Giọng của My Trang không hề nghiêm khắc nhưng lại không giận mà uy, thêm vào đó còn có thân phận của một quý tần đè xuống, Tĩnh Ngạn còn chưa nói gì, Tịnh Bạch đứng bên cạnh đã toát đầy mồ hôi lạnh.

    Tôi được gặp lại My Trang thì đã mừng rỡ vô cùng, không muốn vì mấy người này mà mất hứng, cũng không đành lòng làm khó trụ trì, vì vậy bèn nói: “Thời gian trước muội bị bệnh, do đó mới dọn tới đây tĩnh dưỡng, việc này không liên quan gì tới trụ trì đâu.”

    Tĩnh Ngạn nhẹ nhàng cất tiếng: “Đa tạ Mạc Sầu nói giúp.”

    Tịnh Bạch cũng gật đầu lia lịa, nói: “Phải phải phải, Mạc Sầu bị bệnh nên mới dọn ra ngoài.”

    My Trang hơi cau mày nhưng cũng không hỏi gì thêm, chỉ nói: “Các ngươi hãy ra ngoài trước đi, bản cung có mấy lời muốn nói với Mạc Sầu.” Mọi người đang định rời đi, My Trang lại nói: “Tịnh Bạch sư thái thân thể tráng kiện, hãy giúp bản cung dọn sạch chỗ tuyết đọng trên quãng đường núi cần phải đi qua để hồi cung đi.”

    Thái Nguyệt mím môi cười, nói: “Để tỏ lòng thành với Quý tần nương nương, xin sư thái hãy một mình hoàn thành công việc này.”

    Khuôn mặt Tịnh Bạch tái nhợt, lúc này tuy tuyết đã tan nhưng tuyết đọng trên đường vẫn còn khá nhiều, vả lại quãng đường núi My Trang phải đi qua để hồi cung không hề ngắn, bà ta muốn một mình quét dọn xong xuôi thực chẳng phải là chuyện dễ dàng gì.

    Tôi thấy đám người Tịnh Bạch đều đã ra ngoài, liền cười, nói với My Trang: “Việc gì phải làm khó bà ta như vậy chứ?”

    My Trang không trả lời, mà đưa tay kéo tôi ngồi xuống. “Muội ở trong chùa Cam Lộ đã phải chịu rất nhiều nỗi ấm ức đúng không?”

    Tôi lắc đầu. “Đâu có!”

    “Muội đúng là tốt tính quá đấy, đến bây giờ mà còn giấu ta, làm như ta không biết gì hết vậy. Muội bị trục xuất khỏi cung, trên đời này có mấy ai mà không giậu đổ bìm leo, cho dù là nơi cửa Phật, ta cũng không tin có thể khác được, huống chi chùa Cam Lộ còn là ngôi chùa của hoàng gia.” My Trang cười lạnh một tiếng. “Muội không biết đó thôi, vừa rồi khi ta muốn tới thăm muội, mụ ni cô tên Tịnh Bạch kia cứ liên tục kiếm cớ ngăn cản, lúc thì nói trời lạnh, lúc thì nói đường trơn. Ta vừa gặp muội, nói được vài câu mà mụ ta đã chột dạ đến mức như vậy, có thể thấy thường ngày mụ ấy đã ức hiếp muội rất nhiều. Đã biết muội bị ức hiếp, sao ta có thể để yên được, trừng trị mụ ngay trước mặt muội thứ nhất là dạy cho mụ một bài học, thứ hai là cho mụ biết rằng không phải muội xúi bẩy ta, để rồi sau đó lại làm khó muội thêm.”

    Tôi thầm cảm thấy ấm áp. “Tỷ suy nghĩ cho muội thực chu đáo quá!”

    Tôi tỉ mỉ quan sát, thấy khí sắc My Trang khá tốt, không kìm được mừng rỡ nói: “Trông tỷ bây giờ càng xinh đẹp hơn rồi!”

    My Trang nhìn rôi chăm chú, cứ như thể nhìn mãi cũng không đủ, chợt lại rơi nước mắt. “May quá, may quá, ta cứ ngỡ muội đã phải chịu khổ rất nhiều, lại nghe trụ trì nói muội bị ốm nặng một phen, phải dọn khỏi chùa Cam Lộ, trên đường tới đây, lòng ta hết sức hoang mang. Bây giờ thấy muội khí sắc tốt thế này, còn duyên dáng hơn cả ngày xưa, ta rốt cuộc đã có thể yên tâm rồi.”

    Tôi vui vẻ nói: “Quãng thời gian trước, nghe nói tỷ được thăng lên làm quý tần, muội đã vui mừng suốt mấy ngày đấy!”

    My Trang hơi nhếch môi: “Quý tần thì sao chứ? Nếu không có việc bị cấm túc năm xưa, có lẽ ta sẽ hớn hở vui mừng. Còn bây giờ, với ta mà nói, ngôi vị quý tần này có khác gì so với thường tại, thái nữ đâu, ta căn bản chẳng để tâm!”

    My Trang vốn xinh đẹp, yêu kiều, tính tình hiền dịu, bây giờ lại trở nên lạnh lùng đến mức này, khiến người ta sinh lòng tiếc nuối. Tôi chợt nghĩ tới một việc, bất giác càng cảm thấy khó chịu. “Dù không để ý đến ngôi vị quý tần nhưng tỷ hà tất phải một mình dọn đến Đường Lê cung chứ?”

    My Trang cười mà như không cười, nhẹ nhàng mân mê chuỗi mã não đeo trên cổ tay, nói: “Muội nắm tin cũng nhanh nhạy thật đấy. Đường Lê cung là nơi muội từng ở, y ắt sẽ không đặt chân vào nữa, càng không gọi một người đang ở tại Đường Lê cung như ta tới thị tẩm, với ta mà nói, đây là chuyện tốt. Hơn nữa muội đi rồi, ta chẳng còn người bạn tri âm nào trong cung, Kính Phi tuy tốt nhưng dù sao cũng là người ngoài, bây giờ ta sống tại nơi ở cũ của muội, nỗi nhớ nhung cũng nguôi ngoai phần nào.”

    Tôi thổn thức nói: “Tỷ việc gì phải vậy?”

    My Trang đưa tay khẽ vuốt ve bờ má. “Như vậy thực sự rất tốt mà. Sau khi muội đi, Hoàng thượng có triệu ta tới hai lần, nhưng giờ ta chỉ cảm thấy ghê tởm y. Tấm thân thanh bạch này của ta, việc gì phải giao cho một kẻ bạc tình như y chứ. Chỉ cần nghĩ tới việc này, ta liền thấy căm ghét cả bản thân mình. Do đó, có thể giữ được ngôi vị quý tần để cùng Kính Phi chăm sóc cho Lung Nguyệt, lẳng lặng chờ thời cơ giúp cho muội, lại không cần thị tẩm, với ta mà nói thực không còn gì tốt hơn.” Trên mặt My Trang lộ nét cười lạnh lẽo. “Gần đây không ngừng có người mới xuất hiện, Hoàng thượng chẳng còn thời gian để ý đến ta nữa. Nhưng như thế cũng tốt, có thân phận Quý tần này rồi, làm một số việc cũng phần nào thuận tiện hơn.”

    My Trang chợt để ý tới lối ăn mặc của tôi lúc này, liền im lặng không nói gì thêm.

    Từ sau khi định tình với Huyền Thanh, vì thiền phòng trên đỉnh Lăng Vân này chẳng có mấy ai qua lại nên tôi ít khi mặc đồ ni cô. Hôm nay tôi mặc một bộ váy màu xanh lam, lại búi gọn mái tóc lên đầu và cài thêm một cây trâm nhỏ để cố định, trông chẳng khác gì một nữ tử dân gian bình thường.

    My Trang tò mò hỏi: “Không phải muội đã xuất gia sao? Cớ sao còn ăn mặc thế này?”

    Lòng tôi thoáng chút bất an, thế nhưng duyên cớ bên trong sao có thể nói với My Trang được chứ, thế là tôi đành mỉm cười che đậy. “Hoàng thượng muốn muội xuất gia, nhưng việc gì muội phải nghe theo lời y. Bây giờ trời lạnh, lại thiếu quần áo để thay, do đó muội mới lấy quần áo ngày xưa ra mặc tạm.”

    Vừa khéo lúc này Hoán Bích bưng trà tới, nghe thấy cuộc trò chuyện giữa chúng tôi thì liền nói chen vào: “Huệ chủ tử không biết đấy thôi, tiểu thư nhà nô tỳ cũng nhớ người lắm, mỗi lần Phương Nhược cô cô tới dây, tiểu thư ngoài hỏi han về Công chúa ra thì chỉ hỏi xem chủ tử có khỏe không thôi.”

    Thái Nguyệt gạt lệ, nói: “Tiểu thư nhà ta cũng nào có khác gì, vì việc nương tử bị trục xuất khỏi cung mà nghĩ đủ mọi cách để cầu xin Hoàng thượng, cầu xin Thái hậu, nhưng rốt cuộc vẫn chẳng ích gì, còn chọc giận Hoàng thượng nữa. Nếu không vì thế, tiểu thư hẳn đã được thăng lên quý tần từ lâu rồi.”

    Nghe thấy vậy, lòng tôi không khỏi thầm chua xót. “Lúc rời cung muội đã dặn đi dặn lại rồi, tỷ nhớ phải để ý tới An Lăng Dung và Hoàng hậu, cũng cần cẩn thận Quản thị, đừng vì muội mà hành động theo cảm tính, bảo vệ bản thân quan trọng hơn, sao tỷ không chịu nghe, còn chọc giận Hoàng thượng nữa thế?”

    Sắc mặt My Trang bất giác hơi tái. “Nếu không vì lời dặn của muội, chắc ta đã phát tác từ lâu rồi. Nhưng dù ta có kìm nén đến đâu đi nữa, có không muốn cầu xin Hoàng thượng đến đâu đi nữa, vì muội, ta cũng phải cố thử một lần. Những ngày muội bị cấm túc trong Đường Lê cung, ta đã không giúp được gì, khi muội bị trục xuất khỏi cung, ta cũng chẳng làm gì được, nhưng dù sao cũng phải cố xin cho muội một chút danh phận để muội không bị người ở chùa Cam Lộ ức hiếp.” Trong mắt My Trang ánh lên một tia lạnh lùng. “Đáng tiếc dạ vua khó đoán, y không những không chịu nể mặt Lung Nguyệt mà khôi phục danh phận cho muội, còn chẳng để ý đến món nợ vẫn còn thiếu ta từ thuở xưa, ta mấy lần cầu xin, thiếu chút nữa bị cấm túc lần nữa. Ta vẫn luôn nghĩ y chỉ bạc tình với ta, năm xưa dù gì cũng có chút tình cảm với muội, nhưng không ngờ y bạc bẽo đến mức này!”

    Tôi cắn chặt môi, hờ hững nói: “Sự bạc tình của y, cả tỷ và muội đều biết rõ, sao còn nhắc lại làm gì?”

    My Trang khẽ nở nụ cười, thế nhưng trong mắt lại chẳng có nét cười nào, còn ánh lên những tia lạnh lùng khiến người ta không kìm được phải rùng mình. “Đúng vậy, quả thực không cần nhắc tới loại người bạc tình ấy làm gì nữa.”

    My Trang vì tôi mà không lo nghĩ gì cho bản thân như vậy, tôi thầm cảm động không thôi, dịu dàng nói: “Phương Nhược cô cô có thể thường xuyên tới thăm muội cũng là vì tỷ cầu xin Thái hậu, tỷ thực đã hết lòng hết sức vì muội rồi…”

    My Trang khẽ xua tay, nói: “Nếu đổi lại là ta phải chịu khổ, muội nhất định cũng sẽ vì ta mà làm như vậy thôi. Ta nghe theo lời khuyên của muội, những năm nay luôn sống ẩn mình, không để đám người của Hoàng hậu chú ý, chỉ một lòng hầu hạ Thái hậu và cùng Kính Phi chăm sóc Lung Nguyệt. Vì muốn giải oan cho muội, mấy năm nay ta vẫn luôn chú ý tới mấy kẻ đáng ngờ kia, hiềm rằng bọn họ chẳng để lộ bất cứ sơ hở nào nên đến giờ vẫn chưa có kết quả.” My Trang hơi nhướng mày, chợt lại khẽ mỉm cười. “Có điều dù như thế, ta cũng không phải là chưa làm được việc gì.”

    Tỷ ấy khẽ cười hờ hững, khiến dung mạo càng trở nên xinh đẹp hơn, những sự sắc bén đều ẩn vào sau nụ cười.

    Tôi vô thức đưa ngón tay vẽ mấy vòng tròn trên mặt bàn, đồng thời chậm rãi nói: “Hiện giờ trong hậu cung có người nào có thể cự lại phe phái của Hoàng hậu không?”

    My Trang khẽ vuốt ve mép áo, hờ hững cất tiếng: “Trên đời liệu có được mấy Mộ Dung Phi đây? Mà ngoài cô ta ra, đâu còn ai dám cự lại Hoàng hậu. Hoàng hậu chấp chưởng hậu cung, Đoan Phi và Kính Phi tiếng là hiệp trợ quản lý nhưng căn bản không có thực quyền, chỉ có thể ngoan ngoãn nuôi dưỡng Công chúa của mình, mong được sống những ngày bình an.”

    Tôi thản nhiên nói: “Vậy Xương Quý tần nhà Tấn Khang Quận chúa thì sao?”

    “Muội muốn nói tới Hồ Uẩn Dung à? Lai lịch của cô ta đúng là không vừa, con gái của Tấn Khang Quận chúa, cháu ngoại của Vũ Dương Đại trưởng công chúa, gia thế hiển hách chỉ kém Hoàng hậu, lại sinh được Hòa Mục Công chúa, ngay đến hoàng thượng cũng rất xem trọng cô ta. Tuy khi mới vào cung, địa vị của cô ta có hơi kém nhưng giờ cũng đã là quý tần rồi.” My Trang có chút trầm ngâm. “Ta thấy cô ta cũng là loại người không yên phận, hiện giờ Tam phi vẫn còn thiếu một người, cô ta hẳn vẫn đang nhắm đến vị trí đó. Nếu lần vừa rồi sinh được con trai, chỉ e cô ta sẽ nảy sinh ý đồ với cả cái bảo tọa hoàng hậu kia.”

    Tôi khẽ nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói: “Nhưng bây giờ cô ta không thể sinh con được nữa, đúng không?”

    My Trang hơi nhướng máy, điềm đạm nói: “Cho nên cô ta chỉ có thể lo lắng suông thôi, chẳng còn cách nào hết.” My Trang cầm chén trà, khẽ nhấp một ngụm, nói tiếp: “Ta kỳ thực rất mong cô ta có thể sinh được một đứa con trai, sau đó tranh đấu với Hoàng hậu, tiếc rằng bây giờ cô ta đã chẳng thể sinh nở được nữa rồi.”

    Tôi hơi cau mày, khẽ hỏi: “Ôn Thực Sơ nói với tỷ rồi sao?”

    “Nói rồi, có điều vẫn giấu Hồ Uẩn Dung, mà ta cũng không cho phép Ôn Thực Sơ nói với người khác, thứ nhất là sợ Hồ Uẩn Dung nổi nóng rồi mất chừng mực, thứ hai là sợ cô ta không còn lòng tranh đấu nữa, như thế thì khó mà mượn sức cô ta được.”

    Tâm tư My Trang đã ngày một chín chắn hơn, tôi không kìm được cất tiếng khen ngợi: “Tốt lắm, tỷ thế đơn lực bạc, đúng là phải cẩn thận như thế mới xong.”

    My Trang tao nhã khoát tay, trầm giọng nói: “Sau khi Phó Như Kim chết đi, cuộc sống của Hoàng hậu đã ngày một an nhàn hơn rồi.”

    “Phó Như Kim?” Tôi hơn nheo mắt lại, lòng thầm nghi hoặc.

    “Không biết Phương Nhược đã nói với muội chưa, cô ta chính là Phó Tiệp dư vào cung từ lần tuyển tú trước, được sủng ái vô cùng. Có điều, vì việc ngũ thạch tán nên cô ta đã bị Thái hậu ban cho cái chết, cả gia tộc cũng bị liên lụy.” Trong mắt My Trang ánh lên những tia lửa âm u. “Kỳ thực trong hôm tuyển tú, mọi người đều cho rằng Phó Như Kim nhất định sẽ không được chọn.” Tỷ ấy nói với giọng thổn thức: “Bởi vì cô ta trông quá giống muội, tuy không phải mười phần giống cả mười nhưng những đường nét trên khuôn mặt cô ta khiến người ta vừa nhìn đã nghĩ tới muội ngay. Mấy năm nay, Hoàng thượng vẫn rất giận muội, ngay đến Kính Phi vô tình nhắc đến mà cũng bị trách mắng nặng nề. Bây giờ có một người giống muội xuất hiện, Hoàng hậu lập tức biến hẳn sắc mặt.”

    “Ấy thế mà cô ta lại được chọn, còn đắc sủng vô cùng.” Tôi hơi nhếch khóe môi, để lộ nụ cười lạnh lẽo như có như không. My Trang chưa từng gặp Thuần Nguyên Hoàng hậu, mà Hoàng hậu lại giữ kín như bưng việc này nên tỷ ấy đương nhiên không biết Phó Như Kim được chọn trúng không phải ì giống tôi, mà là vì giống một nữ nhân khác có dung mạo khá giống tôi, khiến Huyền Lăng nhớ mãi không quên suốt bao năm trời.

    “Đúng thế, khi đó mọi người đều nghĩ Hoàng thượng vẫn còn giận muội, Phó Như Kim nhất định sẽ không được chọn, duy có Đoan Phi nói là nữ nhân này nhất định sẽ được chọn vào cung với ngôi vị cao.” My Trang thoáng đảo mắt, trong mắt lấp lánh những tia sắc lạnh. “Trong số các tú nữ được chọn vào lần đó, ngôi vị của cô ta cao nhất, ngay hôm vào cung đã được triệu tới sủng hạnh, tuy không có cái ơn Tiêu phòng như muội trước đây nhưng từ sau khi có được cô ta, Hoàng thượng liền ngày đêm bầu bạn, trong một năm mà thăng cấp cho cô ta mấy lần, còn chuẩn bị thăng cô ta lên làm quý tần nữa, Hồ Uẩn Dung và An Lăng Dung vốn đắc sủng thì đều bị vứt qua một bên. Nếu không có quần thần dâng sớ can gián, chỉ e ngay cả đến việc triều chính, Hoàng thượng cũng chẳng thèm để ý đến.”

    “Thế nên mới có việc ngũ thạch tán đúng không?”

    “Đúng vậy. Kỳ thực dù không có chuyện ngũ thạch tán, e là cô ta cũng khó mà sống lâu được, vì gần như đã đắc tội với toàn bộ hậu cung rồi.” Chẳng biết vô tình hay hữu ý, My Trang cào móng tay giả lên mặt bàn, để lại mấy vệt mờ mờ trên chiếc bàn gỗ. “Ý của Thái hậu chỉ có một chữ, chết!”

    Tôi cúi xuống, hít một hơi thật sâu. “Thái hậu tuyệt đối không cho phép có người chuyên sủng.” Hơi định thần lại, tôi nói tiếp: “Nếu Hoàng thượng thực sự thương yêu cô ta thì không nên sủng ái cô ta như vậy, khiến Thái hậu nảy sinh sát ý.”

    My Trang khẽ “hừ” một tiếng, nói với giọng khinh thường: “Sau khi Thái hậu ban cho cô ta cái chết, Hoàng thượng thậm chí còn chẳng than thở lấy một câu, như chưa từng sủng ái nữ nhân đó vậy.” Hơi dừng một chút, tỷ ấy nói tiếp với vẻ nghi hoặc: “Kỳ thực tới bây giờ, ta vẫn chưa hiểu tại sao Hoàng thượng lại sủng hạnh cô ta. Hoàng thượng rõ ràng chưa thôi trách muội, vậy mà lại sủng ái một nữ tử có vẻ ngoài giống muội, rồi sau khi cô ta chết còn chẳng thương tiếc chút nào.”

    Sao Huyền Lăng có thể thương tiếc được chứ, bởi Phó Như Kim chỉ có vẻ ngoài giống Thuần Nguyên Hoàng hậu mà thôi. Dù cô ta có nhiều tài hoa và trí tuệ đến đâu đi chăng nữa, trong mắt Huyền Lăng cũng chỉ là một cái bóng của người khác không hơn.

    My Trang lại nói: “Phó Như Kim kỳ thực ngoài dung mạo xinh đẹp ra thì chẳng biết gì, thật là một mỹ nhân rỗng tuếch. Nhưng cô ta càng đắc sủng, Hoàng hậu lại càng có vẻ buồn bực không vui.”

    Tôi nở nụ cười đầy ý vị, ngón tay khẽ vuốt ve nắp chén trà. “Hẳn là tỷ đã xúi giục Phó Như Kim đi tranh sủng rồi!”

    My Trang hơi nheo mắt, cũng nở nụ cười tinh quái. “Đúng vậy, ta chẳng qua chỉ dùng chút kế mọn, thế là cô ta lại càng đắc sủng. An Lăng Dung và Quản thị phong quang đã lâu, rốt cuộc đã có ngày phải nếm trải mùi vị bị ghẻ lạnh.”

    Tôi tiện tay với lấy một cành mai xanh đưa lên mũi ngửi, cười nói: “Muội vốn cho rằng cô ta có mấy phần giống muội, tỷ sẽ sinh lòng xót thương cô ta.”

    My Trang bật cười. “Ban đầu thì quả là như vậy, có điều cô ta sao có thể so với muội được, muội ở ngoài cung chỉ cần dùng chút mưu kế đã có thể giúp Lung Nguyệt củng cố sự ân sủng, còn cô ta thì chỉ có cái mẽ bên ngoài và lòng háo thắng mà thôi!” My Trang chợt ngưng tiếng cười, buồn bã nói: “Chỉ là sau khi vị mỹ nhân rỗng ruột này bị ban cho cái chết, trong cung không còn ai có thể khiến địa vị của Hoàng hậu bị lung lay nữa rồi. Thật đáng tiếc!”

    Tôi khẽ vuốt ve bàn tay tỷ ấy, cất giọng trìu mến: “Kỳ thực tỷ không cần suy nghĩ cho muội nhiều như vậy, ngày tháng của tỷ còn dài, nên lo cho bản thân nhiều hơn.”

    Hôm nay được gặp lại My Trang, đây là việc mà tôi chưa từng nghĩ tới, tất nhiên mừng rỡ vô cùng. Thế nhưng đằng sau sự mừng rỡ ấy còn có một nỗi chua xót khó tả. Xa cách bốn năm, chúng tôi rốt cuộc đã có ngày gặp lại, thế nhưng khi Huyền Thanh quay về, sau khi uống Thất nhật thất hồn tán, tôi sẽ phải rời khỏi chùa Cam Lộ, rời khỏi đỉnh Lăng Vân, sau đó mai danh ẩn tích, không thể gặp lại My Trang. Nghĩ đến đây, lòng tôi bất giác trào dâng nỗi sầu ly biệt, lạnh giá tột cùng, hai hàng nước mắt cứ thế tuôn rơi từ lúc nào chẳng hay.

    My Trang xót xa nói: “Muội sao vậy? Đang yên đang lành sao lại khóc thế này?”

    Tôi rơm rớm nước mắt, nói: “Tỷ lúc nào cũng lo nghĩ cho muội như thế…”

    My Trang vội vàng lau nước mắt giúp tôi, cất giọng dịu dàng: “Việc này có đáng kể gì đâu, hai chúng ta vốn còn thân hơn tỷ muội ruột thịt mà. Lung Nguyệt của muội, ta coi như con gái của mình vậy.” Kế đó, tỷ ấy lại nở một nụ cười rạng rỡ. “Muội không biết đâu, Lung Nguyệt bây giờ đáng yêu lắm. Nếu không có nó, cuộc sống của ta trong cung hẳn sẽ nhạt nhẽo vô cùng, ngày dài như năm.”

    Tôi thực sự không biết ư? Cứ cách hai tháng, Huyền Thanh lại mang tranh của Lung Nguyệt tới cho tôi một lần, nó cao lên bao nhiêu, béo hay gầy, tôi đều biết rõ. Thế nhưng những lời này tôi không thể nói với My Trang được, chỉ đành khẽ mỉm cười. “Có tỷ và Kính Phi tận tâm chăm sóc, muội có thể yên tâm được rồi!” Sau khi bình tĩnh lại, tôi chợt nhớ tới một chuyện, bèn hỏi: “Xuất cung chẳng dễ dàng gì, sao hôm nay tỷ lại có thể ra ngoài vậy? Lại còn là trong tháng Giêng nữa.”

    Sắc mặt My Trang bỗng trở nên phức tạp khó tả, u ám tựa bầu trời lúc sắp có tuyết rơi. Tỷ ấy khẽ thở dài một tiếng, hỏi: “Muội còn nhớ Thụy Tần không?”

    Tôi ngẩn ra, một quãng hồi ức xuất hiện trong đầu. Thụy Tần Lạc thị, đó là một nữ tử cương liệt mà rực rỡ tựa sao băng, nàng ta từng nói “nếu rơi vào giữa bụi trần, nguyện ôm cành khô mà chết”, ánh mắt trong veo và bình lặng tột cùng. Cuối cùng thì những lời kia cũng trở thành sự thật, nàng ta tìm đến cái chết để tỏ sự thanh bạch của mình.

    My Trang nói: “Thụy Tần tự vẫn mà chết, phi tần tự vẫn vốn đã mang tội rồi, lại có An Lăng Dung đứng bên đâm chọc, thành ra nàng ta phải chịu tội uy hiếp quân vương, sau khi chết, quan tài bị đặt ở Diên Niên điện, đến cả tư cách an táng ở Phi lăng cũng không có. Những năm nay, vì Hoàng thượng và Hoàng hậu đều không nói gì nên chẳng ai quản đến việc này, cứ để mặc quan tài nàng ta ở Diên Niên điện. Đến tháng Giêng năm nay, Hòa Mục Công chúa của Xương Quý Tần đột nhiên sốt cao, tuy thái y đã tới khám rồi nhưng pháp sư ở Thông Minh điện lại nói việc này là do có linh hồn của phi tần nào đó chưa được siêu độ mà ra. Tính đi tính lại thì phi tần đó chỉ có thể là Thụy Tần, nhưng vì nàng ta chết rồi mà còn mang tội nên việc siêu độ không thể tiến hành ở Thông Minh điện, thành ra chỉ còn cách đưa linh cữu của nàng ta đến chùa Cam Lộ.”

    Tôi nói: “Dù gì việc này làm vào tháng Giêng cũng không may mắn, sao lại được giao cho tỷ vậy?”
    “Pháp sư ở Thông Minh điện nói việc này phải do một nữ tử thanh tịnh đã lâu không được Hoàng thượng sủng hạnh đứng ra làm mới được… Đương nhiên người như vậy không chỉ có mình ta, có điều các phi tần khác đều ngại việc này xui xẻo không chịu làm, do đó mới đến lượt ta. Ta thứ nhất nghĩ Thụy Tần đúng là một nữ tử đáng thương, nên muốn giúp đỡ phần nào, thứ hai là cũng muốn tới đây thăm muội, do đó mới đồng ý.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, chợt cảm thấy có điều gì đó không đúng lắm, nhưng vấn đề rốt cuộc là ở đâu thì lại không nói rõ được. Tôi ngẩn ngơ suy nghĩ, bỗng liếc thấy khóe mắt My Trang hoe đỏ, vẻ như muốn nói gì đó mà còn ngập ngừng.

    My Trang bây giờ đã trở nên lạnh lùng, tính cách lại cứng cỏi, không phải là một người dễ rơi lệ. Hơn nữa… tỷ ấy xưa nay luôn rất thận trọng với việc sinh tử, theo lẽ thường thì quyết không chịu dính dáng đến việc đưa linh cữu đi làm lễ siêu độ thế này.

    Tôi bất giác nảy lòng nghi hoặc. “My Trang, có thật là tỷ chỉ đưa linh cữu của Thụy Tần tới chùa Cam Lộ rồi tiện đường ghé qua thăm muội không?”

    My Trang đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, khẽ buông tiếng thở dài. Lúc này tuyết đã tan, nhưng ngoài trời vẫn còn rét lạnh, có rất nhiều mảng tuyết đọng trên những tảng đá ven đường, vì ở đó lâu rồi nên màu tuyết trở nên xám xịt, dính vô số bụi bặm, hết sức gai mắt, sự thuần khiết ban đầu đã hoàn toàn biến mất.

    Ánh mắt tỷ ấy trầm lặng tột cùng, tựa mặt nước hồ thu không một gợn sóng. Tỷ ấy nhìn tôi chăm chú, chậm rãi nói ra từng từ: “Muội đã phát hiện ra rồi, ta cũng không giấu muội thêm nữa, lần này để có thể gặp muội, ta đã phải bỏ ra rất nhiều tâm sức. Ta cho Hòa Mục Công chúa uống chút thuốc gây sốt, lại mua chuộc pháp sư ở Thông Minh điện, đồn thổi linh hồn của Thụy Tần cần được siêu độ, và người đưa quan tài tới chùa Cam Lộ phải là một phi tần đã không được sủng hạnh từ đâu, nhờ thế chúng ta mới có thể trùng phùng.”

    Trái tim tôi trở nên nặng nề vô hạn, cổ họng nhói đau, tâm trạng bất an tràn ngập trong lòng. “Tỷ tiêu hao nhiều tâm sức như vậy, nhất định là đã xảy ra chuyện gì đó rất quan trọng rồi… Có phải là Lung Nguyệt bị ốm không? Hay… hoàng hậu đã ra tay với nó?” Tôi không dám suy nghĩ tiếp nữa, Lung Nguyệt, Lung Nguyệt của tôi… Không!

    Thân thể tôi run lẩy bẩy, My Trang đưa tay giữ lấy tôi, nhìn đăm đăm vào mắt tôi. “Không phải là Lung Nguyệt, nó vẫn khỏe, không xảy ra chuyện gì hết.” Tôi thở phào một hơi, may mà không phải Lung Nguyệt. My Trang cắn chặt răng, khuôn mặt đầy vẻ ưu lo và nôn nóng, sau một hồi do dự mới nhắm mắt lại, nói: “Là huynh trưởng của muội, Chân hành… Huynh ấy bị điên rồi!”

    Tôi ngây người ra đó, gần như không dám tin vào đôi tai của mình. Ca ca của tôi, vị ca ca bừng bừng khí khái của tôi, sao hunh ấy lại điên được? Sao có thể chứ? Huynh ấy chỉ bị lưu đày tới Lĩnh Nam thôi mà, Huyền Thanh vẫn luôn phái người chiếu cố cho huynh ấy, sao có thể chứ?

    Trái tim tôi không ngừng đập thình thịch, hàm răng vô thức cắn chặt môi, truyền tới từng cơn đau nhói. Cơn đau ấy khiến tôi biết mình không nằm mơ, và My Trang cũng sẽ không đùa với tôi trong việc này. Nước mắt tôi lã chã tuôn rơi, mỗi giọt đều nóng bỏng.

    Tôi ngẩn ngơ lẩm bẩm: “Không đâu… Không thể nào… Ca ca đang yên đang lành sao có thể phát điên được chứ!”

    My Trang nói: “Theo lẽ thường thì đúng là như thế, ca ca muội tuy bị lưu đày nhưng thân thể vẫn luôn rất tốt. Thanh Hà Vương thương xót ca ca của muội, đã ngầm phái người chiếu cố, việc này ta và Kính Phi đều biết. Nhưng sau khi Thanh Hà Vương vâng chỉ đến Điền Nam chừng mười ngày, người được an bài tới Lĩnh Nam chiếu cố ca ca muội báo tin về, nói ca ca muội sau khi hay tin về cái chết của tẩu tẩu và cháu muội Trí Ninh thì nhất thời không chịu nổi đả kích mà nôn ra máu, sau khi tỉnh lại thì thần trí bất thường. Tin tức này vốn được báo về Thanh Hà Vương phủ, nhưng Thanh Hà Vương đã đi Điền Nam, bọn họ không biết phải làm sao, đành tới bẩm báo với Kính Phi, rồi Kính Phi vội vàng nói cho ta biết.”

    Tôi im lặng lắng nghe, cơ thể chẳng hề nhúc nhích, những giọt nước mắt nóng hổi không ngớt tuôn rơi, tựa như vô số con rết gớm ghiếc đang bò qua mặt tôi vậy.

    My Trang nói: “Bản thân ta đã do dự mất mấy ngày, không biết có nên nói với muội không. Muội dù sao cũng đang tu hành, biết chuyện này chỉ thêm đau lòng. Nhưng ta lo lắng cho sự an nguy của muội nên không thể không nói. Ta vốn có thể nhờ Ôn Thực Sơ nói với muội, nhưng y cứ gặp chuyện về muội là lại mềm lòng, không dám đưa ra chú ý, càng không nhẫn tâm nói với muội, thế là ta bèn dứt khoát chẳng nói chuyện này với y luôn. Ta cũng có thể nhờ Phương Nhược chuyển lời nhưng lại không yên tâm lắm. Bây giờ ở trong cung, ngoài bản thân ra, ta chẳng yên tâm về ai hết, một chuyện lớn bằng trời thế này chỉ có thể do ta tự tới nói với muội thôi.”

    Móng tay My Trang bấu chặt vào bờ vai tôi, cơn đau nhói cứ thế lan truyền từng chút, rốt cuộc đã khiến tôi giật mình tỉnh táo trở lại. “Sao ca ca lại biết tin về cái chết của tẩu tẩu và Trí Ninh, việc này không phải vẫn luôn giấu huynh ấy sao? Sao huynh ấy lại đột nhiên biết được?”

    Sắc mặt My Trang trở nên âm trầm, tỷ ấy hạ giọng nói: “Vấn đề chính là ở chỗ đó, việc này rõ ràng đã được che giấu rất cẩn thận, sao Thanh Hà Vương vừa mới đi thì phía trên Lĩnh Nam đã để lọt tin tức rồi?”

    Lòng tôi xoay chuyển liên hồi, sau nháy mắt đã hiểu ra, hậm hực nói: “Bọn họ đã có chuẩn bị từ trước! Nhất định là người trong cung, bọn họ biết Lục Vương gia đã đi Điền Nam, bèn thừa cơ tiết lộ tin tức về cái chết của tẩu tẩu và Trí Ninh cho ca ca biết!”

    “Đúng thế!” My Trang thoáng trầm ngâm rồi mới nói tiếp: “Ta chỉ e chính Hoàng hậu đã giở trò, mà ngoài nàng ta ra thì còn có người của Quản thị ở bên ngoài nữa. Chỉ là việc này dù sao cũng đã trôi qua khá lâu rồi, không ngờ bọn họ vẫn còn đeo bám không buông như vậy.”

    Thân thể bất giác lạnh toát từng cơn, tôi cất giọng khàn khàn: “Càng khiến người ta khó hiểu hơn là tại sao khi ca ca mới bị lưu đày tới Lĩnh Nam, tin tức không bị tiết lộ, đến bây giờ lại có người đứng ra giở trò?”

    Bao nhiêu đau đớn và nghi hoặc bên trong, cộng thêm việc từng gặp Cố Giai Nghi từ mùa thu năm ngoái, đầu óc tôi nhất thời trở nên vô cùng hỗn loạn, gần như chẳng thể suy nghĩ được gì.

    My Trang kéo tôi ngồi xuống, mắt ánh lên những tia sắc lẹm như dao. “Bây giờ không phải là lúc đau khổ khóc lóc. Việc quan trọng nhất là huynh trưởng của muội đã bị người ta ám toán, ai mà biết được người tiếp theo mà họ muốn đối phó có phải là muội hay không. Tuy muội hiện đang tu hành, đã rời xa chốn hậu cung nhưng vẫn cẩn thận đề phòng, đây cũng chính là nguyên nhân khiến ta phải tìm đủ mọi cách để ra ngoài gặp muội. Ngoài ra chúng ta cũng cần nghĩ cách đón ca ca muội từ Lĩnh Nam về đây chữa trị, nếu tận tâm chăm sóc, chưa biết chừng có thể chữa khỏi. Muội không mấy khi qua lại với Thanh Hà Vương nên chắc không quen y, ta sẽ tìm cách nói với y chuyện này, đợi sau khi y quay về, sẽ lập tức cùng suy nghĩ tìm cách đón ca ca muội về kinh.”

    Tôi cố trấn định tâm thần, bàn tay nắm chặt lấy góc áo. “My Trang, tỷ nói đúng lắm, người chết thì đã chết rồi, việc quan trọng bây giờ là phải tính toán cho người sống. Muội sẽ cố gắng nghĩ cách chữa trị cho ca ca.”

    My Trang đang định nói thêm, Bạch Sầm vốn đứng chờ bên ngoài đã đi vào thưa: “Bẩm nương nương, thời gian tới rồi, chúng ta không khởi hành ngay bây giờ thì khó mà về cung trước khi trời tối được.”

    My Trang khẽ gật đầu, nói: “Bản cung biết rồi, ngươi ra ngoài chuẩn bị kiệu trước đi, bản cung nói chuyện với Mạc Sầu sư thái thêm vài câu nữa.”

    Bạch Sầm khom người một cái thật sâu. “Dạ, nương nương nhớ đừng để lỡ thời gian là được”, sau đó liền cung kính lui đi.

    My Trang nắm chặt lấy bàn tay tôi, bình tĩnh nói: “Ta phải đi đây, muội chỉ cần nhớ lấy một câu này của ta, hãy cố gắng bảo vệ bản thân, đây mới là điều quan trọng nhất.”

    Tôi gật đầu thật mạnh, những giọt nước mắt nóng hổi không ngớt tuôn rơi. “Muội hiểu mà, nếu ngay đến bản thân cũng không bảo vệ được, sao muội có thể giúp đỡ người khác được chứ. Muội nhất định sẽ không việc gì đâu.”

    My Trang nói, giọng kiên định: “Dù sao huynh trưởng của muội cũng đã xảy ra chuyện rồi, có thương tâm đến mấy thì cũng chẳng ích gì, việc chúng ta cần làm bây giờ là tìm cách giúp huynh ấy.”

    Tôi gật đâu, rơm rớm nước mắt, nói: “Cung đình hiểm ác, tỷ cũng phải cẩn thận mới được. Thật chẳng biết tới bao giờ chúng ta mới có thể gặp lại nhau.”

    My Trang nghe thế thì thương cảm không thôi, ngoảnh mặt đi, khẽ nói: “Chỉ cần chúng ta đều được bình an, có gặp mặt hay không thì cũng đâu có gì khác biệt.”

    Thái Nguyệt khoác áo choàng và mũ lên cho My Trang, lại gọi Bạch Sầm vào, hai người một trái một phải dìu My Trang bước đi. My Trang ngoảnh lại, nhìn tôi không ngớt, hiềm vì lễ nghi nên không thể nói thêm câu nào, chỉ có thể lẳng lặng lên kiệu rời đi.

    Kiệu của My Trang chẳng bao lâu đã mất bóng, tôi đưa mắt nhìn về hướng xa, núi non nay đã trở lại màu xanh biếc, chỉ còn lác đác mấy nơi tuyết phủ, tựa như mấy vết nứt trên một mảng màu xanh, khiến người ta không đành lòng nhìn.

    Tôi đau đớn ngoảnh đầu qua hướng khác, vận hạn của nhà họ Chân chúng tôi sao cứ kéo dài mãi thế này?

    Vì chuyện ca ca, nỗi nhớ nhung của tôi với Huyền Thanh lại càng thêm da diết. Hoán Bích và tôi mỗi lần nhìn nhau đều không kìm được tuôn rơi nước mắt, trong lòng thầm suy tính xem phải làm thế nào mới có thể lén đón ca ca về kinh chữa bệnh.

    Thế nhưng sau mấy ngày dài đằng đẵng, kỳ hạn một tháng đã qua, vậy mà Huyền Thanh vẫn chưa về. Y không chỉ không quay về đúng hẹn, còn không có chút tin tức nào, Thanh Hà Vương phủ và Thanh Lương Đài đều không biết khi nào y về, ngay đến Thư Quý thái phi cũng không biết. Y giống như một con diều đứt dây, đã hoàn toàn bặt tăm bặt tích.

    Mười ngày trôi qua, mười lăm ngày trôi qua.

    Lòng tôi nôn nóng tột cùng, Thư Quý thái phi dịu dàng an ủi: “Điền Nam cách chỗ chúng ta tới mấy ngàn dặm, đường sá xa xôi, mà việc quan sát dân tình lại không thể làm qua loa được, chắc nó bị vướng phải chuyện gì nên không thể không nán lại đó thôi.”

    Ca ca tôi giờ đang một thân một mình ở Lĩnh Nam, còn mang bệnh trên người nên tôi càng thêm lo lắng, miệng đắng ngắt từng cơn, như thể ngậm một củ hoàng liên trong miệng mà không sao nhổ ra được. Tôi ngồi kế bên, tựa người vào đầu gối Thư Quý thái phi, Thái phi khẽ xoa đầu tôi, bình tĩnh nói: “Hoàn Nhi, con đừng nôn nóng. Đợi Thanh Nhi quay về, nó sẽ đón con rời khỏi nơi đây, lại đưa ca ca con về kinh chữa bệnh, tuy thần trí hỗn loạn là một chứng nan y nhưng cũng không phải là không thể chữa khỏi. Đất kinh thành này có rất nhiều bậc thánh thủ y thuật, ắt sẽ có người có thể chữa khỏi bệnh cho ca ca con, con đừng lo nghĩ quá làm gì.” Giọng Thái phi chứa chan vẻ trìu mến: “Đợi Thanh Nhi quay về là mọi chuyện sẽ ổn thôi.”

    Trên chiếc đạo bào của Thái phi có mùi đàn hương thoang thoảng, chất vải mềm mại dán sát vào má tôi, vô cùng thoải mái. Bây giờ đã là tháng Hai, thời tiết ấm dần lên, vạn vật bắt đầu bừng tỉnh sau giấc ngủ dài, cỏ cây nhú mầm non, khắp nơi lác đác những đốm màu nửa xanh nửa vàng, hoa nhị nguyệt lan nở khắp nơi nơi, tựa những vì sao nhỏ màu xanh vui mắt, hơi thở của mùa xuân đã kéo tới rất gần.

    Nhưng lúc này đây lòng tôi lại nóng như lửa đốt, nếu Huyền Thanh còn không quay về… hai bờ má tôi thoáng ửng đỏ, cảm giác buồn nôn lần nữa trào lên trong lồng ngực, tôi không chịu nổi cái cảm giác nhộn nhạo nơi dạ dày đó nữa, rốt cuộc phải bụm miệng, chạy vội ra ngoài.

    Cơn buồn nôn đã qua nhưng cảm giác choáng váng trong đầu tôi vẫn chưa giảm chút nào. Thư Quý thái phi vội vàng chạy tới xoa lưng giúp tôi, nôn nóng hỏi: “Sao vậy? Có phải ăn nhằm thứ gì rồi không?”

    Tôi đưa mắt liếc Thái phi, ngay sau đó đã vội cúi đầu, khuôn mặt đỏ bừng như màu san hô. Thư Quý thái phi suy nghĩ một chút, rồi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng thốt lên: “Lẽ nào con… Chuyện này là từ bao giờ vậy?”

    Tôi thẹn thùng cúi đầu, ngón tay bất giác khẽ vuốt ve mép áo, đáp giọng nhỏ như muỗi kêu: “Từ khi huynh ấy đi… đã được hơn một tháng rồi.”

    Thái phi không kìm được mừng rỡ. “Tốt, tốt, tốt lắm! Xem ra ta sắp được làm bà rồi”, sau đó lại nắm lấy bàn tay tôi. “Hoàn Nhi, ta chờ ngày này đã lâu lắm rồi!” Vành mắt Thái phi lúc này đã hơi ươn ướt. “Con ngoan, chỉ khổ cho con thôi, phải đi theo Thanh Nhi mà không có danh phận gì.”

    Tôi cúi gằm mặt, tì cằm vào vạt áo của chiếc áo màu hồng, trên vạt áo có thêu một bông ngọc lan, những đường kim dày và kín cọ vào da thịt mang tới cảm giác khá thoải mái. Tôi khẽ nói: “Trong lòng con, danh phận kỳ thực không hề quan trọng.”

    Trong mắt Thái phi lóe lên một tia sáng dịu dàng. “Con ngoan, tính cách này của con thực sự rất giống ta. Trên thế gian này, những thứ vinh hoa phú quý phù phiếm đó căn bản không thể so sánh với một chữ tình.”

    Tôi thấp giọng lẩm bẩm: “Mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau.”

    Thái phi kéo tôi cùng ngồi xuống, lại gọi Tích Vân bảo mang tới cho tôi một chiếc đệm lông ngỗng, sau đó mới bộc bạch: “Hoàn Nhi, ta không biết Thanh Nhi đã hứa với con những gì, nhưng đứa con này của ta, ta hiểu rõ nhất, nếu nó thật lòng thích một người nào, nhất định sẽ một lòng một dạ đối xử với người đó, dù con không có danh phận, nó cũng sẽ không cưới ai khác nữa đâu, cứ để nó làm một vị Thanh Hà Vương cô độc trong mắt người ngoài là được rồi. Sau này chỉ cần bọn con có thể mãi mãi ở bên nhau, không phải lén lút thế này nữa, bất kể là ở tại vương phủ hay Thanh Lương Đài đều tốt cả. Làm người ấy mà, vẫn là có miếng hơn có tiếng.”

    Một tương lai như vậy, có lẽ thực sự có thể mong chờ. Đứa bé đầu tiên tôi không thể sinh ra, Lung Nguyệt thì tôi không thể tự tay nuôi dưỡng, còn đứa bé trong bụng tôi bây giờ, đứa bé của tôi và Thanh, tôi rốt cuộc đã có thể tự mình bầu bạn bên nó cho tới lúc nó trưởng thành, cảm nhận niềm vui và niềm hạnh phúc của một người mẹ.

    Lòng tôi bất giác mềm đi, dịu dàng cất tiếng: “Tình cảm của Thanh với con thế nào, tình cảm của con với Thanh thế nào, Thái phi đều đã thấy rõ. Con không phụ huynh ấy, huynh ấy cũng sẽ không phụ con đâu.” Thoáng ngập ngừng, tôi thẹn thùng nói tiếp: “Khi Thanh quay về, Thái phi đừng nói với huynh ấy vội nhé!”

    Thái phi cất tiếng cười vang. “Tất nhiên rồi, việc này hai vợ chồng bọn con tự nói với nhau là được, còn ta thì chỉ chờ bế cháu thôi!”

    Tôi đưa tay khẽ vuốt ve cái bụng vẫn còn phẳng lì của mình, trong lòng tràn ngập cảm giác ngọt ngào vô hạn, chỉ chờ Thanh quay về là tất cả đều sẽ tốt đẹp thôi.

    Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi qua trong sự chờ đợi, hồi này Hoán Bích thỉnh thoảng lại chăm chú nhìn vào bụng tôi, đôi mắt có chút đờ đẫn, như thể một áng mây trôi bị níu giữa bầu trời.

    Gút thắt trong lòng muội ấy không phải tôi không biết, thế là tôi bèn vẫy tay gọi muội ấy lại, nắm lấy bàn tay muội ấy, đặt lên bụng tôi, ôn tồn nói: “Muội sờ thử xem này, bên trong chính là cháu của muội đấy. Hoán Bích, cả Ngọc Diêu và Ngọc Nhiêu đều ở nơi xa, phần đời còn lại e là chỉ có hai tỷ muội chúng ta nương tựa vào nhau thôi. Con của ta, cũng chính là con của muội, sau này chúng ta cùng nuôi nấng nó, được không?” Tôi nói với giọng rất chân thành và tha thiết, còn mang theo sự trìu mến thương yêu của một người tỷ tỷ với muội muội.

    Đôi mắt Hoán Bích bỗng hơi ươn ướt, như một nhành hoa lê thấm đẫm nước mưa, giọng nói đầy vẻ xúc động: “Thật thế sao?” Bàn tay đang đặt trên bụng tôi kia hơi run rẩy. “Con của trưởng tỷ và Vương gia, cũng là con của muội?”

    “Đúng thế!” Tôi trịnh trọng nói: “Hoán Bích, có một số chuyện không thể nào thay đổi, bởi những sự thay đổi sẽ chỉ khiến cho tất cả mọi người bị tổn thương. Nhưng thứ gì có thể cho muội được, ta nhất định sẽ không keo kiệt.”

    Hoán Bích cúi đầu, buồn bã nói: “Muội hiểu chứ, mọi chuyện đều phải trông vào vận mệnh, không thể cưỡng cầu.”

    Tôi đưa tay ôm muội ấy vào lòng, khẽ thở dài một tiếng.

    Gió lúc này đã tan đi cái lạnh, thổi tới từng cơn ấm áp vào giữa màu xanh. Thế nhưng trong sự tha thiết đợi chờ, người tới chỗ tôi lại là Ôn Thực Sơ.

    Trong ngày hắn tới, gốc đào già ngoài sân vừa nở bông hoa đầu tiên. Cận Tịch không kìm được cất lời phàn nàn: “Năm nay đúng là kỳ lạ, rõ ràng còn đang tháng Hai, thời tiết trong núi lại lạnh hơn một chút, thế mà hoa đào đã nở rồi.”

    Bông hoa đào đó cô độc trên cành, rung rinh giữa làn gió nhẹ, cánh hoa đỏ tươi mà mỏng manh, nhìn từ xa toát ra một vẻ diễm lệ và kỳ dị đến khó tả.

    Ôn Thực Sơ mang tới cho tôi mấy thang thuốc an thai, nói: “Thuốc này ta mới cắt cho muội, muội uống tạm đi.” Thấy hai mắt tôi đều đang thâm quầng, hắn không kìm được mà xót xa, nói: “Mấy ngày nay đều ngủ không ngon sao? Ta đã dặn muội là phải uống thuốc an thai đúng giờ rồi cơ mà?”

    Hoán Bích lo lắng nói: “Vương gia nói là đi một tháng rồi về, nhưng bây giờ đã năm mươi ngày rồi, vậy mà chẳng có chút tin tức nào cả. Tiểu thư bây giờ đang rất lo lắng, đêm qua lại vừa gặp ác mộng, không phải chỉ là không ngủ ngon thôi đâu.”

    Tôi đưa tay vuốt nhẹ lớp giấy dán cửa sổ dày và trắng muốt, nở nụ cười mỉm tựa bông lê giữa làn gió xuân. “Ác mộng không thể coi là thật được, Hoán Bích, chẳng bao lâu nữa y nhất định sẽ quay về thôi!”

    Ôn Thực Sơ vốn đang ngồi im không nói, nghe thấy câu này thì mí mắt bỗng nẩy lên một cái, đột ngột ngẩng đầu, bật thốt ra một câu: “Y không quay về được đâu.”

    Tôi nhất thời không nghe rõ, ngoảnh đầu cười hỏi: “Huynh nói gì cơ?”

    Sắc mặt Ôn Thực Sơ càng lúc càng trở nên u ám, rồi hắn nhắm nghiền đôi mắt, đột nhiên khàn giọng nói: “Thanh Hà Vương chết rồi, y vĩnh viễn không thể quay về nữa rồi!”

    Lời của hắn từng từ, từng từ lọt vào tai tôi, tựa vô số con côn trùng màu xám vỗ cánh bay loạn xạ, phát ra những âm thanh ong ong hỗn tạp, khiến tôi đầu choáng mắt hoa. Khuôn mặt tôi lúc này nhất định đã trở nên tái nhợt, toàn thân lạnh toát, sau một thoáng ngẩn ngơ, tôi bèn giận dữ quát lên: “Huynh nói bậy cái gì đó?” Giọng nói của tôi thê lương tới tột cùng, tôi hoàn toàn không dám tin vào lời của Ôn Thực Sơ, lớn tiếng chất vấn: “Sao huynh có thể rủa huynh ấy như vậy? Huynh ấy là cha của con muội đấy!”

    Ôn Thực Sơ nắm lấy bàn tay tôi, tha thiết nói: “Sống đến từng này tuổi, ta đã từng gạt muội bao giờ chưa? Hoàn Nhi, trước đây ta cứ sợ không dám nói với muội việc này. Thanh Hà Vương đi Điền Nam mãi không quay về, lại không có chút tin tức nào cả, thế là Hoàng thượng liền phái người đi tìm, mới hay thuyền của Thanh Hà Vương đã bị lật ở sông Đằng Sa, ngay đến thi thể cũng không tìm về được.”

    Tôi ngẩn ngơ nghe hắn nói, cảm thấy thân thể mình như đang bị những lưỡi dao cùn liên tiếp cứa vào, đau đớn tột cùng, đau đến tê dại. Tôi cắn chặt môi đến tứa máu, mùi tanh nồng và vị ngòn ngọt của máu tràn ngập giữa những kẽ răng, sự sục sôi trong lòng ngực không sao kiềm chế được. Ôn Thực Sơ vẫn đang nói liên miên không nghỉ, nhưng tôi lại chẳng nói năng gì, làm như không nghe thấy.

    Thanh chết rồi! Thanh đã chết rồi! Cứ thế đột ngột bỏ tôi mà đi, còn chưa kịp nói với tôi một tiếng, vậy mà y đã chết rồi!

    Ôn Thực Sơ rơm rớm nước mắt, nói: “Nước sông Đằng Sa chảy xiết lắm, bị dòng nước cuốn đi, ngay đến con thuyền cũng khó mà còn nguyên vẹn được, dù có tìm được thi thể thì cũng…”

    Trái tim tôi dường như đang nứt toạt ra, một chút hy vọng cuối cùng bị người ta nghiền nát thành bột vụn, tung ra đầy trời, không sao thu về được.

    Lúc này Hoán Bích bưng theo bát thuốc an thai vừa sắc xong đi vào, nghe thấy lời của Ôn Thực Sơ thì sững người, bát thuốc tuột tay rơi xuống vỡ tan thành từng mảnh, nước thuốc đen ngòm bắn đầy vào chiếc váy màu xanh, vô cùng nhếch nhác. Hoán Bích cứ thế đờ người ra đó, mặc kệ nước thuốc nóng bỏng dính vào váy mà chẳng buồn lau, một lúc sau mới đột nhiên ngồi bệt xuống đất mà kêu lên những tiếng chói tai, khiến người nghe lòng đau như xé.

    Nước mắt của tôi lã chã tuôn rơi, lan đầy khắp mặt, trong đầu tôi lúc này chỉ có duy nhất một suy nghĩ, y chết rồi, y đã chết rồi, thậm chí còn không thể gặp mặt y lần cuối!

    Ôn Thực Sơ ra sức lay mạnh thân thể tôi. “Hoàn Nhi! Muội hãy tỉnh táo lại một chút, tỉnh táo một chút! Người chết không thể sống lại!”

    Người chết không thể sống lại? Hồn phách y còn chưa từng hiện về báo mộng cho tôi cơ mà! Suy nghĩ như vậy, tôi lại càng cảm thấy đau đớn hơn, lục phủ ngũ tạng như bị vô số móng vuốt không ngừng cào xé. Mùi máu tanh trong miệng tôi lan dần tới cổ họng, tôi không kìm được nữa, nôn ra một ngụm máu tươi. Khi dòng dịch thể tanh nồng, nhơm nhớp đó bị nhổ ra khỏi miệng, tôi cảm thấy trái tim mình đã theo đó mà rời khỏi thân thể rồi.

    Nỗi tuyệt vọng lớn lao đó khiến thân thể tôi giống như chiếc lá cuối cùng trên cành bị cơn gió lạnh của mùa đông thổi rụng, cứ thế đổ gục xuống.
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Quyển 5

    [​IMG]


    Chương 1: Mây trắng giăng trời
    Tôi không ngất đi, thân thể được Cận Tịch vừa chạy vội vào phòng hoang mang đỡ lấy, rồi nàng ta và Ôn Thực Sơ cùng dìu tôi tới nằm xuống giường. Ôn Thực Sơ lộ rõ vẻ xót xa và hối hận, khuôn mặt tái mét, nắm chặt lấy bàn tay tôi, miệng lẩm bẩm: “Hoàn muội muội, là ta không tốt, ta không nên đột ngột nói với muội chuyện này, ta…”

    Tôi mơ màng hé miệng, trong cơn chấn động, giọng nói đã trở nên khản đặc đến nỗi ngay chính bản thân tôi cũng không tin nổi: “Tại sao huynh ấy lại chết? Đang yên đang lành, tại sao lại lật thuyền đến nỗi không tìm được thi thể?”

    Ôn Thực Sơ trầm giọng nói: “Đã tìm được xác của chiếc thuyền mà Thanh Hà Vương ngồi rồi, chiếc thuyền ấy long cốt không khác gì thuyền thường nhưng ván ở đáy thuyền lại không đóng bằng đinh sắt mà chỉ được dùng dây mây tươi buộc lại, lúc thuyền ở im một chỗ thì không sao nhưng sau khi đi được một đoạn, dây mây tươi sẽ bị tuột ra, thuyền cũng theo đó mà chìm.”

    Tôi nhớ lại cảnh mình tiễn y ở sông Bá hôm đó, giữa làn sóng nước, con thuyền vẫn nhẹ nhàng lướt đi mà chẳng có việc gì, bèn nói: “Nhưng hôm huynh ấy đi cũng ngồi con thuyền đó, vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra!”

    “Đúng thế, con thuyền y ngồi hôm đi không có vấn đề gì. Theo lời của những người thợ đóng thuyền, thân của con thuyền đó tuy giống với con thuyền mà họ làm ra, nhưng đáy thuyền thì lại khác. Qua đó có thể thấy thuyền đã bị đánh tráo trong lúc dừng bên bờ sông Đằng Sa.”

    Tôi càng nghe lại càng kinh hãi. “Ai muốn hại huynh ấy? Là ai muốn hại huynh ấy?”

    Ôn Thực Sơ giữ chặt không cho tôi giãy giụa, nôn nóng nói: “Chuyện đã xảy ra rồi, là ai làm còn chưa biết được. Hiện giờ Hoàng thượng đã sai người thông báo tin tức này cho thân mẫu của Thanh Hà Vương, nhưng trước khi tìm được thi thể của Thanh Hà Vương, ý của Hoàng thượng là tạm thời chưa phát tang vội.”

    Lúc này lòng tôi kích động tột cùng, chỉ cần thoáng nghĩ tới việc Huyền Thanh không còn trên đời nữa là bụng tôi lại râm rứt đau. Tôi gần như không dám suy nghĩ tiếp, chỉ biết lắc đầu thật mạnh. “Muội không tin! Muội không tin! Thi thể đến giờ vẫn chưa tìm được, huynh ấy sẽ không chết đâu!”

    Ôn Thực Sơ cố gắng giữ chặt thân thể tôi, trầm giọng nói: “Hoàn Nhi, muội hãy bình tĩnh một chút. Nước sông Đằng Sa chảy xiết như thế, cho dù có tìm được thi thể thì cũng khó mà nhận dạng được.”

    Tôi đau đến nỗi túa đầy mồ hôi lạnh, không kìm được đưa tay ôm bụng. Cận Tịch vội vàng giúp tôi lau mồ hôi, đồng thời oán trách Ôn Thực Sơ: “Ôn đại nhân thực là không biết nặng nhẹ gì hết, vào lúc này còn nói ra mấy lời đó làm gì. Nương tử giờ đang mang thai, chuyện như thế cho dù muốn nói thì cũng phải đợi sau khi nương tử sinh nở xong rồi hẵng nói. Ôn đại nhân xưa nay vẫn luôn quan tâm tới nương tử như cha như anh, sao bây giờ lại hồ đồ đến thế chứ?”

    Ôn Thực Sơ giậm chân, nói: “Ta không đành lòng nhìn muội ấy vất vả đợi chờ một người không thể trở về được nữa.” Bàn tay đang giữ lấy cánh tay tôi của hắn dùng sức rất mạnh, thế nhưng giọng nói lại hết mực dịu dàng, dịu dàng tới mức khiến người ta chỉ muốn nép vào người hắn. “Tuy muội đang thương tâm nhưng có một số chuyện không thể không bắt đầu tính toán. Nếu muội nhất quyết muốn sinh đứa bé này ra, ta vẫn sẽ đưa muội uống Thất nhật thất hồn tán, để Cận Tịch và Hoán Bích báo lên là muội đã mắc bệnh qua đời. Sau đó, ta sẽ đưa muội rời khỏi nơi này rồi chúng ta cùng tìm lấy một nơi vắng vẻ nào đó mà sống những tháng ngày bình lặng bên nhau.” Trong mắt hắn lúc này đã lấp lánh ánh lệ. “Hoàn muội muội, ta sẽ đối xử với muội thật tốt, coi con của muội như con của chính ta. Muội hãy tin ta, điều Thanh Hà Vương làm được, ta cũng có thể làm được.”

    Nước mắt tôi tuôn rơi lã chã, trong khoảnh khắc hay tin về cái chết của Huyền Thanh, sức lực toàn thân bỗng như bị rút cạn, trở nên tột cùng yếu ớt. Lời của hắn, tôi coi như không nghe thấy, chỉ ngẩn ngơ rơi lệ không ngừng.

    Cận Tịch buồn bã nói: “Bây giờ Ôn đại nhân nói những lời này với nương tử cũng chỉ uổng công thôi, chỉ e nương tử chẳng nghe lọt tai được câu nào, cứ đợi nương tử tỉnh táo lại rồi hẵng nói.”

    Hoán Bích khóc nức nở, bò đến bên gi, gạt bàn tay đang giữ tay tôi của Ôn Thực Sơ ra, ôm chặt cánh tay của tôi vào lòng. Hoán Bích đau buồn khôn xiết, khóc lóc trách cứ Ôn Thực Sơ: “Đại nhân có thể coi con của Vương gia như con của mình sao? Có thể làm những việc mà Vương gia có thể làm sao? Ngài có thể so sánh với Vương gia sao?” Nói xong, muội ấy chẳng buồn để ý tới Ôn Thực Sơ lúc này đang đỏ mặt tía tai, ôm cánh tay tôi mà khóc nỉ non, như một con thú nhỏ đang bị thương vậy. “Trưởng tỷ, muội chỉ mong có thể nhìn y từ xa, ngày ngày được thấy y cười… Không! Không cần ngày ngày, chỉ thỉnh thoảng thôi cũng được, cho dù y không cười với muội, muội cũng hài lòng lắm rồi!” Tiếng khóc của muội ấy giống như lưỡi dao sắc bén đâm vào trái tim tôi, khiến tôi lại càng đau đớn, khó có thể nói nổi lời nào, chỉ nghe muội ấy nghẹn ngào nói tiếp: “Nhưng y đã chết rồi, sau này, cả đời này, muội sẽ không thể gặp lại y nữa…”

    Tiếng khóc của Hoán Bích khiến ruột gan tôi như tan nát. Huyền Thanh, người tình lang thấu hiểu tôi, thương yêu tôi, không ngờ lại rời bỏ tôi mà đi, không thể thực hiện lời hứa “tay nắm tay, bên nhau đến bạc đầu” kia nữa.

    Lồng ngực tôi bỗng nhói đau, vội nhào về phía trước, chừng như muốn nôn ra máu. Cận Tịch vội vàng bịt miệng Hoán Bích, sợ muội ấy lại nói ra những lời làm tôi thương tâm, sau đó liền ngoảnh đầu sang nói với Ôn Thực Sơ: “Ban nãy Hoán Bích cô nương bị nước thuốc bắn vào người, xin Ôn đại nhân kiểm tra giúp xem có vấn đề gì không.”

    Ôn Thực Sơ vội vén ống quần Hoán Bích lên, chỉ thấy trên cẳng chân muội ấy đã nổi đầy bọng nước. Nhưng muội ấy không hề kêu đau, cũng chẳng quan tâm xem Ôn Thực Sơ bôi thuốc cho mình thế nào, chỉ một mực khóc sụt sùi.

    Ôn Thực Sơ nôn nóng đến nỗi mồ hôi lạnh túa ra đầy đầu, một mặt bôi thuốc và băng bó cho Hoán Bích, một mặt kêu Cận Tịch cho tôi uống thuốc an thần để tôi nghỉ ngơi.

    Khi tôi tỉnh lại thì đã là nửa đêm, lúc này đầu óc tôi vẫn còn mơ mơ màng màng, trên người nhớp nháp mồ hôi, khiến chiếc áo lót ướt nhẹp, dính sát vào lưng, mang tới cảm giác lạnh toát, tựa như có một con quỷ rùng rợn đang bám vào người tôi vậy. Trong lúc nửa mê nửa tỉnh, tôi cứ ngỡ mình đang nằm mộng, và việc Ôn Thực Sơ nói với tôi về cái chết của Huyền Thanh chỉ diễn ra trong giấc mộng mà thôi. Thế nhưng rất nhanh sau đó, tiếng khóc của Hoán Bích đã vọng vào tai tôi, nghe như tiếng gào khóc nghẹn ngào của lũ cô hỮ dã quỷ, liên miên không dứt, khiến tôi biết được rằng Huyền Thanh thực sự không còn trên đời này nữa.

    Tôi hơi hé mắt nhưng nước mắt không tuôn trào nữa mà chỉ có cảm giác bỏng rát do nước mắt cạn khô mang lại, nhắc nhở tôi về nỗi mất mát và thương tâm của bản thân.

    Cận Tịch thấy tôi tỉnh lại, vội vàng bưng một bát thuốc tới, nói: “Ôn đại nhân nói nương tử vừa rồi quá kích động nên ảnh hưởng đến thai khí, nhất định không được thương tâm thêm nữa. Nương tử tạm uống bát thuốc an thai này đi, ngày mai Ôn đại nhân sẽ lại tới thăm nương tử.” Tôi ngẩn ngơ đón lấy bát thuốc từ trong tay nàng ta rồi uống một hơi cạn sạch, uống xong lại tựa người vào tường mà tiếp tục ngẩn ngơ.

    Ngày đó trong Cẩn Thân điện, tôi vì nhớ Lung Nguyệt mà phủ phục xuống đất khóc nức nở, y từ phía sau bước tới, đỡ tôi dậy, cất giọng ôn tồn và ấm áp như ánh mặt trời, xoa dịu trái tim đang nhỏ máu của tôi: “Không việc gì nữa rồi! Không việc gì nữa rồi!”

    Nước sông cuồn cuộn, tu mười năm mới có cái duyên ngồi cùng thuyền. Y nói: “Lúc này hãy cùng ngồi với nhau ở đây, ngắm mây trên trời, nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im thôi, hưởng thụ sự bình yên trong khoảnh khắc ngắn ngủi này.”

    Y áp tay lên mu bàn tay tôi, mang tới một cảm giác ấm áp khó tả. Y nói: “Ta trước giờ vẫn luôn tin tưởng vào cái gọi là tâm ý tương thông.”

    Y cất giọng buồn bã nhưng kiên định: “Ta sẽ đợi nàng, đợi ngọn gió trong lòng nàng lại thổi về phía ta lần nữa. Chỉ cần nàng bằng lòng, ta sẽ mãi đi bên cạnh nàng, chỉ cần nàng ngoảnh đầu là lập tức có thể nhìn thấy.”

    Đứng trong Tiêu Nhàn quán, mở cửa sổ nhìn ra, lòng tôi như nở rộ vì những cây mai xanh mà y dốc lòng chuẩn bị cho tôi.

    Giữa làn mưa đêm, nước mưa từ trên mặt y chảy xuống. Y ôm tôi trong lòng, cơ hồ không thể tin nổi, lẩm bẩm nói: “Hoàn Nhi… Là nàng đó sao?”

    Y trả lời một cách trịnh trọng mà kiên định: “Trong lòng ta, nàng chính là cả bầu trời.”

    Y nói: “Ta cứ luôn nghĩ rằng, cả cuộc đời này, thứ mà ta có thể giữ lại được chỉ có duy nhất bức tranh cắt ấy mà thôi.”

    Y viết ra những lời chứa chan tình cảm: “Trên đồng hoa nở, nàng cứ chầm chậm quay về.”

    “Cho dù tiền đồ chẳng biết thế nào thì đấy cũng là tâm ý chân thành nhất của ta.” Y nói giọng nghẹn ngào: “Hoàn Nhi, trên thế gian này, ta chỉ cần mình nàng thôi.”

    Y gật đầu thật mạnh, cất giọng kiên định nói: “Đợi ta quay về, ta và nàng sẽ không bao giờ chia ly nữa.”

    Trên tấm thiệp hợp hôn màu đỏ, Huyền Thanh tay trái nắm lấy tay tôi, tay phải cầm bút, chậm rãi viết từng nét.

    Huyền Thanh – Chân Hoàn

    Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.

    Tôi cầm bút viết tiếp vào sau mấy chữ của Huyền Thanh trên tấm thiệp: “Nguyện cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.”

    Tấm thiệp hợp hôn còn chưa kịp mang ra dùng, mọi sự đẹp tươi đều đang chờ phía trước, chỉ cần y quay về… Nhưng y lại vĩnh viễn không bao giờ về nữa. Nơi đáy sông Đằng Sa lạnh lẽo, thi thể của y cô độc, không bao giờ trở lại bên tôi.

    Đôi hàng lông mày hơi cau lại của y lúc ngủ, cặp mắt màu hổ phách sâu sắc của y, bộ dạng tinh nghịch của y khi nhéo mũi tôi nói cười, những tia dịu dàng khó tả lúc y nở nụ cười mỉm, dáng vẻ nghiêm túc và kiên định của y khi nói ra những lời chứa chan tình cảm kia…

    Tôi không bao giờ còn có thể nhìn thấy nữa rồi!

    Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…

    Lời ca của A Nô vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng Huyền Thanh thì lại chẳng bao giờ trở về nữa rồi, dù rằng lòng tôi ngày ngày đều thắm thiết nhớ nhung.

    Ngoảnh đầu liếc thấy bảy sợi dây đàn của Trường tương tư phản chiếu lại những tia sáng lạnh băng, lòng tôi tột cùng đau đớn. Trường tương tư vẫn còn đấy, nhưng Trường tương thủ lại vĩnh viễn không thể trở về được nữa!

    Tôi ngẩn ngơ ôm gối ngồi yên một chỗ, mặc kệ cho vầng trăng hết mọc rồi lặn, tôi không ngủ không nghỉ, chẳng ăn uống gì. Không biết đã qua bao lâu, tiếng khóc của Hoán Bích dường như đã dừng lại, Ôn Thực Sơ từng tới mấy lần, tôi cũng không hay biết.

    Lần này là Cận Tịch bước tới lay cánh tay tôi, nàng ta bưng theo một bát thuốc đen ngòm, mùi thuốc phả tới hơi hăng hăng, không phải là loại thuốc an thai mà tôi thường uống.

    Vẻ mặt Cận Tịch hết sức bình tĩnh, không có lấy một tia xao động. “Thuốc này là do nô tỳ xin Ôn đại nhân đặc biệt cắt cho nương tử, bên trong có phụ tử, mộc thông, ngũ linh chi, thiên liên đằng, bán chi liên, xuyên sơn long, miết giáp và thích tật lê, đều là những loại thuốc tốt có công hiệu hoạt huyết hóa ứ. Ngoài ra còn có cả hồng hoa, nương tử chỉ cần uống vào là sự phiền não trong bụng sẽ lập tức tan biến. Dù sao thì bây giờ nương tử cũng không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, chắc là chẳng cần tính mạng nữa rồi, chi bằng hãy để cho nghiệp chướng trong bụng kia đi sớm một bước, không cần phải theo nương tử chịu khổ nữa.”

    Nàng ta nói với giọng rất điềm nhiên, như thế đó chỉ là một bát thuốc bình thường chứ không phải thứ thuốc trụy thai có thể tước đoạt tính mạng của đứa bé trong bụng tôi. Mùi thuốc hơi hăng khiến đầu óc người ta choáng váng, Cận Tịch lại nói tiếp với giọng xúi giục: “Thuốc này cực kỳ hữu hiệu, chỉ cần uống vào là đứa bé sẽ chết chắc. Có điều sẽ không đau lắm đâu, y thuật của Ôn đại nhân thế nào nương tử hẳn cũng biết rõ.” Nàng ta đưa bát thuốc tới bên môi tôi. “Nương tử xin hãy uống đi!”

    Tôi vội ngoảnh đầu qua một bên, hai tay giữ chặt bụng mình. Sao tôi có thể uống được? Đấy là con của tôi và Thanh, tôi không thể để nó bị hồng hoa đẩy ra khỏi thân thể được… Nó là máu mủ của tôi, là cốt nhục của tôi.

    Tôi sợ hãi vung tay đẩy bát thuổc đi, bày ra tư thế của một con thú mẹ đang bảo vệ đứa con của mình, gằn giọng nói: “Ta không uống!”

    Bát thuốc rơi xuống đất vỡ tan, vang lên tiêng “xoảng” chói tai. Lúc này Hoán Bích đã chạy tới, ôm chặt lấy đôi chân tôi mà gào lên thê thảm: “Trưởng tỷ! Tỷ không thể bỏ đứa bé này đi!” Muội ấy gục đầu xuống đất, khóc nức nở: “Đấy là cốt nhục duy nhất mà Vương gia để lại, tỷ không được bỏ nó đi!”

    Tôi đưa bàn tay trái tới khẽ vuốt ve khuôn mặt vì thương tâm quá độ mà trở nên gầy guộc, vàng vọt của Hoán Bích, bụng bỗng hơi nhói đau, tôi liền từ từ nhắm mắt lại. Trong gian thiền phòng tĩnh lặng đến đáng sợ, một tiếng “cạch” bất thình lình vang lên, tôi vô thức cúi xuống nhìn, thì ra một chiếc móng tay đã bị gãy giữa lòng bàn tay tôi.

    Tôi cố điều chỉnh lại hơi thở, bình tĩnh nói: “Cận Tịch, ta sẽ không uống thứ thuốc trụy thai này đâu. Ta muốn sinh đứa bé này ra!” Hít sâu một hơi, tôi nói tiếp: “Không chỉ có đứa bé này, còn cả huynh trưởng và người nhà của ta nữa, ta phải bảo vệ tất cả bọn họ.” Tôi không rơi nước mắt thêm nữa, bởi nước mắt của tôi đã chảy hết trong hôm biết tin y chết rồi. “Thanh chết rồi. Không còn ai bảo vệ ta nữa, ta phải tự bảo vệ mình, bảo vệ tất cả những người mà ta muốn bảo vệ.”

    Cận Tịch mặt lộ nét mừng, khom người một cái thật sâu, trầm giọng cất tiếng: “Đấy mới đúng là Chân Hoàn mà nô tỳ quen biết.”

    Mỗi lần hít thở, tôi đều cảm thấy đau đớn vô cùng, như thể trái tim bị cắt lìa từng đoạn. Nhưng dù có đau đớ đến mấy, tôi vẫn phải sống tiếp. Vì đứa bé còn chưa ra đời của tôi, tôi không thể chết; vì cha mẹ, anh em của tôi, tôi không thế chết; vì Huyền Thanh đã chết một cách oan uổng, tôi không thể chết.

    Tôi phải sống, nhất định phải sống cho thật tốt.

    Cận Tịch nắm chặt bàn tay tôi, mỉm cười, nói: “Nô tỳ thấy nương tử không ăn không uống, sợ nương tử nghĩ quẩn, do đó mới nghĩ ra hạ sách này để kích động nương tử một chút.”

    Trong đầu tôi như có một cây kim sắc bén cắm ngập vào rồi lại rút ra, đau đớn đến tột cùng! Thế nhưng càng đau đớn tôi lại càng tỉnh táo hơn, tôi đã không còn là Chân Hoàn vì thương tâm mà tự ruồng rẫy mình như xưa nữa.

    Tôi lẳng lặng ngồi thẳng người dậy, đón lấy bát thuốc an thai mà Hoán Bích bưng tới, ngẩng đầu uống một hơi cạn sạch, ánh mắt vốn xám xịt, chết chóc dần bừng lên ánh sáng. Tôi bình tĩnh nói: “Hai người yên tâm, ta sẽ không tự hủy hoại mình nữa đâu.”

    Cận Tịch khẽ nở nụ cười. “Nương tử có từng nghe thấy những lời khuyên nhủ chứa chan tình cảm của Ôn đại nhân mấy ngày qua không? Cứ như nô tỳ thấy, nương tử đi theo Ôn đại nhân, sống một cuộc đời bình lặng cũng là một lựa chọn không tồi.”

    Tôi lắc đầu, nói: “Cận Tịch, ngươi hiểu ta rõ nhất, việc gì còn phải thử ta như vậy? Ta sẽ không chấp nhận Ôn Thực Sơ đâu.” Lòng tôi trào dâng một nỗi thê lương. “Ca ca ta thần trí thất thường, lại chỉ có một thân một mình ở đất Lĩnh Nam, xung quanh không có người thân nào chăm sóc. Những việc mà trước đấy Thanh làm cho ta, bây giờ ta sẽ phải gánh vác một mình.” Tôi khẽ nói tiếp: “Cận Tịch, việc ta muốn làm Ôn Thực Sơ không thể giúp được ta, mà ta cũng không muốn dựa dẫm vào y cả đời, ta chỉ có thể dựa vào chính mình thôi.”Nụ cười của Cận Tịch lại càng trở nên rạng rỡ. “Nương tử tâm ý đã quyết, nô tỳ và Bích cô nương nhất định sẽ đi theo nương tử, không để nương tử phải cô độc đâu. Nhưng chẳng hay nương tử định làm thế nào?”

    Sau một thoáng trầm ngâm, tôi chậm rãi nói từng từ: “Cái chết của Thanh rất có vấn đề, ta không thể để yên được. Trước khi đi Điền Nam, y từng nói với ta, Điền Nam là chốn trọng địa của nhà binh, lại cung cấp một nửa lương thảo cho Đại Chu, người Hách Hách xưa nay luôn chực chờ thôn tính, thường cho gian tế lẻn vào. Y bất ngờ gặp chuyện như thế là do loạn dân Điền Nam gây ra hay là do người Hách Hách bày trò còn chưa thể biết rõ, thậm chí việc này còn có thể liên quan tới người nào đó trong cung. Nhưng bất kể là tình huống nào, với sức của một mình ta thì không thể báo thù cho y được.” Dòng suy nghĩ của tôi càng lúc càng trở nên rõ ràng. “Đứa bé trong bụng ta có số mồ côi từ lúc chưa ra đời, nhưng dòng dõi Thanh Hà Vương không thể đứt đoạn vì ta, ta nhất định phải để nó trưởng thành với một danh phận đàng hoàng. Còn có cha anh của ta nữa, trước đấy ta cố gắng kìm nén chỉ vì hy vọng bọn họ được bình an, nhưng bây giờ ca ca ta đã bị người ta ép đến phát điên rồi… Cố Giai Nghi lại ở ngay trước mắt, ta không thể trơ mắt nhìn bọn họ…”

    Tôi nghiến răng ken két nhưng không nói gì thêm. Cận Tịch đã hiểu ra, ngạc nhiên bật thốt: “Nương tử muốn làm những việc này, trên đời e là chỉ có một người giúp được…”

    “Đúng vậy!” Ánh mắt tôi bỗng chốc trở nên sắc bén như dao, giọng nói lạnh lùng tột độ, ngay đến trái tim cũng băng giá hoàn toàn.

    Tôi lặng im không nói, Huyền Lăng, đấy là cái tên đã từng gắn liền với những nỗi mừng vui và vinh dự, đau khổ và tuyệt vọng của tôi, đấy là cái tên mà tôi từng nghĩ sẽ không bao giờ phải gọi lại, bởi nó có thể khơi dậy những ký ức về cuộc sống trong cung thuở nào, mà quãng thời gian ấy chính là những tháng ngày thanh xuân tươi đẹp nhất trong sinh mệnh của tôi.

    Một sủng phi từng được sủng ái hết mực nơi hậu cung Đại Chu, không ngờ cũng có ngày phải mặc áo xám vải thô mà tụng niệm kinh văn trước ngọn đèn dầu. Bây giờ, khi nghĩ về cái tên ấy mà thầm bày mưu tính kế, tôi bỗng giật mình phát giác, số mệnh của tôi rốt cuộc vẫn không thể tránh khỏi những sự tranh đấu khốc liệt năm xưa.

    Tôi cố kìm nén cảm giác tang thương nơi đáy lòng, chậm rãi nói: “Thanh kể với ta, y từng gọi tên ta trong giấc mộng. Tuy còn chưa thể nắm chắc mười phần nhưng ta sẽ cố hết sức để thử. Ta phải mượn bàn tay và quyền lực của y để báo thù, để bảo vệ những người mà ta muốn bảo vệ.”

    Cận Tịch hít một hơi thật sâu, trầm giọng hỏi: “Con đường này vô cùng gian nan, nguy hiểm, nương tử đã suy nghĩ kĩ chưa?”

    Tôi khẽ “hừ” một tiếng, lạnh lùng nói: “Ngươi cho rằng ta còn con đường nào khác để đi sao?” Không kìm nổi nỗi bi thương nơi đáy lòng, tôi lại tiếp: “Y đã chết rồi, ta bây giờ chỉ còn lại một mình, có gì phải e ngại nữa đây?”

    Hoán Bích bỗng ngẩng lên, trong mắt chiếu ra những tia sáng rực, kinh hãi nói: “Tiểu thư muốn nối lại tình xưa với Hoàng thượng sao? Nhưng nếu tiểu thư và Hoàng thượng gặp gỡ ở đây, dù có mấy phen mưa móc để giấu trời qua biển nhưng một khi kinh động đến người ở trong cung, khiến kẻ nào đó nổi sát cơ, e là chúng ta chỉ có thể ngồi yên chờ chết.”

    Nỗi đau đớn không ngừng trào dâng trong lòng, tôi cố giữ bình tình, chậm rãi nói: “Ta sẽ hồi cung!”

    Hoán Bích buồn bã nói: “Bây giờ hồi cung đúng là cách tốt nhất nhưng tiểu thư định làm thế nào đây? Chính như tiểu thư từng nói, các phế phi của Đại Chu đều chết già bên ngoài cung, không có ai ngoại lệ.” Rồi lại không kìm được, muội ấy lộ rõ vẻ xót xa và không đành lòng. “Hoàng đế đối xử với tiểu thư như vậy, tiểu thư còn có thể về bên cạnh y nữa sao? Huống chi một khi tiểu thư về cung, sự tranh đấu ắt sẽ càng khốc liệt hơn ngày trước, nỗi khó khăn, vất vả trong đó tiểu thư đâu phải chưa từng trải qua.”

    Tôi hơi cúi đầu, lạnh lùng cười thành tiếng. “Tranh đấu khốc liệt ư? Ta là người đã chết một lần rồi, còn sợ gì chuyện tranh đấu nữa. Cho dù có phải chết trong cung, chỉ cần có thể bảo vệ được những người mà ta muốn bảo vệ, ta chẳng sợ gì hết.” Thoáng dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Nối lại tình xưa chẳng qua là tính toán cơ bản nhất thôi, điểm mấu chốt là phải làm thế nào để không lộ dấu vết và không khiến y nghi ngờ.”

    Sắc mặt Hoán Bích trắng bệch, đôi mắt thoáng lộ vẻ sắc bén, muội ấy cắn chặt môi, nói: “Hoán Bích kiếp này sẽ không thành thân với ai, tiểu thư đi, nô tỳ sẽ đi theo đó.”

    Tôi không nói gì thêm, đón lấy bát cháo Cận Tịch vừa mang tới, chậm rãi xúc từng miếng lên ăn.

    Cận Tịch lại bưng một bát thuốc an thần tới cho tôi uống, rồi khẽ nói: “Nương tử nên ngủ một giấc đi đã, đợi sau khi tỉnh lại hãy bày mưu tính kế cũng chưa muộn.”

    Tôi nhắm mắt lại, chuẩn bị ngủ một giấc ngon lành. Sau giấc ngủ này, là tôi sẽ không còn được ngủ ngon thêm lần nào nữa.

    Khi Ôn Thực Sơ tới, tôi đang ngồi trước bàn soi gương, cũng không nói gì nhiều với hắn, chỉ khẽ hỏi: “Nhìn muội bây giờ rất khó coi đúng không?”

    Hắn có vẻ hơi ngạc nhiên, không biết tại sao vào lúc này rồi mà tôi vẫn còn tâm trạng để ý tới dung mạo của mình, thế nhưng vẫn điềm nhiên đáp: “Muội rất đẹp, chỉ là mấy ngày nay khí huyết không đủ nên sắc mặt mới ảm đạm như vậy.”

    Tôi hờ hững nói: “Muội đang có thai, khí huyết không đủ sẽ không tốt với đứa bé, phiền huynh hãy kê một ít thuốc ích khí bổ huyết cho muội. Ngoài ra, huynh còn Thần Tiên Ngọc Nữ phấn trước đây không?”

    Hắn lại càng ngạc nhiên. “Đang yên đang lành sao tự nhiên muội lại nghĩ tới Thần Tiên Ngọc Nữ phấn vậy?”

    Hoán Bích đứng bên cạnh đáp thay tôi: “Tiểu thư đã quyết tâm sinh đứa bé này ra nhưng bây giờ trông tiểu thư tiều tụy như vậy, đứa bé sinh ra sao có thể xinh xắn, đáng yêu được chứ? Do đó mới phải uống thuốc ích khí bổ huyết để bồi bổ khí huyết, lại bôi thêm Thần Tiên Ngọc Nữ phấn cho dung nhan khôi phục lại.”

    Ôn Thực Sơ lặng im một lát rồi mừng rỡ nói: “Muội chịu như vậy là tốt rồi. Muốn ích khí bổ huyết thì cứ dùng dược thiện là hữu hiệu nhất, ta sẽ chuẩn bị sẵn rồi mang tới cho Cận Tịch mỗi ngày.” Giọng nói của hắn vô cùng trầm ấm: “Mấy việc này cứ giao cho ta, muội chỉ cần an tâm tĩnh dưỡng là được!”

    Tôi hờ hững nói: “Dược thiện ích khí bổ huyết phải là loại có công hiệu nhanh mới được, muội chẳng thích nhìn bộ dạng bệnh tật, ốm yếu này của mình chút nào.” Thấy Ôn Thực Sơ đã rời đi, tôi mới nói với Hoán Bích và Cận Tịch: “Tạm thời đừng để y biết vội.”

    Hai người cùng đáp “vâng” một tiếng. Hoán Bích khẽ nói: “Ôn đại nhân mà biết tiểu thư có tính toán này, chỉ e sẽ nổi xung lên mà ngăn cản tiểu thư mất.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Cho y biết chỉ khiến y thêm phiền não mà thôi!”

    Vì Cận Tịch nói hoa đào có thể làm mềm da mặt, khiến nhan sắc mỹ miều hơn, lúc này lại đang là mùa xuân trăm hoa đua nở, cây đào già ngoài sân cũng đang nở hoa rực rỡ, thế là mỗi ngày Cận Tịch và Hoán Bích đều hái rất nhiều hoa đào về giã nát, đắp mặt cho tôi. Ôn Thực Sơ thì dặn Cận Tịch hái hoa đào, hoa hạnh và hoa hòe về nấu cháo, lại ngày ngày hầm canh gà ác cho tôi ăn.

    Huyền Lăng xưa nay luôn yêu mỹ sắc, đấy cũng là vốn liếng duy nhất mà tôi có thể dựa vào. Dù không cam tâm đến mấy, rốt cuộc tôi vẫn phải làm cái việc dùng nhan sắc để lấy lòng người khác này.

    Cứ như vậy chừng hơn mười ngày, dù nơi đáy lòng vẫn ngợp nỗi tang thương nhưng dung mạo tôi đã phần nào hồi phục.

    Tôi buồn bã nghĩ, thì ra trái tim và khuôn mặt của con người không giống nhau, khuôn mặt có thể khôi phục lại rất nhanh nhưng trái tim đã tổn thương thì không cách nào bù đắp được, bất kể thời gian có trôi qua bao lâu, vết thương ở đó vẫn sẽ không ngừng rỉ máu, không thuốc gì chữa nổi.

    Hoán Bích thường xuyên bầu bạn bên tôi, thỉnh thoảng lại hơi ngẩn ngơ, khẽ hỏi: “Mới đó mà tiểu thư đã không còn thương tâm nữa rồi sao?”

    Tôi buồn bã ngoảnh đầu nhìn qua. “Hoán Bích, ta bây giờ không có thời gian để thương tâm.” Tôi cúi đầu, vuốt ve bụng mình, lẩm bẩm cất tiếng: “Trước khi đứa bé này lộ rõ, ta nhất định phải xử lý xong xuôi mọi việc.”

    Hoán Bích khẽ thở dài một tiếng, ủ rũ nói: “Nô tỳ hiểu.”

    Ban đêm khi hầu hạ tôi tắm rửa, Cận Tịch dịu dàng khuyên: “Những lời của Hoán Bích cô nương hôm nay, nương tử chớ để vào lòng.”

    Tôi nói: “Ta hiểu mà, nỗi thương tâm của muội ấy không kém gì ta.”

    Cận Tịch khẽ thở dài một tiếng. “Nỗi thương tâm của nương tử đều được giấu nơi đáy lòng. Có lúc, nỗi thương tâm không thể nói ra còn khiến người ta cảm thấy đau khổ hơn nhiều.”

    Tôi buồn bã cúi đầu. “Có lẽ Hoán Bích cảm thấy nỗi thương tâm của ta không nhiều bằng muội ấy, tình cảm mà ta dành cho Thanh cũng không nhiều bằng muội ấy.” Tôi gục đầu xuống bàn trang điểm, cất giọng yếu ớt: “Cận Tịch, có lúc ngay đến bản thân ta cũng cảm thấy như vậy.”

    Cận Tịch nhẹ nhàng chải tóc cho tôi, nhỏ nhẹ nói: “Đúng là Hoán Bích cô nương rất thương tâm, nhưng đó chỉ là vì bản thân không thể gặp lại Vương gia nữa, còn nương tử, nương tử thương tâm đến nỗi ngay cả bản thân cũng có thể vứt bỏ.”

    Màn đêm như dòng nước lạnh băng hắt thẳng lên mặt tôi, tôi gượng cười, nói: “Cận Tịch, ngươi trông đó, ta lại thương tâm rồi.” Tôi cố giữ cho lòng mình phẳng lặng, nói tiếp: “Bây giờ không phải là lúc ta được phép thương tâm. Hai chúng ta hãy cùng nhau nghĩ xem, trong cung bây giờ có ai có thể nói vài lời trước mặt Hoàng thượng đây nhỉ?”

    Cận Tịch lẳng lặng suy nghĩ trong chốc lát, hai mắt chợt lóe lên những tia sáng rực, rồi nàng ta cất giọng kiên định, nói: “Hiện giờ người có thể nói được vài câu trước mặt Hoàng thượng chỉ có duy nhất Lý Trường thôi. Y từ nhỏ đã bầu bạn bên cạnh Hoàng thượng, hiểu rõ tính Hoàng thượng nhất. Bây giờ nương tử đang tìm cách hồi cung, nhất định phải có cơ hội giáp mặt Hoàng thượng mới được.”

    Nghe thấy những lời này, đầu óc tôi lập tức như bừng sáng. “Ý của ngươi ta rõ rồi, ta muốn hồi cung thì không thể thiếu người đưa đường chỉ lối được. Ta vốn còn đang nghĩ xem có nên đi tìm Phương Nhược không cơ.”

    Cận Tịch thoáng trầm ngâm rồi mới nói: “Không được, Phương Nhược hiện đang hầu hạ bên cạnh Thái hậu chứ không phải Hoàng thượng, thứ nhất là tin tức truyền đi không được mau chóng, thứ hai là không thể thường xuyên quan sát tâm ý của Hoàng thượng, rất dễ xảy ra sai sót.”

    Dưới ánh nến đỏ, sắc mặt tôi trở nên hết sức nặng nề. “Phương Nhược không được, vậy chỉ có thể chọn Lý Trường thôi. Hồi ở trong cung, tuy ta đã từng cho Lý Trường không ít lợi lộc, nhưng bây giờ ta thất thế đến mức này, cơ hội hồi cung gần như bằng không, Lý Trường là người thông minh như thế, liệu có chịu ra tay giúp đỡ ta không?”

    Cận Tịch tỏ ra hết sức bình tĩnh và tỉnh táo. “Cho dù Lý Trường không chịu giúp chúng ta, chúng ta cũng phải nghĩ cách để khiến y chịu giúp. Bởi không chỉ trong chuyện an bài cho nương tử và Hoàng thượng gặp mặt, sau này về cung rồi hầu như mọi chuyện chúng ta đều cần tới y cả.” Đã rất lâu rồi tôi không nhìn thấy Cận Tịch như vậy, thậm chí tôi còn cảm thấy, một Cận Tịch có thể bày mưu tính kế cho tôi trong mọi việc như hồi còn ở trong cung thế này mới là Cận Tịch mà tôi quen biết. Nàng ta nói tiếp: “Nếu Hoàng hậu biết nương tử có thể sẽ được hồi cung khi đã mang thai trong người thì ắt sẽ tìm cách ngăn cản, có lẽ còn giấu giếm tin tức nương tử mang thai. Nếu Thái hậu không biết nương tử có thai, thái độ trong việc nương tử hồi cung nhất định sẽ không rõ ràng. Mà cho dù Thái hậu có biết, rồi vì lòng quan tâm đến con cháu mà có ý muốn đón nương tử về cung, cũng rất có khả năng Hoàng hậu sẽ bày trò gì đó để khiến việc bị chậm lại hay thậm chí là chìm vào quên lãng. Mà mỹ nhân trong cung nhiều vô kể, nếu Hoàng thượng nhất thời bị ai đó làm cho mê đắm rồi quên mất nương tử, nô tỳ chỉ nói là nhất thời thôi, nhưng chỉ cần có cái sự nhất thời này, Hoàng hậu cũng sẽ có vô số cách để khiến đứa bé trong bụng nương tử ‘vô duyên vô cớ’ biến mất. Nếu chuyện đó xảy ra, nương tử đã trải qua nên hẳn biết rõ Hoàng thượng coi trọng bề con cái đến mức nào, một khi trong bụng không còn đứa bé, nương tử thực sự chẳng có chỗ chôn thây đâu.” Nói tới đấy, giọng nàng ta bất giác mang theo mấy phần quyết liệt: “Bây giờ nương tử đang ở ngoài cung, muốn khiến Hoàng thượng nghĩ tới việc đi gặp nương tử, rồi tương lai lúc nào cũng nhớ tới nương tử v đứa con trong bụng nương tử, muốn đón nương tử về cung, cách tốt nhất chính là nhờ một người nào đó ở bên cạnh Hoàng thượng thường xuyên nhắc nhở, theo như nô tỳ thấy, người đó… chỉ có thể là Lý Trường. Mà cách tốt nhất để mua chuộc Lý Trường kỳ thực không phải là dùng vàng bạc hay châu báu, cũng không phải là lấy lợi để dụ.”

    Tôi loáng thoáng đoán ra được điều gì, trong lòng bất giác trào dâng một chút sợ hãi, vốn chỉ là một chút nhưng sau khi trên mặt Cận Tịch lộ ra nét cười thê lương và bất lực, sự sợ hãi trong tôi càng lúc càng rõ rệt hơn. Tôi nắm chặt bàn tay Cận Tịch, run giọng nói: “Cận Tịch, ngươi muốn làm gì…”

    Bàn tay Cận Tịch lạnh vô cùng, tay tôi thì rất ấm nhưng lại không thể sưởi ấm cho bàn tay nàng ta được. Tôi mơ màng nhớ tới cây bút mà Thái hậu thường dùng để chép kinh Phật, phần cán bút dường như được làm bằng đá hoa cương, vừa cứng vừa bóng loáng, không ngừng tỏa ra những tia giá lạnh. Giữa mùa đông, chỉ cần cầm cây bút đó một lát thôi, lập tức sẽ phải áp tay vào lò sưởi để sưởi ấm. Cận Tịch hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười chua chát. “Thái giám vốn là những người thân thể có khiếm khuyết, không thể cưới vợ sinh con chính là nỗi đau lớn nhất cuộc đời, dù có bao nhiêu tiền tài cũng không thể nào bù đắp được. Do đó bọn họ thường lén thành đôi thành cặp với các cung nữ, gọi là ‘đối thực[1]’, coi như méo mó có hơn không, lấy đó để xoa dịu nỗi đau trong lòng.”

    [1] Đối thực vốn mang nghĩa là góp gạo thổi cơm chung, về sau thường dùng chỉ việc cung nữ với cung nữ, hoặc cung nữ với thái giám, kết thành “vợ chồng” – ND.

    Tôi bất giác rùng mình, cơ hồ không dám tin, mồ hôi lạnh nơi sống lưng không ngừng cuồn cuộn túa ra, đoạn lớn tiếng nói: “Cận Tịch, ta không cho phép ngươi vì ta mà làm chuyện như thế?”

    Bóng dáng Cận Tịch lúc này trông mỏng manh vô cùng, nàng ta hờ hững nói: “Đấy là biện pháp tốt nhất. Nô tỳ tuy đã gần bốn mươi tuổi nhưng bộ dạng cũng không đến nỗi là già lắm. Loại thái giám đã có tuổi như Lý Trường không thích các cung nữ trẻ tuổi, hơn nữa nô tỳ và Lý Trường vốn là đồng hương, khi mới vào cung từng được y chiếu cố rất nhiều, sau bao năm quen biết, y chưa chắc đã không có ý, mà nô tỳ cũng bằng lòng thử xem sao.”

    Tôi gần như không chút nghĩ ngợi, lập tức cự tuyệt: “Cận Tịch, ngươi đi theo ta đã phải chịu quá nhiều nỗi vất vả, bây giờ lại còn vì ta mà…” Tôi không thể nói tiếp nữa, cảm thấy khó lòng hé miệng, đành nói: “Đối thực là việc thường thấy trong cung, các cung nữ thái giám lén đi lại với nhau cũng không phải điều gì quá đáng. Chỉ là y dù sao cũng không phải nam nhân, ngươi…”

    Cận Tịch nhẹ nhàng gạt tay tôi ra, sắc mặt đã trở lại bình tĩnh như thường, chậm rãi nói: “Nô tỳ đã suy nghĩ rất kĩ, nương tử có khuyên nhủ thêm nữa cũng vô ích thôi. Cận Tịch thân là nô tỳ, vốn là hạng người hèn mọn, không có tự do, lần này xin nương tử hãy cho nô tỳ một cơ hội được tự mình quyết định. Còn về chuyện sau này… không thử thì làm sao mà biết được. Lỡ như gặp may, nói không chừng Lý Trường lại là người mà nô tỳ có thể nương tựa cả đời.”

    Ánh trăng xuyên qua lớp giấy dán cửa sổ mỏng manh chiếu lên người Cận Tịch, khuôn mặt nàng ta lúc này trắng đến nỗi gần như trong suốt, chẳng có chút huyết sắc nào. Nàng ta chậm rãi đứng dậy, nhẹ nhàng gạt đi chút bụi dính trên váy, xoay người cất bước ra ngoài.

    Tôi kinh hãi thốt lên: “Cận Tịch, ngươi đi đâu vậy…”

    Cận Tịch xoay người lại, khẽ mỉm cười. “Lý Trường có một trang viện nhỏ bên ngoài cung, nô tỳ biết nó nằm ở nơi nào, cũng tự tin là sẽ gặp được y.”

    Tôi biết rõ nàng ta đi như thế có nghĩa là gì, bèn cố gắng khuyên nhủ: “Cận Tịch, ngươi thực sự không cần vì ta mà làm như vậy đâu. Chúng ta còn có cách khác, đúng không nào?”

    Cận Tịch thản nhiên cười, nói: “Việc nương tử về cung vốn không có hại gì cho Lý Trường, mà nếu nương tử đắc sủng thì còn rất có lợi cho y nữa, lại cộng thêm nô tỳ, nương tử cứ việc yên tâm.” Nàng ta gạt bàn tay đang cố níu giữ của tôi ra, nhẹ nhàng cất tiếng: “Nương tử nói bản thân giờ chỉ còn một mình, không có thứ gì không thể vứt bỏ. Còn nô tỳ thì sớm đã chỉ có một mình rồi, càng không phải sợ gì nữa.”

    Nàng ta không để ý đến tôi nữa, chậm rãi bước ra khỏi phòng. Vầng trăng trên cao nhợt nhạt như một khuôn mặt tròn xoe, tỏa xuống đất những tia sáng vô cùng ảm đạm. Bên ngoài căn phòng, rặng núi đằng xa như vô số yêu ma quỷ quái, khiến người ta càng sợ hãi.

    Lần đầu tiên tôi phát hiện, thì ra phía sau khuôn mặt hòa nhã kia của Cận Tịch lại có một vẻ ưu sầu sâu sắc đến nhường này. Nàng ta chậm rãi rời đi, mỗi bước chân đều rất vững vàng, dưới ánh trăng ảm đạm, cái bóng của nàng ta chừng như được kéo dài đến vô tận, đồng thời in sâu vào lòng tôi.


     
    Chỉnh sửa cuối: 13/9/17
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 2: Lòng buồn xiết nỗi nhớ chàng khôn nguôi
    Đêm dài cứ thế trôi qua trong sự nôn nóng và sốt ruột. Cận Tịch trở về lúc trời đã sáng, sắc mặt trắng bệch, nét cười trên mặt nhìn như một bông hoa nhuốm đầy bụi trần hé nở giữa làn cát bụi mịt mờ. Nàng ta nhìn tôi, khẽ nói: “Việc cần làm đều đã làm xong, nương tử yên tâm.”

    Tôi hoang mang đưa tay đỡ lấy nàng ta. “Ta vừa bảo Hoán Bích nấu một bát mì gà, ngươi tranh thủ ăn đi cho nóng.”

    Nụ cười của Cận Tịch thực sự rất yếu ớt. “Đêm nay Lý Trường sẽ đích thân tới đây bái phỏng, nương tử hãy suy nghĩ trước xem nên nói thế nào đi.”

    Tôi rơm rớm nước mắt, nói: “Ta biết, ngươi mau ăn lấy chút mì rồi đi nghỉ đi, trời sáng rồi đấy!”

    Cận Tịch uể oải cất tiếng: “Nô tỳ muốn chợp mắt một chút”

    Tôi cố kìm nén không để nước mắt tuôn rơi, dịu dàng nói: “Được, ngươi đi đi!”

    Nhìn Cận Tịch từ từ chìm vào giấc mộng, tôi chẳng cảm thấy buồn ngủ chút nào, lẳng lặng tựa người vào thành giường, không nói một lời. Hoán Bích xót xa nói: “Tiểu thư đã lo lắng cho Cận Tịch cả đêm, cũng nên đi ngủ rồi!” Sau một thoáng do dự, Hoán Bích lại trầm ngâm nói tiếp: “Vừa rồi tiểu thư có cảm thấy gì không? Hình như Cận Tịch rất buồn thì phải?”

    Tôi vội kéo tay Hoán Bích, nôn nóng nói: “Chuyện đêm qua chớ nhắc lại nữa, kẻo lại khiến Cận Tịch thương tâm.”

    Hai vành mắt bất giác đỏ hoe, Hoán Bích lẩm bẩm: “Tôi nay Lý Trường tới đây, chỉ e Cận Tịch sẽ càng buồn hơn.”

    Tôi buồn bã nhớ lại vẻ đau thương và quyết liệt của Cận Tịch trước lúc rời đi đêm qua, không biết tại sao nàng ta lại chỉ có một thân một mình. Cận Tịch chưa từng kể câu chuyện của bản thân cho tôi nghe, cũng không bao giờ buột miệng nhắc tới, dù sao ai cũng có quá khứ của riêng mình!

    Giờ Hợi đêm ấy, Lý Trường quả nhiên tới đúng như ước hẹn. Y vừa nhìn thấy tôi liền lập tức quỳ xuống hành lễ. “Nô tài bái kiến nương nương.”

    Tôi mời y đứng dậy, bảo Hoán Bích dâng trà rồi cười gượng gạo, nói: “Ta đã không còn là nương nương gì nữa rồi, Lý công công nói thế há chẳng phải là chế giễu ta sao?”

    Lý Trường ung dung nói: “Nô tài xưng hô với nương nương như thế tất nhiên là có lý do của nô tài, tại đây cũng xin được chúc mừng nương nương trước.”

    Tôi nhìn y chăm chú. “Lời này của công công ta thực không sao hiểu được.”

    Tròng mắt Lý Trường hơi đảo qua đảo lại, nói: “Hôm qua Cận Tịch đến tìm nô tài, tuy chưa nói rõ nhưng nô tài đã loáng thoáng đoán được một chút rồi. Hôm nay thấy nương nương tuy trú tại thiền phòng nhưng dung nhan rạng rỡ, nô tài lại càng nắm chắc hơn.”

    Quả nhiên là một người tinh quái! Tôi nở nụ cười đầy ý vị. “Lần này công công tới đây là có mục đích gì vậy?”

    Lý Trường đáp: “Nô tài tới là để chúc mừng tâm nguyện của nương nương ắt có thể đạt thành.”

    “Cớ sao lại nói vậy?”

    “Nô tài hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng nhiều năm, Hoàng thượng có suy nghĩ thế nào, ít nhiều gì nô tài cũng đoán được mấy phần. Nhớ khi xưa Hoàng thượng cực kỳ sủng ái một vị Phó Tiệp dư có dung mạo rất giống với nương nương…”

    Tôi cắt ngang lời Lý Trường, hơi nheo mắt lại, nói: “Phó Tiệp dư rốt cuộc có dung mạo giống ta hay là giống người khác đây? Lý công công chớ nên đùa ta như thế!”

    “Nô tài không dám!” Y khom người nói: “Sau khi Phó Tiệp dư chết, Hoàng thượng chẳng than thở lấy một câu, cứ như chưa từng có việc gì xảy ra vậy. Phó Tiệp dư có dung mạo giống với người đó và nương nương, khi mới vào cung vì được Hoàng thượng sủng ái nên không coi ai ra gì. Thế nhưng cũng vì cái chết của Phó Tiệp dư mà nô tài biết được nương nương có sức nặng thế nào trong lòng Hoàng thượng.” Ánh mắt y bỗng hơi lóe sáng. “Nương nương có biết tại sao Hoàng thượng lại đắm chìm trong ngũ thạch tán không? Nương nương có biết sau khi cùng Phó Tiệp dư dùng ngũ thạch tán, Hoàng thượng đã ôm Phó Tiệp dư mà gọi tên ai không? Nương nương có biết khi hôn mê trong cơn bệnh nặng, ngoài gọi tên Thuần Nguyên Hoàng hậu ra, Hoàng thượng còn gọi tên ai nữa không?”

    Lý Trường hỏi liền một tràng dài như thế là có ý gì, tôi tất nhiên biết rõ, thế nhưng lại không kìm được nghĩ thầm: Trong lòng Huyền Lăng, tôi thật sự có địa vị như thế sao? Tôi căn bản không tin. Lý Trường nói như thế rất có thể chỉ là vì muốn lấy lòng tôi mà thôi, hơn nữa đưa đẩy nịnh nọt vốn chính là bản lĩnh mưu sinh của các thái giám chốn cung đình như y.

    “Nếu không vì đương lúc tâm trí mỏng manh, với sự tu dưỡng của Hoàng thượng sao có thể đụng đến một thứ như ngũ thạch tán chứ. Dù Phó Tiệp dư có muốn dùng nó để củng cố sự ân sủng, Hoàng thượng cũng quyết không thể bị mê hoặc.” Lý Trường nghiêm túc nói: “Năm xưa, nếu không vì nương nương không chịu cúi đầu trước Hoàng thượng, sao Hoàng thượng lại nỡ để nương nương rời cung, ngày đó chỉ cần nương nương bằng lòng ở lại, bây giờ ít nhất cũng đã được ở ngôi chiêu nghi rồi…”

    Tôi lạnh lùng cắt ngang lời y, giọng nói băng giá đến tột độ: “Chuyện trước đây công công không cần phải nhắc lại nữa.”

    Lý Trường hơi cau mày, đưa mắt nhìn tôi. “Ý của nương nương là…”

    Tôi biết y đã nảy lòng nghi ngờ, cũng biết là mình đã thất thố, vội vàng giấu biệt dáng vẻ buồn bã hiện thời. “Năm xưa đúng là ta ương bướng quá, nhưng khi đó nhà ta mắc tội, ta đâu còn mặt mũi nào mà hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng nữa. Mấy năm nay rời cung, ta kỳ thực cũng nhớ Hoàng thượng vô cùng, giờ chỉ đành xin Lý công công đứng ra dàn xếp mọi việc giúp thôi.”

    Lý Trường khẽ thở dài một tiếng. “Nô tài cũng nhìn ra rồi, năm xưa nương nương phụng chỉ tu hành ở chùa Cam Lộ, bây giờ lại trú mình tại nơi đây, Cận Tịch nói với nô tài là vì nương nương mắc bệnh nên mới phải dọn ra ngoài nhưng nô tài cũng hiểu, nhất định là đám ni cô ở chùa Cam Lộ đã khiến nương nương phải chịu không ít nỗi ấm ức. Nơi này tuy thanh tịnh nhưng dù sao cũng là chốn núi non hoang dã, nương nương đã phải chịu khổ rồi!”

    Tôi đưa khăn tay lên lau khóe mắt, chua xót nói: “Năm xưa ta ít tuổi không hiểu chuyện, do đó mới nhất quyết rời cung rồi rơi vào cảnh bây giờ. Kỳ thực cuộc sống vất vả một chút cũng không có gì đáng sợ, nhưng lòng ta lại luôn bức bối vô cùng.” Tôi nhìn Lý Trường mà nước mắt lưng tròng, thổn thức nói: “Nếu kiếp này còn có phúc được gặp Hoàng thượng một lần, được gặp Công chúa một lần, ta dù phải chết cũng có thể nhắm mắt. Xin công công thành toàn giúp cho.” Thoáng dừng một chút, tôi lại tiếp: “Chỉ là thế sự vô thường, bên cạnh Hoàng thượng có thêm không ít sủng phi, chỉ e ngài sớm đã ên mất ta rồi…”

    Lý Trường vội nói: “Nương nương nặng lời rồi, kỳ thực nếu không có mấy phần nắm chắc, nô tài cũng không dám tới đây gặp nương nương.” Y trầm ngâm nói tiếp: “Thực ra sau khi nương nương rời cung tu hành, Hoàng thượng cũng không có lúc nào vui. Tuy ngài vì nương nương mà trách mắng Kính Phi nương nương, lại thiếu chút nữa thì cấm túc Huệ Quý tần, nhưng trong lòng vẫn mười phần nhung nhớ. Vừa rồi nương nương nói Hoàng thượng sủng ái Phó Tiệp dư là vì người khác, nhưng dung mạo của Phó Tiệp dư không chỉ giống người đó, còn giống cả nương nương nữa. Hoàng thượng mỗi lần cùng Phó Tiệp dư dùng ngũ thạch tán xong liền ôm Phó Tiệp dư mà gọi tên của người khác đó, nhưng cũng có lúc gọi tên nương nương.” Lý Trường đưa mắt liếc tôi một cái, nói tiếp: “Hoàng thượng là đấng thiên tử, do đó không chịu cúi đầu nhìn nương nương. Kỳ thực nương nương thông minh tột bậc, chỉ cần nghĩ kĩ một chút là sẽ hiểu ngay, nếu không được Hoàng thượng ngầm cho phép, dù có sự đồng ý của Thái hậu, hai năm qua Phương Nhược có thể thường xuyên tới thăm nương nương như vậy sao?” Lý Trường nhìn tôi chăm chú, sắc mặt dần lộ vẻ hết sức nghiêm túc. “Trong lúc hôn mê ngã bệnh vì dùng ngũ thạch tán, Hoàng thượng cũng từng có lần gọi tên nương nương đấy!”

    Lý Trường chậm rãi vạch rõ nguồn cơn của những chuyện khi xưa, lòng tôi không phải là không chấn động, nhưng cũng chỉ có sự chấn động mà thôi.

    Tôi khẽ nói: “Hoàng thượng chẳng qua chỉ gọi tên ta mà thôi.” Tôi hơi cau mày, cố kìm nén sự run rẩy nơi đáy lòng, thản nhiên nói tiếp: “Trước đây, mỗi lần ở bên ta, Hoàng thượng đều gọi tên người khác.”

    Lý Trường cúi đầu nói: “Nương nương hẳn cũng hiểu rõ người đó có sức nặng thế nào trong lòng Hoàng thượng, bởi bọn họ dù sao cũng là phu thê từ thuở thiếu niên, người đến sau căn bản không thể so sánh. Hoàng thượng nhất thời lỡ lời cũng là vì dung mạo của nương nương và người đó thật sự có nét giống nhau. Xin thứ cho nô tài nói một câu có thể khiến nương nương tức giận, cũng vì nguyên nhân này nên Hoàng thượng mới chưa dứt tình với nương nương, mà chút tình cảm này chính là vốn liếng quan trọng nhất của nương nương hiện giờ.”

    Tôi cố sức kìm nén bản thân, bằng không sớm đã không kìm được mà nghiến răng cười lạnh rồi. “Kỳ thực có mấy phần giống với Uyển Uyển cũng là cái phúc của nàng.” Câu nói này của Huyền Lăng, tôi ơ hồ không dám nghĩ lại, bởi nó thực tàn nhẫn tới tột cùng, nghiền nát mọi sự tự tôn nơi tôi.

    Lý Trường thấy tôi im lặng, lại nói tiếp: “Trong lúc ngủ mê, Hoàng thượng chưa từng gọi tên ai khác ngoài người đó, nương nương chính là ngoại lệ đầu tiên. Còn nhớ hôm đó, Thanh Hà Vương cũng có mặt và không kìm được sợ giật nẩy mình.”

    Thanh Hà Vương, cái tên này sau nháy mắt đã khiến trái tim tôi lay động, mang tới nỗi đau đớn tột cùng, nhưng đồng thời nơi đáy lòng tôi cũng có chút ký ức ngọt ngào hiện lên.

    Tôi cố giữ lòng mình bình tĩnh, Ôn Thực Sơ trước giờ chưa từng gạt tôi, nhưng cho dù là như thế, có một số việc cũng cần phải chứng thực một phen mới được. Tôi hít sâu một hơi, có lẽ… tôi chưa chắc đã phải tiếp tục thực hiện kế hoạch xiết nỗi đắng cay này.

    Tôi cố nặn ra một nụ cười mỉm. “Đã có nhân chứng như vậy thì tốt quá, đợi lúc nào ta tìm Vương gia tới hỏi thử một chút là biết ngay có phải công công lừa gạt ta không.”

    Khuôn mặt Lý Trường bỗng như đông cứng lại, từ trong cổ họng bật ra một tia nghẹn ngào: “Không giấu gì nương nương, nếu lúc này Vương gia có thể tới đây nói với nương nương chuyện đó thì tốt quá. Vương gia… không bao giờ có thể trở về nữa rồi!” Y kể lại vắn tắt với tôi về cái chết của Huyền Thanh, rồi lại nói: “Đây là tin tức mật trong cung, ý của Hoàng thượng là tạm thời chưa phát tang vội. Vốn nô tài không nên nói ra nhưng trong lòng lại nghĩ, nếu nương nương biết rồi thì khi gặp Hoàng thượng có thể an ủi vài câu, dù sao Hoàng thượng cũng vô cùng thương tâm vì cái chết của Lục Vương gia.”

    Y thực sự đã chết rồi! Cho dù tôi đã biết tin từ sớm nhưng giờ nghe Lý Trường chứng thực, trái tim tôi vẫn đau đớn tột cùng, đau đến nỗi chỉ muốn tìm một nơi nào đó mà cất tiếng khóc thật to. Cận Tịch thấy tình hình không ổn, vội bưng trà tới nói: “Nương tử mệt rồi, hãy uống tạm chén trà đi đã!”, rồi lại bưng một chén trà khác đưa tới cho Lý Trường, khẽ nói: “Đây là trà đã qua hai lần nước mà công công quen uống.”

    Lý Trường lặng lẽ đón lấy, không nói năng gì, chỉ như vô tình mà hữu ý thoáng liếc nhìn khuôn mặt Cận Tịch, dáng vẻ hết sức thản nhiên.

    Dòng nước trà nóng bỏng chảy qua cổ họng tôi như ngọn lửa đang thiêu đốt, tôi cố sức kìm nén lòng mình, bình tĩnh nói: “Vương gia còn trẻ quá, thật đáng tiếc!”

    Lý Trường thở dài, nói: “Đúng thế! Hai năm trước, Thái hậu và Hoàng thượng từng muốn chọn cho Vương gia một vị chính phi, vốn đã vừa ý tiểu thư của nhà Bái Quốc công rồi, đó thật sự là một nữ tử rất xinh đẹp và nền nã, ấy vậy mà Vương gia lại nhất quyết không chịu. Nếu hai năm trước Vương gia cưới vị chính phi này rồi để lại một hai đứa con thì tốt biết bao, tiếc thay cho dòng dõi Thanh Hà Vương đến đây là phải đứt đoạn. Không biết Thư Quý phi sau khi hay tin sẽ thương tâm tới mức nào nữa.”

    Dòng dõi Thanh Hà Vương… Tôi vô thức đặt tay lên bụng mình, lặng im không nói gì.

    Lý Trường tuổi cũng đã cao, tính ra cũng phải trên năm mươi, lúc này cau mày ủ rũ trông lại càng có vẻ già nua. Tôi bất giác có chút không đành lòng, liền lén đưa mắt liếc nhìn Cận Tịch, nhưng nàng ta vẫn thản nhiên như thường, lẳng lặng đứng bên cạnh tôi.

    Lý Trường thở dài một hơi, nói tiếp: “Trước năm mới chừng nửa tháng, Hoàng thượng có nạp một nữ tử huấn luyện thú trong ngự uyển làm cung tần, tuy dựa theo thông lệ về các cung nữ được tấn phong, ban đầu, cô ta chỉ là canh y, nhưng sau hai tháng bây giờ đã là tuyển thị rồi. Địa vị như thế kỳ thực không có gì đặc biệt, cùng lắm cũng chỉ được phong đến ngôi tần là hết mức. Chỉ là nữ tử huấn luyện thú ấy thân phận hèn mọn đến cỡ nào, sao có thể hầu hạ thiên tử được. Vì chuyện này mà Thái hậu từng khuyên nhủ mấy lần nhưng Hoàng thượng không nghe, còn khá sủng ái nữ tử đó. Có lẽ sau khi gặp nương nương, Hoàng thượng sẽ bớt phóng túng phần nào.”

    Tôi chưa từng nghe nói tới việc này, ngạc nhiên hỏi: “Nữ tử đó thực sự là người huấn luyện thú sao?”

    Lý Trường lo lắng nói: “Nữ tử đó họ Diệp, vốn là người chuyên huấn luyện hổ trong ngự uyển, cả ngày làm bạn với sài lang hổ báo, rất càn rỡ, ngang ngược, ấy vậy mà Hoàng thượng lại thích.”

    Tôi chỉ có thể gượng cười. “Nhãn quang của Hoàng thượng đúng là độc đáo.”

    Lý Trường lộ vẻ mặt ủ mày chau. “Chuyện ngũ thạch tán còn có thể nói là do Phó Tiệp dư dụ dỗ, nhưng lần này Diệp Tuyển thị đắc sủng… Thái hậu hiện đang ốm nặng không thể quản được, chỉ đành dặn Kính sự phòng không cho phép Diệp thị có thai.” Lý Trường thở dài, nói tiếp: “Cứ như nô tài thấy, chắc hẳn Hoàng thượng vẫn còn nhớ tới nương nương, mà cuộc sống của nương nương bây giờ cũng chẳng dễ chịu gì, chi bằng…” Y đưa mắt nhìn tôi, chờ tôi tự mình mở miệng.

    Tôi buồn bã thở dài một tiếng, bên trong chất chứa nỗi ấm ức, thương tâm và cô độc, hồi lâu sau mới nói: “Cho dù ta không nỡ, nhưng bây giờ còn có mặt mũi nào mà gặp lại Hoàng thượng nữa? Công công nói Hoàng thượng vẫn còn tình ý, ta lại càng cảm thấy hổ thẹn, ban đầu vốn còn có suy nghĩ muốn gặp Hoàng thượng, nhưng bây giờ thì không dám có nữa rồi.”

    Khóe miệng Lý Trường bất giác hơi máy động: “Nô tài tuy chỉ đứng ngoài nhưng cũng thấy rõ hết thảy, năm đó nương nương thực đã phải chịu quá nhiều nỗi ấm ức, trước khi sinh Lung Nguyệt Công chúa, cuộc sống khổ sở vô cùng, chỉ là Hoàng thượng cũng có nỗi bất đắc dĩ.” Lý Trường cúi đầu trong chốc lát rồi liền mỉm cười, chậm rãi nói: “Kỳ thực nương nương muốn gặp Hoàng thượng cũng không phải là không thể, trong tháng Giêng này có việc dâng hương cầu phúc, những năm trước đây Hoàng thượng đều tiến hành nghi thức trong Thông Minh điện, năm nay nô tài sẽ cố gắng khuyên ngài đến chùa Cam Lộ dâng hương một chuyến.”

    Tôi đưa khăn tay lên lau khóe mắt, thổn thức nói: “Thực vất vả cho công công quá, chuyện này nhất định là chẳng dễ dàng gì.”

    Lý Trường nheo mắt, nở một nụ cười đầy ý vị. “Nương nương cứ để nô tài nghĩ cách là được, việc này chưa chắc đã khó lắm đâu.”

    Tôi nói giọng nửa như cảm tạ nửa như than thở: “Lý công công, ta thực không biết phải báo đáp tấm lòng thành này của công công thế nào.”

    Lý Trường ung dung cười, nói: “Nô tài bề ngoài là giúp nương nương, kỳ thực cũng là giúp bản thân mình. Tuy bây giờ nương nương đang ở ngoài cung, nhưng nói một câu thực lòng, ngày đó nếu nương nương không tự nguyện xin rời cung thì không ai có thể đuổi nương nương đi được… Nương nương đâu phải là vật trong ao.” Dứt lời y liền khấu đầu một cái, chậm rãi nói: “Giờ cùng đã muộn lắm rồi, nương nương nên đi nghỉ sớm một chút, có tin tức gì nô tài sẽ sai người tới báo.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Hoán Bích, giúp ta tiễn Lý công công một đoạn.”

    Cận Tịch bước lên hai bước, khẽ nói: “Nô tỳ đang chuẩn bị ra ngoài thắp đèn, cứ để nô tỳ đưa tiễn Lý công công, Hoán Bích cô nương ở lại hầu hạ nương tử đi.”

    Lý Trường mỉm cười, nói với Cận Tịch: “Bên ngoài trời tối như vậy, để tự ta xuống núi là được rồi, không cần tiễn đâu.” Nói rồi, y liền móc từ trong vạt áo trước ngực ra một gói bạc nhét vào tay nàng ta. “Chỗ bạc này cô hãy dùng tạm, khi nào sẵn dịp ta sẽ sai người đưa một ít vải tới, quần áo trên người cô cũ quá, đều là từ mấy năm trước rồi.”

    Chiều tối ngày hôm sau liền có người tới, Cận Tịch nói: “Là tổng quản trang viện bên ngoài của Lý Trường.”

    Người đó ăn mặc gọn gàng, dập đầu cung kính thưa: “Công công kêu nô tài tới đây nói với nương tử, chính ngọ ngày kia sẽ có điềm lành long du Cam Lộ, nếu nương tử có lòng thì có thể ăn mặc đẹp đẽ đi xem.” Dứt lời lại chỉ vào chỗ quần áo và đồ trang sức trên bàn, nói tiếp: “Những thứ này đều là do công công bảo nô tài mang tới cho nương tử.”

    Đợi người đó đi rồi, tôi tùy ý lật xem chỗ quần áo trên bàn, thấy chỉ có mấy bộ thêu hoa văn sặc sỡ bên trên là được may theo số đo của tôi. Tôi vẫy tay gọi Cận Tịch lại, lấy ra mấy bộ đồ màu vàng, màu trắng và màu xanh bên dưới, cất tiếng cảm thán: “Lý Trường cũng coi như là có lòng, hôm qua sau khi quay về chắc y đã kêu thợ may làm thâu đêm để có chỗ quần áo này. Đường kim mũi chỉ vẫn còn mới lắm, kích cỡ lại rất vừa với ngươi, ngay đến màu sắc, hoa văn cũng đều là những loại mà thích.”

    Cận Tịch nở một nụ cười bình thản. “Cũng chỉ vậy mà thôi, tốt hay không tốt thì cũng đều là số mệnh cả rồi!” Sau đó, nàng ta liền sắp xếp lại chỗ quần áo và đồ trang sức đó một chút, nói: “Vừa rồi gã tổng quản của phủ Lý Trường nói muốn nương tử ăn mặc đẹp đẽ, đưa mấy thứ này đến chắc hẳn chính là có ý này.”

    Tôi khẽ gật đầu, đưa mắt nhìn cảnh xuân tươi đẹp bên ngoài cửa sổ, thấy khắp đất trời đều ngợp đầy hoa, nhưng nơi đáy lòng tôi thì lại lạnh giá tột cùng. “Ta hiểu ý của Lý Trường, y hy vọng ta ăn mặc đẹp đẽ để có thể giành được tình cảm của Hoàng thượng.” Khóe môi tôi hơi nhếch lên để lộ một nụ cười lạnh lẽo mà ngay đến bản thân tôi cũng không thể phát giác. “Có điều, như thế thực khó mà tránh khỏi mối hiềm nghi cố ý.”

    Cận Tịch không nói gì, bên ngoài cửa sổ, hoa đào nở rộ đẹp tươi như gấm vóc, khiến khuốn mặt tôi và Cận Tịch đều có vẻ nhợt nhạt vô cùng.

    Cận Tịch cầm một bông hoa đào trong tay, hồi lâu sau mới hờ hững nói: “Hôm đó nghe Lý Trường nói về tâm ý của Hoàng thượng với nương tử, quả thực ai nghe cũng phải rơi lệ.”“Thật sự là tình sâu tựa bể sao?” Tôi cười nhạt, nói: “Có thứ tình sâu tựa bể nào mà luôn coi người khác như một cái bóng, vừa làm tổn thương người khác lại vừa làm tổn thương chính mình, có gì đâu mà phải rơi lệ.” Móng tay tôi cắm vào lòng bàn tay mang tới cảm giác nhói đau. “Ta là cái bóng của Thuần Nguyên Hoàng hậu, vậy Phó Tiệp dư là cái bóng của Thuần Nguyên Hoàng hậu hay là cái bóng của ta đây? Cô ta lại càng đáng thương hơn, đáng thương đến nỗi làm cái bóng của một người thôi còn chưa đủ, mà sau khi chết đi đến một câu than tiếc cũng chẳng có. Hoàng thượng đã sủng ái cô ta, tại sao lại đối xử với cô ta bạc bẽo như thế? Cái gọi là chân tình mà những kẻ bạc bẽo bố thí cho người ta có gì đáng để cảm động sao?”

    Cận Tịch chăm chú nhìn tôi, nhẹ nhàng cất tiếng: “Nhưng khi Lý Trường nói ra những lời đó, đôi hàng lông mày của nương tử hơi máy động, lẽ nào trong đầu thật sự không có ý nghĩ gì khác sao?”

    Tôi tỉ mỉ nghngẫm về tâm tư của mình khi đó, khẽ nói: “Khi đó ta quả thực có chút chấn động, nhưng suy nghĩ một chút, liền cảm thấy cũng chỉ có vậy mà thôi.” Tôi nghiêm mặt lại, hờ hững nói tiếp: “Trước tiên là khiến ngươi thương tích đầy mình, sau đó lại bôi cho ngươi chút thuốc hoàn toàn vô dụng, vậy thì có ý nghĩa gì cơ chứ.”

    Cận Tịch trầm ngâm suy nghĩ một chút rồi mới nói: “Dù có ý nghĩa hay không, chỉ cần Hoàng thượng còn có lòng này, việc của chúng ta sẽ dễ thành công hơn.”

    Tôi cười lạnh một tiếng, ngẩng đầu nhìn những bông hoa ngoài sân lặng lẽ rơi.

    Hôm nay tôi dậy sớm, mái tóc dài tùy ý để xõa sau vai, dùng chỗ nước hoa hồng đã chuẩn bị sẵn từ hai ngày trước để chải đầu, khiến mùi thơm của hoa hồng thoang thoảng trên mái tóc.

    Hoán Bích cẩn thận chải đầu cho tôi, chiếc lược liên tục đưa lên đưa xuống. Tôi nhắm mắt lại, cảm nhận những tia tê tê xuất hiện khi răng lược cà nhẹ vào da đầu. Đột nhiên, Hoán Bích dừng động tác trên tay lại, ngồi sụp xuống, tựa đầu lên gối tôi, cất giọng run run nói: “Tiểu thư, nô tỳ sợ.”

    Tôi đưa tay xoa nhẹ mái tóc được búi lên gọn ghẽ của Hoán Bích, hỏi: “Muội sợ điều gì?”

    Mái tóc của Hoán Bích mềm mịn như tơ, khiến người ta sinh lòng thương xót. “Nô tỳ sợ tiểu thư hôm nay không thể thành công, nhưng nếu thành công rồi, con đường sau này chỉ e sẽ càng thêm gian nan, nguy hiểm. Nô tỳ suy đi nghĩ lại, cảm thấy sợ hãi vô cùng.”

    Bàn tay Hoán Bích đã trở nên lạnh ngắt, còn rỉ đầy mồ hôi. Tôi cố giữ lòng mình bình tĩnh, nắm chặt lấy bàn tay Hoán Bích, chậm rãi nói: “Ngoài con đường này ra ta không còn con đường nào khác để đi. Do đó, ta nhất định phải kiên định bước đi, không cho phép bản thân được phép quay đầu.”

    Sợ ư? Đâu phải tôi không sợ, có điều nếu sợ mà có ích, mọi việc trên đời này sẽ không còn chút khó khăn nào nữa, chỉ cần trùm người vào trong chăn mà né tránh tất thảy là được. Đời người nếu chỉ đơn giản như thế thôi, vậy thì sẽ không còn là đời người nữa.

    Tôi mặc bộ đồ ni cô màu xám như thường ngày, có điều lần này là chất vải sa, hơi trong suốt, bên trên có những bông hoa sen được thêu bằng chỉ bạc mờ mờ, dưới ánh mặt trời, chúng ánh lên những tia sáng hết sức linh động. Bên trong, tôi mặc thêm một chiếc áo ngắn bằng lụa tơ tằm trắng muốt, được cắt rất vừa người.

    Hoán Bích lo lắng nói: “Thế này liệu có mộc mạc quá không? Tiểu thư đã hạ quyết tâm rồi, dù gì cũng nên trang điểm cẩn thận một chút.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Hoàng thượng ở trong cung đã thấy quá nhiều son phấn rồi, trang điểm đậm để làm gì chứ, còn chẳng bằng để mộc mạc thế này.” Hơn nữa, cũng chỉ có thứ màu sắc này mới có thể làm bật lên vẻ mong manh yếu ớt của tôi.

    Cận Tịch chỉnh lại gương, nói: “Nương tử giờ đang để tóc tu hành, nếu trang điểm đậm đà thì quả thực không hợp với vùng núi non hoang dã này.”

    Tôi không nói gì, chỉ cầm tràng hạt làm bằng gỗ lim lên, lại thắp một nén đàn hương, lẳng lặng quỳ trước bàn thờ Phật. Đức Quan Âm rất mực hiền từ, đứng trên mây cao nhìn thấy tất thảy những chuyện bi hoan ly hợp, vậy nhưng lại chẳng thể phổ độ chúng sinh.

    Phía bên ngoài đã thấp thoáng vang lên tiếng lễ nhạc, khỏi cần nghĩ cũng biết nhất định là nghi trượng của Huyền Lăng đã lên tới chùa Cam Lộ rồi. Hoán Bích đứng bên cạnh lạnh lùng nói: “Mới nhìn từ xa đã thấy vàng bạc lấp lánh, châu ngọc sáng bừng, Hoàng thượng của chúng ta đúng là xa hoa tột bậc!”

    Lúc này đây, lòng tôi như đang nhỏ máu.

    Thanh, huynh đi rồi, tất cả mọi niềm hy vọng của muội cũng theo đó mà tan.

    Thanh, Phật không thể phổ độ chúng sinh, muội chỉ có thể tự độ chính mình, dựa vào sức của bản thân mà bảo vệ những người muội muốn bảo vệ.

    Do đó, xin huynh hãy tha thứ cho muội, tha thứ cho sự bất đắc dĩ của muội, tha thứ cho việc muội lại trở về bên cạnh y.

    Hồi lâu sau, chẳng biết là bao lâu nữa, tôi chỉ cảm thấy hai bên má mình ẩm ướt và lạnh giá, chợt nghe giọng nói của Cận Tịch vang lên: “Có một tiểu thái giám đến báo tin, Hoàng thượng sắp tới đỉnh Lăng Vân rồi, nương tử xin hãy chuẩn bị một chút đi.”

    Tôi lặng lẽ đứng dậy, dùng tiếng tụng kinh để kìm nén nỗi oán hận nơi đáy lòng, suy đi nghĩ lại, vẫn cảm thấy dùng vẻ mặt hờ hững và điềm đạm là thích hợp nhất. Đứng giữa làn gió núi trên đỉnh Lăng Vân, từng cơn giá lạnh không ngừng ập tới, đầu óc tôi lại càng tỉnh táo hơn. Tôi mơ màng nhớ lại cảnh mình bước đi trên con đường tới Ỷ Mai viên để tranh sủng năm xưa, khi đó đang lúc mất con thất sủng, lòng tôi buồn bã vô cùng, có điều ít nhiều gì vẫn còn chút hy vọng vào Huyền Lăng. Nhưng lúc này đây, thực sự đã chẳng còn chút gì nữa rồi. Đời người vốn chính là như vậy, trắc trở quanh co, chẳng qua chỉ như một vở kịch mà thôi. Mà những con hát trong vở kịch, kỳ thực không cần phải có bất cứ thứ tình cảm nào cả.

    Dưới chiếc lọng ngũ sắc thêu hình chín con rồng phía xa, Huyền Lăng bám vào tay Lý Trường, bước đi chậm rãi, trong khoảnh khắc nhìn thấy tôi, cặp mắt y rõ ràng ánh lên vẻ mơ màng, đôi chân thì dừng lại không bước nữa.

    Tôi khẽ mỉm cười, quay sang nói với Cận Tịch bên cạnh: “Cận Tịch, ta lại nằm mơ nữa rồi, lúc nào cũng cảm thấy như là Tứ lang đang ở ngay trước mắt.”

    Vốn đang quay lưng về phía Huyền Lăng, Cận Tịch cẩn thận giúp tôi kéo lại vạt áo, xót xa nói: “Chắc đêm qua nương tử lại không ngủ được rồi, chi bằng hãy đi nghỉ ngơi một chút.” Rồi nàng ta xoay người lại, bất ngờ nhìn thấy Huyền Lăng đang đứng ngay trước mắt, liền thất thanh kêu lên: “Hoàng thượng…”

    Tôi vẫn nguyên bộ dạng ngẩn ngơ, một làn gió núi thổi tới khiến ống tay áo tôi tung bay lất phất, dưới vầng dương rạng rỡ có mấy tia sáng màu bạc ánh lên, lại càng khiến khung cảnh nơi đây thêm phần mộng mị. “Cận Tịch, chắc ta đã suy nghĩ quá nhiều rồi, chẳng lẽ ngươi cũng đang nằm mộng?”

    Cận Tịch véo mạnh tay tôi một cái. “Nương tử, quả đúng là Hoàng thượng. Nô tỳ không dám dối gạt nương tử đâu.”

    “Vậy sao?” Tôi hơi nhếch khóe môi, đưa tay tới nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt Huyền Lăng, chậm rãi nói: “Ngươi biết không, mỗi ngày ta đều nhìn thấy Tứ lang của ta rất nhiều lần đấy.”

    Chân tôi bỗng trở nên mềm nhũn, không cách nào đứng vững được. Cận Tịch kêu ré lên một tiếng định tới đỡ tôi, nhưng Huyền Lăng đã dang tay ôm tôi vào lòng, rồi khẽ gọi: “Hoàn Hoàn…”

    Hoàn Hoàn, đây chính là lối xưng hô của y với tôi ngày trước!

    Khi gọi y là “Tứ lang”, tôi chẳng có chút chân thành nào, còn y, khi gọi tôi như vậy liệu có mấy phần thực lòng đây?

    Cuộc trùng phùng lần này vừa là bất ngờ, lại vừa là nằm trong tính toán. Đã một thời gian dài không gặp, bây giờ đột nhiên chạm mặt, tôi cảm thấy y đã già hơn một chút, ánh mắt cũng hơi bồng bềnh, không còn được sâu sắc như xưa.

    Tôi trong mắt y bây giờ, nhất định là không còn giống ngày xưa nữa.

    Dù sao, tôi và y cũng đều không còn là những con người của ngày xưa nữa rồi.

    Tôi chậm rãi nhắm mắt lại, rõ ràng là đã vô tình rồi, bây giờ đột nhiên gặp mặt, trong lòng tôi không ngờ vẫn xuất hiện một tia đau đớn… Dù sao, y cũng là phụ thân của Lung Nguyệt!

    Trong vòng tay của y vẫn có mùi long diên hương thoang thoảng, tôi nhất thời không quen lắm, liền ho sặc sụa một hồi. Huyền Lăng quay sang nhìn Lý Trường trách cứ: “Vừa rồi vị ni cô ở chùa Cam Lộ nói là Chiêu nghi vì mang bệnh nên mới phải dọn tới đây, bây giờ đã khỏi hẳn rồi, tại sao trẫm thấy Chiêu nghi vẫn còn ốm yếu thế này?”

    Lý Trường nôn nóng đến nỗi mồ hôi tuôn ra cuồn cuộn. “Nô tài cũng mới lần đầu cùng Hoàng thượng tới đây, đâu ngờ được Mạc Sầu sư thái… à không, là Chân Chiêu nghi, vẫn còn đang mang bệnh.”

    Huyền Lăng nhất thời không tiện phát tác, liền quay sang hỏi Cận Tịch: “Vừa rồi ngươi nói Chiêu nghi đêm qua không ngủ được, chuyện này là như thế nào?”

    Cận Tịch nghẹn ngào đáp: “Khi xưa nương tử… Chiêu nghi bị người ta nói là mắc bệnh lao phổi, thành ra phải rời khỏi chùa Cam Lộ giữa lúc băng tuyết đầy trời, do đó bệnh càng nặng hơn. Kỳ thực Chiêu nghi không bị lao phổi, chỉ là sau khi sinh nở không tĩnh dưỡng cẩn thận nên mới lưu lại mầm bệnh, về sau cứ bị ho mãi. Vốn dĩ sau một thời gian uống thuốc, đến mùa xuân bệnh tình của Chiêu nghi đã đỡ nhiều rồi, chỉ có điều sau khi rời cung, Chiêu nghi lúc nào cũng nhớ nhung Hoàng thượng và Công chúa, tâm thần hoảng hốt, do đó chẳng đêm nào có thể ngủ ngon.”

    Huyền Lăng chẳng kịp nói gì, vội bế thốc tôi đi vào phòng trong. Lý Trường thấy thế vội vàng chạy theo phía sau hô lớn: “Cận Tịch, Tiểu Vưu, mau tới đỡ giúp một chút đi, kẻo Hoàng thượng lại mệt.”

    Một dòng nước ấm chảy qua cổ họng, tôi khẽ ho hai tiếng, mơ màng mở mắt ra. Lúc này, tôi đang nằm trong vòng tay của Huyền Lăng, vừa mở mắt ra, vẻ mặt đầy âu lo của Huyền Lăng đã lọt ngay vào trong mắt.

    Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, mọi sự thổn thức và cảm thán đều hóa thành một câu nói: “Hoàn Hoàn, trẫm tới rồi đây!”

    Tôi ngẩn ngơ trong khoảnh khắc, Huyền Lăng, y cũng già rồi, khóe mắt đã có nếp nhăn, đôi mắt không còn trong veo như xưa nữa. Thời gian mấy năm thoắt đó đã trôi qua, sự cẩn thận khi mới vào cung, niềm hạnh phúc khi được ân sủng lần đầu, nỗi bi thương khi thất sủng, rồi còn cả sự chua xót khi phải dùng mưu kế với y và tâm ý nguội lạnh lúc rời cung, tất cả lần lượt lóe hiện trước mắt tôi. Bàn tay của thời gian thực vô tình, lạnh lùng tạo ra một khoảng cách xa xăm khôn tả giữa tôi và Huyền Lăng.

    Hai chúng tôi, đã bốn năm liền không gặp nhau rồi.

    Thời gian đã làm chúng tôi đổi khác, thứ duy nhất không đổi là chiếc long bào màu vàng tươi mà y đang mặc trên người, nó vẫn rực rỡ, bắt mắt như xưa, vẫn thể hiện thân phận cửu ngũ chí tôn của y.

    Tôi cơ hồ muốn đưa tay ra chụp lấy màu vàng tươi ấy, chỉ có thứ màu sắc này mới có thể giúp tôi thực hiện điều mà tôi muốn thực hiện!

    Động tác đưa tay của tôi bị y hiểu nhầm là một cử chỉ thân mật, y nắm chặt lấy bàn tay tôi, thở dài, nói: “Hoàn Hoàn, nàng đã rời xa trẫm lâu quá rồi!”

    Nỗi u uất đã lích lũy quá lâu cùng niềm đau thương không thể nói ra miệng nhất thời cùng tuôn trào qua tiếng khóc, tôi gục đầu vào lòng y mà mà cất giọng nghẹn ngào: “Tứ lang, Tứ lang… Thiếp đã chờ chàng từ lâu lắm rồi!” Nước mắt tôi cứ thế lã chã tuôn rơi, Lý Trường biết ý liền khẽ kéo tay Cận Tịch, dẫn mọi người lẳng lặng rời đi.

    Tôi biết, tôi chỉ có cơ hội này thôi. Trong lần này, tôi phải khiến y không cách nào quên tôi được.

    Y dường như dã tiến bộ hơn nhiều so với bốn năm trước, tôi không hề bất ngờ, y có nhiều nữ nhân như thế cơ mà. Chỉ cần y muốn, mỗi tối y đều có thể ngủ với một nữ nhân mới.

    Trong khoảnh khắc chiếc áo lót được cởi ra, tôi cảm thấy vừa xa lạ lại vừa quen thuộc, nơi đáy lòng bất giác trào dâng một sự bài xích và chán ghét tới tột cùng. Đôi môi y mềm mại nhưng thô ráp, không ngừng mơn trớn trên cổ tôi, khiến tôi có cảm giác buồn nôn. Tôi vô thức ngoảnh đầu nhìn qua bên cạnh… Chiếc giường này, há có thể để cho Huyền Lăng đụng vào!

    Cho dù đây chỉ là một chiếc giường gỗ đơn sơ trong thiền phòng, nhưng nó cũng thuộc về tôi và Thanh, sao tôi có thể hoan hảo với một nam tử khác ở nơi này như thế được!

    Trong cơn nôn nóng, tôi bỗng nảy ra một ý, liền ghé tai Huyền Lăng mà cười, nói: “Nơi này không tốt.”

    Tôi hơi trề môi chỉ về hướng chiếc sạp dài bên dưới ô cửa sổ phía nam mà mình hay dùng để ngủ trưa. Huyền Lăng cười phì một tiếng, nói: “Cô nhóc này đúng là càng ngày càng nghịch ngợm hơn rồi.”

    Trong khoảnh khắc y tiến vào trong tôi, vì sự bài xích bất giác trào dâng tự đáy lòng, tôi bỗng có cảm giác đau đớn, liền không kìm được mà bật rên một tiếng khe khẽ. Y nghe thấy tiếng rên này thì lại càng hưng phấn, tôi cắn chặt môi dưới, cố gắng biến nỗi đau của mình thành sự hưng phấn và những giọt mồ hôi của y.

    Ngoài cửa sổ, hoa đào nở đẹp tươi như gấm vóc, xuân sâu tựa biển. Mới chỉ một năm trước thôi, Huyền Thanh và tôi còn cùng nhau viết tấm thiệp hợp hôn bên dưới ô cửa sổ này.

    Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.

    Cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.

    Y chết rồi, tất cả những điều đẹp đẽ trong quá khứ đều đã trở thành hư ảo. Mặc kệ cho hoa nở hoa tàn, trong sinh mệnh của tôi nay đã không còn mùa xuân nữa.

    Nỗi đau đớn trong lòng tựa những bông hoa đào đang nở rộ ngoài kia, tôi buồn bã nhắm mắt lại, gượng nở một nụ cười vẻ như hài lòng.

    Y nằm cạnh tôi thở dốc một hồi rồi từ từ chìm vào giấc ngủ.

    Kỳ thực nếu không nhìn kĩ, bóng lưng của y trong giấc ngủ thực sự có mấy phần giống với Huyền Thanh. Vừa mới suy nghĩ như vậy, nước mắt của tôi thiếu chút nữa đã tuôn trào.

    Huyền Thanh, Huyền Thanh, suốt kiếp này muội chẳng thể nào gặp lại huynh nữa rồi.
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 3: Màn phù dung êm ái đêm xuân
    Đoán chừng Huyền Lăng đã sắp thức giấc, tôi bèn để cho nước mắt lã chã tuôn rơi, từng giọt từng giọt nhỏ xuống lưng y. Tôi đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve cánh tay phải của y, tay y bóng láng, mịn màng, nhưng có hơi mềm và nhão do đã lâu ngày không luyện võ. Còn Huyền Thanh, trên cánh tay phải của y có một hình xăm hết sức dữ dằn, khó ai có thể tưởng tượng nổi trên người một nam tử tuấn tú, nho nhã như y lại có một hình xăm như thế, chỉ có những người thân mật nhất mới có thể nhìn thấy được.

    Huyền Lăng khẽ thở dài một tiếng vẻ đầy thỏa mãn, kế đó liền trở mình ôm lấy tôi lúc này đang nước mắt đầm đìa. “Hoàn Hoàn, vừa rồi nàng đã nhỏ ba mươi bảy giọt nước mắt vì trẫm rồi đấy!” Tôi thoáng ngẩn ra, kế đó lại càng xót xa rơi lệ. Y hỏi: “Tại sao nàng khóc?”

    Tình dục, chẳng qua chỉ là một thứ dục vọng của con người mà thôi. Sự kết hợp của nhục thể đối với Huyền Lăng mà nói thì có là gì đâu chứ, bởi tất cả nữ nhân trong thiên hạ này vốn đều thuộc về y, sau một hồi ân ái, y hoàn toàn có thể phủ nhận, hoàn toàn có thể quên đi nữ tử vừa ân ái với mình.

    Nhưng nam nhân, đặc biệt là những nam nhân vừa được thỏa mãn về nhục dục, thường là dễ nói chuyện nhất, dễ bị lay động nhất.

    Đây chính là thời cơ mà tôi cần nắm lấy.

    Tôi gối đầu lên cánh tay y, rơm rớm nước mắt, nói: “Ai ai cũng bảo năm xưa Hoàn Hoàn ương bướng rời cung, sai đến mức không còn thuốc nào chữa nổi. Chỉ có bản thân Hoàn Hoàn biết rõ, khi đó Hoàn Hoàn làm vậy thật sự không sai chút nào.” Huyền Lăng hơi cau mày, vẻ lạnh lùng trong mắt dần trở nên rõ rệt. Tôi giả bộ như không biết, xúc động nói: “Trước đây thiếp cứ ngỡ Tứ lang chẳng có chút tình ý nào với thiếp, chẳng qua chỉ vì thiếp là mẹ của Lung Nguyệt, lại có mấy phần giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu nên mới muốn thiếp ở lại trong cung. Hoàn Hoàn yêu Tứ lang vô cùng, nhưng thực sự đã bị câu ‘Hoàn Hoàn giống nàng’ kia làm tổn thương sâu sắc.” Tôi dần ngưng khóc, nói tiếp: “Rời cung bốn năm, Hoàn Hoàn không có lúc nào không nghĩ, nếu Tứ lang hãy còn một chút, không, chỉ cần là một chút chút tình ý với Hoàn Hoàn thôi, Hoàn Hoàn dù có phải chết cũng không còn điều gì nuối tiếc nữa. Hiện giờ Hoàn Hoàn rời xa Tứ lang đã bốn năm rồi, bốn năm không gặp, vậy mà Tứ lang vẫn lo lắng cho thiếp, vì nghe ni cô ở chùa Cam Lộ nói thiếp mang bệnh phải dọn ra ngoài mà dời gót tới đỉnh Lăng Vân này. Chỉ cần biết rằng Tứ lang thật sự có chút chân tình với Hoàn Hoàn, bốn năm ly biệt này đâu có gì là đáng tiếc. Nếu sớm biết được điều này, Hoàn Hoàn nguyện lòng giảm thọ mười năm…”

    Y khẽ chặn ngón tay lên môi tôi, nửa như xót xa nửa như trách cứ: “Hoàn Hoàn, trẫm không cho phép nàng nói bừa như vậy!”

    Nước mắt của tôi đậu trên bờ mi, rung rinh như muốn rơi xuống. Tôi đã từng luyện tập vô số lần, dáng vẻ rơm rớm nước mắt thế này dễ khiến người ta sinh lòng xót thương nhất, cũng dễ khiến y rung động nhất.

    Y quả nhiên đã chấn động, đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc tôi. “Hoàn Hoàn, sau bốn năm ở chùa Cam Lộ, nàng quả đã trưởng thành hơn rất nhiều, không còn ương bướng như xưa nữa.” Y khẽ ôm tôi vào lòng. “Nếu không vì năm đó nàng cứ hay làm việc theo cảm tính, trẫm sao nỡ để nàng rời cung khi mới sinh Lung Nguyệt được ba ngày. Kỳ thực trẫm phế đi danh vị của nàng chính là muốn nàng tập trung suy nghĩ lỗi lầm, bởi nếu vẫn còn danh vị, nàng làm sao biết được nỗi khổ sau khi rời cung.” Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi, xúc động nói: “Nàng cũng thật quật cường, làm trẫm giận đến mức nghiến răng nghiến lợi. Nàng có biết trẫm đã vì nàng mà trừng phạt bao nhiêu phi tần không, ngay đến Như Kim… Nàng không biết Như Kim trông giống nàng đến thế nào đâu.”

    Phó Như Kim ư? Cô ta giống tôi hay là giống Thuần Nguyên Hoàng hậu đây? Tôi không hỏi, bởi giống ai cũng không quan trọng, y chẳng qua chỉ dùng một cái bóng để thay thế một cái bóng khác mà thôi. Huống chi dù y sủng ái Phó Như Kim đến mấy, đến cuối cùng cũng đâu có thèm nhỏ một giọt lệ vì cái chết thảm của cô ta.

    Thế nhưng ngoài miệng tôi lại lộ rõ vẻ tò mò: “Như Kim là ai thế? Cô ấy giống thiếp lắm sao?”

    Huyền Lăng khẽ hôn lên trán tôi, cười nói: “Giống ai cũng không quan trọng, việc đã qua rồi, trên đời đã không còn con người ấy nữa rồi.”

    Tôi không nói gì, nữ nhân y đã sủng ái suốt một năm, nữ nhân vì sự sủng ái quá mức của y mà trở thành mục tiêu công kích của mọi người, vậy mà chỉ được y nhắc tới bằng một lời dửng dưng như vậy, thật là đáng thương tới tột cùng.

    Tôi gục đầu lên vai y, sụt sịt nói: “Là ai cũng không quan trọng, Hoàn Hoàn chỉ cần có Tứ lang ở đây thôi. Tứ lang, thiếp thực sự rất sợ đời này kiếp này sẽ không còn được gặp lại chàng, còn cả Lung Nguyệt nữa… Lung Nguyệt của chúng ta…”

    Huyền Lăng dịu dàng xoa nhẹ lưng tôi, khẽ cười, nói: “Không phải trẫm đang ôm nàng đó sao? Lung Nguyệt vẫn khỏe, nàng không biết nó ngoan ngoãn, đáng yêu đến thế nào đâu, Kính Phi thương yêu nó vô cùng.” Rồi y hơi cau mày lại. “Chỉ đáng tiếc trẫm không thể mang nó tới đây cho nàng xem.”

    Tôi lộ vẻ buồn thương, nghẹn ngào nói: “Được nghe Tứ lang nói là Lung Nguyệt vẫn khỏe, thiếp cũng yên tâm rồi!” Thoáng trầm ngâm một chút, tôi nói tiếp: “Kỳ thực không có người mẹ ruột như Hoàn Hoàn, Lung Nguyệt vẫn có thể sống tốt.”

    Huyền Lăng nhìn tôi chăm chú rồi khẽ thở dài. “Kỳ thực năm đó nếu nàng không rời cung, Lung Nguyệt được mẹ ruột chăm sóc hẳn sẽ tốt hơn nhiều. Có điều cứ nhìn tình hình bây giờ mà xét, nàng nhờ cậy Kính Phi cũng không phải là nhờ nhầm người.”

    Những giọt nước mắt không ngừng lặng lẽ chảy xuống, mỗi lần rơi xuống mu bàn tay y liền bắn ra tung tóe. “Hoàn Hoàn mang bệnh lâu ngày, ở chùa Cam Lộ đã phải chịu rất nhiều khổ cực, đó có lẽ chính là báo ứng cho sự ương bướng năm xưa. Tuy đã rời khỏi Tử Áo Thành suốt bốn năm trời, nhưng lòng Hoàn Hoàn không lúc nào không nhớ đến người trong Tử Áo Thành. Mỗi lần Phương Nhược tới thăm, thiếp thậm chí không dám hỏi về tình hình của Tứ lang, chỉ lo Phương Nhược sẽ nói với thiếp là Tứ lang đã có người mới, hoàn toàn quên mất thiếp rồi. Thiếp thực sự không dám hỏi, chỉ còn cách mỗi ngày tụng kinh trăm lượt, cầu mong cho Tứ lang và Lung Nguyệt mãi mãi được bình an.” Tôi sụt sịt không thôi, mãi một hồi lâu sau mới có thể nói tiếp: “Bây giờ được trùng phùng với Tứ lang, đời này kiếp này Hoàn Hoàn không còn mong cầu gì hơn…”

    Y đưa tay dịu dàng giúp tôi lau đi những giọt nước mắt, cất giọng thương yêu: “Hoàn Hoàn, trên đường tới đây trẫm đã nghĩ, chỉ cần nàng còn một tia tình ý với trẫm, chỉ cần nàng biết trước đây mình đã sai, mọi lỗi lầm trẫm đều có thể tha thứ cho nàng. Hoàn Hoàn, nàng đã không làm trẫm thất vọng, trẫm thậm chí còn cảm thấy, năm xưa có lẽ trẫm không nên để mặc cho nàng rời cung.”

    Tôi khẽ nói: “Tứ lang, năm xưa thiếp không có ý mạo phạm tiên Hoàng hậu đâu.”

    Y hơi cau mày, trong mắt lóe lên một tia lạnh lùng. “Chuyện trước đây nàng đã phải nhận một bài học rồi, trẫm là thiên tử, sẽ không tính toán với nàng nữa.” Ánh mắt y đột nhiên dịu dàng hơn mấy phần, tựa như làn nước mùa xuân phá băng chảy ra. “Nếu không vì nàng rời cung bốn năm, trẫm làm sao biết được mình lại nhớ nhung nàng đến nhường này. Vốn dĩ việc dâng hương dịp tháng Giêng có thể làm ở Thông Minh điện, nếu không vì Lý Trường nhắc rằng tới chùa Cam Lộ dâng hương có thể giải khuây đôi chút, trẫm cũng không thể mượn dịp mà tới đây thăm nàng. Kỳ thực lúc ở chùa Cam Lộ, trẫm cũng do dự không biết có nên tới gặp nàng hay không, chỉ sợ nàng vẫn còn quật cường như trước. Nào ngờ vừa hỏi thử liền được biết nàng vì mắc bệnh nên đã dọn tới đỉnh Lăng Vân, tuy bệnh khỏi rồi nhưng lúc nàng sinh Lung Nguyệt là sinh non, lại rời cung khi chưa đầy cữ, chỉ e năm xưa đã lưu lại mầm bệnh, thế là dù không hợp lễ nghi đến mấy trẫm cũng phải đi thăm nàng một chuyến.”

    Tôi nghẹn ngào nói: “Được Tứ lang dành cho tình cảm như vậy, Hoàn Hoàn lại càng thấy hổ thẹn.” Tôi đưa tay tới khẽ vuốt ve đôi hàng lông mày của y, nở một nụ cười dịu dàng, nói tiếp: “Bất kể là khi ốm đau hay khi khỏe mạnh, Hoàn Hoàn đều ngày ngày tụng kinh cầu chúc cho Tứ lang được bình an, hôm nay nhìn thấy Tứ lang tráng kiện thế này, Hoàn Hoàn cũng yên tâm rồi.”

    Những lời này của tôi nghe như chứa chan tình ý ngọt ngào, trong mắt cũng lộ rõ vẠdịu dàng vô hạn. Nhưng khi chăm chú nhìn y, nơi đáy lòng tôi lại đang thầm nở một nụ cười giễu cợt, là giễu cợt y, cũng là giễu cợt chính mình.

    Y ghé người lại ôm lấy tôi, vùi mặt vào giữa mái tóc của tôi. “Hoàn Hoàn, nghe nàng nói vậy, lại ngửi mùi đàn hương trên người nàng, trẫm thấy dễ chịu lắm. Nàng có biết không, trong cung đã xảy ra rất nhiều chuyện, nhưng ngay đến một người tri kỷ để tâm sự đôi lời trẫm cũng chẳng có.” Trong giọng nói của y thấp thoáng nét bi thương: “Nàng có biết không? Lục đệ không thể trở về nữa rồi!”

    Tôi khẽ vỗ lưng y tỏ ý an ủi, đồng thời cắn chặt răng, kìm nén để bản thân không rơi nước mắt. Y là đấng quân vương chí cao vô thượng, thế nhưng vẫn có rất nhiều việc phiền lòng. Nghe tin về cái chết của Huyền Thanh, hẳn y cũng giống như tôi, đều đau thương hết mực.

    “Lục Vương gia là huynh đệ chí thân của Tứ lang, chắc Tứ lang thương tâm vô cùng. Có điều thương tâm thì thương tâm nhưng Tứ lang là thiên tử, từng lời nói, cứ chỉ đều ảnh hưởng tới chúng sinh trong thiên hạ, không thể không quý trọng thân thể của mình.”

    Huyền Lăng ngẩng đầu, buồn bã nói: “Kỳ thực, trước khi Lục đệ khởi hành, trẫm đã biết có không ít gian tế Hách Hách trà trộn vào Điền Nam rồi, còn có loạn dân lúc nào cũng thừa cơ gây chuyện. Chỉ là trẫm muốn y vi hành quan sát dân tình nên không thể phô trương quá mức, cũng không thể phái người ngầm bảo vệ y. Nếu trẫm có thể tạm đặt chính sự qua một bên mà lo cho sự an nguy của y trước nhất, kết cục đó có lẽ đã không xảy ra.”

    Tôi bất giác rùng mình một cái, trái tim sau nháy mắt đã như bị băng tuyết phủ dày. Tôi cố sức kìm nén nhưng đầu đau đớn tột cùng, cơ hồ muốn nứt ra… Là y, không ngờ lại là y! Cho dù y không cố ý, nhưng tương lai của tôi, giấc mộng đẹp của tôi, mọi niềm hy vọng của tôi, lại một lần nữa vì y mà tan vỡ!

    Trong chiếc giỏ đựng kim chỉ nơi đầu giường có đặt một cây kéo, tôi đưa mắt liếc qua, thấy nó lóe lên một tia lạnh ngắt. Chỉ cần tôi đưa tay ra với lấy nó và đâm thẳng vào trái tim Huyền Lăng, y sẽ chết, sẽ chết theo phụ thân của đứa bé trong bụng tôi bây giờ.

    Thế nhưng ý nghĩ ấy chỉ lóe lên trong khoảnh khắc. Nếu y chết đi, đứa bé trong bụng tôi cũng khó mà sống nổi. Thậm chí cả cha mẹ, huynh muội của tôi cùng với Lung Nguyệt, Cận Tịch, rồi đến Kính Phi cũng có khả năng bị liên lụy. Muốn trả thù y, tôi không hẳn phải dùng cách giết chết y, như thế thì được chẳng bằng mất, cũng chẳng đủ làm y đau khổ.

    Lòng càng đau đớn thì càng phải cố gắng nhẫn nhịn, tôi thu ánh mắt lạnh lùng kia về, dịu dàng nói: “Tứ lang cũng đâu muốn thế, dù sao cũng là huynh đệ chí thân mà. Lục Vương gia trước kia vốn luôn tự do nhàn hạ, giờ đây có thể làm việc có ích cho Đại Chu, rốt cuộc cũng có thể coi là một vị hiền vương rồi.”

    Huyền Lăng tựa người vào lòng tôi, cất giọng mỏi mệt nói: “Là trẫm không tốt, không suy nghĩ cho sự an nguy của y. Hoàn Hoàn, nàng biết không? Từ nhỏ phụ hoàng đã thương yêu lục đệ nhất, sủng ái mẫu phi của y Thư Quý phi nhất, lục đệ cái gì cũng giỏi hơn trẫm, cũng tốt hơn trẫm. Trẫm và mẫu hậu tuy có địa vị chỉ thua kém lục đệ và Thư Quý phi, nhưng trong mắt phụ hoàng từ đầu chí cuối chỉ có bọn họ, trẫm chưa từng là gì cả. Hoàn Hoàn, nàng có biết cảm giác phải ở dưới người khác là như thế nào không? Có biết cảm giác phải trơ mắt nhìn cảnh trong thiên hạ chỉ có một người hơn mình là như thế nào không?”

    “Cho nên sau khi trừ bỏ y rồi, trong thiên hạ sẽ không còn ai hơn người nữa, đúng thế không?” Tôi thầm đau xót lẩm bẩm tự nói với mình.

    “Hoàn Hoàn.” Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi. “Nàng lẩm bẩm cái gì vậy?”

    “Đâu có.” Tôi mỉm cười, nói: “Hoàn Hoàn chỉ cảm thấy Lục Vương gia cũng đâu có tốt như vậy, tiên đế thương yêu Lục Vương gia không hẳn là vì Lục Vương gia cái gì cũng tốt, chỉ là vì sủng ái Thư Quý phi nên mới yêu người yêu cả đường đi mà thôi. Hơn nữa, cho dù hồi nhỏ Lục Vương gia có ưu tú thế nào, đến bây giờ cũng chỉ là một vị vương gia nhàn tản có chút tài về thi từ ca phú mà thôi.” Thoáng dừng một chút, tôi cố gắng kìm nén nỗi buồn đau khi phải nói ra những lời trái với lòng, rồi lại tiếp: “Huống chi người làm thiên tử, lúc nào cũng phải đặt chúng sinh thiên hạ lên trên hết.”

    Y thở dài than: “Hoàn Hoàn, chỉ có nàng là hiểu tâm ý của trẫm nhất. Khi tin tức về cái chết của lục đệ truyền về, trẫm vô cùng buồn bã, lập tức hạ lệnh cho quan viên các phủ huyện gần sông Đằng Sa tiến hành tìm kiếm, đáng tiếc chẳng có kết quả gì. Dù sao lục đệ và trẫm cũng lớn lên với nhau từ nhỏ, y lại luôn yên phận giữ mình, không hề làm việc gì quá phận, tình cảm của trẫm với y cũng sâu sắc vô cùng.”

    Tôi khẽ nói: “Lục Vương gia kỳ thực rất trung thành với Tứ lang.”

    Huyền Lăng trầm ngâm trong chốc lát, rốt cuộc đã bình tĩnh lại. “Mọi việc dù sao cũng đã qua rồi, chuyện hậu sự của lục đệ trẫm ắt sẽ có an bài ổn thỏa, một vị thân vương của Đại Chu không thể chết một cách không rõ ràng như thế được.” Dừng một chút, y lại tiếp: “Cái chết của lục đệ quá nửa là có liên quan tới người Hách Hách, do đó tin tức về chuyện này nhất định phải giấu đi, sau này nếu muốn động binh với Hách Hách thì đây chính là cái cớ tốt nhất.”

    Tôi cố kìm nén nỗi bi thương và căm hận nơi đáy lòng, cúi đầu dịu dàng nói: “Hoàng thượng đúng là có tầm nhìn xa vời.”

    Huyền Lăng đứng dậy, lấy từ trong áo ra một cây trâm vàng hình bông hoa hồng, đó là vật mà năm xưa Huyền Lăng từng thưởng cho tôi. Cây trâm đó được điêu khắc cực kỳ tinh tế, ngay đến những đường vân trên cánh hoa và nhụy hoa cũng hết sức rõ ràng, phần đuôi lại được điểm xuyết thêm bằng mấy sợi tua nhỏ, tuy đơn giản nhưng cực kỳ quý phái. Vì được tôi yêu quý và dùng nhiều, phần thân của cây trâm còn trở nên bóng loáng.

    “Năm xưa, trẫm hạ chỉ phế đi mọi danh vị của nàng, dựa theo lẽ thường, tất cả đồ trang sức và quần áo của nàng đều phải sung vào phủ Nội vụ để phân phát cho các cung tần có địa vị thấp kém. Nhưng chẳng rõ tại sao, khi đó trẫm đã hạ chỉ để nguyên mọi thứ của nàng lại trong Đường Lê cung.” Dừng một chút, trong mắt y thoáng qua vẻ bi thương. “Sau khi nàng đi, trẫm từng tới Đường Lê cung một lần, thấy ngoài Trường tương tư ra nàng chẳng mang theo gì cả, ngay đến cây trâm này cũng để lại trên bàn trang điểm.”

    Tôi che mặt nghẹn ngào. “Trường tương tư là thứ mà năm xưa chính tay Hoàng thượng ban tặng cho Hoàn Hoàn, ngoài tương tư ra, những thứ vật ngoài thân khác Hoàn Hoàn có gì mà không thể vứt bỏ đây?”
    Huyền Lăng dùng cây trâm vén mái tóc dài của tôi lên và cố định lại, dịu dàng nói: “Hoàn Hoàn, trẫm từng lệnh cho nàng bỏ đồ trang sức xuất gia, bây giờ hãy vì trẫm mà trang điểm lại đi.”

    Tôi đưa tay chỉnh lại cây trâm một chút, làm phần mũi sắc bén của cây trâm cà nhẹ qua da đầu, kế đó liền nở nụ cười tươi. “Tứ lang nói gì Hoàn Hoàn cũng xin nghe.”

    Huyền Lăng đặt tay lên bờ vai trắng ngần của tôi, nửa như bất lực nửa như cảm thán: “Nhưng Hoàn Hoàn, trên đời này có một số việc không thể thay đổi. Nàng đã rời cung rồi, chi e trẫm cũng chẳng có cách nào đón nàng về cung. Đại Chu từ khi khai quốc tới nay chưa từng có tiền lệ phế phi được trở lại trong cung bao giờ.”

    Trên mặt bất giác lộ rõ vẻ buồn thương, tôi thì thầm: “Thiếp được như bây giờ thực đã hạnh phúc lắm rồi. Chỉ cần Tứ lang còn nhớ tới thiếp, thiếp sẽ không tính toán gì về danh phận đâu.” Dứt lời, tôi ngả vào lòng Huyền Lăng như một nhành dương liễu mềm mại. “Hoàn Hoàn chỉ có duy nhất một thỉnh cầu, Hoàn Hoàn thân là phế phi, có thể hầu hạ Tứ lang lần nữa đã là điều may mắn, thực không muốn các vị phi tần trong cung vì việc hôm nay mà nảy sinh những phen tranh chấp với nhau.”

    Huyền Lăng khẽ mỉm cười. “Còn nói mình là phế phi nữa sao? Vừa rồi trước mặt Lý Trường và Cận Tịch trẫm xưng hô với nàng thế nào? Tuy không thể chính thức làm lễ sắc phong, nhưng những năm nay nàng chưa từng rời khỏi lòng trẫm, nàng vẫn là Chiêu nghi của trẫm như ngày nào.”

    Việc xảy ra trong những năm qua, thực sự có thể một gạch xóa hết được sao? Tôi thầm cười lạnh, bốn năm trong cung, bốn năm ngoài cung, tôi và Huyền Lăng đã được ông trời định trước là sẽ có những sự dây dưa không bao giờ dứt.

    Huyền Lăng nói tiếp: “Còn về chuyện tranh chấp trong cung, nàng không muốn nhìn thấy, trẫm cũng không muốn nhìn thấy nên ngay cả Hoàng hậu, trẫm cũng sẽ không cho biết việc này đâu. Sau này vấn đề ăn ở của nàng trẫm sẽ sai Lý Trường an bài ổn thỏa.”

    Tôi làm bộ lưu luyến buông lời: “Chỉ cần Tứ lang còn nhớ tới Hoàn Hoàn, dù sau này Hoàn Hoàn có phải cô độc tu hành cả đời cũng sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.”

    Y đưa tay tới nâng cằm tôi lên, nở một nụ cười đầy ý vị. “Hoàn Hoàn hiểu lòng trẫm như vậy, trẫm sao nỡ để cho nàng phải cô độc cả đời chứ?” Y suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Thái hậu ốm nặng chưa khỏi, trẫm sẽ hạ chỉ lệnh cho chùa Cam Lộ mỗi tháng cử hành lễ cầu phúc một lần, rồi trẫm đích thân tới đây dâng hương là được.”

    Tôi thấp giọng cười, nói: “Thái hậu hồng phúc tề thiên, phượng thể sẽ sớm an khang trở lại thôi.”

    Đôi môi nhẹ nhàng mơn trớn từ má xuống vai tôi, Huyền Lăng cất giọng dịu dàng: “Rồi trẫm sẽ sai chùa Cam Lộ làm pháp sự cho tiên đế, sau đó lại cầu khấn cho vận nước hưng vượng… Hoàn Hoàn, nàng gầy đi nhiều quá nhưng dung mạo còn hơn cả ngày xưa…” Giọng nói của y thấp dần, ngoài cửa sổ, hoa đào rơi lả tả như mưa, đẹp tươi rực rỡ, trong khi đó bên khóe môi tôi lại thấp thoáng một nụ cười lạnh lẽo đầy vẻ thê lương.

    Khi trở lại thỉnh an lần nữa, Lý Trường mang theo khá nhiều quần áo và đồ đạc, trên mặt tràn ngập nét cười. “Lời của nô tài có đúng không nào? Hoàng thượng vẫn còn nhớ Chiêu nghi nương nương nhiều lắm, vừa về cung ngài liền sai nô tài chọn những thứ tốt nhất mang tơi đây cho nương nương.”

    Tôi lúc này đang trang điểm, nghe vậy liền khẽ mỉm cười. “Đã làm phiền công công rồi, có điều cần làm thế nào để giúp Hoàng thượng giấu mọi người trong cung thì còn phải trông vào bản lĩnh của công công nữa.”

    Lý Trường vội vàng nói: “Nô tài nhất định sẽ dốc hết sức mình.”

    Tôi im lặng, Huyền Lăng mỗi tháng đều đến chùa Cam Lộ một lần với cớ là dâng hương cầu phúc, cho dù có giấu giếm tốt đến mấy, đám người Hoàng hậu cũng sẽ nhanh chóng phát hiện ra thôi. Tôi như vô tình như hữu ý đưa tay vuốt nhẹ bụng mình, bên khóe môi thoáng hiện một nụ cười hờ hững, chỉ cần một, hai tháng thôi, giấu được đám người trong cung một, hai tháng là đủ rồi.

    Tôi ngoảnh đầu qua nhìn Lý Trường, ân cần nói: “Chuyện của huynh trưởng ta chắc Cận Tịch đã kể với công công rồi. Ta vừa gặp lại Hoàng thượng, không tiện mở miệng cầu xin điều gì, việc này đành phiền công công lựa lúc thích hợp nói với Hoàng thượng một tiếng vậy.”

    Lý Trường đáp “vâng” một tiếng, đoạn cười nói: “Nô tài hiểu chứ. Chuyện này nếu nương nương mở miệng, Hoàng thượng nhất định sẽ nghi ngờ rằng trong lòng nương nương có điều mưu tính, không hề thành tâm, vậy nên nô tài sớm đã tìm cơ hội nhắc tới việc này trước mặt Hoàng thượng rồi. Hoàng thượng yêu người yêu cả đường đi, tất nhiên rất quan tâm tới huynh trưởng của nương nương, tuy bây giờ Chân công tử vẫn là người mang tội nhưng đã được Hoàng thượng phái người đón từ Lĩnh Nam về kinh chữa bệnh rồi, chắc chẳng bao lâu sau sẽ về tới nơi.”

    Tôi cố kìm nén nỗi mừng rỡ trong lòng, chậm rãi đeo một cặp hoa tai phỉ thúy hình lá hạnh lên tai, cười nói: “Không biết ta nên cảm ơn tấm thịnh tình này của công công như thế nào đây?”

    Lý Trường “Úi chao” một tiếng, vội vàng khom người, thưa: “Nương nương là quý nhân, nô tài đâu dám đòi nương nương ban thưởng chứ.”

    Tôi bật cười một tiếng, ung dung nói: “Với địa vị của ta bây giờ, dù công công có mở miệng đòi ta thứ gì, ta cũng chưa chắc đã đưa nổi, công công đâu cần phải nôn nóng chối từ như vậy.”

    Lý Trường chỉ cười mà không nói, đôi mắt lén liếc qua phía Cận Tịch đang đứng bên cạnh tôi, đoạn bưng một xấp quần áo lên, nói: “Mấy bộ quần áo này đều là do Hoàng thượng sai nô tài tới tiệm cắt may tốt nhất kinh đô đặt làm, vì sau khi quay về, Hoàng thượng có nói chiếc áo ni cô nương nương mặc hôm đó có nét đẹp rất đặc biệt, do đó bèn bảo nô tài chọn loại vải lụa màu xám bạc để làm loại áo eo thon tay rộng cho nương nương.”

    Tôi khẽ mỉm cười, bảo Hoán Bích nhận lấy, nói: “Hoàng thượng quả là có lòng”, sau đó lại nhìn qua Cận Tịch bên cạnh, ung dung cất tiếng: “Chiếc áo xanh ngươi mặc hôm nay đúng là rất hợp đấy, bên trên còn thêu loại hoa nghênh xuân mà ngươi thích nữa.” Cận Tịch đưa mắt liếc Lý Trường, có chút lúng túng.

    Lý Trường vội vàng cười, nói: “Cận Tịch dù có mặc gì thì cũng đâu thể đẹp bằng nương nương được.”

    Tôi bất giác bật cười. “Đây đâu phải là vấn đề đẹp hay không đẹp, quan trọng nhất vẫn là tâm ý của công công.”

    Lý Trường lộ rõ niềm vui. “Nô tài chẳng qua chỉ dốc hết sức mình mà thôi”, sau đó lại hơi khom người. “Nô tài thực sự vui thay cho nương nương từ tận đáy lòng.”

    Tôi để yên cho Hoán Bích giúp mình chải tóc, nhắm mắt lại, khẽ nói: “Lý Trường, ngay đến ta cũng phải cảm thấy ngạc nhiên đấy, không ngờ việc này lại thuận lợi như vậy.”

    Lý Trường mỉm cười vui vẻ. “Qua việc này, có thể thấy nương nương được sủng ái đến mức nào, mà Hoàng thượng cũng thật lòng thích nương nương.” Thoáng dừng một chút, y lại tiếp: “Hai người có sẵn tình ý với nhau, chỉ cần có chút xíu cơ hội là sẽ đến được bên nhau thôi, huống chi tình cảm giữa nương nương và Hoàng thượng đã trải qua bao năm tháng như vậy.”

    Hai người có sẵn tình ý với nhau? Tiếng cười lạnh lùng của tôi thiếu chút nữa đã bật ra khỏi miệng, đây chẳng qua chỉ là một phen mưu mẹo mà thôi. Phải bỏ ra bao nhiêu tâm cơ để tính toán như thế, còn chỗ nào cho chân tình được?

    Thế nhưng xuất hiện bên khóe miệng tôi lại là một nụ cười hết mực dịu dàng. “Sủng ái nhất thời thì có ích gì đâu. Muốn khiến Hoàng thượng lúc nào cũng nghĩ đến ta, thực còn phải trông cậy vào công công nhiều lắm!”

    Nụ cười dịu dàng, đoan trang mà tôi cố giữ trên mặt lập tức trở nên lạnh lùng ngay sau khi Lý Trường rời đi. Hoán Bích biết lúc này tâm trạng tôi đang không tốt, liền kiếm cớ ra ngoài, chỉ để lại một mình Cận Tịch bầu bạn bên tôi.

    Lòng tôi ngợp nỗi bi thương và hỗn loạn, liền tiện tay rút cây trâm vàng trên đầu xuống, cắm mạnh vào chiếc bàn trang điểm làm bằng gỗ, lặng im không nói gì.

    Cận Tịch sợ đến giật nẩy mình, lo lắng nói: “Nương nương cẩn thận kẻo đau tay!”

    “Nương nương?” Tôi khẽ cười lạnh một tiếng, nơi đáy lòng có thứ gì đó cực kỳ quý giá đã tan vỡ hoàn toàn, không thể phục hồi được nữa. Hồi lâu sau tôi mới khẽ hỏi: “Cận Tịch, ngươi có biết tại sao Thanh lại chết không?”

    Mí mắt bất giác nảy lên một cái, Cận Tịch cất giọng run run: “Nô tỳ không biết.”

    Nỗi đau đớn và căm phẫn bất giác trào dâng, lên tới mặt tôi hóa thành một nụ cười hờ hững, lạnh lùng tột độ, rồi tôi nói gằn từng từ: “Chiếc thuyền mà Thanh ngồi quả là đã bị người ta đụng tay đụng chân vào, nhưng Huyền Lăng…” Tôi không sao kìm nén được nỗi căm hận của mình, để nó bật ra ngoài qua kẽ răng: “Y biết rõ vùng Điền Nam không hề yên ổn, vậy mà lại sai Thanh vi hành tới đó, cho nên mới có mối họa hôm nay!” Tôi cầm cây lược trên bàn lên, nắm chặt, răng lược dày và nhọn hoắt cắm vào lòng bàn tay mang tới cảm giác đau nhói. “Cận Tịch, ta hận quá…”

    Cận Tịch kéo tôi vào lòng, xót xa nói: “Dù sao chuyện cũng đã tới nước này rồi, nương nương chớ nên giày vò bản thân quá!”

    Tôi đặt tay lên bụng mình, lạnh lùng cất tiếng: “Trước đây, ta còn có chút áy náy khi trở lại bên y để đứa bé này có được một danh phận đàng hoàng, nhưng giờ đây chút áy náy ấy đã hoàn toàn tan biến. Cận Tịch, tuy y không cố ý nhưng nếu không phải vì y…” Nói tới đây, một cơn choáng váng và cảm giác buồn nôn bất giác trào lên, khiến tôi nhất thời không nói thêm gì được.

    Ánh mắt Cận Tịch bừng lên một vẻ kiên định tột cùng, nàng ta nắm lấy bàn tay tôi, bình tĩnh nói: “Yêu cũng tốt, hận cũng tốt, con đường này dù sao cũng vẫn phải đi tiếp, đúng không nào?”

    “Đúng thế nhưng nỗi hận ít đi được chút nào, ta sẽ dễ chịu hơn chút đó.” Tôi muốn khóc mà không ra nước mắt, cặp mắt giờ đây đã cạn khô. “Cái chết của Thanh có liên quan tới Huyền Lăng nhưng ta thậm chí còn không thể nói với Hoán Bích việc này. Nhỡ cơn giận của muội ấy nổi lên, chỉ sợ còn khó kiềm chế hơn ta.”

    Cận Tịch một tay giữ chặt bờ vai tôi, một tay rút cây trâm vàng trên bàn trang điểm ra, cẩn thận cắm lại lên búi tóc của tôi, khẽ nói: “Nương nương làm rất đúng, nếu nói việc này với Hoán Bích cô nương sẽ chỉ làm loạn đại cục, chi bằng không nói. Dù sao bất kể là có chuyện này hay không thì nương nương cũng vẫn phải về cung bảo toàn dòng dõi của Thanh Hà Vương. Việc gặp lại Hoàng thượng đã được tiến hành rất tốt, nhưng mới chỉ là bước đầu tiên. Đối với nương nương mà nói, thời khắc khó khăn nhất đã qua rồi, những ngày tháng sau này dù có khó khăn, vất vả đến mấy cũng vẫn phải cố gắng chịu đựng. Nếu để lộ ra sự yếu ớt dù chỉ là trong một khoảnh khắc thôi, kẻ địch sẽ có cơ hội để lợi dụng.” Nàng ta cầm lấy một cây trâm khác có hình bông hoa, cài lên búi tóc cho tôi, nói tiếp: “Việc nương nương cần làm bây giờ là giữ lấy trái tim Hoàng thượng, cho nên dù trong lòng có đau đớn và khổ sở đến mấy thì ngoài mặt cũng vẫn phải tươi đẹp như hoa.”

    Người chết thì đã chết rồi, mọi nỗi khổ đau đều cần có người sống chịu đựng.

    Tôi lặng lẽ ngước mắt lên, chiếc gương đồng ánh ra những tia ảm đạm mà lạnh lẽo, giống hệt ánh mắt tôi, nhưng khuôn mặt của người trong gương thì lại đẹp tươi như hoa đào.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này